Chương 80: Phù Sai mắc mưu tha vua Việt – Câu Tiễn hết sức thờ nước Ngô

Quan đại phu nước Việt là Văn Chủng được vua Ngô cho hoà, về tâu với vua Việt rằng:

– Vua Ngô đã rút quân về, có sai quan đại phu là Vương Tôn Hùng theo tôi đến đây để giục khởi trình; còn quan thái tể là Bá Hi thì đóng quân ở Ngô Sơn để đợi chúa công sang cống .

Câu Tiễn nghe nói, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng . Văn Chủng nói:

– Kỳ hạn đã gần đến nơi, chúa công nên mau mau trở về thành để thu xếp việc nước, chứ thương khóc làm gì!

Câu Tiễn gạt nước mắt trở về thành, trông thấy chợ búa như cũ mà trai tráng tiêu điều thì rất là hổ thẹn . Vua Việt mời Vương Tôn Hùng nghỉ ở công quán rồi thu xếp vàng ngọc đóng thành mấy xe; lại chọn những mỹ nữ trong nước được ba trăm ba mươi người, định đem ba trăm người nộp Phù Sai, còn ba mươi ngươi đem nộp cho Bá Hi . Câu Tiễn vẫn còn chưa muốn khởi hành, Vương Tôn Hùng phải giục giã luôn mãi .

Câu Tiễn khóc mà bảo triều thần rằng:

– Ta nối nghiệp tiền nhân, vẫn một lòng kính sợ; không dám lười biếng, nay vì một trận thua mà đến nỗi này, phải đem thân đi làm thằng tù ở nước khác, chuyến đi này chắc không có ngày trở lại!

Triều thần đều ứa nước mắt . Văn Chủng tâu rằng:

– Ngày xưa vua Thang bị giam ở Hạ Đài, Văn vương bị giam ở Dữ Lý mà sau nên được nghiệp vương; Tề Hoàn công phải chạy sang nước Cử, Tấn Văn công phải chạy sang nước Địch, mà sau nên được nghiệp bá . Xem thế thì biết cai cảnh khổ sở, chính là trời mở đường cho đứng vương bá đó . Chúa công cứ vững lòng mà theo ý trời, sẽ có ngày hưng thịnh được, can chi mà quá nghĩ, để đến nỗi tổn thương cái chí của mình .

Ngày hôm ấy Câu Tiễn làm lễ tế nhà tôn miếu, Vương Tôn Hùng đi trước một ngày, Câu Tiễn và phu nhân đi sau . Triều thần tiễn đến bến sống Chính Giang . Phạm Lãi sắp thuyền ở Cố Lăng và bày một tiệc rượu tiễn . Văn Chủng dâng chén rượu chúc cho Câu Tiễn . Câu Tiễn ngẩng mặt lên trời mà thở dài, rồi cầm chén mà rơi nước mắt, chẳng nói gì cả . Phạm Lãi nói:

– Các bậc thánh hiền đời xưa cũng thường gặp những cảnh khổ não, những điều sỉ nhục, không thể chịu được, có phải là chỉ một chúa công ngày này mà thôi đâu!

Câu Tiễn nói:

– Ngày xưa vua Nghiêm dùng hiền thần là Thuấn và Vũ mà thiên hạ được trị bình, dẫu có thuỷ tai, cũng không hại người lắm . Nay ta phải bỏ Việt sang Ngô, giao nước nhà cho các quan đại phu, các quan đại phu nghĩ sao cho khỏi phụ lòng ta trông cậy!

Phạm Lãi bảo triều thần rằng:

– Tôi thiết tưởng vua phải lo thì bề tôi nhục, vua phải nhục thì bề tôi nên chết . Nay chúa công ta phải lo về nỗi bỏ nước, phải nhục về nỗi sang Ngô, bọn ta đây há lại không có một kẻ hào kiệt vì chúa công chia buồn hay sao ?

Các quan đại phu đồng thanh đáp rằng:

– Ai cũng là tôi con, tuỳ ý chúa công sai khiến .

Câu Tiễn nói:

– Các quan đại phu còn có lòng thương ta thì xin cứ tự nói chí mình để xem ai có thẻ theo đi, ai có thể ở nhà giữ nước được ?

Văn Chủng nói:

– Ở nhà để xem xét công việc trong nước thì Phạm Lãi không bằng tôi, nhưng đi theo chúa công mà lâm cơ ứng biến thì tôi không bằng Phạm Lãi .

Phạm Lãi nói:

– Văn Chủng xét mình đã rõ lắm, chúa công nên đem việc nước mà giao cho, còn như việc nhẫn nhục mà theo chúa công để nghĩ cách báo thù thì tôi không dám từ chối .

Phạm Lãi nói xong thì lần lượt đến các quan đại phu tỏ bày ý kiến . Quan thái tể là Khổ Thành nói:

– Tuyên bố mệnh lệnh để tỏ đức tính của nhà vua, và quyết đóan những việc khó khăn, khiến cho dân biết yên phận, đó là việc của tôi!

Quan hành nhân là Duệ Dung nói:

– Đi sứ các nước chư hầu, ứng đối không đến nỗi chịu nhục, đó là việc của tôi!

Quan tư trực là Hạc Tiến nói:

– Vua có điều gì trái lẽ, xin hết sức can ngăn, dẫu kẻ thân thích nhà vua cũng không vị nể, đó là việc của tôi!

Quan tư mã là Chư Kế Dĩnh nói:

– Bày trận đánh giặc, dẫu tên đạn bời bời mà không chịu lui, vẫn một cố tiến, đó là việc của tôi!

Quan tư nông là Cao Như nói:

– Dốc lòng khuyên dân cố chăm chỉ làm ăn, nghĩ cách tiết kiệm, đó là việc của tôi!

Quan thái sử là Kế Nghê nói:

– Xem xét thiên văn địa lý để dò biết mọi sự cát hung, đó là việc của tôi!

Câu Tiễn nói:

– Ta dẫu phải sang làm tù ở nước Ngô, nhưng đã có các quan đại phu dốc lòng cố sức mà giữ gìn nước nhà, thì ta còn lo gì nữa!

Câu Tiễn cho các quan triều thần ở lại, còn mình thì cùng với Phạm Lãi đi sang Ngô . Vua tôi tiễn biệt nhau đều ràn rụa nước mắt, Câu Tiễn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Cái chết ai không sợ, nhưng ta đây nghĩ đến cái chết, mà trong bụng không thấy sợ chút nào!

Nói xong, xuống thuyền đi ngay . Mọi người đi đưa đều khóc tất cả, rồi sụp lạy ở bên bờ sông . Câu Tiễn cũng không ngảnh lại . Câu Tiễn phu nhân vịn mạn thuyền mà khóc, trông thấy đàn ô thước đang nhặt tôm ở ven sông, bay đi lượn lại, có ý thoả thích, liền cảm mà làm bài hát rằng:

“Đàn chim (hề …) cao bay

Vẫy vùng (hề …) đường mây!

Thân thiếp (hề …) vô tội,

Trách trời (hề …) độc thay!

Hây hẩy (hề …) gió may,

Trở về (hề …) bao ngày!

Lòng đau (hề …) như cắt,

Nước mắt (hề …) vơi đầy! “

Câu Tiễn nghe thấy phu nhân than vãn như vậy, thì trong lòng xao động, nhưng muốn cho phu nhân được nguôi lòng, cũng gượng cười mà nói rằng:

– Lông cánh của ta đã đủ rồi, tất cũng có ngày cao bay, lo gì điều ấy!

Câu Tiễn đã đi đến địa giới nước Ngô, sai Phạm Lãi vào yết kiến quan thái tể nước Ngô là Bá Hi ở Ngô Sơn, và dâng vàng lụa trai gái . Bá Hi nói:

– Văn Chủng ở đâu, sao không thấy đến ?

Phạm Lãi nói:

– Văn Chủng còn phải giữ nước cho chúa công tôi, cho nên không đến được .

Bá Hi theo Phạm Lãi đến gặp mặt Câu Tiễn . Câu Tiễn cảm tạ cái ơn giúp cho . Bá Hi nhận với Câu Tiễn thế nào cũng lập mưu cho Câu tiễn được trở về nước Việt . Câu Tiễn cũng hơi yên lòng . Bá Hi cho quân giải Câu Tiễn về Ngô, đưa vào nộp Phù Sai . Câu Tiễn trần vai áo sụp lạy ở dưới thềm .

Câu Tiễn phu nhân cũng theo vào . Phạm Lãi đem cái đơn kê khai các vật qúy và mỹ nữ dâng lên Phù Sai . Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà kêu rằng:

– Tôi tớ nhà vua ở miền Đông Hải là Câu Tiễn, vì không biết sức mình, để đến nỗi đắc tội với đại vương ở nơi biên cảnh, nay đại vương xá tội, lại cho được sang đây hầu hạ, nếu đại vương lại thương tình mà tha tội chết cho thì thật lấy làm đội ơn vô cùng!

Phù Sai nói:

– Nếu ta nghĩ đến cái thù tiên vương ngày xưa thì không thẻ nào tha cho nhà ngươi được!

Câu Tiễn lại lạy mà kêu rằng:

– Tội tôi thật đáng chết, xin đại vương thương lại cho!

Bấy giờ Ngũ Viên đứng bên cạnh, mắt quắc ra lửa, tiếng vang như sấm, nói với Phù Sai rằng:

– Con chim bay ở trên mây xanh, ta còn muống giương cung ra bắn, huống chi nay nó lại đậu ở trước sân! Câu Tiễn vốn là người nham hiểm, bây giờ như con cá trong hũ, sống chết ở tay kẻ nhà bếp, vậy nên nịnh hót van lạy để cầu khỏi chết, một mai đắc chí, khác nào như con hổ về núi, con cá kềnh ra biển, còn trị làm sao!

Phù Sai nói:

– Ta nghe nói người đã hàng phục mà mình còn giết thì họa đến ba đời . Ta không phải vì yêu vua Việt mà không giết, nhưng sợ trái ý đạo trời .

Bá Hi nói:

– Quan tướng quốc chỉ nghĩ cái lợi trước mắt một lúc, mà không hiểu cái lợi yên nước về sau . Đại vương nói thế, thật là một bậc nhân giả .

Ngũ Viên thấy Phù Sai tin lời du nịnh của Bá Hi, không theo lời can của mình, thì căm tức mà lui ra . Phù Sai nhận lễ vật của Câu Tiễn, rồi sai Vương Tôn Hùng làm một cái nhà đá ở bên cạnh mộ Hạp Lư, giam vợ chồng Câu Tiễn ở đấy, lột mũ áo đi mà cho mặc quần áo xấu, bắt giữ việc chăn ngựa . Bá Hi vẫn giấu diếm đem thực phẩm cho, nên Câu Tiễn không đến nỗi chết đói . Mỗi khi Phù Sai đi chơi, lại bắt Câu Tiễn cầm roi ngựa, đi đất ở trước xe, người nước Ngô đều trỏ mà bảo nhau rằng:

– Đấy là vua nước Việt!

Câu Tiễn chỉ cúi đầu mà đi . Câu Tiễn ở nhà đá đã được hai năm, Phạm Lãi sớm tối hầu hạ, không rời một bước . Một hôm, Phù Sai triệu Câu Tiễn vào yết kiến . Câu Tiễn sụp lạy . Phạm Lãi đứng ở phía sau . Phù Sai bảo Phạm Lãi rằng:

– Ta nghe nói gái khôn không lấy chồng ở nơi cửa nhà tan nát, danh hiền không làm quan ở một nước diệt vong . Nay Câu Tiễn vô đạo, nước đã sắp diệt, vua tôi đều làm nô bộc, bị giam cầm ở trong nhà tù, chẳng cũng đã nhục lắm ru! ta muốn tha tội cho nhà ngươi, nếu nhà ngươi biết đổi lỗi, bỏ Việt theo Ngô, thì ta sẽ trọng dụng . Đó là bỏ ưu họan mà lấy phú quý, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Bấy giờ Câu Tiễn phục ở dưới đất mà khóc, chỉ sợ Phạm Lãi theo Ngô mất . Phạm Lãi sụp lạy mà tâu với Phù Sai rằng:

– Kẻ đã mất nước, không dám nói hay; tướng đã thua trận, không dám nói mạnh . Tôi là kẻ bất trung bất tín ở nước Việt, không biết giúp chúa công tôi làm điều thiện, để đến nỗi đắc tội với đại vương . May mà đại vương không giết, cho vua tôi được gần nhau, để ra vào hầu hạ đại vương, thế thì tôi đã được mãn nguyện rồi, có đâu còn dám mong phú qúy!

Phù Sai nói:

– Nhà ngươi đã không chịu đổi ý thì lại cứ về nhà đá .

Phạm Lãi nói:

– Xin vâng mệnh!

Phù Sai đứng dậy, trở về cung . Câu Tiễn và Phạm Lãi trở về nhà đá . Câu Tiễn ăn mặc tồi tàn, cắt cỏ nuôi ngựa . Câu Tiễn phu nhân cũng lôi thôi rách rưới, đi gánh nước để quét dọn phân ngựa . Còn Phạm Lãi thì kiếm củi để nấu cơm, mặt mũi gầy gò . Phù Sai sai người dò thám, thấy vua tôi nước Việt cùng nhau làm lụng không ra ý oán giận, mà suốt đêm suốt ngày, cũng không thấy buồn rầu chút nào, mới cho là đồ vô chí, chẳng nghĩ đến làm chi nữa .

Một hôm, Phù Sai lên Cô Tô đài, trông thấy vợ chồng Câu Tiễn ngồi ở cạnh đống phân ngựa . Phạm Lãi cầm chổi đứng hầu một bên, mới ngảnh lại bảo Bá Hi rằng:

– Câu Tiễn chẳng qua là vua một nước nhỏ, Phạm Lãi chẳng qua là một kẻ học trò, thế mà trong khi hoạn nạn, họ vẫn còn giữ được lễ vua tôi, ta rất có lòng kính trọng .

Bá Hi nói:

– Chẳng những đáng kính, thực cũng đáng thương!

Phù Sai nói:

– Thực như lời quan thái tể nói . Ta đây nghĩ cũng thương tình . Nếu hắn biết đổi lỗi thì phỏng có nên ta không ?

Bá Hi nói:

– Đại vương mở lượng hải hà mà thương kẻ cùng khốn, gia ân cho Việt, chắc là Việt cũng biết đền ơn . Xin đại vương phải quyết đoán .

Phù Sai nói:

– Ta sẽ sai quan thái sử chọn ngày tốt để tha cho vua Việt về nước .

Bá Hi mật sai người đến nhà đá báo tin cho Câu Tiễn biết .

Câu Tiễn mừng lắm, nói với Phạm Lãi . Phạm Lãi nói:

– Để tôi xin bói một quẻ, xem lành dữ thế nào .

Phạm Lãi bói, rồi nói với Câu Tiễn rằng:

– Dẫu có tin như vậy, cũng chưa nên lấy gì làm mừng .

Câu Tiễn nghe nói, lại có ý buồn . Ngũ Viên nghe tin Phù Sai sắp tha Câu Tiễn, vội vàng vào yết kiến Phù Sai mà tâu rằng:

– Ngày xưa vua Kiệt giam vua Thang mà không giết, vua Trụ giam vua Văn vương mà không giết, đến lúc đạo trời quay lại, chuyển họa thành phúc thì vua Kiệt bị vua Thang đuổi, nhà Thương bị nhà Chu diệt . Nay đại vương giam Câu Tiễn mà không giết, tôi e rằng lại sắp có hoạ như nhà Hạ và nhà Thương .

Phù Sai nghe Ngũ Viên nói, lại có ý muốn giết Câu Tiễn, bèn sai người triệu Câu Tiễn vào . Bá Hi lại báo trước cho Câu Tiễn biết . Câu Tiễn kinh sợ, lại nói với Phạm Lãi . Phạm Lãi lại nói:

– Chúa công đừng sợ! vua Ngô giam chúa công đã ba năm nay; trong ba năm còn không nỡ, huống chi là bây giờ! chúa công cứ đi, không ngại!

Câu Tiễn nói:

– Ta chịu ẩn nhẫn bấy lâu nay mà không đến nỗi chết, đều là nhờ mưu kế của quan đại phu cả .

Câu Tiễn vào thành yết kiến Phù Sai, phải chầu chực trong ba ngày, mà không thấy Phù Sai ra thị triều . Bá Hi ở trong cung ra, phụng mệnh Phù Sai truyền cho Câu Tiễn lại về nhà đá . Câu Tiễn lấy làm lạ hỏi .

Bá Hi nói:

– Đại vương nghe lời Ngũ Viên, định đem giết ông vậy nên triệu đến . May gặp khi đại vương bị cảm hàn, không thể dậy được . Tôi vào thăm bệnh, nhân tâu với đại vương rằng: “Người bệnh muốn cầu yên thì phải làm phúc, nay vua Việt chầu chực ở đây, chỉ đợi ngày chịu chết, oán khí xông lên đến trời . Đại vương nên tạm tha cho y về nhà đá, đợi khi khỏi bệnh rồi sẽ định liệu”. Vì nghe lời tôi mà đại vương tha cho ngài về nhà đá đó!

Câu Tiễn cảm tạ khôn xiết . Ở nhà đá được ba tháng nữa, Câu Tiễn nghe tin Phù Sai vẫn chưa khỏi bệnh, mới bảo Phạm Lãi bói một quẻ . Phạm Lãi bói xong, bảo Câu Tiễn rằng:

– Phù Sai không chết ngày kỷ tị thì bớt, đến ngày nhâm thân thì khỏi hẳn . Bây giờ đại vương cố xin vào thăm, khi được vào thăm, cố tình nếm phân cho Phù Sai, rồi lạy mừng mà nói kỳ khỏi bệnh . Đến kỳ khỏi thật thì tất nhiên y cảm ơn mà tha cho đại vương .

Câu Tiễn ứa nước mắt mà nói rằng:

– Ta đây dẫu chẳng ra gì cũng là một ông vua không nhẽ lại chịu nhục mà nếm phân cho người ta hay sao!

Phạm Lãi nói:

– Ngày xưa vua Trụ giam Văn vương ở Dữu Lý, giết con Văn vương là Bá Ấp Khảo rồi ướp thịt mà đưa cho Văn vương ăn, thế mà Văn vương cũng chịu đau đớn mà ăn thịt con . Ta muốn thành đại sự thì cần gì những điều nhỏ mọn . Vua Ngô có lòng thương người như đàn bà mà không có lòng quả quyết như kẻ trượng phu, đã toan tha ta rồi đổi ý . Ta không làm thế thì sao cho vua Ngô chịu rủ lòng thương .

Câu Tiễn tức khắc đến nói với Bá Hi rằng:

– Nghe nói bệnh tình đại vương không giảm, lòng tôi lo lắng, ăn ngủ không yên, xin theo ngài vào thăm, để tỏ tình thần tử .

Bá Hi nói:

– Ngài đã có lòng tốt, để tôi xin chuyển tấu .

Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, bày tỏ cái tình Câu Tiễn nhớ mến, xin vào thăm bệnh . Phù Sai đang khi cơn bệnh trầm trọng, nghĩ thương tình Câu Tiễn mà cho vào . Bá Hi đưa Câu Tiễn vào thăm Phù Sai . Phù Sai trừng mắt nhìn mà bảo rằng:

– Câu Tiễn cũng vào thăm ta đó à ?

Câu Tiễn sụp lạy mà tâu rằng:

– Kẻ bề tôi ở trong tù nghe nói long thể bất hoà, thật là nát gan héo ruột, chỉ mong được trông thấy mặt rồng mà không biết làm thế nào!

Câu Tiễn nói chưa dứt lời thì Phù Sai đau bụn muốn đi ngoài, mới lấy tay xua bảo Câu Tiễn ra . Câu Tiễn nói:

– Khi tôi ở Đông Hải có học người y sư được một cách xem phân mà biết bệnh chóng hay là chậm khỏi .

Câu Tiễn nói xong chắp tay đứng ở cửa sổ . Nội thị đưa cái thùng đến cạnh giường nằm, rồi vực Phù Sai dậy đi ngoài . Phù Sai đi ngoài xong rồi nội thị bưng cái thùng đưa ra ngoài cửa . Câu Tiễn mở nắp thùng ra, thò tay bốc phân rồi quỳ xuống mà nếm . Mọi người xung quanh đều bịt mũi cả . Câu Tiễn lại vào sụp lạy Phù Sai mà tâu rằng:

– Kẻ tù này xin chúc mừng đại vương, bệnh đại vương đến ngày kỷ tị thì bớt, sang tháng ba về ngày nhâm thân thì khỏi hẳn .

Phù Sai hỏi:

– Tại sao mà biết ?

Câu Tiễn nói:

– Tôi nghe người y sư có dạy phân là cốc vị, hễ thuận thời khí thì sống, trái thời khí thì chết . Nay kẻ tù này nếm phân đại vương, thấy vị đắng và chua, chính hợp cái thời khí xuân hạ phát sinh, bởi thế mà biết .

Phù Sai bằng lòng mà nói rằng:

– Câu Tiễn nhân đức thay! thần tử đối với quân phụ, ta chưa thấy ai chịu nếm phân để đóan bệnh bao giờ!

Bấy giờ nhân Bá Hi đứng ở bên cạnh, Phù Sai bèn hỏi rằng:

– Quan thái tể có nếm được không ?

Bá Hi lắc đầu nói:

– Tôi thật rất yêu đại vương, nhưng việc ấy tôi không làm nổi .

Phù Sai nói:

– Chẳng những quan thái tể, dẫu thế tử của ta cũng không thể làm được!

Phù Sai truyền tha Câu Tiễn, không bắt về nhà đá nữa, được tuỳ tiện tìm chỗ ở, đợi khi Phù Sai khỏi bệnh sẽ cho về nước . Câu Tiễn lạy tạ rồi lui ra . Từ bấy giờ Câu Tiễn tìm được chỗ ở trong nhà dân, nhưng vẫn giữ việc nuôi ngựa như trước . Sau Phù Sai quả nhiên khỏi bệnh, đúng như lời Câu Tiễn nói .

Phù Sai cho Câu Tiễn là trung thành với mình, nên khi đã khỏi bệnh, liền truyền bày tiệc ở trên Văn Đài, cho Câu Tiễn vào dự yến . Câu Tiễn giả cách không biết, vẫn mặc áo tù mà đến . Phù Sai trông thấy, truyền Câu Tiễn tắm gội và ban cho mũ áo . Câu Tiễn hai ba lần từ tạ rồi mới dám nhận . Câu Tiễn thay mũ áo xong, lại vào sụp lạy Phù Sai . Phù Sai vội vàng đỡ dậy và hạ lệnh rằng:

– Vua Việt là người nhân đức, không nên làm nhục lâu, ta định tha tội, cho được về nước, nay nên tiếp đãi tử tế .

Các quan đại phu đều vái nhường Câu Tiễn, mời ngồi, rồi ngồi cả hai bên cạnh . Ngũ Viên thấy Phù Sai quên hẳn thù xưa, trong lòng căm tức, không chịu vào ngồi, liền quay trở ra . Bá Hi nói:

– Đại vương ta lấy cái lòng một người nhân đức mà tha cái tội của người nhân đức . Tôi nghe nói “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, ngày nay ai là nhân thì ngồi lại, ai là bất nhân thì bỏ đi . Quan tướng quốc là người cương dũng, cho nên thẹn không dám ngồi chứ sao!

Phù Sai cười mà nói:

– Quan thái tể nói phải lắm!

Rượu được ba tuần, Phạm Lãi và Câu Tiễn đều đứng dậy dâng chén chúc thọ cho Phù Sai . Phù Sai bằng lòng lắm, ngày hôm ấy uống rượu thật say, rồi sai Vương Tôn Hùng đưa Câu Tiễn ra quán, đợi trong ba ngày nữa, sẽ đưa về nước . Sáng hôm sau Ngũ Viên vào tâu với Phù Sai rằng:

– Hôm qua đại vương lấy khách lễ mà đãi kẻ thù là nghĩa thế nào ? Câu Tiễn trong bụng như hổ lang, mà mặt ngoài giả cách cung kính . Đại vương thấy ý nói lời xu nịnh, chẳng nghĩ gì đến gai vạ mai sau . Bỏ lời trung trực mà nghe kẻ dèm pha, nghĩ điều nhân nhỏ mà nuôi kẻ thù lớn, khác nào như buông nắm lông ở trên lò than mà mong khỏi cháy, ném quả trứng ở dưới cân nặng mà muốn được toàn, thì có lẽ nào ?

Phù Sai không bằng lòng nói rằng:

– Ta ốm trong ba tháng, quan tướng quốc chẳng thấy hỏi thăm được một câu, thế là quan tướng quốc bất trung, lại chẳng thấy quan tướng quốc là quà cho cái gì, thế là quan tướng quốc bất nhân . Làm bề tôi mà bất trung và bất nhân thì còn dùng được việc gì nữa! Câu Tiễn bỏ nước mà sang đây, đem của cải đến dâng nộp, đem thân làm tôi tớ, đó là điều trung; khi ta có bệnh, chịu nếm phân ta mà không có lòng oán giận, đó là điều nhân . Nếu ta theo ý riêng của quan tướng quốc mà giết kẻ thiện sĩ ấy thì trời nào còn tựa ta nữa!

Ngũ Viên nói:

– Sao đại vương nghĩ lầm như vậy ? con hổ mà thu mình lại thì tất là chực vồ, con cáo mà rụt cổ lại thì tất là định cắn . Vua Việt vào làm tôi Ngô, dẫu trong lòng oán giận, đại vương cũng không thể biết được . Bây giờ y cúi xuống mà nếm đống phan của đại vương, chắc đâu không có một ngày kia y ngẩng lên mà ăn gan ruột của đại vương . Đại vương không xét mà mắc mưu thì tất có ngày bị hại .

Phù Sai nói:

– Quan tướng quốc chớ nói nữa, ý ta đã quyết định rồi!

Ngũ Viên biết không thể can được, uất ức mà lui ra .

Đến ngày thứ ba . Phù Sai lại bày tiệc rượu ở ngoài Sà Môn để tiễn Câu Tiễn . Các quan đều dâng chén rượu tiễn chân, chỉ có Ngũ Viên không đến dự . Phù Sai bảo Câu Tiễn rằng:

– Ta tha cho nhà vua về nướ, nhà vua nên nhớ ơn nước Ngô, chớ đem lòng thù oán!

Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng:

– Đại vương thương tôi là kẻ khốn cùng, cho được sống mà về nước, tôi xin đời đời không dám quên ơn . Trời cao thăm thẳm, soi xét lòng tôi, nếu tôi phụ Ngô thì trời nào có tựa!

Phù Sai nói:

– Người quân tử không sai lời! thôi, nhà vua lên đường . Nên gắng! nên gắng!

Câu Tiễn lại sụp lạy, nước mắt đầm đìa, ra vẻ quyến luyến .

Phù Sai thân hành vực Câu Tiễn lên xe . Phạm Lãi cầm cương xe . Câu Tiễn phu nhân cũng sụp lạy tạ ơn, rồi cùng lên xe đi về phía nam . Bấy giờ là năm thứ 23 đời Chu Kính vương . Câu Tiễn về đến bến Chiết Giang, trông thấy phong cảnh khác xưa, thở dài mà nói rằng:

– Ta vẫn tưởng phải từ biệt trăm họ, bỏ thân cõi khác, ngờ đâu nay lại được về nước giữ lấy việc cúng tế .

Câu Tiễn ngảnh lại nhìn phu nhân mà khóc . Các người xung quanh cũng đều cảm động mà khóc cả . Văn Chủng đem triều thần và dân trong thành ra đón ở bến Chiết Giang, tiếng rao dậy đất . Câu Tiễn sai Phạm Lãi bói xem ngày nào tốt để tiến vào thành . Phạm Lãi bấm đốt ngón tay, rồi nói với Câu Tiễn rằng:

– Ngày mai rất tốt, chúa công nên đi mua cho kịp .

Câu Tiễn tức khắc giục ngựa tiến vào trong thành . Muốn ghi sâu trong lòng cái nhục ở Cối Kê, Câu Tiễn muốn đắp thành và thiên đô ra đấy để luôn luôn nhớ tới, bèn giao hẳn việc ấy cho Phạm Lãi lo liệu .

Phạm Lãi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới, bao bọc núi Cối Kê ở trong, phía tây bắc lập lầu Phi Dục ở núi Ngoạ Tang để làm thiên môn; phía đông nam lập Lâu Thạch Đậu để làm địa bộ . Còn mặt tây bắc thì để không, và nói phao lên rằng đã thần phục nước Ngô, không dám lấp đường cống hiến, nhưng kỳ thực là để tiện đường tiến đánh Ngô mai sau .

Khi thành đã đắp xong, bỗng thấy trong thành mọc ra một quả núi, chu vi mấy dặm, như hình con qủi, cây cỏ rậm rạp, có người trông quả núi ấy, nhận được là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, không biết cớ sao lại bay đến đây được . Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:

– Tôi đắp cái thành này ứng với thiên tượng, vậy nên có quả núi ấy hiện lên, đó là cái điềm nước Việt ta nên được nghiệp bá .

Câu Tiễn mừng lắm mới đặt tên núi ấy là Quái Sơn, cũng gọi Phi Lai Sơn, cũng gọi là Qui Sơn . Sau khi thiên đô sang ở đấy Câu Tiễn bảo Phạm Lãi rằng:

– Ta thực thất đức, để đến nỗi nước nhà suy đốn, phải đem thân đi hầu hạ người khác, nếu không có quan tướng quốc và các quan đại phu giúp thì sao được như thế này ?

Phạm Lãi nói:

– Đó là nhờ hồng phúc của chúa công, chứ chúng tôi có công gì . Nhưng xin chúa công chớ lúc nào quên cái nhục ở nhà đá thì mới có cơ báo thù được nước Ngô .

Câu Tiễn nói:

– Xin vâng lệnh dạy bảo!

Bấy giờ bèn giao quốc chính cho Văn Chủng, quân chính cho Phạm Lãi, tôn trọng hiền tài, kính lão thương nghèo, trăm họ đều bằng lòng .

Câu Tiễn từ khi nếm phân, thành ra bệnh hôi miệng . Phạm Lãi biết có một thứ rau ở một quả núi về phía bắc thành, tên gọi là rau trấp . Rau ấy ăn được, nhưng hơi có mùi hôi, mới sai người đi hái rau trấp đem về, để cả triều cùng ăn, cho lẫn mùi hôi . Sau ngươi ta gọi tên núi ấy là Trấp Sơn . Câu Tiễn gấp muốn báo thù, mới cố sức chăm chỉ suốt ngày suốt đêm, khi buồn ngủ thì lại lấy cỏ lục mà đánh vào mắt, chân lạnh muốn rụt lại thì lấy nước giập vào, mùa đông thường ngồi gân nước băng, mùa hạ thường ngồi gần đống lửa, xếp củi mà nằm lên trên, chớ không dùng giường nệm; lại treo một quả mật ở chỗ ngồi, thỉnh thoảng lại nếm một ít . Câu Tiễn đêm nào cũng khóc sụt sùi, khóc chán rồi thở dài; lại luôn luôn nhắc đến hai tiếng “Cối Kê” . Câu Tiễn thấy sau khi suy bại, dân so giảm kém mới hạ lệnh cấm con trai không được lấy vợ già; ông già không được lấy vợ trẻ; con gái mười bảy tuổi không lấy chồng, con trai hai mươi tuổi không lấy vợ thì bắt tội cha me; đàn bà sắp chửa sắp đẻ, đều phải trình quan, để quan cho thầy thuốc đến coi sóc; sinh con trai thì thưởng cho hồ rượu và con chó; sinh con gái thì thưởng cho hồ rượu và con lợn; ai sinh ba con thì quan nuôi hộ hai; ai sinh hai thì quan nuôi hộ một; hễ có ai chết thì Câu Tiễn thân hành đi đưa đám và thương khóc . Câu Tiễn mỗi khi đi đâu, cũng đem cơm và đồ ăn để ở trong xe, hễ gặp trẻ con thì cho ăn và hỏi tên họ .

Đến mùa làm ruộng, Câu Tiễn cũng vác cày đi cày . Phu nhân cũng chăm việc dệt cửi, cùng chia sự lao khổ . Trong bảy năm, Câu Tiễn không thu thuế của dân, ăn mặc rất là tiết kiệm . Thế mà chẳng tháng nào Câu Tiễn không sai sứ sang cống hiến nước Ngô; lại sai người vào núi hái dây cát, dệt làm vài nhỏ, định đem dâng Phù Sai, nhưng chưa kịp dâng . Phù Sai khen lòng trung thành của Câu Tiễn, sai nguời phong thêm đất cho, phía đông đến Câu Dụng, phía tây đến Hùê Lý, phía nam đến Cô Miệt, phía bắc đến Bình Nguyên, cả thảy hơn tám trăm dặm . Câu Tiễn sai người đem vải cát mười vạn tấn, cam mật một trăm vò, áo cầu lông chồn năm đôi, tre nứa mười thuyền sang dâng Phù Sai tạ để cái ơn phong đất . Ngũ Viên nghe nói, liền cáo ốm không vào triều . Phù Sai thấy Câu Tiễn một lòng thần phục, lại càng tin lời nói của Bá Hi . Một hôm Phù Sai hỏi Bá Hi rằng:

– Ngày nay trong nước thái bình, ta muốn mở thêm cung thất để lấy chỗ vui chơi, nên làm tại chỗ nào ?

Bá Hi nói:

– Ở gần đô thành ta, đài cao cảnh đẹp, còn đâu bằng Cô Tô, nhưng cái đài của vua trước dựng lên chưa đước tráng lệ lắm, đại vương nên sửa lại cái đài ấy, khiến cho cao có thể trông thấy trăm dặm, rộng có thể dung được nghìn người, rồi họp những ca đồng vũ nữ ở đấy, thì thật là một sự khóai lạc đệ nhất nhân gian .

Phù Sai khen phải, liền treo giải, cầu tìm những cây lớn gỗ quí . Văn Chủng nghe tin, vào nói với Câu Tiễn rằng:

– Tôi nghe nói: “Con chim bay ở trên mây cao, chỉ chết vì miếng ăn tốt, con cá lặn ở dưới vực sâu, chỉ chết về cái mồi thơm”. Nay chúa công muốn báo thù nước Ngô thì phải tìm mồi xem Ngô thích cái gì mới có thể trị nổi .

Câu Tiễn nói:

– Dẫu tìm được điều họ thích, nhưng làm thế nào mà trị nổi ?

Văn Chủng nói:

– Tôi có nghĩ cách phá Ngô, cả thảy được bảy kế:

1. Chịu tốn của cải để làm vua tôi nước Ngô bằng lòng .

2. Lấy gía đắt mua thóc, để làm cho Ngô thiếu lương thực .

3. Đem mỹ nữ sang dâng để làm Ngô phải mê hoặc .

4. Đem thợ khéo, gỗ tốt sang dâng, để cho Ngô làm cung thất tốn hại tiền của .

5. Dùng kẻ mưu thần để làm cho nước loạn .

6. Hại kẻ trung trực để làm cho thế cô .

7. Tích của, luyện quân, để đợi khi địch suy yếu .

Câu Tiễn nói:

– Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng nên dùng kế nào được ?

Văn Chủng nói:

– Nay vua Ngô đang sửa lại đài Cô Tô, ta nên tìm cây lớn gỗ qúi đem dâng .

Câu Tiễn liền sai hơn ba nghìn thợ mộc vào rừng tìm gỗ, tìm hơn một năm mà chưa được cây nào thật tốt . Thợ mộc đều có lòng oán giận, đêm ngày ta thán với nhau .

Một hôm đang đêm, tự nhiên trời sinh hai cây thần mộc, to hai mươi vi, dài năm mươi tầm, một cây ở phía nam núi, gọi là cây tử, một cây ở phía bắc núi, gọi là cây nam . Thợ một kinh ngạc, vội vàng về báo với Câu Tiễn . Triều thần chúc mừng Câu Tiễn rằng:

– Lòng thành của chúa công cảm động đến trời, cho nên trời sinh gỗ thần để giúp chúa công .

Câu Tiễn mừng lắm, thân hành đến làm lễ tế rồi mới sai đẵn đem bào nhẵn đi và dùng thuốc xanh đỏ vẽ hình rồng rắn, sai Văn Chủng đưa sang dâng Phù Sai . Phù Sai thấy cây gỗ to đẹp lạ thường, xiết bao mừng rỡ . Ngũ Viên can rằng:

– Ngày xưa vua Kiệt làm Linh Đài, vua Trụ làm Lộc Đài khổ dân hao của đến nỗi mất nước, Câu Tiễn muốn hại ta, nên đem dâng gỗ này đó!

Phù Sai nói:

– Câu Tiễn được cây gỗ qúi này, không để mà dùng, lại đem dâng ta, thế là lòng tử tế, sao lại từ chối ?

Nói xong, truyền đem hai cây gỗ để sửa đài Cô Tô . Trong năm năm mới làm xong, cao ba trăm trượng, rộng tám mươi tư trượng, trèo lên thì trông suốt được hai trăm dặm . Nguyên trước đã có con đlb* đi thẳng lên núi, bây giờ làm rộng thêm ra . Trăm họ phải ngày đêm phục dịch, lao lục mà chết rất nhiều .

Câu Tiễn nghe tin, bảo Văn Chủng rằng:

– Quan tướng quốc nói: nên đem thợ khéo gỗ tốt sang dâng để cho hắn làm cung thất, tốn hại tiền của . Kế ấy đã thi hành rồi . Nay trên đài cao, tất phải tuyển ca nhi vũ nữ, nếu ta không tìm được người tuyệt sắc thì sao làm cho hắn mê hoặc được, quan tướng quốc bàn mưu giúp ta .

Văn Chủng nói:

– Việc gì cũng bởi trời cả . Trời đã sinh thần mộc thì lo gì không có mỹ nữ . Nhưng nếu ta sụ tìm thì e rằng dân tình náo động . Tôi nghĩ được một kế, có thể xem mặt hết con gái trong nước, lúc đó tuỳ ý chúa công kén chọn.

Chương 81: Tây Thi làm mê hoặc vua Ngô – Tử Cống đi du thuyết các nước

Vua Việt là Câu Tiễn đang muống tìm mỹ nữ trong nước để dâng vua Ngô là Phù Sai. Văn Chủng hiến kế rằng:

– Xin chúa công phái một trăm nội thị đi lẫn với bọn thầy tướng, giả cách đi xem tướng khắp trong nước, thấy mỹ nữ thì biên lấy tên và chỗ ở. Dùng cách ấy mà chọn thì lo gì không có người!

Câu Tiễn theo kế ấy, mới trong nửa năm, mà đã tuyển được hai nghìn mỹ nữ. Câu Tiễn sai chọn lại, được hai người đẹp nhất, truyền vẽ tranh để định đem dâng Phù Sai. Hai người ấy là Tây Thì và Trịnh Đán.

Tây Thi là con một người kiếm củi ở núi Trữ La. Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi. Trịnh Đán cũng ở Tây thôn, láng giềng với Tây Thi. Nhà lại gần sông, má hồng mặt hoa, ánh rọi vào nhau chẳng khác gì hai đóa phù dung trên mặt nhánh. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đem một trăm nén vàng đến đón về, cho mặc đồ the lụa, ngồi xe có màn phủ. Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muống xem mặt tranh nhau ra ngoài cõi để đón, đường xá chật ních. Phạm Lãi để Tây Thi và Trịnh Đán ở quãn xá rồi truyền dụ rằng ai muốn xem mặt mỹ nữ, phải nộp một đồng tiền. Chỉ trong một lúc mà tiền bỏ đầy qũi. Hai mỹ nữ trèo lên trên lầu, đứng tựa vào bao lan, ở dưới trông lên, khác nào tiên nữ đứng trên không. Tây Thi và Trịnh Đán ở lại ngoài thành ba ngày, tiền thu được không biết bao nhiêu mà kể, đều nộp vào kho cả. Câu Tiễn cho hai mỹ nữ ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một nhạc sư già dạy cho hát múa, khi nào thành nghề, sẽ đem sang tiến Phù Sai.

Bấy giờ là năm thứ 31 đời Chu Kính vương, Câu Tiễn lên làm vua mới được bảy năm. Trước đó một năm thì Tề Cảnh công mất, thế tử Chương lên nối ngôi. Bấy giờ Sở đang nhiều việc mà Tấn lại suy yếu, Tề thì Án Anh chết, Lỗ thì Khổng Tử đi, nước nào cũng đều yếu thế cả, chỉ có nước Ngô là cường thịnh nhất. Phù Sai cậy binh lực của mình có ý định xâm chiếm dần các nước Sơn Đông. Chư hầu đều lấy làm lo sợ.

Nói chuyện Tề Cảnh công phu nhân, có con trai mà chết non mất, còn các công tử thứ xuất cả thảy sáu người. Trong sáu người ấy thì công tử Dương Sinh nhiều tuổi hơn cả, công tử Trà hãy còn nhỏ, mẹ công tử Trà là Dục Tự, dẫu phận hèn nhưng được vua yêu. Tề Cảnh công vì mẹ mà yêu con, cho nên nuông chiều công tử Trà lắm vẫn gọi là An nhụ tử. Tề Cảnh công làm vua đã được năm mươi bảy năm, tuổi hơn bảy mươi, mà không chịu lập thế tử, có ý đợi cho An phụ tử lớn lên, chẳng ngờ bị ốm nặng, mới dặn thế thần là Quốc Hạ (con Quốc Trọng) và Cao Trương (con Cao Yển) giúp công tử Trà lên làm vua.

Quan đại phu là Trần Khất (cháu Trần Vô Vũ) vốn chơi thân với công tử Dương Sinh, e công tử Dương Sinh bị hại, mới khuyên bảo Dương Sinh đi trốn. Công tử Dương Sinh cùng với con là Nhâm và gia thần là Hàm Chi, cùng trốn sang nước Lỗ. Tề Cảnh công sai họ Quốc và họ Cao đuổi các công tử sang ở Lai Ấp. Khi Tề Cảnh công đã mất rồi, An nhụ tử lên nối ngôi. Quốc Hạ và Cao Trương cùng giữ quyền chính. Trần Khất mặt ngoài làm ra thoả thuận, nhưng trong bụng thì rất căm ghét. Trước mặt các quan đại phu, Trần Khất nói dối rằng:

– Họ Cao và họ Quốc lập mưu muốn bỏ hết các cựu thần mà dùng vây cánh An nhụ tử.

Các quan đại phu tin là thật, đều đến hỏi kế Trần Khất. Trần Khất liền cùng Bão Mục (cháu Bão Quốc) thủ xướng đem người nhà các quan đại phu đến đánh họ Cao và họ Quốc, giết được Cao Trương, còn Quốc Hạ bỏ trốn sang nước Cử.

Bấy giờ Bão Mục làm hữu tướng, Trần Khất là tả tướng, lập Quốc Thư và Cao Võ Bình giữ việc cúng tế họ Cao và họ Quốc. Năm ấy An nhụ tử hãy còn ít tuổi, chưa biết gì cả. Trần Khất định bụng muốn lập công tử Dương Sinh, mới mật sai người sang nước Lỗ triệu Dương Sinh về. Công tử Dương Sinh đang đêm về đến nước Tề, để Hàm Chi và con là Nhâm ở ngoài cõi, rồi một mình lẻn vào thành, ẩn trong nhà Trần Khất. Trần Khất giả cách là nhà có giỗ, mời các quan đại phu đến uống rượu. Các quan đại phu đều đến cả, Bão Mục còn uống rượu ở nơi khác, sau cùng mới đến. Trần Khất đợi cho mọi người ngồi yên cả, liền đứng dậy mà bảo rằng:

– Tôi mới mua được cái áo giáp rất tốt, xin đem ra để các ngài xem.

Rồi một người lực sĩ bỗng mang một cái túi lớn ở trong nhà ra, để ở giữa sân. Trần Khất thò tay mở túi, thì có một người thò đầu ra, tức là công tử Dương Sinh. Mọi người đều kinh sợ. Trần Khất vực công tử ra, để đứng ngảnh mặt về phía nam, rồi bảo các quan đại phu rằng:

– Cứ theo phép thường thì nên lập trưởng tử, nay An nhụ tử ít tuổi quá, không đáng làm vua, ta phụng mệnh quan tướng quốc họ Bão, đổi lập trưởng công tử (trỏ Dương Sinh).

Bão Mục trừng mắt mà cãi rằng:

– Ta nói thế bao giờ ? sao lại vu cho ta, nhà ngươi cho ta là say hay sao ?

Công tử Dương Sinh chắp tay vái Bão Mục mà nói rằng:

– Việc thay cũ đổi mới, nước nào không có, hễ hợp nghĩa là hơn. Quan đại phu nên xét xem có hợp nghĩa hay không, chứ cần gì cãi nhau về việc quan đại phu có dự mưu hay không ?

Trần Khất không đợi nói hết câu, cố ép Bão Mục phải sụp lạy. Các quan đại phu bất đắc dĩ cũng đều cùng phải sụp lạy cả. Trần Khất và các quan đại phu đều ăn thề, rồi sắp xa giá rước công tử Dương Sinh vào triều lên ngôi vua, tức là Tề Điệu công. Ngày hôm ấy, bọn Trần Khất đem An nhụ tử ra ngoài cửa cung giết đi. Tề Điệu công nghi Bão Mục không thuận lập mình, mới hỏi Trần Khất.

Trần Khất cũng ghét Bão Mục chức vị ở trên mình, mới dèm với Tề Điệu công rằng:

– Bão Mục vẫn giao kết với các công tử. Nếu không giết Bão Mục thì trong nước không yên được.

Tề Điệu công lại giết Bão Mục, rồi lập con Bão Mục là Bão Tức giữ việc cúng tế Bão Thúc Nha. Trần Khất một mình làm tướng quốc. Người nước Tề thấy Tề Điệu công giết hại kẻ vô tội, đều có lòng oán. Điệu công có em gái gả cho vua nước Châu tên là Ích. Ích kiêu ngạo vô lễ, thường bất hoà với nước Lỗ. Quan thượng khanh nước Lỗ là Qúi Tôn Tư nói với Lỗ Ai công đem quân đánh Châu, bắt vua Châu giam ở đất Phụ Hà. Điệu công giận lắm, nói:

– Nước Lỗ bắt vua Châu, tức là khinh nước Tề ta!

Điệu công liền sai sứ sang mượn quân nước Ngô, ước cùng đánh Lỗ. Phù Sai nói:

– Ta vẫn muốn dùng quân sang đánh các nước ở Sơn Đong, nay đã có cớ rồi!

Phù Sai thuận cho nước Tề mượn quân. Lỗ Ai cũng kinh sợ tức khắc tha cho vua Châu về nước, rồi sai sứ sang xin lỗi với nước Tề. Tề Điệu công sai quan đại phu là Mạnh Xước sang nói lại với vua Ngô rằng:

– Nước Lỗ đã phục tội rồi, không dám phiền đến quân nước Ngô nữa.

Phù Sai nổi giận, nói:

– Nước Ngô ta có phải là thuộc quốc của Tề đâu mà quân ta đánh hay không đánh, đều phải vâng lệnh nước Tề. Âu là ta thân hành đem quân đến nước Tề, để hỏi cái tội làm sao mỗi lúc nói một khác.

Nói xong, đuổi Mạnh Xước ra. Nước Lỗ nghe tin vua Ngô giận Tề, liền sai sứ đem lễ vật sang dâng vua Ngô, lại ước với vua Ngô cùng đánh nước Tề. Phù Sai vui lòng thuận ngay, tức khắc cất quân cùng với nước Lỗ đến vây phía nam nước Tề. Người nước Tề ai cũng kinh hoảng, và thầm oán Tề Điệu công tự nhiên sinh sự.

Bấy giờ Trần Khất đã chết rồi, con là Trần Hằng giữ quyền chính, nhân dịp người trong nước không thuận mới bảo Bão Tức rằng:

– sao nhà ngươi không làm “đại sự” đi ? ngoài thì gỡ cho quân Ngô khỏi giận, mà trong thì báo được cái thù cho gia tiên.

Bão Tức chối từ là không làm nổi , Trần Hằng nói:

– Ta xin giúp nhà ngươi!

Nhân khi Diệu công đi luyện quân, Trần Hằng dâng rượu độc cho Điệu công mà giết đi rồi sai người nói với quân Ngô rằng:

“Chúa công tôi đắc tội với thuộc quốc đã bị bệnh mà chết, thế là trời đã thay đại vương mà trị tội chúa công tôi rồi. Nếu đại vương rủ lòng thương xót không phá huỷ xã tắc nước tôi, thì nước tôi xin đời đời thần phục thượng quốc “.

Phù Sai liền rút quân về. Quân nước Lỗ cũng kéo về nước. Người nước Tề đều biết Điệu công bị hại, nhưng có lòng sợ và yêu họ Trần, vậy nên không ai dám nói đến. Trần Hằng lập con Điệu công là Nhâm lên nối ngôi, tức là Tề Giản công. Giản công muốn chia quyền cho họ Trần, mới cho Trần Hằng làm hữu tướng, Hàm Chi làm tả tướng.

Bấy giờ vua Việt là Câu Tiễn luyện tập mỹ nữ học múa hát trong ba năm, đã được điêu luyện, liền cho đeo hạt trai, ngồi xe ngọc, hương thơm ngào ngạt, có một bọn thị nữ rất đẹp theo hầu, rồi sai quan tướng quốc là Phạm Lãi đem sang nước Ngô tiến Phù Sai. Khi Phù Sai ở nước Tề về Ngô, Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy mà tâu rằng:

– Kẻ bề tôi hèn ở Đông Hải là Câu Tiễn, cảm ơn đại vương, không thể cùng thê thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy có tìm khắp trong nước, được hai người khéo nghề múa hát, sai chúng tôi đem nộp vương cung, để giữ việc quét rửa.

Phù Sai trông thấy, cho là thần tiên mới giáng hạ, hồn phách mê mẩn. Ngũ Viên can rằng:

– Tôi nghe nói nhà Hạ mất vì nàng Muội Hỉ, nhà Ân mất vì nàng Đắt Kỷ, nhà Chu mất vì nàng Bao Tự. Mỹ nữ là một vật làm cho mất nước, chúa công chớ nên nhận.

Phù Sai nói:

– Người ta ai chẳng có lòng hiếu sắc. Câu Tiễn tìm được mỹ nữ mà chịu đem tiến ta, điều đó chứng tỏ Câu Tiễn một lòng trung thành với ta, quan tướng quốc chớ nghi.

Rồi không nghe lời Ngũ Viên, Phù Sai nhận lễ cống của nước Việt. Hai người mỹ nhân đều tuyệt sắc. Phù Sai yêu cả hai, nhưng đẹp lộng lẫy và khéo nũng nịu thì Tây Thi có phần hơn, bởi vậy Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai, mỗi khi đi chơi đâu thì nghi vệ chẳng khác gì phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi, uất ức không nói ra được, hơn một năm thì chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở núi Hoàng Mao và lập đền thờ cúng. Chuyện này sau sẽ kể tiếp, bây giờ hãy nói Phù Sai yêu Tây Thi, sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm cho chỗ Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp ? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để cho Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp. Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa. Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình. Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi cá, Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là Tiên hạ loan.

Phù Sai từ khi được Tây Thi, cứ ở luôn luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, rượu chè đàn địch, chẳng thiết đến việc gì cả. Chỉ có quan thái tể là Bá Hi và Vương Tôn Hùng thường hay hầu ở bên cạnh. Mỗi khi Ngũ Viên xin yết kiến, Phù Sai vẫn từ chối không cho vào. Vua Việt là Câu Tiễn nghe tin Phù Sai say mê Tây Thi mới lại bàn mưu với Văn Chủng. Văn Chủng nói:

– Tôi nghe nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Năm nay lúa má hỏng cả, thóc gạo kém lắm, đại vương nên xin với vua Ngô vay thóc mà chu cấp cho dân. Nếu trời không tựa Ngô thì xui khiến vua Ngô cho ta vay thóc.

Câu Tiễn liền sai Văn Chủng đem nhiều lễ vật đút cho Bá Hi, để Bá Hi đưa vào yết kiến Phù Sai. Phù Sai cho Văn Chủng vào yết kiến ở Cô Tô đài. Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

– Nước Việt tôi năm nay mất mùa, trăm họ khốn khổ, xin đại vương phát cho vay một vạn thạch thóc ở kho Thái Sương, để cứu cho dân khỏi đói. Sang năm lúa chín, lại xin đem nộp.

Phù Sai nói:

– Vua Việt thần phục nước Ngô ta, dân Việt đói khác nào như dân Ngô ta đói, ta có tiếc gì thóc kho mà không đem ra để cứu dân Việt.

Ngũ Viên nghe tin sứ nước Việt đến cũng theo đến Cô Tô đài, vào yết kiến Phù Sai. Khi thấy Phù Sai cho nước Việt vay thóc, Ngũ Viên lại can rằng:

– Không nên! sự thế ngày nay, phi Ngô lấy Việt, tức Việt lấy Ngô. Tôi xem ý vua Việt sai sứ đến vay thóc, không phải là thực vì dân đói mà vay, chính là định làm cho nước Ngô ta hết thóc đó. Ta có cho vay cũng chẳng thêm tình thân ái, mà không cho vay cũng chưa đến nỗi gây oán thù, chi bằng đại vương từ chối đi là hơn.

Phù Sai nói:

– Khi Câu Tiễn bị giam ở nước ta, phải đi giật lùi mà dắt ngựa cho ta, chư hầu ai cũng biết cả. Nay được ta tha cho về, Câu Tiễn cảm cái ơn tái sinh, vẫn một lòng trung thành mà cống hiến, khi nào lại còn dám phản nghịch mà lo!

Ngũ Viên nói:

– Tôi nghe vua Việt ngày đêm chăm chỉ, luyện tập quân sĩ để định báo thù nước Ngô. Nay đại vương lại đem thóc cho vay, tôi e rằng có một ngày kia chỉ có giống hưu nai chạy chơi ở trên Cô Tô đài này mà thôi.

Phù Sai nói:

– Câu Tiễn đã nguyện xin làm bề tôi ta, có lẽ nào bề tôi mà dám đánh vua hay sao ?

Ngũ Viên nói:

– Vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ đánh vua Trụ, không phải bề tôi đánh vua là gì ?

Bá Hi đứng bên cạnh, quát lên rằng:

– Quan tướng quốc nói quá, sao lại ví đại vương ta với Kiệt, Trụ được!

Bá Hi lại tâu với Phù Sai rằng:

– Ngày xưa Tề Hòan công hội chư hầu ở Quì Khâu, có ước với các nước phải cho nhau vay thóc, là để giữ lấy nghĩa giao lân. Huống chi Việt là một nước cống hiến ta xưa nay, sang năm lúc chín thì Vịêt lại đem đủ số thóc sang nộp. Thế thì chẳng thịêt gì cho Ngô, mà lại được ơn với Việt, việc gì mà đại vương không làm!

Phù Sai bèn truyền cho nước Việt vay một vạn thạch thóc, và bảo Văn Chủng rằng:

– Ta trái ý các quan triều thần mà cho Việt vay thóc, sang năm được mùa, phải đem nộp đủ, chớ có thất tín.

Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

– Đại vương thương nước Việt tôi mà cho vay, khi nào nước Việt tôi dám thất tín.

Văn Chủng lĩnh một vạn thạch thóc đem về nước Việt. Câu Tiễn mừng lắm. Triều thần hô vạn tuế. Câu Tiễn truyền đem thóc ấy cấp phát cho dân nghèo trong nước. Trăm họ đều ca tụng công đức. Năm sau, nước Việt được mùa to, Câu Tiễn hỏi Văn Chủng rằng:

– Ta không trả thóc nước Ngô thì là thất tín, nếu trả thì hại Việt mà lợi cho Ngô, biết làm thế nào ?

Văn Chủng nói:

– ta nên chọn những thóc tốt, luộc đi rồi đem trả, kẻ kia thấy thóc tốt tất nhiên đem trồng cấy, ấy là trúng cái kế của ta đó!

Câu Tiễn theo kế ấy, đem thóc chín trả nước Ngô, không thiếu một đấu nào. Phù Sai khen rằng:

– Câu Tiễn thật là người thành tín!

Phù Sai lại trông thấy hột thóc to lớn lạ thường, bèn bảo Bá Hi rằng:

– Đất nước Việt tốt lắm, cho nên hột thóc cũng tốt, ta nên phân phá cho dân để lấy giống.

Năm ấy khắp nước Ngô đều gieo thóc Việt, nhưng chẳng mọc cây nào cả. Dân Ngô bị đói to. Phù Sai vẫn cho là thổ nghi không giống nhau, chứ không biết là thóc Việt đã luộc chín rồi. Câu Tiễn nghe nói nước Ngô bị đói, toan đem quân đánh Ngô. Văn Chủng can rằng:

– Chưa nên đánh vội, vì nước Ngô còn có kẻ trung thần.

Câu Tiễn lại hỏi Phạm Lãi. Phạm Lãi nói:

– Cũng chẳng bao lâu nữa, xin đại vương luyện tập quân sĩ để đợi thời.

Câu Tiễn nói:

– Quân sĩ nước ta còn phải luyện tập nữa sao ?

Phạm Lãi nói:

– Việc chiến tranh cần phải có quân tinh nhuệ, quân tinh nhuệ lại cần phải có tài nghề, như kiếm kích và cung nỏ. Mà các nghề ấy nếu không được minh sư dạy bảo thì không sao tài giỏi được. Tôi biết có người xử nữ ở Nam Lâm, giỏi nghề kiếm kích lắm; lại có người nước Sở tên gọi là Trần Anh, giỏi nghề cung nỏ, xin đại vương cho đón về mà dùng.

Câu Tiễn sai sứ đem lễ vật đi mời xử nữ và Trần Am. Người xử nữ ấy không biết tên họ là gì, nguyên vẫn ở trong rừng, chẳng học ai cả mà giỏi nghê kiếm kích. Sứ giả phụng mệnh Câu Tiễn đến Nam Lâm mời xử nữ. Xử nữ bằng lòng đi ngay. Nửa đường, gặp một ông cụ đầu bạc, đứng ở trước xe mà hỏi rằng:

– Nàng có phải là xử nữ ở Nam Lâm đó không ? kiếm thuật của nàng thế nào mà nàng dám nhận lời mời của vua Việt. Âu là ta hãy thử nhau một phen.

Xử nữ nói:

– Xin tuỳ ý tôn ông.

Ông lão ấy liền bẻ bụi trúc ở trong rừng như dứt nắm cỏ khô, toan đâm xử nữ. Ngọn trúc rơi xuống đất. Xử nữ bắt ngay lấy, rồi đâm lại ông lão. Bỗng thấy ông lão nhảy lên trên cây, hóa làm con vượn trắng, rồi kêu rống một tiếng mà đi mất. Sứ giả lấy làm lạ. Xử nữ vào yết kiến Câu Tiễn. Câu Tiễn mời ngồi, rồi hỏi nghề kiếm kích. Xử nữ nói:

– Nghề kiếm kích, trong phải giữ vững tinh thần, ngoài phải làm ra mặt an dật. Trong như đàn bà vậy, mà thực dữ như con hổ, nhanh như con thỏ, khiến người ta không kịp chớp mắt. Ai theo được cái đạo ấy thì một người địch nổi trăm người, trăm người địch nổi vạn người. Nếu đại vương không tin xin cho thử xem.

Câu Tiễn sai một trăm dũng sĩ xúm ngọn kích mà đâm xử nữ. Xử nữ giơ tay bắt luôn các ngọn kích mà ném xuống đất. Câu Tiễn phục là giỏi, mới giao cho luyện tập binh sĩ. Có ba nghìn quân sĩ theo được phép dạy. Hơn một năm, xử nữ cáo từ xin về Nam Lâm. Lần sau Câu Tiễn sai người đến mời thì không thấy đâu cả. Có người cho là trời tựa nước Việt, vậy sai thần nữ đem kiếm thuật xuống giúp.

Lại nói chuyện Trần Am nguyên là người nước Sở, vì tội giết người, phải trốn sang nước Việt. Phạm Lãi thấy là người bắn giỏi lắm, chẳng sai phát nào, liền nói với Câu Tiễn đón làm xạ sư. Câu Tiễn hỏi Trần Am rằng:

– Chẳng hay cung nỏ từ đâu mà sinh ra ?

Trần Am nói:

– Nó sinh ra bởi cung, cung sinh ra bởi ná, ná sinh ra bởi một người hiếu tử đời xưa. Nguyên đời xưa nhân dân thuần phục, đói thì ăn thịt giống vật, khát thì tìm uống nước mưa, người chết thì lấy cỏ bọc lại, đem ném ra giữa đồng. Sau có người hiếu tử, không nỡ để cho giống cầm thú ăn thịt cha mẹ mình, mới chế ra ná để giữ. Đến đời Thần Nông Hoàng Đế chế ra cung tên để dẹp bốn phương, bấy giờ có Hồ Phủ sinh ở Kinh Sơn nước Sở, cha mẹ chết sớm cả, từ lúc còn bé, vẫn tập nghề cung tên, bắn đâu trúng đấy, sau đem nghề bắn truyền cho Hậu Nghệ. Hậu Nghệ truyền cho Bàng Mông, Bàng Mông truyền cho Cầm Thị. Sau vì chư hầu đánh nhau, cung tên không thể trị nổi, mới chế ra thứ nỏ. Cầm Thị truyền cho Sở Tam Hầu, từ bấy giờ nước Sở cứ dùng tên nỏ để đối địch với các nước. Tiền nhân tôi ngày xưa học nghề nỏ ở nước Sở, đã năm đời nay. Nỏ bắn vào đâu thì chim không kịp bay, thú không kịp chạy, xin đại vương cho thử xem.

Câu Tiễn cũng giao cho Trần Am luyện tập cho ba nghìn quân sĩ, dạy nghề bắn nỏ. Trần Am dạy phép “liên nổ” bắn luôn ba mũi tên, không ai tránh kịp. Trong ba tháng thì quân sĩ học được hết phép. Trần Am bị bệnh mà chết. Câu Tiễn làm lễ hậu táng ở đấy, mới đặt tên cái núi ấy gọi là Trần Am sơn.

Ngũ Viên nghe tin Câu Tiễn luyện tập quân sĩ, mới vào yết kiến Phù Sai, khóc mà tâu rằng:

– Đại vương cứ tin nước Việt một lòng thần phục nước Ngô. Nay Việt dùng Phạm Lãi, ngày đêm luyện tập quân sĩ, các nghề kiếm kích cung nỏ, đều tài giỏi cả. Một mai nhân chuyện gì mà sang đánh nước ta thì nước ta nguy lắm. Nếu đại vương không tin, sao không sai người dò thám xem.

Phù Sai liền sai người sang dò thám nước Việt, người ấy biết hết những việc xử nữ và Trần Am, về báo với Phù Sai. Phù Sai bảo Há Bi rằng:

– Việt đã thần phục ta rồi, sao lại còn luyện tập quân sĩ làm gì nữa ?

Bá Hi nói:

– Nước Việt đội ơn đại vương phong đất cho, nếu không có quân sĩ thì lấy gì mà giữ ? vả việc luyện tập quân sĩ để giữ nước là thường, can chi mà đại vương nghi ngại.

Phù Sai cũng không thể đành lòng được, mới có ý muốn cất quân đánh Việt.

Lại nói chuyện họ Trần nước Tề, đã mấy đời được lòng dân, vẫn có ý muốn cướp nước, đến đời Trần Hằng lại càng muốn mưu phản, nhưng sợ đảng họ Cao và họ Quốc còn nhiều, mới nghĩ cách để trừ đi. Trần Hằng tâu với Tề Giản công rằng:

– Nước Lỗ là nước láng giềng ta mà theo Ngô đánh ta thì cái thù ấy không thể quên được.

Tề Giản công nghe lời. Trần Hằng tiến dẫn Quốc Thư làm đại tướng, Cao Vô Bình và Tôn Lâu làm phó tướng, bọn các quan đại phu là công tôn Hạ, công tôn Huy và Lư Khâu Minh đều đem quân theo. Trần Hằng thân hành đi tiên phong, đóng quân ở trên sông Vấn, quyết chí diệt Lỗ rồi mới rút về. Bấy giờ Khổng Tử đang ở Lỗ, sang thuật kinh Thi và kinh Thư. Một hôm, có người học trò là Cầm Lao ở Tề sang Lỗ, vào yết kiến Khổng Tử. Khổng Tử hỏi thăm việc nước Tề, mới biét là quân Tề đã đóng ở ngoài cõi, kinh sợ mà nói rằng:

– Lỗ là nước cha mẹ của ta, nay có họan nạn, ta tất phải cứu.

Khổng Tử nhân hỏi học trò rằng:

– Có ai dám vì ta sang sứ nước Tề, để ngăn nước Tề đừng sang đánh nước Lỗ không ?

Tử Trương (họ là Chuyên Tôn, tên là Sư) và Tử Trạch (tức là công tôn Long, người nước Vệ) đều xin đi. Khổng Tử không cho. Tử Cống (tên là Tứ, họ là Đoan Mộc) đứng dậy mà hỏi rằng:

– Như Tứ này có thể di được không ?

Khổng Tử nói:

– được!

Tử Cống tức khắc đi đến sông Vấn, xin vào yết kiến Trần Hằng. Trần Hằng biết Tử Cống là học trò giỏi của Khổng Tử, đến đây tất là có ý muốn du thuyết, mới lập nghiêm nét mặt để đợi Tử Cống vào. Tử Cống cứ thản nhiên vào, hình như không trông thấy ai cả. Trần Hằng mời ngồi mà hỏi rằng:

– Tiên sinh đến đây, muốn vì nước Lỗ mà làm thuyết khách đó chăng ?

Tử Cống nói:

– Tôi đến đây là vì Tề, chớ không phải vì Lỗ. Nước Lỗ là một nước khó đánh, sao quan tướng quốc lại đánh ?

Trần Hằng nói:

– Sao lại bảo nước Lỗ khó đánh ?

Tử Cống nói:

– Nước Lỗ, thành mỏng mà thấp, hào hẹp mà nông, nhà vua yếu, quan đại thần vô tài, quân sĩ không luyện tập, cho nên bảo là khó đánh. Cứ như tài quan tướng quốc bây giờ thì không gì bằng đánh Ngô. Nước Ngô, thành cao mà hào rộng, binh giáp tinh lợi, có nhiều tướng giỏi, thế mà dễ đánh đó!

Trần Hằng nổi nóng mà nói rằng:

– Khó và dễ, tiên sinh nói điên đảo khác thường như vậy, tôi thật không hiểu.

Tử Cống nói:

– Quan tướng quốc cho đuổi hết người xung quanh đi, tôi xin phân giải.

Trần Hằng liền đuổi hết người xung quanh đi, rồi ngồi gần lại mà hỏi Tử Cống, Tử Cống nói:

– Tôi nghe nói: lo ở mặt ngoài thì nên đánh nước yếu, lo ở mặt trong thì nên đánh nước mạnh. Tôi thiết nghĩ cái tình thế quan tướng quốc ngày nay, không có thể cùng với các đại thần cộng sự được. Nay cái đại thần có công phá nước Lỗ mà quan tướng quốc không có công gì, tôi e thế các đại thần mỗi ngày một to thì quan tướng quốc nguy lắm. Nếu quan tướng quốc quay sang đánh Ngô thì các đại thần khổ về giặc mạnh, quyền chính trong nước chỉ một tay quan tướng quốc nắm mà thôi, còn gì hơn nữa!

Trần Hằng tươi nét mặt lại mà bảo rằng:

– Lời nói của tiên sinh, thật hiểu thấu ruột gan tôi lắm; nhưng nay tôi đã đóng quân ở đấy, nếu quay sang nước Ngô thì tất người ta sinh nghi, biết làm thế nào ?

Tử Cống nói:

– Quan tướng quốc cứ đóng quân mà không đánh vội, tôi xin sang nói với vua Ngô đánh Tề để cứu Lỗ, bấy giờ quan tướng quốc đánh Ngô, thì thật là có cớ.

Trần Hằng bằng lòng, mới bảo Quốc Thư rằng:

– Ta nghe nói Ngô sắp đánh Tề, ta đóng quân ở đấy, chớ nên kinh động, để xin người dò thám xem nước Ngô thế nào. Ta phải đánh Ngô trước, rồi sau sẽ đánh Lỗ.

Quốc Thư vâng lời. Trần Hằng trở về kinh thành nước Tề. Tử Cống tức khắc đi gấp sang Ngô, vào tâu với vua Ngô là Phù Sai rằng:

– Khi trước Ngô và Lỗ hợp quân đánh Tề, nước Tề vẫn căm thù lắm; nay quân Tề đã đóng ở Vấn Thuỷ, sắp sang Lỗ, rồi cũng đánh đến Ngô, sao đại vương không đánh Tề để cứu Lỗ ? Đại vương phá vỡ được nước Tề mà thu phục được nước Lỗ thì uy danh lừng lẫy, hơn cả nước Tấn, chắc là nước Ngô nên được nghiệp bá.

Phù Sai nói:

– Khi trước nước Tề đã tình nguyện xin thần phục nước Ngô, vì thế ta mới rút quân về, nay chẳng thấy triều cống chi cả, ta vẫn định đem quân sang hỏi tội một phen, nhưng nghe nói vua Việt luyện tập quân sĩ, có ý rình ta, vậy ta muốn đánh Việt trước, rồi sau sẽ đánh Tề, cũng chưa lấy gì làm muộn.

Tử Cống nói:

– Không nên! Việt yếu mà Tề mạnh. Cái lợi đánh Việt nhỏ mà cái hại thả Tề thì to. Vả chăng sợ nước Việt yếu mà tránh nước Tề mạnh thì sao gọi là trí. Trí và dũng đều mất cả thì tranh thế nào được nghiệp bá. Nếu đại vương có ngại nước Việt thì tôi xin sang báo vua Việt đem quân theo hầu đại vương đi đánh nước Tề, đại vương nghĩ thế nào ?

Phù Sai bằng lòng mà nói rằng:

– Nếu như thế thì chính hợp ý ta!

Tử Cống cáo từ Phù Sai rồi sang yết kiến vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn nghe nói Tử Cống sắp đến, thân hành ra đón ở ngoài ba mươi dặm, mời vào công quán, tiếp đãi rất hậu, rồi khúm núm hỏi rằng:

– Nước tôi ở hẻo lánh về sứ Đông Hải này, tiên sinh không ngại xa nhà mà đến đây chẳng hay có điều gì chỉ bảo ?

Tử Cống nói:

– Tôi đến đây để viếng đại vương!

Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng:

– Tôi nghe nói họa với phúc là láng giềng với nhau, tiên sinh đến đây viếng tôi, tức là phúc cho tôi đó, xin tiên sinh dạy bảo cho biết.

Tử Cống nói:

– Mới rồi, tôi vào yết kiến vua Ngô, bảo vua Ngô đánh Tề cứu Lỗ, vua Ngô nghi nước Việt có ý mưu phản, vậy nên muốn đánh Việt trước. Nếu đại vương không có chí báo thù mà khiến cho người ta nghi, thì thật là vụng lắm ? nếu có chí báo thù mà khiến cho người ta biết, thì thật là nguy lắm!

Câu Tiễn ngạc nhiên, quì xuống mà nói rằng:

– Xin tiên sinh nghĩ mưu cứu cho.

Tử Cống nói:

– Vua Ngô kiêu ngạo mà ưa nịnh. Bá Hi chuyên quyền mà khéo dèm. Nay đại vương dùng đồ lễ hạu và lời nói ngọt, rồi xin một toán quân theo Ngô đánh Tề, kẻ kia đánh mà thua thì từ đó suy yếu đi; nếu đánh mà được thì tất sinh lòng kiêu ngạo, muốn làm bá chủ chư hầu, chắc phải đem quân đánh Tần. Như thế thì nước Việt mới có dịp thừa thế sang đánh Ngô được.

Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà nói rằng:

– Tiên sinh đến đây, thật là trời giúp cho tôi, khác nào như tôi đã chết mà lại được sống lại. Tôi xin vâng lời tiên sinh.

Câu Tiễn bèn đem trăm nén hoàng kim, một thanh bảo kiếm và đôi ngựa tốt đưa tặng Tử Cống, Tử Cống cố ý chối từ, trở về báo với vua Ngô rằng:

– Vua Việt cảm cái ơn đại vương sinh toàn cho, nghe nói đại vương có bụng nghi, lấy làm sợ hãi lắm, nay mai sắp sai sứ đến tạ.

Phù Sai mời Tử Cống ra công quán ở lại trong năm ngày. Quả nhiên nước Việt sai Văn Chủng đến nước Ngô, tâu với Phù Sai rằng:

– Kẻ bề tôi hèn ở Đông Hải là Câu Tiễn đội ơn đại vương không giết, cho được sống để cúng tế, dẫu chết cũng chưa đủ đền ơn. Nay nghe nói đại vương vì nghĩa mà đánh kẻ mạnh, cứu kẻ yếu, vậy có sai tôi là Văn Chủng đem hai mươi chiếc binh giáp, một cái mâu khuất lư và một thanh kiếm Bộ Quang của tiên vương để lại sang dâng đại vương. Khi nào đại vương cất quân thì Câu Tiễn xin đem ba nghìn quân đi theo để xông pha trong chốn mũi tên hòn đạn, dẫu chết cũng không dám từ chối.

Phù Sai bằng lòng lắm mới triệu Tử Cống mà bảo rằng:

– Câu Tiễn thật là nguời tín nghĩa! hắn định đem ba nghìn quân theo ta đánh Tề, tiên sinh nghĩ thế nào ?

Tử Cống nói:

– Không nên! ta đã dùng quân Việt mà lại cho vua Việt theo đi thì cũng quá lắm! đại vương nên nhận cho quân Việt theo mà từ chối không cho vua Việt đi.

Phù Sai nghe lời. Tử Cống cáo từ nước Ngô, lại đi sang nước Tấn vào nói với Tấn Định công rằng:

– Tôi nghe nói: “hễ không lo xa thì tất có hại gần”. nay Ngô sắp sửa đánh Tề, Ngô đánh mà được Tề thì tất cùng Tấn tranh nhau làm bá chủ, nhà vua nên luyện tập quân sĩ để mà đợi sẵn.

Tấn Định công nói:

– Xin vâng lời dạy.

Khi Tử Cống trở về nước Lỗ thì quân Tề đã bị quân Ngô đánh thua rồi.

Chương 82: Ngũ Viên liều chết can vua Ngô – Khoái Qúi lập mưu về nước Vệ

Bấy giờ là năm thứ 36 đời Chu Kính vương, vua Việt là Câu Tiễn sai quan đại phu là Chư Kê Sinh đem ba nghìn quân giúp Ngô đánh Tề. Vua Ngô là Phù Sai cử đại binh đi đánh Tề sai người lập biệt quán ở đát Câu Khúc chung quanh trông ngô đồng mùa thu gọi là Ngô Cung cho Tây Thi ra nghỉ mát ở đấy đợi khi thắng Tề thì Phù Sai cũng về nghỉ ở đấy cho quan mùa hạ.

Khi quân Ngô sắp khởi hành, Ngũ Viên lại can rằng:

– Nước Việt chính là cái bệnh trong tim trong ruột của ta, còn nước Tề chẳng qua như là bệnh ghẻ lở ở bên ngoài mà thôi. Nay đại vương đem mười vạn quân, đi nghìn dặm đường, để chữa cái bệnh ghẻ lở mà quên cái bệnh tim ruột, tôi e rằng chưa thắng được Tề mà đã phải khổ với Việt.

Phù Sai nổi giận mà nói rằng:

– Ta đã định ngày phát binh mà lão tặc dám đem lời quái gở để ngăn trở quân ta, nghĩ có đáng tội không !

Lúc bấy giờ Phù Sai đã có ý muốn giết Ngũ Viên. Bá Hi mật tâu với Phù Sai rằng:

– Ngũ Viên là một bậc lão thần đời trước, ta không nên giết, chi bằng đại vương sai sang ước chiến với nước Tề, để cho người Tề giết đi.

Phù Sai nói:

– Quan thái tể nói phải lắm!

Phù Sai liền viết một bức thư kể tội nước Tề đánh Lỗ là khinh Ngô, sai Ngũ viên đưa sang vua Tề, định khiến vua Tề tức giận mà giết Ngũ Viên. Ngũ Viên biết là nước Ngô tất mất mới đem người con là Ngũ Phong cùng đi. Khi đến Lâm Tri (kih thành nước Tề) Ngũ Viên đem bức thư của Phù Sai vào dâng lên Tề Giản công. Tề Giản công nổi giận, toan giết Ngũ Viên. Bão Tức (con Bão Mục) can rằng:

– Ngũ Viên là trung thần nước Ngô, đã nhiều lần can ngăn mà không hợp ý vua Ngô, nay vua Ngô sai sang đây là ý muốn mượn tay ta giết đi để khỏi mang tiếng là kẻ giết kẻ trung thần, chi bằng ta tha cho về, khiến bọn trung bọn nịnh công kích lẫn nhau, mà Phù Sai phai chịu tiếng ác.

Tề Giản công tiếp đãi Ngũ Viên tử tế, rồi hẹn đến cuối mùa xuân thì khai chiến. Nguyên Ngũ Viên cùng với Bão Mục quen nhau, cho nên Bão Tức can Tề Giản công không nên giết Ngũ Viên. Bão Tức hỏi riêng Ngũ Viên về việc nước Ngô. Ngũ Viên ứa nước mắt mà không nói gì cả, chỉ cho con là Ngũ Phong nhận làm em Bão Tức, rồi gửi ở đấy. Về sau gọi là vương tôn Phong, không dùng họ Ngũ nữa. Bão Tức thở dài mà nói rằng:

– Ngũ Viên định về cố can mà chịu chết, cho nên để con lại nước Tề đây!

Lại nói chuyện vua Ngô là Phù Sai hẹn ngày cất quân, đi qua Cô Tô đài, ăn cơm trưa ở đấy. Cơm xong, chợp ngủ đi, bỗng có một giấc chiêm bao; khi tỉnh dậy, trong lòng hoảng hốt, mới gọi Bá Hi vào mà bảo rằng:

– Ta vừa chợp ngủ đi, chiêm bao thấy vào Chương Minh cung; khi vào đến nơi, thấy hai cái nồi đun chưa chín; lại có hai con chó đen; một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc; lại có hai cái cuốc bằng gang, cắm trên tường; lại thấy nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường; còn về hậu phòng thì nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống; trông ra phía vườn trước, chẳng thấy cây gì khác cả, chỉ toàn một giống ngô đồng. Quan thái tể đóan hộ ta xem tốt xấu thế nào ?

Bá Hi sụp lạy mà chúc mừng rằng:

– Tốt thay! giấc mộng của đại vương, ứng vào việc đánh Tề này! hai chữ “chương minh” nghĩa là phá giặc thành công, tiếng tăm lừng lẫy; hai cái nồi đun mà chưa chín, nghĩa là khí thế đại vương đang thịnh; hai con chó đen; một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc nghĩa là các nước phải đến triều phục nước ta; hai cây cuốc cắm ở trên tường, nghĩa là dân thợ, dây cày chăm việc làm ruộng; nước chảy cuồn cuộn, vào chốn điện đường, nghĩa là các nước đem đồ cống hiến đến nhiều; nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm, chẳng ra chuông, chẳng ra trống, nghĩa là cung nữ vui vẻ; trông ra phía vườn trước, toàn một giống ngô đồng, nghĩa là đem thứ gỗ cây ngô đồng ấy làm đàn cầm, đàn sắt thì tiếng kêu rất êm ái. Mộng của đại vương tốt không biết dường nào mà kể!

Phù Sai dẫu ưa lời nịnh, nhưng vẫn không đành lòng, lại hỏi Vương Tôn Lạc, Vương Tôn Lạc nói:

– Tôi dốt không biết đóan mộng, ở núi Dương Sơn về phía tây thành có một người dị sĩ, tên gọi Công Tôn Thánh. Người ấy học rộng lắm, nếu đại vương còn hồ nghi, sao không triệu đến mà bảo đoán xem.

Phù Sai nói:

– Nhà ngươi triệu đến đây cho ta.

Vương Tôn Lạc đi triệu Công Tôn Thánh.

Công Tôn Thánh hỏi cớ, rồi phục xuống đất mà khóc. Người vợ đứng cạnh cười mà bảo rằng:

– Phu quân dở hơi quá! sao nghe thấy vua triệu mà lại khóc lóc như mưa ?

Công Tôn Thánh thở dài mà nói rằng:

– Thương thay! việc này nàng không biết được. Ta đã tính số ta đến ngày nay là hết. Bây giờ ta phải vĩnh biệt với nàng, cho nên ta thương khóc đó.

Vương Tôn Lạc giục Công Tôn Thánh lên xe, cùng đến Cô Tô đài. Phù Sai triệu Công Tôn Thánh vào, rồi nói chuyện chiêm bao cho nghe và bảo đoán. Công Tôn Thánh nói:

– Tôi biết nói thì tất chết, nhưng dẫu chết cũng cứ nói. Lạ thay! giấc mộng của đại vương, ứng vào việc đánh Tề này! chữ “chương” nghĩa là thua chạy vất vả; chữ “minh” nghĩa là về nơi âm ti; hai cái nồi đun mà chưa chín, nghĩa là đại vương thua chạy, không kịp nấu ăn, hai con chó đen: một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc, nghĩa là phải chạy về âm phương, vì âm thuộc về sắc đen; hai chiếc cuốc cắm ở trên tường nghĩa là quân Việt vào cày cuốc nền xã tắc nước Ngô; nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường, nghĩa là chốn điện đường bỏ không, nước trôi sóng vỗ; nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống nghĩa là cung nữ bị bắt, thở vắn than dài; trông ra phía vườn trước, toàn một giống ngô đồng, nghĩa là đem gỗ cây ngô đồng làm đồ minh khí, đợi khi tống táng. Xin đại vương bãi quân đánh Tề đi, và sai quan thái tể là Bá Hi sang tạ tội với Câu Tiễn thì nước mới yên mà thân mới toàn được!

Bá Hi đứng ở cạnh tâu với Phù Sai rằng:

– Đứa thất phu ở nơi thảo dã, lại dám ăn nói càn gỡ, chẳng giết còn để làm gì!

Công Tôn Thánh chừng mắt mà mắng Bá Hi rằng:

– Quan thái tể quyền cao chức trọng, lộc nước cơm vua, mà chẳng hết lòng trung thành, lại cứ giữ lối du nịnh. Ngày khác quân Việt diệt Ngô, quan thái tể phỏng có còn giữ được đầu hay không ?

Phù Sai nổi giận nói:

– Đứa thất phu không có kiến thức gì, chỉ một mực nói càn, không giết thì tất nhiên làm mê hoặc mọi người.

Nói xong, truyền cho lực sĩ đem cái dùi sắt để đánh Công Tôn Thánh, Công Tôn Thánh kêu to lên rằng:

– trời ơi! trời có thấu cái tình oan này cho tôi không ? trung mà bị tội! thật mà chết oan! sau khi tôi chết rồi, xin chớ có mai táng, đem quẳng thây tôi ở dưới núi Dương Sơn, sau này còn làm cái vang cái bóng để báo đại vương!

Phù Sai đã đánh chết Công Tôn Thánh, mới sai người quẳng thây dưới núi Dương Sơn mà kể tội rằng : Giống sài lang ăn thịt mày, lửa đốt xương mày, gió bay tro mày, hình tiêu ảnh diệt, còn đâu là vang bóng để báo ta được!

Bá Hi rót chén rượu dâng lên mà chúc rằng:

– Mừng thay! đại vương đã trừ được giống yêu quái, xin cạn một chén rượu này, rồi sẽ phát binh.

Trung quân thì Phù Sai và Bá Hi, thượng quân thì Tư Môn Sào, hạ quân thì Tào Cô, cả thảy mười vạn quân và ba nghìn quân Việt, cùng kéo thẳng về phía Sơn Đông. Phù Sai sai sứ sang ước hội trước với Lỗ Ai công để hợp quân đánh Tề. Ngũ Viên đem lời hẹn của Tề Giản công báo với Phù Sai ở ngang đường rồi cáo ốm xin về trước, không theo đi đánh.

Lại nói chuyện tướng nước Tề là Quốc Thư đóng quân ở bến sông Vấn, nghe tin Ngô và Lỗ hợp quân đến đánh, liền họp các tướng lại để thương nghị. Bỗng nghe báo: quan tướng quốc là Trần Hằng sai em là Trần Nghịch đến. Quốc Thư và các tướng mời vào. Trần Nghịch nói:

– Quân Ngô đã kéo sang đất Doah Bác, việc nguy cấp đến nơi! quan tướng quốc sợ các tướng không chịu cố sức, vậy sai tiểu tướng đến đây để dốc chiến. Cứ như việc ngày nay, cho đánh trống, chứ cấm không cho đánh chiêng.

Các tướng đều nói:

– Chúng tôi xin liều chết để quyết chiến!

Quốc Thư truyền lệnh cất quân đi đón đánh Ngô. Đi đến Ngải Lăng, gặp toán thượng quân của tướng nước Ngô là Tư Môn Sào. Quốc Thư hỏi các tướng rằng:

– Ai dám ra đối địch ?

Công tôn Huy hớn hở xin đi, rồi đem quân bản bộ ra nghênh chiến. Hai bên đánh nhau hơn ba mươi hợp, chưa phân được thua. Quốc Thư đem toán trung quân xông vào, tiếng trống như sấm. Tư Môn Sào không thể địch nổi, phải bỏ chạy. Quốc Thư thắng trận, càng thêm hăng hái, truyền cho quân sĩ, mỗi khi ra trận, phải đem theo một cái thừng dài và bảo rằng:

– Tựa nước Ngô đều húi tóc cả, ta nên lấy thừng để mà xâu đầu.

Quân Tề nhao nhao như điên cuồng, cho là sắp phá vỡ được quân Ngô. Tư Môn Sào đem bại binh về yết kiến Phù Sai, Phù Sai nổi giận toan chém Tư Môn Sào. Tư Môn Sào nói:

– Tôi mới ra trận, chưa biết hư thực thế nào, cho nên bị thua; nếu đánh một trận nữa mà không được, bấy giờ xin chịu tội chết.

Bá Hi cũng cố xin hộ cho, Phù Sai đuổi Tư Môn Sào ra, rồi giao toán thượng quân cho quan đại tướng là Triển Như. Gặp có tướng nước Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu đem quân đến giúp, Phù Sai đưa ra một thanh kiếm và một bộ áo giáp, sai làm hướng đạo, đóng quân ở cách Ngải Lăng năm dặm. Quốc Thư sai người đưa chiến thư đến. Phù Sai hẹn đến ngày hôm sau. Hôm sau Phù Sai sai Thúc Tôn Châu Cừu bày trận thứ nhất; Triển Như bày trận thứ hai; Tào Côn bày trận thứ ba;; Tư Môn Sào đem ba nghìn quân Việt đi lại để dụ địch; còn mình thì cùg với Bá Hi đem đại binh đóng nơi gò cao mà tuỳ cơ tiếp ứng. Lại cho tướng nước Việt là Chư Kê Dĩnh theo ở bên cạnh để cùng xem đánh. Quân Tề đã bày trận xong, Trần Nghịch cùng với các tướng đều ngậm ngọc mà bào nhau rằng:

– Ai chết thì đem liệm ngay!

Công tôn Hạ và Công tôn Huy bắt quân sĩ hát bài “Tống táng” và cùng thề với nhau rằng:

– Hễ ai còn sống mà về thì không phải liệt sĩ trượng phu!

Quốc Thư nói:

– Các tướng đều liều chết cố đánh thì tất phải được!

Khi hai bên bày trận xong rồi, Tư Môn Sào ra khiêu chiến. Quốc Thư bảo công tôn Huy rằng:

– Viên đại tướng ở trong tay nhà ngươi đó, nhà ngươi nên ra mà bắt lấy.

Công tôn Huy cầm kích ra đánh, Tư Môn Sào bỏ chạy. Thúc Tôn Châu Cừu đem quân ra đón đánh Công tôn Hy. Tư Môn Sào lại quay trở lại khiêu chiến. Quốc Thư lại sai công tôn Hạ ra đánh. Công tôn Hạ ra, Tư Môn Sào lại chạy, công tôn Hạ đuổi theo. Đại tướng nước Ngô là Triển Như lại đem quân ra đánh công tôn Hạ. Tư Môn Sào lại quay trở lại khiêu chiến. Tướng nước Tề là Cao Vô Bình và Tôn Lâu đem quân ra đánh.

Tướng nước Ngô là Cô Tào một mình đánh nhau với hai tướng nước Tề, mà chẳng sợ hãi một chút nào cả. Hai bên giáp chiến, chết hại đã nhiều. Quốc Thư thấy quân Ngô không lui, bèn cầm dùi đánh trống để thúc đại binh tiến vào. Phù Sai đứng trên gò cao, trông thấy quân Tề hăng hái, quân Ngô đã dần dần kém thế, liền sai Bá Hi đem một vạn quân xuống tiếp ứng. Quốc Thư trông thấy quân Ngô lại đến, đã toan chia quân ra đối địch, bỗng nghe tiếng chiêng dậy đất, quân Tề vẫn tưởng là quân Ngô định lui, chẳng ngờ Phù Sai đem ba vạn quân tinh binh chia làm ba đạo, lại lấy chiêng làm hiệu tiến quân, theo lối tắt xông thẳng vào trận địa quân Tề, làm cho quân Tề đứt ra làm ba ngả. Bọn Triển Như và Tào Cô nghe nói Phù Sai lâm trận, càng thêm hăng hái, đuổi đánh quân Tề thất điên bát đảo. Triển Như bắt sống được công tôn Hạ, Tư Môn Sào đâm chết công tôn Huy, Phù Sai bắn trúng Tôn Lâu, Lư Khâu Minh bảo Quốc Thư rằng:

– Quân Tề chết gần hết rồi, ngài nên đổi y phục mà trốn đi, rồi sau sẽ liệu kế.

Quốc Thư thở dài mà nói rằng:

– Ta cần mười vạn quân Tề, mà bị người nước Ngô đánh thua, còn mặt mũi nào mà về triều nữa.

Quốc Thư nói xong, liền cởi áo giáp xông vào trong đám quân Ngô, bị quân Ngô đâm chết. Lư Khâu Minh núp ở trong đám cỏ cũng bị tướng nước Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu bắt được. Phù Sai đại thắng quân Tề, các tướng hiến công, chém được tứơng nước Tề là Quốc Thư và công tôn Hy, bắt sống được công tôn Hạ và Lư Khâu Minh, cũng đem chém nốt; chỉ có Cao Vô Bình và Trần Nghịch hai người trốn thoát mà thôi, còn người khác hoặc bị chém, hoặc bị bắt, không biết bao nhiêu mà kể. Phù Sai hỏi Chư Kê Dĩnh (tướng nước Việt) rằng:

– Nhà ngươi xem quân Ngô cường dũng, so với quân Việt thế nào ?

Chư Kê Dĩnh sụp lạy mà tâu rằng:

– Quân Ngô cường dũng, thiên hạ không nước nào địch nổi, huống chi nước Việt tôi là một nước hèn yếu xưa nay.

Phù Sai bằng lòng, trọng thưởng cho quân Việt, sai Chư Kê Dĩnh về trước để báo tin thắng trận cho Câu Tiễn biết. Tề Giản công lo sợ, cùng với Trần Hằng và Hám Chỉ thương nghị, rồi sai sứ đem nhiều lễ vật sang lễ Phù Sai để xin hoà. Phù Sai bảo nước Tề và nước Lỗ lại giao hiếu với nhau như anh em, không được gây việc tranh chiến. Nước Tề và nước Lỗ đều vâng mệnh cả. Phù Sai rút quân về đến Ngô cung ở Câu Khúc, bảo Tây Thi rằng:

– Ta để mỹ nhân ở đây là muốn cho được chóng gặp mặt.

Tây Thi sụp lạy và chúc mừng. Bấy giờ gió thu hây hẩy, lá ngô rườm rà. Phù Sai và Tây Thi trèo lên trên đài, uống rượu rất vui, đến đem khuya bỗng có tiếng lũ trẻ hát. Phù Sai lắng nghe, hát rằng:

“Lá đồng gặp mùa lạnh

Vua Ngô tỉnh, chưa tỉnh…?

Lá Ngô đang mùa thu

Vua Ngô sầu, lại sầu…!

Phù Sai không bằng lòng, sai người bắt lũ trẻ đến mà hỏi rằng:

– Ai dạy chúng bay hát câu ấy ?

Lũ trẻ nói:

– Có một đứa trẻ áo đen, không biết ở đâu đến, dạy chúng tôi hát như thế, rồi lại đi đâu mất.

Phù Sai nổi giận mà nói rằng:

– Ta đây tự trời sinh ra, có thần thánh ủng hộ, khi nào lại phải sầu!

Phù Sai toan giết lũ trẻ, Tây Thi cố xin mãi mới thôi. Bá Hi tâu rằng:

– Xuân đến thì muôn vật vui, thu đến thì muôn vật sầu, đó là đạo trời. Đại vương lúc vui lúc sầu đều hợp với đạo trời, còn lo gì nữa!

Phù Sai bằng lòng, đóng ở Ngô cung ba ngày, rồi mới về kinh thành. Các quan triều thần đều vào chúc mừng. Ngũ Viên cũng đến, không nói gì cả. Phù Sai trách Ngũ Viên rằng:

– Quan tướng quốc can ta không nên đánh Tề, nay ta thắng được Tề trở về, quan tướnc quốc không có công gì cả, tưởng cũng nên hổ thẹn!

Ngũ Viên giận lắm, vùng vằng buông thanh kiếm xuống mà tâu rằng:

– Trời định làm mất nước nào thì vẫn cho có điều mừng nhỏ, rồi mới giáng điều to lớn. Việc thắng Tề chẳng qua là một điều mừng nhỏ đó, tôi e rằng sắp có điều to lớn đến nơi.

Phù Sai tức giận nói rằng:

– Đã lâu không gặp quan tướng quốc, tai ta được im ắng dễ chịu, nay lại đến kể lể rầy rà hay sao!

Phù Sai nói xong, bưng tai nhắm mắt, ngồi ở trên điện. Được một lúc, Phù Sai bỗng trừng mắt nhìn thẳng mà quát to lên rằng:

– Quái lạ!

Các quan tâu rằng:

– Đại vương thấy gì ?

Phù Sai nói:

– Ta trông thấy bốn người tựa lưng nhau rồi mỗi người chạy về một phía; lại thấy ở dưới điện có hai người đứng đối nhau: người ngảnh mặt phía bắc giết người ngảnh mặt phía nam. Các ngươi có trông thấy như thế không ?

Các quan đều nói:

– Chúng tôi không trông thấy gì cả.

Ngũ Viên tâu rằng:

– Bốn người chạy về bốn phía nghĩa là bốn phương phải ly tán; người ngảnh mặt phía bắc giết người ngảnh mặt phía nam, nghĩa là kẻ dưới làm hại người trên, bề tôi giết vua. Nếu đại vương không biết tu tỉnh thì tất có ngày hại thân mất nước!

Phù Sai nổi giận nói:

– Tướng quốc nói gở như vậy, ta không muốn nghe!

Bá Hi nói:

– Bốn phương ly tán, nghĩa là vì phải chạy đến phục dịch ở sân nước Ngô. Nước Ngô ta làm bá chủ, sắp có cơ thay nhà Chu, ấy cũng là cái điềm bề tôi phạm đến vua đó.

Phù Sai nói:

– Quan thái tể nói một lời làm cho lòng ta mở rộng. Tướng quốc thì già nua lắm rồi, chẳng nói được câu nào như thế cả.

Mấy hôm sau, vua Việt là Câu Tiễn đem bề tôi nước Việt thân hành đến nước Ngô để chúc mừng thắng trận. Đối với các quan nước Ngô, vua Việt đều có quà biếu cả.

Bá Hi nói:

– Thế là bốn phương phải phục dịch ở sân nước Ngô đó!

Phù Sai bày tiệc ở trên Vân Đài. Câu Tiễn ngồi hầu. Các quan đại phu đều đứng hầu ở bên cạnh. Phù Sai nói:

– Vua không quên người bề tôi có công, cha không quên người con có công. Nay quan thái tể là Bá Hi vì ta luyện tập quân sĩ có công, ta định thưởng cho làm thượng khanh; vua Việt thờ ta như cha, một lòng hiếu thuận, ta định phong thêm đất cho, để đền cái công giúp ta. Các quan đại phu nghĩ thế nào ?

Các quan đại phu đều nói:

– Đại vương thưởng công cho kẻ khó nhọc đó là việc bá vương.

Ngũ Viên sụp xuống đất khóc mà tâu rằng:

– Than ôi, thương thay! người trung bịt miệng, lũ nịnh nâng tay, trái cho làm phải, gian tưởng là ngay; có một ngày kia, diệt nước Ngô này, miếu xã tàn phá, cung điện đầy gai!

Phù Sai nổi giận:

– Lão tặc gian trá, làm tai làm quái, chỉ muốn chuyên quyền, để hại nước ta. Ta nghĩ đến tiền vương, mà không nỡ giết, cho về mà tự xử lấy, đừng trông thấy mặt ta nữa.

Ngũ Viên nói:

– Lão thần này, nếu bất trung bất tín, thì đã chẳng được làm tôi tiền vương, nay khác nào như Long Bàng gặp vua Kiệt, Tỷ Can gặp vua Trụ. Tôi dẫu bị giết nhưng đại vương cũng khó toàn! tôi xin từ đây vĩnh biệt, không trông thấy đại vương nữa!

Ngũ Viên nói xong, tức khắc lui ra. Phù Sai vẫn còn chưa nguôi cơn giận, Bá Hi nói:

– Tôi nghe nói khi trước Ngũ Viên sang sứ nước Tề, có đem con gửi họ Bão, thế là có ý muốn phản Ngô, đại vương nên xét kỹ.

Phù Sai sai người đem thanh kiếm Chúc Lâu đưa cho Ngũ Viên. Ngũ Viên cầm lấy thanh kiếm mà than rằng:

– Đại vương muốn ta chết đây!

Ngũ Viên nói xong, liền chạy ra đứng ở giữa sân, ngửa mặt lên trời mà kêu to lên rằng:

– trời ơi! trời ơi! ngày xưa tiền vương không muốn lập mày, mày nhờ sức ta mới được nối ngôi. Ta vì mày mà phá Sở, phá Việt, khiến cho uy danh lừng lẫy khắp chư hầu. Nay mày không theo lời ta, lại bắt ta chết. Ta chết ngày nay thì ngày mai quân Việt đến đào xã tắc nước Ngô đi đó!

Ngũ Viên lại bảo người nhà rằng:

– Khi ta chết rồi, các ngươi phải khoét mắt ta mà treo ở cửa đông để ta được xem quân Việt kéo đến!

Nói xong tự đâm cổ mà chết.

Nội thị đem thanh kiếm về tâu với Phù Sai và thuật lại những lời nói của Ngũ Viên trong khi gần chết. Phù Sai thân hành đến xem thi hài rồi nói rằng:

– Ngũ Viên, mày đã chết rồi thì còn biết gì nữa!

Phù Sai lại truyền cắt lấy đầu, đem treo ở trên cửa Bàn Môn còn thi thể thì đem bỏ vào cái bao da ngựa, sai người quẳng xuống khúc sông Tiền Đường mà bảo rằng:

– Nhật nguyệt cháy xương mày, thuồng luồng ăn thịt mày, hình thể mày tiêu diệt, phỏng có còn gì không!

Thi thể Ngũ Viên theo dòng sông trôi đi, sóng đánh dạt vào bờ. Dân ở đấy sợ hãi bảo nhau vớt lên, đem chôn ở núi Ngô Sơn. Đời sau đổi tên là Trư Sơn (bởi vì Ngũ Viên tên tự là Tử Tư), nay ở trên núi còn có miếu Tử Tư. Phù Sai giết Ngũ Viên rồi, mới cho Bá Hi làm tướng quốc, lại định phong thêm đất cho nước Việt. Câu Tiễn cố ý xin từ chối, Phù Sai mới thôi. Câu Tiễn về Việt, càng dốc lòng nghĩ mưu đánh Ngô. Phù Sai chẳng để ý đến, lại càng kiêu căng phóng túng, bắt mấy vạn dân đi đắp Hàn thành, xẻ một cái kênh ở phía đông bắc xuyên sang phía tây bắc, khiến nước sông Giang, sông Hoài chảy vào sông Nghi, rồi thông sang sông Tề. Thế tử Hữu biết ý Phù Sai lại muốn hội minh với trung quốc, vẫn muốn can ngăn, nhưng lại sợ Phù Sai giận, mới nghĩ ra một việc để làm cho Phù Sai tỉnh ngộ.

Một hôm đang buổi sáng sớm, thế tử Hữu đeo cung mang tên ở hậu viên đi về, áo giày ướt sạch cả. Phù Sai thấy lạ, liền hỏi. Thế tử Hữu nói:

– Mới rồi, con ra chơi hậu viên, nghe tiếng con ve kêu ở trên cây, chạy lại gần xem, thấy con ve đang ngân nga trước gió, tự lấy làm yên ổn, không ngờ có con bọ ngựa đang leo ở trên cành cây, giơ hai càng lên, rình bắt con ve để ăn thịt; con bọ ngựa chỉ biết con ve, không ngờ có con chim sẻ vàng đang bay lượn ở đấy, định mổ con bọ ngựa; con chim sẻ chỉ biết con bọ ngựa, không ngờ có con đứng ở đấy đang giương cung định bắn con chim sẻ. Con chỉ biết con chim sẻ không ngờ lại có một cái hố sâu ở bên cạnh, nên trượt chân ngã xuống, thành ra ướt cả áo giày, đến nỗi làm trò cười cho phụ vương.

Phù Sai nói:

– Mày chỉ tham cái lợi trước mắt, mà không nghĩ đến cái hại sau lưng, thiên hạ còn ai ngu như thế nữa!

Thế tử Hữu nói:

– Thế mà thiên hạ còn có người ngu hơn con: nước Lỗ là dòng dõi Chu công, lại nhờ công dạy bảo của Khổng Tử, không xâm phạm gì đến lân quốc, thế mà nước Tề tự nhiên đem quân đánh Lỗ. Tề tưởng lấy được Lỗ, chẳng ngờ có Ngô đem quân đi nghìn dặm để đánh Tề. Ngô đánh Tề, tưởng lấy được Tề, chẳng ngờ có nước Việt kia lại đem quân quyết tử quan Tam Giang, thông Ngũ Hồ để diệt nước Ngô, thiên hạ còn ai ngu như thế nữa!

Phù Sai nổi giận, nói:

– Đấy là cái giọng lưỡi của Ngũ Viên ngày xưa, ta nghe đã chán tai lắm, bây giờ mày lại bắt chước, để làm ngăn trở công việc của ta hay sao ? mày có phải là con trai ta thì từ nay cấm không được nói đến việc ấy nữa!

Thế tử Hữu sợ hãi lui ra.

Phù Sai giao cho thế tử Hữu cùng vương tử Địa và vương tôn Dị Dung giữ nước, còn mình thì đem quân sang hội với Lỗ Ai công ở đất Thái Cao, với Vệ Xuất công ở đất Phát Dương, rồi ước với chư hầu đại hội ở Hoàng Trì (đất nước Vệ), muốn cung với nước Tấn tranh nhau nghiệp bá.

Câu Tiễn nghe tin Phù Sai đã đem quân đi vắng, mới cùng với Phạm Lãi thương nghị, rồi đem ba nghìn quân “tập lưu” (tức là thuỷ binh) cùng với ba nghìn “tuấn sĩ”, sáu nghìn “quân tử”, theo đường bể qua sông Giang để lẻn sang đánh Ngô. Tiền đội là Trù Vô Dư kéo đến nước Ngô. Vương tôn Dị Dung ra đánh, được mấy hợp thì vương tử Địa đem quân ra, Trù Vô Dư ngã ngựa bị bắt. Ngày hôm sau Câu Tiễn đem đại binh đến. Thế tử Hữu định giữ thế thủ. Vương tôn Dị Dung nói:

– Quân Việt vẫn có lòng sợ nước Ngô ta, vả ở xa lại đây tất nhiên mệt nhọc. Ta thắng lần nữa thì họ phải chạy; nếu không thắng, bấy giờ sẽ giữ thế thủ, cũng chưa lấy gì làm muộn.

Thế tử Hữu nghe lời, liền sai Dị Dung ra đánh, Hữu đem quân theo sau. Câu Tiễn thân hành đốc suất quân sĩ đánh nhau với Ngô, khí thế hăng hái lắm. Lúc bấy giờ ở nước Ngô quân sĩ tinh dũng đều theo Phù Sai đi vắng cả, ở trong nước chỉ còn toàn quân sĩ chưa luyện tập. Nước Việt thì toàn là quân tinh dũng đã luyện tập mấy năm nay, cung tên kiếm kích, linh lợi khác thường! lại thêm có Phạm Lãi và Thế Dung đều là những tướng lão thành, Ngô khó lòng địch nổi. Quân Ngô thua to. Vương tôn Dị Dung bị Thế Dung giết chết. Thế tử Hữu bị hãm ở trong đám quân Việt, bị mấy mũi tên vào mình, sợ quân Việt bắt được thì nhục, liền tự tử chết. Quân Việt kéo thẳng đến dưới chân thành. Vương tôn Địa đóng chặt cửa thành lại, rồi cố giữ thế thủ và sai người đi cáo cấp với Phù Sai. Câu Tiễn cho thuỷ quân đóng ở Thái Hồ và lục quân đóng ở Tư Môn, sai Phạm Lãi đốt đài Cô Tô, lửa cháy hơn một tháng chưa tắt, bao nhiêu chiến thuyền của Ngô, đều bắt đem về Thái Hồ cả. Quân ngô không dám ra đánh.

Lại nói chuyện Phù Sai cùng với Lỗ Ai Công và Vệ Xuất Công, cùng đến Hoàng Trì, sai người mời Tấn Định công. Tấn Định công sợ thế, cũng phải đến hội. Phù Sai sai Vương Tôn Lạc cùng với quan thượng khanh nước Tấn và Triệu Uởng bàn việc để tên trước sau ở trong tờ tái thư. Triệu Uởng nói:

– Nước Tấn đã mấy đời nay làm minh chủ, còn phải hỏi gì nữa!

Vương tôn Lạc nói:

– Tổ nước Tấn là Thúc Ngu, là em vua Thành vương, tổ nước Ngô là Thái Hà, là bá tổ vua Vũ vương, tôn ti cách nhau mấy từng; huống chi Tấn dẫu làm chủ minh, mà khi hội ở Tống, ở Quắc, đều phải đứng dưới Sở, nay lại muốn đứng trên nước Ngô hay sao ?

Hai bên tranh nhau, mấy ngày không quyết. Bỗng có sứ giả của vương tử Địa sai đến, mật báo việc quân Việt đánh Ngô, giết thế tử Hữu, nay đang vây thành, sự thế rất nguy cấp. Phù Sai kinh sợ. Bá Hi rút gươm chém chết sứ giả. Phù Sai nói:

– Tại sao quan tướng quốc lại giết sứ giả ?

Bá Hi nói:

– Việc này hư thật chưa rõ, nếu để sứ giả tiết lộ ra thì Tề và Tấn tất thừa cơ sinh sự, đại vương tài nào mà về yên được.

Phù Sai nói:

– Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng Ngô và Tấn còn đang tranh trưởng chưa xong, nay lại có tin này, vậy ta nên bỏ về ngay, hay ở lại dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng ?

Vương tôn Lạc nói:

– Hai đàng đều không được cả. Ta bỏ không dự hội mà về ngay thì người ta biết ta có sự nguy cấp; nếu dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng thì rồi ta làm gì cũng tất phải vâng mệnh nước Tấn, vậy thì ta quyết phải tranh trưởng, mới khỏi lo ngại!

PHù Sai nói:

– Muốn tranh cho được thì làm thế nào ?

Vương Tôn Lạc mật tâu rằng:

– Nay việc đã nguy cấp lắm, xin đại vương nổi hiệu trống mà khiêu chiến, để làm cho người nước Tấn phải sợ.

Phù Sai khen phải, đêm hôm ấy sửa sang quân sĩ kéo sang chỗ quân Tấn đóng cách nhau chỉ có độ một dặm, rồi bày trận ở đấy. Vua Ngô tự tay cầm dùi đánh trống, một vạn cái trống ở trong quân đều đánh theo, tiếng chuông tiếng mõ đồng thời nổi lên inh ỏi. Quân Tân sợ hãi không biết vì cớ gì, mới sai quan đại phu là Đổng Cát sang hỏi. Phù Sai đáp rằng:

– Ta phụng mệnh thiên tử nhà Chu làm chủ minh các nước, nay vua Tấn trái mệnh tranh trưởng, để đến nỗi dùng dằng mãi không xong. Ta sợ sứ giả đi lại thêm phiền, vậy phải thân hành đến đây mà thương nghị. Nước Tấn theo hay không theo, ngày hôm nay phải quyết.

Đổng Cát về báo với Tấn Định công. Bấy giờ Lỗ Ai công và Vệ Xuất công cùng đều ngồi ở đấy. Đổng Cát nói riêng với Triệu Uởng rằng:

– tôi xem ý vua Ngô, ngoài miệng dẫu nói cứng, nhưng nét mặt buồn rầu tất là trong bụng có điều gì lo nghĩ lắm, hay là quân Việt đã sang đánh Ngô rồi! nếu ta không chịu cho hắn đứng tên trước thì tất hắn liều mà đánh ta, nhưng ta cũng không nên chịu nhường suông, phải bắt hắn bỏ vương hiệu đi mới được.

Triệu Uởng bèn tâu với Tấn Định công. Định công lại sai Đổng Cát sang nói với Phù Sai rằng:

– Đại vương phụng mệnh thiên tử nhà Chu hội chư hầu, chúa công tôi không dám trái, nhưng nước Ngô nguyên là tước bá mà lại tiếm hiệu xưng vương thì đối với thiên tử nhà Chu ra sao ? Đại vương nên bỏ vương hiệu đi mà xưng là Ngô công thì chúa công tôi xin vâng mệnh.

Phù Sai cho lời nói ấy là phải, liền tự xưng là Ngô công, rồi ra tiếp kiến các vua chư hầu. Ngô công thề trước, thứ đến nước Tấn, thứ nữa đến nước Lỗ và nước Vệ.

Phù Sai rút quân theo đường thuỷ về nước Ngô. Đi đến nửa đường, được luôn mấy tin nước nhà cáo cấp, quân sĩ nghe nói, ai cũng sợ hãi; vả lại đi xa mỏi mệt, nên chẳng ai nghĩ gì đến sự giao chiến. Quân Ngô giao chiến với quân Việt. Quân Ngô thua to. Phù Sai sợ lắm, bảo Bá Hi rằng:

– Quan tướng quốc nói vua Việt không bao giờ làm phản, cho nên ta nghe mà tha cho về nước. Sự thế ngày nay, quan tướng quốc phải sang xin hoà với Việt; nếu không thì thanh kiếm ta đưa cho Ngũ Viên ngày trước, ta lại đưa cho quan tướng quốc đó!

Bá Hi liền sang quân Việt, sụp lạy Câu Tiễn, xin tha tội cho nước Ngô, còn những lễ vật để khao thưởng quân sĩ, nước Ngô lại xin theo như nước Việt năm trước. Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:

– Nước Ngô cũng chưa nên diệt, ta hãy cho hoà để đền ơn cho Bá Hi. Từ đây Ngô cũng không cường thịnh được nào!

Câu Tiễn cho nước Ngô giảng hoà, rồi rút quân về, đó là năm thứ 38 đời Chu Kính vương. Sang năm sau, Lỗ Ai công đi săn ở Cự Gia. Kẻ gia thần nhà Thúc Tôn Thị tên gọi Thư Thương bắt được một con thú, mình như mình con hoãng, đuôi như đuôi con trâu, đầu sừng lại có thịt, lấy làm quái mà giết chết, đem hỏi Khổng Tử. Khổng Tử xem, rồi nói rằng:

– Đây là con lân! xem sừng nó hãy còn cái dải, biết rằng đó là của Nhan Mẫu ngày xưa buộc vào. Than ôi! thế này thì đạo ta cùng mất rồi!

Khổng Tử liền sai học trò đem chôn. Bấy giờ Khổng tử mới đem bộ sử nước Lỗ, từ năm đầu Lỗ Ẩn công đến năm Lỗ Ai công bắt được con lân, công 242 năm, chép thành một quyển gọi là kinh Xuân Thu, để hợp với Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, cả thảy là sáu kinh.

Năm ấy quan hữu tướng nước Tề và Trần Hằng biết nước Ngô bị quân Việt đánh thua, không lo gì đến cường địch ở mặt ngoài nữa, còn mặt trong thì chỉ ngại có Hám Chỉ. Tề Giản công sợ hãi bỏ chạy. Trần Hằng đuổi theo mà giết, lại giết hết cả bè phái họ Hám, rồi lập em Tề Giản công là Vụ Lâu làm vua, tức là Tề Bình công. Khổng Tử nghe tin Trần Hằng giết Tề Giản công, vào tâu với Lỗ Ai công, xin đem quân đi đánh. Lỗ Ai công bảo Khổng Tử nói với ba nhà Mạnh, Thúc, Qúi, Khổng Tử than rằng:

– Tôi chỉ biết có vua Lỗ, chứ không biết ba nhà là ai!

Trần Hằng cũng sợ chư hầu đem quân dến đánh, bao nhiêu những đất chiếm được của Lỗ, Vệ đều trả lại cả, phía bắc kết giao với bốn quan khanh nước Tần, phía nam kết giao với Ngô và Việt. Lại theo lối Trần Vô Vũ khi trước, đem tiền thóc cấp phát cho những kẻ nghèo khổ, người trong nước ai cũng bằng lòng. Trần Hằng lập mưu trừ dần phái Bão, Án, Cao, Quốc và các công tộc, chiếm lấy quá nửa nước Tề làm phong ấp của mình. Lại tuyển con gái trong nước từ bảy thước trở lên, để ở hậu phòng cả thảy đến trăm người tha hồ cho tân khách ra vào, không cấm đoán gì cả. Trần Hằng sinh được con trai hơn bảy mươi người, muốn dùng kế ấy để làm cho bọn Trần chóng cường thịnh. Sau các quan đại phu và ấp tể ở nước Tề đều là họ Trần cả.

Lại nói chuyện thế từ Khoái Qúi nước Vệ ở Thích Ấp, con là Vệ Xuất công (Triếp) đem người trong nước ra để chống cử với Khoái Qúi. Quan đại phu là Cao Sài can ngăn. Khóai Quí không nghe. Chị gái Khoái Qúi lấy quan đại phu là Khổng Ngũ sinh được người con tên gọi Khổng Khôi, lại nối chức làm đại phu, cầm quyền chính nước Vệ. Gia thần họ Khổng là Hồn Lương Phu tư thông với nàng Khổng Cơ (tức là chị gái Khoái Qúi). Nàng Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu đi sang Thích ấp hỏi thăm em là Khóai Qúi.

Khóai Qúi cầm tay mà bảo rằng:

– Nhà ngươi làm thế nào mà giúp cho ta về nước làm vua thì ta cho nhà ngươi được đội mũ miện và đi xe hiên, dẫu có tội đáng chết, cũng tha cho ba lần.

Hồn Lương Phu về, nói với nàng Khổng Cơ. Nàng Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu ăn mặc giả đàn bà sang đón Khóai Qúi về. Đang đêm khuya, Hồn Lương Phu và Khóai Qúi cùng ăn mặc đàn bà, kẻ dũng sĩ là Thạch Khất và Mạnh Áp làm nguời dong xe, cùng ngồi xe kín, giả là tỳ thiếp, lẻn vào trong thành, nấp ở nhà nàng Khổng Cơ. Khổng Cơ nói:

– Công việc nước nhà đều ở tay con ta cả, nay con ta đang uống rượu ở trong cung, ta nên đón nó lúc về mà bắt phải làm thì mới thành sự được.

Khổng Cơ bảo Thạch Khất, Mạnh Áp và Hồn Lương Phu đều mặc giáp đeo gươm để đợi, còn Khoái Qúi thì phục ở trên đài. Được một lúc, Khổng Khôi ở trong cung say rượu trở về.

Khổng Cơ gọi mà bảo rằng:

– Trong họ cha mẹ thì ai là thân hơn cả ?

Khổng Khôi nói:

– Họ về bên cha thì có bác chú, họ về bên mẹ thì có cậu mà thôi.

Khổng Cơ nói:

– Con đã biết cậu là người rất thân của mẹ thì sao con lại không giúp cho Khoái Qúi ?

Khổng Khôi nói:

– Tiền quân khi xưa bỏ con lập cháu, vậy nên con không dám trái mệnh.

Khổng Khôi đứng ngay dậy, bỏ đi ra nhà xí. Khổng Cơ sai Thạch Khất và Mạnh Áp đứng chờ ở ngoài nhà xí, đợi khi Khổng Khôi ra thì nắm lấy áo mà bảo rằng:

– Thế tử cho chúng tôi đến triệu ngài.

Chúng kéo Khổng Khôi lên trên đài, để yết kiến Khoái Qúi. Khổng Cơ đã đứng sẵn ở bên cạnh, quát to lên rằng:

– Khổng Khôi! sao con không lạy thế tử đi ?

Khổng Khôi bất đắc dĩ phải sụp lạy. Khổng Cơ nói:

– Ngày nay con có chịu theo cậu hay không ?

Khổng Khôi nói:

– Xin vâng mệnh!

Khổng Cơ liền giết một con lợn đực để lấy máu, bảo Khóai Qúi và Khổng Khôi ăn thề với nhau.

Khổng Cơ bảo Thạch Khất và Mạnh Áp giữ Khổng Khôi ở trên đài, rồi sai Hồn Lương Phu đem gia giáp của Khổng Khôi vào đánh Vệ Xuất công. Vệ Xuất công đang say rượu, sắp đi nghỉ, nghe nói có loạn, sai nội thị đi triệu Khổng Khôi. Nội thị nói:

– Chính Khổng Khôi nổi lọan!

Vệ Xuất công kinh sợ, tức khắc lấy hết các đồ bảo khí trốn sang nước Lỗ. Các quan trong triều ai không muốn theo Khoái Qúi đều bỏ trốn cả. Trọng Do là gia thần Khổng Khôi, bấy giờ đang ở ngoài thành, nghe tin Khổng Khôi bị hiếp, toan vào thành để cứu, gặp quan đại phu là Cao Sài ở trong thành ra, bảo Trọng Do rằng:

– Cửa thành đóng rồi. Quyền chính không ở tay nhà ngươi thì lúc họan nạn, can gì mà nhà ngươi dự đến.

Trọng Do nói:

– ta đã ăn lộc của Khổng Khôi, không dám đứng trông.

Vừa bấy giờ có người ở trong thành đi ra, Trọng Do nhân khi cửa ngỏ, liền vào trong thành, đi thẳng đến dưới đài, gọi to lên rằng:

– Trọng Do ở đây, quan đại phu họ Khổng cứ xuống!

Khổng Khôi không dám thưa. Trọng Do toan đốt đài. Khoái Qúi sợ, sai Thạch Khất và Mạnh Áp cầm giáo xuống đài để đánh nhau với Trọng Do. Trọng Do cầm kiếm để đối địch. Hai ngọn kích của Thạnch Khất và Mạnh Áp cùng xúm lại đâm Trọng Do đứt cái dải mũ. Trọng Do bị thương nặng, lúc sắp chết nói:

– Cứ theo trong lễ thì người quân tử dẫu chết cũng không chịu bỏ mũ!

Trọng Do nói xong, còn buộc dải mũ lại, rồi mới chết. Khổng Khôi lập Khóai Qúi lên nối ngôi, tức là Vệ Trang công. Vệ Trang công lập người con thứ là Tật làm thế tử, cho Hồn Lương Phu làm quan khanh.

Bấy giờ Khổng Tử ở nước Việt nghe tin Khóai Qúi nổi loạn, bảo học trò rằng:

– Có việc loạn này thì Cao Sài sắp về đây mà Trọng Do thì tất chết mất!

Học trò hỏi:

– Tai sao mà thầy biết ?

Khổng Tử nói:

– Cao Sài biết theo đại nghĩa thì tất toàn thân được, còn Trọng Do hiếu dũng mà khinh sinh, tài nào khỏi chết đuợc!

Nói chưa dứt lời thì quả nhiên thấy Cao Sài chạy về. Thầy trò trông thấy nhau, nửa bi ai nửa mừng rỡ. Bỗng có sứ giả nước Vệ đến, nói với Khổng Tử rằng:

– Chúa công tôi mới lập, mến tiếng phu tử, nhân có món ăn ngon này, sai tôi đem dâng.

Khổng Tử nhận lấy rồi mở ra xem thì thấy một lọ thịt ướp, liền sai đậy lại mà bảo sứ giả rằng:

– Đây là thịt ướp của học trò ta là Trọng Do, có phải không ?

Sứ giả kinh sợ mà nói rằng:

– Phải! nhưng tại sao phu tử lại biết ?

Khổng Tử nói:

– Nếu không phải vua Vệ thì khi nào lại ban cho thế này!

Khổng Tử sai học trò đem chôn, rồi khóc mà than rằng:

– Ta vẫn thường lo cho Trọng Do bất đắc kỳ tử, nay quả nhiên như thế.

Sứ giả cáo từ xin về. Chưa được bao lâu thì Khổng Tử cũg bị bệnh rồi mất. Năm ấy ngài bảy mươi ba tuổi. Bấy giờ là ngày kỷ sửu, tháng tư, mùa hạ, năm thứ 41 đời Chu Cảnh vương. Học trò đưa linh cữu ngài ra an táng tại Khúc Phụ, nấm mộ rộng những một khoảnh đất, các cây cối ở đấy, chim chóc không dám đến đậu. Các triều vẫn phong ngài là “đại thành chí thánh văn tuyên vương”, nay lại đổi làm “đại thành chí thánh tiên sư”. Thiên hạ đều lập văn miếu để thờ, mỗi năm hai lần cúng tế. Con cháu Khổng Tử nối đời được phong là Diễn Thánh công.

Lại nói chuyện Vệ Trang công (Khoái Qúi) nghi Khổng Khôi là vây cánh của Vệ Xuất Công (Triếp), mới cho Khổng Khôi uống rượu say rồi đuổi đi nước khác. Khổng Khôi chạy sang nước Tống. Vệ Trang công thấy kho tàng trống không cả, mới gọi Hồn Lương Phu vào mà thương nghị rằng:

– Nhà ngươi có kế gì lấy lại được các đồ bảo khí không ?

Hồn Lương Phu mật tâu rằng:

– Vong quân bây giờ cũng là con chúa công, sao chúa công không triệu về.

Chương 83: Diệp Công khởi binh đánh Vu Thắng – Câu Tiễn báo thù giết Phù Sai

Vệ Thành công thấy bao nhiêu bảo khí ở trong kho tàng đều bị Vệ Xuất công lấy đem đi cả, mới bàn mưu với Hồn Lương Phu. Hồn Lương Phu nói:

– Vong quân bây giờ cũng là con chúa công, sao chúa công không triệu về ? Hễ vong quân về thì lấy được các đồ bảo khí.

Có đứa tiểu nội thị nghe đượcc câu ấy, ra nói riêng với thế tử Tật. Thế tử Tật sai mấy người tráng sĩ đem một con lợn đực đi theo mà lẻn vào trong cung, hiếp Vệ Trang công phải uống máu ăn thề, cấm không được triệu vong quân về và bắt phải giết Hồn Lương Phu. Vệ Trang công nói:

– Việc không triệu Triếp về thì dễ lắm, còn Hồn Lương Phu thì khi trước ta có thề vớ hắn, tha cho ba tội chết, biết làm thế nào ?

Thế tử Tật nói:

– Vậy thì đợi khi hắn có bốn tội sẽ giết!

Vệ Trang công thụân cho. Chưa được bao lâu, Vệ Trang công nhân làm cái trướng da hổ, triệu các quan đại phu vào để ăn mừng. Hồn Lương Phu mặc áo tía, ngoài khoác áo lông chồn mà đến. Khi ngồi ăn lại không cởi bỏ thanh kiếm. Thế tử Tật sai lực sĩ lôi Hồn Lương Phu ra chém. Hồn Lương Phu nói:

– Tôi có tội gì đâu!

Thế tử Tật kể tội rằng:

– Bề tôi vào yết kiến vua, phải có y phục nhất định; khi ăn phải cởi bỏ kiếm. Thế mà nhà ngươi dám mặc áo tía, đó là một tội; dám khóac áo lông chồn, đó là hai tội; không cởi bỏ kiếm, đó là ba tội!

Hồn Lương Phu kêu rằng:

– Chúa công đã có ước với tôi tha cho ba tội chết!

Thế tử Tật nói:

– Vong quân là con mà chống cự với cha, thế là đại nghịch, bất hiếu, sao nhà ngươi muốn triệu về, có phải là bốn tội đó không ?

Hồn Lương Phu không trả lời được nữa cúi đầu chịu chết chém. Mấy hôm sau, Vệ Trang công nằm mộng thấy một con ma xõa tóc kêu rằng:

– Ta đây là Hồn Lương Phu, đã kêu với trời rằng ta không có tội!

Vệ Trang công sai Tư Di bói xem tốt xấu thế nào, Tư Di nói:

– Không hại chi cả!

Khi đã báo cáo từ lui ra, Tư Di nói chuyện với người khác rằng:

– Hồn oan đã báo thù như vậy là cái điềm thân chết nước loạn!

Tư Di liền bỏ trốn sang nước Tống. Vệ Trang công lên làm vua đã được hai năm, không sang triều cống nước Tấn. Quan thượng khanh nước Tấn là Triệu Uởng đem quân đánh Vệ. Nước Vệ đuổi Vệ Trag công. Vệ Trang công chạy sang nước Nhung, bị người nước Nhung giết chết, lại giết cả thế tử Tật.

Người nước Vệ lập công tử Ban Sư lên nối ngôi. Trần Hằng nước Tề đem quân cứu Vệ bắt Ban Sư, lập công tử Khởi (thứ đệ của Khóai Qúi). Quan đại phu nước Vệ là Thạch Phổ đuổi công tử Khởi, lại đón Vệ Xuất công về làm vua. Vệ Xuất công về, lại đuổi Thạch Phổ. Các quan đại phu không bằng lòng lại đuổi Vệ Xuất công. Vệ Xuất công chạy sang nước Việt. Người nước Vệ lập công tử Mạc cũng là thứ đệ của Vệ Xuất công, tức là Vệ Điệu công. Từ bấy giờ nước Vệ vẫn thần phục nước Tấn, thế nước mỗi ngày một suy yếu.

Lại nói chuyện Bạch công Thắng (công tử Thắng được phong là Bạch công, mới lấy Bạch làm họ) từ khi về nước Sở, nghĩ đén cái thù người nước Trịnh giết cha, vẫn muốn báo lại, chỉ vì Ngũ Viên là ân nhân của Bạch công Thắng, mà Ngũ Viên khi trước đã cứu Trịnh, vả lại Trịnh thần phục Sở Chiêu vương, cũng không có điều gì thất lễ, cho nên Bạch công Thắng nhịn không nói ra. Khi Sở Chiêu vương đã mất rồi, quan lệnh doãn là công tử Thân và quan tư mã là công tử Kết lập con nàng Việt nữ là Chương lên nối ngôi, tức là Sở Huệ vương, Bạch công Thắng tự nghĩ mình là con thế tử Kiến trước, tất thế nào công tử Thân cũng phải triệu mình đến để cùng cầm quyền chính nước Sở, nhưng không thấy công tử Thân triệu, lại không thấy phong thêm tước lộc, thì trong lòng tức giận, đến khi nghe tin Ngũ Viên chết, liền nói:

– Bây giờ tức là lúc ta nên báo thù nước Trịnh!

Bạch công Thắng sai người xin với công tử Thân rằng:

– Nước Trịnh hại cha tôi khi xưa, quan lệnh doãn đã có biết. nếu tôi không báo thù thì còn làm người sao được! quan lệnh doãn thương đến cha tôi là người vô tội thì xin cho một toán quân sang kể tội mà đánh nước Trịnh, tôi xin làm tiền phu, dầu chết cũng không hối hận.

Công tử Thân từ chối rằng:

– Nay tân vương mới lập, trong nước chưa yên, nhà ngươi hãy thư thả.

Bạch công Thắng mượn việc phòng bị nước Ngô, sai kẻ gia thần là Thạch Khất đắp một cái thành và luyện tập quân sĩ. Lại nói với công tử Thân xi đem quân bản bộ của mình đi dánh Trịnh. Công tử Thân thuận cho. Bạch công Thắng chưa kịp đem quân đi thì Triệu Uởng nước Tấn đã đem quân đánh Trịnh. Nước Trịnh sang cầu cứu với nước Sở. Công tử Thân lại đem quân cứu Trịnh. Nước Tấn rút quân về. Công tử Thân cùng với nước Trịnh ăn thề, rồi cùng rút quân. Bạch công Thắng giận lắm, nói:

– Không đánh Trịnh mà lại cứu Trịnh, thế là quan lệnh doãn định lừa ta! ta phải giết quan lệnh doãn trước, rồi sau sẽ đánh Trịnh.

Bạch công Thắng cho triệu một người trong họ là Bạch Thiện ở đất Lê Phong.

Bạch Thiệu nói:

– Theo nhà ngươi mà làm loạn nước thì là bất trung với vua; bội nhà ngươi mà bỏ tình riêng thì là bất nhân với người trong họ.

Nghĩ như vậy, Bạch Thiện bỏ chức quan về làm vườn ruộng, cho đến khi chết. Người nước Sở gọi tên cái vườn của Bạch Thiện ở là “Bạch Thiện tướng quân được pho”. Bạch công Thắng nghe tin Bạch Thiện không đến, nổi giận mà nói rằng:

– Không có Bạch Thiện thì dễ thường ta không giết nổi lệnh doãn hay sao!

Bạch công Thắng nói xong, liền gọi Thạch Khất đến mà bảo rằng:

– Đánh quan lệnh doãn và quan tư mã, dùng độ năm trăm quân mỗi người có nổi không ?

Thạch Khất nói:

– Chưa đủ! ở Thị Nam có kẻ dũng sĩ tên gọi Hùng Nghi Liêu, nếu được người ấy thì khỏe bằng năm trăm người.

Bạch công Thắng liền cùng với Thạch Khất đi sang Thị Nam vào yết kiến Hùng Nghi Liêu.

Hùng Nghi Liêu kinh sợ mà nói rằng:

– Vương tôn là bậc qúi nhân, chẳng hay tới đây có việc gì ?

Bạch công Thắng nói:

– Ta có một việc, muốn bàn với nhà ngươi

Nói xong, liền bảo cho biết việc định giết công tử Thân. Hùng Nghi Liêu lắc đầu mà nói rằng:

– Quan lệnh doãn có công với nước mà không thù gì với tôi cả, tôi không dám làm việc ấy.

Bạch công Thắng nổi giận, tuốt gươm trỏ vào Hùng Nghi Liêu mà bảo rằng:

– Nếu nhà ngươi không theo thì ta giết nhà ngươi trước!

Hùng Nghi Liêu vẫn cứ điềm nhiên, thong dong mà bảo rằng:

– Ngài định giết tôi, khác nào như giết con kiến, can gì phải nổi giận!

Bạch công Thắng vứt thanh kiếm xuống đất mà khen rằng:

– Nhà ngươi thật là dũng sĩ, ta thử đó mà thôi!

Bạch công Thắng mời Hùng Nghi Liêu lên xe rồi đem về, lấy lễ thượng tân mà đãi. Hùng Nghi Liêu cảm khích, mới bằng lòng theo Bạch công Thắng. Khi vua Ngô là Phù Sai hội chư hầu ở Hòang Trì, nước Sở sợ nước Ngô mạnh, truyền cho biên giới phải phòng giữ nghiêm mật. Bạch công Thắng nói thác là quân Ngô định lẻn đánh nước Sở, rồi lại đem quân cướp bờ cõi nước Ngô, có lấy được ít đồ khí giới, liền khoe khoang mà nói dối thắng to lắm, xin đem những đồ khí giới bắt được, thân hành về dâng vua Sở, để dương uy cho nước Sở. Công tử Thân không biết là kế, tức thì thuận cho. Bạch công Thắng đem binh khí và áo giáp của mình, đóng làm hơn một trăm xe, nói là đồ lấy được của quân Ngô, sai một nghìn tráng sĩ đưa về triều để dâng nộp.

Sở Huệ vương đang ngồi ở trên điện. Công tử Thân và công tử Kết đứng hầu hai bên. Bạch công Thắng vào yết kiến. Sở Huệ vương trông thấy ở thềm có hai viên tướng quân mình mặc áo giáp, mới hỏi là ai. Bạch công Thắng nói:

– Đó là hai viên bộ hạ của tôi, tên gọi là Thạch Khất và Hùng Nghi Liêu, có công đánh Ngô đó!

Nói xong, liền giơ tay vẫy hai người. Hai người toan bước lên thềm, công tử Kết mắng rằng:

– Đại vương ra đang ngự trên điện, biên thần chỉ cho lạy ở dưới thềm, không được phép lên.

Thạch Khất và Hùng Nghi Liêu cứ rảo bước mà tiến lên. Công tử Kết sai thị vệ ngăn lại. Hùng Nghi Liêu gạt mạnh một cái, các thị vệ ngã lăn cả, rồi hai người cứ việc tiến. Thạch Khất rút gươm đánh công tử Thân. Hùng Nghi Liêu rút gươm đánh công tử Kết. Bạch công Thắng quát to lên mà bảo tráng sĩ rằng:

– Sao các ngươi không tiến cả lên ?

Một nghìn tráng sĩ đều cầm binh khí tiến vào. Bạch công Thắng giữ chặt lấy Sở vương, không cho cựa cạy. Thạch Khất trói công tử Thân lại. Triều thần sợ khiếp đảm. Chỉ có công tử Kết vốn là người có dũng lực, rút ngay được chiếc kích ở trên điện, giao chiến với Hùng Nghi Liêu. Hùng Nghi Liêu bỏ thanh gươm xuống, rồi cướp lấy chiếc kích của công tử Kết. Công tử Kết nhặt lấy thanh gươm rồi chém vào vai bên tả Hùng Nghi Liêu. Hùng Nghi Liêu cũng đâm trúng vào bụng công tử Kết. Hai người hăng quá, cùng chết ở nơi điện đình. Công tử Thân bảo Bạch công Thắng rằng:

– Mày sang ăn nhờ nước Ngô, ta nghĩ tình cốt nhục, triệu mày về nước, phong làm tước công, nào ta có phụ bạc gì với mày mà mày làm phản ?

Bạch công Thắng nói:

– Nước Trịnh giết cha ta. Mày cùng nước Trịnh giảng hoà thì mày tức là nước Trịnh. Ta vì cha ta báo thù, chứ ta có nghĩ gì đến tình riêng!

Công tử Thắng than rằng:

– Tiếc thay! ta không nghe lời Thẩm Chư Lương ngày trước.

Bạch công Thắng chém đầu công tử Thân, rồi phơi thây ở trong triều. Thạch Khất nói:

– Nếu không giết vua đi thì việc không xong được.

Bạch công Thắng nói:

– Đứa nhụ tử ấy không có tội gì, thôi thì bỏ đi là xong.

Bạch công Thắng truyền giam Sở vương ở Cao Phủ, và muốn lập vương tử Khải (con Sở Bình vương) lên làm vua. Vương tử Khải cố ý xin từ chối. Bạch công Thắng giết chết. Thạch Khất lại khuyên Bạch công Thắng lên làm vua. Bạch công Thắng nói:

– Các huyện công còn nhiề, ta nên triệu cả đến

Bạch công Thắng đóng quân ở nhà thái miếu. Quan đại phu là Quản Tu (dòng dõi Quản Trọng, trốn sang nước Sở) đem quân đánh Bạch công Thắng. Đánh nhau trong ba ngày, quân Quản Tu thua, Quản Tu bị giết. Ngũ Công Dương mật sai người đào chân tường Cao Phủ làm một cái huyệt nhỏ, đang đêm lẻn vào, đem Sở Huệ vương ra, trốn ở trong cung Sở Chiêu vương phu nhân (tức là Việt nữ). Diệp công là Thẩm Chư Lương nghe tin, đem quân đất Diệp về Sở. Mới về đến ngoài cõi, đã thấy dân nước Sở kéo nhau ra đón. Ai trông thấy Diệp công chưa đội mũ trụ, mặc áo giáp, đều ngạc nhiên mà nói rằng:

– Sao ngài không đội mũ trụ ? người trong nước mong ngài đến, khác nào như con đỏ mong cha mẹ, vạn nhất mà mũi tên của quân giặc phạm tới ngài, thì chẳng hóa phụ lòng người trong nước lắm sao!

Diệp công liền mặc áo giáp, đội mũ trụ mà đi. Đến gần đô thành, lại gặp một toán dân chúng ra đón, trông thấy Diệp công đội mũ trụ, lại ngạc nhiên mà nói rằng:

– Sao ngài lại đội mũ trụ ? người trong nước mong ngài đến, khác nào như năm mất mùa mà mong thóc gạo, được trông thấy mặt ngài thì mừng như sống lại. Dầu kẻ già, người trẻ, ai cũng liều chết mà giúp ngài. Cớ sao ngài lại đội mũ trụ để che kín mặt đi, khiến cho người ta có bụng hồ nghi mà không cố sức!

Diệp công liền bỏ mũ trụ đi. Biết lòng dân về với mình. Diệp công cắm cờ đại bái trên xe. Châm Doãn Cố thấy Bạch công Thắng cho người triệu mình, toan đem tư thuộc vào thành, sau trông thấy lá cờ đại bái có đề chữ “Diệp”, liền theo Diệp công. Người nước Sở trông thấy Diệp công đến, mở toang cửa thành ra để đón. Diệp công đem quân đánh Bạch công Thắng ở nhà thái miếu. Thạch Khất bị thua, vực Bạch công Thắng lên xe, rồi trốn sang Long Sơn, định chạy sang nước khác. Diệp công đem quân đuổi theo. Bạch công Thắng thắt cổ mà chết. Thạch Khất đem chôn ở phía sau núi. Diệp công đem quân đến, bắt sống được Thạch Khất, hỏi rằng:

– Bạch công Thắng ở đâu ?

Thạch Khất nói:

– Đã tự tử rồi!

Diệp công lại hỏi:

– Xác chôn ở đâu ?

Thạch Khất nhất định không chịu nói ra. Diệp công truyền đem một cái vạc nước đun sôi để ở trước mặt Thạch Khất mà bảo rằng:

– Nếu nhà ngươi không chịu nói ta sẽ bỏ vào vạc.

Thạch Khất cởi ngay áo ra rồi cười mà bảo rằng:

– Việc thành thì được làm quan to, việc chẳng thành thì sẽ bị bỏ vạc, đó là lẽ thường! khi nào ta lại chịu bán cái xác người chết để cầu thóat nạn!

Thạch Khất nói xong, liền nhảy vào trong vạc, thân thể nát nhừ, thành ra Diệp công không thể tìm ra xác Bạch công Thắng. Diệp công lại đón Sở Huệ vương về làm vua. Bấy giờ nước Trần nhân thấy nước Sở mất mùa, đem quân sang lấn cõi. Diệp công tâu với Sở Huệ vương rồi đem quân diệt nước Trần. Diệp công lại cho con công tử Thân là Ninh nối chức lệnh doãn, cho con công tử Kết là Khoan nối chức tư mã còn mình thì cáo về đất Diệp. Nước Sở đã nguy mà từ đó lại được yên, bấy giờ là năm thứ 42 đời Chu Kính vương.

Năm ấy, vua Việt là Câu Tiễn cho người do thám, biết Phù Sai từ khi quân Ngô lui rồi, chỉ say mê tửu sắc, chẳng thiết gì đến triều chính, vả lại mấy năm mất mùa luôn, lòng dân ta oán, Câu Tiễn liền cử đại binh sang đánh Ngô. Quân Việt vừa ra đến cõi, Câu Tiễn trông thấy ở trên đường cái có một con ễnh ương lớn trợn mắt phình bụng, ra ý tức giận, Câu Tiễn đang ngồi xe, vịn vào cái ngáng xe mà đứng dậy để tỏ lòng kính.

Mọi người chung quanh đều hỏi:

– Đại vương thấy gì mà kính như vậy ?

Câu Tiễn nói:

– Ta trông thấy con ễnh ương tức giận, khác nào như quân sĩ đang hăng trong khi đánh giặc, cho nên ta kính.

Quân sĩ đều bảo nhau rằng;

– Con ễnh ương tức giận mà đại vương còn có lòng kính. Chúng ta cố công luyện tập trong mấy năm nay lại không bằng con ễnh ương hay sao ?

Bấy giờ quân sĩ đều khuyên bảo nhau, liều chết để đánh giặc. Người trong nước tiễn đưa con em đi tòng chinh, đều khóc mà từ giã rằng:

– Chuyến này đi mà không diệt được Ngô thì chớ về nước mà gặp nhau nữa.

Câu Tiễn lại hạ lệnh cho các quân sĩ rằng:

– Ai mà hai cha con cùng ở lính thì cho cha về; hai anh em cùng ở lính thì cho anh về; có cha mẹ mà không anh em thì cho về để nuôi cha me; có tật bệnh không thể đi lính được thì cũng chu cấp thuốc men lương thực cho.

Quân sĩ cảm ơn ấy, đều reo hò mừng rỡ. Khi đi đến bờ sông, chém kẻ có tội, để giữ quân pháp, hành quân rất là nghiêm túc. Vua Ngô là Phù Sai nghe tin quân Việt lại đến, cũng đem hết quân ra bờ sông để đối địch. Quân Việt đóng đồn ở bờ sông phía nam, quân Ngô đóng đồn ở bờ sông phía bắc. Câu Tiễn chia quân ra làm hai đạo: Phạm Lãi coi hữu quân. Văn Chủng coi tả quân. Đội “quân tử” sáu nghìn người theo Câu Tiễn đi giữa. Hai bên định đến sáng hôm sau thì cùng nhau giao chiến ở giữa dòng sông. Tối hôm trước, Câu Tiễn truyền cho trung quân im lặng theo dòng sông mà lên trước năm dặm để đợi quân Ngô, dặn đến nửa đêm thì nổi hiệu trống mà tiến. Lại truyền cho hữu quân im lặng theo dòng sông lên trước mười dặm đợi khi tả quân tiếp chiến thì đổ ra mà đánh, đều dùng trống lớn để vang động khắp gần xa.

Đến nửa đêm quân Ngô bỗng nghe tiếng trống rầm trời, biết là quân Việt đến đánh lén, vội vàng đốt đuốc lên soi, chưa trông rõ gì cả; lại nghe có tiếng trống ở phía xa nổi lên, quân Việt hai mặt vây kín quân Ngô lại. Phù Sai kinh sợ, vội vàng chia quân ra để đối địch, chẳng ngờ Câu Tiễn đem sáu nghìn quân, nhân khi trời tối, lẻn vào trong trận quân Ngô. Bấy giờ trời mới sáng, quân Ngô trông tháy trước sau tả hữu chỗ nào cũng là quân Việt, biết mình không thể địch nổi, vội vàng bỏ chạy. Câu Tiễn đem quân đuổi theo. Đến đất Lập Trạch, thì đuổi kịp lại đánh nhau một trận nữa. Quân Ngô lại thua. Quân Ngô đánh luôn ba trận, đều thua cả ba. Tướng nước Ngô là bọn Tào Cô và Tư Môn Sào đều chết trận cả. Phù Sai chạy thẳng về đô thành, đóng chặt cửa lại. Câu Tiễn theo con đường Hoàng Sơn để tiến quân, lại đắp một cái thành ở ngoài cửa Tư Môn, gọi là Việt thành, muốn để làm cho nước Ngô phải khốn quẫn.

Câu Tiễn vây Ngô lâu ngày, người nước Ngô khốn quẫn quá. Bá Hi cáo ốm không dám ra. Phù Sai bèn sai Vương Tôn Lạc trần vai áo, kéo lết đầu gối mà tiến sang tâu với Câu Tiễn rằng:

– Kẻ bề tôi cô độc là Phù Sai ngày trước đắc tội ở Cối Kê, nhưng không dám trái mệnh, được cùng với đại vương giảng hoà; nay đại vương cất quân sang đánh cô thần, kẻ bề tôi cô độc cũng mong đại vương nghĩ đến việc Cối Kê trước mà xá tội cho.

Câu Tiễn có ý không nỡ, đã toan cho hoà. Phạm Lãi nói rằng:

– Đại vương ngày đêm lo nghĩ, mưu tín trong hai mươi năm, nay sắp thành công mà lại bỏ đi là nghĩa làm sao ?

Câu Tiễn bèn không cho hoà. Sứ giả nước Ngô đi lại bảy lượt mà Văn Chủng và Phạm Lãi nhất định không nghe, lại nổi hiệu trống đánh thành. Người nước Ngô không còn sức mà đánh nữa. Phạm Lãi và Văn Chủng bàn nhau muốn phá cửa Tư Môn mà vào. Đêm hôm ấy, mọi ngừơi bỗng thấy trên cửa thành có treo cái đầu Ngũ Viên, mặt to bằng bánh xe, mắt sáng như chớ, râu và tóc đứng dựng cả lên, sáng rực trong mười dặm. Tướng sĩ nước Việt, ai cũng sợ hãi, phải tạm đóng quân lại. Đến nửa đêm hôm ấy, bỗng có mưa to gió lớn, sấm ran chớp giật, đá bay cát múa, nhanh hơn tên nỏ. Quân Việt gặp phải chẳng chết thì cũng bị thương, dây chão đức hết, thuyền không kết liền với nhau được. Phạm Lãi và Văn Chủng lo sợ, trong khi đang mưa, trần vai áo trông lên cửa thành sụp lạy mà tạ tội. Được một lúc thì gío mưa im lặng. Phạm Lãi và Văn Chủng đang ngồi ngủ gà để đợi trời sáng bỗng chiêm bao thấy Ngũ Viên ngồi trên một cái xe thắng con ngựa trắng đi đến, mũ áo chỉnh tề cũng như lúc sống, bảo Phạm Lãi và Văn Chủng rằng:

– Khi trước đã biết quân Việt thế nào cũng kéo đến, có xin treo đầu ta ở cửa đông, để được mắt nom thấy quân Việt vào, chẳng ngờ vua Ngô đem treo đầu ta ở cửa nam. Lòng trung của ta chưa tuyệt, không nỡ khiến cho bọn ngươi chui qua đầu ta mà vào, vậy mới nổi cơn mưa gió để làm cho quân Việt phải lui. Nhưng lòng trời đã định cho nước Việt chiếm lấy nước Ngô thì ta cũng không thể nào ngăn cấm được, bọn ngươi muốn vào thì đi theo phía cửa đông, ta sẽ mở đường cho.

Hai người cùng chiêm bao như nhau, liền nói với Câu Tiễn. Câu Tiễn sai người khai một cái kênh từ phía nam qua phía đông, khi khai đến cửa Xa Môn và cửa Tương Môn thì bỗn thấy nước ở Thái Hồ từ cửa Tư Môn chảy vào, làn sóng dữ dội, làm thành một cái vũng lớn, có nhiều giống cá chuyên, cá phù theo nước kéo vào. Phạm Lãi nói:

– Ấy là Ngũ Viên mở đường cho quân ta đi đó!

Phạm Lãi nói xong, tức khắc kéo quân vào thành. Phù Sai nghe tin quân Việt vào thành, Bá Hi đã xin hàng, liền cùng với Vương tôn Lạc và ba con chạy sang Dương Sơn, đi suốt ngày suốt đêm, bụng đói miệng khát, hai mắt hoa mờ. Các người chạy theo bức được mấy bắp ngô sống, đem bóc ra rồi dâng cho Phù Sai. Phù Sai ăn xong, ngồi xuống đất, lấy ta vốc nước ở dưới ngòi mà uống, lại hỏi:

– Mới rồi ta ăn thứ gì thế ?

Các nguời nói:

– Đó là ngô sống.

Phù Sai nói:

– Công tôn Thánh ngày trước bảo ta rồi phải chạy vất vả và không kịp nấu cơm ăn, chính là thế này.

Vương tôn Lạc nói:

– Ăn no rồi thì xin đi. Phía trước có một cái hang sâu, ta hãy tránh vào đấy.

Phù Sai nói:

– Mộng gở đã đúng thì sắp đến ngày chết, ta còn tránh làm gì nữa!

Nói xong, cứ ngồi ở Dương Sơn, bảo Vương tôn Lạc rằng:

– Ngày trước ta giết công tôn Thánh, ném ở trên đỉnh núi này, chẳng hay còn có thiêng hay không ?

Vương tôn Lạc nói:

– Đại vương thử gọi xem!

Phù Sai gọi to lên rằng:

– Công tôn Thánh!

Ba lần gọi mà đều nghe tiếng dội theo. Phù Sai kinh sợ, lại thiên sang ở Vu Toại. Câu Tiễn lại đem một nghìn quân đuổi theo, vây kín mấy dặm. Phù Sai viết một bức thư, buộc đầu mũi tên, bắn vào trong đám quân Việt. Quân Việt nhặt được, đệ trình Phạm Lãi và Văn Chủng. Phạm Lãi và Văn Chủng cùng mở ra xem. Thư rằng:

“Tôi nghe giống thỏ đã hết thì chó săn tất bị mổ; địch quốc đã diệt mưu thần cũng chẳng còn. Sao quan đại phu không giữ lại cho nước Ngô một sợi tơ mành, để làm chỗ thóat cho mình ?”

Văn Chủng cũng viết một bức thư buộc vào mũi tên mà đáp rằng:

– “Nước Ngô có sáu điều lỗi to: giết kẻ trung thần là Ngũ Viên, đó là một điều lỗi to, giết kẻ trung thần là công tôn Thánh, đó là hai điều lỗi to; quan thái tể Bá Hi là người sàm nịnh mà lại tin dùng, đó là ba điều lỗi to; Tề, Tấn vô tội mà đem quân sang đánh, đó là bốn điều lỗi to; Ngô, Việt cùng tiếp giáp nhau mà hay sang xâm nhiễu, đó là năm điều lỗi to; nước Việt giết tiên vương nước Ngô, mà nước Ngô không biết báo thù lại dung túng kẻ địch để gây nên tai vạ, đó là sáu điều lỗi to. Có sáu điều lỗi to ấy thì tài nào mà không mất nước! ngày xưa trời đem nước Việt cho Ngô, Ngô không chịu nhận; nay trời lại đem nước Ngô cho Việt, có đâu Việt lại dám trái mệnh trời!”

Phù Sai tiếp được thư, đọc đến điều lỗi thứ sáu, ứa nước mắt mà nói rằng:

– Ta quên kẻ thù của tiền vương mà không giết Câu Tiễn như thế là bất hiếu, vì vậy mà trời không tựa nước Ngô nữa!

Vương tôn Lạc nói:

– Tôi xin sang yết kiến vua Việt một lần nữa để cố kêu lại.

Phù Sai nói:

– Ta cũng không phục lại nước Ngô như cũ nữa! nếu vua Việt cho nước Ngô làm một nước phụ thuộc nhỏ để đời đời thần phục nước Việt thì ta cũng đành lòng.

Vương tôn Lạc sang đến quân Việt. Phạm Lãi và Văn Chủng không tiếp, CÂu Tiễn trông thấy sứ giả nước Ngô khóc lóc mà về, liền động lòn thương, sai người bảo Phù Sai rằng:

– Ta nghĩ cái tình nhà vua ngày trước xin để nhà vua ở đất Dũng Đông, cấp cho năm trăm nóc nhà để trọn đời nhà vua.

Phù Sai sụt sùi mà đáp rằng:

– Đại vương thương tình mà xá cho Ngô thì Ngô cũng tức là một nơi ngọai phụ của đại vương đó. Nếu phá xã tăc, bỏ tôn miếu thì tôi lấy năm trăm nóc nhà làm gì. Tôi nay già rồi, không thể theo sau hàng bách tính, chỉ còn chết mà thôi!

Sứ giả nước Việt về rồi, Phù Sai cũng vẫn chưa chịu tự tử.

Câu Tiễn bảo Phạm Lãi và Văn Chủng rằng:

– Sao hai ngươi không bắt Phù Sai mà giết đi cho rồi ?

Phạm Lãi và Văn Chủng nói:

– Phù Sai cũng là một ông vua, chúng tôi không dám giết, xin đại vương phụng mệnh trời mà làm, chớ nên để chậm.

Câu Tiễn liền chống thanh kiếm “Bộ quang” đứng ở trước quân, sai người bảo Phù Sai rằng:

– Ở đời, chẳng có ông vua nào sống mãi, rút cục cũng một chết là xong, việc gì phải đợi quân ta kề gươm lên cổ ?

Phù Sai thở dài mấy tiếng, ngảnh trông bốn phía khóc mà than rằng:

– Ta giết trung thần là Ngũ Viên và Công tôn Thánh, nay ta phải tự tử, cũng là muộn lắm rồi!

Phù Sai lại bảo các người chung quanh rằng:

– Giả sử chết mà có biết thì ta còn mặt mũi nào trông thấy Ngũ Viên và công tôn Thanh ở dưới suối vàng! âu là các ngươi lấy ba bức lụa mà phủ mặt cho ta!

Nói xong, rút gươm đâm cổ mà chết. Vương tôn Lạc cởi áo để phủ mặt cho Phù Sai rồi cũng lấy dây lưng thắt cổ ở bên cạnh. Câu Tiễn truyề theo lễ vua chư hầu, chôn Phù Sai ở Dương Sơn, lại sai quân sĩ mỗi người một sọt đất mà đắp vào, chỉ trong một lúc thành ra nấm mồ lớn. Còn ba con Phù Sai, thì đem đày ở núi Long Vi. Câu Tiễn vào thành Cô Tô, ngự ở cung vua Ngô, triều thần vào lạy mừng. Quan thái tể là Bá Hi cũng ở trong hàng ấy, cậy có cái ơn giúp đỡ Câu Tiễn ngày trước, ra vẻ đắc ý. Câu Tiễn bảo Bá Hi rằng:

– Nhà ngươi là quan thái tể nước Ngô, ta đây không dám xem nhà ngươi là bề tôi. Vua nhà ngươi ở Dương Sơn, sao nhà ngươi không đi theo ?

Bá Hi thẹn mà lui ra. Câu Tiễn sai lực sĩ bắt mà giết đi, lại giết cả gia tộc mà bảo rằng:

– Thế là ta báo thù cho Ngũ Viên đó!

Câu Tiễn phủ dụ dân Ngô đem quân qua sông Giang, sông Hoài cùng với Tề, Tấn, Tống, Lỗ và chư hầu hội ở Thư Châu (đất nước Tề), lại sai người đem lễ vật vào cống thiên tử nhà Chu. Bấy giờ Chu Kính vương đã mất, thái tử Nhân lên nối ngôi, tức là Chu Nguyên vương. Chu Nguyên vương đem cổn miệng, khuê bích, đồng cung, hồ thỉ ban cho Câu Tiễn, cho mệnh làm bá chủ ở phương Đông. Câu Tiễn vâng mệnh. Chư hầu đều sai sứ đến mừng.

Bấy giờ nước Sở đã diệt nước Trần, cũng sợ binh uy nước Việt, sai sứ đến mừng. Câu Tiễn cắt đất ở trên sông Hoài mà cấp cho nước Lỗ; những đất mà nước Ngô chiếm được của nước Tống khi trước, lại đem trả Tống, chư hầu đều mến phục, tôn Câu Tiễn làm bá chủ. Câu Tiễn về đến nước Ngô, sai người lập Hạ Đài ở đất Cối Kê, để rửa nhục bị thua khi trước; lại bày tiệc ở trên Văn đài nước Ngô cùng với các quan uống ruợu, sai nhạc công tấu khúc “phạt Ngô”. Nhạc công gảy đàn cầm mà hát rằng:

“Vua ta thần vũ chứa binh uy

Muốn trừ vô đạo, hỏi nhật kỳ.

Phạm Lãi, Văn Chủng liền tâu quì:

– Ngô giết trung thần Ngũ Tử Tư,

Nay chẳng đánh Ngô còn đợi chi ?

Mưu thần phụng mệnh ngay tức thì

Mở mang nghìn dặm một trận đi.

Sự nghiệp lừng lẫy nên nhớ ghi!

Thưởng phạt xứng đáng chẳng tiếc gì.

Vua tôi vui chén hổ mấy khi! “

Các quan trên đài, đều tươi cười cả, chỉ có Câu Tiễn nét mặt không được vui. Phạm Lãi thấy vậy, phàn nàn một mình rằng:

– Đại vương không muốn nói đến công kẻ thần hạ, thế là mối nghi kỵ đã trông thấy rồi!

Ngày hôm sau Phạm Lãi vào cáo từ với Câu Tiễn rằng:

– Tôi nghe vua bị nhục thì bề tôi nên chết. Khi trước đại vương bị nhục ở Cối Kê mà tôi không chết là định ẩn nhẫn để báo thù nước Ngô. Nay nước Ngô đã diệt rồi, xin đại vương gia ân cho cái thân già yếu này đuợc về nghỉ.

Câu Tiễn ứa nước mắt khóc, ướt đầm cả áo mà bảo rằng:

– Ta nhờ sức nhà ngươi mà được như thế này, đang nghĩ để đền công lại, cớ sao nhà ngươi lai nỡ bỏ ta mà đi ? nhà ngươi ở lại thì ta giao quyền chính cho, nếu đi thì vợ con nhà ngươi, ta sẽ giết hết.

Phạm Lãi nói:

– Giết tôi thì hơn, chứ vợ con tôi có tội gì! thôi thì sống chết cũng tuỳ ý đại vương, tôi chẳng nghĩ chi cả!

Đêm hôm ấy, Phạm Lãi đi một chiếc thuyền nhỏ, ra Tề Nữ môn, qua Tam Giang vào Ngũ Hồ. Ngày hôm sau, Câu Tiễn biến sắc mà bảo Văn Chủng rằng:

– Có thể đuỏi theo mà bắt Phạm Lãi lại được không ?

Văn Chủng nói:

– Mưu trí của Phạm Lãi, quỉ thần cũng khó lòng lường được, ta không nên đuổi theo.

Văn Chủng lui ra. Có người đưa cho Văn Chủng một bức thư, Văn Chủng mở ra xem, tức là bức thư của Phạm Lãi. Thư rằng:

“Vua Ngô có nói: giống thỏ đã hết thì chó săn tất bị mổ, địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn”, ngài không nhớ hay sao ? vua Việt môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công. Cùng ở lúc họan nạn thì được, chứ cùng ở lúc an lạc thì không được, nếu ngài không đi, tất có tai vạ”.

Văn Chủng xem xong, muốn gọi hỏi người đưa thư thì người đưa thư đã đi đâu mất. Văn Chủng có vẻ âu sầu, nhưng vẫn chưa tin lời Phạm Lãi, liền phàn nàn rằng:

– Thiệu Bá (tên tự của Phạm Lãi) xử như thế cũng khí quá!

Mấy hôm sau, Câu Tiễn rút quân về Việt, đem cả Tây Thi về. Câu Tiễn phu nhân mật sai người bắt Tây Thi đem ra bờ sông, buộc viên đá lớn vào, rồi đẩy xuống sông mà bảo rằng:

– Nó là cái vật vong quốc, còn để làm gì!

Người sau không rõ chuyện ấy, ngoa truyền là Phạm Lãi đem Tây Thi đi Ngũ Hồ, mới có hai câu thơ rằng:

“Đem Tây Thi đi là có ý

Sợ còn nghiêng nước hại quân vương!”

Xét ra thì Phạm Lãi đi có một mình, đến vợ con cũng còn bỏ lại, huống chi là Tây Thi, lại có người nói Phạm Lãi mê Tây Thi, mới lập ra cái kế đem đẩy xuống sông, đó cũng là nói lầm. La Ôn có thơ minh oan cho Tây Thi rằng:

“Nước nhà còn mất bởi cơ trời

Sao cứ Tây Thi đổ lỗi hòài ?

Tây tử nếu làm Ngô mất nước

Thì xưa Việt mất bởi tay ai ?”

Câu Tiễn nghĩ cái công của Phạm Lãi, đem một trăm dặm đất phong cho vợ con Phạm Lãi. Lại sai thợ đúc một pho tượng Phạm Lãi bằng vàng để ở bên cạnh, trông giống Phạm Lãi như đúc. Phạm Lãi từ Ngũ Hồ đi ra bể, bỗng một hôm về đem cả vợ con đi, sang ở nước Tề, đổi tên là Chi Di Tử Bì, làm quan thượng khanh. Chưa được bao lâu lại từ chức về ẩn ở Đào Sơn, chăn nuôi các giống súc vật, sinh sản được lợi kể hàng nghìn nén vàng, tự xưng là Đào Chu công. Sách “Trí phú kỳ thư” tức là của Đào Chu công làm ra.

Câu Tiễn không ban thưởng cái công diệt Ngô, lại không chia cho các quan một thước đất nào cả, lại không muốn thân cận với công thần. Kế Nghê giả cách điên dại, rồi xin từ chức. Bọn Duệ Dung cũng nhiều người cáo lão. Văn Chủng nhớ lời nói của Phạm Lãi, cáo ôm không vào triều. Cận thần của Câu Tiễn, có kẻ không bằng lòng với Văn Chủng, liền nói dèm rằng:

– Văn Chủng tự nghĩ rằng công to mà thưởng ít, có ý oán vọng, vậy nên không vào triều.

Câu Tiễn vốn biết tài Văn Chủng, nhưng nghĩ thầm rằng Ngô đã diệt rồi, cũng chẳng cần đến tài của y nữa, chỉ sợ khi y làm loạn, chẳng ai trị nổi. Nhưng muốn trừ đi, lại không có cớ gì.

Bấy giờ Lỗ Ai công cùng ba nhà (Mạnh, Trọng, Qúi) có hiềm khích với nhau, muốn mượn quân nước Việt trừ bỏ ba nhà, mới giả cách sang chầu nước Việt để mượn quân. Câu Tiễn lo Văn Chủng làm phản, không dám phát binh. Lỗ Ai công chết tại nước Việt. Một hôm, Câu Tiễn đến thăm bệnh Văn Chủng. Văn Chủng làm ra đang ốm nặng, gượng dậy mà nghên tiếp. Câu Tiễn liền cỡi thanh kiếm ra mà ngồi, bảo Văn Chủng rằng:

– Ta nghe người chí sĩ không lo cái thân mình chết, mà lo cái đạo mình không hành được. Nhà ngươi có bảy thuật, ta mới thi hành có ba đã diệt được Ngô; còn thừa bốn thụât, nhà ngươi định dùng làm gì ?

Văn Chủng nói:

– Tôi cũng không biết dùng làm gì được.

Câu Tiễn nói:

– Hay nhà ngươi đem bốn thụât ấy mà mưu hộ cho tiền nhân nước Ngô ở dưới âm phủ, phỏng có nên chăng ?

Câu Tiễn nói xong, lên xe đi về, bỏ lại thanh kiếm ở chỗ ngồi. Văn Chủng cầm lấy xem thì trên vỏ kiếm có hai chữ “Chúc lâu” tức là thanh kiếm của Phù Sai đưa cho Ngũ Viên để tự tử khi trước. Văn Chủng ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Cổ nhân có câu “ơn to không báo”. Ta không nghe lời Thiếu Bá đến nỗi bị giết, chẳng cũng ngu lắm ru!

Văn Chủng lại cười mà nói rằng:

– Các nhà bình luận đời sau tất đem ta sánh với Ngũ Viên, thế thì ta còn oán hận gì nữa!

Văn Chủng nói xong, liền cầm kiếm tự tử. Câu Tiễn nghe tin Văn Chung chết, mừng lắm, đem ra chôn ở Ngoạ Long Sơn. Sau người ta gọi núi ấy là Chủng sơn. Chôn chưa được một năm thì nước biển dâng lên, xói núi, cuốn linh cữu xuống bể. Câu Tiễn làm vua được hai mươi bảy năm thì chết, tức là năm thứ 7 đời Chu Nguyên vương, con cháu nối đời xưng bá.

Lại nói chuyện sáu quan khanh nước Tấn, từ khi Phạm thị và Trung hàng thị mất đi rồi, chỉ còn có bốn quan khanh là Trí, Triệu, Hàn, Ngụy mà thôi. Trí thị cùng với Tuân thị và Phạm thị nguyên đầu là họ Tuân cả, vì muốn phân biệt, mới theo lối Trí Oánh, đổi là Trí thị. Bấy giờ Trí Dao cầm quyền chính gọi là Trí Bá. Bốn quan khanh nghe tin họ Điền giết vua chuyên quyền mà chư hầu không ai đánh, đều bàn nhau chiếm đất để làm phong ấp. Phần đất của Tấn Xuất công, lại ít không bằng phần của bốn quan khanh. Tựu trung hãy nói Triệu Giản tử tên là Ưởng, sinh được mấy người con: người con trưởng tên là Bá Lỗ, người con nhỏ nhất tên là Vô Tuất, là con một người thị tỳ. Có người thầy tướng tên gọi Cô Bố, tên tự là Tử Khanh, đi đến nước Tân. Triệu Ưởng sai gọi đến để xem tướng cho các con, Tử KHanh nói:

– Không ai đáng làm tướng quân!

Triệu Ưởng than rầng:

– Nếu vậy thì họ Trịnh ta suy mất!

Tử Khanh nói:

– Lúc tôi đến đây, có gặp một chàng trẻ tuổi đi ở đường mà kẻ theo hầu đều là người trong phủ ngài, ý chừng cậu ấy là con ngài, phải không ?

Triệu Ưởng nói:

– Đấy là đứa con nhỏ của ta, tên gọi Vô Tuất, là con một thị tỳ, không đáng kể đến.

Tử Khanh nói:

– Trời có lòng bỏ thì dẫu qúi cũng hóa tiện, trời có lòng tựa thì dẫu tiện cũng hóa qúi. Cậu ấy có tốt tướng khác với các công tử. Tôi chưa được xem rõ, ngài nên cho gọi đến.

Triệu Uởng sai người gọi Vô Tuất đến. Tử Khanh trông thấy vội vàng đứng dậy vái chào mà nói rằng:

– Thật là một vị tướng quân!

Triệu Uởng cười mà không nói gì cả. Hôm khác, Triệu Uởng lại gọi các con đến để hỏi xem học vấn ra sao. Vô Tuất hỏi đâu nói đấy, lời lẽ phân minh. Triệu Uởng biết là người giỏi, liền bỏ Bá Lỗ mà lập Vô Tuất làm đích tử. Một hôm, Trí Bá giận nước Trịnh không đến triều, muốn cùng Triệu Uởng đánh Trịnh. Gặp khi Triệu Uởng ốm, sai Vô Tuất đi thay. Trí Bá đem rượu đổ cho Vô Tuất uống. Vô Tuất không thể uống được. Trí Bá đang say nổi giận, cầm chém ruợu ném vào mặt Vô Tuất, bị thương chảy máu, tướng sĩ họ Triệu đều giận muốn đánh Trí Bá. Vô Tuất nói:

– Đó là một điều nhỏ, ta nên nhẫn nhục!

Khi Trí Bá rút quân về nước, lại nói là lỗi của Vô Tuất, muốn cho Triệu Uởng bỏ Vô Tuất, nhưng Triệu Uởng không theo. Từ bấy giờ Vô Tuất thành ra có hiềm khích với Trí Bá. Triệu Uởnng ốm nặng, bảo Vô Tuất rằng:

– Ngày khác nước Tấn có loạn, chỉ đất Tấn Dương có thể trông cậy đuợc, con nên nhớ lời.

Nói xong thì mất. Vô Tuất nối nghiệp Triệu Uởng tức là Triệu Tương Tử. Đó là năm thứ 11 đời Chu Định vương (tên là Giới, con Nguyên vương) Bấy giờ Tấn Xuất công giận bốn quan khanh chuyên quyền, mật sai người mượn quân Tề và quân Lỗ về đánh. Điền thị nước Tề cùng ba nhà nước Lỗ lại đem các mưu ấy bảo Trí Bá. Trí Bá giận lắm, cùng với Hàn Khanh tử là Hổ, Ngụy Hoàn Tử là Câu, Triệu Tương Tử là Vô Xuất hợp bốn nhà lại để đánh đuổi Tấn Xuất công. Tấn Xuất công chạy sang nước Tề. Trí bá lập cháu tằng tôn Tấn Chiêu công là Kiên lên nối ngôi, tức là Tấn Ai công. Từ bấy giờ quyền chính nước Tấn đều về tay Trí Bá. Trí Bá bèn có ý muốn chiếm nước Tấn, nên cho triệu các gia thần đến để thương nghị.

Chương 84: Trí Bá tháo nước vào Tấn Dương – Dự Nhượng đánh áo Triệu Tương Tử

Trí Bá tên là Dao, là cháu Trí Vũ Tử (Lịch) con Trí Tuyên Tử (Từ Ngô). Khi trước Từ Ngô muốn lập người con nối nghiệp mới hỏi người trong họ rằng:

– Ta muốn lập Dao, thế nào ?

Trí Quả nói:

– Không bằng lập Tiêu.

Từ Ngô nói:

– Tài trí của Tiêu đều kém Dao, không bằng lập Dao.

Trí Quả nói:

– Dao có năm điều sở trường hơn người, chỉ có một điều sở đoản mà thôi. Râu rậm mà dài hơn ngươi, cưỡi ngựa bắn cung giỏi hơn người, nhiều kỹ nghệ hơn người, cương nghị quả cảm hơn người, trí xảo biện luận hơn người, nhưng mà tham tàn bất nhân, đó là một điều sở đoản. Đem năm điều sở trường đè lấn người ta mà lại thêm một nỗi bất nhân thì còn ai dùng được. Nếu mà lập Dao, họ Trí tất diệt!

Từ Ngô không cho làm phải, mà cứ lập Dao làm đích tử. Trí Quả than rằng:

– Ta không đổi họ khác đi thì e có ngày vạ lây!

Trí Quả liền vào yết kiến quan thái sử, xin đổi họ, xưng là Phụ thị. Khi Từ Ngô mất, Dao nối ngôi, chuyên cầm quyền chính nước Tấn, trong có bọn Trí Khai, Trí Quốc là thân thuộc ngoài có bọn Hi Tì, Dự Nhượng làm tay chân, quyền to thế trọng, có ý cướp ngôi nước Tấn bèn gọi những người tâm phúc vào thương nghị. Mưu sĩ là Hi Tì nói:

– Bốn quan khanh truyền lực bằng nhau, nếu một nhà nào làm trước thì ba nhà nọ tất chống cự lại. Vậy muốn chiếm lấy nước Tấn thì phải trừ bớt cái thế mạnh của ba nhà.

Trí Bá nói:

– Dùng cách gì mà trừ bớt được ?

Hi Tì nói:

– Nay nước Việt đang thịnh, nước Tấn ta mất quyền bá chủ, ngài mượn việc cất quân tranh bá với Việt, rồi giả cách truyền mệnh của vua Tấn, bắt ba nhà (Hắn, Triệu, Ngụy) kia mỗi nhà phải nộp vao công gia một trăm dặm đất, để thu thuế làm quân phí. Ba nhà chịu nộp thì thành ra ta thêm được ba trăm dặm đất, họ Trí ta cường thịnh lên bao nhiêu thì ba nhà kia suy yếu đi bấy nhiêu; nếu không chịu nộp thì bấy giờ ta phụng mệnh vua Tấn, đem quân trừ diệt đi, ấy là cái phép “muốn ăn quả thì bóc vỏ trước” đó!

Trí Bá nói:

– Kế ấy dẫu diệu, nhưng trong ba nhà thì nên trị nhà nào trước ?

Hi Tì nói:

– Họ Trí ta vẫn thân với Hàn, Ngụy mà cùng với Triệu có hiềm khích. Ta nên bảo Hàn và Ngụy trước; Hàn, Ngụy đã theo thì Triệu tất cũng không dám trái mệnh.

Trí Bá liền sai Trí Khai đến yết kiến Hàn Hổ (tức là Hàn Khang Tử). Hàn Hổ mời vào. Trí Khai nói:

– Anh tôi phụng mệnh vua Tấn sắp quân đánh Việt, truyền cho ba quan khanh mỗi nhà phải nộp vào công gia một trăm dặm đất để thu thuế làm quân phí. Anh tôi sai tôi đến nói, xin ngài giao lại bản đồ cho.

Hàn Hổ nói:

– Nhà ngươi hãy về trước, ngày mai ta sẽ trả lời.

Trí Khai lui về, Hàn Hổ họp các gia thần lại mà thương nghị rằng:

– Trí Bá mượn tiếng vua Tấn để trừ bớt thế lực ba nhà, vậy mới xin cắt đất. Ta muốn đem quân trừ thằng giặc ấy trước, các người nghĩ thế nào ?

Mưu sĩ là Đoàn Qui nói:

– Trí Bá tham lam không chán, giả mệnh vua để cắt đất của ta. Nếu ta đánh lại thì tức là chống cự với vua, kẻ kia lại mượn cớ mà trị tội. Chi bằng ta chịu cho hắn, đã được đất của ta thì tất lại đòi cắt đất Triệu, Nguỵ nữa. Triệu, Ngụy không theo, tất sinh sự đánh nhau, bấy giờ ta sẽ ngồi mà xem bên nào thắng và bên nào bại.

Hàn Hổ lấy làm phải, sai Đoàn Qui vẽ một bức địa đồ trăm dặm đất, ngày hôm sau thân hành đem sang dâng Trí Bá. Trí Bá mừng lắm, bày tiệc ở trên Lam Đài để thết Hàm Hổ. Uống rượu được nửa chừng, Trí Bá sai người đem một bức tranh để ở trên ghế cùng với Hàm Hổ cùng xem, tức là bức tranh vẽ Biện Trang Tử nước Lỗ đâm chết ba con hổ. Trên có đề bài tán rằng:

“Ba hổ cắn một dê,

Tài nào khỏi tranh cạnh ?

Đợi xem cuộc đánh xong,

Hẳn có ngày mỏi mệt,

Một tay đâm ba hổ

Biện Trang thật đáng khen!”

Trí Bá nói đùa với Hàn Hổ rằng:

– Tôi thường xét xem sử sách, trong các nước cũng có kẻ cùng tên với ngài, Tề có Cao Hổ, Trịnh có Hãn Hổ, cùng với ngài cả thảy là ba…

Bấy giờ Đoàn Qui đứng ở bên cạnh, bèn nói với Trí Bá rằng:

– Cứ theo trong lễ thì không nên động chạm đến tên huý của nhau. Ngài nói đùa chủ tôi như vậy, chẳng cũng quá lắm ru!

Đoàn Qui vốn người lùn bé, đứng ở bên cạnh Trí Bá, chỉ cao đến dưới vú. Trí Bá lấy ta vỗ vào trán Đoàn Qui mà bảo rằng:

– Trẻ con biết gì mà cũng múa mép! cái miếng thịt dê mà ba con hổ bỏ thừa, tức là mày đó chăng ?

Nói xong, lại vỗ tay cười rầm lên. Đoàn Qui không dám nói lại, đưa mắt nhìn Hàn Hổ, Hàn Hổ giả cách say rượu, nhắm mắt lại mà đáp rằng:

– Trí Bá nói phải lắm!

Nói xong, tức khắc cáo từ lui ra. Trí Quốc nghe nói, liền vào can Trí Bá rằng:

– Ngài đã bỡn cợt Hàn Hổ lại còn khinh bỉ Đoàn Qui, thế tất người ta phải căm thù ta lắm. Nếu ta không phòng bị, chắc có ngày tai vạ.

Trí Bá trợn mắt mà quát to lên rằng:

– Ta không hại ai thì thôi, còn ai hại ta nổi ?

Trí Khai nói:

– Giống ong kiến còn hại được người, huống chi là bọn quân tướng! ngài không phòng bị thì ngày khác hối lại không kịp!

Trí Bá nói:

– Ta sẽ bắt chước Biện Trang Tử, một tay đâm chết ba hổ, lo gì đến những giống ong kiến!

Trí Quốc thở dài mà lui ra. Ngày hôm sau, Trí Bá lại sai Trí Khai sang đòi cắt đất của Ngụy Câu (tức là Ngụy Hoàn Tử). Ngụy Câu toan chống cự lại. Mưu thần là Nhâm Chương nói:

– Hắn đã đòi đất thì ta cứ cho. Kẻ mất đất tất sợ, kẻ được đất tất kiêu. Kẻ kiêu thì tất khinh người, kẻ sợ thì tất phải thân nhau; đem quân tương thân mà đánh kẻ khinh người thì họ Trí còn gì mà không phải mất!

Ngụy Câu khen phải, rồi cũng đem trăm dặm đất nộp cho Trí Bá. Trí Bá sai người anh là Trí Tiêu nói với Triệu Vô Tuất (tức là Triệu Tương Tử) đòi lấy Sài Cao Lang. Triệu Vô Tuất nghĩ đến thù xưa, liền nổi giận mà nói rằng:

– Thổi địa là của đời trước để lại, sao ta dám bỏ. Hàn và Ngụy có đất thì cứ nộp, chứ ta đây không theo lối xu mị ấy.

Trí Tiêu về nói với Trí Bá. Trí Bá sai người ước với Hàn, Ngụy cùng đem quân đánh họ Triệu, hẹn khi diệt đuợc họ Triệu rồi thì bao nhiêu đất của họ Triệu cùng nhau chia ba. Hàn Hổ và Ngụy Câu vừa sợ thế lực của họ Trí, vừa tham thổ địa của họ Triệu, đều đem quân theo Trí Bá. Trung quân là Trí Bá, hữu quân là Hàn Hổ và tả quân là Ngụu Câu cùng kéo nhau sang Triệu phủ định bắt Triệu Vô Tuất. Mưu thần của họ Triệu là Trương Mạnh Đàm bảo Triệu Vô Tuất rằng:

– Quân ta ít không địch nổi, ngài nên mau mau tránh đi.

Triệu Vô Tuất nói:

– Biết đi đâu cho yên được ?

Trương Mạnh Đàm nói:

– Không gì bằng đi ra Tấn Dương. Khi trước Đồng An Vu có lập ra Công cung ở trong thành ấy, lại nhờ có Doãn Đạc đã sửa sang rất kỹ. Dân ở đấy ơn Doãn Đạc vỗ về trong mấy mươi năm, tất cũng một lòng trung ái. Khi tiên quân lâm chung có dặn rằng: “ngày khác nước Tấn có loạn, chỉ có đất Tấn Dương có thể trông cậy được”. Ngài nên đi mau, chớ có chậm trễ.

Triệu Vô Tuất liền cùng với bọn gia thần là bọn Trương Mạnh Đàm, Cao Hách thẳng đường chạy ra Tấn Dương. Trí Bá đem quân Hàn và quân Ngụy đuổi theo. Triệu Vô Tuất có kẻ gia thần tên gọi Nguyên Quá đi chậm lại sau, giữa đường gặp một vị thần nhân, đứng trong đám mây, chỉ trông thấy đầu đội mũ kim quan, mình mặc áo cẩm bào, còn mặt thì mập mờ không được rõ, cầm hai đoạn trúc giao cho Nguyên Quá mà dặn:

– Nhà ngươi đưa hộ cho Triệu Vô Tuất.

Nguyên Quá theo kịp Triệu Vô Tuất, kể những sự trông thấy và đưa nộp hai đoạn trúc. Triệu Vô Tuất bửa hai đoạn trúc ra xem, trong đoạn trúc có hai hàng chữ đỏ rằng:

“Ta bảo cho Triệu Vô Tuất biết: ta đây là Hoắc Sơn thần, phụng mệnh trời đến ngày bính tuất tháng ba này thì cho nhà ngươi diệt được họ Trí”.

Triệu Vô Tuất giấu kín việc ấy, rồi đi sang Tấn Dương. Trăm họ cảm ân đức của Doãn Đạc, kẻ giả người trẻ đều kéo nhau ra đón Triệu Vô Tuất vào thành, đóng ở Công cung, Triệu Vô Tuất thấy lòng dân yêu mến, lại thấy đất Tấn Dương thành quách bền chặt, kho tàng đầy rẫy, trong bụng hơi được yên, liền hiểu dụ cho trăm họ đều lên mặt thành canh giữ. Khi điểm duyệt binh khí, thấy giáo kích đều hư hỏng, tên bắn không được đủ một nghìn mũi, Triệu Vô Tuất có ý không được vui mà bảo Trương Mạnh Đàm rằng:

– Giữ thành thì không gì tốt bằng tên bắn, nay chỉ có mấy trăm mũi tên không đủ phân phát, biết làm thế nào ?

Trương Mạnh Đàm nói:

– Tôi nghe khi trước Đổng An Vu ở Tấn Dương này, đem cỏ địch, cỏ sao và gỗ khổ, gỗ sở ghép lại làm tường nhà Công cung. Sao ngài không phá bức tường ra, để nghiệm xem hư thực thế nào ?

Triệu Vô Tuất sai người phá bức tường ra, quả nhiên toàn là những vật liệu dùng làm tên bắn được. Triệu Vô Tuất nói:

– Tên bắn đã đủ rồi, nhưng lấy đồng đâu mà đúc binh khí ?

Trương Mạnh Đàm nói:

– Khi trước Đổng An Vu lập ra Công cung, bao nhiêu cột đều làm bằng đồng tốt cả, bây giờ ta phá ra mà đúc binh khí thì lo gì thiếu dùng!

Triệu Vô Tuất liền sai phá các cột ra, quả nhiên thấy đều là một thứ đồng thực tốt, liền sai thợ đúc các thứ kiếm, kích, đao, sang, thứ nào cũng sắc bén cả. Ai nấy đều được vững lòng. Triệu Vô Tuất nói:

– Xem thế này thì biết trị nước cần phải có hiền thần! nhờ có Đổng An Vu mà đủ được binh khí, nhờ có Doãn Đạc mà thu được dân tâm, ấy là trời tựa họ Triệu ta đó!

Trí Bá và Hàn, Ngụy đem quân đến, chia làm ba đại binh, đóng liền với nhau, vây kín thành Tấn Dương lai. Dân trong thành Tấn Dương đều kéo nhau đến Công cung để đợi lệnh. Triệu Vô Tuất gọi Trương Mạnh Đàm đến thương nghị. Trương Mạnh Đàm nói:

– Kẻ kia nhiều mà ta ít, đánh vị tất đã được, chi bằng ta dùng cách cố thủ để đợi quân họ có biến. Hàn và Ngụy không thù gì với ta, chẳng qua chỉ sợ thế Trí Bá mà theo. Hai nhà ấy phải cắt đất, cũng không bằng lòng, dẫu theo Trí Bá, nhưng sự đồng tâm thì thật là không có, chỉ trong mấy tháng, tất có ngày nghi kỵ lẫn nhau thôi.

Triệu Vô Tuất nghe lời, phủ dụ trăm họ, rồi bảo nên hợp lực để cố thủ. Quân dân cùng khuyên nhau, dẫu đàn bà trẻ con cũng xin liều chết. Quân giặc đến gần thành, đều cùng nhau giương nỏ ra bắn. Trí Bá cùng Hàn, Ngụy cố vây trong một năm mà không thể phá vỡ được thành Tấn Dương. Trí Bá ngồi một cái xe nhỏ, đi chung quanh thành, khen rằng:

– Cái thành này bền như sắt, phá sao nổi!

Trí Bá đang nghĩ vơ vẩn, thì đi đến một quả núi, trông thấy dưới chân núi ấy có nhiều ngọn suối, nước chảy cuồn cuộn đi về phía đông, liền gọi thổ dân ra hỏi. Thổ dân trả lời rằng:

– Núi này gọi là Long Sơn. Trên núi có nhiều đá lớn như cái bịch, vậy nên gọi là Huyền Bịch sơn. Sông Tấn chảy về phía đông, hợp với sông Phần, núi này tức là chỗ phát nguyên đó.

Trí Bá nói:

– Ở đây cách thành Tấn Dương chừng bao nhiêu dặm ?

Thổ dân nói:

– Từ đây đến cửa tây thành Tấn Dương độ mười dặm đường.

Trí Bá trèo lên núi, trông về sông Tấn; lại đi quanh phía đông bắc thành Tấn Dương, xem xét hồi lâu, rồi mới sực nghĩ ra mà nói rằng:

– Ta nghĩ được kế để phá thành này rồi!

Nói xong, liền về trại, mời Hàn Hổ và Ngụy Câu đến để thương nghị, muốn tháo nước vào thành Tấn Dương. Hàn Hổ nói:

– Sông Tấn chảy về phía đông, làm thế nào khiến cho chảy về phía tây được ?

Trí Bá nói:

– Ta không định tháo nước sông Tấn. Sông Tấn phát nguyên ở Long Sơn, nước chảy như thác; nếu ta đào một cái cừ lớn ở Long Sơn để làm chỗ chứa nước, rồi ngăn nước sông Tấn không cho chảy về Tấn Xuyên, thì thế tất phải chảy vào cái cừ lớn. Nay mai sắp có mưa xuân, nước nguồn lên to, đợi nước nguồn lên, phá đê cho chảy vào thành, như thế thì người trong thành đều hoá ra cá hết!

Hàn Hổ và Ngụy Câu đồng thanh mà khen rằng:

– Kế ấy rất diệu!

Trí Bá nói:

– Nay ta nên chia nhau mỗi người giữ một đường: quân Hàn giữ đường đông, quân Ngụy giữ đường nam, nên ra sức ngày đêm phòng thủ; còn tôi thì đem quân sang đóng tại Long Sơn, giữ hai đường tây và bắc, chuyên đốc suất việc khai cừ đắp đê.

Hàn Hổ và Ngụy Câu vâng mệnh đem quân đi. Trí Bá truyền cho quân sĩ đem thuổng cuốc ra đào một cái cừ ở phía bắc sông Tấn; còn bao nhiêu những ngọn suối ở các nơi chảy xuống, đều đắp chắn ngang; lại đắp hai cái đê cao ở hai bên cừ; phàm những chỗ khe núi nước chảy, đều có đê chắn. Các ngọn suối ấy đầy ứ, không tiết đi đâu được, lại chảy về phía bắc, rót vào cái cừ; bấy giờ đem những tấm sắt, ván gỗ, mà chắn ngang dòng sông, khiến cho nước tích lại đấy mà không tiêu đi được. Một tháng sau, quả nhiên mưa xuân nhiều lắm, nước suối đầy rẫy, cao bằng mặt đê. Trí Bá sai người khơi một phía bắc, cho nước chảy ra, rót vào trong thành Tấn Dương.

Bấy giờ thành Tấn Dương dẫu bị vây, nhưng trăm họ giàu có, không đến nỗi đói rét, vả lại nền móng bền chặt, dẫu có mưa xuân ướt át, nhưng cũng không tổn hại chút nào. Qua mấy hôm sau, bỗng thấy nước chảy vào trong thành, cửa nhà, nếu không xiêu đổ thì cũng ngập lụt, trăm họ đều phải bắc gác lên mà ở. Nhà Công cung dẫu cao, Triệu Vô Tuất cũng không dám ở yên, thường cùng với Trương Mạnh Đàm ngồi cái bè trúc, đi tuần chung quanh thành, nghe tiếng nước chảy ầm ầm; trông ra ngoài thành thấy bát ngát không biết đâu là bờ, chỉ bốn năm thước nữa là ngập đến mặt thành. Triệu Vô Tuất sợ hãi, nhưng còn mừng rằng quân dân trong thành ngày đêm phòng thủ, chưa hề trễ biếng. Trăm họ đều xin liều chết cố giữ, không dám hai lòng.

Triệu Vô Tuất nói:

– Ngày nay mới biết cái công của Doãn Đạc!

Triệu Vô Tuất lại nói riêng với Trương Mạnh Đàm rằng:

– Lòng dân dẫu vững, nhưng thé nước không lui, nay mai nước nguồn còn lên nữa thì người trong thành đều hoá ra cá hết, biết làm thế nào ? Hoắc Sơn thần chẳng qua cũng dối ta mà thôi.

Trương Mạnh Đàm nói:

– Hàn và Ngụy phải nộp đất, chưa chắc đã bằng lòng, ngày nay đem quân theo là sợ thế mà thôi. Đêm hôm nay tôi xin lẻn ra ngoài thành bảo Hàn và Ngụy đánh lại Trí Bá, ta mới có thể thóat nạn được.

Triệu Vô Tuất nói:

– Quân vây nước ngập, dẫu chắp cánh cũng khó lòng mà bay ra!

Trương Mạnh Đàm nói:

– Tôi đã có kế, ngài không phải lo. Ngài nên sai các tướng sắp sẵn thuyền bè và binh khí, may mà trời có lòng tựa, tôi nói đắt lời, thì có ngày lấy được đầu Trí Bá!

Triệu Vô Tuất nghe lời. Trương Mạnh Đàm biết Hàn Hổ đóng quân ở cửa đông, mới ăn mặc giả làm quân Trí Bá, đang đêm trèo qua thành lẻn ra, đến dinh Hàn Hổ, nói với quân Hàn Hổ rằng:

– Trí nguyên suý sai ta đến đây, có việc cơ mật!

Hàn Hổ sai người gọi vào. Bấy giờ phép quân nghiêm mật, phàm các người xin yết kiến, đều phải khám xét thật kỹ, rồi mới cho vào. Trương Mạnh Đàm ăn mặc theo lối quân Trí Bá, mà trong mình lại không có giấy má gì cả, cho nên quân Hàn Hổ cũng không có ý nghi ngờ. Trương Mạnh Đàm vào yết kiến Hàn Hổ, xin đuổi hết người chung quanh đi để nói. Hàn Hổ đuổi hết ngừơi chung quanh rồi hỏi.

Trương Mạnh Đàm nói:

– Tôi không phải là quân Trí Bá, chính là bề tôi họ Triệu, tên gọi Trương Mạnh Đàm. Chủ tôi bị vây đã lâu, e rằng một mai thân chết nhà diệt, không hơi đâu mà giải tỏ được tâm phúc của mình, cho nên sai tôi giả làm quân Trí Bá, đêm lẻn đến đây để vào nói với tướng quân. Tướng quân cho nói thì tôi mới dám nói. Bằng không thì tôi xin chết ngay ở trước mặt tướng quân.

Hàn Hổ nói:

– Nhà ngươi cứ nói, hễ phải thì ta theo.

Trương Mạnh Đàm nói:

– Ngày xưa sáu quan khanh hoà thuận với nhau, cùng cầm quyền chính nước Tấn, Phạm thị và Trung Hàng thị không được lòng dân, đến nỗi tiệt diệt, nay chỉ còn bốn nhà là Trí, Hàn, Ngụy, Triệu mà thôi. Trí Bá bỗng dưng muốn chiếm lấy đất Sái Cao Lang của họ Triệu, chủ tôi nghĩ là đất của tiền nhân để lại, không nỡ cắt bỏ, nhưng cũng chưa hề đắc tội gì với Trí Bá. Trí Bá cậy mạnh, hợp quân với Hàn và Ngụy, định diệt họ Triệu, họ Triệu đã diệt rồi thì cái hoạ ấy tất cũng có ngày lây đến Hàn, Nguỵ!

Hàn Hổ ngẫm nghĩ hồi lâu, chưa trả lời thế nào. Trương Mạnh Đàm lại nói:

– Ngày nay Hàn, Ngụy theo Trí Bá mà đánh Triệu là mong khi phá được thành rồi, cùng nhau chia ba đất của họ Triệu, nhưng sao chẳng nghĩ Hàn, Ngụy mới cũng phải cắt trăm dặm đất đem nộp Trí Bá, ấy là đất của tiền nhân để lại mà kẻ kia còn nhỏ rãi muốn chiếm lấy được, thế mà Hàn, Ngụy còn không dám nói một câu nào để chống lại, huống chi là đất của người khác! họ Triệu diệt thì họ Trí càng mạnh, bấy giờ Hàn, Ngụy còn dám kể công lao ngày nay để tranh nhiều ít hay không ? giả sử ngày nay được chia ba đất của họ Triệu, chắc đâu rằng sau này họ Trí lại không đòi đất nữa hay sao ? xin tướng quân nên nghĩ cho kỹ.

– Ý nhà ngươi muốn thế nào ?

Trương Mạnh Đàm nói:

– Cứ như tôi thiển nghĩ thì chi bằng tướng quân hoà riêng với chủ tôi mà đánh lại Trí Bá. Đàng nào cũng được chia đất mà đất Trí Bá lại nhiều hơn đất họ Triệu, vả lại cũng trừ được cái tai hoạ mai sau. Ta cùng bênh vực lẫn nhau, chẳng cũng hay lắm ru!

Hàn Hổ nói:

– Nhà ngươi nói cũng có lý, để ta bàn với họ Ngụy. Nhà ngươi hãy đi, ba ngày nữa tới đây ta sẽ trả lời.

Trương Mạnh Đàm nói:

– Tôi liều chết cố sống mà đến được đây, có phải dễ đâu! tai mắt quân sĩ, khó lòng giữ cho khỏi tiết lộ được, xin ở lại đây ba ngày để đợi lệnh tướng quân.

Hàn Hổ sai người mật gọi Đoàn Qui đến. Đoàn Qui trước khi bị Trí Bá khinh bỉ, vẫn còn căm tức chưa quyên, mới khen cái mưu của Trương Mạnh Đàm là phải. Hàn Hổ cho Trương Mạnh Đàm vào ngồi trong trướng để nói chuyện. Hai người kết bạn với nhau rất là thân thiết. Ngày hôm sau, Đoàn Qui phục mệnh Hàn Hổ sang dinh Nguỵ Câu, đem lời nói của Trương Mạnh Đàm thuật lại cho Ngụy Câu nghe, và xin Ngụy Câu quyết định.

Ngụy Câu nói:

– Đứa cuồng tặc ấy kiêu ngạo vô lễ, ta cũng căm tức, nhưng nó như con hổ, chỉ sợ không trói được nó, lại bị nó cắn mà thôi.

Đoàn Qui nói:

– Ta không thể dung được Trí Bá, thế tấ như vậy. Để sau này mới hối lại sao bằng làm ngay từ bây giờ! họ Triệu gần mất, nhờ chúng ta cứu cho, thì tất phải cảm ơn ta rất nhiều, chẳng hơn là ta cứ cùng đi với kẻ hung bạo kia hay sao ?

Ngụy Câu nói:

– Việc này phải nghĩ kỹ mới được, không nên vội vàng.

Đoàn Qui cáo từ lui về. Ngày hôm sau, Trí Bá bày tiệc ở Hoàn Bịch sơn, mời Hàn, Ngụy đến uống rượu để cùng xem nước. Uống rượu đến nửa chừng, Trí Bá có vẻ mừng rỡ, trỏ thành Tấn Dương mà bảo Hàn, Ngụy rằng:

– Chỉ còn ba bản (mỗi bản là ba thước) nữa thì nước ngập thành. Bây giờ ta mới biết rằng thế nước có thể làm mất nước người ta được! Tấn có núi sông hiểm trở, như sông Phần, sông Tấn, sông Giang, đều là sông to cả, nhưng cứ như ta nghĩ thì thế nước không lợi cho Tấn đâu, lại chỉ tổ làm cho chóng mất Tấn mà thôi!

Ngụy Câu sẽ lấy cánh tay chạm vào Hàn Hổ, Hàn Hổ cũng lấy chân dẫm vào Ngụy Câu. Hai người nhìn nhau, có ý sợ hãi. Một lúc thì tiệc tan, hai người cùng cáo từ lui về. Hi Tì bảo Trí Bá rằng:

– Hàn, Ngụy tất làm phản!

Trí Bá nói:

– Sao nhà ngươi lại biết ?

Hi Tì nói:

– Tôi chưa nghe lời nói, nhưng đã trông sắc mặt. Ngài có ước với hai nhà “hễ diệt Triệu rồi thì chia ba đất họ Triệu” nay họ Triệu đã sắp diệt, chẳng thấy hai nhà mừng rỡ về sự được đất mà lại có ý lo buồn, xem thế thì biết là tất họ sẽ làm phản.

Trí Bá nói:

– Ta cùng với hai nhà, đang đồng sự với nhau, thì họ còn lo gì!

Hi Tì nói:

– Ngài có nói: “thế nước không lợi cho Tấn đâu, chỉ tổ làm cho chóng mất Tấn” thế thì sông Tấn tháo vào Tấn Dương được, chắc là sông Phần cũng có thể tháo vào An ấp (Nguỵ đô), sông Giáng cũng có thể tháo vào Bình Dương (Hàn đô). Ngài nói như vậy, hai nhà tài nào mà chẳng phải lo!

Ngày hôm sau, Hàn Hổ và Ngụy Câu cũng đem rượu đến dinh Trí Bá để tạ lại bữa tiệc hôm trước. Trí Bá cầm chén rượu sắp uống, bảo Hàn, Ngụy rằng:

– Tôi vốn tính thẳng, có điều gì hay nói ngay, không để trong bụng được. Mới rồi có người bảo tôi rằng hai tướng quân muốn làm phản, chẳng hay có thực thế không ?

Hàn Hổ và Ngụy Câu đồng thanh đáp rằng:

– Vậy quan nguyên súy có tin lời nói ấy không ?

Trí Bá nói:

– Nếu ta tin lời nói ấy thì khi nào ta lại còn hỏi hai tướng.

Hàn Hổ nói:

– Tôi nghe họ Triệu chịu tốn nhiều tiền để làm cho ba chúng ta phải ly gián nhau, đó tất là có kẻ ăn lễ của họ Triệu, muốn cho nguyên súy nghi hai chúng tôi mà trễ việc vây đánh, may ra họ có cơ thóat họa được chăng.

Ngụy Câu cũng nói:

– Lời nói ấy rất phải! nay họ Triệu sắp bị diệt, ai lại chả mong được chia đất, khi nào lại chịu bỏ cái lợi cầm chắc ở trước mắt, mà gây nên cái vạ khôn lường về mai sau hay sao!

Trí Bá cười mà nói rằng:

– Tôi cũng biết hai ngài tất không có bụng ấy, chẳng qua là Hi Tì lo xa đó mà thôi.

Hàn Hổ nói:

– Nguyên suý ngày nay dẫu không tin, tôi sợ một mai lại có người nói, khiến lòng trung thành của hai chúng tôi không giải tỏ ra được, chẳng hóa ra mắc mưu đứa sàm thần ru!

Trí Bá rót chén rượu xuống đất mà thề rằng:

– Từ nay về sau, ai còn ngờ vực nhau thì như chén rượu này!

Hàn Hổ và Ngụy Câu chắp tay tạ lại. Ngày hôm ấy ba người uống rượu rất vui, gần chiều mới tan. Hi Tì nói với Trí Bá rằng:

– Sao ngài lại đem lời nói của tôi tiết lộ với Hàn, Ngụy ?

Trí Bá nói:

– Sao nhà ngươi lại biết ?

Hi Tì nói:

– Mời rồi tôi gặp Hàn, Ngụy ở cửa viên, hai người cùng nhau trừng mắt nhìn tôi, rồi đi thật mau, là vì họ ngờ tôi đã biết tình ý của họ, cho nên họ sợ tôi mà hoảng hốt như thế!

Trí Bá cười mà nói rằng:

– Ta đã cùng Hàn, Ngụy rót rượu mà thề, quyết không bao giờ có ngờ vực nhau, nhà ngươi chớ có nói càn mà mất hết hoà khí.

Hi Tì lui ra mà than rằng:

– Tính mệnh của Trí Bá, chẳng còn được bao lâu nữa!

Hi Tì giả cách bị bệnh cảm hàn, nói dối đi tìm thầy thuốc, rồi bỏ trốn sang nước Tần. Hàn Hổ và Ngụy Câu từ khi ở dinh Trí Bá về, cùng bàn nhau uống máu ăn thề với Trương Mạnh Đàm, hẹn đến nửa đêm hôm sau thì phá đê cho nước lui, hễ thấy nước lui thì họ Triệu ở trong thành đem quân ra, để cùng bắt Trí Bá. Trương Mạnh Đàm vâng mệnh vào thành báo tin cho Triệu Vô Tuất biết. Triệu Vô Tuất mừng lắm, truyền cho uqân sĩ sửa soạn để tiếp ứng. Đến nửa đêm hôm sau, Hàn Hổ và Ngụy Câu mật sai người giết quân sĩ giữ đê và khơi một thuỷ khẩu ở về phía tây. Nước chảy ra phía tây lại rót vào dinh Trí Bá. Quân Trí Bá náo động cả lên.

Trí Bá đang ngủ giật mình tỉnh dậy thì nước đã ngập đến giường nằm, nệm áo ướt hết. Trí Bá vẫn tưởng là quân sĩ tuần phòng trễ biếng, đến nỗi chân đê thẩm lậu, vội vàng sai người đi chữa đê. Được một lúc, thế nước càng to. May nhờ có bọn Trí Quốc và Dự Nhượng đem thuỷ quân đến đón, vực Trí Bá vào trong thuyền; Trí Bá ngảnh lại trông dinh trại thì thấy làn sóng cuồn cuộn, ngập chìm tất cả. Lương thực khí giới trôi giạt hết sạch, quân sĩ trong dinh, tất cả đều hụp lặn trong nước.

Trí Bá đang trong cơn sầu thảm, lại bỗng nghe thấy tiếng trống ầm trời, quân Hàn và quân Ngụy đều chèo thuyền theo dòng nước kéo đến, chém giết quân Trí Bá, lại reo to lên rằng:

– Ai bắt sống Trí Dao thì sẽ được trọng thưởng!

Trí Bá than rằng:

– Bởi ta không nghe lời Hi Tì, thành ra bị mắc lừa!

Dự Nhượng nói:

– Việc đã gấp lắm rồi! ngài nên tránh về phía sau Long Sơn, rồi trốn sang Tần mà mượn quân, để mặc tôi liều chết chống nhau với quân giặc.

Trí Bá theo lời, cùng với Trí Quốc trèo thuyền đi về phía sau Long Sơn. Ai ngờ Triệu Vô Tuất đã biết trước là Trí Bá định trốn sang nước Tần, liền sai Trương Mạnh Đàm theo Hàn, Ngụy đuổi đánh quân Trí Bá, còn mình thì đem một toán quân phục ở sau Long Sơn để đón đường bắt Trí Bá. Triệu Vô Tuất trói Trí Bá kể tội mà đem chém đi. Trí Quốc nhảy xuống nước tự tử. Dự Nhượng cố sức nghinh chiến, nhưng quân sĩ tan vỡ mất cả, lại nghe tin Trí Bá đã bị bắt, mới cải trang mà trốn vào Thạch Thất Sơn. Quân Trí Bá chết sạch, chẳng còn người nào. Triệu Vô Tuất tra lịch xem thì ngày hôm ấy chinh là ngày bính tuất tháng ba. Mấy lời thiên thần nói trong đoạn tre ngày trước, bây giờ quả nghiệm. Ba nhà (Hàn, Triệu, Nguỵ) thu quân về cả một nơi, rồi phá hết các đê chắn khi trước, khíên cho nước lại chảy về phía đông, rót vào sông Tấn. Nước ở trong thành Tấn Dương mới rút hết.

Triệu Vô Tuất phủ dụ trăm họ, rồi bảo Hàn, Ngụy rằng:

– Tôi nhờ sức hai người mà giữ được cái thành này, thật là may lắm. Nhưng Trí Bá dẫu chết, vây cánh hắn hãy còn, nếu ta cắt cỏ chưa trừ gốc thì có ngày cỏ lại mọc lên.

Hàn Hổ và Ngụy Câu nói:

– Ta nên diệt hết vây cánh của hắn cho hả lòng căm tức!

Triệu Vô Tuất liền cùng với Hàn, Ngụy trở về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) vu cho Trí thị tội phản nghịch, vây nhà Trí thị, bao nhiêu trai gái già trẻ, giết sạch cả, chỉ có một mình Trí Quả vì đã đổi ra họ Phu nên được thóat nạn, bấy giờ mới biế Trí Quả là người cao kiến. Những đất của Hàn, Ngụy nộp cho Trí Bá khi trước, bây giờ lại thu về cả; bao nhiêu đất của Trí Bá, ba nhà chia nhau, không nộp vào công gia một chút nào. Bấy giờ đang là năm thứ 16 đời Chu Định vương. Triệu Vô Tuất bàn đến cái công giữ thành Tấn Dương. Mọi người đều nhường Trương Mạnh Đàm đứng đầu. Triệu Vô Tuất không nghe, cho Cao Hách đứng đầu.

Trương Mạnh Đàm nói:

– Trong khi thành Tấn Dương bị vây; không thấy Cao Hách bày được mưu gì hoặc làm được việc gì cả, nay lại được đứng đầu nhận thưởng, thế thì tôi không hiểu ra sao ?

Triệu Vô Tuất nói:

– Trong khi khốn quẫn, ta thấy mọi người đều hoảng hốt, chỉ có Cao Hách là vẫn kính cẩn mà giữ lễ thường. Kẻ có công dẫu được việc trong một thời, nhưng kẻ biết giữ lễ, mới thật là làm gương cho muôn thuở, nay đứng đầu nhận thưởng chẳng cũng đáng lắm ru!

Trương Mạnh Đàm có ý thẹn mà chịu phục. Triệu Vô Tuất cám ơn Hoắc Sơn thần, lập đền thờ ở Hoắc Sơn, rồi cho Nguyên Qúa nối đời giữ việc cúng tế, Triệu Vô Tuất còn căm tức Trí Bá, mới đem cái đầu lâu Trí Bá, dùng làm đồ đi tiểu tiện.

Dự Nhượng ở Thạch Thất sơn nghe biết việc ấy, khóc mà nói rằng:

– “Kẻ sĩ chết cho người tri kỷ”. Ta chịu ơn sâu của họ Trí, nay họ Trí đã bị diệt, lại còn bị nhục đến nắm xương tàn, như thế mà ta tham sống, không nghĩ cách trả thù cho họ Trí thì sao gọi là người được!

Dự Nhượng nói xong, liền đổi họ tên, giả là kẻ tù phạm phục dịch, giắt một con dao nhọn, lẻn vào trong nhà xí của họ Triệu, định chờ khi Triệu Vô Tuất ra thì đâm chết. Khi Triệu Vô Tuất ra, bỗng thấy động lòng, bèn sai người ra tìm trong nhà xí thì bắt được Dự Nhượng. Triệu Vô Tuất hỏi Dư Nhượng rằng:

– Nhà ngươi giắt con dao nhọn này, chực đâm ta đó chăng ?

Dự Nhượng nghiễm nhiên đáp:

– Ta là bề tôi họ Trí, vì họ Trí mà báo thù!

Mọi người nói với Triệu Vô Tuất rằng:

– Kẻ phản nghịch này nên giết đi!

Triệu Vô Tuất gạt đi mà nói rằng:

– Họ Trí đã diệt rồi, mà Dự Nhượng còn vì họ Trí mà báo thù, thật là một nghĩa sĩ! ta không nên giết kẻ nghĩa sĩ.

Triệu Vô Tuất bèn truyền Dự Nhượng. Khi Dự Nhượng lui, ra Triệu Vô Tuất lại gọi mà bảo rằng:

– Nay ta tha cho nhà ngươi, nhà ngươi có còn thù ta không ?

Dự Nhượng nói:

– Tha tôi bây giờ là cái ơn riêng của ngài, nhưng việc báo thù là điều nghĩa lớn của tôi!

Mọi người nói với Triệu Vô Tuất rằng:

– Người này vô lễ, nếu ta tha thì tất hại làm càn!

Triệu Vô Tuất nói:

– Ta đã hẹn tha cho y rồi, lẽ nào ta lại thất tín, từ nay về sau, ta phải đề phòng mới được.

Ngay ngày hôm ấy, Triệu Vô Tuất truyền sửa sang thành Tấn Dương, để về đấy mà tránh cái vạ Dự Nhượng. Dự Nhượng về nhà, cả ngày chỉ nghĩ cách báo thù, nhưng chưa tìm được kế. Người vợ khuyên Dự Nhượng theo làm tôi Hàn, Nguỵ để cầu phú qúi, Dự Nhượng nổi giận, đứng phắt dậy bỏ đi, lại vào Tấn Dương, nhưng sợ có người biết mặt, mới cạo sạch râu và lông mày, lấy sơn bôi vào mình để giả làm người hủi, đi ăn mày ở chợ.

Người vợ đi tìm chồng, ra đến chợ, nghe thấy tiếng kêu khóc thì kinh sợ mà nói rằng:

– Đó chính là tiếng chồng ta rồi!

Khi đến tận nơi nhìn xem, lại nói rằng:

– Tiếng thì giống nhưng người lại không phải!

Người vợ bèn bỏ đi. Dự Nhượng hiềm vì nổi tiếng nói còn giống, lại nuốt than để cho khản tiếng đi, rồi lại đi ăn mày ở chợ. Lần sau người vợ nghe tiếng cũng không lấy làm ngạc nhiên nữa. Có người bạn vốn biết chí Dự Nhượng, trông thấy người ăn mày, nghi là Dự Nhượng, thử sẽ gọi tên thì thấy quả nhiên là Dự Nhượng thật, liền mời về nhà, thết cơm rượu và bảo rằng:

– Ngô huynh có chí báo thù như thế, mà chưa tìm được kế báo thù. Cứ như tài Ngô huynh mà giả cách theo họ Triệu, thì chắc họ Triệu trọng dụng, bấy giờ sẽ thừa cơ khởi sự, thật dễ như trở bàn tay, cần gì phải liều thân họai thể chịu khổ như thế này!

Dự Nhượng nói:

– Nếu tôi đã làm tôi họ Triệu mà lại đâm họ Triệu thì là một kẻ hai lòng. Nay tôi sơn mình, nuốt than, báo thù cho Trí Bá, chính là muốn khiến cho những kẻ làm tôi mà ăn ở hai lòng nghe tiếng tôi phải hổ thẹn. Tôi xin từ biệt Ngô huynh, từ đây sẽ không trông thấy nhau nữa!

Dự Nhượng lại đi sang Tấn Dương ăn mày như trước mà không ai biết cả. Triệu Vô Tuất ở Tấn Dương, xem cái cừ của Trí Bá khi trước, không thể bỏ đi được, liền sai người bắc một cái cầu ở trên cừ, để tiện đường đi lại, gọi tên là Xích kiều. Khi cầu đã làm xong, Triệu Vô Tuất định ra xem. Dự Nhượng biết trước là Triệu Vô Tuất thế nào cũng ra xem cầu, lại giắt con dao nhọn, giả cách làm người chết, nằm phục ở dưới gầm cầu. Khi Triệu Vô Tuất gần đến Xích Kièu, con ngựa kéo xe bỗng hí lên mà lùi trở lại. Người dong xe đánh luôn mấy roi mà nó cũng không chịu đi.

Trương Mạnh Đàm nói:

– Tôi nghe con ngựa hay thì không làm hại chủ. Nay con ngựa này không chịu quan cầu, tất là có quân gian ẩn phục, ta phải xét cho kỹ.

Triệu Vô Túất dừng xe lại, rồi sai quân sĩ đi sục tìm. Quân sĩ báo rằng:

– Dưới gầm cầu tịnh không có quân gian nào cả, chỉ có một xác người chết nằm gục ở đấy thôi!

Triệu Vô Tuất nói:

– Cầu mới làm xong, sao đã có xác chết, đó tất là Dự Nhượng!

Nói xong sai người lôi xác chết ra thì thấy là Dự Nhượng, hình dung dẫu khác, nhưng vẫn có thể nhận được. Triệu Vô Tuất mắng rằng:

– Khi trước ta không kể pháp luật mà tha cho nhà ngươi, nay nhà ngươi lại còn cố ý mưu giết ta, thì trời nào có tựa!

Nói đoạn sai người đem chém. Dự Nhượng kêu trời, nước mắt lẫn máu chảy xuống ròng ròng. Mọi người đều bảo Dự Nhượng rằng:

– Nhà ngươi sợ chết hay sao ?

Dự Nhượng nói:

– Không phải ta sợ chết, ta tiếc rằng sau khi ta chết rồi không ai báo thù cho Trí Bá nữa!

Triệu Vô Tuất gọi Dự Nhượng lại mà bảo rằng:

– Khi trước nhà ngươi làm tôi họ Phạm. Họ Phạm bị Trí Bá diệt, nhà ngươi chịu nhục không trả thù cho họ Phạm. Nay Trí Bá chết! nhà ngươi lại cố sức báo thù là làm sao ?

Dự Nhượng nói:

– Khi trước ta làm tôi họ Phạm, họ Phạm đãi ta là chúng nhân, nên ta cũng lấy lòng chúng nhân mà xử lại; nay ta làm tôi họ Trí, họ Trí nhường cơm sẽ áo cho ta, đãi ta là quốc sĩ thì ta cũng lấy lòng quốc sĩ mà xử lại, chứ so sánh thế nào được!

Triệu Vô Tuất nói:

– Bụng nhà ngươi như sắt đá, không chịu đổi đời thì ta không thể tha được nữa!

Triệu Vô Tuất liền cởi thanh kiếm đang đeo mà đưa cho Dự Nhượng để cho Dự Nhượng tự tử. Dự Nhượng nói:

– Kẻ trung thần không lo sự chết, bậc minh chủ không bỏ điều nghĩa. Ngài tha tội một lần, cũng đã quá lắm rồi, bây giờ tôi nào còn mong sống nữa, nhưng tôi hai lần báo thù mà không được thì lòng uất ức của tôi bao giờ cho nguôi! xin ngài cởi áo,cho tôi được đánh mấy cái vào áo ngài, gọi là ngụ ý báo thù thì dẫu tôi chết cũng hả!

Triệu Vô Tuất thương tình, cởi áo cẩm bào, sai người đưa cho Dự Nhượng. Dự Nhượng tay cầm thanh kiếm, trừng mắt nhìn áo cẩm bào, tưởng như là Triệu Vô Tuất, rồi nhảy lên ba lần mà đánh ba cái, nói rằng:

– Ngày nay ta mới báo thù được cho Trí Bá!

Nói xong liền đâm cổ mà chết. Cái cầu ấy sau đổi tên là Dự Nhượng kiều. Triệu Vô Tuất thấy Dự Nhượng tự tử thì có lòng thương xót, truyền thu táng cho tử tế. Quân sĩ nhặt cẩm bào đệ trình Triệu Vô Tuất. Triệu Vô Tuất nhìn xem thì thấy những vết đánh đều có máu tươi cả, ấy là một sự cảm ứng do lòng tinh thành của Dự Nhượng gây nen. Triệu Vô Tuất kinh sợ, từ bấy giờ sinh bệnh.

Chương 85: Vì việc nước, Nhạc Dương bỏ con – Hại tiền dân, Hà Bá lấy vợ

Triệu Vô Tuất bị Dự Nhượng đánh vào áo ba lần, khi Dự Nhượng đã chết rồi, Triệu Vô Tuất giở áo ra xem, thì những chỗ áo bị đánh đều có vết máu, từ bấy giờ mắc bệnh, đã hơn một năm không khỏi. Triệu Vô Tuất sinh được năm con, nhân nghĩ đến anh mình là Bá Lỗ vì mình mà bị bỏ, muốn lập con Bá Lỗ là Chu để nối nghiệp; nhưng Chu lại chết trước, mới lập con Chu là Cán làm thế tử. Khi Triệu Vô Tuất gần mất, bảo Triệu Cán rằng:

– Ta và Hàn, Ngụy cùng diệt họ Trí, mở mang bờ cõi, nhân dân yêu mến, ta nên ước với Hàn, Ngụy thừa cơ chia nước Tấn làm ba, lập ra miếu xã, truyền cho con cháu đời sau. Nếu để chậm mấy năm, mà nước Tấn lại có vua anh minh, cầm giữ cho quốc chính, thu thập dân tâm, thì dòng dõi họ Triệu ta, khó lòng bảo toàn được.

Triệu Vô Tuất nói xong thì mất. Triệu Cán trị tang xong, liền đem lời di chúc nói với Hàn Hổ. Bấy giờ là năm thứ tư đời Chu Khảo vương. Tấn Ai công mất, con là Liễu nối ngôi tức là Tấn U công. Hàn Hổ và Ngụy Câu hợp mưu, để Giáng Châu và Khúc Ốc làm đất ăn lộc của Tấn U công, còn bao nhiêu chia ba gọi là Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy). Tấn U công hèn yếu, phải đến triều kiến ba nhà, chẳng còn ra thể thống vua tôi gì nữa. Tướng quốc nước Tề là Điền Bàn nghe tin ba nhà chiếm lấy thổ địa nước Tấn, cũng đem anh em họ hàng ra, cho làm đô ấp đại phu tất cả, lại sai sứ sang mừng ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy, cùng nhau giao hiếu. Từ bấy giờ Điền, Triệu, Nguỵ, Hàn bốn nhà vẫn sai sứ đi lại với nhau, vua Tề và vua Tấn chỉ ngồi trơ như tượng gỗ mà thôi.

Bấy giờ Chu Khảo vương phong người em là Yết ở Hà Nam Thành để nối quan chức Chu công. Con nhỏ của Yết là Ban lại biệt phong ở đất Củng. Nhân đất Củng ở phía đông Hà Nam Thành, mới gọi là Đông Chu công, mà gọi Hà Nam Thành là Tây Chu công. Chu Khảo vương mất, con là Ngọ lên nối ngôi, tức là Uy Liệt vương. Năm đầu đời Uy Liệt vương, Triệu Cán mất, con là Triệu Tịch nối nghiệp (sau làm Triệu Liệt hầu). Còn Hàn Kiền (cháu Hàn Hổ, con Hàn Khả Chương, sau làm Hàm Cảnh hầu) nối nghiệp họ Hàn; Ngụy Tư (cháu Ngụy Câu, con Ngụy Độ, sau là Ngụy Văn hầu) nối nghiệp họ Ngụy; Điền Hoà (cháu Điền Bàn, con Điền Bạch, sau làm Tề Thái công) nối nghiệp họ Điền. Bốn nhà kết ước với nhau, định giúp nhau thành đại sự. Năm thứ 23 đời Chu Liệt vương, bỗng có sét đánh vào sáu cái đỉnh của nhà Chu, cái đỉnh nào cũng lay động cả. Ba nhà (Hàn, Triệu, Ngụy) bàn riêng với nhau rằng: chín cái đỉnh là đồ qúi truyền của đời nhà Chu, thế là vận nhà Chu sắp hết. Chúng ta lập quốc đã lâu mà chưa chính danh hiệu, nên nhân lúc nhà Chu suy yếu này, sai sứ vào thỉnh mệnh thiên tử, xin làm chư hầu; thiên tử sợ thế chúng ta thì tất phải cho, như thế thì giữ được phú qúi mà khỏi mang tiếng thí nghịch, chẳng cũng hay lắm ru!

Mỗi nhà liền cùng nhau sai người tâm phúc (Ngụy sai Điền Văn, Triệu sai Công Trọng Liên, Hàn sai Hiệp Lũy) mang ngọc lụa và thổ sản vật vào tiến cống Chu Uy Liệt vương và xin phong làm chư hầu. Chu Uy Liệt vương hỏi:

– Thổ địa nước Tấn đều về tay ba nhà cả hay sao ?

Sứ họ Ngụy là Điền Văn nói:

– Vua Tấn không giữ nổi quyền chính, khiến trong nước đều nổi loạn; ba nhà chúng tôi đem binh lực đi dẹp loạn mà chiếm được thổ địa, chứ không phải là cướp của vua Tấn.

Chu Uy Liệt vương lại hỏi:

– Ba nhà đã muốn làm chư hầu, sao không tự lập còn phải nói với trẫm ?

Sứ họ Triệu là Công Trọng Liên nói:

– Cứ như binh lực của ba nhà chúng tôi thì có thể tự lập được nhưng sở dĩ còn muốn thỉnh mệnh là vì không dám vượt quyền thiên tử ở trên. Nếu thiên tử phong cho ba nhà chúng tôi làm chư hầu, để nối đời giữ bụn trung trinh mà làm phên dậu cho nhà Chu thì chẳng cũng lợi cho nhà vua lắm ru!

Chu Uy Liệt vương bằng lòng, liền truyền mệnh phong cho Triệu Tịch làm Triệu hầu, Hàn Kiền làm Hàn hầu, Ngụy Tư làm Ngụy hầu, đều ban cho các thứ phủ miện, khuê bích. Ba nhà đem vương mệnh tuyên bá cho trong nước biết, rồi Triệu hầu đóng đô ở Trung Mâu, Hàn hầu đóng đô ở Bình Dương, Nguỵ hầu đóng đô ở An ấp, đều lập ra tôn miếu xã tắc. Lại sai sứ đi thông báo với chư hầu. Nhiều nước cũng đến mừng, chỉ có nước Tần từ khi bỏ Tấn theo Sở, không thông hiếu với Trung quốc, Trung quốc cũng đãi Tần như là di địch, bởi vậy Tần không đến mừng. Chưa được bao lâu ba nhà bỏ Tấn Tĩnh công (cháu Tấn U công), cho ra ở đất Thuần Lưu, còn bao nhiêu thổ địa, lại chia nhau lấy nốt. Nước Tấn từ đời Đường Thúc đến đời Tĩnh Công, cả thảy được 29 đời thì tuyệt.

Lại nói chuyện trong ba nhà (Hàn, Triệu, Nguỵ), chỉ có Nguỵ Văn hầu (tức là Ngụy Tư) là giỏi hơn cả. Bấy giờ có một người học trò giỏi của Khổng Tử tên gọi Bốc Thương, tên tự là Tử Hạ, dạy học ở Tây Hà. Ngụy Văn hầu vẫn theo học Tử Hạ. Ngụy Thành tiến dẫn Điền Tử Phương là người giỏi, Nguỵ Văn hầu cùng với Điền Tử Phương kết làm bạn. Ngụy Thành nói:

– Đoàn Can Mộc ở Tây Hà là người có đức hạnh, vẫn ở ẩn không chịu ra làm quan.

Ngụy Văn hầu truyền thắng xe để đến yết kiến, Đoàn Can Mộc nghe tiếng xe ngựa đến cửa, trèo qua tường sau mà tránh mặt. Ngụy Văn hầu khen rằng:

– Thế mới thật là bậc cao sĩ!

Bèn ở lại Tây Hà một tháng, ngày nào cũng đến cửa xin yết kiến, mỗi khi đi gần tới nhà, đã vịn cái ngáng xe mà đứng dậy không dám ngồi nghiễm nhiên ở trên xe.

Đoàn Ca Mộc thấy Ngụy Văn hầu lòng thành như vậy, bất đắc dĩ phải ra tiếp kiến. Ngụy Văn hầu mời lên xe đem về cũng tôn kính làm bậc thượng tân như Điền Tử Phương. Các hiền sĩ ở bốn phương nghe tiếng, đều kéo đến cả. Lại được bọn mưu sĩ như: Lý Khắc, Địch Hoàng, Điền Văn, Nhâm Toạ đều làm quan ở trong triều. Bấy giờ nhân tài không nước nào thịnh bằng nước Ngụy. Người nước Tần muốn đánh nước Ngụy, nhưng thấy Ngụy nhiều nhân tài, lại không dám đánh. Ngụy Văn hầu có hẹn với chức ngu nhân đến giờ ngọ thì đi săn ngoài cõi. Buổi sáng hôm ấy, trời mưa rét lắm, Văn hầu ban rượu cho các quan uống. Vua tôi đang cùng nhau uống rượu vui vẻ, bỗng Văn hầu hỏi nội thị rằng:

– Bây giờ đã đến giờ ngọ chưa ?

Nội thị nói:

– Vừa đúng giờ ngọ!

Văn hầu vội vàng sai bãi tiệc, truyền thắng xe ngựa để đi săn. Nội thị nói:

– Trời mưa không thể săn dược, dẫu có đi cũng uổng công mà thôi.

Văn hầu nói:

– Ta có hẹn với chức ngu nhân, tất là ngừơi ta chờ ta ở ngoài cõi, dẫu không săn được, ta cũng phải đi để cho khỏi phụ ước.

Người trong nước thấy Ngụy Văn hầu đang mưa mà đi, đều lấy làm lạ, sau nghe chuyện biết là Văn hầu giữ lời ước với chức ngu nhân, liền bảo nhau rằng:

– Như thế là chúa không chịu thất tín với ai!

Từ bấy giờ bao nhiêu chính lệnh thi hành không ai dám trái ý. Phía đông nước Tấn, có nước Trung Sơn là giống Bạch Địch, cũng gọi là Tiên Ngu. Từ đời Tấn Chiêu công, Trung Sơn mới chịu xin hoà; đến khi ba nhà chia nhau nước Tấn thì Trung Sơn không thuộc vào nước nào cả. Vua Trung Sơn là Cơ Quật thường thích uống rượu thâu đêm, xa bỏ các quan đại thần, gần gụi với lũ tiểu nhân, nhân dân không làm ăn được, điềm gở thường hiện ra. Ngụy Văn hầu có ý muốn đánh.

Ngụy Thành nói với Văn hầu rằng:

– Nước Trung Sơn phía tây gần Triệu mà phía nam xa Ngụy, nếu ta đánh được cũng vị tất đã giữ nổi.

Văn hầu nói:

– Nếu ta không dánh mà để cho Triệu được Trung Sơn thì Triệu càng mạnh thế lắm.

Địch Hoàng nói:

– Tôi xin cử một người tên gọi Nhạc Dương là người ở đất Cốc Khâu nước ta. Người ấy văn vũ toàn tài, có thể làm đại tướng được.

Ngụy Văn hầu nói:

– Xem thế nào mà biết ?

Địch Hoàng nói:

– Một hôm, Nhạc Dương bắt được thoi vàng ở dọc đường mang về, người vợ mắng rằng:”chí sĩ không uống suối “kẻ trộm”, người liêm không ăn cơm “thương thay! lại mà ăn”. Thoi vàng này không biết lai lịch thế nào, cớ sao lại lấy, để mang tiếng xấu ?” Nhạc Dương cảm lời nói của vợ, liền đem thoi vàng vứt ra ngoài đồng, rồi từ giã vợ mà sang học ở nước Lỗ và nước Vệ. Học được hơn một năm trở về, người vợ đang dệt cửi, hỏi chồng học đã thành nghề chưa ? Nhạc Dương nói chưa! người vợ cầm dao cắt đứt khung cửi. Nhạc Dương hỏi:”tại làm sao ?” người vợ nói: “học có thành nghề thì mới được dùng, cũng như lụa có thành tấm thì mới mặc được, nay phu quân học chưa thành nghề mà đã về thì có khác gì cái khung cửi đứt hay không ?” Nhạc Dương tỉnh ngô, lại bỏ đi học, bảy năm không trở về. Hiện nay đang ở trong nước ta, người ấy có chí lớn không chịu làm nhỏ, sao chúa công không dùng ?

Văn hầu liền sai Địch Hoàng đem xe đi triệu Nhạc Dương. Mọi người can rằng:

– Chúng tôi nghe Nhạc Dương có người con là Nhạc Thư hiện đang làm quan Trung Sơn, dùng thế nào đuợc ?

Địch Hoàng nói:

– Nhạc Dương là một người muốn làm nên sự nghiệp. Người con ở Trung Sơn, đã vì vua Trung Sơn mà triệu Nhạc Dương; Nhạc Dương cho vua Trung Sơn là vô đạo nên không chịu theo. Nếu chúa công giao quyền cho Nhạc Dương thì lo gì không thành công được.

Văn hầu nghe lời. Nhạc Dương theo Địch Hoàng vào yết kiến Văn hầu. Văn hầu bảo Nhạc Dương rằng:

– Ta muốn đem việc đánh Trung Sơn giao cho nhà ngươi, nhưng nhà ngươi có người con làm quan với Trung Sơn thì biết làm thế nào ?

Nhạc Dương nói:

– Kẻ trượng phu đã một lòng vì chủ, khi nào lại đem tình riêng mà bỏ việc công! nếu tôi không diệt được Trung Sơn thì xin chịu tội chết.

Ngụy Văn hầu mừng lắm, nói:

– Nhà ngươi chắc được như vậy, thì ta cũng tin lời.

Nói xong, liền cho Nhạc Dương làm nguyên suý, Tây Môn Bảo làm tiên phong, đem năm vạn quân sang đánh Trung Sơn. Vua Trung Sơn là Cơ Quật sai đại tướng là Cổ Tu đóng quân ở Thâu Sơn để chống nhau với quân Ngụy. Nhạc Dương đóng quân ở Vân Sơn. Hai bên giữ nhau hơn một tháng, chưa phân thắng phụ. Nhạc Dương bảo Tây Môn Báo rằng:

– Ta đã đoan ở trước mặt chúa công rằng thế nào cũng diệt được Trung Sơn, nay đem quân ra đây hơn một tháng mà chưa có công trạng chi cả, nghĩ cũng nên thẹn. Ta xem Thâu Sơn có nhiều cây thâu, nếu được một người can đảm đem quân lẻn đến, phóng hoả đốt rừng thì quân họ tất lọan, bấy giờ ta thừa cơ tiến đánh, chắc có thể phá được.

Tây Môn Báo xin đi. Bấy giờ đang mùa thu tháng tám, vua Trung Sơn là Cơ Quật sai sứ đem rượu tiết dê đến Thâu Sơn để ban cho Cổ Tu. Cổ Tu nhân đem sáng trăng, đem ra uống chơi, vui chén chẳng nghĩ gì đến công việc. Canh ba đêm hôm ấy, Tây Môn Báo đem quân lẻn đến, mỗi người cầm một bó đuốc bằng cành cây khô, trong có vật dẫn hoả, đốt cây thâu. Cổ Tu đang say rượu, thấy ngọn lửa cháy đến dinh trại, đem quân đi cứu hoả, nhưng khắp vùng Thâu Sơn, chỗ nào cũng có lửa cháy, không thể cứu xiết. Quân Trung Sơn náo động. Cổ Tu biết ở phía trước có quân Ngụy, liền chạy về phía sau núi, lại gặp Nhạc Dương đã đem quân đón đánh. Quân Trung Sơn thua to. Cổ Tu chạy thoát được, trốn về Bạch Dương quan. Quân Ngụy đuổi đánh. Cổ Tu lại bỏ Bạch Dương quan mà chạy. Nhạc Dương kéo quân thẳng tiến, đi đến đâu phá vỡ đến đấy. Cổ tu chạy về yết kiến Cơ Quật, nói Nhạc Dương đem quân đến vây. Cơ Quật giận lắm. Quan đại phu là Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng:

– Nhạc Dương tức là thân phụ Nhạc Thư, Nhạc Thư hiện đang làm quan ở nước ta, ta nên sai Nhạc Thư trèo lên mặt thành mà bảo thân phụ rút quân, đó là thượng sách.

Nhạc Thư nói:

– Thân phụ tôi khi trước không chịu làm quan với Trung Sơn, mà nay làm quan với Ngụy, thì tất có lòng vì Ngụy, tôi nói cũng không nổi.

Cơ Quật ép mãi. Nhạc Thư bất đắc dĩ phải trèo lên mặt thành, xin tiếp kiến Nhạc Dương.

Nhạc Dương mặc áo giáp đứng ở trên xe, trông thấy Nhạc Thư, liền mắng ngay rằng:

– Người quân tử không ở nước nguy, không thờ triều loạn. Mày tham phú qúi mà theo Trung Sơn, thế là không biết điều nên tới nên lui. Nay ta phụng mệnh chúa công ta đem quân đến đánh kẻ có tội mà cứu dân, mày nên bảo vua Trung Sơn mau mau đầu hàng đi, thì cha con còn có thể gặp nhau được.

Nhạc Thư nói:

– Hàng hay không là quyền ở vua Trung Sơn, con không được biết; nhưng xin cha hãy tạm hoãn đừng đánh vội, để chúng tôi còn bàn định với nhau.

Nhạc Dương nói:

– Ta hãy tạm hoãn cho một tháng để toàn cái tình cha con. Vua tôi mày nên định bàn cho mau, chớ để lỡ việc.

Nhạc Dương liền truyền lệnh cho quân sĩ chỉ bao vây mà không đánh vội. Cơ Quật chắc Nhạc Dương là người yêu con, chẳng dám đánh nào, cứ bỏ liều chẳng nghĩ chi cả. Quá một tháng, Nhạc Dương sai người hỏi. Cơ Quật lại sai Nhạc Thư xin một hẹn nữa, Nhạc Dương lại cho một tháng. Như thế đã ba lần, Tây Môn Báo bèn nói với Nhạc Dương rằng:

– Quan nguyên suý không muốn hạ Trung Sơn hay sao ? sao để lâu mà không đánh làm vậy ?

Nhạc Dương nói:

– Vua Trung Sơn không biết thương dân, vậy nên ta đánh, nếu ta đánh gấp thì lại hại dân. Ta ba lần khoan hẹn cho, chẳng những là vì tình cha con, cũng là muốn để thu lấy lòng dân đó.

Các người tả hữu Ngụy Văn hầu thấy Nhạc Dương là người mới mà được làm quan to, đều có ý bất bình, đến khi nghe tin Nhạc Dương ba lần hoãn chiến, liền dèm với Nguỵ Văn hầu rằng:

– Nhạc Dương đánh Trung Sơn được luô mấy trận, chỉ vì một câu nói của Nhạc Thư mà ba tháng nay không đánh nữa, đủ biết tình cha con thấm thía dường nào. Nếu chúa công không triệu về thì e rằng ta hao quân tốn của mà không được gì cả.

Ngụy Văn hầu không đáp, rồi hỏi Địch Hoàng. Địch Hoàng nói:

– Tất là Nhạc Dương có mưu kế gì đây, chúa công chớ ngại!

Từ bấy giờ các quan đua nhau dâng thư: người thì nói Nhạc Dương bàn mưu với Trung Sơn để cùng đánh Ngụy. Ngụy Văn hầu đều gói lại mà bỏ vào trong tráp rồi thỉnh thoảng lại sai người ra thăm Nhạc Dương, và lập sẵn dinh phủ đợi khi Nhạc Dương về thì ở đấy. Nhạc Dương cảm kích trong lòng, thấy Trung Sơn không chịu hàng, thân đốc tướng sĩ cố sức đánh. Thành Trung Sơn dày dặn, lương thực rất nhiều. Cổ Tu và Công tôn Tiêu ngày đêm tuần phòng, lăn gỗ đá xuống để giữ thành. Nhạc Dương đánh trong mấy tháng mà không phá được bèn nổi giận, cùng Tây Môn Báo thân hành ra đứng ở trước trận thúc quân tiến vào. Cổ Tu đang đứng chỉ bảo quân sĩ, bỗng bị mũi tên trúng vào đầu mà chết. Trong thành phá nhà, phá tường để lấy gỗ đá, dần dần cũng hết. Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng:

– Việc đã nguy cấp lắm rồi! tôi còn một kết, có thể lui được quân Ngụy.

Cơ Quật hỏi:

– Kế gì ?

Công tôn Tiêu nói:

– Nhạc Thư ba lần xin khoan hạn mà Nhạc Dương đều cho cả, thế thì đủ biết là có bụng yêu con. Nay ta trói Nhạc Thư treo lên cầu, nếu Nhạc Dương không rút quân thì ta sẽ giết đi. Ta bắt Nhạc Thư phải kêu khóc mà xin, chắc là Nhạc Dương không dám đánh nữa.

Cơ Quật nghe lời. Nhạc Thư ở trên cầu kêu khóc mà gọi Nhạc Dương. Nhạc Dương trông thấy mắng rằng:

– Mày là đứa không ra gì! làm quan ở nước người ta, đã không biết bày mưu lập kế, để mong chiến thắng, lại không tuỳ cơ ứng biến, để cầu giảng hoà, bây giờ còn kêu khóc nỗi gì!

Nói xong, giương cung toan bắn Nhạc Thư. Nhạc Thư kêu rầm lên, mới được thả xuống, vào nói với Cơ Quật rằng:

– Cha tôi vì việc nước mà chẳng nghĩ gì đến tình cha con! thôi thì chúa công liệu kế mà chống giữ, tôi xin chết ở trước mặt chúa công để tỏ cái tội không lui được quân giặc.

Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng:

– Cha đánh thành thì con tức là người có tội cũng nên để cho chết.

Cơ Quật nói:

– Không phải là lỗi ở Nhạc Thư.

Công tôn Tiêu nói:

– Hễ Nhạc Thư chết thì tôi có cách lui được quân giặc.

Cơ Quật liền cầm thanh kiếm đưa cho Nhạc Thư. Nhạc Thư tự đâm cổ mà chết. Công tôn Tiêu nói:

– Nhân tình không gì bằng cha con. Nay đem Nhạc Thư nấu xáo mà gửi cho Nhạc Dương; Nhạc Dương trông thấy bát xáo tất phải thương xót khóc lóc, không thiết gì đến việc chiến tranh, bấy giờ chúa công sẽ đem quân ra đánh một trận, may có thể thắng được.

Cơ Quật bất đắc dĩ phải theo, truyền đem thịt và thủ cấp Nhạc Thư nấu xáo đưa sang cho Nhạc Dương mà bảo rằng:

– Chúa công tôi thấy tiểu tướng quân (trỏ Nhạc Thư) không lui được quân Ngụy, đã giết mà mổ ra rồi, nay đem bát xáo sang dâng ngài. Tiểu tướng quân còn vợ con, nếu ngài cứ đánh thành thì chúa công tôi sẽ giết nốt.

Nhạc Dương trông thấy thủ cấp kia, liền quát to lên mà mắng rằng:

– Thằng bất hiếu kia, mày theo đứa hôn quân vô đạo thì mày đáng chết lắm!

Mắng xong, cầm ngay lấy bát xáo mà ăn hết cả. Ăn xong bảo sứ giả rằng:

– Vua nhà ngươi cho ta bát xáo, khi phá thành rồi ta sẽ tạ ơn. Ta đây cũng có vạc dầu để đợi vua nhà ngươi đó!

Sứ giả về báo, Cơ Quật biết là Nhạc Dương không có lòng thương con, lại thấy Nhạc Dương đánh thành gấp lắm, e khi thành phá thì sẽ bị nhục, liền vào hậu cung thắt cổ mà chết. Công tôn Tiêu mở cửa thành xin hàng. Nhạc Dương kể cái tội xiểm nịnh làm hại nước, rồi đem chém đi, lại giao năm nghìn quân cho Tây Môn Báo đóng giữ ở đấy, rồi thu hết của báu trong kho tàng mà rút quân về Ngụy.

Ngụy Văn hầu nghe tin Nhạc Dương thành công, thân hành ra cửa thành đón rước và úy lại rằng:

– Tướng quân vì nước mà bỏ con, thực là cái lỗi tại ta đó!

Nhạc Dương sụp lạy mà nói rằng:

– Cái nghĩa làm tôi không dám nghĩ tình riêng để đến nỗi phụ lòng uỷ thác của chúa công!

Nhạc Dương triều kiến xong, đệ trìh bản đồ nước Trung Sơn và các thứ của báu. Ngụy Văn hầu bày tiệc ở trên nội đài, tay cầm chén rượu đưa cho Nhạc Dương. Nhạc Dương nhận lấy mà uống, ý khí dương dương, có vẻ cậy công. Tiệc xong Ngụy Văn hầu sai nội thị đem hai cái tráp niêm phong rất kỹ đưa cho Nhạc Dương mang về. Nhạc Dương vẫn tuởng là trong tráp có các thứ vàng ngọc, Ngụy Văn hầu sợ các quan ghen tị, nên niêm phong kín mà tặng mình. Chẳng ngờ đến lúc mở ra thì toàn là những tờ tấu của các quan, trong tờ tấu đều nói Nhạc Dương muốn làm phản.

Nhạc Dương sợ hãi mà nói rằng:

– Xem thế này thì biết trong triều nhiều người huỷ báng mình, nếu chúa công không dốc lòng tin thì mình cũng khó lòng thành công được.

Ngày hôm sau, Nhạc Dương vào triều tạ ân, Văn hầu thưởng công trọng hậu. Nhạc Dương sụp lạy từ chối mà nói rằng:

– Diệt được nước Trung Sơn là nhờ lòng tin cậy của chúa công, tôi dẫu ra sức ở ngoài cũng chẳng có công gì!

Văn hầu nói:

– Phi ta thì không dùng được tướng quân mà phi tướng quân thì cũng không làm nổi được những công việc của ta! nhưng tướng quân đã khó nhọc lắm rồi, âu là ta phong ấp cho tướng quân, để tướng quân về nghỉ.

Nói xong, liền đem đất Linh Thọ (đất nước Trung Sơn) phong cho Nhạc Dương, tức là Linh Thọ quân, rồi bãi binh. Địch Hoàng nói với Văn hầu rằng:

– Chúa công đã biết tài Nhạc Dương sao không sai đem quân ra giữ biên giới mà lại cho về nghỉ như vậy ?

Văn hầu cười mà không đáp. Địch Hoàng lui ra, hỏi lại Lý Khắc, Lý Khắc nói:

– Nhạc Dương đến con còn không có lòng yêu, huống chi là người khác! ngày xưa Quản Trọng nghi Dịch Nha cũng chính là vì lẽ đó!

Địch Hoàng mới hiểu rõ. Ngụy Văn hầu nghĩ Trung Sơn là nơi xa lánh, tất phải được người thân tín đóng giữ thì mới khỏi lo ngại, liền phong cho thế tử Kích làm Trung Sơn quân. Thế tử Kích phụng mệnh ra đi, gặp Điền Tử Phương đang ngồi một cái xe cũ đi đến; thế tử Kích vội vàng xuống xe, chắp tay đứng ở bên đường. Điền Tử Phương cứ nghiễm nhiên đi thẳng, chẳng thèm ngoảnh lại. Thế tử Kích không băng lòng, sai người nắm xe lại mà bảo rằng:

– Tôi xin hỏi ngài: người phú qúi nên kiêu ngạo hay là người bần tiện nên kiêu ngạo ?

Điền Tử Phương cười mà bảo rằng:

– Từ xưa đến nay chỉ có người bần tiện mới dám kiêu ngạo, chứ người phú qúi khi nào dám kiêu ngạo! vua mà kiêu ngạo thì mất nước, quan mà kiêu ngạo thì mất nhà, xem như Sở Linh vương và Trí Bá thì đủ biết cái phú qúi không thể cậy được. Còn như người bần tiện, ăn chẳng qua rau dưa, mặc chẳng qua sô vải, thế nào cũng xong, còn phải cần ai! ông vua nào biết qúi kẻ sĩ mà đến mời, lại biết nghe điều phải chăng, thì mình cố gắng mà ở lại; nếu không bỏ hết mà đi thẳng ai mà cấm được ? Chu Vũ vương ngày xưa giết được Trụ mà không khuất được hai kẻ sĩ ở Thú Dương, thế thì cái bần tiện đáng qúi là dường nào!

Thế tử Kích có ý thẹn, xin lỗi rồi đi. Văn hầu nghe nói Điền Tử Phương không chịu khuất thế tử Kích, lại càng kính trọng lắm.

Bấy giờ chức thái thú ở Nghiệp Đô đang khuyết, Địch Hoàng nói với Văn hầu rằng:

– Nghiệp Đô ở giữa khoảng Thượng Đảng và Hàm Đan tiếp giáp với Hàn và Triệu, tất phải tìm người giỏi thì mới trấn thủ được. Tôi tưởng nên dùng Tây Môn Báo.

Ngụy Văn hầu cho Tây Môn Báo ra trấn thủ Nghiệp Đô. Tây Môn Báo khi mới đến Nghiệp Đô trông thấy phong cảnh tiêu điều, nhân dân thưa ít, liền triệu phụ lão đến để hỏi.

Phụ lão đều nói:

– Dân chúng tôi khổ về một nỗi Hà Bá lấy vợ!

Tây Môn Báo nói:

– Quái lạ! Hà Bá lấy vợ thế nào ? các ngươi nói rõ cho ta nghe.

Phụ lão nói:

– Sông Chương Phát nguyên từ Cô Lĩnh, qua Sa Thành chảy đến Nghiệp Đô này, gọi là Chương Hà. Hà Bá tức là thần sông Chương, thần thích vợ đẹp, mỗi năm bắt dân phải nộp một người. Chịu nộp thì mưa thuận gío hoà, hoa màu tươi tốt, nếu không thì thần phạt, dâng nước lên làm hại cửa nhà.

Tây Môn Báo nói:

– Đầu tiên ai bày ra việc ấy ?

Phụ lão nói:

– Bọn đồng cốt ở ấp tôi bày ra việc ấy đầu tiên. Dân chúng tôi sợ cái hại nước lụt, cho nên phải thuận theo. Mỗi năm các hào trưởng trong làng cùng bọn đồng cốt bảo cho dân phải nộp mấy trăm vạn quan tiền, dùng một phần làm phí tổn lấy vợ cho Hà Bá còn thì chia tay nhau.

Tây Môn Báo nói:

– Chúng nó chia tay nhau mà dân lại không nói câu gì hay sao ?

Phụ lão nó:

– Bọn đồng cốt thì để giữ việc cầu cúng, còn các hào trưởng trong làng có cái công thu bổ thì họ cũng phải ăn vào đấy, chúng tôi đâu dám phàn nàn! nhưng có một điều rất khổ là cứ về đầu năm, bọn đồng cốt thấy con gái nhà ai hơi có nhan sắc thì bảo người con gái ấy đáng làm vợ Hà Bá, có chịu lễ nhiều tiền thì họ mới tha, mà bắt người khác. Kẻ nào nhà nghèo, không có tiền lễ thì phải nộp con gái. Bọn đồng cốt lập một trại cúng ở bờ sông màn che trướng rũ, trang hoàng rực rỡ, bắt người con gái ấy tắm gội, thay áo rồi cho ở đấy, chọn được ngày tốt, đem người con gái ấy để ngồi vào cái bè lau, thả ra giữa dòng, bè trôi được độ vài mươi dặm thì tự khắc chìm mất. Dân chúng tôi khổ về những sự phiền phí ấy, cũng có người thương con gái quá, không muốn nộp cho Hà Bá thì đem con bỏ trốn đi, vì thế mà trong thành cảnh tượng mỗi ngày một vắng vẻ.

Tây Môn Báo hỏi:

– Ấp các ngươi đã bị lụt bao giờ chưa ?

Phụ Lão nói:

– Năm nào dân chúng tôi cũng chịu nộp con gái, cho nên thần không trách phạt bao giờ. Nhưng ấp chúng tôi đất cao mà đường xa, nước sông khó vận tới được, dẫu chẳng bị lụt mà mỗi khi hạn hán lại bị khô cháy cũng hại lắm.

Tây Môn Báo nói:

– Thần đã thiêng như vậy, hôm nào nộp con gái, để ta cũng đến, rồi ta sẽ cầu đảo cho các ngươi.

Khi tới kỳ, phụ lão đến bẩm. Tây Môn Báo đội mũ mặc áo nghiêm chỉnh, thân hành ra đứng ở bờ sông. Phàm những quan thuộc trong ấp, tam lão và các hào trưởng lý dịch đều đến tất cả. Dân kéo ra xem, kể hàng nghìn người. Bọn tam lão và hào trưởng đưa một bà già đồng ra, vẻ mặt kiêu hãnh. Các đệ tử con gái hơn mươi ngươi, khăn áo sặc sỡ, đều xách lẵng hương đi theo sau. Tây Môn Báo bảo bà già đồng ấy rằng:

– Dám phiền nhà ngươi gọi vợ Hà Bá ra đây cho ta xem mặt.

Bà đồng sai đệ tử gọi đến. Tây Môn Báo trông thấy người con gái ấy nhan sắc tầm thường, liền bảo bà đồng và tam lão rằng:

– Hà Bá là một bậc qúi thần, phải tìm người con gái rất đẹp thì mới xứng đáng. Người này không được. Ta phiền bà đồng đây xuống nói với Hà Bá rằng, vâng lời quan thái thú, xin đi tìm người con gái khác đẹp hơn, hôm sau sẽ nộp.

Nói xong liền sai mấy quân lính ôm bà đồng già ném xuống sông. Mọi người chung quanh, ai cũng kinh hãi mất vía. Tây Môn Báo cứ ngồi yên để đợi. Được hồi lâu, Tây Môn Báo nói:

– Bà đồng tuổi đã già, không được việc, xuống sông bấy lâu mà chưa thấy trở về trả lời. Các cô đệ tử nên đi giục hộ ta!

Tây Môn Báo lại sai quân ôm một cô đệ tử mà vất xuống sông. Được ít lâu Tây Môn Báo lại nói:

– Đệ tử đi mãi chưa về!

Nói xong, lại sai một đệ tử khác đi giục. Tây Môn Báo lại chê là chậm, lại bắt người nữa đi. Cả thảy ba đệ tử xuống sông đều không thấy trở về. Tây Môn Báo bèn nói với tam lão rằng:

– Bọn ấy đều là đàn bà, nói năng không rõ, phiền ta lão xuống hộ để cho được minh bạch.

Tam lão từ chối. Tây Môn Báo bèn quát to lên rằng:

– Đi mau! thế nào, về trả lời ngay cho ta biết!

Quân lính lôi ngay tam lão, đẩy xuống dưới sông, không cho ai nói năng gì nữa. Người xem chung quanh ai cũng khiếp sợ. Tây Môn Báo vẫn chấp tay đứng ở bờ sông để đợi, trông rất nghiêm kính. Một hồi lâu nữa, Tây Môn Báo lại nói:

– Tam lão già cả, cũng chẳng làm nên việc, lại phải phiền đến các hào trưởng mới được.

Bọn hào trưởng mặt như chàm đổ, mình nhường dẽ run, đều sụp lạy kêu van, không dám ngẩng cổ dậy. Tây Môn Báo nói:

– Hãy đợi một lúc nữa!

Mọi người đều run sợ. Lại quá một khắc nữa, Tây Môn Báo nói:

– Nước sông chảy cuồn cuộn, nào thấy Hà Bá ở đâu! chúng bay làm hại bao nhiêu con gái dân gian, cái tội ấy chúng bay phải đền mạng!

Mọi người lại sụp lạy mà kêu rằng:

– Xưa nay chúng tôi vẫn bị bọn đồng cốt nó lừa dối, chứ không phải là tội chúng tôi.

Tây Môn Báo nói:

– Bà đồng đã chết rồi, từ nay về sau nếu ai còn nói đến việc Hà Bá lấy vợ nữa thì bắt ngay người ấy làm mối, xuống nói với Hà Bá. Còn bọn hào trưởng kia thu bao nhiêu tiền của dân thì bây giờ phải đem trả lại hết.

Tây Môn Báo lại truyền cho phụ lão chọ những trai lành, người nào lớn tuổi mà chưa có vợ thì đem nữ đệ tử mà gả cho. Từ bấy giờ mất thói đồng cốt. Những dân đi trốn khi trước, lại đem nhau về cả. Tây Môn Báo lại xem xét địa thế, bắt dân đào mười hai cái ngoài thông với sông Chương để cho thế nước rút bớt đi. Các ruộng ở khoảng giữa, được nước ngòi chảy vào, tránh khỏi cái hại nắng khô, lúa má tốt lắm, trăm họ làm ăn vui vẻ. Văn hầu bảo Địch Hoàng rằng:

– Ta nghe nhà ngươi sai Nhạc Dương đánh Trung Sơn, sai Tây Môn Báo trị Nghiệp Đô đều được việc cả, ta lấy làm may lắm. Nay Tây Hà ở về phía tây nước Ngụy ta, tiếp giáp với nước Tần, quân Tần vẫn sang quấy nhiễu, nhà ngươi nghĩ hộ ta xem, người nào có thể ra trấn thủ ở đấy được ?

Địch Hoàng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp lại rằng:

– Tôi xin cử một người, họ Ngô tên Khởi. Người ấy có tài làm đại tướng, tự nước Lỗ chạy sang nước ta. Chúa công nên mau mau triệu đến mà dùng lấy, nếu chậm thì hắn lại đi nước khác mất.

Ngụy Văn hầu nói:

– Có phải Ngô Khởi là người giết vợ để cầu làm tướng nước Lỗ đó không ? ta nghe nói người ấy tham tài hiếu sắc, tính lại tàn nhẫn, dùng thế nào được ?

Địch Hòang nói:

– Tôi cử Ngô Khởi là vì người ấy có thể giúp nhà vua thành công được trong lúc này, còn phẩm hạnh của y có kể chi!

Ngụy Văn hầu nói:

– Nhà ngươi hãy thử triệu đến cho ta xem.

Chương 86: Ngô Khởi giết vợ cầu quan – Trâu Kỵ gẩy đàn làm tướng

Ngô Khởi vốn người nước Vệ, lúc bé còn ở trong làng, Ngô Khởi thường bị mẹ tránch mắng về tội du đãng, hay chơi nghề đánh gươm. Ngô Khởi cắn cánh tay chảy mắu ra mà thề với mẹ rằng:

– Từ nay trở đi, con xin từ giã mẹ, đi học phương khác. Nếu không làm nên khanh tướng, lên xe xuống ngựa, cờ mở trống giong, thì con quyết không về nước Vệ trông thấy mẹ nữa!

Người mẹ khóc mà bảo ở nhà. Ngô Khởi chẳng ngảnh cổ lại, cứ việc ra thẳng cửa bắc, đi sang nước Lỗ, xin học với Tăng Sâm, là học trò giỏi của Khổng Tử. Ngô Khởi ngày đem chăm chỉ, không quản khó nhọc. Quan đại phu nước Tề là Điền Cư đến nước Lỗ nghe nói Ngô Khởi là người ham học mới thử hỏi chuyện thì thấy ứng đối trơn tru như nước chảy liền gả con gái cho. Ngô Khởi học Tăng Sâm được mấy năm, Tăng Sâm biết là nhà Ngô Khởi còn có mẹ già, mới hỏi rằng:

– Ngươi đi học đã lâu ngày, mà không về thăm mẹ thì sao cho đành lòng ?

Ngô Khởi nói:

– Con đã thề rằng nếu không làm nên khanh tướng thì không trở về nước Vệ nữa!

Tăng Sâm nói:

– Đối với người khác thì mới nên thề, còn đối với mẹ thì thề sao được!

Từ bấy giờ Tăng Sâm có lòng ghét Ngô Khởi. Chưa được bao lâu, có tin đồn rằng mẹ Ngô Khởi đã chết, Ngô Khởi ngửa mặt lên trời kêu to ba tiếng, rồi lại chùi nước mắt mà đọc sách như thường. Tăng Sâm giận mà nói rằng:

– Ngô Khởi không về để tang mẹ, thế là người quên gốc! nước không nguồn thì tất phải kiệt, cây không gốc thì tất phải gãy, người mà không gốc thì sống sao đuợc! Ngô Khởi không phải là học trò ta!

Tăng Sâm sai học trò đuổi Ngô Khởi ra, không cho học nữa. Ngô Khởi bỏ đạo nho, đi học binh pháp. Trong ba năm, học đã thành nghề, mới xin làm quan ở nước Lỗ. Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu, thường cùng với Ngô Khởi bàn việc binh, biết Ngô Khởi là người có tài, bèn nói với Lỗ Mục công, dùng cho làm quan đại phu. Ngô Khởi đã có lương bỗng, mới mua nhiều tì thiếp để cầu vui. Bấy giờ quan tướng quốc nước Tề là Điền Hoà, muốn cướp nước Tề, nhưng sợ nước Lỗ thông gia mấy đời với Tề sẽ đem quân đến hỏi tội chăng, mới nhân cái thù ở Nghê Lang khi trước, mà sang đánh Lỗ, định dùng binh lực để làm cho Lỗ phải sợ. Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu nói với Lỗ Mục công rằng:

– Muốn lui quân Tề, không dùng Ngô Khởi không xong!

Lỗ Mục công chỉ ầm ừ ngoài miệng, lấy làm phải nhưng vẫn không chịu dùng. Đến khi nghe quân Tề đã chiếm mất Thành ấp, Công Nghi Hưu lại tâu rằng:

– Tôi đã nói Ngô Khởi nên dùng, sao chúa công không theo ?

Lỗ Mục công nói:

– Ta vẫn biết Ngô Khởi là người tài giỏi, nhưng hắn lại kết duyên với một người con gái họ Điền nước Tề. Tình người ta còn gì yêu hơn vợ chồng, tài nào hắn không có ý thiên vị. Bởi vậy mà ta ngần ngại chưa dám quyết.

Công Nghi Hưu cáo từ lui về. Ngô Khởi đã chờ ở tướng phủ mà hỏi rằng:

– Quân Tề kéo sang nhiều lắm, chẳng hay chúa công đã tìm được tướng tài chưa ? ngày nay tôi không dám khoe khoang mà tự tiến, nhưng chắc rằng nếu cho tôi làm tướng thì quân Tề chẳng còn một mống nào trở về được!

Công Nghi Hưu nói:

– Tôi đã nói đến hai, ba lần, nhưng chúa công thấy ông kết hôn với họ Điền, vì thế mà nghi ngờ không quyết.

Ngô Khởi nói:

– Muốn làm cho chúa công khỏi nghi ngờ, điều ấy thực rất dễ!

Ngô Khởi liền về nhà hỏi vợ là Điền Thị rằng:

– Người ta có vợ, qúi ở chỗ nào ?

Điền Thị nói:

– Qúi ở chỗ ngừơi vợ biết trông nom công việc cửa nhà để giúp cho chồng làm nên kia khác.

Ngô Khởi nói:

– Chồng làm đến khanh tướng, quyền cao chức trọng, nức tiếng thơm danh, thế mới thật là nên. Vợ có mong cho chồng được như thế không ?

Điền Thị nói:

– Có.

Ngô Khởi nói:

– Ta muốn cầu nàng một việc, nàng có giúp ta thì ta mới thành công được.

Điền Thị nói:

– Tôi là đàn bà, có đâu lại giúp được phu quân thành công.

Ngô Khởi nói:

– Nay quân Tề đánh Lỗ, vua Lỗ muốn cho ta làm tướng, chỉ vì ta kết hôn với nàng là dòng dõi họ Điền ở nước Tề cho nên ghi ngờ mà không dùng. Nếu ta được thủ cấp của nàng mà đem dâng vua Lỗ thì vua Lỗ không nghi ngờ nữa, ta mới làm nên công danh được.

Điền Thị kinh sợ, vừa toan mở miệng nói thì Ngô Khởi đã tuốt gươm chém đầu Điền Thị rơi xuống đất. Ngô Khởi lấy lụa bọc đầu Điền Thị đem vào yết kiến Lỗ Mục công mà tâu rằng:

– Tôi có lòng báo quốc, chỉ vì vợ tôi mà chúa công nghi ngờ, nay tôi chém đầu vợ tôi, để tỏ là người một lòng vì nước Lỗ.

Lỗ Mục công có ý không được vui nói rằng:

– Quan đại phu lầm rồi!

Được ít lâu thì Công Nghi Hưu vào yết kiến. Lỗ Mục công bảo Công Nghi Hưu rằng:

– Ngô Khởi giết vợ để cầu làm tướng, thế là tàn nhẫn hết nước, con người như thế thật là khó lường!

Công Nghi Hưu nói:

– Ngô Khởi không qúi vợ mà ham công danh, nếu chúa công bỏ mà không dùng thì tất hắn lại giúi Tề.

Lỗ Mục công nghe lời cho Ngô Khởi làm đại tướng, Tiết Liễu và Thân Tướng làm phó tướng, đem hai vạn quân ra đánh quân Tề. Ngô Khởi từ khi làm đại tướng, cơm ăn áo mặc cũng như các quân sĩ khác, nằm không giải nệm, đi không ngồi xe, trông thấy quân sĩ khiêng vác nặng nề, cũng đến làm hộ. Một tên quân có bệnh đau nhọt, Ngô Khởi thân hành chạy chữa thuốc thang, rồi ghé miệng hú mủ cho nó. Quân sĩ cảm cái ơn Ngô Khởi, khác nào như tình cha con, đều giay tay mắm miệng xin cố sức đánh giặc. Quan tướng quốc nước Tề là Điền Hoà đem đại tướng là Điền Kỵ và Đoản Bằng kéo quân thẳng tới phía nam nước Lỗ, nghe tin Ngô Khởi làm đại tướng nước Lỗ, cười mà bảo rằng:

– Người ấy là rể họ Điền, chỉ nghề hiếu sắc, có biết việc quân lữ là cái gì! nước Lỗ đến ngày suy đốn, cho nên mới dùng người ấy.

Đến khi hai bên đóng đồn giáp nhau, Điền Hoà không thấy Ngô Khởi ra khiêu chiến, mới mật sai người dò xem Ngô Khởi làm gì, thì Ngô Khởi đang cùng với một người hèn hạ nhất đám quân sĩ ấy giải chiếu xuống đất mà ngồi, chia canh cùng ăn. Sứ giả về báo. Điền Hoà cười mà nói rằng:

– Tướng có tôn nghiêm thì quân mới sợ, quân có sợ thì mới chịu cố sức đánh. Nay Ngô Khởi hành động như thế, còn dùng quân thế nào được, ta chẳng lo gì!

Điền Hoà lại sai Trương Sửu giả cách sang xin giảng hoà, để dò thám xem cach chiến thủ của Ngô Khởi ra làm sao. Ngô Khởi đem quân tinh nhuệ giấu ở phía ssau, rồi dàn những quân lão nhược ra, lại giả cách cung kính mà tiếp đãi Trương Sửu, Trương Sửu nói:

– Tôi nghe đồn tướng quân giết vợ đều cầu tướng, có phải thế không ?

Ngô Khởi sợ hãi mà đáp rằng:

– Tôi dẫu hèn mạt, cũng đã học ở cửa thánh, khi nào dám làm những việc bất tình như vậy! nội nhân tôi nhân khi mất vì bệnh, lại gặp có việc quân lữ, người ta nghe tin đồn bậy, chứ không phải là thực.

Trương Sửu nói:

– Nếu tướng quân còn nghĩ đến tình họ Điền thì xin cùng với tướng quân giảng hoà.

Ngô Khởi nói:

– Tôi đây là thư sinh, có đâu dám chống nhau với họ Điền, nếu cho giảng hoà thì chúng tôi thật mãn nguyện lắm.

Ngô Khởi mời Trương Sửu ở lại trong quân, uống rượu vui trong ba ngày, rồi mới cho về, tuyệt nhiên không nói gì đến việc binh. Khi Trương Sửu sắp đi, Ngô Khởi lại dặn đi dặn lại để nhờ Trương Sửu nói hộ. Trương Sửu cáo từ lui về. Ngô Khởi tức khắc điều binh khiển tướng, chia làm ba toán quân lên đường theo sang. Điền Hoà được tin Trương Sửu về nói, có ý khinh quân Ngô Khởi là lão nhược, không lo sợ gì cả. Bỗng nghe thấy tiếng trống vang rầm ở ngoài viên mon, quân Lỗ thình lình kéo đến, Điền Hoà kinh sợ, ngựa không kịp đóng yên, xe không kịp thắng ngựa, quân sĩ đều náo loạn. Điền Kỵ đem bộ binh ra nghênh chiến. Đòan Bằng truyền cho quân sĩ sửa soạn để tiếp ứng. Chẳng ngờ hai toán quân của Tiết Liễu và Thân Tướng ở hai bên tả hữu xông vào giáp chiến. Quân Tề thua to, người chết như rạ. Quân Lỗ đuổi theo mãi đến đất Bình Lục (đất nước Tề) mới trở về. Lỗ Mục công bằng lòng lắm, cho Ngô Khởi làm thượng khanh. Điền Hoà trách Trương Sửu về tội làm hỏng việc.

Trương Sửu nói:

– Tôi chỉ thấy như thế, nào ngờ đâu là Ngô Khởi đánh lừa.

Điền Hoà thở dài mà nói rằng:

– Ngô Khởi dụng binh, chẳng khác gì Tôn Vũ và Nhượng Thư thuở xưa. Nếu Lỗ cứ dùng hắn mãi thì nước Tề ta khó yên được, ta muốn sai một người sang Lỗ, mật cùng với Ngô Khởi giao thiếp để hai bên không xâm phạm nhau. Nhà ngươi có đi được không ?

Trương Sửu nói:

– Tôi xin liều mình sang Lỗ một phen, để chuộc lại cái tội trước.

Điền Hoà mới tìm hai người mỹ nữ và đem một nghìn nén hoàng kim, giao cho Trương Sửu. Trương Sửu giả cách làm lái buôn đem sang nước Lỗ, vào lễ riêng Ngô Khởi.

Ngô Khởi vốn là người tham tài hiếu sắc, thấy Trương Sửu đưa đến, liền nhận ngay rồi bảo Trương Sửu rằng:

– Nhà ngươi nói lại với quan tướng quốc nước Tề, nếu Tề không xâm phạm Lỗ thì khi nào Lỗ lại đánh Tề.

Khi Trương Sửu trở về, cố ý hở chuyện cho mọi người ở Lỗ Thành biết, vì thế mà mọi người đều huyên truyền việc Ngô Khởi ăn lễ của nứớc Tề. Lỗ Mục công nghe biết chuyện ấy, liền phàn nàn rằng:

– Ta đã biết Ngô Khởi là người bất trắc!

Lỗ Mục công toan cách chức và trị tội Ngô Khởi. Ngô Khởi sợ hãi, bỏ nhà trốn sang nước Ngụy, trọ ở nhà Địch Hoàng.

Gặp bấy giờ Ngụy Văn hầu đang bàn với Địch Hoàng, không biết sai ai đi trấn thủ Tây Hà cho được. Địch Hoàng mới tiến dẫn Ngô Khởi. Ngụy Văn hầu triệu Ngô Khởi vào, mà bảo rằng:

– Ta nghe tướng quân làm quan ở nước Lỗ, đã có công với Lỗ, cớ sao nay lại trốn sang nước ta ?

Ngô Khởi nói:

– Vua nước Lỗ nghe lời đứa du nịnh, không có lòng tin tôi, cho nên tôi phải trốn sang đây. Nay chúa công có lòng khiêm tốn, biết dùng kẻ sĩ, các người hào kiệt, ai cũng mến theo. Vậy tôi xin cầm roi mà theo hầu ở trước ngựa chúa công, nếu chúa công dùng thì dẫu thịt nát xương mòn, tôi cũng không dám hối hận.

Ngụy Văn hầu bèn phong cho Ngô Khởi làm quan trấn thủ ở Tây Hà. Ngô Khởi đến Tây Hà, sửa sang thành quách, luyện tập binh sĩ, hết lòng thương yêu kẻ dưới, cũng như khi còn làm tướng ở nước Lỗ. Lại đắp một cái thành để chống nhau với nước Tần, gọi tên là Ngô Thành.

Bấy giờ Tần Huệ công mất, thế tử Xuất lên nối ngôi. Nguyên Tần Huệ công là con Tần Giản công. Tần Giản công là chú Tần Linh công. Khi Tần Linh công mất, con là Sư Thấp, tuổi hãy còn nhỏ, triều thần mới lập Tần Giản công lên nối ngôi. Sau ba lần truyền ngôi đến thế tử Xuất, thì Sư Thấp đã trưởng thành. Sư Thấp nói với triều thần rằng:

– Nước Tần vốn là nước của thân phụ ta, ta có tội gì mà các người bỏ ta không lập ?

Triều thần không biết trả lời thế nào, mới cùng nhau giết thế tử Xuất mà lập Sư Thấp tức là Tần Hiến công. Ngô Khởi nhân khi nước Tần lắm việc, đem quân đánh lẻn, chiếm lấy năm thành. Nước Hàn và nước Ngụy thấy Ngô Khởi đánh đuợc nước Tần, đều đến chúc mừng. Ngụy Văn hầu khen cái công Địch Hoàng tiến dẫn được người giỏi, định cho Địch Hoàng làm quan tướng quốc, mới hỏi Lý Khắc. Lý Khắc nói:

– Không bằng cho Ngụy Thành là hơn.

Nguỵ Văn hầu gật đầu. Lý Khắc lui ra. Địch Hoàng đón mà hỏi rằng:

– Tôi nghe nói chúa công muốn chọn quan tướng quốc mà hỏi ý ông, chẳng hay ông có biết chúa công đã cho ai chưa ?

Lý Khắc nói:

– Chúa công đã định cho Ngụy Thành.

Địch Hoàng hầm hầm nổi giận mà nói rằng:

– Chúa công muốn đánh Trung Sơn, tôi tiến dẫn Nhạc Dương; chúa công lo không ai giữ đất Nghiệp, tôi tiến dẫn Tây Môn Báo; chúa công lo không có ai giữ Tây Hà, tôi tiến dẫn Ngô Khởi. Cớ sao tôi lại không bằng Ngụy Thành ?

Lý Khắc nói:

– Ngụy Thành tiến dẫn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương và Đoàn Can Mộc, kẻ làm thầy chúa công, kẻ làm bạn chúa công; còn những người của ông tiến dẫn thì chúa công chỉ dùng làm bề tôi được mà thôi. Ngụy Thành ăn lộc kể có nghìn chung, mà vẫn đem cái lộc ấy để đãi các người hiền sĩ; còn lộc của ông chỉ để nuôi vợ con mà thôi, ông ví với Ngụy Thành sao được!

Địch Hoàng sụp lạy hai lạy mà xin lỗi rằng:

– Tôi nói lỡ lời, từ nay xin theo làm đệ tử.

Từ bấy giờ nước Ngụy, tướng văn và tướng vũ đều có người giỏi cả, trong nước được yên ổn. Tướng quốc nước Tề là Điền Hoà thấy nước Ngụy cường thịnh, lại nghe tiếng Ngụy Văn hầu là người giỏi, thiên hạ ai cũng trọng, mới kết giao với Ngụy, rồi thiên Tề Khang công ra một nơi bãi bể, cấp cho một thành để lấy lương ăn, còn bao nhiêu thì Điền Hoà chiếm lấy tất cả. Lại sai sứ sang nói với Ngụy Văn hầu, nhờ tâu hộ với thiên tử nhà Chu, muốn viện cái lệ Tam Tấn, để cùng được phong làm chư hầu.

Chu Uy Liẹt vương đã mất, con là An vương (Kiêu) lên nối ngôi, lại càng suy nhược lắm. Bấy giờ tức là năm thứ 13 đời Chu An vương, Chu An vương theo lời xin của Ngụy Văn hầu, phong cho Điền Hoà làm Tề hầu, tức là Điền Thái công. Từ khi công tử Hoàn nước Tần chạy sang nước Tề, thờ Tề Hoàn công, làm quan đại phu, cả thảy mười đời, đến đời Điền Hoà thì chiếm được Tề, mà họ Khương ở nước Tề thành ra tuyệt tự.

Bấy giờ Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) đều đua nhau chọn người tài giỏi cho làm tướng quốc, vì thế mà quyền tướng quốc rất lớn. Tướng quốc nước Triệu là Công Trọng Liên, tướng quốc nước Hàn là Hiệp Luỹ. Nay hãy nói chuyện Hiệp Luỹ: khi Hiệp Lũy hãy còn hàn vi, cùng với người Bộc Dương (đất nước Vệ) là Nghiêm Toại, tên tự là Trọng Tử, cùng kết giao với nhau. Hiệp Luỹ nghèo mà Nghiêm Toại giàu. Hiệp Luỹ vẫn ăn nhờ Nghiêm Toại. Nghiêm Toại lại đem một nghìn nén vàng giúp cho Hiệp Luỹ, để Hiệp Luỹ có tiền mà đi du lịch các nước. Hiệp Luỹ nhờ thế mà sang được nước Hàn, làm quan đến tướng quốc.

Hiệp Luỹ đã cầm quyền chính nước Hàn, có tiếng là người cẩn trọng, không ai được vào yết kiến riêng bao giờ. Nghiêm Tọai sang nước Hàn, muốn vào yết kiến Hiệp Luỹ để nhờ Hiệp Luỹ tiến dẫn cho. Nghiêm Toại đợi hơn một tháng mà không được vào yết kiến, mới đem tiền bạc lễ đút các người cận thần để xin vào yết kiến Hàn Liệt hầu. Liệt hầu bằng lòng muốn trọng dụng. Hiệp Luỹ lại kể những điều dở của Nghiêm Toại, và bảo Hàn Liệt hầu không nên dùng.

Nghiêm Toại biết vậy, căm tức vô cùng, mới bỏ nước Hàn đi chu du thiên hạ, để đi tìm kẻ dũng sĩ đâm chết Hiệp Luỹ. Đi đến nước Tề, trông thấy trong đám đồ tể làm thịt trâu, có một người tay cầm cái búa lớn, đang bổ con trâu, nhát búa hạ đến đâu thì gân cốt trâu đứt phăng phăng ra đến đấy, mà người ấy không hề tỏ ý mệt nhọc chút nào. Cái búa thì nặng ước chừng hơn ba mươi cân. Nghiêm Toại lấy làm lạ đứng ngắm nghía kỹ người ấy thì thấy người ấy mình cao tám thước, mắt tròn râu vểnh, xương trán cao gồ, tiếng nói không giống tiếng người nước Tề.

Nghiêm Toại mới hỏi họ tên và lai lịch thì người ấy đáp rằng:

– Tôi họ Nghiếp, tên là Chính, vốn người nước Nguỵ, quê ở Chi ấp. Chỉ vì tôi hay thẳng tính cho nên đắc tội ở chốn hương thôn, phải đem mẹ và chị trốn sang đây, làm nghề đồ tể để kiếm ăn lần hồi cho qua ngày tháng.

Nhiếp Chính lại hỏi họ tên Nghiêm Toại. Nghiêm Toại cũng bảo thực cả, rồi cáo từ mà đi. Đến sáng hôm sau, Nghiêm Toại đội mũ mặc áo, đến tận nhà Nhiếp Chính, mời Nhiếp Chinh ra quán uống rượu. Uống rượu được ba tuần thì Nghiêm Toại đưa một trăm nén vàng để tặng Nhiếp Chính, Nhiếp Chính thấy Nguyên Toại cho nhiều như vậy, có ý lấy làm lạ , Nghiêm Toại nói:

– Tôi nghe nói ông có lão mẫu, vậy xin dâng của này để ông phụng dưỡng mẹ già.

Nhiếp Chính nói:

– Ông cho tiền để tôi phụng dưỡng lão mẫu tôi, thế thì tất ông có bụng muốn dùng tôi làm việc gì đó. Nếu ông không bảo rõ thì tôi quyết không dám nhận.

Nghiêm Toại mới kể hết đầu đuôi việc Hiệp Lũy phụ ân cho Nhiếp Chính nghe và nói muốn giết chết Hiệp Lũy để báo thù, Nhiếp Chính nói:

– Ngày xưa Chuyên Chư đã có câu rằng: “lão mẫu hãy còn thì không dám đem thân giúp ai cả”, vậy thì việc này cũng khó nghĩ lắm. Ông cho tôi quyết không dám nhận.

Nghiêm Toại nói:

– Tôi mến tấm lòng cao nghĩa của ông, xin kết làm anh em, khi nào dám trái tấm lòng hiếu duỡng của ông mà cầu nên việc riêng của mình!

Nhiếp Chính bất đắc dĩ mới phải nhận vàng, đem một nửa cho người chị là nàng Doanh, còn một nửa thì ngày nào cũng mua những của ngon vật lạ, phụng dưỡng bà mẹ. Được hơn một năm thì bà mẹ Nhiếp Chính chết. Nghiêm Toại đến khóc viếng, rồi lo việc tang lễ giúp Nhiếp Chính, khi an táng xong, Nhiếp Chính nói với Nghiêm Toại rằng:

– Cái thân tôi ngày nay, tức là cái thân của túc hạ đó. Túc hạ muốn dùng làm việc gì, tôi cũng không dám tiếc.

Nghiêm Toại mới hỏi cái kế để báo thù Hiệp Luỹ. Nhiếp Chính nói:

– Tướng quốc là một bực tôn qúi, ra vào lúc nào cũng có quân sĩ hộ vệ, ta phải dùng mưu mới xong, chứ không phải chỉ lấy sức khỏe mà làm được. Tôi xin giắt một con dao nhọn đi, rồi rình lúc bất ngờ mà đâm chết. nay tôi xin từ biệt túc hạ, không bao giờ lại trông thấy túc hạ nữa! mà túc hạ cũng không nên hỏi đến việc tôi làm.

Nhiếp Chính đến nước Hàn, ngủ ở ngoài thành, im lặng chờ đợi ba ngày, đến sáng sớm ngày thứ tư, đi vào trong thành, vừa lúc bấy giờ Hiệp Luỹ ở trong triều ra, xe xe ngựa ngựa, quân sĩ cầm giáo hộ vệ chung quanh, đi nhanh như bay. Nhiếp Chính theo đến tướng phủ. Hiệp Lũy xuống xe, vào ngồi trong phủ để xử quyết mọi việc. Từ cửa lớn vào đến thềm nhà, chỗ nào cũng có quân đứng cả. Nhiếp Chính đứng xa mà trông thì thấy Hiệp Lũy ngồi tựa một cái án thư, chung quanh có các người đang cầm giấy má đứng hầu bẩm rất đông. Một lúc thì các công việc xong, sắp sửa tan hầu; Nhiếp Chính nhân lúc Hiệp Lũy đang mỏi mệt, mới giả cách nói có việc cần kíp vào bẩm quan tướng quốc, rồi cứ việc ở ngoài cửa đi sấn thẳng vào.

Giáp sĩ, kẻ nào ngăn lại đều bị Nhiếp Chính gạt ngã hết cả. Nhiếp Chính vào thẳng công đường, rút dao nhọn đâm Hiệp Luỹ. Hịêp Lũy sợ chạy. Chạy chưa khỏi chỗ thì bị lưỡi dao đâm trúng vào bụng mà chết. Trong phủ náo động cả lên, đều kêu có giặc, quân sĩ đóng cửa phủ lại để bắt Nhiếp Chính. Nhiếp Chính đánh chết mấy người nữa, rồi liệu biết mình không thể ra thoát được, lại sợ người ta biết mình là ai, mới vội vàng cầm dao đâm nát mặt mình ra, khoét bỏ hai con mắt, rồi tự đâm cổ mà chết. Tức khắc có người phi báo Hàn Liệt hầu. Hàn Liệt hầu hỏi giặc là người nào, không ai biết cả, bèn truyền đem thây giặc chăng bày ra giữa chợ, rồi treo giải: hễ ai biết được họ tên và lai lịch người ấy mà cáo tỏ ra thì được thưởng một nghìn nén vàng. Giải treo trong mười ngày, kẻ đi người lại, đông như kiến cỏ, mà tuyệt nhiên chẳng ai biết cả. Việc ấy đồn đến nước Ngụy, người chị Nhiếp Chính ở làng Chi ấp tên là nàng Doanh, nghe được tin ấy thì liền lăn khóc mà nói rằng;

– Người ấy tất chỉ là em ta đó thôi!

Nàng Doanh bèn chít khăn trắng rồi đi sang nước Hàn, trông thấy thây Nhiếp Chính chăng bày giữa chợ, liền chạy đến ôm lấy mà khóc lóc rất thảm thương. Kẻ thị lại (chức coi chợ) bắt mà nói rằng:

– Nàng với người chết đó là thế nào ?

nàng Doanh nói:

– Người chết đó là em tôi, tên gọi Nhiếp Chính, tôi đây là chị ruột hắn, tên gọi là Doanh đó! em tôi nguyên ở Chỉ ấp vốn là người vũ dũng. Hắn biết việc đâm chết quan tướng quốc này là trọng tội, sợ di lụy đến tôi, nên khoét mắt rạch mặt ra để không ai nhận được, thế thì lẽ nào tôi lại tiếc thân tôi mà khiến cho em tôi mai một tên tuổi, chẳng ai biết đến hay sao !

Người thị lại nói:

– Người chết đó đã là em nàng thì tất nàng biết vì sao hắn dám làm càn như vậy. Nếu nàng nói rõ người nào xui giục hắn thì ta sẽ tâu với chúa công tha tội cho nàng.

Nàng Doanh nói:

– Tôi sợ chết thì đã không dám tới đây. Em tôi vì người khác báo thù mà không tiếc cái thân, đi giết một ông tướng quốc. Tôi không nói rõ tên người ấy ra thì làm mất cái tiếng của em tôi, mà nếu tôi nói rõ ra thì lại làm em tôi mất điều nghĩa.

Nàng Doanh liền đập đầu vào cái cột đá ở chợ mà chết. Thị lại vào báo với Hàn Liệt hầu. Hàn Liệt hầu ngợi khen, truyền đem thu táng cho nàng Doanh và Nhiếp Chính, rồi phong Hàn Sơn Kiên làm tướng quốc để thay Hiệp Lũy. Hàn Liệt hầu truyền cho con là Hàn Văn hầu, Hàn Vanhàu truyền cho Hài Ai hầu. Hài Ai hầu cùng với Hàn Sơn Kiên bất hoà với nhau. Hàn Sơn Kiên mới thừa cơ giết chết Hàn Ai hầu. Các quan đại thần lại cùng nhau giết Hàn Sơn Kiên mà lập con Hàn Ai hầu là Nhược Sơn, tức là Hàn Y hầu. Đến đời con Hàn Y hầu là Hàn Chiêu hầu, dùng Thân Bất Hại là tướng quốc. Thân Bất Hại tinh thông cái học “hình danh” vì thế mà nước Hàn được thịnh trị.

Lại nói chuyện năm thứ 15 đời Chu An vương, Ngụy Văn hầu ốm nặng, triệu thế tử Kích ở nước Trung Sơn về. Nước Triệu nghe tin thế tử Kích dời bỏ Trung Sơn, liền đem quân sang đánh mà chiếm lấy. Từ bấy giờ Ngụy và Triệu có hiền khích với nhau. Thế tử Kích về Ngụy thì Ngụy Văn hầu đã mất rồi, thế tử Kích mới làm chủ tang lên nối ngôi, tức là Ngụy Vũ hầu. Ngụy Vũ hầu phong Điền Văn làm quan tướng quốc. Ngô Khởi ở Tây Hà vào triều, vẫn tự đắc là mình có công to, thế nào cũng được làm tướng quốc, đến khi nghe nói Điền Văn đã được làm tướng quốc rồi thì hầm hầm nổi giận mà lui ra. Ra đến cửa triều, bỗng gặp Điền Văn. Ngô Khởi đón mà bảo rằng:

– Ông có biết cái công Ngô Khởi thế nào không ? hôm nay tôi xin nói cho ông nghe.

Điền Văn chắp tay mà đáp rằng:

– Vâng ! xin ông cho nghe.

Ngô Khởi nói:

– Làm tướng đem quân đánh giặc, khiến cho quân sĩ nghe tiếng trống mà có thể quên chết được, ông có bằng Ngô Khởi không ?

Điền Văn nói:

– Tôi không bằng!

Ngô Khởi nói:

-Trị trăm quan, yêu muôn dân, khiến cho kho tàng sung túc, ông có bằng Ngô Khởi không ?

Điền Văn nói:

– Tôi không bằng!

Ngô Khởi nói:

– Trấn thủ ở Tây Hà, mà quân Tần không dám xâm phạm đến bờ cõi, Hàn và Triệu đều phải kính phục, ông có bằng Ngô Khởi không ?

Điền Văn nói:

– Tôi không bằng!

Ngô Khởi nói:

– Ba điều ấy ông đều kém tôi, thế mà ngôi ông ở trên tôi là nghĩa là sao ?

Điền Văn nói:

– Tôi bất tài mà được ngôi cao, cũng lấy làm thẹn lắm, nhưng ngày nay tân quân hãy còn ít tuổi, các đại thần và trăm họ chưa có lòng tin theo, tôi chỉ vì là huân cựu đời trước mà được phong, thì tôi thiết tưởng lúc này không phải là lúc ta nên kể công vội.

Ngô Khởi cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp rằng:

– Ông nói cũng có lẽ phải! nhưng rồi đây ngôi tướng quốc thế nào cũng phải về tôi mới phải.

Nội thị nghe biết chuyện hai người ấy tranh công với nhau như thế, vào tâu với Ngụy Vũ hầu. Ngụy Vũ hầu biết Ngô Khởi có lòng oán vọng, mới lưu Ngô Khởi ở lại, mà chọn người khác sai đi trấn thủ Tây Hà. Ngô Khởi sợ Ngụy Vũ hầu giết, liền bỏ trốn sang nước Sở. Sở Điệu vương (Hùng Nghi) vốn nghe tiếng Ngô Khởi là người có tài, tức khắc cho làm quan tướng quốc. Ngô Khởi cảm cái ân ấy vô cùng, có ý hăng hái, muốn cố giúp cho nước Sở được cường thịnh, mới xin với Sở Điệu vương rằng:

– Nước Sở ta, đất rộng mấy nghìn dặm vuông, quân giáp sĩ kể có hơn trăm vạn, đáng lẽ thì đè ép được chư hầu mà nối đời làm minh chủ mới phải, thế àm nay vẫn không hơn được các nước là bởi chưa biết cái đạo nuôi quân. Cái đạo nuôi quân, trước hết phải cấp lương cho hậu thì họ mới chịu hết sức, nay trong triều có nhiều chức quan không cần, nhiều người họ xa của nhà vua cũng ăn hại của kho nhà nước, còn lương chiến sĩ thì cấp cho chẳng được bao nhiêu, thế mà muốn khiến cho họ phải vì nước liều mình, chẳng cũng khó lắm ư! nếu đại vương chịu theo kế tôi, thải bớt những chức quan không cần đi, giảm bớt lương những người họ xa đi, để đem bổng lộc mà cấp cho chiến sĩ, như thế mà nước không được cường thịnh thì tôi xin chịu tội chết.

Điệu vương theo kế ấy. Triều thần đều can không nên nghe lời nói của Ngô Khởi. Điệu vương không nghe, liền giao cho Ngô Khởi sửa lại quan chế, tước bỏ những chức quan không cần, kể hàng mấy trăm viên, con em các quan đại thần, không được dựa dẫm mà ăn lộc của nhà nước; lại định lệ cho những người trong công tộc từ năm đời trở lên thì phải đi làm ăn, cũng coi như dân thường vậy, còn từ năm đời trở xuống thì cân nhắc họ gần họ xa mà cho lương nhiều hoặc lương ít. Vì thế mà sổ chi tiêu mỗi năm dôi ra kể hàng mấy vạn. Rồi kén những quân tinh nhuẹ trong nước, sớm tối luyện tập, xét ai là người tài giỏi thì cho ăn nhiều lương, có người được tăng lương gấp mấy lần trước. Bởi thế mà quân sĩ đều có lòng ganh đua nhau, binh lực nước Sở mạnh hơn cả thiên hạ. Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) và Tề, Tần, nước nào cũng kinh sợ. Suốt đời Sở Điệu vương, không nước nào dám đem quân đến đánh. Đến khi Điệu vương mất, chưa kịp khâm liệm thì những con em các nhà qúi thích đại thần thừa cơ nổi loạn, định giết Ngô Khởi. Ngô Khởi chạy vào nơi cung tẩm. Chúng đem cung tên đuổi theo.

Ngô Khởi biết sức mình không địch nổi, mới ôm lấy thi thể Sở Điệu vương. Chúng giương cung ra bắn: cả thi thể Điệu vương cũng bị mấy mũi tên. Ngô Khởi kêu to lên rằng:

– Tôi dẫu chết cũng không dám tiếc, nhưng các ngươi căm tức đại vương mà bắn thi thể, thì cái tội đại nghịch bất đạo ấy,khi nào lại tránh khỏi vòng pháp luật nước Sở được!

Ngô Khởi nói xong thì chết. Chúng nghe lời Ngô Khởi nói, sợ mà ta ra. Thái tử Hùng Tang lên nối ngôi, tức là Sở Túc vương. Được hơn một tháng, Túc vương xét đến cái tội bắn thi thể Điệu vương, liền sai em là Hùng Lương Phu đem quân đi bắt bọn khởi loạn mà giết đi, cả thảy hơn bảy mươi nhà.

Lại nói chuyện Điền Hoà lên làm vua nước Tề, được hai năm thì mất. Điền Hoà truyền cho Điền Ngọ, Điền Ngọ truyền cho Điền Nhân Tề. Năm Điền Nhân Tề lên nối ngôi, tức là năm thứ 23 đời Chu An vương. Điền Nhân Tề cậy nước mình giàu mạnh, thấy Ngô và Việt xưng vương, sứ thần hai nước đi lại, đều dùng vương hiệu, thì cũng không chịu kém Ngô và Việt, mới tiếm hiệu xưng vương, tức là Tề Uy vương. Ngụy hầu nghe thấy nước Tề xưng vương, liền nói:

– Ngụy sao lại không bằng Tề!

Bấy giờ cũng tự xưng là Ngụy vương (tức là Lương Huệ vương)

Tề Uy vương từ khi lên làm vua, say đắm tửu sắc, lại ham mê âm nhạc, không nghĩ gì đến quốc chính. Trong khoảng 9 năm, Hàn, Ngụy, Lỗ, Triệu đều đem quân đến đánh, các tướng ở ngoài bờ cõi thường bị thua luôn. Một hôm có một người thư sinh, xin vào yết kiến tự xưng là họ Trâu, tên là Kỵ, nguyên người bản quốc, có biết gảy đàn cầm, nghe nói Tề Uy vương thích âm nhạc, nên tìm đến. Tề Uy vương cho triệu vào, mời ngồi, sai người đặt cái ghế ở trước mặt, rồi đưa cây đàn cầm ra. Trâu Kỵ lên dây đàn mà không gảy.

Uy vương hỏi rằng:

– Tiên sinh đã là người khéo gảy đàn cầm thì nên cho ta nghe một bài. Nay tiên sinh lên dây mà không gảy, dễ thường cái đàn này không được tốt chăng ? hay tiên sinh có ý chê ta không biết nghe đàn chăng ?

Trâu Kỵ đặt cây đàn cầm xuống, rồi nghiêm nét mặt mà đáp rằng:

– Tôi biết là biết cầm lý, còn như tiếng chỉ đường tơ là việc của bọn nhạc công, tôi dẫu biết cũng không đáng gảy hầu đại vương làm gì.

Uy vương nói:

– Cầm lý thế nào ? xin tiên sinh cho nghe.

Trâu Kỵ nói:

– Cầm tức là cấm, nghĩa là cấm chỉ những sự dâm tà thì mới giữ được chính đạo. Vua Phục Hi đời xưa chế ra đàn cầm, đàn cầm có năm dây, dây lớn là vua, dây nhỏ là bề tôi; đến đời Văn vương và Vũ vương, mỗi ngài lại thêm một dây nữa, để hợp cái tình ý vua tôi. Xem thế đủ biết rằng vua tôi có tương đắc nhau thì chính lệnh mới được hoà hợp, cái đạo trị nước cũng chẳng qua như thế mà thôi.

Uy vương nói:

– Tiên sinh nói phải lắm! nhưng tiên sinh đã biết cầm lý thì tất biết cầm âm, xin tiên sinh hãy thử gảy chơi một khúc.

Trâu Kỵ nói:

– Tôi họ đàn thì phải biết cái phép chơi đàn; đại vương lo việc nước, há lại không biết cái đạo trị nước hay sao ? nay đại vương bỏ nước mà không trị, có khác gì tôi ôm đàn mà không gảy hay không ? tôi ôm đàn mà không gảy thì đại vương không được thoả lòng, thế thì đại vương bỏ nước mà không trị, chắc là muôn dân cũng không được thoả lòng vậy!

Uy vuong ngạc nhiên nói rằng:

– Thế là tiên sinh mượn cây đàn để can ta đó! ta đã hiểu ý rồi.

Uy vương mời Trâu Kỵ lưu lại ở hữu thất. Đến ngày hôm sau, Tề Uy vương tắm gội sạch sẽ, rồi triệu Trâu Kỵ vào, cùng bàn việc nước. Trâu Kỵ khuyên Tề Uy vương tiết bớt những sự tửu sắc, tin dùng người trung lương mà trừ bỏ đứa gian nịnh, lại luyện tập quân sĩ để mưu nghiệp bá vương. Tề Uy vương bằng lòng lắm, tức khắc cho Trâu Kỵ làm tướng quốc. Bấy giờ có kẻ bịện sĩ là Thuần Vu Khôn, thấy Trâu Kỵ chỉ nói mấy câu mà được làm tướng quốc, có ý không phục, mới đem vây cánh sang yết kiến Trâu Kỵ. Trâu Kỵ tiếp đãi rất lễ phép. Thuần Vu Không ý khí kiêu căng, nghiễm nhiên ngồi ghế trên mà bảo Trâu Kỵ rằng:

– Tôi có thiển nghĩ được mấy điều, muốn giãi bày để quan tướng quốc nghe, chẳng biết có nên không ?

Trâu Kỵ nói:

– Xin cứ cho nghe.

Thuần Vu Khôn nói:

– Con không lìa mẹ, vợ không lìa chồng.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! từ nay chúng tôi không dám rời bên cạnh vua.

Thuần Vu Khôn lại nói:

– Dùng gỗ cức làm bánh xe lại bôi thêm mỡ trơn, thế thì trơn lắm rồi, nhưng nếu làm cái lỗ vuông thì cũng không thể nào mà chuyển vận được.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! tôi không dám làm điều gì trái nhân tình.

Thuần Vũ Khôn lại nói:

– Cán cung dẫu cứng đến đâu, cũng có lúc trễ; các dòng nước chảy ra bể, tự nhiên mà hợp.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! từ nay tôi phải yêu mến muôn dân.

Thuần Vu Khôn lại nói:

– Áo cầu lông chồn dẫu nát, không nên đem da chó mà vá vào.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! tôi xin kén chọn người giỏi mà dùng, không dám cho kẻ bất tài lẫn vào đó!

Thuần Vu Khôn nói:

– Trục bánh xe không so sánh từng phân từng thốn thì không dùng được; cầm sắt không so sánh dây hoãn dây cập thì không thành luật được.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng ! tôi xin sửa soạn pháp luật để giám sát những kẻ gian.

Thuần Vu Khôn nín lặng, sụp lay hai lạy rồi ra. Khi đã ra cửa, môn đồ của Thuần Vu Khôn hỏi rằng:

– Lúc tiên sinh mới vào yếtkiến quan tướng quốc thì sao tiên sinh đắc ý thế, mà đến lúc lui ra thì sao tiên sinh lại chịu khuất mà sụp lạy như vậy ?

Thuần Vu Khôn nói:

– Ta mới ngỏ ý thử năm điều, quan tướng quốc đều hiểu ý ta mà ứng khẩu trả lời ngay được, thế là một bậc đại tài, ta không thể theo kịp.

Từ bấy giờ các biện sĩ nghe tiến Trâu Kỵ, không ai dám đến nước Tề. Trâu Kỵ cũng nghe lời nói Thuần Vu Khôn, mà hết lòng lo việc chính trị, thường dò xét trong các bọn quan ấp để xem ai giỏi, ai không giỏi. Bấy giờ các quan đại phu trong triều ai cũng khen quan đại phu đất A, mà chê quan đại phu đất Tức Mặc. Trâu Kỵ nói với Tề Uy vương, rồi sai người đi dò xét xem sự thực thế nào. Khi đã dò xét được sự thực rồi, Uy vương cho triệu hai quan đại phu đất A và đất Tức Mặc đến. Quan đại phu đất Tức Mặc đến truớc, Uy vương chẳng nói gì cả, các quan trong triều đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao. Chưa được bao lâu, quan đại phu đất A cũng đến. Uy vương truyền họp tất cả thần lại để định thưởng phạt. Triều thần ai cũng nghĩ thầm rằng:

– Quan đại phu đất A phen này tất được trọng thưởng, mà đại phu đất Tức Mặc thì sắp có tai vạ đến nơi!

Khi các quan văn vũ vào triều kiến cả rồi, Uy vương gọi quan đại phu đất Tức Mặc đến trước mặt mà bảo rằng:

– Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ ở đất Tức Mặc, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời chê bai. Ta sai người đến dò xét đất Tức Mặc thì thấy ruộng nương mở rộng, nhân dân giàu có, việc quan không chậm trễ, cả một phương ấy được yên. Thế là bởi nhà ngươi chuyên lòng trị dân, mà không chịu lễ đút những người tả hữu của ta, thành ra bị họ chê bai đó. Nhà ngươi thật là một viên quan giỏi.

Nói xong, liền gia phong cho, rồi lại gọi quan đại phu đất A đến mà bảo rằng:

– Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ đất A, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời khen ngợi. Ta sai người đến dò xét đất A thì thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rét, hôm trước quân Triệu đến xâm lấn bờ cõi mà nhà ngươi không biết cứu. Thế là nhà ngươi chỉ đem của đút lót những người tả hữu của ta, thành ra được họ khen ngợi như vậy. Nhà ngươi thật là một viên quan rất dỡ.

Quan đại phu đất A sụp lạy xin đổi lỗi. Uy vương không nghe, truyền lực sĩ đem vạc dầu ra nấu lên. Vạc dầu đang sôi sùng sục, Uy vương sai trói quan đại phu đất A mà bỏ vào. Lại bắt cả những người xưa nay vẫn khen quan đại phu đất A mà chê quan đại phu đất Tức Mặc hàng mấy mươi người đến mà trách mắng rằng:

– Các ngươi đều là người tả hữu gần ta, tức là hai mắt của ta, các ngươi lại tham của ăn lễ, phải nói ra trái, trái nói ra phải, để lừa dối ra, thế thì ta còn dùng các ngươi được việc gì nữa! nên đem bỏ vào vạc dầu cả.

Chúng đều khóc lóc kêu van. Tề Uy vương vẫn còn hầm hầm nổi giận, chọn lấy hơn mười người, toàn là những người xưa nay mình có lòng thân yêu đem bỏ vạc dầu. Mọi người đều run sợ. Từ bấy giờ Tề Uy vương kén chọn những người hiền tài, cho đi trấn thủ các quận. Đàn Tử đi trấn thủ Nam thành để chống cự với Sở; Điền Miện đi trấn thủ Cao Đường để chống cự với Triệu; Kiếm Phu đi trấn thủ Từ Châu để chống cự với Yên. Còn quan tư khấu và tư mã, cũng đều chọn được người giỏi cả, vì thế mà trong nước cường thịnh, chư hầu đều phải kiêng. Uy vương đem đất Hạ Bì phong cho Trâu Kỵ mà bảo rằng:

– Làm thành được cái chí của ta là nhờ công nhà ngươi đó. Ta đặt tên cho nhà ngươi là Thành hầu.

Trâu Kỵ tạ ân xong lại tâu rằng:

– Trong ngũ bá thì Tề Hoàn công và Tấn Văn công là thịnh hơn cả, mà sở dĩ như thế, là nhờ về cái tiếng biết tôn thiên tử nhà Chu. Nay nhà Chu dẫu suy mà chín cái đinh vẫn còn, sao đại vương không vào triều thiên tử nhà Chu, để mượn cái uy lệnh thiên tử mà sai khiến chư hầu. Nếu được như vậy thì sự nghiệp của đại vương, cũng chẳng kém gì Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở trước.

Uy vương nói:

– Ta đã xưng vương, có lẽ nào Tề vương lại vào triều Chu vương!

Trâu Kỵ nói:

– Ta xưng vương nghĩa là để tỏ rằng ta hùng trưởng hơn như hầu, chứ không phải xưng vương để đối địch với thiên tử. Khi đại vương vào triều thiên tử, hãy tạm xưng Tề hầu, như thế thì thiên tử tất yêu cái đức khiêm cung của đại vương, mà gia phong cho đại vương vậy.

Tề Uy vương bằng lòng, tức khắc vào triều thiên tử nhà Chu. Bấy giờ là năm thứ 6 đời Chu Liệt vương, nhà Chu suy yếu, đã lâu không thấy các nước vào triều, nay thấy Tề Uy vương đến thì trên dưới đều vui vẻ mừng rỡ. Chu Liệt vương đem hết các đồ châu báu ra tặng cho Tề Uy vương. Khi Tề Uy vương từ nhà Chu trở về nước Tề, ai trông thấy cũng ca tụng là người có hiền đức. Bấy giờ thiên hạ có bảy nước lớn là Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Hàn, Yên và Tần. Bảy nước ấy đất rộng binh cường, đại lược đều nhau; còn các nước khác như nước Việt, dẫu có xưng vương, nhưng mỗi ngày một suy yếu, đến như Tống, Lỗ, Vệ và Trịnh thì lại càng không đáng nói đến. Từ khi Tề Uy vương làm bá chủ thì SỞ, Nguỵ, Hàn, Triệu và Yên, năm nước ấy đều chịu kém nước Tề, trong khi hội họp vẫn tôn nước Tề làm chủ minh, chỉ có Tần là một nước xa lánh về phía tây Nhung, các nước Trung quốc thường khinh bỉ, không hay thông hiếu.

Đời Tần Hiến công bỗng có mưa vàng trong ba ngày, quan thái sử nhà Chu tên là Thiên than rằng:

– Đất nước Tần nguyên là của nhà Chu chia cho, chỉ hơn trăm năm thì tất lại hợp, mà sẽ có đời nên nghiệp bá vương. Nay trời mưa vàng ở nước Tần, tức là cái điềm ấy đó!

Tần Hiến công mất, con là Tần Hiếu công lên nối ngôi. Tần Hiếu công lấy việc không được dự hội với Trung quốc làm xấu hổ, mới hạ lệnh cầu hiền. Lệnh rằng:

“Các tân khách và triều thần ai có mưu kế gì lạ làm cho nước Tần được cừơng thịnh thì ta xin dùng làm đại thần và phong cho đại ấp”.

Chương 87: Vệ Ưởng hết lòng giúp Hiếu Công – Quỉ Cốc truyền phép cho Tôn Tẫn

Người nước Vệ có Công Tôn Ưởng, vốn chuyên họ về “hình danh” thấy nước Vệ nhỏ yếu, không đủ thi thố tài năng của mình, mới bỏ nước Vệ đi sang nước Ngụy, muốn xin vào làm tôi quan tướng quốc nước Ngụy là Điền Văn. Bấy giờ Điền Văn đã mất, Công tôn Toạ thay làm tướng quốc. Vệ Ưởng (tức là Công tôn Ưởng) mới vào làm tôi Công Tôn Toạ. Công Tôn Tọa biết Vệ Ưởng là người có tài, liền nói với Ngụy Huệ vương cho làm chức trung thứ tử (tức là thuộc viên của quan tướng quốc). Mỗi khi có việc quan trọng thì Công Tôn Tọa la.i bàn với Vệ Ưởng. Vệ Ưởng nghị luận đều vỡ lẽ cả. Công Tôn Toạ có lòng yêu mến, muốn tiến dẫn làm quan to, nhưng chưa kịp tiến dẫn thì Công Tôn Tọa bị bệnh. Ngụy Huệ vương thân hành đến hỏi thăm, thấy Công Tôn Toạ bị bệnh nguy kịch lắm, chỉ còn thoi thóp hơi thở mà thôi.

Ngụy Huệ vương mới ứa nước mắt mà nói rằng:

– Chẳng may mà quan tướng quốc không khỏi thì ta biết giao việc nước cho ai được ?

Công Tôn Tọa nói:

– Giao cho thứ tử Vệ Uởng. Người ấy tuổi tuy còn trẻ, nhưng là một bậc kỳ tài đời nay. Nếu đại vương giao hết quốc chính cho người ấy thì thật hơn gấp mười tôi đó.

Ngụy Huệ vương nín lặng, Công Tôn Toạ lại nói:

– Nếu đại vương không dùng Vệ Uởng thì nên giết đi, chớ để cho hắn ra cõi, mà nước khác dùng được thì lại hại cho nước Nguỵ ta về sau này.

Ngụy Huệ vương nhận lời. Khi đã lên xe trở về, Ngụy Huệ vương mới thở dài mà nói rằng:

– Bệnh tình của tướng quốc đã nặng lắm rồi nên mới khuyên ta giao quyền cho Vệ Ưởng! quan tướng quốc lại bảo ta rằng: “không dùng thì phải giết đi!” chao ôi! Vệ Uởng làm gì nổi! tướng quốc, há không phải là ngài mê sảng hay sao!

Ngụy Huệ vương đi khỏi rồi, Công Tôn Toạ gọi Vệ Ưởng đến cạnh giường mà bảo rằng:

– Vừa rồi ta có nói với đại vương, để đại vương dùng nhà ngươi. Đại vương không nghe. Ta lại có nói: “Nếu không dùng thì nên giết đi!” đại vương nhận lời. Nay ta bảo thực với nhà ngươi, nhà ngươi nên mau mau mà trốn đi, kẻo có tai vạ.

Vệ Ưởng nói:

– Đại vương không biết nghe lời, quan tướng quốc mà dùng tôi, thì khi nào lại biết nghe lời quan tướng quốc mà giết tôi được!

Vệ Uởng không chịu đi trốn. Quan đại phu là công tử Cùng có quen Vệ Uởng, lại tiến dẫn với Ngụy Huệ vương. Ngụy Huệ vương cũng không biết dùng. Đến bấy giờ Vệ Uởng nghe tin Tần Hiếu công hạ lệnh cầu hiền, mới bỏ Ngụy sang Tần, xin vào yết kiến một người bế thần của Tần Hiếu công tên gọi Cảnh Giám. Cảnh Giám cùng với Vệ Uởng thương nghị việc nước, biết Vệ Uởng là người có tài, liền vào tâu với Tần Hiếu công. Hiếu công cho triệu vào, hỏi về đạo trị nước. Vệ Ưởng viện dẫn các đời vua như Hi, Nông, Nghiêu, Thuấn để trả lời. Vệ Uởng nói chưa hết lời thì Hiếu công đã ngủ mất rồi.

Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào yết kiến, Hiếu công trách mắng rằng:

– Vệ Uởng là một người gàn! hắn nói toàn những chuyện viển vông, không thể dùng đuợc, sao nhà ngươi lại tiến dẫn cho ta ?

Cảnh Giám lui về bảo Vệ Uởng rằng:

– Tôi đưa tiên sinh vào yết kiến chúa công, sao tiên sinh lại nói toàn những chuyện viển vông, không thể dùng được, khiến chúa công chán mà không muốn nghe ?

Vệ Uởng nói:

– Tôi đem đế đạo nói với chúa công, nhưng chúa công không hiểu, vậy ông hãy xin cho tôi vào yết kiến một lần nữa.

Cảnh Giám nói:

– Chúa công đã có ý không bằng lòng, tất phải để chậm độ năm ngày nữa thì mới nói được.

Quá năm ngày, Cảnh Giám lại vào tâu với Hiếu công rằng:

– Vệ Uởng chưa nói được hết lời, xin chúa công hãy cho vào yết kiến một lần nữa.

Tần Hiếu công lại triệu Vệ Uởng vào. Vệ Uởng giãi bày những công việc của Hạ Vũ và vua Thang, vua Vũ thuở xưa, Hiếu công vừa vẫy tay bảo lui ra, vừa nói rằng:

– Nhà ngươi thật là một người học rộng nhớ nhiều, nhưng cổ kim mỗi lúc một khác, nhà ngươi nói như thế thì dùng nhà ngươi làm sao được!

Cảnh Giám đứng chờ ngoài cửa, trông thấy Vệ Uởng ở trong cung đi ra, đón mà hỏi rằng:

– Ngày hôm nay thế nào ?

– Tôi đem vương đạo nói với chúa công, chúa công còn chưa bằng lòng.

Cảnh Giám nói:

– Ông vua dùng người khác nào kẻ đi săn dùng cái cung, chỉ mong sao cho sớm tối có lợi ngay. Nay tiên sinh bỏ cái lợi trước mắt mà đi nói những chuyện đế vương thì hợp ý chúa công thế nào được !

Vệ Uởng nói:

– Lúc trước, chưa hiểu ý chúa công thế nào, tôi sợ chúa công có chí cao mà tôi lại nói thấp chăng, vậy nên phải nói như thế để dò ý. Nay đã dò được ý rồi, giả sử tôi được yết kiến chúa công một lần nữa, thì lo gì mà không hợp.

Cảnh Giám nói:

– Tiên sinh hai lần vào yết kiến, mà đều nói trái ý chúa công tôi cả, khi nào tôi lại còn dám nói nữa khiến chúa công tôi nổi giận.

Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào triều tạ tội, không dám nói đến Vệ Uởng nữa. Khi Cảnh Giám về nhà Vệ Uởng lại hỏi rằng:

– Ông có tâu với chúa công, xin cho tôi vào yết kiến nữa hay không ?

Cảnh Giám nói:

– Tôi không tâu.

Vệ Uởng nói:

– Tiếc thay, chúa công có lệnh cầu hiền mà lại không biết dùng người hiền. Thôi, tôi cũng xin cáo từ thôi!

Cảnh Giám nói:

– Tiên sinh định đi đâu ?

Vệ Uởng nói:

– Chư hầu còn sáu nước lớn nữa, há lại không có một ông vua nào hiếu hiền hơn vua nước Tần sao ? mà há lại không biết được một người nào chịu hết lòng để tiến hiền hơn ông nữa hay sao ? tôi sẽ đi tìm một nơi như thế.

Cảnh Giám nói:

– Tiên sinh hãy thư thả, đợi trong năm ngày nữa, rồi tôi sẽ lại tâu.

Quá năm ngày nữa, Cảnh Giám đứng hầu Hiếu công. Hiếu công đang uống rượu, bỗng thấy chim hồng bay qua, liền dừng chén rượu mà thở dài. Cảnh Giám tâu rằng:

– Chúa công trông thấy chim hồng bay qua mà thở dài là ý làm sao ?

Hiếu công nói:

– Ngày xưa Tề Hòan công có nói:”Ta được Quản Trọng, khác nào như chim hồng có lông cánh”. Nay ta hạ lệnh cầu hiền, đã mấy tháng rồi, mà không được một người tài giỏi nào đến, khác nào như chim hồng có chí bay nhảy mà không được lông cánh giúp cho, bởi vậy mà ta buồn rầu.

Cảnh Giám tâu rằng:

– Vệ Uởng có ba thuật là “đế”, “vương”, “bá” khi trước vào yết kiến chúa công, đã nói thuật làm “đế” và thuật làm “vương”, nay còn thuật làm “bá” muốn xin nói nốt, chúa công thử bớt thì giờ nghe xem ra làm sao.

Hiếu công nghe nói đến thuật làm “bá” thấy thích hợp với sở nguyện của mình, liền sai Cảnh Giám đi triệu Vệ Uởng. Vệ Uởng vào. Hiếu công hỏi rằng:

– Nhà ngươi có ba thuật sao không nói trước cho ta nghe ?

Vệ Uởng nói:

– Không phải là tôi không muốn nói, nhưng bá thuật dùng với đế thuật và vương thuật khác nhau: đến thuật, vương thuật thì cốt thuận dân tình mà bá thuật thì tất phải trái dân tình mới được.

Hiếu công bỗng biến sắc, rồi chống thanh kiếm mà nói rằng:

– Bá thuật, cứ gì phải trái dân tình mới làm được ?

Vệ Uởng nói:

– Đàn cầm, đàn sắt không được êm ái, thì tất phải thay dây mà gióng lại. Chính trị cũng thế, không gióng lại thì không được. Tỉêu dân chỉ cần yên trong một lúc, mà không nghĩ gì đến cái lợi trăm năm cho nên không muốn tranh cãi. Ngày xưa Quản Trọng giúp Tề Hoàn công, đặt ra phép nội chính và phép quân lệnh, chia nước Tề làm hai mươi nhăm hướng, đổi hết pháp luật cũ nuớc Tề, đâu có phải bọn tiểu dân vui lòng mà theo! đến khi nước cường thịnh, thì dân mới biết Quản Trọn là một bậc đại tài trong thiên hạ.

Hiếu công nói:

– Nếu nhà ngươi thật có cái thuật như Quản Trọng, thì ta dám đâu không giao hết quyền chính cho nhà ngươi, nhưng chẳng hay cái thuật ấy như thế nào ?

Vệ Uởng nói:

– Nước có giàu thì mới dùng binh được, binh có mạnh thì mới phá giặc được. Nay muốn cho nước giàu thì không gì bằng ra sức cày ruộng, muốn cho binh mạnh thì không gì bằng luyện tập chiến trận; lấy trọng thưởng mà dụ dân thì mới biết theo, lấy trọng phạt mà trị thì dân mới biết sợ; thưởng phạt phải cho đúng, chính lệnh phải được mọi người tuân hành. Như thế mà nước không giàu, binh không mạnh thì còn có lẽ nào nữa!

Tần Hiếu công nói:

– Nếu vậy thì hay lắm! cái thuật ấy ta có thể theo được.

Vệ Uởng nói:

– Cái thuật giàu mạnh này, nếu không có người giỏi thì cũng không làm được. Đã được người giỏi, nhưng nếu mình không biết chuyên tâm để dùng người ta mà còn nghe người này người khác nói, đổi ý luôn luôn, thì cũng không làm được.

Hiếu công lại nói:

– Hay lắm!

Vệ Uởng xin lui ra.

Hiếu công nói:

– Ta đang muốn nghe cho hết cái thuật của nhà ngươi, sao nhà ngươi lại vội cáo từ làm vậy ?

Vệ Uởng nói:

– Hãy xin chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày xem nên chăng thế nào, bấy giờ tôi sẽ xin nói hết.

Khi Vệ Uởng lui về, Cảnh Gia’m lại trách rằng:

– Chúa công đã hai ba lần khen phải, sao tiên sinh không nhân dịp ấy mà giãi bày cho cặn kẽ, lại còn muốn cho chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày rồi mới chịu nói, thế chẳng hoá ra mình bắt bí chúa công hay sao ?

Vệ Uởng nói:

– Tôi xem ý chúa công chưa nhất định, nếu không làm như vậy thì e rồi lại đổi ý mà thôi!

Đến sáng hôm sau, Tần Hiếu công sai người đến triệu Vệ Uởng, Vệ Uởng từ chối rằng:

– Hôm qua tôi đã tâu với chúa công rồi, chưa được ba ngày thì tôi không dám vào yết kiến!

Cảnh Giám lại khuyên Vệ Uởng chớ từ chối. Vệ Uởng nói:

– Tôi vừa đính ước với chúa công mà nay đã thất tín ngay, thế thì sau này tôi còn thủ tín sao được ?

Bấy giờ Cảnh Giám mới chịu phục. Đến ngày thứ ba Hiếu công sai người đem xe đến đón. Vệ Uởng lại vào yết kiến, Hiếu công mời ngồi và xin lời chỉ giáo, xem ra ý tứ rất là khẩn thiết. Vệ Uởng mới kể hết những công việc nên thay đổi về chính trị nước Tần. Hai bên nói chuyện với nhau suốt trong ba ngày ba đêm, mà Hiếu công không chút mỏi mệt, liền cho Vệ Uởng làm chức tả thứ trưởng và thưởng cho năm trăm nén vàng. Lại hiểu dụ cho triều thần biết rằng từ nay trở đi, đều phải theo lệnh quan tả thứ trưởng là người có quyền định đoạt mọi việc chính trị trong nước, ai dám trái phạm thì sẽ trị tội như là chống với lệnh chỉ nhà vua. Triều thần đều sợ một phép. Vệ Uởng định hạ cái lệnh biến pháp, đã đem các điều khoản trình lên Hiếu công chủẩn y, nhưng sợ dân không tin theo, chưa dám thi hành, mới nghĩ ra một kế, đem một cây gỗ dài ba trượng, để ở cửa nam chợ Hàm Dương, rồi hạ lệnh rằng:

“Ai vác được cây gỗ này sang cửa bắc thì thưởng cho mười nén vàng”.

Người xem rất đông, mà ai cũng nghi ngờ không hiểu ra làm sao, không ai dám vác cây gỗ ấy cả. Vệ Ưởng nói:

– Không ai chịu nhận vác, hoặc còn chê ít tiền chăng ?

Nói xong, liền cải lệnh, thêm tiền thưởng thành năm mươi nén vàng. Nhân dân lại cànng nghi ngờ lắm. Sau có một người đứng ra mà nói rằng:

– Nước Tần ta xưa nay không có trọng thưởng như thế bao giờ, nay bỗng có cái lệnh ấy thì tất có kế nghị chi đây, nhưng dẫu không được cả năm mươi nén vàng nữa thì tất cũng phải được ít nhiều.

Người ấy nói xong, liền vác cây gỗ đem dựng ở cửa bắc. Khi người ấy vác cây gỗ đi thì trăm họ theo xem, đông như kiến cỏ. Người thị lại chạy vào nói với Vệ Uởng. Vệ Uởng gọi người vác gỗ vào mà khen rằng:

– Nhà ngươi thật là một người lương dân, biết theo lệnh ta.

Liền đem năm mươi nén vàng thưởng cho người ấy và bảo rằng:

– Ta quyết không bao giờ thất tín với dân trong nước.

Mọi người thấy vậy, đều bảo nhau:

– Quan tả thứ trưởng đã hạ lệnh gì thì quyết thi hành cho được, chứ không hề thất tín.

Ngày hôm sau, Vệ Uởng đem pháp lệnh mới ra ban bố. Đó là việc năm thứ 10 đời Chu Hiến vương. Pháp lệnh ấy như sau:

1. Định đô: Đất Hàm Dương là một nơi danh thắng ở nước Tần, núi quanh sông bọc, rất là hiểm trở, nay ta phải thiên đô sang đấy để định vương nghiệp.

2. Đặt huyện: Phàm những nơi thôn trấn trong nước, đều đặt làm huyện. Mỗi huyện đặt một viên lệnh thừa, để thi hành pháp lệnh mới. Ai trái lệnh thì tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt tội.

3. Mở đất: Phàm những đất bỏ hoang ở ngoài cõi, trừ những đường xe ngựa phải đi và những lối bờ ruộng không kể, còn thì bắt dân phụ cận tại đấy phải khai khẩn thành ruộng. Đợi khi đã thành thục rồi, bấy giờ thính theo từng bộ mà chia mẫu, để bắt phải nộp thuế. Cứ sáu thước là một bộ, hai trăm bốn mươi bộ là một mẫu. Nếu quá thước thì là gian dối, tịch biên ruộng mà sung công.

4. Định thuế: Phàm thuế ruộgn cứ chiếu từng mẫu mà thu, chứ không dùng phép “tỉnh điền thập nhất”. Bao nhiêu ruộng đều là quan điền cả, trăm họ không được riêng một thước một tấc nào.

5. Trọng giàu: Con trai phải cày ruộng, con gái phải dệt cửi. Ai cấy được nhiều thóc hoặc dệt được nhiều lụa thì gọi là lương dân, được miễn dịch trong một nhà. Người nào nghèo khổ quá thì thua vào lam nô bộc các nhà quan. Ai bỏ tro ra ngoài đường thì tức là lười biếng, không thiết việc làm ruộng, sẽ trị tội. Nghề làm thợ và nghề đi buôn thì đánh thuế nặng. Người nào có hai con trai thì phải phân dị, bắt nộp đinh tiền, nếu không phân dị thì phải nộp hai khoá.

6. Khuyến chiến: Cứ theo quân công mà định quan tước. Ai chém được một đầu giặc thì thưởng cho một cấp; ai lui một bước thì chém ngay. Kẻ có công nhiều thì được trọng thưởng xe và áo, tuỳ ý muốn hoa mỹ thế nào cũng được, không có hạn cấm. Kẻ nào vô công thì dẫu nhà giàu đến đâu cũng chỉ cho mặc quần áo vải mà thôi. Họ tôn thất, thân hay sơ đều tuy theo quân công nhiều hay là ít. Ra chiến trận mà không có công thì tứớc bỏ thuộc tịch đi, cũng coi như dân thường vậy. Phàm nhà dân có việc tranh đấu riêng thì vô luận phải hay trái đều bị chết chém.

7. Cấm gian: Cứ năm nhà gọi là bảo, mười nhà gọi là liên. Một nhà có lỗi thì chín nhà phải tố cáo, nếu không tố cáo thì mười nhà cùng phải tội chết chém ngang lưng. Ai biết cáo tỏ sự gian thì cũng coi như là đánh được quân giặc, cũng được trọng thưởng: cáo tỏ một đứa gian thì được một cấp. Các nhà hàng cơm cho người ngủ trọ, người trọ đều phải có giấy khám xét, nếu không thì không được cho trọ. Phàm dân, hễ một người có tội thì cửa nhà đều phải tịch biên sung công.

Pháp lệnh mới đã yết ra, trăm họ đều nghị luận sôi nổi, kẻ thì nói rằng bất tiện, người thì nói rằng tiện. Vệ Uởng sai bắt cả vào trong phủng mà trách mắng rằng:

– Các ngươi nghe lệnh, chỉ nên một lòng tin theo. Nói bất tiện là đứa ngang ngạnh, mà nói tiện cũng là đứa ô mị, đều không phải lương dân.

Vệ Uởng truyền biên lấy họ tên, đem đày ra ngoài biên cảnh tất cả. Quan đại phu là Cam Long và Đỗ Trí vì tội nghị luận pháp lệnh mới, đều phải giáng làm thứ dân. Từ bấy giờ mọi người đều khiếp sợ, không ai dám nói gì, trong khi đi đường chỉ đưa mắt nhìn nhau mà thôi. Vệ Uởng sửa sang cung khuyết ở đất Hàm Dương, rồi chọn ngày thiên đô. Thế tử Tứ không thuận và chê bai pháp lệnh mới.

Vệ Uởng nổi giận mà nói rằng:

– Pháp lệnh không thi hành được là bởi tự người trên. Nay thế tử là con nối vua, không thể gia hình được, nhưng nếu không trị tội thì thành ra trái phép.

Vệ Uởng liền tâu với Hiếu công, xin bắt tội quan thái sư và quan thái phó là thầy học của thế tử. Quan thái sư là công tôn Giả bị thích chữ châm vào mặt; quan thái phó là công tử Kiền bị cắt mũi. Trăm họ thấy vậy, đều bảo nhau rằng:

– Thế tử trái lệnh mà quan thái sư và quan thái phó còn phải gia hình, huống chi là người khác.

Vệ Uởng biết là lòng dân đã định, tức khắc thiên đô sang đất Hàm Dương, chia nước Tần là ba mươi mốt huyện, khai khẩn ruộng nương, tăng thuế được hơn năm trăm vạn. Vệ Uởng thường thân hành đến bến sông Vị, tra xét tù phạm trong một ngày mà giết hơn bảy trăm người, máu chảy đỏ cả nước sông Vị, tiếng khóc vang trời. Trăm họ ai cũng kinh sợ, đêm nằm ngủ thường giật mình, từ bấy giờ của bỏ rơi ở đường cái, cũng chẳng ai dám nhặt; trong nước không có trộm cướp; dân chỉ hăng hái về việc đánh giặc cho nước mà không ai dám tranh nhau về việc tư. Nước Tần giàu mạnh hơn các nước, bấy giờ đem quân đánh Sở, chiếm lấy đất Thương Ư. Lại mở được hơn sáu trăm dặm đất ở ngoài cửa Vũ Quan. Vua Hiển vương nhà Chu sai sứ phong cho Tần làm phương bá. Các nước đều đến chúc mừng.

Bấy giờ nước Ngụy xưng vương, có ý muốn thôn tính nước Hàn và nước Triệu, nghe tin nước Tần dùng Vệ Uởng, mới thở dài mà nói rằng:

– Tiếc thay, ta không biết nghe lời Công Tôn Toạ!

Bấy giờ bọn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương đều mất cả rồi. Ngụy Huệ vương mới chịu bỏ nhiều lễ vật để vời các hào kiệt bốn phương. Có người nước Trâu là Mạnh Kha, tên tự là Tử Dư, Mạnh Kha là họ trò Tử Tư (Khổng Cấp), mà Tử Tư là cháu đích tôn Khổng Tử. Mạnh Kha có chí muốn cứu đời, nghe tin Ngụy Huệ vương cầu hiền, mới tự nước Trâu đi sang nước Ngụy. Ngụy Huệ vương thân hành ra ngoài cõi để nghinh tiếp, rồi hỏi Mạnh Kha về cái đạo làm lợi cho đất nước.

Mạnh Kha nói:

– Tôi chỉ biết điều nhân nghĩa, chứ không biết có điều lợi.

Nguỵ vương cho lời nói ấy là viển vông, rồi không dùng.

Lại nói chuyện đất Dương Thành thuộc về địa phận nhà Chu, có một chỗ tên gọi là Quỉ Cốc (hàng quỉ), vì chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải là chỗ người ở. Trong núi ấy có một người ẩn sĩ, tự đặt hiệu cho mình là Quỉ Cốc tử. Tương truyền rằng người ấy họ Vương tên Hủ, người đời Tấn Bình công, nguyên trước ở Văn Mộng sơn, cùng với người nước Tống là Mặc Địch cùng hái thuốc tu đạo tại đấy. Mặc Địch không có vợ con gì cả, chỉ phát nguyện đi chu du thiên hạ, theo một chủ nghĩa kiêm ái mà cứu thế độ dân; còn Vương Hủ thì ẩn ở núi Quỉ Cốc. Người ta vẫn gọi là Quỉ Cốc tiên sinh. Quỉ Cốc tiên sinh là người thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn, không mấy người theo kịp.

Mấy môn học vấn ấy là: 1. Số học, nhật nguyệt tương vĩ đều thu cả ở trong bày tay, xem việc trước đóan việc sau, nói gì cũng linh nghiệm; 2. Binh học, lục thao tam lược, biến hoá vô cùng, bày trận hành binh, quỉ thần khôn biết; 3. Du thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn dương; 4. Xuất thế học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên.

Người ẩn sĩ ấy đã có cái thuật tu tiên như thế, làm sao còn khuất thân ở lại cõi trần ? Đó là vì tiên sinh còn muốn siêu độ cho mấy người đệ tử thông minh, cùng về tiên cảnh, cho nên mới mượn nơi Quỉ Cốc để nương mình. Ban đầu đôi khi Quỉ Cốc tiên sinh đi vào chợ, xem bói cho mọi người, nói những điều tốt, xấu, dữ, lành đều linh nghiệm cả, rồi dần dần có nhiều người mến cái thuật của tiên sinh, kéo nhau đến xin học, tiên sinh xem xét tư chất của từng người, ai học được thuật gì thì truyền thụ cho thuật ấy, có ý vừa để gây dựng lấy một số nhân tài để giúp việc cho bảy nước, vừa dò xem người nào có tiên cốt để cùng bàn việc lìa bỏ cõi đời trần tục mà đến một thế giới thanh cao. Tiên sinh ở đó không biết đã bao nhiêu năm, học trò đến học không biết có bao nhiêu người, ai đến cũng dung, mà ai bỏ đi cũng không giữ lại.

Trong số học trò, có mấy người được nổi tiếng cùng một lúc, là Tôn Tẫn, người nước Tề; Bàng Quyên, Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương. Tẫn và Quyên kết làm anh em, cùng học binh pháp, Tần và Nghi kết làm anh em cùng học du thuyết, mỗi đằng chuyên trị một môn học riêng.

Nói riêng về Bàng Quyên học binh pháp đã hơn ba năm, tự cho mình là giỏi lăm, một hôm đi xách nước, qua dưới chân núi, thấy người đi đường nói nước Ngụy xuất nhiều tiền của để chiêu hiền, cầu người làm tướng văn tướng võ, thì trong lòng khấp khởi, muốn giã từ Quỉ Cốc tiên sinh xuống núi đi đến nước Ngụy tỏ tài, lại sợ tiên sinh không cho, trong lòng trù trừ muốn nói mà không dám nói. Nhưng Quỉ Cốc trông mặt xét tình, đã thừa biết ý riêng của Bàng Quyên, bèn cười mà bảo rằng:

– Thời vận nhà ngươi đã đến, sao không xuống núi mà cầu lấy giàu sang ?

Bàng Quyên nghe lời thầy nói chính hợp ý mình, liền quì xuống mà nói rằng:

– Đệ tử cũng đã có ý ấy, nhưng không biết chuyến đi này có được hài lòng không ?

Tiên sinh nói:

– Nhà ngươi đi hái một cành hoa đem về đây để ta xem cho.

Bàng Quyên đi xuống núi tìm hoa. Bấy giờ là tháng sáu, khí trời nóng bực, các cây cối ít có hoa nở, Bàng Quên loanh quanh tìm mãi chỉ thấy một nhánh hoa cỏ, liền nhổ lấy cả gốc, toan đem về trình sư phụ, bỗng lại nghĩ thứ hoa này chất mềm thân yếu không phải là vật qúi giá, bèn quẳng bỏ xuống đất rồi đi tìm một hồi nữa, nhưng không sao tìm được thứ hoa nào khác, bất đắc dĩ lại đi đến chỗ cũ để nhặt lấy nhánh hoa đã quăng bỏ, bỏ vào trong tay áo, về nói với thầy rằng:

– Trong núi không có hoa.

Tiên sinh nói:

– Không có hoa thì cái gì ở trong tay áo nhà ngươi kia ?

Bàng Quyên không dấu được phải lấy ra đưa trình. Nhánh hoa ấy bị nhổ lên và bị phơi nắng, nên đã héo rũ. Tiên sinh nói:

– Nhà ngươi có biết tên thứ hoa này là gì không ? đó tức là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lân nó nở ra mười hai cái, như thế là sau này nhà ngươi cũng được vinh hiển mười hai năm. Hoa này hái ở hang Quỉ Cốc, thấy mặt trời thì héo, bên chữ “qui” có chữ “ủy”, nhà ngươi tất xuất thân ở nước Ngụy.

Bàng Quyên nghĩ thầm lấy làm lạ. Tiên sinh lại nói:

– Sau này nhà ngươi sẽ vì việc lừa dối người mà bị người ta lừa dối lại, cho nên phải lấy điều đó mà răn mình. Ta có tám chữ này, nhà ngươi nên nhớ lấy, đừng quên: “gặp dê thì tươi, gặp ngựa thì héo”.

Bàng Quyên lạy hai lạy rồi nói rằng:

– Lời giáo hối của tôn sư, đệ tử xin ghi lòng tạc dạ.

Khi ra đi, Tôn Tẫn tiễn xuống dưới chân núi, Bàng Quyên nói:

– Tiểu đệ cùng đại huynh có nghĩa kết giao, thề giàu sang có nhau, chuyến đi này nếu gặp bước tiến thân, tiểu đệ tất phải tiến cử Ngô huynh để cùng lập sự nghiệp.

Tôn Tẫn nói:

– Hiền đệ có giữ được như lời không ?

Bàng Quyên nói:

– Nếu tiểu đệ sai lời, sẽ phải chết ở dưới muôn mũi tên.

Tôn Tẫn nói:

– Đa tạ hậu tình, cần gì phải thề độ như thế!

Nói xong, hai người cùng gạt lệ chia tay. Tôn Tẫn trở về núi. Tiên sinh thấy Tôn Tẫn rơm rớm nước mắt bèn hỏi rằng:

– Bàng Quyên đi, ngươi nhớ tiếc lắm phải không ?

Tôn Tẫn nói:

– Nghĩ tình đồng học, sao khỏi nhớ tiếc nhau!

Tiên sinh nói:

– Ngươi bảo cái tài Bàng Quyên có đáng làm đại tướng không ?

Tẫn nói:

– Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, sao lại không làm được ?

Tiên sinh nói:

– Không làm được! không làm được!

Tôn Tẫn lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì, tiên sinh không nói. Đến hôm sau, tiên sinh bảo học trò rằng:

– Ban đêm ta rất ghét nghe tiếng chuột kêu, các anh phải thay nhau thức mà đuổi chuột cho ta.

Học trò vâng lời. Khi đến lượt Tôn Tiễn phải thức, tiên sinh bèn lấy ở dưới gối ra một cuốn sách, bảo Tôn Tiễn rằng:

– Đây là mười ba thiên binh pháp của ông nội ngươi là Tô Vũ tử, xưa kia ông ngươi đem dâng vua Hạp Lư nước Ngô, Hạp Lư theo dùng, phá tan được quân SỞ. Sau Hạp Lư tiếc quyển sách ấy, không muốn truyền bá cho mọi người, bèn làm ra một cái hòm sắt, để cuốn sách ấy vào cất giấu ở trong khe cột Cô Tô đài; từ khi quân Việt đốt đài, cuốn sách ấy chẳng còn ai biết đến nữa. Ta vốn có chơi với ông ngươi, được xem sách ấy, tự tay chú giải, những điều bí mật trong sự hành binh đều ở trong sách ấy; ta chưa từng cẩu thả giao cho ai, nay thấy ngươi có lòng trung hậu nên ta giao cho.

Tôn Tẫn nói:

– Đệ tử cha mẹ mất sớm, lại gặp lúc trong nước nhiều biến cố, họ hàng mỗi người đi mỗi nơi, dẫu biết tổ phụ có cuốn sách ấy, nhưng không ai truyền bảo cho, tôn sư đã có chú giải, sao không truyền cả cho Bàng Quyên, lại chỉ truyền riêng cho Tẫn này ?

Tiên sinh nói:

– Được cuốn sách này, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì làm hại to. Quyên không phải là người tốt, khi nào ta lại giao cho được.

Tẫn bèn đem về buồng nằm, ngày đêm nghiền đọc. Sau đó ba ngày, tiên sinh đòi lấy cuốn sách, Tôn Tẫn đem nộp, tiên sinh theo từng thiên hỏi lại, Tẫn đáp trôi chảy không sót một chữ nào, tiên sinh mừng mà nói rằng:

– Ngươi biết dụng tâm như thế, thì tổ phụ ngươi dù có qua đời, cũng như còn sống vậy.

Lại nói Bàng Quyên biệt Tôn Tẫn, đi thẳng đến nước Ngụy, đem binh pháp vào nói với quan tướng quốc là Vương Thác để hòng tìm cách tiến thân. Vương Thác tiến vào Huệ vương. Khi Bàng Quyên vào chầu, chính gặp lúc người nhà bếp dâng món dê hầm ở trước mặt Huệ vương, Huệ vương vừa cầm đũa xong. Quyên mừng nghĩ thầm rằng thầy ta nói gặp dê thì tươi, lời nói ấy quả không sai. Huệ vương thấy Bàng Quyên tướng mạo đường đường thì buông đũa đứng dậy đón chào. Bàng Quyên sụp lạy hai lạy. Huệ vương nâng dậy, hỏi về sở học, Quyên thưa rằng:

– Tôi học Quỉ Cốc tiên sinh, cũng có biết được cái tinh tuý của phép dùng binh.

Rồi chỉ vạch tâu bày, có điều gì đem ra nói hết. Huệ vương hỏi:

– Nước ta đông có nước Tề, tây có nước Tần, nam có nước Sở, bắc có nước Hàn, Triệu, Yên, đều ngang sức cả, mà nước Triệu cướp đất Trung Sơn của ta, thù ấy chưa báo, tiên sinh có kế gì giúp ta không ?

Bàng Quyên nói:

– Đại vương chẳng dùng tôi thì thôi, nếu dùng tôi làm tướng, thì đánh trận nào được trận ấy, đánh thành nào được thành ấy, có thể kiêm tính được cả thiên hạ lo gì sáu nước kia.

Huệ vương nói:

– Tiên sinh nói qúa, e rằng khó làm được như lời!

Quyên nói:

– Tôi tự lượng cái tài tôi,chắc có thể thu được sáu nước vào trong tay, nếu có sai lời, xin cam chịu tội.

Huệ vương bằng lòng lắm, cử ngay làm nguyên suý và kiêm chức quân sư, con trai Quyên là Bàng Anh, cháu là Bàng Thông, Bàng Mai, đều phong là tướng. Quyên luyện binh huấn võ, trước lấn các nước nhỏ là Vệ, Tống, thường thường đắc thắng. Vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ đều rủ nhau đến chầu. Lại gặp quân Tề lấn cõi, Quyên mang quân đánh lui được, tự cho là công to, hết sức khoe khoang.

Bấy giờ Mặc Địch đi ngao du các danh sơn, nhân qua Quỉ Cốc vào thăm bạn, gặp Tôn Tẫn cùng nhau đàm luận, đều hợp ý nhau lắm, bèn bảo Tẫn rằng:

– Anh học đã thành, sao không ra lập công danh, lại cứ ở chúi mãi nơi rừng núi ?

Tẫn nói:

– Tôi có người bạn học là Bàng Quyên ra làm quan ở nước Ngụy, có hẹn khi nào đắc chí, sẽ tiến dẫn nhau, vì vậy tôi phải chờ đợi.

Mặc Địch nói:

– Quyên đã làm tướng nước Ngụy rồi, vậy tôi xin vì anh đến nước Ngụy để xét xem ý Quyên thế nào.

Mặc Địch từ biệt, đi đến nước Nguỵ, nghe Bàng Quyên cậy tài, nói quá không thẹn, biết là không cố ý tiến dẫn Tôn Tẫn, bèn cứ ăn mặc quê kịch mà vào yết kiến Ngụy Huệ vương. Huệ vương vốn biết tiếng Mặc Địch, xuống thềm đón vào hỏi về binh pháp. Mặc Địch vạch ra những điều đại lược, Huệ vương mừng lắm, muốn giữ lại làm quan, Mặc Địch cố từ nói rằng:

– Tôi thì bản tính quê mùa, không quen mặc áo đội mũ. Tôi có biết người cháu Tôn Vũ tên là Tẫn, thực đáng tài đại tướng, tôi thực không bao giờ theo kịp, nay người ấy ở ẩn trong Quỉ Cốc, sao đại vương không cho triệu đến mà dùng ?

Huệ vương nói:

– Tôn Tẫn học ở Quỉ Cốc tức là đồng môn với Bàng Quyên, vậy nhà ngươi xem sức học của hai người, ai hơn ai ?

Mặc Địch nói:

– Tẫn cùng Quyên dẫu là đồng học, nhưng Tẫn riêng được các điều bí truyền của tổ phụ, dẫu cả thiên hạ cũng không ai đối địch được, nữa là Bàng Quyên!

Mặc Địch từ tạ ra đi, Huệ vương lập tức cho đòi Bàng Quyên vào hỏi rằng:

– Ta nghe người cùng học với khanh là Tôn Tẫn, được riêng binh pháp bí truyền của Tô Vũ tử, tài giỏi không ai bằng, sao khanh chẳng vì quả nhân triệu đến ?

Bàng Quyên nói:

– Hạ thần không phải là không biết tài của Tôn Tẫn, nhưng nghĩ Tẫn là người nước Tề, họ hàng đều ở nuớc Tề, nay làm quan với Ngụy, thì tất thế nào hắn cũng coi Tề hơn, vì vậy hạ thần không dám tiến cử.

Huệ vương nói:

“Kẻ sĩ chết cho người tri kỷ”, há cứ phải người bản quốc mới dùng được ư ?

Bàng Quyên nói:

– Đại vương đã muốn triệu Tôn Tẫn, hạ thần xin viết thư gọi đến.

Bàng Quyên dẫu không nói gì, nhưng trong lòng trù trừ, nghĩ thầm binh quyền nước Ngụy ngày nay ở trong tay mình, nếu Tôn Tẫn đến thì hắn sẽ cướp mất, nhưng Ngụy vương đã bảo thì thế nào cũng phải phụng mệnh, âul là đợi khi hắn đến sẽ lập kế, ngăn trở đường tiến dụng của hắn, lại càng hay. Nghĩ vậy rồi viết một phong thư trình Huệ vương xem, Huệ vương dùng xe tứ mã và nhiều vàng ngọc, sai người cầm phong thư của Bàng Quyên đi đến Quỉ Cốc đón Tôn Tẫn. Tôn Tẫn bóc thư ra xem, đại ý nói:

“Quyên nay nhờ bóng đại huynh, đến yết Ngụy vương thì được trọng dụng ngay. Mấy lời hẹn nhau trong khi từ biệt, vẫn ghi nhớ bên lòng, nay đã tiến cử đại huynh lên Ngụy vương, vậy xin đại huynh mau mau phó triều để cùng lập nên sự nghiệp”.

Tôn Tẫn đem thư trình lên Quỉ Cốc tiên sinh, tiên sinh biết Bàng Quyên đã được trọng dụng, nay có thư đến đón Tôn Tẫn, lại không có một chữ nào hỏi thăm thày, thực là người phụ bạc quên gốc, không đáng kể đến. Tiên sinh nghĩ rằng Bàng Quyên là người kiêu căng đố kỵ, nếu Tôn Tẫn đi thì hai người không thể dung nhau được, nhưng muốn bảo đừng đi, thì e phụ lòng Ngụy vương, thôi đành cứ để cho đi vậy, liền bảo Tôn Tẫn cũng đi lấy một cành hoa núi để bói cho xem tốt xấu thế nào. Bấy giờ là tiết tháng chín. Tẫn thấy cái bình ở trên án có cắm một cành hoa cúc, bèn rút lấy đem trình, rồi lại đem cắm giả ngay vào trong bình, Tiên sinh liền đoán rằng:

– Cành hoa này đã bị bẻ, không được hoàn hảo, nhưng tinh chịu rét, tuyết sương dầu dãi cũng không rụng, dẫu có bị tài hại cũng không hề gì, và cắm để trong bình, người đều qúi trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc nên, cùng một lòai với cái chung cái đỉnh, chắc rồi ra sẽ được danh tiếng lẫy lừng. Nhưng loài hoa này qua hai lần cất nhắc, rồi mới cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi nhất thời chưa thể đắc ý được, mà kết cục sẽ làm nên ở đất nước nhà mình. Vậy ta sẽ đổi chữ tên cho, có thể mong tiến thủ được!

Tiên sinh bèn đổi tên cho là “Tẫn”. Theo nghĩa chữ thì chữ “tẫn” là một thứ cực hình chặt chân. Quỉ Cốc tiên sinh đổi tên cho Tôn Tẫn như thế là biết trước Tôn Tẫn thế nào cũng bị chặt chân, nhưng cơ trời không dám tiết lộ cho ai biết.

Khi Tôn Tẫn ra đi, tiên sinh lại trao cho một cái cẩm nang, dặn kỹ hễ khi nào gặp việc nguy cấp quá mới được mở ra xem.

Tôn Tẫn lạy từ tiên sinh rồi theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, lên xe cùng đi.

Tô Tần, Trương Nghi đứng bên cạnh đều tỏ ý hâm mô, bàn riêng với nhau, rồi cũng xin về để lập công danh. Tiên sinh nói:

– Trong đời này thực hiếm có người thông minh. Lấy cái tư chất của hai người nếu chịu kiên tâm học đạo, thì có thể thành tiên, cớ sao còn muốn dấn mình vào chốn trần ai, cam để cho các danh lợi hão huyền bó buộc ?

Tần, Nghi đồng thanh đáp rằng:

– Gỗ tốt không chịu mục nát ở dưới tảng đá, gươm sắc không thể giấu kín trong hòm, tháng trọn ngày qua, thì giờ khôn chuộc, anh em tôi nhờ ơn thầy dạy bảo, cũng muốn the thời mà lập công danh hòng để tiếng lại đời sau.

Tiên sinh nói:

– Trong hai người, có người nào chịu ở lại làm bạn với ta không ?

Tần, Nghi đều muốn đi, không ai chịu ở lại. Tiên sinh ép không được, phàn nàn ở đời ít có người biết tu tiên, rồi bói cho mỗi người một quẻ, đóan rằng Tần trước lành sau dữ, Nghi trước dữ sau lành; Tần gặp gỡ ngày, còn Nghi thì sự nghiệp muộn màng, tiên sinh lại nói:

– Ta xem Tôn, Bàng hai người thế không dung nhau được, tất sẽ có việc làm hại nhau, còn hai người mai sau tưởng cũng nên nhường nhịn nhau để thành danh dự và giữ toàn cái tình đồng học ngày nay.

Hai người cúi đầu xin chịu lời dạy. Tiên sinh lại đem hai cuốn sách chia tặng hai người. Tần, Nghi cùng nhìn xem thì đều là cuốn Thái Công âm phù thiên, bèn nói rằng:

– Sách này đệ tử đọc thuộc lòng đã lâu, ngày nay tiên sinh lại ban cho, chẳng hay có dùng vào việc chi đựợc không ?

Tiên sinh nói:

– Các ngươi dẫu học thuộc rồi, nhưng chưa nhận được chỗ tinh vi, chuyến đi này nếu chưa đắc ý, thì nên đem sách này mà nghiền ngẫm lại, tất có bổ ích. Ta từ đây cũng đi tiêu dao ngoài bể, không còn ở lại nơi Quỉ Cốc này nữa.

Tần, Nghi từ biệt ra đi rồi, thì vài hôm sau, tiên sinh cũng bỏ Quỉ Cốc mà ngao du, có người nói tiên sinh đã lên tiên rồi.

Chương 88: Tôn Tẫn giả điên thóat nạn – Bàng Quyên bại trận Quế Lăng

Lại nói Tôn Tẫn khi đến nước Ngụy, ở trong phủ Bàng Quyên, tạ ơn Bàng Quyên đã tiến dẫn mình. Quyên có ý lên mặt. Tẫn lại thụât việc tiên sinh đổi tên mà là “Tần” ra “Tẫn”. Quyên nói:

– Chữ “Tẫn” có nghĩa không hay, sao lại đổi như thế ?

Tẫn nói:

– Tiên sinh đặt cho thế nào thì phải theo thế, không dám trái mệnh.

Ngày hôm sau hai người cùng vào triều yết Huệ vương, Huệ vương xuống thềm đón tiếp, tỏ ý cung kính lắm. Tẫn lạy mà tâu rằng:

– Hạ thần là kẻ dân hèn ở thôn dã, mà đại vương quá yêu, ban cho lễ đón mời,thật lấy làm xấu hổ lắm.

Huệ vương nói:

– Mặc Tử có nói tiên sinh được riêng bí truyền của Tôn Vũ, nên quả nhân khát vọng lắm, nay tiên sinh đã hạ cố đến, quả nhân xiết bao vui lòng.

Huệ vương bèn hỏi Bàng Quyên rằng:

– Quả nhân muốn phong tôn tiên sinh làm phó quân sư, cùng với khanh cùng giữ binh quyền, ý khanh nghĩ thế nào ?

Bàng Quyên nói:

– Hạ thần với Tôn Tử là bạn đồng song, Tẫn là bậc anh của hạ thàn, lẽ nào hạ thần lại để cho anh làm phó chi bằng hãy tạm bái Tôn Tẫn làm khách khanh, đợi khi Tôn Tẫn lập được công hạ thần sẽ xin nhường chức, chịu ở dưới quyền.

Huệ vương chuẩn tấu, liền bái Tôn Tẫn làm khách khanh, cho ở phủ riêng cũng xấp xỉ với Bàng Quyên. Chức khách khanh nghĩa là coi như khách, không coi làm tôi, cái ý Bàng Quyên muốn mượn cớ ấy để một mình giữ lấy binh quyền, không chia cho Tôn Tẫn, tuy tử tế mà thực là thâm hiểm. Từ đó Tôn, Bàng năng đi lại với nhau. Bàng Quyê nghĩ thầm Tôn Tẫn đã có bí truyền, chưa thấy thổ lộ, cần phải dụng ý dò hỏi mới được, bèn đặt tiệc mời Tẫn; trong lúc uống rượu cùng nói về binh cơ, Tôn Tẫn đáp được câu nào, Quyên bèn giả cách hỏi rằng:

– Những điều ấy có phải ở trong binh pháp Tôn Vũ tử đó không ?

Tôn Tẫn đáp phải, Quyên nói:

– Ấy trước đệ cũng được tiên sinh truyền thụ cho, nhưng vì không dụng tâm, nên quyên hết cả; nay xi cho mượn để xem lại, thì cám ơn vô cùng.

Tẫn nói:

– Sách ấy do tiên sinh chú giải rõ ràng, khác với nguyên bản; tiên sinh chỉ cho mượn xem ba ngày rồi đòi lại, và cũng không có bản sao.

Quyên hỏi:

– Ngô huynh có còn nhớ không ?

Tẫn nói:

– Tôi cũng còn nhớ lõm bõm.

Quyên muốn được Tẫn truyền bảo cho, nhưng chưa dám nói ngay. Cách đó mấy ngày, Huệ vương muốn thử tài Tôn Tẫn, bày cuộc duyệt võ ở giáo trường, bảo Tôn, Bàng cùng diễn binh pháp. Những trận của Bàng Quyên bày, Tẫn xem qua, nói ngay được là trận ấy trận nọ, trận nào nên phá bằng cách nào. Đến khi Tẫn bày trận, thì Quyên mờ mịt không biết, hỏi thăm Tẫn là trận gì, Tẫn nói đó là trận “điên đảo bát môn”. Quyên lại hỏi trận ấy có biến hoá không, Tẫn nói nếu đánh thì nó biến ra trận “trường xà”. Quyên liền lẻn đến tâu với Huệ vương, đến khi Huệ vương hỏi lại Tôn Tẫn, thấy nói đúng như lời Quyên, mới tin rằng tài Quyên cũng không kém gì Tẫn, trong lòng càng mừng. Chỉ có Quyên sau khi về phủ, nghĩ thầm tài Tẫn thực hơn mình, nếu không trừ đi, tất có ngày sẽ bị đè bẹp, bèn bày ra một kế, trong lúc cùng Tẫn họp mặt, mới hỏi rằng:

– Họ hàng đại huynh đều ở nước Tề, nay đại huynh đã làm quan nước Ngụy, sao không cho đón cả đến đây, để cùng hưởng phú qúi ?

Tẫn chảy nước mắt nói rằng:

– Đại huynh chưa rõ cái cảnh khổ nhà tôi, tôi lên bốn đã mồ côi mẹ, lên chín đã mồ côi cha, nhờ ông chú là Tôn Kiều nuôi cho; chú tôi làm quan với Tề Khang công, sau Điền Thái công đuổi Khang công ra bể, các bề tôi phần nhiều bị giết, họ hàng tôi tan đi mỗi người mỗi nơi. Chú tôi và hai anh họ tôi là Tôn Bình, Tôn Trác, đem tôi chạy sang đất nhà Chu lánh nạn, vì gặp năm mất mùa, lại cho tôi đi làm thuê ở một nơi, thế là từ đó tôi bị lưu lạc một mình. Sau tôi lớn lên, nghe nói Quỉ Cốc tiên sinh đạo cao học rộng, liền một mình đến xin học, từ đó dẫu đến quê quán cũng chẳng còn được biết tin gì nữa là họ hàng.

Quyên lại hỏi:

– Vậy thì đại huynh có còn tưởng nhớ đến phần mộ ông cha ở quê hương không ?

Tẫn nói:

– Người ta không phải cỏ cây, khi nào lại quên được gốc rễ. Khi tôi ra đi, tiên sinh cũng nói là kết cục sẽ lập công danh ở quê hương cũ, nhưng nay tôi đã làm tôi nước Ngụy, thì việc đó không nên nói đến nữa.

Bàng Quyên giả ý nói rằng:

– Đại huynh nói phải lắm, đại trượng phu tuỳ chốn lập công, cần gì cứ phải quê hương cũ.

Cách đó nửa năm, Tôn Tẫn đều quên những lời đã nói,một hôm đi chầu về, bỗng có một người nói tiếng Sơn Đông, xưng tên là Đinh Át, quê ở Lâm Tri. Y nói rằng y cầm một phong thư đến Quỉ Cốc đưa cho Tẫn, nhưng đến đó nghe Tẫn đã ra làm quan với Ngụy, nên phải đến đây. Nói xong đưa phong thư ra, Tẫn đón lấy bóc ra xem, trong thư đại ý kể lể gặp lúc không may, nhà cửa lìa tan, anh em mỗi người một nơi, nay nhờ vua Tề thương hại, triệu về làng cũ, nên muốn gọi Tẫn trở về để anh em được họp mặt và khôi phục lại cơ nghiệp nhà. Tẫn thấy lá thư của hai anh, cảm động quá phát khóc, rồi khoản đãi Đinh Át và viết một phong thư trả lời, nhờ đưa lại cho hai anh, trong thư đại ý nói dẫu nhớ quê hương, nhưng đã làm quan với Ngụy, chưa có thể về được, đợi bao giờ lập nên công danh, bấy giờ sẽ liệu về. Đinh Át nhận phong thư và một đĩnh vàng của Tẫn cho làm hộ phí, từ tạ ra đi. Ai ngờ tên Đinh Át ấy chẳng phải là khách buôn, chính là tên Từ Giáp của Quyên sai giả mạo để đánh lừa và làm hại Tẫn đó. Số là Quyên nhân đã hỏi biết cảnh nhà của Tẫn, liền mạo viết một bức thư của Tôn Bình, Tôn Trác, rồi sai Tử Giáp giả là Đinh Át, đến đưa cho Tẫn. Tẫn tin là thực, viết thư trả lời, Quyên liền bắt chước tự dạng, viết thêm vào bên dưới mấy câu, nói:

“Em dẫu làm quan với Ngụy, nhưng nghĩ đến nước cũ, lòng riêng vẫn canh cánh khôn khuây. Bất nhật em sẽ liệu về để lại được cùng nhau sum họp, nếu vua Tề có lòng yêu mến mà dùng, thì em xin hết sức giúp”.

Rồi Quyên lập tức vào chầu Ngụy vương, đuổi các người hầu ra chỗ khác, dâng trình bức thư ấy, nói rõ là Tôn Tẫn có lòng phản Ngụy theo Tề, tư thông với Tề, Quyên dò biết sai người chẹn đường nên bắt được bức thư này.

Huệ vương xem xong nói rằng:

– Tôn Tẫn lòng nhớ nước cũ, có lẽ nào cho là quả nhân chưa trọng dụng, chưa thi thố được hết tài năng ?

Bàng Quyên nói:

– Tổ phụ Tẫn là Tôn Vũ làm đại tướng nước Ngô, về sau cũng về lại với nước Tề; quê cha đất tổ, ai là người quên được. Đại vương dẫu trọng dụng Tẫn, mà lòng Tẫn đã quyến luyến nước Tề, tất không khi nào chịu vì Ngụy ra sức Tài Tẫn không kém gì hạ thần, nếu nước Tề dùng Tẫn làm tướng tất sẽ cùng Ngụy tranh hùng, đó là một điều lo lớn cho đại vương sau này, chi bằng đại vương nên giết quách đi.

Huệ vương nói:

– Tôn Tẫn vì nhận lời quả nhân mời mà đến đây, nay tội trạng chưa rõ mà vội giết đi, e rằng thiên hạ sẽ chê trách quả nhân là khinh kẻ sĩ chăng ?

Quyên thưa rằng:

– Đại vương nói rất phải, hạ thần xin khuyên dỗ Tôn Tẫn, nếu hắn chịu ở lại nước Ngụy, thì đại vương sẽ cho quyền cao chức trọng, bằng không thì đại vương sẽ giao cho thần nghị tội, hạ thần sẽ có cách khu sử.

Bàng Quyên vái Từ Huệ vương lui ra, đi đến ngay phủ Tôn Tẫn hỏi rằng:

– Nghe nói đại huynh nhận được thư nhà gửi đến phải không ?

Tôn Tẫn vốn lòng thực thà liền đáp rằng có, rồi thuật lời trong thư của hai anh mong mỏi mình mau trở về quê hương.

Bàng Quyên nói:

– Đi lâu nhớ nhà, thường tình ai chẳng thế, sao đại huynh chẳng vào chầu Ngụy vương, xin phép lấy một hai tháng về thăm phần mộ, rồi sau lại đến.

Tẫn nói:

– E đại vương sinh lòng ngờ mà không cho phép chăng ?

Quyên nói:

– Anh cứ xin, tôi sẽ giúp.

Tẫn xin vâng, và nhờ Quyên nói hộ. Ngay đêm ấy, Quyên vào nói với Huệ vương rằng:

– Hạ thần đã hết lời khuyên dỗ mà Tẫn không chịu ở, lại có lời oán vọng, nếu hắn có dâng biểu xin phép nghỉ, đại vương nên kể cái tội tư thông với sứ Tề.

Huệ vương gật đầu. Hôm sau quả nhiên Tôn Tẫn dâng biểu xin nghỉ hơn một tháng để về nước Tề thăm mộ. Huệ vương xem tờ biểu nổi giận, phê ngay mấy câu ở bên dưới rằng:

“Tôn Tẫn tư thông với xứ Tề, ngày nay cáo về, rõ ràng có ý phản Ngụy, thực đã phụ lòng uỷ nghiệm của quả nhân, nên cách bỏ quan tước, giao cho phủ quân sư hỏi tội”.

Ty quân chính phụng mệnh, lập tức bắt Tôn Tẫn đến phủ quân sư, Bàng Quyên trông thấy giả cách sợ hãi hỏi rằng:

– Đại huynh làm sao mà đến nỗi này ?

Ty quân chính tuyên mệnh Huệ vương, Bàng Quyên lĩnh chỉ xong, liền bảo Tẫn rằng:

– Đại huynh gặp cái điều oan ức này, tiều đệ sẽ vào chầu, hết sức đảm bảo cho đại huynh.

Nói xong, đi ngay vào triều, tâu với Huệ vương rằng:

– Tôn Tẫn dẫu có tội tư thông với Tề, nhưng tội ấy chưa phải là tội chết; cứ như ý ngu của hạ thần, chi bằng ta chặt chân Tẫn và thích chữ vào mặt Tẫn khiến Tẫn thành người tàn phế, suốt đời không thể trở về đất cũ; như thế ta vừa được toàn mệnh cho hắn, vừa không có sự lo về sau.

Huệ vương khen phải, Bàng Quyên trở về phủ, bảo Tôn Tẫn rằng:

– Đại vương giận lắm, muốn xử cực hình, tiểu đệ phải kêu mãi và hết sức đảm bảo, mừng cho đại huynh được toàn tính mệnh, nhưng đại huynh phải chặt chân, và thích chữ vào mặt, đó là theo pháp luật nước Ngụy, không phải là tiểu đệ không hết sức kêu xin.

Tôn Tẫn nói:

– Tiên sinh đã nói dẫu Tẫn này có bị tàn hại nhưng cũng không phải là việc đại hung, nay được toàn tính mệnh như thế này, là nhờ ơn đại huynh, Tẫn này không dám quên báo.

Bàng Quyên bèn sai đao phủ trói Tôn Tẫn lại, chặt bỏ hai xương bánh chè ở hai đầu gối. Tẫn kêu rú lên một tiếng rồi ngã lăn ra mê mẩn không biết gì, hồi lâu mới tỉnh; kẻ hành hình lại dùng kim châm vào mặt Tẫn bốn chừ “tư thông ngoại quốc”, rồi lấy mực bôi vào. Bàng Quyên giả ý giả kêu khóc, lấy thuốc dịt đầu gối, dùng lụa quấn bọc, sai người khiêng ra thư quán, dùng lời nói ngon ngọt để an ủi. Chừng hơn một tháng, Tôn Tẫn vết đau đã liền, nhưng vì mất xương bánh chè, hai chân yếu đuối không đi lại được, chỉ xếp vòng tròn mà ngồi. Tôn Tẫn đã thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn Bàng Quyên cung ba bữa, rất lấy làm buồn. Bàng Quyên bèn nhờ Tôn Tẫn truyền cho những bài của Quỉ Cốc tiên sinh chú giải binh pháp của Tôn Vũ tử, Tẫn khảng khái nhận lời. Quyên đưa thẻ gỗ nhờ Tẫn viết ra. Tẫn viết mười phần chưa được một. Quyên sai một tên người hầu là Thành Nhi ở hầu hạ bên cạnh Tẫn, tên này thấy Tẫn vô tội bị oan, có ý thương xót. Một hôm, bỗng Quyên cho gọi nó đến hỏi Tẫn viết mỗi ngày được mấy bản, nó nói vì Tẫn bị chặt chân, ngồi rất khó khăn, nên mỗi ngày chỉ viết được hai ba bản. Quyên nổi giận nói rằng:

– Viết chậm thế thì bao giờ cho xong, mày phari thúc giục luôn cho ta.

Thành Nhi lui ra hỏi tên hầu cận Bàng Quyên rằng:

– Quân sư nhờ Tôn quân viết, sao lục thúc giục như thế ?

Tên hầu cận nói:

– Mày không biết, quân sư đối với Tôn quân, bề ngoài thì làm ra thương xót, nhưng trong lòng thực ghen ghét, sở dĩ còn giữ toàn tính mệnh cho Tôn quân là vì muốn Tôn quân truyền bảo binh thư cho, chờ khi viết xong, sẽ không cho ăn uống nữa để Tôn quân phải chết đói, đó là việc kín, mày chớ nên tiết lộ.

Thành Nhi biết thê’, về mật báo cho Tôn Tẫn biết, Tẫn cả sợ, nghĩ thầm: Bàng Quyên đã bất nghĩa như thế, há có nên còn truyền bảo cho binh pháp ? lại nghĩ đến mình không chịu viết, tất nó sẽ nổi giận giết ngay. Nghĩ mãi muốn cầu kế thoát thân, sực nhớ khi ra đi Quỉ Cốc tiên sinh có trao cho một cái cẩm nang, dặn khi nào nguy cấp quá mới được mở ra xem, nay chính là lúc nên mở ra. Bèn mở cái cẩm nang ra xem, đó là một bức lụa vàng, ở trong đó viết ba chữ “giả cách điên”. Tẫn nghĩ bụng:”té ra như vậy!” Buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm mới bưng lên, Tẫn cầm đũa chực ăn, bỗng làm ra dáng mê man và nôn ọe hồi lâu rồi nổi giận, giương mắt hét to lên rằng:

– Mày sao dùng thuốc độc hại ta!

Rồi vứt cả chai lọ xuống đất, lấy những thẻ gỗ đã viết rồi ném vào lửa đốt bỏ, miệng cứ lảm nhảm mắng chửi mãi không thôi. Thành Nhi không biết là Tẫn giả cách, vội đi báo Bàng Quyên. Ngày hôm sau, Quyên thân đến xem, thấy Tẫn đờm dãi đầy mặt, phục xuống đất cười khà khà, bỗng lại khóc oà lên. Quyên hỏi:

– Đại hunh làm sao mà cười, làm sao mà khóc như thế ?

Tẫn nói:

– Ta cười là cười vua Ngụy muốn hại mệnh ta, ta có mười vạn thiên binh giúp sức, làm gì được ta! ta khóc là khóc nước Ngụy không có Tôn Tẫn, thì không có ai làm đại tướng!

Nói rồi, lại giương mắt nhìn Quyên, rồi cứ đập đầu mà lạy hoài, miệng nói xin Quỉ Cốc tiên sinh cứu mạng. Quyên nói:

– Tôi là Bàng Quyên đây, đại sư huynh chớ nhận lầm!

Tẫn nắm chặt lấy áo Quyên không chịu buông, miệng cứ kêu tiên sinh cứu mệnh. Quyên sai các người theo hầu giằng ra, hỏi Thành Nhi:

– Tôn Tử phát bệnh từ bao giờ ?

Thành Nhi nói phát tự ban đêm. Quyên lên xe về phủ, trong lòng nghi hoặc, sợ Tẫn giả cách điên, muốn thử xem thật giả, bèn sai người khiêng đặt vào trong chuồng lợn, đầy dẫy những phân, Tẫn xoã tóc úp mặt mà nằm sấp xuống. Quyên lại sai người mang cơm rượu đến nói dối rằng: “tôi thương tiên sinh bị chặt chân, gọi là tỏ lòng kính mến, nguyên suý không biết đâu”. Tẫn biết là mưu gian của Quyên, trợn mắt mắng rằng:

– Mày lại đem thuốc độc hại ta à ?

Nói rồi đổ rượu vứt cơm xuống đất, tên kia lại nhặt đống cơm cho chó ăn và lấy phân chó và cục bùn đưa cho, Tẫn cầm lấy ăn ngay. Tên kia về báo Quyên, Quyên chắc là Tẫn điên rồ thật, không lấy làm lo, từ đó thả lỏng Tôn Tẫn, mặc cho ra vào. Tẫn hoặc sớm đi chiều về, lại cứ nằm ở chuồng lợn; hoặc đi mà không về, nằm đất, nằm cát ở đường chợ; hoặc cười nói, hoặc kêu khóc. Nhiều người biết là Tôn khách khanh, thương hại Tẫn bị tàn phế, đều cho ăn uống. Tẫn hoặc ăn, hoặc không ăn, nói lảm nhảm luôn mồm, không ai biết là Tẫn giả cách điên cả. Tuy vậy, Bàng Quyên vẫn còn lấy làm lo, hạ lệnh cho địa phương cứ mỗi sáng phải đến trình báo xem Tẫn ở đâu.

Bấy giờ Mặc Địch sang chơi nước Tề ở nhà Điền Kỵ. Có người học trò là Cầm Hoạt mới ở nước Ngụy đến. Mặc Địch hỏi thăm Tôn Tẫn ở nước Ngụy có đắc ý không, Cầm Họat đem việc Tôn Tẫn bị chặt chân thuật lại cho Mặc Địch nghe. Mặc Địch nói:

– Ta vốn muốn tiến cử hắn, ngờ đâu lại thành ra hại hắn.

Mặc Địch bèn đem tài học của Tôn Tẫn và việc Bàng Quyên ghen ghét, nói với Điền Kỵ, Điền Kỵ vào tâu ngay với Uy vương xin đem quân đón Tôn Tẫn về nước. Điền Kỵ nói:

– Bàng Quyên đã không muốn cho Tẫn làm quan ở nước Ngụy, thì khi nào lại muốn cho Tẫn làm quan ở nước Tề. Muốn đón Tôn Tẫn, phải như thế, như thế.. mới được.

Uy vương liền sai Thuần Vu Khôn mượn tiếng sang Ngụy dâng trà, Cầm Hoạt giả làm kẻ hầu đi theo. Sang đến Ngụy, Thuần Vu Khôn vào chầu Huệ vương rồi ra ở ngoài nhà trạm. Cầm Họat thấy Tẫn điên, không cùng nói chuyện, nửa đêm mới lén đến thăm. Tẫn dựa lưng vào thành giếng mà ngồi, thấy Cầm Hoạt thì chỉ giương mắt nhìn mà không nói. Cầm Hoạt ứa nước mắt nói rằng:

– Tôn Tử khổ đến thế ư ? có biết Cầm Hoạt này không ? Thầy tôi có kể nỗi oan của Tôn khanh với vua Tề, vua Tề rất là thương mến, nay sai ông Thuần Vu Khôn đến đây, không phải là vì việc dâng trà mà thực là muốn đem Tôn khanh về Tề để báo cái thù chặt chân đó thôi.

Tôn Tẫn chảy nước mắt như mưa, hồi lâu mới nói rằng:

– Tôi vẫn chắc là chết rấp ở ngoài rãnh, không ngờ ngày nay lại có cơ hội này. Nhưng Bàng Quyên vẫn ngờ vực lắm, không thể đem tôi đi lọt được đâu ?

Cầm Họat nói:

– Tôi đã có kế rồi, Tôn khanh không phải quá lo, chờ khi nào tôi đi, tôi sẽ đến đón, nhưng xin cứ gặp nhau ở đây, chớ dời đi nơi khác.

Hôm sau Huệ vương khoản đãi Thuần Vu Khôn, biết Khôn là người biện luận giỏi, nên tặng vàng lụa rất nhiều. Khôn từ tạ Huệ vương chực đi, Bàng Quyên lại đặt rượu ở Trường Đình để tiễn hành. Đêm trước Cầm Họat đã đem Tôn Tẫn giấu ở trong một cái xe phủ kín, đem quần áo của Tẫn cho một tên đầy tớ là Vương Nghĩa mặc bù đầu xoã tóc, lấy bùn đất bôi vào mặt giả làm Tôn Tẫn, địa phương cứ thế trình báo, nên Bàng Quyên không ngờ. Thuần Vu Khôn từ biệt Bàng Quyên, bảo Cầm Họat cho xe đi trước và gịuc đi thật nhanh, còn mình thì đi áp hậu. Mấy ngày sau Vương Nghĩa cũng tìm được cách thoát thân, chạy theo. Quan địa phương thấy những quần áo bẩn thỉu quăng bỏ ở trên mặt đất, không thấy Tôn Tẫn đâu, liền đi báo Bàng Quyên, Quyên nghi là Tẫn nhảy xuống giếng tự tử, sai người mò vớt không thấy, lại cho đi dò hỏi khắp nơi cũng không thấy tông tích Tẫn đâu, nhưng sợ Ngụy vương trách hỏi, bèn tâu là Tôn Tẫn chết đuối, cũng không ngờ là Tôn Tẫn đã về nước Tề rồi.

Lại nói Thuần Vu Khôn đã mang được Tôn Tẫn ra khỏi đất Ngụy, mới đem Tôn Tẫn tắm rửa và thay quần áo. Khi về đến Lâm Tri, Điền Kỵ thân đi đón ở ngoài mười dặm nói với Uy vương, cho đem xe êm chở vào triều. Uy vương hỏi Tẫn về binh pháp, muốn cho Tẫn làm quan ngay, Tẫn nói:

– Hạ thần chưa có chút công gì, không dám nhận chức. Vả lại Bàng Quyên nếu biết hạ thần làm quan với Tề lại sinh lòng ghen ghét, chi bằng hãy tạm giấu đi, đợi có việc gi dùng đến, hạ thần sẽ xin ra sức.

Uy vương nghe lời cho ở nhà Điền Kỵ, Điền Kỵ tôn làm bực thượng khách. Tôn Tẫn muống cùng Cầm Họat đi tạ ơn Mặc Địch thì hai thầy trò Mặc đã bỏ đi từ lúc nào rồi. Tẫn áy náy mãi. Rồi sai người dò hỏi tin Tôn Bình, Tôn Trác, thì chẳng thấy tăm hơi, mới biết là Bàng Quyên đánh lừa. Tề Uy vương lúc rỗi, thường cùng các công tử trong tôn tộc cưỡi ngựa bắn cung, đánh cuộc làm vui. Điền Kỵ vì sức ngựa kém, nên thường thua cuộc. Một hôm Điền Kỵ đưa Tôn Tẫn cùng đến trường bắn xem bắn, Tẫn thấy sức ngựa của Điền Kỵ không kém lắm mà ba vòng đều thua cả, bèn bảo Điền Kỵ rằng:

– Ngày mai ngài lại đánh cuộc, tôi sẽ có cách làm cho ngài được cuộc.

Điền Kỵ nói:

– Nếu quả tiên sinh có cách làm cho tôi thế nào cũng được, tôi sẽ lại cùng đại vương đánh cuộc một nghìn vàng.

Tẫn bảo Điền Kỵ cứ vào tâu xin đánh cuộc với Uy vương, Uy vương nhận lời. Đến ngày thi, các công tử đều sắp sửa xe ngựa đến trường thi, dân chúng họp xem đến vài nghin người. Điền Kỵ hỏi Tẫn rằng:

– Cách quyết thắng của tiên sinh thế nào ? một nghìn vàng đánh cuộc không phải chuyện chơi.

TÔn Tẫn nói:

– Ngựa tốt ở nước Tề đều tụ hợp cả ở trong tầu nhà vua, ngài nếu cứ theo thứ tự mà đua thì khó được lắm, nhưng tôi có thể dùng thuật mà được cuộc. Ngài nên biết đã chia ra vòng đua, tất có chia ra ba hạng nhất, nhì, ba; đem con ngựa hạng ba của ngài, thì với con ngựa hạng nhất của vua, rồi đem con ngựa hạng nhất của ngài thi với con hạng nhì của vua, đem con ngựa hạng nhì của ngài thì với con ngựa hạng ba của vua, ngài dẫu bị thua một vòng, tất còn được hai vòng.

Điền Kỵ phục là thuật giỏi, rồi dùng yên vàng nệm gấm thắng vào con ngựa hạng ba, giả làm con ngựa hạng nhất, cùng Uy vương đánh cuộc một vòng trước. Sức ngựa kém nhau xa quá, Điền Kỵ lại mất nghìn vàng. Uy vương cả cười, Điền Kỵ nói:

– Còn hai vòng nữa, nếu tôi thua cả, bấy giờ sẽ cười.

Đến khi thi hai vòng thứ hai và thứ ba, thì quả nhiên ngựa của Điền Kỵ đều thắng cả, Điền Kỵ được cuộc một nghìn vàng, liền tâu rằng:

– Sự được cuộc ngày hôm nay, không phải sức ngựa của hạ thần, đều là thuật của Tôn Tử dạy cho cả.

Uy vương lấy làm khen ngợi, cho rằng một việc nhỏ mọn như thế, đã đủ tỏ cái trí của TÔn Tử, từ đó càng thêm kính trọng, ban thưởng rất nhiều.

Lại nói chuyện Nguỵ Huệ vương đã bỏ Tôn Tẫn, giao việc khôi phục đất Trung Sơn cho Bàng Quyên. Bàng Quyên tâu rằng đất Trung Sơn ở xa nước Nguỵ, vậy nên đem quân đánh thẳng vào Hàm Đan để báo thù ngày trước. Huệ vương bằng lòng. Bàng Quyên đem năm trăm cỗ xe đi đánh, vây thành Hàm Đan. Triệu Thành hầu đem đất Trung Sơn đút cho Tề để cầu cứu.

Tề Uy vương đã biết tài Tôn Tẫn, muốn cử làm đại tướng, Tôn Tẫn từ mà nói rằng:

– Hạ thần là kẻ đã bị hành hình mà sống thừa, nếu cho làm chủ tướng e quân dịch sẽ cười là nước Tề không có tướng tài, xin đại vương cử Điền Kỵ làm tướng thì hơn.

Uy vương bèn cử Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư, cứ ở luôn trong xe, ngầm bày mưu kế mà không để lộ tên ra. Điền Kỵ muốn đem binh đi cứu Hàm Đan, Tôn Tẫn ngăn rằng:

– Tướng nước Triệu không đương nổi Bàng Quyên. Quân ta đến được Hàm Đan, thì thành đã bị hạ rồi, chi bằng cứ đóng quân ở giữa đường, mà rêu rao lên rằng ta muốn đánh Tương Lăng; Bàng Quyên tất phải quay về, bấy giờ ta sẽ đón đánh, thế nào cũng được.

Điền Kỵ theo lời. Quả nhiên tướng Triệu là Ngưu Tuyển chờ mãi quân Tề không đến, thế cùng phải đem thành Hàm Đan đầu hàng Bàng Quyên. Bàng Quyên sai người báo tiệp cho vua Nguỵ biết, lại đang muốn tiến quân, thì được tin Tề sai Điền Kỵ đem quân đánh Tương Lăng, bèn hoảng sợ, vội rút quân về; khi còn cách Quế Lăng chừng hai mươi dặm, thì gặp quân Tề. Nguyên Tôn Tẫn đã liệu biết quân Ngụy tất đến, sai nha tướng là Viên Đạt đem ba nghìn quân chặn đường khiêu chiến, cháu họ Bàng Quyên là Bàng Thông lĩnh tiền đội đến trước, liền xông vào đánh chừng hai mươi hợp, Viên Đạt giả cách thua chạy. Bàng Thông sợ có kê, không dám đuổi theo, trở lại bẩm với Bàng Quyên. Quyên nổi giận, mắng rằng:

– Tên tiểu tướng ấy còn không bắt nổi, thì bắt thế nào được Điền Kỵ ?

Nói rồi dẫn đại quân đuổi theo; khi sắp đến Quế Lăng, thấy trước mặt quân Tề bày thành trận thế, nhìn xem rõ ràng là trận pháp “điên đảo bát môn” là thế trận khi Tôn Tẫn mới đến nước Ngụy đã bày, trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm Điền Kỵ làm sao lại biết được trận pháp này, hay là Tôn Tẫn đã lẻn về nước Tề chăng ? đoạn cũng bày ra trận thế. Bên quân Tề, Điền Kỵ cỡi ngựa ra trận, gọi tướng Nguỵ có tay nào giỏi thì ra nói chuyện. Bàng Quyên cưỡi ngựa ra, bảo Điền Kỵ rằng:

– Tề với Nguỵ vẫn có hoà hiếu, Nguỵ đánh Triệu, có dự gì đến Tề ? tướng quân bỏ việc hoà hiếu mà tìm việc cừu thù, thật là thất kế!

Điền Kỵ nói:

– Triệu đem đất Trung Sơn dâng cho chúa công ta, chúa công ta sai đem quân đến cứu, nếu Ngụy cũng cắt vài quân đem dâng, thì ta lập tức rút quân về ngay.

Quyên nổi giận nói rằng:

– Ngươi có bản lĩnh gì mà dám đối địch với ta ?

Điền Kỵ nói:

– Ngươi đã tự đắc là có bản lĩnh, vậy có biết trận pháp của ta đây không ?

Quyên nói:

– Đó là trận pháp “điên đảo bát môn” ta học được của thày Quỉ Cốc, ngươi ăn cắp ở đâu được một vài phần, lại dám hỏi ta, ở nước ta dù đứa trẻ con lên ba cũng đều biết cả.

Điền Kỵ nói:

– Ngươi đã biết, thế có dám đánh không ?

Bàng Quyên dù không biết cách phá, nhưng sợ thất thế, nên phải làm ra mặt thông hiểu, trả lời quyết đánh, rồi gọi ba tướng Bàng Thông, Bàng Anh, Bàng Mao, lên bảo rằng:

– Ta đã nghe Tôn Tẫn giảng về trận pháp này, cũng biết sơ cách đánh phá, nhưng trận này có thể biến ra trận “trường xà”, đánh đầu thì đuôi ứng, đánh đuôi thì đầu ứng, đánh giữa thì đầu và đuôi đều ứng, người đánh không khéo, là bị vây hãm ngay. Nay ta vào đánh trận này, ba ngươi đều lĩnh một đạo quân hễ thấy trận biến là ba đội đều tiến, khiến cho đầu đuôi không thể ứng nhau được, thì trận mới có thể phá được.

Bàng Quyên phân phó đã xong, liền tự mình dẫn năm nghìn quân, xông vào đánh trận. Mới vào trong trận, thấy tám mặt mỗi mặt một sắc cờ, rối rít đổi nhau không nhận được ra thế nào, xông bên đông, đột bên tây, chỗ nào cũng thấy gươm dáo như rừng, không sao tìm được lối ra, rồi thấy tiếng chiêng tiếng trống đánh dồn và tiếng người reo hò vang động một góc trời; trên các lá cờ đều thấy có ba chữ “quân sư Tôn”, Bàng Quyên sợ quá, nghĩ thầm rằng:”thằng què quả đã trốn về nước Tề, ta mắc mưu nó rồi!” đang cơn nguy cấp, may được Bàng Anh, Bành Thông dẫn hai đạo quân xông vào phá hai vòng vây cứu được Quyên ra, năm nghìn quân tiên phong bị giết không còn một mống, khi hỏi đến Bàng Mao, thì Mao cũng bị Điền Anh giết; thiệt hại cộng hơn hai vạn quân. Bàng Quyên biết rõ Tôn Tẫn đang ở trong Tề rồi, sợ quá, cùng Bàng Anh, Bàng Thông bỏ dinh trại, luôn đêm trốn về nước Ngụy, Huệ vương nghĩ đến cái công lấy được Hàm Đan, nên tha tội cho Bàng Quyên.

Tề Uy vương từ đó tin dùng Điền Kỵ và Tôn Tẫn, đem binh quyền giao cho, Trâu Kỵ sợ hai người sau này thay mình làm tướng quốc, bèn cùng môn khách là công tôn Duyệt bàn cách đánh đổ Điền Kỵ và Tôn Tẫn, thì lại gặp vừa lúc Bàng Quyên sai người lễ đút nghìn vàng, yêu cầu nước Tề bỏ Điền Kỵ và Tôn Tẫn đi. Trâu Kỵ bèn sai công tôn Duyệt giả làm người nhà Điền KỴ, đem tiền đến nhờ một lão thầy bói ở Ngũ Cổ, nói Điền Kỵ nay có binh quyền ở tay, muốn mưu việc lớn, nhờ đoán xem tốt xấu thế nào. Lão thầy bói chối là việc bội nghịch không dám dự nghe, công tôn Duyệt nói không xem cho thì thôi, xin giữ kín đừng tiết lộ cho ai biết. Công tôn Duyệt vừa đi ra, thì sai gia nhân của Trâu Kỵ đã ập vào bắt lão thầy bói, hạch tội xem bói cho kẻ phản thần, thầy bói báo rằng tuy có người đến bói, nhưng chưa hề gieo quẻ. Rồi Trâu Kỵ vào ngay chầu Uy vương, tâu việc Điền Kỵ xem bói, và dẫn cả thầy bói đến làm chứng. Uy vương quá đem lòng ngờ, hàng ngày sai người dò xét cử động của Điền Kỵ, Điền Kỵ biết chuyện, bèn thác bệnh giao giả binh quyền, Tôn Tẫn cũng từ chức quân sư, Bàng Quyên nghe tin, trong lòng vui sướng quá, cho là từ nay mình có thể ngang dọc thiên hạ, bèn xin với vua Ngụy cho được cùng thái tử Thân đem quân đi đánh ở nước Hàn để phá trước cái kế của Hàn chực giúp Triệu để đánh Ngụy.

Chương 89: Vạn cây nỏ bắn chết Bàng Quyên – Năm con trâu phân thây Thương Ưởng

Lại nói Bàng Quyên cùng thái tử Thân đem quân đi đánh nước Hàn, đi qua Ngoại Hòang, có một kẻ sĩ là Từ Sinh xin vào yết kiến thái tử. Thái tử hỏi:

– Tiên sinh hạ cố vào thăm quả nhân, có điều gì dạy bảo ?

Từ Sinh nói:

– Thái tử đi chuyến này, sẽ để đánh nước Hàn, tôi có thuật bách chiến bách thắng ở đây, thái tử có muốn nghe không ?

Thái tử Thân nói:

– Điều đó quả nhân muốn nghe lắm.

Từ Sinh nói:

– Thái tử tự lượng của mình có giàu hơn Nguỵ, ngôi mình có cao hơn vương không ?

Thái tử Thân nói:

– Hơn thế nào được!

Từ Sinh nói:

– Nay thái tử tự làm tướng đi đánh Hàn, may mà được, thì giàu chẳng hơn Nguỵ, ngooi chẳng hơn vương; vạn nhất mà thua thì làm thế nào ? nay có cái thuật để tránh đuợc cái hại trận thua mà chuốc được cái vinh quang xưng vương, cho nên tôi mới nói là bách chiến bách thắng đó.

Thân nói:

– Phải lắm, quả nhân xin theo lời dạy của tiên sinh, lập tức kéo quân trở về.

Từ Sinh nói:

– Thái tử dẫu cho lời tôi là phải, nhưng chắc không làm được. Kìa một người nấu canh, nhiều người húp nước, nay những kẻ muốn húp nước canh của thái tử rất nhiều, thái tử dù muốn quay về, nhưng chẳng ai nghe nào.

Từ Sinh từ tạ ra đi. Thái tử muốn hạ lệnh ban sư, Bàng Quyên nói:

– Đại vương đem ba quân giao cho thái tử, nay chưa thấy được thua gì mà đã vội ban sư, thì có khách gì bại trận ? chư tướng đều không muốn trở về không.

Thái tử Thân không thể tự quyết được, bèn dẫn quân tiến đến thẳng kinh đô nước Hàn. Hàn Ai hầu khiến người sang Tề cáo cấp và cầu cứu. Tề Tuyên vương hỏi quân thần, tướng quốc Trâu Kỵ nói không nên cứu, bọn Điền Kỵ, Điền Anh thì nói nên cứu, duy có Tôn Tẫn lặng im không nói gì. Tuyên vương nói:

– Quân sư không nói gì, có lẽ cho hai kế cứu và không cứu đều là không phải chăng ?

Tôn Tẫn nói:

– cả hai đều không phải cả. Nước Ngụy tự cậy mạnh, năm trước đánh Triệu, năm nay đánh Hàn, lòng họ có phải đã quên nước Tề ta đâu ? nếu không cứu thì bỏ nước Hàn cho béo Nguỵ, cho nên nói không cứu là không phải. Ngụy sang đánh Hàn, Hàn chưa bị núng mà ta cứu thế là ta thay Hàn chịu nạn binh cách, Hàn được yên mà ta bị nguy, cho nên nói cứu cũng là không phải.

Tuyên vương hỏi:

– Vậy thì biết làm ra thế nào ?

Tôn Tẫn nói:

– Cứ ý tôi, thì ta nên hứa với nước Hàn là cứu binh Tề sớm chiều sẽ đến.

Hàn hầu mừng quá, liền hết sức chống Ngụy, trước sau giao phong đến năm sáu lần, Hàn đều không thắng nổi, lại sai sứ sang Tề thúc giục cứu binh, Tề lại dùng Điền Kỵ làm tướng, Điền Anh làm phó, Tôn Tẫn làm quân sư, đem năm trăm cỗ xe đi cứu Hàn. Điền Kỵ muốn tiến thẳng sang Hàn, Tôn Tẫn nói:

– Không nên, không nên! trước kia ta cứu Triệu mà chưa hề đến đất Triệu; nay cứu Hàn sao lại đến đất Hàn ?

Điền Kỵ hỏi ý thế nào, Tôn Tẫn nói:

– Cái thuật để gỡ mối phân tranh, là phải đánh ngay vào nơi mà người ta cần phải cứu. Nay ta nên chỉ đánh thẳng vào kinh đô nước Ngụy mà thôi.

Điền Kỵ theo lời, bèn, hạ lệnh cho ba quân tiến sang nước Ngụy. Bàng Quyên đánh được quân Hàn luôn mấy trận, sắp tiến lên để đánh Tân Đô, bỗng tiếp được tin cảnh báo ở trong nước nói quân Tề lại vào cướp Nguỵ, Bàng Quyên cả sợ, liền truyền lệnh bỏ Hàn về ngay, quân Hàn cũng không đuổi theo, Tôn Tẫn biết Bàng Quyên sắp đến, bảo Điền Kỵ rằng:

– Quân Tam Tấn vốn dũng cảm mà khinh quân Tề, chi bằng nay ta giả làm thế yếu để dụ nó.

Điền Kỵ nói:

– Dụ cách thế nào ?

Tôn Tẫn nói:

– Ngày nay nên làm mười vạn bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi. Nó thấy số bếp giảm xuống tất cho là quân ta nhát sợ mà trốn tránh quá nửa, nó sẽ gấp đường tiến đánh. Như thế, khí nó tất kiêu và sức nó tất mỏi, ta sẽ dùng kế mà đánh, thế nào cũng được.

Điền Kỵ theo như kế ấy mà làm.

Lại nói Bàng Quyên quay quân trở về, nghĩ thầm quân Hàn thua luôn, mình đang chực tiến đánh, bỗng bị quân Tề quấy rối, phá công cuộc của mình, lấy làm căm giận lắm; khi về đến đất Ngụy, biết là quân Tề đã đi trước rồi, để lại dấu tích đóng trại cũ rất rộng rãi, mới sai người đến xem chỗ bếp đun, thấy có mười vạn chỗ, hôm sau nữa chỉ thấy còn có ba vạn bếp, Bàng Quyên mừng rỡ lấy tay giơ lên trán mà nói:

– Đó là hồng phúc của Ngụy vương!

Thái tử Thân nói:

– Quân sư chưa thấy quân địch thì làm sao đã vội mừng ?

Quyên nói:

– Tôi vốn biết người Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có ba ngày mà quân lính đã bỏ trốn quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư ?

Thái tử Thân nói:

– Người Tề hay lừa dối, quân sư nên cẩn thận.

Bàng Quyên nói:

– Bọn Điền Kỵ phen này tự đến nộp mình, Quyên dẫu bất tài cũng xin bắt sống để rửa cái thù ở Quế Lăng.

Nói xong liề truyền lệnh chọn hai vạn quân tinh nhuệ, cùng thái tử Thân chia làm hai đội, gấp ngày đi lên, còn bộ binh thì lưu lại sau, sai Bàng Thông thống suất, từ từ tiến lên. Tôn Tẫn lúc nào cũng sai người dò thăm tin tức, quân do thám bảo là quân Ngụy đã qua núi Sa Lôc, đi luôn đêm ngày, gấp đừờng mà tiến. Tôn Tẫn tính nhẩm hành trình, biết thế nào chiều tối ngày hôm ấy Bàng Quyên cũng đến Mã Lăng, chỗ này là một thung lũng sâu và hẹp, có thể phục binh. Ven đường cây cối um tùm, Tôn Tẫn chỉ để lại một cây rõ to, còn đều sai chặt ngã xuống ngổn ngang giữa đuờng để chặn lối đi, rồi lại sai cạo sạch vỏ ngoài mặt đông cái cây to kia, dùng than viết sáu chữ lớn rằng: “Bàng Quyên chết dưới cây này”, mặt trên viết ngang dòng chữ “Lời truyền của Tôn quân sư”, sai bộ tướng là Viên Đạt và Độc Cô Trần kén năm nghìn quân cung nỏ, mai phục ở hai bên tả hữu, dặn hễ khi thấy dưới gốc cây có ánh lửa, thì nhất tề bắn nỏ ra; lại sai Điền Anh dẫn một vạn quân, mai phục ở nơi cách Mã Lăng ba dặm, đợi khi quân Ngụy đã qua rồi, thì theo sau chặn giết. Tôn Tẫn phân phát đã xong, cùng Điền Kỵ dẫn quân đến phía bắc đồn Viễn để dự bị tiếp ứng.

Lại nói Bàng Quyên dò biết quân Tề đi qua chưa xa, giận không thể một bước theo kịp được, nên luôn luôn thúc giục quân lính đi thật nhanh. Khi đến đường Mã Lăng, thì mặt trời đã lặn, bấy giờ là hạ tuần tháng mười, trời không có ánh sáng trăng, tiền quân quay lại báo có nhiều cây chặt để nằm ngổn ngang trên mặt đường, khó đi lên được. Bàng Quyên mắng rằng:

– Đó là quân Tề sợ quân ta đuổi theo, nên lập ra kế ấy.

Nói xong, Bàng Quyên bèn ra lệnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, nhưng bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng lại có nét chữ, nhưmg vì là đêm tối khó nhận rõ, nên sai một tên lính châm lửa soi xem. Bàng Quyên đọc thấy hai câu viết ở trên rất rõ ràng, bèn giật mình nói:

– Thôi ta mắc mưu thằng què rồi!

Liền hạ lệnh cho lui mau.

Bàng Quyên nói chưa dứt thì hai toán phục binh của Viên Đạt và Độc Cô Trần trông thấy lửa sáng, đều giương cung nỏ bắn loạn, Bàng Quyên mình bị trọng thương, liệu không thể thoát được mới than rằng:

– Ta giận không giết chết được thằng què ấy!

Nói xong, liền rút thanh kiếm đeo bên mình, tự đâm cổ mà chết. Bàng Anh cũng bị tên nỏ bắn chết, còn quân sĩ bị giết không biết bao nhiêu mà kể.

Khi Bàng Quyên hạ sơn, Quỉ Cốc tiên sinh đã có nói sẽ vì lừa người mà lại bị người ta lừa; Bàng Quyên dùng bức giả thư để lừa chặt chân Tôn Tẫn, nay cũng bị Tôn Tẫn lừa lại bằng cái kế giảm bếp. Quỉ Cốc lại nói gặp ngựa thì hỏng, quả nhiên Bàng Quyên phải chết ở Mã Lăng. Tính ra từ khi Bàng Quyên đến làm quan ở nước Ngụy cho đến lúc bị chết trận vừa mười hai năm, ứng vào cái triệu cành hoa có mười hai lá. Bấy giờ thái tử Thân ở phía sau, nghe tiền quân bại trận thì sợ hãi, đóng quân lại không dám đi, không ngờ lại có một đạo quân Điền Anh, từ mặt sau kéo đến, quân Ngụy sợ quá không ai dám đánh đều bỏ chạy tán loạn cầu thoát lấy thân. Thái tử Thân thế cô sức kém, bị Điền Anh bắt sống trói lại để trong xe, Điền Kỵ và Tôn Tẫn thống suất đại quân tiếp ứng, đánh giết quân Ngụy thây nằm ngổn ngang đầy đồng, bắt được hết các xe lương thực và quân khí. Điền Anh đem thái tử Thân dâng công, Viên Đạt, Độc Cô Trần cũng đem nộp thi thể cha con Bàng Quyên. Tôn Tẫn tự tay chém đầu Bàng Quyên, treo ở trên xe. Quân Tề đại thắng, cùng nhau hát mừng kéo về. Đêm ấy thái tử Thân sợ nhục cũng đâm cổ mà chết. Đại quân đi đến núi Sa Lộc, gặp bộ quân của Bàng Thông, Tôn Tẫn sai người giơ cái đầu Bàng Quyên báo cho biết; đạo quân ấy không đánh tự vỡ, Bàng Thông vội vàng xuống xe đập đầu xin nộp mạng, Điền Kỵ muốn giết nốt, Tôn Tẫn nói:

– Làm ác chỉ một mình Bàng Quyên, đến con đẻ còn không nên bắt tội, nữa là cháu.

Bèn đem thi thể thái tử Thân và Bàng Anh giao cho Bàng Thông, bảo về báo ngay cho vua Ngụy biết, mau mau dâng biểu triều cống, nếu không, quân Tề lại đến, thì tôn xã không còn. Bàng Thông dạ dạ rồi đi ngay. Điền Kỵ đem quân về nước. Tề Tuyên vương cả mừng, đặc tiệc thưởng công, tự tay đưa chén rượu mời Điền Kỵ, Điền Anh, và Tôn Tẫn. Tướng quốc Trâu Kỵ, tự nghĩ ngày trước riêng nhận của lót nước Ngụy, muốn hãm hại Điền Kỵ, trong lòng lấy làm xấu hổ, bèn xưng bệnh nặng, sai người nộp giả ấn tướng quốc. Tề Tuyên vương bèn cử Điền Anh làm tướng quân, còn Tôn Tẫn làm quân sư như cũ, gia phong ấp lớn. Tôn Tẫn cố từ không nhận, lại tự viết cả mười ba thiên binh thư của tổ phụ là Tôn Vũ, dâng lên Tuyên vương, nói rằng:

– Tôi là kẻ tàn phế, đội ơn dùng đến, nay trên báo được ơn chúa, dưới báo được thù riêng, lòng ước mong đã được thoả. Sở học của tôi đều ở trong sách này, lưu tôi lại cũng vô dụng, vậy xin cho một mảnh núi hoang để được yên ở hưởng hết tuổi già.

Tuyên vương cố lưu lại không được, bèn cho ra ở núi Thạch Lư. Tôn Tẫn ở núi ấy hơn một năm, một hôm bỗng không thấy đâu nữa, có người nói là Tẫn đã thành tiên đi theo Quỉ Cốc tiên sinh rồi.

Tuyên vương đem đầu Bàng Quyên treo ở quốc môn để làm oai và sai người báo tiệp với chư hầu; chư hầu đều sợ hãi, hai vua Hàn, Triệu cám ơn được cứu cũng thân hành đến chào mừng. Tuyên vương muốn cùng Hàn, Triệu hợp quân đánh Nguỵ. Nguỵ Huệ vương sợ quá cũng sai sứ đến cầu hoà và xin triều cống. Tề Tuyên vương hẹn với vua Tam Tấn cùng họp ở thành Bác Vọng. Hàn, Triệu, Ngụy đều không dám trái ý, cả ba vua cùng thời triều kiến, ai nấy đều cho là một sự vẻ vang. Tuyên vương từ đó cậy nước mạnh, say mê tửu sắc, xây Tuyết Cung ở trong thành, để làm chỗ yến tiệc ăn chơi, lại mở một khoảng đất bốn mươi dặm, ở ngoài thành để làm nơi săn bắn; lại nghe lời những người văn học du thuyết, lập ra tả hữu giảng thất ở Tắc Môn, họp vài nghìn du khách, trong đó có bọn Trâu Diễn, Điền Biên, Tiếp Dư, Hòan Uyên, bảy mươi sáu người đều cho vào hạng thượng đại phu, ngày nào cũng chỉ bàn bạc những sự hão huyền, cho bế thần là Vương Hoan coi giữ mọi việc. Điền Kỵ thường can ngăn không nghe, uất ức mà chết. Một hôm Tuyên vương ăn yến ở Tuyết Cung, bày nhiều nữ nhạc, bỗng có một người đàn bà trán rộng, mắt sâu, mũi cao, hầu lộ, lưng cong, cổ to, ngón tay dài, bàn chân to, da đen như sơn, tóc bù như cỏ mùa thua, mình mặc áo rách, từ ngoài đi vào, nói xin vào yết kiến Tề vương. Vũ sĩ ngăn lại nói rằng:

– Mụ đàn bà xấu xí này ở đâu mà dám xin vào yết kiến đại vương ?

Người đàn bà xấu xí nói:

– Ta là người ở huyện Vô Diệm nước Tề, họ là Chung Li, tên là Xuân, năm nay đã bốn mươi tuổi, kén chồng chưa được người nào, nay nghe đại vương mở yến ở Li cung, ta đến yết kiến để xin được vào hậu cung làm việc rẩy quét.

Ai nấy đều bưng miệng cười, cho là một người con gái trơ tráo vô sỉ, bèn vào tâu Tuyên vương. Tuyên vương cho đòi vào. Các quan ngồi hầu yến, thấy người đàn bà ấy xấu xí quá đều bưng miệng cười. Tuyên vương nói:

– Trong cung ta phi tần thị nữ đã đủ ngạch cả rồi; mụ kia mặt mộc người thô, ế ẩm ở trong làng xóm, thân phận dân hèn, mà lại muốn vào nơi cung cấm, phải chăng là có tài năng gì lạ thường ư ?

Chung Li Xuân tâu rằng:

– Thiếp chẳng có tài chi lạ, chỉ có thuật ẩn ngữ (cách ra hiệu) mà thôi.

Tuyên vương nói:

– Hãy thử dùng cái thuật của mụ để đóan việc cho ta xem sao, nếu nói sai, ta sẽ chém đầu.

Chung Li Xuân liền giương mắt, hếch răng, cất tay hai ba lần, rồi vỗ đầu gối mà kêu to lên rằng:

– Nguy lăm! nguy lắm!

Tuyên vương không hiểu ý thế nào, hỏi quần thần, cũng chẳng ai biết. Tuyên vương nói:

– Mụ kia lại đây nói rõ cho ta nghe nào !

Xuân gật đầu nói:

– Đại vương tha tội chết cho thiếp, thiếp mới dám nói.

Tuyên vương nói:

– Cho mày vô tội.

Xuân nói:

– Thiếp giương mắt là thay vua mà nhìn cái nạn binh lửa, hếch răng là thay vua để phạt cái miệng cự gián, cất tay là thua vua đuổi xa những kẻ sàm nịnh, vỗ đầu gối là thay vua đạp đổ cái đài yến ẩm chơi bời.

Tuyên vương cả giận mắng rằng:

– Quả nhân khi nào có bốn điều lỗ ấy, con mẹ nhà quê này dám nói càn. Quân đâu, đem chém cổ nó đi!

Xuân nói:

– Xin cho thiếp được nói rõ bốn điều lỗi ấy của đại vương rồi sẽ chịu chết. Thiếp nghe Tần dùng Thương Uởng mà nước được giàu mạnh, không bao lâu sẽ đem quân ra Hàm Quan để giành hơn thua với Tề, thì chắc Tề bị tổn hại ngay từ đầu, vì đại vương trong thì không có tướng giỏi mà ngoài thì việc biên phòng bỏ trễ, cho nên thiếp vì đại vương giương mắt mà nhìn. Đại vương say mê nữ sắc, bỏ trễ việc nước, những người trung trực can ngăn, thì đại vương cự mà không nghe, cho nên thiếp hếch răng để vì vua nhận lời can vậy. Vả bọn Vương Hoan a dua nịnh hót, bọn Trâu Diễn bàn nói viển vông, đại vương tin dùng bọn ấy thiếp sợ có hại cho xã tắc, cho nên thiếp giơ tay để vì đại vương xua đuổi họ đi. Đại vương xây cung mở vườn, dùng hết sức dân làm cạn kho nước, cho nên thiếp vỗ đầu gối muốn vì vua đạp đổ những nơi ấy đi. Đại vương có bốn điều lỗi ấy, nguy như trứng để đầu đẳng, mà còn vui chơi, không hề lo nghĩ, cho nên thiếp phải liều chết tây bày, nếu được đại vương cho là phải mà nghe theo, thì dù chết cũng không hối hận!

Tuyên vương than rằng:

– Nếu không có lời nói của họ Chung này, thì quả nhân không bao giờ được biết những điều lầm lỗi của mình.

Lập tức bãi yến, dùng xe chở nàng Chung Li Xuân về cung lập làm chính hậu.

Chung Li Xuân nói:

– Nếu đại vương không nghe lời thiếp, thì dùng làm gì cái thân thiếp này, xin đại vương phải xem việc trị nước và việc dùng người hiền là cần cấp hơn cả mọi việc.

Tuyên vương theo lời, lập tức đuổi bọn du nịnh, tin dùng hiền sĩ, lại đuổi hết bọn du thuyết đi, dùng Điền Anh lfm tướng quốc, đãi người nước Trâu là Mạnh Kha làm bực thượng tân, từ đó nước Tề được yên ổn và thịnh vượng, lại lấy ấp Vô Diệm phong cho nhà Chung Li Xuân, gọi nàng là Vô Diệm quân.

Lại nói tướng quốc nước Tần là Vệ Uởng nghe tin Bàng Quyên chết trận, nói với Hiếu công rằng:

– Tần, Nguỵ ở gần nhau, nước Tần có nước Ngụy, cũng như người có bệnh ở trong tim, trong ruột. Nếu Ngụy không cướp Tần thì Tần phải cướp Ngụy, cái thế không thể cùng sống được. Nay nước Ngụy đã bị đại bại với Tề, nên nhân dịp này mà đánh Ngụy, Ngụy không giữ nổi tất phải dời sang đông; lúc bấy giờ Tần sẽ dựa vào núi sông hiểm trở, quay về phía đông mà chế phục chư hầu, đó là cái sự nghiệp đế vương vậy.

Hiếu công lấy làm phải, cử Vệ Uởng làm đại tướng, công tử Thiếu Quan làm phó, mang năm vạn quân đi đánh Ngụy.

Được tin cáo cấp, Ngụy Huệ vương họp quần thần lại để bàn kế chống nước Tần. Công tử Ngang nói:

– Khi trước Vệ Ưởng ở Ngụy, cùng hạ thần có quen biết, hạ thần đã từng tiến cử lên đại vương, đại vương không nghe. Nay hạ thần xin đem quân đi, trước hãy giảng hoà, nếu Vệ Uởng không cho, bấy giờ sẽ cố giữ thành trì, cầu cứu hai nước Hàn, Triệu.

Quần thần đều khen phải, Huệ vương liền cử công tử Ngang làm đại tướng mang năm vạn quân đi cứu Tây Hà, tiến đóng quân ở Ngô Thành. Công tử Ngang đang muốn viết thư sai người cầm sang dinh quân Tần hỏi thăm Vệ Uởng, muốn hắn bãi binh, thì bỗng có tướng sĩ giữ thành vào báo là quan tướng quốc nước Tần sai người đưa thư, hiện ở ngoài thành. Công tử Ngang sai dòng dây qua thành đem thư lên, mở ra xem, thư rằng:

“Uởng này vốn tương đắc với công tử, không khác gì ruột thịt, mà nay mỗi người thờ một chủ, làm tướng ở hai nước, vậy nỡ nào lại dùng binh để hại nhau. Ý tôi muố ước hẹn với công tử, hai bên đều bỏ binh xa và giáp trụ, dùng lễ phục cùng họp mặt ở núi Ngọc Toàn, cùng uống rượu vui chơi rồi về, để tránh cho hai nước cái nạn thịt nát máu rơi, khiến cho nghìn thu về sau phải khen cái giao tình của đôi ta không khác gì Quản, Bão. Nếu công tử bằng lòng, xin bảo cho biết ngày nào có thể hội diện được”.

Công tử Ngang đọc xong cả mừng bảo rằng:

– chính hợp ý với ta!

Bèn hậu đãi sứ giả và viết thư trả lời như sau:

“Tướng quốc còn nhớ tình xưa, bắt chước việc cũ của vua Hoàn công nước Tề, lấy áo xiêm mà thay cho binh xa, để yên dân Tần, Ngụy, rõ nghĩa Quản, Bão. Đó cũng vốn là cái chí của Ngang này. Trong ba ngày, xin tướng quốc định cho lúc nào, Ngang này cũng xin cúi đầu vâng mệnh”.

Vệ Uởng được thư trả lời mừng mà nói rằng:

– Kế ta thành rồi!

Bèn sai người vào thành ước định nhật kỳ, nói rằng tiền doanh quân Tần đã triệt bỏ, hạ lệnh cho về nước, chỉ còn chờ được hội kiến nguyên suý rồi nhổ trại đều về. Lại đem hai thứ ngó sen và xạ hương dâng biếu, nói rằng hai thứ ấy là thổ sản nước Tần, ngó sen ích cho người, xạ hương trừ tà khí, gọi là để ghi nhớ giao tình và tỏ ý thân yêu về lâu dài. Công tử Ngang cho là Vệ Uởng yêu mình, càng tin là không có ý gì khác, liền đáp thư cảm tạ. Vệ Uởng giả truyền quân lệnh, sai tiền doanh rút hết. Công tử Thiếu Quang thống suất đi trước. Nhưng lại dặn thầm dọc đường chỉ nói đi săn bắn để kiếm cái ăn, rồi chia đi mai phục ở các nơi Kỳ Sơn, Bạch Tước sơn, hện đến cuối giờ ngọ đầu giờ mùi ngày ấy đều đến dưới núi Ngọc Toàn, hễ nghe trên núi có tiếng súng bắn làm hiệu thì kéo ùa vào, bắn hết những người đến đấy không để cho một người nào chạy thoát.

Đến kỳ, vừa sáng ra, Vệ Uởng trước hết sai người vào báo trong thành, nói là tướng quốc đã đến trước ở núi Ngọc Toàn chực sẵn, quân theo hầu không đầy ba trăm người, công tử Ngang lại càng tin, liền lên xe phó hội, đem theo xe mui chở các thứ rượu món ăn và một bộ nhạc công, số người theo hầu cũng bằng của Vệ Uởng. Vệ Uởng đứng đón ở dưới núi, công tử Ngang thấy người đi theo đã ít, lại không có quân khí, không còn ngờ gì nữa, khi thấy nhau, đều kể giao tình ngày trước, và tỏ ý thông hoà ngày nay. Những người nước Ngụy đi theo đến đó, ai nấy đều vui mừng. Hai bên đều bày tiệc rượu, công tử Ngang ở địa vị chủ, trước hết nâng chén mời Vệ Uởng, thù tạc ba lần, tấu nhạc ba lần. Vệ Uởng sai quân sĩ phải thay nhau báo giờ luôn luôn, rồi triệt bỏ tiệc rượu của nước Ngụy, bày tiệc của nước Tần ra, hai tên hầu rượu đều là những tay dũng sĩ có tiếng ở nước Tần, một người tên gọi là Ô Hoạch, sức khoẻ mang được nghìn cân, một người tên gọi là Nhâm Bỉ, tay đánh được hổ báo. Vệ Uởng vừa cất chén đầu khuyên mời, liếc mắt bảo ý các người hầu tả hữu đi lên trên đỉnh núi bắn một tiếng súng, dưới núi cũng bắn súng theo, tiếng vang hang núi, công tử Ngang cả sợ nói rằng:

– Tiếng súng ở đâu thế, có lẽ tướng quốc đánh lừa tôi chăng ?

Vệ Uởng nói rằng:

– Tạm lừa một lần, còn rộng cho tôi được chuộc tội về sau!

Công tử Ngang hoảng sợ muốn chạy trốn ngay, nhưng bị Ô Hoạch nắm chặt ngay lấy, không thể cựa cậy được, Nhâm Bỉ thì chỉ huy tả hữu bắt hết mọi người trói lại, còn công tử Thiếu Quang đốc suất quân lính bắt hết các xa trượng và quân lính theo hầu, không còn một người nào chạy thoát. Vệ Uởng sai quân bỏ công tử Ngang vào trong xe tù, giải trước về nước Tần để báo tiệp; lại đem những người đi theo đã bắt đuợc cởi trói cho hết và cho uống rượu để khỏi sợ; lại cho dùng những xa trượng cũ đem về, nói dối là chủ suý phó hội trở về, lừa mở cửa thành, sẽ có trọng thưởng, nếu không nghe thì lập tức chém đầu. Bọn đi theo ấy là những kẻ hèn nhát, đều sợ chết cả, nên đều vâng theo mệnh lệnh. Vệ Uởng sai Ô Hoạch giả làm công tử Ngang ngồi ở trong xe, Nhâm Bỉ làm hộ tống sứ thần, cưỡi một chiếc xe theo sau. Quân Ngụy ở trên thành nhận thấy toàn là người mình cả, liền mở toang cửa thành, hai viên dũng tướng ấy nhảy ra cùng một lúc, tay đấm chân đá phá tan cửa thành, không đóng lại được nữa. Quân Ngụy sấn vào chống cự, đều bị đánh ngã; mặt sau Vệ Uởng thân đem đại quân đến, nhanh chóng như bay. Trong thành quân dân rối loạn, Vệ Uởng cho quân lính được loạn sát một trận, rồi chiếm lấy Ngô Thành. Chu Thương nghe chủ suý bị bắt, chắc là Tây Hà khó giữ được, bỏ thành chạy trốn, Vệ Uởng kéo quân vào thành An ấp. Huệ vương sợ quá, sai đại phu là Long Giả sang dinh quân Tần xin cầu hoà, Vệ Uởng nói:

– Vua Nguỵ không biết dùng ta, nên ta phải sang làm quan nước Tần, đội ơn vua Tần tôn làm khanh tướng, ăn lộc muôn chung, nay lại giao phó binh quyền, nếu không diệt Ngụy thì phụ lòng của vua Tần đã tin dùng.

Long Giả nói:

– Tôi nghe chim khôn đến rừng cũ, tôi hiền mến vua cũ, vua Nguỵ dẫu không biết dùng túc hạ, nhưng đối với nước cha mẹ, túc hạ sao nỡ vô tình ?

Vệ Uởng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Long Giả rằng:

– Nếu cầu ta rút quân về, trừ phi cắt hết đất Tây Hà dâng cho Tần thì không được.

Long Giả vâng lời về tâu với vua Nguỵ, Huệ vương phải theo lời, liền sai Long Giả đem địa đồ Tây Hà dâng cho quân Tần. Ngụy Huệ vương cho rằng đất An ấp ở gần Tần khó giữ được yên, bèn thiên đô đến Đại Lương, từ đó gọi là nước Lương.

Tần Hiếu công thưởng công Vệ Uởng, phong làm liệt hầu, lấy mười lăm ấp Thương Ô là đất của Ngụy trước, làm thực ấp của Ưởng, gọi là Thương Quân, vì thế đời sau mới gọi Vệ Ưởng là Thương Uởng. Uởng tạ ơn về phủ riêng, bảo gia thần rằng:

– Ta là kẻ chi thứ nước Vệ, sang làm quan nước Tần, vì nước Tần thay đổi chính trị, lập tức trở nên giàu mạnh. Nay lại lấy được đất Ngụy bảy trăm dặm, phong ấp mười lăm thành, đại trượng phu đắc chí đến như thế có thể nói là lẫy lừng lắm vậy!

Tân khách đồng thanh khen mừng, trong bọn đó bỗng có một người cất tiếng nghiêm nghị nói rằng:

– Nghìn người a dua không bằng một người nói thẳng, các người ở đây nhờ ơn Thương Quân phụng dưỡng, há nên cứ dua nịnh mà làm hại chủ ư ?

Mọi người nhìn xem ai, chính vị thượng khách tên là Triệu Lương. Vệ Uởng nói:

– Tiên sinh bảo mọi người dua nịnh, vậy tiên sinh thử xem tôi đây cai trị nước Tần cùng với “ngũ cổ đại phu” ai hơn ?

Lương nói:

– Ngũ cổ đại phu giúp Mục công, ba lần bắt vua Tần, kiêm tính hai mươi nước, làm cho chủ trở nên một vị bá chủ ở Tây Nhung. Vậy mà đến sự tự phụng mình, nắng không che lọng, nhọc không cưỡi xe, đến ngày chết, trăm họ thương khóc như mất cha mẹ. Nay ngài làm tướng nước Tần tám năm, pháp lệnh dẫu thi hành được, nhưng giết hại rất thảm, dân chỉ thấy oán, mà không thấy ân, chỉ thấy lợi mà không thấy nghĩa. Thái tử giận ngài giết mất người sư phó, oán vào tận cốt tuỷ, ở dân gian thì cha con anh em đã lâu vẫn mang lòng oán giận; nhất đán vua Tần mất đi, thì ngài sẽ bị nguy ngay, còn có thể giữ mãi được cái phú qúy ở ấp Thương Ô này mà tự khoe là đại trượng phu chăng ? sao ngài không tiến người hiền để thay mình, rồi từ bỏ lộc vị lui về cày cấy ở nơi điền giả, chỉ như vậy mới có thể mong chu toàn được.

Vệ Ưởng lặng im ra ý không vui, sau đó năm tháng thì Hiếu công bị bệnh chết, quần thần tôn thái tử Tứ lên ngôi, ấy là Huệ Văn công. Thương Uởng tự phụ mình là cựu thần của tiên triều, ra vào ngạo mạn, công tử Kiền trước kia bị Vệ Ưởng cắt mũi, còn găm nỗi tức giận trong lòng mà chưa báo được, lúc ấy cùng Tôn Giả tâu với Huệ Văn công rằng:

– Tôi nghe đại thần quyền thế trọng quá thì nước nguy, các người tả hữu quyền thế trọng quá thì thân nguy. Thương Uởng lập phép cai trị nước Tần, nước Tần dẫu được thịnh trị, nhưng đàn bà con trẻ đều nói đó là phép của Thương Quân, chứ không ai nói là phép của nước Tần. Nay lại phong cho Thương Uởng mười lăm ấp, ngôi cao quyền trọng, sau này tất y làm phản.

Huệ Văn công nói:

– Ta căm giận thằng giặc ấy đã lâu, nhưng vì nghĩ nó là thần hạ của tiên vương và chưa hề tỏ ra ý gì phảnh nghịch, nên hãy tạm dung cho nó.

Nói xong, liền sai người thu tướng ấn của Thương Uởng, bắt lui về ở ấp Thương Ô.

Thương Ưởng từ giã triều đình, lên xe ra khỏi thành, nghi trượng đội ngũ, còn ngang với chư hầu, trăm quan đi tiễn tống không thiếu một người nào. Công tôn Kiền, công tôn Giả mật báo với Huệ Văn công, nói Thương Quân không biết ăn năn tội lỗi, tiếm dùng nghi thức của vương giả, nếu để cho hắn ở Thương Ô, tất hắn làm phản.

Cam Long, Đỗ Thế lại làm chứng quả có việc như thế, Huệ Văn công cả giận, lập tức sai công tôn Giả dẫn ba nghìn võ sĩ, đuổi bắt Thương Uởng, truyền chém đầu đem bêu rồi về báo. Công tôn Giả lĩnh mệnh ra đi. Bấy giờ nhân dân ai nấy đều oán Thương Quân, nghe tin công tôn Giả mang quân đuổi bắt, nô nức chạy theo có hàng mấy nghìn người, Thương Uởng đi xe ra khỏi thành đã hơn trăm dặm, bỗng nghe mặt sau có quân đuổi theo, thì sợ quá, biết là tân quân có lòng căm ghét, e không khỏi hoạ, vội trút bỏ mũ áo xuống xe, giả trang làm tên lính mà đi trốn; chạy đến Hàm Quan, trời sắp tối, vào nhà hàng xin ngủ trọ, chủ hàng hỏi có giấy chiếu thân không. Thương Uởng nói không có, chủ hàng nói:

– Phép của Thương Quân, không cho chứa những người không có giấy chiếu thân, ai phạm pháp đều phải chém, tôi không dám cho trọ.

Thương Uởng than rằng:

– Ta đặt ra phép ấy, lại tự hại thân ta!

Rồi đi luôn cả đêm, lẻn ra ngoài cửa quan chạy sang nước Ngụy, Nguỵ Huệ vương giận Vệ Uởng lừa bắt công tử Ngang và cắt mất đất Tây Hà, nên muốn bắt Vệ Uởng để dâng Tần. Uởng sợ quá, lại trốn về Thương Ô, mưu khởi binh đánh Tần, bị công tử Giả bắt trói giải về. Huệ Văn công kể từng tội, sai trói Ửởng đem ra chợ, dùng năm con trâu phân thây, trăm họ xúm lại tranh nhau ăn thịt, chỉ một lúc là hết. Huệ Văn công lại giết cả họ Thương Uởng. Đáng thương cho Thương Uởng đổi lập phép mới, làm cho nước Tần trở nên giàu mạnh, kết quả lại bị họa phân thây, há chẳng phải là một cái quả báo đối với sự nghiêm khắc quá mức đó ru! sau khi Thương Uởng chết rồi, trăm họ đều vui mừng hát múa ở đường, sáu nước nghe tin cũng đều mừng rỡ. Cam Long, Đỗ Trí trước bị cách chức, nay đều được phục quan. Huệ Văn công cử Tôn Diễn làm tướng quốc, Diễn khuyên Huệ Văn công cướp lấy đất Ba Thục, rồi xưng vương để hiệu triệu thiên hạ, các nước đều phải cắt đất như nước Ngụy để làm lễ mừng, nếu trái lệnh sẽ đem quân đánh ngay. Huệ Văn bèn xưng vương, sai sứ đi báo khắp chư hầu; các nước đều do dự chưa quyết, chỉ có Sở Uy vương vừa đánh chiếm được đất nước Việt, đất rộng quân mạnh, ngang nhau với Tần, quát mắng đuổi sứ Tần đi.