Hồi 10 – Yến Hồng Môn, Phàn Khoái cứu chủ

Hạng Vũ nói:

– Xin tiên sinh cho biết ba kế ấy, tôi nguyện theo.

Phạm Tăng nói:

– Minh công phải thấy Lưu Bang là cái lo quan trọng đối với Minh công. Minh công sẽ không thể cùng Lưu Bang sống chung trong hoàn vũ. Thế thì việc giết Lưu Bang là cần thiết cho bản thân, sự nghiệp Minh Công sau này. Tôi có ba kế: Một là mời Lưu Bang đến Hồng Môn dự yến, trong tiệc đem việc ngăn cản nơi cửa quan ra trách rồi giết phứt đi, đó là thượng sách. Hai là sai quân đao phủ phục dưới trướng, chờ lúc Lưu Bang vào tiệc, hô quân đao phủ áp lại giết, nếu Minh công không nỡ xuống tay. Ðó là trung sách. Ba là sai người chuốc rượu cho Bái Công say rồi khiêu khích cho Bái Công thất lễ, bắt tội giết đi. Ðó là hạ sách.

Hạng Vũ nói:

– Ba kế ấy có thể làm được cả, ít ra cũng phải làm cho mọi người thấy Lưu Bang có tội đã.

Nói xong truyền chư tướng chuẩn bị đâu đó sẳn sàng, rồi sai người mang thư mời Bái Công đến Hồng Môn dự yến.

Bái Công tiếp được thư mở ra đọc, thư viết như sau:

” Lỗ Công Hạng Vũ kính thư Bái Công hiền huynh nhã giám.

Tôi cùng hiền huynh hợp lực đánh Tần, chịu lời ước của vua Hoài vương. May thay! Hiền huynh kéo binh sang mé Tây, Tử Anh quy hàng, Quan Trung quy phục, nhà Tần bị diệt, giải phóng trăm họ, Công lao ấy thực to tát. Tôi lấy làm mừng, bày yến tiệc cùng hiền huynh chung vui, xin hiền huynh chiếu cố, để thỏa lòng mong ước – Hạng Vũ kính thư “.

Bái Công xem thư xong, Trương Lương nói:

– Tiệc này không là tiệc vui, chính là mưu của Phạm Tang, ta chớ nên xem thường.

Tiêu Hà nói:

– Binh lực củ Hạng Vũ đang mạnh, nếu hắn cố hại thì ta khó chống cự nổi. Nay nên lựa một người ăn nói giỏi đến thoái thác, cốt làm cho Hạng Vũ đừng nghi chúng ta có ý chiếm đoạt uy quyền, rôi tìm lấy một Châu quận khác mà ở, chỉnh đốn binh mã, sau sẽ tính.

Lịch Sinh nói:

– Tôi xin lãnh nhiệm vụ thuyết khách ấy.

Trương Lương bàn:

– Kế của hai ông chưa phải là thượng sách. Xưa Nhủ Tử Tư bảo hộ vua Bình Vương yến hội nơi Lâm Ðồng, mười tám nước chư hầu phải kính phục. Lạn Tương Như đến hội ở Miên Trì, đem ngọc bích về nước Triệu, thiên hạ đến nay còn khen. Tôi tuy bất tài, nhưng quyết bảo vệ Minh công đến dự yến nơi Hồng Môn, để khỏi mất thể diện.

Bái Công nói:

– Nếu có tiên sinh phò tá thì ta vững lòng.

Tnrơng Lương liền sai người phúc đáp rằng: “Ngày mai sẽ đến phó yến “.

Phạm Tăng được tin, nói với Hạng Vũ:

– Ngày mai Bái Công đến, xin Minh công cứ y theo ba kế ấy mà làm, chớ do dự.

Ðoạn, sai Ðinh Công, Ung Sĩ làm tướng canh cửa, cấm không cho những người vô phận sự tự tiện ra vào.

Hôm sau, Bái Công đem một trăm khinh kỵ và năm tướng tâm phúc là Trương Lương, Phàn Khoái, Ngạn Hấp, Kỷ Tín, Ðằng Công đến phó hội Hồng Môn.

Vừa đến nơi, thấy một toán quân kéo đến, gươm giáo rợp trời, tiếng loa dậy đất, cầm đầu là tướng Anh Bố, cởi ngựa hô lớn:

– Phụng mệnh Lỗ Công đến rước Bái Công phó hội.

Bái Công quay lại hỏi Trương Lương:

– Tiên sinh nghĩ sao? Lòng ta thấy hồ nghi lắm!

Trương Lương đáp:

– Xin Minh công cứ vững lòng tin, theo lời dặn của tôi mà làm.

Bái Công theo sau Anh Bố đến cửa quan, Trần Bình ra nghênh tiếp.

Nhìn vào trong thấy tinh kỳ la liệt, gươm giáo sáng ngời, chuông trống khua vang, chẳng khác vào một chốn pháp trường sắp đem tội nhân hành quyết.

Bái Công ngần ngại không dám đi, quay lại nói với Trương Lương:

– Lỗ Công dàn cảnh như vầy đâu phải thực tâm phó hội. Tiên sinh nghĩ sao?

Trương Lương nói:

– Ðã đến đây, nếu lùi một bước là trúng kế địch. Xin Minh công đứng nơi đây, để tôi vào yết kiến Lỗ Công trước đã

Nói xong, Trương Lương bước đến trước. Ðinh Công đóng cửa dinh lại không cho vào.

Trương Lương nói:

– Nhờ tướng quân vào bẫm với Lỗ Công. Bái Công sai tôi là Tá Sĩ Trương Lương vào yết kiến.

Ðinh Công vào bẫm lại.

Hạng Vũ hỏi Phạm Tăng

– Thế nào là Tá sĩ.

Phạm Tăng nói:

– Người này ở nước Hàn, năm đời làm tướng nay theo phò tá Bái Công nên gọi là Tá Sĩ. Bái Công đem Trương Lương đến đây dụng ý thuyết từ xin Minh công giết quách Trương Lương để cho Bái Công mất một tay nương tựa

Hang Bá nghe nói giật mình can:

– Không nên! Lỗ Công vào Hàm Dương, điều cốt yếu là phải thu phục nhân tâm, giành ưu thế cho rnình. Nếu vô cớ giết hiền sĩ thì ai còn khâm phục. Vả lại Trương Lương là bạn thân của tôi, tôi có thể dụ về bên Sở, tại sao giết đi.

Lỗ Công liền đòi Trương Lương vào.

Trương Lương thấy Hạng Vũ mặc giáp trụ, chống gươm ngồi trên trướng, mặt hầm hầm sát khí, liền nói:

– Tôi nghe Minh Vương trị thlên hạ chỉ khoe đức chứ không khoe võ, các bậc hiền nhân đối xử nhau dùng nghĩa chứ không dùng uy. Nay Minh công mở hội Hồng Môn, chung vui với chư hầu, tôi ngỡ đến đây được nghe đàn sáo, ca nhạc, chủ khách giao tiếp nhau với muôn ngàn hân hoan, ngờ đâu chỉ thấy gươm đao la liệt, giáp sĩ đứng song hàng, chiêng trống vang trời, một đoàn sát khí, khiến cho nhân tâm ngờ vực muốn trở về. Minh công chín trận được Chương Hàm, một tay phục thiên hạ, uy danh lừng lẫy ai mà chẳng biết, thế thì khoe cái uy dũng của mình chẳng có ích gì. Tôi thiết tưởng Minh công nên khoe cái đức của mình để cho thiên hạ thấy con nguời tài đức vẹn toàn, trăm họ tùng phục, như thế mới thật là đáng hào hùng trong thiên hạ vậy.

Hạng Vũ nghe nói đổi sắc mặt, truyền cho vũ sĩ lui ra một dặm, bỏ giáp trụ, mặc triều phục, rồi mời chư hầu vào dinh.

Ðinh Công lại rao lớn:

– Không ai được đem nhiều nhân mã, chỉ cho theo hầu một vài văn thần, vũ sĩ mà thôi.

Bái Công theo Trương Lương bước vào, khúm Núm dưới thềm, chắp tay nói:

– Lưu Bang xin vào hầu Minh công.

Hạng Vũ tái sắc, nói:

– Lưu tướng quân có ba tội, thế mà chưa biết sao?

Bái Công nói:

– Bang là kẻ Ðình trưởng ở Huyện Bái, chúng nhân tôn lên để mộ quân đánh Tần. Phàm việc lớn nhỏ đều theo lệnh Minh công, thực chưa dám làm điếu gì trái phép.

Hạng Vũ nói:

– Tướng quân tự tiện tha cho hàng vương Tử Anh, không coi vương mệnh là gì, đó là một tội. Mua chuộc lòng người thiện cải pháp luật, đó là hai tội. Sai tướng giữ cửa quan không cho quân chư hầu vào, đó là ba tội. Có ba tội ấy sao lại chẳng biết?

Bái Công ung dung đáp:

– Vua nhà Tần đầu hàng nếu Bang tôi giết đi mới chuyên quyền, nay tôi giữ lại chờ lệnh Minh công xét xử, thiết tưởng đó không phải là tội. Phép nhà Tần khắc khổ trăm họ lầm than, Bang tôi sớm đổi đi, đó chính là vì cái thịnh đức của Minh công đó. Thiên hạ sẽ nói rằng:

– Quân tiền khu mới đến Hàm Dương mà còn cho dân thọ ân như vậy, nếu Nguyên Súy đến thì ơn huệ biết chừng nào. Còn như sai tướng giữ cửa quan chẳng qua Bang tôi sợ dư đảng của nhà Tần nổi lên tác loạn, chứ dám đâu cản chư hầu. Kẻ thành tâm như thế mà bị chê trách, xin Minh công xét lại.

Hạng Vũ tuy nóng nảy, nhưng là kẻ cương trực, không nỡ giết người đã tùng phục mình, vả lại lời tâng bốc của Bái Công cũng làm cho Hạng Vũ khoái chí, nên Bái Công vừa nói dứt lời Hạng Vũ thay đổi sắc mặt, cầm tay Bái Công, nói:

– Vũ này không có lòng giận hiền huynh, chỉ vì có tên bộ tốt của hiền huynh là Tào Vô Thương đem lời dèm siểm nên mới sinh ra cớ sự.

Liền mời Bái Công ngồi. Các nước chư hầu đều sắp theo thứ lớp, an tọa. Phạm Tăng, Trương Lương, Hạng Bá được dự tiệc. Cung đàn nổi lên, bầu không khí thân mật lại trở về trong ly rượu nồng nàn.

Phạm Tăng thi kế thứ nhất không thành. Lại thấy Hạng Vũ không có ý hại Bái Công nên quân phục hai bên đều yên lặng.

Phạm Tăng đưa mắt nhìn Hạng Vũ nháy nhó, bảo thực hiện kế thứ hai, nhưng nháy đến ba lần mà Hạng Vũ vẫn bỏ qua.

Phạm Tăng tức giận sai Trần Bình ra rót rượu, cốt làm cho Bái Công say rượu thất lễ mà giết đi.

Tuy nhiên, Trần Bình thấy Bái Công tướng mạo uy nghi, vẻ phượng mặt rồng, đem lòng cảm mến, nghĩ thầm:

– Bái Công không phải kẻ tầm thường, chiều theo ý Phạm Tăng hại người hiền đức là trái đạo trời.

Nghĩ thế, Trần Bình rót rượu cho Bái Công thì ít, mà rót rượu cho Hạng Vũ thì nhiều. Nhờ đó, Bái Công khỏi say.

Phạm Tăng thấy ba kế không thành, than thầm:

– Ngày nay không giết được Lưu Bang tất di hại về sau.

Nghĩ rồi lui ra ngoài tìm cách mưu hại. Nhưng thơ thẩn mãi mà tính chưa ra kế.

Bỗng sau tường có tiếng hát, giọng hát nổi ìên một lúc một rõ dần. Hát rằng:

Tráng sĩ thanh gươm ấp mộng đời.

Công hầu khanh tướng chỉ trò chơi!

Gươm thiêng nhuộm máu say men rượu

Hồ hải tung hoành tít dặm khơi!

Ai người tri kỷ!

Nâng chén đầy vơi!

Cuộc cờ sẩy mấy buông lơi

Ăn năn thì đã muộn rồi còn chi?

Phạm Tăng biết đó là giọng hát của tráng sĩ, chợt nghĩ ra một kế, lẩm bẩm:

– Ta có thể dùng người này giết Lưu Bang được.

Liền leo lên đầu tường, thì thấy người ấy là Hạng Trang, đồng hương với Hạng Vũ.

Phạm Tăng gọi Hạng Trang đến, kề tai nói nhỏ:

– Minh công tính cương trực, mà không quyết đoán. Tiệc Hồng Môn hôm nay mục đích giết Lưu Bang, ta đã bày ra ba kế nhưng Minh công không chịu dùng kế nào. Nay tráng sĩ vào trước tiệc làm lễ chúc thọ, xin múa gươm giúp vui, rồi thừa cơ giết Lưu Bang đi, công tráng sĩ chẳng nhỏ.

Hạng Trang vén áo, bước vào tiệc, nói:

– Trong tiệc không có gì vui, tôi xin múa gươm hầu các ngài uống rượu.

Nói xong, rút gươm ra múa, lăm lăm chỉ chực thừa miếng chém Bái Công.

Trương Lương thấy Hạng Trang múa gươm, liền đưa mắt nhìn Hạng Bá.

Hạng Bá hiểu ý, vội đứng dậy, rút gươm nói:

– Múa gươm phải múa đôi xem mới thú.

Hạng Vũ nói:

– Xin mời thúc phụ múa gươm với Hạng Trang cho vui.

Hạng Bá được dịp, liền đứng dậy, vung gươm múa.

Trong lúc múa thường lấy mình che cho Bái Công, Hạng Trang không sao chém được.

Hai người múa gươm một lúc. Hạng Bá lần lần yếu sức. Trương Lương thấy nguy cấp đến nơi, liền đứng dậy ra ngoài. Ðinh Công, Ung Sĩ ngăn lại, hỏi:

– Ngài ra ngoài làm gì?

Trương Lương nói:

– Tôi xin ra ngoài lấy quốc bảo vào dâng.

Trần Bình vốn đã sẵn có cảm tình với Bái Công, thấy Ðinh Công cản Trương Lương, liền bước lại gần nói:

– Minh công truyền để cho Trương Lương ra ngoài có việc.

Ðinh Công tưởng thật, để cho Trương Lương ra ngoài.

Trương Lương ra nói với Phàn Khoái:

– Hạng Trang đang múa gươm mưu giết Minh công, việc rất gấp, tướng quân nên vào ngay để liều chết cứu Minh công mới được.

Phàn Khoái nghe nói hậm hực, xách gươm theo Trương Lương bước vào.

Trương Lương nói:

– Ðể tôi vào trước đã.

Ðoạn, rảo bước đi ngay. Ðinh Công thấy Trương Lương trở vào, hỏi:

– Quốc bảo đâu?

Trương Lương giả vờ chỉ vào bọc, nói:

– Có đây rồi.

Vừa nói vừa lách mình đến trước tiệc, thấy Hạng Bá và Hạng Trang con đang múa kiếm, chưa thôi.

Phàn Khoái thấy Trương Lương đã vào bên trong liền chạy đến trước cửa dinh nói lớn:

– Tiệc Hồng Môn hôm nay quá vui mà kẻ tùy tùng không được ly rượu nào cả, Khoái tôi xin đến trước mặt Lỗ Công để xin một ít rượu thịt.

Nói rồi, cắp gươm, gạt bọn Ðinh Công chạy thẳng vào đến trước mặt Lỗ Công, trợn mắt nhìn, tóc dựng ngược lên.

Lỗ Công lấy làm lạ, hỏi:

– Tráng sĩ tên gì?

Trương Lương đứng lên, bẩm:

– Ðó là quan tham tướng của Bái Công tên Phàn Khoái.

Hạng Vũ hỏi:

– Nhà ngươi vào đây để làm gì?

Phàn Khoái nói:

– Tôi nghe Minh công mở tiệc Hồng Môn, mừng nhà Tần tuyệt diệt, bất cứ lớn nhỏ ai ai cũng được cơm rượu no say, duy Khoái này từ sớm đến giờ chưa được bữa nào, nên lại đây xin Minh Công một bữa chén.

Hạng Vũ sai rót một chén rượu lớn đưa cho Phàn Khoái, Phàn Khoái tiếp lấy uống cạn. Hạng Vũ hỏi:

– Tráng sĩ muốn uống nữa chăng?

Phàn Khoái nói:

– Dẫu chết tôi còn chưa sợ thì sợ gì chén rượu mà không uống.

Hạng Vũ cười lớn hỏi:

– Nhà ngươi muốn vì ai mà chết?

Phàn Khoái đáp:

– Tôi chết vì chúa tôi. Thiết tưởng, chúa tôi đánh vỡ nhà Tần, vào Hàm Dương, của báu không tham, mỹ nữ không màng, lui binh về Bái Thượng để đợi lệnh tướng công. Khó nhọc như thế, công lao như thế mà có kẻ lăm le ám hại. Hành động ấy chẳng khác hành động đen tối của nhà Tần trước đây, còn ai khâm phục. Tôi phận hèn, nhưng lương tâm không phải gỗ đá, thấy kẻ hàm oan không đau lòng! Kìa, như hai kẻ đang múa gươm kia cốt muốn giết chúa tôi đó. Tôi đến đây liều chết cứu chúa chứ đâu phải xin vài chén rượu của tướng công?

Hạng Vũ nghe nói cũng chột dạ, truyền Hạng Trang thôi múa gươm, và khen:

– Phàn Khoái cương trực, đáng là tay vũ dũng.

Bái Công thấy Hạng Vũ đã say, lẻn ra ngoài cửa dinh. Ung Sĩ giữ lại không cho đi, Trương Lương chạy ra nói:

– Lỗ Công truyền lệnh chư hầu ai không uống được rượu nữa thì ra về, cớ sao tướng quân ngăn cản.

Trần Bình cũng chạy đến, xen vào:

– Minh công truyền cho Bái Công lui ra!

Ðinh Công và Ung Sĩ nghe Trần Bình nói, mới để cho Bái Công ra ngoài.

Bái Công ra khỏi cửa dinh thì đã có các bộ tướng Ngạn Hấp, Kỷ Tín nghênh tiếp, phò về Bái Thượng.

Phạm Tăng thấy kế không thành, buồn bã bỏ đi nằm, vì vậy Bái Công mới thoát nạn được.

Người sau có thơ nói đến hội Hồng Môn:

Chén rượu Hồng Môn vạn cổ truyền,

Anh hùng mắc giữa lưới hùm thiêng

Một lời khuất phục, toàn sinh mệnh

Vinh nhục bao nài cảnh vũ yên.

Trương Lương đưa Bái Công đi khỏi rồi, dừng chân đứng lại, nghe sau tường có người gõ vào thanh gươm hát:

Hùm đã về non

Ðất trời thênh thênh.

Trường giang sóng vỗ rập rềnh,

Làn mây rực đỏ, ác lên chói ngời.

Hát xong lại có tiếng cười nhạt.

Trương Lương quay trông người ấy, thấv sắc mặt hiện ra nửa trắng nửa vàng, tinh thần thanh sảng, liền hỏi:

– Tráng sĩ cười gì thế?

Người ấy đáp:

– Phạm Tăng phí tâm cơ, Trương Lương biết chân chúa, ngày nay thoát cửa Hồng, ngày mai định thiên hạ.

Nói xong đi mất.

Trương Lương tấm tắc khen:

– Trong thiên hạ còn lắm bậc kỳ sĩ!!!

Liền rảo bước, định tìm hỏi tông tích người, bỗng cố người đến báo:

– Lỗ Công đã tỉnh rượu, đang sai tìm Bái Công.

Trương Lương vội vả trở lại thưa với Hạng Vũ:

– Bái Công không uống được rượu nữa, đương khi Minh Công say người không dám kinh động, đã trộm về Bái Thượng, để Lương ở lại đây từ tạ.

Hạng Vũ nổi giận nói:

– Lưu Bang không từ tạ mà bỏ đi thật vô lễ. Nhà ngươi còn kiếm lời che chở sao?

Trương Lương thấy Hạng Vũ giận, toan tìm lời trấn an, thì Phạm Tăng bước tới nói:

– Lưu Bang tuy ăn nói nhỏ nhẹ, song kỳ thật là kẻ gian hùng. Lưu Bang trở về Bái Thượng một phần lớn do kế của Trương Lương, xin Minh công bắt Trương Lương trị tội mới xong.

Hạng Vũ nạt kẻ tả hữu, bảo đem Trương Lương ra chém.

Trương Lương kêu lớn:

– Minh công chém tôi tức là hư nghiệp Bá vương rồi.

Hạng Vũ hỏi:

– Chém nhà ngươi thì hại gì sự nghiệp ta?

Trương Lương nói:

– Có hai điều bất lợi. Một là chư hầu sẽ chê Minh Công vì không giết được Lưu Bang nên tức giận giết Trương Lương. Hơn nữa uy danh Minh công đang mạnh mà giết một kẻ chịu phục tùng mình như Lưu Bang thì sao khỏi bị chê là hẹp hòi, hèn nhát. Hai là Lưu Bang hiện nay đang giữ ngọc tỷ, nếu Minh công giết tôi, Lưu Bang tất sợ hãi chạy sang nước khác, đem ngọc tỷ dâng cho một người nào, thì Minh công khó đoạt nghiệp Bá vương sau này.

Hạng Vũ khen:

– Lời Trương Lương rất phải. Suýt nữa ta đã phạm lầm, hư việc lớn, mang tlếng xấu với thiên hạ. Ta nay anh hùng trăm vạn, hổ tướng ngàn viên, Lưu Bang làm gì được ta mà sợ.

Nói xong, gọi Trương Lương lại gần, bảo:

– Ngươi hãy trở về Bái Thượng đem ấn ngọc tỷ và đồ châu báu lại đây. Nếu sai lời ta sẽ đem quân đến Bái Thượng phân thây muôn mảnh.

Trương Lương vâng lời, bái tạ trở về, thuật chuyện lại cho Bái Công nghe.

Bái Công nói:

– Thoát được miêng hùm thật nhờ mưu trí của tiên sinh.

Nói xong, cho đòi Tào Vô Thương đến mắng nhiếc, rồi chém đầu làm gương cho kẻ khác.

Trương Lương nói:.

– Nay Lỗ Công đòi phải đem báu vật và ngọc tỷ đến dâng, ta không thể cưỡng lệnh.

Bái Công nói:

– Ngọc tỷ là báu vật truyền quốc, sao lại nhường cho ai!

Trương Lương nói?

– Ðược thiên hạ là ở đức chớ không phải ở ngọc tỷ. Nếu ta trái lời, Lỗ Công đem quân đến đánh, ta làm sao giữ nổi. Hy sinh ngọc tỷ để bảo vệ lực lượng mưu tính đại sự là hơn. Một đàng giữ ngọc tỷ mà mất thiên hạ, một đàng bỏ ngọc tỷ mà được thiên hạ.

Bái Công khen phải, hôm sau sai Trương Lương đem ngọc tỷ cùng châu báu đến Hồng Môn dâng cho Lỗ Công và bẩm:

– Bái Công dự tiệc quá say, đến nay vẫn chưa dậy nổi. Sợ thất tín nên sai tôi đến đây dâng đồ cống hiến, xin Minh công thu nhận cho.

Hạng Vũ thấy ấn ngọc cùng những châu báu bày la liệt trên bàn, hoa cả mắt, ngắm nghía hồi lâu, rồi cầm từng món lên xem, món nào cũng rực rỡ muôn ngàn ánh sáng.

Hạng Vũ thấy chén ngọc, nhấp nháy như ánh sao, thích chí cười lớn, trao cho Phạm Tăng và nói:

– Vật quý này xin kính biếu Tiên sinh.

Phạm Tăng cầm lấy, giận dữ ném xuống đất, và rút kiếm chặt ra từng mảnh, nói:

– Thôi! Việc thiên hạ hỏng mất rồi! Chúng ta sẽ chết về tay Bái Công cả, vật quý mà chi!

Hạng Vũ biến sắc, mắng lớn:

– Ôi chao! Cái lão này vô lễ đến thế! Cổ nhân có nói: “Vua cho thức ăn phải nếm trước, vua cho vật sông phải để mà nuôi”. Huống chi cái chén ngọc quý như vậy ta ban cho, lão đã không tạ ơn còn đập nát trước mặt ta như vậy.

Phạm Tăng nói:

– Xưa vua Huệ Vương nước Vệ chỉ biết quý ngọc Minh Châu, vua U Vương nước Tề cười và nói rằng:

Viên ngọc của ông dầu tốt đến đâu cũng chỉ rọi sáng được trăm cỗ xe mà thôi, còn người hiền thần của tôi có thể soi sáng được muôn dặm”, ấy vậy, cổ nhân trọng hiền nhân coi thường vật quý. Tôi nay chỉ muốn lấy đầu Bái Công để bình thiên hạ, còn vật quí không màng. Minh công không nghe lời tôi, để lỡ cơ hội, tôi vì quá bực tức chứ đâu phải khinh thường tấm lòng ưu ái của Minh Công.

Hạng Vũ cười lớn, nói:

– Bái Công là đứa đê hèn, làm gì nên việc mà tiên sinh lo ngại đến thế.

Phạm Tăng nói:

– Xin Minh Công chớ coi thường mà ăn năn không kịp.

Hạng Vũ quay lại nói với Trương Lương:

– Bái Công là một đứa tiểu nhân, không làm gì nên chuyện, nhà ngươi cứ ở đây theo ta.

Phạm Tăng nói:

– Minh Công trước kia muốn giết Trương Lương, nay lại muốn dùng, thế thì khác nào nuôi ong tay áo.

Hạng Vũ nói:

– Tiên sinh khéo lo xa, Trương Lương chỉ là một gã thư sinh dẫu ở gần ta lại làm gì ta đặng.

Rồi đó, Hạng Vũ không nghe lời Phạm Tăng, dùng Trương Lương dưới tướng.

Trương Lương chỉ bấm bụng cười thầm!

Một hôm, Lỗ Công bàn với chư tướng:

– Ðất Quan Trung đã hạ, ấn ngọc tỷ đã về tay, việc thiên hạ tạm yên, duy có Tần Vương, Tử Anh chưa thấy mặt, làm sao chư hầu hàng phục. Bây giờ phải sai người mang thư sang Bái Công, đòi Tử Anh lại đây giết đi mới xong việc được.

Bàn xong, viết thư sai người đem đưa cho Bái Công.

Thư rằng:

“Tôi và tướng công cùng đánh Tần để cứu muôn dân ra khỏi vòng nước lửa. Nay tôi vào Hàm Dương đã mười tháng trời mà chưa thấy mặt Tử Anh? Có lẽ tướng công muốn giấu nó để mưu việc gì khác chăng? Nếu quả thế tôi cùng tướng công không phải cùng một nhiệm vụ nữa! “

Bái Công xem thư xong, họp các tướng, bàn luận:

– Hạng Vũ nay đã trái ước muốn làm vua ở Hàm Dương. Nay lại viết thư đòi Tử Anh chắc là muốn mạo nhận công mình để phục mệnh Hoài Vương, và che miệng chư hầu. Ta không trả Tử Anh e nó động binh, bằng trả Tử Anh thì trái với ý nguyện. Vậy phải tính sao bây giờ?

Chư tướng đều bàn:

– Cái thế Hạng Vũ mạnh lắm, chúng ta không thể cãi mệnh được. Cứ giao Tử Anh cho hắn. Nếu hắn giết đi, thiên hạ càng thấy rõ đức khoan hồng của Minh Công.

Bái Công theo lời, liền gọi Tử Anh đến, nói:

– Trước kia ngươi dốc lòng quy thuận, ta không nỡ giết, không ngờ nay Lỗ Công trái lời ước, muốn làm vua nước Quan Trung, đưa thư đến đòi bắt ngươi. Ngươi nên đem các đồ châu báu và gái đẹp đến dâng cho Lỗ Công, họa may ông ta vì tham sắc mà tha chết chăng. Thôi, ngươi nên đi ngay đừng chậm trễ.

Tử Anh khóc rống lên, nói trong nghẹn ngào:

– Chúng tôi gặp cơn ly loạn tưởng hàng Minh Công được an thân, nay lại phải sang Lỗ Công, chẳng biết có toàn mạng chăng?

Bấy giờ các bô lão trong vùng hay tin đều đến than thở.

Bái Công nói:

– Uy lực của Lỗ Công vang lừng trong thiên hạ còn ai dám trái mạng nữa. Các người chớ lưu luyến tôi, lỡ Lỗ Công hay được tội chẳng nhỏ.

Dân chúng nghe nói ai cũng cảm động.

Tử Anh vào Chỉ Ðạo đầu hàng Lỗ Công.

Lỗ Công trông thấy Tử Anh đầu bịt khăn trắng, mình mặc áo sô, miệng ngặm biểu hàng trông rất khổ não, liền cho vào, lấy biểu xem.

Tờ biểu như sau:

Cháu Thủy Hoàng, con Phù Tô, vua Tam Thế nhà Tần, Tử Anh cúi đầu dâng biểu:

Trộm nghĩ:

Nhà Tần tôi thất lộc, hào kiệt nỗi lên. Bảy miếu khói lạnh hương tàn, bốn bề dầu sôi lửa đỏ.

Lòng người đã mất thế nước chẳng còn. Nay Minh Công cờ trở sang tây, sáu nước qui phục, vung gươm sang Bắc, muôn dân vui lòng. Thần uy sấm dậy vang trời. ân đức mưa nhuần khí hạ. Tử Anh này đâu dám cải mạng làm nhọc uy linh, chỉ mong được tồn sinh giữ gìn hương khói. Vua Thang dung con cháu nhà Hạ, sáu trăm năm cơ nghiệp vững bền, vua Vũ tha con cháu nhà Ân tám trăm năm cơ đồ thịnh trị.

Nay Minh Công đã diệt nhà Tần, xin lấy lượng Ân Chu tỏ lòng nhân đức. Ðược thế, Tử Anh này đến chết chẳng dám quên ơn, mấy lời kính dâng, muôn phần sợ hãi. Tử Anh kính biểu

Hạng Vũ xem biểu xong, nói:

– Xưa tiên đế nhà ngươi nuốt sống sáu nước, làm hại muôn dân, để tội lại cho nhà ngươi. Bây giờ nhà ngươi đền tội là đáng lắm rồi, còn kêu ca gì nữa.

Tử Anh thản nhiên đáp:

– Diệt sáu nước là việc của tổ tiên tôi, riêng tôi có tội tình gì? Tuy nhiên, Minh công bắt tôi phải chết tôi cũng không hề dám oán hận. Dân chúng ở Hàm Dương lâu nay sống trong chính thể khắt khe của các tiên vương tôi, nay xin ngài lấy đức ban ân, để trăm họ được sống yên vui, thì dẫu tôi có xuống suối vàng cũng cảm nghĩa.

Tử Anh vừa nói đến đấy, Hạng Vũ đã truyền quân khai đao! ôi, Tử Anh là người hiền đức, một trái ngọt trong cội chua, mới làm vua có 43 ngày mà phải đền tội ác của tiền nhân.

Dân Tần thấy Tử Anh bị chết, thương xót vô cùng, oán trách hành động khắt khe của Hạng Vũ.

Hạng Vũ thấy lòng dân không phục mình, truyền quân do thám hễ người nào có ý bất mãn thì bắt giết lập tức.

Hồi 11 – Giận Hoài Vương, Hạng Vũ tự lập

Phạm Tăng thấy Hạng Vũ mỗi ngày mỗi nóng tính, đem lời bàn:

– Trước kia Lưu Bang vào Hàm Dương không lấy của dân một mảy, đem lời hiểu dụ, bỏ hết các hình luật nghiêm nhặt, khiến dân một lòng cảm mến. Nay Minh công nóng tính, xem thường sinh mệnh của dân, tôi e lại sa vào vết xe của nhà Tần thuở nọ.

Hạng Vũ nói:

– Ta đem quân đánh Tần, Tử Anh là vua Tần sao lại chẳng giết? Còn như dân Hàm Dương phản nghịch, tỏ ý oán hận ta, nếu không giết ngày sau di lụy.

Phạm Tăng nói:

– Ông Lỗ Công ngày xưa giết một cung nữ vô tội mà mắc chín năm đại loạn. Vua Cảnh Công giận giết một cung phi mà địa chấn ba dặm. Ấy vậy, sự hàm oan của con người có ảnh hưởng đến vũ trụ chẳng nhỏ. Nay mây sầu phủ đầy trời, khí oan kín đất, chính là vì Minh công đã giết oan Tử Anh đó. Nếu giờ lại giết nhân dân nữa e tổn thương hòa khí, xin Minh công xét lại.

Trong lúc Phạm Tăng đang tìm lời khuyên Hạng Vũ thì dân chúng Hàm Dương vì uất ức, mỗi lúc một xôn xao tiếng nguyền rủa, tiếng than oán không dứt.

Hạng Vũ không thể nén giận được, truyền Anh Bố đem quân vào thành bắt tôn tộc nhà Tần giết hơn 800 người, và họ hàng quần thần giết hơn 4.600 người.

Thành Hàm Dương trong phút chốc máu loang ngập đất, thây chất thành gò, đường sá vắng tanh, cửa nhà bỏ trống, thật là một thảm họa đau thương!

Hạng Vũ chưa nguôi giận, còn muốn giết một số nhân dân ngoại thành nữa. Phạm Tăng rơi lệ, can:

– Ðời vua Thang trời làm đại hạn, vua Thang đem thân mình chiu khổ cực cầu đạo ở Tam Lâm, lại kiểm điểm hành động để tự trách mình. Lòng thành thấu đến trời, mỗi được mưa nhuần gió thuận. Ấy, vua Thang biết bỏ mình cứu dân như thế nên sự nghiệp vững bền. Nay dân Tần trải bao nhiêu cay đắng, nhưng mong Minh công đến giải phóng đem lại an vui, thế mà Minh công lại giết hại, thì có ai phục?

Hạng Vũ thấy Phạm Tăng hết sức khổ gián lòng cũng nguôi ngoại, truyền thôi chém giết.

Ðoạn kéo quân đến Tần cung, thấy cung điện nguy nga, lâu đài tráng lệ, bất giác thở dài than:

– Nhà Tần phú quí đến thế này, mà không giữ được đáng tiếc!

Phạm Tăng nhân lời nói ấy tỏ ra vẻ chau buồn nói:

– Ấy bởi nhà Tần vô đạo, chém giết lương dân, không nghe lời khổ gián nên mới mất cơ nghiệp.

Hạng Vũ nín lặng không nói gì cả. Tối hôm ấy, sai người cầm đèn đến mời Phạm Tăng vào tư dinh bàn việc.

Phạm Tăng đến Hạng Vũ nói:

– Nay ta đã vào Hàm Dương lấy được ngọc tỷ, giết được Từ Anh trừ được nhà Tần thế là mọi việc đã xong,

bây giờ cần có một minh quân đứng ra trị dân, nếu để nước không vua lâu ngày bất tiện. Ta muốn lên ngôi vua

đất Quan Trung này, tiên sinh nghĩ có nên chăng?

Phạm Tăng nói:

– Chư hầu sở dĩ theo Minh công là họ cũng muốn được phong quan, thưởng tước, để vui cảnh giàu sang. Minh công nghĩ như vậy rất hợp lòng người. Nhưng trước hết phải bẩm lệnh Hoài Vương, xin một chiếu thư rồi sẽ tức vị, như thế thiên hạ mới phục.

Hạng Vũ y lời sai Hạng Bá vào Bành Thành thỉnh mệnh Hoài Vương.

Hạng Bá vào yết kiến, Hoài Vương phán:

– Ta đã có lời ước rồi, cần gì phải thỉnh mệnh.

Hạng Bá tâu:

– Tuy Bái Công vào được Hàm Dương trước, song Bái Công sức yếu thế cô, còn Lỗ Công uy quyền rất trọng, xin bệ hạ cứ cho Lỗ Công làm vua thì đất Quan Trung mới trấn an được

Hoài Vương nói.

– Không được! Nhân vô tín bất lập. Một lời nói của kẻ tầm thường mà còn phải tôn trọng thay huống hồ một ông vua. Ta không thể thất tín với thiên hạ. Nhà ngươi về nói với Lỗ Công phải theo lời ước cũ.

Hạng Bá trở về nói với Lỗ Công:

– Hoài Vương bắt phải theo lời ước, nhất định không hạ chiếu. Tôi cầu khẩn hai ba lần vẫn không được.

Hạng Vũ nổi giận nói:

– Hoài vương do ta lập nên, nghiêẽm nhiên được ngôi thiên tử. Ðã không xét công trạng ta, cố chấp như vậy thật là kẻ bất nghĩa. Công bình định thiên hạ do tay ta, cần gì phải cầu khẩn với ai.

Liền chọn ngày tự lập làm vua.

Phạm Tăng nói:

– Việc tức vị phải hợp với cổ kim, không phải việc dễ. Trương Lương là người học rộng, am hiểu lễ nghi có thể biết được, xin Minh công cho đòi Trương Lương đến, nếu hắn nói đúng theo lẽ phải tức là hắn trung thành, bằng sai tức là giả dối, gạt Minh công mang tiếng với thiên hạ đó. Minh công nên giết đi để trừ hậu hoạn.

Hạng Vũ toan sai người sang đòi Trương Lương thì vừa lúc Trương Lương ở Bái Thượng về, xin vào yết kiến.

Hạng Vũ nói:

– Nay ta muốn làm vua Quan Trung nhưng chẳng biết lập tôn hiệu thế nào cho phải. Nhà ngươi là người học rộng, dòng họ làm tướng năm đời nước Hàn, vậy ngươi thử nói ta nghe.

Trương Lương nghĩ thầm:

– Ðây là mưu Phạm Tăng định gieo vạ cho ta. Nếu ta nói thẳng tất Lỗ Công ghét, chi bằng đưa những tôn hiệu của các đời Vua trước, để Lỗ Công muốn chọn thế nào tùy ý.

Nghĩ rồi ôn tồn đáp:

– Tôn hiệu rất nhiều, tôi xin kễ qua để Minh công chọn. Xưa, sau đời Tam Hoàng thì có Ngũ Ðế, đó là Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu, Ðế Thuẫn.

Thiếu Hiệu tên là Chiết tự là Thanh Dương đóng đô ở Khúc Phụ, làm vua được 100 năm. Xuyên Húc, cháu vua

Hoàng Ðế, họ Cơ giúp vua Thiếu Hiệu trị thiên hạ, hai mươi tuổi mới lên ngôi, làm vua được 78 năm. Ðế Cốc, cũng họ Cơ, lên ngôi ở đất Bạc, làm vua 70 năm – Ðế Nghiêu họ Y Kỳ, mẹ là Khánh Ðô, hoài thai 14 tháng, sinh ra ông Nghiêu ở đất Ðan Lăng, hiệu là Phong Huân, 14 tuổi giúp vua Ðế Chi, phong làm vua ở đất Ðường, 20 tuổi mới lên ngôi hoàng đế làm vua được 50 năm – Ðế Thuẫn, dòng dõi vua Xuyên Húc, bà mẹ cảm cái hình cầu vồng mà sinh ra nơi đất Diêu, nên lấy họ Diêu, tự là Ðô Quân giúp vua Nghiêu trị thiên hạ. Sau nối ngôi xưng Ðế vị, thọ 100 tuổi. Ðó là tôn hiệu của 5 đời đế, gọi là Ngũ Ðế. Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng?

Hạng Vũ tự nghĩ:

– Ngũ đế là bậc nhân đức, dùng tình thương trang trải giữa hoàn vũ, ta khó sánh kịp. Vả lại, ta vừa giết Tử Anh, dùng bạo lực trấn áp nhân dân, đế hiệu e không hợp.

Liền hỏi lại Trương Lương:

– Còn tôn hiệu nào khác chăng?

Trương Lương đáp:

– Sau năm đời đế thì có tam vương, tức là: nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu – vua Hạ Vũ họ Tự tên Cao Mật sinh trưởng ở Tây Thương, vua Nghiêu dùng làm Tư Không, nối cha là ông Cổn, giữ việc trị thủy. Ðóng đô ở An ấp, thọ 100 tuổi truyền được 19 đời, cộng 432 năm.

Nhà Ân là dòng dõi vua Ðế Cốc, họ Cơ tên Lý, tức là vua Thành Thang, đuổi vua Kiệt ra Nam Sào lên ngôi thiên tử, thọ 100 tuổi, truyền 31 đời cộng 629 năm – vua Văn Vương (nhà Châu) nhân vua Trụ (nhà Thương) vô đạo sửa chính đức, thu nhân tâm, sau vua Vũ nối nghiệp, bốn năm chinh phạt, giết vua Trụ, làm thiên tử, thọ 93 tuổi, cộng 867 năm. Ðó là đời tam vương, tu nhân tích đức Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng?

Hạng Vũ nói:

– Hiệu vương thì ta có thể xưng được. Song dưới hiệu vương còn có tôn hiệu nào khác chăng?

Trương Lương nói:

– Dưới tam vương thì có ngũ Bá, tức là: Tề Hoàn công, Tống Trương Công, Tần Mục Công, Tấn Văn Công,

Sở Trang Vương. Năm đời Bá đều vì thiên hạ trừ tàn bạo, gây một uy lực to lớn, bá tánh đều tùng phục. Minh công

dụng tôn hiệu ấy được chăng?

Hạng Vũ suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Vương hiệu tuy hợp với cổ mà không hợp với kim, Bá hiệu thì hợp với kim lại không hợp với cổ. Muốn cho cổ kim hợp nhất ta lấy cả hai tôn hiệu, xưng là “Bá Vương”.

Ta vốn sinh ở đất Sở, từ sông Hoài sang phía Bắc, là địa phận Tây Sở, vậy từ nay ta xưng là Tây Sở Bá Vương.

Phạm Tăng vội can:

– Mình công nên xưng Vương hiệu và bỏ Bá hiệu đi. Bá hiệu các đời vua không đời nào được vững bền. Ðại Bá chỉ được năm đời, còn Tiểu Bá chỉ được ba đời. Xin chớ nghe lời Trương Vương sàm tấu.

Hạng Vũ nói:

– Năm đời Bá làm vua như thế kể cũng lâu dài. Công việc làm của ta chẳng những hợp với Tam Vương, mà còn đúng ý với Ngũ Bá nữa Thế thì xưng Bá Vương là phải. Tôn hiệu ấy do ta lựa chọn, Trương Lương chỉ là kẻ trình bày cho ta biết đó thôi.

Nói xong, trọng thưởng Trương Lương, Chọn ngày lành tháng tốt lên ngôi, xưng hiệu Tây Sở Bá Vương cai trị 9 quận nước Sở, đóng đô ở Bành Thành, tôn Hoài Vương lên làm Nghĩa Ðế, thiên sang Giang Nam.

Công việc xong, Bá Vương muốn xuất kho nhà Tần để ban thưởng quân sĩ, nhưng khi quân Bái Công vào Hàm Dương đã chuyển đi hết sạch, nay kho tàng đều trống rỗng, liền hỏi Phạm Tăng:

– Tướng sĩ theo ta đã lâu nay muốn thù lao lấy đâu làm việc ấy?

Phạm Tăng nói:

– Việc ấy không khó, Bái Công vào Hàm Dương trước của cải ở đâu tất biết. Xin hỏi Bái Công thì rõ.

Bá Vương theo lời, sai người đi vời Bái Công.

Trương Lương hay tin, cấp tốc biên thư mật gởi cho Bái Công nói:

– Minh công nên vào yết kiến Bá Vương, hễ Bá Vương có hỏi đến lương tiên, xin cứ chỉ cho Lương này.

Bái Công vào yết kiến, Bá Vương hỏi:

– Nhà Tần giàu có bội phần, tướng công vào Hàm Dương trước có biết của cải để đâu chăng?

Bái Công nói:

– Tôi mới đến, công việc bộn bề,chưa hề xét đến kho tàng xin đại vương hỏi Trương Lương mới biết được.

Bá Vương tức giận cho đòi Trương Lương đến trách:

– Nhà ngươi biết kho tàng nhà Tần, cớ sao không nói cho ta biết?

Trương Lương nói:

– Tâu đại vương, đại vương chưa hỏi đến, tôi đâu dám thưa. Cứ như nhà Tần, của cải tích trữ từ đời Hiếu vương đến nay kễ trong thiên hạ không đâu bằng. Tuy nhiên, đến đời Tần Thủy Hoàng, lấy ngân quỹ ra sửa sang cung điện ở Ly Sơn, của cải ấy hao quá nửa. Sau đó, lại để vào trong mộ Tần Thủy hoàng rất nhiều, vì vậy mà hiện nay kho tàng trống rỗng.

Bá Vương ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi Phạm Tăng:

– Của cải để trong mộ Tần Thủy Hoàng thì ta cứ đào lên lấy, để ban thưởng quân sĩ.

Phạm Tăng nói:

– Mộ Tần Thủy Hoàng chẳng qua bài trí những đồ chơi thường nhật, làm gì có của cải.

Trương Lương mỉm cười nói:

– Quân sư lầm rồi! Mộ Tần Thủy Hoàng chu vi chín dậm, cao đến năm mươi thước, lấy châu ngọc kế làm ngôi sao, lấy thủy ngân giả làm sông nước, lấy vàng bạc xây thành quách, lấy bách bảo làm đồ ngự thiện, bắt hơn vài trăm cung nữ chôn sống theo. Bao nhiêu của báu trong nước như san hô mã não phỉ thúy, lưu ly đều chất thành núi giả, ban đêm bảo khí trong mộ bốc lên như ánh trăng.

Bá vương truyền quân sĩ đến quật mộ Thủy Hoàng ngay, Phạm Tăng can:

– Thủy Hoàng tuy vô đạo, nhưng đó cũng là ngôi mộ của một vị đế vương, nay vô cớ quật lên, khác chi là lối cưóp mả, chớ nên làm thế.

Bá vương nói:

– Thủy Hoàng tàn bạo, gồm thâu sáu nước, vơ vét của thiên hạ đến tận xương tủy, ác hơn Kiệt, Trụ, đốt sách vỡ, chôn học trò, tội chất đầy trời. Ta đào mả Thủy Hoàng cốt vì dân trả oán, cần gì phải có của cải.

Ngày hôm sau, Bá Vương dẫn quân lên núi Ly Sơn. Cảnh vật trang nghiêm, muôn màu rực rỡ. Rừng tùng bách trải màu xanh mơn mởn, cung điện nguy nga lỏng bóng đài gương. Thềm lan quì ngựa đá, đường ngự uốn cầu vòng, thật là một cảnh bồng lai trong cõi thế.

Bá Vương tấm tắc khen thầm:

– Công trình kiến trúc tinh vi, bàn tay nhân tạo đúc nên cảnh vật. Thế này thì hết cả kho tàng, kiệt sức nhân dân là phải lắm.

Một lời ban lệnh, ngàn nhát búa vang động, cát bụi bay mịt mù, chim chóc giật mình tua tủa lượn vòng trong không gian như luyến tiếc nơi tổ ấm. Quân sĩ đào đến ba ngày mà chưa thấy chính huyệt.

Bá Vương treo bảng truyền lệnh ai biết được chính huyệt sẽ được ban thưởng.

Bỗng có một người đến tâu:

– Chính huyệt của Thủy Hoàng chỉ riêng hạ thần dược biết mà thôi.

Bá Vương quay lại, thấy người ấy là Anh Bố, mừng rỡ hỏi:

– Sao nhà ngươi lại biết được?

Anh Bố tâu:

– Khi trước tôi đem phu đi làm đốc công, coi ngôi mộ này, sau đó các dân phu đều bị Thủy Hoàng bắt giết hết, tôi may trốn thoát mới biết được.

Bá Vương truyền Anh Bố đem quân đi đào.

Ðào từ đường chính Bắc cho đến đường chính Nam dài hơn một trượng mới thấy một tiền phòng chu vi rộng tám thước. Trong tiền phòng lót bằng đá hoa, trần kết gấm, chính giữa một con đường chạy thẳng vào một khung cửa bằng

cẩm thạch, hai bên đứng la liệt các lão thần, chạm bằng mã não, mặc triêu phục, cầm hốt, mang hia đứng chầu.

Anh Bố dàn quân tiến đến phá tấm cửa đá. Tiếng dội thấu đến hai dặm.

Cảnh cửa đá tung ra để lo một căn phòng rộng, chính giữa một tấm bia rất lớn chạm chín con rồng, đang giương nanh múa vuốt. Sau tấm bia là một cái lầu, cũng xây bằng đá, bốn phía vách tường kín mít tuyệt nhiên không có cửa vào.

Quân sĩ ngơ ngác, không biết đi vào đâu nữa nữa.

Bố nói:

– Các người hãy quật cái bia ấy xuống tất nhiên sẽ có đường đi.

Thật vậy qua một lúc hì hục, quân sĩ đập vỡ bia đá, tức thì tám cánh cửa của thạch lâu mở ra, để lộ bên trong thành quách ngổn ngang, cung vàng điện ngọc, chẳng khác nào một đền vua trên mặt đất.

Cứ theo con đường nơi chánh điện đi thẳng vào, thì hai bên là tam cung lục viện, chính giữa là nhà để linh cữu, đâu đâu cũng chạm trổ toàn là trân châu, ngọc bích, sáng rực như ban ngày. Tuy ở dưới đường hầm nhưng ánh sáng không thiếu.

Anh Bố truyền đập các bờ thành lấy vàng bạc rồi khuân những bảo vật lên.

Bá Vương muốn đập linh cửu của Thủy Hoàng ra, Anh Bố nói:

– Thủy Hoàng bình sanh làm điều ác, sợ sau này có người quật mồ, phá xác nên đề phòng rất kỹ. Linh cữu làm bằng đá, trong có chứa rất nhiều tên sắt, thuốc nổ, nếu đập vỡ, cả đám quân sĩ vào đây đều phải chết hết. Chi bằng cứ để yên như thế lấp lại là hơn.

Bá Vương y lời, truyền khuân hết kim ngân châu báu lên mặt đất, đoạn sai đốt cung A Phòng. Lửa cháy ba tháng chưa tắt, bao nhiêu cung đài mỹ lê nguy nga thảy đều ra tro hết.

Ôi! Công trình dân chúng bao nhiêu năm trời xương máu, dưới tay bạo chúa, chỉ trong phút chốc tan tành.

Người sau có thơ rằng:

Chén ngọc vỡ tan xem tợ tuyết!

Quân Hàn nghìn vạn đều lưu huyết

Hàm Dương lửa cháy mấy tuần trăng

Bá nghiệp đang theo lan khói biếc

Cung điện nhà Tần ra tro, lòng dân Tần cũng lạnh lẻo, họ chán ngán hành động hung tàn của Hạng Vũ.

Các chư hầu đóng quân nơi Hàm Dương lâu ngày, muốn rút về, rủ nhau đến nói với Phạm Tăng:

– Chúng tôi đến đây đã lâu, chưa được phong thưởng tước lộc sợ rằng trong nước có biếng nên muốn xin lui về.

Phạm Tăng nói:

– Xin các ngài chờ đợi ít hôm, tôi sẽ bảo tấu với đại vương.

Nói xong vào yết kiến Bá Vương nói:

– Các vua chư hầu theo đại vương đánh Tần đều có công lao mà chưa được phong thưởng. Xin đại vương luận công hành thưởng rồi cho đâu về đấy để họ được an tâm.

Bá Vương nói:

– Ý ta muốn phong tước cho họ đã lâu song có một điều khó khăn nên còn do dự.

Phạm Tăng hỏi:

– Tâu Ðại vương, có thể cho tôi biết điều khó khăn chăng?

Bá Vương nói:

– Vua Hoài Vương có ước: Ai vào Quan Trung thì làm vua. Lấy lẽ công bình thì Bái Công được làm. Nay ta tiếm vị còn biết phong Bái Công làm sao!

Phạm Tăng nói:

– Nếu muốn thiên hạ khỏi cho Ðại vương là kẻ cướp công thì nên phong Bái Công vương chức. Ba Thục, cũng thuộc đất Quan Trung, nhưng non sông hiểm trở, nhà Tần trước đây thường đầy kẻ có tội vào đấy. Vậy cứ phong cho Bái Công làm Hán vương, rồi phong cho Chương Hàm, Tư Mã Lân, Ðổng Ể làm vua Tam Tần để chẹn đường hiểm yếu, không cho Bái Công thoát ra khỏi đất Ba Thục. phái chết già trong hung địa. Tuy tiếng là phong vương song kễ như là đày biệt xứ.

Sở Bá vương nói:

– Kế ấy rất hay.

Liền sai quan Quân Chính Tư đem sổ bộ để luận công phong thưởng.

Bá vương phong thưởng như sau:

– Bái công làm Hán vương, đóng đô ở Nam Trịnh, cai trị 41 huyện.

– Chương Hàm làm Ung vương, đóng đô ở Phế Khẩu, cai trị đất Thượng Tần, gồm 38 huyện.

– Tư Mã Hân làm Tắc vương, đóng đô ở Lịch Dương, cai trị đất Hạ Tần, gồm 18 huyện.

– Ðổng Ể, làm Ðịch vương, đóng đô ở Cao Nô, cai trị đất Trung Tần, gồm 30 huyện.

– Thần Dương làm Hà Nam vương, đóng đô ở Lạc Dương, cai trị Hà Nam gồm 20 huyện.

– Anh Bố, làm Cứu Giang vương, đóng đô ở Lục Hợp cai tn 45 huyện.

Và, những người sau đây cũng đều được lần lượt phong thưởng trấn những nơi không quan trọng lắm, như:

– Cung Ngao làm Lâm Giang vương.

– Ngô Nhuế làm Hoành Sơn vương.

– Ðiền An làm Tế Bắc vương.

– Ngụy Bái làm Tây Ngụy vương.

– Trương Nhĩ làm Thương Sơn vương.

– Tang Ðồ làm Yến vương.

– Triệu Yết làm Ðại vương.

– Ðiền Hoành làm Thượng Tề vương.

– Ðiền Úc làm Trung Tề vương.

– Trịnh Lã làm Hàn vương.

– Trần Thắng làm Lương vương.

– Ðiền Vinh làm Tiền Tề vương.

– Ðiền Khánh làm Triệu vương.

– Trần Dư làm Bắc Triệu vương.

– Hạng Trang làm Ðông Giáo vương.

– Hạng Chính làm Xuân Thắng vương.

– Phạm Tăng làm Thừa Tướng

– Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh.

– Chung Ly Muội làm hữu Tư Mã.

– Ðinh Công làm tả Tướng quân.

– Long Thư làm Ðại Tư Mã.

– Quý Bố làm tả Tư Mã.

– Ung Tôn làm hữu Tướng quân.

– Lưu Tần làm hậu Tướng quân.

– Trần Bình làm Ðô Úy.

– Tàn Sinh làm tả Giám Nghị.

– Vũ Anh làm Giầu Chiên Ðại tướng quân

– Hoàn Sở làm Ðại tướng quân.

– Tử Kỳ làm Ðại tướng quân.

– Hàn Tín làm Chấp kích lang.

Văn vũ bá quan sau khi được phong tước quyền mỡ tiệc ăn mừng trong ngoài rộn rịp.

Riêng Bái Công lòng bối rối không an. Chư tướng thấy vậy hậm hực nói:

– Hán Trung là chỗ nhà Tần dùng để đày tội nhân, nay Bá vương phong Chúa công vào trấn nơi đó, chẳng khác nào muốn giam lỏng, ấy là mưu của Phạm Tăng muốn hại Chúa công đó.

Phàn Khoái nỗi giận nói:

– Phạm Tăng khi chúng ta thái quá. Tôi xin liều chết đem thân chống lại quyết không nghe lời Bá vương.

Bái Công cũng tỏ ý hằn học:

– Công ta rất lớn, diệt nhà Tần, thâu đất Quan Trung, lẽ ra phải được làm vua nước Tần, đóng đô ở Hàm Dương mới đáng, sao lại đày vào nới lâm sơn chướng khí, bốn bề núi non rừng rậm, chịu sao được.

Tiêu Hà vội can:

– Làm vua ở Hán Trung tuy xấu, nhưng còn hơn mất cả sự nghiệp. Chịu khuất một người mà thu phục được thiên hạ đó là gương vua Thang, vua Vũ đời xưa vậy. Xin Ðại vương cứ vào Hán Trung, tích thảo dồn lương chiêu hiền đãi sĩ lấy Ba Thục làm căn cứ, mộ thêm quân, ngày kia kéo ra đánh Tam Tần, thì làm gì chẳng thu phục được thiên hạ.

Trương Lương cũng nói:

– Thục tuy là tội địa nhưng trong có núi non hiểm trở, ngoài có sông ngòi bao quanh, tiến thì có thể chiếm được thiên hạ, thoái thì có thể giữ được biên cương. Ðó thực là chỗ đất dụng võ. Ðại vương nên vui lòng nhận lấy.Nếu tỏ ý bất mãn tất Bá vương tìm cách ám hại. Hơn nữa, Phạm Tăng là kẻ mưu sâu, ta không nên chống đối.

Hán vương bùi ngùi nghe theo, và nói:

– Nếu không có Tiên sinh giải bày, ta đã lầm việc lớn.

Lịch Tư Cơ nói:

– Chúng ta vào Hán Trung có ba điều lợi. Thứ nhất, đất Thục hiểm trở, xa cách Trung nguyên, không ai rõ được thực hư. Thứ nhì, trong lúc Ðại vương có công, bị Bá vương bạc đãi, tất lòng dân mến chuộng. Thứ ba, chúng ta có đủ thời giờ, hoàn cảnh để tạo lấy thời thế. Có ba điều lợi như vậy lo gì không gồm thâu được thiên hạ sau này.

Hán vương mừng rỡ liền chọn ngày khởi hành.

Giữa lúc đó, Phạm Tăng, sau khi đề nghị phong Bái công làm Hán vương, trấn thủ Hán Trung, bỗng nghĩ lại rằng:

– Bái Công mạng hỏa, tất cả đồ dùng hoàn màu đỏ thuộc hỏa, nay đến Hán Trung, đất phương Tây thuộc kim. Kim mà gặp hỏa tất thành đại khí.

Nghĩ như vậy liền vào tâu với Bá vương:

– Bệ hạ phong Bái công làm Hán vương, Bái công có ý bất bình. Vả lại chư tướngg của Bái công phần nhiều là người Sơn Ðông, đều có ý oán Bệ hạ. Nếu không dùng uy lực trừ đi, sau này khó tính.

Bá vương nói:

– Ta đã phong tước rồi nay còn tranh cải nữa sao được

Phạm Tăng suy nghĩ một lúc rồi tâu:

– Ngày mai Bệ hạ đòi Hán vương vào chầu, nếu Hán vương tỏ ý bất mãn, xin Bệ hạ chém quách là xong.

Bá vương nhận lời. Hôm sau, Hán vương vào chầu.

Bá vương hỏi:

– Ta phong ngươi vào Hán Trung ngươi có thuận đi hay không?

Hán vương khúm núm tâu:

– Ðã làm tôi ăn lộc vua, thì sinh mệnh ở trong tay vua, có lẽ nào còn dám nói thuận hay không thuận. Tôi cũng như con ngựa của Bệ hạ, giật cương thì đi, gò cương thì đứng lại, thế thôi.

Bá vương cười khúc khích, nói:

– Nhà ngươi thật khéo ví dụ! Thôi, ta cho về thu xếp để lên đường, không còn gì hỏi han nữa cả.

Hán vương vội vàng trở về dinh.

Trương Lương mừng rỡ nói:

– Ðại vương có biết việc nguy hiểm ngày hôm nay chăng?

Hán vương ngạc nhiên không hiểu. Trương Lương nói tiếp:

– Ðại vương hồng phúc lớn lắm. Ban nãy nếu Ðại vương nói là “bằng lòng hay không bằng lòng” thì nguy rồi.

Hán vương bấy giờ mới biết đó là kế của Phạm Tăng, liền hỏi Trương Lương:

– Nếu cứ ở đây mãi e có điều nguy hiểm. Tiên sinh liệu sao?

Trương Lương nói:

– Ðể tôi bàn với Hạng Bá và Trần Bình rồi sẽ liệu. Bây giờ xin Ðại vương cứ thu xếp hành trang sẵn sàng để chờ dịp lên đường.

Rồi đó, Trương Lương đến nói với Hạng Bá và Trần Bình:

– Phạm Tăng có ý hại Hán vương. Hán vương muốn đi ngay cho thoát nạn. Hai ông có kế gì xin giúp đỡ. Tôi quyết chẳng quên ơn.

Trần Bình ngồi nghĩ một lúc rồi ghé vào tai Trương Lương nói mấy câu.

Trương Lương vỗ tay khen:

– Kế ấy hay lắm.

Hồi 12 – Cứu Hán vương, Trần Bình lập kế

Bá vương phong tước chư hầu xong, ý muốn về đóng đô nơi Bành Thành, nhưng hay tin vua Nghĩa Ðế chưa thiên đô sang Giang Nam, lòng nóng như đốt.

Một hôm, Bá vương triệu quần thần đến hỏi:

– Nay vua Nghĩa Ðế không chịu thiên đô qua Giang Nam, nhường Bành Thành cho ta, các khanh nghĩ thế nào?

Trần Bình bước ra tâu:

– Trời không hai mặt, nước chẳng hai vua. Nay Bệ hạ đã lên ngôi Thiên tử, lấy quyền hạn phong chư hầu, mà lại còn thỉnh mệnh Hoài vương, tránh sao khỏi thiên hạ chê cười. Cứ như ngu ý, Bệ hạ nên sai quân sư đem vài viên Ðại tướng đến Bành Thành bắt Hoài vương phải thiên đô đến một nơi cùng tịch, coi như bỏ đi vậy. Như thế tôn hiệu Bệ hạ mới chính đáng.

Bá vương chuẩn tấu, liền gọi Phạm Tăng đến, phán:

– Quân sư vì trẫm dẫn hai tướng Hoàn Sở, Vũ Anh thẳng đến Bành Thành, bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô ngay không được trì hoãn. Ðoạn, sửa sang cung thết trẫm ngự về đóng đô. Vì Bành Thành là nơi quê hương của trẫm.

Phạm Tăng tâu:

– Bệ hạ truyền chỉ tôi chẳng dám trái lời, song tôi chỉ sợ trong lúc vắng mặt tôi, có kẻ lừa dối Bệ hạ. Vì vậy, tôi xin ba điều.

Bá vương nói:

– Ðược, quân sư cứ nói.

Phạm Tăng tâu:

– Thứ nhất, Bệ hạ chớ nên rời khỏi Hàm Dương, vì Hàm Dương xưa nay là nơi trù mật, đất rộng, dân giàu, thiên hạ không đâu bằng. Thứ hai, nên trọng dụng Hàn Tín, vì Hàn Tín là kẻ có tài Nguyên Nhung. Nếu đắc dụng Hàn Tín sẽ là kẻ phi thường trong thiên hạ, không ai dám tranh phong. Nhược bằng không dùng thì phải giết đi, chớ nên dể lọt vào tay người khác. Thứ ba, chớ nên cho Hán vương vào Hán Trung vội. Hãy tạm giữ đến lúc tôi về sẽ tính. Ba điều ấy rất khẩn yếu, xin Bệ hạ chớ quên.

Bá vương nói:

– Quân sư cứ an tâm làm nhiệm vụ. Trẫm xin ghi nhớ.

Phạm Tăng liền dẫn bọn Vũ Anh, Hoàn Sở thẳng đến Bành Thành.

Ðêm hôm ấy, Trần Bình dâng biểu tâu với Bá vương:

Quốc gia lấy sự giàu mạnh làm gốc. Thánh vương lấy nhân nghĩa làm đầu. Bê hạ nay mới lên ngôi hai điều căn bản là giữ gìn kho tàng cho sung túc, ban bố điều ân cho dân lành. Thế mà chư hầu đều tụ họp ca nơi Hàm Dương này, mỗi ngày ít ra cũng phải cung cấp thực phẩm cho hơn 3, 4 vạn quân. Phải tính, mỗi ngày dùng hơn 300 gánh rượu, 200 con dê, 400 lợn, 100 trâu, 4000 cân gạo 3000 hộc đậu, 2000 bó củi v. v.. như thế thì chẳng bao lâu kho tàng hết sạch, dân chúng nghèo nàn đó là chưa nói những sự nhiễu hại của quân sĩ đối với nhân dân làm cho nhân dân, oán trách Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét lại?

Bá vương xem biểu xong, truyền cho các nước chư hầu, hạn trong ba ngày phải lui quân về nước. Duy có Hán vương hãy tạm ở lại Hàm Dương, đợi phạm Tăng về sẽ liệu.

Hán vương được tin kinh sợ than:

– Ôi! Nếu chờ Phạm Tăng về, Phạm Tăng bày kế hại ta, còn vào Hán Trung sao được?

Liền đòi Trương Lương vào hỏi:

– Bây giờ Bá vương cho chư hầu đâu về đấy, chỉ riêng ta bị bắt ở lại đây, thật nguy lắm. Tiên sinh có kế gì giải cứu chăng?

Trương Lương nói:

– Nay gia quyến Ðại vương còn ở cả nơi Phong Bái, Ðại vương nên dâng biểu xin về thăm gia quyến và mang gia quyến đến đây. Thế rồi tôi sẽ có kế cứu thoát.

Hán vương theo lời, lập tức sai Lịch Tư Cơ dâng biểu.

Tờ biểu viết như sau:

Ðức Thánh vương lấy hiếu trì dân, làm cho dân theo về đạo hiếu, gia đình thỏa thuận nhà cửa sum vầy. Bang tôi vốn người Phong Bái, một kẽ thường dân, ngửa đội ơn trên, được phong vương tước. Tấm thân vinh quy đã đủ mười phần. Duy chỉ cha mẹ, vợ con còn ở nơi cố quán tấm lòng tấc cỏ chưa chút báo đền. Nay xin để hết binh mã lại đây một mình về thăm quê quán, trong hạn ba tháng sẽ cùng gia quyến đến Hàm Dương phục mệnh. Chút tình khuyển mã, cúi đầu trần tấu, xin Bệ hạ đoái hoài.

Bá vương xem biểu xong, phán:

– Hán vương xin về thăm cha mẹ, thật phải đạo làm con. Tuy nhiên, trẫm lại nghĩ rằng Hán vương xin đi đây không phải là chân ý, mà có lẽ vì bất mãn việc trẫm giữ lại Hàm Dương chăng?

Hán vương thất kinh, khúm núm tâu:

– Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hèn này được phong vương tước cũng đã đủ lắm rồi còn gì bất mãn nữa. Phụ thân tôi mình già, tuổi yếu, dưới gối không kẻ chăm nom, đạo làm con nghĩ không đành lòng. Xin Ðại vương thương tình rộng xét.

Nói xong, Hán vương gục xuống đất khóc nức nở.

Trương Lương bước ra tâu:

– Không nên để Hán vương về Phong Bái, nên bắt Hán vương vào ngay Hán Trung, rồi Bệ hạ sai người bắt Thái công và gia quyến đến đây làm con tin. Như vậy chẳng bao giờ Hán vương dám gian trá điều gì nữa.

Bá vương ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Lúc đi, quân sư có dặn phải giữ Hán vương lại đây đừng để vào Hán Trung, e sanh dị ý.

Trân Bình bước ra tâu:

– Bệ hạ đã phong Lưu Bang làm Hán vương mà giữ lại đây mãi e thất tín với thiên hạ. Chi bằng cứ nghe theo lời Tử Phòng, bắt Thái công làm con tin, Hán vương đâu dám trái mệnh.

Bá vương nói:

– Nếu các ngươi thấy việc cho Hán vương vào Hán Trung là cần thiết cho uy tín, thì trẫm cũng y lời. Thế thì trẫm truyền cho Hán vương vào ngay Hán Trung, mà không được về Phong Bái.

Hán vương giả khóc lóc van xin mãi.

Bá vương lấy lời phủ dụ:

– Thôi, nhà ngươi cứ an lòng đi trấn nhậm. Ðợi lúc nào trẫm dời đô đến Bành Thành sẽ sai người rước Thái công về nuôi dưỡng thay cho nhà ngươi.

Hán vương tâu:

– Ðội ơn Bệ hạ! Kẻ hèn này dẫu đến chết cũng không quên ơn ấy.

Nói xong bái tạ lui ra. Chung Ly Muội thấy Bá vương cho Hán vương về Hán Trung, vội vã can:

– Lúc quân sư lâm hành có ân cần xin Bệ hạ đừng cho Hán vương vào Hán Trung, Bệ hạ đã quên rồi sao?

Bá vương nói:

– Ðã bắt gia quyến người ta quản thúc nơi đây, còn giữ người ta làm gì nữa. Vả lại lời ta đã phán, không thể làm khác hơn được. Nhà ngươi không cần nhắc đến chuyện ấy nữa.

Hàn Tín thấy vậy than thầm:

-Ðã cho vào Hán Trung mà còn giữ gia quyến ở đây mai sau họ vì gia quyến cố đánh để giải thoát thì chúng ta tất phải chết. Tiếc thay! Lời nói của quân sư không được xem trọng.

Hán vương về đến đại trại, lập tức chỉnh đốn binh mã, lên đường. Trăm họ kéo nhau tiễn biệt, đứng chật hai bên đường, ai nấy đều tỏ lòng ái mộ.

Các bậc bô lão đến trước ngựa, nói:

– Chúng tôi cầu mong Ðại vương được làm vua nơi Quan Trung này, nay Ðại vương lại vào Hán Trung, chúng tôi biết bao giờ còn trông thấy ánh mặt trời nữa.

Hán vương nói:

– Chúng dân cứ thủ phận làm ăn, có ngày sẽ tương kiến.

Tiêu Hà nói với các bô lão:

– Các cụ nên trở lại kẻo Bá vương hay được, chẳng những hại cho các cụ mà còn nguy hiểm đến Ðại vương nữa.

Nói xong, giục quân lên đường. Ði được một quãng dài, mà tiếng khóc than của dân chúng vẫn còn vang đến.

Trương Lương dẫn đường, vào mạn núi Thiểm Sơn.

Ði được 90 dặm thì tới huyện Phượng Tường rồi đến cửa ải Mê Bồn. Lại đi 30 dặm nữa đến huyện Bảo Kê rồi đến cửa quan Ðại Tân và đến Sạn đạo.

Quân Hán vương toàn là người Sơn Ðông, không quen trèo non, lặn suối, nay tới đường Sạn đạo chỗ thì cao vút mây xanh, chỗ thì xuống tận suối thẳm, một cái trợt chán có thể bỏ mạng được, lấy làm kinh sợ, nói với nhau:

– Chúng ta vào đây, bốn bề hoang vu, rừng thâm nước độc, nếu không liều chết giải thoát cho mình, thì trọn đời làm ma dại nơi hoang địa này.

Phàn Khoái nghe nói nổi giận hét lớn:

– Các ngươi nói rất phải, dẫu chết với bọn chúng cũng còn mát lòng hơn sống trong đất này. Tôi xin nguyện làm tiên phuông, cử binh chinh phạt cho.

Hán vương bùi ngùi nói:

– Ta thà chết còn hơn đem thân đến đây cầu sống. Một mai bọn Chương Hàm đóng quân chận lối này, dầu ta có cánh cũng không thoát ra được

Trương Lương, Tiêu Hà, Lịch Tự Cơ đều can:

– Nếu Ðại vương chán nản như thế e hỏng việc lớn.

Hán Trung càng hiểm trở bao nhiêu càng giúp cho Ðại vương dễ định thiên hạ bấy nhiêu. Ở đây Ðại vương tha hồ chiêu binh mai mã, dẫu cho Bá vương có tám tai bốn mắt cũng không thể nào biết được. Khi quân ta có đủ sức mạnh thì còn sợ gì gian nguy hiểm trở, trước địch Tam Tần, sau bình thiên ha có khó chi.

Hán vương nghe lời khuyên giải lòng cũng nguôi ngoai nên truyền Phàn Khoái đốc binh thẳng vào Bao Trung.

Khi đến núi Kim Ngưu, ba quân dừng lại nghỉ ngơi.

Hán vương hỏi:

– Sao lại gọi là Kim Ngưu?

Lịch Tự Cơ nói:

– Trước kia đường Hán Trung ra Trung Nguyên còn hiểm trở bằng vạn lần ngày nay, tuyệt không có lối nào đi lại. Vua Huệ vương nhà Tần muốn kiêm tính sáu nước, nhưng không có cách nào kéo quân vào đánh Thục đặng. Nghe nước Thục có năm người lực sĩ sức mạnh xẻ núi lấp sông, liền bày ra một kế đúc năm con trâu bằng sắt phao đồn rằng: nhà Tần có năm con trâu vàng mỗi ngày tiêu ra năm đấu vàng! Vua Thục tưởng thật, sai năm người lực sĩ, khai sơn phá thạch, lấy lối ra Tần, cướp năm con trâu ấy. Nhưng khi mở lối xong, cướp được trâu té ra là trâu sắt. Vua Huệ vương mượn con đường ấy đem quân vào đánh lấy đất Thục, làm ra con đường Sạn đạo, và đặt tên núi là Kim Ngưu.

Hán vương nói:

– Chỉ vì vua Thục tham vàng mà mở đường cho quân Tần vào cướp đất!

Quân sĩ nghĩ ngơi xong toan lên đường, Trương Lương bước đến nói với Hán vương:

– Tôi tiễn chân Ðại vương đến đây rồi, xin cho phép tôi được trở về cố quốc.

Hán vương kinh ngạc nói:

– Từ khi ta gặp được Tiên sinh, đã bao lần gian nguy khổ cực nhờ Tiên sinh giúp đỡ, mới mong được toàn mạng, nay Tiên sinh bỗng nhiên bỏ ta trong lúc sự nghiệp chưa thành ta còn biết nương cậy vào ai?

Trương Lương nói:

– Trước đây vì phải luôn luôn tranh đấu trước gian nguy, nên tôi không dám rời Ðại vương nữa bước. Nay Ðại vương vào Hán Trung, đâu còn gì nguy hiểm nữa? Giữ tôi bên cạnh, Ðại vương chẳng ích gì! Tôi xin từ giã Ðại vương trở về thăm cố chúa, nhân tiện tính giúp cho Ðại vương ba việc, xin Ðại vương cứ an tâm.

Hán vương hỏi:

– Ba việc ấy là ba việc gì xin Tiên sinh chỉ giáo.

Trương Lương nói:

– Một là: về du thuyết Bá vương, bày Bá vương thiên đô sang Bành Thành, dành Hàm Dương cho Ðại vương sau này, trở về lên ngôi thiên tử.

Hai là: đi du thuyết chư hầu bỏ Sở phò Hán, và tìm cách làm cho Bá vương không đế ý đến lực lượng Ðại vương nữa. Ba là: tìm cho Ðại vương một người Ðại nguyên soái, đủ tài diệt Sở hưng Lưu. Làm xong ba việc ấy tôi sẽ trở về Hàm Dương chờ đón Ðại vương.

Nay chỉ khuyên Ðại vương một điều là cố gắng nhẫn nhục, vì Hán Trung chỉ là nơi ở tạm, không quá ba năm Ðại vương sẽ vào Trung Nguyên làm chủ thiên hạ.

Hán vương nói:

– Nếu thực được như lời Tiên sinh thì Bang này dẫu khổ nhục đến đâu quyết chẳng dám sờn lòng. Nhưng Tiên sinh định tìm một vị Nguyên soái, mà Tiên sinh không trở về đây, làm thế nào được?

Trương Lương nói:

– Người ấy sẽ là một anh tài trong thiên hạ. Khi tìm được tôi sẽ chỉ tỏ đường lối để người ấy tìm đến đây. Ðại vương phải thu dụng, chớ thất tín.

Hán vương hỏi:

– Tiên sinh phải lấy gì làm tin, ta mới biết là người của Tiên sinh giới thiệu chứ?

Trương Lương nói:

– Tôi xin giao cho người ấy một giốc thư. Trong thư tôi sẽ viết những lời bí mật của Ðại vương nói với tôi lúc bình nhật.

Trương Lương nói xong, cúi đầu giã biệt.

Hán vương nắm tay rơi lệ nói:

– Xin Tiên sinh đừng sai ước. Tiên sinh về có gặp thân phụ tôi xin nói giúp một lời rằng: Bang này ngày đêm mong nhớ cội thung, nhưng hoàn cảnh không thể nào phụng dưỡng được. Xin người cứ giữ gìn thân thể, và trông nom các cháu. Còn trời còn đất, tất còn có ngày đoàn tụ.

Trương Lương nói:

– Vâng, tôi xin tuân mệnh.

Nói xong, lại dắt Tiêu Hà ra dặn dò mọi việc và nói:

– Lúc nào tôi tìm được vị Nguyên soái thì tướng quân phải hết lòng tiến cử nhé. Bức thư có rọc mất một chéo góc.

Tiêu Hà nói:

– Tiên sinh cứ yên lòng, nếu tôi thấy người cầm giốc thư đến đây quyết không để lỡ việc.

Trương Lương bái biệt Hán vương, giã từ tướng sĩ rồi lên ngựa trở lại.

Hán vương tiễn đưa mấy dặm đường.

Bỗng phía sau có tiếng kêu la ầm ĩ, và ngọn lửa cháy ngất trời, lan ra hơn ba mươi dặm. Hỏi ra mới biết Trương Lương đốt Sạn đạo rồi.

Hán vương thất kinh, ngước mặt lên trời than:

– Ôi chao! Trương Lương đã trở về còn nhẫn tâm đốt Sạn đạo là cố ý giam lỏng chúng ta nơi đây trọn đời bỏ xương trong núi thẳm rồi.

Quân sĩ cũng dều nhao nhao chửi rủa Trương Lương và nói:

– Trời ơi! Thế là chúng ta đành sống làm mọi nơi xứ Hán Trung, để rồi chết làm quỉ nơi hoang vu này, chứ còn đường sá nào mong trở về nửa.

Ðang lúc ba quân huyên náo, Tiêu Hà chạy lại nói nhỏ với Hán vương:

– Xin Ðại vương chớ oán Trương Lương. Sở dĩ Trương Lương đốt Sạn đạo là để cho Bá vương không còn để ý đến ta nữa, quân tướng Tam Tần ăn no ngủ kỹ không đề phòng xin Ðại vương lượng xét.

Hán vương như sực tỉnh, thở hào hển nói:

– Nếu không có nhà ngươi, ta đã hiểu lầm oán trách người hiền.

Nói xong, truyền ba quân tiếp tục lên đường.

Khi đến Bao Dung, Hán vương tìm lời phủ dụ quân sĩ, rồi chọn ngày lên ngôi, thi ân bố đức, dân chúng đem lòng cảm phục.

Năm ấy được mùa, dân chúng ấm no, trăm họ an vui, non sông tươi thắm.

Hán vương phong Tiêu Hà làm Tướng quốc, Tào Tham, Phàn Khoái, Chu Bội, Quán Anh đều làm tướng.

Từ đó, chiêu hiền đãi sĩ, tích thảo dồn lương, chỉ hơn vài tháng dân Hán Trung, đường không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, tuyệt nhiên không có một kẻ gian manh trộm cướp, thật là một cảnh thái bình.

Sau khi đốt Sạn đạo, Trương Lương đến Phương Linh nghỉ một hôm, ngày hôm sau qua Phượng Châu, Ích Môn, đi gần tới đia phận Bảo Kê, bỗng có một tướng kéo một đoàn quân ra đón đường hét lớn:

– Trương Lương! Ta vâng lệnh quân sư Phạm Tăng đến đây đón ngươi đã lâu.

Trương Lương kinh ngạc, xem lại thì thấy đó là nha tướng của Hạng Bá.

Hồi 13 – Vì vua Hán, Trương Lương quyết chí

Viên tướng ấy thấy Trương Lương sợ hãi, vội xuống ngựa, và cười lớn nói:

– Tiên sinh không nhận ra tôi sao? Hạng công biết tiên sinh vào nơi hiểm trở, nên sai tôi đến đây bảo vệ.

Trương Lương mừng rỡ nói:

– Hạng công thật là người chu đáo.

Rồi cùng theo tướng ấy vào thành đến nhà Hạng Bá.

Hai người gặp nhau trong bầu hoan hỉ.

Hạng Bá sai lấy quần áo cho Trương Lương thay, trao đổi niềm tâm sự, và mở tiệc đãi đằng cho đến tối mới đi nghỉ.

Ðêm ấy, Trương Lương lòng bàng hoàng không ngủ được, bỏ ra ngoài hiên dạo cảnh ngắm trăng, nhân hỏi thăm chuyện các nước chư hầu đối với Bá vương như thế nào.

Bọn quân canh nói:

– Chư hầu đều đến bái yết Bá vương, duy có vua nước Hàn là Cơ Thành vì đến chậm lại để Trương Lương theo phò Hán vương vào Bao Trung, nên Bá vương truyền chém đầu, đưa linh cữu về nước cách đây vài hôm.

Trương Lương hay tin như sét đánh bên tai, tay chân bủn rủn, vội vàng chạy vào phòng, suốt đêm khóc sướt mướt, nước mắt ướt đầm cả gối.

Sáng hôm sau, Trương Lương cáo từ Hạng Bá, trở về Hàn quốc.

Hạng Bá nóí:

– Lâu nay bận rộn việc nước, tuy gặp nhau nhưng chưa bao giờ được cùng nhau tâm sự. Vừa rồi, tôi sai người đón Tiên sinh đến dây cốt để thỏa tình hoài mộ, sao Tiên sinh vừa đến lại đã giã biệt?

Trương Lương đáp:

– Vừa rồi tôi nghe Hàn Vương bị Bá vương giết chết, chỉ vì tôi theo Hán vuơng vào Bao Trung. Tình vua tôi rất nặng xin hiền huynh cho tôi về nước, khóc cho Hàn vương rồi sẽ trở lại đây bái yết.

Nói dứt lời, hai dòng nước mắt chảy xuống đọng trên má.

Hạng Bá cảm động không dám ngăn, chỉ hẹn sau một tháng sẽ cho người đến đón.

Trương Lương ra đi… buồn bã về đến nước Hàn vào tiếp kiến các vị công tử, rồi ra trước mộ Hàn vương làm lễ, rồi khóc và than rằng:

– Chúa công ôi? Ðể cho Hạng Vũ hại Chúa công thật là tội của Lương này. Nếu Lương này không báo thù được cho Chúa công xin muôn kiếp không làm người.

Than rồi lại khóc. Các công tử xúm lại khuyên giải mãi, Trương Lương mới chịu gạt lệ trở về thăm gia quyến.

Ðược vài hôm, Trương Lương lại thu xếp hành trang ra đi. Quê người cảnh lạ, non nước đìu hiu, lòng buồn bả khôn khuây.

Vừa đi được mấy ngày, bỗng gặp người nhà của Hạng Bá sai đến đón.

Trương Lương nghĩ tình bạn, không nỡ từ chối, trở lại nhà Hạng Bá.

Hạng Bá thấy Trương Lương buồn rầu, ân cần hỏi:

– Tiên sinh định đi đâu mà có vẻ buồn bả như thế?

Trương Lương thản nhiên đáp:

– Bấy lâu vì nước quên nhà, tuyết sương chẳng quản. Nay cố chủ đã mất, thân hèn lại nhiều tật, chẳng mong gì ở cõi đời này nữa ; vì vậy muốn học thuật huyền vi của Lão Tử, theo lối phóng đãng của Trang Chu, hái rau vi theo Bá Di. Thúc Tề, rửa tai trâu học đòi Hứa Do, Sào Phủ chán vòng danh lợi, tìm thú sơm lâm, phú quý vinh hoa không dám nghĩ tới, hiền huynh đã là bạn, tôi chẳng dám giấu.

Hạng Bá biết không thể đem giàu sang làm vui Trương Lương được, nên chỉ xin lưu lại vài tháng để thỏa tình ngưỡng vọng.

Môt hôm, Hạng Bá vào chầu, Trương Lương ở nhà một mình đi bách bộ, đến một vườn hoa thấy có một tòa lâu đài tường cao, cửa rộng, cỏ hoa man mác trên có đề bốn chữ “Vạn quyển thư lâu”.

Trương Lương lần vào. Trong thư lâu có nhiều phòng, nhưng đặc biệt nơi phòng chính trang hoàng đồ sộ, án thư ở giữ muôn vẻ trang nghiêm. Cách tường, một giá sách dể toàn trúc giản đời cổ. Một bên có để những văn thư rất nhiều. Trương Lương mở ra xem thì thấy đó là những tờ sớ tấu của sáu nước, những lời biểu của bá quan, vì Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh nên các văn thư đều phải kiểm duyệt trước rồi mới đệ trình lên Bá vương.

Bản chính đem vào triều bản sao để ở nhà.

Trương Lương đọc qua mọt loạt thấy những tờ biểu ấy có tờ cũng hay, có tờ cũng dở có tờ lại toàn là lời sàm nịnh, nói chung là không có gì xuất sác. Bỗng Trương Lương rút đến tờ biểu sau cùng, xem qua, trát mồ hôi ướt áo.

Tờ biểu ấy như vầy:

“Tôi nghe nói trị thiên hạ tối thiểu phải có hai điểm. Thế và Cơ. Thế là xét điểm thực hư lượng sức mạnh, yếu. Biết mình, hiểu người, ấy là nét cần bàn để trị thiên hạ. Nếu chỉ lấy sức mạnh hoành hành chẳng qua là một cơn gió lốc, cây cỏ tuy ngã rạp xuống, nhưng chẳng bao lâu sau sẽ đứng dậy chơm chởm như muôn ngàn mũi giáo chống lại uy vũ.

Cơ là hiễu rõ sự hưng vong, xét cơ trị loạn, nếu không biết đến cơ, chẳng qua là nhóm giặc cỏ nổi lên, bạo phát bạo tàn, lâu dài sao được?

Nay Bệ hạ tuy làm vua Quan Trung nhưng lòng người chưa phục. Dân chỉ sợ uy mà không mến đức. Trong vũ trụ, không có gì mạnh mà không đến lúc suy yếu. Cơn bão tố khủng khiếp kia, có thể xô tường, trốc đá nhưng rồi cũng phải dứt. Cái gì biểu lộ ra ngoài, cái ấy chóng vong. Ngược lại cái gì i?v, cái ấy lâu mất. Tỷ như lòng oán vọng của dân chúng, tuy không phát lộ, nhưng tồn tại mải trong lòng, khó mà tẩy sạch. Ðã uy rồi đến lúc phải khuất, đã mạnh rồi tất có lúc phải yếu. Nếu không thấu nghĩa chữ “cơ” làm sao có thể trị thiên hạ? Tôi thấy vậy mà lo cho Bệ hạ đó.

Như Hán vương khi ở Sơn Ðông tham tài hiếu sắc mà lúc đến Quan Trung thấy của không màng thấy sắc không lụy, thi ân bố đức, khiến cho dân Tần cảm mến, đó chẳng phải là kẻ hiểu được chữ “cơ” và chữ “thế” trong thiên hạ ư?

Nếu Hán vương thừa cơ xướng khởi, lấy lòng dân làm sức mạnh, lợi dụng cái yếu của Bệ hạ để làm cái mạnh của mình, có phải là lập được cái “thế” trong thiên hạ không?

Cứ xem như việc đốt Sạn Ðạo để Bệ hạ khỏi ngó về phương Ðông. Tam Tần không có ý phòng bị về đất Hán, rồi đem quân Ba Thục về lấy Quan Trung là hiểu “thế” và biết “cơ” trong thiên hạ lắm!

Hán vương là kẻ đối thủ của Bệ hạ mà Bệ hạ không thấy cái nguy hiểm ấy, tướng sĩ chỉ biết thừa thuận ý vua, tưởng chỉ dùng cái vũ của Bệ hạ sẽ trở thành người vô địch trong thiên hạ!

Tôi, dẫu là một kẽ hèn,nhưng đã ăn lộc vua lẽ nào không có lòng lo lắng, mạo muội đôi lời, không ngại trăm quan chê cười, hiền dâng vài kế: nay phải thêm quân phòng bị biên cương, rút bọn Chương Hàm về dùng vào việc khác, chọn người trí dũng chận lấp cửa quan, bắt gia thuộc Lưu Bang đến làm con tin, trong thì lo điều nghĩa, chọn sĩ cầu hiền, tuân theo chính lệnh nhà Châu, lấy dân làm gốc, ngoài thì trấn an chư hầu, sửa việc binh nhung, chọn người tài dùng làm Nguyên soái lo việc tảo trừ những mầm phản loạn, như thế, Lưu Bang nhất định không dám dòm ngó về phương Ðông, xã tắc vững bền như bàn thạch.

Vài lời trung trực giải bày xin Bệ hạ rộng xét “.

Ðọc xong tờ hiểu, Trương Lương rất kính phục, khen thầm:

– Người này đáng sánh với Y Doãn ở Nội Sằn, Thái Công ở sông Vị, nếu Bá vương dùng người này là nhà Hán phải nguy vong. Còn nếu Hán vương dùng được người này nước Sở phải mất. Chẳng biết hiện nay người này đang làm gì? Và có ở đây chăng?

Nghĩ rồi, đem văn thư xếp lại như cũ, dạo gót xuống lầu về thư phòng nằm nghỉ.

Một lúc sau, Hạng Bá đi chầu về, truyền mở tiệc khoản đãi, và nói:

– Tiên sinh với tôi chẳng khác nào anh em ruột, xin chớ khách tính nhé!

Trương Lương nói:

– Hiện nay tôi đã đặt mình ngoài vòng thế sự còn khách tính gì nữa.

Hạng Bá và Trương Lương cùng ngồi uống rượu.

Rượu được nửa chừng, Trương Lương hỏi:

– Nghe hiền huynh có vườn hoa đẹp, xin cho tiện đệ tiêu khiển một chốc có được chăng?

Hạng Bá đứng dậy mời Trương Lương.

– Vâng, xin Tiên sinh cùng tôi dạo mát.

Hai người dắt tay đến vườn hoa, đi đến thư lâu, Hạng Bá mời Trương Lương vào chơi, Trương Lương giở tập văn thư ra xem, giả vờ hỏi:

– Văn thư ở đâu nhiều thế này?

Hạng Bá đáp:

– Văn thư của sáu nước chưa tiến lãm, còn bỏ cả nơi đây. Trương Lương lục lạo một hồi rồi cầm tờ biểu ban sáng đưa cho Hạng Bá xem, và hỏi:

– Tờ biểu này của kẻ nào mà viết dài như thế?

Hạng Bá đáp:

– Người ấy chỉ là môt tên quân hầu. Tuy nhiên tài có thể sánh với Lã Vọng nhà Chu, tiếc rằng chưa gặp thời.

Trương Lương vồn vã hỏi.

– Tàì như thế mà chỉ làm môt tên quân hầu ư?

Hiền huynh có thể cho biết lai lịch người ấy chăng?

Hạng Bá chậm rãi nói:

– Người ở Hoài âm, tên Hàn Tín, nhà nghèo, thuở trước làm nghề câu cá. Phạm Tăng đã hai ba lần tiến cử, nhưng Bá vương không dùng, chỉ cho làm chức Chấp Kích thôi. Thật đáng tiếc, vừa rồi Hàn Tín dâng biểu này lên Bá vương. Bá vương toan bắt tội, may có tôi xin giúp mới toàn mạng.

Trương Lương nghĩ thầm:

– Chính là người mà ta đã gặp nơi Hồng Môn trước đây. Nếu Hán vương dùng được người này, lo gì không phá được Sở, mà thù nước Hàn ta cũng trả được.

Trương Lương lưu lại nhà Hạng Bá vài hôm, dò xét quân tình, xong, nói với Hạng Bá:

– Tôi muốn tìm cảnh núi non thanh vắng để an thân, vậy từ đây xin giã biệt hiền huynh.

Hạng Bá quyến luyến nói:

– Tiên sinh cứ ở đây, sớm cuộc cờ, tối chén rượu, như thế cũng thanh thoảng rồi, cần gì phải tìm nơi thanh vắng?

Trương Lương đáp.

– Tôi đã là người nhàn tản thì không thích chốn phồn hoa. Ở đây là trướng phủ, trước mắt rực cảnh vàng son, bên tai vang mùi thế sự, làm thế nào tâm hồn thoải mái được.

Hạng Bá dùng hết lời, gợi hết tình cảm nhưng không thể nào giữ Trương Lương lại được, liền tiễn chân ra khỏi Hàm Dương mặc cho Trương Lương vui phong nguyệt!

Trương Lương giã biệt Hạng Bá xong, thay áo quần, giả làm một đạo sĩ, lẻn vào thành, lúc thì dừng chân nơi cây cao bóng mát, lúc thì vào ngõ hẻm hang sâu, lúc vào đình chùa, làng mac, lúc đến nơi chợ búa, phố phường, lưng đeo mấy đồng tiền, tay cầm năm quả táo, hát nghêu ngao, nói vơ nói vẩn. Bọn trẻ thấy lạ xúm nhau xem suốt ngày.

Một hôm, Trương Lương gặp một đứa trẻ mặt mày sáng sủa đỉnh ngộ, bèn gọi đứa trẻ ấy vào một ngôi chùa vắng, cho mấy đồng tiền, mấy cái bánh rồi dạy mấy câu như sau:

Hổ trong nước lặng

Cá lội thảnh thơi

Dầu ai phú quí trong đời,

Quê hương chẳng biết, lẽ trời chưa thông

Bóng tối mông lung

Người mang áo gấm.

Áo kia dầu đẹp

Chẳng được tiếng khen

Chỉ dạy vài lượt, đứa bé đã thuộc lòng.

Trương Lương dặn:

– Nếu có ai hỏi, em cứ nói rằng: ” Em nằm mơ thấy thần dến dạy hát “, đừng nói ta dạy nhé! Nếu em nói như vậy, em sẽ được sống lâu, giàu có còn ta dạy thì lúc chết xuống âm phủ sẽ bị nấu vào vạc dầu sôi, em nghe rõ chưa?

Ðứa bé đáp:

– Thưa sư cụ, cháu xin vâng. Nhưng ngoài ra sư cụ còn dặn gì thêm nữa chăng?

Trương Lương nói.

– Em đem lời nói ấy dạy cho các đứa trẻ khác, càng nhiều càng tốt.

Nói xong Trương Lương cho thêm đứa bé mấy đồng tiền nữa rồi tìm chổ vắng vẻ tạm trú để dò thêm tin tức.

Từ khi Bá vương cho chư hầu về nước, đêm ngày vẫn áy náy lo sợ dân Tần không phục, tìm cách gây rối nên thường cho người ra ngoài thám thính.

Một hôm, quân thám thính nghe đứa trẻ hát, vội về báo lại với Bá vương.

Bá vương không tin. Chiều hôm ấy cải trang một thường dân ra ngoài chợ, Bá vương trong thấy mấy đứa trẻ đang vừa đi vừa hát liền gọi lại hỏi:

– Ai dạy chúng bay hát thế?

Một đưa trẻ trả đáp:

– Trời dạy chúng tôi hát đấy.

Bá vương kinh ngạc nghĩ thầm:

– Ðất Hàm Dương bị tàn phá, ta muốn thiên đô về Bành Thành. Nay câu đồng dao này ứng đúng theo ý định của ta, thế thì lòng trời hợp với lòng ta vậy.

Hôm sau, Bá vương hội quần thần, phán:

– Hiện nay có một câu đồng dao lưu truyền khắp chợ búa, tại sao các người không tâu cho ta biết. Câu hát ấy chính là trời muốn cho ta thiên đô về Bành Thành.

Bành Thành thuộc nước Sở, từ sông Hoàng sông Hà trở về phía Bắc, đất vuông nghìn dậm, chính là chổ nên đóng đô đó. Nước cũ làng xưa còn đâu hơn được.

Quan Gián nghị Hàn Sinh bước ra can:

– Tâu Bệ hạ, những lời đồng dao chẳng qua lời người đặt ra, tuyên đồn nhảm nhí, xin Bệ hạ chớ tin. Quan Trung là nơi kiên cố, bốn mặt núi rừng, chỉ hở có một mặt phía Ðông mà thôi, nhưng phía Ðông lại có sông Hoàng Hà. Ðịa thế như vậy quả là nơi Thiện phủ. Nhà Châu dùng làm đất Hưng vương, nhà Tần lấy chổ này làm nơi đồ Bá. Xin Bệ hạ chớ nghe lời đồng dao mà bỏ nơi thắng địa.

Bá vương lắc đầu nói:

– Lòng trời đã ưng theo ý muốn của ta, ngươi chớ đem lời ngăn cản. Ta thiên đô về Bành Thành có ba điều cần thiết: Một là đã ba năm nay, ta lo chinh Ðông phạt Bắc chưa về quê hương. Hai là xứ Quan Trung đất ít núi nhiều, tầm con mắt trông không được quang đãng. Ba là điềm trời đã ứng, trái lại không hay.

Hàn Sinh nói:

– Bệ hạ gồm thâu bốn bể như mặt trời soi trên quả đất, dẫu ở đâu nhân dân cũng ngưỡng vọng, hà tất phải trở về cố hương mới vinh hạnh?

Bá vương nói:

– Thôi, ngươi không cần nói nữa, đành rằng: “Bốn phương đâu cũng là trời, người trong bốn bể là tôi một nhà”. Nhưng ta thích ở dâu thì đóng đô ở đó, hề chi?

Hàn Sinh nói:

– Trước khi Quân sư đi có dặn Bệ hạ không nên rời Hàm Dương kia mà.

Bá vương cười lớn nói:

– Ta là vua, đem chí dọc ngang, tung hoành bốn bể, há lệ thuộc theo ý muốn của một kẻ nào sao?

Hàn Sinh không còn lời nào can ngăn nữa, tức giận bước xuống thềm, ngửa mặt lên trời thở phào ra một cái, rồi nói:

– Thường nghe người ta nói: người nước Sở như con khỉ tắm mà đội mũ. Lời nói ấy nay xét thấy không sai.

Bá vương thoáng nghe câu nói ấy, hỏi Trần Bình:

– Hàn Sinh muốn nói gì vậy?

Tràn Bình không dám giấu,tâu:

– Tâu Bệ hạ, Hàn Sinh oán Bệ hạ, lấy con khỉ mà ví người nước Sở.

Bá vương vỗ hét:

– Thế là ý gì?

Trần Binh nói::

– Tâu Bệ hạ, câu nói có nhiều ý. Con khỉ mà cho mặc áo đội mũ vào, tuy bề ngoài giống loài người, song bên trong vẫn là khỉ. Ðó là ý thứ nhất. Con khỉ không quen mặc áo đội mũ, thế nào nó cũng bỏ quần áo đi. Ðó là ý thứ hai.

Bá vương nghe xong nổi giận mắng lớn:

– Súc sanh! Dám buông lời sỉ nhục ta như thế sao?

Liền truyền Chấp Kích Lang trói Hàn Sinh lại, dẫn ra chợ. Dân chúng đến xem chật cả trong ngoài.

Trương Lương lúc bấy giờ cũng đang lẩn mặt trong đám dân chúng ấy.

Hàn Sinh thấy quân nấu vạc dầu, tức giận, nói:

– Hỡi người xứ Hàm Dương a ơi! Ta vì trung với nước mà phải nấu dầu, chứ xét chẳng có tội chi. Ta chắc không quá một trăm ngày nữa, quân Hán vương sẽ ra đánh Tam Tần, lấy Hàm Dương, chừng ấy các ngươi mới thấy loài khỉ đội mũ.

Hàn Tín nghe nói, bảo Hàn Sinh:

– Thôi, xin quan Gián nghị chớ nói nữa! Ông bảo là ông chết oan, nhưng theo tôi, tôi cho là ông chết đáng lắm.

Hàn Sinh trợn mắt cãi lại:

– Tại sao ngươi dám nói thế?

Hàn Tín nói:

– Ông làm chức Gián nghị, sao lúc giết tướng Tống Nghĩa, ông không can; lúc chôn hai mươi vạn hàng tốt, ông không can; lúc giết Tử Anh, đào mả Thủy Hoàng, đốt cung A Phòng, ông không can? Nay bệnh trạng đã quá trầm trọng dầu trời cũng chẳng cứu được thì ông lại nhảy vào can gián. Như thế chết là đáng lắm. Chỉ có được một điều, nếu hồn thiêng có oán hận thì nên oán hận kẻ đã tạo ra câu đồng dao kia, chớ có oán hận kẻ hành hình này.

Nói xong ném Hàn Sinh vào vạc dầu. Dân chúng đều nhắm mắt thở dài. Trương Lương đứng bên cạnh, nghe Hàn Tín nói, kinh sợ, biết không phải không phải là người thường, liền theo dõi về đến tận nhà để biết chổ ở của Hàn Tín.

Sáng hôm sau, Hàn Tín vào phục mệnh, tâu lại việc hành hình Hàn Sinh. Bá vương liền sai Quý Bố đem quân đến Bành Thành, đốc thúc công việc sửa sang cung. Các quan thấy Hàn Sinh chết, không ai dám ngăn nữa.

Hàn Tín về nhà, nằm vắt tay lên trán ngẫm nghĩ:

– Con chim làm tổ ở cây còi, chẳng bao giờ được êm ấm.

Tiếng chuông thu không vừa điểm, bóng tối nhá nhem, Trương Lương giắt thanh bảo kiếm vào mình chui qua thành đến trước nhà Hàn Tín, nói với quân giữ cửa:

– Tôi là người đồng hương với Hàn tướng quân, xin vào yết kiến.

Quân vào báo. Hàn Tín ngẫm nghĩ:

– Mình là kẻ bần tiện nơi Hoài Âm, chẳng dám chơi bời với ai, tại sao nay có người đồng hương đến viếng? Ðiều này thực cũng lạ.

Hàn Tín còn đang suy nghĩ thì Trương Lương đã vào đến nơi.

Trông qua ánh trăng, Hàn Tín thấy Trương Lương mặt mày tuấn tú, dáng điệu thanh cao, xem chừng hơi quen, nhưng không dám hỏi, liền mời vào trong nhà thi lễ, và nói:

– Hiền công ở chốn nào lại chơi? Quý hiệu là chi? Có điều gì chỉ giáo?

Trương Lương đáp.

– Tôi là người đồng hương với tướng quân, nhưng lưu lạc giang hồ từ thuở bé, nên tướng quân không rõ đặng. Nay nhân dịp qua đây, biết được tướng quân, nên xin vào thăm viếng.

Hàn Tín hỏi.

– Chẳng hay hiền công làm nghề gì mà dạo khắp giang hồ. Hẳn có một chí hướng?

Trương Lương đáp:

– Tôi vốn có nghề xem tướng. Tiền nhân tôi có để lại cho tôi ba thanh bảo kiếm rất quý, vì vậy bấy lâu nay tôi đi tìm bậc anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, kẽ nào đáng mặt thì dâng hiến. Hiện hai thanh bảo kiếm kia tôi đã dâng hai người xứng đáng rồi, còn một thanh này chưa gặp chủ. Nay nghe tướng quân là bậc hào kiệt, lại là kẻ đồng hương, nên mang lại đây kính biếu.

Hàn Tín thấy Trương Lương ca tụng thanh bảo kiếm liền hỏi:

– Thanh kiếm ấy có gì quý?

Trương Lương ngâm lên một bài thơ ca tụng thanh kiếm, đại khái như sau:

Ðê ngầm dưới nước, giao long khóc

Ðem bõ trên không, quỉ mị kinh

Lưu truyền thiên cổ

Gíá trị thiên kim

Kiếm báu không đem bán

Chỉ hiến kẽ hùng anh!

Giang sơn mặc sức tung hoành

Giúp người dựng nước, lưu danh muôn đời.

Hồi 14 – Lập kế, Trương Lương dụ Hàn Tín

Hàn Tín thấy Trương Lương tán tụng thanh kiếm mãi, và biết mình là hào kiệt, lòng hoan hỉ, vội đứng dậy nói:

– Tín tôi từ đến nước Sở, chẳng qua là một kẻ hư danh, nay Tiên sinh có lòng hạ cố đem thanh bảo kiếm đến đây, ơn ấy không sao nói hết. Vậy xin Tiên sinh cho tôi xem qua kiếm ấy.

Trương Lương rút kiếm trao cho Hàn Tín.

Kiếm vừa rút ra khỏi vỏ, hào quang chói sáng ngời.

Trên bao có đề một thơ như sau:

Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ

Non sông môt dãi chí hiên ngang.

Máu hồng men rượu say băng tuyết

Muôn dặm sơn hà một tấc gang.

Hàn Tín bình nhật rất thích kiếm, nay thấy thanh bảo kiếm này bằng lòng lắm, chỉ vì trong túi không có tiền, nên không dám hỏi giá.

Sau một lúc lăm le thanh kiếm, Hàn Tín hỏi:

– Ngài có ba thanh kiếm, thế thì hai thanh kia ngài đã bán được bao nhiêu?

Trương Lương nói:

– Tôi đã nói với tướng quân là kiếm tôi không phải bán. Nếu gặp người xứng đáng làm chủ, xin đem dâng không mà thôi, vì nghe tướng quân là bậc hào kiệt, mới đem kiếm đến đây.

Hàn Tín nói:

– Ða tạ Tlên sinh có lòng chiếu cố. Chỉ sợ Tín tôi chưa chắc phải là hào kiệt hay không?

Trương Lương nói:

– Nếu không phải là hào kiệt thì đến vạn nén vàng tôi cũng không thèm bán.

Hàn Tín mừng rỡ, sai gia nhân dọn tiệc rượu khoản đãi. Trong lúc nâng chén, Hàn Tín hỏi:

– Thưa Tiên sinh, ba thanh bảo kiếm đều có tên cả chứ?

Tnrơng Lương nói:

– Dĩ nhiên. Một thanh gọi là Thiên Tử kiếm, một thanh gọi là Tể Tướng kiếm, còn thanh này gọi là Nguyên Nhung kiếm. Thanh Thiên Tử kiếm còn gọi là Bạch Hồng Từ Ðiện, nguyên của Ngô vương đúc ra treo trên vách, giống tà ma quỉ mị phải xa lánh. Tể Tướng kiếm biệt danh là Long Tuyền Thái A, thanh kiếm này của Lôi Hoán đào được.

Lôi Hoán giỏi vốn về thiên văn xem thấy có một tia sáng vọt lên sao Ngưu, sao Ðẩu, liền sai người đào nơi nền nhà sâu hơn mười trượng, được một cái hòm, mở ra thấy trong đó có thanh kiếm. Từ đó ánh hào quang không còn chiếu sáng nữa. Sau Lôi Hoá đeo kiếm lội qua sông, bỗng nhiên thấy mất. Trông xuống sông thì thấy kiếm ấy hóa thành con Giao Long đang vẩy vùng trong nước.

Nguyên Nhung kiếm có tên là Can Tương, Mạc Tà.

Nguyên vua nước Ngô là Hạp Lư đúc ra hai thanh, một thanh “Thư” và một thanh “Hùng”. Tuy là của nhân tạo, song chọn ngày giờ, ứng theo các vì tinh tú, hợp khí âm dương, rèn vào lửa hơn mười năm mới thành, cho nên quý báu lắm.

Vì sự quý báu ấy nên tôi đi bán kiếm phải dùng người tài đức mà trao.

Hàn Tín hỏi:

– Người tài đức thế nào mới dùng được kiếm báu của Tiên sinh?

Trương Lương đáp:

– Người muốn dùng Thiên tử kiếm phải có đủ tám đức: Nhân, hiếu, thông, minh, kính, tắc, kiếm, học.

Hàn Tín hỏi tiếp:

– Còn dùng Tể Tướng kiếm phải có những đức nào?

Trương Lương đáp:

– Cũng phải có đủ tám đức mới đeo được.

Thế nào là tám đức tể tướng?

– Ðó là: Trung, chính, minh, biện, thứ, dong, khoan, hậu.

Hàn Tín hỏi:

– Còn như kiếm Nguyên Nhung cần phải có những đức gì?

Trương Lương đáp:

– Cũng phải đủ tám đức: Liêm, quả, trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, minh.

Hàn Tín lại hỏi:

– Tiên sinh đi bán kiếm mà hiểu thấu lẽ trời, quả là bậc anh tài. Song hai thanh kiếm kia Tiên sinh đã bán cho ai?

Trương Lương nói:

– Thanh Thiên Tử kiếm thì tôi đã bán cho ông Lưu Bang, người Phong Bái.

Hàn Tín kinh ngạc, hỏi:

– Tiên sinh xem tướng Lưu Bang như thế nào mà bán Thiên Tử kiếm?

Trương Lương thản nhiên đáp:

– Ông ấy là người khoan nhân đại độ, biết trọng dụng lương thần, biết nghe lời trung gián, không tham tài, không hiếu sắc, không bội nghĩa, không vong ân, thật là một người có đức, đáng làm Thiên tử. Trước đây, người ấy vì dân, chém bạch xà khởi nghĩa nơi núi Mang Ðãng, trừ nhà Tần tàn bạo, khiến thiên hạ mến phục. Ngay khi đó tôi đã hiến thanh kiếm cho ông ấy.

Hàn Tín hỏi:

– Còn thanh Tể tướng ngài đã trao cho ai?

– Tôi đã trao cho ông Tiêu Hà.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi:

– Người ấy có tài gì vậy?

Trương Lương gật gù nói:

– Thế, tướng quân cũng chưa biết cả ông Tiêu Hà nữa ư? Ông ta là người có tài thao lược, gồm đủ kinh luân, lại đầy đức khoan hồng, nhân nhượng, không lấy vũ lực làm trọng, chỉ lấy nhân nhu làm gốc, xem lúc ông ta theo Bái Công vào Hàm Dương, đem ba điều ước pháp truyền trong nhân dân, thì thật là tài Tể Tướng đă biểu lộ ra đó. Tôi dâng kiếm cho Tiêu Hà từ lúc ấy.

Hàn Tín nghe xong, mừng rỡ nóì:

– Tiên sinh bán kiếm cho Hán vương và Tiêu Hà thật xứng đáng. Nay thanh kiếm này Tiên sinh đem đến cho Tiểu tử, chỉ sợ rằng Tiểu tử không đủ tài đức Nguyên Nhung, phụ với lòng tin của Tiên sinh chăng?

Trương Lương nói:

– Cứ như tài đức và cái học vấn của tướng quân dấu Tôn Ngô đời xưa cũng không hơn được. Chỉ vì chưa gặp được minh quân. Tỷ như con Thiên lý mã ngày xưa, lúc chưa gặp được Bá Nhạc thì Thiên lý mã phải nhốt chung vào chuồng trâu, chịu nhục với đứa ăn, đứa ở. Khi Bá Nhạc biết được, đem về nuôi dưỡng, Thiên lý mã vó câu dong ruổi, nghìn dặm một giờ, ai nấy đều khen ngợi. Ấy vậy, Tướng quân bây giờ chẳng khác con Thiên lý mã chưa gặp Bá Nhạc. Nếu tướng quân gặp đặng minh quân, tài đức ấy sẽ làm khuynh thành, nghiêng quốc có khó chi.

Hàn Tín nghe Trương Lương động đến hào khí, bất giác thở dài, đứng dậy nói:

– Ða tạ Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh như soi vào buồng gan của kẻ thất thời này, khiến Tín tôi không thể cầm lòng được. Ðã lâu, tôi không thi thố được tài năng nào, mang danh là người tiểu tốt, mấy lần dâng biểu lên Bá vương, nhưng Bá vương không dùng. Nay Bá vương lại thiên đô về Bành Thành thì việc đời còn trông mong gì nữa? Chẳng bao lâu Tín tôi cũng trở về cố hương, tiêu dao ngày tháng cho nhàn thân.

Trương Lương nói:

– Ấy chết? Tướng quân nghĩ lầm rồi! Ðấng anh hùng nuôi chí, thua cuộc này bày cuộc khác, cớ sao lại tủi phận hờn duyên? Lấy cái học của tướng quân trong thiên hạ, thì thiếu gì nơi cá nước duyên ưa, có lẽ nào quay về làm một gã câu cá nơi xứ Hoài Âm nữa?

Hàn Tín nói:

– Thưa Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh chẳng khác nào liều thuốc chữa cho người ốm! Tiên sinh lại đây cốt không phải bán gươm, mà e ý riêng gì đây. Thoạt trông dưới ánh trăng mờ, tôi đã hiểu, nhưng chưa dám nói. Tiên sinh có phải là Trương Tử Phòng, đang khuông phò Hán vương chăng?

Trương Lương vội vàng đứng dậy thủ lễ, và đáp:

– Tướng quân đã biết, Lương này đâu dám giấu.

Lâu nay nghe danh tướng quân, đem lòng ngưỡng vọng, nay mới hân hạnh được yết kiến!

Hàn Tín mừng rỡ, nắm tay Trương Lương nói:

– Thế thì trời xui Tiên sinh đến đây để giúp Tín tôi tìm nơi vin rồng cưỡi phụng, xin Tiên sinh vì Tín tôi chỉ bảo cho.

Trương Lương nói:

– Tôi xem các vua chư hầu, không ai bằng Hán vương, người ấy là bậc siêu nhân, có thế làm nên đại sự.

Nếu tướng quân muốn về Hán, tôi xin đưa cho một vật làm tin, vật này còn quý hơn viên ngọc Biện Hòa, và lạ hơn chén Ngọc đẩu nữa.

Hàn Tín hoan hỉ, tuân lời. Trương Lương thò vào túi rút ra bức thư đã viết sẵn, nói:

– Thư này, lúc đưa cho Hán vương vào Bao Trung, tôi có hứa sẽ đi cầu giúp người về làm Phá Sở Ðại nguyên soái lấy cái giốc thư này làm bằng. Nếu ai cầm giốc thư này đến tất được trọng dụng ngay. Xin tướng quân cẩn thận chớ để thất lạc.

Hàn Tín tiếp lấy, và nói:

– Cám ơn Tiên sinh tiến cử. Song Sạn đạo đã bị đốt, còn lối nào vào Bao Trung được nữa?

Trương Lương lại móc túi lấy ra bức họa đồ, giao cho Hàn Tín, và nói:

– Họa đồ này chỉ rõ đường ngang lối tắt, khe núi, chân đeo. Không cần đến Sạn đạo, muốn vào Bao Trung thì theo con đường nhỏ này đến ngã ba, rẽ vầo Trần Thương qua chân núi Cô Vân, vòng sang núi Kê Ðầu rồi cứ băng theo lối ấy đi độ hai trăm dặm nữa là tới nơi. Sau này tướng quân kéo binh ra bình định Tam Tần tất cũng phải dùng nẻo ấy. Con đường này bí mật lắm, ngay người Hán Trung cũng không ai biết. Thôi, tôi xin giã biệt tướng quân.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi:

– Tiên sinh định đâu? Không trở lo việc nước sao?

Trương Lương nói:

– Tôi còn đi dò xét tình hình xem nếu Bá vương dời đô về Bành Thành thì nhiệm vụ tôi còn phải đi du thuyết các chư hầu, khuyên họ bỏ Sở, phò Hán. Hễ chặt bớt được vây cánh của Sở, thì sau này tướng quân phá Sở mới dễ dàng.

Hàn Tín quyến luyến nói:

– Vậy thì mời Tiên sinh ở nán lại đây chơi với Tiểu tử ít hôm để xem cơ sự thế nào. Nay mai Tiểu tử cũng xin cử bộ.

Nhắc lại, Phạm Tăng từ lúc đến Bành Thành, vào yết kiến vua Nghĩa Ðế, và bắt buộc phải thiên đô.

Vua Nghĩa Ðế nói:

– Xưa nay vua ra lệnh cho bề tôi, có lẽ nào bề tôi lại bắt buộc vua. Ta lấy điều nghĩa, chiêu dụ chư hầu, bốn bề ngưỡng vọng, do đó, họ Hạng mới lập được công lớn. Trước khi vào Hàm Dương, ta có lời ước:

– Ai vào Quan Trung trước thì làm vua. Thế mà Hạng Vũ bội ước xưng vương, tự tiện phong chức cho chư hầu. Ðó là hành động khi quân, dẫm chân lên vết xe nhà Tần đã gãy đổ, cớ sao không biết thẹn?

Phạm Tăng tâu:

– Tâu Bệ hạ, thần khổ tâm can gián, nhưng Hạng vương nhất định không nghe. Nay lại sai Quý Bá đến Bành Thành kiến đô, thần vì mệnh chủ không thể không tuân.

Nghĩa Ðế nói:

– Ngươi là quân sư của Hạng Vũ, Hạng Vũ làm sai, lẽ ra phải liều chết can ngăn, sao lại phải tòng mệnh? Ngươi chỉ là đứa tiểu nhân, dua nịnh, không phải là kẻ đại thần lấy đạo thờ vua.

Phạm Tăng hổ thẹn, không dám nói nữa, bái lạy lui ra, rồi viết thư về báo cho Bá vương biết.

Bá vương tiếp được thư, nổi giận, hét:

– Hoài vương chẳng qua là đứa chăn dê, cắt cỏ nơi thôn dã, được ta đem về lập lên làm vua, tôn làm Nghĩa Ðế. Nay đã không biết ơn ta lại còn lên mặt vênh váo, ta phải trừ đi mới được.

Bèn đòi Cửu giang vương là Anh Bố, Hoành sơn vương là Ngô Nhuế, Lâm giang vương là Cung Ngao đến nói:

– Các ngươi đem mấy chiến thuyền vào sông Ðại Giang mai phục, cho người đến bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô. Rồi đợi khi thuyền đến giữa sông, các ngươi giả cách làm nghiêng thuyền, nhận vua Nghĩa Ðế xuống sông và giết quách đi. Nếu có ai hỏi các ngươi nói: “Vua đi đến giữa sông gặp cơn phong ba chìm thuyền chết đuối”.

Ba người lãnh mệnh, thu xếp ra đi. Bá vương viết một phong thư dâng vua Nghĩa Ðế.

Thư như sau:

” Sở Bá vương Hạng Vũ cúi đầu dâng biểu: Tôi, trước phụng mệnh vào đánh nhà Tần, đến Hàm Dưong. Tử Anh chịu trói, giao cả sơn hà xã tắc. Chiến thắng của tôi đã đưa Bệ hạ lên địa vị Nghĩa Ðế, làm chủ thiên hạ. Nay nhận thấy đất Bành Thành chật hẹp, không phải chổ Ðế đô, còn Mân Châu (thuộc tỉnh Hồ Nam) bên tả có hồ Ðộng Ðình, bên hữu có hồ Bành Lãi, non xanh nước biếc, đáng làm chỗ để cho chư hầu tập trung đến chầu, vì vậy muốn thiên đô về đấy. Chẳng ngờ Bệ hạ lại nghe lời tiểu nhân không chìu theo ý. Thiết tưởng cơ nghiệp của Bệ hạ nhờ ai mà có, sao Bệ hạ không nghĩ. Tiếp được biểu này xin Bệ hạ ngự giá đi ngay, chớ nên chậm trễ “.

Vua Hoài vương xem biểu xong, nói với bá quan:

– Hạng Vũ không giữ ước tất lòng đã phản phúc, không kể tôi thần gì nữa. Nay viết biểu gởi lên, dùng lời bức bách nếu ta không liệu trước ắt mang tai vạ. Chi bằng chiều ý thiên đô cho xong.

Liền hạ lệnh cho bá quan chọn ngày khởi giá. Xa giá lên đường, dân chúng Bành Thành lũ lượt kéo đến bày hương án lạy đưa, tỏ lòng quyến luyến.

Vua Nghĩa Ðế thấy lòng dân như vậy cũng sa nước mắt, thở dài.

Một hôm, xa giá đến bờ sông, thuyền rồng đã sắp sẳn, vua bỏ đường bộ qua đường thủy, vưa đi đến giữa sông, bỗng có một con bạch ngư rất lớn, cản lại, sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền không vượt lên được thủy thủ phải neo thuyền. Ðược một lúc, gió càng mạnh, thổi đứt phăng dây neo, thuyền dạt vào bãi.

Ðêm ấy, vua vừa chợp mắt, thấy năm sắc tường vân sa xuống măt nước, hương thơm ngào ngạt, tiếng nhạc vang rền, có hai vị Kim Ðồng, Ngọc Nữ từ trên không sa xuống, bước vào thuyền quỳ tâu:

– Chúng tôi vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống rước Bệ hạ về Long cung tức vị. Hiện giờ bá quan đang chờ sẵn.

Hoài vương ngạc nhiên đáp:

– Không. Hôm nay trẫm thiên đô sang Mân Châu mà.

Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu:

-Tâu Bệ hạ, vua Long cung phụng sắc mệnh Thượng đế, sửa sang cung điện, chờ đợi xe loan, xin Bệ hạ đi ngay cho.

Vua đáp:

– Long cung của Thủy Tề đâu phải côi trần gian? Ta làm sao ngự trị được?

Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu:

Thượng Ðế thương Bệ hạ là người có đức, lẽ ra cho làm Chúa trần gian, song vì hồng phúc của ông Xích Ðế lớn lắm, nên bắt Bệ hạ phải nhường ngôi ấy, xuống Long Cung giữ việc thủy phủ.

Hoài vương toan bước theo hai vị Thiên sứ, sực thấy nước lẫn với trời sóng gió ầm ầm, quang cảnh hỗn loạn, sợ hãi, giật mình thức dậy mới biết chiêm bao, liền gọi các quan hầu đến đoán mộng.

Có viên cận thần tâu:

– Ðã gặp cá đón đường, gió bạt thuyền trôi, bây giờ Bệ hạ lại chiêm bao như thế này thì không phải là điềm tốt.

Ngày mai xin Bệ hạ hồi loan rồi sẽ thương nghị.

Hoài vương nói:

– Xa giá đã khởi hành, đại tín đã truyền bá mà còn trở lại sao được! Vả lại số trời đã định, không thể tránh!

Hôm sau, Hoài vương thức dậy truyền tiến hành.

Long thuyền đến giữa dòng thấy ba chiếc thuyền của Anh Bố, Ngô Nhuế, Cung Ngao vùn vụt kéo đến, chiêng trống vang trời. Anh Bố đứng trước mũi thuyền nói lớn:

– Chúng tôi phụng mệnh Hạng vương đến đây nghênh giá. Bệ hạ có đồ kim phù, ngọc sách xin để lại đây.

Hoài vương nổi giận mắng:

– Ðồ bất nghĩa! Bây lại hùa theo Hạng Vũ làm phản à?

Bọn Anh Bố cầm gươm nhảy qua Long thuyền, chém chết vài thủy thủ. Người trong thuyền khiếp vía.

Hoài vương cả tiếng mắng:

– Thằng giặc Hạng Vũ kia. Mày bất nghĩa như thế còn trời nào dung tha mày.

Nói xong, trầm mình xuống Tràng giang tự vận.

Bao nhiêu người nấp sau thuyền đều bị bọn Anh Bố giết hết.

Sau Hồ Tăng có thơ rằng:

Ngọn cờ lơ láo glữa Tràng giang

Nước mất, thân chìm cảnh thảm thương

Chín suối khôn tan màu lửa hận

Vầng trăng lả tả ánh thê lương

Giết xong Hoài vương, bọn Anh Bố quay thuyền trở lại thấy nơi bờ sông dân chúng kéo đến đông như kiến, trỏ vào mặt mắng:

– Thằng Anh Bố kia? Mày nghe lời Hạng Vũ giết vua của thiên hạ, còn trời nào dung tha mày? Chúng ta vì vua Nghĩa Ðế nhất định báo thù.

Anh Bố tức giận truyền quân áp thuyền vào bờ, nhưng gặp gió ngược, nên thuyền đi chậm. Khi đến nơi dân chúng đã di tản hết rồi.

Hồi 15 – Tìm chân chúa, anh hùng cất bước

Trong số dân chúng ấy, có một ông lão tuổi ngoài tám mươi, tóc bạc da mồi, nhưng còn có vẻ quắc thước lắm. ông lão ấy tên Ðổng Công, học rộng, chuộng đạo đức, cả vùng ai cũng kính mến.

Ðổng Công bàn với dân chúng:

– Chúng ta chờ bọn Anh Bố đi rồi, tìm lấy xác vua làm lễ mai táng, rồi kéo sang Lạc Dương rước Hán vương về làm chủ để trả thù cho Chúa thượng.

Dân chúng đồng thanh hưởng ứng, và nói:

– Chúng tội xin theo lời lão công.

Nói xong, tụ họp hơn vài mươi chiếc thuyền, nhắm dòng hạ lưu tìm vớt xác của Hoài vương đem lên, lập đàn ma chay cúng tế, mà mai táng Hoài vương nơi Mân Châu.

Giữa lúc đó, bọn Anh Bố đã trở về Bành Thành, gặp Phạm Tăng thuật lại đầu đuôi.

Phạm Tăng thở dài, nói:

– Thôi thế thì còn ra gì nữa! Vua Nghĩa Ðế do tôi và Vũ Tín Quân lập lên để trấn an nhân tâm, nay giết đi mang tiếng trong thiên hạ, nếu còn dời đô về Bành Thành nữa sao khỏi thiên hạ chê cười. Chúng ta phải trở về Hàm Dương can ngăn việc thiên đô mới xong.

Quý Bá nói:

– Khi trước Hàn Sinh can gián, bị Bá vương giận bỏ vào vạc dầu, bây giờ ai còn dám ngăn cản nữa?

Phạm Tăng nói:

– Không liều chết ngăn cản thì rồi đây chúng ta sẽ bị chết cả bọn.

Nói xong, lưu Quý Bá ở lại Bành Thành, còn bao nhiêu thảy đều về Hàm Dương, vào yết kiến Bá vương.

Bá vượng đang thu xếp hành trang, thôi thúc bá quan hạn trong bốn hôm nữa sẽ đăng trình, xảy được tin Phạm Tăng và Anh Bố trở về tâu việc giết vua Nghĩa Ðế.

Bá vương thích chí nói:

– Thế là ta đã trừ được cái bệnh trong gan phổi rồi.

Phạm Tăng tâu:

– Bệnh gan phổi của Bệ hạ không phải ở vua Nghĩa Ðế mà là ở Hán vương. Bệ hạ trừ được Hán vương mới gọi là chữa được bệnh. Ngày nay Bệ hạ dời đô về Bành Thành ngày mai Hán vương dời đô ra Hàm Dương đó.

Bá vương lắc đầu nói:

– Quân sư chớ lo. Ðường Sạn đạo đã đốt rồi, quân Tam Tần ráo riết phòng bị, dẫu Hán vương có cánh cũng không thoát ra khỏi đất Ba Thục được.

Phạm Tăng tâu:

– Nếu Bệ hạ dời đô về Bành Thành tất Tam Tần trễ biếng, Hán vương thừa cơ hội ấy tấn binh. Ðường Sạn đạo đã đốt nhưng lòng người đã quyết, việc sửa chữa chẳng mấy chốc.

Bá vương tỏ vẻ bất bình nói:

– Hiệu lệnh đã ban, văn vũ đã chuẩn bị chỉnh tề, không thể sửa đổi được nữa. Quân sư chớ nói nhiều lời.

Phạm Tăng thấy Bá vương không nghe lời mình, hổ thẹn bước ra buồn bã sắp sửa hành trang để cùng các quan theo hộ giá.

Nhắc lại Hàn Tín từ khi tiễn chân Trương Lương đi rồi lòng hồi hộp, mấy đêm không ngủ được, lo chuẩn bị hành trang lên đường.

Trước khi ra đi, Hàn Tín ghé nhà Trần Bình thăm viếng.

Trần Bình thấy Hàn Tín đến, mừng rỡ đón chào và hỏi:

– Chấp kích lang sang chơi chắc có chuyện lạ! Hay là cá sắp hóa rồng, rồng toan vượt bể?

Hàn Tín biết Trần Bình không ưa gì Bá vương, tìm lời nói thử:

– Bá vương dời đô về Bành Thành tất Hán vương thôn tính Tam Tần. Ðất Hàm Dương này e không giữ được. Ðô úy nghĩ sao?

Trần Bình đáp:

– Bá vương lấy uy vũ hàm gốc, nấu Hàn Sinh, giết Nghĩa Ðế, lại thiên đô về Bành Thành, tôi tưởng cơ nghiệp không thể nào yên được. Trong chư hầu, chỉ có Hán vương là người đại lượng, có thể mưu đồ việc lớn.

Chấp kích lang ở đây không ra gì, sao không tìm nơi khác tiến thân, tội gì sống trong khổ cực?

Hàn Tín đưa mắt nhìn quanh rồi nói nhỏ:

– Tôi có ý đó đã lâu, không dám giấu Ðô úy, ngặt vì quan san cách trở, đồn ải canh phòng rất nghiêm, không có giấy thông hành không thể nào đi lọt.

Trần Bình thở dài nói:

– Việc ấy không khó. Trong dinh tôi có văn thư ấn tín tôi sẽ cấp cho một đạo thông hành, có thể tự do đi lại. Nếu đồn ải nào hỏi thì cứ nói rằng: “Bá vương sai vào Bao Trung thám thính”.

Hàn Tín đứng dậy nói:

– Ða tạ Ðô úy. Ngài cho Tín tôi mảnh giấy này thực quý hơn ngàn vàng. Nếu Tín tôi gặp thời, đạt danh vọng, nguyện không quên ơn tri ngộ.

Trần Bình nói:

– Ngài cứ an tâm, lập chí. Sau này tôi cũng phải tìm chỗ dung thân, chừng ấy ngài ra ơn tiến cử tôi thì còn gì quý hơn.

Hàn Tín lãnh giấy thông hành, từ giã về dinh. Tối hôm ấy dặn bọn gia nhân:

– Ta bận việc đi thăm người bạn, chúng bây ở nhà phải canh phòng cẩn mật. Nói xong, lên ngựa ra đi. Vó câu khấp khểnh vầng trăng chênh chếch mái đầu. Anh hùng yên ngựa đâu quản gió sương, bóng Hàm Dương khuất dần sau những rặng núi đen sì, giữa những màn sương lạnh.

Hàn Tín ra đi đã hai hôm thế mà tuyệt nhiên không ai hay biết.

Bọn gia nhân thấy Hàn Tín không về, bàn với nhau:

– Quan Chấp kích lang đi đâu không về, chúng ta phái vào báo cho quân sư kẻo mang vạ.

Chúng kéo đến dinh Phạm Tăng, bẩm:

– Chúng con là gia nhân ở dinh quan Chấp kích lang. Cách đây vài hôm có người khách lạ đến chơi, cùng với quan Chấp kích lang đàm đạo, cách đó mấy hôm, quan Chấp kích lang lại đi biệt không về. Vì vậy, chúng con đến đây cấp báo.

Phạm Tăng thất kinh, dậm chân, thở dài than:

– Thôi! Cọp đã vào rừng rồi! Ta còn mong gì mưu việc thiên hạ. Trước đây ta đã tâu xin Bá vương một là dùng, hai là giết, thế mà Bá vương không nghe, nay còn hối sao kịp.

Nói xong, vội vã vào triều, tâu với Bá vương:

– Hàn Tín trốn rồi, bệ hạ phải cho người đuổi theo bắt lại, nếu không, nghiệp cả khó bền.

Bá vương giận dữ, vỗ án hét:

– Ðứa thất phu ấy lại dám bỏ ta mà đi ư?

Phạm Tăng nói:

– Hàn Tín là kẻ kiến thức, có thể giúp Bệ hạ làm nên đại sự, thế mà Bệ hạ đã không dùng, còn để cho hắn trốn, thất là bất lợi.

Bá vương nói:

– Nó không có thông hành thì làm thế nào ra khỏi Quan Trung được?

Liền gọi Chung Ly Muội đến bảo:

– Ngươi dẫn hai trăm quân khinh kỵ, đuổi theo bắt Hàn Tín về đây, bầm thây làm gương cho kẻ khác.

Chung Ly Muội lĩnh lệnh dẫn quân đến cửa quan An Bình thì được tin Hàn Tín đã qua khỏi cửa quan hai hôm rồi.

Chung Ly Muội trách cứ quan Tổng Trấn. Quan Tổng trấn nói:

Hàn Tín hiện có văn thư, ấn tín rõ ràng, nói là Bá vương sai đi hội Tam Tần bàn việc khẩn cấp. Tôi làm sao dám ngăn cản?

Chung ly Muội nói:

– Bây giờ quan Tổng trấn liệu có cách gì bắt Hàn Tín lại chăng?

Quan Tổng trấn lắc đầu, đáp:

– Tướng quân khó mà theo kịp. Bây giờ chỉ có cách phi báo cho Tam Tần mang quân truy mã, may ra mới bắt được

Chung Ly Muội nghe lời, phi hịch cho Tam Tần, khiến truy nã rất gấp, rồi trở về Hàm Dương tâu lại với Bá vương.

Bá vương, nói:

– Ðứa thất phu ấy, dẫu có đi đâu lại làm nên trò trống gì mà ta phải bận tâm.

Tức truyền lệnh cho bá quan văn võ sắp sửa xe ngựa thiên đô đến Bành Thành. Chỉ để Tnmg Công ở lại giữ Hàm Dương mà thôi.

Nhắc lại Hàn Tín từ khi thoát ra khỏi cửa An Bình, thẳng tới Tản Quan, đến một ngã ba kia đường chật hẹp, ngoằn ngoèo, liền giở bản đồ ra xem, tìm lối tắt vào Bao Tnmg.

Bỗng có một viên tiểu tướng tay cầm hỏa bài, xông ngựa tới hỏi:

– Người kia! Ði đâu? Có giấy thông hành chăng?

Hàn Tín xem qua, biết là người của Tam Tần, sai đi lùng bắt mình, liền giả cách nói:

– Tôi họ Lý, hiện có việc sang Bao trung, giấy thông hành có ghi rõ.

Nói xong, rút giấy thông hành trao cho viên tiểu tướng.

Viên tiểu tướng khúm núm giở ra xem, Hàn Tín thừa cơ rút thanh bảo kiếm đeo trong lưng, chém phăng một nhát, tiểu tướng rơi đầu.

Hàn Tín vội vã. buồng cương thượng lộ: Ði chưa bao xa, lại có bốn tráng sĩ đuổi theo bắt. Hàn Tín cũng theo cách ấy, cho mỗi người một nhát gươm đưa hồn về địa phủ. Ðoạn, quay ngựa nhắm hướng Tây mà chạy. Chay được một lúc Hàn Tín nghĩ thầm:

– Ta vừa giết mấy tên hỏa bài của Tam Tần, nếu cứ đường này thẳng tiến, e họ đuổi theo bắt gặp.

Liền rẽ cương sang một con đường hẻm về hướng Tây Nam.

Con đường này chung quanh núi rừng mù mịt, suối reo, đá dựng, không làm sao cưỡi ngựa được, con đường bị nghẽn, không còn lối nào sang đò Trần Thương được Hàn Tín buồn bã, lơ láo đứng nhìn bốn mặt, đâu đâu cũng rừng núi chập chùng.

Tình cờ gặp một tên phu, đang kẽo kẹt trên vai một gánh củi nặng, mò mẫm qua triền núi. Hàn Tín mừng rỡ, hỏi vội:

– Thưa lão trượng làm ơn chỉ dúm cho tiểu tử đường ra Trần Thương.

Lão tiều nghe hỏi, để gánh củi xuống, chỉ tay về phía trước, nói:

– Cứ dắt ngựa băng rừng đi tới sang rặng núi đá bên kia đến rừng Tiểu Tùng. Ði hết rừng ấy là đến khe Loan Thạch, trên khe có cầu đá, đi khỏi cầu đá thì có núi Nga Mi, phải trèo qua núi ấy mới có lối đi, nhưng phải khó khăn lắm. Ði một quãng nữa đến núi Thái Bạch, dưới chân núi có hàng cơm phải trọ lại đấy dùng cơm tối, sáng sớm mới lên đường. Hỏi lối sang núi Cô Vân đến núi Lưỡng Cước, sang đò Bắc Thủy, tới bến Hàng Khê. Ðấy là địa phận Nam Chính rồi. Nhưng nhớ phải đi đến nơi trọ trước trời tối, vì vùng núi ấy có con mãng xà rất nguy hiểm, ông phải cẩn thận lắm mới tránh được tai nạn.

Hàn Tín giở bản đồ ra xem, thấy không sai một nét nào cả. Hàn Tín cảm ơn lão tiều lên đường cất bước, giữa lúc ấy lão tiều cũng ì ạch gánh củi tên vai, xuống núi.

Hàn Tín vừa đi vừa nghĩ:

– Nếu Chương Hàm cho người truy nã, theo chân mình đến ngã ba gặp lão tiều này, và lão tiều lại chỉ đường như vậy thì mạng ta khó thoát. Vả chăng, mấy hôm nay ta lặn suối, trèo non người mỏi ngựa mệt, vô phúc mà gặp truy binh, đành phải bó tay chịu chết, chứ chống cự sao nổi! Thôi, thà ta chịu tiếng vong ân giết lão tiều phu này đi, để tuyệt lộ truy binh.

Nghĩ rồi liền quay ngựa lại gọi:

– Hời lão tiều, xin lão dừng chân cho tôi hỏi thêm điều này nữa.

Tiều phu nghe gọi, quay gánh lại. Hàn Tín bước đến chém một gươm đứt làm đôi, rồi mang xác đem vùi nơi sườn núi.

Nhìn nấm mồ oan, Hàn Tín rơi lệ, than:

– Lão tiều hỡi! Tín không phải là phường bất nhân, bạc nghĩa, chỉ vì sợ lỡ việc lớn, đành Phải hy sinh mạng lão. Mai sau Tín này được thành thân, xin đến đây làm lễ hộ tang, lập đền thờ cúng. Hồn lão có linh thiêng xin phò hộ bước bôn đào của Tín này.

Xác tiều phu đã vùi kín, Hàn Tín lên ngựa, gạt lệ bôn hành.

Người sau có thơ rằng:

Kiếm báu trao tay chửa giết thù

Giết người ân nghĩa: lão tiều phu

Hàn quân vì muốn mưu thiên hạ

Sao nỡ đem ân đáp nghĩa thù

Hàn Tín theo lời dặn của lão tiều, băng qua núi đá, sang rừng Tiểu tùng, đến khe Loan Thạch, và vất vả mấy ngày mới tới núi Thái Bạch. Dưới núi có hàng cơm, Hàn Tín xuống ngựa bước vào, gọi chủ quán đem rượu thịt ra ăn.

Rượu nồng hơi ấm, rừng núi u buồn, xa xa lơ thơ vài vầng mấy bạc lồng bóng xuống khe sâu, bơ vơ như bước chân dũng sĩ chưa định hướng, Hàn Tín thở dài, chợt nghĩ đến cái chết của tiều phu vừa rồi, bất giác ngâm một bài thơ, rồi sẵn dịp mượn bút mực để lên vách đá. Thơ rằng:

Dần bước đỉnh non cao

Gặp ghềnh theo lối nhỏ

Mây nghiêng mái trời xanh

Suối tuôn ghềnh sỏi đỏ

Ngoắt ngoéo đến muôn trùng

Gớm thay! Thật hiểm trở!

Rừng thẳm càng đi sâu

Càng đến nơi tuyệt lộ!

Trời xui gặp lão tiều

Chỉ đường đi rất rõ

Ân đức biết chừng nào?

Nghìn vàng chưa báo bổ!

Ta vì lòng lo riêng

Sợ quân theo truy nã

Sức yếu và thế cô

Vào lưới không thể gỡ!

Cắn răng rút gươm thiêng

Giết Tiều, vùi xuống hố!

Hỡi ơi Lão tiều phu

Linh thiêng xin phù hộ

Ta há bạc tình chi

Chỉ lo, về hậu lộ

Lão sống chỉ vào rừng

Suốt đời thêm cực khổ!

Ta sống để mai này

Ðem thân đi diệt Sở

Sở diệt, thiên hạ yên

Muôn dân khỏi thống khổ

Ấy vậy kẻ vong tình

Xin lão chớ oán nộ!

Mai sau được thành công

Quyệt lòng đền báo bổ

Con lão ta xin nuôi

Phú quý chung hưởng thọ

Vành trăng lả lướt soi

Chập chùng mây mờ tỏ

Hồn lão đến đây chăng?

Chứng minh lòng ta đó!

Hàn Tín đề thơ xong, ngồi gật gù đánh chén, ngâm đi ngâm lại bài thơ mãi không thôi. Thình linh, bên ngoài có một tráng sĩ, vung kiếm xông vào, xem qua bài thơ một lượt rồi quay lại hỏi Hàn Tín.

– Anh này muốn chết sao? Ðã bỏ Sở bôn đào vào đây thế mà còn dám giết người dọc đường, đề thơ lên vách! Nếu tôi bắt anh đem nạp cho Bá vương thì anh liệu làm sao?

Hàn Tín thất kinh, đẩy ly rượu sang một bên, đứng dậy nói:

– Nếu tôi không lầm, tráng sĩ là người Bao Trung, làm dân nước Hán, cớ sao lại có ý ấy?

Tráng sĩ cười lớn, kéo Hàn Tín ngồi xuống ghế, nói:

– Tôi nói đùa đấy, xin Tướng quân hỷ xả cho. Tôi vốn họ Tân tên Kỳ, người Phú Phong, mấy năm nay vì lánh nạn nhà Tần nên theo cha tôi là Tân Kim, đến đây mở hàng cơm độ nhật. Từ thuở bé, tánh ưa cung kiếm, nên mải ham mê săn bắn, chưa nghĩ đến việc tiến thân, lập nghiệp. Ðêm vừa rồi, tôi nằm chiêm bao, thấy một con hổ từ đỉnh núi cao nơi phương Ðông chạy đến, nằm trên đám cỏ. Với giấc mộng ấy, tôi đoán chắc hôm nay thế nào cũng gặp được quý nhân. Vì vậy suốt ngày tôi ở nhà chờ tiếp đón.

Hàn Tín nghe nói mừng rỡ đứng dậy cầm tay Tân Kỳ, cùng ngồi chung bàn đấu chén..

Rượu ngà ngà say, Hàn Tín nói:

– Tôi xem tráng sĩ không phải là kẻ giá áo, túi cơm. Nay thiên hạ đang loạn lạc, Hán vương chiêu hiền đãi sĩ, sao tráng sĩ không bái yết, đoạt ấn phong hầu, để thỏa lòng hào kiệt?

Tân Kỳ nói:

– Tôi có ý ấy đã ìâu, song nghĩ rằng Hán vương muốn thâu thiên hạ tất phải đem quân dẹp Tam Tần. Mà dẹp Tam Tần không có con đường nào khác hơn là đường ra núi Thái Bạch này. Vậy xin Tướng quân vào trước, lúc nào Tướng quân đem binh ra đây tôi sẽ vin tháp tùng vậy.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi.

– Ðường ra Tam Tần không còn đường nào khác hơn sao?

Tân Kỳ nói:

– Xưa nay chỉ theo đường Sạn đạo. Bây giờ Sạn đạo đã bị đốt rồi, người Sở cũng như người Tần, không ai biết con đường này cả. Nếu quân Hán theo con đường này kéo ra, xuất kỳ bất ý đánh một trận, tất Tam Tần phải mất.

Hàn Tín nói:

– Tráng sĩ quả là kẻ kiến thức. Nhưng, xin chớ lộ việc này với ai. Lúc tôi đem binh diệt Tần sẽ nhờ tráng sĩ làm hướng đạo.

Tân Kỳ mời Hàn Tin vào nhà trong, gọi mẹ và vợ ra giới thiệu. Cả nhà vui vẻ.

Hàn Tín và Tân Kỳ kết, làm anh em. Ðêm ấy cả hai ngủ chung giường, và mờ sáng, Hàn Tín giã biệt.

Tân Kỳ nói:

– Phía trước là núi Cô Vân, núi Lưỡng Cước, đường sá hiểm trở, lại có con mãng xà rất lớn. Khách đi đường không khéo sẽ nguy đến tính mệnh. Vậy tôi xin đưa Tướng quân đến bến Hàn Khê rồi sẽ trở về.

Hàn Tín từ chối, nói:

– Thôi xin cám ơn hiền đệ, làm như thế quá phiền phức.

Tân Kỳ nhất định không nghe, gọi gia nhân đến dặn:

– Chúng bây ở nhà trông nom quán hàng, khoản đãi khách khứa. Ta đi tiễn Hàn tướng quân vài hôm sẽ về.

Dứt lời, cầm một ngọn giáo, đeo một túi cung, theo Hàn Tín ra đi.

Không có gì vui vẻ hơn khi đường xa được người tri ngộ. Hai người trao đổi tâm tình, quên cả đường xa mệt nhọc Chẳng bao lâu đã đến bến Hàn Khê.

Tân Kỳ chỉ tay ra phía trước nói:

– Ở đây chỉ còn cách Bao Trung chừng vài dặm. Vậy tiểu đệ xin trở bước.

Hàn Tín bùi ngùi cầm tay nói:

– Chúng ta hẹn ngày tái ngộ, và ngày ấy sẽ là ngày thanh gươm yên ngựa, đem sức tài thị thố giữa ba quân.

Xưa nay, những cảnh tương biệt bao giờ cũng đeo sầu, và có bịn rịn đến đâu cũng phải đến phút giây dứt bỏ.

Hàn Tín lên ngựa ra roi, vó câu khấp khểnh. Tân Kỳ đứng nhìn theo một lúc, rồi quay lại đường cũ trở về chân núi

Thái Bạch.

Hồi 16 – Yết Ðằng Công, Hàn Tín tỏ can trường

Nam Chính non nước huy hoàng, cảnh sắc chẳng khác nào một bức tranh thiên tạo. Hàn Tín vừa đi vừa ngắm cảnh, chẳng bao lâu đã vào chốn kinh thành. Nơi đây chợ búa đông đúc, dân chúng sống trong thanh bình thịnh trị.

Hàn Tín vào một quán trọ, chủ quán ra tiếp đón niềm nở. Hàn Tín đưa hành trang cho chủ quán và dặn cất cẩn thận.

Chủ quán mĩm cười nói:

– Quý khách cứ an tâm, xứ Hán Trung chúng tôi không phải như các xứ khác. Dẫu của bỏ rơi ngoài đường còn chẳng ai lượm, huống hồ vật cất trong nhà. Xin ngài nghỉ ngơi cho khỏe rồi ra phố tiêu khiển.

Chiều đến, Hàn Tín lên ngựa, đi dạo xem phong cảnh Hán Trung. Cửa Kiếm Các uy nghi hướng về phương Nam, đường Sạn đạo bắt sàn, uốn khúc quanh co như khúc ruột trước mặt là Ðại Giang, mông mênh sóng vỗ, đàng sau là núi Cẩm Bình, Nga Mi sừng sững như tháp Quan âm, bao bọc vùng Châu Kỳ, Châu Tương, đồng rộng ước hai ngàn dặm. Lại thêm ngọn núi Nam Mai trắng tợ tuyết, ngọn suối Bộc Bố chảy ngoằn ngoèo, có ổ Bàn Vân có lầu Thiên Hán có nhà Thạch trụ, có dinh Tứ Chiến, cảnh vật muôn màu tươi thắm, tô điểm cho giải non sông ấy một sắc thái hùng khí thiên nhiên.

Hàn Tín xem mãi không chán mắt, giục ngựa thẳng đến một tòa nha môn kia, ngoài cổng có treo tám biển đề ba chữ “Chiêu hiền quán” hai bên lại có treo hai tấm yết thị rất lớn, viết như sau:

1) Am hiểu lược thao, tinh thông binh pháp sẽ được chọn làm chức Nguyên nhung

2) Dũng cảm hơn người đủ sức phá thành chém tướng, sẽ chọn làm Tiên phong

3) Tài hay khinh khiển, võ nghệ siêu quần, sẽ được chọn vào chức Tán kỵ

4) Thông hiểu thiên văn, thạo việc phong vũ, sẽ chọn làm chức Tân hoạch.

5) Tinh tường địa đạo, thấu triết địa dư sẽ được chọn làm chức Hướng đạo.

6) Mực thước công bằng, tánh tình ngay thẳng, sẽ chọn làm chức Kỹ lục.

7) Cư biến tài tình, động việc khéo lo, sẽ chọn làm chức Nghị quân.

8) Nói năng hoạt bát, ứng đối nhanh lẹ, sẽ chọn trào chức Thuyết khách

9) Tính toán tinh tường, một mảy không lộn, sẽ chọn làm chức Thượng thư.

10) Sách vở xem rộng, hỏi đâu biết đấy, sẽ chọn làm chức Bác sĩ.

11) Chuyên tập sách thuốc, mạch lục tinh thông, sẽ chọn vào chức Quốc thủ.

12) Giỏi nghề len lỏi, thạo việc rình mò, sẽ chọn làm Thám tử.

13) Chưởng quản tiền lương, tiêu pha có độ, sẽ chọn làm chức Quân xướng.

Trong 13 khoản này, ai giỏi về khoản nào cứ tới Quán Chiêu Hiền kê khai tên họ, trình quan khảo thí. Nếu thực tài sẽ được trọng dụng ngay không phân quý tiện. Hễ hết lòng vì nước tất đoạt bước thang mây.

Cáo thị Quốc dân.

Hàn Tín đọc xong bản chiêu hiền, liền hỏi thăm dân chúng, ai là chủ tòa nha môn ấy.

Dân chúng đáp:

Ðằng công tên là Hạ Hầu Anh được Hán vương phong làm Nhữ Nam Hầu, lo việc chiêu hiền đãi sĩ đó.

Hàn Tín nghĩ thầm:

– Nếu mình mang ngay cái giốc thư của Trương Lương đến trình với Tiêu Hà xin tiến cử thì ra mình hèn quá! Tại sao ta không thi thố tài năng theo hệ thống khảo thí như mọi người, đế tỏ tài học của mình?

Liền biên tên họ, quán chỉ, nạp vào nha môn, xin yết kiến Ðằng công.

Ðằng công nghĩ thầm:

– Người này ta nghe tiếng đã lâu, vả lại, từ ngàn dặm, bỏ Sở mang đây hẳn có chí lớn.

Bèn cho quân mời Hán Tín vào, hỏi:

– Hiền sĩ đang phò Sở, vì sao lại dong ruổi đến đây?

Hàn Tín thưa:

– Hạng vương không dùng, nên tôi bỏ chỗ tối tìm đến chỗ sáng.

Ðằng công hỏi:

– Ðường Sạn đạo bị đốt, núi rừng hiểm trở, hiền sĩ làm sao đến đây được?

Hàn Tín đáp:

– Bẩm Ðại nhân, đường sá dẫu hiểm trở đến đâu cũng không cản được chí hướng con người.

Ðằng công khen:

– Thế thì hiền sĩ quả là người có chí? Vậy hiền sĩ đã xem bản văn chưa?

– Thưa đã.

– Theo các khoản ấy hiền sĩ giỏi về khoản nào?

Hàn Tín do dự một lúc rồi đáp:

– Mười ba khoản ấy vẫn chưa đủ.

Ðằng công ngạc nhiên hỏi:

– Còn thiếu khoản gì, theo ý hiền sĩ?

Hàn Tín thưa:

– Còn thiếu một khoản: “văn võ song toàn, thông hiểu vũ trụ, ra tướng vũ, vào tướng văn, trăm trận trăm thắng, lấy thiên hạ như trở bàn tay, đủ sức làm Phá Sở Nguyên Nhung…! “. Nếu Ðại nhân muốn sát hạch Tín thì phải thêm khoản ấy, còn như mười ba khoản kia chỉ là tài mọn riêng tây, dành cho những người thường, có gì đáng kể.

Ðằng công nghe nói giật nẩy người, mời Tín an tọa, và hỏi:

– Lâu nay nghe tiếng ngài, nay mới hân hạnh được hội kiến, quả thật lời đồn chẳng sai. Ngài đến đây không những do hồng phúc của chúa công tôi, mà còn đem lại hạnh phúc cho thiên hạ nữa. Vậy xin ngài vui lòng chỉ giáo.

Hàn Tín khiêm nhượng đáp:

– Ðại nhân đã rộng lượng, Tín này mới dám tỏ lời:

– Ðời nay làm tướng chỉ học thuộc lòng binh pháp mà không biết sử dụng thích đáng binh pháp. Như vậy dẫu có học thuộc hết Tôn, Ngô nhớ kỹ thao lược cũng vô ích! Làm tướng giỏi phải biết học và biết dùng.

Ðằng công hỏi:

– Thế nào là biết dùng?

Hàn Tín đáp:

– Tôi xin đan cử việc này: “Xưa, nước Tống có anh chàng học được môn thuốc gia truyền gọi là Quy thủ dược.

Phương thuốc đó chữa chứng cóng tay về mùa đông giá:rét hiệu nghiệm như thần. Hễ xoa vào tay thì không còn biết rét là gì nữa. Nhà anh ta ở gần sông, làm nghề thợ giặt, dẫu trời lạnh đến đâu anh cũng không sợ, và lấy cái nghề ấy làm kế sinh nhai, cha truyền con nối. Một hôm, có người khách mang một trăm nén vàng đến mua phương thuốc ấy. Anh ta suy hơn tính thiệt rồi nói với bọn gia nhân, làm nghề giặt chẳng qua kiếm gạo hàng bữa, chứ khi nào giàu được, chi bằng ta bán quách phương thuốc cho người này, lấy một trăm nén vàng, sống phong lưu suốt đời “. Bàn xong, anh ta nhận lấy vàng, đem phương thuốc trao cho khách. Người khách được phương thuốc, trở về nước Ngô, gặp lúc Ngô, Việt đang đánh nhau, trời đông rét mướt quân Ngô cóng tay không thể nào cầm vũ khí được Người khách đem thuốc vào yết kiến vua Ngô, thoa thuốc vào tay quân sĩ, tức thì không ai còn biết rét nữa, tung vũ khí đánh quân Việt chạy tán loạn”, ấy vậy, cùng một thứ thuốc mà người Tống dùng chỉ để làm nghề thợ giặt, còn người Ngô dùng lại dẹp được giặc, đem lại quốc hùng, dân an.

Ðằng công nghe xong, nói:

– Hiền sĩ quả là một thiên tài. Nhưng tại sao nước Sở lại không dùng?

Hàn Tín nói:

– Thưa ngài, Bá Lý Hề ở nước Ngu, nước Ngu bị mất, sang nước Tần, nước Tần được xưng vương. Như vậy đâu phải Bá Lý Hề ngụ tại nước Ngu, mà trí ở nước Tần?

Người tài bao giờ cũng có ích cho nước nhà, chỉ khác ở chỗ biết dùng hoặc không biết dùng mà thôi. Tín tôi ở Sở đã lâu dâng sớ tỏ bày hơn thiệt, thế mà Hạng Vũ không dùng, nên Tín tôi mới bỏ Sở đến đây.

Ðằng công hỏi:

– Nếu Hán vương dùng ngài, ngài sẽ làm gì để thỏa mãn chí hướng?

Hàn Tín nói:

– Tôi có thể giúp Hán vương tính thiên hạ. Trước hết lấy Tam Tần, sau đánh chư hầu, cắt hết vây cánh của Hạng vương rồi mới diệt Sở. Sở đã diệt, tất gồm thâu thiên hạ. Tôi chỉ sợ ngài tiến cử tôi không nổi, và Hán vương không biết dùng tôi mà thôi.

Ðằng công lắc đầu nói:

– Ngài nói quá lắm, tôi e việc làm không kịp lời nói chăng? Vả như Hạng Vũ sức địch muôn người, binh hùng tướng mạnh, chỉ trong ba năm trời dựng nên nghiệp cả, bốn bể quy hàng, tự cổ kim chưa ai hơn đặng, hiền sĩ dám khinh thường sao?

Hàn Tín nói:

– Không phải Tín tôi dám khoe, nếu nói mà không làm được còn gì thẹn hơn đối với lòng mình. Người Hán cho Hạng vương là vô địch, song với Tín tôi, tôi coi Hạng vương chỉ là một tuồng trẻ mi, không có gì đáng sợ.

Ðằng công nói:

– Thế thì thao lược hiền sĩ chắc có lẽ giỏi lắm nhỉ?

Hàn Tín nói:

– Cái lối làm tướng phải học nhiều sách vở, biết lẽ được thua, trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lý, còn như giỏi thao lược cũng chưa đủ.

Ðằng công liền đem sách Lục thao, Tam lược đưa cho Hàn Tín xem. Hàn Tín không cần nhìn vào sách, ngồi đọc một lượt, từ đầu đến cuối không sai chữ nào. Lại đem nhâm, cầm, độn, giáp ra nói, miệng như nước chảy mây trôi, chẳng bao giờ dứt.

Ðằng công ngồi nghe Hàn Tín ứng đối từ sớm đến chiều vẫn chưa hết. Ðằng công nói:

– Cứ như tài học của hiền sĩ, không ai bỏ rơi được.

Ngày mai tôi xin vào tâu với Hán vương.

Hàn Tín nói:

– Xin đại nhân thư thả, để cho tôi có dịp vào yết kiến Tiêu Thừa Tướng đã, rồi hai ngài cùng tiến cử, thì Hán vương mới trọng, và Tín tôi mới có danh.

Ðằng công nói:

– Hiền sĩ nói phải lắm, chiều hôm nay tôi xin vào hầu Thừa Tướng trước, rồi hiền sĩ sẽ vào sau. Thế nào Thừa Tướng cũng vui lòng cùng hiền sĩ hội kiến.

Hàn Tín cáo từ trở về quán trọ.

Chiều hôm ấy, Ðằng công sang Tiêu Hà, thuật chuyện Hàn Tín bỏ Sở về Hán, và đã đem tài năng cầu tiến thân.

Tiêu Hà nói:

– Tôi nghe tiếng người ấy đã lâu, trước kia sống trong cơ hàn, lấy nghề câu cá nuôi thân, thường xin cơm Phiếu mẫu, lại chịu nhục luồn trôn Ðỗ Trung giữa chợ, thiên hạ đều chê cười cho là thằng nhát, sau chống gươm về Sở Hạng vương phong hàm Chấp kích lang. Phạm Tăng tiến cử nhiều lần, nhưng Hạng vương nhất quyết không dùng. Dĩ vãng người ấy như thế chưa chắc Hán vương đã chịu dụng.

Ðằng công nói:

– Tiếc thay một nhân tài như vậy mà không có dịp để thi thố tài năng. Tôi chắc người này nếu được trọng dụng hẳn làm nên việc cả.

Tiêu Hà nói:

– Thế thì mai ngài mời Hàn Tín đến đây chơi, xem thế nào?

Hôm sau, Ðằng công sai quân đến nhà trọ, mời Hàn Tín đến yết kiến Tiêu Hà.

Ðến nơi, cổng kín tường cao, thâm nghiêm vô hạn, phải nhờ quan Tư hậu vào bẩm trước.

Qua một lúc, có tên Thơ lại bước ra nói:

– Xin mời hiền sĩ vào.

Hàn Tín vội theo chân vào phủ Thừa Tướng. Vào đến nơi, Hàn Tín đứng dưới thềm làm lễ, Tiêu Hà mời vào công đường, nói:

– Tôi vừa nghe Ðằng công khen hiền sĩ là bậc anh tài, nay lại hạ cố đến đây, tôi lấy làm vạn hạnh..

Hàn Tín nói:

– Tín tôi ở Sở, nghe Hán vương là bậc minh quân, Thừa Tướng là người hiền đạt, nên từ nghìn dặm đến đây.

Trước tiếp Ðằng công lấy làm phật ý, nay gặp Thừa Tướng bỗng nhiên muốn về điền lý tiêu dao, không thích đem thân chịu nhục.

Tiêu Hà nói:

– Hiền sĩ đến đây cốt đem chí bình sinh, cứu dân giúp nước, cớ sao chưa gì đã thoái bộ?

Hàn Tín nói:

– Tôi vào tiếp Thừa Tướng với ý nghĩa cao xa, chứ đâu phải vì bả vinh hoa, đem thân quy lụy? Xưa vua nước Tề muốn nghe gảy đàn sắt, nước Tần có người gảy đàn hay, vua Tề hai ba lần sai người đến triệu. Một hôm, người ấy đến nước Tề, vua Tề ngồi trong cung, đòi người ấy vào gảy đàn, người ấy không bằng lòng gảy, nói: “Nếu vua không thích, tôi không bước chân đến sân nhà vua. Nếu vua thích thì phải bày đàn, đốt hương, hết lòng kính cẩn, tôi mới đem hết tài ra làm thỏa ý nhà vua. Nay vua ngồi, tôi đứng, đãi tôi như kẻ hầu, hà tất tôi phải chiều ý vua làm chi!” ấy, người gảy đàn còn giữ tư cách của mình, huống hồ một kẻ hào kiệt nhất đời. Thừa tướng đang lúc vì nước cầu hiền, lẽ phải bắt chước Chu cũng, đang ăn cũng phải nhả cơm, đang gội đầu cũng phải vẩy tóc nghênh tiếp hiền sĩ thì mới thu phục được anh tài hết lòng giúp sức. Tín tôi đến đây, Thừa tướng tiếp đãi một cách ngạo mạn, nên không muốn ở đây một giờ nào nữa.

Tiêu Hà vội vàng đứng dậy mời Hàn Tín vào nhà trong, dắt lên thượng tọa, chắp tay nói:

– Hà tôi thất lễ với hiền sĩ, xin hiền sĩ hỷ xả cho, và xin vui lòng chỉ giáo.

Hàn Tín nói:

– Ngài vì nước cầu hiền, tôi vì nghĩa vụ đến đây, chúng ta đều là kẻ đứng ngoài quan niệm tư kỷ. Ðã hiểu nhau rồi, việc lễ nghĩa đâu còn trọng nữa! Thừa tướng muốn nghị luận việc gì trước?

Tiêu Hà nói:

– Xin hiền sĩ cho biết việc trị loạn trong thiên hạ, và cái thế nguy, an của quốc gia:

Hàn Tín trầm tĩnh đáp:

– Bẩm Thừa Tướng, cái thế tranh thiên hạ cốt ở ba điều: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa “. Quan Trung là nơi Thiên phủ, núi non hùng vĩ, đồng ruộng phì nhiêu, dân cư đông đúc, từ xưa, các bậc đế vương lấy đó làm nơi kiến đô, lập ấp nay Hạng vương không ở, thiên đô về Bành thành, thực không biết gì về địa lợi. Hạng vương đến đâu, thiên hạ cho là vô địch, nhưng chẳng qua kính trọng bề ngoài, còn bên trong đã nhuốm mầm phản loạn, dân chúng lại không phục, thế là mất hẳn điểm nhân hòa. Hạng vương giết vua Nghĩa Ðế giữa dòng Ðại giang thật vô đạo, lòng trời không dung được hành động dã man như vậy. Thế thì Hạng vương đâu phải là người đáng sợ như thiên hạ lầm.

Tiêu Hà hỏi:

– Còn Hán vương thì thế nào?

Hàn Tín nói:

– Hán trước vào Hàm Dương lấy ba điều ước pháp ban bố cho dân, khiến dân mến đức, tiếng tốt đồn khắp xa gần. Nay tuy bị dồn vào Hán Trung, nhưng Hán Trung là nơi thuận tiện có thể dưỡng uy sức nhuệ, củng cố thực lực mình được. Bọn Chương Hàm trấn ở Tam Tần, dân chúng oán vọng, mong Hán vương trở lại làm vua Quan Trung, nếu ta đem quân ra phương Ðông, chắc trăm họ vì ta mà trợ chiến, chỉ một tiếng trống cũng đủ hạ Tam Tần, lấy Hàm Dương rồi. Nếu đã lấy được Hàm Dương thì cái thế thiên hạ sẽ về ta vậy.

Tiêu Hà hỏi:

– Theo ý hiền sĩ, lúc nào mới là dịp ra quân?

Hàn Tín nói:

– Hạng vương thiên đô, chư hầu ly loạn, trăm họ đang nhao nhao chờ một minh quân làm chủ Tam Tần.

Nếu trễ nải, trong bốn nước chư hầu Tề, Ngụy, Triệu, Yên, có nước nào thu dụng được kẻ trí đem quân vào hướng Tây, trước lấy Hàm Dương sau lấy Tam Tần chẹn nơi hiểm yếu, thì quân Hán phải chết già trong đất Bao Trung này, khi nào ra khỏi được.

Tiêu Hà nghe đến câu ấy, ghé vào tai Hàn Tín nói nhỏ:

– Sạn đạo đã đốt rồi, làm thế nào mà xuất quân gấp được?

Hàn Tín mỉm cười đáp:

– Ðốt Sạn đạo, Tử Phòng cốt làm mưu cho quân Sở không để ý đến Bao Trung mà thôi, hẳn Tử Phòng đã tìm được con đường khác thay cho Sạn đạo rồi! Việc ấy làm sao bịt mắt được kẻ thức giả?

Tiêu Hà nghe Hàn Tín nói thất kinh, chắp tay nói:

– Từ khi tôi đến Bao Trung chưa được nghe ai bày tỏ kiến thức sâu rộng như thế, hiền sĩ thực là kẻ anh tài.

Nói xong, gọi quân thắng ngựa, đưa Hàn Tín về tư dinh đàm đạo. Hai ngựa song kề, tâm hồn hoan hỉ.

Ðến nơi, yến tiệc đã bày sẵn chủ khách nâng ly, và khởi đầu câu chuyện hàn huyên.

Tiêu Hà hỏi:

– Nước nhà an nguy, quân cơ lợi hại đều do người làm tướng cả, vậy hiền sĩ cho biết đạo làm tướng phải thế nào.

– Bẩm Thừa Tướng, đạo làm tướng trước nhất phải có,”năm tài” và tránh “mười lỗi”. Năm tài là: Trí, nhân, tín, dũng, trung. Trí thì biết cẩn thận, nhân thì biết thương người, tín thì không sai hẹn, dũng thì không ai dám phạm, trung thì không ở hai lòng. Còn mười điều lỗi: một là cậy vào cái dũng khinh thân mình, hai là gặp việc gấp thì nóng nảy, thiếu cẩn thận, ba là gặp lợi thì ham, bốn là vì lòng nhân không dám giết người, năm là ỷ lại vào sức mình không biết lo xa, sáu là tin mà không phòng, bảy là không chịu thu thập ý kiến mọi người, tám là việc đáng làm gấp mà do dự, chín là thiên vị, thiếu công bằng, mười là lười biếng, chỉ muốn sai người. Nếu có đủ “năm tài” và tránh được “mười lỗi” ấy, tất là tướng giỏi.

Tiêu Hà hỏi:

– Hiền sĩ xem các tướng bây giờ thế nào?

Hàn Tín đáp:

– Trong thiên hạ kẻ có dũng lại vô mưu, kẻ có mưu lại thiếu dũng, đó là chưa nói đến những cá tánh bất lợi như: tự đắc, tự mãn, khoe khoang, kiêu ngạo. Có những cá tánh ấy không thành lương tướng được.

Tiêu Hà hỏi:

– Nếu hiền sĩ làm tướng thì thế nào?

Hàn Tín đáp:

– Nếu Tín tôi làm tướng thì khác hẳn với tướng thời bây giờ. Tất cả đều theo như binh pháp, lấy văn mà dùng, lấy vũ mà định, động thì phát, tĩnh thì giữ. Lúc binh chưa ra thì tĩnh trông như núi Thái Sơn, lúc binh đã ra thì cuồn cuộn như nước sông Hoàng Hà, biến hóa như trời đất, hiệu lệnh như lôi đình. Mất có thể làm còn, yếu có thể làm mạnh; nguy có thể làm an được, cơ biến không biết đâu mà lường, quyết thắng từ ngoài nghìn dặm, binh uy không để một kẻ nào dòm ngó nổi, muôn vạn quân, trăm nghìn tướng không chỗ nào sai lầm. Lấy nhân mà dùng, lấy lễ mà dạy, lấy dũng mà khiến, lấy tín mà thờ. Cái lối làm tướng như thế, Thừa Tướng bằng lòng chăng?

Tiêu Hà thấy Hàn Tín ứng đối như nước chảy, trí tuệ thông suốt, tấm tắc khen thầm, và tự nghĩ:

– Hán vương được người này thật là phúc lớn. Cái chức Phá Sở Ðại Nguyên soái trừ Tín ra không còn ai hơn nữa?

Từ đây, Tiêu Hà giữ Hàn Tín nơi tư dinh, khiến quân hầu hạ, tiếp đãi như các bậc thượng khách.

Mặc dầu vậy, Hàn Tín vẫn giấu kỹ cái giốc thư của Trương Lương, không chịu đưa ra, chỉ dùng tài của mình để tiến thân mà thôi.

Còn Tiêu Hà từ khi gặp được Hàn Tín, lòng rất hoan hỉ, ngày đêm chuyện vãn, quên ngủ quên ăn.

Thật là:

Anh hùng rõ mặt anh hùng

Biết người giữa chốn bụi hồng mới cao

Hồi 17 – Hàn tướng quân khuất thân làm đô uý

Một hôm, Tiêu Hà và Ðằng công vào triều, tâu với Hán vương:

– Chúng tôi vừa chọn được một hiền sĩ, tài kiêm văn học suốt cổ kim, đáng làm Phá Sở Nguyên Nhung, xin Hán vương trọng dụng.

Hán vương hỏi:

– Hiền sĩ tên gì, quê quán ở đâu, tài năng ra thế nào?

Tiêu Hà tâu:

– Người ấy ở Hoài Âm, họ Hàn tên Tín, trước làm quan Chấp Kích Lang nước Sở, thường dâng biểu, nhưng Hạng vương không dùng nên bỏ Sở về đây..Vừa rồi, chúng tôi cùng nói chuyện, biết là bậc đại tài, dẫu Y Doãn, Tử Nha, Tôn Vũ cũng khó sánh kịp.

Hán vương cười rằng:

– Người này khi còn ở Huyện Bái ta đã nghe tiếng luồn khố Ðỗ Trung, xin cơm Phiếu mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Nay Thừa Tướng cử người này làm Ðại tướng sợ ba quân không phục, các nước chê cười, Hạng vương cho ta là người không có mắt.

Tiêu Hà nói:

– Tâu Ðại vương, xưa nhiều người xuất thân bần tiện, mà vẫn dựng nên nghiệp cả, như Y Doãn xuất thân là kẻ thất phu ở Sàn Giã, Thái Công là kẻ đi câu sông Vị, Ninh Thích là người buôn xe, Quản Trọng là kẻ tù đồ, đến lúc gặp được thời, đều tạo nên đại sự cả. Hàn Tín tuy xuất thân bần tiện song tài học tuyệt vời, nếu không dùng, tất hắn sang nước khác, xin Ðại vương xét lại.

Hán vương nói:

– Các khanh đã bảo tấu, không lẽ ta chẳng vị tình.

Thế thì cho đòi hắn vào xem.

Tiêu Hà liền sai người đến mời Hàn Tín vào bệ kiến.

Hàn Tín nghĩ thầm:

– Hán vương khinh bỉ ta thế này tất không dùng ta nổi. Tuy nhiên, ta cứ vào bệ kiến xem sao!

Liền theo gót sứ giả. Vừa vào đến nơi, Hán vương hỏi:

– Nhà ngươi từ nghìn dặm đến đây, chưa thấy rõ tài năng làm sao đại dụng được. Nay trong kho thiếu chức Chưởng lý, ta cho ngươi làm chức Liên Ngao, xem tài năng thế nào đã.

Hàn Tín tạ ơi lui ra, sắc mặt vẫn tự nhiên không hề tỏ bất mãn.

Ðằng công và Tiêu Hà thấy vậy lòng lo lắng không an.

Hôm sau, Hàn Tín đến kho, kiểm điểm thóc lúa, tính toán sổ sách, mau lẹ phi thường, không sai một mảy.

Những người coi kho thấy Hàn Tín tính toán minh bạch đều sụp lạy thưa:

– Từ khi có kho đến nay chúng tôi chưa thấy ai thần toán như ngài.

Hàn Tín vừa cười vừa nói:

– Ðó chẳng qua cái trò nô lệ thôi, có gì là thần thánh!

Tiêu Hà sai người đến thám thính, thấy Hàn Tín tài giỏi như vậy, liền mời về dinh, nói:

– Ngài học ở đâu ra phép tính toán thần diệu như vậy?

Hàn Tín đáp:

– Phép toán có nhiều lối, có số “tiểu cửu” có số “đại cửu” Nếu tinh tường các phép ấy thì dẫu bốn bể, năm châu cũng chỉ ở trong bàn tính đó. Trước kia vua Phục Hy chỉ có 64 quẻ, mà thiên biến vạn hóa, việc vũ trụ không thoát ngoài các quẻ ấy được.

Tiêu Hà nói:

– Học vấn của ngài chắc là tất chung vậy.

Hàn Tín nói:

– Thóc gạo trong “kho để lâu nay đã mục nát, xin đem ra bán cho dân, thay hạt cũ lấy hạt mới, vừa lợi cho dân, vừa ích cho nước đó là việc của Thừa Tướng!

Ngài đề nghị rất phải.. Ngày mai tôi sẽ tâu với Hán vương thi hành ngay việc ấy.

Ba hôm sau, Hán vương không ngự triều. Tiêu Hà viết sớ sai nội thị vào tâu. Hán vương phán:

– Mấy hôm nay ta bực tức, chỉ mong thoát ra khỏi Bao Trung, nhưng chưa có kế gì hay. Vì vậy không lâm triều. Ngày mai xin mời Thừa Tướng đến thương nghị.

Hôm sâu, Tiêu Hà cùng bá quan vào chầu, Hán vương kiểm điểm công việc xong, vào tiền điện cùng với Tiêu Hà nghị sự.

Hán vương nói:

– Ta ở đây đã tâu, nóng lòng muốn xuất quân, chẳng hay Thừa Tướng có kế gì chăng.

Tiêu Hà nói:

– Tâu Ðại vương, muốn xuất quân tất phải dùng một vị Phá Sở Ðại Nguyên Soái mới được.

Hán vương thở dài nói:

– Chính ta cũng đang lo về việc đó.

Tiêu Hà nói:

– Ðại vương bất tất phải lo, chỉ cần phong ngay Hàn Tín làm tứớng là xong việc.

Hán vương cười nói:

– Làm gì cái tài nhỏ nhen ấy!

Tiêu Hà tâu:

– Cứ xem tài này tất hiểu tài khác. Hàn Tín quả thực đáng làm Nguyên Nhung, không nén cố chấp.

Hán vương suy nghĩ rồi phán:

– Ừ! Nếu vậy cứ thăng cho Hàn Tín chức Tri túc Ðô Uý xem sao đã.

Cận thần ban lệnh, Hàn Tín vẫn nghiễm nhiên nhận lãnh.

Hôm sau, Hàn Tín đến dinh Ðô Uý, đem cả sổ sách ra tra xét, lương tiền, thu nộp, chi phí đâu đó rành mạch.

Khi trước, những quan Ðô Uý đến nhận chức, hay ăn lễ các người nhà kho, nên chúng bảo thế nào nghe thế ấy, dân tình thán oán, mất lẽ công bằng. Nay Hàn Tín đến, trước hết ra giấy yết thị, tra xét những kẻ nhũng lạm trước kia, cách chức tất cả, rồi đưa vào những người đứng đắn, vì vậy trăm họ hoan hỉ, tranh nhau nộp thuế. Chỉ trong nửa tháng mà thuế khóa nộp hết không thiếu một đồng tiền nào. Dân chúng mến phục, tìm đến nói:

– Từ ngài đến coi kho, dân chúng tôi chẳng ai mất một thúng thóc một đồng tiền nào. Mới mấy hôm mà lương tiền dồi dào, so với khi trước cách xa lắm.

Lại rủ nhau đến phủ Thừa Tướng, nói:

– Hàn đại nhân đến đây thực là phúc đức cho dân chúng tôi lắm. Trước kia quan coi kho tham lam, áp bức dân chúng, phù thâu tiền lúa, nay chúng tôi không còn bị nạn ấy lấy làm hoan hỉ.

Tiêu Hà an ủi:

– Hàn đại nhân là kẻ hiền tài, đâu phải coi kho mãi mãi. Chẳng qua Chúa thượng muốn thử tài người vài hôm đó thôi. Người ấy phải là Nguyên Nhung, đánh Ðông dẹp Bắc, giúp vua thâu thiên hạ, dựng cơ đồ mới xứng mặt.

Dân chúng bái lạy lui ra, Tiêu Hà nằm vắt tay lên trán nghĩ thầm:

– Hàn Tín là kẻ quốc sĩ, việc lớn việc nhỏ đều tinh tường cả… Ta phải hết lòng tiến cử, nếu không hoài mất một vị Phá Sở Nguyên Nhung.

Hôm sau, Tiêu Hà vào triều Hán vương mặt buồn bã, đòi Tiêu Hà lên điện, nói:

– Ðêm qua ta nằm mơ thấy mộng không lành, lại thêm lòng nhớ cha mẹ, vợ con nơi Bành Thành, không biết ngày nào trông thấy mặt. Nếu cứ uất ức ở đây mãi ta không thể nào vui được, Thừa Tướng có nghĩ đến việc đó chăng?

Tiêu Hà nói:

– Tâu Ðại vương, trước kia vua Cảnh Công nước Tề đi săn về nói chuyện với Án Tử: “Quả nhân mỗi khi mơ thấy triệu bất tường, thì lòng lại không vui”.

Án Tử thưa: “Triệu bất tường thế nào, xin Chúa công cho biết”. Cảnh Công nói: “Ta trông lên núi thấy hùm, nhìn xuống hầm thấy rắn…”. Án Tử nói: “Núi là chỗ hùm ở, hầm là nơi rắn ở, đó là thuận cảnh sao gọi là bất tường được. Hiện nay trong nước có ba điều bất tường mà Chúa công không biết” Cảnh Công hỏi: “Ba điều bất tường ấy là gì?”. Án Tử nói: “Nước có người tài mà không biết là một điều bất tường ; biết mà không dùng là hai điều bất tường, dùng mà không xứng với tài năng là ba điều bất tường”. Bây giờ Ðại vương mộng thấy điềm chẳng lành, chính là cái triệu có hiền sĩ mà không biết dùng đó.

Hán vương ngơ ngác hỏi:

– Nếu trong nước có người tài lẽ nào ta lại không dùng? Từ ngày ta vào Bao Trung đến nay nào có thấy ai là anh tài đâu?

Tiêu Hà nói:

– Người tài trước mặt Ðại vương không dùng, lại mong người đâu đâu thực là lạ lắm!

Hán vương bực dọc hỏi:

– Người hiền sĩ là ai? Thừa Tướng cứ nói, ta sẽ trọng dụng ngay.

Tiêu Hà nói:

– Tôi muốn tiến cử e Ðại vương khinh kẻ bần tiện, không chịu dùng, làm mất lòng người ấy, và khiến cho kẻ hào kiệt bốn phương sanh lòng chán ngán, không muốn đến làm tôi Hán vương nữa.

Hán vương nói:

– Thừa Tướng bất tất phải nói lắm. Cứ nói tên hiền sĩ ấy cho ta biết.

Tiêu Hà khấu đầu nói:

– Hiện nay bậc hiền sĩ trong thiên hạ không ai hơn Hàn Tín. Nếu Ðại vương không dùng, chắc y không chịu ở đây nữa.

Hán vương nói:

– Tước lộc đâu phải là món đồ chơi, muốn cho ai cũng được. Hàn Tín mới đến đây một tháng mà phong thưởng hai lần Nếu còn phong thưởng nữa e những tướng sĩ theo ta từ Phong Bái đến đây, cho ta là thất đáng chăng?

Tiêu Hà tâu:

– Các bậc Ðương thời xưa dùng người cốt tùy tài mà trao chức. Hàn Tín là bậc trí dũng, Ðại vương đem dùng vào việc nhỏ, không xứng đáng tài năng, vì vậy hạ thần mới phải mấy phen tiến cử. Còn như các tướng ở Phong Bái, đều kém xa Hàn Tín, Ðại vương bì sao được?

Hán vương nói:

– Thôi! Ta cũng nghe lời Thừa Tướng, nhưng phải chờ đợi hai tháng nữa, nếu Trương Lương không tiến cử ai đến đây, chừng ấy ta sẽ trọng dụng Hàn Tín cũng chẳng muộn.

Tiêu Hà bất đắc dĩ phải trở về dinh chờ lệnh.

Hôm sau, Tiêu Hà lại mời Hàn Tín đến tư dinh hỏi chuyện làm thế nào hạ được Tam Tần?

Hàn Tín cười nhạt nói:

– Tôi vẫn tưởng Thừa Tướng thông hiểu binh pháp, ngờ đâu lại chẳng biết gì cả. Phàm việc quân tùy cơ mà động, tùy thời mà biến, không thể tiên liệu hoặc dự mưu được Mà dẫu có dự mưu thì cha con cũng không nên cho biết… Vậy mà Thừa Tướng lại hỏi chuyện đó chớ.

Tiêu Hà rất khâm phục. Từ đó lại càng kính trọng hơn.

Hàn Tín trở về Công quán, cách hai tháng sau vẫn không thấy tin tức gì, nghĩ thầm:

– Nếu không khích Tiêu Hà, e Hán vương bỏ lơ, mà dẫu mình có đưa giốc thư của Trương Lương ra, tướng sĩ cũng không phục. Chi bằng lập kế làm cho Tiêu Hà sốt ruột mới xong.

Nghĩ rồi, truyền bọn môn hạ sắm sẵn một con ngựa tốt để sáng hôm sau đi sớm có việc.

Trời vừa tang tảng sáng, Hàn Tín gói ghém hành lý đề một bài thơ lên vách, rồi giục ngựa ra cửa Ðông đi thẳng.

Bọn gia nhân thấy Hàn Tín đi một cách vội vàng, đem lòng nghi ngờ, bàn với nhau:

– Thừa Tướng sai chúng ta đến đây phục dịch Hàn đại nhân, và dặn hễ Hàn đại nhân đi đâu phải cấp báo. Nay Hàn đại nhân bỗng dưng đi sớm thế này, chúng ta phải cấp báo mới được.

Chúng liền vào trình với Tiêu Hà.

Tiêu Hà hay tin tay chân bủn rủn, vội vàng đến nhà Công quán, thấy trên vách có bài thơ như vầy:

Anh hùng lở vận bước long đong

Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng

Vó ngựa vừa xa trông cố quận

Công danh chán ngắt mặt hồng anh

Tiêu Hà dậm chân xuống đất thở dài nói:

– Ðã mấy lần ta tiến cử lên Chúa thượng, nhưng Chúa thượng không dùng, để hắn bỏ đi. Nếu không gọi hắn về thì sau này ăn ngủ sao yên!

Liền gọi mấy tên đầy tớ, mỗi người sắp một con ngựa, rồi thầy trò cùng đuổi theo.

Ra đến cửa Ðông, Tiêu Hà hỏi viên quan giữ cửa:

– Nhà ngươi có thấy Hàn Tín ra đây chăng?

Viên quan giữ cửa đáp:

– Lúc mở cửa, tôi thấy người ấy đi qua đây, giờ đã đi xa rồi.

Tiêu Hà vội thúc ngựa đuổi theo. Ðến thôn kia, hỏi thăm dân chúng.

Dân chúng đáp:

– Sáng sớm có một người cởi ngựa trắng, lưng đeo kiếm đi qua đây, nhưng bây giờ thì cách xa lắm rồi.

Tiêu Hà từ sáng sớm chưa ăn uống bởi mải theo dõi Hàn Tín cho đến chiều mới vào quán ăn qua loa vài miếng, rồi lại lên ngựa đi nữa.

Trời sẩm tối, bóng trăng non lả lướt gieo ánh vàng trên đỉnh non cao, bấy giờ Hàn Tín theo bóng trăng đi đến bến Hàn Khê. Ðêm thanh sông lạnh, núi thẳm rừng khuya, nước thu đầy dấy, Hàn Tín không làm sao lội sang được nên gò ngựa đứng xem trăng.

Tiêu Hà theo đến, nơi xa trông thấy bóng một người cởi ngựa đang tìm chỗ sang sông, lòng mừng rỡ, gọi lớn:

– Hàn Tướng quân, sao lại bạc tình đến thế?

Hàn Tín mừng không đáp. Tiêu Hà giục ngựa đến, nắm lấy cương ngụa Hàn Tín, nói:

– Ở với nhau bấy lâu, dầu sao cũng nuôi một ít tình nghĩa, nỡ nào ra đi không một lời từ giã?

Tiêu Hà vừa dứt lời thì có một bóng ngựa phi tới Tiêu Hà ngạc nhiên, thấy đó là Ðằng công Hạ Hầu Anh, mừng rỡ reo lên:

– Ngài có việc chi mà cũng đến đây.

Ðằng công đáp:

– Vừa tan buổi chầu, tôi trở về nhà nghe nói Hàn Tướng quân bỏ đi rồi, tôi vội đuổi theo để mời trở lại. Ngờ đâu Thừa Tướng lại đến trước tôi. Thế mới rõ Thừa Tướng còn giỏi hơn tôi gấp mấy.

Hàn Tín thấy Tiêu Hà và Ðằng công ân cần khẩn thiết, một lòng trung nghĩa, bất giác thở dài, nói:

– Hai ông thật là bậc trung thần hiếm có. Căn cứ vào đấy có thể nói là nghiệp nhà Hán đang hưng vượng.

Tín tôi nguyện làm kẻ môn hạ của hai ngài.

Dưới bóng trăng soi, Tiêu Hà và Ðằng công cầm chặt tay Hàn Tín nói:

– Cổ nhân đã có câu: “Sĩ vị tri kỷ giả tử” Chúng tôi biết tài Tướng quân có thể sánh với Y, Lã, Quản, Nhạc đời xưa, hết lòng tiến cử, chỉ hiềm Chúa thượng tôi chưa biết tài Tướng quân. Vạy hai tôi xin hứa với Tướng quân, nếu không tiến cử được, hai tôi cũng bỏ quan về làng, chẳng ở đất Bao Trung này nữa.

Hàn Tín bùi nhìn cảm tạ, cùng nhau so cương trở bước, về tạm trú nơi dinh Tiêu Hà.

Trong lúc Tiêu Hà và Ðằng công đuổi theo Hàn Tín thì quan hầu cận Chu Bột hay được tin, vào tâu với Hán vương:

– Các tướng ở Quan Ðông trốn đi hơn hai mươi người, trong đó có Tiêu Hà, đã hai hôm nay chưa thấy về.

Hán vương vừa giận vừa lo nói:

– Lạ thật? Các tướng khác theo ta dọc đường đến đây chẳng nói làm chi, còn Tiêu Hà giúp ta khởi nghĩa từ Phong Bái, đồng cộng khổ, nỡ nào lại bỏ ta?

Hán vương đứng ngồi không yên, bỏ ăn bỏ uống, lúc vào hậu cung, khi ra tiền điện, lòng nóng như đốt!

Ðang cơn phiền não, bỗng có quân vào báo:

– Tiêu Thừa Tướng và Ðằng công đã về.

Hán vương thở phào ra một hơi, luống cuống, vừa mừng vừa giận, mặt mày xám ngắt.

Thấy Tiêu Hà và Ðằng Công bước vào bệ kiến, Hán vương hét lớn:

– Các ngươi theo ta mấy năm nay chưa hề cách nhau, nay thấy các tướng trốn đi, các ngươi cũng trốn theo?

Tiêu Hà bình tĩnh tâu:

– Muôn tâu Ðại vương, chúng tôi phò Ðại vương, được làm đến chức Thừa Tướng, Ðại vương có phụ gì tôi, mà tôi dám bỏ đi? Sở dĩ tôi đi mấy ngày nay là để tìm một người bỏ trốn, muốn vì Ðại vương bày kế chinh Ðông khôi phục lại Quan Trung ấy thôi.

Hán vương hỏi:

– Theo tìm người trốn là ai?

Tiêu Hà tâu:

– Người trốn ấy chính là Hàn Tín.

Hán vương cười nhạt, nói:

– Các tướng bỏ trốn vô số, không theo tìm ai, lại tìm Hàn Tín!

Tiêu Hà nói:

– Tâu Ðại vương, các tướng dễ tìm, duy có Hàn Tín là kẻ anh hùng bậc nhất trong thiên hạ, mất đi là mất cả giang sơn. Nếu Ðại vương chỉ muốn làm vua ở Hán Trung này, không cần về bên Ðông, thì mới không cần Hàn Tín.

Và Ðại vương không có chí lớn thì Hà tôi xin cởi áo từ quan, về sống nơi điền dã cho khỏi hổ phận tu mi.

Tiêu Hà vừa dứt lời, Ðằng công tâu tiếp:

– Tâu Ðại vương, lời. Thừa Tướng chứa đầy lòng yêu nước. Vì Ðại vương, vì thiên hạ mà nuôi chí lớn, xin Ðại vương rộng xét.

Hán vương nói:

– Các ngươi chỉ nghe hắn nói, chưa thấy được tài năng thì làm sao bảo đảm trọng trách đó. Nước nhà yên nguy, ba quân còn mất đều ở cả trong tay người tướng. Cầm ba trăm ngàn quân mã trong tay, điều khiển hơn bảy mươi viên dõng tướng, ví bằng hạ được Tam Tần, phá được nước Sở như lời các người dự đoán thì chẳng nói làm chi còn như nói mà không làm được, chẳng những đem sinh mạng ba quân chôn vùi trong lửa đỏ, mà còn gây cảnh điêu linh cho thiên hạ, gây tang tóc muôn dân, chừng ấy hối sao kịp?? Ấy vậy ta dè dặt việc dùng người.

Vả chăng. Hàn Tín lúc cha chết không làm nổi ma chay, là kẻ bất trí, đem tấm thân luồn trôn gã bán thịt, không biết nhục, là kẻ hèn hạ, làm tôi nước Sở ba năm mà chỉ làm đến chức Chấp kích bang, đó là kẻ bất tài. Lấy dĩ vãng đoán tương lai, ta cho Hàn Tín là vô dụng, nếu bậc anh tài bao giờ như thế. Các người nghĩ kỹ xem.

Tiêu Hà tâu:

– Lời nói của Ðại vương theo thông thường thì cho là chí lý. Song đây là kẻ phi thường. Kẻ phi thường có thể có những hoàn cảnh phi thường. Nếu không vậy, Hàn Tín đã đắc dụng ở nước Sở, đã làm quan lớn ở Sở, đã đem quân diệt nước Hán ta, có đâu lại tìm đến phò Hán, để ngày nay Ðại vương cùng tôi thần bàn luận. Xưa Ðức Khổng Tử bị khốn ở Trần, Sái, có phải là ngài vô năng đâu? Bị người nước Khuông vây mà chịu khoanh tay, há phải là ngài vô dũng đâu? Rồi đến suốt đời, chịu chết già, không làm nên trò gì có phải là người vô dụng đâu? Như vậy Hàn Tín chịu ăn xin, chịu luồn trôn, chỉ là hoàn cảnh đặc biệt, làm quan chỉ đến chức Chấp kích lang cũng chỉ là chưa gặp được chân Chúa. Nay hạ thần đã thông cảm con người Hàn Tín, đã hiểu thấu tài năng của Hàn Tín, đáng là bậc lương đống, đủ sức đảm đương trọng trách hạ thần đã tiến cừ. Nếu Ðại vương không dùng, hạ thần xin liều chết van xin cho được mới nghe.

Hán vương thấy Tiêu Hà hết lòng khổ gián, đem những lời thiết thạch tâu bày, lòng còn do dự, thì trời đã sẩm tối, liền phán:

– Thôi, hai khanh về nghỉ, đến mai ta sẽ thương nghị.

Tiêu Hà, Ðằng công lui về nhà, nói với Hàn Tín:

– Sáng mại vào chầu, Chúa thượng sẽ phong ngài làm tướng.

Hàn Tín nói:

– Chúa thượng chưa tin tôi, tôi e chỉ làm bận lòng hai ngài mà thôi.

Tiêu Hà nói:

– Nếu Chúa thượng không dùng Ngài, chúng tôi cũng xin vì ngài bỏ chức, không ở đây làm gì.

Ðằng Công buồn bã cáo từ trở về dinh. Tiêu Hà cũng lui gót.

Hàn Tín ngồi một mình lòng lâng lâng hoài cảm, nghĩ thầm:

– Tiêu Hà hết lòng vì nước cầu hiền, rõ là kẻ trung liệt. Hán vương sở dĩ không muốn dùng ta chẳng qua chỉ vì ta xuất thân bần tiện.

Bất giác, Hàn Tín rơi lệ, tủi hổ thân mình, ngâm thành mấy câu thơ:

Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà

Vận thời chưa gặp khó bôn ba

Nghèo hèn phản bạc, đời dang dở

Con tạo trêu người mãi thừa!

Hàn Tín chép xong bài thơ, toan đi nghỉ, bỗng có quân hầu vào báo:

– Có quan Thừa Tướng đến chơi.

Hàn Tín vội vã đội khăn, mặc áo ra đón chào vào.

Ðêm khuya Thừa Tướng vẫn chưa an nghỉ sao?

Tiêu Hà đáp:

– Bận lòng vì nước, không thể nằm yên được. Có một điều muốn hỏi hiền sĩ.

Hàn Tín mời vào trong, hỏi Tiêu Hà:

– Xin Thừa Tướng cho biết ý.

Tiêu Hà nói:

– Bên Sở có Phạm Tăng vốn là người tinh tường, đã nhiều lần tiến cử hiền sĩ, chắc hiền sĩ đối với Phạm Tăng cũng có thâm tình và đã bày nhiều diệu kế?

Hàn Tín đáp:

– Phạm Tăng quả là người kiến thức, đã nhiều lần vì tôi tiến cử, nhưng Bá vương không biết nghe lời… Sau đó, Sạn đạo bị đốt, tôi có làm sớ dâng lên nói rõ việc lợi hại, nhưng Bá vương vẫn cho lời tôi là hư ngôn. Dẫu có vì vua bày kế, mà vua không nghe thì cũng chẳng ích gì.

Hàn Tín móc túi lấy ra tờ sớ lúc trước, đưa cho Tiêu Hà xem:

Tiêu Hà giật mình nói:

– Nếu Hạng vương biết nghe lời ngài thì chúng tôi suốt đời chôn thây nơi đất Bao Trung này rồi.

Hàn Tín nói:

– Bá vương không nghe lời tôi,. tôi cũng chưa có ý bội Sở. Sau khi Phạm Tăng bị Trần Bình lầm kế phản gián, phải đi sang Bành Thành, lúc ra đi ông ta có dặn Bá vương ba việc: Một là không nên để Hán vương vào Hán Trung, hai là đừng bỏ Hàm Dương về Bành Thành, ba là nên trọng dụng tôi… bằng không phải giết bỏ ngay. Tôi biết Bá vương thế nào cũng không theo lời dặn ấy, và như vậy Phạm Tăng sẽ bày kế khác để hại tôi, nên tôi mới bỏ Sở về Hán.

Tiêu Hà ngồi trâm ngâm ra dáng suy-nghĩ.

Hàn Tín hiểu ý nói:

– Ðêm khuya, Thừa Tướng đến đây ý chừng ngài cho tôi là tâm phúc với Phạm Tăng chăng? Vả lại, hôm trước ngài thấy tôi trốn đi có lẽ ngài nghĩ rằng tôi đem tin tức Bao Trung về báo với Phạm Tăng nên hỏi như thế.

Tiêu Hà vẫn trầm ngâm.không đáp. Hàn Tín nói tiếp:

– Vâng? Ngài vì nước nghĩ như thế cũng phải. Song thiết tưởng bấy lâu nay tôi cũng đã thố lộ hết tâm can với ngài rồi, vậy mà ngài còn nghi ngại? Nếu vậy, tôi đưa vật này cho ngài xem, chắc ngài không còn nghi ngờ nữa.

Dứt lời, Hàn Tín móc túi lấy giốc thư của Trương Lương đưa cho Tiêu Hà xem.

Hồi 18 – Cầu nguyên soái, Hán Vương bái tướng

Hôm sau, Tiêu Hà đem giốc thư cho Ðằng công xem. Ðằng công vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Cả hai vội vào triều yết bái Hán vuơng.

Hán vương trông thấy thư, giật mình nói:

– Ôi chao? Té ra người của Trương Tử Phòng tiến cử Hàn Tín đã có giốc thư sao lâu nay không xuất trình?

Tiêu Hà kể lại tâm trạng của Hàn Tín, tại sao không trình giốc thư.

Hán vương mừng rỡ nói:

– Bấy lâu khanh tiến cừ mãi mà ta không tin, nay lại có giốc thư của Tử Phòng nữa, thế thì người này quả thật trang anh kiệt rồi. Xem đó đủ biết mắt ta không tinh đời làm mất lòng hiền sĩ. Bây giờ ta phong cho Hàn Tín làm tướng ngay, để bỏ có cất công tiến cử của khanh bấy lâu

Tiêu Hà nói:

– Nếu Ðại vương phong cho Hàn Tín làm tướng ngay, e Hàn Tín lại bỏ trốn nữa.

Hán vương ngơ ngẩn hỏi:

– Thế thì ta phong cho Hàn Tín làm Ðại tướng quân, Hàn Tín có bỏ trốn chăng?

Tiêu Hà tâu:

– Phong làm Ðại tướng quân Hàn Tín lại càng bỏ trốn mau hơn nữa.

Hán vương cau mày hỏi:

– Tại sao vậy? Còn có chức gì hơn chức Ðại nguyên soái?

Tiêu Hà nói:

– Ðại vương phong tước bằng cách nào?

Hán vương nói:

– Vời Hàn Tín đến trước mặt, và phong chức giữa triều

Tiêu Hà nói:

– Chức Ðại nguyên soái cầm sinh mệnh muôn quân, ngàn tướng, nếu Ðại vương xem thường như vậy dẫu có phong Hàn Tín cũng không nhận.

Hán Vương hỏi:

– Vậy phải phong bằng cách nào?

Tiêu Hà nói:

– Ðại vương phải chọn ngày trai giới, lập đàn tế cáo thiên địa, như Vũ Vương phong cho Lã Vọng, mới đúng là lễ bái tướng.

Hán vương nhận lời, giao cho Tiêu Hà lập chương trình hành lễ.

Tiêu Hà mừng rỡ, về dinh thuật lại với Hàn Tín.

Hàn Tín cảm kích vô cùng.

Trong vòng mười ngày, Tiêu Hà họa một bản đồ gọi là bái tướng đàn, và thảo một chương trình hành lễ đem trình Hán vương xem.

Hán vương vui vẻ, truyện Quán Anh cứ theo chương trình ấy tiến hành việc đắp đàn, sửa lễ.

Việc Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín trừ Ðằng công ra, không nói cho ai biết, nay thấy Hán vương sai Quán Anh đắp đàn để bái tướng, mọi người đều xôn xao bàn luận.

Phàn Khoái vỗ ngực nói với mọi người:

– Tôi cùng Hán vương khởi binh ở Phong Bái, chiếm Quan Trung lại cứu giá nơi Hồng Môn, theo vào Ba Thục, cùng chung cay đắng, chẳng chút chia phôi, kẻ khó nhọc chỉ có tôi là kẻ, phen này đắp đàn phong tướng chức ấy tất về tôi

Quàn sĩ đồng nói:

– Nếu lấy nhau kẻ công thần bấy lâu thì chức ấy không lọt khỏi Phàn Khoái, Ðằng công, Chu Bột..

Chẳng bao lâu, Quán Anh đắp đàn xong, Hán vương đòi Tiêu Hà đến bàn việc.

Tiêu Hà nói:

– Ngày tốt đã chọn rồi, xin Ðại vương trai giới ba ngày, truyền các quan hiểu dụ trăm họ, quét sạch đường sá nha môn hoãn việc dụng hình, không được sát sinh, không được uống rượu.

Hán vương nhận lời. Lệnh truyền ra, mọi người đều vui vẻ mong chờ vị Ðại nguyên soái.

Ðúng ngày, Hán vương xa giá ngự ra Tướng quốc phủ, mời Hàn Tín lên xe.

Hán vương lại đích thân đẩy bánh xe một vòng, rồi đi thẳng ra Tây môn. Suốt một dãy đường, bóng cờ phất phới, tiếng chiêng trống vang trời, văn thần áo dài mũ rộng, vũ tướng áo chiến gươm trường muôn họ vui vầy, chen nhau xem cảnh lạ.

Trước đây, khi thấy đắp đàn long trọng, ai nấy có quan niệm Hán vương sẽ chọn một kẻ phi thường, ngờ đâu lúc ấy đại thấy Hàn Tín ngồi trên xe cùng đi với Hán vương. Mọi người lấy làm lạ. Vũ vương hầu là Phàn Khoái đi sau xa giá, nói với Chu Bột:

– Chúng ta muôn cay nghìn đắng theo chúa đến nay đã ngót ba năm trời, lẽ nào bây giờ lại để cho thằng chết đói đó cai quản. Kẻ trượng phu thà chết chứ không chịu nhục.

Dứt lời, xăm xăm bước đến trước xa giá, nói lớn:

– Xin Ðại vương hãy tạm dừng xa giá lại, cho hạ thần tâu một lời. Thiết nghĩ: “Hàn Tín là kẻ chết đói ở Hoài Âm, xin cơm thừa của Phiếu mẫu, chịu luồn trôn gã hàng thịt. Lúc ở Sở chỉ làm đến chức Chấp kích lang, nay về Hán chỉ cậy ở lời nói lòe loẹt, chứ thực chưa làm được công lao gì. Vậy mà Ðại vương lại thân đẩy xe, phong làm Ðại tướng, nếu Hạng vương hay được chắc phải mĩm cười, và khắp thiên hạ sẽ bảo rằng đất Hán Trung không có người, đến nỗi phải dùng thằng chết đói. Ðại tướng là một thằng chết đói thì quân sĩ còn tranh chiến với ai. Xin Ðại vương xét lại.

Hán vương chưa biết trả lời ra sao, Tiêu Hà giục ngựa tới mắng gắt lên:

– Không thế được? Nhà ngươi chỉ có thể vâng theo hiệu lệnh, cớ sao dám nói bậy! Muốn làm loạn à. Ta làm chức Tướng quốc tiến cử Ðại tướng, công việc đã định rồi, nhà ngươi dám cậy chút công nhỏ hống hách khi quân pháp sao?

Ðoạn quay lại tâu với Hán vương:

– Phàn Khoái cản xa giá, trái mệnh vua, xin Ðại Vương truyền bắt trói theo xe, sau sẽ phân xử.

Ðằng công cũng bước đến tâu:

– Ðại vương ban bố hiệu lệnh, không ai dám trái lời Phàn Khoái làm càn, giả sử các người khác cũng bắt chước như thế thì Ðại vương còn mong gì việc Ðông chinh. Xin đừng tiếc một Phàn Khoái để hỏng mất đại sự.

Hán vương tức giận, truyền bắt Phàn Khoái trói lại điệu theo sau xa giá, chờ bái tướng đăng đàn xong sẽ luận tội.

Xa giá đến trước tướng đài, một hồi chuông nổi lên, âm thanh rền rỉ. Trăm quan đều phủ phục tiếp đón. Trên đàn cờ xí phất phơ, khói trầm nghi ngút, tiếng nhạc nổi lên, viên quan hành lễ dắt Hàn Tín bước lên bậc thứ nhất.

Trên đó đã có Nhữ âm hầu là Hạ Hầu Anh đứng chờ. Hàn Tín theo nghi tiết, bứớc vào, đứng ngoảnh mặt về phía Bắc, viên quan Thái sử đọc chúc:

Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng thân. ngày Bính tý, Bao Trung Hán vương khiến NhỮ âm hầu là Hạ Hầu Anh lảnh cáo thần Ngũ nhạc tứ độc Ðại xuyên rằng:

Trời sinh trăm họ, đặt kẻ trông coi, vua Tần bạo ngược, giết hại sinh linh, nay đến Hạng Vũ, cũng không kém phần tàn ác, chôn quân giết chúa bạo ngược trăm phần. Nay Bang tôi vì nghĩa cứu dân, phất cờ quyết tử, mong được nước trị dân an, lòng thành kính cáo, thần minh xét soi thượng hưởng.

Quan Thái sử đọc xong, Hạ Hầu Anh tay nâng cung tên trao cho Hàn Tín, và nói:

– Hán vương có mệnh ban cung tên này, tướng quân tung hoành bốn bể.

Hàn Tín quỳ xuống, đón lấy cung tên, rồi đưa cho tả hữu theo hầu cầm giữ.

Quan hành lễ lại đưa Hàn Tín lên bậc thứ hai, ở đó quan Tướng quốc Tiêu Hà đã chờ sẵn, đứng ngoảnh mặt về hướng Tây.

Hàn Tín quay mặt về hướng Bắc, quan Thái sử đọc chúc rằng:

Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng lân, ngày Binh tý, Hán vương khiến Tướng quốc là Tiêu Hà lảnh cáo cùng nhật nguyệt linh thần, và Lịch đại Ðế vương rằng: Tôn thần là đấng công, hiểu rõ suy xét người thiện ác. Nhà Tần bạo ngược phải diệt vong, trăm họ lại lọt vào tay Hạng Vũ lắm điều thảm khốc. Tôi vì nhân dân cứu nạn, nên chọn nhân tài, dùng Hàn Tín cầm quân chinh phạt. Dăm mong thần soi xét phù hộ cho công việc chóng thành.

Thượng hương. “

Thái sử đọc chúc xong, Tiêu Hà tay nâng phủ việt, đưa cho Hàn Tín và nói:

– Từ nay tướng quân giữ việc chinh phạt, vì dân cứu nạn, vì chúa lập công. Tướng quân nên cố gắng.

Hàn Tín quỳ xuống nhận lấy phủ việt, trao cho tả hữu cầm thay, rồi tỏ lời đáp từ.

Quan hành lễ lại dẫn Hàn Tín lên bậc thứ ba, ở đó Hán vương đã đứng sẵn, ngoảnh mặt về hướng Nam.

Giữa lúc đó, nhạc thiều trối khúc, hương khói ngạt ngào, bóng cờ tiếng trống uy nghi, rộn rã.

Quan Thái sừ bước tới, đọc chúc:

Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng thân, ngày Bính tý, Hán Trung Vương Lưu Bang, kính cáo Hoàng thiên Hậu thổ.

Thiết nghĩ: Phàm người trị nước phải có điều nhân, nếu thiếu điều ấy muôn dân điêu đứng, ba hội lâm nàn. Kể từ nhà Tần gây việc biên loạn, nhân dân sầu thán, non nước đượm sầu. Thần Bang thấy thế đau lòng, muốn đem lại thái bình thịnh trị. Ngờ đâu giữa đường gặp Hạng Vũ, dùng sức làm càn, cậy oai hống hách, chôn quân, giết chúa, bạo ngược lắm điều. Bang tôi sức hèn khó chống phải vào Hán Trung dưỡng uy sức nhuệ, quyết chí tranh hùng. Nay gặp Hàn Tín, trí dũng hơn người, đáng tài cầm quân giúp nước. Vậy trao Tiết việt giữ việc chinh phạt bốn phương. Chức làm Ðại tướng, thống nhất anh hùng, cầu mong chứng giám, giúp kẻ tôi hiền, đem lại thái bình thiên hạ.

Thượng hương. “

Quan Thái sử đọc xong, Hán vương phong Hàn Tín làm Phá Sở Ðại tuớng quân, rồi lấy hổ phù, ngọc tiết, kiếm ấn, bảo kiếm trao cho Hàn Tín và nói:

– Từ nay trở đi, toàn thể tướng sĩ đều phải tuân theo hiệu lệnh của tướng quân. Tướng quân phải hết lòng vì nước, đem sức cứu dân, đạt một mục đích cao siêu, không vì lợi riêng nhỏ mọn. Giữa chiến trường, thắng bại là thường, đừng vì thua mà nản chí, đừng vì thắng mà tự kiêu, xem quân sĩ anh em, cùng chia bùi sẻ ngọt, đồng cam cộng khổ. Ðược vậy, việc cả mới mau thành, thiên hạ mới chóng yên, Tướng quân nên thận trọng…

Hàn Tín cúi đầu vâng mệnh, tâu:

– Tôi nghe trì nước phải được lòng dân, việc dùng quân phải giữ nghiêm lệnh. Dân chúng đã ngưỡng mộ, hiệu lệnh đã nghiêm minh thì dù trúc cũng phải chẻ, ngói cũng phải tan, đánh đâu chẳng thắng..

Nay hạ thần đã mãnh trọng trách, nguyện hết lòng đền ơn tri ngộ..

Hán vương nói:

– Bấy lâu, ta chỉ nghe Thừa Tướng nói, chưa rõ được tài tướng quân. Nay được tướng quân giải bày lòng ta rất hoan hỉ. Xin tướng quân vì ta lo việc quốc sự.

Hàn Tín tâu:

– Ðại vương muốn quay về phương Ðông tranh lấy thiên hạ, có phải dụng ý đối địch với Hạng vương chăng?

Hán vương đáp:

– Chính thế!

Ðại vương liệu sức mình ngày nay có mạnh hơn Hạng vương chăng?:

– Không mạnh hơn được.

Hàn Tín cung kính nói:

– Tâu Ðại vương, Hạng vương tuy mạnh thật, song tính tình nóng nảy, lấy uy áp chế, không biết dùng kẻ hiền, không biết trọng kẻ sĩ, thì cái mạnh ấy chẳng qua là cái dũng của kẻ vũ phu, không đáng sợ. Vừa rồi lại bỏ Quan Trung, thiên đô về Bành Thành, trên giết vua Nghĩa Ðế, dưới nộ chư hầu, tuy mang danh Bá chủ trong thiên hạ, song không một ai tùng phục. Thế thì cái mạnh ấy ai kể vào đâu. Bây giờ Ðại vương nhân lòng mong mỏi về Ðông của quân sĩ, phất cờ khởi chiến, chỉ một hồi trống là có thể phá vỡ Tam Tần ngay. Hạ thần dẫu bất tài cũng dám cam đoan lấy Quan Trung như trở bàn tay.

Hán vương mừng rỡ nói:

– Rất tiếc là đến bây giờ ta mới gặp được tướng quân!

Ðoạn cùng Hàn Tín xuống đàn, trở về triều. Bá quan theo sau hộ giá.

Tiêu Hà sai quân dẫn Phàn khoái đến để Hán vương vấn tội.

Hán vương nói:

– Phàn Khoái tuy là người chí thân của ta, nhưng cậy công phạm giá, là mất phong thể triều đình, cần phải trừng trị để làm gương ba quân.

Tiêu Hà ghé vào tai Hán vương tâu nhỏ:

– Phàn Khoái tuy phạm pháp, nhưng là kẻ có công lớn tình nên dung thứ. Vả lại, mới vừa phong Ðại tướng mà đã giết công thần e không lợi cho việc quân. Tuy nhiên, nếu tha ngay, sợ Phàn Khoái không bỏ tật cũ thì quân lệnh mất nghiêm, xin Ðại vương cứ hạ lệnh giao cho đình thần luận tội, hạ thần sẽ liệu bề châm chước, như thế thì phép nước mới nghiêm.

Hán vương khen phải, liền hạ chiếu rằng:

” Trẫm phong Hàn Tín làm Ðại tướng là vì đã ba lần Tiêu Thừa Tướng tiến cử, có tờ giốc thư của Tử Phòng giới thiệu và xét thấy tài năng của Hàn Tín đáng làm chức ấy. Thế mà Phàn Khoái dám cậy công cao, phạm giá khinh lờn phép nước. Nếu không trị tội còn gì thể diện triều đình. Vậy giáng chiếu giao Phàn Khoái cho triều thần, lấy phép công nghị xử. Giết một kẻ có tội mà trấn an được trăm họ là việc nên làm. Ðình thần chớ dung túng.

Nay chiếu. “

Tiêu Hà và đình thần lãnh chiếu họp nhau bàn luận.

Giữa lúc đó, có người đến báo cho Phàn Khoái hay.

Phàn Khoái sợ hãi, nói với các cận tướng:

– Nguy thay! nếu không có ai vì tôi cứu mạng e tôi chết mất.

Chu Bột cười lớn, nói:

– Việc gì mà tướng quân sợ đến thế?

Phàn Khoái đôi mắt đỏ hoe, phàn nàn:

– Nào có việc gì đâu! Chỉ vì tôi nóng nảy phạm giá.

Bây giờ Chúa thượng hạ chiếu xuống triều thần, khép tôi vào tội chết. Xin các ông làm ơn nói với Tiêu Thừa Tướng, nghĩ lại cái công cứu giá của tôi ở Hồng Môn mà dung tha tội chết cho tôi nhờ.

Chu Bột gật đầu nói:

– Ðược! Ðể tôi làm phước nói hộ cho. Tội tướng quân rất lớn, trong lúc Chúa thượng đăng đàn, bái tướng là việc trọng đại mà tướng quân dám làm càn như thế, bảo dung tha sao được. Tuy nhiên, Chúa thượng đã ban chiếu xuống triều thần nghị xử, tất có ý khoan dung, xin tướng quân đừng ngại!

Nói xong, Chu Bột cùng bọn võ tướng kéo nhau đến Tướng phủ xin vào yết kiến Tiêu Hà.

Tiêu Hà hỏi:

– Các tướng đến đây có việc gì?

Các tướng thưa:

– Chúng tôi được tin Chúa thượng giao Phàn Khoái xuống triều đình trị tội, vì vậy đến đây xin Thừa Tướng nghĩ đến công cứu giá nơi Hồng Môn, giảm tội cho Phàn Khoái.

Tiêu Hà nói:

– Nay Chúa thượng bị khốn nơi Bao Trung, ngày đêm lo tìm Ðại tướng để lo việc chinh Ðông. Hàn Tín là anh tài trong thiên hạ, Chúa thượng ủy thác việc ấy rất xứng đáng, thế mà Phàn Khoái cậy công khinh lờn phép nước, tội ấy khó dung. Tuy vậy, Phàn Khoái là các bậc công thần, làm sao tôi quên được việc cứu giá Hồng Môn, các tướng cứ yên tâm, tôi sẽ tùy nghi châm chước.

Các tướng mừng rỡ lạy tạ lui ra. Tiêu Hà cùng Lịch Sinh làm tờ nghị tội, dâng lên Hán vương:

Ðại Hán Thừa tướng là Tiêu Hà cùng đình thần cẩn án:

Xét thấy: Phàn Khoái lỗ mãng, dám ngăn xa giá, buông lời nói càn, làm mất phong thề triều đình nêu gương xấu trong tướng sĩ, phép công chiếu án, tội chết khó tha. Lại xét rằng: Phàn Khoái là bậc công thần, theo khởi nghĩa từ Phong Bái đến đây đã có công cứu giá nơi Hồng Môn. Vì vậy nay có khoan nhất thứ, nếu còn tái phạm, chiếu luật gia hình, không được miễn giảm.

Nay kính nghị. “

Hán vương xem nghị xong, xuống chỉ rằng:

– Phàn Khoái cậy công khinh mạn, đáng lẽ không tha.Nay xét lời đình thần vừa tâu, cũng tạm đung thứ.

Vậy truyền Phàn Khoái nên xét mình sửa lỗi, lập công chuộc tội theo dưới quân môn, tùy lệnh Nguyên soái.

Nếu còn có ý bất mãn, hình phạt khó tránh.

Khâm thử. “

Phàn Khoái được lệnh, mừng rỡ tạ ơn, sang yết kiến Hàn Tín để thỉnh mệnh.

Hàn Tín nói:

– Lập công là chức phận của thần tử, thủ nghĩa là đại tiết của tôi hiền. ông dẫu có công lớn, song chớ nên tự phụ, vì kẻ tự phụ không bao giờ đạt được kỳ công. Nay Chúa thượng đã tha thứ thì từ nay trở đi nên đoái công chuộc tội, danh ghi sử sách, để tiếng muôn đời. Tôi sẽ sẵn sàng che chở cho chẳng bao giờ có ý tư hiềm.

Phàn Khoái cúi đầu tạ ơn, rồi trở về triều ra mắt Hán vương.

Hán vương trông thấy Phàn Khoái ăn năn hối lỗi,

cảm kích vô cùng, bước đến cầm tay nói:

– Tướng quân cùng ta khởi nghĩa từ Phong Bái, đồng cam cộng khổ, mấy năm trời không rời nhau, tình quyến luyến như ruột thịt. ấy vậy, tướng quân cần phải làm gương cho binh sĩ bảo vệ luật pháp, đề cao thể diện triều ca, cớ sao lại nóng nảy như vậy. May mà quần thần trọng tình tôi chúa, không nỡ hại công thần, nếu có bề nào tướng quân phải ngậm hờn nơi chín suối, còn ta phải ôm lòng sầu khổ suất đời chăng?

Hán vương nói đến đây cảm động ứa hai dòng lệ.

Phàn Khoái cũng sụt sùi khóc, và nói:

– Hạ thần ngu dại, trót lỡ lầm, hối không kịp. Từ nay nguyện không dám nóng nảy nữa, đem tấm thân thừa này đền nợ quân vương.

Dứt lời, Phàn Khoái lui ra, đến dinh quan Thừa tướng lạy tạ, và nói:

– Nếu không có Thừa tướng thương tình, thì Khoái này không thoát khỏi tội chết, ơn tái tạo ấy chẳng biết lấy gì đáp đền cho xứng đáng.

Tiên Hà nói:

– Cái ngày chia đất phong vương tôi tưởng không còn xa lắm, tướng quân nên cố gắng lập công, bảo tồn lấy danh vọng.

Phàn Khoái tạ ơn, lui ra. Và từ đó, nhất nhất nghe theo mệnh lệnh của Hàn Tín, không dám sai suyển.

Cách mấy hôm, Hán vương triệu Hàn Tín vào triều hỏi:

– Ta rất nóng lòng việc Ðông qui. Chẳng hay lúc nào Nguyên soái định khởi sự.

Hàn Tín tâu:

– Hạng vương mới thiên đô về Bành Thành, không để ý đến phương Tây. Còn các nước chư hầu mới lập, nội trị chưa ổn.. Lúc này là lúc nên khởi binh. Xin Ðại vương giáng chỉ Ðông chinh, để hạ thần chỉnh đốn xuất quân tấn phát.

Hán vương nói:

– Ta sẽ y tấu.

Hôm sau, Hán vương phong Phàn Khoái làm Tiên phong, Tào Tham làm Quân chính, Ân Cái làm Giám quân, chỉnh bị binh mã, đợi ngày xuất chinh.

Hàn Tín được lệnh, lập tức thẳng đến giáo trường, tập họp binh tướng để thao diễn.

Sau khi duyệt qua một lượt, thấy quân sĩ hàng ngũ lộn xộn, quân pháp không rành, chiến thuật còn non nớt, liền gọi Lịch Tự Cơ đến nói:

– Binh mã tuy đông, nhưng trình độ chiến đấu quá kém, chỉ có thể dùng giữ thành mà thôi, chứ chưa thể đem ra đánh trận được. Xin Tiên sinh chọn cho tôi bốn mươi người chữ tốt, viết hay, dùng để sao quyển binh pháp mà tôi đã bỏ công nghiên cứu lúc bình nhựt. Sao xong, giao cho mỗi tướng một bản, cứ theo phép đó mà luyện tập quân sĩ. Chỉ trong nửa tháng, kỹ thuật chiến đấu sẽ tinh vi và lúc đó mới có thể đem đi chinh chiến.

Lịch Tự Cơ tuân lệnh lãnh binh thư trao cho các tướng sao lục.

Hồi 19 – Chém Ân Cái, Hàn Tín giữ phép

Lịch Sinh lãnh sách đem về sai 40 người chép lại, chỉ trong hai ngày là xong. Liền đem phân phát cho các tướng theo đó tập luyện quân binh.

Hàn Tín vào triều đem công việc mình đã làm tâu lại với Hán vương, rồi truyền các tướng ra nơi giáo trường duyệt binh:

Trong lúc tập luyện có vài tên quân trĩu phép, Hàn Tín sai chém đầu làm lịnh. Ba quân đều khiếp sợ, răm rắp tuân theo.

Chỉ trong hai mươi ngày, quân nào tướng ấy đâu đó chỉnh tề, hiệu lệnh không sai một mảy.

Một hôm, Hán vương thân hành đến xem duyệt binh, trông thấy Hàn Tín mặc nhung phục oai phong lẫm liệt tinh kỳ phất phới, vũ dũng khác thường, quân tướng kỷ luật rất nghiêm, lòng tấm tắc ngợi khen.

Hàn Tín bước đến tâu:

– Tâu Ðại vương, nhờ uy đức của Ðại vương, hạ thần đã rèn luyện quân sĩ được một kỹ thuật chiến đấu khá cao. Vậy xin Ðại vương ban cho tướng sĩ lời hiểu dụ để kích thích lòng phấn đấu của họ.

Hán vương y tấu, thảo lời chỉ dụ, rồi sai một viên quan hầu cận tuyên đọc:

” Sở Bá vương Hạng Vũ tàn bạo, giết vua Nghĩa Ðế, tàn sát muôn người, lại bội ước đoạt Hàm Dương tiêm xưng vương vị. Trăm họ một lòng phẫn nộ, mong thoát cảnh lầm than. Ta, nay vì dân, khởi binh trừ loạn, phong Hàn Tín làm Phá Sở Nguyên Nhung giữ việc chinh phạt. Ấy vậy binh tướng phải một lòng tùng phục để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại chung của chúng ta. Kẻ trung với vua, chớ lấy việc bất bình nhỏ mà trái mạng, kẻ trung với nước không vì quyền lợi cá nhân mà bỏ quyền lợi chung. Sứ mệnh thiêng liêng đang cần sự góp sức của mọi người. Ba quân phải gìn lòng trung nghĩa. Nay chỉ dụ “.

Binh tướng nghe lời chỉ dụ, im phăng phắc.

Hàn Tín lấy một tấm bảng, yết các điều luật nơi trước doanh trại như sau:

1) Nghe trống không tiến, nghe chiêng không lùi, phất cờ không dậy, ngã cờ không phục, đó là tội bội quân, phải chém.

2) Gọi đến không thưa lúc điểm quân vắng mặt, sai hẹn, trễ nải, đó là tội mạng quân, phải chém.

3) Ðêm nghe hiệu mõ không báo lại, giờ canh bỏ vắng, khẩu hiệu nói sai, cứng cổ khó răn, đó là tội hoạnh quân, phải chém.

4) Ðem oán hờn rêu rao trong quân sĩ, nói sau chủ tướng, không tuân mệnh truyền, đó là tội khi quân, cần phải chém.

5) Giáo gươm không sắc, cờ hiệu thất lạc, cung để đứt dây, tên bỏ mất cánh, đó là tội thất thoát, cần phải chém.

6) Bạ nói bạ cười, không tuân lệnh cấm, rượu chè be bét, tiết lậu quân tình, đó là tội khinh quân, phải chém.

7) Ðặt chuyện điêu ngoa, ma quái, làm rối lòng quân, khinh lờn chính lệnh, đó là tội ngoa ngữ, cần phải chém.

8) Ði đến đâu quấy nhiễu dân sự, hiếp chốc đàn bà đó là tội gian quân cần phải chém.

9) Lấy tài sản người làm của mình, đoạt công người làm công mình, đó là tội đạo quân, cần phải chém.

10) Lúc hành quân không chú ý đến lạc hàng ngũ, trái hiệu lệnh, đó là tội loạn quân, cần phải chém.

11) Giả ốm đau. lánh nặng tìm nhẹ, đó là tội trá quân, cần phải chém.

12) Không biết thương yêu, giúp đỡ đồng đội, để giặc uy hiếp mà không tiếp cứu đó là tội tệ quân, cần phải chém.

Mười hai điều cấm kẻ nào phạm, chiếu đó xử trị. Nay đặc lệnh.

Hán vương xem khắp doanh trại và đội ngũ một lượt lại xem đến tờ yết thị, tấm tắc khen thầm:

Quân mã ngày trước so với ngày nay khác một trời một vực. Trước kia như trò trẻ con, nay chẳng khác nào một mãnh hổ. Như thế lo gì việc Ðông chinh chẳng thắng.

Hàn Tín lạy tạ. Hán vương quay giá về cung.

Hôm sau, đầu trống canh năm, Hàn Tín lại đến giáo trường vào trung quân ngồi. Quan Tư thần đến trình giờ xong, Hàn Tín gọi chư tướng đến điềm diện.

Các tướng đều có mặt, chỉ thiếu quan Giám quân Ân Cái không đến.

Hàn Tín không nói gì cả, cứ đem quân ra thao diễn.

Ðến quá ngọ, Ân Cái mới ngất ngưởng từ ngoài bước vào.

Viên quan Thủ môn ngăn lại nới:

– Nguyên soái thao diễn quân mã đã nửa ngày rồi, tướng quân mới đến. Nếu muốn vào giáo trường phải đợi tôi báo với quan Tiểu kỳ giáp đã.

Nói xong, chạy vào báo với quan Tiểu kỳ giáp.

Quan Tiểu kỳ giáp lại báo với quan Chánh tư, và quan Chánh tư bẩm lên Hàn Tín.

Trong lúc đó Ân Cái đứng quắc mắt nhìn hành động của quan Thủ môn, và hét lớn:

– Gớm! Rõ là đứa tiểu nhân đắc ý! Việc gì lại nghi vệ đến thế?

Vừa dứt lời, có lệnh Hàn Tín đòi vào.

Ân Cái nghênh ngang bước vào tỏ vẻ tự đắc, không sợ sệt gì cả.

Khi đến, trước trướng, Ân Cái giơ tay vái dài, rồi đưa mắt nhìn quanh.

Hàn Tín ung dung nói:

– Trước Thánh thượng đã có lời hiểu dụ, sau đó, ta cũng có lệnh cấm, người làm chức Giám quân, cớ sao đến bây giờ mới tới. Như vậy còn gì là quân luật nữa.

Ân Cái đứng lặng thinh một lúc, rồi nghiễm nhiên đáp:

– Tôi cũng muốn tuân lệnh tướng quân, song vừa rồi tôi có vài người bà con sắp phải đi xa, nên làm mâm rượu tiễn hành, vì trót uống quá chén, không đến sớm được, xin Nguyên soái thứ dung.

Hàn Tín đập tay xuống bàn hét:

– Thế ra người coi bữa rượu hơn thượng lệnh!

Dứt lời hô võ sĩ trói Ân Cái lại.

Lúc bấy giờ Ân Cái mới có ý sợ sệt, dập đầu lạy, nói:

– Xin Nguyên soái vị tình một kẻ đã có công lớn với Chúa thượng, dung tha cho…

Hàn Tín chỉ vào mặt mắng:

– Người đã làm tướng há lại không biết ngày chịu mệnh vua tức là ngày phải bỏ nhà cửa, ngày chịu việc quân tức là ngày phải xa cha mẹ! Lúc chiêng hồi trống giục tức là lúc phải quên thân mình sao? Nay đã đem thân phò chúa còn tiếc miếng ăn à?

Nói đến đây, Hàn Tín quay lại hỏi viên quan Chánh tư:

– Việc quân trễ biếng, quân luật định sao?

Quan Chánh tư là Tào Tham lấy bản điều lệ ra xem, rồi đến trước trướng bẩm:

– Bẩm Nguyên soái, theo luật là tội phạm quân, phải chém.

Hàn Tín truyền lệnh đem Ân Cái ra chém.

Ân Cái mặt như chàm đổ, đưa mắt nhìn Phàn Khoái cầu cứu.

Phàn Khoái bấy giờ cũng đã biết phép, đành đứng nhìn không dám nói lời nào.

Quân đao phủ lôi Ân Cái ra viên môn.

Có người chạy về triều báo cho Hán vương biết.

Hán vương thất kinh, truyền đòi Tiêu Hà đến phán:

– Hàn Nguyên soái chưa ra quân mà đã chém mất một kiện tướng của ta, việc này e bất lợi. Thừa tướng nghĩ sao?

Tiêu Hà nói:

– Tâu Ðại vương, trước khi ra quân, hiệu lệnh phải nghiêm minh. Hàn Nguyên soái chưa ra quân mà chém tướng tức là tỏ tài làm tướng của Hàn Nguyên soái đó. Xin Ðại vương cứ ủy thác cho Hàn Nguyên soái, đừng bận rộn.

Hán vương thở dài nói:

– Ðành vậy, song Ân Cái là người chí thân của ta, theo ta từ Phong Bái đến đây, lẽ nào ta bỏ chết cho đành!

Tiêu Hà nói:

– Xưa có câu “Công pháp bất vị thân”. Ðại vương nên vì thiên hạ, vì quốc gia, đừng vì người thân mà bỏ phép nước. Bỏ một Ân Cái mà được thiên hạ thì có hại gì.

Hán vương sợ để lâu, Ân Cái chết mất, nên gọi Lịch Sinh đến bảo:

– Ngươi khá mang tờ chỉ dụ của ta, đến giáo trường truyền tha chết cho Ân Cái.

Lịch Sinh vâng mệnh, phi ngựa đến cửa quân, thấy Ân Cái đang bị trói dưới viên môn, còn quân đao phủ đang sắp sửa khai đao, liền gọi lớn:

– Khoan đã! Khoan đã? Chúa thượng có chiếu chỉ đến đây.

Miệng vừa nói, chân vừa bước sấn vào. Quan thủ môn trông thấy chạy đến cản lại, nói:

– Nguyên soái có lệnh cấm không ai được phép tự tiện vào cửa quân, cớ sao ngài lại vi phạm?

Dứt lời nắm áo Lịch Sinh lôi thẳng đến trước trướng, bẩm:

– Bẩm Nguyên soái, người này tự tiện cời ngựa xông vào quân trung, tiểu tướng không ngăn được, phải dẫn vào đây bẩm báo..

Hàn Tín thấy Lịch Sinh liền hỏi:

– Lệnh quân đã cấm, Lịch Ðại phu là người có học thức lẽ nào không biết điều ấy?

Lịch Sinh biết mình có lỗi, liền nói:

– Tôi vì có chiếu vua rất gấp nên vội vã vào đây, trái lệnh Nguyên soái, xin Nguyên soái châm chước!

Hàn Tín nói:

– À! Thế là quan Ðại phu phụng chiếu Chúa thượng đến đây sao?

Liền quay qua hỏi quan Chánh tư:

-Xông đột vào trung quân phạm tội gì?

Tào Tham thưa:

– Cũng phải chém đầu làm lệnh.

Hàn Tín ung dung nói:

– Theo luật thì thế, song Lịch Ðại phu phụng chỉ đến đây, vậy chém lấy đầu ngựa để giữ phép. Còn Ân Cái thì phải lấy đầu, không được trễ nải.

Quân đao phủ được lệnh chém đầu Ân Cái và chém đầu ngựa Lịch Sinh đem nạp trước trướng.

Ba quân trông thấy đều khiếp vía.

Lịch Sinh khỏi chết, vội vã chạy về tâu với Hán vương:

– Tâu Ðại vương, hạ thần phụng mệnh đến cứu Ân Cái bất đồ phạm phải luật “xông đột trung quân.. May mà nhờ có chiếu chỉ Ðại vương mới được thoát chết, song cũng bị chém mất đầu ngựa để thị chúng. Còn Ân Cái thì đã rơi đầu rồi, không còn cứu kịp nữa.

Hán vương nổi giận, hét:

– Ðã có chiếu chỉ của ta mà Hàn Tín vẫn không tha chết cho Ân Cái, thật là.đứa khi quân vô lễ…

Tiêu Hà vội quỳ tâu:

– Theo quân luật: Viên tướng đang cầm quân cũng có lúc không tuân mệnh vua! Ðó chính là cái quyền khổn ngoại của kẻ làm tướng, xin Ðại vương chớ nên trách.

Hán vương hỏi:

– Hàn Tín dụng ý gì mà chém Ân Cái?

Tiêu Hà nói:

– Ân Cái là người thân thích của Ðại vương. Giết Ân Cái, Hàn Nguyên soái đã trấn áp được ba quân, làm cho quân sĩ chỉ biết có chủ tướng mà không biết đến ai nữa cả. Binh pháp có nói: “Quân biết sợ chủ tướng thì đánh đâu cũng thắng, quân mà sợ ngoại địch thì không mong gì thắng được ai”. Hàn Nguyên soái làm như thế Ðại vương nên mừng mới phải.

Lịch Sinh nối lời tâu:

– Hàn Nguyên soái uy phong rất nghiêm. Tôi tưởng Hạng Vũ sau này không khỏi chết về tay Hàn Tín. Xin Ðại vương giáng chỉ ban khen, một là làm vui lòng Hàn Tín, hai là tăng khí ba quân. Uy vũ Hàn Tín càng tăng bao nhiều, tức là hồng phúc của Ðại vương càng to bấy nhiêu xin Ðại vương chớ ngại.

Hán vương thấy hai người một ý cũng đổi giận làm vui phán:

– Hai khanh đã bảo tấu, ta cũng nhận lời.

Liền viết sắc thư sai quân cận thần là Chu Nguyên Thần đem dê rượu đến cửa quân ban thưởng.

Nghe có vương mệnh đến, Hàn Tín lật đật bày hương án bái mạng.

Vương sứ đọc sắc thư như sau:

Ðạo làm tướng nếu không trọng pháp luật thì sao chế ngự được ba quân? Tôn Vũ xưa có chém Ngu Cư mới ban hành được nghiêm pháp. Lời xưa lại có nói: ” Pháp bất vị thân “. Tôn Vũ vốn biết Ngu Cư là người yêu của vua mà vẫn phải chém. Hàn Nguyên soái biết Ân Cái là người thân của ta mà vẫn không tha. Thế mới đáng là kẻ cầm quân khiển tướng. Giết một Ân Cái mà nghìn người phải sợ, quân lực uy nghiêm, ta rất bằng lòng. Nay sai quan cận thần Chu Nguyên Thần mang dê, lợn đến thưởng Nguyên soái. Nguyên soái cứ phép mà làm, mau mau phất cờ dẹp loạn, cứu dân, khỏi phụ lòng mong của ta. Nay sắc “.

Hàn Tín nghe đọc sắc thư, cúi đầu lạy tạ, rồi theo Chu Nguyên Thần vào triều tạ ơn.

Hán vương nói:

– Ta rất hài lòng tướng quân. Từ nay tướng quân dùng phép cứ nghiêm như thế mới được.

Hàn Tín nói:

– Muôn tâu Ðại vương, hạ thần chịu ơn tri ngộ của Ðại vương dẫu bỏ thân nơi chiến trường nợ chưa đền đáp đặng. Nay nắm trong tay mấy mươi vạn sinh mệnh, nếu quân pháp không nghiêm, làm không tròn nhiệm vụ, để phụ ơn Ðại vương thì tội chăng nhỏ. Vì vậy, hạ thần đã tòng quyền khổn ngoại, may được Ðại vương tưởng đến làm cho quân sĩ thêm uy, thật hạ thần lấy làm cảm đức.

Hán vương cầm tay Hàn Tín dắt lên cùng ngồi bàn việc quân cơ. Mãi cho đến lúc trăng lên đỉnh đầu, Hàn Tín mới trở về dinh.

Cách mấy hôm sau, Hàn Tín gọi Phàn Khoái đến trướng bảo:

– Tướng quân làm chức Tiên phong, phải vì quốc gia tận lực. Nay mai Chúa thượng xuất giá Ðông chinh, mà đường Sạn đạo khi xưa đã bị Tử Phòng đốt rồi, quân mã không làm sao đi được. Nay tướng quân phải đem một vạn nhân mã, sửa sang lại con đường đó. Ta cho Chu Bột cùng Trần Vũ đi theo giúp sức, hạn trong một tháng phải sửa sang xong, nếu sai lệnh sẽ chiếu quân luật trị tội.

Tướng quân nên đi ngay, chớ vì khó nhọc mà bất bình.

Phàn Khoái nghe nói, ướt mồ hôi, sợ hãi thưa:

– Nguyên soái đã sai thì dẫu chết tôi cũng chẳng dám từ. Tuy nhiên, con đường Sạn đạo nguy hiểm vô cùng dài hơn ba trăm dặm, nếu muốn tu bổ phải ba năm chưa chắc đã xong, huống hồ chỉ trong một tháng thì làm sao hoàn thành được. Thôi, nếu Nguyên soái muốn giết Khoái này, thì Khoái này xin chịu chết ngay trước trướng.

Hàn Tín vừa cười, vừa nói:

– Tướng quân nghĩ lầm rồi? Việc gì ta lại muốn giết tướng quân! Phàm kẻ làm tôi, gặp việc không nên sợ khó, nếu sợ khó chẳng bao giờ làm được chuyện phi thường. Tướng quân tự hào là trung nghĩa, can đảm hơn người, vậy phải nhân dịp này làm cho thiên hạ thấy cái trung nghĩa và can đảm ấy, cớ sao lại lo sợ?

Phàn Khoái muốn nói nữa nhưng lại sợ phạm quân luật đành phải thở dài lui ra.

Phàn Khoái đi rồi, Hàn Tín liền ra diễn trường chỉnh đốn nhân mã, truyền chư tướng đem quân ra duyệt lại một lần nữa. Lần này pháp luật đâu đó nghiêm minh, không ai còn vi phạm nữa, chiến thuật tuyệt vời.

Hàn Tín thân đến yết kiến Hán vương, tâu:

– Hạ thần đã thao luyện quân mã xong, xia mời Ðại vương ngự lãm.

Hán vương nói:

– Lần trước đã thấy tướng quân trù hoạch khác thường, quân cơ tinh xảo. Nay lại thao luyện hơn một tháng nữa, chiến thuật tất tuyệt vời, ta cần gì phải xem nữa?

Tiêu Hà bước tới tâu:

– Ngày xuất chinh sắp đến, xin Ðại vương xem xét tường tận để an lòng ngự giá.

Hán vương theo lời, thẳng đến giáo trường, thấy cơ nào đội ấy, gươm giáo sáng lòa, cờ hiệu uy nghi, nhân mã tề chỉnh, tiến thoái có kỷ cương, ngồi đứng theo khuôn phép, liền ban lời, bảo các tướng:

– Hàn Nguyên soái dùng binh như thế này dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng chưa hơn đặng. Ta rất hài lòng, và ngợi khen tinh thần cố gắng của các tướng và toàn thể binh sĩ.

Ðoạn ngoảnh lại hỏi Hàn Tín:

– Nguyên soái liệu sức quân bây giờ đã Ðông chinh được chưa?

Hàn Tín quỳ tâu:

– Tâu Ðại vương, hạ thần đã sai Phàn Khoái đi sửa Sạn đạo rồi, hạn trong một tháng phải xong.

Hán vương ngạc nhiên, nói:

– Sạn dạo gian nguy, lên ghềnh xuống thác, dài hơn ba trăm dặm. Công trình vĩ đại ấy dẫu ba năm chưa chắc đã xong, Nguyên soái trù liệu một tháng thì làm sao thành việc?

Hàn Tín tâu:

– Việc quân cơ có nhiều chuyện lạ, xin Ðại vương cứ an tâm, chẳng bao lâu hạ thần sẽ rước Ðại vương ngự giá Ðông chinh, xin Ðại vương đừng hỏi vội.

Hán vương hiểu ý, không hỏi nữa, mời Hàn Tín cùng mình dùng ngự thiện. Trong tiệc, Hán vương chỉ ăn qua loa, các món ngon vật lạ đều ban cho Hàn Tín hết.

Tiệc xong, Hán vương ngự giá về triều, Hàn Tín bái tiễn ra khỏi cửa quân, rồi truyền lệnh cho Phàn Khoái phải cấp tốc đi ngay.

Phàn Khoái dẫn một vạn nhân phu đến Sạn đạo, thấy núi non trùng điệp, khe suối quanh co, đèo cao chót vót vực thẳm muôn trùng, chỗ đường cũ trước kia bị đốt giờ đây cây cối um tùm, không chỗ chen chân, dấu cũ không còn nhìn thấy nữa. Cả đoàn nhân phu chỉ nhìn nhau than thở, không biết làm cách nào để khởi công.

Phàn Khoái nghĩ thầm:

– Thôi rồi! Thế này là Hàn Nguyên soái không dám phá Sở, nên sai ta đi làm cái chuyện khó khăn này để lấy cớ Sạn đạo chưa xong, không bao giờ rả quân cả.

Nghĩ rồi, Phàn Khoái nói với dân phu:

– Việc làm hiểm trở như vầy dẫu cho mời vạn dân phu, làm suất ba năm chưa chắc đã xong. Nay quân lệnh rất nghiêm, Chúa thượng lại đang tin Nguyên soái, nếu chúng ta không tiến hành ắt rơi đầu, chi bằng cứ làm, đến đâu hay đến đó.

Dân phu theo lời, xúm nhau chát cây, đốn gỗ.

Nhưng sức người yếu ớt không thấm vào đâu cả. Làm luôn mấy ngày mà chỉ phát được một đoạn đường đi không lọt một con ngựa.

Phàn Khoái ngước mặt lên trời than:

– Chà? Thật đáng giận cho Tử Phòng! Ðốt Sạn đạo làm gì để ngày nay lụy đến Khoái này?

Trọng lúc đang lo buồn chợt thấy quan Thái Trung Lục Giả dẫn một nghìn quân ky đến, đưa cho Phàn Khoái một phi hịch.

Phàn Khoái mở ra đọc. Hịch rằng:

” Ðại Hán phá Sở Nguyên soái Hàn Tín lưu ý Phàn tướng quân. Nay mai Ðại quân sẽ Ðông chinh, vậy phải kíp sửa sang Sạn đạo lập ngày đã định. Nếu quá hạn chiếu theo quân pháp trị tội. “

Phàn Khoái đọc hịch xong dậm chân kêu trời, nói:

– Nguyên soái định giết Khoái tôi rồi! Ðường sá thế này mà hạn một tháng, dẫu thợ trời cũng chưa làm xong, huống chi chúng tôi là người phàm xác thịt.

Nói rồi buồn bã dẫn Lục Giả về trại dân phu để thết đãi

Nhân lúc vắng người, Lục Giả ghé tai bảo nhỏ Phàn Khoái mấy câu:

Phàn Khoái mừng rỡ, nét buồn đổi ra nét hân hoan. Tuy nhiên vẫn làm ra vẻ khệnh khạng; nói giữa đám dân phu:

– Công trình to tát thế này mà Nguyên soái bảo một tháng phải làm xong. Khoái tôi phen này chắc chết.

Dân phu thấy vậy cũng thương thầm cho số phận Phàn Khoái.

Hôm sau, Phàn Khoái viết biểu sai người về triều dân cho Hán vương.

Biểu rằng:

” Muôn tâu Ðại vương. từ lúc hạ thần theo.phò Ðại vương đến nay không có công việc nào dám để bê trễ. Nay tu bổ Sạn đạo là công trình vĩ đại, Nguyên Soái chỉ cấp có một vạn dân phu, hẹn một tháng phải hoàn thành, nếu không phải tội chết. Thiết nghĩ: dẫu hạ thần có gắng sức đến đâu cũng vô ích. Chẳng ai có thể làm công việc quá sức người được.

Cái chết của hạ thần tất không tránh khỏi. Nếu Ðại vương thương tình, xin xuống chiếu truyền dân các quận quyện lân cận, điền bát cho một vài vạn dân phu nữa, may ra có thề gỡ được nguy cơ trước mắt!

Khoái tôi muôn phần sợ hãi cúi dâng biểu kính rin ơn trên soi xét. “

Hán vương xem biểu xong, lập tức sai Ngự sử là Chu Bột, cầm một đạo sắc, hỏa tốc đến quận Phổ An bắt một vạn dân phu giao cho Phàn Khoái.

Phàn Khoái được thêm dân phu mừng rỡ, kêu Chu Bột, Trần Vũ đến chia ra làm nhiều toán mỗi toán có một toán trưởng coi làm.

Ðoạn kề vào tai Chu Bột và Trần Vũ nói nhỏ mấy câu.

Ðêm ấy, hai tướng, mỗi người dẫn một đoàn dân phu tinh tráng thay đổi y phục, vượt núi ra đi.