Chương 28: Ngọc Hàm tặng thắt lưng, gợi được mối tình

Ngọc Hàm tặng thắt lưng, gợi được mối tình

Bảo Thoa cởi chuỗi thơm, lộ ra vẻ thẹn

Chỉ vì việc tối hôm trước, Tình Văn không chịu mở cửa, Đại Ngọc ngờ rằng chủ ý của Bảo Ngọc. Hôm sau lại gặp ngay kỳ “tiễn hoa”, đương lúc tâm hồn u uất, chưa thoát ra được, lại thêm gợi lòng thương xuân, mối buồn rười rượi, vì thế cô ta nhặt lấy tất cả những cánh hoa rơi rụng, đem đi chôn cất để cám cảnh cho hoa và thương xót cho mình. Đại Ngọc khóc lên mấy tiếng, rồi ngâm luôn mấy câu thợ Không ngờ Bảo Ngọc đứng bên kia nghe thấy, lúc đầu chỉ gật đầu than thở, sau nghe rõ bốn câu:

Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,

Sau này ta chết ai là người chôn?

… Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,

Hoa tàn người vắng ai mà biết ai!

Bảo Ngọc thương cảm quá, thình lình ngã vật trên sườn núi, bao nhiêu hoa rụng nhặt được ở trong tay rơi vãi cả ra đất. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Đại Ngọc sắc đẹp như hoa, mặt trong như trăng, sau này ắt cũng có lúc không thể tìm thấy nữa, lẽ nào chả đứt ruột nát gan! Đại Ngọc đã có lúc không thể tìm thấy, cứ thế suy ra, những người như Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân, cũng đều thế cả. Bọn Bảo Thoa đã vậy thì thân mình sẽ ở đâu? Thân mình còn chả biết ở đâu, đi đâu, thì nơi này, vườn này, hoa này, liễu này, biết thuộc về ai? Bảo Ngọc suy nghĩ miên man hết chuyện này sang chuyện khác, không biết đến giờ phút ấy, muốn làm vật xuẩn ngốc, không hiểu một tí gì, trốn vòng tạo hóa, thoát khỏi lưới trần, liệu có thể gỡ nổi mối đau thương ấy không. Thực là:

Bóng hoa đâu vẫn bên mình,

Tiếng chim đâu vẫn rành rành bên tai.

Đại Ngọc đương lúc thương cảm, chợt nghe sườn núi bên có tiếng than khóc, trong bụng nghĩ: “Ai cũng cười ta có bệnh si, chăng lẽ lại có người si nữa hay sao?” Ngẩng đầu nhìn thì ra Bảo Ngọc. Đại Ngọc liền phỉ thui nói:

– Hừ? Ngỡ ai, hóa ra lại là anh chàng thâm độc chết non!

Vừa nói đến hai tiếng “chết non”, Đại Ngọc bưng miệng thở dài, rồi chạy biến đi mất.

Bảo Ngọc đương khi đau xót, thấy Đại Ngọc chạy, biết cô ta trông thấy mình rồi trốn đì. Nghĩ nông nỗi thật buồn tênh, Bảo Ngọc lom khom trở dậy, xuống núi theo đường cũ trở về viện Di Hồng. May sao trông thấy Đại Ngọc chạy đằng trước, Bảo Ngọc vội vàng đuổi theo, nói:

– Cô hãy đứng lại, tôi biết rằng bây giờ cô không thèm nhìn đến tôi nữa. Nhưng tôi xin nói một câu rồi chúng ta sẽ chia tay.

Đại Ngọc ngoảnh lại, thấy Bảo Ngọc, định kệ thây, nhưng lại nghe: “Chỉ xin nói một câu rồi sẽ chia tay”, Đại Ngọc đành phải đứng lại:

– Câu gì xin anh cứ nói.

– Xin cho vài câu, cô có thèm nghe hay không?

Đại Ngọc liền quay đầu chạy, Bảo Ngọc theo sau than:

– Biết nông nỗi ngày nay, thì thà đừng gặp nhau từ trước.

Đại Ngọc nghe vậy, đành phải đứng lại, hỏi:

– Trước là thế nào? Mà nay là thế nào?

Bảo Ngọc nói:

– Ái chà! Khi cô mới đến đây, có phải ngày ngày chúng ta cùng chơi đùa với nhau không? Thứ gì tôi thích, cô cũng thích, thì cô cứ việc lấy đi; thứ gì tôi thích ăn, thấy cô cũng thích ăn, tôi cất cẩn thận để phần cộ Hai đứa ăn một bàn, ngủ một giường. Cái gì bọn a hoàn chưa nghĩ chu đáo, tôi sợ cô giận, nên đều tính trước hộ bọn họ. Tôi cho rằng: anh em ta từ nhỏ đến lớn, gần gụi nhau, thân thiết nhau, thì cũng nên hòa thuận với nhau hơn hẳn các người mới phải. Ngờ đâu cô lớn lên lòng khác hẳn, không coi tôi vào đâu, ba ngày chẳng thèm nhìn, bốn ngày chẳng thèm gặp, chỉ để ý những người xa lắc xa lơ, như chị Bảo, chị Phượng gì đó. Tôi chẳng có anh chị em ruột thịt nào cả. Tuy có đấy, nhưng cô đã chẳng biết là con khác mẹ hay sao? Tôi với cô đều là con một, chắc chúng ta cũng cùng một ý nghĩ, ngờ đâu phí cả tấm lòng, thật là có oan khôn đường bày tỏ?

Nói xong, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống.

Đại Ngọc tai nghe mắt thấy trước câu nói và quang cảnh ấy, bất giác lòng dịu hẳn đi, nước mắt tự nhiên nhỏ xuống ròng ròng, cúi đầu không nói gì. Bảo Ngọc thấy tình thế như vậy, nói luôn:

– Tôi biết rồi, giờ tôi cũng chẳng tốt gì! Nhưng dù sao, tôi cũng không dám có điều gì lầm lỗi với cộ Nếu có, cô cũng nên bảo tôi, răn tôi, hoặc mắng tôi mấy câu, đánh tôi mấy cái, tôi không dám mủi lòng. Ngờ đâu cô không thèm nhìn đến tôi, để tôi nghĩ mãi, chẳng biết đầu đuôi ra sao, lắm phen phải kinh hồn mất vía! Nếu tôi chết đi, cũng là con quỉ chết oan, dù nhờ các vị cao tăng, cao đạo đọc kinh sám hối, cũng chẳng có thể siêu sinh được; chỉ có cô, nói rõ ngành ngọn cho, may ra tôi mới được hóa kiếp!

Đại Ngọc nghe xong, câu chuyện tối qua tự nhiên bay đâu hết sạch, liền nói:

– Anh đã nói thế, thì tại sao tối hôm qua tôi đến, anh lại không cho a hoàn mở cửa?

Bảo Ngọc kinh ngạc nói:

– Chuyện ấy ở đâu mà rả Nếu tôi có làm thế thì tôi chết ngay!

Đại Ngọc phỉ thui:

– Vừa mới sáng sớm đã nói chết với sống, không kiêng à! Có nói là nói, không nói là không, việc gì mà anh phải thề.

Bảo Ngọc nói:

– Tối hôm qua, thực không thấy em đến, chỉ có chị Bảo Thoa đến một lúc rồi về thôi.

Đại Ngọc nghĩ một lúc, cười nói:

– Phải rồi. Chắc là bọn a hoàn lười không muốn dậy, đâm ra nói bừa, gắt bậy. Chuyện ấy cũng có thể có được.

– Chắc thế, để anh về hỏi xem đứa nào, phải răn bảo chúng mới được.

– Anh cũng nên răn bảo các cô ấy, cứ lẽ ra tôi không đáng nói. Nhưng lần này có lỗi với tôi là chuyện nhỏ, chứ lần sau không may có lỗi với cô Bảo, cô “Bối” nào đấy, tất xảy chuyện to.

Nói xong, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc nghe xong, nghiến răng bực bội, sau lại cười phá lên.

Hai người đương nói chuyện, thấy a hoàn đến mời đi ăn cơm, họ liền đi ngaỵ Vương phu nhân thấy Đại Ngọc, hỏi:

– Cô Lâm uống thuốc của ông lang họ Bảo có khá không?

Đại Ngọc thưa:

– Cũng vẫn thế thôi. Bà còn bảo cháu uống thuốc của thầy lang họ Vương nữa.

Bảo Ngọc thưa:

– Mẹ không biết bệnh cô Lâm là chứng nội thương, tiên thiên kém lắm, không chịu nổi sương gió! Chỉ nên uống vài thang sơ tán phong hàn, rồi uống thuốc viên mới tốt.

Vương phu nhân nói:

– Hôm nọ thầy thuốc có nói tên một thứ thuốc viên, nhưng ta quên mất.

Bảo Ngọc thưa:

– Con biết rồi. Thuốc ấy gọi là nhân sâm dưỡng vinh hoàn.

– Không phải.

– Hay là bát trân ích mẫu hoàn, tả qui, hữu qui, nếu không phải thì lại là bát vị địa hoàng hoàn.

– Đều không phải cả. Ta nhớ có hai chữ “kim cương” gì ấy.

Bảo Ngọc vỗ tay cười nói:

– Xưa nay chưa nghe thấy có tên “kim cương hoàn” bao giờ. Nếu có kim cương hoàn tất nhiên phải có bồ tát hoàn.

Câu ấy làm cả nhà cười ầm lên. Bảo Thoa mỉm cười:

Có lẽ là thiên vương bổ tâm đan thì đúng hơn.

Vương phu nhân cười nói:

– Chính là tên ấy đấy, bây giờ ta đâm ra hồ đồ! Bảo Ngọc nói:

– Mẹ không hồ đồ đâu, chỉ tại người gọi là kim cương hay là bồ tát làm cho mẹ hồ đồ đấy thôi.

– Mày định chọc cả mẹ mày à? Coi chừng cha mày lại cho mày ăn đòn đấy.

– Chắc cha con cũng không vì việc ấy mà đánh con đâu!

Vương phu nhân lại nói:

– Đã có thứ thuốc ấy, ngày mai bảo đi mua một ít về mà uống.

Bảo Ngọc nói:

– Thuốc ấy chẳng ăn thua gì đâu. Mẹ cứ cho con ba trăm sáu mươi lạng bạc, con sẽ làm cho cô ấy một tễ thuốc viên, chắc nhắn chưa uống hết tễ thuốc bệnh sẽ khỏi.

– Mày chỉ nói bậy. Thuốc gì mà đắt đến thế?

– Thật thế, thuốc ấy khác hẳn các thuốc khác. Tên thuốc này rất lạ, nói một lúc không thể hết được. Chỉ nói nhau đàn bà đẻ con so, nhân sâm có lá ba trăm sáu mươi lạng cũng chưa đủ. Lại còn hà thủ ô lớn như con rùa, phục linh đởm ở rễ cây tùng nghìn năm; những thứ thuốc như thế cũng chưa lấy gì làm lạ, còn phải chọn thứ thuốc đầu vị nữa. Nói ra làm người ta phải rùng mình. Trước kia anh Tiết Bàn có xin con đơn thuốc ấy, hai ba năm sau con mới cho, anh ấy mang đi tìm đến hai ba năm nữa, tốn hết hơn một nghìn lạng bạc mới chế xong. Mẹ không tin, cứ hỏi chị Bảo sẽ biết.

Bảo Thoa cười, xua tay nói:

– Tôi không biết, tôi cũng chẳng nghe thấy ai nói chuyện ấy bao giờ. Anh đừng bảo dì hỏi tôi.

Vương phu nhân cười nói:

– Con bé Bảo tốt đấy, nó không hay nói dối.

Bảo Ngọc nghe vậy quay ngay lại, vỗ tay nói:

– Con nói thực đấy, thế mà mẹ lại bảo con nói dối. Nói xong, Bảo Ngọc ngoảnh lại nhìn, thấy Đại Ngọc đương ngồi ở sau lưng Bảo Thoa mỉm cười, rồi lấy ngón tay vẽ vào mặt ra hiệu chế diễu Bảo Ngọc.

Phượng Thư đương ở nhà trong, trông nom người bày bàn, nghe vậy, liền chạy lại cười nói:

– Việc này có thật đấy. Chú Bảo không nói dối đâu. Hôm nọ, anh Tiết có đến nhờ con tìm hộ hạt trân châu, con hỏi, anh ấy nói là để chế thuốc. Anh ấy còn phàn nàn: “Thà chẳng chế cho xong, biết đâu lại có nhiều chuyện rắc rối!” Con hỏi thuốc gì, anh ấy nói là đơn thuốc của chú Bảo chọ Anh ấy còn nói nhiều thứ nữa kia, con không nhớ hết, anh ấy lại nói: “Nếu không thì tôi mua ở đâu chả được mấy hạt trân châu, chỉ vì cần những hạt đã giắt ở trên đầu, nên phải đến đây tìm thím, không có thì lấy những hạt đính ở cành hoa cũng được. Sau này tôi sẽ đem những hạt khác tốt hơn giả lại thím”. Con đành phải lấy hai hạt đương cài trên đầu đưa cho anh ấy. Lại còn phải dùng một đoạn lụa hồng dài ba thước, rồi lấy bát sữa nghiền nhỏ, đem trộn với bột mới được.

Phượng Thư nói một câu, Bảo Ngọc niệm Phật một câu. Sau đó nói: “Có mặt trời chứng giám”. Phượng Thư nói xong, Bảo Ngọc lại nói:

– Bây giờ mẹ nghĩ xem, chẳng qua là làm gượng đấy thôi, cứ theo đúng cách thức trong đơn, thì phải lấy những châu ngọc ở trong ngôi mộ của những người giàu sang cài đầu ngày xưa khi chết đem chôn theo mới haỵ Nhưng bây giờ không lẽ vì đơn thuốc lại đi đào bới người ta lên sao tiện. Vì thế chỉ dùng những thứ của người sống đeo cũng được.

Vương phu nhân nghe rồi nói:

– A di đà Phật! Ai nỡ làm thế! Người ta chết mấy trăm năm rồi, lại còn đào thây bới xương lên để làm thuốc, thì còn linh nghiệm gì.

Bảo Ngọc quay lại nói với Đại Ngọc:

– Em có nghe không? Lẽ nào chị Phượng cũng theo anh mà nói dối em à?

Bảo Ngọc ngoảnh mặt lại hỏi Đại Ngọc, nhưng mắt lại liếc sang bên Bảo Thoa.

Đại Ngọc liền kéo Vương phu nhân nói:

– Mợ xem, chị Bảo không chịu vào hùa với anh ấy, thành ra anh ấy lại đi hỏi cháu.

Vương phu nhân nói:

– Bảo Ngọc cứ hay bắt nạt em mày.

Bảo Ngọc cười nói:

– Mẹ không biết nguyên do việc này. Chị Bảo khi trước ở nhà, anh Tiết làm việc gì chị ấy cũng không biết. Bây giờ lại sang ở bên này, tất nhiên càng không biết nữa. Cô Lâm ngồi ở đằng sau, cho là con bịa chuyện ra nói dối, nên cười giễu con.

Đương nói chuyện thì a hoàn ở buồng Giả mẫu đến mời Bảo Ngọc và Đại Ngọc về ăn cơm. Đại Ngọc không đợi Bảo Ngọc, liền đứng dậy kéo a hoàn đi. A hoàn nói:

– Hãy chờ cậu Bảo cùng đi một thể.

– Anh ấy không ăn đâu. Chúng ta đi thôi. Tôi đi trước đây.

Nói xong, Đại Ngọc đi ra ngay.

Bảo Ngọc nói:

– Hôm nay con ăn cơm với mẹ.

Vương phu nhân nói:

– Thôi, thôi, hôm nay ta ăn chay, con về bên ấy mà ăn.

– Con cũng ăn chay.

Nói xong Bảo Ngọc bảo a hoàn đi về rồi chạy đến ngồi vào bàn ăn. Vương phu nhân cười bảo bọn Bảo Thoa:

– Các cháu cứ đi ăn, mặc kệ nó.

Bảo Thoa cười nói:

– Ăn hay không, anh cũng nên đi với cô Lâm mới phải; bụng cô ta đang khó chịu đấy.

Bảo Ngọc nói:

– Mặc kệ cô ta, chốc nữa là xong hết.

Ăn xong, Bảo Ngọc phần thì sợ Giả mẫu mong, phần cũng nhớ Đại Ngọc, vội vàng bảo lấy nước súc miệng. Thám Xuân, Tích Xuân đều cười:

– Anh Hai sao lúc nào cũng vội vã thế? Ăn uống mà cũng lật đật như vậy.

Bảo Thoa cười nói:

– Anh ấy ăn xong rồi còn phải đi thăm cô Lâm, chứ ở đây làm gì?

Bảo Ngọc uống nước xong, sang ngay nhà phía tây. Đi đến phòng Phượng Thư, thấy Phượng Thư đang đứng ghếch chân trên ngưỡng cửa cầm cái ngoáy tai gợi răng và trông mười đứa hầu nhỏ vần mấy chậu hoa. Thấy Bảo Ngọc đến, Phượng Thư cười nói:

– May quá, chú lại viết hộ chị mấy chữ.

Bảo Ngọc đành phải theo vào buồng. Phượng Thư sai người đem bút giấy ra nói:

– Chú viết: Bốn mươi tấm đoạn trơn màu đỏ, bốn mươi tấm đoạn thêu rồng, một trăm tấm the hạng tốt đủ các màu, vòng cổ bằng vàng bốn chiếc.

– Thế nào? Không phải sổ mua bán, cũng không phải là giấy kê đồ lễ, viết thế này để làm gì?

– Chú cứ viết, miễn sao chị hiểu là được.

Bảo Ngọc nghe nói, đành phải viết vậy.

Phượng Thư vừa cầm tờ giấy, vừa cười nói:

– Còn điều này nữa, không biết chú có bằng lòng không? Bên nhà chú có con a hoàn tên là Hồng Ngọc, tôi muốn lấy nó sang đây, ngày mai tôi sẽ cho đứa khác sang thay nó, liệu có được không?

– Bên nhà tôi nhiều người lắm, chị thích đứa nào, cứ việc lấy, cần gì phải hỏi tôi.

– Nếu thế thì tôi gọi nó về nhé.

– Được, chị cứ việc gọi.

Nói xong, Bảo Ngọc chực đi ngaỵ Phượng Thư nói:

– Chú hãy đứng lại, tôi còn nói câu này nữa.

– Bà đang gọi tôi, có việc gì khi về sẽ hay.

Bảo Ngọc sang bên phòng Giả mẫu, đã thấy ăn xong cả rồi. Giả mẫu hỏi:

– Ăn cơm bên mẹ cháu có gì ngon không?

– Chả có gì ngon cả, nhưng cháu lại ăn thêm được một bát.

Rồi hỏi:

– Cô Lâm ở đâu?

Giả mẫu nói:

– Ở trong nhà kia kìa.

Bảo Ngọc đi vào, thấy một a hoàn đương ngồi dưới đất quạt bàn là, hai a hoàn ngồi trên giường xe chỉ, Đại Ngọc đang cúi xuống cầm kéo cắt cái gì. Bảo Ngọc chạy đến cười nói:

– Ái chà! Em làm gì đấy, vừa ăn xong đã cúi gằm đầu xuống, khéo lại nhức đầu thôi.

Đại Ngọc không trả lời, cứ ngồi maỵ Bỗng có một a hoàn nói:

– Góc miếng lụa này còn nhăn, phải là lại mới được.

Đại Ngọc vứt kéo xuống nói:

– Mặc kệ nó, một chốc nữa là xong.

Bảo Ngọc nghe nói, sinh ra buồn rầu. Bỗng bọn Bảo thoa, Thám Xuân đến, nói chuyện với Giả mẫu. Một lúc, Bảo Thoa vào nhà trong, hỏi: “Em làm gì đấy?”. Thấy Đại Ngọc đương cắt may, Bảo Thoa cười nói:

– Giỏi quá nhỉ. Em biết cả việc may cắt rồi đấy.

Đại Ngọc cười nói:

– Đó chẳng qua là câu chuyện lừa dối người thôi.

Bảo Thoa cười nói:

– Tôi kể cho cô nghe câu chuyện buồn cười: Vừa rồi chỉ vì tôi bảo không biết gì đến việc thuốc, nên anh Bảo cũng lấy làm khó chịu đấy.

Đại Ngọc nói:

– Mặc kệ anh ấy, một chốc là xong hết.

Bảo Ngọc gọi Bảo Thoa:

– Bà muốn đánh xúc xắc, không có ai, chị ra mà đánh vậy.

– Thế ra tôi chỉ vì đánh xúc xắc mà đến đây à?

Nói xong Bảo Thoa đi ngay.

Đại Ngọc nói:

– Thôi anh cũng đi đi, ở đây có con hùm, khéo nó cắn cho đấy.

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vẫn cúi xuống cắt, không để ý đến mình, đành phải cười nói:

– Em nên ra đi dạo chơi, rồi về khâu cũng chưa muộn.

Đại Ngọc vẫn không trả lời. Bảo Ngọc liền hỏi đám a hoàn:

– Ai bảo cô ấy khâu thế?

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc hỏi bọn a hoàn, liền nói:

– Ai bảo tôi khâu thì mặc tôi, việc gì đến cậu Hai!

Bảo Ngọc muốn nói nữa, thấy có người đến báo: “Bên ngoài có người mời cậu”, liền đứng dậy ra ngay.

Đại Ngọc ngoảnh ra ngoài nói:

A di đà Phật! Khi anh trở về, tôi có chết cũng xong.

Bảo Ngọc ra ngoài, thấy Bồi Dính chạy lại nói:

– Người nhà cậu Phùng đến mời.

Bảo Ngọc biết ngay là câu chuyện hôm nọ, liền bảo: “Mang quần áo ra đây”. Rồi quay vào thư phòng.

Bồi Dính vào ngay cửa thứ hai đứng đợi người hầu. Thấy một bà già đi ra. Bồi Dính nói:

– Cậu Bảo đương ở thư phòng, chờ lấy quần áo đi chơi, bà về đưa tin ngay cho họ biết.

– Con mẹ mày! Cậu Bảo đứng ở ngoài vườn, những người hầu đều theo ra đó cả, mày lại vào đây đưa tin à?

– Bà mắng là phải, tôi thực là hồ đồ.

Bồi Dính chạy vào cửa thứ hai phía đông, gặp bọn hầu nhỏ đương đá cầu ở con đường trước cửa. Bồi Dính báo cho chúng biết. Một đứa chạy ngay đi, một chốc mang bọc quần áo đến, đưa cho Bồi Dính đem về thư phòng.

Bảo Ngọc thay quần áo xong, sai người thắng ngựa và cho bốn đứa tiểu đồng là Bồi Dính, Sừ Dược, Song Thụy, Song Thọ theo hầu. Họ đi thẳng đến nhà Phùng Tử Anh. Có người vào báo, Tử Anh ra cửa mời vào. Tiết Bàn cũng đã đến đấy từ lâu Lại có cả bọn con hát nhỏ và người hay đóng vai nữ là Tưởng Ngọc Hàm cùng kỹ nữ ở viện Cẩm Hương là Vân Nhi nữa. Chào nhau xong, mọi người ngồi uống nước.

Bảo Ngọc cầm chén nước trà cười nói:

– Hôm nọ anh nói việc “may trong không may” làm cho tôi ngày đêm nghĩ ngợi, không biết là việc gì? Hôm nay cho gọi, tôi phải đến ngay.

Phùng Tử Anh cười nói:

– Các anh thực thà quá. Chẳng qua tôi đặt lời ra đấy thôi. Nguyên tôi thành tâm sửa một tiệc rượu mời các anh, nhưng sợ các anh từ chối, nên tôi bịa ra như thế, ngờ đâu các anh lại tin là thực.

Mọi người nghe xong cười ầm lên. Tiệc bày ra theo thứ tự mời ngồi. Phùng Tử Anh trước hết bảo bọn con hát trẻ đến rót rượu, rồi bảo Vân Nhi mời ba chén.

Tiết Bàn mới uống mấy chén, bụng đã xiêu xiêu, cầm tay Vân Nhi nói:

– Cô có khúc nào mới lạ, hát cho tôi nghe, tôi sẽ uống hết một vò rượu, thế có được không?

Vân Nhi nghe nói, gẩy đàn tì bà rồi hát:

Oan nghiệt đôi nhà, khó mà gỡ ra, nhớ khi đi khỏi, vẫn áy náy đến người xạ Trai lơ sắc sảo, ai mà vẽ hệt được dáng điệu đôi tạ Nhớ đêm trước thì thào ở dưới rặng hoa trà, chị thì lấm lét, anh cố lân la, trước tam tào đem ra tra, thôi chối sao được mà!

Hát xong cười nói:

– Tôi hát xong rồi, cậu uống cả vò đi.

Tiết Bàn cười nói:

– Chưa đáng uống. Hát bài nào hay hơn kia!

Bảo Ngọc cười nói:

– Hãy nghe tôi nói đã: cứ uống bừa đi như thế, dễ say mà chẳng có thú gì. Tôi uống trước một chén lớn, rồi ra một cái lệnh mới, hễ ai không theo, phải phạt mười chén lớn, đuổi ra ngoài tiệc, bắt rót rượu mời mọi người.

Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm đều nói:

– Phải đấy, phải đấy!

Bảo Ngọc cầm ngay chén lớn uống một hơi hết, rồi nói:

– Bây giờ phải nói bốn chữ: “bi”, “sầu”, “hỉ”, “lạc” 1, nhưng phải tả ra thân phận người con gái, và nói rõ cớ gì mà có bốn chữ ấy. Xong rồi uống một ly rượu. Khi uống, phải hát một bài mới, đến cuối, phải tức khắc đọc một câu gì, hoặc là câu sẵn có ở trong tứ thư, ngũ kinh, hoặc là câu thơ câu đối cũ.

Tiết Bàn không chờ nói hết, đứng ngay dậy, gạt đi:

– Tôi không dự cuộc ấy đâu, đừng có tính vào đấy. Các anh định đùa tôi chứ gì!

Vân Nhi đứng dậy đẩy hắn ngồi xuống, cười nói:

– Sợ cái gì? Ngày ngày cậu chỉ biết rượu chè thôi, chẳng lẽ lại thua cả tôi nữa à? Tôi cứ việc nói. Nói phải thì thôi, không phải, chịu phạt mấy chén là cùng, có say đã chết ai? Bây giờ cậu trái lệnh, phải uống mười chén lớn rồi đành chịu đi rót rượu mời người ta à?

Mọi người đều vỗ tay khen hay quá! Tiết Bàn không làm thế nào được, đành phải ngồi xuống, nghe Bảo Ngọc nói:

Gái này thương, buổi đương xuân, trơ trọi trong buồng;

Gái này buồn, tham hầu, chàng phải xa vắng luôn!

Gái này mừng, buổi sớm soi gương đẹp quá chừng;

Gái này vui, áo xuân mỏng mảnh đánh đu chơi.

Mọi người nghe đều khen “hay”! Chỉ có Tiết Bàn vênh mặt lắc đầu:

– Không hay, đáng phạt!

Mọi người hỏi:

– Sao lại đáng phạt?

Tiết Bàn nói:

– Anh ấy nói tôi chẳng hiểu gì cả, sao lại không đáng phạt?

Vân Nhi liền dúi Tiết Bàn một cái, cười nói:

– Cứ ngồi yên, nghĩ sẵn câu của mình đi. Đến lượt mà không nói được thì phải phạt đấy.

Rồi Vân Nhi gẩy đàn theo, Bảo Ngọc hát:

Bao giờ hết, giọt lệ tương tư rơi đỏ ngòm,

Bao giờ nở, xuân về hoa liễu trước lầu son,

Nằm trằn trọc, song the, mưa gió buổi hoàng hôn.

Nghĩ vẩn vơ, mối sầu mới cũ cùng đổ dồn!

Nuốt không trôi, rượu vàng gạo ngọc nào biết ngon,

Soi không rõ, đứng trước gương lăng mặt héo hon!

Nét ngài cau cau lại, giọt đồng hồ dồn dập hơn.

Chao ôi! Nào khác gì: trôi đi, nước biếc dòng man mác,

Dừng lại, non xanh bóng chập chờn.

Hát xong, mọi người khen hay, chỉ có Tiết Bàn nói:

– Chẳng hay gì cả.

Bảo Ngọc uống ly rượu đầu, rồi cầm miếng lê và đọc một câu: Hoa lẽ mưa đẫm cửa cài then. Thế là xong một lệnh.

Đến lượt Phùng Tử Anh nói:

Gái này thương, chàng mắc bệnh nặng nằm trên giường,

Gái này sầu, gió thổi lầu tranh sập đổ nhào.

Gái này mừng, đầu lòng sinh đôi sướng quá chừng,

Gái này vui, lẻn bước ra vườn đào để chơi.

Nói xong cầm chén rượn hát:

Mình là hạng thông minh,

Mình là kẻ đa tình,

Mình là giống ma quỉ kỳ quái yêu tinh.

Mình là bậc thần tiên, nhưng phép không linh.

Đây bảo mình, mình cứ làm thinh,

Thấy nói đến nơi nào vắng vẻ, dò xét cho rành.

Mới biết là đây thương hay không thương mình!

Hát xong, uống chén rượn, rồi đọc câu: “Trăng tỏ lều tranh nhộn tiếng gà”. Thế là xong lệnh.

Rồi đến lượt Vân Nhi nói:

Gái này thương, sau này nào biết chốn tựa nương?

Tiết Bàn cười nói:

– Con ơi! Đã có bố Tiết mày đây, sợ gì?

Mọi người đều nói:

– Đừng phá đám! Đừng phá đám!

Vân Nhi lại nói:

Gái này buồn, cái mụ dầu kia đánh mắng luôn!

Tiết Bàn nói:

– Hôm nọ tao gặp mẹ mày, tao đã bảo mụ ấy không được đánh mắng mày kia mà.

Mọi người đều nói:

– Còn nói nữa, sẽ phạt mười ly rượu.

Tiết Bàn vội tự vả vào mồm, nói:

– Không có tai à! Cấm không được nói nữa!

Vân Nhi lại nói:

Gái này mừng, trong nhà ở với bạn tình chung,

Gái này vui, buông tay tiêu sáo gảy đàn chơi.

Nói xong liền hát:

Tháng ba đậu mới trồi hoa,

Sâu kia đâu đã lân la đục rồi.

Đục vào cũng uổng công thôi,

Trên hoa tấp tểnh lên ngồi đánh đu.

Khen cho mi cũng gan to,

Ta không nở nữa, đục rau được nào?

Hát xong uống ly rượu, rồi đọc câu: “Hoa đào mơn mởn”. Thế là xong lệnh.

Đến lượt Tiết Bàn. Hắn nói:

– Giờ tôi nói này: Gái này thương…

Rồi ngừng lại, không nói được. Phùng Tử Anh cười nói:

– Thương cái gì? Nói nhanh lên.

Tiết Bàn mắt trợn tròn nói:

– Gái này thương…

Rồi cứ ho gằn mãi mới nói được một câu:

– Gái này thương, thân này lấy phải anh chàng “rùa đen” 2.

Mọi người nghe xong, cười ầm lên. Tiết Bàn nói:

– Cười cái gì? Tôi nói thế không phải à? Người con gái lấy phải thằng chồng mất dạy, thì chả đau ruột hay sao?

Mọi người cười rũ rượi:

– Anh nói phải đấy, thôi đọc câu dưới đi.

Tiết Bàn lại trợn mắt nói:

– Gái này buồn… – rồi tắc tị, không nói được.

Mọi người hỏi:

– Buồn cái gì?

Tiết Bàn đọc tiếp:

– Gái này buồn, phòng thêu gấu ngựa nó luồn chạy ra.

Mọi người cười ầm lên:

– Đáng phạt, đáng phạt! Câu trước còn có thể tha được, câu này không thông một tí nào.

Nói xong toan rót rượu phạt.

Bảo Ngọc nói:

– Nhưng mà ghép vần cũng khá đấy.

Tiết Bàn nói:

– Quan giữ lệnh đã cho được rồi, các anh còn nhắng lên gì!

Mọi người nghe thấy mới thôi.

Vân Nhi cười nói:

– Đến hai câu dưới càng khó đấy, tôi nói hộ cậu nhé.

Tiết Bàn đáp:

– Bậy nào! Thế ra ta không mở miệng được à? Nghe này: Gái này mừng, đuốc hoa trời đã sáng trưng còn nằm.

Mọi người nghe đọc, đều lấy làm lạ hỏi nhau:

– Sao câu này lại nhã thế?

Tiết Bàn lại nói:

– Gái này vui, con cu nghí ngoáy định chui ngay vào.

Mọi người nghe xong, đều quay đầu nói:

– Đáng chết, đáng chết! Thôi hát đi!

Tiết Bàn liền hát:

– Một con muỗi kêu vo vo vo.

Mọi người đều ngơ ngác nói:

– Khúc hát gì đấy?

Tiết Bàn lại hát:

– Hai con nhặng kêu vù vù vù.

Mọi người đều nói:

– Thôi, thôi đi!

Tiết Bàn nói:

– Các anh thích nghe không, đó là khúc mới đấy, gọi là khúc hát vo vọ Nếu các anh không buồn nghe thì cả lượt cuối cũng xin miễn.

Mọi người đều nói:

– Thôi tha cho, đừng làm nhỡ cả người khác.

Rồi đến Tưởng Ngọc Hàm đọc:

Gái này thương, xa nhau biền biệt mong chàng về ngay,

Gái này buồn, muốn mua dầu quế, nhưng còn tiền đâu.

Gái này mừng, nhụy hoa đèn đã nối chằng vào nhau,

Gáí này vui, xướng tùy giờ đã sánh đôi thuận hòa.

Nói xong hát:

Khen thay vẻ đẹp trời sinh,

Khác nào tiên ở bồng doanh xuống trần.

Tuổi này vừa độ thanh xuân.

Phượng loan tìm bạn, trăm phần khéo khôn.

Ối chà! Sông Ngân dọi, trống canh dồn,

Khêu đèn ta khẽ màn loan cùng vào.

Hát xong uống ly rượu, cười nói:

– Thơ từ tôi không biết mấy, may hóm nọ thấy đôi câu đối, tôi chỉ nhớ được một vế, nay gặp trên bàn tiệc này cũng có vật ấy.

Nói xong, uống cạn chén rượn, cầm cái hoa quế lên đọc: Mùi hoa buổi sớm ấm ran cả người 3.

Mọi người đều cho là được. Thế là xong lệnh.

Tiết Bàn nhảy lên la hét ầm ĩ:

– Không được, không được! Phải phạt! Phải phạt! Trong tiệc này làm gì có bảo bối, sao lại nói đến bảo bối?

Tưởng Ngọc Hàm ngơ ngác nói:

– Có bảo bối nào đâu?

Tiết Bàn nói:

– Anh còn chối à! Thử nói lại xem.

Tưởng Ngọc Hàm đọc lại một lần nữa. Tiết Bàn nói:

– Hai chữ “tập nhân” không phải “bảo bối” là gì? Các anh không tin, thử hỏi anh ấy xem.

Nói xong giơ tay trỏ vào Bảo Ngọc. Bảo Ngọc rất khó chịu, đứng dậy nói:

– Anh Tiết đáng phạt bao nhiêu?

Tiết Bàn nói “đáng phạt, đáng phạt!”. Sau đó cầm ly rượu uống một hơi hết.

Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm hỏi duyên cớ vì sao. Vân Nhi liền nói cho họ biết. Tưởng Ngọc Hàm vội đứng dậy nhận lỗi. Mọi người đều nói:

– Người không biết thì không bắt lỗi.

Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:

– Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên, không được gặp.

Ngọc Hàm cười đáp:

– Đó là tên tục của tôi đấy.

Bảo Ngọc mừng lắm, giậm chân cười nói:

– Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp lần đầu, biết làm thế nào đây.

Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt đưa cho Kỳ Quan và nói:

– Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.

Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:

– Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có một vật lạ, sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.

Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo lót, đưa tặng Bảo Ngọc và nói:

– Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương, mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai. Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.

Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa tùng của mình đưa cho Kỳ Quan. Hai người vừa thắt xong, nghe thấy tiếng kêu to: “Ta bắt được rồi”.

Tiết Bàn ở đâu nhảy ra kéo hai người lại nói:

– Hai người này bỏ rượu không uống, trốn tiệc ra ngoài, định làm trò gì đây? Đưa ngay ra đây cho ta xem!.

Hai người đều chối không có cái gì cả. Tiết Bàn không nghe. Phùng Tử Anh thấy vậy ra can mới thôi. Mọi người về chỗ, uống rượu đến chiều mới tan.

Bảo Ngọc về đến trong vườn, cởi áo, uống nước. Tập Nhân thấy mất viên ngọc đeo ở quạt, liền hỏi:

– Vứt đâu mất rồi?

– Đi ngựa đánh rơi mất.

Tập Nhân cũng không hỏi lại nữa. Đến lúc đi ngủ, thấy Bảo Ngọc thắt cái thắt lưng đỏ như máu, Tập Nhân đã đoán ra được tám chín phần, bèn nói:

– Cậu có cái thắt lưng đẹp nhỉ. Thôi, giả cái thắt lưng của tôi đây.

Bảo Ngọc nghe nói mới nhớ ngay cái thắt lưng trước là của Tập Nhân, đáng ra không nên đem cho người khác mới phải, bụng rất hối hận, nhưng không tiện nói ra, đành phải tươi cười:

– Thôi tôi xin đền chị cái khác vậy.

Tập Nhân nghe nói, cúi đầu than thở:

– Tôi biết cậu vẫn hay giở trò ấy. Từ nay, cậu không nên lấy cái của tôi đem cho bọn đốn mạt nào. Cậu thật chẳng suy nghĩ gì cả.

Tập Nhân muốn nói mấy câu nữa, nhưng lại sợ Bảo Ngọc đương say phát cáu, nên đành phải đi ngủ.

Hôm sau dậy, Bảo Ngọc cười nói:

– Đêm qua chị mất trộm mà không biết, thử nhìn xuống quần xem.

Tập Nhân cúi đầu, thấy cái thắt lưng của Bảo Ngọc tự nhiên lại thắt vào mình. Tập Nhân biết rằng ban đêm Bảo Ngọc đánh tráo, vội vàng cởi ngay ra và nói:

– Tôi không thèm cái này, vứt ngay nó đi.

Bảo Ngọc thấy thế, liền dịu dàng khuyên giải. Tập Nhân không biết làm thế nào, đành phải thắt vậy. Sau đó Bảo Ngọc đi ra ngoài, Tập Nhân mới cởi ra, vứt vào cái hòm không, rồi lại thắt cái thắt lưng của mình.

Bảo Ngọc cũng không để ý đến việc ấy nữa. Nhân hỏi:

– Hôm qua ở nhà có việc gì không?

Tập Nhân nói:

– Mợ Hai sai người đến gọi Hồng Ngọc sang bên ấy. Nó muốn chờ cậu về, nhưng tôi nghĩ việc này cũng không quan trọng, nên đã cho nó sang rồi.

– Thôi cũng được. Việc ấy tôi đã biết rồi, không cần phải chờ tôi nữa.

– Hôm qua Qúy phi cho Hạ thái giám đem một trăm hai mươi lạng bạc về, bảo phải đến quán Thanh Hư làm lễ cầu an trong ba ngày, từ mồng một đến mồng ba và bảo ông Trân dẫn cả nhà ra đấy dâng hương lễ Phật. Lại còn đồ thưởng về tết Đoan ngọ nữa.

Nói xong, sai đứa hầu bé đem các đồ vật ra; một đôi quạt hạng nhất trong cung, hai chuỗi hạt châu xạ hương, hai tấm là, một bức mành phù dung.

Bảo Ngọc thấy những vật ấy thích lắm, hỏi Tập Nhân:

– Những người khác cũng được thế này chứ?

– Cụ được thêm một cây như ý thơm, một cái gối mã não. Bà và dì Tiết mỗi người được thêm một cây như ý. Cậu với cô Bảo bằng nhau. Cô Lâm và cô Hai, cô Ba, cô Tư mỗi cô được một cái quạt và vài hạt châu, không có gì nữa. Mợ Cả, mợ Hai mỗi người hai tấm the, hai tấm lụa, hai cái túi thơm, hai thoi thuốc.

– Thế là nghĩa làm sao? Sao lại không cho cô Lâm mà cho cô Bảo bằng tôi? Hay là nghe nhầm đấy?

– Hôm qua mang ra xem, phần nào phần nấy có biên thẻ cả, sao lại nhầm được? Phần cậu gởi ở phòng cụ, để tôi đến lấy. Cụ dặn đến sớm mai, trống canh năm, cậu phải vào tạ Ơn.

– Phải vào mới được chứ.

Nói xong Bảo Ngọc bảo Tử Quyên:

– Chị mang những cái này đưa cho cô lâm, bảo là phần của tôi đấy, cô ấy thích cái gì, cứ để lại mà dùng.

Tử Quyên đem đi, một chốc về nói:

– Cô Lâm bảo hôm qua cô ấy cũng đã có phần rồi, cậu cứ để lại mà dùng.

Bảo Ngọc nghe nói, sai người cất những thứ ấy đi. Rửa mặt xong, Bảo Ngọc sang chào Giả mẫu, thấy Đại Ngọc từ đầu kia đi lại. Bảo Ngọc chạy ngay lại cười nói:

– Anh bảo em chọn lấy những thứ của anh mà dùng, sao em không lấy?

Đại Ngọc quên hết những chuyện hờn giận Bảo Ngọc hôm nọ, chỉ nghĩ đến việc lúc này thôi, liền nói:

– Nhà em ít phúc, không đáng dùng những thứ ấy. Chúng em chẳng qua chỉ là hạng cỏ rác thôi, so đâu được với cô Bảo là người “vàng” người “ngọc”.

Nghe thấy Đại Ngọc nhắc đến hai chữ “vàng”, “ngọc”, Bảo Ngọc đâm ra ngờ, liền nói:

– Người ngoài nói “vàng, “ngọc” thế nào mặc họ, chứ bụng anh mà nghĩ đến điều ấy, thì trời tru đất diệt, muôn kiếp không được làm người!

Đại Ngọc nghe vậy, biết ngay là Bảo Ngọc có ý nghi ngờ, vội cười nói:

– Thật chán chưa! Cứ thề với bồi? Ai để ý đến “vàng”, “ngọc” làm gì?

– Khó nói cho em biết tâm sự của anh, sau này em sẽ hiểu. Anh xin thề rằng, trừ bà và cha mẹ anh ra, thì em là người thứ tư của anh đấy. Không còn có người thứ năm nảo nữa.

– Anh không cần phải thề, em biết bụng anh vẫn nghĩ đến “cô em”, nhưng khi nào gặp “cô chị” lại quên khuấy “cô em” đi.

– Em hay đa nghi, anh không phải hạng người thế đâu.

– Hôm nọ cô Bảo không hùa theo những câu nói dối của anh, vì cớ gì anh lại quay sang hỏi em? Nếu phải là em, thì không biết anh đối xử như thế nào?

Đương nói chuyện thì Bảo Thoa từ phía trước đi đến, hai người mới rời nhau ra, Bảo Thoa trông thấy rõ ràng, nhưng giả lờ như không, cứ cúi đầu đi quạ Bảo Thoa sang bên Vương phu nhân ngồi một lúc, rồi sang bên Giả mẫu, đã thấy Bảo Ngọc ngồi đấy rồi.

Bảo Thoa nhớ lại trước kia mẹ mình nói chuyện với Vương phu nhân về việc vị sư cho cái khóa vàng, bảo chờ ngày sau ai có ngọc mới kết hôn, vì thế chỉ muốn tìm cách tránh xa Bảo Ngọc. Hôm nọ Nguyên Xuân lại cho các thứ cũng như Bảo Ngọc, trong lòng càng thêm áy náy khó nghĩ. May sao Bảo Ngọc lại hay quấn quít với Đại Ngọc, lúc nảo cũng tâm tâm niệm niệm đến Đại Ngọc, nên Bảo Thoa cũng không để ý đến việc ấy Chợt đâu Bảo Ngọc cười nói: “Chị Bảo cho tôi xem cái chuỗi hột thơm của chị nào?” Lúc này Bảo Thoa đang đeo chuỗi hột thơm ở cánh tay bên trái, thấy Bảo Ngọc hỏi, đành phải tháo ra.

Nhưng vì Bảo Thoa da thịt nõn nà, mập mạp, tháo mãi không được. Bảo Ngọc đứng bên cạnh thấy bắp thịt trắng muốt, đâm ra thèm muốn, nghĩ thầm: “Nếu cái bắp tay này mà ở vào người cô Lâm, may ra có lúc được mó một cái; nhưng lại ở vào tay cô Bảo thì ta thực là kém phúc”. Chợt nghĩ đến chuyện vàng và ngọc, Bảo Ngọc ngắm nghía đến dáng điệu Bảo Thoa, thấy da mặt nõn nà, khóe mắt long lanh, không đánh sáp mà làn môi vẫn đỏ, không kẻ mày mà nét ngài vẫn xanh, so với Đại Ngọc lại có vẻ phong lưu thùy mị riêng, Bảo Ngọc bất giác đứng ngẩn người ra. Đến khi Bảo Thoa đưa chuỗi hạt, Bảo Ngọc quên đi không buồn cầm lấy.

Bảo Thoa thấy thế, cảm thấy ngượng ngùng, liền vứt chuỗi hạt xuống, toan quay người đi, thấy Đại Ngọc đứng ở bực cửa, ngậm cái khăn lụa cười. Bảo Thoa nói:

– Chị không chịu được gió, sao lại ra đứng trước ngọn gió làm gì?

Đại Ngọc cười nói:

– Tôi mới ở trong buồng ra đấy, chỉ vì nghe thấy trên trời có tiếng chim kêu, chạy ra nhìn, thì ra là “con nhạn ngớ ngẩn” 4.

Bảo Thoa nói:

– “Con nhạn ngớ ngẩn” ở đâu? Cho tôi xem với.

Đại Ngọc nới:

– Tôi vừa đến nơi, nó vụt bay mất.

Nói xong cầm cái khăn ném thẳng vào mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc không biết, tự nhiên thấy khăn tay tạt vào mặt, liền kêu “ái chà” một tiếng.

1      Thương, buồn, mừng, vui.

2      Dùng để chế anh chồng cho vợ đi ngoại tình.

3      Nguyên văn là “hoa khí tập nhân tri trú noãn”. Hai chữ “tập nhân” trùng với tên Tập Nhân, a hoàn của Bảo Ngọc, nên Tiết Bàn mới lấy đó để chế nhạo Bảo Ngọc.

4      Dùng để chế giễu người ngốc.

Chương 29: Người hưởng phúc, phúc nhiều, còn cầu xin thêm phúc – Gái si tình, tình nặng, càng luẩn quẩn vì tình

Người hưởng phúc, phúc nhiều, còn cầu xin thêm phúc

Gái si tình, tình nặng, càng luẩn quẩn vì tình

Bảo Ngọc đương ngơ ngẩn đứng nhìn, chợt Đại Ngọc ném khăn vào mặt, giật mình hỏi “Ai thế?”, Đại Ngọc lắc đầu cười nói:

– Xin lỗi! Vì chị Bảo muốn xem “con nhạn ngớ ngẩn”, tôi ra hiệu cho chị ấy, không ngờ lỡ tay ném phải anh.

Bảo Ngọc dụi mắt, định nói nữa, nhưng không tiện.

Một lúc Phượng Thư đến nói: “Mồng một này sê làm chay ở quán Thanh Hư”. Và hẹn bọn Bảo Thoa, Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến xem hát. Bảo Thoa cười nói:

– Thôi, thôi! Trời nóng thế này, vở hát gì cũng xem cả rồi, tôi không đi đâu.

Phượng Thư nói:

– Chỗ ấy cũng mát, hai bên lại có lầu. Chúng ta định đi xem, thì trước đó vài hôm, tôi sai người đến bảo bọn đạo sĩ dời đi chỗ khác, rồi quét lầu sạch sẽ, che thêm rèm, không cho người ngoài vào miếu, như thế cũng tốt đấy! Việc này tôi đã trình mẹ rồi, nếu các cô không đi, một mình tôi cũng đi. Mấy hôm nay buồn chết đi được. Ở nhà có hát tôi cũng chẳng được thư thái ngồi xem.

Giả mẫu cười nói:

– Đã thế thì ta cũng đi xem với cháu.

Phượng Thư cười nói:

– Bà đi càng haỵ Nhưng cháu lại không được thoải mái.

– Hôm ấy ta sẽ ngồi ở lầu giữa, cháu ngồi ở lầu bên. Cháu không cần phải giữ phép tắc đứng bên cạnh ta, như thế có được không?

– Nếu thế thì thật là bà thương cháu quá.

Giả mẫu lại dặn Bảo Thoa:

– Hôm ấy cháu cũng nên đi, bảo cả mẹ cháu đi nữa. Ngày dài nhàn rỗi thế này ở nhà cũng chỉ ngủ thôi.

Bảo Thoa đành phải vâng lời.

Giả mẫu lại sai gọi người đi mời Tiết phu nhân, tiện đường đến thưa với Vương phu nhân cho cả bọn chị em cùng đi một thể. Vương phu nhân một là người không được khỏe, hai là sửa soạn tiếp đãi người của Nguyên Xuân sai ra, nên đã cáo trước không đi. Nay nghe Giả mẫu bảo thế, cười nói:

– Bà đã cao hứng, thì cứ sai người vào trong vườn bảo ai muốn đi chơi thì đi.

Tin đó truyền ra, người khác không nói, chứ bọn a hoàn hàng tháng không được ra khỏi cửa, nghe vậy ai mà chẳng muốn đi, dù chủ có lười, họ cũng tìm hết cách giục đi cho được. Vì thế bọn Lý Hoàn đều nhận lời cả. Giả mẫu lại càng vui, liền sai người đi quét dọn sắp xếp công việc.

Đến mồng một, trước cửa phủ Vinh, xe kiệu nhộn nhịp, người ngựa tấp nập, những người giữ việc trong phủ biết là Qúi phi làm lễ cầu phúc, Giả mẫu thân hành đến lễ Phật, vả lại mồng một đầu tháng, lại sắp đến tết Đoan dương, nên các đồ đạc cần dùng đều được sắp đặt gọn gàng đâu đấy, khác hẳn ngày thường.

Một lúc, bọn Giả mẫu đi ra. Giả mẫu ngồi một cái kiệu tám người khiêng; Lý Hoàn, Phượng Thư, Tiết phu nhân, mỗi người ngồi một kiệu bốn người khiêng; Bảo Thoa, Đại Ngọc ngồi chung một cái xe bát bảo, cho che tàn xanh, chung quanh đính chân chỉ hạt bột; Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân ngồi chung cái xe bánh sơn đỏ, có che tàn hoa. Rồi đến bọn a hoàn của Giả mẫu: Uyên Ương, Anh Vũ, Hổ Phách, Trân Châu; a hoàn của Đại Ngọc là Tử Uyên, Tuyết Nhạn, Anh Kha; a hoàn của Bảo Thoa là Oanh Nhi, Văn Hạnh; a hoàn của Nghênh Xuân là Tư Kỳ, Tư Quất; a hoàn của Thám Xuân là Thị Thư, Thúy Mặc; a hoàn của Tích Xuân là Nhập Họa, Thái Bình; a hoàn của Tiết phu nhân là Đồng Hỷ, Đồng Quý; lại mang theo cả Hương Lăng và a hoàn là Trân Nhi; a hoàn của Lý Hoàn là Tô Văn, Bích Nguyệt; a hoàn của Phượng Thư là Bình Nhi, Phong Nhi, Tiểu Hồng. Hai a hoàn của Vương phu nhân là Kim Xuyến, Thái Vân cũng theo đến đó. Người vú ẵm Đại Thư ngồi riêng một xe. Lại còn bọn a hoàn làm việc nặng và đám vú già cùng bọn đàn bà theo hầu. Xe đỗ đặc nghịt cả quãng đường.

Kiệu Giả mẫu đã đi quãng xa, đằng sau vẫn chưa ngồi xong. Người nọ nói: “Tao không đi chung với mày”. Người kia nói: “Mày ngồi bẹp cả túi của mẹ tao”. Xe này người nói: “Cái hoa của tôi rơi đâu mất”. Xe kia người kêu: “Cái quạt của tôi gẫy rồi”. Cười cười nói nói ầm ĩ cả lên.

Vợ Chu Thụy thấy vậy, chạy đi chạy lại nói:

– Các cô! Ở ngoài đường phải coi chừng, người ta cười cho đấy.

Nói hai ba lần họ mới chịu im.

Phía trước, các đồ chấp sự bày đến quán Thanh Hự Bảo Ngọc cưỡi ngựa đi trước kiệu Giả mẫu để dẫn đường. Người trên phố đều đứng hai bên xem. Gần đến quán, tiếng chiêng tiếng trống nổi lên, đạo sĩ họ Trương mặc lễ phục, cầm hương dẫn các đạo sĩ đứng bên đường đón tiếp. Vừa đến cửa, nhìn thấy la liệt những tượng bản thổ, thành hoàng, Giả mẫu liền xuống kiệu. Giả Trân dẫn con cháu đến đón. Phượng Thư đến từ trước cũng mang bọn Uyên Ương ra đón. Thấy Giả mẫu xuống kiệu, Phượng Thư vội chạy lại đỡ. Chợt có một đạo sĩ nhỏ độ mười hai, mười ba tuổi, cầm cái kéo cắt nến, muốn nhân dịp lẩn đi chỗ khác, không ngờ đâm vào người Phượng Thự Phượng Thư giơ tay tát nó một cái, làm thằng bé ngã lộn nhào, Phượng Thư mắng:

– Giống khốn nạn này, mày chạy đi đâu?

Đạo sĩ nhỏ không kịp nhặt kéo, định tháo chạy, lại gặp ngay bọn Bảo Thoa xuống xe, những vú già và người nhà vây kín xung quanh. Khi đạo sĩ nhỏ chạy ra, mọi người đều hét ầm lên “Bắt! Bắt! Đánh Đánh!”. Giả mẫu nghe vậy hỏi việc gì. Giả Trân vội vàng lại hỏi. Phượng Thư đi lên đỡ Giả mẫu và nói:

– Có một đạo sĩ nhỏ đi cắt tàn nến, không chịu tránh ra chỗ khác, cứ đâm bừa vào người.

Giả mẫu nghe nói liền bảo:

– Dẫn nó lại đây, đừng làm thằng bé sợ. Nó là con nhà thường dân, xưa nay được nuông chiều quen, đã bao giờ trông thấy những cảnh rầm rộ như thế này? Nếu làm nó sợ thì thật đáng thương! Cha mẹ nó thấy thế, lẽ nào không đau xót.

Nói xong, bảo Giả Trân dắt đứa bé ấy lại. Thấy nó tay cầm cải kéo cắt tàn nến quì xuống đất run lẩy bẩy, Giả mẫu sai Giả Trân đỡ nó dậy, bảo đừng sợ, rồi hỏi nó bao nhiêu tuổi. Đứa bé không nói ra lời. Giả mẫu nói: “Thằng bé thực đáng thương!” Lại bảo Giả Trân: “Cháu dẫn nó ra cho nó ít tiền ăn quà và đừng ai nạt nộ nó!” Giả Trân vâng lời dẫn nó ra.

Giả mẫu dẫn mọi người đi lễ, lần lượt xem phong cảnh các nơi. Đám hầu nhỏ đứng ngoài, thấy bọn Giả mẫu đi vào cửa thứ hai, lại thấy Giả Trân gọi người dẫn đạo sĩ nhỏ ra, cho nó mấy trăm đồng tiền, dặn không được dọa nạt nó. Người nhà nghe vậy liền dắt nó đi.

Giả Trân đứng ở bên thềm hỏi: “Quản gia đâu?” Bọn hầu nhỏ gọi ra ngoài: “Gọi quản gia!” Lâm Chi Hiếu lập tức sửa lại mũ, chạy lên, đứng trước mặt Giả Trân. Giả Trân bảo:

– Nơi này rộng rãi, hôm nay lại có nhiều người. Những anh cần sai đến thì cho họ vào cả trong nhà. Người nào không cần thì cho sang ở nhà bên kia. Anh cho mấy đứa bé đứng chực sẵn ở cửa thứ hai và cửa nách hai bên, để chờ xem có cần truyền bảo gì, đã nghe ra chưa? Hôm nay các cô các mợ đều chơi ở đây, không được cho một người ngoài nào vào cả.

Lâm Chi Hiếu vâng vâng dạ dạ luôn mồm.

Giả Trân nói:

– Thôi cho lui.

Lại hỏi:

– Thằng Dung đâu sao không thấy?

Nói chưa dứt lời, đã thấy Giả Dung tay cài khuy áo, ở trong gác chuông chạy ra. Giả Trân nói:

– Mày xem tao ở đây không thấy nóng, mà mày lại đi hóng mát à.

Rồi truyền cho người nhà mắng Giả Dung.

Biết Giả Trân là người khó tính, không thể trái ý được, một đứa hầu nhỏ chạy ngay lên xì vào mặt Giả Dung. Nhưng thấy Giả Trân trừng mắt nhìn, nên lại phải mắng Giả Dung lần nữa:

– Ông còn chả sợ nóng, nữa là cậu, lại dám đi hóng mát à?

Giả Dung đành cứ buông thõng tay đứng yên, không dám nói một câu nào. Trông thấy thế, không những bọn Giả Vân, Giả Bình, Giả Cần run lên; ngay đến bọn Giả Liễn, Giả Biền, Giả Huỳnh cũng đều sợ hãi. Người nào cũng lẻn vào mé tường, lần lượt chuồn đi hết.

Giả Trân quay lại bảo Giả Dung:

– Mày còn đứng làm gì đấy? Sao không lấy ngựa về nhà bảo mẹ con nhà mày rằng: cụ và các cô, các mợ đã đến cả rồi, phải đến hầu ngay.

Giả Dung nghe nói, chạy ra gọi luôn mấy tiếng: “Đem ngựa lại đây”. Rồi lẩm bẩm: “Sáng sớm ra chẳng chịu làm gì, bây giờ lại cứ hạch sách mình!” Lại quay mắng đứa hầu: “Tay mày bị trói đấy à? Sao không dắt ngựa lại?” Hắn muốn sai đứa hầu nhỏ đi, nhưng lại sợ có ai mách chăng, nên đành phải tự mình đi lấy.

Giả Trân sắp đi, thấy Trương đạo sĩ đứng ở bên cạnh cười nói:

– Cứ lẽ ra, tôi không như người khác, phải ở trong nhà hầu hạ là phải; nhưng vì trời nóng, các vị tiểu thư đều đến đấy cả, tôi không dám thiện tiện vào, xin ông cho phép. Nếu cụ hỏi đến, hoặc người muốn đi xem chỗ nào, đã có tôi đứng chờ sẵn ở đây.

Giả Trân biết Trương đạo sĩ là người thế mạng 1 của Vinh Quốc công ngày trước, lại được đức tiên hoàng gọi là “Đại Ảo tiên nhân”, giờ đang giữ ấn ty Đạo lục, được phong là “Chung liễu chân nhân”. Các vị vương công, các quan phiên trấn đều tôn là thần tiên, không ai dám khinh nhờn. Vả chăng ông ta thường đi lại trong hai phủ, các bà các cô đều biết cả. Thấy ông ta nói thế, Giả Trân cười bảo:

– Chúng ta là chỗ người nhà với nhau, sao ông lại như vậy. Nếu ông còn nói nữa, tôi sẽ vặt râu đấy. Thôi, hãy đi theo tôi.

Trương đạo sĩ cười ha hả, theo Giả Trân đi lên.

Đến trước Giả mẫu, Giả Trân nghiêng mình cười nói:

– Cụ Trương vào hầu bà.

Giả mẫu nghe nói vội bảo “mời vào”. Giả Trân dắt Trương đạo sĩ vào. Trương đào sĩ cười ha hả nói:

– Đức Phật sống lâu! Người vẫn mạnh khỏe bình yên đấy chứ? Xin chúc các mợ, các cô vui mạnh luôn. Đã lâu không được vào phủ thăm, nay xem khí sắc cụ hơn trước nhiều.

Giả mẫu cười nói:

– Lão thần tiên, người có được mạnh khỏe không?

– Nhờ phúc lộc của cụ, tiểu đạo vẫn được mạnh khỏe. Người khác không kể, riêng chỉ nhớ cậu Hai thôi. Không biết lâu nay cậu ấy có được khỏe luôn không? Hôm hai mươi sáu tháng tư, ở đây có làm lễ thánh đản Già thiên đại vương. Người đến lễ không đông lắm, nên các thứ đều giữ được sạch sẽ, tôi có cho người mời cậu ấy đến ngoạn cảnh, sao lại bảo cậu ấy không có ở nhà?

– Cháu nó không có ở nhà thực.

Rồi Giả mẫu quay lại gọi Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc vừa đi giải vào, vội chạy đến chào Trương đạo sĩ. Trương đạo sĩ ôm lấy, hỏi han, rồi quay lại Giả mẫu cười nói:

– Cậu Hai xem ra càng ngày càng phát phúc.

Giả mẫu nói:

– Bề ngoài thì khỏe, nhưng trong người nó vẫn phiền vì nỗi cha nó cứ bắt nó học nhiều, làm thằng bé càng ốm thêm.

Trương đạo sĩ nói:

– Hôm nọ tôi qua thăm mấy nơi, thấy chữ cậu ấy viết rất tốt, thơ làm rất hay, sao ông nhà lại còn phàn nàn là cậu ấy lười học? Cứ ý tiểu đạo này thì đừng nên bắt cậu ấy học quá sức

Trương đạo sĩ lại than thở:

– Tôi xem cậu ấy bóng dáng, nói năng, đi đứng, giống hệt đức Quốc công nhà ta ngày trước vậy.

Nói xong hai mắt rưng rưng. Giả mẫu cũng nước mắt ròng ròng, nói:

– Thật thế, bao nhiêu con cháu nhà này chẳng được đứa nào giống ông cháu cả, chỉ có cháu Ngọc là giống thôi.

Trương đạo sĩ lại quay sang Giả Trân nói:

– Bóng dáng đức Quốc công nhà ta ngày trước, các cậu không biết đã đành đi rồi, có lẽ ngay ông Cả, ông Hai cũng không nhớ rõ thì phải.

Ông ta lại cười ha hả:

– Hôm nọ tôi đến chơi một nhà, thấy một vị tiểu thư năm nay độ mười lăm tuổi, dáng điệu rất đẹp. Tôi nghĩ cậu em cũng nên dạm vợ đi thôi. Nói đến cô ta, người đẹp, tư chất thông minh, lại con nhà gia thế, thực là xứng đôi. Không biết ý cụ nghĩ thế nào? Tiểu đạo này không dám đường đột. Mong người cho biết mới dám nói đến.

Giả mẫu nói:

– Trước kia có một nhà sư bảo số thằng bé này không nên lấy vợ sớm, chờ lớn lên hãy haỵ Người cứ thăm dò hộ xem, không cần nhà giàu sang, cốt tìm đứa có dung mạo là được. Có thế nào người đến nói cho tôi biết. Dù nhà họ có nghèo, thì giúp cho ít bạc là xong. Chỉ có dáng dấp và tính nết con người là khó tìm thôi.

Phượng Thư cười nói:

– Cụ Trương, cụ chưa đổi bùa cho con cháu tôi à? Thế mà hôm nọ cụ còn trâng tráo cho người đến xin tấm đoạn vàng? Tôi không đưa lại sợ mất thể diện.

Trương đạo sĩ cười vang lên nói:

– Xem kìa, mắt tôi mờ rồi, không trông thấy mợ Ở đây, nên không cám ơn. Bùa ký danh đã có sẵn rồi. Hôm nọ định mang đến, không ngờ có các lệnh bà đến đây làm lễ cầu phúc, nên tôi quên mất. Đạo bùa vẫn đặt ở trước bàn thờ Phật kia, để tôi lại lấy.

Nói xong Trương đạo sĩ chạy lên điện chính, một lúc bưng cái khay xuống, trên có đặt một cái túi vóc đỏ. Trương đạo sĩ rút bùa ra đưa cho vú nuôi của Đại Thự Trương đạo sĩ chực bế Đại Thư, Phượng Thư cười nói:

– Người cầm bùa đưa cũng được, việc gì phải đặt lên khay?

Trương đạo sĩ nói:

– Tay không được sạch, cầm sao được? Đặt vào khay thì thanh tịnh hơn.

Phượng Thư cười nói:

– Người bưng cái khay ra, làm tôi giật mình. Tôi không biết là người đưa bùa, cứ tưởng người đến xin bố thí!

Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả Liễn cũng không nhịn được cười. Giả mẫu quay lại bảo:

– Con khỉ kia, mày không sợ sa xuống địa ngục phải cắt lưỡi à?

Phượng Thư cười nói:

– Chỗ ông cháu với nhau không hề gì. Vì sao ông ấy cứ thường bảo cháu lo gom góp âm công, nếu chậm thì sẽ chết non?

Trương đạo sĩ cũng cười nói:

– Tôi mang cái khay ra là có ý dùng cả hai việc, không phải để nhận bố thí, mà muốn mượn viên ngọc của cậu Hai đặt vào đó đem ra cho chúng bạn và con cháu học trò ở xa đến xem.

Giả mẫu nói:

– Việc gì người phải lật đật chạy đi chạy lại, cứ dắt cháu Bảo ra ngoài ấy cho người ta xem, rồi bảo nó vào cũng được.

Trương đạo sĩ nói:

– Cụ không biết: tiểu đạo đã hơn tám mươi tuổi, nhờ phúc dư của cụ, vẫn còn khỏe mạnh; ở ngoài ấy nhiều người hôi hám khó chịu, vả lại trời nóng nực, cậu ấy không chịu quen, lỡ ra bị cảm thì phiền lắm.

Giả mẫu nghe nói, liền bảo Bảo Ngọc tháo viên ngọc “thông linh” ra, đặt vào khaỵ Trương đạo sĩ cẩn thận bỏ trong túi vóc bưng ra.

Giả mẫu đưa mọi người đi ngoạn cảnh các nơi rồi lên lầu. Giả Trân trình:

– Trương đạo sĩ đã mang ngọc về.

Trương đạo sĩ bưng cái khay bước lên lầu cười nói:

– Nhờ có tiểu đạo này, mọi người mới được xem ngọc của cậu Hai, thực là hiếm có. Họ không có gì kính biếu, gọi có mấy đồ pháp giới của họ đem đến làm lễ mừng. Tuy nó không quí hóa gì, nhưng cậu cũng có thể giữ lấy mà chơi, hoặc thưởng cho người khác cũng được.

Giả mẫu nghe nói, nhìn vào khay, thấy có bốn năm mươi thứ, cái là ngọc hoàng, cái là ngọc quyết, cái thì khắc sự sự như ý, cái thì khắc tuế tuế bình an, đều nạm giát bằng châu báu vàng ngọc cả, liền nói:

– Người khéo bày vẽ, họ là những người xuất gia, ở đâu có cái này. Sao lại làm như thế? Tôi không thể nhận được.

Trương đạo sĩ cười nói:

– Đó là lòng thành của họ, tiểu đạo này không thể ngăn được Nếu cụ không nhận, thì họ cho tiểu đạo này là hạng hèn hạ, không phải môn hạ của quí phủ.

Giả mẫu đành bảo người nhận. Bảo Ngọc cười nói:

– Thưa bà, cụ Trương đã nói thế, không tiện từ chối, nhưng cháu cũng không dùng những thứ này, chi bằng đưa cho người hầu của cháu, phân phát cho những người nghèo túng.

Giả mẫu cười nói:

– Phải đấy.

Trương đạo sĩ vội ngăn lại:

– Cậu Hai muốn làm phúc đấy, nhưng thứ này dầu chẳng đáng quí báu gì, chỉ là đồ dùng thôi. Nếu phân phát cho người nghèo, họ không biết dùng, cũng vô ích, sẽ làm hư phí đi. Cậu muốn giúp đỡ người nghèo, sao không phát tiền cho họ?

Bảo Ngọc nghe nói liền sai cất đi, và dặn mang tiền đến phát cho người nghèo.

Nói chuyện xong, Trương đạo sĩ đi ra.

Giả mẫu cùng mọi người lên lầu, ngồi ở gian giữa. Bọn Phượng Thư ngồi ở gian phía đông. Bọn a hoàn đứng hầu ở gian phía tây. Một lúc Giả Trân lên trình: “Đã gắp thăm trước bàn thờ thần, vở thứ nhất là Bạch xà ký”.

Giả mẫu hỏi:

– Là tích gì?

– Tích vua Cao Tổ nhà Hán chém rắn trắng nước khi khởi binh 2. Vở thứ hai là “Hốt đầy giường” 3.

Giả mẫu gật đầu nói:

– Hát vở thứ hai cũng được. Ý Phật đã thế, chúng ta đành phải theo.

Lại hỏi đến vở thứ bạ Giả Trân nói:

– Vở “Nam kha mộng” 4.

Giả mẫu yên lặng không nói gì. Giả Trân lui xuống, đi ra ngoài đốt sớ, đốt vàng mã, rồi bắt đầu hát.

Bảo Ngọc ngồi cạnh Giả mẫu, sai đứa bé bưng cái khay lúc nãy lại, đeo viên ngọc vào người rồi lục tìm các thứ, đưa từng cái cho Giả mẫu xem. Giả mẫu thấy một con kỳ lân bằng vàng, trên đầu có đính lông chìm trả, liền cầm lấy cười nói:

– Hình như ta đã trông thấy con cái nhà ai đeo con này rồi.

Bảo Thoa cười nói:

– Cô Sử có một con, nhưng bé hơn.

Giả mẫu nói:

– Thế ra cháu Vân cũng có à?

Bảo Ngọc nói:

– Khi cô ấy đến, sao cháu không trông thấy.

Thám Xuân cười nói:

– Chị Bảo thực hay để ý, cái gì cũng nhớ được.

Đại Ngọc cười nhạt:

– Việc khác thì chị ấy để ý ít thôi, chỉ có vật người ta đeo trên người là chị ấy để ý đến nhiều.

Bảo Thoa nghe nói ngoảnh đi, vờ như không nghe thấy.

Nghe nói Sử Tương Vân cũng có vật này, Bảo Ngọc liền cầm con kỳ lân giấu vào trong người. Sau lại nghĩ: “người ta sẽ cho mình biết cô Sử có, nên mới giữ lại vật này”. Bảo Ngọc tay cầm con kỳ lân, mắt vẫn lấm lét nhìn xung quanh. Mọi người không để ý đến, chỉ có Đại Ngọc liếc mắt nhìn rồi gật đầu, như có ý khen ngợi. Thấy vậy, Bảo Ngọc bối rối khó chịu, liền bỏ con kỳ lân ra, nhìn Đại Ngọc cười nói:

– Con này đẹp đấy, tôi lấy hộ em. Khi về em sẽ lấy dây đeo nó có được không?

Đại Ngọc lắc đầu:

– Tôi không thích.

– Em không thích thì tôi lấy vậy.

Nói xong Bảo Ngọc lại cầm lấy. Ngay lúc đó Vưu thị là vợ Giả Trân, Hồ thị là vợ kế Giả Dung, hai mẹ chồng, nàng dâu cũng đến chào Giả mẫu. Giả mẫu nói:

– Các cháu đến đây làm gì? Ta rỗi việc nên đi chơi một lúc thôi.

Bỗng thấy một người vào báo: “Người nhà Phùng tướng quân đến”.

Nghe tin phủ Giả ra miếu làm chay, Phùng Tử Anh sai người sắm sửa các thứ dê, lợn, chè, hương đến lễ. Phượng Thư vội vàng sang lầu giữa vỗ tay cười nói:

– Ái chà! Cháu không dè chừng việc nây. Chỉ nghĩ là bà cháu ta rỗi việc đến đây chơi thôi. Thế mà người ta lại cho là làm chay, đưa đồ lễ đến. Việc này là tại bà cả. Cháu có mang sẵn tiền thưởng gì đâu?

Nói xong thấy hai người đàn bà nhà họ Phùng trèo lên lầu. Hai người này chưa đi, lại có người nhà quan thị lang họ Triệu mang lễ đến. Thế rồi hết nhà nọ đến nhà kia, nghe nói đàn bà con gái phủ Giả ra miếu làm chay, họ xa, bạn gần đi lại xưa nay, đều đưa lễ đến cả.

Giả mẫu bấy giờ mới thấy băn khoăn, nói:

– Chẳng qua rỗi, ta đi chơi, chứ có phải trai tiếu gì đâu, lại làm phiền cho mọi người.

Giả mẫu xem hát đến chiều thì về. Hôm sau không muốn đi nữa.

Phượng Thư nói:

– “Đã trót thì phải trét” 5, đã làm kinh động người ta, thì ngày mai lại cứ đi chơi cho vui.

Bảo Ngọc từ lúc nghe Trương đạo sĩ nói với Giả mẫu về chuyện mách mối vợ, trong lòng rất khó chịu. Về nhà đâm ra cáu kỉnh, bực bội, nói luôn miệng: “Từ giờ trở đi, không thèm nhìn mặt lão Trương nữa”. Mọi người không biết duyên cớ vì sao. Đại Ngọc lại bị cảm nắng. Vì hai lẽ đó nên hôm sau Giả mẫu không đi. Phượng Thư dẫn mọi người cùng đi.

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc ốm, trong bụng không yên, cơm cũng biếng ăn. Thỉnh thoảng lại đến hỏi thăm, chỉ lo Đại Ngọc không biết lành dữ thế nào. Đại Ngọc nói:

– Anh đi mà xem hát, ở nhà làm gì?

Bảo Ngọc nhân việc hôm qua Trương đạo sĩ mách mối, bụng đã khó chịu. Giờ thấy Đại Ngọc nói thế, lại nghĩ: “Người khác không biết bụng ta còn có thể tha thứ được. Không ngờ cả Đại Ngọc cũng hắt hủi mình!” Vì thế càng bực tức bội phần. Nếu như ngày thường, ai nói câu ấy cũng không đến nỗi nào, nhưng nay chính Đại Ngọc nói, lại có một ý nghĩa khác. Thế là Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, nói:

– Tôi thật đã nhận nhầm cô! Thôi, thôi!

Đại Ngọc cười nhạt nói:

– Anh nhận nhầm gì tôi? Tôi có gì đáng sánh với người ta.

Bảo Ngọc chạy ngay đến tận mặt Đại Ngọc nói:

– Cô nói gì? Thế là cô đành lòng rủa tôi bị trời tru đất diệt rồi.

Đại Ngọc chưa hiểu ra sao, Bảo Ngọc lại nói:

– Hôm nọ chỉ vì việc ấy mà tôi phải thề. Hôm nay cô lại cho tôi một câu nữa. Nếu tôi bị trời tru đất diệt thì liệu có ích gì cho cô không?

Đại Ngọc nghe đến đây, mới nhớ hôm trước, mình đã lỡ lời, vừa tức vừa thẹn, liền nức nở khóc và nói:

– Nếu tôi nỡ lòng rủa anh thì tôi cũng bị trời tru đất diệt!… Vì đâu có câu chuyện này? Tôi biết hôm qua Trương đạo sĩ nói đến chuyện dạm vợ, anh sợ tôi làm ngăn trở mối duyên lành của anh, trong bụng anh bực tức, nên mang tôi ra giày vò.

Nguyên Bảo Ngọc từ bé vẫn có chứng si tình hẹp hòi, lại luôn luôn ở bên cạnh Đại Ngọc, hai bên gần nhau, kẽ tóc chân tơ, tâm tình tương đắc. Bây giờ Bảo Ngọc đã hơi biết mùi đời, được xem nhiều sách nhảm nhí, được gặp nhiều cô gái phong lưu trong các nhà bạn thân và họ hàng xa, đều không ai bằng Đại Ngọc cả. Vì thế Bảo Ngọc đã ôm sẵn nỗi niềm tâm sự, nhưng chưa tiện nói ra, nên mỗi khi Đại Ngọc hoặc mừng, hoặc giận, Bảo Ngọc đều tìm hết cách thăm dò kín đáo. Đại Ngọc cũng có bệnh si tình ấy, lại cũng dùng lối vờ vẫn để thăm dò: “Vì nếu anh đã tìm cách che giấu nỗi lòng chân thật của anh thì tôi cũng tìm cách che giấu nỗi lòng chân thực của tôi”. Hai bên cứ vờ vẫn thăm dò nhau. Như vậy hai cái giả gặp nhau, nhất định sẽ lòi cái thực. Ngoài ra, còn những việc lặt vặt xảy ra không tránh khỏi lời qua tiếng lại.

Lúc này Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Người khác không biết bụng mình còn có thể tha thứ được, lẽ nào Đại Ngọc lại không biết trong lòng ta, trong mắt ta lại chỉ có có ấy thôi à? Cô ấy không gỡ nỗi buồn cho ta thì chớ, lại còn đưa ra những câu lấp họng ta, lòng ta giờ nào, phút nào cũng nghĩ đến cô ấy, nhưng có bao giờ cô ấy nghĩ đến ta đâu”. Bảo Ngọc nghĩ vậy, nhưng không nói được ra lời. Đại Ngọc thì nghĩ: “Vẫn biết bụng anh bao giờ cũng để ý đến tôi, tuy có câu “vàng ngọc sánh đôi”, nhưng khi nào anh lại tin lời nhảm nhí ấy mà không yêu quí tôi? Tôi dù có nhắc đến chuyện “vàng và ngọc”, anh cũng nên lờ đi như không nghe thấy, thế mới thực là anh yêu quý tôi, không có mảy may gì giả dối cả. Nhưng mỗi khi tôi gợi đến chuyện “vàng và ngọc”, anh lại cứ cuống cuồng lên, đủ biết bụng anh lúc nào cũng nghĩ đến chuyện “vàng và ngọc”. Anh sợ tôi ngờ vực, cố ý làm ra vẻ sửng sốt để đánh lừa tôi”.

Xem ra, hai người vốn một ý nghĩ, nhưng có những khía cạnh khác nhau.

Trong bụng Bảo Ngọc lại nghĩ: “Tôi thì thế nào cũng được, chỉ cần cô vui thôi, dầu vì cô mà phải chết ngay tôi cũng bằng lòng. Điều này cô biết hay không cũng mặc, chỉ cốt ở lòng tôi thôi. Như thế mới là cô gần tôi, không phải xa tôi”.

Đại Ngọc lại nghĩ: “Anh chỉ nên lo phần anh là hơn. Anh tốt tự nhiên tôi cũng tốt. Cớ gì anh lại vì tôi mà mang lỗi. Có biết đâu lỗi ở anh chính là lỗi ở tôi. Thế là anh không muốn cho tôi gần anh, mà lại có ý làm cho tôi phải xa anh đấy”.

Như vậy họ muốn gần nhau lại hóa ra xa nhau. Những ý nghĩ riêng tây ấy ấp ủ trong người họ từ lâu khó mà nói hết, chẳng qua chỉ hình dung bên ngoài mà thôi.

Bảo Ngọc lại nghe thấy Đại Ngọc nói đến ba chữ “mối duyên lành”, trái hẳn ý nghĩ của mình, lại càng héo hon trong dạ, nói chẳng ra lời, liền cáu tiết, dứt viên “ngọc thiêng” ở cổ ra, nghiến răng vứt phăng xuống đất, nói:

– Cái đồ chết tiệt này! Tao đập tan mày đi là xong chuyện.

Nhưng viên ngọc này rắn chắc lạ thường, vứt thế nào nó cũng vẫn y nguyên không hề gì. Bảo Ngọc thấy không vỡ, định quay lại tìm cái đập. Đại Ngọc thấy thế, liền khóc:

– Làm gì lại đem đập cái của câm ấy? Anh đập nó, chẳng thà đập tôi còn hơn!

Thấy hai người cãi nhau, bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn vội lại khuyên ngăn. Sau thấy Bảo Ngọc cố sống cố chết đập viên ngọc, liền chạy lại cướp lấy, nhưng không cướp được.

Thấy trận cãi nhau này kịch liệt hơn mọi lần trước nhiều, chúng đành phải đi gọi Tập Nhân. Tập Nhân vội vàng chạy đến, cướp lấy viên ngọc. Bảo Ngọc cười nhạt:

– Tôi đập cái của tôi, việc gì đến các chị?

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc mặt xám lại, mắt đỏ ngầu lên, chưa bao giờ giận đến như thế, liền kéo tay lại cười nói:

– Cậu cãi nhau với cô ấy, việc gì mà lại đập viên ngọc ra. Nếu nó vỡ thì cô ấy đành lòng thế nào được.

Đại Ngọc đương khóc, nghe thấy câu nói đúng đáy lòng mình, liền cho rằng Bảo Ngọc còn kém cả Tập Nhân, lại càng đau lòng khóc to lên. Vì buồn bực quá đỗi, nên nước thuốc hương nhu giải thử vừa mới uống vào, đã không cầm được, ọe một cái, nôn ra hết. Tử Quyên vội chạy đến, lấy cái khăn lụa đỡ lấy, Đại Ngọc ọe luôn mấy lần, thuốc thấm hết cả cái khăn. Tuyết Nhạn vội đến vuốt ngực. Tử Quyên nói:

– Dù tức giận đến thế nào nữa, cô cũng nên giữ gìn sức khỏe. Vừa mới uống được một nước thuốc, giờ vì cãi nhau với cậu Bảo, nôn ra hết cả, nếu sinh ốm, liệu cậu Bảo có đành tâm được không?

Bảo Ngọc nghe câu nói trúng tim đen mình, lại cho Đại Ngọc không bằng Tử Quyên. Đại Ngọc khi ấy mặt đỏ nhừ, đầu nặng trĩu, vừa khóc vừa thở, nước mắt, mồ hôi chảy xuống đầm đìa, người càng ẻo lả. Bảo Ngọc thấy thế hối hận: “Mình không nên bắt bẻ cô ấy. Bây giờ xảy ra nông nỗi này, mình lại không thể chịu thay cho cô ấy được.” Trong bụng nghĩ thế, nước mắt cũng tự nhiên nhỏ xuống.

Tập Nhân đương trông nom Bảo Ngọc, thấy hai người đều khóc, trong bụng cũng đâm ra chua xót, liền nắm lấy tay Bảo Ngọc, thấy lạnh như tiền, muốn khuyên Bảo Ngọc đừng khóc, nhưng một là sợ Bảo Ngọc có điều gì uất ức trong lòng, hai là sợ phật lòng Đại Ngọc, không bằng cùng khóc cả là họ sẽ buông tha nhau. Vì vậy, Tập Nhân cũng chảy nước mắt khóc theo. Tử Quyên vừa thu dọn những nước thuốc, vừa khe khẽ quạt cho Đại Ngọc. Thấy cả ba người đều khóc, chẳng nói chẳng rằng, Tử Quyên đâm ra thương cảm, cũng lấy khăn lụa chùi nước mắt.

Bốn người ngồi nhìn nhau khóc, chẳng nói năng gì. Sau Tập Nhân gượng cười bảo Bảo Ngọc:

– Cậu không cần nhìn cái gì khác, cứ nhìn cái dây đeo ngọc, thì cũng không nên cãi nhau với cô Lâm nữa.

Đại Ngọc nghe nói, không nghĩ gì đến mình đương ốm, chạy ngay lại cướp lấy cái dây, tiện tay cầm kéo cắt nát ra. Tập Nhân và Tử Quyên muốn giật lại, nhưng đã đứt làm mấy đoạn rồi.

Đại Ngọc khóc:

– Ta thực uổng công, anh ấy không cần đâu, đã có người khác đeo cho cái dây đẹp hơn kia.

Tập Nhân vội cầm lấy viên ngọc nói:

– Làm gì như thế? Đây cũng là lỗi tự tôi hay bép xép.

Bảo Ngọc bảo Đại Ngọc:

– Cô cứ việc cắt đi, tôi không đeo ngọc cũng chẳng sao.

Mấy người chỉ lo cãi nhau ở trong nhà, ngờ đâu bọn bà già thấy Đại Ngọc nôn mửa, khóc ầm lên. Bảo Ngọc lại đập viên ngọc, không biết sinh chuyện đến thế nào. Họ vội vàng sang trình Giả mẫu và Vương phu nhân. Giả mẫu và Vương phu nhân đều không biết vì duyên cớ gì, liền cùng nhau sang vườn xem. Thấy thế, Tập Nhân thì oán Tử Quyên tại sao lại cho cụ và bà lo sợ. Tử Quyên thì oán Tập Nhân cho là tự Tập Nhân sai người đi trình.

Giả mẫu và Vương phu nhân đến nơi, thấy Bảo Ngọc và Đại Ngọc đều chẳng nói năng gì, hỏi ra cũng chẳng có chuyện gì cả, liền buộc tội cho Tập Nhân và Tử Quyên:

– Tại sao chúng mày không hầu hạ cẩn thận, bây giờ xảy ra chuyện cãi nhau ầm ĩ như thế, chúng mày lại bỏ mặc đấy à?

Rồi răn mắng một trận. Hai người chỉ đành đứng im không dám nói lại một câu. Giả mẫu dắt Bảo Ngọc đi ra, mới êm chuyện.

Đến hôm sau, mồng ba là ngày sinh nhật của Tiết Bàn. Trong nhà bày rượu chè hát xướng. Mọi người trong phủ Giả đều đến cả. Bảo Ngọc từ ngày xẩy chuyện với Đại Ngọc, chưa lúc nào giáp mặt nhau, đâm ra hối hận, buồn rầu, còn bụng dạ nào đi xem hát nữa. Nên cáo ốm không đi.

Hôm trước Đại Ngọc bị trúng nắng qua loa thôi, không đến nỗi nặng, nay nghe thấy Bảo Ngọc không đi, nghĩ bụng “Anh ấy xưa nay là người thích uống rượu nghe hát, thế mà hôm nay lại không đi, chắc vì hôm trước giận tạ Nếu không phải thế thì chắc là anh ấy thấy ta không đi, nên cũng không có bụng dạ nào đi một mình. Hôm nọ ta cắt cái dây đeo ngọc, thật không nên tí nào. Chắc là anh ấy không đeo ngọc nữa, ta phải xâu lại, anh ấy mới chịu đeo”. Nghĩ thế trong bụng Đại Ngọc lại hối hận trăm phần.

Giả mẫu thấy hai người giận nhau, cho là hôm nay đi xem hát, chúng gặp nhau, thế là xong chuyện. Không ngờ cả hai người đều không đi cả. Giả mẫu liền than thở: “Già này chẳng hiểu vì oan nghiệt từ đời nào để lại, sinh ra hai đứa oan gia ngớ ngẩn kia, không ngày nào là chúng không làm cho ta phải bận lòng. Tục ngữ nói rất đúng: “Không phải oan gia không họp mặt”. Bao giờ ta nhắm mắt tắt hơi, tha hồ cho hai đứa chúng mày cãi nhau, khi đó mắt ta không trông thấy, lòng ta không biết buồn rầu, thế là xong chuyện. Nhưng nào nó đã tắt hơi cho đâu!”

Giả mẫu tự trách mình rồi khóc.

Chuyện này không ngờ đến tai Bảo Ngọc và Đại Ngọc. Xưa nay hai người chưa từng nghe câu tục ngữ “không phải oan gia không họp mặt” bao giờ. Nay nghe thấy, họ đều như người được ngộ đạo, đều cúi đầu nghiền ngẫm ý nghĩa câu ấy, rồi nước mắt lã chã lưng tròng. Hai người tuy không gặp mặt, nhưng một ở quán Tiêu Tương, đứng trước gió gạt lệ, một ở viện Di Hồng, ngắm mặt trăng thở dài! Thực là “người ở hai nơi, tình chung một mối”.

Tập Nhân khuyên Bảo Ngọc:

– Bao nhiêu chuyện không phải, đều tự cậu cả. Ngày thường ở trong nhà, bọn hầu trai có cãi cọ với các chị em, hoặc là hai bên tranh giành điều gì, hễ nghe thấy, cậu mắng ngay bọn họ là ngu xuẩn, không biết thể tất bụng dạ người con gái. Thế mà bây giờ cậu lại tự mình gây chuyện như thế? Ngày mai là tết mồng năm, nếu cậu và cô Lâm đối với nhau còn như kẻ thù, thì cụ càng thêm buồn, nhất định cả nhà không được yên. Theo ý tôi, cậu nên nuốt giận đi, đến xin lỗi cô ấy, rồi lại đối xử với nhau như trước, như vậy chẳng tốt hay sao?

1      Ngày xưa. những người quan quý không tự mình đi tu được, kiếm người khác tu thay, để được phúc hoặc chuộc tội. Người ấy gọi là thế mạng.

2      Lưu Bang trước khi khởi nghĩa, chém chết con rắn trắng. Đêm ấy có người đàn bà đến khóc: “Con rắn trắng này là con Bạch Đế, bị con Xích Đế (tức Lưu Bang) chém chết”. Sau quả nhiên Lưu Bang giết được Hạng Vũ, lên làm vua tức vua Cao Đế nhà Hán.

3      Hốt bầy đầy giường; chép chuyện Quách Tử Nghi đời Đường, có bảy con trai và tám chàng rể đều làm quan cao và sống lâu.

4      Tên vở kịch do Thang Hiển Tổ đời Minh soạn, tả việc Thuần Vu Phần, đời nhà Đường. Thuần nhân ngày sinh nhật, uống rượu say nằm ngủ ở dưới cây hòe, về bên phía Nam cạnh nhà, mộng thấy đến nước Đại Hòe An lấy công chúa, làm quan thái thú quận Nam Kha hai mươi năm. đẻ được năm trai hai gái, đều hiển quý cả, sau đánh nhau với giặc bị thua, phải cách chức, công chúa đã chết. Lúc tỉnh dậy, mặt trời chưa lặn. ly rượu hãy còn nguyên ở bàn. Khi ra gốc cây hòe, thấy có tổ kiến, ông ta cảm thấy cuộc đời phút chốc, công danh cũng như giấc mộng vậy, liền bỏ nhà lên núi học đạo, chẳng thiết gì việc đời nữa.

5      Nguyên văn: “Đắp tường phải lễ thổ thần” nghĩa cũng như trên.

Chương 30: Bảo Thoa mượn cái quạt, nói cạnh cả hai bên – Linh Quan vạch chữ “tường”, làm ngây người ngoài cuộc

Bảo Thoa mượn cái quạt, nói cạnh cả hai bên

Linh Quan vạch chữ “tường”, làm ngây người ngoài cuộc

Đại Ngọc từ hôm cãi nhau với Bảo Ngọc, trong bụng hối hận, nhưng không lẽ tự mình đến làm lành trước, vì thế ngày đêm buồn rầu, bâng khuâng như mất cái gì, Tử Quyên đoán biết tâm lý ấy, liền khuyên nhủ:

– Việc hôm nọ là tự cô nóng nảy quá. Người khác không biết rõ tính nết cậu Bảo, chứ chúng ta lẽ nào lại cũng không biết hay sao? Chỉ vì viên ngọc, đến nỗi cãi nhau mấy lần rồi.

Đại Ngọc gắt:

– Thôi! Mày lại đến đây bới móc tội của ta hộ người à? Thế nào là ta nóng nảy?

Tử Quyên cười nói:

– Tự nhiên vô cớ, sao cô lại cắt cái dây đeo ngọc đỉ Thế chả phải lỗi cậu Bảo chỉ có ba phần, mà lỗi cô những bảy phần hay sao? Tôi xem ngày thường cậu ấy đối với cô rất tốt, chỉ vì cô khó tính thường vặn vẹo cậu ấy, nên đến nỗi vậy.

Đại Ngọc muốn nói lại, chợt ngoài sân có tiếng gọi cửa, Tử Quyên lắng tai nghe, cười nói:

– Thôi tiếng cậu Bảo rồi, chắc lại đến xin lỗi đấy.

Đại Ngọc bảo không được mở cửa. Tử Quyên nói:

– Cô lại không phải rồi. Trời nóng nực thế này, không mở cửa, để cậu ấy đứng bêu mãi ngoài nắng thì chịu thế nào được?

Nói xong liền ra mở cửa, thì quả là Bảo Ngọc. Tử Quyên vừa mời vào vừa cười nói:

– Tôi cứ tưởng là cậu không thèm đến nhà này nữa, ai ngờ bây giờ lại đến.

Bảo Ngọc cười nói:

– Việc bé mà các chị lại cứ xé ra to, ngại gì mà ta chẳng đến? Ta có chết chăng nữa, hồn ta một ngày ít ra cũng đến đây trăm lần! Thế nào? Cô em đã khỏe hẳn chưa?

– Người khỏe đấy, nhưng bụng vẫn bực tức khó chịu.

– Ta biết rồi, việc gì mà phải bực tức!

Bảo Ngọc cười đi vào, thấy Đại Ngọc đương ngồi trên giường khóc.

Đại Ngọc trước vẫn không khóc. Từ lúc thấy Bảo Ngọc đến, trong bụng đâm ra thương cảm, không thể cầm được nước mắt. Bảo Ngọc đến gần giường cười nói:

– Em ơi! Người đã khá chưa?

Đại Ngọc chỉ gạt nước mắt, không trả lời.

Bảo Ngọc liền ngồi ghé vào cạnh giường cười nói:

– Anh vẫn biết rằng em không giận anh, nhưng nếu anh không đến, người ta thấy thế, sẽ cho anh em ta lại cãi nhau. Nếu phải chờ họ đến khuyên giải thì chẳng hóa ra anh em ta không có tình thân mật hay sao? Chi bằng, ngay bây giờ em muốn đánh, muốn mắng anh thế nào tùy em, nhưng chỉ thiết tha xin em đừng lờ anh đi thôi.

Nói xong lại gọi “em ơi” mấy tiếng.

Trong bụng Đại Ngọc vẫn định bỏ lờ Bảo Ngọc đi, nhưng bấy giờ nghe thấy câu: “Nếu để người ngoài biết là chúng ta cãi nhau thì chẳng hóa ra anh em ta không có tình thân mật” mới thấy rõ mình với Bảo Ngọc thân hơn người khác. Vì thế Đại Ngọc không nhịn được, liền khóc:

– Anh không cần phải lừa tôi! Từ giờ trở đi, tôi không dám thân cận với cậu Hai nữa. Xin cứ coi như tôi đã ra khỏi nhà này rồi.

– Thế em định đi đâu?.

– Tôi về nhà tôi.

– Anh cũng đi theo.

– Thế ngộ tôi chết thì sao?

– Em mà chết thì anh đi tu.

Đại Ngọc vừa nghe thấy câu ấy, mặt sầm ngay lại hỏi:

– Anh muốn chết à? Sao nói dại thế? Nhà anh có bao nhiêu chị em, một ngày kia họ đều chết cả, liệu thân anh xẻ ra làm mấy mảnh để đi tủ Mai đây tôi sẽ mang câu này kể lại cho người ta biết, để xem họ nói ra làm sao!

Bảo Ngọc tự biết mình nói câu ấy hấp tấp quá, hối không kịp, mặt đỏ bừng lên, cúi đầu không dám nói gì.

Khi đó trong nhà không có ai. Đại Ngọc hai mắt trừng trừng nhìn Bảo Ngọc một lúc, tức quá, hừ một tiếng, rồi không nói được câu gì. Thấy mặt Bảo Ngọc tím bầm lại, Đại Ngọc liền nghiến răng, lấy ngón tay dí vào trán Bảo Ngọc một cái, nói:

– Anh thật là…

Chỉ nói lên được hai tiếng, liền thở dài một cái, lại lấy khăn lụa, lau nước mắt.

Bảo Ngọc lúc bấy giờ nỗi lòng chan chứa, vì trót lỡ lời, nên trong bụng rất là hối hận. Sau thấy Đại Ngọc dí một cái, không nói ra lời, đành chỉ ngậm ngùi than khóc. Trong bụng thương cảm, Bảo Ngọc lại nước mắt ròng ròng chảy xuống, muốn lấy khăn lau nước mắt, nhưng lại quên không mang đi, liền lấy ống tay áo lau.

Đại Ngọc đương khóc, thấy Bảo Ngọc lấy vạt áo the cải hoa sen mới toanh ra lau nước mắt, liền vừa lau nước mắt, vừa quay đi lấy khăn lụa ở trên gối vứt vào lòng Bảo Ngọc, không nói một câu, rồi lại che mặt khóc. Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vứt cho cái khăn, liền cầm lấy chùi nước mắt rồi xích lại gần, giơ tay kéo một tay Đại Ngọc cười nói:

– Ruột gan anh nát nhừ ra cả rồi, em còn cứ khóc làm gì mãi? Thôi đi đi, chúng ta cùng đến thăm bà.

Đại Ngọc hất tay ra nói:

– Ai kéo co với anh! Bây giờ lớn rồi, anh cứ giở cái thói cợt nhả ấy ra, không biết điều gì cả.

Nói chưa dứt lời, đã thấy có tiếng the thé ở ngoài: “Khá nhỉ!” Trong lúc bất ngờ, hai người đều giật nẩy mình, quay lại nhìn, thấy Phượng Thư đã đến, cười nói:

– Bà đương kêu trời kêu đất kia kìa, bảo chị lại xem các em đã làm lành với nhau chưa? Chị bảo không cần, chỉ độ vài hôm là họ lại tử tế với nhau đấy thôi. Bà mắng chị, bảo chị lười. Bây giờ chị đến, quả nhiên đúng như lời chị nói. Chị chẳng thấy các em có điều gì đáng cãi nhau cả, thế mà cứ ba ngày yêu quí nhau, lại hai ngày giận dỗi nhau, càng lớn càng quá trẻ con. Bây giờ cầm tay nhau mà khóc, thế thì hôm nọ tại sao lại như hai con gà chọi ấy? Thôi các em hãy theo chị sang thăm bà để cụ già được yên tâm.

Phượng Thư liền kéo Đại Ngọc đi.

Đại Ngọc quay lại gọi bọn a hoàn, nhưng chẳng thấy người nào.

Phượng Thư nói:

– Lại gọi chúng nó làm gì? Đã có tôi hầu cô đây.

Liền kéo Đại Ngọc đi. Bảo Ngọc chạy theo sau.

Họ ra khỏi vườn, đến thẳng nhà Giả mẫu, Phượng Thư cười nói:

– Cháu đã bảo không cần phải lo nghĩ hộ họ, tự họ sẽ tử tế với nhau. Bà không tin, nhất định bắt cháu phải đi dàn hòa, khi cháu đến nơi, đã thấy hai người ngồi xúm lại một chỗ, xin lỗi lẫn nhau, họ giữ chặt lấy nhau như móng chân diều hâu quắp gà con vậy. Thế thì còn cần ai đến dàn hòa nữa?

Câu nói ấy làm cho cả nhà cười ầm lên.

Bấy giờ Bảo Thoa đương ngồi đấy. Đại Ngọc không nói một câu gì, ngồi nhích lại gần Giả mẫu. Bảo Ngọc cũng không biết nói gì, liền quay lại nói với Bảo Thoa:

– Hôm sinh nhật anh Cả, tôi không được khỏe, lại không có gì đem đến mừng, cả đến cúi đầu chào cũng không có. Anh Tiết không biết tôi ốm, lại tưởng tôi tìm cớ thoái thác. Chị có gặp anh ấy, nhờ nói hộ cho tôi.

Bảo Thoa cười nói:

– Khéo hay vẽ chuyện. Dù anh có đến được cũng không dám làm phiền, huống chi người anh lại không được khỏe? Chỗ anh em cùng ở với nhau mà lại cứ để bụng những việc vặt ấy, thành ra xa nhau mất.

– Chị thể tất cho tôi được như thế là tốt rồi. Sao chị không ở lại nghe hát?

– Tôi sợ nóng, nghe được hai khúc, muốn đi ra, nhưng khách vẫn còn ngồi đông, nên tôi phải kiếu ốm, rồi đi ngay.

Bảo Ngọc nghe nói, tự nhiên thấy hơi ngượng, vội buột miệng cười nói:

– Chị người đẫy đả, thảo nào họ cứ ví chị với Dương quí phi.

Bảo Thoa nghe nói, bực lắm, định nói lại, nhưng không tiện; nghĩ một chốc, mặt đỏ bừng lên, liền cười nhạt:

– Tôi giống Dương quí phi, nhưng không có người anh em nào giỏi, có thể làm được Dương Quốc Trung.

Đương nói thì đứa hầu nhỏ là Tĩnh Nhi tìm không thấy cái quạt, cười hỏi Bảo Thoa:

– Chắc là cô giấu cái quạt của cháu, xin cô cho lại cháu.

Bảo Thoa trỏ vào mặt đứa hầu, quát mắng:

– Mày liệu hồn đấy! Mày đã thấy tao đùa với ai chưa? Mày hãy đi mà hỏi những cô nào ngày thường cứ hay tí toét cười đùa với mày ấy!

Tĩnh Nhi nghe xong, chạy mất.

Bảo Ngọc biết mình lại nói lỡ lời, bấy giờ đứng trước mặt nhiều người, càng thấy trơ trẽn, khó coi hơn là lúc va chạm với Đại Ngọc, liền lảng ra bắt chuyện với người khác.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc chế giễu Bảo Thoa, trong bụng lấy làm đắc ý, muốn nhân đó nói châm vào cho buồn cười, không ngờ Tĩnh Nhi tìm quạt, bị Bảo Thoa mắng cho mấy câu, Đại Ngọc liền đổi giọng hỏi:

– Chị Bảo, chị nghe hai khúc hát gì thế?

Bảo Thoa trông thấy Đại Ngọc ra vẻ đắc ý, đoán ngay là vừa rồi Đại Ngọc thích chí thấy Bảo Ngọc chế giễu mình, liền cười đáp:

– Tôi xem vở Lý Qùi mắng Tống Giang, sau lại đến xin lỗi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chị học rộng, chuyện cũ, chuyện mới hiểu nhiều, sao vở này chị lại không biết, nói ra một tràng như thế? Vở này gọi là vở Phụ kinh thỉnh tội 1 đấy.

Bảo Thoa cười nói:

– Thế ra vở này là Phụ kinh thỉnh tội à? Các người học rộng mới biết Phụ kinh thỉnh tội, chứ tôi thì biết sao được?

Bảo Ngọc và Đại Ngọc có tật giật mình, nghe chưa hết câu, mặt đã đỏ bừng lên.

Phượng Thư tuy không hiểu tại sao, thấy nét mặt ba người, cũng đã đoán được một phần, liền cười nói:

– Trời nóng thế này, ai lại ăn gừng sống thế?

Mọi người không hiểu, nói:

– Có ai ăn gừng sống đâu.

Phượng Thư cố ý lấy tay sờ lên má, tỏ vẻ ngơ ngác:

– Không ai ăn gừng sống, làm sao lại nóng ran thế này?

Bảo Ngọc, Đại Ngọc nghe thấy lại càng khó chịu. Bảo Thoa còn muốn nói nữa, nhưng thấy Bảo Ngọc đổi hẳn nét mặt, xem ra quá hổ thẹn, nên không tiện nói thêm, đành chỉ cười xòa một cái cho xong chuyện. Những người khác không hiểu ý bốn người này nói chuyện gì, cũng đều cười theo.

Một lúc, Bảo Thoa và Phượng Thư đi rồi, Đại Ngọc nói với Bảo Ngọc:

– Anh lại đụng phải con người ghê gớm hơn tôi rồi. Có ai dốt nát vụng về như tôi, cứ tha hồ cho người ta nói?

Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa hay để ý, bụng đã khó chịu rồi, giờ lại thấy Đại Ngọc cũng hay chấp nhặt, nên đành nín nhịn, buồn rầu đi ra.

Lúc này trời nóng, lại vừa ăn cơm sáng xong, các nơi cả thầy lẫn tớ đều thấy mỏi mệt trong quãng ngày dài. Riêng có Bảo Ngọc cứ chắp tay sau lưng đi loanh quanh, đến nơi nào cũng thấy lặng lẽ không một tiếng động. Từ nhà Giả mẫu ra, Bảo Ngọc rẽ sang phía tây, đi qua xuyên đường, đến sân nhà Phượng Thự Thấy cửa ngoài đóng, biết là thói quen của Phượng Thư, hễ đến mùa nực, buổi trưa là phải nghỉ một lúc, nên không tiện đi vào, Bảo Ngọc rẽ sang cửa bên, vào buồng Vương phu nhân, thấy mấy đứa a hoàn đương cầm kim chỉ ngủ gật. Vương phu nhân thì đang nằm ngủ ở giường mát trong nhà; Kim Xuyến ngồi bên cạnh bóp đùi cho bà ta, mắt cũng đang lim dim. Bảo Ngọc rón rén đi đến trước mặt nó, nắm cái hạt châu đeo tai và giật nhẹ một cái. Kim Xuyến mở bừng mắt nhìn. Bảo Ngọc khẽ cười hỏi:

– Buồn ngủ quá thế kia à?

Kim Xuyến mím môi cười, hất tay Bảo Ngọc ra, lại nhắm mắt lại. Bảo Ngọc trông thấy Kim Xuyến, có ý quyến luyến không muốn rời, liền ngoái đầu nhìn Vương phu nhân, thấy vẫn nhắm mắt. Bảo Ngọc mở cái túi ở trong mình, lấy một viên thuốc hương huyết nhuận tân 2 ra, đút vào mồm Kim Xuyến. Kim Xuyến cũng không mở mắt, ngậm mồm lại.

Bảo Ngọc lại gần nắm lấy tay Kim Xuyến khẽ cười nói:

– Ta sẽ nói với bà xin chị về để chúng ta cùng ở chung với nhau.

Kim Xuyến không trả lời. Bảo Ngọc lại nói:

– Chờ bà dậy, ta sẽ nói.

Kim Xuyến mở mắt đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói:

– Việc gì mà phải vội thế. Tục ngữ có câu: “Cái trâm vàng rơi xuống giếng, đã về ai thì chỉ là của người ấy thôi”. Chả lẽ cậu còn chưa hiểu sao? Tôi bảo cậu việc này hay hơn: cậu đi sang nhà bên đông mà bắt cậu Hoàn và chị Thái Vân.

Bảo Ngọc cười nói:

– Họ làm gì mặc họ. Chúng ta chỉ nói việc chúng ta thôi.

Bỗng Vương phu nhân trở mình dậy, tát vào mặt Kim Xuyến một cái và mắng:

– Con đĩ hèn hạ này! Các cậu nhà này đều bị chúng mày làm hư hỏng cả!

Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân dậy, chạy biến mất.

Kim Xuyến một bên má đỏ ửng lên, không dám nói câu gì. Bọn a hoàn thấy Vương phu nhân dậy, đều chạy đến.

Vương phu nhân liền gọi Ngọc Xuyến đến bảo:

– Gọi mẹ mày đến mang chị mày về.

Kim Xuyến nghe thấy nói thế, vội quì xuống khóc:

– Từ rày con không dám thế nữa, xin bà cứ việc đánh, cứ việc chửi, nhưng đừng đuổi con như thế, thì con đội ơn bà như trời như bể. Con theo hầu bà đã mười năm nay, bây giờ bà đuổi con về, con còn mặt mũi nào trông thấy người ta nữa?

Vương phu nhân vốn người hiền lành, chưa từng đánh a hoàn bao giờ, nay thấy Kim Xuyến làm việc vô sỉ, giận quá, không nén được, liền tát nó một cái, mắng nó mấy câu. Kim Xuyến van xin cũng không cho ở lại, cuối cùng bắt mẹ nó là bà già họ Bạch mang nó về. Kim Xuyến đành phải ngậm hờn nuốt tủi đi ra.

Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân dậy, cụt hứng, chạy về vườn Đại Quan, thấy ánh nắng chói trời, bóng cây rợp đất, chung quanh im lặng, chỉ nghe tiếng ve kêu mà thôi. Đi đến dưới giàn tường vi, có tiếng người thổn thức, Bảo Ngọc nghi hoặc, đứng lại lắng nghe, quả nhiên thấy một người ngồi đó. Bấy giờ khoảng giữa tháng năm, cây tường vi đang hoa lá tốt tươi. Bảo Ngọc khe khẽ đứng ngoài nhìn vào, thấy ở dưới giàn hoa một cô gái bé đương ngồi xổm, tay cầm cái trâm cài đầu vạch xuống đất, lặng lẽ chảy nước mắt. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Không có lẽ con bé thơ dại này cũng học cô Tần chôn hoa chăng?” Rồi lại than thở: “Nếu quả thật nó cũng chôn hoa, thì khác nào nàng Đông Thi bắt chước nhăn mặt 3 không những chẳng có gì lạ, lại đáng chán là khác!” Nghĩ xong liền gọi cô con gái kia bảo:

– Cô đừng nên bắt chước cô Lâm nhé!

Nói chưa dứt lời, ngoảnh lại nhìn kỹ, thấy người này lạ mặt, không phải a hoàn, mà là người trong đám mười hai cô học hát. nhưng không rõ đóng vai “nam” hay “nữ”, “lão” hay “hề”.

Bảo Ngọc lè lưỡi, bịt mồm lại, nghĩ bụng: “May mà mình không hấp tấp. Hai lần trước cũng vì hấp tấp làm cho cô Tần tức giận, Bảo Thoa nghi ngờ. Bây giờ mình còn mắc lỗi với bọn họ, lại càng thêm khó xử”. Vừa nghĩ vừa bực mình, không nhận ra được người đó là ai. Lại để ý ngắm kỹ, thấy người này mày xanh như núi mùa xuân, mắt sáng như sóng mùa thu, mặt nõn nà, lưng thon thon, vẻ người óng ả thướt tha, không khác gì Đại Ngọc. Bảo Ngọc không nỡ rời bước, đứng ngây người ra, thấy nó đương cầm cái trâm vàng, không phải là đào đất chôn hoa, mà là vạch chữ.

Bảo Ngọc nhìn kỹ cái trâm đưa đẩy từng vạch, từng chấm từng móc, tính tất cả là mười tám nét; liền lấy ngón tay theo thế viết vào trong lòng bàn tay mình để đoán ra chữ gì? Nghĩ mãi mới biết nó viết chữ “tường” của hoa tường vị Bảo Ngọc lại nghĩ: “Nhất định nó đang làm thơ làm từ gì đây. Bây giờ nó trông thấy hoa, lòng cảm xúc, trong khi cao hứng, nẩy ra mấy vần, lại sợ quên, nên vạch xuống đất để đắn đo cân nhắc, cũng chưa biết chừng! Ta hãy chờ xem nó còn viết thêm những chữ gì”. Vừa nghĩ vừa nhìn, thấy cô này vạch đi vạch lại, quanh quẩn vẫn là chữ “tường”.

Một người thì ngồi ngây ra vạch chữ “tường”, vạch đi vạch lại đến mấy mươi lần; một người đứng ngoài cũng ngây ra, hai mắt chòng chọc nhìn cái trâm đưa đẩy. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Con bé này nhất định có tâm tư thầm kín gì đây. Nhìn bộ dạng này, chắc nó có bao điều buồn bực nấu nung! Người nó mỏng mảnh yếu ớt như thế, thì chịu sao được những sự dằn vặt ấy? Tiếc rằng ta không thể chịu đỡ được cho nó một phần”.

Về mùa này, mưa nắng thất thường, hễ một đám mây nhỏ kéo đến là có thể mưa ngaỵ Bỗng đâu cơn gió nổi lên, trận mưa ầm ầm như trút nước. Bảo Ngọc trông thấy cô bé bị những giọt mưa từ trên nhỏ xuống, quần áo ướt đẫm, liền nghĩ: “Thân hình nó thế kia, chịu sao nổi trận mưa rào bắn xói vào người?” Không thể nín được, Bảo Ngọc gọi ngay:

– Thôi đừng viết nữa, người ướt hết cả rồi.

Cô bé nghe nói giật mình, ngẩng đầu nhìn, thấy người bảo đừng viết ấy đương đứng ngoài giàn hoa. Một là vì Bảo Ngọc nét mặt xinh đẹp; hai là vì hoa lá um tùm, chỉ hở có một nửa mặt, nên người con gái cho là một chị a hoàn nào, chứ không biết là Bảo Ngọc. Nó liền cười nói:

– Cảm ơn chị nhắc bảo chọ Nhưng không lẽ ngoài ấy lại có cái gì che mưa chăng?

Bảo Ngọc tỉnh người, kêu một tiếng, mới thấy lạnh buốt toàn thân. Cúi đầu nhìn mình, cũng ướt hết, liền kêu: “Hỏng rồi!” Rồi chạy một mạch về viện Di Hồng, trong lòng vẫn áy náy về con bé ấy không có chỗ tránh mưa.

Hôm sau là tiết Đoan dương, mười hai cô hát trong bọn Văn Quan đều được nghỉ học, ra vườn chơi. Bảo Quan đóng vai nam, Ngọc Quan vai nữ, đều đến chơi đùa với Tập Nhân ở viện Di Hồng. Gặp mưa, mọi người đóng cửa lại, lấp các cống cho nước đọng đầy sân, rồi đuổi bắt le vịt, khâu cánh, thả ở sân chơi. Tập Nhân thì ngồi ở ngoài hiên cười đùa.

Bảo Ngọc thấy cửa đóng, liền lấy tay đấm. Người trong nhà đang mải cười đùa, không ai để ý đến. Một lúc lâu, trong nhà nghe thấy tiếng đập cửa thình thình, ai nấy đều cho là không khi nào Bảo Ngọc lại về lúc này. Tập Nhân cười nói:

– Ai lại gọi cửa bây giờ? Không mở được.

Bảo Ngọc nói:

– Tôi đây.

Xạ Nguyệt nói:

– Hình như tiếng cô Bảo.

Tình Văn nói:

– Nói bậy! Cô Bảo đến làm gì?

Tập Nhân nói:

– Để tôi ra khe cửa nhìn xem, đáng mở thì mở, không nên để cho họ phải dầm mưa.

Nói xong liền theo đường hành lang nhìn ra ngoài, thấy Bảo Ngọc ướt như chuột lột, Tập Nhân vừa hoảng sợ, vừa buồn cười, vội ra mở cửa, cúi lưng, vỗ tay nói:

– Ai biết đâu bây giờ cậu về? Sao mưa to thế mà cũng đi?

Bảo Ngọc trong bụng đang bực tức, chỉ định có người ra mở cửa là đá cho mấy cái. Cửa vừa mở, Bảo Ngọc không cần nhìn xem ai, cứ tưởng là một a hoàn nào, liền đá một cái vào cạnh sườn. Tập Nhân kêu “Ối chà!” một tiếng. Bảo Ngọc còn mắng thêm:

– Đồ hèn mạt! Ngày thường tao đối đãi tử tế, chúng mày nhờn quen, càng ngày càng mang tao ra làm trò cười!

Nói xong, nhìn xuống, thấy Tập Nhân khóc, mới biết mình đá nhầm, vội cười nói:

– Ối chà! Chị đấy à? Tôi đá phải chỗ nào đấy?

Xưa nay Tập Nhân chưa bị đánh mắng lần nào; nay thấy Bảo Ngọc phát cáu trước mặt mọi người, đá mình một cái, thì vừa xấu hổ vừa tức giận, lại vừa đau. Muốn sinh chuyện, nhưng lại nghĩ: chưa chắc Bảo Ngọc đã định tâm đá mình, nên đành nén bụng nói: “Cậu có đá trúng tôi đâu, sao cậu không về thay áo quần đỉ”

Bảo Ngọc vào buồng, cười nói:

– Tôi từ bé đến giờ, lần này mới là lần đầu phát cáu đánh người, không ngờ lại đánh nhầm phải chị!

Tập Nhân cố chịu đau, đi thay quần áo cho Bảo Ngọc, cười nói:

– Tôi là người đầu, thì bất cứ việc lớn nhỏ, hay dở, đều tự tôi mà ra. Nhưng cậu cũng đừng nghĩ đánh được tôi rồi sau này quen tay đi cứ đánh bừa.

– Vừa rồi quả tôi không chủ ý nào.

– Ai bảo cậu chủ ý? Xưa nay việc đóng cửa, mở cửa vẫn giao cho bọn hầu nhỏ. Chúng nó hỗn láo quen, nhiều lần làm cho người ta phải tức lên, thế mà chúng nó chẳng biết sợ hãi là cái gì. Nếu chính chúng nó ra mở cửa, cậu đá cũng lả phải. Nhưng vừa rồi vì tôi dở hơi, không để cho chúng nó ra mở.

Trời tạnh mưa, bọn Bảo Quan, Ngọc Quan đều về cả, Tập Nhân thấy đau ở cạnh sườn, trong lòng rộn rực, liền bỏ bữa cơm chiều không ăn. Đến tối, cởi quần áo ra, thấy bên cạnh sườn có một chỗ tím to bằng cái bát, Tập Nhân giật mình sợ hãi, nhưng không tiện nói ra, đến lúc đi ngủ vẫn thấy đau. Trong khi mơ màng, thỉnh thoảng lại thốt ra một tiếng kêu “ối chà!”

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân ra dáng mệt mỏi, trong bụng không đành. Đến nửa đêm, lại nghe tiếng kêu, biết Tập Nhân bị đá mạnh quá, Bảo Ngọc trở dậy, khẽ cầm đèn lại soi. Đến cạnh giường, thấy Tập Nhân ho lên hai tiếng, nhổ ra một cục đờm, rồi lại kêu “ối chà”. Tập Nhân mở mắt nhìn, thấy Bảo Ngọc, giật mình hỏi:

– Cậu làm gì thế?

– Trong khi ngủ, chị cứ kêu luôn, tất là bị đá đau lắm,để tôi xem thế nào.

– Tôi nhức đầu lắm, cổ họng lại lờm lợm có mùi tanh, cậu thử soi xuống đất xem.

Bảo Ngọc nghe nói, cầm đèn soi, thấy một cục máu tươi, sợ hãi nói:

– Thôi thế này thì nguy mất.

Tập Nhân thấy thế, lạnh đi một nửa người.

1      Mang roi đến chịu tội. Đời Chiến quốc, Liêm Pha mang roi từ nhà đến xin lỗi Lạn Tương Như.

2      Một viên thuốc trắng và thơm để thấm nhuần nước bọt.

3      Đời Chiến quốc có nàng Tây Thi, nhan sắc tuyệt vời, khi nhăn mặt lại càng đẹp. Ở phía đông trong làng có một người con gái rất xấu, thấy thế cũng bắt chước. Nhưng khi cô ta nhăn mặt, người giàu trông thấy phải đóng cửa, không dám nhìn, người nghèo trông thấy phải đem cả vợ con trốn đi nơi khác.

_________________

Chương 31: Xé tan cái quạt, nghìn vàng mua lấy một trận cười – Điềm ứng kỳ lân, hai sao gặp nhau khi đầu bạc

Xé tan cái quạt, nghìn vàng mua lấy một trận cười

Điềm ứng kỳ lân, hai sao gặp nhau khi đầu bạc

1 Tập Nhân thấy mình khạc máu tươi ra đất thì lạnh hẳn một nửa người. Cô ta thường ngày nghe người ta nói: “Lúc trẻ mà thổ huyết, thì sẽ chết non, có sống chăng nữa, cũng là người bỏ đi”. Nghĩ vậy, những chuyện mong ước vẻ vang sung sướng mai sau, bất giác lạnh hẳn như đống tro tàn, nước mắt cô ta ở đâu lại ròng ròng chảy xuống. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân khóc, bụng cũng chua xót, liền hỏi:

– Chị thấy trong người thế nào?

Tập Nhân cười gượng:

– Người tôi vẫn khỏe, có việc gì đâu?

Bảo Ngọc định lập tức sai người hâm rượu, lấy huyết sơn dương và thuốc viên lê động đến. Tập Nhân kéo tay lại, cười nói:

– Việc không cần mà cậu cứ làm nhộn lên, phiền đến mọi người, rồi họ lại oán tôi là nông nổi. Bây giờ không ai hay cả, cậu cứ làm ồn lên, người ta biết thì cậu và tôi đều không hay ho gì. Ngày mai cậu nên cho một đứa bé đi mời ông lang họ Vương cho tôi uống một thang thuốc là khỏi. Như thế thì không ai biết, chẳng hơn hay sao?

Bảo Ngọc nghe nói có lý, liền thôi không gọi ai, tự mình đến bàn, rót chén nước đưa cho Tập Nhân súc miệng.

Tập Nhân biết Bảo Ngọc không đành dạ, nếu không để cậu ta chăm sóc mình, chắc sẽ không nghe, lại làm bận rộn đến người khác, chi bằng cứ để mặc kệ đấy. Vì thế Tập Nhân ngồi tựa trên giường, mặc cho Bảo Ngọc phục dịch.

Trời vừa sáng, Bảo Ngọc không kịp rửa mặt chải đầu, vội mặc áo đi mời Vương Tế Nhân. Vương đến, hỏi cặn kẽ đầu đuôi, biết nguyên do bệnh này chẳng qua bị thương tổn chút ít thôi. Vương liền cho ít thuốc viên, chỉ bảo cách dùng, cách uống và xoa. Bảo Ngọc nhớ lấy, về trong vườn cứ theo thế điều trị.

Hôm ấy chính là tiết Đoan dương, người ta dùng cành ngải treo cửa và bùa dấu đeo taỵ Đúng giờ Ngọ, Vương phu nhân sửa tiệc rượu mời mẹ con họ Tiết đến ăn tết. Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa lạnh nhạt, không trò chuyện với mình, biết là vì việc hôm nọ. Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc buồn chán, cho là vì việc Kim Xuyến hôm trước, có ý bẽn lẽn, nên không muốn hỏi. Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc ngồi thừ ra đấy, cho là vì hôm nọ có lỗi với Bảo Thoa, trong bụng khó chịu, cho nên dáng người uể oải. Phượng Thư thì vì chiều hôm trước Vương phu nhân kể lại cho nghe chuyện Bảo Ngọc với Kim Xuyến, biết là Vương phu nhân không vui, khi nào mình còn dám cười nói, nên lẳng lặng theo Vương phu nhân, bảo gì làm nấy. Chị em Nghênh Xuân thấy ai nấy buồn tẻ, thì cũng không vui. Vì thế họ ngồi một lúc rồi tản đi mỗi người mỗi ngả.

Đại Ngọc xưa nay chỉ thích tan chứ không thích tụ, điều đó cũng có lý, Đại Ngọc nói: “Người ta có họp thì phải có tan, lúc họp thì vui, đến khi tan, thì tránh sao khỏi buồn? Đã buồn thì đâm ra thương nhớ, chi bằng không họp nữa là hơn. Cũng như đóa hoa, khi nở thì người ta yêu mến, đến khi tàn càng khiến người ta thương tiếc, chẳng thà đừng nở là hơn”. Vì thế khi người ta cho là vui, thì cô ta lại đâm ra buồn. Tính tình Bảo Ngọc lại chỉ muốn cho người thường họp mà đừng tan, hoa thường nở mà đừng tàn; đến khi tiệc tan hoa tàn, dù có thương tiếc muôn phần, cũng không thể kéo lại. Vì thế bữa tiệc hôm nay mọi người đều cụt hứng ra về, Đại Ngọc thì không sao, nhưng Bảo Ngọc lại rất buồn rầu, về buồng than dài thở vắn.

Vừa khi Tình Văn đem quần áo lại cho Bảo Ngọc thay, đánh rơi cái quạt xuống đất, làm gãy một nan xương.

Bảo Ngọc liền mắng:

– Đồ ngu! Đồ ngu! Không biết sau này làm ăn ra thế nào? Mai kia chị một mình đương lấy cơ nghiệp, không lẽ việc gì cũng không suy trước tính sau hay sao?

Tình Văn cười nhạt:

– Cậu Hai độ này đâm ra nóng nẩy quá, cũng nên nể mặt nhau một tí. Hôm nọ cậu đã đánh chị Tập Nhân, hôm nay lại xoi mói cả tôi. Muốn đấm đá ai là tùy ở cậu. Tôi chỉ đánh rơi một cái quạt thôi, có phải việc lớn lao gì cho cam. Khi trước biết bao nhiêu người đánh rơi đánh vỡ: nào bình pha lê, nào bát mã não, chẳng thấy cậu gắt bao giờ; nay có cái quạt mà cậu làm ra như vậy? Nếu không bằng lòng thì cậu đuổi ngay chúng tôi đi, tìm người khác giỏi thạo hơn đến hầu rồi cho chúng tôi ra, mỗi người mỗi ngả, chẳng hay hơn sao?

Bảo Ngọc nghe nói, tức run người lên, nói:

– Chị không phải lo, rồi cũng có ngày mỗi người mỗi ngả.

Tập Nhân ở bên kia nghe thấy, vội chạy ra nói với Bảo Ngọc:

– Tự dưng vô cớ, sao lại như thế? Tôi đã bảo mà, hễ vắng tôi lúc nào là y như có chuyện.

Tình Văn cười nhạt:

– Chị đã biết thế sao không đến mau, để cậu ấy khỏi phải sinh bực. Từ trước đến nay chỉ có một mình chị là biết hầu hạ cậu ấy thôi, còn chúng tôi có biết cái gì đâu. Chỉ vì chị hầu hạ khéo nên hôm nọ mới bị đá vào bụng! Chúng tôi vụng dại thế này, không biết rồi ra sẽ còn phạm những tội lỗi gì!

Tập Nhân nghe mấy câu ấy, vừa bực tức, vừa xấu hổ, muốn nói lại, nhưng thấy Bảo Ngọc giận quá tái mặt lại, nên đành phải dịu lời, nói:

– Em ơi! Hãy ra ngoài kia, đó là chúng tôi không phải với em đấy.

Tình Văn nghe thấy hai tiếng “Chúng tôi”, cho ngay là Tập Nhân muốn nói cô ta với Bảo Ngọc, trong bụng đâm ra ghen, liền cười nhạt mấy tiếng:

– Tôi chả biết ai là “Chúng tôi” cả, đừng để tôi phải hổ thẹn thay cho ai! Các người làm những việc thầm kín với nhau, giấu thế nào được tôi! Tôi cứ nói thẳng: ngay các cô nhà này cũng còn chưa với lên được, huống chi chị cũng như tôi, thế mà lại dám gọi “Chúng tôi” à?

Tập Nhân xấu hổ quá, tím bầm mặt lại, biết mình nói nhầm. Bảo Ngọc nói:

– Các chị đứng tức khí nhau nữa, ngày mai tôi sẽ cất nhắc chị lên.

Tập Nhân vội kéo tay Bảo Ngọc nói:

– Chị ta là người hồ đồ, phân trần phải trái làm gì. Vả chăng cậu xưa nay là người có lòng, những việc to hơn nữa cũng còn bỏ qua, sao hôm nay lại thế?

Tình văn cười nhạt:

– Tôi vốn là người hồ đồ, ai thèm nói chuyện với tôi.

Tập Nhân nói:

– Chị cãi nhau với tôi hay là cãi nhau với cậu Hai? Nếu là giận tôi thì chị chỉ nên nói tôi thôi, đừng đả động đến cậu ấy, nếu giận cậu ấy thì không nên nói ầm lên cho mọi người biết. Vừa rồi tôi muốn đến dàn xếp, khuyên giải cho êm cửa êm nhà, thế mà chị lại kiếm chuyện vặc nhau cả với tôi! Chị chẳng ra giận tôi, cũng chẳng ra giận cậu Hai, cứ bắt quàng bắt xiên, hết chuyện này sang chuyện nọ. Ý chị định thế nào? Thôi tôi không nói nữa, để phần chị nói.

Tập Nhân liền chạy ra ngoài.

Bảo Ngọc bảo Tình Văn:

– Chị không cần phải cáu kỉnh nữa, tôi đoán được bụng chị rồi. Tôi sẽ trình với bà: giờ chị đã lớn, nên cho chị về, chị có bằng lòng không?

Tình Văn nghe vậy, trong lòng đau xót, liền rơm rớm nước mắt, nói:

– Việc gì tôi phải về? Cậu ghét tôi, tìm cách đuổi tôi đấy thôi, như vậy sao đành?

Bảo Ngọc nói:

– Tôi chưa hề thấy có chuyện cãi cọ nhau như thế này bao giờ. Nhất định là chị muốn về. Tôi sẽ trình với bà cho chị về là yên chuyện.

Nói xong đứng dậy chực đi ngay.

Tập Nhân vội kéo Bảo Ngọc lại nói:

– Cậu định đi đâu đấy?

Bảo Ngọc nói:

– Tôi đi trình bà đây.

Tập Nhân cười nói:

– Cậu thật chẳng có ý tứ gì cả! Cậu đi trình sẽ làm chị ấy xấu hổ. Nếu quả chị ấy muốn về, thì hãy chờ khi hết hẳn cơn giận đã, lúc nào sẽ trình với bà cũng chưa muộn. Bây giờ cậu cho là việc chính, hấp tấp đi trình ngay, chẳng làm bà sinh nghi hay sao?

Bảo Ngọc nói:

– Bà không ngờ đâu, tôi sẽ nói rõ là chị ấy sinh chuyện để đòi về đấy thôi.

Tình Văn khóc lóc:

– Tôi sinh chuyện để đòi về bao giờ? Cậu giận tôi, kiếm chuyện để dọa nạt tôi. Cậu cứ đi mà trình: tôi thà đập đầu chết ngay ở đây, chứ không chịu ra khỏi nhà này.

Bảo Ngọc nói:

– Thế mới lạ chứ! Chị không về, lại cứ sinh chuyện lôi thôi mãi. Thế này tôi không chịu nổi, chị về đi cho yên chuyện!

Nói xong nhất định đi trình.

Tập Nhân thấy ngăn không nổi, đành phải quỳ xuống. Bọn Bích Ngân, Thu Vân, Xạ Nguyệt thấy mấy người cãi nhau dữ quá, đều cứ lẳng lặng đứng ở ngoài nghe. Sau thấy Tập Nhân quỳ xuống van xin, họ liền rủ nhau quỳ cả xuống. Bảo Ngọc vội đỡ lấy Tập Nhân dậy, thở dài một cái, ngồi phịch xuống giường, bảo mọi người đứng cả dậy; rồi nói với Tập Nhân:

– Bây giờ bảo tôi làm thế nào cho phải đây? Lòng tôi vỡ rạn cả rồi, có ai biết cho đâu?

Nói xong nước mắt tràn ra. Thấy Bảo Ngọc chảy nước mắt, Tập Nhân cũng khóc. Tình Văn đứng bên cạnh cũng khóc. Bỗng thấy Đại Ngọc đến, Tình Văn liền đi ra.

Đại Ngọc cười nói:

– Khéo chưa, ngày tết có việc gì mà khóc thế? Hay là tranh nhau ăn bánh chưng, rồi giận nhau đấy?

Bảo Ngọc và Tập Nhân đều cười. Đại Ngọc nói:

– Anh Hai ơi, chả đợi anh nói em cũng đã biết cả rồi.

Đại Ngọc lại vỗ vào vai Tập Nhân cười nói:

– Thưa bà chị dâu, cho em biết với, tất là hai anh chị đương cãi nhau, nếu chị nói với em, em sẽ dàn hòa giùm cho.

Tập Nhân đẩy Đại Ngọc ra nói:

– Thưa cô, cô nói nhảm gì thế? Tôi đây chỉ là một đứa con hầu thôi.

Đại Ngọc cười nói:

– Chị bảo chị là con hầu, nhưng em coi chị như là chị dâu.

Bảo Ngọc nói:

– Vạ gì mà em cứ hay khoác chuyện dở cho chị ấy. Thôi đừng như thế. Nếu ai nói câu ấy, em nên ngăn đi mới phải, thế mà bây giờ lại chính tự miệng em nói ra.

Tập Nhân cười nói:

– Cô ơi! Cô không biết bụng tôi, chỉ khi nào tắt thở, chết đi là xong chuyện!

Đại Ngọc cười nói:

– Chị mà chết thì không biết người khác thế nào, chứ tôi thì tôi cũng phải khóc đến chết thôi.

Bảo Ngọc nói:

– Chị mà chết thì tôi đi tu.

Tập Nhân nói:

– Cậu nên đứng đắn một chút. Sao lại nói nhảm thế.

Đại Ngọc giơ hai ngón tay lên, bĩu môi cười nói:

– Hai lần đi tu rồi đấy nhé! Từ giờ trở đi, tôi sẽ xem, liệu anh ấy làm hòa thượng mấy lần.

Bảo Ngọc biết Đại Ngọc lại nói móc mình câu chuyện hôm trước, nên chỉ cười thôi.

° ° °

Một lúc Đại Ngọc đi rồi, có người đến nói: “Cậu Tiết mời”. Bảo Ngọc đi ngay, vì biết Tiết Bàn mời uống rượu, không thể từ chối được. Mãi chiều tan tiệc mới về. Bảo Ngọc đang ngà ngà say, lảo đảo về đến sân, thấy đã đặt sẵn cái giường tựa để hóng mát, lại có người nằm ngủ ngay đó. Bảo Ngọc tưởng là Tập Nhân, liền ngồi cạnh giường lay dậy hỏi: “Đỡ đau chưa?” Người kia vùng dậy nói: “Sao, lại còn gọi tôi làm gì?”.

Bảo Ngọc nhìn lại, không phải Tập Nhân, mà chính là Tình Văn. Bảo Ngọc kéo Tình Văn ngồi bên cạnh, cười nói:

– Chị càng ngày càng làm nũng quen thân. Sớm hôm nay chị đánh rơi cái quạt, tôi nói vài câu, thế mà chị dám cãi lại những lời như vậy. Chị nói tôi đã đành, chị Tập Nhân có bụng tốt đến can, chị lại vặc nhau cả với chị ấy. Chị nghĩ xem thế có đúng không?

Tình Văn nói:

– Nóng nực thế này, cứ lôi lôi kéo kéo làm gì thế! Lỡ ra người ta trông thấy thì còn ra làm sao nữa! Thân tôi vốn không đáng ngồi ở đây!

Bảo Ngọc cười nói:

– Đã biết là không đáng thì sao lại nằm xuống đây?

Tình Văn chẳng biết trả lời thế nào, cười khì một cái rồi nói:

– Cậu không đến đây thì được, chứ đã đến thì tôi không xứng đáng. Thôi tôi dậy để đi tắm rửa đây. Chị Tập Nhân và chị Xạ Nguyệt đã tắm rửa cả rồi, tôi sẽ gọi lại cho cậu.

Bảo Ngọc cười nói:

– Tôi vừa mới uống rượu xong, cũng muốn rửa. Nếu chị chưa rửa, thì xách nước lại đây, hai chúng ta cùng rửa.

Tình Văn xua tay cười nói:

– Thôi! Thôi! Tôi chả dám đụng tới ông trẻ. Còn nhớ hôm nào chị Bích Ngân hầu cậu tắm rửa, chẳng biết làm những trò gì, cho đến hai ba giờ, chúng tôi không tiện vào đấy. Khi tắm xong, vào xem, thấy nước ở dưới đất, ngấm ướt cả đến chân giường, ngay trên chiếu cũng dầm dề cả nước, chẳng biết tắm rửa ra thế nào. Chúng tôi đã cười với nhau trong mấy hôm liền. Tôi chẳng hơi đâu đi lấy nước, mà cậu cũng không cần tắm chung với tôi. Hôm nay mát trời, tôi cũng không tắm đâu, để tôi đi múc một chậu nước đến cậu rửa mặt, chải đầu thôi. Vừa rồi Uyên Ương đem cho mấy thứ quả tươi ướp trong lọ thủy tinh kia, cậu bảo họ mang đến cho cậu ăn không hơn à?

Bảo Ngọc cười nói:

– Đã như thế, chị không tắm, thì đi rửa tay, mang thứ quả ấy đến cho tôi ăn.

Tình Văn nói:

– Đã bảo tôi là hạng ngu xuẩn, cầm cái quạt cũng đánh rơi gãy, đáng đâu lấy quả cho cậu ăn, lỡ ra đánh vỡ cả khay, thì lại càng to chuyện.

Bảo Ngọc cười nói:

– Các đồ vật cốt để cho người ta dùng thôi, chị thích đập cái gì cứ việc mà đập. Chị thích cái này, tôi thích cái kia, mỗi người đều có một ý thích. Ví như cái quạt cốt là để quạt, chị thích xé nó ra mà chơi thì cứ việc xé, nhưng đừng nhân lúc giận mà đem xé nó ra cho hả. Cũng như cái chén, cái khay, cốt để đựng các đồ vật, nếu chị thích nghe tiếng vỡ, thì cứ đập đi cũng được, đừng nên nhân khi tức giận mà đập. Thế cũng là biết yêu đồ vật đấy.

Tình Văn cười nói:

– Đã thế cậu đưa cái quạt đây cho tôi xé, tôi thích nghe tiếng xé lắm.

Bảo Ngọc đưa cái quạt cho Tình Văn. Quả nhiên “Xoạt” một tiếng, cái quạt bị xé ra làm đôi, rồi cứ “Xoạt xoạt” luôn mấy tiếng nữa.

Bảo Ngọc đứng cạnh cười nói:

– Tiếng xé hay đấy! Xé nữa mà nghe.

Xạ Nguyệt ở đâu chạy đến, trừng mắt nhìn, gắt lên:

– Ác nghiệt vừa vừa chứ!

Bảo Ngọc giật ngay lấy cái quạt ở tay Xạ Nguyệt, đưa cho Tình Văn. Tình Văn cầm lấy xé ra làm mấy mảnh, rồi hai người cười ầm lên.

Xạ Nguyệt nói:

– Thế là thế nào? Lại đem cái quạt của tôi ra làm trò đùa đấy à?

Bảo Ngọc cười nói:

– Chị mở cái hộp quạt của tôi ra chọn lấy một cái mà dùng. Qúi hoá gì cái này?

– Đã thế thì mang hết cả quạt ra đây để tha hồ cho chị xé có được không?

– Chị vào mang cả ra đây.

– Không khi nào tôi làm trò tai ác như thế. Tay chị ta chưa què thì tự đi mà lấy.

Tình Văn cười rồi tựa vào giường nói:

– Giờ tôi mệt rồi, ngày mai lại xé.

Bảo Ngọc cười nói:

– Người xưa có câu “Nghìn vàng khó mua được một tiếng cười” mấy cái quạt có đáng là bao?

Bảo Ngọc vừa nói vừa gọi Tập Nhân. Tập Nhân thay quần áo chạy ra. Giai Huệ, một a hoàn nhỏ đến nhặt các mảnh quạt rách mang đi, rồi mọi người ngồi hóng mát ở đấy.

O0o

Trưa hôm sau, Vương phu nhân và chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc đương ngồi ở trong buồng Giả mẫu, có người vào trình “Cô Sử đến”. Một lúc, Sử Tương Vân và nhiều a hoàn, vú bõ đi vào sân. Bọn Bảo Thoa, Đại Ngọc vội xuống thềm đón. Chị em bạn trẻ hàng tháng vắng mặt, bây giờ gặp nhau, tất nhiên là vui vẻ thân mật. Một lúc vào trong buồng, đi chào hỏi mọi người.

Giả mẫu liền bảo:

– Trời nóng nực thế này, cháu cởi bớt quần áo ngoài ra.

Tương Vân vội đứng dậy cởi áo.

Vương phu nhân cười nói:

– Chả thấy ai mặc như thế cả. Mặc vào để làm gì?

Tương Vân cười nói:

– Đó là thím Hai bảo cháu mặc đấy, chứ cháu có muốn mặc những thứ này đâu!

Bảo Thoa đứng cạnh cười nói:

– Dì không biết cô Sử thích mặc cả quần áo của người khác nữa kia đấy. Còn nhớ kỳ tháng ba, tháng tư năm ngoái, khi cô ấy ở đây, đã mặc áo, đi cả giày, đeo cả thắt lưng của cậu Bảo. Thoạt nhìn, giống hệt cậu Bảo, chỉ khác hai bên tai đeo hoa thôi. Cô ấy đứng tựa ở sau ghế, làm cụ tưởng lầm cứ gọi: “Bảo Ngọc, cháu lại đây. Cẩn thận không thì cái đèn treo trên kia rơi tàn vào mắt đấy”. Cô ấy cứ đứng cười, không đi. Sau mọi người không nhịn được, cười phá lên, cụ cũng cười nói: “Nó ăn mặc giả trai càng dễ coi hơn”.

Đại Ngọc nói:

– Việc ấy đã thấm vào đâu? Hồi tháng giêng năm trước cô ta sang đây ở được vài ngày, trời xuống tuyết. Hôm ấy bà và mợ đi lễ tổ về, bà cởi cái áo khoác lông vườn màu đỏ ra. Lừa lúc bà không trông thấy, cô ấy mặc ngay vào người, vừa rộng vừa dài, lại lấy cái khăn thắt ngang lưng, rồi ra sân sau cùng bọn a hoàn đập tuyết chơi, không ngờ trượt chân ngã, bùn lấm khắp người.

Nói xong mọi người nhớ lại chuyện ấy, đều cười ầm lên.

Bảo Thoa cười hỏi vú Chu:

– Cô bé nhà vú độ này còn hay quấy nữa không?

Vú Chu chỉ cười. Nghênh Xuân cười nói:

– Hay quấy đã đành rồi, nhưng tôi lại ghét cô ta hay nói nhiều quá. Có khi đi ngủ vẫn còn lảm nhảm, hết nói lại cười, không biết những chuyện nhảm ấy từ đâu đem đến.

Vương phu nhân nói:

– Có lẽ bây giờ cháu đã khá rồi. Độ trước nghe nói có người đến xem mặt, thế là cháu đã sắp sửa về nhà chồng rồi, lẽ nào lại còn như trước.

Giả mẫu hỏi:

– Thế lần này sang chơi, cháu định ở lại hay về ngay?

Vú Chu cười nói:

– Cụ không thấy cô ấy đã mang cả quần áo sang đây, khi nào lại không ở chơi mấy ngày?

Tương Vân hỏi:

– Anh Bảo có ở nhà không?

Bảo Thoa cười nói:

– Cô ấy chẳng nhớ ai, chỉ nhớ cậu Bảo thôi. Vì hai người thích chơi đùa với nhau, thế thì vẫn chưa đổi được tính hay quấy.

Giả mẫu nói:

– Bây giờ các cháu đã lớn rối đừng gọi tên tục nhau ra nữa.

Vừa nói xong, thì Bảo Ngọc chạy đến cười nói:

– Em Vân đã sang đấy à? Hôm nọ anh cho người đi đón, sao em không sang?

Vương phu nhân nói:

– Bà vừa nói xong, chúng nó lại gọi tên tục nhau cả rồi.

Đại Ngọc nói:

– Anh cô có cái gì đẹp để dành cho cô đấy.

Tương Vân hỏi:

– Cái gì đấy?

Bảo Ngọc cười nói:

– Em tin lời cô ấy à! Mấy hôm không gặp, đã thấy lớn lên rồi.

Tương Vân cười hỏi:

– Chị Tập Nhân có khỏe không?

Bảo Ngọc nói:

– Vẫn khỏe, cảm ơn em nhớ đến.

Tương Vân nói:

– Tôi mang cái vật đẹp này sang cho chị ấy đây.

Nói xong, Tương Vân giở cái khăn lụa, lấy ra một gói con. Bảo Ngọc nói:

– Lại cho cái gì đẹp đấy? Chi bằng em cho chị ta mấy cái nhẫn ngọc thạch thanh màu đỏ, như hôm nọ đã đưa sang đây ấy.

Tương Vân cười hỏi:

– Đây là cái gì?

Mở gói ra, mọi người xem, quả nhiên một gói bốn chiếc nhẫn màu đỏ là thứ nhẫn đã cho mang sang lần trước.

Đại Ngọc cười nói:

– Các chị em xem cô ta như thế đấy. Hôm nọ cho người đưa sang các thứ nhẫn cho chúng tôi, tại sao cô không đưa cả sang một thể, có tiện hơn không? Hôm nay cô lại tự mình mang sang. Tôi cứ tưởng là cái gì mới lạ kia, hoá ra vẫn là thứ nhẫn này. Cô thực là người hồ đồ.

Tương Vân cười nói:

– Chính chị mới hồ đồ, để tôi kể rõ đầu đuôi cho mọi người nghe, xem ai hồ đồ? Tôi đưa thứ gì cho các cô, thì sai người mang sang, không phải dặn dò, chỉ cần xem qua một lượt cũng đã biết ngay rồi. Nhưng nếu sai người ta đưa cái gì cho các chị a hoàn, là tôi phải dặn dò cẩn thận, thứ này đưa cho chị này, thứ kia đưa cho chị kia. Người sai đi mà biết được rành mạch còn khá, nếu gặp phải người vớ vẩn, không nhớ được rõ, cứ đưa bừa đi, tên nọ đánh ra tên kia, sẽ bị nhầm lẫn hết. Nếu bà già đi còn khá, nhưng hôm nọ tôi lại sai đứa bé con mang sang, làm thế nào mà dặn dò cho nó nhớ hết những tên họ của a hoàn bên này? Bây giờ chính tay tôi mang sang đưa cho họ, chẳng rành rọt hơn hay sao?

Tương Vân nói rồi bỏ gói nhẫn ra, bảo:

– Chị Tập Nhân một chiếc, chị Uyên Ương một chiếc, chị Kim Xuyến một chiếc, chị Bình Nhi một chiếc. Tất cả là bốn người. Thế thì bọn trẻ con nhớ rành mạch làm sao được?

Mọi người đều cười nói:

– Quả là rõ ràng.

Bảo Ngọc cười nói:

– Vẫn mồm mép liến thoắng, chẳng chịu thua ai.

Đại Ngọc cười nhạt:

– Nếu cô ấy nói không rành mạch thì đáng đeo con “Kỳ lân vàng” thế nào được?

Nói xong liền chạy đi chỗ khác. May sao mọi người không ai nghe thấy, chỉ có Bảo Thoa bĩu môi cười. Bảo Ngọc thấy thế, hối hận mình đã lỡ lời; thấy Bảo Thoa cười, cũng cười theo. Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc cười, vội đứng dậy, lần đến nói chuyện với đại Ngọc.

Giả mẫu bảo Tương Vân:

– Uống nước trà xong, cháu đi nghỉ một lúc, rồi đến thăm các chị cháu. Ngoài vườn mát đấy, cháu sẽ đi chơi với các chị ấy.

Tương Vân vâng lời, gói bốn cái nhẫn lại, nghỉ một lúc, rồi đi thăm Phượng Thự Bọn vú bõ, người hầu cùng đi theo. đến đó, mọi người cười một lúc, rồi sang vườn Đại Quan, vào thăm Lý Hoàn; ngồi một lát, lại sang viện Di Hồng tìm Tập Nhân. Tương Vân quay lại bảo bọn người hầu: “Các cô không phải theo tôi. Ai muốn đi thăm bà con cứ đi, để một mình Thúy Lũ theo hầu tôi là đủ”.

Mọi người vâng lời, để Tương Vân, Thúy Lũ ở lại đấy, rồi đi thăm bà con.

Thúy Lũ nói:

– Hoa sen này làm sao không nở?

Tương Vân nói:

– Chưa đến mùa.

– Cái hoa này cũng như hoa trong ao nhà ta, đó là hoa kép.

– Hoa ở đây không bằng hoa của nhà ta.

– Bên này có hoa thạch lựu bốn năm cành xúm xít lại, chùm nọ nằm chồng lên chùm kia, sao mà đẹp thế!

– Hoa cỏ cũng như người ta vậy. Khí mạch mà đầy đủ, thì càng lớn càng đẹp.

Thúy Lũ lắc đầu nói:

– Cô nói thế cháu không tin, nếu bảo rằng cây cối cũng như người ta, thì sao cháu không thấy người nào trên đầu lại mọc thêm một cái đầu nữa?

Tương Vân bật cười:

– Ta đã bảo em không nên nói nhiều, thế mà em cứ thích nói. Hỏi thế thì người ta trả lời làm sao được? Trong trời đất, vật gì cũng đều nhờ âm dương mà sinh ra, chính hay tà, kỳ hay quái, biến hoá đủ đường, cũng đều do âm dương thuận hay nghịch mà ra. Ngay những giống từ khi mới sinh, ít người trông thấy, rút cuộc đều cùng một lẽ cả.

– Nếu nói như thế thì từ khi có trời đất đều là âm dương cả à?

– Con bé này ngớ ngẩn quá! Càng nói càng bậy, thế nào lại “Đều là âm dương cả”. Vả lại, hai chữ âm dương chỉ là một, nghĩa là hết dương đến âm, hết âm đến dương, chứ không phải hết âm mới sinh ra dương, hay là hết dương mới sinh ra âm đâu.

– Thực là mơ hồ chán chết đi được! Thế nào là âm với dương? Chẳng có hình có bóng à? Cháu chỉ hỏi cô, cái hình dạng âm dương nó ra thế nào?

– Âm với dương chẳng qua là khí thôi. Nhờ có khí ấy, các vật mới thành hình chất. Ví như trời là dương, thì đất là âm; nước là âm, thì lửa là dương; mặt trời là dương, thì mặt trăng là âm.

– Phải đấy, bây giờ cháu hiểu rồi. Chẳng trách người ta gọi mặt trời là “Thái dương”, người xem số gọi mặt trăng là sao “Thái âm”, đó là lẽ thế đấy.

– A di đà phật! Bây giờ em mới hiểu ra.

– Những cái ấy có âm dương đã đành rồi, còn đến ruồi, muỗi, sâu, bọ, hoa cỏ, mảnh ngói, viên gạch cũng có âm dương cả sao?

– Cái gì mà chẳng có, ví như một lá cây cũng có âm dương khác nhau, mặt ngửa lên trời là dương, mặt úp xuống đất là âm.

Thúy Lũ gật đầu cười nói:

– Thế à! Bây giờ cháu mới hiểu. Cái quạt chúng ta cầm ở tay đây, thế nào là âm, thế nào là dương?

– Mặt phải là dương, mặt trái là âm.

Thúy Lũ gật đầu cười, còn muốn tìm mấy thứ nữa để hỏi, nhưng chưa nghĩ ra. Chợt cúi đầu nhìn thấy Tương Vân đeo cái dây có con kỳ lân vàng, liền cầm lấy cười hỏi:

– Cái này có âm dương không hở cô?

– Muông chạy, chim bay, thì giống đực là dương, giống cái là âm, cái gì mà chẳng có.

– Thế thì con kỳ lân của cô đeo đó là đực hay cái?

– Tôi cũng không biết.

– Thế thì thôi vậy. Tại sao cái gì cũng có âm dương mà chúng ta lại không có?

Tương Vân sa sầm nét mặt nói:

– Đồ ngu! Thôi cút đi, càng hỏi càng nói tầm bậy.

– Cái đó có gì mà cô không bảo cho cháu biết. Cháu cũng hiểu rồi, cô đừng vặn vẹo cháu nữa.

– Em hiểu thế nào?

– Cô là dương, cháu là âm.

Tương Vân lấy khăn lụa bịt mồm cười. Thúy Lũ nói:

– Nói đúng mà cô lại cười à.

– Đúng lắm, đúng lắm!

– Người ta thường nói chủ nhà là dương, đầy tớ là âm, ngay những lẽ thường như thế, mà em cũng không hiểu hay sao?

– Em hiểu lắm rồi.

Hai người đi đến dưới giàn hoa tường vi, Tương Vân trỏ tay bảo:

– Em xem kìa, cái gì vàng lóng lánh như đồ trang sức của ai đánh rơi.

Thúy Lũ vội chạy đến nhặt lên tay, cười nói:

– Cái này sẽ phân biệt ra được âm dương!

Nói rồi cầm con kỳ lân của Tương Vân xem. Tương Vân muốn xem cái mới nhặt được, nhưng Thúy Lũ không chịu đưa, cười nói:

– Cái này là cái bảo bối, cô không xem được đâu! Lạ chưa? ở đâu mà đến đây? Xưa nay cháu không trông thấy ở ai có cái này cả.

– Đưa tôi xem nào.

Thúy Lũ xòe tay ra cười nói:

– Đây mời cô xem.

Tương Vân nhìn xem, thì ra một con kỳ lân vàng, so với con của mình đeo vừa to vừa có văn vẻ hơn. Tương Vân nâng lấy để vào lòng bàn tay, đứng ngẩn người ra, lặng lẽ không nói một lời. Chợt thấy Bảo Ngọc ở đầu kia đi tới, cười nói:

– Em đứng dưới ánh mặt trời này làm gì? Tại sao không đi tìm Tập Nhân?

Tương Vân vội giấu con kỳ lân đi và nói:

– Em định đến đây, chúng ta cùng đi một thể.

Nói xong, hai người cùng đi đến viện Di Hồng.

Tập Nhân đương ở dưới thềm, đứng tựa bao lan hóng mát, thấy Tương Vân đến, vội vàng ra đón, dắt tay nhau cười nói hàn huyên, rồi vào nhà mời ngồi. Bảo Ngọc liền nói:

– Em nên sang sớm là phải, anh có một cái đẹp lắm, chỉ để chờ em thôi!

Nói xong sờ vào người một lúc rồi kêu “Ái chà” một tiếng, hỏi Tập Nhân:

– Cái ấy của tôi, chị cất có phải không?

– Cái gì kia chứ?

– Con kỳ lân lấy được hôm trước ấy mà.

– Ngày nào cậu cũng đeo luôn trong mình, lại còn hỏi tôi?

Bảo Ngọc vỗ tay một cái nói:

– Thôi, tôi đánh rơi mất rồi, tìm ở đâu được bây giờ?

Rồi đứng dậy chực đi tìm.

Tương Vân nghe thấy thế, biết là của Bảo Ngọc đánh rơi, cười nói:

– Anh có con kỳ lân ấy từ bao giờ?

– Hôm nọ tình cờ người ta cho tôi, nhưng không biết đánh rơi ở đâu và từ lúc nào? Tôi thực là hồ đồ quá.

Tương Vân cười nói:

– Nó là đồ chơi, mà anh cũng hoảng lên như thế.

Liền đưa con kỳ lân ra cười hỏi:

– Anh xem, có phải con này không?

Bảo Ngọc trông thấy vui mừng khôn xiết.

1      Sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ.

Chương 32: Giải bày hết tâm can, Bảo Ngọc đâm ra mê mẩn – Không chịu được sỉ nhục, Kim Xuyến đành phải liều thân

Giải bày hết tâm can, Bảo Ngọc đâm ra mê mẩn

Không chịu được sỉ nhục, Kim Xuyến đành phải liều thân

Bảo Ngọc trông thấy con kỳ lân, trong bụng rất vui sướng, giơ tay cầm lấy, cười nói:

– May em nhặt được! Nhưng tại sao em lại nhặt được?

Tương Vân cười nói:

– May mà là cái này, chứ mai sau đánh rơi cái ấn, chả lẽ anh cũng chịu hay sao?

Bảo Ngọc cười nói:

– Mất cái ấn, chỉ là việc thường, chứ mất cái này thì anh thật đáng chết.

Tập Nhân pha nước đem lại mời Tương Vân uống, rồi cười nói:

– Cô ơi, hôm nọ tôi nghe cô có tin mừng lớn.

Tương Vân đỏ mặt, ngoảnh đầu đi phía khác uống nước, không trả lời. Tập Nhân cười nói:

– Bây giờ cô lại đâm ra xấu hổ. Còn nhớ một buổi chiều năm nào, chúng ta ngồi ở gác bên tây nói chuyện với nhau không? Khi ấy cô không thẹn thò gì cả, sao bây giờ cô lại thẹn?

Tương Vân lại đỏ bừng mặt lên gượng cười nói:

– Chị còn nhắc lại việc ấy làm gì! Lúc bấy giờ chúng ta đằm thắm với nhau lắm, sau mẹ tôi chết, nhà tôi dọn đi ở xa, vì thế người ta mới gán chị cho anh Bảo, bây giờ tôi đến đây, chị đối đãi với tôi không còn như trước nữa.

Tập Nhân cũng đỏ mặt lên, cười nói:

– Thôi đi, lúc trước thì một điều chị, hai điều chị, nhờ tôi chải đầu, rửa mặt, lấy cái nọ, chơi cái kia; bây giờ lại làm ra bộ tiểu thự Cô đã thế, thì tôi còn dám gần gũi sao được?

Tương Vân nói:

– A di đà phật! Oan uổng quá! Tôi mà như thế thì chết ngay lập tức. Chị xem, trời nóng thế này, vừa đến đây, tôi lại thăm chị trước tiên. Chị không tin, thử hỏi con Lũ xem. Khi tôi ở nhà, từng giờ từng phút, không lúc nào không nhắc nhở đến chị?

Tập Nhân và Bảo Ngọc nghe nói, đều cười:

– Nói đùa mà lại cho là thực, cô vẫn còn giữ tính nóng nẩy ấy.

– Chị có biết đâu, cứ nói nhưng câu chọc tức người ta, rồi lại trách người ta nóng tính.

Vừa nói vừa mở cái khăn lụa ra, lấy nhẫn đưa cho Tập Nhân. Tập Nhân cảm ơn mãi, cười nói:

– Hôm nọ cô gửi quà cho các cô bên này, tôi cũng đã được một phần rồi. Hôm nay cô lại thân hành mang nhẫn đến cho tôi, thế mới biết không bao giờ cô quên tôi. Tôi nói thế để thử bụng cô đấy thôi. Cái nhẫn có đáng là bao? Thế đủ biết lòng thực của cô.

Tương Vân hỏi:

– Ai đưa cho chị?

– Cô Bảo đưa cho tôi.

Tương Vân thở dài:

– Thế ra cô Bảo cho chị à? Tôi cứ tưởng là cô Lâm. Khi tôi ở nhà, luôn luôn nghĩ đến các chị em bên này, Không ai tốt bằng Cô Bảo. Tiếc rằng chúng tôi không phải là chị em ruột. Nếu tôi được một người chị ruột như thế, thì có mồ côi cha mẹ cũng không lo.

Nói xong, mắt đỏ hoẹ Bảo Ngọc nói:

– Thôi, thôi, đừng nhắc đến chuyện ấy nữa.

Tương Vân nói:

– Nhắc đến chuyện ấy thì sao? Tôi biết bụng anh rồi. Anh chỉ sợ cô Lâm nhà anh nghe thấy, lại tức tối vì tôi chỉ biết khen cô Bảo thôi. Có phải thế không?

Tập Nhân đứng cười khì một tiếng, nói:

– Cô Vân bây giờ lớn lên, bụng dạ thẳng thắn, có gì nói tuột ngay ra.

Bảo Ngọc cười nói:

– Tôi thường bảo mấy chị em các cô thực khó nói chuyện quá, quả là không sai.

Tương Vân nói:

– Thôi xin anh đừng nói nữa, lại làm cho tôi bực mình. Bây giờ trước mặt tôi thì anh nói thế, nhưng khi gặp cô Lâm nhà anh, chẳng biết anh lại tán tụng đến thế nào.

Tập Nhân nói:

– Thôi đừng nói chuyện đùa nữa, tôi có một việc cần nhờ cô

– Việc gì đấy?

– Có một đôi giày, tôi đã cắt vải rồi, nhưng mấy hôm nay người không được khỏe, nên không làm được. Cô có rỗi làm giúp hộ tôi.

– Lạ thật! Nhà chị bao nhiêu là người khéo, biết thêu thùa, biết cắt may, tại sao lại nhờ tôi làm? Công việc của chị nhờ ai mà chả được?

Tập Nhân cười nói:

– Cô lại hồ đồ rồi! Cô vẫn chưa biết à? Những đồ thêu thùa trong nhà này, có phải người biết thêu thùa là làm được đâu!

Tương Vân nghe nói, biết ngay là giày của Bảo Ngọc, cười nói:

– Đã thế thì tôi làm hộ chị. Nhưng có một điều là, có thực của chị thì tôi mới làm, chứ của người khác thì tôi không làm đâu.

– Cô lại khéo giở trò! Tôi là người thế nào mà dám nhờ cô thêu hộ giày. Nói thực với cô, đây không phải là giày của tôi. Nhưng bất cứ của ai, nếu cô làm hộ thì tôi biết ơn cô là đủ rồi.

– Cứ lẽ ra tôi đã làm hộ chị nhiều thứ rồi, bây giờ chắc chị cũng hiểu vì sao tôi không làm hộ.

– Tôi vẫn chưa hiểu gì cả.

– Tôi nghe nói đã có lần mang cái quạt của tôi ra sánh với cái quạt của người ta, rồi tức bực cắt tan ra. Tôi biết, chị lại còn giấu tôi à? Bây giờ chị lại bảo tôi làm, thế ra tôi là đầy tớ các người đấy nhỉ?

Bảo Ngọc cười nói:

– Hôm trước, thực không biết cái đó là của em làm!

Tập Nhân cười:

Cậu ấy thực không biết là của cô làm, đó là tôi nói dối cậu ấy rằng gần đây ở ngoài phố có em bé làm quạt rất khéo, cắt được những kiểu hoa lạ lắm. Tôi lấy một cái đem về xem có đẹp hay không. Cậu ấy tin là thật, đưa cho người này người nọ xem, không ngờ lại làm cô Lâm tức giận, đem cắt ra làm đôi. Sau cậu ấy lại bảo tôi thuê làm một cái khác, tôi mới nói thực là của cô làm. Cậu ấy thấy vậy hối hận không biết chừng nào!

Tương Vân nói:

– Như thế lại càng lạ lắm. Việc gì đến cô Lâm mà cô ấy phải tức. Cô ấy đã biết cắt, chắc cô ấy phải biết làm.

Tập Nhân nói:

Cô ấy không làm đâu. Như thế mà cụ còn sợ cô ấy khó nhọc đấy! Thầy thuốc lại bảo nên tĩnh dưỡng nhiều cho khỏe. Như vậy thì ai còn dám phiền cô ấy làm nữa? Năm ngoái, suốt cả năm cô ấy chỉ làm được có một cái túi hương, giờ đã nửa năm rồi, vẫn chưa thấy đụng đến kim chỉ.

Đương nói thì có người vào trình “Có khách ở phố Hưng Long đến chơi, ông gọi cậu Hai ra tiếp”. Bảo Ngọc nghe nói, biết ngay là Giả Vũ Thôn, trong bụng rất khó chịu. Tập Nhân vội đi lấy quần áo. Bảo Ngọc vừa xỏ giày vừa lẩm bẩm: “Đã có ông ngồi tiếp ông ta là đủ rồi, việc gì lần nâo cũng đòi gặp tôi”.

Tương Vân phe phẩy cái quạt cười nói:

– Vì anh khéo chiều khách, nên ông mới bảo anh ra tiếp.

– Nào phải ông bảo đâu, chỉ tại cái lão ấy muốn gặp tôi đấy thôi.

– Chủ mà nhã thì khách năng đến chơi, chắc là anh có nhiều điều tốt làm ông ta lưu ý đến, mới muốn gặp anh.

– Thôi, thôi, tôi không dám hứng lấy những cái nhã ấy, chẳng qua tôi là một người tục, tục nhất trong đám tục, không muốn đi lại với hạng người ấy!

– Cái tính ấy vẫn chưa chịu bỏ. Bây giờ anh lớn rồi, dù anh không muốn thi đỗ cử nhân tiến sĩ, thì cũng nên năng gặp gỡ những bậc quan sang, bàn đến bước đường tiến cử để ra gánh vác việc đời, giúp nước giúp dân, nên cần phải có bạn bè qua lại. Chứ quanh năm anh cứ luẩn quẩn với bọn chị em chúng tôi, thì còn làm được trò trống gì nữa?

Bảo Ngọc nghe thấy những câu ấy, trái tai lắm, liền nói:

– Xin mời cô sang ngồi chơi bên nhà khác. Chứ nhà tôi đây thực làm nhơ bẩn đến những người hiểu việc trị nước giúp dân ấy.

Tập Nhân vội nói đỡ

– Thôi, cô đừng nói chuyện với cậu ấy nữa. Kỳ trước cô Bảo cũng có một lần nói đến việc này, cậu ấy không nể mặt, đằng hắng một tiếng rồi xỏ giày đi luôn. Cô Bảo đang nói, thấy cậu ấy bỏ đi, thẹn đỏ mặt lên, không biết nên nói hay đừng. May là cô Bảo, chứ cô Lâm thì chưa biết sinh chuyện đến thế nào, khóc lóc đến thế nào. Nhắc đến chuyện này, người ta phải kính phục cô Bảo, cô ấy ngồi một lúc rồi về. Tôi không đành lòng, cho là cô ấy thế nào cũng giận, không ngờ sau đã lại tử tế như thường, thực là người có độ lượng, bụng dạ rất là rộng rãi. Ai ngờ cậu ấy lại không chơi thân với cô ta! Còn cô Lâm, hễ thây cậu ấy giận là cô ta không cần nhìn đến, dần dần cậu ấy lại phải đến xin lỗi, cứ thế không biết bao nhiêu lần.

Bảo Ngọc nói:

– Cô Lâm có bao giờ nói những câu nhảm ấy đâu? Nếu nói đến thì tôi đã xa cô ấy từ lâu rồi.

Tập Nhân và Tương Vân lắc đầu cười nói:

Những câu ấy mà nhảm à?

Đại Ngọc biết trước là Tương Vân sang chơi thế nào Bảo Ngọc cũng nhắc đến chuyện con kỳ lân, nghĩ bụng: “Gần đây Bảo Ngọc hay xem những chuyện tiểu thuyết, phần nhiều giai nhân, tài tử được gặp nhau là do những đồ chơi lặt vặt, khéo léo xe nên, hoặc là do uyên ương, hoặc là do phượng hoàng, hoặc là vòng ngọc, dây vàng, hoặc là khăn giao 1 dây loan đều nhờ những vật nhỏ ấy mà thỏa được ý nguyện suốt đời”. Nay thấy Bảo Ngọc có con kỳ lân, tất sẽ mượn cái ấy mà sinh chuyện, hòng khêu gợi tình tứ với Tương Vân chăng? Vì thế Đại Ngọc lẳng lặng đi đến, tùy cơ để dò xét ý tứ hai người, không ngờ vừa tới nơi, nghe thấy Tương Vân đương nói việc trị nước giúp dân, và nghe Bảo Ngọc trả lời: “Không khi nào cô Lâm lại nói nhưng câu nhảm ấy, nếu nói đến, tôi đã xa cô ấy lâu rồi”.

Đại Ngọc nghe vậy, mừng mừng, sợ sợ, tủi tủi, thương thương. Mừng là: mắt mình không nhầm, ngày thường vẫn cho anh ấy là ngươì tri kỷ, giờ quả thực như vậy. Sợ là: trước mặt người khác, anh ấy vẫn nghĩ đến mình, vẫn khen ngợi mình, đủ biết mối tình nồng nàn không hề e ngại tý gì; tủi là: anh đã là tri kỷ của tôi, thì tất nhiên tôi cũng là tri kỷ của anh. Anh và tôi đã là một đôi tri kỷ, thì tại sao lại còn có chuyện “vàng” với “ngọc”. Mà dù có chuyện “vàng ngọc” thì vàng ngọc ấy đáng lẽ là của anh và của tôi, chứ tại sao lại còn có cô Bảo Thoa nữa? Thương là: cha mẹ mất sớm, dù có những lời ghi lòng tạc dạ, nhưng không có ai tác thành cho tạ Vả chăng, gần đây đã chớm có bệnh, tinh thần hoảng hốt. Thầy thuốc bảo: “Khí suy huyết kém, sợ rồi sinh ra chứng lao”. Tôi dù là tri kỷ của anh, nhưng sợ không thể chờ lâu được. Anh dù là tri kỷ của tôi, nhưng tôi bạc mệnh thì làm thế nào? Nghĩ đến nông nỗi ấy, Đại Ngọc không cầm nổi nước mắt; muốn đi vào để gặp nhau, nhưng lại nghĩ hơi trẽn, đành gạt nước mắt quay về.

Bảo Ngọc vội vàng mặc quần áo rồi đi ra, thấy Đại Ngọc lững thững đi trước, hình như đương gạt nước mắt, liền chạy ngay đến, cười hỏi:

– Em ơi, đi đâu đấy? Làm sao lại khóc? Lại ai có lỗi với em thế?

Đại Ngọc quay lại thấy Bảo Ngọc, liền gượng cười nói:

– Em có khóc đâu.

– Em xem, nước mắt chưa ráo, lại còn nói dối à!

Vừa nói, Bảo Ngọc vừa giơ tay lên lau nước mắt hộ, Đại Ngọc vội lùi lại mấy bước nói:

– Anh lại muốn chết đấy! Làm trò gì mà ngứa ngáy chân tay như thế?

– Mải nói chuyện quá anh quên hẳn đi, tay tự nhiên ngứa ngáy, không nghĩ gì đến sống hay chết cả.

– Chết thì đáng kể gì, chỉ có điều là phải bỏ lại vàng, và con kỳ lân nào đó, thì làm thế nào!

Câu ấy làm cho Bảo Ngọc phát cáu, vội chạy đến hỏi:

– Em nói không câu này, là rủa tôi hay là chọc tức tôi?

Đại Ngọc nghĩ ngay đến việc hôm trước, hối hận mình đã trót nông nổi, liền cười nói:

– Anh đừng cáu vội, em nói lỡ lời đấy. Câu ấy có can hệ gì đâu? Thế mà mắt đã nổi gân lên, mồ hôi đã toát ra.

Vừa nói vừa đến gần giơ tay lau mồ hôi cho Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc nhìn một lúc rồi nói:

– Em hãy cứ yên tâm.

Đại Ngọc ngẩn người ra một lúc rồi nói:

– Có việc gì mà em không yên tâm? Em không hiểu câu nói của anh. Anh nói lại xem thế nào là yên tâm với không yên tâm?

Bảo Ngọc thở dài một cái hỏi:

– Quả thực em không hiểu câu ấy à? Không lẽ lòng anh gắn bó với em từ bấy lâu nay đều là nhầm cả hay sao? Ngay đến tính nết của em, anh cũng không biết chiều chuộng, chả trách ngày nào em cũng vì anh đâm ra bực tức.

Đại Ngọc nói:

– Quả thực em không hiểu câu nói yên tâm hay không yên tâm.

Bảo Ngọc lắc đầu thở dài:

– Thôi em đừng giấu anh nữa. Nếu quả thực em không hiểu câu ấy, thì không những uống cả tấm lòng của anh bấy lâu nay, mà phụ cả tâm lòng của em đối với anh nữa. Chỉ vì em không yên tâm, thành ra đau ốm luôn. Nếu em được khoan khoái một chút, thì bệnh đến nỗi nào ngày càng nặng như thế.

Đại Ngọc nghe nói, người choáng lên như sấm ran sét đánh, ngẫm nghĩ từng ly từng tí, mới biết câu nói ấy rất thấm thía, hơn là moi tự trong gan trong ruột mình ra, có hàng vạn câu muốn nói, nhưng không nói ra được nửa lời, chỉ cứ trừng trừng nhìn Bảo Ngọc. Bấy giờ trong bụng Bảo Ngọc cũng có hàng vạn câu muốn nói, nhưng không biết bắt đầu từ câu gì, nên cũng trừng trừng nhìn Đại Ngọc. Hai người đứng đờ người ra một lúc, rồi Đại Ngọc ho một tiếng, nước mắt ròng ròng, quay đầu chực chạy. Bảo Ngọc vội kéo lại nói:

– Em ơi, đứng lại một tí, để anh nói một câu đã rồi hãy đi.

Đại Ngọc gạt nước mắt, đẩy tay Bảo Ngọc ra nói:

– Còn có câu gì đáng nói nữa? Những câu anh muốn nói em biết cả rồi.

Nói xong cắm đầu chạy ngay.

Bảo Ngọc vẫn cứ đứng ngẩn người ra nhìn. Lúc ra đi, Bảo Ngọc vội quá, nên không mang quạt. Tập Nhân sợ trời nóng, cầm quạt đuổi theo, thấy Đại Ngọc đứng đấy một lúc; Đại Ngọc đi, còn trơ Bảo Ngọc ở đấy, Tập Nhân vội chạy lại nói:

– Cậu quên không mang quạt, may tôi trông thấy, mang lại cho cậu.

Bảo Ngọc đương thờ thẫn vẩn vơ, nghe tiếng Tập Nhân, cũng không nhận ra được là ai, chỉ đờ mặt ra nói: “Em ơi! Nỗi lòng của anh lâu nay không dám nói ra, bây giờ anh cả gan nói ra, dù chết anh cũng cam lòng! Vì em mà anh đeo bệnh, nhưng đành cứ chịu, không dám nói với ai. Chỉ khi nào em khỏi bệnh, thì may ra bệnh anh mới khỏi được. Cả trong giấc ngủ mơ màng, anh cũng không bao giờ quên được em!”

Tập Nhân nghe nói, sợ hoảng hồn kêu to “Trời giết tôi!” Vội đẩy Bảo Ngọc ra nói:

– Cậu nói gì thế? Bị ma làm hay sao? Còn không đi à?

Bảo Ngọc tỉnh lại, mới biết là Tập Nhân, thẹn đỏ mặt lên, nhưng người vẫn ngớ ngẩn, liền cầm lấy cái quạt đi luôn, không nói câu gì.

Bảo Ngọc đi rồi, Tập Nhân ngẫm nghĩ lời nói vừa qua, tất là vì Đại Ngọc mà thốt ra, xem thế thì sau này e xảy việc không hay, làm cho người ta đáng ghê, đáng sợ. Biết tính thế nào để tránh khỏi cái tai vạ xấu xa này?

Tập Nhân đang đứng ngẩn người ra suy nghĩ, chợt Bảo Thoa ở đường kia đi đến cười nói:

– Trời nắng chang chang thế này mà chị đứng bêu ra đấy làm gì?

Tập Nhân vội cười nói:

– Có hai con chim sẻ đánh nhau, trông thấy cũng hay hay, nên tôi đứng xem.

Bảo Thoa nói:

– Cậu Bảo vừa mặc quần áo đi đâu thế? Tôi muốn gọi lại hỏi, nhưng thấy cậu ấy cứ cuống cuồng lên, nói chẳng ra đầu ra cuối, nên tôi cũng không hỏi, để mặc cậu ấy đi.

– Ông tôi gọi cậu ấy đấy.

– Ái chà! Trời nắng thế này, gọi cậu ấy đến làm gì? Lại quở phạt điều gì chăng?

– Không phải thế, nghe đâu có khách nào muốn gặp cậu ấy đấy.

– Cái ông khách nào chả có ý tứ gì cả, trời nắng thế này không ở nhà cho mát, lại đâm đầu đến đây làm gì?

– Cô cũng nói thế ư?

– Con bé Vân ở trong nhà các chị làm gì đấy?

– Cô ấy với chúng tôi vừa ngồi nói chuyện phiếm với nhau. Cô xem, đôi giày của tôi dán hôm trước, ngày mai sẽ nhờ cô ấy làm hộ.

Bảo Thoa nghe vậy, nhìn chung quanh không có ai, mới cười nói:

– Chị là người sáng suốt, thế mà sao có lúc không thể tất cho người tả Gần đây tôi xem thần sắc, cử chỉ và lời ăn tiếng nói nửa kín nửa hở của cô ấy, biết rằng ở nhà cô ấy không được tự chủ tý nào! Nhà cô ấy sợ tiêu pha tốn kém, nên không thuê người may vá, hầu hết mọi cái đều tự tay người dì cô ta làm lấy cả. Mấy lần sang đây, hễ vắng người là cô ta lại kể với tôi về việc cửa việc nhà, làm lụng mệt chết đi được. Tôi hỏi đến chuyện chi tiêu trong nhà thế nào, thì mắt cô ấy đỏ hoe lên, miệng ấp úng, nói không ra lời. Xem tình cảnh cô ấy mồ côi mẹ từ bé, tất nhiên là chịu khổ. Trông thấy cô ấy, tự nhiên bụng tôi lại thấy đau xót!

Tập Nhân nghe vậy, vỗ tay nói:

– Phải rồi! Phải rồi! Thảo nào tháng trước tôi nhờ cô ấy đánh hộ mười cái dây con bướm. Mấy hôm sau, cô ấy mới cho người mang sang, và nói: “Hãy dùng tạm những thứ dây thô này, chờ khi nào thong thả, tôi sang ở luôn bên ấy, sẽ làm thứ khác đẹp hơn”. Giờ nghe cô nói, tôi mới nghĩ ra những việc chúng tôi nhờ trước đây, cô ấy đều không tiện từ chối. Nhưng có biết đâu cô ấy ở nhà cũng phải làm lụng vất vả, thâu canh suốt sáng như thế! Thực là tôi hồ đồ thực, chứ biết thế này thì tôi không dám nhờ cô ấy mới phải.

– Lần trước cô ấy có nói với tôi, ở nhà phải làm việc khuya đến tận canh ba; nếu làm hộ ai một tí gì thì bọn các bà các mợ bên ấy lại có vẻ không bằng lòng.

– Khốn nỗi cái cậu bướng bỉnh nhà ta, bất cứ việc lớn hay nhỏ, nhất thiết không để cho người trong nhà làm, mà tôi thì lại không làm xuể.

– Mặc cậu ấy! Cứ bảo người khác rồi nói dối mình làm là được.

– Giấu thế nào được. Cậu ấy nhận ra ngay. Thôi để tôi làm dần vậy.

– Thôi, chị đừng ngại, để đấy tôi làm hộ cho một ít cũng được.

– Thật thế chứ? Nếu vậy thì phúc cho tôi quá! Chiều hôm nay tôi sẽ mang đến nhờ cô.

Nói chưa dứt lời, chợt có một bà già chạy đến báo:

– Tin đâu đưa đến bất ngờ! Kim Xuyến tự dưng đâm đầu xuống giếng chết rồi!

Tập Nhân giật mình vội hỏi:

– Kim Xuyến nào đấy?

– Lại còn Kim Xuyến nào nữa? Kim Xuyến ở hầu bà Hai ấy. Hôm trước không biết vì việc gì nó bị đuổi; về nhà kêu trời kêu đất, khóc hết nước mắt, cũng không ai để ý đến. Rồi cũng chẳng ai để ý nó đi đâu, sau có người gánh nước nói: “Ở cái giếng đằng đông nam, có xác người chết”. Tôi chạy đi nhờ người vớt lên, không ngờ lại là nó! Họ nháo lên chữa chạy, nhưng có ăn thua gì!

Bảo Thoa nói:

– Lạ nhỉ.

Tập Nhân lắc đầu thở dài, nghĩ đến ngày thường cùng chung cảnh ngộ, tự nhiên nước mắt trào ra. Bảo Thoa tất tưởi chạy sang bên Vương phu nhân. Tập Nhân thì quay về nhà.

Bảo Thoa đến buồng Vương phu nhân, thấy im lặng như tờ, Vương phu nhân đương ngồi một mình, sụt sùi khóc ở trong buồng. Bảo Thoa không tiện gợi ra nữa, đành ngồi ghé một bên. Vương phu nhân hỏi:

– Cháu ở đâu đến đây?

– Cháu ở bên vườn sang.

– Nếu ở vườn sang, có gặp em Bảo không?

– Cháu mới trông thấy cậu ấy mặc quần áo đi ra, không biết đi đâu!

Vương phu nhân lắc đầu thở dài:

– Cháu có biết mới xảy ra một việc lạ không? Con Kim Xuyến tự nhiên đâm đầu xuống giếng chết rồi.

– Tự nhiên vô cớ, sao chị ấy lại đâm đầu xuống giếng? Lạ nhỉ?

– Hôm nọ nó đánh vỡ của ta một cái đồ dùng, ta nóng tiết đánh nó vài cái, rồi đuổi nó đi. Ta chỉ định làm ra thế mấy hôm rồi lại gọi nó về, không ngờ nó phẫn chí đâm đầu xuống giếng chết. Thế không phải tội lỗi ta hay sao?

Bảo Thoa cười nói:

– Dì là người nhân từ, nên nghĩ như thế. Chứ cháu đoán thì không phải nó tức bực mà đâm đầu xuống giếng đâu, có lẽ nó đứng gần, hay đùa nghịch gì ở bên giếng, sểnh chân bị ngã chăng? Nó ở nhà này bị bó buộc quen rồi, bây giờ được ra ngoài, tất là đi chơi đùa các nơi cho thích, chứ đến nỗi nào tức khí như thế. Nếu vì tức khí mà liều lĩnh, thì chẳng qua là hạng hồ đồ, không đáng tiếc làm gì?

Vương phu nhân lắc đầu thở dài:

– Dù sao trong bụng ta vẫn không yên được!

Bảo Thoa cười nói:

– Xin dì đừng nghĩ ngợi quá đến việc này; nếu không đành dạ, thì cho họ mấy lạng bạc để tống táng nó, thế là trọn tình chủ nhà đối với người ở rồi.

Vương phu nhân nói:

– Vừa rồi ta đã đưa cho mẹ nó năm mươi lạng bạc. Ta còn muốn cho thêm hai cái quần áo mới của chị em cháu, để khâm liệm cho nó, nhưng chị Phượng nói không có bộ nào mới may, chỉ có cháu Lâm có hai bộ để mặc ngày lễ sinh nhật. Ta xem ra, cháu Lâm ngày thường vốn hay tự lự; vả chăng bản mệnh nó lại có nhiều tai nạn, đã cho nó làm lễ sinh nhật, giờ đem làm đồ khâm liệm cho người khác, lại chẳng đáng kiêng hay sao? Vì thế ta đã cho gọi thợ may đến may một bộ áo mới cho nó. Nếu là đứa hầu khác, thì chỉ cho nó vài lạng bạc là đủ. Con Kim Xuyến tuy là đứa hầu, nhưng ngày thường nó vẫn ở gần gụi ta, so với con đẻ, cùng chả kém gì mấy.

Nói đến đây, nước mắt bà ta lại trào ra. Bảo Thoa vội nói:

– Dì cũng chẳng cần gì phải gọi thợ đến may nữa. Trước cháu có may hai bộ, mang ra cho nó, chả đỡ hay sao? Vả lại khi nó còn sống vẫn thường mặc quần áo cũ của cháu, kích thước cũng vừa vặn.

– Dù thế mặc lòng, nhưng cháu không kiêng hay sao?

– Xin dì cứ yên lòng, cháu không bao giờ để ý đến chuyện ấy.

Vừa nói vừa đứng dậy đi. Vương phu nhân liền sai người đi theo.

Một lúc, Bảo Thoa mang quần áo đến, thấy Bảo Ngọc ngồi cạnh Vương phu nhân, nước mắt giàn giụa, đương nghe Vương phu nhân giảng giải điều gì. Thấy Bảo Thoa đến, liền thôi không nói nữa. Trước tình cảnh ấy, Bảo Thoa xét lời nói, xem nét mặt, đã hiểu được phần nào rồi. Vương phu nhân gọi mẹ Kim Xuyến đến, đưa cho bọc quần áo mang về.

1      Theo sách thuật dị: có một giống người ở dưới biển như cá (giao nhân), dệt ra được thứ lụa đẹp, gọi là lụa giao.

Chương 33: Coi anh như thù, giọng lưỡi ton hót – Đẻ con bất hiếu, roi vọt dập vùi

Coi anh như thù, giọng lưỡi ton hót

Đẻ con bất hiếu, roi vọt dập vùi

Vương phu nhân gọi mẹ Kim Xuyến đến, cho mấy cái trâm vòng và bảo mời sư đến đọc kinh siêu độ cho nó. Mẹ Kim Xuyến cúi đầu tạ Ơn đi ra.

Khi Bảo Ngọc tiếp Vũ Thôn xong trở về, nghe tin Kim Xuyến xấu hổ tự vẫn, lòng rất đau xót, vừa bước vào cửa, lại bị Vương phu nhân quở trách một trận, không trả lời được câu nào. Chợt thấy Bảo Thoa đi vào, Bảo Ngọc nhân dịp lẻn ra ngoài, thờ thẫn không biết đi đâu, cứ tay chắp sau lưng, đầu cúi gầm, miệng than thở, lững thững đi ra phòng khách. Vừa qua tấm bình phong, Bảo Ngọc đâm phải một người từ ngoài bước vào. Người kia quát to “Đứng lại”, Bảo Ngọc giật nảy mình, ngẩng đầu lên nhìn, té ra là Giả Chính. Bảo Ngọc lạnh hẳn người đi, đành chắp tay đứng bên cạnh.

Giả Chính nói:

– Mày làm sao mà cúi đầu ủ rũ như vậy? Vừa rồi ông Vũ Thôn đến chơi, muốn gặp mày, gọi mãi mày mới chịu đến. Khi đến thì ăn nói toàn là những chuyện vụn vặt, nhỏ nhặt,không có một chút khoát đạt lưu loát nào. Tao xem mày vẻ mặt lúc nào cũng đầy rẫy những lo phiền, tình dục. Bây giờ làm gì mày lại than dài thở ngắn? Như thế này vẫn chưa được đủ, chưa được hả dạ hay sao?

Bảo Ngọc vốn tay lém lỉnh. Nhưng vì lúc này thương nhớ Kim Xuyến quá, đang băn khoăn không thể chết theo nó được nên cha quở mắng thế nào cũng mặc, cứ đứng đờ người ra.

Giả Chính đáng ra cũng không bực. Nhưng thấy Bảo Ngọc sợ quá, ăn nói khác hẳn ngày thường, nên đã nổi giận đôi phần. Giữa lúc ấy có người gác cửa vào trình:

– Có người bên phủ Trung Thuận Thân Vương xin vào hầu cụ lớn.

Giả Chính nghe nói, trong bụng nghi hoặc:

“Xưa nay ta không hề chơi bời với phủ Trung Thuận, tại sao hôm nay lại có người đến đây?” Vừa nghĩ vừa bảo mời vào ngồi trong nhà khách. Ông ta vội vào nhà trong thay áo, rồi ra tiếp, té ra là quan trưởng phủ ở phủ Trung Thuận. Hai bên chào nhau xong, ngồi uống nước trà. Chưa kịp chuyện trò gì, thì quan trưởng phủ đã nói ngay:

– Không phải hạ quan này dám đường đột đến qúi phủ. Hôm nay tới đây là theo lệnh trên, xin phiền ngài vì Vương gia chúng tôi mà giúp cho, không những Vương gia chúng tôi được nhờ ơn, ngay cả bọn hạ quan chúng tôi cũng cảm tạ khôn xiết.

Giả Chính nghe nói, nghĩ mãi không biết chuyện gì, vội đứng dậy cười hỏi:

– Ngài đã thừa lệnh đức Vương đến đây, nếu có việc gì, cứ truyền rõ cho, chúng tôi xin tuân lệnh.

Quan trướng phủ cười nhạt:

– Không phải làm gì cả, chỉ xin ngài nói cho một câu là xong.

Trong phủ chúng tôi có một con hát đóng vai nữ tên là Kỳ quan, mấy hôm nay không thấy về, cho đi tìm cũng không thây nó ở đâu. Chúng tôi phải cho người đi dò các nơi. Ở trong thành mười người thì tám người nói:

Gần đây nó chơi thân với cậu em ngậm ngọc ở đây. Vì tôn phủ không phải như các nhà thường, nên không dám thiện tiện đến bắt. Bởi vậy hạ quan phải vào trình đức Vương. Ngài nói:

“Con hát khác mất trăm đứa cũng không cần, nhưng tên Kỳ quan này là người cẩn thận, chắc chắn, biết lựa dịp ứng đáp, rất hợp ý già này, không thể nào bỏ nó được”. Vì thế, chúng tôi đến nhờ ngài bảo cậu Hai cho tên Kỳ quan về, để thỏa lòng Vương gia chúng tôi thiết tha mong đợi, và chúng tôi cũng đỡ phải đi tìm vất vả.

Nói xong, hắn liền vái một cái.

Giả Chính nghe nói, vừa sợ vừa giận, liền cho gọi Bảo Ngọc, Bảo Ngọc không biết là việc gì, vội chạy ra ngay.

Giả Chính hỏi:

– Thằng đáng chết kia! Mày ở nhà đã không chịu học hành thì thôi, lại còn dám càn bậy, làm những việc trái phép à? Tên Kỳ quan là người hầu thân của đức vua Trung Thuận. Mày là hạng người hèn hạ, dám quyến rũ nó, làm vạ lây đến ta!

Bảo Ngọc nghe nói giật mình, vội thưa:

– Thực con không biết việc này! Ngay hai chữ “kỳ quan” con cũng chẳng hiểu là cái gì, huống chi lại buộc cho con tiếng quyến rũ nữa.

Nói xong rồi khóc.

Giả Chính chưa kịp nói câu gì, quan trưởng phủ cười nhạt:

– Thôi, cậu đừng chối quanh nữa, cậu giấu nó ở nhà, hay biết nó ở đâu, xin cứ nói ra, để chúng tôi đỡ phải vất vả lại không cảm ơn cậu lắm hay sao?

Bảo Ngọc nói:

– Thực tôi không biết gì cả. Hay là người ta đồn bậy, cũng chưa biết chừng.

Quan trưởng phủ cười nhạt:

– Hiện có chứng cớ, sao cậu cứ cãi quanh. Trước mặt cụ lớn, tôi nói ra, tất cậu bị quở phạt. Bảo rằng không biết người ấy thì cái dây lưng đỏ của nó sao lại ở người cậu?

Bảo Ngọc nghe nói câu ấy, hồn vía lên mây, mắt trợn lên, mồm đờ ra, trong bụng nghĩ:

“Sao hắn lại biết cả những việc rất kín của mình. Thế thì việc khác cũng không tài nào giấu được. Chi bằng ta nói quanh cho hắn về, để khỏi tiết lộ những chuyện khác”. Liền nói:

– Ngài đã biết đầu đuôi việc Kỳ quan, nhưng có việc lớn là nó mua nhà, sao ngài lại không biết? Tôi nghe nói hình như nó về Tử Đàn bảo, ở phía đông giao, cách thành độ hai mươi dặm gì ấy. Nó có mua mấy mẫu ruộng và làm mấy gian nhà ở đấy. Có lẽ nó về đấy cũng nên.

Quang trưởng phủ cười nói:

– Thế thì nhất định nó về đấy rồi, để tôi đi tìm xem. Nếu thấy thì thôi, bằng không, tôi lại đến phiền cậu.

Nói xong hắn vội vàng đi.

Giả Chính nghe xong, tức quá, mắt trợn lên, mồm xệch ra, vừa tiễn viên quan trưởng phủ ra, vừa ngoái lại quát Bảo Ngọc:

“Không được đi đâu! Trở về tao sẽ bảo mày!” Đưa viên quan kia ra rồi, Giả Chính quay về, thấy Giả Hoàn dẫn mấy tên hầu nhỏ rối rít chạy đến.

Giả Chính quát:

– Đánh chết những đứa kia đi cho tao!

Giả Hoàn trông thấy cha, sợ quá, run lên cầm cập, vội chạy lại, đứng cúi đầu. Giả Chính hỏi:

– Mày chạy đi đâu? Những người theo hầu đâu cả, sao không ai trông nom nó, để nó chạy nhông như ngựa thế này?

Rồi ông ta thét lên:

– Những đứa dẫn mày đi học chạy đâu cả?

Giả Hoàn thấy cha giận quá, nhân dịp nói:

– Con có chạy đâu, chỉ vì khi đi qua bên giếng, thấy một a hoàn chết đuối, con xem người ấy đầu sao mà to thế, người sao mà lớn thế!

Giả hình nghe vậy, giật mình, nghĩ bụng “Vô cớ mà ai lại đâm đầu xuống giếng thế? Nhà ta từ đời ông đời cha đều cư xử rộng rãi, nhân từ với kẻ dưới, có bao giờ xảy ra việc thế này? Có lẽ gần đây vì ta lười nhác, không trông nom việc nhà, để bọn người nhà lộng quyền giở lối cay nghiệt, đến nỗi xảy ra tai vạ, liều mình tự vẫn. Nếu người ngoài biết thì tiếng tăm ông cha mình còn ra làm sao nữa”. Rồi ông ta quát:

“Gọi Giả Liễn và Lại Đại đến đây!” Bọn hầu bé vâng lời định đi, thì Giả Hoàn vội đến nắm lấy áo Giả Chính rồi quỳ xuống nói:

– Xin cha hãy bớt giận. Việc này trừ những người ở trong nhà mẹ con ra, thì không ai biết một tí gì. Con nghe đẻ con nói…

Nói đến đấy, nó liền trông ra xung quanh. Giả Chính biết ý, lừ mắt nhìn đám hầu bé. Đám hầu đều vội lui ra bên ngoài.

Giả Hoàn nói khẽ:

– Đẻ con nói:

“Hôm nọ anh Bảo ở nhà mẹ con, kéo chị a hoàn là Kim Xuyến định cưỡng gian nhưng không được, rồi đánh chị ấy một trận, chị ấy tức quá đâm đầu xuống giếng chết!” Chưa nghe dứt lời, Giả Chính giận quá, mặt xám lại, quát to:

“Lôi thằng Bảo Ngọc đến đây!” Ông ta vừa nói vừa chạy vào thư phòng, quát lên:

– Hôm nay ai còn đến ngăn, thì ta sẽ mang hết cả mũ áo, cân đai và gia tài giao cho người ấy với thằng Bảo Ngọc. Ta đành chịu là người có tội, cạo trọc mớ tóc phiền não này đi, tìm đến nơi thanh vắng để khỏi nhục đến tiền nhân, vì đã đẻ đứa con ngỗ nghịch này!

Những môn khách và người hầu thấy Giả Chính như thế, biết ngay là vì ông ta giận Bảo Ngọc, nên ai nấy đều trợn mắt lè lưỡi, chạy đi ra ngoài cả. Giả Chính thở hồng hộc, ngồi ưỡn người trên cái ghế tựa, nước mắt giàn giụa, quát lên mấy tiếng:

“Lôi thằng Bảo ra đây! Mang thừng gậy ra đây! Đóng hết cả các cửa lại! Hễ đứa nào mà báo tin cho nhà trong biết, thì ta đánh chết ngay lập tức!” Bọn người hầu thấy vậy, đành phải vâng lời đứng yên. Có mấy người chạy đi bắt Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc thấy Giả Chính truyền phải đứng yên không được chạy, lại thêm Giả Hoàn nói chêm vào mấy câu, biết ngay là có chuyện dữ.

Bảo Ngọc đi loanh quanh ở ngoài hiên, muốn nhờ người vào báo tin cho nhà trong, nhưng không gặp ai cả. Ngay Bồi Dính cũng không biết đi biệt đâu mất. Đương lúc ngóng chờ, thì có một bà già đến, Bảo Ngọc mừng như bắt được của báu, liền chạy lại kéo bà già nói:

– Bà chạy ngay về nói:

ông sắp đánh tôi đấy! Việc rất cần, bà về báo ngay cho tôi một tiếng!

Một đằng thì Bảo Ngọc vội quá, nói không được rõ ràng; một đằng thì bà già lại điếc đặc, không nghe rõ là nói gì, nên câu:

“Nói ngay một tiếng” bà ta lại nghe ra “Nhảy ngay xuống giếng”, liền cười nói:

– Nó nhảy xuống giếng thì thây kệ nó, chứ việc gì đến cậu mà phải sợ?

Bảo Ngọc thấy bà ấy điếc, liền cáu lên:

– Bà ra gọi một đứa hầu nhỏ của tôi đến đây mau lên!

Bà già nói:

– Việc gì mà chẳng yên? Đã thu xếp xong cả rồi. Bà Hai lại cho nó quần áo, cho nó tiền bạc, còn gì mà chẳng yên?

Bảo Ngọc đương lúc cấp bách không biết làm thế nào, thì bọn người hầu của Giả Chính vào giục đi ra ngay. Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc, mắt đỏ ngầu lên, không kịp hỏi đến những tội, như đi ra ngoài thì đùa bỡn bọn chèo hát, trao tặng của riêng, ở trong nhà thì bỏ học hành, cưỡng gian đầy tớ gái của mẹ, chỉ thét:

“Khóa miệng nó lại, đánh cho chết đi!” Bọn người hầu không dám trái lệnh, đành phải dằn Bảo Ngọc xuống cái ghế dài, cầm gậy to, đánh độ mười cái. Bảo Ngọc biết rằng mình có van cũng chẳng tha nào, đành khóc rống lên. Giả Chính cho là đánh khẽ quá, đá thằng cầm gậy, rồi giật lấy gậy, đánh thật mạnh mấy cái.

Bảo Ngọc xưa nay chưa từng chịu đau đớn như thế bao giờ, lúc đầu còn biết đau, khóc ầm lên; đến sau hơi thở dần dần yếu đi, kêu không ra tiếng. Những môn khách thấy thế, sợ xảy ra chuyện không hay, liền chạy cả đến khuyên ngăn. Nhưng Giả Chính khi nào chịu nghe? Ông ta nói:

– Các người hỏi xem những việc nó làm có đáng tha hay không?

Tội ở các người ngày thường cứ hay nuông nó để nó hư hỏng thế này, lại còn đến khuyên ngăn à. Mai đây nó phạm tội giết cha giết vua, thì các người còn can vào lối nào?

Mọi người thấy câu nói dữ ấy, biết là Giả Chính bực lắm rồi, liền nhao lên đi tìm người vào báo nhà trong.

Vương phu nhân nghe nói, không kịp đến trình Giả mẫu, liền mặc áo, bất chấp có người hay không, vịn vào một a hoàn xăm xăm chạy thẳng vào thư phòng. Bọn môn khách và người hầu đều tránh không kịp.

Giả Chính đương muốn đánh nữa, thấy Vương phu nhân đến, cơn giận lại càng như lửa cháy đổ dầu thêm. Cái gậy cứ lia lịa vụt xuống càng nhanh càng mạnh. Hai đứa đè Bảo Ngọc vội buông tay ra. Bảo Ngọc đã nằm sóng sượt, không cựa quậy được nữa.

Giả Chính còn muốn đánh nữa, nhưng bị Vương phu nhân giữ gậy lại. Giả Chính nói:

– Thôi! Thôi! Hôm nay lại làm cho ta tức đến chết mới thôi đây!

Vương phu nhân khóc nói:

Thằng Bảo đáng đánh thực, nhưng ông cũng nên giữ lấy sức khỏe.

Trời nóng nực, cụ lại đương khó ở; đánh chết thằng Bảo Ngọc là việc nhỏ, nếu cụ lo nghĩ sinh ốm, thì chẳng hóa ra việc to hay sao?

Giả Chính cười nhạt:

– Thôi đừng nói những câu ấy nữa. Đẻ ra cái giống ác nghiệt này, thì tôi cũng mang tội bất hiếu rồi! Ngày thường hễ tôi quở phạt nó lần nào, là y như có người đến bênh nó. Chi bằng nhân ngày hôm nay kết liễu cái đời thằng chó chết này đi để khỏi tai vạ về sau.

Nói xong ông ta định lấy thừng thắt cổ Bảo Ngọc cho chết đi.

Vương phu nhân liền ôm lấy Bảo Ngọc khóc:

– Đã đành ông lo dạy con, nhưng cũng nên nghĩ đến tình vợ chồng một chút. Nay tôi đã năm mươi tuổi đầu, chỉ có một mụn tội nợ này thôi, nếu đánh nó để răn dạy, thì tôi không dám can ngăn.

Nhưng ông định đánh chết nó, thì chẳng hóa ra ông cố tình đoạn tuyệt đời tôi hay sao? Ông định thắt cổ cho nó chết, thì hãy thắt cổ tôi trước, mẹ con tôi không dám oán trách nửa lời, để khi chết xuống âm ty, mẹ con tôi sẽ nương tựa nhau.

Nói xong, bà ta ôm lấy Bảo Ngọc khóc ầm lên.

Giả Chính thở dài, vào ghế ngồi, nước mắt nhỏ xuống như mưa.

Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc mặt nhợt hẳn, hơi đã yếu đi. Cái quần đùi xanh mặc trong người đẫm cả máu, khi cởi thắt lưng ra, thấy từ mông xuống đùi, chỗ thâm chỗ tím, chỗ thì nổi cục, chỗ thì toạc thịt ra, chẳng còn tý nào nguyên vẹn cả. Bà ta bất giác òa khóc to và kêu lên:

– Đứa con xấu số này.

Nhân câu “Đứa con xấu số” bà ta lại nhớ ngay đến Giả Châu, liền gọi ngay tên Giả Châu lên khóc và nói:

– Nếu con còn sống, thì dù chết một trăm đứa con khác ta cũng không cần!

Thấy Vương phu nhân đi ra, Lý Hoàn, Phượng Thư và chị em Nghênh Xuân, Thám Xuân đều chạy đến; nghe thấy Vương phu nhân khóc và gọi tên Giả Châu, người khác không sao, chứ Lý Hoàn thì nhịn làm sao được, chị ta cũng sụt sùi thổn thức khóc theo. Giả Chính thấy thế, lại nước mắt ròng ròng chảy xuống. đương lúc nhốn nhao, thì a hoàn vào trình:

“Cụ đã đến”. Nói chưa dứt lời, đã nghe ở ngoài cửa sổ có tiếng nói run run:

– Đánh chết ta trước đã, rồi hãy đánh chết nó, thế là yên chuyện!

Giả Chính thấy mẹ sang, vừa hoảng sợ vừa thương xót, vội chạy ra đón. Giả mẫu vịn vào một a hoàn đi đến, đầu lắc lư, hơi thở hổn hển. Giả Chính đến gần, cúi đầu cười nói:

– Trời đương nóng nực thế này, mẹ có việc gì, cứ gọi con đến truyền bảo, cần gì phải thân hành đến đây?

Giả mẫu nghe nói, liền đứng lại thở một lúc rồi quát ầm lên:

– Thế ra anh cũng thèm nới chuyện với tôi à! Tôi có câu chuyện muốn nói, nhưng đời tôi không đẻ được người con nào khác, còn bảo tôi nói với ai bây giờ?

Giả Chính nghe câu nới khác hẳn ngày thường, liền rưng rưng nước mắt quì xuống:

– Con sở dĩ phải dạy dỗ nó, là vì muốn làm rạng vẻ ông cha; giờ mẹ nói thế thì con chịu sao nổi?

Giả mẫu nghe nói nhổ toẹt một cái nói:

– Ta mới nói có một câu, anh đã không chịu được, thế thì anh vác gậy đánh vùi đánh dập thằng Bảo như thế kia, liệu nó có chịu được không? Anh nói rằng anh dạy dỗ con cái để làm rạng vẻ ông cha thế thì ngày trước cha anh đã dạy anh như thế nào?

Nói xong, tự nhiên nước mắt ròng ròng, Giả Chính gượng cười nói:

– Xin mẹ đừng thương cảm làm gì, chỉ vì lúc nãy con nóng tính quá. Từ giờ trở đi con không dám đánh nó nữa.

Giả mẫu cười nhạt:

– Anh không cần giận lây với tôi. Nó là con anh, muốn đánh thế nào anh cứ đánh. Chắc rằng mẹ con bà cháu chúng tôi ở đây chỉ làm phiền anh thôi, chi bằng xa anh ra là hết chuyện.

Nói xong liền sai người:

“Sắp sẵn kiệu, ta cùng bà mày và thằng Bảo đi về Nam Kinh ngay”… Người nhà đành phải vâng lời.

Giả mẫu bảo Vương phu nhân:

– Chị không nên khóc lắm. Bây giờ thằng Bảo nó còn bé, thì chị thương nó. Sau nó lớn lên, ra làm ông nọ Ông kia, chưa chắc nó đã nhớ đến công lao chị đứt ruột đẻ ra nó đâu. Bây giờ chị không thương nó, sau sẽ bớt được sự bực tức cũng chưa biết chừng.

Giả Chính nghe vậy, vội cúi đầu nói:

– Mẹ nói câu ấy thì con không còn có chỗ nào mà đứng ở trên đời này nữa.

– Rõ ràng anh làm cho ta không còn có chỗ nào đứng, mà lại còn đổ lỗi cho ta? Chỉ có cách là chúng ta đi hẳn, thì anh sẽ được rảnh rang, chả còn ai dám ngăn cấm anh đánh nó nữa!

Giả mẫu bảo người hầu:

“Sắm sửa ngay hành lý và xe kiệu để ta đi”. Giả Chính liền quỳ rạp xuống, cúi đầu lạy.

Giả mẫu đến xem Bảo Ngọc, thấy lần này Bảo Ngọc bị đòn đau quá, không như những lần trước. Vừa thương cháu, vừa giận con, Giả mẫu khóc mãi không thôi. Vương phu nhân cùng Phượng Thư khuyên giải hồi lâu, mới nguôi dần, không khóc nữa.

Bọn a hoàn, vú bõ chạy đến chực kéo Bảo Ngọc dậy. Phượng Thư mắng:

– Bọn mày khéo hồ đồ! Sao không mở mắt ra mà nhìn. Người như thế, dìu đi sao được. Hãy về mang cái ghế mây dài đến đây!

Mọi người nghe nói, vội chạy đi mang cái ghế dài đến, đặt Bảo Ngọc nằm xuống, theo Giả mẫu và Vương phu nhân đưa về nhà Giả mẫu.

Giả Chính thấy Giả mẫu chưa nguôi cơn giận, không dám tự tiện bỏ về, cũng đi theo luôn. Thấy Bảo Ngọc bị đánh đau quá. Vương phu nhân cứ kêu con luôn miệng và nói:

“Nếu mày chết đi cho anh Châu mày sống, thì bố mày không đến nỗi tức giận thế này, và cũng không uổng tấm lòng tao suốt nửa đời người. Bây giờ mày có mệnh hệ nào, bỏ tao ở lại một mình, thì tao biết trông cậy vào đâu. Thằng ngu đần này!” Bà ta cứ kêu rồi lại khóc, khóc rồi lại kêu. Giả Chính nghe vậy, lòng càng chán ngán, hối hận rằng lẽ ra mình không nên đánh quá tay như thế. Trước hết đến khuyên Giả mẫu. Giả mẫu rưng rưng nước mắt nói:

– Con hư thì phải dạy, nhưng anh không nên đánh nó đến thế!

Anh không đi đi, còn đứng ở đây làm gì? Hay là anh chưa vừa lòng, còn muốn cho nó chết hẳn thì mới hả lòng hả dạ hay sao?

Giả Chính nghe nói, vâng lời đi ra.

Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân và Tương Vân cũng đều chạy lại. Tập Nhân trong lòng đau xót, nhưng không tiện nói ra, thấy mọi người quây lấy Bảo Ngọc, người thì đổ nước, người thì quạt hầu, còn mình chẳng biết chen tay vào đâu, liền ra ngoài, sai đưa hầu nhỏ đi tìm Bồi Dính đến hỏi:

– Đang yên đang lành, chẳng có chuyện gì, tại sao lại bị đánh đau như thế, mà mày không về báo tin ngay?

– Tôi cũng không ở đấy. Khi đánh đến nửa chừng, tôi mới biết tin, vội đến hỏi nguyên do, thì ra vì việc con hát Kỳ quan và việc chị Kim Xuyến.

– Tại sao ông lại biết những việc ấy?

– Việc con hát Kỳ quan có thể là cậu Tiết ngày thường hay ghen tuông, không làm cách nào hả giận được, nên đã xúi giục người nào đến ton hót ông. Còn việc chị Kim Xuyến thì cậu Ba nói ra. Tôi nghe người hầu ông nói thế.

Tập Nhân nghe hai việc này gần khớp như nhau, trong lòng đã tin đến tám chín phần, liền quay trở về, thấy mọi người đang xúm lại chữa cho Bảo Ngọc. Công việc xong xuôi, Giả mẫu sai người khiêng Bảo Ngọc cẩn thận về nhà. Ai nấy vâng lời, ba chân bốn cẳng, khiêng Bảo Ngọc về viện Di Hồng, đặt nằm yên ở trên giường. Rối rít một lúc lâu, rồi kéo nhau vế. Bấy giờ Tập Nhân mới đến hầu và căn vặn hỏi han cặn kẽ câu chuyện.

Chương 34: Mối tình ngổn ngang, thấy tình cô em càng thêm thấm thía – Lỗi lầm chồng chất, lấy lầm khuyên anh xiết nỗi buồn rầu

Mối tình ngổn ngang, thấy tình cô em càng thêm thấm thía

Lỗi lầm chồng chất, lấy lầm khuyên anh xiết nỗi buồn rầu

Giả mẫu và Vương phu nhân đi rồi, Tập Nhân chạy đến bên cạnh Bảo Ngọc, nhỏ nước mắt hỏi:

– Tại làm sao mà cậu bị đánh đau đến thế?

Bảo Ngọc thở dài:

– Hỏi làm gì nữa? Chẳng qua cũng vì những việc ấy thôi! Nửa mình tôi đau lắm, chị thử xem đánh vào những chỗ nào.

Tập Nhân khẽ luồn tay cởi cái quần lót ra, mới chạm vào người một tý, Bảo Ngọc đã nghiến răng kêu “Đau”. Tập Nhân vội dừng tay lại, mãi ba bốn lần mới cởi ra được. Nhìn thấy nửa mông trên có những vết lằn nổi lên rộng bằng bốn ngón tay, vừa thâm vừa tím, Tập Nhân nghiến răng nói:

– Mẹ Ơi! Làm sao mà lại đánh ác quá thế? Ngày thường cậu nghe lời tôi, thì đâu đến nỗi này. May không chạm đến gân cốt, chứ thành tật thì còn làm ăn gì.

Tập Nhân đương nói thì a hoàn vào báo “Cô Bảo đến”, Tập Nhân biết là không kịp mặc quần lót, liền lấy ngay cái chăn giải giường đắp lên cho Bảo Ngọc. Bảo Thoa tay cầm viên thuốc đi vào, đưa cho Tập Nhân:

– Chiều hôm nay chị lấy rượu mài viên thuốc này bôi cho cậu ấy, để tan những máu ứ đi, sẽ chóng khỏi đấy.

Bảo Thoa lại quay sang hỏi Bảo Ngọc:

– Bây giờ cậu đã khá chưa?

Bảo Ngọc cảm ơn nói:

– Đã hơi khá, mời chị ngồi.

Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc mở mắt ra nói chuyện, đã khá hơn lúc nãy, trong bụng cũng đỡ lo, chỉ lắc đầu thở dài:

– Nếu cậu sớm chịu nghe lời mọi người thì đâu đến nỗi như ngày hôm nay? Chả cứ cụ và dì mà ngay chúng tôi trông thấy cũng phải đau lòng.

Bảo Thoa nói được nửa chừng thì nín hẳn lại, hối hận không nghĩ kỹ, tự nhiên má đỏ lên, đầu cúi xuống, không nói nữa. Nghe những lời thân mật, có ngụ ý sâu xa, lại thấy Bảo Thoa nín bặt không nói, má đỏ, đầu cúi xuống, tay mân mê dải áo, có dáng e lệ thẹn thò, không thể nào hình dung hết được, Bảo Ngọc trong lòng càng thêm cảm động, bao nhiêu đau đớn hình như đã trút sạch ra ngoài chín tầng mây. Bụng nghĩ:

“Ta chẳng qua bị đánh có vài cái, thế mà chị em ai cung tỏ vẻ thương xót, thật là đáng thân, đáng kính!

Nếu một ngày kia ta có mệnh hệ nào, thì không biết họ thương cảm đến đâu! Họ đối với ta thật tử tế như thế, dù ta có chết ngay, được họ thương tiếc nhường này, thì sự nghiệp cả đời ta có trôi ra bể đông, cũng không đáng tiếc. Trong chốn u minh, nếu không thư thái tâm tình thì thật là con quỷ hồ đồ!” Lại thấy Bảo Thoa hỏi Tập Nhân:

– Tại sao ông tự dưng đâm giận mà đánh cậu ấy như thế?

Tập Nhân liền kể cho Bảo Thoa nghe những câu Bồi Dính nói lúc nãy. Bảo Ngọc vẫn chưa biết Giả Hoàn nói xấu mình, thấy Tập Nhân nói, lại vương cả đến Tiết Bàn. Sợ Bảo Thoa chạm lòng, Bảo Ngọc gạt lời Tập Nhân, và nói:

– Anh Tiết không khi nào lại thế, các chị đừng nên đoán bậy.

Bảo Thoa biết ngay là Bảo Ngọc sợ mình không đành dạ, nên dùng lời ngăn Tập Nhân đi. Trong bụng nghĩ thầm:

“Anh ấy bị đánh như thế, lại không nghĩ gì đến đau đớn, vẫn còn quá cẩn thận, sợ mang lỗi với người ta. Thật là anh đã hết sức giữ gìn đối với chúng tôi. Nhưng sao anh không lo đến những việc lớn ở ngoài, để ông được vui lòng, thì đến nỗi nào bị đòn như thế. Anh sợ tôi chạnh lòng nên ngắt lời chị Tập Nhân, nhưng tôi còn lạ gì tính nết anh tôi xưa nay là người ngông cuồng, phóng đãng, không một chút dè chừng hay sao?

Ngày trước vì việc Tần Chung đã xảy ra những chuyện long trời lở đất. Bây giờ câu chuyện này càng ghê gớm hơn nhiều”. Bảo Thoa nghĩ vậy, cười nói:

– Chúng ta cũng không nên oán trách người này người khác, cứ ý tôi thì vì anh Bảo xưa nay thường hay chơi bời với những người ấy, nên ông mới nổi giận. Dầu anh Tiết tôi là người ăn nói không biết giữ gìn, buột miệng nói ra việc của anh Bảo, cũng không phải là có ý bới móc đâu:

một là vì câu chuyện có thực, hai là vì anh tôi không hay nghĩ đến những chuyện dè chứng nhỏ nhặt. Chị Tập Nhân từ bé đến giờ chỉ biết có anh Bảo là người giữ gìn cẩn thận thôi, chứ anh tôi thì coi trời bằng vung, hễ bụng nghĩ gì, là nói tuột ra.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc gạt câu chuyện Tiết Bàn đi, biết ngay là mình nói hớ, sợ Bảo Thoa buồn rầu; sau thấy Bảo Thoa nói thế, lại đâm ra xấu hổ, không biết nói gì. Bảo Ngọc nghe Bảo Thoa nói vừa đường hoàng, thẳng thắn, lại gỡ được lòng hoài nghi của mình, trong người càng rạo rực. Đương muốn nói nữa, bỗng thấy Bảo Thoa đứng dậy nói:

– Ngày mai tôi sẽ lại thăm, anh cố tĩnh dưỡng đi. Vừa rồi tôi đưa viên thuốc cho chị Tập Nhân, đến chiều bôi đi thì sẽ bớt đấy.

Nói xong đi ra. Tập Nhân theo đến ngoài sân nói:

– Phiền cô quá. Hôm nào cậu Bảo khỏi, sẽ sang tận nơi cám ơn.

Bảo Thoa quay lại cười nói:

– Có gì đâu? Chị cứ khuyên anh ấy tĩnh dưỡng, đừng nghĩ ngợi lan man, sẽ chóng khỏi ngay. Anh ấy muốn ăn cái gì chơi cái gì thì cứ khẽ sai người sang bên tôi mà lấy, chả cần để cho cụ và dì tôi cùng mọi người biết nữa. Nếu đến tai dượng tôi thì dù việc chẳng can gì, nhưng sau lỡ xảy chuyện e không hay đấy.

Nói xong rồi đi.

Tập Nhân quay về, trong bụng rất cảm ơn Bảo Thoa.

Khi vào nhà, trông thấy Bảo Ngọc có dáng im lặng, trầm ngâm, giở thức giở ngủ, Tập Nhân bèn ra ngoài buồng rửa mặt chải đầu.

Bảo Ngọc nằm thiếp trên giường, mông đau như kim châm, dao cắt, người nóng như lửa đốt, hễ cựa quậy một tý, là phải kêu lên mới chịu được. Bấy giờ trời sắp chiều, Tập Nhân đi ra, trong nhà chỉ có vài ba a hoàn đứng hầu, không có việc gì đáng sai, Bảo Ngọc liền bảo:

– Các cô hãy đi ra ngoài rửa ráy, khi nào tôi gọi sẽ đến.

Mọi người đều đi ra.

Bảo Ngọc đương nằm mê man, thấy Tưởng Ngọc Hàm tiến vào, kể việc phủ Trung Thuận tìm bắt hắn. Một chốc lại thấy Kim Xuyến đến khóc lóc, kể lể vì tại cậu mà tôi phải đâm đầu xuống giếng. Bảo Ngọc nửa tỉnh nửa mê, không để ý đến. Đương lúc bàng hoàng hoảng hốt, chợt có người lay dậy, nghe những tiếng khóc lóc thảm thương, Bảo Ngọc giật mình thức tỉnh giương mắt nhìn, thì không phải người nào xa lạ mà chính là Đại Ngọc. Ngỡ là mình nằm mê, Bảo Ngọc vội vươn người lên nhìn chòng chọc vào tận mặt người kia, thì thấy hai mắt sưng bằng hai quả nhót, nước mắt giàn giụa trên mặt, không phải Đại Ngọc thì còn là ai? Bảo Ngọc muốn nhìn nữa, nhưng vì nửa người phía dưới đau quá không thể chịu nổi, liền kêu “Ối chào” một tiếng, rồi lại nằm vật xuống, thở dài và nói:

– Em lại đến đây làm gì? Mặt trời mới lặn, đất hãy còn nóng, nếu bị cảm nắng, thì làm thế nào? Anh bị đòn, không đau lắm đâu.

Anh giả cách làm ra thế này để đánh lừa họ đồn đại đến tai ông đấy thôi, em đừng tin là thực.

Bấy giờ Đại Ngọc khóc không ra tiếng, cứ nức nở sụt sùi càng thêm não ruột. Bảo Ngọc nói xong, Đại Ngọc lòng càng ngổn ngang trăm mối, nghẹn ngào không nói ra lời, lúc lâu mới ngập ngừng:

– Từ rày anh nên chừa đi nhé!

Bảo Ngọc thở dài một tiếng:

– Em cứ yên tâm, đừng nói nữa. Anh có vì những người ấy mà chết đi, thì cũng cam lòng.

Chợt người ngoài vào báo:

“Mợ Hai đến đấy”. Đại Ngọc biết ngay là Phượng Thư đến, vội đứng dậy nói:

– Tôi ra sân sau đây, chốc nữa sẽ đến.

Bảo Ngọc kéo Đại Ngọc lại nói:

– Ấy mới lạ chứ, việc gì mà sợ chị ấy?

Đại Ngọc giậm chân khẽ nói:

– Anh trông mắt tôi đây này! Rồi họ mang chúng ta ra làm trò cười đấy.

Bảo Ngọc vội buông tay ra. Đại Ngọc liền rảo cẳng đi quanh sau giường, vừa ra đến sân sau, thì Phượng Thư đã ở ngoài bước vào, hỏi Bảo Ngọc “Đã khá chưa? Muốn ăn gì thì bảo người sang bên chị mà lấy”. Tiếp đó là Tiết phu nhân đến. Một chốc Giả mẫu lại sai người đến.

Mãi lúc lên đèn, Bảo Ngọc chỉ húp hai ngụm cháo rồi mê mẩn nằm thiếp đi. Sau đó bọn vợ Chu Thụy, vợ Ngô Tân Đăng và vợ Trịnh Hảo Thời, mấy người già này xưa nay vẫn năng lui tới, nghe tin Bảo Ngọc bị đòn, họ đều đến thăm. Tập Nhân vội ra đón và khẽ cười nói:

– Các thím đến hơi chậm, cậu ấy đã ngủ rồi.

Liền dắt bọn họ sang nhà bên ngồi, pha nước mời uống. Mấy bà này lẳng lặng ngồi một lúc, rồi nói với Tập Nhân:

– Lúc nào cậu dậy, chị nói hộ, chúng tôi sang thăm.

Tập Nhân nhận lời đưa họ đi ra, vừa quay vào thì Vương phu nhân sai một bà già sang nói:

– Gọi một người nào hầu cậu Hai sang cho bà hỏi.

Tập Nhân nghĩ một lúc, rồi quay lại khẽ bảo bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt, Đàn Vân và Thu Văn:

– Bà gọi đấy, các em ở nhà hầu hạ cẩn thận nhé, chị đi một tí rồi về.

Nói xong, Tập Nhân cùng bà già ra khỏi vườn, đi lên nhà trên.

Vương phu nhân đương ngồi trên giường phe phẩy cái quạt ba tiêu, trông thấy Tập Nhân đến, liền bảo:

– Con bảo ai sang chả được, lại bỏ nó mà đi, thì ai hầu hạ nó.Tập Nhân cười nói:

– Cậu ấy vừa mới ngủ, mấy a hoàn bên nhà bây giờ đã biết hầu rồi, xin bà cứ yên lòng. Con nghĩ bà có việc gì cần dặn bảo, nếu sai bọn họ sang, sợ nghe không hiểu lại lỡ mất việc.

– Cũng không có việc gì, chỉ hỏi giờ nó đau ra làm sao thôi.

– Cô Bảo đưa thuốc sang, con xoa cho cậu ấy, thấy đã khá hơn.

Trước đau lắm, nằm không yên, giờ đã ngủ được.

– Nó đã ăn gì chưa?

– Cụ vừa cho một bát cháo, cậu ấy húp được hai ngụm, thì kêu khát lắm, đòi uống nước mơ. Con sợ nước mơ là thứ hay thu vào, mà cậu ấy vừa bị đánh, lại không cho kêu, e rằng máu nhiệt đọng ở trong tim, nếu uống, trong bụng cồn cào, bệnh sẽ nặng thêm thì làm thế nào? Vì thế con ngăn mãi cậu ấy mới chịu thôi, chỉ hòa một ít nước quả mai khôi canh đặc với nước đường, uống được nửa chén nhỏ, lại bảo chán, không thơm không ngọt gì cả.

– Ối chà! Sao con chẳng nói sớm cho ta biết? Hôm nọ có người biếu mấy chai nước thơm, ta định cho nó một ít, nhưng sợ nó làm phí của, nên không cho. Giờ nó đã chán không muốn uống nước mai khôi thì con mang hai chai này về, cứ lấy độ một thìa con pha vào một bát nước thì thơm lừng lên.

Nói xong, liền gọi Thái Vân đem mấy chai nước móc thơm hôm nọ ra, Tập Nhân nói:

– Chỉ xin hai chai thôi, nhiều sợ bỏ đi phí của. Khi nào dùng hết, sẽ lại sang xin.

Thái Vân đi một chốc, mang hai chai đến đưa cho Tập Nhân.

Tập Nhân nhìn thấy hai chai pha lê chừng ba tấc, trêncó nút bạc xoáy trôn ốc, dán giấy vàng, một chai đề chữ:

“Mộc tê thanh lộ” 1, một chai đề chữ “Mai khôi thanh lộ” 2. Tập Nhân cười nói:

– Thứ này chắc quý lắm! Chai nhỏ thế thì chứa được bao nhiêu?

– Thứ đem tiến vua đấy. Con không thấy dán giấy vàng ở trên nút à? Phải cất đi cẩn thận cho nó, không được bỏ phí của.

Tập Nhân vâng lời, sắp đi ra, Vương phu nhân lại gọi:

– Hãy đứng lại, ta sực nhớ điều này muốn hỏi con!

Tập Nhân vội quay lại. Vương phu nhân thấy trong buồng không có ai, liền hỏi:

– Ta nghe đâu thằng Hoàn ton hót gì với ông, nên thằng Bảo bị đòn, có phải thế không? Có gì con cho ta biết, ta không nói lộ với ai đâu.

– Con không nghe thấy điều ấy bao giờ, hình như cậu Hai giấu một người con hát của tước Vương nào ấy, người ta đến trình với ông, nên cậu ấy mới phải đòn.

Vương phu nhân lắc đầu nói:

– Việc ấy đã đành rồi, lại còn việc khác nữa kia.

– Việc khác thì con không biết. Bây giờ trước mặt bà, con xin cả gan nói thẳng, cứ lẽ ra thì…

Tập Nhân nói nửa chừng rồi lại nín bặt, Vương phu nhân nói:

– Có gì con cứ nói ra.

– Xin bà đừng giận con mới dám nói.

– Con cứ nói, ta giận cái gì.

– Đúng ra thì cậu Bảo cần phải có ông dạy bảo luôn mới được; nếu người không trông nom đến, thì không biết chừng sau này cậu ấy sẽ còn gây ra nhiều chuyện.

Vương phu nhân nghe vậy, liền chắp tay niệm Phật, chợt gọi Tập Nhân:

– Con ơi! Con nói đúng đấy, ta cũng nghĩ thế; thực ra, có phải ta không biết dạy con đâu! Khi trước anh Châu mày còn sống, ta dạy bảo nó như thế nào, lẽ nào bây giờ ta lại không biết dạy bảo thằng Bảo. Nhưng có một điều này:

bây giờ ta đã năm mươi tuổi đầu rồi, chỉ có một mình nó, từ bé đến giờ, nó lại ốm yếu luôn. Cụ lại quý nó như vàng như ngọc, nếu dạy bảo nhiều quá, lỡ xảy ra điều gì, cụ sẽ buồn rầu, trong nhà đâm ra lủng củng, thì lại càng không hay nữa. Vì thế ta nuông chiều nó. Không ngờ đâm ra hư hỏng. Ta thường lựa lời dạy bảo khuyên can, có khi đến khóc, nhưng nó cũng chỉ nghe được một lúc thôi, rồi đâu lại hoàn đây, nên mới xảy ra nông nỗi này. Nếu nó bị đánh chết, thì mai sau ta còn trông cậy vào ai nữa!

Nói xong nước mắt lại ròng ròng nhỏ xuống.

Tập Nhân thấy Vương phu nhân đau khổ như thế, trong bụng buồn rầu, nước mắt cũng rơi lã chã:

– Cậu Hai là con đẻ của bà, khi nào bà lại không thương? Chúng con là kẻ dưới hầu hạ lâu nay, nếu được mọi sự yên ổn, thật là phúc lớn. Chứ cứ như thế này, thì làm sao cho yên bề hầu hạ được. Ngày nào giờ nào con chẳng khuyên ngăn cậu ấy! Nhưng khuyên ngăn mãi cậu ấy vẫn không tỉnh ngộ. Lại có những hạng người cứ hay thậm thụt với cậu ấy, chẳng trách được cậu ấy đến nỗi thế này. Chúng con khuyên ngăn mãi cũng không tiện, bây giờ bà nhắc đến, con lại nhớ ra một việc, muốn trình bà xem người định đoạt ra sao; nếu bà có bụng ngờ, thì không những lời con nói không ăn thua gì, mà ngay con chết cũng không có chỗ chôn.

Vương phu nhân nghe câu nói có ý tứ, liền hỏi:

– Con ơi, có điều gì con cứ nói thẳng ra. Lâu nay ta thấy mọi người xung quanh ai cũng khen con. Ta vẫn cho là con chẳng qua chăm lo hầu hạ Bảo Ngọc, hòa nhã với mọi người, thế thôi. Ngờ đâu những câu con nói vừa đây, đều là việc lớn, rất hợp ý ta. Vậy con có điều gì, cứ nói thẳng ra, miễn là đừng để cho người ngoài biết là được.

– Con chẳng nói điều gì khác cả, con chỉ muốn bà tìm cách nào cho cậu ấy dọn ngay ra ở ngoài, không ở trong vườn nữa là xong chuyện.

Vương phu nhân nghe nói, giật nẩy mình, vội kéo tay Tập Nhân hỏi:

– Không lẽ thằng Bảo Ngọc đã giở trò bậy gì với ai chăng?

– Làm gì có chuyện ấy! Xin bà đừng quá nghĩ, đó chẳng qua là ý riêng của con đấy thôi. Bây giờ cậu Hai đã lớn rồi, các cô ở trong ấy cũng đã lớn cả, vả chăng cô Lâm và cô Bảo lại chỗ chị em con cô, con dì. Kể ra là chỗ chị em đấy, nhưng đằng la con gái, đằng là con trai, ngày đêm cùng ở một chỗ, đi đứng không tiện, lẽ nào chẳng làm cho người ta phải lo lắng, lỡ ra có ai nhìn thấy, thì họ có cho là việc trong nhà đâu. Tục ngữ có câu:

“Phải nghĩ trước khi có việc”. Trên đời biết bao việc bất trắc xảy ra, phần nhiều là do mình vô tình, nhưng người ngoài họ để ý, lại cho là mình định tâm làm như vậy, rồi đem đi nói xấu. Vì vậy không đề phòng nhất định không được. Vả lại ngày thường tính nết cậu Hai thế nào, bà cũng đã biết cả rồi:

cậu ấy cứ thích chơi đùa với bọn chúng con. Nếu không phòng ngừa trước đi, lỡ xảy ra sai lầm gì, không cứ việc thực hay hư, hễ nhiều người thì tất nhiên lắm chuyện. Những kẻ xấu bụng xấu dạ, họ có kiêng nể ai.

Hễ bằng lòng ra thì khen tốt hơn đức Phật, không bằng lòng thì họ chê bai không bằng giống súc vật. Sau này có ai nói tốt cậu Hai thì mọi người cũng chỉ chợp mắt bỏ qua thôi, nếu như có người nới xấu cậu ấy một câu, thì chúng con dù có tan xương nát thịt, tội nặng muôn vàn, cũng chỉ là việc nhỏ, nhưng tiếng tăm, phẩm cách suốt đời của cậu ấy, chẳng hóa ra mất hết hay sao? Lúc bấy giờ, trước mặt ông nhà, bà cũng khó nói. Tục ngữ có câu:

“Quân tử phòng thân”, chi bằng phòng ngừa ngay từ giờ là hơn. Bà bận việc, cố nhiên không có thì giờ nghĩ đến những chuyện ấy. Chúng con không nghĩ đến thì thôi, chứ đã nghĩ ra mà không trình bà biết thì tội càng nặng. Con lâu nay vì việc này mà ngày đêm áy náy, không dám nói với ai. Chỉ có ngọn thần đăng chứng tỏ nỗi lòng mà thôi.

Vương phu nhân nghe nói như sét đánh bên tai, chạnh nhớ đến việc Kim Xuyến, trong bụng càng yêu quý Tập Nhân, liền cười nói:

– Con ơi, con có lòng chăm lo chu tất thế, ta há lại chẳng nghĩ đến hay sao? Nhưng vì bấy lâu bận việc, ta quên mất. Những câu nói hôm nay làm ta tỉnh ngộ. Con nghĩ thật chu đáo giữ trọn thanh danh cho mẹ con ta, ta không ngờ con lại tốt như vậy. Thôi con hãy về đi, ta sẽ liệu cách. Nhưng có một điều này, con đã nói như thế, thì ta sẽ giao thằng Bảo cho con, lúc nào con cũng phải để ý trông nom giữ gìn nó, tức là con giữ gìn ta đấy. Chắc chắn là ta không phụ công con đâu.

Tập Nhân luôn luôn vâng lời. Về đến nhà, thấy Bảo Ngọc dậy, Tập Nhân bèn kể lại chuyện bà cho hai chai nước thơm. Bảo Ngọc mừng lắm, lập tức sai pha ra uống, thấy thơm tho lạ thường. Trong bụng nhớ ngay Đại Ngọc, Bảo Ngọc muốn sai người đi mời, nhưng lại sợ Tập Nhân ngăn lại, liền tìm cách sai Tập Nhân sang nhà Bảo Thoa mượn sách.

Tập Nhân đi rồi, Bảo Ngọc liền gọi Tình Văn đến bảo:

– Chị sang bên cô Lâm xem cô ấy làm gì? Nếu cô ấy hỏi thì bảo tôi đã khá rồi.

– Chẳng có việc gì, tự nhiên trơ tráo sang đấy sao tiện? Phải có một chuyện gì cho có việc chứ?

– Chẳng có việc gì đáng nói cả.

– Hoặc bày cách sang cho cái gì, hay sang mượn cái gì, nếu không thì tôi đến đấy biết nói thế nào?

Bảo Ngọc nghĩ một lúc, rồi giơ tay lấy hai cái khăn lụa cũ đưa cho Tình Văn, cười nói:

– Được rồi, chị cứ bảo rằng tôi sai chị đưa cái này cho cô ấy.

– Thế mới lạ chứ. Cô ấy cần hai mảnh khăn lụa dung dúc này làm gì? Chỉ tổ làm cho cô ấy giận, lại bảo cậu đùa cô ấy thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chị cứ yên tâm, thế nào cô ấy cũng hiểu.

Tình Văn đành phải cầm lấy khăn lụa, đến quán Tiêu Tương, gặp Xuân Tiêm đương đứng phơi khăn mặt ở ngoài hiên. Thấy Tình Văn đến, Xuân Tiêm vội xua tay nói:

“Cô ấy ngủ rồi”. Tình Văn đi vào nhà, tối như mực, vẫn chưa thắp đèn, Đại Ngọc nằm ở trên giường, hỏi “Ai đấy?” Tình Văn vội trả lời:

“Tình Văn đây”. Đại Ngọc hỏi:

“Sang làm gì đấy?”. Tình Văn nói:

“Cậu Hai bảo mang khăn lụa sang cho cô đây”.

Đại Ngọc nghe nói, trong bụng đâm ra buồn bực, nghĩ một mình:

“đưa khăn lụa sang cho ta để làm gì đây?” Rồi hỏi:

– Khăn lụa này ai cho cậu ấy? Chắc đẹp lắm thì phải. Bảo cậu ấy để dành đưa cho người khác, chứ tôi không cần thứ ấy.

Tình Văn cười nói:

– Đó là khăn lụa cũ thường ngày dùng đấy thôi, không phải khăn mới đâu.

Đại Ngọc nghe nói, càng bực mình, đắn đo một lúc, rồi mới nghĩ ra, liền nói:

– Thôi chị cứ để đấy mà về.

Tình Văn đành để xuống đấy, quay ra về, đi đường ngẫm nghĩ, không hiểu ý tứ ra sao cả.

Đại Ngọc đã hiểu ý Bảo Ngọc cho đưa khăn lụa sang, đâm ra ngơ ngẩn say sưa, nghĩ bụng:

bây giờ Bảo Ngọc đã biết thể tất nỗi đau khổ của ta, đã là điều làm cho ta đáng mừng; ta có ý nghĩ vậy, không biết sau này ra sao, đã là điều làm cho ta đáng thương; tự nhiên vô cớ, mang hai mảnh lụa cũ đến, nếu chỉ nhìn hai mảnh lụa mà không hiểu ý sâu xa của ta, đó là điều làm ta đáng cười; còn chuyện sai người lén lút tặng cho ta, đó là điều khiến cho ta đáng sợ; ta cứ hay khóc, nghĩ cũng vô ích, đó là điều làm cho ta đáng xấu hổ”.

Đại Ngọc nghĩ quanh nghĩ quẩn, tự nhiên đâm ra nóng lòng sốt ruột, trong bụng vẩn vơ, liền bảo thắp đến, rồi không nghĩ đến việc kiêng tránh hiềm nghi, vội vùng dậy mài mực nhúng bút, lấy ngay hai mảnh lụa cũ ra viết:

I Lệ chan chứa hão, lệ rơi hoài, Ngấm ngầm vì đâu giọt ngắn dài?

Mảnh lụa giao này ơn biết mấy, Vì ai khôn xiết nỗi thương ai, II Giọt ngọc dòng châu lặng lẽ rơi, Suốt ngày vơ vẩn suốt ngày rồi?

Gối kia áo nọ lau nào sạch, Vết ố mầu hoen cũng mặc thôi.

III Khăn nào lau sạch hết dòng châu, Dấu cũ sông Tương biết ở đâu.

Sẵn đó trước song, ngàn ngọn trúc, Ngấn thơm biết có nhuộm thêm mầu?

Đại Ngọc toan viết nữa, nhưng người rạo rực lên, mặt nóng bừng bừng, liền đến chỗ đài gương, mở cái phủ bằng gấm ra soi, thấy mặt đỏ hơn cánh hoa đào, đoán chừng bệnh đã bắt đầu từ đấy. Một lúc lên giường nằm, vẫn còn cầm mảnh lụa đăm đắm suy nghĩ.

Tập Nhân sang đến bên Bảo Thoa thì Bảo Thoa lại sang bên nhà Tiết phu nhân vắng. Tập Nhân về không, đến đầu canh hai, Bảo Thoa mới về.

Bảo Thoa vẫn biết tính nết Tiết Bàn, trong bụng ngờ là hắn xui người đến mách tội Bảo Ngọc; sau khi nghe Tập Nhân nói, lại càng tin lắm. Thực ra, Tập Nhân chỉ nghe Bồi Dính nói, mà Bồi Dính cũng đoán phỏng thôi, chưa có gì là chứng cớ đích xác, nhưng cứ đổ riệt cho hắn.

Tiết Bàn xưa nay vẫn có tiếng ấy, nhưng lần này không phải tự hắn gây nên, trái lại, người ta cứ dựng đứng đổ riệt cho hắn, không sao cãi lại được. Hôm ấy hắn uống rượu ở ngoài phố về, vào chỗ Tiết phu nhân, thấy Bảo Thoa ngồi ở đấy. Hắn nói ba hoa mấy câu, chợt như nhớ đến, liền hỏi:

– Nghe nói Bảo Ngọc bị đòn, là tại làm sao thế?

Tiết phu nhân đang khó chịu về việc này, thấy hắn hỏi, liền nghiến răng nói:

– Giống oan nghiệt, chả biết phải trái gì cả, cứ sinh chuyện ra, lại còn vác mặt đến đây hỏi ta à?

Tiết Bàn thấy thế, tức quá, đứng ngẩn người ra hỏi:

– Tôi sinh chuyện cái gì?

– Mày lại còn giả vờ à? Ai cũng bảo việc ấy do mày xúi bẩy cả.

– Thế thì người ta bảo tôi giết người, mẹ cũng tin à?

– Ngay em mày cũng biết là mày xúi bẩy đấy, chẳng lẽ nó lại đổ oan cho mày sao?

Bảo Thoa vội ngăn lại:

– Mẹ và anh đừng làm ầm lên thế; đen trắng sau này dần dần sẽ rõ.

Rồi quay lại nói với Tiết Bàn:

– Anh có xúi bẩy hay không, việc cũng đã rồi, đừng cãi cọ nữa, kẻo lại bé xé ra to. Em khuyên anh từ nay trở đi đừng làm càn ở ngoài và cũng đừng chọc vào công việc của người ta. Anh xưa nay là người không biết giữ gìn, ngày ngày chơi bời đùa đẫy với bọn họ, không xảy ra việc gì thì thôi, lỡ xảy ra, dù anh không làm, người ta vẫn quàng vào cổ. Chả cứ ai, ngay em cũng phải ngờ!

Tiết Bàn vốn là người bụng thẳng như ruột ngựa, thấy gì thì nói tuột ngay ra. Hắn không nhịn được những chuyện giấu đầu hở đuôi thế nây, lại thấy Bảo Thoa ngăn không nên đi ra ngoài chơi bời, mẹ cho là mình nói bậy, làm Bảo Ngọc bị đòn. Tức quá, hắn hung hăng thề bồi, cố cãi cho ra. Hắn lại mắng sang mọi người:

“Đứa nào dám đổ tội cho tôi, tôi sẽ bẻ gãy răng chúng nó! Rõ ràng là nhân câu chuyện Bảo Ngọc bị đòn, chúng nó không biết lấy gì tâng công, mới mang tôi ra làm bung xung! Bảo Ngọc có phải là vua nhà trời chăng?

Cha nó mới đánh nó một trận, thế mà cả nhà làm ồn lên đến mấy ngày. Hình như lần này nó có lỗi gì, nên dượng ấy mới đánh mấy roi, không hiểu sao cụ lại biết được, cho là anh Trân mách, rồi gọi anh ấy đến mắng cho một trận. Bây giờ lại quàng vào cho tôi. Tôi không sợ nữa đâu, nhất định tôi đánh chết Bảo Ngọc rồi sẽ đền mạng”.

Hắn vừa thét ầm ĩ vừa vác cái chèn cửa chạy đi. Tiết phu nhân sợ quá, lôi Tiết Bàn lại mắng:

– Thằng khốn nạn này muốn chết đấy! Mày định đi đánh ai?

Hãy đánh tao trước đã!

Tiết Bàn mắt quắc lên thét nói:

– Vì sao mẹ lại không cho tôi đi? Không dưng sao mẹ lại vu tội cho tôi? Sau này hễ Bảo Ngọc còn sống ngày nào, thì tôi còn phải mang vạ miệng ngày ấy, chi bằng hai đứa đều chết cả, thế là yên chuyện.

Bảo Thoa vội đến can ngăn:

– Anh hãy cố nhịn đi nào! Mẹ giận nói thế, anh chẳng có một lời khuyên ngăn. Không cứ gì mẹ, dù người ngoài đến khuyên anh, cũng là vì có bụng tốt cốt để anh chứa bớt đi thôi!

– Bây giờ mày lại nói thế, chắc là mấy đã mách đấy!

– Anh chỉ biết trách tôi, chứ anh không tự trách anh không biết suy đi xét lại gì cả.

– Mày chỉ trách tao không suy đi xét lại, sao mày không biết trách Bảo Ngọc cứ hay đi ra ngoài giở nhưng trò trêu cợt gió trăng?

Chưa kể chuyện khác, hãy nói chuyện Kỳ quan hôm nọ cho mà nghe.

Tao đã gặp Kỳ quan hàng mười lần rồi, nó chưa hề nói một câu thân mật với tao; thế mà Bảo Ngọc mới gặp nó có một lần, chưa biết tên nó là gì, đã cho ngay cái thắt lưng rồi. Vậy thì cái việc ấy, có phải tao mách không?

Tiết phu nhân và Bảo Thoa vội nói:

– Lại còn nhắc đến chuyện ấy! Chính vì chuyện ấy mà nó bị đòn đấy! Thế thì chắc là mày mách rồi.

Tiết Bàn nói:

– Thực là tức chết đi được! Buộc tội thế nào tôi cũng chẳng cần, chỉ tức một nỗi vì Bảo Ngọc mà làm nhộn lên, như là trời nghiêng đất lệch ấy?

Bảo Thoa nói:

– Ai làm nhộn lên! Tự anh vác gậy cầm dao lại còn bảo ai!

Tiết Bàn thấy Bảo Thoa nói câu nào cũng có lý hơn là những câu mẹ hắn nói, khó lòng mà cãi lại được; vì thế hắn muốn tìm cách chặn lời Bảo Thoa để không còn ai cãi lại được mình nữa. đương lúc tức giận không kịp đắn đo, hắn nói ngay:

– Em ơi! Thôi đừng cãi nhau với anh nữa. Anh đã biết rõ bụng em rồi. Trước mẹ đã nói với anh:

em có cái khóa vàng, muốn chọn người nào có ngọc mới lấy. Em để ý thấy Bảo Ngọc có cái ấy, chẳng trách được bây giờ động một tí là em bênh nó.

Bảo Thoa nghe vậy tức điên người, kéo Tiết phu nhân khóc nói:

– Mẹ Ơi! Me có nghe thấy anh ấy nói gì đấy không?

Tiết Bàn thấy em khóc, biết rằng mình nói quá lời, cũng đâm ra giận dỗi về buồng nằm.

Tiết phu nhân cũng rất bực, song lại khuyên Bảo Thoa:

– Ngày thường con vẫn biết thằng súc sinh ấy ăn nói sỗ sàng rồi.

Thôi ngày mai mẹ sẽ bảo nó đến xin lỗi con.

Bảo Thoa tức quá, muốn làm thế nào cho hả giận nhưng lại sợ mẹ không yên lòng, nên đành gạt nước mắt trở về nhà, khóc lóc một đêm. Sáng hôm sau, Bảo Thoa trở dậy, không thiết gì rửa mặt chải đầu, vội mặc quần áo sang thăm mẹ. Vừa gặp lúc Đại Ngọc đứng một mình dưới bóng hoa, hỏi đi đâu. Bảo Thoa nói:

“Đi về nhà”. Nói rồi cắm cổ đi ngay. Đại Ngọc thấy Bảo Thoa có vẻ buồn rầu, mắt như đang khóc, không giống mọi ngày, liền đứng đằng sau cười nói:

– Chị cũng nên giữ mình cẩn thận. Dù có khóc ra hai vò nước mắt, cũng không thể chữa lành được vết đòn đâu!

Bảo Thoa trả lời thế nào, hồi sau sẽ rõ.

1      Nước móc pha với quế.

2      Nước móc pha với nước hoa mai khôi có mùi thơm.

_________________

Chương 35: Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen – Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai

Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen

Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai

Bảo Thoa biết rõ là Đại Ngọc đay nghiến mình, nhưng nghĩ đến mẹ và anh, nên cứ đi một mạch không hề quay đầu lại.

Đại Ngọc vẫn đứng ở dưới bóng hoa, xa xa nhìn sang viện Di Hồng, thấy Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và các a hoàn đi hết lớp này đến lớp khác, chỉ vắng có Phượng Thư thôi. Đại Ngọc trong lòng ngờ vực:

“Tại sao Phượng Thư không sang thăm Bảo Ngọc? Nếu bận việc gì, cũng nên chạy sang một tý, an ủi mấy câu để lấy lòng bà và mợ mới phải. Không sang, tất có duyên cớ gì đây”. Đại Ngọc vừa ngẩng đầu lên nhìn, thấy một đám người ăn mặc lòe loẹt đến:

Giả mẫu vịn vào vai Phượng Thư, theo sau là Hình phu nhân, Vương phu nhân, sau nữa là dì Chu, bọn a hoàn và các bà già đang đi vào viện Di Hồng.

Đại Ngọc tự nhiên gật đầu nghĩ ngay đến chỗ còn bố mẹ thì sung sướng gì bằng, thế là nước mắt lại tràn trên mặt. Một lúc, Tiết phu nhân và Bảo Thoa cũng đến. Bỗng Tử Quyên ở đằng sau chạy đến nói:

– Cô ơi! về uống thuốc đi kẻo nguội rồi!

– Mày làm cái trò gì thế, chỉ cứ giục thôi. Tao uống hay không, có việc gì đến mày?

– Cô vừa mới bớt ho đã lại không chịu uống thuốc. Giờ tháng năm, dù trời nắng, nhưng cũng phải cẩn thận mới được. Vừa sáng dậy, không nên đứng lâu chỗ ẩm thấp. Thôi cô nên về nghỉ đi.

Nghe câu nhắc ấy, Đại Ngọc mới thấy chân hơi buôn buốt, đứng ngẩn người ra một lúc, rồi thong thả vịn vào Tử Quyên về quán Tiêu Tương. Đại Ngọc vào đến sân, thấy chỗ nào cũng bóng trúc rườm rà, dấu rêu mờ tỏ, chợt nghĩ câu trong Tây Sương ký:

Rêu xanh lấp lánh sương rơi, Lối đi vắng vẻ, nào ai ra vào?

Liền thầm thở dài:

“Song Văn tuy mệnh bạc, nhưng còn có mẹ già, em bé, chứ Đại Ngọc này, cả mẹ già, em bé cũng không.

Người xưa có câu:

“Hồng nhan bạc phận”. Ta chẳng phải là hồng nhan, sao mà bạc phận thế? Đại Ngọc vừa nghĩ vừa đi, không ngờ con anh vũ đậu ở ngoài hiên, trông thấy Đại Ngọc về, liền vỗ cánh kêu lên một tiếng. Đại Ngọc giật mình, nói:

– Mày muốn chết đấy! Vẩy cả bụi lên đầu tao.

Con anh vũ bay ngay lên trên cầu, gọi:

“Tuyết Nhạn! Cô về đấy, vén rèm lên”.

Đại Ngọc đứng lại, lấy tay gõ vào cái cầu hỏi:

– Đã lấy thêm nước và đồ ăn cho nó chưa?

Con anh vũ thở dài một cái hệt như giọng Đại Ngọc ngày thường than thở, rồi nó đọc ngay câu:

“Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ, biết sau ta chết ai là người chôn?” Đại Ngọc và Tử Quyên nghe vậy, cười ầm lên.

Tử Quyên nói:

– Ngày thường cô hay ngâm câu này, thảo nào nó chả nhớ được.

Đại Ngọc liền sai mang cầu xuống, treo vào cái móc ở ngoài cửa sổ hình mặt nguyệt, rồi đi vào trong nhà, ngồi tựa cửa sổ. Uống thuốc xong, thấy bóng trúc bên ngoài chiếu vào màn the, suốt nhà lờ mờ êm dịu, ghế đệm mát lạnh. Không cách giải buồn, Đại Ngọc liền đứng trong cửa sổ, đùa với con anh vũ, rồi đem những thơ từ ngày thường của mình thích, dạy cho nó đọc.

Bảo Thoa về đến nhà, thấy mẹ đương chải đầu. Trông con về, Tiết phu nhân cười hỏi:

– Mới sáng dậy, sao con đến ngay đây làm gì?

– Con sang thăm mẹ xem có được khoẻ không? Hôm qua khi con về rồi, anh con có còn giở trò gì nữa không?

Bảo Thoa vừa nói vừa ngồi ghế bên cạnh mẹ, nức nở khóc, Tiết phu nhân thấy con khóc, cũng khóc theo, rồi khuyên:

– Con ơi, con đừng bực bội nữa, để rồi ta có cách trị nó. Nếu con có thế nào, thì ta còn trông cậy vào ai?

Tiết Bàn ở ngoài nghe thấy, liền chạy vào, đứng trước Bảo Thoa vái luôn mấy cái, rồi nói:

– Em ơi, em tha lỗi cho anh lần này. Hôm qua anh đi uống rượu về muộn, giữa đường gặp lại bạn, về nhà vẫn chưa tỉnh. Ngay anh cũng không biết đã nói nhảm những câu gì, chả trách em giận là phải.

Bảo Thoa đương che mặt khóc, nghe anh nói, bật cười, nhổ xuống đất một cái và nói:

– Thôi anh đừng giở lối phường chèo ấy ra nữa! Tôi biết anh không ưa gì mẹ con tôi, tìm cách làm cho mẹ con tôi xa nhau, thì anh mới thỏa lòng.

Tiết Bàn cười nói:

– Em ơi! Tại sao em lại nói nhưng câu ấy, thì ta sống làm sao được? Xưa nay em không lắm điều, hay nói những câu nhảm nhí kia mà.

Tiết phu nhân nói luôn:

– Mày bảo em mày nói nhảm nhí, thế những câu chiều hôm qua mày nói với nó liệu có nghe được không? Mày đâm mê rồi!

Tiết Bàn nói:

– Thôi, mẹ đừng giận, mà em cũng đừng nên buồn rầu. Từ giờ trở đi, con không đi uống rượu với chúng nó nữa, thế có được không?

Bảo Thoa cười nói:

– Em phân bua câu nói ấy nhé.

Tiết phu nhân nói:

– Mày mà quyết chí như thế thì rồng sẽ đẻ trứng!

Tiết Bàn nói với Bảo Thoa:

– Nếu em còn thấy anh đi uống rượu với chúng nó, thì cứ nhổ vào mặt và gọi anh là giống súc vật, chứ không phải là người, như thế có được không? Có đâu chỉ vì anh mà hai mẹ con ngày nào cũng lo ngay ngáy như vậy! Vì anh mà mẹ phải tức giận thì còn khá; chứ vì anh mà em phải lo nghĩ luôn, thì anh thật không phải là người nữa. Bây giờ cha mất rồi, anh đã không biết hiếu thuận với mẹ, trông nom đến em, lại để mẹ phải tức bực, phải buồn rầu, thì anh thực không bằng giống súc vật!

Nói xong, hắn không cầm được nước mắt.

Tiết phu nhân đã thôi không khóc, giờ nghe thấy hắn nói thế, lại đâm ra đau xót. Bảo Thoa gượng cười nói:

– Anh quấy rối đã chán rồi, bây giờ lại còn làm cho mẹ khóc nữa à!

Tiết Bàn lau nước mắt cười nói:

– Tôi có làm cho mẹ phải khóc bao giờ đâu? Thôi! Thôi! Vứt chuyện ấy đi, không nói nữa, bảo Hương Lăng pha nước cho em uống.

Bảo Thoa nói:

– Tôi không uống nước, chờ mẹ rửa mặt xong, mẹ con tôi sẽ đi đây.

Tiết Bàn nói:

– Cái vòng cổ của em, nên chá lại đi.

– Vàng choáng lên thế kia, còn phải chá lại làm gì nữa?

– Giờ em nên may thêm quần áo, thích màu gì, hoa gì, thì cứ bảo anh.

– Các bộ quần áo này tôi cũng chưa mặc phỉ, lại còn may nữa làm gì?

Một lúc Tiết phu nhân và Bảo Thoa đến vườn thăm Bảo Ngọc.

Vào đến viện Di Hồng, thấy ngoài hiên nhà bên có nhiều a hoàn bà già đứng, Tiết phu nhân biết ngay là Giả mẫu đang ở đấy. Hai mẹ con vào chào hỏi mọi ngưòì. Thấy Bảo Ngọc nằm ở trên giường, Tiết phu nhân hỏi:

“Đã khá chưa”. Bảo Ngọc vội gượng dậy, miệng thưa “đã khá rồi. Cứ để cho dì và chị bận lòng mãi, cháu không đành lòng”.

Tiết phu nhân vội đỡ Bảo Ngọc nằm xuống và hỏi:

– Muốn dùng cái gì, thì cứ bảo dì.

Bảo Ngọc cười nói:

– Vâng, hễ cháu cần cái gì, sẽ sang thưa với dì.

Vương phu nhân lại hỏi:

– Con muốn ăn gì, mẹ cho người mang sang.

Bảo Ngọc cười nói:

– Con chẳng muốn ăn gì, chi thích ăn thứ canh lá sen và ngó sen lần trước đã làm, xem chừng ngon hơn cả.

Phượng Thư đứng ngoài cười nói:

– Cả nhà nghe đấy! Những thức chú ấy thích ăn không lấy gì làm quí trọng lắm, chỉ phải tốn công sai bảo nấu nướng thôi. Thế mà chú ấy lại cứ thích ăn những thứ ấy.

Giả mẫu liền giục đi làm ngay! Phượng Thư cười nói:

– Xin bà đừng vội, để cháu nghĩ xem, không biết những cái khuôn ấy ai giữ…

Rồi quay lại bảo bà già đi hỏi nhà bếp. Bà già đi một lúc về trình:

– Nhà bếp nói:

“Đã mang nộp cả lên nhà trên rồi”.

Phượng Thư nghĩ một lúc rồi nói:

– Tôi cũng nhớ họ đã nộp cả lên rồi, không biết lại giao cho ai giữ? Có thể là đã giao cho phòng trà.

Khi hỏi thì phòng trà cũng không giữ. Cuối cùng lại là người giữ đồ vàng bạc đưa đến.

Tiết phu nhân cầm lấy xem, thì ra cái hộp nhỏ, trong đựng bốn cái khuôn bằng bạc, dài độ hơn một thước, rộng độ một tấc, trên mặt đục những lỗ xấp xỉ như hạt đậu, giống hình hoa cúc, hoa mai, hoặc như tua sen, củ ấu. Tất cả có tới ba bốn mươi thứ rất là tinh xảo. Tiết phu nhân ngoảnh lại phía Giả mẫu và Vương phu nhân cười nói:

– Bên phủ nhà cái gì cũng đẹp tột bậc, ăn một bát canh mà cũng dùng đến không thứ này. Nếu không nói ra, có lẽ tôi trông cũng không hiểu thứ này dùng để làm gì.

Phượng Thư cướp lời nói ngay:

– Cô không biết, đó là đồ sắm sửa để dâng thức ăn lên Qúy phi năm trước đấy. Họ nghĩ ra lối này, nhưng không biết in trên mặt thế nào, đành phải mượn mùi thơm mát của lá sen, kỳ thực toàn nhờ chất canh ngon cả. Tôi ăn chẳng thấy thú vị gì. Nhưng đã ai được ăn luôn món này? Chỉ làm có lần ấy thôi, không biết tại sao hôm nay chú Bảo lại nhớ đến.

Nói xong, Phượng Thư cầm lấy hộp ấy đưa cho một bà già dặn bảo nhà bếp lập tức bắt mấy con gà, lại thêm đồ gia vị, nấu mười bát canh mang lên.

Vượng phu nhân nói:

– Sao làm nhiều thế?

Phượng Thư cười nói:

– Vì thứ này ngày thường không hay làm, bây giờ chú Bảo đã nhắc đến, mà chỉ làm cho một mình chú ấy ăn, không mời cụ, bà dì và mẹ, thì không tiện. Chi bằng nhân tiện làm cho cả nhà ăn, cháu cũng nhờ đấy được nếm món ăn mới lạ.

Giả mẫu cười nói:

– Con khỉ này, mày khéo lắm! Mang tiền công ra để lấy lòng người ta.

Câu ấy làm cho cả nhà cười ầm lên.

Phượng Thư vội cười nói:

– Không can gì, bữa tiệc nhỏ này cháu xin thết.

Rồi quay lại bảo bà già xuống dặn nhà bếp:

– Phải làm cho thật ngon, rồi lĩnh tiền ở sổ chi của ta.

Bà già vâng lời đi ngay.

Bảo Thoa đứng một bên cười nói:

– Tôi đến đây đã mấy năm nay, để ý xem xét, thì chị Hai dù khéo đến đâu, cũng còn kém cụ nhiều.

Giả mẫu liền nói:

– Giờ ta đây già rồi, còn khéo vào đâu nữa? Khi bằng tuổi cháu Phượng, ta hơn nó nhiều. Bây giờ nó tuy không bằng ta lúc thời trẻ, nhưng cũng đã khá hơn dì cháu nhiều. Trông thấy dì cháu thật đáng thương, không biết ăn nói, cứ trơ như khúc gỗ, trước mặt bố mẹ chồng, chả biết ân cần vồn vã gì cả. Còn cháu Phượng thì mồm mép bẻo lẻo, trách nào người ta chả thương?

Bảo Ngọc cười:

– Bà nói thế, thì nhưng người nói năng không khéo, đều không đáng thương à?

Giả mẫu nói:

– Người nói không khéo cũng có chỗ đáng thương; người giọng lưỡi khéo léo mà có chỗ đáng ghét, thì không bằng người không nói khéo còn hơn.

Bảo Ngọc cười nói:

– Thế thì chị cả không hay nói, bà cũng thương như chị Phượng.

Nếu chỉ bảo những người khéo nói mới đáng thương, thì đám chị em đây chỉ đáng thương chị Phượng và cô Lâm mà thôi.

Giả mẫu nói:

– Nói đến đám chị em, thì không phải trước mặt dì đây ta nói lấy lòng đâu; cứ thực mà nói, trong bốn đứa cháu gái nhà này, không ai bằng cháu Bảo cả. Tiết phu nhân vội cười nói:

– Cụ lại có chỗ thiên vị rồi.

Vương phu nhân cười nói:

– Không phải cụ nói dối đâu, người thường nói riêng với tôi là cháu Bảo khéo lắm.

Bảo Ngọc định gợi câu chuyện ra, cốt để Giả mẫu khen Đại Ngọc, không ngờ cả nhà lại khen Bảo Thoa, thật là một việc ngoài ý nghĩ. Bảo Ngọc nhìn Bảo Thoa cười. Nhưng Bảo Thoa đã ngoảnh đi nói chuyện với Tập Nhân rồi.

Chợt có người sang mời về ăn cơm. Giả mẫu đứng dậy, dặn Bảo Ngọc “phải tĩnh dưỡng cẩn thận!”. Lại dặn dò đám a hoàn một lần nữa, rồi vịn vào Phượng Thư, mời Tiết phu nhân đi. Mọi người ra khỏi buồng, Giả mẫu còn hỏi canh đã được chưa? Lại bảo Tiết phu nhân:

“Muốn ăn thứ gì cứ nói với tôi. Tôi sẽ bảo cháu Phượng làm cho chúng ta ăn”. Tiết phu nhân cười nói:

– Cụ cứ hay bắt vằn bắt vẻ chị Phượng, chứ thường khi làm thức ăn đem dâng người, thì người có ăn được mấy đâu.

Phượng Thư cười nói:

– Thôi, xin dì đừng nói thế, bà tôi chỉ hiềm thịt người chua thôi, nếu không chua, bà tôi đã ăn luôn cả tôi rồi!

Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Bảo Ngọc ở trong nhà cũng không nhịn được cười. Tập Nhân cười nói:

– Mồm mép mợ Hai làm người ta sợ chết đi được!

Bảo Ngọc cười nói với Tập Nhân:

– Chị đứng lâu thế chắc mệt lắm.

Liền kéo Tập Nhân đến ngồi bên cạnh. Tập Nhân cười nói:

– Thôi quên mất rồi, nhân tiện cô Bảo ở đây, cậu bảo cô ấy cho Oanh Nhi sang xe hộ mấy sợi dây.

– May mà chị nhắc tôi đấy.

Bảo Ngọc liền ngẩng đầu ra cửa sổ nói:

– Chị Bảo, ăn cơm xong, chị cho Oanh Nhi sang đây xe hộ mấy sợi dây, liệu nó có rảnh không?

Bảo Thoa quay lại nói:

– Được rồi, chốc nữa tôi sẽ cho nó sang.

Bọn Giả mẫu chưa nghe rõ đều đứng lại hỏi việc gì. Bảo Thoa nói lại. Giả mẫu liền bảo:

– Cháu ạ! Cháu cho nó sang xe hộ em nó mấy sợi dây. A hoàn ở bên này rỗi cả đấy, cháu cần sai bảo gì, thích ai, cứ gọi nó sang.

Tiết phu nhân và Bảo Thoa đều cười nói:

– Cứ cho nó sang thôi, bên nhà có việc gì sai bảo đâu, cả ngày chỉ ngồi rồi gây chuyện với nhau thôi.

Mọi người đang đi, chợt bọn Tương Vân, Bình Nhi, Hương Lăng hái hoa phượng tiên ở bên núi trông thấy, liền chạy lại chào.

Một lúc ra khỏi vườn. Vương phu nhân sợ Giả mẫu mệt, muốn mời vào ngồi nghỉ ở buồng trên. Giả mẫu thấy mỏi chân, liền gật đầu, bằng lòng. Vương phu nhân vội sai a hoàn về trước xếp đặt chỗ ngồi.

Bấy giờ dì Triệu cáo bệnh, chỉ có dì Chu và bọn bà già a hoàn chạy ra vén rèm, giải nệm, đặt cái tựa lưng. Giả mẫu vịn Phượng Thư đi vào, cùng Tiết phu nhân đều ngồi. Bảo Thoa, Tương Vân thì ngồi ở dưới. Vương phu nhân tự tay dâng nước mời Giả mẫu. Lý Hoàn thì mời Tiết phu nhân. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:

– Chị cứ ngồi xuống đây nói chuyện, mặc cho chị em nó hầu.

Vương phu nhân mới ngồi xuống một cái ghế nhỏ, rồi bảo Thượng Thư:

– Dọn cơm của bà ra đây, thêm mấy món ăn nữa.

Phượng Thư vâng lời đi ra, sai người sang bên nhà Giả mẫu, bọn bà già vội truyền ra. Bọn a hoàn đều chạy đến cả.

Vương phu nhân sai người mời các cô đến. Một lúc, chỉ có Thám Xuân, Tích Xuân đến thôi. Nghênh Xuân trong người khó ở, nên không đến. Đại Ngọc thì không cần phải nói, mười bữa chỉ ăn độ năm, nên chẳng ai để ý đến.

Một chốc đến bữa ăn, mọi người sắp đặt bàn ghế. Phượng Thư để một nắm đũa ngà vào trong khăn tay, đứng bên dưới cười nói:

– Bà và dì không cần phải mời nhau, để mình cháu nói là đủ.

Giả mẫu cười bảo Tiết phu nhân:

– Ừ thì chúng ta cứ như thế.

Tiết phu nhân cười gật đầu. Thượng Thư đặt bốn đôi đũa, hai đôi ở trên là của Giả mẫu và Tiết phu nhân, hai đôi ở một bên là của Bảo Thoa và Tương Vân. Vương phu nhân và Lý Hoàn đều đứng ở dưới trông nom người đưa đồ ăn. Phượng Thư vội lấy bát đũa sạch, chọn đồ ăn để đưa cho Bảo Ngọc.

Một chốc người hầu bưng canh lá sen đến. Giả mẫu xem xong, Vương phu nhân ngảnh lại thấy Ngọc Xuyến đứng ở đấy, liền sai đem canh cho Bảo Ngọc. Phượng Thư nói:

– Một mình nó không mang nổi đâu.

May có Oanh Nhi và Hỷ Nhi đến, Bảo Thoa biết chúng nó đã ăn cơm cả rồi, liền bảo Oanh Nhi:

– Cậu Hai bảo em sang xe hộ ít dây đấy, em cùng đi sang với Ngọc Xuyến.

Hai người vâng lời cùng đi.

Oanh Nhi nói:

– Đường thì xa, canh thì nóng, mang đi thế nào được?

Ngọc Xuyến cười nói:

– Chị cứ yên tâm, tôi sẽ có cách.

Nói xong, nó sai một bà già để các thức ăn vào khay, bảo mang đi theo, còn hai cô đi không. Đến trước cửa viện Di Hồng, Ngọc Xuyến mới bưng lấy, cùng Oanh Nhi đi vào buồng. Bọn Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Thu Văn đương cười đùa với Bảo Ngọc, thấy họ đến, vội cười nói:

– Sao khéo thế? Hai cô cùng đến một lúc.

Họ bưng lấy khay. Ngọc Xuyến ngồi ngay xuống ghế, Oanh Nhi không dám ngồi. Tập Nhân mang cái ghế chân đến, Oanh Nhi cũng không dám ngồi.

Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi đến, rất là vui mừng. Khi thấy Ngọc Xuyến, lại nghĩ ngay đến chị nó là Kim Xuyến, trong bụng vừa thương xót vừa xấu hổ, liền bỏ Oanh Nhi, chỉ nói chuyện với Ngọc Xuyến. Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không đả động gì đến Oanh Nhi, sợ Oanh Nhi mủi lòng, lại thấy nó không chịu ngồi, liền kéo sang buồng mình uống nước nói chuyện.

Trong nhà thì bọn Xạ Nguyệt sắp đặt bát đũa mời Bảo Ngọc ăn cơm, nhưng Bảo Ngọc không ăn, cứ hỏi chuyện Ngọc Xuyến:

– Đẻ chị có được khỏe không Ngọc Xuyến tỏ vẻ hờn dỗi, mắt không nhìn đến Bảo Ngọc, lúc lâu mới trả lời một câu “khỏe”. Bảo Ngọc có vẻ không vui một chốc lại cười hỏi:

– Ai bảo chị mang đồ đến đây cho tôi đấy.

– Bà và mợ Hai, chứ còn ai nữa.

Bảo Ngọc thấy mặt Ngọc Xuyến buồn rầu, biết ngay là vì việc Kim Xuyến, định dịu giọng hòa nhã để dử chuyện cô ta, nhưng vì nhiều người không tiện, liền tìm cách bảo họ đi ra, rồi mới cười hỏi tẩn mẩn. Trước thì Ngọc Xuyến không bằng lòng, sau thấy Bảo Ngọc không có tí gì là bực tức cả, dù mình ăn nói sỗ sàng thế nào, Bảo Ngọc vẫn ôn tồn hòa nhã, thì lại đâm ra khó coi, nên nét mặt đã tỏ ra vài phần tươi tỉnh.

Bảo Ngọc liền cười bảo Ngọc Xuyến:

– Chị Ơi, chị mang hộ canh lại đây cho tôi ăn.

– Tôi không quen bón cơm cho ai cả, để chờ họ đến sẽ cho cậu ăn.

– Tôi không đòi chị bón cho tôi ăn đâu, tôi đau không đi được, mới nhờ chị mang giúp cho tôi ăn. Sau đó chị về mà ăn cơm, kẻo chậm lại bị đói. Nếu chị không lấy giúp, tôi đành phải chịu đau đi lấy vậy.

Bảo Ngọc cố gượng mãi, nhưng không xuống giường được mồm luôn luôn kêu “Ái chà”. Ngọc Xuyến thấy thế, nhịn không được, liền đứng dậy nói:

– Thôi nằm xuống, thật là oan nghiệt đời nào để lại, bây giờ báo ứng trước mắt, trông thấy rành rành!

Nói xong cười khì một tiếng, rồi đi bưng canh đến.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chị Ơi, chị có giận, chỉ nên cáu gắt ở đây thôi, khi đến chỗ cụ và bà, thì nét mặt nên vui vẻ một chút. Nếu cứ thế này, chị sẽ bị mắng đấy.

– Thôi, ăn đi! Tôi biết cả rồi, cậu đừng giở giọng đường mật ra đây nữa.

Bảo Ngọc ăn mấy thìa, giả vờ kêu không ngon.

Ngọc Xuyến bĩu môi nói:

– A di đà phật, thứ này mà bảo là không ngon, thì chả còn cái gì ngon nữa!

– Chả có mùi mẽ gì cả, chị không tin thì nếm một tí mà xem.

Ngọc Xuyến tức quá, nếm một thìa. Bảo Ngọc cười nói:

– Ngon đấy nhỉ!

Bấy giờ Ngọc Xuyến mới hiểu ý Bảo Ngọc đánh lừa mình, liền nói:

– Trước cậu bảo không ngon, bây giờ lại bảo ngon, thì tôi không cho cậu ăn nữa.

Bảo Ngọc cứ cười tràn đòi ăn, Ngọc Xuyến không cho ăn, gọi mang cơm lên.

Khi a hoàn mang cơm đến, thì có người vào trình:

– Có bầu ngực nhà cụ Phó đến hỏi thăm cậu.

Bảo Ngọc biết ngay là vú nhà quan thông phán Phó Thí.

Nguyên Phó Thí là môn sinh của Giả Chính, xưa nay nhờ thế lực họ Giả mà làm nên. Giả Chính đối đãi hắn cũng tử tế hơn, không như nhưng người khác. Hắn thường sai người qua lại thăm hỏi.

Bảo Ngọc vốn ghét bọn đàn ông thô tục và đàn bà ngu xuẩn, nhưng tại sao lần này lại sai mời hai bà già ấy vào? Tất nhiên có duyên cớ. Vì Bảo Ngọc nghe nói nhà Phó Thí có người em gái tên gọi Phó Thu Phương, sắc tài vẹn hai, cũng là viên ngọc quý trong khuê các. Mắt tuy chưa trông thấy, nhưng tấm lòng trộm nhớ thầm yêu rất là chân thành, kính cẩn. Nếu không để cho hai bà này vào, sợ coi nhẹ Phó Thu Phương chăng, vì vậy Bảo Ngọc vội sai người ra mời.

Phó Thí là nhà mới phất lên. Thu Phương lại có nhan sắc thông minh hơn người, Phó Thí cậy có em gái như thế, nên chỉ muốn kết thân với nhà hào quý, chứ không chịu gả cho người thường, mà đám hào quý thì khinh hắn là con nhà nghèo hèn, thấp kém, không thèm hỏi đến, vì thế cô ta lỡ thời, đã hai mươi ba tuổi, vẫn chưa lấy ai. Sở dĩ Phó Thí đi lại thân mật với họ Giả, cũng là có một ý nghĩ đấy.

Hai bà già đến đây lại là hạng ngu xuẩn không biết gì. Được Bảo Ngọc mời vào, ngoài câu hỏi thăm ra, họ không nói được lời nào.

Ngọc Xuyến thấy người lạ đến, không cãi nhau với Bảo Ngọc nữa, tay cầm bát canh đứng ngẩn ra nghe. Bảo Ngọc thì cứ ngoảnh lại nói chuyện với hai bà già, vữa ăn cơm vữa giơ tay đòi bát canh. Cả Bảo Ngọc và Ngọc Xuyến cứ nhìn chòng chọc vào hai bà già kia, không ngờ tay giơ mạnh quá, đụng đổ bát canh, nước canh sánh cả vào tay Bảo Ngọc. Ngọc Xuyến không bị bỏng, giật mình một cái, vội cười nói:

“Làm sao thế này?”.

Đám a hoàn vội chạy đến đỡ lấy bát. Bảo Ngọc không biết chính tay mình bị bỏng, lại hỏi Ngọc Xuyến:

– Chị bỏng ở đâu? Có đau không?

Ngọc Xuyến cùng mọi người cười ầm lên. Ngọc Xuyến nói:

– Chính cậu bị bỏng, lại còn hỏi tôi. Bảo Ngọc nghe nói, mới biết mình đã bị bỏng. Mọi người vội đến thu dọn. Bảo Ngọc không ăn cơm nữa, rửa tay uống nước, lại nói chuyện với hai bà già. Sau đó họ cáo từ ra về. Bọn Tình Văn đi tiễn đến bên cầu mới trở lại.

Hai bà già vừa đi vừa bàn tán, một bà già cười nói:

– Chả trách được, người ta thường nói cậu Bảo này bề ngoài thì xinh đẹp, mà bên trong thì hồ đồ, chỉ là của để nhìn chứ không phải để ăn, quả nhiên là ngây ngô! Chính mình bị bỏng tay, lại đi hỏi người khác có đau không.

Bà kia cười nói:

– Lần trước tôi sang, thấy nhiều người nhà bên ấy nói chuyện, thì cậu ấy ngây ngô thực, bị mưa to ướt như con gà luộc ấy, thế mà lại bảo người khác “mưa to đấy, tránh đi mau”. Bà xem, có đáng buồn cười hay không? Thường lúc vắng người, cậu ấy ngồi cười khóc một mình; trông thấy con chim yến, thì nói chuyện với con chim yến; trông thấy con cá ở dưới sông, thì nói chuyện với con cá; nhìn thấy sao tỏ trăng sáng, không thở ngắn than dài, cũng rên thầm rỉ kín.

Vả chăng tính nết cậu ta rất là nhu nhược, nhịn nhục cả với bọn a hoàn hầu bé. Yêu quý mọi thứ, ngay từ sợi chỉ cũng cho là đẹp, nhưng đến lúc phung phí thì dù hàng nghìn hàng vạn cậu ta cũng không cần.

Hai người bàn tán và đi ra khỏi vườn.

Tập Nhân thấy mọi người đi rồi, liền dắt Oanh Nhi đến hỏi:

– Tết những dây gì?

Bảo Ngọc cười bảo Oanh Nhi:

– Từ nãy đến giờ, chỉ mải nói chuyện, tôi quên hẳn chị đi, phiền chị sang đây, không có việc gì khác đâu, chỉ nhờ chị tết hộ mấy cái dây thôi. Oanh Nhi hỏi:

– Tết dây để buộc cái gì?

– Chả buộc vào cái gì, chị cứ theo mỗi kiểu tết hộ tôi mấy cái.

Oanh Nhi vỗ tay cười nói:

– Thế thì làm thế nào được! Nếu làm thế thì mười năm cũng chưa xong.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chị Ơi, chị rỗi chẳng có việc gì, thì cứ làm hộ tôi.

Tập Nhân cười nói:

– Làm một lúc thì xong thế nào được. Giờ hãy chọn mấy cái cần thì làm trước.

Oanh Nhi nói:

– Còn cái gì cần nữa? Chẳng qua là dây đeo quạt, dây đeo túi thơm, dây đeo quần chứ gì?

Bảo Ngọc nói:

– Dây đeo quần cũng được.

Oanh Nhi hỏi:

– Quần của cậu màu gì?

– Màu đỏ thắm.

– Màu đỏ thắm phải có dây đen, thì nhìn mới đẹp, hay là màu thạch thanh mới nổi.

– Màu hoa thông hợp với màu gì?

– Màu hoa thông hợp với màu hồng điều.

– Thế mới tươi đẹp. Trong các màu nhã nhặn, phải thêm cái màu tươi đẹp nữa.

– Tôi rất thích màu thông xanh pha với màu liễu vàng.

– Thôi được, chị tết hộ tôi một dây màu hồng điều, một dây màu thông xanh.

– Tết những kiểu gì?

– Có mấy kiểu?

– Kiểu bó hương, kiểu ghế rút rế, kiểu mắt voi, kiểu xếp chéo, kiểu liên hoàn, kiểu hoa mai, kiểu lá liễu…

– Hôm nọ chị tết hộ cô Ba kiểu gì đấy?

– Kiểu hoa mai chồng lên nhau.

– Kiểu ấy đẹp đấy.

Rồi gọi Tập Nhân mang chỉ đến. Thấy một bà già đứng ở ngoài cửa sổ nói:

“Cơm các cô được rồi đấy!”. Bảo Ngọc nói:

– Thôi các chị đi ăn cơm đi, ăn xong trở lại đây.

Tập Nhân cười nói:

– Đương có khách, chúng tôi đi sao tiện?

Oanh Nhi vừa gỡ chỉ vừa cười:

– Sao chị lại nói thế, cứ đi ăn cơm đi.

Tập Nhân bấy giờ mới đi, để hai đứa hầu nhỏ ở lại.

Bảo Ngọc vừa xem Oanh Nhi tết, vừa hỏi chuyện phiếm:

– Chị mười mấy tuổi rồi?

– Mười sáu tuổi.

– Chị họ gì?

– Tôi họ Hoàng.

– Họ với tên xứng nhau quá, thực là con chim hoàng oanh.

– Chính tên tôi là Kim Oanh. Nhưng cô tôi cho là khó gọi, nên chỉ gọi là Oanh Nhi, bây giờ gọi đã quen rồi.

– Thế là cô Bảo thương chị lắm đấy. Sau này cô ấy đi lấy chồng, thế nào chị cũng đi theo.

Oanh Nhi bĩu môi cười một cái.

Bảo Ngọc cười nói:

– Tôi thường bảo chị Tập Nhân:

không biết sau này anh nào có phúc vớ được cả hai cô cháu nhà chị!

Oanh Nhi cười nói:

– Cậu chưa biết, dáng điệu chỉ là phụ thôi, cô tôi còn có nhiều cái tốt mà ở đời này không mấy người có.

Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi có dáng xinh xắn, dịu dàng, cười nói như ngây, trong bụng đã xiêu xiêu, nay lại nghe nhắc đến Bảo Thoa thì nhịn sao được. Liền hỏi:

– Chị ấy có nhưng cái gì tốt, chị thử kể rành mạch cho tôi nghe nào?

– Tôi kể cho cậu nghe, nhưng cậu không nên nói lại cho cô tôi biết đấy nhé.

– Cố nhiên!

Đương nói chuyện thì bên ngoài có tiếng nói:

“Làm sao mà lại lặng lẽ như tờ thế này?” Hai người nhìn ra, thì chính là Bảo Thoa.

Bảo Ngọc mời ngồi. Bảo Thoa ngồi xuống hỏi Oanh Nhi:

– Tết cái gì đấy?

Bảo Thoa vừa hỏi vừa nhìn vào tay Oanh Nhi, thấy Oanh Nhi mới tết được một nửa cái dây, Bảo Thoa cười nói:

– Tết cái này để làm trò gì? Hãy tết cái dây đeo viên ngọc đã Câu nói ấy làm Bảo Ngọc nhớ ra, vỗ tay cười nói:

– Chị Bảo nói phải đấy, tôi quên đi mất. Nhưng tết màu gì cho đẹp được?

Bảo Thoa nói:

– Các màu thường nhất định không thể dùng được. Màu đỏ lại lẫn màu. Màu vàng thì không nổi, màu đen thì tối quá. Cứ ý tôi, nên lấy chỉ kim tuyến xe lẫn với chỉ đen bóng, sợi nọ xe lẫn sợi kia, tết như thế mới đẹp.

Bảo Ngọc nghe nói mừng lắm, gọi dồn Tập Nhân mang ngay chỉ kim tuyến ra. Bấy giờ Tập Nhân đương mang hai bát đồ ăn đến, nói với Bảo Ngọc:

– Lạ thật! Vừa rồi bà cho người mang sang cho tôi hai bát đồ ăn.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chắc hôm nay nhiều đồ ăn, nên mới đưa sang cho cả các chị.

Tập Nhân nói:

– Không phải thế đâu, đưa sang đích danh cho tôi, nhưng lại không bắt sang lạy tạ, thế mới lạ chứ?

Bảo Thoa cười nói:

– Cho chị thì chị cứ ăn, việc gì còn phải ngần ngại?

Tập Nhân nói:

– Xưa nay chưa có như thế bao giờ, làm tôi khó nghĩ quá.

Bảo Thoa bĩu môi cười nói:

– Có thế mà cũng khó nghĩ? Sau này còn có nhiều việc làm chị khó nghĩ hơn thế nữa kia!

Tập Nhân nghe câu nói có ngụ ý gì đây, nhưng biết Bảo Thoa xưa nay không phải là hạng giọng lưỡi chua chát hay chế giễu người.

Vả lại nghĩ đến hôm trước, Vương phu nhâncó ý biệt đãi mình, nên không nhắc đến câu nói ấy nữa, rồi đem đồ ăn đến cho Bảo Ngọc xem, và nói:

– Tôi đi rửa tay đã, rồi sẽ mang chỉ ra.

Tập Nhân ăn xong, rửa tay, lấy chỉ kim tuyến ra đưa cho Oanh Nhi. Bấy giờ Tiết Bàn đã sai người sang gọi Bảo Thoa về.

Bảo Ngọc đương ngồi xem xe dây, thấy hai a hoàn của Hình phu nhân đem đến cho hai thứ quả, và hỏi:

– Cậu đã đi lại được chưa? Nếu đi được thì sáng mai sang chơi, bà tôi lúc nào cũng nhớ đến cậu đấy.

Bảo Ngọc vội nói:

– Thế nào tôi cũng phải sang thăm sức khỏe bác. Tôi đã đỡ đau rồi, xin bác cứ yên tâm.

Rồi mời họ ngồi xuống, và bảo Thu Văn mang một nửa thứ quả ấy sang cho Đại Ngọc. Thu Văn sắp đi, đã thấy tiếng Đại Ngọc nói ở ngoài sân. Bảo Ngọc vội bảo mời vào.

Chương 36: Thêu bức uyên ương, hiên Giáng Vân mộng lành báo trước – Ngẫm đường tình phận, viện Lê Hương duyên đẹp định rồi

Thêu bức uyên ương, hiên Giáng Vân mộng lành báo trước

Ngẫm đường tình phận, viện Lê Hương duyên đẹp định rồi

Giả mẫu từ khi ở buồng Vương phu nhân về, thấy Bảo Ngọc mỗi ngày một khá, trong bụng rất vui mừng. Nhưng sợ Giả Chính lại gọi chăng, liền sai người đi gọi đứa hầu cận Giả Chính đến bảo:

– Từ giờ trở đi, có khách nào ông mày muốn gọi Bảo Ngọc đến tiếp, thì không được gọi, hãy trình với ông mày rằng:

tao bảo một là Bảo Ngọc bị đánh đau, phải chăm nuôi mấy tháng mới đi lại được; hai là năm nay nó có sao hạn chiếu mệnh, phải cúng sao, kiêng không tiếp người lạ. Đến hết tháng tám mới được ra ngoài.

Tên hầu cận vâng lời đi ra. Giả mẫu lại gọi vú Lý và Tập Nhân về kể lại nhưng câu ấy cho Bảo Ngọc nghe, để Bảo Ngọc yên lòng.

Bảo Ngọc xưa nay vẫn không thích tiếp chuyện với bọn quan lại đàn ông, lại rất ghét nhưng lúc phải mũ áo xúng xính đi mừng đi thăm các nơi. Bây giờ được bà bảo thế, càng đắc ý, không những từ khước tất cả họ hàng bè bạn, mà ngay trong gia đình, muốn đến thăm cha mẹ hay không là tùy ý. Ngày chỉ nằm ngồi chơi đùa trong vườn, mỗi buổi sáng sang thăm bà và mẹ một lần, rồi về nhà, suốt ngày thích để cho đám a hoàn sai vặt, lại cho là thú tiêu khiển của mình. Bọn Bảo Thoa có lựa lời khuyên ngăn, thì cáu kỉnh nói:

“Các cô là hạng con gái trong sạch, mà cũng học lối mua chuộng hư danh, theo hùa với bọn giặc nước và bọn quỷ ăn lộc. Đó chẳng qua là tại người xưa ngồi rỗi bày trò, cố ý bịa đặt, để cám dỗ bọn râu mày ô trọc đời sau. Ta không ngờ sinh gặp lúc không may, đến cả chị em trong lầu son gác tía cũng lây phải thói xấu ấy, thực là phụ cái ơn chung đúc khí thiêng liêng của trời đất!” Mọi người thấy thế, cũng không khuyên can nữa. Chỉ có Đại Ngọc từ bé đến giờ không hề hé miệng khuyên chuyện lập công danh để hiển dương cha mẹ gì cả, vì thế Bảo Ngọc rất kính phục Đại Ngọc.

Sau khi Kim Xuyến chết, có mấy người đầy tớ thường đến hỏi thăm, hầu hạ Phượng Thư và biếu xén các thứ, trong bụng Phượng Thư đâm ngờ, không biết ý họ thế nào. Hôm ấy lại có người đem đồ lễ đến biếu. Nhân buổi chiều không có ai, Phượng Thư cười hỏi Bình Nhi. Bình Nhi cười nhạt:

– Thế mà mợ cũng không nghĩ ra à? Tôi đoán những người thường đi lại biếu xén mợ, đều có con làm a hoàn cho bà Hai cả. Hiện giờ trong nhà bà Hai có bốn đứa con lớn, mỗi đứa mỗi tháng được lĩnh một lạng bạc, ngoài ra những đứa khác chỉ được có mấy trăm đồng thôi. Nay Kim Xuyến chết rồi, chắc họ muốn dòm ngó cái số một lạng bạc chứ gì?

Phượng Thư cười nói:

– Phải đấy, em nhắc chị mới nhớ ra. Nhưng mà họ không biết điều tí nào. Tiền muốn nhiều, việc khó nhọc lại không muốn gánh.

Giá họ biết thân biết phận, được đưa con vào hầu hạ Ở đây, đã là quá lắm rồi, lại còn nghĩ đến chuyện ấy nữa à? Thôi được, tiền của họ có phải dễ dàng đưa đến ta tiêu đâu. Đó là tự họ mang đến, vậy thì họ biếu cái gì ta cứ nhận, còn ta đã có chủ ý.

Phượng Thư định bụng như thế, nên cứ để dằng dai mãi, chờ khi nào mọi người biếu đủ cả, mới lựa dịp trình với Vương phu nhân.

Buổi trưa hôm ấy, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc đương ngồi cả ở buồng Vương phu nhân ăn dưa. Phượng Thư nhân dịp liền trình:

– Từ khi Kim Xuyến chết, mẹ thiếu một người hầu, giờ người định cho a hoàn nào thay, xin cho biết để cuối tháng sẽ phát lương cho nó.

Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:

– Cứ ý ta thì có lệ đâu lại nhất thiết cứ phải bốn hay năm người?

Cốt đủ người sai là được, thừa thì nên bớt đi.

Phượng Thư cười nói:

– Cứ lẽ ra thì mẹ nói rất phải, nhưng đó là theo lệ cũ. Nhà người khác còn có hai người hầu nữa là nhà mẹ mà lại không theo đúng lệ ư! Vả chăng bớt đi một lạng bạc cũng chả là mấy.

Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:

– Thôi được, cái số tiền ấy cứ chi lại đây, không cần phải lấy thêm người nữa, ta sẽ cho em nó là Ngọc Xuyến. Con chị nó đã hầu ta bao lâu, mà chẳng được cái gì, bây giờ con em theo hầu ta, cho nó ăn hai phần tiền cũng chẳng lấy gì làm quá đáng.

Phượng Thư vâng lời, quay lại nhìn Ngọc Xuyến cười nói:

“Mừng em nhé!” Ngọc Xuyến đến cúi đầu tạ Ơn.

Vương phu nhân lại hỏi Phượng Thư:

– Tôi muốn hỏi chị:

hiện giờ lương dì Triệu và dì Chu mỗi tháng bao nhiêu?

– Đã có lệ rồi, mỗi người hai lạng, dì Triệu lại còn có hai lạng tiền lương của em Hoàn, cộng là bốn lạng, ngoài ra còn có bốn quan tiền nữa.

– Tháng nào chị cũng phát đủ số đấy chứ?

Phượng Thư thấy câu hỏi hơi lạ, liền nói:

– Sao lại không đủ?

– Hôm nọ nghe đâu có người ta thán rằng dì ấy bị bớt một quan tiền lương, thế là vì cớ gì?

– Nguyên trước tiền lương bọn a hoàn hầu các dì ấy, mỗi người được một quan, không biết năm ngoái ở bên ngoài họ bàn bạc thế nào lại bớt mất một nửa, thành ra tiền lương của bọn a hoàn hầu các dì ấy chỉ còn mỗi người có năm trăm đồng thôi. Mỗi dì có hai a hoàn, phải bớt đi một quan. Thực ra việc này không phải tự con. Con vẫn muốn phát đủ, nhưng từ bên ngoài người ta khấu đi mất rồi, chả lẽ con xuất tiền lương ra bù sao! Con chẳng qua là người đứng nhận mà thôi. Thu bao nhiêu phát bấy nhiêu, con có được làm chủ đâu. Con đã nói hai ba lần, nên để số lương như cũ là phải; nhưng họ bảo chỉ có chừng ấy thôi, vì vậy con không thể nói lại được nữa. Hiện giờ chính tay con phát lương cho họ, phát đúng ngày đúng tháng. Trước kia họ lĩnh ở bên ngoài, tháng nào cũng rắc rối, có bao giờ được trôi chảy như thế này đâu.

Vương phu nhân nghe nói, nín một lúc rồi hỏi:

– Thế thì trong nhà cụ có mấy người được ăn lương một lạng?

– Tám người, nhưng bây giờ còn có bảy thôi, vì trừ Tập Nhân.

– Thế thì phải đấy. Trong nhà em Bảo không có a hoàn nào được ăn lương một lạng cả. Tập Nhân vẫn chỉ coi như người hầu của cụ thôi.

– Tập Nhân vẫn là người hầu của cụ cho sang ở tạm bên nhà chú Bảo, tiền lương của cô ta vẫn phải lĩnh với bọn a hoàn của cụ. Bây giờ bảo Tập Nhân là người hầu của Bảo Ngọc mà bớt một lạng tiền lương bên cụ đi thì không thể được. Phải thêm một người hầu nữa cho cụ mới có thể bớt được. Nếu không bớt, thì lại phải thêm một người hầu nữa cho em Hoàn, như thế mới công bằng. Trừ bảy a hoàn lớn là bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt mỗi người mỗi tháng một quan tiền ra, còn tám a hoàn nhỏ là bọn Giai Huệ, cũng chỉ mỗi người mỗi tháng năm trăm đồng tiền thôi, đó là lệnh của cụ, còn ai dám kêu ca tị nạnh nữa.

Tiết phu nhân cười nói:

– Các chị hãy nghe mồm mép chị Phượng kìa, cứ liến láu như đổ xe hột đào ấy! Chị ấy tính toán rành mạch, xử sự lại rất công bằng.

Phượng Thư cười nói:

– Thưa cô, chả lẽ cháu lại dám nói sai hay sao?

Tiết phu nhân cười nói:

– Chị nói có bao giờ sai? Nhưng nên nói thong thả, có đỡ nhọc không?

Phượng Thư muốn cười nhưng lại nín lặng để nghe vương phu nhân chỉ bảo. Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nôi:

– Ngày mai cắt một a hoàn sang hầu cụ để th cho Tập Nhân, và bớt tiền lương của nó đi. Rồi mỗi tháng trích ra hai lạng bạc và một quan tiền ở trong số lương hai mươi lạng của ta, để chi cho nó. Từ giờ trở đi, hễ dì Triệu và dì Chu được hưởng cái gì, thì Tập Nhân cũng được hưởng hai ấy, nhưng về phần Tập Nhân, thì cứ lấy ở trong sổ lương của ta ra mả chi, không nên đả động đến tiền công.

Phượng Thư nhất nhất vâng lời, rời đẩy Tiết phu nhân một cái cười nói:

– Dì nghe thấy chưa, trước cháu nói thế nào, quả nhiên bây giờ đúng thế.

Tiết phu nhân nói:

– Xử thế mới phải. Không nói gì dáng dấp con bé, chỉ xem cách nó xử sự đúng đắn, nói năng hòa nhã, nhưng vẫn có vẻ cứng rắn cương quyết, thật khó có được người như thế.

Vương phu nhân rơm rớm nước mắt nói:

– Các người có biết hết chỗ tốt của Tập Nhân đâu? nó so với Bảo Ngọc còn hơn gấp mười lần! Nếu được nó hầu hạ luôn bên cạnh Bảo Ngọc, thật lả có phúc đấy!

Phượng Thư nói:

– Đã thế thì sao không lấy nó làm nàng hầu ở ngay trong nhà có hơn không?

Vương phu nhân nói:

– Không được. Một là nó còn ít tuổi, hai là ông không bằng lòng, ba là Bảo Ngọc thấy nó còn là a hoàn, thì dù có phóng túng chăng nưa, cũng phải nghe lời nó khuyên răn; nếu bây giờ cho nó làm nàng hầu ngay, không khi nào nó dám khuyên ngăn đến nơi đến chốn.

Thôi hãy cứ để thế, hai ba năm nữa sẽ liệu.

Phượng Thư thấy không có việc gì, liền quay ra, vừa đi đến thềm, đã có mấy người đàn bà đứng chờ ở đấy, thấy Phượng Thư ra, họ đều cười nói:

– Hôm nay mợ vào trình việc gì mà lâu thế Không biết nực à?

Phượng Thư vén tay áo lên, chân đứng kiễng trên bực cửa, 1 cười nói:

– Chỗ này gió lùa mát quá, đứng hóng một lúc rỗi sẽ đi.

Phượng Thư lại nói với mọi người:

– Các chị bảo tôi nói chuyện lâu quá, nhưng bà cứ hỏi tôi những việc gì hàng trăm năm về trước không có lẽ tôi lại không nói? – Lại cười nói – Từ giờ trở đi, tôi làm việc phải cay nghiệt một chút mới được. Họ có oán trách tôi, đến tại bà, tôi cũng chẳng sợ. Những bọn con đĩ thối mồm thối mép, chết đâm chết chém ấy, đừng có mơ tưởng!

Nay mai sẽ có ngày ta phải bớt lương khắp lượt cho mà coi. Bây giờ mới bớt của a hoàn, mà đã oán trách ầm lên. Sao không biết nghĩ, mình nó có đáng sai khiến ba đứa không Phượng Thư vừa rủa, vừa đi, rồi chọn một a hoàn đưa sang bên Giả mẫu. Vương phu nhân ăn dưa xong, nói chuyện một lúc rồi đi về Đến vườn, Bảo Thoa rủ Đại Ngọc vào Ngẫu Hương tạ chơi. Đại Ngọc nói:

“phải về tắm rửa”, rồi đi ngay. Bảo Thoa đi một mình, tiện đường tạt vào viện Di Hồng, muốn gặp Bảo Ngọc nói chuyện để khuây khỏa buổi trưa. Khi vào đến sân, thấy lặng lẽ không một tiếng động. Đôi hạc đậu ở khóm chuối cũng đều thiu thiu giấc ngủ. Bảo Thoa rẽ sang bên cạnh, vào ngay trong buồng, thấy ở gian ngoài, bọn a hoàn đương ngủ ngổn ngang cả trên giường. Bảo Thoa đi qua cửa sổ có treo màn gấm các màu, vào tận buồng Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc cũng ngủ, chỉ có Tập Nhân ngồi thêu bên cạnh, để một cái phất trần cán bằng sừng trắng.

Bảo Thoa đến gần khê cười nói:

Chị cẩn thận quá, trong nhà này còn có ruồi muỗi à? Để cái này làm gì đấy?

Tập Nhân bất thình lình ngẩng đầu lên, trông thấy Bảo Thoa, vội bỏ kim chỉ đứng dậy, khẽ cười nói:

Cô đến đấy à? Tồi sợ giật nẩy mình lên. Cô chưa biết, ở đây tuy không ruồi muỗi, nhưng có một thứ sâu nhỏ ở ngoài màn chui vào, chẳng ai trông thấy. Trong khi ngủ, lỡ nó cắn vào người, thì đau như kiến đốt.

Bảo Thoa nói:

– Chả trách được, đằng sau thì gần nước, lại trồng các thứ hoa, làm thơm lừng cả nhà lên, giống sâu này quen ăn nhị hoa, hễ ngửi thấy mùi thơm là thế nào nó cũng chui vào.

Bảo Thoa nhìn cái bức thêu ở tay Tập Nhân. Đó là cáiyếm bằng lụa trắng, giữa có màu đỏ, trên mặt thêu kiểu “Uyên ương vờn hoa sen” có hoa đỏ lá xanh, có chim uyên ương năm màu.

Bảo Thoa nói:

– Ái chà? Tươi đẹp quá! Cái này của ai mà làm phí bao nhiêu là công?

Tập Nhân ngoảnh vào giường bĩu môi. Bảo Thoa cười nói:

– Người đã lớn thế mà còn đeo cái này à?.

Tập Nhân cười nói:

– Xưa nay cậu ấy vẫn không chịu đeo, nên phải làm thật đẹp, để cậu ấy trông thấy tự khắc phải đeo! Bây giờ trời nóng, nhân lúc cậu ấy ngủ không để ý, tôi lựa cách đeo vào cho, lỡ đêm không đắp chăn cẩn thận cũng không sao. Cô nói làm cái này tốn công, có lẽ cô chưa thấy cái cậu ấy đang đeo trong người sao!

– Chị chịu khó quá!

– Hôm nay làm việc nhiều, cổ cúi xuống đau nhừ cả người.

Lại cười nói:

– Cô hãy ngồi chơi, tôi ra ngoài một tý rồi vào ngay.

Nói xong đi ra.

Bảo Thoa chỉ chăm chú nhìn cái bức thêu nên không để ý, ngồi luôn xuống đó. Vì cũng thích bức thêu, Bảo Thoa liền lấy ngay kim thêu tiếp.

Không ngờ Đại Ngọc hẹn Tương Vân đến mừng Tập Nhân. Hai người vào sân, thấy vắng ngắt cả. Tương Vân quay ra ngoài hiên đi tìm Tập Nhân, Đại Ngọc tìm đến chỗ cửa sổ, đứng ngoài màn the nhìn vào, thấy Bảo Ngọc mặc cái áo sa màu hồng, nằm ngủ ở trên giường, Bảo Thoa ngồi thêu bên cạnh, có cái đập ruồi để gần đấy.

Đại Ngọc thấy thế, đứng né ra một bên, lấy tay bịt mồm, không dám cười ra tiếng, liền vẫy Tương Vân lại. Tương Vân tưởng có gì lạ, vội chạy lại, thấy thế, muốn cười, nhưng nghĩ Bảo Thoa xưa nay đối với mình tử tế, liền nín ngay, biết Đại Ngọc vốn tính đành hanh, hay nói bóng nói gió để chế nhạo người, Tương Vân kéo Đại Ngọc và nói:

– Đi đi thôi. Tôi nhớ Tập Nhân có nói là đến trưa sẽ ra ao giặt quần áo, chắc chị ta đã ở đấy rồi, chúng ta đi tìm chị ấy thôi.

Đại Ngọc hiểu ý, cười nhạt một tiếng rồi theo đi.

Bảo Thoa ở trong nhà mới tết được vài ba cái hoa, thấy Bảo Ngọc nằm mê thét lên:

“Lời nói hòa thượng và đạo sĩ tin thế nào được? Cái gì là nhân duyên vàng ngọc! Tôi chỉ biết duyên cây và đá thôi!” Bảo Thoa nghe câu ấy, bất giác sửng sốt, chợt thấy Tập Nhân vào cười hỏi:

– Cậu ấy chưa dậy à?

Bảo Thoa lắc đầu. Tập Nhân lại cười nói:

– Tôi ta gặp cô Lâm và cô Sử, họ có đến đây không?

– Không thấy.

Rồi Bảo Thoa lại cười hỏi:

– Họ có bảo gì chị không?

Tập Nhân đỏ mặt lên, cười nói:

– Thì chẳng qua họ cũng nói đùa đấy thôi, có thực thế đâu?

Bảo Thoa cười nói:

– Hôm nay không phải họ nói đùa đâu, tôi cũng muốn mách chị việc ấy, nhưng vì chị vội đi ra.

Nói chưa dứt lời, Phượng Thư lại cho người đến gọi Tập Nhân.

Bảo Thoa cười nói:

– Chắc cũng lại việc ấy thôi.

Tập Nhân gọi hai a hoàn đến thay mình, rồi cùng Bảo Thoa ra khỏi viện Di Hồng, đến nhà Phượng Thư. Quả nhiên Phượng Thư nói chuyện ấy, và bảo phải đến tạ Ơn Vương phu nhân, chứ không cần phải đến Giả mẫu nữa, vì sợ chị ta ngượng. Khi Tập Nhân ở nhà Vương phu nhân về, thì Bảo Ngọc đã dậy và hỏi đi đâu, Tập Nhân cầm trả lời hàm hồ, đến đêm vắng người mới nói thực.

Bảo Ngọc mừng lắm, cười nói:

– Tôi xem chị còn đòi về nhà nữa hay không? Lần trước chị về thăm nhà, khi trở lại nói là anh chị muốn chuộc về, ở đây chẳng bấu víu vào đâu, sau này biết làm thế nào. Chị dùng những câu nói không có tình nghĩa để dọa tôi. Từ giờ trở đi, tôi xem còn ai dám đến đây đòi chị về nữa không Tập Nhân cười nhạt:

– Cậu đừng nói những câu ấy nữa. Từ giờ trở đi, tôi là người của bà nhà. Muốn đi đâu tôi chỉ phải trình bà thôi, không cần nói với cậu nữa.

Bảo Ngọc cười nói:

– Nếu tôi là người không ra gì, thì chị cứ trình với bà mà về để người ngoài biết tôi không tốt, nên chị mới phải đi, như thế thì chị còn ra gì nữa?

Tập Nhân cười nói:

– Sao lại không ra gì? Không lẽ kẻ cướp tôi cũng theo à? Nếu thế thì chỉ có chết thôi. Người ta dù có sống đến trăm năm, rồi cũng phải chết. Khi tắt hơi rồi, chẳng còn nghe gì, thấy gì, thế là xong chuyện.

Bảo Ngọc nghe nói, liền bịt mồm Tập Nhân lại, bảo:

– Thôi! Thôi! Đừng nói những câu ấy nữa.

Tập Nhân vẫn biết Bảo Ngọc có tính tình kỳ quặc, hễ nghe thấy người ta nói những câu nịnh hót tán tỉnh, thì cho là không thực, chán không buồn nghe; nhưng thấy người ta nói những câu thực thà thân thiết, thì lại đâm ra thương cảm.

Tập Nhân hối hận trót nói quá lời, liền cười xòa nói lảng ra chuyện khác. Rồi chuyển những câu lâu nay Bảo Ngọc thích nghe, như gió xuân trăng thu, son hồng phấn lạt; rồi đến việc người con gái thế nào là tốt. Không ngờ Tập Nhân buột miệng nói đến cái chết của người con gái, liền vội bưng mồm không nói nữa.

Bảo Ngọc đương thích nghe, bỗng thấy Tập Nhân không nói, liền cười:

– Ai mà chẳng chết? Nhưng có đáng chết thì mới chết chứ!

Những đám râu mày hên hạ, khi nghe người ta nói “Quan văn chết vì can vua, quan võ chết vì đánh giặc”. Hai cái chết ấy mới là danh tiết của bậc đại trượng phu. Nhưng, dù sao không chết vẫn hơn. Vì có vua hôn ngu mới can ngăn, chỉ biết liều chết để mua lấy tiếng khen, thì sau nây sẽ bỏ vua lại cho ai? Khi có giặc giã mới phải đi đánh, nhưng chi biết liều chết để tỏ ra mình có công đánh giặc, thì sau này bỏ nước lại cho ai? Vì vậy đều không phải là cái chết chính đáng..

Tập Nhân nói:

– Xưa nay tướng giỏi tôi hiền, đều là bất đắc dĩ mới phải chết đấy thôi.

Bảo Ngọc nói:

– Hạng quan võ ấy chẳng qua chỉ cậy sức hung hăng, chứ mưu trí kém cỏi, chẳng có tài năng, đến nỗi bị chết uổng, chả lẽ cũng là bất đắc dĩ à? Còn hạng quan văn thì lại khác hẳn, họ cứ chôn vào ruột mấy câu đọc thuộc lòng trong sách, hễ nhà vua có lỗi nhỏ gì, thì cứ nói càn ngăn bậy, để được tiếng là người trung trực; máu nóng nổi lên, dù chết cũng liều, như thế có thể gọi là bất đắc dĩ được không?

Phải biết rằng trời có cho thì mới được làm vua, nếu không phải là bực thần thánh nhân từ, không khi nào trời lại giao cho muôn việc nặng nề như thế. Vậy thì những cái chết ấy, chẳng qua chỉ để mua chuộc tiếng khen, chứ chẳng hiểu nghĩa lớn vua tôi gì cả. Còn như tôi bây giờ, nếu có phúc ra, gặp được lúc các chị em đủ mặt ở đây, mà chết ngay đi, lại được nước mắt các chị em chảy ra thành một con sông lớn, buông xác tôi xuống đó lềnh bềnh, trôi đến một chỗ rất xa xăm, không có chim ho cò gáy, rồi theo gió mà tan đi, không bao giờ hóa kiếp làm người nữa, như thế là tôi chết đúng lúc đấy!

Tập Nhân nghe những câu rồ dại ấy, liền kêu mệt, không trả lời, Bảo Ngọc mới nhắm mắt ngủ. Hôm sau quên hẳn chuyện ấy.

Đi chơi các nơi mãi đâm chán, một hôm Bảo Ngọc nghĩ ngay đến khúc hát “Mẫu đơn đình”. Vì đã được nghe hai lần, nhưng vẫn chưa thỏa. Nhân nghe nói trong đám mười hai đứa con hát ở viện Lê Hương có một Linh Quan, đóng vai nữ, hát rất hay. Bảo Ngọc đi ra cửa nách để tìm, gặp Bảo Quan và Ngọc Quan đang chơi ở sân. Thấy Bảo Ngọc đến, họ cười đón mời ngồi.

Bảo Ngọc hỏi:

– Linh Quan ở đâu?

– Chị ấy đương ở trong nhà.

Bảo Ngọc vội chạy vào, thấy Linh Quan một mình nằm dựa ở trên gối. Thấy Bảo Ngọc đến, Linh Quan vẫn cứ nằm yên không nhúc nhích. Bảo Ngọc ngồi ngay bên cạnh, vì xưa nay vẫn hay chơi đùa với những bọn con gái quen, nên cho Linh Quan cũng như các người khác, liễn ghê lại gần, cười nói, nằn nì Linh Quan hát cho nghe một bài Niêu tình ty 2. Linh Quan thấy Bảo Ngọc ngồi xuống, vội đứng dậy tránh đi chỗ khác, nghiêm nét mặt nói:

– Tôi khản cổ lắm. Hôm nọ bà đòi chúng tôi vào hát, tôi cũng không hát được.

Bảo Ngọc thấy nó ngồi lên, để ý ngắm một lúc, thì chính là người con gái ngồi viết chữ “Tường” ở dưới hoa tường vi hôm nọ. Nghĩ bụng, xưa nay mình chưa bị người ta chán ghét bao giờ nên rất khó chịu, mặt đỏ lên rồi đi ra. Bọn Bảo Quan không biết vì cớ gì, liền hỏi, Bảo Ngọc nói cho họ biết. Bảo Quan cười nói:

– Cậu hãy chờ một lát. Cậu Tường về bảo nó hát, nhất định nó sẽ hát ngay.

Bảo Ngọc nghe nói, có ý buồn, liền hỏi:

– Anh Tường đi đâu?.

– Cậu ấy vừa mới đi. Chắc là Linh Quan cần cái gì, cậu ấy đi tìm cho nó đấy.

Bảo Ngọc lấy làm lạ, đứng chờ một lúc, thấy Giả Tường ở ngoài chạy về, tay cầm cái lồng chim, trong lồng có con chim sẻ và một cái cầu nhỏ để làm trò. Hắn hăm hở đến tìm Linh Quan, chợt trông thấy Bảo Ngọc, đành phải đứng lại.

Bảo Ngọc hỏi:

– Giống chim sẻ gì thế mà biết ngậm cờ múa trên cầu làm trò?

– Đây là giống chim sẻ cổ trắng.

– Mua hết bao nhiêu tiền?

– Một lạng tám đồng bạc.

Hắn vừa nói vừa mời Bảo Ngọc ngồi, rồi chạy vào nhà Linh Quan.

Bảo Ngọc không nghĩ đến chuyện hát nữa, chỉ muốn xem Giả Tường với Linh Quan ra thế nào. Giả Tường chạy đến phòng Linh Quan cười bảo:

– Em lại mà xem, cái này thích lắm..

Linh Quan đứng dậy hỏi:

– Cái gì?

– Anh mua con chim sẻ để em chơi đỡ buồn. Anh bắt nó làm trò cho em xem nhé!

Nói xong, hắn lấy nắm thóc nhử con chim sẻ, quả nhiên nó nhảy ngay lên cái cầu làm trò. Nó ngậm ngay cái mặt nạ và cái cờ múa tít.

Bọn con hát đều cười “Thú quá”, chỉ có Linh Quan cười nhạt một tiếng, tỏ vẻ bực mình, nằm xuống ngủ.

Giả Tường cười hỏi:

– Có hay không?

– Nhà các anh đã bắt bao nhiêu con nhà tử tế, đem nhốt ở trong chuồng này vẫn còn chưa đủ hay sao, lại bắt cả chim sẻ vào đây để làm trò nữa. Rõ ràng anh đem con chim sẻ ra hình dung chúng tôi để làm trò cười, lại còn hỏi có hay không!

Giả Tường nghe nói, đứng ngay dậy, vội vàng thề và nói:

– Hôm nay sao mà tôi u mê thế? Bỏ ra vài lạng bạc mua con chim sẻ về, tưởng để em chơi cho đỡ buồn, ngờ đâu lại đến nông nỗi này.

Thế thì anh đem thả nó ra cũng là một cách để em tai qua nạn khỏi đấy Nói xong, hắn thả con chim ra và bẻ gãy cả lồng.

Linh Quan lại nói:

– Con chim không như người, nhưng nó cũng có mẹ Ở trong tổ, thế mà anh bắt nó về làm trò chơi, liệu có nó bằng lòng hay không?

Hôm nay tôi bị thổ huyết, bà cho người gọi anh đi mời thầy thuốc đến xem bệnh cho tôi, thế mà anh lại đem cái của ấy về để làm trò cười. Hạng người như tôi hay đau yếu luôn, lại chả được ai nhìn ngó, đoái hoài đến!

Giả Tường vội nói:

– Chiều hôm qua tôi đi mời thầy thuốc, nhưng ông ấy bảo không việc gì, cứ cho uống hai thang, hôm sau sẽ đến xem lại. Ngờ đâu hôm nay em lại thổ huyết nữa. Tôi phải đi mời thầy thuốc đến ngay.

Hắn nói xong định ra đi. Linh Quan lại nói:

– Hãy hượm đã, trời nắng chang chang thế này mà anh tức khí đi ngay thì tôi cũng không xem đâu!

Giả Tường nghe nói, đành phải dừng lại.

Bảo Ngọc thấy quang cảnh vậy, đứng ngẩn người ra, mới hiểu cái thâm tâm của Linh Quan viết chữ “Tường” hôm trước.

Không thể đứng yên được, Bảo Ngọc quay đi ngay. Giả Tường bấy giờ bụng chỉ để vào Linh Quan, nên không nghĩ gì đến ai.

Khi Bảo Ngọc về, cũng chỉ có bọn con hát ra tiễn thôi.

Bảo Ngọc trong bụng vẩn vơ nghĩ ngợi, ngơ ngẩn ra về; đến viện Di Hồng, thấy Đại Ngọc và Tập Nhân đương ngồi nói chuyện. Bảo Ngọc bước vào thở dài nói với Tập Nhân:

– Câu chuyện tôi nói với chị chiều hôm qua, thực là không đúng tý nào. Chẳng trách ông thường bảo tôi “Lấy ống nhòm trời, lấy bầu đong biển”. Hôm qua tôi bảo bao nhiêu nước mắt của các chị chỉ để chôn cho một mình tôi, thật là nhầm to, nay suy ra, thì nước mắt của các chị có phải để dành cho một mình tôi cả đâu. Từ giờ về sau, mỗi một người chỉ được hưởng một số nước mắt về phần mình thôi.

Tập Nhân cho là đêm qua chẳng qua câu chuyện nói đùa, đã quên đi rồi, không ngờ Bảo Ngọc lại gọi ra, liền cười nói:

– Cậu thực là điên!

Bảo Ngọc lẳng lặng không trả lời. Từ đó mới nhận rõ là tình duyên của người ta, trời đã định trước, nên chỉ ngấm ngầm đau xót:

“Không biết sau này ta chết, ai là người rỏ nước mắt?” Đại Ngọc thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, biết ngay là lại bị ám ảnh gì rồi, không tiện hỏi nhiều, liền nói:

– Tôi vừa mới ở bên mợ, nghe thấy nói ngày mai là ngày sinh nhật dì Tiết, bảo tôi tiện đường đến hỏi anh có đi hay không, thì cho người đến đằng nhà nói một tiếng.

Bảo Ngọc nói:

– Ngày sinh nhật ông Cả, tôi cũng không đến nữa là. Bây giờ đến đó, lỡ ra người ta trông thấy, còn ra làm sao nữa? Tôi chẳng đi đâu cả. Trời nóng thế này, mà phải đóng bộ quần áo vào thì phiền quá, tôi không đi chắc dì cũng chả giận đâu.

Tập Nhân vội nói:

– Sao cậu lại nói thế? Không thể ví bà dì với ông Cả được, vì nhà ở gần hơn, lại trong thân thích với nhau. Nếu cậu không đi thì chẳng làm cho bà ấy lại sinh nghĩ ngợi hay sao? Cậu sợ nóng, thì sáng sớm đến mừng tuổi ngay, uống chén nước trà rồi về, thế chả tốt hơn ư?

Bảo Ngọc chưa kịp nói thì Đại Ngọc cười nói ngay:

– Nghĩ lúc người ta ngồi đuổi muỗi cho mình, thì anh cũng nên đến là phải.

Bảo Ngọc không hiểu thế nào, vội hỏi:

– Ngồi đuổi muỗi là thế nào?

Tập Nhân kể lại cho Bảo Ngọc nghe câu chuyện hôm qua, khi Bảo Ngọc ngủ, không có ai ngồi cùng, cô Bảo phải ngồi lại một lúc.

Bảo Ngọc vội nói:

– Qúa đáng! Tôi ngủ không biết, sao lại dám khinh thường cô ấy như thế? Thế nào ngày mai tôi cũng phải đi.

Đang nói chuyện thì Tương Vân ăn mặc chỉnh tề đến cáo từ và nói ở nhà cho người sang đón về. Bảo Ngọc, Đại Ngọc đứng dậy mời ngồi, nhưng Tương Vân không chịu ngồi, hai người đành phải đứng dậy đi tiễn. Bây giờ Tương Vân nước mắt ràn rụa, vì có người nhà đứng đấy, nên không dám tỏ vẻ buồn rầu. Một lúc Bảo Thoa chạy đến, lại càng thêm quyến luyến, không nỡ rời tay. Bảo Thoa nghĩ bụng:

“Nếu cứ quyến luyến mãi để người nhà cô ta về mách với bà dì, thì khi cô ta về, sẽ bị dằn vặt khó chịu”. Vì thế phải giục Tương Vân đi. Mọi người tiễn ra đến cửa ngoài. Bảo Ngọc còn muốn tiễn xa nữa, nhưng Tương Vân ngăn lại. Một chốc quay lại gọi Bảo Ngọc đến gần, khẽ dặn:

– Nếu cụ không nhớ đến tôi, thì anh nên nhắc nhở, để cho người đi đón tôi sang.

Bảo Ngọc vội nhận lời. Tương Vân lên xe đi rồi, mọi người mới về.

1      Thời phong kiến, phụ nữ đứng như vậy là một cứ chỉ khinh bạc

2      Sợi tơ bay dưới ánh sáng

Chương 37: Thu Sảng trai, định mở Xã hải đường – Hành Vu uyển, đêm nghĩ bài hoa cúc

Thu Sảng trai, định mở Xã hải đường

Hành Vu uyển, đêm nghĩ bài hoa cúc

Giả Chính được bổ chức học quan, liền chọn ngày hai mươi tháng tám lên đường. Hôm ấy, ông ta vào làm lễ cáo từ miếu tổ, cáo từ Giả mẫu, ra đi. Bọn Bảo Ngọc và mọi người gạt nước mắt tiễn theo.

Giả Chính đi rồi, Bảo Ngọc ở trong vườn tha hồ lêu lổng chơi bời.

Ngày đi tháng lại, thì giờ trôi quạ Một hôm buồn quá Bảo Ngọc đi lượn quanh chỗ Giả mẫu, Vương phu nhân một lúc rồi lại về vườn.

Vừa thay quần áo, thấy Thúy Mặc cầm mảnh giấy hoa tiên đưa đến.

Bảo Ngọc nói:

– Ta định đến thăm cô Ba, lại quên mất, giờ chị đến may quá cô ấy đã đỡ chưa?

– Cô tôi đỡ rồi, chẳng qua cảm lạnh một tí thôi. Hôm nay không uống thuốc nữa.

Bảo Ngọc mở hoa tiên ra xem, thấy viết:

Em Thám kính thưa anh Hai, Đêm trước, vừa tạnh mưa, mặt trăng trong suốt, tiếc cảnh dẹp không mấy khi được gặp, nên em chưa đi ngủ ngaỵ Đêm đã canh ba, em vẫn còn quanh quẩn ở dưới giàn ngô đồng, gặp phải gió sương trêu cợt, hơi bị cảm nhẹ. Trước anh đã thân hành đến yên ủi dặn dò.

lại sai thị nhi sang thăm, và đưa biếu quả vải tươi với bút thiếp của Nhan Chân Khanh 1. Sao anh yêu mến chân thiết em quá thế? Giờ đương lúc nằm trên giường yên tĩnh, chợt nghĩ đến người xa dù ơ?

trong trường danh lợi, cũng còn tìm nơi sông núi, mời mọc xa gần đê?

qua lại vui chơi, tìm hỏi bầu bạn, kết thân với vài ba người cùng chung chí hướng; hoặc dựng văn đàn, hoặc mở thi xã tuy hứng thú nhất thời, nhưng cũng nghìn năm để tiếng. Em không có tài, nhưng được gần nơi suối khe vòm đá, lại thêm mến cô Tiết, cô Lâm là những người phong nhã. Thềm trăng sân gió, tiếc chưa được sum họp thi nhân; rèm hạnh khe đào, may có thể say sưa ngâm vịnh. Ai bảo đua tài nơi Liên xã 2, chỉ dành cho đám râu mày; mà họp mặt núi Đông Sơn 3, lại không nhường cho bọn son phấn? Nếu được anh đội tuyết đến chơi, em xin quét hoa để đợi.

Kính thư.

Bảo Ngọc xem xong, mừng quá, vỗ tay cười nói:

– Ai ngờ em Ba lại phong nhã đến thế! Phải sang bàn việc này mới được.

Nói xong đi ngaỵ Thúy Mặc chạy theo. Khi đến đình Thấm Phương, thấy một bà già đứng chực ở cửa sau vườn, tay cầm cái thiếp đón trình:

– Anh Vân đến hầu cậu, đương chờ ở cửa sau, nhờ tôi đem thiếp lại đây.

Bảo Ngọc giở xem, thấy viết:

Con là Vân, xin kính thăm thân phụ khoẻ mạnh luôn. Từ khi nhờ ơn trời, cho phép được gần dưới gối, ngày đêm mong mỏi một bề hiếu thuận, nhưng không có dịp để tỏ lòng hiếu thảo. Nhân được giữ việc mua hoa, trên nhờ hồng phúc phụ thân, con quen nhiều thơ.

trồng hoa và thấy nhiều vườn hoa đẹp. Vừa rồi thấy cây hải đường trắng là giống hiếm có, con đi tìm mãi mới mua được hai chậu. Nếu phụ thân coi con như con đẻ, xin nhận lấy để thưởng chơi. Vì trời đương nóng nực, con vào thẳng trong vườn, sẽ làm trở ngại cho các cô, nên không dám đến hầu tận nơi. Con viết thư này kính dâng và chúc phụ thân mạnh khỏe.

Con là Vân bái thư.

Bảo Ngọc xem rồi cười nói:

– Nó đến một mình hay có người nào nữa?

Bà già nói:

– Có một mình đem theo hai chậu hoa.

– Bà ra bảo nó, tôi biết rồi. Cảm ơn nó nghĩ đến tôi, rồi bà bưng hai chậu hoa vào trong nhà cho tôi.

Bảo Ngọc cùng Thúy Mặc đến Thu Sảng trai, đã thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Tích Xuân đều ở đấy cả.

Mọi người thấy Bảo Ngọc đến, cười ầm lên nói:

– Lại thêm một người nữa!

Thám Xuân cười nói:

– Tôi cũng không nỗi tục lắm, ngẫu nhiên nghĩ đến việc này, viết mấy cái thiếp mời, không ngờ lại được các vị đến đủ cả.

Bảo Ngọc cười nói:

– Tiếc là hơi muộn, đáng lẽ nên mở thi xã sớm hơn nữa mới phải.

Đại Ngọc nói:

– Anh chị em việc mở thi xã, đừng tính tôi vào, tôi không dám dư.

đâu.

Nghênh Xuân cười nói:

– Cô mà không dám, còn ai dám nữa?

Bảo Ngọc nói:

– Đây là việc rất đứng đắn và lớn lao. Chúng ta nên hăng hái lên, đừng người nọ nhường cho người kia. Ý định của mỗi người thế nào, cứ việc nói ra, để chúng ta bàn bạc. Chị Bảo và cô Lâm hãy nói ý định của mình ra.

Bảo Thoa nói:

– Vội làm gì thế? Người đã đến đủ đâu.

Bỗng Lý Hoàn đến, cười nói:

– Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn.

Mùa xuân vừa rồi, tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì bày trò làm gì. Vì thế tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã cao hứng, thì tôi cũng xin giúp để góp phần vui chung.

Đại Ngọc nói:

– Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ những tiếng xưng hô “chị, em, chú, mợ” đi, mới không tục.

Lý Hoàn nói:

– Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt cho tôi là “Đạo Hương lão nông” 4, không ai được giành cái tên ấy.

Thám Xuân cười nói:

– Tôi là Thu Sảng cư sĩ. 5 Bảo Ngọc nói:

– Những chữ cư sĩ và chủ nhân không lấy gì làm nhã, mà lại lôi thôi. Ở đây có cây ngô đồng và ba tiêu, lấy nó đặt tên thì hay hơn.

Thám Xuân cười nói:

– Có đây, tôi thích nhất là cây ba tiêu, gọi ngay tôi là Tiêu ha.

khách 6 cũng được.

Mọi người đều nói:

– Có phong cách đặc biệt! Rất thú vị!

Đại Ngọc cười nói:

– Chúng ta kéo nó ra nướng làm nem uống rượn đi!

Câu nói ấy không ai hiểu cả. Đại Ngọc lại cười nói:

– Trang Tử có nói:

“Lá chuối che con hươu”, chị ấy tự xưng là Tiêu hạ khách, thì chẳng phải con hươu là gì? mang ngay hươu làm nem đi!

Mọi người nghe nói cười ầm lên. Thám Xuân cũng cười nói:

– Cô lại mắng khéo người ta đấy à? Chờ đấy, tôi đã nghĩ hộ cho cô một mỹ hiệu rất xứng đáng.

Rồi lại nói với mọi người:

– Ngày trước Nga Hoàng và Nữ Anh khóc nhiều, nước mắt nho?

vào cây trúc, thành ra vằn khúc, nên người đời sau đặt tên là:

“Tương Phi trúc”; bây giờ cô ấy ở quán Tiêu Tương, tính lại hay khóc, chắc sau này những cây trúc ở đó sẽ biến thành cây trúc có vằn cả. Từ giờ chúng ta gọi cô ấy là Tiêu tương phi tử mới đúng.

Mọi người nghe nói, đều vỗ tay khen haỵ Đại Ngọc ngồi cúi đầu, không nói câu gì. Lý Hoàn cười nói:

– Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.

Mọi người vội vã hỏi:

– Chữ gì?

Lý Hoàn nói:

– Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?

Thám Xuân nói:

– Tên phong ấy cũng rất hay.

Bảo Ngọc nói:

– Còn tôi, nhờ chị em đặt hộ cho một biệt hiệu.

Bảo Thoa cười nói:

– Anh đã có hiệu sẵn rồi, ba chữ Vô sự mang 7 đúng lắm.

Lý Hoàn nói:

– Thôi cứ gọi hiệu cũ của chú là Giang động hoa chu 8 là được rồi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Đó là chuyện lúc còn bé, gợi ra làm gì nữa.

Thám Xuân nói:

– Anh có nhiều tên hiệu, còn phải đặt làm gì. Từ nay chúng tôi gọi gì, anh cứ thế mà thưa, thế là được rồi.

Bảo Thoa nói:

– Để tôi đặt cho anh một tên hiệu, kể ra thì rất tục nhưng lại rất đúng với anh. Ở đời khó nhất là phú quý, mà cũng khó nhất là nhàn rỗi, hai cái ấy không thể có cả được, vậy mà anh lại có cả hai. Thôi cứ gọi anh là Phú quý nhàn nhân.

Bảo Ngọc cười nói:

– Tôi đâu dám thế! Thôi tùy chị em muốn gọi là gì thì gọi.

Đại Ngọc nói:

– Gọi bừa như thế sao được? Anh ở viện Di Hồng, thì cứ gọi anh là Di Hồng công tử có hay không?

Mọi người đều nói:

– Cũng đúng đấy!

Lý Hoàn nói:

– Còn cô Hai, cô Tư đặt tên hiệu là gì?

Nghênh Xuân nói:

– Chúng em không biết làm thơ, thì đặt tên hiệu làm gì?

Thám Xuân nói:

– Dù sao cũng nên đặt hiệu mới phải.

Bảo Thoa nói:

– Cô Hai ở Tử Lăng châu, thì lấy hiệu Lăng Châu, cô Tư ở Ngẫu Hương tạ, thì lấy hiệu Ngẫu Tạ là xong.

Lý Hoàn nói:

– Như thế là hay rồi. Nhưng kể tuổi thì tôi lớn hơn, các người phải theo tôi. Tôi nói gì các người phải nghe theo. Trong bảy người chúng ta, tôi và cô Hai, cô Tư không biết làm thơ, thì nên chừa ba chúng tôi ra. Chúng tôi xin nhận mỗi người một việc.

Thám Xuân cười nói:

– Đã có biệt hiệu mà cứ gọi tên cũ, thà chẳng đặt cho xong. Từ giờ ai gọi sai sẽ phải phạt mới được.

Lý Hoàn nói:

– Đã đặt thi xã thì nên đặt lệ phạt. Bên nhà tôi rộng hơn, nên họp ở đấy. Tôi không biết làm thơ, nhưng các vị thi nhân cũng không hẳn là ghét tục, mà để cho tôi làm chủ, tất nhiên tôi cũng trở nên thanh nhã. Xin cứ cử tôi làm xã trưởng. Nhưng một mình tôi làm xã trưởng không đủ, cần phải cử thêm hai vị phó xã trưởng nữa. Tôi xin mời hai vị túc nho Lăng Châu và Ngẫu Tạ:

một vị ra đầu bài và ha.

vần, một vị viết tinh tả và giám sát. Nhưng cũng không câu nệ ba chúng tôi nhất thiết không làm thơ, nếu gặp đầu bài nào, vần nào hơi dễ, chúng tôi sẽ tùy tiện làm thôi. Còn bốn vị thì phải theo hạn định. Ý tôi như thế đấy, nếu các vị không bằng lòng, thì tôi không dám vào hội nữa.

Xưa nay Nghênh Xuân, Tích Xuân vẫn không thích làm thơ, nhất là lại ở trước mặt Bảo Thoa và Đại Ngọc. Giờ nghe nói thế, rất hợp ý mình, hai người đều nói “Phải lắm”.

Thám Xuân cũng hiểu ý ấy, thấy hai người bằng lòng, cũng hùa theo ngay, không nài ép nữa, liền cười nói:

– Thôi được rồi, nhưng nghĩ cũng buồn cười, chính tôi nêu ra việc này, lại để ba vị đến cai quản tôi.

Bảo Ngọc nói:

– Đã thế thì chúng ta đến ngay thôn Đạo Hương đi.

Lý Hoàn nói:

– Sao vội thế. Hôm nay mới chỉ bàn thôi, để tôi mời họp lại sẽ hay.

Bảo Thoa nói:

– Phải định mấy ngày một lần họp mới được.

Thám Xuân nói:

– Nếu họp luôn thì mất thú. Trong một tháng chỉ nên họp độ hai ba lần thôi.

Bảo Thoa nói:

– Một tháng họp hai lần là đủ rồi. Đã định hẳn ngày thì dù mưa gió cũng phải họp. Ngoài hai ngày ấy ra, ai có cao hứng, tình nguyện họp thêm, hoặc mời đi chỗ khác, hoặc cứ ở luôn đấy cũng được, như thế chẳng vui vẻ thích thú lắm sao?

Mọi người đều nói:

– Ý ấy rất hay.

Thám Xuân nói:

– Việc này tự tôi khởi xướng ra, phải để cho tôi làm chủ trước mới khỏi phụ cao hứng của tôi.

Lý Hoàn nói:

– Đã thế thì ngày mai cô mở đầu đi có được không?

Thám Xuân nói:

– Ngày mai không bằng hôm nay, cứ bắt đầu ngay bây giờ. Chị ra đầu bài, “ông” Lăng Châu hạ vần, “ông” Ngẫu Tạ giám trường.

Nghênh Xuân nói:

– Theo ý tôi, cũng nên giao cho một người nào ra đầu bài và ha.

vần, cứ nên bỏ thăm mới công bằng.

Lý Hoàn nói:

– Khi tôi mới đến đây, trông thấy người ta mang đến hai chậu hải đường trắng đẹp lắm. Sao không vịnh ngay hoa ấy.

Nghênh Xuân nói:

– Hoa chưa được thưởng, đã làm thơ à?

Bảo Thoa nói:

– Chẳng qua là hoa hải đường trắng, cần gì phải trông thấy mới làm được thở Người đời xưa làm thơ phú, chỉ cốt mượn vật để ngụ ý mình thôi. Cứ chờ trông thấy mới làm, thì bây giờ chả còn bài thơ nào nữa.

Nghênh Xuân nói:

– Đã thế thì tôi hạ vần đây.

Nói xong, chạy đến tủ sách, lấy một quyển thơ, mở một tờ ra, là một bài thơ “Thất ngôn Đường luật”, liền đưa cho mọi người xem, thế là ai cũng phải làm thơ thất ngôn. Nghênh Xuân gập sách lại, bảo một a hoàn nhỏ:

– Mày tùy ý nói ra một chữ.

A hoàn đương đứng tựa cửa, nên nói ngay chữ môn (cửa).

Nghênh Xuân cười nói:

– Chữ môn theo vần thập tam nguyên. Như vậy là câu thơ đầu phải lấy chữ “môn”.

Nói rồi bảo đưa cái hộp tập vận, và kéo cái ngăn có vần thập tam nguyên ra, rồi bảo a hoàn trỏ vào bốn chữ. A hoàn chỉ đúng bốn chữ bồn, hồn, ngôn, hôn 9.

Bảo Ngọc nói:

– Chữ bồn và chữ môn khó gieo cho hay được.

Thị Thư xếp sẵn bốn phần bút giấy, rồi ai nấy đều ngồi lặng lẽ nghĩ thợ Chỉ có Đại Ngọc khi vịn cây ngô đồng, khi nhìn trời thu, khi đùa với bọn a hoàn. Nghênh Xuân lại sai a hoàn thắp một cây mộng điềm hương 10. Nén hương chỉ dài ba tấc, xấp xỉ bằng cái bấc đèn, vì là mau tàn, cho nên lấy hương định hạn. Nếu hương cháy hết, ai chưa làm đong, sẽ bị phạt.

Thám Xuân làm xong trước, lấy bút viết ra, lại xóa xóa chữa chữa một lúc, rồi đưa cho Nghênh Xuân. Thám Xuân quay lại hỏi Bảo Thoa:

– Hành Vu quân đã làm xong chưa?

– Làm xong rồi, nhưng không hay.

Bảo Ngọc chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trên thềm và bảo Đại Ngọc:

– Em xem kìa, người ta đã làm xong cả rồi.

– Anh cứ để mặc tôi.

Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa đã viết xong, liền hỏi:

– Nguy rồi! Hương chỉ còn một tấc, mà tôi mới nghĩ được bốn câu!

Lại quay bảo Đại Ngọc:

– Hương gần cháy hết rồi, em cứ ngồi ở chỗ đất ẩm làm gì?

Đại Ngọc cũng không trả lời. Bảo Ngọc nói:

– Thôi! Đành mặc kệ cô, dù hay dù dở, tôi cứ viết ra cho xong.

Nói xong, chạy đến bàn viết.

Lý Hoàn nói:

– Chúng ta bắt đầu xem thơ đây. Xem xong những bài này, ai còn chưa nộp, sẽ phải phạt.

Bảo Ngọc nói:

– Đạo Hương lão nông tuy làm thơ không hay, nhưng xem thơ rất tinh, rất công bằng, lời phê của “ông” ai cũng phải phục.

Mọi người đều gật đầu:

Bấy giờ bắt đầu xem thơ của Thám Xuân, thấy viết:

VỊNH HOA HẢI ĐUỜNG TRẮNG.

Cỏ lướt bên ngoài lúc xế chiều, 11.

Tạnh mưa xanh ngắt chậu đầy rêu.

Ngọc pha vẻ quí người khôn đọ,.

Tuyết trắng màu da bụng đã xiêu.

Nhị ngát hoa khoe chiều ẽo ợt,.

Canh khuya trăng gợn bóng treo leo.

Cảo tiên 12 này bảo đừng bay vội,.

Vịnh cảnh hoàng hôn dãi tấm yêu..

Rồi xem đến bài của Bảo Thoa:

Cửa khép vì hoa khép suốt ngày,.

Tưới hoa bình nước sẵn cầm tay.

Phấn son rửa sạch thềm thu nọ,.

Băng tuyết vời về bực móc đây.

Lạt thếch hoa càng thêm được vẻ,.

Buồn tênh ngọc cũng phải chau mày.

Muốn dâng Bạch Đế mầu trong trắng,.

Lẳng lặng chờ đây lúc xế tây.

Lý Hoàn cười nói:

– Rút lại thì bài của Hành Vu quân là hay!

Nói xong lại xem bài của Bảo Ngọc:

Lặng lẽ trời thu dọi cửa lầu,.

Bảy cành chụm lại tuyết pha mầu.

Thái Chân 13 ra tắm làn băng nuột,.

Tây tử ngồi nhăn nét ngọc sầu.

Gió sớm khôn tan ngàn mối hận,.

Mưa đêm lại đọng mấy dòng châu.

Lan can đứng tựa lòng man mác,.

Sáo thổi chầy deo khéo cợt nhau.

Mọi người xem rồi, Bảo Ngọc nói:

– Bài của Thám Xuân hay.

Lý Hoàn lại khen bài của Bảo Thoa hay hơn và nói:

– Lời thơ có thần.

Rồi lại giục Đại Ngọc, Đại Ngọc liền hỏi:

– Các người xong cả rồi à?

Nói xong cầm bút ngoáy một lúc, rồi vứt cho mọi người.

Bọn Lý Hoàn cầm lấy xem, thấy:

Lơ lửng rèm Tương cửa khép hờ, Đất băng chậu ngọc, khéo xinh chưa.

Mới đọc hai câu, Bảo Ngọc đã reo ầm lên:

“Ở đâu mà nghĩ ra được tứ ấy?” Lại xem câu dưới:

Lê đầy nhị trắng đành vay ngọt,.

Mai sẵn hồn thơm cứ mượn bừa.

Mọi người đều khen hay, nói:

“Quả nhiên có một ý nghĩ khác người”. Lại xem đến mấy câu dưới:

Cõi nguyệt tiên may tay áo trắng,.

Buồng thu khách gạt hạt châu sa.

Ngượng ngùng biết ngỏ cùng ai nhỉ?

Gió lạnh đêm mờ đứng ngẩn ngơ.

Mọi người xem xong đều nói:

– Bài này hơn cả.

Lý Hoàn nói:

– Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải nhường cho Hành Vu Quân.

Thám Xuân nói:

– Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.

Lý Hoàn nói:

– Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?

Bảo Ngọc nói:

– Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng – Lại cười nói – Nhưng cần phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu Tương.

Lý Hoàn nói:

– Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ bị phạt.

Bảo Ngọc nghe nói, đành phải thôi. Lý Hoàn nói:

– Từ giờ về sau, tôi định mỗi tháng họp hai lần, vào ngày mồng hai và mười sáu. Tôi nhận việc ra đầu bài và hạn vần. Ai còn cao hứng, cứ việc chọn vào ngày khác, dù có họp luôn cả tháng tôi cũng mặc. Trừ ngày mồng hai và ngày mười sáu là phải đến họp ở nhà tôi.

Bảo Ngọc nói:

– Bây giờ nên đặt tên hội đi.

Thám Xuân nói:

– Đặt tên tục quá thì không hay, mới quá lại hoá ra kỳ quặc cũng không đẹp. Vừa rồi mới làm bài thơ hải đường, thì đặt ngay là “Hải Đường xã” cũng được. Tuy hơi tục đấy, nhưng là việc có thực, không quan hệ gì.

Mọi người lại bàn một lúc, uống rượu, ăn hoa quả qua loa rồi đi, có người về nhà, có người đến chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem xong tờ thiếp của Giả Vân rồi cùng Thúy Mặc ra đi, không biết là việc gì. Sau lại thấy bà già ở cửa sau đem hai chậu hoa hải đường vào, Tập Nhân hỏi ở đâu đem đến, bà già kể lại đầu đuôi cho nghe. Tập Nhân bảo họ mang ra bày tử tế, rồi mời họ xuống buồng dưới ngồi. Sau đó Tập Nhân vào trong nhà cân và gói cẩn thận sáu đồng bạc, lại lấy ba trăm đồng tiền mang ra đưa cho bà già nói:

– Số bạc này thưởng cho bọn trẻ con mang chậu hoa đến. Số tiền này thì cho các bà uống rượu.

Bọn bà già đứng dậy, mặt mũi hớn hở, tạ Ơn, luôn mồn từ chối.

Tập Nhân nhất định không nghe, mãi họ mới chịu nhận. Tập Nhân lại hỏi:

– Bên ngoài cửa sau có bọn trẻ con trực nhật không?

Bà già vội nói:

– Ngày nào cũng có bốn đứa trẻ con chực sẵn ở đấy để xem có sai bảo gì không. Nếu cô cần sai việc gì, tôi sẽ bảo chúng đi.

Tập Nhân cười nói:

– Tôi có việc gì mà sai? Hôm nay cậu Bảo muốn sai người sang đưa cho cô Sử ít quà, may có các bà đến đây, nhân tiện lúc về, bảo hô.

bọn trẻ chực ở cửa sau thuê cho cái xe. Đến khi về, các bà đến đây mà lấy tiền và đừng cho chúng nó chạy bậy sang bên nhà.

Bọn bà già vâng lời đi.

Tập Nhân vào trong buồng lấy cái đĩa đựng quà để đưa sang cho Tương Vân. Khi tìm trong ngăn tủ, không còn cái đĩa nào, Tập Nhân ngoảnh lại thấy bọn Tình Văn, Thu Văn, Xạ Nguyệt đương ngồi thêu, liền hỏi:

– Cái đĩa mã não trắng đâu rồi?

Thấy hỏi, người nọ nhìn người kia, nghĩ mãi không biết để ở đâu.

Một lúc, Tình Văn cười nói:

– Đựng quả vải đưa sang biếu cô Ba, chưa lấy về.

Tập Nhân nói:

– Nhà còn nhiều thứ kia mà, sao lại lấy cái ấy?

Tình Văn nói:

– Tôi cũng bảo thế, nhưng chỉ có cái đĩa ấy mà để những quả vải thì mới dễ coi. Tôi mang sang, cô Ba cũng khen đẹp, rồi để luôn bên đó. Chị xem lại còn một đôi lọ liên châu để ở ngăn tủ trên cũng chưa mang về.

Thu Văn cười nói:

– Nói đến cái lọ ấy, tôi lại nhớ đến một việc đáng buồn cười! Cậu Bảo nhà ta khi mà động lòng hiếu thảo, thật là hiếu thảo bội phần.

Một hôm, trong vườn có hoa quế, cậu ấy bẻ hai cành, định cắm vào lo.

để chơi, chợt nghĩ đó là hoa tươi mới nở, không dám chơi trước, liền lấy ngay đôi lọ xuống, đổ nước, cắm hoa vào, sai người mang đi và thân hành xuống biếu bên cụ một lọ, bên bà Hai một lọ. Ngờ đâu bụng hiếu của cậu ấy làm cả người theo cũng được phúc lây. Hôm ấy chính tôi mang đi, cụ trông thấy mừng cuống quít lên, gặp ai cũng nói:

“Thực là cháu Bảo có hiếu quá, ngay một cành hoa nó cũng nghĩ đến ta, thế mà có người cứ oán ta hay thương nó”. Các chị phải biết xưa nay cụ chẳng nói câu gì với tôi cả, hình như tôi có cái gì không lọt vào con mắt của người; thế mà hôm ấy cụ lại sai người lấy mấy trăm đồng tiền cho tôi, bảo tôi là đáng thương, từ bé hay ốm yếu luôn, thật là một điều may mắn bất ngờ cho tôi. Mấy trăm đồng tiền cha?

là bao, nhưng được thể diện như thế là rất khó. Rồi đi đến chỗ bà Hai, gặp người và mợ Hai cùng dì Triệu, dì Chu đương lục hòm tìm những quần áo của người khi còn trẻ tuổi, không biết người định lấy để cho ai. Lúc trông thấy tôi, người không tìm quần áo nữa, liền đến xem hoa. Mợ Hai lại đứng cạnh tán tỉnh, khen lấy khen để cậu Bảo, nào là biết hiếu thuận, biết điều phải chăng, cái có cũng như cái không, kể ra một tràng, vừa lấp được họng mọi người, lại làm bà càng hãnh diện, vui mừng thêm, thưởng ngay cho tôi hai cái quần áo may sẵn. Quần áo cũng chẳng đáng là bao, năm nào mà chả có, nhưng không khi nào tôi được hãnh diện như lúc này.

Tình Văn cười nói:

– Con ranh con này, chả biết gì cả! Những cái tốt thì cho người khác, còn những cái thừa thãi bà mới gọi đến mày, thế mà mày lại cho là hãnh diện!

Thu Văn nói:

– Dù cho ai thừa đi nữa, cũng là ơn của bà.

Tình Văn nói:

– Phải như tao thì tao không cần lấy. Thừa người ta rồi mới đến mình! Cũng đều là người trong nhà cả, chả lẽ lại ai quý hơn ai? Áo quần đẹp thì đem cho người, thừa ra mới đến mình, chẳng thà không nhận, dù có phật ý người cũng đành, chứ tao thì không thể chịu nổi thế được.

Thu Văn vội hỏi:

– Cho ai thế hở chị? Hôm nọ em ốm mấy ngày, về nhà, không biết gì cả. Chị bảo cho em biết với.

Tình Văn nói:

– Tao bảo cho mày biết, không lẽ mày đem trả lại bà hay sao!

Thu Văn nói:

– Sao lại như vậy! Tôi biết để mừng đấy thôi. Dù có cho con chó nhà này đi nữa, tôi cũng vẫn phải nhận ơn của bà, ngoài ra không có ý gì khác.

Mọi người nghe vậy cười nói:

– Nó chửi khá đấy! Chả phải bà đã cho con chó hoa rồi ư?

Tập Nhân cười nói:

– Đồ thối họng! Hễ há mồm ra là y như đem tao ra làm trò cười!

Rồi đây chưa biết đứa nào sẽ chết ra làm sao.

Thu Văn nói:

– Thế ra chị được áo quần đấy à? Em không biết, xin lỗi chị nhé!

Tập Nhân cười nói:

– Thôi bông đùa vừa vừa chứ? Việc chính là ai đi lấy cái đĩa về bây giờ.

Xạ Nguyệt nói:

– Còn cái lọ thì khi nào rồi cũng nên lấy về. Bên nhà cụ còn có thể để đấy được, chứ bên nhà bà Hai thì đông người lộn xộn, người khác còn khá, chứ cái bọn dì Triệu hễ trông thấy cái gì của nhà này là sinh lòng đen tối, muốn làm thế nào cho hư hỏng mới thôi. Bà Hai thì chẳng trông nom gì đến những thứ ấy, chi bằng lấy ngay về là hơn.

Tình Văn bỏ ngay kim chỉ xuống nói:

– Thế thì tôi đi lấy về nhé.

Thu Văn nói:

– Để tôi đi lấy, chị đi lấy cái đĩa của chị.

Tình Văn nói:

– Để tao đi chọ Có dịp tốt, chúng bay tranh mất cả, không để cho tao đi một chuyến à?

Xạ Nguyệt cười nói:

– Chỉ có lần ấy con Thu Văn mới vớ được món may thôi, chứ có phải ai cũng gặp lúc bà Hai lục quần áo ra cho đâu.

Tình Văn cười nhạt:

– Dù không gặp lúc lục quần áo, nhưng biết đâu thấy tao là người cẩn thận, bà Hai lại chẳng lấy hai lạng bạc trong số tiền chi dùng hàng tháng của người ra cho tao.

Rồi lại cười bảo:

– Chúng mày đừng làm trò ma quỷ lẻn lút với tao nữa, việc gì mà tao chả biết.

Nói xong chạy đi, Thu Văn cũng đi đến nhà Thám Xuân để lấy cái đĩa.

Tập Nhân sắm sửa các thứ xong, gọi vú Tống đến bảo:

– Bà về rửa mặt chải đầu, thay quần áo, rồi đến đây lấy các thứ quà, mang sang biếu cô Sử.

Vú Tống nói:

– Cô cứ việc giao cho tôi, có điều gì cứ dặn, tôi thu xếp xong sẽ đi ngay.

Tập Nhân liền bưng ra hai hộp sơn nhỏ bằng tre đan, mở hộp ra thấy trong đựng hai thứ quả tươi, lại mở hộp kia thấy một đĩa bánh đường quả quế. Tập Nhân nói:

– Đây đều là thứ quả tươi trong vườn năm nay, cậu Bảo sai mang sang để cô nếm. Khi trước cô khen cái đĩa mã não này đẹp, thì cô cứ để lại mà dùng. Hôm nọ cô có bảo tôi thêu cái bao lụa này, nếu cô không cho là xấu, xin hãy dùng tạm. Cậu Bảo và chúng tôi gửi lời hỏi thăm cô.

Vú Tống hỏi:

– Không biết cậu Bảo có còn dặn câu gì nữa không. Cô đi hỏi rồi về bảo tôi, không có lại quên.

Tập Nhân hỏi Thu Văn:

– Cậu ấy đương ở nhà cô Ba phải không?

– Họ đương ở đấy bàn việc mở thi xã gì đó, chẳng dặn gì cả bà cứ việc đi thôi.

Vú Tống nhận các thứ và đi mặc áo quần.

Tập Nhân dặn:

– Bà đi ra đằng cửa sau, có đứa bé và xe đương chờ ở đấy.

Vú Tống đi rồi, Bảo Ngọc mới về, đứng xem hoa hải đường một lúc, rồi vào trong nhà nói với Tập Nhân việc mở hội làm thợ Tập Nhân kể cho Bảo Ngọc biết việc sai vú Tống đưa quà sang biếu Tương Vân. Bảo Ngọc vỗ tay nói:

– Thôi, tôi quên mất cô ta rồi! Trong bụng cứ băn khoăn, không nhớ ra việc gì, may được chị nhắc đến. Tôi muốn mời cô Sử sang chơi.

Hội thơ mà thiếu cô ta thì còn có thú gì nữa.

Tập Nhân nới:

– Cần thiết gì việc ấy? Chẳng qua là trò chơi thôi. Cô ấy có được rộng rãi như các cô, các cậu bên này đâu. Hơn nữa ở trong nhà cô ấy lại không được làm chủ. Khi báo tin, cô ấy muốn sang, nhưng không tự tiện sang được, trong bụng chắc lại áy náy khó chịu.

Bảo Ngọc nói:

– Không sao, tôi sẽ trình cụ cho người sang đón cô ấy.

Đương nói thì vú Tống về, kể lại việc Tương Vân chuyển lời cảm ơn Tập Nhân và nói:

– Cô Sử hỏi cậu Bảo ở nhà làm gì? Tôi nói cậu ấy và các cô đương mở hội thợ Cô ấy bực lắm nói, họ làm thơ mà chẳng cho mình biết.

Bảo Ngọc nghe nói, liền quay sang giục Giả mẫu cho người đi đón Tương Vân sang. Giả mẫu nói:

– Hôm nay muộn rồi, ngày mai sẽ cho đi sớm.

Bảo Ngọc đành phải thôi, trở về có vẻ buồn rầu. Sáng sớm hôm sau lại sang giục Giả mẫu. Đến chiều, Tương Vân sang, Bảo Ngọc mới yên lòng. Khi gặp nhau, Bảo Ngọc kể hết đầu đuôi cho Tương Vân nghe và muốn cho Tương Vân xem những bài thơ đã làm. Bọn Lý Hoàn nói:

– Không cho xem thơ trước, hãy để cho cô ta viết mấy chữ đã, cô ta đến sau, bắt phạt phải họa thợ Hay thì mời vào hội, không hay bắt phải làm một bữa rượu rồi mới nói chuyện.

Tương Vân cười nói:

– Các người quên không mời tôi thì đáng bắt phạt mới phải chứ!

Xin cho biết hạn vần, tôi tuy chẳng hay ho gì, cũng cố gắng hiến một trò cười. Nếu cho tôi vào hội, dù phải quét nhà, thắp hương tôi cũng vui lòng. Mọi người thấy Tương Vân hứng thú như thế, lại càng vui, đều ân hận:

“Sao hôm nọ lại quên bẵng cô ta đi”. Liền đưa vần cho Tương Vân họa.

Tương Vân cao hứng quá, chẳng cần cân nhắc sửa đổi gì, vừa nói chuyện vừa nghĩ thợ Nhân có bút giấy sẵn đấy, liền viết luôn và cười nói:

– Tôi không biết hay dở thế nào, cũng xin tuân lệnh, theo vần họa ra đây hai bài.

Mọi người nói:

– Chúng tôi bốn người làm được bốn bài, đã cho là hết ý rồi, muốn làm thêm một bài nữa cũng không nổi. Thế mà một mình cô Vân lại làm được hai bài. Không biết trong thơ nói những gì? Chắc cô có câu trùng với thơ của chúng tôi.

Họ vừa nói vừa xem, thấy hai bài thơ viết:

Họa bài thơ hải đường trắng.

I Hôm nọ thần tiên xuống cửa thành,.

Lam điền trồng ngọc chậu xinh xinh.

Sương Nga 14 tính vẫn hay ưa lạnh,.

Thiếu nữ 15 lòng đâu nỡ dứt tình.

Tuyết ở nơi nào thu kéo lại,.

Mưa từ đêm trước ngấn in rành,.

Nhà thơ vui nhỏ, ngâm tràn mãi,.

Nỡ để chiều hôm cảnh vắng tanh.

II Thềm cỏ thông sang cửa tiết lạ 16 Này tường này chậu đẹp bao là.

Hoa vì thích sạch thành trơ trọi,.

Người những thương thu dễ ngẩn ngơ.

Giọt lệ khô theo cây đuốc ngọc,.

Rèm tinh soi suốt bóng gương nga.

Nỗi riêng muốn ngỏ cùng dì Nguyệt,.

Thềm vắng đêm mờ đã chán chưa!

Đọc đến đâu, mọi người đều lấy làm kinh lạ, khen ngợi đến đó.

– Thơ này mới đáng là thơ vịnh hải đường chứ! Thực đúng với tên hội là “Hải đường xã”.

Tương Vân nói:

– Ngày mai xin phạt tôi làm chủ. Để mời tôi họp trước một lần có được không?

Mọi người nói:

– Thế thì càng hay.

Rồi họ đem những bài thơ trước ra cho Tương Vân bình một lượt.

Đến chiều, Bảo Thoa mời Tương Vân sang Hành Vu uyển nghỉ.

Tương Vân ngồi trước đèn, nghĩ việc thiết tiệc và ra đầu bài. Bảo Thoa nghe Tương Vân tính toán lúc lâu, xem chừng chưa ổn, liền nói:

– Đã mở hội, tất nhiên phải biện tiệc rượn. Tuy là việc chơi, nhưng cũng phải suy tính cho kỹ. Làm thế nào được biện cho mình mà không mang lỗi với người khác, thì mới có thú. Chị Ở nhà, có được làm chủ đâu, mỗi tháng chỉ có mấy quan tiền, còn chưa đủ dùng, bây giờ lại làm cái việc không đâu, nếu dì chị biết, lại oán trách chị.

Vả chăng, chị có mang tất cả số tiền của chị ra mà tiêu cũng không đủ, không lẽ vì việc này chị về xin tiền bên nhà, hay định xin tiền bên này?

Tương Vân nghe xong, tỉnh ngộ, đâm ra khó nghĩ. Bảo Thoa nói:

– Việc này tôi đã có ý định. Trong hàng cầm đồ nhà tôi có một người buôn chung, ở vùng ông ta có nhiều cua ngon, trước kia ông ta đã mang đến biếu nhà tôi mấy con. Ở bên này từ cụ trở xuống đến người trong vườn, phần nhiều thích ăn cua cả. Hôm nọ mẹ tôi đã nói muốn mời cụ đến vườn thưởng hoa quế và ăn cua, nhưng bận việc chưa mời được. Giờ chị chưa nên gợi chuyện mở hội thơ vội, hãy cứ mời mọi người đến thưởng hoa quế và ăn cua. Khi họ ăn xong, trở về thì bao nhiêu thơ mà chúng ta chẳng làm được? Để tôi nói với anh tôi tìm mấy giỏ cua thật béo, thật to, rồi về cửa hàng nhà tôi lấy mấy vò rượu ngon, lại sắm bốn năm khay hoa quả, như thế chẳng gọn việc, mà mọi người cùng vui cả hay sao?

Tương Vân Nghe nôi, rất cảm phục, khen Bảo Thoa nghĩ việc chu đáo. Bảo Thoa lại cười nói:

– Do lòng thành thực đối với chị mà tôi nói ra câu ấy, chị đừng nên băn khoăn lại cho tôi là khinh rẻ chị, thì phí cả cái tình thân thiết của hai chúng tạ Chị đừng nên nghĩ ngợi gì, tôi sẽ bảo người đi sắm sửa ngay.

Tương Vân vội cười nói:

– Chị nói thế thì vẫn còn ngờ vực tôi. Dù tôi có u mê đến đâu, cũng biết phân biệt lời hay lẽ phải; nếu không thì còn ra người sao được. Tôi không coi chị như là chị ruột thì trước đây những việc rắc rối trong nhà tôi, khi nào tôi lại kể hết cho chị biết.

Bảo Thoa gọi một bà già đến bảo:

– Bà ra nói với cậu Cả, mua cho tôi mấy giỏ cua to, như cua hôm trước ấy. Ngày mai cơm sáng xong, tôi sẽ mời cụ cùng các bà, các cô sang vườn thưởng hoa quế. Bà dặn cậu ấy đừng có quên nhé. Hôm nay tôi đã mời khách rồi đấy.

Bảo Thoa lại nói với Tương Vân:

– Đầu bài thơ không nên lắt léo quá, cứ xem thơ của người trước, có đề mục kỳ quặc và vần hiểm hóc lắm đâu. Nếu ra đầu bài lắt léo quá, hạn vần hiểm hóc quá, thơ không thể nào hay được, có khi đâm ra gò bó, hẹp hòi. Thơ cố nhiên nên tránh những chữ sáo, nhưng cũng không nên quá cầu kỳ, cốt lập ý cho mời, thì lời thơ sẽ không tục. Nhưng rút cục thì việc này, đối với chúng ta, cũng không đáng kể.

Phận sự của chúng ta là may dệt thêu thùa. Khi nào rỗi, đem sách bô?

ích cho mình ra đọc ít chương, như thế mới là việc chính đáng.

Tương Vân chỉ vầng tràn, rồi cười nói:

– Tôi nghĩ hôm nọ đã làm thơ hải đường rồi, bây giờ nên làm thơ hoa cúc, chị nghĩ thế nào?

Bảo Thoa nói:

– Thơ hoa cúc cũng hợp cảnh đấy, nhưng người trước đã làm nhiều rồi.

– Tôi cũng nghĩ thế, sợ lại rơi vào sáo cũ.

Bảo Thoa nghĩ một lúc, cười nói:

– Được rồi. Bây giờ lấy hoa cúc làm khách, lấy người làm chủ.

Mình nghĩ ra mấy đầu bài, mỗi đầu bài có hai cliữ:

một chữ “hư”, một chữ “thực”. Chữ “thực là “cúc”, còn “hư” muốn dùng chữ gì thì dùng. Như thế là vừa vịnh cúc lại vừa kể việc. Người xưa chưa làm thế, cũng không đến nỗi rơi vào sáo cũ. Tả cảnh và vịnh vật, hai cái ấy đi đôi với nhau, như thế mới rộng rãi và mới mẻ.

Tương Vân cười nói:

– Hay lắm! Nhưng không biết dùng chữ “hư” gì cho hay? Chị nghĩ dùm một chữ xem nào?

Bảo Thoa nghĩ một lúc rồi cười nói:

– Cúc mộng cũng được.

– Hay thực! Tôi cũng nghĩ một chữ Cúc ảnh có được không?

– Cũng được, nhưng đã có người làm rồi. Nếu có nhiều đầu bài, thì chữ ấy cũng ghép vào được. Tôi lại có một chữ khác.

– Chữ gì?

– Vấn cúc được không Tương Vân đập bàn khen hay, liền nói tiếp:

– Tôi cũng có rồi, Phỏng cúc có được không?

Bảo Thoa cũng khen thú lắm, liền nói:

– Chúng ta cố nghĩ mười đầu đề, rồi sẽ hay.

Nói xong, hai người mài mực, nhúng bút. Tương Vân viết. Bảo Thoa đọc, một lúc nghĩ được tất cả mười đầu đề. Tương Vân xem một lượt, cười nói:

– Mười đầu đề chưa đủ thành một bức, phải cố tìm lấy mười hai đầu đề, cũng giống như những trang chữ viết và bức vẽ của người ta vậy.

Bảo Thoa lại nghĩ thêm hai đầu đề nữa, rồi nói:

– Đã thế phải theo thứ tự mà biên ra.

– Hay lắm, thế là làm thành một Cúc phả đấy.

– Bài đầu là ức cúc, nhớ không thấy thì phải đi tìm, nên bài thứ hai là Phỏng cúc. Tìm được rồi, đem đi trồng, nên bài thứ ba là Chủng cúc. Trồng đã có hoa rồi thì ngắm mà thưởng, nên bài thứ tư là Đối cúc. Ngắm rồi thấy hứng thú dồi dào, phải bẻ cành cắm vào lọ, nên bài thứ năm là Cung cúc. Đã cung mà không ngâm vịnh thì sao biết là cúc đẹp, nên bài thứ sáu là Vịnh cúc. Đã vịnh rồi, còn cần phải lấy bút mực vẽ ra nữa, nên bài thứ bảy là Họa cúc. Đã vẽ rồi, mà cứ lẳng lặng không nói gì, thì biết cúc đẹp ở chỗ nào, cần phải hỏi mới biết được nên bài thứ tám là Vấn cúc. Nếu cúc mà biết nói, sẽ làm cho người ta sung sướng quá, nên bài thứ chín là Trâm cúc.

Như thế là việc người tuy đã làm xong, nhưng cúc còn nhiều cái đáng vịnh nữa, nên bài Cúc ảnh và Cúc mộng để vào thứ mười và thứ mười một:

cuối cùng là bài Tàn cúc, để kết thúc tất cả các bài trước. Như vậy là cảnh đẹp, thú vui trong ba tháng thu đều có đầy đủ.

Tương Vân theo thứ tự chép ra, lại xem một lượt rồi hỏi:

– Nên hạn vần gì?

– Xưa nay tôi không thích hạn vần, cốt thơ cho hay, tội gì cứ phải trói vần. Chúng ta chớ nên học những nhà thơ gò bó, hẹp hòi, cứ ra đầu bài, không cần hạn vần. Cốt sao mọi người nghĩ ra câu thơ hay cho vui, chứ không phải lấy vần ra để làm khó dễ.

– Chị nói rất phải, nếu được thế thì thơ của chúng ta lại càng hay thêm. Nhưng chúng ta chỉ có năm người đều phải làm đủ cả mười hai bài hay sao?

– Nếu thế thì làm khó cho người ta quá. Giờ hãy viết đầu bài cho cẩn thận, bắt buộc theo luật thơ thất ngôn, ngày mai dán lên tường cho mọi người xem, ai làm được bài nào thì cứ làm, nếu đủ sức sẽ làm cả mười hai bài, không thì làm được một bài cũng được. Cứ ai tài giỏi làm nhanh là hơn. Ai đã làm xong mười hai bài của mình rồi, không được làm nữa, trái lệnh sẽ phải phạt.

– Thôi thế là được rồi.

Hai người bàn nhau đâu vào đấy, mới tắt đèn đi ngủ.

1      Tên chữ là Thanh thần, đỗ tiến sĩ đời Đường, học rộng văn hay, viết các lối chữ rất đẹp. Khi làm thái thủ quận Bình Nguyên, đem quân đi đánh An Lộc Sơn, được phong Lỗ quận công. Sau Lý Hy Liệt làm phản, Chân Khanh bị nó giết.

2      Tức Bạch Liên Xã, pháp sư Tuệ Tiễn đời nhà Tần, ở chùa Đông Lâm, họp 123 người, vừa nho vừa thích, kết làm bạn nghiên cứu triết lý và phật học. Vì chùa này trồng nhiều sen trắng, nên lấy nó đặt tên.

3      Ở tỉnh Chiết Giang, Tạ An đời nhà Tấn thường ra chơi ở đây.

4      Ông già làm ruộng ở Đạo hương thôn.

5      Người ẩn dật ở Thu sảng trai.

6      Người đứng dưới cây chuối.

7      Không có việc nhưng vẫn bận.

8      Chủ hoa ở động Giang Tiên.

9      Theo luật thơ Đường, mỗi bài thơ tám câu phải có năm câu gieo đúng vần, tức câu 1, 2, 4, 6, 8. Những vần đều quy từng nhóm, như vần đồng, vần giang, vần chi… Thập tam nguyên tức là vần “nguyên” ở hàng thứ mười bạ Bồn, hồn, ngôn, hôn đi theo mới môn, đều thuộc vần “nguyên”.

10      Thứ hương ngửi vào đâm say sưa.

11      Những bài thơ dưới đây, hạn vần đều gieo đúng chữ [môn, bồn, hồn, ngôn, hôn cả, nhưng vì hạn chế của dịch thuật, chúng tôi phải dịch theo vần khác.

12      Tiên mặc đồ trắng.

13      Tức Dương quý phi.

14      Mặt trăng.

15      Con gái Trương Dật nhà Đường, có sắc đẹp. Lúc đó Trương Dật hẹn gả cho cháu ngoại là Vương Trụ, vì thế hai người vẫn quyến luyến nhau. Đến lúc lớn, Trương Dật đem gả cho người khác. Thiến Nương và Vương Trụ uất ức lắm. Sau Vương Trụ đi thuyền vào kinh, nửa đêm Thiến Nương chợt nhảy qua thuyền rồi rủ nhau trốn vào đất Thục, ở đấy năm năm đẻ được hai con. Khi về thăm nhà, Trương Dật trông thấy sợ lắm, vì con gái mình bị Ốm đã mấy năm nay ở trong buồng. Khi Vương Trụ và Thiến Nương đến nhà, người con gái ấy đương nắm ở trong buồng chạy ra đón, thì hợp ngay với Thiến Nương thành một; sau người ta thường dùng chữ “Thiến Nương ly hồn” để ta?

người con gái vì tình mà chết.

16      Một thứ dây leo.