Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Khi Bình-vương đến Lạc dương thấy phong cảnh tốt tươi, dân cư trù mật không kém gì Kiểu-kinh, trong lòng mừng rỡ.
Kinh- đô định xong, cả chư hầu đều dâng biểu chúc mừng, duy chỉ có nước Sở chẳng thấy đến.
Bình-vương nổi giận muốn khởi binh vấn tội.
Quần thần can rằng :
– Nước Sở chẳng tuân vương-hóa đã lâu, xưa Tuyên-vương phải lắm phen chinh phục. Từ đó cứ hàng năm đem cống hiến một xe thanh-mao để dùng đặt rượu mà tế tự. Lệ ấy cũng chỉ cho có chừng đó thôi. Nay Bệ-hạ mới dời đô, lòng người chưa định, nếu đem binh chinh phạt e khó thắng. Xin Bệ-hạ chờ cho binh hùng tướng mạnh sẽ tính đến việc đó cũng chẳng muộn chị
Bình-vương nghe nói cũng đổi giận làm vui, không tính việc chinh Nam nữa.
Kế đó Tần-vương-công cáo từ về nước.
Bình-vương nói :
– Nay đất Kỳ-phong bị giặc Khuyển-nhung chiếm giữ, quấy rối dân lành. Nếu nhà ngươi đánh đuổi được thì ta cho đất ấy để đền đáp lại công hộ giá thiên đô .
Tần tương công bái mạng lui về, sắm sửa binh mã lo kế đánh đẹp Khuyển-nhung.
Chẳng bao lâu, giặc Khuyển-nhung bị giết sạch , tướng Khuyên Nhung là Bột- đình và Mãng-tốc đều tử-trận, còn Nhung-chúa trốn ra giãi đất hoang nơi phía Tây mà tạm trú.
Ðất Kỳ-phong sát nhập vào nước Tần, rộng rãi hơn ngàn dặm .
Từ ấy nước Tần trở nên đại-quốc .
Thu nhận đất Kỳ-phong chẳng bao lâu thì Tần tương-công mất, con là Tần văn-công lên kế vị .
Một hôm, Văn-công nằm mộng, thấy một con trăn lớn, từ trên trời sa xuống, trong giây phút lại hóa ra một đứa bé kêu Văn công nói :
– Ta là con trời sai xuống báo cho nhà ngươi được biết : Nhà ngươi sẽ làm Bạch- đế giữ nghiệp nơi phía Tây.
Nói rồi biến mất.
Văn-công đem việc ấy hỏi Thái-sử Ðôn.
Quan Thái-sử tâu :
– Sắc bạch là sắc của phía Tây. Ấy là điềm trời cho Chúa-công làm chủ khắp phương Tây đó. Vậy phải tạ ơn trời đất.
Văn-công bèn lập miễu nơi Phu-ấp mà thờ, lại giết con trâu trắng để tế.
Kế đó, có người ở xứ Trần-thương săn được một con thú, hình thù giống heo, nhưng lông cứng mà nhọn, đánh không chết. Họ không biết con gì, bèn đem dâng cho Văn-công. Nhưng, khi đi đến nữa đường thì gặp hai đứa trẻ chỉ con vật ấy nói : Con thú này tên con Vị , thường ở dưới đất , hay ăn óc người chết. Hễ đánh nhắm óc nó thì nó chết.
Con vật liền đáp rằng :
– Hai đứa con nít này là Trĩ-tinh hiện lên . Hễ bắt đặng con trống thì làm Vương, bặt đặng con mái thì làm Bá.
Hai đứa trẻ nghe con vật nói, liền biến mất.
Con thú cũng biến theo.
Người đi săn kinh hãi, lật đật báo cho Văn-công haỵ
Văn-Công liền lập miễu nơi núi Trần-thương để thờ Trĩ-tinh.
Thuở ấy tại núi Chung-nam có cây Tử lớn, Văn-công muốn đốn về xây cất cung- điện, nhưng cưa không đứt, búa chặt không vộ Ai nấy lấy làm lạ.
Một đêm kia, có người nằm ngủ dưới gốc cây nghe một bầy quỷ đến chúc mừng cây ấy.
Lại có tiếng hỏi :
– Nếu Tần-vương khiến người bỏ tóc xõa, và lấy chỉ đỏ quấn xung quanh thân cây thì liệu làm sao? Sáng hôm sau người ấy đem câu chuyện báo lại cùng Văn công .
Văn-công khiến người làm y như vậy.
Quả thật, thân cây bị cưa ngã. Nhưng cây vừa ngã xuống thì một con trâu xanh ở trong thân xông xa, chạy thẳng xuống sông Ung-thủy. Từ đó, dân chúng thỉnh thoảng lại thấy trâu xanh hiện lên.
Văn-công sai kỵ-sĩ đón đánh nhưng trâu xanh quá mạnh, không làm sao đánh nổi.
Kỵ-sĩ bèn bỏ tóc xõa mà đánh, trâu xanh mới chịu chạy xuống nước.
Văn-công bèn chế ra cờ ngũ-sắc để nơi quan-trung, lại lập miễu mà tế vị thần trâu ấy.
Lúc bấy giờ, vua Huệ-công nước Lỗ nghe nước Tần tế-lễ trời, bèn sai Thái-tế Nhượng đến xin vua Bình-vương cho phép mình được tế giao và tế lễ.
Bình-vương không chọ
Huệ-công nói :
– Tổ ta là Châu-công, có công lớn với nhà vua, vả lại lễ nhạc do tổ ta bày chế, nay con cháu dùng thì có hại chị Hơn nữa, Thiên-tử đã không cấm nước Tần sao lại cấm nước Lỗ
Bèn không kể đến mạng vua, cứ tế giao, tế lễ như nhà vua vậy.
Vua Bình-vương biết việc ấy nhưng không dám nói.
Từ đấy nhà Châu ngày một suy yếu. Các nước chư-hầu chuyên quyền, xâm bờ lấn bờ cõi nhau, gây rối rắm trong khắp thiên-hạ.
Nói về Trịnh Thế-tử là Quật- đột, từ khi cha chết, lên kế-vị, tự xưng hiệu là Trịnh võ-công.
Nhân khi nhà Châu suy-yếu, chiếm cả đất Quốc và đất Khoái, làm thành một nước lớn.
Trịnh-võ-công và Vệ võ-công đều kiêm chức khanh-sỉ tại triều nhà Châu.
Qua năm Bình vương thứ mười ba, Vệ võ-công thất-lộc, còn một mình Trịnh võ-công bình-chánh, lúc thì về nước Trịnh, lúc lại ở nơi triều Châu.
Vợ Trịnh võ-công là Khương-thị sanh đang hai trai, con lớn đặt tên Ngộ-sanh, con thứ đặt tên là Ðoạn.
Ngộ sanh vì lúc nhỏ bị đẻ ngược nên Khương-thị không ưa, còn Ðoạn thì hình dung tuấn-tú mặt mũi khôi-ngô, lại có sức khỏe lạ thường, nên được Khương-thị yêu-mến lắm.
Một hôm, Khương-thị ngỏ ý với chồng :
– Nếu Ðoạn mà được nối ngôi Chúa-công sau này thì hơn Ngộ-sanh gấp bội.
Trịnh võ-công nói ;
– Lớn nhỏ đều có thứ bậc, chẳng nên xáo trộn luân thường. Vả chăng Ngộ-sanh có lầm lỗi gì mà lại bỏ chánh lập thứ ?
Bèn phong Ngộ-sanh làm Thế-tử, còn Ðoạn thì phong một chỗ nhỏ ở Cung-thành nên gọi là Cung thúc- đoạn.
Việc ấy làm cho Khương-thị không vui.
Sau đó, Võ-công qua đời Ngộ-sanh lên tức vị, xưng hiệu là Trịnh trang-công, rồi cũng thế chức cha mà làm Khanh-sĩ nơi triều nhà Châu.
Khương-thị phu-nhân thấy Cung-thúc- đoạn chẳng có quyền chi, lòng buồn bã, nói với Trịnh trang-công :
– Con nối nghiệp cha, làm chủ nước Trịnh, đất rộng mấy trăm dặm ngoài mà lại để cho em một chỗ đất nhỏ mọn vậy mà đành lòng sao?
Trang công thưa :
– ý mẫu-hậu dạy thế nào, xin cho con biết.
Khương-thị phu-nhân nói :
– Nếu quả con thương tình ruột thịt thì việc gì mà không lấy đất Chế-ấp phong cho em.
Trang-công thưa :
– Chế-ấp là nơi hiểm- địa, Tiên-vương đã có lời di-chúc, không nên đem phong cho ai, trừ chỗ ấy ra mẫu-hậu muốn chỗ nào con cũng xin vâng lời.
Khương-thị phu nhân nói :
– Nếu vậy thì phong cho Ðoạn đất Kinh-thành.
Trang-công làm thinh, không nói :
– Nếu không bằng lòng thì tốt hơn con nên đuổi em con ra khỏi nước để kiếm cách dung-thân.
Trang-công bùi-ngùi, nhìn mẹ nói :
– Thưa mẫu-hậu, con đâu dám làm thế .
Ngày hôm sau Trịnh trang-công cho đòi Cung-thúc vào triều phong đất Kinh-thành.
Quan Ðại-phu Tề-Túc can rằng :
– Tâu Chúa-công, Kinh-thành đất rộng dân đông chẳng kém gì Vinhđương, nếu phong cho Cung-thúc- đoạn ắt sanh hậu hoạn !
Trịnh trang-công nói :
– Lịnh của mẹ ta, lẽ nào ta dám cãi.
Bèn phong cho Cung-thúc nước Kinh-thành.
Cung-thức bái lĩnh rồi lui ra, vào cung từ biệt Khương-thị .
– Anh con không nghĩ tình cốt nhục bạc đãi con đã lâu. Hôm nay sởđĩ con được phong đất Kinh-thành là nhờ có mẹ nài nỉ lắm mới được. Nay con đến Kinh-thành phải thao luyện binh mã dự bị cho sẵn, lúc nào có cơ-hội, mẹ sẽ tin con hay, kéo binh về mà lấy Trịnh. Mẹ làm nội-ứng thì cái ngôi của Ngộ-sanh sẽ về tay con không khó !
Cung-thúc lãnh mạng, từ tạ qua Kinh-thành.
Từ ấy người ta gọi Ðoạn là Thái-thúc Kinh-thành
Thái-thúc lại đòi hai quan Tể, trần ở hai vùng Tây bỉ và Bắc bi đến dụ rằng :
– Ðất của hai ngươi chưởng-quản, nay đã thuộc về đất phong của ta rồi, vậy từ nay thuế-vụ phải đem đến đây mà nạp, còn việc binh tình phải nghe lệnh ta điều khiển.
Hai quan Tế thầy Thái-thúc là con cưng của Quốc-mẫu, nên không dám cãi lịnh.
Thái-thức lại thường giả cách đi săn để luyện tập binh-sĩ, gồm thâu cả binh của Tây bỉ và Bắc bỉ, rồi lại cướp luôn cả đất Yên và đất Lâm-giêng .
Quan Tể hai xứ này thấy rõ hành động bội phản , lén về triều tâu cùng Trịnh-trang-công haỵ
Trịnh-trang-công nghe tâu, mỉm cười, làm thinh không nói gì cả .
Bỗng có người bước ra, nói lớn :
– Tâu Chúa-công, tội của Ðoạn đáng chém đầu, sao Chúa-công nỡ ngồi yên ?
Trịnh-trang-công xem lại, người vừa nói đó là Công-tử Lữ, liệu là Tử-phong, làm chức Thượng-khanh, bèn hỏi rằng :
– Khanh có ý kiến gì hay chăng ?
Công-tử Lữ tâu :
– Thái-thúc- đoạn ỷ trong có quốc-mẫu yêu vì, ngoài cậy có đất Kinh-thành là nơi hiểm-yếu, luyện tập binh mã, mưu chiếm đoạt nước Trịnh. Xin Chúa-công cho tôi đem quân đến đó bắt Ðoạn đem về trị tội.
Trịnh-trang-công suy nghĩ một lúc, rồi nói :
– Thái-thúc tuy vô- đạo, song tội lỗi chưa rõ rệt. Nếu giết nó không khỏi đau lòng mẹ tạ Hơn nữa, trong tình ruột thịt, ta sẽ bị người ngoài dị nghị là bất nghĩa, bất hiếu.
Công-tử Lữ cúi đầu tâu :
– Tâu Chúa-công, nếu trọng tình ruột thịt mà không quyết đoán được quốc-sự e không tránh khỏi tai họa.
Trịnh-trang-công nói :
– Nếu Thái-thúc cố-ý bội phản, thì thế nào mỗi ngày sẽ mỗi lộng hành thêm. Chừng ấy tội lỗi đã rõ ràng nếu trừng trị cách nào mẹ ta cũng không nói gì đặng.
Công-tử Lữ bùi ngùi, tâu :
– Kiến thức của Chúa-công rất xa, tôi không thế nào sánh kịp. Song chỉ e thế lực của Thái-thúc mỗi ngày một to khó mà trừ được.
Trịnh-trang-công hỏi :
– Thế thì bây giờ phải làm thế nào để mẹ ta khỏi oán trách ta là vô đạo
Công-tử Lữ tâu ;
– Ðã lâu Chúa-công không vào triều nhà Châu ấy bởi Chúa-công lo việc Thái-thúc. Nay phải giả cách vào chầu vua Châu để cho Thái-Thúc tưởng Kinh- đô bỏ vắng, tất đem binh đến đây chiếm đoạt. Tôi xin đem quân phục sẳn ở đất Kinh-thành, đợi Thái-Thúc cử quân đi, lén vào chiếm giữ. Còn Chúa-công cũng đem một đạo quân theo đường tắt mà đánh ập lại, thì Thái-thúc dù có cánh bay lên trời cũng không trốn thoát.
Trịnh-trang-công nói :
– Kế ấy rất hay, song chớ nên tiết lậu ra ngoài.
Công-tử Lữ bái tạ lui ra.
Ngày thứ Trịnh-trang-công thăng điện, nói dối rằng mình bận sang chầu vua Châu, giao việc triều chính cho Tề-Túc . Khương-thị hay đặng tin ấy cả mừng, viết mật thư sai người tâm-phúc đem đến Kinh-thành trao cho Thái-thúc. Trong thư ước hẹn nội trong sơ tuần tháng năm phải hưng binh về lấy nước Trịnh.
Lúc đó vào hạ tuần tháng tư, Công-tử Lữ đã sai người phục nơi yếu lộ, nên bắt được người đem thư ấy.
Công-tử Lữ bèn giết quách, rồi mang thư đem về dâng cho Trịnh-trang-công.
Trịnh-trang-công rất đau lòng, nhưng không thể vì tình máu mủ mà dung kẻ phản nghịch, bèn phong bức thư ấy lại như cũ, rồi sai người tâm phúc của mình đem đến Kinh-thành giao cho Thái-thúc .
Ðược thư, Thái-thúc phúc đáp hẹn ngày mồng năm tháng năm động binh và dặn Khương-thị đến ngày đó phải dựng một cây bạch kỳ trong thành để biết chỗ tiếp-ứng.
Trịnh-trang-công xem thư phúc- đáp, nghĩ thầm :
– Thế này thì mẹ đừng trách con là vô đạo.
Ðoạn vào từ biệt Khương-thị, dối rằng mình đi qua Châu, rồi kéo binh ra khỏi thành đến đóng nơi Lâm-giêng.
Công-tử Lữ cũng lén đem hai trăm cỗ xe chiến qua phục gần Kinh-thành.
Thúc- đoạn, từ khi tiếp được thư đó liền sai con là Công-tôn-hoạt qua nước Vệ mượn binh, rồi lấy cớ trở về Kinh- đô để coi việc quốc chính, mà kéo quân ra đi.
Công-tử Lữ sai người thám thính, hay tin Thúc- đoạn đi rồi bèn kéo quân vào thành, nồi lửa lên làm hiệu, chiêu tập bá tánh kể rõ tội mưu-phản của Thúc- đoạn. Do đó cả thành bá tánh đều oán ghét Thúc- đoạn vô cùng.
Còn Thúc- đoạn kéo quân ra đi chưa đầy nữa buổi, thấy Kinh-thành lửa bốc nghịt trời, biết là có biến, vội đem quân trở về cứu viện .
Về đến nơi, thầy Kinh-thành bị chiếm, lòng đầy căm tức, xua quân vây thành công phá.
Chẳng ngờ, Trịnh-trang-công lại kéo quân đến đánh, làm cho Thúc- đoạn không biết đường nào mà chạy, túng thế phải kéo binh đến đất Cung là chỗ được phong trước kia để cố-thủ.
Trịnh-trang-công dẫn binh đến phá thành .
Cung thành chỉ là một ấp nhỏ, làm sao cự lại binh triều, chẳng bao lâu thành bị phá.
Thúc- đoạn thấy thế đã cùng, ngữa mặt lên trời than rằng :
– Mẹ ta đã gạt ta, ta còn mặt mũi nào thấy anh ta nữa.
Nói rồi rút gươm tự vận.
Trịnh-trang-công vào thành ôm thây Thúc- đoạn khóc rống lên một hồi, nói :
– Bởi em làm lếu nên tình huynh đệ phải chia lìa.
Nói rồi lục trong mình Thúc- đoạn thấy phong thư của Khương-thị gởi hãy còn, bèn lấy gói chung với bức thư trả lời của Thúc- đoạn, rồi sai người đem về kinh- đô giao cho Tề-túc trình lại cho Khương-thị.
Trịnh-trang-công lại còn ra lệnh đưa Khương-thị sang đất Dĩnh mà tá túc, và thề rằng :
– Nếu không phải chốn cửu tuyền chẳng bao giờ còn thấy mặt nhau nữa.
Phong thư về đến kinh- đô, Khương-thị mở ra xem, lòng thẹn thùng khôn xiết, liệu mình chẳng còn mặt mũi nào thấy mặt Trịnh-trang-công nữa, bèn lìa khỏi cung môn, ra nơi đất Dĩnh.
Trịnh-trang-công trở về cung, không thấy mẹ, lòng buồn bã nghĩ thầm :
– Ta đã ép lòng mà để em chết, nay còn nỡ nào lìa mẹ sao đành ! Nhưng đã trót lời thề, biết liệu sao !
Quan trấn Dĩnh-ấp là Dĩnh-khảo-thúc là một người chí-hiếu, nghe tin Trịnh-trang-công đem mẹ đi an trí, lòng bất mãn, nói với người rằng :
– Dù mẹ có tội lỗi đến đâu, con cũng không nên bất hiếu. Chúa-công làm như thế thật là trái đạo !
Bèn nghĩ ra một kế, bắt mấy con chim cú đem vào dâng cho Trịnh-trang-công.
Trịnh-trang-công hỏi là chim gì ?
Khảo-thúc tâu :
– Tâu Chúa-công, đây là giống chim cú. Giống chim này ban ngày dẫu một vật lớn như trái núi vẫn không trông thấy, còn ban đêm dầu vật nhỏ bằng sợi tóc cũng thấy rõ. Thật là một giống vật chỉ thấy được sự nhỏ mà không thấy được sự lớn. Hơn nữa, lúc còn nhỏ chim mẹ kiếm mồi cho ăn, lúc lớn lên nó không biết gì đến chim mẹ nữa, tlật là giống chim bất hiếu, nên bắt nó mà ăn thịt.
Trịnh-trang-công nghe nói, ngồi lặng thinh.
Chợt lúc đó có người đem thịt dê lại dâng cho vua nhắm rượu.
Trịnh-trang-công cắt một miếng ban cho Khảo-thúc.
Khảo-thúc liền chọn những nơi ngon cắt gói lại một gói, cất vào túi áo.
Trịnh-trang-công lấy làm lạ hỏi :
– Khanh để dành chi vậy?
Khảo-thúc tâu :
– Tâu Chúa-công, mẹ tôi đã già mà trong nhà lại nghèo khó , ít bao giờ được ăn miếng ngon vật lạ. Nay được Chúa công ban thưởng, nếu không dành cho mẹ tôi thì tôi không làm sao yên lòng được .
Trịnh-trang-công nói :
– Ngươi thật là một người con chí hiếu. Tiếc rằng trẫm không thể bằng ngươi được.
Khảo-thúc giả bộ ngơ ngác, hỏi :
– Quốc-mẫu vẫn được mạnh giỏi cớ sao Chúa-công lại tỏ ý buồn bã ?
Trịnh-trang-công đem câu chuyện Thúc- đoạn bội phản, và đày Khương-thị ra đất Dĩnh, nay hối hận, nhưng mắc phải lời thề không làm sao trông thấy mặt mẹ.
Khảo-thúc nghe xong, buồn bả tâu :
– Thúc- đoạn đã mất, tình cốt nhục chia lìa, nay chỉ còn Quốc-mẫu mà Chúa-công lại bộ bể phụng dưỡng e lỗi đạo làm con Nếu Bệ-hạ đã lỡ lời thề, tôi xin dâng kế , có thể trông thấy mặt mẹ mà khỏi phạm lời thề đó.
Trịnh-trang-công mừng rỡ hỏi :
– Người có kế gì hãy giúp trẫm.
Khảo-thúc tâu :
– Chúa-công truyền đào đất đến tận thạch, rồi làm một cái nhà dưới hầm mà rước Quồc-mẫu đến đó. Chúa-công coi như đó là chốn suối vàng . Hai mẹ con sẽ cởi mở được nỗi lòng nhớ nhung trắc tị mà không trái lời thề.
Trịnh-trang-công y tâu, bèn sai Khảo-thúc đem năm trăm tráng dân khoẻ mạnh đến Khúc-vĩ; đào một cái hầm, dưới núi Ngưu-tì, sâu hơn sáu mươi trượng, làm một ngôi nhà gác trên mặt suối và đặt thang dài.
Khảo-thúc bái mạng, trước tiên trở về đất Dĩnh yết kiến Khương-thị, nói rõ lòng hối hận của Trịnh-trang-công, muốn rước Quốc-mẫu về phụngđưỡng, sau đó, mới đến Ngưu-tì lo việc đào suối.
Chẳng bao lâu công việc hoàn thành. Khảo-thúc liền đưa Khương-thị đến Ngưu-tì và viết biểu dâng cho Trịnh-trang-công haỵ
Trịnh-trang-công đến nơi thấy mẹ, vội sụp lạy, nói :
– Ngộ-sanh này bất hiếu, xin mẫu-hậu dung thạ
Khương-thị buồn vui lẫn lộn, ứa nước mắt, nói :
– Ðó là lỗi của mẹ con đâu có tội gì .
Nói xong, đỡ Trịnh-trang-công dậy.
Hai mẹ con ôm nhau khóc sướt mướt.
Trịnh-trang-công cõng mẹ lên thang rồi đưa về cung.
Người nước Trịnh trông thấy, ai nay chấp tay lên trán, khen vua là người chí hiếu.
Ấy cũng nhờ có Dĩnh Khảo-thúc mà mẹ con Trịnh trang-công mới đoàn tụ được.
Trịnh-trang-công cảm ơn Khảo-thúc , phong cho Khảo-thúc làm đến chức Ðại-phu, hợp với Công-tôn-yết mà chưởng-quản việc binh quyền.
Về sau Phan tiên-sinh có thơ khen Khảo-thúc như vầy :
Nhắc lại con trai Thúc đoạn là Công-tôn-hoạt đi viện binh nước Vệ về đến nữa đường, hay được tin cha mình bị giết, bèn trở lại nước Vệ khóc với Huệ-hoàn-công, tỏ bày việc Trịnh-trang-công giết em, đày mẹ.
Vệ-hoàn-công nghe nói cả giận, trách Trịnh-trang-công là vô đạo bèn hưng binh đánh nước Trịnh.
Trịnh-trang-công hay được tin bèn hội quần thần mà thương nghị.
Công-tử Lữ tâu :
– Nhổ cỏ không tận rễ, thường bị nảy chồi. Công-tôn Hoạt đã trốn thoát lại còn đem binh nước Vệ về đánh ấy là vì Vệ-Hầu không rõ hành vi của Thúc đoạn, nên mới giúp Công-tôn Hoạt đó. Xin Chúa-công viết thư gởi cho Vệ-hầu kể rõ cớ sự, ắt Vệ-hầu phải kéo binh về.
Trịnh trang-công khen phải, vội viết thư sai sứ đem qua nước Vệ.
Tiếp được thư, Vệ-hoàn-công mở ra xem.
Thư rằng :
Ngộ-sanh kính dâng Vệ-hiền hầu nhã giám.
Nhà tôi bất hạnh, anh em sát hại lẫn nhau, thật lấy làm xấu hổ với lân quốc. Nhưng xét kỷ, em tôi là đoạn đã lợi dụng lòng hiếu hữu của tôi mà sanh điều phản phúc. Tôi vì sự nghiệp tiền-nhân, buộc lòng phải chịu cảnh cốt nhục tương tàn. Mẹ tôi vì quá thương Đoạn, nên phải tránh ra Dĩnh-ấp, nay tôi đã cho người rước về phụng dưỡng , lẽ ra Công-tôn Hoạt phải biết tội cha, đem mình sửa lỗi , lại chạy sang quý quốc viện binh mà phản-loạn. Hiền-hầu không tỏ nên giúp kẻ tôi loàn. Xét mình chẳng có tội chi, xin Hiền-hầu chớ nghe lời Công-tôn Hoạt khiến hai nước bất hòa, sanh việc binh đao , thì thật tôi lấy làm may-mắn !
Vệ-hoàn-công xem thư xong, giật mình nói :
– Thúc đoạn bất nghĩa, gây nên tai họa. Nay ta lại nghe lời giúp Công-tôn Hoạt hóa ra ta giúp kẻ nghịch sao !
Nói rồi lập tức sai người đi rút quân về.
Nhưng lúc đó Công-tôn Hoạt đã đánh chiếm được đất Lâm-giêng.
Trịnh trang-công nổi giận khiên Cao-CừĐi đem ba vạn binh rồng đến đánh.
Công-tôn Hoạt cô thế lại phải chạy trở lại nước Vệ.
Công-tử Lữ thừa thắng đuổi theo đến tận biên-giới nước Vệ.
Vệ-hoàn-công thấy thế đem lòng lo lắng, bèn họp quần thần lại thương nghị.
Công-tử Chu-hu bàn rằng :
– Nước tràn thì lấy đất ngăn, giặc đến thì lầy quân chống , xưa nay đã vậy, lựa phải bàn bạc làm chi ?
Quan Đại-phu Thạch-thác tâu :
– Tâu Chúa-công. sỡ dĩ quân Trịnh đến đây là vì ta giúp cho Công-tôn Hoạt đánh Trịnh. Nay Chúa-công không có ý giúp Công-tôn Hoạt nữa thì chỉ cần biên thư phúc đáp mà xin lỗi, quân Trịnh ắt rút về.
Hoàn-công nước Vệ, xin phúc đáp Trịnh Hiền-hầu nhã giám.
Tôi quá nghe lời Công-tôn Hoạt, ngỡ Hiền-hầu vô đạo, giết em, giam mẹ nên mới cất quân giúp Hoạt.
Nay được rõ tội ác của Thúc đoạn lòng hối-hận vô cùng, tôi đã rút quân về nước. Nếu Hiền-hầu rộng xét, tôi xin bắt Công-tôn-Hoạt đưa về Trịnh để hai nước được giao hảo như xưa.
Thư xong, sai người đem đến dâng cho Trịnh trang-công..
Trịnh trang-công đọc thơ mừng rỡ, nói :
– Vệ-hầu đã biết lỗi ta chớ nên sanh-sự nữa.
Bèn sai người ra biên-ải, bảo Công-tử Lữ rút binh về.
Khương-thị nghe tin, sợ Trịnh trang-công giết Công-tôn-Hoạt, bèn đến năn-nỉ với Trịnh trang-công tha-tội cho Hoạt.
Trang-công nễ lời mẹ, và thấy Hoạt bị cô thế, không làm gì nổi nữa, nên viết thư cho phép Công-tôn-Hoạt ở ngay bên nước Vệ để coi việc phụng thờ Đoạn.
Từ ấy Công-tôn-Hoạt ở bên nước Vệ cho đến trọn đời.
Nói về Châu-bình-vương đã lâu không thấy Trịnh trang-công về triều, nhân lúc Quách-Công là Kỵ-phù đến chầu, lại nói năng lưu-loát lấy làm vừa ý phán rằng :
– Bấy lâu cha con Trịnh-bá bỉnh-chánh, nay chẳng biết ý gì không thấy về triều. Vậy trẫm có ý muốn trao chức Khanh-sĩ cho khanh để lo việc nước, ý khanh thế nào ?
Quách-Công quỳ tâu :
– Trịnh trang-công không đến, ắt trong nước có việc. Nếu Bệ-hạ dạy hạ-thần quyền thế, Trịnh trang-công không những oán Bệ-hạ mà còn oán hạ-thần nữa. Hạ thần chẳng dám vưng mạng.
Châu bình-vương ép uổng , nhưng Quách-công nhứt thiết chối từ và xin về nước.
Trịnh trang-công tuy không qua triều Châu, song vẫn có người ở kinh-sư dò la tin tức. Mỗi việc gì xảy ra , Trịnh trang-công đều hay biết.
Bởi vậy, khi nghe được tin, Trịnh-trang-công lập tức sửa sang xe giá đến Lạc dương ra mắt Bình-vương, và tâu rằng :
– Hạ thần đội ơn Bệ-hạ, cha truyền con nối, giữ chức Khanh-sĩ lo việc quốc-chánh, nay hạ thần xét mình bắt tài, muốn từ chức lui về Trịnh, giữ phận chư-hầu.
Bình-vương nói :
– Đã lâu khanh không vào triều, lòng trẫm trông mong. Nay được gặp khanh chẳng khác cá gặp nước, sao khanh lại nói thế ?
Trịnh trang-công tâu :
– Vì trong nước không may gặp biến, nên bỏ việc đã lâu. Hạ-thần lại được nghe Bệ-hạ có ý phú việc quốc chánh cho Quách-công. Hạ-thần trộm nghĩ tài đức hạ-thần không sánh Quách-công, nếu giữ lấy chức vị, e mang tội với Bệ-hạ.
– Trẫm nghe nước Trịnh sanh biến, nên nhờ Quách-công bỉnh-chánh vài hôm để chờ khanh đến. Nhưng Quách-công từ chối mãi, vả trẫm cũng đã cho về nước. Khanh chờ nghi ngờ.
Trịnh trang-công tâu :
– Tâu Bệ-hạ, việc nước là của nhà vua không phải việc riêng của kẻ hạ-thần thì quyền xử dụng cũng do nhà vua định đoạt. Nay Quách-công có đủ tài năng giúp nước, xin Bệ-hạ cứ dùng. Hạ thần sẽ từ chức để khỏi mang tiếng tham quyền cố vị.
– Trẫm trao việc nước cho cha con khanh chắp-chưởng đã bốn mươi năm, lẽ ra tình vua tôi không đến nỗi vì chuyện nhỏ mọn đó mà tổn thương. Khanh cứ nghi nan, trẫm biết làm sao giải nỗi lòng của trẫm.
Trịnh trang-công lòng chưa hả giận, tâu :
– Tâu Bệ-hạ, nhậm chức hay từ chức đó là bổn phận của hạ-thần. Hạ-thần tự xét mình trước nhiệm vụ chứ đâu dám khinh mạng.
Bình-vương nói :
– Muốn cho khanh được thấy lòng quý mến của trẫm, trẫm sẽ cho Thái-tử Hổ sang ở bên nước Trịnh làm con tin.
Trịnh trang-công nghe nói, vập đầu tâu :
– Tâu Bệ hạ, xin Bệ-hạ đừng dạy như thế mà hạ thần phải mang tiếng hiếp vua.
Bình-vương nói :
– Không phải thế ! Vì khanh có tài chính-trị, trẫm muốn cho Thái-tử sang đó du học để hấp-thụ những phong-hóa tốt lành của nước Trịnh. Nếu khanh từ chối thì quả lòng khanh đã hờn trẫm đó.
Trịnh trang-công nhất định chối từ, quần thần thấy thế quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, nếu Bệ-hạ không để con tin thì chẳng lấy gì để giải mối nghi ngờ của Trịnh Bá, còn Trinh-bá nhận con tin thì trái đạo vua tôi. Chi bằng hai bên cùng giao con với nhau thì tránh được nghi ngờ, mà tiếng tăm cũng trọn vẹn.
Bình-vương khen phải.
Trịnh trang-công mới sai Thế-tử Hốt đến ở làm con tin nhà Châu, còn Thái-tử Hổ nhà Châu thì lại sang nước Trịnh.
Được ít lâu Bình-vương băng hà.
Trịnh trang-công và Châu-công Hắc-kiên cùng coi việc nước, bèn cho Thế-tử Hốt về Trịnh, và rước Thái-tử Hổ về Châu kế vị.
Thái-tử Hổ nghe vua cha mất, trong lòng phiền nảo, tự nghĩ mình không được ở nhà hầu hạ thuốc men trong lúc lâm chung nên về đền triều phát bịnh nặng rồi tạ thế.
Con Thái-tử Hổ là Lâm lên nối ngôi tức là Châu hoàn-vương.
Các nước chư-hầu hay tin đều tựu đến chịu tang và làm lễ chúc mừng tân vương.
Quách-công Kỵ-Phủ đến trước, lo việc lễ bộ, đâu đó rất đàng hoàng khiến cho mọi người phải khâm phục.
Hoàn-vương lên ngôi, nghĩ đến việc cha mình làm con tin buồn bã mà chết, lại thấy Trịnh trang-công gánh vác việc nước, trong lòng nghi hoặc, mới kêu Châu-công Hắc-kiên đến hỏi rằng :
– Trịnh trang-công bắt nhà Châu gởi con tin thật có ý khinh vua , lòng trẫm áy náy không yên , nếu để va bỉnh-chánh lâu ngày ắt sanh họa. Nay trẫm có ý giao quyền lại cho Quách-Công Kỵ-Phủ là người rất lễ độ ý khanh thế nào.
Châu-công Hắc-kiên tâu :
– Trịnh trang-công là người hà-khắc, ít ra ơn, chẳng phải tôi trung, lẻ ra không nên dụng. Ngặt vì nhà Châu từ lúc dời đô qua Lạc-ấp công lao nước Tần và nước Trịnh rất lớn, nay tước bỏ quyền của Trịnh, tôi e Trịnh-bá đem lòng giận ắt sanh điều rối nước, xin Bệ-hạ nên xét kỹ đã.
Hoàn-vương nói :
– Ý trẫm đã tuyệt không thể ngồi ngó Trịnh-bá chuyên chế được.
– Khanh là cựu thần của Tiên-vương, trẫm không dám ép buộc theo quần-liêu mà làm nhọc lòng khanh. Vậy khanh chớ cho trẫm bất nghĩa.
Trịnh trang-công vừa cười, vừa tâu :
– Nghĩa là Bệ-Hạ bảo tôi trả chức mà về nước ?
Đoạn bước ra ngoài, nét mặt hằm hằm nói với mọi người :
– Vua trẻ con này bội-bạc lắm, không thể giúp đặng !
Nói xong, lên xe trở về nước Trịnh.
Thế-tử Hốt đem các quan ra tận biên thùy tiếp đón.
Trịnh trang-công kể công việc vua Hoàn-vương bạc đãi.
– Đã lâu khanh không vào triều, lòng trẫm trông mong. Nay được gặp khanh chẳng khác cá gặp nước, sao khanh lại nói thế ?
Trịnh trang-công tâu :
– Vì trong nước không may gặp biến, nên bỏ việc đã lâu. Hạ-thần lại được nghe Bệ-hạ có ý phú việc quốc chánh cho Quách-công. Hạ-thần trộm nghĩ tài đức hạ-thần không sánh Quách-công, nếu giữ lấy chức vị, e mang tội với Bệ-hạ.
– Trẫm nghe nước Trịnh sanh biến, nên nhờ Quách-công bỉnh-chánh vài hôm để chờ khanh đến. Nhưng Quách-công từ chối mãi, vả trẫm cũng đã cho về nước. Khanh chờ nghi ngờ.
Trịnh trang-công tâu :
– Tâu Bệ-hạ, việc nước là của nhà vua không phải việc riêng của kẻ hạ-thần thì quyền xử dụng cũng do nhà vua định đoạt. Nay Quách-công có đủ tài năng giúp nước, xin Bệ-hạ cứ dùng. Hạ thần sẽ từ chức để khỏi mang tiếng tham quyền cố vị.
– Trẫm trao việc nước cho cha con khanh chắp-chưởng đã bốn mươi năm, lẽ ra tình vua tôi không đến nỗi vì chuyện nhỏ mọn đó mà tổn thương. Khanh cứ nghi nan, trẫm biết làm sao giải nỗi lòng của trẫm.
Trịnh trang-công lòng chưa hả giận, tâu :
– Tâu Bệ-hạ, nhậm chức hay từ chức đó là bổn phận của hạ-thần. Hạ-thần tự xét mình trước nhiệm vụ chứ đâu dám khinh mạng.
Bình-vương nói :
– Muốn cho khanh được thấy lòng quý mến của trẫm, trẫm sẽ cho Thái-tử Hổ sang ở bên nước Trịnh làm con tin.
Trịnh trang-công nghe nói, vập đầu tâu :
– Tâu Bệ hạ, xin Bệ-hạ đừng dạy như thế mà hạ thần phải mang tiếng hiếp vua.
Bình-vương nói :
– Không phải thế ! Vì khanh có tài chính-trị, trẫm muốn cho Thái-tử sang đó du học để hấp-thụ những phong-hóa tốt lành của nước Trịnh. Nếu khanh từ chối thì quả lòng khanh đã hờn trẫm đó.
Trịnh trang-công nhất định chối từ, quần thần thấy thế quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, nếu Bệ-hạ không để con tin thì chẳng lấy gì để giải mối nghi ngờ của Trịnh Bá, còn Trinh-bá nhận con tin thì trái đạo vua tôi. Chi bằng hai bên cùng giao con với nhau thì tránh được nghi ngờ, mà tiếng tăm cũng trọn vẹn.
Bình-vương khen phải.
Trịnh trang-công mới sai Thế-tử Hốt đến ở làm con tin nhà Châu, còn Thái-tử Hổ nhà Châu thì lại sang nước Trịnh.
Được ít lâu Bình-vương băng hà.
Trịnh trang-công và Châu-công Hắc-kiên cùng coi việc nước, bèn cho Thế-tử Hốt về Trịnh, và rước Thái-tử Hổ về Châu kế vị.
Thái-tử Hổ nghe vua cha mất, trong lòng phiền nảo, tự nghĩ mình không được ở nhà hầu hạ thuốc men trong lúc lâm chung nên về đền triều phát bịnh nặng rồi tạ thế.
Con Thái-tử Hổ là Lâm lên nối ngôi tức là Châu hoàn-vương.
Các nước chư-hầu hay tin đều tựu đến chịu tang và làm lễ chúc mừng tân vương.
Quách-công Kỵ-Phủ đến trước, lo việc lễ bộ, đâu đó rất đàng hoàng khiến cho mọi người phải khâm phục.
Hoàn-vương lên ngôi, nghĩ đến việc cha mình làm con tin buồn bã mà chết, lại thấy Trịnh trang-công gánh vác việc nước, trong lòng nghi hoặc, mới kêu Châu-công Hắc-kiên đến hỏi rằng :
– Trịnh trang-công bắt nhà Châu gởi con tin thật có ý khinh vua , lòng trẫm áy náy không yên , nếu để va bỉnh-chánh lâu ngày ắt sanh họa. Nay trẫm có ý giao quyền lại cho Quách-Công Kỵ-Phủ là người rất lễ độ ý khanh thế nào.
Châu-công Hắc-kiên tâu :
– Trịnh trang-công là người hà-khắc, ít ra ơn, chẳng phải tôi trung, lẻ ra không nên dụng. Ngặt vì nhà Châu từ lúc dời đô qua Lạc-ấp công lao nước Tần và nước Trịnh rất lớn, nay tước bỏ quyền của Trịnh, tôi e Trịnh-bá đem lòng giận ắt sanh điều rối nước, xin Bệ-hạ nên xét kỹ đã.
Hoàn-vương nói :
– Ý trẫm đã tuyệt không thể ngồi ngó Trịnh-bá chuyên chế được.
– Khanh là cựu thần của Tiên-vương, trẫm không dám ép buộc theo quần-liêu mà làm nhọc lòng khanh. Vậy khanh chớ cho trẫm bất nghĩa.
Trịnh trang-công vừa cười, vừa tâu :
– Nghĩa là Bệ-Hạ bảo tôi trả chức mà về nước ?
Đoạn bước ra ngoài, nét mặt hằm hằm nói với mọi người :
– Vua trẻ con này bội-bạc lắm, không thể giúp đặng !
Nói xong, lên xe trở về nước Trịnh.
Thế-tử Hốt đem các quan ra tận biên thùy tiếp đón.
Trịnh trang-công kể công việc vua Hoàn-vương bạc đãi.
– Có lẽ Chúa-công đã không nhớ ngôi vua này ai truyền lại cho Chúa-công chăng ?
Tồng tương-công mỉm cười nói :
– Của Vương-thúc ta là Tống mục-công truyền lại.
Ninh dực nói :
– Từ xưa nay, hễ cha thác thì truyền ngôi lại cho con là lẽ thường. Tống mục-công tuy có lòng tốt, truyền ngôi lại cho Chúa-công, song công-tử Bằng hiện nương ngụ nơi đất Trịnh, lăm le mượn binh nước Trịnh về phục nghiệp. Như thế Chúa-công
làm sao yên được. Nay đánh Trịnh là một cơ-hội tốt để cho Chúa-Công trừ mối hại cho nước Tống sau này.
Tống tương-công lâu nay đã có ý nghi kỵ Công-tử Bằng , nay Ninh dực nói đúng ý, liền nhận lời giúp Vệ đánh Trịnh.
Lúc ấy có quan Đại tư-mã, vốn giòng dõi vua Thang, tên Không-phu-gia thấy Tống tương-công nhận lời giúp Vệ, bèn can rằng :
– Xin Chúa-công chớ nghe lời ngụy-biện của sứ nước Vệ. Nếu bắt tội Trịnh trang-công giết em, bỏ tù mẹ thì Chu-hu giết
anh đoạt ngôi lại không phải tội sao ? Quên tội mình, kết tội kẻ khác, ấy không phải là lời chân chính.
Tuy-nhiên, Tống tương-công vì đã hứa lỡ với NinhĐực, nên chẳng nghe lời can gián, nội ngày ấy hưng binh.
Còn nước Lỗ, Công-tử Vận đã ăn hối lộ của nước Vệ rồi, nên cũng rầm-rộ kéo binh sang. Trần và Sái cũng đều tề-tựu đũ mặt.
Năm nước họp lại cử nước Tống làm Minh-chủ, Thạch-hậu làm Tiên-phuông, Chu-hu đi hậu đạo, chở theo rất nhiều lương thực , lũ lượt kéo qua cửa Đông-thành của nước Trịnh.
Trịnh trang-công hay tin, liền họp các quan đại thần lại bàn bạc.
Trong triều người chủ chiến, kẻ chủ hòa, ý-kiến rộn ràng chưa quyết.
Trịnh trang-công mỉm cười nói :
– Các quan chưa bàn được gì hay. Nhưng cứ theo thiển-kiến của ta thì Chu-hu vừa mới nổi loạn đoạt ngôi anh, dân tình trong nước không phục, nay va mượn oán cũ, cử binh sang đánh nước ta, chỉ cốt để cho dân nước Vệ sợ đó thôi. Công-tử Vận thì vì ham tiền hối-lộ mà cử binh sang đánh chứ không phải ý muốn của Lỗ ân-Công. Trần và Sái thì không có oán cừu gì với nước Trịnh , thế thì bốn nước đó không đáng sợ. Duy chỉ có Tống, ghét Công-tử Bằng trốn tránh trên đất Trịrih, nên thực lòng quyết đánh. Nay ta đưa Công-tử Bằng ra trú nơi đất Trường-các, binh Tống hay tin ắt kéo quân ra đó. Trong lúc ấy, ta khiến Công-tử Lữ dẫn quân ra cửa Đông đánh với Chu-hu, rồi giả thua mà chạy. Chu-hu vốn làm oai, đã đánh thắng tất nhiên kéo quân về chứ không dám ở lâu trên đất Trịnh, sợ trong nước có loạn. Bởi vì hiện nay nước Vệ còn có Thạch-thác là một tôi trung của Vệ hoàn-công, làm sao chịu khoanh tay ngồi ngó Chu-hu phản-phúc được ! Tình trạng Chu-Hu hiện nay lo phận mình chưa đũ , có đâu lại làm hại ta được sao ?
Các quan cận-thần nghe nói đều cho là phải.
Trịnh trang-công liền khiến quan Đại-phu Hà thúc dĩnh đem một đạo quân đưa Công-tử Bằng qua Trường-các , rồi lại sai người đến nói với Tống tương-công rằng :
– Công-tử Bằng trốn sang nước tôi, tôi không nỡ giết, nên bắt đày ra Trường-các , vậy xin Chúa-công định đoạt.
Tống tương-công hay được tin lập tức kéo đại binh ra vây nơi Trường-các.
Ba nước Trần, Sái và Lỗ thấy binh Tống đi rồi, có ý chán nản muốn rút binh về, nên lúc nghe Công-tử Lữ đem quân đánh Vệ Ở cửa Đông cũng không buồn tiếp ứng.
Thạch-hậu ra lịnh đánh với Công-tử Lữ chưa đặng vài hiệp, Công-tử Lữ đã bỏ chạy.
Thạch-hậu thừa thế rượt theo đến cửa phía Tây, thì Công-tử Lữ đã kéo binh vào thành đóng chặt cửa lại, không ra đánh nữa.
Thấy vậy, Thạch-hậu cho quân sĩ gặt hết lúa mạch ở ngoài thành, rồi ra lịnh ban sư.
Chư tướng không rõ ý gì, kéo đến hỏi Chu-hu :
– Binh ta thắng trận, lẽ ra phải thừa thế mà tấn công, sao lại lui binh ?
Chu-Hu nghe nói, đem lòng nghi ngờ, đòi Thạch-Hậu đến chất vấn.
Thạch-hậu đuổi hết kẻ tả hữu ra ngoài, rồi nói với Chu-hu :
– Binh Trịnh vốn đã mạnh, mà Trịnh trang-công lại là Khanh-sĩ bên triều Châu. Quân ta đánh thắng một trận, danh vang trong thiên-hạ, ấy là đã đạt được mục đích rồi. Nay Chúa-công mới lên ngôi, việc nước chưa định, nếu ở ngoài lâu ngày e trong nước có biến.
Chu-hu nghe nói, như sực tĩnh ,vội vã đáp :
– Lời ngươi luận rất phải lẽ. Nếu không có ngươi thực ta chưa nghĩ đến.
Kế đó ba nước Trần, Sái, Lỗ đều đến chúc mừng Chu-hu thắng trận.
Chu-hu xin các nước ban-sư, ai rút quân về nước naỵ Kể từ ngày hưng binh đến ngày lui bình chỉ có năm ngày.
Thạch-hậu đắc thắng lòng hiu hiu tự đắc trương cờ, gióng trống, rầm rộ trở về.
Chu-hu hỏi :
– Người trong nước chưa chịu phục thì phải làm thế nào?
Thạch-hậu nói :
– Muốn cho dân phục thì bắt những kẻ được dân tin tưởng phục mình. Cha tôi trước kia làm Thượng-khanh, ai cũng mến đức
, nay xin Chúa-công triệu cha tôi vào dự việc quốc chính, thì ngôi báu ắt vững.
Cbu-hu nghe theo lời, khiến người đem một cặp bạch-bích, và năm trăm hộc gạo trắng đến cầu Thạch-thác vào chầu nghị việc.
Thạch-thác giả đau, từ chối không nhận.
Chu-hu hỏi Thạch-hậu :
– Cha của khanh không chịu vào chầu, ý ta muốn đến đó để hỏi kế, có nên chăng ?
Thạch-hậu tâu :
– Chúa-công đến đó vị tất đã được gặp mặt. Để tôi lấy lệnh vua mà triệu người đến thì hơn.
Nói rồi trở về nhà, vào tỏ với Thạch-thác nỗi lòng kính mến của Chu-hu.
Thạch-thác hỏi :
– Tân-quân muốn triệu cha vào triều làm chi?
Thạch-hậu thưa :
– Vì lòng dân trong nước chưa phục Tân-quân sợ ngôi báu không vững nên muốn nhờ phụ-thân chỉ-giáo.
Thạch-thác nói :
– Mỗi chư-hầu lên ngôi phải có mạng vua mới chánh đáng. Nay nếu Tân-quân muốn được mọi người tùng-phục thì phải vào chầu vua nhà Châu. Khi vua nhà Châu chấp thuận, ban áo mũ , thì người trong nước sẽ vâng mạng.
Thạch Hậu nói :
Lời phụ-thân dạy rất phải. Song vô cớ vào chầu nhà Châu e bị nghi ngờ. Vậy phải có người đến đó tâu trình trước thì mới xong.
Thạch-thác nói :
– Việc đó không khó khăn gì. Trần-hầu là một người được Châu-vương yêu chuộng lâu nay chưa hề bỏ phế một lễ triều-sinh nào. Hơn nữa, vừa rồi, Trần lại đem binh giúp Vệ đánh Trịnh, thì tình giao hảo giữa Vệ và Trần đang mật-thiết. Tân-quân cứ sang nước Trần, nhờ Trần-hầu vào tâu trước với nhà Châu, rồi Tân-quân sẽ triều kiến sau thì việc ắt thành.
Thạch-hậu trở về nói lại với Chu-hu.
Chu-hu mừng lắm, vội vả sắm sửa lễ-vật và hành-trang rồi cùng với Thạch-hậu lên đường sang nước Trần.
Thạch-thác với quan Đại-phu nước Trần là Tử-Hàm vốn là bạn thân . Bèn lấy máu viết một bức huyết-thư , sai người tâm-phúc đến đưa cho Tử-hàm, nhờ trình lên Trần hoàn-công.
Được thư, Trần hoàn-công vội mở ra xem.
Thư rằng :
Tôi là Thạch-thác cúi dâng thư này đến Trần-hầu ngự lãm :
Nước Vệ chúng tôi nhỏ nhen nhưng hiện lâm vào tai biến ấy, cũng bởi Chu-hu gian-nịnh, giết anh soán nghiệp. Nhưng, tội ấy một phần lớn cũng tại đứa con tôi là Thạch-hậu xui nên. Ngày nào hai kẻ loạn tặc ấy chưa chết , thì dân nước Vệ tôi còn chịu canh thê-lương.
Tôi, tuổi già, sức yếu không đủ tài trừng trị bọn chúng , thực đắc tội với Tiên-công. Nay hai đứa loạn tặc ấy sắp sang quí quốc để cầu-cạnh. Vậy xin Chúa-công bắt chúng mà trị tội. Được như vậy, không những may mắn cho nước Vệ tôi, mà còn làm gương cho các nước khác.
Xem thư xong, Trần hoàn-công hỏi Tử-hàm :
– Việc này khanh liệu làm sao?
Tử-Hàm tâu :
– Kẻ phản-loạn của nước Vệ chẳng khác nào như kẻ phản-loạn của nước Trần, không thể dung tha được.
Trần hoàn-công cho là phải, bèn định kế bắt Chu-hu.
Còn Chu-hu và Thạch-hậu đâu rõ việc ấy. Khi đến nước Trần , hai người đi thẳng vào thành..
Trần hoàn-công sai Công-tử Đà ra đón rước, cầm lại nơi quán địch nghĩ ngơi, hẹn đến ngày mai sẽ tiếp kiến nơi nhà thái-miếu.
Thấy Trần hoàn-công có ý ưu đãi, Chu-hu rất vui mừng.
Sáng hôm sau Trần hoàn-công vào nhà Thái-miếu, bày nghi lễ rồi sai Tử-Hàm ra rước Chu-hu vào.
Thạch-hậu đi trước, thấy đàng trước có đựng một tấm bảng lớn, đề chữ rằng : Con bất hiếu , tôi bất trung, không được vào Thái-miếu.
Thạch-hậu trông thấy kinh ngạc, hỏi Tử-Hàm :
– Cái bảng này có ý nghĩa gì vậy?
Tử-Hàm nhìn Thạch-hậu, rồi mỉm cười đáp :
– Đó là lời của Tiên-vương tôi dạy, và Chúa-công tôi ghi nhớ.
Vừa vào đền nơi, Chu-hu toan cúi mình thi lễ, thì bông có tiếng Tử-hàm hét lớn :
– Ta phụng mệnh vua nhà Châu, bắt hai tên loạn tặc Chu-hu và Thạch-hậu, còn các đồ đảng đều được tha tội.
Tức thì quân giáp-sĩ áp lại bắt Chu-hu và Thạch-hậu trói lại lập tức
Lúc bấy giờ, Tử-hàm mới đem bức thư của Thạch-thác đọc cho mọi người nghe. Rõ ra đó là mưu của Thạch-thác muốn trừ loạn, ai này đều hài lòng.
Kế đó, Trần hoàn-công định đem Chu-hu và Thạch-Hậu ra chém, nhưng các quan can gián :
– Thạch-hậu là con của Thạch-thác, chưa biết ý kiến của Thạch-thác thể nào, xin Chúa-công mời sang nước Vệ nghị tội mới tránh khỏi điều oán trách sau này.
Xét thấy câu nói ấy có lý, Trần hoàn.Công truyền đem giam Chu-hu nơi Bộc-ấp, Thạch-hậu nơi Trần đô để khối liên lạc với nhau. Đoạn cho người sang nước Vệ báo tin cho Thạch-thác biết.
Thạch-thác từ khi cáo quan dưỡng lão, không đi đâu nửa bước , nay được thư nước Trần vội vã vào triều thương nghị.
Lúc đó bá quan đủ mặt , Thạch-thác mở thư ra đọc, mới biết Chu-hu và Thạch-hậu đều bị bắt chỉ còn đợi người sang Trần quyết định mà thôi.
Các quan đều nói :
– Đấy là việc lớn cùa quốc-gia, chúng tôi một lòng trông cậy vào ý kiến của Ngài cả.
Thạch-thác nói :
– Hai đứa phản-loạn này không thể nào dung thứ được. Tội đáng chém đầu. Vậy ai có thể vì nước mà cán đáng việc này?
Quan Thái-tể Xủ bước ra thưa :
– Kẻ loạn tặc ấy ai cũng có thể giết được . Tôi tuy phận hèn song cũng lấy làm ức. Xin cứ giao việc ấy cho tôi.
Các quan đều đồng thanh nói :
– Phải ! Việc ấy mà giao cho quan Hữu-tế là phải lắm ! Nhưng xét ra Chu-hu mới là chánh-phạm, còn Thạch-hậu là kẻ a-tùng tưởng nên châm chế.
Thạch-thác nghe nói, nổi giận, hét :
– Chu-hu phản nghịch, chính tại đứa con tôi mà ra. Nay các quan nghị như thế là nghi tôi có tình riêng với nó hay sao. Thôi, tôi phải thân hành đến đó mà chém đứa loạn thần ấy thì mới dám nhìn vào lăng miếu của tiền nhân tôi !
Nhụđương-Kiên nói :
– Thôi , thôi, xin lão-quan chớ giận, để cho tôi đi thay cho.
Thạch-thác liền sai Thái-tể Xủ qua Bộc-ấp mà chém Chu-hu, còn Nhụđương-kiên thì sang Trần đô mà chém Thạch-hậu. Rồi lại sai người sắm xe giá sang nước Hình mà rước công-tử Tân về.
Thái-tể Xủ và Nhụđương-kiên qua đến nước Trần, vào ra mắt Trần hoàn-công , đoạn thi hành sứ mạng mình.
Khi Thái-tế Xủ đến Bộc-ấp , truyền quân dẫn Chu-hu đến.
Trông thấy Thái-tể Xủ, Chu-hu kêu lớn :
– Có phải người đến đây để cứu ta chăng ?
Thái-tể Xủ lắc đầu đáp :
– Không phải để cứu, mà để giết.
Chư-hu trợn mắt hỏi :
– Ngươi làm tôi của ta, sao dám phạm đến ta?
Thái-tể Xủ mĩm cười, đáp :
– Nước Vệ trước kia có ngươi bề tôi mà dám giết vuạ Vì vậy, hôm nay ta bắt chước !
Nói xong, truyền quân chém đầu.
Còn Nhụđương-kiên khi đến Trần đô cũng đem Thạch-hậu ra chém.
Thạch-hậu nói :
– Muốn chém ta cũng được, song hãy đưa ta về nước để ta trông thấy mặt phụ thân ta đã.
Nhụđương-kiên nói :
-Ta vâng lịnh phụ-thân của ngươi mà đến đây giám-sát. Nếu ngươi muốn thấy mặt cha ngươi thì để ta chém xong, xách đầu về nước Vệ, hẳn ngươi được gặp mặt.
Nói xong, vung gươm chém phứt.
Nhà chép sử về sau có thơ khen Thạch-Thác :
Tình nhà, nợ nước giữa hai đường ,
Thà bỏ tình riêng cứu nước non.
Khí phách còn lưu trong sử sách
Tấm gương đại-nghĩa kẻ trung-thần
Kế đó, công-tử Tân được rước về vào nhà Thái-miếu làm lễ cáo tế , rồi tức vị chư-hầu, xưng hiệu là Tuyên-công, và phong cho Thạch-thác làm quốc-lão, coi giữ việc triều-chính.
Từ ấy, nước Trần và Vệ càng thêm thân mật hơn trước.
Đây nhắc qua Trịnh trang-công thấy năm nước đã rút binh về, bèn sai người đến Trường-các dò xem tin tức của Công-tử Bằng.
Bỗng nghe tin Công-tử Bằng vừa trốn về, xin vào yết kiến.
Trịnh trang-công lật đật cho vào, hỏi thăm duyên cớ.
Công-tử Bằng tâu :
– Trường-các đã bị binh Tống chiếm đoạt thành trì, nên tôi mới trốn về đây, xin hiền-hầu đoái tưởng.
Nói xong, Công-tử Bằng khóc oà.
Trịnh trang-công tìm lời an ủi rồi khiến Công-tử Bằng ra tạm trú nơi quán dịch, và cấp bỗng lộc rất nhiều.
Chẳng bao lâu, Trịnh trang-công được tin Chu-hu bị giết . Vệ-tuyên-công lên thay , bèn họp triều thần bàn bạc.
Trịnh trang-công nói :
– Trước đây Vệ sang đánh Trịnh là do Chu-hu chứ không can chi đến Vệ tuyên-công. Còn Tống, thì cố tình đánh Trịnh, nay ta muốn trả thù. Các quan nghĩ sao?
Tế-Túc tâu :
– Trước kia năm nước cùng cử binh một lượt đánh Trịnh , tuy không cố tình song hành động có liên-quan. Nếu ta cử binh đánh Tống, thể nào bốn nước kia cũng sợ vạ lây mà đem binh giúp Tống. Vậy trước nhất, phải sang hòa-hiếu nước Trần nước Lỗ rồi sẽ đánh Tống.
Trịnh trang-công nghe theo lời bàn ấy, liền cho người sang nước Trần giảng hòa.
Trần hoàn-công không chịu nhận.
Công-tử Đà thấy thế hỏi :
– Kết thân với một nước láng-giềng là việc tốt, cớ sao Chúa-công lại từ chối.
Trần hoàn-công nói :
– Trịnh trang-công mưu trí khó lường. Tại sao Tống và Vệ là hai nước lớn mà Trịnh không đến cầu hòa, lại đến cầu hòa với Trần. Hẳn là có một dụng ý nào rồi ! Vả lại trước kia ta giúp Tống đánh Trịnh, nay lại chịu hòa với Trịnh thì Tống sẽ giận tạ Được lòng Trịnh, mất lòng Tống, nước ta cũng không lợi gì.
Nói xong, từ khước không chịu tiếp sứ.
Trịnh trang-công nghe được, nổi giận nói với các quan :
– Nước Trần cậy vào Tống và Vệ. Nay nước Vệ mới dẹp loạn chưa đả sức giúp đỡ ai. Nay ta giảng hòa với nước Vệ và Lỗ, rồi cứ binh sang đánh Tống và Trần ắt nên chuyện.
Tề-Túc quỳ tâu :
– Tâu Chúa-công, nước ta mạnh, nước Trần yếu, nay vô cớ chúng ta đến giảng-hòa, Trần nghi là ta có mưu kế mà không dám nhận. Vây xin Chúa-công cho quân tràn qua bờ cõi cướp giựt, rồi cho một sứ-giả có tài ăn nói đem những đồ đạc cướp được trả lại , tỏ tình thân mật, thì Trần sẽ chịu hòa.
Trịnh trang-công cho là hữu-lý, liền phái năm đạo quân đến cướp phá nơi biên-thùy nước Trần, cướp được hơn một trăm xe lương thực chở về kinh đô nước Trịnh.
Trần hoàn-công, nghe biên thùy bị quân Trịnh đến cướp, bèn họp các quan bàn bạc.
Các quan còn đương luận kế, thì bỗng nghe có sứ-giả nước Trịnh là Dĩnh khảo-thúc đem các đồ bị cướp sang trả, và dâng thư của Trịnh trang-công.
Trần hoàn-công lấy làm lạ, hỏi Công-tử Đà :
– Đã đem binh cướp phá, lại cho sứ sang là ý gì vậy?
Công-tử Đà tâu :
– Tâu Chúa-công đó là nước Trịnh muốn tỏ sự thật tâm của họ xin Chúa-công chớ nên khước từ.
Trần hoàn-công cho Dĩnh khảo-thúc vào yết-kiến, và mở bức thư của Trịnh trang-công ra xem.
Trong thư đại lược nói :
Ngộ-sanh nước Trịnh, kính dâng thư này cho Trần hiền-hầu nhã-giám.
Tôi cùng hiền-hầu thảy đều là bề tôi của nhà Châu , vì vậy trước đây tôi có sai sứ đến giao hảo. Chẳng ngờ hiền-hầu từ khước nên quân sĩ nơi biên thùy ngỡ hai nước có điều xích mích, mới tự tiện xâm phạm bờ cõi hiền-hầu.
Hay được việc ấy tôi lấy làm áy náy, vội sai Dĩnh-khảo-thúc đem các vật bị cướp trả lại mà tạ tội.
Mong từ đây hai nước kết nghĩa anh em, chắc hiền-hầu không nỡ từ chối.
Trần hoàn-công xem thư xong, liền tiếp đãi Dĩnh khảo-thúc rất niềm nỡ.
Đoạn cho Công-tử Đà sang đáp lễ.
Hai nước bắt tay giao hảo.
Lúc bấy giờ Trịnh trang-công mới hỏi Tề-túc :
– Nay đã hòa với Trần rồi, thế thì ta làm cách nào để đánh Tống ?
Tế-Túc tâu :
– Tâu Chúa-công, nước Tống là một nước lớn lại được vua Châu trọng đãi, chớ nên đánh vội. Trước kia Chúa-công đã muốn vào chầu triều Châu nhưng vì mắc đi phó-hội với nước Tề tại Thạch-môn, sau đó bị Chu-hu dấy loạn, mà phải bỏ dở dự tính. Nay Chúa-công hãy vào triều Châu, rồi trở về dối , xưng là có mạng vua, họp quân nước Tề và Lỗ sang phạt Tống. Như vậy ắt thắng đặng.
Trịnh trang-công cho lời của Tề-túc là hợp lý. Bèn giao việc triều chính cho Thế-tử Hốt, rồi cùng Tề-Túc lên đường sang triều Châu.
Chu-công Hắc-Kiên nghe tin, khuyên Châu hoàn-vương nên tiếp đãi Trịnh trang-công cho tử-tế, để làm gương cho các chư hầu.
Tuy nhiên, Châu hoàn-vương vốn ghét Trịnh trang-công, nhất là nhớ đến việc Trịnh sang cướp lúa, lòng vẫn chưa nguôi.
Lúc Trịnh trang-công vào chầu, Châu hoàn-vương hỏi :
– Sao bên nước Trịnh năm nay mùa màng ra thế nào?
Trịnh trang-công tâu :
– Tâu Bệ hạ, nhờ hồng-phước của Bệ-hạ, năm nay không bị thiên-tai hạn-hán.
Châu hoàn-vương cười lớn, nói :
– Thật là may ! Nước Trịnh có được mùa thì nhà Châu mới còn lúa đất ôn , đất Thành mà ăn chứ !
Thấy Châu hoàn Vương nói nhiều điều gay gắt, Trịnh trang-công bèn bái tạ lui ra.
Châu hoàn-vương không thết đãi chi hết, chỉ sai người đem ra ban cho Trịnh trang-công mười xe lúa và dặn :
– Cho lúa này để dành ăn lúc mất mùa.
Trịnh trang-công nói với Tề-túc :
– Tại ngươi khiến ta vào chầu vua, nên phải hứng lấy những lời mỉa-mai cay đắng. Nay vua lại còn ban mười xe lúa để ngạo ta, ý ta không muốn lãnh, vậy phải đùng lời chi mà từ chối.
Tề-Túc tâu :
– Các nước chư-hầu kính trọng nước Trịnh là vì đã mấy đời nước Trịnh làm Khanh-sĩ nơi triều Châu. Nay vua đã cho, nếu chúa-công không lãnh, ắt các chư hầu đều biết Chúa-công không thuận với vua nữa. Mà vua đã không ưa Trịnh, các chư hầu còn trọng gì đến Trịnh ?
Trong lúc đương thương nghị, xảy có Châu-công Hắc-kiên đến thăm, lại cho riêng hai xe vàng lụa.
Trịnh trang-công hỏi Tề-Túc.
– Châu-công Hắc-kiên chẳng biết có ý gì mà lại kính-trọng ta như thế ?
Tề-Túc tâu :
– Vua nhà Châu có hai người con trai : người lớn là Đà, người nhỏ là Khắc. Vua Hoàn-vương yêu con thứ, muốn gởi gắm cho Châu-công Hắc-kiên mưu việc lập con thứ sau này vì vậy Châu-công Hắc-kiên muốn mua lòng Chúa-công . Chúa-công nên nhận vàng lụa ấy mà dùng vào việc khác.
Trịnh trang-công hỏi :
– ý ngươi muốn dùng vào việc chi?
Tề-Túe tâu :
– Chúa-công vào triều Châu, các chư hầu đều biết. Nay đem lúa của Châu-công Hằc-kiên chia làm mười xe, lấy gấm gói lại. Đến ngầy ra về nói dối rằng của vua cho, lại bày thêm cung tên để tuyên-bố với các chư-hầu là vâng mạng vua đi phạt Tống , vì Tống thiếu lễ triều cống. Như vậy, chư hầu ắt tuân theo lệnh ta.
Trịnh trang-công thích-ý, vổ vai Tề-Túc, nói :
– Ngươi quả là nhột trí-sĩ. Ta sẽ theo kế ấy mà làm.
Quả vậy, lúc trở về, Trịnh trang-công phao tiếng lên, ai nay đều tin thực. Tiếng đồn đến tai Tống tương-công.
Tống tương-công cả sợ , lén sai sứ qua nói với Vệ tuyên-công.
Vệ tuyên-công lại bàn với Tề hi-công tìm cách làm cho Tống và Trịnh giao hảo với nhau.
Tề hi-công viết giấy mời Trịnh, và hẹn với các nước họp nhau tại Ngõa- Ốc để giải hòa việc ấy.
Đúng kỳ hẹn, không thấy Trịnh trang-công đến dự , Tề-hi-công nói :
– Trịnh trang-công không đến dự thì việc nghị hòa bất thành.
Nói xong, lên xe ra về.
Tống tương-công muốn giữ lại, nhưng Tề hi-công tỏ thái độ lãnh đạm với hai nước Tống và Vệ.
Lúc bấy giờ tại triều Châu , vua Hoàn-vương có ý bãi chức Khanh-sĩ của Trịnh trang-công, nhưng Châu-công Hắc-kiên hết lòng can gián nên Hoàn-vương mới đem Quách-công Kỵ-Phủ dùng làm hữu Khanh-sĩ, coi việc triều-chính còn Trịnh trang-công làm tả khanh-sĩ, tức là hư-vị mà thôi.
Trịnh trang-công hay đặng việc ấy, cười và nói với Tề-Túc :
– Ta biết Châu hoàn-vương chưa dám cất chức ta đâu.
Kế đó, nghe ba nước Tống Tề và Vệ họp nhau tại Ngõa- Ốc.
Trịnh trang-công hỏi Tề-Túc.
– Ta nghe Tề hi-công kết giao với Tống tương-công là ý gì ?
Tề-Túc tâu :
– Tống và Tề đâu phải là chổ thâm giao. Sở dĩ hai người gặp nhau là vì có Vệ tuyên-công đứng giữa điều đình, chớ không thật bụng muốn liên-kết. Nay Chúa-công đem lệnh nhà Châu, truyền cho Tề, Lỗ, lấy quân nước Sái, Vệ, Thành và Hứa họp về đánh Tống thì sẽ không có một nước nào trái lệnh được.
Trịnh trang-công nghe theo lời, cho một sứ-giả đến nước Lỗ hẹn nếu lấy được đất Tống sẽ cho Lỗ cả.
Quan Đại-phu nước Lỗ là Công-tử Vận, có tánh tham-lam, liền tâu với Lỗ-hầu kéo binh họp với nước Tề, nước Trịnh tại Trung-khẩu.
Nước Tề thì Tề hi-công sai em là Di-trọng-niên làm tướng.
Còn nước Lỗ thì Lỗ an-công sai Công-tử Vận cầm binh, cả hai lãnh đi tả hữu. Nước Trịnh giữ đạo trung quân. Trịnh trang-công dẫn Công-tử Lữ, Cao-cừđi, Dĩnh khảo-thúc. Công tôn-yết kéo đại binh dưới cờ hiệu để bốn chữ lớn : Phụng thiên thảo tội , kéo qua nước Tống.
Công-tử Vận đi trước đến đất Lão đào. Tướng giữ ải ấy đem binh ra cự, bị Công-tử Vận đánh cho một trận manh giáp tơi bời, bỏ thành mà chạy: Thắng được trận đầu Công-tử Vận báo tin cho Trịnh trang-công hay.
Trịnh trang-công kéo rốc binh đến Lão đào hạ trại, khao thưởng ba quân.
Nghĩ lại đó vài hôm, Trịnh trang-công lại khiến Dĩnh khảo-thúc hiệp với Công-tử Vận đánh phá Phòng-thành, Cao cừđi đem binh tiếp ứng , còn đại-binh thì vẫn đóng nơi Lão đầo mà đợi tin.
Tống tương-công nghe tin ba nước Tề, Lỗ, Trịnh cử binh sang đánh, lòng sợ sệt, kêu Khổng phụ-gia vào hỏi kế.
Khổng phụ-gia tâu :
– Tôi đã sai người đến triều Châu thám thính, nhưng không nghe có lệnh Bệ-hạ sai phạt Tống, đây chắc là Trịnh đã mượn lệnh vua, dối gạt chư-hầu. Tề và Lỗ đều mắc mưu. Tuy-nhiên ba nước đã hiệp binh, nước ta không thể nào cự lại. Nay tôi có kế này ắt Trịnh phải lui binh.
Tống tương-công nói :
– Quân Trịnh đang đắc thắng, lẽ nào lại chịu lui?
Khổng phụ-gia tâu :
– Tuy Trịnh mượn lệnh vua, gạt chư hầu, nhưng chỉ có Tề và Lỗ theo Trịnh mà thôi. Nay Trịnh trang-công bỗn thân dẫn binh mã sang đây, thì nước phải bỏ trống. Chúa-công dùng của hối lộ cho nhiều, đem đâng cho Vệ-công, xin người hiệp binh với nước Sái, thừa cơ sang đánh Trịnh. Trong nước có giặc, Trịnh trang-công phải đem binh về cứu. Binh Trịnh mà lui rồi thì Tề với Lỗ ở lại làm gì ?
Tống tương-công đáp :
– Kế ấy hay lắm. Song việc này phải đích thân ngươi qua nước Vệ thì Vệ-công mới chịu cất quân.
Không phụ-gia nói :
– Tôi xin tình nguyện dẫn một đạo quân chỉ đường cho Vệ sang đánh Trịnh.
Tống tương-công liền phát cho Không phụ-gia một muôn binh , đem theo vàng bạc châu báu dâng cho Vệ-công đặng cầu xuất binh đánh Trịnh.
Vệ tuyên-công nhận lễ vật, và sai Thái-tể Xủ hiệp binh với Khổng phụ-gia đi đường tắt kéo thẳng đến Vinhđương.
Trong lúc bất ngờ, Thế-tử Hốt và Tế-Túc vội đóng cửa thành cố-thủ.
Quân Vệ và Tống cướp giựt của cải ngoài thành rất nhiều.
Thái-tể Xủ tỏ ý muốn đốc quân phá thành, Khổng phụ-gia can rằng :
– Quân lực ta kéo đến đây chẳng bao nhiêu, phải thừa cơ mà đánh mới thắng nổi. Nay đóng quân ngoài thành nếu Trịnh trang-công dẫn binh về cứu viện thì chúng ta thoát đi đàng nào được . Chi bằng mượn đường tắt của Đái-quốc mà lẻn về nước . Tôi liệu hễ quân ta bỏ Trịnh mà về, thì ắt Trịnh cũng bỏ Tống mà đi.
Thái-tể Xủ nghe theo sai người qua Đái-quốc mượn đường.
Nhưng nước Đái nghi Vệ và Tống âm-mưu đánh úp nước mình, nên từ chối, đóng chặt cửa ải.
Không phụ-gia nổi giận, hợp với quân Thái-tể Xủ chia làm hai đạo đánh vào nước Đái.
Đồng thời cho người sang nước Sái mượn thêm quân đánh giúp.
Lúc bấy giờ, ở mặt trận nước Tống, Dĩnh khảo-thúc đã phá được Cáo-thành, còn Công-tử Vận đã phá được Phòng-thành. Hai tướng đều sai người về dinh Trịnh trang-công báo-tiệp.
Giữa lúc đó , Trịnh trang-công lại cũng nhận được văn thư của Thế-tử Hốt gởi đến cáo cấp.
Trịnh trang-công nhận được thư Thế-tử Hốt, vội vã truyền lui quân về nước.
Di trọng-niên và Công-tử Vận hay được tin, đến ra mắt Trịnh trang-công và hỏi :
– Chúng tôi đã lấy được hai thành của nước Tống, thế quân đang mạnh, sao Chúa-công lại truyền lui binh ?
Trịnh trang-công vốn là một kẻ đa mưu, túc trí không cho Tề và Lỗ biết được nội tình của mình, bèn đáp :
– Ta phụng mệnh kéo binh đánh Tống, nay nhờ binh hai nước mà chiếm được hai thành. Như thế tưởng cũng đã đũ trị tội Tống rồi. Hơn nữa, Tống là con cháu của nhà Thương, Thiên-tử vẫn có lòng kính, ta không nên làm đến quá lẽ. Hai thành vừa chiếm được xin nhượng lại cho Tề và Lỗ, mỗi nước một thành.
Di trọng-niên nói :
– Chúa-công phụng-mệnh Thiên-tử đem binh phạt Tống. Bổn phận chúng tôi là phải đem binh đến giúp, đâu dám kể công.
Nói rồi nhất định từ chối không nhận đất.
Trịnh trang-công nói :
– Nếu Tề không nhận thì xin tặng cả hai thành ấy cho Lỗ để đền ơn khó nhọc đã vào Lão Đào trước.
Công-tử Vận không từ chối gì cả tỏ lời cảm tạ Trịnh trang-công rồi sai người ra trấn giữ hai thành ấy.
Trịnh trang-công bày tiệc khao thưởng quân sĩ, rồi cùng với công-tử Vận, Di trọng-niên làm lễ ăn thề, hứa sẽ giúp đỡ cùng nhau trong cơn hoạn nạn.
Đoạn ba nước chia tay, quân nước nào kéo về nước nấy.
Di trọng-niên về nước, thuật lại cho Tề hi-Công nghe việc ấy được hai thành nước Tống và nhường cho nước Lỗ.
Tề hi-công nói :
– Trước kia ta đã có lời thề với Trịnh trang-công nơi Thạch-Môn, hễ có việc thì giúp nhau, nay tuy lấy đặng thành, lẽ phải giao về Trịnh mới đúng.
Di trọng-niên tâu :
– Trịnh-bá cố chối từ, chẳng chịu lãnh, nên mới giao hết cho Lỗ-hầu.
Tề hi-Công nghe nói, cho Trịnh trang-công là kẻ đại- độ, và khen ngợi không ngớt.
Khi Trịnh trang-công đem binh về đến nữa đường thì lại nghe tin quân Vệ đã sang đánh nước Sái.
Trịnh trang-công vỗ tay cười lớn, nói :
– Khổng phụ-gia quả là một kẻ chưa rành binh-pháp. Đang đánh nước Trịnh mà lại gây chuyện với nước Sái, như thế tức là đã công làm hại được nước ta mà còn giúp cho ta có cơ-hội tốt để lấy nước Sái rồi.
Bèn truyền cho bốn tướng phân làm bốn đội, cuốn cờ, giấu trống, kéo thẳng đến Sái-quốc.
Trong lúc đó Vệ và Tống đang hiệp binh với nước Sái bàn mưu công thành.
Bỗng có quân vào báo :
– Nước Trịnh sai thượng-tướng là Công-tử Lữ đem binh qua cứu nước Sái, hiện đóng trại cách thành năm chục dặm.
Thái-tể Xủ nói :
– Đó là tướng thua Thạch-hậu ngày trước, có đũ chi mà sợ.
Lại có tin báo nữa rằng :
– Nước Sái đã mở cửa thành đón quân Trịnh vào.
Khổng phụ-gia thất kinh, nói :
– Ta coi nước Sái như đã lấy được trong tay, nay có binh Trịnh đến giúp, thật khó bề thắng nổi !
Thái-tể Xủ nói :
– Nếu Trịnh đã giúp Sái, thể nào cũng đem binh khiêu chiến. Vậy ta lên lủy cao xem thử trong thành động tịnh thế nào, để biết mà đối phó.
Hai người dắt nhau vừa lên đến chổ cao, bỗng nghe có tiếng súng nổ vang trời, qua một lúc, trên thành nước Sái cắm toàn cờ Trịnh, và Công-tử Lữ mặc áo giáp đứng trên thành gọi Khổng phụ-gia nói lớn :
– Ta cảm ơn tướng-quân đã giúp ta chiếm được nước Sái rồi nhé !
Ấy là mưu của Trịnh trang-công lập kế sai Công-tử Lữ giả danh giúp Sái, rồi khi vào được trong thành mới đuổi vua nước Sái đi mà chiếm đất.
Vua nước Sái phải bỏ trốn sang Tần thoát nạn.
Khổng phụ-gia thấy thế máu giận sục sôi, ném mũ xuống đất hét lên :
– Ta quyết không đội trời chung với Trịnh.
Thái-tể Xủ nói :
– Trịnh trang-công binh pháp rất lợi hại, thế nào bên ngoài cũng có quân tiếp ứng. Nếu trong ngoài đánh dồn lại, quân ta nguy mất !
Khổng phụ-gia nói :
– Sao tướng quân lại nhát gan đến thế ? Chẳng lẽ công-phu chúng ta vây thành, nay lại nhường cho Trịnh chiếm cứ hay sao. Bề nào cũng phải đánh mới được.
Dứt lời, trong thành có người mang chiến thư ra, thách đánh.
Khổng phụ-gia phê vào chiến-thư, hẹn ngày mai nghênh-chiến.
Đêm ấy, quân của Khổng phụ-gia đóng trại cách thành hai mươi dặm để đề phòng quân tiếp viện.
Nhưng trại vừa đóng xong thì tiếng súng đã nổ ran, quân Trịnh kéo đến khiêu chiến, ánh lửa đốt sáng lòe.
Khổng phụ-gia nổi giận, tay cầm phương-thiên họa-kích, giục chiến xa đến trước trận ứng chiến.
Nhưng khi đến nơi, ánh lửa tắt lịm, không thấy một tên quân Trịnh nào.
Khổng phụ-gia kéo quân về trại. Nhưng vừa về đến trại, thì lại thấy lửa cháy sáng lòe , tiếng súng nổ chan-chác.
Không phủ-gia nói :
– Đó là kế nghi binh của quân Trịnh muốn đánh lừa ta đó thôi.
Bèn ra lệnh án binh bất động.
Bỗng có quân vào báo :
– Quân nước Sái đã bị Trịnh đánh tan vỡ.
Khổng phụ-gia lập tức đem quân đi cứu ứng.
Vừa ra khỏi trại chừng vài dặm , gặp một toán quân kéo lại hai bên xáp chiến, đánh nhau một hồi lâu, mới biết đó là đội quân của nước Vệ.
Hai bên thẹn mặt nhau lòng đầy hậm hực.
Nguyên Thái-tể Xủ đang ở tại bản dinh nghe tin trại Tống bị quân Trịnh chiếm, liền đem quân cứu ứng không ngờ đó là kế của Trịnh.
Khổng phụ-gia truyền quân rút lui về đại-bảnđinh. Nhưng về đến nơi thì tướng Trịnh là Cao cừđi đã đem quân chiếm đoạt mất rồi. Không biết làm sao hơn Khổng phụ-gia liền hiệp với Thái-tể Xủ đánh liều một trận. Nhưng trong tình thế quân binh rối loạn, tướng-tá mất tinh-thần đành phải mang thảm-bại.
Khổng phụ-gia liều chết mở đường máu dẫn hơn hai mươi bộ hạ thoát thân về nước.
Còn Thái-tể Xủ thì bị tử trận giữa đám loạn quân.
Trịnh trang-công chiếm được nước Sái, lại thắng liên-quân Vệ, Tống và Sái đoạt được rất nhiều chiến-xa và binh-khí, bèn ra lịnh ban-sư.
Về đến kinh- đô, Trịnh trang-công truyền bày tiệc ăn mừng, ai nấy vui cười hớn-hở.
Trịnh trang-công đắc-ý bưng ly rượu rót xuống đất cầu thần, và nói :
– Nhờ linh-khí của non sông và âm- đức của tổ-tông lại được các quan hết lòng phò tá, thế mạnh , binh hùng, đánh đâu thắng đó, không khác gì các Phương-bá ngày xưa.
Các quan đều tung hô vạn tuế.
Riêng có Dĩnh khảo-thúc ngồi nín lặng không nói một lời nào.
Trịnh trang-công trừng mắt nhìn Khảo-thúc.
Khảo-thúc tâu :
– Tâu Chúa-công, các bậc Phương-bá ngày xưa làm chủ cả chư hầu, đi đánh đâu ai này đều phụng-mệnh. Còn ngày nay Chúa công giả mệnh Thiên-tử đi phạt Tống và Vệ, Sái lại đám giúp Tống đánh Trịnh còn Thành và Hứa lại không chịu xuất binh phó hội như thế tưởng chưa sánh được với người xưa.
Trịnh trang-công nghe nói tươi cười đáp :
– Lời ngươi nói rất phải. So với các Phương-bá ngày xưa quyết ta chưa thể bì kịp. Nay Vệ và Sái đã dẹp rồi còn Thành và Hứa ta phải cử binh vấn tội. Vậy theo ý ngươi nên đánh nước nào trước ?
Dĩnh khảo-thúc tâu :
– Nước Thành giáp ranh với nước Tề, nước Hứa giáp ranh với nước ta. Trước nhất phải sai tướng qua giúp Tề đánh nước Thành rồi sau lại mượn binh Tề mà đánh Hứa. Khi dẹp xong hai nước phải sai sứ qua Châu báo tin thắng trận để khỏi mang tiếng dối Thiên-tử.
Trịnh trang-công khen phải, liền sai sứ sang Tề bàn về việc ấy.
Tề hi-công sai tướng Di trọng-niên hợp binh với Công-tử Lữ kéo qua đánh nước Thành.
Nước Thành hay tin sợ lắm sai người qua Tề xin hàng-phục.
Tề hi-công viết thư cho Trịnh trang-công hay và hỏi lúc nào cất quân đánh Hứa.
Trịnh trang-công ước hẹn hợp binh tại Thới-lai đất Trịnh và nhờ Tề làm trung-gian mượn thêm binh nước Lỗ.
Công-tử Lữ đi đánh Thành, kéo binh về đến nữa đường nhuốm bịnh mà thác.
Trịnh trang-công thương tiếc vô cùng, than thở :
– Công-tử Lữ mệnh-chung , thật ta đã mất đi một cánh tay phải.
Nói rồi, đem tiền bạc, lụa là ban thưởng cho gia đình Công-tử Lữ, lại cho em Công-tử Lữ là Công-tử Nguyên làm Đại-phu.
Trịnh trang-công còn định cho Cao cùđi làm chức Thượng-khanh nhưng Thế-tử Hốt bàn rằng :
– Cao cừđi là một kẻ tham tâm không phải người trung chánh xin phụ-thân chớ khá tin dùng.
Trịnh trang-công bèn đem chức ấy phong cho Tề-Túc, thay Công-tử Lữ, còn Cao cừđi thì phong làm Á-khanh.
Chẳng bao lâu đã đến ngày ước hẹn, hai đạo quân Tề và Lỗ đồng hội tới đất Thới-lai để hiệp với Trịnh đi đánh Hứa.
Trịnh Trang-công bày ra một cuộc duyệt binh để biểuđương sức lực. Lại chế ra một lá cờ bằng gấm mỗi bề dài một trượng hai , xung quanh có đeo hai mươi bốn cái lục-lạc bằng đồng, và giữa đề bốn chữ : “Phụng thiên thảo tội”.
Cán cờ dài hơn ba trượng , cắm trên một cỗ xe rất lớn.
Trịnh Trang-công truyền rằng :
– Nếu ai cầm nồi cây cờ ấy đi lại hai vòng thì được lãnh chức tiên-phuông, và thưởng cho một cỗ lộ-xa.
Lịnh vừa ban ra thì có một viên đại-tướng, mặt đen, đầu đội mũ bạch mình mặc áo bào , hàm râu quai nón, con mắt dài, lông mày rậm, bước ra xin lãnh.
Mọi người xem lại thì đó là tướng Hà thúcđoanh.
Hà thúcđoanh cất giọng sang-sảng giữa ba quân :
– Tôi tuy tài hèn, cũng xin đảm đương việc ấy.
Nói rồi xốc đến hai tay nâng cán cờ, cầm chửng-chạc đi lại ba vòng, rồi cắm vào chiếc xe như trước.
Hai bên quân sĩ vỗ tay reo hò ầm ĩ.
Hà thúcđoanh vừa tiến đến tạ Ơn Trịnh trang-công để lãnh thưởng, thì lại có một viên đại-tướng khác nhảy ra nói lớn :
– Cầm cờ mà đi việc ấy đâu có lạ. Tôi có thể cầm cờ mà múa nữa kia !
Mọi người ngoảnh lại nhìn thì đó là đại-tướng Dĩnh khảo-thúc đương giữ chức Đại-phu.
Dĩnh khảo-thúc nói dứt lời, bước tới xăn tay áo nhổ cán cờ lên múa tít như múa một cây trường thương.
Lá cờ lúc mở ra, lúc cuốn lại uốn theo chiều gió trông rất đẹp mắt. Ai trông thấy cũng phải kinh ngạc tấm-tắc khen thầm.
– Khanh quả là một hổ-thần , đáng lãnh ấn tiên-phuông và được thưởng chiếc lộ xa.
Nhưng, Trịnh trang-công vừa dứt tiếng thì lại có một chàng thanh-niên mặt trắng như dồi phấn, môi đỏ tợ thoa son, mình mặc giáp xanh, đầu đội mũ ốc, bước tới chỉ Dĩnh khảo-thúc, nói lớn :
– Hãy khoan lấy xe ! Ta đây lại chẳng múa nổi cây đại-kỳ hay sao ?
Dứt lời nhảy đến giựt cây cờ, nhưng Dĩnh khảo-thúc đã lanh lẹ một tay cầm cờ, một tay lôi chiếc lộ-xa, chạy như gió.
Chàng thanh-niên đuổi theo, nhưng không kịp, đành phải trở lại, mặt giận hầm hầm, miệng lẩm-bẩm :
– Được, ta cứ để cho ngươi khoanh tay. Rồi đây ngươi sẽ thấy.
Chàng thanh niên đó là Công tôn-át tự là Tử- đô một viên tiểu-tướng đẹp trai nhất ở thời Đông-châu mà Trịnh trang-công rất yêu vì.
Tuy-nhiên, Công tôn-át vốn tánh ỷ mạnh, cậy quyền, không ưa Dĩnh khảo-thúc. Nay nhân việc tranh-cờ lại càng làm cho hai bên gây thêm ác cảm.
Trịnh trang-công thấy vậy, kêu Công tôn-át đến nói :
– Hai cọp tranh nhau kết-quả sẽ không hay. Ta đã có cách phân xử.
Nói rồi truyền lấy một chiếc lộ-xa khác thưởng cho Công tôn-át và Hà thúcđoanh.
Tháng bảy năm ấy, Trịnh trang-công giao việc trìều-chính cho Thế-tử Hốt rồi tiến binh đánh Hứa.
Binh Tề và Lỗ đã đóng sẵn ở Đô-thành rồi.
Khi gặp nhau, Trịnh trang-công mở tiệc khao quân, Tề hi-công rút trong túi lấy ra một tờ hịch kết tội nước Hứa không triều cống nhà Châu.
Ai nấy đều cho là phải.
Ngày hôm sau, ba nước chia quân vây thành.
Nước Hứa tuy nhỏ, thành lủy không chắc, nhưng nhờ Chúa nước Hứa rất nhân-từ cả nước đều mến yêu, đồng-tâm cố thủ, làm cho quân Tề, Lỗ và Trịnh khó bề phá thành nổi.
Tề và Lỗ chỉ đánh cầm chừng, duy có Trịnh công thành rất gắt.
Dĩnh khảo-thúc lại muốn tranh công với Công tôn-át, nên nỗ lực xông đến trước vòng vây, tay cầm cờ, tay cầm trường-thươrg nhãy phóng lên mặt thành.
Công tôn-át trông thấy, sợ Dĩnh khảo-thúc đoạt được công-lao, bèn lắp tên bắn lén một phát Dĩnh khảo-thúc bị tên, té nhào xuống đất, bỏ mạng.
Hà thúcđoanh tưởng Dĩnh khảo-thúc bị giặc bắn, bèn lướt đến giật cây cờ, nhẩy lên mặt thành hô lớn :
– Chúa nước Hứa không có con nối dõi, chỉ còn đứa bé này là em ruột, tên gọi là Tân-thần.
Tề hi-công và Lỗ ân-công nghe nói có ý thương hại.
Còn Trịnh trang-công thì đã nghĩ ngay một mưu kế, bèn nói :
– Ta phụng-mệnh Thiên-tử hiệp binh cùng hai nước phạt Hứa, nay Hứa trang-công là kẻ có tội đã trốn đi rồi, thì nước ta giao lại cho người nối dõi, như thế mới phải lẽ.
Bá-Lý tâu :
– Tâu Chúa-công, tôi đến đây chỉ mong nhờ lượng khoanđung của ba nước, bảo bọc cho đứa bé mồ-côi này, chứ đâu dám trông mong đến bờ cõi.
Trịnh trang-Công nói :
– Ý ta trả nước Hứa lại là thực tâm. Nhưng xem Tân-thần còn nhỏ dại quá, vậy ta sẽ cho người đến giúp.
Trịnh trang-công bèn chia nước Hứa làm hai, một nữa để Bá-Lý phò-tá Tân-thần, một nữa giao cho Công tôn-hoạch, bề ngoài nói là giúp Hứa, nhưng bên trong là để coi việc cai-trị.
Tề hi-cồng và Lỗ ân-công đều cho Trịnh trang-công là người đại độ khen phục chẳng cùng.
Bá-Lý và Tân-thần đều quỳ lạy tạ Ơn rồi lui về.
Ba nước cũng đều ra lịnh rút quân.
Trịnh trang-công về đến nước khao thưởng ba quân, lòng buồn bã thương tiếc Dĩnh khảo-thúc không cùng.
Nghĩ mãi, Trịnh trang-Công cũng không rõ ai đã bắn chết Dĩnh khảo-thúc.
Bèn truyền cho quân sĩ, cứ một trăm người nạp một con heo, hai mươi người nạp một con gà mà làm lễ tế Dĩnh khảo-thúc. Đồng thời, vời các đồng cốt đến để đọc văn nguyền rủa kẻ đã bắn chết Dĩnh khảo-thúc.
Công tôn-át chỉ bịt miệng cười thầm.
Lễ nguyền rủa cử-hành được ba ngày thì bỗng có một người đầu bù tóc rối, chạy đến trước mặt Trịnh trang-công quỳ tâu :
– Tôi là Dĩnh khảo-thúc, khi đánh nước Hứa, nhãy lên mặt thành , bị tên gian-thần Công tôn-át hiềm việc giành xe , nên đã bắn lén tôi. Tôi đã xin Ngọc-hoàng Thượng- đế bắt nó đền mạng. Xin Chúa-công thấu rõ ẩn tình , thì dầu ở dưới suối vàng, hồn tôi cũng được an ủi.
Nói xong, kẻ ấy lấy tay móc họng, máu tuông lai láng, rồi ngã xuống đất chết lập tức.
Trịnh trang-công thất kinh, xem lại thì đó không phải người đàn bà mà lại là Công tôn-át, liền cho người cứu chữa , nhưng đã muộn.
Lúc bấy giờ Trịnh trang-công sai sứ thay mặt cho mình , mang lễ vật qua Tề và Lỗ để tạ Ơn việc đem binh cứu giúp.
Nhưng sứ-giả đi qua Lỗ, lại mang thư và lễ vật trở về.
Trịnh trang-công lấy làm lạ, đòi vào hỏi.
Sứ giả tâu :
– Tôi vừa đến biên-giới nước Lỗ thì nghe tin Công-tử Vận đã giết Lỗ ân-công mà lập vua khác. Tôi sợ lễ-vật và thư này đưa đến không hợp-ý Chúa-công, nên phải trở về phục-mệnh.
Trịnh trang-công nghe nói than rằng :
– Lỗ ân-công là người hiền đức sao lại bị giết như thế !
Sứ-giả tâu :
– Tâu Chúa-công, vụ ấy tôi được biết rõ. Nguyên trước kia Lỗ huệ-công có lấy một tiểu-thiếp là Trọng-tử, sanh đặng người con trai là Quỹ. Huệ-công muốn nhường ngôi cho Quỹ. Nhưng lúc Huệ-Công chết, Quỹ còn nhỏ, nên Lỗ ân-công lên kế vị. Lỗ ân-công là con một người thiếp khác. Tuy-nhiên, mặc dầu được nối ngôi Lỗ ân-công không hề quên ý- định của cha, nên thường nói : Nước Lỗ này là của Công-tử Quỹ , ta chỉ tạm thay quyền quốc chính mà thôi. Một hôm, Công-tử Vận xin ân-công ban cho chức Thái-tể. Lỗ ân-công nói : Ngươi đợi khi nào Công-tử Quỹ lên ngôi hãy xin. Công-tử Vận không biết Lỗ ân-công nói thật lòng, cho là lời châm biếm và tưởng Lỗ ân-công ghét Công-tử Quỹ , nên một hôm tâu với Lỗ ân-công : Tôi thiết nghĩ ngôi báu Chúa-công đang giữa thiên hạ đều kính phục thì đợi đến khi trăm tuổi truyền lại cho con cháu , sao Chúa-công lại trao trả cho Công-tử Quỹ làm chi. Theo ý tôi, nay Công-tử Quỹ đã lớn, nên lập kế giết đi để trừ hậu hoạn. Lỗ ân-công xua tay nói : Ngươi không phải là kẻ điên cuồng , cớ sao thốt ra những lời bất chính như vậy. Ta đã sửa sang cung thất ở Đồ-Cừu để an-hưởng tuổi già, mà trả ngôi lại cho Công-tử Quỹ. Công-tử vận nghe nói, biết mình lỡ lời, sợ Lỗ ân-Công đem lời ấy nói lại với Công-tử Quỹ, thì sau này ắt mang hại bèn nghĩ ngay một kế tìm đến Công-tử Quỹ nói nhỏ : Nay Công tử đã lớn, Chúa-công sợ Công-tử đoạt mất ngôi nên kêu tôi vào cung mật sai tôi giết Công-tử đó. Công-tử Quỹ cả sợ : Ta làm thế nào để thoát nạn này ? Công-tử Vận nói : Lỗ ân-công đã bất nhân thì Công-tử còn giữ nghĩa làm chi ? Vã lại, Tiên-vương đã có ý truyền ngôi lại cho Công-tử , thế thì Công-tử cũng nên tìm cách giết Lỗ ân-công đi, lấy ngôi lại, ấy là thuận theo ý của Tiên-vương đó. Công-tử Quỹ nói : Lỗ ân-công ở ngôi hơn mười một năm rồi, dân tình mến phục. Nếu việc không thành ắt ta mang họa lớn.
Công-tử Vận nói :
– Việc ấy chẳng khó gì , tôi có kế hay. Ngay mai Lỗ ân-công đi tế thần ở Chung-vu rồi về nghĩ nơi dinh Vi Đại-phu. Vậy ta cho quân giáp-sĩ đến đó mai phục mà giết quách đi , rồi đổ cho Vĩ Đại-phu mưu sát. Như thế ắt giử vẹn được tiếng tăm.
Công-tử Quỹ nghe lời, ủy-thác cho Công-tử Vận. Công-tử Vận dụng kế ấy giết Lỗ ân-công , tôn Công-tử Quỹ lên ngôi. Người trong nước đều hay việc ấy nhưng không dám nói, vì sợ Oai-quyền của Vận. Hiện nay Công-tử Quỹ đã phong cho Vận làm chức Thái-tể.
Trịnh trang-công nghe xong, thở dài hỏi các quan :
– Như thế ta có nên cất quân phạt Lỗ để tỏ tình tâm-gia ngày trước chăng ?
Tề-túc tâu.
– Mặc dầu Công-tử Quỹ giết Lỗ ân-công là vô đạo song đó chỉ là việc gia đình. Chúng ta chỉ nên chờ xem thái- độ của Lỗ đối với Trịnh như thế nào đã. Tôi chắc Lỗ sẽ cho người sang nước ta gây tình hòa-hảo.
Trong lúc đang bàn bạc, thì có sứ nước Lỗ mang lễ vật sang xin vào yết-kiến Trịnh trang-công tỏ tình giao-kết.
Trịnh trang-công tiếp sứ rất trọng-hậu, và hẹn gặp nhau tại Việt- địa để phó-hội, tháp huyết ăn thề.
Từ ấy hai nước Trịnh và Lỗ lại rất thân mật.
Vào năm thứ chín, đời vua Hoàn-vương nhà Châu Công-tử Bằng đang ẩn náu trên đất Trịnh, thì bỗng có sứ nước Tống rước về nối ngôi.
Trịnh trang-công hay tin ấy, lòng nghi ngại, nói :
– Chưa biết hư thực như thế nào, sợ e Tống tương-công cho người sang đánh lừa Công-tử Bằng về mà giết đi chăng ?
Tề-Túc tâu :
– Tâu Chúa-công, việc này phải chờ đợi quốc-thư nước Tống gởi sang đây mới định đoạt được.
Tống tương-công lên ngôi đã lâu, nhưng vì công-tử Bằng còn ở Trịnh, nên thỉnh thoảng đem binh sang đánh Trịnh làm cho hao người tốn của, dân gian khổ cực.
Quan Thái-tể nước Tống là Hoa- đốc, bạn thân của Công-tử Bằng tuy ngoài miệng không dám can vua, nhưng trong lòng bất-mãn , thấy Không phủ-gia làm đến chức Tư-mã , binh quyền một tay quản-thủ, nói gì Tống tương-công cũng nghe theo nên đem lòng ghen ghét .
Nhơn lúc Khổng phụ-gia đi đánh nước Sái, bị thua to trốn chạy về Hoa- đốc bèn cho kẻ tâm-phúc len-lỏi trong dân-chúng phao tin rằng Khổng phụ-gia chuyên quyền, ép vua gây binh-biến, gieo khổ nhọc cho nhân- đân.
Do đó, dân chúng rất ghét Khổng phụ-gia.
Hoa- đốc lại nghe tin đồn nàng Ngụy-thị, ái thiếp của Khổng phụ-gia, nhan sắc tuyệt vời, nên lòng rạo rực, muốn được trông thấy nét hoa.
Một hôm, vào tiết thanh-minh Ngụy-thị đi tảo mộ, Hoa- đốc tình cờ trông thấy, lòng mê-mẩn, chân bước không đành, nghĩ thầm :
– Người đâu mà đẹp đến thế ? Tiếng người đồn thực chẳng sai.
Từ đó Hoa- đốc đem lòng bất chánh, mơ ước lấy vợ người làm vợ mình. Và quyết không để nàng ở mãi trong tay Khổng phụ-gia.
Một hôm Khổng phụ-gia đi duyệt binh .
Hoa- đốc cho người tâm phúc lén trà trộn trong quân-sĩ phao tin rằng :
– Khổng phụ-gia sắp đem binh đi đánh Trịnh .
Quân-sĩ nhớ đến cảnh lửa-binh tang-tóc ai nấy đều sợ sệt, rũ nhau đến dinh Hoa- đốc kêu nài, yêu cầu tâu với vua bãi việc chiến-chinh.
Hoa- đốc cho người ra phủ*** bắt quân-sĩ trở về, nhưng quân sĩ tập họp mỗi lúc một đông hơn .
Có người mang cả khí-giới đến nữa.
Lúc bấy giờ, Hoa- đốc biết lòng dân đã muốn bạo- động , liền mặc áo giáp mang gươm ra cửa nói :
– Khổng phụ-gia cậy quyền ép Chúa-công gây việc binh đao, làm cho quân-sĩ chết oan, dân tình điêu- đứng. Trước hoàn-cảnh này tôi rất đau lòng nhưng không làm thể nào ngăn cản được.
Quân-sĩ ai nấy đều hậm-hực vô cùng.
Hoa- đốc lại giả cách khuyên :
– Thôi các ngươi nên trở về kéo Chúa-công hay được việc nấy , tội ta không tránh khỏi .
Quân sĩ nhao nhao lên nói :
– Thưa ngài, mấy năm chinh-chiến anh em họ hàng chúng tôi đã chết rất nhiều . Thế mà hiện giờ chúng tôi vẫn còn phải đem thân đi chết nữa . Vậy chúng tôi xin theo ngài giết tên giặc nước ấy đi , dẫu có chết cũng được thỏa lòng hơn.
Hoa- đốc lại nói :
– Muốn ném chết một con chuột, chúng ta phải kiêng tránh những vật báu của ta chứ . Nay Khổng phụ-gia là tôi thương yêu của Chúa-công, thì dẫu tàn ác thế nào cũng không nên giết .
Quân-sĩ nói lớn :
– Xin ngài hãy đứng ra trừ luôn đứa hôn-quân vô- đạo để chúng tôi nguyện theo ngài cả.
Nói xong quân sĩ xúm nhau kéo Hoa- đốc lên xe, tiến đến dinh Khổng phụ-gia, vây kín bốn bề .
Lúc bấy giờ trời đã tối xẩm, Khổng phụ-gia đang ngồi uống rượu trong tư-trang , bỗng nghe tiếng gõ cửa, liền sai người bước ra hỏi .
Hoa- đốc không đáp, xô cửa bước vào .
Quân sĩ cũng nồi đuôi nhau, ồ-ạt kéo vào một lượt.
Khổng phụ-gia thất kinh, vừa muốn chạy ra, thì Hoa- đốc đã nhẩy xổ đến, hét lớn :
– Ðể làm gì thằng giặc hại dân hại nước đó !
Khổng phụ-gia chưa kịp trả lời thì đầu đã rơi xuống đất.
Hoa-Ðốc lập tức cho người vào trong bắt Ngụy-thị đem ra, giấu vào xe chở về nhà .
Nhưng nữa đường, Ngụy-thị mở dây lưng, thắt cổ tự-vận.
Hoa Ðốc về đến nhà, thấy nàng đã tắt thờ, lòng thương tiếc chẳng cùng , sai người đem chôn, và giấu kín không để ai biết.
Còn quân-sĩ, đua nhau cướp phá dinh Khổng phụ-gia tan tành.
Khổng phụ-gia chỉ có một người con tên Mộc kim-phủ, tuổi còn nhỏ, được người nhà lén đưa sang nước Lỗ, tị nạn.
Tống tương-công hay được tin Hoa- đốc khởi loạn, giết Khổng phụ-gia , nổi giận sai người dời Hoa- đốc đến để trị tội.
Hoa- đốc cáo bịnh không đến.
Tống tương-công bèn thân hành đến nhà.
Hoa- đốc hay tin cả sợ, họp quân sĩ, nói :
– Nay Khổng phụ-gia bị giết, ắt Chúa-công không để chúng ta sổng yên. Trước kia Lỗ mục-Công bỏ con mà truyền ngôi cho cháu, đáng lẽ Chúa-công mang ơn, lại còn nhiều phen đem quân đánh Trịnh để bắt Công-tử Bằng , như thế thực là bất nghĩa. Nay chúng ta nên phế vua, mà lập Công-tử Bằng lên kế vị, thì thật là hợp lẽ.
Quân-sĩ la ó :
– Ngài dạy như thế là phải lắm. Chúng tôi xin tuân theo.
Quân-sĩ tự- động chia nhau mai-phục quanh nhà.
Khi Tống tương-công đến, họ ó lên một tiếng, rồi áp lại một lượt , gươm giáo sáng lòa.
Ðoàn ngự-lâm quân bỏ chạy tán-loạn, còn Tống tương-công bị chết giữa đám loạn quân.
Hoa- đốc liền mặc tang phục giả vờ ôm tử-thi vua khóc lóc , nỗi trống lên, hiệp cùng các quan thương-nghị.
Ðể che mắt mọi người, Hoa-Ðốc còn bắt mấy tên quân đã thí vua dẫn ra pháp-trường xử trảm.
Khi các quan văn võ, tề tựu đũ mặt, Hoa- đốc nói :
– Lòng dân vẫn còn mến ân-huệ của Tuyên-công thuở xưa lên muốn đón Công-tử Bằng về nối ngôi, chẳng biết các quan định lẻ nào ?
Các quan ai nấy đều sợ sệt, vâng dạ cho qua chuyện.
Hoa- đốc mới cho sứ-giả sang Trịnh báo tang Tống tương-công, và đón Công-tử Bằng về nước.
Lại đem rất nhiều vàng bạc, châu báu tạ ơn nước Trịnh .
Trịnh trang-công nhận được thư, biết được tự sự, bèn đưa Công-tử Bằng về Tống.
Công-tử Bằng sụp lạy, nói :
– Tôi được sống sót đến ngày nay là nhờ ơn Chúa-công. Nay lại đuợc về nước phục-nghiệp , nguyện suốt đời chẳng dám quên ơn nước Trịnh.
Lời nói ấy làm cho Trịnh trang-công cảm động đến ứa nước mắt, cầm tay Công-tử Bằng giã biệt.
Công-tử Bằng về nước , được Hoa- đốc tôn lên ngôi tức là Tống trang-công.
Các nước láng-giềng được sứ nước Tống đem lễ vật đến cầu thân, nên đồng hẹn nhau họp mặt tại đất Tắc , để chứng kiến lễ đăng-quan tức vị của Công-tử Bằng.
Vua Tề hi-công, sau khi dự hội ở đất Tắc, về nữa đường nghe tin quân Bắc-nhung đo tướng Ðại-lương làm Nguyên-soái, đem một vạn binh sang đánh Tề. Các đất Chúc-an và Lịch-hạ đã bị phá vỡ. Quan trấn-thủ hai xứ ấy đều bại binh.
Tề hi-công nói với các quan hầu cận :
– Giặc Bắc-nhung đã nhiều phen quấy rối nước ta. Nay lại đem đại binh xâm chiếm bờ cõi, nếu chẳng ra oai đánh một trận, không thể nào làm cho chúng sợ được.
Nói rồi bèn viết thư, mượn binh ba nước Lỗ, Vệ và Trịnh, lại tự mình cầm binh kéo về Lịch-hạ chống giữ.
Trịnh trang-công tiếp được tin ấy, vội vàng gọi Thế-tử Hốt đến bảo :
– Tề cùng Trịnh kết thân rất hậu, nay Tề có việc ta phải hết lòng giúp đỡ.
Nói rồi khiến Thế-tử Hốt làm Ðại-tướng, Cao cừđi làm Phó-tướng kéo quân sang Tề.
Lúc đó, Vệ và Lỗ chưa đến.
Tề hi-công mở tiệc tiếp đãi.
Thế-tử Hốt thưa :
– Ta nên cho binh phục khắp nơi, rồi cho một toán quân ra dụ địch, chờ cho quân địch lọt vào ổ phục-kích, ta sẽ tràn ra mà tiêu diệt, như thế chắc được trọn thắng.
Tề hi-công khen phải, liền hiệp với binh nước Trịnh, cho Công tôn Nguyên phục nơi phía Ðông, còn Công-tử Sái-trọng thì dẫn một đạo quân ra khiêu chiến.
Vừa thoáng thấy quân Tề kéo đến, quân Bắc-nhung liền sai phó-tướng Tiêu-nhung ra nghênh chiến.
Hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp, Sái-trọng giả thua bỏ chạy.
Tiêu-lương rượt theo.
Sái Lương thấy vậv cũng xua quân tràn tới .
Khi đuổi tới cửa Ðông, bỗng nghe một tiếng súng nổ ầm lên , chuông trống khua rền, hai bên quân phục nỗi dậy đông như kiến cỏ .
Tiêu-lương biết trúng kế, vội lui binh chạy về, nhưng bị quân của Sái Lương đàng sau tràn tới, hai bên đụng dồn lại , xô đẩy lẫn nhau, không biết đường nào mà chạy.
Hai tướng Sái-trọng và Công tôn-Nguyên hợp lại đánh nhầu, quân Bắc-nhung cả loạn, chết vô số .
Bao nhiêu tàn quân bỏ chạy đến núi Thước-sơn. thì lại gặp đạo binh của Phó-tướng Cao cừđi đón đánh.
Sái-lương và Tiêu-Lương bỏ cả quân lính chạy thoát thân.
Nhưng mới vừa chạy được vài dặm, gặp đạo quân của Thế-tử Hốt đón lại, đánh thôi manh giáp tơi bời.
Tiêu-lương bị Chúc- đạm bắn chết, còn Sái-lương bị Thế-tử Hốt chặt đầu đem về nạp cho Tề hi-công.
Tề hi-công rất mừng, nói :
– Nếu không nhờ tài trí và sức anhđũng của Thế-tử thì đâu thắng được giặc Bắc-nhung một cách vẻ-vang như vậy.
Thế-tử Hốt thưa :
– Nhờ oai của Chúa-công nên tôi mới thắng địch-quân được dễ đàng. Nhưng đó chỉ là việc nhỏ , đâu có công cán gì, xin Chúa-công chớ dạy quá lời.
Tề hi-công liền sai sứ sang Lỗ và Vệ thôi việc mượn binh , rồi mở tiệc khao thưởng quân sĩ và đải đằng Thế-tử Hốt.
Trong tiệc, Tề hi-công nhắc lại cuộc hôn nhơn con gái mình với Thế-tử Hốt ngày trước
Thế-tử Hốt một mực từ chối, làm cho Tề hi-công lòng áy náy không an .
Mãn tiệc Tề hi-công bảo Di trọng-niên đến nói riêng với Cao cừđi rằng :
– Chúa-công tôi vì mến tài Thế-tử nên có ý cầu thân. Việc ấy trước kia đã định, nhưng hôm nay Thế-tử vẫn từ chối, chẳng biết Thế-tử có ý chi chăng ? Nếu ngài lo hộ việc này , Chúa-công tôi xin biếu cho ngài hai viên bích-ngọc, và một trăm nén vàng.
Cao cừđi nghe nói vội vã đến tìm Thế-tử Hốt nói :
– Tề hi-Công có lòng tốt yêu mến Thế-tử, muốn cầu thân, nếu Thế-tử nhận lời thì sau này có thêm được nước lớn giúp đỡ, điều đó rất có lợi.
Thế-tử Hốt đáp :
– Ngày trước ta chưa có công trạng chi đối với Tề, mà còn từ chối thay. Huống hồ nay ta phụng mệnh phụ thân đem binh giúp Tề, vừa thắng trận lại nói đến chuyện hôn-nhân, e thiên-hạ chê ta là kẻ lợiđụng.
Cao từđi nói mãi không được .
Tề hi-công lại sai Di trung Niên thân-hành đến gặp Thế-tử Hốt bày tỏ cạn nỗi niềm.
Nhưng Thế-tử Hốt viện cớ chưa được lệnh phụ-thân, không dám nhận lời .
Ðoạn cáo từ đem quân về nước.
Thái- độ của Thế-tử Hốt làm cho Tề hi-công phật-ý trách thầm :
– Bởi muốn gây tình thân-thiện với nhau nên phải chiều ý thế thôi , chứ con gái ta sắc đẹp tuyệt vời, lo chi không lấy được người chồng xứng đáng.
Thế-tử Hốt về nước, thuật lại câu chuyện ấy cho Trịnh trang-Công.
Trịnh trang-công nói :
– Con đã có công-nghiệp lớn thì lo gì không có vợ đẹp.
Tề-Túc nghe được việc ấy, gọi riêng Cao cừđi ra ngoài nói :
– Chúa-công đông con, Công-tử Ðột, Công-tử Nghi, Công-tử Vĩ đều có ý tranh ngôi. Nay Thế-tử Hốt lại không chịu kết-thân với Tề để thêm vi-cánh thì thật là việc đáng tiếc.
Cao cừđi nói :
– Tôi đã hết lời khuyên Thế-tử, nhưng Thế-tử không nghe thì biết làm sao .
Hai người nhìn nhau, mỗi người riêng một ý.
Cao cừđi trước đây rất thân mật với Công-tử Vĩ, nay nghe Tề-Túc nói lại càng thân mật thêm.
Một hôm, Thế-tử Hốt nói với Trịnh trang-công :
– Cao cừđi và Công-tử Vĩ chơi với nhau rất thân, lại tư-thông nhiều việc, xin phụ-vuơng phải đề phòng cho lắm mới được.
Trịnh trang-công nghe nói nổi giận đòi Cao cừđi đến mắng .
Cao cừđi buồn lòng đem việc ấy nói lại với Công-tử Vĩ.
Công-tử Vĩ nói :
– Trước kia, phụ-vương ta định dùng ngươi làm Ðại-phu nhưng vì Thế-tử Hốt ngăn cản, nay lại còn cấm hai ta không được thân nhau nữa. Nếu một mai phụ-vương ta băng hà, chúng ta làm sao an toàn nổi.
Cao cừđi nói :
– Thế-tử là người nhu-nhược, không thể làm hại ai nổi, xin Công-tử chớ lo.
Từ ấy, Cao cừđi và Công-tử Vĩ âm-thầm oán ghét Thế-tử Hốt vô cùng.
Tế-Túc thấy thế lòng lo ngại, một hôm bàn với Thế-tử Hốt :
– Nếu Thế-tử không kết-thân với Tề thì cũng nên kết thân với Trần hoặc Vệ, để sau này nương-tựa, dùng làm ngoại viện.
Thế-tử Hốt suy tính mấy hôm, cuối cùng cho lời ấy là phải, bèn nhờ Tế-Túc tâu với Trịnh trang-công cho sứ sang nước Trần cầu hôn.
Sau đó Thế-tử Hốt lấy nàng Vĩ-thị làm vợ.
Giữa lúc đó, vua Hoàn-công nước Lỗ cũng kết thân với Tề.
Nguyên Tề hi-công có hai người con gái rất xinh đẹp. Người lớn là Tuyên-khương đã gã cho Vệ-hầu, còn lại người nhỏ là Văn-Khương. Nàng này mặt hoa, mày liễu , nhan sắc tuyệt vời, lại thêm học hành thông thái, thi phú rất giỏi, vì thế gọi là nàng Văn-khương .
Văn-Khương lại còn có người anh cùng cha khác mẹ , tức là Thế-tử Chư-nhi , chỉ lớn hơn nàng độ vài tuổi, diện mạo phương-phi, ra chiều trang nhã, nhưng phải cái tánh đa mê sắc dục.
Từ nhỏ đến lớn, Chư-nhi và Văn-khương thường lui tới, gần gũi nhau, do đó trong tình anh em lại có ẩn thêm một mối tình luyến-ái.
Tề hi-công vốn chiều con không bắt buộc giữ gìn khuôn phép, nên về sau sanh điều tệ hại.
Khi Thế-tử Hốt đánh tướng giặc Bắc-nhung, Tề hi-công thường khoe tài Trịnh Thế-tử trước mặt Văn-khương và thường nhắc đến việc hôn nhân của nàng với Thế-tử Hốt.
Văn-Khương lấy làm đắc ý . Nhưng về sau, nghe tin Thế-tử Hốt từ hôn, nàng buồn bã mà sanh bịnh, bỏ ăn, bỏ ngủ, ngày đêm mê hoảng.
Thế-tử Chư-nhi thường lại thăm nàng lân la bên giường bệnh, gây thêm mối tình danđíu.
Tuy-nhiên vì lúc nào cũng có cung-nhân hầu hạ một bên nên chưa đến nổi sanh điều dâm-loạn.
Một hôm vua cha vào thăm con gái, thấy Thế-tử Chư-nhi đang ngồi chung giường với Văn-khương liền kêu ra ngoài mắng :
– Mi là anh sao mi không biết tị-hiềm vậy .
Chư-nhi cúi đầu làm thinh không đáp.
Tề hi-công nói :
– Từ nay mi chỉ được sai cung nhân đi thăm mà thôi, không nên lân la như vậy nữa.
Chư-nhi bẽn lẽn lui ra .
Từ ấy , chàng ít khi lui tới.
Cách đó không lâu, Tề hi-công cưới con gái của Tống-công cho Thế-tử Chư-nhi.
Ðược vợ, Chư-nhi thỏa tình tơ tóc quên lảng cuồng vọng riêng , nên anh em càng ngày càng xa lần.
Văn-khương ở nơi phòng loan vắng vẻ , lại thêm thương nhớ Chư-nhi, bịnh thế càng nặng hơn nữa.
Lúc bấy giờ tại nước Lỗ .
Lỗ hoàn-công khi nối ngôi đã lớn tuổi mà chưa có vợ .
Quan Ðại-phu Tang tôn- đạt tâu rằng :
– Chúa-công nên xem việc tôn-miếu là trọng mà kiếm người làm chủ trong cung mới được.
Công-tử Vận cũng quỳ tâu :
– Hạ thần trộm nghe thiên hạ đồn rằng con gái Tề hi-công là Văn-Khương nhan sắc tuyệt mỹ. Trước kia muốn gã cho Thế-tử Hốt, nhưng việc không thành . Nay xin Chúa-công cho người qua đó cầu hôn ắt đặng.
Lỗ hoàn-công nghe theo, liền sai Công-tử Vận qua Tề cầu hôn.
Tể hi-công thuận ý , nhưng lại thấy Văn-khương còn tại bịnh nên hẹn nán lại ít lâu.
Cung nhân hay được việc ấy, thuật lại với Văn-khương . Nàng lấy làm mừng lần hồi thuyên bịnh.
Kịp đến lúc Tề và Lỗ hội nơi đất Tắc .
Lỗ hàn-công đem chuyện cầu-hôn ra bàn.
Tề hoàn-công lại một một lần nữa chấp thuận và đính ước năm đến.
Năm sau, vào năm thứ ba của Lỗ hoàn-công.
Công-tử Vận xin thay mặt vua đem lễ-vật sang Tề để rước nàng Văn-khương về Lỗ .
Thế-tử Chư-nhi nghe được tin, giả chước sai cung-nhân đem hoa tặng Văn-khương, trong hoa có giấu một bài thơ :
Hoa đào đang độ hây hây
Ðượm tình thơ mộng những ngày xa xưa.
Càng hoa hé cửa song thưa,
Tiếc thay ! Con bướm vẫn chưa đi về.
Văn-Khương xem thơ hiểu ý, đáp lại rằng :
Vườn xuân một cánh hoa đào
Năm nay chưa bẻ, hẹn vào năm sau
Hửng-hờ bóng nguyệt canh thâu
Hoa xuân đâu đã phai màu thời gian.
Chư-Nhi đọc bài thơ ấy, biết Văn-Khương có dạ tưởng mình, lòng càng mơ mộng.
Cách đó vài hôm, Công-tử Vận đem lễ vật đến nước Tề.
Tề hi-Công quá thương con gái, nên có ý thân hành đưa Văn-khương sang Lỗ.
Chư Nhi biết được ý- định, vào quỳ tâu :
– Nay phụ-thân gã tiện-muội cho vua Lỗ, đó là việc rất hay, hai nước càng thân thân mật. Song vua Lỗ đã không sang đón, mà phụ-thân lại phải đưa đến, e thất thế đi chăng. Xin phụ-vương giao việc ấy cho con thay mặt cũng được.
Tề hi-công nói :
– Ta đã hứa đích thân đưa Văn-khương qua Lỗ, thì nay không thể thất tín.
Nói vừa dứt lời, được tin Lỗ hoàn-công thân hành đến đất Hoan, thuộc nước Lỗ, để tiếp đón .
Tề hi-công nói :
– Lỗ hoàn-công là một người trọng lễ, sợ ta đi xa mệt nhọc nên đến nữa đường tiếp đón, ta há lại thất lễ sao !
Chư-nhi buồn bã nín lặng bước ra, đợi đến lúc khởi hành, giả vờ đến tiển em, ghé vào tai Văn-Khương nói nhỏ :
– Em chớ quên những lời trong thơ hôm trước.
Văn-khương, lòng bịn rịn nhìn anh đáp :
– Xin anh cứ an tâm, ngày xuân còn dài, lo gì không có lúc hội ngộ.
Tề hi-công trao việc quốc-chính lại cho Thế-tử Chư-nhi, rồi cùng Văn-khương lên đường.
Ðến đất Hoan , Lỗ hoàn Công đã bày sẳn tiệc lễ đợi chờ.
Hai bên gặp nhau vui vầy khôn xiết .
Tiệc mãn , Tề hi Công cáo từ trở về nước, còn Lỗ hoàn-công đưa Văn-khương về kinh- đô làm lễ giao-bôi.
Kế đó Tề hi-công lại sai Di trọng-niên đem lễ vật đến để thăm viếng .
Từ đấy mối tình của hai nước rất nên khắn khít .
Ðây nhắc qua tại triều Châu, từ khi vua Hoàn vương hay được tin Trịnh trang-Công giả mệnh mình đem quân đánh Tống, lòng căm giận vô cùng , khiến Quách công Lâm-phủ bỉnh-chánh một mình không thèm dùng Trịnh trang-công nữa.
Trịnh trang-công hay được tin ấy cũng giận vua nhà Châu , năm năm không vào triều yết-kiến.
Một hôm Hoàn-vương nói với các quan :
– Trịnh ngộ-sanh vô lễ, nếu không cử binh sang đánh Trịnh thì làm sao răn được các chư-hầu ?
Quách-công tâu :
– Tâu Bệ-hạ Trịnh có công lao lớn với triều đình, nay bị cất quyền mà phật ý không vào yết-kiến. Xin Bệ-hạ cứ viết chiếu đòi va vào triều mà trách mắng .
Hoàn-vương nổi giận, nói :
– Ta không thể nào dung thứ những đứa tôi loàn như vậy, các khanh chớ can gián làm chi.
Bèn hạ chiếu khiến nước Sái , Vệ, Trần cất binh sang đánh Trịnh.
Lúc bấy giờ ở nước Trần, Công-tử Ðà đã giết Thế-tử Vân con trai lớn của Trần-hầu mà đoạt ngôi.
Người trong nước không phục, bỏ đi rất nhiều.
Do đó, Công-tử Ðà không dám trái lệnh vua Châu , sai Bá viên-chư làm tướng, đem quân thẳng qua nước Trịnh.
Sái , Vệ cũng đã cất quân theo nhà Châu đi phạt Trịnh.
Trịnh trang-công hay được tin, họp các quan lại bàn :
– Nay Châu hoàn Vương ngự giá thân chinh, sai Quách-công Lân-phủ và Châu-công Hắc-kiên thống-lảnh đại binh hiệp với quân ba nước Trần, Vệ, Sái mà đánh ta. Vậy các quan có ý chi chăng ?
Tế-Túc tâu :
– Thiên tử ngự giá thân chinh phạt Trịnh, bắt tội Chúa-công không vào chầu là lẽ chính đáng. Xin Chúa-công cho người đến tạ tội để đổi dữ ra lành thì hay hơn.
Trịnh trang-công nổi giận nói :
– Vua đã đoạt quyền bính của ta, lại còn đem binh đến đánh ta nữa, không nghĩ đến công lao của họ Trịnh hai đời xây dựng sự nghiệp nhà Châu. Như vậy sai lại gọi là chính đáng ?
Cao cừđi nói :
– Nước Trần thuở nay rất thân thiện với Trịnh, nay lại đem binh đánh Trịnh đó là điều bất đắc dĩ. Duy có Vệ và Sái, cừu hận với ta, hai nước ấy đem binh đến đây ắt cố đánh. Hơn nữa, Thiên-tử đang cơn thịnh-nộ, nhuệ khí đang hăng, ta phải thủ thành chờ cho lòng quân giải đãi rồi sẽ đánh.
Quan Ðại-phu là Công-tử Ngươn nói :
– Làm tôi mà nghịch với vua là trái đạo rồi ! Việc phải lo cho gấp nếu trì hoãn ắt thất bại. Tôi tuy bất tài song cũng xin hiến một kế.
Trịnh trang-công hỏi :
– Kế ấy như thế nào ?
Công-tử Ngươn nói :
– Binh của Châu-vương chia làm ba đạo thì quân ta cũng phải chia làm ba mặt mà đánh.
Trịnh trang-công nói :
– Kế ấy có gì là hay ?
Công-tử Ngươn tâu :
– Tâu Chúa-công, cái hay ở chổ nắm được địch tình. Nay nước Trần , Công-tử Ðà tuy đem quân sang đánh nhưng lòng quân miễn cưởng , ta thừa thế đem quân chủ-lực đánh vào chỗ yếu. Hễ binh nước Trần tan vỡ, Vệ và Sái ắt phải kéo binh chạy theo. Chừng ấy ta hiệp binh lại đánh với vua , ắt là trọn thắng.
Trịnh trang-công nói :
– Binh-pháp của khanh thật không kém gì Tử-phòng.
Lúc đang thương nghị xảy có quân vào báo :
– Binh vua đã đến Nhụ-các, đóng ba dãy trại liền-lạc với nhau.
Trịnh trang-công nói :
– Hãy phá chừng một trại thôi . Còn hai trại kia chỉ thị-oai cũng đũ.
Bèn khiến Mạng-bá đem một đạo binh đánh phía hữu, Tề-Túc đem một đạo binh đánh phía tả, còn Trịnh trang-công bổn thân dẫn Cao cừđi , Nguyên-phồn, Hà thúcđoanh và Chúc- đạm thống lãnh đạo trung-quân rầm rộ phát pháo khai binh.
Cao cừ- Di nói :
– Tôi nghe Châu-vương thông thạo binh pháp, chúng ta không nên khinh thường, phải lập trận Ngư-biếc thì mới mong thắng đặng .
Trịnh trang-công hỏi :
– Trận Ngư-biếc là trận gì ?
Cao cừđi nói :
– Phải dùng hai mươi lăm cổ xa làm tiền bộ. Mỗi cổ xa chỉ để hai mươi lăm tên quân chiến- đấu và hai mươi lăm tên quân dự-khuyết. Như thế chỉ tới mà không lui được, quân sĩ sẽ liều chết để thắng địch.
Trịnh trang-công khen hay làm y kế, rồi kéo binh đến Nhụ-các hạ trại.
Châu hoàn-vương nghe tin Trịnh trang-công kéo binh đến nghinh chiến, cả giận, muốn đem binh ra đánh tức thì, Quách-công hết sức can gián vua mới chịu thôi.
Ngày thứ, hai bên vừa lập bày thế trận, Mạng-bá dẫn một đạo binh hùng, xông đến dinh quân Trần mà đánh.
Quân Trần chưa đánh đã bỏ chạy tán loạn.
Tề Túc thừa thế đốc quân áp vào đánh quân Vệ và Sái.
Quân hai nước này địch không lại cũng chạy, làm cho doanh trại đều rối loạn .
Vua Hoàn-vương liền ra lệnh thu quân rút về, vừa chạy vừa chống đỡ.
Chúc- đạm đem quân đuổi theo, thấy nơi trung quân có ngọn tàn che, biết đó là vua Châu, bèn dương cung bắn một mũi.
Mũi tên bay vèo tới trúng nơi vai Châu-vương, nhưng cũng may nhờ Châu-vương mặc giáp dày, nên tên vào không sâu.
Chúc- đạm thừa thế xua quân đuổi theo.
Ðúng lúc nguy cấp xảy nghe trong vòng binh nước Trịnh có tiếng chiêng gióng thu quân .
Chúc- đạm tuân lịnh kéo binh về , còn Châu-vương chạy hơn ba mươi dặm nữa mới dám hạ trại.
Châu-công Hắc-kiên ra mắt vua, tâu việc binh Trần không tình đánh Trịnh.
Châu hoàn-vương nói :
– Cũng bởi trẫm không biết dùng người nên mới thua như vậy.
Còn Chúc- đạm, kéo binh về trại, ra mắt Trịnh trang-công và nói :
– Tôi bắn nhằm vai Châu-vương, và thấy quân Châu cả loạn nên muốn đuổi theo tận diệt cớ sao Chúa-công lại thu quân ?
Trịnh trang-công nói :
– Bởi Thiên-tử bất minh, lấy ơn làm oán, cực chẳng đã ta mới lượt binh đối địch. Lại nhờ sức các khanh mới giữ an bờ cõi, như thế cũng đã đủ rồi, ta còn mong gì hơn nữa . Dẫu khanh có bắt được Thiên-tử cũng chẳng dám phạm đến người .
Tề-Túc tâu :
– Lời Chúa-công rất chí lý. Nay nước Trịnh đã thắng một trận oai hùng, Chúa-công cũng nên sai người đến yết-kiến Thiên-tử tỏ dạ ân-cần để Thiên-tử biết rằng những việc vừa xảy ra không phải là ý muốn của Chúa-công.
Trịnh trang-công khen phải, suy tính một lúc rồi nói :
– Việc này khanh phải đi mới xong.
Nói rồi khiến Tề-Túc đem mười hai con trâu, một trăm con dê , và lúa gạo trăm xe , ra mắt Châu hoàn-vương.
Tề-Túc tuân lệnh, đem lễ vật vào trại Châu hoàn-vương, quỳ móp xuống đất tâu :
– Tâu Bệ- hạ, kẻ tội-thần là Ngộ-sanh không nỡ để xã tắc hư hại, cho nên phải đem binh gìn giữ, không dè trong quân lại phạm đến mình rồng, nên Ngộ-sanh lấy làm lo sợ, khiến ngu thần là Tề-Túc đến chịu tội trước viên môn. Còn những lễ vật này xin dâng cho Bệ-hạ để khao quân. Xin Bệ-hạ đoái tưởng mà dung tha tội vô lễ ấy .
Châu hoàn-vương làm thinh, mặt đầy sắc thẹn.
Quách-Công Lâm-phủ đỡ lời nói :
– Nay Ngộ-sanh đã biết lỗi, xin Bệ-hạ cũng rộng dung cho.
Ðoạn quay qua nói với Tề-Túc:
– Thôi, ngươi hãy lạy tạ ơn đi .
Tề-Túc vội vả lạy tạ lui ra, rồi lại đi khắp các dinh trại thăm viếng tướng sĩ nữa.
Châu hoàn-vương bị thua Trịnh phải kéo binh về, lòng giận không nguôi, muốn truyền lời hịch khắp nơi , triệu chư hầu đem binh phạt Trịnh nữa.
Quách-công can rằng :
– Bệ-hạ đã làm lỡ như vậy nếu còn phạt Trịnh ắt không khỏi bị thua. Vả chăng, chư hầu trừ Vệ, Sái và Trần, còn bao nhiêu đều đồng đảng với Trịnh , nếu Bệ.hạ triệu binh mà họ không đến, lại càng làm cho nước Trịnh khinh dễ thiên-triều. Nước Trịnh đã đến tạ tội , ta nên mượn cớ ấy mà dung tha để cho Trịnh hối lỗi sửa mình .
Trong lúc Châu hoàn-vương mượn binh đánh Trịnh , thì nước Trần sai Bá viên-chư làm tướng, nước Sái sai Sái-quý cầm binh.
Hai tướng này gặp nhau hỏi thăm qua tình hình hai nước.
Sái-quý hỏi Bá viên-chư :
– Tình hình nước Trần có chi khác chăng ?
Bá viên-chư đáp :
– Ngày nay nước tôi, Công-tử Ðà cướp ngôi, lòng dân không phục. Bởi thế quân lính rất hỗn độn, khó mà điều binh lắm !
Sái Quý nói :
– Thế sao không lo thu phục nhơn tâm, làm cho mọi người kính mến ?
Bá viên-chư, mỉm cười lắc đầu nói :
– Cướp ngôi đã là điều bất chánh, làm sao dân phục nổi ! Vả lại Công tử Ðà lại không lo chính-sự, cứ ham-mê săn bắn. Tôi chắc nước Trần sau này sẽ có biến.
Sái Quý nói :
– Ðã vậy thì cứ kể tội Công-tử Ðà mà giết quách đi để tránh tai hại về sau.
Bá viên-chư nói :
– Ðiều đó rất muốn , song vì sức đương không nổi.
Sau khi rút quân về nước, Sái Quý đem chuyện ấy thuật lại với Sái hầu.
Sái hầu nói :
– Công-tử Ðà là một đứa phản loạn, sao lại để nó được an-nhiên ngồi hưởng quyền thế . Nay Thái-tử Vân bị giết thì cháu ngoại ta là Công-tử Dược lên ngôi mới phải.
Sái-quý tâu :
– Muốn giết Công-tử Ðà cũng chẳng khó chi. Tánh Công-tử Ðà ưa săn bắn, ta chờ va ra đi, phục binh mà giết ắt xong.
Sái hầu cho là phải, bèn khiến Sái-quý đem một trărn cổ binh xa, phục nơi Giới-khẩu , rồi cho người đi thám thính.
Chẳng bao lâu quân sĩ về báo :
– Công-tử Ðà đi săn đã ba ngày rồi, nay còn đóng quân nơi Giới-khẩu này .
Sái-quý cả mừng, cải trang làm một người thợ săn , dẫn vài mươi tên quân lần tới .
Vừa gặp lúc Công-tử Ðà đang bắn hạ một con nai, Sái Quý xông vào cướp giựt, rồi cứ đường tắt chạy thẳng về hướng phục binh của mình .
Công-tử Ðà tức giận, giục ngựa đuổi theo.
Bỗng nghe hai bên bụi rậm, tiền quân ó vang dậy, rồi quân binh ào ra như kiến cỏ, bắt Công-tử Ðà trói lại.
Công-tử Ðà chưa hiểu nguyênđo, đang trố mắt nhìn thì Sái-Quý đã quay lại hét lớn :
– Phản tặc, ta đây là Sái-quý em ruột của Sái-hầu đến đây để trừ quân phản-loạn.
Nói xong, vung gươm chém Công-tử Ðà đứt làm hai đoạn.
Rồi kéo binh đến khu rừng chiêu dụ quân-sĩ của Công-tử Ðà rằng :
– Công-tử Ðà vốn là đứa nghịch thần phản phúc, nay ta muốn lập Công-tử Dược lên nối ngôi, các ngươi nghĩ sao ?
Quân sĩ nước Trần đều quỳ mọp xuống đất, nói lớn :
– Nếu được thế thật là hợp lý.
Sái-quý bèn tiến quân vào nước Trần, hiểu dụ nhân dân, rồi tôn Công-tử Dược lên ngôi, tức là trần lệ-công .
Từ đấy, Trần và Sái trở nên thân mật .
Trần lệ-công được lòng dân mến phục, trong nước hưởng cảnh thái-bình.
Lúc bấy giờ tại nước Sở , có vua Hùng-thông là một người cường bạo, tánh hiếu chiến, lại có ý muốn xưng Vương hiệu, nhưng vì thấy chư hầu đều tùng phục nhà Châu, nên không dám. Kế đó , nghe tin nhà Châu vừa thua nước Trịnh, nên có ý dễ ngươi, triệu các quan cận-thần đến bàn tính.
Quan Lịnhđoãn là Ðấu bá-tỷ nói :
– Nước Sỡ bỏ Vương hiệu đã lâu, nếu nay xưng lại e chư-hầu không phục. Xin Chúa-công phải tính kế làrn cho các chư-hầu khiếp oai trước đã.
Hùng-thông hỏi :
– Muốn được vậy phải làm cách nào ?
Ðấu bá Tỷ tâu :
– Các nước Hớn- đông chỉ có nước Tùy là lớn hơn hết. Chúa-Công nên cất binh sang dọa nước Tùy rồi cho sứ sang cầu hòa. Hễ nước Tùy mà đầu phục thì các chư-hầu khác phải nghe theo.
Hùng-thông khen phải, bèn bổn thân đem đại-binh sang đóng nơi đất Hà, rồi cho quan Ðại-phu Viễn-chương vào nước Tùy hòa-giải.
Lúc bây giờ nước Tùy có một tôi hiền là Quý-lương và một nịnh thần là Thiều-sư.
Hai người này luôn luôn có những ý-kiến chống đối nhau.
Tùy-hầu lại tin dùng kẻ nịnh, nên Thiều-sư rất được nhiều quyền thế.
Khi có sứ nước Sở đền giảng-hòa .
Tùy hầu cho đòi cả hai người đến vấn kế.
Quý-lương tâu :
– Nước Sở mạnh, nước Tùy yếu, nay lại đến cầu hòa ắt có điều ám muội. Vậy bề ngoài, ta nên hòa dịu, mà bên trong phải hết sức đề phòng.
Thiều-sư tâu :
– Lời ấy chưa chắc đã đúng, xin Chúa-công cho sang nước Sở để dò xét tình-hình đã.
Tùy-hầu nghe theo, khiến Thiều-sư sang đất Hà để hội- đàm với Sở .
Ðấu bá-tỷ nghe tin sứ nước Tùy là Thiều-sư đến vội vào thưa với Hùng-thông :
– Ta nghe Thiều-sư là người ít trí, chỉ có tài dua-nịnh mà được Chúa nước Tùy yêu. Nay va phụng mạng sang đây ắt cũng để dò la hư thực. Vậy ta nên giấu các đạo binh tinh nhuệ đi , chỉ cho va xem những đội binh lão nhược . Hễ va kiêu-ngạo mà trể-biếng thì mới có cơ thắng dễ dàng được.
Quan Ðại-phu Hùng xuất-ty nói :
– Kế ấy cũng hay, song nước Tùy còn có Quý-lương, ta khó mà che mắt va được.
Ðấu bá-tỷ nói :
– Kế đó không phải lợi cho ngày nay mà sẽ có lợi cho ngày sau đó .
Hùng-thông nghe theo, liền dàn các đội quân lão nhược ra , rồi mới cho đòi Thiều-sư vào ra mắt.
Thiều Sư vào đến dinh Sở , liếc mắt thấy hai bên quân sĩ gầy gò ốm-yếu, liền lên mặt kiêu-căng, hỏi Hùng-thông :
– Hai nước chúng ta bờ cõi ai nay giữa cần gì quí-quốc phải nói đến chuyện giải hòa ?
Hùng-thông giả vờ nói :
– Nước tôi mấy năm liên tiếp bị mất mùa , dân chúng đói khổ. Sợ e các lân-bang đến hiếp chế nên phái cầu hòa với quý quốc , để nhờ nhau trong lúc hoạn nạn.
Thiều-sư nói :
– Quí quốc bất tất phải lo ngại. Các nước chư-hầu bên Hớn- đông này đều thần phục nước tôi cả .
Hùng-thông bèn cùng với Thiều-sư kết ước.
Ðoạn hai đàng giã biệt ai về nước nấy.
Thiều-sư về đến Kinh- đô, vào yết kiến Tùy-hầu, thuật lại tình hình quân binh nước Sở già nua, hèn yếu , rồi tiếp :
– Nước Sở sau khi kết-ước họ lui binh trở về tức khắc. Ðiều đó tỏ rằng nước Sở rất sợ Tùy. Xin Chúa-công cấp cho tôi một đạo binh để đuổi theo đánh cho tan tành. Làm như vậy từ nay nước Sở sẽ không dám dòm ngó đến nước Tùy nữa.
Tùy-hầu nghe nói, còn đang lưỡng lự, Quý-lương vội quỳ tâu :
– Tâu Chúa-công, nước Sở từ đời Phấn-mạo đến nay hùng cứ Giang-hớn , binh lương hùng mạnh. Nay Hùng-thông là một kẻ hiếu chiến, đến đây cầu hòa ắt mưu độc kế, nếu Chúa-công cho ra quân, e lầm mưu nước Sở đó.
Tùy-hầu rũ quẻ thầy điềm xấu, nên không cho Thiều-sư cất quân nữa.
Sở Hùng-thông kéo binh về, nghe được tin Quý-lương can Tùy-hầu không cho rượt theo mình, bèn đòi Ðấu bá-tỷ đến hỏi :
– Nay ta không gạt được nước Tùy để gây hấn, khanh có kế gì khác chăng ?
Ðấu bá-tỷ nói :
– Bây giờ phải làm kế hội các nước chư-hầu nơi Thẩm-lộc, thuộc nước Sở. Nếu Tùy-hầu không đến, ta sẽ cất binh sang đánh về tội bội ước.
Hùng-thông chuẩn tâu, sai sứ đi khắp các nước Hớn- đông mời đến đất Thẩm-lộc để phó hội.
Các nước đều tề-tựu đũ mặt, duy có nước Hoàng và Tùy không đi dự.
Hùng-thông bèn cho hai sứ-giả Cừ-chương và Khuất-hà sang hai nước Hoàng và Tùy để trách-cứ .
Nước Hoàng cho người đến tạ tội . Còn nước Tùy vẫn im lìm, không nói gì cả.
Hùng-thông lấy cớ ấy, cất quân sang đánh Tùy ; binh tướng đóng đồn nơi sông Hoài và sông Hớn.
Tùy-hầu nghe được tin, vội vã họp các quan thương nghị.
Quý-lương tâu :
– Nước Sở mới họp chư-hầu, thế rất mạnh, quân ta khó thắng nổi. Theo ý tôi, nên sai sứ đến cầu hòa. Nếu nước Sở lui binh ta giử niềm hòa-hảo, bằng cố đánh, quân-sĩ nước ta sẽ căm phẩn. Chừng ấy, ta lấy nhân-tâm làm sức mạnh mà thắng địch.
Thiều-Sư nghe nói cười xòa :
– Sao ngài lại nhát gan đến thế. Ðáng gì một mớ binh lao, mã liệt của nước Sở mà phải hạ mình đi cầu hòa. Nếu ta không đánh gấp e binh Sở lại có thì giờ rút về nước, thì uổng lắm !
Tùy-hầu nghe theo lời Thiều-sư, bèn phong Thiều Sư làm chức Nhung-hữu, Quý-lương làm Ngự-xa, còn bổn thân dẫn đạo trung quân kéo đến đóng dưới chân núi Thanh lâm-sơn mà nghênh chiến .
Sau khi xem xét địch tình, Quý-lương nói với Tùy-hầu :
– Quân Sở chia làm hai đạo. Theo phong-tục nước Sở , đạo tả quân là chính, ắt có vua Sở ngự nơi đây, và có nhiều tinh binh hộ-giá. Vậy ta nên đánh vào phía hữu để uy-hiếp địch trước.
Thiều-sư nói :
– Ðã đem binh đi đánh giặc mà còn sợ không dám đánh vào bộ đầu não của địch thì thật là kẻ không biết dụng binh. Xin Chúa-công cứ cho đánh vào đạo binh phía tả để bắt vua Sở , kẻo rnất thì giờ vô ích.
Tùy-hầu nghe theo, đốc binh xông vào phía tả.
Bên Sở mở trận cho quân Tùy kéo vào.
Vừa đến giữa trận , binh-phục của Sở nổi dậy, ó lên một tiếng kéo nhau vây phủ tứ bề.
Thiều-sư giao chiến với tướng nước Sở là Ðấu- đơn chưa đặng mấy hiệp, đã bị Ðấu-Ðơn chém một đao rơi đầu.
Quý Lương thấy thế đã nguy, liều chết phò Tùy-hầu mở đường máu mà chạy.
Tùy-hầu phải cởi bỏ mũ áo, lộn trong đám tàn-quân mới thoát nổi vòng vây.
Chạy ước năm dặm, Tùy-hầu mới đám dừng lại, kiểm điểm binh mã hao hơn phân nữa, bèn nói với Quý-lương :
– Bởi ta không nghe lời ngươi nên mới bị thảm-bại như vầy , Thiều Sư hiện giờ ở đâu ?
Quân-sĩ kể lại việc Thiều-sư bị tử trận , Tùy-hầu thương tiếc chẳng cùng.
Quý-lương tâu :
– Chúa-công chớ tiếc làm chi, bây giờ chỉ còn một kế là nên cầu hòa với Sở, mặc dầu đã muộn, nhưng vẫn còn hơn.
Tùy-hầu nói :
– Bây giờ ngươi liệu thế nào ta cũng chấp-thuận. Vậy ngươi hãy thay ta mà đến dinh Sở xem sao.
Quý-lương tuân lệnh, một mình thẳng đến trại Sở, vào tâu với Hùng-Thông, xin nghị hòa.
Hùng-thông cả giận mắng :
– Chúa của ngươi đã bội-thề, bỏ việc phó hội, lại còn đem binh đánh với ta . Nay bị thua mới đến cầu hòa, hành động ấy tỏ ra kẻ gian dối.
Mặc dầu Hùng-thông thét mắng , nét mặt Quý-lương vẫn thản nhiên, không chút sợ sệt , chậm rãi đáp :
– Ngày trước, nước Tùy vì có Thiều-Sư là một tôi nịnh , ép vua làm điều quấy. Nay Thiều-Sư đã chết, Chúa-công tôi đã ăn-năn . Nếu Hiền-hầu vui lòng giao-hảo để thêm vây cánh, chẳng có lợi cho nước Sở lắm sao ?
Ðấu bá-ty nghe Quý-lương nói, bèn tâu với Hùng-thông :
– Thiều-sư chết, quả lòng trời chưa muốn nước Tùy diệt . Vậy ta không nên trái ý trời. Xin Chúa-công hãy xử hòa, lợi dụng nước Tùy làm đầu xướng cho các nước Hớn- đông ca tụng nước Sở , rồi Chúa công nhân đó xưng đỡ vương-hiệu đặng trấn phục Manđi, như vậy có lợi cho nước Sở hơn .
Hùng-thông nghe theo lời Ðấu bả-ty, bèn khen Viên-Chương nói riêng với Quý-lương rằng :
– Chúa tôi có đất Giang Hớn rất rộng, nay muốn tạm xưng vương hiệu đặng có oai mà trị Man di . Ấy nếu Tùy-hầu bằng lòng rũ các chư-hầu đến xin với Châu hoàn-vương việc ấy, thì Chúa-công tôi sẽ ngưng binh mà đợi vương-mạng.
Quý lương ra về , đem việc ấy báo lại với Tùy-hầu.
Tùy-hầu vì sợ sệt , nên rũ các chư hầu Hớn- đông vào triều Châu, xin cho Hùng-thông được tạm xưng vương-hiệu.
Châu hoàn-vương không thuận ý, khiến các chư-hầu phải cúi lạy , lui về .
Hùng-thông nghe tin nổi giận nói :
– Tiên nhân của ta là Giục-Hùng có công giúp Văn vương , Võ-vương dựng nên nhà Châu, thế mà lại phong cho một nước Sở nhỏ bé nơi núi Kinh-sơn . Ðã bao nărn ta đánh dẹp Manđi mở mang bờ cỡi, mà không hưởng được một tấc công lao . Trong lúc ấy Trịnh trang-công bắn vai vua, vua vẫn bỏ qua không vấn tội . Công không thưởng, tội không phạt, thì bảo các chư-hầu phải kính nễ làm sao ! Vả chăng, Tiên-quân của ta trước kia đă có xưng vương-hiệu, thì nay ta xưng vương cũng chỉ là phục chức cũ mà thôi, chẳng cần phải chờ Châu-vương thuận-ý.
Nói rồi , tự lập mình lên làm Sở võ-vương, giao hòa với Tùy-hầu rồi kéo binh về nước.
Các nước chư-hầu miệt Hớn- đông nghe nước Sở xưng Vương-hiệu đều sai sứ đến chúc mừng.
Châu hoàn-vương hay tin, giận lắm nhưng không dám cất binh vấn tội, đành làm lơ.
Từ đó, nhà Châu càng ngày càng suy yếu, nước Sở mỗi ngày một cường thịnh.
Sau Hùng-thông chết, truyền ngôi lại cho con là Hùng-xi , dời đô sang đóng nơi đất Dĩnh, âm-mưu xâm phạm bờ cõi nhà Châu.
Nói về Trịnh trang-công, từ khi đánh thắng nhà Châu trở về, trong nước thái bình, lo sửa sang triều chính, phong cho Công-tử Ngươn đất Lịch-ấp, các quan đại thần cũng đều được phong thưởng , duy chỉ có Chúc- đạm không không được ân-huệ nào cả.
Chúc- đạm buồn ý, vào triều khiếu-nại.
Trịnh trang-công nói :
– Ngươi đã bắn trúng Thiên-tử, nếu ta phong chức cho ngươi , e mang tiếng với thiên-hạ.
Chúc- đạm ngậm hờn, nhưng không dám nói.
Về đến tư dinh phát sanh chứng ung-thư mà thác.
Trịnh trang-công ban cấp tiền bạc cho gia đình vợ con, rồi lo việc tống táng rất trọng hậu .
Qua đến năm thứ mười chín, đời Châu hoàn-vương, Trịnh trang-công lâm bịnh rất nặng.
Biết mình không thể sống được lâu, bèn kêu Tề-Túc đến bên giường nói :
– Ta có cả thảy mười một đứa con, trừ Thế-tử Hốt ra, thì còn có Công-tử Ðột, Công-tử Vĩ, Công-tử Nghi đều là những người có nhân-cách. Trong số đó, ta xét thấy Công-tử Ðột tài trí hơn cả. Ta muốn truyền ngôi cho Ðột chẳng biết ý khanh thế nào ?
Tế-Túc tâu :
– Tâu Chúa-công. Thế-tử Hốt là trưởng-tử, được Chúa-công phong tước, lâu nay lập nhiều công trạng, lại được dân chúng kính vì. Nay Chúa-công muốn bỏ trưởng mà lập thứ, hạ thần rất khó phụng mệnh.
Trịnh trang-công nói :
– Ta vẫn biết Công-tử Ðột thuộc dòng thứ, song tánh Ðột ngang-ngạnh, không chịu ở dưới ai. Vì muốn cho gia- đình thảo thuận , ta mới có ý đó. Tuy nhiên, xét lại làm như vậy sẽ không đúng đạo nhân luân. Thế thì phải đưa Công-tử Ðột đến ở một nước khắc mới yên nhà, yên nước được.
Tề-túc nói :
– Biết ý con không ai hơn là cha. Vậy xin Chúa-công cứ định liệu.
Trịnh trang-công thở dài nói :
– Thế là từ nay nước Trịnh sắp phải trải qua bao nhiêu tai biến .
Nói rồi đòi Công-tử Ðột dạy phải sang nước Tống mà cư ngụ.
Khi Trịnh trang-công mất, triều thần tôn Thế-tử Hốt lên nối ngôi, xưng là Trịnh chiêu-công.
Trịnh chiêu-công sửa sang việc triều chính.
Sai sứ sang kết giao với các nước chư-hầu, và sai Tề-Túc sang Tống để dò xét tin-tức Công-tử Ðột.
Nguyên mẹ Công-tử Ðột là con Ung-thị, người nước Tống , hiện dòng dõi Ung-thị đang được Tống trang-công mến yêu. Khi Công-tử Ðột sang Tống, tỏ ý với Ung-thị muốn cướp ngôi Thế-tử Hốt.
Ung-thị liền vào yết kiến Tống trang-công, kể rõ sự tình.
Tống trang-công có ý muốn giúp Công-tử Ðột tiếm vị.
Kế nghe Tế-Túc sang Tống cầu hòa, Tống trang-công mừng rỡ nói :
Chỉ dùng một mình Tề-Túc cũng đủ cho Công-tử Ðột trở về lên ngôi nước Trịnh được.
Bèn sai tướng Nam-cung Trường-vạn mai phục sẵn một đoàn giáp sĩ , đợi Tề-Túc đến để thi kế.
Tề-Túc vào triều bái Tống trang-công vừa rồi, thì quân giáp-sĩ lẹ làng nhảy ra thộp ngực Tề-Túc trói lại.
Tề-Túc la lớn :
– Kẻ ngoại-thần này có tội chi mà trói ?
Tống trang-công nói :
– Ngươi cứ an lòng vào chốn quân phủ rồi sẽ thấy tội lỗi.
Quân Giáp-sĩ dẫn Tế-Túc đem giam vào quân phủ canh gác rất cẩn mật.
Ðêm ấy, quan Thái-tể nước Tống là Hoa- đốc đem rượu thịt đến quân-phủ thăm Tề-Túc.
Tề-Túc hỏi :
– Chúa tôi cho tôi sang đây để giao hảo, xét mình không có tội gì sao quí quốc lại có ý xử bạc ?
Hoa- đốc nói :
– Không phải thế đâu ! Ai cũng biết Công-tử Ðột là con nhà họ Ung, hiện được vua Tống quí mến. Nay Công-tử Ðột cư ngụ nơi nước Tống, lẽ nào vua Tống lại không giúp đỡ.
Tề-túc nói :
– Giúp đỡ Công-tử Ðột bằng cách đối xử với tôi như thế .
Hoa- đốc nghe nói mỉm cười rồi đáp :
– Ðúng vậy ! Vua Tống thấy Thế-tử Hốt nhu nhược, không đáng lên nối ngôi, muốn lập Công-tử Ðột lên kế vị, nếu ngài bằng lòng việc ắt được trọng đãi.
Tề-Túc cau mày nói :
– Thế-tử Hốt phụng mệnh Tiên-công mà nối ngôi. Nay phế lập ắt lòng dân không thuận .
Hoa- đốc nói :
– Việc phế lập là việc thường trong thiên hạ, của những kẻ có sức mạnh. Nếu ngài thuận ý sẽ được Chúa-công tôi giúp sức.
Tề-túc nói :
– Thôi xin ngài hãy trở về tưđinh mà an nghỉ. Tôi không thể chiều ý được
Hoa- đốc nói :
– Nếu thế thì tôi cũng chưa về được, vì lần này là lần chót mà tôi được hội-kiến với ngài. Ngài đã không nghe lời, Chúa-công tôi sẽ sai tướng Nam-cung Trường-vạn đem quân đưa Công-tử Ðột về nước để lên ngôi. Và trước khi làm cái việc đó, Chúa-công tôi buộc lòng phải khai đao chém ngài trước.
Tề-túc túng thế phải vâng lời .
Hoa- đốc chưa tin , nói :
– Nếu ý ngài đã quyết xin thề lên một tiếng.
Tề-Túc thề rằng :
– Nếu tôi không lập Công-tử Ðột lên ngôi, xin đất trời tru diệt !
Hoa- đốc đem việc ấy tâu lại với Tống trang-công.
Hôm sau Tống trang-công cho vời Công-tử Ðột vào hậu cung, nói :
– Nay nước Trịnh đã lập Thế-tử Hốt lên ngôi , lại sai người đem mật thư đến đây bảo ta ngầm giết Công-tử thì sẽ hiến ba thành mà tạ ơn. Lòng ta không nỡ , muốn đưa Công-tử trở về Trịnh nối ngôi , ý Công-tử như thế nào ?
Công-tử Ðột sụp lạy, tâu :
– Tâu Chúa-công , tôi mang thân sang đây, việc sống chết đều nhờ tay Chúa-công định liệu. Nếu tôi được nối ngôi , Chúa-công muốn gì mà chẳng được, cần gì phải dâng ba thành .
Tống trang-công rất mừng, nói :
– Ta đã bắt Tế-Túc giam ở Quân-phủ, cốt dùng vào việc này .
Nói xong, đòi Tề-Túc và Ung-thị đến nói rõ ý muốn của mình.
Lại bắt Công-tử Ðột làm tờ cam kết nếu được lên ngôi phải dâng ba thành, một trăm đôi bạch-bích, một vạn nén vàng-kim, và hàng năm phải nộp ba vạn hộc thóc.
Tuy vậy, Tống trang-công vẫn thấy chưa đũ bảo đảm sau này , bèn bắt Tề-Túc phải gả con gái cho con trai Ung-thị là Ung-củ, rồi dẫn Ung-củ về Trịnh phong cho chức Ðại-phu để coi sóc công việc làm của Công-tử Ðột.
Trước tình thế đó Tề-Túc không dám cải lời, đành phải tuân theo.
Bấy giờ Công-tử Ðột cùng với Ung-củ giả dạng làm lái buôn theo Tề-Túc về nước Trịnh.
Về đến nơi, Tề-Túc dẫn hai người vào tưđinh, rồi cáo bịnh không vào chầu.
Lại khiến quân giáp-sĩ phục khắp nơi.
Các quan nghe tin Tề-Túc bị bịnh kéo đến vấn an.
Nhưng khi vào nhà thấy Tề-túc vẫn khoẻ mạnh như thường, mặt mày tươi tắn, lấy làm lạ hỏi :
– Tướng-quân không có bịnh, cớ sao viện cớ không vào chầu ?
Tề-túc đáp :
– Thân ta không có bịnh mà nước ta đang có bịnh !
Các quan không hiểu đều ngơ ngác nhìn.
Tề-túc nói tiếp :
– Ngày trước Tiên-công đưa Công-tử Ðột sang trú-ngụ nơi nướcTống, nay Tống sai tướng Nam-cung Trường-vạn đem quân đánh mà lập Công-tử Ðột lên ngôi. Vậy các quan có kế gì chống lại chăng ?
Các quan đều ngơ ngác nhìn nhau, nín lặng.
Tề-Túc nói tiếp :
– Muốn tránh tai nạn cho nước Trịnh không gì hơn là phải lập Công-tử Ðột lên ngôi . Hiện Công-tử Ðột đã có mặt nơi nhà tôi. Ý các quan thế nào cho biết ?
Cao cừđi trước đây có bất bình Thế-tử Hốt về việc ngăn cản Trịnh trang-công không cho phong chức Thượng-khanh cho mình , nhơn cơ hội này liền đứng dậy rút gươm nói :
– Tướng-công định như thế thật là phúc cho nước Trịnh đó . Các quan ngỡ Cao cừđi và Tề-Túc đã xếp đặt trước, ai này đều sợ sệt cuối đầu tuân theo.
Tề-túc liền mời Công-tử Ðột ra ngồi trên sập, rồi cùng Cao cừđi cúi lạy.
Các quan không biết làm thế nào cũng phải lạy theo .
Kế đó, Tề-Túc làm một tờ biểu lấy đũ chữ ký của các quan dâng lên cho Trịnh chiêu-công.
Trong biểu đại-khái nói : Nước Tống cất binh đưa Công-tử Ðột về Trịnh. Chúng tôi không thể phụng thờ Chúa-công được nữa.
Ðồng thời, Tề-Túc lại viết mật thư trao riêng cho Trịnh chiêu-công.
Trong thư nói :
Chúa công nối ngôi là điều không phải ý của Tiên-công. Ðó là do tôi đã cán đán . Khi tôi đi sứ, nước Tống lại bắt giam tôi, ép lập Công-tử Ðột lên kế vị. Tôi thiết nghĩ, nếu đem thân liều chết, e không giúp ích được cho Chúa-công sau này. Vì vậy ép lòng phải nhận lời. Nay các quan đều sợ nước Tống mà nghe theo, xin Chúa-công khá mau tìm nơi lánh nạn để chờ cơ hội phục-nghiệp. Lòng tôi có trắc-ẩn xin Hoàng-thiên tru diệt.
Trịnh chiêu-công xem tờ biểu-chương và bức mật thư xong xét thấy mình cô thế, không còn ai giúp đỡ nữa, bèn bỏ trốn sang nước Vệ .
Công-tử Ðột lên ngôi, xưng hiệu là Trịnh lệ-công.
Mọi việc quốc chính đều giao cho Tề-Túc.
Tề-Túc giữ lời, gả con gái cho Ung-Củ, và xin Trình lệ-công phong cho Ung-Củ làm chức Ðại-phu .
Khi còn ở bên Tống , Trịnh lệ-công chơi thân với Ung-củ, nên nay Ung-củ rất được tin dùng, không kém gì Tề-Túc.
Việc Trịnh lệ-công tiếm ngôi không làm cho dân-chúng phẫn uất lắm. Duy có Công-tử Vĩ và Công-tử Nghi tỏ ý bất bình, lại sợ lâm hại đến bản thân nên Công-tử Vĩ trốn qua nước Sái, còn Công-tử Nghi trốn qua nước Trần lánh nạn.
Tống trang-công hay được tin Trịnh lệ-công đã tức vị , vội sai sứ đến chúc mừng.
Sứ Tống sang Trịnh tuy là bề ngoài để chúc mừng, song bên trong cố đòi các lễ vật đã giao ước.
Trịnh lệ-công thấy vậy, kêu Tế-Túc hỏi :
– Trước kia, vì muốn nối ngôi nên vua Tống yêu-sách bao nhiêu ta cũng phải chịu. Nay mới vừa lên ngôi, chưa đặng bao lâu mà phải dâng ba thành, cùng các lễ vật cho Tống, thì các kho tàng sẽ trống rỗng, các chư hầu sẽ cười ta, biết liệu làm sao .
Tế-Túc nói :
– Bây giờ phải trả lời với Tống trang-công là nhân-tâm chưa định, nếu giao đất cát e có biến. Vậy xin đem sưu thuế ba thành mà nạp còn ngọc-bích cùng vàng lụa thì ba phần trả một, số lúa hẹn năm tới sẽ đong.
Trịnh lệ-công nghe theo, viết thư trả lời cho vua Tống, xin nạp ba chục bích ngọc và ba nén vàng ròng, kỳ dư hẹn lại năm tới sẽ tính.
Sứ giả mang thư về .
Tống trang-công cả giận mắng :
– Kẻ đã chết đi, được ta cứu sống, đưa lên địa-vị, giầu sang, lẽ ra phải biết ơn ta mới phải, sao lại hẹp hòi ?
Nói rồi, sai sứ trở lại nước Trịnh, quyết đòi cho đủ số nợ mới nghe .
Lần này Trịnh lệ-công cũng lại bàn với Tế-Túc, rồi đem nạp hai vạn thùng thóc mà thôi .
Sứ giả trở về, Tống trang-công vẫn không bằng lòng, sai đi lần nữa, bảo Trịnh lệ-công rằng :
– Nếu không nộp đủ số tiền nợ đã giao ước, Tế-Túc phải qua thương-thuyết lại mới được.
Tế-Túc thấy Tống trang-công xử sự như thế, bèn nói với Trịnh lệ-công :
– Nước Tống vốn mang ơn Tiên-công ta nhiều lắm, thế mà ngày nay cậy chút công lao quên điều nhân nghĩa . Vậy xin Chúa-công cho tôi sang Tề và Lỗ nhờ hai nước ấy can thiệp giùm mới được.
Trịnh lệ-công nói :
– Biết Tề và Lỗ có vì ta mà can thiệp chăng ?
Tế-Túc nói :
– Trước kia Tiên-công ta đi đánh nước Hứa và Tống được Tề và Lỗ giúp sức. Mối tình ấy chưa mờ phai . Lỗ-hầu được lên ngôi cũng nhờ Tiên-công ta đó . Nếu Tề phụ bạc, thì Lỗ không lẽ chối từ .
Trịnh lệ-công nói :
– Muốn làm cho Tống trang-công khỏi ác cảm với ta thì phải dùng kế chi ?
Tế-Túc nói :
– Trước kia vua nước Tống bị giết, lập con vua là Công-tử Bằng, Tiên-công ta cùng Tề với Lỗ đều giúp việc ấy . Sau đó, Tống có đem một cái vạc lớn mà tặng cho Lỗ, lại đem một cái chén ngọc, tặng cho Tiên-công để đền ơn. Nay tôi sang Tề và Lỗ, nhờ hai nước ấy thương thuyết với Tống đem trả cái chén ngọc ấy, để Tống nhớ chuyện cũ mà thẹn , không đám kể công nữa.
Trịnh lệ-công nghe nói mừng rỡ khen Tế-Túc là mưu lược , vội sai sứ giả mang lễ vật rất hậu đến nước Tề và Lỗ để thương-thuyết việc ấy.
Sứ Trịnh qua Lỗ kể hết đầu đuôi sự việc.
Lỗ-hầu cười lớn, nói :
– Trước kia Chúa Tống chỉ đem đến cho ta một cái vạc, mà ta còn giúp đỡ thay, huống chi nay Trịnh-hầu đem lễ vật rất nhiều , lẽ nào ta lại làm lơ.
Bèn nhận lễ vật , hứa sẽ can thiệp.
Sứ Trịnh tạ ơn lui về.
Còn sứ-giả của Trịnh sang Tề cũng thuật lại đầu đuôi sự việc .
Tề hi-công vốn có cảm-tình với Thế-tử Hốt, song Tề hi-công nhớ đến công trạng của Thế-tử Hốt giúp mình thắng giặc Bắc-nhung, nên lòng không vui, hỏi sứ-giả :
– Thế-tử Hốt bị tội gì mà nước Trịnh lại phế đi lập Công-tử Ðột ? Ta nhất định hưng binh vấn tội, đừng hòng đem lễ vật đến nhờ ta !
Nói xong, trả hết lễ vật, đuổi sứ về nước.
Sứ-giả trở về thuật.lại mọi việc.
Trịnh lệ Công thất kinh, nói với Tế-Túc :
– Nước Tề đã không nhận giúp , ắt nay mai kéo binh đến vấn tội . Ta phải lập mưu gì mà cự địch ?
Tế-Túc nói :
– Xin Chúa-công chớ lo. Tôi xin chỉnh tu binh mã để phòng cái ngày đó.
Trịnh lệ-công nơm-nớp lo âu, nhưng không biết làm sao hơn , đành lặng thinh mà chờ ngày binh biến.
Giữa lúc đó thì Lỗ hầu sai sứ sang mời Tống đến đất Phó-chung để phó hội mà bàn việc giúp Trịnh.
Trong cuộc hội kiến Lỗ hoàn-công đem việc Trịnh lệ-công nhờ mình mà nói lại.
Tống trang-công nói :
– Trịnh đột trước kia chỉ là một cái trứng, nhờ tôi ấp cho nở ra, nay được làm chúa một cõi sơn-hà lại quên điều ước hẹn. Hiền-hầu bắt tôi ngồi yên được sao ?
Lỗ hoàn-công nói :
– Ngài đã gia ơn cho Trịnh, thì Trịnh nào dám quên. Ngặt vì nối nghiệp chưa bao lâu, kho tàng thiếu hụt, chưa thể thanh-toán nổi cùng một lúc. Vậy tôi xin bảo lãnh món nợ ấy cho.
Tống trang-công nói :
– Ðược ! Số vàng ngọc có thể nói là kho tàng thiếu thốn còn như giao đất ba thành chỉ một lời là xong, thế mà Trịnh đột không nói đến thật quả đứa bội nghĩa.
Lỗ hoàn Công nói :
– Ðất của tiền-nhân, nếu Trịnh lệ-công đem giao cho nước khác e thiên hạ chê cười, lòng dân không phục, nên mới đem số thuế ba thành mà nạp cho Hiền-hầu. Tôi nghe Trịnh đã đem đến mấy muôn hộc lúa nạp cho nước ngài rồi mà !
Tống trang-công nói :
– So với điều ước thì có thấm vào đâu. Việc này tôi không thể nào bỏ qua được, xin Hiền-hầu chớ nhọc công.
Thấy Tống trang-công khăng khăng cố chấp, Lỗ hoàn-công tức giận bỏ ra về, sai sứ sang nước Trịnh thuật lại cho Trịnh lệ-công hay.
Trịnh lệ-công liền khiến Ung-củ đem cái chén ngọc đến nhờ Lỗ-hầu thương lượng với Tống , trả thay vào việc nộp đất ba thành , lại đem thêm ba mươi cặp bạch-bích, hai ngàn nén vàng kim nữa.
Thấy vậy Lỗ hoàn-công cũng nễ lòng thân hành sang trước Tống một phen nữa.
Lần này hai vua gặp nhau nơi đất Cốc-châu .
Lỗ hoàn-công nói :
– Hôm trước Hiền-hầu trách Trịnh không nạp đũ lễ vật , nên nay Trịnh lại cậy tôi đến nạp thêm.
Tống trang-công không nói một lời cám ơn, lãnh đạm hỏi :
– Còn đất ba thành bao giờ mới nạp ?
Thái độ ấy làm cho Lỗ hoàn-công bất bình, song đã trót làm ơn cho Trịnh, đành nén giận, nói :
– Trịnh đột không thể vì ơn riêng của mình mà cắt đất đem nạp cho một nước khác. Nay xin dâng vật này để thế cho ba thành.
Ðoạn, khiến quân đem lễ vật vào.
Tống trang-công nghe nói đến hai tiếng ơn riêng , lòng đã bất bình lại thấy quân đem đến dâng một chiếc chén ngọc chiếc chén mà trước kia nước Tống đã khấn-lễ cho nước Trịnh, lòng thêm bực tức , mặt sầm lại, nói :
– Vật này để làm gì ?
Lỗ hoàn-công đáp :
– Ngày trước, vì nước Trịnh có chút ơn riêng với quí-quốc, nên được quí-quốc tặng cho bảo-vật ấy. Nay Trịnh đột nghĩ lại không dám tham-lam, gởi qua trả lại quí-quốc để quí-quốc xét tình mà tha cho việc nạp đất, thì không những Trịnh đột mang ơn , mà Tiên-công cũng rất lấy làm may mắn.
– Việc ấy đã chôn sâu trong dĩ-vãng, đâu có liên quan gì với hiện tại ?
Lỗ hoàn-công nghe nói trố mắt nhìn, không làm sao hiễu được câu nói của kẻ tham lam.
Vừa lúc ấy có sứ nước Yên là Yên-bá đến xin ra mắt.
Tống trang-công cho vào.
Yên-bá bước đến thi lễ, và nói :
– Nước tôi giáp với nước Tề, thường bị binh Tề kéo vào quấy nhiễu, dân chúng không an. Nay tôi vưng lệnh Yên-chúa đến đây nhờ Chúa-công điều đình giúp với Tề, cho nước tôi được sống trong cảnh yên vui.
Tống trang-công nhận lời.
Lỗ hoàn-công nói :
– Nước Tề vẫn có cựu hiềm với nước Kỷ nữa, vì thế năm nào cũng đem quân đánh phá. Nếu ngài điều giải giúp nước Yên thì tôi cũng sẽ xin nói giúp cho nước Kỷ , để bá tánh khỏi nạn binh đao.
Kế đó ba nước Lỗ, Tề và Yên cùng tuyên thệ kết thân với nhau , rồi chia tay ra về.
Tống trang-công lại khiến người qua nước Trịnh đòi nợ mãi .
Trịnh lệ-công không biết làm sao , sai sứ sang nước Lỗ khẩn cầu một phen nữa.
Lỗ hoàn-công bất đắc dĩ phải cho người sang trình vua Tống họp nơi đất Hư-qui để quyết định việc nước Trịnh .
Tống trang-công từ chối, sai sứ đến nói với Lỗ hoàn-công rằng :
– Tống với Trịnh có lời giao ước riêng , xin các chư-hầu chớ can thiệp .
Lỗ hoàn-công nổi giận mắng :
– Dẫu một đứa thường dân mà tham lam, bất tín cũng chẳng ra chi, huống hồ một ông vua !
Bèn lên xe thẳng đến nước Trịnh, bàn với Trịnh cử binh sang đánh Tống .
Vua Tống hay được tin ấy, lòng lo-lắng, lại được nghe nước Tề bất-bình với Trịnh lệ-công, nên nhơn cơ hội sai Công-tử Du qua Tề kể tội Trịnh lệ-công và xin Tề giúp quân đánh Trịnh để phế Công-tử Ðột , phục nghiệp cho Thế-tử Hốt. Mặt khác, cầu hòa giúp cho nước Yên .
Sứ giả đi chưa về , thì có tin từ biên cương báo về : Lỗ với Trịnh hiệp binh đến đánh . Nay đã gần tới đất ThơĐương .
– Quân-lực mạnh hay yếu là đo hành động chính nghĩa hay phi-nghĩa. Bởi ta tham của hối-lộ gây nỗi bất bình nên Lỗ và Trịnh mới có cơ hiệp binh chinh-phạt. Bây giờ ta phải chịu lỗi, giữ niềm hòa hảo cho hợp với lòng dân.
Tướng Nam-cung Trường-vạn nói :
– Giặc đến bên thành, chưa rờ tới lưỡi gươm đã tính việc hạ mình, thế thì còn chi là thể diện nước nhà .
Thái-tể Hoa đốc nói :
– Lời của Trường-vạn nói rất phải , xin Chúa-công chớ do dự làm nhục chí ba quân.
Tống trang-công liền sai tướng Nam-cung Trường-vạn, họp với Mãnh-hoạch làm Tiên phuông dẫn ba trăm chiến-xa ra khỏi thành nghênh-chiến.
Hai bên dàn quân đâu đó sẵn sàng.
Lỗ hoàn-công và Trịnh lệ-công ngồi chung một xe, tuốt đến bên thành kêu Tống trang-công ra nói chuyện.
Tống trang-công vì mắc cỡ, giả bệnh không ra.
Nam-cung Trường-vạn đứng xa thấy trên xe có cắm hai cây tàn thêu , biết là xe của hai vua Lỗ và Trịnh, bèn vỗ vai Mãnh-hoạch nói :
– Lần này tướng-quân không lập công thì đợi chừng nào ?
Mãnh-hoạch hét lên một tiếng, tay cầm xà-mâu lướt đến giữa trận.
Lỗ hoàn-công và Trịnh hoàn-công thấy tướng dữ, vội lui xe trở lại .
Tướng nước Lỗ là Công-tử Nịch, tướng nước Trịnh là Nguyên-Phồn vội xông ra cản Mãnh-hoạch lại, nói :
– Mi tên họ là chi ? Làm chức gì mà hung-hăng làm vậy !
Mãnh-hoạch đáp :
– Ta là Tiên-phuông Mãnh-hoạch.
Nguyên-phồn mắng rằng :
– Thật là đứa vôđanh tiểu-tốt, đã bắt tài lại không sợ chết, hãy về kêu tên chánh-tướng của mi ra đây đặng ta chém đầu cho khỏi dơ lưỡi đao của ta .
Mãnh-hoạch nổi giận vung xà-mâu đánh liền .
Quân Trịnh và Tề vây chặt Mãnh-hoạch vào giữa.
Thấy hai tướng mình không thắng nổi Mãnh-hoạch, Lỗ hoàn-Công liền khiến hai đạo binh hậu đến tiếp-ứng.
Mãnh-hoạch cự không lại bị Lương-tử là tướng của nước Lỗ, bắn nhằm cánh tay rớt xà-mâu, nên bị trói.
Nam-cung Trường-Vạn hay được tin Mãnh-Hoạch thất trận , nghiến răng nói :
– Nếu không đánh giải thoát được cho Mãnh-hoạch ta thề chẳng vào thành.
Nói rồi sai con trai lớn là Nam cung-ngưu đem ba chục cổ xe ra khiêu chiến. Nhưng lại dặn :
– Khi đấu chiến phải giả thua mà chạy, dụ địch đến cửa thành phía Tây ta sẽ có kế bắt nó .
Nam cung-ngưu lãnh mạng, xua binh ra trận, cả tiếng mắng :
– Trịnh đột là đứa thất-phu bội nghĩa. Hãy ra đây mà chịu chết .
Viên tùy-tướng bên Trịnh thấy Nam cung-ngưu hãy còn niên thiếu bèn xông ra tiếp đánh.
Vừa đánh được ba hiệp, Nam cung-Ngưu giả thua bỏ chạy.
Tướng Trịnh rượt theo đến thành Tây bị Nam-cung Trường-Vạn phục binh bắt sống đem vào nạp cho Tống trang-công.
Tống trang-công sai sứ qua dinh Trịnh xin đổi Mãnh-Hoạch về .
Trịnh lệ-công chấp-thuận, mở trói Mãnh-Hoạch thả ra ngoài thành rồi dẫn viên tùy-tướng vào.
Giữa lúc quân hai bên đang cầm cự, chưa phân thắng bại, thì Công-tử Du phụng mạng Tống qua Tề mượn binh đánh Trịnh, đã trở về.
Tống trang-công đòi vào bệ kiến .
Công-tử Du nói :
– Tề hi-công vẫn có ý ghét Trịnh đột đoạt ngôi anh, song còn đang mắc đánh nước Kỷ. Nếu Tống hiệp binh với Tề đánh Kỷ thì Tề sẽ giúp Tống đánh Trịnh.
Tống trang-công chưa biết liệu định lẽ nào, còn đang thương nghị.
Cũng cùng lúc đó, bên dinh Trịnh, Lỗ hoàn-công và Trịnh lệ-Công đang bàn kế đánh Tống, xảy có sứ nước Kỷ đem thư đến cầu viện .
Lỗ hoàn-công mở thư ra xem :
Binh Tề bang đánh nước tôi quá ngặt. Nếu quân-hầu tưởng tình suôi gia lúc trước, đem binh cứu viện thì nước Kỷ tôi mang ơn chẳng nhỏ. Việc binh rất gấp, xin chớ diên trì.
– Nước Kỷ có nạn, tôi không thể nào bỏ qua được . Nay thành nước Tống chưa thể phá gấp được, tôi phải tạm rút quân về để cứu nước Kỷ đã. Từ rày Tống không còn dám qua đòi hối lộ nữa đâu.
Trịnh lệ-công nói :
– Nay ngài dời binh qua cứu nước Kỷ, tôi cũng đem hết binh gia trong nước theo ngài mà giúp nước Kỷ luôn thể .
Lỗ hoàn-công nghe nói cả mừng. Hai vua lập tức truyền lịnh nhổ trại kéo binh thẳng qua nước Kỷ.
Tống trang-công thấy Trịnh, Lỗ bỗng nhiên rút quân, trong lòng nghi ngại, cho người đi do thám.
Quân thám-thính về báo :
– Binh giặc đã kéo khỏi ải địa đầu, chắc là qua giúp nước Kỷ.
Quan Thái-tể Hoa đốc tâu :
– Tâu Chúa-công Tề hi-công đã hứa giúp ta đánh Trịnh thì ta cũng nên nhơn cơ hội này mà giúp Tề đánh Kỷ trước.
Thái-tể Hoa đốc nói vừa dứt tiếng thì tướng Nam-cung Trường-Vạn bước ra nói.
– Tôi xin lãnh mạng đem quân đi đánh nước Kỷ cho.
Tống trang-công chấp-thuận, phát cho hai trăm cổ binh xa, lại khiến Mảnh-hoạch làm tiên-phuông như cũ, ngày đêm kéo riết qua trước Kỷ để giúp Tề-hầu.
Giữa lúc đó, Tề hi-công cũng đã cho sứ sang nước Vệ và rước bên mượn thêm binh viện .
Vệ tuyên-công vừa muốn phát binh giúp Tề thì bỗng lâm bịnh mà thác .
Thế-tử Sốc lên nối ngôi, xưng hiệu là Vệ huệ-công . Tuy còn mắc tang cha, song Vệ huệ-công không dám chối từ, vội vã xuất binh kéo sang nước Kỷ.
Còn nước Yên, bấy lâu nay vẫn có ý cầu-thân với Tề. Nay được dịp lẽ nào từ chối.
Thế là binh ba nước Tề, Vệ, Yên họp nhau đánh nước Kỷ rất ngặt.
Vua nước Kỷ không dám chống cự, chỉ cố thủ để chờ binh viện.
Ngày kia có quân vào báo :
– Nay quân hai nước Lỗ và Trịnh đã kéo đến giúp nước ta, xin Chúa-công liệu định .
Kỷ-hầu nghe báo, lòng mừng khấp khởi, vội leo lên thành xem và truyền chuẩn bị cuộc đón tiếp.
Lỗ hoàn-công vừa kéo binh đến, gặp Tề hi-công giữa trận, bèn đáp lễ và nói :
– Nước Kỷ có thân thuộc với tôi, vì vô lễ phạm đến quí-quốc, nên tôi vội vàng đến đây xin lỗi hộ .
Tề hi-công nói :
– Nước Kỷ với tôi mang mối thù rất lớn, không thể dùng lời nói mà hỉ-xả được !
Lỗ hoài-công hỏi :
– Chẳng hay thù ấy là thù gì vậy ?
Tề hi-công nói:
– Xưa tổ-tiên tôi là Ai-Công bị nước Kỷ dèm-pha nên vua Châu mổ bụng. Từ ấy đến nay đã trên tám mươi đời rồi, mà mối thù vẫn chưa báo được. Nay ngài đem binh giúp cho nước Kỷ, còn tôi phải đánh nước Kỷ để báo thù, thế thì chúng ta không cần phải bàn bạc làm gì.
Lỗ hoàn-công cả giận, khiến Công-tử Nịch xuất trận.
Bên kia Tề hi-công cũng khiến Công-tử Bành-sinh vốn có sức mạnh phi thường, Công-tử Nịch làm sao cự lại, nên hai tướng cạnh của Lỗ-hầu là Trần-tử và Lương-tử thay thế xông vào tiếp ứng .
Tuy nhiên, ba tướng Lỗ cũng không làm sao thắng nổi Công-tử Bành-sinh được .
Cuộc chiến đấu kéo dài mãi cho đến lúc quân Trịnh kéo đến phủ vây tứ phía.
Tướng Trịnh là Nguyên-phồn và Mạnh-bá xông vào tiếp ứng.
Trong thành , Kỷ-hầu thấy bên ngoài đang giáp chiến, củng mở cửa thành cho quân ào ra đánh một lượt .
Công-tử Bành-sinh nhắm cự không nổi phải kéo binh bỏ chạy , lại bị trúng một mũi tên gần vong mạng.
Lúc đó quân Tống cũng vừa kéo đến kịp thời nhưng binh sĩ từ đàng xa mới đến, chưa định trú thì bị quân Trịnh tràn tới đánh rất hăng.
Quân Tống bị thua , bỏ cả khí giới mà chạy.
Tề hi-công thấy quân sĩ mình chết quá nhiều, lại không còn lực lượng nào để duy trì nữa, đành kéo tàn quân trở về nước.
Trước khi rút lui, Tề hi-công chỉ vào thành nước Kỷ nói :
– Ta cùng nước Kỷ quyết chẳng đội trời chung.
Lỗ và Trịnh thắng trận, ra lệnh thu quân.
Kỷ-hầu rước vào thành mở tiệc khoản đải.
Em của Kỷ-hầu là Dinh-quý thưa rằng :
– Binh Tề thất trận, thù oán chưa tan, xin nhị vị quân-hầu ra ơn giúp cho một chước để có thể bảo tồn được nước Kỷ.
Lỗ hoàn-công nói :
– Việc ấy sẽ tính sau, bây giờ không thể liệu nổi.
Rạng ngày Lỗ và Trịnh kéo quân về nước.
Kỷ-hầu đưa khỏi ba dặm đường mới giã biệt .
Từ đó, chư hầu chia làm hai phe, một phe là Tống, một phe là Trịnh.
Tề hi-công từ khi thất trận , lòng uất-ức đến nổi sanh bịnh nặng .
Một hôm, gọi Thế-tử Chư-nhi đến bên giường dặn rằng :
– Nước Kỷ là kẻ thù bất cọng đái thiên . Nếu sau này con diệt được nước Kỷ mà trả thù cho tổ tiên, ấy là điều chí-hiếu. Còn nếu con bất lực, không diệt nổi kẻ thù thì chớ vào nhà thái-miếu.
Thế-tử Chư-nhi quỳ móp xuống đất cúi đầu tuân mạng .
Tề hi-công lại cho đòi con trai của Di-trọng-niên là Công-tôn Vô-tri vào, rồi nói với Chư nhi :
– Em một mẹ một cha với ta là Di-trọng-niên chỉ sanh được một mình Vô-tri này mà thôi. Con phải cư xử sao cho tử-tế, cũng như ta đã đối xử với em ta là Di-trọng-Niên vậy.
Tề hi-công trăn trối mấy lời rồi tắt thở.
Các quan đưa Thế-tử Chư-nhi lên ngôi, xưng hiệu là Tề tương-công.
Nhắc qua Tống trang-công từ khi sanh, giúp Tề bị thua một trận manh giáp tơi bời, lòng càng căm thù Trịnh hơn nữa. Bèn đem lễ vật sang các nước Vệ, Tề, Trần, Sái, mượn binh kéo qua đánh Trịnh để báo thù.
Trịnh lệ-công muốn ra cự địch, nhưng Tế-Túc can rằng :
– Tống là nước lớn nay đem toàn lực đến đây, quân ta cự sao lại chi bằng cố-thủ là hơn.
Nói rồi dạy quân đóng chặt cửa thành, cấm không cho tướng nào xuất quân cả .
Trịnh lệ-công đành chịu không dám trái lời Tế-Túc.
Quân Tống đến bên thành khiêu chiến mấy phen, không thấy tướng Trịnh ra đánh bèn phân nhau cướp phá quanh thành, lại lấy cột nhà Thái-miếu đem về làm cột thành, cốt làm nhục nước Trịnh.
Trịnh lệ-công uất-ức, than rằng :
– Làm vua mà bị áp chế, tưởng không còn gì nhục bằng.
Từ đó, Trịnh lệ-công có ý muốn giết Tế-Túc.
Lúc bấy giờ Châu hoàn-vương đau nặng, liệu thế không sống được bao lâu, nên kêu Châu-công Hắc-kiên vào nói :
– Nhà Châu mỗi ngày một suy yếu, trẫm cậy có các khanh gìn-giữ sơn hà. Nay trẫm không còn sống được nữa, đúng phép, Thái-tử Ðà lên ngôi, song vì trẫm rất thương Hoàng-tử Khắc nên muốn cho Khắc sau này được nối ngôi anh nó.
Chẳng bao lâu Châu hoàn-vương băng-hà.
Triều đình tuân theo Vương-mạng lập Thái-tử Ðà lên ngôi, xưng hiệu là Châu trang-vương.
Trịnh lệ-công được tin Thiên-tử băng-hà, muốn sai người vào triều điếu tang .
Tế-Túc can rằng :
– Trước kia nhà Châu có thù với Tiên-công, hơn nữa Châu hoàn-vương bị Chúc đạm bắn một mũi tên, giận ấy chưa nguôi, nay chẳng chung đội trời.
Châu hoàn-vương chết, Chúa-công cho người đến điếu tang ắt sẽ bị nhục.
Trịnh lệ-công lòng hoài- nghi không còn tin lời Tế-Túc nữa.
Tuy ngoài mặt thản-nhiên, nhưng trong lòng cay đắng.
Một hôm Trịnh lệ-công dạo mát ở huê-viên, có quan Ung-củ theo hầu, bỗng có đàn chim bay qua, kêu hát véo von.
Trịnh lệ-Công nhìn chim thở dài.
Quan Ðại-phu Ung-củ biết ý hỏi :
– Tâu Chúa-công, trời đang tiết xuân, muôn hoa đua nở, chim hát chào mừng, sau Chúa-công lại không vui ?
Trịnh lệ-công nói :
– Các giống chim đều được sung sướng, tựđo, không ai áp-chế. Còn ta tuy là vua nhưng không bằng giống chim.
Ung-củ nói :
– Có lẽ Chúa-công đang nghĩ đến người đã đoạt lấy quyền hành trong nước chăng .
Trịnh lệ-công nín lặng không đáp.
Ung-cả nói :
– Tôi thiết tưởng, làm con không giãi được ưu-phiền cho cha là bất hiếu, làm tôi không giúp được vua trong lúc hoạn nạn là bất trung, nếu Chúa công không cho tôi là kẻ hèn mạt thì dầu việc gì nguy hiểm đến đâu tôi quyết không từ nan.
Trịnh lệ-công đuổi hết quân hầu ra ngoài, rồi hỏi Ung-củ :
– Ngươi không phải là rễ của Tế-Túc sao ?
Ung-củ đáp :
– Tâu Chúa-công, tuy rễ thật, song tình cha con đâu bằng tình vua tôi. Vả lại Tế-Túc gả con gái cho tôi chỉ vì vua Tống ép buộc chứ đâu phải ý muốn.
Trịnh lệ-công rõ được lòng Ung-củ, bèn nói thẳng :
– Nếu ngươi giết được Tế-Túc ta sẽ phong cho ngươi chức Thượng-khanh . Vậy ngươi có kế chi chăng ?
Ung-củ suy nghĩ một lúc rồi nói :
– Xứ Ðông-giao bị quân Tống cướp phá, dân-tình đang đói khổ, nay Chúa-công sai Tế-Túc đến đó phát chẩn chiêu an. Tôi lợi dụng cơ hội ấy đãi rượu tiễn hành, bỏ thuốc độc vào ly rượu mà giết đi là xong.
Trịnh lệ-công nói :
– Kế ấy rất hay, song phải cẩn mật lắm mới được.
Ung-củ về nhà, nghĩ đến vợ là Tế-thị trong lòng áy-náy không an , mặt mày có vẻ lơ láo.
Tế-thị thấy thế hỏi :
– Hôm nay trong triều có việc gì quan hệ không ?
Ung-củ lắc đầu, đáp :
– Không có việc gì cả.
Tế-thị không tin, gạn hỏi nhiều lần :
– Vợ chồng ở với nhau đã lâu lẽ nào không biết ý. Nếu tướng-quân có điều gì lo lắng xin cho thiếp biết, may ra thiếp có thể giúp được phần nào chăng.
Ung-củ cực chẳng đã phải nói :
– Chúa-công muôn sai nhạc phụ ra Ðông-giao mà ủy lạo dân chúng. Lại khiến tôi dâng rượu tiễn hành để chúc thọ nhạc-gia.
Tế-thị hỏi :
– Dưng rượu để chúc thọ nhạc-gia việc gì tướng quân lại lo lắng như vậy. Thiếp tưởng trong triều có điều chi rắc-rối mà tướng quân không muốn cho thiếp biết.
Ung-củ nói :
– Không có việc gì cả. Sai nhạc-phụ đến Ðông-giao, chi là mệnh-vua, phu-nhân chớ hỏi nhiều.
Thái độ và lời nói của Ung-củ làm cho Tế-thị càng nghi ngờ thêm, mới lập kế phục rượu cho Ung-củ uống thật say, rồi đợi lúc Ung-củ đang ngủ mơ màng, đập mạnh vào vai hỏi lớn :
– Này, Chúa-công sai mày giết Tế-Túc mà mày lại quên rồi sao ?
Trong lúc đang ngũ, Ung-Củ giật mình đáp :
–
Tề thị đứng nhìn chồng mà đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng .
Rồi nàng tự nghĩ :
– Có thể như thế được sao ? Hay chàng đã vì hoảng hốt mà nói sằng .
Sáng ngày, Tế-thị nói với Ung-củ :
– Tướng-quân có ý muốn giết phụ-thân, việc ấy tôi đã rõ .
Ung-củ giựt mình nhìn vợ nói :
– Ấy chết ! ta có bao giờ dám làm điều vô đạo ! Sao phu-nhân lại nghĩ thế .
Tế-thị nói :
– Ðem hôm qua tướng-quân say rượu đã nói rỏ thiếp rồi bây giờ còn giấu làm chi.
Ung-củ rướm mồ hôi trán, nhìn vợ, nói :
– Nếu quả có việc ấy thì phu-nhân nghĩ thế nào ?
Tế-thị ngao ngán thở dài. Rồi như để soi sáng tấm lòng ác hiểm của chồng, nàng giả vờ nói :
– Ðã lấy chồng thì theo chồng, tướng quân hỏi làm gì câu ấy !
Ung-củ nghe vợ nói mừng rỡ, đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại một hồi.
Tế-thị nói :
– Phụ thân thiếp là một kẻ đa mưu, túc trí, e không dám đi, xin cho thiếp vào tưđinh xét thử tình ý như thế nào.
Ung-củ mừng rỡ nói :
– Nếu việc thành tôi được lên chức Thượng-khanh thì phu-nhân cũng được vinh hiển trọn đời.
Tối hôm ấy, Tế-thị ghé về tưđinh thăm mẹ.
Tế-Túc phu-nhân thấy con về, mừng rỡ hỏi :
– Lâu nay con vẫn được mạnh giỏi chứ ?
Tế-thị không đáp, buồn-bã hỏi mẹ :
– Chồng với cha nên trọng đàng nào hơn ?
Câu hỏi lạ lùng ấy làm cho Tế-Túc phu-nhân ngạc nhiên nói :
– Sao con lại hỏi vậy . Chồng với cha đàng nào mà chẳng trọng .
Tế-thị nói :
– Nhưng nếu gặp trường hợp giữa cha và chồng có điều mâu thuẩn nhau thì nên trọng đàng nào ?
Tế-Túc phu-nhân nói :
– Cha mẹ do trời định, vợ chồng do người định. Mất chồng có thể lấy chồng khác, còn mất cha không thể tìm một người cha khác được.
Vệ tuyên-công vốn là kẻ ham dâm dục, lúc chưa lên ngôi đã tư thông với vợ lẻ của cha là nàng Di-khương sanh được một trai, tên Cấp-Tử.
Sau khi lên ngôi lại phong cho Cấp-tử làm Thế-tử, giao cho Công-tử Chức trông nom.
Khi Cấp-Tử lên mười sáu tuổi, Vệ tuyên-công cho người sang hỏi con gái Tề hi-công về làm vợ Cấp-Tử. Lại được nghe con gái của Tề-hầu nhan sắc tuyệt trần, hoa nhường nguyệt thẹn , Vệ tuyên-công đem lòng ham muốn.
Tuy-nhiên đã trót lỡ cưới người đẹp cho con trai mình, còn biết nói năng làm sao, bèn nghĩ ra một kế .
Vệ tuyên-công cất một cái đài thật đẹp nơi mé sông Tân-kỳ, đặt tên là Tân đài rồi sai Cấp-Tử làm sứ-giả sang nước Tống để có cơ hội đoạt vợ của con.
Cấp-tử ra đi chưa bao lâu, Vệ tuyên-công sai Công-tử Tiết qua Tề rước nàng Khương-thị về Tân đài.
Rồi từ đó ăn ở với Khương-thị, coi như vợ mình. Nàng ấy tức là nàng Tuyên-khương.
Cấp-Tử đi sứ về vào yết-kiến Vệ tuyên-công.
Vệ tuyên-công khiến Cấp-Tử đến Tân đài ra mắt Khương-thị, và gọi Khương-thị bằng kế-mẫu.
Cấp-Tử vốn là con hiếu thảo, dù hành động Vệ tuyên-công có bỉ-ổi, Cấp-Tử cũng không lấy thế mà oán trách cha.
Từ ngày lấy được Tuyên-khương, Vệ tuyên-công say mê sắcđục, đêm ngày ở mãi nơi Tân đài không ngó ngàn đến Di-khương nữa.
Cách ba năm sau, Tuyên-khương sanh đặng hai trai là Công-tử Thọ và Sóc .
Nàng Di-Khương bị thất sủng, Vệ tuyên-công cũng không còn thương Cấp-Tử nữa. Bao nhiêu sự say sưa đối với Di-khương đổ dồn về Tuyên-khương thì bao nhiêu tình thương đối với Cấp-Tử cũng đổ dồn về Thọ và Sóc hết.
Vệ tuyên-công quyết định sau này truyền ngôi cho Công-tử Thọ .
Thọ và Sóc tuy anh em ruột, nhưng tâm-tính rất khác nhau . Thọ thì tánh hiền hậu, nhân từ, thương yêu Cấp-Tử như người anh ruột, còn Sóc thì độc ác, hiểm-hóc, chẳng những ghét Cấp-Tử mà còn ghét cả Thọ nữa. Sóc muốn tiếm ngôi của Thọ sau này, nên định ý trước tiên hại cho được Cấp-Tử rồi sau mới lập mưu hại Thọ .
Một hôm, Sóc nói với mẹ :
– Nay tuy thân phụ rất thương yêu mẹ con ta, song Cấp-Tử là anh, chúng con là em , sau này Cấp-Tử thế nào cũng được nối ngôi. Hơn nữa, vì mẹ mà Di-khương bị vua bạc đãi nếu sau này Di-Khương được lên làm Quốc-mẫu, thì mẹ con ta không tránh khỏi tai vạ .
Nàng Tuyên-khương tâm trạng trước kia khác, bây giờ khác .
Trước kia hy-vọng làm vợ Cấp-Tử, nên muốn mua chuộc lòng Vệ tuyên-công để sau này truyền ngôi lại cho Cấp-tử mà vợ chồng vui hưởng phú quý. Bây giờ thì đã có hai con với Vệ tuyên-công, hy-vọng ấy đâu còn nữa, nên bàn mưu với Sóc để hại Cấp-tử. Vì vậy thỉnh thoảng có những lời dèm pha, xoi bói.
Ngày kia, nhằm ngày sanh nhựt của Cấp-Tử, Công-tử Thọ làm tiệc rượu chúc mừng, có Công-tử Sóc dự.
Trong bữa tiệc Công-tử Thọ chuyện trò rất thân-mật.
Sóc tỏ ý khó chịu, thoái thác lui về , trong lòng rất căm phẩn.
Về đến cung, Sóc làm bộ khóc lóc, nói với mẹ :
– Con vì lòng tốt mà dự tiệc với Cấp-tử , thế mà Cấp-Tử lúc say rượu lại giở trò đùa, gọi con bằng con và nói :
– Mẹ của mày tức là vợ của ta, mày phải gọi ta bằng cha mới phải .
Con rất lấy làm xấu hổ, xin mẹ xét nghĩ.
Tuyên-khương tin là thực, chờ Vệ tuyên-công vào cung, khóc lóc thuật lại mọi điều , lại nói thêm rằng :
– Cấp-tử cố tình muốn làm nhục thiếp nên đã có lúc nói nhiều câu lỗ mãng.
Vệ tuyên-công hỏi :
– Thằng súc sanh ấy đã nói những lời gì phạm đến ái-khanh ?
Tuyên-khương sụt-sùi nói :
– Thiếp được nghe nó nói rằng : Mẹ ta là Khươngđi vợ của ông nội ta, mà phụ-thân ta còn lấy làm vợ được thay, huống hồ Tuyên-khương là vợ của ta mà ta không lấy được sao ! Nay ta chỉ cho phụ-thân ta mượn đỡ mà thôi. Ngày nào đó ta sẽ lấy lại, và lấy luôn cả ngôi nước Vệ nữa.
Vệ tuyên-công nghe nói cả giận, kêu Công-tử Thọ vào hỏi.
Công-tử Thọ nói :
– Tâu phụ-thân, Cấp-Tử là đưa con chí hiếu, chẳng bao giờ lại có những lời nói lỗ mãng như thế đâu .
Vệ tuyên-công không biết phải phân xử lẽ nào, bèn đòi Khươngđi đến trách mắng đủ điều.
Khươngđi đau đớn, không chịu nổi, thắt cổ tự-vận.
Cấp-tử quá thương mẹ, nhưng không dám nói ra, chỉ ôm bụng khóc thầm.
Giết được Khươngđi, mẹ con Công-tử Sóc vẫn chưa thôi, ngày đêm ép buộc Vệ tuyên-công phải làm cách nào giết cho được Cấp-Tử mới nghe.
Vệ tuyên-công nói :
– Cấp-Tử không có tội chi, nếu đem giết đi thiên-hạ sẽ chê cười.
Tuyên-khương nói :
– Khươngđi thác oan, thế nào Cấp-tử cũng vì mẹ mà trả thù, nếu Chúa-công không giết Cấp-tử, mẹ con tôi không làm sao ở trong cung này được.
Vệ tuyên-công cực chẳng đã phải nghe theo, tìm cách giết Cấp-Tử cho ổn-thỏa để che mắt thiên hạ.
Gặp lúc Tề hi-công cho người sang mượn quân nước Vệ.
Vệ tuyên-công mới bày mưu với Công-tử Sóc sai Cấp-tử cầm cờ tiết trắng đi sứ nước Tề, rồi cho võ sĩ phục giữa đường mà giết.
Công-tử Sóc được kế rất mừng, triệu-tập bọn côn đồ, dặn đến núp nơi Sằng giả là chỗ đường thủy giáp liền với đường bộ . Hễ thấy có người cầm cây cờ trắng đi ngang qua là nhãy ra giết lập tức.
Sắp đặt xong Công-tử Sóc trở về cung thuật lại với Tuyên-Khương hay .
Tuyên-khương mừng rỡ vô cùng.
Công-tử Thọ thấy mẹ mình mặt mày hớn hở, sanh nghi, dò hỏi sự tình .
Tuyên-khương ngỡ là Công-tử Thọ cũng đã biết việc ấy nên không hề giầu diếm gì cả, nói rõ sự việc.
Công-tử Thọ thất kinh, nhưng biết rằng âm mưu đã định sẳn dù can gián cũng chẳng ích chi, bèn lén qua nói với Cấp-tử .
Cấp-Tử ngồi thẩn-thờ không đáp.
Công-tử Thọ nói :
– Ðường đi từ đây sang Tề thế nào cũng phải qua Sằng-giả, mà đã qua đó tánh mạng anh ắt dữ nhiều lành ít. Chi bằng trốn sang nước khác rồi sẽ lo toan.
Cấp-Tử đáp :
– Ðạo làm con, nếu không nghe lời cha mẹ đâu còn là hiếu thảo. Vả lại, nếu Phụ-vương đã có ý muốn ta chết thì dẫu có sống cũng chẳng ích chi .
Nói xong, sửa soạn hành trang, từ biệt Công-tử Thọ, xuống thuyền đi theo đường thủy.
Công-tử Thọ khuyên can đến bực nào Cấp-Tử cũng không nghe .
Công-tử Thọ đứng nhìn theo, đôi dòng lệ không vơi, nghĩ thầm :
– Anh ta quả là một người hiếu-hữu, nếu để anh ta chết sau này mặt mũi nào mà ta nối ngôi. Vả lại trong hoàn cảnh này chỉ có cái chết của ta , may ra mới đánh thức được lòng thương xót của cha mẹ ta, đem lại một gia đình thảo thuận được.
Nghĩ rồi liền dọn một chiếc thuyền, đem đũ vật thực gọi vài tên tùy tùng bảo chèo theo cho kịp thuyền của Cấp-Tử để cùng dự tiệc rượu tiễn biệt. Chẳng bao lâu hai thuyền gặp nhau, Công-tử Thọ gọi Cấp-Tư sang thuyền mình.
Cấp-Tử nói :
– Anh đi đường xa, em muôn dâng cho anh một chén rượu tiễn hành, để tỏ tình mong nhớ.
Nói rồi rót một chén rượu đầy dâng cho Cấp-tử.
Nhưng vừa lòng chén chưa kịp nói thì nước mắt đã tuôn tràn, chảy vào ly rượu .
Cấp Tư vội vã bưng chén rượu uống một hơi cạn chén.
Công-tử Thọ sụt sùi nói :
– Em khóc làm cho nước mắt nhỏ vào rượu thực là vô lễ .
Cấp-Tử nói :
– Anh chỉ muốn uống những giọt nước mắt ấy để được giữ mãi vào lòng tấm thâm tình của em.
Thọ rót thêm một chén nữa trao cho Cấp-Tử .
Hai anh em vừa uống, vừa khóc.
Nước mắt càng hòa với rượu bao nhiêu thì rượu càng nồng bấy nhiêu.
Công-tử Thọ cốt phục rượu cho Cấp-Tử thực say , nên một lúc sau Cấp-tử say mèm nằm vật xuống khoan thuyền ngủ thiếp.
Công-tử Thọ ôm anh khóc một lúc lâu, rồi bảo bọn thủ-hạ :
– Lệnh vua phải đi gấp mà anh ta say nên trể nải vậy ta phải đi thế mới được .
Nói rồi cầm cây cờ trắng cắm lên mũi thuyền mình, và viết một bức thư, dặn tên quân hầu lúc nào Cấp-Tử tỉnh dậy sẽ đưa.
Ðoạn Công-tử Thọ cứ thẳng đường cho thuyền đến Sằng-giả.
Vừa đến nơi, bọn côn đồ thấy có ngọn cờ trắng, kéo nhau chạy ào ra bắt.
Công-tử Thọ đứng dậy chỉ vào mặt bọn chúng mắng lớn :
– Ta là Cấp-tử, Thế-tử nước Vệ, phụng mệnh sang nước Tề đi sứ , sao chúng bây dám cản trở .
Bọn côn đồ nói :
– Ngươi đã là Cấp-Tử thì đừng có xưng hô làm gì cho uổng tiếng. Chúng ta tuân lệnh Vệ-hầu ra đây lấy đầu ngươi.
Nói xong, bọn côn đồ áp lại, chém đầu Công-tử Thọ, bỏ vào một cái hộp rồi đoạt lấy cờ tiết mang về.
Bọn gia đinh theo hầu Công-tử Thọ sợ hải , chạy tán loạn.
Còn Cấp-Tử khi tỉnh rượu, mở mắt ra không thấy Thọ đâu, lại nhận được bức thư, trong lòng hoảng-hốt.
Mở thư ra xem, trong thư chỉ thấy một hàng chữ như sau :
– Em đi thay anh , anh tìm nơi lánh nạn .
Cấp-Tử khóc oà, vội-vã bảo bọn tùy tùng :
– Hãy chèo thuyền đi cho mau, kẻo chúng lầm mà giết mất em ta .
Bọn tùy-tùng tuy không hiểu gì cả, nhưng cũng cố sức chèo đi rất mau.
Thuyền lướt sóng, dưới ánh trăng vằng-vặc, lăn tăn trên mặt sông đài, cảnh vật êm đềm nhưng lòng người rộn rã.
Cấp-tử chỉ nghĩ đến sinh mạng em mình, nên hối thúc liên hồi làm cho mấy tên quân chèo thuyền mệt không kịp thở.
Một lát sau, thấy đàng xa có bóng thuyền nhấp nhô, Cấp-tử mừng rỡ, hét to :
– Em ta còn sống ! Thật lòng trời không phụ !
Một tên quân hầu đưa mắt nhìn một lúc rồi nói :
– Thưa Thế-tử, thuyền đó đang đi tới phía chúng ta !
Cấp-Tử ngơ-ngác, chưa biết thế nào, thì chiếc thuyền nọ đã từ đàng xa phăng phăng rẽ nước đi đến.
Trên thuyền không thấy Công-tử Thọ, chỉ thấy một bọn côn đồ, gươm giáo sáng lòa.
Cấp-Tử lòng nghi ngại, hỏi :
– Các ngươi phụng mệnh Chúa-công đã làm xong nhiệm-vụ chưa ?
Bọn côn đồ nghe hỏi, tưởng người của Công-tử Sóc sai đến tiếp-ứng nên bưng chiếc hộp có đựng đầu của Công-tử Thọ đưa ra và nói :
– Chúng tôi đã thành công.
Cấp-Tử vừa cầm đến chiếc hộp vùng ngã ra, khóc to, nói :
– Ôi thôi ! còn gì em ta nữa !
Bọn côn đồ ngơ ngác đưa mắt nhìn nhau.
Cấp-Tử nói tiếp :
– Ta đây mới là Cấp-Tử, vì ta có tội nên cha ta sai giết, chớ Công-tử Thọ là em ta, nào có tội chi .
Bọn côn đồ biết mình đã giết lầm, thất kinh, nói nhỏ với nhau :
– Thế này thì phải giết cả nó nữa, mới chuộc nổi tội chúng ta đã lầm lẫn.
Nói xong, bọn côn đồ áp lại chặt đầu Cấp-tử, bỏ chung vào một hộp, rồi chèo thuyền đi, để mặc cho bọn quân hầu của Cấp-tử ngồi run rẩy trong thuyền, mặt mày tái ngắt.
Về đến thành Vệ, bọn côn đồ đem chiếc hộp và cờ trắng vác dâng cho Công-tử Sóc , kể lại sự giết lầm, và rất lo sợ Công-tử Sóc trách-phạt.
Chẳng dè Công-tử Sóc đã không giận mà lại còn vui mừng, đem vàng lụa thuởng cho bọn chúng rất trọng hậu, rồi vào cung nói với mẹ.
Tuyên-khương buồn vui lẫn lộn. Buồn vì mất con, vui vì đã biết được Cấp-Tử, trừ được hậu-họa cho mình. Vì biết Vệ tuyên-công thương yêu Công-tử Thọ, nên Tuyên-khương bảo Sóc hãy khoan cho Vệ tuyên-công biết .
Sau người nước Vệ có làm thơ vịnh hai anh em Cấp-Tử và Thọ rằng :
Hai chiếc đầu rơi, một mối tình
Hồn oan ôm hận khóc xuân xanh.
Lòng cha ví có không thương xót
Thà chết cho tròn nghĩa đệ huynh.
Nguyên trước kia Vệ tuyên-công có ủy thác Cấp-tử cho Công-tử Tiết để lên ngôi còn Công-tử Thọ cũng được uỷ thác cho Công- tử Chức, nay hai người nghe được tin dữ, liền họp nhau vào tâu với Vệ tuyên-công.
Vệ tuyên-công tuy ghét Cấp-Tử song rất yêu Thọ, nên sau khi nghe Thọ chết , lòng bàng hoàng đau đớn, nằm vật xong long sàng than rằng :
– Ôi ! Chính con Tề-nữ đã hại nhà ta rồi.
Liền cho đòi Công-tử Sóc vào khiển trách.
Công-tử Sóc chối dài.
Từ đó , Vệ tuyên-công buồn rầu sanh bịnh.
Mỗi khi nằm mê lại thấy Di-khương , Cấp-Tử và Thọ hiện đến trước mặt khóc than.
Cách nữa tháng sau Vệ tuyên-công tạ thế.
Công-tử Sóc lên nối ngôi, tức là Vệ huệ-công.
Vệ huệ-công lên ngôi chưa được ba ngày đã cách chức Công-tử Tiết và Chức .
Hai người này oán hận vô cùng chờ dịp trả thù cho Công-tử Thọ và Cấp-Tử.
Còn Công-tử Ngoạn là anh của Vệ huệ-Công không chịu phục bỏ trốn sang Tề trú-ẩn.
Từ hôm Vệ huệ-Công bị quân Trịnh đánh tan-tành, lòng oán-hận Trịnh lệ-Công không xiết, xảy nghe có sứ Trịnh đến, mới hay Trịnh lệ-công đã bỏ ngôi mà trốn, và sứ nước Trịnh đến xin rước Trịnh chiêu-công tức là Thế-tử Hốt , về nước.
Vệ huệ-công cho vào.
Sứ nước Trịnh là Tế-Túc trông thấy Trịnh chiêu-công vội vã sụp lạy xin tội về việc phế lập trước kia.
Trịnh chiêu-công tuy không bắt tội Tế-Túc, song đã mất lòng tin, tỏ ra lãnh đạm .
Vì vậy sau khi Trịnh chiêu-công phục-nghiệp, Tế-Túc thường cáo bịnh ít vào triều.
Cao cừđi cũng bị Trịnh chiêu-công oán ghét nên có ý muốn giết Trịnh chiêu-công mà lập Công-tử Vĩ .
Trịnh lệ-Công tức Công-tử Ðột, từ ngày bỏ ngôi, trốn sang nước Sái, liền mượn người nói với Đàn-Bá xin được dung thân nơi đất Lịch.
Đàn-Bá không chịu cho, nên Trịnh lệ-công mưu với người nước Sái giết Đàn-Bá đi, chiếm lấy đất Lịch, rồi lo chiêu mộ binh sĩ định về đương đầu với Trịnh chiêu-công mà cướp ngôi Trịnh.
Tế-Túc hay được tin ấy, lòng lo sợ, vào triều tâu với Trịnh chiêu-công hay.
Trịnh chiêu-công liền khiến quan Ðại phu Phô-hà đem quân đến đất Ðại-lăng để phòng ngừa việc binh biến.
Trịnh lệ-công dò biết, liệu thế khó bề khởi sự, bèn cho người sang nhờ Lỗ hoàn-công thương thuyết với Tống trang-công nếu lần này giúp cho mình được về nước phục nghiệp sẽ nạp đủ đất ba thành cùng lễ vật đã hứa trước kia .
Lỗ hoàn-công liền sai sứ sang Tống .
Tống trang-công tuy việc cũ đã mờ phai, song nghe nhắc đến động lòng tham, liền kết liên với Sái và Vệ để giúp Trịnh lệ-công.
Vệ huệ-công từ khi cho Tế-Túc rước Trịnh chiêu-công về nước mãi đến nay chưa thấy tạ ơn mình lòng hậm hực bèn nhận lời hợp binh với Tống trang-công, sang đánh Trịnh.
Hai Công-tử Tiết và Chức thấy vậy bàn với nhau :
– Nếu Vệ-Sóc định kéo binh sang Tống để đánh Trịnh, thì lúc này chính là lúc chúng ta có thể báo thù cho Công-tử Cấp-tử và Thọ đó .
Công-tử Chức hỏi :
– Nếu phế được Vệ-Sóc thì nên đưa ai lên kế vị ?
Hai người đang bàn luận thì bỗng có quan Ðại phu Ninh-quy vào thăm.
Hai Công-tử mời vào .
Ninh-quy nói :
– Nhị vị đã quên việc Công-tử Thọ và Cấp-Tử trước kia sao ?
Công tử Chức đáp :
– Chúng tôi nào có quên đặng. Song chưa biết phải lập ai kế vị .
Quan Ðại-phu Ninh-quy nói :
– Tôi xem trong hàng Công-tử chỉ có Kiềm-mâu là người hiền . Hơn nữa Kiềm-mâu là Phò-mã của nhà Châu, nếu lên ngôi ắt lòng người chịu phục.
Ba người bàn xong lập lời ước thệ, rồi làm một tờ thông-báo , chờ cho Vệ huệ-công kéo binh ra đi phao tin trong dân chúng rằng :
– Vệ huệ-công sang đánh Trịnh bị từ-trần, nên phải lập công-tử Kiềm-mâu lên thay .
Kế hoạch quả thành tựu.
Công-tử Kiềm-mâu tức vị, hạch tội Vệ-Sóc việc giết anh và làm cho Vệ tuyên-công vì buồn rầu mà chết.
Ðoạn thọ tang hai vị Công-tử Thọ và Cấp-Tử rồi cho sứ sang triều Châu báo tin việc phế lập ấy.
Ninh-quy lại dẫn quân ra đóng nơi biên giới nước Vệ để chân đường Vệ-Sóc.
Công-tử Tiết muốn đem Tuyên-khương ra hài tội, nhưng Công-tử Chức can rằng :
– Tuyên-khương là em của vua Tề, nếu hành tội e mất việc giao hảo, chi bằng giữ niềm hòa hiếu với Tề là hơn .
Bèn bàn với Kiềm-mâu cho Tuyên-khương ra ở một biệt cung, cấp lương bỗng hàng tháng.
Lỗ, Tống, Sái và Vệ bốn nước cũng đem binh đánh Trịnh, bị Tế-Túc cử binh chận nơi Ðại-lăng hiệp với Phô-hà mà chống giữ.
Bốn nước đánh không lại, phải rút binh về.
Vệ Sóc kéo binh về nữa đường, nghe tin hai Công-tử Tiết và Chức đã lập Kiềm-mâu lên ngôi liền bỏ sang nước Tề cầu viện.
Tề tương-công hay được việc ấy nói :
– Vệ-Sóc là cháu gọi ta bằng cậu lẽ nào ta lại không đem quân đi giúp.
Vệ Sóc khóc lóc nói :
– Nếu cháu được phục nghiệp tất cả vàng bạc châu báu trong nước Vệ , cháu xin dâng biếu cho Quốc-trượng:
Tề tương-công rất mừng. Còn đang bàn bạc, bỗng có sứ nước Lỗ đến.
Nguyên vì trước đây Tề tương-công có sang cầu hôn nhà Châu, nên nhà Châu sai Lỗ hoàn-công đứng làm chủ hôn coi việc gã nàng Vương-cơ cho vua Tề. Vì vậy, hôm nay Lỗ hoàn Công mới đến.
Nghe nhắc đến Lỗ hoàn-công, Tề tương-công sực nhớ đến mấy lời hẹn ước riêng với em mình là Văn-khương, đã lâu chưa đặng gặp , lúc này cũng nên nhờ cơ hội Lỗ hoàn-công đến, mà rước luôn nàng Văn-khương về Tề một phen. Vì vậy lúc các quan Ðại- phu hỏi thăm bao giờ thì cử binh đánh Vệ ?
Tề tương-công nói :
– Kiềm-mâu là rể của Thiên-tử, còn ta thì đang cầu hôn với vua nhà Châu, việc ấy phải thư thả đã.
Tuy nhiên, Tề tương-Công lại sợ nước Vệ giết mất nàng Tuyên-Khương nên cho Công-tôn Vô-Tri đem Công-tử Thạc về nước Vệ.
Lại dặn riêng Vô-tri bày cách cho Công-tử Thạc tư thông với Tuyên-khương, để ngày sau liệu kế đem Vệ-Sóc về nước.
Công-tôn Vô-tri lãnh mạng dẫn Công-tử Thạc về Vệ, ra mắt Tân quân Kiềm-mâu.
Lúc ấy vợ Công-tử Thạc đã qua đời .
Công-tôn Vô-tri bàn mưu với Công-tử Chức :
– Nếu ngài giúp cho việc này, ắt Tề-hầu mến phục mà hai nước giao hòa.
Công-tử Chức vẫn có ý muốn giao hảo với Tề, lại ghét Tuyên-khương, muốn cho Tuyên-khương mang tiếng với thiên hạ, nên chịu làm việc đó.
Về phần Công-tử Thạc nghĩ tình cha con, nên chẳng chịu.
Công-tử Chức bèn ép Công-tử Thạc uống rượu say rồi bắt bỏ vào phòng Tuyên-khương.
Gặp Tuyên-khương là người háo dâm, nên ép uổng Công-tử Thạc, cuối cùng phải mang tội bất hiếu cùng cha .
Công-tử Thạc và Tuyên-khương kết làm vợ chồng, sau sanh đặng năm người con.
Nhắc qua việc nước Trịnh, Tế-Túc đem quân ra đất Ðại-lăng đương cự với Công-tử Ðột, sau khi các chư-hầu rút quân về hết mà Công-tử Ðột vẫn đóng quân nơi đất Lịch, phá rối mãi.
Tế-Túc tìm hết kế để ngăn ngừa.
Ngày kia, Tế-Túc nhớ lại rằng trước kia nước Tề có thù với Công-tử Ðột, trong lúc đánh nước Kỷ, lại nghe nước Lỗ hiện đang đứng ra làm chủ-hôn cho nước Tề, bèn vào triều tâu với Trịnh chiêu-công xin đem lễ vật qua Lỗ và Tề thông-biếu, để nhờ hai nước ấy giúp mình cự với Tống.
Trịnh chiêu-công y tấu.
Tế-Túc lãnh mạng ra đi.
Trong lúc Tế-Túc bận lo về việc trừ khử Công-tử Ðột thì Cao-cừđi trái lại âm-mưu muốn hại Trịnh chiêu-công, nhưng vì sợ Tế-Túc là kẻ đa mưu nên chẳng dám thi hành .
Nay nhân dịp Tế-Túc đi xa liền sai người đi rước Công-tử Vĩ về nhà, rồi nhơn lúc Trịnh chiêu-công đi tế lễ phục binh giết chết.
Công-tử Vĩ lên ngôi sai người sang nước Tề đòi Tế-Túc về để cùng với Cao cừđi lo việc quốc-chánh.
Tề tương-công thấy sứ Trịnh là Tế-Túc đem lễ vật đến rất nhiều, nên tiếp đón niềm-nở. Kế nghe việc Cao cừđi giết Trịnh chiêu-Công lập Công-tử Vỉ , cả giận muốn hưng binh vấn tội. Nhưng lại có tin vợ chồng Lỗ hoàn-công đã sắp đến nước Tề.
Tề tương-công liền gác chuyện đánh Trịnh, thân hành qua sông Lạc-thuỷ đón tiếp.
Nguyên nàng Văn-khương nghe sứ Tề sang mời Lỗ hoàn-công, sực nhớ đến anh, nên xin với Lỗ hoàn-công cho đi theo về thăm quê quán, Lỗ hoàn-Công vốn chiều vợ nên nhận lời.
Khi đến sông Lạc-thuỷ, vợ chồng Lỗ hoàn-Công đã thấy Tề tương-công đón sẵn.
Hai bên tay bắt mặt mừng cùng nhau trở về Kinh đô Lâm-tri .
Lỗ-hầu đặt bày chiếu mạng vua Châu , nghị việc hôn nhơn.
Tề hầu cảm động bày tiệc đãi đằng rất trọng hậu.
Tiệc mãn Tề tương-công xin phép Lỗ hoàn-công đưa nàng Văn-Khương vào cung để thăm viếng các cung phi.
Lỗ hoàn-công thuận ý Tề tương-công dẫn Văn-khương vào trong một phòng kín đã sắp đặt sẵn , hai anh em uống rượu vui vầy rồi bày cuộc gió mưa .
Người sau có bài thơ cười Tề tương-công như vầy :
Khéo vẻ làm chi cái giống hề
Hôn quân dâm loạn nghỉ mà ghê
Gái xinh thiên-hạ, đời không thiếu
Mà lấy em mình chịu tiếng chê !
Sáng hôm sau mặt trời đã cao, mà hai người vẫn còn ôm nhau nằm ngũ mãi.
Lỗ hoàn-công ở ngoài đợi lâu quá, sanh buồn, lại có ý nghi hoặc vợ mình, chẳng biết bên trong cánh cửa cung thăm thẳm ấy có việc gì rối lòng chăng ?
Mà dù có nghi hoặc cũng không làm sao hiểu thấu, khi mà tường cao vòi vọi, bức rèm châu đã khép cánh song thưa. Tuy-nhiên, lòng thấy nao nao không thể nào chịu được .
Lỗ hoàn-Công bèn cho người dò xét mới hay Tề tương-công chưa có Chánh phi, chỉ có Thứ-phi là Liên-thị em họ của quan Đại-phu Liên-xứng, mà Tề tương-công đã ghét bỏ từ lâu rồi.
Lại nghe nói đêm vừa rồi , chỉ có anh em Tề tương-công tư tình chứ không có phi tần nào cả.
Lỗ hoàn-công uất hận vô cùng, bỏ ra ngoài thơ thẩn nơi hiên Tây , bỗng gặp Văn-khương từ đàng xa lểnh-mểnh đi đến.
Lỗ hoàn-Công đưa mắt nhìn từ đầu đến chân, rồi nói :
– Đêm hôm ái-khanh uống rượu với ai ?
Văn-khương nũng-nịu đáp :
– Thần thiếp vui vầy với Liên-thị.
Lỗ hoàn-công hỏi :
– Vui đến bao lâu mới hết ?
Văn Chương đáp :
– Đã lâu quá chưa gặp nhau, nên vui mãi cho đến lúc trăng lên đỉnh đầu mới thôi.
– Anh của phu nhân có đến đó dự tiệc chăng ?
– Không, anh tôi đâu có lại đó dự tiệc ?
– Chẳng lẽ anh em lâu ngày xa cách lại không cùng nhau uống một chén rượu cho vui sao ?
Văn-khương có vẻ lưỡng-lự, đáp :
– Lúc mãn tiệc, anh tôi có đến uống một chun rượu rồi đi ngay.
Xét thấy lời nói và thái độ Văn-khương có điều uẩn-khúc .
Lỗ hoàn-công lại càng nghi ngờ nói :
– Tiệc mãn sao ái-khanh không ra ngay còn ở trong đó làm gì ?
– Vì đêm khuya quá, thần thiếp thấy ra ngoài bất tiện.
– Thế thì ái-khanh đã ngủ lại nơi đâu ?
– Trong cung thiếu gì nơi nghỉ ngơi , sao quân hầu lại hỏi lẩn-thẩn như thế ?
– Tại sao ái-khanh lại dậy trưa ?
– Vì uống rượu quá say nên mệt mỏi, không thể dậy sớm nỗi .
– Ái khanh ngũ chung với ai ?
– Thần thiếp ngủ chung với mấy người cung nhân nơi Tây cung.
– Còn anh của ái-khanh ngủ ở đâu ?
Văn-khương sợ sệt, làm ra mặt giận đáp :
– Anh ngủ ở đâu làm sao em gái biết mà nói rõ được !
Lỗ hoàn-công cũng giận dữ nói :
– Thế mà ta biết anh của ái-khanh đã ngủ đâu và ngủ với ai rồi ? Ái khanh đừng có giấu diếm làm gì.
Văn-Chương hổ thẹn, khóc oà.
Lỗ hoàn-công lòng đầy hậm hực nhưng biết mình đang ở trên đất Tề khó lòng nói năng được , nên vào từ giã Tề tương-công về nước.
Tề tương-công nghỉ lại việc xấu của mình lấy làm hối-hận, sợ Lỗ hoàn-công hay được, nên sai người tâm phúc là Thạch-chi Phân-Như theo dõi .
Phân-như trở về kể lại những lời cãi vã vừa rồi của vợ chồng Lỗ hoàn-công cho Tề tương-công nghe.
Tề tương-công bối-rối, nói :
– Ta không ngờ Lỗ-hầu lại có thể biết được việc ấy. Như thiên hạ hay được thì việc cầu hôn của ta với vua nhà Châu ắt bại sự .
Bèn khiến Phân-như đòi Công-tử Bành-sinh đến dạy việc.
Công-tử Bành-sinh vào chầu, Tề tương-công nói:
– Nay ta muốn lập kế giết Lỗ-hầu, chẳng hay khanh có bằng lòng giúp sức chăng ?
Bành-sinh ngạc-nhiên hỏi :
– Lỗ-hầu đến đây để làm chủ hôn cho Chúa-công, sao Chúa-công lại có ý ấy ?
– Tề tương-công cực chẳng đã phải đem câu chuyện mình thố lộ cho Bành Sinh biết.
Tuy không bằng lòng hành động của Tề tương-công, song Bành-sinh có cựu thù với Lỗ trong lúc đánh nước Kỹ, bị Lỗ bắn trúng tim gần chết, nên nhận lời.
Tề tương-công cả mừng, đặt tiệc nơi quán địch sai người mời Lỗ hoàn-công đến dự trước khi về nước.
Tề tương Công tiếp đãi rất ân-cần, nhưng Lỗ hoàn-công mặt dàu dàu, ngồi gục đầu xuống đất, không nói năng gì cả.
– Tề tương-công truyền cho bọn cung-nga mỹ-nữ rất đẹp, ca múa và dâng rượu.
Lỗ hoàn-công nhân lúc đau đớn trong lòng cũng muốn dùng rượu để khuây khoả, nên lần uống hết.
Đến lúc quá say, Lỗ hoàn-công không còn biết gì nữa, nằm gục trên ngự-ỷ .
Tề tương-công liền sai Công-tử Bành-sinh phò Lỗ hoàn-công lên xe, về sứ quán.
Bành-sinh ngồi bên cạnh, khi ra khỏi quốc môn vài dặm thấy Lỗ-hầu ngủ say .
Bành-sinh cho hai ngón tay vào cạnh sườn, bóp rất mạnh.
Lỗ hoàn-công bị gãy xương sườn, la lên một tiếng rồi hộc máu chết tươi.
Bành-sinh mới hô-hoán rằng Lỗ-hầu bị say rượu nên cảm gió mà chết.
Tề hi-công hay tin, giả cách khóc lóc thảm thương , cho người tẩn liệm theo vương lễ, rồi tin về nước Lỗ.
Quân sĩ đi theo Lỗ hoàn-công trở về thuật lại chuyện vua nước Lỗ bị chết trên xe.
Quan Đại-phu Thân-nhu nói :
– Trong nước không nên để một ngày không có vua.
Công-tử Khánh-phủ nói :
– Tề-hầu vô đạo, loạn luân làm hại tính mệnh phụ-thân tôi, vậy để tôi cử đại binh sang vấn tội mà báo thù.
Thi-bá can rằng :
– Việc này còn ám muội, vả lại nước ta yếu, nước Tề mạnh, vị tất đã trả được thù mà còn bươi tiếng xấu. Chi bằng viết thư sang Tề buộc Tề-hầu giết Bành-sinh đi. Nếu tướng Bành-sinh chết sau này ta tính chuyện báo thù rất dễ.
Thân-nhu nói lại với Công-tử Khánh-phủ rồi sai Thi-bá viết thư đưa qua Tề.
Lúc đó Thế-tử Đồng đang cư-tang không ký tên, nên Thân-nhu đứng thay.
Thư ấy như sau :
Ngoại thần Thân-nhu kính gởi Tề-hầu ngự lãm. Chúa tôi vâng mệnh Thiên-tử qua quí-quốc để bàn định việc hôn nhân không biết lâm bịnh thế nào mà chết trên xe. Đường xa cách trở , lại nghe thiên-hạ đồn nhiều tiếng xấu, nước tôi thật lấy làm hổ thẹn. Nếu muốn giữ tiếng tăm, xin hiền hầu hãy bắt Bành-sinh mà trị tội , nước tôi lấy làm may mắn.
Tề tương-công được thư, cho người gọi Bành-sinh đến.
Bành-Sinh cậy mình có công, ngang nhiên bước vào.
Sứ nước Lỗ cũng có nặt nơi đấy.
Tề tương-công làm mặt giận quở trách :
-Ta thấy Lỗ-hầu quá say nên sai ngươi phò tá, ngươi lại không giữ gìn để Lỗ-hầu phải chết như vậy tội thật đáng chém.
Nói xong hô vô sĩ trói lại, dẫn ra chợ mà gia-hình.
Bành-sinh uất hận hét lớn :
– Hôn quân ! Đã dâm loạn với em gái mình, lập mưu giết Lỗ- hầu, lại còn đổ lỗi cho ta sao ? Dầu có chết, ta quyết làm qui? , mà banh thây ngươi ra muôn mảnh !
Tề tương-công ngồi chết điếng.
Cả quân sĩ và triều thần ai nấy đều bụm miệng, nín cười.
Cách đó không lâu , Tề tương-công vào triều Châu xin cưới nàng Vương-cơ và làm ma chay , đưa linh cửu Lỗ hoàn-công về nước .
Còn nàng Văn-khương vì hổ thẹn, ở luôn bên nước Tề không về nước Lỗ .
Lễ an táng vua Lỗ xong .
Thế-tử Đồng lên nối ngôi, tức là Lỗ trang-công.
Ngày Lỗ trang-công tức-vị, các quan đều chầu chực đủ mặt .
Lỗ trang-công hỏi :
– Phụ-thân ta trước kia vâng mệnh Thiên-tử đứng chủ hôn cho Tề tương-công, nay công việc chưa thành mà tạ thế. Vậy chư khanh có ý chi chăng ?
Thi-bá nói :
– Nước ta hiện có ba điều nhục. Điều thứ nhất là Tiên-công ta dẫu đã an táng nhưng tiếng xấu vẫn còn. Điều thứ hai là Quốc-mẫu hiện nay lưu lại bên nước Tề, thiên hạ dị-nghị . Điều thứ ba là nước ta có tang, không làm được trọng trách của Thiên-tử đã uỷ thác.
Lỗ trang-công nghe nói buồn bã hỏi :
– Ba điều nhục ấy có cách nào rửa được chăng ?
Thi-bá nói :
– Điêu thứ nhất muốn cho Tiên-công dưới suối vàng được hài lòng thì phải làm cho danh tiết của Tiên-công được vẻ-vang. Trước kia Tiên-công lên ngôi chưa đặng vương-mạng, bây giờ cũng nên nhân dịp chủ-hôn mà xin vương-mạng cho Tiên-công. Điều thứ hai nên rước quốc-mẫu về mà phụngđưỡng . Điều thứ ba là việc chủ-hôn thực khó lưỡng-toàn. Nay phải cất một nhà quán địch nơi ngoài đồng rồi rước Công-chúa Vương-cơ đến nhà ấy mà đưa sang Tề .
Chúa-công cáo tang không đến. Làm như vậy, trên không nghịch chỉ vua, dưới không mích lòng các chư-hầu, mà cũng hợp với vương lễ nữa.
Lỗ trang-công khen lời của Thi-bá rất phải liền sai quan Đại-phu Chuyên tôn-sính sang triều Châu đón Công-chúa Vương-cơ, và luôn tiện xin vua Châu phong cho Lỗ hoàn-công.
Vua nhà Châu chuẩn tấu, bèn sai sứ qua nước Lỗ để ban áo mão cho Lỗ hoàn-công.
Châu-công Hắc-kiên lãnh mạng xin đi.
Châu trang-vương không đồng ý, sai quan Đại-phu Vinh-Thúc qua Lỗ.
Sở dĩ Châu trang-vương không muốn Châu-công Hắc-kiên ra ngoài nước là vì Châu trang-vương có một người em tên Vương tử-khắc, trước kia Châu hườn-vương còn sống có lời phú-thác cho Châu-công Hắc-kiên, nay sợ Châu-công Hắc-kiên liên kết với các ngoại-bang tạo nên vây cánh .
Hắc-kiên thấy Châu trang-vương không muốn cho mình đi sứ , hiểu ngay nội-ý, đêm ấy qua dinh Vương tử-khắc kể tỏ sự tình.
Vương tử-khắc nói :
– Đã bị nghi ngờ thì làm cách nào thoát khỏi tai nạn ?
Châu-công Hắc-kiên nói :
– Nếu đã bị vua nghi ngờ thì tai nạn không tránh khỏi, chỉ có cách sớm liệu là hơn.
Đoạn Hắc-kiên bàn mưu , nhân đám cưới của Vương-Cơ mà nổi loạn, cướp ngôi Châu trang-vương.
Quan Đại-phu Tần-Bá biết được liền đem thuật lại với Châu trang-vương.
Châu trang-vương nổi giận bắt Châu-công Hắc-kiên đem chém, và dẫn quân bao vây tư dinh bắt Vương tử-khắc.
Nhưng Vương tử-khắc hay tin trốn qua nước Yên tị nạn.
Quan Đại-phu Chuyên tôn-Sính được phụng mạng đưa Công-chúa Vương-cơ sang Tề, rồi lại được Lỗ trang-công ủy-nhiệm rước nàng Văn-khương về Lỗ.
Tề tương-công bịn rịn không nỡ để nàng Văn-khương trở về nhưng vì sợ dư-luận thành thử cuối cùng phải gạt lệ chia ly.
Văn Chương buồn tủi lên đường, lòng đầy hổ thẹn.
Khi qua đến đất Chướng, nơi biên giới Tề-Lỗ, thấy phong cảnh tốt tươi, muôn hoa tươi đẹp, Văn-khương nghĩ thầm :
đã trót lầm lỗi, nay về Lỗ làm gì . Đất này không thuộc Lỗ, cũng không phải Tề thế thì ta ở đây mà dung thân cho an phận.
Nghĩ rồi cho bọn tùy tùng về tâu lại với vua Lỗ rằng :
– Gái góa bụa này muốn tìm chỗ thanh tịnh ở cho an nhàn . Lúc nào sắp chết mới về cung. Bọn tùy tùng trở về tâu lại.
Lỗ trang-công biết mẹ mình hỗ thẹn mà không về nước nên khiến cất một nhà quán nơi Chức-khâu để Văn-khương yên trú.
Từ đó, Văn-khương vui với phong cảnh mà khuây khỏa mảnh hồng-nhan.
Nhắc qua Tề tương-công từ khi âm-mưu giết Lỗ hoàn-Công, người trong nước đều cho là vô đạo, tiếng xấu đồn khắp xa gần . Nay tuy cưới được Công-chúa Vương-cơ đem về nhưng miệng đời vẫn chưa thôi mai mỉa. Muốn trấn áp lòng dân, Tề tương-công dự tính phải ra oai làm một vài việc đại nghĩa, để nâng phẩm giá của mình.
Tề tương-công nghĩ ngay đến nước Vệ và Trịnh, hai nước ấy có việc soán nghịch . Nhưng vua nước Vệ lại là phò mã của vua, chỉ có nước Trịnh là có thể đánh được, song chưa chắc đã thắng.
Tề tương-công nghĩ ngay một kế, sai sứ sang mời Trịnh-vĩ đến phó hội nơi đất Thủ-chỉ.
Công-tử Vĩ được lời mời có ý mừng thầm, nói :
-Tề-hầu chịu giao-hảo với ta thì cơ-nghiệp ta sẽ vững bền.
Bèn đòi Cao cừđi và Tế-Túc , khiến theo bảo giá.
Tế-Túc cáo bịnh, từ chối.
Cao cừđi phò Công-tử Vĩ lên xe, chúa tôi cùng khởi hành rất vui vẻ.
Tế-Túc ung dung trở về dinh, gặp Nguyên-phồn đón lại hỏi :
– Chúa-công sang phó hội với Tề, vì cớ gì ngài lại cáo bịnh mà không theo phò
Tế-Túc mỉm cười đáp :
– Vua Tề là một kẻ loạnđâm, tàn bạo. Trước kia Tiên-công ta vì có công lớn nên Tề mới khâm phục mà giao hảo . Nay bỗng dưng mời Chúa-công đi phó hội, tôi e không khéo cả vua tôi đều bị giết.
Nguyên-phồn nghe nói trố mắt nhìn Tế-Túc hỏi :
– Ngài đoán thực như thế sao ?
Tế-Túc đáp :
– Việc đó xảy đến không bao lâu, ngài cứ chờ đợi kết quả sẽ rõ.
Nguyên-phồn hỏi :
– Nếu quả đúng như lời ngài thì nước Trịnh sẽ về tay ai ?
Tế-Túc nói :
– Tất nhiên sẽ về Công-tử Nghi. Công-tử Nghi là người quý-tướng, trước kia Tiên-công thường vẫn nói thế.
Nguyên-phồn nói :
– Người ta cho rằng ngài là một kẻ tiên tri , nếu việc này quả đúng như lời thì tôi mới tin .
Dự đoán của Tế-Túc quả không sai.
Trước ngày phó hội, Tề tương-công đã đem một trăm quân giáp-sĩ phục nơi nhà Công-quán, và hôm ấy truyền cho Thạch-chi, Phân-như đứng hầu một bên.
Công tử Vĩ và Cao cừđi đến nơi bước vào yết kiến.
Vua Tề cầm tay Công-tử Vĩ nói :
– Hân hạnh được gặp ngài ! Đã từ lâu tôi muốn biết một điểu mà không sao biết được.
Công-tử Vĩ nói :
– Nay hiền-hầu có lòng tốt hạ cố đến tôi, nếu có điều gì xin hiền hầu cứ vui lòng chỉ giáo.
Tề tương-công nói :
– Tại sao ngày trước Trịnh chiêu-công bị chết Công-tử Vĩ nghe hỏi việc ấy, mồ hôi toát ướt áo, lúng túng không biết trả lời làm sao .
Cao cừđi rước lời nói :
– Tiên quân tôi bị bịnh mà tạ thế. Nhưng vì cớ gì mà hiền-hầu lại thắc mắc ?
Tề tương-công nói :
– Ta nghĩ Trịnh chiêu-công bị giết tạ thế chứ đâu phải bị đau mà tạ thế .
Cao cừđi liệu không thể giấu được bèn tìm lời bào chữa :
– Vâng một phần cũng vì Tiên-quân tôi có tâm bịnh nên khi thấy giặc thì sợ mà chết.
Tề tương-công cười lớn nói :
– Vua đi tất có phòng bị, sao lại để giặc giết được ?
Cao cừđi đáp :
– Trong nước tôi có lắm phe đảng, thực khó mà đề phòng.
Tề tương-công nói :
-Vậy có bắt được tên giặc đã giết vua chăng ?
Cao cừđi nói :
-Hiện nay nước tôi đang cho người lùng kiếm khắp nơi mà vẫn chưa bắt được.
Tề tương-công trợn mắt, chỉ vào mặt Cao CừĐi nói :
-Giặc chính là ngươi mà sao ngươi lại không biết ? Người chịu ơn vua lộc nước thế mà vì oán riêng dám thí vua, lại đem ba tắc lưỡi làm bức màn thưa để che thắt thiên hạ. Ta phải vì tiên-quân của ngươi mà bắt tên giặc ấy.
Nói rồi gọi Thạch-chi và Phân-như bắt Cao cừđi trói lại.
Công-tử Vĩ thất kinh, sụp lạy, nói :
– Việc đó Cao cừđi chủ mưu, xin hiền-hầu rộng-lượng.
Tề tương-công hét lớn :
– Đã giết anh cướp ngôi mà còn lắm lời xảo trá. Nếu có điều gì oan ức thì ngươi cứ xuống dưới âm phủ mà kêu nài.
Nói xong, truyền bọn giáp-sĩ bắt Công-tử Vĩ đem chém.
Cao cừđi hoảng vía, lạy lúc mãi.
Tề tương-công nói :
– Chúa mi đã chết mà mi sống được sao ?
Nói rồi truyền đem Cao cừđi ra cửa Nam cột tay chân vào bốn cỗ xe trâu, đánh trâu cho chạy bốn ngã.
Xác của Cao cừđi bị xé ra làm bốn mảnh.
Đoạn Tề tương-công truyền chặt đầu Cao cừđi treo lên cửa, thành, yết một tấm bãng lớn đề chữ như vầy : “Tấm gương của những kẻ làm tôi bất trung” .
Việc ấy xong, Tề tương-công sai người sang Trịnh nói cho biết là nước Tề đã trừ xong đứa phản nghịch, hãy đưa vua khác lên thay .
Nguyên-phồn hay được tin ấy tấm tắc khen thầm :
– Tế-Túc quả là một người sáng suốt ít ai bì kịp.
Các quan nước Trịnh họp nhau lại bàn việc lập vua mới.
Thúc-thiềm nói :
– Vua cũ là Trịnh lệ-công hiện nay đang ở nơi đất Lịch, ta nên rước về tôn lên ngôi.
Tế-Túc nói :
– Vua cũ đã bõ nước mà trốn đi thì không nên lập lại. Ta nên lập Công-tử Nghi mới phải lẽ.
Nguyên-phồn khen là hợp-lý.
Các quan cũng đồng thanh đưa Công-tử Nghi lên ngôi.
Tế-Túc vẫn giữ chức Thượng Đại-phu, Thúc-Thiềm làm Trung Đại-phu, còn Nguyên-phồn làm Hạ Đại-phu.
Việc triều chính giao cho Tế-Túc lo việc giao hảo với các nước Tề, Trần v.v… và sang cống nước Sở.
Còn Trịnh lệ-công vẫn phải chịu tá túc nơi cõi ngoài.