Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là tác phẩm đúc kết lên một triết lí nhân sinh, rằng con người có thể chinh phục mọi thứ nếu có sự đoàn kết, ý chí và sức mạnh.
Về tác giả Ngô Thừa Ân
Ngô Thừa Ân (1500 hoặc 1506 – 1581), tự Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn Nhân, là một tác giả văn học Trung Quốc, sống vào đời Minh.Ông sinh tại Hoài An, tỉnh Giang Tô. Gia đình ông làm nghề buôn bán nhỏ, chuyên bán chỉ và đồ thêu, nhưng lại có thú tàng trữ sách. Cả ông nội và cha Ngô Thừa Ân đều xuất thân là quan lại qua con đường khoa cử.
Ông học tại Nam Kinh Thái học (Đại học Nam Kinh cổ) trong hơn 10 năm. Theo tương truyền, Ngô Thừa Ân từ nhỏ đã say mê những truyện thần tiên yêu quái. Khi bị cha cấm, ông từng trốn cha mang những cuốn sách thể loại đó ra chợ ngồi đọc.Lớn lên, ông tỏ ra là người có tính tình khảng khái, những câu nói của ông lúc bấy giờ thể hiện tính cách của ông: “không để người đời thương hại”, “trong lòng mài mãi dao trừ tà, muốn dẹp sạch đi, buồn không đủ sức”. Ngô Thừa Ân nổi tiếng văn hay chữ tốt và rất thích hài kịch. Ông từng viết nhiều tạp kĩ, lừng danh một thời.
Tuy là người đa tài nhưng Ngô Thừa Ân lại lận đận trên đường thi cử. Ngô Thừa Ân thi nhiều lần, nhưng không đỗ. Mãi tới năm khoảng 43 tuổi, ông mới đỗ Tuế cống sinh. Sau đó, ông còn đi thi hai lần nữa nhưng đều hỏng. Năm 51 tuổi, vì cảnh nhà quẫn bách, ông đến Nam Kinh tìm việc nhưng cô thế không có nơi nương tựa nên việc cũng chẳng thành. Mãi đến năm 67 tuổi, ông đến Bắc Kinh để được tuyển dụng làm quan, ông nhận một chức quan nhỏ (huyện thừa) tại huyện Trường Hưng. Chẳng bao lâu sau, vì không chịu được cảnh luồn cúi, ông từ chức ra về.
Ngô Thừa Ân còn được tiến cử vào giữ chức kỉ thiện trong Kinh Vương phủ, chuyên coi việc lễ nhạc và văn thơ, nhưng được 3 năm thì bất đắc chí từ quan về nhà. Lúc đó Ngô Thừa Ân đã 70 tuổi. Từ đây, Ngô Thừa Ân sống bằng nghề viết văn, thơ, được hơn 10 năm thì mất.
Sáng tác của ông khá phong phú, nhưng đã bị mất mát gần hết, do chỉ có một con gái và gia cảnh bần hàn, nên hiện chỉ còn lại một số thơ văn được tập hợp lại thành bộ Xạ Dương tiên sinh tồn cảo gồm 4 quyển.
Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tây du ký viết lúc đã ngoài 70 tuổi. Cuốn tiểu thuyết này được nhiều thế hệ người Trung Quốc yêu thích và là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển phổ biến nhất ở Trung Quốc và nhiều quốc gia khác.Đương thời, khi ông còn sống, Tây du ký chưa được người đời biết đến, mãi tới sau khi ông mất nhiều năm, một người cháu ngoại họ Dương mới mang ra công bố tiểu thuyết này.
Về tác phẩm Tây du ký
Tây du ký là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590 và không có bằng chứng trực tiếp còn tồn tại để biết tác giả của nó, nhưng tác phẩm này thường được cho là của học giả Ngô Thừa Ân.
Tác phẩm tổng cộng có một trăm hồi, ra đời vào năm Vạn Lịch thứ 29 (1601), triều Minh. Sau khi Tây du ký xuất hiện, trong giai đoạn này, nhiều tác phẩm tiếp tục đề tài của Tây du ký, nhưng cốt truyện và nhân vật có thay đổi như Hậu tây du ký, Tục tây du ký và Tây du bổ. Trong đó, đáng chú ý và có giá trị nhất là Hậu tây du ký, không rõ tác giả.
Ngày nay, Tây du ký được xem là tác phẩm văn học đạt đến độ mẫu mực, đứng trong 4 tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa, gọi là Tứ đại danh tác (cùng với Tam Quốc Diễn Nghĩacủa La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am và Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần) .
Trong đó, tiểu thuyết kể về hành trình của Trần Huyền Trang đến Tây Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh. Theo ông là ba đệ tử: Tôn Ngộ Không một tên khỉ do đá sinh ra; Trư Ngộ Năng – một yêu quái nửa người nửa lợn; Sa Ngộ Tĩnh –một thủy quái. Họ đều đồng ý giúp ông thỉnh kinh để chuộc tội. Bên cạnh đó, con ngựa mà Trần Huyền Trang cưỡi cũng là một nhận vật do hoàng tử của Long Vương (Bạch Long Mã) hóa thành. Cụ thể, câu chuyện diễn ra như sau:
Những chương đầu thuật lại những kì công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông , xưng vương ởHoa Quả Sơn, tầm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong núi Ngũ Hành 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh sau khi hoàng đế thoát chết.
Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu, trong đó nhiều yêu quái là đồ đệ của các vị Tiên, Phật. Một số yêu tinh muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành đàn bà đẹp. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa…
Cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật.Đây cũng được tính là một khổ nạn cho bốn thầy trò. Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua ông. Khi đang chở Tam Tạng qua giữa sông, Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi, nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì vậy, kinh đến Trung thổ không được toàn vẹn. (Nguồn: ĐHKHXH&NV)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng, Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng, gọi là Tam Hoàng. Rồi đến vua Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh, Nghiêu và Thuấn gọi là Ngũ Ðế.
Thuở ấy, Trung quốc chia làm bốn châu: Ðông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiện Bộ châu, Bắc Cư Lư châu.
Ðặc biệt là nơi ven biển lại có một nước tên Ngao Lai. Trong nước ấy có một hòn núi gọi là Hoa Quả Sơn (Núi có nhiều thứ hoa quả lạ) đứng sừng sững giữa trời, bao phủ đồi cây gò đất. Trong cảnh hùng tráng âm u ấy có một tảng đá rất lớn, bề cao ba mươi sáu thước năm tấc, chu vi hai mươi bốn thước, trên mặt có chín lỗ thông thiên, bốn bên có tám hang thông ra rừng rậm!
Thật là một tảng đá dị thường, “Cấu Tạo từ thuở khai thiên lập địa” mà loài người không ai có thể tưởng tượng nổi. Với chiều cao vượt lên muôn vật trên mặt đất ấy tảng đá không bị che khuất, hứng chịu sức nóng và lạnh của nhật nguyệt, lần lần tụ tinh nứt ra một viên trứng đá.
Trong lâu năm, trứng ấy tượng hình, rồi gặp một trận gió lớn nỡ ra một con Khỉ đá, giống tạc hình người, đủ tai, mắt, miệng, mũi và tay chân rất lanh lẹ.
Khỉ đá đi đứng khắp vùng, cặp mắt chói lòa như hai cái đuôi sao Bắc Ðẩu.
Gặp lúc Ngọc Hoàng đang ngự nơi Linh Tiêu điện, thấy hào quang từ địa giới chói lên lấy làm lạ, sai thiên thần đến hỏi:
– Vì cớ gì lúc này nơi trần gian lại có hào quang chói sáng?
Thiên thần không ai biết.
Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ ra cửa trời xem thử.
Hai thần tuân lệnh đi do xét một lúc, trở về báo:
– Tâu Thiên Hoàng! Hào quang đó là đôi mắt của một con Khỉ đá!
Ngọc hoàng ngạc nhiên nói:
– Cõi trần gian, sao có loài khỉ phi thường?
Hai thần tâu:
– Nơi Ðông Thắng Thần Châu có một hòn đá trên núi Hoa Quả, cảm khí âm dương, chứa hơi nhật nguyệt, nứt ra một trứng đá. Trứng ấy nở ra một con Khỉ, đôi mắt sáng quắc. Mỗi khi hắn ngó lên trời là hào quang chói lọi.
Ngọc Hoàng hỏi:
– Thế thì phải làm cách nào để tiêu diệt luồng nhãn khí đó?
Hai thần tâu:
– Chẳng hề chi! Hiện nay nó đang sống bằng hoa quả. Hạ thần tưởng chắc một thời gian đôi mắt nó sẽ mờ đi.
Ngọc Hoàng an lòng bỏ qua câu chuyện đó.
Thời gian qua trong cánh núi rừng hoang vắng, Khỉ đá đói ăn trái cây khát uống nước suối, ngày dạo khắp núi non, tối tìm hang động ẩn thân, làm bạn với loài hươu nai, khỉ, vượn khác.
Cái thời gian ấy cũng chẳng ai biết là bao lâu, người ta chỉ thấy Khỉ đá lúc ẩn, lúc hiện, Từ nơi này đến nơi khác, lúc ở nơi thanh vắng, lúc lại đến gần những vùng lân cận làng mạc xa xôi, để bắt chước lối sanh hoạt và tiếng nói của loài người.
Cũng trong thời gian đó, Khỉ đá gần gũi với bầy khỉ bạn, tập tành nhau lối ăn nói, xử sự trong có vẻ giống người.
Ngày kia, gặp lúc khí trời nóng bức, Khỉ đá dẫn cả đoàn ra hóng mát nơi bóng cội tùng.
Gió rừng ào ạc, trộn lẩn vối tiếng róc rách của dòng suối chảy xa xa.
Khỉ đá bảo bầy khỉ nhỏ:
– Chúng ta hãy tìm suối nước tắm cho mát.
Bầy khỉ nhỏ tán thành, tung tăng nhảy nhót về phía khe sâu. Ðó là một con khe lớn, nước trong vắt, uốn quanh theo rặng núi.
Bầy khỉ nhỏ nhìn làn nước nhăn mặt bảo nhau:
– Chưa biết khe sâu cạn, sao dám xuống tắm?
Khỉ đá nói:
– Ðứa nào dám xuống trước ta sẽ tôn làm vua.
Cả bầy khỉ đều lắc đầu kinh sợ.
Khỉ đá nói:
– Ðể ta xuống đó cho mà xem.
Dứt lời, co chân nhảy ùm xuống nước.
Nhưng lạ làm sao, vừa lặn khỏi làn nước, Khỉ đá mở mắt ra trông thấy dưới đó là một khoảng không gian trống rỗng. Gần đó có một chiếc cầu ẩn khuất trong kẹt đá. Bên cầu cũng cây cũng trái xanh tươi, dưới cầu cũng nước trong veo chảy nghe róc rách. Cảnh lạ đó gợi vào tánh tò mò, Khỉ đá uốn mình nhảy vọt lên cầu, chạy ngược vào trong. Càng vào sâu, phong cảnh càng thêm u nhã.
Bên trong, sừng sững một toà nhà rộng lớn, trước cửa cổ một tấm biển, khắc mấy dòng chữ:
” Hoa Quả Sơn phước địa
Thủy Liêm động, động thiên “
Nghĩa là:
” Núi hoa qua đất phước
động Thủy Liêm hang trời “
Vừa bở ngỡ vừa mừng thầm, Khỉ đá trở lại cầu, tung mình nhảy lên mặt nước, mặt mày hân hoan, nhìn lũ khỉ nhỏ khịt mấy cái.
Lũ khỉ nhỏ thấy Khỉ đá ló đầu lên, đã vội xúm đến, quấn quít hỏi:
– Suối nước sâu cạn? Có gì lạ chăng?
Khỉ đá nói:
– Không sâu, không cạn, vì dưới đó không phải nước mà là một cảnh phi thường.
Lũ khỉ nhỏ ngạc nhiên, nhao nhao hỏi:
– Cảnh thế nào mà phi thường?
Khỉ đá vừa đưa tay ra dấu vừa giảng giải:
– Có một cái cầu rất đẹp, bên cầu cỏ một tòa nhà uy nghi, lộng lẩy.
Một con trong lũ khỉ nhỏ hỏi:
– Trong ngôi nhà ấy có giêng gì chiếm cứ chăng?
Khỉ đá nói:
– Không có gì cả! Chỉ có lò, chén, nói, chảo, giường, ghế. Tất cả đều bằng đá.
Nghe chuyện lạ, bầy khỉ nhỏ hớn hở nói:
– Thế thì chúng ta đem nhau xuống đó làm chổ dung thân tránh cơn mưa gió phủ phàng nơi núi rừng hoang lạnh.
Khỉ đá gật đầu:
– Ðúng vậy! Trời đã dành riêng chổ đó cho chúng ta, bỏ qua uổng lắm.
Bầy khỉ nhỏ nói:
– Vậy anh nhảy xuống trước, chúng tôi theo sau.
Khỉ đá co chân nhảy ùm xuống, lũ khỉ con răm rắp nhảy theo.
Chúng vừa nhảy xuống hang, vội vã lên cầu, chạy qua toà nhà lớn.
Rồi cùng nhau vào, đùa bưng nồi, đứa lấy chén, đứa lên giường, đứa xuống bếp, lăn xăn..phá phách một hồi rồi ngồi lại rung đùi, nhịp vế.
Khi ấy Khỉ đá mới gọi cả lũ vào hỏi:
– Lúc còn ở trên núi, chúng ta có hứa nhau, ai xuống trước sẽ tôn làm vua, bây giờ bây quên lời đó sao?
Lũ khỉ nhớ trực lại, vội vàng đến trước mặt Khỉ đá quì xuống, tôn làm đại vương.
Khỉ đá mỉm cười truyền rằng:
– Từ nay, ta làm vua lấy hiệu là Mỹ Hầu Vương, phong cho Vượn và Khỉ Ðột làm tả, hữu Thừa Tướng.
Khỉ đá cùng ở với các khỉ con, sống trong cảnh thanh nhàn, sáng lên chơi núi Hoa Quả, chiều về ngủ động Thủy Liêm, không còn chung chạ với các thú nơi rừng núi hoang lạnh. Hưởng phước lạc gần ba trăm năm.
Một hôm trời trong gió mát, lũ khỉ bày tiệc linh đình, vui chơi hỉ hả. Nhưng Khỉ đá không vui, đôi mắt lờ đờ nhìn mây gió rồi hai dòng lệ tuôn ròng. Lũ khỉ con ngạc nhiên hỏi:
– Tiệc vui này, có điều gì làm cho Ðại vương buồn chán?
Khỉ đá gạt lệ nói:
– Ta nay tuy sung sướng nhưng còn lo nghĩ nhiều về mai hậu
Bọn khỉ cười nói:
– Thế này là chúng ta diễm phúc lắm rồi, có nhà cao cửa rộng, có hoa quả bốn mùa, ấm no đầy đủ, còn đòi gì hơn?
Khỉ đá nói:
– Các ngươi thấy sao mừng vậy, đâu nghĩ gì đến ngày mai! Tuy ta sống ẩn náu nơi động, không vướng phép vua, không sợ loài thú dữ, nhưng rồi chúng ta có thể sống mãi không già chăng? Chừng đó tử thần chờ trước cửa, làm sao giữ lại những ngày vui như vậœy?
Giữa lúc ấy, một con vượn già ngồi phắt dậy nói lớn:
– Ðại vương biết trước lo xa, quả là phi phàm vậy! Trên đời ai tránh khỏi chết, trừ ba bậc: Tiên, Phật, Thánh Thần, có phép TSnh bất tử kia.
Hầu vương nghe nói, hỏi:
– Ba bậc ấy ở đâu, nhà ngươi có biết chăng?
Vượn tâu:
– Bậc siêu phàm ấy thường ở nơi non tiên, động đá.
Hầu Vương như nhẹ cơn buồn, khoan khoái nói với các khỉ nhỏ:
– Mai này ta từ giả các ngươi, thả bước phiêu lưu nơi chân trời, góc biển, tìm cho kỳ được thuốc TSnh bất tử.
Bầy khỉ rú lên khen:
– Hay lắm! Ðại vương đi thành công, chúng ta sẽ được sống mãi, an hưỡng nơi động này.
Một khỉ đột nói:
– Chúng ta hãy cùng lên núi Hoa Quả tìm nhiều trái quý về thết tiệc tiễn hành Ðại vương.
Lũ khỉ nhỏ gật đầu hy vọng vị Ðại vương của chúng sẽ tìm ra thuốc TSnh bất tử, cứu cho cả loài tránh khỏi cái chết.
Sáng hôm ấy chúng rủ nhau lên núi Hoa Quả hái trái đem về, nào là bàn đào, quả mận, nào là hạ lê, hoài sơn, huỳnh tính đặt tiệc ê hề.
Hầu vương ngồi trước, dưới là quan chức, tiếp đến là khỉ con vừa ăn vừa đàm luận suốt ngày, không qua câu chuyện TSnh bất tử.
Hôm sau, Hầu vương dậy sớm, bảo lũ khỉ bẻ nhiều tre kết làm bè. Rồi từ giả, chống bè ra biển cả, mặc cho gió dập sóng dồi, đêm sương ngày nắng!
Trót mấy ngày bơ vơ trên mặt biển, Hầu vương nhìn chân trời bát ngát bao la, không biết đến nơi nào, đành nhắm mắt ngồi liều, phó mặc cho trời đất! Gió ngàn vi vút thổi, khiến bè tre tấp vào bến Nam Thiện Bộ Châu. Nghe tiếng chim kêu lẩn với tiếng người văng vẳng, Hầu vương mở bừng mắt, xem thấy đất bằng, làng mạc lưa thưa, lòng mừng khắp khởi.
Hầu vương bỏ bè bước lên bờ, mấy ngư phủ vừa thấy, ngỡ là loài yêu quái rùng rùng bỏ chạy! Một ông lão khiếp đảm, quýnh chân nằm chết điếng trên bải biển. Hầu vương chạy tới lột hết quần áo mặc vào, giả người đồng nội, lần mò đến tỉnh thành, học thêm tiếng người xứ ấœy.
Rồi Hầu vương lại tiếp tục cuộc hành trình ngày đi, đêm nghĩ cố tìm cho được động Tiên, cửa Phật.
Nhưng than ôi! Ði mãi chỉ gặp bọn đồ đanh, mưu lợi, không hề biết đạo là gì!
Hầu vương lưu lạc chín năm vất vả, vượt núi băng ngàn mà chưa đem lại một kết quả nào! Lòng buồn chán ngán!
Mấy tháng sau, đi đến Tây Dương biển cả. Hầu vương nhìn ra khơi mây nước bao la, lòng thầm nghĩ:
– Ta đi khắp bốn phương trời, sá gì mặt biển này?
Nghĩ vậy, Hầu vương tìm cây kết bè chống ra ngoài khơi, phó mặc cho mưa gào gió thét.
Sóng vỗ bè trôi, Hầu vương ngày nào cũng chỉ thấy mây xanh và nước biếc! Thĩnh thoảng một vài con cá rựa chạy sóng sượt trên mặt nước. Hầu vương tưởng là Hà thần hiện lên. Có lúc trời chớp lạch, Hầu vương cũng ngỡ là thần tiên hiện đến!
Mấy ngày sau, bè trôi đến miền Tây Ngưu Hạ Châu, Hầu vương lại bõ bè lên bờ, xảy thấy núi cao chót vót, cây cối sum suê, hoa tươi xinh đẹp liền dừng bước lẩm bẩm:
– Núi cao, may ra có ” Thánh, Thần, Tiên, Phật “
Hầu vương quay lên núi, thoan thoát chuyển từ cây này qua cây nọ, đu dây vượt suối, không bao lâu đến đĩnh núi.
Nhưng nhìn quanh quất cũng chỉ thấy toàn là cây núi mênh mông, gió rừng rào rạc, không có bóng dáng “thần tiên”.
Hầu vương ngồi lên tảng đá, ngước mặt than:
– Thánh thần, Tiên, Phật nào hiểu được lòng ta, lòng của kẻ chân thành đang ngày đêm mơ ước!
Dứt lời, Hầu vương định xuống núi. Bỗng có tiếng hát từ xa vọng lại:
Non xanh rừng rậm,
Gió vàng reo, lấm tấm lá khô bay
Mộng đời, vừng mây bạc
Lòng đời, chung rượu say!
Nghêu ngao vui thú đêm ngày
Búa Tiên củi quế, miễn đầy gánh thôi.
Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời
Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình
Nghe tiếng người hát, Hầu vương mừng quýnh lên, lảm nhảm:
– Thần tiên đây rồi! May lắm!
Liền chạy men theo tiếng hát. Ðến nơi, thấy lão tiều đang hái củi, Hầu vương bước tới thi lễ và cung kính thưa:
– Dệ tử đến ra mắt, có điều chi thất lễ xin thần tiên lượng thứ!
Lão tiều vội bỏ búa, nói:
– Chao ôi! Ông lầm rồi, tôi vốn người nghèo khổ, làm nghề hái củi đổi gạo nuôi thân, có đâu được bậc phi thường ấy!
Hầu vương ngơ-ngác nói:
– Lạ thật, người không phải thần tiên, sao nói chuyện thần tiên lưu loát vậy?
Tiều phu phì cười, hỏi:
– Tôi nói chuyện thần tiên bao giờ?
Hầu vương nói:
– Tiếng ca vừa rồi, tôi có nghe ông hát:
Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời
Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình
Rõ ràng tiều ông là tiên vậy!
Tiều lão cười, đáp:
– Tôi không giấu gì ông, bài ca ấy của Tiên ông dạy tôi để hát cho khuây khỏa trong giờ mệt nhọc, không ngờ lọt đến tai ông, chắc tôi phải chịu lời khiển trách!
Hầu vương hỏi tiếp:
– Vậy thì Tiên ở đâu, xin tiều lão chỉ hộ cho.
Tiều phu nói:
– Tiên ông hiện ở tại xóm tôi. Cáeh đây không xa mấy, có một dãy núi tên là Linh Ðài phương thốn sơn, trong có động Tà Nguyệt Tam Tinh, Tiên ông hiệu là ” Cu Bồ Ðề Tổ Sư “, ở đấy thu nhận đồ đệ rất nhiều, song các đồ đệ bị đuổi cũng không ít, hiện nay chỉ còn ước độ ba bốn mươi. Ông muốn đến đó phải theo đường nhỏ qua hướng Nam, chừng bảy tám dậm, là tới động.
Hầu vương nhìn ông tiều năn nỉ:
– Ðường đi đến động ngoằn ngoèo dễ lộn, mong ông thương đến, dẫn tôi cùng đi về xóm, tôi xin hậu tạ.
Tiều lão lắc đầu đáp:
– Giúp ông tôi không nệ công lao, ngặt vì tôi còn cha mẹ già, sớm chiều lo phụng dưỡng, phải ở lại hái củi đổi gạo, không tiện làm vừa lòng ông!
Nghe lão tiều than, Hầu vương cảm động, đành phải bái biệt ra đi.
Núi rừng thăm thẳm, đá cao chồng chất, chông gai hiểm trở. Hầu vương vốn quen miền sơn dã, đi riết một hồi bảy tám dậm, quả thấy một động lớn, cửa đóng kín không có bóng người thấp thoáng. Trước đó, một bia đá lớn đề mấy chữ ” Linh Ðài phương thốn sơn Tà Nguyệt tam tinh động “
– Tôi từ xa tìm đến đây học đạo, không phải kẻ tộm đào, xin tôn huynh hiễu cho.
Ðồng-tử nghi ngờ Hầu vương, nói:
– Anh thật lòng đến đây, tìm sư học đạo sao?
Hầu vương thưa:
– Ðường xa ngàn dặm, không ngại gian lao, ngày đêm lặn lội, tôi chỉ mong được làm đệ tử nơi này.
Ðồng tử nhìn tướng mạo Hầu vương, mỉm cười, nói:
– Sư phụ vừa thức dậy, sửa soạn giảng kinh, dạy tôi ra rước người tu niệm, có lẽ anh đây là phải?
Hầu vương mừng thầm, reo lên:
– Tiên ông quả là bậc tiên tri, xin tôn huynh đừng ngần ngại. Chính là tôi vậy.
Ðông tử gật đầu bảo:
– Ngươi cùng tôi vào ra mắt sư phụ.
Hầu vương tươi cười, nhí nhảnh theo đồng tử vào động, nhìn thấy quang cảnh uy nghiêm, nào cung châu, điện ngọc, nào phòng đọc sách, nào chổ giảng kinh, đâu đó trang hoàng rực rở. Thẳng đến trước Ngọc đài, thấy Bồ Ðề Tổ Sư ngồi trên ghế cao, bên dưới đệ tử đứng hầu hơn ba chục.
Hầu vương bước đến sụp lạy lia lịa, và thưa:
– Tiện nhân mộ đạo đến đây, xin ra mắt thầy.
Tổ Sư hỏi:
– Ngươi tên họ là chi? Từ đâu đến?
Hầu vương thưa:
– Tôi ở Ðông Thắng Thần Châu, núi Hoa Quả, động Thủy Liêm.
Tổ Sư nạt lớn:
– Kẻ ăn nói trớ trêu, tu hành sao được. Mau đuổi nó đi!
– Ðường từ Ðông Thắng Thần Châu đến đây cách hai cửa biển, và một cõi Nam Thiên Hạ Châu làm sao nhà ngươi đi được?
Hầu vương thỏ thẻ thưa:
– Tôi dùng tre kết bè, vượt qua hai cửa biển, trèo non lặn lội hơn chín năm trời mới đến đây, cúi xin thầy đoái tưởng.
Tổ Sư nói:
– Ngươi đi lâu ngày là phải! Vậy nhà người tên gì?
– Tôi không có danh tánh. Nhưng ai rầy tôi không giận, ai đánh tôi không hờn.
Tổ Sư cau mày nói:
– Ta muốn biết danh tánh nhà ngươi, ngươi khai chi về tính nết.
Hầu vương thưa:
– Thưa thầy, tôi không cha mẹ!
Tổ Sư nói:
– Người sao không có cha mẹ, không lẽ cây đá sanh ngươi sao?
Hầu vương thưa:
– Ðúng vậy! Nguyên nơi núi Hoa Quả có hòn đá lớn, kết tinh nhật nguyệt lâu ngày, rồi một đêm mưa vang lên tiếng nổ, đá ấy nứt hai, sanh ngay tôi từ lúc đó.
Nghe nói, Tổ Sư mừng thầm hỏi:
– Như vậy là thiên địa cấu tạo ra ngươi. Thôi ngươi hãy đi qua lại cho ta xem nào.
Hầu vương đẹp dạ, đứng phắt lên chạy qua lại vài lần, rồi quỳ xuống nghe dạy.
Tổ Sư cười nói:
– Nhà ngươi bộ tịch hệt như khỉ. Ðể ta xét theo diện mạo mà đặt tên cho.
Hầu vương sụp lạy tạ ơn. Tổ Sư nói:
– Ta muốn theo hình dung nhà ngươi, đặt họ Hồ nhưng vì chữ hồ bõ khuyển bằng chỉ còn chữ cổ, chữ nguyệt. Cổ nguyệt có nghĩa là trăng già không tốt. Thôi ta đặt cho ngươi họ Tôn, chữ tôn bõ khuyển bằng còn chữ tử, chữ hệ là còn trẻ, còn lớn, còn khôn, tốt lắm!
Hầu vương mừng rỡ cúi đầu lạy tạ và thưa:
– Mong thầy luôn tiện mở lượng từ bi đặt tên luôn cho tôi, để dễ gọi lúc sai khiến.
Tổ Sư nói:
– Trong đạo có mười hai chữ người ta thường dùng ” Quảng, Ðại, Trí, Huệ, Chơn, Như, Tánh, Hải, Ðĩnh, Ngộ, Viên, Giác. Trong mười hai chữ đó tính dồn tới ngươi nhằm vào chữ Ngộ.Vậy ta đặt tên ngươi là Tôn Ngộ Không.
Hầu vương khoái ý cười:
– Tốt lắm! Tốt lắm! Từ nay tôi mới biết được tên, xin chịu gọi là Ngộ Không.
Hầu vương từ ngày được tên họ, Tổ Sư truyền học trò đem ra ngoài dạy nghi lễ, cách ăn ở, lối cử xử. Và giao việc quét trước dọn sau, tưới hoa nhổ cỏ, làm suốt gần bảy năm trời.
Một hôm trời trong gió mát, nắng dịu lướt qua cửa sổ, rọi vào điện ngọc long lanh, như thiên tào nhìn xem cuộc giảng kinh nơi tiên động. Tổ Sư ngồi trên, dưới điện học trò lẵng lặng nghe lời giảng dạy.
Ngộ Không nghe kinh thấm ý, cào tai, gải mắt, trợn mắt nhướng mày, khoa tay múa chân đến nổi nhảy dựng ra ngoài hàng mà không biết.
Tổ Sư ngạc nhiên kêu hỏi:
– Nhà người sao vô lễ vậy? Mau vào hàng nghe giảng đạo.
Ngộ Không thưa:
– Ðệ tử nghe lời thầy giảng giải hay quá, khiến cho lòng thành thích ý, nhảy múa không hay.
Tổ Sư nói:
— Ngươi biết được lời hay của kinh giảng, vậy người ở đây bao lâu rồi, có biết chăng?
Ngộ Không thưa:
– Ðệ tử thưa biết mấy năm mấy tháng. Chỉ nhớ hái củi trên núi này, gặp đào chín ăn được bảy mùa.
Tổ Sư vừa cười vừa nói:
– Núi ấy, tên gọi Lang Ðào mỗi năm một mùa trái chín, mà ngươi ăn được bảy mùa, là bảy năm rồi đó. Nay ngươi đã có trí nhớ ta muốn truyền dạy, chẳng biết ngươi thích học môn nào?
Ngộ Không thưa:
– Mang ơn thầy dạy bảo, đệ tử xin tùy sự lựa chọn của thầy.
Tổ Sư nói:
– Phép đạo có 360 cửa, ngươi có thích học phép chư thuật không?
Ngộ Không thưa:
– Phép ấy ra sao?
Tổ Sư nói:
– Phép này biết trước mọi việc lành dữ, phước đức.
Ngộ Không thưa:
– Vậy có sống lâu đời đời chăng?
Tổ sư nói:
– Không thể sống lâu đựợc!
Ngộ Không lắc đầu không chịu học.
Tổ Sư hỏi:
– Vậy ngươi chịu học phép chư lưu chăng?
Ngộ Không thưa:
– Phép ấy thế nào xin thầy cho biết?
Tổ Sư nói:
– Phép chư lưu làm được thầy, được thuốc được vái và tụng kinh niệm Phật…v.v
– Phép ấy có sống đời đời chăng?
Tổ Sư nói:
– Học phép này muốn sống đời, có khác nào trồng cột, tô vách!
Ngộ không sầm nét mặt suy nghĩ giây lâu, rồi nói:
– Thưa thầy, đệ tử vốn người dốt nát không thấu nổi lời cao kỳ, mong thầy phân rõ.
Tổ sư nhìn Ngộ không như dò ý, nói:
– Ngươi muốn cất nhà cao, trồng cột vào vách, ngoài xây tường. Tuy nhà chắc không ngã, nhưng khi hư rồi, cột nằm trong vách cũng mục nát luôn.
Ngộ không buồn bã đáp:
– Việc không bền, tôi không học, xin thầy thứ tội.
Thấy Ngộ không buồn, Tổ Sư bảo tiếp:
– Không hài lòng, ta sẽ dạy cho phép chư linh có sao đâu mà buồn vậy.
Ngộ không ngước mặt lên, nhìn Tổ Sư như van xin:
Phép ấy thế nào? Nhờ thầy dạy bảo?
Tổ Sư đáp:
– Phép tịch cốc này gọi là tham thiền, chỉ ngồi làm thinh tịnh dưỡng tinh thần thôi.
Ngộ Không hỏi vội:
– Ngôi làm thinh tịnh dưỡng, có thể sống hoài được chăng?
Tổ Sư nói:
– Theo phép này, như đất mới vổ để vào lò gạch.
Ngộ Không ngớ ngẩn hỏi:
– Như thế nghĩa là sao? Xin thầy giảng rõ?
Tổ Sư phì cười:
– Ðất tuy vổ nên hình tấm gạch, song mới để lên lò chưa nung chín, đem ra dùng gặp nước phải rả.
Ngộ Không lắc đầu ý không chịu học.
Tổ Sư bảo:
– Nếu không muốn học chữ tịnh ta lẽ dạy chữ động cho.
– Phép ấy, uốn mình, bẻ xương, luyện hơi thở, uống thuốc kim đơn khỏi bệnh, được sống lâu muôn thuở. Mà phép TSnh đó chẳng khác nào trăng dưới nước!
Ngộ Không vừa mừng vừa ngại, hỏi:
– Ðó, thầy vẫn giấu mẹo hoài, đệ tử biết đường nào theo!
Tổ Sư nói:
– Trăng trên trời rọi xuống nước, tuy có bóng nhưng không có thật.
Ngộ Không ngước lên nhìn Tổ Sư thưa:
– Vật như hư, đệ tử theo học cũng hoài công vô ích!
Tổ Sư đập bàn hét lớn, tay cầm thước bước xuống ghế, chỉ vào mặt Ngộ Không nói:
– Khỉ đột, phép nào cũng chê, mà còn đòi hỏi gì?
Dứt lời, gõ óc Ngộ không ba cái, chắp tay sau đít quay vào phòng đóng cửa.
Các môn đệ đều thất kinh! Kẻ oán Ngộ Không, người lo thầy giận.
Còn Ngộ Không chẳng hề sầu não, lại cười giỡn tươi vui.
Vì Ngộ Không biết thầy ra dấu: ” Ðến canh ba lén vào cửa sau vô phòng thầy truyền phép “.
Ðêm hôm ấy, Ngộ Không nằm giả ngủ, chờ mọi người ngon giấc, lén dậy, ngồi nhìn ra cửa sổ. Bấy giờ mây cuộn sao mờ, trăng tà sương đổ, chốc chốc có tiếng gió thổi rì rào, như báo hiệu một đêm đầy hy vọng.
Ngộ Không đợi đúng canh ba lén vào ngõ sau, thấy cửa mở hé một cánh.
Bước vào phòng, Ngộ Không thấy thầy đang quay mặt vào vách ngủ liền quì sát bên giường không hề kinh động. Một lúc sau, Tổ Sư thức dậy duỗi chân ra ngâm mấy vần thơ:
Nhật nguyệt phôi pha nặng cõi trần
Nhàn lai vô sự kiếp tiên nhân
Linh đơn đạo thuật hầu chưa dễ
Chỉ dễ cho ai được hưởng phần
Lời thơ vừa dứt, Ngộ Không cất tiếng thưa:
– Tôi đến chờ thầy từ lúc gà giục gáy.
Tổ Sư nghe Ngộ Không nói, ngồi dậy nạt lớn:
– Loài khỉ, giờ này chưa ngủ, còn đến đây làm gì?
Ngộ Không cúi đầu cung kính thưa:
– Lúc ban ngày thầy có dạy tôi, vào khoảng canh ba lén đến ngỏ sau thầy truyền phép, nên tôi mới bạo dạn vào phòng giữa lúc đêm khuya, xin thầy lượng thứ.
Tổ Ssư nghe nói, thầm nghĩ:
– Thằng này quả làa trời sanh, không phải phàm tục, nên đoán được mẹo ra dấu của ta.
Ngộ Không thấy Tổ Sư trầm ngâm suy nghĩ, liền hỏi:
– Ở đây không có ai, xin thầy truyền phép, tôi chẳng dám quên ơn.
Tổ Ssư nói:
– Ta mến người có phúc, thương kẻ thành tâm. Vả lại ngươi đã đoán ra mẹo của ta, rõ là kẻ phi thường, ta sẳn lòng truyền phép TSnh bất tử cho.
Ngộ Không vui mừng, lạy tạ, rồi quì bên giường nghe lời chỉ dạy.
Tổ Sư giảng những câu khó hiểu, tưởng như Ngộ Không chậm biết.
Nhưng Ngộ Không vốn trời sinh ra có khiếu thông minh sẳn. Vả lại, ở động tiên lâu ngày đã am tường lời của Tổ Sư, nên Ngộ Không nghe qua thì hiểu liền, bèn lạy tạ lui ra nhà trước, ngồi lâm râm môt mình học thuộc lòng. Từ đó cứ đêm đến canh ba, ngày thì đứng bóng, Ngộ Không lén vào thọ giáo tập luyện mãi được ba năm.
Một hôm, Tổ Sư đang giảng kinh nói về việc báo ứng nhân quả, khái lược đại cương, trực nhớ đến Ngộ Không, liền hỏi:
– Ngộ Không đâu, có mặt đây chăng?
Một tiếng dạ trong đám môn đệ vang lên, Ngộ Không bước đến quì thưa:
– Tôi có đây, thầy cần điều gì dạy bảo?
Tổ Sư nói:
– Bấy lâu luyện ngươi đã luyện tập như thế nào?
Ngộ Không thưa:
– Mấy lời thầy dạy đệ tử ngày đêm luyện tập không thiếu sót điều chi.
Tổ Sư đưa mắt nhìn đám môn đệ rồi quay lại nói:
– Tuy ngươi đã thông suốt nguồn cơn, nhưng con ba điều tai nạn đáng lo!
Ngộ Không hồi hồi suy nghĩ. Một lúc sau mới nói ra lời:
– Trong kinh dạy ai học được phép tiên, sánh cùng trời đất, sống lâu muôn thở, tinh thần đầy đủ, không bao giờ bệnh hoạn. Sao còn điều tai biến nào nữa, xin thầy chỉ cho đệ tử biết.
Tổ Sư mĩm cười, nói:
– Ðạo tiên mênh mông rộng lớn! Ai cướp máy tạo hoá, cải định mệnh trời, quỉ thần không lượng thứ. Nay ngươi vừa luyện đặng phép sống lâu nhưng khó bề tránh khỏi! Thầy đã đoán biết năm trăm năm về sau, ngươi sẽ bị trời đánh. Nếu ngươi tránh khỏi thì năm trăm năm nữa bị trời đốt. Lửa ấy không phải của trời hay của người, mà do âm khí xông lên, từ bàn chân ngươi ót thấu óc, ngủ tạng đều cháy ra tro, rất uổng công tu luyện! Ngươi có thần thông tránh qua được tai hoạ ấy, thì cách năm trăm năm nữa, trời cho gió thổi. Gió này độc dữ, không phải gió của bốn phương, mà gió phát xuất từ óc ngươi thổi ngược về quả đất, đi qua lục-phủ ngủ tạng, lồng vào cửu khiếu, làm cho thịt xương rời rã! Vậy ngươi nhớ lấy lời này, tránh ba tai nạn, kẻo bỏ mình!
Nghe nói Ngộ Không rởn ốc quì xuống thưa:
– Trăm lạy thầy, mở lượng từ bi thương người chân thật, truyền thê m phép lạ, tránh ba điều tai nạn. Tôi nguyện thọ ơn thầy trọn đời.
Tổ Sư cảm động nói:
– Ðiều đó tưở ng chẳng khó gì, chỉ sợ nhà ngươi không gia công luyện tập.
Ngộ Không mừng rỡ vội sụp lạy, thưa:
– Lâu nay lòng tôi mong ước luyện được phép trường sinh bất tử dầu khó khăn gian lao, quyết không sờn chi.
Tổ Sư nói:
– Ðạo tiên có ba mươi sáu phép thiên cang, bảy mươi hai phép địa sát. Nhà ngươi muốn luyện phép nào?
Ngộ Khôngó thưa:
– Tôi xin gắng công học bảy mươi hai phép địa sát để được rộng bề tiện dụng.
Tổ Sư liền gọi Ngộ Không đến gần tai nói nhỏ một hồi. Các môn đệ ngơ ngác không hiểu nói gì có lẻ nhìn Ngộ Không như ganh ghét, có người muốn tò mò nghe ngóng.
Ngộ Không đã sẳn thông phép trước, nên nhớ ngay dễ dàng không một lời thiếu sót.
Từ đó Ngộ Không ngày đêm lo luyện tập bảy mươi hai phép biến hóa thần thông…
Một chiều nắng êm, gió dịu. Vườn đào lá rung rào rạc, cánh bướm chập chờn với muốn hoa đua nở. Trước động, Tổ Sư ngồi xem học trò thi nhau luyện môn vật lộn. Ngộ Không ngứa nghề tung tăng chạy từ chổ ngay qua chỗ khác..
Tổ Sư thấy thế hỏi:
– Bảy mươi hai phép, nhà ngươi luyện tập xong chưa, mà mãi lo nhảy nhót vậy?
Ngộ Không thưa:
– Nhờ ơn thầy truyền phép, tôi luyện tập không sót môn nào, ngoài ra còn bay được lên không trở về như chim én.
Nghe nói, Tổ Sư gọi lại bảo:
– Hãy bay thử ta xem nào?
Ngộ Không co chân nhảy vọt lên không, bay được hơn ba dậm, rồi quay về đáp trước mặt Tổ Sư, và nói:
– Thưa thầy, đằng vân như vậy đã đúng phép chưa?
Tổ Sư cười lớn nói:
– Lối bay của ngươi là vong vân, chưa phải đằng vân. Phép đằng vân của thần tiên ” Sớm mai ” ở biển Bắc, chiều trở lại Thương Ngô. Mỗi ngày đi khắp bổn biển.
Ngộ Không thưa:
– Theo lời thầy nói, thì phép đằng vân khó lắm.
Tổ Sư nói:
– Trên đời không có việc gì là khó. Chỉ kkhó ở lòng người không chịu cố công.
Ngộ Không hăm hở đến thưa:
– Lượng thầy đã mở, chỉ còn chút phép đằng vân, xin thầy thương tình chỉ dạy.
Tổ Sư bảo Ngộ Không đứng dậy và nói:
– Phép đằng vân của thần tiên, phải ngồi xếp bằng niệm chú bay đi, khác với lối nhảy dựng của ngươi khi nãy. Ta sẽ dạy cho phép Cân Ðẩu Vân bay nhanh hơn tên bắn.
Ngộ Không đắc ý, tưởng như mình đang ngồi tít trên mây xanh đôi mắt mơ màng thích thú.
Tổ Sư ghé vào tai Ngộ không truyền thần chú, và bảo:
– Hãy niệm chú cho mau!
Ngộ Không y lời niệm chú, hai tay nắm chặc lại. Bỗng thân mình vụt bay lên, như vũ bão, giây lát quay về tính hơn mười muôn dặm.
Ðoạn thầy trò đem nhau về động. Ðêm ấy Ngộ Không tập luyện thông thạo. Tổ Sư lòng mừng, được người học trò phi phàm, tuyệt thế.
Từ đó, Tổ sư không còn hỏi han, hay nhắc nhở gì đến Ngộ Không nữa. Dođó Ngộ Không được tự do hiên ngang trời bể, sáng đến núi đào, chiều về tiên động.
Một hôm, các học trò cùng chơi dưới cội tùng, thấy Ngộ Không xúm đến, vổ vai hỏi:
– Hiền hữu tốt phước quá được thầy dạy bảy mươi hai phép biến hoá, nay luyện tập đã tinh thông chưa?
Ngộ Không cười vuốt vai các bạn nói:
– Tình bạn không giấu nhau làm gì. Kể ra nhờ thầy chỉ dạy, tôi tập tành gắng công, nên phép nào cũng được tinh xảo.
Các môn đệ rối rít bảo:
– Nay thì giờ nhàn rổi hiền hữu thử ít phép coi chơi.
Ngộ Không vui vẻ đáp:
– Muốn thử phép chi các bạn cho biết?
Các môn đệ lanh quanh bàn tán. Sau cùng bảo Ngộ Không:
-Muốn xem hiền hữu biến ra cây tùng được chăng?
Ngộ Không liền niệm chú lâm râm, rùng mình một cái. Thốt nhiên hiện ra cây tòng, lá xanh cành rậm.
Bọn môn đệ thấy phép lạ, vổ tay reo hò vang dậy.
Tiếng vang vọng đến tiên điện. Tiên ông chống gậy bước ra hỏi:
– Chuyện chi reo hò như vậy?
Nghe Tổ Sư hỏi, Ngộ Không thất kinh, hiện nguyên hình chạy vào nhập bọn.
Các môn đệ bước đến cúi đầu thưa:
– Chúng con chơi nhau vui miệng reo cười, mong thầy thứ lổi.
Tổ Sư nghiêm nét mặt quở:
– Bay la ré vang rền, làm náo động nơ i tiên cảnh, sao gọi là tu hành.
Lũ môn đệ sợ sệt thưa:
– Chúng tôi không dám giấu thầy, vì nghe Ngộ Không luyện được phép biến hoá thần thông, nên khi nảy có bảo Ngộ Không hoá ra cây tùng xem chơi. Ngộ Không chỉ niệm chú, rùng mình một cái đã hoá ra cây tùng sừng sững, vươn mình theo gió. Phép lạ khiến chúng tôi không nhịn cười được
Nói xong, cả bọn bước đến cúi đầu răm rắp lạy.
Tổ Sư nói:
– Thôi, chúng bay chờ đây.
Ðoạn gọi Ngộ Không tới mắng:
– Sao nhà ngươi đã vội khoe khoang, biến ra cây tùng cho chúng coi? Khi người ta biết ngươi pháp thuật cao cường, đem lòng ganh ty. đồ mưu ám hại thì còn gì!
– Ngươi là đứa khoe khoang, gàn dở, ta không quở phạt làm gì, song ngươi phải ra khỏi chốn này.
Ngộ Không nghe thầy nói, khóc tức tửi thưa:
– Xin thầy mở lượng từ bi dung thứ cho đệ tử được gần thầy ngày đêm hầu hạ. Nếu thầy quyết đuổi, đệ tử biết về đâu!
Tổ Sư lắc đầu nói:
– Thuở trước ngươi ở đâu, nay về đó cho an phận.
Ngộ Không sực nhớ cảnh củ, nhưng không muộn về cứ đứng khóc lóc van xin mãi:
– Sống nơi đây hơn mấy năm trời, mến thầy nhớ bạn, lẻ nào nhất đán thầy nỡ đuổi đệ tử về quê để ôm lòng sầu cách biệt.
Ngươi đừng nói nữa vô ích, đi cho kíp thì còn hồn, nán lại ta không dung thứ.
Ngộ Không biết thầy quá giận, khó bề năn nỉ! Ðành phải cúi đầu bái biệt và từ giả các bạn.
Ngộ Không vừa bước chân đi. Tổ Sư kêu nói:
– Ngươi về xứ cũ ắt làm việc chẳng lành, nhưng lành hay dữ tùy ngươi đeo họa lấy. Ta chỉ cấm ngươi đừng xưng là đệ tử của ta, nếu ngươi nói nữa lời, sẽ bị thu hồi phép và hồn ngươi bị bắt giam cầm nơi địa ngục.
Ngộ Không thưa:
– Lời thầy đã nghiêm cấm đệ tử chẳng dám hở môi.
Sau khi bái biệt, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân bay một giờ ra tới biển Ðông, nhắm hướng núi Hoa Quả bay về.
Tuy bao năm trời cách biệt, động Thủy Liêm vẫn còn tiếng chim kêu vượn hú, gió ngàn vi vút như tự thuở nào.
Thấy bầy khỉ nhỏ ra vào nơi cửa động, Ngộ Không đáp xuống gọi:
– Chúng bay! Chúng bay đâu! Ta đã về đây.
Nghe kêu, bọn khỉ lớn nhỏ rùng rùng chạy tới có hơn muôn ngàn con đứng vây quanh Ngộ Không, ríu rít hỏi:
– Ðại-vương ơi! Ðại vương có biết xa chúng tôi đã bao năm rồi chăng? Chúng tôi ở nhà trông “bè” Ðại vương như đói cơm, khát nước!
Ngộ Không nói:
– Nhưng quê nhà ta vẫn bình yên chứ?
Bọn khỉ nói:
– Ðộng ta vừa bị một con yêu đến chiếm cứ, chúng tôi đánh không lại, nó giết và bắt rất nhiều. Nếu Ðại vương không về, xứ sở nhà ta sẽ về tay chúng cả!
Ngộ Không nghe nói, lửa giận phừng phừng nói:
– Con quái vật này ở đâu, cả gan phá phách. Ta quyết phanh thây nó trả thù cho chúng bay.
– Tâu Ðại vương, họa đã tới rồi! Họa đã tới rồi! Ngoài cửa động một con khỉ đột to lớn, xưng là Chúa động Thủy Liêm đến đây vấn tội Ðại vương.
Hổn Thế Ma vương vẫn điềm nhiên cười nói:
– Ta từng nghe bày khỉ nói, Chúa nó đi tu, có lẽ tiếc bần nên nay về đó. Bay thấy nó có khí giới gì chăng? Và ăn mặc như thế nào?
Tiểu yêu quì thưa:
– Con khỉ này đầu sói, mặc áo đỏ hoe hoe, lưng thắt dây vàng, chân đi giày đen, nữa in trần tục, nữa giống nhà tu, đang diệu võ giương oai, nhưng không khí giới, chỉ múa may không làm trò khỉ ngoài cửa.
Hổn Thế Ma vương nghe xong, mặc giáp cầm siêu, dẫn tiểu yêu xông ra ngoài cửa, hỏi lớn:
– Yêu hầu không biết danh ta sao, dám cả gan đến đây chọc giận?
Nghe nói, Ngộ Không quay nhìn thấy Ma vương mặt áo giáp sắt, đầu đội kim khôi, chân mang hia đen, tay cầm siêu bạc, mình cao ba trượng, lưng lớn mười vây, sức mạnh có thừa, liền chỉ vào mặt Ma vương, hét:
– Loài quỉ sứ mắt to như chân tượng, không thấy được ta sao?
Ma vương cười ha hả nói:
– Ngươi hình thù nhỏ bé, tuổi tác ít oi, đến đây không mang khí giới, dám nói chuyện chống trời, e cho đầu lìa khỏi cổ.
Ngộ Không đỏ mặt, mắng:
– Quân khốn kiếp, ăn cướp động Thủy Liêm, gây tang tóc chẳng lành. Nay gặp ta không biết sửa mình chịu trói, còn buông lời sấc láo!
Ta quyết phanh thây mi ra muôn mảnh.
Nói xong nhảy phốc tới thoi vào mặt Hổn Thế Ma vương. Ma vương lách mình tránh khỏi và nói:
– Hãy khoan! Ta lớn mi nhỏ, ta dùng đao, mi tay không, dù ta thắng cũng mang tiếng cười chê để ta bõ đao đánh cùng mi cho biết sức.
Vừa dứt lời Ngộ không nhảy tới đánh đùa. Ma vương dình dang trở tay chậm chạp, bị Ngộ Không đánh tiếp mấy thoi, mặt mày sưng húp. Ma vương túng thế lấy siêu chém, Ngộ Không lách mình tránh khỏi, rồi bứt năm sợi lông bỏ vào miệng, niệm chú lâm râm, phun ra một cái biến thành vô số khỉ, vây phủ Hổn Thế Ma vương.
Con thì đeo cổ, con cắn tai, con níu chân, Ma vương khiếp đảm tinh thần, day trở không kịp, bị Ngộ Không giật siêu chém làm hai khúc.
Ðoạn kéo rốc vào động giết hết bầy tiểu yêu rồi rùng mình thu lông lại. Ngộ Không tìm các khỉ con bị Hỗn Thế Ma vương bắt nhốt, đem ra ngoài, rồi nổi lửa đốt động Thủy Tang cháy rụi. Thấy động đã cháy, Ngộ Không quay bảo mấy khỉ nhỏ:
– Chúng bây mau mau nhắm mắt, ta làm phép đưa về động.
Bọn khỉ nhỏ đều nhắm mắt, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân, phát lên một trận gió bay đi ráo. Về tới núi Hoa Quả sa xuống, Ngộ Không bảo lũ khỉ nhỏ mở mắt ra xem. Bầy khỉ mở mắt ra, thấy núi Hoa Quả động Thủy Liêm, lòng hớn hở, dắt nhau vào. Bọn khỉ ở trong động chạy ra đón rước, bày tiệc thết đải.
Vượn và khỉ đột hỏi Ngộ Không:
– Ðại vương đánh với Hỗn Thế Ma.Vương thắng phụ dường nào?
Ngộ Không thuật lại việc chiến thắng vừa rồi. Tất cả khỉ trong động đều vổ tay khen và hỏi:
– Ðại vương tìm học phép tiên nơi nào mà giỏi quá vậy?
Ngộ Không đem chuyện đường xa ngàn dậm, tầm sư học đạo kể lại cho bầy khỉ nghe.
Bầy khỉ reo lên nói:
– Ðại vương phước lớn lắm và có chí mới thành quả như vậy!
Ngộ Không cười nói:
– Bây ơi, ta được thầy tiên cho tên họ mới là vinh dự chớ!
Bầy khỉ nghe Ngộ Không nói có tên họ, xúm nhau hỏi:
– Họ gì vậy, Ðại vượng?
Ngộ không nói:
– Ta nay họ Tôn tên là Ngộ Không, vậy từ nay các ngươi nghe ai nói đến Tôn Ngộ Không là ta đó.
Bầy khỉ vổ tay cười ầm và nói:
– Ðại vương là Ðại Tôn, thì chúng tôi cũng được gọi là Tiểu tôn.
Tiếng cười lại nổi lên, bên ngoài gió rít rào rạc, nguồn vui trở lại với động Thủy Liêm như dạo nào thuở trước.
Từ khi Hầu vương dẹp an Thủy Tang động, giết Ma vương lấy được cây đao lớn, cả ngày cầm coi, lại bảo bầy khỉ nhỏ lấy tre vạt nhọn, làm gươm giáo. Rồi hằng ngày dạy chúng võ nghệ, phân ra đội ngũ, hệt như binh lính của nhà vua.
Một hôm Tôn Ngộ không ngồi than:
– Ở đời lắm kẻ ác tâm, lắm người tham nhũng, không riêng gì Hổn Thế Ma vương. Mà ở động ta toàn thanh tre vạt nhọn, gậy gộc tầm vông, làm sao chống nổi những cuộc chiến bất ngờ xảy đến! Ta muốn tìm khí giới bằng sắt, ngặt không biết nơi nào!
Mấy con khỉ nhỏ sợ sệt ngồi ủ rủ. Chỉ có bốn con khỉ già dõng dạc đến quì thưa:
– Ðại vương muốn tìm khí giới, chúng tôi tưởng không khó gì! Phía Nam núi này cách hai trăm dậm, có nước Ngọa Lai nhiều đồng sắt, lại lắm thợ rèn. Ðại vương đến đó mua đồng sắt, thuê thợ làm binh khí, đem về luyện tập chúng tôi tinh thông võ nghệ, thì có lo gì không chống nổi kẻ thù.
Ngộ Không nghe qua lòng hớn hở, liền niệm chú nổi gió bay qua hướng Nam.
Giậy phút Ngộ Không nhìn xuống thấy chợ búa dẩy đầy lâu đài chất ngất, thành trì to lớn.
Bèn nghĩ thầm:
– Chắc trong thành này có nhiều kho binh khí, ta nên tìm cách lấy một số tiện hơn.
Nghĩ thế, Ngộ Không quay lại hớp hơi bên hướng Tốn, thổi mạnh về hướng Nam.Tức thì gió thổi ầm ầm, cát bay đá chạy, sấm sét vang rền, khiến cho dân chúng thàng Ngọa Lai kinh hồn hoảng vía, kẻ đóng cửa chỏi nhà, người tìm nơi ẩn núp.
Ngộ Không nhảy xưống mở cửa kho, thấy binh khí qua nhiều và đủ cỡ, lòng mừng rỡ nghĩ thầm:
– Chỉ mình ta thì lấy được bao nhiêu cái! Phải dùng phép thần thông mới được.
Liền nhổ nắm lông, niệm chú phun ra biến thành vô số khỉ.
Chúng vào kho vác hết đồ binh khí. Ðoạn Ngô Không bay bổng lên trời, đọc thần chú lâm râm thu hết bầy khỉ đem về động. Bây giờ đồ vũ khí chất chồng la liệt trước cửa Thủy Liêm.
Ngộ Không dõng dạc kêu lên:
– Chúng bay ra đây lãnh binh khí.
Bầy khỉ nhảy ra, con thì dành gươm, con dựt búa, con lấy giáo, con mang cung. Hơn bốn ngàn, con nào cũng có vũ khí, nhảy múa tung tăng xem chừng đắc ý lắm.
Từ đó, Ngộ Không luyện binh, tập võ, diển hành các vùng lân cận, oai thế lẩy lừng, chúa yêu, vua thú thẩy khiếp sợ, kéo nhau đến hàng phục cả thảy mươi hai động, tôn Hầu vương làm chúa, thường năm cống lễ.
Núi Hoa Quả lúc này đồn lũy đắp ngăn, quân binh rèn tập, rộn rịp muôn phần, hệt như một thế giới văn minh trong thời đó vậy.
Một sáng sớm, Ngộ Không thức dậy điểm tâm xong leo ngồi trên bệ, gọi bọn khỉ đột đến hỏi:
– Nay chúng bay thao lược gồm đủ, võ nghệ tạm thông, nhưng còn cây xiêu đao của ta nhẹ lắm, cầm chẳng xứng tay, biết tìm đâu ra thứ tốt.
Bốn khỉ đột thưa:
– Ðại vương là thần tiên dùng đồ phàm tục e khó xứng. Song chưa biết Ðại vương xuống nước được chăng?
Ngộ Không nói:
– Ta đắc đạo tiên ông, thần thông biến hóa, thăng thiên độn thổ, vào lửa không biết nóng, xuống nước chẳng ngạt hơi, thì đi đâu không được.
Bốn khỉ đột tâu:
– Ðại vương thần thông diệu pháp, lo chi không tìm được vũ khí xứng đáng! Dưới cầu sắt này, thông với Ðông Hải Long cung, Ðại vương xuống đó, thẳng đến Long vương xin vũ khí ắt người thuận ý.
Nghe qua, Ngộ Không cả mừng nói:
– Tốt lắm! Ta đi thử xem sao.
Nói xong Ngộ Không nhảy ra cầu sắt niệm chú thủy độn, biến mình lặn theo giòng nước, thẳng đến đáy biển, gặp lũ Dạ xoa tuần biển cản lại hỏi:
– Ông ở đâu bôn ba qua đường này? Nên nói thật, để chúng tôi về phi báo với Long vương nghênh tiếp.
Ngộ Không đáp:
– Ta là Ngộ Không vốn con trời sanh, có quen biết với Long vương, nay đến viếng thăm.
Lũ Dạ xoa về tâu lại, Long vương Ngao Quảng vội vã ra nghênh tiếp và nói:
– Thỉnh thượng tiên vào Long đình đàm đạo.
Ngộ Không theo Long vương vào cung điện, trà nước hồi lâu Ngao Quảng hỏi:
– Chẳng hay thượng tiên tầm sư học đạo lúc nào?
Ngộ Không nói:
– Ta đi tu từ thuở nhỏ, đã học được phép TSnh. Nay Ta luyện tập binh sĩ, bảo toàn sơn động, ngặt vũ khí không xứng tay. Nghe nói quí cung nhiều bửu bối, nên đến xin một món cầm tay.
Ngao Quảng liền truyền quân đem ra một đại đao.
Ngộ Không lắc đầu nói:
– Ta không thích đánh đao, phiền Vương cung cho đổi thứ khác
Ngao Quảng cho khiêng chĩa ba đến. Ngộ Không cầm múa tít một hồi, rồi để xuống cười, nói:
– Bửu bối này nhẹ lắm, cầm chưa xứng tay, cho đổi thứ nào nặng nhất.
Ngao Quảng nói:
– Vì thượng tiên nóng nảy, chưa xem kỷ. Chĩa ba này có đề nơi cán mấy chữ ” nặng ba ngàn sáu trăm cân “. Như thế đã nặng lắm rồi.
Ngộ Không đáp:
– Dẩu mấy trăm cân mà ta cầm còn nhẹ tay, chưa vừa ý.
Ngao Quãng không dám nói thêm, liền truyền khiêng cây Phương Thiên Họa Kích nặng tới bẩy ngàn hai trăm cân.
Ngộ không lấy múa sơ vài hiệp, rồi cắm ngay giữa sân chầu mà nói:
– Còn nhẹ lắm chưa dùng được.
Ngao Quảng thất kinh nói:
– Trong cung tôi chỉ có cây kích đó nặng hơn cả, xin thượng tiên dùng tạm.
Ngộ Không nói:
– Nơi Long vương có nhiều bửu bối, tiếng đồn khắp bốn phương. Vậy quí vương cho người khiêng ra, dù đắc giá mấy, tôi cũng xin trả.
Ngao Quảng nói:
– Nơi Long cung này không còn vật nào nặng hơn Phương Thiên Họa Kích. Thật tình vậy, mong thượng tiên xét cho.
Nói xong, Ngao Quảng quay vào trong. Long bà và Long nữ tâu rằng:
– Tôi coi ông thánh ấy có sức mạnh phi thường, nơi Long cung không còn loại vũ khí nào nặng hơn nữa, chỉ còn sắt thần trấn nơi đáy biển nặng trên trăm ngàn cân, mấy bửa nay lại có hào quang chiếu sáng hay là số nó về tay ông thánh đó chăng?
Ngao Quảng nói:
– Sắt đó từ thuở vua Ðại Võ đi trị thủy dùng làm trái đo để biết nơi sâu cạn, sau khi đo xong, bỏ nơi đáy biển cho bớt sóng. Sắt to quá sức, thánh thần nào dùng được.
Long bà nói:
– Dùng được hay không miễn ông ta thuận nhận đi ra khỏi cung này cho im chuyện.
Ngao Quãng nghe lời, ra thuật lại với Tôn Ngộ Không.
Ngộ Không đắc ý nói:
– Vậy thì đem ra cho ta xem.
Ngao Quảng mỉm cười lắc đầu, nói:
– Chao ôi! Cây sắt nặng mấy muôn người khiêng không nỗi mà bảo đem ra sao được! Xin mời thượng tiên đến đó xem mới biết.
Ngộ Không vừa cười, vừa nói:
– Nhân vật thủy cung sao mà yếu đuối vậy? Thôi cứ dẫn ta đến đó thử xem.
Ngao Quảng đưa Ngộ Không đến giữa rún biển, lấy tay chỉ nơi hào quang chiếu sáng, nói:
– Vật báu, hiện hào quang chiếu lên đó, mời thượng tiên đến xem.
Ngộ Không bước đến, xăn tay áo cầm lắc mấy cái rồi nhìn kỷ là cây cột sắt lớn cả ôm, dài hơn hai trượng.
Ngộ Không nhìn trụ sắt nói:
– Cây này lớn và dài quá! Phải chi ngắn đi một ít thì dễ nhổ, vừa dứt lời, cột ấy thun lại mấy thước.
Ngộ không vừa lạ lùng vừa thích thú nói tiếp:
– Còn phải nhỏ đi một ít mới được.
Tức thì bề tròn cây sắt nhỏ theo
Ngộ Không hí hửng lắc mấy cái, nhổ lên, thấy toàn bằng sắt, hai đầu bịt vàng, chính giữa có khắc mấy chữ ” Như ý kim cô bảng, trọng nhứt vạn tam thiên ngũ bá cân “.
Ngộ Không mừng rỡ nghĩ thầm:
– Theo lời đã khắc thì thiết bảng nay ta muốn sao được vậy. Tốt lắm!
Nghĩ thế Ngộ Không vừa đi vừa ước: nó nhỏ lại một ít nữa mới vừa cầm tay.
Vừa dứt lời, cây thiết bảng chỉ con bằng một trượng hai thước, mình tròn còn bằng thước, Tôn Ngộ Không cầm vừa tay, bèn múa một hồi, lượn bay trong nước, hệt như con rồng uốn mình, lướt sóng qua Long cung vậœy.
Vừa múa Ngộ Không vừa lướt thẳng về Thủy Tinh cung, khiến cho triều thần Long vương, lớn nhỏ đều khâm phục.
Ngộ Không cầm thiết bảng đến ngồi hiên ngang trước mặt Ngao Quảng nói:
– Tôi mang ơn hiền lân quá nhiều! Nhưng có thiết bảng cầm tay, phải có y giáp mới dễ coi. Vậy hiền lân giúp luôn cho vuông tròn ơn nghĩa.
Ngao Quảng ngẩm nghĩ rồi nói:
– Ở Long cung giáp mới không có, biết lấy gì giúp cho. Mong thượng tiên lượng tình miển trách.
Ngộ không gắt giọng nói:
– Không lẻ để ta tìm xin nơi khác, phải chịu ơn hai chủ! Nếu hiền lân không giúp được, Ngộ Không này quyết chẳng ra khỏi Long cung.
Lời nói cứng rắn khiến Ngao Quảng sợ sệt năn nỉ:
– Thật ra chẳng có y giáp, chảng phải tôi hẹp dạ, thượng tiên xét tình nghĩ cho!
Ngộ không nói:
– Dù sao cung phải kiếm cho tôi một bộ, đừng để nói nhiều, sinh việc không hay.
Ngao Quảng một mạch từ chối, nói:
– Không có đồ mới, xứng đáng với thượng tiện, tôi biết tìm sao đặng bây giờ!
Ngộ Không dộng thiết bảng, nói lớn:
– Nếu không có ta đập một thiết bảng xem nào.
Ngao Quảng hoảng hốt nói:
– Khoan tay! Khoan tay! Ðể tôi hỏi lại liệc đệ xem sao, nếu có xin đem dâng lập tức!
Ngộ Không hỏi:
– Liệc đệ ở đâu?
Ngao Quảng thưa:
– Ba anh em tôi là Nam Hải Long vương, Ngao Khâm ; Bắc Hải Long vương, Ngao Thuận ; Tây Hải Long vương, Ngao Thân.
Ngộ Không nói:
– Ta khồng hề đi đâu xa nữa, lời tục có nói: Làm ơn cho trót, để người trả ơn. Hơn nữa tánh ta chẳng muốn lân la cùng bốn biển! Vậy hiền lân giúp luôn đừng lựa lời từ chối.
Ngao Quảng nói:
– Tôi không dám bảo thượng tiên đi nhiều chổ. Ở đây sẵn có trống sắt chuông vàng, nếu có việc còn gióng trống, giọng chuông thì các Vương đệ về đây lập tức.
Ngộ Không nói:
– Thế thì hay lắm. Hãy cho người đánh trống, giọng chuông đi.
Tức thì Ngao Quảng truyền lệnh giống trống, giọng chuông. Giây phút quả có ba vị Long vương về đến, còn chờ lệnh ngoài ngọ môn.
Ngao Quảng ra đón tiếp. Ngao Khâm nóng tính hỏi:
– Chẳng hay Vương huynh có điều chi dạy bảo?
Ngao Quảng nói:
– Hiền đệ đừng nói lớn, họ nghe được khó lòng. Trong cung có ông thánh trời sinh, ở núi Hoa Quả sơn làm quen hỏi xin đồ binh khí. Ta đưa món nào cũng chê nhẹ, túng cùng phải chỉ cây Thần Trân Thiết nơi đáy biển, hắn lấy lên thu gọn lại làm thiết bảng cầm tay. Lại đòi ta giúp y giáp, thực tình nơi Long cung này không có, nên ta mời các em về thương nghị! Vậy ai có y giáp đem tống nó đi cho rảnh.
Ngao Khâm nổi giận nói:
– Nó chỉ trơ trọi một mình, ta đủ bốn anh em, còn có cả muôn ngàn binh tướng, sao không bắt nó hành hình, để chi cho gai mắt.
Ngao Quảng khoát tay nói:
– Thôi, thôi! Hiền đệ đừng nóng tính, nó có phép thần thông biến hóa, còn thiết bảng này đánh xuống thành cung hư, lũy cũng nát, đừng nói chuyện đến thịt xương.
Ngao Thuận nói:
– Theo lời của Vương huynh, hiền đệ tưởng nhị ca cũng không nên gây chuyện. Tốt hơn, chúng ta chung đồ tống nó đi, rồi làm biểu dâng lên thiên đình, xin Ngọc Hoàng trừng trị. Tôi có đôi hia vừa đi may về xin thí cho nó đây.
Ngao Thân nói:
– Tôi sẵn mặc bộ giáp vàng này, cũng xin cởi ra thí cho nó, để nó đi cho rảnh.
Ngao Khâm nói:
– Bộ mão chuồng cánh phụng của tôi đây, xin cũng bõ ra không tiếc gì.
Ngao Quảng vui mừng nói:
– Vậy bốn anh em ta cùng đem vào bố thí.
Ðoạn ba anh em đồng cởi đồ đem vào ra mắt Ngộ Không, và nói:
– Chúng tôi là ba vị Long vương xin dâng nạp giáp y cho thượng tiên.
Ngộ Không xem qua đẹp ý, liền đội mão, mang hia, mặc giáp, nai nịt xong. cầm thiết bảng vừa đi, vừa múa và nói:
– Tôi làm phiền các ông nhiều quá! Thôi xin từ giả nhé!
Dứt lời, vụt bay về hướng núi Hoa Quả.
Bốn long vương căm tức hợp nhau làm biểu dâng lên Ngọc Hoàng, xin vấn tội Ngộ Không, và hỏi rõ căn cội vị thượng tiên ấy.
Bấy giờ nơi cầu sắt, bầy khỉ chờ đợi Ngộ Không, con thì đứng môi cầu con thì dòm xuống nước, Ngộ Không vừa về đến, chúng hối hả bâu quanh. hỏi:
– Ðại vương ăn mặc oai nghiêm, rất xứng đáng một vị chúa tể nơi động này.
Ngộ Không đắc ý để thiết bảng xuống nhảy phóc lên cao ngồi.
Bầy khỉ thấy thiết bảng xúm nhau ôm lắc nhưng không nhúc nhích.
Chúng reo lên:
– Cha chả là nặng! Nặng như núi đá mà Ðại vương cầm nhẹ như vông, thật sức mạnh phi thường, khó có người bì kịp.
Ngộ Không hỏi:
– Vật quí tìm chủ quí! Mấy ngàn năm bửu bối nằm đáy biển.
Long vương không biết dùng nên mới cho ta. Bửu bối có hào quang chiếu sáng dài hơn hai trượng, lớn trót một ôm. Ta chê dài và lớn, nó liền thu ngắn và nhỏ, chính giữa có hàng chữ “Như ý kim cô bảng, trọng nhứt vạn tam thiên ngủ bá cân “. Chúng bay dang ra, ta bảo nó biến hóa cho xem.
Bọn khỉ vừa lui ra, Ngộ Không liền nói:
– Nhỏ, nhỏ, hết sức nhỏ.
Tức thì thiết bảng chuyển mình thun lại còn bằng cây kim. Ngộ Không lấy dắt vào mép tai.
Bầy khỉ kinh ngạc nói:
– Ðại vương còn gì hay hơn, xin làm phép nữa xem chơi.
Tôn Ngộ Không móc kim ra để lên bàn tay nói:
– Lớn! lớn, hãy lớn lên.
Kim bung ra lớn dài như trước.
Bầy khỉ vổ tay reo lên lần nữa. Ngộ Không thích ý, nhãy ra sân động, chống thiết bảng, niệm thần chú, hóa mình cao lớn, đứng chững chạc bảo:
– Cao, cao, cao lên nữa. Tức thì mình cao muôn trượng, đầu to như núi, răng hé như gươm, mắt lòa như chớp; thiết bảng cũng cao vút mây xanh, hào quang chiếu rực trời.
Bảy mươi hai động yêu, thấy hào quang chiếu sáng tìm đến xem, thảy đều khiếp sợ, cúi đầu khâm phục.
Giây phút, Ngộ Không niệm chú thu lại nguyên hình, rồi vào động ngồi.
Bảy mươi hai Yêu vương đến quì ra mắt.
Ngộ Không tõ ý khoe khoang truyền khua chuông, đánh trống diễn binh, gươm giáo tuốt trần, cờ bay rợp đất.
Ngộ Không ngồi trên bệ, y phục chỉnh tề truyền phong quan chức như sau:
Bốn khỉ già làm tứ kiện tướng. Hai khỉ ngựa to đuôi làm Mã lưu nhị nguyên soái. Hai con vượn cân vá làm Bảng bá nhị tướng quân. Binh quyền giao cho Tứ kiện tướng quân thống quản.
Từ đó, Ngộ Không xưng là Mỹ Hầu vương thường ngày đằng vân giá vũ, đi khắp nơi, cùng chơi thân với sáu vị Ma vương sau đây, sớm tối luận bàn thế sự: l) Ngưu ma vương 2) Giao ma vương 3) Bàng ma vương 4) Sư đà vương 5) Nhĩ hầu vương 6) Ngô nhung Vương.
Một đêm trăng thanh gió mát, Ngộ Không bày tiệc thết đãi các Ma vương. Ăn uống suốt đến canh khuya, tiệc mới tàn. Sáu Ma vương giả từ về động, Ngộ Không men nồng say ngủ; nằm ngáy vo vo như sấm dậy. Tứ kiện tướng dàn binh hầu hạ.
Trong giấc nồng, Ngộ Không chiêm bao thấy hai người: một người cầm vòng, một người nắm giấy, có đề ba chữ “Tôn Ngộ Không”, và hối hả tròng vòng vào cổ, dắt Tôn Ngộ Không đi. Ðến một nơi cung điện nguy nga, hồn Ngộ Không ngó lên thấy bảng đề ba chữ: “U Minh Giái”, thất kinh lẩm bẩm:
– Nơi đây là âm-phủ sao dắt ta đến đây làm gì?
Hai Kẻ kia nói:
– Nhà ngươi tới số phải trở về Diêm chúa, nên hai ta là quỉ vô thường, vâng chỉ đến bắt ngươi đây.
Tôn Ngộ Không nói:
– Ta không thuộc ngũ hành, vượt ngoại vòng tam giái, thập điện vô phép bắt ta, hãy coi chừng cung này tan vỡ.
Hai quỉ vô thường không đáp, dắt Ngộ Không đi mãi. Ngộ không nổi giận, móc kim ở lổ tai ra, niệm chú lớn thành thiết bảng, đập chết hai quỉ vô thường, rồi xông vào đập phá cung thành.
Ngưu Ðầu khiếp vía, Mã Diện kinh hồn, mạnh ai nấy chạy.
Bọn quỉ sứ vội chạy tới thập điện phi báo:
– Có thiên lôi giáng hạ phá đền đài, đập chết quỉ vô thường rồi!
Thập Ðiện đang ngồi thương nghị, nghe tin chẳng lành, liền kéo ra xem, thấy Ngộ Không hung hãng dữ tợn, bèn kêu lớn:
– Xin thượng tiên cho biết tên họ trước khi phá điện này.
Tôn Ngộ Không hói:
– Chúng bây biết là thượng tiên sao còn vô lễ, cho ngươi đến bắt. Ta là thánh trời sanh, tên là Tôn Ngộ Không ở núi Hoa Quả, động Thủy Liêm. Còn chúng bay tên chi? Mau xưng lên kẻo tan hồn.
Thập điện đồng xá, và nói:
– Chúng tôi là Nhứt điện Trần quảng vương, Nhị điện Sở giamg-vương, Tam điện Tống đế vương, Tứ điện Ngũ quang vương, Ngủ điện Diêm la vương, Lục điện Bình đẳng vương, Thất điện Thái sơn vương, Bát điện Ðồ nhị vương, Cửu điện Biện thành Vương, Thập điện Chuyển luân vương.
Tôn Ngộ Không nói:
– Các ngươi là vương vị, sao không hiễu lẻ trời, làm điều trái phép, ta là thần tiên ngoài tam giái, vượt khỏi ngủ hành, sao các ngươi còn sai quỉ đến bắt?
Thập điện nói:
– Mong thượng tiên bớt giận, vì thiên hạ lắm kẻ trùng tên, nhiều người giống tuổi nên vô thường lầm lỡ, thượng tiên nghĩ tình lượng thứ
Tôn Ngộ Không nói:
– Còn nói trớ trêu, ta đập một thiết bảng tan hồn. Hãy lấy bộ sinh tử ra đây ta xem sao?
Thập điện sợ sệt thưa:
– Xin thượng tiên quá bước, lên điện này xem sổ.
Tôn Ngộ Không cầm thiết bảng nhãy phóc lên Sum la điện. Phán Quan sợ sệt lật đật dâng sổ bộ.
Ngộ Không lật ra tra các bộ Vỏ trùng, Mao trùng, Lân trùng, Giáp trùng, mãi tới Côn trùng là cào, chấu, bướm, ong, cũng không thấy tên mình. Tra tới loài Viên hầu: vượn, khỉ. Ðến chữ hầu, số một nghìn ba trăm năm mươi hiệu, dưới có hàng chữ: ” Tôn Ngộ Không mãi thị thiên sản thạch hầu, cai thọ tam bá thập nhị tuế thiên chung “
Xem mấy hàng chữ, Tôn Ngộ Không căm tức, liền lấy viết chấm mực gạt bôi lia lịa và nói:
– Ta chẳng cần sống mấy trăm năm đó.
Ðã bôi tên mình còn bôi luôn cho các vượn, khỉ kia nữa.
Ðoạn, quăng viết ném sổ và nói:
– Từ nay các ngươi đừng nhắc đến tên ta nữa đó!
Dứt lời huơi thiết bảng phóng mình ra khỏi điện Sum la, trở về dương thế.
Thập điện vương ai nấy đều lo sợ họp nhau qua cung Túy Vân bàn với Ðịa Tạng vương Bồ tát làm sớ dâng biểu cáo với thiên đình.
Tôn Ngộ Không về đến dương trần, thấy vấp chân giật mình thức dậy mới hay là chiêm bao!
Thấy Ngộ Không đã tỉnh rượu, tứ kiện tướng hỏi:
– Ðại vương quá chén say lắm sao, mà ngủ đến một ngày một đêm vậy?
Ngộ Không kể lại việc đến Sum la điện, phá, bôi sổ vừa rồi, và cười lớn nói:
– Thế là từ nay chúng ta chẳng còn sợ chết, và khỏi lo Diêm vương sai đi bắt nữa.
Bầy khỉ nghe nói mừng rỡ kéo nhau đến lạy tạ ơn. Từ đó về sau loài khỉ sống chết không có số mạng nữa.
Ngày kia, Ngọc Hoàng đang ngự nơi Linh Tiêu điện, chư thần, chư tiên chầu đủ mặt.
Bỗng thấy Thần hoằng tế chơn chơn tâu:
– Có Ðông Hải Long vương Ngao Quảng đến dâng biểu, còn đứng ngoài chờ1ệnh.
Ngọc Hoàng truyền cho vào.
Ngao Quảng bước đến quì lạy dâng sớ.
Tiên đồng tiếp sớ dâng lên, Ngọc Hoàng mở ra xem.
Văn biểu viết như sau:
” Thủy nguơn hạ giái ở Ðông Thắng Thần Châu, Ðông Hải tiểu Long vương, Ngao Quảng cúi dâng: Yêu tên Tôn Ngộ Không ở động Thủy Liêm núi Hoa Quả đến hiên ngang nơi thủy giái, khi dễ Thủy long, tước đoạt thần trân làm vũ khí cầm tay, sau áp bức đòi cho được y quan, y giáp. Thật là hành động ngang tàng, xin Ngọc Hoàng thu về thượng giới để tránh tai họa về sau. Kính dâng “
Ngọc Hoàng xem sớ xong, liền phán:
– Thôi, Long thần yên tâm về cõi, để ta sai tướng xuống bắt Tôn Ngộ Không về vấn tội.
Ngao Quảng tạ ơn, bái biệt trở về thủy giới.
Phút chốc lại có đạo đồng Tiên ông vào tâu:
– Có Tần Quảng vương thừa lệnh U Minh giáo chủ Ðịa Tạng vương đến dâng biểu.
Ngọc nữ vội tâu sớ dâng lên.
Ngọc Hoàng cầm chương biểu xem:
” U Minh giáo chủ Ðịa Tạng vương kính dâng: Thiết nghĩ: Trời có thần, đất có quỉ, âm dương thay đổi, sống thác có mạng, muôn vật đều chịu kiếp luân hồi, không có vật gì trường tồn mãi mãi.. Ðó là đạo lý.
Nay tại núi Hoa Quả, động Thủy Liêm, trời sanh khỉ đá thọ khí âm dương ba trăm năm rồi, tên là Ngộ Không, tài phép phi thường, hiên ngang quá lẻ. Vừa rồi Ngộ Không xuống Sum la điện giết quỉ vô thường, mắng vua Thập điện, lại xóa bôi sổ bộ Viên hầu, làm tuyệt đường sinh tử.
Thần kính dâng sớ này xin Ngọc Hoàng nhậm ngôn sai thiên binh xuống bắt Ngộ Không trị tội, thì chốn âm phủ mới khỏi mang họa “.
Ngọc Hoàng xem xong liền phán:
– Thôi, Tần Quảng vương lui về âm phủ, ta sẽ khiến tướng bắt Ngộ Không.
Trần Quảng vương vui mừng lạy tạ, lui ra.
Tiếp đó, Ngọc Hoàng phán hỏi:
– Thạch hầu sanh bao lâu, học được phép tiên nơi nào, mà tài giỏi như vậy?
Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ tâu:
– Cách chừng ba trăm năm chục năm nay, núi Hoa Quả có khối cẩm đá do khí âm dương nhật nguyệt kết tựu, sanh ra khỉ đá. Còn việc học phép thần thông chúng tôi chưa được rõ.
Ngọc Hoàng phán:
– Yêu hầu sanh chuyện, làm kinh động hạ giới, phải bắt về trừng trị. Vậy thần tướng đủ sức lãnh chiếu thu hồi Tôn Ngộ Không về trừng trị chăng?
Thái Bạch Kim Tinh quì tâu:
– Thạch hầu là giống trời sanh, tu đã lâu năm thần thông biến hóa. Hạ thần thiết tưởag khó nổi thu hồi, chi bằng đòi về phong chức, lưu giữ tại thiên cung, nếu nó có hung hăng dễ bề trị tội. Xin Ngọc Hoàng lấy lượng khoan hồng, giáo dục vật linh dày công tu luyện.
Ngọc Hoàng ngẫm nghĩ một lúc, rồi gật đầu khen phải, truyền cho Văn Khúc Tinh Quân tả chiếu, giao cho Thái Bạch Kim Tinh hạ giới chiêu an.
Thái Bạch Kim Tinh lảnh mệnh thẳng đến động Thủy Liêm.
Ðến nơi Thái Bạch Kim Tinh gọi bầy khỉ nhỏ đến nói:
– Ta là Thiên sứ, lãnh chiếu Ngọc Hoàng, đến đây mời Ðại vương các ngươi lên trời lãnh chức. Mau vào báo gấp cho Ðại vương các ngươi ra hầu thiên chỉ.
Lũ tiểu hầu vội vã chạy vào báo. Tôn Ngộ Không mừng rỡ cười lớn, nói:
– May lắm! Ta có ý định lên trời chơi, nhưng chưa kịp đi, lại có thiên sứ đến rước.
Liền sửa soạn áo mão ra nghinh tiếp.
Thái Bạch Kim Tinh vào động. Ðứng giữa truyền thiên chỉ.
Tôn Ngộ Không chẳng hề lạy tạ, đứng cười ha hả:
– Ông phụng chỉ đến đây, đã dày công khó nhọc. Vậy ta cho lũ nó đãi tiệc nhé!
Thái Bạch nói:
– Ta dâng thiên chỉ không dám trễ lâu. Hầu vương mau theo ta về trời gấp.
Tôn Ngộ Không quay lại dặn bọn khỉ:
– Tứ kiện tướng hãy ở đây chăm sóc việc quân binh, bảo toàn Thủ động. Ta về trời thăm dò đàng sá nếu tiện sẽ dẫn bay lên đó chơi cho biết
Tôn Ngộ Không dùng phép cân đẩu vân bay nhanh cơn gió.
Thái Bạch đuổi theo nhưng không kịp!
Ngộ Không bay trước tới cửa Nam Thiên, muốn xông vào, bỗng có Tăng trưởng Thiên vương cùng tám vị Thiên Quân là: Ban Thiên Quân, Lưu Thiên Quân, Trương Thiên Quân, Ðào Thiên Quân, Tuân Thiên Quân, Ðặng Thiên Quân, Tân Thiên Quân và Tất Thiên Quân, dàn thiên binh đón lại.
Tôn Ngộ Không tức giận nói lớn:
– Lão Kim Tinh xảo trá! Gạt lão tôn lên đây Cho ngươi ngăn cản!
Vừa dứt lời, Thái Bạch Kim Tinh vừa tới.
Tôn Ngộ không nổi giận nói:
– Lão tặc dám gạt ta sao? Ngươi nói Thượng Ðế chiêu an, thỉnh ta lên lãnh chức, sao còn có kẻ ngăn đường chận ngõ?
Thái Bạch Kim Tinh cười, nói:
– Hầu vương bớt giận, lão không phải người lừa gạt! Vì Hầu vương chưa từng đến Thiên Ðình, nên Thiên tướng chưa quen mặt, không dám cho vào. Khi Hầu vương đã lãnh chức, ra vào sẽ không còn ai cản nữa.
– Mở cửa cho mau, ta vừng chiếu chỉ chiêu an, với tiên trung giới về đây.
Tiếng kêu vừa dứt, cánh cửa mở tung ra. Thái Bạch Kim Tinh dẫn Tôn Ngộ Không qua khỏi Nam thiên môn, thẳng đến điện Linh Tiêu.
Ðến nơi, Tôn Ngộ Không không quì, chỉ đứng lóng tai nghe!
Thái Bạch Kim Tinh quì lạy Ngọc Hoàng, tâu:
– Hạ thần vâng thánh chỉ, đã đòi yêu tiên về đó, xin trình cùng Thượng Ðế.
Ngọc Hoàng phán hỏi:
– Yêu tiên là ai? Cớ sao chưa ra mắt?
Tôn Ngộ Không bước đến vái và nói:
– Lão Tôn có đây, cần ta việc gì?
Các vị thần tiên đều sửng sốt thì thầm:
– Con Khỉ rừng thật là vô lễ! Ðến không quì lạy, tung hô, còn xưng ta xưng lão!
Ngọc Hoàng phán:
– Ngộ Không vốn là yêu tiên sống nơi hoang.dã chưa từng biết lễ nghi, trẫm cũng rộng dung. chẳng hề cố chấp.
Chư tiên thấy vậy bảo Ngộ Không:
– Thượng Ðế khoan dung, sao không đến lạy tạ ơn?
Ngộ Không bước lên bái rồi lui ra không chịu lạy.
Tuy nhiên, Ngọc Hoàng không hề giận, ngồi mĩm cười và phán:
– Trong hàng văn võ còn khuyết chức nào, dùng Ngộ Không vào làm chức đó?
Võ Khúc Tinh Quân tâu:
– Muôn tâu Thượng Ðế, chức tước hiện nay đều đũ cả, chỉ còn khuyết chức Bậc Mã Ôn là Chánh Ngự Mã Giám, không biết Ngộ Không có vừa lòng chăng?
– Vậy bổ Ngộ Không vào làm chức ấy.
Chư tiên bảo Ngộ Không tạ ơn.
Ngộ Không cũng chỉ bước đến bái như lần trước.
Ngọc Hoàng bảo Mộ Ðức Tinh Quân dẫn Ngộ Không đến sở Ngự Mã Giám.
Mộ Ðức Tinh Quân vâng lịnh dẫn Ngộ Không đến giao cho viên chức trong sở, rồi lui về.
Giám Thừa, Giám Phổ, Ðiểu Bộ, Lực Sĩ bốn người đến thĩnh tân Bậc Mã Ôn là Tôn Ngộ Không lên ngồi trên, rồi đem sổ bộ giao trình xét.
Ngộ Không từ lãnh chức ấy, ngày đêm lo chăm sóc mọi việc, chỉ hoàn hảo chức Ðiểu Bộ lo lúa cỏ cho ngựa, chức Giám Thừa, Giám Phó thính tùng Bậc Mã Ôn để sai khiến, còn Lực Sĩ lo coi tắm ngựa.
Tôn Ngộ Không ở đó được nữa tháng, ngựa mập vô cùng. Các viên chức đều hoan nghênh, thết tiệc ăn mừng. Giữa tiệc Ngộ Không hỏi các quan:
– Chức Bậc Mã Ôn của ta như thế nào?
các quan nói:
– Chức ấy ở sở Ngự Mã này to hơn hết.
Tôn Ngộ Không hỏi:
– Vậy chức này thuộc về phẩm trật thứ mấy?
Các quan thưa:
– Chức ấy không có phẩm-trật gì cả.
Tôn Ngộ Không trợn mắt nói:
– Không có phẩm-trật nghĩa là lớn hết thảy phải không?
Các quan nói:
– Chức tước này là hạng bét nơi thiên triều chỉ có quyền điều khiển chúng tôi, và toàn thể ngựa trong sở này thôi. Cũng may ông sung bổ vào đây ngựa mập béo mới được tiếng khen và được thết tiệc ăn mừng. Nếu rủi ngựa ốm thì không khỏi bị quở phạt.
Tôn Ngộ Không nghe xong, nổi giận nghiến răng, đập bàn nói:
– Ngọc Hoàng khi ta lắm! Lão Tôn đang ở núi Hoa Quả xưng vương, thế mà lại gạt đến đây làm tên giữ ngựa, khinh bạc quá lẻ! Thôi ta về kẻo mang tiếng sĩ-nhục!
Dứt lời, hét lên một tiếng, lấy cây kim dắt nơi vành tai thổi lân, hóa ra cây thiết bảng múa tít. Vừa múa vừa tiến ra cửa Nam thiên. Các thiên tướng biết mặt Bậc Mã Ôn không hề ngăn cản.
Tôn Ngộ Không ra khỏi Nam thiên môn dùng phép cân đẩu vân bay về núi Hoa Quả.
Vừa về đến, thấy Tứ Kiện tướng, cùng các Yêu vương đang diễn binh, Nhị hầu vương coi tập võ, Tôn Ngộ Không kêu lớn:
– Lão Tôn về đây, chúng bay mau đón tiếp.
Các Yêu vương nghe tiếng rần rộ kéo ra.
Ngộ Không vào động, ngồi trên bệ, Yêu vương và khỉ con đem rượu lên mừng, và nói:
– Ðại vương đi mười lăm năm, có được toại ý không?
Tôn Ngộ Không buồn bã nói:
– Ta đi mới vừa nữa tháng sao lại gọi là mười lăm năm, chúng bay quả không hiểu gì ngày tháng!
Nhị Hầu vương nói:
– Ðại vương chưa rõ, trên trời một ngày, thì trung giới một năm vậy.
Tôn Ngộ Không ngẩm nghĩ khen:
– Nhị hầu vương thông minh lắm! Vậy từ nay cho cai trị Tứ Kiện tướng.
Tứ kiện tướng hỏi:
– Chẳng hay Ngọc Hoàng cho thiên sứ vời Ðại vương lên Thiên Ðình nhận lãnh chức chi?
Tôn Ngộ Không lắc đầu nói:
– Thượng Ðế không biết dùng người, phong ta làm Bậc Mã Ôn. Ta nghe tên tốt nhận lầm, làm tới mười lăm ngày. Sau hỏi rõ thì chức ấy hèn mọn lắm, nên căm giận đạp bàn bõ về đây.
Các khỉ nói:
– Ðại vương là chúa tể nhất phương, sớm tối có kẻ hầu người hạ,sang trọng như thế này mà Ngọc Hoàng cho làm chức chăn ngựa, đáng buồn thay! Thôi, chúng tôi đem thêm rượu cho Ðại vương giải khuây!
Bấy giờ trời chiều nắng nhạt, động Thủy Liêm gió thổi rạc rào, lẫn tiếng nước reo nơi cầu như những điệu nhạc du dương.
Ngộ Không ngôi uống rượu, lòng căm tức chuyện đã qua, vừa buồn vừa giận, muốn có một chức tước ngang với Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Bỗn có tiểu hầu vào báo:
– Tâu Ðại vưong, có Ðộc Giác Quỉ vương xin vào ra mắt, còn chờ lệnh ngoài cửa động.
Ngộ Không truyền cho vào Ðộc Giác quỉ vào lạy thưa:
– Nghe Ðại vương chiêu hiền từ lâu, tiếc rằng tôi chưa có dịp! Nay nghe Ðại vương lãnh chức trời vinh qui hồi động, nên đến đây xin chịu hầu dưới trướng. Nếu Ðại vương nhận lời, tôi nguyện đem hết tài năng phò tá.
Tôn Ngộ Không mừng rỡ, truyền ban áo mão, và phong Ðộc Giác Quỉ-vương làm chức Tiên phong.
Ðộc Giác Quỉ vương bước tới lạy tạ thưa:
– Chẳng hay Ðại vương nhận chức chi tại Thiên triều?
Tôn Ngộ Không nói:
– Thượng Ðế cạc đãi người hiền, không biết chọn tài phong tướng, nên cho ta làm chức Bậc Mã Ôn!
Ðộc Giác Quỉ vương nói:
– Ðại vương thần thông biến hóa có một không hai, lẽ nào làm chức chăn ngựa. Ðáng ra phải chức tước ngang trời mới xứng.
Ngộ Không nói:
– Chính thế! Tài ta đâu thua kém Ngọc Hoàng.
Liền cho Tứ Kiện tướng dựng giữa sân một cây cờ cao, đề bốn chữ lớn Tề Thiên Ðại Thánh và truyền bảy mươi hai động phải kêu Ngộ Không bằng cái chức tước đó.
Cả thảy đều tuân lệnh.
Giữa lúc ấy, trên thượng giới, Ngọc Hoàng lâm triều, bỗng có Trương thiên sư Giám thừa và Giám phó đến bái yết, vào tâu:
– Bậc Mã Ôn Tôn Ngộ Không chê chức nhỏ không nhận, hôm qua đã trốn về trung giới.
Ngọc Hoàng còn đang ngơ ngác thì lại có Tăng trưởng Thiên vương và các Thiên tướng vào tâu:
– Chẳng biết vì cớ gì Bậc Mã Ôn bõ ra cửa Nam thiên, đến nay chưa thấy trở lại.
Thượng Ðế phán:
– Thôi, các khanh hãy lui về, để trẫm sai thiên binh đi bắt nó.
Tháp tháp Lý Thiên vương và Na Tra tam thái tử quì tâu:
– Chúng tôi tuy bất tài xin tình nguyện đi bắt con yêu hầu ấy.
Thượng Ðế nhậm lời, phong Lý Thiên Vương làm chức Hoàng Mã Eại nguyên soái, Na Tra làm Tam Ðàng Hải Hội Ðại thần dẫn thiên binh đuổi theo Ngộ không truy nã.
Lý Thiên vương cùng Na Tra vốn là hai cha con, cùng ở chung một điện.
Sau khi được lệnh, Lý Thiên vương cùng Na Tra trở về kiểm điểm thiên binh, chọn Cự Linh thần làm tiên phong, Ngự Ðổ Dược Xa làm tướng cạnh, nhắm núi Hoa Quả thẳng tiến.
Ðến nơi, Lý Thiên vương truyền hạ trại cách hai mươi dặm rồi sai Cự Linh thần đến khiêu chiến.
Cự Linh thần vác búa đồng chạy đến động Thủy Liêm hét như sấm, kêu Ngộ Không nói:
– Bậc Mã Ôn, ta vâng lệnh Thượng Ðế đến đây bắt ngươi trị tội, hãy mau đem xác ra mà nộp.
Tiểu yêu thất kinh chạy vào báo:
– Có tướng trời sai xuống bảo Tề Thiên Ðại Thánh ra hàng, bằng không nó giết chết cả động.
Tôn Ngộ Không nổi giận, xách thiết bảng chạy ra hỏi:
– Ðứa nào cả gan dám đến đây hổn láo với Tôn ông?
Cự Linh thần nói:
– Con Khỉ khốn nạn kia! Mày biết ta là ai mà dám hung hăng như vậy?
Ngộ Không hét:
– Ngươi là tên thần đê tiện ở đâu, Tôn ông biết đến làm gì? Hãy nói tên đi kẻo ta đập vỡ sọ!
Cự Linh thần giận dữ nói:
– Loài Khỉ xem ra xấc láo thật. Ta là tiên phuông của Lý Thiên Vương tên Cự Linh thần đây. Hãy bỏ vũ khí quy hàng, bằng không sẽ tan xương nát thịt.
Tôn Ngộ Không mắng:
– Cái thứ thần mạt đó lẻ ra ta cho một thiết bảng cho rồi đời. Ngặt vì giết ngươi không biết sai ai trở về báo tin. Ngươi về báo với Thượng Ðế rằng:
– Thượng Ðế không biết dùng người hiền, lão Tôn tài năng vô địch, sao lại cho làm chức giữ ngựa!
Cự Linh thần hỏi:
– Ý của ngươi muốn Thượng Ðế phong chức chi?
Ngộ Không chỉ cây cờ trước động nói:
– Ngươi hãy coi bốn chữ trên cây cờ kia mà về tâu với Thượng Ðế phong cho ta. Nếu không ta đem binh đập phá cửa trời, chiếc ngai vàng của Thượng Ðế cũng chưa vững, đừng nói đến chuyện bắt ta nữa.
Cự Linh thần nghe nói, ngó lên, thấy có đề bốn chữ Tề Thiên Ðại Thánh, liền cười nói:
– Con Khỉ này muốn loạn thiên cung, nên mới dám đề Tề Thiên Ðại Thánh. Vậy ta đập một búa cho xong đời, để chi sanh chuyện.
Liền vung búa chém xuống, Tôn Ngộ Không đưa thiết bảng lên đỡ, chạm vào cán búa Cự Linh gãy hai!
Cự Linh hoảng hồn quay đầu chạy riết.
Ngộ Không cười, nói:
– Ta chẳng thèm giết làm gì! Ðừng sợ chạy. Hãy về báo lại cho đúng lời ta.
Cự Linh chạy thẳng về trại thở hào hển thưa:
Be-mã~ l”e mạNgọc Hoàng tài cao, tôi sút thế gãy búa, xin về đây chịu tội!
Lý Thiên vương nổi giận nói:
– Ngươi làm mất oai ta phải chém đầu làm gương cho kẻ khác.
Na Tra vội vã thưa:
– Xin phụ thân bớt giận lượng thứ cho Cự Linh thần, để con ra trận mới rõ tài cao thấp.
Lý Thiên vương y lời, tha tội cho Cự Linh và truyền Na Tra ra trận.
Na Tra nai nịt, kiểm điểm thiên binh kéo tới động Thủy Liêm khiêu chiến.
Tôn Ngộ Không vừa đánh Cự Linh chạy, chưa kịp vào động, bỗng thấy một tướng nhỏ, thân hình vạm vỡ, lướt tới như bay, liền hỏi:
– Ngươi con nhà ai? Thân xác bé mọn, đến đây làm gì đó?
Na Tra nạt lớn:
– Yêu hầu chớ vô lễ, ta là Na Tra tam Thái tử con thứ ba của Lý Thiên vương, nay vâng thánh chỉ đến bắt ngươi về nạp thiên đình trị tại.
Tôn Ngộ Không mỉm cười nói:
– Bé ơi? Miệng còn hôi sửa. ta giết không đành. Ngươi hãy xem cờ của ta kia, về tâu với Thượng Ðế phong ta chức ấy, bằng không ta phá tới thiên cung, đừng trách ta vô đạo.
Na Tra ngước mắt ngó lên thấy cờ đề bốn chữ, cả giận hét:
– Ngươi thần thông bao nhiêu, dám xưng danh ngang hàng thượng đế? Ta quyết chém một gươm cho mất mạng.
Tôn Ngộ Không nói:
– Ta đứng trơ ra đây cho ngươi tha hồ chém.
Na Tra nổi giận niệm chú biến ra ba đầu sáu tay, cầm sáuu môn binh khí, gươm chém yêu, dao chém yêu, trái cầu thêu, chày bàn yêu, bánh xe hóa lửa. Sáu tay đều đánh vãi vào Ngộ Không một lượt.
Ngộ Không giật mình nói:
– Cha chả, thằng con nít này cũng biết biến hóa. Song đừng láu táu mà bõ mạng! Hăy coi phép của ta đây.
Liền hét lên một tiếng tức thì hóa ra ba đầu sáu tay, cầm sáu thiết bảng xốc tới đập Na Tra. Bửu bối đụng nhau vang lên như trời long đất lở!
Ðánh hơn bốn mươi hiệp. Na Tra niệm chú biến ra muôn ngàn thứ binh khí nữa, bay liệng đầy trời, Tôn Ngộ Không thấy thế liền quăng thiết bảng lên biến ra muôn ngàn thiết bảng, đánh vẹt hết những tinh khí của Na Tra.
Thừa dịp ấy Tôn Ngộ Không nhổ một sợi lông biến ra hình giả, cho đánh với Na Tra, còn mình thì nhảy vòng ra sau lưng giơ thiết bảng đập xuống.
Na Tra thất kinh, thu hình bỏ chạy.
Lý thiên vương đang ngồi lượng kế, bỗng thấy con hơ hải chạy về liền hỏi:
– Con Khỉ ấy thần thông bậc nào mà con phải thua chạy vậy?
Na Tra sụp lạy tạ tại và thuật lại đầu đuôi!
– Như vậy, ta khoan đánh với nó đã. Hãy về tâu lại xin thêm binh tướng đến vây bắt mới đặng.
Na Tra vâng lời. Cha con cùng nhau lục tục kéo binh về.
Tôn Ngộ Không thắng trận, quay về động.
Bảy mươi hai Yêu vương đều đến chúc mừng và bày tiệc linh đình thết đãi.
Trong bàn tiệc Tôn Ngộ Không thấy có sáu vị Ma vương tụ hội bèn nói:
– Ta đã xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, vậy sáu anh em cùng xưng Ðại Thánh luôn.
Sáu người vâng lời cùng xưng:
Ngưu Ma vương xưng Bình Thiên Ðại Thánh.
Giao Ma vương xưng Phúc Hải Ðại Thánh.
Bàng Ma vương xưng Hổn Thiên Ðại Thánh.
Sư Ðà vương xưng Di Sơn Ðại Thánh.
Nhĩ Hầu vương xưng Thông Phong Ðại Thánh.
Ngộ Nhung vương xưng Khu Thần Ðại Thánh.
Bảy vị Ðại Thánh ngang tàng này tự xưng theo ý muốn, không gì đến trời đất nữa.
Cha con Lý Thiên vương về tới Thiên Ðình, vào yết kiến Ngọc Hoàng, rồi quì tâu:
– Thần vâng chỉ xuống bắt Yêu hầu. Nhưng vì nó tài cao xuất chúng sức mạnh khóổ đương! Thần đành phải về tâu lại. Xin Bệ hạ sai thêm binh tướng, may ra mới bắt nó được.
Ngọc Hoàng ngơ ngác nói:
– Sá gì con yêu ấy, tài phép là bao mà phải xin thêm binh tướng?
Na Tra vội và quì tâu:
– Xin Ngọc Hoàng tha tội, hạ thần mới dám tâu! Tôn Ngộ Không có thiết bảng thần thông, Cự Linh thần khiếp hồn bỏ chạy, hạ thần cũng bị đánh trúng vai nên bại tẩu! Nó đề cờ bốn chữ Tề Thiên Ðại Thánh, bảo thần về tâu lại với Ngọc Hoàng phong chức ấy thì nó mới đầu hàng, bằng không nó đánh tới Linh Tiêu điện.
Ngọc Hoàng nghe tâu giật mình phán:
– Loài yêu nghiệt, cả gan dám xúc phạm thiên trào! Các thiên tướng mau xuống bắt nó đem về đây.
Thái Bạch Kim Tinh tâu:
– Yêu hầu háo danh nói bướng, nó không biết chức nào lớn nhỏ. Nếu sai binh tướng đi bắt nhọc công, mà chưa chắc đã bắt được! Xin Ngọc-hoàng hạ chỉ chiêu an, phong chức ấy cho nó, tưởng cũng không tốn gì lương bỗng, mà cũng chẳng hại gì của thiên triều. Chẳng qua đó chỉ là một hư danh.
Ngọc Hoàng phán hỏi:
– Sao gọi là hư danh?
Thái Bạch Kim Tinh tâu:
– Thuở nay có chức Tề Thiên Ðại Thánh bao giờ. Nay phong cho nó là hữu danh vô vị, không có phẩm trật nào, không có quyền cai trị ai. Như vậy nó sẽ an lòng, khỏi còn phá phách.
Ngọc Hoàng y tấu truyền viết chiếu, sai Kim Tinh hạ giới chiêu an lần nữa.
Thái Bạch Kim Tinh phụng chiếu, đằng vân thẳng xuống núi Hoa Quả, vào động Thủy Liêm thấy trước dinh lẩy lừng sát khí, rực ánh hào quang, yêu tinh vác đao xách búa, vượn khỉ múa gậy trương cung.
Chúng vừa thấy Thái Bạch đến, liền xốc tới bao vây, đứa nào, đứa ấy vẻ mặt hầm hầm dữ tợn.
Thái Bạch Kim Tinh nói:
– Chúng bay mau vào báo với Ðại Thánh, có ta là Thiên sứ, phụng sắc chiêu an, mau ra tiếp chiếu.
Các yêu vào báo Tôn Ngộ Không nói:
– Vậy thì tốt lắm! Lần trước Thái Bạch mời ta lên Thiên đình, tuy phong chức nhỏ, song cũng giúp ta thuộc đường hiểu lối. Lần này chịu khó đến nữa, chắc Ngọc Hoàng thuận ý phong ta chức lớn.
Liền truyền quân sắp hàng hai bên rồi bước ra động chào Thái Bạch và hỏi:
– Xin mời Lão tinh vào động.
Thái Bạch vào đứng giữa động nói lớn:
– Ngày trước Ðại Thánh chê chức nhỏ, bõ trốn về đây, nên Ngọc HSi Lý Thiên vương và Na Tra xuống vấn tội. Hai người ấy trở về báo rằng: Ðại Thánh dựng cờ đòi phong chức Tề Thiên. Các thiên tướng đều giận dữ, muốn đem thiên binh xuống bắt Ðại Thánh. Riêng tôi năm lần, mấy lượt, tâu Ngọc Hoàng xin tha tội cho Ðại Thánh, và xin cho Ðại Thánh được lãnh chức ấy. Ngọc Hoàng đã nhận lời, vậy Ðại Thánh theo ta về trời nhận chức.
Tôn Ngộ Không cười lớn nói:
– Lần trước Lão tinh đã tốn công, lần này nữa gíúp nữa, tôi xin đa tạ. Nhưng không biết trên trời có chức Tề Thiên Ðại Thánh chăng?
Thái Bạch Kim Tinh nghe hỏi cười thầm, nói:
– Bởi có, nên tôi mới tâu phong, xin Ðại Thánh đừng nghi kỵ, mau lên lãnh chức kẻo Ngọc Hoàng mong chờ.
Tan Ngộ Không muốn mời thiên sứ dự yến, nhưng Thái Bạch tìm cách từ chối rồi hai người cùng đằng vân, bay thẳng đến Thiên -đình.
Ðến cửa Nam thiên các thiên tướng đều vòng tay nghinh tiếp, không hề ngăn đón như lần trước.
Thái Bạch Kim Tinh đi fhẳng vào bệ ngọc quì tâu:
– Hạ thần vâng chỉ đòi Bậc Mã Ôn về đến đây, xin Ngọc Hoàng dạy bảo.
Ngọc Hoàng đòi Ngộ Không đến trước bệ phán:
– Nay ta chiều theo ý muốn, phong cho ngươi chức Tề Thiên Ðại Thánh là tột bực rồi. Vậy từ nay đừng gây chiến mà phạm tội.
Tôn Ngộ Không nhe răng đắc ý, rồi chỉ trả lời gọn hai tiếng: Tạ ơn!
Ngọc Hoàng liền truyền Lò Bang và Trương Bang cất một biệt dinh gọi là Tề Thiên Bàng Thánh gần vườn đào. Trong dinh chia làm hai phòng: Ân Linh tự và Ninh Thần tự, có tiên lại ở thường xuyên để chầu chực. Tiếp đó Ngọc Hoàng ban cho Tề Thiên hai ve ngự tửu, mười cái bông vàng, và sai Ngủ Ðẩu Tinh Quân đưa Tề Thiên về tư-phủ.
Về đến phủ, Tề Thiên bày tiệc rượu đải Ngủ Ðẩu Tinh Quân và các tiên.
Tiệc mản, ai về dinh nấy, còn Tề Thiên ở lại hưởng cảnh thanh nhàn muốn ra vào chẳng ai cấm ngăn.
Nói về Tôn Ngộ Không làm chức Tề Thiên Ðại Thánh, không thuộc ngạch nào, chẳng biết phẩm chi, thấy trước cửa có đề năm chữ Tề Thiên Ðại Thánh Phủ, thì tin là chức ấy, ngày ăn tối ngủ, có hai vị tiên lại chầu hầu, dạo chơi khắp cả thiên cung, môt mình thong thả, gặp Tam Thanh thì kêu bằng tướng công, thấy Tứ Ðế thì chào rằng Bệ Hạ! Còn Cửu Diện là chín sao Bắc đẩu, năm tướng Ngủ phương, bốn vị Thiên vương, Nhị thập bát tú, Lục đinh, Lục giáp, năm ông Ngũ lão, các vị thiên thần đều quen biết, kêu bằng anh em! Nay tới hướng Ðông, mai chơi phía Bắc, cứ việc dạo chơi hoài, các vị thiên thần đà lát mặt!
Ngày kia Thượng Ðế lâm trào, có Tinh Dương Hứa Chân quân tâu rằng:
– Tề Thiên Ðại Thánh mỗi ngày dạo khắp các nơi, ở không ắt sanh sự, xin Bệ Hạ cấp cho nó coi một việc mà cầm chân, để khỏi lo sanh tệ.
– Chẳng hay Bệ Hạ đòi Lão Tôn đến ban thưởng vật chi?
Thượng Ðế phán rằng:
– Trẫm thấy khanh ở không, chẳng có phần chi cai trị cho vui, nên đòi khanh vào đây, trẫm giao vườn Bàn đào cho khanh cai trị, coi giữ cho thường, chớ nên sơ hở để chúng phá phách.
Tề Thiên mừng rỡ, tạ ơn rồi lui ra.
Về gần tới phủ, ghé vườn Bàn đào, mới đến cửa ngõ, có Thổ Ðịa giữ vườn ấy đón lại hỏi rằng:
– Ðại Thánh đi đâu đây?
Tề Thiên nói:
– Ta mới vâng chỉ vườn này, nên đến mà tra xét.
Thổ Ðịa làm lễ, rồi kêu các lực sĩ ra dẫn Tề Thiên vào vườn, Thổ Ðịa cũng theo hầu.
Tề Thiên đi coi khắp hết, rồi hỏi Thổ Ðịa vườn này có mấy cây đào?
Thổ Ðịa thưa rằng:
– Nội vườn cộng hết thảy là ba ngàn sáu trăm cây, phía trước một ngàn hai trăm cây bông trái nhỏ, ba ngàn năm mới chín một kỳ, ăn nó thì thành tiên, nhẹ mình mà thêm sức. Còn giữa vườn một ngàn hai trăm cây, bông trái có từng, trái ngọt lắm, sáu ngàn năm mới chín một kỳ, ăn nó thì bay như chim mà trường sinh bất lão. Còn phía sau một ngàn hai trăm cây, chín ngàn năm mới chín một kỳ, trái có gân màu tía, nhỏ hột hơn hết, ăn nó thì sống bằng trời đất.
Tề Thiên nghe nói thì mừng thầm, đếm y số rồi trở về phủ.
Từ đó về sau không đi chơi đâu hết, hễ năm ba bữa thì ra vườn đào một lần, đi thì có Thổ Ðịa và Lực sĩ với Tiên lại theo hầu.
Ngày kia thấy vườn đào có trái chín, tìm tâm muốn nếm cho biết mùi, ngặt quan hầu theo hoài, làm sao mà ăn lén cho đặng.
Tề Thiên kiếm kế mà nói rằng:
– Thôi, các ngươi ra ngoài cửa mà giữ cửa vườn, để ta ở nhà mát mà nghỉ một chút.
Ai nấy đều vâng lệnh mà lui ra hết.
Chừng đó Tề Thiên lại nhà mát cởi đồ y phục ra, nhảy phóc lên cây đào, lựa trái nào chín mùi thì hái mà ăn tươi, làm một bụng lứ lừ mới nhảy xuống, bận áo đội lại xong rồi, ra cửa kêu Tiên lại về phủ.
Từ đó sắp sau, bắt bén, làm thế đó hoài, làm riết gần hết vườn đào!
Ngày kia Vương Mẫu nương nương ở cung Diêu Trì tại hướng Tây (Bà này là chúa mấy vị tiên nữ), đến kỳ đào chín sửa soạn làm hội Bàn Ðào, bèn sai bảy nàng tiên bận bảy sắc áo, là: Thanh y tiên nữ, Huỳnh y tiên nữ, Tạo y tiên nữ, Tố y tiên nữ, Hồng y tiên nữ, Tử y tiên nữ, Lục y tiên nữ, xách giỏ lam đi hái trái Bàn đào.
Khi bảy nàng tiên đến cửa vườn, thì thấy có Thổ Ðịa, Lực sĩ và Tiên lại giữ cửa.
Bảy nàng tiên nói:
– Chúng tôi vâng lệnh Vương Mẫu đến đây hái đào về làm hội.
Thổ Ðịa nói:
– Khoan vào đã, các cô! Xưa khác nay khác. Vả Thượng Ðế có sai Tề Thiên Ðại Thánh cai trị vườn này, chờ chúng tôi thưa lại đã.
Thất tiên hỏi:
– Tề Thiên Ðại Thánh bây giờ ở đâu?
Thổ Ðịa nói:
– Ðại Thánh ở trong vườn, đương ngủ trong nhà mát.
Thất tiên nói:
– Chúng tôi đi có giờ khắc, chẳng dám trễ lâu, xin ông dắt vào nhà mát mà ra mắt, chớ biết chừng nào ngài dậy mà chờ!
Thổ Ðịa nghe các tiên nói phải, liền dắt Thất tiên nữ vào nhà mát, thấy áo mão để đó mà không biết Ðại Thánh đi đâu, kiếm cùng vườn mà chẳng thấy!
Té ra Ðại Thánh ăn vụng no rồi biến hình ra nhỏ còn hai tấc, chun nằm trong hột đào mà ngủ, nên kiếm không đặng.
Còn Thất tiên nữ nóng về nên nói rằng:
– Chúng tôi vâng lệnh Vương Mẫu đến đây, mà kiếm Ðại Thánh chẳng đặng, lẽ nào dám về không!
Tiên lại nói:
– Ðại Thánh hay dạo đã quen, chắc là đi tìm bạn, các cô vâng chỉ thì hái lần đi, chừng Ðại Thánh về, chúng tôi sẽ thưa lại.
Thất tiên nữ y lời, ra vườn trước hái đầy ba giỏ. Rồi lại vườn sau không thấy đào chín, còn những trái xanh, là bị Tề Thiên ăn hổn!
Thất tiên nữ nói:
– Lạ này, hội này là hội lớn, chánh chín ngàn năm, sao vườn này không có trái chín, hái sao cho đầy một giỏ.
Bởi vườn sau trái ít, nên hái đặng bảy giỏ mà thôi. Ba thứ đào vì sao lại chín một lượt? Là vì ba ngàn năm chín một thứ, hái hai giỏ, hội nhỏ; sáu ngàn năm chín một thứ nữa, hái hai thứ đặng sáu giỏ thì hội trung, đến chín ngàn năm chín một thứ nữa, đặng bảy giỏ nên chín ngàn năm thì đại hội.
Khi Thất tiên nữ kiếm khắp vườn, thấy phía nam trái đào ở trên nhành nửa xanh nửa đỏ.
Thanh y tiên nữ kéo nhành ấy xuống, Huỳnh y tiên nữ hái rồi, Thanh y tiên nữ buông nhành đào bật lên.
Tề Thiên té nhào xuống, giật mình thức dậy, hiện hình rút thiết bảng hét lớn rằng:
– Chúng bây là yêu quái ở đâu? Sao dám cả gan hái đào trộm.
Thất tiên nữ hãi kinh đồng quỳ xuống mà thưa rằng:
– Chúng tôi không phải yêu quái, thiệt là Thất tiên nữ vâng lệnh Vương Mẫu hái đào làm hội, có trình Thổ Ðịa, vào kiếm Ðại Thánh không đặng, chị em tôi sợ trễ nên phải hái lần, xin Ðại Thánh bớt giận và tha tội.
Tề Thiên nghe rõ thì đổi giận làm vui mà nói rằng:
– Thôi, các tiên nga chờ dậy. Chẳng hay Vương Mẫu làm tiệc đãi ai?
Thất tiên nữ thưa rằng:
– Lệ thường thì mời Phật Tổ bên Tây Phương, Quan Âm bên Nam Hải, Sùng Ân bên Ðông huê, Huỳnh Linh bên Bắc địa, Huỳnh Giác ở Trung ương và Tam Thanh, Tứ đế, Thái Ất, Bát tiên, Ðịa tạng vương, Thập điện, Tứ Hải long vương, và các vị thần tiên tinh tú, đồng hội tề, rước Thượng Ðế qua phó Bàn Ðào.
Tề Thiên hỏi:
– Có thỉnh ta chăng?
Thất tiên thưa:
– Chúng tôi không nghe nói.
Tề Thiên nói:
– Ta làm chức Tề Thiên Ðại Thánh lại có công giữ vườn sao không mời ta dự tiệc.
Thất tiên nữ thưa rằng:
– Lệ cũ thì vậy, chớ kỳ này không biết thế nào?
Tề Thiên nói:
– Phải, thôi, các cô đứng cho vững đã.
Nói rồi niệm chú làm phép định thân, chỉ các tiên nga mà nói rằng:
– Ðứng đó, đứng đó!
Thất tiên nữ đứng như trời trồng.
Tề Thiên thấy các tiên nữ trơ trơ dưới cội đào, liền nhảy vào nhà mát mặc áo đội mão, rồi cân đẩu vân đi phó hội trước, xảy gặp Xích Cước đại tiên.
Tề Thiên sinh ra một kế, liền bái mà hỏi rằng:
– Chẳng hay ông đạo đi đâu?
Xích Cước đại tiên nói:
– Tôi đi phó hội Bàn Ðào.
Tề Thiên nói:
– Thượng Ðế khen tôi có tài cân đẩu vân hay lắm, nên sai tôi đón các thần tiên mà dặn rằng: “Lệ này phải hội tề tại đền Thông Minh; tập lễ xong rồi, sẽ hội Bàn Ðào luôn thể”.
Xích Cước ngỡ là thiệt cải lệ, nên quay lại đi qua Thông Minh điện.
Còn Tề Thiên thấy Xích Cước đi xa rồi niệm chú… Biến hình ra Xích Cước, rồi riết qua hội Bàn Ðào.
Khi vào tới Bửu các, thấy tiệc dọn chỉnh tề, những đồ mỹ miều kể đà không xiết, mà không có rượu với đào, và chưa thấy ai dự tiệc.
Tề Thiên muốn làm lén ba miếng, xảy có mùi rượu bên phía Ðông phất qua thơm nực mũi, Tề Thiên bước qua thấy hũ rượu rất ngon thì bắt thèm, ngặt có quan canh, biết làm sao đặng! Liền nhổ lông bỏ vào miệng nhai nhỏ phun ra, hóa ra con buồn ngủ bay đậu trên mặt quân canh, quân liền ngủ gục hết.
Lúc này Tề Thiên làm lộng, lựa mấy ngón nhất hạng bưng qua phía Ðông mà ăn, nên cổ bàn lỡ hết.
Tề Thiên ăn đồ no nốc, uống rượu say mềm! Nghĩ rằng:
– Không xong, khi mình giữ vườn thì lựa đào ngất ăn hết, nay lại ăn vụng làm lỡ hết cổ bàn, khui hết mấy chinh rượu mà uống! Nếu đến chừng khách tới, thì chúng bắt chẳng sai, chi bằng lén lén về dinh mình mà ngủ, dầu có lậu ra cũng dễ chối.
Làm tuồng tỉnh táo riết về phủ Tề Thiên, nhằm lúc say ba ngù, đi lạc qua cung Ðâu Suất.
Khi ấy Tề Thiên thấy bảng đề Ðâu Suất cung thì sực nhớ rằng:
– Cung Ðâu Suất là chỗ Thái Thượng lão quân ở, nếu vậy mình đã đi lạc xa rồi! Xưa rày cũng lâu đến ông này, sẳn dịp ghé thăm luôn thể.
Nói rồi sửa bước vào, chẳng dè ông Thái Thượng mắc giảng kinh trên lầu với ông Nhiên Ðăng, các đệ tử đều đứng hầu nghe giảng, nên Tề Thiên vào cung Ðâu Suất không thấy một người, liền đi thẳng vào phòng, thấy trong năm cái bầu đựng những thuốc kim đơn.
Tề Thiên mừng quá nói rằng:
– Từ mình thành tiên tới nay, biết thứ thuốc này là quý, song chưa đặng luyện chế mà cứu người, may gặp vật này, mà không có chủ, vậy mình uống thử ít viên.
Nói rồi trút bầu thuốc bỏ vào miệng nhai nuốt.
Tề Thiên làm một hơi sạch trơn trong bầu chẳng còn huờn nào hết, nhờ thuốc dã rượu hết say giựt mình ngẫm nghĩ rằng:
– Không xong rồi, họa lớn bằng trời, không phải dễ! Nếu Thượng Ðế hay đặng ắt tánh mạng chẳng còn! Chi bằng chạy về động Thủy Liêm mà trốn.
Nói rồi nhảy tới Tây Thiên Môn, tàng hình ra khỏi cửa, cân đẩu vân nhảy xuống Hoa Quả Sơn, kêu lớn rằng:
– Chúng bây ôi! Ta đã về đây!
Yêu tinh và quần hầu quỳ lạy mà thưa rằng:
– Ðại Thánh nỡ nào bỏ chúng tôi lâu quá vậy!
Tề Thiên nói:
– Không bao lâu mà!
Vừa nói vừa đi vào động, Tứ kiện tướng lạy mừng rồi hỏi rằng:
– Ðại Thánh đã ở trên trời một trăm mười một năm, chẳng hay làm chức chi vậy?
Tề Thiên nói:
– Ta nhớ đâu ba bốn tháng, mà dưới thế này đến một trăm mười một năm! Nói cho phải, chuyến này khá. Thượng Ðế hậu đãi và phong cho Tề Thiên Ðại Thánh.
Lại thuật hết các công chuyện từ khi đi cho đến về đây. Yêu quỷ và quần hầu mừng rỡ, rót rượu nước dừa dâng lên. Tề Thiên hớp một miếng, rồi phun phèo phèo, nhăn mặt mà rằng:
– Uống không đặng! Hồi sớm ta lại cung Diêu Trì uống những quỳnh tương tiên tửu, hơi thơm ngát, vị ngạt ngào, thương hại cho chúng bây biết làm sao mà uống cho đặng đồ quý ấy! Vậy thì ta lén lên trộm về vài hủ các ngươi uống một đứa một chút cũng đặng trường sinh.
Yêu quỷ và quần hầu tạ ơn, Tề Thiên Ðại Thánh ra khỏi cửa động làm phép tàng hình, cân đẩu vân lén vô cung Diêu Trì, thấy quân canh còn ngủ!
Tề Thiên lựa hai hủ lớn cập nách, còn hai tay xách hai hủ nữa là bốn hủ, rồi tàng hình đem về động, làm hội tiên tửu uống với yêu quái và quần hầu.
Nói về Thất tiên nữ tới mười hai giờ mới tan phép định thân, đồng xách giỏ hoa lam về tâu với Vương Mẫu rằng:
– Chúng tôi hái hai vườn đào trước y số, đến vườn đào sau không còn một trái. Chắc Tề Thiên Ðại Thánh ăn vụng hết. Chị em tôi đương kiếm đào, xảy đâu Ðại Thánh nhảy ra hành hung muốn đánh, hỏi hội này mời ai, chúng tôi nói theo lệ cũ, rồi Ðại Thánh làm phép định thân, đến bây giờ chúng tôi mới tỉnh hồn về đặng.
Lúc ấy Vương Mẫu nghe nói nổi giận, liền vào tâu với Thượng Ðế…
Xảy có quân canh vào tâu:
– Không biết ai ăn vụng lỡ cổ bàn hết, và uống rượu, lại lấy mất hết bốn hủ quỳnh tương lớn.
Kế Tứ đại tiên sư vào tâu rằng:
– Tôi chế thuốc Cửu Chuyển kim đơn, đặng làm hội Ðơn Ngươn, chẳng biết ăn trộm ở đâu mà trút hết năm bầu. Xin Thượng Ðế cho người tra xét.
Thượng Ðế nghe tâu lấy làm lạ.
Xảy thấy Tiên lại vào tâu rằng:
– Tề Thiên Ðại Thánh đi dạo hôm qua tới bữa nay chưa về.
Thượng Ðế sanh nghi!
Kế Xích Cước đại tiên vào tâu rằng:
– Hôm qua tôi vâng lệnh Vương Mẫu phó hội Bàn đào, gặp Tề Thiên Ðại Thánh nói với tôi rằng: Bệ Hạ dạy tôi đến Thông Minh điện diễn lễ rồi sẽ phó hội Bàn đào, tôi trở lại đền Thông Minh hôm qua tới nay, mà chẳng thấy tin giá ngự nên tôi phải đến đây đợi lệnh.
Thượng Ðế kinh hãi phán rằng:
– Trẫm không truyền chỉ đòi hiền khanh, chắc là Ngộ Không nó gạt khanh đó. Vậy thì Linh Quan đi xét bắt Ngộ Không về đây coi nào!
Giây lát Linh Quan đi xét ra rõ cớ ấy, trở về mà tâu rằng:
– Các việc ấy đều nơi Tôn Ngộ Không hết; nay nó đã trốn về núi Hoa Quả động Thủy Liêm, đang làm tiệc tiên tửu ở dưới là rượu nó ăn trộm đó.
Thượng Ðế nghe qua nổi trận lôi đình, hạ chỉ đòi bốn vị Thiên tướng, Lý Thiên Vương, Na Tra, Nhị thập bát tú, Cửu Diện tinh quân, Ngũ Phương yết đế, bốn vị Công Tào, các vị Thiên thần dẫn mười muôn thiên binh xuống vây núi Hoa Quả, bắt cho được Tôn Ngộ Không đem về trị tội.
Khi ấy chư thần tướng dẫn mười muôn binh xuống vây núi Hoa Quả, Lý Thiên Vương truyền trên bủa lưới khắp trời, gọi là Thiên la, dưới bủa lưới khắp đất, gọi là Ðịa võng, trên chín lớp lưới, dưới chín lớp lưới, cộng lại là mười tám lưới.
Trước sai mấy vì sao dữ tợn, kéo binh tới trước động Thủy Liêm khiêu chiến.
Khi tới động, Cửu Diện tinh quân kêu rằng:
– Ðại Thánh ở đâu? Chúng ta vâng chỉ đến đòi Ðại Thánh về trời, nếu bất tuân thì bị giết cả động.
Tiểu yêu về báo lại…
Tề Thiên đang nhậu với Tứ kiện tướng quân và các Yêu vương, nghe báo chẳng hề sợ sệt, lại ngâm thơ rằng:
Ngỏa nguê tiệc rượu lại ngâm thi,
Bao quản ngoài tai tiếng thị phi.
Ngâm đặng hai câu, có quân vào báo rằng:
– Cửu Diện hung thần nhục mạ lắm!
Tề Thiên cười rằng:
– Kệ nó đừng báo làm chi, cứ đóng cửa cho chặt.
Nói rồi ngâm hai câu nữa:
Thơ rượu sẳn vui ngâm lại nhậu,
Công danh chỉ tính kiếp cùng chầy.
Kế tiểu yêu vào hớt hải báo rằng:
– Ðại Thánh ôi! Không xong! Chín vị hung thần phá hư cửa động rồi.
Tề Thiên nổi giận nói rằng:
– Ta say quá, thôi Ðộc Giác quỷ vương dẫn bảy mươi hai chúa động ra trước, còn ta với Tứ kiện tướng theo sau. Ðộc Giác quỷ vương vâng lệnh dẫn bảy mươi hai chúa động xông ra, bị Cửu Diện chận đánh nên phải thối lại, ra không khỏi động!
Kế Tề Thiên xách thiết bảng tới hét lớn rằng:
– Tránh Tránh.
Ðộc Giác và bảy mươi hai chúa động tránh vẹt hai bên.
Tề Thiên xông ra đánh Cửu Diện phải lui ra cửa động.
Cửu Diện nói rằng:
– Bật Mã Ôn không sợ chết, ngươi phạm tội trời:
1.) Ăn vụng Bàn đào.
2.) Uống lén rượu ngự tửu.
3.) Ăn vụng cổ bàn của Vương Mẫu.
4.) Lén uống thuốc kim đơn của Lão quân.
5.) Ăn trộm ngự tửu đem về làm tiệc, nay còn cự chống cho thêm tội nữa sao?
Tề Thiên cười ngất nói rằng:
– Năm điều đó quả có, ta không thèm chối, mà bây giờ chúng bây muốn cái gì?
Cữu Diện nói:
– Nay Thượng Ðế sai chúng ta xuống bắt ngươi, ngươi mau chịu phép, kẻo liên lụy cả động.
Tề Thiên nổi giận nói rằng:
– Chúng bây là đồ khốn, tài phép bao nhiêu mà nói lớn lối! Ta đập một cây cho rồi đời.
Cửu Diện hổn chiến, bị Tề Thiên mạnh mẽ qua, Cửu Diện đánh không lại vụt chạy hết, về trại thưa rằng:
– Hầu yêu mạnh bạo vô cùng, chúng tôi đánh không lại.
Lý Thiên Vương sai bốn vị Thiên Vương dẫn Nhị thập bát tú kéo binh ra vây phủ.
Tề Thiên chẳng hề nao núng, dẫn bốn tướng mạnh và Ðộc Giác quỷ vương với bảy mươi hai động chủ ra cự địch.
Ðánh từ giờ thìn cho đến mặt trời lặn, Ðộc Giác quỷ vương và bảy mươi hai chúa động đều bị thiên thần bắt hết, trừ ra có Tứ kiện tướng chạy khỏi.
Còn đó Tề Thiên đương đánh với Tứ vị Thiên vương, Lý thiên Vương và Na Tra thái tử, Tề Thiên nhổ một nắm lông bỏ vô miệng nhai nhỏ phun ra, hóa hình Tề Thiên vô số, đều cầm thiết bảng trợ chiến với mình.
Tứ vị Thiên vương, Lý Tịnh Na Tra đều bại tẩu! Tề Thiên dùn mình thâu lông lại, về tới cửa động, thấy Tứ Kiện Tướng dàn quân nghinh tiếp.
Tứ Kiện Tướng khóc ba tiếng, rồi cười ba tiếng.
Tề Thiên hỏi:
– Vì cớ nào đã khóc lại cười?
Tứ Kiện Tướng thưa rằng:
– Khóc là khóc bảy mươi hai chúa động và quỷ vương bị bắt, còn cười là mừng Ðại Thánh thắng trận mới về.
Tề Thiên nói:
– Sự chinh chiến thắng bại là việc thường, hơi nào mà buồn bực. Chúng ta ăn cho no, ngủ cho khỏe, mai bắt Thiên Vương lại mà báo thù.
Chúng khỉ đều thỉnh lệnh.
Nói về Lý Tịnh thâu binh, các Thiên Vương về dưng yêu quái hổ hang rất nhiều, mà bắt không đặng một con khỉ.
Lý Thiên Vương truyền Thiên binh treo lục lạc theo Thiên la Ðịa võng, hễ nghe rung lục lạc thì đón bắt, đừng cho yêu hầu trốn thoát.
Nói về Quan Âm Bồ Tát ở núi Phổ Ðà tại Nam Hải. Khi Vương Mẫu mời phó hội, thì Quan Âm đi với đệ tử là Lý Mộc Tra pháp danh Huệ Ngạn, đồng đến cung Diêu Trì, thấy cổ bàn đã lỡ hết! Tuy có mấy vị Thiên tiên, mà không ai ngồi tiệc, cứ bàn luận chuyện Tề Thiên…
Quan Âm ra mắt các tiên, các tiên đáp lễ, rồi thuật chuyện lại…
Quan Âm nói:
– Nếu không dự tiệc thì các vị theo bần tăng vào chầu Thượng Ðế coi thể nào!
Các tiên y lời, theo đến Thông Minh điện, có bốn vị Tiên sư và Xích Cước đại tiên nghinh tiếp.
Quan Âm và các tiên bước vào, thì có Thái Thượng lão quân và Vương Mẫu còn ở đó.
Chào hỏi với nhau rồi, Quan Âm quì tâu rằng:
– Bây giờ tính hội này làm sao?
Thượng Ðế phán rằng:
– Kỳ hội nào cũng vui, kỳ này bị yêu hầu quấy rối? Nên trẫm giận sai mười muôn thiên binh đi bắt nó, chưa thấy trở về, không biết thắng hay là bại.
Quan Âm nói rằng:
– Vậy thì Huệ Ngạn xuống núi Hoa Quả thăm coi thắng phụ thế nào! Nếu gặp đánh thì trợ chiến, rồi về báo tin.
Huệ Ngạn vâng lời xách thiết côn giáng hạ. Tới núi Hoa Quả thấy Thiên la Ðịa võng bủa giăng, liền kêu lớn rằng:
– Ta là Nhị Thái Tử Lý Mộc Tra xin vào thám thính.
Lý Thiên Vương mở cửa dinh.
Huệ Ngạn vào lạy cha và ra mắt bốn vị Thiên vương.
Lý Thiên Vương hỏi:
– Con ở đâu tới đây?
Huệ Ngạn thưa rằng:
– Con theo Bồ Tát phó hội Bàn đào, thấy hư hết cổ bàn, nên Bồ Tát vào chầu Thượng Ðế. Thượng Ðế thuật chuyện…, nên Bồ Tát sai con đi thám thính.
Ðang nói nửa chừng, kế có quân vào báo rằng:
– Tề Thiên dẫn hầu tinh đến khiêu chiến.
Huệ Ngạn thưa rằng:
– Bồ Tát dạy con đi thám và trợ chiến, con xin ra trận coi yêu quái thế nào?
Lý Thiên Vương nói:
– Con đi thì phải cho cẩn thận.
Huệ Ngạn huơi thiết côn ra khỏi cửa, rồi hỏi rằng:
– Tề Thiên là ai?
Tề Thiên nói:
– Lão Tôn đây! Còn ngươi là ai đó?
Huệ Ngạn nói:
– Ta là học trò Quan Âm bồ tát, con thứ hai của Lý Thiên Vương tên là Mộc Tra tự Huệ Ngạn đây.
Tề Thiên nói:
– Sao ngươi không ở Nam Hải mà tu, đến đây làm gì?
Huệ Ngạn nói:
– Ta vâng lệnh thầy đi thám thính, thấy ngươi khiêu chiến, nên ta ra mà bắt ngươi.
Tề Thiên nói:
– Mi chớ khoe tài, ta đập mi một cái cho biết.
Huệ Ngạn giơ côn ra đỡ, đánh đặng sáu mươi hiệp Huệ Ngạn chạy dài.
Tề Thiên thâu quân về động.
Còn Huệ Ngạn chạy về thở dốc mà rằng:
– Tề Thiên thiệt có tài, con cự đà không lại.
Lý Thiên Vương hoảng kinh truyền viết biểu cầu cứu, sai Ðại Lực quỷ vương theo Huệ Ngạn về trời dâng biểu.
Khi ấy Huệ Ngạn về thuật chuyện cho Quan Âm nghe, Quan Âm còn suy nghĩ.
Còn Ðại Lực quỷ vương dâng sớ Thượng Ðế coi rồi phán rằng:
– Sá gì một con quỷ mà mười muôn Thiên binh làm không lại, mà phải xin tiếp cứu! Bây giờ tính sai đạo binh nào?
Quan Âm chắp tay tâu rằng:
– Bệ Hạ chớ lo! Bần tăng dâng một vị thần, bắt yêu hầu nháy mắt.
Thượng Ðế phán hỏi:
– Bồ Tát cử ai?
Quan Âm tâu rằng:
– Người ấy kêu Bệ Hạ bằng cậu ruột. Nhị Lang hiền thánh tên Dương Tiễn, khi trước giết sáu con yêu, lại có sáu người anh em bạn tại Mai Sơn, sẳn có 1200 thần thảo đầu, thần thông quảng đại, bây giờ ở tại vàm Quán Châu, va có tánh kiêu, như sai đi đánh thì đi, nếu đòi về trào mà sai thì chắc không chịu! Xin Bệ Hạ xuống chiếu sai va, thì chắc va phụng mạng.
Thượng Ðế y lời truyền viết chiếu điều binh rồi sai Ðại Lực quỷ vương đi.
Khi Ðại Lực quỷ vương tới vàm Quán Châu, đến trước dinh, Nhị Lang hiển thánh tiếp sứ, rồi thiết hương án quì đọc chiếu như vầy:
” Tề Thiên Ðại Thánh là Tôn Ngộ Không ở tại động Thủy Liêm núi Hoa Quả, hội Bàn đào nó phá rã rời, Thiên Binh Thiên Tướng bị đà xững vững. Xin hiền khanh ra sức cùng nghĩa đệ giúp công Trị bình, trẫm sẽ phong, chỉnh đốn rồi ta ban thưởng.”
Nhị Lang hiển thánh vâng lời tạ ơn; rồi nói rằng:
– Vậy Thiên sứ về trước tâu lại, rằng tôi phụng chỉ đề binh.
Nói rồi kêu sáu anh em: Khượng thái úy, Trương thái úy, Giao thái úy, Lý thái úy, Quách Thân tướng quân, Trực Kiện tướng quân, bảo đem 1200 thần thảo đầu cho sẳn, đem cung tên khí giới theo, đồng nổi gió, bay qua núi Hoa Quả, thấy Thiên la Ðịa võng bủa giăng.
Nhị Lang hiển thánh kêu lớn rằng:
– Ta là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ đem quân trợ chiến.
Lý Thiên Vương nghe báo truyền mở cửa dinh nghinh tiếp.
Nhị Lang hiển thánh vào hỏi việc chinh chiến thể nào?
Lý Thiên Vương thuật chuyện lại, Nhị Lang hiển thánh cười rằng:
– Ðể nó giỏi nó thần thông với tôi. Các ông hãy mở Thiên la Ðịa võng ra, hễ đánh đâu vây đó mà thôi, xin Thác Tháp thiên vương hay là Tam Thái Tử cầm kiếng chiếu yêu đứng trên mây soi xuống, đặng tôi coi mà theo nó, dẫu nó biến ra vật chi cũng biết, đừng cho nó sẫy khó lòng.
Nhị Lang hiển thánh dặn các thần thảo đầu cột chó, cầm ó lại, chờ khi hổn chiến sẽ thả ra.
Dặn rồi dẫn sáu tướng tới động Thủy Liêm khiêu chiến. Thấy bầy khỉ đóng binh như rồng uống khúc, trước cửa động dựng cờ đề chữ Tề Thiên Ðại Thánh, Nhị Lang hiển thánh nói:
– Loài yêu hầu vô lễ, muốn địch thể với trời!
Khi ấy tiểu hầu vào báo, Tề Thiên nai nịch cầm thiết bảng xông ra hỏi rằng:
– Người là tiểu tướng ở đâu, dám cả gan đến đây khiêu chiến?
Nhị Lang hiển thánh nạt rằng:
– Mi có mắt mà không ngươi, ta là cháu kêu Thượng Ðế bằng cậu, chức Chiêu Huệ Tịnh hiển vương, là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ đến bắt ngươi đây.
Tề Thiên nói:
– Ờ ta có nghe em Thượng Ðế muốn chồng, xuống phàm trần kết đôi với Dương quân, sinh đặng một trai tên là Dương Tiễn sức mạnh nhổ núi Giao Sơn, có phải là mi đó chăng? Mi là con nít nhảy mũi ta không nỡ xuống tay, ta tha cho mi về kêu Lý Thiên Vương ra đây cự chiến.
Nhị Lang nổi giận mắng rằng:
– Yêu hầu cà xốc, ta chém một đao.
Hai đàng đánh nhau, ba trăm hiệp sức cũng cầm đồng.
Nhị Lang hiển thánh hóa mình cao muôn trượng, tóc đỏ, mặt xanh, nanh dài, mũi lớn, cầm đao lớn bằng hòn núi chém bổ Tề Thiên.
Tề Thiên cũng biến hình cao muôn trượng, cầm thiết bảng lớn như núi Thái Sơn cự với Nhị Lang hiển thánh.
Lúc này binh yêu hoảng vía hết chờn vờn, tướng khỉ run en thôi cà thọt!
Chừng ấy sáu tướng của Nhị Lang hiển thánh mới thả chó và ó ra, trên nhành ó liện, dưới gốc chó râm, binh tướng săn nà, làm cho bầy khỉ quăng gươm ném giáo, con vọt vô rừng, con nhảy vào động.
Tề Thiên thật không sút chi Nhị Lang hiển thánh, song thấy quần hầu vỡ tan, phải hiện nguyên hình chạy về tiếp cứu!
Nhị Lang hiển thánh đuổi theo.
Tề Thiên không muốn cự bởi nóng bầy khỉ nên riết về, ai dè về gần cửa động, bị sáu tướng của Nhị Lang đón lại mà rằng:
– Con khỉ khốn chạy đâu?
Phần chó với ó nó vải theo, Tề Thiên túng thế, thâu thiết bảng giắt vào mép tai, rồi biến ra con se sẻ bay lên ngọn cây mà đậu! Sáu tướng kiếm không đặng.
Kế Nhị Lang hiển thánh chạy đến hỏi rằng:
– Các em rượt tới đâu mà mất nó.
Sáu người nói:
– Chúng tôi vây nó tại đây, không biết nó biến đi đâu mất!.
Nhị Lang hiển thánh trợn mắt ngó lên, thấy trên ngọn cây có yêu khí, biết là Tề Thiên biến ra se sẻ ấy, liền hiện nguyên hình lại, rồi dùn mình biến ra con bù cắt, bay lên mổ se sẻ, se sẻ sợ bay bỗng hóa ra con cò ngà bay lên mây.
Bù cắt biến ra hạc biển bay theo. Cò ngà hoảng kinh xẹt xuống suối hóa ra con cá. Hạc biển bay theo xuống suối không thấy con ngà, thì chắc con ngà đã biến ra tôm cá, liền hóa ra con séo mà xom, con cá thấy con séo xom lia xom lịa, thì nghi là Nhị Lang biến ra, liền lội thối lại.
Con séo thấy con cá chày mà đuôi không đỏ, biết là Tề Thiên liền chạy theo mà mổ. Con cá thấy con séo sao chân không đỏ, biết chắc là Nhị Lang theo mình liền lặn xuống biến ra con rắn nước, nhảy vọt lên bờ, lủi vô cỏ rậm. Con cò séo mổ hụt, lại thấy rắn nước nhảy lên bờ, thì chắc là Tề Thiên hóa rắn mà trốn, séo liền hóa ra hạc xám theo mổ rắn nước, rắn nước chạy vọt lên triền núi hóa ra chim nắt nước, đậu theo mé khe, Nhị Lang hiển thánh thấy Tề Thiên biến ra vật hèn mọn, thì không thèm hóa ra vật khác làm chi, liền hiện hình người lấy cung mà bắn. Chim nắt nước lẹ mắt, liền nhào xuống chân núi, hóa ra một cái miểu Thổ Ðịa, cái miệng làm cửa, hai hàm răng làm cánh cửa, cái lưỡi làm cốt Thổ Ðịa, cặp mắt làm cửa sổ, còn cái đuôi không biết làm sao phải hóa làm cột cờ dựng sau miễu!
Nhị Lang hiển thánh tới gặp miễu Thổ Ðịa sau miễu có dựng cờ.
Nhị Lang ngẫm nghĩ cười rằng:
– Con khỉ nó gạt ta đây! Ta khi nào mắc kế, thuở nay miễu Thổ Ðịa đời nào dựng cờ sau lưng, Tề Thiên gạt ta chun vào để nó cắn. Ta không thèm vô cửa, ta đánh phá cho hư gãy cánh, rồi ta sẽ vào.
Tề Thiên nghe nói nghĩ rằng:
– Nếu để nó đập phá cửa, thì gãy răng đui mắt mình còn gì.
Nghĩ rồi vùng biến mất! Nhị Lang hiển thánh kiếm hết sức không đặng!
Kế bốn Thái Úy, hai tướng quân chạy tới hỏi rằng:
– Anh bắt đặng Tề Thiên chưa vậy?
Nhị Lang hiển thánh cười mà thuật chuyện vậy vậy…
Sáu người đều sửng sờ!
Nhị Lang hiển thánh nói:
– Vậy các em ở đây coi chừng, để ta lên mây kiếm nó.
Nói rồi nhảy lên nửa chừng, thấy Lý Thiên Vương và Na Tra đang ở trên mây soi kiếng.
Nhị Lang hiển thánh nói:
– Thiên Vương có thấy yêu hầu chăng?
Lý Thiên Vương nói:
– Nó không có lên đây, ta đang soi gương mà tìm nó.
Nhị Lang hiển thánh thuật chuyện lại, Lý Thiên Vương nghe nói, thì cầm kiếng mà soi, rồi cười ngất mà rằng:
– Con khỉ nó qua vàm Quán châu là chỗ Chơn quân ở kia kìa, Chơn quân trở về bắt nó cho mau.
Nhị Lang hiển thánh nghe nói xách đao đi riết.
Nói về Tề Thiên gần tới vàm Quán Châu, liền giả hình làm Nhị Lang hiển thánh, đi thẳng vào cửa miếu, Quỷ sứ ngỡ là chủ về, kéo ra làm lễ rước vào.
Tề Thiên ngồi giữa bảo đem sổ bộ ra xem, thấy đề Lý Hổ đem tam sanh cúng trả lễ, Trương Long cầu gia đạo bình an, kẻ tới cầu con, người xin cứu bệnh.
Ðương xem sổ bộ, kế báo gia gia về nữa! Quỷ sứ nghe báo chạy ra sững sờ!
Nhị Lang hiển thánh hỏi:
– Có Tề Thiên tới đây không?
Quỷ sứ thưa rằng:
– Có một gia gia hình dung như vậy, đương xem bộ sổ ở trỏng.
Nhị Lang hiển thánh nghe nói xông vào.
Tề Thiên xem thấy hiện hình mà nói rằng:
– Nhà ngươi đừng láu táu, miễu này về Lão Tôn rồi!
Nhị Lang hiển thánh chém một đao, Tề Thiên đưa thiết bảng ra đỡ.
Hai người đánh với nhau ra khỏi cửa, vừa đánh vừa chạy đến chân núi Hoa Quả!
Ðã sức cầm đồng thì chớ, lại còn sáu người trợ chiến và thiên binh thiên tướng phủ vây.
Lúc này Ðại Lực quỷ vương về tâu… Thượng Ðế với Quan Âm, Thái Thượng, Vương Mẫu và các tiên còn ở lại đền bàn luận, Thượng Ðế nghe Ðại Lực quỷ vương tâu chuyện thì hỏi rằng:
– Nhị Lang hiển thánh đánh cả ngày sao không nghe tin thắng bại?
Quan Âm chắp tay tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ, ngự ra cửa Nam Thiên với Thái Thượng đạo tổ để xem thắng phụ dường nào.
Thượng Ðế khen phải, liền ngự ra Nam Thiên Môn, mở cửa trời xem xuống, thấy Lý Thiên Vương cầm kiếng đứng trên mây với Na Tra. Các thiên binh thiên tướng thì vây phủ Tề Thiên, còn Nhị Lang hiển thánh với sáu người em vậy đánh Tề Thiên, mà cũng trật vuột làm không xuể!
Quan âm nói với Thái Thượng rằng:
– Tôi tiến cử Nhị Lang là thần thông quảng đại, mà còn bắt không đặng Tề Thiên. Thôi, để tôi giúp Nhị Lang một phép đặng bắt nó cho rồi.
Thái Thượng hỏi:
– Bồ tát làm sao mà giúp?
Quan Âm nói:
– Tôi quăng cái Tịnh bình xuống đập đầu con khỉ, dầu không chết cũng té nhào thì Nhị Lang bắt đặng.
Thái Thượng nói:
– Cái tịnh bình của Bồ Tát bằng ngọc, như đánh nhằm thì tốt, rủi có trật bể uổng! Thôi, để tôi giúp cho.
Quan Âm hỏi:
– Ðạo tổ dùng vật chi?
Thái Thượng cởi cái vòng trong tay tả mà rằng:
– Cái vật này bằng gang, tôi tẩm luyện đã linh lắm, nhờ đeo trong mình, nên rất quý! Nước ngâm không ướt, lửa cháy không mềm, quăng đụng vật chi thì nó quấn chặt cứng nên gọi là Kim Cang trát, một tên riêng là Kim Cang sào. Năm trước, tôi qua khỏi cửa Hàm cốc cũng nhờ nó, mới độ nước Tây Vực thành Phật nhiều lắm. Ðể tôi quăng xuống cho mà coi.
Nói rồi quăng xuống.
Khi Tề Thiên đương mê trận, chẳng dè Kim Cang sào rớt nhằm đầu, Tề Thiên té nhào, bộ như chết hụt, lồm cồm chờ dậy, bầy chó nhảy vô cắn xé, trì kéo lăng nhăng, nên Tề Thiên nằm dưới đất la chó, vừa la vừa chờ dậy, bị Nhị Lang hiển thánh và sáu anh em xúm lại bắt Tề Thiên đè xuống lấy ngoéo sắt móc eo ếch, xỏ tiên thằng trói lại hết thế vùng vẫy.
Khi ấy Thái Thượng thâu Kim Cang sào, rồi mời Thượng Ðế với Vương Mẫu, Quan Âm về điện Linh Tiêu. Còn bốn Thái Úy và hai tướng quân dẫn Tề Thiên vào trại. Các Thiên Vương và Thiên tướng đồng khen rằng:
– Thiệt là nhờ công lao Tiểu thánh, mới bắt đặng yêu hầu.
Nhị Lang hiển thánh nói:
– Nhờ hồng phước của Thượng Ðế và oai lực các ông, chớ tôi có tài chi mà khen ngợi.
Sáu người em bạn thưa rằng:
– Xin anh để chúng tôi dẫn yêu hầu nạp cho Thương Ðế.
Nhị Lang hiển thánh nói:
– Các em chưa có sắc phong, không nên chầu Thượng Ðế, để sai thần Lục đinh lục giáp giải nó lên Thiên Tào, còn các em vào núi này trừ cho hết yêu quái. Còn ta theo các vị Thiên tướng lên Ðế đình lãnh thưởng, sẽ về phân phát cho nhau.
Sáu người đều vâng lệnh, đi xuống Hoa Quả Sơn.
Còn Nhị Lang hiển thánh đi với Thiên Tướng Thiên Binh về tới Thông Minh điện. Thiên sứ tâu rằng:
– Nhị Lang và Thiên Binh Thiên Tướng bắt đặng Tề Thiên giải về.
Thượng Ðế truyền Ðại Lực quỷ vương, Lục đinh, Lục giáp, với các tướng trời, dẫn Tôn Ngộ Không tới đài trãm yêu mà phân thây muôn đoạn.
Khi ấy chúng thần dẫn Tề Thiên tới đài trãm yêu, trói vào cột hàng yêu, gươm chém mẻ gươm, giáo đâm mẻ giáo, hỏa tinh đốt không cháy, Thiên Lôi đánh không sờn! Ðại Lực quỷ vương và các Thiên tướng tâu lại…
Thượng Ðế phán rằng:
– Không biết yêu hầu học phép hộ thân ở đâu mà đặng như vậy! Bây giờ liệu làm sao?
Thái Thượng tâu rằng:
– Con khỉ ấy ăn bàn đào, uống ngự tửu, lại nuốt hết năm bầu thuốc kim đơn của tôi, nên nó thành mình vàng rồi làm sao giết cho chết! Vậy xin Bệ Hạ giao nó cho tôi bỏ vô lò bát quái, dùng lửa phép mà hầm nó, hễ chảy thuốc kim đơn ra hết, thì nó phải ra tro.
Thượng Ðế phán rằng:
– Vậy thì giao Tề Thiên cho Lão quân khiển sát.
Thái Thượng vâng chỉ…
Rồi Thượng Ðế với Nhị Lang hiển thánh lên điện, thưởng một trăm bông vàng, một trăm ve ngự tửu, một trăm hột hườn đơn và gấm thêu châu báu…
Nhị Lang hiển thánh tạ ơn, rồi lãnh phần thưởng lui về miếu cũ.
Còn Thái Thượng về cung Ðâu Suất mở trói cho Tề Thiên, bỏ vô lò bát quái đậy nắp lại, truyền Lục đinh Lục giáp và một đạo sĩ coi chụm lửa cho đủ bốn mươi chín ngày đêm.
Nguyên lò bát quái là tám cung: Cung Càn, cung Khảm, cung Cấn, cung Chấn, cung Tốn, cung Ly, cung Khôn, cung Ðoài, mà cung Tốn ở trên gió.
Tề Thiên nép bên cung Tốn cho khỏi lửa, tuy không lửa thì mặc lòng, chớ cũng bị khói un hai con mắt nâu hết, nên thành mắt lửa tròng vàng!.
Ðủ bốn mươi chín ngày đạo sĩ dỡ nắp ra coi, trong ý tưởng Tề Thiên tiêu rồi, còn thuốc kim đơn chảy ra cả khối.
Ai dè Tề Thiên đương dụi con mắt, nghe tiếng dỡ nắp lản cản, trên miệng lò trống lỗng! Tề Thiên vùng nhảy thót ra, đá ngã lò rớt xuống trung giới, sau thành Hỏa Diệm sơn, làm đạo sĩ phải đọa.
Khi thình lình Ðạo sĩ đậy nắp không kịp. Còn Lục đinh Lục giáp a lại nắm Tề Thiên mà kéo, Tề Thiên vụt lăn cù!
Lúc ấy Tề Thiên như cọp sút rọ.
Thái Thượng nóng mũi chạy theo níu lại, bị Tề Thiên xô ngã sấp! Rồi lấy thiết bảng ra riết tới thiên cung loạn đả! Chín vì sao lo đóng cửa, bốn Thiên Vương chạy tan.
Tề Thiên đánh đến chỗ nào thì tan chỗ nấy, không ai dám cự, đánh tới Linh Tiêu bửu điện, nhờ có bộ hạ ông Hựu Thánh chơn quân là Vương Linh Quan giữ điện, thấy Tề Thiên loạn đả.
Linh Quan rút roi vàng cản lại hỏi rằng:
– Con khỉ khốn đi đâu? Có ta đây không đặng ngang dọc.
Tề Thiên không thèm nói lại, hươi thiết bảng đập nhầu, Linh Quan lấy sức chống cự, chưa biết hơn thua.
Khi ấy Hựu Thánh chơn quân cho đòi 36 vị lôi công tới ví Tề Thiên hổn chiến.
Tề Thiên không nao núng hóa ra ba đầu sáu tay cầm thiết bảng đánh như chong chóng.
Linh Quan và 36 vị lôi công vây ngoài xa không dám xáp lại.
Thượng Ðế kinh hãi, liền truyền chỉ sai Du Diệc linh quan và Duật Hành chơn quân, đồng qua Tây Phương đặng thỉnh Phật Tổ Như Lai cứu giá.
Nói về hai vị thiên sứ đằng vân đến Lôi Âm tự, cậy bốn vị Kim cang, và tám vị Bồ tát; dẫn tới trước tòa sen, hai vị đảnh lễ rồi, Thích Ca hỏi:
– Thượng Ðế sai nhị thánh đến đây có việc chi?
Hai vị thuật chuyện và bạch rằng:
– Bởi có sự gấp rút như vậy, nên phải cầu Phật Tổ từ bi cứu giá.
Thích Ca nói:
– Các vị Bồ Tát ở đây, để ta đi cứu giá.
Dặn rồi kêu Ấ Nang tôn giả và Ca Diếp tôn giả đi theo, hóa hào quang bay gần tới Linh Tiêu bửu điện, nghe khua khí giới điếc tai, ấy là 36 vị lôi công vây đánh Tề Thiên mà không đã ngứa!
Thích Ca dạy Lôi công bãi chiến, rồi kêu Tề Thiên ra hỏi.
Tề Thiên hiện nguyên hình, lướt tới hét lớn rằng:
– Ngươi là kẻ thật thà ở xứ nào tới đây khuyên giải?
Thích Ca cười rằng:
– Ta ở nước Cực lạc hiệu Thích Ca Như Lai, nghe đồn ngươi ngang dọc làm phản cung trời, nên ta đến hỏi thăm cho biết, chẳng hay ngươi sinh tại đâu, thành đạo năm nào, vì cớ chi mà sanh loạn như vậy?
Tề Thiên nói: – Ngươi muốn rõ cội rễ của ta, thì nghe ta ca đây.
Ca rằng:
Thinh không trời đất nứt sanh ta,
Hoa Quả non tiên thiệt cửa nha
Ở động Thủy Liêm tài tót chúng
Học thầy Tây Thổ phép cao xa
Luyện chước sống đời tày nhực nguyệt,
Ra công giúp chúng khiếp yêu ma
Vì ở trung thần chê siển thổ,
Dốc lên thượng giới ngự chương tòa
Hơn thua cuộc thể lòng không chát,
Dời đổi ngôi trời chí đã sa
Có đức có tài thì có vị,
Ai thua gì nhượng nghiệp hoàng gia.
Thích Ca nghe rồi cười rằng:
– Ngươi bất quá một con khỉ thành tinh, sao dám cướp ngôi Thượng Ðế? Vả Thượng Ðế tu tới 1550 kiếp, mỗi kiếp đều nhiều năm, ngươi công đức bao nhiêu, phòng muốn tranh ngôi báu? Sao ngươi không sợ chết, phải lo việc tu hành, nếu còn làm thói dọc ngang, gặp kẻ đạo cao thì uổng mạng?
Tề Thiên nói:
– Tu nhiều kiếp thì mặc dầu, không lẽ làm vua hoài hủy. Lời tục nói: Ngồi lâu còn dời chỗ, ngôi báu cũng đổi thay. Ngươi hãy bảo Thượng Ðế dọn đồ đi mà nhường ngôi cho ta, bằng không thì ta đánh mãi.
Thích Ca nói:
– Ngươi trừ phép TSnh và biến hóa ra, còn phép chi hay nửa chăng, mà dám nhường ngôi Thượng Ðế?
Tề Thiên nói:
– Ta có phép rất nhiều, 72 phép huyền công, luyện đặng TSnh bất tử, và cân đẩu vân cũng hay, nhảy một nhảy hơn 108000 dặm. Tài phép như vậy làm vua trời không xứng hay sao?
Thích Ca nói:
– Vậy thì ta đánh cuộc với ngươi, nếu ngươi nhảy khỏi bàn tay hữu của ta, thì ngươi hơn, ta bảo Thượng Ðế nhượng thiên cung cho ngươi, khỏi bề chinh chiến, còn ngươi nhảy không khỏi bàn tay ta, thì ngươi trở về trung giới tu ít kiếu nửa sẽ lên tranh đoạt.
Tề Thiên nghe nói cười thầm rằng:
– Thích Ca thiệt quê mùa quá! Lão Tôn nhảy một cái 108.000 dặm, sá chi bàn tay, dầu bao lớn, lại nhảy không khỏi.
Nghĩ rồi hỏi lớn rằng:
– Ngươi làm chủ việc ấy chắc không?
Thích Ca nói:
– Chắc.
Nói rồi xòe bàn tay hữu ra, bằng lá sen.
Tề Thiên cất thiết bảng, rồi co giò nhảy qua! La lớn rằng:
– Ta qua khỏi rồi.
Ngó quanh quất thấy năm cây cột đỏ như thịt, trên ngọn có mây xanh.
Tề Thiên nói:
– Mình nhảy xa quá, tới đây cùng đường rồi, thì Thích Ca bảo Thượng Ðế nhường ngôi cho mình chắc lắm! Song mình phải làm dấu, phòng sau đối nại với Thích Ca. Nghĩ rồi nhổ lông hóa viết mực, đề tại cây cột giữa, tám chữ rằng: “Tề Thiên Ðại Thánh đáo thử nhứt du”. Nghĩa là: Tề Thiên đi chơi tới chỗ đó.
Ðề rồi lại đái xuống gốc cột thứ nhất một vũng, rồi cân đẩu vân trở lại, té ra cũng còn đứng trong bàn tay Thích Ca mà nói rằng:
– Ngươi là con khỉ đái vất! Ra không khỏi bàn tay ta mà còn múa mỏ!
Tề Thiên nói:
– Ngươi có theo ta đâu mà biết, ta đi tới chân trời, thấy năm cây cột đỏ, trên ngọn có mây xanh, ta có làm dấu, ngươi không tin đi mà coi?
Thích Ca nói:
– Ta chẳng đi đâu hết, ngươi hãy cuối đầu xuống mà coi?
Tề Thiên trợn mắt dòm xuống, thấy ngón tay giữa của Thích Ca có đề tám chữ: Tề Thiên Ðại Thánh đảo thử nhứt du, dưới cộng tay cái còn bọt, nước đái!
Tề Thiên hoảng kinh nói rằng:
– Kỳ không kìa! Ta đề tám chữ đó nơi cây cột chống trời, sao lại ở nơi tay nọ! Chắc họ có phép tiên tri, làm vậy đặng gạt mình, ta chẳng hề tin, đi coi lại một nữa.
Nói rồi nhảy lên một cái bị Thích Ca lật bàn tay xuống đất, năm ngón tay Thích Ca hóa ra năm hòn núi Ngũ Hành, chụp đè trên lưng Tề Thiên Ðại Thánh!
Các vị lôi thần và Ấ Nang, Ca Diếp chắp tay khen rằng:
– Hay lắm!
Thích Ca bảo Ấ Nang, Ca Diếp từ giã ra về.
Xảy thấy Thiên Bồng Thiên Hựu chạy đến tâu rằng:
– Xin Phật Tổ nán chờ Thượng Ðế ra mắt.
Thích Ca ngó lại thấy xe rồng tán phụng hương báu nhạc trời.
Thượng Ðế ngự ra tạ ơn rằng:
– Nhờ Phật Tổ trừ đặng yêu hầu, xin nán lại dự tiệc, ngỏ dùng lễ mọn tạ ơn.
Thích Ca chắp tay tâu rằng:
– Lão tăng vâng chỉ tới trợ lực với chư thần, có công lao bao nhiêu mà phòng cảm tạ.
Thượng Ðế truyền mời các thần tiên đồng phó hội tạ ơn Phật Tổ, lại truyền tiên nữ dọn yến, bàn đào, ngự tửu, cùng đồ trân tu quý báu không biết bao nhiêu.
Giây phút các thần tiên đến trước Phật Tổ mà bạch rằng:
– Phật Tổ từ bi đại đức trừ đặng yêu hầu, chúng tôi cảm tạ. Xin Phật Tổ đặt tên hội này là hội chi, theo dèo cuộc này.
Thích Ca nói:
– Nay trên trời đã an, thì đặt An thiên hội cũng đặng.
Các thần tiên đều khen hay!
Lúc ngự yến có tiên nữ ca vang, nhạc trời trỗi chặp.
Vương Mẫu dẫn các tiên nga đến dâng bàn đào, mà bạch rằng:
– Khi trước bị yêu hầu phá hội bàn đào. Nay nhờ Như Lai trừ nó, lại làm hội An Thiên, tôi chẳng biết lấy chi tạ ơn, nên rửa tay hái ít trái bàn đào đem dâng lấy thảo”. Thích Ca chắp tay tạ ơn.
Vương Mẫu dạy tiên nga ca múa.
Giây lâu có Nam Cực tiên ông cỡi hươu đến ra mắt Thượng Ðế, rồi đến trước mặt Phật Tổ mà bạch rằng:
– Khi trước tôi nghe Lão Quân dẫn yêu hầu về mà đốt, tưởng họa tán đà tiêu rồi, không dè nó thoát ra được, đánh phá cung trời làm cho kinh động Thượng Ðế, nay nhờ Phật Tổ trị an, lại thiết An Thiên hội, nên tôi đem cỏ thoạt bông hương, kim đơn châu bích, xin Như Lai nhiệm lễ mọn.
Thích Ca thâu lãnh.
Kế Xích cước đại tiên đến ra mắt Thượng Ðế, rồi bạch với Phật Tổ rằng:
– Nhờ ơn Phật Tổ trị đặng yêu hầu, tôi xin dâng hai ttrái giao lê, ít trái lão táo gọi là chút tạ ơn.
Thích Ca cũng lãnh, rồi dạy Ấ Nang, Ca Diếp thâu lễ vật, đặng từ tạ ra lui về.
Xảy thấy Linh Quan đi tuần về báo rằng:
– Tề Thiên ló đầu ra khỏi núi!
Thích Ca nói:
– Không hề chi.
Liền lấy một tờ giấy trong túi ra có đề sáu chữ vàng là: Án ma ni bát di hồng.
Sai Ấ Nang tôn giả đi dán trên chót núi Ngũ Hành, năm hòn núi tự nhiên chắc cứng, như trên có câu đầu, dưới có ràng cẳng rút vô vậy! Tuy ló đầu ló tay ra, mà dậy không nổi.
Xong rồi Thích Ca giã từ Thượng Ðế và các thần tiên ra về, tuy vậy mà lòng cũng từ bi, sai Thổ Ðịa và Ngũ Phương Yết Ðế canh giữ Tề Thiên, dặn có đói thì cho ăn sắt cục! Khát thì nấu đồng tiêu ra cho uống! Chờ hết tội sẽ cho người đến cứu.
Nói về Phật Tổ từ tạ Ngọc Ðế về đến Lôi Âm bửu sái, để các vị Bồ Tát Kim Cang cầm tràng phan bửu sái ra tiếp giá.
Như Lai lên ngồi tòa sen, hào quang sáng lòa.
Các Bồ Tát Kim Cang chắp tay làm lễ hỏi:
– Phá cõi trời, làm rối bàn đào hội, là ai vậy?
Như Lai phán các việc đầu đuôi, hết thảy nghe nói đều mừng rỡ lui chầu.
Ngày kia Phật Tổ kêu các vị Ấ La, Yết Ðế, Bồ Tát, Kim Cang mà nói rằng:
– Từ thâu đặng yêu hầu tính lại đặng năm trăm năm dưới phàm. Nay ta có một bửu bồn, kêu là Vu Lan bồn có đủ trái ngon bông lạ cho các ngươi hưởng nhờ, ý các ngươi muốn chăng?
Hết thảy chắp tay tạ ơn.
Phật Tổ biểu Ấ Nang Ca Diếp phân phát cho đại chúng.
Hết thảy cảm tạ rồi, xin Như Lai giảng dạy.
Như Lai giảng tam thừa kinh phép chánh quả rồi nói với chúng rằng:
– Ta xem trong bốn cõi đại bộ châu, con người lành dữ khác nhau. Tại Ðông Thắng thần châu kính trời đất, có lòng hiền, Tây Ngưu hạ châu không tham ái; Bắc Cư lư châu hay sát sanh vọng ngữ, còn Nam Thiện bộ châu tham dâm dục, hay đâm chém, miệng lưỡi hung dữ độc ác. Nay ta có ba tạng chân kinh khá khuyên người lành. Chư vị Bồ Tát chắp tay hỏi:
– Ba tạng kinh thế nào?
Như Lai nói:
– Một tạng nói về việc trời, một tạng nói về trời đất, môt tạng nói về việc đất, còn một tạng thì cứu ma độ quỷ. Ba tạng cộng lại là 25 bộ cai ra một muôn năm ngàn một trăm bốn mươi bốn cuốn (15.144) thiệt là phép chu nhân thánh thiện. Ta muốn cho về Ðông Ðộ, e thiên hạ ngu dại chê bai phép Phật, chẳng biết kinh du là chánh tông. Phải đặng một người tài phép giỏi qua Ðông Ðộ khuyên dạy chúng sanh, sẽ đặng có công đức như non. Ai muốn lãnh đi?
Quan Âm Bồ Tát nói:
– Tôi tuy bất tài, xin qua Ðông Ðộ kiếm một người đi thỉnh kinh.
Như Lai cả đẹp nói:
– Quan Âm thần thông biến hóa đi đặng. Như có đi thì đi trên mây, mà chớ đi cao lắm, ngươi tuy có lòng mà cũng khó đi đặng, nay ta cho ngươi năm phép báu.
Liền dạy Ấ Nang Ca Diếp lấy cà sa và Cữu huờn tích trượng đặng cho người thỉnh kinh bền lòng đi, khi bận áo cà sa khỏi đọa luân hồi, cầm tích trượng khỏi bị hại. Quan Âm lạy mà lãnh.
Như Lai lấy ba cái cô nhi là cái vòng, nói rằng:
– Ba cái cô nhi này như một, cái này đọc chú ba lần thì biến hóa mà trừ yêu. Như gặp yêu thì nhờ phép này khuyên dạy nó phải đi theo người lấy kinh làm học trò. Như nó không chịu thì cho nó đội cái này trên đầu tự nhiên dính vào thịt gỡ ra không đặng. Nó không vâng phục thì đọc chú cho nó nhứt đầu chịu không nỗi, thì nó mới đầu vào phép ta.
Quan Âm lãnh rồi làm lễ lui ra, kêu Huệ Ngạn đi theo.
Quan Âm gói áo cà sa lại, đưa Huệ Ngạn cầm, lại cất Kim Cô, tay cầm Tích trượng, xuống khỏi Linh Sơn. Tới gần núi có Ngọc Chân Quân Kim Ðãnh đại tiên rước vào pha trà hỏi:
– Chẳng hay Bồ Tát đi đâu?
Quan Âm nói:
– Tôi vâng chỉ Như Lai đến Ðông Ðộ tìm người lấy kinh.
Ðại tiên hỏi:
– Chừng nào người lấy kinh đi tới?
Quan Âm nói:
– Chưa biết chừng độ hai ba mươi năm thì tới.
Liền từ giã đại tiên đi nửa chừng mây, ngó xuống sông Lưu Sa thấy ba người chết chìm.
Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
– Người phàm khó qua chỗ này đặng mà lấy kinh.
Xảy thấy nổi sóng gió, một con yêu rất xấu xa, hét lớn một tiếng nhảy lên bờ cầm bửu trượng xốc lại đánh Quan Âm.
Huệ Ngạn cầm côn chận lại nạt rằng:
– Quái vật chớ chạy.
Hai người hổn chiến hơn mười hiệp chưa phân hơn thua.
Yêu ấy đỡ lại rồi hỏi rằng:
– Ngươi ở đâu mà dám đến cự với ta?
Huệ Ngạn nói:
– Ta là Nhị Thái Tử của Lý Thiên Vương là Mộc Tra đây, ngươi sao dám đón đường?
Quái ấy nói:
– Ta nhớ ngươi theo Nam Hải Quan Âm tu hành, sao lại đến làm chi?
Mộc Tra nói:
– Trên kia là thầy ta đó.
Quái ấy nghe nói liền chạy tới trước mặt Quan Âm cúi đầu lạy thưa rằng:
– Xin tha tội cho tôi thú thiệt: Nguyên trước tôi hầu Ngọc Ðế làm chức Quyện Liêm đại tướng, nhân hội bàn đào lỡ tay làm bể đèn lưu ly nên Ngọc Ðế bắt tội đánh 800 roi, đày xuống hạ giới, biến ra xấu xa, còn bảy ngày có gươm bay đến đâm hông tôi một lần, đau đớn quá chừng. Lại thêm đói lạnh chịu không nỗi, nên làm sóng gió bắt người qua lại mà ăn thịt, nay rủi phạm nhằm Bồ Tát.
Quan Âm nói:
– Ngươi đã có tội lại ăn thịt người ta, tội càng thêm nặng. Nay ta lãnh sắc Phật Tổ qua Ðông Ðộ tìm người lấy kinh. Ta muốn ngươi đợi đây theo người lên Tây Phương thỉnh kinh, ta kêu gươm bay đó không đâm ngươi nữa. Sau này nên công hết tội, đặng phục chức cũ, ngươi nghĩ thế nào?
Quái ấy nói:
– Tôi xin quy y làm lành. Từ trước đến nay mấy người đi lấy kinh qua đây đều bị tôi ăn hết, còn cái đầu bỏ chìm xuống sông, không dè mấy sọ ấy không chìm cứ nổi trên mặt nước. Tôi lấy làm lạ, lấy dây xỏ lại treo chỗ trống kia, tính ra chín người đi lấy kinh bị hại rồi.
Quan Âm nói:
– Ngươi khá đem mấy cái đó treo trên chót núi, đợi người lấy kinh tới sẽ có việc dùng.
Quái vật vâng lời dạy dỗ, cải ác quy y.
Quan Âm thí phát cho con yêu ấy rồi. Lấy sông Lưu Aa làm họ, nên đặt họ Sa, đặt tên thánh gọi là Ngộ Tịnh.
Khi ấy Ngộ Tịnh đưa Quan Âm và Huệ Ngạn khỏi sông rồi, răn lòng không ăn ai nữa. Dùng trái cây đỡ dạ mà đợi kẻ thỉnh kinh.
Còn Quan Âm và Huệ Ngạn đi một hồi lâu xảy thấy núi cao chớn chở, hơi dữ bay lên núi mịt mù, đi qua không được.
Quan Âm tính đằng vân mà qua núi.
Xảy đâu trận gió thổi tới, hiện ra một con yêu tinh đầu heo tướng dữ tay cầm Cào cỏ (đinh ba) đập lại Quan Âm.
Mộc Tra cản lại hét một tiếng lớn rằng:
– Ðồ yêu quái đừng vô phép, coi gậy sắt đây nè.
Con tinh trả lời rằng:
– Hòa Thượng này không biết sợ chết, coi cào cỏ ta đây.
Hai người đánh dưới chân núi, chưa biết hơn thua.
Quan Âm ở nữa lừng bỏ bông sen xuống cản ngang, hai người đánh không đặng nữa; con tinh thất kinh mới hỏi:
– Ngươi là Hòa Thượng ở đâu hóa bông sen mà dọa bợm?
Huệ Ngạn nói:
– Ngươi là thú thai phàm mắt thịt, nên không biết ta. Ta là học trò Phật Quan Âm, thầy ta bỏ bông sen mà ta không biết.
Con tinh hỏi:
– Quan Âm ở Nam Hải là một vị Phật quét ba tai, trừ tám nạn phải không?
Huệ Ngạn nói:
– Vậy chớ ai?
Con tinh nghe nói, bỏ cào cỏ lạy Huệ Ngạn mà hỏi thăm rằng:
– Chẳng hay Quan Âm ở đâu, xin anh làm ơn dắt tôi ra mắt!
Huệ Ngạn ngước mặt chỉ mà nói rằng:
– Ngươi coi có phải là Phật Bà không?
Con tinh ngó thấy cúi đầu lạy mà nói lớn rằng:
– Xin Phật Bồ Tát tha tội.
Quan Âm hiện xuống mà hỏi rằng:
– Ngươi là Ông Chãng thành tinh, hay là heo rừng sanh quát, mà đón ta vậy?
Con tinh nói:
– Tôi không phải heo rừng, cũng không phải Ông Chãng (heo rừng lâu năm quá, mọc nanh bó hàm, tục sợ như hùm, kêu tưng bằng Ông Chãng) tôi là Thiên Bồng nguyên soái ở sông Ngân (Thiên Hà) bởi say rượu đi lạc vào cung Nguyệt mà chọc Hằng Nga, bị ông Linh Quan bắt giải về Thượng Ðế, Thượng Ðế bắt tội đánh tôi hai ngàn dùi, rồi đày xuống Trung Giai. Tôi đi đầu thai lạc đường nhằm heo rừng nái, mới ra thân thể như vậy. Tôi tức giận cắn heo nái chết tươi, và giết bầy heo rừng tuyệt tộc. Chiếm cứ hòn núi này, ăn thịt người đở đói, không dè nay gặp Phật Bồ Tát, xin cứu độ làm ơn.
Quan Âm hỏi:
– Núi này gọi là gì?
Con tinh nói:
– Núi này gọi là núi Phước Lăng, có một cái động gọi là động Vân San, chủ động ấy gọi là Mão Nhị Thơ thấy tôi có nghề võ, vời tôi tới làm người lớn trong nhà. Ở coi giúp việc gần một năm, nàng ấy tới số gia tài về tôi, ở không ăn mãi núi lở non mòn, túng cùng phải ăn người cho qua bữa, xin Bồ Tát cứu độ mà làm ơn.
Quan Âm nói:
– Người xưa rằng: Muốn có đường đi tới, thì đừng làm mất đường lui. Nếu mất đường đi tới, thì phải cùng đường. Khi ngươi ở cõi trên đà phạm phép, thì nay phải đọa mà không bỏ lòng hung, lại giết người hại vật, thì một tội sinh hai, ấy là muốn cùng đường đó.
Con tinh nói:
– Còn cùng chẳng còn cũng không cần. Nếu cử ăn thịt người thì thấy ngáp gió, hèn chi người ta nói: Y theo phép quan thì đánh chết, y theo phép Phật thì đói chết. Là phải lắm mà. Tính bề đi phức cho xong thê. Thà bắt chúng đi đường, ăn mỡ tươi béo lắm, cần gì 2 tội, 3 tội, ngàn tội, muôn tội nà.
Quan Âm nói:
– Lòng người muốn phải, trời cũng thuận theo. Như ngươi tu theo phép, ta cũng có món nuôi mình được, trái cây, rau, gạo, ăn cũng no lòng, lựa phải ăn mỡ người ta mới sống?
Con tinh nghe nói như tỉnh giấc chiêm bao, lạy Quan Âm mà nói rằng:
– Tôi muốn giải nghiệp mà đi tu, song mắc lấy tội trời, cầu sao cho khỏi?
Quan Âm nói:
– Ta vâng sắc Phật Tổ, xuống cõi trần mà tìm kẻ thỉnh kinh. Nếu ngươi chịu làm đệ tử người thỉnh kinh, mà tới Tây Phương thì phước đủ trừ tội, ta cứu ngươi nạn khỏi tai qua.
Con tinh nói:
– Chịu theo, chịu theo” Quan Âm thí phát (thế phát) xong rồi cứ theo dèo đặt họ, gọi là Trư, đặt tên thánh là Ngộ Năng, giữ theo phép Phật, phải ăn chay cử mặn và cử ngũ uẩn (năm món như đồ mặn là: Hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu và ngò) ở đợi thầy thỉnh kinh đi tới.
Quan Âm dặn rồi liền đi với Huệ Ngạn.
Ði một hồi lâu thấy một con rồng Bạch bị treo tại cửa trời. Rồng Bạch thấy Quan Âm, liền cả kêu xin cứu.
Quan Âm hỏi:
– Ngươi là rồng ở đâu mà bị treo ở đó?
Rồng Bạch nói: “Tôi là Thái Tử con Long vương Ngao Thận ở biển Tây. Bởi tôi nổi lửa đốt trái châu trước đền, cha tôi giận tâu với vua Trời, rằng tôi ngỗ nghịch. Nên Thượng Ðế treo tôi giửa thinh không đánh ba trăm roi, và đợi ít ngày xử trãm. Xin Phật Bồ Tát cứu mạng làm nhơn.
Quan Âm nghe nói liền đằng vân ới Huệ Ngạn mà lên trời, cậy Khưu Thiên Sư và Thượng thiên sư dắt ngài vào điện.
Quan Âm tâu rằng:
– Tôi vâng sắc Phật Tổ, xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, gặp rồng có tội bị treo, nên tôi vào tấu, xin Bệ Hạ tha tội rồng ấy mà cho theo tôi, đặng đỡ gót kẻ thỉnh kinh ra công mà chuộc tội.
Thượng Ðế nghe tấu, ruyền tướng trời mở trói nghiệt long (rồng dữ) giao cho Bồ Tát. Quan Âm từ tạ, rồng nhỏ cũng lạy tạ ơn.
Quan Âm dẫn rồng nhỏ xuống núi dặn rằng:
– Ngươi ở khe này, đợi thầy thỉnh kinh đi ngang qua, sẽ hóa thành ngựa kim đỡ gót. Rồng con vâng lệnh ở đó mà chờ.
Còn Quan Âm đi với Mộc Tra, đi hèn lâu mới tới năm hòn núi. Ngó thấy hào quang muôn trượng, hơi ấm ngàn trùng.
Huệ Ngạn hỏi:
– Núi Ngũ Hành mà có hào quang, có khi tại bùa của Phật Tổ.
Quan Âm nói:
– Phải, Tề Thiên Ðại Thánh phá hội Bàn Ðào, phản thiên cung năm xưa, nên bị núi đè tại đó. Thầy trò lên núi, thấy lá bùa sáu chữ chân ngôn là: Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng.
Quan Âm xem rồi than thở chẳng xiết, liền ngâm một bài kệ.
Thơ rằng:
Thương hại yêu hầu bỏ phép công,
Năm xưa làm loạn cậy sức hùng
Kể từ Phật Tổ dằn năm núi,
Bao thuở ra ngoài lại cõi Ðông.
Ðại Thánh nằm sấp dưới chân núi cả kêu rằng:
– Ai ngâm thơ trên non mà ngạo ta đó?
Quan Âm nghe hỏi liền đi lần xuống mà xem, ngó thấy dưới chân núi, có thần núi và Thổ Ðịa canh giữ.
Các thần đều nghinh tiếp Quan Âm và dắt đến trước mặt ÐạiThánh.
Quan Âm thấy Ðại Thánh nằm dưới núi ló đầu ra, miệng nhóp nhép lia mà cục cựa không đặng.
Ngài mới hỏi rằng:
– Họ Tôn có biết ta chăng?
Ðại Thánh trợn cặp mắt lửa tròng vàng, gật đầu mà nói lớn:
– Làm sao mà không biết! Ngài ở Nam Hải núi Phổ Ðà, cả làn cả thương, cứu khổ cứu nạn, là Quan Thế Âm Bồ Tát. Cám ơn lắm, cám ơn lắm! Tôi nằm đây coi một bữa bằng một năm, không ai ngó ngàng tới. Chẳng hay Bồ Tát đi đâu mà ghé đây? Quan Âm nói:
– Ta vâng sắc Phật, đi xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, đi ngang qua đây nên ghé mà thăm đó.
Ðại Thánh nói:
– Phật Như Lai nói gạt, đè tôi dưới núi này. Gần năm trăm năm, cựa mình không đặng. Xin Bồ Tát làm phước, cứu lão Tôn một phen.
Quan Âm nói:
– Ngươi làm tội đầy trời, nếu cứu ngươi ra, quen thói yêu càng không nên lắm.
Ðại Thánh nói:
– Tôi đã ăn năn chừa lỗi, xin ngài cứu độ, tôi chịu đi tu.
Quan Âm nghe nói quá đỗi mừng, mới nói với Ðại Thánh rằng:
– Ngươi muốn làm phải thì trời cũng độ cho, ngươi đã quyết tu hành, đợi ta xuống Ðại Ðường tìm một thầy thỉnh kinh, dặn ghé mà cứu, thì ngươi theo làm đệ tử, giữ phép Phật mà đi tới Tây Phương thỉnh kinh về, cũng thành chánh quả.
Ðại Thánh nói:
– Tôi chịu, tôi chịu.
Quan Âm nói:
– Ngươi dốc lòng tu niệm, ta đặt tên thánh cho.
Ðại Thánh nói:
– Tôi tên là Ngộ Không khỏi mất công đặt nữa.
Quan Âm nghe nói mừng rằng:
– Khi trước ta có độ hai người tu, cũng lót chữ Ngộ. Nay ngươi cũng lót chữ Ngộ nữa, trùng phái với nhau, tốt lắm, tốt lắm”.
Nói rồi từ giã ra về.
Như Ðại Thánh là: Thấu tánh sáng lòng theo đạo Phật.
Còn Quan Âm thì: Ra công hết sức kiếm thầy Thần.
Quan Âm cùng Mộc Tra đi xuống Ðông Ðộ. Ngày kia đến đất Trường An là nước Ðại Ðường, hai thầy trò hiện hình ra hai thầy chùa ghẻ lát mà đi lộn với người và tới chợ Trường An, thì trời đã tối, mới đi ngay vào miễu Thổ Ðịa.
Ông Ðịa hết hồn, binh ma mất vía, biết là Phật Quan Âm giả dạng, ra làm lễ rước vào.
Thổ Ðịa đi báo với Thành Hoàng và thần các miễu, đều vào ra mắt mà rằng:
– Xin Phật Bồ Tát tha tội chúng tôi, vì sự rước trễ.
Quan Âm nói:
– Các ngươi đừng lậu tiếng, ta vâng sắc Phật Tổ, đi tìm kẻ thỉnh kinh, ta ngụ nhờ trong miễu ít ngày, đợi tìm đặng kẻ thỉnh kinh, ta sẽ từ giã.
Các thần ở đâu về đó, còn ông Ðịa dọn ra ở đở ngoài Thành Hoàng (Thành Hoàng bổn xứ là ông thần ở đình lớn trong tỉnh sở tại).
Còn hai thầy trò giả dạng, ở miễu Thổ Ðịa thường bữa đi dọ tin.
Quan Âm tìm kẻ thỉnh kinh lại, bây giờ nghĩa cho rõ sự tích Trường An:
Nguyên thành Trường An tại quận Hiệp Tây; các đời vương thường lập kinh đô tại đó, là từ nhà Châu, nhà Tần, nhà Hớn cho đến nhà Ðường, vì sứ ấy tới ba châu (tỉnh), đất đai tốt lắm, nên trên bờ huê kiểng như gấm thêu, còn dưới sông thì giáp tám mối nước, nên thuyền bè đông đảo. Nơi ấy thị tứ không xứ nào hơn, nhằm lúc vua Ðường Thái Tôn (Thế Dân) trị vì, xưng hiệu Trinh Nguơn năm thứ mười ba là năm Ất tỵ. Lúc ấy thái bình lắm, tám phương cống sứ, bốn biển làm tôi.
Ngày kia vua Thái Tôn lâm triều, văn võ trăm quan chầu chực.
Thừa tướng là Ngụy Trưng tâu rằng:
– Nay thiên hạ thái bình, tám phương lặng lẽ, xin Bệ Hạ ban phép mở hội khoa thi, kén kẻ tài hiền mà giúp việc nước nhà.
Vua Thái Tôn phán rằng:
– Khanh tâu rất phải.
Khen rồi truyền tống bảng văn, rao trong các phủ, các châu, các huyện, chẳng luận quân dân chi hết, ai văn chương thông thái, đặng vào thi tại đất Trường An.
Khi ấy có một người ở gần biển (Hải Châu) họ Trần tên Ngọc, tên chữ Quang Nhụy thấy bảng văn thì mừng lắm, về thưa với mẹ là Trương Thị rằng:
– Nay Triều chạy châu tri khắp sứ, mở hội thi tại Trường An. Con có công ăn học ít nhiều, cũng muốn vào khoa ứng cử, may nhờ đức cha mẹ mà thi đỗ làm quan thì vinh hiển Tông môn, nở mày đẹp mặt, nên con vào thưa cho mẹ rõ mà lo việc lên đường. Trương Thị nói:
– Con mười năm đèn sách, đi ứng cử đã đành. Song đường xá xa xôi, phải giữ gìn dè dặt. May tên đề bảng hổ, mau về kẻo mẹ đợi trông.
Trần Quang Nhụy hối tiểu đồng sửa sang rương trắp, rồi lạy mẹ mà đi, hèn lâu mới tới Trường An, vào trường thi đỗ. Rồi vào thi trước điện, ba bài văn sách đều hay. Vua Thái Tôn chấm đỗ lấy đậu Trạng nguyên, cởi ngựa khoe quan ba bữa đi ngang cửa ngõ Thừa Tướng là Ân Khai Sơn. Xảy bị trái cầu thêu (trái lăn) quăng nhằm trên mão.
Nguyên Ân Thừa Tướng có một người con gái tên gọi Ôn Kiều, hiệu là Mãn Ðường Kiều, dung nhan đẹp đẽ, Ân Thừa Tướng cưng con lắm, cho ở trên lầu quăng trái cầu duyên mà bói duyên (kén chồng) xảy thấy Trần Quang Nhụy cởi ngựa đi ngang. Ôn Kiều biết là Trạng Nguyên khoa mới, đã có tài lại thêm lịch sự; Ôn Kiều đẹp nên mới gieo cầu, thì có dàn nhạc nổi lên,mười mấy con đòi ra nắm dây cương rước Trạng Nguyên vào phủ.
Vợ chồng Thừa Tướng khen đặng rễ đông ràng, truyền dọn đuốc hoa gã tiểu thơ cho quốc trạng.
Vợ chồng làm lễ xong rồi, sắt cầm ăn nhịp.
Rạng ngày vua ngự văn võ vào chầu, vua Thái Tôn phán hỏi rằng:
– Trần Quang Nhụy đỗ Trạng tân khoa, nhắm bổ chức chi cho xứng đáng?
Thừa Tướng Ngụy Trưng tâu rằng:
– Tôi tra các châu các phủ có khuyết một chức Tri châu tại Giang châu, xin bổ Trạng nguyên vào chức đó.
Vua Thái Tôn phong Trần Quang Nhụy làm chức Tri châu, truyền phó nhậm Giang Châu lập tức Trần Quang Nhụy tạ ơn, về dinh luận bàn việc đi phó nhậm, vợ chồng lạy tạ cha mẹ sửa sang xe ngựa ra đi.
Nhằm tiết tháng ba cảnh tốt, gió hòa đưa liễu lục, mưa nhỏ rưới hoa hồng, mảng xem phong cảnh tốt tươi, xảy thấy đã kề nhà cũ.
Hai vợ chồng vào nhà lạy mẹ, Trương thị rất mừng.
Trần Quang Nhụy thưa rằng:
– Con nhờ đức mẹ, thi đỗ Trạng nguyên. Ði ngang cửa Thừa Tướng họ Ân, Tiểu thơ gieo cầu nhằm trẻ, nên định xong đôi lứa, vua lại phong chức Tri châu. Con trở về nhà rước mẹ đi theo phó nhậm.
Trương thị mừng lắm sửa soạn lên đường; cùng nhau đi đặng vài ngày ghé quán Lưu tiểu nhị mà nghỉ; Trương thị nhuốm bệnh, nói với con rằng:
– Trong mình mẹ không yên, ở nán vài ngày dưỡng bệnh.
Trần Quang Nhụy vâng lời ở đó.
Rạng ngày mai Trần Quang Nhụy thấy có người xách cá chài vảy vàng đi bán, liền kêu vào quán mua cho mẹ ăn, mua rồi thì thấy con cá nháy mắt thì thất kinh mới nói: “Nghe đồn rằng: Con cá, con rằn mà nháy con mắt, là không phải vật tầm thường”. Rồi hỏi người bán:
– Con cá này ông bắt tại đâu?
Ông chài nói:
– Tôi chài tại sông Hồng giang, cách phủ mười lăm dặm.
Trần Quang Nhụy liền đem cá ấy thả đi, rồi về thuật chuyện lại cho mẹ rõ.
Trương thị nói:
– Phóng sanh là có phước, mẹ rất bằng lòng.
Ngày kia Trần Quang Nhụy vào thưa với mẹ rằng:
– Ở đây ba ngày, mà việc vua gấp lắm, con tính ngày mai dời gót, song chẳng rõ mẹ khá hay chưa?
Trương thị nói:
– Trong mình mẹ chưa khỏe; trời nắng gắt, rán đi e phải bịnh thêm, vậy thời con mướn phố, và để tiền chi phí lại đây, mẹ ở nán ít ngày, hai vợ chồng đi phó nhậm trước đi kẻo trễ. Ðợi sang thu mát mẻ sang rước mẹ về cùng.
Trần Quang Nhụy luận bàn với vợ, mướn phố cho mẹ ở và để bạc tiền.
Hai vợ chồng lạy mẹ ra đi phó nhậm, ngày đi đêm nghỉ hơn mấy bữa mới tới bến đò Hồng giang, xảy thấy ghe đò của Lưu Hồng với Lý Bưu, hai người đón rước, ấy cũng thời bỉ vận suy của Quang Nhụy biểu tiểu đồng đưa gánh đồ cho chủ đò cất. Vợ chồng đồng bước xuống đò.
Lưu Hồng thấy Ân tiểu thơ mặt như trăng rằm, mắt như sao nháy, miệng cười như búp bông ướm nở; lưng diệu như nhành liễu đương hoằng, hình dung cá lặn nhạn sa, diện mạo huê nhường nguyệt thẹn.
Lưu Hồng liếc thấy, khó dập lửa lòng, mới tính kế với Lý Bưu, chèo qua khúc vắng mà đậu; nửa đêm giết tiểu đồng, rồi đập chết Quang Nhụy, quăng thây xuống sông. Tiểu thơ thấy chồng như vậy, cũng liều mạng nhảy theo.
Lưu Hồng níu lại mà nói rằng:
– Nàng thuận với ta thì thôi, bằng nghịch mạng ta chặt làm hai khúc.
Tiểu thơ thất thế, phải chịu đỡ cho xuôi.
Lưu Hồng chèo tuốt qua sông, giao chiếc đò ấy cho Lý Bưu làm chủ, còn nó đội mão mặc áo của Quang Nhụy, lấy bằng cấp dắt tiểu thơ đi phó nhậm Giang Châu.
Thương hại thây tiểu đồng trôi theo dòng nước, còn thây Quang Nhụy chìm xuống đáy sông.
Quỷ Dạ Xoa đi tìm ngó thấy, về đến báo lại với Long vương rằng:
– Tôi đi tuần tới vàm Hồng Giang, không biết ai đập chết người học trò, bỏ thây chìm xuống đáy nước.
Vua Long Vương truyền khiêng thây đến, xem thấy than rằng:
– Người này có làm ơn cứu ta, không biết bị ai giết bỏ, lẻ thường mang ơn thì phải trả, nay ta cứu lại mà đền bồi.
Tức thời viết thơ sai Dạ Xoa đến Hồng châu mà đưa cho Thành hoàng, Thổ Ðịa, phải lấy hồn (lấy vía) tú tài ấy, mà giao lại cho ta.
Thành hoàng, Thổ Ðịa miễu Hồng châu sai Tiểu quỷ lấy vía Trần Quang Nhụy mà giao cho Qủy dạ xoa.
Dạ Xoa đem về, vua Long Vương thấy hồn mừng lòng mới hỏi:
– Tú tài tên họ là chi đó, quê quán ở đâu, tới đây có sự gì, mà bị người ta đánh giết? Hồn Quang Nhụy thưa rằng:
– Tôi là Trần Ngọc tên chữ Quang Nhụy, quê ở Hải châu, về huyện Hoằng Nông. Thi đổ Quốc trạng, bổ chức Tri châu tại Giang châu, vợ chồng tôi đi phó nhậm, tên lái đò là Lưu Hồng, thấy vợ tôi có nhan sắc, nên làm mưu độc, đánh tôi chết bỏ thây, xin Ðại Vương cứu tôi làm phước.
Vua Long Vương nghe rõ nói rằng:
– Ngày trước ông phóng sanh con cá chài vàng, ấy là tôi đó, nay ông mắc nạn, lẽ nào tôi chẳng cứu ông.
Truyền đem thây Quang Nhụy để trên giường, cạy miệng bỏ hột châu định nhản vào, thây tươi hoài không rả, chờ mản hạn sẽ cho sống lại mà báo cừu, lại nói với Quang Nhụy rằng:
– Hồn của ông sẽ ởø tại đền, mà làm chức việc.
Hồn Quang Nhụy tạ ơn.
Bây giờ nói Ân tiểu thơ cố oán Lưu Hồng muốn lột da ăn thịt nó đi, mới là đã giận. Song ở với chồng mình đã có nghén không biết gái trai, cùng chẳng đã làm thinh chịu đỡ, đi chừng một buổi đã đến Giang châu.
Nhà tơ thơ lại ra rước vào, các viên quan dọn yến mà đãi tân quan.
Lưu Hồng nói:
– Tôi đến đây nhờ sức các ông giúp đỡ.
Các viên quan nói:
– Quan lớn danh cao hơn thiên hạ chắc là coi dân như quan, ít việc hành phạt kiện thưa, chúng tôi nhờ đức. Ngài nói khiêm làm chi.
Yến tiệc xong rồi ai về dinh ấy.
Tháng ngày thấm thoát đã mấy năm rồi, bữa kia Lưu Hồng có công sự đi xa. Còn Tiểu thơ ở nhà một mình nhớ chồng hết sức, thương nổi mẹ chồng bệnh hoạn không kẻ dưỡng nuôi. Buồn ra nhà mát sau vườn mà khóc lén. Giây lâu đau bụng xây xẫm té nhào.
Xảy nghe tiếng nói bên tai rằng:
– Mãng Ðường Kiều nghe ta dặn. Ta là sao Nam Cực, vâng lệnh Quan Âm Bồ Tát đem cho nàng một đứa con này, ngày sau phải tầm thường, danh tiếng lớn lắm. Nếu Lưu Hồng về tới chắc giết đứa nhỏ đi, nàng phải hết lòng bảo hộ. Chồng nàng gặp Long vương cứu sống, ngày sau mẹ con gặp gỡ, chồng vợ sum vầy, trả thù báo oán. Thôi nhớ mấy lời ta dặn, tỉnh dậy cho mau.
Nói rồi đi thẳng.
Tiểu thơ tỉnh dậy, nhớ đủ mọi lời, thì đã sinh đặng một trai, nàng ngồi bồng con mà khóc. Trong lòng lo sợ không biết tính làm sao.
Kế Lưu Hồng trở về thấy thằng nhỏ đòi đem đi giết.
Tiểu thơ nói:
– Bữa nay trời tối, để mai liệng xuống sông.
Thời may rạng đông Lưu Hồng đi việc quan khẩn cấp.
Tiểu thơ nghĩ rằng:
– Nếu để Lưu Hồng về nữa thì thằng nhỏ không còn, chi bằng thả trôi sông chẳng may thì chết. Nếu Phật trời phò hộ thì xuôi người gặp mà nuôi. Lại e sau chẳng biết mà nhìn mới cắn ngón tay, lấy máu viết một bức thơ. Viết tên họ của cha mẹ căn cước mọi điều, rồi cắn đứt nửa ngón chân út bên tả con mà làm dấu. Cởi áo lót mồ hôi mà bọc thằng nhỏ. Rồi bồng ra mé sông cái, than khóc một hồi, muốn bỏ dựa mé mà bỏ về. Xảy thấy tấm ván trôi tới.
Tiểu thơ lòng mừng, lạy thinh không mà vái:
– Xin trời Phật cứu độ con tôi.
Rồi để con nằm trên tấm cây, lấy dây thẻo buộc phong thơ trước bụng. Rồi xô êm ra dòng nước, than khóc mà về. Còn tấm ván ấy trôi xuôi theo nước cách phủ đã xa, rồi mắc cạn dựa bực, ngay trước cửa chùa Kim Sơn, cũng thuộc về châu ấy.
Nguyên ông chủ chùa Kim Sơn là Pháp Minh hòa thượng, tu lâu năm cũng đã gần thành. Ngày kia ngồi trong liêu, nghe tiếng con nít khóc! Lấy làm sự lạ tìm đến mà xem, tới mé sông thấy thằng con nít mới đẻ nằm trên tấm cây, mà tấp vào bực.
Pháp Minh liền vớt, thấy trên bụng có phong thơ, xem hết đầu đuôi, mới tường gốc ngọn, lấy tích trôi sông đó, đặt tên Giang Lưu, cất áo và thơ, mướn vú nuôi bên tự.
Mặt nhật mặt nguyệt như thoi liệng, Giang Lưu 18 tuổi rồi, Pháp Minh hòa thượng thi phát quy y cho Giang Lưu đặt tên thánh là Huyền Trang, tu hành công quả, tánh trời đã phú, kinh luật đều thông.
Ngày kia nhằm tiết tháng ba, các sãi nhóm dưới cội tòng mà hóng mát. Hỏi kinh hạch luật cùng nhau. Tụi thầy chùa rượu thịt khoe tài, bị Huyền Trang vấn nạn (hỏi chuyện mắc, khó nói).
Mấy sãi ác tăng trả lời không đặng, giận mà rằng:
– Mầy là đồ súc sanh, không biết mẹ cha, chẳng thông tên họ, lại còn làm phách gì nà!
Huyền Trang bị chúng mắng mấy lời, vào chùa quỳ bạch với thầy mà rơi nước mắt: – – Người sinh trong trời đất, nhờ khí âm dương. Lẽ nào có thân thể mà không có cha mẹ! Xin thầy làm ơn cho tôi biết họ tên cha mẹ.
Cứ lạy hoài mà hỏi như vậy, Pháp Minh hòa thượng nói:
– Ngươi muốn tường sự tích cha mẹ, thì đi theo vô liêu.
Huyền Trang theo thầy bén gót.
Pháp Minh lên trên trinh, lấy hộp nhỏ giở ra lấy phong thơ mà đọc, mới biết tên họ, tên cha mẹ, và sự tích oán cừu, đọc rồi ngã lăn mà khóc, bạch với thầy rằng:
– Cừu cha mẹ không trả, sao phải làm người! Mười tám năm nay, không biết cha mẹ, nay mới rõ là mẹ còn. Bấy lâu hỏi thăm người ta nói: Thế cha mẹ chết hết nên thả trôi sông, nếu thầy không cứu vớt dưỡng nuôi, thì đệ tử không còn tánh mạng, xin cho tôi đi tìm mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ ngồi kỳ, và tu bổ chùa chiền mà báo đáp ơn thầy nuôi dưỡng.
Pháp Minh hòa thượng nói:
– Ngươi muốn đi tìm mẹ, thì phải đem thơ và cái áo theo. Giả đi phú quyến mà vào dinh tư Giang châu thì mới gặp mẹ.
Huyền Trang vâng lời thầy dạy, giả làm sãi đi phú quyến, thẳng đến Giang châu, may nhằm dịp Lưu Hồng đi khỏi, cũng là trời khiến, mẹ con được gặp nhau.
Còn Ân tiểu thơ đêm trước nằm chiêm bao thấy trăng khuyết lại tròn, giật mình thức dậy, bàn rằng:
– Mẹ chồng tuy bặt tin tức, còn con thì thả trôi sông, nếu có ai vớt mà nuôi, thời nay đã mười tám tuổi, có khi trời cho gặp gỡ, cũng không biết chừng.
Ðương ngồi nghĩ một mình, nghe ngoài cửa có thầy đi phú quyến.
Tiểu thơ bước ra mà hỏi:
– Thầy ở đâu mà đến đây?
Huyền Trang nói:
– Tôi ở chùa Kim Sơn, đệ tử Pháp Minh hòa thượng.
Tiểu thơ nói:
– Như vậy thì bước vào đây, biểu dọn cơm chay mà đãi.
Nghe lời ăn tiếng nói, xem nết đứng tướng ngồi, giống chồng mình như tạc, chẳng những giống hình dạng mà thôi.
Tiểu thơ sinh nghi, cố ý sai thế nữ gia đinh đi ra hết thảy, mới hỏi sãi nhỏ rằng:
– Thầy tu hồi còn nhỏ, hay mới tu đây? Tên họ là chi, cha mẹ còn hay mất?
Huyền Trang nói: – Tôi không phải mới đi tu, cũng không phải tu hồi còn nhỏ, tôi nói ra thì cừu sâu như biển, oan lớn bằng trời, tôi bị chúng giết cha mà cướp mẹ, nên thầy tôi biểu đi đến phủ mà kiếm mẹ tôi.
Tiểu thơ hỏi:
– Bà già thầy tên họ chi?
Huyền Trang nói:
– Mẹ tôi họ Ân tên Ôn Kiều, cha tôi là Trần Quang Nhụy, còn tôi tên tộc là Giang Lưu, Huyền Trang tên thánh.
Tiểu thơ nói:
– Ta thiệt là Ôn Kiều, mà ngươi có vật chi làm tin?
Huyền Trang nghe xưng thiệt mẹ liền quỳ dưới đất mà khóc rằng:
– Nếu mẹ chẳng tin con, thì có áo và thơ làm chứng.
Nói rồi lấy áo và thơ dâng lên, Tiểu thơ xem quả thiệt, mẹ con ôm nhau khóc ròng, rồi biểu con đi cho mau kẻo mà lâm hại.
Huyền Trang nói:
– Mười tám năm nay không biết mặt mẹ, nay mới gặp đặng, biểu con đi vội sao cho đành?
Tiểu thơ nói:
– Con phải ngăn lụy mà về chùa, nếu để thằng quỷ về đây ắt là nó giết con chết! Ðể mẹ giả bệnh, nói rằng hồi trước có vái một trăm đôi giày. Xin đem đến chùa Kim Sơn mà huờn nguyện (cúng trả lễ) chừng ấy mẹ sẽ nói chuyện kín với con.
Huyền Trang vâng lời ra về am tự.
Còn tiểu thơ nửa mừng nửa sợ, ngày kia giả bệnh, bỏ cơm bỏ nước, nằm liệt trên giường.
Lưu Hồng về dinh hỏi làm sao vậy?
Tiểu thơ nói:
– Tôi hồi nhỏ có vái thí một trăm đôi giày vớ cho thầy chùa, hồi canh ba chiêm bao thấy ông sãi cầm đao đến đòi giày; thức dậy liền sinh bệnh.
Lưu Hồng nói:
– Chuyện nhỏ mọn sao không nói sớm, để mà nằm liều.
Nói rồi truyền quân rao cho dân sự:
– Mỗi nhà phải nộp một đôi giày và một đôi vớ thầy chùa, hạn năm ngày cho kịp.
Cách năm ngày dân sự nạp đủ số.
Tiểu thơ nói với Lưu Hồng rằng:
– Giày tuy đủ số rồi, không biết đây có chùa nào đặng đi huờn nguyện?
Lưu Hồng nói:
– Ðây có hai kiểng chùa là chùa Kim Sơn, với chùa Tiêu Sơn, muốn đi cúng chùa nào tự ý.
Tiểu thơ nói:
– Nghe đồn chùa Kim Sơn tử tế lắm để đi chùa Kim Sơn.
Lưu Hồng sai hai tên lính sắm sửa ghe thuyền.
Tiểu thơ dắt thế nữ xuống ghe mà đi trả lễ.
Còn Huyền Trang về chùa bạch hết sự tình cho thầy rõ.
Pháp Minh hòa thượng rất mừng, bữa sau thấy thế nữ vào chùa bạch rằng:
– Có phu nhân đến cúng.
Các sãi ra ngoài nghinh tiếp.
Tiểu thơ vào lạy Phật biểu thế nữ bưng mâm giày để trước chùa mới thắp nhang lạy vái, rồi giao cho Hòa Thượng phân phát giày vớ cho mấy thầy.
Huyền Trang thấy các sãi lãnh giày vớ đi tản, liền quỳ lạy mẹ.
Tiểu thơ bảo Huyền Trang cởi vớ mà coi chân, thấy chân trái mất nửa ngón út, mẹ con níu nhau mà khóc, rồi lạy tạ ơn Hòa Thượng nuôi dưỡng con mình.
Pháp Minh hòa thượng nói:
– Nay mẹ con gặp gỡ, mừng rồi về phủ cho mau, kẻo người dữ hay tin mà mắc họa!
Tiểu thơ nói:
– Con ôi! Mẹ đưa cho con một chiếc vòng vàng con đi qua Hồng châu phía Tây Bắc chừng một ngàn rưỡi dặm có tiệm Vạn Hoa vốn chỗ bà nội con là Trương thị ngụ đó mà thăm bà; và đưa chiếc vòng rồi con cầm phong thơ này đi xuống Trường An, phía bên tả thành vua có dinh quan thừa tướng Ân Khai Sơn là ông ngoại con đó, con trao thơ này cho ông ngoại đặng ông ngoại tâu vua xin phép, đem quân tới vây bắt Lưu Hồng, một là cứu mẹ, hai là báo cừu cha, mẹ không dám ở lâu sợ nó nghi ngại”. Nói rồi từ giã mà xuống ghe.
Còn Huyền Trang lạy thầy, qua Hồng châu mà đi tìm bà nội, đến tiệm Vạn Hoa hỏi thăm.
Lưu Tiểu Nhị là người chủ tiệm rằng:
– Năm trước quan Tri châu có mướn phố cho bà mẹ ở, bây giờ còn sức khỏe hay không?
Lưu Tiểu Nhị nói:
– Năm trước ở phố tôi, sau tối hai con mắt, ba bốn năm không trả tiền phố, nay ở trong lò gốm bể phía Nam; thường ngày xin ăn qua bữa. Ông quan ấy đi lâu lắm, không biết cớ nào đó, biệt tin biệt tích đến nay.
Huyền Trang nghe nói, tìm vào lò gốm hỏi thăm.
Trương Thị nói:
– Tiếng mầy giống tiếng con tao là Trần Quang Nhụy!
Huyền Trang nói:
– Tôi không phải Trần Quang Nhụy, thiệt là cháu nội của bà; Ôn Kiều tiểu thơ là mẹ.
Trương Thị hỏi:
– Sao cha mẹ cháu chẳng đến đây?
Huyền Trang thưa:
– Cha tôi bị quân dữ giết rồi, bắt mẹ tôi làm vợ. Mẹ tôi có gởi lời thăm Bà nội, và gởi một chiếc vòng đây nè.
Trương Thị cầm chiếc vòng khóc lên mà nói:
– Con ta vì công danh mà ra thế ấy! Bấy lâu tưởng là bạch ngãi vong ân. Hay đâu bị người ta giết. Nhờ trời phò hộ cháu sức khỏe mà tìm bà.
Huyền Trang hỏi bà:
– Vì cớ nào mà bệnh con mắt?
Trương thị nói:
– Bà nhớ ông và cháu lắm, khóc hoài nên tối mắt đi!
Huyền Trang nghe nói, quỳ lạy trời mà vái rằng:
– Xin trời phật thương tôi, 18 năm chưa báo cừu cho cha mẹ, nay mẹ tôi sai đi tìm bà nội; Phật trời thương đến xin cho bà tôi sáng mắt ra.
Vái rồi le lưỡi mà rà con mắt cho bà.
Trong một giây Trương Thị thấy đặng mà hỏi rằng:
– Quả thiệt là cháu bà, nên giống Trần Quang Nhụy lắm, Huyền Trang mừng rỡ, dắt bà về tiệm Vạn Hoa, lấy tiền mướn phố cho bà ở.
Lại đưa tiền dụng cho bà mà nói rằng:
– Tôi đi ngoài một tháng rồi trở về đây.
Lạy tạ ơn rồi ra đi, lâu ngày mới tới dinh Thừa Tướng, nói với quân rằng:
– Có sãi nhỏ đến phủ mà tìm bà con.
Quân hầu vào bẫm cùng Thừa Tướng.
Thừa tướng nói:
– Lạ này, mình không bà con với ai hết, sao có sãi đến thăm?
Phu nhân nói:
– Hồi hôm tôi chiêm bao, thấy con về viếng, có khi thơ rễ gởi về chăng?
Thừa Tướng biểu vời hòa thượng vào, Huyền Trang bước vô, lạy ông bà mà khóc, rồi mới trao thơ, Thừa Tướng coi thơ rồi khóc lớn.
Phu nhân hỏi:
– Thơ có chuyện chi mà ông khóc thất thanh đi vậy?
Thừa Tướng nói:
– Sãi này là cháu ngoại của mình, rễ mình bị thằng chèo đò giết, rồi bắt con mình làm vợ.
– Phu nhân phiền não làm chi, để mai vào tâu cho vua hay, đem binh ra bắt nó rồi cứu con và báo cừu cho rễ.
Sáng ngày Thừa tướng vào tâu rằng:
– Rễ tôi là Trần Quang Nhụy, vâng lệnh đi phó nhậm Giang châu, bị tên lái đò là Lưu Hồng đánh chết, cướp con tôi làm vợ, lấy bằng cấp giả làm Quang Nhụy, làm quan 18 năm nay, rày có tin về, thiệt là loạn lắm, xin Bệ Hạ cho tôi đem binh mà ra đánh báo cừu.
Vua Thái Tôn nghe tâu giận lắm, cấp quân ngự năm sáu muôn cho Thừa Tướng đi đánh, Thừa Tướng vâng lệnh lãnh binh về phủ, rồi kéo ra Giang châu, đi hèn lâu mới tới mé sông Hồng Giang đóng trại, cho mời lén quan Ðồng Tri đến tỏ hết sự tình, sai đi êm mà bắt vây cánh nó.
Còn Thừa Tướng lén qua sông lớn hừng đông đem binh tới vây dinh, Lưu Hồng còn đang ngủ. Xảy thấy nghe tiếng súng, chiêng trống gióng lên quân trào áp tới nhà tư, Lưu Hồng trở tay không kịp, bị quân bắt trói mèo, Thừa Tướng truyền bắt tụi nó dẫn ra pháp trường.
Thừa Tướng cho đòi Tiểu thơ ra mắt, Tiểu thơ hổ thẹn không ra, lấy dây đi thắt cổ. Huyền Trang nghe quân nói lật đật chạy vào mở dây đem xuống, lạy mẹ mà khóc và nói rằng:
– Nay ông ngoại đem binh đến, đã bắt đứa dữ mà trả oán cho cha tôi, sao mẹ đi tự ái; nếu mẹ thác, tôi không sống làm chi?
Thừa Tướng nghe tin cũng bước vào khuyên giải.
Tiểu thơ nói:
– Phận đàn bà con gái thì một chồng đến thác mà thôi, chồng tôi nó bị Lưu Hồng nó giết đi, lẽ nào tôi theo nó, vì có thai nghén, liều mình e tuyệt tự của chồng, cùng chẳng đã phải thờ đứa oán, nay con tôi khôn lớn, cha bắt đặng đứa thù mà báo cừu, tôi còn mặt mũi nào mà ra mắt cha, thà liều mình mà đáp nghĩa họ Trần dưới chín suối!
Thừa Tướng nói:
– Con chẳng phải chê chồng mà bỏ tiết. Ấy là gặp biến, túng phải tùng quyền, nào có lỗi chi mà hổ thẹn.
Nói rồi cha con khóc òa.
Huyền Trang cũng khóc, Thừa tướng khuyên dỗ rằng:
– Thôi, hai mẹ con bây chẳng khóc làm chi hoài, nay bắt đứa thù rồi, để lo mà xử.
Xảy thấy quan Ðồng Tri bắt Lý Bưu giải tới; Thừa Tướng mừng lắm truyền dẫn đến pháp trường, đem Lưu Hồng và Lý Bưu ra mà khảo một trăm, chúng nó khai thiệt hết.
Thừa Tướng truyền lấy đinh đóng Lý Bưu trên lừa bằng cây mà lắt thịt (xử bá đao) rồi chém bêu đầu mà răn kẻ gian hùng, rồi dẫn Lưu Hồng tới khúc sông Trần Quang Nhụy năm trước, mổ lấy tim gan mà tế Quang Nhụy, đọc văn tế rồi đốt, ba người cả tiếng khóc òa.
Quỷ Dạ Xoa đem văn tế về dâng cho Long Vương, Long Vương xem rồi, sai Nguơn soái Trạnh mời hồn Quang Nhụy vào cung, Long Vương thấy mặt mừng mà nói rằng: – Mừng cho ông lắm! Nay có Phu nhân và Công tử với ông nhạc của ông, mổ gan tim Lưu Hồng tế ông tại mé sông cái, nay cho ông trái châu như ý và trái châu tẩu bàn với mười cây hàng tốt, một sợi đai ngọc và đưa ông về sum hiệp với vợ con. Hồn Quang Nhụy tạ ơn.
Long Vương sai Dạ Xoa đem thây Quang Nhụy lên mà huờn hồn lại.
Còn Tiểu thơ cúng rồi khóc than thảm thiết, vùng nhảy xuống sông, Huyền Trang nhảy theo kéo lại, ai nấy xúm lại khuyên giải, xảy thấy thây Quang Nhụy nổi lên tấp lại mé sông.
Tiểu thơ nhìn quả thây chồng, hối quân vớt lên ôm thây mà khóc lớn, ai nấy lấy làm lạ, áp lại mà coi.
Trần Quang Nhụy tỉnh lần, lồm cồm ngồi dậy, ai nấy hãi kinh lấy làm lạ!
Trần Quang Nhụy mở mắt thấy vợ và cha vợ, với sãi nhỏ đồng ngồi khóc bên mình, mới hỏi rằng:
– Làm cái gì lạ vậy?
Tiểu thơ nói hết tự sự cho chồng nghe, rồi hỏi thăm rằng:
– Chẳng hay vì cớ nào mà mình sống lại?
Quang Nhụy nghe rõ, liền tạ ơn cha vợ, và thuật chuyện cho vợ con nghe rằng:
– Nhờ thả cá vàng tại tiệm Vạn Hoa, chẳng ngờ là rồng sông ấy, khi thằng ăn cướp đánh chết mà xô thây xuống nước, nhờ vua rồng (Long Vương) ấy cứu ta, đến nay đưa lên và cho đai ngọc, hàng, châu, buộc vào lưng ta đó, không dè sinh con đã bây lớn, nhờ ơn cha đến báo cừu, chi xiết nỗi vui mừng, thiệt hết suy tới thạnh.
Ai nghe cũng mừng rỡ, Thừa Tướng truyền dọn tiệc mà đãi quan quân.
Bữa sau đồng kéo binh về, đi ngang tiệm Vạn Hoa, Trần Quang Nhụy truyền dừng binh, dắt con đi tìm mẹ.
Còn Trương Thị chiêm bao thấy cây khôn mà trổ bông, sáng ngày nghe quạ kêu inh ỏi sau hè, bèn nói rằng:
– Có khi cháu đà về đó.
Giây lâu thấy cho con Quang Nhụy vào lạy mừng tỏ hết mọi điều, níu nhau mà khóc, rồi tính nợ thượng niên trả tất, kẻ xe người ngựa về tới Trường An.
Ðến dinh rồi, hai vợ chồng dắt mẹ và con vào ra mắt Phu nhân trong phủ.
Phu nhân mừng rỡ dọn tiệc đãi đằng.
Thừa Tướng nói:
– Tiệc này là tiệc đoàn viên (sum hiệp) ăn uống cùng nhau hỉ hạ.
Bữa sau Thừa Tướng vào chầu, tâu rõ các việc, và xin cho Trần Quang Nhụy làm quan tại trào; vua Thái Tôn nhậm lời, phong Quang Nhụy làm Hàn lâm học sĩ, coi việc trong trào, phán rồi bãi chầu, ai về dinh nấy.
Huyền Trang về nhà lại cha mẹ, đem bạc tiền làm chùa lại, và đền ơn thầy xong, rồi về thăm không chịu ở thế, nên cha mẹ biểu vào chùa Hồng Phước mà tu cho gần. Huyền Trang đi tu rồi, sau Tiểu thơ ở nhà uống thuốc độc mà chết êm.