Hồi 40: Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị – Trương Thuận bắt sống Hoàng Văn Bính

Bấy giờ quân mã thành Giang Châu bị bọn hảo hán Lương Sơn Bạc đánh riết, phải rút lui về thành, bọn Lương Sơn theo đuổi đến thì cửa thành đã đóng giữ kiên cố, ném đá bắn tên ra, bọn hảo hán vây hãm vài ngày, xét đánh thành không tiện, mới rút lui về miếu Bạch Long để xuống thuyền, Tiều Cái kiểm điểm số quân đầy đủ, rồi xuống thuyền lại gặp gió xuôi, nên đi nhanh chóng. Ba chiếc thuyền chở đầy người ngựa, thẳng tới Mục Gia Trang, mới dẫn chúng lên bờ. Mục Hoằng mời các vị hảo hán vào trang yên nghỉ. Mục Thái Công ra đón mời bọn Tống Giang vào.

Mục Thái Công nói:

– Các vị Đầu Lĩnh mấy hôm nay khó nhọc, hãy vào ở trang đây tạm nghỉ và sửa sang quần áo, khí giới, nhất diện sai người giết bò, lợn, gà, vịt, cùng bầy các trức trân hào dị vị để thiết đãi.

Trong khi chè chén chuyện trò. Tiều Cái nói anh em họ Mục rằng:

– Nếu không được hai vị Ca Ca đem không xuống cứu, thì chúng tôi tất bị bắt chứ không chơi.

Mục Công hỏi rằng:

– Vì cớ sao, các ông lại đi đường ấy?

Lý Quỳ đáp luôn rằng:

– Chúng tôi chỉ chọn chỗ nào đông người, là chém giết để đi, rồi sau họ đến đuổi chúng tôi, có ai lại gọi nó đến bao giờ?

Chúng nghe nói đều vỗ tay cả cười. Tống Giang đứng dậy nói với mọi người rằng:

– Tống Giang tôi nếu không được các ngài cứu giúp, thì tất là cùng với Đới Viện Trưởng chịu chết trong cơn phí mạnh, vậy ân đức ngày nay như trời như bể, biết bao giờ báo đáp cho xong? Chỉ giận tên Hoàng Văn Bính đã mấy phen độc hại chúng tôi, nếu không làm cho chúng nó biết tay, thì tấm lòng phẫn hận bao giờ nguôi được. Vậy xin các vị hảo hán hãy rộng ơn đến đánh Vô Vi Quân, để bắt giết tên Hoàng Văn Bính, thì lòng này mới được nguôi ngoai một chút, các ngài nghĩ sao?

Tiều Cái đáp rằng:

– Chúng ta đi thế này, chỉ khả dĩ làm một lần thì được, nếu làm đến hai lần thì tất là nguy hiểm, vì hiện nay họ phải phòng bị sẵn sàng, khó lòng mà đánh được. Vậy bắt buộc hãy cùng về sơn trại, rồi cùng với Ngô Học Cứu, Công Tôn Thắng và bọn Lâm Xung, Tân Minh đến cứu, như thế thì tiện hơn.

Tống Giang nói:

– Nếu đã trở về sơn trại, thì không còn thể nào mà lại đây được. Vì một sự đường sá xa xôi, hai là đất Giang Châu tất nhiên tư giấy má đi các nơi mà canh phòng cẩn mật, thì bấy giờ còn làm gì được nữa? Vậy nay có muốn hạ thủ, thì nhân lúc họ chưa kịp phòng bị là hơn.

Hoa Vinh nói:

– Ca Ca nghĩ thế tất là phải lắm, nhưng còn ngại vì nỗi không ai thuộc đường sang đó, thì làm sao cho tiện? Việc này tất phải có người đến dò tin tức trong thành và xem xét đường đi lối lại thế nào, cùng là nhà cửa Hoàng Văn Bính ở đâu, rồi mới có thể thi hành được.

Tiết Vĩnh đứng lên nói rằng:

– Chúng tôi xưa nay từng đi lại đất Vô Vị Quân, đường lối rất là quen thuộc, vậy chúng tôi xin đi thám thính một phen, chẳng hay các ngài có thuận thế cho không

Tống Giang mừng rỡ mà rằng:

– Nếu được hiền đệ đi giúp hộ cho, thì còn gì bằng nữa!

Tiết Vĩnh vâng lời, liền ăn uống xong rồi từ biệt mọi người, một mình đi dò thăm tin tức. Bấy giờ bọn Tống Giang và các vị Đầu Lĩnh ở lại Mục Gia Trang, sắm sửa các đồ khí giới cung tên, cùng thuyền bè, để đợi ngày đi đánh Vô Vị Quân.

Cách hai hôm sau thấy Tiết Vĩnh dắt một người về đến gia trang, mà vào lạy chào Tống Giang, Tống Giang vội đáp lễ mà hỏi Tiết Vĩnh rằng:

– Vị tráng sĩ này là ai?

Tiết Vĩnh đáp rằng:

– Người này họ Hầu tên Kiện, quê ở Hồng Đô, vốn làm nghề thợ may, mà võ nghệ cũng giỏi. Trước đây có theo học Tiết Vĩnh này, người ta thấy tính khí nhanh nhẹn mà người lại đen, nên thường gọi một tên là Thông Tý Viên (Vượn nhanh tay hiện nay làm thợ may cho Hoàng Văn Bính ở Vô Vị Quân. Nhân vậy tiểu đệ mời vào đây để hỏi chuyện cho rõ…

Tống Giang nghe nói cả mừng liền mời cùng ngồi để bàn định các việc. Người này nguyên là một vị sao Địa Sát, nên tình nghĩa rất am hợp với nhau, mà không chút gì trái ý.

Khi đó Tống Giang hỏi đến tin tức ở thành Giang Châu, cùng đường lối đến Vô Vị Quân.

Tiết Vĩnh đáp rằng:

– Hiện nay Xài Tri Phủ kiểm điểm các quan quân cùng dân chúng, bị chết mất hơn năm trăm người, còn bị đạn và trúng thương, không biết đến đâu mà kể? Nay đương hai người dâng biểu cáo cấp với triều đình, và đóng kín cổng thành tra hỏi rất là cẩn thận. Tôi xét ra việc Ca Ca bị hại, không can thiệp gì đến Xài Tri Phủ, nguyên chỉ tại tên Hoàng Văn Bính, tam tứ phen thúc bách Tri Phủ để thi hành thủ đoạn, nên mới xảy ra đến thế. Nay chẳng may bị ta đánh cướp pháp trường, thì trong thành đều nhao nhao sợ hãi mà canh giữ, không còn trễ nãi chút nào. Còn về tình thế Vô Vị Quân, thì may được Hầu Kiện đây, nên mới biết rõ tất cả đầu đuôi.

Tống Giang quay sang hỏi Hầu Kiện rằng:

– Sao quan bác lại biết rõ đầu đuôi ở đấy?

Hầu Kiện đáp:

– Tôi thủa nhỏ thích nghề gươm giáo, sau nhờ được Tiết sư phụ dạy bảo nên trong lòng không dám quên ơn. Mới đây Hoàng Thông Phán có thuê tôi về may vá ở trong nhà, nhân lại được gặp sư phụ tôi, nói đến đại danh của ngài, và kể câu chuyện vừa mới xảy ra, nên tôi lại càng sốt lòng muốn bái kiến tôn nhan, mà vội đến đây để báo các tin tức. Nguyên Hoàng Văn Bính có một người anh ruột là Hoàng Văn Hoa, cùng một cha mẹ sinh ra. Song Hoàng Văn Hoa là người phúc đức hiền lành, bình sinh chỉ hay sửa cầu làm quán, tô tượng đúc chuông,, cứu kẻ bị nguy khốn, giúp người khổ sở, cả trong thành Vô Vị ai cũng gọi ông ta là Hoàng Diện Phật (Phật mặt vàng). Còn Hoàng Văn Bính thì dẫu là một anh Thông Phán tại gia, song trong bụng rất thâm độc, xưa nay chỉ quen hãm hại người ta, bởi vậy khắp trong thành ai ai cũng gọi ông ta là Hoàng Phong Thích (Nọc ong vàng). Hai anh em ông ta ở làm hai dinh, cách nhau có một cái ngõ. Về phía bắc ở gần thành là nhà Hoàng Văn Bính, còn nhà Hoàng Văn Hoa ở gần đường cái. Chúng tôi ở đấy thường thấy Hoàng Thông Phán nói chuyện, là việc đó Xài Tri Phủ bị người ta man trá, sau ông ta chỉ dẫn cho ra, và bảo Tri Phủ hãy chém những người ấy đi rồi sau sẽ biểu tâu triều đình. Bấy giờ Hoàng Văn Hoa biết chuyện, vẫn thường mắng nhiếc ông ta là đồ vô phúc, độc ác, không can thiệp đến mình, cũng làm hại người ta, lỡ ra lẽ trời báo ứng, thì tội ấy ai mang? Đến hai ngày nay nghe nói bị cướp pháp trường, thì Hoàng Văn Bính sợ hãi cuống cuồng hiện còn vào dò tin tức, để bàn định với Xài Tri Phủ ở đất Giang Châu, đến nay cũng chưa thấy về.

Tống Giang hỏi:

– Nhà Hoàng Văn Bính với nhà anh hắn ta cách nhau xa hay gần?

– Nguyên là một nhà ngăn ra làm đôi, khoảng giữa chỉ cách một cái vườn mà thôi.

– Nhà anh ta có bao nhiêu người? Tất cả có mấy gian phòng?

– Nhà ấy tất cả trai gái có tới bốn năm mươi người, Tống Giang nghe đến đó, có vẻ vui mừng mà rằng:

– Thực là trời cho ta được báo thù, nên mới đưa người dẫn lối đến đây, song việc này tất phải nhờ anh em hết sức ra tay mới được…

Mọi người đều vỗ tay mà rằng:

– Chúng tôi xin liều chết xông pha, để khu trừ gian nhũng, mà báo thù rửa hận cho Ca Ca…

Tống Giang lại nói rằng:

– Việc này là chỉ tại Hoàng Văn Bính, chứ không can thiệp gì đến thành Vô Vi; Vả chăng anh hắn là người nhân đức thì ta cũng không nên hại đến, để thiên hạ chê cười. Anh em đi đó, chớ làm một điều chi tàn hại đến dân mới được…Nay tôi có một kế này, mong anh em hết sức giúp tôi cho xong việc…

Các vị Đầu Lĩnh đều đồng thanh mà rằng:

– Chúng tôi xin vâng lệnh Ca Ca chỉ giáo.

Tống Giang lại nói rằng:

– Việc này tất phải phiền đến Thái Công, sắp cho tám chín mươi túi cát, hơn trăm bó cỏ không, và trăm chiếc thuyền lớn, hai chiếc thuyền nhỏ, để nhờ Trương Thuận, Lý Tuấn cưỡi hai chiếc thuyền con, còn trăm chiếc thuyền lớn thì xin để Trương Hoành, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Mãnh, cùng mọi người bạo nghề thủy thủ coi giữ giúp cho như thế mới có thể thi hành được.

Mục Hoằng đáp rằng:

– Hiện ở nhà tôi có đủ các thức túi vải cỏ khô, cùng những người quen nghề thủy thủ, xin Ca Ca cứ sai dùng cho được việc.

Tống Giang lại bảo với mọi người rằng:

– Nay phiền Hầu huynh dẫn Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vào thành Vô Vi Quân trước, đợi đến canh ba tối ngày mai, hễ nghe thấy tiếng chim đeo nhạc bay lên, thì Bạch Thắng lên thành cắm một lá cờ lụa trắng ở gần nhà Hoàng Văn Bính, để ra hiệu cho biết lối lên thành…Thạch Dũng, Đỗ Thiên thì giả làm ăn mày nấp ở bên tả gần thành, cứ nom lửa làm hiệu mà xông ra giết bọn canh cửa…Còn Lý Tuấn với Trương Thuận thì đi lại coi sóc trên sông, để đợi khi tiếp ứng…

Tống Giang cắt đặt xong rồi, Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vâng lời đi trước Thạch Dũng, Đỗ Thiên giả dạng ăn mày đi sau, đều thắt khí giới trong mình cả. Đoạn rồi đem các đồ cỏ khô túi cát xếp đặt lên thuyền và sửa soạn các đồ khí giới cùng các vị hảo hán, chia nhau xuống phục dưới thuyền. Tiều Cái, Tống Giang cùng Hoa Vinh, xuống thuyền Đồng Uy; Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ xuống thuyền Trương Hoành; Đới Tung, Lưu Đường, Hoàng Tín, xuống thuyền Nguyễn Tiểu Nhị; Lã Phương, Quách Thịnh, Lý Lập xuống thuyền Nguyễn Tiểu Ngũ; Mục Hoằng, Mục Xuân, Lý Quỳ, xuống thuyền Nguyễn Tiểu Thất. Còn Chu Quý, Tống Vạn ở nhà Mục Thái Công để dò xem tin tức Giang Châu. Lại sai Đồng Mãnh chở chiếc thuyền con đi trước, để dò thăm đường đất. Còn bao nhiêu bọn lâu la cho nấp ở trong thuyền, rồi đêm hôm đó sai thủy thủ cùng trang khách, nhổ sào mà kéo thẳng đến Vô Vi Quân.

Bấy giờ cuối tháng bảy, đêm hiu gió lạnh, trăng sáng bên sông, bóng nước non xanh, trên dưới một mầu xanh biếc. Vào khoảng cuối trống canh một, các thuyền đã đến bến sông Vô Vị, chọn một nơi ngàn lau rậm rạp mà đậu vào ở đó.

Được một lát thấy Đồng Mãnh chèo thuyền tới nơi báo rằng:

– Trong thành hiện vẫn còn im phăng phắc, không có điều chi là trở ngại cả. Tống Giang nghe báo, liền gọi thủ hạ cho khiêng túi cát cùng cỏ khô, để lên bộ mà lên tới thành.

Khi nghe tiếng trống đã điểm canh hai, Tống Giang cho đem cả cỏ khô túi cát xếp ở bên thành, để Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh ở lại coi thuyền và tiếp ứng, còn bao nhiêu các vị hảo hán đều sửa soạn quân khí mà đi lên thành. Khi đến cửa Bắc, còn cách độ nửa dặm đường, Tống Giang sai thả chim đeo nhạc bay lên. Đoạn thấy có một ngọn trúc buộc lụa trắng, phất phơ dựng ở trước ngọn gió trên thành, Tống Giang lại sai quân sĩ chất túi cát vào bên thành, rồi cho vác cỏ khô đem cả lên thành.

Bấy giờ thấy Bạch Thắng ở trong chạy ra tiếp ứng, trỏ bọn hảo hán mà rằng:

– Nhà Hoàng Văn Bính ở ngay ngõ kia.

Tống Giang hỏi ngay Bạch Thắng rằng:

– Tiết Vĩnh, Hầu Kiện ở đâu bây giờ?

Bạch Thắng đáp rằng:

– Hiện bây giờ cả hai đã vào nhà Hoàng Văn Bính chỉ đợi Ca Ca đến đó thôi.

Tống Giang lại hỏi:

– Thạch Dũng, Đỗ Thiên ở đâu?

Bạch Thắng đáp rằng:

– Hai người ấy hiện ở bên tả thành để đợi.

Tống Giang nghe nói liền dẫn bọn hảo hán vào thành, thẳng lẻn vào nhà Hoàng Văn Bính. Khi tới nơi, thấy Hầu Kiện đương nấp ở hiên phòng, Tống Giang khẽ gọi ghé tai mà bảo thầm rằng:

– Anh ra cửa sau mở cửa cho quân sĩ mang cỏ khô chất vào trong và bảo Tiết Vĩnh đem lửa đốt lên, rồi đến cửa nhà Hoàng Văn Bính kêu lên rằng:

– “Nhà quan nhân bên kia bị cháy, cho đem các đồ vật sang gửi” Để họ mở cửa ra, rồi ta có cách.

Tống Giang lại bảo các vị hảo hán chia làm hai đầu để coi giữ.

Bấy giờ Hầu Kiện đến mở cửa vườn sau, cho quân sĩ đem cỏ vất vào, tìm lửa đưa cho Tiết Vĩnh đốt. Đoạn rồi Hầu Kiện chạy lẻn ra đập cửa sau nhà Hoàng Văn Bính mà nói lên rằng:

– Nhà quan nhân bên kia bị cháy, có ít đồ đạc, cho đem sang để nhờ, xin mở cửa ra cho mau…

Trong nhà nghe thấy tiếng gọi, vội vàng trở dậy, liền trông sang bên cạnh vách thấy lửa sáng rực trời, liền hất hải mở cửa đi vào. Bọn Tiều Cái, Tống Giang thừa thế kéo ùa vào, rồi ai nấy ra tay chém giết, thấy người nào vào là trừ ngay người ấy, bốn năm mươi người lớn nhỏ trong nhà Hoàng Văn Bính, không còn sống sót một ai, chỉ còn sống sót Hoàng Văn Bính tìm không thấy. Các vị hảo hán liền thu thập các đồ hòm siểng gia tài cùng các đồ kim ngân bảo vật, là của khoét hại dân gian khi trước, mà kêu báo hiệu nhau lên thành.

Đương khi ngọn lửa mới nổi, thì bọn Thạch Dũng, Đỗ Thiên rút dao ra giết chết người lính canh cửa, rồi thấy dân sự nhao nhao bảo nhau đi ra lấy khao lấy thanh để đến chữa cháy. Thạch Dũng, Đỗ Thiên bèn quát lên bảo rằng:

– Chúng bay đi về ngay nhà không có việc chi mà lại chạy ra đó.

Tụi dân chúng thấy vậy, có kẻ còn đương nghi ngờ, thì bỗng thấy Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đương múa đôi đại phủ mà hăng hái xông vào; Bấy giờ ai nấy kinh sợ bảo nhau vác khí giới mà chạy trốn hết cả. Mặt thành đằng sau, cũng có mấy tên lính vác câu liêm, mỏ mác ra để cứu lửa, song bị Hoa Vinh bắn chết một người đi đầu, còn thì bị Lý Quỳ thét đuổi, rồi kéo nhau chạy trốn cả.

Khi đó Tiết Vĩnh lại đem lửa đến châm trước đốt sau, đốt hết cả nhà Hoàng Văn Bính, lửa cháy dần dật sáng một góc trời, như ban ngày vậy. Lý Quỳ đuổi hết lính rồi, quay ra giơ đại phủ chém đứt then sắt, phá tung cửa thành cho một nửa bọn người đi ra, còn một nửa thì trèo thành mà ra. Khi ra tới ngoài, đã thấy ba anh em họ Nguyễn và Trương Hoành, Đồng Uy, Đồng Mãnh, đều tới nơi tiếp ứng, để đem các đồ vật mà xếp xuống thuyền.

Bấy giờ mọi người ở Vô Vi Quân, đều biết tiếng bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc đã đánh cướp pháp trường và giết quan quân ở đất Giang Châu không biết đâu mà kể, bởi vậy anh nào cũng xanh mặt chùn gan, nấp vào một xó mà không dám theo đuổi lôi thôi. Còn bọn Tống Giang tuy đã đốt hại được nhà Hoàng Văn Bính, song hiện chưa bắt được chính kẻ oan cừu là Hoàng Văn Bính thì trong lòng còn căm tức chưa yên, mà đành phải xuống thuyền kéo về gia trang họ Mục.

Nói về quan lính thành Giang Châu, trông thấy bên thành Vô Vi bị cháy, thì vội vàng vào báo cho Tri Phủ biết. Bấy giờ Hoàng Văn Bính còn đương ngồi bàn việc cùng Tri Phủ ở trong nhà, bỗng nghe tin báo như vậy thì hoang mang bẩm với Tri Phủ rằng:

– Nếu làng tôi bị cháy, thì tôi phải xin phép về ngay mới được.

Tri Phủ nghe nói, cũng vội vội vàng vàng sai mở cổng thành, rồi sai bắt một chiếc thuyền quan để đưa tiễn về. Hoàng Văn Bính bái tạ Tri Phủ, hất hải đem người xuống thuyền, giục ra sức chèo mau, để về Vô Vi Quân.

Đi được một quãng, thấy lửa càng ngày càng lớn sáng cả góc trời, bọn lái đò bảo nhau rằng:

– Ngọn lửa kia ở vào bên bắc thành Vô Vi đó.

Hoàng Văn Bính nghe nói trong lòng càng nóng nẩy sổi nổi, thúc giục đi mau về xem. Khi đến giữa sông có một chiếc thuyền nhỏ, kẽo kẹt chèo qua trên mặt nước, rồi một lát lại thấy chiếc thuyền con nữa chèo đến.

Bất đồ khi chiếc thuyền gần tới nơi, thì đâm chạm vào chiếc thuyền quan, bọn lái đò bèn quát lên rằng:

– Thuyền bè ở đâu, sao lại chèo chở cập quạng thế?

Vừa nói dứt lời thì có anh chàng to lớn, tay cầm gậy móc đứng bên thuyền kia, mà đáp lên rằng:

– Cháy ở đâu thế?

Đại hán kia nói rằng:

– Nhà Hoàng Văn Bính ở cửa Bắc, bị bọn hảo hán Lương Sơn Bạc, giết hết người nhà, cướp hết của cải, rồi đốt cả nhà ở đó.

Hoàng Văn Bính nghe vậy, kinh hoảng cả người, vội buột mồm kêu lên rằng:

– Khổ chưa!

Đại hán kia nghe tiếng kêu, liền vất móc ra níu thuyền quan, rồi nhảy tót sang thuyền, Hoàng Văn Bính nhân trí khôn, vội vàng quay chạy lại sau thuyền, mà nhảy tòm xuống nước. Chợt đâu thấy ai ở dưới nước nhô lên, nắm chặt lấy lưng Hoàng Văn Bính mà kéo bỏ lên thuyền. Đại hán ở trên thuyền thấy vậy liền quay lại tiếp bắt, rồi đem Hoàng Văn Bính trói ghi hắn lại.

Nguyên người lặn xuống dưới nước đó là Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận, còn người cầm gậy móc trên thuyền ấy là Hỗn Giang Long Lý Tuấn. Khi đó bọn lái đò trong thuyền quan, thấy hai người hùng dũng như vậy, thì kinh hoàng sợ hãi, chỉ cúi đầu xuống mà kêu lạy xin tha.

Lý Tuấn liền bảo rằng:

– Ta không giết các ngươi làm chi. Đây ta chỉ bắt Hoàng Văn Bính mà thôi, các ngươi mau đi về, bảo với thằng đầu lừa là thằng Xài Tri Phủ ở Giang Châu rằng: Chúng ta là hảo hán Lương Sơn Bạc, hãy gởi cái đầu lừa ấy đấy, rồi nay mai ta đến lấy nghe chưa?

Bọn lái đò run lên cầm cập vâng lời răm rắp. Lý Tuấn, Trương Thuận bắt Hoàng Văn Bính lôi sang thuyền mình cho thuyền quan chèo đi rồi cũng cùng chèo mà đưa nhau về Mục Gia Trang.

Khi về tới bến, đã thấy các vị Đầu Lĩnh đứng đợi trên bờ, mà mang cả hòm tiền nong lên đó. Bọn hảo hán thấy nói là bắt được Hoàng Văn Bính, thì ai nấy đều hớn hở vui mà nói lên rằng:

– Ta đương muốn giáp mặt người ấy, để hỏi mấy câu đây.

Lý Tuấn, Trương Thuận giải Hoàng Văn Bính lên bờ, cho mọi người xem mặt, rồi cùng nhau kéo vào Mục Gia Trang. Bấy giờ Chu Quý, Tống Vạn tiếp mọi người vào trong thảo sảnh, rồi Tống Giang sai đem Hoàng Văn Bính lên, lột hết cả quần áo ướt, trói ra ngoài gốc cây dương liễu, đoạn rồi các vị Đầu Lĩnh theo thứ tự mà ngồi.

Tống Giang lấy rượu ra uống mừng, trên Tiều Cái dưới đến Bạch Thắng, tất cả hơm ba mươi vị hảo hán, đều cất chén cui mừng suốt lượt.

Khi uống rượu xong, Tống Giang trỏ vào mặt Hoàng Văn Bính mà rằng:

– Đồ khốn nạn, ta với người xưa nay có điều gì thù oán, mà ngươi nỡ tâm tàn hại, đôi ba phen xui giục Xài Tri Phủ, để giết hại chúng ta là nghĩa lý gì? Ngươi đã đọc sách thánh hiền, sao còn chứa lòng hung ác, làm những sự tàn nhẫn đê bèn như thế? Ta có giết cha mẹ nhà ngươi đâu mà ngươi nỡ giết ta? Anh ngươi là Hoàng Văn Hoa với người cùng một mẹ sinh ra, sao ông ta từ thiện như thế kia, khiến được khắp thành ai cũng xưng là Hoàng Diện Phật, đêm nay ta cũng không hề dám động đến nhà ông ta. Đến như ngươi thì toàn thị ỷ quyền ỷ thế, hãm hại lương dân, mà làm cho đám tham quan, nên người quen đó ai cũng gọi như là Nọc ong vàng. Vậy ngày nay ta bắt được đây, thì ta hãy nhổ hộ cái nọc ấy đi xem sao?

Hoàng Văn Bính nói rằng:

– Tôi đây biết tội đã nhiều, chỉ xin một chết là xong.

Tiều Cái nói rằng:

– Nếu mầy biết tội, thì mày không dám làm như thế.

Tống Giang liền hỏi rằng:

– Trong anh em ai ra hạ thủ cho ta?

Nói vừa dứt lời, thì Lý Quỳ nhảy lên đáp rằng:

– Tôi xin hạ thủ, để tôi xem thịt nó có béo, thì đem nướng mà đánh chén.

Tiều Cái khen phải mà rằng:

– Dao nhọn và lò lửa đây cắt ra từng miếng thịt mà nhắm rượu, cho hả lòng hiền đệ ta.

Đoạn rồi Lý Quỳ vác con dao nhọn, đến trước mặt Hoàng Văn Bính, cười mà nói rằng:

– Thằng này mọi khi hay nấp ở xó nhà Xài Tri Phủ, hay nói chuyện thay đen đổi trắng. Chàng cắt mãi hết thịt đùi rồi, mới mổ bụng moi gan, để lên các vị Đầu Lĩnh làm thang tỉnh rượu.

Khi các vị giết xong Hoàng Văn Bính, liền cùng nhau vào thảo đường để mừng rỡ Tống Giang. Bấy giờ Tống Giang quỳ xuống đất trước các vị Đầu Lĩnh cũng vội vàng quỳ xuống, mà đồng thanh hỏi rằng:

– Ca Ca có việc gì, xin cứ nói cho chúng tôi nghe?

Tống Giang nói rằng:

– Tống Giang tôi là kẻ bất tài, thủa nhỏ học nghề làm lại bước ra đời đã chăm chăm kết giao với các vị hảo hán anh tài, song chỉ vì chí hèn sức kém, mà không sao cho được thỏa dạ bình sinh. Mới đây bị đầy sang đất Giang Châu, Tiều Đầu Lĩnh và các vị hào kiệt đã hết lòng giữ lại, duy Tống Giang nhân vì kính giữ lời cha, nên không dám dấn thân vào nơi phi pháp. Song cũng may, vì đó mà qua bến Tầm Dương lại gặp được biết bao nhiêu hào kiệt, trong lòng thực vui vẻ khôn cùng. Ngờ đâu sau lại vì con say rượu nói càn, để suýt lụy đến tính mạng Đới Viện Trưởng ở đây, tội ấy tưởng không bao giờ thoát được. Nay may có các vị anh em không vì cơn nguy hiểm, xông pha vào nơi miệng rắn hang hùm, mà cố sức cứu toàn tính mệnh, và báo được oan cừu, ân đức thực không kém chi trời bể, song ngày nay đã làm nên tội ác, giết hại hai chốn châu thành, việc ấy tất nhiên thân tấu triều đình, mà lôi thôi lắm chuyện. Vậy ngày nay Tống Giang dẫu không muốn nương tựa các vị Ca Ca ở trên núi Lương Sơn Bạc, cũng không còn trốn tránh đi cho được, song không biết ý kiến các vị mới đây nghĩ sao? Nếu có đồng ý như vậy, thì lập tức thu thập để đi, bằng không cũng xin tùy ý, kẻo nấn ná ở đây, sợ khi lỡ sự ra thì…Vừa nói đến đó, thì thấy Lý Quỳ nhảy lên mà kêu rằng:

– Đi tất cả…Đi tất cả…Ai không đi theo, thì xin tặng một nhát búa của ta là xong.

Tống Giang nói:

– Lý Quỳ thô mãng quá, việc này phải hỏi ý kiến tất cả anh em, có bằng lòng mới được.

Chúng nghe nói, liền bàn với nhau rằng:

– Bây giờ đã giết hại bao nhiêu quan quân nhân mã, quấy rồi cả hai chốn kinh thành, tất nhiên họ phải tâu với triều đình mà đem quân truy nã, nếu vậy không theo huynh trưởng mà đồng sinh đồng tử với nhau, thì cũng không còn trốn đâu cho được.

Tống Giang nghe vậy cả mừng mà bái tạ mọi người. Đoạn rồi cho Chu Quý, Tống Vạn trở về báo cho sơn trại biết trước, rồi các vị hảo hán chia làm năm đội mà kéo đi sau: Đội thứ nhất: Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Lý Quỳ, Đới Tung, đội thứ nhì: Lưu Đường, Đỗ Thiên, Thạch Dũng, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện; đội thứ ba: Lý Tuấn, Đồng Mãnh; đội thứ tư: Hoàng Tín, Trương Thuận, Trương Hoành, cùng ba anh em họ Nguyễn. Đội thứ năm: Mục Hoằng, Mục Xuân, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Bạch Thắng. Tất cả năm đội hai mươi tám vị Đầu Lĩnh, đem hơn một nghìn người, cùng các tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính mà xếp vào xe mang đi.

Mục Hoằng dẫn Mục Thái Công, cùng các người nhà xếp hết tài vật châu báu lên xe; người nào không muốn theo, thì cho tiền đi tìm chủ khác, còn người nào muốn theo, đều cho nhập vào một bọn, bốn đội trước thứ tự đi trước, rồi Mục Hoằng thu thập xong đâu vào đấy, cho mồi lửa đốt hết trang viện, bỏ hết ruộng đất, mà kéo nhau lên núi Lương Sơn.

Bấy giờ năm đội lục tục tiến đi, mỗi đội cách nhau ước chừng hai mươi dặm đất. Đội thứ nhất, Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Đới Tung, Lý Quỳ, cưỡi năm con ngựa, dẫn xe cộ cùng người đi theo.

Đi được ba ngày đường, đến một nơi gọi là Hoàng Môn Sơn, Tống Giang ngồi trên mình ngựa bảo với Tiều Cái rằng:

– Tòa núi này nom hình thế cổ quái lắm, tất là có bọn giặc cướp ở đây, vậy ta nên cho người đi thúc nhân mã bốn đội sau lên đây, rồi sẽ cùng đi một thể.

Vừa nói dứt lời, thì thấy trên góc núi trước mặt, có tiếng thanh la ấm ỹ cả lên, Tống Giang lại nói rằng:

– Đó! Có sai đâu, ta hãy thong thả đợi bọn sau lên, rồi sẽ đánh cho nó một mẻ.

Nói đoạn Hoa Vinh cầm cung ra tay, Đới Tung cầm đao lớn, Lý Quỳ cầm đôi đại phủ, vây quanh Tống Giang để cùng xốc ngựa đi lên. Đi được mấy bước, thấy bên góc núi có bốn vị hảo hán, dẫn bốn năm trăm tiểu lâu la, cầm các đồ binh khí xông ra mà quát lên rằng:

– Lũ ngươi quấy rối đất Giang Châu đánh Vô Vi Quân, giết hại biết bao nhiêu quan quân dân chúng, lại toan về núi Lương Sơn. Bốn anh em ta đợi đã lâu, có biết phép ra cứ để Tống Giang lại đó; thì ta tha tất cả cho mà đi.

Tống Giang nghe nói, liền xông ra nhảy xuống ngựa, quỳ xuống đất mà nói rằng:

– Tôi là Tống Giang bị người ta vu oan hãm hại, không biết kêu nói vào đâu, may được hào kiệt bốn phương có lòng thương, mà cứu cho toàn tính mệnh, nay qua đây không biết là nơi nào, lỡ xúc phạm đến bốn vị anh hùng, vậy xin bốn ngài đón tay làm phúc, tha cho một chút thân tàn, thực là vạn phúc.

Bốn vị hảo hán kia nghe Tống Giang nói, liền nhảy xuống ngựa, vất bỏ quân khí ra, rồi chạy lại quỳ xuống đất mà rằng:

– Bốn anh em chúng tôi, chỉ được nghe tiếng Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, mà không sao cho được gặp mặt? Nay nói Ca Ca ở đất Giang Châu bị hãm hại, anh em chúng tôi đã bàn nhau toan kéo đến phá nhục để cứu Ca Ca, song không biết có đích thực hay không, nên chưa dám động. Mới đây sai tiểu lâu la đi đến Giang Châu thám thính, mới biết đã có các vị hảo hán đánh cướp pháp trường, làm cho náo động đất Giang Châu, mà cứu Ca Ca về trấn Yết Dương, và đốt giết nhà Hoàng Thông Phán ở Vô Vi Quân, rồi sắp sửa kéo về đại trại. Nhân vậy chúng tôi đoán chắc thế nào Ca Ca cũng qua đến lối này, nên phải hỏi kỹ càng cho đích xác, rồi mới dám nói ra như thế, dám xincc thứ lỗi cho. Nay may được Ca Ca qua tới chốn này xin mời Ca Ca vào chơi tiểu trại, gọi là dâng chén rượu tiếp phong, và xin đón các vị hảo hán cùng quá chân vào đó, rồi sẽ khởi trình…

Tống Giang cả mừng, rồi đứng dậy đỡ bốn vị hảo hán lên; mà hỏi họ tên. Người thứ nhất họ Âu tên Bằng, tự là Vân Kim Xí; quê ở Hoàng Châu, vốn coi quân bộ ở Đại giàn khi trước, sau nhân trái ý với quan trên, mà phải bỏ trốn vào nơi rừng núi; Người thứ hai họ Tưởng tên Kính, vốn người Hồ Nam, ở đất Đàm Châu, nguyên là tay cử tử xuất thân, sau vì thi cử không đỗ, liền bỏ văn sang võ, theo họ lược thao, tinh giỏi tính toán võ nghệ không kém ai, binh pháp cũng hơi thạo, nhân thế người ta thường gọi là Thần Toán Tư (tính toán như Thần): Còn người thứ ba họ Mã tên Lân, quê ở Kim Lăng, Kiến Khang, là một tay nhàn lãng xuất thân, thổi thiết địch hay, múa đại đao giỏi, mấy trăm người cũng không ai dám đến gần, nhân thế người ta đặt là Thiết Địch Tiên; Người thứ tư họ Đào tên Tôn Vượng, quê ở Quảng Châu, vốn xưa là người điền hộ, khiến cây thiết tiêu rất khỏe, múa lân đao cũng giỏi, người ta thường gọi là Cửu Vĩ Quy (rùa chín đuôi).

Bấy giờ bốn vị hảo hán đón tiếp Tống Giang, hai tiểu lâu la đem một bầu rượu, hai mâm thịt và một khay qủa ra, để nâng chén tiếp phong. Trước hết mời Tiều Cái, Tống Giang, sau mời Hoa Vinh, Đới Tung, sau đến Lý Quỳ, và cùng thi lễ chào nhau.

Được một lát đội quân mã thứ hai kéo đến, bốn vị hảo hán lại mời uống rượu, rồi đón cả lên núi. Đoạn rồi sai mổ trâu giết ngựa làm tiệc, và cho đón các vị hảo hán ở ba đội đi sau, cùng lên núi dự tiệc.

Trưa hôm ấy các vị đã tề tựu, cùng nhau ngồi uống rượu ở trên Tụ Nghĩa Sảnh núi Hoàng Môn. Sau Tống Giang nói với mọi người rằng:

– Phen này Tống Giang lên Lương Sơn Bạc nương nhờ Tiều Thiên Vương Ca Ca, vậy chả hay bốn vị hảo hán có thể bỏ đất này mà cùng đi đến đó được không?

Bốn tay hảo hán đồng thanh đáp rằng:

– Nếu hai vị nghĩa sĩ có lòng yêu đến cho theo, thì chúng tôi tình nguyện đi hầu dưới trướng.

Tống Giang, Tiều Cái cả mừng nói rằng:

– Bốn ngài đã nghĩ đến đại nghĩa mà bằng lòng như vậy, thì xin mau mau thu thập đi ngay mới được.

Nói đoạn lại cùng nhau rượu chè vui vẻ mà ở đó một đêm.

Sáng hôm sau, bọn Tống Giang Tiều Cái lại chia làm năm đội lục tục ra đi, còn bốn vị hảo hán ở Hoàng Môn Sơn cũng thu thập tài bạch kim ngân, kiểm điểm bốn năm trăm lâu la, rồi đốt bỏ sơn trại mà đi vào đội thứ sáu.

Tống Giang thấy được bốn tay hảo hán quy phục thì trong lòng lấy làm mừng rỡ, vừa đi vừa nói chuyện với Tiều Cái rằng:

– Tiểu đệ từ khi ngang dọc giang hồ, dẫu bị bao phen kinh sợ, song cũng may mà kết giao được bao nhiêu hảo hán ở trên đời, như thế thực là thỏa lòng quá đỗi. Phen này cùng lên sơn trại với Ca Ca, tất phải đồng tâm hiệp lực, mà sống chết có nhau, thì sau này mới khỏi phụ cái công giang hồ chìm nổi mà khỏi thẹn với đời…

Tiều Cái nghe nói, cũng lấy làm vui mừng, rồi hai người chuyện trò với nhau, mà gần tới sơn trại lúc nào cũng không biết.

Các vị Đầu Lĩnh coi trại ở Lương Sơn Bạc là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, cùng hai người Đầu Lĩnh mới là Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện, khi thấy Chu Quý, Tống Vạn về báo tin, thì hàng ngày lại sai tiểu Đầu Mục chở thuyền ra hàng rượu của Chu Quý để đón tiếp.

Ngày hôm ấy các đội đi đến nơi, liền xuống thuyền vào bến Kim Sa, rồi lên ngựa, đi về đại trại. Khi tới Đại Quan đã thấy bọn sáu người Ngô Học Cứu đem rượu ra tiếp phong, rồi cùng đi vào Tụ Nghĩa Sảnh.

Vào tới nơi, đã thấy bàn ghế chỉnh tề, khói hương nghi ngút tại Tụ Nghĩa Sảnh, Tiều Cái liền mời Tống Giang làm chủ sơn trại, để ngồi vào ghế giữa.

Tống Giang khiêm tốn không nhận mà rằng:

– Tống Giang tôi đã nhờ các vị có lòng thương, mà cứu cho thoát nạn, vậy chức Chủ trại đây, nguyên là Ca Ca phải giữ, có lẽ nào lại nhượng cho tôi? Nếu Ca Ca không ưng thuận mà cố nhường cho thì đệ xin chết trước cho xong, không bao giờ lại dám mang tâm như thế!

Tiều Cái không nghe mà nói rằng:

– Hiền đệ bất tất như thế? Hồi trước nếu không có hiền đệ ra tay gánh vác mà cứu cho bảy anh em chúng tôi, thì còn đâu có được ngày nay, vậy ngôi Chủ trại ở đây hiền đệ không có thể nhường lại cho ai được nữa…

Tống Giang lại nói rằng:

– Nói về niên sỉ, thì nhân huynh hơn Tống Giang đây mươi tuổi, vậy Tống Giang ngồi đó, chẳng hóa ra hổ thẹn lắm sao.

Nói xong liền cố nhường Tiều Cái ngồi vào ghế thứ nhất, tự mình ngồi ghế thứ hai, và để Ngô Học Cưú ngồi ghế thứ ba, Công Tôn Thắng ngồi ghế thứ tư. Đoạn rồi Tống Giang nói với mọi người rằng:

Bây giờ chưa phân công lai trên dưới, vậy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc ngày trước, xin cứ ngồi bên hữu, còn các vị Đầu Lĩnh mới đến sau, xin ngồi về phía bên tả, đến khi có công cán thế nào; sẽ phân định thứ tự về sau.

Chúng nghe nói đều vâng lời ngồi chia ra hai bên. Dãy bên tả có Lâm Xung, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đỗ Thiên, Tống Vạn; Chu Quý. Dãy bên hữu thì các vị Đầu Lĩnh tính tuổi cao thấp, rồi suy nhượng với nhau mà ngồi. Thoạt đầu Hoa Vinh ngồi trên, rồi đến Tần Minh, Hoàng Tín, Đới Tung, Lý Quỳ, Lý Tuấn, Mục Hoằng, Trương Hoành, Trương Thuận, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Tiêu Nhượng, Vương Nụy Hổ, Tiết Vĩnh, Kim Đại Kiện, Mục Xuân, Lý Lập, Âu Bằng, Tưởng Kính, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mã Lân, Thạch Dũng, Hầu Kiện, Trịnh Thiên Thọ, Đào Tôn Vượng cùng ngồi một hàng. Hai bên cộng tất cả hai mươi bốn vị hảo hán, đều hớn hở, vui mừng, mở cờ dóng trống, cùng ngồi uống rượu với nhau.

Bấy giờ Tống Giang lại đem chuyện mình kể cho các vị Đầu Lĩnh nghe mà nói rằng;

– Việc tôi chẳng qua vì tên Hoàng Văn Bính, vẽ hươu vẽ vượn, tán nghĩa mấy câu ca dao,mà bảo với tên Xài Tri Phủ là hai câu dưới, ứng vào độ số tôi là loạn ở đất Sơn Đông, rồi xui Tri Phủ tiền trảm hậu tấu, nên mới như thế. Nếu không có anh em nhiệt tâm mau cứu cho thì còn khi nào được trông thấy Lương Sơn Bạc mà bàn định công việc sau này nữa.

Lý Quỳ nghe nói, vội nhảy lên mà nói rằng:

– Phải đấy, Ca Ca chính là hợp ý trời đấy. Nay dẫu bị chút khó nhọc, song thằng giặc già Hoàng Văn Bính tôi đã giết, thực là khoái lắm! Túng sử cho chúng tôi có ít quân mã, chúng tôi làm phản chơi cũng được, đã sao? Khi đó Tiều Cái Ca Ca làm Đại Tống Hoàng Đế, Tống Giang Ca Ca làm Tiểu Tống Hoàng Đế, Ngô Dụng Tiên Sinh làm thừa Tướng, Công Tôn Đạo Nhân làm Quốc sư, còn chúng tôi đều làm Tướng Quân; kéo binh mã thẳng vào kinh sư mà cướp lấy đế vị, chẳng thú lắm hay sao? Như thế há không hơn ở vũng nước này?

Đới Tung nghe nói quát lên rằng:

– Thiết Ngưu làm chi mà nói thoắng lên thế? Nay ngươi đến đây, không thể còn giữ tính nết như ở Giang Châu được, phải nghe hiệu lệnh của các vị Đầu Lĩnh Ca Ca, không được nói càn nói dỡ…Nếu còn nói luôn, là hãy cắt đầu làm lệnh, để răn người sau đó.

Lý Quỳ tắc lưỡi mà rằng:

– Chết nỗi! Nếu cắt đầu tôi, thì bao giờ lại mọc được cái đầu lớn như thế nữa? Đã vậy tôi chỉ uống rượu thì thôi, chứ làm gì?

Các vị hảo hán đều vỗ tay cười ầm cả lên.

Tống Giang lại tiếp luôn đến chuyện cự địch quan quân mà rằng:

– Khi trước tôi mới nghe nói, đã hơi kinh sợ, ai ngờ ngày nay quả nhiên lại đến lần tôi ở đây…

Ngô Dụng nói:

– Nếu trước huynh trưởng nghe lời anh em mà ở lại sơn trại đây, thì có phải lã đỡ được bao nhiêu sự rắc rối; Cái đó cũng là số trời đã định, không thế hẳn cũng không xong.

Tống Giang lại hỏi:

– Hoàng An bây giờ ở đâu?

Tiều Cái nói:

– Ông ta đến đây được vài ba tháng thì bị bệnh chết ngay.

Tống Giang nghe nói, lấy làm thương tiếc vô cùng. Ngày hôm ấy các vị Đầu Lĩnh uống rượu với nhau, đến khi tận hưởng mới thôi.

Tiều Cái lại xếp đặt cho Mục Thái Công và gia quyến họ Mục ở vào một nơi, rồi đem cả tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính, mà thưởng cho các bọn lâu la. Đoạn rồi đem hòm châu báu của Xài Tri Phủ ngày trước trao trả cho Đới Viện Trưởng.

Đới Tung nhất định không chịu nhận, bèn cho chứa vào kho, để trữ làm công của sơn trại. Tiều Cái lại bắt tiểu lâu la lên bái kiến bọn Đầu Lĩnh mới, rồi nhất diện giết trâu dê, ăn mừng luôn trong mấy hôm trời, và nhất diện sửa sang phòng ốc trước sau, để các vị Đầu Lĩnh ở, cùng là sức cho lâu la chỉnh bị thành quách rất là cẩn thận.

Cách ba hôm sau, một bữa Tống Giang đương ngồi dự tiệc bỗng dưng ra nét mặt lo nghĩ, rồi đứng dậy nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:

– Tống Giang tôi còn có việc này, muốn xin phép anh em đi trong mấy hôm, không biết rằng các vị có ưng thuận cho không?

Các Đầu Lĩnh nghe nói đều ngạc nhiên, không hiểu việc chi, àm cùng xúm nhau vào để hỏi…

Mới hay:

Xương tan máu đẫm Giang Thành,

Đoái trông ngọn sóng bất bình còn đâu?

Trăm năm trong cuộc bể dâu,

Tử sinh vinh nhục cùng nhau mấy người,

Tiếng thơm ai để trên đời,

Có chăng riêng bạn anh tài biết cho…

Rồi đây ngang dọc giang hồ,

Anh hùng gây dựng cơ đồ khó chi!

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi trên tả Ngô Dụng cướp pháp trường Giang Châu, đều gọi mọi người trao cho một kế, đến khi cướp pháp trường, mới đột nhiên nảy ra bốn hạng người; Hồi này tả Tống Giang đánh thành Vô Vi Quân, lại đem bí quyết nói ra, không giấu nửa lời hay một chút, đều là đặc biệt khác nhau, các nhà văn đều có phép, đã tỉnh càng làm cho tỉnh, đã tăng lại phải cho tăng, đã tả Tống Giang định kế rõ ràng, lại tả từng người y kế, nếu không tả ra, chỉ nói một câu, khi đã tả ra lại nói mấy lần, đó là đặc biệt khác với tục bút. Không thể không biết cho ra.

Một việc đánh thành Vô Vi Quân, đã ở trong định kế rõ rệt, rồi sau mới chép rõ ra, chỉ nói ra nhiều chữ “Thấy” đếm cho đủ số người mà thôi; Ví như khéo đánh cờ, thế trận bầy ra đấy, rồi chỉ thấy dùng một con hai con, đánh cướp từng chỗ, khiến cho toàn cục phải biến động theo, văn chương như thế, mới là diệu bút.

Tả Tống Giang bấy lâu từng nói ra mồm, theo lời cha dặn: Thà chết không làm nghề lạc thảo, thế mà trước kia, đã thu thập lũ tám người, Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Hồ, Lã Phương, Quách Trịnh, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Thạch Dũng, nhặt lại đem về sơn trại, đến lúc này lại thu thâoh mười sáu người, Đới Tung, Lý Quỳ, Trương Hoành, Trương Thuận, Lý Tuấn, Lý Lập, Mục Hoằng, Mục Xuân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện, Âu Bằng, Tưởng Kính, Mã Lân, Đào Tôn Vượng, nhặt lại đem về sơn trại. Hai bên đều chép lớn ra cho rõ trung gian kế sảo. Đó là pháp của Sử Gia án mà không quyết đoán vậy. Tả Tống Giang dùng những quyền trá, lại tiếp tả ngay Lý Quỳ nói thẳng lời thô, độc giả thấy Lý Quỳ thô trực, cho rõ Tống Giang quyền trá ngõ hầu nhận thấy ra.

Tả Tống Giang khi tới Lương Sơn, đã vội đổi thay phép cũ, theo ý của mình làm mới, đã áp ngầm mọi người, lấn rõ Tiều Cái, lộ chân tướng con người, không ngờ trong việc bút mực, có sức làm ra như thế.

Hồi 41: Hoàn đạo đồn, nhận ba quyền thiên thư – Tống Công Minh gặp Cửu Thiên Huyền Nữ

Khi đó Tống Giang nói với các vị hảo hán rằng:

– Tôi nhờ được anh em cứu vớt lên đây, mấy ngày nay yến ẩm nhàn dung thực là vui vẻ. Song còn một nỗi phụ thân xa cách, không biết ở nhà sự thể ra sao? Nhất lỡ mà phủ Giang Châu tâu với kinh sư, rồi sức giấy ra để bắt, thì tất nhiên nguy hiểm đến phụ thân. Vậy ngày nay tôi xin trở về cố quận, đón lão thân lên cùng ở đây, thì trong lòng mới khỏi áy náy. Việc đó chẳng hay anh em có cho phép thế chăng?

Tiều Cái nghe nói đáp rằng:

– Việc đó là một điều nhân luân rất trọng lẽ đâu dám giữ hiền đệ ở đây vui thú một mình, mà để riêng cho lão thân khổ sở? Song vì nỗi mấy hôm nay anh em khó nhọc, người ngựa trong trị chưa được nghỉ ngơi, vậy xin hãy hoãn lại trong hai hôm nữa, sẽ điểm quân mã đem về để đón, thì có lẽ tiện hơn…

Tống Giang nói:

– Nhân huynh dạy, hãy khoan trong mấy hôm nữa, kể cũng là phải, song chỉ e nay mai có giấy sức đến nơi, thì trong nhà rất nguy hiểm. Vậy việc này không thể nào để chậm lại được, và cũng không phải cần đem quân mã làm chi, chỉ một mình Tống Giang tôi lẻn về cố quận, cùng với Tống Thanh đưa lão thân lên đây, như thế thì mới im lặng mà không ai biết được. Bằng nay lại kéo nhau ầm ầm đến đó, thì tất nhiên náo động đến dân làng, mà không khéo lại xảy ra lắm điều không tiện, cũng nên…

– Đành vậy, nhưng lỡ khi hiền đệ xảy ra chuyện gì ở giữa đường, thì lấy ai cứu được?

Tống Giang quả quyết mà rằng:

– Vì bằng có gì việc phụ thân mà chết, thì còn có hối hận làm chi?

Nói đoạn nhất định xin đi, bọn Tiều Cái không giữ lại được, đành phải để mặc cho tùy ý. Bấy giờ Tống Giang ăn uống xong, liền đội nón dắt dao, cầm thanh gậy ngắn, rồi từ giã các vị mà đi xuống núi. Các vị Đầu Lĩnh cũng đưa chân ra tới bến Kim Sa rồi mới trở về.

Một mình Tống Giang xuống thuyền, ra đến hàng rượu Chu Quý, rồi xăm xăm lên đường cái, mà theo lối trở về Vận Thành.

Sông Ngô bể Sở tung hoành.

Phần du muôn dặm sinh thành bao công?

Sao cho phụ tử trùng phùng,

Giang san này hội vầy vùng thiếu chi?

Một buổi sớm kia, Tống Giang đã về đến Tống Gia Thôn, không dám đường đột vào ngay gia trang, đành phải tạm lánh một nơi, đợi đến tối mới trở về thăm hỏi. Khi đến cửa, chàng gõ mấy tiếng, thì thấy Tống Thanh chạy ra đón tiếp.

Tống Thanh có vẻ ngạc nhiên hỏi rằng:

– Sao Ca Ca lại dám về đây như thế?

Tống Giang đáp rằng:

– Ta về để đón gia phụ cùng em đi đây.

– Chết nỗi! Công việc Ca Ca làm ở Giang Châu đã lừng lẫy cả lên, quan Huyện nay đương phái hai tên Đô Đầu họ Triệu; cứ hằng ngày đến canh giữ ở đây, chỉ đợi công văn ở Giang Châu đến, là bắt cả phụ thân cùng em mà cho vào ngục cả, rồi sau sẽ lùng bắt Ca Ca. Hiện bây giờ ngày nào cũng có hơn trăm thổ binh đến vây bọc xung quanh, Ca Ca phải đi tìm ngay bọn Lương Sơn về, mà cứu lấy cha em mới được.

Tống Giang nghe nói giật mình kinh sợ, không dám bước chân vào nhà, vội vàng lại phải quay đi, mà theo đường về Lương Sơn Bạc.

Đêm hôm ấy trăng sáng mờ mờ, đường đi không rõ, một mình Tống Giang hết sức mải miết tìm lối vắng vẻ mà rảo đi cho chóng.

Đi được hơn một trống canh, thì chợt thấy đằng sau có tiếng reo hò ầm ĩ cả lên. Tống Giang lấy làm kinh lạ, quay đầu lại nom, thấy cách một hai dặm đường sau, có một lũ đóm đuốc đi theo, miệng kêu lên:

– Tống Giang đừng chạy nữa.

Tống Giang nghe vậy, vừa mải miết chạy, vừa nói thầm trong bụng rằng:

– Chỉ vì ta không nghe lời Tiều Cái, nên quả nhiên họa hoạn đến nơi…Trăm lạy Hoàng Thiên, cứu cho Tống Giang thoát nạn.

Chàng vừa chạy vừa trông, được một lát thì bỗng thấy mây mù tan tác…Hiện ra một bóng Hằng Nga, chói lọi, rồi lần lần đi đến một thôn, tục gọi là thôn Hoàng Đạo, thôn này trước sau toàn thị non cao, xung quanh có nước, khoảng giữa có một con đường đi thẳng vào thôn, không còn lối nào rẽ đi được. Tống Giang nhận biết đường đó khó đi, đã toan quay đi trở lại, song đã thấy bọn kia ồ ập lối ngoài, mà soi đuốc soi đóm sáng như ban ngày vậy. Chàng thấy thế lại rảo bước mau vào trong thôn để trốn tránh.

Khi đi qua một khu rừng, thấy có một tòa cổ miếu ở đó, chàng liền lất tay đẩy cửa đi vào, tìm đến đằng sau điện mà định ẩn thân ở đó. Chàng trông trước trông sau, thấy địa thế không thể nào ẩn được, trong bụng còn đương hoảng hốt kinh hoàng, thì đã thấy phía ngoài có tiếng nói lên rằng:

– Chỉ ở trong miếu này thôi.

Tống Giang nghe nói cuống cả người lên, định tìm chỗ nấp mà không chỗ nào nấp được. Chợt trông thấy trên điện có một chỗ gác con con, làm bàn thờ ơ ûđó chàng liền sờ tay vén màn thờ, nhẩy tót lên dựng gậy vào một xó, rồi ngồi thu gọn lỏn vào đó mà run lên cầm cập.

Bấy giờ ánh sáng ở ngoài, đã dần dần đi vào tới nơi chàng bèn ngó cổ ra xem, thì thấy Triệu Năng, Triệu Đắc dẫn bốn năm mươi người cầm đóm đuốc đi vào soi xét các nơi. Khi soi gần đến trên điện, thì Tống Giang vừa run vừa nói một mình rằng:

– Phen này tất ta nguy hiểm mất…Xin thần minh phù hộ cho tôi…Lạy thần minh phù hộ cho tôi…Trăm lạy thần minh phù hộ cho tôi.

Được một lát chúng soi quanh quẩn không thấy gì, liền lướt qua mà không soi vào bàn thờ nữa.

Bấy giờ Tống Giang mới hơi vững dạ khỏi run, mà nói rằng:

– Thực là trời thương!

Vừa nói đó, thì Triệu Năng, Triệu Đắc lại đi vào, cầm đóm đuốc đi đến bàn thờ để soi, Tống Giang thấy vậy lại run lêm cầm cập, như là sắp chết đến nơi. Triệu Đắc một tay cầm bó đuốc, một tay cầm thanh đao, gẩy bàn thờ để soi. Dè đâu khói lửa bốc lên, làm cho bụi bặm ở trên rơi xuống, rơi ngay vào giữa mắt Triệu Đắc, chàng ta liền nhắm mắt lại, mà vất ngay bó đuốc xuống đất, đạp dọi tắt đi, mà chạy ra ngoài cửa điện.

Khi ra tới cửa, Triệu Đắc bảo với bọn thổ binh rằng:

– Thằng cha ấy không có ở trong miếu, mà đây cũng không có lối cửa đi vào, không biết rằng nó trốn đi đâu cho được?

Bọn thổ binh nói:

– Chắc có lẽ nó chạy vào đám rừng kia hẳn; Nhưng ở đấy thì cũng khó lòng tẩu thoát được. Cả thôn chỉ có một con đường ra vào, trong tuy có núi cao rừng lớn, song cũng hết đường mà lên…Đô Đầu cứ giữ riết ngoài cửa thôn, cho hắn ta có cánh, cũng khó lòng bay đâu cho thoát…Chỉ sáng mai là thế nào ta cũng lùng bắt được.

Triệu Năng, Triệu Đắc khen phải, liền dẫn tụi thổ binh ra đi.

Bấy giờ Tống Giang lại đỡ run sợ nói một mình rằng:

– Hú vía! Thực là thần minh đã phù hộ cho ta, sau này được toàn sự nghiệp, ta sẽ sửa lại miếu, tô lại tượng.

Nói chưa dứt lời, thì lại thấy tên thổ binh kêu lên rằng:

– Đô đầu lại mà xem, trên cửa miếu có in hai vết bàn tay vào bụi, tất nhiên là hắn mới đẩy cửa đi vào trong miếu đây.

Triệu Năng nghe nói, vội vàng đến xem, rồi lại dẫn người vào miếu để tìm, Tống Giang thấy vậy, lại run lên như cầy sấy, chắc rằng cái chết đến nơi, chúng vào đến miếu tìm trước sau, trông trên trông dưới, chỉ còn thiếu nước lật gạch lên là cùng. Khi soi đến trên điện, Triệu Năng bảo với chúng rằng:

– Chỉ còn chỗ bàn thờ lúc nãy xem chưa kỹ, để tôi tìm lại lượt nữa xem sao?

Nói đoạn một tên thổ binh cầm đóm giơ lên, Triệu Năng kéo màn ra, rồi năm bảy người ngó cổ lên để nom…

Vừa khi chúng nom vào, bỗng thấy một trận ác phong thổi tắt bó lửa rồi thấy hắc khí vây kín quanh miếu, giáp mặt cũng không trông rõ được nhau, Triệu Năng kêu lên rằng:

– Quái lại! Sao lại có trận ác phong bất thình lình như vậy? Cái này chắc là thần linh trách giận ta, sao được nom dòm vào đó hẳn? Thôi chúng ta ra canh giữ cửa thôn, để sáng mai sẽ tìm cũng được.

– Chỉ còn chỗ bàn thờ chưa tìm được kỹ, hay là ta xỉa giáo vào xem có gì không?

Triệu Năng khen phải, rồi hai người toan quay lại để xỉa giáo vào xem. Dè đâu lại nghe thấy đằng xa sau điện, bỗng nổi một trận quái phong, ném tung cát đá, làm cho một tòa cổ miếu như là chuyển động ầm ầm, rồi thấy mây đen mờ mịt bao bọc xung quanh, khiến người đứng đó ai cũng sởn gai đứng tóc, mà kinh sợ vô cùng.

Triệu Năng biết sự bất thường, liền gọi Triệu Đắc mà bảo rằng;

– Thôi Thần Minh có ý không bằng lòng, chúng ta đi đi thôi.

Nói đoạn anh nào anh nấy vội vàng cướp lối mà chạy ra. Bấy giờ bọn thổ binh mải chạy đến nỗi vấp ngã, sướt da toạc thịt, mà vẫn phải gắng gượng để đi. Khi ra đến cửa miếu, bỗng nghe thấy phía trong có tiếng người kêu ầm lên rằng:

– Tha cho chúng tôi.

Triệu Năng nghe tiếng kêu, vội chạy vào xem, thấy ba bốn tên ngã lăn ở sân miếu, rễ cây quấn cả lấy áo xống, rồi tay cầm dao tay bứt áo miệng kêu van, mà vẫn không sao dậy được.

Tống Giang ngồi trong bàn thờ nghe thấy vậy, cũng lấy làm quái lạ, mà vừa run vừa nhịn cười không được. Triệu Năng thấy chúng như vậy, phải vội vàng cởi áo cho mấy đứa thổ binh ấy mà dắt ra.

Sau có mấy đứa thổ binh đi trước nói với chúng rằng;

– Tôi vẫn bảo ở đây thiêng lắm, các anh không nghe cứ làm liều làm lĩnh, để thiệt hại đến thân… !

Bây giờ cứ ra ngoài cửa thôn mà canh giữ thì hơn, nó trốn đi đâu cho được mà sợ?

Triệu Năng, Triệu Đắc lấy làm phải, bèn dẫn chúng ra cửa thôn để đón. Bấy giờ Tống Giang lại hơi hơi tỉnh hồn, mà nói lẩm bẩm rằng:

– Nhờ thần thánh không bị họ bắt được bây giờ, nhưng biết làm thế nào mà ra khỏi cửa thôn này được?

Chàng đương nghĩ ngợi vẩn vơ; thì chợt nghe thấy dưới miếu có người đi ra, chàng lại run lên bấn bật mà kêu khổ một mình. Đoạn rồi liếc mắt trông ra thấy hai Thanh Y Đồng Tử đi thẳng vào dưới bàn thờ nói lên rằng:

– Tiểu đồng vâng pháp chỉ Nương Nương, mời Tinh chủ đến nói chuyện.

Tống Giang ngồi lặng ngắt; không dám nói năng chi cả.

Hai Đồng Tử ở ngoại lại nói luôn rằng:

– Nương Nương cho mời, xin Tinh Chủ đi ngay cho…

Tống Giang cứ lặng yên không dám đáp.

Đồng Tử lại nói:

– Xin Tinh Chủ chớ chậm trễ, Nương Nương đợi đã lâu rồi.

Tống Giang bấy giờ mới nghe rõ, không phải là tiếng đàn ông, chàng liền chui ở trong ngầm ngai ra, rồi nom xuống dưới, thì thấy hai người Thanh Y Nữ Tử, đương đứng chực ở bên giường thờ ở dưới, chàng thấy vậy cả kinh, nom kỹ thì té là hai pho tượng đất ở đó.

Chợt lại thấy có tiếng thỏ thẻ nói rằng:

– Dám thưa Tốâng Tinh Chủ, Nương Nương tôi xin mời vào nói chuyện.

Tống Giang cả gan vén màn nom rõ ra ngoài, lại thấy hai người nữ Đồng búi tóc áo xanh, vái chào cúi rạp mình xuống, chàng liền hỏi rằng:

– Hai vị tiên đồng ở đâu đến đây?

Nữ Đồng nói:

– Chúng tôi vâng pháp chỉ Nương Nương, đón mời Tinh Chủ vào cung.

Tống Giang đáp rằng:

– Tiên Đồng lầm rồi, tôi đây họ Tống tên Giang, có phải là Tinh Chủ nào đâu?

– Không, không phải là chúng tôi lầm, xin Tinh Chủ đi ngay cho, Nương Nương đợi đây đã lâu rồi.

– Nương Nương nào? Tôi có được bái kiến bao giờ mà dám đến?

– Xin Tinh Chủ cứ đến đó, rồi sẽ biết, bất tất ngài phải hỏi…

– Nương Nương ở đâu?

– Hiện ở trong cung sau kia.

Nói đoạn liền thúc giục Tống Giang mà dẫn đi, Tống Giang xuống điện đi theo, tới một cơi cánh cửa ở trước bức tường sau điện, thì hai tên Thanh Y trỏ bảo Tống Giang rằng:

– Xin Tinh Chủ cứ lối này mà đi.

Tống Giang bước ra khỏi cửa, thấy trăng sao sáng quắc, gió thoảng mùi hương, bốn mặt toàn là cây xanh cảnh tốt, khác hẳn trần gian. Chàng thấy vậy tự nghĩ trong bụng: Nếu ta biết được rằng có chỗ này, thì đến ngay đây mà ẩn nấp, có lẽ khỏi bị những sự lôi thôi như lúc nãy.

Chàng vừa đi vừa xem, thấy hai bên trồng toàn thông lớn quá ôm. ở giữa có một con đường mai rùa rộng rãi. Được một lát đi bộ hơn dặm đường, bỗng nghe thấy tiếng nước khe róc rách, rồi thấy có một tòa cầu đá xanh hiện ra trước mặt. Hai bên cầu có lan can đỏ, trên bờ trồng toàn hoa tươi cỏ lạ, trúc đẹp tùng xanh, cùng các giống liễu rất đẹp. Dưới khe có ngọn nước trắng như tuyết, ở trong động chảy ra, trông càng ngoạn mục vô cùng? Khi qua cầu thấy hai bên trồng toàn cây lạ. Phía giữa có cửa chắn song, Tống Giang đi vào cửa chắn song, ngẩng nom xem thấy cung điện nguy nga, thì tự nghĩ một mình, quái lạ! Ta đã ở đất Vận Thành, xưa nay chưa từng nghe nói, trong có chỗ này bao giờ? Chàng nghĩ vậy, thì trong lòng nghi hoặc, không dám bước chân đi.

Thanh Y lại thúc giục mà rằng:

– Xin mời Tinh Chủ cứ đi luôn vào.

Nói đoạn lại dẫn chàng vào trước sân Rồng, Tống Giang nom quanh thấy hai bên hành lang, toàn cột sơn son đỏ chói. Chính giữa có tòa điện lớn đèn nến sáùng choang như ban ngày vậy.

Thanh Y dẫn vào qua sân Rồng, đi lên Nguyệt Đài, thì chợt nghe có mấy người Thanh Y trên thềm điện nó rằng:

– Nương Nương có lệnh mời, xin Tinh Chủ lên ngay.

Tống Giang vào đến điện lớn, nghe trong mình sợ hãi, đứng sởn tóc gáy, mà trông dưới thềm toàn thị vẽ Rồng, sơn Phượïng, lạ mắt vô cùng. Chợt thấy Thanh Y vào trong rèm tâu rằng:

– Chúng tôi vâng lệnh đi đón Tống Tinh Chủ đã về đây.

Tống Giang đến trước rèm liền cúi mình trước sập ngự lạy chào hai lạy, rồi phủ phục nói rằng:

– Chúng tôi là kẻ hạ dân mê muội, không được biết uy thánh thượng, xin ngài lấy lượng Trời bể mà nhủ thương cho.

Nói đoạn thì thấy trong rèm truyền chỉ ra rằng:

– Mời Tinh Chủ hãy ngồi.

Tống Giang nghe nói, không dám cất đầu lên, sau thấy sai bốn người Thanh Y nâng dậy, mà mời ngồi lên đôn gấm. Tống Giang vâng lời, miễn cưỡng ngồi xuống đôn. Đoạn nghe tiếng cuốn rèm lên, bọn Thanh Y liền quấn rèm vắt lên trên móc vàng, rồi thấy Nương Nương hỏi lên rằng:

– Tinh Chủ lâu nay có được an khang không?

Tống Giang nghe hỏi, vội đứng dậy vái lạy mà rằng:

– Chúng tôi là kẻ dân thứ, đấu dám ngửa liếc Thánh Dung…

Nương Nương lại nói lên rằng:

– Tinh Chủ đã đến đây, bất tất phải quá khiêm như vậy.

Bấy giờ Tống Giang nghe nói, mới chịu ngẩng đầu lên trông, thấy trên điện chạm vàng lóng lánh, pha lẫn ánh đèn Long Phượng sáng choang, hai bên Thanh Y nữ đồng cầm hốt bưng khuê, cùng cầm cờ quạt đứng hầu, chính giữa kê giường thất bảo cửu long, Nương Nương mình mặc áo tơ vàng thêu đỏ, tay cầm Bạch Ngọc Khuê Chương, mắt sáng thiên nhiên, mặt tiên chính đại, ngồi trên giường, bảo Thanh Y rót rượu đem mời Tống Giang. Bọn Thanh Y Nữ Đồng vâng lời đem bình rượu ra rót vào chén, rồi một người nữ đồng lớn nhất bưng ra để mời.

Tống Giang đứng dậy đỡ lấy chén rượu rồi quỳ xuống mà uống một hơi. Bấy giờ nghe chừng hơi rượu thơm Tiêu Ha xông bốc khắp cả người không khác gì lễ hồ gội đầu, cam lộ rưới ruột vậy. Lại có một người Thanh Y bưng mâm táo tiên lên mời. Tống Giang run run sợ sợ, e khi lỡ làng vô lễ, bèn rón rén cất lấy một quả để ăn, rồi giữ cái hạt táo ở trong tay. Thanh Y Nữ Đồng lại rót chén rượu nữa đẻ mời, Tống Giang nâng lấy uống một hơi hết, rồi Nương Nương lại truyền lệnh mời luôn chén nữa, Tống Giang uống hết chén rượu thứ ba, rồi Thanh Y lại đưa mâm táo xuống mời, chàng lại cất lấy hai quả táo nữa mà ăn.

Khi ăn uống xong, Tống Giang nghe trong người nong nóng, phảng phất có hơi rượu, chàng vội vàng sợ có điều thất lễ, liền đứng dậy vái mà nói rằng:

– Kẻ thần hạ không uống được rượu, xin Nương Nương tha phép cho.

Nương Nương nghe nói truyền rằng:

– Tinh Chủ không xơi được rượu thì thôi, không dám miễn cưỡng làm chi. Thanh Y đây? Lấy ba quyển Thiên Thư đưa cho Tinh Chủ.

Thanh Y vâng lời, liền quay vào trong bình phong bưng ra một cái mâm, một bệ vóc vàng, ba quyển Thiên Thư, mà đưa cho Tống Giang, Tống Giang giơ tay nâng lấy, trông chừng quyển sách bề dài độ năm tấc, bề rộng độ ba tấc, song không dám mở xem, bèn đứng dậy lạy nhận mà bỏ vào trong bọc.

Nương Nương phán bảo với Tống Giang rằng:

– Tống Tinh Chủ ơi! Ta truyền cho ngươi ba cuốn Thiên Thư này, ngươi khá thay trời làm Đạo, làm chúa phải hết lòng trung nghĩa, làm tôi phải hết sức yêu dân, bỏ đường tà theo đường chính, chớ nên xao nhãng sai lầm mới được.

Tống Giang cúi lạy vâng lời, Nương Nương lại phán rằng:

– Đức Ngọc Hoàng nhận thấy Tinh Chủ chưa dứt lòng ma, chưa tu trọn Đạo, nên tạm phạt xuống nơi trần thế, không bao lâu lại được trở về Tiên Cung. Vậy Tinh Chủ chớ nên đổi dạ thay lòng, mà lỡ ra tội xuống Phong Đô, thì ta đây cũng khó lòng cứu nổi. Ba cuốn sách này phải xem cho kỹ, mà thuộc cho kỹ, chỉ nên cùng với sao Thiên Cơ mà xem, còn không thể cho người nào khác xem được. Khi công việc xong tất phải đốt đi, chớ để làm chi ở nơi trần thế, ngững lời ta dặn, phải nhớ chớ quên. Hiện nay tiên phàm đôi ngả không thể ở lâu, vận ngươi nên mau mau trở về, rồi sau đây lầu ngọc cửa vàng, tất lại có phần hậu hội…

Nói đoạn sai Đồng Nữ kíp dẫn Tống Giang về, Tống Giang lạy Nương Nương, rồi theo chân lũ Thanh Y Nữ Đồng, mà đi ra ngoài điện.

Khi đi qua cửa chấn song, ra đến bên cầu đá, Thanh Y bảo với Tống Giang rằng:

– Vừa rồi Tinh Chủ bị cơn nguy hiểm, nếu không có Nương Nương bảo hộ, thì tất là bị bắt…Sáng ngày mai thì Tinh Chủ khắc được thoát nạn ấy ngay. Kìa Tinh Chủ nom dưới cầu có hai con Rồng đùa giỡn với nhau kìa.

Tống Giang đứng tựa lan can, quay xuống khe xem, quả thấy hai con Rồng đương lượn đùa dưới nước, rất là lạ mắt xưa nay. Chàng đương xem ngắn ngẩn ngơ, bỗng bị Thanh Y đẩy ngã xuống nước, rồi kêu lên một tiếng, đập đầu phải cạnh bàn thờ, mà mở mắt ra nom thì là giấc mộng.

Bấy giờ Tống Giang ngó cổ nom ra. Thấy bóng trăng đương sáng, trời đêm chừng canh ba, bàn tay chàng vẫn có ba hạt táo, mà trong bọc cũng có ba quyển Thiên Thư, mùi rượu thơm tho vẫn còn trong miệng, thực là một sự quái kỳ, không biết ra sâo mà đoán được?

Chàng nghĩ quanh nghĩ quẩn một mình:

– Rõ là mộng mà không phải mộng, những lời dặn dò vẫn nhớ không quên, Thiên Thư còn đây, hột táo còn đó, sao lại cho là mộng được! Nếu không phải là mộng thì rõ ràng ta vẫn ở đây sao lại thấy cung điện lâu đài như thế? Cái đó chẳng hay thần thánh thiêng liêng mà ứng hiện cho ta được biết đấy chăng?

Nghĩ đoạn liền mở màn cho sáng để xem, thì thấy trên ngai Cửu Long có một bức tượng Nương Nương không khác cho người lúc nẫy. Chàng lại tưởng tượng:

– Nương Nương gọi ta là Tinh Chủ, có lẽ kiếp trước ta cũng không tầm thường hẳn? Ba quyển Thiên Thư cho ta, tất là có dụng, mà những lời dặn bảo ta vẫn nhớ không quên…Thanh Y Nữ Đồng lại bảo ta là sáng mai thoát nạn, vậy bây giờ sắp sáng, ta thử đi ra xem sao?

Chàng nghĩ vậy liền vớ lấy thanh gậy, rũ sạch áo xống, rồi nhẩy xuống điện đi theo lối tả lang, mà ra ngoài cửa miếu. Bấy giờ ngẩn nom thấy có biển để khắc bốn chữ vàng “Miếu Bà Huyền Nữ”, thì giơ tay lên trán mà rằng:

– Té ra là miếu Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương ở đây. Người đã truyền cho ta ba cuốn Thiên Thư, mà cứu được tính mệnh cho ta, sau này, dù có mở mặt với đời, tất xin sửa lại miếu điện để tạ ơn tế độ từ bi mới được…

Nói xong liền xăm xăm tìm lối đi ra cửa thôn. Đi khỏi mới được mấy bước, bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng ầm ầm vang động, chàng liền đứng dừng lại mà rằng:

– Nếu ta ra đấy tất nhiên bị họ bắt được, vậy chi bằng nấp ở bên cạnh đường rồi sau sẽ liệu.

Chàng nghĩ vậy bèn lẻn vào sau gốc cây bên đường để nấp. Vừa khi ấy, mấy tên thổ binh chạy vội chạy vàng, ngã xiêu ngã vẹo, miệng kêu lên rằng:

– Xin thần thánh cứu vớt tôi với…

Tống Giang thấy vậy, nghĩ thầm rằng:

– Quái lạ! Chúng định đón ngoài cửa thôn để bắt ta, cớ sao lại nhẩy vào đây mà kêu lên như thế?

Vừa nghĩ vậy thì lại thấy Triệu Năng cũng lật đật chạy vào, miệng cũng kêu lên rằng:

– Xin thần thánh cứu mạng cho tôi.

Tống Giang lại nói lẩm bẩm một mình:

– Không biết chúng làm gì mà nói lên như thế? Nói đoạn đã thấy một đại hán sồng sộc ở ngoài đuổi vào. Đại hán này cởi trần trùng trục, bắp thịt nổi lên như bắp chuối, hai tay cầm hai đại phủ, miệng thét mắng ầm ầm:

– Những thằng ranh kia chạy đi đâu?

Tống Giang định tình nom lại, thì chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở đó. Chàng lại mơ mơ màng màng tưởng lại trong mộng, quanh quẩn không dám đi ra. Bấy giơ Triệu Năng chạy đến trước cửa miếu, vướng phải gốc cây thông, bị ngã xuống đất. Lý Quỳ liền sấn ngày vào, một chân dận lên xương sống, một tay giơ đại phủ lên để chém. Lý Quỳ vừa toan hạ tay xuống, thì thấy Âu Bằng, Đào Tôn Vượng, đều khoác nón cầm đao ở phía sau chạy đến, Lý Quỳ sợ hãi người chạy đến tranh công, liền giơ búa chém Triệu Năng một nhát xả làm đôi, rồi quay ra đuổi giết thổ binh, chạy giạt ra các ngả.

Tống Giang thấy vậy cũng chưa dám thò ra. Chợt lại thấy có ba hảo hán nữa, là Lưu Đường, Thạch Dũng và Lý Lập cùng xông đến mà đánh đuổi thổ binh. Khi thổ binh đuổi giết giặc gần hết mà sao không thấy Tống Giang, cả bọn đang ngơ ngác đi tìm, bỗng thấy Thạch Dũng kêu lên rằng:

– Ai đứng nấp đằng sau gốc cây kia?

Bấy giờ Tống Giang nghe nói mới dám thò mặt ra, nói với sáu người kia rằng:

– Xin cảm tạ anh em, đã có lòng thương mà cứu tính mạng cho tôi, không biết lấy chi đền báo?

Sáu tay hảo hán trông thấy Tống Giang, đều cả mừng mà nói rằng:

– Ca Ca đây rồi, phải đi báo cho Tiều Đầu Lĩnh biết…Mau….

Thạch Dũng, Lý Lập nghe nói liền quay đi báo. Tống Giang hỏi Lưu Đường rằng:

– Sao các bác biết tôi ở đây, mà đến để cứu?

Lưu Đường đáp rằng:

– Từ khi Ca Ca bước chân đi khỏi Lương Sơn, Tiều Đầu Lĩnh cùng Ngô Quân Sư lấy làm áy náy không yên, liền sai Đới Viện Trưởng lập tức đi theo để thám thính. Sau Tiều Đầu Lĩnh cũng không được yên tâm, lại đem chúng tôi đem quân đi tiếp ứng, chỉ sợ Ca Ca lỡ gặp không may, thì không lấy chi mà giúp đỡ. Khi chúng tôi đi đến nửa đường gặp Đới Tung nói rằng:

– “Có hai tên nào đem thổ binh đi đuổi Ca Ca” Bởi vậy Tiều Đầu Lĩnh cả giận, cho Đới Tung về sơn trại, chỉ để quân sư, Công Tôn Thắng tiên sinh, ba anh em họ Nguyễn, cùng Lã Phương, Quách Thịnh, Chu Quý, Bạch Thắng, ở lại coi trại, còn bao nhiêu anh em là phải đến đây để tìm Ca Ca cả. Tới đây thấy người ta nói là chúng đuổi Ca Ca vào trong thôn này để chẹn bắt. Nhân thế chúng tôi đã giết hết cả thổ binh canh giữ cửa thôn, chỉ còn sót mấy thằng vào đây, là Lý Ca đuổi giết đó thôi…

Vừa nói đến đó, thì đã thấy Thạch Dũng dẫn Tiều Cái, Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín, Tiết Vĩnh, Tương Kính, cùng Mã Lân đi đến. Một đằng Lý Lập dẫn Lý Tuấn, Mục Hoằng, Trương Thuận, Mục Xuân, Hầu Kiện, Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện, đến chào hỏi Tống Giang.

Tiều Cái bảo với Tống Giang rằng:

– Tôi đã bảo hiền đệ, không nên đi một mình; hiền đệ không nghe tôi nói, có phải suýt nữa thì nguy hiểm lắm không?

Tống Giang tạ ơn mọi người, rồi nói với Tiều Cái rằng:

– Tiểu đệ vì còn chút lão thân ở đó, cho nên mới dám mạo hiểm mà đi như vậy, xin nhân huynh cũng lượng tình xét cho.

Tiều Cái nói:

– Tôi xin nói tin này cho hiền đệ mừng: Hiện tôi đã sai Đới Tung đem Đỗ Thiên, Tống Vạn, Vương Nuy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Đồng Uy, Đồng Mãnh đi đón tôn nghiêm, và cả gia quyến đưa về sơn trại, bây giờ hiện đương ở đó rồi, không còn ngại điều chi nữa.

Tống Giang nghe nói cả mừng, lạy tạ Tiều Cái mà rằng:

– Nhân huynh rộng lòng ân đức như vậy, Tống Giang dẫu chết, cũng không còn chi hối hận…

Nói đoạn các vị Đầu Lĩnh cùng lên ngựa đi ra cửa thôn, mà kéo về sơn trại, Tống Giang ngồi trên mình ngựa, thường giơ tay lên trán, khấn trời đất tạ ơn Thần Minh, xin đến sau sẽ tới nơi trả nghĩa.

Khi về đến Lương Sơn Bạc, Ngô Học Cứu đem các Đầu Lĩnh ỏ trại ra bến Kim Sa, đón tiếp, rồi cùng vào Tụ Nghĩa Sảnh. Bấy giờ các vị Đầu Lĩnh chào hỏi xong rồi, Tống Giang liền nói với Tiều Cái, cho mời Tống Thái Công ra để hỏi chuyện.

Được một lát thấy Thiết Phiến Tử Tống Thanh đưa Thái Công ra đến cửa sảnh, rồi dắt xuống kiệu mà mời vào, Tống Giang trông thấy Thái Công thì vội vàng mừng rỡ, cúi lạy hai lạy mà nói rằng:

– Con là thằng bất hiếu, làm cho liên lụy đến cha, xin cha tha tội ấy cho…

Tống Thái Công bảo với Tống Giang rằng:

– Hai anh em thằng Triệu Năng, ngày nào cũng đem người coi giữ nhà ta, chỉ đợi công văn ở Giang Châu đến, là bắt bố con ta mà giải quan ngay. Hôm đó nghe thấy tiếng con gọi cửa ở đằng sau, thì đã có tám chín tên thổ binh chực ở thảo sảnh đằng trước…rồi không biết nó theo đi đâu?

Đến trống canh ba lại thấy hơn hai trăm người đến mở cửa trong, đem ta lên kiệu, rồi bảo với Tứ Lang thu thập hòm siểng, đốt bỏ gia trại mà đi. Đoạn rồi cứ kéo một mạch, cho thẳng đến đây, ta không còn kịp hỏi đầu đuôi chi cả.

Tống Giang đáp rằng:

– Hôm nay cha con mình được đoàn viên thấy mặt, toàn là nhờ ơn các vị anh em đây cả.

Nói đoạn gọi em là Tống Thanh ra để chào mừng các vị Đầu Lĩnh. Các vị Đầu Lĩnh đều đến lạy chào Tống Thái Công, rồi nhất diện sai giết trâu ngựa, để mừng cuộc đoàn viên cho nhà họ Tống. Trong mấy ngày trời, các vị Đầu Lĩnh cùng Tiều Cái lần lượt chúc mừng Tống Giang rất là vui vẻ.

Công Tôn Thắng thấy vậy, động lòng nhớ đến lão mẫu ở Kế Châu, bấy lâu xa cách, chưa biết tin tức ra sao, liền nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:

– Bần đạo nhờ ơn các vị hào kiệt lưu giữ ở đây, tình nghĩa anh em cũng không khác gì xương thịt. Song từ khi bần đạo theo Tiều Đầu Lĩnh đến nay, chỉ đam mê trong cuộc yên vui, mà chưa kịp về thăm lão mẫu, và lâu nay không được trở về hầu hạ tôn sư.Vậy phen này muốn xin phép các ngài cho bần đạo về nhà dăm tháng, rồi sau xin lại đến đây, để cho tấm lòng cố quốc tha hương khỏi chiều áy náy, chẳng hay các vị có ưng ý cho không?

Tiều Cái đáp rằng:

– Trước vẫn nghe tiên sinh nói chuyện, là còn có lệnh từ, mà dưới gối thiếu người phụng dưỡng, vậy ngày nay lẽ nào dám giữ tiên sinh. Xong hãy xin tiên sinh trọn cuộc vui mừng cho Tống Ca Ca, rồi sáng mai sẽ đi cũng được.

Công Tôn Thắng nghe nói tạ ơn Tiều Cái rồi cùng nhau lại yến ẩm một hôm, sáng sớm hôm sau, sức sơn trại bày tiệc ngoài cửa quan để tiễn chân Công Tôn Thắng. Công Tôn Thắng lại ăn mặc ra lối Vân Du Đạo Nhân, bụng thắt hầu bao lưng đeo đôi kiếm thư hùng, vai khoác nón lá, tay cầm cái quạt mai rùa, mà đi xuống núi.

Các vị Đầu Lĩnh ra ngoài cửa quan nâng chén tiễn hành suốt lượt, rồi Tiều Cái nói với Công Tôn Thắng rằng:

– Nhất diện tiên sinh đi phen này, chớ nên thâùt tín mới được. Lẽ ra chúng tôi cũng không để cho tiên sinh đi, song còn có lệnh từ ở nhà, nên không dám khiên lưu trở lại, vậy ngoài hạ trăm ngày, thì xin ngài lại dời gót tới đây, kẻo anh em mong đợi.

Công Tôn Thắng đáp rằng:

– Bần đạo được các vị hào kiệt quả yêu, lẽ nào lại dám thất tín cho đang; Vậy bần đạo xin về hỏi thăm mẹ già và yết kiến Chân Nhân, rồi thế nào cũng xin trở về sơn trại…

Tống Giang nói:

– Sao tiên sinh không mang một vài người đi, để đón cả lệnh từ lên đây, mà sớm khuya phụng dưỡng có hơn không?

Công Tôn Thắng cảm tạ mà rằng:

– Lão mẫu tôi sinh bình thích nơi thanh tĩnh, ở đây nhiều sự kinh nguy, nên không dám đón đến đây được. Vả chăng ở nhà có ruộng rừng nhà trại cũng đủ nói ấm thân già, vậy tôi xin về qua thăm viếng, rồi lại xin đến đây, cùng các ngài tụ nghĩa.

Tống Giang đáp rằng:

– Nếu như vậy xin tiến sinh sớm đến ngay cho mới được.

Nói đoạn Tiều Cái lấy ra một mâm vàng để tặng, Công Tôn Thắng từ chối mà rằng:

– Chúng tôi không cần chi lắm, chỉ xin đủ tiền hành lý mà thôi.

Tiều Cái nhất định không nghe, sai gói một nửa kim ngân cho Công Tôn Thắng, Công Tôn Thắng bất đắc dĩ vâng lĩnh, rồi bái biệt mọi người mà xuống thuyền ra bến, trông chừng thẳng trỏ Kế Châu.

Bấy giờ các vị Đầu Lĩnh đương sắp trở về sơn trại, thì bỗng thấy Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đứng dưới cửa quan mà khóc lên rưng rức, Tống Giang vội vàng hỏi rằng:

– Anh em có việc chi mà phiền não như vậy?

Lý Quỳ sùi sụt đáp rằng:

– Khổ quá cho tôi! Người thì mời bố đến đây, người thì trở về thăm mẹ, chỉ duy Thiết Ngưu này là một kẻ ở dưới đất chui lên mà thôi.

Tiều Cái thấy vậy, cũng xúm lại hỏi rằng:

– Vậy hiền đệ định những thế nào?

Lý Quỳ nói:

– Tôi chỉ có một mẹ già ở nhà, còn Ca Ca tôi thì đi làm thuê suốt ngày, lấy ai mà nuôi nấng trông nom cho được tử tế? Bây giờ tôi cũng muốn đón về đây, để cùng hưởng yên vui, nhưng không biết rằng có được chăng?

Tiều Cái đáp rằng:

– Hiền đệ nói phải lắm, để ta sai mấy người cùng đi với người thì mới được.

Tống Giang vội gạt đi rằng:

– Không được, Lý Quỳ vốn tính hục hặc xưa nay, nếu trở về cố hương, tất nhiên lại có điều sinh cự, mà sai người đi với hắn cũng không xong…Vả chăng hắn đã giết hại bao nhiêu người ở đất Giang Châu, ai mà không biết, hiện nay tất là Quan Tư sức giấy đi tầm nã khắp cả mọi nơi, và sức về nguyên quán để bắt, ngộ lỡ ra về đó người ta tóm được, thì bấy giờ sẽ xử trí ra sao? Việc đó phải đợi cho chuyện thực im lặng, rồi sẽ trở về đón rước, cũng chưa chậm gì mà sợ… !

Lý Quỳ nghe nói kêu lên mà rằng:

– Ca Ca xử thế không được công bằng lắm…Phụ thân Ca Ca còn biết đón lên đây để cùng khoái hoạt, còn mẹ tôi thì bắt để ở nhà cho khổ sở đói rét, như thế thì ức Thiết Ngưu này quá chừng…

Tống Giang đáp:

– Nếu hiền đệ quyết chí đòi đi, thì phải nghe ta ba điều này mới được…

Lý Quỳ vâng lời mà rằng:

– Thế nào xin Ca Ca cứ nói…Dẫu trăm điều tôi cũng vâng theo được cả…

Cho hay:

Ngổn ngang nỗi nước tình nhà,

Tắc lòng trung hiếu cũng là lòng trung,

Tử phần cách trở non sông,

Nỡ nào vui thú đỉnh chung cho đành;

Thế gian bao kẻ bạc tình,

Trông gương trước chẳng thẹn mình lắm ru?

Nam nhi chí ở giang hồ,

Sinh thành liệu phải đền bù ai ơi!

Lời bàn của Thánh Thán:

Thánh thán này cho rằng: Viết văn càng đến những chỗ khỏ tả ra bao nhiêu càng thấy cái tài của văn hào ngần ấy, vì rằng đến chỗ khó khăn mà tả được thoát ra, mới thấy cái khéo, mà bao nhiêu cái khéo ở đời, thường thấy nảy ra trong những cái khó khăn, tức hiểm tuyệt mới thấy diệu tuyệt, diệu tuyệt chỉ nảy ra trong hiểm tuyệt mà thôi.

Nay đọc một hồi Hoàng Đạo Thôn, thấy tả Tống Giang lẩn trốn, bọn quan binh lùng bắt mấy lần, trở ra lại trở vào hai ba lần, đoán rằng Tống Giang chỉ lẩn vào trong miếu, mà chưa tìm hết, thì chính phạm nhân ở trong miếu ấy thực, thế mà mỗi lần vào lại bị một trở ngại lạ lùng, rồi đến bỏ đi, không còn tin phạm nhân ở trong ấy nữa, Tống Giang mới trốn thoát sau này; Khiến ta thấy rằng cơ xếp đặt hóa công; đã nên kỳ tuyệt, có những cái biến bất ngờ, thì tài tử tạo ra văn, cũng phải khéo tả ra, nhưng một hóa công xếp đặt chuyện đời, mà người đời không tưởng tượng, mới có thể viết nên một áng kỳ văn.

Một đoạn văn tróc nã, khéo về khẩn cấp kinh hãi; một đoạn văn mộng được Thiên Thư, khéo về trang thần; một đoạn văn quần hùng tới cứu, lại khéo về kinh hãi khẩn trương, ba đoạn khác nhau bút pháp ly kỳ.

Sách này sau khi tả Tống Giang quyền bá, lại tả đến Lý Quỳ thành thực để phản chiếu rõ ra, sau khi Tống Giang đón cha thì Lý Quỳ đón mẹ, cùng một đạo con, cùng một chữ hiếu, suy ra thiên hạ ai cũng một lòng nghĩ đến cha mẹ như ai, còn Lý Quỳ muốn đón mẹ, thì lại gặp như sao? Ta nên nhận xét những lời Tống Giang bảo Lý Quỳ, khiến Lý Quỳ tức mà nói lại, xét trong văn tự, rõ Tống Giang không tốt, thì không ai mắng Tống Giang, không sấm sét nào đả đến Tống Giang, thiết tưởng Tống Giang cũng nên thẹn với lòng mình mà chết mới phải?

Trước đoạn văn Lý Quỳ đón mẹ, lại mượn Công Tôn Thắng về thăm mẹ để dẫn ra, khi Lý Quỳ thấy kẻ đón cha, trong cảnh khốn nguy, chưa dám nghĩ tới, sau thấy kẻ được về thăm mẹ, mới động tấm lòng, một tấm lòng thực Lý Quỳ lạn mạn, một vì Tống Giang dụng ý đón cha, chưa đủ động đến Lý Quỳ, sau thêm Công Tôn Thắng xin về thăm mẹ, mới động đến Lý Quỳ, mới thấy Tống Giang quyền bá vô dụng; Kinh Dịch nói: Trung Phù, ý rằng có đức tin, thì cảm động đến cả vật vô tri, Trung Phù,vốn vô vi, mà hóa hành cho cả thiên hạ, thì ra Tống Giang chỉ giả dối đối với thiên hạ, còn giảng đến đạo lớn làm sao, mà vẫn rằng: Thay Trời làm Đạo?

Tự mình đón cha, thì rằng dù chết cũng không oán; Kẻ khác đón mẹ, lại rằng lỡ gặp hại thì sao? Đức Thánh dạy rằng: Trung với thứ, khi đã không hết lòng với người, thì đến mình cũng chả thành thực; không ngờ lại có một thiên luận đạo rất hay này. Giống như Tỳ Quan chép sử.

Hồi 42: Thương mẫu thân, Lý Quỳ giết bốn hổ – Cứu đồng đảng, Chu Quý dốc một lòng

Bấy giờ Tống Giang bảo với Lý Quỳ rằng:

– Gia Trưởng đi đường bị trúng thử mà chết, phải báo vợ con đến để cứu – Nếu ngươi nhất định ra đi, thì phải nghe ta ba điều này; Một là từ nay đi qua đâu, ngươi không được uống rượu; Hai là tính ngươi nóng nảy xưa nay, tất không ai chịu cùng đi với ngươi, vậy ngươi phải chịu khó đi một mình cho được việc; Ba là hai cây đại phủ của ngươi, từ nay không được mang đi nữa. Đi đường ngươi phải cẩn thận giữ gìn, về mau mới được.

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tưởng chi, chứ có ba việc ấy, thì làm gì không giữ nổi, xin xuống cứ yên tâm, để cho tôi đi ngay bây giờ cho chóng…

Nói xong liền lấy dao giắt vào bao, tay cầm một thanh đao lớn, lấy một đĩnh bạc lớn, và dăm ba lạng bạc lẻ, rồi uống mấy chén rượu từ tạ, mà chào các vị Đầu Lĩnh đi ra.

Tiều Cái, Tống Giang cùng mọi người tiễn chân ra bến Kim Sa, rồi trở về Đại Sảnh cùng ngồi nói chuyện với nhau.Tống Giang có ý lo ngại, mà nói với mọi người rằng:

– Lý Quỳ đi phen này, tất nhiên lại sinh sự, chứ không chơi, vậy trong đám anh em có ai là đồng hương với hắn, thì xin đi theo để dò la tin tức giúp cho?

Đỗ Thiên nói rằng:

– Đây có Chu Quý là người ở huyện Nghi Thủy ở đất Nghi Châu, có lẽ đồng châu với Lý Quỳ đó.

Tống Giang nghe nói kêu lên rằng:

– Chết nỗi! Thế mà tôi quên hẳn, khi ở Bạch Long Miếu, Lý Quỳ đã nhận Chu Quý là người đồng hương…Vậy cho tìm Chu Quý lên đây mới được.

Nói đoạn liền sai tiểu lâu la tửu điếm, để mời Chu Quý về trại. Khi Chu Quý về tới nơi, Tống Giang nói rằng:

– Nay Lý Quỳ về nhà đón mẹ, song vì hắn ta tính khí hung hăng, nên không muốn cho ai cùng đi với hắn. Nhưng ta e khi đi đường, hoặc có xảy ra việc gì bất lợi, vậy hiền đệ là người đồng hương, nên rảo qua về đó, để xem tin tức ra sao?

Chu Quý đáp rằng:

– Tiểu đệ là người ở huyện Nghi Thủy, có người em là Chu Phú mở tiệm rượu ở ngoài Tây Môn bản huyện, còn Lý Quỳ là người ở bên Đổng Miếu, thuộc về thôn Bách Trượng cùng huyện với tôi, có người anh là Lý Đạt vẫn đi làm thuê xưa nay, nhưng tính nết Lý Quỳ vẫn hục hặc tư thủa nhỏ, đánh chết người rồi lại trốn tránh giang hồ, cho nên không về nhà được? Nay Ca Ca sai tiểu đệ đi thám thính, thì lại càng tiện lắm, vì tiểu đệ cũng muốn về thăm anh em một thể, song còn ở dưới hàng, thì lấy ai trông coi cho được?

Tống Giang nói:

– Việc ấy sẽ có người, ta sẽ khắc cho Hầu Kiện, Thạch Dũng hãy thay đỡ mấy hôm, ngươi cứ đi ngay cho được việc.

Chu Quý vâng lời, bái biệt các vị Đầu Lĩnh, quay về tửu điếm trao hàng hóa cho Hầu Kiện, Thạch Dũng, rồi thu thập hành lý mà đi.

Từ đó Tống Giang lại cùng Tiều Cái hằng ngày ở trong trại đánh chén làm vui, rồi lại cùng Ngô Học Cứu, đem ba cuốn Thiên Thư ra để học tập với nhau.

Bây giờ nước thẳm non sâu,

Nợ xưa hồ sạch, đường sau còn dài…

Đem thân luyện với cơ trời,

Rồi ra chữ Mệnh, chữ Thời hỏi chi

Nói về Lý Quỳ từ khi lìa đất Lương Sơn, thẳng lối trở về Nghi Thủy. Đi đường cẩn thận không hề động chút men. Một hôm về tới đám người đứng túm đen túm đỏ, đương xem bản yết thị ở đó, Lý Quỳ chen vào để nghe, thấy có người đọc lên rằng:

– “Tên chính tặc thứ nhất, là Tống Giang, người huyện Vận Thành…Tên tùng đảng thứ nhì là Đới Tung; làm Lưỡng Viện Áp Ngục ở đất Giang Châu…Tên tùng đảng thứ ba là Lý Quỳ, người huyện Nghi Thủy, đất Nghi Châu… “

Lý Quỳ nghe thấy đương nóng ruột gan, chưa biết nghĩ ra thế nào, thì chợt có một người chạy đến ôm chặt sau ngang lưng mà bảo rằng:

– Trương Đại Ca làm gì ở đây?

Lý Quỳ nghe nói, vội quay lại nom, té ra là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý ở đó, chàng liền hỏi rằng:

– Bác đến đây làm gì thế?

Chu Quý nói:

– Anh hãy ra đằng này tôi nói chuyện.

Nói xong hai người cùng chạy ra đến hàng rượu ở một thôn gần đó, rồi tìm vào một chỗ tĩnh mà nói chuyện với nhau.

Chu Quý trỏ vào Lý Quỳ mà bảo rằng:

– Anh quái! To gan thực, trên bảng người ta yết thị rõ ràng, thưởng một vạn quan, bắt được Tống Giang;và thưởng năm ngàn quan bắt được Đới Tung; và thưởng ba ngàn quan bắt được Lý Quỳ, thế mà anh dám lần vào đứng đấy xem…, lỡ ra có kẻ bắt được thì sao?

– Tống Công Minh Ca Ca sợ anh hay lôi thôi, nên không dám cho người cùng đi với anh, sau lại e anh đến đây, lỡ ra sinh sự thì khốn, nên mới cho tôi đi theo để dò thăm tin tức, vậy tôi đi sau anh một ngày mà sao anh bây giờ cũng mới đến đây?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Vì Ca Ca dặn tôi không được uống rượu, cho nên mới đi chậm như thế! Nhà anh ở chỗ nào, sao anh lại biết chỗ hàng rượu này được?

– Hàng rượu này của người anh em tôi là Chu Phú đây, tôi vốn là người ở đất này, sau vì buôn bán thua lỗ, nên phải lên núi Lương Sơn, đến nay mới về quê thăm nhà một lượt.

Nói đoạn liền gọi Chu Phú ra chào Lý Quỳ, và sai người nhà làm rượu khỏan đãi.

Bấy giờ Lý Quỳ bảo với Chu Quý rằng:

– Ca Ca dặn tôi không được uống rượu, nhưng nay đã về đến đây rồi, thì uống rượu một vài chén cũng được chứ sao?

Chu Quý cũng chiều lòng, mà mặc cho Lý Quỳ uống rượu. Hôm đó Lý Quỳ ăn uống xong, bèn ở tửu điếm Chu Phú một tối, rồi tờ mờ sáng hôm sau trở dậy mà trở về làng.

Chu Quý dặn Lý Quỳ rằng:

– Bây giờ anh đừng đi đường tắt, cứ theo lối cây đa lớn, rồi rẽ sang bên đông, đi thẳng đường cái về ngay Bách Thượng Thôn, để đón mẫu thân mà về ngay sơn trại mới được.

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi phải đi đường tắt cho chóng đến nhà, chứ hơi đâu mà đi đường cái cho tốn công.

– Đi đường tắt có nhiều cọp, lại thường có bọn cướp ở đó, đi sao cho tiện?

Lý Quỳ cả quyết mà rằng:

– Bác tính tôi đây còn sợ gì những giống ấy?

Nói đoạn liền khoác nón giắt dao, từ biệt Chu Phú cùng Chu Quý mà đi.

Đi được mươi dặm đường, thì trời vừa rạng sáng, chợt thấy một con thỏ trắng chạy qua trước mặt, Lý Quỳ liền ra sức đuổi riết, rồi cười nói rằng:

– Con quái này lại làm cho mình phải chạy một thôi đường thẳng.

Chàng nói xong lại rảo cẳng chạy mau, đến gần một chỗ có tới năm sáu mươi cây lớn, mọc chùm dúm vào với nhau, lá vàng đỏ ối cả lên. Chợt đâu thấy có một đại hán quát lên rằng:

– Anh nào đi đó, biết điều thì đưa tiền mãi lộ lại đây, không thì ta lột hết bây giờ?

Lý Quỳ nghe nói, ngẩng lên nom thì thấy người ấy đầu đội khăn mỏ rìu bằng lụa hồng, mình mặc áo vải ngắn, tay cầm đôi đại phủ, mặt bôi lọ lem như Quỷ vậy.

Chàng thấy vậy bèn quát lên rằng:

– Thằng này ở đâu, dám đến đây cướp bóc thế này?

Anh kia cười nhạt đáp rằng:

– Mày muốn nghe tên họ của ta, cho vỡ mật nát hồn hay sao? Lão gia đây chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đó…có khôn hồn, thì để tiền mãi lộ và hành lý lại đây, ta sẽ tha cho mà đi.

Lý Quỳ nghe vậy cả cười mà rằng:

– Thằng này gớm thực, mày là người ở đâu đến đây, mà dám mạo xưng tên họ lão gia để làm càn như thế?

Nói đoạn giơ dao lên, xông vào đánh anh kia, anh kia chống cự nhưng không nổi, vội đâm đầu để chạy, bất đồ bị Lý Quỳ chém cho một nhát vào trái chân, nằm lăn xuống đất.

Đoạn rồi Lý Quỳ lấy chân đạp lên bụng mà thét hỏi rằng:

– Đã biết lão gia hay chưa?

Anh kia biết thực là Lý Quỳ ở đó, liền kêu van lên rằng:

– Chúng tôi cũng họ Lý, nhưng thực sự không phải Hắc Toàn Phong, sau thấy Gia Gia là một người có tiếng trong đám giang hồ, hể nói đến tiếng Gia Gia là người phải sợ, mà Quỷ cũng phải khiếp; nhân thế chúng tôi học lỏm tên ngài để kiếm ăn cho tiện. Hễ khi nào có một người khách một đi qua đây, nghe thấy nói đến ba chữ Hắc Toàn Phong là họ phải bỏ hành lý mà chạy trốn ngay lập tức, không hề phải giết hại đến ai, còn chúng tôi đây tên là Lý Quỷ, người ở gần thôn đây…

Lý Quỳ quắc mắt thét lên rằng:

– Đồ gian tặc vô lễ này, dám ở đây cướp bóc làm xằng;học lối song phủ của ta để làm nhơ bẩn danh hiệu của ta…Nay ta gặp ngươi ở đây, hãy cho nếm một miếng búa của ta, cho mà biết phép.

Nói đoạn giơ tay cầm lấy cây song phủ toan chém giết Lý Quỷ. Lý Quỷ vội vàng năn nỉ mà kêu van lên rằng:

– Gia Gia ôi! Nếu Gia Gia giết tôi tức là giết cả hai người chúng tôi đó.

Lý Quỳ nghe nói, dừng tay lại mà hỏi rằng:

– Thế nào là giết cả hai người chúng mày?

– Bẩm Gia Gia! Nguyên con cũng không phải là nghề ăn cướp, song vì trong nhà còn mẹ già hơn chín mươi tuổi, không ai nuôi nấng trông nom, bởi thế con phải mượn tiếng Gia Gia, dọa nạt người ta để kiếm tiền đem về nuôi mẹ, chứ không có bụng nào giết hại đến ai. Nay nếu Gia Gia không thương tình mà chém chết con đây, thì mẹ con tất là chết đói, xin Gia Gia xét thương cho…

Lý Quỳ vốn là tay giết người không nháy mắt, song nghe thấy lời nói thảm thương như vậy, thì hơi động tấm lòng, mà tự nghĩ một mình rằng:

– Ta đây cốt về nhà để tìm thân mẫu, vậy mà ta lại giết mẹ người khác, thì trời đất nào chứng giám cho ta… Thôi, bất nhược tha cho nó làm phúc…

Nghĩ đoạn liền tha cho Lý Quỷ dậy, Lý Quỷ vội vàng tay cầm búa, mà cúi lạy ta Lý Quỳ.

Lý Quỳ bảo Lý Quỷ rằng:

– Ta tức là Hắc Toàn Phong đây, từ đây ngươi không được làm mất danh giá tên ta mới được.

Lý Quỷ đáp rằng:

– Con ngày nay được ngài tha thứ cho thế này, con xin về nhà xoay làm nghề khác, còn khi nào dám giả danh hiệu Gia Gia như thế nữa.

Lý Quỳ lại nói rằng:

– Ngươi đã có lòng hiếu thuận như thế, thì ta cho ngươi mười lạng bạc đây, đem về mà làm nghề khác kiếm ăn.

Nói xong lấy ra một đĩnh bạc mà đưa cho Lý Quỷ, Lý Quỷ lạy tạ rồi đi. Bấy giờ Lý Quỳ cười nói một mình rằng:

– Thằng quái thế! Vô phúc lại gặp ngay tay mình…Nhưng nói là người hiếu thuận như thế nếu mình giết nó, thì tất trái lòng trời đất…Phen này chắc nó phải tìm nghề khác kiếm ăn, chứ khi nào còn dám làm như thế nữa.

Chàng lẩm bẩm một mình, rồi lại vác dao theo con đường nhỏ bên cạnh núi mà đi. Chàng đi mãi đến gần trưa, nghe trong bụng vừa đói vừa khát, mà bốn mặt toàn thị non cao đường tắt, không có một hàng rượu nào để nghỉ. Đi một lát, chợt thấy ở khuỳnh núi phía trước, có một cái nhà nhỏ cỏn con ở đó, Lý Quỳ liền xăm xăm chạy vào đến nơi, thì có một người đàn bà môi son mặt phấn, mái tóc giắt một bông hoa, ở trong nhà chạy ra để hỏi.

Lý Quỳ dựng thanh đao xuống rồi nói rằng:

– Thưa nàng tôi đi lỡ đường qua đây, không có hàng quán nào để ăn uống, vậy xin đưa một ít tiền nàng làm ơn để cho tôi một ít cơm rượu, ăn uống qua loa cho đỡ đói…

Người đàn bà thấy tướng dạng Lý Quỳ hung ác thì không dám từ chối, liền đáp rằng:

– Nhà tôi đây không có rượu, ngài có xơi cơm, thì tôi xin thổi giúp ngài?

– Vâng, được lắm, tôi đương đói, thì xin nàng nấu nhiều nhiều vào cho.

– Nấu một thưng gạo có đủ không?

– Không được, cứ nấu cho tôi ba thưng.

Người đàn bà vâng lời, quay vào nhóm bếp lên, rồi lấy gạo ra vo ở khe suối mà đem về nấu.

Bấy giờ Lý Quỳ quay ra nẻo đằng sau để đi rửa, chợt thấy một đại hán xiêu xiêu vẹo vẹo, ở lối sau đi về. Đoạn rồi thấy người đàn bà đi ra cửa sau toan lên núi hái rau, khi mở cửa trông thấy đại hán kia thì hỏi rằng:

– Đại Ca đi đâu mà chân khấp khiễng thế?

Đại hán kia đáp rằng:

– Đại Tẩu ơi! Hôm nay suýt nữa thì nguy hiểm mất. Mình tưởng rằng vớ được món khách nào đi một mình thì bở, ai ngờ đợi mãi nửa tháng trời chẳng gặp được một ai…, mãi đến sáng hôm nay lớ đớ vớ được một người, tưởng là ai, chính là bố Hắc Toàn Phong đi đến. Mình vừa mới gặp hắn ta, bị hắn ta chém ngay một nhát nào cẳng, rồi toan giết ngay; Sau phải nói dối là nhà có mẹ già không ai nuôi nấng…Hắn tưởng thực mới tha cho, rồi lại cho mình một đĩnh bạc, mà dặn tìm nghề khác mà nuôi mẹ, đành phải nấp vào xó rừng ngủ một giấc, rồi bây giờ mới dám về đây.

Chị chàng kia nói rằng:

– Nói se sẽ chứ, vừa rồi có một đại hán đen béo đi vào nhà trong, nhờ tôi nấu cơm hộ đây kia…không khéo hắn ta đấy cũng nên? Bây giờ đương ngồi ở trước cửa đấy, thử chạy lên mà nom xem có phải không? Nếu phải hắn ta, thì đem bỏ thuốc mê vào rau cho hắn ăn, rồi hắn lăn queo ra đấy, là ta bóc lột lấy tiền tiêu, và đem xuống huyện nộp lấy tiền thưởng, để mà buôn bán với nhau, can chi mà phải ăn cướp thế này nữa!

Lý Quỳ nghe rõ những lời như vậy, thì tự nghĩ một mình rằng:

– Quân này gớm thực, mình tha không giết nó, lại cho nó một đĩnh bạc, thế mà nói lại đem tâm định hại mình…Thằng này thực là không thể nào mà dung được.

Nghĩ đoạn liền vội đi ra bên cạnh cửa sau. Chàng vừa đi đến nơi, thì vừa gặp Lý Quỳ toan bước ra cửa, chàng bèn nắm chặt lấy cánh tay, rồi vật lăn xuống đất. Mụ đàn bà thấy vậy, thì vội vàng chạy ra lối cửa sau mà trốn mất.

Lý Quỳ dằn Lý Quỷ xuống, tuốt dao nhọn dắt ở trong mình ra, cắt xọet lấy đầu, rồi quay lại tìm chị đàn bà. Khi ra tới ngoài không thấy chị đàn bà kia đâu nữa, chàng bèn quay vào trong, tìm thấy hai thúng, đựng mấy cái quần áo cũ, ở dưới có ít bạc vụn, mấy cái vòng cái thoa để đó. Lý Quỳ vớ lấy các cái ấy, rồi lại ra chỗ xác Lý Quỷ, lần lấy đĩnh bạc cho hắn lúc nãy, mà bọn vào khăn gói cẩn thận. Đoạn rồi lần đến bếp, thấy nồi cơm đã chín, không còn có một chút gì để làm thức ăn. Chàng dở cơm ra ăn mấy miếng, rồi nom ra cái xác chết mà cười nói rằng:

– Mình ngu xuẩn thực! Thịt bỏ đây kia, mà không ăn là nghĩa lý gì?

Nói đoạn liền xăm xăm vác dao ra cắt mấy miếng thịt đùi Lý Quỷ, lấy nước rửa sạch, rồi đem vào đống than lửa vừa nướng vừa ăn, ăn một lúc no nê rồi đem xác Lý Quỷ vất vào giữa nhà, mà châm một mồi lửa đốt lên, rồi đem dao khoác gói ra đi.

Khi về tới Đổng Miếu, mặt trời đã xế non tây, Lý Quỳ liền đi thẳng vào nhà, đẩy cửa bước vào, thấy mẹ già đã mù cả hai mắt, mà đương ngồi niệm Phật ở trên giường.

Người mẹ thấy tiếng kẹt cửa, bèn hỏi lên rằng:

– Ai vào đó?

Lý Quỳ chạy đến gần mà đáp rằng:

– Thưa mẹ thúng, đựng mấy cái quần a, Thiết Ngưu con đã về đây.

– Con ta đấy à? Con đi đâu lâu thế? Anh con ở nhà đi làm thuê mướn cũng chỉ đủ nuôi miệng, không lấy đâu được mà cung phụng cho mẹ tử tế…Mẹ thường thường lại nhớ đến con, khóc mãi thành ra hỏng cả đôi mắt đây…Con ơi! Lâu nay con thế nào?

Lý Quỳ nghe hỏi, thì nghĩ thầm rằng:

– Nếu ta nói đi lạc thảo ở Lương Sơn, thì tất mẹ ta không bằng lòng…Bất nhược ta nói dối cho xong…

Nghĩ đoạn liền đáp rằng:

– Thiết Ngưu con bây giờ được làm quan, con định đón mẹ đi đây…

Người mẹ nói:

– Nếu thế thì hay lắm, nhưng mẹ đi thế nào được mà đi hỡi con?

– Thiết Ngưu xin cõng mẹ ra đến đường cái, rồi tìm xe đi là được rồi…

– Con hãy đợi anh con về, tìm hỏi xem sao?

– Thưa mẹ đợi anh con làm gì, để con xin cõng mẹ đi thôi?

Lý Quỳ nói xong, vừa toan cõng mẹ đi, thì thấy Lý Đạt xách một cái lẵng cơm ở ngoài đi về, Lý Quỳ vội vàng cúi lạy mà rằng:

– Ca Ca lâu nay em không được gặp.

Vừa nói dứt lời, thì Lý Đạt hất ngay rằng:

– Mày còn về đây làm gì nữa? Lại định làm khổ đến người ta nữa hay sao?

Người mẹ nghe tiếng Lý Đạt thì phân thuyết rằng:

– Thiết Ngưu bây giờ nó làm quan rồi, nó về đón ta đấy mà…

Lý Đạt nói:

– Mẹ đừng tin đồ thối thây làm gì…Lớp trước nó mới đi đánh nhau giết người, làm cho tôi phải bị gông bị trói khổ nhục trăm chiều…Sau nó lại nhập đảng với bọn Lương Sơn, mà đánh cướp pháp trường, phá hại ở đất Giang Châu, rồi lên ở Lương Sơn làm giặc, quan hiện đương tư giấy truy nã các nơi không được, vừa rồi tôi suýt nữa cũng bị Quan Tư bắt bớ, sau nhờ có ông tài chủ chống chế giúp cho, nói là nó đi mười mấy năm nay, không thấy về nhà, mà cũng không biết nó ở đâu, cái đó là đứa nào gian trá, hoặc trùng tên trùng họ mà khai liểu khai lĩnh là quê quán ở đây thôi. Rồi lại đút lót tiền khắp cả mọi nơi bây giờ mới thoát thân được. Hiện nay Quan Tư đương treo giải thưởng ba ngàn quan bạc để bắt nó đây kia… Đồ ấy không chết đi, lại còn về nhà này để nói láo hay sao?

Lý Quỳ nói:

– Ca Ca không nên nóng tính, bây giờ anh em ta cùng lên ở núi cả, có thú hơn không?

Lý Đạt cả giận toan xông lại đánh Lý Quỳ, song sợ sức mình yếu đuối không thể nào địch nổi Lý Quỳ. Liền vất lẵng cơm xuống đất, rồi quay đi thẳng.

Lý Quỳ thấy vậy, trong bụng ám tưởng rằng:

– Anh này đi tất là báo người về bắt ta đây, nếu ta không chạy mau, thì khó lòng mà thoát được!.. Ừ…Xưa nay anh ta chưa được trông thấy thoi bạc lớn bao giờ, nay ta để lại đây cho một đĩnh bạc lớn năm mươi lạng, thì khi trở về trông thấy, tất là không đuổi bắt ta nữa.

Nghĩ đoạn liền cởi khăn gói lấy ra một đĩnh bạc rất lớn bỏ ở giường, rồi gọi mẹ mà nói rằng:

– Con xin cõng mẹ đi thôi.

– Con cõng mẹ đi đâu?

– Mẹ bất tất phải hỏi, con cứ cõng mẹ đi, hễ được sung sướng thì thôi….

Nói đoạn cõng mẹ lên lưng, rồi một tay cầm dao bước ra cửa theo lối tắt mà đi.

Suối rừng lặn lội sá chi,

Quyết đem tấc cỏ đền nghìn ba xuân,

Bâng khuâng bước một ngại ngần,

Ai ơi! Hiếu tử trung thần được bao

Bấy giờ Lý Đạt căm giận Lý Quỳ, vội vàng đến báo với tài chủ, đem mấy tên trang khách về nhà để bắt. Khi về tới nơi, thấy Lý Quỳ cùng mẹ đều mất cả, duy còn có đĩnh bạc để chơ vơ ở giữa giường, Lý Đạt liền tự nghĩ một mình rằng: Thằng này để bạc đây, rồi cõng mẹ đi, tất có bọn Lương Sơn Bạc đến đây bàn với hắn, nếu bây giờ ta đuổi, thì không khéo bị nguy chứ chẳng chơi. Thôi, nếu mà nó mang mẹ đi, chắc cũng được là khoái hoạt, không cần gì mà phải đuổi theo cho bận.

Chàng nghĩ vậy, liền bảo với đám trang khách rằng:

– Thiết Ngưu nó cõng mẹ tôi đi, không biết rằng đi vào lối nào? Ở đây đường ngang ngõ tắt cũng nhiều, khó lòng mà tìm được hắn, thôi đành mặc thây hắn là xong.

Bọn trang khách thấy Lý Đạt nói vậy, thì cũng lảng vảng quanh quẩn một lúc, rồi kéo nhau đi cả.

Nói về Lý Quỳ một mình cõng mẹ ra đi, trong bụng còn e sợ Lý Đạt đuổi theo, chàng bèn lặn lội lần theo những đường hẻo lánh trong non, mà không dám thò ra lối rộng. Chàng đi mãi đến tối, mới tới núi Nghi Lĩnh, xung quanh không xó nóc nhà nào ở đó, đành phải cõng mẹ đi sang bên kia núi, để tìm nơi ngủ trọ.

Bấy giờ trăng sao vằng vặc phong cảnh vắng teo, người mẹïthì hai mắt mù lòa, không biết rằng trời đã tối khi Lý Quỳ cõng mẹ đến sườn núi, người mẹ bảo với Lý Quỳ rằng:

– Con ơi! Con kiếm cho mẹ hớp nước để mẹ uống…

– Thưa mẹ, để qua núi này tìm nhà trọ, rồi ăn uống một thể.

– Khốn nạn! Trưa hôm nay mẹ đã ăn cơm khô, bây giờ khát lắm, không chịu được con ạ!

– Vâng, con cũng khát cháy cả cổ đây, nhưng cũng đợi qua núi, thì mới có nước được.

Người mẹ lại kêu rằng:

– Ta chết khát mất con a, con cứu cho mẹ với.

Lý Quỳ lại kêu lên rằng:

– Con cũng mệt lắm rồi, biết làm thế nào được?

Nói đoạn lại mải miết mà cõng mẹ đi lên. Khi lên đến đỉnh núi, thấy bên cạnh cây thông có một phiến đá xanh rất lớn, chàng liền đặt mẹ xuống đó, rồi để thanh đao vào một bên mà dặn mẹ rằng:

– Mẹ dầu lòng ngồi đây một lát, để con đi kiếm nước về mẹ xơi.

Đoạn rồi quay ra nghe thấy xa xa có tiếng suối chảy róc ra róc rách, chàng bèn lần hết chân núi nọ, đến chân núi kia, tìm đến bên khe mà uống nước. Chàng vốc uống xong rồi, không biết làm cách thế nào, để đem nước về cho mẹ uống. Chợt đứng lên trông trước trông sau, thấy gần đấy có một tòa miếu nhỏ, chàng liền víu cây vạch lá để đi tìm đồ múc nước. Khi lên tới nơi, mở cửa ra xem, thì nhận ra là tòa miếu Đại Thánh Tứ Châu, trước cửa có một cái lư hương bằng đá để đó.

Lý Quỳ chạy đến đấy nhắc lên, thì thấy nặng trĩu không nhắc lên được. Chàng cúi xuống nom, té ra một cái lư hương chạm liền mặt cái bệ khá to, chàng liền sốt tiết, bế hẳn cả bệ đá lên, đem đến bên cạnh thềm đá ghè một cái, gẫy hẳn cái lư hương ra ngoài, đoạn rồi xách lư hương xuống núi vơ nắm cỏ, cọ rửa sạch sẽ, rồi múc một lư nước mà đem về cho mẹ. Khi lận đận về đến chỗ hòn đá dưới gốc cây thông, thì bỗng thấy chỉ còn thanh đai ở đó, mà mẹ biến đi đâu mất. Lý Quỳ gọi luôn mấy tiếng “mẹ về xơi nước”. Cũng không thấy tăm hơi đâu cả. Chàng lấy làm kinh ngạc vất lư hương xuống đó, rồi lẩn thẩn đi tìm khắp bốn bên cũng không thấy dấu tích.

Được một lát trông thấy trên vùng cỏ gần đó, có vết máu đầm đìa mới chảy, chàng liền giật mình sợ hãi, mà lần theo vết máu để xem. Khi đi đến cái cửa hang kia, thấy hai con hổ đương gặm một cái đùi người, chàng lấy làm tức bực vô cùng, nói một mình rằng: Ta từ Lương Sơn Bạc về đến cố hương, trăm nghìn vất vả, chỉ cốt để mời được mẫu thân đi, ai ngờ lại đem đến đây cho chúng ăn thịt…Trời ơi! Con hổ đương gặm cái đùi kia, qủa nhiên là đùi mẹ ta rồi…

Nói đến đó, thì máu nóng nổi lên đùng đùng, râu vểnh ngược lên, rồi vác đao xông vào, chém luôn hai con hổ.

Sao cho trọn đạo làm con,

Dẫu rằng thịt nát xương mòn sá chi?

Hai con hổ thấy Lý Quỳ vác đao xông vào, thì cũng nhe lanh giơ vuốt lên chống cự, sau bị Lý Quỳ chém chết một con, còn một con thì chui lọt trong hang mất. Lý Quỳ thấy vậy, nói lên rằng:

– Chính con súc sinh này, mày ăn thịt mẹ ta đây…

Nói đoạn rồi vất đao xuống, rồi rút dao lưng ra. Bấy giờ con hổ cái kia đương đi đến cửa hang, quay đuôi vào khua hang một cái, rồi chui đút đít vào trong hang trước.

Lý Quỳ ngồi trong cạnh hang nom rõ cẩn thận, liền cầm quay mũi dao ra, nhè giữa đít con hổ mà đâm một cái thật mạnh. Dè đâu khiến con dao mạnh quá, đến nỗi cả chuôi dao ngập vào đít con hổ, mà không sao rút ra được, con hổ cái bị một nhát đâm đau quá, bèn nhảy ra cửa hang, rồi nhảy vót ra bến khe, Lý Quỳ thấy vậy, liền vớ ngay thanh đao, rồi đi ra cửa hang để đuổi. Vừa khi ra đến bến gốc cây trước cửa hang, lại thấy một trận cuồng phong đưa đến, làm cho rụng lá cây, như rào rào mưa xuống. Đoạn rồi có tiếng gầm thét rất to, rồi thấy một con hổ bờm trắng ở đâu hiện ra, mà xông vào để vồ lấy Lý Quỳ.

Bấy giờ trăng sáng như đèn, Lý Quỳ trông rõ hẳn hoi, liền ung dung đưa mũi dao lên đó để đón con hổ, hổ ta vừa nhảy chồm vào, thì bị nhay mũi dao đâm trúng vào dưới cổ, liền vội vàng lui ra được mấy bước, rồi lại gầm lên mấy tiếng mà chết ngay ra đấy.

Lý Quỳ giết luôn bốn con hổ, rồi lại vác đao đi vào trong hang, soi bói khắp cả, không còn con nào nữa, mới chịu lui gót ra đi. Bấy giờ nghe trong người cũng đã nhọc nhằn mỏi mệt, chàng liền tìm đến miễu Tứ Châu Đại Thánh nằm ngủ một giấc cho đến sáng.

Sáng hôm sau chàng trở dậy, thu nhặt mấy mảnh xương tàn của mẫu thân, bọc vào một cái áo vải, rồi đem đến sau miếu Tứ Châu Đại Thánh, mà moi đất để chôn. Chôn lấp xong rồi, chàng òa lên khóc thảm thương. Được một lát thì nghe trong bụng đói khát khó chịu, liền khoác khăn gói vác thanh đao, rồi tìm đường đi xuống núi.

Đi được một quãnh, bỗng gặp một bọn năm bảy người phường săn, cũng đi đến đó. Bọn săn trông thấy Lý Quỳ máu me be bét ở quần áo, thì cùng nhau cả kinh mà hỏi lên rằng:

– Bác kia có phải là Sơn Thần hay Thổ Địa ở đây, mà dám đi lững thững một mình vậy?

Lý Quỳ nghe hỏi, trong bụng nghĩ thầm:

– “Hiện nay huyện Nghi Thủy đương thưởng tiền để bắt ta, nế nói thực ra, tất là nguy mất… “

Nghĩ đoạn chàng liền đáp rằng:

– Tôi là hành khách qua đường, đêm qua đi tới núi này, vì mẹ tôi khát nước, phải đi tìm nước về cho mẹ uống. Dè đâu về được đến nơi thì bị hổ ăn mất mẹ, tôi tức mình lần đến hang hùm, giết chết cả bốn con lớn nhỏ, rồi lần vào miếu nằm mãi đến giờ mới dậy đây.

Bọn phường săn nghe nói cho là không thực, liền đáp lại rằng:

– Bác nói lạ! Một mình bác mà giết nổi bốn con hổ…Đến ông Lý Tồn Hiếu, hay là ông Tử Lộ phục sinh, cũng chỉ đánh được một con là cùng. Như hai con hổ con thì không kể, còn hai con hổ lớn thì không thể nói chuyện chơi được…Chúng tôi đây cũng chỉ vì hai con súc sinh ấy, mà bị đòn vọt kể biết bao lần…Trên núi Nghi Lĩnh này từ khi có hai con hổ ấy tới nay ai đã dám đi qua bao giờ…Bác nói lòe chúng tôi, có khi nào chúng tôi tin được?

Lý Quỳ cười nói rằng:

– Tôi là người ở xa đến đây, mà nói lòe các anh để làm gì? Các anh không tin, thì tôi dẫn đi cho mà xem.

Bọn kia hớn hở nói rằng:

– Nếu quả thế thì càng hay lắm, rồi chúng tôi xin trọng thưởng cho bác. Nói xong huýt còi để gọi bọn săn đến.

Một lát thấy bốn năm mươi người, đều vác gậy, móc, gươm, giáo đến, rồi kéo nhau theo Lý Quỳ mà đi lên núi. Khi đi đến hang hổ, quả nhiên thấy một con hổ con chết ở cửa hang, và một con chết ở trong hang, còn con hổ cái thì chết ở bên khe núi, và con hổ đực lớn, thì chết ở gốc cây trước cửa miếu Tứ Châu Đại Thánh. Chúng nom thấy rõ ràng như vậy, thì anh nào anh nấy vui mừng, cùng nhau đem thừng ra trói hổ, khiêng xuống, mời Lý Quỳ nhận tiền thưởng, và nhất diện sai báo cho Lý Trưởng biết.

Bấy giờ Lý Trưởng cùng kỳ mục trong làng đều ra đón tiếp, rồi đem tất cả về nhà một người Đại Hộ trong làng là Tào Thái Công để nghỉ. Lão này vốn là tay Huyện Lại xuất thân nhà cũng hơi giàu có, tính hay nói nghĩa, mà trong bụng thì rất độc ác nham hiểm, xưa nay chỉ kết đảng với lũ đầu bướu, mà vu oan giá vạ kiếm ăn quanh chốn dân gian, ai ai cũng ghét mà không sao động đến bao giờ. Hôm đó lão Tào Thái Công ra tiếp đón Lý Quỳ, mời vào thảo đường ngồi chơi, rồi lân la hỏi chuyện đánh hổ, Lý Quỳ liền đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại hết cho mọi người khác nghe. Chúng nghe nói ai cũng lắc đầu lè lưỡi mà kính phục vô cùng.

Tào Thái Công lại hỏi đến tên tuổi, Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi họ Trương, nguyên trước không có tên, chỉ gọi là Trương Đại Đảm thôi.

Tào Thái Công nghe nói khen rằng:

– Vâng, ngài như thế thì đại đảm (to mật) thực. Nếu không đại đảm thì làm sao giết được bốn con cọp như thế?

Nói đoạn liền sai người nhà làm cơm để thiết đãi, hôm đó các phụ nhữ dân gian nghe nói có một người giết bốn con hổ, khiêng về để ở nhà Tào Thái Công, thì ai nấy nô nức mà kéo nhau đi xem.

Trong đám ấy có người vợ của Lý Quỷ về ở nhà cha mẹ gần đấy, cũng kéo đến để xem. Bấy giờ Thái Công đương thiết rượu Lý Quỳ ở thảo đường, vợ Lý Quỷ trông thấy biết rõ là Lý Quỳ, liền vội vàng về báo với bố mẹ rằng:

– Anh chàng đen lớn đánh hổ ở đằng kia, tức là anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc, vừa mới giết chồng tôi và đốt nhà tôi hôm nọ đấy.

Bố mẹ chị chàng kia nghe nói, lập tức đến báo cho Lý Trưởng biết, Lý Trưởng nói rằng:

– Nếu có phải hắn ta là Lý Quỳ, thì chính là anh chàng đánh chết người ở thôn Bách Trượng ngày xưa rồi. Anh ta trốn tránh giang hồ mãi, mới rồi làm một việc ác phạm rất to, Quan Tư hiện đương thưởng tiền để bắt…Nếu quả thị anh ta ở đấy, thì ta cho mời vào Tào Thái Công lên đây để bàn định xem sao.

Nói đoạn liền sai người mời Tào Thái Công đến có sự rất cần. Khi Tào Thái Công đến nơi, Lý Trưởng nói rằng:

– Anh chàng đánh hổ đó, chính là anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở thôn Bách Trượng bên kia núi đấy. Hiện nay Quan tư đường cho lùng bắt mà chưa được, vậy ta xử ra sao?

Tào Thái Công nói:

– Có phải là đích xác anh ta thì bắt được ngay, có khó gì, chỉ sợ không phải, thì lại lôi thôi đến mình vô ích…ta thử nhận kỹ xem.

Lý Trưởng nói:

– Hiện có vợ Lý Quỷ hắn nhận được mặt kia…Hôm qua anh ta đến nhờ vợ Lý Quỷ nấu cơm rồi giết Lý Quỷ đấy mà.

– Nếu vậy thì cứ thiết rượu anh ta, rồi hỏi anh ta xem định lên huyện lấy thưởng, hay là chỉ định lấy thưởng của hàng thôn. Nếu anh ta không chịu lên huyện lấy thưởng, thì đích xác là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ rồi…Bấy giờ ta sẽ đổ rượu cho uống thực say, rồi trói để đó cho lên huyện báo, thế là vững chắc, chả còn trốn đi đâu được.

Mấy người bàn định xong rồi, Tào Thái Công về trước tiếp đãi Lý Quỳ. Bấy giờ Tào Thái Công mời Lý Quỳ cởi bỏ dao lưng ra, và cất dao đi để uống rượu cho vui.

Lý Quỳ lấy làm thích chí nói rằng:

– Được lắm! Con dao lưng của tôi vẫn còn đâm ở đít con hổ đó, đây chỉ còn có bao dao thôi, lúc nào phanh xác con hổ đó ra ra, thì lấy con dao trả lại cho tôi nhé.

Tào Thái Công vâng lời mà rằng:

– Vâng, cái đó ngài không cần nghĩ đến, nhà tôi cũng có dao tốt, sẽ xin tặng ngài một con để ngài đeo.

Lý Quỳ bèn cởi bao dao và khăn gói mà đưa cho trang khách cất đi, rồi dựng thanh đao vào một bên mà uống rượu.

Bầy giờ Tào Thái Công sai bưng mâm thịt lớn, lấy hồ rượu lớn, chén lớn, rồi Lý Trưởng cùng bọn săn đều lần lượt mà khuyên mời Lý Quỳ.

Một lát Tào Thái Công hỏi Lý Quỳ rằng:

– Nay ngài định cho khiêng hổ xuống huyện lấy thưởng, hay là ngài lấy tiền thưởng ở hàng thôn đây?

Lý Quỳ đáp:

– Tôi là người khách qua đây, đương vội nhiều công việc, không cần đi lấy thưởng ở đâu, các ngài có lòng tặng đãi thế nào cũng được, bằng không thì tôi cũng vui lòng, trừ thú dữ giúp cho…

Tào Thái Công nói:

– Có khi nào lại dám thế, để lát nữa chúng tôi xin thu tiền ở hàng thôn, xin đưa tặng ngài, rồi chúng tôi sẽ đem hổ xuống huyện để lãnh thưỏng.

Lý Quỳ nói:

– Ở đây có cái áo vải nào cho tôi mượn một cái.

Tào Thái Công vâng lời, sai người lấy áo vải xanh ngắn đưa ra cho Lý Quỳ thay. Khi Lý Quỳ thay bỏ quần áo máu me ra, thì bỗng thấy có tiếng trống chiêng kèn sáo ở cửa đi vào, rồi thấy các nhà kéo đến để mời rượu. Bấy giờ Lý Quỳ cứ điềm nhiên mời cốc nào uống cốc ấy, không nhớ gì đến lời Tống Giang dặn khi trước cả. Chàng uống được một lúc thì say sưa lảo đảo chân đứng chân không yên, chúng liền vựa vào nhà trong luôn, mà đặt nằm trên một cái ghế, đoạn rồi thấy chúng lấy dây thừng trói chặt Lý Quỳ vào, mà bảo Lý Trưởng đi lên báo huyện. Lý Trưởng liền làm một lá đơn, và dẫn vợ Lý Quỷ làm nguyên cáo, cùng mọi người nữa đền đến trình huyện.

Tri Huyện nghe báo kinh mà rằng:

– Tên Lý Quỳ là một đứa mưu phản, chớ để cho nó trốn thoát mất mới được.

Chúng bảo thầm:

– Hiện đã trói chặt để ở trong thôn, song sợ anh ta khỏe quá, không ai dám bén mảng tới gần, nên chưa dám giải đi…Vậy xin quan cho lính về bắt giải cho tiện…

Tri Hụyện vội gọi Đô Đầu là Lý Vân đến mà truyền rằng:

– Hiện nay bọn kỳ dịch ở Nghi Lĩnh, đã bắt trói được Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở đó, vậy ngươi phải mang nhiều lính đi, rồi hộ giải cẩn thận mà đem nó về đây, chớ để động dạng đến hương thôn mà lỡ ra nó trốn mất thì nguy…

Lý Đô Đầu vâng lệnh lui ra, tuyển lấy ba mươi tên thổ binh lão luyện, cùng sắm sửa các đồ quân khí mà đi đến Nghi Lĩnh.

Huyện Nghi Thủy vốn là một nơi huyện nhỏ, hễ động có việc gì là lao xao đồn đại, khắp trong huyện ai ai cũng phải biết tin. Bởi vậy sau khi Lý Vân đem lính đi, thì phố phường chợ búa đâu đâu cũng kháo nhau đến chuyện thôn Nghi Lĩnh đã bắt được Lý Quỳ, và quan huyện đã sai Lý Đô Đầu đem lính đi hộ giải mang về.

Bấy giờ Chu Quý đương vơ vẫn ở ngoài cửa nhà Chu Phú, bỗng nghe tin ấy liền vội vàng báo cho Chu Phú biết và nói rằng:

– Tống Công Minh vẫn sợ anh ta đi yên ổn, nên mới sai tôi dò tin tức, nay hắn ta bị bắt như vậy mà mình không cứu được, thì mặt nào về sơn trại mà không thấy Tống Ca Ca, như vậy biết làm sao cho được?

Chu Phú nghĩ một lúc rồi nói rằng:

– Được rồi không cần…Lý Đô Đầu là một người võ nghệ cao cường, ba bốn mươi người cũng khó gần ông ta… ? Huống chi ta có hai người thì làm gì được. Nhưng việc này ta có thể lấy mẹo mà thi hành, thì cũng có phần không sợ; Nguyên trước Lý Vân vẫn thương yêu tôi, thường có dạy tôi học võ, vậy nay ta cứ thi hành kế này, thì có thể được. Nhưng sau đây tất phải bỏ chỗ này mới xong…

Chiều hôm nay ta lấy mươi bình rượu, và nấu lấy vài ba mươi cân thịt, rồi đem cho thuốc mê vào đó, đến sáng mai sẽ gánh ra giữa đường đón ông ta; Đợi khi ông ta giải Lý Quỳ đi qua, sẽ dâng chén rượu mừng, để cho họ mê một lượt, rồi thả cho Lý Quỳ ra, như thế có được không?

Chu Quý khen rằng:

– Được lắm, ta phải làm mau mau mới được.

Chu phú nói:

– Nhưng mà Lý Vân lại không biết uống rượu, dẫu hắn có nhấp vào một tý lại tỉnh ngay ra thì sao? Vả chăng lỡ ra sau này hắn biết thì ở đây sao được?

Chu Quý nói rằng:

– Cần gì, em ở đây bán rượu cũng không ăn thua. Bất nhược đem cả vợ con lên Lương Sơn Bạc ở với ta, mà chia của vải vóc nhiễu, có sướng hơn không? Đêm nay cứ bảo người nhà thuê xe, cho vợ con xếp hết đồ đạc, để sáng mai cùng đợi nhau ở ngoài mười dặm, mà cùng đi cả cho xong. Trong bọc của ta có ít thuốc mê kia, đem làm ngay đi mới được. Nếu Lý Vân không biết uống rượu thì ta mời ăn thêm mấy miếng thịt cũng đủ mê rồi, mà cũng đủ cứu Lý Quỳ, đem về sơn trại rồi, cần gì?

Chu Phú vâng lời, liền cho người gọi một cỗ xe, xếp dẹp gói ghém hòm siểng đặt cả lên xe, còn các đồ vô dụng, thì bỏ lại cả đó. Đoạn rồi cho vợ con lên cả trên xe, mà dặn người nhà theo xe ra đi trước.

Bấy giờ hai anh em Chu Phú, Chu Quý đem thịt nấu thái ra từng miếng lấy hai gánh rượu cho cả thuốc mê vào, và sắp sẵn các đồ hoa quả ra để đó. Vào khoảng canh tư hai anh em gánh cả ra nơi đường núi vắng vẻ mà ngồi đợi Lý Vân. Khi mặt trời vừa sáng, xa nghe tiếng thanh la rộn rịp, rồi thấy Lý Vân dẫn bọn thổ binh giải Lý Quỳ đến.

Nguyên đêm hôm ấy bọn thổ binh chè chén ở trong thôn nói say rồi, đến canh tư mới trói Lý Quỳ, mà theo Lý Vân giải về huyện.

Bấy giờ Lý Đô Đầu cưỡi ngựa đi sau, để cho bọn thổ binh cùng huynh dịch trong thôn, dong Lý Quỳ đi trước. Khi đến chỗ vắng vẻ Chu Phú liền đến trước ngựa Lý Đô Đầu mà nói rằng:

– Dám bẩm sư phụ, tiểu đồ có lòng thành kính, đón đợi ở đây, để dâng mấy chén tiếp phong, vậy xin sư phụ dừng chân mà chứng giám cho.

Nói đoạn liền múc chén rượu dâng lên Lý Vân. Đoạn rồi Chu Quý đem mâm thịt, và bọn người nhà bưng hoa quả lên.

Lý Vân thấy vậy, vội vàng nhảy xuống ngựa mà nói rằng:

– Hiền đệ làm chi quá phiền như thế?

Chu Phú nói:

– Dám bẩm sư phụ: Chúng tôi gọi là tỏ lòng thành kính xin ngài nhận cho…

Lý Vân nể lòng nhận lời, cất lấy chén rượu xong, không hề nhấp một chút nào.

Chu Phú lại quỳ xuống mà nói rằng:

– Tiểu đồ vốn biết tính sư phụ, không xơi rượu xưa nay, song hiện nay là chén rượu mừng, xin ngài nhận cho nửa chén làm vui.

Lý Vân không thể từ chối được, bất đắc dĩ phải nâng chén rượu mà uống hai hớp cho Chu Phú bằng lòng, Chu Phú lại nói.

– Sư phụ không hay xơi rượu, xin ngài nhắm vài miếng thịt cho đỡ say.

Lý Vân từ chối rằng:

– Tôi xin vô phép, hiện tôi ăn uống hãy còn no lắm.

Chu Phú lại nói:

– Sư phụ xơi cơm từ đêm bây giờ đi đường cũng đã đói rồi, xin ngài xơi tạm mấy miếng thịt cho chúng tôi mừng lòng.

Nói xong liền chọn hai miếng thịt ngon đưa lên để mời. Lý Vân thấy Chu Phú ân cần như vậy, lại phải nể lòng mà ăn luôn hai miếng thịt.

Đoạn rồi Chu Phú đem rượu mời tất cả đám huynh địch, cùng lũ đi săn, mỗi người đều uống luôn ba chén, còn Chu Quý thì đem mồi cho bọn thổ binh uống. Bấy giờ lũ kia xúm lại để ăn uống, còn một mình Lý Quỳ nằm trói tròn ở đó, mở mắt trông thấy rõ hai anh em Chu Phú, Chu Quý đương đứng để mời rượu, thì trong lòng biết ngay là mưu kế, liền giả vờ kêu lên rằng:

– Các ông cho tôi ăn uống với…

Chu Quý nghe nói cũng giả vờ quát lên rằng:

– Mày là một thằng bội bạc, ai thừa thịt rượu mà cho mày được? Im mồm đi thôi.

Khi ăn uống xong rồi, Lý Vân quay lại thét bọn thổ binh, cùng mọi người mà thúc giục ra đi. Dè đâu trông thấy bọn thổ binh cùng mọi người đều đã thấy anh nào anh nấy đờ mặt ngây người, nhìn nhau mà ngã vật lảo đảo ra đó.

Lý Vân thấy vậy, vội quát lên rằng:

– Trúng kế rồi. Chàng nói xong, vừa toan chạy đến để xem, thì bỗng thấy tự mình cũng lờ đờ nghiêng ngả, mà nằm vật ra đất.

Bấy giờ Chu Phú, Chu Quý đến giơ đao mà quát lên rằng:

– Lũ chúng bây đừng chạy nữa…

Nói đoạn liền đuổi đám trang khách chưa được uống rượu, mà chém bừa cả đi, duy còn anh nào chạy nhanh thì mới thoát được.

Lý Quỳ thấy vậy cũng quát lên một tiếng, cựa mình đứt cả dây trói, rồi trở dậy cướp thanh đao mà toan xông đến để chém Lý Vân, Chu Phú vội vàng ngăn lại mà bảo Lý Quỳ rằng:

– Không thể được, người ấy là sư phụ tôi đó, không thể giết được…Cứ chạy đi cho thoát thôi.

Lý Quỳ nói:

– Nhưng còn Tào Thái Công chưa giết được thì chưa hả lòng. Nói đoạn liền vác đao đến chém Tào Thái Công, vợ Lý Quỷ cùng Lý Trưởng ở đó. Bấy giờ máu nóng càng hăng, sẵn dao ở tay bèn đến thổ binh cùng mấy anh phường sẵn mà chém suốt một lượt rồi lại quay ra toan tìm lũ chạy trốn để chém.

Chu Phú quát lên rằng:

– Thôi, không can thiệp gì đến người ta, không nên giết liều thế nữa.

Lý Quỳ nghe Chu Phú mới ngừng tay không giết, đến đám thổ binh bóc lột mấy cái quần để mặc, rồi ba người cùng vác đao quay ra để đi.

Chu Phú chợt bảo với hai người rằng:

– Hỏng, ta làm thế này thì nguy cho sư phụ mất…Khi ông ta tỉnh dậy, tất nhiên không dám về huyện mà đuổi chúng ta hẳn…Hay các anh cứ đi trước, để tôi đợi ông ta một lúc vậy. Ông ta không những là có ân nghĩa dậy tôi ngày trước, vả chăng lại làm người trung thực đáng kính, tôi xin đợi đây, khi ông ta đuổi rồi, tôi sẽ rủ lên Lương Sơn, mà nhập bọn một thể cho xong.

Chu Quý nói:

– Được lắm, em với Lý Huynh cứ đợi đây, để tôi theo đám xe một mình vậy.

Nói đoạn liền xăm xăm ra đi trước.

Bấy giờ Chu Phú và Lý Quỳ ngồi đợi bên đường; Được một lát quả nhiên Lý Vân tay vác thanh đao, hất ha hất hải đuổi theo mà kêu lên rằng:

– Lũ giặc kia muốn sống thì đừng chạy nữa!

Lý Quỳ thấy Lý Vân ra dáng dữ tợn hung hăng, liền bỏ mặc Chu Phú vác đao ra đánh với Lý Vân.

Mới hay:

Sóng đời mấy đạo xông pha,

Liều thân vì nước vì nhà tới đây?

Trời công kia lẽ có hay,

Bỗng đem oan nghiệt trói tay anh chàng!

Sinh thành thôi đã phụ công,

Từ đây ngang dọc non sông tha hồ…

Lời bàn của Thánh Thán:

Theo Nho giáo Trung Thứ vốn đạo làm người, Trung làm theo đúng lòng mình, Thứ, coi lòng người khác cũng như lòng mình, ai chả muốn hay ai không muốn tốt, Trung Thứ vốn đạo nhất quán của nho Tông.

Chưa có ai Trung rồi mà chẳng Thứ. Trái lại kẻ chẳng Thứ có đâu Trung? Xem Tống Giang chẳng muốn Lý Quỳ về đón mẹ, tức đã không hiếu thuận với cha rồi, đấy kinh nghiệm chẳng Thứ tất không Trung vậy. Lại xem Lý Quỳ nhớ mẹ một lòng, đã đoán ra con người không giết kẻ nuôi mẹ, đấy kinh nghiệm đã Trung bao giờ cũng Thứ.

Hồi này từng chỗ đem Tống Giang, Lý Quỳ hai người tương hình đối tả, muốn cho rõ ác của Tống Giang ra, vốn không bàn vậy. Tại sao coi nhẹ hai chữ Trung Thứ đánh giá Lý Quỳ? Lại không biết, Trung Thứ tính trời, già tám mươi tuổi còn nói là chưa làm nổi được, thế mà đầy tuổi tôi oa oa có thể y theo, mới đem hai chữ Trung Thứ cho Lý Quỳ kia cho rõ Trung Thứ để theo, không phải Lý Quỳ không làm theo nổi.

Tống Giang đón cha, trong thôn găp thần, Lý Quỳ đón mẹ, trong rừng gặp hổ, hai vế đối nhau.

Tống Giang trong lòng đen tối, đón cha gặp được Huyền Nữ. Lý Quỳ trong lòng sơn thắm, đón mẹ gặp Bạch Thỏ, lại đôi vế đối nhau.

Tống Giang gặp thần, nhận ba cuốn Thiên Thư. Lý Quỳ gặp hổ, thấy hai tay bản phủ, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang gặp Thiên Thư, chính tự mình đem đi. Lý Quỳ có đại phủ lại không tự đem đi, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang đến điều không thực, Lý Quỳ bỗng đâu có giả, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang đón cha được ăn táo; Lý Quỳ đón mẹ được ăn thịt Quỷ, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang có cha chẳng muốn con làm cường đạo; Lý Quỳ có mẹ chẳng được thấy con làm quan, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang có cha chẳng nỡ thấy con cường đạo. Lý Quỳ có mẹ chẳng ngờ chết với hùm beo, lại hai vế đối nhau.

Tống Giang khi đón cha về, đem cuốn giả thư. Lý Quỳ khi đón mẹ về, dẫn hai kẻ chân hổ (Chu Phú, Lý Quỳ), lại hai vế đối nhau.

Cha Tống Giang sống không bằng chết. Mẹ Lý Quỳ chết hay hơn sống, lại hai vế đối nhau. Tống Giang có em theo giặc; Lý Quỳ có anh lương dân, lại hai vế đối nhau. Hồi thứ hai mươi hai tả Võ Tòng đả hổ, kể đã gớm ghê, chợt đâu thiên này tả Lý Quỳ một đêm giết bốn hổ lại càng kinh khiếp! Từng câu từng chữ diễn tả ra xuất sắc, hai người thấy khác nhau, bút mực tả ra xuất diệu nhập thần, đến thế không còn gì hơn nữa.

Hồi 43: Cẩm Bảo Tử ngõ hẻm gặp Đới Tung – Bệnh Quan Sách, dương oai gặp Thạch Tú

Khi đó Lý Quỳ xông ra đánh nhau với Lý Vân, vừa được dăm bảy hiệp, thì Chu Phú đã vác dao ra ngăn giữ hai bên mà nói lên rằng:

– Khoan, hãy khoa, nghe tôi nói đã.

Lý Quỳ cùng Lý Vân đều dừng tay lại, Chu Phú nói rằng:

– Xin sư phụ nghe lời tôi nói: Tôi đây nhờ ơn sư phụ dạy bảo đã nhiều, trong lòng nào phải không biết ơn sư phụ, song lúc này anh tôi là Chu Quý, hiện đương làm Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, nay vâng tướng lệnh của Cập Thời Vũ Tống Công Minh, đi theo Lý Quỳ đến ở đất này. Song chẳng may mới rồi Lý Quỳ bị bắt, anh tôi sợ về Lương Sơn không biết nói với Tống Công Minh thế nào cho được. Bởi vậy chúng tôi phải làm như thế, để cứu lấu Lý Ca Ca cho thoát nạn.

Vừa rồi Lý Ca Ca toan sát hại sư phụ, song chúng tôi không cho như thế, nhất định không nghe hắn, để đợi sư phụ tỉnh rồi sẽ thưa chuyện. Tiểu đồ thiết tưởng sư phụ là bậc thông minh hiểu biết, chắc rằng cũng đã xét đoán trong lòng, vậy hiện nay sư phụ đã đánh sổng mất Lý Quỳ, và đã làm chết hại bao người ở đó, thì phỏng chừng sư phụ có trở về huyện lị được không? Điều đó chắc là nguy lắm. Vậy bất nhược tiện đây sư phụ lến Lương Sơn Bạc cùng chúng tôi, để nhập bọn với Tống Công Minh, thì lại là thượng sách? Chẳng hay sư phụ nghĩ sao.

Lý Vân ngần ngại một lát, rồi bảo với Chu Phú rằng:

– Nhưng mà hiền đệ ơi! Chỉ sợ họ không dung bọn mình mà thôi.

Chu Phú cười mà rằng:

– Chết nỗi! Sư phụ không biết tiếng Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, là người trọng nghĩa sơ tìa, chỉ hay chiêu hiền nạp sĩ xưa nay hay sao?

Lý Vân nghe nói thở dài một tiếng mà rằng:

– Bây giờ có nước không được về, có nhà không được ở, còn biết làm sao cho tiện… ! May mà tôi đây chưa có vợ con bận rộn, không còn ai liên lụy đến thân, cũng không sợ gì Quan Tư bắt bớ…Thôi thì xuống đất lên trời đi đâu cũng xin theo một thể.

Bấy giờ Lý Quỳ cười mà bảo rằng:

– Thế mà Ca Ca không bảo cho Lý Quỳ trước, có phải là chào nhau vui vẻ…khỏi phải đánh nhau không?

Nói đoạn Lý Vân cùng hai người, rảo bước đi theo Chu Quý. Đi đến nửa đường bốn người cùng gặp nhau, rồi cùng áp xa trượng trở về Lương Sơn Bạc. Khi về gần đến Lương Sơn, thì bỗng gặp Mã Lân, Trịnh Thiên Thọ, đương đi đón. Hai người cùng báo với Chu Quý rằng:

– Tiều Đầu Lĩnh với Tống Đầu Lĩnh, thấy các bác đi lâu, cho nên phải cho chúng tôi đi theo để dò thăm tin tức…Nay các bác đã về tới đây, vậy chúng tôi phải xin về báo cho hai ngài biết trước…

Nói đoạn hai người cùng về trước.

Đến hôm sau bốn vị hảo hán cùng gia quyến Chu Quý đều tới Lương Sơn Bạc, Chu Quý liền dẫn cả vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi đưa Lý Vân vào chào Tống Giang và Tiều Cái, cùng các vị Đầu Lĩnh trước, mà giời thiệu rằng:

– Ông này là Lý Vân, biệt hiệu là Thanh Nhỡn Hổ, vốn là Đô Đầu ở huyện Nghi Thủy xưa nay.

 Dương Lâm vâng lời bảo làm cơm chay hai người cùng ăn, rồi đi nghỉ với nhau.

Sáng hôm sau hai người lại dậy sớm ăn cơm uống nước rồi sắp sửa cùng đi.

Dương Lâm nói với với Đới Tung rằng:

– Nhân huynh dùng phép Thần Hành để đi, thì tiểu đệ làm sao theo cho kịp được?

Đới Tung cười mà bảo rằng:

– Phép Thần Hành của tôi có thể đem cả người khác theo cũng được, nay tôi buộc cho bác hai miếng giáp mã vào chân, rồi làm phép cẩn thận, thì bác đi đứng cũng được nhanh nhẹn như tôi, không khác gì cả. Không thế thì theo thế nào cho kịp tôi.

– Chỉ sợ tiểu đệ là người phàm tục, không thể nào làm thế nào được thì sao?

– Không hề chi? Phép này tôi thường để đem người ta đi luôn luôn…Duy trong khi đi, phải ăn chay mới được.

Nói đoạn liền đem theo hai miếng giáp mã buộc vào chân cho Dương Lâm, và buộc hai miếng vào chân mình mà làm phép Thần Hành để cùng nhau ra đi. Trong khi đi đường, hai người cùng nhau kể chuyên giang hồ, rất là vui thú. Trưa hôm ấy, đi đến một con đường trạm, chung quanh toàn thị núi lớn non cao, Dương Lâm bảo với Đới Tung rằng:

– Ca Ca ơi! Trước mặt chỗ này có một tòa núi cao to đẹp, sơn thủy hữu tình, tục gọi là Ẩm Mã Xuyên, xưa nay vẫn có một bọn cướp to ở đó, song không biết bây giờ thế nào?

– Hai người vừa nói chuyện, vừa đi đến bên núi, thì chợt thấy có tiếng trống ầm ĩ, rồi có một bọn hơn trăm lâu la, kéo ra chận ngang lấy giữa lối đường đi. Trong bọn đó có hai tay hảo hán, mỗi người cầm một thanh đao quát lên:

– Hai người nào? Đi đầu kia, hãy dừng lại đã. Biết điều để tiền mãi lộ đó, ta sẽ tha cho…

Dương Lâm nghe nói cười bảo Đới Tung rằng:

– Ca Ca đứng đó, để tôi giết hai thằng xuẩn hán này cho Ca Ca xem.

Nói rồi múa gươm xông vào để đánh. Hai hảo hán kia thấy thế lực Dương Lâm hùng dũng, thì đều chạy đến để xem, rồi có một anh nói lên rằng:

– Hãy khoan, người này có phảilà Dương Lâm Ca Ca đó chăng?

Bấy giờ Dương Lâm dừng tay lại, nhìn kỹ hai người mới biết là quen thuộc. Hai người ấy trông rõ Dương Lâm, thì cũng vui mừng hớn hở, rồi bảo nhau cùng đến vái chào.

Dương Lâm liền gọi Đới Tung mà bảo rằng:

– Mời huynh trưởng hãy đến đây, để nói chuyện với hai anh em ông này đã.

Đới Tung hỏi:

– Hai vị tráng sĩ này là ai? Sao lại biết được hiền đệ?

Dương Lâm trỏ vào người đứng trên mà bảo với Đới Tung rằng:

– Ông này là người ở phủ Tương Dương, họ Đặng tên Phi, vì hai con mắt đo đỏ, nên người ta thường gọi là Hỏa Nhỡn Toan Nghê (Sư tử mắt đỏ), ông ta khiến cây thiết liên rất giỏi không mấy người là dám đến gần. Anh em đã xa nhau năm năm mà không được gặp, hôm nay cũng là bất ý, không ngờ lại gặp ở đây…

Nói đến đó, thì Đặng Phi hỏi ngay Dương Lâm rằng:

– Vị quan trưởng này là ai? Tất không phải là bậc tầm thường hẳn?

Dương Lâm nói:

– Vị nhân huynh đây là Thần Hành Thái Bảo cùng bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc đấy.

Đặng Phi lại hỏi:

– Có phải ngài là Đới Viện Trưởng, đã có tiếng trong đám giang hồ, đi nhanh một ngày tám trăm dặm đó chăng?

Đới Tung đáp rằng:

– Vâng, chính là tôi đây…

Hai người kia nghe nói, vội vàng cúi chào mà rằng:

– Chúng tôi nghe tiếng ngài đã lâu, nay được gặp đây thực là may mắn lắm.

Đới Tung vội đáp lễ mà hỏi rằng:

– Còn ngài này là ai, xin cho tôi biết?

Đặng Phi nói rằng:

– Người này là anh em tôi, họ Mạnh tên Khang, người châu Chân Định, có nghề đóng thuyền rất giỏi. Dạo trước vì việc nhà nước lấy đá hoa, bắt đóng thuyền lớn, sau bị Quan Tư trách phạt, anh ta liền nóng máu giết ngay bản quan, rồi trốn tránh giang hồ trong mấy năm dòng dã, vì anh ta người cao lớn trắng trẻo, nên người ta thường gọi Ngọc Phan Can Mạch Khang.

Đới Tung nghe nói cả mừng, rồi cùng nhau chụyện trò rất là tương đắc. Dương Lâm bèn hỏi hai người kia rằng:

– Hai bác tụ nghĩa với nhau được bao nhiêu lâu rồi?

Đặng Phi đáp rằng:

– Chúng tôi đến đây đã được hơn một năm rồi. Hồi nửa năm trước có một người họ Bùi tên Tuyên, nguyên người phủ Kinh Triệu, làm chức Khổng Mục ở phủ ấy, rất là thông minh trung trực, một ly không hề xâm phạm của ai, người phủ vẫn gọi ông ta là Thiết Diện Khổng Mục (Khổng Mục mặt sắt), ông ta lại giỏi nghề quyền võ đao thương, trí dũng có thừa, sau vì triều đình sai một quan tham tàn đến đó, liền bắt ông ta đày ra đảo Sa Môn. Khi đi qua đây, chúng tôi liền giết hai tên công sai, rồi cứu ông ta, mời lên núi lưu lại để làm chủ trại. Ông ta múa song kiếm rất tài, hiện bây giờ đương ở trong sơn trại. Vậy xin đón hai vị nghĩa sĩ qua chơi một lát cho vui.

Nói đoạn sai tiểu lâu la dắt ngựa đến để mời Đới Tung, Dương Lâm lên trại. Đới Tung, Dương Lâm tháo giáp mã ra, rồi cùng lên ngựa, mà theo hai người kia cùng đi. Được một lát đi đến trước cửa trại, bốn người cùng xuống ngựa đi vào. Bấy giờ Bùi Tuyên nghe báo, liền ra cổn g đón tiếp Đới Tung, Dương Lâm mà mời vào trong Sảnh Tụ Nghĩa.

Đới Tung thấy Bùi Tuyên quả nhiên tướng mạo đường đường, mặt mày trắng trẻo, thì trong lòng lấy làm vui mừng vô hạn.

Khi vào tới Tụ Nghĩa Sảnh, Bùi Tuyên mời Đới Tung ngồi giữa: Dương Lâm ngồi thứ nhì, còn Đặng Phi với Mạnh Khang thì ngồi dưới. Đoạn rồi sai làm tiệc lên để thiết đãi. Trong khi dự tiệc Đới Tung đem hết chuyện trọng nghĩa khinh tài của Tiều Cái, Tống Giang, tấm lòng liêu lạc của các vị Đầu Lĩnh trong Lương Sơn Bạc, cùng là địa thế tình hình ở đất Lương Sơn, kể cho mọi người nghe, và khuyên nhủ Bùi Tuyên cùng vào đấy nhập đảng.

Bùi Tuyên có ý cảm phục mà rằng:

– Chúng tôi ở đây tuy không có gì, song cũng đã trù tính được vài ba trăm cỗ ngựa, vài mươi xe của cải và cũng được dăm ba tiểu lâu la cùng lương thảo có được ít nhiều. Vậy ngài có lòng yên để giới thiệu cho chúng tôi được theo đòi lên sơn trại, thì còn gì hơn nữa.

Đới Tung cũng cả mừng mà rằng:

– Tiều Thiên Vương cùng Tống Công Minh tôi đối đãi với người ta, hông hề có chút gì là khác dạ, nay được các ngài tới đó, thì thực là thêu gấm thêm hoa, ai không lấy làm quý hóa, vậy xin các ngài cứ thu thập hanh lý trước, đợi khi tôi cùng Dương Lâm sang Kế Châu tìm Công Tôn Thắng Tiên Sinh về đây, rồi ta sẽ kéo nhau đi cả cho vui.

Chúng đều cả mừng, cùng ngồi uống rượu với nhau, đến khi gần sáng mới dọn vào Đoạn Kim Đình để ngồi.

Khi vào tới nơi, Đới Tung nom khắp phong cảnh Ẩm Mã Xuyên, rồi nức nở khen rằng:

– Chỗ này thực là non cao nước cuốn, đẹp đẽ vô cùng, hai ngài làm gì mà lại được chỗ sơn thủy đẹp đẽ như thế?

Đặng Phi đáp rằng:

– Chỗ này nguyên trước có mấy thằng ngư xuẩn ở với nhau, sau anh em tôi mới đánh cướp mà chiếm lấy ở đây.

Nói đoạn cùng nhau cười ồ cả lên, rồi lại ngồi xuống đánh chén. Bùi Tuyên đứng dậy, múa song kiếm để uống rượu cho vui, Đới Tung thấy vậy khen ngợi luôn mồm. Đoạn rồi chiều hôm ấy Đới Tung cùng Dương Lâm đều nghỉ chơi ở trong sơn trại.

Sáng hôm sau Đới Tung xin phép để cùng với Dương Lâm ra đi. Ba vị hảo hán hết lòng cầm giữ không được, đành phải đưa chân xuống núi, rồi trở về thu thập để đợi kỳ cùng lên sơn trại.

Bấy giờ Đới Tung cùng Dương Lâm từ giã đất Ẩm Mã Xuyên, rồi cùng nhau đi ròng rã hơn mấy hôm trời, mới tới thành Kế Châu. Khi tới nơi tìm vào hàng cơm yên nghỉ.

Dương Lâm bảo với Đới Tung rằng:

– Công Tôn Thắng Tiên Sinh là một người tu hành học đạo, tất nhiên là ở chốn sơn lâm tĩnh mịïch, chứ không khi nào chịu ở trong thành, vậy ta nên tìm hỏi ở ngoài có lẽ tiện hơn.

Đới Tung nghe nói khen phải, bèn cùng nhau lần mò khắp cả ngoài thành, để dò hỏi thăm nhà Công Tôn Thắng. Hai người thăm hỏi suốt một ngày trời, không hề gặp ai biết nhà Công Tôn Thắng.

Sáng hôm sau lại kéo nhau đến khắp xóm làng phố sá ở quanh đó, mà hỏi han, song không ai biết đến. Đến ngày thứ ba, Đới Tung bảo với Dương Lâm rằng:

– Ta cứ vào trong thành, họa may có người biết được ông ta cũng nên.

Nói đoạn hai người cùng vào trong thành Kế Châu để hỏi. Khi vào tới nơi, tìm mấy người già cả để hỏi, có người nói là có lẽ ông ta ở núi to chùa lớn, ở ngoài thành chứ trong thành thì không thấy có.

Đới Tung, Dương Lâm nghe nói, lại cùng nhau vơ vẫn loanh quanh, không biết vào đâu mà thăm hỏi. Khi hai người đương đi trên phố, bỗng nghe có tiếng kèn trống vang lừng, rồi thấy một đám rước con con đi đến.

Trong đám rước có hai tên lính coi ngục đi trước. Một tên mang các đồ lễ vật hoa hồng, và một tên bưng các đồ vóc đoạn thuê vẽ. Rồi có một người áp ngục tướng mạo đường hoàng, mình lộ những nét hoa rực rỡ, mày ngài mắt phượng, nét mặt hơi vàng, có mấy hàng râu lún phún, che lọng đi sau.

Người này họ Dương tên Hùng, nguyên quán đất Hà nam, nhân theo một người anh em họ sang làm Tri Phủ Kế Châu, rồi loanh quanh lưu lạc ở đó. Sau có một ông ông Tri Phủ mới đến, nhân biết Dương Hùng, liền cho làm Áp ngục lưỡng viện, và kiếm cả chức việc hành hình. Dương Hùng võ nghệ rất khá, nết mặt hơi vàng, nên người ta thường gọi là Bệnh Quan Sách Dương Hùng. Bấy giờ Dương Hùng vừa mới đi xử trảm ở pháp trường về; có một tên ngục tốt vác thanh đao đi sau, và các người quen biết, đều mang lễ vật ra mừng rất nhiều.Khi qua phía trước mặt Đới Tung thấy có một đám người ra để nâng chén mừng. Đoạn rồi bên kia đường có một toán bảy tám người cũng lẻn ra trước mặt Dương Hùng.

Bọn này có một anh đi đầu, tên là Tích Sát Dương Trương Bảo, vốn là quân coi giữ thành trì ở đất Kế Châu, sau thường dắt đám vô lại đi kiếm chác tiền nong, để chơi bời phung phí, Quan Tư cấm mãi không xong.

Trương Bảo vốn biết Dương Hùng ở nơi khác đến đó, mới có lòng khinh bỉ mà không coi vào đâu, hôm đó thấy Dương Hùng được nhiều người đưa các đồ vóc đoạn, nên dắt mấy thằng vô lại đánh chén ngà say, rồi đến đó để toan sinh sự. Bấy giờ Trương Bảo gạt rẽ đám đông người ra, rồi đến trước mặt Dương Hùng mà kêu lên rằng:

– Xin chào Tiết Cấp.

Dương Hùng thấy vậy, liền đáp rằng:

– Không dám, mời Đại Ca đến xơi rượu.

Trương Bảo nói:

– Tôi đây không cần uống rượu, chỉ đến vay Tiết Cấp dăm bảy chục quan tiền để tiên thôi.

Dương Hùng cười rằng:

– Tôi xưa nay tuy có biết Đại Ca, song chưa từng giao thiệp đến tiền nong bao giờ, sao Đại Ca lại hỏi như thế?

– Bác bây giờ lừa dối được nhiều tài vật của dân chúng như vậy, phải cho tôi mượn mới được chứ…

– Không, cái đó do người ta có lòng tốt mang đến cho tôi, sao lại bảo là lừa dối được. Anh đừng đến đây nói càn, tôi với đám quân vệ các anh có can thiệp gì?

Trương Bảo lặng ngắt không trả lời, rồi ra bảo bọn kia xông vào mà cướp lấy các đồ mừng.

Dương Hùng thấy vậy thét lên rằng:

– Quân này vô lễ thực… !

Nói đoạn toan xông lại để đánh mấy đứa cướp đồ. Dè đâu Trương Bảo ôm chặt lấy bụng, rồi đằng sau có hai đứa ông chặt lấy tay, không làm sao mà cựa được.Bọn lính canh ngục thấy vậy, đều kinh sợ bỏ chạy mất cả.

Khi đó có một đại hán gánh một gánh củi, vừa đi đến đó; Đai Hán thấy bọn kia giữ chặt lấy Dương Hùng, thì đặt ngay gánh củi xuống, rồi gạt rẽ người ra mà xông vào can rằng:

– Các anh này làm sao lại giằng co với Tiết Cấp như thế?

Trương Bảo quay lại quắc mắt lên mà rằng:

– Thằng ăn mày này, việc gì đến mày, mà mầy dám hỏi chúng tao?

Đại Hán nghe nói cả giận, liền giơ tay tát Trương Bảo một cái ngã lăn xuống đất, mấy đứa kia thấy vạy, vừa toan túm lại để đánh, bất đồ bị Đại Hán tông cho mỗi đứa một quả đậm, ngã xiêu vẹo ra cả.

Bấy giờ Dương Hùng mới được thoát thân, liền dỡ tài nghệ mà đánh cho bọn kia, không còn anh nào mà ngóc đầu lên được. Trương Bảo thấy thế nguy bách, liền bò dậy theo mấy anh cướp đồ mà chạy thẳng. Dương Hùng lấy làm tức giận, cũng đuổi theo vào trong ngõ để bắt.

Bấy giờ Đại Hán kia vẫn còn hăng hái, đánh đập mọi người ở trên đường cái, Đới Tung, Dương Lâm thấy vậy, lấy làm kính phục mà khen rằng:

– Giữa đường thấy sự bất bình, mà cũng tuốt gươm ra sức, thế mới thực là hảo hán.

Nói đoạn liền cùng can Đại Hán kia mà nói rằng:

– Xin hảo hán khoan tay, tên thủ phạm đã chạy mất rồi, còn đánh đập làm chi cho mệt, hảo hán đến đằng kia nói chuyện cho vui.

Đoạn rồi Dương Lâm gánh đỡ gánh củi, còn Đới Tung thì dắt tay hảo hán mà mời bào trong tửu điếm. Khi tới nơi dla đặt gánh củi ở trước cửa, rồi ba người cùng vào trong, tìm chỗ để ngồi.

Đại Hán kia chấp tay nói rằng:

– Xin cảm tạ hai người, sao ngài lại có lòng hạ cố đến tôi như thế?

Đới Tung đáp rằng:

– Anh em chúng tôi thấy ngài là bậc nghĩa khí, giữa đường trừ việc bất bình, chỉ e khi lỡ quá tay đến nỗi thiệt hại đến nhân mạng, nên chúng tôi muốn mời ngài đến đây, xơi mấy chén rượu để nói chuyện nhân thể.

Đại Hán kia lại cảm tạ mà rằng:

– Các ngài có lòng cản ngăn, lại cho vào đây ăn uống thực là quá đáng.

Dương Lâm nói:

– Chúng tôi đây là bốn bể anh em cả, có làm chi mà ngài phải nói thế? Xin mời ngài ngồi.

Nói rồi hai người nhường Đại Hán ngồi trên, Đai Hán khiêm tốn hồi lâu, rồi Đới Tung, Dương Lâm ngồi về một vế và mời Đại Hán ngồi một bên. Đoạn rồi Dương Lâm lấy một lạng bạc đưa cho tửu bảo, sai dọn rượu lên để ba người cùng uống.

Khi uống được vài tuần rượu, Đới Tung hỏi người kia rằng:

– Dám thưa tráng sĩ quý quân ở đâu, cao tính đại danh là gì, xin cho tôi biết?

Người kia đáp rằng:

– Chúng tôi họ Thạch tên Tú, quê ở phủ Kim Lăng, từ thuở nhỏ theo đòi võ nghẹ, tính thích trừ những việc bất bình. Ai ai cũng gọi là Tiểu Mạnh Tam Lang. Sau theo chú đi buôn ngựa, bất đồ giữa đường chú mất tiêu hết tiền nong, đành phải lưu lại ở đất Kế Châu mà hái củi kiếm ăn cho qua ngày tháng. Nay gặp các ngài đây, dám xin hỏi các ngài ở đâu?

Đới Tung đáp:

– Hai anh em chúng tôi ở phương xa tới đây, có chút việc riêng nhận thấy tráng sĩ là một người hào kiệt, đành chịu bán củi kiếm ăn, thì bao giờ cho được phát đạt? Vậy bất nhược liều thân dấn với giang hồ, mà hưởng sự khoái hoạt sau này có thú hơn không?

– Tôi chỉ biết mấy miếng còn quyền, thì làm gì mà phát đạt với khoái họat được?

– Thời buổi này đương lúc mơ màng lốn thốn, triều đình đã chẳng ra gì, mà gian thần lại càng lộng, kẻ hay người dở nào ai đã phân biệt được ai; Vậy tôi thiết tưởng ngài nên đến Lương Sơn Bạc, nhập bọn với Tống Công Minh mà chia vàng sẻ áo, đợi lúc triều đình chiêu an, sẽ cùng về quy phục, như thế có hợp lẽ hay hơn.

Thạch Tú thở dài mà rằng:

– Tiểu đệ cũng có ý thế, nhưng nào ai tiến cử lên cho.

Đới Tung nói:

– Nếu tráng sĩ muốn đi, thì tôi xin tiến dẫn cũng được.

– Chẳng hay quý tính cao danh hai ngài là gì?

– Tôi là Đới Tung làm Viện Trưởng ở Giang Châu khi trước, còn người anh tôi đây là Dương Lâm…

– Vậy ngài có phải là Thần Hành Thái Bảo đã từng có tiếng giang hồ xưa nay hẳn?

– Vâng, chính tôi đây.

Nói đoạn liền bảo Dương Lâm mở bao phục lấy ra một đĩnh bạc hai mươi lạng để thiết đãi Thạch Tú.

Thạch Tú từ chối mãi không được, sau phải vâng lời nhận vậy.

Bấy giờ Thạch Tú biết rõ Đới Tung là Lương Sơn Bạc, thì trong bụng vui mừng, toan giải bày tâm phúc và thương thuyết để nhập bọn một thể. Chợt đâu thấy Dương Hùng đem một bọn hơn hai mươi công sai đi vào hàng rượu để tìm hỏi. Đới Tung, Dương Lâm thấy vậy cả kinh, liền bắt chợt lúc đông người mà lẻn đi mất.

Hai người đi xong thì Thạch Tú vội vàng đứng dậy, để đón tiếp Dương Hùng mà hỏi rằng:

– Tiết Cấp đi đâu, có việc gì thế?

Dương Hùng cười đáp rằng:

– Kìa Đại Ca, tôi tìm mãi không thấy, sao lại ngồi uống rượu ở đây? Bấy giờ tôi mải miết đánh mấy thằng để cướp lại lễ vật các thứ, thành ra Túc Hạ đi ngay, tôi không được biết. Sau có người nói là có hai vị khách nào tiếp đón Túc Hạ đến uống rượu ở đây nên tôi phải đến đây để tìm…

Thạch Tú nói:

– Vâng, vừa rồi có mấy ông khách ở đằng xa, bảo đến đây uống vài chén rượu…cũng không biết rằng Tiết Cấp cho tim…

Dương Hùng cả mừng liền hỏi đến tên họ và quê quán của Thạch Tú, Thạch Tú lai đem câu chuyện của mình bấy lâu nói cho Dương Hùng nghe.

Dương Hùng hỏi:

– Hai người đương uống rượu với Túc Hạ đi đâu cả rồi.

– Hai ông ấy thấy Tiết Cấp dẫn người đến, tưởng là lại sinh sự đánh nhau, nên các ông ấy bỏ chạy cả rồi.

Dương Hùng nói:

– Nếu vậy thì tôi xin ngồi đây, tiếp rượu Túc Hạ cho vui.

Nói xong gọi tửu bảo lấy hai vò rượu, rót cho lũ công sai, mỗi người ba chén để cùng uống rồi đi về trước, Dương Hùng thì ngồi lại tiếp rượu Thạch Tú. Bấy giờ bọn người kia đi cả rồi, Dương Hùng liền nói với Thạch Tú rằng:

– Tôi nói câu này, xin Tam Lang tha lỗi cho: Tam Lang ở đây tất là không có thân thuộc họ hàng nào, vậy xin kết làm anh em chả hay Tam Lang có bằng lòng không?

Thạch Tú cả mừng mà rằng:

– Vậy xin hỏi Tiết Cấp năm nay bao nhiêu tuổi?

– Tôi năm nay hai mươi tám tuổi.

– Tiểu đệ năm nay hai mươi tám tuổi, vậy xin Tiết Cấp cho tiểu đệ bái làm Ca Ca.

Nói đoạn liền lạy Dương Hùng bốn lạy, mà tự nhận làm đàn em. Dương Hùng cả mừng sai tửu bảo dọn rượu lên hai người cùng uống.

Đương khi uống rượu, chợt thấy bố vợ Dương Hùng là Phan Công dẫn năm bẩy người đi tìm đến đó. Dương Hùng thấy vậy liền đứng lên hỏi rằng:

– Thái Sơn tới đây có việc gì vậy?

Phan Công đáp:

– Ta nghe nói ngươi đánh nhau với ai, nên ta đemn đến xem sao?

– Vâng, vừa rồi có tên Trương Bảo rắc rối lôi thôi, song nhờ có Thạch Huynh đây đánh cho nó một mẻ siêu hồn bạt phách đi rồi, nay con đã nhận Thạch Huynh làm anh em kết nghĩa, xin mời Thái Sơn ngồi chơi xơi rượu cho vui.

Phan Công nghe nói ra dáng vui mừng, liền ngồi xuống bên cạnh Thạch Tú, rồi gọi tửu bảo lấy thêm đôi đũa chén ba người cùng uống rượu. Khi đó Phan Công thấy tướng mạo Thạch Tú ra dáng anh hùng trưởng đại, thì trong bụng càng lấy làm mừng rỡ mà rằng:

– Con rể tôi có được một anh em như thúc thúc, để trông nom giúp đỡ cho, thì bao giờ đứa nào dám xấc láo nữa! Chẳng hay xưa nay thúc thúc có buôn bán những nghề gì.

Thạch Tú nói:

– Phụ thân tôi ngày trước có làm nghề mổ thịt lợn, song đến tôi thì lưu lạc giang hồ, không sao nối nghiệp được…

– Vậy thì thúc thúc có biết những việc ấy không?

Thạch Tú cười rằng:

– Từ nhỏ ăn cơm nhà hàng thịt, làm chi mà không biết nghề mổ lợn… ?

Phan Công nói:

– Tôi đây ngày trước cũng là chân đồ tể xuất thân, nhưng nay già yếu không làm được nữa. Còn con rể tôi đây thì lại theo đòi việc quan trong phủ, cho nên phải bỏ hẳn cái nghề ấy, kể cũng tiếc lắm…

Nói đoạn ba người cùng uống rượu say rồi mới trả tiền ra về. Dương Hùng bảo Thạch Tú bỏ vất gánh củi đó, rồi mới về nhà nói chuyện.

Khi về tới nhà, Dương Hùng liền gọi vợ mà bảo rằng:

– Đại tẩu ra chào thúc thúc mau lên..

Bấy giờ có tiếng đàn bà ở trong hỏi lên rằng:

– Đại Ca có thúc thúc nào mà bắt tôi ra chào?

Dương Hùng nói:

– Bất tất phải hỏi, cứ ra chào đi đã.

Nói dứt lời,, thì có người đàn bà ở trong rón rén đi ra.

Thạch Tú thấy vậy liền vội vàng đến trước mặt vái chào mà rằng:

– Xin mời tẩu tẩu ngồi. Nói xong liền cúi rạp xuống để lạy.

Nguyên người này là con gái Phan Công, sinh giữa mồng bảy tháng bảy nên mới đặt là Sảo Vân. Trước đây đã lấy một người lại mực ở Kế Châu là Vương Áp Ty, sau được hai năm thì Vương Áp Ty mất, nàng lại mới lấy Dương Hùng chừng được ngót một năm nay.

Bấy giờ nàng thấy Thạch Tú lại chào, thì có ý khiêm tốn mà rằng:

– Chúng tôi còn ít tuổi, đâu dám mạn phép nhận như vậy?

Dương Hùng nói:

– Chú ấy là anh em kết nghĩa với ta đó. Đại tẩu là đàn chị cứ nhận lễ cho mới được.

Thạch Tú lễ xong bốn lễ, thì Sảo Vân lại đáp lại hai lạy, rồi mời vào trong nhà ngồi chơi, và sai dọn một gian phòng để lưu Thạch Tú ở lại.

Sáng hôm sau Dương Hùng sai người lấy đồ hành lý của Thạch Tú gửi ở hàng cơm để đem về nhà, rồi chàng lại vào phủ hầu việc quan mà lưu Thạch Tú ở đó.

Kể cho non nước gần xa

Cùng nói tâm huyết, cùng là tương thân.

Về phần Đới Tung, Dương Lâm từ khi ở tửu điếm đi ra, hai người lại trở về hàng cơm nghỉ trọ rồi sáng hôm sau lại đi tìm hỏi nhà Công Tôn Thắng, luôn trong hai ngày mà không ai biết đến. Sau bất đắc dĩ phải cùng nhau thu thập trở về, để báo cho sơn trại biết.

Đường đi qua Ẩm Mã Xuyên, hai người cùng nhau vào rủ đám Bùi Tuyên sắm sửa nhân mã, giả danh làm quan quân đi tuần tiễu, mà cùng nhau kéo đến Lương Sơn. Khi về tới Đại trại, các vị Đầu Lĩnh thấy Đới Tung rủ được nhiều người nhập đảng, thì ai nấy có vè vui mừng mà cùng nhau yến ẩm làm vui. Từ đó sơn trại lại càng thêm hưng thịnh vô cùng.

Nói về bố vợ Dương Hùng là Phan công, từ khi có Thạch Tú ở đó trong lòng cũng có phần vui vẻ thêm lên, liền bàn với Thạch Tú để mở ngôi hàng thịt lợn mà rằng:

– Về phía sau nhà tôi đây, là một nơi ngõ hẹp có một gian nhà bỏ không, lại có cả giếng nước gần đó. Vậy tiện đây ta nên mở một lò lợn và dọn phòng trong đó cho thúc thúc ở, để trông nom cho tiện, thúc thúc nghĩ sao?

Thạch Tú cũng ưng thuận mà rằng:

– Nếu như vậy, thì rất tiện lợi, còn gì hơn nữa?

Phan Công nghe nói, liền bảo Thạch Tú giữ coi sổ sách xếp đặt công việc, và cho tìm các người thạo việc khi trước, đến để sắm sửa các thứ quầy, dao, bàn, đá, mua mười lăm con lợn về đó, rồi chọn ngày tốt để khai trương.

Ngày hôm khai trương, các bạn bè hàng xóm láng giềng đến mừng rỡ chè chén rất là đông đúc, nên việc buôn bán cũng nhờ đó, mà càng ngày càng thêm phát đạt, khiến cho Phan Công được vui vẻ trong lòng, mà Thạch Tú cũng được no lòng hể hả.

Thấm thoát trong hai tháng trời, bấy giờ đương độ thu tàn đông tới một hôm Thạch Tú dậy sớm từ lúc canh năm, đi mua lợn ở huyện khác đến ba ngày mới về. Khi về tới nhà thấy cửa hàng đóng kín, mà các khí cụ trong nhà cũng thấy thu xếp đi đâu hết cả.

Thạch Tú vốn là người tinh ý, thấy vậy thì tự nghĩ trong bụng rằng:

– Người ta thường nói: Người nào tử tế suốt đời! Hoa nào thắm mãi không phai bao giờ? Lâu nay Ca Ca đi việc quan vắng, tất là tẩu tẩu ở nhà thấy ta ăn mặc lành lặn thế này, lại có lòng ngờ vực chi đây. Lại nhân ta đi có việc ba hôm nay mới về, thì sao khỏi có sự dị nghị, mà hoãn việc buôn bán này đi? Thôi ta không nên đợi cho họ đến tận nơi, phải tự xử mình trước đi mới được.

Nghĩ đoạn liền đem lợn bỏ vào chuồng, rồi vào phòng thu xếp hành lý, và biên một tờ đơn hàng cẩn thận để đem ra nói chuyện với Phan Công. Khi tới nhà ngoài đã thấy PhanCông sai dọn rượu cơm ngồi đợi ở đó.

Phan công thấy Thạch Tú vào, liền kiếm lời an ủi mà rằng:

– Thúc thúc đi lâu tất là khó nhọc, xin thúc thúc ngồi xơi rượu, rồi nghĩ một lát đã.

Thạch Tú cung kính đáp rằng:

– Xin rước trượng nhân xơi rượu, chúng tôi đi về đó là thường, có làm chi mà dám kể công lao khó nhọc! Xin trượng nhân hãy nhận cái đơn hàng này cho, chúng tôi biên chác rất là minh bạch, nếu có một chút gì tâm tư ý, thì nguyện xin trời chu đất triệt không tha…

Phan Công có vẻ ngạc nhiên mà rằng:

– Sao thúc thúc lại nói những lời như vậy, ở nhà nào có việc gì đâu?

Thạch Tú nói:

– Chúng tôi xa bỏ làng nước từ năm lên sáu lên bảy đến nay, nay muốn về thăm quê quán một phen, vậy xin tính toán trả lại cửa hàng, rồi sáng mai tôi xin từ Ca Ca để đi sớm.

Phan Công biết ý Thạch Tú, liền cười mà nói rằng:

– Thúc thúc lầm rồi…Thúc thúc khoan tâm, để lão phân giải điều này thúc thúc nghe…

Cho hay:

Lợi danh đã mẩn mê người,

Hỏi rằng Bảo, Quản, trên đời mấy tay,

Giang hồ quen thú tỉnh say,

Dẫu sao Nam, Bắc, Đông, Tây ngại gì?

Ở đời trước liệu cơ vì,

Anh hùng tiến thoái tùy nghi mới là…

Vi chăng bốn bể một nhà,

Thì trong thanh khí dễ mà dám quên?

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này giở lên về trước chép Tống Giang đã tới Lương Sơn, bao nhiêu mối đầu đã kết lại, không dừng được nảy ra câu chuyện Đới Tung đi tìm Công Tôn Thắng, để lại mở đầu mối diễn ra, bèn chuyển ra tả đến một thiên gấm vóc văn chương của Dương Hùng, Thạch Tú, cho đến hồi Tam đả Chúc Gia Trang, vô số chuyện kỳ quan, chính một hồi này, đón tiếp một khoảng kéo dài ra vậy. Xét ra những ai ham chơi thắng cảnh danh sơn hãy chịu khó lần mò;Ham ăn thịt béo, hãy chịu khó đun bếp; Ham xem thú trăng hoa, hãy chịu khó đêm khuya; Ham thấy mỹ nhân, hãy chịu khó chải chuốt, nay một hồi này, xin độc giả chịu khó đọc qua.

Tác giả tả một bước đường đi của một hồi này, thấy rất nhiều đoạn văn tự nhỏ, ua chuyện Lý Vân tới Ngô Dụng chỉnh đốn cơ đồ, phát lạc Đầu Lĩnh, rồi Đới Tung đi qua Kế Châu nghe dư luận Lý Quỳ; Nào gặp Dương Hùng; Nào hẹn bọn Bùi Tuyên; Sau cùng đến chuyện Thạch Tú…, đều thấy một cái khéo của một gò cào khe thấp, không phải như mọi sách, chỉ chép một mạch thẳng, như đi giữa chốn Bình Nguyên.

Hồi 44: Phòng riêng ton tót, Dương Hùng gặp gái voi dày – Đêm vắng xông pha, Thạch Tú giết sư hổ lửa

Bấy giờ Phan Công bảo với Thạch Tú rằng:

– Mấy hôm thúc thúc đi vắng nay về thấy đồ đạc hàng họ thu dọn cả vào, nên thúc thúc có lòng nghi ngờ mà muốn bỏ đi chăng? Thúc thúc không nên nghĩ thế, dẫu không mở cửa hàng, mà nuôi thúc thúc ở trong nhà cũng được, chứ có điều chi mà ngại? Nhưng không phải, chẳng giấu gì thúc thúc. Con cháu nhà tôi, trước đã lấy Vương Áp Ty đã mất,đến nay đã trọn hai năm, nhân gọi là làm chút lễ mọn, để trả nghĩa chồng xưa cho cháu, nên mấy hôm nay phải xếp dọn nghỉ hàng để mua sắm các đồ lễ vật, chứ có phải có tình ý gì khác đâu? Đến ngày mai đây, đón các sư về làm lễ, thế nào cũng phải nhờ đến thúc thúc trông coi tiếp đãi giúp cho, xin thúc thúc vui lòng mà tin tôi mới được.

Thạch Tú nói:

– Nếu quả vậy, thì tôi xin lưu lại ở đây, để giúp đỡ trượng nhân, không dám phàn nàn chi cả.

Phan Công lại nói:

– Từ nay trở đi, xin thúc thúc chớ chấp nê điều gì, trước sau bao giờ chúng tôi cũng thế mà thôi.

Nói đoạn liền bảo Thạch Tú cùng ngồi ăn cơm uống rượu. Sáng sớm hôm sau, có mấy người thầy cúng mang lễ vật đến, thiết lập đàn tràng, sắp sửa các đồ đèn nên hoa hương, trống chuông cảnh mõ, và bày dọn cỗ chay để cúng.

Bấy giờ Dương Hùng ở phủ đi về, bảo Thạch Tú rằng:

– Hiền đệ ơi! Hôm nay tôi phải đến phiên coi ngục, không thể nào mà trở về nhà được, vậy các công việc ở nhà, xin hiền đệ trông nom giúp đỡ cho.

Thạch Tú vui vẻ đáp rằng:

– Xin Ca Ca cứ đi việc quan, các công việc ở nhà để giao cho tiểu đệ.

Nói đoạn Dương Hùng từ biệt mà đi vào phủ. Đương khi Dương Hùng đi rồi, một mình tgt đứng đợi đón tiếp ở nhà ngoài, chợt thấy có một vị sư trẻ tuổi đi vào, rồi thấy một người thầy cúng gánh đôi cái quả theo sau, Thạch Tú liền vái chào vị sư, mời vào ở đó, rồi bảo cho Phan Công biết.

Phan Công nghe nói, vội vàng chạy ra để đón tiếp. Vị sư kia thấy Phan Công ra tới nơi, liền đứng dậy vái chào mà rằng:

– Đã lâu nay không thấy can gia đến vãn cảnh ngoài chùa…

Phan Công cười đáp rằng:

– Lão tôi vì mở thêm cửa hàng, nên bạn không đi đâu được.

– Hôm nay là ngày giỗ hết Áp Ty, chúng tôi cũng không có gì đem vào dâng biếu, vạy gọi là có chút lễ mọn, xin cụ chấp nhận lấy cho.

– Chết nỗi! Sao sư phụ lại xử phiền như thế?

Nói xong bảo Thạch Tú bưng lễ vật vào trong nhà, rồi gọi người pha nước ra mời nhà sư uống.

Bấy giờ vợ Dương Hùng ở trên gác đi xuống, hỏi Thạch Tú rằng:

– Ai đưa lễ vật đến đó, thúc thúc?

Thạch Tú ngẩng nom chị chàng kia, cũng ăn mặc loàng xoàng, không ra dáng một ngày đại hiếu, liền đáp rằng:

– Có một vị sư gọi lão trượng nhà ta là can gia đưa đến đây.

Chị chàng kia nghe nói cười mà rằng:

– Chắc lại sư huynh Bùi Như Hải đó hẳn? Ông ấy là một vị rất trung thành xưa nay…Nguyên trước là con ông chủ hiệu họ Bùi, sau mới xuất gia ở chùa Báo Ân đó. Sư phụ ông ta vốn là người môn đồ nhà này, cho nên mới bái phụ thân tôi làm can gia đấy. Pháp danh ông ta là Hải Công, hơn tôi hai tuổi, nên vẫn gọi sư huynh…Ông ta tụng kinh niệm Phật rất tốt tiếng, rồi chiều nay thúc thúc nghe mà xem.

Thạch Tú nghe nói, trong bụng có điều ngờ ngợ, song không dám nói ra cũng phải ứng đáp qua loa cho xong chuyện.

Đoạn rồi chị chàng kia, đi ra nhà ngoài để chào vị sư, Thạch Tú liền khoanh tay lững thững bước ra theo, nấp ở trong mành để xem. Khi chị chàng ra tới nhà ngoài, thì hòa thượng kia vội vàng đứng dậy chạy đến trước mặt, mà chấp tay vái chào rất là lễ phép.

Chị chàng cũng cúi chào lại, rồi nói rằng:

– Sao sư huynh lại còn phiền…em cho lễ vật như thế?

Vị sư đáp:

– Dám thưa hiền muội, có chi mà dám gọi là phiền?

– Đã đành vậy, nhưng chùa chiều có gì mà phải như thế, cho phí tổn vô ích.

– Ngoài chùa tôi mới sửa xong Thủy Lục Đường, muốn mời hiền muội cùng ra vãn cảnh một hôm, chi sợ Tiết Cấp không bằng lòng.

– Có lẽ đâu Tiết Cấp nhà tôi khi nào lại nghĩ đến những việc đó. Vả trước đây khi lão nương tôi mất, tôi có hứa ra dâng lễ huyết bồn ngoài chùa, vậy nay mai thể nào tôi cũng phải ra chùa, để nhờ sư huynh dâng lễ giúp cho.

– Vâng, cái đó xin sẵn lòng, hiền muội sai bảo việc chi. Như Hải này cũng xin hết sức giúp ngay.

Chị đàn bà lại nói:

– Xin sư huynh niệm nhiều kinh cho mẫu thân tôi, thì hay lắm!

Nói dứt lời thì thị nữ bưng trà ra. Chị đàn bà lấy khăn tay lau lại miệng chén cẩn thận, rồi hai tay bưng chén nước đưa lại để mời nhà sư, nhà sư giơ tay tiếp lấy chén trà, hai con mắt trừng trừng nhìn vào mặt chị chàng kia. Chị chàng cũng cười tít đi, mà đưa mắt liếc trả lại nhà sư rất là khả ố.

Thạch Tú đứng trong rèm thấy vậy, trong bụng lẩm bẩm bảo một mình rằng: Xưa nay chị chàng này vẫn hay cợt nhả cười đùa, ta vẫn tưởng là chỗ chị em thân nên mới xử sự nhả như thế…Ai ngờ người đàn bà này cũng là một tụi bất lương đây…Được, nếu gặp vào tay Thạch Tú này, thì tất phải vì Dương Hùng mà làm cho vỡ lẽ mới được.

Chàng nghĩ như vậy, liền vén rèm sồng sộc đi ra, Chú sư hổ mang thấy Thạch Tú bước ra, bèn đặt chén trà xuống, rồi nói rằng:

– Xin mời Đại Lang ngồi chơi.

Chị chàng kia nhanh mồm nói luôn rằng:

– Thúc thúc đây là anh em kết nghĩa với Tiết Cấp nhà tôi đó.

Nhà sư hỏi ngay rằng:

– Đại Lang quý quan ở đâu? Đại danh quý tính là gì?

Thạch Tú nói:

– Tôi ấy à? Tôi họ Thạch tên Tú, người phủ Kim Lăng bình sinh chi hay ra sức giúp người, nên họ thường gọi là Tiểu Mạnh Tam Lang. Tôi là một anh lỗ mãng, nhỡ có điều gì đường đột, xin Hòa Thượng đừng chấp…

Nhà sư vội vàng đáp rằng:

– Không dám, có điều gì mà Đại Lang dạy thế? Tôi xin phép đi đón chư tăng để cúng bây giờ đây?

Nói đoạn hất hả chạy đi ra cửa.

Chị chàng kia dặn với rằng:

– Sư huynh đi mau rồi về đây cho.

Sư ta vội vàng cắm cổ đi, không dám ngoẳng cồ lại mà nói nửa lời nữa. Chị chàng thấy nhà sư đi rồi, liền quay gót trở vào nhà trong. Bấy giờ Thạch Tú đứng ở trước cửa thở dài một tiếng, rồi cúi đầu xuống mà nghĩ ngợ một mình, ra chiều khó chịu vẫn vơ…Hồi lâu bọn sãi chùa đến, sắp sửa lễ vật rồi lên đèn hương ở đạo tràng. Được một lát thì nhà sư hổ mang kai dẫn chư tăng đến làm lễ. Phan Công nhờ Thạch Tú tiếp đãi nước nôi một lúc, rồi chư tăng cùng vào đạo tràng mà lên hiệu thỉnh Phật.

Bấy giờ sư hổ mang kia, cùng một nhà sư trai trẻ nữa, khua chiêng gõ mõ sái tĩnh đàn tràng, dâng sớ cúng Phật, rồi đọc kinh siêu độ vong linh. Khi đó chị chàng ra quỳ ở trước pháp đàn tay nâng lư hương để dâng lễ Phật. Nhà sư kia thì hết sức cổ vũ mà khua tiêu gõ cảnh để đọc các bài châm ngôn, rất là êm ái dễ nghe.

Được một lúc, các sư đi vào nhà trong thụ trai. Sư hổ mang ta lẻn lại đi sau, thỉnh thoảng liếc mắt chị chàng kia, rồi đôi bên cười cợt tống tình, rất nên chiều đắc ý. Thạch Tú trông thấy bao nhiêu như vậy, thì trong lòng lại càng tức tối khó chịu, song không dám nói ra.

Khi các sư ra đến nhà ngoài, cùng ngồi uống mấy chén rượu suông, rồi người nhà dọn cỗ chay ra, Phan Công mời qua một lượt, rồi trong mình mệt nhỏtự đi vào phòng nghỉ trước.

Hồi lâu các sư thụ trai xong rồi, lại bắt đầu ra đạo trang để cúng. Bấy giờ Thạch Tú tức bực trong lòng, bèn nói dối là đau bụng, rồi cũng đi nằm một chỗ. Các sư ra đến pháp đan, noi chuông rung trống đọc kinh Thiên Vương làm lễ Triệu Vong, rồi cùng nhau tham lễ Tam Bảo. Mãi đến đầu trống canh ba, các sư đã nhọc nhằn khẳng tẳng, duy còn sư hổ mang ta vẫn dùng hết tinh thần để đọc kinh niệm Phật, mà kêu lòng ân ái của ả voi giày.

Ả kia đương đứng ở trong mành, càng nghe thấy vậy, thì lửa dục càng thêm rung động, liền sai thì nữ mời nhà sư vào ở trước rèm để nói chuyện. Khi ấy nhà sư vừa đọc kinh, vừa chạy đến trước rèm, rồi chị chàng đứng trong rèm nắm lấy áo nhà sư mà nói rằng:

– Ngày mai sư huynh đến lấy tiền công đức, xin sư huynh nhắc đến việc huyết bồn cho…

Nhà sư nói rằng:

– Được. Anh đây nhớ lắm…Mong hoàn tâm nguyện, thì hoàn ngay chứ sao… ?

Nói xong lại bảo chị ả kia rằng:

– Thúc thúc nào ở đâu? Người ấy trông ghê lắm đây…

Chị chàng lắc đầu nói:

– Sợ gì hắn, hắn có phải là anh em ruột thịt gì mà sợ!

Nhà sư gật gù khen phải mà rằng:

– Nếu vậy mới có thể yên tâm được.

Nhà sư vừa nói vừa đưa tay ra bấm tay chị chàng kia một cái, rồi cười mà đi ra cúng đàn.

Khi đó Thạch Tú nằm ở trong nhà trong thấy rõ ràng như vậy, trong lòng lại càng băn khoăn khó chịu vô cùng. Vào khoảng canh năm cúng lễ đã xong, hóa đốt vàng mã, rồi các sư làm lễ tạ đàn mà trở về chùa. Chị chàng kia cũng lên gác đi nghỉ.

Bấy giờ Thạch Tú tức giận nghĩ thầm trong bụng:

– Ca Ca ta là một người hào kiệt, gặp phải con vợ như thế, thực là mất cả thể diện chứ không chơi.

Chàng nghĩ vậy, đành phải nên lòng, mà đi vào phòng ngủ. Sáng hôm sau Dương Hùng về nhà, ăn uống cơm nước xong xuôi, lại lẳng lặng đi vào trong phủ, không hề ai nói việc chi. Khi Dương Hùng đi rồi, lại thấy nhà sư hổ mang kia, đã thay mặc bộ quần áo nhà chùa, rất chỉnh đốn mà đến nhà Phan Công.

Chị đàn bà nghe nói nhà sư đến, lại vội vàng ở trên gác đi xuống, rồi đón mời nhà sư vào xơi nước.

Chị chàng nói với nhà sư rằng:

– Cái qua thực là phiền huynh quá, tiền công đức cũng chưa đưa hầu người…

Nhà sư vội đáp rằng:

– Cái đó cần gì…Duy hôm qua có nói về việc lễ huyết bổn, vậy xin hỏi hiền muội, nếu định làm lễ ngay, thì trong chùa tôi hiện đương tụng kinh chỉ phải viết thêm một lá sớ nữa để dâng là đủ.

Chị chàng nói:

– Nếu vậy thì hay lắm, để tôi xin mời phụ thân tôi ra nói chuyện.

Nói đoạn liền sai thị nữ mời Phan Công đến, Phan Công tạ ơn nhà sư mà nói rằng:

– Đêm qua tôi mệt quá, không trông nom được chu tất, sau thúc thúc lại bị đau nghỉ, thành ra không có ai tiếp đãi, xin nhà sư bỏ lỗi đi cho.

Nhà sư đáp:

– Can gia dạy quá lời, có điều chi mà chúng tôi dám trách.

Chị chàng khốn nạn nói với Phan Công rằng:

– Con định dâng lễ huyết bồn cho mẫu thân, nhân thấy sự huynh nói ngoài chùa ngày mai cũng làm lễ, vậy bất nhược cha làm phụ ngay vào đấy thì tiện hơn. Nay để sư huynh về niệm Phật, rồi sáng mai hai cha con ta cùng ra làm lễ một thể.

Phan Công nói:

– Phải lắm, song chỉ sợ ngày mai không có ai trông nom nhà cửa cho…

– Việc đó đã có thúc thúc trông nom ở nhà, ngại gì…

– Phải con đã hứa đi như vậy, thì sáng mai thế nào cũng phải đi mới được.

Đoạn rồi chị chàng lấy tiền công quả đưa cho nhà sư mà nói rằng:

– Chúng tôi gọi là có chút lòng thành, xin sư huynh nhận lấy cho. Sáng mai chúng tôi sẽ xin đến chùa thụ lộc.

Nhà sư vâng lời, nhận lấy tiền, rồi nói với chị chàng kia rằng:

– Đa tạ tấm lòng bố thí, tôi xin đem về để biếu chư tăng…Sáng mai thể nào cũng mời can gia cùng hiền muội ra chùa chứng minh công đức.

Nói xong vái chào ra về. Chị chàng kia cũng đưa chân ra đến cửa, rồi mới trở vào. Bấy giờ Thạch Tú lại sửa soạn hàng họ, rồi giết lợn ra để bán hàng. Chiều hôm ấy Dương Hùng về tới nhà, khi cơm nước xong rồi, chị chàng kia xui Phan Công nói chuyện đi lễ chùa cho Dương Hùng biết.

Phan Công bèn đem chuyện bảo với Dương Hùng mà nói rằng:

– Sáng mai hai chúng tôi phải đi ra chùa Báo Ân làm lễ, còn công việc ở nhà đã nhờ thúc thúc Thạch Tú trông nom hộ.

Dương Hùng cũng ưng lời mà đáp rằng:

– Hiền thê đã hứa làm lễ, thì xin trượng nhân cứ cho đi, có điều chi mà ngại?

Sáng hôm sau Dương Hùng dậy sớm, vào làm việc quan trọng phủ, Thạch Tú thì dậy sớm để dọn hàng chị chàng kia cũng dậy sớm để chải đầu, bít chân, rửa mặt mũi, sửa xiêm áo, rồi giục con đòi làm cơm sớm để ăn; Phan Công cũng dậy sớm đi mua các đổ vàng hương lễ vật, và đi thuê một cỗ kiệu để đợi ở đó. Bấy giờ Thạch Tú còn bận bán hàng, cũng không kịp hỏi han đến các công việc sửa sang ở trong.

Khi cơm nước xong, thị nữ sắp đủ các lễ vật, rồi vào khoảng gần trưa, Phan Công thay xiêm áo chỉnh tề, mà nói với Thạch Tú rằng:

– Tôi bận việc phải đi chùa với cháu; xin thúc thúc ở nhà trông nom giúp cho, một lát chúng tôi xin về.

Thạch Tú đã hơi ngầm hiểu trong bụng, liền cười mà đáp rằng:

– Xin trượng nhân cứ xuống coi cho tẩu tẩu đi lễ, còn công việc ở nhà tôi xin cáng đáng.

Đoạn rồi chị chàng kia lên kiệu, Phan Công cùng bọn thị nữ đi theo kiệu, mà cùng tới chùa Báo Ân. Bấy giờ sư hổ mang ta đứng đón ở ngoài cổng chùa, khi thấy kiệu đi đến, trong bụng hớn hở vui mừng, chạy ra vái cháo rất cung kính.

Phan Công đáp lễ mà rằng:

– Thế này thực là phiền hòa thượng lắm.

Chị chàng kia ở trên kiệu bước xuống, vái chào nhà sư mà rằng:

– Chúng tôi đến đây phiền sư huynh đón tiếp, biết lấy gì mà đền ơn cho được?

Sư ta cung kính mà rằng:

– Không dám, có điều chi mà phiền? Tiều tăng này đã cùng với chúng tăng tụng kinh ở Thủy Lục Đường tử đầu trống canh năm tới giờ, chỉ còn đợi hiền muội đến chứng minh mà thôi.

Nói đoạn dẫn Phan Công cùng chị chàng kia lên Thủy Lục Đường, khi tới nơi, đã thấy lễ vật bày biện nghiêm trang, đèn nến huy hoàng, khói hương nghi ngút, có mười mấy vị sư đương ngồi đọc kinh ở đó.

Chị ả kia cúi chào cá vị sư, rồi vào lễ Tam Bảo, sư hổ mang ta lại quỳ xuống trước đàn tụng kinh sám hối làm lễ hóa vàng mà cùng thu trại. Bấy giờ chư tăng dẫn đồ đệ đi thụ trại một nơi, còn sư hổ mang kia thì mời Phan Công cùng chị chàng ta đến một tăng phòng rất sâu, đã đặt bày chỉnh đốn, rồi gọi đồ đệ pha nước đem lên. Được một lát thấy hai tên đồ đệ bưng một cái khay đỏ, đặt mấy cái chén trắng, pha một thứ trà thực ngon, đem lên để mời. Khi uống nước xong, nhà sư lại dẫn vào gian gác nho nhỏ, trong bày đồ đạc rất nhã, trên treo một bức thi hạo của danh nhân, giữa kê một cái án con để lò hương nghi ngút, mời Phan Công cùng chị ả ngồi một bên, và nhà sư ngồi vào một bên để tiếp. Chị chàng kia nói:

– Sư huynh ở đây thưc là vắng vẻ thư nhàn, rõ cảnh tượng một nhà tu hành lắm.

Sư ta đáp lại rằng:

– Xin hiền muội chớ cười ở đây sao ví được với nhà đằng ấy.

Phan Công nói:

– Chúng tôi đến đây, quấy quả hòa thượng mất cả ngày, bây giờ xin cáo về thôi…

Nhà sư có ý giữ lại mà nói rằng:

– Mấy khi can gia đã đến chơi, xin coi đây như một nhà vậy…Vả chăng hôm nay hiền muội cũng đã đưa tiền để làm lễ, xin can gia ngồi chơi xơi tạm lưng cơm chay đã…Sư đệ cho dọn cơm lên đây…

Nói đoạn thấy đồ đệ bưng ra hai mâm, toàn là quả ngon hoa lạ, cùng các thức ăn chay kỳ dị bày trên mặt bàn.

Chị chàng thấy vậy nói rằng:

– Sư huynh còn cho ăn uống thế này, thực là phiền quá?

Sư ta cười mà đáp rằng:

– Cũng gọi là có lưng cơm nhà chùa, lấy gì làm phiền phí, xin can gia hiền muội chứng giám cho.

Nói đoạn gọi đồ đệ rót rượu, rồi hai tay nâng chén đưa mời Phan Công mà nói rằng:

– Không mấy khi can gia đến đây, mời ngồi xơi chén rượu cho vui.

Phan Công cất chén rượu uống một hơi, rồi khen rằng:

– Rượu ngon lắm.

Nhà sư nói:

– Bữa trước có một ông thí chủ bảo nấu rượu theo cách rất ngon, ngày mai đem mấy bình đến, để biếu Tiết Cấp xơi.

Nói xong quay ra bảo chị chàng kia rằng:

– Nhà chùa không có gì trả ơn, xin mời hiền muội xơi chén rượu suông vậy.

Đoạn rồi sai rót rượu mời chị chàng, và mời cả đám thị nữ cùng uống.

Chị chàng uống một lượt rồi nói:

– Xin thôi, tôi không uống được rượu nữa.

Sư hổ man lại khéo mời rằng:

– Mấy khi nương tử quá chân đến đây xin mời thêm chén nữa.

Phan Công bảo gọi đám phu kiệu vào, cho mỗi người một chén rượu.

Nhà sư vội đỡ lời rằng:

– Xin can gia cứ xơi rượu, đám phu kiệu tiểu tăng đã cho người mời ăn uống ở ngoài kia rồi.

Nguyên sư hổ mang này có ý với chị chàng kia, nên có tìm thứ rượu rất ngon để mời Phan Công uống. Phan Công uống được mấy chén, thì say ngã ra đó, sư ta liền sai đồ đệ vực lên gian phòng một bên để nghỉ, rồi nói với chị chàng rằng:

– Xin nương tử xơi một chén nữa cho vui.

Chị chàng kia vốn đã sẵn có tình tứ trước, lại nhân trong người váng vất hơi men, liền ra bộ mờ mờ mịt mịt, cười nói mà rằng:

– Sư huynh cứ bắt em uống rượu làm gì thế?

Sư ta sẽ trả lời:

– Đó là tôi kính ái đến nương tử đấy.

– Thôi, rượu không uống được nữa đâu?

– Vậy xin mời nương tử đến phòng tiểu tăng mà xem răng Phật.

– Vâng, tôi đương muốn đi xem qua một lát.

Sư hổ mang liền dẫn chị chàng đến một gian đầu, là nơi phòng ngủ, bày biện rất là trang nhã dễ coi. Chị chàng thấy vậy đã hớn hở vui mừng, liền nói:

– Ngọa phòng ở chỗ này, thực là sạch sẽ dễ chịu…

Sư hổ mang cười mà đáp rằng:

– Ở đây chỉ thiếu một nương tử mà thôi.

Chị chàng cũng cười toét mồm ra mà nói rằng:

– Sao không kiếm lấy một người?

– Nào ai bố thí cho? Thôi, hãy theo tôi đi xem răng Phật.

Chị chàng quay ra bảo thị nữ rằng:

– Bay xuống xem ông đã tỉnh dậy chưa?

Thị nữ vâng lời đi xuống nom Phan Công. Sư hổ mang liền đóng cửa lầu lại.

Chị chàng kia cười mà hỏi rằng:

– Bắt tôi ở đây làm gì…làm gì thế?

Sư hổ mang nghe nói, lửa dục bốc lên đùng đùng, liền chạy đến ôm chặt lấy chị chàng kia mà nói rằng:

– Tôi kính mên nương tử biết bao nhiêu? Hai năm nay trong lòng xiết bao tơ tưởng, nay mới được nương tử đến đây, xin rộng lòng mà thương tôi với.

Chị chàng đáp rằng:

– Chồng tôi không phải là người vừa đâu, làm thế lỡ ra hắn biết thì nguy đấy.

Sư hổ mang quỳ xuống mà nói:

– Xin nương tử cứ thương tôi là hết.

Chị chàng kia giơ tay đỡ dậy đáp rằng:

– Sao anh khéo nhiễu người ta thế? Có sợ tôi lát cho mấy cái không?

Sư hổ mang cười khì khì mà đáp rằng:

– Nương tử đánh thề nào tôi cũng phải chịu, chỉ sợ nương tử không nỡ đánh thôi…

Bấy giờ chị chàng voi xé kia đã mê mẩn tâm thần, không sao giữ nổi liền ôm lấy nhà sư mà tảng lờ nói rằng:

– Tôi đánh thực chớ đánh bỡn à?

Sư ta thấy vậy, liền kéo đến giường nằm, đội bên hú hý với nhau rất là thỏa nguyện. Đoạn rồi sư ta bảo với chị chàng kia rằng:

– Nàng đã có lòng yêu tôi như vậy, dẫu chết cũng không lấy gì làm tiếc, song ngày nay chẳng qua cũng chỉ được thỏa lòng trong phút chốc, rồi sau đây tất là kín cổng cao tường, bao giờ cho gặp mặt, mà lỡ ra có khi nguy hiểm đến thân, vậy nàng có kế gì xin cứu cho tôi với…

– Được, cái đó không hề chi? Tôi đã nghĩ ra được một kế. Chồng tôi cứ một tháng là có tới hai mươi ngày vào ngủ trong nhà lao, vậy tôi có đứa con đòi rất thân mật, sẽ xin cho nó đợi ở vườn sau, hễ hôm nào chồng tôi đi vắng, thì kê án thắp hương làm hiệu, bấy giờ cứ lẳng lặng đi vào, không sợ chi cả. Nhưng chỉ e hồi canh năm mà ngủ quên thì rất nguy hiểm, vậy xin thuê một người đầu đà đi báo sáng, đến lối cửa sau mà đánh mõ báo sáng mà niệm Phật to lên, cho mình tỉnh dậy thì mới khỏi lộ sự ra được.

Sư hổ mang nghe nói cả mừng mà rằng:

– Phải lắm, diệu lắm, xin nàng cứ thế mà làm, tôi đây đã có người đầu đà, tức khắc tôi bảo đến canh gác ở đó.

– Thôi bây giờ không tiện ngồi dai, xin xuống kẻo người ta ngờ vực…những lời dặn phải nhớ nhé…

Chị chàng nói xong liền vuốt ve lại đường tóc, sửa sang lại má phấn rồi mở cửa lầu mà đi xuống. Khi xuống tới nơi, bảo thị nhi đánh thức Phan Công dậy để về.

Bấy giờ đám kiệu phu đã được ăn uống tử tế, cùng nhau ngồi đợi ở cả ngoài cổng chùa. Sư hổ mang đưa chân ra đến cổng chùa, rồi chị chàng kia lên kiệu mà cùng về với Phan Công.

Khi chị chàng về rồi, sư hổ mang liền tìm một người đầu đà báo sáng, đến để nói chuyện.Nguyên chùa đó vẫn có một người đầu đà, tên là Hồ Đạo, cứ mỗi sáng đấu trống canh năm lại vác mõ đi khua, để báo sáng cho mọi người tỉnh dậy tụng kinh và làm cơm.

Khi Hồ Đạo tới nơi, sư hổ mang ta rót mấy chén rượu để mời, và đưa một ít tiền cho Hồ Đạo.

Hồ Đạo đứng dậy mà nói rằng:

– Đệ tử vốn nhờ ơn sư phụ xưa nay, nào có công lao gì mà dám thụ lộc như vậy?

Sư ta cười bảo Hồ Đạo rằng:

– Ta xem ngươi là một kẻ chí thành, rồi ta sẽ xuất ít tiền mà mua hộ điệp cho ngươi, xung vào tăng ngạch, Nay hãy đưa cho ngươi một ít tiền này, để may quần áo mà mặc, ngươi cứ cầm lấy.

Hồ Đạo mọi khi vẫn được các đồ đệ ở đó, đãi cho ăn uồng, thỉnh thoảng lại dắt đi cúng lễ các nơi, cũng kiếm được chút tiền dư, nên trong lòng vẫn lấy làm cảm phục. Nay lại thấy cho tiền như vậy, thì tự nghĩ rằng:

“Nhà sư cho ta như thế này, tất có việc gì nhờ đến ta, vậy bất nhược ta hãy hỏi thử trước xem sao? “

Nghĩ đoạn liền nói rằng:

– Sư phụ có sai khiến việc gì, chúng tôi xin hết sức xin sư phụ nói cho biết…

– Ngươi đã có lòng tốt như thế, thì ta cũng không dám giâu làm gì, hiện nay con gái Phan Công muốn cùng ta đi lại, hẹn đêm đến thắp hương ở cửa sau làm hiệu cho ta vào. Song còn sợ lỡ khi có ai nghe ngóng, vậy ta phải phiền người đến đó dò trước, nếu qua không có ai, thì ta sẽ vào rồi đến sáng sớm canh năm ngươi lại tới cửa sau, nom khi vắng người thì gõ mõ niệm Phật cho to để ta ra về, như thế có được không?

Hồ Đạo vâng lời mà rằng:

– Việc đó có chi là khó, sư phụ đã sai, tôi xin vâng lĩnh.

Ngày hôm đó Hồ Đạo đến cửa sau nhà Phan Công để xin cơm chay. Chợt có đứa thị tỳ chạy ra hỏi rằng:

– Sao nhà chùa không đến cửa trước mà xin, mà lại vào cửa này?

Hồ Đạo lặng ngắt không trả lời, cứ niệm Phật to lên, cho trong nhà nghe tiếng, chị chàng voi xé kia, nghe thấy tiếng niệm Phật, liền vội vàng chạy ra hỏi rằng:

– Nhà chùa có phải là đầu đà báo sáng đó không?

Hồ Đạo đáp rằng:

– Chính tôi là đầu đà báo sáng, khua gọi người ta tỉnh dậy đây…Tôi đến phải đốt hương khẩn nguyện, thi Trời Phật mới chứng minh cho.

Chị chúng kia nghe nói cả mừng, liền bảo thị nhí vào lấy một quan tiền đồng thưởng cho Hồ Đạo. Hồ Đạo thấy thị nhi đi vào, liền hỏi thăm chị chàng kia rằng:

– Tôi là người tâm phúc của Hải Sư Phụ, đến để thăm đường trước đây…

– Được, tôi biết rồi, đêm náycư đến đây hễ có thắp hương thì báo cho sư huynh biết.

Hồ Đạo gật đầu lính ý. Thị nhi mang tiền ra cho Hồ Đạo, rồi chị chàng cùng thị nữ đều trở vào. Khi lên tới lấu, chị chàng đem chuyện tâm phúc giãi bày cho thị nhi biết, và dặn dò trông nom cẩn thận giúp cho.

Tối hôm đó Dương Hùng vừa đúng phiên vào ngủ trong lao, thị nhi liền bày án thắp hương để ra lối sau làm hiệu, rồi chị chàng voi xé sẽ đứng nấp ở bên để đợi. Vào khoảng cuối canh một, chợt thấy một người khăn áo chỉnh tề đi tót vào trong cửa. Thị nhi kính hỏi, người kia lặng ngắt không trả lời. Chị chàng thấy vậy, liền giơ tay bợp khăn người kia xuống, lộ cái đầu trọc tếu ra rồi sẽ mắng rằng:

– Cái quái này, sao mà ranh thế… ?

Nói đoạn dắt tay nhau cùng lên lấu. Thị nhi cũng cất hương vào, mà đi ngủ một chỗ.

Đêm hôm ấy hai anh chị ân ái tự tình với nhau, không có một điều chi trở ngại. Đương khi đôi bên mệt nhọc cùng thiếp đi một giấc nồng, bỗng nghe tiếng mõ lốc cốc cùng tiếng người niệm Phật ở sau thì hai người đều choàng dậy cả. Sư khốn nạn kia vội vàng đứng dậy mặc quần áo đội khăn, rồi bảo chị chàng rằng:

– Tôi xin về, rồi tối nay sẽ đến.

– Tối nào hễ trông thấy có thắp hương thì vào, đừng có sai lời mới được…Nếu không thắp hương thì chớ vào mà khốn đấy.

Nói đoạn nhà sư khốn nạn vâng lời, hất hải đi ra rồi. Thị nhi lại đóng cửa lại. Từ đó trở đi, cứ mỗi khi Dương Hùng vào ngủ trong lao vắng, là đôi bên lại dập dìu đi lại cùng nhau, tình ý rất nhiều thân mật. Phan Công thì chưa tối, đã đi nằm ngủ, còn hai đứa thị nhi cũng nằm cuộn tròn vào một giường, không biết tới chuyện chi, bởi vậy hai bên dan díu với nhau hơn một tháng trời, cũng không ai biết đến.

Về phần Thạch Tú từ khi nom thấy công chụyen chướng tai gai mắt, trong lòng vẫn băn khoăn khó chịu, song từ bấy cũng không thấy nhà sư đi lại thì lại không hiểu ý tứ sao. Sau đó, thỉnh thoảng chàng dậy sớm lại nghe thấy gõ mõ, và có tiếng người niệm phật ở phía dưới cửa sau thì trong bụng hơi lấy làm ngờ ngợ mà nói một mình rằng: “Lối ngõ sau đây là lối ngõ cụt, không còn ai ra vào đến đây, vậy sao lại có người nhà chùa đến gõ mõ niệm Phật làm chi? Việc này tất có duyên cớ chi đây ta thử dò xem mới được? “

Một đêm vào khoảng canh năm giữa đêm trung tuần tháng chạp, Thạch Tú đương trằn trọc ngủ không yên giấc, chợt thấy tiếng mõ kêu lốp cốp ở ngõ đi vào đến cửa sau, rồi có tiếng người niệm: “Phả độ chúng sinh, cứu khổ cứu nạn chư Phật Bồ Tát!” rất to.

Chàng nghe thấy vậy, bèn chạy ra chỗ khe cửa đứng nom, một lát thấy một người khăn áo chỉnh tề ở trong bước ra, cùng với anh đầu đà đi báo sáng cùng không đi, rồi lại thấy thị nhi chạy ra đóng cổng lại.

Thạch Tú thấy rõ ràng như vậy, trong lòng càng lấy làm tức giận, lẩm bẩm nói rằng:

– Ca Ca mình như thế, mà gặp đá phụ cư xử như thế phỏng có đáng tức hay không? Nếu ta không vì Ca Ca mà liệu lý sự này, thì quyết không phải là tay hảo hán…

Nói đoạn liền quay vào, đem thịt thà ra dọn hàng để bán buổi sáng. Hôm đó khi cơm nước xong, chàng ra đi đòi ít tiền hàng, rồi đi thẳng vào trong phủ để tìm Dương Hùng. Khi vào gần tới một chỗ ở trước cửa phủ, đã gặp Dương Hùng ở đó.

Dương Hùng hỏi Thạch Tú:

– Hiền đệ đi đâu thế?

Thạch Tú nói:

– Tôi đi hỏi ít tiền hàng, nhân thể vào thăm Ca Ca một thể.

– Lâu nay tôi bận việc quan, chưa hôm nào anh em ngồi uống rượu với nhau vài chén cho vui…Bây giờ hãy đến đây ngồi chơi một lát đã.

Nói đoạn liền dắt Thạch Tú đến một tửu lầu gần đó, tìm bào một gian gác tĩnh để ngồi, rồi gọi tửu bảo mang rượu nhắm lên để hai người cùng người cùng ngồi uống rượu. Uống được vài ba chén rượu, Dương Hùng thấy Thạch Tú chỉ cúi đầu nghĩ ngợi, thì trong lòng không được thích liền hỏi:

– Hiền đệ có chuyện gì không vui thế? Hay là ở nhà lại có điều chi trái ý với hiền đệ chăng.

– Không, trong nhà không có điều chi trái ý tôi. Tôi vẫn cảm ơn Ca Ca coi tôi như ruột thịt trong nhà, bởi vậy tôi có một câu chuyện muốn nói, nhưng…

Vừa nói đến đó, Dương Hùng lại tiếp luôn:

– Có việc gì xin hiền đệ cứ nói, sao lại câu lệ như người ngoài vậy.

– Tôi nói câu này thì Ca Ca bỏ qua cho: Ca Ca thì hằng ngày vào hầu việc quan trong phủ, không biết đâu đến công việc trong nhà…Tẩu tẩu không phải là một người có lương tâm, đã mấy phen tôi biết mà không dám nói. Tới nay bắt được quả tang, không thể nào mà cầm lòng cho đặng, nên phải tìm đến để nói cho Ca Ca nghe.

Dương Hùng nghe nói hỏi luôn rằng:

– Tôi làm gì có lắm mắt mà trông được cả đẳng sau lưng, vậy ai có đến đó, xin hiền đệ cứ nói cho tôi biết.

Thạch Tú liền đem chuyện từ khi nhà sư đến làm lễ, cho tới khi ra chùa Báo Ân, cùng là sáng sớm có người niệm Phật, rồi thấy nhà sư ở trong lầu đi ra, thuật hết cho Dương Hùng nghe mà nói rằng:

– Những hạng dâm phụ như thế, Ca Ca còn chứa làm chi cho bẩn nhà?

Dương Hùng nghe nói, bèn cả giận mà rằng:

– Đồ hèn mạt như thế, thì còn sao dung được!

Thạch Tú nói:

– Ca Ca hãy khoan, không nên nóng tính. Hôm nay về nhà cứ lặng ngắt làm thinh như mọi ngày, rồi đến chiều lại nói dối là phải vào ngủ trong lao, đợi đến canh ba sẽ trở về, gọïi cửa, tức đứa gian phu kia phải lòi ra ngay. Bấy giờ tôi xin nắm cổ nó lại để Ca Ca trị.

– Phải, làm thế có lẽ thông lắm.

– Nhưng Ca Ca phải kín mới được.

– Chắc hẳn rồi, để ngày mai ta sẽ thi hành.

Nói đoạn hai người cùng nhau uống mấy chén rượu nữa, rồi trả tiền đứng dậy đi xuống lầu. Khi đó chợt thấy bốn năm người ngu hầu chạy đến gọi Dương Hùng mà bảo rằng:

– Kìa Tiết Cấp, chúng tôi đương đi tìm mãi. Quan Phú đương ngồi ở vườn hoa, đợi Tiết Cấp đến đấu gậy với chúng tôi đấy. Đi…Tiết Cấp đi mau…

Dương Hùng nghe nói, bảo với Thạch Tú rằng:

– Thạch Ca về trước, tôi hãy vào hầu quan một lát đã.

Nói xong để mặc Thạch Tú về trước, rồi cùng tụi ngu hầu ra vườn hoa để đánh gậy. Tri Phủ ngồi xem đánh gậy một lát lấy làm thích chí ngợi khen, liền sai rót mười cốc lớn để thưởng cho Dương Hùng, Dương Hùng uống rượu lĩnh thưởng xong, rồi bái tạ Tri Phủ mà ra. Chúng trở lại đón Dương Hùng đi thiết rượu mãi đến gần tối, chén đã quá say mới đưa về nhà.

Khi về tới nhà, chị chàng kai đã thấy chồng say sưa mê mệt, liền cảm tạ mấy người đưa về đó, rồi cùng thị nhi dắt lên gác mà cởi khăn áo cho Dương Hùng đi nghỉ.Bấy giờ Dương Hùng đã say rượu bứ bừ, không còn nhớ đến lời dặn của Thạch Tú, liền đùng đùng nổi giận, trỏ vào mặt chị kia mà mắng rằng:

– Con hèn mạt này, đồ khốn nạn này, ta không thể nào dung được nữa…

Chị chàng kia thấy vậy, lấy làm kinh ngạc không dám nói câu gì, cứ lằng lặng mà phục dịch cho Dương Hùng ngủ. Dương Hùng vừa lim dim ngủ, vừa lảm nhảm luôn mồn mà mắng rằng:

– Đồ khốn nạn kia, đồ dâm phụ kia…mày…mày lại trêu vào miệng hùm à? Mày mà như thế, thì tao tha thế nào được…

Chị chàng lại im lặng, cố xoa vuốt cho Dương Hùng ngủ. Dương Hùng nói lảm nhảm một lúc rồi thiêm thiếp ngủ đi, mãi đến canh năm mới tỉnh dậy. Khi mở mắt tỉnh dậy, thấy trên án vẫn còn ngọn đèn nho nhỏ, chị kia còn nguyên khăn áo chỉnh tề, mà đem nước cho chàng uống.

Chàng cất lấy nước, uống xong liền hỏi:

– Đêm qua nàng không cởi xiêm áo mà ngủ hay sao?

Chị chàng đáp rằng:

– Tiếp Cấp uống rượu say quá, chỉ sợ nôn mửa ra đó, nên tôi vẫn phải ngồi ở cái chõng bên cạnh để xoa bóp, có dám cởi áo nằm ngủ ở đâu.

– Hôm qua tôi có nói mê mẩn gì không?

– Mọi khi uống rượu rất là thuần tính, hễ say là ngủ ngay lập tức, sao hôm qua say rượu thì khó chịu thế?

Dương Hùng lảng đi mà nói rằng:

– Đã lâu nay không ngồi uống rượu với Thạch Tú bữa nào, hôm nay ta ở nhà mời hắn uống rượu cho vui một thể.

Chị chàng kia làm bộ không nói gì, ngồi ở cái chõng một bên, giàn giụa hai hàng nước mắt, thở dài một tiếng rất vẻ đáng thương!

Dương Hùng lại nói:

– Đêm qua tôi say rượu có điều gì xúc phạm đâu? Sao nàng lại buốn bã làm vậy?

Chị chàng lặng ngắt, lau hai hàng nước mắt không trả lời. Dương Hùng hỏi luôn mấy tiếng nữa, chị chàng lại giả vờ bưng mặt khóc mà không nói gì cả.

Dương Hùng thấy vậy, liền kéo chị chàng lên giường mà hỏi:

– Làm sao nàng phiền não như thé?

Chị chàng ta khóc rưng rưng mà đáp rằng:

– Cha mẹ tôi ngày trước gả tôi cho Vương Áp Ty, cũng tưởng trăm năm xum họp với nhau, nào ai có ngờ là giữa đường đứt gánh…Ngày nay lại lấy được chàng là hào kiệt, cũng đã hơi hả trong lòng, dè đâu chàng lại hẫng hờ không thiết gì đến tôi cả.

– Quái lạ! Ai làm gì nàng mà kêu rằng tôi hờ hẫng không biết.

– Tôi cũng không muốn nói ra làm gì, nhưng không nói thì để lòng không đặng, mà nói ra đây; lại thêm tức bực cho chàng mà thôi.

– Hãy cứ nói, xem chuyện gì đã…

– Tôi nói đây, chàng biết mà để lòng mới được…Từ khi kết nghĩa với Thạch Tú, thọat trước anh ta còn tử tế, sau càng ngày càng sỗ sàng vô lễ mãi ra, thỉnh thoảng chàng đi vắng, thì anh ta lại đùa bỡn mà bảo tôi rằng: ” Ca Ca ngay nay khong ve tau na m motnh labuon han? ” Hắn đã đôi ba phen như thế, tôi cũng không thèm nói làm chi…Lại đến buổi sáng hôm qua, tôi đương đứng rửa mặt ở dưới bếp, hắn ở đâu chạy đến, nom trước nom sau, không thấy ai cả, liền thò tay sờ vào bụng tôi mà nói rằng: “Tẩu tẩu đã có mang chưa? ” Tôi tức giận quá, cầm tay hắn hắt ra, đã toan la thét ầm lên cho hắn một mẻ, nhưng sợ hàng xóm chê cười, nên phải cắn răng chịu vậy để đợi khi chàng về sẽ nói cho chàng biết. Ngờ đâu hôm qua về tới nhà đã say gí say gì, không còn biết làm sao nói chuyện được nữa…Tôi tức quá chừng, tôi đương muốn giết nó đi cho xong chuyện, lại còn đem tên Thạch Tú mà nói với tôi làm gì nữa…

Dương Hùng nổi giận đùng đùng mà rằng:

– “Vẽ hùm ai vẽ được xương. Biết người biết mặt ai lường được gan? “Thế mà nó dám xoen xoét với ta là thằng sư thế nọ, thằng sư thế kia, ai ngờ chính nó lại khốn nạn như thế? Nó có phải anh em ruột thịt gì mà cần, tống quách cổ đi cho rảnh.

Nói đoạn chờ cho đến sáng trở dậy bảo với Phan Công rằng:

– Con lợn mới giết đó đem thịt mà cất đi, từ nay không buôn bán gì nữa.

Đoạn rồi đem các đồ hàng hóa buôn bán đạp phá tan tành, không còn một chút gì để lại. Được một lát Thạch Tú trở dậy, đem thịt ra để bày hàng, thì bỗng thấy quầy bàn gãy nát tứ tung, thì sực nghĩ đến chuyện Dương Hùng, rồi cười mà nói rằng:

– Phải rồi, anh chàng này chắc đêm hôm qua say rượu, nói phọt ra hết rồi, chị chàng ấy làm kế phản gián cho anh em chia rẽ nhau đây…Được, nếu vậy đành chịu lui một bước, rồi sẽ liệu…

Nói đoạn về phòng thu xếp khăn gói, giắt lấy con dao lưng, rồi đã lánh mặt đi trước.

Thạch Tú đến nói với Phan Công rằng:

– Chúng tôi ở đây lâu ngày quấy quả thế, mãi cũng không tiện, vậy Ca Ca đã thu xếp cửa hàng không cho bán nữa, vậy tôi xin cáo từ để đi nơi khác.Các sổ sách tiền nong đã minh minh bạch bạch, không có chút gì là sai lầm. Nếu tôi có lòng nào gian tham vào đó, thì xin trời đất chứng minh.

Phan Công thấy con rể đã không ưng lòng lưu lại, cũng đánh để cho Thạch Tú ra đi, mà không biết nói sao được nữa.

Vì đâu tâm huyết tan tành?

Nghĩa kia so với chữ tình mà thua?

Mấy ai tri kỷ giang hồ?

Trông tu my chẳng thẹn thò lắm sao?

Khi đó Thạch Tú từ giã Phan Công đi đến một chỗ gần đó, tìm vào hàng cơm, thuê một gian phòng để trọ, rồi tự nghĩ một mình rằng: “Dương Hùng với ta kết nghĩa anh em, ta tất làm ra cho rõ việc này, không thì nguy hiểm đến tính mệnh anh ta mất. Anh ta tuy bây giờ cả nghe bà mà giận dữ với ta, song ta đây không chấp những chuyện nhỏ mà làm hại nghĩa lớn, vậy ta hãy ở đây dò thăm cho ra việc này, rồi sẽ nói cho hắn biết”

Chàng nghĩ vậy liền quyết chí đến cửa Dương Hùng để thám thính. Một buổi tối kia, có một tên lính ngục, mang chăn đệm của Dương Hùng vào nhà lao, Thạch Tú thấy vậy, đoán chắc là tối hôm đó Dương Hùng vào ngủ trong lao, chàng liền lập kế dậy sớm để đi bắt gian.

Tối hôm ấy Thạch Tú đi ngủ thật sớm, đầu trống canh năm thức dậy, rửa mặt súc miệng, rồi giắt con dao nhọn, mở cửa lẻn đi ra ngõ sau, nấp vào xó tối nhà Dương Hùng để đợi.

Vào khoảng giữa canh năm, chợt thấy người đầu đà vác một cái mõ gỗ đi đến đầu ngõ, rồi nghiêng nghé nom dòm hết chỗ nọ đến chỗ kia. Thạch Tú thấy vậy liền nhảy đến đằng sau đầu đà, một tay nắm chặt lấy đầu đà, một tay giờ dao kề vào cổ mà sẽ nói rằng:

– Muốn sống phải im, hễ kêu là ta giết ngay.Mày phải nói thực. Hòa thượng bảo mày đến đây làm gì?

Đầu đà cuống người lên, sẽ trả lời rằng:

– Hảo hán tha tôi, tôi xin thú thực…

– Nói mau, ta tha cho…

– Hải hòa thượng đi lại với con gái Phan Công, tối đến sai tôi tới đây, nom thấy hiệu hương, thì bảo cho hòa thượng vào, rồi đến canh năm lại bảo tôi đến đây nom thấy vắng người, thì khua mõ niệm Phật cho hòa thượng ra…

– Hiện bây giờ hắn ở đâu?

– Hiện còn nằm trong nhà Phan Công đó. Bây giờ tôi gõ mấy tiếng là ra ngay.

Thạch Tú nói:

– Vậy thì anh cho tôi mượn cái mõ và bộ quần áo của anh đã.

Nói đoạn giật lấy cái mõ ở tay đầu đà, đầu đà kinh sợ, cởi áo đưa cho Thạch Tú, Thạch Tú giơ dao đâm cho đầu đà một nhát vào cổ, ngã lăn ra đó, lấy áo của đầu đà mặc vào mình, rồi lau sạch lưỡi gươm mà gõ mõ đi vào ngõ.

Bấy giờ sư hổ mang ta đương ở trong lầu, nghe thấy tiếng gõ mõ, liền vội vàng đi ra. Thạch Tú ngoài này cứ gõ mõ tràn mãi không thôi.

Sư ta lẻn ra sẽ mắng luôn rằng:

– Gõ gì mà gõ mãi thế?

Thạch Tú lặng ngắt để cho sư hổ mang ra đến đầu ngõ, đá một cái lăn xuống đất, rồi đè chặt lấy mà bảo rằng:

– Im, hễ kêu to là ta giết. Để ta lột hết quần áo đã.

Sư hổ mang nhận ra là Thạch Tú thì lặng ngắt, cho lột quần áo mà không dám thở, Thạch Tú lột trần truồng hết cả, rồi lấy dao xỉa cho mấy nhát, kết quả tính mạng sư hổ mang. Đoạn rồi đem dao đến bỏ ở bên cạnh đầu đà, gói hai thứ xống áo lại mang tót về nhà trọ. Khi về tới nơi, chàng lại cài cửa đi vào, nằm nguyên như trước, không ai biết chuyện gì.

Giang hồ liếc mũi dao con,

Chuyện đời chướng mắt phỏng còn hay không?

Anh em đã trót đèo bòng,

Ai ơi nên phải giốc lòng cùng nhau.

Gần phố đó có anh Vương Công bán hàng cháo, sáng dậy dọn hàng thực sớm, quảy gánh xách đèn đi trước, một đứa bếù con theo sau, để cùng ra ngoài chợ. Khi đi đến chỗ xác chết, bị vấp một cái, ngã đổ gánh cháo ra đường.

Bấy giờ đứa bé con kêu lên rằng:

– Khổ chưa! Có nhà sư say nằm đây hẳn…

Vừa kêu dứt miệng thì lão Vương Công bò dậy, thấy hai bàn tay đầm đìa những máu, tanh sặc cả lên. Vương Công lấy làm kinh sợ kêu la ầm ĩ, rồi đôi bên phố xá vác đèn ra soi, thì thấy máu hòa với cháo lênh láng cả ra phố. Mà có hai cái xác chết nằm ở đó. Phố xá thấy vậy đều kinh ngạc hãi hùng, liền tóm lấy Vương Công để đem vào trình phủ.

Sóng oan chìm đắm bao người,

Lấy ai lấp phẳng tát vơi bể tình?

Tuồng gì là giống hôi tanh,

Làm cho đổ quán nghiêng thành như chơi.

Có thân nên sớm liệu đời,

Lẽ ra khôn lẽ kêu trời là oan!

Anh hùng gánh vác giang san,

Trăm năm hoa nở hoa tàn sá chi?

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này Thánh Thán bàn đến Đạo Phật rất dài, cho rõ rằng đạo Phật cao siêu bao nhiêu, dạy kẻ tu hành phải diệt dục thế nào, mới đáng một đệ tử Phật, để nảy ra một Bùi Như Hải, khoác áo tu hành, lại quá dâm ô hơn là phàm phu tục tử. Nay xin tóm tắt đại ý mà tạm dịch ra đây.

Sau khi Phật diệt độ rồi, thì mọi tội ác của tỳ khưu ỏ trong việc Phật, diễn ra, làm lắm điều đi đến diệt Pháp, ta muốn nói ra, dài quá không tiện, nay nhân chuyện hồi này mà bàn đến gửi vào.

Xét Đạo Phật vốn cao cả, rất nhiều pháp môn để tùy nghiệp duyên giải thoát chúng sinh, riêng về môn tu hành trực tiếp xuất gia, thấy phải ép xác minh như chết hẳn đời, để theo cho thành công quả lớn, cho nên tu phải pháp giới trang nghiêm, trường trai diệt dục, gọi là khổ hạnh…Thế mà bao nhiêu kẻ khoác áo thầy tu, bề ngoài thấy rất nghiêm trang, ai cũng chắc là đại đức, nghiêm cẩn, trong sạch, cao uý…với bao nhiêu hình thức, tin như Bồ Tát hiên thân…Ai ngờ, nào có ai ngờ bề trong khác hẳn, họ có rất nhiều mánh lới bịp bợm, lường gạt, đến ai cũng mắc, để làm cho thỏa mãn xác thân, đến khi Phật Trời tẩy uế, làm nổi bật tội ra, người đời mới lắc đầu le lưõi, trong đám tu hành lại gian tham quá phàm tục thế này…

Một đoạn văn tả Bùi Như Hải, tác giả đã đền nhan: Thạch Tú trí sát Bùi Như Hải, tức gợi ngay tên tục hắn mà tước bỏ pháp danh, cho rõ một thằng tục vậy? Tới khi hành văn, tả Bùi Như Hải thông gian cùng Phan Xảo Vân, bao nhiêu người nhộn nhịp xung quanh đám hiếu, từ trước tới sau không một ai có thề ngờ một nhà sư, cho đến lúc Xảo Vân lên chùa làm lễ, ngay ông bố theo, cũng không biết tới, con hầu thân lúc đó chưa hay, về sau nhà sư chỉ cho đầu đà biết, Xảo Vân chỉ cho con hầu cạnh được hay đề là những kẻ giúp sức mới có thể biết được, do đương cuộc nói để nhờ vào việc.

Thế mà bỗng đâu nảy ra một Thạch Tú, anh chàng ăn mặn nói ngay biết được rõ ràng, từ lúc đón sư về, tới khi vào đám lễ, Thạch Tú nhân ra hiệu bảo nhau…Chàng máu nóng đã nổi cơn điên rồi, mà không làm sao được ngứa mắt đến nỗi giả vờ đau bụng cho nguội; Khi Xảo Vân lên lễ chùa chàng đã sẵn nghi, chỉ mong bắt được qủa tang thì mạt sát. Sau khi dò ra biết tên đầu đà khi báo hiệu, thấy đôi trai gái đã tư thông, chàng nhịn sao được mà chả nói cho bạn biết? Dương Hùng vừa tin bạn rồi lại tin vợ, lại thấy một kẻ có vợ ngoại tình, cũng không còn ngờ vợ ngoại tình, đến nỗi đuổi bạn đi một cách gián tiếp, đôi trai gái kia lại càng già sự thông dâm.

Sau khi giết hai gã tình gian dâm ra đường, không ai biết được? Tòa án cũng đến chịu rằng ai giết nhà sư? Việc giết nhà sư về bí mật này đã đành Thạch Tú rất là tinh tế, Phan Xảo Vân cũng đoán nổi ra, Dương Hùng mới nghi ai vậy…Độc giả thấy một đoạn văn tả rất khéo thay!

Hồi 45: Núi Thúy Bình, Dương Hùng giết vợ – Điếm Chúc Gia, Thạch Tú đốt nhà

Khi đó mấy người ở phố xá túm lấy Vương Công cùng đem vào phủ quỳ xuống kêu với Tri Phủ rằng:

– Sáng ngày chúng tôi ra nghe tiếng kêu, vội chạy ra phố xem, thì thấy lão này đánh đổ cháo lên trên hai cái xác chết, một cái xác hoà thượng, một cái xác đầu đà, toàn thị trần truồng hết cả, và có con dao vất ở bên cạnh đầu đà, xin đến trinh quan biết.

Vương Công kêu rằng:

– Việc đó chúng tôi không biết đầu đuôi thế nào. Sáng ngày dậy sớm, đi với thằng bé gánh hàng đem ra chợ bán, bỗng tới đó bị vấp ngã, máu me dính bết ra người, bấy giờ mới biết có hai xác chết. Chúng tôi thấy thế lấy làm kinh sợ, kêu la ầm ĩ cho phố xá đổ ra, rồi kéo đến để trình quan lớn. Xin ngài lượng cả xét cho…

Quan Phủ nghe nói, liền sai nha lại dẫn tụi Vương Công cùng người hàng phố đến đó để khám nghiệm sự tình.

Khi chúng khám xong, về bẩm với Tri Phủ rằng:

– Nhà sư bị giết đó là hoà thượng Bùi Như Hải ở chùa Báo ân, còn người đầu đà, tức tên là Hồ Đạo ở đằng sau chùa. Nhà sư ấy không mặc một thứ vải lụa nào, trong mình có đến ba bốn nhát dao đâm. Hồ Đạo thì có để một con dao hành hung lên cổ, chỉ có một nhát thương rất nặng. Việc này chắc là Hồ Đạo cầm dao đâm giết nhà sư, rồi sợ tội vạ đến thân mà lại tự tử chết nốt.

Tri Phủ cho đòi chư tăng ở chùa đó đến để tra hỏi, đều không ai biết đầu đuôi ra sao cả.

Bấy giờ Khổng Mục bảo với Tri Phủ rằng:

– Cứ xét về hiện tình thế này, chắc là hai bên làm việc gì phi pháp, rồi tranh nhau mà lôi thôi sinh sự, không hề gì động đến Vương Công, vậy tha cho Vương Công trở về với hàng phố, để sau này có việc chi sẽ đòi hỏi đến. Còn hai cái xác kia, giao cho chùa Báo Aân phải đem quan quách để chôn đi một nơi rồi lập án cho là hai bên giết hại lẫn nhau, thế là công chính…

Tri Phủ khen là phải liền y lời, truyền cho theo đó thi hành.

Được ít bữa có kẻ hiếu sự ở gần phố đó, đặt ra câu hát cho trẻ con hát rằng:

Nực cười hoà thượng chùa Báo An,

Cũng là túc trái tiền nhân,

Lứa đôi thiện nam dỗ tín nữ,

Mong cho vui sướng lấy thân,

Ngờ đâu Cực Lạc Quan Âm vừa tiếp dẫn,

Bỗng đâu Huyết bồn Địa ngục đã sa chân!

Than ơi! Chữ Không, Sắc quả nhân không nhớ,

Kiếp hoá sinh kia tớ theo thầy!

Ví chăng xum họp rồng mây,

Thì chi đến nỗi đường giây máu tình?

Tưởng rằng: Chỉ có bà Mục Liên dẫn mẹ đến trời xanh;

Nào ai hay, sư hổ mang lại hoá kiếp bởi cô mình mình ơi!

Lại có mấy anh hiếu sự nữa, nghe mấy câu hát ấy, thì cũng tức tối trong lòng, mà đặt luôn một khúc “Lâm Giang Tiên” cho trẻ hát:

“Sắc giới phá tan, Dao oan kề cổ, Tiên nhân hậu quả, Thực rõ từng ly.”

Sinh thì diện mục gớm ghê,

Aùo quần trút sách dao kề một bên.

Sư cụ đêm nay tròn quả phúc,

Đêm qua sư bác vẫn như điên.

Đầu đà cũng quyết cùng nhau chết,

Cửa Phật khen ai khéo nặng nguyền… “

Đàn bà trẻ con thấy hai câu hát ấy, thì truyền tụng luôn mồm, làm cho phố xá ai ai cũng biết. Chi chàng kia thấy vậy, trong bụng càng lấy làm cay đắng xót xa, mà không dám hé miệng nói một câu gì vào đó.

Về phần Dương Hùng ở phủ Kế Châu khi đó, nghe thấy câu chuyện như thế, thì đoán chắc là Thạch Tú làm ra, liền tự ăn năn hối hận trong lòng rồi quay ra vơ vẫn đi tìm Thạch Tú, để hỏi xem đoan đích ra sao?

Chàng vừa đi đến phía trước cầu, đã thấy có tiếng người đằng sau họi lên rằng:

– Ca Ca đi đâu đấy?

Dương Hùng nghe gọi quay lại thấy Thạch Tú liền nói.

– Kìa hiền đệ, tôi đương tính đi tìm hiền đệ đây.

Thạch Tú nói:

– Ca Ca hãy đến chỗ này, tôi nói chuyện đã.

Nói đoạn dẫn Dương Hùng vào một hàng cơm, đến một chỗ phòng con để nói chuyện với nhau.

Thạch Tú bảo Dương Hùng rằng:

– Ca Ca, tôi nói có sai đâu?

Dương Hùng nói:

– Thôi, xin hiền đệ tha lỗi cho tôi. Vì hôm đó tôi say rượu nói liền, bị đứa gian phụ dò biết ý tứ, rồi nói xấu hiền đệ lắm câu không ra gì cả. Nay tôi tìm đến để xin lỗi với hiền đệ đây…

– Ca Ca ơi! Tôi dẫu là một đứa vô tài, song đầu đội trời, chân đạp đất, không khi nào làm càn bao giờ? Tôi chỉ sợ sau này lỡ Ca Ca lại trúng kế, nên đến tìm để bảo rõ cho Ca Ca biết, hiện có tang tích đây kia, tôi xin lấy Ca Ca xe.

Nói đoạn đem cả quần áo của hai người đã giết mà đưa cho Dương Hùng xem.

Dương Hùng xem xong bầng bầng nổi giận mà rằng:

– Để hôm nay về cắt đầu con dâm phụ kia, thìm mới hả lòng được.

Thạch Tú cười rằng:

– Anh lại thế rồi…Anh là một người làm việc quan, không biết pháp luật hay sao? Bây giờ không bắt được quả tang thì giết người ta thế nào được? Ngộ lỡ ra tôi nói xằng, thì có phải giết oan người ta không?

– Thế thì có thôi được hay sao?

– Bây giờ anh phải nghe tôi, mới có thể làm một anh con trai ở đời được…

– Thế nào hiền đệ cứ nói tôi nghe?

– Gần núi cửa đông đây có toà núi Thuý Bình Sơn, rất là tĩnh mịch, đến mai Ca Ca nói dối là đi lễ, rồi dắt tẩu tẩu và đứa thị nữ lên đó một thể. Đoạn rồi tôi đón ở đó, để ba mặt một lời đối chứng minh bạch, rồi Ca Ca sẽ làm giấy cho người ta về, thế là công bằng hơn cả.

– Hiền đệ bất tất phải thế, tôi biết rằng hiền đệ là người thủy chung, không khi nào có thế mà ngại. Cái đó toàn là con khốn nạn nó nói liều nói lĩnh ra cả.

– Đành vậy, nhưng tôi muốn cho Ca Ca biết rõ đầu đuôi, thì tôi mới hả.

– Hiền đệ đã định vậy, thì rất là có lý, sáng mai tôi xin dẫn nó đến đó, hiền đệ chớ sai lời mới được.

Thạch Tú cười mà đáp rằng:

– Nếu ngày mai tôi không đến đó, thì những lời nói của tôi là vất đi cả. Xin Ca Ca cứ y ước cho.

Nói đoạn Dương Hùng từ biệt Thạch Tú mà đi về trong phủ. Chiều hôm đó Dương Hùng về nhà vẫn cứ ung dung điềm đạm như mọi ngày, không có điều chi là ý khác. Sáng hôm sau chàng dậy sớm nói với vợ rằng:

– Đêm qua tôi nằm mê, thấy thần về báo mông, nói rằng: “Khi trước có hứa làm lễ, mà sao đến nay không đi trả lễ. Nguyên trước tôi có hứa đến lễ Nhạc miếu ngoài cửa đông, song lâu nay bận rộn chưa sao trả lễ được, vậy ngày nay tôi muốn cùng nàng ra để trả lễ một thể”.

Chị chàng kia đáp rằng:

– Tiết Cấp đi muốn mình có được không? Cần gì phải tôi đi nữa?

– Ngày trước tôi có hứa lễ, chính là ngày thành thân với nhau, vậy ngày nay phải cùng đi với nhau mới được.

– Nếu vậy ta cùng ăn cơm chay sớm, rồi tắm rửa mà đi một thể.

– Để tôi mua vàng hương với thuê xe, nàng ở nhà tắm rửa trước, rồi bảo thị nhí sắp sửa đợi tôi về là đi.

Nói đoạn đứng dậy đi ra hàng cơm tìm Thạch Tú hẹn rằng:

– Hôm nay cứ ăn cơm xong là tới đó cả.

Thạch Tú nói:

– Khi đến lưng chừng núi. Ca Ca nên cho đỗ kiệu xuống, rồi mấy người đi bộ lên núi, tôi sẽ chờ một chỗ vắng vẻ trên đó, chớ cho người lạ đi vào mới được.

Dương Hùng nhận lời, quay ra đi mua vàng hương thuê kiệu rồi trở về ăn cơm. Khi ăn cơm xong sắp sửa rồi lên kiệu, kiệu phu đã chực ở ngoài cửa.

Dương Hùng trở vào nói với Phan Công rằng:

– Xin trượng nhân trông nom nhà giúp, chúng con đi lễ một lát sẽ về.

Phan Công nói rằng:

– Tiếp Cấp đi lễ, nên mau mau trở về, kẻo lão mong đợi.

Nói đoạn chị chàng lên kiệu, rồi Dương Hùng cùng thị nữ đi bộ theo sau. Khi ra đến ngoài cửa đông. Dương Hùng dặn lũ phu kiệu khiêng kiệu lên núi Thuý Bình Sơn, rồi sẽ cho thêm tiền.

Nguyên Thuý Bình Sơn ở ngoài cửa đông Kế Châu, ước chừng hơn hai mươi dặm; trên đó toàn thị tha ma mộ địa, cỏ mọc xanh um, cành dương trắng xoá, không hề có chùa chiền nhà cửa ở trên.

Bấy giờ phu kiệu khiêng kiệu đến lưng chừng núi. Dương Hùng liền bảo hạ kiệu xuống, rồi rút then mở bức rèm giục chị chàng đi ra.

Chị Chàng hỏi:

– Đây là chỗ nào?

Dương Hùng đáp:

– Hãy cứ xuống sẽ biết.

Nói đoạn quay ra dặn bọn phu kiệu rằng:

– Các ngươi đợi ở đây, một lát ta cho tiền uống rượu, bất tất phải lên trên ấy.

Đám kiệu phu vâng lời, đứng đợi ở đó, Dương Hùng dẫn chị chàng kia, cùng thị nữ đi lên trên núi. Khi tới chỗ vắng vẻ, thấy Thạch Tú đã đứng đợi ở đó, chị chàng kia liền hỏi Dương Hùng rằng:

– Sao đi lễ lại không mang vàng hương lên đây?

Dương Hùng nói:

– Tôi cho người đem lên trước rồi.

Nói đoạn, liền dẫn chị chàng kia đến một nơi cổ mộ rất là hoàng tịch. Tới đó Thạch Tú bỏ khăn gói dao gậy xuống chỗ gốc cây, rồi chấp tay vái chị chàng kia mà rằng:

– Xin chào tẩu tẩu.

Chị chàng kia cũng vội vàng hỏi:

– Sao thúc thúc cũng ở đây? Nàng vừa hỏi vừa giật mình kinh sợ, không biết tại sao?

Thạch Tú đáp rằng:

– Tôi đợi tẩu tẩu ở đây đã lâu.

Đoạn rồi Dương Hùng quay lại hỏi chị chàng rằng:

– Bữa trước nàng nói với ta những chuyện thúc thúc làm xằng như thế nào? Hôm nay vắng vẻ nàng thuật lại rõ ràng cho ta nghe một lượt?

Chị chàng tái người đi mà đáp rằng:

– Việc đã qua rồi, còn nhắc lại làm chi nữa?

Thạch Tú trừng mắt hỏi:

– Tẩu tẩu nói thế nào?

– Thúc thúc việc gì đến đó, còn nói nữa làm chi… ?

Thạch Tú cười nhạt, rồi giở khăn gói lấy quần áo của Bùi Như Hải và Hồ Đạo ra, ném xuống đất mà hỏi rằng:

– Có biết quần áo nào đây không?

Chị chàng kia trông thấy, lại đỏ bầng mặt lên, mà không nói được câu gì nữa.

Thạch Tú cầm dao lưng ra tay, bảo với Dương Hùng rằng:

– Việc này chỉ hỏi con thị nữ sẽ biết.

Dương Hùng liền nắm đầu con thị nữ bắt quỳ xuống trước mặt quát lên hỏi rằng:

– Con khốn nạn này, những việc thông gian ở chùa…hẹn ước đốt hương như thế nào…cùng là đầu đà gõ mõ…thế nào, muốn sống nói thực cho ta nghe. Nếu sai một câu nào là ta cắt cổ băm nhừ ngay lập tức.

Thị nhi run rẩy kêu rằng:

– Bẩm ngài, việc không can thiệp gì đến tôi, ngài tha cho tôi xin kể ngài nghe.

Nói đoạn liền đem chuyện từ khi đến chùa lễ Phật, vào phòng xem răng Phật, đuổi thị nữ xuống nhà dưới, rồi đến ngày thứ ba có đầu đà đến xin kêu, sai lấy tiền đồng ra cho, rồi sau đợi Tiết Cấp đi vắng là thắp hương ra hiệu, và sáng dậy có người gõ mõ đánh thức thế nào…cho đến lúc thưởng cho mấy thứ nữ trang, bắt phải nói với Tiết Cấp là Thạch Tú đùa bỡn ghẹo thế nào…Nhất nhất thuật cho Dương Hùng, Thạch Tú cùng nghe…

Thạch Tú nghe đến đó, bèn hỏi Dương Hùng rằng:

– Ca Ca đã biết chưa? Những lời đó không phải là tiểu đệ xui nó được…Xin Ca Ca hỏi lại tẩu tẩu xem?

Dương Hùng lại nắm tay chị chàng kia, kéo lại mà quát lên rằng:

– Đồ súc sinh này, con kia có đã thú thực cả rồi, ngươi có chối được nữa không? Mau mau nói thực ra, kẻo không sống được bây giờ…

Chị chàng kia năn nỉ kêu rằng:

– Việc đó thực là tôi không phải, xin chàng nghĩ tình vợ chồng khi trước mà tha tội cho tôi?

Thạch Tú bảo với Dương Hùng rằng:

– Ca Ca không thể hàm hồ thế được, phải hỏi cho rõ đầu đuôi ra sao?

Dương Hùng lại quát lên rằng:

– Thế nào phải nói cho ta nghe?

Chị chàng lại phải đem đầu đuôi từ khi hai năm gặp gỡ đã có tư tình, bái kế Phan Công làm can gia, đến khi làm lễ ở nhà đôi bên cười cợt, bị Thạch Tú biết lại phải im đi, khi ra thắp hương ngoài đàn, đổi bên lại đến gần rèm chuyện hẹn nhau ra lễ ngoài chùa, khi ra lễ chùa, đánh lừa lên xem răng Phật, toan tính lâu dài cùng nhau, khi xui làm phản gián để đuổi Thạch Tú đi, khi yêu cầu để đem thị nhi ra cho hẹn cùng khi hẹn hò đi lại luôn luôn thế nào…thế nào…lại thuật hết một lượt nữa.

Thạch Tú nói:

– Còn khi nói với Ca Ca, tôi đùa bỡn thế nào nữa?

– Hôm đó Ca Ca say rượu về, mắng tôi mấy câu rất là đáng sợ, tôi đoán chắc là thúc thúc đã biết chuyện mà nói cho Ca Ca hay, vả chăng trước đó mấy hôm đã có người xui tôi làm cách đó, nhân thế tôi mới dụng kế để phản gián đôi bên, nhưng xin thú thực là thúc thúc không có chút gì như thế.

Thạch Tú nói với Dương Hùng rằng:

– Bây giờ thế đã ba mặt một lời rồi, còn cách xử trí thề nào xin tuỳ nhân huynh định liệu?

Dương Hùng nói:

– Hiền đệ hãy tháo hết nữ trang trên đầu, cởi hết áo xiêm hắn ra, để tôi sẽ có cách xử trí.

Thạch Tú vâng lời, tháo hết đồ trang sức, và lột áo chị chàng kia ra, Dương Hùng bèn cắt hai đoạn dải lưng buộc chị chàng vào gốc cây ở đó. Thạch Tú lại lột hết khăn áo của đứa thị nữ, và mọi đồ trang sức đưa cho Dương Hùng và nói rằng:

– Ca Ca nên nghĩ, những hạng người khốn nạn ấy, còn để làm gì nữa? Giẫy cỏ phải nhổ gốc mới được.

Dương Hùng nói:

– Đưa dao đây, tôi xử cho mới thích.

Thị nữ thấy nguy bách đến nơi, vừa mới toan kêu lên, thì bị Dương Hùng chém một nhát đứt ngay ra làm hai đoạn.

Chị ả bị trói ở gốc cây thấy vậy kêu lên rằng:

– Thúc thúc can giúp một tí.

Thạch Tú cười mà đáp rằng:

– Cái này có phải tự tôi đâu?

Dương Hùng cầm dao đến móc lưỡi chị chàng kia cắt đứt không cho kêu được nữa, rồi trỏ vào mặt mà nói rằng:

– Đồ hèn mạt này, mầy lừa dối ta, xuýt nữa không những là hại đến tình nghĩa anh em, mà sau này lại còn bị ngươi giết hại, vậy chắc là tâm, can, phủ tạng của ngươi, khác hẳn mọi người, để ta lấy thử ra xem sao?

Nói đoạn đưa dao rạch một nhát từ ngực xuống bụng, moi lấy gan treo lên cây tùng. Đoạn rồi đem quần áo bỏ xó với quần áo nhà sư, và lấy các đồ trang sức gói vào một gói bảo với Thạch Tú rằng:

– Bây giờ gian phu dâm phụ đã giết cả rồi, duy còn tôi với hiền đệ thì nương tựa vào đâu cho được?

Thạch Tú nói:

– Tôi có chỗ để an thân được, xin Ca Ca cùng đi ngay với tôi.

– Đi đâu bây giờ?

– Bây giờ Ca Ca đã giết người, nếu không lên nhập bọn ở đất Lương Sơn, thì còn đi đâu được?

– Đành vậy, nhưng hai anh em mình có quen biết mà họ dung nạp vào đó?

– Ca Ca nghĩ lầm rồi, hiện nay đám giang hồ thiên hạ, ai không biết tiếng Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, là người chiêu hiền nạp sĩ, chuyên kết hảo hán xưa nay. Vả chăng tôi cùng nhân huynh lại biết đôi chút võ nghệ, như vậy thì làm chi đến đó, họ chẳng hoan nghênh?

– Tuy nhiên buổi ban đầu là còn khó, huống chi tôi đây là người làm việc quan, thì tất nhiên họ cũng nghi tâm, có khi nào chịu cho mình ở được?

Thạch Tú cười rằng:

– Ông ta ngày trước không làm Áp Ty hay sao? Tôi nói câu này cho Ca Ca vững dạ, trước đây anh em mình mới được gặp nhau trong hàng rượu, có hai người cùng ngồi ở đấy với tôi, rồi đứng dậy đi, chính một người là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, ở Lương Sơn Bạc, và một người là Cẩm Báo Tử Dương Lâm, có cho em mười lạng bạc, hiện còn để trong bọc đó…Nay anh em ta lên đó, thì còn có điều chi mà ngại?

– Nếu quả có đường lối như vậy, thì tôi về thu thập hành lý rồi ta cùng đi…

– Ca Ca còn thu thập hành lý gì? Bầy giờ vào thành lỡ ra họ tóm được thì thoát làm sao? Hiện đây đã có các đồ nữ trang, tôi cũng có một ít tiền kia, thế là đủ rồi không cần nói chi phải đi đâu cho thêm sinh sự? Thôi Ca Ca cứ quyết chí đi ra sau núi, mà tên Lương Sơn Bạc ngay mới được.

Thạch Tú nói đoạn, khoác khăn gói lên vai, tay cầm lấy gậy rồi Dương Hùng lau dao giắt vào lưng, rồi vác thanh đao để cùng ra đi.

Chợt đâu có người trong bụi thông chạy ra kêu rằng:

– Giữa lúc thái bình thế này, mà dám cả gan giết người, rồi rủ nhau nhập cọn Lương Sơn Bạc hay sao? Ta đây biết hết chuyện rồi…

Dương Hùng, Thạch Tú nghe nói quay đầu lại xem, thì người kia đứng gần trước mặt mà cúi xuống lạy chào hai người. Nguyên người ấy họ Thời tên Thiên, tổ quân ở đất Cao Đường, lưu lạc đến đất Kế Châu, thường hay trèo tường khoét ngạch làm kế sinh nhai, người ta thường gọi là Cổ Thượng Tao Thời Thiên, trước đây đã bị Quan Tư ở phủ Kế Châu bắt được, sau có Dương Hùng cứu thoát cho ra, nên mới nhận biết Dương Hùng từ đó.

Bấy giờ Dương Hùng trông thấy Thời Thiên liền hỏi rằng:

– Ngươi ở đâu mà lại đến đây?

– Dám thưa Tiết Cấp Ca Ca, lâu nay tôi rất quẫn bách, không còn có chỗ kiếm ăn, đành phải quanh quẩn ở đây, đào mấy cái mộ cổ, để xem có cái gì khả dĩ dùng được chăng? Vừa rồi thấy Ca Ca hành sự ở đó, chúng tôi không dám thò ra để quấy nhiễu, sau nghe nói Ca Ca đinh lên Lương Sơn Bạc, nên mới dám ra đây để theo…Tôi thiết tưởng như tôi quanh quẩn ở đây, chẳng qua chỉ bắt con gà con qué, để kiếm ăn sinh nhai, thì bao giờ cho khá được, vậy hai vị Ca Ca cho chúng tôi đi theo một thể không biết rằng các ngài có ưng chăng?

Thạch Tú nghe nói đáp rằng:

– Nếu cùng là bọn giang hồ hản hán, thì cứ đến đấy cũng được chứ sao? Người ta đương chiêu hiền nạp sĩ kể biết bao nhiêu, có hẹp chi một mình mà không dung được…Xin cứ đi với chúng tôi một thể cho vui.

Thời Thiên nói:

– Các ngài có lòng thế, thì còn gì hơn nữa? Tôi có thuộc đường lối đi lên đó, để tôi xin dẫn các ngài đi cho gần…

Nói đoạn ba người liền theo lối sau núi mà cùng nhau rời gót về đất Lương Sơn.

Thanh đao đã đứt sự đời,

Bốn phương đâu chẳng là trời tương tri,

Giang hồ là chí nam nhi,

Lợi danh đắm đuối làm chi nhọc mình?

Khi đó hai tên phu kiệu đứng đợi ở lưng chừng núi mãi đến mặt trời sắp lặn về tây, mà cũng không thấy ba người trở xuống.

Trước còn bảo nhau ngồi đợi không dám đi lên, sau thấy quá lâu sốt ruột, không sao đợi được, bèn lần bước sau lên núi để tìm. Lên tới chỗ cổ mộ, bèn thấy đàn quạ kêu ríu rít ở đó. Hai anh ngẩng lên thì thấy đàn quạ đương xâu xé món ruột gan người mà ăn với nhau. Hai người thấy vậy lấy làm kinh ngạc không dám đứng lâu bèn chạy vội về báo cho Phan Công biết, rồi cùng vào trình phủ Kế Châu.

Quan phủ nghe trình, lập tức phái viên Huyện Uùy, đem nha lại tới Thuý Bình Sơn để khám.

Huyện Úy đi khám xét kỹ càng, rồi trở về báo rằng:

– Hiện có một người đàn bà là Xảo Vân bị giết ở dưới gốc cây tùng, một đứa thì bị giết ở bên cổ mộ, và một đống quần áo sư và quần áo đàn bà bỏ chung ở đó.

Quan Phủ nghe nói cả kinh, sịch nhớ đến việc Hải Hoà Thượng và Hồ đầu đà bữa trước, liền gọi Phan Công mà hỏi han sự thể xem sao?

Phan Công liền đem chuyện say rượu nằm ngủ ở chùa, cùng khi Dương Hùng nghe vợ xúi giục đuổi Thạch Tú đi, kể lại cho Tri Phủ nghe một lượt.

Tri Phủ nghe rõ đầu đuôi, liền bảo với mọi người rằng:

– Nếu vậy việc này tất là mụ kia thông dâm với nhà sư, mà đứa đầu đà cũng thị nứ đều là mối lái bên ngoài. Còn Thạch Tú tất là người giữa đường thấy sự bất bằng, mà giết hai người đi trước, rồi đến ngày nay Dương Hùng lại giết hai người này nữa.. Bây giờ cứ bắt được Dương Hùng, Thạch Tú thì biết được đầu đuôi ngay lập tức.

Dao oan đã đứt dây tình,

Thế gian hết chuyện bất bình từ đây!

Nói về Dương Hùng, Thạch Tú, Thời Thiên ba người cùng đi trong mấy hôm trời, khỏi địa phận Kế Châu, rồi sang đến đất Vận Châu. Một hôm trời gần tối, đi đến đất Hương Lâm, xa trông thấy một toà núi cao, trước mặt có một cái quán làm gần cạnh khe nước, ba người rảo bước cùng đến đó. Khi đến nơi tiểu nhị vừa toan đóng cửa, chợt thấy ba người đi vào liền hỏi:

– Các ngài ở đâu đến đây mà tồi như vậy?

Thời Thiên đáp:

– Ngày nay chúng tôi đi hơn trăm dặm đương, đến đây tối quá, xin ngủ nhờ một đêm.

– Các ngài chưa xơi cơm hay sao?

Thời Thiên nói:

– Mặc chúng tôi, chúng tôi đi nấu lấy cũng được.

– Vâng, hôm nay vắng khách, có hai cái nồi sạch để ở trong bếp, các ngài cứ lấy mà dùng.

– Ở đây có rượu thịt gì không?

– Sáng hôm nay có ít thịt, người trong thôn mua hết cả rồi…Bây giờ chỉ còn có một vò rượu thôi…Mà cũng không có một tí gì để ăn cơm hết cả.

– Được, hãy để tôi vay năm đấu gạo đầy đã, rồi tôi sẽ liệu.

Tiểu nhị lấy gạo đưa cho Thời Thiên đi nấu, còn Thạch Tú vào trong phòng xếp đặt hành lý để đó.

Đoạn rồi Dương Hùng lấy ra một cành thoa đưa cho tiểu nhị mà bảo rằng:

– Đây hãy gán trả món hàng rượu, còn thì sáng mai sẽ hay.

Tiểu nhị vâng nhận cành thoa, rồi đem hũ rượu mở ra, và lấy một cái môi đem bày trên bàn. Bấy giờ Thời Thiên mang thùng nước nóng lên cho Dương Hùng, Thạch Tú rửa mặt mũi chân tay, rồi nhất diệ múc rượu ra bảo tiểu nhị cùng ngồi uống rượu cho vui.

Đương khi uống rượu, Thạch Tú trông thấy dưới thềm có mười con dao thực tốt, liền hỏi tiểu nhị rằng:

– Ở đây làm gì có quân khí như vậy?

– Thưa ngài, cái đó là của ông chủ tôi để đấy…

– Ông chủ đây là ai?

– Ngài là bọn khách giang hồ, lại không biết chỗ này hay sao? Dãy núi cao ở trước mặt kia là Độc Long Sơn. Trong dãy núi có một cái gò rất cao là Độc Long Cương. Trên đó có nhà của chủ nhân ở, dài rộng ước ba mươi dặm, tên gọi là Chúc Gia Trang. Trang chủ Chúc Gia Trang Thái Công là Chúc Triều Phụng, có ba người con trai đã nổi tiếng là Chúc Gia Tam Kiệt. Chung quanh trang có tới năm bảy trăm nhà điền hộ, mỗi nhà đều cho hai thanh đao để ứng dụng. Chỗ này là điếm Chúc Gia, thường có mươi tên người nhà ra ngủ ở đây, nên phải để quân khí luôn ở đó…

– Để quân khí luôn ở đây để làm gì?

– Ở đây gần Lương Sơn Bạc, e khi họ đến đây quấy nhiễu vay lương, nên phải phòng bị sẵn sàng như thế.

– Tôi đưa tiền, anh để lại cho tôi một thanh đao có được không?

– Cái đó không thể được, các thanh đao đều chạm chữ hiệu cả, vả chăng ông chủ đây nghiêm lắm, nếu bán cho ngài, thì đòn chết.. Không thể được.

Thạch Tú cười rằng:

– Tôi nói đùa chứ…Bán thế nào được mà bán…Cứ uống rượu đi cho vui.

Tiểu nhị đứng dậy mà rằng:

– Tôi không uống được nữa, xin phép đi nghỉ trước, mời các ngài cứ xơi rượu cho.

Nói xong đi nghỉ trước, Dương Hùng cùng Thạch Tú uống được vài chén rượu nữa, rồi thấy Thời Thiên hỏi rằng:

– Ca Ca có muốn ăn thịt không?

Dương Hùng nói:

– Lúc nãy tiểu nhị nói rằng không có thịt, còn đào đâu ra được thịt?

Thời Thiên cười khì khì, rồi vào bếp các một con gà đại công kênh ra…

Dương Hùng lấy làm lạ, hỏi rằng:

– Kiếm đâu được gà thế?

Thời Thiên nói:

– Vừa rồi tiều đệ ra sau, thấy trong lồng có con gà, đương túng không có đồ nhắm xách ra ngoài khe giết thẳng, đem nước ra đó làm lòng, rồi đem vào luộc chín, không còn ai biết đó là đâu cả.

Dương Hùng cười rằng:

– Cái quái này đi đến đâu cũng giở ngõn ấy ra thì gớm thực.

Thạch Tú cũng cười mà rằng:

– Té ra anh vẫn không chịu bỏ nghề cũ đấy hẳn?

Nói đoạn ba người cùng cười khúc khích rồi đem gà xé ra đánh chén ăn cơm với nhau. Bấy giờ tên tiều nhị vừa chợp được một tý, trong bụng lấy làm sốt ruột, liều trở dậy soi khắp cả bếp để xem. Khi soi thấy so mấy cái lông gà và miếng xương đầu gà bỏ ở bếp, rồi lại thấy có nồi nước dùng ở trước cửa bếp, thì ngạc nhiên nghĩ lại mà vội vàng soi xem lồng gà.

Tiểu nhị soi gà thấy mất, bèn hất ha hất hải chạy vào bảo ba người rằng:

– Các ông vô lý quá, có con gà báo thức của nhà tôi, sao lại đem giết thịt đi thế?

Thời Thiên làm bộ ngạc nhiên nói:

– Anh này nói chuyện ma hay sao, gà của chúng tôi mua đến đấy chứ, ai biết gà của anh ở đâu?

– Con gà của tôi vừa rồi còn ở trong lồng, bây giờ đã mất, không ông bắt thì còn ai vào đây?

Thạch Tú bảo tiểu nhị:

– Thôi, không cần phải cãi, con gà đáng bao nhiêu tiền để tôi trả tiền cho.

– Con gà ấy là con gà báo sáng, nếu mất nó thì nguy ông trả đến mười lạng bạc tôi cũng không dám lấy…

Cứ trả lại con gà cho tôi.

Thạch Tú phát khùng mắng rằng:

– Mày nói loè ai, lão gia không trả, thì đã làm sao?

Tiểu nhị cười rằng:

– Các ông không nên đến đây mà bắng nhắng, điếm tôi đây không nhe các điếm khác đâu…lỡ bắt được đem lên trang thì dẫu cho bọn giặc ở Lương Sơn cũng đem giải đi cả.

Thạch Tú cả giận quát lên rằng:

– Chúng ta đây là hảo hán Lương Sơn Bạc, mày bắt được chúng ta lấy thưởng thì cứ bắt đi.

Dương Hùng cũng giận dữ mắng rằng:

– Chúng ta trả tiền cho mày tử tế rồi…bằng không trả thỉ mày bắt được ta sao?

Vừa nói dứt lời, thì tên tiểu nhị vừa chạy vừa kêu lên:

– Có giặc…Có giặc.

Đoạn rồi có bốn năm tên đại hán trần trùng trục chạy xông đến chỗ Dương Hùng, Thạch Tú. Thạch Tú thấy vậy giơ quyền lên tặng cho mỗi anh một cái, ngã lăn cả ra đó. Tên tiểu nhị vừa toan cất mồm kêu nữa, bị Thời Thiên tát cho một cái sưng vếu cả lên, không sao mà kêu được. Lũ kia cả sợ bò dậy mà kéo nhau chạy thẳng.

Dương Hùng bảo với hai người kia rằng:

– Chúng nó đi bây giờ, tất nhiên là báo người đến bắt chúng ta nên ăn cơm mau rồi đi mới được.

Nói đoạn ba người cùng ăn cơm xong, đều khoác khăn gòi đi giấu gai giắt dao lưng, rồi mỗi người đến giá chọn một thanh đao thật tốt để cầm.

Thạch Tú bảo với hai người rằng:

– Đánh nhau thì phải đánh, không thể tha nó được.

Nói đoạn liền xuống bếp thổi mồi lửa, đem lên châm mái nhà cho cháy tứ tung lên, rồi ba người theo lối đường cái mà rảo bước kéo đi cho chóng.

Được hai trống canh, chợt thấy đằng trước đằng sau đèn đuốc sáng trưng, rồi có tới hơn trăm người đuổi theo mà kêu ầm ĩ cả lên.

Thạch Tú bảo với Dương Hùng, Thời Thiên rằng:

– Ta phải tìm lối tắt mà chạy mới được.

Dương Hùng nói:

– Hãy khoan, cứ một đứa một đứa đến chém một đứa, hai đứa đến chém hai đứa; đợi đến khi sáng rồi ta sẽ đi…

Vừa rồi dứt lời, thì bốn mặt đổ đến ầm ầm như vỡ nước. Dương Hùng thì sấn lên trước, Thạch Tú thì ở đoạn sau, còn Thời Thiên đứng vào quãng giữa, ba người múa đáo đánh nhau với bọn trang khách.

Bọn kia hăng hái múa gươm giáo xông vào, bị Dương Hùng chém chết năm bảy người, còn anh nào ở phía trước đều chạy lùi hết cả. Mặt sau Thạch Tú lại chém chết mấy người, bọn kia cũng kính sợ mà gọi nhau chạy cho thoát nạn. Đằng này ba người lại hăng sức vác đao theo để đánh.

Đương khi cùng nhau theo đuổi, bỗng thấy tiếng kêu, ầm ĩ, rồi trong đám cỏ khô kéo ra hai vòng giây móc, móc lấy Thời Thiên co riết ngay vào trong đống cỏ. Thạch Tú thấy vậy, vừa toan quay mình lại cứu Thời Thiên, thì đằng sau lại quăng ra mấy vòng giây móc, chục kéo cả vào. May sao Dương Hùng nhanh mắt trông thấy giây móc tung ra, liền giơ dao chém đức phăng ra, ròi kêu hò ầm lên, mà kéo Thạch Tú uay chạy phía đông. Bấy giờ bọn trang khách đuổi bắt hai người không được, thì đành đem những người bị chém, và bắt Thời Thiên để đem vả về trang Chúc Gia, Dương Hùng, Thạch Tú chạy mãi đến sáng, thấy gần đó có một ngôi tửu điếm trong thôn, Thạch Tú liền bảo với Dương Hùng rằng:

– Anh em ta hãy đến trong tửu điếm kia, ăn uống xong rồi hỏi đường mà đi…

Nói xong hai anh em cùng vào tửu điếm, ngồi vào ghế, dựng đao vào một bên, rồi gọi tửu bảo dọn rượu và làm cơm cho hai người ăn.

Tửu bảo vâng lời, dọn các thức nhắm, hâm rượu mang lên. Hai người vừa toan cất rượu để uống, thì thấy có một Đại Hán mặt to tai lớn, mắt sắc, má cao hình dáng xấu xa, mình mặc áo vải, đầu đội khăn chữ Vạn, lưng thắt vải xanh, chân đi đôi giầy vải, chạy vào gọi lên rằng:

– Đại quan nhân bảo các anh gánh lên nộp trên trang đấy.

Điếm chủ nghe nói vội vàng ứng lên rằng:

– Vâng, tôi đã xếp gánh rồi, lát nữa xin đưa đến trang…

Đại Hán kia dặn lại rằng:

– Gánh mau đến…

Nói xong quay ra toan đi.

Khi đi qua trước mặt Dương Hùng cùng Thạch Tú, Dương Hùng nom dáng Đại Hán hơi quen liền gọi rằng:

– Tiểu Lang, anh đi đâu lại ở đây, sao không quay lại nhìn tôi một tí.

Người kia nghe nói nhìn lại Dương Hùng, rồi kêu lên rằng:

– Trời ơi! Sao ân nhân lại ở đây thế kia?

Nói đoạn chấp tay quay vào cúi lạy Dương Hùng.

Mới hay:

Trăm năm con Tạo bầy trò,

Nào ai biết trước mà lo chuyện đời?

Thế gian còn giống vô loài,

Lưỡi gươm còn dính máu người hôi tanh,

Anh hùng vững dạ dắt đanh,

Thành oan nghiệp phá tan tành mới thôi,

Rồi đây ngang dọc ngược xuôi,

Còn con người đó, còn vui tang bồng;

Lời bàn của Thánh Thán:

Trước kia có một hồi Võ Tòng giết gian phu đâm phụ.

Hồi này lại có Thạch Tú giết gian phu dâm phụ, cũng một oan đó chăng? Thưa rằng: Khác nhau vậy. Vì cái dâm của Kim Liên, dám đến nỗi giết Võ Đại, thì tội ác lớn lắm, nếu không mổ bụng moi gan, thì không rõ tội; Còn như Xảo Vân cũng có dâm đấy, song chưa đến nỗi giết Dương Hùng, mà gán cho ngày sau cũng đến tội giết Dương Hùng, theo lời Thạch Tú, chưa phải đúng lòng Xảo Vân muốn thế?

Vả chăng, Võ Tòng đối với Kim Liên, thì Võ Tòng đã chết, Võ Tòng chả thề không hỏi, thực ra Võ Tòng vạn bất đắc dĩ mới phải hỏi ra. Nếu Võ Đại còn, Võ Tòng không thể giết Kim Liên, vốn theo phép vậy; Nay Thạch Tú đối với Xảo Vân, đã bỏ đi rồi; còn chuyện gì nữa, lấy người họ Thạch giết vợ người họ Dương, thì phép ở đâu?

Xét ra Võ Tòng giết hai đứa, vì báo thù cho anh, chẳng dự cùng ai giết; Còn Thạch Tú giết bốn đứa, chẳng qua minh oan cho mình mà thôi, cùng với Dương Hùng mà vô dự vậy. Xem Xảo Vân bôi xấu Thạch Tú ấy, cũng như Kim Liên ngày trước bôi xấu Võ Tòng, song Võ Tòng vì chị dâu buộc phải hiềm nghi, mà im đi xa lánh, chẳng cần phải biện bạch làm gì, rồi thiên hạ sau này, không ai mà chẳng biết sáng tỏ như băng như ngọc. Còn Thạch Tú thì biện bạch, biện bạch sau lưng, rồi lại phải trước mặt, bắt con đòi biện bạch, rồi lại bắt Xảo Vân cũng thú thực ra, cần cho Dương Hùng biết lòng mình như băng như ngọc mới thôi. Hỡi ơi! Phải đâu Đại Trượng phu thiên hạ, sao có giống người độc ác đến như thế? Khiến ta càng lạ cho Thi Nại Am đem một tay ngoay một bút, đã tả một Võ Tòng, lại tả một Thạch Tú, sao lạ thế này? Phải chăng phải xảy chuyện này, để vơ vét lại lũ người trở về Sơn Bạc, mà Thạch Tú chủ tâm?

Hồi 46: Quỷ Kiểm Nhĩ nhờ thân giúp bạn – Tống Công Minh nổi giận dấy binh

Bấy giờ Dương Hùng thấy người kia lạy chào, liền chạy ra đỡ dậy rồi gọi Thạch Tú ra để tương kiến.

Thạch Tú hỏi Dương Hùng rằng:

– Vị tráng sĩ này là ai đó? Sao lại quen với Ca Ca?

Dương Hùng nói:

– Người anh em đây họ Đỗ tên Hưng, quê ở Trung Sơn Phủ. Vì tướng mạo thô mãng, nên người ta thường gọi là Quỹ Kiểm Nhĩ. Năm trước buôn bán ở Kế Châu, gặp lúc nóng tính đánh chết một người bạn buôn, bị Quan Tư bắt được.Sau tôi thấy giỏi nghề quyền võ nễ hết sức cứu ra…Ai ngờ nay cùng gặp nhau ở đây thực là may quá.

Đỗ Hưng hỏi:

– Ân nhân đi việc quan gì mà lại tới đây?

Dương Hùng sẽ ghé vào tai Đỗ Hưng, mà đem chuyện giết người ở Kế Châu và đốt nhà ở Chúc Gia Điếm cùng việc đánh nhau, và mất Thời Thiên mà kể cho nghe.

Đỗ Hưng thấy vậy nói:

– Nếu vậy ân nhân không cần, tôi sẽ có cách cứu được Thời Thiên cho ân nhân.

Dương Hùng nói:

– Xin mời hiền đệ hãy ngồi chơi uống mấy chén rượu một thể cho vui.

Nói đoạn kéo Đỗ Hưng vào, ba người cùng ngồi uống rượu với nhau.

Đỗ Hưng nói:

– Tiểu đệ từ khi ở đất Kế Châu, nhờ được ân nhân cứu thoát, tới đây nhờ được một vị quan nhân ở đây, có lòng yêu mến giữ ở trong nhà, để coi sóc các công việc. Hiện nay các công việc ở nhà đó, bất cứ hàng nghìn hàng vạn, đều giao phó mặt ở tay tôi, thủy chung rất là tín nhiệm, bởi vậy tôi cũng không muốn trở về cố hương làm chi nữa.

Dương Hùng lại hỏi:

– Vị quan nhân ở đây là ai?

– Quãng trước mặt đây có dãy núi Độc Long Cương, chia làm ba ngọn, trong đó có ba thôn trang, khoảng giữa Chúc Gia Trang, phía tây Hổ Gia Trang, bên đông này là Lý Gia Trang. Trong ba thôn ấy có với một hai vạn nhân mã, mà duy có Chúc Gia Trang là oanh liệt hơn cả. Thái Công ở Chúc Gia Trang là Chúc Triều Phụng, có ba người con trai là Chúc Long, Chúc Hồ và Chúc Bưu, gọi là Chúc Gia Tam Kiệt, lại có một ông giáo sư tên là Thiết Bổng Loan Đình Ngọc sức muôn không địch nổi, trong trang có tới hai nghìn trang khách thạo giỏi võ nghệ cả. Hổ Gia Trang thì Hổ Thái Công làm chủ, có một người con trai tên là Phi Thiên Hổ Hổ Thành, võ nghệ cũng hơi kha khá.Duy có một người con gái anh hùng nhất là Nhât Trượng Thanh Hổ Tam Nương, khiến đôi khẩu Nhật Nguyệt Đao ngồi trên mình ngựa không ai chống nổi. Còn thôn bên Đông tức là chủ nhân của tôi, họ Lý tên Ứng, hay khiến thanh gươm Hỗ Thiết Điểm Cương và trong lưng giắt năm con dao, giết người ngoài trăm bước như qủy thần biến hiện như vậy. Ba thôn ấy xưa nay giao ước với nhau, thề cùng sống chết, chỉ sợ bọn Lương Sơn Bạc quấy nhiễu vay lương, nên phải phòng bị cẩn thận, mà hẹn cùng nhau tiếp ứng cho nhau. Nay tôi xin dẫn hai ngài vào Đông Trang chào Lý chủ nhân tôi, rồi cần viết thư để cứu Thời Thiên thì tất được…

Dương Hùng hỏi:

– Có phải Lý Đại quan nhân là Phác Thiên Bằng Lý Ứng vẫn có tiếng trong đám giang hồ xưa nay không?

Đỗ Hưng nói:

– Chính ông ta đấy.

Thạch Tú nói:

– Xưa nay tôi vẫn nghe tiếng Phác Thiên Bằng Lý Ứng, là tay hảo hán ở Độc Long Cương, tới nay mới biết là ở đất này. Phải, ông ta có tiếng là người khá, chúng ta thử đến đấy xem.

Dương Hùng gọi tửu bảo tính trả tiền hàng. Đỗ Hưng nhất định không nghe nhân lấy để trả cả, rồi dẫn Dương Hùng, Thạch Tú cùng đến Đông Trang.

Được một lát đến một nơi trang viện rất lớn, xung quanh xe lừa chứa nước, trong có tường vôi cao ngất, cây liễu xanh um, trước cửa có đích kiều cho người qua lại. Đỗ Hưng dẫn hai người vào cổng, đi tới Đại S ảnh, thấy hai bên có hơn hai mươi cỗ giá cắm toàn gươm giáo quân khí sáng choang một dẫy.

Đỗ Hưng bảo với hai người:

– Các ngài hãy đứng đợi đây một lát, để tôi vào nói trước, và mời quan nhân ra tiếp kiến.

Đỗ Hưng đi vào một lát, thì thấy Lý Ứng ra, Đỗ Hưng bèn dẫn Dương Hùng, Thạch Tú lên sảnh để chào. Lý Ứng đáp lễ cẩn thận, rồi mời hai người ngồi chơi, gọi người nhà lấy rượu lên đãi.

Dương Hùng, Thạch Tú đứng dậy, kể chuyện Thời Thiên bị bắt cho Lý Ứng nghe, và kêu xin viết giấy để cứu cho Thời Thiên về.

Lý Ứng nhận lời, mời thầy đồ ở trong nhà viết hộ phong thư, ký tên đóng dấu tử tế, rồi sai người Phó chủ quân cỡi ngựa đem thư sang Chúc Gia Trang, để xin cho Thời Thiên về, Phó chủ quân đi rồi. Dương Hùng, Thạch Tú đều cúi đầu tạ bái Lý Ứng.

Lý Ứng bảo hai người rằng:

– Các ngươi cứ yên tâm, thư tôi đến nơi, là họ thả người về ngay.

Nói xong đứng dậy mời hai người vào nhà trong, thiết đãi cơm rượu tử tế. Khi cơm nước xong, Lý Ứng lại hỏi các môn võ nghệ, thấy hai người ứng đối giỏi giang, thì đem lòng kính mến vô cùng.

Vào khoảng gần trưa tên Phó chủ quản đến Chúc Gia Trang đi về, Lý Ứng cho gọi vào nhà trong để hỏi chuyện, Phó chủ quản nói:

– Chúng tôi sang đó, đưa thư vào tân Chúc Triều Phụng, Triều Phụng đã định tha cho đem về, sau ba người con thấy vậy ra dáng giận dữ, hục hặc mà giữ cả thư và người ở lại đó, rồi định để đem giải lên Châu…

Lý Ứng nghe nói cả kinh mà rằng:

– Hắn với nhà ta đây đã kết đồng sinh tử với nhau…Như thế tất tha người ta thì phải, lẽ đâu lại như thế được? Việc này chắc là ngươi ăn nói không khéo, cho nên sinh sự như vậy… ? Đỗ chủ quản phải sang đó nói rõ đầu đuôi cho Chúc Công biết mới xong.

Đỗ Hưng vâng lời mà rằng:

– Xin chủ nhân viết cho mấy chữ, thì may ra họ mới tin được.

Lý Ứng liền gọi hoa tiên, viết lên thư cẩn thận, niêm vào phong bì, rồi đóng dấu ký tên ra ngoài bì, giao cho Đỗ Hưng lên ngựa sang Chúc Gia Trang.

Lý Ứng lại bảo với Dương Hùng, Thạch Tú rằng:

– Hai ngài cứ vững tâm, phong thư này tới nơi tất là họ phải tha về.

Hai người cảm tạ, rồi cùng nhau ăn uống bữa chiều tại đó. Khi trời đã chiều hôm không thấy Đỗ Hưng trở về, Lý Ứng lấy làm sốt ruột, sai người đi dò xét xem sao? Được một lát thấy người báo Đỗ chủ quản đã về, Lý Ứng liền hỏi rằng:

– Có ai về đó nữa không?

– Bẩm, chỉ có một mình chủ quản về thôi…

Lý Ứng nghe nói lắc đầu mà rằng:

– Sao quái lạ thế? Mọi khi vẫn tử tế, sao mà hôm nay lại trở mặt như thế được?

Nói xong đứng đạy đi ra. Đại Sảnh. Dương Hùng, Thạch Tú cũng đứng dậy theo ra. Khi ra tới Đại Sảnh, thấy Đỗ Hưng xuống ngựa đi vào, mặt đỏ bầng bãi, hơi thở hồng hộc, không sao nói được nên lời.

Lý Ứng hỏi:

– Công việc thế nào; ngươi nói cho ta nghe?

Đỗ Hưng đứng một lúc, tỉnh người lại rồi mới nói rằng:

– Chúng tôi đi sang tới Chúc Gia Trang, khỏi lầu thứ ba thì gặp ba anh em Chúc Long, Chúc Hổ, Chúc Bưu ở đó. Chúng tôi cất tiếng chào, thì Chúc Bưu quát ngay lên rằng: “Đông Nhân chúng tôi có bức thư sang hầu”. Chúc Bưu nghe dứt lời, thì biến ngay sắc mặt mà mắng rằng: “Chủ nhân nhà anh không biết gì cả,…lúc sớm đã sai đứa đem thư sang, để xin tha cho tên Thời Thiên là giặc ở Lương Sơn, nhưng mà ta đây định đem lên giải phủ…Còn đến đây làm gì nữa… ?” Tôi lại nói: “Tên Thời Thiên không phải là giặc ở Lương Sơn, hắn là người ở Kế Châu đến thăm chơi với Đông Nhân của tệ trang đây, vậy để ngày mai Đông chủ tôi xin làm đền lại vào đó…Xin các ông rộng ơn mà tha hắn ra cho…” Ba anh em họ Chúc đều thét lên rằng: “Không tha…Không tha…” Tôi lại nói: “Xin quan nhan nom qua bc thcua ong chutoi sebiet”. Chúc Bưu cầm lấy thư không bóc ra xem,, vội xé nát cả thư mà sai thét người đuổi tôi cửa. Chúc Bưu, Chúc Hổ lại nói rằng: “Đừng nên trên tính nóng lão gia, gọi là…” Ba thằng súc sinh thực vô lễ quá, chúng tôi không dám nói ra đây…Hắn lại còn bảo rằng: “Không khéo thì Lý…cũng bọn giặc Lương Sơn, để ta bắt mà giải lên quan một thể…” Nói đoạn lại quát trang khách toan bắt cả tôi giữ lại ở đó, sau tôi nhảy tót lên ngựa phi thẳng một mạch về đây, trong lòng căm tức không biết tới đâu mà kể? Thực là uổng công giao kết bao lâu, tới nay không còn chút gì là tử tế cả…

Lý Ứng nghe nói, mặt bầng bầng như lửa cháy, không sao cầm đặng, liền thét trang khách mau mau đóng ngựa để đi.

Dương Hùng, Thạch Tú can rằng:

– Xin quan nhân hãy thư tâm lại, không nên vì chúng tôi, mà bỏ mất nghĩa khí của các ngài từ xưa tới nay.

Lý Ứng nhất định không nghe, vào phòng mặc áo giáp hoàng kim, trước sau có miếng yểm tâm bằng mặt thú, ngoài khoác áo đại hồng bào, lưng giắt năm khẩu phi đao, đầu đội mũ cánh phượng, tay cầm thanh giáo điểm cương, ra chọn lấy ba trăm trang khách để sắp cửa cùng đi. Đỗ Hưng cũng mặc giáp cầm thương lên ngựa, dẫn hai mươi quân kị đi theo? Dương Hùng, Thạch Tú cũng vác dao đi theo sau ngựa Lý Ứng, mà kéo thẳng sang Chúc Gia Trang. Khi mặt trời gấn tới núi Độc Long, Lý Ứng liền cho quân mã dàn thành trận thế, rồi gọi ba con họ Chúc ra mà mắng nhiếc.

Nguyên Chúc Gia Trang làm chính trêu núi Độc Long, xung quanh có hào rồng, trong có ba tầng thành xây toàn bằng đá rằn, cao ước hai trượng có hơn. Trước sau có hai tòa cửa, trong đều có địch kiều qua lại, bốn bên tường đều có quân khí sáng choang tại các điểm ở đó. Trên gác cổng để trống trận, cùng các đồ thanh la, đề phòng khi động dụng. Bấy giờ Lý Ứng trên mình ngựa, quát mắng mấy câu, thì thấy cửa trang tung mở, rồi thấy Chúc Bưu cưỡi ngựa đỏ, dẫn năm sáu mươi tên kị xông ra.

Lý Ứng trỏ mà mắng rằng:

– Quân kia! Miẹng chưa ráo hơi sữa, cha các ngươi đã với ta kết nghĩa cùng nhau, đồng sinh đồng tử để bảo vệ lấy thôn trang.Mọi khi nhà ngươi có việc gì, cần người ta phải trả, cần đồ đạc ta phải đưa, thế mà nay có một người quen, đã hai phen viết thư, ngươi cũng không trả, lại còn xé thư mà sỉ nhục đến tên ta là nghĩa lý gì vậy?

– Nhà ta tuy có giao kết, thề cùng đồng tâm sống chết, là cốt để trừ giặc Lương Sơn mà trừ giặc tai hại cho thiên hạ; Nay ngươi lại liên kết với giặc Lương Sơn, thì tất là trong lòng mưu phản, khi nào ta chịu tha cho…

– Bây bảo người gì ở Lương Sơn. Bay đổ cho người lương thiện như thế, phỏng đáng tội gì?

Chúc Bưu cười rằng:

– Tên giặc Thời Thiên đã thú nhận cả rồi, ngươi còn chống chế làm chi cho mệt? Không lui về thì ta bắt cả mà giải quan tất cả bây giờ?

Lý Ứng cả giận, vỗ ngựa múa gươm vào đánh Chúc Bưu, Chúc Bưu cũng phóng ngựa ra đánh Lý Ứng. Đôi bên đánh nhau trước mặt núi Độc Long chừng bảy tám mươi hiệp, thì Chúc Bưu không địch nổi Lý Ứng, bèn giật ngựa để chạy; Lý Ứng phóng ngựa đuổi theo.

Chúc Bưu ngồi trên mình ngựa, cắp giáo vào một bên, rồi tay tả cầm cung, tay hữu lấy tên, quay nhắm bắn vào Lý Ứng, Lý Ứng nghe tiếng dây cung bật, liền né mình để tránh, thì bị mũi tên bắn phải cánh tay giật mình ngã ngay xuống ngựa, Chúc Bưu liền quay lại hò người ra bắt. Dương Hùng, Thạch Tú thấy vậy, thét lên một tiếng, rồi múa dao xông vào để đánh Chúc Bưu, Chúc Bưu không địch nổi hai người, liền quay ngựa về để chạy, bị Dương Hùng chứm cho một nhát ở cẳng sau ngựa, con ngựa hăng máu đạp hất luôn mấy cái, làm cho Chúc Bưu ngã lăn xuống đất.

Tụi quân kỵ Chúc Gia Trang thấy vậy, đều bắn tên tua tủa. Dương Hùng, Thạch Tú mình không giáp che tên, đành bỏ Chúc Bưu mà chạy mau cho thoát, Đỗ Hưng cứu Lý Ứng vắt lên mình ngặ chạy về trước, còn Dương Hùng, Thạch Tú theo đám trang khách chạy về sau. Bọn nhân mã ccgt theo đuổi hai dặm, thấy trời đã tối, liền kéo nhau trở về mà không đuổi nữa. Đỗ Hưng đem Lý Ứng về tới nhà, vợ con đổ ra phục dịch, nhổ mũi tên lên, cởi áo giáp ra, đem thuốc kim sang rịt vào chỗ bị thương, rồi cùng nhau bàn chuyện Chúc Gia Trang.

Dương Hùng, Thạch Tú nói với Đỗ Hưng rằng:

– Việc này đã xẩy ra như thế, thì Thời Thiên khó lòng được thoát, thực anh em chúng tôi làm phiền lụy đến Đại quan nhân, không biết lấy gì mà báo đáp được. Vậy anh em chúng tôi phải trở về Sơn Bạc cầu cứu với Tiều Cái, Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh đến đây để báo thù cho Đại quan nhân, và cứu Thời Thiên mới được..

Nói đoạn đến từ tạ với Lý Ứng để cin đi. Lý Ứng bảo với hai người rằng:

– Việc này không phải là tôi không dụng tâm, song sự xẩy ra như thế, thì không biết làm sao cho được, xin hai ngài tha lỗi cho.

Đoạn rồi gọi Đỗ Hưng lấy vàng bạc đưa tặng hai người Dương Hùng, Thạch Tú nhất định từ chối không nhận. Sau Lý Ứng cố vật nài mãi, hai người đành phải vâng nhận tiền nong, rồi cùng nhau bái tạ Lý Ứng mà đi ra. Đỗ Hưng đưa chân hai người ra đến đường cái, trỏ lối cho đi rồi từ biệt trở về thôn trại, Khi Dương Hùng, Thạch Tú đi gần tới Lương Sơn Bạc, xa xom thấy một tòa tửu điếm mới lập, có Thạch Dũng coi giữ ở đó.

Bấy giờ Thạch Dũng thấy hai người lạ mặt, hỏi thăm lối lên sơn trại, liền chạy đến hỏi rằng:

– Các ngài ở đâu đến đây? Hỏi thăm lên sơn trại có việc gì?

Dương Hùng đáp:

– Chúng tôi ở Kế Châu đến đây…

– Chẳng hay là Thạch Tú túc hạ đó chăng?

– Tôi là Dương Hùng, người anh em tôi đây là Thạch Tú…Sao Đại Ca lại biết đến tên Thạch Tú được?

Thạch Dũng vội vàng đáp rằng:

– Chết nỗi! Thế mà chúng tôi không biết, dạo trước Đới Tung Ca Ca có ở Kế Châu về, có thuật đến đại danh của huynh trưỏng, nay được ngài lên đây thực là may lắm.

Nói đoạn ba người cùng khiêm nhượng ngồi nói chuyện với nhau. Dương Hùng đem các chuyện trước thuật hết cho Thạch Dũng nghe. Thạch Dũng liền sai đem rượu tiếp phong ra mời hai người, rồi vào Thủy Đình bắn tên ra hiệu. Được một lát có tên tiểu lâu la ra chở một chiếc thuyền trong đám bụi lau ra để đưa cào sơn trại.Kế tới đến Thạch Dũng lên trại báo trước, rồi thấy Đới Tung, Dương Lâm xuống núi, để đón vào Đại trại. Bấy giờ các Đầu Lĩnh nghe nói, có hảo hán mới vào nhập đảng, thì bảo nhau tới Tụ Nghĩa Sảnh để tiếp đãi. Đới Tung. Dương Lâm dẫn Dương Hùng, Thạch Tú. Tiều Cái hỏi tung tích hai người, Dương Hùng liền đem chuyện thâm thúy về võ nghệ kể cho mọi người nghe, ai nấy đều lấy làm vui mừng, mà nhường ghế cùng ngồi nói chuyện.

Dần dà Dương Hùng kể đến chuyện đi qua Chúc Gia Trang, có người anh em là Thời Thiên, ăn cắp con gà của điếm, đến nỗi đốt nhà bị bắt sinh sự lôi thôi, kể hết cho các vị nghe mà nói rằng:

– Ba con nhà họ Chúc rất là vô lễ, trong khi đánh nhau với Lý Ứng chỉ một niềm chưởi mắng bọn hảo hán, ở Lương Sơn Bạc, mà thề quyết bắt cả tụi mà đem nộp quan thì mới thỏa, anh em chúng tôi nghe thấy vậy, rất là khổ cực trong lòng, song sức yếu thế cô đành phải chịu mà không làm sao được.

Tiều Cái nghe dứt lời, đùng đùng nổi giận mà quát lên rằng:

– Quân đâu! Đem chém hai người này đi cho ta.

Tống Giang nghe nói vội gạt đi rằng:

– Sao Ca Ca lại vội nóng thế? Hai vị tướng sĩ, xa xôi nghìn dặm tới đây, cũng cốt mong cùng mình, để đồng tâm hiệp lực, vậy chưa chi Ca Ca đã sai chém là nghĩa làm sao?

Tiều Cái nói:

– Bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc chúng ta, sau khi giết bỏ Vương Luân, đều lấy trung nghĩa làm trọng, mong cho thi hành ân đức ra khắp dân gian, anh em ở trên núi đi đâu, cũng không dám làm chi mất tiếng, mà các vị mới lên đây, cũng lừng lẫy ra tay hào kiệt, không hề chịu kém với ai? Nay hai người này dám đem danh nghĩa hảo hán Lương Sơn Bạc, đi ăn cắp con gà, để đến nỗi giảm mất giá trị anh em, vậy xin chém hai người để làm hiệu lệnh, rồi tôi sẽ đem quân đi đánh Chúc Gia Trang, cho khỏi mang tiếng Lương Sơn Bạc mới được…Chúng đâu, đem chém mau.

Tống Giang cản ngăn rằng:

– Không được! Ca Ca không nên thế. Ca Ca không nghe kỹ, vừa rồi hai hiền đệ đã nói: Vì Thời Thiên là hạng người thế nào, cho nên mới bị nạn Chúc Gia Trang như thế, có phải hai vị hiền đệ làm điếm nhục sơn trại đâu? Bình nhật tôi cũng thường nghe nói. Bọn Chúc Gia Trang lại muốn đối địch với sơn trại tađây, song xin Ca Ca hãy thư tâm bới giận, hiện nay sơn trại ta binh lương sẵn đủ không kém chi ai, vả chăng cũng không phải ta đây sinh sự, đó chẳng qua là họ muốn bới lông tìm vết gây chuyện với ta, bất nhược tiện đây ta trừ khử nó đi, để kiếm lấy mấy năm lương thực, chẳng hóa ra uy thế cho sơn trại ta lắm sao? Duy Ca Ca là ông chủ sơn trại không thể chốc lát mà khinh động ngay được, vậy tiểu đệ tuy là kẻ bất tài, cũng xin lĩnh một chi binh mã, nhờ anh em xuống núi một phen, nếu không trừ nổi Chúc Gia Trang, thì quyết thề không về sơn trại nữa. Tiểu đi phen này một là giữ lấy thanh giá cho sơn trại, hai là khỏi bị chúng sỉ nhục chê bai, ba là kiếm ít tiền nong để cùng chi dùng, mà bốn là mời Lý Ứng lên nhập đảng cho vui, xin Ca Ca nghĩ như thế mới được.

Ngô Học Cứu nói:

– Tống Minh Ca Ca dạy như thế tức phải…Có lẽ nào giết hại chân tay trong sơn trại cho đành.

Đới Tung nói:

– Nếu Tiểu Ca Ca không bằng lòng, thì xin chém ngay tiểu đề là hơn, chớ nên làm mất đường lối đi lại của anh hùng như thế.

Các Đầu Lĩnh cùng ra sức khuyên can, Bấy giờ Tiều Cái mới thư tâm mà tha cho Dương Hùng, Thạch Tú. Hai người cùng đem lời thành thực mà tạ cùng các vị Đầu Lĩnh.

Tống Giang lại đem lời nói với hai người:

– Hiền đệ chớ nên đem lòng nghi ngại, vì hiệu lệnh của sơn trại tất phải như thế, dẫu Tống Giang tôi có lỗi cũng phải chém ngay, chứ không thể nào tha được. Hiện nay mới lập Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên là Quân Chính Tư, phàm các việc thưởng phạt, đều có điều lệ phân minh, xin hai hiền đệ biết cho.

Dương Hùng, Thạch Tú đều vâng lời tạ lại, rồi cùng ngồi, vào vai dưới Dương Lâm. Bấy giờ tiểu lâu la trong sơn trại vào để chào hai vị Đầu Lĩnh mới, nhất diện đặt tiệc ăn mừng, rồi dọn phòng cho hai người nghỉ, và cắt cho mỗi người mươi tên tiểu lâu la để hầu.

Sáng hôm sau khi yến tiệc xong, trong sơn trại lại tụ họp để thương nghị các việc, Tống Giang cho gọi Bùi Tuyên để chọn người đi xuống núi, mà các vị Đầu Lĩnh để cùng xuống đánh Chúc Gia Trang. Khi bàn định xong, ngoài Tiều Cái làm chủ sơn trại, thì có Ngô Học Cứu, Lưu Đưòng, ba anh em họ Nguyễn, cùng Lã Phương, Quách Thịnh ở lại coi giữ sơn trại, và các người coi giứ bến nước, trông tửu điếm đều giữ nguyên chức cũ. Lại cắt các vị Đầu Lĩnh mới đến là Mạnh Khang, để thay Mã Lân giám đốc thuyền chiến còn các vị Đầu Lĩnh chia làm hai đội chỉnh bị mà ra đi.

Đội thứ nhất Tống Giang, Hoa Vinh, Lý Tuấn, Mục Hoằng, Lý Quỳ, Dương Hùng, Thạch Tú, Hoàng Tín, Âu Bằng, Dương Lâm, dẫn ba nghìn tiểu lâu la, ba trăm quân mã xuống núi đi trước; Đội thứ nhì Lâm Xung, Tần Minh, Đới Tung, Trương Hoành, Trương Thuận, Mã Lân, Đặng Phi, Vương Nụy Hổ, Bạch Thắng, dẫn ba nghìn tiểu lâu la, cùng ba trăm quân kỵ, tiếp ứng đi sau. Lại định cho hai tiểu trại ở bến Kim Sa, và bến Áp Chủy chỉ để Tống Vạn và Trịnh Thiên Thọ coi giữ, còn thì phải vận lương đi tiếp ứng việc quân. Khi đó Tiều Cái đi đưa xuống khỏi núi rồi, Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh kéo quân ra đi. Khi tới núi Độc Long còn cách chừng hơn một dặm, liền cho tiền quân hạ trại ở đó.

Tống Giang ngồi trong trướng bàn với Hoa Vinh rằng:

– Ta nghe đường vào Chúc Gia Trang rất là tào tạp khó hiểu; chưa có thể nào mà tiến binh được ngay. Vậy sai hai người đi dò là đường sá trước, rồi sẽ kéo binh đến đánh là hơn. Nhưng không biết trong đám anh em có ai là người đi được.

Vừa nói dứt lời, thì thấy Lý Quỳ đứng lên nói rằng:

– Dám bẩm Ca Ca, tôi bấy lâu rỗi rãi chưa giết một người nào. Vậy xin Ca Ca cho tôi đi trước.

Tống Giang nói:

– Ngươi đi không được, có phải là phá trận đánh giặc sẽ dùng người đi trước, còn việc đi do thám này, không thể dùng ngươi được.

Lý Quỳ cười mà rằng:

– Một cái xóm khốn nạ ấy, cần gì mà Ca Ca phải khó nhọc, cứ để cho tôi mang vài trăm lâu la sấn vào gặp thằng nào chém chết thằng ấy là xong, việc gì phải do thám cho phiền… ?

Tống Giang quát rằng:

– Không được nói càn, ngươi hãy đứng vào xó vách kia,, bao giờ gọi đến sẽ hay.

Lý Quỳ bất đắc dĩ phải chạy ra mà nói một mình rằng:

– Đánh một thôn con này, mà phải làm rộn lên như thế.

Tống Giang gọi Thạch Tú đến mà nói:

– Hiền đệ đã đi qua đó một lần, vậy hiền đệ khá cùng Dương Lâm đi do thám đường lối một phen xem sao?

Thạch Tú nói rằng:

– Hiện nay binh mã kéo đến ầm ầm như thế, tất trong họ phải phòng bị rất nghiêm, vậy chúng tôi phải ăn mặc giả dạng thế nào, thì mới vào lọt được?

Dương Lâm nói:

– Để tôi giả làm pháp sư đi giải ma, mình giắt đỏan đao tay cầm pháp hoàn, khua lắc ầm lên, rồi bác cứ nghe pháp hoàn mà đi gần nhau mới được.

Thạch Tú nói:

– Khi tôi ở Kế Châu hay đi bán củi, để tôi gánh một gánh củi, rồi cùng giắt đỏan đao vào lưng, nếu có động dụng việc gì, thì đòn gánh ta quay ra cũng được rồi.

Dương Lâm khen phải mà rằng:

– Nếu vậy anh em ta phải sửa soạn mau mau, để sáng mai đi sớm cho được việc.

Sáng hôm sau Thạch Tú gánh một gánh củi đi vào thôn trước. Khi đi được hơn hai dặm, thấy đường lối ngang tắt quanh co, bốn mặt đều có ao rãnh giống nhau,, cỏ cây rậm rạp, rất là khó hiểu. Thạch Tú đặt gánh củi đứng nghĩ một lát, thì thấy tiếng pháp hoàn leng keng ở phía sau. Đoạn rồi thấy Dương Lâm đầu đội nón chiên rách, mình mặc áo pháp sư cũ, tay cầm pháp hoàn vừa khua lắc vừa đi đến. Thạch Tú trông trước trông sau không thấy ai, liền gọi Dương Lâm mà bảo rằng:

– Ở đây đường tắt ao nhiều, không biết lối nào với lối nào đi về với Lý Ứng trước cả. Hôm ấy trời đã chiều hôm, họ quen đi vun vút, mình cũng không sao mà nhận được.

Dương Lâm nói:

– Không cần tìm đường tắt làm gì, mình cứ chọn những chỗ đường cái mà đi cũng được rồi.

Nói đoạn Thạch Tú lại gánh gánh củi lên vai, mà theo đường cái đi vào. Chợt thấy trước mặt có mấy nóc nhà, và mấy ngôi hàng thịt hàng rượu ở đó. Thạch Tú liền đến trước tửu điếm rồi đắt gánh xuống, vào nghỉ trong hàng, chàng nhác trông các cửa hàng đều để gươm giáo sáng quắc, người nào người ấy đều có hai miếng vải vàng ở đằng trước đằng sau, viết chữ Chúc rất lớn, cả các người qua lại ngoài đường cũng như thế cả.

Thạch Tú thấy vậy, liền chạy ngay đến trước mặt một người già cả, chấp tay vái chào mà hỏi:

– Thưa cụ, cụ làm ơn bảo cho chúng tôi: Phong tục ở đây là thế nào? Sao lại bày quân khí ngoài cửa như vậy?

Ông già hỏi:

– Bác là người ở đâu đến đây mà lại không biết? Nếu vậy bác phải đi mau mới được.

– Thưa cụ, tôi là bọn buôn táo ở Sơn Đông chẳng may mất cả vốn liếng, không dám về làng, phải đẵn củi đến đây để bán, nhưng không biết phong tục và đường lối ở đây, xin cụ bảo giúp cho.

– Thôi, anh hãy nấp vào một nơi, ở đây sắp sửa đánh nhau to đấy.

– Thưa cụ, đây là một chỗ thôn mạc tốt thế này, có việc gì mà đến đánh nhau to?

– Nếu quả thị bác không biết, để tôi nói cho mà nghe. Chỗ này gọi là Chúc Gia Thôn, trên núi kia tức là dinh Chúc Triều Phụng. Nay vì bất hòa với bọn hảo hán Lương Sơn, họ kéo quân mã đến đóng ở cửa thôn, vì còn sợ đường lối ngoắt ngoéo nên chưa dám vào. Hiện nay trong Chúc Gia Trang hạ lệnh cho tất cả trong thôn chúng tôi, nhà nào cũng phải sắp sẵn khí giới, và chọn những người khỏe mạnh, để đợi lệnh mà ra cứu ứng đánh nhau…

– Vậy thôn cụ đây có bao nhiêu nhà ở.

– Những một thôn Chúc Gia chúng tôi đây cũng có tới hai vạn người, còn hai bên đông tây lại có hai thôn nữa, thôn bên đông là Phác Thiền Bằng Lý Ứng Đại quan nhân, và thôn bên tây là Hổ Thái Công có người con gái là Hổ Tam Nương biệt hiệu là Nhất Trượng Thanh rất là tài giỏi.

– Thế thì còn sợ gì Lương Sơn Bạc nữa?

– Phải, khi tôi mới đến đây không thuộc đường đi, cũng có lẽ bị bắt chứ chẳng chơi…

– Sao cụ lại nói thế?

– Trong thôn tôi đây, trước người ta thường có câu rằng: “Nực cười Chúc Gia Trang. Đường lối rất hiểm ác. Lúc nào còn dễ dàng, khi ra khó lòng thoát!”

Thạch Tú nghe đến đó, liền khóc òa lên, cúi rạp xuống lạy ông già mà nói:

– Chúng tôi là một kẻ giang hồ lưu lạc, tiêu hết tiền nong, về làng không được, nay gánh củi đến đây để bán, lỡ khi gặp cuộc đánh nhau, thì lúng túng không biết lối ra, thực là khổ quá…Xin Gia Gia thương đến chúng tôi, mà chỉ bảo đường lối cho chúng tôi ra, tôi xin đem gánh củi biếu Gia Gia cả.

Lão già có ý thương hại mà rằng:

– Khi nào tôi nỡ lấy gánh củi của anh, anh hãy vào đây ăn cơm uống rượu đã.

Thạch Tú bái lạy gánh gánh củi theo ông lão vào trong nhà. Ông lão đem cơm rượu ra cho Thạch Tú ăn uống.

Đoạn rồi Thạch Tú lạy tạ, mà nói:

– Xin Gia Gia làm phúc trỏ đường lối cho ra.

Ông già nói:

– Bây giờ anh đi đường trong thôn, cứ thấy chỗ nào có cây dương trắng thì rẽ theo lối đó. Bất vấn là đường rộng hay hẹp, hễ có cây dương trắng là đường sống bằng không thì toàn là đường chết cả. Nếu loanh quanh lẫn lối thì không có đường đi, mà không khéo chết ở giữa đường cũng nên. Trong đó toàn rắc chông gai hết cả, nếu đi lạc vào đó là họ tóm được ngay, không còn trốn đâu cho thoát nữa… Thạch Tú lạy ta rồi hỏi rằng:

– Dám hỏi cao tính Gia Gia là gì?

Lão già đáp:

– Trong thôn này toàn họ Chúc cả, duy có tôi là họ Chung Ly ở đây mà thôi…

Thạch Tú nói:

– Bây giờ cụ cho chúng tôi được ăn uống no say, mai sau có dịp đền ơn cụ.

Đương khi nói chuyện, thì bỗng thấy phía ngoài ầm ầm cả lên, rồi thấy người nói lao xao, bắt được một anh đi do thám đem về để nộp. Thạch Tú lấy làm khinh ngạc, theo ông già ra xe,, thấy một nhóm bảy tám người quân dong một anh chàng đi qua. Khi nom kỹ thì chính là Dương Lâm, bị chúng cởi trần trói chặt, mà dong đi tới đó.

Thạch Tú đau đớn trong lòng, vờ hỏi anh kia rằng:

– Người phải bắt kia là một người nào. Làm sao lại trói như thế?

Ông già đáp:

– Anh không nghe họ nói: Là bắt người đi do thám của Tống Giang đó sao?

– Sao nó để cho bắt được như thế?

– Thằng ấy to gan lắm, dám một mình giả dạng làm pháp sư vào do thám ở đây…Đường đi không biết cứ đâm vào đường cái để đi, làm gì không chết. Người ta thấy cậu đi loạng choạng lầm đường, tất là họ báo quan nhân để bắt chứ ai tha? Vừa rồi hắn còn rút dao ra đâm chết bốn người, sau trong thôn kéo ra đông quá, cậu không sao địch nổi, đành phải để cho họ bắt mới xong. Có người nhận biết anh ta là Cẩm Báo Tử Dương Lâm đấy.

Nói vừa dứt lời, bỗng ở ngoài quát lên rằng:

– Đệ Tam Quan Nhân trên trang, sắp đi tuần qua đó…Thạch Tú ghé vào chỗ khe cửa nom ra thì thấy phía trước có hai mươi đôi gươm trường, phía sau có đến năm người cưỡi ngựa, cung tên ở tay, lại có bốn năm đôi ngựa tuần đi dóng nhau; mũ giáp chỉnh tề, lưng đeo cung tên, tay cầm gươm bạc đi giữa.

Thạch Tú nom thấy người đó lại giả vờ hỏi ông già rằng:

– Vị tướng công đi đó là ai?

– Người ấy là Chúc Bưu, con thứ ba của Chúc Triều Phụng, sắp kết duyên với Hổ Tam Nương bên thôn đó. Nhà ông ta có ba người con, nhưng người này giỏi hơn cả.

Thạch Tú lại vái ông già mà rằng:

– Xin cụ làm ơn chỉ lối cho tôi ra.

Lão già nói:

– Hôm nay đã chiều rồi, nếu ra đây mà gặp đánh nhau thì anh nguy mất.

– Vậy xin Gia Gia cứu tôi với.

– Anh hãy ở nhà tôi một đêm, sáng mai vô sự, thì mới có thể đi được.

Thạch Tú phải vâng lời bái tạ, rồi ở lại đó. Được một lát nghe thấy bốn năm tin thám mã đến báo, rồi có người dặn các nhà răng: “Đêm nay cứ trông hiuệ đèn đỏ là ra công gắng sức để thu bắt bọn Lương Sơn, mà giải quan lấy thưởng.

Bấy giờ Thạch Tú lại hỏi ông già:

– Người đó là ai?

– Ông ấy là quan Bộ Đạo tuần tiễu ở đây, ước hẹn đêm nay là bắt Tống Giang đó.

Thạch Tú nghe nói, trong lòng vẫn vơ nghĩ ngợi hồi lâu, rồi thắp đóm đi vào nhà sau để ngủ.

Nói về quân mã Tống Giang đóng ở ngoài cửa thôn, đợi mãi không thấy Dương Lâm, Thạch Tú về báo, liền sai Âu Bằng đi theo ra ngoài cửa thôn để thám thính xem sao.

Âu Bằng đi thám thính, rồi trở về báo rằng:

– Khi vào khỏi cửa thôn, thấy người nói xôn xao là mới bắt được một tên thám tử, sau thấy địa thế khuất khúc khó hiểu, nên tôi đành phải trở về, mà không dám vào nữa.

Tống Giang nghe báo cả giận mà rằng:

– Nếu vậy thì hai anh em tất là bị bắt mất rồi, ta đợi làm sao được nữa? Đêm nay ta phải tiến binh mau mau đẻ đánh cứu anh em mới được, chẳng hay các vị Đầu Lĩnh nghĩ sao?

Vừa nói xong, thì thấy Lý Quỳ kêu lên rằng:

– Tôi xin đi đánh trước, xem chúng nó thế nào?

Tống Giang nghe nói, liền truyền tướng lệnh cho quân sĩ nghiêm đội ngũ để tiến đánh: Lý Quỳ, Dươn Hưng đi đội thứ nhất làm tiên phong. Lũ Lý Tuấn dẫ đầu làm hậu tập. Mục Hoằng đi đạo quân bên tả, Hoàng Tín đi bên hữu, Tống Giang, Hoa Vinh, Âu Bằng đi gim mở cờ rong trống, dàn gươm múa phủ, rồi ba quân thẳng kéo tới Chúc Gia Trang.

Khi đi đến Độc Long Cương thì trời đã gần tối, Tống Giang liền thôi thúc tiến quân ra sức đánh phá Chúc Gia Trang. Lý Quỳ cởi trần trùng trục, tay cầm song phủ, hăng hái xông vào gần đến trước cửa trang, thì thấy đích kiều đã cất lên cao, mà trong cửa trang không có đèn đóm chi cả. Lý Quỳ thấy vậy, liền lội sấn xuống nước để xông vào.

Dương Hùng ngăn lại mà rằng:

– Không được, cửa trang đóng chặt thế kia tất là có kế sách, phải đợi xuống đến đây để bàn định xem sao?

Lý Quỳ nóng tính mắng lên rằng:

– Thằng cha già Chúc Thái Công đâu? Có Hắc Toàn Phong Gia Gia ở đây.

Chàng mắng chửi luôn mấy tiếng, cũng không thấy ở trong động tĩnh chi cả, Được một lát quân mã đi giữa của Tống Giang tiến đến. Dương Hùng bèn đem tình hình bảo cho Tống Giang biết.

Tống Giang ngừng nom lên trên trang, qủa nhiên không thấy quân mã gươm giáo, thì trong lòng lấy làm nghi hoặc, rồi chợt nghĩ một mình mà nói lên rằng:

– Chết rồi! Cái này ta lầm rồi. Trong Thiên Thư đã nói: Việcbinh không nên bạo động, vậy mà ta vội vàng đem quân vào tận đến đây, thực khờ dại quá! Bây giờ trong trang không thấy động dạng chi, chắc là họ mưu kế chứ không, âu ta phải lui quân mau mới được.

Lý Quỳ nghe nói, kêu lên rằng:

– Ca Ca, quân mã đã kéo đến đây, lẽ nào lại chịu lui. Để tôi đánh xông vào trước rồi, cứ vòng theo tôi mà đi.

Bấy giờ trang khách ở trong, thấy quân mã Tống Giang đã kéo đến đó liền nổi hiệu pháo, bật mấy trăm bó đuốc lên, rồi đứng trên chòi canh bắn xuống rào rào như mưa. Tống Giang thấy vậy, liền kéo quân về lối cũ.

Chợt đâu thấy toán hậu quân của Lý Tuấn, sôi lên sùng sục, rồi thấy kêu lên rằng:

– Đường về trắc trờ, tất là có quân phục ở đâu đây…

Tống Giang nghe vậy, liền truyền cho quân ngựa xông pha bốn mặt để tìm lối đi. Lý Quỳ múa đôi phủ chạy ngược chạy xuôi, toan tìm người để chém, song trước sau không thấy một tên trang khách nào. Chợt lại thấy trên núi Độc Long nổi một tiếngn hiệu nữa, rồi bốn bên bỗng kêu hò ầm ĩ cả lên, làm cho Tống Giang kinh ngạc rụng rời không biết lối nào mà giờ.

Mới hay:

Anh hùng lại gặp anh hùng,

Những tay thao lược non sông còn nhiều.

Giữa trường khói lửa đìu hiu,

Tâm can phải vững cơ mưu phải già,

Ngất trời một trận phong ba,

Non gan hồ dễ vượt qua tới ngàn?

Sinh tồn ở cõi nhân gian,

Ai ơi! Trông đó mà toan lấy mình…

Lời bàn của Thánh Thán:

Người ta nói rằng: Có chém tre, gỡ rắn, mới biết sức dao hay; Vậy có gặp sự khó khăn mới biết tay kỳ bút! Hồi này cốt tả Tống Giang đánh Chúc Gia Trang. Hỡi ôi! Đánh Chúc Gia Trang cũng chỉ tầm thường của sự chiến đấu, sao đủ triển tài năng diễn tả của Thi Nại Am? Cho nên chưa chế ra văn, đã trước chế ra đề, tả bên đông Chúc Gia, có một Lý Gia Trang, bên tây Chúc Gia, thêm một Hồ Gia Trang, ba trang liên kết với nhau, thấ như giữa đưa đông cứu, đánh giữa thì đông tây xô lại cứu…Ôi như thế thấy đề tài nghe khó khăn thay! Khác nào sau ngựa chạy dông một cương khôn giữ. Lửa rối nổi lên, một tay khôn chữa…Thi Nại Am mới hồi lòng gấm, giơ tay vóc, uốn lời mềm, chấm mực tốt, mà trước khi Dương Hùng, Thạch Tú chưa đến Lương Sơn, đã tả Lý Ứng bên đông giơ tay hữu. Vào tới hồi này, Tống Giang đem mười sáu viên hồ tướng, lộ máu đánh ra, toan sinh cầm Tây Hổ, đó gọi là giở đến tay tả, mà phải chạy đông tây muốn diệt Chúc Gia Trang mà chẳng tưởng dễ như trói một con gà vậy?

Đó! Thi Nại Am đã đem đầu đề khó ra, tới lúc vào đề lại có phép đảo đi, được kheo đến thế? Người nào đem cuối thiên ra bàn vắn nói dài, tức chưa hiểu sự đó, sao chẳng xem trù tính tự đầu thiên, tới khi hạ bút, tả ra thấy muôn phần khó vậy.

Xem tả Lý Chúc đánh nhau, thế lực ngang nhau, chưa lấy làm thú còn ngại nhân đó mà hai nhà không chịu ngừng tay, để đưa ra bút thế tả Tống Giang tới đánh, nên phép hành văn có lúc chiếm một bút tả ra, lưu một bút chưa chép. Tả Thạch Tú một đoạn dò đường, như vẽ ra một người tinh tế, đọc đến cùng tưởng tác giả đủ mọc kỳ tài mới tả nổi ra.

Hồi 47: Bắt Nụy Hổ, nữ tướng ra côn – Đánh Chúc Gia, quân sư xuống cứu

Bấy giờ Tống Giang kinh sợ bàng hoàng, trông xa bốn phía toàn thị quân phục đông như kiến cỏ, chàng liền thúc quân mã cứ theo cái lớn đánh thục vào để đi.Chợt thấy ba quân đứng chừng cả lại, rồi ai nấy kêu gọi ầm ầm không dứt miệng.

Tống Giang cả kinh, hỏi vì cớ sao? Chúng đều đáp rằng:

– Phía trước toàn thị đường cong lối khuất, chạy mãi quanh co, rồi tới chỗ lúc nãy đây.

Tống Giang lại truyền lệnh quân sĩ cứ theo ánh lửa sáng, trông phía nào có nhà cửa thì chạy về phía ấy. Quân sĩ chạy được một lát, rồi lại thấy bọn tiền quân kêu lên rằng:

– Đường đi toàn là chông gai sừng hươi cả, không sao mà bước đi được.

Tống Giang nghe vậy than rằng:

– Chẳng hay Trời giết Tống Giang cho xong.

Đương khi tiến thoái kinh hoàng, thì bỗng thấy tả quân của Mục Hoằng náo động, rồi thấy bảo rằng:

– Có Thạch Tú đi đến đó.

Tống Giang vừa quay ra nom đã thấy Thạch Tú váv thanh đao, chạy đến trước ngựa bẩm rằng:

– Ca Ca cứ yên tâm, tiểu đệ đã dò được đường rồi, bây giờ phải truyền lệnh cho tam quân, bất cứ đường rộng hay đường hẹp cứ lối nào có cây dương liễu trắng, thì cứ dò đường ấy mà đi.

Tống Giang bèn lập tức truyền cho quân mã, cứ theo lối cây dương trắng để đi. Đi được năm sáu dặm đường, thấy quân giặc phía trước càng ngày càng đông thêm mãi. Tống Giang lấy làm nghi ngại, gọi Thạch Tú mà hỏi rằng:

– Làm sao quân giặc phía trước đông mãi thế?

Thạch Tú nói:

– Họ có đèn đỏ làm hiệu, nên mới kéo đông ra thế?

Hoa Vinh ngồi trên mình ngựa trỏ bảo Tống Giang rằng:

– Trong đám cây có ánh đèn đỏ đây kia, hễ ta đi phía nào là họ quay đèn về phía đó, chắc là đèn hiệu đó hẳn?

Tống Giang hỏi:

– Làm cách nào mà trừ được ngọn đèn ấy đi?

Hoa Vinh đáp:

– Có khó gì?

Nói đoạn liền giơ cung đặt tên phóng ngựa dấn lên, nhằm giữa ánh đèn bắn một phát, đĩa đèn rơi xuống đất.

Bấy giờ bọn quân phục bên kia không thấy hiệu đèn, đều nhao nhao loạn cả lên, Tống Giang bèn truyền cho Thạch Tú dẫn đường, để kéo quân ra lối cửa thôn. Chợt lại thấy ở trước mặt có tiếng kêu ầm ĩ, rồi có một dẫy đom đóm đuốc sáng trưng, Tống Giang lại truyền lệnh tiền quân đóng lại, rồi cho Thạch Tú đi khám xét căn do.

Được một lát, Thạch Tú về báo toán quân mã thứ hai của sơn trại kéo đến, đương đánh phá bọn phục binh của địch ở đó.

Tống Giang nghe báo thúc giục quân tiến lên giáp đánh, bọn quân mã của trang khách đều bị thua mà chạy toán loạn cả. Đoạn rồi Tống Giang hội họp cả mấy toán quân của Tần Minh, Lâm Xung mà kéo ra đóng ở trước thôn.

Sáng hôm sau, kéo quân lên đóng trại ở một khu gò cao, rồi kiểm điểm lại quân mã, thì thấy thiếu mất Trấn Tam Sơn Hoàng Tín, Tống Giang cả kinh, hỏi thăm căn do thì có tên quân sĩ bẩm rằng:

– Đêm qua Hoàng Đầu Lĩnh vâng tướng lệnh đi khám đường, bất ý đến chỗ khóm lau, bỗng bị giây móc giật ngã xuống ngựa, rồi có năm bảy người đổ ra bắt ngay, không sao cứu được.

Tống Giang nghe nói cả giận, toan hạ lệnh chém mấy tên đi theo Hoàng Tín và không biết đem tin về báo ngay khi đó. Sau có Hoa Vinh, Lâm Xung khuyên giải mới tha…

Bấy giờ Tống Giang cùng mọi người thấy không phá nổi Chúc Gia Trang, mà lại thiệt mất mấy người anh em vào đó, thì ai nấy đều có ý buồn rầu, mà cùng chia nhau bàn kế để thi hành.

Dương Hùng nói:

– Ở đây có ba thôn liên lạc với nhau, duy có Lý Đại Quân Nhân ở bên đông, bữa trước bị Chúc Bưu bắn một mũi tên vào cánh tay, hiện nay vẫn còn dưỡng bệnh trong trag. Vậy Ca Ca thử qua đó bàn kế với ông ta xem sao?

Tống Giang nói:

– Té ra ta quên mất ông lão ấy…Phải, địa thế ở đây, tất là ông ta thuộc lắm, cần phải hỏi đến ai?

Nói đoạn lập tức sai sắm sửa lễ vật, chọn đóng một con ngựa rất tốt, và giao cho Lâm Xung, Tần Minh giữ trại, rồi đem Hoa Vinh, Dương Hùng, Thạch Tú lên ngựa, dẫn ba trăm nhân mã đi thẳng đến Lý Gia Trang.

Khi tới nơi, thấy cửa trang đóng kín, đích kiều cất lên, trong đám trang bầy nhân mã rất đông, rồi trên vòm gác khua trống ấm ỹ cả lên. Tống Giang ngồi trên mình ngựa kêu lên rằng:

– Tôi là nghĩa sĩ ở Lương Sơn Bạc đến chào Đại Quân Nhân đây, không có việc chi mà phải phòng bị.

Bấy giờ Đỗ Hưng đứng trong cửa trang nom ra thấy Dương Hùng, Thạch Tú ở đó, bèn mở cổng trang, thả chiếc thuyền con đi ra để chào Tống Giang, Tống Giang xuống ngựa đáp lễ lại.

Dương Hùng, Thạch Tú đến gần Tống Giang bẩm rằng:

– Ông này tức là chủ quản, người dẫn anh em chúng tôi đến Lý Gia Trang Quan Nhân hôm nọ, tên là Quỹ Kiểm Nhĩ Đỗ Hưng đó.

Tống Giang nói:

– Vậy ngài là Đỗ Hưng chủ quản đây, xin phiền ngài vào nói với Lý Đại Quan Nhân rằng: Chúng tôi là Tống Giang ở Lương Sơn Bạc, nghe tiếng Đại Quan Nhân đã lâu, mà không được hầu bao giờ? Nay nhân Chúc Gia Trang, sinh sự, nên tôi phải đi qua đây, gọi là có chút lễ vật và con ngựa tốt, muốn đem vào bái yết Quan Nhân, thực không có ý gì khác.

Đỗ Hưng vâng lời xuống thuyền vào trang báo cho Lý Ứng biết, Bấy giờ Lý Ứng đương bị thương, khoác chăn nằm ở trong sảnh, nghe nói liền bảo với Đỗ Hưng rằng:

– Ta còn đau lắm không thể trở dậy tiếp kiến được, xin để lần sau…Còn các lễ vật ta không dám nhận gì hết cả.

Đỗ Hưng vâng lời, trở ra nói với Tống Giang rằng:

– Đông Nhân tôi rất lấy làm phàn nàn đáng tiếc, cho tôi ra bái tạ Đầu Lĩnh, đáng lẽ cũng ra đây để đón tiếp ngài, song ngặt vì còn bị thương nặng không sao dậy được song để lần sau mời ngài quá bộ đến chơi, thực là may lắm; Còn các quý vật ngài cho, Đông Nhân chúng tôi không dám nhận.

Tống Giang nói:

– Không phải thế, thực là đương đau chưa dậy được…Tôi tuy người đất Trung Sơn, song đến đây cũng đã lâu, cũng hơi biết được chút ít sự tình, xin thưa để ngài rõ: Nguyên vùng đây khoảng giữa là Chúc Gia Trang, ba thôn cùng kết nguyện tử sinh, để cùng nhau tiếp ứng. Nhưng ngày nay Chúc Gia Trang đã sinh sự bất bình với chủ nhân tôi đây, nên thôn tôi không chịu đi cứu ứng, duy còn Hổ Gia Trang là đồng tâm hiệp lực mà thôi, Hổ Gia có một nữ tướng là Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương, khiến đôi khẩu Nhật Nguyệt Đao rất tài giỏi, mà sắp gả cho con thứ ba họ Chúc nay mai. Vậy tướng quân có đánh Chúc Gia Trang thì mặt bên đông không phải đề phòng, mà phải dự bị mặt tây cho cẩn thận. Trên trang Chúc Gia có hai tòa cửa, một tòa ở trước núi Độc Long và một tòa ở sau núi, nếu đánh độc cửa trước là không ăn thua, phải đánh hai mặt mới có thể phá được. Mặt trước đường lối quanh co khó hiểu, rộnghẹp không đều, hễ chỗ nào có cây dương trắng mà rẽ đi đấy là đường sống, còn toàn là đường chêt cả.

Thạch Tú hỏi:

– Nếu bây giờ họ chặt hết cả dương trắng đi, thì nhận làm sao cho biết đường?

Đỗ Hưng đáp:

– Cho dẫu họ chặt hết cây, tất nhiên chưa đào hết gốc, như thế cũng có thể nhận ra. Nhưng phải tiến binh ban ngày, chứ ban đêm thì không có lợi.

Tống Giang nghe nói bái tạ Đỗ Hưng, rồi lại dẫn một hàng nhân mã trở về trước trại. Khi về tới trại, Tống Giang bèn nói chuyện Lý Ứng không chịu tiếp và những lời nói của Đỗ Hưng, thuật lại cho bọn Lâm Xung cùng các Đầu Lĩnh nghe.

Lý Quỳ vội kêu lên rằng:

– Lão quái! Ca Ca có bụng tốt đưa lễ vật đến, sao hắn lại không ra tiếo đón… ? Để tới dẫn vài trăm người đến đánh phá cái thôn ranh con ấy, mà bắt hắn phải ra bái kiến Ca Ca mới được.

Tống Giang nói:

– Hiền đệ không biết, người ta là một lương dân giàu có, sợ khiếp đám quan trường, khi nào dám tiếp chúng ta ngay được?

Lý Quỳ nói rằng:

– Thằng cha ấy có lẽ là đứa trẻ con, sợ không dám ra tiếp kiến ta thì phải.

Chúng nghe nói, đều cười phá cả lên…

Tống Giang lại nói:

– Tuy nhiên, nay còn hai người bọn ta bị hãm trong ấy, không biết tính mệnh thế nào, vậy anh em hết sức theo ta mà vào đánh phá một phen nữa xem sao?

Chúng nghe nói đều đứng dậy mà rằng:

– Ca Ca đã ra tướng lệnh ai dám không theo, song chẳng hay Ca Ca cắt ai đi trước?

Hắc Toàn Phong Lý Quỳ nói luôn rằng:

– Anh em sợ lũ trẻ con, để tôi đi trước cho…

Tống Giang nói:

– Ngươi làm tiên phong không có lợi, lần này ta không cho đi nữa.

Lý Quỳ nghe nói, cúi gầm mặt xuống, tức giận mà không dám nói ra, Tống Giang bèn cắt Mã Lân, Đặng Phi, Âu Bằng, Vương Nụy Hổ, theo Tống Giang làm tiên phong.Thứ nhì đến Đới Tung, Tần Minh, Dương Hùng, Thạch Tú, Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, Bạch Thắng, sắp sửa để đánh đường thủy. Thứ ba đến Lâm Xung, Hoa Vinh, Mục Hoằng, Lý Quỳ, chia làm hai đường để tiếp ứng. Khi phân phát đã xong, các quân sĩ đều cơm nước no nê, rồi lên ngựa sắp hàng tiến vào để đánh.

Tống Giang đi đội quân tiên phong, trước mặt dàn một lá cờ Súy đỏ rất to, dẫn bốn Đầu Lĩnh, một trăm năm mươi quân kỵ, và hơn nghìn quân bộ thẳng tới Chúc Gia Trang. Khi đi tới trước núi Độc Long, Tống Giang dừng ngựa đứng nom, thấy trên thôn Chúc Gia Trang phất phơ cắm ngọn cờ trắng, viết mười bốn chữ rất to:

“Lấp bằng Thủy Bạc bắt Tiều Cái”

Phá phẳng Lương Sơn tróc Tống Giang”

Tống Giang nom thấy vậy, cả giận mà rằng:

– Nếu ta không phá nổi Chúc Gia Trang, quyết không trở về Lương Sơn Bạc làm gì nữa..

Các Đầu Lĩnh thấy vậy, cũng đều tức giận đùng đùng không ai chịu được. Bấy giờ Tống Giang thấy mấy toán quân mã đi sau, đã lục tục kéo đến bèn để đội quân thứ hai đánh cửa trước, rồi dẫn một đội quân thứ nhất ra đánh cửa sau.

Khi tới phía núi Độc Long, thấy thôn Chúc Gia, toàn thị thành đồng vách sắt, nghiêm chỉnh vững vàng, khó lòng mà hạ ngay được. Đương khi ngắm thì thấy phía tây có một tóan quân mã reo hò đánh sát đến. Tống Giang lại để Mã Lân, Đặng Phi đanh cửa sau Chúc Gia Trang rồi tự đem Âu Bằng, Vương Nụy Hổ chia lấy một nửa quân ra đón đánh quân phía bên tây. Bấy giờ trong đám phi sơn ấy nhô ra hai ba mươi quân kỵ trong đó có một viên Nữ Tướng tức Nhất Trượng Hồ Tam Nương, ở Hổ Gia Trang ra đó. Hổ Tam Nương cưỡi ngựa bờm xanh, múa hai khẩu Nhật Nguyệt Đao, dẫn năm trăm trang khách, ra cứu ứng Chúc Gia Trang.

Tống Giang thấy vậy liền nói:

– Hổ Gia Trang có viên Nữ Tướng rất giỏi, có lẽ người này, ai dám ra nghinh địch với hắn?

Vương Nụy Hổ vốn là đồ hiếu sắc, nghe nói đến viên Nữ Tướng, thì mong sao bắt được ngay mới thỏa, liền quát lên một tiếng rồi vỗ ngựa múa thương xông ra để đánh. Bên kia Nhất Trượng Thanh cũng xốc ngựa múa đao ra đấu với Vương Nụy Hổ, đôi bên quân sĩ reo hò cả lên.

Hai bên đánh nhau được mười lăm hiệp, thì Tống Giang thấy Vương Nụy Hổ đã hơi luống cuống, chỉ quanh co che đỡ mà không đánh được hiệp nào nữa. Nguyên Vương Nụy Hổ mới thấy Nhất Trượng Thanh đã tưởng là dễ bắt được ngay, ai ngờ đâu được hơn mươi hiệp thì chân tay đã mỏi mệt điên đảo, mà Nhất Trượng Thanh thì tinh thần vẫn vững chãi không hề khiếp loạn chút nào. Bấy giờ Nhất Trượng Thanh thấy vậy, liền múa đao hăng hái xông vào. Vương Nụy Hổ không sao địch nổi, đành phải quay ngựa toan chạy về bản trận. Bị Nhất Trượng Thanh thừa thế tay phải xách hẳn ra ngoài mình ngựa, rồi bọn tranh khách túm đến mà bắt ở trận tiền. Âu Bằng đứng ngoài thấy vậy, vội múa đao xông vào để đánh Nhất Trượng Thanh. Nhất Trượng Thanh lại múa đao xông ngựa đến đánh Âu Bằng. Nguyên Âu Bằng là một tay lính võ xuất thần, khiến một cây thiết trang rất giỏi. Tống Giang ngồi trên mình ngựa vẫn đắc chí khen thầm, song cũng không sao mà đánh đổ Nhất Trượng Thanh cho được.

Đặng Phi ở đằng kia đã thấy Nhất Trượng Thanh bắt Vương Nụy Hổ, mà Âu Bằng cũng đánh không lại, liền xốc ngựa múa cây thiết liên mà mũa xông ra để đánh. Bấy giờ bọn Chúc Gia Trang trông thấy, lo khi Nhất Trượng Thanh bị thua, liền bỏ đích kiều xuống, mở tung cửa trang ra, rồi Chúc Long dẫn hơn ba trăm người, múa gươm xốc ngựa thẳng ra đánh bắt Tống Giang. Mã Lân thấy vậy, vội vàng xốc ngựa múa song đao để ra đón đánh Chúc Long. Đặng Phi sợ Tống Giang đứng đó hoặc bị quân giặc tràn đến, bèn bồi hồi quanh quẩn gần đó, mà không hề dám lánh ra xa.

Khi đó Tống Giang thấy Mã Lân đánh Chúc Long không thắng. Âu Bằng đánh Nhất Trượng Thanh không được, trong bụng đương băn khoăn lo sợ thì chợt thấy một toán quân mã ở đâu kéo đến.

Tống Giang trông xa thì chính là Tích Lịch Hỏa Tần Minh đem quân ra cứu ứng, bèn lấy làm mừng rõ gọi to lên rằng:

– Tần Thống Chế đến giúp cho Mã Lân với.

Tần Minh vốn là người tính cấp, vả lại đương căm người họ Chúc bắt mất đồ đệ là Hoàng Tín, liền vỗ ngựa múa Lang Nha Côn thẳng xông vào đánh Chúc Long, còn Mã Lân lại dẫn người sang toan cướp Vương Nụy Hổ về. Nhất Trượng Thanh thấy vậy, bèn bỏ Âu Bằng mà sang đánh với Mã Lân. Đôi bên đều ngồi trên mình ngựa múa đánh song đao, vù vù như gió thổi, loàng nhoàng như tuyết sa, làm cho Tống Giang thấy phải hoa mắt lên mà thấy không kịp. Bên kia Tần Minh đánh nhau với Chúc Long được mươi hiệp, không sao mà địch nổi, liền có giáo sư là Loan Đình Ngọc giắt thiết chùy, cầm gươm lên ngựa xông ra. Âu Bằng thấy vậy, bèn quay ngựa đánh nhau với Loan Đình Ngọc.

Loan Đình Ngọc không hề đánh lại, chỉ cắp thương dấn ngựa mà chạy lánh về một bên. Âu Bằng cố ra sức đuổi, bị Loan Đình Ngọc phi trúng một chùy ngã ngay xuống ngựa.

Đặng Phi thấy vậy kêu lên:

– Quân đâu, cứu người!

Nói đoạn múa thiết liên xông đến chỗ Loan Đình Ngọc, còn Tống Giang thì thét lâu la để cứu Âu Bằng lên ngựa.

Bấy giờ Chúc Long không sao chống được với Tần Minh, bèn vỗ ngựa tháo chạy, rồi Loan Đình Ngọc phải bỏ Đặng Phi mà đánh với Tần Minh. Hai tướng đánh nhau mười hiệp bất phân thắng phụ, rồi Loan Đình Ngọc lừa miếng phá đĩnh cắp gươm chạy thẳng. Tần Minh múa côn xông đuổi, Loan Đình Ngọc theo lối cỏ hoang mà chạy vào đó. Tần Minh không biết là kế cũng cứ hồng hộc đuổi theo vào.

Nguyên ở Chúc Gia Trang, các chỗ như vậy, đều có quân phục sẵn cả. Khi chúng thấy Tần Minh xốc ngựa vào, liền giật dây tròng ngựa, ngã dật xuống đất, rồi đổ xô ra bắt sống Tần Minh. Đặng Phi thấy Tần Minh ngã ngựa, liền thúc ngựa sấn vào để cứu. Khi chàng trông thấy chúng kéo thừng lên, bèn toan quay ngựa chạy ra, thì bỗng đã ngã lăn ra đó, rồi chúng túm vào mà băt nốt.

Tống Giang thấy vậy càng thêm lo sợ, cố cứu cho Âu Bằng lên ngựa rồi Mã Lân cũng bỏ Nhất Trượng Thanh, mà quay lại kèm đỡ Tống Giang để chạy về bên Nam.

Bấy giờ Loan Đình Ngọc, Chúc Long, Nhất Trượng Thanh, đều đổ xô đuổi đến đằng sau. Tống Giang luống cuống, cơ hồ hết đường để chạy. Chợt đâu thấy chính mặt phía Nam có một hảo hán cưỡi ngựa dẫn bốn năm trăm người chạy đến, nom ra thì chính là Mộc Gia Lạn Mục Hoằng. Về phía Đông Nam lại có một toán ba trăm người, với hai hảo hán chạy đến, thì một người là Bệnh Quan Sách Dương Hùng, và một người là Tiểu Mạnh Tam Lang Thạch Tú.

Phía Đông Bắc lại có một hảo hán kêu rằng:

– Để người lại đó…

Tống Giang nom ra thì chính là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh.

Bấy giờ ba đường nhân mã đều tề tựu cả đến. Tống Giang lấy làm cả mừng, lại cùng nhau hết sức mà quay lại đánh Loan Đình Ngọc và Chúc Long.

Trong Chúc Gia Trang thấy vậy, để một mình Chúc Hổ coi giữ cửa trang, còn Chúc Bưu cũng cưỡi ngựa cầm thương, dẫn năm trăm nhân mã kéo ra để hiệp lực với Chúc Long, đánh nhau rất là kịch liệt.

Khi đó Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, đã xông xuống nước, xong bị trên trang bắn lên dữ dội, không sao mà hạ thủ được còn Đới Tung, Bạch Thắng chỉ đứng trên bờ reo hò ầm ĩ cả lên.

Được một lát Tống Giang thất trời đã xế tối, liền gọi Mã Lân kèm đỡ Âu Bằng đi trước ra cửa thôn, rồi thúc bọn tiểu lâu la khua mõ thanh la và dóng dả các vị hảo hán vừa đánh vừa chạy trở ra.

Tống Giang lại sợ các vị hảo hán đi quanh quẩn lầm đường, bèn thúc ngựa đi trước để dò xem đường lối.

Đương khi đi tìm kiếm quanh co, thì thấy Nhất Trượng Thanh cưỡi ngựa xông đến, Tống Giang sợ luống cuống không kịp trở tay, vội ngoắt ngựa về phía Đông để chạy.

Nhất Trượng Thanh cũng thúc ngựa đuổi theo sát lưng, vào đến chỗ sâu thẳm trong trang rồi, vừa toan hạ thủ để bắt Tống Giang. Vừa khi đó, có một người ở bên sườn núi quát to lên rằng:

– Con ranh kia, đuổi xuống ta đi đâu đó?

Tống Giang nghe nói trông ra đã thấy Lý Quỳ múa song phủ dẫn bảy tám mươi tên tiểu lâu la sồng sộc đi đến, Nhất Trượng Thanh thấy vậy, bèn kìm cương ngựa lại, rồi quay ngoắt vào đám rừng cây để chạy. Tống Giang cũng kìm ngựa lại sem, thì lại thấy bên đám rừng cây có một toán mười mấy quân kị đi ra, và có một vị tráng sĩ tức là Báo Tử Đầu Lâm Xung đi trước, Lâm Xung ngồi trên mình ngựa quát to lên rằng:

– Chị chàng kia, chạy đi đâu thế?

Nhất Trượng Thanh nghe hỏi liền phi đao phóng ngựa đến đánh Lâm Xung, Lâm Xung đưa bát sà mâu ra đón. Đôi bên đánh nhau chưa được mươi hợp, Lâm Xung lừa miếng phá đĩnh, để cho Nhất Trượng Thanh chém hai khẩu đap vào, cầm sà mâu gạt một cái, bắn hai khẩu đao về một bên, rồi đè sấn vào cắp ngang lưng Nhất Trượng Thanh, mà xách ra ngoài mình ngựa.

Tống Giang thấy vậy, vỗ tay lấy làm đắc chí, Lâm Xung gọi quân sĩ trói lấy Nhất Trượng Thanh, rồi quay ngựa đến trước mặt Tống Giang mà hỏi rằng:

– Hắn chưa hề thương phạm đến Ca Ca chứ?

Tống Giang đáp:

– Chưa hề chi cả.

Nói đoạn liền sai Lý Quỳ đi vào trong thôn tiếp ứng các vị hảo hán, để cùng ra cửa thôn rồi sẽ thương nghị. Hắc Toàn Phong vâng lệnh, dẫn quân bản bộ quay đi, rồi Lâm Xung cắp Nhất Trượng Thanh trên mình ngựa mà đưa Tống Giang ra ngoài cửa thôn. Chiều hôm đó các vị Đầu Lĩnh thấy trời gần tối, mà thế quân không có tiện lợi, liền kéo quân ra ngoài cửa thôn để nghỉ. Bọn Chúc Gia Trang cũng thu quân mã để về trong trang.

Bấy giờ các người trong thôn cùng Chúc Long liền đem mấy hảo hán mới bị bắt, nhốt vào xe tù, đợi khi bắt được Tống Giang, sẽ giải quan một thể. Hổ Gia Trang cũng sai người đem Vương Nụy Hổ giải sang Chúc Gia Trang, để nhốt cả vào xe tù ở đó.

Bên này Tống Giang thu hết đại đội nhân mã ra đóng trại ở ngoài cửa thôn. Trước hết cho đem Nhất Trượng Thanh lên, bắt hai mươi tên tiểu lâu la lão thành, cùng bốn người Đầu mục, cưỡi bốn con ngựa, rồi trói chặt hai tay Nhất Trượng Thanh, cho cưỡi lên một con ngựa, lập tức giải về sơn trại giao cho phụ thân là Tống Thái Công thu giữ, để đợi khi về sẽ xử. Các vị Đầu Lĩnh thấy vậy đều có bụng ngờ, chắc là Tống Giang muốn chiếm Nhất Trượng Thanh nên mới kỹ càng cẩn thận như thế?

Tống Giang lại tuyển lấy một cỗ xe đưa Âu Bằng về sơn trại để yên nghỉ. Các quân chúng được lện đều trở về sơn trại ngay đêm hôm đó.

Sáng hôm sau có người báo:

– Có quân sư Ngô Dụng đem ba anh em họ Nguyễn cùng Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn năm trăm nhân mã tới nới.

Tống Giang nghe báo, vội ra trại đón tiếp quân sư vào trướng trung quân để cùng ngồi bàn chuyện. Ngô Học Cứu sai đem rượu thịt đến cất chén mừng Tống Giang, v à nhất diện khao thưởng các tướng cùng tam quân.

Ngô Dụng nói với Tống Giang:

– Tiều Đầu Lĩnh ở trên sơn trại, nghe nói Ca Ca ra đánh lần thứ nhất không được lợi, nên sai Ngô Dụng tôi đem năm vị Đầu Lĩnh, đến đây để giúp chẳng hay mấy bữa nay sự thể ra sao?

Tống Giang có vẻ lo buồn mà rằng:

– Quân Chúc Gia Trang thực là vô lễ. Trên trang có cắm lá cờ trắng, viết mười bốn chữ: “Lấp bằng Thủy Bạc bắt Tiều Cái; Phá phẳng Lương Sơn tróc Tống Giang”. Như thế thì phỏng tha làm sao được? Tôi tiến binh lần thứ nhất vì địa lý không tinh, bị mất Dương Lâm, Hoàng Tín, đến hôm qua ra trận, lại bị Nhất Trượng Thanh bắt mất Vương Nụy Hổ, Loan Đình Ngọc đánh ngã Âu Bằng, rồi Tần Minh, Đặng Phi cũng vướng giây bị bắt, sự tình rất là bất lợi. Sau may có Lâm Giáo Đầu bắt sống được Nhất Trượng Thanh, nếu không thì thực mất giá trị to…Như vậy, không biết làm sao cho được bây giờ? Nếu Tống Giang tôi không đánh được Chúc Gia Trang, cứu được anh em trở về; thì xin tình nguyện chết ở đây cho rảnh, không còn mặt mũi nào mà trông thấy Tiều Cái Ca Ca cho được.

Ngô Dụng nghe nói cười mà đáp rằng:

– Chúc Gia Trang cũng là mạng trời sắp hết, cho nên mới có những việc như thế…Tôi thiết tưởng chỉ sớm hôm là tất có thể phá được ngại chi?

Tống Giang vội hỏi rằng:

– Chúc Gia Trang làm thế nào khả dĩ phá ngay được? Vì lẽ gì mà có cơ hội ấy, xin quân sư cho tôi biết.

Mới hay:

Có gian nan mới biết tài,

Có phong ba mới biết người gái ngoan!

Anh hùng gánh vác giang san,

Càng kinh lịch lắm, càng gan, càng già…

Cung tên bao quản xông pha,

Xưa nay dẹp nước yên nhà những ai?

Làm trai cho đáng thân trai,

Sao cho khỏi thẹn một đời tu mi?

Lời bàn của Thánh Thán:

Khi tôi còn nhỏ đọc tám chữ đằng sau bức kính của Trần Tư, rồi tráo trở ngược xuôi, đọc vẫn thành hai câu, mà than rằng khéo; Lớn lên đọc bài Chức cẩm hồi văn của nàng Tô, bấy giờ mới biết thiên hạ có những giống kỳ tài như thế; Lại nghĩ lúc còn nhỏ xem hai trận đồ của Trần Hy Di, xếp đặt khéo léo, định tượng ở đâu vào đấy, đã cho làm đại kỳ, lớn lên xem phép của Bát trận đồ Gia Cát Lượng, bấy giờ mới biết thiên hạ có cái đạo tung hoành thần biến ly kỳ…Nay đọc một hồi Nhị đả Chúc Gia Trang của Thi Nại Am trong Thủy Hử, cũng như thế vậy.

Tác giả đã lấy Mực làm Binh, lấy Bút làm Ngựa, lây Giấy làm Sa Trường, lấy Tâm làm Tướng Lệnh, khiến ta đọc đến văn, thấy Mực chẳng ngựng binh, Bút không dừng Ngựa, Giấy vẫn Sa Trường, Tâm vẫn Chỉ huy. Nào tả Âu Bằng cứu Vương Nụy Hổ, Tam Nương lại đánh với Âu Bằng, Đặng Phi giúp Âu Bằng đuổi Tam Nương, Chúc Long lại giúp Tan Nương, để bắt Tống Giang, Mã Lân lại vì Tống Giang đón đánh Chúc Long, Đặng Phi lại bỏ Âu Bằng để giữ Tống Giang, Tống Giang lại gọi Tần Minh để thây Mã Lân, Tần Minh lại múa lang nha để bắt Chúc Long, Mã Lân có Tần Minh lại cướp Nụy Hổ, Tam Nương lại bỏ Âu Bằng để đánh Mã Lân, Loan Đình Ngọc lại giúp Chúc Long để bắt Tần Minh, Âu Bằng lại bỏ Tam Nương để tiếp Đình Ngọc, Đặng Phi lại bỏ Tống Giang để cứu Âu Bằng, Đình Ngọc lại bỏ Đặng Phi để dỗ Tần Minh, Đặng Phi cứu Tần Minh, để đuổi Đình Ngọc, Mã Lân bỏ Tam Nương để giúp Tống Giang, đấy là trận thứ nhất. Đám quân lạc trận muốn chạy, chợt đâu thêm ra ba lộ Binh, dẫu có Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, xông vào thủy chiến không được, Đới Tung, Bạch Thắng, trợ chiến cũng chả ăn thua đó là trận thứ hai. Trận thứ nhất khéo ở chỗ mình có bốn tướng, địch có ba tướng, mà trong bốn tướng, trước sau thay đổi, phải dùng mất một người để giữ Tống Giang, thì cúng như ba tướng đánh nhau với ba tướng, mà múa may quay cuồng, bằng thế đánh thiên binh vạn mã; Trận thứ hai khéo ở mượn ra một toán Tần Minh đi tới, hai toán Mục Hoằng, Hoa Vinh đi tới để cứu trận tiền, tả ra một thời ứng biến với địch chẳng phải chỉ giữ Tống Giang cho còn hiệu lệnh, mà sau còn thêm hai người Đới Tung, Bạch Thắng, cách nước náo lên, thấy chẳng sót một người nào cả, thế mà trong cái lạ lại lạ hơn nữa, sau khi đánh trống thu quân, chợt đâu sinh ra Tam Nương theo đuổi Tống Giang, mà không có một người chân tay nào giúp sức lại nhảy ra một Lý Quỳ, ta chẳng cho lạ như thế làm kỳ phong, chỉ lạ văn trên như đã giấu đi, không ngờ nhô ra một Lý Quỳ sau đó lại nhô ra một Lâm Xung, trận thứ ba lại càng tuyệt bút.

Như vấn tự một hồi này huyết chiến, bèn đem Vương Nụy Hổ khởi đầu khiến độc giả nghĩ trong lòng coi như đồ bỏ trẻ con, mà biến ra cái thế sấm vang chớp nhoáng, làm kinh khiếp cho người?

Nụy Hổ, Tam Nương vốn hai người vợ chồng, khi chưa ở hồi này thì chồng ở bên này vợ ở bên kia, sau khởi hồi này, thì chồng ở bên kia, vợ ở bên này, một hồi tả bắt chồng đi trước, bắt vợ đi sau, đều do ngọn bút rỡn ra của Thi Nại Am tài tử.

Hồi 48: Mắc mẹo gian, Giải Bảo, Giải Trân phá ngục – Bầy mưu khéo, Tôn Lập, Tôn Lân cướp lao

Bấy giờ Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:

– Nay có một cơ hội rất hay, là có một người, vì Thạch Tú mà mới đến nhập đảng ở đây. Người ấy rất thân với Loan Đình Ngọc, mà lại là anh em chí thân của Dương Hùng, Đặng Phi khi trước. Người ấy thấy nói Ca Ca đánh Chúc Gia Trang bất lợi, nên muốn hiến một kế để làm lễ tiến thân. Ông ta sắp đến đây bây giờ, chỉ trong năm ngày nữa đã có thể thi hành được, Ca Ca cho thế có may không?

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền cùng với Quân Sư uống rượu để đợi người kia đến.

Ngoài thành Đăng Châu, về ven Sơn Đông có một tòa núi rất nhiều sài lang hổ báo, thường hay hãm hại nhân gian. Quan Phủ Đăng Châu sức giấy bắt các nhà đi săn ở vùng đó, phải theo lệnh hạn tróc nã các giống thú độc hại người, để trừ hại cho dân. Nếu để sai hạn thì phải xử phạt rất nghiêm. Gần núi đó có hai anh em nhà phường săn, anh là Giải Trân, em là Giải Bảo, đều có võ nghệ hơn người, khiến cây cương xoa hỗn thiết rất giỏi, các phường săn phải tôn làm bậc nhất.

Giải Trân biệt hiệu là Lưỡng Đầu Xà (Rắn hai đầu), Giải Bảo biệt hiệu là Song Vĩ Hạt (Mọt hai đuôi), hai người bố mẹ chết sớm, chưa có vợ con. Người anh mình cao bảy thước, mặt đen tía lưng đỏ, ngực rộng, khỏe mạnh hơn người. Người em cũng mình cao bảy thước, mặt tròn, người đen, hai trái đùi thích hai con Phi Thiên Dọa Xoa, tính rất nóng nẩy, mỗi khi giận dữ điều gì, tưởng chừng như làm long núi đổ trời ngay lập tức.

Khi đó hai anh em vâng giấy lặc hạn của quan, rồi cùng nhau về nhà sắp sửa các đồ cung máy tên thuốc, cùng giây móc thùng lùng, rồi đội tốt hổ báo vác khí giới đi lên trên núi Đăng Châu bắt cọp.

Hai anh em lên núi, đặt cung máy cẩn thận, rồi trèo ngồi trên cây, đợi chực suốt ngày không thấy gì, lại đành phải cùng nhau trở về. Sáng hôm sau lại đem khí giới cơm nắm đi lên núi để chực. Chực đến đầu trống canh năm không thấy tăm hơi ci, hai anh em lại kéo nhau đem cung máy sang núi bên Tây, đợi đón đến sáng cũng không ăn thua gì cả.

Đến ngày thứ ba là ngày hết hạn, hai anh em lại chực mãi đến canh tư, nghe trong người đã mệt nhọc la đà, liền tìm một chỗ tựa nhau ngồi để ngủ. Hai người chưa kịp nhắm mắt, thì bỗng thấy tiếng cung bắn ra, liền choàng trở dậy vác gậy móc đi tìm khắp cả mọi nơi; Khi đó có một con cọp bị tên thuốc bắn trúng, đương khua nhẩy ở trên mặt đất, con cọp thấy hai người vác gậy chạy xuống đuổi, liền vùng té để chạy. Hai người lại hết sức đuổi theo. Chạy đến lưng chừng núi, hổ ta bị tên thuốc ngấm, không sao chịu được, bèn kêu lên mấy tiếng, rồi dãy lên sùng sục mà nhảy xuống dưới núi.

Giải Bảo thấy vậy nói rằng:

– Được lắm! Ta biết chỗ ấy là đằng sau vườn nhà Mao Thái Công đó, tôi với anh cùng đến đó bắt mới được.

Nói đoạn hai anh em cùng vác gậy đi thốc vào trang viện Mao Thái Công, để gọi cửa.Bấy giờ trời đã gần sáng. Hai người gọi cửa mấy tiếng thì thấy có người báo cho Mao Thái Công chạy ra.

Khi Thái Công ra tới nơi, hai người cùng bỏ gậy xuống chắp tay vái chào rồi nói rằng:

– Kính chào Bá Bá, đã lâu nay chúng tôi không được gặp, hôm nay có chút việc đến phiền Bá Bá, xin người tha lỗi.

Mao Thái Công hỏi rằng:

– Hiền diệt đi đâu sớm quá? Có việc gì thế?

Giải Trân nói:

– Nếu không có việc, thì đâu dám làm mất giấc ngủ của Bá Bá. Nay nhân tiểu đệ vâng giấy quan lặc hạn phải đi bắt hổ, chúng cháu chực chõm suốt cả ba ngày, đến sáng hôm nay mới bắn được con hổ, bất đồ lại nhảy vào vườn sau trang đây, vậy xin phép Bá Bá cho chúng cháu vào bắt để đem nộp cho kịp hạn.

Mao Thái Công nói:

– Được, tưởng gì, chú hổ lạc vào đó, thì dễ bắt lắm, hai anh hãy vào ngồi chơi trong trang náy đã, để bảo trang khách dọn cơm xoàng ăn, rồi sẽ bắt cũng được.

Nói đoạn quay ra gọi trang khách dọn cơm rượu lên, mời hai anh em Giải Trân mà ăn uống.

Khi ăn uống xong Giải Trân, Giải Bảo đứng dậy tạ ơn Mao Thái Công mà rằng:

– Xin mời Bá Bá cho người dẫn chúng cháu ra vườn sau một lát.

Mao Thái Công nói:

– Hổ ở vườn đằng sau đây, thì còn ngại gì nữa, hai anh hãy ngồi uống nước rồi đi cũng được.

Hai anh em lại phải vâng lời ngồi xuống uống. Uống nước xong, Thái Công liền đứng dậy bảo hai một rằng:

– Bây giờ tôi cũng ra bắt hổ với các anh một thể…

Nói xong dẫn hai người ra san trang, rồi gọi trang khách lấy chìa khóa để mở cửa…

Khi đó mở khóa mãi không được, Mao Thái Công nói:

– Vườn này lâu ngày không ai mở đến, chắc là khỏa rỉ, cho nên khó mở thế? Lấy cái búa sắt ra đây, dọt gẫy mà mở ra vậy.

Trang khách vâng lời, đem búa dọi tung khóa ra, rồi mở cửa cho mấy người vào.

Khi vào tới nơi, tìm khắp cả vườn không thấy đâu, Mao Thái Công bảo với hai người rằng:

– Có lẽ hiền diệt trông lầm, làm gì có hổ vào trong vườn này?

Giải Trân nói:

– Có khi nào lại trông lầm, chúng cháu sinh trưởng ở đất này lại không biết lối hay sao?

Thái Công nói:

– Vậy các anh cứ vào đó mà xem, có thấy thì khiêng về.

Giải Bảo nói với Giải Trân:

– Ca Ca thử lại đây mà xem đám cỏ chỗ này đỏ ẹp cả xuống, mà có vết máu ở đây, lẽ nào lại bảo rằng không có hổ? Cái này tất là người nhà ở đây nó bắt mất rồi hẳn?

Mao Thái Công nói:

– Các anh chớ nói thế. Người nhà tôi làm gì biết trong vườn có hổ mà bắt ngay được? Vừa rồi có phải phá khóa ra rồi, tôi cùng với hai anh đi vào đó không? Sao các anh lại hỏi thế?

Giải Trân nói:

– Bá Bá, Bá Bá trả lại chúng tôi con hổ, để tôi đem nộp quan mới được.

Mao Thái Công nói:

– Các anh này mới vô lễ. Tôi mời các anh ăn uống cẩn thận, các anh lại đến bắt đền cọp là nghĩa lý gì?

Giải Bảo nói:

– Không phải là bắt đền, nhưng nay hiện có ông Lý Trưởng chắc cũng có giấy lặn hạn của quan, nhưng ông không bắt được hổ, nhân tiện chúng tôi bắt được đây, thì nhận vơ nộp lấy thưởng, để chúng tôi bị phạt đó thôi.

Mao Thái Công nói:

– Các anh bị phạt, thì can gì đến chúng tôi?

Hai anh em nhà kia trừng mắt lên nói rằng:

– Ông có thể cho tôi tìm khắp trong nhà không?

Thái Công nói:

– Nhà ta cũng như nhà các ngươi, có trong ngoài ngăn nắp, tìm thế nào được? Hai thằng ăn mày này vô lễ quá?

Giải Bảo chạy thẳng vào trước sảnh tìm không thấy liền nóng máu đánh đập hoang cả lên, Giải Trân cũng bẻ gãy những chắn song ngoài cửa rồi đánh đập ầm ầm lên.

Mao Thái Công kêu lên rằng:

– Giải Trân, Giải Bảo. Hai ngươi đến nhà ta phá cướp ban ngày đấy phải không?

Hai anh đập phá mấy cái bàn, ghế ở trước cửa sảnh, rồi thấy trong trang cũng có phòng bị cả, liền cùng nhau lui bước trở ra. Hai người đi vừa mắng ầm lên rằng:

– Lấy con cọp của ta, để xuống quan sẽ liệu.

Đương khi đó chợt thấy ba người cưỡi ngựa, dẫn một bọn đầy tớ theo sau. Giải Trân nhận biết là Mao Trọng Nghĩa, con trai Mao Thái Công đi đó, liền đến gần mà nói rằng:

– Những trang khách trong nhà bác, bắt con hổ của chúng tôi, tôi hỏi mãi mà ông cụ cũng không bảo chúng trả lại, toan đánh cả hai anh em chúng tôi đó…

Mao Trọng Nghĩa nói:

– Tụi người nhà thế có láo không? Chắc là cho tôi cũng bị chúng nó che mắt không biết hẳn? Thôi các anh không nên giận nữa, vào đây tôi bảo chúng nó đem trả.

Hai anh em Giải Trân nghe nói đều cảm tạ, rồi cùng theo vào trong trang. Khi vào đến cổng, Mao Trọng Nghĩa sai đóng cổng lại, rồi quát người nhà hạ thủ.

Đoạn rồi thấy có hai ba mươi trang khách chạy ra còn các người đi theo ngựa lúc nãy, thì toàn là lính nhà quan đem đến, đều đổ xô bắt lấy hai người. Giải Trân, Giải Bảo không kịp trở tay, bị chúng áp đến trói ghì ngay lại, không sao mà tháo được.

Bấy giờ Mao Trọng Nghĩa nói rằng:

– Nhà ta đêm qua bắn được con hổ, sao các anh dám đến ăp cướp, rồi lại thừa dịp mà lấy cả gia tài, và phá phách đồ đạc nữa, như thế thì phỏng đáng tội gì? Để ta giải anh lên Phủ, sẽ trừ cái hại cho dân bản Châu mới được.

Nguyên sáng sớm hôm đó, Mao Trọng Nghĩa vớ được con hổ liền lập tức đem đi giải Phủ rồi đem tụi lính đó về để lập kế bắt Giải Trân, Giải Bảo. Hai anh nọ tình thực không biết là kế, nên lại lớ nhớ quay vào bị họ bắt được, không sao mà gỡ ra cho thoát.

Bấy giờ Mao Thái Công sai đem gậy móc của hai anh và các đồ bị phá gẫy để làm tang vật, rồi lột trần cả ra, trói chặt cánh khủyu mà giải lên Phủ. Ở Phủ đó có một người Khổng Mục coi án, tên gọi Vương Chính, là con rể Mao Thái Công, đã bẩm nhỏ với Tri Phủ các việc trước rồi. Đến khi giải Giải Trân, Giải Bảo lên tới nha, quan Phủ liền sai vật cổ ra đánh, khép án vào ăn cướp cọp, rồi nhân đó cướp cả đồ vật trong nhà mà không cho cãi một câu nào hết cả.

Hai anh em bị đòn đánh khảo qú đau, đành phải chịu nhận các tội, rồi Tri Phủ sai lấy gông đóng gông cả lại mà cho giam xuống đại lao.

Bố con Mao Thái Công đắc sách trở về đến trang lại bàn định với nhâu rằng:

– Hai thằng này tất phải kết quả nó đi, không thể để cho nó sống được.

Bàn xong lại đến Phủ nói với Vương Khổng Mục, liệu kế kết quả Giải Trân, Giải Bảo, và đút lót nói với Tri Phủ cho.

Trong nhà lao ở đó có một người Tiết Cấp đứng đầu là Bao Cát, cũng được tiền đút lót của Mao Thái Công, và lại có lời ủy thác của Vương Khổng Mục, nên khi mới dong Giải Trân, Giải Bảo xuống, liền ra oai quát lên mà hỏi rằng:

– Hai thằng này có phải là Rắn Hai Đầu, Mọt Hai Đuôi gì đây? Có phải không, gớm cái tên khiếp thực!

Giải Trân nói:

– Chúng tôi ở đây tuy họ gọi xằng như vậy, xong thực chưa từng làm việc gì hãm hại đến lương dân bao giờ?

Tiết Cấp lại quát lên rằng:

– Hai thằng súc sinh này, phen này vào tay ta, ta cho Rắn Hai Đầu hóa ra Rắn Một Đầu. Mọt Hai Đuôi cũng hóa Một Đuôi cho mà coi…Bây mang nó xuống ngục kia.

Tên lính ngục vâng lời, đêm hai người giải xuống ngục, rồi nhân khi vắng vẻ hỏi hai người rằng:

– Hai anh có biết tôi không? Tôi tức là em vợ người anh các anh đây…

Giải Trân nói:

– Chúng tôi chỉ có hai anh em, không còn có anh nào nữa?

– Hai các anh là em Tôn Đề Hạt chứ gì?

– Tôn Đề Hạt là anh em con cô con cậu với chúng tôi. Nhưng tôi không được biết ngài bao giờ? Có phải ngài là Nhạc Hòa cữu đó chăng?

– Phải, chính tôi họ Nhạc tên Hòa, người ở Mao Châu, trước tổ tiên chúng tôi đến ở đất này, sau đem chị tôi gả cho Tôn Đề hạt, còn tôi thì coi ngục ở đây. Người ta thấy tôi hát hay, thường gọi là Thiết Khiếu Tử Nhạc Hòa, Tôn Đề Hạt thấy tôi khỏe mạnh, nên cũng dạy cho mấy ngón côn, quyền, dao, kiếm, võ nghệ cũng không kém gì ai?

Nguyên Nhạc Hòa là người thông minh lanh lợi, thuộc hết các ngón âm nhạc, phàm công việc gì nói qua khắc biết, về các môn võ nghệ cũng tinh thông hơn được đôi người, nhân thấy Giải Trân, Giải Bảo là tay hảo hán, nên cũng hết lòng cứu giúp cho. Song ngặt vì thế cô không nổi nên mới phải đem tin tức báo cho hai người biết trước để cùng liệu về sau.

Bấy giờ Nhạc Hòa bảo luôn hai người rằng:

– Tôi nói cho hai bác biết, hiện nay Bao Tiết Cấp nhận tiền đút lót của Mao Thái Công, chỉ định mưu hại các bác đấy, các bác nghĩ sao?

Giải Trân nói:

– Bác không nói đến Tôn Đề Hạt thì thôi, nay bác đã nói tới ông ta, thì xin bác làm ơn giúp cho…

– Bác bảo tôi báo tin cho ai?

– Tôi có một người chị họ, ngày trước cha tôi gả cho anh em Tôn Đề Hạt, hiện nay mở hàng cơm ở phố, cách ngoài cửa Đông chừng mười dặm, chị ấy là con gái cô tôi, tên là Mẫu Đại Trùng Cố Đại Tẩu, sức khỏe hai ba mươi người cũng không gần được, chồng chị ta là Tôn Tân, võ nghệ cũng khá, mà cũng phải thua chị ta.Chị ấy đối với chúng tôi rất là tử tế… Còn Tôn Tân, Tôn Lập thì mẹ tôi tức là cô các ông ấy, nên đối với chúng tôi là con cô con cậu cả. Vậy phiền bác làm ơn báo rõ cho chị tôi biết, thì thế nào chị tôi cũng có cách để cứu.

Nhạc Hòa nghe nói, liền bảo hai người rằng:

– Nếu vậy các bác cứ khoan tâm, để tôi sẽ liệu ngay.

Nói đoạn lấy bánh nướng cùng cơm thịt đưa cho hai người ăn, rồi giả cách kiếm việc khóa nhà lao, giao cho người khác canh, để đi ra nhà Cố Đại Tẩu.

Khi ra tới ngoài mười dặm ở cửa Đông, thấy có một tửu điếm ngoài treo rủng rỉnh thịt dê thịt bò, và trong nhà cũng có một tụi đương đánh bác ở đó. Nhạc Hòa chạy vào tửu điếm, thấy có một người đàn bà đương ngồi ở quầy, trong bụng biết hẳn là Cố Đại Tẩu, liền chạy đến trước mặt chào mà hỏi rằng:

– Ở đây có phải là nhà họ Tôn không?

Người đàn bà đáp rằng:

– Phải, ngài định mua rượu, mua thịt, hay là đánh bạc thì vào trong kia…

Nhạc Hòa nói:

– Tôi là Nhạc Hòa, em vợ của Tôn Đề Hạt đây…

Cố Đại Tẩu cười mà rằng:

– Té ra cậu Nhạc Hòa.. Trông cậu giống chị Đề Hạt vào tôi lắm. Mời cậu vào chơi trong nhà xơi nước đã.

Nói xong dẫn Nhạc Hòa vào ngồi chơi, rồi hỏi:

– Nghe nói cậu làm việc quan trong Phủ, có hai người bị tội mới đến, tôi tuy chưa gặp được bao nhưng cũng nghe tiếng xưa nay, một người tên là Lưỡng Đầu Xà Giải Trân và một người là Lưỡng Vĩ Hạt Giải Bảo…Hai người ấy là anh em nhà tôi cả, bị tội gì mà phải giam vào đó?

– Tôi đến để báo bác biết, nguyên hai bác ấy, bắn được con cọp, nó chạy vào vườn sau nhà mao Thái Công, Mao Thái Công vốn người làng bắt mất, sau lại đổ vạ cho các bác ấy ăn cướp tài sản, rồi đem giải đến quan, mà đút lót mọi nơi để mà hành tội, họ lại nói với Bao Tiết Cấp chỉ nay mai là kết quả hai người, nhân thế tôi thấy chuyện bất bình giữa đường, mà muốn cứu cho các bác ấy, song một mình tôi khó lòng cứu được, mà thân thích cũng chẳng còn có ai. Bởi vậy tôi phải đến đây để báo tin cho các bác ấy, các bác nói rằng: Chỉ trừ ra có Thư Thư là cứu được tính mạng mà thôi, vậy xin Thư Thư nghĩ kế giúp ngay cho?

Cố Đại Tẩu nghe nói thở dài kêu khổ, rồi sai người nhà gọi chồng về nói chuyện.

Người chồng là Tôn Tân em Tôn Lập, người ở Quỳnh Châu, con cháu quan võ nhân đến đóng ở Băng Châu, nên làm nhà ở luôn ngay đó, Tôn Tân người lớn sức khỏe, họn được võ nghệ của người anh, khiến cây giáo trường rất giỏi, người ta thường ví hai anh em như Uất Trì Cung mà gọi Tôn Tân là Tiểu Uất Trì. Bấy giờ Tôn Tân vào tới nơi, chào hỏi Nhạc Hòa, rồi Cố Đại Tẩu nói cho Tôn Tân nghe.

Tôn Tân với Nhạc Hòa rằng:

– Nếu vậy cậu hãy cứ về, làm ơn trông nom tử tế giúp cho, để vợ chồng tôi liệu cách, rồi sẽ nói chuyện sau.

Nhạc Hòa nói:

– Nếu có việc gì dùng được đến tôi, tôi cũng xin hết sức đẻ giúp.

Nói đoạn Cố Đại Tẩu dọn rượu thiết đãi ăn uống, rồi lấy ra một ít tiền đưa cho Nhạc Hòa mà nói rằng:

– Phiền cậu đưa vào nhà lai, cho các người canh giam, và nhờ họ trông coi cẩn thận giúp cho.

Nhạc Hòa lấy tiền tạ ơn hai người, rồi trở về trong lao.

Bấy giờ Cố Đại Tẩu hỏi Tôn Tân rằng:

– Nhị Ca có kế gì cứu được hai người anh em tôi đó chăng?

– Thằng Mao Thái Công nó có tiền có thế, song nó sợ anh em này hay lôi thôi sinh sự, nên nó muốn kết quả cho xong…Cứ như thế thì trừ phi cướp lao. Còn không thể có kế nào mà cứu thoát được nữa…

– Hay đêm nay ta làm nay?

– Chết nỗi! Sao to gan thế? Phải cẩn thận mới được, cướp lao xong rồi thế nào chứ? Việc này nếu không có Ca Ca cùng hai anh kia thì không xong mất…

– Hai anh nào?

– Hai chú cháu anh con bác là Trâu Uyên, Trâu Nhuận, hiện nay ăn cướp ở núi Đăng Vân, đối với tôi rất tử tế và thân thiết. Nếu được hai tay ấy giúp vào, thì tất là xong việc.

– Đăng Vân Sơn với đây cũng gần, đêm nay đi tìm ngay mới được.

– Tôi đi ngay bây giờ, nàng phải sắp sẵn cơm rượu ở nhà đó, thế nào tôi cũng mời được họ về đây.

Cố Đại Tẩu vâng lời, bèn sai người nhà mua sắm thêm các đồ hoa quả, và giết thêm một con lợn để đó.

Chiều hôm đó Tôn Tân dẫn hai người hảo hán về, một người chú klà Trâu Uyên quê ở Lai Châu, vốn ta nhàn hán xuất thân, tính người thẳng thắn trung lương mà say đánh bạc; Võ nghệ giỏi, tính cương ngạnh không chịu dung người, đám giang hồ thường gọi là Xuất Lâm Long. Một người cháu tên là Trâu Nhuận, sấp sỉ cũng bằng gần tuổi chú, cao lớn cũng hơi giống nhau, duy có tướng lạ, là ở đằng sau ót có cái biếu lồi lên, hễ khi nào cãi cọ với ai, tính nóng lên thì giơ bướu húc vào người ta; có hôm gãy cả cây thông ở bên khe núi, ai nom thấy cũng phải kinh lạ, nhân thế người ta thường gọi là Độc Giốc Long.

Bấy giờ Tôn Tân dẫn hai người đến nơi. Cố Đại Tẩu mời cả vào nhà trong ngồi chơi, rồi đem câu chuyện nói với hai người, và cùng nhau bàn chuyện mà cướp lao.

Trâu Uyên nói:

– Tôi có tám chín mươi người thủ hạ, được hai mươi tên là tâm phúc rất thân, ngày mai làm xong việc này, nếu không ở đây yên, thì ta đã có chỗ kia cũng nương thân được. Chỗ này tôi định đi đã lâu, nhưng không biết hai vợ chồng bác có bằng lòng đến đó không?

Cố Đại Tẩu nói:

– Hiện nay Lương Sơn Bạc rất là hưng thịnh, Tống Công Minh hết lòng nạp sĩ chiêu hiền, mà thủ hạ ở đó lại có ba người rất thân với tôi: Một người là Bảo tử Đầu Lâm Xung, một người là Hỏa Nhỡn Toan nghê Đặng Phi, và một người là Thạch Tướng Quân Thạch Dũng, đều đến đó vào đảng đã lâu. Nay cứu được hai người ấy ra, thì ta kéo nhau cả lên Lương Sơn Bạc có được không?

Cố Đại Tẩu nói:

– Cái đó rất hay, nếu ai không đi thì ta giết chết ngay, còn để làm gì?

Trâu Nhuận nói:

– Còn có điều này nữa: Khi ta cướp lao cứu được người ra, mà Đăng Châu cho quân đi đuổi, thì Bấy giờ làm thế nào?

ố Đại Tẩu nói:

– Anh ruột nhà tôi, hiện làm Đề Hạt coi binh mã ở đây, khắp đất Đăng Châu còn ai hơn được. Mấy phen đám giặc cỏ đến thành, đều là ông ta đánh được, quanh đây ai không nghe tiếng. Ngày mau tôi sẽ mời đến đây, nói với ông ta bằng lòng là xong…

Trâu Uyên nói:

– Chỉ sợ ông ta không bằng lòng đi lạc thảo.

Tôn Tân nói:

– Được rồi tôi đã có cách.

Nói đoạn cùng chè chén với nhau, đến canh khuya mới nghỉ.

Sáng hôm sau Tôn Tân sai người nhà, đem một cỗ xe vào trong dinh, mời vợ chồng Tôn Đề Hạt đi ra nói dối rằng Cố Đại Tẩu ở nhà ốm nặng, mời ra để trông nom giúp.

Cố Đại Tẩu dặn rằng:

– Vào đó nên nói là ta bị ốm rất nguy, có mấy lời chí thiết, mong gặp mặt anh chị để dặn dò, xin đến lập tức ngay cho.

Tụi người nhà vâng lời, đánh xe vào thành để đón. Khi cơm nước xong đã thấy xe Nhạc Đại Nương ngựa Tôn Đề Hạt, và mười mấy tên lính theo hầu đi đến. Tôn Đề Hạt liền vội vàng bảo cho Cố Đại Tẩu biết, Cố Đại Tẩu liền dặn kế như thế mà thi hành.

Đoạn rồi Tôn Tân chạy ra đón tiếp Nhạc Đại Nương và Tôn Đề Hạt vào.

Tôn Đề Hạt tên là Tôn Lập, biệt hiệu là Bệnh Uất Trì, mình cao tám thước, bắn được cung cứng, cưỡi nổi ngựa hay, tài khiến cây gươm trường, tay đeo một cái Kim chiên (Roi sắt), gióng trúc mặt hổ, bọn giặc bể xưa nay, thấy bóng là phải lánh xa kinh sợ.

Bấy giờ Tôn Lập bước vào trong cửa, liền hỏi Tôn Tân:

– Em ơi! Thím nó bị đau thế nào?

Tôn Tân đáp:

– Nhà em bị đau rất nguy hiểm, xin Ca Ca vào trong nhà sẽ thưa chuyện.

Nghe đoạn Tôn Lập đi vào nhà trong, Tôn Tân sai người nhà mời đám quân hầu sang hàng rượu bên trước cửa thiết rượu, và bảo người nhà dắt ngựa vào một chỗ.

Vợ chồng Tôn Lập vào trong nhà ngồi một lát, rồi Tôn Tân nói:

– Xin mời anh chị vào phòng thăm bệnh xem…

Vợ chồng Tôn Lập đi vào trong phòng, không thấy có ai ở đó.

– Nào thím ấy đâu, nằm ở phòng nào?

Vừa hỏi dứt lời, thì Cố Đại Tẩu chạy vào, lại có Trâu Uyên, Trâu Nhuận theo sau.

Tôn Lập hỏi:

– Thím đau bệnh gì thế?

Cố Đại Tẩu nói:

– Chào anh chị, em mắc về bệnh phải cứu anh em đây?

– Quái lạ! Cứu anh em nào?

– Xin bác đừng nên giả điếc. Bác ở trong thành lại không biết chuyện hai người đó hay sao? Dễ hắn là anh em với tôi, không phải là anh em với bác hẳn?

– Tôi không biết chuyện gì cả, hai người nào?

– Bác ơi! Nay sự đã cấp bách đến nơi, tôi xin thực bác nghe: Hai anh Giải Trân, Giải Bảo, bị lão Mao Thái Công ở làng cùng anh Vương Khổng Mục ở Phủ này, bầy mưu hãm hại toan giết cả hai người. Nay em đã bàn với hai tay hảo hán đây, định vào trong Phủ cướp lao để cứu hai anh em mà đi lên Lương Sơn Bạc cả. Song sợ công việc sau này phát ra, tất là phải lụy đến bác, bởi vậy em phải nói dối là bị yếu, để mời hai bác ra đây bàn đinh một thể, nếu các bác không chịu đi, thì chúng tôi cũng cứ lên Lương Sơn Bạc, bấy giờ không biết đó là đâu, tất nhiên họ cứ bắt những người nhà mà giam chấp đã, rồi khi đó lấy ai nuôi nấng khiếu oan cho các bác, chẳng hay các bác nghĩ sao?

Tôn Lập nói:

– Ta là một người quan võ ở đất Đăng Châu, lẽ nào làm việc ấy được.

Cố Đại Tẩu nói:

– Bác đã không bằng lòng, thì hôm nay quyết đấu với bác một sống một chết cho xong…

Nói đoạn rút đỏan đao ra tay. Nhạc Nương thấy vậy ngây người ra, không biết nói làm sao được cả.

Tôn Lập vội kêu lên rằng:

– Thím hãy thong thả, làm chi mà nóng nảy thế? Để tôi bàn định làm sao cho ổn rồi sẽ hay…

Cố Đại Tẩu nói:

– Bác có định, thì xin đưa bác gái đi ngay lập tức, rồi chúng tôi sẽ hạ thủ ngay.

– Đã đành rằng đi, nhưng cũng phải về qua thu xếp hành lý, rồi xem thế nào thì mới làm được chứ…

Cố Đại Tẩu nói:

– Nhạc Cữu trong đó đã đưa tin cho tôi rồi, nếu thuận thì một đằng cứ cướp lao, một đằng thu xếp hành lý cũng được, không chậm gì?

Tôn Lập nghe nói thở dài một tiếng mà nói:

– Các người đã định làm như thế, ta còn từ chối làm sao cho được? Nếu ở lại đây, thì chẳng qua sau này chỉ chịu tội thay cho các người ở trước mặt Quan Tư mà thôi… ?

Đoạn rồi cùng nhau tụ ở đó để bàn định hành sự, trước hết cho Trâu Uyên về trại Đăng Vân Sơn, thu lấy của cải ngựa xe, cùng đem cả hai mươi tên tâm phúc đến đó, rồi sai Tôn Tân vào thành, để tìm Nhạc Hòa dò đea tin tức ước hẹn để làm và nói cho Giải Trân, Giải Bảo cùng biết.

Ngày hôm sau Trâu Uyên thu xếp tài vật kim ngân, rồi dẫn hai mươi người đến tửu điếm để hội họp. Trong nhà Tôn Tân có bảy tám tên người nhà tâm phúc và mười mấy tên lính hầu của Tôn Lập, cộng tất cả bốn mươi người ở đó. Tôn Tân sai giết một con dê, con lợn ăn uống no say, rồi Cố Đại Tẩu giắt dao lưng ăn mặc giả mụ đàn bàn đưa cơm tù đi vào trước, Tôn Tân theo Tôn Lập đi sau. Trâu Uyên, Trâu Nhuận chia đám người nhà làm hai đường đi sau rốt, cùng nhau kéo tới lao thành.

Hôm ấy Nhạc Hòa đương vác gậy đứng canh ở cửa lao, bỗng thấy tiếng chuông gọi giật len, liền hỏi rằng:

– Ai đó?

Cố Đại Tẩu đáp rằng:

– Tôi là người đàn bà đưa cơm tù đến đây…

Nhạc Hòa nghe nói, liền mở cửa cho Cố Đại Tẩu đi vào, rồi đóng cửa lại mà toan xuống nhà dưới. Bấy giờ Bao Tiết Cấp đứng ở sân, trông thấy liền hỏi:

– Người đàn bà nào đưa cơm vào lao kia? Không được vào đó mà thông tin tức với nhau…

Nhạc Hòa nói:

– Đó là chị Giải Trân, Giải Bảo đưa cơm nước vào cho hắn.

Bao Tiết Cấp lại quát:

– Không cho nó vào được, các anh phải cầm lấy mà đưa vào.

Nhạc Hòa bèn đỡ lấy cơm, mở cửa ngục đưa cho Giải Trân, Giải Bảo.

Nhạc Hòa nói:

– Chị các bác đã vào đấy chỉ còn đợi trước sau tiếp ứng là hạ thủ thôi.

Nói đoạn liền tháo cùm ra cho Giải Trân, Giải Bảo.

Chợt thấy tên lính báo rằng:

– Có Tôn Đề Hạt gọi cửa toan đi vào đây…

Bao Tiết Cấp nói:

– Ông ấy làm quan binh, vào đây có việc gì? Không mở cửa được.

Khi đó Cố Đại Tẩu đi mon men dưới sân, rồi lại thấy phía ngoài Tôn Đề Hạt gõ cửa rất hăng. Bao Tiết Cấp tức giận toan đi trở ra.

Cố Đại Tẩu liền quát lên một tiếng:

– Anh em ta ở đâu?

Đoạn rồi rút hai sao sáng loáng ra tay. Bao Tiết Cấp thấy sự thể nguy bách, liền ù té để chạy.

Bên kia Giải Trân, Giải Bảo ở trong lao nhảy ra, vừa gặp Bao Tiết Cấp chạy đến đó, liền vác gông đánh cho mấy cái, vỡ óc nằm quay ra đất.

Cố Đại Tẩu xông pha vác dao giết luôn bốn năm tên lính canh ngục, rồi cùng nhau reo hò mà đánh phá trong lao ra. Tôn Lập, Tôn Tân đứng coi ở trước cửa lao, thấy có bốn người trong lao chui ra rồi, theo lối Phủ mà chạy mất…Bấy giờ Trâu Uyên, Trâu Nhuận chém được đầu Vương Khổng Mục mà xách cả ra đó, rồi cùng nhau hò hét ầm ầm lên mà kéo đi. BỌn đi bộ kéo trước, rồi đến Tôn Đề Hạt cưỡi ngựa cầm cung tên đàn á đi sau. Phố sá hai bên đều đóng cửa, không ai dám thò mặt ra phố. Bọn lính Phủ ở đấy, trông thấy Tôn Đề Hạt, không ai dám đến gần mà ngăn trở đường đi.

Khi kéo nhau về đến tửu điếm ngoài thành, bèn mời Nhạc Đại Vương lên xe. Cố Đại Tẩu lên ngựa, để cùng dong ruổi lên đường.

Giải Trân, Giải Bảo nói với mọi người rằng:

– Còn nhà lão Mao Thái Công nếu không giết được cũng không hả lòng.. Nhân tiện ta trừ thẳng giặc gia đi một thể.

Tôn Lập nói:

– Phải lắm, Tôn Tân với Nhạc Hòa đưa xe với người đi trước chúng tôi sẽ theo sau.

Tôn Tân, Nhạc Hòa vâng lời đưa xe cộ đi trước, rồi Tôn Lập dẫn Giải Trân, Giải Bảo, Trâu Uyên, Trâu Nhuận cùng bọn người nhà thẳng đến trang viện Mao Thái Công. Bấy giờ Mao Thái Công đương cùng với Mao Trọng Nghĩa uống rượu thọ ở trang, không biết đâu mà phòng bị, các hảo hán ở đâu liền ồ át kéo đến, chém giết hai người và giết sạch cả nhà, không tha ai cả. Đoạn rồi lục lấy các đồ kim ngân tài vật dắt lâu bảy tám cỗ ngựa ở sau nhà, chọn lấy ít quần áo tốt cho Giải Trân, Giải Bảo mặc rồi đốt trang viện, mà cùng nhau lên ngựa ra đi.

Thế gian cầm lửa đốt người,

Biết đâu lửa cháy hại rồi đến thân,

Những phường gian ác tiểu nhân,

Trông gương trước đó liệu thân mà chừa!

Hay chi gian xảo lọc lừa,

Xưa nay quân tử bao giờ giết oan!

Bọn Tôn Lập kéo đi được ba mươi dặm đường, thì gặp lũ Tôn Tân đưa xe cộ đến đó, bèn cùng nhau nhập vào một bọn, mà đi lên Lương Sơn Bạc. Trong khi đi đường, lại cướp thêm được bốn năm con ngựa rất tốt, ai nấy đều có vẻ sung sướng vô hạn.

Khi tới Lương Sơn Bạc, kéo nhau vào hàng rượu Thạch Dũng, Trâu Uy ên chào hỏi chuyện trò rồi hỏi thăm đến Dương Lâm cùng Đặng Phi, hiện nay có ở trong trại không?

Thạch Dũng nói:

– Hai người đều theo Tống Công Minh đi đánh Chúc Gia Trang, hai lần tiến binh đều thất lợi cả. Mới nay xó tin báo Dương Lâm Đặng Phi bị bắt cả, không biết sự thể ra sao? Trong thôn Chúc Gia Trang có ba người rất giỏi, lại có giáo sư Loan Đình Ngọc phụ giúp, cho nên cả hai lần cùng vào đánh mà không sao phá được.

Tôn Lập nghe nói cười rằng:

– Chúng tôi đến đây nhập đảng, chưa có gì là chút công lao, vậy xin hiến kế phá Chúc Gia Trang, để làm lễ tiến thân phỏng có được chăng?

Thạch Dũng cả mừng mà rằng:

– Ngài có kế sách gì, xin cho được biết?

Tôn Lập nói:

– Loan Đình Ngọc với tôi cùng học một thầy, võ nghệ của tôi ông ta đã biết, mà tài giỏi ông ta tôi đây đã biết. Vậy ngày nay tôi giả làm quân mã Đăng Châu, kéo sang coi giữ Vạn Châu, đi qua đó vào trong trang mè hẹn nhau giáp đánh trong ngoài, thì tất phải phá được. Kế đó các ngài nghĩ sao?

Thạch Dũng chưa kịp trả lời, thì thấy tiểu lâu la vào báo rằng:

– Có Ngô Học Cứu quân sư xuống núi, đi đến Chúc Gia Trang để cứu ứng bây giờ.

Thạch Dũng nghe nói, bảo tiểu lâu la bẩm quân sư vào hàng tiếp kiến rồi sẽ đi. Được một lát đã thấy ba anh em họ Nguyễn, cùng Lã Phương, Quách Thịnh dẫn quân mã đi đến trước cửa điếm, rồi thấy quân sư Ngô Dụng dẫn năm trăm quân mã đến sau: Thạch Dũng đón vào trong điếm, dẫn đám Tôn Lập ra chào và đem tinh ý nói cho Ngô Dụng biết.

Ngô Dụng nghe nói cả mừng, mà rằng:

– Các vị hảo hán đã có lòng như thế thì xin lập tức tới Chúc Gia Trang, làm xong việc, rồi sau sẽ về sơn trại được chăng?

Tôn Lập cùng mọi người vui lòng câng thuận cả.

Ngô Dụng liền nói:

– Vậy thì tôi xin dẫn nhân mã đi trước, rồi các ngài sẽ nối gót đi ngay mới được.

Nói đoạn liền dẫn nhân mã đi đến trại Trung Quân thuật truyện cho Tống Giang nghe.

Bấy giờ Tống Giang nghe rõ đầu đuôi, thì hớn hở vui mừng, bèn sai quân sĩ bày tiệc trong trại để đợi.

Khi ấy Tôn Lập thấy Ngô Dụng đi trước, liền đem xe trượng cùng các người theo hấu cho nghỉ một nơi, rồi dẫn Giải Trân, Giải Bảo, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, cùng Nhạc Hòa, cộng tất cả tám người, cùng đến sơn trại ở gần thôn Chúc Gia Trang để bái yêt Tống Giang. Tống Giang tiếp chuyện cả mừng, liền thiết đãi ăn uống rất là vui vẻ.

Ngô Dụng liền truyền lệnh cho mọi người, ngày thứ ba thì làm như thế…như thế…ến ngày thứ năm thì làm như thế…như thế…

Bọn Tôn Lập cùng mọi người đều lĩnh mệnh, rồi cùng nhau sắp sửa đến Chúc Gia Trang, để thi hành kế sách.

Ngô Dụng lại gọi Đới Tung đến mà bảo rằng:

– Viện Trưởng khá về sơn trại gọi cho tôi bốn vị Đầu Lĩnh xuống đây, có việc cần, tất phải dụng đến mới được.

Đới Tung vâng lời, rồi bẩm với quân sư, để hỏi bốn vị Đầu Lĩnh ấy là ai?

Đời không hiếm kẻ anh tài,

Có chăng hiếm kẻ biết tài mà thôi,

Mấy ai con mắt tinh đời?

Dùng người phải biết dụng người mới ngoan,

Trong tay cầm vững cơ quan,

Việc đời vạn sự thiên đoan coi thường,

Trò đời đương lúc nhiễu nhương,

Có ai biết Ngọa Long Cương lúc này.

Lời bàn của Thánh Thán:

Sau khi tả muôn quân ngàn ngựa, chợt đâu có đoạn văn tả sự sóng nổi đất bằng này, khiến độc giả mắt không kịp nhắm.

Nhạc Hòa nói: Bác có anh em, Giải Trân nói: Tôi có chị em, Nhạc Hòa nói có anh em, nói về chị gái mà ra; Giải Trân nói có chị em, nói về cha mình mà có, Nhạc Hòa nói với anh em, là con cô con cậu với nhau bỗng dưng nảy ra một phe thân thích, làm cho bút mực khác đi, không còn thảm trạng. Xưa kia đọc Sử ký thấy đoạn Hoắc Quang cùng Khứ Bệnh anh em, khen là diệu bút, nay lại đọc đến đoạn văn này.

Chứ Lại nảy ra tự sách Tả Chuyện, Người Lại họ Mao nảy sinh tự Đại Tạng, thế mà nay họ Mao đầy dẫy khắp thiên hạ, thì như làm sao, chính họ ấy xét ra không tốt.

Hồi 49: Bày kế liên hoàn, phá nhà Hổ, Chúc – Kéo cờ thắng trận, về trại Lương Sơn

Khi đó Ngô Dụng bảo với Đới Tung rằng:

– Phiền hiền đệ trở về sơn trại gọi Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyền, Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhưỡng, Thông Tý Viện Hầu Kiện, Ngọc Tý Viên Kim Đại Kiện, bốn người đem các thứ dùng theo sở trường của mình xuống đây, có việc cần kíp, phải mau cho kịp mới được.

Đới Tung vâng lệnh ra đi.

Chợt thấy quân sĩ vào bá, có con chủ nhân Hổ Gia Trang bên tây thôn, là Hổ Thành, dắt trâu khiêng rượu đến xin vào bái kiến.

Tống Giang truyền lệnh cho mời vào.

Hổ Thành vào trước trướng, cúi lạy kêu rằng:

– Em gái chúng tôi còn tuổi trẻ lỗ mãng, không hiểu sự thế, trót lỡ mạo phạm tôn uy, vậy ngài bắt được, không dám hối hận điều chi. Song cái đó chỉ vì em tôi dao trước trót đính hôn với Chúc Gia Trang, nên mới đường đột làm càn như vậy, dám xin tướng quân lấy lòng khoan thứ mà tha tội đi cho, ngài định lấy lễ vật thế nào, chúng tôi xin vâng lệnh…

Tống Giang nghe nói, truyền mời ngồi chơi mà nói rằng:

– Lũ Chúc Gia Trang ngông nghênh vô lễ, dám sỉ nhục bọn Lương Sơn, nên mới đem quân đánh giết. Lẽ ra đối với quý trang không có việc gì thì phải. Song vì lệnh muội bắt mất Vương Nụy Hổ của chúng tôi, nên chúng tôi phải trả lễ mà bắt lệnh muội cho phải phép đấy thôi. Nay nếu đem trả Vương Nụy Hổ đây, thì chúng tôi sẽ xin trả lệnh muội lại.

Hổ Thành nói:

– Vị hảo hán ấy chúng tôi không được biết, bị bọn Chúc Gia Trang bắt về bên mất rồi…

Ngô Học Cứu hỏi:

– Vậy thì nay Vương Nụy Hổ ở đâu?

Hổ Thành nói:

– Hiện nay bị giữ ở bên Chúc Gia Trang, chúng tôi không thể nào sang lấy về được.

Tống Giang nói:

– Đã không lấy được Vương Nụy Hổ về trả lại chúng tôi thì chúng tôi trả lệnh muội về thế nào được?

Ngô Học Cứu nói:

– Huynh trưởng bất tất phải nói thế. Bây giờ cứ thế này mới được: Từ nay Chúc Gia Trang có việc gì, thì Hổ Gia Trang không được cứu ứng, nếu Chúc Gia Trang có người chạy trốn sang tới đó, thì phải bắt mà đem sang đây, bấy giờ tôi sẽ đưa trả lệnh muội về…

Vì lệnh muội hôm đó đã có người đưa lên núi, để Tống Thái Công săn sóc, hiện không có ở đây bây giờ, vậy xin cứ thế, rồi sau này sẽ liệu…

Hổ Thành vâng lời mà rằng:

– Từ nay chúng tôi không dám cứu ứng nữa. Nếu họ có chạy sang, thì chúng tôi bắt lấy, đem nộp sang ngay cho tướng quân.

Tống Giang nói:

– Nếu quả như thế, rất là hay lắm, không còn lễ vật nào hơn, nhưng cần phải đúng lời mới được.

Hổ Thành vâng lời bái tạ về.

Bấy giờ Tôn Lập sai lấy cờ hiệu, đổi làm quân mã của quan Đề Hạt ở phủ Đăng Châu, rồi dẫn một hàng nhân mã đi thẳng đến Chúc Gia Trang, Trang khách ở trong tường, trông thấy cờ hiệu Đăng Châu, liền vào bảo cho trong trang biết.

Loan Đình Ngọc nghe báo có quân mã của Tôn Đề Hạt đến, bèn nói với ba con họ Chúc rằng:

– Tôn Đề Hạt với tôi là anh em học võ với nhau khi trước, nay không biết có việc chi mà đem nhân mã qua đây như vậy, ta thử ra đón vào hỏi chuyện xem sao?

Nói đoạn, sai mở cửa trang, bỏ đích kiều xuống, rồi cùng ra đón tiếp. Bọn Tôn Lập thấy người ra tiếp, liền xuống ngựa chào nhau, rồi Loan Đình Ngọc hỏi rằng:

– Lâu nay hiền đệ coi giữ Đăng Châu, sao nay lại đến đây, có việc gì đó thế?

Tôn Lập nói:

– Tôi vừa mới tiếp được văn thư của quan Tổng binh cắt sang coi giữ Vận Thành Châu, để phòng bị bọn Lương Sơn Bạc, tiên đường qua đây, nghe nói nhân huynh ở trong trang, nên muốn vào hỏi thăm một chút, lẽ ra đi lối cửa trước, nhưng thấy ngoài phía đằng ấy toàn thị quân mã đóng đòng, nên không dám xung đột, phải tìm đường lối tắt trong thôn, đi lối cửa sau mà vào thăm nhân huynh đây.

Loan Đình Ngọc nói:

– Đã mấy hôm nay đánh nhau với bọn giặc Lương Sơn mới bắt được mấy tên Đầu Lĩnh ở trong trang kia, chỉ đợi bắt tên chúa chỏm là Tống Giang, rồi đem giải quan một thể. Nay ta được hiền đệ đến đây, thì thực là trên gấm thêm hoa còn gì hơn nữa?

Tôn Lập cười rằng:

– Nếu vậy tiểu đệ tuy kém, cũng xin giúp nhân huynh bắt nốt tụi ấy, cho trọn việc của nhân huynh chẳng hay có được hay không?

Loan Đình Ngọc nghe nói cả mừng, liền mời cả vào trong trang, rồi cất cầu lên mà đóng cổng trang lại. Tôn Lập dẫn nhân mã vào xếp đặt một nơi, thay đổi áo xiêm, rồi lên trên sảnh chào Triều Phụng, và ba anh em Chúc Long.

Khi chào hỏi xong, Loan Đình Ngọc nói với Chúc Triều Phụng rằng:

– Hiền đề Tôn Lập tôi đây, biệt hiệu là Bệnh Uất Trì, đương là Đề Hạt ở phủ Đăng Châu, nay vâng mệnh Tổng binh sai đóng ở Vận Châu đó.

Chúc Triều Phụng nói:

– Nếu vậy chúng tôi cũng thuộc dưới quyền ngài đây rồi…

Tôn Lập khiêm tốn mà rằng:

– Có đâu dám thế? Chúng tôi đến đây cũng mong có điều gì ngài sẽ chỉ giáo cho.

Ba con họ chúc mời mọi người cùng ngồ, rồi Tôn Lập hỏi đến sự tình đánh nhau ra sao?

Chúc Long đáp rằng:

– Hiện đánh mấy hôm nay chưa phân thắng phụ ra sao cả.

Đoạn rồi Tôn Lập gọi Cố Đại Tẩu, dẫn Nhạc Đại Nương vào trong nhà, để chào hỏi vợ con Chúc Triều Phụng, và gọi Tôn Tân, Giải Trân, Giải Bảo lên chào mọi người mà nói rằng:

– Ba người này là anh em tôi cả.

Lại trỏ Trâu Uyên, Trâu Nhuận mà nói rằng:

– Hai vị quan nhân ở Đăng Châu đi tiễn tới đây…

Chúc Triều Phụng và ba con dẫu có khôn ngoan sắc sảo, song thấy Tôn Lập đi đó có vợ con anh em, kẻ đưa người đón, còn là đồ đạc xe pháo cẩn thận, lại là anh em bạn học với giáo sư Loan Đình Ngọc, thì trong lòng không còn chút gì nghi ngờ, liền sai thiết cơm rượu để làm tiệc khỏan đãi, mà lưu ở đó mấy hôm.

Đêm hôm thứ ba chợt thấy trang binh vào báo:

– Tống Giang lại kéo quân mã sang đánh trang.

Chúc Bưu nghe báo nói lên rằng:

– Để ta ra trận bắt thằng giặc này mới được.

Nói đoạn mở cửa trang, bỏ cầu xuống, dẫn hơn một trăm quân kị xông ra. Ngoài kia có một toán quân mã ước chừng năm trăm người, một viên tướng là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, đeo cung dắt tên, vỗ ngựa múa gươm đến đánh, Chúc Bưu múa gươm vỗ ngựa xông ra đấu nhau trước núi Độc Long tới mấy mươi hiệp, bất phân thắng phụ.

Hoa Vinh lừa miếng phá đĩnh quay ngựa ù té chạy, Chúc Bưu liền toan phóng ngựa đuổi theo. Chợt có người đứng đằng sau nói lên rằng:

– Tướng quân chó nên đuổi, người ấy bắn tên giỏi lắm, lỡ ra mắc tên ngầm thì khốn.

Chúc Bưu nghe nói, bên quay ngựa trở lại, dẫn quân mã đi rồi. Chúc Bưu liền xuống ngựa, lại vào nhà trong uống rượu.

Tôn Lập hỏi:

– Tiểu tướng quân bắt được tên giặc nào đó?

Chúc Bưu nói:

– Trong bọn đó có anh Tiểu Hoa Vinh nào đánh gươm cũng khá, đấu nhau đến năm mươi hiệp, rồi hắn kéo chạy, tôi đã toan đuổi theo, sau thấy bọn quân nhân nói là anh ta bắn tên rất giỏi, phòng khi hắn bắn tên ngầm, nên phải kéo quân về mà không đuổi nữa.

Tôn Lập nói:

– Tôi dẫu bất tài nhưng ngày mai xin bắt mấy đứa cho ngài coi…

Nói đoạn lại cùng nhau uống rượu đến tối mới tan.

Vào khoảng giờ ngọ ngày hôm sau, trang binh lại vào báo:

– Quân mã Tống Giang lại kéo đến trước trang.

Chúc Long, Chúc Hổ, Chúc Bưu nghe báo đều đóng đai nịt lên ngựa, mở cửa trang để đón đánh. Bấy giờ xa nghe tiếng trống la khua, cờ bay phất phới, quân mã Tống Giang, đã bầy thành trận thế, tề chỉnh ở đó.

Chợt thấy bên trận Tống Giang có Báo Tử Đầu Lâm Xung quát mắng ầm ĩ cả lên. Chúc Long nghe vậy cả giận liền bỏ đích kiều xuống, cầm thương lên ngựa, dẫn hai trăm nhân mã reo hò bước ra, phá trận của Lâm Xung, trong trang khua trống vang lừng, rồi hai bên cùng giương cung bắn tên để canh giữ ven trận. Lâm Xung múa bát sà mâu đánh nhau với Chúc Long hơn ba mươi hiệp bất phân thắng phụ, đôi bên lại khua la đều thu quân lại. Chúc Hổ nóng tiết vác đao lên ngựa xông ra trước trận, quát lên rằng:

– Tống Giang ra đây, quyết chiến một trận xem sao?

Bên kia Mộc Già Lạn Mục Hoằng liền vỗ ngựa ra đánh Chúc Hổ. Đôi bên đánh nhau hơn ba mươi hợp, cũng không phân thua, Chúc Bưu thấy vậy không sao im được liền cầm thương lên ngựa, dẫn hai trăm quân kị, thẳng xông đến trận Tống Giang, bên kia Bệnh Quan Sách Dương Hùng thấy hai bên đánh nhau hăng hái, trong bụng mũ giáp đai bào, và dắt ngựa ô truy của mình ra rồi ăn mặc chỉnh tề mà nhảy lên mình ngựa. Trên trang nổi một hồi thanh la, Tôn Lập liền phóng ngựa ra trận, bên kia Lâm Xung, Mục Hoằng, Dương Hùng đều kìm ngựa đứng ở trước trận Tống Giang.

Tôn Lập phóng ngựa ra mà nói:

– Tôi xin bắt mấy thằng này cho các ngài xem.

Khi đến trước mặt trận, Tôn Lập quát lên rằng:

– Trong trận giặc có tay nào đánh giỏi, ra đây quyết chiến với ta?

Nói đoạn thấy bên kia nhạc ngựa loảng soảng, có một viên tướng là Thạch Tú cưỡi ngựa xông ra đánh.

Đôi bên người ngựa giao nhau, mũi thương lên xuống đánh nhau tới năm mươi hợp. Tôn Lập lừa miếng phá đĩnh nhường cho Thạch Tú đánh sấn vào, rồi né mình vờ tránh mà bắt sống Thạch Tú cắp tót về trước trang bảo quân sĩ trói lại.

Ba người họ Chúc thấy vậy liền thừa thế mà đánh ra, quân mã Tống Giang đều chạy tán loạn hết. Đoạn rồi thu quân trở về trong trang, cùng đến chúc mừng Tôn Lập.

Tôn Lập liền hỏi:

– Hôm nay nữa là bắt được mấy tên giặc tất cả?

Chúc Triều Phụng nói:

– Thoạt tiên bắt được Thời Thiên, thứ nhì bắt được tên Dương Lâm đương đi do thám, thứ ba bắt được Hoàng Tín, rồi Nhất Trượng Thanh bên Hổ Gia Trang bắt được tên Vương Nụy Hổ, sau đối trận bắt được tên Tần Minh, Đặng Phi, hôm nay lại bắt được Thạch Tú chính là tên đốt điếm của tôi hôm nọ đấy…Thế là cộng tất cả được bảy tên rồi…

Tôn Lập nói:

– Được, không nên giết một thằng nào cả, cứ để bảy xe tù nhốt nó đấy, cho ăn uống tử tế, đừng để cho nó gầy còm, chờ bao giờ bắt được Tống Giang sẽ giải lên Đông Kinh, cho thiên hạ biết tiếng Tam Kiệt ở Chúc Gia Trang.

Chúc Triều Phụng tạ ơn mà rằng:

– Đa tạ Đề Hạt có lòng giúp đỡ, chắc là bọn Lương Sơn phải dứt ngay…

Nói xong đón Tôn Lập vào trong nhà dự tiệc, còn Thạch Tú thì cho giam xuống xe tù. Bấy giờ Tôn Lập ngầm sai Trâu Uyên, Trâu Nhuận cùng Nhạc Hòa, đi dò xét các nơi phòng ốc cùng các cửa ngõ ra vào cho tinh thuộc tất cả, để đợi cho đến lúc hành sự. Dương Lâm, Đặng Phi thấy hai người ở đó, thì trong bụng lấy làm vui mừng vững ý. Nhạc Hòa liền thừa cơ lúc vắng, báo tin tức cho mọi người cùng biết, còn Cô Đại Tẩu, cùng Nhạc Đại Nương thì chuyên về một việc các lối ra vào trong phòng ốc cho thông. Ngày hôm thứ năm, nhằm khoảng giờ thìn, cơm nước mới xong bỗng thấy người nào báo Tống Giang chia binh làm bốn mặt ập vào đánh Chúc Gia Trang.

Tôn Lập nói:

– Nó chia đến mười mặt cũng mặc, các anh không sợ, cứ phòng bị cho cẩn thận, sắp sửa gậy móc tử tế, để ta bắt cả cho mà xem. Chết một thằng nào cũng không phải là giỏi.

Người trong trang đều nai nịt tử tế, rồi Chúc Triều Phụng dẫn mấy người lên cổng gác để nom, khi đó thấy phía đông có một đội năm trăm quân mã, một tướng đứng đầu là Báo Tử Đầu Lâm Xung, và Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị đứng sau. Phía bên tây một toán nhân mã ước tới năm trăm, có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đứng trước, có Trương Hoành, Trương Thuận, theo sau; Bên Nam một bọn năm trăm nhân mã có ba vị Đầu Lĩnh đứng đầu là Mục Hoằng, Dương Hùng và Lý Quỳ, mấy mặt nhân mã đều động trống khua chiêng, uy thế ầm ầm không khác gì vỡ trời long đất vậy.

Loan Đình Ngọc bảo với mọi người rằng:

– Hôm nay tất phải cẩn thận mới được, để tôi xin dẫn một đội nhân mã ra cửa sau, đánh về mạn Tây Bắc.

Chúc Long nói:

– Tôi xin dẫn quân mã ra lối cửa trước, đánh mặt chính Đông.

Chúc Hổ nói:

– Tôi xin ra cửa sau đánh mạn Tây Nam.

Chúc Bưu nói:

– Còn tôi xin ra cửa trước đánh bắt Tống Giang thằng giặc ấy mới quan hệ lắm.

Chúc Triều Phụng cả mừng, đưa rượu thưởng cho mọi người. Rồi ai nấy đều lên ngựa, dẫn ba trăm quân kị mã, mở cửa trang đi ra. Còn các người canh giữ trong trang đều khua trống reo hò để giúp thêm oai thế.

Khi đó Trâu Uyên, Trâu Nhuận đã giấu sẵn đại phủ trong mình, đứng chực ở bên cửa sảnh, Giải Trân, Giải Bảo dắt dao đứng ở cửa sau, Tôn Tân, Nhạc Hòa đứng ở cửa trước, còn Cố Đại Tẩu thì sai người nhà giữ lấy Nhạc Đại Nương, rồi cầm song đao nấp ở trong nhà, để cùng đợi nhau hạ thủ. Bên này bọn Chúc Gia Trang đánh ba hồi trống, nổi tiếng súng hiệu, mở cửa trước cửa sau, hạ đích kiều xuống, rồi mấy toán quân đều xông ra chia đường đón đánh. Tôn Lập vừa mới dẫn vài mươi tên quân ra, đứng ở đích kiều, thì Tôn Tân đã đem cờ hiệu của Tôn Lập cắm ngay ở trên gác cổng. Đoạn rồi Nhạc Hòa cầm sang hát lên mấy tiếng.

Trâu Uyên, Trâu Nhuận nghe tiếng hát, liền thổi còi hiệu, rồi múa đại phủ chém luôn mấy tên trang khách canh cổng, và mở xe tù thả bảy ông kễnh ở trong đó ra. Bảy anh ra khỏi xe ù, bèn đến giá gươm mỗi anh vớ lấy một cây, rồi reo hò ầm ầm cả lên.

Cố Đại Tẩu múa song đao xông vào trong phòng, tìm bao nhiêu đàn bà trẻ con, tặng cho mỗi người một dao, không còn mống nào sót lại.

Chúc Triều Phụng thấy sự thế nguy biến, liền đâm đầu xuống giếng, bị Thạch Tú nhanh tay chém cho một dao, rồi cắt lấy thủ cấp. Đoạn rồi mười mấy vị chia tay nhau mà đuổi giết trang binh.

Giải Trân, Giải Bảo ở cửa sau, liền châm lửa đốt đống cỏ ngựa, làm cho khói lửa bốc lên mù mịt cả trời.

Bốn mặt nhân mã thấy trong trang phát hỏa, liền hết sức cướp đường về cứu, Chúc Hổ chạy về đến đích kiều, gặp Tôn Lập ngăn đường mà quát hỏi rằng:

– Thằng giặc này chạy đi đâu thế?

Chúc Hổ biết là mắc kế, bèn quay ngựa chạy lại trận Tống Giang, luống cuống bị Lã Phương, Quách Thịnh đâm chết cả người lẫn ngựa. Toán tiểu đội Chúc Gia thấy vậy, đều tán loạn chạy đi cho thoát mạng, rồi Tôn Tân đón Tống Giang vào trang.

Mặt bên Đông, Chúc Long đấu với Lâm Xung không nổi, quay ngựa chạy về lối cổng sau. Khi vào tới đích kiều thấy Giải Trân, Giải Bảo, đương ném xác trang khách vào đống lửa. Chúc Long bèn quay ngựa trở lại mà chạy về mạn bắc, bỗng đâu gặp Lý Quỳ cầm song phủ chém con ngựa ngã lăn ra, rồi sấn vào chém đứt Chúc Long làm hai đoạn.

Chúc Bưu thấy trang khách đến báo, biết không trở về được, liền vỗ ngựa chạy thẳng đến Hổ Gia, bị Hổ Thành sai trang khách trói lại, rồi đem giải đến Tống Giang. Vừa giải đến giữa chừng gặp Lý Quỳ giơ song phủ chém luôn một nhát, rồi trang khách chạy tan đi hết.

Lý Quỳ lại vác phủ xông đánh Hổ Thành, Hổ Thành thấy thế lực hùng dũng không sao đánh nổi, liền phóng ngựa bỏ cửa bỏ nhà, mà chạy sang phủ Diên An, về sau mới phát phúc làm nên một võ tướng ở đó.

Bấy giờ Lý Quỳ đang thuận tay thích chém, thẳng đến Hổ Gia Trang, đem toàn gia họ Hổ bất cứ trẻ già đều chém chết hết cả, rồi gọi tiểu lâu la dắt lấy cả ngựa, thu lấy của cải, rồi cho một mồi lửa đốt cháy trang viện, khi trở về dâng nộp Tống Giang.

Khi đó Tống Giang ngồi trong Chúc Gia Trang, các Đầu Lĩnh đến dâng công, bắt sống được bốn năm trăm người, cướp được năm sáu trăm ngựa, còn trâu dê băt sống không biết bao nhiêu mà kể.

Tống Giang thấy vậy cả mừng mà nói rằng:

– Chỉ thương hại cho Loan Đình Ngọc là một tay hảo hán anh hùng, mà cũng bị chết oan vào đó, thực là đáng tiếc!

Đương khi than thở chợt thấy người báo, Hắc Toàn Phong đốt Hổ Hoàng Tín chém đầu người đem đến nộp.

Tống Giang nghe báo liền nói:

– Hổ Thành bữa trước đã đến xin hàng, ai bảo nó đến chém giết người ta, và đốt cả nhà người ta như thế?

Vừa nói dứt lời thì thấy Lý Quỳ mình đã máu me, lưng dắt song phủ thẳng đến trước mặt Tống Giang, dạ mà nói rằng:

– Chúc Long chúng tôi giết rồi, Chúc Bưu cũng bị tôi giết nốt, Hổ Thành thì chạy mất, còn cả nhà Hổ Thái Công đều bị giết sạch cả, xin đến để dâng công.

Tống Giang quát lên rằng:

– Chúc Long thì có người trông thấy ngươi giết, còn những người khác, thì ngươi giết ở đâu?

Lý Quỳ nói:

– Tôi chém đương sướng tay, toan chạy vào Hổ Gia Trang, gặp ngay người anh nàng Nhất Trượng Thanh giải Chúc Bưu ra, bèn chém cho một nhát bửa sọ làm đôi, chỉ còn tiếc Hổ Thành chạy mất, không làm sao đuổi được. Nhà hắn thì tôi cũng giết cả rồi, không còn sót một người nào cả.

Tống Giang lại quát lên rằng:

– Ai bảo nhà ngươi đến đấy? Ngươi phải biết, bữa trước Hồ Thành đã dắt dê khiêng rượu đến xin hàng, mà sao không nghe lệnh ta, dám thiện tiện đến đó giết cả nhà người ta, cố ý làm trái tướng lệnh của ta như thế?

Lý Quỳ nói:

– Ca Ca quên chứ tôi đây không quên đâu. Bữa trước tôi còn nhớ con ran con nó đuổi đánh định giết Ca Ca, thế mà nay còn bênh nó…Ca Ca định kết hôn với nó hả, mà thương tiệc bố vợ?

Tống Giang liền thét lên rằng:

– Đừng thoăng thoắng nói xấc ở đây. Bắt sống được mấy người tất cả?

Lý Quỳ nói:

– Ối chào! Ai phiền phức thế, nó có sống nữa cũng chém chết cho xong…

Tống Giang nói:

– Ngươi trái quân lệnh của ta lẽ phải chém, nhưng nghĩ công ngươi bắt được Chúc Long, Chúc Bưu thì hãy xóa đi cho, lần sau nếu trái lệnh, tất là không tha nữa.

Lý Quỳ nói:

– Thôi, dẫu không có công lai gì, nhưng chém cũng sướng tay đã…

Khi đó chợt thấy quân sư Ngô Học Cứu dẫn nhân mã đến trang để nâng chén mừng Tống Giang. Tống Giang bàn với Ngô Học Cứu định trừ hết cả thôn Chúc Gia thì mới hả lòng.

Thạch Tú bẩm với Tống Giang rằng:

– Ở thôn đây có lão Chung Ly vốn là kẻ lương dân tử tế, nếu hôm đó lão không chỉ đường bảo tôi, thì tất còn nguy nữa, vậy chúng ta không nên bỏ hoại người tốt mới được.

Tống Giang bèn cho Thạch Tú đi tìm người ấy đến.

Thạch Tú vâng lời đi một lúc tìm được lão Chung Ly, dẫn đến lạy chào Tống Giang cùng Ngô Học Cứu.

Tống Giang sai lấy một bao kim bạch, thưởng cho lão già mà nói rằng:

– Lẽ ra ta định làm cỏ hết cả thôn này, song nghĩ lão già có ơn khi trước mà tha cả cho dân, từ nay phải yên nghiệp làm ăn mới được.

Chung Ly vâng lạy tạ ơn, Tống Giang lại nói:

– Mấy hôm nay ta đến ở đây, không khỏi có điều rối loạn đến dân sự. Vậy nay đã đánh xong Chúc Gia Trang, vì dân trừ được hại to, trong dân có bao nhiêu nhà, đều thưởng cho một hộc gạo, gọi là thụ lộc làm vui, phiền lão phân phát giúp cho.

Đoạn rồi nhất diện sai đem thóc gạo của Chúc Gia Trang xếp để lên xe, kim ngân tài bạch chia thưởng cho ba quân, và các thứ trâu bò, dè ngựa, đều tải về sơn trại để mà chi dụng. Khi đó tính ra được năm mươi vạn hộc lương đem về Sơn Bạc. Tống Giang thấy vậy lấy làm vui mừng liền cùng các vị Đầu Lĩnh cũ và mới là bọn Tôn Lập đem vả xe trượng vợ con, chia làm ba đội lập tức kéo về sơn trại.

Khi đi qua đường các dân sự trong thôn, đều cõng trẻ dắt già đem hương hoa ra đường đón để mừng lạy tạ, chẳng khác chi quân vương giả đi qua, không ai là không kính phục.

Ba quân thẳng ngọn cờ đào,

Oai hầm dậy đất, tiếng hào xông mây.

Cõi trời riêng chiếm từ đây,

Những loài nô lệ xưa nay sá gì?

Nói về Phác Thiên Bằng Lý Ứng từ khi chữa khỏi vết thương, trong mình đã hơi khỏe mạnh, liền đóng kín cửa trang không ra đến ngoài, mà ngày ngày cho người ra thăm tin tức Chúc Gia. Sau khi biết Chúc Gia đã bị Tống Giang đánh phá tan tành, thì trong bụng nghĩ thầm nửa mừng mà thêm nửa sợ. Chợt một hôm thấy trang khách đến báo:

– Có Quan Phủ bản châu dẫn bốn năm mươi tên kiệu quân đến, muốn hóiự tình về Chúc Gia Trang.

Lý Ứng nghe nói, liền bảo Đỗ Hưng mở cửa trang, bỏ đích kiều rồi lấy lụa quấn tay ra đón Quan Phủ mời vào trong sảnh.

Khi tới nơi Quan Phủ xuống ngưak vào sảnh ngồi giữa, viên Khổng Mục ngồ một bên, phía dưới có mấy người Áp Phiên, mấy người Ngu Hầu, dưới nữa thêm có mấy người Tiết Cấp cùng lính ngục đứng hầu.

Lý Ứng lạy chào, đứng ở trước sảnh, rồi Tri Phủ hỏi:

– Việc Chúc Gia Trang bị đánh phá như thế nào?

Lý Ứng bẩm rằng:

– Chúng tôi bị Chúc Bưu bắn một mũi tên, vẫn còn đau ở cánh tay, phải đóng cửa ở trong nhà không hiểu sự thể ra sao?

Tri Phủ nói:

– Chúc Gia Trang hiện có đơn đem trình, nói rằng ngươi kết liền với bọn Lương Sơn, dẫn quân đi đánh Chúc Gia Trang, và nhận các đồ chè rượu trâu dê của giặc, còn chối làm sao.

Lý Ứng nói:

– Chúng tôi là một người biết phép luật xưa nay, có khi nào lại dám làm càn như thế được.

Tri Phủ nghiêm sắc mặt nói rằng:

– Ngươi nói khó tin lắm, hãy đem về Phủ rồi sẽ đối chứng xem sao?

Nói đoạn, liền quát trói Lý Ứng đem về Phủ để đối chứng với bọn Chúc Gia Trang. Hai viên Ngu Hầu cùng bọn Tiết Cấp túm vào trói Lý Ứng lại, rồi Quan Phủ lên ngựa dẫn mọi người dong Lý Ứng đi.

Quan Phủ lại hỏi:

– Tên nào là Đỗ Chủ Quản đây?

Đỗ Hưng nói:

– Bẩm chúng con là Đỗ Hưng.

Tri Phủ nói:

– Trong giấy thưa có cả tên ngươi, ta phải bắt về một thể, chúng đâu trói lại.

Chúng vâng lời, khóa tay Đỗ Hưng vào, cùng dong theo Quan Phủ ra khỏi cổng trang, rồi vội vội vàng vàng kéo đi rất nhanh.

Đi được ba mươi dặm đến một khu rừng kia, chợt thấy Tống Giang, Hoa Vinh, Lâm Xung Dương Hùng, Thạch Tú, dẫn một toán nhân mã đón chặn đường đi, rồi Lâm Xung quát lên rằng:

– Bọn hảo hán Lương Sơn Bạc ở đây.

Bọn Tri Phủ thấy vậy kinh hoàng luống cuống, không dám chống cự, liền bỏ cả Lý Ứng, Đỗ Hưng mà chạy trốn thẳng.

Tống Giang quát lên rằng:

– Chúng đâu đuổi bắt lấy bọn kia…

Chúng vâng lệnh quay ra đuổi một quãng rồi chạy về bẩm rằng:

– Nếu chúng tôi đuổi kịp thì chém đầu Tri Phủ mang về, nhưng không biết họ đã chạy trốn đâu hết cả rồi.

Tống Giang liền sai cởi trói Lý Ứng, Đỗ Hưng tháo cả khóa ra, rồi sai dắt hai con ngựa cho hai người cưỡi mà hỏi rằng:

– Chúng tôi muốn mời ngài lên Sơn Bạc ít bữa, có được chăng?

Lý Ứng nói:

– Tôi không thể đi được…Tri Phủ là các ông…giết, không việc gì đến tôi…

Tống Giang cười rằng:

– Trước mặt Quan Tư ai hiểu cho lẽ đó? Chúng tôi đi rồi, chỉ e lại lụy cho các ngài thôi. Đã hay là ngài chả chịu làm nghề lạc thảo nhưng hãy lên ở tạm sơn trại ít bữa, để nghe xem sự thể làm sao, rồi lại trở về cũng được.

Nói đoạn đốc thúc quân mã dắt ngựa bắt hai người cùng đi, không thể nào từ chối được. Khi về tới Lương Sơn Bạc, Tiều Cái dẫn các hàng Đầu Lĩnh đón tiếp, dâng rượu tiếp phong, rồi mời cả lên Tụ Nghĩa Sảnh. Bấy giờ mời Lý Ứng lên, cùng các Đầu Lĩnh chào hỏi, xong rồi cùng khiêm nhượng mà chia ra ngồi làm hai dãy.

Lý Ứng nói với Tống Giang rằng:

– Hai người chúng tôi tới đây, được cùng các vị Đầu Lĩnh tiếp kiến, dẫu ở đây theo với các ngài cũng không lấy gì làm ngại. Song còn vợ con ở nhà, không biết ra sao? Xin các ngài rộng ơn cho chúng tôi trở về thì hay lắm…

Ngô Dụng cười mà đáp rằng:

– Chết nỗi! Đại Quan Nhân lầm rồi, quý quyến hiện đã đến sơn trại kia chứ đâu? Quý trang bây giờ đã đốt cháy cả rồi, Quan Nhân còn định về đâu được nữa.

Lý Ứng nghe nói bụng hồ đồ không tin, chợt thấy một toán nhân mã dẫn các xe trượng kéo lũ lượt ra sơn trại. Lý Ứng nom ra, quả nhiên toàn là những người trong trang trại mình cả, bèn vội vàng chạy ra hỏi thăm tin tức. Sau thấy vợ con nói rằng:

– Khi Quan Phủ bắt dong Quan Nhân đi rồi. Lại có hai người Tuần Kiểm dẫn bốn người Đô Đầu đem ba trăm thổ binh đến, thu lấy hết cả tài sản, bắt hết chúng tôi cho lên xe, bao nhiêu hòm xiểng trâu dê lừa ngựa, đều bắt lấy cả, nói là dọn chạy loạn đi, rồi phóng hỏa đốt cả trang viện mà kéo lên đây.

Lý Ứng nghe nói ngây hẳn người ra kêu khổ!

Tiều Cái, Tống Giang liền xuống sảnh cúi lạy tạ tội mà rằng:

– Anh em chúng tôi nghe nói Đại Quan Nhân là người tốt, mới lập ra mưu để đón ngài lên đây, dám xin ngài thứ tội cho.

Lý Ứng thấy sự thế đến nơi, và được lòng tử tế như vậy, đành phải vâng theo mà không biết nói, làm sao được nữa.

Tống Giang liền sai đem quyến thuộc Lý Ứng cho vào ở một bên phòng hậu sảnh. Lý Ứng thấy các Đầu Lĩnh cũng nhiều người vợ con cũng phải vâng lời mà lưu ở trong sơn trại cho xong.

Đoạn rồi cùng vào trong sảnh trò chuyện với nhau. Các Đầu Lĩnh đều tỏ ý vui mừng vô hạn.

Tống Giang cười bảo Lý Ứng rằng:

– Ngài thử xem để tôi gọi bọn Quan Phủ với bọn Tuần Kiểm của chúng tôi ra chào ngài.

Nói đoạn gọi từng người ra trỏ cho Lý Ứng xem:

– Tiên Nhượng làm quan Phủ, Đới Tung, Dương Lâm làm Tuần Kiểm, Bùi Tuyên làm Khổng Mục Kiêm Đại Kiện, Hầu Kiện làm Ngu Hầu, và Lý Tuấn, Mã Lân, Trương Thuận, Bạch Thắng, làm Tiết Cấp.

Lý Ứng nom thấy vậy lắc đầu lè lưỡi không nói được câu gì nữa. Tống Giang lại sai giết trâu mổ ngựa làm tiệc thiết đãi Lý Ứng, và khao mừng mười hai vị Đầu Lĩnh mới lên sơn trại là: Tôn Lập, Tôn Tân, Giải Trân, Giải Bảo, Trâu Uyên, Trâu Nhuận,Đỗ Hưng, Nhạc Hòa, Thời Thiên, Cố Đại Tẩu, Hổ Tam Nương, và Nhạc Đại Nương, còn gia quyến Lý Ứng thì làm việc thiết đãi ở trong nhà trong, các quân chúng lớn nhỏ đều có khao thưởng hết cả. Hôm đó trên đại sảnh mở cờ dóng trống, đàn nhạc vang lừng, các Đầu Lĩnh cùng nhau chè chén đến tối mới tan. Đoạn rồi sai xếp đặt phòng riêng cho các vị Đầu Lĩnh mới đến ở yên nghỉ.

Ngày hôm sau lại đặt tiệc, cùng tụ họp yến âme với nhau. Tống Giang gọi Vương Nụy Hổ đến rằng:

– Khi trước ở núi Thanh Phong, ta có hứa việc hôn nhân cho ngươi, từ bấy đến nay trong lòng vẫn áy náy, chưa sao mà như lời được. Vậy nay phụ thân ta có một người con gái, xin gả cho ngươi để khỏi phụ lời khi trước.

Nói đoạn liền mời Tống Thái Công cho dẫn Nhất Trượng Thanh ra mà khuyên dỗ rằng:

– Người anh em tôi là Vương Anh đây tuy võ nghễ không bằng hiền muội, song trước tôi có hứa làm mối lương duyên cho hắn, mà chưa thành được. Vậy nay hiền muội đã nhận phụ thân tôi làm nghĩa phụ, thì các vị Đầu Lĩnh đây xin làm mối lái, chọn ngày lành tháng tốt cho hiền muội cùng Vương anh kết làm phu phụ, nên chăng?

Nhất Trượng Thanh thấy Tống Giang có lòng nghĩa khí như vậy, không tiện từ chối, bèn cùng Vương Anh lạy tạ Tống Giang mà nhận lời kết tóc xe tơ. Tiều Cái cùng mọi người đều vui mừng hớn hở, mà cùng nhau xưng tụng đại nghĩa của Tống Giang. Khi đó lại cùng nhau chè chén tạc thù rất là thỏa thích. Đươngkhi yến ẩm, chợt thấy tiểu lâu la và báo:

– Trong tửu điếm Chu Đầu Lĩnh, có người ở Vận Thành, tên là Lôi Hoành, đến xin lên để bái kiến Đầu Lĩnh.

Tiều Cái, Tống Giang nghe nói cả mừng, bảo với nhau rằng:

– Nếu vậy chắc là ân nhân đã lên nhập đảng, thực là chí nguyện bình sinh, ngày nay mới thỏa…

Cho hay:

Trượng Phu đứng ở trên đời,

Thù xưa phải báo ơn người chớ quên.

Một lời trót đã nặng nguyền,

Trăn năm xin có hoàng thiên soi cùng.

Còn thân thể còn núi sông,

Còn bầu nhiệt huyết, tấc lòng còn ghi,

Non xanh dù gặp lương tri,

Ngang trời dọc đất ngại gì nữa chăng?

Lời bàn của Thánh Thán:

Ba lần đánh Chúc Gia, thấy biến ra cách khác, mới biết tài sâu tác giả tả ra, càng khiến cho ta tán thưởng, như tả đến Loan Đình Ngọc đi mất, không biết ra sao? Hỡi ơi! Há chẳng lạ thay!

Lúc mở cửa trang, bắc đích kiều, thì ba họ Chúc với một họ Loan, ra nghinh địch, rõ ràng ở giấy, ai đọc chẳng thấy rõ, mà Loan Đình Ngọc chết ở chỗ nào? Không thấy dấu vết, chỉ căn cứ vào một lời than tiếc của họ Tống thì cho đã chết rồi! Ta nghe rằng bậc anh hùng từ xưa, biết rằng cái gì nên làm mới làm, còn không nên làm thì thôi, vid như chim ưng, tùy từng chỗ đậu, không phải chỗ đậu, tất cao bay xa chạy lánh đi, như Loan Đình Ngọc trốn đi đâu, cứ xem Hổ Thành chạy thoát, sau cũng thành một Đại tướng của Trung hưng, danh giá vẫn còn, lẽ nào Đình Ngọc lại không thoát khỏi, chắc rằng Đình Ngọc trốn thoát sau phải làm nên, không nói rõ ra đây, coi đã chết trận này, vì một lẽ khác.

Trong khi Tống Giang đem quân đến đánh, Lâm Xung, Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị ở cửa Đông, Hoa Vinh, Trương Thuận, Trương Thuận, ở cửa Tây, Mục Hoằng, Dương Hùng, Lý Quỳ ở cửa Nam, mà Đình Ngọc ra trận ở cửa Bắc, tức không chạy ra cửa có tướng, lại đón địch cưa không người, đáng ngờ câu đó, mới có lời bàn chưa thể chết! Song riêng ta cho rằng, ba mặt tấn công, thế như hùm hổ vây thành, nếu Đình Ngọc sớm biết, còn có thể bảo vệ toàn quân cho họ Chúc, thì làm sao mà chạy trốn đi ngay, lại thấy rõ là phải chết. Thế thì chạy ra một cửa bắc không có tướng là sao? Nói rằng cửa bắc không phải là không có tướng, quân mã Tống Giang bốn mặt tấn công, chẳng chép tới cửa bắc, cũng vì Đình Ngọc mà kiêng bỏ đi, nếu mà chéo ra thì phải rõ ràng, rõ ra thì sức của Đình Ngọc đâu thua, dao không thể mẻ, thương không thể gãy, trống không thể ngừng, tên không thể hết…tức Đình Ngọc chưa đến nỗi chết, nếu chép ra Đình Ngọc thua chết, thì dao mẻ, thương gãy, trống ngừng, tên hết, thì có chỗ không nên nói ra vậy. Theo Kinh Xuân thu vì người hiền mà kiêng bỏ, coi khuyết đi mà chả chép ra, cho nên không chép đến tên Đầu Lãnh đón đánh cửa Bắc, là vì không nên chép đến sự của Loan Đình Ngọc, còn khó dùng bút chép ra như thế, thì ai bảo rằng: Tùy quan chép Sử dễ làm; Tùy quan chép Sử dễ đọc vậy vâjy?

Sử Tiến tìm Vương Giáo Đầu chẳng thấy, ta đọc đến mà buồn hàng tháng. Trương Thanh mở hàng giết một Đầu Đà, chẳng biết là ai, khiến ta đọc đến mà buồn hàng tháng; Đến đây chợt đâu lại mất Đình Ngọc không rành khiến ta lị buồn hàng tháng, tác giả sao có ngòi bút lạ thế, khiến cho người buồn được ra, song ta đã hiểu ra, không buồn nữa, thấy rằng tác giả tả có ý, biết đọc Sử Ký mới xem ra?