Hồi 156: Nhật Nguyệt giáo thừa nước đục thả câu

Trống đánh một lúc, tiếng tù và lại vang lên. Bà bà nói:

– Quan binh đến sao?

Đột nhiên tiếng trống và tiếng tù và đồng thời dừng lại, bảy tám người cùng lớn tiếng tung hô:

– Nhật Nguyệt thần giáo, văn thành võ đức, trạch bị thương sinh, Nhậm giáo chủ giá lâm!

Bảy tám người này đều là cao thủ nội gia công lực vô cùng thâm hậu, cùng tung hô vang dội cả sơn cốc. Giữa quần sơn bốn bề âm hưởng vọng lại “Nhậm giáo chủ giá lâm! Nhậm giáo chủ giá lâm!”, uy thế khiếp người, bọn Bất Giới hòa thượng đều biến sắc.

Hồi âm chưa dứt thì nghe vô số thanh âm cùng tung hô:

– Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ, Nhậm giáo chủ trung hưng thánh giáo, thọ dữ sơn tề…

Thanh âm này ít nhất cũng có hai ba ngàn người, bốn bề lại vang dội:

– Trung hưng thánh giáo, thọ dữ sơn tề! Trung hưng thánh giáo, thọ dữ sơn tề!

Qua một lúc sau, tiếng tung hô dừng lại, bốn bề tĩnh lặng. Có người lớn tiếng nói:

– Nhật Nguyệt thần giáo, văn thành võ đức, trạch bị thương sinh, Nhậm giáo chủ có lệnh: “Từ chưởng môn nhân đến các đệ tử môn hạ của Ngũ Nhạc kiếm phái nghe đây: tất cả cùng lên tương hội ở Thạch Lâu ngọn Triêu Dương”.

Người này lớn tiếng nói liên tiếp ba lần, lão dừng một lúc rồi nói tiếp:

– Thập nhị đường chính phó hương chủ thanh tra các ngọn núi các sơn cốc, canh giữ yếu đạo, không cho bọn người tạp vụ hành tẩu náo loạn… Người nào không tuân hiệu lệnh thì giết không tha.

Liền có hai ba chục người dạ ran.

Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh đưa mắt nhìn nhau, lòng hiểu hiệu lệnh của người đó là thanh tra các ngọn núi sơn cốc, canh giữ các yếu đạo, là bức mọi người trong Ngũ Nhạc kiếm phái phải đi lên ngọn Triêu Dương hội kiến Nhậm giáo chủ. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lão là phụ thân của Doanh Doanh, không lâu nữa ta sẽ thành hôn với Doanh Doanh, phải đi gặp Nhậm giáo chủ mới phải. Chàng nghĩ vậy liền nói với bọn Nghi Hòa:

– Đồng môn sư tỉ muội của chúng ta còn nhiều người chưa thoát nạn, xin nhờ vị Điền huynh này dẫn đường đi cứu hết ra. Nhậm giáo chủ là phụ thân của Nhậm đại tiểu thư, chắc cũng không đến nỗi làm khó các vị. Tại hạ và Nhậm đại tiểu thư đi lên đỉnh Đông Phong trước, các vị sư tỉ sau khi hội đủ thì mọi người đến Đông Phong tương tụ.

Bọn Nghi Hòa, Nghi Thanh, Nghi Lâm cùng đáp, liền theo Điền Bá Quang cứu người.

Bà bà tức giận nói:

– Lão dựa vào cái gì mà ở đây huênh hoang? Ta cứ không đi gặp lão, để xem lão họ Nhậm phán xét giết ta thế nào?

Lệnh Hồ Xung biết tính bà cố chấp, khó mà khuyên được, dù khuyên được lúc bà gặp Nhậm Ngã Hành thì trong lời nói chắc cũng có lời đụng chạm tới lão lại hóa không hay. Chàng liền hành lễ cáo từ vợ chồng Bất Giới hòa thượng, rồi cùng với Doanh Doanh đi về phía Đông Phong.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ba ngọn núi cao nhất của Hoa Sơn là Đông Phong, Nam Phong và Tây Phong, nhất là hai ngọn Đông Tây cao nhất Đông Phong tên chính gọi là ngọn Triêu Dương, gia gia của Doanh muội chọn ngọn núi này tương hội với quần hào Ngũ Nhạc kiếm phái là có ý lệnh cho quần hào cùng lên Triêu Dương bái kiến. Gia gia của Doanh muội kêu môn hạ của Ngũ Nhạc kiếm phái cùng lên ngọn Triêu Dương chẳng lẽ chưởng môn nhân của các phái đều ở Hoa Sơn này sao?

Doanh Doanh nói:

– Trong Ngũ Nhạc kiếm phái, ba vị chưởng môn nhân Nhạc tiên sinh, Tả Lãnh Thiền, Mạc Đại tiên sinh đều tạ thế trong ngày hôm nay. Phái Thái Sơn chưa nghe nói có ai làm chưởng môn nhân, trong Ngũ Nhạc kiếm phái kỳ thực chỉ còn lại một mình Xung ca làm chưởng môn mà thôi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Anh hùng ngũ phái, ngoài phái Hằng Sơn ra, còn lại đều chết trong hậu động ngọn sám hối, còn chúng đệ tử phái Hằng Sơn đều bị khốn đốn. Ta e…

Doanh Doanh nói:

– Xung ca sợ gia gia của tiểu muội thừa cơ hội này, muốn gom hết Ngũ Nhạc kiếm phái vào trong rọ phải không?

Lệnh Hồ Xung gật đầu, thở dài nói:

– Kỳ thật không cần lão gia động thủ, Ngũ Nhạc kiếm phái đã không còn lại bao nhiêu người.

Doanh Doanh thở dài nói:

– Nhạc tiên sinh lừa gạt hảo thủ của Ngũ Nhạc kiếm phái, kéo đến Hoa Sơn xem kiếm chiêu trên vách đá, mưu đồ thanh trừ người có võ công cao cường trong các phái để lão vững vàng làm chưởng môn nhân Ngũ Nhạc phái, không có người phái khác tranh giành với lão. Nước cờ này vốn rất cao minh, không ngờ Tả Lãnh Thiền được tin này, thừa cơ hội mời mười mấy tên mù muốn ở trong động tối giết lão.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Doanh muội nói người mà Tả Lãnh Thiền muốn giết là sư phụ của ta chứ không phải ta ư?

Doanh Doanh nói:

– Lão không ngờ Xung ca cũng đến. Kiếm thuật của Xung ca rất cao minh, sớm đã hơn cả chiêu số khắc trên vách đá, đương nhiên sẽ không đến động này để xem kiếm chiêu. Chúng ta đi vào sơn động chỉ do trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Doanh muội nói cũng phải. Kỳ thực Tả Lãnh Thiền không có thù oán gì với ta. Hai mắt lão bị sư phụ ta đâm mù, ngôi vị chưởng môn lại bị sư phụ ta tước đoạt nên lão mới hận sư phụ ta đến tận xương tủy.

Doanh Doanh nói:

– Xem ra Tả Lãnh Thiền đã sắp đặt kế sách trước, muốn dụ Nhạc tiên sinh vào động, sau đó thừa lúc đêm tối mà giết lão. Không biết sao kế sách này bị Nhạc tiên sinh biết được, lão canh ở cửa động quăng lưới để chụp người. Thật là bọ ngựa bắt ve, vành khuyên rình sau lưng. Bây giờ Tả Lãnh Thiền và sư phụ của Xung ca đều chết cả rồi, nguyên nhân trong chuyện này chỉ e rằng không ai biết được.

Lệnh Hồ Xung gật đầu buồn bã. Doanh Doanh nói:

– Nhạc tiên sinh lừa phỉnh các cao thủ của Ngũ Nhạc kiếm phái đến, chuyện này đã có mưu đồ từ lâu rồi. Hôm tỉ võ đoạt soái trên Tung Sơn, tiểu sư muội của Xung ca thi triển kiếm pháp tinh diệu của các phái Thái Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn, Tung Sơn; cao thủ của bốn phái đều được tận mắt thấy, đương nhiên ham muốn được xem nữa. Chỉ có bọn đệ tử phái Hằng Sơn đã được Xung ca truyền thụ kiếm chiêu trên vách đá rồi nên bọn họ không lấy gì làm lạ. Đệ tử môn nhân của ba phái Thái Sơn, Hành Sơn, Tung Sơn đương nhiên đến khắp nơi dò hỏi những chiêu kiếm của Nhạc tiểu thư học được từ đâu. Nhạc tiên sinh ngầm tiết lộ phong thanh, hẹn định ngày mở vách hậu động; hảo thủ của ba phái này không tranh nhau kéo đến sao được?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chúng ta là người học võ, vừa nghe chỗ nào có thể học được võ công tinh diệu, dù phải hiểm nguy đến tính mạng cũng quyết không bỏ lỡ cơ hội, nhất là chiêu thức cao diệu của bổn phái, thì càng phải xem cho bằng được. Cho nên giống như Mạc Đại sư bá là cao nhân không tranh danh đoạt lợi, sống thanh bạch, cũng bị táng mạng trong động.

Doanh Doanh nói:

– Nhạc tiên sinh đoán rằng phái Hằng Sơn của Xung ca sẽ không đến, nên an bài cách khác, dùng thuốc mê để ám toán mọi người, bắt hết đưa lên Hoa Sơn.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta không hiểu tại sao sư phụ lại phải lao tâm tổn sức đưa hết các đệ tử môn hạ lên núi? Đường sá xa xôi, rất dễ xảy ra chuyện. Lúc đó sao không giết hết bọn họ ở trên Hằng Sơn, há không tiện hơn sao?

Hắn ngừng một lúc rồi nói: A, ta hiểu ra rồi. Nếu giết hết đệ tử phái Hằng Sơn thì trong Ngũ Nhạc kiếm phái mất đi một phái. Sư phụ muốn làm chưởng môn Ngũ Nhạc phái, nếu thiếu đi phái Hằng Sơn thì ngôi vị chưởng môn Ngũ Nhạc phái này của lão không những bị khập khiễng mà ngay cả cái tên gọi cũng tào lao.

Doanh Doanh nói:

– Đây cũng là một nguyên nhân, nhưng tiểu muội đoán rằng còn có một nguyên nhân lớn khác nữa.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Đó là nguyên nhân gì?

Doanh Doanh nói:

– Hay nhất là nhử để có thể bắt được Xung ca, may ra có thể đổi với tiểu muội một thứ gì đó. Nếu không thì đem bọn đệ tử môn hạ của Xung ca bắt hết để uy hiếp Xung ca. Tiểu muội không thể tụ thủ bàng quan, đem thứ đó đến đổi người với lão.

Lệnh Hồ Xung hiểu ra, vỗ đùi cái bốp nói:

– Đúng rồi! Sư phụ của ta muốn thuốc giải Tam thi não thần đan.

Doanh Doanh nói:

– Sau khi Nhạc tiên sinh bị bức uống thuốc này, đương nhiên ngày đêm bất an, nóng lòng muốn có thuốc giải. Ngày nào không có thuốc giải thì ngày đó khó yên lòng. Lão biết chỉ khi nào uy hiếp được Xung ca mới có thể lấy được thuốc giải.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Điều này đương nhiên rồi. Ta như bảo bối, ruột gan của Doanh muội, cũng chỉ có dùng ta mới có thể đổi thuốc giải của Doanh muội mà thôi.

Doanh Doanh bĩu môi nói:

– Lão dùng Xung ca để đổi thuốc của tiểu muội nên tiểu muội mới không chịu đổi. Dược liệu chế thuốc giải tìm rất khó, chế luyện càng không dễ đâu. Đó là vật vô giá, há có thể dễ đem cho lão?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Người ta thường nói: Dễ cầu vật vô giá, khó cầu được tình lang.

Doanh Doanh đỏ bừng mặt, nói khẽ:

– Con chuột bò lên tối trời, tự xưng tán mình mà không biết thẹn.

Trong lúc nói chuyện, hai người đã đi đến một sơn đạo rất hẹp. Sơn đạo này thẳng dốc lên trên, hai người không thể đi ngang vai nhau được. Doanh Doanh nói:

– Xung ca đi trước đi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hay là Doanh muội đi trước, nếu Doanh muội ngã thì có ta đằng sau ôm lại.

Doanh Doanh nói:

– Không, Xung ca đi trước đi, không được quay đầu lại liếc nhìn tiểu muội. Lời của bà bà nói, ngươi phải nghe theo.

Cô nói rồi cười lên. Lệnh Hồ Xung nói:

– Được, ta đi trước. Nếu ta bị té thì bà bà phải ôm ta lại.

Doanh Doanh vội nói:

– Không được, không được!

Cô sợ hắn giả vờ trượt chân để đùa với cô, liền đi lên sơn đạo trước. Doanh Doanh thấy chàng tuy nói cười nhưng vẻ mặt buồn bã, sau tiếng cười lại hiện ra vẻ thê lương, cô biết chàng rất khó quên được cái chết của Nhạc Bất Quần, trên đường đi chàng cố nói cười cho khuây khỏa.

Qua mấy khúc quanh, đã đến ngọn Ngọc Nữ, Lệnh Hồ Xung chỉ cho Doanh Doanh xem, đây là bồn rửa mặt, đó là bục trang điểm của Ngọc Nữ. Doanh Doanh biết ngọn Ngọc Nữ này là nơi chàng và Nhạc Linh San năm xưa thường đến du ngoạn, cô sợ Lệnh Hồ Xung càng thêm đau lòng nên vội vàng liếc sơ qua rồi bước nhanh đi, không hỏi tỉ mỉ.

Xuống một con dốc nữa thì có một con đường nhỏ đi lên ngọn Triêu Dương. Trên đỉnh núi, nơi nào cũng có trạm canh, y phục của giáo chúng Nhật Nguyệt thần giáo phân ra bảy màu, tùy theo màu cờ, rất trật tự chỉnh tề, cách bố trí giống như trên Hắc Mộc Nhai ngày trước, nhưng cảnh tượng xem ra càng uy nghiêm hơn. Lệnh Hồ Xung ngấm ngầm khâm phục: Nhậm giáo chủ quả là người có học vấn cao. Ngày hôm đó ta thống lãnh mấy ngàn người tấn công chùa Thiếu Lâm, làm náo loạn lộn xộn cả lên thành ra một trận bát nháo, đâu sánh được với Nhật Nguyệt thần giáo thống nhất tề chỉnh như một cơ thể, mấy ngàn người như một người? Đông Phương Bất Bại đương nhiên cũng là một nhân vật vô cùng tài giỏi, nhưng sau đó thần trí bị lệch lạc, đem đại sự trong thần giáo giao cho Dương Liên Đình nên trên Hắc Mộc Nhai xơ xác tàn tạ, không còn thấy uy thế nữa.

Giáo chúng Nhật Nguyệt thần giáo thấy Doanh Doanh đến đều cung kính cúi người hành lễ, đối với Lệnh Hồ Xung cũng rất cung kính. Các cấp bậc dưới cờ từ chân núi đến lưng chừng núi rồi từ lưng chừng núi đến đỉnh núi tuần tự báo tin cho Nhậm Ngã Hành biết.

Lệnh Hồ Xung thấy ngọn Triêu Dương này từ dưới chân núi lên đến đỉnh núi, mỗi nơi hiểm yếu đều bố trí đầy giáo chúng, ít nhất cũng có hai ngàn người. Lần này Nhật Nguyệt thần giáo dốc toàn lực đến đây, ngoài ra còn triệu tập không ít nhân vật bàng môn tả đạo cùng đến. Các vị chưởng môn của Ngũ Nhạc kiếm phái dù không ai bị chết thì hảo thủ của Ngũ Nhạc kiếm phái đều đã tụ tập ở Hoa Sơn, chuyện này nếu chưa bí mật chuẩn bị trước cho chu toàn mà lật đật ứng chiến thì chỉ e rằng bại nhiều thắng ít, bây giờ nhân tài điêu linh, càng không thể kháng cự nổi. Trước mắt thanh thế của Nhậm Ngã Hành như vậy, nhất định có ý gây bất lợi cho Ngũ Nhạc kiếm phái. Dù sao chuyện đã đến nước này thì chàng như một cây cột khó chống đỡ tòa nhà, tất cả đành phải theo mệnh trời, đi bước nào tính bước đó. Nhậm Ngã Hành muốn giết hết Ngũ Nhạc kiếm phái thật thì chàng cũng không thể cầu an sống trộm, đành phải chống kiếm chiến đấu đến cùng, cùng với đệ tử phái Hằng Sơn chết ở trên ngọn Triêu Dương này cũng được.

Tuy Lệnh Hồ Xung thông minh lanh lợi nhưng mưu trí không thâm, càng không có thủ đoạn gì, cũng không có tài ứng biến cơ linh. Thấy phái Hằng Sơn đều đã nằm trong rọ mà chàng cũng không nghĩ ra được kế sách gì để cứu toàn phái thoát hiểm, tất cả chỉ tuân theo lẽ tự nhiên, nghe theo mệnh trời. Lại nghĩ Doanh Doanh và Nhậm giáo chủ là tình cốt nhục, nhiều lắm là cô ta không giúp bên nào, chứ không thể giúp mình được, càng không thể tính kế gì để đối phó với phụ thân của nàng. Đối với việc cùng giáo chúng thần giáo trên ngọn Triêu Dương này tuốt kiếm, chàng xem như không có gì, cùng với Doanh Doanh vô tư nói cười.

Doanh Doanh thì lòng dạ rối bời. Cô ta không giống như Lệnh Hồ Xung phó thác mệnh trời, trên đường cô tính trước nghĩ sau, nhưng chưa tìm được kế sách gì hay. Cô thầm nghĩ: Xung lang là người không sợ trời không sợ đất, dù trời có sụp xuống thì Xung lang cũng mặc kệ coi như mình bị đậy lại. Ta phải giúp Xung lang nghĩ ra cách gì mới được.

Cô đoán rằng phụ thân thống lĩnh toàn giáo đến đây, quyết không phải chuyện tốt, cục diện hiểm ác như vậy cũng chỉ đành tùy cơ ứng biến, xem ra không có cách nào vẹn toàn cả đôi bên.

Hai người từ từ lên núi. Vừa đặt chân lên đỉnh núi bỗng nghe tiếng tù và vang lên, tiếng pháo nổ đùng đùng, tiếp theo là tiếng đàn sáo, lại là kiểu an bài long trọng để hoan nghênh khách quý. Lệnh Hồ Xung nói khẽ:

– Nhạc phụ đại nhân nghênh tiếp ái nữ và nữ tế long trọng quá.

Doanh Doanh liếc xéo một cái, lòng rất buồn khổ: Người này chẳng thèm để tâm cái gì hết, đến nước này mà còn có bụng dạ để nói cười.

Bỗng một người xuất hiện, cười một tràng dài rồi lớn tiếng nói:

– Đại tiểu thư, Lệnh Hồ huynh đệ, giáo chủ chờ các vị từ lâu rồi.

Một trưởng lão ốm nhom mình mặc áo bào sắc tía, nét mặt hân hoan bước đến trước nắm hai tay Lệnh Hồ Xung. Lão chính là Hướng Vấn Thiên.

Lệnh Hồ Xung gặp lão cũng vô cùng hân hoan nói:

– Hướng đại ca, đại ca khỏe chứ? Tiểu đệ luôn luôn nhớ đến đại ca.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Ta ở trên Hắc Mộc Nhai, thường nghe được tin tốt của huynh đệ oai chấn võ lâm, vì huynh đệ đánh chén chúc mừng, ít nhất cũng đã uống hơn mười vò rượu to. Mau đi tham kiến giáo chủ đi.

Lão nắm tay Lệnh Hồ Xung đi về hướng thạch lâu. Thạch lâu này ở trên ngọn Đông Phong, là một phiến đá cực to và cao ngất, thiên nhiên tạo dáng giống như một tòa lầu nguy nga. Phía đông thạch lâu là Tiên Nhân Chưởng, tuyệt đỉnh cao nhất của ngọn Triêu Dương. Tiên Nhân Chưởng là năm cột đá to giống như năm ngón tay cao chọc trời, trong đó ngón giữa cao nhất. Trên đầu ngón giữa đặt một cái ghế thái sư, một người đang ngồi bệ vệ ở đó, chính là Nhậm Ngã Hành.

Doanh Doanh đi đến trước Tiên Nhân Chưởng, ngẩng đầu lên gọi:

– Gia gia!

Lệnh Hồ Xung cúi người xuống bái, nói:

– Vãn bối Lệnh Hồ Xung tham kiến giáo chủ.

Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:

– Tiểu huynh đệ đến thật đúng lúc. Chúng ta đều là người một nhà, không cần đa lễ. Hôm nay bổn giáo hội kiến quần hào thiên hạ, nên chúng ta bàn việc công trước rồi hãy nói đến việc nhà. Hiền… hiền đệ, mời ngồi sang bên.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói đến chữ “hiền” rồi ngừng một lúc, dường như muốn gọi là “hiền tế”, nhưng danh phận của chàng chưa định nên lão chuyển sang gọi là “hiền đệ”, xem ra lòng lão rất tán thành chuyện hôn sự của Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh, lại nói cái gì “chúng ta đều là người một nhà”, rõ ràng lão coi chàng là người nhà. Lòng chàng vui mừng, vừa đứng dậy đột nhiên trong huyệt Đan điền một luồng khí lạnh xông lên. Toàn thân chàng bỗng nhiên rớt xuống một hầm băng, cả người lạnh toát, không kìm được phát run lên. Doanh Doanh giật mình kinh hãi, chạy đến hỏi:

– Sao vậy?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta… ta…

Chàng không nói được nữa.

Tuy Nhậm Ngã Hành ngồi trên cao nhưng mục quang rất sắc sảo. Lão hỏi:

– Tiểu huynh đệ có giao đấu với Tả Lãnh Thiền sao?

Lệnh Hồ Xung gật đầu. Nhậm Ngã Hành cười nói:

– Không sao đâu. Tiểu huynh đệ hút Hàn băng chân khí của hắn, đợi một lúc tan ra hết thì trở lại bình thường. Tại sao Tả Lãnh Thiền còn chưa đến?

Doanh Doanh nói:

– Tả Lãnh Thiền ngầm bày độc kế, muốn gia hại Lệnh Hồ đại ca và hài nhi, đã bị Lệnh Hồ đại ca giết rồi.

Nhậm Ngã Hành “hả” một tiếng. Lão ngồi rất cao nên không thấy được sắc mặt của lão, nhưng nghe tiếng của lão, hiển nhiên chứa đầy ý thất vọng. Doanh Doanh hiểu tâm ý của phụ thân, hôm nay lão khoa trương mở cờ gióng trống, uy hiếp Ngũ Nhạc kiếm phái, muốn tất cả người của Ngũ Nhạc kiếm phái đều phải khuất phục. Tả Lãnh Thiền là đại địch trong đời của lão, giờ không còn cách nào tận mắt thấy Tả Lãnh Thiền quỳ gối cúi đầu nên lão không khỏi hối tiếc.

Doanh Doanh đưa tay ra nắm tay phải Lệnh Hồ Xung, giúp chàng trục hàn khí đi. Tay trái của Lệnh Hồ Xung được Hướng Vấn Thiên nắm lấy. Hai người đồng thời vận công. Lệnh Hồ Xung cảm thấy cái lạnh trên người từ từ biến mất. Ngày hôm đó, Nhậm Ngã Hành và Tả Lãnh Thiền tương đấu trong chùa Thiếu Lâm, lão hút không ít Hàn băng chân khí của Tả Lãnh Thiền, đến nỗi trên đất tuyết, lão và Lệnh Hồ Xung, Hướng Vấn Thiên, Doanh Doanh, cả bốn người đều biến thành người tuyết. Nhưng lần này Lệnh Hồ Xung chỉ giao kiếm với Tả Lãnh Thiền, bị trúng ít chân khí, chỉ trong chốc lát, lại không phải chàng hút của lão nên hàn khí nhập vào người chỉ có hạn. Qua một lúc sau, không còn run nữa. Lệnh Hồ Xung nói:

– Tốt rồi, xin đa tạ!

Nhậm Ngã Hành nói:

– Tiểu huynh đệ, huynh đệ vừa nghe lời kêu gọi của ta liền lên núi gặp ta ngay. Rất tốt, rất tốt!

Lão quay qua Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại sao người bốn phái còn lại giờ này vẫn chưa thấy đến?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Đợi thuộc hạ xuống núi kêu gọi hối thúc họ tiếp.

Lão vung tay trái một cái, liền có tám lão già mặc áo vàng bày thành một hàng trước đỉnh núi, cùng hô lên:

– Nhật Nguyệt thần giáo, văn thành võ đức, trạch bị thương sinh, Nhậm giáo chủ có lệnh: “Người bốn phái Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn từ trên xuống dưới, mau chóng lên ngọn Triêu Dương tương hội. Các đường chủ hương chủ mau thôi thúc mời họ đến, không được chậm trễ”.

Tám lão già này đều là cao thủ, nội công thâm hậu, cùng hô gọi một lúc nên thanh âm truyền đi rất xa, người ở các núi khác đều nghe rõ. Từ các phía Đông, Tây, Nam, Bắc có mấy chục người đáp lại:

– Xin tuân mệnh. Giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ!

Đó là tiếng ứng đáp từ các đường chủ, hương chủ của Nhật Nguyệt thần giáo. Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn, mời chưởng môn ngồi sang bên này.

Lệnh Hồ Xung thấy mé tây Tiên Nhân Chưởng bày năm cái ghế, trên mỗi ghế đều có phủ gấm nhung, phân làm năm màu đen, trắng, xanh, đỏ, vàng. Trên nhung gấm mỗi ghế đều thêu một ngọn núi. Phái Hằng Sơn là Bắc Nhạc thuộc màu đen, trên nền gấm đen thêu ngọn núi bằng chỉ trắng chính là ngọn Kiến Tính. Đường thêu rất công phu tinh vi, đủ thấy lần này Nhật Nguyệt thần giáo bố trí sắp đặt rất chu đáo. Theo lẽ trong Ngũ Nhạc kiếm phái lấy Trung Nhạc Tung Sơn đứng đầu, Bắc Nhạc Hằng Sơn ở cuối, nhưng cách sắp đặt tọa vị lại ngược hẳn. Ghế chưởng môn phái Hằng Sơn lại đặt ở đầu, kế tiếp là Tây Nhạc Hoa Sơn, phái Tung Sơn đặt sau cùng, dĩ nhiên là Nhậm Ngã Hành cất nhắc hắn và có ý sỉ nhục Tả Lãnh Thiền. Nay Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần, Mạc Đại tiên sinh, Thiên Môn đạo nhân đều đã tạ thế, Lệnh Hồ Xung cũng không khiêm nhượng, cúi người nói:

– Vãn bối xin tạ ơn!

Chàng ngồi vào chiếc ghế phủ nhung đen. Mọi người trên ngọn Triêu Dương lặng yên. Qua một lúc lâu sau, Hướng Vấn Thiên lại chỉ huy tám lão già áo vàng kêu gọi một lượt nữa, vẫn không thấy có người lên.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Những người này thật không biết lễ độ, lề mề không đến tham kiến giáo chủ, mời người của mình lên trước đi.

Tám lão già áo vàng cùng hô to:

– Mời các vị huynh đệ ngũ hồ tứ hải, các đảo các động, các bang các trại lên ngọn Triêu Dương tham kiến giáo chủ.

Lời kêu gọi vừa dứt, từ dưới núi liền rần lên như sấm động, kèm theo tiếng hô:

– Tuân mệnh!

Tiếng hô vang động cả sơn cốc. Lệnh Hồ Xung không kìm được giật thót người, giáo chúng ít nhất cũng có hai ba vạn quanh đây. Những người này ngầm ẩn phục, không để lộ ra chút động tĩnh gì. Chàng đoán ra ý đồ của Nhậm Ngã Hành là muốn đợi sau khi người Ngũ Nhạc kiếm phái đến đông đủ, mới đột ngột hô mấy vạn người này ra mặt để dùng thanh thế dọa người cho Ngũ Nhạc kiếm phái không ai dám có ý phản kháng. Trong chớp mắt, vô số người từ bốn phương tám hướng ùn ùn kéo lên ngọn Triêu Dương. Người tuy đông nhưng rất trật tự. Mọi người phân ra đứng khắp nơi, cứ như chuyện này sớm đã tập dượt thuần thục từ trước. Người kéo lên núi có khoảng hai ba ngàn, toàn là những nhân vật thủ lãnh tả đạo trong lục lâm, còn bọn thuộc hạ của họ đều đứng ở lưng chừng núi.

Lệnh Hồ Xung liếc mắt thấy bọn Lam Phượng Hoàng, Tổ Thiên Thu đều có trong đó. Những người này hoặc bị Nhật Nguyệt thần giáo quản hạt, hoặc là chỗ qua lại với nhau. Hôm Lệnh Hồ Xung thống lãnh quần hào tấn công chùa Thiếu Lâm, những người này đều từng tham gia. Mục quang họ nhìn Lệnh Hồ Xung đều mỉm cười tỏ ý thân thiện, nhưng không ai chào hỏi ra tiếng, ngoài tiếng sột soạt của bước chân mấy ngàn người lên núi, tuyệt không có thanh âm nào khác.

Hướng Vấn Thiên giơ tay phải lên, quơ thành một vòng tròn. Mấy ngàn người cùng quỳ xuống, đồng thanh hô lên:

– Giang hồ hậu tiến tham kiến giáo chủ văn thành võ đức, trạch bị thương sinh. Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ.

Những người này đều võ công cao cường, còn cố sức hô nên thanh âm một người bằng mười người. Lúc nói đến câu sau cùng “Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”, giáo chúng Nhật Nguyệt thần giáo cùng với quần hào đồng thanh hô theo nên tiếng hô thật kinh thiên động địa.

Nhậm Ngã Hành ngồi trên cao bất động, đợi mọi người tung hô xong, lão giơ tay ra hiệu nói:

– Các vị vất vả rồi, mời đứng lên.

Mấy vạn người cùng nói:

– Tạ ơn thánh giáo chủ!

Rồi họ cùng đứng dậy. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Hôm đầu ta lên Hắc Mộc Nhai, thấy giáo chúng nịnh nọt Đông Phương Bất Bại bằng những câu vô sỉ, nghe mà không nhịn được, phát buồn nôn. Không ngờ Nhậm giáo chủ lên làm giáo chủ, càng biến đổi tệ hại hơn, trước chữ giáo chủ còn thêm chữ “thánh”, biến thành “thánh giáo chủ”. Chỉ e ngày nay văn võ bá quan gặp hoàng thượng cao lắm là hô “hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế” cũng không đến độ cúi người khuất gối bỉ ổi như vậy. Ta là hạng người học võ, phải cư xử cho ra anh hùng hào kiệt, khuất nhục người như vậy, sao còn đủ tư cách hảo nam nhi, đại trượng phu đội trời đạp đất?

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác khí tức xông lên, đột nhiên huyệt Đan điền đau đớn kịch liệt, trước mắt tối sầm lại, cơ hồ muốn ngất đi. Chàng đưa hai tay nắm chặt thành ghế, cắn chặt răng, môi chảy máu ra. Lệnh Hồ Xung biết từ khi học được Hấp tinh đại pháp, tuy đã thề không dùng đến, nhưng vừa rồi ở ngoài cửa sơn động bị Nhạc Bất Quần quăng lưới cá túm chặt, sự sinh tử như ngàn cân treo sợi tóc, nên đành đem tà pháp này sử ra, hút nội lực của Nhạc Bất Quần, và chính mình lại bị tai hại rất lớn. Chàng cố kìm chế để miệng không phát ra tiếng rên la.

Nhưng trán Lệnh Hồ Xung ướt đẫm mồ hôi, toàn thân run lên, da thịt trên mặt co rúm lại, vẻ mặt đau đớn đến cùng cực, ai cũng đều thấy. Bọn Tổ Thiên Thu nhìn chàng đăm đăm, rất lo lắng.

Doanh Doanh đi đến sau người Lệnh Hồ Xung, nói khẽ:

– Xung ca, tiểu muội đang ở đây.

Trước mấy ngàn quần hào đang chăm chú nhìn, cô chỉ nói vậy thôi cũng đã đỏ mặt lên. Lệnh Hồ Xung quay đầu lại nhìn cô một cái, lòng cũng dịu lại đôi chút.

Lệnh Hồ Xung nhớ lại ngày Nhậm Ngã Hành ở Hàng Châu nói với mình rằng sau khi học được Hấp tinh đại pháp, hút được chân khí dị chủng của người ngoài vào trong cơ thể, rồi sẽ có một ngày chúng phát tác ra. Lúc chúng phát tác thì càng về sau càng lợi hại hơn. Năm xưa sở dĩ Nhậm Ngã Hành bị Đông Phương Bất Bại soán ngôi vị giáo chủ là vì lão bị khốn bởi những luồng chân khí dị chủng trong cơ thể, lão cố nghĩ cách hóa giải chúng đến nỗi bỏ hết tất cả mọi chuyện ra ngoài, nên mới bị Đông Phương Bất Bại thừa cơ cướp ngôi. Trong thời gian Nhậm Ngã Hành bị giam cầm dưới đáy Tây Hồ mười mấy năm, lão tìm tòi nghiên cứu, tìm ra được cách hóa giải, nhưng lão muốn Lệnh Hồ Xung gia nhập Nhật Nguyệt thần giáo mới truyền cho chàng thuật này.

Lúc đó Lệnh Hồ Xung kiên quyết từ chối, vì từ bé đã được sư môn giáo hối, luôn tin rằng chính tà không thể đội trời chung, nên quyết không chịu hòa vào dòng ô uế với Ma giáo. Sau đó thấy Tả Lãnh Thiền và sư phụ mình là những đại tôn sư chính giáo mà làm những hành vi tác tệ, gian tà hung hiểm không kém gì Ma giáo, nên chàng xem nhẹ sự phân biệt chính tà. Có lúc Lệnh Hồ Xung nghĩ, nếu Nhậm giáo chủ nhất định bắt nhập giáo mới chịu gả Doanh Doanh thì lúc đó mình cứ nhập đại là xong. Bản tính chàng xuề xòa, sao cũng được, không chuyện gì quan trọng cả, nhập giáo cũng được không nhập giáo cũng được, đó cũng chẳng phải đại sự.

Nhưng hôm ở trên Hắc Mộc Nhai, thấy quần hào hảo hán đối với hai vị giáo chủ là Đông Phương Bất Bại và Nhậm Ngã Hành khuất nhục đê hèn như vậy, miệng nói ra toàn những lời ton hót nghe phát tởm, bất giác Lệnh Hồ Xung cảm thấy ác cảm. Lòng chàng nghĩ nếu sau khi nhập giáo, cũng phải chịu những ngày làm nô lệ nói những lời như vậy thì thật uổng chí khí làm người. Đại trượng phu sinh tử do mệnh, nếu van xin mới sống được thì Lệnh Hồ Xung này quyết không làm. Bây giờ thấy Nhậm Ngã Hành tác oai tác quái, bày đặt cuộc ra mắt quần hào so với hoàng đế còn hống hách hơn mấy phần, lòng nghĩ ngày trước lúc ở trong hắc lao dưới đáy hồ tăm tối tình trạng ra sao mà hôm nay lại làm nhục anh hùng thiên hạ, thật vô lễ quá mức.

Lệnh Hồ Xung đang suy nghĩ, bỗng nghe có người dõng dạc nói:

– Khải bẩm thánh giáo chủ, đệ tử môn hạ phái Hằng Sơn đã đến.

Lệnh Hồ Xung giật mình, thấy bọn Nghi Hòa, Nghi Thanh, Nghi Lâm và bọn đệ tử cùng dìu nhau lên núi. Vợ chồng Bất Giới hòa thượng và Điền Bá Quang cũng đi theo sau. Bảo Đại Sở lớn tiếng nói:

– Mời các vị bằng hữu đến tham kiến giáo chủ.

Bọn Nghi Thanh thấy Lệnh Hồ Xung ngồi một bên, biết Nhậm Ngã Hành là nhạc trượng tương lai của chàng nên lòng nghĩ tuy hai bên chính tà khác nhau, nhưng phải nể mặt chưởng môn mà dùng lễ của kẻ hậu bối để tương kiến lão. Cả bọn liền đi đến trước Tiên Nhân Chưởng, cúi người hành lễ nói:

– Đệ tử hậu bối phái Hằng Sơn xin tham kiến Nhậm giáo chủ!

Bảo Đại Sở quát:

– Quỳ xuống khấu đầu!

Nghi Thanh dõng dạc nói:

– Bọn bần ni là người xuất gia chỉ lạy Phật, lạy Bồ Tát, lạy sư phụ chứ không lạy người phàm.

Bảo Đại Sở lớn tiếng nói:

– Thánh giáo chủ không phải là người phàm. Thánh giáo chủ lão nhân gia là thần tiên thánh hiền, là Phật, là Bồ Tát!

Nghi Thanh quay sang nhìn Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung chỉ lắc đầu. Nghi Thanh nói:

– Muốn giết thì giết, đệ tử Hằng Sơn quyết không lạy người phàm.

Bất Giới hòa thượng cười ha hả nói:

– Nói rất hay, nói rất hay!

Hướng Vấn Thiên cả giận hỏi:

– Các hạ là người môn phái nào? Đến đây làm gì?

Lão thấy bọn đệ tử phái Hằng Sơn không chịu lạy Nhậm Ngã Hành, tình thế trở nên căng thẳng, nếu lão đến làm khó dễ bọn nữ đệ tử thì mất đi sự thân tình với Lệnh Hồ Xung. Lão liền quay sang đối phó với Bất Giới hòa thượng, phần để lấy lòng Nhậm Ngã Hành, phần để Nhậm Ngã Hành bỏ qua chuyện khấu đầu này. Bất Giới hòa thượng cười nói:

– Hòa thượng hoang đàng này miếu lớn không nhận, chùa nhỏ không chứa, không môn không phái nào hết, thấy ở đây có người tụ hội, liền lên coi náo nhiệt.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Hôm nay Nhật Nguyệt thần giáo hội kiến Ngũ Nhạc kiếm phái, những người tạp nhạp không được gây rắc rối ở đây. Các hạ xuống núi đi thôi.

Hướng Vấn Thiên nói như vậy là nể mặt Lệnh Hồ Xung, vì lão thấy Bất Giới hòa thượng cùng đến với bọn nữ đệ tử phái Hằng Sơn, đoán rằng Bất Giới hòa thượng có chút liên quan với phái Hằng Sơn nên lão không muốn Bất Giới hòa thượng phải khó chịu.

Bất Giới cười nói:

– Núi Hoa Sơn này không phải là của Ma giáo các ngươi, ta muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, ngoài sư đồ phái Hoa Sơn ra, không ai cấm được ta cả.

Bất Giới hòa thượng nói hai tiếng “Ma giáo” này là đại phạm vào điều tối kỵ của Nhật Nguyệt thần giáo. Người trong võ lâm tuy sau lưng thường nói đến hai chữ “Ma giáo” nhưng nếu chẳng phải công nhiên đối diện thì ở trước mặt quyết không dám xưng hô như vậy. Bất Giới hòa thượng lòng dạ ngay thẳng, mồm miệng mau lẹ, nói toạc ra mà không e sợ gì. Hướng Vấn Thiên quát đuổi lão xuống núi, lão rất bực tức chẳng kể gì đối phương người đông thế mạnh, không lộ chút hoảng sợ. Hướng Vấn Thiên quay qua Lệnh Hồ Xung nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ, hòa thượng điên này và quý phái có liên hệ gì không?

Lệnh Hồ Xung đang bị đau ở ngực và giữa bụng tưởng chết đi sống lại. Chàng ngập ngừng đáp:

– Chuyện này… vị Bất Giới đại sư này…

Nhậm Ngã Hành nghe Bất Giới công nhiên gọi bổn giáo là “Ma giáo”, bụng rất tức giận, chỉ ngại Lệnh Hồ Xung nói đại hòa thượng này có quan hệ sâu xa với chàng thì không tiện giết Bất Giới.

Không đợi Lệnh Hồ Xung nói hết câu. lão liền quát:

– Đem tên sư khùng này giết đi!

Tám trưởng lão áo vàng liền cùng đáp:

– Tuân mệnh!

Tám người cùng phóng quyền chưởng đánh về hướng Bất Giới. Bất Giới quát:

– Các ngươi ỷ đông hiếp người đơn độc ư?

Lão chỉ nói được mấy tiếng, tám trưởng lão đã tấn công đến. Bà bà chửi:

– Đồ quân mặt dày!

Bà xuyên qua đám đông, đứng tựa lưng vào Bất Giới hòa thượng, cùng vung chưởng nghênh địch. Tám tên trưởng lão đều là những nhân tài bậc nhất trong Nhật Nguyệt thần giáo, võ công của tám người so với Bất Giới và bà bà cũng một chín một mười, nếu lấy tám chọi hai thì chỉ trong mấy chiêu là họ chiếm được thượng phong. Điền Bá Quang rút đơn đao ra, Nghi Lâm vung trường kiếm xông vào vòng chiến. Võ công của hai người hiển nhiên còn kém xa, hai trong tám trưởng lão liền chia ra nghênh chiến. Điền Bá Quang dựa vào khoái đao mau lẹ còn có thể chống đỡ được một hồi, còn Nghi Lâm lại bị đối phương bức đến thở hồng hộc, nếu không phải trưởng lão đó thấy cô mặc sắc phục Hằng Sơn, nể mặt Lệnh Hồ Xung mà dung nhượng cô mấy phần thì đã sớm giết cô rồi.

Lệnh Hồ Xung khom lưng tay trái ôm bụng, tay phải rút trường kiếm ra la lên:

– Khoan… khoan đã!

Chàng xông vào vòng chiến, trường kiếm rung động, liên tiếp xuất ra tám chiêu, bức bốn trưởng lão lùi lại rồi quay người qua, lại xuất tám kiếm. Mười sáu chiêu Độc Cô cửu kiếm này, mỗi chiêu đều chỉ vào chỗ yếu hại của các trưởng lão. Tám trưởng lão bị bức phải lùi, tay chân luống cuống, lại không dám đối địch thật với chàng, liền lùi ra hết. Lệnh Hồ Xung cúi phục người xuống đất nói:

– Nhậm… Nhậm giáo chủ, xin giáo chủ nể mặt vãn bối mà tha… tha cho bọn họ…

Còn hai tiếng “xuống núi” nhưng chàng không nói ra được.

Nhậm Ngã Hành thấy tình trạng như vậy, đoán rằng những luồng chân khí dị chủng trong cơ thể Lệnh Hồ Xung đang phát tác. Lòng lão biết con gái nhất quyết lấy hắn. Lão cũng luyến tiếc nhân tài mà lại không có con trai, phải mong hắn sau này lên tiếp nhiệm ngôi vị giáo chủ thần giáo. Lão nghĩ vậy liền gật đầu nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn xin tha thì hôm nay ta mở lối thoát cho.

Thân người Hướng Vấn Thiên loáng một cái, song thủ liên tục vung lên, phân ra điểm huyệt đạo của vợ chồng Bất Giới, Điền Bá Quang và Nghi Lâm. Lão ra tay cực nhanh, kỹ thuật phi thường. Tuy bà bà thân pháp nhanh như chớp, nhưng cũng không kịp tránh né thủ cước của lão. Lệnh Hồ Xung kinh hãi lắp bắp nói:

– Hướng… Hướng…

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Huynh đệ yên tâm, thánh giáo chủ đã nói là tha.

Lão quay đầu nói:

– Tám người đến đây.

Liền có tám giáo đồ mặc áo xanh vượt đám đông đi đến, cúi người nói:

– Kính cẩn tuân lời dặn bảo của Hướng tả sứ.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Phải bốn nam, bốn nữ.

Lập tức bốn tên giáo đồ nam lùi ra, bốn giáo đồ nữ đi lên trước.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bốn người này nói năng bừa bãi, đáng lẽ phải tội chết. Vì thánh giáo chủ khoan dung độ lượng, nể mặt Lệnh Hồ chưởng môn nên không xử trảm. Các ngươi đưa bọn họ xuống núi, giải khai huyệt đạo rồi thả ra.

Tám người cung kính cúi người nhận lệnh. Hướng Vấn Thiên dặn nhỏ:

– Đây là bằng hữu của Lệnh Hồ chưởng môn, không được vô lễ.

Tám người đáp dạ, rồi cõng bốn người xuống núi. Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh thấy bốn người bọn Bất Giới thoát được họa sát thân đều thở phào nhẹ nhõm. Chàng run run nói:

– Đa… đa tạ!

Rồi quỳ phục xuống đất, không đứng dậy được nữa.

Vừa rồi Lệnh Hồ Xung liên tiếp tấn công mười sáu chiêu, tuy bức được tám trưởng lão, nhưng tám trưởng lão này võ công người nào cũng rất tinh thâm nên chiêu kiếm của chàng không thể đả thương được họ. Chàng sử mười sáu chiêu này tuy chỉ trong chớp nhoáng nhưng cũng đã hao tổn rất nhiều tinh lực, ngực và bụng càng đau đớn khôn tả.

Hướng Vấn Thiên rất lo lắng nhưng vẻ mặt vẫn thản nhiên, cười nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ hơi khó chịu phải không?

Ngày trước lão và Lệnh Hồ Xung liên thủ đấu với quần hùng, kết nghĩa kim lan, tuy hai người tương tụ ít ngày, nhưng mối giao tình lại là sinh tử. Lão nắm tay Lệnh Hồ Xung đỡ ngồi vào ghế, ngầm vận chân khí, giúp chàng kháng ngự những luồng chân khí kịch biến trong cơ thể.

Lệnh Hồ Xung nghĩ mình có Hấp tinh đại pháp mà Hướng Vấn Thiên làm cách như vậy, thì chẳng khác nào để cho mình hút lấy công lực của lão, nên chàng vội cố sức cựa quậy để thoát khỏi tay lão, nói:

– Hướng đại ca, đừng! Tiểu đệ… tiểu đệ đã bớt nhiều rồi.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Trong Ngũ Nhạc kiếm phái, chỉ có một phái Hằng Sơn là đến trước phó hội. Còn sư đồ bốn phái kia, lại dám to gan không lên núi, chúng ta không thể khách khí được nữa.

Ngay lúc này, Thượng Quan Vân chạy nhanh lên núi, đi đến trước Tiên Nhân Chưởng, cúi người nói:

– Khải bẩm Thánh giáo chủ, trong sơn động ngọn sám hối, phát hiện ra mấy trăm xác chết. Trong đó có Tả Lãnh Thiền chưởng môn phái Tung Sơn và hảo thủ của các phái Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, không biết bao nhiêu mà kể. Dường như là họ tự tàn sát nhau mà chết.

Nhậm Ngã Hành ủa lên một tiếng hỏi:

– Mạc Đại chưởng môn phái Hành Sơn có ở đó không?

Thượng Quan Vân đáp:

– Thuộc hạ xem xét rất kỹ, trong đống thi thể không có Mạc Đại trong đó, tìm khắp nơi ở Hoa Sơn cũng không phát hiện ra tung tích của lão.

Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh vừa cảm thấy vui mừng vừa kinh ngạc, hai người liếc nhìn nhau đều nghĩ: Mạc Đại tiên sinh hành sự xuất quỷ nhập thần, lại có thể thoát hiểm được, có lẽ lão nằm lẫn vào trong đống xác chết rồi giả chết, cho đến khi gió yên sóng lặng mới ra đi.

Thượng Quan Vân nói tiếp:

– Bọn Ngọc Chung Tử, Ngọc Khánh Tử đều chết ở đó.

Nhậm Ngã Hành trong lòng không vui hỏi:

– Chuyện này… từ đâu mà ra?

Thượng Quan Vân lại nói:

– Ngoài sơn động còn có một xác chết.

Nhậm Ngã Hành vội hỏi:

– Là ai?

Thượng Quan Vân đáp:

– Sau khi thuộc hạ kiểm tra kỹ thì biết đúng là chưởng môn phái Hoa Sơn, cũng là người gần đây mới đoạt được chức chưởng môn Ngũ Nhạc phái, chính là Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần tiên sinh.

Lão biết Lệnh Hồ Xung tương lai tất sẽ chấp chưởng trọng quyền của bổn giáo, mà Nhạc Bất Quần là sư phụ của chàng, vì vậy trong lời nói lão cũng khách khí.

Nhậm Ngã Hành nghe nói Nhạc Bất Quần cũng đã chết, bất giác lão thất vọng tràn trề, hỏi:

– Ai giết lão?

Thượng Quan Vân đáp:

– Lúc thuộc hạ đang kiểm tra trong sơn động trên ngọn sám hối, nghe ngoài cửa động có tiếng xô xát, thuộc hạ liền đi ra xem, thấy bọn phái Hoa Sơn và bọn đạo nhân phái Thái Sơn đánh nhau kịch liệt, cả hai bên đều nói là đối phương đã hại chết sư phụ của phái họ. Song phương đánh nhau rất dữ dội, bị tử thương khá nhiều. Bây giờ bọn còn lại đều đã bị bắt để dưới chân núi, chờ nghe thánh giáo chủ phát lạc.

Nhậm Ngã Hành trầm ngâm nói:

– Nhạc Bất Quần là người bị phái Thái Sơn giết chết ư? Trong phái Thái Sơn có hảo thủ nào ghê vậy?

Nghi Thanh phái Hằng Sơn dõng dạc nói:

– Không phải! Nhạc Bất Quần là do một vị sư muội trong phái Hằng Sơn bần ni giết chết.

Nhậm Ngã Hành hỏi:

– Là ai?

Nghi Thanh đáp:

– Chính là Nghi Lâm tiểu sư muội, người vừa rồi mới xuống núi. Nhạc Bất Quần đã giết chết chưởng môn sư phụ phái Hằng Sơn của bần ni và Định Dật sư thái. Bổn phái từ trên xuống dưới ai cũng căm hận lão thấu xương. Hôm nay nhờ đức Bồ Tát phù hộ, chưởng môn sư phụ và Định Dật sư thái linh thiêng, đã mượn tay tiểu sư muội, một người võ công thấp kém để tru diệt tên hung thủ gian ác này.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Ồ, thì ra là vậy! Thật đúng là lưới trời lồng lộng thưa mà khó thoát.

Ngữ khí của lão rõ ràng đã mất hết hứng thú.

Hướng Vấn Thiên và bọn trưởng lão nhìn nhau, đều cảm thấy mất hứng. Phen này Nhật Nguyệt thần giáo dốc toàn quân đến Hoa Sơn, đã bố trí rất chu toàn, không những hảo thủ toàn giáo được điều động hết mà còn triệu tập thuộc hạ các bang, các trại, các động, các đảo, nhắm vào một mục đích là thu phục Ngũ Nhạc kiếm phái. Nếu ngũ phái không chịu hàng phục thì lập tức quy tụ họ vào một chỗ để tàn sát. Từ đó Nhậm Ngã Hành và Nhật Nguyệt thần giáo sẽ oai chấn thiên hạ, khiến hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang và các phái trong chính giáo không còn phái nào có thể kháng thủ nữa, cơ nghiệp thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ chỉ trông vào cuộc oanh liệt trên ngọn Triêu Dương Hoa Sơn. Không ngờ Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần và mấy tiền bối kỳ cựu của phái Thái Sơn đều tự tàn sát nhau chết hết, Mạc Đại tiên sinh không biết đi hướng nào, bọn đệ tử hậu bối của bốn phái cũng chỉ còn rất ít. Nhậm Ngã Hành tốn bao sức lực suy nghĩ ra kế sách xảo diệu để rồi tất cả đều vô dụng.

Nhậm Ngã Hành càng nghĩ càng tức giận, lớn tiếng quát:

– Đem hết bọn rắm chó còn sống sót của Ngũ Nhạc kiếm phái lên đây cho ta!

Thượng Quan Vân đáp dạ rồi quay người truyền lệnh xuống.

Những luồng chân khí dị chủng trong cơ thể làm Lệnh Hồ Xung đau đớn một hồi rồi dần dần lắng dịu lại. Chàng nghe Nhậm Ngã Hành nói: “Bọn rắm chó còn sống sót của Ngũ Nhạc kiếm phái”, tuy biết lão không có dụng ý mạt sát mình nhưng phái Hằng Sơn cũng có trong hàng Ngũ Nhạc kiếm phái, khiến chàng chạnh lòng.

Qua một lúc sau, nghe tiếng quát tháo om sòm, hai trưởng lão của Nhật Nguyệt thần giáo thống lãnh giáo chúng áp giải ba mươi ba tên đệ tử của bốn phái Hoa Sơn, Tung Sơn, Hành Sơn và Thái Sơn lên đến núi. Đệ tử phái Hoa Sơn vốn khá ít, còn hảo thủ của ba phái Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn lần này đến Hoa Sơn hết chín phần mười đều đã tử chiến. Ba mươi ba tên đệ tử này không những đều thuộc hạng vô danh tiểu tốt mà còn bị thương đầy người, nếu chẳng được giáo chúng Nhật Nguyệt thần giáo dìu lên thì căn bản không ai tự mình lên núi được.

Nhậm Ngã Hành thấy vậy càng tức giận, không đợi bọn đệ tử bốn phái đến gần, liền quát:

– Đem bọn rắm chó này lên đây làm gì? Đem xuống đi, đem xuống mau đi!

Hai trưởng lão ứng đáp:

– Kính cẩn tuân theo lệnh chỉ của thánh giáo chủ.

Hai trưởng lão sai bọn giáo chúng mau đem ba mươi ba tên đệ tử bị thương của bốn phái xuống núi. Nhậm Ngã Hành quát mắng mấy câu rồi đột nhiên nổi một tràng cười ha hả nói:

– Ngũ Nhạc kiếm phái làm nên tội nghiệt trời chẳng dung tha, không cần chúng ta động thủ, bọn chúng cũng tự đưa nhau vào ổ rồi tàn sát lẫn nhau. Từ nay trên giang hồ không còn tên hiệu của chúng nữa.

Hướng Vấn Thiên và mười trưởng lão cùng cúi người nói:

– Đó là nhờ hồng phúc tầy trời của thánh giáo chủ, khiến bọn tiểu quỷ tự tàn sát nhau.

Hướng Vấn Thiên lại nói:

– Trong Ngũ Nhạc kiếm phái, phái Hằng Sơn lại là một phái ưu tú siêu quần, đó là do Lệnh Hồ chưởng môn lãnh đạo có phương pháp. Từ nay về sau, phái Hằng Sơn và thần giáo chúng ta đồng khí liên chi cùng hưởng vinh hoa. Xin cung hỉ thánh giáo chủ có được một nhân tài tuyệt thế vô song, một vị thanh niên anh hiệp phò trợ.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Đúng vậy, Hướng tả sứ nói rất hay. Lệnh Hồ tiểu huynh đệ, từ nay trở đi huynh đệ có thể giải tán phái Hằng Sơn. Các vị sư thái và các nữ đệ tử môn hạ của tiểu huynh đệ, nếu tình nguyện đến Hắc Mộc Nhai chúng ta thì chúng ta rất hoan nghênh, nếu không các vị muốn cứ ở lại Hằng Sơn cũng không sao. Hằng Sơn hạ viện coi như là một cánh thân binh của phó giáo chủ. Ha ha ha ha!

Lão ngẩng mặt lên trời cười dài, tiếng cười làm chấn động cả sơn cốc. Mọi người nghe ba tiếng “phó giáo chủ” đều ngẩn cả ra, nhưng liền hoan hô như sấm động từ bốn phương tám hướng:

– Lệnh Hồ đại hiệp xuất nhiệm chức phó giáo chủ, thật hay quá!

– Cung hỉ thánh giáo chủ có được một trợ thủ tài ba!

– Cung hỉ thánh giáo chủ, cung hỉ phó giáo chủ!

– Thánh giáo chủ muôn năm, phó giáo chủ chín ngàn năm!

Bọn giáo chúng thấy Lệnh Hồ Xung sắp làm nữ tế của giáo chủ, rồi lại lên chức phó giáo chủ, ngôi vị giáo chủ sau này đương nhiên sẽ thuộc về chàng, biết chàng là người ôn hòa thoải mái, sau này mọi người có lẽ không còn phải nơm nớp, sợ bị đại họa đột ngột đổ lên đầu như hiện nay.

Ngoài ra bọn hào sĩ giang hồ ở đây hơn phân nửa đã từng theo Lệnh Hồ Xung tấn công chùa Thiếu Lâm, cùng chàng trải qua hoạn nạn, hoặc được Doanh Doanh ban ân cho thuốc giải, vì vậy tiếng hoan hô chúc mừng đều phát xuất từ tấm lòng thành thật.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Cung hỉ phó giáo chủ. Trước hết, chúng ta uống bát rượu mừng Lệnh Hồ huynh đệ gia nhập bổn giáo, tiếp theo là uống rượu mừng Lệnh Hồ huynh đệ thành thân với đại tiểu thư. Đây gọi là hảo sự thành song, vui càng thêm vui.

Lệnh Hồ Xung lòng bối rối, biết chuyện này vạn vạn lần không được, nhưng không biết nên từ chối ra sao. Chàng lại nghĩ nếu kiên quyết từ chối thì mối lương duyên giữa mình và Doanh Doanh từ đây tuyệt vọng, Nhậm Ngã Hành mà tức giận thì khó tránh khỏi họa sát thân. Chàng chết không đáng tiếc nhưng đệ tử toàn phái Hằng Sơn chỉ e người nào cũng bị táng mạng ở đây. Bây giờ nên lập tức từ chối ngay hay là tạm thời đồng ý để bọn đệ tử Hằng Sơn thoát khỏi nguy hiểm rồi hãy tính? Lệnh Hồ Xung từ từ quay đầu qua nhìn bọn đệ tử Hằng Sơn, thấy có người mặt lộ ra vẻ tức giận, người cúi đầu buồn bã, còn đại đa số hoang mang, không biết nên làm thế nào.

Thượng Quan Vân dõng dạc nói:

– Chúng ta được thánh giáo chủ dẫn đầu, phó giáo chủ trợ giúp thì đánh Thiếu Lâm, diệt Võ Đang, Côn Luân, Nga Mi không cần tấn công mà tất cả tự hàng, rồi muốn diệt Cái bang cũng chỉ là trở bàn tay thôi. Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ! Phó giáo chủ thọ sánh Nam Sơn, phước trạch vô cùng.

Lòng Lệnh Hồ Xung vốn còn do dự chưa quyết định được, nghe Thượng Quan Vân tâng bốc mình bằng tám chữ gì là “Thọ sánh Nam Sơn, phước trạch vô cùng”, so với câu chúc tụng Nhậm Ngã Hành là “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ” dường như kém một bậc, nhưng cũng không bằng sự phân biệt chúc tụng giữa “chín ngàn năm” và “muôn năm”. Nếu chàng chịu làm phó giáo chủ thì tám chữ chúc tụng này từ đây sẽ vĩnh viễn “đi theo”. Lệnh Hồ Xung nghĩ đến chỗ này, cảm thấy rất buồn cười, không nhịn được liền phì một tiếng rồi cười lớn lên.

Hồi 157: Lại cương quyết không vào Thần giáo

Tiếng cười lộ vẻ châm biếm, ai ai cũng đều biết, trong khoảnh khắc trên ngọn Triêu Dương tĩnh lặng không một tiếng động.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn, thánh giáo chủ truyền ngôi cho phó giáo chủ hiền đệ ngồi dưới một người mà đứng trên cao vạn người trong võ lâm khắp thiên hạ. Mau đến tạ ơn đi.

Đột nhiên, Lệnh Hồ Xung hiểu ra, không còn do dự gì nữa, bèn đứng dậy hướng về Tiên Nhân Chưởng lớn tiếng nói:

– Nhậm giáo chủ, vãn bối có hai chuyện, muốn nói rõ với giáo chủ.

Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:

– Nói đi, không sao.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện thứ nhất là vãn bối nhận trọng thác của Định Nhàn sư thái, tiền nhiệm chưởng môn phái Hằng Sơn nhận làm chưởng môn phái Hằng Sơn, dù không thể phát dương quang đại môn hộ phái Hằng Sơn cũng quyết không thể đem nhập phái này vào Nhật Nguyệt thần giáo. Nếu không thì sau này ở dưới cửu tuyền, vãn bối còn mặt mũi nào nhìn Định Nhàn sư thái? Đây là chuyện thứ nhất. Chuyện thứ hai là chuyện riêng, vãn bối cầu xin giáo chủ cho phép hứa phối lệnh ái thiên kim cho vãn bối làm thê tử.

Lúc mọi người nghe chàng nói đến chuyện thứ nhất thì cảm thấy chuyện này hỏng bét, nhưng nghe nói đến chuyện thứ hai công nhiên cầu hôn thì hơi ngạc nhiên.

Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:

– Chuyện thứ nhất thì dễ thôi, Lệnh Hồ tiểu huynh đệ truyền ngôi vị chưởng môn Hằng Sơn cho một vị sư thái nào tiếp nhiệm. Sau khi Lệnh Hồ tiểu huynh đệ gia nhập thần giáo, phái Hằng Sơn có gia nhập hay không từ từ tính sau! Còn chuyện thứ hai, tiểu huynh đệ và Doanh Doanh tình đầu ý hợp thiên hạ đều biết, đương nhiên ta ưng thuận gả cho tiểu huynh đệ làm vợ, hà tất phải lo lắng? Ha ha, ha ha!

Mọi người liền phụ họa theo, đều cười lớn hoan hô.

Lệnh Hồ Xung quay đầu liếc Doanh Doanh một cái thấy hai má cô ửng hồng, mặt lộ vẻ vui mừng. Đợi mọi người cười một lúc, chàng lớn tiếng nói:

– Mỹ ý của giáo chủ mời vãn bối gia nhập quý giáo, còn truyền ngôi vị cao, nhưng vãn bối là một con người không biết giữ quy củ, nếu gia nhập quý giáo, nhất định làm hỏng đại sự của giáo chủ. Vãn bối đã nghĩ kỹ, mong giáo chủ thu lại thành ý này.

Nhậm Ngã Hành lòng đầy tức giận, lạnh lùng nói:

– Nếu nói như vậy, ngươi quyết định không nhập thần giáo ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng vậy.

Hai tiếng này phát ra chắc như đinh đóng cột, tuyệt không chút ngần ngại.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Những luồng chân khí dị chủng tích trữ trong người ngươi hôm nay đã phát tác. Từ nay về sau, nhiều lắm là nửa năm, ít nhất là ba tháng sẽ phát tác lại, những lần sau đó càng lợi hại hơn. Cách hóa giải tà độc này thiên hạ chỉ có một mình ta biết.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngày trước ở Mai trang, Hàng Châu và lúc ở dưới chân núi tuyết Thiếu Thất, giáo chủ đã từng nói đến chuyện này. Vừa rồi vãn bối đã nếm mùi hậu hoạn do chân khí dị chủng phát tác, đúng là giống như thân bị cực hình. Nhưng bậc đại trượng phu đã bước vào chốn giang hồ, dù sống, chết, vui, khổ cũng chẳng màng đến.

Nhậm Ngã Hành hừ một tiếng, nói:

– Ngươi nói hay lắm. Hôm nay phái Hằng Sơn của ngươi đều ở trong tay ta, ta không tha cho bọn họ sống sót một người để xuống núi thì dễ như trở bàn tay.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tuy phái Hằng Sơn đa số đều là hạng nữ lưu, nhưng cũng không khiếp sợ ai. Giáo chủ muốn giết, thì bọn vãn bối thề liều chết nơi đây.

Nghi Thanh vung tay một cái, bọn đệ tử phái Hằng Sơn đều đứng sau lưng Lệnh Hồ Xung. Nghi Thanh dõng dạc nói:

– Đệ tử phái Hằng Sơn ta chỉ tuân theo lệnh của chưởng môn, dù chết cũng không sợ.

Bọn đệ tử cùng nói:

– Dù chết cũng không sợ.

Trịnh Ngạc nói:

– Địch nhiều ta ít, chúng ta lại rơi vào cạm bẫy, ngày sau hảo hán trên giang hồ đều biết phái Hằng Sơn ta thà chết chứ không chịu khuất phục.

Nhậm Ngã Hành tức giận cực điểm, ngửa mặt lên trời cười to, nói:

– Hôm nay nếu ta giết các ngươi thì người đời sẽ nói là ta ngầm bố trí mai phục dùng kế để hãm hại. Lệnh Hồ Xung, ngươi thống lĩnh môn nhân đệ tử về Hằng Sơn đi, trong vòng một tháng, ta sẽ đích thân lên ngọn Kiến Tính. Lúc đó trên Hằng Sơn nếu còn lại một con chó, con gà thì coi như Nhậm mỗ ta chẳng ra gì.

Giáo chúng lớn tiếng hùa theo:

– Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ! Giết sạch phái Hằng Sơn, không để bỏ sót một con gà, con chó!

Thanh thế của Nhật Nguyệt thần giáo, muốn lên ngọn Kiến Tính để tru diệt phái Hằng Sơn, hoặc động thủ ở đây thì cũng khác ở chỗ một phen đi lại mà thôi. Bất luận sau khi phái Hằng Sơn về núi, bố trí phòng bị ra sao thì Nhật Nguyệt thần giáo nhất định vẫn quét sạch sành sanh. Trước đây Ngũ Nhạc kiếm phái địch với Nhật Nguyệt thần giáo, năm phái cùng tương trợ cho nhau, một phái gặp nạn, bốn phái cùng đến giúp sức. Hơn một trăm năm nay cũng chỉ có thể duy trì cục diện quân bình bất phân thắng bại. Bây giờ trong Ngũ Nhạc kiếm phái chỉ còn lại một phái, đương nhiên không cách nào chống cự nổi Nhật Nguyệt thần giáo. Về chuyện này tất cả phái Hằng Sơn ai cũng hiểu. Nhậm Ngã Hành nói muốn giết sạch phái Hằng Sơn không cho sống sót một con gà, con chó không phải là lời hăm dọa suông.

Kỳ thực trong thâm tâm Nhậm Ngã Hành, bây giờ đã có một kế hoạch khác. Kiếm thuật Lệnh Hồ Xung tuy tinh thâm, nhưng một bàn tay khó làm nên tiếng vỗ, phái Hằng Sơn không đủ gây họa. Lòng lão lo lắng kỳ thực là hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang. Lão nghĩ Lệnh Hồ Xung về núi, nhất định sẽ cầu viện hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang, hai phái này nhất định sẽ đem hết lực lượng lên Kiến Tính để tương trợ . Lão sẽ không đánh phái Hằng Sơn mà bất ngờ đánh úp phái Võ Đang, rồi mai phục ba đạo quân hùng hậu giữa hai núi Thiếu Thất và Võ Đang. Núi Võ Đang cách chùa Thiếu Lâm không quá mấy trăm dặm, Võ Đang có nạn, thì đương nhiên sẽ thông báo ngay cho Thiếu Lâm biết. Lúc đó cao thủ chùa Thiếu Lâm phần nhiều đã đến Hằng Sơn, sẽ dốc hết toàn lực còn lại mà chạy đến trợ giúp Võ Đang. Nhật Nguyệt thần giáo sẽ vùng lên phóng hỏa đốt những nơi trọng địa của chùa Thiếu Lâm trước, sau đó đem toàn đạo binh mai phục quay lại giáp công hai mặt, tiêu diệt hết tăng chúng Thiếu Lâm đi cứu viện Võ Đang, rồi ào ạt vây khốn núi Võ Đang nhưng không tấn công vội. Đợi hảo thủ hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang lên Hằng Sơn biết được tin, vượt ngàn dặm quay về Võ Đang, Nhật Nguyệt thần giáo sẽ dùng quân đã sẵn sàng đánh quân địch đang mệt mỏi, nhất định sẽ trọn thắng. Sau đó tấn công Võ Đang, diệt Hằng Sơn dễ như trở bàn tay.

Trong khoảnh khắc lão đã định được đại kế tiêu diệt hai đại kình địch Thiếu Lâm và Võ Đang, bụng suy tính, đoán rằng chín phần mười là thành công. Lệnh Hồ Xung không chịu nhập giáo, tuy làm mất thể diện của lão, nhưng vì cớ này mà đại nghiệp thống nhất giang hồ của Nhật Nguyệt thần giáo thành công, lòng lão vui mừng thật khó mà tả nổi.

Lệnh Hồ Xung nói với Doanh Doanh:

– Doanh muội, Doanh muội không thể đi theo ta ư?

Doanh Doanh mắt ngấn lệ, bây giờ không kìm được nữa, nước mắt chảy dài trên má. Cô nói:

– Nếu tiểu muội theo Xung ca đi Hằng Sơn là bất hiếu; nếu phụ Xung ca lại là bất nghĩa. Hiếu nghĩa khó vẹn toàn, Xung ca, Xung ca từ nay về sau đừng nên nghĩ về tiểu muội nữa. Dù Xung ca…

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Tại sao?

Doanh Doanh nói:

– Dù tính mạng của Xung ca còn chẳng bao lâu, thì tiểu muội cũng quyết không sống hơn Xung ca một ngày.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Gia gia của Doanh muội đã đích thân nói sẽ gả Doanh muội cho ta. Giáo chủ là thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ, há có thể nói mà không giữ lời? Ta và Doanh muội ở đây bái đường thành thân, kết làm vợ chồng được chăng?

Doanh Doanh sửng sốt, tuy cô sớm biết Lệnh Hồ Xung là kẻ to gan ngông cuồng, tính tình thoải mái không chịu gò bó, nhưng cô không ngờ chàng lại nói ra những lời như vậy. Bất giác mặt cô đỏ bừng. Cô nói:

– Chuyện… chuyện này sao có thể vậy được?

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Vậy thì chúng ta từ biệt ở đây.

Chàng rất hiểu tâm ý của Doanh Doanh, đợi Nhậm Ngã Hành thống suất giáo chúng tiến đánh Hằng Sơn, sau khi lão giết chết chàng thì cô sẽ tự sát cho vẹn tình. Chuyện này là thế tất nhiên, không thể khuyên can được. Nếu bây giờ cô ta có thể phá bỏ định kiến, chịu cùng chàng kết thành vợ chồng trên ngọn Triêu Dương rồi cùng về Hằng Sơn, hưởng được mấy ngày trăng mật, sau đó nắm tay nhau cùng chết cũng không oán hận. Nhưng chuyện này quá kinh thế hãi tục, lãng tử Lệnh Hồ Xung cố nhiên có thể không ngần ngại nhưng Nhậm đại tiểu thư cẩn thận, e lệ quyết không chịu làm. Huống hồ làm như vậy thì khiến cô ta phải gánh lấy tội bất hiếu. Lệnh Hồ Xung liền cười ha hả, hướng về Nhậm Ngã Hành cung tay hành lễ rồi quay về Hướng Vấn Thiên và các trưởng lão bốn phía nói:

– Lệnh Hồ Xung ở trên ngọn Kiến Tính để chờ cung nghênh các vị đại giá.

Chàng nói xong quay người bỏ đi. Hướng Vấn Thiên nói:

– Khoan đã! Đem rượu ra đây! Lệnh Hồ huynh đệ, hôm nay không say một trận thì sau này không còn dịp nữa.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tuyệt lắm! Tuyệt lắm! Hướng đại ca đúng là tri kỷ của tiểu đệ.

Phen này Nhật Nguyệt thần giáo đến Hoa Sơn, đã sắp đặt rất chu đáo, trăm thứ đều có đủ, Hướng Vấn Thiên vừa kêu đem rượu liền có thuộc hạ giáo chúng bê mấy vò rượu đến, mở nắp vò ra, rót rượu vào bát. Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung cùng uống cạn một bát.

Trong đám đông một người mập lùn đi ra. Đó là Lão Đầu Tử. Lão nói:

– Lệnh Hồ công tử, đại ân đại đức của công tử, tiểu lão nhi vĩnh viễn không bao giờ quên, hôm nay xin kính công tử một bát.

Lão nói vậy rồi bưng bát rượu uống cạn. Lão chỉ là một tên giang hồ tự do chịu sự quản hạt của Nhật Nguyệt thần giáo, không thể cùng nói ngang hàng như địa vị của Hướng Vấn Thiên được. Hôm nay Lệnh Hồ Xung không chịu nhập giáo, công nhiên đắc tội với Nhậm Ngã Hành, Lão Đầu Tử là một người thấp cổ bé họng lại dám đến kính rượu hắn, e rằng trong chớp mắt thì rước lấy họa sát thân. Lão trọng nghĩa, coi nhẹ mạng sống, tất nhiên đã gạt bỏ sự sinh tử ra ngoài. Quần hào thấy lão to gan như vậy, ai cũng ngấm ngầm khâm phục.

Tiếp theo bọn Tổ Thiên Thu, Kế Vô Thi, Lam Phượng Hoàng, Hoàng Bá Lưu, từng người đến kính rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung hễ rượu đến thì uống cạn, hảo hán đến kính rượu liên tục. Chàng thầm nghĩ: Nhiều bằng hữu coi trọng ta như vậy, Lệnh Hồ Xung này có chết cũng không tiếc, nhưng hà tất làm hại tính mạng của bọn họ. Chàng bưng bát rượu lên nói:

– Các vị bằng hữu, Lệnh Hồ Xung tửu lượng đã quá mức, hôm nay không thể uống thêm nữa. Lúc các vị đến đánh Hằng Sơn, tại hạ sẽ ở dưới chân núi Hằng Sơn rót đầy rượu ngon để tất cả uống say sưa rồi hãy đánh.

Chàng nói xong uống cạn bát rượu. Quần hào cùng reo lên:

– Lệnh Hồ chưởng môn sảng khoái vui vẻ.

Có người la lên:

– Uống rượu say rồi đánh nhau loạn xà ngầu lên cũng rất thú.

Lệnh Hồ Xung ném bát rượu xuống đất, lảo đảo đi xuống núi. Bọn Nghi Hòa, Nghi Thanh và quần đệ tử Hằng Sơn liền đi theo.

Lúc quần hào và Lệnh Hồ Xung uống rượu, Nhậm Ngã Hành chỉ mỉm cười không nói. Lòng lão tính toán rất kỹ, nên sắp đặt ba đạo quân mai phục ra sao giữa hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang; phải giả bộ tấn công Hằng Sơn ra sao mới có thể dẫn dụ được cao thủ hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang đến trợ thủ; phải tấn công, bao vây núi Võ Đang ra sao để chừa một lối có người trong phái Võ Đang chạy ra ngoài cầu viện chùa Thiếu Lâm; lại phải làm sao cho thật giống mới có thể khiến cho đối phương dù có tinh trí nhất cũng không nhìn ra được ý đồ của lão. Đến lúc Lệnh Hồ Xung say khướt đi xuống núi, thì những chi tiết nhỏ phá Võ Đang, khắc Thiếu Lâm của lão tính toán đâu vào đó rồi. Lão lại nghĩ: Những quân này làm bẽ mặt ta, dám kính rượu tiểu tử Lệnh Hồ Xung, từ từ ta sẽ tính sổ các ngươi. Trước mắt ta đang lúc cần dùng người, tạm thời ẩn nhẫn, đợi sau khi tiêu diệt xong ba phái Thiếu Lâm, Võ Đang và Hằng Sơn thì những người đã kính rượu Lệnh Hồ Xung hôm nay sẽ biết tay ta.

Hướng Vấn Thiên bỗng nói:

– Tất cả nghe đây: Thánh giáo chủ biết rõ Lệnh Hồ Xung quật cường ngoan cố, không nhận sự cất nhắc đề bạt, nhưng vẫn nói lời tử tế khuyên nhủ, cố nhiên Thánh giáo chủ có lòng quảng đại, mến mộ nhân tài, nhưng còn có một thâm ý khác mà Lệnh Hồ Xung lỗ mãng chẳng thể biết được. Hôm nay, chúng ta không hề phí chút sức lực mà diệt được bốn phái Tung Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn; Nhật Nguyệt thần giáo oai danh đại chấn.

Giáo chúng cùng hoan hô:

– Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ!

Hướng Vấn Thiên đợi tiếng hoan hô lắng lại mới nói tiếp:

– Trong võ lâm còn có hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang là mối họa canh cánh của bổn giáo; thánh giáo chủ đang muốn sắp đặt diệu kế để quét sạch Thiếu Lâm, tru diệt Võ Đang. Thánh giáo chủ đã tính toán kỹ càng, đã nắm chắc thành công. Thánh giáo chủ lão nhân gia đoán chắc Lệnh Hồ Xung không chịu nhập giáo, quả nhiên là đúng như vậy. Mọi người kính rượu Lệnh Hồ Xung cũng không vượt ra ngoài sự tiên liệu của thánh giáo chủ.

Mọi người nghe vậy, trong lòng đều nghĩ:

– Thì ra là như vậy!

Tất cả đều lớn tiếng nói:

– Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ!

Hướng Vấn Thiên theo Nhậm Ngã Hành nhiều năm, biết rõ con người của Nhậm Ngã Hành. Lão nhất thời kích động nghĩa khí, mời rượu Lệnh Hồ Xung, chuyện này nhất định làm cho Nhậm Ngã Hành không vui. Một mình lão còn đỡ, nhưng còn những người kia cũng mừng rượu Lệnh Hồ Xung theo lão, tất không tránh khỏi họa sát thân. Lão nói như vậy để giữ thể diện cho Nhậm Ngã Hành, cũng mong những lời nói này có thể cứu được tính mạng của bọn Lão Đầu Tử, Kế Vô Thi. Nói như vậy thì chuyện mọi người mừng rượu Lệnh Hồ Xung chẳng những không làm tổn hại uy lực của Nhậm Ngã Hành mà còn tỏ rõ Nhậm Ngã Hành là người nhìn xa thấy rộng, đoán việc như thần.

Nhậm Ngã Hành nghe Hướng Vấn Thiên giải thích như vậy thì lòng rất vui, thầm nghĩ: Vì Hướng tả sứ theo ta nhiều năm nên biết rõ tâm ý ta. Tuy tả sứ biết ta muốn quét sạch Thiếu Lâm, tru diệt Võ Đang, nhưng cách tiêu diệt thế nào thì tả sứ không đoán được. Đây là một chiến lược trọng đại ta đã tính từng bước một, trước khi ra tay, ngay cả tả sứ cũng không được biết.

Thượng Quan Vân lớn tiếng nói:

– Thánh giáo chủ cơ trí khôn lường, đại sự trong thiên hạ đều nằm trong sự tính toán của thánh giáo chủ lão nhân gia. Thánh giáo chủ lão nhân gia nói gì thì mọi người cứ làm như vậy, không cách nào sai được.

Bảo Đại Sở nói:

– Thánh giáo chủ chỉ cần nhấc một ngón tay út lên thì chúng ta dù có vào dầu sôi lửa bỏng, muôn thác cũng không từ nan.

Tần Vĩ Bang nói:

– Làm việc cho thánh giáo chủ dù có chết mười vạn lần cũng còn hơn sống một cách hồ đồ.

Lại một người nói:

– Các huynh đệ đều nói, trong đời người, mấy ngày nay là có ý nghĩa nhất, chúng ta mỗi ngày đều được thấy thánh giáo chủ. Một lần thấy thánh giáo chủ, kình lực phát huy, tinh thần phấn chấn, còn hơn khổ luyện nội công mười năm.

Người khác nói:

– Thánh giáo chủ tỏa hào quang khắp thiên hạ, giống như Nhật Nguyệt thần giáo ta trạch bị thương sinh, giống như bầu trời đại hạn mà gặp mưa rào, ai ai cũng vui mừng, lòng cảm ân đức đến vô tận.

Lại có một người nói:

– Từ xưa đến nay trong đại anh hùng, đại hào kiệt, đại thánh hiền chưa có người nào có thể sánh bằng thánh giáo chủ. Võ công của Khổng Phu Tử đâu có cao cường bằng thánh giáo chủ? Quan vương gia (Quan Vũ) là kẻ hữu dũng thất phu, đâu có cơ trí bằng thánh giáo chủ? Gia Cát Lượng kế sách tuy cao, biểu lão tỉ kiếm với thánh giáo chủ của chúng ta thử xem?

Giáo chúng cũng hoan hô, la lên:

– Khổng Phu Tử, Quan vương gia, Gia Cát Lượng ai ai cũng không bằng thánh giáo chủ của chúng ta.

Bảo Đại Sở nói:

– Sau khi thần giáo chúng ta thống nhất giang hồ, thì đem tượng Khổng Phu Tử trong Văn miếu liệng đi hết, đem tượng thần Quan vương gia trong Võ miếu thỉnh đi chỗ khác, mời hai vị nhường ngôi vị để thờ thánh giáo chủ trường sinh lộc vị của chúng ta.

Thượng Quan Vân nói:

– Thánh giáo chủ sống ngàn vạn năm! Con cháu mười tám đời của chúng ta đều ở dưới trướng thánh giáo chủ để được thánh giáo chủ lão nhân gia dạy bảo.

Mọi người cùng rống lên:

– Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ! Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ!

Nhậm Ngã Hành nghe giáo chúng thuộc hạ nịnh hót như sóng dậy, tuy có những lời quá hoang đường, nhưng cũng bùi tai, thầm nghĩ: Những lời này kỳ thực cũng đúng. Gia Cát Lượng võ công cố nhiên không phải là địch thủ của ta, lão sáu lần ra Kỳ Sơn mà chưa gây dựng được chút công lao, nói đến mưu trí chẳng lẽ lại bằng được ta? Quan Vân Trường qua năm cửa ải, chém sáu tướng, cố nhiên rất thần dũng, nhưng nếu đơn đả độc đấu với ta làm sao có thể thắng được Hấp tinh đại pháp của ta? Đệ tử của Khổng Phu Tử không quá ba ngàn người, còn giáo chúng thuộc hạ của ta đâu chỉ có ba vạn? Lão thống lãnh ba ngàn đệ tử hớt hơ hớt hải chạy Đông chạy Tây, hết lương thực ở đất Trần, bó tay không có kế sách gì. Ta thống lãnh mấy vạn giáo chúng, tung hoành thiên hạ, lòng muốn gì thì không ai ngăn cản nổi. Tài trí của Khổng Phu Tử mà so sánh với Nhậm Ngã Hành ta thì còn kém xa nhiều.

Nghe tiếng hô “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ! Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ!” chấn động địa đạo, hào sĩ giang hồ đứng ở giữa núi cũng tung hô theo, bốn phía quần sơn âm hưởng vang dội lại. Nhậm Ngã Hành đắc ý, đứng dậy.

Giáo chúng thấy lão đứng dậy, cùng bái phục sát đất. Trong khoảnh khắc trên ngọn Triêu Dương yên lặng, không một tiếng động.

Ánh mặt trời chiếu lên người Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo oai phong lẫm lẫm như thiên thần. Nhậm Ngã Hành cười ha hả, nói:

– Những mong thiên thu vạn tải, vĩnh viễn như hôm…

Lão mới nói đến chữ “hôm”, đột nhiên thanh âm nín lại. Lão vận khí, muốn nói ra chữ “nay”, nhưng cảm thấy ngực co rúm lại, chữ “nay” không sao thốt ra được. Lão đưa tay phải đè lên ngực, muốn ngăn luồng máu nóng đang trào lên yết hầu, cảm thấy đầu choáng váng, mắt nảy đom đóm.

Hồi 158: Lên Hằng Sơn, quần hùng kháng địch

Lệnh Hồ Xung say khướt xuống núi, cho đến nửa đêm mới tỉnh. Sau khi tỉnh rượu, chàng mới biết mình đang ở nơi khoáng dã, quần đệ tử Hằng Sơn ngồi ở xa xa canh gác. Lệnh Hồ Xung đầu đau như búa bổ, nghĩ từ nay về sau không còn cơ hội gặp Doanh Doanh nữa, bất giác lòng đau nhói.

Đoàn người về đến ngọn Kiến Tính Hằng Sơn, tế cáo trước linh vị của ba vị sư thái Định Nhàn, Định Tĩnh, Định Dật đại thù đã trả. Mọi người đoán rằng Nhật Nguyệt giáo sớm muộn gì cũng đến tấn công. Sau trận chiến, phái Hằng Sơn nhất định bị tiêu diệt. Đã sớm biết không sao thắng được nên mọi người thấy lòng thư thái, không còn lo lắng nữa. Vợ chồng Bất Giới, Nghi Lâm và Điền Bá Quang bốn người ở dưới Hoa Sơn đã tương hội với mọi người rồi cùng về Hằng Sơn. Mọi người đều nghĩ dù có chuyên cần luyện công, chẳng qua cũng chỉ để giết thêm mấy giáo chúng của Nhật Nguyệt giáo, chẳng lợi ích gì, nên tất cả không màng đến việc luyện kiếm nữa. Trong những ngày này, tất cả đều ung dung tự tại.

Qua mấy hôm sau, trên ngọn Kiến Tính bỗng có mười tăng nhân lên, người đi đầu là Phương Chứng phương trượng đại sư chùa Thiếu Lâm.

Lệnh Hồ Xung đang ở trong chủ am tự rót rượu uống một mình, rồi vỗ bàn ca hát râm ran làm vui, bỗng nghe Phương Chứng đại sư đến, chàng vừa ngạc nhiên vừa vui mừng vội chạy ra nghênh tiếp. Phương Chứng đại sư thấy hắn đi chân không, giày không kịp mang, mặt đầy tửu khí, mỉm cười nói:

– Cổ nhân thấy khách đến ra nghênh đón, còn nhớ mang giày. Lệnh Hồ chưởng môn ra nghênh tiếp không kịp mang giày, đãi khách còn thành tâm hơn cả cổ nhân nữa.

Lệnh Hồ Xung cúi người hành lễ nói:

– Phương trượng đại sư quang lâm, Lệnh Hồ Xung không biết để nghênh đón từ xa, thật rất vô lễ. Phương Sinh đại sư cũng đến ư?

Phương Sinh mỉm cười. Lệnh Hồ Xung thấy tám vị tăng nhân khác râu đều bạc phơ, hắn khấu đầu hỏi pháp hiệu, đều là cao tăng thuộc hàng chữ Phương của chùa Thiếu Lâm. Lệnh Hồ Xung mời các vị cao tăng vào trong am, ngồi trên bồ đoàn.

Chủ am vốn là nơi thanh tu của Định Nhàn sư thái, nên không có một hạt bụi. Từ khi Lệnh Hồ Xung vào ở, trong am vò rượu, bát rượu để tứ tung. Lệnh Hồ Xung đỏ mặt nói:

– Tiểu tử không có trật tự ngăn nắp, xin các vị đại sư đừng trách.

Phương Chứng mỉm cười nói:

– Hôm nay lão nạp lên núi, vì có chuyện muốn bàn bạc, Lệnh Hồ chưởng môn không cần khách khí.

Lão ngừng một lúc rồi nói:

– Nghe nói Lệnh Hồ chưởng môn vì bảo vệ phái Hằng Sơn mà không nhận ngôi vị phó giáo chủ của Nhật Nguyệt giáo, đem tính mệnh bỏ ra ngoài, đành lòng cắt đứt mối lương duyên với Nhậm đại tiểu thư, người đồng tâm sinh tử với mình, võ lâm biết ai cũng khâm phục.

Lệnh Hồ Xung sửng sốt, thầm nghĩ: Ta không muốn vì một phái Hằng Sơn mà làm liên lụy đồng đạo võ lâm nên không cho đệ tử bổn phái tiết lộ chuyện này, để các phái Thiếu Lâm, Võ Đang khỏi đến cứu viện, đại động can qua, chết chóc nhiều. Không ngờ Phương Chứng đại sư lại biết được tin này.

Hắn bèn nói:

– Đại sư khen ngợi như vậy khiến vãn bối rất hổ thẹn. Giữa vãn bối và Nhậm giáo chủ Nhật Nguyệt giáo có rất nhiều ân oán rối rắm, nói không hết được. Phụ ân nghĩa của Nhậm đại tiểu thư là chuyện bất đắc dĩ, đại sư không trách phạt mà còn khen ngợi, vãn bối vạn lần không dám nhận.

Phương Chứng đại sư nói:

– Nhậm giáo chủ muốn thống lãnh giáo chúng đến gây khó dễ cho quý phái. Hôm nay, bốn phái Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn đều đã suy vi, nếu phái Hằng Sơn không có viện thủ bên ngoài, Lệnh Hồ chưởng môn lại không phái người đến tệ tự báo tin. Chẳng lẽ coi tăng chúng Thiếu Lâm lão nạp là hạng ham sống sợ chết, không biết gì nghĩa khí võ lâm hay sao?

Lệnh Hồ Xung đứng dậy nói:

– Vãn bối không dám. Năm trước vãn bối không tự kiểm điểm, kết giao với nhân vật đầu não của Nhật Nguyệt giáo, từ đó về sau gặp vô số họa. Vãn bối tự nghĩ mình làm mình chịu, để liên lụy cả phái Hằng Sơn đã rất áy náy, làm sao còn làm kinh động đại sư và Xung Hư đạo trưởng? Nếu hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang trượng nghĩa đến cứu viện, tổn thất nhân thủ thì tội của vãn bối thật vạn lần chết cũng không đền nổi.

Phương Chứng mỉm cười nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn nói vậy là sai rồi. Ma giáo muốn hủy diệt Thiếu Lâm, Võ Đang và Ngũ Nhạc kiếm phái. Hơn một trăm năm trước họ đã có ý đồ này, lúc đó lão nạp còn chưa ra đời, đâu có liên can gì đến Lệnh Hồ chưởng môn?

Lệnh Hồ Xung gật đầu, nói:

– Ngày trước tiên sư thường giáo hối, xưa nay chính tà không đội trời chung, Ma giáo và các phái chính giáo ta đã tương đấu nhiều năm, thù oán rất nặng. Vãn bối kiến thức nông cạn, cho rằng song phương mỗi bên nhường một bước thì có thể hóa giải được, tuyệt không ngờ Nhậm giáo chủ và vãn bối tình nghĩa tuy thâm sâu, cuối cùng rồi cũng phải nói chuyện bằng binh đao.

Phương Chứng nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn nói song phương mỗi bên nhường một bước thì có thể hóa giải được, câu nói này cũng không sai. Nhật Nguyệt giáo và các phái chính giáo ta tương đấu nhiều năm, kỳ thực cũng không phải là nguyên nhân liều một mất một còn, mà chỉ vì thủ lĩnh của song phương đều muốn độc bá võ lâm, lại muốn tru diệt đối phương. Ngày hôm đó lão nạp, Xung Hư đạo trưởng và Lệnh Hồ chưởng môn, ba người đàm đạo trong chùa Huyền Không, hiểu rõ Tả chưởng môn phái Tung Sơn muốn hợp nhất Ngũ Nhạc kiếm phái làm một nên lo lắng, càng sợ dã tâm muốn độc bá võ lâm của lão.

Lão nói xong, thở dài rồi từ từ nói:

– Nghe nói giáo chủ Nhật Nguyệt giáo có câu nói, cái gì là “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”. Đã có ý đồ như vậy thì trong võ lâm làm sao có ngày yên ổn được? Trên giang hồ, các bang các phái đều theo tông chỉ hành sự, võ công lại bất đồng. Thống nhất giang hồ, vạn lần không thể được.

Lệnh Hồ Xung hiểu ý, gật đầu nói:

– Phương trượng đại sư nói rất phải.

Phương Chứng nói:

– Nhậm giáo chủ đã nói trong vòng một tháng sẽ giết hết phái Hằng Sơn không để lại một con gà con chó. Lão đã nói như vậy, quyết không thay đổi. Hiện tại hảo thủ của các phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Côn Luân, Nga My, Không Động, đều đã tụ tập ở chân núi Hằng Sơn.

Lệnh Hồ Xung giật mình, a lên một tiếng, nhảy phóc lên nói:

– Có chuyện như vậy ư? Tiền bối các phái đến cứu viện, vãn bối lại không hề biết, thật đáng chết.

Phái Hằng Sơn đã biết Ma giáo sớm muộn gì cũng đến tấn công, ai ai cũng đều bỏ mặc, cái gì canh gác, cái gì phòng ngự đều chỉ hao hơi tốn sức, cho nên các trạm canh gác ở dưới núi cũng dẹp bỏ luôn. Lệnh Hồ Xung nói:

– Mời các vị đại sư ở trên núi nghỉ ngơi, vãn bối thống lãnh đệ tử bổn môn xuống núi nghênh tiếp.

Phương Chứng lắc đầu nói:

– Phen này các phái đồng thuyền cộng tế, nắm tay nhau kháng địch, không cần phải khách sáo. Tất cả mọi người đều đã sắp đặt xong.

Lệnh Hồ Xung dạ rồi lại hỏi:

– Không hiểu tại sao phương trượng đại sư biết được Nhật Nguyệt giáo muốn đánh Hằng Sơn?

Phương Chứng nói:

– Lão nạp nhận được truyền thư của một vị tiền bối nên mới biết được.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Tiền bối ư?

Chàng nghĩ Phương Chứng đại sư là hàng tiền bối trong võ lâm, làm sao còn có người là tiền bối của lão. Phương Chứng mỉm cười nói:

– Vị tiền bối này là người kỳ cựu của phái Hoa Sơn, người đã từng dạy kiếm pháp cho Lệnh Hồ chưởng môn đó.

Lệnh Hồ Xung vui mừng reo lên:

– Phong thái sư thúc tổ.

Phương Chứng nói:

– Đúng là Phong lão tiền bối. Vị Phong tiền bối này phái sáu vị bằng hữu đến chùa Thiếu Lâm thuật lại các lời nói và hành động của Lệnh Hồ chưởng môn ngày hôm trước ở trên ngọn Triêu Dương. Sáu vị bằng hữu này nói năng có chút lằng nhằng không rõ ràng, không khỏi vớ vẩn, rồi lại cùng nhau tranh biện, nhưng nói hết mấy canh giờ, lão nạp vẫn nhẫn nại nghe, cuối cùng cũng hiểu được.

Lão nói đến đây, không nhịn được, mỉm cười. Lệnh Hồ Xung cười hỏi:

– Là Đào Cốc lục tiên ư?

Phương Chứng cười đáp:

– Đúng là Đào Cốc lục tiên.

Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Sau khi vãn bối đến Hoa Sơn, liền muốn đi bái kiến Phong thái sư thúc tổ nhưng có quá nhiều chuyện dồn dập xảy đến nên cho đến khi xuống núi vẫn chưa thể đi bái kiến lão nhân gia được. Không ngờ lão nhân gia đã ngầm biết rõ hết.

Phương Chứng nói:

– Vị Phong tiền bối này hành sự như thần long, thấy đầu mà không thấy đuôi. Tiền bối lão nhân gia đã ẩn cư ở Hoa Sơn, Nhật Nguyệt giáo lên Hoa Sơn hoành hành không úy kỵ gì, tiền bối lão nhân gia sao có thể làm ngơ được? Đào Cốc lục tiên náo loạn ở Hoa Sơn, liền bị Phong lão tiền bối bắt lại nhốt hết mấy ngày, sau đó bảo bọn họ đến chùa Thiếu Lâm truyền tin.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Đào Cốc lục tiên bị Phong thái sư thúc tổ bắt giữ, chuyện này nhất định bọn họ sẽ giấu nhẹm không dám nói ra, nhưng lúc nói Đông nói Tây thì cuối cùng cũng để lộ tẩy.

Chàng bèn nói:

– Không biết Phong thái sư thúc tổ muốn chúng ta làm thế nào?

Phương Chứng nói:

– Phong lão tiền bối nói rất khiêm cung, chỉ nói nghe được có mấy chuyện, chủ ý sai người thông báo cho lão nạp biết. Lại nói Lệnh Hồ chưởng môn là đệ tử lão nhân gia yêu mến nhất, phen này Lệnh Hồ chưởng môn ở trên ngọn Triêu Dương kiên cường cự tuyệt Ma giáo, tiền bối lão nhân gia thấy vậy lòng rất vui, muốn lão nạp hết lòng chiếu cố Lệnh Hồ chưởng môn. Kỳ thực võ công của Lệnh Hồ chưởng môn còn hơn xa lão nạp, hai chữ “chiếu cố” tiền bối lão nhân gia đã nói quá lời.

Lệnh Hồ Xung cảm kích, cúi người nói:

– Phương Chứng đại sư chiếu cố vãn bối, đâu chỉ một lần.

Phương Chứng nói:

– Không dám nhận. Lão nạp đã biết chuyện này, đừng nói Phong lão tiền bối có sai bảo, nếu không có đi nữa thì mối quan hệ thâm sâu giữa hai phái ta, giao tình giữa Lệnh Hồ chưởng môn và lão nạp, phái Thiếu Lâm cũng không thể khoanh tay. Huống chi chuyện này có liên quan đến sự sinh tử tồn vong của các phái, sau khi Ma giáo tiêu diệt Hằng Sơn rồi, chẳng lẽ còn buông tha cho các phái Thiếu Lâm, Võ Đang? Cho nên, lão nạp liền phát thư, báo cho các phái tụ tập ở Hằng Sơn, cùng quyết tử chiến với Ma giáo một trận.

Ngày hôm đó, Lệnh Hồ Xung đi xuống ngọn Triêu Dương Hoa Sơn, đã quá chán nản trong lòng, thấy thanh thế Nhật Nguyệt giáo như vậy, phái Hằng Sơn quyết không phải là địch thủ, chỉ chờ ngày Nhậm Ngã Hành thống lãnh giáo chúng đến tấn công, phái Hằng Sơn từ trên xuống dưới sẽ ra sức kháng cự, liều mạng tử chiến. Tuy cũng có người tỏ ý muốn cầu cứu các phái Thiếu Lâm, Võ Đang, nhưng Lệnh Hồ Xung chỉ hỏi một câu:

– Dù hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang cùng đến cứu viện thì liệu có kháng cự nổi Ma giáo không?

Người đưa ý kiến đều im lặng. Lệnh Hồ Xung lại nói:

– Đã không cách nào cứu được Hằng Sơn thì hà tất phải làm liên lụy khiến không ít cao thủ hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang bị tổn thất?

Trong lòng Lệnh Hồ Xung thực sự không muốn đấu nhau với bọn Nhậm Ngã Hành, Hướng Vấn Thiên. Hy vọng cùng chung sống với Doanh Doanh đã tuyệt, không biết sao chàng muốn buông xuôi, cảm thấy sống trên đời này thật là vô vị, chi bằng sớm chết đi còn hay hơn. Bây giờ thấy Phương Chứng đại sư nhận sự ủy thác của Phong Thanh Dương, dốc lòng đến cứu viện, tinh thần chàng phấn chấn. Nhưng muốn những người này tương đấu liều chết với Nhật Nguyệt giáo thì chàng không đành lòng.

Phương Chứng lại nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, lão nạp quyết không phải là người hiếu dũng. Nếu chuyện này có thể đi đến chỗ bãi binh thì còn gì hay bằng, nhưng chúng ta nhường một bước, Nhậm giáo chủ tiến một bước. Không phải là chúng ta không chịu nhượng, mà là Nhậm giáo chủ quyết tâm tru diệt tất cả các phái chính giáo ta, trừ khi chúng ta ai ai cũng phải khấu đầu lớn tiếng tung hô: “Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”. A Di Đà Phật!

Sau mười một chữ “Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”, lão còn thêm một câu A Di Đà Phật, nghe thật tức cười. Lệnh Hồ Xung không kìm được phì cười, nói:

– Đúng vậy. Vãn bối chỉ cần vừa nghe đến cái gì thánh giáo chủ, cái gì thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ, cả người phát nổi da gà. Vãn bối uống ba chục bát rượu không say, mà nghe mấy câu: “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ” thì không nhịn được, đầu nhức mắt hoa liền say ngã tại chỗ.

Phương Chứng mỉm cười nói:

– Câu xưng tụng này của Nhật Nguyệt giáo thật là quá sức.

Lão ngừng một lúc rồi nói tiếp:

– Phong tiền bối ở trên ngọn Triêu Dương thấy cảnh Lệnh Hồ chưởng môn đầu váng mắt hoa, nên sai Đào Cốc lục tiên đem đến một thiên khẩu quyết nội công, muốn lão nạp thay mặt truyền cho Lệnh Hồ chưởng môn. Đào Cốc lục tiên ăn nói dây dưa không rõ ràng, nhưng truyền lại bí quyết nội công thì rất rành mạch, ngay những câu rất khó thuộc, Phong tiền bối cũng buộc họ học thuộc. Xin Lệnh Hồ chưởng môn dẫn đường đến nội đường để lão nạp truyền thụ khẩu quyết.

Lệnh Hồ Xung cung kính dẫn Phương Chứng đại sư vào một gian tịnh thất. Đây là khẩu quyết Phong Thanh Dương nhờ Phương Chứng thay mặt truyền lại, giống như thái sư thúc tổ đích thân quang lâm. Chàng liền quỳ xuống trước Phương Chứng nói:

– Phong thái sư thúc tổ đối với đệ tử ân đức như núi.

Phương Chứng cũng không khiêm nhượng, nhận lễ quỳ lạy của Lệnh Hồ Xung, nói:

– Phong tiền bối rất kỳ vọng vào Lệnh Hồ chưởng môn, mong chưởng môn dựa theo khẩu quyết mà chuyên cần tu tập.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Dạ, đệ tử xin tuân mệnh.

Phương Chứng liền từ từ đọc từng câu khẩu quyết ra, Lệnh Hồ Xung dụng tâm ghi nhớ. Khẩu quyết này cũng không dài lắm, tất cả chỉ khoảng hơn một ngàn chữ. Phương Chứng đọc qua một lượt, muốn Lệnh Hồ Xung cố ghi khắc trong lòng. Qua một lúc sau, lão đọc lại một lượt nữa. Tổng cộng lão đọc năm lần. Lệnh Hồ Xung thuộc từ đầu đến cuối, không lẫn một chữ.

Phương Chứng nói:

– Nội công tâm pháp Phong tiền bối truyền thụ tuy ngắn gọn chỉ một ngàn chữ nhưng bác đại tinh thâm, không phải tầm thường. Chúng ta là chỗ tri giao, đừng giận lão nạp nói thẳng. Tuy kiếm thuật Lệnh Hồ chưởng môn tinh thâm, nhưng nội công thì dường như không giỏi.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đối với nội công, vãn bối chỉ biết chút xíu. Đại sư không chê, xin chỉ điểm thêm.

Phương Chứng gật đầu nói:

– Nội công tâm pháp này của Phong tiền bối và nội công của phái Thiếu Lâm đương nhiên không giống nhau, nhưng võ công trong thiên hạ cùng hướng tới mục đích giống nhau, yếu chỉ căn bản trong đó cũng không khác nhau lắm. Nếu Lệnh Hồ chưởng môn không chê lão nạp vẽ chuyện thì để lão nạp giải thích thêm cho.

Lệnh Hồ Xung biết Phương Chứng đại sư là cao nhân đệ nhất đệ nhị trong võ lâm đương thời, được lão chỉ điểm cũng không khác gì Phong thái sư thúc tổ đích thân truyền thụ. Sở dĩ Phong thái sư thúc tổ ủy thác lão truyền thụ cũng là nguyên nhân nội công của lão tinh thâm. Chàng vội cúi người nói:

– Vãn bối xin kính cẩn nghe lời giáo hối của đại sư.

Phương Chứng nói:

– Không dám nhận.

Lão liền đem nội công tâm pháp giảng rõ từng câu một, lại chỉ điểm cách hít thở, vận khí, thu nạp, vận chuyển… Lệnh Hồ Xung học thuộc khẩu quyết, vốn chỉ là cố nhớ, nay được Phương Chứng đại sư phân tích chỉ rõ như vậy, mới biết trong mỗi câu khẩu quyết đều bao hàm vô số đạo lý tinh ảo.

Lệnh Hồ Xung vốn rất thông minh, nhưng những tinh yếu nội công này mỗi câu cũng đủ để chàng suy nghĩ nửa ngày. May mà Phương Chứng đại sư giảng tỉ mỉ tường tận, khiến cho Lệnh Hồ Xung liền thấy được cảnh giới kỳ diệu mà mình chưa bao giờ bước chân đến trong võ học. Chàng thở dài nói:

– Phương trượng đại sư, mấy năm nay vãn bối to gan làm càn trên giang hồ, thật sự vì không biết mình kém cỏi, nghĩ lại thật là xấu hổ. Tuy vãn bối sống không còn bao lâu nữa, không cách nào tu luyện nội công tinh diệu của Phong thái sư thúc tổ truyền thụ, nhưng cổ nhân dường như có một câu, nói cái gì chỉ cần sáng sớm nghe được đạo lý, dù tối chết cũng không tiếc. Có phải như vậy không?

Phương Chứng nói:

– Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ! (Sớm nghe đạo, tối chết cũng không tiếc).

Lệnh Hồ Xung nói:

– Phải rồi, câu này vãn bối nghe sư phụ nói qua rồi. Hôm nay được nghe đại sư chỉ điểm, thật giống như đui mù được gặp ánh sáng, dù không có ngày tu luyện cũng lấy làm vui thú.

Phương Chứng nói:

– Các phái chính giáo ta đều đã tụ tập ở gần núi Hằng Sơn, giữ các chỗ yếu đạo. Đợi Ma giáo đến tấn công, tất cả mọi người tiến thoái lựa thời cơ đánh cũng chưa chắc thua. Lệnh Hồ chưởng môn hà tất bi quan như vậy? Nội công tâm pháp này chẳng phải trong mấy năm có thể luyện thành, nhưng luyện một ngày thì thu được kết quả một ngày, luyện một giờ thì thu kết quả một giờ. Mấy ngày này rảnh rỗi không có chuyện gì, Lệnh Hồ chưởng môn có thể luyện được rồi. Tiện dịp lão nạp ở quý phái quấy nhiễu, chúng ta cùng nhau nghiên cứu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thịnh tình của đại sư, vãn bối cảm kích vô cùng.

Phương Chứng nói:

– Bây giờ không chừng Xung Hư đạo huynh cũng đã đến, chúng ta ra ngoài xem sao.

Lệnh Hồ Xung vội đứng dậy, nói:

– Thì ra Xung Hư đạo trưởng đại giá quang lâm, vãn bối thật chểnh mảng.

Chàng liền cùng Phương Chứng đại sư quay về đại đường, thấy trong Phật đường đã thắp đèn sáng. Hai người truyền, luyện công cũng mất hết hơn ba canh giờ, trời đã tối đen.

Thấy ba lão đạo đang ngồi trên bồ đoàn nói chuyện với bọn Phương Sinh đại sư, một người trong đó là Xung Hư đạo nhân. Ba đạo nhân thấy Phương Chứng và Lệnh Hồ Xung đến, liền cùng đứng lên.

Lệnh Hồ Xung bái xuống, nói:

– Hằng Sơn có nạn, được chư vị đạo trưởng vượt ngàn dặm đến cứu viện, tệ phái từ trên xuống dưới không biết lấy gì báo đáp.

Xung Hư đạo nhân vội đỡ chàng dậy, cười nói:

– Lão đạo đến một lúc rồi, được biết phương trượng đại sư và tiểu huynh đệ đang ở trong nội thất nghiên cứu nội công tinh diệu nên không dám quấy nhiễu. Tiểu huynh đệ học được nội công tinh diệu, được lúc nào hay lúc nấy, đợi Nhậm Ngã Hành lên, liền sử ra ngay khiến lão phải thất kinh.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nội công tâm pháp này bác đại tinh thâm, trong vòng mấy ngày vãn bối đâu thể học được hết. Nghe nói tiền bối các phái Nga My, Côn Luân, Không Động cũng đều đến rồi, phải mời các vị lên trên núi, cùng thương nghị đại kế mới phải. Không biết các vị tiền bối tính sao?

Xung Hư nói:

– Bọn họ ẩn ở nơi rất bí mật, đề phòng bọn thám tử của Nhậm lão ma đầu biết, nếu mời tất cả lên núi chỉ e bị lộ tin tức. Lúc bọn lão đạo lên núi cũng đều hóa trang hết, nếu không thì tại sao đệ tử quý phái không nhận ra để lên thông báo trước?

Lệnh Hồ Xung nhớ lại lúc đầu tiên gặp Xung Hư đạo nhân, lão cũng hóa trang thành một lão già cưỡi lừa, có hai hán tử đi theo, kỳ thực cũng đều là cao thủ trong phái Võ Đang. Bây giờ chàng nhìn kỹ, nhận ra hai vị lão đạo đang đứng bên cạnh chính là hai hán tử ngày trước ở Hồ Bắc mà chàng đã từng tỉ kiếm qua. Lệnh Hồ Xung cúi người cười nói:

– Thuật cải trang của hai vị đạo trưởng rất tinh thâm, nếu không được Xung Hư đạo trưởng đề cập trước thì vãn bối không nhận ra được.

Ngày trước hai lão đạo này cải trang thành người nhà quê, một người gánh củi, một người gánh rau, cả hai ho sù sụ, giống như người bệnh hoạn. Bây giờ cả hai tinh thần quắc thước, chỉ có khuôn mặt còn mơ hồ nhận ra được.

Xung Hư chỉ vào lão đạo ngày trước cải trang thành hán tử gánh củi nói:

– Vị này là Thanh Hư sư đệ.

Lão chỉ lão đạo ngày trước cải trang thành hán tử gánh rau, nói:

– Vị này là sư điệt của lão đạo, đạo hiệu là Thành Cao.

Bốn người nhìn nhau cười. Thanh Hư và Thành Cao cùng nói:

– Kiếm thuật của Lệnh Hồ chưởng môn thật cao minh.

Lệnh Hồ Xung khiêm tốn cảm ơn, nói:

– Thật đắc tội!

Xung Hư nói:

– Hai vị sư đệ và sư điệt của lão đạo kiếm thuật không tinh thâm, nhưng lúc còn trẻ từng ở Tây Vực mười mấy năm, mỗi người học được một thứ chuyên môn đặc biệt. Một người giỏi về thuật bố trí các cơ quan, một người giỏi việc chế tạo ra thuốc nổ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đó là những chuyên môn hiếm có trên đời.

Xung Hư nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ, lão đạo dẫn hai người này đến vì còn có một dụng ý. Hy vọng hai người có thể giúp chúng ta làm đại sự.

Lệnh Hồ Xung không hiểu, buột miệng hỏi:

– Làm một đại sự ư?

Xung Hư nói:

– Lão đạo mạo muội đem một vật đến quý phái, muốn xin Lệnh Hồ huynh đệ xem thử.

Lão là người thoải mái, không cẩn thận như Phương Chứng, cho nên lão gọi hắn là “Lệnh Hồ huynh đệ” còn Phương Chứng lại gọi hắn là “Lệnh Hồ chưởng môn”. Lệnh Hồ Xung rất hiếu kỳ, muốn xem lão lấy trong túi ra vật gì. Xung Hư cười nói:

– Vật này không nhỏ, không thể bỏ trong túi được, Thanh Hư sư đệ, sư đệ đem ra cho mọi người xem đi.

Thanh Hư dạ rồi đi ra, không bao lâu dẫn bốn đại hán ăn mặc như nông dân vào, tất cả đều đi chân không, mỗi người gánh một gánh rau. Thanh Hư nói:

– Các vị tham kiến Lệnh Hồ chưởng môn và Phương trượng chùa Thiếu Lâm đi.

Bốn đại hán cùng cúi người hành lễ. Lệnh Hồ Xung biết mấy người này nhất định là những nhân vật có thân phận không thấp trong Võ Đang, liền khách khí hoàn lễ.

Thanh Hư nói:

– Lấy ra và lắp vào.

Bốn hán tử lấy rau xanh phủ trên gánh ra, phía dưới lộ ra mấy cái bao, mở bao ra, thấy rất nhiều loại gỗ khúc, những vật bằng sắt, đinh ốc, và những vật dùng làm cạm bẫy. Bốn người hành động rất tấn tốc, lấy những vật rồi sau đó lắp lại với nhau, trong khoảnh khắc đã lắp thành một cái ghế thái sư. Lệnh Hồ Xung lấy làm kỳ lạ, thầm nghĩ: Trong ghế thái sư này được lắp đặt nhiều cơ quan. Không biết dùng để làm gì, chẳng lẽ dùng để tu luyện nội công?

Sau khi lắp ghế xong, bốn người lấy từ trong hai cái bao khác ra lấy vải bọc và nệm đặt lên ghế thái sư. Trong tịnh thất, ánh kim quang lấp lánh lóe cả mắt. Tấm vải bọc ghế làm bằng gấm đoạn kim tuyến màu vàng kết thành, trên nền gấp thêu bằng chỉ vàng hình chín con rồng, từ dưới biển bay vọt lên ôm lấy mặt trời, bên trái thêu tám chữ “Trung hưng thánh giáo, trạch bị thương sinh”, bên phải thêu tám chữ “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”. Chín con rồng này nhe nanh múa vuốt, sống động như thật, mười sáu chữ này thêu bằng chỉ bạc coi rất đẹp mắt, dễ chịu. Xung quanh mười sáu chữ này đính rất nhiều hạt minh châu, bảo thạch và những hạt ngọc bích. Trong am đường nhỏ đơn giản, đột nhiên khắp nơi tỏa ánh sáng của châu quang bảo khí.

Lệnh Hồ Xung vỗ tay khen, nhớ Xung Hư vừa rồi đã nói, Thanh Hư từng ở Tây Vực học được chuyên môn chế tạo các cơ quan, bèn nói:

– Nhậm giáo chủ mà thấy cỗ ghế quý báu này thì nhất định muốn ngồi cho bằng được. Những cơ quan trong ghế phát tác thì có thể lão bị mất mạng phải không?

Xung Hư nói khẽ:

– Nhậm Ngã Hành ứng biến thần tốc, hành động như điện chớp, trong ghế tuy có cơ quan, chỉ cần lão vừa cảm thấy bất ổn thì liền vọt lên, nên không đả thương lão được. Dưới chân cỗ ghế này có đặt thuốc dẫn thông một đống thuốc nổ.

Lão vừa nói xong, Lệnh Hồ Xung và chư tăng Thiếu Lâm đều biến sắc. Phương Chứng niệm:

– A Di Đà Phật!

Xung Hư nói tiếp:

– Cái hay của cơ quan này ở chỗ có người tùy tiện ngồi vào cũng không xảy ra chuyện gì, nếu nhất định ngồi đến khoảng thời gian tàn một cây nhang thì thuốc mới phát nổ. Nhậm Ngã Hành là người đa nghi, đầu óc lại rất tinh tế, đột nhiên thấy trên ngọn Kiến Tính Hằng Sơn có một cỗ ghế đẹp như vậy, nhất định không muốn ngồi liền, sẽ phái thủ hạ ngồi trước để thử xem. Trên cái ghế này đã có rồng vàng ôm mặt trời, lại có thêu những chữ cái gì “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”, thì bất cứ thủ hạ nào của Nhậm Ngã Hành không ai dám ngồi lâu, mà sau khi Nhậm Ngã Hành ngồi vào rồi thì nhất định không muốn đứng lên.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đạo trưởng sắp đặt rất chu đáo.

Xung Hư nói:

– Thanh Hư sư đệ còn bố trí một màn khác nữa, nếu Nhậm Ngã Hành không ngồi, bảo người giở vải bọc và lật nệm lên để xem xét, chỉ cần vừa giở ra thì cơ quan lập tức phát động. Lần này Thành Cao sư điệt đem đến quý phái tổng cộng hai vạn cân thuốc nổ. Nếu nó phát nổ thì sẽ hủy hoại toàn bộ bảo sơn linh cảnh.

Lệnh Hồ Xung ớn lạnh, thầm nghĩ: Hai vạn cân thuốc nổ! Lượng thuốc nổ này mà phát tác thì ngọc đá đều ra tro, Nhậm giáo chủ chắc chắn bị chết, Doanh Doanh và Hướng đại ca cũng không tránh khỏi.

Xung Hư thấy vẻ mặt chàng hơi lạ, nói:

– Ma giáo rêu rao muốn giết hại hết quý phái, sau khi diệt phái Hằng Sơn, liền đến tấn công Thiếu Lâm, Võ Đang ta, tàn sát sinh linh, đại họa khó mà lường được. Chúng ta bày ra độc kế này để đối phó Nhậm Ngã Hành, tuy dụng tâm hiểm ác, nhưng trừ khử ma đầu này với dụng ý là cứu lấy ngàn vạn tính mệnh của võ lâm.

Phương Chứng đại sư chấp tay lại, nói:

– A Di Đà Phật! Ngã Phật từ bi. Vì cứu chúng sinh, cũng phải trừ diệt tà ma. Giết một tên hung thần chính là hành động đại từ đại bi.

Lúc lão nói mấy câu này thần sắc nghiêm trang, tất cả lão tăng lão đạo đều đứng dậy chắp tay, mặt rủ xuống đồng thanh nói:

– Phương trượng đại sư nói rất đúng.

Lệnh Hồ Xung cũng biết lời của Phương Chứng nói rất hợp với chính lý. Nhật Nguyệt giáo muốn giết phái Hằng Sơn không để lại một con gà con chó, các phái chính giáo bày kế cho nổ tung Nhậm Ngã Hành, đó là chuyện hợp với lẽ trời đất, không ai có thể nói là không nên. Nhưng muốn giết chết Nhậm Ngã Hành, lòng chàng cũng không nỡ, muốn giết Hướng Vấn Thiên thì thà giết chàng trước; còn sự sinh tử của Doanh Doanh, thì ngược lại Lệnh Hồ Xung không suy nghĩ gì, coi như cả hai cùng sống chết, nên không bận tâm đến. Thấy mục quang của mọi người đều nhìn mình, Lệnh Hồ Xung trầm ngâm nói:

– Chuyện đã đến nước này, Nhật Nguyệt giáo bức chúng ta đến đường cùng nên kế sách của Xung Hư đạo trưởng là cách đả thương ít người nhất.

Xung Hư nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ nói đúng. Bốn chữ “đả thương ít nhất” chính là điều mong muốn của chúng ta.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối nhỏ tuổi thiển cận, chuyện hôm nay của Hằng Sơn, xin hai vị Phương Chứng đại sư và Xung Hư đạo trưởng chủ trì đại cục. Vãn bối sẽ thống lãnh đệ tử bổn phái, y kế tuân hành.

Xung Hư cười nói:

– Không dám! Lệnh Hồ huynh đệ là chủ nhân của Hằng Sơn, lão đạo và phương trượng sư huynh sao có thể là khách mà soán quyền chủ?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện này tuyệt không phải vãn bối khiêm nhượng, thực tế là phải xin hai vị chủ trì mới được.

Phương Chứng nói:

– Ý của Lệnh Hồ chưởng môn rất chân thành, đạo huynh cũng không cần từ chối. Đại sự do ba người chúng ta cùng đứng đầu, nhưng đạo huynh phát hiệu lệnh mới thành công được.

Xung Hư lại nói khiêm nhượng vài câu rồi cũng đồng ý, nói:

– Trên các con đường thông lên Hằng Sơn, chúng ta đều đã bố trí lực lượng mai phục rất hùng hậu, ngày nào Ma giáo lên núi tấn công, tất có tin báo trước. Ngày trước, Lệnh Hồ huynh đệ thống lãnh quần hào đánh chùa Thiếu Lâm, bọn ta do Tả Lãnh Thiền vạch kế sách, bày ra kế “không thành”…

Mặt Lệnh Hồ Xung hơi đỏ, nói:

– Vãn bối làm loạn hoảng sợ vô cùng.

Xung Hư cười nói:

– Không ngờ ngày hôm qua là địch mà hôm nay lại là bằng hữu. Chúng ta lại bày kế “không thành” thì không được đâu, thế tất sẽ khiến Nhậm Ngã Hành nghi ngờ. Theo thiển kiến của lão đạo, toàn phái Hằng Sơn đều kháng cự ở trên núi, hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang, mỗi phái chọn ra mấy chục cao thủ. Khi biết rõ Ma giáo đến tấn công, nếu Thiếu Lâm, Võ Đang không cho người ra cứu viện thì trái với lẽ thường tình, lão tặc Nhậm Ngã Hành này nhất định sẽ đoán được chuyện này có giả trá.

Phương Chứng và Lệnh Hồ Xung đều nói:

– Đúng vậy.

Xung Hư nói:

– Còn các phái Côn Luân, Nga My, Không Động thì không cần phải lộ diện, mọi người đều ẩn phục ở trong sơn động. Lúc Ma giáo đến tấn công, nhân thủ của ba phái Hằng Sơn, Thiếu Lâm, Võ Đang tận lực kháng cự, tất phải đánh thật kiên cường. Người xuất thủ của ba phái chúng ta phải là hảo thủ đệ nhất, giết đối phương càng nhiều càng tốt, cố tránh sự tổn thất cho phe mình.

Phương Chứng than:

– Cao thủ của Ma giáo dày đặc như vậy, phen này chuẩn bị rồi mới đến; trận chiến này, song phương tử thương tất sẽ rất nhiều.

Xung Hư nói:

– Chúng ta tìm mấy chỗ vách núi dựng đứng, sắp đặt sẵn dây xích dài. Lúc đấu, thấy không địch nổi thì từng người đu dây xuống thâm cốc để địch nhân khó mà truy kích. Sau khi Nhậm Ngã Hành toàn thắng, thấy cỗ ghế quý báu này, đương nhiên dương dương tự đắc ngồi lên, thuốc nổ phát tác, bản lãnh Nhậm lão ma có bằng trời, có mọc cánh cũng khó thoát được. Tiếp đó trên tám thông đạo của Hằng Sơn, ba mươi hai chỗ địa lôi đồng thời nổ tung, giáo chúng Ma giáo không còn cách nào xuống núi được.

Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:

– Ba mươi hai chỗ địa lôi ư?

Xung Hư nói:

– Đúng vậy, bắt đầu từ sáng sớm ngày mai, Thành Cao sư điệt tìm trong tám đường yếu đạo lên núi, mỗi đường chọn bốn chỗ yếu hiểm nhất để chôn địa lôi. Một khi địa lôi phát nổ thì đường lên núi xuống núi đều bị gián đoạn. Giáo chúng Ma giáo có một vạn người lên núi, làm cho bọn họ chết đói một vạn, hai vạn người lên núi thì chết đói hai vạn. Chúng ta học kế cũ của Tả Lãnh Thiền, nhưng lần này không dễ để bọn họ theo địa đạo thoát thân.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lần đó có thể thoát được chùa Thiếu Lâm, cũng thật là may vô cùng.

Đột nhiên chàng nghĩ đến một chuyện, ồ lên một tiếng.

Xung Hư hỏi:

– Lệnh Hồ huynh đệ cảm thấy trong cách xếp đặt có gì không ổn ư?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối nghĩ rằng, Nhậm giáo chủ lên đến Hằng Sơn, thấy ghế báu này đương nhiên lòng rất thích. Nhưng nhất định lão sinh nghi, tại sao phái Hằng Sơn làm cái ghế tuyệt đẹp này, thêu tám chữ “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”? Chuyện này nếu không làm rõ, chỉ e lão chưa chắc sẽ mắc bẫy.

Xung Hư nói:

– Vấn đề này lão đạo cũng đã nghĩ qua. Kỳ thật Nhậm lão ma đầu có ngồi hay không cũng không phải là điều quan trọng. Chúng ta ngầm đặt thuốc dẫn, vẫn có thể cho nổ tung. Chẳng qua là lúc hắn đang dương dương tự đắc thiên thu vạn tải thống nhất giang hồ, đột nhiên tai họa ập đến chân thì đã giúp được võ lâm rồi.

Lệnh Hồ Xung gật đầu đáp dạ. Thành Cao đạo nhân nói:

– Sư thúc, đệ tử có một ý kiến không biết có làm được không?

Xung Hư cười nói:

– Ngươi nói ra đi rồi xin phương trượng đại sư và Lệnh Hồ chưởng môn chỉ điểm cho.

Thành Cao nói:

– Nghe nói Lệnh Hồ chưởng môn và đại tiểu thư của Nhậm giáo chủ đã có hôn ước, chỉ vì chính tà bất đồng mới làm cản trở. Nếu Lệnh Hồ chưởng môn phái hai vị đệ tử Hằng Sơn đi gặp Nhậm giáo chủ, nói rằng vì kính trọng Nhậm đại tiểu thư nên đặc biệt mời thợ giỏi, làm thành một cỗ bảo kỷ, tặng cho Nhậm giáo chủ ngồi, mong rằng hai bên bãi chiến hòa giải. Bất luận Nhậm giáo chủ đồng ý hay không nhưng khi lên đến Hằng Sơn, lúc thấy được cỗ ghế này cũng sẽ không nghi ngờ nữa.

Xung Hư vỗ tay cười nói:

– Kế này tuyệt diệu, thật là…

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không được.

Xung Hư sửng sốt, biết là đã bàn điều chàng không hứng thú, bèn hỏi:

– Lệnh Hồ huynh đệ có cao kiến gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nhậm giáo chủ muốn giết toàn phái Hằng Sơn của vãn bối, thì vãn bối tận lực chống chọi, dùng trí hay dùng lực đều được. Lão đến để giết người, chúng ta đặt chất nổ hại lão, nhưng vãn bối quyết không nói dối để gạt lão.

Xung Hư nói:

– Được, Lệnh Hồ huynh đệ quang minh lỗi lạc, khiến người khâm phục, chúng ta cứ làm theo như vậy. Nhậm lão ma đầu sinh nghi cũng được, không sinh nghi cũng được, chỉ cần hắn lên Hằng Sơn với ý đồ hại người thì làm cho hắn nếm mùi đau khổ.

Lão liền cùng với mọi người bàn về các chi tiết phòng ngự, kháng địch thế nào, yểm hộ ra sao, dẫn chất nổ địa lôi ra sao, tất cả đều chu đáo. Xung Hư là người rất cẩn thận, sợ lúc lâm địch, người phụ trách dẫn thuốc nổ bị hại, nên phái thêm người phó thủ.

Sáng sớm hôm sau, Lệnh Hồ Xung dẫn đường mọi người đi đến các nơi quan sát địa hình địa thế. Thanh Hư và Thành Cao tuyển chọn các chỗ chôn thuốc nổ, đặt thuốc dẫn, bố trí địa lôi, trạm ngầm canh gác. Xung Hư và Lệnh Hồ Xung chọn bốn chỗ thật nguy hiểm, làm đường rút lui. Phương Chứng, Xung Hư, Lệnh Hồ Xung, Phương Sinh chia nhau phòng thủ bốn nơi, không để cho địch nhân tiến gần. Những vị này chờ cho bao nhiêu người cự địch đu dây xích xuống thâm cốc hết rồi mới xuống sau cùng, sau đó vung kiếm chém đứt dây, khiến địch nhân không sao truy kích được.

Chiều hôm đó lại có mười người phái Võ Đang cải trang làm nông phu, tiều phu lục tục lên núi. Thanh Hư và Thành Cao chỉ điểm đặt thuốc nổ rồi, nữ đệ tử Hằng Sơn canh giữ các nẻo đường, không cho người ngoài lên núi, để đề phòng thám tử của Nhật Nguyệt giáo phái đến do thám cơ mật. Cứ như vậy bận rộn hết ba ngày mới xong đâu vào đấy, yên lặng đợi Nhật Nguyệt giáo đến tấn công.

Đếm ngón tay cách cuộc hội ở ngọn Triêu Dương với Nhậm Ngã Hành đã gần một tháng, người này nói ra thì làm, nhất định không sai. Trong mấy ngày này, bọn Xung Hư, Thành Cao rất bận bịu, nhưng Lệnh Hồ Xung rất thanh nhàn. Mỗi ngày, chàng niệm nội công khẩu quyết mà Phương Chứng truyền thụ, dựa theo cách đó mà luyện tập, gặp chỗ không hiểu thì thỉnh giáo Phương Chứng đại sư.

Chiều hôm đó, bọn Nghi Hòa, Nghi Thanh, Nghi Lâm, Trịnh Ngạc, Tần Quyên, tất cả nữ đệ tử ở sảnh luyện kiếm, Lệnh Hồ Xung ở bên chỉ điểm. Thấy Tần Quyên tuy tuổi còn nhỏ, đối với yếu chỉ kiếm thuật lại rất mau hiểu, chàng khen:

– Tần sư muội thật là thông minh, chiêu này đã lãnh hội được yếu quyết, nhưng…

Chưa nói hết câu, đột nhiên huyệt Đan điền đau buốt, Lệnh Hồ Xung liền ngồi phịch xuống. Chúng đệ tử kinh hãi, vội chạy đến đỡ dậy, cùng hỏi:

– Làm sao vậy?

Lệnh Hồ Xung biết chân khí dị chủng trong nội thể lại phát tác, đau đớn không nói lên được. Trong lúc chúng đệ tử nhốn nháo, bỗng nghe tiếng vỗ cánh của hai con chim bồ câu bay thẳng vào sảnh. Chúng đệ tử cùng la lên:

– Chao ôi!

Phái Hằng Sơn nuôi rất nhiều bồ câu đưa thư. Ngày trước Định Tĩnh sư thái gặp địch ở Phúc Kiến, hai vị sư thái Định Nhàn, Định Dật bị khốn ở Long Tuyền Chú Kiếm cốc, đều từng nhờ bồ câu đưa thư cầu cứu. Bây giờ hai con chim bồ câu bay thẳng vào sảnh là do đệ tử bổn phái canh giữ ở dưới núi phát ra. Ở lưng bồ câu có màu đỏ, vừa thấy thì biết Nhật Nguyệt giáo đại địch tấn công đến.

Hồi 159: Người trong kiệu sao không xuất hiện?

Từ khi Phương Chứng đại sư và Xung Hư đạo trưởng đến Hằng Sơn, chúng đệ tử thấy có cứu viện rất mạnh, tất cả bố trí sẵn sàng, nên cũng đã hơi yên tâm. Không ngờ đang lúc khẩn cấp vô cùng, Lệnh Hồ Xung lại phát bệnh, thật vượt ra ngoài ý nghĩ của mọi người.

Nghi Thanh gọi:

– Nghi Chân, Nghi Văn, hai vị sư muội mau đi bẩm báo Phương Chứng đại sư và Xung Hư đạo trưởng.

Hai người đáp rồi đi liền. Nghi Thanh lại nói:

– Nghi Hòa sư tỉ, xin sư tỉ gióng chuông.

Nghi Hòa gật đầu, phi thân ra khỏi sảnh, chạy lên lầu chuông. Nghe boong boong boong, boong boong; boong boong boong boong boong, ba tiếng dài hai tiếng ngắn từ lầu chuông vang lên, ngân vang khắp ngọn núi. Thông Nguyên cốc, chùa Huyền Không, Hắc Long khẩu; đại chung trong các am tự cũng đều vang động. Phương Chứng đại sư có dặn trước, hễ có địch đến thì gióng chuông ba tiếng, một tiếng dài hai tiếng ngắn cho mọi người biết tin, nhưng tiếng chuông phải đánh cho ngân nga dễ chịu, để biểu thị nhàn hạ, không thể hiện ra vẻ kinh hoàng hoang mang. Nhưng Nghi Hòa tính tình nóng nảy, trong pháp danh của bà tuy có chữ “Hòa”, nhưng hành sự lại không hòa chút nào, tiếng chuông còn lộ ra ý bồn chồn.

Nhân thủ của ba phái Hằng Sơn, Thiếu Lâm, Võ Đang liền y theo việc đã sắp đặt trước, phân ra các nơi để chuẩn bị nghênh địch. Vì để giảm bớt thương vong, nên các nơi thông đạo từ chân núi lên đến đỉnh Kiến Tính đều không có người canh giữ, thậm chí cửa ngõ mở sẵn ra để địch nhân sau khi lên đến ngọn Kiến Tính rồi mới tiếp chiến. Sau khi dứt tiếng chuông, từ trên đỉnh núi xuống chân núi trở lại yên lặng như tờ. Cao thủ của các phái Côn Luân, Nga My, Không Động đến tiếp ứng đều ẩn phục nơi rất kín dưới ngọn núi, chỉ đợi sau khi giáo chúng Ma giáo lên núi, vừa được hiệu lệnh thì liền chặn đường rút lui của họ. Xung Hư đề phòng tiết lộ cơ mật, nên việc chôn địa lôi trên sơn đạo không nói cho nhân sĩ các phái biết. Ma giáo thần thông quảng đại thì trong đệ tử môn nhân của các phái có ngầm phục nội gián để thám thính tin tức cũng không có gì lạ.

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng chuông, biết Nhật Nguyệt giáo đại cử tấn công, bụng dưới như ngàn vạn đao cắt đâm loạn xạ, đau đến nỗi ôm bụng lăn lộn dưới đất. Nghi Lâm và Tần Quyên sợ đến mặt không còn giọt máu, tay chân vô dụng, không biết phải làm sao.

Nghi Thanh nói:

– Chúng ta đỡ chưởng môn nhân vào Vô Sắc am, để xem chủ ý của phương trượng đại sư và Xung Hư đạo trưởng thế nào.

Vu Tẩu và một lão ni cô khác liền đưa tay dìu Lệnh Hồ Xung, nửa đỡ nửa khiêng đưa Lệnh Hồ Xung vào Vô Sắc am.

Vừa đến cửa am, nghe dưới ngọn núi tiếng pháo nổ đùng đùng bất tuyệt, tiếp theo là tiếng tù và, tiếng trống vang lên. Quả nhiên Nhật Nguyệt giáo đường đường đại cử tấn công.

Phương Chứng và Xung Hư nghe Lệnh Hồ Xung phát bệnh cũ, từ trong am vội chạy ra. Xung Hư nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ cứ yên tâm. Lão đạo đã dặn Lăng Hư sư đệ thay lão đạo yểm hộ phái Võ Đang rút lui. Trách nhiệm yểm hộ giáo phái do lão đạo phụ trách.

Lệnh Hồ Xung gật đầu tỏ ý tạ ơn. Phương Chứng nói:

– Hay là Lệnh Hồ chưởng môn lùi vào thâm cốc trước, để khỏi phải lo lắng.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Vạn vạn… vạn vạn lần không được. Đưa… đưa kiếm đây.

Xung Hư cũng khuyên mấy câu, nhưng Lệnh Hồ Xung nhất định không nghe. Đột nhiên tiếng trống tiếng tù và dừng lại, rồi tiếng reo hò vang dội như sấm:

– Thánh giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ.

Nghe thanh âm này ít nhất cũng có bốn năm ngàn người. Phương Chứng, Xung Hư, Lệnh Hồ Xung nhìn nhau mỉm cười. Tần Quyên đưa trường kiếm cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung đưa tay ra muốn nhận lấy, nhưng tay phải run bần bật cầm kiếm không vững. Tần Quyên đeo kiếm vào lưng cho chàng.

Bỗng nghe tiếng kèn vang lên, âm nhạc rất vui tai, không có ý sát phạt. Mấy người cùng lớn tiếng hô:

– Thánh giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo muốn lên ngọn Kiến Tính tương hội với Lệnh Hồ chưởng môn phái Hằng Sơn.

Chính là thanh âm của các vị trưởng lão Nhật Nguyệt giáo cùng hô ra.

Phương Chứng nói:

– Nhật Nguyệt giáo tiên lễ hậu binh, chúng ta cũng không thể quá nhỏ nhen. Lệnh Hồ chưởng môn, để bọn họ lên núi được chăng?

Lệnh Hồ Xung gật đầu, ngay lúc này trong bụng lại đau kịch liệt. Phương Chứng thấy mặt chàng mồ hôi đầm đìa, bèn nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn, trong huyệt Đan điền đau buốt không chịu nổi, nên dùng nội công tâm pháp của Phong tiền bối truyền thụ, thử dẫn lượn quanh.

Mười mấy luồng chân khí dị chủng trong nội thể của Lệnh Hồ Xung đang xung đột với nhau, quấy rầy vô cùng, nếu thêm dẫn đường lượn quanh thì có khác gì dẫn đao tự chém, đau càng đau hơn. Nhưng dù sao cũng đau đến cực điểm rồi, chàng không kịp suy nghĩ kỹ hậu quả, dựa theo đúng phép vận chân khí, quả nhiên chân khí xung đột dữ dội, bụng dưới càng đau cơ hồ không chịu nổi, nhưng vận chuyển mấy lần, mười mấy luồng chân khí giống như mạch suối chảy về sông, tuy vẫn còn đau buốt như trước nhưng không xung đột loạn xạ nữa.

Nghe Phương Chứng đại sư từ từ nói:

– Lệnh Hồ Xung chưởng môn phái Hằng Sơn; Xung Hư đạo nhân, chưởng môn phái Võ Đang; Phương Chứng chưởng môn phái Thiếu Lâm cung nghinh đợi Nhật Nguyệt giáo Nhậm giáo chủ đại giá.

Thanh âm của lão không vang dội, nhưng từ từ nói ra lại vang đi rất xa.

Lệnh Hồ Xung ngầm vận nội lực tâm pháp thấy có hiệu nghiệm. Chàng ngồi xếp bằng, mắt nhìn xuống mũi, mũi quán tâm, tay trái đặt lên ngực, tay phải đặt lên bụng, dựa theo pháp môn của Phương Chứng truyền thụ mà luyện. Chàng luyện tâm pháp này chỉ mới mấy ngày, tuy có Phương Chứng mỗi ngày tường tận giải rõ, nhưng tu luyện còn nông cạn. Lúc này dựa theo phương pháp mà dẫn đi, mười mấy luồng chân khí dị chủng lại có thể từ từ quy tụ lại, chàng không dám chểnh mảng tập trung ngưng thần dẫn khí, lúc đầu còn nghe tiếng cổ nhạc, đến sau thì không còn nghe gì nữa.

Phương Chứng thấy Lệnh Hồ Xung chuyên tâm luyện công, mặt lộ vẻ tươi cười. Tai nghe tiếng cổ nhạc rất lớn, giáo chúng Nhật Nguyệt giáo tung hô:

– Nhật Nguyệt thần giáo văn thành võ đức, trạch bị thương sinh. Thánh giáo chủ đại giá đến Hằng Sơn đây!

Qua một lúc sau, tiếng cổ nhạc từ từ đến gần.

Sơn đạo lên ngọn Kiến Tính rất dài, giáo chúng Nhật Nguyệt giáo cước bộ tuy nhanh, đi một lúc rất lâu mà tiếng cổ nhạc cũng chỉ đến lưng chừng núi. Những người môn hạ chính giáo mai phục các nơi Hằng Sơn trong lòng đều thầm chửi:

– Tên giáo chủ thối tha này thật láu cá, đâu có người chết mà thổi kèn tò te làm gì?

Những người dự bị nghênh địch thì tim nhảy loạn xạ, ai cũng dự tính là giáo chúng Ma giáo đánh từ chân núi đánh lên, liền nhảy ra ác đấu một trận, sau khi giết được một tốp giáo chúng, đợi địch nhân đến càng đông, thế càng lúc càng mạnh thì tất cả liền níu dây tuột xuống thâm cốc. Nhưng không ngờ Nhậm Ngã Hành làm bộ dạng giống như hoàng đế ngự giá tuần du, thổi kèn gióng trống lên núi, mọi người không tiện động thủ trước, nhưng lòng càng lo lắng hồi hộp hơn.

Qua một lúc sau, Lệnh Hồ Xung cảm thấy những luồng chân khí dị chủng trong huyệt Đan điền dần dần bị đè xuống, sự đau đớn giảm dần, lòng vui mừng liền nghĩ: Nhậm giáo chủ sắp lên đến đỉnh núi rồi ư? Chàng a một tiếng, nhảy phóc lên. Phương Chứng mỉm cười hỏi:

– Đỡ chút nào chưa?

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Động thủ rồi sao?

Phương Chứng nói:

– Hay lắm!

Soạt một tiếng, chàng xuất trường kiếm ra. Nhưng thấy bọn Phương Chứng, Xung Hư không ai cầm binh khí, bọn nữ đệ tử Nghi Hòa, Nghi Thanh đã xếp thành mấy hàng ở trước khoảng sân Vô Sắc am, chuẩn bị bày kiếm trận Hằng Sơn, nhưng trường kiếm vẫn còn đeo sau lưng, chàng mới nghĩ Nhậm Ngã Hành chắc chưa lên núi. Lệnh Hồ Xung liền cười ha hả, tra kiếm vào vỏ.

Sau khi tiếng chuông, trống, kèn dừng lại thì tiếng tiêu, hồ cầm vang lên. Chàng thầm nghĩ: Nhậm giáo chủ thật bày vẽ, làm dàn nhạc du dương, giáo chủ đại nhân gia đại giá lên núi rồi.

Lệnh Hồ Xung càng thấy lão cổ quái bao nhiêu thì càng cảm thấy ớn lạnh bấy nhiêu. Trong tiếng nhạc du dương, hai hàng giáo chúng Nhật Nguyệt giáo từng cặp sóng vai lên núi. Trước mắt mọi người sáng lòa, thấy giáo chúng ai ai cũng đều mặc cẩm bào màu lục đen mới tinh, lưng mang đai trắng bóng loáng, trước mặt tổng cộng khoảng bốn chục người, người nào tay cũng bưng mâm, trên mâm phủ lụa, không biết để thứ gì. Bốn chục người này lưng không đeo đao kiếm. Khi lên đến nơi, bọn họ dừng lại từ xa. Tiếp theo một đội cổ nhạc hai trăm người đi lên, cũng đều mặc cẩm y, tiếng tiêu dìu dặt vẫn không ngừng tấu. Sau nữa là toán người thổi kèn hiệu, đánh trống, tiếng thanh la, não bạt, chuông cùng nổi lên.

Lệnh Hồ Xung rất khoái, thầm nghĩ: Đợi lát nữa đánh nhau mà có chiêng trống phụ họa, há không phải như một màn tuồng trên sân khấu?

Trong tiếng nhạc, giáo chúng Ma giáo từng tốp đi lên. Những người này hiển nhiên sắp hàng theo thứ bậc, màu sắc y phục cũng không giống nhau, đội áo vàng, áo lục, áo lam, áo đen, áo trắng; đều có viền hoa xung quanh, so với y phục đào hát còn lòe loẹt hơn nhiều, nhưng lưng của người nào cũng mang đai trắng. Người lên núi khoảng ba bốn ngàn.

Xung Hư thầm nghĩ: Thừa lúc bọn họ chưa tập hợp đủ, liền xông ra đánh thì chúng ta sẽ chiếm được phần tiện nghi, nhưng đối phương trang thần lộng quỷ, muốn cái gì tiên lễ hậu binh. Nếu chúng ta động thủ ngay thì quá nhỏ nhen.

Lão thấy Lệnh Hồ Xung khoái chí cười hì hì không để ý gì hết, còn Phương Chứng thì vẫn thản nhiên. Lão thầm nghĩ: Nếu ta mà lộ ra vẻ hoang mang thì họ cho là ta khiếp nhược.

Sau khi các giáo chúng chia từng tốp đứng ổn định lại, mười trưởng lão đi lên núi, chia thành hai bên tả hữu, mỗi bên đứng năm vị. Tiếng nhạc đột nhiên dừng lại, mười trưởng lão cùng tung hô:

– Nhật Nguyệt thần giáo văn thành võ đức, trạch bị thương sinh, thánh giáo chủ giá đáo.

Một cỗ kiệu lớn màu lam được khiêng lên núi. Cỗ kiệu này do mười sáu người khiêng, di chuyển vừa nhanh vừa vững vàng. Cỗ kiệu giống như một cao thủ khinh công tuyệt vời, nhẹ nhàng lướt lên núi, đủ thấy mười sáu người khiêng kiệu này người nào cũng có võ công không tầm thường.

Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn, thấy trong đám người khiêng kiệu có cả bọn Tổ Thiên Thu, Hoàng Bá Lưu, Kế Vô Thi. Chàng đoán rằng Lão Đầu Tử do quá lùn, không cách nào cùng khiêng kiệu với bọn Tổ Thiên Thu được, nếu không thì chắc cũng bị bức làm tên khiêng kiệu rồi. Lệnh Hồ Xung tức tối, thầm nghĩ: Bọn Tổ Thiên Thu đều là hào kiệt đương thời, Nhậm giáo chủ lại bức bọn họ làm chuyện ti tiện như phu khiêng kiệu. Lão coi anh hùng thiên hạ như kẻ nô bộc, thật khiến người ta tức muốn bể ngực.

Hai bên kiệu lam đều có một người, bên trái là Hướng Vấn Thiên, bên phải là một lão già. Lão già này trông rất quen. Lệnh Hồ Xung sửng sốt khi nhận ra lão là Lục Trúc Ông, người dạy hắn gảy đàn trong thành Lạc Dương. Người này gọi Doanh Doanh là cô cô, cho nên chàng ngộ nhận cho rằng Doanh Doanh là một lão bà bà. Từ khi rời khỏi Lạc Dương, chàng không gặp lão nữa, hôm nay lão lại cùng Nhậm Ngã Hành lên ngọn Kiến Tính. Tim Lệnh Hồ Xung đập loạn xạ, thầm nghĩ: Tại sao không thấy Doanh Doanh?

Đột nhiên chàng nghĩ đến một chuyện, thấy giáo chúng Nhật Nguyệt giáo ai ai cũng mang đai trắng, giống như là để tang. Chẳng lẽ Doanh Doanh thấy phụ thân thống lãnh giáo chúng tấn công đánh Hằng Sơn, cô cố can gián nhưng không được nên tự sát rồi ư?

Máu nóng trong ngực Lệnh Hồ Xung trào lên, huyệt Đan điền nhói đau, hắn liền muốn xông ra hỏi Hướng Vấn Thiên, nhưng nghĩ Nhậm Ngã Hành đang ở trong kiệu nên hắn kìm lại

Ngọn Kiến Tính tụ tập đến mấy ngàn người bỗng yên lặng không một tiếng động. Cỗ kiệu dừng lại, ánh mắt của mọi người đều nhìn hướng về rèm kiệu, chỉ đợi Nhậm Ngã Hành bước ra.

Bỗng nghe trong Vô Sắc am vọng ra tiếng cười nói xí xa xí xồ. Một người lớn tiếng nói:

– Mau tránh ra, để cho ta ngồi đi.

Người khác nói:

– Đừng tranh giành nhau, từ lớn đến nhỏ luân phiên ngồi vào bảo ỷ cửu long này.

Đó chính là thanh âm của Đào Hoa Tiên và Đào Chi Tiên.

Phương Chứng, Xung Hư, Lệnh Hồ Xung kinh hãi biến sắc. Không biết Đào Cốc lục tiên chui vào Vô Sắc am hồi nào, đang tranh nhau ngồi vào bảo ỷ, nếu ngồi lâu cơ quan phát động dẫn đến thuốc nổ thì biết làm sao?

Xung Hư vội chạy vào am. Nghe lão lớn tiếng quát:

– Mau đứng dậy! Cỗ ghế này là chỗ dành riêng cho Nhậm giáo chủ Nhật Nguyệt giáo, các vị không được ngồi.

Thanh âm của Đào Cốc lục tiên vọng từ trong am ra:

– Tại sao không được ngồi? Ta cứ ngồi!

– Mau đứng dậy, đến phiên ta ngồi.

– Cái ghế này ngồi rất đã, nó mềm mềm mát mát giống như ngồi trên mông của người mập.

– Ngươi từng ngồi trên mông người mập rồi ư?

Lệnh Hồ Xung biết Đào Cốc lục tiên đang tranh nhau ngồi ghế, mỗi người ngồi một lúc thì sẽ đè xuống cơ quan lò xo dẫn đến mấy vạn cân chất nổ chôn ở ngoài Vô Sắc am sẽ phát tác, thì trên ngọn Kiến Tính, Nhật Nguyệt giáo và quần hào phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Hằng Sơn đều thành tro bụi hết. Lúc đầu chàng muốn xông vào am để ngăn cản bọn họ, nhưng không biết tại sao, trong lòng chàng lại muốn chất nổ phát tác nổ tung hết tất cả. Doanh Doanh đã chết thì chàng không còn muốn sống nữa, mọi người trong nháy mắt cùng táng mạng hết, há không hay sao? Chàng liếc mắt, bỗng thấy Nghi Lâm nhìn mình trân trân, nhưng ánh mắt cô vừa chạm ánh mắt chàng liền né đi. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Nghi Lâm tiểu sư muội tuổi còn trẻ như vậy, lại cũng bị tan xương nát thịt, há không đáng tiếc sao? Nhưng trên đời này ai cũng phải chết. Dù hôm nay mọi người an nhiên vô sự, qua một trăm năm nữa, thì những người bây giờ ở trên ngọn Kiến Tính này cũng biến thành một đống xương trắng mà thôi.

Đào Cốc lục tiên vẫn không ngớt tranh biện:

– Ngươi đã ngồi hai lần rồi còn ta chưa ngồi lần nào hết.

– Lần thứ nhất ta mới đặt mông xuống thì bị lôi ra nên đâu có tính.

– Ta có một ý kiến, sáu huynh đệ chúng ta cùng ngồi vào cái ghế này xem có được không?

– Tuyệt lắm, tuyệt lắm! Mọi người cùng ngồi. Ha ha!

– Ngươi ngồi trước!

– Ngươi ngồi trước, ta ngồi ở trên.

– Lớn ngồi trên, nhỏ ngồi dưới.

– Không, lớn ngồi trước! Tuổi càng nhỏ càng ngồi cao nhất.

Phương Chứng đại sư thấy nguy cơ chỉ trong khoảnh khắc, lại không thể lên tiếng khuyên can, sợ tiết lộ cơ quan. Lão liền bước nhanh vào điện, lớn tiếng nói:

– Có quý khách ở ngoài, không được tranh biện, đừng ồn!

Hai tiếng “đừng ồn” này, lão vận công phu Kim Cang thiền sư tử hống là nội công chí cao vô thượng của phái Thiếu Lâm, một luồng kình lực nhắm đúng vào Đào Cốc lục tiên mà phát tới.

Xung Hư đạo trưởng cảm thấy đầu choáng váng, suýt chút nữa té ngã. Đào Cốc lục tiên đã hôn mê bất tỉnh. Xung Hư vui mừng, xuất thủ như gió, khiêng hai người ngồi trên ghế ra trước, liền điểm huyệt đạo sáu người rồi lôi cả sáu đến dưới bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Lão cúi người xuống lắng tai nghe bên ghế có gì lạ không, may mà không có gì khác lạ. Lão cảm thấy tay chân mềm nhũn, đầu ướt đẫm mồ hôi, chỉ cần Phương Chứng vào chậm một chút thuốc dẫn phát tác thì tất cả đều chết hết.

Xung Hư và Phương Chứng sóng vai đi ra nói:

– Mời Nhậm giáo chủ vào am dùng trà.

Nhưng rèm kiệu vẫn không lay động, trong kiệu vẫn không có động tĩnh gì. Xung Hư tức giận, thầm nghĩ: Lão ma đầu thật xấc láo! Ta, Phương Chứng đại sư và Lệnh Hồ chưởng môn đều có địa vị tôn cao trong võ lâm đương thời, đứng ở đây hầu ngươi mà ngươi vẫn không đếm xỉa tới.

Nếu không phải trong ghế cửu long có phục cơ quan thì lão đã cầm trường kiếm xông ra, hất rèm kiệu lên, động thủ với Nhậm Ngã Hành. Lão lại nói một lần nữa nhưng trong kiệu vẫn không có người đáp lại.

Hướng Vấn Thiên cúi người, áp tai vào kiệu, nghe chỉ thị của người trong kiệu, gật đầu liên tục, rồi đứng thẳng lên nói:

– Nhậm giáo chủ tệ giáo nói: Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm, Xung Hư đạo trưởng phái Võ Đang, hai vị tiền bối võ lâm đứng đợi ở đây, thật không dám nhận. Sau này giáo chủ sẽ đích thân lên Thiếu Lâm, Võ Đang để bồi tội.

Hướng Vấn Thiên lại nói:

– Nhậm giáo chủ nói: Hôm nay giáo chủ đến Hằng Sơn là chỉ để tương hội với Lệnh Hồ chưởng môn thôi, mời một mình Lệnh Hồ chưởng môn vào trong am tương kiến.

Lão nói xong, vẫy tay ra hiệu, mười sáu tên kiệu phu liền khiêng kiệu vào trong Quan Âm đường, đặt xuống. Hướng Vấn Thiên và Lục Trúc Ông cùng vào, rồi cùng với những người khiêng kiệu lùi ra, trong am chỉ còn lại cỗ kiệu thôi.

Xung Hư thầm nghĩ: Chuyện này có điều kỳ lạ, không biết trong kiệu có ẩn giấu cơ quan gì.

Lão nhìn Phương Chứng và Lệnh Hồ Xung. Phương Chứng không giỏi ứng biến, không biết phải làm thế nào, mặt hiện ra vẻ hoang mang. Lệnh Hồ Xung nói:

– Nhậm giáo chủ muốn gặp một mình vãn bối, xin hai vị đợi ở đây một lát.

Xung Hư nói khẽ:

– Phải cẩn thận.

Lệnh Hồ Xung gật đầu, bước vào trong am. Vô Sắc am chỉ là một tòa ngói nhỏ, trong Quan Âm đường mà có người nói to thì bên ngoài nghe cũng không rõ. Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối Lệnh Hồ Xung bái kiến Nhậm giáo chủ.

Nhưng không nghe Nhậm giáo chủ nói gì, đột nhiên Lệnh Hồ Xung a lên một tiếng. Xung Hư giật mình kinh hãi, sợ Lệnh Hồ Xung gặp phải độc thủ của Nhậm Ngã Hành. Lão bước một bước muốn xông vào tương cứu nhưng liền nghĩ: Lệnh Hồ huynh đệ kiếm thuật tinh thâm, vô địch đương thời, lúc huynh đệ vào am có cầm trường kiếm, không đến nỗi trong một chiêu đã bị Nhậm lão ma đầu chế ngự. Nếu không may gặp phải độc thủ thật, thì ta có chạy vào động thủ cũng không cứu được huynh đệ. Mong sao Nhậm lão ma đầu chưa giết Lệnh Hồ huynh đệ là tốt nhất, nếu Lệnh Hồ huynh đệ đã gặp độc thủ, lão ma đầu ở một mình trong Quan Âm đường, tất sẽ ngồi lên bảo ghế cửu long, ta mà xông vào thì sẽ làm hỏng đại sự.

Hồi 160: Nhật Nguyệt giáo chủ bây giờ là ai?

Nhất thời lão thấp thỏm không yên. Lão thầm nghĩ: Nhậm lão ma đầu không chừng đã ngồi lên ghế rồi, qua một lúc nữa, thuốc dẫn phát động, trên đỉnh ngọn Kiến Tính này sắp nổ tung hết một nửa. Nếu bây giờ ta lánh đi thì không khỏi để lộ vẻ khiếp nhược, bị bọn Hướng Vấn Thiên nhìn thấy, có thể lên tiếng báo động, không khỏi làm hỏng mọi chuyện. Nhưng nếu chất nổ phát tác, thân thủ ta có nhanh đến mấy cũng tránh không kịp, vậy phải làm sao?

Lão vốn tính kế rất chu tất. Nhật Nguyệt giáo vừa tấn công lên đỉnh thì tiếp chiến thế nào, rút lui ra sao, bàn tính lúc Nhậm Ngã Hành ngồi lên ghế cửu long thì môn hạ của ba phái Hằng Sơn, Võ Đang, Thiếu Lâm đều đã lùi xuống thâm cốc. Không ngờ Nhật Nguyệt giáo lên không động thủ, lại chơi cái gì tiên lễ hậu binh, Nhậm Ngã Hành muốn tương hội với một mình Lệnh Hồ Xung ở trong am, cục diện hoàn toàn biến đổi ngoài sự tiên liệu. Tuy lão rất cơ trí, nhưng nhất thời lúng túng không biết nên làm gì.

Phương Chứng đại sư biết cục diện rất căng thẳng, lão cũng rất lo lắng cho sự an nguy của Lệnh Hồ Xung. Nhưng lão tu luyện rất tinh thâm, lòng rất thông đạt, chỉ cảm thấy sự sinh tử vinh nhục, họa phúc thành bại, kỳ thực cũng không phải là đại sự quan trọng. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, kết cục như thế nào là thiện nghiệp do mỗi người tạo ra, không thể cưỡng cầu mà được.

Cho nên, lòng lão tuy mơ hồ cảm thấy bất ổn, nhưng vẫn thản nhiên, thuốc nổ có phát tác thật, cái thân xác này có bị hủy đi, đó cũng là cách rời bỏ cuộc sống ô uế này, đâu có gì phải sợ?

Chuyện chôn thuốc nổ dưới ghế cửu long rất cơ mật, chỉ có Phương Chứng, Xung Hư, Lệnh Hồ Xung cùng bọn Thanh Hư, Thành Cao và tay chôn thuốc nổ biết mà thôi. Bây giờ họ đều ở giữa lưng chừng núi đợi, chỉ chờ trên đỉnh núi phát nổ thì liền cho địa lôi nổ tiếp. Trên ngọn Kiến Tính, những người còn lại không ai biết gì cả. Môn hạ ba phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Hằng Sơn chỉ đợi Nhậm Ngã Hành và Lệnh Hồ Xung ở trong Vô Sắc am nói to tiếng, động thủ, thì liền rút kiếm đối phó với giáo chúng Nhật Nguyệt giáo.

Xung Hư đứng ngoài canh gác rất lâu, không thấy trong am có động tĩnh gì liền vận nội công lắng tai nghe, loáng thoáng dường như Lệnh Hồ Xung nói khẽ câu gì, lão mừng thầm:

– Thì ra Lệnh Hồ Xung vẫn an nhiên vô sự.

Lòng lão vừa phân tâm thì nội công không vận được tinh thuần, nhất thời không nghe được gì nữa, lại lo lắng vừa rồi lão chỉ theo ý mình, lòng mong gì thì tai nghe suy luận ra vậy, chưa chắc đúng là thanh âm của Lệnh Hồ Xung, nếu không thì tại sao lão không nghe được tiếng của hắn?

Qua một lúc lâu sau, nghe Lệnh Hồ Xung gọi:

– Hướng đại ca, xin Hướng đại ca vào đưa Nhậm giáo chủ ra khỏi am.

Hướng Vấn Thiên đáp dạ, rồi cùng với Lục Trúc Ông dẫn mười sáu phu kiệu đi vào trong Vô Sắc am, khiêng kiệu ra. Giáo chúng Nhật Nguyệt giáo đứng ngoài am cùng cúi người nói:

– Cung nghinh thánh giáo chủ đại giá.

Cỗ kiệu khiêng đến chỗ cũ, đặt xuống. Hướng Vấn Thiên nói:

– Dâng lễ vật thánh giáo chủ tặng cho phương trượng chùa Thiếu Lâm.

Hai tên giáo chúng mặc cẩm y bưng hai cái mâm đi đến trước mặt Phương Chứng cúi người dâng mâm lên.

Phương Chứng thấy trong một cái mâm đựng một xâu chuỗi trầm hương rất cũ, mâm kia đựng một bộ kinh cũ viết tay, trên bìa loằng ngoằng chữ Phạn. Lão biết là kinh Kim Cang, bất giác vui mừng. Lão nghiên cứu Phật pháp rất tinh thâm, đối với kinh Kim Cang cũng rất tâm đắc, nhưng lão chỉ được đọc bản dịch Trung văn của cao tăng Cưu Ma La thời Đông Tấn, trong đó có nhiều chỗ khó hiểu. Bình sinh lão khát khao muốn nhìn thấy nguyên tác bằng chữ Phạn để đối chứng, nhưng đã tìm khắp Trung Nguyên mà không có được, bây giờ vừa thấy lão vui mừng cực độ, chấp tay cúi người nói:

– A Di Đà Phật, lão nạp được bảo kinh này, cảm kích vô lượng.

Lão cung kính đưa hai tay ra bưng bộ kinh Kim Cang chữ Phạn, sau đó mới lấy xâu chuỗi. Lão nói:

– Xin kính đa tạ Nhậm giáo chủ hậu tứ, thật không biết lấy gì báo đáp.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Giáo chủ tệ giáo nói, tệ giáo đối với anh hùng thiên hạ từng vô lễ, rất lấy làm xấu hổ. Phương Chứng đại sư không trách, tệ giáo đã cảm kích vô cùng rồi.

Lão nghiêng đầu nói:

– Dâng lễ vật của Nhậm giáo chủ tặng cho đạo trưởng chưởng môn phái Võ Đang.

Hai tên giáo chúng mặc cẩm y đáp dạ rồi đi ra, đến trước mặt Xung Hư đạo nhân cúi người dâng mâm lên.

Hai người chưa đi đến gần thì Xung Hư thấy trong một mâm để ngang một thanh trường kiếm, lúc hai người đến gần lão chăm chú nhìn kỹ, thấy vỏ kiếm bám đầy gỉ đồng, dây tơ khảm lên hai chữ triện. Xung Hư không nhịn được ồ lên một tiếng. Sư tổ Trương Tam Phong sáng lập phái Võ Đang thường dùng thanh bội kiếm tên là Chân Võ kiếm, xưa nay là bảo vật trấn sơn của phái Võ Đang. Hơn tám chục năm về trước, mấy cao thủ trưởng lão Nhật Nguyệt giáo ban đêm đánh lén núi Võ Đang, lấy mất bảo kiếm và cả bộ Thái Cực quyền kinh là thủ thư của Trương Tam Phong. Trận ác đấu đó hảo thủ phái Võ Đang chết ba cao thủ hạng nhất, tuy cũng giết được bốn trưởng lão của Nhật Nguyệt giáo nhưng một quyển kinh và một thanh kiếm chưa đoạt lại được. Cái đại nhục này của phái Võ Đang, hơn tám chục năm nay, mỗi đời chưởng môn lúc lâm chung đều để lại di huấn, nhất định phải đoạt lại cho được. Nhưng Hắc Mộc Nhai thành lũy rất thâm nghiêm, phái Võ Đang đã nhiều lần công khai lẫn ngấm ngầm đoạt lại nhưng đều không đoạt được mà mỗi lần còn mất hết mấy mạng trên Hắc Mộc Nhai. Không ngờ thanh kiếm lại xuất hiện trên ngọn Kiến Tính. Xung Hư liếc mắt nhìn mâm kia, trong mâm để sờ sờ một bộ sách mỏng viết tay, giấy đã hoen ố chuyển sang màu vàng, ngoài bìa viết bốn chữ “Thái Cực quyền kinh”. Xung Hư đạo nhân ở núi Võ Đang thấy qua không ít thủ bút của Trương Tam Phong, lão vừa thấy thủ bút thì biết ngay đây chính là chân tích của Thái Cực quyền kinh.

Lão đưa hai tay run run, cầm lấy thanh trường kiếm, tay phải nắm chuôi kiếm, nhẹ nhàng rút kiếm ra một nửa, cảm thấy hàn khí xông lên mặt. Lão biết Tam Phong tổ sư lúc về già kiếm thuật như thần, nhưng rất ít khi sử kiếm, khi bị bức phải cùng người động thủ, cũng chỉ dùng mộc kiếm, thiết kiếm tầm thường. Thanh Chân Võ kiếm này là binh khí tổ sư dùng thời trung niên để quét sạch quần tà, oai chấn giang hồ, là một lợi khí rất bén. Lão sợ bị Nhậm Ngã Hành lừa gạt, mới mở Thái Cực quyền kinh xem, quả nhiên là sách của Tam Phong tổ sư. Lão đặt quyển kinh thư lại trong mâm, quỳ xuống đất, hướng về quyển kinh và thanh kiếm lạy tám lạy, rồi đứng dậy nói:

– Nhậm giáo chủ khoan hồng đại lượng, khiến cho di vật của tổ sư gia Võ Đang trở về Chân Võ quán, Xung Hư có tan thân cũng khó báo được đại đức này.

Lão nhận quyển kinh và thanh kiếm, lòng quá khích động, hai tay run lên bần bật. Hướng Vấn Thiên nói:

– Giáo chủ tệ giáo nói, ngày trước tệ giáo đắc tội với phái Võ Đang rất hổ thẹn, hôm nay ngọc bích đã trở về nước Triệu, mong toàn phái Võ Đang lượng thứ.

Xung Hư nói:

– Nhậm giáo chủ nói quá khách khí.

Hướng Vấn Thiên lại nói:

– Dâng lễ vật thánh giáo chủ tặng cho Lệnh Hồ chưởng môn phái Hằng Sơn.

Phương Chứng và Xung Hư thầm nghĩ: Không biết lão tặng cho Lệnh Hồ chưởng môn lễ phẩm quý giá gì đây?

Hai chục giáo chúng mặc cẩm y bước lên, mỗi người bưng một cái mâm đi đến trước Lệnh Hồ Xung. Trong các mâm đựng đầy những dụng cụ thường dùng như áo, mũ, giày, hũ rượu, chén uống rượu, chén uống trà, tuy rất tinh xảo nhưng rõ ràng không có vật gì kỳ lạ. Chỉ có một cái mâm để một ống tiêu bằng ngọc, một mâm để một cây cổ cầm tương đối quý giá, nhưng so với lễ vật tặng cho Phương Chứng và Xung Hư thì không thể sánh được.

Lệnh Hồ Xung cung tay nói:

– Đa tạ.

Chàng lệnh cho Vu Tẩu phái Hằng Sơn nhận lấy.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Giáo chủ tệ giáo nói, lần này đến Hằng Sơn làm phiền các vị thật áy náy. Mỗi vị sư thái xuất gia phái Hằng Sơn, giáo chủ tặng một bộ áo mới, một thanh trường kiếm, mỗi vị sư tỷ sư muội tục gia tặng một hộp trang điểm, một thanh trường kiếm, mong các vị vui lòng nhận. Tệ giáo đã mua ba ngàn mẫu ruộng dưới chân núi Hằng Sơn, tặng cho Vô Sắc am làm ruộng canh tác. Bây giờ xin cáo từ.

Lão nói xong, hướng về Phương Chứng, Xung Hư, Lệnh Hồ Xung xá dài rồi quay người toan bước đi.

Xung Hư gọi:

– Hướng tiên sinh!

Hướng Vấn Thiên quay người lại cười hỏi:

– Đạo trưởng có gì dặn bảo?

Xung Hư nói:

– Được quý giáo chủ hậu tứ, không công mà nhận lộc, lòng bần đạo rất áy náy, không biết… không biết…

Lão nói liền hai lần “không biết” nhưng không nói tiếp được nữa, lão muốn hỏi là “không biết có dụng ý gì”, nhưng câu này lão không hỏi ra được. Hướng Vấn Thiên cười, cung tay nói:

– Vật trả về chủ, đó là lý đương nhiên. Đạo trưởng hà tất phải áy náy?

Lão quay người hô:

– Giáo chủ khởi giá.

Tiếng nhạc tấu lên, mười trưởng lão dẫn đường, mười sáu người khiêng kiệu đi. Phía sau là đội tù và, đội trống, đội cổ nhạc, phía sau nữa là giáo chúng các đường nối nhau xuống núi.

Xung Hư và Phương Chứng cùng nhìn Lệnh Hồ Xung đều nghĩ: Tại sao Nhậm giáo chủ lại thay đổi một cách kỳ quặc? Chuyện này chỉ có một người biết thôi.

Nhìn vẻ mặt của Lệnh Hồ Xung, hai lão không suy ra điều gì hết, thấy chàng dường như vừa vui mừng vừa đau lòng. Giáo chúng Nhật Nguyệt giáo đi một lúc thì tiếng nhạc dừng lại, tiếng tung hô cái gì “Thiên thu vạn tải thống nhất giang hồ” không còn vang lên nữa, thật là lúc đến thì diễu võ dương oai, lúc đi thì cuốn cờ lặng trống.

Xung Hư nhịn không được, hỏi:

– Lệnh Hồ huynh đệ, Nhậm giáo chủ bỗng nhiên tốt bụng, chắc là nể cái mặt to bằng trời của huynh đệ. Không biết… không biết…

Lão muốn hỏi “không biết lão nói huynh đệ cái gì” nhưng lão liền nghĩ, chuyện này nếu Lệnh Hồ Xung muốn nói thì đương nhiên sẽ nói, nếu hắn không muốn nói thì có hỏi nhiều cũng vô ích thôi, nên lão nói hai lần “không biết” liền im lại.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Xin hai vị tiền bối tha thứ, vừa rồi vãn bối đã hứa với Nhậm giáo chủ chuyện này tạm thời giữ kín. Nhưng cũng không có gì bí mật lắm, rồi đây hai vị cũng sẽ biết.

Phương Chứng cười ha hả nói:

– Một trận đại họa đã không xảy ra, thật là phước cho võ lâm. Xem cử chỉ của Nhậm giáo chủ hôm nay, đối với các phái chính giáo ta thật không có ý thù địch, hóa giải vô số sát kiếp, thật là đáng mừng.

Xung Hư không cách nào dò tìm được nguyên nhân, lòng bút rứt khó chịu, nghe Phương Chứng nói vậy, cũng cảm thấy rất có lý, bèn nói:

– Không phải lão đạo quá lo, nhưng Nhật Nguyệt giáo trá ngụy vô cùng, chúng ta nên cẩn thận là hơn. Nói không chừng Nhậm giáo chủ biết chúng ta có phòng bị, sợ thuốc nổ phát tác, nên hôm nay cố ý đến lấy lòng, đợi lúc chúng ta không đề phòng thì đánh lén. Hai vị có thấy như vậy không?

Phương Chứng nói:

– Chuyện này… lòng người khó lường, khó mà đề phòng được.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không đâu, nhất định không có chuyện đó đâu.

Xung Hư nói:

– Lệnh Hồ chưởng môn khẳng định không có chuyện đó thì hay quá rồi.

Nói vậy nhưng lòng lão không tin chắc như vậy. Qua một lúc sau, ở dưới núi báo tin lên, đoàn người Nhật Nguyệt giáo đã xuống gần đến chân núi, những người giữ đường không nhận được tín hiệu, nên không dám đánh giết, cũng chưa dẫn thuốc nổ vào địa lôi. Xung Hư sai người thông báo cho Thanh Hư và Thành Cao cắt đứt hết dây dẫn từ địa lôi đến ghế cửu long.

Lệnh Hồ Xung mời Phương Chứng và Xung Hư vào Vô Sắc am, nghỉ ngơi trong Quan Âm đường. Phương Chứng mở kinh Kim Cang chữ Phạn ra xem. Xung Hư vuốt ve thanh Chân Võ kiếm một lúc, đọc mấy câu Thái Cực quyền kinh, vui mừng vô hạn, những mối nghi kỵ trong lòng cũng dần dần tiêu hết.

Đột nhiên dưới bàn thờ có người nói:

– A, Doanh muội, là Doanh muội!

Người khác nói:

– Xung ca! Xung ca… Xung ca… Xung ca…!

Chính là thanh âm của Đào Cốc lục tiên. Lệnh Hồ Xung giật mình la lên một tiếng rồi nhảy nhổm lên. Nghe thanh âm dưới bàn thờ không ngừng phát ra:

– Xung ca, gia gia của tiểu muội, gia gia… gia gia lão nhân gia đã tạ thế rồi.

– Tại sao lại mất?

– Hôm ở trên ngọn Triêu Dương Hoa Sơn, Xung ca xuống núi không lâu, bỗng nhiên gia gia tiểu muội từ trên Tiên Nhân Chưởng té xuống, Hướng thúc thúc và tiểu muội đỡ gia gia dậy, nhưng không bao lâu, gia gia liền tắt thở.

– Vậy… vậy có người ám toán lão nhân gia sao?

– Không phải. Hướng thúc thúc nói, gia gia lão nhân gia tuổi đã cao, ở dưới đáy Tây Hồ phải chịu khổ mười mấy năm, mấy năm gần đây gia gia lại dùng thứ nội công vô cùng bá đạo, cường hành hóa trừ những luồng chân khí dị chủng trong cơ thể, thật rất tổn hao chân khí. Lần này vì tính toán tru diệt Ngũ Nhạc kiếm phái, lại tổn hao không ít tâm huyết. Gia gia lão nhân gia đã hưởng hết tuổi trời.

– Thật là không ngờ nổi.

– Ngày hôm đó ở trên ngọn Triêu Dương, Hướng thúc thúc và mười trưởng lão bàn bạc, cùng cử tiểu muội lên tiếp nhiệm giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo.

– Thì ra Nhậm giáo chủ là Nhậm đại tiểu thư chứ không phải là Nhậm lão tiên sinh.

Vừa rồi Đào Cốc lục tiên tranh nhau ngồi ghế cửu long, Phương Chứng dùng sư tử hống là nội công vô thượng của Phật môn để làm bọn họ hôn mê. Xung Hư sợ tiết lộ cơ mật nên đã điểm huyệt đạo sáu người rồi nhét dưới bàn thờ. Không ngờ nội công của sáu người này thâm hậu, không bao lâu thì tỉnh lại, nghe cuộc đối thoại giữa Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh, nên bây giờ nói ra không sót một từ. Phương Chứng và Xung Hư nghe nói Nhậm Ngã Hành đã chết, Doanh Doanh tiếp nhiệm ngôi vị giáo chủ, thì hiểu ngay ra những chuyện khác, lòng vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Doanh Doanh tặng hai người trọng lễ, tặng cho Lệnh Hồ Xung là vật dụng quần áo giày dép làm tín vật giao hoán văn định của hai người.

Đào Cốc lục tiên mỗi người một câu nói liên tục không thôi:

– Xung ca, hôm nay tiểu muội lên Hằng Sơn thăm Xung ca, nếu để người chính giáo biết được thì họ sẽ cười cho.

– Vậy có gì ngại đâu? Doanh muội hay mắc cỡ quá.

– Không, tiểu muội không muốn người ta biết.

– Thôi được, ta hứa với Doanh muội sẽ không nói, được chưa?

– Tiểu muội dặn bọn họ rồi nhưng họ vẫn lớn tiếng hoan hô cái gì: “Văn thành võ đức, trạch bị thương sinh thánh giáo chủ”, cái gì “thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ” là vì muốn cho người khác biết và không nhìn ra chỗ sơ hở, chứ không phải vô lễ cuồng vọng với phái Hằng Sơn của Xung ca, Phương Chứng phương trượng và Xung Hư đạo trưởng đâu.

– Vậy cũng không cần lo lắng, đại sư và đạo trưởng sẽ không biết đâu.

– Hơn nữa Nhật Nguyệt giáo và phái Hằng Sơn, Thiếu Lâm, Võ Đang hóa địch làm bạn, tiểu muội cũng không muốn để cho người ta nói đó là chủ ý của tiểu muội. Hảo hán trên giang hồ nhất định sẽ nói, vì tiểu muội… với Xung ca… thương nhau, ngay cả một trận tử chiến cũng bỏ, thì rất khó nghe.

– Hì hì, ta không sợ.

– Cái mặt Xung ca dày nên đương nhiên không sợ. Tin gia gia tạ thế, Nhật Nguyệt giáo giấu rất kín, chỉ nói là sau khi gia gia tiểu muội đến Hằng Sơn, cùng với Xung ca thương lượng một lúc thì hòa hảo, có vậy thì thanh danh của gia gia tiểu muội mới tốt. Đợi sau khi tiểu muội về đến Hắc Mộc Nhai mới phát đại tang.

– Phải, nữ tế ta phải đến khấu đầu điếu hiếu mới được.

– Xung ca đến được thì đương nhiên rất hay. Ngày hôm đó ở trên ngọn Triêu Dương Hoa Sơn, gia gia tiểu muội vốn đã chính miệng hứa gả tiểu muội cho Xung ca, nhưng… nhưng phải đợi sau khi tiểu muội mãn tang…

Lệnh Hồ Xung nghe sáu người này từ từ nói đến chuyện mình và Doanh Doanh bàn định chuyện thành hôn thì lớn tiếng nói:

– Đào Cốc lục tiên, các vị không ra đi, ở dưới gầm bàn nói năng lung tung thì tại hạ sẽ lột da, rút gân các vị.

Đào Cán Tiên buồn bã thở dài, bắt chước theo ngữ khí của Doanh Doanh nói:

– Tiểu muội lo cho Xung ca. Gia gia chưa truyền pháp môn hóa giải chân khí dị chủng cho Xung ca, kỳ thực gia gia có truyền cho cũng vô dụng. Chính gia gia, ôi!

Đào Cán Tiên cố khản cổ họng, nói rất bi thương.

Phương Chứng, Xung Hư, Lệnh Hồ Xung cả ba người nghe cũng không khỏi có ý buồn bã. Nhậm Ngã Hành một đời quái kiệt, tuy bình sinh làm nhiều chuyện ác, nhưng kết cục đời lão như vậy, cũng không khỏi khiến người ta thở dài. Lệnh Hồ Xung có tình cảm đặc biệt với Nhậm Ngã Hành, tuy ghét lão tác oai tác quái, hoành hành bá đạo, nhưng cũng rất khâm phục văn tài võ lược của lão, nhất là tính cách không biết sợ hãi là gì, độc hành kỳ thị, hợp với tính của hắn. Chỗ khác nhau là chàng tuyệt không có tham vọng “thống nhất giang hồ” mà thôi.

Nhất thời trong lòng ba người cùng dấy lên ý nghĩ: Từ xa xưa hoàng đế, quan tướng, thánh hiền, hào kiệt, gian hùng đại đạo, nguyên hung cự ác cũng phải chết.

Đào Thực Tiên ép giọng nói:

– Xung ca, Xung ca…

Xung Hư muốn nghe bọn lão nói nữa, nhưng thấy mặt Lệnh Hồ Xung nhăn nhó khó coi, lão cười nói:

– Lục vị Đào huynh, vừa rồi lão có điều đắc tội. Nhưng các vị nói cũng đã đủ rồi, nếu còn chọc giận Lệnh Hồ chưởng môn, thì chưởng môn sẽ điểm Á huyệt chung thân của các vị, chỉ e rằng các vị không nói được nữa đâu.

Đào Cốc lục tiên kinh hãi, cùng hỏi:

– Cái gì Á huyệt chung thân?

Xung Hư nói:

– Á huyệt chung thân đó hễ mà điểm rồi thì suốt đời thành câm, không còn nói được nữa. Còn như ăn cơm uống rượu thì cũng được.

Đào Cốc lục tiên cùng la:

– Nói năng là đệ nhất, còn ăn cơm uống rượu là thứ hai.

Xung Hư nói:

– Các vị muốn nói một câu cũng không được. Lệnh Hồ chưởng môn, chưởng môn nể mặt phương trượng đại sư và lão đạo, đừng điểm Á huyệt chung thân của sáu vị. Phương trượng đại sư và lão đạo phụ trách bảo đảm sáu vị này ở dưới bàn thờ nghe lén chưởng môn và Nhậm đại tiểu thư nói chuyện, quyết không tiết lộ ra ngoài.

Đào Hoa Tiên la lên:

– Oan quá, oan quá, bọn ta đâu phải là muốn nghe lén, lời nói chui lọt vào tai biết làm sao?

Xung Hư nói:

– Các vị nghe thì cũng nghe rồi, ai cũng không nên nói gì. Sau khi nghe rồi nói lung tung thì không được.

Đào Cốc lục tiên cùng nói:

– Được, được! Bọn ta không nói, bọn ta không nói nữa.

Đào Căn Tiên nói:

– Nhưng hai câu của thánh giáo chủ Nhật Nguyệt giáo đã sửa rồi, cũng không được nói sao?

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng quát:

– Không được nói, không được nói!

Đào Chi Tiên xì xào:

– Không nói thì không nói, ngươi và Nhậm đại tiểu thư nói được mà bọn ta thì không được nói.

Xung Hư buồn bực:

– Tám chữ câu đó của Nhật Nguyệt giáo đã sửa rồi ư? Tám chữ đó đương nhiên là “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ”. Nhậm đại tiểu thư làm giáo chủ, không muốn thống nhất giang hồ, thì không biết đổi thành cái gì?

Hồi 161: Khúc Tiếu ngạo từ đây vang mãi

Ba năm sau, một ngày nọ ở Cô Sơn Mai trang, Tây Hồ, Hàng Châu treo đèn kết hoa, cách bài trí thật lộng lẫy. Hôm đó chính là ngày Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh thành hôn.

Hiện nay, ngôi vị chưởng môn phái Hằng Sơn đã giao cho Nghi Thanh tiếp chưởng. Nghi Thanh hết sức khước từ, muốn nhường lại cho Nghi Lâm, nói là kiếm của Nghi Lâm đã trả đại thù cho phái Hằng Sơn, nên xứng đáng tiếp nhận ngôi vị chưởng môn. Nhưng Nghi Lâm không chịu. Cô bị nhiều người bức ép liền khóc òa lên. Mọi người theo lời đề nghị của Lệnh Hồ Xung trao quyền cho Nghi Thanh chấp chưởng quản lý môn hộ Hằng Sơn. Doanh Doanh đã từ ngôi giáo chủ Nhật Nguyệt giáo giao lại cho Hướng Vấn Thiên tiếp nhiệm. Tuy Hướng Vấn Thiên là nhân vật kiệt xuất, kiêu ngạo bất thuần, nhưng không có dã tâm thôn tính các phái chính giáo, mấy năm nay trên giang hồ thái bình vô sự.

Hôm nay, hào sĩ giang hồ đến ăn mừng đầy chật Mai trang. Sau khi đại lễ yến tiệc xong, lúc đại náo tân phòng, quần hào muốn tân lang tân nương biểu diễn kiếm pháp. Hào sĩ đương thời đều biết kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung tinh tuyệt, trong khách đến mừng lại có nhiều người chưa được thấy qua. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Hôm nay động đao sử kiếm thì không hợp chút nào. Tại hạ và tân nương cùng tấu một khúc nhạc được chăng?

Quần hào liền hoan hô. Lệnh Hồ Xung lấy ra cây dao cầm và cây ngọc tiêu, đưa ngọc tiêu cho Doanh Doanh. Doanh Doanh không lột dải vải thêu hoa, đưa bàn tay xinh xắn đón lấy ống tiêu, dẫn cung tiếp thương, cùng hợp tấu với Lệnh Hồ Xung.

Điệu khúc hai người tấu chính là khúc Tiếu ngạo giang hồ. Trong ba năm nay, Lệnh Hồ Xung được Doanh Doanh chỉ điểm, tinh thông nghiên cứu cầm lý, đã tấu khúc này rất ý vị. Lệnh Hồ Xung nhớ đến ngày ở trong hoang sơn ngoại thành Hành Sơn, lần đầu nghe Lưu Chính Phong phái Hành Sơn và Khúc Dương trưởng lão Nhật Nguyệt giáo hợp tấu khúc này. Hai người tình thân thắm thiết, chỉ vì giáo phái bất đồng, không thể công khai làm bằng hữu với nhau, cuối cùng nắm tay nhau cùng chết. Hôm nay chàng được thành thân với Doanh Doanh, giáo phái khác nhau nhưng không ngăn cản được, so với người soạn ra khúc nhạc này, đương nhiên may mắn hơn nhiều. Lại nghĩ đến hai vị Lưu – Khúc hợp soạn khúc nhạc này vốn đã có thâm ý xóa tan mối thù nhiều năm, bây giờ phu phụ hợp tấu, cuối cùng đã hoàn thành tâm nguyện của hai vị tiền bối Khúc – Lưu. Nghĩ đến điểm này cầm tiêu tấu lên rất hài hòa. Đa số quần hào không hiểu âm vị, nhưng nghe cũng cảm thấy tinh thần sảng khoái.

Khúc nhạc vừa dứt, quần hào vỗ tay hoan hô rồi từ từ lui ra khỏi tân phòng. Hỷ nương thỉnh an rồi xoay tay đóng cửa phòng lại.

Đột nhiên bên ngoài vách tường vang lên mấy tiếng hồ cầm du dương. Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Mạc Đại sư bá…

Doanh Doanh nói khẽ:

– Đừng lên tiếng.

Nghe tiếng hồ cầm miên man uyển chuyển, lại là khúc Phụng cầu hoàng nhưng ý thê lương não nuột vẫn không thay đổi. Lệnh Hồ Xung vui mừng vô hạn thầm nghĩ: Mạc sư bá quả nhiên còn sống, hôm nay sư bá đến tấu khúc nhạc này là chúc mừng tân hôn của ta và Doanh Doanh.

Tiếng đàn từ từ xa dần, đến lúc sau khúc nhạc chưa hết mà tiếng đàn đã không thể nghe được nữa.

Lệnh Hồ Xung xoay người lại, nhẹ nhàng vén tấm khăn che mặt cô ra. Doanh Doanh chúm chím cười, dưới ánh đèn hồng phản chiếu, thật là người đẹp như ngọc. Đột nhiên cô quát lên:

– Ra đây!

Lệnh Hồ Xung sửng sốt, thầm nghĩ: Cái gì ra đây?

Doanh Doanh cười quát:

– Còn không chịu ra, ta tạt nước bây giờ.

Dưới gầm giường chui ra sáu người, chính là Đào Cốc lục tiên. Sáu người trốn dưới gầm giường, vì muốn nghe trộm tân lang và tân nương nói chuyện gì, để đến đại sảnh mà khoa trương với quần hào. Lệnh Hồ Xung trong lúc tâm thần say đắm không còn biết gì nữa. Doanh Doanh tinh tế, lại nghe được tiếng hơi thở rất khẽ của sáu lão. Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Lục vị Đào huynh, suýt chút nữa lại mắc bẫy các vị rồi.

Đào Cốc lục tiên đi ra khỏi tân phòng, kẻ to miệng bô lô bô la:

– Thiên thu vạn tải, vĩnh vi phu phụ! Thiên thu vạn tải, vĩnh vi phu phụ.

Xung Hư đang ở trên hoa sảnh đàm đạo với Phương Chứng, nghe tiếng bô lô bô la của Đào Cốc lục tiên, không khỏi mỉm cười. Ba năm nay họ vẫn đè nén ở trong lòng, bây giờ mới được bung ra. Thì ra ngày hôm đó, Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh thề trong Quan Âm đường, mà Đào Cốc lục tiên lại nói là sửa tám chữ của Nhật Nguyệt giáo.

Bốn tháng sau, tiết xuân trăm hoa đua nở, cây cỏ tốt tươi, Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh còn đang hưởng tuần trăng mật, nắm tay nhau lên núi Hoa Sơn. Lệnh Hồ Xung muốn dẫn vợ cùng đi bái kiến thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương, khấu tạ ơn đức truyền thụ kiếm pháp và nội công. Nhưng hai người đi khắp năm ngọn ba đỉnh của Hoa Sơn và các nơi u cốc, vẫn không phát hiện tung tích của Phong Thanh Dương.

Lệnh Hồ Xung không vui, Doanh Doanh nói:

– Thái sư thúc tổ là cao nhân ngoài cõi tục, thật là thần long thấy đầu mà không thấy đuôi, không biết vân du đến đâu rồi.

Lệnh Hồ Xung than:

– Thái sư thúc tổ cố nhiên kiếm thuật thần thông, nội công của sư thúc tổ lão nhân gia tu luyện cũng được coi là vô song đương thời. Ba năm rưỡi nay ta tu luyện nội công của lão nhân gia truyền thụ, cơ hồ hóa trừ hết chân khí dị chủng trong cơ thể.

Doanh Doanh nói:

– Vậy thì phải đa tạ Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm rồi, chúng ta đã không tìm thấy Phong thái sư thúc tổ, ngày mai chúng ta lên đường đi chùa Thiếu Lâm, để khấu đầu bái tạ Phương Chứng đại sư.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Phương Chứng đại sư thay Phong thái sư thúc tổ truyền thần công, hết lòng giảng giải chỉ dẫn, chẳng khác gì sư phụ, ta cũng nên đi tạ ơn.

Doanh Doanh cười giòn nói:

– Xung ca, đến bây giờ mà Xung ca còn chưa hiểu, nội công mà Xung ca học được là Dịch cân kinh của phái Thiếu Lâm đó.

Lệnh Hồ Xung ồ lên một tiếng rồi nhảy nhổm lên, nói:

– Đây… đây là Dịch cân kinh ư? Sao Doanh muội biết?

Doanh Doanh cười nói:

– Ngày hôm đó, tiểu muội nghe Xung ca nói nội công này là khẩu quyết của Phong thái sư thúc tổ sai Đào Cốc lục tiên đem đến nói lại cho Phương Chứng đại sư biết. Tiểu muội sinh nghi, thầm nghĩ nội công này tinh vi ảo diệu, lúc tu luyện nếu có chút nhầm lẫn, dễ bị tẩu hỏa nhập ma, mất luôn tính mạng, làm sao có thể bảo Đào Cốc lục tiên truyền khẩu quyết lại được? Đào Cốc lục tiên ăn nói lôi thôi không đâu vào đâu, làm sao rõ ràng được? Tuy Phương Chứng đại sư nói, có lẽ do Phong thái sư thúc tổ bức bọn họ phải học thuộc lòng, nhưng như vậy cũng rất mạo hiểm. Sau đó tiểu muội đi hỏi sáu vị nhân huynh này, bọn họ vẫn khăng khăng nói là chuyện đó có thật. Nhưng tiểu muội bắt bọn họ đọc thuộc mấy câu, một người thì nói đã quên sạch rồi, một người nói chỉ có thể nói cho Phương Chứng lão hòa thượng chứ không thể nói cho người khác nghe. Sáu người này nói thêm mấy câu nữa, thì càng mâu thuẫn, sơ hở cả trăm chỗ. Sau đó nói hớ ra, không chối cãi được, thú thật là Phương Chứng đại sư vì muốn cứu tính mạng của Xung ca, nhưng không muốn cho Xung ca biết, nên mới nói là do Phong thái sư thúc tổ ủy thác đại sư truyền công cho Xung ca, nếu Xung ca có hỏi, bảo bọn họ giấu nhẹm hết.

Lệnh Hồ Xung há hốc miệng, không nói được nửa lời. Doanh Doanh lại nói:

– Nhưng Phong thái sư thúc tổ bảo bọn họ truyền tin là có thật, bảo bọn họ báo cho Phương Chứng đại sư biết, nói Nhật Nguyệt giáo muốn đánh Hằng Sơn, xin hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang cứu viện.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Doanh muội xấu bụng ghê, đã biết sớm chuyện này mà hôm nay mới nói ra.

Doanh Doanh cười nói:

– Ngày hôm đó ở trong chùa Thiếu Lâm, tính nết của Xung ca quật cường. Phương Chứng đại sư muốn Xung ca bái sư, cải đầu Thiếu Lâm thì sẽ truyền thần công Dịch cân kinh cho Xung ca, nhưng nói gì Xung ca cũng không chịu, liền rũ tay áo đi ra khỏi cửa. Nếu Phương Chứng đại sư đề cập lại chuyện truyền thụ Dịch cân kinh nữa, thì sợ tính khí ngang bướng của Xung ca lại phát tác, thà mất mạng chứ không chịu học, há không phải là hỏng bét sao? Cho nên đại sư đành phải giả danh được sự ủy thác của Phong thái sư thúc tổ, để Xung ca cho rằng đây là nội công của phái Hoa Sơn thì sẽ học mà không nghi ngại gì.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng rồi, Doanh muội vẫn không nói cho ta, cũng sợ cái tính trâu bò của ta phát tác, đột nhiên không luyện phải không? Bây giờ biết những luồng chân khí dị chủng của ta đã hóa giải hết mới nói ra sự thật.

Doanh Doanh lại cười, nói:

– Cái tính cứng đầu của Xung ca, ai cũng biết, đừng nên dính vào cho mệt.

Lệnh Hồ Xung thở dài, kéo tay cô nói:

– Doanh muội, lúc trước Doanh muội chịu xả thân ở chùa Thiếu Lâm vì muốn Phương Chứng đại sư truyền Dịch cân kinh cho ta. Tuy Doanh muội không chết, Phương Chứng đại sư lại chưa làm được chuyện Doanh muội yêu cầu. Đại sư là tiền bối võ lâm rất coi trọng lời hứa, cuối cùng vẫn đem môn thần công này truyền cho ta. Đây là công sức của Doanh muội đã dùng tính mạng để đổi lấy, dù ta không màng đến sự sinh tử, chẳng lẽ… chẳng lẽ ta không chút nào nghĩ đến Doanh muội mà không luyện sao?

Doanh Doanh nói khẽ:

– Tiểu muội cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng lòng vẫn sợ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngày mai chúng ta xuống núi đi chùa Thiếu Lâm. Đã học được Dịch cân kinh thì phải đến chùa Thiếu Lâm xuất gia làm hòa thượng thôi.

Doanh Doanh biết trượng phu lại đùa, bèn nói:

– Hòa thượng hoang đàng này, miếu lớn không thu, chùa nhỏ không nhận, thanh quy giới luật của chùa Thiếu Lâm nghiêm cẩn vô cùng, ở không đầy nửa ngày thì hòa thượng rượu thịt Lệnh Hồ Xung bị đuổi cổ ra khỏi chùa ngay.

Hai người nắm tay nhau, vừa đi vừa nói chuyện. Lệnh Hồ Xung thấy Doanh Doanh cứ nhìn bên này nhìn bên kia không thôi, dường như là cô đang tìm kiếm gì, bèn hỏi:

– Doanh muội đang tìm gì vậy?

Doanh Doanh nói:

– Tạm thời chưa nói được, đợi tiểu muội tìm ra thì dĩ nhiên Xung ca biết ngay. Lần này đến Hoa Sơn, không thể bái kiến Phong thái sư thúc tổ, thật là điều hối tiếc, nhưng nếu không gặp được người này thì cũng đáng tiếc lắm.

Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:

– Chúng ta phải gặp một người, người đó là ai?

Doanh Doanh mỉm cười không đáp, cô nói:

– Xung ca đem Lâm Bình Chi nhốt trong hắc lao dưới đáy Tây Hồ ở Mai trang, quả thật Xung ca sắp đặt rất thông minh. Xung ca hứa với tiểu sư muội của Xung ca phải chăm sóc suốt đời cho Lâm Bình Chi, hắn ở trong hắc lao, có cơm ăn áo mặc, không ai dám hại hắn, đúng là chăm sóc hắn cả đời. Tiểu muội đối với một vị bằng hữu khác của Xung ca cũng muốn chiếu cố một cách đặc biệt.

Lệnh Hồ Xung càng ngạc nhiên thầm nghĩ: Một vị bằng hữu khác của ta ư? Đó là ai?

Chàng biết thê tử hành sự luôn luôn ngoài sự tưởng tượng của mình, cô ta đã không chịu nói thì có hỏi nhiều cũng vô ích.

Tối hôm đó, hai người ở trong căn phòng cũ của Lệnh Hồ Xung, dưới ánh trăng hai người uống rượu thưởng trăng. Tuy Lệnh Hồ Xung đối diện cô vợ đẹp, nhưng trong lòng nghĩ đến vô số chuyện xưa, vẫn ngậm ngùi thương cảm, uống hết mười mấy bát rượu, chàng đã hơi ngà say. Đột nhiên mặt Doanh Doanh lộ vẻ vui mừng, cô để bát rượu xuống, nói khẽ:

– Chắc là hắn đến, chúng ta đi xem nào.

Lệnh Hồ Xung nghe trên ngọn núi đối diện có tiếng khỉ kêu, không biết ai đến, nhưng cũng theo cô ra khỏi phòng.

Doanh Doanh đi về hướng tiếng khỉ kêu, chạy nhanh đến sườn núi trước mặt. Lệnh Hồ Xung theo sau, dưới ánh trăng, chỉ thấy bảy tám con khỉ tụ lại một chỗ. Khỉ ở Hoa Sơn rất nhiều, Lệnh Hồ Xung không để ý lắm, nhưng thấy trong bầy khỉ rõ ràng có một người, nhìn rõ thì ra là Lao Đức Nặc. Chàng vừa vui mừng vừa tức giận, quay người muốn về phòng lấy kiếm. Doanh Doanh kéo cánh tay chàng, nói khẽ:

– Chúng ta đến gần một chút để xem cho rõ.

Hai người chạy đến gần mười mấy trượng, thấy Lao Đức Nặc bị cột vào giữa hai con khỉ to, bị hai con khỉ kéo tới kéo lui, dường như lão không tự chủ được.

Lão là người có võ công nhưng đối với hai con khỉ lại hoàn toàn không có sức phản kháng.

Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao lại vậy?

Doanh Doanh mỉm cười nói:

– Xung ca cứ xem đi rồi từ từ tiểu muội sẽ giải thích.

Tính con khỉ nóng nảy, cứ nhảy lên nhảy xuống không lúc nào yên. Lao Đức Nặc bị hai con khỉ lôi qua bên này, lại nhảy kéo sang bên kia, thỉnh thoảng kêu lên chí chóe, giơ móng vuốt cấu vào mặt lão. Lúc này Lệnh Hồ Xung đã nhìn rõ, thì ra tay phải của Lao Đức Nặc bị cột vào cổ tay trái của con khỉ, tay trái thì cột vào cổ tay con khỉ kia, hiển nhiên là dùng loại dây xích cột lại. Lệnh Hồ Xung đã hiểu hơn một nửa, bèn hỏi:

– Đây là kiệt tác của Doanh muội phải không?

Doanh Doanh hỏi:

– Xung ca thấy sao?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Doanh muội phế võ công của Lao Đức Nặc rồi ư?

Doanh Doanh nói:

– Cũng không phải, đó là tự hắn làm nên tội nghiệt.

Bầy khỉ nghe có tiếng người thì kêu chí chóe om sòm, bỏ chạy lôi theo Lao Đức Nặc lên đỉnh núi.

Lệnh Hồ Xung muốn giết Lao Đức Nặc để báo thù cho Lục Đại Hữu, nhưng thấy lão bị khổ sở như vậy còn hơn bị kiếm chém vào cổ, nên cũng để mặc lão, trong lòng cảm thấy khoái chí về kiểu phục thù này, thầm nghĩ: Người này rất gian trá xảo quyệt, còn ác hơn cả Lâm sư đệ, phải để cho lão nếm thêm nhiều cái khổ.

Chàng nói:

– Thì ra mấy ngày nay, Doanh muội muốn tìm hắn để cho ta xem.

Doanh Doanh nói:

– Hôm gia gia của tiểu muội lên ngọn Triêu Dương, tên ti tiện này đến nịnh nọt lấy lòng, nói là đem Tịch tà kiếm phổ đến dâng tặng cho gia gia. Gia gia hỏi hắn có dụng ý gì, hắn nói muốn làm một chức trưởng lão của Nhật Nguyệt giáo. Gia gia không rảnh để nói nhiều với hắn, sai người đem hắn nhốt lại. Sau đó gia gia tạ thế, mọi người hốt hoảng, bận túi bụi, không ai để ý tới hắn, đem hắn lên Hắc Mộc Nhai. Qua mười mấy ngày, tiểu muội mới nhớ đến hắn, bảo hắn đến tra vấn, thì ra hắn tự luyện Tịch tà kiếm pháp không đúng lề lối, nên bị phế hết nội công của mình. Người này là hung thủ hại chết Lục sư đệ của Xung ca, mà Lục sư đệ của Xung ca lúc còn sống rất thích khỉ, cho nên tiểu muội bảo người bắt hai con khỉ to, cột vào hắn rồi thả lên núi Hoa Sơn.

Cô nói xong đưa tay nắm tay Lệnh Hồ Xung, than:

– Không ngờ Nhậm Doanh Doanh này lại cũng bị cột cả đời vào một con khỉ bự mà không dứt ra được.

Doanh Doanh nói xong chúm chím cười trông yêu kiều vô hạn.

Hồi 01: Huyền Thiết Lệnh

Triệu khách mạn hồ anh

Ngô câu sương tuyết minh

Ngân yên chiếu bạch mã

Tạp đạp như lưu tinh

Thập bộ sát nhất nhân

Thiên lý bất lưu hành

Sự liễu phất y khứ

Thâm tàng thân dữ danh

Nhàn quá Tín Lăng ẩm

Thoát kiếm tất tiền hoành

Tương chích đạm Chu Hợi

Trì khương khuyến Hầu Doanh

Tam bôi thô nhiên nặc

Ngũ nhạc đảo vi khinh

Nhẵn hoa nhĩ phục hậu

Ý khí tố nghi sinh

Cứu Triệu huy kim trụy

Hàm Đan tiên chấn kinh

Thiên thu nhị tráng sĩ

Huyền hách Đại Lương thành

Túng tử hiệp cốt hương

Bất tàm thế thượng anh

Thùy năng thư các hạ

Bạch thủ thái huyền kinh.

(Khách nước Triệu phất phơ giải mũ,

Kiếm ngô câu rực rỡ tuyết sương.

Ngân yên bạch mã huy hoàng,

Vó câu vun vút như ngàn sao bay.

Cách mười bước giết người chẳng trật,

Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi.

Việc xong rũ áo ra đi,

Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm.

Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến,

Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi.

Này nem này rượu khuyên mời,

Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh.

Ba chén cạn, thân mình sá kể,

Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng.

Mắt hoa mặt đã nóng bừng,

Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh.

Chùy cứu Triệu vung tay khẳng khái,

Thành Hàm Đan run rẩy kinh hoàng.

Nghìn thu tráng sĩ hai chàng,

Tiếng tăm hiển hách rỡ ràng Đại Lương.

Người dù chết còn xương thơm ngát,

Chẳng hổ ngươi đáng mặt anh hào.

Kìa ai ẩn náu trên lầu,

Chép kinh đến thuở bạc đầu chưa xong.)

Đây là bài cổ phong Hiệp Khách Hành của Lý Bạch, viết về chuyện của Hầu Doanh và Chu Hợi, hai vị môn khách của Tín Lăng Quân ở nước Ngụy thời Chiến Quốc. Ngàn năm sau, hậu nhân đọc lại vẫn thấy lời văn sắc bén, tráng khí hào hùng, như hiệp sĩ oai phong ở ngay trước mặt. Thành Đại Lương trong bài cổ thi này ở cạnh sông Hoàng Hà, sau gọi là Biện Lương, tức là phủ Khai Phong huyện Hà Nam ngày nay. Nơi đây tuy đã mấy đời là chốn kinh thành, nhưng phong tục dân chúng vẫn còn chất phác. Khí thế hào hiệp, khẳng khái anh hùng từ thời cổ đại truyền mãi về sau cho hậu thế, đến nay vẫn chưa mai một.

* * *

Cách cửa đông thành Khai Phong chừng mười hai dặm có một thị trấn nhỏ gọi là Hầu Giám Tập. Thị trấn nhỏ này có tên như thế, vì Hầu Doanh vốn là Di Môn Giám Giả của Đại Lương. Phía đông thành Đại Lương vốn có một quả núi hình thế bằng phẳng gọi là Di Sơn, nên cửa đông còn gọi là Di Môn. Di Môn Giám Giả chính là một chức quan nhỏ coi việc đóng mở cửa thành phía đông Đại Lương.

Lúc ấy trời đã xế chiều. Dân chúng ngoại thành về họp chợ ở thị trấn, kẻ gánh người đội quay về nhà thật là tấp nập. Đột nhiên, ở phía Đông Bắc văng vẳng có tiếng vó ngựa dồn dập. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, cả một đại đội nhân mã, ít ra phải có đến hai trăm kỵ sĩ đang phi như bay. Vó ngựa chạy đã rất gấp, mà người cưỡi ngựa còn cố gia roi cho nhanh hơn nữa. Mọi người bàn tán xôn xao: “Chắc đây là quan quân của triều đình.” Có người nói: “Chúng mình mau tránh ra là hơn, lỡ binh mã quan quân kéo qua xô ngã, đổ cả gánh hàng, cũng phải chịu thôi. Giả tỉ bị xéo chết thì lại càng khốn nạn.”

Đột nhiên lại nghe những hồi còi xen lẫn vào tiếng vó ngựa. Sau chốc lát, những hồi còi này tựa hồ đông gọi tây thưa, nam xướng bắc họa, dường như bốn mặt tám phương đều có tiếng còi, vây chặt Hầu Giám Tập. Mọi người kinh hãi thất sắc. Những ai có chút hiểu biết đều không khỏi phỏng đoán: “Phải chăng đây là cường đạo?”

Trong tiệm tạp hóa ở ngay đầu thị trấn, một tên phụ việc lè lưỡi nói: “Úi chà! E rằng mấy vị lão ca đó sắp đến rồi!”

Chủ quán họ Vương sắc mặt tái mét, giơ cánh tay mập mạp run rẩy lên, tưởng chừng như muốn đập gãy đầu tên phụ việc đó. Hắn quát mắng: “Con mẹ nó! Ngươi nói cái gì mà lão ca với tiểu ca? Giả tỉ các vị đại gia đó đến đây thật mà nghe thấy, thì cái mạng nhỏ xíu của ngươi có còn giữ được không? Vả lại, ta cũng chưa thấy giữa ban ngày ban mặt mà có chuyện như thế bao giờ? Úi chà! Chắc… chắc là có chuyện gì rồi…”

Tới nửa câu cuối cùng, hắn há hốc miệng ra không nói thêm được nữa, vì bỗng thấy mé đông đầu thị trấn có bốn năm con tuấn mã chạy tới. Bọn kỵ sĩ đều mặc áo đen, đầu đội nón rộng vành, tay cầm cương đao sáng loáng. Chúng lớn tiếng quát: “Bà con cô bác ở đâu phải đứng yên đó, không được nhúc nhích. Hễ ai cục cựa thì đừng trách đao kiếm không có mắt.” Chúng vừa quát tháo vừa quất ngựa chạy về hướng Tây. Móng ngựa bịt sắt nện xuống đường lát đá xanh bật lên những tiếng côm cốp, nghe vừa kinh hãi vừa hồi hộp.

Tiếng vó ngựa chưa dứt thì từ hướng tây lại có bảy tám con ngựa chạy đến. Bọn kỵ sĩ cũng mặc toàn áo đen, đầu đội nón rộng vành kéo sụp xuống. Mấy người này cũng hò hét om sòm: “Ngoan ngoãn đứng yên thì không sao hết! Còn ai muốn nếm mùi đao thì cứ việc chạy ra.”

Tên giúp việc trong tiệm tạp hóa bỗng cười khẩy một tiếng, rồi nói: “Đao thì làm gì có mùi…” Hắn chỉ muốn nói giỡn một câu, nào ngờ nói chưa xong thì đã bị một đại hán vung roi vào trong quán quấn trúng cổ, rồi thuận tay giật một cái. Lập tức nghe một tiếng “bình”, gã đã văng ra, nằm lăn giữa mặt đường.

Đại hán đó cứ phóng ngựa chạy về phía trước, lôi cả tên giúp việc đi. Một con ngựa đi sau phóng nhanh tới, vó trước xéo lên một cái. Tên giúp việc chỉ rú được một tiếng rồi im, dĩ nhiên đã mất mạng rồi. Mọi người đứng xung quanh thấy bọn này hung hãn như vậy, làm sao dám nhúc nhích nữa? Có người muốn về đóng cửa lại, nhưng hai chân tựa như bị đóng đinh xuống đất, toàn thân run bần bật, chân tay lóng cóng, muốn nhúc nhích cũng không được nữa.

Cách tiệm tạp hóa đó năm sáu căn có một tiệm bán bánh tiêu và dầu cháo quẩy. Chảo dầu đang sôi sùng sục, trên rổ sắt có đặt bảy tám cái bánh. Một ông lão đầu tóc hoa râm đang ngồi trước cái chảo, cúi xuống nặn bột thành những viên nhỏ, rồi lại đè bẹp ra thành miếng hình tròn, tựa như không nhìn thấy những chuyện kinh tâm động phách xảy ra trước mắt. Lão lại cho một ít nhân vào giữa miếng bột, gói lại thành cái bánh, rắc lên một ít mè, rồi dùng kẹp sắt bỏ bánh vào chảo dầu sôi.

Lúc này tiếng còi bốn mặt đã ngừng thổi, ngựa cũng không chạy nữa. Cả một thị trấn bảy tám trăm người tuyệt không tiếng động. Ngay những đứa nhỏ đang khóc cũng bị bố mẹ chúng bịt miệng lại, không cho phát ra chút thanh âm nào, mọi người hầu như nín thở. Bỗng nghe vang lên những tiếng lộp cộp của giày da nện trên đường phố lớn ở mé tây.

Người này đi rất thong thả, chân bước trầm trọng. Mỗi bước chân của y đều khiến mọi người lo lắng, tưởng chừng như chân y xéo lên trái tim mình. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần.

Mặt trời sắp khuất sau núi phía tây. Một bóng người dài lê thê in xuống mặt đường, theo tiếng bước chân mà chậm chạp nhích gần lại. Mọi người đều sợ hãi đứng thộn mặt ra, chỉ có một mình ông lão kia là vẫn tiếp tục chiên bánh. Tiếng giày da lộp cộp đến trước cửa tiệm bánh này thì dừng lại. Người đó để mắt ngó ông lão từ đầu đến chân rồi đột nhiên bật lên mấy tiếng cười lạnh.

Lão bán bánh từ từ ngẩng đầu lên, thấy người đó thân hình cao lêu nghêu, mặt chỗ lồi chỗ lõm như vỏ cam, chằng chịt những mụn cóc. Lão bán bánh gật đầu chào, hỏi: “Đại gia muốn mua bánh phải không? Một đồng một chiếc.” Rồi lão cầm chiếc kẹp sắt gắp bánh ra, đặt chiếc bánh tiêu nóng bỏng lên một tấm ván màu trắng.

Gã cao kều cười nhạt nói: “Đưa đây!” Rồi hắn đưa tay trái ra. Lão già nheo mắt lại, “Vâng!” một tiếng, rồi gắp chiếc bánh nóng hổi đặt vào bàn tay gã.

Gã cao kều đột nhiên dựng đứng lông mày, giận dữ quát: “Lúc này mà ngươi còn dám giỡn mặt lão gia ư?” Rồi gã cầm cái bánh liệng vào mặt lão già đánh vèo một tiếng. Lão già chậm rãi nghiêng đầu đi, chiếc bánh bay vù qua rồi rớt vào rãnh nước bẩn bên cạnh đường.

Gã cao kều vừa liệng bánh ra, lập tức xoay tay về sau lưng rút ra một cặp song câu. Ánh tịch dương chiếu vào đầu câu liêm, phát ra ánh xanh lè khiến người ta phải kinh hãi. Gã lớn tiếng quát hỏi: “Đến bây giờ còn chưa chịu đưa cái đó ra ư? Họ Ngô kia! Ngươi có hiểu biết thời thế không?”

Lão già bán bánh đáp: “Đại gia nhìn lầm người rồi. Lão họ Vương, người ta kêu bằng lão Vương bán bánh, ở Hầu Giám Tập này ai cũng biết.”

Gã cao kều lại cười khẩy: “Con mẹ nó! Bọn ta đã điều tra rõ ràng, ngươi lại còn giả bộ ư? Ngươi cải trang thì bất quá trốn được một năm sáu tháng, nhất định không trốn được cả đời.”

Lão già bán bánh nheo mắt, chậm rãi nói như không có chuyện gì: “Ta vẫn nghe nói An trại chủ Kim Đao Trại thường cướp của người giàu để giúp người nghèo. Trên chốn giang hồ ai đề cập đến hắn cũng đưa ngón tay cái lên mà khen là hiệp đạo. Thế mà sao hôm nay hắn lại phái bọn tiểu lâu la đi làm càn, lại kiếm chuyện cả với lão bán bánh tiêu nghèo hèn này là nghĩa làm sao?” Nhìn lão thì thấy không có khí lực chi hết, thế mà nói mấy câu này lại rất dõng dạc rõ ràng.

Gã cao kều giận dữ quát: “Ngô Đạo Thông! Ngươi nhất định không đưa ra ư?”

Lão già bán bánh hơi đổi sắc mặt, má bên trái hơi giần giật, nhưng vẫn thản nhiên hỏi lại: “Ngươi đã biết Ngô mỗ mà còn dám đến đây vô lễ, lá gan có bị to quá không?”

Gã cao kều mắng lại: “Gan mật của lão gia to hay nhỏ, đến hôm nay ngươi mới biết hay sao?” Tay trái gã vung câu ra chiêu Thủ Đáo Cầm Lai, nhanh như chớp móc xuống vai bên trái Ngô Đạo Thông.

Ngô Đạo Thông né mình qua phải, cây thiết câu của gã cao kều móc vào quãng không. Gã lập tức rút tay trái về, hữu câu nhằm vào sau lưng Ngô Đạo Thông mà móc. Ngô Đạo Thông đột nhiên lún mình xuống tránh khỏi chiêu này, rồi co chân phải đá vào lò lửa đỏ rực. Toàn bộ than hồng trong lò bay vọt đến gã cao kều, chảo dầu sôi để chiên bánh tiêu cũng tạt thẳng tới.

Gã giật mình kinh hãi, vội nhảy lùi lại tránh được than hồng, nhưng không tránh được chảo dầu sôi. Gã rú lên một tiếng “Úi chao!”, chảo dầu đầy đã tạt trúng hai đùi, đau đớn thét lên be be.

Ngô Đạo Thông vận sức xuống chân để nhảy vọt lên không, hạ xuống nóc nhà đối diện, trong tay vẫn nắm chiếc kẹp sắt để nướng bánh. Đột nhiên thanh quang lấp loáng, một lưỡi đơn đao chém thẳng xuống đầu lão.

Ngô Đạo Thông đưa kẹp sắt lên đỡ đánh choang một tiếng, lửa bắn tóe ra.

Cái kẹp sắt trông đen thui chẳng đẹp đẽ gì, nhưng lại được đúc bằng thép ròng, nên mới gạt được lưỡi đao ngược trở lại.

Giữa lúc ấy, một cây đoản thương từ bên trái, và một cặp song đao từ bên phải đồng thời đánh tới, thì ra chung quanh nóc nhà đã bố trí mai phục. Ngô Đạo Thông hứ lên một tiếng rồi quát mắng: “Bọn vô liêm sỉ, ỷ đông người để thủ thắng!”

Lão vươn người lên, tách cái kẹp làm đôi. Mỗi tay lão cầm nửa cái kẹp, bên trái gạt thương, bên phải đỡ song đao. Thế là cây kẹp để gắp bánh tiêu biến thành một đôi phán quan bút.

Đôi bút của Ngô Đạo Thông vung ra liên tiếp, chiêu nào cũng nhằm vào huyệt đạo trọng yếu của đối phương, tuy phải lấy một chọi ba mà vẫn chiếm được thượng phong. Bỗng lão quát lên: “Trúng!”. Gã sử đoản thương la lên một tiếng “Úi chao!”, đùi trái trúng một bút, lăn long lóc từ trên nóc nhà xuống.

Trên một mái nhà ở phía tây bắc, có một lão già vừa lùn vừa ốm đang đứng chắp tay sau lưng, lạnh nhạt nhìn ba người giao đấu.

Ánh bạch quang lấp loáng, gã sử đơn đao lại bị cây bút bên trái của Ngô Đạo Thông đâm trúng ngực té nhào, đầu cắm thẳng xuống đường phố. Gã sử song đao hình như đã khiếp sợ muốn trốn, múa tít cặp đao như tuyết rơi hoa rụng che kín trước người, chỉ thủ chứ không công nữa.

Lão già vừa lùn vừa ốm từ từ bước tới, khi đến gần, ngón tay trỏ đột nhiên chĩa ra, điểm tới mắt trái của Ngô Đạo Thông. Phát chỉ này thần tốc vô cùng, buộc Ngô Đạo Thông vội vã thu bút về gạt. Ngón tay của lão lùn ốm hạ xuống một chút, né được cây thiết bút, rồi đâm thẳng vào yết hầu đối thủ. Thế bút của Ngô Đạo Thông đã hết đà, không thể biến chiêu, đành phải lùi lại một bước.

Lão lùn ốm cũng tiến lên một bước, lại vung ngón trỏ ra toan điếm vào bụng dưới đối phương. Ngô Đạo Thông vung tả bút gạt đi, hữu bút nhằm đập xuống đầu lão lùn ốm. Ngờ đâu lão lùn ốm lại xông thẳng tới trước, nhảy xổ vào người y.

Lão nhảy vọt tới vừa tránh khỏi chiêu bút của đối phương, vừa vung cả hai tay nhằm nắm vào trước ngực Ngô Đạo Thông.

Ngô Đạo Thông cả kinh thất sắc vội lùi lại phía sau. Bỗng nghe “soạt” một tiếng, ngực áo lão đã bị đối phương túm lấy rồi xé rách một mảnh lớn. Ngô Đạo Thông trong lúc hoang mang cũng không kịp xem mình đã bị thương chưa. Lão xoay tay đảo ngược song bút, xuất chiêu Hoàn Bão Lục Hợp, hai chuôi bút nhằm gõ vào huyệt thái dương ở hai bên đầu lão lùn ốm.

Lão lùn ốm không né tránh mà cũng không chống đỡ, lại xông về phía trước, vung song chưởng đánh trúng trước ngực Ngô Đạo Thông. Mấy tiếng lách cách vang lên, không biết đã có mấy cái xương sườn bị gãy. Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà nhào thẳng xuống đất.

Cặp đùi của gã cao kều đã bị dầu sôi đổ vào phỏng hết cả. Gã kêu la ầm ĩ, nhưng vì hai chân bị thương mà không thể nhảy lên nóc nhà để liều mạng được. Gã lại biết lão già lùn ốm Chu Mục kia tính khí cao ngạo tự phụ, đã ra tay thì không muốn ai vào trợ lực, nên chỉ nằm ngửa mặt lên xem hai bên giao đấu. Vừa thấy Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà ngã lăn xuống, gã cao kều cả mừng nhảy xổ lại, vung song câu đâm thẳng vào bụng kẻ thù, rồi lấy làm đắc ý, ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.

Chu Mục vội la lên: “Phải hỏi cung đã!” Nhưng chậm mất rồi, song câu đã đâm thủng bụng Ngô Đạo Thông.

Bất thình lình, gã cao kều la lên: “Úi chao!” rồi loạng choạng lùi lại mấy bước, trước ngực đã bị hai cây thiết bút đâm suốt từ ngực ra sau lưng. Máu từ bốn lỗ vết thương chảy ra ào ào, gã lảo đảo mấy cái rồi té huỵch xuống. Thì ra Ngô Đạo Thông lúc lâm tử còn dồn tàn lực đánh một đòn, gã cao kều không kịp đề phòng nên bị thiết bút đâm vào yếu huyệt. Bọn người Kim Đao Trại vội chạy tới nâng gã dậy, thì gã đã tắt hơi rồi.

Chu Mục không ngó ngàng gì đến gã cao kều, khóe miệng lộ ra một nét cười bỉ ổi. Lão sờ xem Ngô Đạo Thông, thấy họ Ngô đã hết thở, bèn chau mày quát lên: “Lột y phục nó ra, khám xét kỹ lưỡng!”

Bốn tên thuộc hạ lập tức “Dạ” một tiếng, lột sạch áo Ngô Đạo Thông ra thì thấy sau lưng hắn có đeo một cái bọc. Hai đại hán áo đen mở bọc ra xem, thì thấy trong bọc lại còn nhiều lớp bọc nữa, toàn gói bằng vải dầu. Hai gã cứ mở một lớp thì Chu Mục lại vui mừng thêm một chút. Chúng đã mở tới mười mấy lớp vải dầu, những gói sau càng lúc càng nhỏ hơn. Tới lúc cái gói chỉ còn chừng ba tấc vuông, Chu Mục ra vẻ ủ rũ, đưa tay ra giật lấy, nắn thử một cái, rồi giận dữ nói: “Con mẹ nó! Toàn là thứ để lừa bịp người ta, chẳng cần xem nữa. Mau vào lục soát trong nhà.”

Mười mấy hán tử áo đen vâng dạ chạy vào nhà. Tiệm bánh này trước sau chỉ có hai phòng, bọn chúng xông vào lục soát lung tung hết cả gầm giường gầm ghế. Những thứ bát đĩa, quần áo dần dần bị quăng hết ra ngoài.

Chu Mục la hét liên hồi: “Phải tìm thật kỹ, đừng để sót chỗ nào.”

Chúng lục soát mất nửa ngày thì trời đã tối mịt không còn thấy gì nữa. Bọn đại hán đốt đuốc lên tìm tiếp, đập cả tường vách, đập cả bếp lò.

Choang một tiếng, một cái lu bị quăng ra giữa đường vỡ thành mấy chục mảnh. Bột trong lu bay tứ tán đầy đường.

Trong màn đêm, một bàn tay dơ bẩn từ góc tường bên cạnh len lén thò vào rãnh nước bẩn, sờ soạng nhặt được cái bánh tiêu rồi len lén rút về.

Đó là tay của một đứa ăn xin chừng mười hai mười ba tuổi. Nó đã nhịn đói cả ngày, không ngồi tựa vào góc tường nổi nữa. Từ lúc Ngô Đạo Thông đưa cho gã cao kều cái bánh tiêu này, rồi gã lại liệng xuống rãnh nước bẩn, đứa ăn xin cứ mở to đôi mắt, nhìn chầm chập vào chiếc bánh. Từ lâu nó đã muốn thò tay ra lượm lấy mà ăn, nhưng thấy bọn hán tử áo đen dữ tợn như hung thần ác sát thì sợ đến không dám nhúc nhích. Cạnh cái bánh tiêu này vốn đã có thi thể của tên giúp việc trong tiệm tạp hóa, lát sau lại thêm hai cái xác của Ngô Đạo Thông và gã cao kều.

Mãi đến lúc trời tối mịt, ánh đèn không chiếu đến chỗ rãnh nước, đứa ăn xin mới đánh bạo thò tay ra lượm lấy chiếc bánh tiêu. Bụng đói quá nên nó chẳng nghĩ đến nước hôi thối hay đất bùn đã thấm vào bánh nữa, đưa lên miệng cắn luôn một miếng, rồi ngậm lại chứ không dám nhai, vì nó sợ nhai tóp tép phát ra tiếng động sẽ bị bọn hán tử cầm đao nghe thấy. Bánh còn ngậm trong miệng chưa nuốt xuống, nhưng trong bụng nó đã cảm thấy khoan khoái rồi.

Lúc này bọn hán tử áo đen đã lục lọi đảo lộn cái tiệm bánh đến không nhận ra nữa, ngay cả gạch lát nền cũng bị móc lên hết. Chu Mục thấy tìm mãi chẳng được gì, cuối cùng cũng quát lên: “Rút lui!”

Những tiếng còi lại vang lên, rồi vó ngựa chạy rầm rập, từng đoàn hảo hán Kim Đao Trại rút ra khỏi Hầu Giám Tập. Hai tên trong bọn khiêng thi thể gã cao kều đặt vắt ngang yên ngựa. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn họ đi hết chẳng còn một ai.

Đến lúc tiếng vó ngựa hoàn toàn không nghe thấy nữa, trong Hầu Giám Tập mới có tiếng người thì thào. Nhưng họ sợ bọn hán tử cưỡi ngựa đi rồi còn quay lại nên không ai dám nói to. Chủ tiệm tạp hóa cùng một tên giúp việc khác ra khiêng thi thể gã lắm mồm vào tiệm, rồi đóng chặt cửa lại, không dám ra nữa. Rồi bên đông nghe ken két, bên tây nghe loảng xoảng, nhà nào cũng vội đóng cửa cài then. Chẳng mấy chốc, mọi đường phố trong thị trấn đã vắng bóng người, cũng không còn âm thanh gì nữa.

* * *

Đứa ăn xin thấy thi thể Ngô Đạo Thông nằm lăn dưới đất không ai nhìn đến thì trong lòng cũng hơi sợ hãi. Nó trệu trạo nhai cái bánh rồi nuốt một miếng nhỏ, đang sắp nuốt một miếng nữa thì bỗng thấy thi thể Ngô Đạo Thông đột nhiên động đậy. Nó giật mình kinh hãi, dụi mắt nhìn lại thì thấy tử thi từ từ ngồi dậy. Nó sợ đến ngẩn người, tim đập loạn xạ. Rồi tử thi duỗi thẳng hai chân ra, đứng thẳng dậy. Mấy tiếng lạch cạch khẽ vang lên, chính là tiếng hai hàm răng của đứa ăn xin khua vào nhau.

Tử thi ngoảnh đầu lại. May mà đứa ăn xin đang ngồi co rúm vào sau góc tường, nên tử thi không nhìn thấy. Lúc này, trăng đang chênh chếch chiếu xuống, đứa ăn xin nhìn rõ khóe miệng tử thi vẫn còn rỉ máu tươi, cặp thiết câu vẫn còn cắm ở bụng. Nó cố cắn chặt hai hàm răng, không để khua lên lách cách nữa.

Rồi tử thi khuỵu chân cúi xuống, thò tay ra sờ soạng, nhặt lấy một cái bánh tiêu, xé đôi rồi vứt đi. Tử thi sờ đến cái bánh thứ hai cũng xé đôi vứt đi. Cảnh tượng này làm trái tim của đứa ăn xin nhảy mạnh như muốn văng ra khỏi miệng. Tử thi vẫn tiếp tục mò mẫm trên mặt đất, sờ thấy vật gì cũng không để ý, cứ sờ đến bánh tiêu thì xé ra rồi vứt đi. Tử thi vừa sờ soạng vừa nhích lại gần rãnh nước. Lúc bọn hán tử áo đen lục lọi trong tiệm bánh, chúng đã hất nguyên cái rổ có hơn hai chục cái bánh tiêu xuống đất. Bây giờ tử thi lại nhặt lên từng cái, nhưng không ăn mà chỉ xé ra xem rồi vứt đi.

Đứa ăn xin thấy tử thi lết dần đến gần góc tường thì sợ quá, chỉ muốn vắt chân lên cổ mà chạy trốn. Nhưng nó đang hoảng sợ đến nhũn người ra, hai chân cất lên làm sao được? Cử động của tử thi rất chậm chạp, thời gian cháy hết nén hương mới xé hơn hai chục chiếc bánh. Tử thi tìm mãi không thấy bánh nữa, bèn từ từ quay đầu lại, như để quan sát bốn phía xem còn nữa không. Lúc này đứa ăn xin đột nhiên phát hiện một điều, hồn vía bỗng bay mất hết. Thì ra nó nấp sau góc tường, ánh trăng từ sau lưng soi cái bóng đầu bù tóc rối của nó xuống đất, ngay cạnh chân của tử thi. Đứa ăn xin vừa thấy chân tử thi nhúc nhích, bỗng kêu được lên một tiếng rồi co giò bỏ chạy.

Tử thi cố gắng mở miệng kêu: “Bánh tiêu! Bánh tiêu!”, rồi cũng cất bước đuổi theo.

Đứa ăn xin vấp phải cái gì đó dưới đất, ngã lăn ra. Tử thi liền khom người xuống, thò tay ra toan nắm lấy lưng nó. Nó lăn một vòng tránh khỏi, rồi lại co giò chạy.

Tử thi loạng choạng mất một lúc mới chống tay xuống đất đứng lên được. Nhưng chân tử thi dài hơn nên bước được xa, tuy đi lắc lư như người say rượu mà chỉ mười mấy bước đã đuổi tới sau lưng đứa ăn xin, túm được gáy nó, nhấc bổng lên.

Tử thi cất tiếng hỏi: “Ngươi… ngươi ăn cắp bánh tiêu của ta phải không?” Đứa ăn xin không dám chối cãi, đành gật đầu.

Tử thi lại hỏi: “Ngươi… ngươi ăn rồi ư?” Nó lại gật đầu.

Tử thi đưa tay kéo áo đứa ăn xin, nghe “soạt” một tiếng, áo nó đã rách, để hở da thịt từ trước ngực xuống bụng. Tử thi lại nói: “Ta phải mổ bụng ngươi để lấy ra.”

Đứa ăn xin hồn bất phụ thể, run giọng nói: “Cháu… cháu… mới cắn một miếng…”

Thì ra Ngô Đạo Thông tuy bị song chưởng của Chu Mục đánh trúng ngực, lại bị gã cao kều đâm song câu vào bụng, nhưng chỉ ngất đi mà chưa chết, hồi lâu dần dần tỉnh lại. Bụng tuy là chỗ trọng yếu của con người, nhưng bị thương vào bụng thì không chết ngay được. Ngô Đạo Thông có một vật không thể nào quên, khi biết người ngựa của Kim Đao Trại đã rút đi hết, bèn mặc kệ vết trọng thương ở ngực và bụng, sống chết cố bò đi tìm vật đó.

Từ khi lão đoạt được vật đó, đã hóa trang thành một ông già bán bánh, ẩn cư tại Hầu Giám Tập ba năm bình yên vô sự, nhưng chưa tìm ra được chủ nhân của vật đó. Khi lão nghe tiếng còi và vó ngựa dồn dập của hai trăm nhân mã bao vây, chưa chắc là chúng đến tìm mình, nhưng cũng thấy cục diện nguy hiểm. Trong lúc cấp bách lão không biết giấu vật đó vào đâu, liền nhét ngay vào một chiếc bánh tiêu. Tới lúc gã cao kều xuất hiện, chìa tay ra bảo “Đưa đây”, Ngô Đạo Thông đi một nước cờ liều là đưa ngay cái bánh có giấu vật đó cho gã. Quả nhiên không ngoài dự liệu, gã cao kều tức giận liệng cái bánh đi.

Sau khi Ngô Đạo Thông trọng thương rồi tỉnh lại, không nhớ được mình đã giấu vật đó trong cái bánh nào, nên phải xé từng cái ra tìm, trước sau vẫn không thấy. Cuối cùng, lão túm được đứa ăn xin, đoán rằng thằng nhóc này đói quá mà nuốt chửng luôn vật kia vào bụng rồi, bèn định mổ bụng nó ra lấy lại. Nhưng lúc này lão không có dao kéo gì, bèn nghiến răng rút cây cương câu đang cắm ở bụng mình ra, xoay mũi câu lại toan rạch bụng đứa ăn xin.

Nhưng cương câu vừa rút ra khỏi bụng, lão bỗng thấy đau đớn không chịu nổi, máu từ vết thương phun ra như suối. Đầu nhọn của cương câu vừa chạm vào bụng gã ăn xin thì tay trái Ngô Đạo Thông bỗng nhũn ra, buông người nó rớt xuống đất. Cây câu trong tay phải Ngô Đạo Thông đâm lạc vào quãng không. Lão ngã lăn ra đất, giãy giụa mấy cái rồi nằm im, lần này thì chết thật.

Thằng bé bị đè dưới người Ngô Đạo Thông, phải cố giãy giụa hồi lâu mới bò ra được, lập tức co giò chạy thẳng. Thật là một phen hú vía. Nó mới chạy được mấy bước thì chân nhũn ra ngã nhào xuống, ngất xỉu đi. Tay nó vẫn nắm chặt cái bánh tiêu mới cắn được một miếng.

* * *

Ánh trăng mờ ảo chiếu xuống thi thể Ngô Đạo Thông, rồi xoay dần sang chiếu vào người thằng bé ăn xin.

Đột nhiên có tiếng vó ngựa văng vẳng vọng lại, tiến tới rất nhanh, vừa nghe xa xa, chớp mắt đã đến gần. Dân cư ở Hầu Giám Tập còn chưa hết hoảng sợ, lại nghe tiếng vó ngựa giữa đêm khuya thì không khỏi phập phồng lo sợ. Người nào cũng run bần bật, rúc kỹ vào chăn. Nhưng lần này chỉ có hai con ngựa, mà cũng không có tiếng còi.

Đôi ngựa này hình dạng rất kỳ lạ. Một con từ đầu đến đuôi đen nhánh, bốn vó sắc trắng, đó là giống danh câu Ô Vân Cái Tuyết. Còn con kia thì trái lại, chỉ có bốn vó màu đen còn toàn thân trắng như tuyết, trong Mã Phổ gọi là Mặc Đề Ngọc Thố, rất hiếm thấy ở Trung Nguyên.

Người cưỡi ngựa bạch là một thiếu phụ mặc y phục tuyền màu trắng. May mà trên tóc nàng có giắt một bông hồng, ngang lưng lại thắt đai màu đỏ sậm, nếu không thì rất giống như đang mặc tang phục. Trên cái đai màu đỏ có đeo một thanh trường kiếm, vỏ kiếm cũng màu trắng. Người cưỡi ngựa ô là một hán tử trung niên, toàn thân mặc y phục đen, trên lưng đeo một thanh trường kiếm vỏ đen. Hai con ngựa phóng nhanh như bay, sóng vai chạy đến.

Hai người bỗng nhìn thấy thi thể Ngô Đạo Thông trên đường phố, nằm giữa đám đồ đạc bị vứt lung tung, đồng thanh la lên: “Úi chà!”

Hán tử áo đen vung roi ngựa ra quấn lấy cổ thi thể Ngô Đạo Thông, kéo đi mấy thước cho ánh trăng rọi vào mặt. Thiếu phụ lên tiếng: “Đây là Ngô Đạo Thông! Xem ra An Kim Đao đã lấy được cái đó rồi.”

Hán tử áo đen hất roi ngựa một cái, liệng xác Ngô Đạo Thông xuống đường rồi nói: “Ngô Đạo Thông chết chưa lâu, vết thương hãy còn rỉ máu. Ta có thể đuổi kịp được.” Thiếu phụ gật gật đầu.

Hai con ngựa lại phóng về phía tây. Tám vó ngựa gõ xuống đường lát đá xanh nghe lộc cộc rất đều, nghe như chỉ có một con ngựa đang chạy mà thôi. Đôi ngựa này vó trước vó sau cất lên hạ xuống rất nhịp nhàng và đẹp mắt. Bất luận là ai nhìn thấy bước chân của chúng, cũng phải nghĩ rằng chúng đã được huấn luyện lâu ngày, dù phóng nước đại mà cũng chẳng sai lệch chút nào.

Đôi ngựa càng chạy càng nhanh, chốc lát đã tới ngoài thành Biện Lương. Đến quãng đường hẹp không thể đi song song được nữa, thiếu phụ liền dừng cương một chút để nhường cho hán tử lên trước. Hán tử quay lại mỉm cười rồi phóng ngựa đi luôn. Thiếu phụ cho ngựa chạy theo sau.

Đôi tuấn mã này cước lực tuyệt luân, cứ theo tình trạng thi thể của Ngô Đạo Thông mà đoán, thì đã phải đuổi kịp được nhân mã Kim Đao Trại từ lâu, thế mà trước sau vẫn chẳng thấy tung tích gì cả. Hai người không ngờ rằng lúc Ngô Đạo Thông chết thật thì bọn người trại Kim Đao đã đi xa rồi.

Đôi ngựa đuổi không dừng vó thêm một giờ nữa, hai người mới dừng cho ngựa nghỉ một chốc, rồi lại lên ngựa đi tiếp. Tới lúc gần sáng thì họ nhìn thấy xa xa ở trong vùng hoang dã có lửa bốc lên. Hai người nhìn nhau mỉm cười, rồi nhảy xuống ngựa. Thiếu phụ đón lấy dây cương trong tay hán tử, dắt đôi ngựa buộc vào một cành cây to. Hai người thi triển khinh công chạy về phía có lửa cháy.

Lửa ngoài đồng trống xem thì rất gần, mà thực ra xa tới mấy dặm. Hai người thi triển khinh công thượng thặng đi như gió cuốn mây bay, lúc gần đến nơi, quả nhiên thấy một đoàn người ngồi vây quanh mười mấy đống lửa bưng những bát mì lớn mà ăn, nghe cả tiếng húp xì xụp. Hai người cũng muốn xem xét trước đã, nhưng nơi đây là một khu bình nguyên bát ngát không có chỗ ẩn núp, nên khi còn cách mười mấy trượng, hai người đành phải sóng vai đi thong thả tới.

Trong đám người bỗng có tiếng quát hỏi: “Ai đó? Đến đây làm chi?”

Hán tử áo đen bước lên một bước, ôm quyền cười hỏi: “An trại chúa có trong đó không? Những bằng hữu nào đang ở đây?”

Lão già lùn Chu Mục ngẩng lên nhìn. Giữa ánh lửa sáng, lão nhìn rõ hai người mới đến đều khoảng trung niên, một nam một nữ, một áo đen một áo trắng, sóng vai mà đứng. Hán tử thì tuấn tú phong độ, thiếu phụ cũng thanh nhã diễm lệ, áo xiêm phấp phới, lưng cùng đeo trường kiếm.

Chu Mục chợt động tâm, biết ngay hai người này là ai. Lão uốn mình đứng phắt dậy, chắp tay nói: “Thì ra là phu phụ Thạch trang chúa Huyền Tố Trang tại Giang Nam đại giá quang lâm!” Rồi lão lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ mau mau đứng lên thi lễ! Hai vị này là phu phụ Thạch trang chúa, tiếng tăm lừng lẫy khắp đại giang nam bắc.” Mọi người đều đứng dậy cúi chào.

Chu Mục nghĩ thầm trong bụng: “Vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu vốn chẳng đi lại gì với Kim Đao Trại, thế mà mới mờ sáng lại tìm tới đây, chẳng biết có dụng ý gì? Hay là họ cũng vì vật đó mà đến?” Lão đảo mắt nhìn bốn phía thì thấy chung quanh hoang vắng, tuyệt không có người nào nữa, lại nghĩ: “Nghe nói kiếm thuật vợ chồng này rất giỏi, nhưng dù là hảo hán cũng không địch nổi số đông. Không hiểu họ đến đây làm gì?”

Thạch phu nhân là Mẫn Nhu khẽ bảo chồng: “Vị này là Chu Mục lão gia ở Ưng Trảo Môn.”

Tuy nàng nói nhỏ, nhưng Chu Mục cũng nghe rất rõ ràng, không khỏi đắc ý nghĩ thầm: “Thì ra Băng Tuyết Thần Kiếm cũng biết tên mình.” Lão vội lên tiếng: “Không dám! Chu Mục ở Kim Đao Trại xin bái kiến Thạch trang chúa và Thạch phu nhân.” Rồi lão lại cúi mình thi lễ.

Thạch Thanh mỉm cười nói với mọi người: “Các bằng hữu đang dùng bữa, tại hạ không dám quấy nhiễu. Xin các vị cứ ngồi xuống.” Rồi ông quay sang nói với Chu Mục: “Chu bằng hữu không cần khách sáo. Phu phụ tại hạ đã mấy lần được gặp Nhất phi xung thiên Trang huynh Trang Chấn Trung của quý môn. Vậy chúng ta cũng là chỗ quen biết chứ không phải người ngoài.”

Chu Mục đáp: “Nhất Phi Xung Thiên là sư thúc của lão phu.” Trong bụng lão nghĩ thầm: “Tuổi ngươi còn nhỏ hơn ta nhiều, mà dám kêu sư thúc ta bằng Trang huynh, rõ ràng tự cho mình là bậc trưởng bối.” Lão nghĩ đến đây, bỗng thấy đối phương đến đây chẳng có ý định gì tử tế, bất giác thêm phần cảnh giác. Trong võ lâm, hai chữ “vai vế” hết sức quan trọng. Vãn bối gặp hàng trưởng bối dĩ nhiên phải tỏ vẻ cung kính, trưởng bối sai bảo điều gì thì không được coi thường, nếu không, bị bắt bẻ là phạm thượng thì đuối lý ngay.

Thạch Thanh thấy Chu Mục sa sầm nét mặt, lập tức hiểu ý, liền cười nói: “Thật là đắc tội! Ngày trước gặp nhau ở Tung Sơn, Trang huynh đã nhắc đến võ công quý môn, vợ chồng tại hạ hết sức khâm phục. Cũng là chỗ quen biết, tại hạ có một chuyện lẽ ra không nên nói, mong Chu thế huynh bỏ lỗi cho.” Thạch Thanh gọi Chu Mục bằng Chu thế huynh, rõ ràng tự xếp mình vào hàng trưởng bối.

Chu Mục nói: “Nếu tại hạ có điều mạo phạm tới hai vị, tưởng hai vị cũng nên châm chước cho. Hai vị dạy bảo điều chi mà sức tại hạ có thể làm nổi, nhất định sẽ tuân theo. Còn nếu việc có dính líu đến tệ trại thì địa vị tại hạ kém cỏi, không thể chủ trương được.”

Thạch Thanh nghĩ thầm: “Thằng cha này thật là lão luyện, chưa biết ta muốn gì đã đẩy trách nhiệm qua người khác.” Ông liền nói: “Vụ này không có liên quan gì đến quý trại, tại hạ chỉ muốn hỏi riêng Chu thế huynh một việc. Vợ chồng tại hạ đang tìm một người họ Ngô, tên là Ngô Đạo Thông, chuyên sử đôi phán quan bút. Nghe nói gần đây y cải trang thành một ông già, mai danh ẩn tích ở gần thành Biện Lương. Chẳng hiểu Chu thế huynh có nghe tin tức gì về hắn không?”

Thạch Thanh vừa nói đến ba chữ Ngô Đạo Thông, bọn người Kim Đao Trại đều nhốn nháo. Có tên đặt cả bát mì chưa ăn xong xuống.

Chu Mục nghĩ thầm: “Hắn từ phía đông đến đây, dĩ nhiên đã thấy thi thể Ngô Đạo Thông rồi. Nếu mình không nhận thì cũng không được.” Lão liền cười ha hả, đáp: “Thật là hay quá. Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! Hai vị hỏi đến người đó thì thật là xảo hợp. Tại hạ dù võ công chẳng cao cường gì, nhưng đã lập được công lao cho hai vị. Gã Ngô Đạo Thông kia đắc tội với hai vị, nên Kim Đao Trại bọn tại hạ đã xử lý hắn rồi.” Chu Mục vừa nói vừa chăm chú nhìn Thạch Thanh, để xem ông lộ vẻ vui mừng hay tức giận.

Thạch Thanh lại mỉm cười: “Ngô Đạo Thông vốn không quen biết bọn tại hạ, thì làm gì có chuyện đắc tội? Nói ra sợ Chu thế huynh chê cười, bọn tại hạ đi tìm hắn chỉ vì một món vật trong người hắn.”

Da mặt Chu Mục hơi máy động, nhưng trấn tĩnh lại được ngay. Lão cười đáp: “Tin tức của hai vị thật là mau lẹ. Về chuyện này, tệ trại cũng đã biết rồi. Chẳng giấu gì Thạch trang chúa, chuyến này tại hạ dẫn huynh đệ đến đây cũng vì việc đó.” Lão thở dài một tiếng rồi nói tiếp: “Không biết quân chó má nào đã phao tin thất thiệt khiến cho Song bút Ngô Đạo Thông phải uổng mạng. Hơn hai trăm anh em tại hạ uổng công một phen đi lại thì chẳng kể làm chi, nhưng còn sợ khi trở về sẽ bị An đại ca quở trách là hành động bất lực. Trên chốn giang hồ cũng có rất nhiều chuyện đồn đãi. Nếu thiên hạ tưởng Kim Đao Trại được vật đó thật, kéo nhau đến kiếm chuyện với tệ trại, chẳng hóa ra oan uổng lắm ư? Trương huynh đệ! Chúng ta đánh chết họ Ngô trong trường hợp nào, lục lọi đến nát bét cái quán bánh tiêu ra sao, ngươi hãy thuật lại tỉ mỉ cho Thạch trang chúa và Thạch phu nhân được rõ!”

Một hán tử nhỏ con, vẻ mặt rất tinh quái, lên tiếng: “Võ công của gã họ Ngô đó cũng rất khá. Đầu lĩnh Lý Đại Nguyên cũng bỏ mạng dưới tay hắn. Sau cùng Chu đầu lĩnh phóng song chưởng hất họ Ngô từ nóc nhà xuống đất, gân cốt toàn thân bị chấn động đứt hết, ngũ tạng cũng tan nát…” Miệng lưỡi gã này rất linh hoạt, nói trơn như cháo lại còn gia thêm mắm muối, kể hết một lượt, thuật cả chuyện bọn chúng cạy từng viên gạch lên, đổ cả lu bột mì ra, phá cả tường vách, đào hố dưới nền nhà, nhưng chuyện Chu Mục đã lấy cái bọc sau lưng Ngô Đạo Thông thì lại lờ đi.

Thạch Thanh gật gật đầu, nghĩ thầm: “Chu Mục từ lúc mới thấy chúng ta đã có vẻ đề phòng, hồi hộp không yên. Giữa Huyền Tố Trang và Kim Đao Trại trước nay không có chuyện gì xích mích. Nếu lão chưa lấy được vật kia, thì hà tất phải đề phòng vợ chồng mình đến thế?” Ông biết rằng nếu bọn này chưa lấy được vật đó thì thôi, còn nếu đã lấy được thì nhất định ở trong mình Chu Mục. Thạch Thanh liếc mắt nhìn thấy bọn Kim Đao Trại có tới hơn hai trăm người, mà tên nào cũng vừa tráng kiện vừa hung hãn. Tuy trong đám này không có cao thủ hạng nhất, nhưng số đông cũng khó mà đối phó. Vừa rồi Chu Mục nói chuyện tuy khách sáo nhưng không có ý tôn trọng, cũng chỉ vì ỷ thế đông người. Ông nghĩ thế nên vẫn tươi cười, trỏ tay sang một khu rừng xa xa phía trái, nói: “Tại hạ còn có chuyện muốn thương lượng với Chu thế huynh, xin mời qua kia nói chuyện.”

Làm sao Chu Mục chịu đi một mình được? Lão bèn đáp: “Ở đây đều là hảo huynh đệ, hảo bằng hữu cả. Không có chuyện gì…” Còn bốn chữ “họ không nghe được” chưa kịp nói ra, thì đột nhiên cổ tay trái lão đã bị Thạch Thanh nắm lấy, rồi cả thân thể tê dại, tay phải cũng không còn chút sức lực nào. Chu Mục vừa kinh hãi vừa phẫn nộ. Từ khi vợ chồng Thạch Thanh xuất hiện, lão đã hết sức đề phòng, thế mà Thạch Thanh đang nói chuyện đã xuất thủ nhanh như điện chớp, chụp lấy cổ tay lão. Cầm nã thủ pháp chính là nghề ruột của Ưng Trảo Môn, thế mà Chu Mục chưa kịp ra tay đã bị đối phương kiềm chế huyệt đạo. Lúc này toàn thân lão không vận kình được nữa, tuyệt không còn cách nào giãy thoát, chốc lát đã toát mồ hôi trán.

Thạch Thanh lớn tiếng nói: “Chu thế huynh đã đồng ý qua bên kia nói chuyện, thật là tuyệt diệu.” Rồi ông quay lại bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Ta cùng Chu thế huynh qua bên kia nói chuyện mấy câu rồi quay lại lập tức. Sư muội hãy chờ ở đây một chút.” Nói xong, ông chậm rãi bước đi.

Mẫn Nhu dịu dàng đáp: “Sư huynh cứ tùy tiện!” Hai người đã kết tình phu phụ từ lâu, nhưng vẫn xưng hô là sư huynh sư muội.

Bọn Kim Đao Trại thấy Thạch Thanh cười nói vui vẻ, cùng đi với Chu Mục tựa hồ không có ác ý gì, vẫn để phu nhân ở lại đây thì không nghi ngờ chút nào. Chúng không ngờ bản lãnh của Chu Mục tới như vậy, mà bị người khác kiềm chế không một tiếng động.

Thạch Thanh nắm tay Chu Mục bước đi mỗi lúc một nhanh. Chu Mục chỉ chậm lại một chút là phải ngã lăn ra, nên cứ cắm đầu cắm cổ đi theo. Từ mấy đống lửa đến khu rừng phải đến một dặm, hai người chỉ đi một chốc đã đến nơi.

Thạch Thanh bỗng bỏ tay ra, cười nói: “Chu thế huynh!…”

Chu Mục nổi giận hỏi: “Ngươi làm trò gì thế?” Tay phải lão biến thành trảo, ra chiêu Bác Sư Thủ chụp vào trước ngực Thạch Thanh.

Tay trái Thạch Thanh vung từ trái sang phải thành một đường cong, lại chụp trúng cổ tay đối phương. Ông hất tay sang bên trái, nắm luôn cả tay kia của Chu Mục, rồi bẻ quặt cả hai tay lão ra sau lưng. Chu Mục vừa kinh hãi vừa tức giận, co chân phải đá ngược ra sau.

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Hà tất Chu thế huynh phải giận dữ như thế.”

Chu Mục bỗng thấy hai huyệt Phục Thố và Hoàn Khiêu bị tê nhức, chân phải của lão chưa phóng ra thì đã mềm nhũn đi, thõng xuống lại. Như vậy lão chỉ còn một chân trái chấm đất, nếu lại cất lên đá hậu nữa thì dĩ nhiên phải ngã chúi về phía trước. Lão thẹn quá, mặt đỏ bừng lên, tức giận ấp úng: “Ngươi… ngươi…”

Thạch Thanh nói: “Cái vật trong người Ngô Đạo Thông, chắc Chu thế huynh đã lấy được rồi. Thế huynh lấy ra cho tại hạ mượn xem một chút.”

Chu Mục đáp: “Đúng là thế, nhưng vật đó không ở trong mình ta. Ngươi có muốn xem, thì chúng ta trở về bên kia trước đã.” Lão muốn gạt Thạch Thanh về đến chỗ đống lửa rồi sẽ ra hiệu cho thuộc hạ vây đánh, thì dù võ công vợ chồng Thạch Thanh có cao cường đến đâu cũng phải quả bất địch chúng.

Thạch Thanh cười nói: “Tại hạ chưa dám tin, xin lục soát trong mình Chu thế huynh một chút. Mong thế huynh đừng trách.”

Chu Mục tức giận hỏi: “Ngươi định khám xét ta ư? Ngươi cho ta là hạng người nào?”

Thạch Thanh không nói gì nữa, đưa tay ra tháo chiếc giày bên trái của lão. Chu Mục bỗng la lên một tiếng: “Trời ơi!” Bỗng thấy Thạch Thanh móc trong giày ra một cái gói nhỏ, chính là cái gói mà Chu Mục đã lấy trong bọc đeo trên lưng Ngô Đạo Thông.

Chu Mục vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, tự hỏi: “Cái này… cái này… Sao hắn biết là ở đây? Chẳng lẽ hắn đã nhìn trộm từ lúc mình cất giấu ư?” Thực ra, Thạch Thanh vừa nói đến chuyện lục soát thì thấy Chu Mục bất giác liếc nhìn chân trái, rồi đảo mắt ra chỗ khác ngay. Ông bèn đoán là lão giấu vật đó trong giày, quả nhiên vừa tìm đã thấy ngay.

Thạch Thanh nghĩ thầm: “Lúc nãy tên kia đã kể lại cảnh lục soát tiệm bánh tiêu, nghe không phải giả dối. Thế mà lão này lại giấu bảo vật trong người, chắc định nuốt lấy một mình.” Ba ngón tay trái của ông nắn cái bao đó mấy cái, rồi hơi lộ vẻ thất vọng.

Chu Mục đỏ bừng mặt, cũng chưa biết có nên mở miệng kêu người cứu viện hay không. Bỗng Thạch Thanh lên tiếng: “Ngươi đã phản bội An trại chủ mà lại còn định hô hoán lên cho mọi người biết, muốn chịu cực hình chặt mười đầu ngón tay ư?”

Chu Mục cả kinh, bất giác run giọng hỏi: “Sao… sao ngươi lại biết chuyện này?”

Thạch Thanh đáp gọn: “Dĩ nhiên là ta biết.” Rồi ông thả lỏng cổ tay hắn ra, nói tiếp: “An Kim Đao thông minh tinh tế. Ngươi giấu ta còn chưa xong, thì giấu y thế nào được?”

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng sột soạt, rồi tiếng người cười ha hả, dõng dạc nói: “An mỗ xin đa tạ Thạch trang chúa đã quá khen.” Chưa dứt lời, ba bóng người đã tiến vào rừng.

* * *

Chu Mục vừa nhìn thấy bọn này, lập tức sắc mặt xám xịt như đất bùn. Ba người này là Đại trại chủ An Phụng Nhật, Nhị trại chủ Phùng Chấn Võ và Tam trại chủ Nguyên Trừng đạo nhân của Kim Đao Trại. Lúc An trại chủ phái Chu Mục đi truy bắt Ngô Đạo Thông, y không hề nói chuyện phái người đi tiếp ứng, không hiểu sao lại đích thân hạ sơn. Chu Mục nghĩ đến chuyện mình mưu đồ chiếm riêng bảo vật đã bại lộ, bây giờ dĩ nhiên thân bại danh liệt, tính mạng cũng khó mà giữ được. Trong lúc hoảng hốt, lão vội nói: “An đại ca! Cái đó… cái đó bị hắn cướp mất rồi.”

An Phụng Nhật chắp tay thi lễ với Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa danh vang thiên hạ, An mỗ ngưỡng mộ đã lâu, chỉ giận mình vô duyên chưa được gặp lần nào. Tệ trại cũng ở gần đây, xin mời Thạch trang chúa cùng phu nhân đến chơi mấy hôm để các huynh đệ đều được nghe lời giáo huấn.”

Thạch Thanh thấy An Phụng Nhật mắt tròn râu rậm, người thấp lùn to khỏe, vẻ mặt thô hào, không ngờ hắn nói chuyện rất uyển chuyển. Hắn tuyệt không nhắc nhở gì đến chuyện ông đoạt mất vật kia, lại còn mời đến chơi Kim Đao Trại. Nhưng nếu ông vào trại của hắn rồi thì dễ gì mà thoát thân được? Thạch Thanh liền chắp tay đáp lễ, rồi thuận tay đút cái gói nhỏ vào trong bọc, cười nói: “Đa tạ thịnh tình của An trại chủ…”

Đột nhiên trước mắt thanh quang lấp loáng, Nguyên Trừng đạo nhân đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, vừa phóng mũi kiếm đâm vào cổ tay Thạch Thanh, vừa quát lên: “Ngươi bỏ vật đó ra trước đã.”

Chiêu kiếm này mau lẹ phi thường, nhưng hắn đã nhanh mà Thạch Thanh còn nhanh hơn. Ông uốn người đi một cái đã đến bên Nguyên Trừng đạo nhân, lấy cái gói nhỏ ra đặt vào tay trái hắn, rồi cười bảo: “Cầm lấy!” Nguyên Trừng đạo nhân mừng rỡ vô cùng, không kịp suy nghĩ gì nữa, giơ tay ra đón lấy. Không ngờ cổ tay phải hắn hơi tê nhức, trường kiếm đã bị đối phương đoạt mất.

Thạch Thanh xoay ngược kiếm lại chém vào cổ tay Nguyên Trừng đạo nhân, quát lên: “Bỏ ra.” Nguyên Trừng đạo nhân giật mình kinh hãi, trước mắt hàn quang lấp loáng, mũi kiếm chỉ còn cách cổ tay hắn không đầy năm tấc. Hắn định rụt tay về để tránh thì không kịp nữa, đành xoay tay ném trả cái gói nhỏ lại.

Phùng Chấn Võ la lên: “Hảo công phu!” Không đợi Thạch Thanh đón lấy cái gói, hắn đã vung đơn đao lên, lăn dưới đất chém vào đùi ông. Thạch Thanh vung trường kiếm đánh véo một tiếng, đâm thẳng vào đầu Phùng Chấn Võ. Ông ra chiêu sau mà lại đến trước. Đơn đao của Phùng Chấn Võ chưa kịp chém tới chân phải của Thạch Thanh, thì trường kiếm của ông đã sắp ghim đầu của Phùng Chấn Võ xuống đất.

An Phụng Nhật thấy tình trạng nguy cấp liền lớn tiếng la lên: “Hạ thủ…” Thanh kiếm của Thạch Thanh vẫn tiếp tục đâm xuống. Phùng Chấn Võ trong lòng kinh hãi vô cùng, nhắm mắt chờ chết, nhưng chỉ thấy má bên trái hơi rát. Thanh trường kiếm của Thạch Thanh không đâm tới nữa. Quả nhiên ông đã lưu tình, mũi kiếm phóng tới mặt Phùng Chấn Võ lại thu về. Thạch Thanh xuất chiêu rồi thu chiêu, cả lực đạo lẫn bộ vị đều cực kỳ chính xác. Tiếp theo một tiếng “cạch” khẽ vang lên, Thạch Thanh dùng thanh trường kiếm đỡ lấy cái gói nhỏ về. Lúc đó, hai chữ “…lưu tình” của An Phụng Nhật mới ra khỏi miệng.

Thạch Thanh thu trường kiếm về rồi nói: “Xin đắc tội!” Đoạn ông lùi ra hai bước.

Phùng Chấn Võ đứng thẳng lên, cầm ngược đơn đao, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hổ thẹn, lùi ra đứng sau lưng An Phụng Nhật. Trong miệng hắn lẩm bẩm gì đó, không hiểu là đa tạ Thạch Thanh hạ thủ lưu tình, hay là trách ông dụng tâm gian trá. Chuyện đó thì chỉ có hắn mới biết.

An Phụng Nhật đưa tay tháo chiếc đai đồng trước ngực, rút thanh đao đeo ở sau lưng ra khỏi vỏ. Lúc này mặt trời mới mọc, ánh triêu dương xuyên qua kẽ lá chiếu vào thanh kim đao lấp lánh trông hoa cả mắt. Thanh đao này sống dày lưỡi mỏng, quả là lợi khí, sắc bén vô cùng. An Phụng Nhật dựng đứng kim đao lên, nói: “Trang chúa võ nghệ kinh người, bội phục, bội phục. Bây giờ tại hạ muốn lãnh giáo mấy chiêu.”

Thạch Thanh mỉm cười đáp: “Hôm nay được gặp cao nhân, thật là may mắn.” Y lại giơ tay lên, ném chiếc gói nhỏ ra, bốn người đều ngẩn ra nhìn theo. Chỉ nghe “soạt” một tiếng, Thạch Thanh đã phóng thanh kiếm vừa đoạt của Nguyên Trừng đạo nhân ra theo, cắm chặt cái gói nhỏ vào một cành cây đối diện. Mũi kiếm xuyên vào một góc cái gói, hoàn toàn không tổn hại gì đến vật ở trong. Thủ pháp của Thạch Thanh đã thần tốc mà kình lực lại càng xảo diệu, chẳng kém gì hai chiêu vừa đánh bại Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ.

Bốn người nhìn lên cành cây rồi lại nhìn Thạch Thanh, bỗng thấy trong tay ông đã cầm một thanh trường kiếm màu đen như mực. Thạch Thanh lên tiếng: “Hắc kiếm gặp Kim đao, điểm tới là ngưng, ai thắng được nửa chiêu thì lấy vật kia. Các vị thấy có được chăng?”

An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh cắm vật kia vào cành cây, rồi lại dùng cách tỉ võ để định đoạt, tuyệt không ép người chút nào. Hắn hết sức kính phục, đáp ngay: “Thạch trang chúa, xin mời!” Hắn từng nghe nói kiếm thuật của vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu ở Huyền Tố Trang cực kỳ tinh diệu, vừa rồi lại thấy Thạch Thanh kiềm chế Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ, quả thật danh bất hư truyền. Hắn không dám sơ ý chút nào, thận trọng phóng ra ba hư chiêu.

Thạch Thanh trỏ mũi kiếm xuống đất, toàn thân bất động, chỉ nói: “Xuất chiêu đi!”

Lúc đó An Phụng Nhật mới vung đao chém đến, nhưng mới ra nửa chiêu lại đột nhiên xoay đao chém ngược lên. Hắn vừa động thủ đã dùng tới tuyệt kỹ Phách Quái Đao. Đao pháp này có bảy mươi hai đường, mỗi đường có nhiều chiêu, mỗi chiêu lại có nhiều thức, biến hóa vô cùng. Thạch Thanh cũng vung thanh Hắc kiếm lên, chỉ đón đỡ từng chiêu, phòng thủ nghiêm mật. Tới hơn ba chục chiêu thì ông bỗng quát khẽ một tiếng, triển khai tấn công, kiếm pháp càng lúc càng nhanh. An Phụng Nhật đón đỡ được chừng ba chục chiêu thì hoàn toàn không nhìn rõ thế kiếm của đối phương nữa, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi. Hắn chỉ còn cách múa đao để giữ kín những bộ vị trọng yếu.

Hai người qua lại tới bảy chục chiêu mà đao kiếm vẫn chưa chạm nhau. Bỗng nghe một tiếng keng nhỏ nhẹ, mũi hắc kiếm đã đè trúng sống kim đao, rồi thuận đà lướt lên phía trên. Chiêu này gọi là Thuận Lưu Nhi Hạ, là một chiêu số thông thường để dùng kiếm phá đao. Nếu võ công đối thủ kém hơn, thì An Phụng Nhật chỉ cần xoay đao một cái là hất văng lưỡi kiếm ra. Nhưng thế kiếm của Thạch Thanh nhanh đến kỳ lạ, giả tỉ An Phụng Nhật có xoay đao mà gạt được, thì trường kiếm cũng phải chạm đến ngón tay trỏ của hắn rồi. An Phụng Nhật vô cùng kinh hãi, nghĩ bụng: “Bốn ngón tay của ta sắp đứt lìa rồi.” Nếu hắn muốn vứt đao lùi lại thì cũng không kịp nữa. Giữa lúc An Phụng Nhật hoảng hốt thì thanh kiếm của Thạch Thanh đột nhiên dừng lại, rồi chẳng những không lướt tới mà còn lùi lại mấy tấc. An Phụng Nhật biết ông hạ thủ lưu tình, lúc này không bỏ đao cũng không được. Hắn đành buông lỏng tay cho thanh đao rớt xuống.

Không ngờ thanh Hắc kiếm lại xoay nửa vòng, đỡ lấy Kim đao không để rơi xuống đất. Thạch Thanh lên tiếng: “Chúng ta ngang sức ngang tài, khó phân cao thấp.” Rồi ông khẽ rung trường kiếm, hất Kim đao lên trả.

An Phụng Nhật cảm kích vô cùng, năm ngón tay lại nắm chặt lấy chuôi đao. Hắn biết rõ đối phương đã thắng, nhưng muốn giữ thể diện cho mình, vội dựng thẳng Kim đao lên kính cẩn hành lễ. Đó chính là Nam Hải Lễ Phật, thế thu đao của môn Phách Quái Đao.

Bỗng nhiên hắn phát giác mình vừa thi triển xong bảy mươi hai đường Phách Quái Đao, bất giác kinh hãi đến biến sắc mặt. Hiển nhiên đối phương đã thuộc lòng tuyệt kỹ này, đợi mình thi triển tới đường thứ bảy mươi mốt rồi mới xuất chiêu kiềm chế. Nếu vừa giao đấu mà đối phương đã tấn công, thì chẳng hiểu mình có đỡ nổi mười chiêu không.

An Phụng Nhật đang định nói mấy lời cảm tạ thì Thạch Thanh đã tra kiếm vào vỏ, chắp tay nói: “Thạch mỗ xin kết giao làm bằng hữu với An trại chủ, bất tất tỉ thí làm chi nữa. Lúc nào trại chủ tiện đường qua tệ trang, xin mời vào chơi mấy hôm.”

An Phụng Nhật buồn rầu đáp: “Chắc chắn tại hạ sẽ đến bái kiến.” Rồi hắn tung mình nhảy đến gốc cây kia, rút thanh kiếm của Nguyên Trừng đạo nhân ra, đón lấy cái gói nhỏ. Hắn cắm một đao một kiếm xuống đất, đi tới trước mặt Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa cứ lấy đi.” Tuy hắn được vật rồi lại bị mất, nhưng Thạch Thanh giữ cho hắn cả thể diện lẫn bốn ngón tay, đã là thịnh tình rồi.

Không ngờ Thạch Thanh chắp tay đáp: “Xin có ngày tái hội.” Rồi ông quay người bước đi, không cầm lấy cái gói.

An Phụng Nhật la lên: “Thạch trang chúa, xin dừng bước! Trang chúa đã cố giữ thể diện cho An mỗ, có lý nào An mỗ lại không hay? Hiển nhiên An mỗ đã thua rồi, trang chúa hãy mang vật này đi. Nếu không, hóa ra trang chúa xem An mỗ là kẻ tiểu nhân vô lại không biết tốt xấu ư?”

Thạch Thanh mỉm cười nói: “An trại chủ! Cuộc tỉ võ hôm nay chưa phân thắng bại. Trại chủ còn chưa thi triển những đao pháp tinh diệu như Thanh Long Đao, Đoạn Môn Đao, sao đã gọi là thua? Vả lại trong gói đó chẳng có vật chi hết. Tại hạ e rằng Chu thế huynh mắc lừa người ta rồi.”

An Phụng Nhật sửng sốt hỏi: “Bên trong không có vật đó ư?” Hắn vội xé bao ra xem, cứ xé hết lớp này đến lớp khác, đến lớp thứ năm thì chỉ thấy ba miếng gì đó. Hắn để ý nhìn kỹ, đó chỉ là mấy đồng tiền tròn, giữa có lỗ vuông, vừa dẹp vừa mỏng, nếu không phải là ba đồng tiền xu thì là gì nữa? Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận nhưng cố nén, quay lại hỏi Chu Mục: “Chu huynh đệ! Chuyện này… chuyện này… Ngươi đùa giỡn kiểu gì đây?”

Chu Mục run rẩy đáp: “Thuộc hạ… thuộc hạ cũng không biết, trên người Ngô Đạo Thông chỉ lục được cái gói nhỏ này thôi.”

An Phụng Nhật hiểu ngay, vật đó nếu Ngô Đạo Thông không giấu vào chỗ bí mật dị thường, thì cũng đã giao cho người khác. Phen này thật chẳng những uổng công, lại còn thương tổn đến oai phong của Kim Đao Trại. Hắn liền quẳng cái gói giấy xuống đất, rồi quay sang hỏi Thạch Thanh: “Thật là làm trò cười cho Thạch trang chúa. Không hiểu sao trang chúa lại biết?”

Vừa rồi, khi Thạch Thanh đoạt được cái gói đó, ông đã sờ thử, phát giác trong gói có ba miếng tròn mỏng, tuy chưa biết là ba đồng tiền, nhưng biết chắc không phải là vật mình muốn tìm. Ông mỉm cười đáp: “Tại hạ cũng chỉ đoán bừa thôi. Chúng ta đều bị lừa gạt, mong rằng An trại chủ đại lượng mà thứ lỗi.” Thạch Thanh dứt lời, lại chắp tay thi lễ với bọn Nguyên Trừng đạo nhân, Phùng Chấn Võ và Chu Mục, đoạn quay người rảo bước ra khỏi khu rừng.

* * *

Thạch Thanh quay lại chỗ đống lửa, bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Đi thôi!” Hai người nhảy lên ngựa, theo đường cũ quay về.

Mẫn Nhu nhìn nét mặt lang quân, không cần hỏi nhiều cũng biết là chẳng được việc gì. Nàng cảm thấy đau lòng, bất giác nhỏ mấy giọt nước mắt xuống vạt áo. Thạch Thanh nói: “Kim Đao trại chủ cũng mắc lừa. Chúng ta quay lại lục tìm trong người Ngô Đạo Thông. Không chừng các bằng hữu ở Kim Đao Trại đã sơ xuất.” Mẫn Nhu tuy biết là chẳng ăn thua gì nhưng không muốn trái ý lang quân, nên cũng nghẹn ngào “Vâng” một tiếng.

Đôi ngựa một trắng một đen phi thật nhanh, chưa tới trưa đã về đến Hầu Giám Tập.

Dân cư trong thị trấn này hãy còn khiếp sợ, chưa có nhà nào dám mở cửa. Những chuyện giết người cướp của đã được báo quan trong thành Biện Lương, nhưng chưa thấy ai đến. Hiển nhiên quan lại địa phương chưa dám đến ngay mà còn bận điều binh khiển tướng, theo đúng phương châm “tới trễ một chút là an toàn thêm một chút”.

Vợ chồng Thạch Thanh phóng ngựa đến cạnh thi thể Ngô Đạo Thông, chỉ thấy một thằng bé ăn xin mười hai mười ba tuổi ngồi bên góc tường, còn bốn bề tuyệt không có người nào khác. Thạch Thanh lập tức lục soát trong mình Ngô Đạo Thông rất tỉ mỉ, tháo cả búi tóc, gỡ cả giày vớ ra tìm. Còn Mẫn Nhu thì vào trong tiệm bánh lục lọi tra xét.

Một lúc sau, hai vợ chồng nhìn nhau, cùng thở dài chán nản. Mẫn Nhu nói: “Sư huynh! Xem chừng ông trời đã định là mối thù đó khó lòng trả được. Sư huynh đã nhọc mệt quá rồi, bây giờ chúng ta vào thành Biện Lương nghỉ ngơi, xem kịch hay nghe kể chuyện để giải cơn phiền muộn.”

Thạch Thanh biết vợ mình vốn ưa tĩnh mịch, chẳng thích ca kịch hay đi Biện Lương chơi gì hết, nàng nói vậy là quan tâm tới mình mà thôi. Ông bèn đáp: “Đã tới đất Hà Nam, cũng nên vào thành Biện Lương dạo chơi một tí. Nghe nói bọn thợ bạc ở Biện Lương đều là cao thủ, chúng ta vào đó sắm mấy món trang sức cũng hay.”

Mẫn Nhu nổi tiếng là một mỹ nhân trong võ lâm, vốn đã thích trang điểm. Bây giờ nàng đã vào tuổi trung niên, lại càng chú trọng đến việc trang sức để giữ sắc đẹp. Nàng nở một nụ cười thê lương, đáp: “Đồ trang sức huynh mua cho muội suốt mười ba năm nay, từ lúc Kiên nhi chết đi, đã đủ để mở một tiệm kim hoàn.”

Nàng nói đến câu “từ lúc Kiên nhi chết đi” thì không kìm được nữa, nước mắt tuôn xuống má. Lúc đó nàng trông thấy thằng bé ăn xin đang sợ sệt ngồi ở góc tường trông thật là bẩn thỉu, bất giác sinh lòng thương hại, liền cất tiếng hỏi: “Mẫu thân ngươi đâu? Tại sao mà phải đi ăn xin?”

Thằng bé đáp: “Cháu… cháu… không thấy mẫu thân đâu cả.”

Mẫn Nhu thở dài, móc trong bọc ra một thoi bạc nhỏ, liệng xuống chân nó rồi nói: “Cầm lấy, mua bánh mà ăn.” Nàng đã nhảy lên ngựa, còn quay lại hỏi: “Hài tử! Tên ngươi là gì?”

Thằng bé đáp: “Cháu… cháu là Cẩu Tạp Chủng.”

Mẫn Nhu ngẩn ra, nghĩ bụng: “Là Chó Lộn Giống ư? Sao lại có cái tên lạ như thế?”

Thạch Thanh lắc đầu nói: “Thật là một đứa ngốc nghếch.”

Mẫn Nhu đáp: “Đúng thế! Thật là tội nghiệp!” Hai người vừa nói vừa giật cương cho ngựa chạy về phía thành Biện Lương.

* * *

Thằng bé ăn xin kia đã bị tử thi Ngô Đạo Thông làm hoảng sợ đến ngất đi, đến sáng sớm mới tỉnh dậy. Lúc nó mở mắt ra thì thấy thi thể Ngô Đạo Thông bê bết máu vẫn đang nằm cạnh mình, kinh hãi quá lại vội đứng dậy, chạy trốn vào một góc tường, lại ngủ đi một giấc. Lúc Thạch Thanh đến nơi thì nó đã tỉnh táo, toan chạy trốn xa hơn, nhưng thấy Thạch Thanh lật ngửa thi thể Ngô Đạo Thông lên, lại sợ quá không dám nhúc nhích. Nó không ngờ thiếu phụ xinh đẹp kia lại ném cho một thỏi bạc, bèn nghĩ bụng: “Mua bánh làm gì, mình đã có rồi.”

Nó đưa tay lên, trong tay vẫn còn cái bánh tiêu mới cắn được một miếng. Lúc này nó đã bớt sợ, lại cảm thấy đói. Nó há miệng ngoạm vào, bỗng nghe “cốp” một tiếng, hai hàm răng đau nhức tựa như cắn phải sắt hay đá gì đó, bèn lấy cái bánh ra khỏi miệng. Nhưng trong miệng vẫn còn một vật rắn, nó nhả ra lòng bàn tay thì thấy đó là một miếng sắt đen sì.

Thằng bé ăn xin liếc qua một cái, cũng chẳng nghĩ xem tại sao trong bánh lại có miếng sắt này, nhìn kỹ cái bánh thấy không còn vật gì nữa, liền cắn ăn lấy ăn để. Chỉ trong khoảnh khắc, thằng bé ăn xin đã ăn hết tấm bánh. Gã đưa mắt nhìn thi thể Ngô Đạo Thông thì thấy gần đó còn mười mấy tấm bánh đã bị xé đôi. Gã tự hỏi: “Bánh tiêu bị con ma đó xé ra vứt đi thế này, chẳng biết còn ăn được không?”

Thằng bé còn đang ngần ngừ, đột nhiên trên đỉnh đầu có tiếng người nói: “Đã bao vây hết bốn mặt rồi.” Nó kinh hãi ngẩng lên nhìn, thấy trên nóc nhà có ba gã đàn ông mặc áo trắng đang đứng. Rồi sau lưng nó lại có tiếng gió vù vù, nó xoay mình lại thì thấy bốn người cũng mặc áo trắng, tay cầm trường kiếm, đang chia hai bên tả hữu tiến đến.

Tiếp theo lại có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người phi ngựa như bay tới, lớn tiếng hỏi: “Có phải là các bằng hữu phái Tuyết Sơn chăng? Các vị đã đến Hà Nam, xin thứ lỗi cho An mỗ không kịp ra xa nghênh tiếp.” Trong chớp mắt, một con ngựa vàng đã xông đến, người cỡi ngựa là một gã thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, râu mọc tua tủa. Hắn không cần dừng ngựa, đột nhiên nhảy xuống. Con ngựa vàng chạy lạng qua một bên, vòng một vòng nhỏ rồi dừng lại, hiển nhiên đã được huấn luyện rất thuần thục.

Ba gã áo trắng từ trên nóc nhà cùng nhẹ nhàng nhảy xuống, trong tay đều lăm lăm trường kiếm. Một hán tử to lớn trạc tứ tuần lên tiếng: “Các hạ có phải là An trại chủ của Kim Đao Trại không? May được gặp ở đây!” Gã vừa nói vừa đưa mắt ra hiệu cho mấy tên đồng bọn đứng sau lưng An Phụng Nhật.

Thì ra sau khi An Phụng Nhật bị Thạch Thanh đánh bại, hắn ủ rũ một lúc rồi bỗng tự hỏi: “Vợ chồng Thạch trang chúa trở lại Hầu Giám Tập làm gì? Phải rồi! Chu tứ đệ mắc lừa, không lấy được vật kia, vợ chồng y nhất định tới đó tìm lại. Mình đã bị bại về tay y, nếu y lấy được thì ta chỉ biết lấy mắt mà nhìn. Nhưng nếu y không lấy được, chẳng lẽ ta không thể quay lại tìm cầu may lần nữa hay sao? Chắc Ngô Đạo Thông đã cất vật này vào một nơi nào bí hiểm lắm, tìm mười lần chưa thấy thì tìm thêm lần thứ mười một cũng chẳng hại gì.” An Phụng Nhật quyết định chủ ý, rồi lập tức lên ngựa ra đi.

Ngựa của hắn không nhanh bằng đôi tuấn mã một trắng một đen của vợ chồng họ Thạch, hơn nữa hắn cho ngựa đi thong thả vì không muốn tới gần họ quá. Vì thế mà Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lục soát thi thể Ngô Đạo Thông và tiệm bán bánh xong rồi bỏ đi, hắn mới đến Hầu Giám Tập. Hắn vừa đến cửa trấn, đã nhìn thấy xa xa trên nóc nhà có ba người mặc toàn màu trắng lưng đeo trường kiếm. Theo cách ăn mặc thì bọn này nhất định là đệ tử phái Tuyết Sơn gần biên giới Tây Tạng. An Phụng Nhật ruổi ngựa gần tới nơi, thì thấy ba gã kia để hết tâm trí vào mình như gặp đại địch. Hắn tưởng ba gã này đang định đánh lén vợ chồng họ Thạch, nhớ ngay đến ân tình của Thạch Thanh đối với mình vừa rồi, bèn lớn tiếng gọi để cảnh giác. Không ngờ khi hắn chạy đến nơi thì chẳng thấy bóng dáng vợ chồng họ Thạch đâu, chỉ có bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn đang bao vây một đứa ăn xin.

An Phụng Nhật hết sức ngạc nhiên, nhìn lại thấy đứa ăn xin này tuổi còn rất nhỏ, mặt mũi lem luốc mà cũng không ra vẻ biết võ công. Hắn thấy mắt tên hán tử áo trắng cứ liếc ngang đảo dọc liên tiếp, bèn nhìn kỹ gã ăn xin một lần nữa.

Lần này hắn giật mình kinh hãi, vì nhìn thấy trong tay gã có một miếng sắt đen sì, dường như đó là Huyền Thiết Lệnh trong truyền thuyết. Hắn lại thấy bốn tên áo trắng đứng đằng sau lăm lăm trường kiếm trong tay, dường như đang định chiếm đoạt miếng sắt kia. An Phụng Nhật không kịp suy nghĩ gì nữa, vội xoay tay rút Kim đao ra sử chiêu Bát Phương Tàng Đao Thế. Thân hình hắn vừa chuyển động, đã xoay quanh gã ăn xin đủ một vòng. Thanh Kim đao chia ra tả một đao, hữu một đao, trước một đao, sau một đao, chỉ trong nháy mắt mỗi phương đã chém ba đao, tám phương là hai mươi bốn đao, mà đao nào cũng chỉ cách gã ăn xin chừng nửa thước. Thân hình gã bao phủ đao ảnh trùng trùng.

Gã ăn xin thấy ánh đao lóa mắt, quanh người gió lộng vù vù, bèn òa lên khóc. Ngay lúc đó bảy tên áo trắng đều vung trường kiếm ra kết thành một màn kiếm quang, bao trùm lấy An Phụng Nhật cùng gã ăn xin. Bảy thanh trường kiếm tạo thành một vòng bạch quang lớn vây bên ngoài, trong vòng này lại có một vòng kim quang nhỏ. Giữa vòng kim quang lại có gã ăn xin đang khóc rống lên, nước mắt nước mũi đầm đìa.

Bất thình lình tiếng vó ngựa dồn dập lại vang lên. Một con ngựa trắng một con ngựa đen từ phía tây lao tới, chính là vợ chồng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu trở lại.

Thì ra khi hai người ruổi ngựa vào thành Biện Lương, đi không lâu đã thấy bọn đệ tử phái Tuyết Sơn xuất hiện. Hai vợ chồng bàn bạc mấy câu, lập tức giục ngựa quay trở lại, thấy tám người đang vung đao múa kiếm, bèn la lên: “Các vị bằng hữu phái Tuyết Sơn! An trại chủ! Chúng ta đều là chỗ quen biết, có chuyện gì xin lấy lời lẽ nói với nhau, chớ nên làm tổn thương hòa khí.”

Hán tử cao lớn đứng đầu bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn giơ thẳng thanh trường kiếm lên. Cả bảy tên cùng thu kiếm lại, nhưng vẫn đứng vây quanh An Phụng Nhật.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu phi ngựa đến gần, nhìn thấy miếng sắt trên tay gã ăn xin, bất giác cùng la lên một tiếng: “Úi chà!” Tuy hai người chưa hiểu rõ đó có phải là vật mình muốn tìm hay không, nhưng trong lòng đã cực kỳ hồi hộp. Thạch Thanh nhảy vội xuống ngựa, tiến tới mấy bước rồi hỏi: “Tiểu huynh đệ! Trong tay cháu đang cầm vật gì đó? Cho ta xem một chút được không?” Trước nay ông vốn là người điềm tĩnh, nhưng khi nói hai câu này cũng không khỏi hơi run giọng. Ông biết rằng An Phụng Nhật tất không ngăn trở mình, chỉ cần gã ăn xin đưa tay ra là mình lấy được. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn chắc chắn không cản nổi ông.

Hán tử áo trắng cao lớn lại lên tiếng: “Thạch trang chúa! Trong vụ này, bọn tại hạ là người đến trước.”

Lúc này Mẫn Nhu cũng đã xuống ngựa, đáp ngay: “Cảnh huynh! Huynh thử hỏi chú bé xem, thỏi bạc ở dưới chân nó có phải là của ta cho nó không?” Đây là một chứng cớ hùng hồn. Nàng đã cho bạc gã ăn xin, dĩ nhiên là đã gặp nó trước bọn áo trắng nhiều.

Gã hán tử cao lớn họ Cảnh tên Vạn Chung, là một cao thủ trong hàng đệ tử thứ hai của phái Tuyết Sơn. Gã nói: “Thạch phu nhân! Không chừng hai vị có đến trước và đã cho bạc chú em này thật, nhưng Huyền Thiết Lệnh là do bọn tại hạ nhìn thấy trước.”

Ba tiếng Huyền Thiết Lệnh vừa thốt ra khỏi cửa miệng Cảnh Vạn Chung, thì Thạch Thanh, Mẫn Nhu và An Phụng Nhật đều run lên lẩm bẩm: “Quả nhiên là Huyền Thiết Lệnh!” Sáu tên đệ tử phái Tuyết Sơn kia cũng lộ vẻ khác thường. Thật ra thì cả bảy tên chưa một ai nhìn được kỹ miếng sắt trong tay gã ăn xin, nhưng chúng thấy vợ chồng họ Thạch cùng An trại chủ Kim Đao Trại tỏ vẻ nghiêm trọng, bèn đoán vật ấy là Huyền Thiết Lệnh. Còn ba người Thạch, Mẫn, An lại nghĩ rằng bọn bảy người phái Tuyết Sơn không phải là hạng tầm thường, lại đã nhìn thấy tấm thiết bài từ trước, nhất định không phải nói ngoa.

Cả mười người cùng nghĩ như nhau, chẳng ai bảo ai đều xòe tay ra trước mặt gã ăn xin, nói: “Tiểu huynh đệ! Chú hãy cho ta!”

Mười người kiềm chế lẫn nhau, không ai dám xuất thủ cưỡng đoạt. Ai cũng biết rằng nếu dùng cường lực thì gặp bất lợi ngay tức khắc, những người xung quanh nhất định sẽ thừa cơ để tấn công vào chỗ sơ hở. Ai cũng chỉ mong gã ăn xin tự đưa miếng sắt cho mình.

Gã ăn xin có ngờ đâu cả mười người cùng muốn lấy miếng sắt suýt làm nó gãy cả hàm răng? Tuy nó đã ngừng khóc, nhưng lúc này không biết phải làm gì, nước mắt lại long lanh trong khóe mắt, lúc nào cũng có thể tràn ra.

Đột nhiên một giọng rất trầm cất lên: “Ngươi cho ta là tốt nhất!”

Một bóng người nhảy vào giữa vòng đao kiếm, vừa vung tay ra đã giật được miếng sắt trong tay gã ăn xin.

Mỗi người quát mắng một câu: “Bỏ xuống!” “Làm gì thế?” “Đồ liều mạng!” “Khốn nạn!”, rồi cả đao lẫn trường kiếm cùng vung lên nhằm vào bóng người mới đến. An Phụng Nhật đứng gần gã ăn xin nhất, vung Kim đao ra chiêu Bạch Hồng Quán Nhật chém xuống đầu người đó. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đã luyện tập rất tinh thục, đồng thời xuất thủ, bảy thanh trường kiếm phóng ra đâm vào bảy phương vị khác nhau. Dù người đó có tránh được trên vai cũng không tránh được dưới chân, giữ được trung bàn thì phải hở hạ bàn hay thượng bàn. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu chưa nhìn rõ người đó là ai, nên không muốn hạ độc thủ. Huyền Tố song kiếm vung lên thành một màn kiếm quang sáng chói hình bán nguyệt, phủ quanh người đó.

Bỗng người kia vung tay loạn lên, rồi nghe những tiếng leng keng vang lên liên tiếp. Không biết y dùng thủ pháp gì mà chỉ trong chớp mắt đã đoạt được thanh Kim đao của An Phụng Nhật cùng bảy thanh trường kiếm của bọn đệ tử phái Tuyết Sơn.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy hổ khẩu tê nhức, suýt nữa rớt kiếm, hốt hoảng vội lùi lại. Thạch Thanh sắc mặt lợt lạt còn Mẫn Nhu thì mặt lại đỏ bừng. Trên thiên hạ chẳng mấy ai có thể thắng nổi song kiếm hợp bích của vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang. Thế mà bây giờ, ngón tay của người đó chỉ búng vào kiếm một cái, mà thanh kiếm trong tay hai người suýt nữa bay đi. Trước nay hai người lâm địch chưa từng gặp phải cảnh này.

Một lưỡi kim đao, bảy thanh trường kiếm đã cắm xuống đất thành một cái vòng, người mới đến ngang nhiên đứng giữa. Lão mặc áo bào xanh, râu ngắn, tuổi trạc ngũ tuần, dung mạo thanh tú. Mặt lão ẩn hiện sắc xanh, đang lộ vẻ vui mừng khó tả. Thạch Thanh chợt nhớ tới một người, buột miệng hỏi: “Phải chăng tôn giá là chủ nhân Huyền Thiết Lệnh?”

Người kia cười ha hả nói: “Hắc Bạch Song Kiếm tại Huyền Tố trang được người giang hồ xưng tụng kiếm thuật thông thần, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão phu chỉ lấy một phần công lực chia ra đối phó với tám vị bằng hữu này, dùng tới chín phần để đối phó với hiền phu phụ, mà không đoạt được binh khí của hai vị. Hỡi ôi! Công phu Đàn Chỉ Thần Thông của lão phu ngày nay, “đàn chỉ” thì có mà “thần thông” thì không, xem chừng phải khổ luyện thêm mười năm nữa.”

Thạch Thanh nghe lão nói thì không còn hoài nghi nữa, liền chắp tay nói: “Vợ chồng tại hạ chuyến này đến Hà Nam là có ý định lên Ma Thiên Nhai để bái kiến tôn giá. Tuy nguyện vọng không thành, nhưng có duyên được gặp tôn giá nơi đây, thì chuyến đi này không đến nỗi vô ích. Mấy chiêu kiếm pháp mèo què của vợ chồng tại hạ thật không bõ làm trò cười trong mắt của tôn giá. Hôm nay tôn giá thu được Huyền Thiết Lệnh về, thật là đáng mừng, thật là đáng mừng.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe Thạch Thanh nói vậy thì than thầm: “Lão mặc áo xanh này chính là Tạ Yên Khách, chủ nhân Huyền Thiết Lệnh ư? Lão vừa ra một chiêu đã đoạt được hết trường kiếm của bọn mình, không phải lão thì trên đời còn người thứ hai nào như vậy nữa?” Bảy người ngơ ngác nhìn nhau, lẳng lặng không ai lên tiếng.

An Phụng Nhật võ công không cao lắm, nhưng lịch duyệt giang hồ thì hơn hẳn bọn đệ tử Tuyết Sơn, lập tức chắp tay nói: “Vừa rồi tại hạ không biết mà mạo phạm tiền bối, bây giờ xin có lời tạ lỗi.”

Người áo xanh này chính là Tạ Yên Khách ở Ma Thiên Nhai. Lão cười ha hả rồi nói: “Theo quy củ ngày thường của lão phu, các ngươi đã dùng binh khí để công kích ta, là ta phải trả lại từng chiêu một. Tỉ dụ như ngươi dùng Kim đao chém vào vai trái của ta, thì ta cũng dùng Kim đao để chém vào vai trái ngươi.” Lão nói tới đây thì cầm miếng sắt tung lên một cái, mỉm cười nói tiếp: “Nhưng hôm nay lão phu đang vui vẻ, nhát đao đó hãy tạm ghi vào sổ nợ. Ngươi đâm vào ngực lão phu. Ngươi đâm vào huyệt Hoàn Khiêu ở đùi lão phu. Ngươi đâm vào bên trái lưng lão phu. Ngươi chém vào đùi lão phu…” Miệng của lão vừa nói, tay vừa chỉ vào từng tên đệ tử Tuyết Sơn.

Bảy tên này nghe lão nói đúng từng chiêu của mình không sai chút nào thì trong lòng cực kỳ kinh hãi. Chỉ trong chớp nhoáng mà lão nhớ được rành mạch ai xuất chiêu đánh vào đâu. Bỗng lão lại nói tiếp: “Tất cả những món nợ đó ta sẽ ghi lại, hôm nào gặp chuyện bực mình sẽ đến tìm các ngươi để đòi.”

Tên lùn nhất trong đám đệ tử Tuyết Sơn lớn tiếng nói: “Chúng ta tài nghệ chẳng bằng người, thua thì đành chịu, lão còn chọc ghẹo làm chi? Bất tất lão phải ghi vào sổ nợ, cứ đâm ta một nhát cho thoải mái! Ai hơi đâu mà để món nợ đó trong lòng được.” Gã này tên gọi Vương Vạn Nhận, lúc này tay không binh khí mà dám nói mấy câu này, rõ ràng đã đem tính mạng giao cho địch thủ. Bọn sư huynh đệ đồng môn đều định lên tiếng ngăn cản, nhưng gã chỉ nói một hơi là xong hết.

Tạ Yên Khách gật đầu nói: “Được lắm!” Rồi lão rút thanh trường kiếm dưới đất của Vương Vạn Nhận đâm thẳng ra, gã này vội nhảy lùi ra sau để tránh. Ngờ đâu thế kiếm của Tạ Yên Khách thần tốc phi thường, người Vương Vạn Nhận còn lơ lửng trên không, mũi kiếm đã đâm vào ngực gã. Tạ Yên Khách rung tay một cái rồi thu kiếm về.

Lúc hai chân Vương Vạn Nhận chấm đất, gã thấy trước ngực mát rượi, liền cúi xuống nhìn, bất giác kêu lên một tiếng: “Úi chà!” Gã thấy ngực mình hở ra một lỗ tròn to bằng miệng chén. Thì ra lúc Tạ Yên Khách rung tay, đã dùng mũi kiếm khoét một vòng tròn trước ngực áo gã. Ba lớp áo đều bị khoét gọn để hở da thịt ra, giả tỉ lão xuất thủ nặng hơn chút nữa thì đã móc trái tim gã ra ngoài.

Vương Vạn Nhận sợ đến mặt xám như đất, ngây người ra. An Phụng Nhật thán phục tận đáy lòng, không nhịn được, bật lên tiếng hoan hô: “Hảo kiếm pháp!”

Nói về phóng kiếm chuẩn xác, kình lực vừa đủ, thì chiêu thức của Tạ Yên Khách vừa rồi, vợ chồng Thạch Thanh nếu cố gắng cũng có thể làm được. Nhưng kiếm thế đi mau lẹ khiến cho đối phương biết rõ chỗ nào mà vẫn không tránh được, thì Thạch Thanh và Mẫn Nhu tự biết mình không bao giờ bì kịp. Hai người đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ: “Võ công lão này thật là tinh xảo tuyệt diệu, không biết đến đâu mà lường!”

Tạ Yên Khách lớn tiếng cười ha hả, rồi cất bước đi luôn.

Một thiếu nữ trong phái Tuyết Sơn đột nhiên la lên: “Tạ tiên sinh! Khoan đã!”

Tạ Yên Khách quay lại hỏi: “Có chuyện gì?”

Thiếu nữ đáp: “Vừa rồi tôn giá đã hạ thủ lưu tình, không hạ sát Vương sư ca của tại hạ, cả phái Tuyết Sơn cùng cảm tạ ân đức. Nhưng tại hạ muốn hỏi một câu: Miếng sắt tôn giá đang cầm có phải là Huyền Thiết Lệnh không?”

Tạ Yên Khách ngạo nghễ hỏi lại: “Phải thì sao? Mà không phải thì sao?”

Thiếu nữ đáp: “Nếu không phải là Huyền Thiết Lệnh thì bọn tại hạ còn phải đi tìm, còn nếu là Huyền Thiết Lệnh thì tôn giá có điều lầm lỗi rồi.”

Bỗng trên mặt Tạ Yên Khách thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay lập tức. Cảnh Vạn Chung quát lên: “Hoa sư muội! Không được nói nhiều!” Mọi người đều đã nghe Tạ Yên Khách tàn nhẫn hiếu sát, lúc chính lúc tà, hành sự chỉ theo ý mình, không biết bao nhiêu hảo hán cả hắc đạo lẫn bạch đạo đã chết về tay lão. Hôm nay lão bị mười người vây đánh mà không đả thương một ai, thì đã là đại từ bi lắm rồi, trước nay chưa thấy. Hoa Vạn Tử tính tình cương trực, không biết nặng nhẹ mà dám thốt ra lời xúc phạm, chẳng những bọn đồng môn phái Tuyết Sơn kinh hãi mà vợ chồng họ Thạch cũng lo cho nàng đến toát mồ hôi lạnh.

Tạ Yên Khách giơ miếng sắt lên, lớn tiếng đọc: “Huyền Thiết chi lệnh, hữu cầu tất ứng!” Rồi lão xoay mặt kia lại, đọc tiếp: “Ma Thiên Nhai Tạ Yên Khách”. Lão ngừng một chút, lại nói: “Loại Huyền Thiết này đao kiếm chém không vào, hiếm có trong thiên hạ.” Lão lượm một thanh kiếm ở dưới đất, chém vào miếng sắt đánh choang một tiếng. Thanh trường kiếm gãy làm hai đoạn, đoạn trên văng đi, còn miếng sắt không có chút dấu vết nào. Lão trầm mặt xuống, lớn tiếng hỏi: “Ta lầm lỗi ở chỗ nào?”

Hoa Vạn Tử đáp: “Tiểu nữ từng nghe bằng hữu giang hồ đồn rằng Tạ tiên sinh có ba tấm Huyền Thiết Lệnh, năm xưa đã chia ra tặng ba người có ơn với tiên sinh, thề rằng ai đưa lệnh bài đó đến trao trả thì có thể nhờ tiên sinh làm một việc, bất luận khó khăn nguy hiểm đến đâu tiên sinh cũng làm cho được. Chuyện đó có thật không?”

Tạ Yên Khách đáp: “Đúng thế! Chuyện này trong võ lâm không ai không biết.” Thanh âm của lão ra chiều đắc ý.

Hoa Vạn Tử nói: “Nghe nói trong ba tấm Huyền Thiết Lệnh thì hai tấm đã quay về tay tiên sinh, vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa. Tấm Huyền Thiết Lệnh này là tấm cuối cùng, có phải vậy chăng?”

Tạ Yên Khách nghe nàng nói “vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa” thì sắc mặt hòa hoãn lại. Lão đáp: “Phải rồi! Vị bằng hữu được ta tặng tấm Huyền Thiết Lệnh này bản lãnh rất cao cường, chẳng có việc gì là không làm nổi, tấm lệnh bài này chẳng dùng làm gì được cả. Ông ấy lại không có con cái, nên khi ngao du tiên cảnh thì lệnh bài không biết lưu lạc nơi đâu. Mấy năm nay bao nhiêu người liều mạng đi tìm kiếm nó để sai lão phu làm việc cho họ. Ha ha! Ngờ đâu hôm nay ta thu được nó về một cách dễ dàng, bằng hữu giang hồ không khỏi thất vọng. Nhưng đó cũng là một điều may, ai nấy đều tai qua nạn khỏi.” Lão vung chân đá thi thể Ngô Đạo Thông ra xa mấy trượng, lại nói tiếp: “Ví dụ như tên này đã được lệnh bài, nhưng muốn tìm ta cũng khó. Hắn chưa kịp đem đến làm phiền ta, thì chính mình đã thành kẻ địch chung của thiên hạ. Trong võ lâm chẳng ai không muốn giết hắn, chẳng ai không muốn đoạt lấy lệnh bài. Ngay cả vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang là người hiền đức cũng chưa thoát vòng trần tục, huống chi người khác. Ha ha! Ha ha!”

Câu nói sau cùng của lão đầy vẻ trào phúng. Thạch Thanh bất giác thẹn đỏ mặt tía tai. Ông vốn đối tốt với mọi người, võ công đã cao, danh vọng lại lớn, trước nay nói gì cũng được nghe theo, chẳng ai phản kháng. Không ngờ hôm nay ông bị Tạ Yên Khách chê cười, luận về lý lẽ hay sức lực đều thua kém. Bình sinh ông rất cao ngạo, lúc này bị mất mặt thật là không thể chịu nổi. Mẫn Nhu nhìn sắc mặt Thạch Thanh, cũng biết lang quân đang muốn rút kiếm liều mạng với Tạ Yên Khách. Tuy ông biết rõ mình không địch nổi, nhưng nỗi tức này không thể nuốt trôi được.

Tạ Yên Khách lại nói: “Vợ chồng Thạch trang chúa vốn là anh hùng hào kiệt. Nếu hai vị có tấm Huyền Thiết Lệnh này, bắt lão phu phải bôn ba vất vả làm một việc khó khăn, thì cũng còn được. Nhưng nó mà lọt vào tay kẻ tiểu nhân vô sỉ, không chừng hắn cầm đến bắt lão phu tự chặt chân tay, sống không được chết chẳng xong. Thậm chí nếu hắn yêu cầu ta tự sát, ta mà không chịu thì còn gì là lời thề Hữu cầu tất ứng nữa? May mà vận khí lão phu không tệ, thu hồi được lệnh bài một cách dễ dàng. Ha ha!” Tiếng cười của lão làm rung động cả mái ngói.

Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Nghe nói ngày trước Tạ tiên sinh đã thề độc, bất luận ai đem lệnh bài đến đều được tiên sinh làm theo ý muốn. Dù kẻ đó là oan gia bảy kiếp cũng không bị tiên sinh động đến một ngón tay. Tấm lệnh bài này Tạ tiên sinh đoạt lấy trong tay tiểu huynh đệ kia, sao tiên sinh biết nó không yêu cầu chuyện gì?”

Tạ Yên Khách cười khẩy rồi nói: “Thằng nhóc ăn xin đó là cái thá gì? Tạ Yên Khách này mà đi nghe lời một thằng nhóc ăn xin, ha ha, người ta lại không cười đến chết ư?”

Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Các vị bằng hữu đã nghe thấy chưa? Tạ tiên sinh nói rằng chú nhỏ hành khất kia không phải là người, nên lời thề không đáng kể.” Nghe cô ta nói vậy, lẽ ra mọi người xung quanh đều phải mỉm cười, còn đồng môn sư huynh đệ phải phụ họa thêm mới phải, thế mà lúc này bốn phía vẫn im hơi lặng tiếng, nếu một mũi kim rơi xuống đất vẫn có thể nghe được.

Trên mặt Tạ Yên Khách lại thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay. Lão nghĩ bụng: “Con nha đầu này nói chuyện như thế thật là bắt mình cứng họng, không khỏi bị người ta nói sau lưng là Tạ mỗ không giữ chữ tín.” Đột nhiên lão động tâm la thầm: “Úi chà! Hỏng rồi! Không chừng thằng ăn xin này do chúng cố ý bày ra cạm bẫy, dụ mình đưa tay cướp lấy lệnh bài, rồi xúi nó bắt mình làm gì đó.” Lão cười lạnh, ngạo nghễ nói: “Đối với họ Tạ ở Ma Thiên Nhai, trong thiên hạ chẳng có việc gì là khó nữa. Thằng nhóc kia! Ngươi cứ đi theo ta, rồi có việc gì yêu cầu ta sẽ giải quyết cho, không can dự gì đến người khác.” Đoạn lão dắt tay gã ăn xin toan cất bước đi. Tuy Tạ Yên Khách chẳng xem bọn người trước mặt vào đâu, nhưng lão e rằng sau lưng gã ăn xin lại có kẻ giật dây, trước đám đông đưa ra một vấn đề nan giải, đại khái như bắt lão chặt chân tay, thì biết làm thế nào? Vì vậy mà lão định đưa nó đến chỗ không người để dò hỏi cho tỉ mỉ.

Hoa Vạn Tử tiến ra một bước, dịu dàng nói: “Tiểu huynh đệ! Cháu là một đứa bé ngoan. Lão bá đây rất thích giết người, cháu mau mau yêu cầu lão từ nay đừng giết…” Nàng chưa dứt lời thì đột nhiên có một luồng kình phong xô vào mặt, ba chữ “…người nào nữa” lại phải nuốt vào, không nói được ra lời.

Thì ra Hoa Vạn Tử biết Tạ Yên Khách đã hứa điều gì là làm đúng như vậy. Vừa rồi nàng cũng phóng kiếm đâm vào mặt lão, lão đã nói là ghi lại đó để sau này lúc nào muốn thì đòi. Như vậy tất có ngày nàng bị lão rạch mặt. Huống chi sáu vị sư huynh nàng, trừ một mình Vương Vạn Nhận ra, ai cũng còn nợ lão một kiếm. Món nợ này còn ghi lại đó, sau này dĩ nhiên có người phải mất mạng. Vì thế nàng mạo hiểm chọc giận lão, bảo gã ăn xin yêu cầu lão không giết người nữa. Chỉ cần nó nói ra thì dĩ nhiên lão phải nghe theo, mình cùng năm vị sư huynh có thể bảo toàn tính mạng. Không ngờ Tạ Yên Khách đã nhìn ra dụng ý, liền phất tay áo phóng kình phong vào mặt, ngăn không cho nàng nói hết câu. Lão tức giận quát lên: “Con nha đầu kia! Lại còn dám lảm nhảm ư?” Rồi một luồng kình phong nữa lại xô đến. Hoa Vạn Tử đứng không vững, ngã ngửa ra sau.

Hoa Vạn Tử lưng vừa chấm đất, liền nhảy bật dậy ngay. Nàng toan kêu la gì đó, nhưng Tạ Yên Khách đã dắt gã ăn xin đi vào ngõ hẻm. Hiển nhiên lão không muốn cho nó nghe người khác xúi giục.

Mọi người thấy Tạ Yên Khách chỉ phất tay áo ở ngoài mấy trượng mà đánh ngã Hoa Vạn Tử, ai cũng kinh hãi, chẳng dám nói gì nữa.

Hồi 02: Thiếu niên gây đại họa

Thạch Thanh tiến ra hai bước, nhìn Cảnh Vạn Chung và Vương Vạn Nhận, chắp tay nói: “Cảnh hiền đệ! Vương hiền đệ! Cô nương đây kiến thức đảm lược hơn cả bọn tu mi nam tử, chắc là Hàn Mai nữ hiệp Hoa cô nương vang danh thiên hạ có phải không? Ngoài ra còn bốn vị huynh đệ nữa, xin được giới thiệu cho biết.”

Cảnh Vạn Chung nhăn mặt, không trả lời mà lại nói: “Tại hạ được gặp hiền phu phụ Thạch trang chủ ở đây thật là may mắn, đỡ phải đến Giang Nam ra mắt.”

Thạch Thanh thấy vẻ mặt bảy người kia đều không có thiện cảm, lúc đầu nghĩ là bọn họ vừa bị Tạ Yên Khách đoạt kiếm lại hất ngã người nên buồn bực trong lòng. Nhưng Cảnh Vạn Chung cùng mình là chỗ bạn thân, đất khách gặp người cố cựu tưởng nên tay bắt mặt mừng, sao lại tỏ vẻ lạnh nhạt? Hơn nữa trước nay hắn vẫn kêu mình bằng Thạch đại ca, không hiểu vì lẽ gì mà đột nhiên thay đổi cách xưng hô? Ông ngẫm nghĩ một chút rồi tự hỏi: “Phải chăng đứa con bảo bối của ta đã gây nên tai vạ gì ư?” Ông vội nói: “Cảnh hiền đệ! Phải chăng thằng nhỏ bướng bỉnh của tiểu huynh đã làm cho hiền đệ phải khó chịu? Vợ chồng ta sẽ đền tội cho hiền đệ. Lại đây! Tiểu huynh xin làm chủ nhân, mời cả bảy vị đến thành Biện Lương uống mấy chén rượu.”

An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh ra chiều thân mật với bọn đệ tử phái Tuyết Sơn, mà bọn này đối với mình lại chẳng thèm nhìn, đừng nói là thông báo danh tính hay nói mấy câu khách sáo. Hắn cứ đứng trơ ra đó, chẳng ai nói gì tới thì đã không hứng thú gì mà lại tức mình, nghĩ thầm: “Hừ! Phái Tuyết Sơn thì đã là cái gì? Ai lấy nhân nghĩa đối người như Thạch trang chủ, mới thật làm cho người ta thán phục.” Hắn bèn quay sang Thạch Thanh và Mẫn Nhu chắp tay nói: “Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! An mỗ xin cáo từ!” Thạch Thanh cũng chắp tay đáp lễ nói: “Xin An trại chủ miễn trách. Khuyển tử là Thạch Trung Ngọc hiện là môn hạ của Phong huynh tại phái Tuyết Sơn, tại hạ cứ mải hỏi thăm, thật là có điều thất lễ với An trại chủ.” An Phụng Nhật nghĩ bụng: “Chuyện này thì làm sao trách ông được?” Rồi kính cẩn đáp: “Trang chúa dạy quá lời!” Nói xong, hắn quay lưng đi thẳng.

Bọn Cảnh Vạn Chung bảy người thủy chung vẫn không nói nửa lời. Khi An Phụng Nhật đã đi xa, họ cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau ra chiều dè dặt, vẻ mặt lộ vẻ vừa khó chịu vừa lúng túng, vừa phẫn nộ lại vừa khinh bỉ, dường như chẳng ai muốn lên tiếng trước.

Thạch Thanh đã đưa con đến bái sư học võ của đại đệ tử phái Tuyết Sơn Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý. Tuy ông còn thâm ý khác, nhưng chính yếu vẫn là vì đứa con này hư hỏng quá, Mẫn Nhu lại hay bênh con, mình khó mà dạy dỗ. Ông thấy thái độ bọn Cảnh Vạn Chung, sợ rằng thằng con đã gây vạ lớn, liền tươi cười hỏi: “Bạch lão gia tử, Bạch lão thái thái vẫn khỏe chứ? Phong Hỏa Thần Long Phong huynh có được bình yên không?”

Vương Vạn Nhận không nhịn được nữa, lớn tiếng đáp: “Sư phụ và sư nương ta chưa bị thằng tiểu… tiểu… của ngươi làm tức đến chết là phúc lớn lắm rồi!” Chính ra họ Vương muốn mắng là thằng tiểu tạp chủng, nhưng thấy vẻ mặt Mẫn Nhu cực kỳ khổ sở nên hắn lắp bắp một chút, rồi cuối cùng dừng ngựa bên bờ vực thẳm. Tuy hắn đã nuốt mất hai chữ, nhưng chẳng cần phải nói ra miệng, chỉ nghe giọng nói cũng biết là hắn nặng lời thóa mạ.

Mẫn Nhu mắt đỏ hoe nói: “Vương đại ca! Ngọc nhi thật là quá hư hỏng, đắc tội với chư vị. Ta… ta… xin tạ tội.” Nàng nói xong, cúi mình thi lễ.

Bảy đệ tử phái Tuyết Sơn vội đáp lễ, Vương Vạn Nhận lớn tiếng nói: “Thạch đại tẩu! Thằng tiểu… tiểu… của đại tẩu thật chẳng ra gì. Nếu nó chỉ được một phần giống đại ca, đại tẩu thì đã… đã… không có gì phải nói. Có phải nó đắc tội với Vương Vạn Nhận này đâu, mà dù nó có đắc tội với ta cũng chẳng quan hệ gì. Ta nể mặt hai vị, bất quá chỉ túm lấy nó mà đấm đá một trận là xong. Nhưng nó lại đắc tội với sư phụ sư nương của ta, mà tính Bạch sư ca lại nóng như lửa. Thạch trang chúa! Không phải ta nói lấy lòng đâu, có lúc đã muốn đến thông báo cho trang chúa hay là Bạch sư ca còn muốn đốt cả Huyền Tố Trang… để hai vị tránh đi một chút. Chén rượu của trang chúa mời hôm nay, nói gì thì nói, Vương mỗ không thể uống được. Bạch sư ca mà biết ra, không trở mặt tuyệt giao với ta mới là chuyện lạ.”

Hắn nói huyên thuyên một hồi lâu, thủy chung vẫn không đề cập đến Thạch Trung Ngọc đã phạm tội gì. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, nghĩ bụng: “Mình cùng phái Tuyết Sơn kết giao đã mấy đời nay, mà sao Bạch Vạn Kiếm lại căm hận đến muốn đốt Huyền Tố Trang?” Ông liền nói: “Thằng súc sinh đó thật là hư hỏng đáng chết! Sao nó lại dám đắc tội cả với lão thái gia cùng lão thái thái?”

Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Nơi đây là chỗ thị phi, không tiện đứng lâu. Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện hay hơn.” Gã nói xong, rút lấy thanh trường kiếm dưới đất rồi tiếp: “Xin mời Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân lên đường.”

Thạch Thanh gật đầu rồi cùng Mẫn Nhu đi về phía tây, hai con ngựa từ từ đi theo. Dọc đường, Cảnh Vạn Chung cũng đã giới thiệu mấy tên sư đệ sư muội, bọn này cũng nói mấy câu khách sáo với vợ chồng Thạch Thanh.

Đoàn người đi được chừng bảy tám dặm, thấy bên đường có ba cây dẻ cành lá xòe ra như cái lọng. Cảnh Vạn Chung lên tiếng hỏi: “Thạch trang chúa! Chúng ta qua bên kia nói chuyện được chăng?”

Thạch Thanh đáp “Được lắm!” Chín người đi tới gốc cây, chia nhau ngồi trên mấy tảng đá lớn cùng mấy chỗ rễ cây nổi lên. Vợ chồng Thạch Thanh tuy trong lòng nóng nảy nhưng không tiện mở miệng hỏi ngay.

Cảnh Vạn Chung lên tiếng trước: “Thạch trang chúa! Tại hạ cùng trang chúa giao hảo đã lâu, có lời nói thẳng, xin trang chúa đừng trách. Theo ý kiến tại hạ thì trang chúa hãy giao lệnh lang cho bọn tại hạ mang đi. Tại hạ sẽ hết sức năn nỉ sư phụ, sư mẫu và Bạch sư huynh, chưa chắc đã không bảo toàn tính mệnh được cho nó. Dù nó có bị tước bỏ võ công, còn hơn để hai bên trở mặt thành cừu địch, dấy động can qua.”

Thạch Thanh rất lấy làm kỳ, nói: “Từ khi thằng nhỏ qua bên quý phái, ba năm nay tại hạ chưa được gặp nó lần nào. Hết thảy mọi việc, tại hạ thật sự chưa biết tí gì. Mong rằng Cảnh huynh nói cho tại hạ hay, đừng giấu giếm gì.” Trước nay ông vẫn gọi là “Cảnh hiền đệ”, nhưng thấy vẻ mặt đối phương giận dữ, e rằng hai chữ “hiền đệ” nói ra sẽ bị trách cứ, bèn đối cách xưng hô.

Cảnh Vạn Chung hỏi: “Thạch trang chúa không biết thật ư?”

Thạch Thanh đáp: “Không biết thật.”

Cảnh Vạn Chung vốn hiểu tính Thạch Thanh, trang chúa Huyền Tố Trang danh tiếng lẫy lừng không khi nào nói dối. Ông nói không biết, là không biết thật. Hắn liền đáp: “Thì ra Thạch trang chúa không biết gì hết.”

Mẫn Nhu không nhịn được, liền xen vào hỏi: “Vậy Ngọc nhi không ở thành Lăng Tiêu nữa ư?” Cảnh Vạn Chung gật đầu.

Vương Vạn Nhận nói: “Giả tỉ thằng tiểu… tiểu… đó hiện giờ còn ở thành Lăng Tiêu, thì dù có đến một trăm cái mạng cũng chết sạch rồi.”

Thạch Thanh trong lòng ngấm ngầm tức giận, nghĩ bụng: “Ta cho Ngọc nhi đến môn phái các ngươi học võ, chỉ vì kính trọng Bạch lão gia cùng Phong sư huynh, cũng là xem trọng võ công phái Tuyết Sơn. Nó hãy còn nhỏ tuổi, bản tính bướng bỉnh, dù có phạm môn quy gì thì các ngươi cũng phải nể mặt vợ chồng ta, sao lại nói đến chữ giết? Dù cho phái Tuyết Sơn võ công cao cường, người nhiều thế lớn, nhưng chẳng lẽ trên giang hồ không còn hai chữ đạo lý nữa hay sao?” Thế mà ngoài mặt ông vẫn thản nhiên, lạnh lùng nói: “Môn quy của quý phái vốn nghiêm ngặt, tại hạ đã biết rồi. Tại hạ đưa khuyển tử đến thành Lăng Tiêu học võ nghệ, vốn cũng muốn y học thêm khuôn phép.”

Cảnh Vạn Chung hơi trầm mặt xuống: “Thạch trang chúa nói quá lời. Tiểu tử Thạch Trung Ngọc lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác, nhưng không phải phái Tuyết Sơn dạy nó như thế.”

Thạch Thanh lạnh lùng hỏi: “Nó còn nhỏ tuổi như thế, thì tám chữ lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác từ đâu mà ra?”

Cảnh Vạn Chung quay lại bảo Hoa Vạn Tử: “Hoa sư muội! Nhờ sư muội đi xem xét bốn phía xem có ai tới đây không.” Hoa Vạn Tử dạ một tiếng rồi xách kiếm đi ngay. Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau, đều biết rằng hắn bảo Hoa Vạn Tử ra xa là vì có chuyện không tiện nói trước mặt phụ nữ, trong lòng không khỏi thêm phần lo lắng.

Cảnh Vạn Chung thở dài nói: “Thạch trang chúa, Thạch đại tẩu! Bạch sư huynh của tại hạ không có con trai, chỉ có một đứa con gái, chắc các vị đã biết rồi. Sư điệt nữ của tại hạ năm nay mới mười ba tuổi, thông minh lanh lợi, tính tình khả ái. Bạch sư huynh dĩ nhiên yêu quý nó vô cùng, mà sư phụ sư mẫu tại hạ cũng xem nó như trái tim của mình. Có thể nói nó là tiểu công chúa của thành Lăng Tiêu trên núi Đại Tuyết. Bọn sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội tại hạ đều xem nó như một con phượng hoàng vậy.”

Thạch Thanh gật gật đầu nói: “Chắc là thằng con chẳng ra gì của tại hạ đã đắc tội với vị tiểu công chúa đó. Có đúng thế không?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Hai chữ đắc tội thì còn nhẹ quá! Nó… nó… lớn mật đến độ dám trói chặt chân tay sư điệt nữ của tại hạ, rồi lột sạch y phục, toan bề cưỡng gian.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu la lên: “Trời ơi!” rồi đứng phắt dậy. Mẫn Nhu sắc mặt lợt lạt hẳn đi. Thạch Thanh nói: “Sao… sao lại có việc đó được? Thạch Trung Ngọc năm nay mới mười lăm tuổi, trong vụ này tất có sự hiểu lầm.”

Cảnh Vạn Chung nói: “Bản thân tại hạ cũng thấy chuyện này khó tin, nhưng đó là chuyện thật, ngàn vạn lần là thật. Hai đứa nha hoàn trông coi tiểu điệt nữ nghe tiếng giãy giụa mà chạy vào phòng, thấy vậy liền kêu cứu, thì một đứa bị chặt đứt cánh tay, còn một đứa bị chém vào đùi, cả hai ngất xỉu tại chỗ. May mà thằng lỏi kia thấy thế kinh hãi, không dám xâm phạm tới tiểu điệt nữ nữa, chạy trốn mất dạng.”

Trong võ lâm thì sắc giới là điều đại kỵ. Ngay cả những tay hảo hán hắc đạo cướp của, giết người, đốt nhà như cơm bữa, mà phạm đến chữ dâm thì lập tức bị đồng đạo thóa mạ. Ngay cả bọn đạo tặc lục lâm cũng không dám phạm vào chuyện hiếp dâm phụ nữ một cách khinh suất, huống hồ là nhân vật hiệp nghĩa. Mẫn Nhu nghe nói thế, mặt mày tái mét, kéo tay áo lang quân hỏi: “Sư ca! Phải… phải làm thế nào bây giờ?”

Thạch Thanh nghe chuyện này cũng tan nát cõi lòng. Giả tỉ ông nghe con trai gây họa giết người thì cũng khó chịu lắm, nhưng còn chịu được, còn vụ này thật không biết làm sao cho phải. Ông cố định thần đáp: “Thế là hoàng thiên còn bảo hộ. Bạch tiểu cô nương vẫn giữ được tấm thân trong trắng, chưa bị thằng nghiệt tử của ta làm ô uế đấy chứ?”

Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Chưa, nhưng đã đến thế thì cũng chẳng khác gì bị cưỡng gian rồi. Tính nết của sư phụ tại hạ thế nào thì trang chúa đã biết. Lão nhân gia lập tức cho người đi truy tầm thằng lỏi Thạch Trung Ngọc, dặn hễ ai thấy gã là chém chết ngay, không được để sống.”

Vương Vạn Nhân tiếp lời: “Gia sư còn nói người cùng trang chúa giao tình không ít, nếu bắt Thạch Trung Ngọc về, tất nể mặt trang chúa mà không giết nó. Tốt nhất là ai gặp nó bên ngoài thì chém một kiếm cho xong.” Cảnh Vạn Chung đưa mắt cho Vương Vạn Nhân, hình như có ý bảo hắn đừng nhiều lời quá. Vương Vạn Nhận cãi: “Sư phụ dặn thế thực. Chẳng lẽ đệ lại nói dối hay sao?”

Cảnh Vạn Chung mặc kệ hắn, nói tiếp: “Nếu thằng lỏi chỉ đả thương hai con nha đầu thì cũng chưa phải chuyện lớn. Nhưng sư điệt nữ của tại hạ tuy tuổi còn nhỏ mà tính tình cương liệt. Nó bị sỉ nhục như vậy, cảm thấy chẳng còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, ngồi khóc sướt mướt suốt hai ngày hai đêm ròng rã. Đến đêm thứ ba, nó lén chui cửa sổ ra ngoài, nhảy xuống vực sâu muôn trượng.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lại la hoảng “Trời ơi!”. Thạch Thanh run giọng hỏi: “Rồi… rồi… có cứu được không?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Vực thẳm ngoài thành Lăng Tiêu thì Thạch trang chúa đã biết rồi, đừng nói là người, dù là hòn đá lăn xuống cũng vụn ra thành bụi. Một tiểu cô nương mà nhảy xuống, chắc chắn phải nát như tương.”

Một gã đệ tử phái Tuyết Sơn tên gọi Kha Vạn Quân, chừng hai bảy hai tám tuổi, cũng nói: “Oan uổng nhất là đại sư ca, vô cớ bị sư phụ chém cụt cánh tay phải.” Thanh âm của hắn cực kỳ phẫn nộ.

Thạch Thanh kinh hãi kêu lên: “Phong Hỏa Thần Long ư?”

Kha Vạn Quân đáp: “Chứ còn ai nữa? Sư phụ thương tiếc đứa cháu gái cưng, lại không bắt được thằng con của trang chúa. Người nổi trận lôi đình trong đại sảnh, la mắng Phong sư huynh dạy đồ đệ không nghiêm, chỉ ăn tốn cơm chứ chẳng biết lo lắng, còn làm sư phụ cái khỉ gió gì. Người càng la mắng càng tức giận, rồi đột nhiên rút thanh kiếm đeo sau lưng Phong sư huynh, chém đứt một cánh tay của y. Sư mẫu tại hạ liền trách sư phụ là nóng nảy đến giận cá chém thớt. Hai vị lão nhân gia gây gổ trước mặt đệ tử, càng nói càng gay cấn. Không hiểu hai vị nhắc đến chuyện gì đó ngày xưa, rồi sư phụ tát sư mẫu một cái. Sư mẫu hầm hầm chạy ra khỏi cửa, nói rằng nếu còn trở lại thành Lăng Tiêu thì không phải giống người.”

Thạch Thanh hổ thẹn không tưởng nổi, nghĩ thầm: “Ta cảm phục võ công của Phong Vạn Lý mới cho thằng con độc nhất bái làm sư phụ, ngờ đâu liên lụy đến ông ấy phải thành phế nhân. Kiếm pháp Phong Vạn Lý mãnh liệt như gió bão, như lửa cháy, nên được người ta tặng cho ngoại hiệu là Phong Hỏa Thần Long. Ông ấy có vô số kẻ thù, nay bị mất hết võ công thì e rằng suốt đời không dám rời khỏi Đại Tuyết Sơn nửa bước. Hỡi ôi! Thật là hổ thẹn với ông bạn tốt.”

Vương Vạn Nhận lại nói thêm: “Kha sư đệ! Ngươi nói đại sư ca bị oan uổng, chẳng lẽ Bạch sư ca không oan uổng hay sao? Con gái bị hại chết, Bạch sư tẩu lại phát điên.”

Thạch Thanh, Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, chỉ mong mặt đất nứt ra một cái lỗ để chui vào cho khuất. Thực tình hai người chưa biết gì đến những thảm sự con mình đã gây ra tại thành Lăng Tiêu. Thạch Thanh cắn răng hỏi tiếp: “Bạch phu nhân… làm sao mà tâm thần bất định?”

Vương Vạn Nhận đáp: “Còn không phải vì thằng con bảo bối của trang chúa ư? Tiểu điệt nữ vừa chết, Bạch sư ca lại trách sư tẩu không trông nom con cái cẩn thận, để nó nhảy qua cửa sổ trốn đi tự tử. Bạch sư tẩu đang than thân trách phận, lại còn phải nghe trượng phu trách mắng, bèn không ngớt la gọi: “A Tú! Mẹ đã hại chết con rồi! Mẹ đã hại chết con rồi!” Từ đó thần trí sư tẩu đâm ra hồ đồ. Hai vị sư tỷ đến nay vẫn không dám rời bà nửa bước, chỉ sợ bà nhảy xuống vực thẳm theo con. Thạch trang chúa! Như vậy thì Bạch sư ca của tại hạ muốn đốt Huyền Tố trang, trang chúa nói xem có nên không?”

Thạch Thanh đáp: “Nên đốt! Nên đốt! Vợ chồng tại hạ không còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, dù phải đi hết chân trời góc biển cũng phải tìm bắt thằng nghiệt tử, đích thân đưa đến thành Lăng Tiêu, treo cổ trước linh vị Bạch cô nương…” Mẫn Nhu nghe tới đây, đột nhiên nấc lên một tiếng rồi ngất đi, ngã lăn vào lòng Thạch Thanh. Thạch Thanh liên tiếp nắn vỗ vào huyệt mạch, hồi lâu nàng mới dần dần tỉnh lại.

Vương Vạn Nhận lại nói: “Thạch trang chúa! Phái Tuyết Sơn còn có hai nhân mạng nữa phải ghi vào món nợ ở Huyền Tố Trang.”

Thạch Thanh kinh hãi hỏi: “Lại còn hai nhân mạng nữa ư?” Thạch Thanh vốn là người quen chịu sóng to gió lớn, nhưng chưa bao giờ gặp phải chuyện ác nghiệt như hôm nay. Năm xưa con thứ của ông là Thạch Trung Kiên bị kẻ thù giết chết, tuy ông vừa phẫn nộ vừa đau lòng đến cực điểm, nhưng cũng không bằng hôm nay phải vừa nhục nhã vừa kinh hãi. Giọng nói ông khản hẳn đi.

Vương Vạn Nhận lại tiếp: “Khi phái Tuyết Sơn gặp phải biến cố này, sư phụ đã phái mười tám đệ tử xuống núi, Bạch sư huynh cầm đầu một toán tới Giang Nam để đốt Huyền Tố Trang, lại còn dặn… còn dặn…” Hắn nói tới đây thì ấp úng không nói được nữa. Cảnh Vạn Chung vội đưa mắt ra hiệu ngăn lại.

Thạch Thanh rất hiểu đời, xem vẻ mặt hai người đã đoán ra họ muốn nói gì. Ông liền hỏi: “Chắc là dặn bắt vợ chồng tại hạ đem lên Đại Tuyết Sơn để đền mạng cho Bạch cô nương chứ gì?”

Cảnh Vạn Chung vội nói: “Thạch trang chúa nặng lời rồi. Đừng nói bọn tại hạ không dám, mà dù có đủ can đảm thì mấy chiêu võ công thô thiển làm sao mà mời được vợ chồng trang chúa? Sư phụ tại hạ chỉ dặn: Bất luận thế nào cũng phải tìm cho bằng được lệnh lang. Nhưng nó tuy nhỏ tuổi mà đã cực kỳ lanh lợi, nếu không thì trong thành Lăng Tiêu đông người truy bắt như vậy, làm sao nó biến mất được?”

Mẫn Nhu sa lệ nói: “Thế thì nhất định là Ngọc nhi nhảy xuống vực thẳm tự tử rồi.”

Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Không phải. Dấu giày gã đi trên mặt tuyết lúc xuống núi rất rõ rệt, về sau lại phát hiện dấu giày đó ở một ngọn đồi. Nói ra xấu hổ, bọn tại hạ bao nhiêu người lớn mà không bắt nổi một thằng nhóc mười lăm mười sáu tuổi. Tệ sư phụ quả có ý mời hai vị đến thành Lăng Tiêu để bàn luận kế hoạch sau này.”

Thạch Thanh cố trấn tĩnh nói: “Nói qua nói lại, cũng chỉ là muốn bắt chúng ta phải đền mạng cho Bạch cô nương mà thôi. Vương sư huynh bảo còn hai mạng người phải tính, không hiểu là chuyện gì?”

Vương Vạn Nhận đáp: “Tại hạ vừa nói mười tám đệ tử chia làm hai, một toán chín người đi xuống Giang Nam. Còn toán kia thì do Cảnh sư huynh dẫn đi các nơi ở Trung Nguyên để tìm tung tích của con trai trang chúa. Nhưng thật là xui xẻo, thật là họa vô đơn chí…”

Cảnh Vạn Chung ngắt lời: “Vương sư đệ! Sư đệ bất tất phải nói nữa, vụ đó không liên quan gì đến Thạch trang chúa.”

Vương Vạn Nhận cãi: “Sao lại không liên quan? Nếu không vì thằng nhỏ đó thì Tôn sư ca cùng Chử sư đệ đâu đến nỗi phải uổng mạng một cách không minh bạch? Hơn nữa, đối thủ là ai, chúng ta vẫn chưa biết. Rồi đây về núi, Cảnh sư huynh sẽ bẩm lại với sư phụ như thế nào? Sư phụ mà nổi cơn thịnh nộ thì e rằng cánh tay của sư huynh khó mà bảo toàn được. Vợ chồng Thạch trang chúa giao du rất rộng, mình nói ra để hai vị đi nghe ngóng tin tức giùm có phải hơn không?”

Cảnh Vạn Chung nhớ tới Phong sư huynh bị cái thảm chặt tay, liền nghĩ ngay đến mình không có cách nào để phục mệnh cùng sư phụ. Hắn cũng cho rằng nhờ vợ chồng Thạch Thanh đi dò la tin tức cũng là một cách giải quyết, bèn đáp: “Được rồi! Sư đệ muốn kể thì cứ kể đi!”

Vương Vạn Nhận nói: “Thạch trang chúa! Trước đây ba hôm, bọn tại hạ được tin có một tên họ Ngô lấy được Huyền Thiết Lệnh, mai danh ẩn tích tại Hầu Giám Tập ngoài thành Biện Lương, giả làm một lão già bán bánh tiêu. Bọn sư huynh đệ tại hạ chín người bèn thương lượng với nhau, đều cho rằng tróc nã Thạch Trung Ngọc phải gặp may mới được. Thiên hạ bao la biết tìm đâu cho thấy? Nếu mười năm không tìm thấy gã, bọn huynh đệ tại hạ cũng mười năm không dám trở về thành Lăng Tiêu. Giả tỉ bọn tại hạ lấy được Huyền Thiết Lệnh thì dù không bắt được lệnh lang, cũng còn có chút công để về gặp sư phụ. Trong lúc bàn định, không khỏi có người trách mắng lệnh lang tuổi nhỏ gan lớn, thật là đáng chết. Đột nhiên có tiếng một lão già cười ha hả, nói vọng vào: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Thiếu niên như thế thật là hiếm có, thật là lương tài mỹ chất. Trên đời khó mà tìm được con người như gã!”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đưa mắt nhìn nhau, nghĩ bụng: “Người ta tán dương con mình như vậy, nghe còn khó chịu hơn là thóa mạ.”

Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Lúc đó bọn tại hạ nói chuyện trong phòng khách điếm, bốn mặt đều là tường gạch. Thế mà thanh âm kia lọt qua tường vào, nghe rõ ràng chẳng khác gì ngồi đối diện. Chín người bọn tại hạ cũng nói rất khẽ, không hiểu sao lão lại nghe được.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu động tâm nghĩ thầm: “Cách tường gạch mà nghe rõ, không chừng là tường có lỗ hổng hay khe nứt, cũng không chừng có người ngồi dưới cửa sổ nghe lén. Có khi bọn này cãi cọ om sòm mà lại tự cho là nói khẽ, thì cũng chẳng lấy chi làm kỳ. Nhưng cách tường mà nói cho bên này nghe rõ mồn một, dĩ nhiên nội công lão già đó phải thâm hậu vô cùng. Bọn này dọc đường gặp phải cao nhân, thật là bão trước chưa tan, bão sau lại đến.”

Kha Vạn Quân xen vào: “Bọn tại hạ nghe thấy thanh âm đó, đều phải ngẩn ra. Vương sư ca liền quát lên: “Thế này thì chịu làm sao được? Sao lại có kẻ đi nghe lén chuyện người khác thế kia?” Vương sư ca vừa quát hỏi, bên kia im bặt không còn có âm thanh gì nữa. Một lúc sau, lão tặc kia lại lên tiếng: “A Đang! Bọn này đều là người phái Tuyết Sơn. Sư phụ của chúng là lão họ Bạch, là kẻ mà gia gia ghét nhất trên đời. Nay lại có một thằng lỏi làm cho lão… phái Tuyết Sơn phải tan cửa nát nhà, thế có thú không? Ha ha, thật là tuyệt diệu.” Bọn tại hạ nghe họ nói thế, thì muốn nổi xung ngay lập tức, nhưng Cảnh sư ca vội xua tay ra hiệu cho mọi người đừng lên tiếng.”

“Lại nghe tiếng một tiểu cô nương vừa cười khanh khách vừa nói: “Thú quá! Thú quá! Nhưng lão chưa tức đến chết, thì cũng chưa phải là tuyệt thú.” Con bé đó còn nói mấy câu quỷ quái gì nữa, nhưng cách tường nên nghe cũng không rõ lắm. Chỉ nghe lão già kia ho mấy tiếng rồi nói: “Nếu lão… tức quá mà chết đi thì lại chẳng có gì thú nữa. Để khi gia gia rảnh rỗi dắt ngươi đến thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết, đích thân chọc lão… phải tức đến chết cho ngươi xem, mới thật là thú!” Hắn chỉ nói là “lão…” còn lão gì thì hàm hồ bỏ qua. Chắc là lúc lão già nhắc đến tên sư phụ hắn đã dùng chữ rất hỗn xược, nên hắn phải lờ đi, không dám kể nguyên văn.

Thạch Thanh nói: “Người này cực kỳ vô lễ, dám bất kính cả với Bạch lão gia. Chẳng hiểu hắn dựa vào đâu mà dám thế? Chúng ta không thể bỏ qua cho hắn được.”

Vương Vạn Nhận nói: “Đúng thế! Lão tặc đó coi dưới mắt không người, chúng ta có thí mạng thì cũng phải đấu với hắn một phen. Bọn tại hạ đang tức không chịu nổi, thì nghe có tiếng “úi chà” trong phòng khách, còn phòng bên có tiếng kẹt cửa, hai người tiến vào trong viện. Bọn tại hạ đều rút kiếm ra, muốn xông vào trong viện ngay, nhưng Cảnh sư ca lại khoát tay bảo anh em đừng nóng nảy. Bỗng nghe lão tặc kia lại nói: “A Đang! Hôm nay ta đã giết mấy người rồi?” Con tiểu quỷ kia đáp: “Mới giết có một tên.” Lão tặc lại nói: “Vậy bây giờ có thể giết hai tên nữa.”

Thạch Thanh bỗng “ồ” lên một tiếng, rồi nói: “Nhất Nhật Bất Quá Tam!”

Cảnh Vạn Chung từ nãy vẫn ngồi yên không nói gì, bây giờ vội hỏi: “Thạch trang chúa! Trang chúa có biết lão già đó ư?”

Thạch Thanh lắc đầu đáp: “Tại hạ cũng không biết hắn, nhưng có được nghe tiên phụ đề cập đến. Trong võ lâm có một nhân vật như vậy, ngoại hiệu là Nhất Nhật Bất Quá Tam gì đó, tự hạn chế một ngày nhiều lắm là chỉ giết ba người. Sau khi lão giết người thứ ba rồi, tự nhiên mềm lòng đi, không muốn hạ thủ giết người thứ tư nữa.”

Vương Vạn Nhận cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Một ngày giết ba người còn chưa đủ ư? Thứ gian ác như vậy mà còn sống được đến nay mới là chuyện lạ.”

Thạch Thanh không nói gì, nghĩ thầm: “Nghe nói lão tiền bối họ Đinh này hành sự nửa chính nửa tà, tuy tàn nhẫn hiếu sát, nhưng chưa nghe nói đã phạm trọng tội gì. Những người lão giết đều là đáng chết.” Nhưng mấy câu này mà nói ra là đụng chạm đến phái Tuyết Sơn, nên ông không nói.

Cảnh Vạn Chung lại hỏi: “Không hiểu lão tặc đó tên họ là gì? Thuộc môn phái nào?”

Thạch Thanh đáp: “Tại hạ nghe nói lão họ Đinh, tên thật là gì cũng không biết rõ, chỉ biết ngoại hiệu lão là Nhất Nhật Bất Quá Tam. Các vị tiền bối thường gọi tắt là Đinh Bất Tam.”

Kha Vạn Quân tức tối nói: “Lão tặc đó đúng là cái thứ hồ đồ Bất Tam Bất Tứ.”

Thạch Thanh nói: “Tại hạ còn nghe nói nhà đó có ba anh em. Lão còn một người anh là Đinh Bất Nhị, một người em là Đinh Bất Tứ.”

Vương Vạn Nhận lại mắng: “Con mẹ nó. Bất Nhị Bất Tam, Bất Tam Bất Tứ, lại có những cái tên thối như rắm chó đó hay sao?”

Cảnh Vạn Chung nói: “Vương sư đệ! Trước mặt Thạch đại tẩu, không nên buột miệng như thế.” Vương Vạn Nhận “Vâng” một tiếng, rồi quay sang Mẫn Nhu tạ lỗi.

Mẫn Nhu chỉ mỉm cười rồi nói: “Không chừng đó chỉ là ngoại hiệu. Làm gì có những cái tên cổ quái như thế?”

Thạch Thanh nói: “Địa vị anh em nhà họ Đinh trong võ lâm không phải tầm thường. Chắc Bạch lão gia có chuyện gì xích mích với lão nên không đề cập tới, vì thế mà các vị huynh đệ không biết đến. Thế rồi sao nữa?”

Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Bỗng nghe lão tặc thúi mồm thúi miệng đó hỏi: “Có tên nào là Tôn Vạn Niên đó không? Lại còn một tên Chử Vạn Xuân nữa, hai ngươi chường mặt ra đây!” Nghe lão hống hách như vậy, bọn tại hạ còn nhẫn nại làm sao được, cả chín người liền xông ra một lúc. Nhưng lạ thay, trong viện chẳng có lấy một người. Mọi người tìm khắp bốn mặt, nhảy cả lên nóc nhà dòm ngó mà vẫn không thấy bóng một ai hết. Kha sư đệ thấy cửa phòng khách chỉ khép hờ liền xông vào, chỉ thấy một ngọn đèn cầy đặt trên bàn, chẳng thấy ma nào.”

“Bọn tại hạ còn đang nghi hoặc, thì nghe trong chính phòng mình có tiếng người, đúng là thanh âm lão tặc kia. Hắn nói: “Tôn Vạn Niên! Chử Vạn Xuân! Hai ngươi ở Lương Châu đã dám nhìn cháu gái của ta không chớp mắt, chỉ trỏ trêu ghẹo, mặt mũi đầy vẻ dâm tà. Cháu gái ta tuổi tác còn nhỏ, nhưng dung nhan xinh đẹp, hai thằng súc sinh này nhất định đã nảy ra những ý định xấu xa. Như vậy thì các ngươi còn oan uổng gì nữa không? Mau mau bước vào đây!” Tôn sư ca và Chử sư ca càng nghe càng cáu giận, sùng sục chống kiếm vào phòng. Cảnh sư ca la lên: “Phải cẩn thận đấy! Chúng ta xông cả vào đi!” Trong phòng đèn lửa tắt hết mà không thấy động tĩnh chi cả. Tại hạ lớn tiếng gọi: “Tôn sư ca! Chử sư ca!”. Nhưng không thấy hai người đáp lại, mà trong phòng cũng không có tiếng đánh nhau.”

“Bọn tại hạ đều sợ đến dựng tóc gáy, vội bật lửa lên xem thì thấy hai vị sư ca quỳ ngay ngắn dưới đất, trường kiếm để một bên. Cảnh sư ca và tại hạ vội nhảy vào để đỡ hai người dậy, nhưng vừa đụng đến thì hai người đã lăn ra đất, thì ra tắt thở chết rồi! Tại hạ sờ khắp thân thể hai người chẳng thấy vết thương nào, chẳng hiểu lão tặc kia đã dùng bùa phép ma quỷ gì hạ sát hai vị sư ca. Nói ra xấu hổ, từ đầu đến cuối bọn tại hạ không thấy bóng lão tặc và con tiểu quỷ.”

Kha Vạn Quân nối lời: “Dọc đường ở Lương Châu, bọn tại hạ chẳng hề để ý đến người già người trẻ chi hết. Mà cho dù hai vị sư ca có nhìn cháu gái của lão mấy cái, thì có gì đáng kể đâu.”

Thạch Thanh, Mẫn Nhu lẩm nhẩm gật đầu. Mọi người cùng im lặng mất một lúc.

Thạch Thanh lên tiếng: “Cảnh huynh! Thằng nghiệt chướng của tại hạ đã gây nên đại họa ở thành Lăng Tiêu vào ngày nào vậy?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Mùng mười tháng chạp.”

Thạch Thanh gật đầu nói: “Hôm nay đã là mười hai tháng ba, thế là Bạch sư huynh rời khỏi thành Lăng Tiêu đã ba tháng, bây giờ chắc Huyền Tố trang đã bị đốt rồi. Cảnh huynh, Vương huynh cùng các vị huynh đệ! Vợ chồng tại hạ có hai việc phải làm. Thứ nhất là đi tìm thằng nghiệt chướng, nếu bắt được sẽ trói đem về thành Lăng Tiêu để thỉnh tội cùng Bạch lão gia, Phong huynh và Bạch huynh. Thứ hai là phải dò la tin tức lão Nhất Nhật Bất Quá Tam. Vợ chồng tại hạ tuy không làm gì được lão, nhưng sẽ báo tin cho Bạch lão gia hay để lão nhân gia thân hành xuất mã đi lo liệu việc này. Xin cáo biệt.” Thạch Thanh nói xong, bèn chắp tay thi lễ cùng mọi người toan quay lưng đi.

Kha Vạn Quân vội hỏi: “Trang chúa… tưởng chỉ nói mấy câu rồi phủi tay bỏ đi mà được ư?”

Thạch Thanh hỏi: “Kha huynh đệ còn điều gì muốn nói?”

Kha Vạn Quân đáp: “Chúng ta không kiếm được thằng con của trang chúa, chỉ còn cách mời vợ chồng trang chúa cùng đến thành Lăng Tiêu để gặp sư phụ ta, mới coi là xong được.”

Thạch Thanh nói: “Dĩ nhiên là vợ chồng tại hạ phải lên thành Lăng Tiêu, nhưng phải tìm ra một chút manh mối trước đã, rồi mới nói chuyện được.”

Kha Vạn Quân hết nhìn Cảnh Vạn Chung lại nhìn Vương Vạn Nhận. Gã phẫn nộ nói: “Giả tỉ sư phụ biết là chúng ta gặp vợ chồng Thạch trang chúa mà không mời được hai vị lên núi thì… thì… chẳng hóa ra…”

Thạch Thanh đã biết ý hắn muốn cậy nhiều người để thủ thắng, cưỡng bức vợ chồng mình phải lên núi Đại Tuyết, bắt không được con thì đem cha ra thường mạng. Ông liền nói: “Bạch lão gia đức cao trọng vọng, oai danh lừng lẫy một góc trời Tây. Tại hạ đối với lão gia trước nay vẫn đem lòng tôn kính như bậc sư trưởng. Giả tỉ Bạch huynh ở đây, vâng mệnh Bạch lão gia gọi tại hạ đến thành Lăng Tiêu, thì nhất định tại hạ phải tuân mệnh. Thôi bây giờ đành thế này vậy.” Thạch Thanh tháo thanh hắc kiếm sau lưng ra, rồi nhìn Mẫn Nhu nói: “Sư muội! Muội cũng bỏ kiếm ra đi!” Mẫn Nhu vâng lời tháo kiếm. Thạch Thanh nâng song kiếm trên lòng bàn tay, đưa cho Cảnh Vạn Chung nói: “Cảnh huynh! Xin Cảnh huynh áp tải khí giới của vợ chồng tại hạ về trước.”

Cảnh Vạn Chung vốn biết đôi Hắc Bạch song kiếm này là binh khí quý giá hiếm có trên đời, trước nay vợ chồng Thạch Thanh coi trọng như tính mạng. Bây giờ ông đã tháo kiếm ra giao nộp, thì phái Tuyết Sơn đã có thể diện lắm rồi, cứ giữ song kiếm thì nhất định ông sẽ phải đến thành Lăng Tiêu để lấy về. Hắn bèn định nói mấy lời khiêm tốn rồi nhận lấy kiếm.

Bỗng dưng Kha Vạn Quân lại lớn tiếng: “Sư điệt nữ thác oan, Phong sư ca bị chặt một cánh tay, sư nương bỏ núi ra đi, Bạch sư tẩu phát điên, lại thêm Chử sư ca và Tôn sư ca chết không minh bạch. Chẳng lẽ hai thanh kiếm lại đủ để đền bồi hay sao? Cảnh sư ca có giao tình với ngươi, còn Kha mỗ thì không quen không biết ngươi. Họ Thạch kia! Hôm nay bất luận ngươi muốn hay không muốn, cũng phải về thành Lăng Tiêu.”

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Tiểu nhi đã đắc tội rất nặng nề với quý phái, nhưng tại hạ ngoài cách tạ tội, cũng không còn biết nói gì. Kha sư huynh là một nhân tài của phái Tuyết Sơn, bản lãnh cao cường, tương lai rạng rỡ. Tại hạ tuy chưa được quen biết, nhưng đã ngưỡng mộ thanh danh của Kha sư huynh từ lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.” Hai tay ông vẫn nâng hai thanh trường kiếm, chờ Cảnh Vạn Chung đưa tay ra đón lấy.

Kha Vạn Quân nghĩ bụng: “Nếu bây giờ bọn mình bắt vợ chồng tên này phải lên Đại Tuyết Sơn thì khó lòng tránh khỏi một cuộc ác đấu. Hắn đã chịu đưa hai thanh bảo kiếm, thì còn gì hay hơn nữa? Cái đó kêu bằng tự mình gây nên tội nghiệt, còn trách ai được?” Gã sợ Thạch Thanh đột nhiên đổi ý mà thu kiếm về, liền tiến lên hai bước, thi triển công phu cầm nã của bản môn nắm chặt lấy hai thanh kiếm, rồi nói: “Vậy thì ta phải giữ binh khí của ngươi trước.” Gã toan lấy kiếm về, thì đột nhiên cảm thấy hai thanh kiếm như bị dính chặt vào lòng bàn tay Thạch Thanh, không thể nào kéo ra được.

Kha Vạn Quân cả kinh, vận kình lực vào hai cánh tay, quát một tiếng: “Lên!”. Ngờ đâu, ngay trong lúc hắn ra sức giật về thì sức hút trong lòng bàn tay Thạch Thanh đột nhiên biến mất.

Kha Vạn Quân đã vận công lực như để nhấc một vật nặng mấy trăm cân, mà hoàn toàn không có đối trọng, kình lực dồn hết vào cổ tay của mình. Chỉ nghe mấy tiếng lắc cắc, gã bị trật khớp cả hai cổ tay, la to lên một tiếng: “Úi chao!” Mười ngón tay gã lại lỏng ra, hai thanh kiếm lại rớt xuống lòng bàn tay Thạch Thanh.

Những người đứng quanh đều thấy rõ ràng hai bàn tay Thạch Thanh vẫn để yên, ngay cả đầu ngón út cũng không nhúc nhích, chỉ là Kha Vạn Quân vận lực bừa bãi, dùng lực đạo mấy trăm cân để tự giật sái cổ tay mình. Kha Vạn Quân vừa giận dữ vừa đau đớn, phóng chân toan đá vào bụng Thạch Thanh.

Cảnh Vạn Chung vội la lên: “Không được vô lễ!” Hắn vừa la gọi vừa nắm lấy lưng Kha Vạn Quân kéo lùi lại phía sau, thành ra phát cước này không trúng vào người Thạch Thanh được.

Cảnh Vạn Chung biết nội lực Thạch Thanh cực kỳ lợi hại. Giả tỉ Kha Vạn Quân đá trúng vào người Thạch Thanh, thì không chừng chính chân phải của hắn bị chấn động mà gãy mất. Về võ công cũng như về kiến thức, Cảnh Vạn Chung còn cao hơn Kha Vạn Quân rất nhiều. Hắn hít một hơi dài, vận nội kình vào mười đầu ngón tay rồi từ từ đưa ra cầm lấy hai thanh kiếm. Mười đầu ngón tay hắn vừa đụng vào kiếm thì toàn thân đã run bắn lên như bị điện giật, rồi một luồng nhiệt khí truyền vào trong ngực. Hiển nhiên Thạch Thanh đã dồn nội lực vào song kiếm. Gã la thầm: “Hỏng rồi!”, nghĩ rằng Thạch Thanh đã bày ra cạm bẫy để đưa mình vào thế phải tỉ đấu nội lực. Người luyện võ mà tỉ đấu nội lực là nguy hiểm nhất, ai mạnh hơn thì sống, còn kẻ yếu chắc chắn phải chết, không có cách nào tránh được. Trường hợp hai người nội lực chênh lệch không nhiều thì không chừng phải chết cả hai, muốn nhường nhịn hay muốn rút lui cũng không phải dễ. Lúc này tình thế nguy hiểm, không có cách nào xoay chuyển, Cảnh Vạn Chung chỉ còn cách vận nội lực để chống đỡ. Không ngờ nội lực của hai bên vừa đụng vào nhau, lập tức Cảnh Vạn Chung bị hất ngược trở lại.

Bấy giờ Thạch Thanh mới từ từ xoay tay lại, đặt song kiếm vào tay Cảnh Vạn Chung, rồi cười nói: “Chúng ta tình như huynh đệ, khi nào vì chuyện này mà để tổn thương hòa khí? Xin cáo từ.”

Lưng Cảnh Vạn Chung toát mồ hôi lạnh, biết nội lực của mình so với Thạch Thanh hãy còn kém rất xa. Vừa rồi nội lực của mình mới đụng vào nội lực của ông mà đã bị hất văng ra, dĩ nhiên không phải là đối thủ. Ông không đả thương hay làm mất thể diện mình, là đã hạ thủ lưu tình. Cảnh Vạn Chung cầm lấy hai thanh kiếm đứng ngẩn người ra, vẻ mặt đầy vẻ hổ thẹn, không biết nói thế nào cho phải.

Thạch Thanh quay lại bảo: “Sư muội! Bây giờ chúng mình vào thành Biện Lương.”

Mẫn Nhu khóe mắt đỏ hoe, ấp úng nói: “Sư ca! Hài nhi…”

Thạch Thanh lắc đầu ngắt lời: “Thà như Kiên nhi bị người ta chém chết, còn dễ chịu hơn.”

Nước mắt Mẫn Nhu trào ra như mưa. Nàng nghẹn ngào nói: “Sư ca! Huynh… huynh…” Thạch Thanh đưa tay ra nắm lấy tay nàng, dắt đến bên con ngựa trắng, rồi đỡ lên yên. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thấy Mẫn Nhu dáng người yểu điệu, thật khó mà tin được đây lại là Băng Sương Thần Kiếm oai chấn giang hồ.

Hoa Vạn Tử thấy Huyền Tố Song Kiếm cưỡi ngựa sóng vai đi khỏi, liền quay về chỗ cũ, Vương Vạn Nhận đang sửa khớp cổ tay cho Kha Vạn Quân. Còn Kha Vạn Quân thì đang ngoác mồm ra mà thóa mạ, hết “lão gia tử” lại “con mẹ nó”. Hoa Vạn Tử hỏi rõ mọi chuyện, bất giác chau mày nói: “Cảnh sư ca! Vụ này e rằng không ổn.”

Cảnh Vạn Chung hỏi: “Có gì mà không ổn? Đối phương võ công cao quá, dù bọn ta có hợp lực bảy người cũng chẳng giữ họ lại được. Hiện giờ mình áp tải binh khí của họ về thành Lăng Tiêu, cũng có thể phúc trình sư phụ.” Rồi hắn rút kiếm ra khỏi vỏ. Bạch kiếm trắng như tuyết, Hắc kiếm đen như mực, hai thanh kiếm tỏa ra những luồng hàn khí ghê gớm, tưởng chừng như xông vào da thịt làm cho tê nhức. Quả là hai thanh bảo kiếm hiếm thấy trên đời. Hắn bèn nói: “Đôi kiếm này không phải là giả.”

Hoa Vạn Tử đáp: “Kiếm là thật, nhưng chúng ta đã không giữ được người thì e rằng cũng khó giữ được hai thanh bảo kiếm này.”

Cảnh Vạn Chung động tâm hỏi lại: “Hoa sư muội nói sao?”

Hoa Vạn Tử đáp: “Năm ngoái có một hôm tiểu muội ngồi rỗi nói chuyện với Bạch sư tẩu, có đề cập đến bảo đao bảo kiếm trong thiên hạ. Lúc ấy thằng giặc non Thạch Trung Ngọc cũng đứng bên hớt lẻo, khoe Hắc Bạch Song Kiếm của song thân gã là lợi khí vào bậc nhất thiên hạ. Gã còn nói, song thân gã cho gã lên Đại Tuyết Sơn học võ mấy năm không gặp thì còn được, chứ nhất định không rời đôi kiếm này lấy một ngày. Lúc này Thạch trang chúa đã giao bảo kiếm vào tay chúng ta, không chừng mấy ngày sau họ tìm cách lén đoạt lại. Rồi sau này họ lại đến thành Lăng Tiêu đòi kiếm, thì chúng ta khó mà trả lời được.”

Kha Vạn Quân nói: “Bảy huynh đệ chúng ta cứ giương mắt ra mà nhìn, thì dù hai thanh kiếm này có phép thần thông, mọc cánh cũng không bay đi nổi.”

Cảnh Vạn Chung im lặng một chút rồi nói: “Hoa sư muội không nên quá lo lắng. Thạch Thanh tuy là nhân vật không phải tầm thường, nhưng chúng ta gia tâm đề phòng thì họ muốn lật ngược thế cờ cũng không phải dễ.”

Vương Vạn Nhận cũng nói: “Đề phòng cẩn thận là chuyện rất đúng. Bắt đầu từ hôm nay, sáu nam nhân chúng mình phải thay phen mà trông nom đôi quỷ kiếm này.” Hắn ngừng một chút, rồi lại hỏi: “Cảnh sư ca! Bây giờ vợ chồng thằng cha họ Thạch đi vào thành Biện Lương. Chúng mình có nên đi không?”

Cảnh Vạn Chung suy tính, nếu nói không đi thì tỏ ra khiếp nhược. Đã xuống Trung Nguyên mà không vào nơi đô hội như thành Biện Lương thì chẳng khác gì qua cửa mà không vào nhà, sau này huynh đệ đồng môn nhắc tới thì thật là mất mặt. Nhưng đã biết rõ vợ chồng Thạch Thanh hiện ở thành Biện Lương, mà cứ đem bảo kiếm vào thành, thì thật là mạo hiểm. Hắn trầm ngâm một lúc mà chưa quyết định được.

Bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm, trên đường lớn có một đội quan binh đi tới. Trong đám này có bốn tên kiệu phu khiêng một cỗ kiệu lớn buông rèm xanh, đúng là quan phủ đến.

Cảnh Vạn Chung nghĩ bụng, ở Hầu Giám Tập vừa xảy ra án mạng, cường đạo giết người cướp của. Bọn mình bảy người tay cầm binh khí tụ tập ở đây, không khỏi làm cho người ta phải nghi ngờ. Giả tỉ có xích mích gì với quan phủ thì thật là phiền phức. Hắn liếc mắt nhìn mọi người rồi nói: “Đi thôi!”

Bảy người toan lánh đi cho mau, thì một tên sai nha đã lớn tiếng la: “Đứng lại! Quân cường đạo giết người kia đừng chạy nữa!” Cảnh Vạn Chung không thèm nói gì, vẫy tay cho đồng bọn đi mau. Bỗng lại nghe tiếng sai nha la lên: “Hung thủ giết người là Bạch Tự Tại, chính là lão bất tử chưởng môn của phái Tuyết Sơn. Lão Vô uy vô đức Bạch Tự Tại chỉ chuyên cướp của giết người, thật là tội phạm nguy hiểm.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe vậy thì vừa kinh hãi vừa tức giận. Sư phụ bọn chúng là Bạch Tự Tại, ngoại hiệu Uy Đức tiên sinh. Tên sai nha này dám gọi thẳng tên lão ra thì đã là bất kính, còn dám nói là Vô uy vô đức. Nghe soạt một tiếng, Vương Vạn Nhận rút trường kiếm ra khỏi vỏ, thét lớn: “Đồ cẩu quan vô lễ! Ta phải cắt lưỡi ngươi trước rồi sẽ nói chuyện sau.”

Cảnh Vạn Chung vội cản: “Vương sư đệ hãy khoan! Bọn quan nha làm gì biết được ngoại hiệu cùng tên húy sư phụ? Dĩ nhiên sau lưng chúng còn có người sai khiến.” Hắn liền băng mình tiến lên, chắp tay hỏi: “Không hiểu là vị trưởng quan nào giá lâm?”

Đột nhiên nghe véo một tiếng, từ trong kiệu bay ra một mũi ám khí, bắn trúng vào huyệt Phục Thố trên đùi Cảnh Vạn Chung. Ám khí này rất nhỏ bé, nhưng lực đạo cực kỳ mãnh liệt, chân Cảnh Vạn Chung tức thì mềm nhũn, ngã lăn ra. Nhưng tay hắn vẫn rút trường kiếm ra, vận kình phóng vào trong kiệu. Người hắn tuy té xuống đất, nhưng vẫn sử được chiêu Hạc Phi Cửu Thiên vừa độc địa vừa chuẩn xác. Nghe vù một tiếng, thanh kiếm xuyên qua rèm kiệu đâm vào, hiển nhiên đã trúng người vừa phóng ám khí.

Cảnh Vạn Chung cả mừng, nhưng thấy bốn tên kiệu phu vẫn khiêng kiệu chạy như bay. Bỗng thấy một chiếc roi ngựa từ trong kiệu tung ra, cuốn vào chân trái Vương Vạn Nhận, giật mạnh một cái. Người Vương Vạn Nhận bị hất tung lên, thanh Hắc Kiếm trong tay gã bị roi ngựa cuốn mất.

Hoa Vạn Tử la lên: “Có phải Thạch trang chúa đấy không?” Nàng rút thanh Bạch Kiếm ra khỏi vỏ, toan chém tới cái roi ngựa. Lại nghe véo một tiếng, từ trong kiệu lại bay ra một viên ám khí trúng vào cổ tay nàng. Hoa Vạn Tử cổ tay tê nhức, làm rơi thanh Bạch Kiếm xuống đất. Một gã sư huynh liền đưa chân ra đạp lên thanh kiếm. Đột nhiên trong kiệu lại bay ra một vật chụp lấy đầu gã này. Gã bỗng thấy trước mắt tối sầm lại, vội co chân nhảy lùi ra sau, đồng thời đưa tay lên kéo vật trên đầu ra liệng xuống đất, nhìn lại thì ra một cái mũ của quan binh. Cái roi ngựa lại từ trong kiệu vung ra, quấn lấy thanh Bạch Kiếm rồi giật vào trong kiệu.

Bọn Kha Vạn Quân hò hét đuổi theo. Ám khí trong kiệu lại bay ra không ngớt, bọn đệ tử Tuyết Sơn kẻ bị trúng mặt, người bị trúng lưng, không ai tránh thoát, tuy không trúng vào chỗ trọng yếu, nhưng cũng đau đớn vô cùng. Mọi người nhìn lại loại ám khí này thì không khỏi kinh hãi. Đây toàn là khuy áo bằng đồng, hiền nhiên vừa giật ở áo ra. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đoán chắc người trong kiệu là Thạch Thanh, không chừng lại là cả hai vợ chồng, nếu đuổi theo động thủ thì cũng chỉ thêm mất thể diện.

Kha Vạn Quân giận quá thét lên: “Cái ổ họ Thạch này, thằng nhỏ đã lưu manh vô sỉ, thằng lớn lại càng vô sỉ lưu manh. Hắn vừa gửi binh khí làm tin, chớp mắt đã cướp lại rồi.”

Vương Vạn Nhận cũng trỏ tay về phía sau kiệu, dậm chân thóa mạ: “Quân chó đẻ! Đồ đê tiện!”

Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Vụ này mà đồn đại ra ngoài thì chẳng lợi gì cho danh tiếng phái Tuyết Sơn chúng ta. Mọi người phải giữ mồm giữ miệng là hơn, quay về bẩm báo với sư phụ rồi sẽ tính.”

Chuyến đi này liên tiếp thất bại, lúc ở thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết thì tự cao tự đại võ công phái Tuyết Sơn thiên hạ vô địch, nào ngờ khi gặp chuyện thì đụng đâu cũng như bị trói hết tay chân. Hắn không nhịn nổi phải thở dài sườn sượt, mặt đầy vẻ ảm đạm.

Hồi 03: Ma Thiên Nhai

Cỗ kiệu kia đi thêm mấy dặm rồi rẽ vào một con đường nhỏ. Hễ bọn phu khuân kiệu đi thong thả lại một chút, là roi ngựa từ trong kiệu lại vung ra veo véo đập vào lưng hai tên đi trước. Hai tên phu kiệu đằng trước không dám chạy chậm, hai tên đằng sau cũng chỉ còn cách cố sống cố chết chạy theo, bọn quan sai ở phía sau cũng phải chạy theo. Thêm bốn năm dặm nữa, người trong kiệu bỗng lên tiếng: “Được rồi! Dừng lại đi!”

Bốn tên phu kiệu nghe câu này, chẳng khác gì được nhà vua ban lệnh đại xá. Chúng thở hồng hộc, hạ kiệu xuống. Rèm kiệu vừa vén lên, một lão già dắt một thằng nhóc ăn xin bước ra. Lão già này chính là Tạ Yên Khách, chủ nhân Huyền Thiết Lệnh.

Lão nhìn mấy tên sai nha lớn tiếng quát: “Các ngươi quay về bảo với lão cẩu quan, việc hôm nay không được đồn đãi lung tung. Nếu ta mà nghe bất cứ tin tức gì về vụ này, thì lập tức chặt hết đầu của bọn ngươi, lại còn lấy cả ấn tín của lão cẩu quan đó liệng xuống sông Hoàng Hà.”

Mấy tên sai nha vừa lạy vừa đáp: “Dạ! Dạ! Bọn tiểu nhân nhất định không dám nhiều chuyện, lão gia cứ yên tâm thủng thẳng mà đi.”

Tạ Yên Khách nói: “Kêu ta đi chậm ư? Muốn gọi quan binh đến tróc nã ta phải không?”

Bọn sai nha vội đáp: “Không dám, không dám! Vạn vạn lần không dám.”

Tạ Yên Khách lại hỏi: “Ta dặn bọn ngươi về nói gì với lão cẩu quan, bọn ngươi đã nhớ chưa?”

Bọn sai nha đáp ngay: “Bọn tiểu nhân đã thuộc lòng rồi. Bây giờ bọn tiểu nhân về trình quan là đã đến Hầu Giám Tập, chính mắt trông thấy lão già bán bánh tiêu cùng một tên giúp việc trong tiệm tạp hóa bị một người tên là Bạch Tự Tại giết chết. Hung thủ chính là chưởng môn phái Tuyết Sơn, ngoại hiệu là Uy Đức tiên sinh, nhưng thực ra là vô uy vô đức. Hung khí là thanh đơn đao hãy còn vết máu. Nhân chứng vật chứng đều đủ cả, chắc lão không còn chối vào đâu được nữa.” Bọn sai nha này đã bị lão Tạ Yên Khách đánh cho sợ đến vỡ mật, bịa ra những gì nhân chứng vật chứng là để nịnh nọt lão. Chuyện tìm một thanh đao để làm vật chứng, cũng chính là ngón nghề của bọn sai nha trong quan phủ.

Tạ Yên Khách cười khẩy, nói: “Nhưng lão họ Bạch kia lại sử kiếm chứ không dùng đao.”

Sai nha đáp ngay: “Dạ! Dạ! Hung thủ cầm một thanh kiếm thép đâm vào lưng lão bán bánh tiêu ở Hầu Giám Tập, mọi người đều trông thấy rõ ràng.”

Tạ Yên Khách cười thầm trong bụng, nghĩ thầm: “Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại muốn giết Ngô Đạo Thông mà phải dùng đến binh khí ư?” Lão không lý gì đến bọn sai nha nữa, tay trái dắt gã ăn xin, tay phải cầm đôi Hắc Bạch Song Kiếm của vợ chồng Thạch Thanh, thong thả bước đi, ra chiều đắc ý.

Thì ra từ lúc Tạ Yên Khách đem gã ăn xin đi, trong lòng vẫn nghi ngờ vợ chồng Thạch Thanh cùng bọn đệ tử phái Tuyết Sơn có mưu đồ bất lợi cho mình. Lão đi được mấy dặm thì điểm huyệt gã ăn xin, giấu vào một bụi cỏ rậm, rồi quay lại nghe trộm. Võ công Tạ Yên Khách so với vợ chồng Thạch Thanh còn cao thâm hơn nhiều, lão lén nấp sau một gốc cây mà Thạch Thanh và Mẫn Nhu cũng không phát giác ra, còn bọn Cảnh Vạn Chung thì chẳng nói làm gì. Tạ Yên Khách nghe rõ đầu đuôi, thấy hoàn toàn chẳng can dự gì đến mình. Lão thấy Thạch Thanh giao song kiếm cho Cảnh Vạn Chung, nảy ý đoạt lấy hai thanh kiếm này, liền quay lại bụi rậm giải khai huyệt đạo cho gã ăn xin, rồi dắt gã ra đi. Dọc đường lão gặp quan tri huyện dẫn sai nha đến điều tra vụ án mạng tại Hầu Giám Tập. Lão liền lôi quan huyện ra khỏi kiệu, uy hiếp bọn sai nha và bắt bọn kiệu phu khiêng lão cùng gã ăn xin đi đoạt song kiếm. Bọn Cảnh Vạn Chung không nhìn thấy mặt Tạ Yên Khách, dĩ nhiên phải cho rằng đây là thủ đoạn của vợ chồng Thạch Thanh.

Tạ Yên Khách dắt gã ăn xin đi tìm một nơi vắng vẻ. Lão ra đến bờ một con sông nhỏ thấy bốn bề vắng vẻ chẳng có một ai, liền buông tay gã ăn xin ra, cầm thanh Bạch Kiếm của Mẫn Nhu kề vào cổ gã, lớn tiếng quát hỏi: “Ai đã sai khiến ngươi? Nói dối nửa câu là ta giết ngay tức khắc.” Rồi lão vung thanh Bạch Kiếm lên, chém nhẹ vào một gốc cây nhỏ ở ven đường. Nghe soạt một tiếng, cái cây đứt thành hai khúc, nửa trên cả cành lẫn lá đều rớt xuống sông, theo dòng nước trôi đi.

Gã ăn xin sợ cuống quít, miệng nói lắp bắp: “Cháu… cháu… cái gì… sai khiến…”

Tạ Yên Khách lấy tấm Huyền Thiết Lệnh ra, lớn tiếng hỏi: “Ai giao cho ngươi cái này?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu… cháu… ăn bánh tiêu… lòi ra…”

Tạ Yên Khách cả giận, xoay tay trái lại toan tát vào miệng gã. Nhưng tay lão vừa sắp chạm tới mặt gã, thì đột nhiên nhớ tới lời thề độc ngày trước, là quyết không gia hại người nào đã giao tấm Huyền Thiết Lệnh cho mình. Lão vội ngừng tay, lại quát hỏi: “Ngươi chỉ ăn nói hồ đồ. Làm sao mà ăn bánh lại lòi miếng sắt ra được? Ta hỏi ngươi, ai đã giao cho ngươi cái này?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu lượm cái bánh tiêu ở dưới đất lên cắn ăn. Suýt nữa… cháu cắn phải nó… suýt gãy cả hàm răng.”

Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Không chừng Ngô Đạo Thông đem lệnh bài này nhét vào trong tấm bánh tiêu.” Nhưng lão lại nghĩ: “Sao lại có chuyện quái dị đến thế? Thằng cha Ngô Đạo Thông nắm được tấm lệnh bài này, phải quý hơn cả tính mạng mới đúng, có lý đâu lại nhét vào trong tấm bánh?” Lão không biết lúc đó tình trạng khẩn cấp, người ngựa Kim Đao Trại đột ngột kéo đến vây kín cả bốn phương tám hướng Hầu Giám Tập, Ngô Đạo Thông cuống quít không còn đủ thì giờ để giấu cho cẩn thận. Lúc cấp bách lão bèn dùng kỳ mưu, nhét vội Huyền Thiết Lệnh vào trong cái bánh tiêu, rồi trao thẳng vào tay tên đầu lĩnh của Kim Đao Trại. Tên này trong lúc thịnh nộ, vứt luôn xuống rãnh nước bẩn dọc đường. Bọn cường đạo Kim Đao Trại tuy đã nghiêng cả trời xuống, lật cả đất lên mà lục lọi lung tung trong tiệm bánh tiêu, nhưng quên không nhặt mấy cái bánh tiêu bẩn thỉu vương vãi dưới đất lên mà xé ra xem.

Tạ Yên Khách quắc mắt lên nhìn gã ăn xin, lớn tiếng quát: “Tên họ ngươi là gì?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu… cháu tên là Cẩu Tạp Chủng.”

Tạ Yên Khách rất lấy làm kỳ, hỏi: “Sao? Tên ngươi là Cẩu Tạp Chủng ư?”

Gã ăn xin đáp: “Đúng đấy! Mẹ cháu vẫn kêu cháu là Cẩu Tạp Chủng.”

Trung bình một năm Tạ Yên Khách chỉ cười mấy tiếng, thế mà bây giờ không nhịn được phải cười ha hả. Lão nghĩ bụng: “Trên đời lắm người mê tín thường đặt những cái tên xấu xí cho con nít mới sinh, mong nó không bị ma quỷ quấy nhiễu, cũng chẳng có chi là lạ. Những cái tên chó, tên mèo mình thường nghe thấy luôn. Nhưng thằng nhỏ này tên là Chó Lộn Giống đã ít thấy, lại là tên do chính mẫu thân đặt cho mới thật là kỳ lạ.”

Tạ Yên Khách cười ngặt nghẹo. Gã ăn xin thấy lão cười rộ, cũng cười hì hì. Tạ Yên Khách hết cười rồi lại hỏi: “Vậy gia gia ngươi tên họ là gì?”

Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Gia gia cháu ư? Cháu… làm gì có gia gia?…”

Tạ Yên Khách lại hỏi: “Trong nhà ngươi có những ai?”

Gã ăn xin đáp: “Chỉ có cháu, má cháu và A Hoàng.”

Tạ Yên Khách hỏi: “A Hoàng là người thế nào?” Gã ăn xin đáp: “A Hoàng là một con chó vàng. Má cháu đi rồi không thấy về, cháu đi tìm má, A Hoàng cũng đi theo. Sau chắc nó đói quá, đi kiếm cái gì ăn rồi mất hút. Cháu tìm tới tìm lui mãi mà vẫn không thấy.”

Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Thì ra đây chỉ là một thằng ngốc. Huyền Thiết Lệnh lọt vào tay nó thì thật là may mắn. Ta kêu nó xin ta một việc gì nhỏ để hoàn thành lời thề, thế là xong xuôi.”

Lão bèn hỏi: “Ngươi muốn yêu cầu ta…” Còn hai chữ “điều gì”, lão chưa nói ra miệng thì vội nuốt lại, chợt nghĩ: “Nếu thằng ngốc này lại bắt mình tìm má nó, thậm chí tìm con A Hoàng cho nó thì biết đâu mà tìm kiếm. Má má nó chắc là đã đi theo thằng cha nào rồi, còn con A Hoàng cũng bị người ta giết ăn thịt rồi chưa biết chừng. Mình tội gì mà rước lấy cái khó nhọc vào thân? Chẳng thà nó bảo mình đi hạ sát chín mười tay cao thủ võ lâm còn dễ hơn là đi kiếm má má nó hay con A Hoàng.”

Tạ Yên Khách trầm ngâm một lúc, sực nghĩ ra một kế, liền nói: “Hay lắm! Ta nói cho ngươi biết, bất luận là ai tra hỏi ngươi với ta đã nói chuyện gì, thì ngươi cũng không được kể lại. Nếu không, ta sẽ lập tức chặt cái đầu ngươi rụng xuống. Ngươi đã biết chưa?” Dĩ nhiên vụ gã ăn xin giao tấm Huyền Thiết Lệnh lại cho Tạ Yên Khách chẳng bao lâu sẽ đồn đại khắp võ lâm. Lão chỉ sợ có người xúi giục gã ăn xin cầu khẩn lão một việc nan giải mà lão không thể khước từ được, vì đã có lời thề ngày trước.

Gã ăn xin gật đầu đáp: “Xin vâng!”

Tạ Yên Khách vẫn chưa yên lòng, lại hỏi: “Ngươi đã nhớ chưa? Là việc gì?”

Gã ăn xin đáp ngay: “Ông dặn, nếu có ai hỏi cháu đã nói chuyện với ông những gì, cháu cũng không được mở miệng. Cháu chỉ nói một câu là ông chém đầu lập tức.”

Tạ Yên Khách nói: “Không sai! Thằng ngốc này cũng không đến nỗi ngu ngốc quá, trí nhớ cũng tốt. Nếu ngươi quả là đứa si ngốc thì khó mà nhớ được. Bây giờ ngươi hãy theo ta!”

Nói xong, lão dắt nó rời khỏi nơi hẻo lánh trở lại đường quan lộ. Hai người đi chẳng mấy chốc thì đến một quán bán bánh bên đường. Tạ Yên Khách mua hai tấm bánh bao rồi há miệng ra cắn ăn, tỏ vẻ ngon lành. Đồng thời lão liếc mắt nhìn gã ăn xin thử xem gã có mở miệng xin mình cho ăn không? Tạ Yên Khách vừa ăn vừa khen ngon luôn miệng. Một tay lão cầm bánh ăn, còn tay nữa lão với lấy thêm một tấm bánh bò thứ hai đưa qua đưa lại trước mặt gã ăn xin, nghĩ thầm trong bụng: “Thằng lỏi này đi ăn xin đã quen rồi. Nó thấy mình ăn bánh bao, có lý đâu lại không thèm đến chảy nước miếng? Chỉ cần nó mở miệng xin, mình đưa tấm bánh này cho nó là đã giữ trọn lời thề với tấm Huyền Thiết Lệnh, từ đây tiêu dao tự tại, không còn phải băn khoăn về vụ này nữa.” Lão nghĩ đến chuyện trọng đại là thu tấm Huyền Thiết Lệnh về, mà chỉ mất một tấm bánh bao để giải quyết thì có vẻ không nghiêm chỉnh, nhưng lại nghĩ đối với một gã ăn xin thì chỉ một cái bánh tiêu hay bánh bao gì đó là đủ rồi.

Nào ngờ gã ăn xin vừa nhìn tấm bánh bao vừa nuốt nước miếng không ngớt, nhưng mãi vẫn không mở miệng xin ăn. Tạ Yên Khách trong lòng nóng nảy, ăn hết một cái bánh bao rồi lại cầm cái thứ hai đưa lên miệng, còn toan thò tay vào nồi hấp lấy thêm. Gã ăn xin bỗng quay vào bảo chủ quán: “Cháu cũng ăn hai cái.” Rồi gã tự thò tay vào nồi hấp mà lấy.

Chủ quán đưa mắt nhìn Tạ Yên Khách, xem lão có cho thằng nhỏ ăn không. Tạ Yên Khách mừng thầm trong bụng, gật đầu một cái. Trong lòng lão nghĩ: “Thử xem lát nữa chủ quán tính tiền, ngươi có phải xin ta không.”

Gã ăn xin ăn xong cái này lại lấy cái khác, ăn hết thảy bốn cái bánh bao mới nói: “Cháu no rồi, không ăn nữa.”

Tạ Yên Khách ăn hết hai cái bánh rồi thôi, quay lại hỏi chủ quán: “Bao nhiêu tiền?”

Chủ quán đáp: “Hai đồng một cái. Cả thảy sáu cái, cộng là mười hai đồng.”

Tạ Yên Khách đáp: “Không được. Phần ai ăn người nấy trả tiền. Ta ăn hai tấm, vậy ta trả bốn đồng là đủ.”

Lão thò tay vào bọc toan móc tiền ra trả, nhưng sờ đi sờ lại mà chẳng còn một đồng nào. Thì ra hôm qua lão vào thành Biện Lương uống rượu, đã xài hết bạc vụn rồi. Trong mình lão có mang nhiều vàng lá, nhưng lúc ở Biện Lương lại quên chưa đổi ra tiền lẻ. Cái quán nhỏ xíu bên lề đường này thì lấy đâu ra tiền để đổi vàng? Trong lúc Tạ Yên Khách chưa biết giải quyết cách nào, thì gã ăn xin đã móc trong bọc ra một thỏi bạc, đưa cho chủ quán nói: “Tất cả mười hai đồng, để cháu trả cho.”

Tạ Yên Khách chưng hửng hỏi: “Sao? Ngươi lại trả tiền cho ta ư?”

Gã ăn xin cười đáp: “Ông không có tiền mà cháu có, cháu mời ông ăn mấy cái bánh bao phỏng có chi đáng kể?” Chủ quán cũng lấy làm kinh ngạc, lấy mấy miếng bạc vụn và mấy xâu tiền đồng thối lại. Gã ăn xin thu tiền cất vào bọc, rồi nhìn Tạ Yên Khách xem lão sai bảo gì.

Tạ Yên Khách bất giác nở một nụ cười chua chát, nghĩ thầm: “Tạ mỗ cố chấp thành tính, trước nay dù là một miếng cơm, một ly nước cũng chẳng chịu ơn ai, không ngờ hôm nay lại để một gã ăn xin mời ăn hai cái bánh bao.” Lão bèn hỏi: “Sao ngươi biết ta không có tiền?”

Gã ăn xin cười đáp: “Mỗi khi cháu vào chợ, thấy ai thò tay vào túi định lấy tiền trả, mà móc cả nửa ngày vẫn không ra, sắc mặt biến đổi kỳ dị, thì dĩ nhiên người đó không có tiền. Cháu còn nghe người ta nói, những người không có tiền mà muốn ăn quịt của người ta đều giống như thế cả.”

Tạ Yên Khách không nhịn nổi phải cười khổ, nghĩ thầm: “Chắc ngươi cũng tưởng là ta tính chuyện ăn quịt.” Nhưng lão chỉ hỏi: “Đĩnh bạc đó ngươi ăn cắp được ở đâu?”

Gã ăn xin đáp: “Sao lại ăn cắp? Vừa rồi một vị thái thái giống Quan Âm áo trắng đã cho cháu.”

Tạ Yên Khách hỏi lại: “Ai mà ngươi lại nói là giống Quan Âm áo trắng?” Nhưng rồi lão hiểu ngay đó chính là Mẫn Nhu, liền lẩm bẩm: “Con mụ ấy lại làm hư chuyện của mình rồi.”

Hai người sóng vai mà đi, chừng vài chục trượng thì Tạ Yên Khách lại cầm thanh Bạch Kiếm của Mẫn Nhu giơ lên nói: “Thanh kiếm này sắc lắm. Vừa rồi ta chỉ khẽ cắt một nhát đã chặt được cái cây làm hai đoạn, ngươi cũng nhìn thấy đó. Ngươi có thích không? Nếu ngươi thích thì chỉ cần mở miệng xin ta một câu là ta cho ngay.”

Thực ra Tạ Yên Khách chẳng muốn phiền hà thêm với gã ăn xin dơ bẩn này. Lão chỉ mong cho gã mở miệng xin một điều gì, cho lão được hoàn thành tâm nguyện. Không ngờ gã ăn xin lại lắc đầu đáp: “Cháu không lấy đâu. Thanh kiếm này là của vị Quan Âm thái thái đó. Thái thái đó là người tốt, cháu không muốn lấy đồ vật của bà.”

Tạ Yên Khách lại rút thanh Hắc Kiếm ra, vung lên chém đứt một gốc cây khá lớn rồi nói: “Được lắm! Vậy ngươi có xin thanh Hắc Kiếm này không?”

Gã ăn xin lại lắc đầu đáp: “Thanh Hắc Kiếm này là của vị tướng công mặc áo đen. Tướng công cùng đi một đường với Quan Âm thái thái, cháu cũng không lấy đồ của tướng công đâu.”

Tạ Yên Khách hắng giọng một tiếng rồi nói: “Cẩu Tạp Chủng! Ngươi cũng có nghĩa khí lắm nhỉ!”

Gã ăn xin không hiểu, hỏi lại: “Nghĩa khí là cái gì?”

Tạ Yên Khách lại hắng giọng một tiếng, nghĩ thầm: “Ngươi đã chẳng hiểu chuyện này thì có nói cũng như không.”

Gã ăn xin lại nói: “Thì ra ông không muốn nói đến nghĩa khí. Ông… ông không thích nghĩa khí phải không?”

Tạ Yên Khách giận xanh mặt, vung chưởng lên toan đập xuống đỉnh đầu gã ăn xin. Nhưng lão thấy vẻ mặt nó rất ngây thơ, liền thu tay về nghĩ thầm: “Ta đã thề không đụng tới nó dù chỉ một ngón tay, huống hồ nó chẳng biết nghĩa khí là gì, đương nhiên không cố ý mỉa mai mình.” Lão hỏi lại: “Sao ngươi bảo ta không thích chuyện nghĩa khí? Ta thích nghĩa khí lắm chứ!”

Gã ăn xin lại hỏi: “Nói đến nghĩa khí thì có tốt không ông?”

Tạ Yên Khách đáp: “Có nghĩa khí là hay lắm. Nói chuyện nghĩa khí hiển nhiên là việc tốt.”

Gã ăn xin lại nói: “Cháu biết rồi! Ai làm việc tốt là hảo nhân, ai làm việc không tốt là ác nhân. Ông lúc nào cũng làm việc tốt, nhất định phải là người rất tốt.”

Giả tỉ ai khác nói câu này thì Tạ Yên Khách sẽ coi là lời châm biếm, vung chưởng đánh chết lập tức. Suốt đời lão chưa nghe ai khen mình là người tốt, tuy đôi khi cũng làm mấy chuyện tốt nhưng chỉ là do hứng thú mà thôi, so với những chuyện không tốt của lão đã làm thì thật chẳng đáng gì. Tạ Yên Khách thấy gã ăn xin nói rất chân thành, cũng không biết mình nên cười hay nên khóc. Lão nghĩ bụng: “Thằng lỏi này ăn nói điên điên khùng khùng, đã bảo mình không thích chuyện nghĩa khí, lại bảo mình là người rất tốt. Giả tỉ chuyện này mà lọt vào tai địch thủ của mình, thì thật là thành chuyện cả võ lâm đàm tiếu, Tạ mỗ chẳng biết phải giấu mặt vào đâu nữa. Bây giờ ta phải mau mau kết thúc vụ này, nhất định không chuốc thêm họa vào thân.”

Gã ăn xin đã không muốn lấy Hắc Bạch Song Kiếm, Tạ Yên Khách liền lấy một tấm vải xanh gói đôi kiếm lại, đeo vào sau lưng. Lão tự hỏi: “Không hiểu mình phải dụ nó yêu cầu mình chuyện gì đây?” Lão còn đang ngẫm nghĩ, chợt trông qua bên đường thấy có ba cây táo lớn, đầy quả chín đỏ, liền trỏ vào cây táo nói: “Mấy trái táo kia ngon quá!”

Lão thấy mấy cây táo rất cao, chỉ mong gã ăn xin nhờ mình hái giúp cho, thì đó cũng là một yêu cầu. Không ngờ gã ăn xin chẳng những không nhờ lão hái cho, lại còn hỏi: “Đại hảo nhân! Ông thích ăn táo phải không?”

Tạ Yên Khách ngạc nhiên hỏi lại: “Đại hảo nhân cái gì?”

Gã ăn xin đáp: “Ông là người rất tốt, nên cháu gọi ông là đại hảo nhân.”

Tạ Yên Khách trầm mặt xuống hỏi: “Ai nói ta là người tốt?”

Gã ăn xin liền đáp: “Ông đã không phải là người tốt thì tất nhiên phải là người xấu. Vậy để cháu gọi ông là đại hoại nhân.”

Tạ Yên Khách đáp: “Ta cũng không phải là người xấu.”

Gã ăn xin hỏi: “Thế thì kỳ thật. Ông đã không phải là người tốt mà cũng không phải là người xấu… À, đúng rồi, ông không phải là người.”

Tạ Yên Khách phẫn nộ quát lên: “Ngươi nói gì?”

Gã ăn xin đáp: “Bản lãnh ông rất giỏi, ông có phải là thần tiên không?”

Tạ Yên Khách lại quát: “Không phải!”, nhưng thanh âm cũng bớt phần nghiêm khắc. Rồi lão lại mắng: “Ăn nói bậy bạ!”

Gã ăn xin lắc lắc đầu, lẩm nhẩm trong miệng: “Thế này cũng không phải, thế kia cũng không phải, thế là thế nào?” Rồi đột nhiên nó chạy lại gốc táo, nhảy lên ôm lấy thân cây, đạp đạp hai chân trèo lên thoăn thoắt.

Tạ Yên Khách thấy nó tuy không hiểu võ công, nhưng chân tay rất linh hoạt. Nó lựa những trái táo lớn nhất, hái nhét vào trong áo, chỉ khoảnh khắc là bụng nó đã phình lên như cái trống. Nó liền tuột xuống, vốc một nắm đưa cho Tạ Yên Khách rồi nói: “Ông ăn táo đi! Ông không phải người, cũng không phải ma quỷ, chẳng lẽ lại là bồ tát? Nhưng cháu thấy cũng không giống.”

Tạ Yên Khách không lý gì đến nó, cầm mấy trái táo bỏ vào miệng ăn. Táo này ăn vừa ngọt vừa mát, thật là thượng phẩm. Lão nghĩ thầm: “Té ra nó chưa yêu cầu mình điều gì mà mình đã phải yêu cầu nó.” Lão động tâm, lại hỏi: “Ngươi muốn biết ta là ai phải không? Chỉ hỏi ta một tiếng là được. Ngươi chỉ cần nói: Xin ông nói cho cháu biết ông là ai, có phải thần tiên hay bồ tát không? Ta sẽ trả lời ngươi.”

Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Cháu không cầu xin ai hết.”

Tạ Yên Khách giật mình vội hỏi: “Sao ngươi lại không cầu xin ai?”

Gã ăn xin đáp “Má má cháu thường bảo rằng: “Cẩu Tạp Chủng! Suốt đời ngươi đừng đi cầu xin ai cái gì hết. Khi người ta muốn cho ngươi cái gì, thì chẳng xin họ cũng cho. Nếu người ta không chịu cho, thì dù ngươi có cầu xin khổ sở cũng chỉ vô ích, lại còn bị ghét cay ghét đắng nữa.” Một hôm cháu thấy má má đang ăn cái gì ngon lành lắm, bèn mở miệng xin. Má má cháu đã không cho mà còn đánh cho một trận, vừa đánh vừa mắng: “Cẩu Tạp Chủng! Ngươi cầu xin ta làm gì? Sao không đi cầu xin cái con tiểu tiện nhân vừa xinh xắn vừa yểu điệu kia?” Từ đó cháu nhất quyết không cầu xin ai bất cứ một chuyện gì.”

Tạ Yên Khách hỏi: “Con tiểu tiện nhân xinh xắn đó là ai?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu cũng không biết.”

Tạ Yên Khách vừa thất vọng vừa ngạc nhiên. Lão nghĩ thầm: “Thằng lỏi này đã nhất định không cầu xin cái gì, thì ta biết làm thế nào để hoàn thành tâm nguyện được? Mẫu thân gã này không chừng là một mụ điên. Khi nào con xin ăn mà mẹ đánh đòn bao giờ, lại còn mắng “tiểu tiện nhân xinh xắn yểu điệu” gì gì đó. Chắc là chồng của mụ có mới nới cũ, ruồng bỏ mụ nên mụ mới đem lòng phẫn nộ mà trút lên đầu con. Bọn đàn bà nhà quê đa số đều ngu dốt.” Lão lại hỏi: “Ngươi là một đứa ăn xin, chẳng lẽ lại không xin tiền xin cơm của người ta hay sao?”

Gã ăn xin vẫn lắc đầu đáp: “Cháu chẳng xin bao giờ. Người ta đưa cho cái gì thì cháu cầm lấy. Có lúc người ta không cho, nhưng lúc họ xoay mình đi không để ý là cháu lấy luôn rồi chạy trốn.”

Tạ Yên Khách cười khẩy: “Nếu vậy thì ngươi không phải là một đứa ăn xin, mà là một thằng ăn cắp.”

Gã ăn xin lại hỏi: “Thằng ăn cắp là như thế nào?”

Tạ Yên Khách hỏi lại: “Ngươi không hiểu ư? Hay là ngươi giả ngốc?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu không hiểu nên mới hỏi ông, sao ông lại bảo là cháu giả ngốc? Giả ngốc là như thế nào?”

Tạ Yên Khách chăm chú nhìn gã ăn xin, thấy mặt gã lem luốc đầy bùn đất, nhưng cặp mắt đen lay láy, chẳng có vẻ gì ngu xuẩn. Lão liền nói: “Ngươi chẳng phải là đứa con nít lên ba, ít ra cũng được mười mấy tuổi rồi mà sao chẳng hiểu một cái gì cả?”

Gã ăn xin đáp: “Má má cháu không ưa nói chuyện với cháu, còn nói hễ thấy mặt cháu là phát ghét lên rồi. Nhiều khi cả chín mười ngày, má má cứ mặc kệ cháu, chẳng nhìn gì đến, chẳng nói câu nào. Cháu chỉ thích nói chuyện với A Hoàng. Nó chỉ biết nghe chứ không biết nói, chẳng bao giờ nó bảo cháu là tiểu tặc hay giả ngốc chi hết.”

Tạ Yên Khách thấy ánh mắt gã ăn xin không có vẻ gì là lừa gạt hay xảo trá, bèn nghĩ bụng: “Xem chừng thằng lỏi này không cố ý nói bóng gió để chửi xéo mình.” Lão lại hỏi: “Thế ngươi không nói chuyện với hàng xóm hay sao?”

Gã ăn xin lại hỏi: “Hàng xóm là gì hả ông?”

Tạ Yên Khách chán ngán đáp: “Hàng xóm là những người ở gần nhà mình.”

Gã ăn xin nói: “Gần nhà cháu ư? Gần nhà cháu chỉ có mười một cây tùng lớn. Trên cây có rất nhiều sóc, còn trong đồng cỏ thì có gà rừng, có thỏ rừng. Đó đều là hàng xóm của cháu ư? Bọn chúng chỉ biết kêu chiêm chiếp hay chí chóe chứ không biết nói.”

Tạ Yên Khách lại hỏi: “Ngươi đã lớn từng ấy rồi, chẳng lẽ chưa nói chuyện với ai ngoài má má hay sao?”

Gã ăn xin đáp: “Nhà cháu ở trên núi, cháu chẳng xuống núi bao giờ, nên ngoài má má cháu ra, cháu cũng không gặp ai để nói chuyện. Mấy hôm trước đây cháu không thấy má má đâu nữa, mới chạy từ trên núi xuống đi tìm, rồi con A Hoàng cũng chẳng thấy đâu nữa. Cháu gặp người nào cũng hỏi má cháu đâu, A Hoàng đâu, nhưng ai cũng nói là không biết. Như vậy có phải là nói chuyện không?”

Tạ Yên Khách bụng bảo dạ: “Té ra gã này ở chốn hoang sơn hẻo lánh, mẫu thân nó lại không nói năng gì với nó, chẳng trách nó không biết một tí gì cả.”

Tạ Yên Khách liền đáp: “Thế cũng kể là người ta đã nói chuyện với ngươi. Sao ngươi lại biết dùng tiền để mua bánh bao ăn?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu đã thấy người ta mua rồi. Bây giờ ông không có tiền mà cháu lại có tiền, ông muốn lấy phải không? Ông muốn lấy thì cháu cho ông.” Gã vừa nói vừa đưa tay vào bọc lấy mấy miếng bạc vụn đưa vào tay Tạ Yên Khách.

Tạ Yên Khách lắc đầu đáp: “Ta không lấy đâu.” Lão nghĩ thầm: “Thằng lỏi này lôi thôi lếch thếch, nhưng tính tình không phải hẹp hòi.” Lão càng nói chuyện lâu với nó càng thấy yên tâm, đã tin chắc nó không phải là một cái bẫy của kẻ khác bố trí hại mình nữa.

Gã ăn xin lại hỏi: “Ông vừa bảo cháu không phải là đứa ăn xin mà là thằng ăn cắp. Vậy cháu là đứa ăn xin hay thằng ăn cắp?”

Tạ Yên Khách mỉm cười đáp: “Người ta có bằng lòng cho ngươi tiền bạc hay thức ăn rồi ngươi mới lấy, thế là ăn xin. Còn nếu ngươi chưa biết người ta có cho hay không mà đã thò tay ra lấy, thì là ăn cắp.”

Gã ăn xin nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi nói: “Cháu chưa từng hỏi xin ai cái gì bao giờ, nhưng bất cứ người ta có chịu cho hay không, cháu cũng lấy ăn. Vậy thì cháu là thằng ăn cắp. Phải rồi! Ông là lão ăn cắp!”

Tạ Yên Khách giật mình hỏi: “Sao? Ngươi bảo ta là gì?”

Gã ăn xin hỏi lại: “Chẳng lẽ ông không phải là lão ăn cắp ư? Rõ ràng người ta không muốn cho ông hai thanh kiếm mà ông cứ cướp lấy. Ông lại không phải là thằng nhỏ, dĩ nhiên phải gọi là lão ăn cắp.”

Tạ Yên Khách không nổi giận, lại mỉm cười: “Mấy chữ thằng ăn cắp, lão ăn cắp đều dùng để mắng người ta. Ngươi không thể tùy tiện mắng ta như thế.”

Gã ăn xin hỏi lại: “Thế sao ông mắng cháu?”

Tạ Yên Khách đáp: “Được rồi! Ta không mắng ngươi nữa. Ngươi chẳng phải là đứa ăn xin, cũng không là thằng ăn cắp. Ta kêu ngươi là tiểu nhai nhi, ngươi kêu ta bằng lão bá bá.”

Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Cháu không phải là tiểu nhai nhi gì hết. Cháu chỉ là Cẩu Tạp Chủng thôi.”

Tạ Yên Khách nói: “Cái tên Cẩu Tạp Chủng khó nghe lắm. Má má ngươi gọi ngươi như vậy thì được, còn người ngoài không thể gọi ngươi như vậy. Ta không hiểu sao má má ngươi lại kỳ cục đến thế, gọi con mình bằng Cẩu Tạp Chủng.”

Gã ăn xin nói: “Cẩu Tạp Chủng thì có gì không tốt đâu? Con A Hoàng cũng là con chó, mà cháu đi với nó thấy thích thú lắm, cũng như đi với ông vậy. Có điều con A Hoàng không biết nói, chỉ sủa gâu gâu, còn ông thì nói được.” Gã vừa nói vừa đưa tay lên vuốt ve sau lưng Tạ Yên Khách mấy cái, ra chiều nhẹ nhàng tình cảm, chắc cũng như lúc vuốt ve con chó của gã.

Tạ Yên Khách liền vận nội lực lên lưng. Gã ăn xin vừa đụng vào người lão đã giật bắn người lên, tựa như sờ phải miếng than hồng. Gã vội buông tay ra, cảm thấy ruột gan nhộn nhạo cực kỳ khó chịu, tựa như muốn nôn ọe ra. Tạ Yên Khách cười nửa miệng, ngó gã ăn xin nghĩ thầm: “Ai bảo ngươi vô lễ với ta? Một vố này đủ cho ngươi biết thân chưa?”

Gã ăn xin vuốt ngực nói: “Lão bá bá! Người bá bá nóng quá, mau lại gốc cây kia nghỉ một lúc. Cháu đi lấy nước về cho bá bá uống. Lão bá bá có thấy chỗ nào khó chịu không? Người bá bá sốt quá, e rằng lâm trọng bệnh mất rồi.” Thanh âm của gã cực kỳ quan tâm thân thiết, lại đưa tay ra định dắt lão vào gốc cây ngồi nghỉ.

Tạ Yên Khách tuy hết sức cố chấp ngang tàng, nhưng thấy gã ăn xin đối đãi với mình chân thành như vậy, cũng không tiện vận nội lực đả thương gã nữa. Lão nói: “Ta vẫn mạnh khỏe như thường, có bệnh tật gì đâu? Ngươi xem, có phải ta đã hết sốt rồi không?” Rồi lão cầm lấy bàn tay nhỏ xíu của nó đặt lên trán mình.

Gã ăn xin sờ trán lão thấy mát rượi, lại càng hoang mang hơn, hốt hoảng la lên: “Úi chao! Nguy rồi! Lão bá bá chết đến nơi rồi!”

Tạ Yên Khách tức giận quát: “Ăn nói hồ đồ! Ta mà sắp chết ư?”

Gã ăn xin đáp: “Có một lần má má cháu mắc bệnh, cũng lúc nóng lúc lạnh như thế. Má má cháu kêu la rầm rĩ: “Ta sắp chết rồi! Ta sắp chết rồi! Đau đớn thế này thà chết đi còn hơn!” Quả nhiên lần đó má má cháu bệnh rất nặng, mấy lần chết hụt, phải nằm mấy tháng trời mới khỏi.”

Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Ta không chết đâu.” Gã ăn xin khẽ lắc đầu, ra vẻ không tin.

Hai người lại nhằm hướng Đông Nam đi một hồi nữa. Bây giờ đã vào giờ ngọ, mặt trời nóng như thiêu như đốt. Gã ăn xin đột nhiên chạy vào bên đường hái bảy tám chiếc lá cây lớn. Tạ Yên Khách thấy vậy thì cho là nó còn tính con nít ham chơi, cũng không hỏi gì đến. Ngờ đâu gã ăn xin hái mấy lá cây đó để kết thành cái nón, đưa cho Tạ Yên Khách rồi nói: “Trời nắng nóng rất khó chịu. Bá bá đang bệnh, đội cái nón này lên cho đỡ nắng.”

Tạ Yên Khách bị gã ăn xin làm cho nửa giận nửa cười, nhưng cũng không nỡ từ chối tấm lòng tốt của nó, bèn cầm cái nón bằng lá cây đội lên đầu. Dưới nắng chói chang, đội cái nón như thế cũng thấy mát mẻ dễ chịu hẳn. Trước nay chỉ có người sợ lão, hận lão, chưa hề có ai quan tâm, tử tế với lão như thế, nên bất giác trong lòng lão cũng hơi thấy ấm áp.

Hai người đi chẳng mấy chốc lại tới một thị trấn nhỏ. Gã ăn xin nói: “Bá bá không có tiền, không chừng phen này sinh bệnh là vì bụng đói. Vậy bây giờ chúng ta hãy vào quán cơm ăn một bữa thật no.” Rồi nó kéo tay Tạ Yên Khách đi thẳng vào một quán cơm gần đó. Từ nhỏ tới lớn, gã ăn xin chưa từng vào quán cơm bao giờ. Nó cũng không hiểu cách gọi thức ăn, liền thò tay vào bọc moi hết bạc vụn cùng tiền đồng ra để trên bàn, rồi gọi tiểu nhị lại nói: “Cháu cùng lão bá bá này muốn ăn một bữa cơm có thịt có cá. Chú cầm lấy số tiền này.” Chỗ bạc đó có tới hơn ba lạng, đủ làm một bữa tiệc thịnh soạn.

Tiểu nhị cả mừng, liền dặn nhà bếp giết gà vịt, nấu cả thịt cá. Chẳng bao lâu, một mâm cơm đầy thức ăn bày ra. Tạ Yên Khách lại gọi hai cân rượu trắng. Gã ăn xin cũng thử uống một hớp rượu, nhưng nhổ ra ngay rồi kêu lên: “Cay quá, không ngon gì hết.” Rồi gã tự xới cơm gắp thịt mà ăn.

Tạ Yên Khách bụng bảo dạ: “Thằng nhỏ này ngây thơ không hiểu việc đời, nhưng được trời phú cho đức tính hào hiệp, mà cũng không đến nỗi ngu xuẩn. Giả tỉ nó được dạy dỗ đến nơi đến chốn, tất sẽ thành một hảo thủ võ lâm.” Nhưng rồi lão lại nghĩ: “Hỡi ơi, trên đời nhiều tên vong ơn phụ nghĩa lắm. Tư chất thằng súc sinh đồ đệ của mình cũng khá, trên đời ít gặp, nhưng đã hại ta thật chẳng thiếu chuyện gì. Sao ta còn định thu đồ đệ nữa làm gì?” Lão nghĩ tới tên đồ đệ cũ thì lửa giận lại bốc lên, im lặng ngồi gắp mấy miếng, uống sạch hai cân rượu trắng rồi bảo: “Đi thôi!”

Gã ăn xin hỏi: “Lão bá đã khỏe chưa?”

Tạ Yên Khách đáp: “Khỏe rồi!” Trong bụng lão nghĩ thầm: “Ngươi hết sạch tiền rồi, muốn ăn cơm nữa thì nhất định phải mở miệng xin ta. Ta phải tìm đến thị trấn lớn, đổi vàng lấy tiền rồi sẽ tính.”

Hai người rời thị trấn, đi về phía đông. Tạ Yên Khách bỗng hỏi: “Tiểu nhai nhi! Má má ngươi họ gì, đã nói với ngươi chưa?”

Gã ăn xin đáp: “Má má là má má, lại cần có họ hay sao?”

Tạ Yên Khách nói: “Dĩ nhiên là có chứ, người ta ai mà chẳng có họ tên?”

Gã ăn xin hỏi: “Thế cháu họ gì?”

Tạ Yên Khách đáp: “Chính ta cũng không biết. Cái tên Cẩu Tạp Chủng khó nghe lắm. Ngươi có muốn ta đặt cho một cái tên không?”

Giả tỉ gã ăn xin mở miệng xin lão đặt cho một cái tên, thì lão chỉ cần đặt bừa một cái là hoàn thành tâm nguyện.

Không ngờ gã ăn xin lại đáp: “Bá bá thích đặt tên cho cháu thì cũng được, nhưng sợ má má cháu không chịu. Má má cháu vẫn gọi cháu là Cẩu Tạp Chủng, cháu cũng quen rồi. Bây giờ cháu đổi tên chắc má má cháu không thích đâu. Mà cái tên Cẩu Tạp Chủng sao lại khó nghe?”

Tạ Yên Khách nhíu mày nghĩ thầm: “Tại sao ba chữ Cẩu Tạp Chủng lại khó nghe thì nhất thời mình cũng không biết giải thích thế nào cho nó hiểu được.”

Giữa lúc ấy, bỗng trong một khu rừng phía trước có tiếng khí giới chạm nhau chan chát. Tạ Yên Khách vừa nghe thấy, liền động tâm tự hỏi: “Ở đây sao lại có người đánh nhau? Hai người này thủ pháp rất mau lẹ, võ công nhất định không phải tầm thường.” Lão liền khẽ bảo gã ăn xin: “Chúng ta qua bên đó xem sao, nhưng tuyệt đối đừng có lên tiếng.”

Rồi lão đưa tay nắm lưng gã ăn xin xách lên, thi triển khinh công chạy về phía có tiếng động, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã đến sau một gốc cây lớn. Gã ăn xin tưởng như mình đi trên mây, thích thú vô cùng, muốn bật lên tiếng cười, nhưng lại nhớ lời Tạ Yên Khách dặn nên vội đưa tay lên bịt miệng.

* * *

Hai người nấp sau một gốc cây nhìn ra, thấy bốn người đang quần nhau thành cục diện ba người đánh một. Người bị bao vây là một lão già mặt đỏ, râu bạc chùng xuống đến ngực, tay không binh khí. Một thanh đơn đao rơi dưới đất cách đó một quãng, thân đao đã bị cong, hiển nhiên là bị người ta đánh rơi. Tạ Yên Khách nhận ra lão này là Đại Bi Lão Nhân ở đảo Bạch Kình, năm xưa đã từng thua mình một chiêu, võ công cũng rất khá.

Ba gã hợp công thì một gã thân hình cao lêu nghêu mà gầy khẳng gầy khiu, một đạo nhân mặt vàng ửng, còn gã nữa thì tướng mạo cực kỳ xấu xa quái dị. Trên má gã có hai vết sẹo rất lớn giao nhau thành hình chữ thập. Gã cao gầy sử thanh trường kiếm, đạo nhân sử liễn tử chùy, còn hán tử xấu xí thì sử một thanh quỷ đầu đao.

Tạ Yên Khách thấy lão già bị vây đánh đã thọ thương, máu đang nhỏ giọt xuống, nhưng song chưởng của lão vẫn đảo đi đảo lại phóng ra những chiêu cực kỳ dũng mãnh. Lão đang chạy quanh một gốc cây tránh tả né hữu, nhờ gốc cây lớn để cầm cự với ba người cầm khí giới. Tay trái lão xuất những chiêu cầm nã, còn tay phải lúc quyền lúc chưởng rất mau lẹ, vừa đây vừa kéo để dẫn dụ binh khí của ba người kia chạm vào nhau. Bản lãnh lão thật không phải tầm thường. Tạ Yên Khách đứng xa xa chỉ xem mấy chiêu đã nhận ra lão già kia lâm vào thế hạ phong, nghĩ thầm: “Hôm nay Đại Bi Lão Nhân lâm vào cảnh hổ xuống bình nguyên bị chó lờn, xem chừng khó mà thoát khỏi kiếp nạn.”

Ngọn liễn tử chùy thường xuyên uốn vòng qua thân cây để tập kích vào cạnh sườn Đại Bi Lão Nhân, lại còn tý lực của gã hán tử xấu xí mạnh mẽ kinh người, cây quỷ đầu đao phát ra những tiếng vù vù. Tạ Yên Khách ngấm ngầm kinh hãi: “Đã lâu mình không lăn lộn giang hồ, bây giờ mới biết võ lâm Trung Nguyên đã xuất hiện nhiều nhân vật lợi hại đến thế, lại không nhận ra chiêu số của ba tên này thuộc môn phái nào. Nếu bản lãnh chúng tầm thường thì Đại Bi Lão Nhân đâu đến nỗi phải hoang mang đến thế?”

Bỗng đạo nhân mặt vàng khàn khàn hét lên: “Bạch Kình đảo chúa! Bang Trường Lạc chúng ta với đảo chúa vốn không thù oán, Tư Đồ bang chúa lại ngưỡng mộ ông là nhân vật nổi danh, có hảo ý dùng lễ vật để mời ông nhập bang, thế mà ông lại đem lời nhục mạ. Bây giờ ông đầu hàng đi, ưng thuận gia nhập bổn bang thì chúng ta lập tức sẽ trở thành hảo huynh đệ, hảo bằng hữu, những việc đã qua nhất định không truy cứu. Như vậy há chẳng hay hơn ư? Chúng ta hợp lực với nhau để đối phó với Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo, cùng vượt qua kiếp nạn này lại không tốt hơn ư?”

Tạ Yên Khách vừa nghe câu cuối cùng của lão, trong lòng bỗng dưng chấn động. Chẳng lẽ Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo lại tái xuất giang hồ rồi ư?

Đại Bi lão nhân tức giận đáp: “Ta đường đường là đại trượng phu, có lý đâu lại hòa mình với bọn đê hèn vô liêm sỉ như các ngươi, chẳng thà nhận Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh này để chết ở Hiệp Khách Đảo còn hơn. Các ngươi muốn ta gia nhập vào tà phái, làm những việc đồi bại, thì không được đâu. Các ngươi đừng mơ tưởng hão huyền nữa!”

Đột nhiên lão vươn tay trái ra một chiêu cầm nã chụp xuống vai hán tử xấu xí. Tạ Yên Khách la thầm: “Chiêu Long Trảo Thủ thật là tuyệt diệu!” Chiêu này nhìn có vẻ chậm chạp, nhưng thật ra thần tốc phi thường. Gã hán tử xấu xí tuy thân pháp mau lẹ, cố tránh né ngay, nhưng vẫn chậm mất một chút. Gã cao kều thấy vậy giật mình kinh hãi, hoa trường kiếm lên nhằm đâm vào mắt Đại Bi Lão Nhân.

Bỗng nghe đánh roạc một tiếng, vai áo bên hữu gã hán tử xấu xí đã bị xé rách một mảng lớn, máu tươi chảy ra đầm đìa. Long Trảo Thủ của Đại Bi Lão Nhân đã móc đứt một miếng thịt ở vai gã. Ba người lại càng giận dữ, liên tiếp xuất chiêu tấn công tới tấp như gió táp mưa sa.

Tạ Yên Khách kinh ngạc nghĩ thầm: “Không hiểu Trường Lạc Bang là bang hội như thế nào mà có lắm cao thủ thế này? Mình chưa từng nghe thấy, thì chắc bang này cũng mới sáng lập. Còn Tư Đồ bang chúa là ai, chẳng lẽ chính là Đông bá thiên Tư Đồ Hành? Trong võ lâm cũng ít hảo thủ ở họ Tư Đồ, ngoài người này ra thì không còn ai nữa.”

Bốn người càng đánh càng ác liệt. Gã hán tử xấu xí gầm lên một tiếng điên cuồng, vung đao quét ngang. Đại Bi Lão Nhân né mình tránh khỏi, đồng thời phóng một quyền về phía đạo nhân mặt vàng. Nghe “phập” một tiếng, thanh quỷ đầu đao của hán tử xấu xí đã chém ngập vào thân cây. Gã vận sức cố giật ra, nhưng không được. Đại Bi Lão Nhân thừa cơ hội này, thúc khuỷu tay phải xuống lưng gã hán tử xấu xí.

Thì ra Đại Bi lão nhân đang bị ba cao thủ vây đánh, phải chống đỡ vất vả vô cùng, tự lượng sức mình khó lòng thoát nạn. Giữa lúc đánh nhau khốc liệt, thỉnh thoảng lão vẫn liếc mắt quan sát bốn phương tám hướng, thấy sau gốc cây lớn thấp thoáng có bóng người ẩn nấp. Lão tưởng đây cũng là địch nhân nên nghĩ thầm: “Trước mắt mới có ba tên mà mình chưa chắc đã chống chọi nổi. Nếu đối phương lại thêm cường viện, thì hậu quả thật khó lường.” Đại Bi lão nhân còn nhận ra trong ba địch nhân trước mặt thì gã hán tử xấu xí là võ công kém nhất, nên cách duy nhất để thoát thân là phải mạo hiểm trừ khử bớt một tên. Vì thế khi thúc khuỷu tay vào lưng hán tử xấu xí, lão đã vận đến chín phần công lực.

Nghe “binh” một tiếng, khuỷu tay Đại Bi Lão Nhân đã cắm trúng ngay giữa lưng hán tử xấu xí. Lão mừng thầm trong bụng, chuyển mình lẹ quanh gốc cây để tới bồi thêm một đòn nữa. Giữa lúc ấy đạo nhân từ phía sau lại vung đồng chùy đập tới.

Đại Bi Lão Nhân vung tay trái gạt quả chùy, đột nhiên thấy bạch quang lấp loáng trước mắt. Lão vội né sang bên trái để tránh. Không ngờ lão tuổi già lại giao đấu đã lâu nên tinh lực không được sung mãn như người trẻ tuổi, định lạng người đi ba thước mới tránh khỏi, nhưng mới lạng ra được bảy tấc thì đã nghe “sột” một tiếng. Mũi trường kiếm của gã cao kều đã đâm trúng vai bên tả Đại Bi Lão Nhân, ghim lão dính vào một cành cây.

Biến cố này thật quá đột ngột, thằng bé ăn xin trong lúc vô ý không nhịn nổi, la lên một tiếng kinh hãi. Từ lúc nó thấy ba người vây đánh một lão già, trong lòng đã thấy bất bình. Bây giờ nó thấy lão nhân bị kiềm chế thì vừa kinh hãi, vừa tức giận vô cùng.

Gã cao kều lạnh lùng hỏi: “Bạch Kình đảo chúa! Rượu mời không uống lại uống rượu phạt, bây giờ đã chịu đầu hàng Trường Lạc Bang chưa?”

Đại Bi Lão Nhân trợn mắt, tức giận hét lên: “Ngươi đã biết ta là Bạch Kình Đảo Chúa, chẳng lẽ trên Bạch Kình Đảo lại có những kẻ như nhược quỳ gối đầu hàng hay sao?” Lão dùng hết sức giãy giụa, quyết tâm chịu bỏ cánh tay trái để thoát khỏi thanh trường kiếm, liều mạng với gã cao kều.

Đạo nhân mặt vàng lại vẫy tay phải một cái, ngọn liễn tử trùy bay tới, sợi xích sắt quấn mấy vòng quanh thân người Đại Bi Lão Nhân, rồi đầu chùy lại đánh vào ngực lão một đòn rất nặng, nghe “bịch” một tiếng. Đại Bi Lão Nhân gào lên một tiếng rồi ngoẹo đầu đi, trong miệng phun máu tươi ra.

Gã ăn xin không nhẫn nại được nữa, nhảy xổ ra la lớn: “Trời ơi! Ba người xấu lại vây đánh một người tốt.”

Tạ Yên Khách nhíu mày nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này lại gây chuyện rắc rối rồi. Nhưng thế cũng hay, không chừng ba tên kia giết quách gã đi càng tốt. Dù mình thấy gã chết mà không cứu cũng chẳng phải là phản bội lời thề. Còn nếu thằng nhãi này mở miệng cầu cứu, thì ta giúp nó xử lý ba tên này là xong.”

Tạ Yên Khách còn đang ngẫm nghĩ thì gã ăn xin đã chạy đến gốc cây, đứng chặn trước mặt Đại Bi Lão Nhân la lên: “Các ngươi không được làm khó dễ lão bá này nữa.”

Từ nãy gã cao kều cũng đã nhận thấy sau gốc cây lớn thấp thoáng có bóng người ẩn núp. Bây giờ gã thấy thằng nhỏ từ sau gốc cây chạy ra, vừa nhìn đã biết ngay nó không hiểu võ công chi hết, mà dám cả gan xông vào chỗ đánh nhau, nhất định đã bị người nào sai khiến. Gã cao kều nghĩ thầm: “Ta phải dọa thằng tiểu quỷ này kinh sợ một phen, người đứng sau giật dây dĩ nhiên phải chường mặt ra.” Hắn bèn rút lấy cây quỷ đầu đao đang dính trên thân cây, hét lớn: “Thằng quỷ con kia! Ai đã sai ngươi ra can thiệp vào chuyện của lão già? Để ta giết ngươi trước rồi mới giết tới lão già này. Ngươi có cút đi ngay không?”

Gã vừa nói vừa vung thanh quỷ đầu đao lên, tựa hồ chém gã ăn xin đứt đôi ngay tức khắc. Gã ăn xin vẻ mặt thản nhiên đáp: “Lão bá đây là người tốt, các ngươi đều là người xấu. Ta nhất định phải giúp cho người tốt, ngươi định giết người thì ta không đi đâu.” Hiển nhiên là mẫu thân của nó cũng có lúc vui vẻ mà kể cho nghe một vài câu chuyện, trong chuyện kể bao giờ cũng có người tốt người xấu. Trong lòng của trẻ con bao giờ cũng hướng về điều thiện, thích người tốt, ghét người xấu. Nhân chi sơ tính bản thiện, đây là chuyện thiên kinh địa nghĩa.

Gã cao kều tức giận hỏi: “Ngươi có quen biết lão không mà bảo là người tốt?”

Gã ăn xin đáp: “Vừa rồi lão bá bảo các ngươi là bọn tà bang ác đảng gì đó, lão bá dù chết cũng không chịu nhập bọn với các ngươi. Thế thì dĩ nhiên các ngươi là hạng người xấu xa rồi.” Gã nói xong, quay mình lại toan tháo dây xích của liễn tử trùy xuống. Lão nhân mặt vàng bèn xoay tay tát bốp vào mặt gã ăn xin, khiến nó phải đầu váng mắt hoa. Má bên trái nó sưng vù lên, hằn rõ năm vết ngón tay.

Gã ăn xin thực sự không biết trời cao đất rộng gì cả. Hôm qua tại Hầu Giám Tập, lúc Ngô Đạo Thông bị bọn người Kim Đao Trại đến vây đánh, một là gã chưa biết Ngô Đạo Thông là người tốt hay người xấu, hai là mấy người đánh nhau trên nóc nhà, Ngô Đạo Thông vừa lăn xuống đã bị song câu của Lý Đại Nguyên đâm thủng bụng ngay, nếu không thì có thể nó cũng chạy ra can thiệp. Chuyện có nguy hại đến bản thân mình hay không, thì nó thật sự không tính đến.

Gã cao kều thấy tên ăn xin tính khí cương cường không biết sợ hãi là gì, trong lòng không khỏi ngờ vực tự hỏi: “Thằng tiểu quỷ này ỷ vào cái gì mà dám ngang nhiên lảm nhảm trước mặt bản hương chủ ở Trường Lạc Bang?” Gã bèn quay đầu liếc nhìn về phía sau gốc cây lớn đó, quả nhiên nhìn thấy một bóng người gầy ốm. Người này trông rất giống chủ nhân Huyền Thiết Lệnh, được giang hồ gọi là Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách, chẳng lẽ chính là ông ấy? Gã liền vung quỷ đầu đao lên, quát lớn: “Ta đếch cần biết lai lịch ngươi, cũng đếch cần biết sư trưởng cùng môn phái ngươi. Ngươi một mình đến đây phá đám thì ta cứ coi ngươi như một đứa ăn xin ngu ngốc, chẳng hiểu biết gì, có chém chết ngươi cũng chẳng sao.”

Nghe một tiếng “vù”, thanh đao đã chém thẳng đến cổ của thằng bé ăn xin. Không ngờ nó cũng khá cứng đầu cứng cổ, lại cũng không biết nguy hiểm là gì, hoàn toàn không nhúc nhích. Gã cao kều vung đao lên bổ xuống, còn cách vài tấc đỉnh đầu gã ăn xin vài tấc lại thu đao về, buột miệng khen: “Hảo tiểu tử! Gan mật ngươi cũng không nhỏ lắm!”

Đạo nhân mặt vàng tính nóng như lửa, lại vung tay phải lên đánh một chưởng. Chưởng này tát vào má bên phải thằng bé, so với cái tát lần trước còn nặng hơn nhiều. Gã ăn xin đau quá không nhịn được, khóc òa lên.

Gã cao kều nói: “Ngươi đã biết sợ đau mà khóc, thì mau mau rời khỏi nơi đây!”

Gã ăn xin vừa khóc vừa nói: “Các ngươi hãy bỏ đi trước, đừng làm khó dễ lão bá nữa, là ta nín ngay lập tức.” Gã cao kều không nín được, phải phì cười. Còn đạo nhân lại phóng cước đá gã ăn xin lăn xuống đất. Nó té mạnh đến nỗi mặt mày sưng húp lên, nhưng vẫn lồm cồm bò dậy, lại đứng trước mặt Đại Bi Lão Nhân để hộ vệ cho lão.

Đại Bi Lão Nhân bản tính có phần cổ quái nên trong đời lão rất ít bạn bè. Bây giờ lão thấy thằng bé này chưa từng quen biết, lại dám liều mạng để hộ vệ cho mình, nhất là nó chẳng biết chút võ công nào, trong lòng lão xiết bao cảm kích. Lão liền nói: “Tiểu huynh đệ! Ngươi liều mình với chúng thì chỉ uổng mạng mà thôi. Trình mỗ đã đến tuổi già xế bóng, dù nhắm mắt xuống suối vàng cũng không tiếc gì nữa.”

Gã ăn xin nghe không hiểu lắm, nhưng cũng biết lão giục mình tránh đi, liền lớn tiếng nói: “Lão bá là người tốt. Cháu quyết không để bọn người xấu này hại chết lão bá.”

Trong ba người kia thì gã cao kều là tinh minh hơn hết. Gã nghĩ: “Thằng nhỏ này thật là kỳ lạ. Mình chẳng hiểu người núp sau gốc cây kia có phải là Tạ Yên Khách hay không, nhưng cũng chẳng nên kết thêm cừu địch. Nhưng giả tỉ thằng lỏi con mới nói mấy câu mà mình đã rút lui, thì chẳng hóa ra Trường Lạc Bang của chúng ta khiếp nhược lắm ư?” Gã bèn giơ thanh quỷ đầu đao lên, bảo gã ăn xin: “Thằng nhãi kia! Bây giờ ta tỉ thí với ngươi. Ta chém liền ba mươi sáu đao, nếu ngươi vẫn đứng yên không nhúc nhích, thì coi như ta phục ngươi. Nếu ngươi sợ chết thì cút đi là hơn, đừng bướng bỉnh vô ích.”

Gã ăn xin đáp: “Ngươi chém liền ba mươi sáu đao thì ai mà không sợ?”

Gã cao kều nói: “Ngươi biết sợ là phải. Vậy ngươi mau mau tránh đi!”

Gã ăn xin nói: “Trong lòng ta tuy sợ, nhưng không chịu bỏ đi đâu.”

Gã cao kều giơ ngón tay cái lên khen: “Hay lắm! Ngươi có gan thì hãy xem lưỡi đao của ta đây!” Nghe vù một tiếng, thanh đao lạng qua đỉnh đầu gã ăn xin.

Tạ Yên Khách đứng sau gốc cây nhìn ra rất rõ ràng. Gã cao kều lướt đao qua hết sức nhẹ nhàng, chỉ vận sức ở cổ tay để ra chiêu, dùng kiếm pháp để sử đao. Tuy lão không biết chiêu thức đó tên là gì, nhưng gã này vung thanh quỷ đầu đao rất nặng mà coi nhẹ như không, thật không phải tầm thường.

Nhát đao này lướt qua sát đỉnh đầu gã ăn xin, hớt đứt một mảng tóc. Nhưng gã ăn xin đó lại rất cứng đầu cứng cổ, người gã vẫn đứng thẳng, hoàn toàn không nhúc nhích. Tiếp theo đao quang lấp lóe liên tiếp, tựa như con linh xà bò đi bò lại, thè lưỡi ra rồi lại rụt vào. Thanh đao quét tả chém hữu, nhát nào cũng gần sát đỉnh đầu gã ăn xin. Tóc gã bị lưỡi đao hớt rơi lả tả.

Gã cao nghêu chém đến đao thứ ba mươi hai thì hét lên một tiếng, quỷ đầu đao từ trên cao chém xuống. Nghe soạt một tiếng, tay áo bên phải của gã ăn xin bị đứt một miếng. Kế tiếp tay áo bên trái cũng mất một mảng. Tiếp theo là ống quần bên trái, ống quần bên phải chỉ trong nháy mắt đều bị cắt đứt. Gã cao kều thu đao về, chuôi đao tiện đà thích vào huyệt Đản Trung trước ngực Đại Bi Lão Nhân một cái thật mạnh. Đoạn gã cười ha hả nói: “Thằng nhãi này thật là hay, thật là giỏi.”

Tạ Yên Khách thấy gã cao kều dùng kiếm pháp để sử đao, ba mươi sáu chiêu liên miên không dứt mà không để lộ chút sơ hở nào thì không khỏi khen thầm. Đến lúc lão thấy hắn thu chiêu lại dùng chuôi đao điểm vào tử huyệt của Đại Bi Lão Nhân, thì không khỏi nghĩ thầm: “Tên này hạ thủ thật là ác độc!”

Đầu tóc bù xù của thằng bé ăn xin đã bị cạo qua ba mươi hai đao, biến thành trọc lóc chẳng khác gì đầu chú tiểu. Nó bị gã cao kều vung đao quét liền ba mươi mấy nhát mà không nhúc nhích, thì dĩ nhiên một phần là cố làm gan để bảo vệ sinh mạng cho Đại Bi Lão Nhân, còn một phần là sợ quá mà đứng ngây người ra. Có thể nói là không phải nó không thèm nhúc nhích, mà là không thể nhúc nhích được. Nó đợi gã cao kều thi triển xong ba mươi sáu đao mới sờ lên đầu mình, thấy còn nguyên chưa đứt thì thở phào một cái, hết sức nhẹ nhõm.

Đạo nhân mặt vàng cùng hán tử xấu xí thấy đao pháp của gã cao kều cực kỳ thần diệu, cùng lên tiếng khen ngợi: “Mễ hương chủ! Kiếm pháp của hương chủ thật là tuyệt diệu!”

Gã cao kều mỉm cười nói: “Vị tiểu bằng hữu này gan dạ hơn người, hôm nay chúng ta đành nhượng bộ một chút vậy. Đi thôi!”

Đạo nhân cùng hán tử xấu xí đều thấy Đại Bi Lão Nhân đã trúng một chuôi đao cực kỳ trầm trọng, chỉ còn thoi thóp thở, trong chốc lát là chết hẳn. Chúng liền rút lấy binh khí rồi rảo bước ra đi. Gã hán tử xấu xí đó chân bước loạng choạng, hình như bị thương cũng không phải nhẹ. Còn gã cao kều vung tay phóng ra một chưởng. Thanh trường kiếm đâm sâu vào cành cây hơn một thước bị chưởng lực của gã rung động làm bật ra ngoài, máu tươi trên vai Đại Bi Lão Nhân lập tức phun ra. Gã cao kều đưa tay ra đón lấy thanh kiếm, cười vang lên rồi bỏ đi, không nhìn đến Tạ Yên Khách đứng sau gốc cây lần nào nữa.

Tạ Yên Khách chau mày, nghĩ bụng: “Té ra gã cao kều này họ Mễ, là một hương chủ ở bang Trường Lạc. Gã thi triển mấy thủ pháp sau này hiển nhiên là muốn ta trông thấy. Kiếm pháp của gã tuy có mau lẹ hiểm độc, nhưng so với vợ chồng Thạch Thanh của Huyền Tố Trang thì nhiều chỗ không bằng. Chỉ bằng chút công phu này mà muốn ra oai trước mặt ta ư? Hà hà…” Theo tính khí bình thường của lão, gã họ Mễ này đã xuất hai chiêu để khoe khoang trước mặt, đáng lẽ phải tiến lên mà dạy cho gã một bài học, nếu đối phương có chút xíu gì bất kính thì phải giết luôn. Chỉ vì tâm nguyện của Huyền Thiết Lệnh còn chưa hoàn thành, thật sự lão không muốn lúc này lại rước thêm chuyện phiền hà, nên chỉ đứng xem một cách thản nhiên, không hề lộ diện.

Gã ăn xin quay lại hỏi Đại Bi lão nhân: “Lão bá! Lão bá để cháu buộc vết thương cho nhé.” Gã vừa nói vừa lượm mấy mảnh áo mà gã cao nghêu đã hớt đứt định buộc vết thương trên vai cho Đại Bi lão nhân.

Đại Bi lão nhân hai mắt nhắm nghiền, gắng gượng đáp: “Không… không cần nữa. Trong túi áo ta… có mấy cái tượng đất nhỏ… Ta… cho ngươi…” Lão nói xong, ngoẹo đầu ra mà chết, thân hình cao lớn từ từ tuột xuống gốc cây.

Gã ăn xin kinh hãi gọi luôn mấy tiếng: “Lão bá! Lão bá!…” Gã đưa tay ra định đỡ lão dậy, nhưng người Đại Bi Lão Nhân co rúm lại, không nhúc nhích được nữa.

Bây giờ Tạ Yên Khách mới ra khỏi gốc cây, đến bên gã ăn xin hỏi: “Trước khi chết ông ấy nói gì thế?”

Gã ăn xin đáp: “Lão bá nói là… trong túi có tượng đất gì đó, nói là cho cháu.”

Tạ Yên Khách nghĩ: “Đại Bi Lão Nhân là một quái kiệt trong võ lâm. Về võ học thì lão chẳng kém gì ta. Không chừng vật lão đem theo bên mình đó hết sức quan hệ.” Tuy lão nghĩ vậy, nhưng bản tính cao ngạo nên không thèm lấy, dù lão biết chắc trong mình Đại Bi Lão Nhân có vật kỳ bảo hiếm thấy trong đời thì cũng thế thôi. Lão bèn không nhìn đến, bỏ ra chỗ khác, rồi quay lại bảo gã ăn xin: “Lão đã cho ngươi, thì ngươi cứ lấy!”

Gã ăn xin hỏi lại: “Lão bá đã cho mà cháu lấy, thì có phải là thằng ăn cắp không?”

Tạ Yên Khách mỉm cười đáp: “Như thế không phải là thằng ăn cắp!”

Gã ăn xin bèn thò tay vào bọc Đại Bi Lão Nhân, lấy ra một cái hộp gỗ, mấy đỉnh bạc cùng bảy tám mũi ám khí. Ngoài ra còn có mấy phong thư, một bức họa, dường như là một tấm địa đồ. Tạ Yên Khách cũng tò mò muốn xem trong thư viết gì, và bức vẽ đó như thế nào. Nhưng lão lại nghĩ rằng, nếu mình mà động vào đó thì mất cả thể diện của một cao nhân trên chốn giang hồ, nên lại không động đậy.

Gã ăn xin mở cái hộp gỗ ra, trong đó nhét đầy bông gòn, lại có ba hàng tượng đồ chơi nặn bằng đất, mỗi hàng có sáu cái, tổng cộng là mười tám cái.

Thứ đồ chơi này rất tinh xảo, mỗi cái là tượng một người đàn ông trần truồng, bên ngoài sơn trắng và vẽ những vạch đỏ, lại còn vô số chấm đen, đều là phương vị của kinh mạch và huyệt đạo. Tạ Yên Khách vừa thấy là biết ngay những món đồ chơi này vẽ đồ phổ để luyện nội công thượng thặng, chắc là bí quyết về nội công của phái Bạch Kình. Hiển nhiên Đại Bi Lão Nhân đem lòng cảm kích thằng nhỏ liều mạng hộ vệ cho mình, dù chẳng thành công cũng là nghĩa cử của bậc anh hùng, nên tặng cho gã hết. Tạ Yên Khách nghĩ bụng: “Lão Đại Bi này lúc chết còn nói chuyện ân tình vớ vẩn. Giả tỉ lão chẳng cho, thì nó cũng sờ vào tử thi, có cái gì mà chẳng lấy chơi?”

Thằng bé ăn xin thấy nhiều tượng đất thì hết sức thích thú, lại nghĩ: “Không hiểu sao chúng không mặc áo quần chi hết. Nếu má má chịu may y phục cho chúng mặc thì thật là tuyệt diệu.”

Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Tuy Đại Bi lão nhân với mình có điều xích mích, nhưng dù sao lão cũng là một nhân vật lừng danh trong võ lâm, không nên để thi thể lộ ra nơi hoang dã.” Lão bèn cất tiếng hỏi: “Lão bằng hữu của ngươi chết rồi, ngươi không mai táng ông ấy ư?”

Gã ăn xin vội đáp: “Có chứ, có chứ! Không hiểu phải mai táng như thế nào?”

Tạ Yên Khách hững hờ đáp: “Nếu ngươi có sức thì đào một cái hố mà chôn xuống đất. Nếu ngươi không đủ sức thì dùng một cái xẻng xúc đá phủ lên người lão cho kín cũng được rồi.”

Gã ăn xin nói: “Ở đây chẳng có cuốc xẻng, không thể đào hố. Để cháu lấy đất đá cành cây phủ lên thi thể vậy.” Rồi nó đi bốc đất, khuân đá, thu lượm cành cây phủ lấp lên thi thể Đại Bi Lão Nhân. Nó tuổi nhỏ sức yếu, cực nhọc lắm mới lấp xong xác chết, mệt quá mồ hôi toát ra đầm đìa.

Tạ Yên Khách đứng một bên, không hề ra tay giúp đỡ. Lão đợi nó chật vật lấp xong xác chết rồi bảo: “Chúng ta đi thôi!”

Gã ăn xin hỏi: “Đi đâu bây giờ? Cháu mệt lắm rồi, không đi với lão bá nữa.”

Tạ Yên Khách hỏi: “Sao ngươi lại không đi với ta?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu còn phải đi kiếm má má và A Hoàng.”

Tạ Yên Khách băn khoăn nghĩ thầm: “Đến bây giờ thằng lỏi này vẫn chưa mở miệng xin mình một điều gì. Nếu nó không chịu đi theo mình nữa, thì thật là một điều nan giải, mình không thể dùng sức mà cưỡng bách nó đi theo được.” Lão tần ngần một lúc rồi lại nghĩ: “Ngày trước mình phát thệ, chỉ thề là không dùng cường lực để bức bách người trao Huyền Thiết Lệnh, không thề là không được lừa người. Bây giờ ta phải lừa gạt nó cho được việc.” Quyết định xong, lão nói: “Ngươi cứ đi với ta. Ta dẫn ngươi đi tìm má má và con A Hoàng.”

Gã ăn xin cả mừng đáp: “Hay lắm! Cháu đi theo lão bá. Bản lãnh lão bá rất cao, nhất định sẽ tìm thấy má má cùng A Hoàng.”

Tạ Yên Khách lại nghĩ: “Nói nhiều vô ích, may mà nó vẫn chưa mở miệng chính thức nhờ mình đi kiếm mẫu thân và con chó kia. Giả tỉ nó lên tiếng cầu xin thì mình thật là khó xử.” Lão vội nắm lấy tay thằng nhỏ rồi bảo: “Chúng ta đi lẹ lên!”

Gã ăn xin vừa “Vâng” một tiếng thì chợt thấy người mình được kéo đi như bay. Miệng gã không ngớt la lên: “Thích quá! Thích quá!” Thì ra Tạ Yên Khách đã thi triển khinh công, vận nội lực lôi gã đi rất nhanh. Gã ăn xin thấy gió thổi vào mặt mát lạnh, cây hai bên đường vèo vèo chạy lùi lại phía sau, bèn trầm trồ khen ngợi: “Lão bá giỏi quá! Lão bá dắt cháu chạy nhanh thế này thì ghê thực!”

* * *

Hai người chạy đến tối mịt, chẳng hiểu đã chạy được bao nhiêu đường đất. Đến một khu rừng núi âm u, Tạ Yên Khách mới buông tay.

Gã ăn xin cảm thấy cặp giò nhũn ra, người loạng choạng rồi ngồi phệt xuống đất. Nó vừa ngồi xuống thì hai chân đau đớn vô cùng, chỉ một lúc chân đã sưng lên đỏ ửng. Nó kinh hãi la lên: “Lão bá! Hai chân cháu bị sưng lên rồi!”

Tạ Yên Khách nói: “Nếu ngươi xin ta chữa cho, thì ta lập tức làm cho chân ngươi khỏi sưng và hết đau ngay.”

Gã ăn xin đáp: “Nếu lão bá chịu chữa cho cháu khỏi, thì đương nhiên cháu phải biết ơn lão bá rồi.”

Tạ Yên Khách chau mày hỏi: “Có thật là trước nay ngươi chưa chịu mở miệng cầu xin ai cái gì không?”

Gã ăn xin nói: “Nếu lão bá muốn chữa trị cho cháu thì hà tất cháu phải năn nỉ. Nếu lão bá không muốn thì cháu có cầu xin cũng vô ích.”

Tạ Yên Khách hỏi: “Sao lại vô ích?”

Gã ăn xin đáp: “Lão bá đã không muốn chữa, thì dù cháu có khóc lóc lão bá cũng không chữa, lại còn khó chịu hơn là khác.”

Tạ Yên Khách hắng giọng rồi nói: “Ta chẳng khó chịu chi hết. Thôi bây giờ ngủ lại đây đi.” Trong lòng lão nghĩ: “Thằng bé này đã không chịu mở miệng cầu xin người khác, mà gọi nó bằng gã ăn xin thì thật là không hợp lý.”

Thằng bé ngồi tựa vào một gốc cây. Tuy hai chân đau đớn, nhưng nó chạy nửa ngày đã mệt nhoài nên chẳng bao lâu là ngủ thiếp đi, quên cả đói khát. Tạ Yên Khách nhảy lên ngọn cây mà ngủ. Lão chỉ mong nửa đêm có thú dữ qua đây ăn thịt thằng bé để giải quyết chuyện rắc rối giúp lão. Ngờ đâu suốt đêm cả con thỏ dại cũng không thấy bò ra, đừng nói đến mãnh thú. Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Ta đành dắt nó lên Ma Thiên Nhai. Nếu nó mở miệng cầu xin ta một việc dễ dàng thì may mắn, bằng không thì ta sẽ tìm cách kết liễu tính mạng nó đi là xong. Một thằng lỏi con mà mình cũng không xử lý xong, thì còn xưng là Ma Thiên Cư Sĩ thế nào được?”

Sáng sớm hôm sau Tạ Yên Khách lại dắt tay thằng bé đưa đi. Nó mới đi được mấy bước thì chân tựa hồ có hàng ngàn mũi kim nhọn đâm vào, đau quá không nhịn được phải “úi chao” một tiếng. Tạ Yên Khách hỏi: “Ngươi làm sao vậy?”

Lão đã chắc mẩm là nó sẽ yêu cầu mình ngồi nghỉ, không ngờ nó lại đáp: “Không sao hết. Chân cháu chỉ hơi đau một chút. Chúng ta đi thôi!” Tạ Yên Khách không biết làm thế nào, tức quá lôi nó chạy như bay.

Tạ Yên Khách chân không ngừng bước, mỗi lúc đi qua thị trấn lại tiện tay lấy bánh lấy thịt trong hàng cơm, đem theo vừa đi vừa ăn. Lão đưa cho thằng bé cái gì thì nó ăn cái ấy, không cho thì thôi, nó không xin xỏ lần nào. Hai người chạy luôn mấy ngày như vậy, đến ngày thứ sáu thì tới một nơi toàn núi non hiểm trở. Thằng bé tuy không hiểu võ công, nhưng Tạ Yên Khách dắt tới đâu thì nó vẫn đi tới đó được. Trong lòng Tạ Yên Khách chỉ mong nó xin được nghỉ ngơi, nhưng nó mãi không mở miệng, về sau thì lão cũng không nhịn nổi, phải khâm phục tính khí ngang nhiên cứng cổ của nó.

Hai người lại đi thêm mấy ngày, đường núi ngày càng dựng đứng, thằng bé khó mà trèo lên được. Tạ Yên Khách đành cõng nó lên lưng, dù gặp vách núi dựng thẳng hay sườn đồi cheo leo, lão vẫn chạy lên một cách dễ dàng. Thằng bé thấy vậy kinh hãi vô cùng, tim đập loạn xạ. Nhiều chỗ nguy hiểm quá, nó phải nhắm mắt lại không dám nhìn đến.

Một hôm vào giờ Ngọ, Tạ Yên Khách trèo đến một vách núi dựng đứng, liền đưa tay ra nắm lấy một sợi dây sắt thòng từ trên đỉnh núi xuống để trèo lên. Đây là một ngọn núi trọc, sườn núi lại trơn tuột không có chỗ đặt chân. Nếu không có sợi dây sắt này, dù võ công Tạ Yên Khách có cao thâm hơn nữa cũng không thể trèo lên được. Lên đến đỉnh núi, Tạ Yên Khách đặt thằng bé xuống nói: “Đây là Ma Thiên Nhai. Ngoại hiệu của ta là Ma Thiên Cư Sĩ, chính là lấy tên ngọn núi này. Bây giờ ngươi ở đây với ta.”

Thằng bé đảo mắt nhìn bốn phía, thấy đỉnh núi này cũng khá rộng rãi, chung quanh toàn là mây. Nó thấy mình đứng giữa mây, bất giác trong lòng kinh hãi hỏi: “Lão bá nói là dẫn cháu đi kiếm má má cùng A Hoàng kia mà?”

Tạ Yên Khách lạnh lùng đáp: “Thiên hạ bao la rộng lớn như thế, ta biết đi đâu tìm cho thấy mẫu thân ngươi? Bây giờ chúng ta hãy chờ ở đây, không chừng có một ngày mẫu thân ngươi sẽ dẫn A Hoàng đến đây tìm ngươi cũng không biết chừng.”

Thằng bé tuy còn nhỏ tuổi chưa biết gì, nhưng cũng hiểu là Tạ Yên Khách lừa gạt nó, vì ngọn núi cực kỳ hiểm trở, hoang sơ hẻo lánh thế này thì má má biết đâu mà tìm đến, cũng chẳng trèo lên đây được. A Hoàng thì lại càng không thể. Nó đứng thộn mặt ra, không biết phải nói gì nữa.

Tạ Yên Khách nói: “Bao giờ ngươi muốn xuống núi thì xin ta một tiếng, ta sẽ lập tức đưa ngươi xuống!” Lão nghĩ: “Ta không cho ngươi cái gì mà ăn, bảo đảm ngươi không nhịn nổi. Để xem lúc ngươi đói rã họng thì có mở miệng cầu xin ta không?”

Mẫu thân thằng bé tuy lạnh nhạt với nó, nhưng cũng chưa hề gạt nó bao giờ. Đây là lần đầu tiên nó bị người ta lừa gạt, nước mắt chảy quanh nhưng cố giữ cho khỏi trào ra. Tạ Yên Khách đi vào trong sơn động, lát sau khói đen trong động bốc ra nghi ngút. Thì ra lão vào động để nấu ăn. Một lúc sau, mùi thơm của thức ăn đưa ra ngào ngạt. Thằng bé đã đói meo, liền đi vào trong, thì thấy sơn động này rất rộng.

Tạ Yên Khách cố ý bày thức ăn ra trước mặt nó, khiến nó thèm thuồng mà phải xin mình cho ăn. Ngờ đâu, từ nhỏ nó chỉ ở với mẫu thân, chưa biết phân biệt của người hay của ta, hễ muốn ăn gì thì lấy, không hỏi xin bao giờ. Bây giờ nó thấy trên bàn đá đặt một đĩa thịt ướp và một nồi cơm, liền tự mình lấy đũa xới cơm, rồi ngồi xuống cầm đũa gắp thịt ăn tự nhiên.

Tạ Yên Khách thộn mặt ra nghĩ thầm: “Dọc đường đi, nó đã mời mình ăn bánh bao, ăn táo, ăn cơm, uống rượu. Nếu bây giờ không cho nó ăn thì rõ ràng Tạ mỗ không có nghĩa khí.” Lão nghĩ vậy, nên để mặc. Cứ như thế, hai người không nói chuyện gì, cứ cúi xuống ăn. Thằng bé ăn no bụng rồi tự động đi rửa chén bát nồi niêu, rồi lại đi bổ củi. Đó là những việc thông thường mà nó vẫn quen làm khi còn ở với mẫu thân.

Một hôm, nó chặt củi xong, toan gánh về sơn động thì bỗng nghe trong bụi rậm có tiếng xào xạc, rồi một con chồn nhảy ra. Thằng bé liền giơ búa lên đập trúng đầu, con vật chết ngay lập tức. Nó đem con chồn xuống khe suối mổ rửa sạch sẽ rồi đem về sơn động, chặt con chồn ra làm đôi, đem một nửa treo lên phơi khô, còn hai đùi thì cắt ra bỏ vào nồi nấu.

Tạ Yên Khách ngửi thấy mùi thịt chồn thơm ngon, liền lấy cái muôi gỗ múc một chút nếm thử, bất giác khoan khoái vô cùng. Món thịt chồn này rất ngon, so với lão thì thằng bé nấu nướng ngon gấp mười lần. Tạ Yên Khách nghĩ bụng: “Thật không ngờ thằng lỏi này lại nấu ăn giỏi như thế, sau này chắc ta thường được ăn ngon miệng. Nhưng nó đã biết săn bắn lại biết nấu nướng thì chẳng cần xin ta xuống núi, ta cũng không làm gì nó được.”

Mấy ngày sau thằng bé cứ ở trên Ma Thiên Nhai mà chăng lưới giăng bẫy, bắt chim chóc cùng dã thú. Chuyện này thì nó khá thạo, ngày nào cũng kiếm được thịt tươi để cùng ăn với Tạ Yên Khách, ăn không hết thì lại đem phơi khô hoặc ướp muối. Nghề làm bếp của nó thật có chỗ độc đáo, dù ở nơi núi thẳm rừng sâu mà vẫn nấu được ngon lành, Tạ Yên Khách cứ vừa ăn vừa khen ngợi. Có lần lão hỏi đến cách nấu ăn thì thằng bé nói là do mẫu thân dạy bảo. Hỏi tiếp, lão mới biết mẹ nó tuy nấu nướng rất giỏi, nhưng vừa nóng nảy vừa lười biếng. Mười bữa thì nó nấu hết chín bữa, nếu món nào nấu không hợp khẩu vị, bà ta mà vui thì chỉ bảo cho, còn không vui thì la mắng. Tạ Yên Khách nghĩ: “Mẹ của nó nấu ăn ngon như thế thì tất cũng thông minh lắm. Chắc mụ nhà quê này bị chồng ruồng bỏ nên mới ngang chướng như thế, mà cũng không chừng vì tính tình ngang chướng nên mới bị chồng ruồng bỏ.”

Tạ Yên Khách thấy thằng bé rất ít khi nói chuyện thì không khỏi ngấm ngầm sầu muộn. Lão nghĩ bụng: “Vụ này mà không giải quyết cho xong thì cũng là một cái họa trong lòng. Giả tỉ một ngày nào đó, có tên nào xúi nó yêu cầu mình tự phế võ công, hoặc tự chặt chân tay thành người tàn phế, thì thật là nguy hiểm. Không chừng nó lại yêu cầu mình suốt đời không được rời khỏi Ma Thiên Nhai, thế thì Tạ Yên Khách này biến thành một tên tù bị nhốt ở chốn rừng núi hoang vu này hay sao? Cho dù nó chỉ nhờ ta đi tìm mẹ và con chó A Hoàng, thì cũng là chuyện đau đầu lắm rồi.”

Tuy Tạ Yên Khách là người thông minh, lắm mưu nhiều trí, mà nghĩ mãi vẫn không ra kế hoạch gì.

* * *

Một hôm trời đã xế chiều, Tạ Yên Khách chắp hai tay lưng, lững thững thả bước trong rừng. Lão chợt thấy thằng bé đang đứng tựa lưng vào một khối đá, vẻ mặt tươi cười hớn hở nhìn vật gì trên tảng đá. Tạ Yên Khách chú ý nhìn kỹ, thì ra đó là mười tám pho tượng nhỏ xíu mà Đại Bi Lão Nhân đã cho nó. Thằng bé để mỗi pho tượng một chỗ, có lúc bày tượng thành hàng, có lúc bày thành trận thế đánh nhau. Nó nhìn ngắm ra chiều thích thú lắm.

Tạ Yên Khách lẩm bẩm: “Năm xưa Đại Bi Lão Nhân cùng ta tỉ thí trên núi Bắc Mang, chưởng pháp của lão đã mãnh liệt mà phép cầm nã cũng thần tốc biến ảo phi thường. Đánh nhau tới nửa giờ, lão mới thua một chiêu Khống Hạc Công của ta, lập tức nhận kém rút lui. Võ công lão tuy cao thâm, nhưng chỉ sở trường về ngoại gia công phu. Vậy đồ hình nội công vẽ trên tượng đất này chắc cũng chỉ thô sơ, chẳng đáng làm trò cười cho người khác.”

Lão cầm lấy một hình nhân đưa lên xem, thì thấy trên tượng có vẽ những huyệt đạo Dũng Tuyền, Nhiên Cốc, Chiếu Hải, Thái Khuê, Thủy Tuyền, Thái Chung, Phục Lựu, Giao Tín từ dưới chân ngược lên đến bụng. Còn phần trên là những huyệt Hoành Cốt, Thái Hách, Khí Huyệt, Tứ Mãn, Trung Chú, Mang Du, Thương Khúc tụ cả vào huyệt Liêm Tuyền ở dưới lưỡi. Lão biết ngay đó chính là họa đồ Túc Thiếu Âm Thận Kinh, vẽ thành một đường chỉ đỏ chạy từ bàn chân lên đến cổ họng. Lão nghĩ thầm: “Đây tuy là phép luyện nội công chính phái. Các môn phái lớn đều dùng phương pháp tương tự để luyện từ lúc nhập môn, chẳng có chi là đặc biệt. Phải rồi! Đại Bi Lão Nhân suốt đời chỉ rèn luyện ngoại công, nên mới đến tuổi tráng niên đã lăn lộn khắp giang hồ, mà rốt cuộc bản lãnh cũng chẳng bằng người. Không hiểu lão tìm đâu được mười tám cái tượng đất này, chắc là để kiêm luyện cả hai mặt nội ngoại công, không chừng thua dưới tay ta mới nghĩ đến chuyện này. Nhưng luyện nội công thượng thặng đâu phải chuyện một sớm một chiều? Huống chi, lão đã tuổi ngoại thất tuần, nội công phải đem xuống âm phủ mà luyện mới xong.”

Nghĩ tới đây, bất giác lão nổi lên một tràng cười ha hả. Thằng bé thấy Tạ Yên Khách ngó tượng đất của mình rồi cười rộ, thì cũng cười theo: “Lão bá nhìn xem, những tượng này đều có râu trên mặt, tất nhiên không phải là trẻ nít, thế mà lại chẳng mặc quần áo, trông thật là buồn cười.”

Tạ Yên Khách đáp: “Đúng rồi! Thật là tức cười!” Lão xem tiếp những pho tượng khác, thì thấy trên mười hai pho tượng có vẽ các kinh mạch là Thủ Thái Âm Phế Kinh, Thủ Dương Minh Đại Trường Kinh, Túc Dương Minh Vị Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh, Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh, Thủ Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh, Túc Thiếu Âm Thận Kinh, Thủ Thiếu Âm Tâm Bao Kinh, Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh, Túc Thiếu Dương Đởm Kinh, Túc Quyết Âm Can Kinh. Đó là mười hai kinh mạch chính. Còn sáu tượng kia thì vẽ Nhâm Mạch, Đốc Mạch, Âm Duy, Dương Duy, Âm Khiếu và Dương Khiếu.

Trong kỳ kinh bát mạch thì phức tạp khó hiểu nhất là Xung Mạch và Đới Mạch, hai mạch này cũng được vẽ rất rõ ràng. Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Đây hình như là nội công nhập môn của phái Thiếu Lâm. Đại Bi Lão Nhân coi đây là bảo bối nên mới giấu trong mình, nhưng hãy còn khiếm khuyết chưa đầy đủ. Thật ra nếu lão muốn luyện nội công thượng thặng thì những cái nông cạn khiếm khuyết này đã ăn thua gì? Chỉ cần một gã đệ tử tầm thường ở chính phái nội gia chỉ bảo vài tháng là hiểu rõ ngay. Nhưng lão đã là tiền bối nổi tiếng võ lâm, khi nào lại hạ mình đi cầu người chỉ dẫn?” Nghĩ tới đó, Tạ Yên Khách cũng thấy thương hại đôi chút.

Tạ Yên Khách nhớ lại năm xưa cùng Đại Bi Lão Nhân tỉ đấu ở núi Bắc Mang, tuy có thắng được một chiêu, nhưng cũng dựa vào may mắn mà thôi.

Lão lại nghĩ: “May mà Đại Bi Lão Nhân không có căn bản nội công. Giả tỉ hồi còn thiếu niên mà lão được luyện nội công, thì chỉ sợ chưa tới ba trăm chiêu mình đã bị lão hất xuống vực thẳm rồi. Ha ha! Lão chết là hay lắm! Hay lắm!”

Trên mặt của Tạ Yên Khách lộ ra một nụ cười, toan quay lưng bước đi, nhưng đột nhiên lão sực nghĩ ra mộ chuyện: “Thằng lỏi này đang ngắm nghía tượng đất tới chỗ say sưa. Sao mình không nhân cơ hội này chỉ điểm cho nó học nội công theo hình tượng, rồi dẫn dụ nó tẩu hỏa nhập ma, nội lực xung tâm mà chết. Lời thề năm trước chỉ nói là ta không dùng sức, dù chỉ là một ngón tay, để hại người đã trao Huyền Thiết Lệnh cho mình. Nhưng đây là chính nó luyện nội công mà chết, chứ đâu phải ta giết? Cho dù mình bày kế dụ nó phải uổng mạng, cũng không phải là dùng sức để hại gã, không trái với lời thề. Phải lắm, phải lắm! Mình cứ thế mà làm.”

Tạ Yên Khách trước nay hành sự chỉ theo ý mình, bất phân thiện ác. Lão rất trọng chữ tín, đã nói ra cái gì là làm đúng theo cái ấy, còn những chuyện nhân nghĩa đạo đức trong mắt lão thì không đáng một đồng. Lão cầm pho tượng vẽ kinh mạch Túc Thiếu Âm Thận Kinh giơ lên hỏi: “Thằng nhóc kia! Ngươi có biết những chấm đen và chỉ đỏ này là cái gì không?”

Thằng bé suy nghĩ một chút rồi đáp: “Đây chắc là người đất mắc bệnh.”

Tạ Yên Khách tức cười hỏi lại: “Sao lại nói nó mắc bệnh?”

Thằng bé đáp: “Năm ngoái cháu bị bệnh, khắp người cũng nổi những chấm đỏ.”

Tạ Yên Khách bật cười nói: “Đó là ngươi bị phát ban, còn đây là tượng đất thì có ốm đau gì được đâu? Những điểm này là bí quyết về võ học do người ta vẽ vào. Ngươi đã thấy ta cõng ngươi bay lên núi rồi đó, biết võ công thì có tốt hơn không?”

Lão nói tới đây, vì muốn cho thằng bé nổi lòng muốn học võ, liền điểm chân xuống đất, vọt người thẳng lên đánh vù một cái, nhảy lên ngọn cây thông. Lão điểm chân trái vào một cành cây để mượn đà nhảy vọt cao hơn nữa, cứ như bay lên tới trời, rồi từ từ hạ mình xuống cành cây. Lão hạ mình xuống rồi lại vọt lên ba lần như vậy, thì vừa lúc có hai con chim sẻ bay ngang. Tạ Yên Khách muốn khoe tài, bèn vươn hai tay ra chộp lấy hai con sẻ, rồi từ từ hạ xuống đất.

Thằng bé thích quá vỗ tay cười nói: “Lão bá giỏi quá! Giỏi quá!” Tạ Yên Khách xòe hai bàn tay ra, hai con sẻ vỗ cánh toan bay đi. Nhưng nó chỉ vỗ cánh chứ bay lên không được, vì lão đã vận nội lực vào lòng bàn tay, hút giữ lại. Thằng bé thấy hai con chim đập cánh mãi mà vẫn không bay thoát khỏi bàn tay đang mở, phấn khởi hoan hô: “Hay quá, hay quá!”

Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Ngươi lại đây thử xem!”, rồi đặt hai con sẻ vào lòng bàn tay nó. Thằng bé nắm chặt lấy, không dám xòe bàn tay ra. Tạ Yên Khách lại tiếp: “Những nét vẽ trên tượng đất này là để dạy cho người ta luyện công. Ngươi đã liều mạng để giúp Đại Bi Lão Nhân, lão cảm on ngươi mới cho ngươi mấy món quý báu này. Ngươi đừng tưởng đó là đồ chơi, chỉ cần học theo hình vẽ trên tượng này thì có thể xòe bàn tay ra mà con chim không bay lên được.”

Thằng bé nói: “Trò này hay lắm! Cháu muốn tập, nhưng làm sao mà tập được?” Rồi nó xòe hai bàn tay ra, hai con sẻ chỉ vỗ cánh một cái là bay vù đi mất. Tạ Yên Khách ha hả cười lớn tiếng, thằng bé cũng ngây ngô cười theo.

Tạ Yên Khách nói: “Nếu ngươi xin ta dạy cho ngươi bản lãnh này thì ta có thể dạy cho ngươi, sau khi học xong thì vui thú vô cùng, ngươi có thể tự mình lên núi xuống núi mà không cần ta dắt.” Sắc mặt thằng bé phấn khởi hẳn lên. Tạ Yên Khách chăm chú nhìn, chỉ mong nó nói ra mấy chữ “xin lão bá dạy cho cháu.” Lão chờ đợi nôn nóng quá, hơi thở như cũng nặng nề hơn.

Qua một lúc sau, thằng bé mới nói: “Nếu cháu xin lão bá, thì lão bá sẽ đánh cháu mất. Cháu nhất định không cầu xin lão bá.”

Tạ Yên Khách nói: “Ngươi cứ xin đi, ta đã nói là không đánh ngươi mà. Ngươi đi theo ta lâu rồi, ta đã đánh ngươi bao giờ chưa?”

Thằng bé lắc đầu nói: “Chưa. Cháu cũng muốn học, nhưng cháu không xin ông dạy đâu.” Nó ở với mẹ từ nhỏ, đã chịu không biết bao nhiêu cực khổ, những kỷ niệm đó đã ăn sâu vào lòng. Bất kề nó mở miệng cầu xin chuyện gì, chắc chắn bị đòn lập tức, mà sau mỗi lần như thế thì mẹ nó lại khóc lóc mấy ngày không vui lên được. Mẹ nó thường quát tháo: “Con người vô lương tâm kia, ngày nào đêm nào ta cũng đợi ngươi cầu xin ta, mà đợi suốt mấy năm ngươi vẫn không đến, lại đi cầu xin con tiểu tiện nhân thua kém ta đủ mọi thứ. Bây giờ còn đến cầu xin ta làm gì nữa?” Nó nghe không hiểu gì, rồi lại bị mẹ mắng tiếp: “Bây giờ ngươi đến cầu xin ta thì đã trễ rồi, sao trước kia không đến?” Rồi bà lại xách cây đập lên đầu nó. Cảm giác bị mắng, bị đánh mà không hiểu tại sao thật là khó chịu. Nó cứ ăn đòn no nê như thế, lúc lên tám chín tuổi thì không thèm cầu xin mẹ một cái gì nữa. Lúc này nó ở chung với Tạ Yên Khách nơi rừng núi hoang vu, hoàn toàn không khác gì như khi còn ở với mẹ, nên bất giác trong lòng cũng đã coi lão bá này như mẹ của mình.

Trên mặt Tạ Yên Khách thoáng hiện ánh xanh, nghĩ bụng: “Vừa rồi giả tỉ ngươi mở miệng cầu xin, giúp ta hoàn thành tâm nguyện, thì ta chắc chắn dạy ngươi đủ bản lãnh để ngạo thị võ lâm. Thế mà ngươi lại tự tìm vào con đường chết, sau này không thể trách ta được.” Lão bèn gật đầu nói: “Được, ngươi không xin ta, nhưng ta cũng dạy cho ngươi.” Rồi lão cầm lấy pho tượng đất có vẽ kinh mạch Túc Thiếu Âm Thận Kinh, giải thích và chỉ rõ vị trí và tên gọi của các huyệt đạo trên kinh mạch đó.

Thằng bé này thiên tư cũng không đến nỗi ngu dại, đã nghe là nhớ kỹ, chỗ nào không hiểu thì hỏi lại ngay. Tạ Yên Khách cũng dạy nó không giấu giếm gì, lại còn truyền thêm phương pháp luyện khí, bắt nó phải tự tập luyện lấy.

Sau hơn nửa năm, thằng bé đã luyện được thành thuộc cách vận khí theo kinh mạch Túc Thiếu Âm Thận Kinh. Tạ Yên Khách thấy nó tiến triển rất nhanh chóng, nghĩ thầm: “Xem ra cái thằng Chó Lộn Giống này lại có thiên bẩm rất tốt, luyện võ rất nhanh. Nhưng ngươi luyện càng nhanh thì chết càng sớm thôi.” Lão lại dạy cho nó về kinh mạch Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh, rồi cứ dần dần theo từng pho tượng một.

Thấm thoắt hai năm, thằng bé lại học xong thêm Thủ Thiếu Âm Tâm Bao Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh, Thủ Thái Âm Phế Kinh, Túc Quyết Âm Can Kinh, tổng số sáu âm kinh mạch này. Sau đó nó lại luyện tiếp Âm Duy và Âm Khiếu.

Thời gian này, thằng bé cứ siêng năng luyện nội công mỗi ngày ba lần sáng trưa chiều, lại vẫn tiếp tục săn bắt, nấu nướng, hoàn toàn không nghi ngờ Tạ Yên Khách dạy cho nó là có tư tâm. Lão cứ hướng nó tập luyện theo âm hàn, về sau lúc nào thân thể nó cũng thấy lạnh buốt, giá rét cơ hồ không chịu nổi. Tạ Yên Khách lại nói rằng những hiện tượng này, người luyện võ nào cũng phải gặp, nên nó cũng không lưu tâm lắm.

Nào ngờ Tạ Yên Khách lại nham hiểm đến thế, tuy dạy dỗ nó luyện công không có gì dối trá, nhưng thứ tự lại hoàn toàn đảo ngược. Lẽ ra thì thủy hỏa phải hòa hợp, âm dương phải tương tế, sau khi luyện Túc Thiếu Âm Thận Kinh thì phải luyện Túc Thiếu Dương Đảm Kinh, để Thiếu Dương và Thiếu Âm dung hợp mà điều hòa, khí lực mới dần dần tiến triển. Thế mà Tạ Yên Khách lại bảo nó luyện Thiếu Âm, Thái Âm, Âm Duy, Âm Khiếu, còn những kinh mạch về dương cương như Thiếu Dương, Dương Minh thì hoàn toàn không luyện. Vì thế mà sau mấy năm, âm khí trong người thằng bé đã rất dồi dào, nhưng dương khí thì không có chút nào. Âm hàn tích tụ đã trở thành cực kỳ nguy hiểm, chỉ cần một chút sai lệch là không sao cứu chữa được nữa.

Tạ Yên Khách thấy nó đến lúc này còn chưa chết thì rất kinh ngạc, suy nghĩ mãi mới hiểu ra. Thằng bé này đầu óc chưa được mở mang, chuyện đời hoàn toàn không biết, trong lòng không có tạp niệm, vì thế mới không bị tẩu hỏa nhập ma. Nếu là người khác thì trong suốt mấy năm này dĩ nhiên phải có vui buồn giận ghét, chỉ cần thất tình lục dục nổi lên, chân khí lập tức hỗn loạn mà chết từ lâu rồi. Lão lại nghĩ: “E rằng thằng Cẩu Tạp Chủng này còn sống với ta trên núi nhiều năm. Nếu thả nó xuống núi, vào trong thế giới phồn hoa đó chỉ vài ngày là cái mạng nhỏ xíu của nó đi đời lập tức. Nhưng nó mà xuống núi không chừng lại gặp phải nhân vật võ lâm, chỉ cần thằng Chó Lộn Giống này còn thở là bọn chúng lại có thể lợi dụng nó để uy hiếp ta. Mối hiểm họa này nhất định không thể coi thường.”

Tạ Yên Khách suy nghĩ một lúc, lại nảy ra một ý: “Bây giờ ta dạy thêm cho nó những mạch Cửu Dương, mà không dạy phương pháp phối hợp âm dương. Đến khi dương khí của nó tích tụ, một lúc nào đó âm dương sẽ xung khắc, long hổ sát đấu không chết không thôi. Cho dù trong lòng nó không khởi tạp niệm gì, nhưng nội tức không điều hòa cũng đủ bỏ mạng. Đúng vậy, ta cứ thế mà làm.”

Lão bèn truyền cho nó phương pháp luyện các dương kinh mạch. Lần này lão không dạy theo thứ tự từ Thiếu Dương trước, mà lại bắt đầu từ chỗ khó nhất là mạch Dương Khiếu. Lẽ ra luyện xong mạch này thì đến giai đoạn đả thông Nhâm Đốc, âm dương được tương thông, nhưng thằng bé làm sao mà luyện ngay lúc này được? Nhưng đó là theo đúng ý đồ của Tạ Yên Khách, nên lão cứ mặc kệ.

Thằng bé cứ theo phương pháp đó mà tu luyện, tuy tiến bộ chậm, nhưng nó hết sức kiên trì và có nghị lực, nên sau hơn một năm cũng luyện xong mạch Dương Khiếu. Từ đó trở đi, nó càng luyện càng thấy dễ dàng hơn.

Cứ mỗi lần gạo muối rượu tương trên núi sắp hết thì Tạ Yên Khách lại dẫn thằng bé xuống núi để mua. Lão không dám để nó một mình trên núi, chỉ sợ có ai thừa cơ hội lên cướp nó đi, thì sinh mạng của lão coi như giao vào tay người khác. Mỗi năm hai người đều xuống núi vài lần, vào một thị trấn nhỏ mua sắm rồi lập tức trở về, chưa từng ở lâu. Thằng bé ngày càng cao lớn, quần áo giày dép đều phải mua những thứ lớn hơn.

Thằng bé ăn xin năm nào nay đã trở thành một thiếu niên mười tám mười chín tuổi, thân thể rất cường tráng, cao hơn Tạ Yên Khách nửa cái đầu. Tạ Yên Khách ngoài việc truyền thụ nội công thì hoàn toàn không dạy bảo nó gì khác, cũng may thiếu niên này từ nhỏ đã ở với một bà mẹ lạnh lùng như thế, nên cũng quen rồi. Mẹ của nó còn thường xuyên la mắng nó, chứ Tạ Yên Khách thì không cười đùa, không giận dữ, lại càng không đánh đập nó bao giờ. Trên núi không có việc gì phải lo lắng phân tâm, ngoài những lúc săn bắn và nấu nướng ra, chàng thiếu niên cứ lo tập võ để lấp đầy thời gian trống. Những kinh mạch âm dương chàng đều đã luyện thành thuộc hết.

Năm Tạ Yên Khách ba mươi tuổi, lão gặp một việc không vừa ý nên chọn Ma Thiên Nhai để ẩn cư, rất ít khi lui tới giang hồ. Mấy năm gần đây lão phải ở chung với chàng thiếu niên này không dám rời đi, ngoài việc luyện tập công phu bản môn, lại còn sáng tác ra một đường quyền pháp và một đường chưởng pháp.

* * *

Một hôm Tạ Yên Khách dậy rất sớm, đã thấy chàng thiếu niên đang ngồi xếp bằng luyện công trên một tảng đá, quay về hướng mặt trời mọc. Nửa mặt bên phải của nó đã hơi có khí trắng xông lên, nội lực đã sắp đến lúc đủ hỏa hầu. Tạ Yên Khác không nén nổi phải gật gật đầu, trong lòng nghĩ: “Thằng nhóc này đã đặt một chân vào quỷ môn quan rồi.” Lão biết nó luyện như thế phải một lúc lâu mới dừng lại được, liền thi triển khinh công chạy đến khu rừng ở sau núi. Sương sớm còn chưa khô, trong rừng hết sức tĩnh mịch. Tạ Yên Khách hít một hơi rất sâu rồi từ từ nhả ra, đột nhiên hướng tay trái về phía trước, hữu chưởng đánh ra, thân thể di chuyển giữa mười mấy cây thông luồn qua lách lại, càng chạy càng nhanh. Song chưởng phát ra chỉ nghe những tiếng va chạm nhẹ nhàng trên cành cây, bước chân càng lúc càng nhanh, nhưng xuất chưởng thì càng ngày càng chậm.

Bộ pháp nhanh mà không gấp gáp, chưởng pháp thư thái mà không kém phần hiểm độc, đó chính là cảnh giới thượng thừa của võ công. Tạ Yên Khách luyện đến chỗ hưng phấn, quát lên một tiếng rồi vỗ hai bàn tay vào một cây thông. Lập tức nghe thấy những tiếng loạt soạt, lá thông rơi xuống như mưa. Lão lại thi triển chưởng pháp, hất ngược hàng ngàn hàng vạn lá thông đang rơi xuống bay trở lên trời, không để chúng rớt xuống đất. Những lá thông nhọn như kim, còn dễ bị gió thổi bạt đi hơn những lá cây bình thường, thế mà lão có thể dùng chưởng lực để điều khiển hàng ngàn hàng vạn lá thông múa may theo ý muốn. Nội lực tuy là vật vô hình vô chất, nhưng lúc này lại như ngưng tụ tại thành vật hữu hình.

Hàng ngàn hàng vạn lá thông biến thành một tấm lưới màu xanh, rung động không ngừng xung quanh người lão.

Hồi 04: Bang chúa Trường Lạc Bang

Tạ Yên Khách muốn thử xem mấy năm gần đây mình khổ luyện nội công đã đến cảnh giới nào, không ngừng vận nội lực đưa đẩy những lá thông đó càng lúc càng nhanh, rồi lại dần dần mở rộng vòng lá ra phía ngoài. Tới lúc cái vòng mở rộng hơn phạm vi nội lực của lão, một số lá cây ngoài cùng đã từ từ rơi xuống, Tạ Yên Khách hít một hơi chân khí rồi lại phát huy nội lực rộng ra, lá tùng không rơi xuống nhiều nữa. Lão mừng rỡ, cảm thấy không cần phải cố gắng vận nội lực nữa, tay chân tự nhiên duỗi ra, sảng khoái thư thái không nói hết được, quả nhiên đã tới cảnh giới thân ý khí điều hợp, vật ngã đều quên.

Một lúc sau, Tạ Yên Khách cảm thấy mình đã vận nội lực đến độ chót khá lâu, nếu tiếp tục thì sẽ tổn hại đến nguyên khí, bèn từ từ thu nội lực về. Những lá tùng từ từ rơi xuống xung quanh lão, đan thành một cái vòng màu xanh trên mặt đất.

Bất thình lình Tạ Yên Khách biến sắc, thấy tiền hậu tả hữu đã có cả thảy chín người vây mình vào giữa, mà lão không biết họ đến từ lúc nào. Chín người này đều cầm binh khí, không nói nửa câu mà chỉ giương mắt ra nhìn lão. Với võ công của Tạ Yên Khách, thì người ngoài đừng hòng âm thầm đến bên lão, dù còn xa mấy dặm cũng không thể qua tai mắt lão được. Nhưng vì lão đang để hết tâm trí huy động nội lực để thử chiêu Bích Châm Thanh Chưởng, nên không phân tâm chú ý ra ngoài, dù là vật ngay trước mắt cũng không nhìn thấy hay nghe thấy. Đừng nói chín tay cao thủ đến bên lão, dù cho đất lở núi nghiêng lúc này cũng chưa chắc lão đã hay biết.

Ma Thiên Nhai này trước nay không có người ngoài lui tới. Lão thấy có người xuất hiện, biết ngay họ đến đây là chẳng tử tế gì, lập tức tập trung tinh thần lại. Tạ Yên Khách lại để ý nhìn đám người mới đến thì thấy trong này có một người ốm nhom mà cao kều, một đạo nhân, một hán tử mặt mũi xấu xí. Hai năm trước đây lão đã gặp mấy người này vây đánh Đại Bi Lão Nhân ở ngoài thành Biện Lương, chúng tự xưng là nhân vật của bang Trường Lạc.

Chỉ trong khoảnh khắc, trong lòng Tạ Yên Khách nảy ra rất nhiều ý nghĩ: “Bất luận chúng là ai nhưng đã lên đến Ma Thiên Nhai không một tiếng động, thì rõ ràng đã xem thường ta, coi ta như là kẻ địch. Ta cùng bang Trường Lạc chưa đi lại giao thiệp bao giờ, thế thì chúng kéo lên đây là có dụng ý gì? Phải chăng chúng định dùng võ lực để áp bức ta gia nhập bang phái, cũng như Đại Bi Lão Nhân hay sao.” Rồi lão lại lẩm bẩm: “Trong bọn này thì có ba người ta đã biết rồi. Ngay ngày ấy, một mình ta cũng đủ đối phó với chúng, bây giờ thì đương nhiên lại càng không đáng sợ. Nhưng ngoài ba gã đó, không hiểu võ công những người còn lại ra sao? Sáu người kia đều bốn chục tuổi trở lên, ít ra là có hai gã công lực rất thâm hậu.”

Tạ Yên Khách nhìn họ cười lạnh nhạt nói: “Các vị đều là bằng hữu ở bang Trường Lạc phải không? Các vị đột ngột giá lâm Ma Thiên Nhai nên Tạ mỗ không biết trước để nghênh tiếp. Chẳng hiểu các vị có điều chi dạy bảo?”

Lão vừa nói vừa chắp tay. Chín người kia cũng khoanh tay đáp lễ. Bọn này vừa thấy Tạ Yên Khách thi triển Bích Châm Thanh Chưởng nội lực kinh hồn, nhưng chúng không nghĩ là Tạ Yên Khách để hết tinh thần luyện võ, mà lại tưởng lão ỷ vào võ công cao cường, thấy khách đến mà vẫn không thèm dừng tay. Chín người nghĩ như vậy đã tức mình, thấy lão chắp tay thi lễ lại sợ lão vận nội lực đả thương, nên ai nấy đều ngấm ngầm vận động chân khí để hộ vệ các yếu huyệt trong người. Trong đám này có hai người huyệt thái dương nhô cao lên, lại còn một người tay áo không gió mà rung động.

Ngờ đâu cái thi lễ của Tạ Yên Khách hoàn toàn không vận dụng nội lực. Bọn kia cũng không biết lão đã sử dụng hết toàn lực để thi triển Bích Châm Thanh Chưởng giống như đã quyết đấu với một cao thủ tuyệt đỉnh, mười phần nội lực đã dùng hết chín.

Một lão già mặc áo vàng lên tiếng: “Tại hạ cùng các huynh đệ đến đây thật là mạo muội, mong Tạ tiên sinh thứ tội.”

Tạ Yên Khách thấy sắc mặt lão già xanh mét, tiếng nói phều phào hết hơi, rất giống một người đang trọng bệnh. Đột nhiên lão nhớ ra một người, liền cất tiếng hỏi: “Phải chăng các hạ là Trước thủ hồi xuân Bối đại phu?”

Lão già đó chính là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch, thấy Tạ Yên Khách biết danh hiệu mình cũng hơi đắc ý. Lão hắng giọng hai tiếng rồi đáp: “Lão phu không dám. Tiện danh có đáng chi mà tiên sinh cũng nhớ. Ngoại hiệu Trước Thủ Hồi Xuân này thật quá lớn lối, chẳng bõ làm trò cười cho Tạ tiên sinh.”

Tạ Yên Khách nói: “Tại hạ thường nghe Bối đại phu một mình qua lại giang hồ, không hiểu đã gia nhập bang Trường Lạc từ lúc nào?”

Bối Hải Thạch đáp: “Tại hạ nghĩ rằng sức một người chẳng đáng bao nhiêu, đồng tâm hiệp lực với huynh đệ trong bang thì hành sự tạo phúc cho thế gian được dễ dàng hơn.” Lão ho mấy tiếng rồi nói tiếp: “Tạ tiên sinh! Bọn tại hạ đến đây thật là lỗ mãng, tự tiện xâm nhập bảo sơn, tiên sinh là người đại nhân đại lượng xin miễn trách cho. Bọn tại hạ thật chẳng dám vô sự mà quấy nhiễu, chỉ vì muốn yết kiến bang chúa tệ bang, cảm phiền Tạ tiên sinh dẫn vào ra mắt.”

Tạ Yên Khách ngạc nhiên hỏi lại: “Không hiểu bang chúa quý bang là ai? Tại hạ ít khi qua lại giang hồ, lại là người cô lậu, kiến thức hẹp hòi, đến ngay cả danh hiệu của quý bang chúa cũng thất lễ mà chưa được biết, làm sao tiến dẫn được?”

Tạ Yên Khách vừa dứt lời thì chín người đều lộ vẻ không bằng lòng. Bối Hải Thạch đưa tay trái lên vuốt râu, hắng giọng mấy tiếng rồi nói: “Tạ tiên sinh! Thạch bang chúa của tệ bang đã có giao tình với tiên sinh, hai vị dắt tay nhau mà đi, nên tệ bang suốt từ trên xuống dưới ai cũng đem lòng kính cẩn, coi tiên sinh như một bậc thượng khách không dám vô lễ chút nào. Hành động của Thạch bang chúa thì lẽ ra bọn thuộc hạ không dám hỏi đến, nhưng vì người rời khỏi tổng đàn đã lâu, mọi việc phải đợi người về lo liệu, lại còn hai việc rất lớn, cấp bách như dầu sôi lửa bỏng.”

Lão lại ho mấy tiếng rồi tiếp: “Vì thế khi vừa được tin Thạch bang chúa đã lên Ma Thiên Nhai, bọn tại hạ lập tức gấp rút đến đây. Đáng lẽ phải đưa danh thiếp lên trước, đợi Tạ tiên sinh chấp nhận mới được lên núi, nhưng vì sự việc cấp bách nên lễ số có phần khiếm khuyết, chỉ mong được cao nhân thứ lỗi.” Lão nói xong, lại cúi mình vái chào một cái nữa.

Tạ Yên Khách thấy lão này ra chiều thành khẩn, còn cả bọn tuy tay cầm binh khí mà vẻ mặt không có gì ác ý, thì nghĩ bụng: “Té ra mình đã hiểu lầm.” Rồi lão mỉm cười nói: “Trên Ma Thiên Nhai không có bàn ghế, nên tiếp đãi quý khách không được trịnh trọng, xin các vị tùy tiện tìm chỗ ngồi. Không hiểu Bối đại phu nghe ai nói lão phu dắt tay Thạch bang chúa cùng đi? Quý bang nhân tài như nước, hào kiệt như mây, thanh danh Thạch bang chúa lừng lẫy hiếm kẻ sánh bằng, còn lão phu chẳng qua chỉ là một kẻ chán đời ẩn cư nơi hoang sơn dã lĩnh, sao lại được Thạch bang chúa hạ cố tương giao? Ha ha! Thật đáng buồn cười!”

Bối Hải Thạch liền bảo đồng bọn: “Các huynh đệ! Chúng ta hãy ngồi cả đây nói chuyện!” Họ Bối quả nhiên là thủ lĩnh của bọn này, lão vừa hạ lệnh là mọi người đều ngồi xuống xung quanh, người ngồi xuống mỏm đá, người ngồi trên cành cây, Bối Hải Thạch thì ngồi xuống một ụ đất. Chín người thu khí giới lại, nhưng vẫn ngồi thành thế vây quanh Tạ Yên Khách.

Tạ Yên Khách đã hơi tức giận, nghĩ bụng: “Bọn ngươi thật là vô lễ. Đừng nói là ta không biết Thạch bang chúa hay Ngói bang chúa gì gì đó rúc ở xó nào, mà dù ta có biết chăng nữa, thì bộ dạng bọn ngươi như thế này, ta cũng không thèm nói.” Lão cười lạt, ngẩng lên nhìn mặt trời trên đỉnh đầu, không thèm nhìn đến bọn kia nữa.

Bối Hải Thạch cũng nghĩ: “Địa vị và thân phận ta trong võ lâm cũng không thấp, ngươi đối với ta ngạo mạn như thế cũng không khỏi quá đáng. Nhưng nghe nói người này võ công cao cường, lòng dạ nham hiểm, ra tay lợi hại. Trường Lạc Bang chúng ta cũng không nên kết thêm đối thủ như thế.” Lão bèn ra vẻ nể mặt Tạ Yên Khách là chỗ bạn bè với Thạch bang chúa, vẫn dùng lời lẽ lịch sự nói tiếp: “Tạ tiên sinh! Vì việc của tệ bang mà đến quấy quả tiên sinh, thật lấy làm áy náy. Lão phu chỉ xin tiên sinh dẫn vào yết kiến, rồi huynh đệ bọn tại hạ sẽ xin lỗi Tạ tiên sinh sau vậy.”

Tám người kia cùng suy nghĩ: “Bối đại phu khách sáo với lão này như thế cũng là nhịn lắm rồi. Cho dù võ công Tạ Yên Khách có cao hơn, nhưng chúng ta đến chín người dĩ nhiên không sợ lão ta. Chẳng qua lão là bạn của bang chúa nên không tiện đắc tội mà thôi.”

Tạ Yên Khách lạnh lùng nói: “Bối đại phu! Đại phu là hào kiệt thành danh, tiếng tăm lừng lẫy trên chốn giang hồ. Người ta thường nói: Ngựa hay chỉ quất một roi, quân tử chỉ nói một lời. Xem chừng đại phu ra chiều mạt sát lão phu không đáng là quân tử, có đúng thế không?”

Bối Hải Thạch nghe giọng Tạ Yên Khách đã có ý tức giận thì không khỏi âm thầm cảnh giác. Lão liền ôn tồn đáp: “Tại hạ không dám!”

Tạ Yên Khách lại tiếp: “Theo lời Bối đại phu thì dường như Tạ mỗ ăn nói không có mực thước. Lão phu đã bảo chưa thấy Thạch bang chúa mà đại phu nhất định không tin. Chẳng lẽ đại phu mới là bậc quân tử chí thành, còn Tạ mỗ chỉ là tiểu nhân nói dối ư? “

Bối Hải Thạch hắng giọng mấy tiếng rồi nói: “Sao Tạ tiên sinh lại nói nặng lời như thế? Anh em bọn tại hạ đã ngưỡng mộ Tạ tiên sinh từ lâu, tệ bang từ trên xuống dưới không ai dám không tôn kính. Lời nói của Tạ tiên sinh nặng như núi, nào ai dám coi thường? Chẳng qua Tạ tiên sinh đang bận tu luyện thần công, không có thời gian dẫn kiến bọn tại hạ vào ra mắt tệ bang chúa, nên bọn tại hạ không dám quấy nhiễu mà phải chia nhau tự đi tìm kiếm, cũng mong Tạ tiên sinh đừng trách.”

Tạ Yên Khách trước đã bực bội, bây giờ lại càng tức giận hơn, vẻ mặt xám xanh nói: “Bối đại phu chẳng những không tin lời Tạ mỗ, lại còn coi Tạ mỗ không vào đâu, toan làm điều càn rỡ trên Ma Thiên Nhai hay sao?”

Bối Hải Thạch lắc đầu đáp: “Không dám, không dám! Nói ra xấu hổ, giả tỉ câu chuyện Trường Lạc Bang phải năn nỉ người ngoài dẫn vào yết kiến bang chúa mà đồn đại ra giang hồ, thì thiên hạ phải cười đến sái quai hàm. Bọn tại hạ chẳng qua vì không thấy bang chúa mà phải tìm quanh đây một chút, chứ không dám làm gì càn rỡ, mong rằng Tạ tiên sinh đừng lấy thế làm bất mãn. Ma Thiên Nhai núi cao rừng rậm, nhiều nơi ẩn náu, không chừng Thạch bang chúa của tệ bang đã lên núi mà Tạ tiên sinh mải thanh tu nên chưa để ý.” Trong lòng lão nghĩ: “Ngươi không để chúng ta gặp mặt bang chúa, nhất định là có ý bất hảo rồi.”

Tạ Yên Khách thì lại nghĩ: “Trên đỉnh Ma Thiên Nhai này, mình có thấy lão bang chúa bang chó nào đâu? Bọn này thật là ngang ngược vô lễ, mượn tiếng tìm người để sục sạo trong khu vực của mình, dĩ nhiên đó chỉ là mượn danh nghĩa mà thôi. Chúng đã mờ ám lên đây như thế thì làm gì có chuyện tốt? Nhưng bọn Trường Lạc Bang đã biết danh Tạ mỗ mà còn dám khoa trương, đương nhiên là có chuẩn bị rồi.” Lão cũng biết tình thế lúc này rất nguy hiểm. Ngũ Hành Lục Hiệp Chưởng của Bối Hải Thạch cũng nổi tiếng võ lâm, giả tỉ một mình Bối Hải Thạch thì giỏi lắm cũng chỉ ngang sức với mình là cùng, nhưng còn thêm tám cao thủ khác thì cũng không dễ đối phó. Huống hồ mình cũng không biết trong Trường Lạc Bang có bao nhiêu cao thủ đã lên núi, không chừng còn một số đang ẩn nấp chung quanh để chờ cơ hội ra tay.

Tạ Yên Khách nghĩ ra một kế, đột nhiên đưa mắt nhìn về phía Tây Bắc, vẻ mặt ra chiều kinh hãi, miệng khẽ la lên một tiếng: “Ái chà!” Bọn chín người bang Trường Lạc cũng quay nhìn cả về phía Tây Bắc. Tạ Yên Khách chớp nhoáng vọt tới chỗ gã Mễ hương chủ cao kều, vươn tay ra toan rút lấy thanh kiếm trên lưng gã.

Mễ hương chủ cũng nhìn về phía Tây Bắc, chưa thấy gì khác lạ thì bỗng nghe gió ập đến, địch nhân đã lạng tới bên người. Gã cũng phản ứng nhanh như chớp, vung tay phải nắm lấy chuôi kiếm trước cả Tạ Yên Khách, rút đánh soạt một cái, trường kiếm đã ra khỏi vỏ. Thanh quang vừa lấp loáng thì dưới cạnh sườn gã cảm thấy tê nhức, thì ra đã bị ngón trỏ tay phải của Tạ Yên Khách đã điểm trúng huyệt đạo. Rồi sau lưng gã cũng đau buốt, đã bị người ta nắm lấy. Tạ Yên Khách nhìn về phía Tây Bắc chỉ là kế dụ địch. Cả đến chiêu tranh đoạt trường kiếm của đối phương cũng chỉ là dương đông kích tây. Quả nhiên Mễ hương chủ trúng kế, chỉ chú ý đến việc cố nắm lấy chuôi kiếm trước, để hở cạnh sườn và sau lưng.

Kể ra thì võ công Mễ hương chủ có kém Tạ Yên Khách, nhưng cũng không dễ gì trong một chiêu mà thất bại, bị kiềm chế ngay được. Nhưng ngày trước Tạ Yên Khách đã từng quan sát Mễ hương chủ đấu với Đại Bi lão nhân, lại thấy gã vung quỷ đầu đao để cạo trọc đầu thằng bé ăn xin. Lão còn nhớ thuộc lòng kiếm pháp của Mễ hương chủ. Thông thường người nào ra tay quá mau lẹ thì phòng thủ phải thiếu bề nghiêm cẩn, lão thử một chiêu quả nhiên đã đắc thủ ngay.

Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Mễ hương chủ! Tạ mỗ cam bề đắc tội.” Mễ hương chủ giận dữ vô cùng, nhưng chẳng làm gì được.

Bối Hải Thạch ngạc nhiên hỏi: “Tạ tiên sinh làm gì thế? Tiên sinh thật không cho bọn tại hạ tìm kiếm tệ bang chúa hay sao?”

Tạ Yên Khách nói: “Các vị muốn giết Tạ mỗ cũng không phải là chuyện dễ dàng. Tạ mỗ mà chết thì bên các vị cũng phải có mấy mạng đi trước đã.”

Bối Hải Thạch cười khổ: “Bọn tại hạ cùng Tạ tiên sinh vốn không thù oán, khi nào lại đem lòng gia hại? Huống chi võ công của Tạ tiên sinh biến ảo tuyệt diệu như vậy thì dù bọn tại hạ muốn gia hại cũng chỉ rước họa vào thân mà thôi. Chúng ta là chỗ bạn tốt, xin Tạ tiên sinh buông Mễ huynh đệ ra trước đã.” Lão thấy Tạ Yên Khách mới thi triển một chiêu mà đã nắm được Mễ hương chủ thì trong lòng hết sức thán phục.

Tay phải Tạ Yên Khách nắm lấy huyệt Đại Truy sau lưng Mễ hương chủ, chỉ huy động chưởng lực một chút là tâm mạch gã phải đứt hết ngay. Lão thấy mình đã uy hiếp được đối phương, liền nói: “Các vị cứ rời khỏi Ma Thiên Nhai trước, Tạ mỗ sẽ thả Mễ hương chủ ra ngay.”

Bối Hải Thạch đáp: “Muốn bọn tại hạ xuống núi thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng không chừng giờ Ngọ xuống thì giờ Thân lại trở lên.”

Tạ Yên Khách sa sầm nét mặt nói: “Bối đại phu! Ngươi giống như âm hồn bất tán, quanh quẩn mãi bên Tạ mỗ như vậy là có ý gì?”

Bối Hải Thạch đáp: “Anh em bọn tại hạ đâu có âm mưu ý định gì đâu?”

Bảy gã kia nãy giờ chưa hề mở miệng, bây giờ mới cùng lên tiếng: “Bọn tại hạ đến đây chỉ xin vào ra mắt bang chúa, và đón người về ngay tổng đà.”

Tạ Yên Khách tức giận hỏi: “Nói đi nói lại thì các ngươi vẫn nghi ngờ lão phu đem giấu bang chúa của các ngươi. Có phải thế không?”

Bối Hải Thạch đáp: “Bên trong còn có ẩn tình gì, trước khi gặp mặt Thạch bang chúa thì không ai dám vội vã đoán mò.” Rồi lão quay lại bảo một hán tử trung niên thân hình cao lớn: “Vân hương chủ! Ngươi cùng các vị hiền đệ chia nhau bốn mặt tìm kiếm, nếu thấy đại giá bang chúa thì lập tức báo cho ngu huynh biết.”

Gã Vân hương chủ này, tay phải cầm một đôi đoản kích bằng bạc sáng loáng, gật đầu nói: “Tuân lệnh.” Rồi gã lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Bối tiên sinh có lệnh, chúng ta phải đi kiếm bang chúa.”

Sáu gã kia đồng thanh đáp: “Vâng!” Bảy người đi giật lùi mấy bước rồi quay mình đi vào rừng.

Tạ Yên Khách tuy đã kiềm chế được một người, nhưng bọn người bang Trường Lạc chẳng quan tâm gì đến sự yên nguy của Mễ hương chủ, ai nấy cứ việc mà đi, chẳng e dè chi hết. Dường như lão có hạ sát Mễ hương chủ, chúng cũng coi là chuyện nhỏ. Chỉ có một mình Bối Hải Thạch ở lại, hiển nhiên có ý giám sát bản thân mình, chứ không phải để tìm cách giải cứu Mễ hương chủ. Tạ Yên Khách chợt nghĩ ra một chuyện: “Thiếu niên đó đã giao Huyền Thiết Lệnh cho mình, việc này chắc đã đồn rộng khắp giang hồ. Bọn này lấy danh nghĩa đi tìm bang chúa, dụng ý chắc là bắt cóc thiếu niên đó. Giả tỉ thiếu niên đó mà rơi vào tay chúng, Trường Lạc Bang sẽ có lợi thế để chế phục ta. Nhưng Tạ Yên Khách này là nhân vật như thế nào mà để cho người ta đến nhà mình ăn hiếp?”

Tạ Yên Khách quyết định được chủ ý, đợi bảy người kia đi xa, đột nhiên dồn nội lực vào sau lưng Mễ hương chủ rồi đẩy ra. Đây là chiêu Văn Thừa Võ úy, dùng thân thể Mễ hương chủ làm binh khí để tấn công Bối Hải Thạch.

Lão từng nghe Bối Hải Thạch nội lực tinh thâm, chỉ vì hồi trung niên bị nội thương, trong người thường xuyên có bệnh mà võ công có phần sút kém. Bối Hải Thạch cũng vì mắc bệnh lâu ngày, phải tìm cách chữa cho mình mà biết nghề thuốc, vì thế mà có ba chữ “Bối đại phu”, chứ y không phải là thầy lang thật sự. Tuy võ công y có phần giảm sút, nhưng vẫn còn lợi hại lắm. Chín năm trước đây, Kỳ Trung Tam Sát đã bị y đánh chết trong một đêm và ở ba nơi cách nhau đến hai trăm dặm. Mỗi khi nhân vật giang hồ nhắc tới vụ này đều phải hoảng hồn. Vì thế tuy Tạ Yên Khách thấy Bối Hải Thạch ho hen liên tục dường như chân khí hư nhược, nhưng lão cũng không dám coi thường, xuất thủ toàn những chiêu hiểm độc nhất.

Bối Hải Thạch thấy Tạ Yên Khách đột ngột động thủ, vừa ho vừa nói: “Tạ tiên sinh… Hà tất phải tổn thương hòa khí…” Câu nói của y bị những cơn ho cắt thành mấy quãng. Y vừa nói vừa giơ song chưởng ra, lúc gần đụng vào Mễ hương chủ thì đột nhiên phóng chân trái ra, đá trúng bụng dưới Mễ hương chủ, hất người gã bay vọt qua đỉnh đầu mình ra phía sau lưng, đồng thời song chưởng của y phóng đến trước ngực Tạ Yên Khách.

Chiêu này biến hóa thật là kỳ dị. Tạ Yên Khách tuy kiến văn uyên bác mà cũng không hiểu chiêu thức đó tên là gì. Lão giật mình kinh hãi, thuận tay đưa ra nghênh đón chưởng lực đối phương, bỗng cảm thấy mười đầu ngón tay tê nhức như bị muôn ngàn mũi kim đâm vào. Trong lúc Tạ Yên Khách gấp rút vận nội kình để đỡ chưởng lực của đối phương, lão cảm thấy trước ngực trống rỗng, tựa hồ nội lực toàn thân hoàn toàn biến mất. Lão kêu thầm: “Không xong rồi! Mình vừa luyện chưởng pháp, nội lực vô tình đã bị hao tán đến bảy tám phần. Bây giờ làm sao so với hắn được?” Lập tức lão hạ tay xuống kích vào bụng Bối Hải Thạch. Tay phải của Bối Hải Thạch cũng hạ thấp xuống, ngăn chặn thế đánh của đối phương. Tạ Yên Khách phất mạnh tay áo ra, phát huy Thiết Tụ Công phất vào mặt họ Bối.

Bối Hải Thạch nghĩ bụng: “Thế đánh của lão tuy rất hiểm độc, nhưng dường như nội lực suy kiệt, không chừng là muốn dụ ta vào tròng.” Y bèn nghiêng người đi để tránh né tay áo của họ Tạ. Bốn chữ Ma Thiên Cư Sĩ trong võ lâm không ai dám coi thường, Bối Hải Thạch lại vừa thấy lão thi triển Bích Trâm Thanh Chưởng, chưởng pháp tinh kỳ, nội lực thâm hậu, biết rằng mình không thể bằng được. Nhưng vì bang chúa mất tích không thể không tìm, bị ép động thủ thì phải động thủ, tuy phát giác nội lực của đối phương nông cạn mà cũng phải đề phòng, không dám coi thường.

Tạ Yên Khách thu tay áo về. Nghe véo một tiếng, lão mượn kình phong ở tay áo để băng mình lùi lại mấy trượng, rồi chắp tay nói: “Xin thứ lỗi, sau này sẽ có ngày tái hội.” Miệng nói chưa dứt lời, người lão đã lùi về phía sau mau lẹ phi thường, nhưng vẫn ra vẻ ung dung, chẳng có gì là hấp tấp hốt hoảng cả.

Tạ Yên Khách ra ba chiêu liên tiếp, thấy tình thế không ổn mà phải rút lui, nhưng cũng không thể nói là lão đã thua Bối Hải Thạch. Tuy lão bị ép phải xuống Ma Thiên Nhai, nhưng bị chín người đối phương vây đánh mà vẫn kiềm chế được một tay cao thủ là Mễ hương chủ. Như vậy chẳng những oai danh bang Trường Lạc bị thương tổn, mà nhuệ khí phái này cũng bị giảm sút nặng nề.

Tạ Yên Khách theo vách núi dựng đứng tung mình đi xuống, trong lòng thấy khoan khoái hơn là phẫn nộ. Đột nhiên lão nghĩ đến thiếu niên kia phải rơi vào tay kẻ địch, sau này hậu hoạn vô cùng. Lão lập tức cảm thấy phiền não, dự tính: “Khi nội lực của ta khôi phục lại, chắc phải đi đến Trường Lạc Bang để lật ngược cả tổng đà của chúng lên. Nếu chúng không gặp được Cẩu Tạp Chủng thì chắc chắn không làm gì ta được, còn nếu Cẩu Tạp Chủng bị chúng kiềm chế hay quyến rũ, vừa gặp mặt ta đã nói: “Cháu xin ông tự chặt một cánh tay” thì hỏng bét. May mà kinh mạch âm dương của thằng lỏi này đã đảo lộn hết. Nội công của nó chẳng bao lâu sẽ luyện thành, khi luyện thành thì mất mạng lập tức. Ta đợi nó chết mới đi tìm Trường Lạc Bang để trút hận cũng được. Quân tử báo thù mười năm không muộn, việc này không nên gấp rút, cứ theo kế sách an toàn nhất mà làm.”

* * *

Bối Hải Thạch thấy Tạ Yên Khách tự nhiên rút lui khỏi Ma Thiên Nhai thì sinh nghi tự hỏi: “Lão đã kết giao cùng Thạch bang chúa mà sao lại hạ độc thủ với Mễ hương chủ? Chuyện khuất khúc như thế này thực là khó nghĩ, chẳng lẽ… chẳng lẽ lão đã phát giác ra mưu kế của chúng ta, không biết có nói với Thạch bang chúa chưa?” Lão không nén nổi, suy nghĩ lung tung mất một lúc rồi im lặng lắc đầu.

Bối Hải Thạch liền quay lại nâng Mễ hương chủ lên, áp hai bàn tay vào hai yếu huyệt Hồn Môn và Phách Hộ trên lưng để trút nội lực sang cho gã. Chỉ trong khoảng khắc, mắt Mễ hương chủ hé mở, khẽ thều thào: “Đa tạ Bối tiên sinh cứu mạng.”

Bối Hải Thạch đáp: “Mễ huynh đệ cứ nằm yên nghỉ ngơi, ngàn vạn lần nhớ đừng vận khí.”

Vừa rồi Tạ Yên Khách ra chiêu Văn Thừa Võ Úy định đưa Mễ hương chủ vào đất chết, đồng thời lại hạ độc thủ toan sát hại cả Bối Hải Thạch. Giả tỉ họ Bối cũng xuất chưởng đón tiếp, thì Mễ hương chủ bị hai luồng nội lực giáp công, nhất định phải mất mạng. Nhưng Bối Hải Thạch đã dùng chân trái ra đỡ ở bụng dưới Mễ hương chủ, một mặt là hất người gã bay qua đầu mình, một mặt là hóa giải quá nửa phần nội lực của Tạ Yên Khách. Cũng may lúc đó nội lực của Tạ Yên Khách chỉ còn lại một phần, nếu không thì chiêu này của Bối Hải Thạch kỳ diệu đến đâu cũng không thể bảo toàn được sinh mạng của Mễ hương chủ.

Bối Hải Thạch nhẹ nhàng đặt Mễ hương chủ xuống đất, đặt hai tay vào trước ngực gã để vận nội lực trị thương. Bất thình lình có tiếng la lên: “Bang chúa đây rồi! Bang chúa đây rồi!”

Bối Hải Thạch cả mừng nói: “Mễ huynh đệ! Tính mạng của huynh đệ không có gì nguy hiểm nữa. Ta đi yết kiến bang chúa đã.” Dứt lời, lão chạy vội về phía có tiếng hô hoán, trong bụng nghĩ: “Tạ ơn trời phật! Nếu không tìm thấy bang chúa, chỉ sợ bản bang tiêu tan thành mây khói, đại họa trước mắt chẳng còn ai chống đỡ!”

Bối Hải Thạch chạy chưa đầy một dặm thì đã thấy một người ngồi trên tảng đá lớn. Lão ngẩng đầu lên nhìn, thì đúng là bang chúa bản bang Thạch Phá Thiên. Bọn Vân hương chủ bảy người đang thõng tay đứng trước tảng đá rất nghiêm cẩn. Bối Hải Thạch chạy nhanh tới trước. Lúc này mặt trời đang ở giữa đỉnh đầu chiếu xuống, soi rõ mặt mũi người ngồi trên tảng đá. Người này mày rậm mắt to, khuôn mặt vuông vắn, không phải Thạch bang chúa thì còn ai nữa? Bối Hải Thạch mừng quá reo lên: “Bang chúa! Lão nhân gia có mạnh khỏe không?”

Lão vừa nói câu này thì phát hiện nét mặt Thạch bang chúa lộ vẻ cực kỳ đau khổ, má trái ẩn hiện sắc xanh như lạnh cóng, má phải đỏ nhừ như say rượu. Bối Hải Thạch là tay nội công cao cường, lại bị bệnh lâu ngày nên tinh thông y thuật. Lão thấy tình trạng này không ổn, giật mình kinh hãi nghĩ bụng: “Bang chúa… bang chúa làm gì vậy? Chẳng lẽ đang luyện nội công cao thâm hay sao? Thế thì nguy rồi, nhất định là Tạ Yên Khách đã truyền cho ông ấy. Trời ơi, chúng ta kéo nhau lên đỉnh núi này, e rằng đã làm phiền nhiễu đến việc luyện công của lão nhân gia.”

Chỉ trong chớp mắt, bao nhiêu mối nghi ngờ trong lòng Bối Hải Thạch đều thông suốt hết. Lão nghĩ: “Bang chúa đã mất tích nửa năm nay, tìm đâu cũng không ra, thì ra ẩn dật nơi này để luyện môn võ công cao thâm gì đó. Võ công của ông ấy càng cao thì bản bang càng có lợi, dĩ nhiên đó là việc tốt. Tạ tiên sinh chắc đã biết bang chúa luyện công đến lúc tối hậu, nếu người ngoài tới quấy nhiễu thì lão nhân gia sẽ phân tâm, vì thế mà bọn mình năn nỉ cách nào tiên sinh cũng nhất định không dẫn vào ra mắt. Tiên sinh có ý tốt như vậy mà bọn ta lại không biết điều, thật là đắc tội. Nhưng lão ta chỉ cần nói rõ là được, chẳng lẽ bọn ta nghe lại không hiểu hay sao? Trước giờ vẫn nghe nói lão họ Tạ này ngạo mạn, chắc thấy chúng ta tự tiện lên núi thì không vui, mới trở mặt xuất thủ giết người.”

Rồi lão lại nghĩ: “Xem vẻ mặt bang chúa thì dường như hai luồng nội lực âm dương trong người đang công kích nhau ghê gớm. Long hổ đâu có thể chung sống hòa bình với nhau được, nếu không ổn thì chắc chắn sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Tình trạng này nguy hiểm vô cùng.” Lão liền vẫy tay ra hiệu cho mọi người tạm rút lui. Khi đã cách xa phiến đá chừng mười trượng, Bối Hải Thạch mới nói rõ tình hình này cho mọi người nghe.

Mọi người nghe Bối Hải Thạch nói thì đều lộ vẻ vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Có người hỏi: “Bang chúa không đến nỗi tẩu hỏa nhập ma chứ?” Có người lại càu nhàu tự trách: “Chúng ta xông lên núi thật là lỗ mãng, quấy nhiễu lúc bang chúa luyện công, hậu họa e rằng không nhỏ.”

Bối Hải Thạch nói: “Mễ hương chủ đã bị Tạ tiên sinh đả thương, anh em nào qua đó săn sóc cho y một chút. Ta phải ở đây chầu chực, phòng khi bang chúa gặp nguy thì còn ra tay viện trợ. Còn các vị khác thì cứ ở gần đây chờ đợi, chớ làm huyên náo. Giả tỉ có địch nhân lên núi thì các vị tìm cách làm họ rút lui êm thấm, tuyệt nhiên không được kinh động đến bang chúa.” Mọi người đều là những tay lão luyện giang hồ, chẳng ai là không hiểu cái nguy khi đang luyện nội công mà có đại địch đến quấy nhiễu tâm thần. Họ đều vâng lời, chia ra canh gác những nơi hiểm yếu của Ma Thiên Nhai.

Bối Hải Thạch im lặng trở lại trước mặt Thạch bang chúa, thấy da mặt y đang co giật, toàn thân run lẩy bẩy, miệng há thật to như muốn la lên mà không phát ra tiếng. Hiển nhiên nội lực Thạch bang chúa đang đi vào đường rẽ, tính mạng nguy kịch trong khoảnh khắc. Bối Hải Thạch kinh hãi vô cùng, rất muốn cứu viện nhưng lại chưa hiểu Thạch bang chúa đang luyện nội công theo đường lối nào. Giữa lúc âm dương đang xung kích nhau, mình mà ra tay lầm lạc một chút là khiến y chết lẹ hơn.

Nhìn kỹ lại thì thấy y phục trên mình Thạch bang chúa bị rách tả tơi, da thịt đầy vết máu, trên đầu đang bốc ra một làn mù trắng dày đặc, ngưng tụ lại mà không tan đi. Bối Hải Thạch nghĩ: “Thạch bang chúa về chiêu số võ công thì biến ảo khôn lường, nhưng nội lực thì trước nay chẳng thâm hậu gì cho lắm. Nhưng trên đỉnh đầu đã bốc hơi trắng thì công lực phải cao thâm đến tột độ, có lý đâu mới nửa năm mà công lực lão nhân gia lại tiến bộ thần tốc đến thế?”

Bối Hải Thạch còn đang ngần ngừ, chưa biết làm thế nào thì đột nhiên ngửi thấy mùi khét lẹt, rồi trên vai áo bên phải Thạch bang chúa có một luồng khói trắng bốc lên. Đó chính là một hiện tượng tẩu hỏa nhập ma lúc luyện công, người luyện sẽ bị chết trong chớp mắt. Lão cực kỳ kinh hãi liền đưa tay ra nắm lấy huyệt Thanh Lãnh Uyên trên khuỷu tay phải của bang chúa, ít ra là để y tạm thời yên tĩnh lại một chút. Ngờ đâu, ngón tay lão đụng vào khuỷu tay Thạch bang chúa lại thấy lạnh ngắt, chẳng khác nào sờ phải một khối băng, bất giác run bắn người lên.

Bối Hải Thạch không dám vận nội lực để chống lại, vội rụt tay về tự hỏi: “Đó là nội công gì mà kỳ lạ thế? Tại sao nửa người lạnh thấu xương, còn nửa người lại nóng như lửa đốt.” Lão chưa biết phải làm sao, đột nhiên thấy người Thạch bang chúa co rúm lại thành một khối, lăn từ trên phiến đá xuống, giãy giụa mấy cái, rồi ôm đầu nằm yên không nhúc nhích nữa.

Bối Hải Thạch cả kinh la lên: “Bang chúa! Bang chúa!…” Rồi lão đưa tay xem thử thì thấy y hãy còn hô hấp, nhưng hơi thở rất yếu ớt, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể tắt hơi. Bối Hải Thạch chau mày, cất tiếng la gọi, rồi đỡ Thạch bang chúa ngồi dậy, tựa vào phiến đá. Lão thấy tình hình rất nguy cấp, lập tức ngồi xếp bằng cạnh bang chúa, tay trái áp vào bụng, tay phải áp vào lưng y, vận nội lực để bảo hộ tâm mạch.

Lát sau mọi người trong bang cũng kéo đến. Họ thấy sắc mặt bang chúa lúc đỏ như say rượu, lúc xanh như chết cóng, thân thế không ngớt run lên bần bật thì ai nấy cả kinh thất sắc, ánh mắt cực kỳ lo âu nghi hoặc. Bao nhiêu con mắt đều đổ dồn cả vào Bối Hải Thạch, thấy trán lão không ngớt tuôn ra những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu, toàn thân rung động không ngừng, hiến nhiên lão cũng đang phải dùng toàn lực.

Sau rất lâu, Bối Hải Thạch mới từ từ buông tay, đứng dậy nói: “Hiến nhiên bang chúa đang tu luyện một môn nội công thượng thặng. Người có bị tẩu hỏa nhập ma hay không thì lúc này ta cũng chưa dám quyết đoán. Ta vừa tạm thời giúp lão nhân gia qua một cửa ải khó khăn, nhưng cũng không dám chắc về sau sẽ thế nào. Đây là một việc rất trọng đại, xin các vị huynh đệ cùng nhau bàn bạc xem có kế sách nào không.”

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng nghĩ thầm: “Đến Bối đại phu mà còn nghĩ không ra thì chúng ta còn có ý kiến gì nữa?” Không ai lên tiếng nói chi hết.

Mễ hương chủ cũng đã được dìu đến, ngồi tựa vào gốc cây bách khẽ nói: “Bối tiên sinh! Tiên sinh bảo làm thế nào thì mọi người chỉ biết làm theo như vậy. Ý kiến của tiên sinh còn cao minh gấp mấy bọn tiểu đệ.”

Bối Hải Thạch lại nhìn Thạch bang chú nói: “Bốn môn phái lớn ở Quan Đông đã hẹn vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín sẽ đến thăm Tổng đà bản bang, đã sắp đến ngày rồi. Việc này có quan hệ đến sự vinh nhục tồn vong của bản bang, hết thảy anh em đều biết rõ. Thực ra thì bốn phái lớn ở Quan Đông, thiết kích, quỷ đầu đao, mười mấy con phi đao đó cũng không làm khó dễ được Trường Lạc Bang của chúng ta. Còn vụ về môn phái của bang chúa là chuyện nội bộ, chúng ta cũng chẳng lo đến làm chi, nhưng việc này nếu truyền ra giang hồ thì thật sự không ổn.” Lão ho mấy tiếng, lại nói tiếp: “Việc trọng đại thật sự thì mọi người đều biết rõ, đó là Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo, chắc chắn phải do đích thân bang chúa nhận lấy. Nếu không… nếu không thì mọi người khó mà qua khỏi kiếp nạn này.”

Vân hương chủ lên tiếng: “Bối tiên sinh nói đúng lắm. Tiếng tâm bang Trường Lạc chúng mình trên giang hồ thế nào, anh em đều biết cả rồi. Huynh đệ chúng ta quen hành động mau lẹ, không khéo mồm miệng như bọn ngụy quân tử, người ta muốn thưởng thiện thì cũng chẳng có thiện gì mà thưởng, còn muốn phạt ác thì có nhiều món nợ thật là khó mà tính toán. Vụ này nếu không có bang chúa chủ trương thì e rằng… Chỉ ngại…”

Bối Hải Thạch nói: “Việc này không thể chậm trễ. Theo ý ta, thì phải gấp rút thỉnh bang chúa về tổng đà. Nếu có cát nhân thiên tướng bảo trợ cho mà lão nhân gia trong vòng mười ngày nửa tháng có thể phục hồi nguyên trạng thì thật là phúc đức. Mà dù bang chúa chưa khỏi bệnh nhưng có mặt ở tổng đà thì anh em chống ngoại địch cũng yên tâm được một phần. Có đúng thế không?”

Mọi người đều gật đầu đáp: “Tiên sinh nói rất phải.”

Bối Hải Thạch nói: “Đã thế thì chúng ta chia làm hai tốp, đưa bang chúa cùng Mễ hương chủ về tổng đà.”

Mọi người bèn chặt cành cây, lột vỏ cây buộc thành hai cái cáng, đặt Thạch bang chúa cùng Mễ hương chủ lên cáng, buộc chặt lại để khi xuống núi khỏi trơn tuột. Tám người luân phiên khiêng hai cái cáng từ Ma Thiên Nhai đi xuống.

* * *

Hôm ấy, chàng thiếu niên đang theo lời Tạ Yên Khách mà luyện nội công như mọi ngày. Vào khoảng giờ Ngọ, chàng cảm thấy khí nóng trong những kinh mạch Thủ Dương Minh Đại Trường Kinh, Túc Dương Minh Vị Kinh, Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh, Thủ Thái Dương Tam Tiêu Kinh, Túc Thiếu Dương Đởm Kinh cuồn cuộn bốc lên không thể kiềm chế được. Trong lúc ấy, các kinh mạch thuộc Thái Âm, Thiếu Âm, Quyết Âm lại lạnh cóng, tựa hồ đông cứng thành băng. Bên nhiệt thì nóng ghê gớm mà bên hàn lại lạnh kinh khủng, hai bên không lưu thông với nhau được.

Thì ra mấy năm nay chàng chuyên cần tu luyện, công lực đã tăng tiến rất nhiều. Giờ Ngọ hôm nay, ngoài xung mạch, đới mạch ra, những kinh mạch âm dương đột nhiên xung kích kịch liệt với nhau. Chàng thiếu niên gắng gượng chống đỡ được chừng nửa giờ rồi mê man đi không biết gì nữa, cũng không biết đã bao lâu. Lúc thì chàng thấy mình rơi vào hỏa lò nóng bỏng, mồ hôi thoát ra đầm đìa, môi miệng khô như cháy, lúc lại tưởng như rơi vào một cái hầm đá, máu trong người như đông hết lại thành băng.

Chàng thiếu niên cứ hết nóng rồi lại lạnh, hết lạnh rồi lại nóng. Trong lúc mơ màng chàng thấy đủ hạng người, trai có, gái có, xấu có, đẹp có, qua lại trước mắt chàng, nói năng với chàng, mà sao chẳng nghe được câu nào. Chàng muốn kêu lên mà không sao thốt ra lời được. Có lúc chàng thấy trước mắt sáng lòa, có lúc lại tối đen. Có lúc chàng tưởng như người bên cạnh đang mời uống gì đó, được thức ngon thì tươi cười, mà uống phải những loại cay đắng thì nhăn mặt lại, cũng không biết đó là những loại nước gì.

Chàng thiêu niên cứ mơ mơ hồ hồ như vậy không biết đã mấy ngày, một hôm bỗng cảm thấy trán mát rượi, mũi ngửi thấy mùi thơm. Chàng từ từ mở mắt ra, vật đầu tiên nhìn thấy là một cây nến đỏ được thắp sáng, ánh sáng lung linh. Rồi chàng lại nghe thấy một thanh âm thanh tao, dịu dàng nói: “May quá, cuối cùng công tử cũng tỉnh lại rồi.” Trong giọng nói đầy vẻ hân hoan. Chàng thiếu niên đưa mắt nhìn về phía phát ra thanh âm, thì thấy người nói chuyện là một thiếu nữ chừng mười bảy mười tám tuổi, mặc áo xanh nhạt, khuôn mặt trái xoan rất kiều diễm, ánh mắt trong veo đang nhìn mình, khóe miệng lộ một nụ cười, lại nhẹ nhàng hỏi: “Công tử còn chỗ nào khó chịu nữa không?”

Trong đầu óc chàng lúc này trống rỗng, chỉ còn nhớ mình đang luyện công trên Ma Thiên Nhai thì đột nhiên cảm thấy nửa người nóng như lửa còn nửa người lại lạnh như băng, rồi mê man không biết gì nữa. Bây giờ vừa hồi tỉnh thì đột nhiên thấy thiếu nữ này xuất hiện, chàng lẩm bẩm: “Ta… ta…” rồi lại phát giác ra mình đang nằm trên một cái giường êm dịu, lại có chăn đắp trên người. Chàng toan ngồi dậy, nhưng vừa cựa mình thì khắp tứ chi mình mẩy đau đớn vô cùng, tựa như bị trăm nghìn mũi kim châm chích, không nhịn được phải la lên một tiếng.

Thiếu nữ nói: “Công tử vừa hồi tỉnh, không nên cử động nhiều. Tạ ơn Trời Phật! Thế là cái mạng nhỏ bé này có thể giữ được rồi.” Nàng nói xong, đột nhiên cúi xuống nhẹ nhàng hôn lên trán chàng, khi ngẩng dậy thì mặt đỏ bừng lên.

Chàng thiếu niên cũng không hiểu là nàng mắc cỡ, chỉ nhận thấy hai má nàng đỏ ửng lại càng xinh đẹp, bèn mỉm cười run run hỏi: “Ta… ta ở chỗ nào?”

Thiếu nữ cũng mỉm cười, dịu dàng giơ ngón tay trỏ lên để vào miệng ra hiệu cho chàng đừng lên tiếng. Nàng khẽ nói: “Có người đến! Ta phải đi đây!” Bóng người thấp thoáng, nàng chuồn qua cửa sổ ra ngoài.

Chàng thiếu niên chỉ thấy hoa mắt lên một cái là thiếu nữ đã mất hút. Chàng lại nghe trên nóc nhà có những tiếng bước chân lạo xạo rất nhẹ, nhanh chóng rời xa, không khỏi bâng khuâng tự hỏi: “Nàng là ai? Nàng còn đến thăm ta nữa không?”

Một lát sau, quả nhiên có tiếng chân người đi đến bên cửa, rồi có tiếng hắng giọng. Cửa phòng kẹt mở. Hai người đi vào là một lão già mặt như người bệnh và một hán tử vừa ốm nhom vừa cao kều, nét mặt hơi quen quen như đã gặp ở đâu.

Lão già thấy chàng thiếu niên giương mắt lên nhìn thì lộ vẻ vui mừng tiến lại nói: “Bang chúa! Bang chúa thấy trong người thế nào? Hôm nay vẻ mặt bang chúa đã tươi tỉnh lắm rồi.”

Chàng thiếu niên ngập ngừng hỏi lại: “Lão… lão gọi ta là gì? Ta… ta… ở đâu đây?”

Lão già thoáng vẻ lo âu nhưng lại tươi cười ngay, đáp: “Bang chúa bị trọng bệnh đã bảy tám ngày, bây giờ thần trí phục hồi, thật là chuyện đáng mừng. Xin bang chúa cứ nằm nghỉ dưỡng thần, sáng mai thuộc hạ sẽ đến vấn an.” Lão nói xong, đưa ngón tay ra đặt lên cổ tay chàng để xem mạch, rồi một lát sau không ngừng gật đầu cười nói: “Tâm mạch bang chúa đã ổn định, không có gì đáng lo ngại nữa. Quả nhiên người tốt có hoàng thiên che chở, toàn bang cũng được hưởng phúc lây.”

Chàng thiếu niên kinh ngạc nói: “Ta… ta… là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải bang chúa.”

Lão già cùng gã gầy đét nghe vậy lập tức ngẩn mặt ra, đưa mắt nhìn nhau. Lão già khẽ nói: “Xin bang chúa cứ yên nghỉ.” Lão đi giật lùi mấy bước, đoạn trở ra khỏi phòng.

Lão già này chính là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch, còn gã gầy đét chính là hương chủ Mễ Hoành Dã.

Khi ở Ma Thiên Nhai, Mễ Hoành Dã đã bị Tạ Yên Khách dùng nội lực đả thương. Cũng may lúc đó nội lực Tạ Yên Khách đã suy giảm, lại nhờ Bối Hải Thạch võ công cao cường, y thuật tinh thông, kịp thời cứu viện gã đem về tổng đà bang Trường Lạc, điều dưỡng mấy ngày là dần dần bình phục. Nhưng gã một đời nổi tiếng anh hùng mà bị Tạ Yên Khách chỉ ra một chiêu đã bắt được, trong lòng phiền muộn vô cùng.

Bối Hải Thạch đã phải khuyên gã: “Mễ hiền đệ! Vụ này cũng tại chúng ta hành động lỗ mãng mà ra. Bây giờ nghĩ lại, phải chi Tạ Yên Khách nóng giận mà chế phục cả chín anh em, thì chắc không còn ai đến kinh động bang chúa khiến người phải tẩu hỏa nhập ma. Bây giờ bang chúa còn hôn mê bất tỉnh, tình thế nguy ngập, không ai dám đoán trước là lão nhân gia có qua khỏi được không. Môn nội công bang chúa đang luyện âm dương xung đột nhau như thế, dù chúng ta bản lãnh đến đâu cũng không thể luyện đến nơi được. Vạn nhất bang chúa xảy chuyện bất trắc thì Mễ hiền đệ là người tội nhẹ nhất trong chín anh em ta, vì hiền đệ vừa lên Ma Thiên Nhai đã bị Tạ tiên sinh kiềm chế, mất công lực từ trước khi thấy mặt bang chúa.”

Mễ Hoành Dã nói: “Bối tiên sinh không thể phân biệt kẻ có tội hay không bằng cách đó được. Bang chúa mà có mệnh hệ nào thì cả chín người chúng ta đều đại họa lâm đầu, còn phân biệt tội nặng với tội nhẹ gì nữa.”

Đến ngày thứ tám, Bối Hải Thạch và Mễ Hoành Dã vào thăm thì thấy Thạch bang chúa đã mở mắt ra và miệng đã nói được mấy tiếng, hai người mừng rõ vô cùng. Bối Hải Thạch bắt mạch thấy đã khá ổn định, còn chưa kịp mừng thì chàng thiếu niên lại nói một câu ngớ ngẩn “Ta là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải bang chúa”, khiến cho Bối, Mễ hai người cả kinh thất sắc không dám nói gì nữa, lập tức lui ra.

Ra khỏi phòng, Mễ Hoành Dã hỏi Bối Hải Thạch: “Sao lại như thế?”

Bối Hải Thạch trầm ngâm một lát rồi đáp: “Hiện giờ tâm thần bang chúa còn chưa tỉnh táo, nhưng vẫn tốt hơn là cứ hôn mê. Tiểu huynh chỉ còn biết hết lòng chữa trị, sớm muộn gì thì chắc người cũng khỏi thôi.” Nói tới đây, lão ngưng lại một lát rồi tiếp: “Lúc này đang có nhiều việc gấp, mà chẳng biết bao giờ lão nhân gia mới hoàn toàn bình phục. Nhưng chỉ cần có bang chúa ở đây, cho dù trời có sập xuống cũng có người gánh vác.” Rồi lão vỗ nhè nhẹ lên vai Mễ Hoành Dã, mỉm cười nói: “Mễ hiền đệ! Ngươi không phải quá lo lắng, mọi việc ta sẽ lo liệu ổn thỏa.”

* * *

Chàng thiếu niên thấy hai người ra khỏi, lại mơ màng nhìn qua căn phòng một lượt. Chàng thấy mình nằm trên một chiếc giường rất lớn, trước giường là một án sách sơn son, bên án sách có hai chiếc ghế bành trải gấm. Trong phòng chỗ nào cũng bày biện xa hoa mỹ lệ, màn hồng đệm gấm, khói trầm đưa lên nhè nhẹ chẳng khác gì một động phủ thần tiên. Bỗng chàng thấy hơi hoa mắt, thấy chẳng có gì quen thuộc với mình, liền buông một tiếng thở dài nghĩ thầm: “Chắc là mình đang nằm mơ!”

Nhưng chàng nhớ lại thiếu nữ áo xanh nhạt vừa rồi dịu dàng nói chuyện, nét mặt rõ ràng lộ vẻ vui mừng. Cả đến động tác nàng chui qua cửa sổ chuồn đi cũng là sự thực hiển nhiên, không phải là mộng ảo. Chàng thiếu niên đưa tay phải lên toan sờ đầu, nhưng tay vừa động nhẹ thì toàn thân lại đau đớn như dần. Chàng không nhịn được, lại la lên một tiếng.

Bỗng trong góc phòng có tiếng người hắt hơi rồi hỏi: “Thiếu gia đã tỉnh rồi ư?” Đây đúng là thanh âm một thiếu nữ vừa thức dậy còn ngái ngủ. Đột nhiên cô ta thất thanh la gọi: “Thiếu gia đã tỉnh rồi ư?” Rồi một thiếu nữ áo vàng từ góc phòng nhảy vọt đến trước giường chàng.

Chàng thiếu niên tưởng đây là thiếu nữ lúc nãy vào thăm mình, bỗng thấy mừng rỡ. Nhưng chàng định thần nhìn kỹ thì thiếu nữ này mặc áo ngắn màu vàng, chẳng những màu áo khác nhau mà vẻ mặt cũng không giống. Thiếu nữ trước mắt chàng mặt tròn, mắt to, không xinh đẹp bằng cô áo xanh nhưng dịu dàng yểu điệu hơn. Hôm nay là lần đầu tiên chàng thiếu niên được đối diện chuyện trò với những cô gái trạc tuổi mình, đương nhiên không nhận xét được những sai biệt nhỏ, nhưng cũng hiểu cô này đang vừa vui mừng vừa kinh hãi. Chàng đáp: “Ta tỉnh rồi. Ta… ta không phải đang nằm mơ chứ?”

Thiếu nữ cười khanh khách nói: “Ai mà biết thiếu gia có đang nằm mơ hay không?” Đột nhiên mặt nàng nghiêm trang lại, hỏi tiếp: “Thiếu gia có cần gì không?”

Chàng thiếu niên ngạc nhiên, vội hỏi lại: “Cô kêu ta là gì? Thiếu… thiếu gia nghĩa là gì?”

Thiếu nữ nhíu cặp lông mày ra chiều bất mãn, hỏi lại: “Bọn nô tỳ là phận tôi đòi, chẳng kêu chủ nhân bằng thiếu gia thì kêu bằng gì nữa?”

Chàng thiếu niên lẩm bẩm: “Vừa rồi một người kêu mình bằng… bang chúa gì gì đó, rồi bây giờ lại có một cô kêu bằng thiếu gia. Vậy thì mình là ai, và sao lại ở đây?”

Thiếu nữ dịu dàng lại, cất tiếng khuyên: “Thiếu gia! Hiện giờ thiếu gia chưa hoàn toàn khỏi hắn, đừng nói những chuyện này. Thiếu gia có ăn chút yến sào không?”

Chàng thiếu niên hỏi: “Yến sào ư?” Chàng không biết đó là cái thứ gì, nhưng cảm thấy rất đói bụng, có bất cứ cái gì ăn cũng tốt, nên liền gật đầu. Thiếu nữ đó bèn chạy sang phòng bên, lát sau bưng ra một cái khay. Trên khay có đặt một cái liễn sứ vẽ hoa màu xanh, mùi thơm bốc lên nghi ngút. Chàng thiếu niên vừa ngửi thấy đã chảy nước miếng, bụng sôi ùng ục.

Thiếu nữ tủm tỉm cười nói: “Bảy tám ngày nay thiếu gia chỉ uống sâm thang để cầm hơi, chắc bây giờ đói lắm rồi!” Cô vừa nói vừa đặt mâm xuống trước mặt chàng.

Dưới ánh nến, chàng thiếu niên thấy trong liễn đựng một thứ gì trắng như tuyết, trông như cháo mà không phải là cháo, lại loáng thoáng có mấy cánh hoa hồng bốc lên một mùi thơm thanh nhã. Chàng cất tiếng hỏi: “Cái này để ta ăn đây phải không?”

Thiếu nữ mỉm cười đáp: “Phải rồi! Thiếu gia lại còn phải hỏi ư?”

Chàng thiếu niên tự hỏi: “Không biết thứ này mất bao nhiêu tiền, mà mình chẳng có đồng bạc nào. Ta hỏi trước là hơn.” Chàng liền nói: “Trong mình ta không có tiền, thì… thì lấy gì trả cô được?”

Thiếu nữ sửng sốt, nhưng lát sau thì không nhịn được, cười khanh khách nói: “Thiếu gia vừa trọng bệnh mà tính nết vẫn chẳng thay đổi chút nào, nói ra toàn những lời đùa giỡn. Thiếu gia đã đói thì cứ ăn đi thôi.” Cô nói xong, liền bưng liễn yến sào đến gần.

Chàng thiếu niên cả mừng hỏi: “Ta ăn cái này không phải trả tiền ư?”

Thiếu nữ tưởng là chủ nhân trêu ghẹo, trong lòng hơi khó chịu liền xịu mặt xuống đáp: “Không phải trả tiền. Thiếu gia có ăn không?”

Chàng thiếu niên vội đáp: “Ta ăn, ta ăn…” Rồi chàng đưa tay ra cầm thìa, nhưng vừa cất tay lên thì toàn thân lại đau đớn không chịu được. Chàng nghiến chặt răng, từ từ giơ tay lên, nhưng tay cứ run bần bật không ngớt.

Thiếu nữ mặt lạnh như tiền hỏi: “Thiếu gia đau thật hay là giả vờ?”

Chàng thiếu niên lấy làm kỳ hỏi lại: “Đương nhiên là đau thật, tại sao phải giả vờ chứ?”

Thiếu nữ nói: “Được rồi! Thấy thiếu gia ốm thập tử nhất sinh, nô tỳ phá lệ mà đút cho thiếu gia ăn. Nhưng nếu thiếu gia lại thừa cơ mà đụng đậy chân tay bừa bãi, thì nô tỳ mặc kệ mà bỏ đi đấy.”

Chàng thiếu niên càng nghe càng thấy ngạc nhiên, lại hỏi: “Đụng đậy chân tay bừa bãi nghĩa là gì?”

Thiếu nữ đôi má ửng hồng, lườm chàng một cái rồi lấy muỗng múc yến sào trong liễn, đổ vào miệng chàng. Chàng thiếu niên ngơ ngác, không ngờ trên đời lại có người tử tế như vậy. Chàng há miệng ra nuốt một thìa yến sào thì thấy vừa thơm vừa ngon, khoan khoái không biết thế nào mà nói. Thiếu nữ không nói câu gì, múc cho chàng ba thìa liên tiếp. Cô vẫn sợ chàng có những hành động bất lịch sự nên cứ đứng cách giường xa xa, phải vươn tay ra mới đổ được yến sào vào miệng chàng.

Chàng thiếu niên đưa lưỡi liếm môi, khen luôn miệng: “Ngon quá! Thật là ngon quá! Ta hết sức cảm ơn cô!”

Thiếu nữ cười lạnh: “Thiếu gia đừng tưởng dùng ngụy kế mà đánh lừa được nô tỳ! yến sào chỉ là yến sào như mọi khi, thiếu gia ăn có đến hàng ngàn lần rồi, sao chẳng thấy khen ngon bao giờ?”

Chàng thiếu niên không khỏi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Mình đã ăn thứ này bao giờ đâu?” Chàng liền hỏi: “Cái này… cái này là yến sào ư?”

Thiếu nữ hắng giọng một tiếng rồi đáp: “Thiếu gia thật khéo giả vờ!” Nói xong câu này cô ta lùi một bước, trên mặt đầy vẻ cảnh giác.

Chàng thiếu niên thấy cô ta mặc áo ngắn màu vàng óng, mới ngủ dậy chưa kịp chải tóc nên hai lọn tóc trên đầu còn rối bù xù, chân cũng chưa đi tất, hai bàn chân trắng xỏ trong đôi hài thêu. Mẹ chàng quanh năm đi tất, lại chẳng cho chàng vào phòng bao giờ. Chàng chưa từng được thấy đôi chân đẹp đẽ như thế, không nhịn được phải cất tiếng khen: “Chân… chân của cô thật là đẹp.” Thiếu nữ đỏ mặt lên ra chiều giận dữ. Cô ta đặt thịch liễn yến xuống bàn, quay lưng đi tới góc phòng, cuốn chiếu rồi cầm cả chăn gối bước ra cửa.

Chàng thiếu niên kinh hãi hỏi: “Cô… cô đi đâu? Cô không nhìn đến ta nữa ư?” Giọng nói của chàng tỏ vẻ khẩn thiết.

Thiếu nữ nói: “Thiếu gia bệnh nặng đến chết đi sống lại, mới nhúc nhích được một chút đã lại nói những câu vớ vẩn rồi. Thiếu gia là chủ, nô tỳ là phận tôi đòi thấp kém, khi nào lại dám tự tiện bỏ đi, mặc kệ chủ nhân?” Nàng nói xong thì đã bước ra khỏi cửa.

Chàng thiếu niên thấy cô ta tức giận bỏ đi, cũng không hiểu mình đã lầm lỗi gì, nghĩ bụng: “Một cô nhảy qua cửa sổ, một cô bước khỏi cửa lớn mà đi. Mấy cô này nói gì mình cũng chẳng hiểu chi hết, thật không biết chuyện gì nữa.” Chàng còn đang ngơ ngẩn xuất thần, bỗng nghe tiếng bước chân rất nhẹ, thiếu nữ vừa rồi lại quay vào phòng. Mặt cô vẫn còn ra chiều tức giận, tay bưng một thau nước rửa mặt.

Chàng thiếu niên thấy nàng trở lại thì cả mừng. Thiếu nữ đặt thau nước xuống bàn, lấy trong thau ra một chiếc khăn mặt nóng còn bốc hơi nghi ngút. Nàng vắt cho ráo nước, rồi đưa lại trước mặt chàng, lạnh nhạt nói: “Thiếu gia lau mặt đi!”

Chàng thiếu niên vội đáp: “Vâng, vâng!” rồi vội đưa tay ra cầm lấy. Nhưng chàng vừa cử động hai tay thì toàn thân lại đau đớn vô cùng, nghiến răng cố chịu để đưa khăn lên lau mặt, nhưng tay giơ lên còn cách mặt chừng một thước thì không sao đưa gần vào được nữa.

Thiếu nữ thấy vậy bán tín bán nghi, cười lạnh nhạt nói: “Thiếu gia giả vờ khéo thật!” Cô đón lấy khăn mặt rồi nói tiếp: “Thiếu gia muốn nô tỳ lau mặt cho cũng chẳng khó gì, nhưng đừng có đưa tay ra quấy rối. Thiếu gia chỉ đụng tới một sợi tóc, là nô tỳ vĩnh viễn không vào phòng nữa.”

Chàng thiếu niên nói: “Ta không dám. Cô nương đừng lau mặt cho ta nữa. Tấm khăn trắng như bông thế này mà lau vào mặt ta, thì bị dơ bẩn mất.”

Thiếu nữ nghe giọng nói chàng nhỏ nhẹ hơn trước, lời lẽ thì hoàn toàn chẳng giống ngày trước chút nào, vớ vẩn chẳng ra nghĩa lý gì nữa, thì không khỏi sinh lòng ngờ vực. Cô ta nghĩ thầm: “Không chừng trận ốm này làm chàng tổn thương đến não. Nghe Bối đại phu kể thiếu gia đang luyện công thì bị tẩu hỏa nhập ma, tổn hại đến lục phủ ngũ tạng, tính mạng giữ được hay không còn khó nói. Nếu không tổn thương đến não thì sao chàng lại nói trăng nói cuội như thế?” Nghĩ vậy cô ta liền hỏi: “Thiếu gia! Thiếu gia còn nhớ tên tiểu tỳ không?”

Chàng thiếu niên đáp: “Cô nương chưa nói bao giờ, thì ta biết làm sao được?” Rồi chàng mỉm cười nói tiếp: “Tên ta không phải là Thiếu gia mà là Cẩu Tạp Chủng, mẫu thân vẫn gọi ta như vậy. Nhưng lão bá lại bảo Cẩu Tạp Chủng không phải là tên, chỉ là tiếng dùng để mắng người, nghe không hay. Còn cô nương tên là gì?”

Thiếu nữ càng nghe thì đôi mày càng nhăn tít lại, nghĩ thầm: “Vẻ mặt thiếu gia chẳng có vẻ gì là giỡn cợt hay chọc ghẹo. Đúng là chàng mất trí rồi.” Nghĩ vậy cô không khỏi đau lòng, liền hỏi: “Thiếu gia! Thiếu gia thật không nhận ra tiểu tỳ là Thị Kiếm nữa ư?”

Chàng thiếu niên hỏi lại: “Cô nương là Thị Kiếm phải không? Từ đây ta gọi cô nương là Thị Kiếm tỷ tỷ. Mẫu thân ta có dặn rằng: Nếu gặp nữ nhân hơn tuổi mình nhiều thì kêu bằng bà bà, nếu chỉ hơn vài tuổi thì kêu bằng tỷ tỷ. “

Thị Kiếm buồn bã cúi xuống, bất giác vừa khóc vừa nói: “Thiếu gia… Thiếu gia quên Thị Kiếm này thật, không phải giả vờ để lừa gạt tiểu tỳ ư?”

Chàng thiếu niên lắc đầu nói: “Thật sự ta không hiểu được cô nói gì. Thị Kiếm tỷ tỷ! Sao tỷ tỷ lại khóc? Tại sao tỷ tỷ không vui vẻ? Ta có lầm lỗi gì không? Mỗi khi mẫu thân của ta không vui vẻ thì lại đánh ta, mắng ta. Tỷ tỷ có đánh ta mắng ta cũng được.”

Thị Kiếm nghe vậy lại càng đau lòng như cắt. Nàng cầm khăn từ từ lau mặt cho chàng, hạ thấp giọng nói: “Tiểu tỳ là một đứa a hoàn, có lý nào lại đánh mắng thiếu gia? Tiểu tỳ chỉ mong rằng ông trời phù hộ cho thiếu gia mau mau khỏi bệnh. Nếu thật sự thiếu gia quên hết mọi chuyện, tiểu tỳ biết phải làm sao đây?”

Sau khi lau mặt xong, chàng thiếu niên nhìn thấy chiếc khăn mặt trắng tinh đó cũng không đến nỗi dơ lắm. Chàng không biết trong lúc mình mê sảng, mỗi ngày đều được Thị Kiếm lau mặt mấy lần, nhưng cũng cảm ơn không ngớt. Thị Kiếm hạ giọng hỏi: “Thiếu gia quên tên tiểu tì, nhưng còn nhớ được những việc khác không? Tỉ dụ như thiếu gia là bang chúa của bang nào?”

Chàng thiếu niên lắc đầu đáp: “Ta không phải là bang chúa chi hết. Lão bá bá truyền thụ võ công cho, ta đang rèn luyện thì đột nhiên nửa người bên này nóng như sôi lên, còn nửa người bên kia lại lạnh cứng. Ta… ta… không sao chịu đựng nổi, bỗng dưng xây xẩm mặt mày rồi không biết gì nữa. Thị Kiếm tỷ tỷ! Sao hiện giờ ta lại ở đây? Có phải tỷ tỷ đem ta về đây không?”

Thị Kiếm trong lòng chua xót, nghĩ bụng: “Cứ tình trạng này thì hiển nhiên là thiếu gia không còn nhớ một tý gì nữa.”

Chàng thiếu niên lại nói tiếp: “Lão bá đâu rồi? Người dạy ta luyện công theo những nét vẽ trên hình nhân, không hiểu sao mà thân thể vừa nóng vừa lạnh, ta muốn hỏi lại lão bá thử.”

Thị Kiếm nghe chàng thiếu niên nói đến những hình nhân thì sực nhớ ra bảy hôm trước đây, lúc thay áo cho chàng, thấy trong bọc rớt ra một chiếc hộp gỗ. Cô động tính hiếu kỳ mở hộp ra xem, thì thấy mười tám pho tượng đất nhỏ xíu toàn là nam nhân lõa thể, lập tức đỏ mặt lên. Cô cho là thiếu chủ nhân quen tính phong lưu lãng mạn không phải người đứng đắn, những tượng đất lõa thể chắc chắn không phải là vật tốt, nên đóng nắp hộp lại ngay rồi cất vào hộc tủ. Bây giờ cô lại nghĩ thầm: “Ta cứ thử đem những tượng đất đó cho thiếu gia xem, không chừng sẽ giúp cho chàng nhớ lại những việc trước khi tấu hỏa nhập ma.” Thị Kiếm liền lấy hộp gỗ ra rồi nói: “Thiếu gia nói hình nhân gì đó, có phải là những thứ này không?”

Chàng thiếu niên vui mừng đáp: “Phải rồi! Hình nhân đây rồi, còn lão bá đâu? Lão bá đi đâu rồi?”

Thị Kiếm hỏi lại: “Lão bá nào?”

Chàng thiếu niên đáp: “Lão bá là lão bá chứ còn lão bá nào? Danh hiệu lão bá là Ma Thiên Cư Sĩ.”

Thị Kiếm chẳng hiểu mấy về những nhân vật võ lâm, trước nay cũng chưa nghe danh hiệu Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách, bèn đáp: “Thiếu gia ơi, thiếu gia tỉnh lại là tốt rồi, những việc ngày trước chưa nhớ ra thì cũng chẳng quan trọng lắm. Trời hãy còn chưa sáng, thiếu gia hãy ngủ đi một lúc nữa. Thực ra thì những việc ngày trước, thiếu gia quên hết đi càng hay.” Cô nói xong, kéo chăn đắp cho chàng, thu dọn đồ vật toan ra khỏi phòng.

Chàng thiếu niên hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Tại sao ta không nhớ lại những việc ngày trước thì lại tốt hơn?”

Thị Kiếm đáp: “Những việc ngày trước của thiếu gia…” Cô nói dở câu bỗng ngừng lại, cúi đầu xuống bước mau ra khỏi phòng.

* * *

Chàng thiếu niên hết sức hoang mang, dù cố nghĩ đến đâu cũng chẳng hiểu gì hết. Thỉnh thoảng chàng lại nghe bên ngoài có tiếng mõ lốc cốc, rồi tiếp đến tiếng thanh la leng keng. Chàng không biết đây là hiệu lệnh canh phòng, lại nghĩ rằng nửa đêm rồi mà người ta còn khua chiêng gõ mõ giỡn chơi.

Đột nhiên, huyệt Thương Dương ở ngón tay trỏ bên phải chàng nóng lên, một luồng nhiệt khí từ ngón tay truyền qua cổ tay, rần rần chạy lên cánh tay. Chàng kinh hãi la thầm: “Không xong!” Đồng thời huyệt Dũng Tuyền ở lòng bàn chân bên trái lại phát lạnh thấu xương. Hai luồng hàn khí và nhiệt khí xung kích nhau làm chàng khổ cực đã nhiều. Mỗi lần lên cơn, hai luồng chân khí bốc lên đau đớn kinh khủng, khiến người ta phải mê man không biết gì nữa. Có điều những lần trước thì biến diễn này xảy ra vào lúc chàng đã hôn mê sẵn, mà lần này trong lúc tỉnh táo thì thương thế đột nhiên phát tác, khiến chàng phải kinh tâm động phách.

Chàng thiếu niên cảm giác rõ ràng hai luồng hàn nhiệt từ hai nửa người từ từ chạy vào tâm phế, đau khổ than thầm: “Đời ta đến đây là hết. Những lần trước hai luồng hàn nhiệt không tụ trước bụng thì tụ sau lưng, lần này chúng lại công phá nhau ở tim phổi thì còn chịu thế nào được?” Chàng thiếu niên biết tình thế vô cùng nguy ngập, gắng gượng ngồi dậy toan xếp bằng lại, nhưng đôi chân không thể nào co vào được. Trong lúc khó khăn, trong lòng chàng chợt nghĩ: “Ngày trước lão bá luyện công phu cũng phải đau khổ như thế này ư? Lão bá từng để hai con chim sẻ trong lòng bàn tay, để chúng vỗ cánh mà không bay lên được, chẳng qua cũng là việc đùa giỡn mà thôi. Nếu sớm biết thế này thì ta chẳng luyện làm gì cho khổ.”

Bỗng ngoài cửa sổ có giọng một nam nhân vọng vào: “Bẩm bang chúa! Thuộc hạ là Triển Phi ở Báo Tiệp Đường có việc cơ mật cần bẩm báo.”

Chàng thiếu niên nghe mà không nói được nửa tiếng. Hồi lâu bỗng thấy cánh cửa sổ từ từ mở ra, bóng người thấp thoáng, một hán tử mặc áo rách nát nhảy vọt vào. Hán tử vào đến trước giường, thấy chàng thiếu niên đã ngồi dậy thì không khỏi giật mình kinh hãi. Chàng đã cử động được là chuyện ngoài dự liệu, gã vội lùi lại hai bước.

Lúc này hai luồng nội lực hàn nhiệt trong người chàng thiếu niên đã gặp nhau ở giữa khoảng tim và phổi. Trái tim chàng đập kịch liệt, bất cứ lúc nào cũng có thể ngưng đập mà chết. Nhưng giữa lúc cực kỳ đau đớn, mà tinh thần chàng lại rất linh mẫn. Chàng nghe gã báo danh là Triển Phi ở Báo Tiệp Đường, thấy gã nhảy từ cửa sổ vào mà không hiểu gã muốn làm gì, chỉ giương mắt lên nhìn.

Triển Phi thấy chàng thiếu niên không động đậy gì, liền khẽ cất tiếng hỏi: “Bang chúa! Tại hạ nghe nói lão nhân gia luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, trong người không được khỏe. Bây giờ bang chúa đã đỡ chưa?” Chàng thiếu niên run người lên mấy cái, không nói ra tiếng. Triển Phi cả mừng, lại hỏi: “Bang chúa! Hiện giờ bang chúa chưa khỏi hẳn, không nên cử động, có phải thế không?”

Gã nói rất nhỏ, nhưng Thị Kiếm ở phòng bên kia cũng nghe tiếng động lạ, liền chạy sang xem. Cô thấy vẻ mặt Triển Phi cực kỳ hung dữ thì kinh hãi hỏi: “Ngươi vào phòng bang chúa có việc gì? Sao không thông báo mà dám tự tiện nhảy vào? Ngươi muốn phạm thượng làm loạn chăng?”

Triển Phi lạng người nhanh như chớp đến bên Thị Kiếm, huých khuỷu tay phải vào sau lưng nàng, ngón tay điểm xuống đầu vai. Thị Kiếm bị gã điểm trúng huyệt đạo, lập tức ngã xuống nằm nghiêng trên một cái ghế, không sao nhúc nhích được. Triển Phi chuyên luyện công phu ngoại gia, phép điểm huyệt của gã chỉ khiến người khác bất động, nhưng vẫn nói chuyện được. Gã phải lấy một mảnh vải nhét vào miệng Thị Kiếm. Thị Kiếm trong lòng lo lắng vô cùng. Cô biết Triển Phi định làm hại bang chúa, nhưng không có cách nào gọi người đến cứu viện.

Triển Phi đối với bang chúa vẫn hết sức kiêng kị. Gã đưa hữu chưởng lên, nhỏ giọng nói: “Ta chỉ dùng một đòn Thiết Sa Chưởng là đủ giết con tiện tỳ này, chẳng có chi là khó.” Gã vung chưởng lên nhưng không đánh xuống ngay, nghĩ bụng: “Nếu bang chúa chưa mất hết nội công thì nhất định y sẽ ra tay giải cứu.” Gã vừa nghĩ vừa nhắm đỉnh đầu Thị Kiếm đập xuống, bàn tay chỉ còn cách chừng nửa thước mà bang chúa vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Gã mừng thầm trong bụng, lập tức thu chưởng về, quay lại nhìn chàng thiếu niên cười hết sức độc ác: “Tiểu dâm tặc! Đời ngươi tác ác đã nhiều, không ngờ hôm nay lại chết về tay ta.” Rồi gã bước lên hai bước tới sát giường, thấp giọng nói: “Kể ra thì lúc này ta hạ thủ giết ngươi cũng không phải là hành vi của bậc anh hùng hảo hán. Nhưng giữa ngươi và ta đã có mối thù sâu tựa biển, thì còn đếm xỉa đến lề luật giang hồ làm chi? Giả tỉ ngươi là kẻ hào kiệt biết trọng nghĩa khí, thì đã chẳng quyến rũ vợ ta.”

Chàng thiếu niên và Thị Kiếm tuy không nhúc nhích được, nhưng thần trí vẫn còn tỉnh táo. Chàng nghe Triển Phi nói rất rõ ràng mà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, tự hỏi: “Gã này nói gì mà có thù sâu tựa biền với ta, lại còn bảo ta quyến rũ vợ hắn.”

Thị Kiếm lại nghĩ: “Lão nhân gia đã nợ không biết bao nhiêu món nợ phong lưu rồi, cuối cùng hôm nay cũng phải chịu báo ứng. Ối chao, tên này thật sự muốn giết chết thiếu gia rồi.” Trong lòng cô hết sức hoảng sợ, cố gắng giãy giụa, nhưng tay chân bủn rủn vô lực, đột nhiên ngã lăn xuống đất nghe “bịch” một tiếng.

Triền Phi giận dữ nói tiếp: “Vợ ta đã phải thất thân với ngươi. Hừ! Ngươi tưởng là ta vừa đui vừa điếc không biết tí gì hay sao? Trước đây ta có biết nhưng chẳng làm gì được ngươi, đành ôm mối căm hờn, nén khổ trong lòng không thể nói ra. May mà trời còn có mắt, thằng quỷ dâm ác tội lỗi đầy đầu như ngươi lại có ngày lọt vào tay ta.” Dứt lời, Triển Phi đứng thủ thế, vận nội lực vào cánh tay, gân cốt chuyển nghe răng rắc, rồi vung chưởng đánh vào trước ngực chàng thiếu niên.

Triền Phi là một vị hương chủ ở Báo Tiệp Đường, một trong ngoại ngũ đường của bang Trường Lạc. Công phu Thiết Sa Chưởng của gã đã luyện đến hai mươi năm, không phải tầm thường, lại đã vận đủ mười thành công lực nhằm đánh vào huyệt Đản Trung ở giữa ngực đối phương. Thế mà chỉ nghe mấy tiếng lắc cắc, cánh tay phải Triển Phi đã bị gãy rời, người gã bị hất ngược lại xuyên qua cửa sổ, phá gãy cả song cửa, rồi té lăn xuống đất bên ngoài phòng. Kinh mạch toàn thân gã đều bị bế tắc, ngất xỉu ngay chỗ đó.

Ngoài căn phòng này là một vườn hoa, trong vườn lúc nào cũng có một đội tuần tiểu. Đêm nay là đúng phiên Báo Tiệp Đường canh gác. Phòng riêng của bang chúa là nơi được phòng thủ rất nghiêm mật. Triển Phi muốn trả thù từ mấy hôm trước, nhưng gã không dám hấp tấp, biết nếu không phải lúc mình canh gác thì khó mà hành sự, nên phải cố nén chờ đến hôm nay. Gã được giao việc canh gác phòng bang chúa, liền bẻ sẵn mấy chấn song cửa sổ để chui vào chui ra cho dễ.

Lúc này, Triển Phi ngã vào một bụi hoa hồng rậm rạp. Bọn tuần tiễu thấy khóm hồng lay động, hai tên bèn chạy lại giơ đuốc lên soi. Chúng thấy Triển Phi nằm không nhúc nhích, chẳng hiểu sống chết thế nào, lại cho là có cường địch lẻn vào phòng bang chúa, đều cả kinh thất sắc. Bọn chúng vội thổi còi báo động, rồi rút đơn đao ra, thò đầu nhìn vào cửa sổ. Trong phòng tối đen như mực, không thấy động tĩnh gì. Hai tên tuần tiễu vừa giơ đuốc soi vào, vừa vung đao lên để bảo vệ trước mặt. Đao quang lấp lóe, hai gã nhìn rõ bang chúa ngồi xếp bằng trên giường, dưới đất có một thiếu nữ, dường như là thị nữ của bang chúa đang nằm. Ngoài ra, không còn ai khác.

Giữa lúc ấy, bang chúng nghe còi báo động, từ cả trước lẫn sau lục tục chạy đến. Hương chủ Mãnh Hổ Đường là Khưu Sơn Phụng rút thiết giản ra cầm tay, lớn tiếng la hỏi: “Bang chúa! Lão nhân gia có bình yên chăng?” Gã vừa hô vừa vén rèm chạy vào phòng, thấy toàn thân bang chúa run bần bật không ngớt. Đột nhiên bang chúa oẹ lên một tiếng, rồi thổ ra mấy bụm máu tím bầm, phải đến hàng mấy bát.

Khưu Sơn Phụng vội né người sang một bên để máu khỏi bắn vào quần áo. Gã còn đang kinh ngạc, thì bang chúa đã bước xuống giường, đỡ ả thị nữ lên rồi hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Hắn… hắn có đả thương tỷ tỷ không?” Chàng vừa hỏi vừa lấy tấm khăn nhét trong miệng Thị Kiếm ra.

Thị Kiếm thở phào một cái, hỏi lại: “Thiếu gia! Bang chúa có bị hắn đả thương không? Bang chúa cảm thấy như thế nào?” Nàng kinh hãi quá, nói cũng không được rõ ràng.

Nhưng chàng thiếu niên đáp ngay: “Gã đánh ta một chưởng, nhưng lại khiến ta khoan khoái vô cùng!”

Bỗng ngoài cửa có tiếng chân nhộn lên, rất nhiều người chạy đến. Bối Hải Thạch cùng Mễ Hoành Dã lật đật chạy vào phòng, còn những người địa vị thấp kém thì đứng cả ngoài cửa. Bối Hải Thạch chạy tới trước mặt chàng thiếu niên, vội hỏi: “Bang chúa! Thích khách đến làm kinh động lão nhân gia ư?”

Chàng thiếu niên ngơ ngác hỏi lại: “Thích khách cái gì? Ta chẳng thấy chi hết!” Lúc này có mấy cao thủ trong bang đã tiếp nội lực cho Triển Phi, cứu gã tỉnh lại rồi đưa vào trong phòng. Triển Phi đã biết luật lệ bản bang cực kỳ nghiêm ngặt. Kẻ nào can tội mạo phạm tôn trưởng, hay âm mưu phản bang đều bị gia hình cực kỳ khốc liệt. Phạm nhân sẽ bị lột trần, cột vào một phiến đá phía sau núi gọi là Hình Đài Thạch, để cho ong châm kiến đốt, rắn cắn rết hút, diều tha quạ mổ lôi từng miếng thịt, bị hành hạ đến tám chín ngày mới chết được.

Triển Phi vừa vận toàn lực để đánh bang chúa một đòn thật nặng. Ngờ đâu, chẳng những phát chưởng của gã không làm gì được, mà còn bị nội lực cực kỳ thâm hậu của đối phương hất ngược lại, chấn gãy cánh tay phải, lại còn bị nội thương cực kỳ trầm trọng. Bây giờ gã không nghĩ gì nữa, chỉ mong sao được chết mau lẹ. Gã thấy mình bị đưa vào phòng thì yên trí sẽ bị gia hình, liền ngưng tụ nội tức, chỉ chờ bang chúa ra lệnh một câu “Đem ra cột vào Hình Đài Thạch” là lập tức đập đầu vào vách để tự tử.

Bối Hải Thạch lại cất tiếng hỏi: “Bang chúa! Thích khách đã nhảy từ cửa sổ vào phải không?”

Chàng thiếu niên đáp: “Ta đang lúc mơ màng, trong người thật là khó chịu, tim đập loạn xạ đến muốn chết đi được, cũng không biết có ai vào không.”

Triển Phi nghe vậy thì rất lấy làm kỳ. Gã tự hỏi: “Chẳng lẽ lúc đó y vẫn còn mê man chưa tỉnh, không biết ta đã vung chưởng đánh y hay sao?” Nhưng gã lại nghĩ bụng: “Nhưng con nha đầu kia biết rõ mình đã hạ thủ, thế nào nó cũng kể ra.”

Quả nhiên, Bối Hải Thạch đưa tay ra vỗ vào lưng của Thị Kiếm mấy cái, vận nội lực để giải huyệt đạo cho cô, rồi cất tiếng hỏi: “Ai đã phong tỏa huyệt đạo của ngươi?”

Thị Kiếm chỉ vào Triển Phi đáp: “Là hắn.”

Bối Hải Thạch quay lại, chau mày nhìn Triển Phi. Triển Phi cười lạt một tiếng, toan thóa mạ mấy câu cho sướng miệng rồi chết cũng được. Nhưng gã chưa mở miệng thì bang chúa đã lên tiếng trước: “Là ta… ta bảo y làm đó.”

Triển Phi và Thị Kiếm đều ngẩn người ra nhìn chàng thiếu niên. Cả hai cùng không tin ở tai mình, đều tự hỏi: “Bang chúa nói vậy thì có dụng ý gì?” Chàng thiếu niên đó không hiểu rõ ràng bất cứ chuyện gì, nhưng chàng thấy tình thế cực kỳ nghiêm trọng, mà mọi người đều có vẻ tôn kính mình. Nếu bọn này biết Triển Phi đã điểm huyệt Thị Kiếm và phóng chưởng đánh mình thì thật là bất lợi cho gã.

Vì thế mà chàng buột miệng nói dối một câu để cứu nguy cho Triển Phi. Còn vì nguyên nhân gì mà chàng bảo vệ gã thì chính chàng cũng không biết. Chàng chỉ nhớ mang máng rằng lúc Triển Phi hạ thủ đánh mình, vẻ mặt gã cực kỳ phẫn nộ, chứng tỏ là có lý do gì bất đắc dĩ phải ra tay. Hơn nữa, lúc đó hai luồng khí hàn nhiệt trong người chàng đang xung kích nhau cực kỳ mãnh liệt cơ hồ không chịu nổi, nhờ phát chưởng của Triển Phi đánh trúng huyệt Đản Trung mà chàng hết đau đớn.

Huyệt Đản Trung là mấu chốt giao thông của các đường kinh mạch trong người. Chưởng lực của Triển Phi đã mãnh liệt phi thường, tại tình cờ đánh vào đúng chỗ đúng lúc. Phát chưởng đó kích thích cho kinh mạch Bát Âm và Bát Dương của chàng được âm dương hòa hợp, cũng giống như nước với sữa đã khuấy đều, không còn phân lớp hay có cặn chi hết.

Đồng thời, nội lực chàng đột nhiên gia tăng một cách không tưởng nổi, hất ngược lại chấn động gãy tay Triển Phi, lại tống gã ra ngoài cửa sổ. Chàng thiếu niên chẳng hiểu gì, chỉ cảm thấy những luồng hàn khí đang lạnh thấu xương trong người bỗng được ấm áp, mà khí nóng như lửa cũng mát dịu đi, khắp mình mẩy và tứ chi đều thư thái dễ chịu. Một lúc sau, ngay cả cảm giác ấm áp hay mát dịu cũng không thấy nữa, chàng chỉ thấy tinh lực tràn trề trong thân thế, nhịn không nổi muốn la lên.

Khi hương chủ Mãnh Hổ Đường là Khâu Sơn Phong tiến vào phòng, chàng thiếu niên hộc ra mấy ngụm ứ huyết, rồi từ lúc đó chàng cảm thấy tâm thần khoan khoái, nội lực phong phú, đầu óc cũng thêm phần minh mẫn.

Bọn Bối Hải Thạch thấy Thị Kiếm y phục xốc xếch, đầu tóc rối tung, vẻ mặt bơ phờ thì cùng nghĩ như nhau. Chúng vốn biết rõ bang chúa trước giờ vốn là người tham dâm háo sắc, vừa khỏi bệnh liền động ngay tạp niệm. Chắc chàng đang tính chuyện nài ép Thị Kiếm thì gặp lúc hương chủ Triển Phi đi tuần bên ngoài, liền gọi gã vào, hạ lệnh gã điểm huyệt Thị Kiếm. Nhưng họ không hiểu Triền Phi đã đắc tội thế nào với bang chúa mà bị chàng hất ra ngoài cửa sổ. Có thể là Triển Phi nghe lệnh cởi bỏ y phục của Thị Kiếm mà hành động chậm trễ nên bang chúa nổi giận, cũng có thể là Triển Phi giả vờ tìm cách đó để chuồn ra ngoài.

Bây giờ họ thấy thương thế Triển Phi cực kỳ trầm trọng, mặt mũi chân tay lại bị gai nhọn ở khóm hoa hồng đâm trầy xước, thì đều có ý thương hại gã, chỉ vì đang đứng trước mặt bang chúa nên họ chẳng dám đến thăm hỏi để an ủi gã mà thôi. Mọi người đều nghĩ như vậy, nên không ai đề cập đến chuyện thích khách nữa.

Mãnh Hổ Đường hương chủ Khâu Sơn Phong bỗng nghĩ ra mình đã gây cản trở đến chuyện bang chúa mua vui. Gã thấy Triển Phi như vậy, cũng lo bang chúa trở mặt trách phạt đến mình, nên không dám trùng trình ở lại nữa, liền khom lưng nói: “Xin bang chúa cứ nghỉ ngơi, thuộc hạ xin lui bước.” Mọi người cũng nghiêng mình thi lễ rồi lục tục dời khỏi.

Bối Hải Thạch thấy thần sắc bang chúa có vẻ kỳ dị thì băn khoăn lo lắng, liền đưa tay ra nói: “Để thuộc hạ chẩn mạch lại cho bang chúa.” Chàng thiếu niên bèn đưa tay ra cho y bắt mạch. Bối Hải Thạch vừa đặt hai đầu ngón tay lên cổ tay chàng, thì đột nhiên cánh tay run lên, nửa người tê dại, mấy đầu ngón tay bị hất mạnh ra. Bối Hải Thạch giật mình kinh hãi, nhưng rồi lộ vẻ vui mừng, lớn tiếng nói: “Chúc mừng bang chúa! Chúc mừng bang chúa! Thần công cái thế của bang chúa đã luyện thành rồi.”

Chàng thiếu niên vẫn chẳng hiểu đầu đuôi như thế nào, ngơ ngác hỏi lại: “Cái gì… cái gì là cái thế thần công?”

Bối Hải Thạch nghe hỏi vậy thì lại đoán là bang chúa không muốn tiết lộ cái thế thần công cho người ngoài hay biết, nên lão không dám nhắc lại nữa, liền nói chữa: “Dạ, dạ! Thuộc hạ ăn nói lung tung, xin bang chúa miễn tội cho!” Rồi lão cũng khom lưng thi lễ, vội vã ra khỏi phòng.

Một lúc sau, quần hào rút ra ngoài hết, trong phòng chỉ còn lại Triển Phi và Thị Kiếm. Triển Phi bị trọng thương, nhưng mọi người không biết bang chúa định xử trí gã ra sao. Bang chúa không ra lệnh gì, họ đành để mặc gã lại trong phòng, không ai dám dìu gã ra ngoài chữa trị. Triển Phi vừa bị gãy tay vừa bị nội thương, đau đớn vô cùng, mồ hôi trán toát ra đầm đìa. Gã thấy mọi người lui ra cả rồi thì căm hận nghiến răng nói: “Ngươi muốn hành hạ ta thì ra tay lẹ lên! Họ Triển này mà mở miệng van xin ngươi một câu thì không phải là hảo hán.”

Chàng thiếu niên ngạc nhiên hỏi: “Tại sao ta phải hành hạ ngươi? Hừ! Cánh tay ngươi gãy rồi, phải nối lại mới được. Trước kia con A Hoàng của ta ngã lăn từ sườn núi xuống hố sâu bị gãy chân, chính ta đã chữa cho nó đấy.” Tư chất chàng thiếu niên này vốn rất thông minh. Hai mẹ con chàng ân cư trên núi hoang, bất luận việc gì chàng cũng phải ra tay làm lấy. Tuy chàng còn nhỏ tuổi, song các việc trồng trọt, săn bắn, nấu cơm, sửa nhà đều đã làm qua. Con chó A Hoàng bị gãy chân, chàng dùng thanh gỗ buộc cho nó, chỉ không đầy mười ngày là hồi phục.

Chàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn quanh, tìm một mảnh gỗ để bó xương lại cho Triển Phi. Thị Kiếm thấy bang chúa ngó qua ngó lại liền hỏi: “Thiếu gia muốn kiếm chi vậy?”

Chàng thiếu niên đáp: “Ta kiếm một khúc cây.”

Thị Kiếm tiến lại hai bước, quỳ xuống nói: “Thiếu gia! Nô tỳ xin thiếu gia tha cho y… Thiếu gia… đã lừa gạt vợ y rồi, xin đừng trách y nhất thời giận dữ, mà y cũng chưa đả thương được thiếu gia. Nếu quả thật thiếu gia muốn giết y thì cứ chém một đao là được rồi, xin đừng tra khảo hành hạ y làm gì!” Cô tưởng rằng bang chúa tìm khúc cây để tra khảo Triển Phi tới chết, còn đau khổ hơn chém bằng đao rất nhiều, bất giác trong lòng thấy thương xót mà năn nỉ hộ.

Chàng thiếu niên ngơ ngác hỏi: “Ta có lừa gạt vợ y đâu? Sao ta phải giết y? Cô nói ta giết người ư? Sao có thể giết người được?” Trong phòng ngủ bang chúa dĩ nhiên không có khúc cây nào. Chàng liền cầm chiếc ghế lên, bẻ lấy một chân. Bây giờ trong người chàng âm dương hòa hợp, thủy hỏa tương thông, thần công đã thành tựu nên sức mạnh vô cùng. Chàng mới bẻ nhẹ, cái chân ghế đã gãy rời nghe rắc một tiếng.

Chàng thiếu niên không biết nội lực bản thân mình ghê gớm, lại lẩm bẩm: “Cái ghế này hỏng rồi mà cứ để đây, ai vô ý ngồi lên không khỏi ngã lăn kềnh.” Chàng quay ra bảo Thị Kiếm: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Tỷ tỷ quỳ ở đó làm chi? Mau đứng dậy đi!” Rồi chàng tiến lại gần Triển Phi bảo: “Ngươi đừng có động đậy!”

Triển Phi tuy mồm miệng cứng rắn, nhưng nghĩ lại mình đánh bang chúa một chưởng mà bị chấn gãy cánh tay lại bị hất ra cửa sổ, nội lực người này thật là hùng hậu không gì sánh được. Gã không tự chủ được nữa phải run lên bần bật, mắt nhìn chằm chặp vào cái chân ghế trong tay chàng thiếu niên. Gã nghĩ thầm: “Dĩ nhiên không phải hắn cầm chân ghế để đánh mình, chắc là dùng chân ghế để tọng vào miệng ta, cắm từ cổ xuống đến dạ dày để sống không sống được, chết chẳng chết cho.”

Trong bang Trường Lạc có rất nhiều hình phạt khốc liệt, đúng là có chuyện dùng một khúc cây nhét vào miệng phạm nhân, cắm từ yết hầu đến bao tử. Kẻ thụ hình phải đau khổ vô cùng mà không chết ngay được. Hình phạt đó gọi là Khai Khẩu Tiếu. Triển Phi nghĩ ra mình sắp phải chịu cực hình Khai Khẩu Tiếu, đang sợ hết hồn thì thấy bang chúa đã đến trước mặt. Gã đâm liều vung tả chưởng lên đánh vào chàng thiếu niên.

Chàng thiếu niên không biết gã có ý đả thương mình, vẫn thản nhiên nói: “Chớ có cử động! Chớ có cử động!” Chàng vừa nói vừa vươn tay ra chụp lấy cổ tay trái Triển Phi. Gã lập tức cảm thấy nửa người tê nhức, không cục cựa được nữa. Chàng thiếu niên lấy nửa cái chân ghế ướm vào cánh tay gãy của Triển Phi rồi quay lại hỏi Thị Kiếm: “Thị Kiếm tỷ tỷ! ở đây có sợi dây nào không? Cột giùm cho y một chút.”

Thị Kiếm hết sức ngạc nhiên, hỏi lại: “Thiếu gia định nối xương cho y thật ư?”

Chàng thiếu niên cười đáp: “Nối xương là nối xương, lại còn thật hay giả nữa ư? Tỷ tỷ xem y đau đớn đến thế này, sao lại nói giỡn được?”

Thị Kiếm bán tín bán nghi, nhưng vẫn đi tìm một khúc dây đem đến. Cô đưa mắt nhìn chàng thiếu niên một lần nữa, rồi ngoan ngoãn lấy dây cột cánh tay gãy của Triển Phi vào chân ghế.

Chàng thiếu niên mỉm cười nói: “Hay lắm! Tỷ nương buộc rất khéo, so với ngày trước ta buộc chân A Hoàng còn chắc chắn hơn nhiều.”

Triển Phi nghĩ thầm: “Không hiểu tên bang chúa hoang dâm độc ác này đang định kiếm trò gì mới lạ hành hạ mình để tiêu khiển đây.” Gã còn đang ngẫm nghĩ, thấy chàng nhắc đến A Hoàng bị gãy chân, không nhịn được nữa bèn cất tiếng hỏi: “A Hoàng là ai?”

Chàng thiếu niên đáp: “A Hoàng là con chó của ta nuôi, nhưng tiếc là nó bỏ đi mất rồi.”

Triển Phi thấy chàng thiếu niên đem chuyện nối tay cho mình so với chuyện nối chân gãy cho con chó, thì cho là chàng coi mình như một giống súc sinh. Gã nổi giận bèn lớn tiếng mắng: “Ta là nam tử hán, là đại trượng phu. Ngươi giết ta thì được, chứ không thể làm nhục ta. Sao ngươi không hạ thủ ngay đi, lại còn đem ví ta với loài thú vật?”

Chàng thiếu niên vội nói: “Không, không! Ta chỉ lỡ miệng nói một câu như thế, đại ca đừng giận dữ. Xin đại ca tha lỗi cho.” Chàng vừa nói vừa chắp tay, hướng về y nghiêng mình thi lễ. Triển Phi biết nội công của chàng thiếu niên cực kỳ lợi hại, lại nghĩ rằng chàng giả bộ thi lễ nhưng thực ra là dùng nội lực đả thương người. Con người trước nay quen ngạo mạn vô lễ, nói vài câu tử tế với thuộc hạ đã là chuyện hiếm, làm gì có chuyện xin lỗi thuộc hạ? Gã bất giác né người tránh qua một bên, cặp mắt trừng trừng nhìn chàng thiếu niên để xem còn trò gì ác độc nữa.

Chàng thiếu niên ôn tồn hỏi: “Phải chăng đại ca họ Triển? Triển đại ca cứ trở về nghỉ ngơi đi. Cẩu Tạp Chủng này ăn nói vụng về thành ra đắc tội, xin Triển đại ca đừng trách!”

Triền Phi cả kinh nghĩ: “Cái gì… Cái gì? Hắn tự xưng là Chó Lộn Giống ư? Chắc chắn lại là chuyện vòng vo mắng xéo người ta rồi.”

Thị Kiếm thì nghĩ: “Thiếu gia mới tỉnh táo lại một chút, tâm thần lại hồ đồ ngay!” Cô liếc mắt nhìn chàng thiếu niên thì thấy chàng vẫn trố mắt ra, cặp lông mày nhíu lại ra chiều suy nghĩ. Cô liền đưa mắt ra hiệu cho Triển Phi bảo gã nên thừa cơ rút lui.

Nhưng Triển Phi vẫn chưa chịu ra, lại còn lớn tiếng nói: “Thằng lỏi họ Thạch kia! Ta cũng không muốn ngươi tử tế với ta làm chi. Ngươi muốn giết ta, ta cũng không trốn được. Lão gia tự biết mạng mình, không muốn sống thêm một giờ ba khắc làm gì. Ngươi còn không mau hạ thủ giết ta đi!”

Chàng thiếu niên ngạc nhiên nói: “Người này nói chuyện lung tung, không thể nín cười được. Sao ta lại phải giết ngươi chứ? Mỗi lần mẫu thân ta kể chuyện cổ tích, cuối cùng đều dạy một câu: người xấu mới giết người, còn người tốt không bao giờ giết người. Dĩ nhiên ta không làm người xấu. Ngươi rõ ràng là một con người, chỉ mới gãy một cánh tay, sao ta lại giết được?”

Thị Kiếm đứng bên không nhịn được liền nói xen vào: “Triển hương chủ! Bang chúa đã tha cho ngươi rồi, sao còn chưa đi nhanh đi?”

Triền Phi đưa tay trái lên hết gãi đầu lại gãi tai, nghĩ bụng: “Không hiểu là thằng giặc con này bị hồ đồ, hay là mình bị hồ đồ?”

Thị Kiếm dậm chân nói: “Nhanh lên! Đi nhanh lên!” Cô vừa giục vừa đưa tay đẩy gã ra ngoài phòng.

Chàng thiếu niên cười ha hả nói: “Người này thật là kỳ cục, cứ mở miệng là bảo ta muốn giết y, cứ như ta thích giết người vậy. Không chừng y coi ta như một kẻ xấu xa hư đốn!”

Từ khi Thị Kiếm hầu hạ bang chúa đến nay, đây là lần đầu tiên cô thấy bang chúa nổi thiện tâm mà tha thứ cho thuộc hạ có lỗi, huống hồ Triển Phi đã phạm thượng mưu sát, thật là trọng tội không thể bỏ qua. Cô mừng thầm, mỉm cười nói: “Thiếu gia đương nhiên là người tốt, là người tử tế. Có là người tốt, người tử tế mới cướp vợ người ta, khiến cho gia đình họ phải tan rã…”

Cô nói đến đây, giọng nói hơi đổi thành chua chát, nhưng trước mặt bang chúa oai nghi cũng không dám mỉa mai bừa bãi, liền dừng lại không nói nữa. Chàng thiếu niên lại ngạc nhiên hỏi: “Tỷ tỷ nói ta đã cướp vợ của người khác ư? Vợ làm sao mà cướp được? Mà cướp để làm chi?”

Thị Kiếm nhỏ nhẹ nói: “Đã muốn làm người tốt mà cứ nói toàn giọng hạ lưu, giả vờ đứng đắn được một lúc rồi lại lòi đuôi chồn ra lập tức. Giả tỉ thiếu gia chịu giả vờ làm người tốt lâu hơn một chút nữa, thì tiểu tỳ cảm ơn thiếu gia nhiều lắm.”

Chàng thiếu niên trợn tròn mắt, há hốc miệng hỏi: “Tỷ tỷ… tỷ tỷ nói cái gì? Ta cướp vợ hắn để làm chi? Ta thật sự không hiểu, tỷ tỷ dạy ta đi.” Lúc này chàng thiếu niên cảm thấy tinh lực đầy rẫy chỉ muốn phát tán ra ngoài, đôi mắt chàng lộ thần quang sáng chói.

Thị Kiếm càng nghe chàng nói càng không hiểu gì cả, trong lòng rất kinh hãi liền lùi lại vài bước đến bên cửa, đề phòng nếu bang chúa xông tới chỗ mình thì lập tức nhảy vọt ra ngoài. Thật ra nàng cũng biết nếu bang chúa dùng sức mạnh để cưỡng bức thì mình không thể thoát khỏi tay người được. Trước kia đã mấy lần gặp nguy, nàng phải dùng cái chết để uy hiếp, kiên quyết không chịu, nên mới còn giữ được tấm thân trong trắng. Lúc này Thị Kiếm thấy cặp mắt chàng thiếu niên lóe sáng lên trông như mắt loài dã thú, nên lại càng không dám châm chọc nữa, tim đập loạn lên, run rẩy nói: “Thiếu gia… thân thể… còn chưa phục hồi, vẫn… Thiếu gia nên nghỉ ngơi một lát nữa đi.”

Chàng thiếu niên lắc đầu hỏi lại: “Nếu ta phục hồi thân thể rồi thì sao?” Thị Kiếm lại đỏ mặt lên, bước ra khỏi phòng, còn nghe chàng lẩm bẩm sau lưng: “Ở đây có nhiều việc ta thật sự không hiểu chút nào. Tỷ tỷ này hình như sợ ta lắm.”

Chàng nói xong, vịn hai tay vào thành ghế. Nội lực chàng phát huy nhiều quá, đầy rẫy trong người, hai bàn tay bứt rứt không ngừng bóp vào thành ghế. Chiếc ghế này làm bằng gỗ cẩm lai rất chắc chắn, ngờ đâu mới bóp vài cái đã nghe thấy tiếng lạch cạch, rồi lưng ghế gãy lìa ra. Chàng thiếu niên chẳng hiểu ra sao, ngấm ngầm kinh hãi trong lòng, lẩm bẩm: “Ở đây cái gì cũng giống như làm bằng bột mì vậy.”

Tạ Yên Khách lập mưu hiểm ác, đem nội công thượng thừa truyền thụ cho chàng mà đảo lộn cả thứ tự. Khi chàng luyện đủ hỏa hầu thì các mạch âm dương xung khắc với nhau, sẽ chết một cách thê thảm, lão không cần dùng một ngón tay mà cũng hại được mạng chàng. Chàng thiếu niên đã luyện mấy năm, âm dương đã xung đột, lẽ ra đã phải chết rồi.

Nhưng thật kỳ lạ, ngay lúc sinh tử quan đầu thì có Bối Hải Thạch ở kế bên. Bối đại phu tinh thông y đạo, dùng nội lực thâm hậu để bảo vệ được hơi thở tạm thời cho chàng. Khi về đến tổng đà của Trường Lạc Bang, mỗi đêm đều có người đến cho chàng uống Huyền Băng Bích Hỏa Tửu, là một loại rượu trân quý trong võ lâm, làm trì hoãn lại sự tương giao của hai luồng khí âm dương trong nội thế. Loại rượu thuốc này còn làm tăng nội lực của chàng lên rất nhiều.

Sau đó, đang lúc hiểm nguy thì lại gặp được Triển Phi phóng chưởng đánh vào huyệt Đản Trung để báo thù, nhờ đó mà chàng nôn ra được máu huyết ứ đọng trong Đan Điền. Bây giờ thủy hỏa điều hòa, hai luồng nội công thuần âm và thuần dương chẳng những không xung đột làm tổn hại đến thân thể chàng, mà lại còn hòa hợp thành một luồng nội tức rất kỳ lạ, xưa nay chưa từng thấy.

Trước giờ trong võ lâm chưa có ai dám nghĩ đến biện pháp luyện công nguy hiểm như thế. Cho dù Tạ Yên Khách đột nhiên nổi lòng hối hận, muốn cứu mạng chàng thì dứt khoát lão cũng không dám dùng chưởng lực mạnh để làm chấn động tâm khẩu của chàng. Nội lực kỳ lạ này lại do những chuyện xảo hợp mà có, rốt cuộc cũng không thể lý giải được.

Chàng thiếu niên không hiểu được như thế, vẫn mơ hồ như người trong mộng. Huyết khí chàng có đôi lúc bị đảo lộn, lúc thì muốn nôn mửa, lúc thì muốn nhảy cẫng lên, khó mà định tâm được. Chàng chẳng còn biết đâu là sự thực, đâu là huyễn ảo nữa.

Thị Kiếm dịu dàng nói: “Thiếu gia đã tha mạng cho Triển Phi hương chủ, lại nối xương cho y, sao còn thóa mạ y là giống súc sinh? Vì thế mà y càng căm hận thiếu gia đến xương tủy.” Cô thấy những tia sáng khác lạ ở mắt bang chúa, không chờ chàng trả lời đã vội vã lui ra.