Hồi 08: Cô gái áo trắng

Dương Quá đẩy nhẹ cửa sổ, lẻn vào phòng hai gã đạo sĩ Cơ, Bì; thấy trên giường hai cái bọc, giở một cái ra, bên trong có hai mươi lạng bạc, nghĩ thầm: “Mình đang cần lộ phí”. Bèn nhét luôn vào túi. Cái bọc thứ hai dài bốn thước, bọc hai thanh trường kiếm. Dương Quá rút từng thanh kiếm ra khỏi bao, bẻ gãy đôi, rồi nhét lại vào bao như cũ, đang định rời phòng, nghĩ thế nào lại vạch quần, tè một bãi vào chăn của hai gã đạo sĩ.

Nghe có tiếng người vượt tường, chàng biết hai đạo sĩ kia khinh công cũng tầm thường, muốn vượt tường phải nhảy lên bờ tường trước, rồi mới trên bờ tường nhảy xuống. Chàng vội lẻn về buồng mình, đóng cửa lại, hai đạo sĩ kia không biết gì. Dương Quá ghé tai sát tường lắng nghe động tĩnh bên kia.

Chỉ nghe hai đạo sĩ nói nho nhỏ với nhau, cuộc tỷ võ ngày mai đã nắm chắc phần thắng, cùng cởi quần áo lên giường ngủ, bỗng Bì Thanh Huyền kêu lên:

– Ôi, chăn sao ướt sũng thế này? Khiếp, khai ơi là khai, Cơ sư huynh lười quá, đi tiểu luôn trong chăn thế này?

Cơ Thanh Hư ngơ ngác, nói:

– Cái gì mà tiểu tiện luôn trong chăn?

Rồi chính y cũng kêu toáng lên:

– Mèo chết tiệt ở đâu lại đến đái vào chăn thế này?

Bì Thanh Huyền nói:

– Mèo đái có bao giờ lại sũng ra thế này?

Cơ Thanh Hư nói:

– Ừ kỳ quái… Thôi chết, bạc đâu mất rồi?

Buồng bên kia náo loạn cả lên, hai gã đạo sĩ tìm cái bọc đựng bạc khắp nơi. Dương Quá thích thú cười thầm. Nghe Bì Thanh Huyền gọi to:

– Điếm bạn nhi, điếm bạn nhi, các người ở đây mở hắc điếm phải không? Nửa đêm vào đánh cắp vàng bạc của khách nhân thế này ư?

Hai đạo sĩ kêu ầm ĩ, điếm bạn đang ngủ bị đánh thức dậy, giụi mắt hỏi. Bì Thanh Huyền thộp ngực áo y bảo y mở hắc điếm. Điếm bạn vội đi gọi chưởng cự, người thắp đèn, điếm đường của khách điếm cùng thức dậy; tiếp đó các khách trọ cũng lần lượt kéo sang xem có gì ồn ào. Dương Quá trà trộn lẫn vào đó. Chỉ nghe điếm tiểu nhị trổ tài hùng biện, thao thao bất tuyệt, trình bày lý lẽ khiến hai đạo sĩ Cơ Bì á khẩu vô ngôn. Điếm tiểu nhị này vốn có cái tính thích đấu khẩu với người khác, bình thời còn ưa tán dóc với người bên cạnh, huống hồ lúc này có nhiều người xúm lại nghe, mà y thì hăng hái vì có lẽ phải. Y nói đến sùi bọt mép, càng nói tinh thần càng hăng hái. Hai đạo sĩ Cơ, Bì ngượng quá hóa giận, đã định động thủ, song nghĩ đến thanh qui bổn phái, nơi này ở ngay dưới chân núi Chung Nam, há dám gây chuyện? Họ đành nuốt giận, đóng cửa nằm ngủ. Gã điếm tiểu nhị vẫn còn chưa chịu ngừng lời ở bên ngoài.

Sáng hôm sau, Dương Quá dậy ăn điểm tâm, gã điếm tiểu nhị bẻm mép kia chào hỏi, vẫn còn lẩm bẩm chửi người. Dương Quá cười, hỏi:

– Hai gã tặc đạo kia sao rồi?

Điếm tiểu nhị đắc ý nói:

– Mẹ nó chứ, hai tên đạo sĩ thối tha ấy tưởng có thể ăn quịt, ngủ quịt. Kể ra nể cung Trùng Dương; cũng có thể thí không cho chúng, nhưng chúng lại dám bảo ở đây mở hắc điếm. Hôm nay trời chưa sáng hẳn, hai tên đạo sĩ thối tha ấy đã cuốn gói đi rồi. Hừ, lão phu nhất định phải báo cho cung Trùng Dương biết, giáo phái Toàn Chân có hàng ngàn hàng vạn đạo gia, sao lại có kẻ không giữ nghiêm thanh qui giới luật như thế? Hai tên đạo sĩ ấy lão phu đã nhớ kỹ mặt chúng, có mà chạy đằng trời…

Dương Quá cười thầm, nói khích thêm vài câu, trả tiền phòng, hỏi kỹ lối đi tới Sài Lang cốc, rồi lên đường.

Chẳng mấy chốc chàng đã đi hơn ba chục dặm. Sài Lang cốc không còn xa nữa, mà nhìn trời chỉ mới đầu giờ Thìn, Dương Quá nghĩ thầm: “Mình hãy tạm lánh một bên, xem cô cô đối phó với bọn kia ra sao. Tốt nhất là đừng để cô cô nhận ra mình trước”. Nhớ lại lần giả trang đánh lừa Hồng Lăng Ba, chàng lấy làm đắc ý, quyết định giả trang một lần nữa; bèn lẻn vào sân sau một nhà nông phu nọ, nhìn trước ngó sau, thấy trong chuồng trâu có một con trâu đực rất lớn đang lồng lộn cọ sừng, húc đầu ầm ĩ vào gióng gỗ cửa chuồng. Dương Quá chợt nảy ra một ý: “Mình sẽ đóng giả kẻ mục đồng, cô cô có gặp cũng chẳng thể nhận ra”.

Chàng lẻn vào nhà, trong nhà chỉ có hai đứa bé đang chơi đùa, trông thấy chàng thì cả sợ, không dám ho he một tiếng. Chàng tìm quần áo, đổi lấy một bộ của nông phu, đi giày cỏ, lấy đất bôi lên mặt, lại gần chuồng trâu, thấy trên vách treo một cái nón rộng vành, một cây sáo ngắn, chính là vật thường dùng của trẻ mục đồng, chàng cả mừng, có hai thứ này đóng giả càng giống, bèn đội nón, giắt cây sáo vào lưng, nhặt một đoạn dây thừng buộc quanh người, rồi mở cửa chuồng trâu. Con trâu thấy chàng lại gần đã hằm hè tức giận, vừa thấy cửa chuồng mở, nó lập tức phóng ra, húc thẳng vào người chàng.

Dương Quá tay trái ấn đầu con trâu, phi thân lên lưng trâu. Con trâu này thân cao, thịt săn chắc, nặng ít ra bảy tám trăm cân, lông mượt sừng nhọn, trông thật hùng vĩ. Loáng một cái nó đã phóng ra tới đường cái. Nó đang giai đoạn động hớn, nóng nảy dị thường, nó cứ tung vó muốn hất Dương Quá ra khỏi lưng nó. Dương Quá kẹp chân ngồi vững, cực kỳ đắc ý, cười nói:

– Mi không vâng lời ta thì khổ thân mi thôi, con ạ.

Chàng vung tay lên, dùng cạnh bàn tay chém một nhát xuống vai con trâu. Cú chém này chàng mới dùng hai thành nội lực, song con trâu đực đã đau lắm rồi; nó kêu ầm lên, định lồng lên ra oai, Dương Quá lại chém một nhát nữa. Chém hơn mười nhát, thì con trâu không dám chống lại nữa. Dương Quá lại thử dùng ngón tay ấn vào bên trái cổ con trâu, nó liền ngoảnh đầu sang bên phải; ấn vào bên phải cổ, nó liền ngoảnh đầu sang bên trái; ấn vào sau mông, thì nó tiến lên phía trước; ấn vào đằng trước thì nó lùi về phía sau, chịu sự chỉ huy của chàng.

Dương Quá cả mừng, ấn mạnh ngón tay xuống mông nó một cái, con trâu phóng lên phía trước, nhanh nhẹn lạ thường, chẳng kém gì ngựa. Không lâu sau nó chạy xuyên qua một cánh rừng rậm, tới một sơn cốc bốn phía là vách núi dựng đứng, đúng như lời mô tả của điếm tiểu nhị. Dương Quá bèn nhảy xuống đất, thả cho con trâu tự do gặm cỏ, tay cầm sẵn sợi dây thừng, nằm xuống đất giả vờ ngủ. Thỉnh thoảng chàng lại nhìn mặt trời, thấy vầng dương lên cao gần tới đỉnh đầu, trong lòng càng lúc càng hoảng loạn, chỉ sợ Tiểu Long Nữ không đến như đã hẹn với đối phương. Bốn phía tĩnh mịch, chỉ có con trâu thỉnh thoảng kêu lên một hai tiếng. Đột nhiên ở cốc khẩu có người vỗ tay, rồi từ sau núi mé nam cũng vọng lại mấy tiếng vỗ tay. Dương Quá nằm trên dốc, giơ một cái chân lấm bùn vắt lên đầu gối bên kia, kéo cái nón che quá nửa mặt, chỉ để lộ con mắt bên phải ra ngoài.

Một lát sau từ cốc khẩu đi vào ba đạo sĩ. Hai người trong đó là Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền đã ở khách điếm đêm qua, còn người thứ ba trạc tứ tuần, thân hình thấp lùn, chắc là vị được gọi là “Thân sư thúc”. Dương Quá nhìn kỹ tướng mạo, dường như chàng từng gặp người này ở cung Trùng Dương. Từ phía sau có hai người chạy tới. Một người thân hình thô tráng, một người tóc bạc da nhăn, cả hai ăn mặc theo kiểu dân ăn mày, hẳn là hai vị Hàn, Trần của Cái Bang. Năm người kia tiến lại gần nhau, không nói năng gì, chỉ cung tay chào nhau, rồi sắp thành một hàng, hướng về phía tây.

Lúc đó từ ngoài cốc khẩu truyền vào tiếng lóc cóc.

Năm người kia đưa mắt cho nhau, cùng chăm chú nhìn về phía cốc khẩu; chỉ nghe tiếng lóc cóc càng lúc càng gần, ở cốc khẩu xuất hiện một khối trắng đen xen nhau, một bạch y thiếu nữ cười con lừa đen phóng vào. Dương Quá vừa nhìn, biết ngay không phải là Tiểu Long Nữ: “Chẳng lẽ bọn kia thêm một trợ thủ?” Chỉ thấy thiếu nữ tới cách năm người kia vài trượng thì dừng lừa lại, lạnh lùng nhìn năm người một lượt, vẻ mặt đầy ngạo mạn, tựa hồ không thèm nói chuyện với họ.

Cơ Thanh Hư nói:

– Tiểu a đầu, tưởng ngươi không có gan tới đây cơ đấy, có trợ thủ nào thì gọi cả ra đi.

Thiếu nữ cười khẩy, xoẹt một cái, rút từ thắt lưng ra một thanh loan đao vừa mảnh vừa nhỏ, cong cong như mảnh trăng lưỡi liềm, ngân quang lóa mắt. Cơ Thanh Hư nói:

– Bọn ta đây có năm người, các trợ thủ của ngươi bao giờ mới tới, bọn ta không thể chờ lâu.

Thiếu nữ giơ thanh loan đao, nói:

– Đây là trợ thủ của ta.

Thanh loan đao quét một vòng trong không trung, phát ra tiếng u u.

Lời này nói ra, sáu người đều kinh ngạc. Năm người kia kinh ngạc, vì thấy một thiếu nữ dám cả gan không dẫn theo trợ thủ, một mình đến tỷ võ với năm hảo thủ võ lâm. Dương Quá thì thất vọng quá chừng, chàng nóng lòng chờ Tiểu Long Nữ xuất hiện, nào ngờ “bạch y thiếu nữ xinh đẹp” lại là một người khác; đột nhiên nghịch khí dâng lên trong ngực, không sao kiềm chế nổi, bật ra thành tiếng khóc òa.

Chàng vừa khóc rống lên, thì sáu người kia cũng hết sức kinh ngạc. Chỉ thấy một gã mục đồng thả trâu ăn cỏ trên dốc núi, không đáng để ý, chắc là gã mục đồng gặp chuyện oan ức gì, mới ra đây khóc như thế. Cơ Thanh Hư chỉ vị họ Hàn nói:

– Vị này là Hàn anh hùng trong Cái Bang.

Chỉ vị họ Trần nói:

– Vị này là Trần anh hùng trong Cái Bang.

Lại chỉ “Thân sư thúc”, nói:

– Sư thúc đạo trưởng Thân Chí Phàm của hai ta, ngươi đã gặp rồi đó.

Thiếu nữ chẳng buồn lý đến, mục quang lạnh lùng, nhìn năm người kia như không có họ vậy.

Thân Chí Phàm nói:

– Ngươi đã một mình tới đây, thì bọn ta cũng không thể động thủ với ngươi. Hạn cho ngươi mười ngày, sau mười ngày, ngươi phải dẫn bốn trợ thủ đến đây.

Thiếu nữ nói:

– Ta đã nói ta có trợ thủ rồi, đối phó với lũ bị thịt như các ngươi, cần chi phải dẫn thêm ai khác kia chứ?

Thân Chí Phàm nổi giận, nói:

– Tiểu a đầu, ngươi quả thật điên rồ…

Lão đã định nhiếc móc, song kìm lại được, hỏi:

– Rốt cuộc ngươi có thuộc phái Cổ Mộ hay không?

Thiếu nữ hỏi lại:

– Phải thì sao? Không phải thì sao? Này lão đạo, lão đạo có dám động thủ với ta hay không đấy?

Thân Chí Phàm thấy nàng có một thân một mình, mà chẳng sợ hãi gì, đoán là người có mai phục sẵn hảo thủ đâu đây, Lý Mạc Sầu của phái Cổ Mộ là một nhân vật không phải tầm thường, bèn nói:

– Cô nương, bần đạo muốn hỏi, bỗng dưng vô cớ cô nương đả thương người của môn phái ta, là vì lẽ gì. Nếu người bên phía bần đạo có lỗi, bần đạo sẽ tới gặp sư phụ cô nương tạ tội, còn nếu cô nương không nói ra được lý do, thì đừng trách vô lễ.

Thiếu nữ cười khẩy, nói:

– Dĩ nhiên là vì hai tên tiểu tử kia vô lễ, ta mới phải giáo huấn họ. Nếu không, thiên hạ thiếu gì thứ, hà tất ta phải xẻo tai của họ?

Thân Chí Phàm càng nghe thiếu nữ nói, càng kinh nghi bất định. Lão khất cái họ Trần tuy đã già, nhưng rất nóng nảy, sấn tới, gằn giọng, nói:

– Tiểu a đầu, nói chuyện với bậc tiền bối mà người không thèm xuống lừa ư?

Nói rồi vọt tới trước đầu con lừa đen, đưa tay chộp lấy cánh tay phải của thiếu nữ. Động tác xuất thủ cực lẹ, thiếu nữ tránh không kịp, cánh tay phải cầm đao bị nắm, không thể vung đao chống đỡ.

Nào ngờ thiếu nữ hơi xoay cánh tay phải, thanh loan đao vẫn ngoặt lại được. Lão khất cái họ Trần kinh hãi, vội buông tay ra. Phải nói là lão biến chiêu cực nhanh, vậy mà hai ngón tay cũng vẫn bị lưỡi đao làm chảy máu ròng ròng. Lão nhảy lùi lại, rút đơn đao ra, quát to:

– Tặc tiện nhân, đúng là ngươi chán sống mất rồi.

Lão khất cái họ Hàn rút ra một cặp liên tử chùy, Bì Thanh Huyền và Cơ Thanh Hư cũng rút kiếm khỏi bao, thấy kiếm nhẹ hẳn đi, cả hai không hẹn cùng kêu “ôi” một tiếng, cả kinh, vì thanh kiếm trong tay mình đã gãy từ lúc nào.

Thiếu nữ thấy thần thái ngơ ngác của hai gã đạo sĩ, thì bất giác cười òa; Dương Quá đang đau lòng, nghe tiếng cười của thiếu nữ, nhìn bộ dạng ngơ ngác của hai gã đạo sĩ, cũng không khỏi phì cười. Chỉ thấy thiếu nữ hơi ngả người chém một đao vào đầu Bì Thanh Huyền. Bì Thanh Huyền vội rụt đầu lại, nào ngờ đao thế bất tận, cổ tay hơi xoay, loan đao đang giữa chừng chợt ngoặt xuống dưới, trúng góc trán bên phải của Bì Thanh Huyền, lập tức máu tươi chảy ròng ròng. Bốn người còn lại vừa kinh ngạc vừa tức giận, vây tròn xung quanh con lừa đen. Bì Thanh Huyền và Cơ Thanh Hư lùi lại phía sau, mỗi người tay cầm một thanh kiếm gãy vứt đi thì tiếc, giữ lại cũng vô dụng, loay hoay chưa biết nên làm thế nào.

Thiếu nữ hú một tiếng, tay trái giật dây, con lừa đen phóng ra xa mấy trượng. Hai lão khất cái họ Trần, họ Hàn tức thì đuổi theo, đao chùy cùng vung lên tấn công. Thân Chí Phàm cũng xông tới, sử dụng kiếm pháp phái Toàn Chân, mũi kiếm nhằm toàn vào những chỗ yếu hại của đối phương. Dương Quá thấy kiếm pháp của y kém hẳn Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính, đoán rằng y chỉ xếp thứ ba thứ tư trong hàng chữ “Chí”. Dương Quá lúc này tâm thần đã phần nào trấn tĩnh, mới nhìn kỹ dung mạo của thiếu nữ, thấy mặt nàng hình trái soan xinh xắn, tuổi còn thua chàng một, hai năm; hèn chi điếm tiểu nhị không tin rằng “bạch y thiếu nữ xinh đẹp” là tỷ tỷ của chàng. Nàng tuy cũng mặc bộ quần áo màu trắng, song nước da ngăm ngăm, khác hẳn nước da trắng như tuyết của Tiểu Long Nữ. Đao pháp của nàng rất linh hoạt, phần lớn giống như cách sử kiếm, đâm nhiều hơn là chém. Dương Quá nhìn vài chiêu, nghĩ thầm: “Nàng sử dụng quả nhiên là võ công của phái ta, chẳng lẽ nàng là đệ tử của Lý Mạc Sầu?” Nghĩ bụng cả hai phe đều không phải là người tốt, bất kể ai thắng ai bại cũng vậy, lại nghĩ thầm: “Người như nàng mà cũng đòi xưng là “bạch y thiếu nữ xinh đẹp”. Nàng có làm a hoàn cho cô cô của ta cũng chưa xứng”. Thế là chàng nằm gối đầu lên tay, nhìn nghiêng xem đôi bên giao đấu.

Mười mấy chiêu đầu, thiếu nữ chưa bị núng thế, nàng ngồi trên lưng con lừa, trên cao nhìn xuống, loan đao vung chém tới tấp, năm người không thể không nhảy qua nhảy lại né tránh. Lại đấu hơn mười chiêu nữa, Cơ Thanh Hư thấy thanh kiếm gãy trong tay quả là vô dụng, chợt nghĩ một cách, gọi:

– Bì sư đệ, hãy theo ta.

Rồi chạy tới một bụi cây, chọn một cây nhỏ, dùng kiếm chặt sát gốc, phạt hết cành lá, thành một cây gậy nhọn. Bì Thanh Huyền cũng làm như vậy. Hai người dùng gậy làm binh khí, từ hai phía tả hữu đâm về phía con lừa đen. Thiếu nữ quát khẽ:

– Nhìn đây!

Nàng vung đao phạt ngang hai cây gậy; nhưng chỉ phân tâm một chút, liên tử chùy của lão họ Hàn và trường kiếm của Thân Chí Phàm trước sau cùng đánh tới. Thiếu nữ vội cúi đầu, né người, liên tử chùy vụt qua sát mặt nàng. Keng một tiếng, loan đao và trường kiếm đụng nhau; đúng lúc ấy con lừa rú lên một tiếng đau đớn, chân trước tung lên, thì ra nó bị Cơ Thanh Hư đâm trúng một gậy. Lão khất cái họ Trần lăn một vòng, triển khai Địa Đường đao pháp, dùng sống đao chém mạnh vào chân lừa, con lừa đen tức thời quị xuống. Thế là thiếu nữ kia không thể cưỡi lừa mà giao chiến. Nàng thấy kiếm và chùy cùng đánh tới, vội phi thân lên, tay trái chộp được cây gậy của Bì Thanh Huyền, dùng lực bẻ gãy làm hai đoạn. Hai chân vừa chạm đất, nàng hồi đao quét ngang, gạt cây đao của lão khất cái họ Trần đánh tới. Dương Quá kinh ngạc: “Sao, nàng ta bị thương rồi ư?”

Thì ra chàng thấy chân trái của thiếu nữ đi hơi khập khiễng, nên từ đầu nàng không chịu rời khỏi lưng lừa. Lòng hiệp nghĩa của Dương Quá trỗi dậy, định ra tay giúp nàng, nhưng chợt nghĩ: “Mình và cô cô đang sống yên lành trong nhà mồ, thì mụ Lý Mạc Sầu tàn ác mò tới mới đến nông nỗi này. Nay thiếu nữ kia lại mạo xưng là cô cô của ta, đòi người ta gọi là “bạch y thiếu nữ xinh đẹp” mà không biết ngượng.” Chàng bèn ngoảnh đi, không thèm nhìn nàng ta nữa. Tiếng binh khí va nhau keng keng không dứt, cuối cùng chàng không nén được lòng hiếu kỳ, lại ngoảnh đầu xem, chỉ thấy tình thế đã thay đổi, thiếu nữ tránh bên này bên nọ, chống đỡ nhiều mà tấn công ít. Đột nhiên thiết chùy của lão khất cái họ Hàn bay tới, thiếu nữ nghiêng đầu né tránh, vừa hay trường kiếm của Thân Chí Phàm chém tới, “cạch” khẽ một tiếng, một cái kẹp tóc bằng bạc bị đứt, một nửa mái tóc bị xổ ra. Thiếu nữ nhướn mày, mím môi, đánh trả một đao. Dương Quá thấy cử chỉ nhướn mày, mím môi của thiếu nữ thì xúc động mạnh: “Cô cô lúc giận ta cũng có thần sắc y hệt như thế”. Chỉ vì cử chỉ nổi giận của thiếu nữ mà Dương Quá quyết định giúp nàng; chàng nhặt bảy, tám viên sỏi bỏ vào túi. Lúc này thần sắc của thiếu nữ đã giận lắm rồi.

Thân Chí Phàm nói:

– Ngươi là thế nào với Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu? Nếu không nói thực, đừng trách bọn ta không khách khí!

Thanh loan đao của thiếu nữ bỗng ngoằng ra sau gáy Thân Chí Phàm. Thân Chí Phàm không ngờ bị đòn đó, không kịp chống đỡ. Lão khất cái họ Trần vội kêu:

– Cẩn thận!

Cơ Thanh Hư vội giơ gậy gạt thanh loan đao, mới cứu sống được Thân Chí Phàm. Năm người thấy thiếu nữ sử dụng chiêu số tàn độc, hạ thủ không dung tình nữa. Trong giây lát, thiếu nữ liên tiếp gặp hiểm chiêu.

Thân Chí Phàm cho rằng thiếu nữ có liên hệ với Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, nếu để Lý Mạc Sầu biết tin thì tai họa vô cùng, thấy nàng không có trợ thủ, chính là dịp giết người diệt khẩu, bèn liên tiếp đánh vào chỗ yếu hại của nàng.

Dương Quá thấy thiếu nữ bị nguy cấp, không thể chần chừ được nữa, liền nhảy lên lưng trâu, ấn vào mông nó một cái, hai chân chàng quặp chặt ngang bụng trâu. Con trâu đực lồng lên, lao thẳng tới chỗ sáu người.

Sáu người đang mải ác đấu, đột nhiên thấy một con trâu điên xông tới, đều cả kinh, nhảy ra tứ phía né tránh. Dương Quá nằm rạp trên lưng trâu, nhắm đúng các huyệt đạo như Hồn Môn, Thần Đường ở lưng năm nam tử mà búng các viên sỏi, cả năm người cánh tay đều tê dại, binh khí rớt cả xuống đất. Dương Quá đã đánh trâu quay lại sườn núi, từ lưng trâu nhảy xuống đất, miệng kêu ầm ĩ:

– Úi chao, úi chao, con trâu này phát điên mất rồi?

Thân Chí Phàm bị điểm huyệt, binh khí bị rơi khỏi tay, mà không thấy kẻ địch xuất thủ thế nào, tự liệu đó là hành động của trợ thủ thiếu nữ kia, võ công của trợ thủ đó cao minh như thế, y làm sao còn dám ham chiến? May mà hai chân vẫn chưa việc gì, bèn bỏ chạy, miệng gọi:

– Trần đại ca, Hàn huynh đệ, chúng ta đi thôi!

Mấy người còn lại không kịp suy nghĩ, cũng chạy theo. Bì Thanh Huyền hốt hoảng thế nào lại chạy về phía thiếu nữ, Cơ Thanh Hư gọi to:

– Bì sư đệ, đây cơ mà!

Bì Thanh Huyền định quay lại, thì thiếu nữ đã sấn tới, thanh loan đao chém ngang. Bì Thanh Huyền cả kinh, trong tay không có binh khí, vội nghiêng người né tránh, ai dè hướng chém của thanh loan đao bất định, tưởng chém bên này mà lại chém bên kia, tưởng trên hóa dưới, đang phạt ngang lại bổ xuống trước mặt. Bì Thanh Huyền vội giơ tay gạt đi xoẹt một cái, thanh loan đao chém đứt mất bốn ngón tay của y. Y chưa cảm thấy đau ngay, cắm đầu bỏ chạy.

Lão khất cái họ Hàn chạy mươi bước, thấy thiếu nữ không đuổi theo, thì nghĩ thầm: “Tiểu a đầu kia bị thọt chân, làm sao đuổi được kia chứ?” Bèn nhìn chân trái nàng ta một cái, đâu biết rằng cử chỉ đó phạm vào điều đại kỵ của nàng ta, thiếu nữ lập tức nổi cơn lôi đình, quát:

– Quân ăn mày, ngươi tưởng ta không đuổi kịp ngươi ư?

Nàng xoay thanh loan đao mấy vòng, rồi ném vù nó đi, chỉ thấy thanh loan đao loang loáng trong không trung, rồi cắm phập vào vai trái của lão khất cái họ Hàn. Lão ôm vai, để nguyên thanh loan đao mà chạy, lát sau cả năm người đều đã chạy khuất vào rừng cây.

Thiếu nữ cười khẩy mấy tiếng, lòng đầy hồ nghi: “Không lẽ có người mai phục đâu đây, vì lẽ gì người đó lại giúp ta?” Thanh loan đao bằng bạc nàng ném, cắm vào vai lão khất cái họ Hàn, bất giác tiêng tiếc; cúi nhặt thanh đơn đao mà lão khất cái họ Trần đánh rơi dưới đất, đi tứ phía ngó nghiêng vào rừng cây, chẳng thấy bóng một ai, lại trở về chỗ cũ, thấy Dương Quá đang ngồi dưới đất, mặt mày ủ rũ, miệng kêu trời than khổ.

Thiếu nữ hỏi:

– Này mục đồng, ngươi kêu khổ gì vậy?

Dương Quá nói:

– Con trâu của ta tự dưng nổi điên, bị tuột mất mấy mảng lông, ta về nhà chắc sẽ bị chủ nhân đánh chết mất thôi?

Thiếu nữ nhìn con trâu, thấy lông nó mượt mà, đâu có mất gì, nói:

– Thôi được; coi như con trâu này đã giúp ta một chút, ta đền cho ngươi một đĩnh bạc đây.

Nàng lấy trong bọc ra một thỏi bạc ba lạng, ném xuống đất, tưởng Dương Quá sẽ hoan hỉ cảm tạ, ai dè chàng vẫn mếu máo, lắc đầu không nhặt thỏi bạc.

Thiếu nữ nói:

– Ngươi sao vậy, đồ ngốc, cả một thỏi bạc đấy!

Dương Quá nói:

– Một thỏi chưa đủ.

Thiếu nữ lấy ra một thỏi nữa, ném xuống. Dương Quá cố ý chọc ghẹo, vẫn lắc đầu. Thiếu nữ khó chịu, nhướn mày, sầm mặt, mắng:

– Không chịu à, đồ ngốc!

Nàng quay mình bỏ đi. Dương Quá thấy cử chỉ nổi giận của nàng bất giác máu nóng dâng lên ngực, thấy nôn nao, mắt cay cay, nhớ lại dáng dấp của Tiểu Long Nữ mỗi khi trách cứ chàng, tâm ý đã quyết: “Trong thời gian chưa tìm thấy cô cô, mình phải làm cho cô nương này thỉnh thoảng nổi cáu lên mới được?” Bèn giơ hai tay ôm lấy chân phải nàng ta, nói:

– Không được đi!

Thiếu nữ dùng lực hất, song bị chàng ôm chặt, không thoát ra được, thì càng tức, quát:

– Buông ra! Sao ngươi lại làm như thế?

Dương Quá thấy nàng ta cau có thì càng thích chí, nói:

– Ta không về nhà được, cô cô hãy cứu ta.

Rồi kêu tướng lên:

– Cứu với! Cứu với!

Thiếu nữ vừa bực vừa buồn cười, giơ đao lên quát:

– Ngươi không buông tay ra, ta sẽ chém chết ngươi!

Dương Quá càng ôm chặt hơn, giả bộ khóc lóc, nói:

– Thì cô cô cứ chém chết ta đi cũng được, còn hơn về nhà cũng không sống nổi.

Thiếu nữ hỏi:

– Ngươi muốn gì?

Dương Quá nói:

– Ta không biết, ta đi theo cô cô.

Thiếu nữ nghĩ thầm: “Chẳng tội gì vướng víu với cái tên ngốc này”, bèn chém xuống. Dương Quá đoán nàng sẽ không dám chém thật, vẫn cứ ôm chân nàng không thả, nào ngờ nàng xuất thủ tàn nhẫn, một nhát này tuy không định giết chàng, song cũng phải làm cho chàng đau đớn, không dám đeo bám nữa.

Dương Quá chờ đơn đao chỉ còn cách đỉnh đầu vài tấc, liền lăn tránh, miệng la to:

– Ối giết người, giết người!

Thiếu nữ càng tức, sấn tới chém xuống. Dương Quá nằm dưới đất, hai chân đá loạn xạ, mồm kêu:

– Ta chết, ta chết thôi?

Hai chân lấm đất của chàng cứ đá loạn lên, như kẻ đang giãy giụa, thực ra là mấy lần thiếu nữ suýt bị chàng đá trúng cổ tay, nên cũng chưa chém trúng được nhát nào. Dương Quá thấy nàng tức giận, chính là vẻ mặt mình muốn thấy, thì cứ nhìn trân trân như si dại. Thiếu nữ thấy chàng thần sắc kỳ quái, quát:

– Ngươi đứng lên đi?

Dương Quá nói:

– Cô cô có giết ta hay không đã?

Thiếu nữ nói:

– Được, ta sẽ không giết ngươi.

Dương Quá từ từ bò dậy, thở hổn hển, ngầm vận khí bế huyết, khuôn mặt liền tái nhợt như không còn hạt máu, ra điều sợ hãi lắm không bằng. Thiếu nữ đắc ý, nghĩ bụng: “Hừ xem ngươi còn dám đeo bám ta hay không nào?” Nàng giơ đao chỉ mấy ngón tay của Bì Thanh Huyền bị nàng chém đứt rơi dưới đất, nói:

– Người ta hung hăng cỡ mấy, ta cũng còn chém đứt tay bọn chúng nữa là.

Dương Quá giả vờ sợ sệt co rúm người lại. Thiếu nữ gài đao vào lưng, quay đi tìm con lừa đen, nhưng nó đã chạy mất từ hồi nào.

Dương Quá nhặt hai đĩnh bạc cất vào túi, dắt con trâu đi theo sau, gọi:

– Cô cô cho ta theo với.

Thiếu nữ chẳng buồn ngó, đi nhanh hơn, thoáng một lát đã bỏ chàng tụt lại sau rất xa. Nào ngờ vừa ngồi nghỉ, đã thấy chàng cưỡi trâu từ xa phóng tới, miệng gọi:

– Cho ta theo với! Cho ta theo với!

Thiếu nữ cau mày, thi triển khinh công, chạy một mạch mấy dặm liền, tường chàng không tài nào theo kịp, ai dè chẳng mấy chốc lại nghe tiếng gọi văng vẳng “cho ta theo với”. Thiếu nữ giận không để đâu cho hết, chạy ngược lại, rút đao giơ sẵn. Dương Quá ôm đầu chạy đi, miệng kêu:

– Úi chao, úi chao!

Thiếu nữ chỉ cần chàng không bám theo, bèn quay người đi tiếp. Đi một hồi, lại nghe sau lưng có tiếng trâu rống, ngoảnh lại, thấy Dương Quá cưỡi trâu ở xa xa phía sau, cách chừng ba, bốn chục bước. Thiếu nữ dừng chân chờ chàng tới, song Dương Quá thấy nàng không đi thì cũng dừng trâu, nàng đi tiếp thì chàng cũng đi theo; nếu nàng vác đao đuổi chàng, thì chàng cắm đầu chạy. Cứ đuổi rồi dừng như thế, trời đã tối mà thiếu nữ vẫn không thoát nổi sự đeo bám của Dương Quá. Thiếu nữ thấy gã mục đồng tuy ngu ngốc, song cước bộ nhanh nhẹn dị thường, nghĩ rằng gã đã quen đi lại ở vùng núi, vậy muốn thoát sự đeo bám, thì phải đả thương cặp giò của gã.

Lại đi mấy hồi nữa, cái chân bên trái của thiếu nữ bị ngắn, càng đi lâu càng mỏi, nàng bèn nghĩ ra một kế, gọi to:

– Thôi được, ta cho ngươi đi theo vậy. Nhưng ngươi phải vâng lời ta.

Dương Quá mừng hỏi:

– Cô cô cho ta đi theo thật chứ?

Thiếu nữ đáp:

– Thật, cần gì phải đánh lừa ngươi? Ta đi bộ mệt rồi, ngươi hãy để ta cùng cưỡi trên lưng trâu.

Dương Quá cưỡi trâu lại gần; trong bóng tối nhập nhoạng thấy mục quang nàng ánh lên, biết là nàng ta không có ý tốt. Thiếu nữ nhún chân phải một cái, khéo léo leo lên lưng trâu, ngồi đằng trước Dương Quá, nghĩ thầm: “Ta mất lừa, thì cưỡi trâu cũng được”.

Nàng thúc mạnh đầu bàn chân vào bụng con trâu. Con trâu bị đau lồng lên. Thiếu nữ cười khẩy, đột nhiên thúc cùi chỏ ra phía sau, trúng vào giữa ngực Dương Quá. Dương Quá kêu “Chết rồi?” ngã lộn một vòng ra sau lưng.

Thiếu nữ vô cùng đắc ý, nghĩ thầm: “Tên tiểu tử vô lại để xem lần này ngươi còn bám theo ta được không”. Nàng ấn ngón tay vào bụng trâu, con trâu lồng lên nhanh hơn, bỗng nghe tiếng kêu oai oái của Dương Quá ở sau lưng; nàng ngoảnh lại, thấy chàng hai tay túm chặt đuôi con trâu, hai chân không chạm đất, để con trâu đưa đi như bay, mặt mũi lấm lem, trông rất thảm hại, song vẫn không chịu buông đuôi con trâu. Thiếu nữ vô pháp khả thi, liền vung đao định chặt tay chàng, chợt nghe tiếng người huyên náo, thì ra con trâu đã chạy tới một cái chợ. Người chen chúc khá đông, hết lối đi con trâu đành dừng lại.

Dương Quá cố tình làm cho thiếu nữ tức giận để ngắm thần sắc của nàng khi giận dữ. Chàng nằm dưới đất kêu to:

– Ngực ta đau quá, ngươi đánh chết ta rồi?

Dân đi chợ liền bu lại xung quanh. Thiếu nữ chen vào đám đông, định thừa cơ chuồn đi nào ngờ Dương Quá đã ôm chặt lấy chân phải của nàng, nói to:

– Đừng đi, đừng đi!

Mọi người hỏi:

– Làm sao thế? Hai người cãi nhau chuyện gì vậy?

Dương Quá nói:

– Nàng là tức phụ nhi (cô vợ trẻ) của ta, nàng không cần ta, nàng đánh ta.

Một người nói:

– Tức phụ nhi mà đánh phu quân thì còn ra cái thể thống gì?

Thiếu nữ mày liễu dựng ngược, giơ chân trái mà đá. Dương Quá đẩy một người cao lớn ở bên cạnh, khiến cú đá kia trúng vào lưng người ấy. Đại hán nổi giận, mắng:

– Tiểu tặc nhân, đá người hả?

Rồi tung quả đấm to tướng về phía nàng. Thiếu nữ mượn lực ở cùi chỏ của người ấy mà đẩy mạnh, thân hình nặng hai trăm cân của đại hán bay đi, kêu oai oái trên không, rồi rơi xuống đám đông, những người bị đè kêu la ầm ĩ, loạn cả lên.

Thiếu nữ cố sức thoát khỏi Dương Quá, bị chàng ôm chặt lấy chân, làm sao thoát nổi? Thấy năm, sáu người kéo lại chắc là gây khó dễ với nàng, nàng bèn cúi đầu nói:

– Ta đưa ngươi đi thì được chứ gì, buông ra đi.

Dương Quá hỏi:

– Có còn đánh ta nữa thôi?

Thiếu nữ đáp:

– Không đánh nữa.

Dương Quá bấy giờ mới buông tay, bò dậy. Hai người rời đám đông, ra khỏi chợ, nghe tiếng huyên náo sau lưng. Trong lúc vội vã, Dương Quá vẫn dắt theo con trâu đực.

Dương Quá cười hi hi, nói:

– Mọi người cũng bảo tức phụ nhi không được đánh phu quân đó.

Thiếu nữ hầm hầm nhìn chàng, nói:

– Đồ chết tiệt, ngươi còn nói năng bậy bạ, còn nói tức phụ nhi gì gì nữa, thì đừng trách ta bổ vỡ sọ ngươi ra.

Nói rồi giơ đao lên. Dương Quá ôm đầu, nhảy ra xa mấy bước, cầu xin:

– Hảo cô nương, ta không dám nói thế nữa.

Thiếu nữ nói :

– Trông ngươi bẩn thỉu thế kia, nữ nhân có xấu như ma cũng cũng chẳng thèm làm tức phụ nhi của ngươi.

Dương Quá cười hi hi, không đáp. Trời đã tối hẳn, hai người nhìn lại chỗ cái chợ kia, thấy khói bếp bốc lên, bụng đói cồn cào. Thiếu nữ nói:

– Thằng ngố, ngươi đến chợ mua mười cái bánh mang về đây.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ta không đi.

Thiếu nữ cau mặt, hỏi:

– Tại sao ngươi không đi?

Dương Quá nói:

– Cô nương lừa ta đi mua bánh bao, rồi một mình chuồn mất chứ gì.

Thiếu nữ nói:

– Ta không chuồn đi đâu cả.

Dương Quá vẫn lắc đầu. Thiếu nữ định đấm chàng, chàng chạy tránh. Nàng đuổi theo. Hai người chạy vòng quanh con trâu, thiếu nữ chân bị thọt, tuy thi triển khinh công cũng không thể đuổi kịp chàng. Nàng tức không để đâu cho hết, nghĩ thầm mình một thân võ công, lại cơ trí khôn khéo, thế mà đành thúc thủ vô sách trước một gã mục đồng vừa ngớ ngẩn vừa bẩn thỉu, thì quả là đồ vô dụng. Dương Quá lại giả trang quá giống, nếu không thì sau mấy phen giết chàng không nổi, nàng đã phải nghi ngờ từ sớm. Nàng theo đường lớn đi về phía nam, thấy Dương Quá cưỡi trâu lẽo đẽo theo sau một quãng. Nàng nghĩ cách phải bất ngờ giết chàng. Đi một hồi, thấy bên đường có một tòa thạch thất đổ nát cũ kỹ, tựa hồ không có người ở, nàng nghĩ thầm: “Đêm nay mình ngủ ở đây, đợi nửa đêm tên tiểu tử kia ngủ say, mình sẽ cho hắn một đao chết quách là xong”, bèn đi tới thạch thất, đẩy cửa, chỉ thấy mùi ẩm mốc xộc vào mũi, bàn ghế bên trong cũ nát, rõ ràng ngôi nhà bỏ hoang đã lâu. Nàng lấy cỏ lau sạch một cái bàn, rồi nằm lên bàn nhắm mắt dưỡng thần.

Không thấy Dương Quá theo vào, thiếu nữ gọi:

– Thằng ngốc, thằng ngốc?

Không có tiếng trả lời, nàng nghĩ thầm: “Chẳng lẽ nó biết mình định giết nó, nên bỏ chạy rồi!” Không nghĩ đến nữa. Rất lâu sau, đang mơ mơ màng màng, bỗng ngửi thấy mùi thịt thơm nức mũi. Nàng ngồi dậy, bước ra ngoài, thấy Dương Quá đang ngồi dưới ánh trăng, tay cầm một miếng thịt to, miệng nhai ngon lành, trước mặt có một đống lửa nhỏ gác mấy cây củi nướng thịt. Mùi thịt nướng tỏa ra từng chập thơm lừng. Dương Quá thấy nàng bước ra, cười cười hỏi:

– Muốn ăn không?

Rồi ném cho nàng một miếng thịt nai đã nướng còn nóng. Thiếu nữ đón lấy, bụng đang đói ngấu, cắn luôn một miếng nhỏ, tuy không có muối, song thật tươi ngon, bèn ngồi xuống bên đống lửa, nhai chầm chậm, nàng cắn miếng thịt từng chút một, ăn rất nhỏ nhẹ; trong khi Dương Quá cắn từng miếng to, nhai nhồm nhoàm; nàng phải ngoảnh mặt ra chỗ khác, không muốn thấy sự thô tục.

Nàng ăn hết miếng thịt, Dương Quá lại đưa cho nàng một miếng to. Nàng hỏi:

– Đồ ngốc, tên ngươi là gì?

Dương Quá chậm rãi nói:

– Cô nương là tiên nữ hay sao mà lại biết tên ta là Đồ ngốc?

Thiếu nữ đắc chí, cười nói:

– Ồ thì ra tên ngươi là Đồ ngốc. Thế cha mẹ ngươi đâu?

Dương Quá nói:

– Chết cả rồi. Cô nương tên là gì?

Thiếu nữ nói:

– Ta không biết, ngươi hỏi để làm gì?

Dương Quá nghĩ thầm: “Cô nương không chịu nói, ta sẽ khích cho cô nương phải nói” bèn đắc ý nói:

– Ta biết rồi, cô nương cũng tên là Đồ ngốc, nên mới giấu không dám nói.

Thiếu nữ tức giận, đứng dậy, đấm vào đầu chàng một cái, mắng:

– Ai bảo tên ta là Đồ ngốc? Chính ngươi là Đồ ngốc thì có.

Dương Quá nhăn nhó, ôm đầu nói:

– Người ta hỏi ta, tên ta là gì, ta bảo không biết, thế nên người ta gọi ta là Đồ ngốc; cô nương cũng trả lời không biết, thế chẳng phải cô nương cũng tên là Đồ ngốc là gì?

Thiếu nữ nói:

– Ai bảo ta không biết? Ta không thích nói cho người biết ta họ Lục, ngươi hiểu chưa?

Thiếu nữ chính là cô bé Lục Vô Song năm nào hái hoa sen ở Gia Hưng. Người cùng với biểu tỷ Trình Anh và huynh đệ họ Võ trong lúc chơi hái hoa bị ngã gãy chân; Võ tam nương đang chữa trị cho nàng, đúng lúc ấy Hồng Lăng Ba đến tập kích, việc nắn xương chưa xong, nên sau này chân trái của nàng bị ngắn mất hơn một tấc, đi hơi khập khiễng. Nàng có nước da không thật trắng, nhưng dung mạo tú lệ, càng lớn càng xinh, chỉ tội một chân khập khiễng.

Hôm Lý Mạc Sầu giết hại cha mẹ, nô tì nhà nàng, bắt cóc nàng đi, vốn cũng định giết nàng, nhưng thấy trên cổ nàng quàng tấm khăn lụa, nghĩ đến tình xưa của bá phụ nàng là Lục Triển Nguyên, chần chừ chưa nỡ hạ thủ. Lục Vô Song thông minh khôn ngoan, biết rơi vào tay nữ ma đầu thì sống chết chỉ trong gang tấc, nữ ma đầu này đến và đi như gió lốc, đừng hòng trốn thoát tay mụ ta. Thế là ngay từ đầu Lục Vô Song đã tỏ ra ngoan ngoãn, tìm mọi cách lấy lòng, khiến nữ ma dầu sát nhân không chớp mắt ấy dần dần quên ý định giết nàng. Lý Mạc Sầu có lúc nhớ mối hận xưa, bèn gọi nàng ra mắng nhiếc một hồi. Lục Vô Song cố ý để đầu bù tóc rối, dáng đi khập khiễng; Lý Mạc Sầu thấy nàng có vẻ tội nghiệp, chửi mắng một trận đã tức, rồi thôi. Lục Vô Song cứ thế ủy khúc cầu toàn, cố làm một đứa bé ngoan ngoãn, nghiễm nhiên trở thành một môn hạ của nữ ma đầu.

Lục Vô Song chôn chặt mối thù của cha mẹ trong lòng, không để lộ chút gì. Lý Mạc Sầu có hỏi tới cha mẹ của nàng, nàng đều giả bộ không nhớ gì hết. Mỗi khi Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba luyện võ, nàng ở bên đưa kiếm dâng khăn, châm trà dâng trái cây, hầu hạ rất mực chu đáo. Nàng đã có căn cơ võ học, nhìn hai người luyện võ thì thầm ghi nhớ. Khi hai người đi vắng, nàng mới lén luyện tập, thường ngày lại càng cố lấy lòng Hồng Lăng Ba. Sau đó Hồng Lăng Ba nhân lúc thấy sư phụ đang vui vẻ, liền thay mặt Lục Vô Song xin cho nàng, thế là Lục Vô Song cũng trở thành đệ tử của Lý Mạc Sầu.

Cứ thế mấy năm, võ công của Lục Vô Song ngày càng tinh tiến. Có điều là đối với nàng, Lý Mạc Sầu vẫn ngờ vực, đừng nói võ công thượng thừa, mà ngay cả võ công hạng nhì cũng không truyền thụ. Ngược lại Hồng Lăng Ba thấy nàng đáng thương, thường kín đáo bày vẽ, chỉ dẫn, nên võ công của nàng nói là cao cũng không phải, bảo là thấp cũng không đúng.

Khi Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba trước sau đi lên núi Chung Nam tìm “Ngọc nữ tâm kinh”, Lục Vô Song thấy họ lâu ngày chưa trở về, bèn rời bỏ nơi ở của nữ ma đầu, về Giang Nam tìm kiếm xem cha mẹ sống chết ra sao. Hồi chín tuổi nàng thấy Lý Mạc Sầu đánh cha mẹ nàng trọng thương, thiết nghĩ lành ít dữ nhiều nhưng rốt cuộc nàng chưa chính mắt nhìn thấy cha mẹ tắt thở, nên vẫn le lói chút hi vọng, phải tìm hỏi cho ra. Lúc ra đi, nàng đánh liều lấy trộm bản sao quyển “Ngũ độc bí truyền” của Lý Mạc Sầu ghi chép các thứ độc dược và giải dược.

Chân trái bị thọt, nàng hận nhất kẻ nào cứ nhìn vào chân trái của nàng. Hôm rồi tại khách điếm, hai đạo sĩ nhìn vào chân trái của nàng mấy lần, nàng bèn xuất ngôn chỉ trích, hai đạo sĩ tính cũng chẳng vừa, đôi bên lời qua tiếng lại, đi tới động thủ. Lục Vô Song dùng loan đao xẻo tai hai gã, mới có cuộc hẹn tái đấu ở Sài Lang cốc. Khi Lý Mạc Sầu bắt cóc nàng mang lên phương bắc, ở cửa hầm rượu nàng và Dương Quá từng gặp nhau, nhưng hồi ấy cả hai còn nhỏ, mấy năm qua đã thay đổi hẳn, bây giờ cả hai đều đã quên, không thể nhớ ra.

Lục Vô Song ăn hết hai miếng thịt nai nướng, đã no. Dương Quá mượn ánh lửa ngắm sắc diện nàng, nghĩ thầm: “Cô cô của mình lúc này ở đâu không biết? Ước gì người ngồi kia là cô cô của mình, mình nướng thịt cho cô cô ăn, có phải tốt biết bao!” Mải nghĩ, chàng ngây người nhìn nàng. Lục Vô Song nghĩ thầm: “Hừ, ngươi dám nhìn ta vô lễ thế kia, tạm thời ta nhẫn nại một chút, nửa đêm sẽ giết ngươi”. Liền vào trong nhà nằm ngủ.

Ngủ đến nửa đêm, nàng nhẹ nhàng trở dậy, đi ra ngoài, thấy Dương Quá nằm im không hề động đậy bên đống lửa, lửa đã tắt, bèn rón rén tới phía sau chàng, chém mạnh cây đao xuống, bỗng cổ tay tê dại, hổ khẩu chấn động đau nhói, tai nghe tiếng choang, tay buông rơi cây đao, chỉ cảm thấy chỗ vừa chém xuống rắn như sắt như đá. Nàng kinh ngạc, vội quay mình chạy, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ tên tiểu tử lại luyện được cách chống lại đao kiếm?”

Chạy vài trượng, thấy Dương Quá không hề đuổi theo, ngoảnh lại, thấy chàng vẫn nằm bất động như cũ.

Lục Vô Song nghi ngờ, gọi:

– Đồ ngốc, Đồ ngốc! Ta có lời cần nói với ngươi.

Dương Quá không trả lời. Nàng nhìn kỹ, chỉ thấy Dương Quá nằm co quắp, hình thù quái dị, bèn đánh bạo tới gần, thấy chàng không giống hình người, giơ tay sờ sờ, hóa ra bên dưới quần áo rất cứng rắn, y như là một hòn đá. Kéo quần áo phủ bên trên ra, quả nhiên là một tảng đá, chứ đâu phải là Dương Quá.

Nàng sững sờ, gọi to:

– Đồ ngốc, Đồ ngốc!

Không có tiếng trả lời. Nàng lắng nghe, từ trong nhà hình như vọng ra tiếng ngáy, bèn đi vào, thấy Dương Quá đang nằm trên chính cái bàn nàng vừa nằm, lưng quay ra ngoài, ngáy như kéo bễ, đang ngủ say. Lục Vô Song cả giận, cũng chẳng nghĩ tại sao chàng tự dưng lại nằm ở đây, sấn ngay tới, giơ đao đâm vào lưng chàng.

Mũi đao đâm sâu, đúng là vào da thịt, chứ tay nàng không có cảm giác gì lạ. Chỉ nghe Dương Quá khịt khịt mũi nói mớ:

– Đứa nào gãi ngứa sau lưng ta đó? Hi hi, đừng nghịch, đừng nghịch, để yên ta ngủ!

Lục Vô Song tái mặt, hai tay run rẩy, nghĩ thầm: “Người này chẳng lẽ là ma quỉ?” Nàng quay người định chạy, nhưng hai chân ríu lại, chỉ nghe Dương Quá lại nói mớ:

– Sau lưng ngứa quá, chắc là con chuột nhắt đến ăn vụng tảng thịt nai của ta rồi.

Chàng giơ tay, lôi từ sau lưng ra tảng thịt nai, ném phịch một cái xuống đất. Lục Vô Song há hốc mồm, bây giờ mới hiểu: “Thì ra Đồ ngốc đeo tảng thịt nai sau lưng, vừa rồi mũi đao của ta đâm trúng vào đó, chính ta bị giật mình”. Hai lần đâm, chém đều bị lừa, Lục Vô Song càng tức giận thêm, nghiến răng nói:

– Đồ ngốc thối tha, xem lần này ta có lấy nổi mạng ngươi hay không.

Nàng xông tới, vung đao chém mạnh xuống người chàng. Dương Quá vẫn ngáy, lăn mình một cái, lưỡi đao cắm phập xuống mặt bàn. Lục Vô Song định vận sức vào hai tay để rút cây đao lên, thì Dương Quá hình như đang mơ thấy ác mộng, nói mớ:

– Mẹ ơi, mẹ ơi, chuột nhắt nó cắn con?

Hai chân lấm bùn của chàng giơ lên, chân trái gí vào huyệt Khúc Trì ở khuỷu tay, chân phải gí vào huyệt Kiên Tỉnh ở vai nàng, cả hai chỗ đều là đại huyệt trên cơ thể người, hai cái chân lấm lem giãy giãy thế nào mà lại điểm trúng hai huyệt ấy. Lục Vô Song tức thời đứng ngay đơ ra đó, làm cái giá để hai chân chàng gác lên. Lục Vô Song giận quá, thân hình tuy không cựa quậy được nhưng miệng thì vẫn có thể nói, bèn quát:

– Này, Đồ ngốc, mau bỏ hai cái chân hôi hám của ngươi ra!

Chỉ nghe chàng ngáy to hơn. Lục Vô Song không biết làm cách gì, liền há miệng nhổ một bãi nước bọt về phía chàng. Dương Quá trở mình, mũi bàn chân phải gí trúng vào huyệt Cự Cốt, Lục Vô Song toàn thân tê dại, ngay miệng cũng không há ra được, mũi vẫn ngửi thấy mùi hôi từ bàn chân chàng xộc lên. Cứ thế chừng một tuần trà, Lục Vô Song giận tưởng muốn ngất đi, trong bụng thề độc: “Ngày mai khi huyệt đạo đã thông, nhất định ta sẽ băm vằm Đồ ngốc vài chục nhát đao”. Dương Quá nghĩ thầm đùa giỡn nàng như thế là đủ, bèn buông chân xuống, xoay mình lại, tuy trong bóng tối vẫn nhìn rõ thần sắc giận dữ của nàng, nàng càng giận thì hình như càng giống Tiểu Long Nữ, Dương Quá cứ trân trân nhìn nàng, không chớp mắt. Kỳ thực Lục Vô Song tướng mạo khác hẳn Tiểu Long Nữ, chẳng qua nữ nhân trong thiên hạ khi tức giận sẽ có diện mạo phần lớn giống nhau, Dương Quá quá nhớ sư phụ, nên nhìn Lục Vô Song giận dữ lại ngỡ đấy là Tiểu Long Nữ, giống như trường hợp ăn bánh vẽ, nhìn cây mơ đỡ khát mà thôi. Lúc này ánh trăng chếch sang phía tây, chiếu từ ngoài cổng vào. Lục Vô Song thấy Dương Quá mở to mắt đăm đăm nhìn mình, thì nghĩ thầm: “Không lẽ Đồ ngốc giả vờ ngớ ngẩn? Hắn điểm huyệt mình, chứ đâu phải là vô tình đạp trúng huyệt?” Nghĩ tới đó bỗng toát mồ hôi lạnh. Đúng lúc ấy, Dương Quá bỗng liếc xuống đất, nàng cũng đưa mắt nhìn theo, thấy dưới đất in rõ ba bóng đen đứng thành một hàng, là ba người đang đứng ngay ở cửa. Nhìn kỹ, tay họ đều lăm lăm vũ khí. Lục Vô Song thầm kêu khổ: “Nguy rồi, hỏng rồi, kẻ địch tìm đến, ta lại bị Đồ ngốc điểm huyệt thế này”. Nàng liên tiếp gặp chuyện lạ, thâm tâm tuy nghi ngờ, song vẫn không thể tin rằng một gã mục đồng bẩn thỉu lại có võ công cao minh đầy mình như vậy.

Dương Quá nhắm mắt ngáy to. Chỉ nghe một người ngoài cửa gọi:

– Con tiểu tiện nhân kia, mau ra đây, ngươi cứ đứng yên trong ấy, tưởng đạo gia sẽ tha cho ngươi chăng?

Dương Quá nghĩ thầm: “Vẫn là tên đạo sĩ”. Một người khác nói:

– Bọn ta cũng không cần lấy mạng ngươi, chỉ xẻo hai cái tai và chặt ba ngón tay ngươi mà thôi.

Người thứ ba nói:

– Lão phu ở bên ngoài chờ, ra ngoài này động thủ cho sướng tay.

Nói xong nhảy ra ngoài. Ba người dàn thành nửa vòng tròn ngoài sân.

Dương Quá vươn vai, thong thả ngồi dậy, nói:

– Ngoài kia ai gọi cái gì thế, Lục cô nương, cô nương đâu rồi? Ồ, sao cô nương lại đứng đờ ra thế?

Chàng ấn mấy cái vào sau lưng nàng. Lục Vô Song lập tức cảm thấy một luồng cường kình truyền sang, toàn thân chấn động, ba huyệt đạo đã được giải khai, cũng không kịp nghĩ ngợi gì, vội cúi nhặt thanh đơn đao, nhảy ra ngoài, chỉ thấy ba nam nhân đứng quay lưng về phía ánh trăng.

Nàng không nói gì, lật cổ tay đâm đơn đao về phía người đứng bên trái. Người đó tay cầm thiết tiên (roi sắt) vụt vào lưỡi đao. Thiết tiên của y vốn nặng, lực vụt lại mạnh, keng một tiếng, thanh đao của Lục Vô Song văng khỏi tay. Dương Quá đang nằm ngang trên bàn, thấy Lục Vô Song bước sang bên cạnh, tay trái đưa chếch, nghĩ thầm: “Hay lắm, đạo sĩ kia sắp mất kiếm cho mà xem”. Quả nhiên Lục Vô Song thi triển võ công phái Cổ Mộ, đoạt được thanh kiếm từ tay gã đạo sĩ ở bên phải, thuận tay chém luôn, xoẹt một tiếng, trúng vai đạo sĩ. Gã kêu to, nhảy ra ngoài, xé vạt áo băng vết thương.

Lục Vô Song múa kiếm đấu với hán tử cầm thiết tiên. Gã hán tử thứ ba, thấp bé, cầm hoa thương (vũ khí cổ giống chiếc giáo, nhưng ngắn hơn) cứ đâm bên này một cái, đâm bên kia một cái, không dám lại quá gần. Gã sử dụng thiết tiên võ công không phải loại thường, sau hơn mười chiêu, Lục Vô Song bắt đầu cảm thấy khó địch nổi. Người ấy xuất thủ rất có khí độ, tựa hồ chú ý tới thân phận của mình; Lục Vô Song mấy lần thất thủ, người ấy đều không lấn tới quá mức.

Gã đạo sĩ băng bó xong vết thương, tay không nhảy vào, chỉ mặt Lục Vô Song, mắng:

– Tiểu tiện nhân phái Cổ Mộ kia, ngươi hạ thủ tàn độc quá!

Rồi múa quyền đấm tới. Bạch quang loáng lên, gã đạo sĩ thiếu chút nữa bị một kiếm chém vào lưng, nhưng cây hoa thương của gã thấp bé đã đâm phía sau Lục Vô Song, còn thiết tiên của gã thứ hai thì quất tới vai Lục Vô Song. Dương Quá kêu thầm “Không ổn”. Hai viên sỏi từ hai tay búng đi, một viên đánh bật hoa thương, một viên bắn trúng cổ tay phải gã đạo sĩ sử dụng thiết tiên.

Không ngờ gã đó võ công cao cường, cổ tay phải trúng đòn, thiết tiên không còn lực quất tới, nhưng tả chưởng lại nhanh như chớp đánh ra, hự một tiếng, trúng vào sườn Lục Vô Song. Dương Quá cả kinh, vội lao ra, thộp gáy ném gã đi. Gã bị bay ra xa hơn một trượng. Gã đạo sĩ bị thương và gã thấp bé thấy Dương Quá lợi hại như thế, vội dìu hán tử vừa bị quẳng ra, kéo nhau đi luôn, không dám ngoảnh lại.

Dương Quá cúi nhìn Lục Vô Song, thấy mặt nàng tái nhợt, hơi thở rất yếu ớt, bị thương thực không nhẹ, đưa tay đỡ nàng từ từ ngồi dậy, nghe hai tiếng “cách cách” nhẹ, là tiếng xương gãy chạm nhau, thì ra hai dẻ xương sườn của nàng đã bị gã sử dụng thiết tiên đánh gãy. Lục Vô Song vốn ngất lịm, do cử động chỗ xương gãy gây đau nhói khiến nàng tỉnh lại, rên thành tiếng. Dương Quá hỏi:

– Thế nào, đau lắm à?

Lục Vô Song đau đến ngất đi, nghiến răng nói:

– Hỏi cái gì? Dĩ nhiên là đau rồi. Đưa ta vào nhà đi.

Dương Quá bế nàng lên, không khỏi động chạm, hai cái xương gãy đụng nhau, lại đau hoa cả mắt.

Nàng kêu:

– Đau quá, ngươi… ngươi cố ý hành hạ ta. Ba tên kia đâu rồi?

Lúc Dương Quá ra tay, nàng đã bị đòn ngất đi nên không biết là chàng đã cứu mạng mình.

Dương Quá cười cười, nói:

– Họ ngỡ cô nương đã chết, nên phủi tay bỏ đi rồi.

Lục Vô Song hơi yên tâm, mắng:

– Ngươi cười cái gì? Đồ ngốc, thấy ta càng đau, ngươi càng thích thú phải không?

Dương Quá mỗi lần nghe nàng mắng một câu, lại nhớ đến lúc chàng bị Tiểu Long Nữ mắng. Mấy năm chung sống với Tiểu Long Nữ trong nhà mồ là thời kỳ sung sướng nhất trong đời chàng, mỗi khi Tiểu Long Nữ mắng chàng, chàng đều cảm thấy dễ chịu. Lúc này chưa tìm thấy sư phụ, vừa may gặp một bạch y thiếu nữ, cảm giác cô đơn khổ sở cũng vơi bớt mấy phần.

Kỳ thực khi Tiểu Long Nữ mắng chàng, do tính nàng lãnh đạm, nên cũng chỉ nói vài câu lạnh nhạt mà thôi; đâu có mắng té tát như Lục Vô Song? Song tình cảnh Dương Quá lúc này thà có thiếu nữ mắng nhiếc chàng còn hơn là không có ai nói gì. Cho nên Lục Vô Song mắng nhiếc gì, chàng cũng chẳng để bụng, cứ bế nàng đặt lên bàn. Lúc nàng nằm xuống, chỗ xương gãy lại đau nhói, nàng kêu to lên, lúc kêu to, phổi hít khí vào mạnh, lại động tới xương sườn, càng đau hơn; nàng đành nghiến răng, trán vã mồ hôi lạnh.

Dương Quá hỏi:

– Để ta nối chỗ xương gãy cho cô nương chứ?

Lục Vô Song nhiếc:

– Đồ ngốc thối tha, ngươi mà đòi biết cách tiếp cốt.

Dương Quá nói:

– Ở nhà ta có con chó ghẻ cắn nhau với con chó vàng nhà láng giềng, bị con kia cắn què một cẳng, ta đã chữa lành cho con chó ấy. Còn nữa, con heo nái nhà Vương bá bá bị gãy xương sườn, cũng do ta chữa khỏi đấy.

Lục Vô Song cả giận, nhưng không dám quát to, chỉ gằn giọng, nói:

– Ngươi nhiếc ta là chó ghẻ, lại còn nhiếc là heo nái. Ngươi mới là chó ghẻ, ngươi mới là heo nái.

Dương Quá cười, nói:

– Dẫu có là heo, thì ta cũng phải là heo đực chứ. Hơn nữa, con chó ghẻ lại là chó cái, chứ chó đực không bao giờ bị ghẻ.

Lục Vô Song tuy nói năng sắc sảo, song hễ nói một câu lại đau nhói ở ngực, tuy rất muốn đấu khẩu với chàng, song đành nhắm mắt nhịn đau, mặc kệ chàng. Dương Quá nói:

– Con chó ghẻ gãy chân, được ta tiếp cốt, mấy hôm đã khỏi, lại đi đánh nhau như chưa hề bị què vậy.

Lục Vô Song nghĩ thầm: “Không chừng Đồ ngốc hắn biết tiếp cốt thật cũng nên. Huống hồ nếu không có người chữa trị, ta chết là cái chắc. Nhưng mà hắn tiếp cốt cho mình, phải cởi áo nắn ngực… thì làm sao đây? Hừ, hắn chữa không xong, thì ta liều chết với hắn; hắn chữa xong, thì ta cũng quyết không để cho kẻ nhìn thấy thân thể ta được sống trên đời”. Nàng từ nhỏ đã gặp thảm họa, phải nhẫn nhục giữ mạng sống, tâm trạng vốn khác hẳn người thường, sống lâu năm với Lý Mạc Sầu, tai nghe mắt thấy nhiều chuyện, càng học cách nghĩ cách làm tàn ác, tuổi còn nhỏ mà lòng dạ độc địa, hạ giọng, nói:

– Thôi được, nếu ngươi lừa ta, Đồ ngốc, ta quyết không để cho người được chết một cách yên lành.

Dương Quá nghĩ thầm: “Bây giờ không gây khó dễ, sau không còn dịp”, thế là lạnh lùng nói:

– Con heo nái nhà Vương bá bá bị gãy xương sườn, cô con gái của Vương bá bá khẩn khoản nhờ ta, gọi ta là “hảo ca ca” một trăm tiếng, ta mới chữa cho đấy…

Lục Vô Song nói:

– Ôi ôi, ôi, Đồ ngốc thối tha, Đồ ngốc xấu xa…

Ngực lại đau nhói lên.

Dương Quá cười, nói:

– Cô nương không chịu gọi cũng chả sao. Ta đi về nhà ta vậy. Cô nương cứ nằm đây mà nghỉ cho khỏe.

Đoạn đứng dậy, đi ra cửa.

Lục Vô Song nghĩ thầm: “Hắn bỏ đi, ta còn một mình ở đây, chắc chết mất”, đành nuốt giận, hỏi:

– Ngươi muốn thế nào?

Dương Quá nói:

– Lẽ ra cô nương cũng phải gọi ta là “hảo ca ca” một trăm tiếng; nhưng vì suốt dọc đường cô nương mắng nhiếc ta khổ sở, vậy phải gọi một ngàn lần mới được.

Lục Vô Song nhẩm tính trong đầu: “Hãy tạm đáp ứng hắn, đợi khi mình khỏi, sẽ trị cho hắn một phen cũng chưa muộn”. Bèn nói:

– Hảo ca ca, hảo ca ca, hảo ca ca… ối, ối, ối…

Dương Quá nói:

– Thôi được, còn chín trăm chín mươi bảy tiếng nữa, ta cho cô nương nợ, đợi khi khỏe hãy gọi.

Rồi bước lại, giơ tay cởi áo cho nàng.

Lục Vô Song bất giác co người lại, sợ hãi nói:

– Tránh ra! Ngươi làm trò gì thế?

Dương Quá lùi một bước, nói:

– Để nguyên quần áo tiếp cốt thì ta chưa biết cách; con chó ghẻ và con heo nái đâu có mặc thứ gì.

Lục Vô Song cũng thấy buồn cười, nhưng khổ nỗi để cho chàng cởi áo thì xấu hổ quá, một lát sau, đành cúi đầu nói:

– Thôi được, ta chịu thua ngươi.

Dương Quá nói:

– Cô nương không muốn chữa thì thôi, ta đâu cần…

Vừa nói tới đó, bỗng nghe ngoài cổng có tiếng người:

– Con tiện nhân ấy chắc chắn ở đâu đây trong vòng hai chục dặm, chúng ta mau lục soát…

Lục Vô Song vừa nghe giọng nói đó, thì mặt cắt không còn hột máu, bất chấp cái đau ở ngực, giơ tay bịt miệng Dương Quá, thì ra tiếng nói vừa rồi là của Lý Mạc Sầu.

Dương Quá nghe giọng nàng ta, cũng kinh ngạc.

Một giọng nữ khác nói:

– Thanh loan đao ở vai gã ăn mày chính là thanh đao của sư muội, chỉ tiếc là không tiện đứng ra nhận.

Chính là Hồng Lăng Ba.

Hai sư đồ Lý Mạc Sầu thoát ra khỏi “Hoạt tử nhân mộ”, về đến Xích Hà trang, thì phát hiện Lục Vô Song đã bỏ trốn, việc ấy cũng chẳng sao, không ngờ Lục Vô Song lại lấy mất quyển “Ngũ độc bí truyền”. Lý Mạc Sầu hoành hành trên giang hồ, các nhân sĩ võ lâm kính sợ, không phải vì nàng võ công cao cường, mà chủ yếu vì chất độc của “Ngũ độc thần chưởng” và của “Băng phách ngân châm”. “Ngũ độc bí truyền” ghi chép các thứ độc dược và giải dược, cách điều chế, sử dụng cho ngân châm, nếu truyền rộng ra, thì Xích Luyện Tiên Tử có khác gì con rắn độc bị người ta bẻ mất răng. Những điều ghi trong sách, Lý Mạc Sầu đã thuộc lòng từ lâu, không cần mang sách theo bên mình, nàng ta đem cất ở một chỗ hết sức bí mật trong Xích Hà trang, ai ngờ Lục Vô Song vạn sự bình nhật đều lưu tâm ghi nhớ, biết được chỗ sư phụ cất giấu, khi quyết ý bỏ trốn, đã lấy sách mang đi.

Lý Mạc Sầu tức giận ghê gớm, dẫn Hồng Lăng Ba ngày đêm đuổi theo, nhưng Lục Vô Song bỏ trốn đã lâu lại toàn đi đường nhỏ, sư đồ Lý Mạc Sầu đi từ bắc xuống nam, từ nam sang đông, quanh đi quẩn lại mấy lần, thủy chung vẫn chẳng thấy tung tích Lục Vô Song đâu cả. Đêm nay tình cờ sư đồ hai người đi tới gần Đồng Quan, nghe các đệ tử Cái Bang truyền tin nhau triệu tập bang chúng Cái Bang. Lý Mạc Sầu nghĩ bụng đệ tử Cái Bang rải khắp thiên hạ, tai mắt linh thông, nhất định có người gặp Lục Vô Song, thế là hai sư đồ đi tới nơi họ tụ họp để điều tra tin tức, đang đi chợt thấy một đệ tử năm túi của Cái Bang được một đệ tử khác vác chạy như bay, có mười bảy mười tám đệ tửkhác chạy bên cạnh hộ vệ. Lý Mạc Sầu thấy vai người kia cắm một thanh loan đao, chính là thanh loan đao của Lục Vô Song. Lý Mạc Sầu liền bám theo bên cạnh nghe lén, loáng thoáng nghe mấy đệ tử Cái Bang nói rằng thanh loan đao ấy do một tiểu a đầu thọt chân phóng ra, trúng vai gã kia.

Lý Mạc Sầu cả mừng, nghĩ chuyện mới xảy ra, thì Lục Vô Song còn ở gần đâu đây, thế là lao đi tìm, tìm đến trước tòa thạch thất hoang phế. Thấy ở đó có một đống tro còn ấm, lại thoảng mùi máu tanh, vội thắp lửa soi bốn phía, thấy dưới đất có dấu máu còn mới, rõ ràng ác đấu xảy ra chưa lâu. Lý Mạc Sầu kéo áo Hồng Lăng Ba, chỉ tay vào trong nhà. Hồng Lăng Ba gật đầu, đẩy cửa, múa kiếm hộ thân, xông vào. Lục Vô Song nghe sư phụ và sư tỷ nói với nhau, biết là nguy rồi, đành nằm chờ chết. Chỉ thấy một cái bóng vàng đẩy cửa lướt vào, chính là sư tỷ Hồng Lăng Ba.

Hồng Lăng Ba rất quí sư muội, biết phen này sư phụ sẽ dùng đủ cách ác độc, sư muội sẽ bị hành hạ thống khổ vạn phần trước khi chết, thấy nàng ta đang nằm trên bàn, bèn vung kiếm đâm luôn để sư muội khỏi bị khổ sở. Mũi kiếm đâm sắp đến ngực Lục Vô Song, thì Lý Mạc Sầu vỗ vào vai Hồng Lăng Ba một cái, cánh tay nàng vô lực, liền thõng xuống. Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Chẳng lẽ ta không biết động thủ sát nhân hay sao? Làm gì phải vội?

Rồi nói với Lục Vô Song:

– Ngươi gặp sư phụ mà không vái chào ư?

Lúc này Lý Mạc Sầu tuy tức giận, nhưng lời lẽ vẫn như thường ngày. Lục Vô Song nghĩ thầm: “Hôm nay gặp mụ ta, dù van xin hay ngang ngạnh thì cũng đều bị mụ ta hành hạ khổ sở”, bèn thản nhiên nói:

– Sư phụ với nhà ta có mối thâm cừu, khỏi cần nhiều lời.

Lục Vô Song chăm chú nhìn, mục quang cũng không lộ rõ là vui hay buồn. Hồng Lăng Ba thì vẻ mặt đầy thương hại. Lục Vô Song hơi bĩu môi, sắc mặt thản nhiên.

Ba người cứ thế nhìn nhau một hồi lâu, Lý Mạc Sầu nói:

– Quyển sách đâu, đưa đây.

Lục Vô Song nói:

– Bị một gã đạo sĩ thối tha, một tên ăn mày xấu xa cướp mất rồi.

Lý Mạc Sầu thầm kinh hãi, nàng tuy không có thù oán gì với Cái Bang, nhưng với phái Toàn Chân thì đụng chạm không nhỏ, “Ngũ độc bí truyền” một khi rơi vào tay bọn họ, làm sao còn lấy lại được?

Lục Vô Song thấy sư phụ thản nhiên mỉm cười, tự biết sư phụ chính đang suy tính độc kế. Suốt thời gian đi trốn, nàng luôn luôn thấp thỏm sợ bị sư phụ đuổi bắt. Bây giờ đã bị sư phụ bắt được, nàng lại không sợ như trước, tự dưng lúc này lại nghĩ thầm: “Đồ ngốc đâu rồi nhỉ?”. Nàng sắp mất mạng, nghĩ đến gã mục đồng bẩn thỉu và ngốc nghếch, chẳng hiểu sao lại có cảm giác ấm áp và thân thiết. Đột nhiên có lửa sáng và tiếng chân sầm sầm.

Sư đồ Lý Mạc Sầu quay người lại, thấy một con trâu xông thẳng vào nhà, một bên sừng buộc cây đơn đao, sừng bên kia buộc một cây củi đang cháy đùng đùng. Cái thế lao tới của con trâu uy mãnh vô cùng, Lý Mạc Sầu vội né sang một bên, con trâu chạy một vòng trong nhà, rồi quay đầu chạy ra ngoài. Nó chạy vào rất hung hăng, lúc chạy ra cũng như điên, thoáng chốc đã phóng ra xa mấy trượng. Lý Mạc Sầu nhìn theo con trâu, thoạt tiên cảm thấy hơi kỳ dị, sau đó nghĩ thầm: “Kẻ nào buộc củi lửa và đao nhọn vào sừng con trâu?”. Quay người lại cả hai sư đồ cùng kinh ngạc, Lục Vô Song vừa nằm trên bàn đã biến mất tăm.

Hồng Lăng Ba ngó trước ngó sau toà thạch thất một lượt, rồi nhảy lên mái nhà tìm kiếm. Lý Mạc Sầu đoán là mọi sự ở con trâu kia mà ra, bèn ra khỏi nhà đuổi theo. Trong đêm tối, chỉ thấy ánh lửa loang loáng ở sừng con trâu đã chạy vào cánh rừng trước mặt. Dưới ánh lửa, Lý Mạc Sầu thấy trên lưng trâu không hề có người cưỡi, xem chừng Lục Vô Song hoàn toàn không phải cưỡi con trâu chạy trốn. Nàng nghĩ thầm: “Phải rồi, nhất định có kẻ ở bên ngoài tiếp ứng, cho con trâu chạy vào để làm cho ta phân tâm, hắn thừa Cơ cứu Lục Vô Song đi”. Song nhất thời nàng chưa biết đuổi về hướng nào, bèn gia tăng cước bộ, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp con trâu, nàng nhảy vọt lên lưng nó, nhìn kỹ không thấy gì lạ, mới nhảy xuống, đá một cái vào mông con trâu, huýt một tiếng sáo miệng thông tin cho Hồng Lăng Ba, rồi một người từ bắc xuống nam, một người từ đông sang tây, bắt đầu truy đuổi.

Con trâu dĩ nhiên do Dương Quá lùa vào nhà. Chàng nghe thấy tiếng sư đồ Lý Mạc Sầu nói với nhau, bèn chuồn ra cửa sau, nép bên ngoài nghe lén; chỉ sau một câu đã biết Lý Mạc Sầu sắp giết Lục Vô Song; bèn nảy ra một kế, chạy lại chỗ con trâu, nhặt thanh đơn đao của Lục Vô Song bị thiết tiên đánh rơi, nhặt một cành củi khô, buộc hai thứ vào hai bên sừng trâu, đốt thanh củi, nằm ở dưới bụng con trâu, tay chân quặp chặt thân trâu, cho con trâu xông vào trong nhà, ôm lấy Lục Vô Song, lại nép dưới bụng trâu mà thoát ra. Chàng hành động thần tốc, con trâu lại cổ quái nhờ vậy đã qua mặt được Lý Mạc Sầu. Khi Lý Mạc Sầu đuổi kịp con trâu, thì Dương Quá đã ôm Lục Vô Song trốn vào một đám cỏ dày.

Trải qua phen vừa rồi Lục Vô Song đau đến chết đi sống lại. Mọi việc Dương Quá cứu làm sao, ôm nàng nấp dưới bụng trâu, chui nấp trong cỏ thế nào, nàng chỉ biết một cách lờ mờ. Nằm một chỗ rồi, thần trí mới phục hồi, kêu “ôi” một tiếng. Dương Quá vội lấy tay bịt miệng nàng lại, ghé tai nàng nói nhỏ:

– Đừng lên tiếng!

Chỉ nghe tiếng bước chân, Hồng Lăng Ba nói:

– Lạ thật, tại sao trong chớp mắt đã biến mất tăm là sao?

Lý Mạc Sầu từ đằng xa nói:

– Chúng ta đi thôi. Con tiện nhân ấy chắc đã chạy xa rồi.

Tiếng chân của Hồng Lăng Ba đi xa dần. Lục Vô Song khó thở, lại rên lên, Dương Quá vẫn cứ bịt miệng nàng, chưa buông tay ra.

Lục Vô Song giãy một cái, phát hiện mình đang nằm trong lòng chàng, vừa ngượng vừa cuống, giơ tay định đánh chàng. Dương Quá ghé tai nàng nói:

– Đừng mắc lừa, sư phụ cô nương đánh lừa cô nương đấy.

Lời vừa dứt, quả nhiên nghe Lý Mạc Sầu nói:

– Đúng là nó không còn ở đây.

Tiếng nói nghe như ngay bên cạnh hai người, Lục Vô Song giật mình, nghĩ thầm: “Không có Đồ ngốc kiến cơ hành sự, thì mình mất mạng rồi”. Nguyên Lý Mạc Sầu nghi là Lục Vô Song trốn ở đâu đây, miệng nói là đi thôi, kỳ thực thi triển khinh công quanh quẩn ở lại, Lục Vô Song tí nữa thì trúng kế.

Dương Quá dỏng tai lắng nghe, lần này thì sư đồ Lý Mạc Sầu bỏ đi thật, mới bỏ tay bịt miệng Lục Vô Song ra, cười, nói:

– Tốt rồi, không phải sợ nữa.

Lục Vô Song nói:

– Buông ta ra.

Dương Quá nhẹ nhàng đặt nàng nằm trên cỏ, nói:

– Ta sẽ lập tức tiếp cốt cho cô nương, chúng ta cần mau chóng rời khỏi nơi này, để sáng mai e khó thoát thân.

Lục Vô Song gật gật đầu. Dương Quá sợ nàng giãy giụa kêu đau trong lúc nắn xương, sư đồ Lý Mạc Sầu có thể nghe thấy, bèn điểm huyệt, cởi áo ngoài của nàng ra, nói:

– Nhất thiết chớ kêu đó!

Cởi xong áo ngoài, lộ ra cái áo trong màu trắng, dưới áo trong là cái yếm màu vàng. Dương Quá không dám cởi tiếp, đưa mắt nhìn lên, thấy nàng mắt nhắm nghiền, vừa ngượng vừa sợ. Dương Quá ngửi thấy mùi thơm của thân thể xử nữ, bất giác trống ngực đập thình thình. Lục Vô Song mở mắt, nhẹ nhàng giục:

– Ngươi chữa cho ta đi!

Nói xong lại nhắm mắt vào, nghiêng mặt sang một bên. Dương Quá hai tay run run, cởi yếm của nàng ra, thấy hai bầu vú, không dám đưa tay sờ nắn. Lục Vô Song chờ hồi lâu, chỉ thấy gió mơn man da ngực lành lạnh, ngoảnh mặt lại, mở mắt ra, thấy Dương Quá đăm đăm nhìn như đờ đẫn, thì nổi giận, nói:

– Ngươi… nhìn gì… mãi thế?

Dương Quá giật mình, đưa tay sờ nắn xương, chạm vào da thịt trắng ngần của nàng, người như bị chớp giật, nóng bừng lên, vội rụt tay lại. Lục Vô Song nói:

– Mau nhắm mắt vào đi, ngươi còn nhìn ta, ta sẽ…

Nói đến đây, nước mắt ứa ra.

Dương Quá vội nói:

– Vâng, vâng, ta nhắm mắt đây. Cô nương… cô nương đừng khóc?

Liền nhắm mắt, hai tay sờ chỗ xương gãy, nắn lại thật khớp với nhau, lấy yếm che ngực nàng, đã hơi trấn tĩnh, liền chặt bốn đoạn cành cây, đặt hai đoạn trước ngực, hai đoạn sau lưng, dùng vỏ cây buộc chặt để chỗ xương gãy không xê dịch vị trí. Xong đâu đấy mới mặc áo lại, giải huyệt cho nàng.

Lục Vô Song mở mắt ra, ánh trăng chiếu vào mặt chàng, thấy hai má chàng ửng hồng, vẻ ngượng nghịu, mắt đang ngó trộm nàng, bốn mắt chạm nhau, cả hai cùng vội ngoảnh đi nơi khác. Lúc này chỗ xương gãy đã cố định, tuy còn đau, nhưng không đau chói như lúc trước nữa, nàng nghĩ thầm: “Đồ ngốc quả có tài tiếp cốt”. Bây giờ nàng đã biết Dương Quá thực không phải kẻ tầm thường, càng không ngốc nghếch, nhưng ngay từ đầu đã quen miệng mắng nhiếc chàng, tuy vừa được chàng cứu, vẫn chưa chịu tỏ ra kính trọng, hỏi:

– Đồ ngốc, ngươi bảo nên làm thế nào, ở lại đây hay trốn đi thật xa?

Dương Quá nói:

– Thế cô nương nghĩ sao?

Lục Vô Song nói:

– Tất nhiên phải đi xa, ở lại đây chịu chết à?

Dương Quá hỏi:

– Đi xa là đi đâu?

Lục Vô Song nói:

– Ta phải về Giang Nam, ngươi có chịu đi theo ta hay không?

Dương Quá nói:

– Ta phải tìm cô cô của ta, không thể đi xa như thế được.

Lục Vô Song sa sầm mặt, nói:

– Được vậy thì ngươi đi cho mau! Cứ mặc ta chết ở đây cho xong.

Giả dụ Lục Vô Song khôn khéo cầu xin, chắc hẳn Dương Quá sẽ không đáp ứng; đằng này thấy nàng giận dỗi, buồn bã, trông rất giống lúc Tiểu Long Nữ tức giận, thì chàng lại khó cự tuyệt, nghĩ thầm: “Không chừng cô cô lại đi Giang Nam, mình đưa Lục cô nương đến đó, có câu hảo tâm sẽ được báo đáp, trời sẽ run rủi cho mình gặp cô cô ở Giang Nam.” Chàng biết hi vọng ấy rất mỏng manh, song không nỡ cự tuyệt Lục Vô Song, đành tự an ủi mình, thở dài, cúi xuống bế nàng lên.

Lục Vô Song nói dỗi:

– Ngươi bế ta lên làm gì?

Dương Quá cười, nói:

– Bế cô nương đi Giang Nam đây.

Lục Vô Song cả mừng, tươi cười, nói:

– Đồ ngốc, Giang Nam xa lắm, ngươi làm sao bế ta đến tận đó?

Nói rồi ngoan ngoãn ngả đầu vào ngực chàng.

Con trâu đực đã chạy mất tiêu. Dương Quá sợ chạm trán với sư đồ Lý Mạc Sầu, toàn phải tìm đường nhỏ, vắng người mà đi. Chàng bước nhanh, nửa thân trên cố giữ yên, để khỏi chấn động đến vết thương của Lục Vô Song. Lục Vô Song thấy cây cối hai bên đường chạy lùi về phía sau, chàng đi nhanh như ngựa phi, so với nàng chạy một mình còn nhanh hơn, khinh công xem ra chẳng thua gì sư phụ, thì trong bụng kinh ngạc: “Thì ra Đồ ngốc thân mang tuyệt nghệ. Chàng còn ít tuổi, mà sao đã luyện được một thân võ công như thế?” Không lâu sau, phương đông rạng dần, nàng ngẩng mặt lên, thấy Dương Quá mặt mày tuy lấm lem, nhưng diện mạo thanh tú đôi mắt càng sinh động có thần, bất giác xúc động, dần dần quên cả chỗ đau trên ngực, rồi nàng ngủ thiếp đi.

Trời đã sáng hẳn, Dương Quá hơi mệt, chạy tới một cây to, chàng nhẹ nhàng đặt nàng xuống, mình thì ngồi nghỉ bên cạnh. Lục Vô Song mở mắt, mỉm cười nói:

– Ta đói. Ngươi có đói hay không?

Dương Quá nói:

– Dĩ nhiên ta cũng đói, thôi được, ta tìm một phạn điếm mà ăn đã.

Chàng đứng dậy, bế nàng lên, có điều chàng bế nàng từ nửa đêm qua tới giờ, hai tay hơi mỏi, bèn đặt nàng ngồi lên vai mà đi.

Lục Vô Song hai chân đụng nhẹ trước ngực Dương Quá, cười nói:

– Đồ ngốc, tên ngươi rốt cuộc là gì? Không thể trước mặt mọi người, ta lại gọi ngươi là Đồ ngốc.

Dương Quá nói:

– Ta không có tên, ai ai cũng gọi ta là Đồ ngốc.

Lục Vô Song hơi dỗi:

– Ngươi không nói thì thôi! Thế sư phụ của ngươi là ai?

Dương Quá nghe nhắc đến hai tiếng “sư phụ”, chàng vốn hết mực kính trọng Tiểu Long Nữ, thì không dám đùa bỡn, nghiêm mặt đáp:

– Sư phụ của ta là cô cô của ta.

Lục Vô Song tin liền, nghĩ thầm: “Thì ra là võ nghệ gia truyền”. Lại hỏi:

– Cô cô của ngươi thuộc nhà nào phái nào?

Dương Quá ngẩn ra, đáp:

– Cô cô sống ở nhà, thuộc phái nào ta cũng không biết.

Lục Vô Song hơi bực, nói:

– Ngươi giả vờ ngốc nghếch! Ta hỏi ngươi, ngươi học là học võ công của môn phái nào?

Dương Quá nói:

– Làm sao ta biết được?

Lục Vô Song nghĩ thầm: “Không lẽ hắn ngớ ngẩn thật? Giỏi võ, nhưng mà ngu.” Bèn ôn tồn nói:

– Đồ ngốc, ngươi thửnói xem, vì sao ngươi lại cứu mạng ta?

Dương Quá nhất thời khó trả lời. Chàng nghĩ một lúc rồi nói:

– Tại cô cô của ta bảo ta cứu cô nương, thì ta cứu.

Lục Vô Song hỏi:

– Cô cô của ngươi là ai?

Dương Quá nói:

– Cô cô là cô cô. Cô cô bảo ta làm gì thì ta làm nấy.

Lục Vô Song thở dài, nghĩ thầm: “Người này đúng là một kẻ ngớ ngẩn”. Vốn đã có chút mến mộ, bây giờ lại cảm thấy chán ghét chàng. Dương Quá không thấy nàng nói nữa, bèn hỏi:

– Sao cô nương không nói nữa?

Lục Vô Song hừ một tiếng. Dương Quá lại hỏi lần nữa. Lục Vô Song bực mình, đáp:

– Ta không thích nói thì không nói nữa chứ sao. Đồ ngốc, im miệng đi!

Dương Quá biết vẻ mặt nàng lúc này dĩ nhiên rất dễ coi, chỉ tiếc nàng đang ngồi trên vai, nên chàng không thể ngắm được.Không lâu sau thì đến một thị trấn nhỏ. Dương Quá tìm một phạn điếm, gọi cơm ăn. Hai người ngồi đối diện nhau. Lục Vô Song ngửi thấy mùi mồ hôi trâu tỏa ra từ người chàng, cau mày, nói:

– Đồ ngốc, sang chỗ khác mà ngồi, đừng ngồi chung bàn với ta.

Dương Quá cười cười, sang bàn bên cạnh. Lục Vô Song thấy chàng vẫn đối diện với mình, thì càng nhìn càng khó chịu, nói:

– Ngươi đừng nhìn ta.

Rồi chỉ chiếc bàn xa hơn, nói:

– Ra đấy mà ngồi.

Dương Quá tủm tỉm cười, bưng bát cầm ra đó ngồi ăn. Lục Vô Song tuy đói bụng, nhưng đau ngực, khó nuốt, cảm thấy trăm thứ đều trái ý, chỉ muốn trút giận xuống đầu Dương Quá, nhưng lúc này chàng đã ngồi đằng xa. Đang lúc ngán ngẩm, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng hát cất cao:

– Tiểu tiểu cô nương làm việc tốt.

Người thứ hai hát tiếp:

– Mau thí cho ta một bát cơm!

Lục Vô Song ngẩng đầu nhìn, thấy bốn hóa tử (người ăn xin) đứng dàn hàng ngang ngoài cửa cùng nhìn nàng. Nàng biết bốn kẻ kia có ý xấu, lòng thầm e ngại. Lại nghe gã thứ ba hát:

– Thiên đường có lối người chẳng tới!

Gã thứ tư hát tiếp:

– Địa ngục vô môn lại xuống đây?

Bốn hóa tử hát các câu trong bài ăn xin, nhan đề “Liên hoa lạc”, mỗi gã đều tay phải cầm một chiếc bát mẻ, tay trái chống một cành cây, vai đeo bốn cái túi vải thô. Lục Vô Song từng nghe sư tỷ trong lúc nhàn đàm nói rằng bang chúng Cái Bang dùng số túi vải đeo trên vai để phân biệt thân phận cao thấp. Bốn gã hóa tử này đeo bốn cái túi vải, gọi là đệ tử bốn túi. Hôm qua ở Sài Lang cốc nàng đã giao đấu với hai lão Hàn, Trần, hình như hai lão ấy đều đeo năm cái túi vải cao hơn mấy gã này một bậc. Giá như nàng không bị thương, thì chẳng sợ gì bốn hóa tử này. Bây giờ cầm đũa còn run, thì làm sao có thể nghênh địch? Đồ ngốc tuy giỏi khinh công, nhưng lại ngớ ngớ ngẩn ngẩn, dù biết võ công, cũng chẳng giỏi giang, bất giác nàng phập phồng lo sợ.

Dương Quá cứ cúi đầu ăn cơm, làm như không nhìn thấy bốn hóa tử. Chàng ăn hết một bát, lại tự đến bên liễn cơm xới một bát đầy có ngọn rồi chìa tay nhón lấy một con cá kho trong đĩa, làm cho nước cá kho nhỏ mấy giọt xuống mặt bàn, cười nhăn nhở:

– Hi hi, ta ăn cá!

Lục Vô Song hơi cau mày, chẳng còn bụng dạ nào mắng chàng nữa.

Chỉ nghe bốn hóa tử lại hát bài ăn xin, nhấn mãi bốn tiếng “tiểu tiểu cô nương”. Họ hát đi hát lại ba lần, tám con mắt cứ chằm chằm nhìn Lục Vô Song. Lục Vô Song chẳng biết đối phó thế nào, cứ thong thả và cơm, giả bộ không để ý, trong lòng thì lo lắng vô cùng.

Một gã hóa tử nói to:

– Tiểu cô nương, đã không chịu bố thí một bát cơm, thì hãy bố thí một thanh loan đao nữa đi.

Gã thứ hai nói:

– Cô nương hãy đi theo bọn ta, bọn ta cũng chẳng khó dễ gì, chỉ cần hỏi rõ phải trái cong vẹo, tự khắc sẽ có phán xét công bằng.

Lát sau, gã thứ ba nói:

– Đi mau, không lẽ chờ bọn ta cưỡng bức hay sao?

Lục Vô Song trả lời không được, im lặng cũng không xong, chẳng biết phải làm thế nào. Gã hóa tử thứ tư nói:

– Bọn ta bốn nam nhi không thể bắt nạt một cô nương bé nhỏ, để cho hảo hán giang hồ chê cười hay sao? Bọn ta chỉ cần cô nương đi giải thích một chút thôi.

Lục Vô Song nghe giọng điệu của bốn hóa tử, biết là họ sắp động thủ, mình không tài nào địch nổi, song chẳng lẽ khoanh tay chịu chết, tay trái liền cầm lấy một chiếc ghế, đối phương xông tới sẽ dùng chiếc ghế làm vũ khí.

Dương Quá nghĩ thầm: “Đến lúc xuất thủ rồi!” Chàng tới bên bàn của Lục Vô Song, bưng tô canh lên, miệng thì vừa cắn một khúc cá to, nói không rõ tiếng:

– Ta… ta muốn húp canh!

Tô canh nghiêng đi, đổ về phía vai phải của Lục Vô Song, khiến nàng co người lại né tránh. Dương Quá kêu “Ôi chao” chân tay luống cuống, tìm cách lau chùi cho nàng, nhân đó tay trái hất ra phía ngoài một cái, bốn chiếc đũa tre bắn về phía bốn hóa tử. Bốn chiếc đũa bay tới cực nhanh, bốn hóa tử còn chưa kịp nhìn cho rõ, chỉ cảm thấy khuỷu tay tê đi, “choang choang” mấy tiếng liền, bốn cái bát cùng rơi xuống nền vỡ tan. Dương Quá thì lấy vạt áo của chàng chùi chùi vào vạt áo của Lục Vô Song, nói:

– Để ta lau… sạch cho cô nương, cô nương đừng giận.

Lục Vô Song quát:

– Đừng lắm chuyện!

Nàng quay ra nhìn bốn hóa tử thì rất đỗi kinh ngạc.

Chỉ thấy bốn hóa tử đã chạy tít ra góc đường, dưới nền nhà đầy mảnh bát vỡ. Lục Vô Song kinh ngạc: “Bốn người kia kỳ quái thật, tự dưng lại bỏ chạy cả rồi là sao?” Nàng thấy Dương Quá hai tay dính nước cá kho, đang chùi vào bàn, thì mắng:

– Xéo ra chỗ khác đi, người đâu mà bẩn thỉu thế không biết!

Dương Quá nói:

– Vâng, vâng!

Hai tay lại chùi chùi vào vạt áo. Lục Vô Song cau mày hỏi:

– Bốn gã hóa tử sao lại bỏ đi?

Dương Quá nói:

– Họ thấy cô nương tham ăn, không chịu bố thí cho họ, có nài thêm cũng vô ích, đành phải bỏ đi.

Lục Vô Song ngẫm nghĩ một lát, chẳng hiểu nguyên do vì sao, lấy bạc ra, bảo Dương Quá đi mua một con lừa, trả tiền cơm xong xuôi, nàng leo lên lưng con lừa mà đi. Nhưng vừa đi thì chỗ xương gãy lại đau nhói, không nén được, phải rên to. Dương Quá nói:

– Đáng tiếc ta vừa bẩn vừa hôi, nếu không đã có thể ngồi sau dìu cô nương.

Lục Vô Song nói:

– Hừ, toàn nói vớ vẩn.

Nàng kéo căng dây cương, con lừa này rất ngang bướng, nó đi sát vào tường để người cưỡi bị đụng vào tường, Lục Vô Song vô lực, kêu lên một tiếng, ngã xuống. Chân phải nàng chạm đất, may mà đứng lại được không ngã, nhưng động đến chỗ xương gãy, đau đớn quá chừng, nàng tức giận nói:

– Ngươi thừa biết ta ngã, mà chẳng chịu đỡ.

Dương Quá nói:

– Ta… người ta hôi hám mà.

Lục Vô Song nói:

– Ngươi không biết tắm rửa hay sao?

Dương Quá cười ngô nghê, không đáp. Lục Vô Song nói:

– Ngươi đỡ ta lên lưng con lừa đi.

Dương Quá đỡ nàng ngồi lên lưng con lừa. Thấy có người cưỡi lên lưng mình, con lừa lại giở trò quỉ.

Lục Vô Song nói:

– Ngươi mau dắt nó đi.

Dương Quá nói:

– Không, ta sợ nó đá lắm. Nếu là con trâu của ta, thì ta mới điều khiển nó được.

Lục Vô Song cả giận, nghĩ thầm: “Tên ngốc này bảo nó ngốc cũng không đúng, bảo nó không ngốc cũng không đúng. Rõ ràng là nó muốn ôm mình.”

Không còn cách nào khác, đành nói:

– Thôi được, ngươi lên ngồi sau ta.

Dương Quá nói:

– Đấy là cô nương sai ta, không được ngại ta bẩn thỉu, không được đánh chửi ta đấy nhá.

Lục Vô Song nói:

– Phải, đừng có nhiều lời nữa.

Dương Quá bấy giờ mới leo lên lưng con lừa, hai tay ôm nàng, hai chân hơi dùng lực, con lừa cảm thấy bụng đau nhói, không dám giở trò gì, ngoan ngoãn bước đi.

Dương Quá hỏi:

– Đi hướng nào đây?

Lục Vô Song đã hỏi thăm đường đi từ sớm, vốn định đi về hướng đông, qua Đồng Quan, qua Trung Châu, rẽ xuống phía nam, đó là đường lớn; nay sau khi gặp bốn đệ tử Cái Bang, nghĩ rằng dọc đường phía trước sẽ còn bọn Cái Bang mai phục, chi bằng đi đường nhỏ, qua ải Trúc Lâm, vượt qua Long Câu trại, rồi qua ải Tử Kinh mà xuống Giang Nam, tuy lộ trình xa hơn, nhưng an toàn hơn hẳn, sư phụ càng khó đuổi theo; nghĩ một chút, nàng chỉ tay về hướng đông nam, nói:

– Đi lối kia.

Con lừa gõ móng lóc cóc, thong thả đi. Vừa ra khỏi thị trấn, thì có một cậu bé nông gia ở bên đường chạy tới chắn phía trước con lừa, nói:

– Lục cô nương, có cái này cho cô nương.

Nó tung bó hoa đang cầm trong tay về phía Lục Vô Song, rồi quay đầu chạy đi ngay. Lục Vô Song giơ tay đón bó hoa, thấy bên trong giấu một phong thư, vội bóc thư ra xem, là một tờ giấy ố vàng, viết: “Tôn sư sắp tới đó mau tìm cách trốn!”

Tờ giấy thô xấu, nhưng nét chữ thì rất đẹp. Lục Vô Song thốt một tiếng “ôi” kinh nghi bất định: “Cậu bé vừa rồi là ai? Sao lại biết ta họ Lục? Sao lại biết sưphụ sắp đuổi tới nơi?” Nàng hỏi Dương Quá:

– Ngươi biết cậu bé vừa rồi phải không? Lại do cô cô của ngươi sai nó tới à?

Dương Quá ở sau lưng đã nhìn thấy dòng chữ, nghĩ thầm: “Cậu bé này hẳn là do người ta nhờ mang thư đến. Ai là người viết thư nhỉ? Xem ra người ấy có lòng tốt. Nếu đúng là Lý Mạc Sầu đuổi tới, thì phải đối phó sao đây?” Chàng tuy đã luyện “Ngọc nữ tâm kinh” và “Cửu Âm chân kinh” một thân mà kiêm tu hai đại bí truyền trong võ lâm, nhưng thời gian ngắn ngủi, tuy biết sự bí ảo, song công lực chưa chín muồi, hoàn toàn chưa phải là đối thủ của Lý Mạc Sầu; thanh thiên bạch nhật thế này, biết trốn vào đâu, đang nghĩ cách, nghe Lục Vô Song hỏi, thì nói:

– Ta không quen biết cậu bé đó, xem chừng cũng không phải do cô cô của ta sai tới.

Vừa trả lời xong, bỗng nghe có tiếng cổ nhạc vang lên, đi ngược về phía hai người là một chiếc kiệu hoa, mấy chục người đi theo, thì ra là một đám rước dâu. Tuy là thứ cổ nhạc của thôn phu nhà quê, nhưng nghe cũng rất vui vẻ xôm tụ, làm háo hức lòng người. Dương Quá chợt nảy ra một ý, hỏi:

– Cô nương có muốn làm tân nương (cô dâu) hay không?

Hồi 09: Trăm kế tránh địch

Lục Vô Song đang lo sợ, nghe Dương Quá hỏi một câu ngớ ngẩn, thì tức giận nói:

– Đồ ngốc, lại nói vớ vẩn gì thế?

Dương Quá cười, nói:

– Hai ta thử chơi trò bái thiên địa thành hôn. Cô nương sắm vai tân nương tử được chứ? Thế mới đẹp đó. Mặt được che tấm khăn hồng, ai nói gì mặc kệ, sẽ không ai nhìn thấy mặt cô nương.

Lục Vô Song ngẩn người, hỏi:

– Ngươi bảo ta sắm vai tân nương để trốn sư phụ, đúng không?

Dương Quá cười hi hi, nói:

– Ta không biết, cô nương sắm vai tân nương, còn ta sắm vai tân lang.

Tình thế lúc này quẫn bách, Lục Vô Song cũng chả còn bụng dạ nào trách mắng, nghĩ thầm: “Chủ ý của Đồ ngốc đúng là quái dị, nhưng ngoài cách đó ra, cũng chẳng còn cách nào khác”, bèn hỏi:

– Phải làm thế nào?

Dương Quá không dám kéo dài thời gian, ra roi quất mấy cái vào mông con lừa, con lừa chạy tế lên.

Đường thôn quê nhỏ hẹp, chiếc kiệu hoa lớn do tám người khiêng choán hết mặt lộ, hai bên không còn chỗ trống nào. Đoàn người rước dâu thấy con lừa xông thẳng tới, thì kêu la ầm ĩ, bảo người cưỡi lừa hãy mau dừng lại. Dương Quá kẹp hai chân, thúc con lừa phóng nhanh hơn, thoáng chốc đã tới trước đám rước dâu. Hai đại hán to khỏe chặn lại, không cho con lừa đâm vào chiếc kiệu. Dương Quá vung cây roi da lên cuốn vào cánh tay hai người ấy, kéo họ ngã xuống vệ đường, nói với Lục Vô Song:

– Ta sắm vai tân lang đây.

Chàng chạy tới, túm lấy gã tân lang đang cưỡi con ngựa trắng.

Tân lang chừng mười bảy, mười tám tuổi, trang phục mới toàn thân, đầu đội kim hoa, đột nhiên bị Dương Quá tóm lấy thì cả sợ. Dương Quá tung thân hình tân lang lên cao hơn một trượng, rồi giơ tay đón đỡ y lúc y rơi xuống trong tiếng kêu sợ hãi của mọi người. Đám rước dâu ba chục người, quá nửa là tráng đinh, nhưng thấy bản lĩnh của chàng như thế, tân lang lại đang trong tay chàng, thì còn ai dám động thủ? Một lão nhân từng trải, đoán là gặp tướng cướp chặn đường, bèn bước lại mặc cả, nói:

– Xin đại vương hãy tha cho tân lang, đại vương cần bao nhiêu tiền lộ phí, chúng ta có thể thương lượng mà.

Dương Quá nói với Lục Vô Song:

– Tức phụ nhi, tại sao lão nhân lại gọi ta là đại vương? Họ tên của ta đâu phải là đại vương kia chứ? Ta thấy lão nhân còn ngốc hơn cả ta.

Lục Vô Song nói:

– Thôi đừng rề rà, ta đã nghe hình như là tiếng chuông đeo cổ lừa của sư phụ ta rồi đó.

Dương Quá kinh ngạc, dỏng tai nghe, quả nhiên văng vẳng xa xa có tiếng chuông, nghĩ thầm: “Mụ ta đến quá nhanh”, nói:

– Chuông ư? Chuông gì? Của kẻ rao bán đường phải không? Hay quá, thế thì ta mua ít đường mà ăn.

Chàng quay sang nói với lão nhân:

– Các vị chịu làm theo lời ta, thì ta sẽ thả người này, nếu không…

Chàng lại tung tân lang lên cao một lần nữa, tân lang kêu oai oái, khóc ré. Lão nhân chắp tay, nói:

– Vâng, xin đại vương cứ sai bảo.

Dương Quá chỉ Lục Vô Song, nói:

– Nàng ấy là tức phụ nhi (vợ) của ta; nàng ấy thấy các vị diễn trò bái thiên địa thành hôn, thấy thú vị, cũng muốn chơi trò này một lúc…

Lục Vô Song nói:

– Đồ ngốc, nói gì vậy?

Dương Quá mặc kệ không lý đến nàng, nói:

– Các vị hãy mau lấy trang phục của tân nương mặc cho nàng ấy, còn ta sẽ sắm vai tân lang.

Trẻ con đùa nghịch, thường vẫn chơi trò tân nương tân lang bái thiên địa thành hôn. Người lớn muốn bắt chước chơi trò ấy thì cũng chẳng có gì lạ. Nhưng một tên tướng cướp chặn đường, không đòi tiền, lại muốn chơi trò kia, thì ai cũng bất ngờ, nhìn nhau im lặng. Nhìn Dương, Lục hai người, chàng đôi mươi, nàng mười tám, bảo là một cặp vợ chồng thì quá giống, mọi người chưa biết làm thế nào. Dương Quá nghe tiếng chuông vàng tới gần, từ trên lưng lừa nhảy xuống, đặt tân lang ngồi lên yên lừa để Lục Vô Song kiềm chế y, chàng tự tới trước chiếc kiệu hoa, mở cửa kiệu, lôi tân nương ra.

Tân nương sợ hãi, kêu rú lên, mặt che tấm khăn đỏ không biết bên ngoài có chuyện gì. Dương Quá đưa tay lật tấm khăn che mặt, chỉ thấy tân nương có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, thì cười, nói:

– Tân nương tử xinh quá thôi.

Rồi khẽ vuốt má nàng ta một cái. Tân nương sợ quá không dám kêu nữa. Dương Quá tay trái nhấc tân nương lên cao, nói:

– Nếu muốn ta tha mạng cho người này, hãy mau để cho tức phụ nhi của ta đóng thế vai tân nương.

Lục Vô Song nghe tiếng chuông của sư phụ đã khá gần, lườm Dương Quá một cái, nghĩ thầm: “Lúc này mà Đồ ngốc vẫn chẳng biết trời cao đất dày gì, vẫn cứ đùa cợt”. Lão nhân ban nãy luôn miệng giục:

– Mau, mau nào! Mau thay đổi y phục cho đôi tân nương tân lang mới.

Những người đưa dâu vội vã gỡ mũ phụng, quần hồng áo gấm của tân nương, đội và mặc cho Lục Vô Song. Dương Quá thì tự thay quần áo lấy, rồi nói với Lục Vô Song:

– Tức phụ nhi, mau lên kiệu hoa đi.

Lục Vô Song bảo tân nương vào trong kiệu trước, rồi nàng vào sau, ngồi lên phía trên người tân nương, thả tấm khăn che mặt xuống.

Dương Quá nhìn đôi giày cỏ đi dưới chân, định thay, thì tiếng chuông đã vang lên ngay chỗ góc núi, chàng bèn nói to:

– Hãy quay đầu kiệu đi về hướng đông nam, mau nổi nhạc lên nào! Nếu có ai hỏi, đừng nói là có nhìn thấy vợ chồng ta.

Chàng nhảy lên lưng con ngựa trắng, đi ngang vai bên cạnh gã tân lang đang ngồi trên lưng con lừa. Mọi người thấy tân nương và tân lang của họ rơi vào tay kẻ cướp, thì không ai dám trái lời, tiếng cổ nhạc lập tức nổi lên.

Chiếc kiệu hoa quay đầu, mới đi được hơn mười trượng, thì tiếng chuông gấp gấp phía sau, hai con lừa đã đuổi tới nơi. Lục Vô Song ngồi trong kiệu nghe tiếng chuông, nghĩ thầm có thoát khỏi đại nạn hay không là ở lúc này đây, trống ngực đập loạn lên, dỏng tai nghe động tĩnh bên ngoài. Dương Quá giả vờ xấu hổ, cúi mặt xuống cổ ngựa, chỉ nghe Hồng Lăng Ba hỏi:

– Này, các vị có nhìn thấy một cô nương thọt chân qua đây hay không?

Lão nhân trong đoàn người rước dâu đáp:

– Không… không thấy.

Hồng Lăng Ba lại hỏi:

– Có thấy một thiếu nữ cưỡi trâu đi qua hay không?

Lão nhân đáp:

– Không thấy.

Sư đồ hai người cưỡi lừa vượt qua đoàn người, phóng lên trước.

Không lâu sau, Lý, Hồng hai sư đồ cưỡi lừa quay lại. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần cuộn tấm vải che kiệu, giật một cái, tấm vải rách làm hai. Dương Quá cả kinh, tế ngựa lại gần, chỉ đợi Lý Mạc Sầu phất cây phất trần lần nữa, sẽ lập tức ra tay cứu người, nào ngờ Lý Mạc Sầu nhòm vào trong kiệu một cái, rồi cười, nói:

– Tân nương xinh lắm.

Rồi xoay qua phía Dương Quá, nói:

– Tiểu tử, ngươi có phúc đó.

Dương Quá cúi gằm mặt, không dám ngẩng nhìn Lý Mạc Sầu, chỉ nghe tiếng lóc cóc, hai con lừa đã chạy đi.

Dương Quá lấy làm lạ: “Tại sao Lý Mạc Sầu lại bỏ qua cho Lục cô nương?” Chàng ngó vào trong kiệu, thấy tân nương sợ tái cả mặt, người run rẩy, còn Lục Vô Song thì không biết trốn ở đâu. Dương Quá càng lạ thêm, hỏi:

– Ơ hay, tức phụ nhi của ta đâu rồi?

Có tiếng cười của Lục Vô Song:

– Không thấy ta ư?

Từ trong váy của tân nương, Lục Vô Song chui ra, thì ra vừa rồi nàng đã trốn vào đó. Nàng biết sư phụ hành sự rất tỉ mỉ cặn kẽ, quyết không bỏ qua bất cứ chỗ nào khả nghi; nàng đoán sư phụ sẽ quay lại, nên phải trốn.

Dương Quá nói:

– Cô nương cứ yên ổn sắm vai tân nương đi, ngồi kiệu dễ chịu hơn cưỡi lừa nhiều lắm đấy.

Lục Vô Song gật đầu, nói với tân nương:

– Ngươi mau xuống kiệu, để ta ngồi một mình thôi.

Tân nương đành xuống kiệu, ra cưỡi chung con lừa với tân lang. Tân lang và tân nương chưa gặp mặt nhau bao giờ, lúc này tân lang thấy tân nương trắng mập, có vài phần châu viên ngọc nhuận; tân nương ngó trộm tân lang, cũng thấy mặt mũi ngay ngắn, cả hai cùng mừng thầm, tạm quên tình cảnh trớ trêu hiện thời.

Đoàn người đi chừng hai mươi dặm, thấy trời sắp tối. Vị lão nhân không ngớt cầu xin Dương Quá tha cho, để khỏi lỡ ngày giờ cát lành bái thiên địa. Dương Quá quát:

– Sao lão lắm lời thế?

Vừa nói thì thấy có hai bóng người từ vệ đường chạy vụt vào rừng. Dương Quá khởi nghi, giục ngựa đuổi theo, thấy họ ăn mặc lam lũ, là dân hóa tử. Chàng ghìm ngựa lại, nghĩ thầm: “Chắc là Cái Bang bám theo tung tích, đã mai phục sẵn. Vậy thì phải đi mau hơn nữa”.

Trở lại bên kiệu, Lục Vô Song thò đầu ra, hỏi:

– Có chuyện gì thế?

Dương Quá nói:

– Kiệu hoa không che kín, tân nương lại không che mặt. Đã sắm vai tân nương, thì cũng phải khóc khóc mếu mếu, sụt sùi gọi mẹ gọi cha, không chịu xuất giá. Thiên hạ làm gì có tân nương nào không e thẹn như nàng?

Lục Vô Song nghe chàng nói, đoán là hành tung của mình đã bị lộ, chỉ lẩm bẩm “Đồ ngốc”, rồi im lặng. Đi một hồi nữa, đường núi phía trước hẹp dần, mỗi lúc càng khó đi hơn, đoàn người rước dâu đã mệt lắm, nhưng họ sợ Dương Quá, nên không ai dám oán thán một câu.

Mặt trời đã lặn sau núi, quạ bay ngang trên đầu về tổ, kêu quang quác. Đang đi, bỗng sau chỗ quành có mấy người cùng cất tiếng hát:

– Tiểu tiểu cô nương làm việc tốt, bố thí cho ta chiếc loan đao.

Lục Vô Song mặt biến sắc, nghĩ thầm: “Bốn gã hóa tử đã phục sẵn ở đây”. Kiệu hoa đi tới, thấy ba gã hành khất chắn đường, cả ba thân hình đều cao to, không giống bốn gã hóa tử đã gặp ở phạn điếm. Dương Quá thấy mỗi người đều đeo năm cái túi vải, nghĩ bụng: “Ba đệ tử năm túi này chắc lợi hại hơn mấy gã hóa tử bốn túi trưa nay, xem ra đến phải động thủ mất thôi”.

Trong đoàn rước dâu có người vung roi vụt vào đầu một gã hành khất, quát:

– Tránh ra, tránh ra cho người ta đi!

Gã hóa tử không buồn tránh, giơ tay chộp cây roi, kéo một cái, người kia ngã sấp mặt xuống. Nếu là lúc khác, hẳn mọi người đã cùng xông tới giao chiến, nhưng ai cũng nghĩ ba gã hóa tử này là đồng bọn của Dương Quá, không ai dám tiến lên, mà lùi lại vài bước. Một gã hóa tử nói to:

– Cung hỉ cô nương đại hỉ, tiểu khiếu hóa xin thưởng chút tiền.

Lục Vô Song ngoảnh lại, nói nhỏ:

– Đồ ngốc, ta đang bị thương, không thể động thủ, ngươi đuổi bọn kia đi cho ta.

Dương Quá nói:

– Được lắm.

Chàng giục ngựa lên trước, nói:

– Này các vị, hôm nay ngày lành tháng tốt, ta đi đón tức phụ nhi, các vị đừng nhiều lời, mau nhường lối ta đi.

Một gã hóa tử nhìn Dương Quá dò xét, nhất thời chưa biết lai lịch của chàng. Bốn gã hóa tử bốn túi bị que đũa tấn công ban trưa, cứ ngỡ là do Lục Vô Song xuất thủ, chẳng hề bẩm báo với mấy vị sư bá sư thúc về Dương Quá.

Một gã hóa tử hất tay phải. Con ngựa Dương Quá đang cưỡi giật mình, giơ hai vó trước lên. Dương Quá giả vờ ngồi không vững, ngã xuống đất, hồi lâu vẫn chưa bò dậy được. Ba gã hóa tử nghĩ thầm: “Thì ra người này đúng là tân lang”. Cái Bang là bang hội theo con đường hiệp nghĩa, bao năm nay ngăn kẻ mạnh giúp kẻ yếu, tế khốn phù nguy, sở dĩ gây khó dễ với Lục Vô Song chỉ vì nàng đả thương huynh đệ của họ; bây giờ thấy Dương Quá không biết võ công, bị ngã ngựa, thì họ cảm thấy có lỗi, một gã hóa tử vội đỡ chàng dậy, nói:

– Xin lượng thứ cho.

Dương Quá giận nói:

– Hừ, các vị… thật là… xin tiền thì xin, sao lại dọa con ngựa của ta?

Chàng mò túi, lấy ra ba đồng tiền, cho mỗi gã một tiền. Ba gã hóa tử theo qui củ của Cái Bang, nhận tiền lạy tạ.

Dương Quá quay lại nói với Lục Vô Song:

– Nàng muốn ta đuổi bọn kia đi, ta đuổi rồi đó.

Lục Vô Song bực mình, nói:

– Ngươi cứ giả vờ ngốc nghếch với ta, có phải là hay không?

Dương Quá nói:

– Phải, phải!

Chàng lùi sang một bên, lấy ống tay áo phủi bụi trên người.

Lục Vô Song thấy ba gã hóa tử vẫn cứ chắn đường, bèn lạnh lùng hỏi:

– Các vị còn muốn gì?

Một gã hóa tử nói:

– Cô nương là cao thủ phái Cổ Mộ, ba huynh đệ ta rất ngưỡng mộ, muốn được cô nương chỉ điểm cho vài chiêu.

Lục Vô Song nói:

– Ta đang bị trọng thương, làm sao có thể động thủ? Các vị đã không phục, thì xin định ngày, chờ ta khỏi, sẽ tới lĩnh giáo. Ba vị là cao thủ Cái Bang, hôm nay hợp lực khi vũ một thiếu nữ đang bị trọng thương, như thế có còn là anh hùng hảo hán nữa không?

Ba gã hóa tử nghe nàng nói thế, quả nhiên cảm thấy bên mình đuối lý. Hai người cùng nói:

– Thôi được, đợi cô nương khỏi, sẽ tính chuyện này.

Gã thứ ba nói:

– Hãy khoan, cô nương bị thương ở đâu? Là thật hay giả, phải để ta coi. Nếu đúng là bị thương, hôm nay bọn ta sẽ tha cho cô nương.

Gã không biết Lục Vô Song bị thương ở ngực, lời nói chỉ là vô tình, nhưng Lục Vô Song thì lập tức đỏ bừng cả mặt, cả giận, nhất thời chưa nói nên lời, lát sau mới nói:

– Trên giang hồ người ta bảo Cái Bang anh hùng hiệp nghĩa gì kia chứ, toàn là một bọn vô sỉ.

Ba gã hóa tử nghe nàng thóa mạ thanh danh của Cái Bang, thì tái mặt, một gã hóa tử tính nóng nảy thô bạo bèn sấn tới giơ tay túm lấy nàng lôi ra khỏi kiệu.

Dương Quá thấy tình thế gấp gáp, kêu lên:

– Hượm, hượm đã, các vị xin tiền, ta cho rồi, sao lại còn gây sự với tức phụ nhi của ta?

Nói rồi tiến đến chắn trước kiệu, lại nói:

– Trông ba vị nhân huynh tuy đi ăn mày, nhưng ai nấy tướng mạo đường đường, sau này thể nào cũng thăng quan phát tài, sao lại đi trêu chọc một tân nương, câu kết với nhau giở trò vô lại như thế?

Ba gã hóa tử sững người, không biết đối đáp làm sao. Gã hóa tử thô bạo nói:

– Ngươi hãy tránh ra, bọn ta chỉ cần lĩnh giáo võ công phái Cổ Mộ của nàng ta, cái gì mà vô lại với chả vô đi?

Đoạn đưa tay đẩy nhẹ một cái. Dương Quá kêu tướng lên, ngã xuống vệ đường. Cái Bang bao lâu nay tương truyền có một qui củ, nhất thiết không được phép xuất thủ đánh người không biết võ công. Gã hóa tử nóng nảy kia không ngờ chàng tân lang lại bị thịt như thế, mới đẩy khẽ một cái đã ngã, nếu vì cái ngã ấy mà chàng bị thương, thì gã sẽ bị phạt tội rất nặng, hai đồng bọn cũng bị liên lụy. Ba gã hóa tử cả kinh, cùng xô lại dìu chàng đứng lên. Dương Quá cứ la ôi ối:

– Ái, ái, ối mẹ ơi!

Ba gã hóa tử cũng chẳng biết chàng có bị thương hay không.

Dương Quá vừa rên rỉ kêu đau, vừa nói:

– Ba vị cũng thật là ngốc, tân tức phụ nhi của ta còn e thẹn, đời nào chịu nói chuyện với mấy người lạ cơ chứ? Thế này vậy, ba vị cần lĩnh giáo cái gì, cứ nói trước với ta, ta sẽ hỏi tức phụ nhi của ta, rồi trả lời ba vị được không nào?

Ba gã hóa tử thấy Dương Quá chẳng ngớ ngẩn chút nào, kể đã sốt ruột lắm, song lại không tiện động thủ với chàng. Gã nhiều tuổi nhất trong ba gã hóa tử nghĩ thầm: “Nữ tử họ Lục vờ sắm vai tân nương, tên này nếu đúng là tân lang, thì sẽ không bênh vực như thế, còn nếu là tân lang giả, thì không thể vô dụng như vậy.” Chăm chú quan sát thân hình, cử chỉ của chàng, không phát hiện được bất cứ điều gì.

Gã hóa tử nóng tính giơ tay lên, nói:

– Ngươi có tránh ra hay không thì bảo?

Dương Quá dang rộng hai tay, nói to:

– Các vị nhất quyết không được khi vũ tức phụ nhi của ta.

Một gã hóa tử nói:

– Lục cô nương, cô nương sai một tên ngốc như hắn ngăn chặn bọn ta có nổi không, thử nói ta nghe coi.

Dương Quá lấy làm lạ, nói:

– Ồ, vị này cũng biết tên ta là Đồ ngốc ư? Lạ quá nhỉ?

Gã hóa tử nóng tính nói với Lục Vô Song:

– Bọn ta cũng không cần lĩnh giáo thứ gì khác, chỉ cần biết môn loan đao chém vai, chiêu đó gọi là gì?

Lục Vô Song cũng biết Dương Quá cố gây khó dễ với ba gã hóa tử kia, không biết đến bao giờ mới chấm dứt, chính nàng cũng đang nghĩ kế thoát thân, nghe gã kia hỏi vậy, bèn thuận miệng nói:

– Chiêu đó gọi là “Điêu Thuyền bái nguyệt”, nghe chưa.

Dương Quá nói tiếp:

– Đúng thế, thanh loan đao của hiền thê ta vù một cái, chém xuống vai các hạ thế này này.

Tay phải của chàng vòng ra phía sau, cạnh bàn tay chém nhẹ một cái vào sau bả vai gã kia.

Dương Quá xuất thủ, ba gã hóa tử kinh ngạc, cùng nhảy lùi, nghĩ thầm: “Thì ra hắn đóng giả tân lang để giễu cợt bọn mình”. Gã bị một chưởng vào vai, tuy Dương Quá không dùng lực, song gã bị mất thể diện, bèn quát:

– Giỏi lắm, tên tiểu tử giả bộ ngốc nghếch, lại đây nào, ta lĩnh giáo cao chiêu của ngươi trước đã.

Dương Quá nói:

– Các hạ bảo muốn lĩnh giáo cao chiêu của hiền thê ta, sao bây giờ lại đòi lĩnh giáo cao chiêu của ta?

Gã kia nói:

– Lĩnh giáo cao chiêu của ngươi thì cũng thế.

Dương Quá nói:

– Thế thì chả hay rồi, vì ta không biết chiêu nào hết.

Rồi chàng ngoảnh lại hỏi Lục Vô Song

– Hiền thê, hiền thê thân thiết của ta, nàng bảo ta dạy người kia chiêu gì đây?

Lục Vô Song lúc này không còn nghi ngờ gì nữa, biết chàng một thân tuyệt nghệ, một chưởng vừa rồi của chàng chém xuống vai đối phương, thật tài tình, nàng không thể nào bì kịp, chỉ là chưa biết gia số võ công của chàng, bèn thuận miệng nói:

– Hãy dạy lại chiêu “Điêu Thuyền bái nguyệt”.

Dương Quá nói:

– Được!

Lưng xoay, tay giơ, hịch một tiếng, lại chém một chưởng xuống sau bả vai gã hóa tử. Đòn này, ba gã hóa tử càng kinh hãi hơn. Dương Quá rõ ràng đứng đối diện với đối thủ, hoàn toàn không di bộ chuyển thân, chỉ thấy vung tay mà đã chém đằng sau vai, chưởng pháp kiểu này quả là quái dị. Lục Vô Song cũng chấn động nghĩ thầm: “Rõ ràng là võ công phái Cổ Mộ ta, tại sao Đồ ngốc cũng biết?” Bèn nói:

– Ngươi hãy dạy cho hắn chiêu “Tây Thi bổng tâm”.

Dương Quá nói:

– Được!

Một quyền tung ra, trúng ngay ngực trái của đối phương.

Gã hóa tử trúng quyền, chỉ cảm thấy một lực mạnh đẩy y bay ra xa hơn một trượng, chỗ ngực trúng đòn không đau đớn gì, tựa hồ có người nhấc bổng đưa đi hơn một trượng rồi đặt xuống vậy. Hai gã hóa tử kia từ hai bên xông lại. Dương Quá gọi gấp:

– Hiền thê, ta đối phó không nổi, mau dạy ta.

Lục Vô Song nói:

– Chiêu Quân xuất tái, Ma Cô hiến thọ.

Dương Quá tay trái đưa xéo, tay phải búng năm ngón, như tư thế gảy đàn tì bà, năm ngón tay búng vào người gã hóa tử bên hữu, chính là chiêu “Chiêu Quân xuất tái”, lại nghiêng người tung cước đá gã hóa tử ở bên tả, một tay nắm lại thành quyền, đấm thẳng lên, trúng cằm đối phương, nói:

– Cái này gọi là “Ma Cô hiến thọ”, có phải không?

Chàng không định đả thương, nên không hề dùng sức.

Chàng sử liền bốn chiêu, đều thuộc “Mỹ nữ quyền pháp” tinh diệu của phái Cổ Mộ. Phái Cổ Mộ từ khi Lâm Triệu Anh khai sáng, chỉ truyền cho nữ, không truyền cho nam. Lâm Triệu Anh sáng tạo “Mỹ nữ quyền pháp”, mỗi chiêu đều lấy tên một mỹ nữ để gọi, khi sử dụng thật kiều mị uyển chuyển, song toàn là sát thủ lợi hại. Dương Quá học võ của Tiểu Long Nữ, pho quyền pháp này dĩ nhiên đã học qua, có điều chàng cảm thấy quyền pháp này tuy tinh diệu, nhưng cứ thướt tha ủy mị thế nào ấy, nam giới sử dụng không được hợp lắm, cho nên khi luyện tập, chàng vô tình thêm chất dương cương vào chiêu số thuần nhu, phong thái tuy khác đi, song quyền thức vẫn nguyên trạng.

Ba gã hóa tử trúng đòn vẫn không hiểu vì sao, lại không cảm thấy đau, vẫn chưa phục võ công của Dương Quá, cùng hè nhau xông vào tấn công. Dương Quá né bên này, tránh bên kia, nói:

– Hiền thê ơi, nguy rồi, hôm nay nàng sẽ thành tiểu quả phụ mất thôi!

Lục Vô Song cười, nói:

– Thiên Tôn chức cẩm!

Dương Quá làm động tác tay phải đưa sang trái, tay trái đưa sang phải, y như người ném con thoi dệt vải, hai tay lại đánh vào hai gã hóa tử. Lục Vô Song nói:

– Văn Quân đương lô, Qúy Phi túy tửu!

Dương Quá giơ tay làm động tác rót rượu, cốc vào đầu gã hóa tử nóng tính một cái, người lảo đảo ngã về phía gã hóa tử bên phải, dùng đầu vai hích trúng vào ngực gã hóa tử bên trái.

Ba gã hóa tử vừa kinh ngạc vừa tức giận, cả ba đã thi triển võ công bình sinh, vẫn không chạm được vào áo của đối phương, trong khi tên tiểu tử kia cứ vung tay đưa mắt, muốn đánh ai thì đánh, tuy ba gã bị trúng đòn không đau, nhưng đòn nào cũng quá ư cổ quái. Lục Vô Song nói liền ba chiêu “Lộng Ngọc xuy tiêu”, “Lạc Thần lăng ba”, “Điếu Phạt ốc quyền”, Dương Quá đều xuất chiêu chính xác. Lục Vô Song cực kỳ thán phục, cố ý làm khó, chàng đang đấm quyền ra đằng trước, nàng liền kêu:

– Tắc Thiên thùy liêm.

Thân hình chàng đang như thế kia, xét về lý, tưởng không tài gì sử nổi chiêu này, vậy mà Dương Quá vẫn dừng lại được, hai bàn tay làm động tác buông rèm. Ba gã hóa tử thấy ngực chàng sơ hở, mừng thầm, cùng đánh tới, không ngờ bị nội lực của chàng đẩy ra, buộc phải lùi mấy bước.

Lục Vô Song vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nói:

– Nhất tiếu khuynh quốc!

Đây là chiêu do nàng tự nghĩ ra. Mỹ nhân đúng là có thể dùng tiếng cười làm nghiêng nước nghiêng thành, chứ làm sao có thể dùng để động thủ quá chiêu với đối phương? Dương Quá ngẩn người, tức thì cất tiếng cười ha ha ha ha, hi hi hi hi, khùng khục khà khà, vận nội công cao thâm theo “Cửu m chân kinh”. Tuy chàng chưa luyện đến nơi đến chốn, chưa thể dùng để đối phó với một cao thủ thật sự, nhưng ba gã hóa tử năm túi này cũng chỉ là vào hàng thứ ba, thứ tư, nghe tiếng cười kinh dị thì bất giác đầu váng mắt hoa, thân hình loạng choạng mấy cái, rồi ngã sóng soài. Nên biết trong tai người có một vật nhỏ hình bán nguyệt, chuyên phụ trách sự cân bằng của cơ thể. Nếu vật nhỏ hình bán nguyệt đó đột nhiên bị chấn động, sẽ khiến cho người ta cảm thấy đầu nặng chân nhẹ không thể đứng vững được nữa. Tiếng cười của Dương Quá dùng nội lực cường kình phát ra, màng tang của người nghe liên tục bị xung kích, ai nấy cảm thấy trời xoay đất chuyển. Lục Vô Song tưởng ngất đi vội hai tay giữ chặt lấy kiệu; trong tiếng oang oang, cả đoàn người rước dâu, tân lang và tân nương đều ngã ngổn ngang.

Tiếng cười của Dương Quá vừa dừng, ba gã hóa tử lồm cồm bò dậy, mặt cắt không còn hạt máu, bỏ đi không dám ngoái đầu lại.

Mọi người nghỉ một lát, rồi mới khiêng kiệu đi tiếp. Lúc này họ coi Dương Quá như thần, càng không dám trái lời. Khoảng canh hai, đến một thị trấn, Dương Quá mới thả đoàn người rước dâu đi. Mọi người cứ ngỡ phen này bị tướng cướp bắt làm con tin đòi chuộc tiền, chắc là khổ sở vô cùng, ai dè tên tướng cướp chỉ chơi trò đóng giả tân lang, tân nương thì thôi, thật là ngoài dự liệu, không khỏi khấu đầu lạy tạ Dương Quá. Tân nương thì nói:

– Chúc đại vương và nương tử bách niên hảo hợp, bạch đầu giai lão, sinh hạ vài vị tiểu đại vương!

Nghe vậy Dương Quá cười ha hả, còn Lục Vô Song thì vừa ngượng vừa giận.

Dương Quá và Lục Vô Song tìm một khách điếm vào trú, gọi cơm, vừa ngồi xuống ăn, thì chợt thấy ngoài cửa có bóng người ló đầu vào, nhìn thấy Dương Quá và Lục Vô Song liền rụt đầu, quay mình đi.

Dương Quá đoán có chuyện, chạy đuổi theo, thấy ngoài sân có hai người, chính là Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư đã đấu với Lục Vô Song tại Sài Lang cốc. Hai gã kia rút kiếm xông tới. Dương Quá nghĩ thầm: “Các ngươi tìm ta chuốc lấy khổ sở hay sao?” Hai đạo sĩ tới gần chàng thì lách qua, xông tới chỗ Lục Vô Song trong phòng lớn. Đúng lúc đó bỗng có tiếng chuông đeo cổ lừa vang lên tinh tang một chập.

Tiếng chuông đột nhiên vang lên, nghe đã rất gần, hai đạo sĩ sắc diện đại biến, nhìn nhau một cái, vội vàng lùi vào gian buồng thứ nhất ở phía tây, đóng sập cửa lại, không thấy ló ra nữa. Dương Quá nghĩ thầm: “Đạo sĩ thối tha, chắc đã xơi đòn của Lý Mạc Sầu nên mới kinh hoảng như thế”.

Lục Vô Song nói nhỏ:

– Sư phụ của ta lại đến rồi, Đồ ngốc, ngươi bảo nên làm thế nào?

Dương Quá nói:

– Làm thế nào ư? Tránh đi thôi!

Vừa đưa tay đỡ nàng, thì thấy tiếng chuông dừng ở cổng khách điếm, và giọng nói của Lý Mạc Sầu:

– Ngươi lên canh trên mái cho ta.

Hồng Lăng Ba vâng lời, vù một cái, phi thân lên mái nhà. Lại nghe chưởng cự nói:

– Tiên cô, lão nhân gia nghỉ lại đây… Ôi…

Huỵch một tiếng, chưởng cự đã ngã gục, không cựa quậy gì nữa. Y đâu biết rằng Lý Mạc Sầu ghét nhất kẻ khác nhắc đến chữ “lão” trước mặt nàng ta, huống hồ y lại gọi nàng ta là “Lão nhân gia”? Cây phất trần vung lên, lấy luôn mạng của y. Lý Mạc Sầu hỏi điếm tiểu nhị:

– Có cô nương thọt chân nào trọ ở đây hay không?

Điếm tiểu nhị sớm đã hồn xiêu phách tán, chỉ ấp úng:

– Tiểu nhân… tiểu…

Lý Mạc Sầu chân trái đá điếm tiểu nhị, chân phải đẩy cánh cửa gian buồng thứ nhất mé tây, chính là buồng của hai gã đạo sĩ Thân, Cơ, bước vào lục soát.

Dương Quá nghĩ thầm: “Đành chuồn lối cửa sau vậy, tuy có thể bị Hồng Lăng Ba nhìn thấy, nhưng không ngại nàng ta”, bèn nói:

– Tức phụ nhi, theo ta đào mệnh nào.

Lục Vô Song lườm chàng một cái, đứng dậy, nghĩ bụng phen này mà trốn thoát được thì đúng là nhờ ơn trời che mắt sư phụ.

Hai người vừa đứng dậy, thì một vị khách ngồi ở chiếc bàn mé đông đứng lên, tới cạnh hai người, nói nhỏ:

– Ta ra ngoài kia dụ kẻ địch ra ngoài, hãy mau nghĩ cách mà trốn đi.

Người này vốn ngồi chỗ tối, quay mặt vào trong, nên Dương Quá không nhìn rõ diện mạo; bây giờ nói lại nhìn chỗ khác, nói xong liền chạy ra cổng, chỉ còn nhìn thấy lưng. Người đó thân hình không cao, mặc trường bào màu xanh, rộng thùng thình.

Dương, Lục hai người nhìn nhau, chợt nghe tiếng chuông treo cổ lừa vang rền, chuyển dần về phía bắc.

Hồng Lăng Ba gọi:

– Sư phụ, có kẻ dắt trộm lừa!

Lý Mạc Sầu từ trong buồng chạy ra cổng đuổi theo. Lục Vô Song nói:

– Đi mau thôi!

Dương Quá nghĩ thầm: “Lý Mạc Sầu khinh công mau lẹ như thế, sẽ đuổi kịp người kia trong giây lát, rồi trở lại đây. Mình phải ẵm Lục cô nương, đi không thể nhanh, rất khó thoát thân”. Chàng chợt nảy ra một kế, chạy vào gian phòng thứ nhất ở mé tây. Thấy Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư đang ngồi bên cạnh giường lò, trên mặt vẫn chưa hết vẻ kinh hoàng. Tình thế lúc này gấp rút, Dương Quá chẳng để cho hai đạo sĩ hỏi han gì, liên tiếp điểm huyệt họ, nói:

– Tức phụ nhi, vào đây.

Lục Vô Song bước vào. Dương Quá đóng cửa lại, nói:

– Mau cởi quần áo!

Lục Vô Song đỏ mặt, nói:

– Đồ ngốc, ngươi nói lung tung gì vậy?

Dương Quá nói:

– Cởi hay không tùy cô nương, riêng ta thì ta phải cởi.

Chàng cởi áo ngoài, mặc áo đạo sĩ của Thân Chí Phàm, lại lột cả mũ của y đội lên đầu mình. Lục Vô Song chợt hiểu, nói:

– Được, ta cũng đóng giả đạo sĩ để lừa sư phụ.

Nàng cởi áo ngoài, lại đỏ mặt, đá gã Cơ Thanh Hư một cái, nói:

– Nhắm mắt vào, tên đạo sĩ chết tiệt!

Cơ Thanh Hư và Thân Chí Phàm chỉ bất động tứ chi, ngũ quan vẫn hoạt động bình thường; họ vội nhắm mắt, không dám nhìn nàng.

Lục Vô Song lại nói:

– Đồ ngốc, ngươi quay đi, đừng có nhìn ta thay quần!

Dương Quá cười, nói:

– Sợ cái gì, lúc nắn xương cho cô nương, ta chưa thấy gì hay sao?

Vừa nói xong, biết ngay mình quá ư khinh bạc vô lại, bất giác ngượng ngùng. Lục Vô Song cau mày, lật tay đánh một chưởng.

Dương Quá chỉ hơi cúi đầu, dễ dàng tránh qua, nhưng nhất thời thất hồn lạc phách, ngây ra xuất thần, bỗng bốp một tiếng, má bên trái của chàng bị một chưởng. Lục Vô Song không ngờ lần này nàng lại đánh trúng, lực dùng không nhẹ, nàng cũng ngây ra, cười, nói:

– Đồ ngốc, có đau lắm không? Ai bảo nói năng vớ vẩn?

Dương Quá xoa xoa má, cười cười, quay người nhìn chỗ khác. Lục Vô Song thay áo xong, cười, hỏi:

– Ngươi trông ta có giống một tiểu đạo sĩ hay chưa?

Dương Quá nói:

– Ta nhìn thấy sao được mà hỏi.

Lục Vô Song nói:

– Đồ ngốc, quay lại nhìn đi.

Dương Quá ngoảnh lại, thấy chiếc áo bào trên người nàng rộng thùng thình, càng lộ rõ thân hình mảnh dẻ của nàng, đang định nói, bỗng Lục Vô Song khẽ kêu ối, tay chỉ lên giường lò, thấy một đạo sĩ từ trong chăn ló mặt ra, chính là Bì Thanh Huyền, gã đạo sĩ bị nàng chém ba ngón tay ở Sài Lang cốc. Nguyên y nằm trên giường lò dưỡng thương, thấy Lục Vô Song vào buồng thì rụt đầu vào trong chăn, Dương, Lục hai người mải thay quần áo, không lưu ý. Lục Vô Song nói:

– Hắn… hắn…

Định nói “Hắn nhìn trộm ta thay đồ”, nhưng không tiện nói rõ.

Lúc này tiếng chuông lại vang lên. Dương Quá nghe mấy lần, biết Lý Mạc Sầu đã đoạt lại con lừa; khi người khách áo xanh cưỡi lừa chạy đi, tiếng chuông nghe tạp loạn; còn khi Lý mạc Sầu cưỡi, con lừa tuy chạy nhanh, song tiếng chuông vẫn thành nhịp hẳn hoi. Chàng chợt nghĩ, liền kéo Bì Thanh Huyền lên, điểm huyệt y, mở cửa ngăn giường lò, đẩy y vào dưới gầm giường lò. Phương bắc trời lạnh, mùa đông người ta đốt than dưới gầm giường lò cho ấm, bây giờ thời tiết đang nóng, gầm giường lò không đất than, nhưng bên trong toàn muội than, Bì Thanh Huyền bị đẩy vào trong đó, không khỏi bị dính đầy muội.

Tiếng chuông đã dừng, Lý Mạc Sầu đã quay trở lại cổng khách điếm. Dương Quá nói với Lục Vô Song:

– Lên giường lò nằm đi.

Lục Vô Song cau mày:

– Đạo sĩ thối tha đã nằm đó, hôi hám thế, làm sao mà nằm?

Dương Quá nói:

– Tùy cô nương thôi.

Vừa nói vừa đẩy Thân Chí Phàm vào gầm giường lò, thuận tay giải huyệt cho Cơ Thanh Hư. Lục Vô Song tuy có cảm giác chăn gối hôi hám, nhưng nghĩ đến thủ đoạn tàn ác của sư phụ, đành leo lên giường, nằm quay mặt vào trong. Vừa nhắm mắt, thì Lý Mạc Sầu đã đạp cửa, xộc vào phòng lần thứ hai để lục soát. Dương Quá cầm chén trà, cúi mặt mà uống, tay trái đặt trên tử huyệt ở sau lưng của Cơ Thanh Hư. Lý Mạc Sầu thấy trong phòng vẫn ba đạo sĩ, Cơ Thanh Hư mặt xám như gà cắt tiết, thần hồn bất định, nàng ta bèn cười cười đi sang phòng khác tìm kiếm. Lần trước vào phòng này, Lý Mạc Sầu đãnhìn kỹ mặt từng người, sợ Lục Vô Song cải trang làm đạo sĩ; còn lần thứ hai thì nàng ta không nhìn kỹ mặt từng người nữa.

Đêm nay sư đồ Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba rà soát khắp nơi trong trấn, khiến nhà nhà gà chó không yên. Dương Quá thì hoàn toàn yên ổn nằm trên giường lò bên Lục Vô Song, ngửi mùi hương thiếu nữ lan sang từng chập, không khỏi vô cùng thích thú. Lục Vô Song trong lòng cứ nổi lên bao ý nghĩ, thấy Dương Quá quả là một nhân vật cổ quái, bảo là ngốc nghếch thì không phải, chàng ta hết sức thông minh; bảo là thông minh, thì cũng đúng, song lại pha chút điên điên khùng khùng. Nàng nằm im không cựa quậy, nghĩ bụng, nếu Đồ ngốc đưa tay ôm nàng, thì nàng sẽ phải làm sao? Rất lâu cũng không thấy Dương Quá có động tĩnh gì, thì nàng lại cảm thấy thất vọng, ngửi hơi đàn ông nồng nàn của chàng, cũng thấy lòng xốn xang; hồi lâu sau mới mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.

Dương Quá ngủ một giấc tỉnh lại, trời đã sáng bạch, thấy Cơ Thanh Hư ngủ gục bên bàn chưa tỉnh; Lục Vô Song thì hai cánh mũi hơi phập phồng, hai má ửng hồng, đôi môi hồng he hé, bất giác lòng chàng xốn xang, nghĩ thầm: “Nếu mình thơm nhẹ nàng một cái, nàng cũng chẳng biết đâu”. Thiếu niên bước đầu hiểu về tình ái, chưa từng gần gũi nữ giới, lúc này mặt trời vừa mọc, chính là lúc tình dục dâng lên mạnh nhất; nhớ đến cặp vú quá đẹp nhìn thấy lúc nắn xương cho nàng, càng không kiềm chế được, cúi đầu sang định thơm vào môi nàng.

Sắp chạm đến môi thì đã ngửi thấy mùi hương ngọt ngào, người bửng lửng, máu nóng dâng trào, nhưng bỗng thấy đôi mày nàng hơi cau, tựa hồ trong mơ vẫn cảm thấy đau ở vết xương gãy. Dương Quá trông thấy thế thì lập tức nhớ đến Tiểu Long Nữ, nhớ lời thề mà chàng đã nói với nàng “Trong lòng ta suốt đời chỉ có một mình cô cô, nếu ta thay lòng đổi dạ, thì không cần cô cô tới giết ta, ta cũng sẽ tự sát”. Mồ hôi lạnh vã ra đầy người, bốp bốp hai tiếng, chàng tự giáng cho mình hai cái tát mạnh, nhảy khỏi giường lò.

Lục Vô Song giật mình thức giấc, mở mắt hỏi:

– Đồ ngốc, ngươi làm sao thế?

Dương Quá đang xấu hổ, trả lời ậm ừ:

– Không có gì, ta bị một con muỗi đốt vào mặt.

Lục Vô Song nghĩ đến chuyện cả đêm qua mình nằm ngủ với chàng, đột nhiên mặt đỏ bừng, cúi đầu nói nhỏ:

– Đồ ngốc, Đồ ngốc!

Giọng nói đầy vẻ ôn nhu trìu mến.

Lát sau, nàng ngẩng đầu, hỏi:

– Đồ ngốc, ngươi làm sao biết được “Mỹ nữ quyền pháp” của phái Cổ Mộ ta vậy?

Dương Quá nói:

– Trong lúc nằm mơ, ta thấy có nhiều mỹ nữ, như Tây Thi, Điêu Thuyền đến bên cạnh, mỗi người dạy ta một chiêu, cho nên ta biết.

Lục Vô Song hừ một tiếng, biết có hỏi thêm chàng cũng không chịu nói, đang định nói sang việc khác, thì lại nghe tiếng chuông đeo cổ lừa của Lý Mạc Sầu. Sư phụ vẫn cứ quanh quẩn tìm nàng, vì cuốn sách “Ngũ độc bí truyền” lấy lại chậm ngày nào nguy hiểm ngày ấy, nên không dám buông lơi, trời vừa tảng sáng, đã lại cưỡi lừa đi tìm.

Dương Quá nói:

– Lý cô nương tìm chưa ra hai ta, sẽ còn trở lại. Chỉ tiếc rằng cô nương bị thương, tránh bị chấn động, chứ không thì hai ta ăn cắp hai con tuấn mã, phóng một mạch một ngày một đêm, thử hỏi Lý cô nương làm sao đuổi cho kịp kia chứ!

Lục Vô Song giận hỏi:

– Ngươi không bị thương, sao không đi ăn cắp ngựa mà phóng một mạch cho yên chuyện?

Dương Quá nghĩ thầm: “Cái cô nương này quả là hay giận dỗi, mình mới nói một câu vô ý, mà đã tức rồi”, song vì chàng thích nhìn lúc nàng nổi giận, bèn khích thêm:

– Nếu cô nương không cầu xin ta đưa xuống Giang Nam, thì ta đã đi lâu rồi.

Lục Vô Song giận nói:

– Ngươi đi đi, đi ngay đi! Đồ ngốc, ta hễ thấy mặt ngươi là tức quá, thà ta chết một mình ở đây còn hơn.

Dương Quá cười, nói:

– Ồ, để cô nương chết thì ta không nỡ.

Chàng sợ Lục Vô Song cả giận làm chấn động vết thương, bèn cười cười đi ra khỏi phòng, tới quầy hàng hỏi mượn nghiên mực, mang vào phòng, rót chút nước vào trong nghiên, rồi hai tay nhúng vào mực, đột nhiên bôi lên mặt Lục Vô Song.

Lục Vô Song không đề phòng, vội đưa tay xoa mặt, mắng:

– Đồ ngốc thối tha, Đồ ngốc chết tiệt.

Chỉ thấy Dương Quá bốc một nắm muội than dưới gầm giường lò lên, hòa vào nước, rồi bôi lên mặt mình, khiến khuôn mặt chàng trông lồi lồi lõm lõm, như mọc đầy mụn cơm. Nàng lập tức hiểu ra: “Mình tuy mặc áo đạo nhân, nhưng diện dung còn nguyên, gặp sư phụ tất bị nhận biết ngay”, bèn cũng bôi nước mực loãng lên mặt.

Hai người cải trang đã xong, Dương Quá mới lôi hai đạo sĩ trong gầm giường lò ra, giải huyệt cho họ, Lục Vô Song không nhìn họ, đá cho vài cái, hai đạo sĩ rên rỉ, nàng trong bụng thán phục: “Đồ ngốc võ công cao hơn ta gấp mười lần”, nhưng không để lộ ý thán phục, vẫn nhiếc chàng là Đồ ngốc, tựa hồ không coi chàng ra gì.

Dương Quá ra chợ định thuê một cỗ xe lớn, nhưng thị trấn này quá nhỏ, không có xe cho thuê, chàng đành mua hai con ngựa còm. Hôm nay thương thế của Lục Vô Song đã đỡ, hai người mỗi người cưỡi một con ngựa, thong thả đi về hướng đông nam.

Đi hơn một canh giờ, Dương Quá sợ Lục Vô Song không trụ nổi, bèn đỡ nàng xuống ngựa, ngồi nghỉ trên một tảng đá bên đường. Chàng nhớ lại sáng sớm nay mình đã có ý khinh bạc đối với Lục Vô Song, khinh bạc nàng ta thì cũng chẳng sao, nhưng như thế tức là không đúng đối với cô cô, quả thực là chàng đã phạm một điều đại kỵ ngu xuẩn, đang thầm tự trách mình, thì Lục Vô Song bỗng hỏi:

– Đồ ngốc, sao không nói gì với ta?

Dương Quá mỉm cười, không đáp, rồi chợt nhớ điều gì kêu lên:

– Thôi chết, hỏng rồi, ta thật là hồ đồ!

Lục Vô Song nói:

– Thì ngươi vốn là kẻ hồ đồ mà!

Dương Quá nói:

– Hai ta cải trang ngay trước mặt ba gã đạo sĩ kia, nếu họ kể với sư phụ của cô nương, thì có nguy hay không?

Lục Vô Song nhếch mép cười, nói:

– Ba tên đạo sĩ thối tha ấy đã cưỡi ngựa đi trước chúng ta, sư phụ còn ở mãi đằng sau chúng ta, ngươi hồn vía để ở đâu đâu, đang nghĩ vớ vẩn gì thế không biết.

Dương Quá kêu “Ờ nhỉ”, nhìn nàng cười cười. Lục Vô Song cảm thấy nụ cười này hàm ý sâu xa, nghĩ câu nàng vừa nói “hồn vía để ở đâu đâu, đang nghĩ vớ vẩn” thì bất giác đỏ mặt. Đúng lúc đó, một con ngựa bỗng hí lên một tiếng dài. Lục Vô Song ngoảnh đầu nhìn, thấy ở khúc đường quành phía trước có hai lão hành khất sánh vai nhau đi tới.

Dương Quá thấy sau góc núi còn có hai bóng người thò đầu ra rồi thụt lại ngay, chính là Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư, thì chợt hiểu: “Ba gã đạo sĩ đã đi báo tin với Cái Bang, rằng hai ta cải trang đạo sĩ”, bèn chắp tay nói:

– Hai vị khiếu hóa đại gia, các vị xin ăn xin tám phương, bần đạo hóa duyên hóa mười phương, hôm nay xin hai vị bố thí cho.

Một lão hành khất giọng vang như chuông, nói:

– Hai ngươi dẫu có cạo trọc đầu, giả làm hòa thượng ni cô, cũng đừng hòng thoát khỏi tai mắt của bọn ta. Đừng có giả bộ ngốc nghếch, mau đi theo bọn ta tới gặp chấp pháp trưởng lão của bọn ta để làm rõ mọi chuyện.

Dương Quá nghĩ thầm: “Hai lão hóa tử này đeo tám cái túi, e rằng võ công rất cao cường”. Hai lão hóa tử chính là hai đệ tử tám túi của Cái Bang, thấy Dương, Lục hai người đều là thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi, vậy mà đánh bại bốn đệ tử bốn túi, ba đệ tử năm túi, thì đoán rằng bên trong hẳn có điều gì cổ quái.

Đôi bên còn đang quan sát nhau, thì ở phía bắc vang lên tiếng chuông vàng tinh tang dồn dập trong trẻo. Lục Vô Song nghĩ thầm: “Nguy rồi, nguy rồi, mình tuy cải trang, nhưng lúc này lại có hai lão hóa tử chết tiệt kia làm lộ hết, làm sao thoát nổi độc thủ của sư phụ? Ôi, vận hạn thật là xui xẻo, tai nạn dồn dập, ở đâu mà lắm kẻ ăn no nhàn rỗi, cứ tìm đến mình gây sự thế này không biết?”

Tiếng chuông đã tới gần thêm. Dương Quá nghĩ thầm: “Mụ Lý Mạc Sầu này, ta đánh không nổi, chỉ còn cách mau cướp đường mà chạy trốn thôi”. Bèn nói:

– Hai vị đã không chịu hóa duyên, cũng không sao, vậy xin hãy nhường đường cho.

Nói đoạn bước đi. Hai lão hóa tử thấy chàng bước đi thế kia tựa hồ là kẻ không hề biết võ công, cùng giơ tay phải ra chộp. Dương Quá hữu chưởng phách ra, đụng vào hai chưởng của hai lão hóa tử, cả ba cùng tự thoái lui ba bước. Hai lão hóa tử tám túi luyện công mấy chục năm, nội lực đều rất thâm hậu, trên giang hồ đã ít gặp địch thủ, nếu luận về võ công cao thấp, thực là hơn hẳn Dương Quá, song luận về sự ảo diệu tinh kỳ của chiêu số, thì lại không bằng. Dương Quá mượn lực địch đánh địch, hóa giải chưởng lực của hai người, song muốn nhờ đó để vượt qua họ, thì lại chưa thể được. Cả ba người cùng thầm kinh ngạc.

Lúc này sư đồ Lý Mạc Sầu đã tới. Hồng Lăng Ba gọi:

– Này, khiếu hóa nhi, tiểu đạo sĩ, có thấy một cô nương thọt chân đi qua đây hay không?

Hai lão hóa tử thuộc vai vế rất cao trong võ lâm, nghe Hồng Lăng Ba hỏi xách mé như vậy, trong bụng hơi bực, nhưng qui củ của Cái Bang rất nghiêm, không cho phép bang chúng tùy ý tranh chấp hơn thua với người ngoài, hai người thuận miệng đáp:

– Không thấy!

Lý Mạc Sầu tinh mắt, nhìn sau lưng Dương, Lục hai người, trong bụng hơi nghi: “Hai người này hình như mình đã gặp ở đâu thì phải”, lại thấy bốn người đang đứng đối diện với nhau, tư thế sắp động võ, thì nghĩ thầm hãy đứng ngoài xem sao.

Dương Quá liếc nhanh, thấy Lý Mạc Sầu nhếch mép cười, khoanh tay đứng xem, chợt nảy một kế: “Có cách rồi, mình sẽ làm cho mụ ta hết nghi ngờ”. Chàng bèn tới trước mặt Hồng Lăng Ba, cúi chào.

Hồng Lăng Ba dùng nghi thức Đạo gia hoàn lễ. Dương Quá nói:

– Bần đạo đi qua đây, không dưng vô cớ hai lão hành khất chặn đường, đòi động võ, bần đạo không mang theo binh khí, mong đạo hữu nể mặt Lão Quân, cho mượn thanh bảo kiếm.

Nói xong lại cúi mình thật thấp.

Hồng Lăng Ba thấy chàng mặt mày lồi lồi lõm lõm, vừa đen vừa xấu, nhưng thần thái khiêm cung, lại nhắc đến tổ sư của Đạo gia là Thái Thượng Lão Quân, thì không tiện cự tuyệt, rút trường kiếm, nhìn sư phụ, thấy sư phụ gật đầu, bèn chuyển thanh kiếm, chìa cán kiếm cho chàng. Dương Quá cúi mình cảm tạ, nhận thanh kiếm, chĩa mũi kiếm xuống đất, nói:

– Bần đạo nếu không địch nổi, mong đạo hữu nghĩ đến phái Đạo gia, giúp cho một tay.

Hồng Lăng Ba cau mày, không đáp.

Dương Quá quay sang nói to với Lục Vô Song:

– Sư đệ, sư đệ cứ đứng ngoài mà xem, khỏi cần động thủ, để ta cho hai lão hóa tử chút kiến thức về môn hạ phái Toàn Chân chúng ta.

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Thì ra hai tiểu đạo sĩ là đệ tử phái Toàn Chân. Nhưng giáo phái Toàn Chân và Cái Bang vốn giao hảo với nhau kia mà, sao môn hạ đôi bên lại đánh nhau thế này?” Dương Quá sợ hai lão hóa tử lên tiếng nhiếc mắng, làm lộ bí mật của Lục Vô Song, liền vung kiếm, nói:

– Nào nào lại đây, mình ta đấu với hai vị.

Lục Vô Song thầm lo: “Đồ ngốc không biết rằng sư phụ ta đã đánh nhau hơn chục trận lớn nhỏ với các đạo sĩ phái Toàn Chân, mọi chiêu thức võ công của phái Toàn Chân, sư phụ ta đều thừa biết. Thiên hạ thiếu gì giáo phái, nào Chính Ất, Thái Đạo, nào Thái Nhất, mạo xưng giáo phái nào chẳng được, lại đi mạo nhận là môn hạ phái Toàn Chân”.

Hai lão hóa tử nghe năm chữ “môn hạ phái Toàn Chân”, đều kinh ngạc, cùng quát:

– Có thật ngươi là môn hạ phái Toàn Chân hay không? Ngươi và…

Dương Quá đâu để cho họ nhắc đến Lục Vô Song, trường kiếm đã đâm luôn vào ngực người này, vào bụng dưới người kia, chính là kiếm pháp đích truyền của phái Toàn Chân. Hai lão hóa tử vai vế rất cao, không hề muốn hợp lực đấu với một kẻ hậu bối, nhưng chiêu kiếm của Dương Quá đâm tới quá nhanh, hai lão hóa tử đành phải cùng lúc giơ thiết bổng chống đỡ. Thiết bổng vừa giơ lên, trường kiếm của Dương Quá đã xuyên qua khe hở giữa hai cây thiết bổng, đâm nhanh tới ngực hai lão.

Hai lão hóa tử không ngờ kiếm pháp của chàng thần tốc như thế, vội vã nhảy lùi. Dương Quá không chút dung tình, lập tức xông tới; trong giây lát đã đâm liền hai lần chín mười tám kiếm, mỗi kiếm đều là một đánh hai, khi xuất chỉ có một chiêu, nhưng cổ tay hơi xoay, kiếm chiêu đánh ra hai nơi. Đây là kiếm thuật “Nhất khí hóa tam thanh” trong võ công thượng thừa của phái Toàn Chân, mỗi chiêu đều có thể hóa thành ba chiêu. Mỗi kiếm Dương Quá đâm ra, hai lão hóa tử lùi ba bước; mười tám kiếm đâm ra, hai lão hóa tử không kịp đánh trả một chiêu nào, tổng cộng phải lùi năm mươi tư bước. Võ công “Ngọc nữ tâm kinh” chuyên dùng để khắc chế phái Toàn Chân, Dương Quá khi chưa luyện “Ngọc nữ tâm kinh”, đã luyện võ công phái Toàn Chân, có điều là luyện chưa đến mức thuần thục, nên “Nhất khí chưa hóa thành tam thanh”, nhưng xem ra cũng hơi giống.

Lý Mạc Sầu thấy kiếm pháp tinh kỳ của tiểu đạo sĩ không khỏi thầm kinh ngạc: “Hèn chi phái Toàn Chân nổi danh thiên hạ, quả nhiên lắm nhân tài, người này mười năm nữa, ta làm sao còn địch nổi? Hẳn rằng chức vị chưởng giáo giáo phái Toàn Chân sau này sẽ thuộc về gã tiểu đạo sĩ kia”. Nếu Lý Mạc Sầu động thủ với Dương Quá, chỉ sau vài chiêu sẽ biết kiếm pháp phái Toàn Chân mà chàng sử dụng chỉ là gần giống mà thôi, kỳ thực là công phu phái Cổ Mộ, nhưng nhìn bề ngoài thì khó phân biệt thật giả. Dương Quá từ khi được Triệu Chí Kính truyền thụ ca quyết của võ công phái Toàn Chân, cũng đã luyện tập, nên chàng bảo đó là võ công phái Toàn Chân thì cũng không phải là mạo xưng. Hồng Lăng Ba và Lục Vô Song dĩ nhiên hết sức thán phục.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nếu ta xuất thủ chậm lại một chút, để cho hai lão hóa tử kia mở miệng nói năng, thì lành ít dữ nhiều”, thế là trường kiếm đâm chếch, người vọt ra sau lưng hai lão hóa tử, một kiếm lại hóa thành hai chiêu mà đâm. Hai lão hóa tử vội quay người lại chống đỡ; Dương Quá không để cho thiết bổng của hai lão hóa tử đụng tới kiếm của mình, chàng lại luồn ra sau lưng họ, họ vội xoay mình, thì Dương Quá lại luồn ra sau lưng họ. Dương Quá tự biết, nếu dựa vào võ công đích thực, đừng nói một địch hai, mà chỉ với một lão hóa tử chàng cũng không địch nổi, nên dùng cách thi triển khinh công, luồn ra sau lưng họ như vậy.

Mỗi đệ tử phái Toàn Chân luyện võ công đến hỏa hầu thích đáng, thì phải luyện khinh công để còn sử dụng khi tham gia “Thiên CangBắc Đẩu trận”. Dương Quá lúc này bộ pháptuy là võ công phái Toàn Chân, nhưng vận khí hô hấp thì lại theo tâm pháp “Ngọc nữ tâm kinh”. Khinh công của phái Cổ Mộ đứng đầu thiên hạ, chàng mà chạy, thì hai cao thủ Cái Bang không thể theo kịp; hai lão hóa tử chỉ thấy chàng vùn vụt như tia chớp, bạch quang loang loáng, kiếm đâm lia lịa. Nếu chàng định lấy mạng hai người, thì đã giết hàng chục lần rồi. Hai lão hóa tử cứ vội vã xoay mình, dùng thiết bổng bảo vệ chỗ yếu hại, xem ra đã không thể chống đỡ nổi, chỉ cố sức giữ, mong ông trời phù hộ mà thôi.

Cứ thế xoay tròn mấy chục vòng, hai lão hóa tử đã mệt đến hoa cả mắt, cước bộ loạng choạng, sắp ngã đến nơi. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Ồ, bằng hữu Cái Bang, ta dạy cho một cách nhé, hai vị đứng tựa lưng vào nhau thì khỏi phải xoay.

Lời mách nước ấy, hai lão hóa tử nghe được thì cả mừng, đang định làm theo. Dương Quá nghĩ thầm: “Không được, để họ làm thế, mình thua mất”, bèn không di chuyển vị trí nữa, một chiêu hai thức đâm tới sau lưng hai lão hóa tử. Hai lão hóa tử nghe tiếng gió quạt gấp sau lưng, không kịp dùng thiết bổng chống đỡ, đành bước vội về phía trước một bước, chân vừa chạm đất, kiếm lại đâm tới sau lưng, sợ quá đành bỏ chạy. Nào ngờ mũi kiếm của Dương Quá cứ bám theo như hình với bóng, bất kể hai lão hóa tử chạy nhanh mức nào, mũi kiếm của Dương Quá vẫn rung rung sát sau lưng, họ chỉ cần chạy chậm lại một chút, mũi kiếm đã chọc vào da thịt đau nhói. Hai lão hóa tử biết Dương Quá không có ý sát hại, nếu không chàng chỉ ấn mạnh một cái, lập tức kiếm sẽ đâm xuyên ngay ra trước ngực. Biết vậy song hai lão hóa tử vẫn không dám dừng lại. Ba người dốc sức chạy như điên, thoáng chốc đã chạy hơn hai dặm, cách xa hẳn chỗ Lý Mạc Sầu đang đứng.

Dương Quá đột nhiên vọt lên chặn trước hai lão hóa tử, cười hi hi, nói:

– Đi chậm thôi, kẻo ngã!

Hai lão hóa tử không hẹn mà cùng đâm thiết bổng tới. Dương Quá giơ tay trái chộp luôn được một cây thiết bổng, đồng thời trường kiếm trong tay phải dùng sống kiếm gạt cây thiết bổng thứ hai sang bên trái, thế là tay trái chộp luôn cả hai cây thiết bổng. Hai lão hóa tử vội vận kình giằng lại. Dương Quá công lực không bằng đối phương, dại gì giằng co với họ. Chàng dùng kiếm mà chặt một cái như người xước mía. Hai lão hóa tử nếu không buông thiết bổng ra, thì tám ngón tay của họ sẽ bị chém đứt tức thì, thế là họ đành buông tay, nhảy lùi lại, vẻ mặt ngượng ngùng. Đấu tiếp chắc không được, mà bỏ chạy thì chẳng còn gì thể diện.

Dương Quá nói:

– Tệ giáo với quí bang lâu nay vốn giao hảo, hai vị chớ nên nghe lời xúi giục của người ngoài. Oán có đầu, nợ có chủ, Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu hiển nhiên ở kia, sao hai vị chẳng đi tìm mụ ta?

Hai lão hóa tử hoàn toàn không biết mặt Lý Mạc Sầu, chỉ nghe đồn nàng ta lợi hại, nghe Dương Quá nói vậy thì kinh ngạc hỏi:

– Thật vậy ư?

Dương Quá nói:

– Bần đạo nói dối làm gì? Bần đạo chẳng qua bị nữ ma đầu dồn vào đường cùng, mới phải động thủ với hai vị đó thôi.

Nói rồi hai tay nâng hai cây thiết bổng cung kính trả lại cho hai lão hóa tử, lại nói:

– Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu có mang theo bên mình một vật lừng danh thiên hạ, hai vị lẽ nào không biết?

Một lão hóa tử chợt nhớ, nói:

– Phải rồi, nàng ta cầm cây phất trần, con lừa hoa có đeo chiếc chuông vàng, là nữ nhân mặc áo vàng phải không?

Dương Quá đáp:

– Đúng đấy, đúng đấy; còn cô nương dùng loan đao đả thương đệ tử của quí bang, chính là đệ tử của Lý Mạc Sầu…

Chàng ngẫm nghĩ, rồi nói:

– Chỉ e… không được… không được…

Lão hóa tử giọng vang như chuông nóng tính, hỏi:

– Chỉ e cái gì?

Dương Quá nói:

– Không được… không được.

Lão hóa tử đó hỏi:

– Cái gì không được?

Dương Quá nói:

– Lý Mạc Sầu hoành hành thiên hạ, các nhân vật giang hồ ai nghe thấy cũng đều khiếp đảm, quí bang tuy lợi hại, nhưng chưa có ai địch nổi Lý Mạc Sầu. Nữ đệ tử của mụ ta đã đả thương đệ tử của quí bang thì cũng nên bỏ qua đi cho xong chuyện.

Lão hóa tử nóng tính bị chàng nói khích, thì giậm cây thiết bổng, nói:

– Hừ, dẫu mụ ta là Xích Luyện Tiên Tử hay Hắc Luyện Tiên Tử, thì hôm nay cũng phải đấu với mụ ta một trận!

Nói rồi định chạy ngay về chỗ cũ. Lão hóa tử thứ hai tính thận trọng, nghĩ thầm hai người vừa rồi còn chưa đối phó nổi với một gã tiểu tử nhãi ranh, huống hồ là Xích Luyện Tiên Tử, chỉ có mang thân đến nộp mạng, bèn kéo lão kia, nói:

– Cũng chưa có gì phải gấp, chúng ta phải về bàn tính kỹ đã.

Đoạn ôm quyền, nói với Dương Quá:

– Thỉnh giáo quý tính đại danh của đạo hữu?

Dương Quá cười, nói:

– Bần đạo họ Tát, tên Hoa Từ. Hẹn ngày tái ngộ.

Đoạn cúi chào, quay mình chạy đi.

Hai lão hóa tử lẩm bẩm “Tát Hoa Từ, Tát Hoa Từ? Chưa nghe cái tên này bao giờ, hắn còn nhỏ tuổi, mà võ công đã cao siêu đến thế…” Một lão hóa tử bỗng nhảy dựng lên, chửi:

– Mẹ kiếp, tên chó má!

Lão thứ hai hỏi:

– Sao vậy?

Lão thứ nhất nói:

– Hắn bảo tên là Tát Hoa Từ, nghĩa là sát hóa tử (giết ăn mày), để cho tên tiểu tặc chửi mình mà mình không biết.

Hai lão hóa tử chửi bới một hồi cho bõ tức, nhưng không dám đi tìm chàng tính sổ.

Dương Quá cười thầm, sợ Lục Vô Song có chuyện gì vội chạy trở lại chỗ cũ, thấy Lục Vô Song vẫn ngồi trên lưng ngựa, nhìn ra xa xa, chắc là sốt ruột dị thường. Vừa thấy Dương Quá, nàng vội giục ngựa lại đón, thấp giọng hỏi:

– Đồ ngốc, tưởng là ngươi chuồn rồi.

Dương Quá cười cười, hai tay giơ ngang kiếm, chìa cán kiếm về phía Hồng Lăng Ba, cúi mình hành lễ, nói:

– Đa tạ đã cho mượn kiếm.

Hồng Lăng Ba đưa tay đón lấy. Dương Quá định quay người đi, thì Lý Mạc Sầu bỗng nói:

– Hãy khoan.

Lý Mạc Sầu thấy tiểu đạo sĩ võ công cao cường, nghĩ thầm để kẻ này sống, ắt sau này có họa, chi bằng nhân lúc võ công hắn còn chưa bằng mình, đem giết quách hắn đi.

Dương Quá nghe hai tiếng “Hãy khoan”, biết là có chuyện. Lý Mạc Sầu vốn muốn khích chàng động thủ, rồi dùng cây phất trần đánh chết chàng, nhưng hiện giờ tay chàng không có binh khí, mình địa vị cao thế này, chẳng thể dùng vũ khí đả thương chàng, bèn hất cây phất trần về phía sau một cái, hỏi:

– Ngươi là môn hạ của vị nào trong Toàn Chân Thất Tử?

Dương Quá cười đáp:

– Ta là đệ tử của Vương Trùng Dương.

Đối với các đạo sĩ phái Toàn Chân, chàng đều không ưa, cũng chẳng kính nể gì. Khưu Xứ Cơ tuy đối với chàng không tệ, nhưng thời gian hai người ở bên nhau quá ngắn, trước khi đi Khưu Xứ Cơ lại giáo huấn cho chàng một trận nên thân, chàng biết Khưu Xứ Cơ không có ác ý, nên cũng chẳng giận; còn những người như Hách Đại Thông, Triệu Chí Kính, thì mỗi khi nghĩ đến lại nghiến răng căm tức. Chàng đã học yếu quyết “Cửu m chân kinh” mà Vương Trùng Dương tự tay khắc trong tòa nhà mồ, nếu gọi chàng là đệ tử của Vương Trùng Dương, kể cũng phải. Nhưng xét về lứa tuổi, chàng chỉ đáng là đệ tử của Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình. Lý Mạc Sầu thấy chàng võ công cũng khá, mới hỏi chàng là môn hạ của vị nào trong Toàn Chân Thất Tử, tức là đã đề cao chàng quá lắm rồi. Giả dụ Dương Quá thuận miệng nói đại tên của Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, thì Lý Mạc Sầu chắc cũng tin. Đằng này chàng lại không chịu hạ mình đứng cùng hàng với Hách Đại Thông là kẻ đã giết chết Tôn bà bà, mà vỗ ngực xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương. Trùng Dương Chân Nhân là tổ sư sáng lập giáo phái Toàn Chân, bình sinh chỉ thu nhận có bảy đệ tử, điều này trong võ lâm ai nấy đều biết; ngày gã tiểu đạo sĩ này chào đời, Vương Trùng Dương đã từ trần lâu rồi.

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Tên tiểu tử này không biết trời cao đất dày, cũng không biết ta là ai, trước mặt ta dám cả gan giở trò ma”, lại nghĩ bụng: “Các đạo sĩ phái Toàn Chân làm gì dám đem tổ sư gia ra đùa bỡn? Lại còn nói trống không ba chữ “Vương Trùng Dương” nữa chứ? Nhưng nếu hắn không phải là đệ tửp hái Toàn Chân, thì tại sao chiêu thức võ công lại rõ ràng là của phái Toàn Chân?”

Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu miệng tuy cười mỉm, nhưng lông mày hơi cau, đang ngẫm nghĩ, chàng nhớ lần chàng đóng giả kẻ kiếm củi đánh lừa Hồng Lăng Ba một trận, trong nhà mồ đã từng giao đấu với sư đồ nàng ta, không thể để họ nhận ra mình qua giọng nói, cử chỉ, việc không thể chậm trễ, chuồn đi là thượng sách, bèn giơ tay hành lễ, rồi nhảy phắt lên ngựa, định phóng đi.

Lý Mạc Sầu vọt ngay tới trước đầu ngựa của chàng, nói:

– Xuống đi, ta có điều cần hỏi ngươi.

Dương Quá nói:

– Bần đạo biết ngươi muốn hỏi gì rồi. Ngươi muốn hỏi bần đạo có nhìn thấy một cô nương xinh đẹp, chân trái hơi bị thọt, có biết quyển sách gì đó nàng ta mang theo ở đâu chứ gì?

Lý Mạc Sầu thầm kinh ngạc, nhưng làm ra vẻ thản nhiên nói:

– Đúng, ngươi thông minh lắm. Thế quyển sách ấy đâu rồi?

Dương Quá nói:

– Ban nãy bần đạo và sư đệ kia ngồi nghỉ ở bên đường, thấy cô nương ấy động thủ với ba gã hóa tử. Một gã hóa tử chém cô nương ấy một đao, lại thêm hai gã hóa tử nữa đến, cô nương ấy không địch nổi, cuối cùng bị họ bắt đi…

Lý Mạc Sầu luôn bình tĩnh, gặp việc to bằng trời cũng không lộ ra mặt, nhưng nghĩ đến việc Lục Vô Song bị Cái Bang bắt đi, quyển “Ngũ độc bí truyền” ắt rơi vào tay bọn họ, thì không khỏi tỏ ra nóng ruột.

Dương Quá thấy mình bịa chuyện kiến hiệu, càng tán rộng thêm:

– Một gã hóa tử lôi từ trong túi cô nương ra một quyển sách gì đó, cô nương không chịu giao, gã hóa tử nọ bèn tát cho một cái thật mạnh.

Lục Vô Song lườm chàng một cái, nghĩ thầm: “Đồ ngốc, ngươi nói nhăng nói cuội chê ta, cứ chờ đó, rồi ta sẽ cho ngươi một trận”. Dương Quá thừa biết Lục Vô Song đang nghĩ gì, bèn hỏi:

– Này sư đệ, sư đệ bảo như thế thì có tức hay không cơ chứ? Cô nương ấy bị ba gã hóa tử tay đấm chân đá một phen tơi bời, tội nghiệp quá phải không?

Lục Vô Song cúi đầu, chỉ ậm ừ.

Vừa nói đến đây, phía góc núi vọng lại tiếng vó ngựa, rồi một đội binh mã nghi trượng hùng dũng kéo qua, thì ra là bọn quan binh Mông Cổ. Thời bấy giờ nước Kim đã bị diệt, từ Hoài Hà trở lên phía bắc hoàn toàn thuộc quyền cai quản của Mông Cổ. Lý Mạc Sầu không coi bọn quan binh Mông Cổ ra gì, nhưng lúc này đang cần tra xét hành tung của Lục Vô Song, nên không muốn lắm sự rắc rối, bèn tránh sang vệ đường, chỉ thấy vó ngựa rầm rập tung bụi, hơn trăm binh sĩ Mông Cổ hộ vệ một quan viên phóng qua. Quan viên Mông Cổ mình mặc cẩm bào, lưng đeo cung tiễn, tư thế cưỡi ngựa thành thục, nhìn không rõ mặt, chỉ biết là thần thái rất oai vệ.

Lý Mạc Sầu chờ binh mã đi qua, dùng cây phất trần phủi bụi do ngựa chạy tung lên bám vào người. Cứ mỗi lần cây phất trần vung, Lục Vô Song lại giật mình một cái, sợ rằng cây phất trần ấy mà quất vào đầu mình một cái, thì vỡ đầu nát óc tức thời.

Lý Mạc Sầu phủi bụi xong, lại hỏi:

– Sau đó thế nào?

Dương Quá nói:

– Ba gã hóa tử bắt cô nương đi về phía bắc, bần đạo giữa đường thấy cảnh bất bình, ra tay ngăn cản, thế nên hai gã hóa tử mới ở lại đánh nhau với bần đạo.

Lý Mạc Sầu gật gật đầu, mỉm cười, nói:

– Đa tạ đạo hữu. Ta họ Lý, tên Mạc Sầu; trên giang hồ người ta gọi ta là Xích Luyện Tiên Tử. Cũng có kẻ gọi ta là Xích Luyện ma đầu. Đạo hữu đã nghe tên ta bao giờ chưa?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Bần đạo chưa nghe bao giờ. Này cô nương, cô nương xinh đẹp như tiên giáng trần thế này, tại sao lại bảo là ma đầu kia chứ?

Lý Mạc Sầu đã ba mươi tuổi, nhưng nội công thâm hậu, da dẻ nõn nà, mặt không có một nếp nhăn, nhìn chỉ ngoài hai mươi một chút. Nàng ta cả đời tự phụ xinh đẹp, nghe Dương Quá ca tụng, dĩ nhiên cũng thích chí, nói:

– Đạo hữu vừa nói đùa, tự xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương, đáng lẽ phải cho đạo hữu nếm mùi khổ ải rồi mới được chết. Nhưng ta thấy đạo hữu còn biết ăn nói, vậy phải dùng cây phất trần giáo huấn một chút thôi.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ấy chớ, ấy chớ, bần đạo không thể tự dưng vô cớ động thủ với hậu bối được.

Lý Mạc Sầu giận, nói:

– Chết đến nơi còn pha trò. Làm sao mà ta lại có thể là hậu bối của đạo hữu?

Dương Quá nói:

– Sư phụ của bần đạo là Trùng Dương Chân Nhân, ngang vai với tổ sư bà bà của cô nương, chẳng phải bần đạo ở trên cô nương một bậc đó sao? Tiểu cô nương xinh xắn dễ thương như thế, lão phu ta đây không nỡ bắt nạt cô nương.

Lý Mạc Sầu cười nhạt, bảo Hồng Lăng Ba:

– Hãy lại đưa kiếm cho hắn mượn.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Không được, không được, bần đạo…

Chàng chưa nói xong, Hồng Lăng Ba đã rút kiếm khỏi bao, nhưng lạ chưa, trong tay nàng chỉ có cán kiếm, còn lưỡi kiếm thì nằm lại trong bao. Nàng kinh ngạc, chợt hiểu, thì ra khi trả kiếm, Dương Quá đã nhân lúc hơi dùng dằng mà ngầm dùng lực bẻ gãy kiếm. Lý Mạc Sầu mặt biến sắc. Dương Quá nói:

– Bần đạo vốn không muốn động thủ với các cô nương hậu bối vừa trẻ trung vừa xinh xắn; nhưng cô nương đã nhất quyết đòi quá chiêu với bần đạo, thì thế này vậy, bần đạo sẽ tay không tiếp ba chiêu phất trần của cô nương. Đôi bên nói rõ trước, như vậy chỉ ba chiêu thôi. Nếu cô nương địch nổi, thì bần đạo sẽ tha cho cô nương đi. Nhưng sau ba chiêu, cô nương nhất định không được bám theo bần đạo nghe chưa?

Dương Quá biết tình thế này không động thủ không xong, nhưng nếu tỷ thí thật sự, dĩ nhiên chàng hoàn toàn không phải là đối thủ của Lý Mạc Sầu, bèn giả bộ mình là bậc tiền bối, dùng lời lẽ nói khích nàng ta, để nàng ta đáp ứng chỉ đấu ba chiêu, không thể phát chiêu thứ tư; mình đã không địch nổi nàng ta, thì dù có dùng binh khí hay không cũng vậy, cốt sao nàng đừng giở hết chiêu số vô cùng lợi hại của cây phất trần.

Lý Mạc Sầu không hiểu dụng ý của chàng, nghĩ thầm: “Tên tiểu tử như ngươi mà tiếp nổi ba chiêu của ta ư?” bèn nói:

– Được, lão tiền bối, hậu bối xin lĩnh giáo.

Dương Quá nói:

– Không dám…

Đột nhiên chỉ thấy màu vàng chao động, đằng trước đằng sau đều là hình bóng cây phất trần. Đây là chiêu “Vô khổng bất nhật” của Lý Mạc Sầu, nhắm đánh toàn thân đối phương, tuy chỉ một chiêu, nhưng lại bao hàm mấy chục chiêu, cùng lúc điểm tất cả các đại huyệt trên thân thể chàng. Ban nãy nàng thấy Dương Quá giao thủ với hai lão hóa tử, kiếm pháp tinh diệu, chẳng phải tầm thường, muốn trong ba chiêu đả thương chàng, cũng không dễ gì, thế là nàng bèn sử luôn chiêu “Tam vô tam bất thủ” bình sinh đắc ý nhất.

Chiêu số này là do nàng sáng tạo, ngay Tiểu Long Nữ cũng chưa được biết, Dương Quá nhìn thấy thì giật mình. Đây là chiêu quả thực không thể chống đỡ; tránh sang bên trái, thì huyệt đạo bên phải sẽ bị điểm; tránh đằng trước, thì huyệt đạo đằng sau sẽ bị thương; chỉ có cao thủ trên tài Lý Mạc Sầu, mới có thể dùng chiêu nguy hiểm đánh chính diện, buộc Lý Mạc Sầu phải thu cây phất trần về tự cứu. Dương Quá dĩ nhiên không có cái tài đó, trong lúc nguy cấp bỗng lộn người một cái trồng cây chuối, vận công phu mà Âu Dương Phong truyền thụ, kinh mạch nghịch hành, phong bế hết thảy huyệt đạo toàn thân, chỉ cảm thấy vô số huyệt đạo cùng lúc hơi tê tê, hoàn toàn vô sự. Thân hình chàng chuyển gấp, cước bộ tức thời tung đòn đá ra.

Lý Mạc Sầu mắt thấy rõ ràng đã điểm trúng nhiều huyệt đạo của Dương Quá, vậy mà chàng vẫn còn khả năng trả đòn, thì hết sức lấy làm lạ, liền sử chiêu “Vô sở bất chí”. Chiêu này chỉ điểm các huyệt đạo thiên môn toàn thân. Dương Quá đầu chống đất, tay trái đánh vào huyệt Ủy Trung ở bên trong gối phải của nàng. Lý Mạc Sầu càng kinh ngạc, vội né tránh, lập tức sử chiêu “Vô sở bất vi”. Chiêu này không điểm huyệt nữa, mà chuyên dùng để đánh vào các chỗ mềm trên cơ thể người, như con mắt, cổ họng, bụng dưới, hạ âm; cực kỳ hiểm độc. Nhưng khi nàng luyện tập độc chiêu này, nàng đâu nghĩ rằng trên thế gian có kẻ lúc động võ lại lộn ngược, đầu dưới đất, chân trên trời. Lúc này gấp gáp xuất chiêu, cứ như đã luyện thành thạo mà đánh ra, thành thử đánh con mắt hóa thành đánh bắp chân, đánh cổ họng hóa thành đánh cẳng chân, đánh bụng dưới trở thành đánh trúng đùi, đánh hạ âm trở thành đánh ngực, định đánh chỗ mềm, hóa thành đánh vào chỗ cứng, đòn này chẳng đem lại chút công hiệu gì.

Lý Mạc Sầu quá sửng sốt, trong đời nàng đã đánh không ít trận lớn trận nhỏ, từng giao đấu với những người võ công cao hơn nàng, có điều là lúc lâm trận nàng đều tiên liệu chu toàn, hoặc công hoặc thủ, hoặc đánh hoặc tránh, đã có dự tính từ trước; không ngờ một gã tiểu đạo sĩ lại có võ công ngoài sức tưởng tượng thế này; nàng ngẩn ra, thì Dương Quá đột nhiên há miệng, cắn đuôi cây phất trần của nàng, bật người đứng thẳng dậy. Lý Mạc Sầu thấy tay chấn động, cây phất trần đã bị đối phương đoạt mất.

Tại cuộc luận kiếm lần thứ hai trên đỉnh Hoa Sơn, Âu Dương Phong nghịch vận kinh mạch, cắn trúng ngón tay của Hoàng Dược Sư, suýt nữa lấy mạng Hoàng Dược Sư. Trong lúc nghịch vận kinh mạch, môi miệng vận khí, một há một mím, tự nhiên nảy sinh ý định cắn người. Lực của mọi bộ vị trên cơ thể người, không chỗ nào lợih ại bằng răng, người ta có thể dùng răng cắn vỡ hạt hồ đào, trong khi lực tay của một đại lực sĩ cũng không thể bóp vỡ nổi cái vỏ cứng của hạt hồ đào. Bởi vậy, nội lực của Dương Quá tuy thua xa Lý Mạc Sầu, song chàng dùng răng cắn đã đoạt được cây phất trần là thứ binh khí mà nàng ta dùng để dương uy hơn mười năm nay.

Biến cố bất ngờ này khiến Hồng Lăng Ba và Lục Vô Song cùng sửng sốt kêu lên; Lý Mạc Sầu tuy kinh ngạc, nhưng không chút hoảng sợ, song chưởng vỗ nhẹ, thi triển Xích Luyện thần chưởng, đánh ra để đoạt lại cây phất trần. Một chưởng sắp tung ra, thì đột nhiên kêu lên:

– Ồ, thì ra là ngươi, sư phụ của ngươi đâu rồi?

Nguyên bùn đất bôi vẽ trên mặt Dương Quá sau hai phen lộn người gấp rút đã bị bong ra, rơi xuống, để lộ một nửa bản lai diện mục của chàng; đồng thời Hồng Lăng Ba cũng đã nhận ra Lục Vô Song, thốt lên:

– Sư phụ, là sư muội đây này.

Từ đầu Lục Vô Song không dám nhìn thẳng vào mặt Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba; bây giờ Dương Quá và Lý Mạc Sầu giao đấu ác liệt với nhau, Lục Vô Song cứ chăm chú quan sát, quên mất Hồng Lăng Ba theo dõi mình.

Dương Quá nhún chân một cái, phi thân lên con lừa hoa của Lý Mạc Sầu, đồng thời búng tay trái, một chiếc Ngọc phong châm bắn vào đầu con lừa mà Hồng Lăng Ba đang cưỡi.

Lý Mạc Sầu cả giận phi thân về phía Dương Quá. Dương Quá nhảy khỏi yên, đảo cán cây phất trần, bộp một tiếng, đập vỡ đầu con lừa hoa, miệng gọi to:

– Tức phụ nhi, mau theo phu quân đi thôi.

Thân hình chàng đáp xuống lưng ngựa, cây phất trần đập túi bụi về đằng sau. Lục Vô Song lập tức phóng ngựa đi. Lý Mạc Sầu nếu thi triển khinh công, thì chạy một, hai dặm cũng có thể đuổi kịp bốn vó ngựa; nhưng vừa rồi còn hoảng bởi quái chiêu của Dương Quá, nên không dám sấn tới quá gần, chỉ thi triển tiểu cầm nã thủ đoạt lại cây phất trần mà thôi.

Con lừa Hồng Lăng Ba cưỡi bị trúng Ngọc phong châm, bỗng dưng phát cuồng, húc mạnh về phía Lý Mạc Sầu, há mồm mà đớp. Lý Mạc Sầu quát:

– Lăng Ba, ngươi làm sao thế?

Hồng Lăng Ba nói:

– Con lừa này điên rồi.

Nàng gò cương, khiến mồm nó bật máu; đột nhiên nó khuỵu xuống chết luôn; Hồng Lăng Ba nhảy ra, nói:

– Sư phụ, chúng ta đuổi theo!

Nhưng lúc này Dương, Lục hai người đã phóng ngựa đi xa nửa dặm, không tài gì đuổi kịp.

Lục Vô Song theo Dương Quá phóng ngựa đi một hồi, ngoảnh lại không thấy sư phụ đuổi theo, thì gọi:

– Đồ ngốc, ta bị đau ngực quá, hết chịu nổi rồi.

Dương Quá xuống ngựa, áp tai xuống đất nghe, hoàn toàn không thấy có tiếng chân đuổi theo, nói:

– Không sợ nữa, thong thả đi được rồi.

Thế là hai người sóng vai nhau mà đi.

Lục Vô Song thở dài, nói:

– Đồ ngốc, làm cách nào mà ngay cả cây phất trần của sư phụ ta, ngươi cũng đoạt được thế?

Dương Quá nói:

– Ta làm loạn lên một hồi, nàng ta thích chí, đem cây phất trần tặng luôn cho ta. Lão phu không tiện sử dụng tặng vật của tiểu cô nương ấy, nên trả lại cho nàng ta rồi.

Lục Vô Song nói:

– Hừ, tại sao nàng ta thích chí? Tại vì nhìn thấy khuôn mặt tuấn tú của ngươi chăng?

Nói câu này, mặt nàng bất giác ửng hồng. Dương Quá cười, nói:

– Nàng ta thấy ta ngốc nghếch nên thích chí, chắc thế.

Lục Vô Song nói:

– Hừ, thích cái nỗi gì mà thích!

Hai người đi thong thả một quãng, sợ Lý Mạc Sầu đuổi theo, lại giục ngựa phóng nhanh. Cứ đi lúc nhanh lúc chậm như thế đến lúc hoàng hôn. Dương Quá nói:

– Tức phụ nhi, nàng muốn giữ được mạng sống, thì đành chịu đau vết thương ở ngực, cố đi thêm một đêm nữa.

Lục Vô Song nói:

– Ngươi còn nói năng lung tung, thì cứ chờ đấy, xem ta dám làm gì hay không.

Dương Quá lè lưỡi, nói:

– Chỉ tiếc là ngựa mệt rồi, bắt nó chạy đêm nữa thì nó chết mất.

Lúc này trời sắp tối, bỗng nghe phía trước có nhiều tiếng ngựa hí, Dương Quá mừng nói:

– Chúng ta thay ngựa thôi.

Hai người giục ngựa, chạy hơn một dặm, thì thấy ngoài rìa làng buộc hơn trăm con ngựa, nguyên là đội kỵ binh Mông Cổ họ gặp sáng nay. Dương Quá nói:

– Cô nương hãy đợi ta ở đây, ta vào trong làng xem sao.

Rồi chàng xuống ngựa, đi vào trong làng. Chỉ thấy các cửa sổ của một tòa nhà lớn đều sáng ánh đèn. Dương Quá vọt tới bên một cửa sổ, nhìn vào trong, thấy một quan viên Mông Cổ ngồi xoay lưng ra phía cửa sổ. Dương Quá chợt nảy ra một kế: “Thay ngựa chẳng bằng đổi người”. Đợi một chút, thấy gã quan viên Mông Cổ đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, người này chưa đến ba mươi tuổi, chính là gã quan viên mặc cẩm bào đã gặp sáng nay trên đường, trông cử chỉ phong thái rất oai vệ, chắc là một chức quan không nhỏ. Dương Quá chờ lúc y quay lưng lại, liền nhẹ nhàng gỡ khung cửa sổ, nhảy vào trong. Gã quan viên nghe có tiếng gió sau lưng, cánh tay trái đưa ngang, xoay người lại, mười ngón tay như hai bộ vuốt chim ưng, chộp ngay tới, chính là chiêu số “Đại lực ưng trảo công” lợi hại. Dương Quá hơi chột dạ, không ngờ gã quan viên Mông Cổ lại biết võ công, chàng vội nghiêng mình né tránh. Gã quan viên chộp mấy lần liền, đều bị Dương Quá dễ dàng tránh được.

Gã quan viên thời nhỏ từng được danh sư truyền thụ “ưng trảo công”, tự phụ mình giỏi võ, nhưng sau vài chiêu giao thủ với Dương Quá, đã hoàn toàn bị trói chân trói tay. Dương Quá thấy mười ngón tay gớm ghiếc của y lại chộp tới, chàng bèn dướn người lên, tay trái ấn vai trái, tay phải ấn vai phải của y, dồn lực ra hai tay, quát:

– Ngồi xuống!

Gã quan viên hai đầu gối mềm đi, ngồi phệt xuống, cảm thấy ngực tức, dường như máu cứ dồn lên, chỉ muốn phun ra miệng. Dương Quá đưa tay day day huyệt ở dưới vú hai cái, y mới thấy hết tức ngực, hít một hơi, từ từ đứng dậy, chăm chú nhìn Dương Quá một hồi, rồi hỏi:

– Ngươi là ai, tới đây làm gì?

Y nói tiếng Hán không chút ngọng nghịu.

Dương Quá cười cười, hỏi:

– Tên ngươi là gì? Giữ chức quan gì?

Gã quan viên trừng mắt nhìn chàng, lại định xông tới, Dương Quá chẳng thèm để ý, bước lại ngồi xuống chiếc ghế mà y ngồi ban nãy. Gã quan viên lao đến, hai tay đấm mạnh, Dương Quá không tốn chút sức lực nào, dễ dàng hóa giải từng chiêu của y, nói:

– Này, vai của ngươi bị thương rồi, chớ có dùng sức nữa.

Gã quan viên giật mình, hỏi:

– Bị thương gì chứ?

Y đưa tay trái sờ sờ vai bên phải, có một chỗ đau âm ỉ, vội đưa tay phải sờ sờ vai bên trái, cũng có một chỗ đau âm ỉ, hai chỗ ấy chỉ sờ đến mới đau, mà đau đến tận xương. Gã quan viên cả kinh, vội vạch áo, nhìn nghiêng, thấy vai bên trái có một nốt đỏ chỉ bằng cái lỗ kim, vai bên phải cũng thế. Y liền thịnh nộ, đối phương vừa rồi ấn tay lên vai y, chắc có giấu ám khí trong bàn tay, y không khỏi vừa sợ vừa giận, hỏi:

– Ngươi sửdụng loại ám khí gì? Có độc hay không?

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Ngươi đã học võ, mà chả hiểu qui củ gì hết thế ư? Ám khí lớn không có độc, ám khí nhỏ dĩ nhiên có độc.

Gã quan viên tin đến chín phần, song vẫn hi vọng là Dương Quá chỉ dọa thôi, thần sắc bán tín bán nghi.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Vai ngươi trúng thần châm của ta, khí độc mỗi ngày ngấm sâu một tấc, khoảng sáu ngày sẽ ngấm vào tim, thì được chầu trời.

Gã quan viên rất muốn cầu xin giải dược, song không chịu mở miệng, tức giận nói:

– Đã thế, lão gia sẽ liều chết với ngươi một phen.

Nói rồi xông tới. Dương Quá né tránh, mỗi tay cầm một cái Ngọc phong châm, chờ khi gã quan viên giơ hai tay chộp đến, chàng phóng châm vào hai lòng bàn tay y. Gã quan viên cảm thấy giữa lòng bàn tay đau nhói, liền dừng bước, giơ lòng bàn tay lên coi, thấy chiếc kim nhỏ xíu đâm giữa lòng bàn tay, cả hai bàn tay tê dại, thì cả kinh, không dám hùng hổ nữa, nói:

– Coi như ta thua rồi!

Dương Quá cười ha ha, hỏi:

– Tên ngươi là gì?

Gã quan viên nói:

– Hạ quan Gia Luật Tấn, thỉnh vấn quý tính đại danh của anh hùng?

Dương Quá nói:

– Ta là Dương Quá. Ngươi làm quan gì ở Mông Cổ?

Gia Luật Tấn trả lời. Thì ra y là con trai của đại thừa tướng Mông Cổ Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Sở Tài phò trợ Thành Cát Tư Hãn và Oa Khoát Đài (con trai của Thành Cát Tư Hãn – ND) bình định bốn phương, công huân siêu việt, cho nên Gia Luật Tấn tuổi chưa nhiều, đã được phong chức đại quan là Biện Lương kinh lược sứ, lần này đi Biện Lương Hà Nam nhậm chức.

Dương Quá không hiểu Biện Lương kinh lược sứ là chức quan thế nào, chỉ gật đầu, nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Gia Luật Tấn nói:

– Hạ quan không rõ đắc tội gì với Dương anh hùng, thật là hồ đồ vạn phần. Dương anh hùng cần gì, xin cứ phân phó.

Dương Quá cười cười, nói:

– Cũng chả đắc tội gì.

Chàng đột nhiên đứng dậy, nhảy qua cửa sổ mà đi. Gia Luật Tấn cả sợ, vội gọi:

– Dương anh hùng…

Y chạy ra bên cửa sổ, thì Dương Quá đã mất hút. Y kinh nghi bất định: “Người ấy chợt đến chợt đi, ta bị trúng độc châm của hắn, phải làm thế nào bây giờ?” Vội rút cây kim nhỏ ra khỏi lòng bàn tay, vai và lòng bàn tay ngứa ngáy rất khó chịu.

Đang tâm phiền ý loạn, thì Dương Quá đã trở lại, lần này có thêm một thiếu nữ, chính là Lục Vô Song. Gia Luật Tấn nói:

– A, Dương anh hùng đã trở lại!

Dương Quá chỉ Lục Vô Song, nói:

– Đây là tức phụ nhi của ta, ngươi hãy khấu đầu trước nàng!

Lục Vô Song quát:

– Ngươi bảo sao?

Giơ tay tát chàng một cái. Dương Quá muốn tránh, nào có khó gì? Chẳng hiểu tại sao chàng lại thấy khoan khoái khi bị nàng đánh một chưởng, mắng nhiếc vài câu. Bốp một tiếng, bên má bị tát nóng rát lên. Gia Luật Tấn không biết hai người này thường ngày đùa giỡn kiểu gì, chỉ đoán võ công của Lục Vô Song cao hơn hẳn Dương Quá, y cứ ngẩn ngơ nhìn họ, không dám nói gì. Dương Quá xoa xoa bên má bị tát, cười nói với Gia Luật Tấn:

– Ngươi bị trúng độc thần châm của ta, nhưng không chết ngay đâu mà sợ. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời ta, ta sẽ chữa khỏi cho ngươi.

Gia Luật Tấn nói:

– Hạ quan bình sinh ngưỡng mộ nhất các bậc anh hùng hảo hán, chỉ tiếc chưa từng gặp được người có bản lĩnh thật sự. Hôm nay may mắn được quen biết cao hiền, thực thỏa ước vọng bình sinh. Dương anh hùng không cứu chữa cho hạ quan, hạ quan dù chết cũng cam lòng.

Câu này vừa đề cao mình, lại vừa ca tụng đối phương. Dương Quá chưa bao giờ giao thiệp với quan viên, không biết rằng học vấn lớn nhất của người làm quan là phải nịnh bợ thượng ty, càng tinh thông hoạn lộ bao nhiêu, thì sự a dua càng kín đáo bấy nhiêu. Quan viên Mông Cổ vốn thô thiển chất phác, nhưng sau khi xuống Trung Nguyên, cũng dần dần nhiễm tập khí của quan trường Trung Quốc. Dương Quá được Gia Luật Tấn nịnh vài câu đã sướng rơn, giơ ngón tay cái tán thưởng, nói:

– Không ngờ ngươi lại là một hán tử rất có cốt khí. Nào lại đây, ta sẽ chữa trị cho ngươi.

Chàng liền dùng đá nam châm hút hai cái Ngọc phong châm ra khỏi vai Gia Luật Tấn, rồi xoa giải dược vào vai và hai lòng bàn tay y.

Lục Vô Song chưa từng nhìn thấy Ngọc phong châm, bây giờ thấy nó chỉ như sợi tóc, tưởng chừng bỏ xuống nước nó sẽ nổi lên, nghĩ thầm: “Một làn gió đủ thổi bay Ngọc phong châm không biết đi tận đâu, sao lại có thể dùng làm ám khí được kia chứ?” nàng trong bụng càng thêm thán phục Dương Quá, nhưng ngoài miệng lại nói:

– Sử dụng thứ ám khí âm tổn này thì còn gì là khí phách nam nhi, không sợ người ta cười cho hay sao?

Dương Quá cười cười, không thèm chấp, nói với Gia Luật Tấn:

– Hai ta muốn dựa hơi đại nhân, làm thị tòng cho đại nhân.

Gia Luật Tấn sợ hãi, vội nói:

– Dương anh hùng chỉ nói đùa, cần sai bảo gì, xin cứ phân phó.

Dương Quá nói:

– Ta không nói đùa đâu, quả thật bọn ta cần làm thị tòng cho đại nhân.

Gia Luật Tấn nghĩ thầm: “Chắc hai người này muốn làm quan, mong muốn tiến thân”, bèn lấy lại tư thế, ho một tiếng, nghiêm trang nói:

– Phải, đã giỏi võ nghệ rồi, mua một chức quan lớn, thì sẽ chóng tiến thân.

Dương Quá cười, nói:

– Điều này thì đại nhân hiểu sai rồi. Hai ta có một kẻ thù cực kỳ lợi hại đang đuổi theo, hai ta địch không nổi hắn, nên muốn giả làm thị tòng cho đại nhân, để tạm thời tránh né hắn.

Gia Luật Tấn có vẻ thất vọng, vẻ nghiêm trang trở lại tự nhiên, cười nịnh:

– Võ công cao siêu như hai vị, kẻ thù nào dám làm gì kia chứ. Nếu hắn đông người, hạ quan sẽ triệu tập binh mã, bắt chúng cho Dương anh hùng tùy ý xử trí.

Dương Quá nói:

– Ngay đến ta còn đánh không nổi hắn, đại nhân đừng phí công. Mau sai thị tòng mang y phục ra cho hai ta thay.

Câu này chàng nói rất tự nhiên, nhưng giọng nói đầy vẻ uy nghiêm, Gia Luật Tấn luôn miệng vâng dạ, sai thị tòng mang y phục ra. Dương, Lục hai người sang phòng khác thay quần áo. Lục Vô Song soi gương, thấy trong đó một quân quan Mông Cổ trẻ trung, xinh đẹp, mặc áo gấm, mắt sáng, răng trắng, tự cảm thấy thú vị.

Sáng hôm sau dậy sớm, Dương Quá và Lục Vô Song mỗi người ngồi trong một chiếc kiệu do kiệu phu khiêng đi, Gia Luật Tấn vẫn cưỡi ngựa như hôm qua; đi đến giờ Ngọ, nghe có tiếng chuông vàng đeo cổ lừa vang vang, từ xa lại gần, rồi vượt qua đoàn người ngựa. Lục Vô Song cười vui, nghĩ thầm: “Ngồi trong kiệu dưỡng thương, quả nhiên không gì bằng. Đồ ngốc nghĩ ra cách này kể cũng có lý. Thế này là mình sẽ được ngồi kiệu về đến Giang Nam”.

Cứ thế đi hai ngày, không còn nghe thấy tiếng chuông vàng, tức là Lý Mạc Sầu không quay lại tìm kiếm. Mấy gã đạo sĩ và đệ tử Cái Bang đuổi theo trả thù cũng mất tăm.

Ngày thứ ba, đoàn người đến Long Câu trại, đây là yếu địa giao thông giữa hai vùng Tần -Biện, chợ búa sầm uất. Dùng bữa tối xong, Gia Luật Tấn sang phòng của Dương Quá thỉnh giáo võ học, không tiếc lời tán dương tài nghệ của chàng. Dương Quá cũng chỉ vẽ cho một vài điều; Gia Luật Tấn đang chăm chú lắng nghe, thì một thị tòng hớt hải chạy vào nói:

– Khải bẩm đại nhân, lão đại nhân ở kinh có phái người mang thư đến.

Gia Luật Tấn mừng, nói:

– Được, ta sẽ sang gặp.

Y định đứng lên tạ tội với Dương Quá, nhưng lại nghĩ thầm: “Mình tiếp sứ giả mang thư đến trước mặt Dương Quá, để chứng tỏ mình coi Dương Quá như người thân tình, như thế Dương Quá sẽ dạy võ cho mình thật tận tình”, bèn bảo gã thị tòng:

– Bảo người ấy sang đây gặp ta.

Gã thị tòng vẻ mặt rất lạ, ấp úng:

– Lão… lão đại nhân…

Gia Luật Tấn phẩy tay, nói:

– Không sao hết, ngươi cứ dẫn hắn sang đây.

Gã thị tòng nói:

– Là lão đại nhân thân chinh…

Gia Luật Tấn cau mày, gắt:

– Đầy tớ gì dám nhiều lời, xéo đi…

Lời chưa dứt, có một người vén rèm tươi cười bước vào nói:

– Tấn nhi, con không ngờ ta tới phải không?

Gia Luật Tấn vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vội quì xuống, nói:

– Cha, là lão nhân gia đến thật ư…

Người kia cười, nói:

– Phải, là ta thân chinh tới đây!

Người ấy chính là Gia Luật Sở Tài, đại thừa tướng Mông Cổ, phụ thân của Gia Luật Tấn. Bấy giờ, theo quan chế Mông Cổ, Gia Luật Sở Tài giữ chức Trung thư lệnh.

Dương Quá nghe Gia Luật Tấn gọi người kia là phụ thân, chàng không biết vị đó là đại thừa tướng đầy quyền thế, uy danh hàng vạn dặm, ở dưới một người, ở trên muôn người; chàng nhìn người ấy, thấy người ấy cũng chưa già, tướng mạo thanh nhã, trong vẻ uy nghiêm có ba phần hiền hòa, bất giác trong lòng nảy sinh ý kính nể.

Người ấy vừa ngồi xuống ghế, ngoài cửa lại thêm hai người bước vào, hành lễ với Gia Luật Tấn, gọi Gia Luật Tấn là “đại ca”. Hai người kia một nam một nữ, nam chừng hai mươi ba, hai mươi tư tuổi; nữ thì trạc tuổi Dương Quá. Gia Luật Tấn mừng rỡ nói:

– Nhị đệ, tam muội, cũng đến cả ư?

Rồi quay sang nói với phụ thân:

– Thưa phụ thân, phụ thân rời kinh, hài nhi không hề hay biết.

Gia Luật Sở Tài nói:

– Phải, có một việc lớn, nếu ta không thân chinh đến chủ trì, thì không thể yên lòng.

Lão đại nhân nhìn Dương Quá và đám thị tòng một cái, ngụ ý bảo chúng lui ra.

Gia Luật Tấn cảm thấy khó xử, vốn định khoát tay đuổi đám thị tòng ra ngoài, song lại không dám đắc tội với Dương Quá, vẻ mặt không khỏi lộ vẻ do dự. Dương Quá hiểu tâm ý của y, mỉm cười, tự bước ra. Gia Luật Sở Tài thấy Dương Quá có cử chỉ khác lạ, lúc mình bước vào, đám thị tòng đều rạp mình cúi chào, chỉ một mình gã thiếu niên ấy đứng nguyên, lúc này đường hoàng bước ra, tự nhiên tự tại như bậc công hầu, thì bất giác động lòng, hỏi Gia Luật Tấn:

– Người đó là ai vậy?

Gia Luật Tấn là một vị đại quan, nếu nói rõ lai lịch của Dương Quá trước mặt đệ, muội, thì mất hết thể diện, bèn thưa:

– Đấy là một vị bằng hữu mà hài nhi làm quen dọc đường. Phụ thân thân chinh đi xuống phương nam, không biết là vì việc gì?

Gia Luật Sở Tài thở dài, sắc mặt lo lắng, thong thả nói rõ nguyên do.

Nguyên sau khi đại hãn Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn tạ thế, người con thứ ba là Oa Khoát Đài lên nối ngôi. Oa Khoát Đài làm đại hãn mười ba năm, thì qua đời; con trai là Quý Do lên nối ngôi. Quý Do hồ đồ, say sưa rượu ngon gái đẹp, làm đại hãn có ba năm đã đoản mệnh chết đi. Lúc này hoàng hậu của Quý Do buông mành nhiếp chính. Hoàng hậu tin dùng bọn tiểu nhân, loại bỏ các vị đại thần đại tướng tiền triều, triều chính vô cùng hỗn loạn. Tể tướng Gia Luật Sở Tài là vị nguyên lão ba triều, lại là khai quốc công thần, thấy việc làm sai trái của hoàng hậu, thường dùng lời lẽ chính trực can gián. Hoàng hậu thấy Gia Luật Sở Tài thường ngăn trở các chỉ dụ của mình, thì rất tức giận, nhưng vì Tể tướng vị cao vọng trọng, nhiều điều nói ra đều là chính lý, nên không thể không dao động. Gia Luật Sở Tài tự biết mình đắc tội với hoàng hậu, tính mạng cả gia đình thân thích hàng trăm người như trứng để đầu đẳng, bèn dâng lên hoàng hậu một bản tấu, nói rằng tình hình ở vùng Hà Nam không yên, cần phái đại thần đi lo liệu, tự nguyện xin được lĩnh chỉ lên đường. Hoàng hậu cả mừng, nghĩ bụng người này đi càng xa càng tốt, ngày ngày khỏi chướng mắt, bèn lập tức chuẩn tấu. Thế là Gia Luật Sở Tài liền đem theo thứ tử Gia Luật Tề, tam nữ Gia Luật Yến đi Hà Nam. Chuyến đi này danh nghĩa là vỗ an dân chúng, thực tình là để tránh họa.

Dương Quá về phòng ở, cùng với Lục Vô Song trò chuyện đùa bỡn một hồi, thì Lục Vô Song im lặng. Dương Quá nói mấy câu, không nghe hồi đáp, bèn ngồi xếp chân dụng công.

Lục Vô Song thấy buồn tẻ, nhìn sang thấy Dương Quá cúi đầu nhắm mắt, ngồi chán chê chẳng động đậy gì, bèn nói:

– Đồ ngốc, tại sao lúc này lại ngồi dụng công hả?

Dương Quá không đáp. Lục Vô Song tức giận:

– Dụng công thì lúc nào chẳng được, bây giờ ngươi có chịu tiếp chuyện ta hay không thì bảo?

Nàng đang định giơ tay đánh gãi ngứa chàng, thì Dương Quá đột nhiên ngồi thẳng dậy, nói nhỏ:

– Có người đang nhòm trộm trên mái nhà!

Lục Vô Song không hề nghe thấy chút động tĩnh gì, ngẩng đầu nhìn lên mái nhà một cái, nói nhỏ:

– Lại định lừa ta hả?

Dương Quá nói:

– Không phải ở phòng này, là ở gian nhà bên kia kìa.

Lục Vô Song càng không tin, cười cười, mắng nhỏ:

– Đồ ngốc!

Nàng cho rằng Dương Quá lại giả bộ ngớ ngẩn để trêu chọc nàng.

Dương Quá kéo kéo áo nàng, nói khẽ:

– Nếu là sư phụ của cô nương tìm đến, thì chúng ta phải trốn trước.

Lục Vô Song nghe hai chữ “sư phụ”, thì lưng toát mồ hôi lạnh, vội bám theo Dương Quá ra bên cửa sổ. Dương Quá chỉ lên mái nhà phía tây. Lục Vô Song ngẩng nhìn theo, quả nhiên thấy có một bóng đen mặc đồ đen nằm phục trên đó. Đêm nay cuối tháng, không có trăng, sao thì mờ, nếu không căng mắt quan sát khó lòng nhận biết. Lục Vô Song thầm thán phục: “Đồ ngốc làm sao phát giác được thế không biết?” Nàng biết sư phụ rất tự phụ, đi đêm vẫn mặc đạo bào màu vàng, không thèm mặc đồ đen, bèn ghé tai Dương Quá nói nhỏ:

– Không phải sư phụ đâu.

Lời vừa dứt, hắc y nhân bỗng đứng thẳng dậy, chạy trên mái nhà đến chỗ cửa sổ buồng cha con Gia Luật Tấn, dùng chân móc khuôn cửa sổ, rồi cầm đao nhảy vào trong buồng, miệng quát:

– Gia Luật Sở Tài, đêm nay ta cùng chết với ngươi ở đây!

Thì ra là một giọng nữ nhân.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nữ nhân này thân pháp mau lẹ, võ công chắc là hơn hẳn Gia Luật Tấn, chỉ e lão đại nhân khó toàn tính mạng”. Lục Vô Song giục:

– Ta đến mau!

Hai người chạy tới bên ngoài cửa sổ, ngó vào bên trong.

Chỉ thấy Gia Luật Tấn giơ chiếc ghế đang giao đấu với hắc y nữ tử. Nữ tử tuy tuổi còn trẻ, nhưng đao pháp hiểm ác, thanh liễu diệp đao trong tay nàng ta sắc bén dị thường, chém mấy nhát, chiếc ghế đã gãy nát thành nhiều mảnh. Gia Luật Tấn thấy không chống nổi, gọi:

– Phụ thân, mau tránh đi!

Rồi lớn tiếng gọi:

– Người đâu!

Hắc y thiếu nữ tung cước đá một cái, Gia Luật Tấn không kịp đề phòng, bị trúng vào thắt lưng ngã sấp xuống. Hắc y thiếu nữ liền lao tới, vung đao chém thẳng xuống đầu Gia Luật Sở Tài.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nguy rồi! Cứu người trước đã rồi sẽ tính sau”, chàng đang định phóng Ngọc phong châm tới cổ tay thiếu nữ, thì nghe một giọng nữ vang lên:

– Không được vô lễ!

Đó là Gia Luật Yến, con gái của Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Yến tay phải xuất chưởng đánh tới mặt hắc y thiếu nữ, tay trái dùng thủ pháp tay không đoạt binh khí để cướp đao của thiếu nữ. Hai tay nàng phối hợp cực khéo, hắc y thiếu nữ nghiêng đầu tránh chưởng, thì cổ tay đã bị Gia Luật Yến chộp lấy, vội tung cước đá ra, buộc Gia Luật Yến phải lùi lại, mới không bị cướp mất đao. Dương Quá thấy hai thiếu nữ đều xuất thủ thần tốc, chàng thầm kinh ngạc. Trong giây lát, hai nàng đã trao đổi bảy, tám chiêu.

Lúc này đã có mươi vệ sĩ chạy đến cửa, thấy hai thiếu nữ đang giao đấu, họ đều muốn xông vào, nhưng Gia Luật Tấn nói:

– Hượm đã, tam tiểu thư không cần các ngươi trợ thủ.

Dương Quá nói nhỏ với Lục Vô Song:

– Tức phụ nhi, hai cô nương kia võ công cao hơn nàng đấy!

Lục Vô Song cả giận, nghiêng người giáng cho một chưởng. Dương Quá vừa cười vừa tránh, nói:

– Đừng làm ồn, hãy xem người ta giao đấu thì hơn.

Lục Vô Song nói:

– Vậy ngươi thử nói thật ta nghe, rốt cuộc ta cao hơn họ, hay là họ cao hơn ta?

Dương Quá nói nhỏ:

– Một đấu một, thì hai cô nương kia đều không bằng nàng. Nàng một mình đánh hai cô nương ấy, nếu chỉ luận về võ công, chắc nàng sẽ thua. Nhưng lối đánh của hai cô nương kia quá thật thà, không hề mưu trí, quỉ kế đa đoan, hiểm ác như nàng, cho nên cuối cùng sẽ bị thua nàng.

Lục Vô Song thầm khoái chí, nói nhỏ:

– Cái gì mà quỉ kế đa đoan, nói về quỉ kế đa đoan, thì chẳng ai trên đời sánh kịp Ngốc đại gia Đồ ngốc nhà này!

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Như thế là nàng được làm Ngốc đại nương rồi còn gì?

Lục Vô Song xì nhẹ một tiếng.

Hai thiếu nữ đấu một hồi, Gia Luật Yến cuối cùng tay không vũ khí, mấy lần cố đoạt liễu diệp đao của đối phương không được, toàn phải né tránh, không cách gì trả đòn.

Gia Luật Tề nói:

– Tam muội, để huynh đấu thử.

Chàng trai tiến vào, tay phải tung liền ba chưởng. Gia Luật Yến lui ra, đứng bên tường, nói:

– Được, để ca ca thử.

Dương Quá mới ngắm Gia Luật Tề xuất thủ ba chiêu, đã thầm kinh dị. Thấy chàng ta tay trái chống nạnh, thủy chung không động, tay phải duỗi ra co vào, không hề di động cước bộ, linh hoạt đối phó với đơn đao của đối phương, chiêu số tinh diệu, bộ vị chuẩn xác, quả thật bất phàm, thì nghĩ thầm: “Người này cừ thật, võ công tựa hồ là phái Toàn Chân, song lại không phải”.

Lục Vô Song nói:

– Đồ ngốc, võ công chàng trai kia cao hơn ngươi nhiều lắm.

Dương Quá mải nhìn, không nghe thấy lời của Lục Vô Song.

Hồi 10: Thiếu niên anh hiệp

Gia Luật Tề nói:

– Tam muội, muội hãy nhìn kỹ, huynh vỗ vào huyệt Kiên Nho của nàng ta, nàng ta nhất định sẽ lùi chếch đi để tránh; huynh sẽ vỗ vào huyệt Cự Cốt, nàng ta đành phải giơ đao chém ngược lại. Lúc đó xuất thủ phải nhanh, thì mới có thể đoạt được binh khí của nàng ta.

Hắc y thiếu nữ giận dữ nói:

– Hừ, đâu có dễ thế.

Gia Luật Tề nói:

– Nhìn đây này.

Nói đoạn tay phải vỗ vào huyệt Kiên Nho, một chưởng này xuất thủ xiên xiên chếch chếch, khống chế toàn bộ lối thoát trước sau tả hữu, chỉ chừa một kẽ hở ở góc chéo phía sau, hắc y thiếu nữ muốn né tránh chưởng này, ắt phải thoái lui về phía đó hai bước. Gia Luật Tề gật gật đầu, quả nhiên giơ tay vỗ tới huyệt Cự Cốt. Hắc y thiếu nữ đinh ninh tự nhủ: “Nhất thiết chớ giơ đao chém ngược lại”; nhưng tình thế cho thấy chỉ có làm như thế mới là cách hay nhất, cũng không thể suy tính lâu đành giơ đao chém ngược lại. Gia Luật Tề nói:

– Nhìn đây này!

Ai cũng tưởng chàng sẽ giơ tay đoạt đao, không ngờ tay phải của chàng rụt lại, ngang với tay trái, rồi cả hai bàn tay cùng thọt vào trong ống tay áo.

Hắc y thiếu nữ một đao chém hụt, thấy hai tay đối phương cùng chui vào ống tay áo thì hơi ngẩn người.

Gia Luật Tề đột nhiên tay phải vụt chìa ra, dùng hai ngón kẹp lấy sống đao, giật một cái, Hắc y thiếu nữ không giữ được đao, để đối phương đoạt mất.

Mọi người chứng kiến thần kỹ, nhất thời ngây người, rồi mới vỗ tay reo hò. Hắc y thiếu nữ sắc diện ủ dột, đứng im một chỗ. Mọi người đều nghĩ thầm: “Nhị công tử đã không bắt giữ nàng ta, rõ ràng dành cho một con đường sống, sao thiếu nữ không chạy đi, còn chờ gì nữa?”

Gia Luật Tề chậm rãi lùi lại, nói với Gia Luật Yến:

– Nàng ta đã không có binh khí, muội tái đấu thử với nàng ta đi. Mạnh dạn hơn một chút, lưu ý chân nàng ta lúc tung chưởng.

Gia Luật Yến tiến lên hai bước, nói:

– Hoàn Nhan Bình, chúng ta lại tha cho ngươi một lần nữa, ngươi cứ nằng nặc bám theo gây sự, không lẽ đến nay vẫn cố chấp như thế ư?

Hắc y thiếu nữ tên là Hoàn Nhan Bình cúi đầu ngẫm nghĩ. Gia Luật Yến nói:

– Ngươi đã quyết phân thắng bại với ta thì hãy mau vui vẻ lên mà động thủ đi!

Nói đoạn sấn tới tung ra hai quyền đánh thẳng vào mặt đối phương. Hoàn Nhan Bình nhảy lùi né tránh, buồn rầu nói:

– Trả đao cho ta.

Gia Luật Yến sững lại, nghĩ thầm: “Ca ca ta đoạt binh khí của ngươi, nay ta và ngươi bình thủ tương đấu sao ngươi lại còn đòi đao?” Bèn nói:

– Cũng được!

Nàng cầm lấy thanh liễu diệp đao từ tay Gia Luật Tề mà tung cho Hoàn Nhan Bình. Một vệ sĩ xoay ngược cán đao đang cầm, đưa cho Gia Luật Yến, nói:

– Tam tiểu thư, tiểu thư cũng dùng tạm binh khí đi.

Gia Luật Yến nói:

– Không cần.

Nhưng nghĩ lại: “Mình tay không đánh chẳng nổi nàng ta, vậy thì tỷ đao xem sao”. Nàng nhận đơn đao, chém thử hai cái, thấy hơi nặng, đành dùng tạm.

Hoàn Nhan Bình sắc diện nhợt nhạt, tay trái giơ đao, tay phải chỉ Gia Luật Sở Tài, nói:

– Gia Luật Sở Tài, lão giúp quân Mông Cổ giết hại cha mẹ ta, kiếp này ta đã không thể tìm lão trả thù được nữa. Ta hẹn lão tính sổ ở cõi âm vậy!

Lời vừa dứt, tay trái đưa đao lên cứa ngang cổ họng.

Dương Quá nhìn ánh mắt thê lương của Hoàn Nhan Bình, tim bỗng đập mạnh, ngực đau, buột miệng kêu thất thanh:

– Cô cô!

Hoàn Nhan Bình dùng đao tự vẫn. Gia Luật Tề vọt lên hai bước, tay phải chìa ra, lại dùng hai ngón đoạt lấy thanh đao lá liễu của Hoàn Nhan Bình, tiện tay điểm luôn huyệt đạo ở vai nàng ta, nói:

– Tự dưng sao lại tự vẫn kia chứ?

Giơ đao cứa ngang cổ, hai ngón tay đoạt đao, hai sự việc ấy diễn ra trong một cái chớp mắt, mọi người đều nhìn rõ, thanh đao đã nằm trong tay Gia Luật Tề.

Lúc này mọi người trong nhà cùng kêu lên kinh ngạc, hai tiếng “Cô cô!” của Dương Quá không ai để ý. Lục Vô Song ở bên cạnh nghe rõ, thấp giọng hỏi:

– Ngươi gọi ai thế? Thiếu nữ kia là cô cô của ngươi ư?

Dương Quá vội đáp:

– Không, không, không phải!

Nguyên chàng nhìn thấy ánh mắt buồn thảm, hoàn toàn tuyệt vọng của Hoàn Nhan Bình, thấy giống hệt sắc diện của Tiểu Long Nữ lúc chia tay với chàng, thì bất giác chàng như si như cuồng, không biết mình đang ở chốn nào nữa.

Gia Luật Sở Tài chậm rãi nói:

– Hoàn Nhan cô nương, cô nương đã hành thích lão phu ba phen. Lão phu thân làm Tể tướng Mông Cổ, diệt nước Đại Kim, hại chết cha mẹ cô nương. Nhưng cô nương có biết tổ tiên của lão phu đã bị ai tiêu diệt hay không?

Hoàn Nhan Bình lắc đầu, nói:

– Ta không biết.

Gia Luật Sở Tài nói:

– Tổ tiên của lão phu là hoàng tộc nước Đại Liêu, nước Đại Liêu đã bị nước Đại Kim của cô nương tiêu diệt. Con cháu họ Gia Luật ở nước Đại Liêu ta đã bị họ Hoàn Nhan của cô nương giết gần hết, chỉ còn vài người sống sót. Lão phu từ nhỏ lập chí báo thù, mới phò tá đại hãn Mông Cổ tiêu diệt nước Đại Kim của cô nương. Ôi, oán thù tương báo, không biết khi nào mới chấm dứt đây?

Nói câu cuối, Gia Luật Sở Tài ngẩng đầu nhìn ra cửa sổ, nghĩ đến chỉ vì mấy nhà tranh giành ngôi vị đế vương, mà bao thành trấn sầm uất trở thành hoang phế, thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Hoàn Nhan Bình im lặng, để lộ mấy chiếc răng trắng như ngọc, nàng cắn môi, hừ một tiếng, nói với Gia Luật Tề:

– Ta ba phen báo thù không xong, tự trách bản lĩnh kém cỏi, đã đi một nhẽ. Ta muốn tự sát, việc đó can hệ gì tới công tử?

Gia Luật Tề nói:

– Cô nương chỉ cần đáp ứng từ nay không tìm đến báo thù nữa, thì cô nương có thể đi đâu tùy ý!

Hoàn Nhan Bình lại hừ một tiếng, nhìn trừng trừng. Gia Luật Tề dùng cán liễu diệp đao ấn nhẹ sau lưng Hoàn Nhan Bình vài cái, giải huyệt cho nàng, rồi đưa trả thanh đao. Hoàn Nhan Bình do dự, nửa nhận lại nửa không, cuối cùng cầm lấy, nói:

– Gia Luật công tử, công tử mấy lần thủ hạ lưu tình, dùng lễ đối đãi, ta há không biết? Nhưng dòng họ Hoàn Nhan ta với dòng họ Gia Luật của công tử thù sâu như bể, dẫu công tử có cao nghĩa khảng khái đến mấy, thì mối huyết hải thâm cừu của cha mẹ ta, ta không thể không báo.

Gia Luật Tề nghĩ thầm: “Thiếu nữ này thủy chung cứ bám riết, nàng ta võ công không kém, mình không thể lúc nào cũng kè kè bên cạnh cha già, lỡ có lúc sơ suất biết làm sao đây? Chi bằng dùng lời buộc nàng ta không được tìm đến nữa”, bèn nói to:

– Hoàn Nhan cô nương, cô nương báo thù cho cha mẹ, chí khí đáng khen. Nhưng món nợ của lớp trước, phải do lớp trước thanh toán với nhau. Lớp người sau chúng ta có ân oán của mình. Món nợ máu giữa hai dòng họ chúng ta, cô nương cứ tính với tại hạ là được, nếu còn tìm phụ thân ta, thì lần sau gặp lại cô nương, sẽ rất khó xử cho tại hạ đó.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Hừ, ta võ công thua xa công tử, làm sao tính sổ với công tử kia chứ? Thôi được rồi.

Đoạn nàng che mặt mà đi.

Gia Luật Tề biết nàng ta đi ra bên ngoài, sẽ lại ra tay tự sát, chàng không muốn nàng phải chết, bèn cười khẩy, nói:

– Hi hi, nữ tử họ Hoàn Nhan chẳng có chí gì cả!

Hoàn Nhan Bình quay phắt lại, hỏi:

– Sao lại không có chí?

Gia Luật Tề cười, nói:

– Tại hạ võ công cao hơn cô nương, điều đó không sai, nhưng vì thế mà chịu ư? Tại hạ cao hơn, vì từng được minh sư chỉ điểm, chứ chẳng phải tại hạ có gì tài giỏi hơn người. Công phu Thiết chưởng của cô nương vốn cũng là một môn võ công vô cùng lợi hại thời nay, nhưng vị sư phụ truyền thụ cho cô nương chưa tinh, thời gian cô nương luyện tập còn ngắn, khó lòng khắc địch chế thắng, là lẽ đương nhiên. Tuổi còn trẻ, chỉ cần khổ công tìm kiếm minh sư, chẳng lẽ không tìm được hay sao?

Hoàn Nhan Bình đang oán giận, nghe chàng nói vậy cũng phải gật gật đầu. Gia Luật Tề lại nói:

– Mỗi lần động thủ với cô nương, tại hạ chỉ sử dụng tay phải, hoàn toàn không phải là tại hạ cao ngạo gì đâu, mà chỉ vì tay trái của tại hạ có lực rất mạnh, đã xuất thủ thường là đả thương đối phương. Bây giờ thế này, cô nương hãy đi tìm học minh sư, học xong hãy đến tìm tại hạ, chỉ cần cô nương buộc được tại hạ phải dùng đến tay trái, thì tại hạ chịu để cô nương lấy đầu, quyết không oán hận.

Gia Luật Tề biết võ công của Hoàn Nhan Bình thua mình quá xa, dù nàng có được cao nhân chỉ điểm, cũng khó thắng nổi một tay của chàng; thiết nghĩ một người chỉ muốn tự sát, nay ta nói khích để người đó tầm sư học nghệ, chuyên tâm tu luyện, thì sau một thời gian họ sẽ không còn ý định tự sát nữa.

Hoàn Nhan Bình nghĩ thầm: “Ngươi không phải là thần thánh, ta khổ công luyện tập, lẽ nào hai tay không thắng nổi một tay của ngươi?” bèn giơ đao chém một nhát vào không trung, trầm giọng, nói:

– Được, quân tử nhất ngôn…

Gia Luật Tề tiếp lời:

– Khoái mã nhất tiên (Ngựa hay chỉ một roi)!

Hoàn Nhan Bình không thèm nhìn mọi người, ngẩng đầu bước đi, nhưng không giấu được vẻ rầu rĩ lộ rõ trên mặt.

Đám thị vệ thấy nhị công tử thả cho Hoàn Nhan Bình đi, dĩ nhiên không dám ngăn lại; họ vội vã vấn an Gia Luật Sở Tài, rồi lui ra. Gia Luật Tấn thấy ở đây náo loạn động trời, mà thủy chung chẳng thấy Dương Quá xuất hiện, thì trong lòng rất lấy làm lạ.

Gia Luật Yến nói:

– Nhị ca, sao nhị ca lại để cho nàng ta đi?

Gia Luật Tề nói:

– Không cho nàng ta đi, chẳng lẽ giết nàng ta ư?

Gia Luật Yến mỉm cười, nói:

– Nhị ca thả nàng ta đi là sai rồi.

Gia Luật Tề hỏi:

– Sao lại sai?

Gia Luật Yến cười cười, nói:

– Nhị ca đã muốn nàng ta làm chị dâu của muội, thì không nên thả đi.

Gia Luật Tề nghiêm mặt, nói:

– Đừng nói bậy!

Gia Luật Yến thấy Gia Luật Tề nghiêm mặt, sợ nhị ca động nộ, không dám nói đùa nữa.

Dương Quá ở bên ngoài cửa sổ nghe Gia Luật Yến nói “muốn nàng ta làm chị dâu của muội” thì tự dưng vô cớ trong lòng nôn nao, thấy Hoàn Nhan Bình chạy về hướng đông nam, bèn nói với Lục Vô Song:

– Ta đi xem sao.

Lục Vô Song hỏi:

– Xem cái gì?

Dương Quá không trả lời, thi triển khinh công đuổi theo.

Hoàn Nhan Bình võ công không mạnh, song khinh công lại rất cao siêu. Dương Quá đề khí đuổi theo một mạch, mãi đến khi ra khỏi Long Câu trại, mới thấy bóng nàng ta. Chỉ thấy Hoàn Nhan Bình đi vào một sân nhà, đẩy cửa vào phòng. Dương Quá vào theo, nấp ở bên tường. Một lát sau trong phòng thắp đèn, rồi nghe một tiếng thở dài não nuột. Tiếng thở dài này chứa đầy oán sầu, thống khổ.

Dương Quá ở ngoài cửa sổ nghe thấy, ngơ ngẩn xúc động, bất tri bất giác cũng thở dài. Hoàn Nhan Bình nghe vậy cả kinh, vội thổi tắt đèn, lui vào bên góc tường, quát khẽ:

– Ai đó?

Dương Quá đáp:

– Cũng là người đang đau khổ như cô nương.

Hoàn Nhan Bình kinh ngạc, nghe giọng nói của người lạ tựa hồ hoàn toàn không có ác ý, bèn hỏi lại:

– Các hạ rốt cuộc là ai?

Dương Quá nói:

– Tục ngữ có câu “Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn”. Cô nương mấy phen hành thích không thành, định tự sát, sao lại coi rẻ tính mạng của mình như vậy? Chẳng phải quá xem nhẹ mối huyết hải thâm cừu hay sao?

Kẹt một tiếng, hai cánh cửa phòng mở ra, Hoàn Nhan Bình thắp đèn lên, nói:

– Mời các hạ vào.

Dương Quá chắp tay từ ngoài cửa, bước vào. Hoàn Nhan Bình thấy chàng dùng trang phục quân quan Mông Cổ, còn rất trẻ, thì hơi kinh ngạc, nói:

– Các hạ dạy rất phải, thỉnh vấn quý tính đại danh?

Dương Quá không trả lời, hai bàn tay lồng trong ống tay áo, nói:

– Gia Luật Tề nói khoác không biết ngượng, cho rằng chỉ dùng tay phải đã là tài giỏi, kỳ thực muốn đoạt đơn đao, điểm huyệt người khác, vẫn dùng một tay, thì có gì khó đâu?

Hoàn Nhan Bình trong bụng nghĩ khác, nhưng chưa hiểu dụng ý của đối phương, nên không tiện phản bác. Dương Quá nói tiếp:

– Ta sẽ dạy cho cô nương ba chiêu võ công, là có thể buộc Gia Luật Tề phải dùng cả hai tay. Bây giờ ta sẽ làm thử trước với cô nương, ta không dùng tay, cũng không dùng chân, đấu với cô nương vài chiêu, được chăng?

Hoàn Nhan Bình lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Không lẽ ngươi có yêu pháp, hay là chỉ khoác lác?” Dương Quá thấy nàng do dự, thì nói:

– Cô nương cứ việc dùng đao chém ta, nếu ta tránh không được, có chết cũng không oán trách.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Thôi được. Ta không dùng đao, chỉ dùng quyền, chưởng đánh các hạ là được rồi.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Không, ta không dùng tay chân mà đoạt đơn đao của cô nương, thì cô nương mới tin phục chứ.

Hoàn Nhan Bình thấy chàng nửa cười nửa không, trong bụng hơi giận, nói:

– Các hạ tài tình như thế, quả ta chưa từng gặp.

Đoạn rút đơn đao chém xuống vai chàng. Nàng thấy Dương Quá hai bàn tay lồng trong ống tay áo, làm như vô sự, thì sợ đả thương chàng, lưỡi đao chếch đi một chút. Dương Quá thấy vậy, thản nhiên nói:

– Đừng có nhường, cứ chém thật đi!

Thanh liễu diệp đao bèn chém thẳng xuống, chỉ còn cách vai chàng hơn một tấc. Hoàn Nhan Bình thấy chàng chẳng thèm lý đến, thầm khâm phục sự can đảm của chàng, lại nghĩ thầm: “Hay y là một kẻ ngớ ngẩn?” đao liền chém ngang sang, chẳng dung tình nữa. Dương Quá lập tức rùn mình xuống, lưỡi đao phạt qua, chỉ cách đỉnh đầu một tấc. Hoàn Nhan Bình hăng lên, vung đao chém thẳng. Dương Quá tránh đao, nói:

– Cô nương có thể phối hợp với chưởng pháp.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Được!

Nàng dùng đao phạt ngang, tay trái đánh ra. Dương Quá nghiêng mình tránh, nói:

– Nhanh chút nữa!

Hoàn Nhan Bình liền thi triển đao pháp phối hợp với chưởng pháp, càng đánh càng nhanh. Dương Quá nói:

– Chưởng pháp của cô nương lợi hại hơn đao pháp. Gia Luật Tề gọi đây là công phu Thiết chưởng, phải vậy không?

Hoàn Nhan Bình gật đầu, xuất thủ hiểm ác hơn. Dương Quá thủy chung vẫn hai tay lồng trong ống áo, múa lượn giữa chưởng ảnh đao phong. Đơn đao thiết chưởng của Hoàn Nhan Bình vẫn chưa chạm được vào quần áo của chàng.

Hoàn Nhan Bình đã sử quá nửa pho đao pháp, thì Dương Quá nói:

– Cẩn thận đó, nội trong ba chiêu, ta sẽ đoạt đao của cô nương.

Hoàn Nhan Bình lúc này đã hết sức thán phục chàng, nhưng bảo rằng nội trong ba chiêu, sẽ đoạt được binh khí, thì vẫn chưa tin; nàng bất giác nắm chặt cán đao hơn, nói:

– Các hạ đoạt đi!

Rồi dùng chiêu “Vân hoành Tần lĩnh” phạt đao ngang đầu Dương Quá. Dương Quá cúi đầu, luồn nghiêng ra, dùng góc trán đụng vào huyệt Khúc Trì ở khuỷu tay nàng. Hoàn Nhan Bình cánh tay tê dại, ngón tay vô lực. Dương Quá ngẩng đầu, há mồm, cắn lấy sống đao, nhẹ nhàng đoạt lấy thanh đao, tiếp đó nghiêng đầu sang một bên, cán đao thúc nhẹ vào bên sườn nàng, điểm trúng huyệt đạo ở đó. Dương Quá ngẩng mặt, há miệng, hất thanh đao lên trời, nói:

– Thế nào, đã phục chưa?

Nói xong năm chữ ấy, thì thanh đao rớt xuống, Dương Quá há miệng cắn lấy thanh đao, cười hi hi nhìn Hoàn Nhan Bình. Hoàn Nhan Bình vừa kinh ngạc vừa vui mừng, gật gật đầu.

Dương Quá thấy làn thu ba của nàng đung đưa, kiều mị động nhân, bất giác muốn ôm nàng thơm một cái nhưng làm như vậy quá liều lĩnh, miệng cắn sống đao, mặt đỏ bừng. Hoàn Nhan Bình không biết tâm sự của chàng, thấy sắc diện của chàng hơi lạ, chỉ thấy toàn thân nàng tê dại, hai chân bủn rủn muốn ngã khuỵu xuống. Dương Quá bước tới một bước, cách nàng chưa đầy một thước, định nhả đao, kề môi thơm nàng một cái, bỗng nghĩ thầm: “Nàng rất cảm kích trước việc Gia Luật Tề dùng lễ đối đãi với nàng, chẳng lẽ ta lại không bằng Gia Luật Tề? Hừ, ta phải hơn hắn về mọi phương diện”. Thế là chàng cúi đầu, dùng cán đao thúc nhẹ vào lưng giải huyệt cho nàng, rồi chìa cán đao cho nàng.

Hoàn Nhan Bình chưa nhận đao, quì xuống đất, nói:

– Xin sư phụ chỉ điểm, tiểu nữ trả được mối thù cho cha mẹ, sẽ mãi mãi ghi nhớ đại đức.

Dương Quá vội đỡ nàng dậy, dùng tay cầm đao đang cắn ở miệng đưa trả nàng, nói:

– Ta sao có thể làm sư phụ của cô nương? Ta chỉ có thể dạy cho cô nương cách giết Gia Luật Tề mà thôi.

Hoàn Nhan Bình cả mừng, nói:

– Chỉ cần giết được Gia Luật Tề, thì ca ca và muội muội của hắn tiểu nữ đều không sợ, bấy giờ sẽ giết được phụ thân hắn…

Nói đến đây, sực nhớ điều gì, buồn bã nói:

– Ôi, chờ tiểu nữ học cách giết được Gia Luật Tề, thì phụ thân hắn đâu còn sống nữa? Mối thù của cha mẹ vậy là không bao giờ trả được.

Dương Quá cười, nói:

– Phụ thân của Gia Luật Tề đã chết ngay đâu mà lo.

Hoàn Nhan Bình ngạc nhiên, hỏi:

– Nghĩa là sao?

Dương Quá nói:

– Muốn giết Gia Luật Tề thì có khó gì? Bây giờ ta dạy cô nương ba chiêu, ngay đêm nay đã có thể giết chết hắn.

Hoàn Nhan Bình từng ba lần hành thích Gia Luật Sở Tài, cả ba phen đều bị Gia Luật Tề dễ dàng đánh bại, biết chàng ta võ công cao hơn nàng nhiều lần, nghĩ thầm viên quân quan Mông Cổ trẻ tuổi này dù giỏi võ đến mấy, cũng chưa chắc địch nổi Gia Luật Tề, dẫu có thắng nổi, cũng quyết không thể chỉ dạy nàng có ba chiêu, mà đã đủ để giết Gia Luật Tề, lại giết ngay trong đêm nay, thì càng không đời nào có chuyện đó. Nàng sợ Dương Quá buồn, không dám phản bác, chỉ nhè nhẹ lắc đầu, đăm đăm nhìn chàng bằng ánh mắt long lanh, lúng liếng.

Dương Quá biết rõ tâm ý của nàng, nói:

– Đúng là võ công của ta, nếu đánh nhau thật, chưa chắc ta địch nổi Gia Luật Tề; nhưng dạy cho cô nương ba chiêu để đi giết hắn ngay trong đêm nay, thì không có gì khó. Chỉ lo hắn đã tha cho cô nương ba lần, cô nương không nỡ ra tay mà thôi.

Hoàn Nhan Bình động lòng, quả quyết nói:

– Hắn tuy có đức với tiểu nữ, nhưng mối thù của cha mẹ không thể không báo.

Dương Quá nói:

– Được vậy ta sẽ dạy cho cô nương ba chiêu. Nếu cô nương có thể giết được hắn, mà cô nương lại tha cho hắn, thì sao?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Thì tùy các hạ xử trí. Các hạ võ công cao siêu thế, muốn đánh muốn giết, tiểu nữ làm sao thoát nổi?

Dương Quá nghĩ thầm: “Ta nỡ lòng nào giết nàng? Nàng giết hắn hay tha cho hắn, đâu có liên quan gì đến ta?” Bèn mỉm cười, nói:

– Thực ra ba chiêu cũng không có gì mới lạ. Cô nương hãy nhìn cho rõ này.

Đoạn giơ đao thong thả chém từ trái qua phải, nói:

– Chiêu thứ nhất là “Vân hoành Tần lĩnh”.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Chiêu này tiểu nữ biết lâu rồi, khỏi cần phải dạy.

Thấy lưỡi đao phạt ngang, nàng nghiêng người né tránh. Dương Quá đột nhiên giơ tay trái chộp bàn tay phải của nàng, nói:

– Chiêu thứ hai là “Khô đằng triền thụ”.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Đây là một chiêu trong “Thiết chưởng cầm nã thủ” của tiểu nữ.

Dương Quá nắm bàn tay mềm mại, trong lòng nao nao, cười, nói:

– Cô nương nên học “Dương chỉ ngọc chưởng công” mới phải, sao lại đi học “Thiết chưởng cầm nã thủ”?

Hoàn Nhan Bình không hiểu câu nói đùa của chàng, nói:

– Có môn “Dương chỉ ngọc chưởng công” ư? Nghe cái tên ấy hay đấy.

Nàng chỉ thấy chàng bóp bóp nhẹ bàn tay nàng, nghĩ như thế đâu có lợi hại bằng môn cầm nã thủ trong Thiết chưởng của nàng, nghĩ thầm: “Chiêu thứ nhất và chiêu thứ hai của chàng đều là thứ ta đã biết, không lẽ chỉ dựa vào một chiêu thứ ba mà giết được Gia Luật Tề?” Dương Quá nhìn chăm chú vào mắt nàng, nói:

– Nhìn cho kỹ này!

Đột nhiên xoay cổ tay, đưa ngang lưỡi đao cứa cổ mình.

Hoàn Nhan Bình cả kinh, kêu lên:

– Các hạ làm gì vậy?

Tay phải của nàng bị Dương Quá nắm giữ, nàng vội đưa tay trái giằng lấy đơn đao. Tuy trong lúc nguy cấp song chiêu “Thiết chưởng cầm nã thủ” nàng sử dụng cực chuẩn, chộp ngay cổ tay Dương Quá xoay ra ngoài, đơn đao không thể cứa vào cổ chàng được.

Dương Quá buông tay nàng, lùi lại hai bước, cười hỏi:

– Cô nương biết cách rồi chứ?

Hoàn Nhan Bình hoảng hồn, tim vẫn còn đập dồn, chưa rõ dụng ý của chàng. Dương Quá cười, nói:

– Cô nương thoạt sử chiêu “Vân hoành Tần lĩnh” phạt ngang, rồi sử chiêu “Khô đằng triền thụ” nắm lấy tay phải của Gia Luật Tề, chiêu thứ ba thì giơ đao cứa cổ tự sát, Gia Luật Tề ắt sẽ dùng tay trái cứu cô nương. Gia Luật Tề đã thề với cô nương, chỉ cần cô nương buộc hắn sử dụng tay trái, hắn sẽ để cho cô nương giết hắn mà hắn không một lời oán trách. Như thế được chưa?

Hoàn Nhan Bình nghĩ thấy đúng vậy. Nàng sững sờ nhìn Dương Quá. Dương Quá nói:

– Ba chiêu này hoàn toàn chắc thắng, nếu không, cứ đem đầu ta đi mà chặt.

Hoàn Nhan Bình lắc đầu, nói:

– Gia Luật Tề đã nói không dùng tay trái, thì nhất định hắn sẽ không dùng. Lúc ấy sẽ ra sao?

Dương Quá nói:

– Còn ra sao nữa? Thì cô nương sẽ vĩnh viễn không trả được mối thù, chết rồi còn trả sao được nữa?

Hoàn Nhan Bình buồn bã gật đầu, nói:

– Các hạ nói phải lắm. Đa tạ chỉ điểm bến mê. Cuối cùng thì các hạ là ai?

Dương Quá chưa kịp trả lời, ngoài song bỗng có giọng thiếu nữ nói:

– Chàng ta là Đồ ngốc, cô nương chớ tin lời quỷ quái của chàng ta.

Dương Quá nghe giọng nói của Lục Vô Song, chỉ cười cười, thây kệ. Hoàn Nhan Bình chạy ra cửa sổ ngó, chỉ thấy một bóng người nhảy qua tường vây ra khỏi sân.

Hoàn Nhan Bình định đuổi theo, Dương Quá kéo tay nàng, cười, nói:

– Đừng đuổi theo, là một bạn đồng hành của ta đó. Nàng ta rất thích gây khó dễ với ta.

Hoàn Nhan Bình nhìn chàng, ngẫm nghĩ một lát nói:

– Các hạ đã không muốn xưng danh thì thôi. Tiểu nữ tin rằng các hạ có thiện chí đối với tiểu nữ.

Dương Quá thấy ánh mắt nàng đung đưa, thần sắc ảm đạm, bất giác thấy nàng thật tội nghiệp, bèn cầm tay nàng, kéo nàng ngồi kề vai bên mép giường, dịu dàng nói:

– Ta họ Dương tên Quá, ta là người Hán, không phải là người Mông Cổ. Cha mẹ ta đều mất cả rồi, cũng như cô nương vậy…

Hoàn Nhan Bình nghe chàng nói đến đây, thì lòng bồi hồi, nước mắt rưng rưng. Dương Quá xúc động bỗng khóc òa lên. Hoàn Nhan Bình rút trong túi ra một chiếc khăn tay, đưa cho chàng. Dương Quá cầm khăn lau mặt, nghĩ đến thân phận của mình, lệ lại trào ra.

Hoàn Nhan Bình gượng cười, nói:

– Dương gia, hãy xem tiểu nữ làm theo chiêu khóc của các hạ này.

Dương Quá nói:

– Đừng gọi ta là Dương gia. Cô nương năm nay bao nhiêu tuổi?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Tiểu nữ mười tám, còn các hạ?

Dương Quá nói:

– Ta cũng mười tám.

Nghĩ thầm: “Nếu mình ít tháng hơn, chẳng hóa không được gọi nàng bằng muội muội ư?” Bèn nói:

– Ta sinh tháng Giêng, từ giờ cô nương cứ gọi ta là Dương đại ca thì được. Ta cũng chẳng khách sáo, gọi cô nương là Hoàn Nhan muội tử.

Hoàn Nhan Bình đỏ mặt, cảm thấy người này hành sự bộc trực, tính tình cổ quái, đối với nàng quả nhiên không hề có ác ý, bên gật gật đầu.

Dương Quá thấy nàng gật đầu thì hết sức vui mừng. Hoàn Nhan Bình diện mạo thanh tú, thân hình mảnh mai, gặp nhiều bất hạnh, tựa hồ sinh ra là để người ta thương yêu, nhưng điều đáng nói nhất là đôi mắt nàng giống hệt Tiểu Long Nữ. Chàng không biết rằng một người trong lòng đau khổ, thì ánh mắt dĩ nhiên đượm vẻ sầu muộn, ai mà chẳng vậy, bảo đôi mắt của Hoàn Nhan Bình giống Tiểu Long Nữ chỉ là cảm giác tự an ủi của chàng mà thôi. Chàng đắm đuối nhìn nàng, bỗng ảo tưởng hắc y thành bạch y, ảo tưởng khuôn mặt gầy gầy thành khuôn mặt kiều diễm của Tiểu Long Nữ, có cái nhìn đắm đuối, chan chứa vẻ cầu khẩn, thương nhớ, tiếc nuối.

Hoàn Nhan Bình hơi sợ, gỡ nhẹ tay khỏi tay chàng, hỏi nhỏ:

– Dương đại ca sao vậy?

Dương Quá như tỉnh mộng, thở dài, nói:

– Không sao. Muội có đi giết Gia Luật Tề hay không?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Muội đi chứ. Dương đại ca có đi với muội hay không?

Dương Quá định trả lời “Tất nhiên ta đi với muội”, nhưng lại nghĩ thầm: “Nếu có ta ở bên cạnh, nàng sẽ không sợ, hành động tự sát sẽ không quả quyết, Gia Luật Tề sẽ không trúng kế”, bèn nói:

– Ta không tiện đi với muội.

Hoàn Nhan Bình lộ vẻ thất vọng rõ rệt, Dương Quá chợt mềm lòng, cơ hồ bằng lòng đi cùng với nàng, thì Hoàn Nhan Bình nói:

– Thôi được rồi, Dương đại ca, chỉ e muội sẽ không gặp lại Dương đại ca nữa.

Dương Quá vội nói:

– Không đâu, có lẽ nào? Ta…

Hoàn Nhan Bình buồn bã lắc đầu, chạy ra khỏi nhà, trong giây lát đã quay lại chỗ trú đêm của Gia Luật Tấn.

Lúc này mấy cha con Gia Luật Sở Tài ai nấy đã về phòng mình, sắp ngủ yên. Hoàn Nhan Bình gõ mạnh vào cánh cổng hai tiếng, gọi to:

– Hoàn Nhan Bình cầu kiến Gia Luật công tử Gia Luật Tề.

Mấy tên thị vệ chạy ra, định ngăn cản, thì Gia Luật Tề mở cổng ra, hỏi:

– Hoàn Nhan cô nương, có chuyện gì vậy?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Ta muốn lĩnh giáo cao chiêu của công tử.

Gia Luật Tề lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Sao cô nàng không tự lượng sức?” Bèn lùi sang một bên, giơ tay phải, nói:

– Mời vào.

Hoàn Nhan Bình vào phòng, rút đao, tấn công liền, đao phong phối hợp với Thiết chưởng chưởng pháp, một đao hai chưởng từ hai phía tả hữu đánh vào. Gia Luật Tề buông xuôi tay trái, tay phải hóa giải đao, chưởng của đối phương, nghĩ thầm: “Phải nghĩ cách khiến nàng ta thấy khó mà lùi, từ rày không dám đến quấy nhiễu nữa”.

Hai người đấu một hồi, Hoàn Nhan Bình sắp sử dụng ba chiêu Dương Quá vừa dạy, thì ngoài cửa bỗng có tiếng thiếu nữ nói:

– Gia Luật Tề, Hoàn Nhan cô nương định lừa công tử sử dụng tay trái đấy, hãy cẩn thận.

Chính là giọng nói của Lục Vô Song. Gia Luật Tề hơi sững, Hoàn Nhan Bình không đợi chàng ta hiểu ra, lập tức sử chiêu “Vân hoành Tần lĩnh” phạt ngang, chờ khi chàng ta nghiêng mình né tránh, thì đột nhiên dùng tay trái sử chiêu “Khô đằng triền thụ”, chộp lấy tay phải của Gia Luật Tề, còn tay phải cầm đao thì đưa ngay về cứa mạnh một cái vào cổ mình. Trong khoảnh khắc ấy, đầu óc Gia Luật Tề vụt hiện ý nghĩ: “Có cứu nàng ta hay không? Nhưng nàng ta lừa ta dùng tay trái, nếu ta dùng tay trái, thì ta phải nộp mạng cho nàng. Đại trượng phu chết thì thôi, lẽ nào thấy người ta chết không cứu?”

Dương Quá dự đoán tâm tư của Gia Luật Tề, chỉ cần đột nhiên sử dụng ba chiêu này, Gia Luật Tề nhất định sẽ phải dùng tay trái để cứu; ai dè Lục Vô Song lại gây rắc rối, đi nhắc trước cho Gia Luật Tề biết. Đáng lẽ ba chiêu này đã mất thiêng, nhưng Gia Luật Tề hào hiệp khảng khái, biết rõ ra tay cứu tức là mình sẽ mất mạng, vẫn dùng tay trái chộp cổ tay phải của Hoàn Nhan Bình, vặn ra ngoài, đoạt liễu diệp đao của nàng ta. Hai người cùng nhảy lùi hai bước. Gia Luật Tề không đợi nàng lên tiếng, quẳng đao đi, nói:

– Cô nương đã buộc ta phải sử dụng tay trái, vậy cô nương cứ việc giết ta, nhưng ta có một điều cầu xin cô nương.

Hoàn Nhan Bình mặt tái nhợt, hỏi:

– Là điều gì?

Gia Luật Tề nói:

– Xin cô nương đừng sát hại gia phụ.

Hoàn Nhan Bình hừ một tiếng, lại gần, nhặt thanh đao giơ lên, dưới ánh đèn chỉ thấy Gia Luật Tề thần sắc thản nhiên, có uy, lộ rõ khí khái nam tử hán, nghĩ vừa rồi chàng chỉ vì cứu sống nàng mà sử dụng tay trái, nỡ nào nàng đang tâm chém chàng? Ánh mắt đầy sát khí chuyển thành nhu hòa, Hoàn Nhan Bình quẳng đao xuống đất, ôm mặt chạy ra.

Nàng để mặc hai chân muốn đưa nàng tới đâu thì đến, chạy mãi ra tận ngoại ô, tới bên một con mương nhỏ, nhìn ánh sao in bóng dưới dòng nước, tâm trạng rối bời. Rất lâu sau, nàng mới thở dài não nuột.

Bỗng nghe sau lưng cũng có tiếng thở dài. Hoàn Nhan Bình kinh ngạc, quay lại, thấy người đứng sau lưng mình chính là Dương Quá. Nàng gọi một tiếng “Dương đại ca”, rồi cúi đầu im lặng.

Dương Quá nắm lấy hai tay nàng, an ủi:

– Báo thù cho cha mẹ vốn là việc không dễ, cũng không nên nóng vội.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Dương đại ca thấy hết cả chứ?

Dương Quá gật gật đầu. Hoàn Nhan Bình nói:

– Đối với hạng người vô dụng như muội, báo thù tất nhiên là việc không dễ. Muội chỉ cần có một nửa bản lĩnh của Dương đại ca, thì sẽ không thất bại như thế này.

Dương Quá buông tay nàng, hai người cùng ngồi xuống một gốc cây lớn, chàng nói:

– Dù học được võ công như ta, cũng vô dụng thôi. Muội tuy chưa trả được mối thù, nhưng còn biết kẻ thù là ai, sau này sẽ có dịp tốt. Chứ ta thì cha mình chết thế nào, ai giết cha ta, ta cũng không biết, còn nói gì đến chuyện báo thù?

Hoàn Nhan Bình ngẩn người, hỏi:

– Cha mẹ của Dương đại ca cũng bị giết hại ư?

Dương Quá thở dài, nói:

– Mẹ ta chết vì bệnh; còn cha ta thì không rõ vì sao chết, chết thế nào? Ta không được biết mặt cha mình.

Hoàn Nhan Bình hỏi:

– Sao lại thế?

Dương Quá nói:

– Khi mẹ ta sinh ra ta, thì cha ta đã chết. Ta thường hỏi mẹ ta, cha con cuối cùng bị chết như thế nào, kẻ thù là ai? Mỗi lần hỏi thế, mẹ ta chỉ ứa nước mắt không trả lời, lâu dần ta không dám hỏi nữa. Bấy giờ ta nghĩ chờ ta lớn thêm vài tuổi, sẽ hỏi cũng chưa muộn; nào ngờ mẹ ta bỗng nhiên bị bệnh qua đời. Khi mẹ ta lâm chung, ta có hỏi, mẹ ta chỉ lắc đầu, nói: “Cha con… cha con… ôi, hài nhi, kiếp này con đừng nghĩ đến việc trả thù. Con hãy hứa với mẹ, nhất định đừng tính chuyện trả thù cho cha con!” Ta bi thương không chịu nổi, kêu to: “Con không hứa. Con không hứa!” Mẹ ta nấc lên, rồi tắt thở. Ôi, muội bảo ta sống thế có khổ hay không?

Chàng kể chuyện này cốt để an ủi Hoàn Nhan Bình, nhưng kể xong thì chính mình cũng cảm thấy đau khổ. Tục ngữ có câu “Mối thù giết cha, không đội trời chung”. Kẻ nào không báo thù cho cha, sẽ phạm tội lớn nhất, tội bất hiếu, suốt đời bị người đời sỉ nhục, khinh bỉ. Dương Quá ngay họ tên kẻ giết cha cũng không biết, mối hận ấy dồn nén trong lòng đã lâu, lúc này thổ lộ, giọng nói dĩ nhiên chứa đầy phẫn uất.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Vậy ai nuôi dưỡng Dương đại ca?

Dương Quá nói:

– Làm gì có ai? Tự ta nuôi dưỡng ta. Sau khi mẹ ta chết, ta lưu lạc giang hồ, xin nơi này một bữa, ngủ chỗ kia một đêm; có khi đói mờ cả mắt, đành đi lấy trộm quả dưa, củ khoai, bị người ta tóm được, đánh cho no đòn. Muội xem, còn bao nhiêu vết sẹo đây này, toàn là do hồi nhỏ bị đòn mà ra.

Dương Quá vừa nói vừa vén ống tay áo, ống quần, chìa cho Hoàn Nhan Bình coi, dưới ánh sao lờ mờ, nàng không nhìn rõ, Dương Quá liền cầm tay nàng sờ vào vết sẹo ở bắp chân. Hoàn Nhan Bình sờ sờ thấy vết sẹo ở bắp chân chàng thì không khỏi buồn, nghĩ mình tuy quốc phá gia vong, nhưng cha mẹ còn để lại bao nhiêu người thân thích, vô số của cải; so với thân thế của chàng thật là còn may mắn hơn nhiều.

Hai người im lặng hồi lâu, Hoàn Nhan Bình nhè nhẹ rụt tay khỏi bắp chân chàng, nhưng vẫn để chàng cầm tay, hỏi nhỏ:

– Dương đại ca làm sao lại học được võ công cao cường? Do đâu lại làm quan cho người Mông Cổ?

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Ta không phải làm quan cho người Mông Cổ, ta mặc quần áo Mông Cổ chỉ là để tránh sự truy đuổi của kẻ thù mà thôi.

Hoàn Nhan Bình mừng nói:

– Thế thì hay quá.

Dương Quá hỏi:

– Sao lại hay?

Hoàn Nhan Bình đỏ mặt, nói:

– Người Mông Cổ là kẻ tử thù của nước Đại Kim muội muội, dĩ nhiên muội chỉ mong Dương đại ca không phải làm quan cho người Mông Cổ.

Dương Quá nắm bàn tay mềm mại, ấm áp, mượt mà của nàng, thì tâm thần bất định, hỏi:

– Nếu ta làm quan cho nước Đại Kim, muội sẽ đối với ta như thế nào?

Hoàn Nhan Bình thoạt đầu thấy chàng dung mạo tuấn tú, võ công cao cường, đã thích ba phần; huống hồ trong lúc hoạn nạn, lại được chàng thành tâm trợ giúp, rồi lại nghe chàng thổ lộ thân thế, càng thêm thương cảm vài phần; song lúc này nghe đôi lời của chàng không được hảo ý, thì nàng cũng chẳng tức giận, chỉ thở dài, nói:

– Nếu phụ thân muội còn sống, Dương đại ca muốn gì, phụ thân muội đều có thể dành cho Dương đại ca. Bây giờ phụ mẫu của muội đều mất cả rồi, còn biết nói gì?

Dương Quá nghe giọng nói dịu dàng, thì đặt tay lên vai nàng, ghé tai nói nhỏ:

– Muội tử, ta xin muội một điều.

Hoàn Nhan Bình trống ngực đập dồn, đoán chàng sẽ nói gì, thấp giọng hỏi:

– Gì cơ?

Dương Quá nói:

– Ta muốn thơm mắt muội, muội cứ yên tâm! Ta chỉ thơm mắt muội, chứ không phạm gì khác.

Hoàn Nhan Bình lúc đầu tưởng là chàng xin cầu hôn, lại sợ chàng đòi gần gũi về thể xác, nếu mình cự tuyệt, chàng ta sử dụng vũ lực, thì nàng đối phó sao nổi? Huống hồ bàn tay nhỏ bé của nàng đang nằm trong bàn tay to khỏe của chàng, đã cảm thấy ý loạn tình mê, chàng chẳng cưỡng bức, nàng cũng khó kiềm chế. Không ngờ chàng chỉ xin thơm mắt, thì cũng yên tâm, nhưng không khỏi có phần thất vọng. Nàng đắm đuối nhìn chàng, ánh mắt có phần e thẹn. Dương Quá nhìn nàng chằm chằm, bỗng nhiên nhớ lúc chia tay lần thứ nhất với mình, Tiểu Long Nữ cũng nhìn chàng đắm đuối và e thẹn thế này, bất giác chàng kêu to lên, đứng bật dậy.

Hoàn Nhan Bình giật mình, định hỏi chàng vì sao, nhưng lại thôi.

Dương Quá trong lòng bấn loạn, trước mặt cứ lúng liếng ánh mắt của Tiểu Long Nữ. Ngày ấy, khi nhìn thấy ánh mắt của Tiểu Long Nữ, chàng còn là một gã trai trong trắng, đối với Tiểu Long Nữ chỉ một niềm tôn kính, hoàn toàn không biết hàm ý bên trong; còn bây giờ, từ hôm xuống núi, sau mấy ngày ở chung với Lục Vô Song, vừa rồi lại kề vai áp má với Hoàn Nhan Bình, chàng bỗng đại ngộ, bây giờ mới lĩnh hội nhu tình mật ý của Tiểu Long Nữ, thì quá ư buồn phiền, chỉ muốn đập đầu vào thân cây mà chết quách, nghĩ bụng: “Cô cô đối với ta nặng tình như thế, lại bảo muốn làm thê tử của ta, ta lại nỡ phụ mỹ ý của nàng; bây giờ biết tìm nàng ở đâu kia chứ?” Đột nhiên chàng kêu lên, ôm chầm lấy Hoàn Nhan Bình mà thơm vào mắt nàng.

Hoàn Nhan Bình thấy chàng như si như cuồng, trong bụng vừa sợ vừa thích, chỉ thấy hai cánh tay chàng như hai thanh sắt, ghì chặt hai eo lưng mình, thì nhắm mắt lại, tiếp nhận sự âu yếm cuồng nhiệt của chàng, cảm thấy chàng thơm hết mắt trái lại thơm mắt phải, nghĩ thầm người này tuy cuồng bạo, nhưng biết giữ chữ tín, đâu biết vì sao chàng chỉ thơm vào mắt nàng? Đột nhiên Dương Quá gọi:

– Cô cô, cô cô!

Giọng nói của chàng đầy âu yếm, song cũng đầy đau khổ. Hoàn Nhan Bình đang định hỏi chàng gọi ai, thì sau lưng họ có một giọng thiếu nữ vang lên:

– Cảm phiền hai vị!

Dương Quá và Hoàn Nhan Bình cùng giật mình, rời nhau ra, thấy có một người đứng bên cạnh, mặc áo bào màu xanh. Hoàn Nhan Bình trống ngực đập dồn, mặt đỏ bừng, cúi đầu mân mê tà áo, không dám nhìn người kia. Dương Quá thì nhận ngay ra chính là người hôm rồi ở tiểu khách điếm đã dắt trộm lừa của Lý Mạc Sầu, quả thật là có ơn cứu mạng đối với chàng và Lục Vô Song. Thấy hai bên tóc mai buông dài của người đó, thì ra là một thiếu nữ, bèn cúi mình thật thấp, nói:

– Hôm rồi được cô nương cứu viện, đại đức khó quên.

Thiếu nữ áo xanh cung kính đáp lễ, nói:

– Dương gia lúc này còn nhớ người bạn vào sinh ra tử của mình hay chăng?

Dương Quá hỏi:

– Cô nương muốn nhắc đến…

Thiếu nữ nói:

– Sư đồ Lý Mạc Sầu vừa nãy đã bắt nàng ta mang đi!

Dương Quá cả kinh, run run hỏi:

– Thật ư? Hiện… giờ nàng ta… không sao cả chứ?

Thiếu nữ nói:

– Tạm thời thì chưa sao. Lục cô nương khăng khăng bảo rằng quyển sách bí truyền đã bị Cái Bang cướp mất, Xích Luyện ma đầu áp giải Lục cô nương đuổi theo Cái Bang đòi lại. Chắc tính mệnh thì chưa sao, song bị hành hạ chắc là khó tránh.

Dương Quá nói:

– Chúng ta mau đi cứu Lục cô nương.

Thiếu nữ nói:

– Dương gia võ công tuy cao, song chỉ e chưa phải là đối thủ của Xích Luyện ma đầu. Chúng ta tìm mụ thì chỉ là tự dẫn xác nộp mạng mà thôi.

Dưới ánh sao mờ, Dương Quá thấy diện mạo của thanh y thiếu nữ thật là ma chê quỷ hờn, da mặt không hề lay động, cứ y như một xác chết, khiến ai trông thấy cũng không khỏi e sợ. Chàng không dám nhìn thẳng vào mặt nàng ta nữa, nghĩ thầm: “Cô nương này tốt bụng biết bao, tiếc thay tướng mạo lại kinh dị thế kia; mình còn nhìn diện mạo nàng ta, ắt sẽ để lộ thần sắc, chẳng hóa ra đắc tội với nàng”, bèn hỏi:

– Mạn phép thỉnh vấn quý tính đại danh của cô nương?

Thiếu nữ đáp:

– Tiện danh không đáng hé môi, sau này Dương gia sẽ tự biết. Hiện tại cần phải nghĩ cách cứu người trước đã.

Lúc nàng nói, da mặt không hề động đậy, nếu không nghe tiếng nói từ miệng nàng phát ra, thì cứ ngỡ nàng là một tử thi biết đi lại. Song kỳ lạ thay, giọng nói của nàng lại vô cùng trong trẻo dịu dàng, nghe du dương, tỉnh cả người.

Dương Quá nói:

– Đã vậy, làm cách nào cứu người, mong cô nương cứ cho biết, tiểu nhân xin lắng nghe cô nương phân phó.

Thiếu nữ nói:

– Dương gia khỏi cần khách khí, Dương gia võ công cao hơn tiểu nữ nhiều lần, thông minh tài trí cũng hơn hẳn tiểu nữ. Dương gia hơn tuổi tiểu nữ, lại đường đường là một nam tử hán, Dương gia bảo nên làm gì, tiểu nữ sẽ y lời.

Dương Quá nghe nàng nói vừa khiêm tốn, vừa chân thành, thì cả mừng, nghĩ thầm cô nương này diện mạo đáng sợ, nhưng lời lẽ nho nhã êm dịu, quả là nhìn người không thể chỉ xét bề ngoài, chàng nghĩ một chút, rồi nói:

– Chúng ta hãy kín đáo bám theo, tùy cơ cứu người vậy.

Thiếu nữ nói:

– Như thế là hay. Không biết ý của Hoàn Nhan cô nương thế nào?

Nói xong nàng đi ra chỗ khác, để Dương Quá bàn riêng với Hoàn Nhan Bình.

Dương Quá nói:

– Muội tử, ta phải đi cứu một người bạn. Hai ta sẽ có ngày tái ngộ.

Hoàn Nhan Bình cúi đầu, nói:

– Muội bản sự tuy thấp kém, song có lẽ cũng giúp được phần nào. Dương đại ca, muội xin theo Dương đại ca đi cứu người.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Hay, hay lắm!

Rồi cao giọng gọi thiếu nữ:

– Cô nương, Hoàn Nhan cô nương nguyện theo chúng ta đi cứu người đó.

Thiếu nữ lại gần, nói với Hoàn Nhan Bình:

– Hoàn Nhan cô nương, cô nương là kim chi ngọc diệp, hành sự xin hãy nghĩ kỹ một chút. Kẻ thù của Dương gia và tiểu nữ hành sự cực kỳ tàn bạo, chốn giang hồ người ta gọi mụ là Xích Luyện ma đầu, quả là một con ác quỉ đó.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Đừng nói Dương đại ca có ơn với muội, việc của Dương đại ca cũng là việc của muội. Chỉ riêng với một vị bằng hữu như thư thư đây, muội cũng rất mong được kết giao rồi. Muội xin theo cùng thư thư, mọi việc cẩn thận là được.

Thiếu nữ lại bên, cầm tay Hoàn Nhan Bình, dịu dàng nói:

– Thế thì không còn gì bằng, Thư thư, thư thư hơn tuổi tiểu nữ, cứ gọi tiểu nữ là muội thì hơn.

Hoàn Nhan Bình trong bóng tối không nhìn thấy diện mạo cực xấu của thiếu nữ, nghe giọng nói trong trẻo êm dịu của nàng ta, bàn tay của nàng ta cầm tay mình rất mềm mại, trẻ trung, thì đoán nàng ta là một mỹ nữ, trong bụng rất mừng, hỏi:

– Cô nương năm nay bao nhiêu tuổi?

Thiếu nữ cười khẽ, nói:

– Chúng ta đừng câu nệ lớn nhỏ. Cứu người là việc khẩn cấp, Dương gia bảo có phải vậy không?

Dương Quá nói:

– Đúng vậy, xin cô nương dẫn đường cho.

Thiếu nữ nói:

– Muội thấy họ đi về hướng đông nam. Chắc là chạy thẳng đến cửa ải Đại Thắng.

Ba người lập tức thi triển khinh công, phóng về hướng đông nam. Khinh công của phái Cổ Mộ vốn được coi là đệ nhất trong thiên hạ. Hoàn Nhan Bình võ nghệ còn thấp, nhưng khinh công không kém. Ai ngờ thanh y thiếu nữ luôn luôn bám sát phía sau, Hoàn Nhan Bình phóng nhanh thì thiếu nữ cũng phóng nhanh; Hoàn Nhan Bình đi chậm lại, thiếu nữ cũng đi chậm lại, hai người trước sau chỉ cách nhau một, hai bước. Dương Quá thầm kinh ngạc: “Cô nương này không rõ là đệ tử phái nào, khinh công của nàng ta rõ ràng cao hơn Hoàn Nhan muội tử”. Chàng không muốn trổ tài trước mặt hai nàng, nên chỉ bám theo đằng sau họ.

Đi đến khi trời sáng bạch, thiếu nữ lấy trong túi ra lương khô, đưa cho hai người. Dương Quá thấy chiếc áo bào màu xanh của nàng ta tuy bằng vải thô, nhưng may cắt cực khéo, bó sát lấy thân hình mảnh mai, uyển chuyển của thiếu nữ, quả còn hơn cả y phục sang trọng; lương khô và bình nước uống cũng được sắp đặt hết sức chu đáo. Hoàn Nhan Bình thấy diện mạo của nàng ta thì không dám nhìn lâu, nghĩ thầm: “Trên thế gian sao lại có một thiếu nữ xấu xí đến thế?”

Thiếu nữ chờ hai người ăn xong, thì nói với Dương Quá:

– Dương gia, Lý Mạc Sầu biết mặt Dương gia, phải không?

Dương Quá nói:

– Lý Mạc Sầu đã gặp tại hạ mấy lần.

Thiếu nữ lấy trong bọc ra một vật mềm mềm, nói:

– Đây là một cái mặt nạ, Dương gia đeo nó vào, Lý Mạc Sầu sẽ không thể nhận ra được.

Dương Quá cầm cái mặt nạ lên, thấy nó có bốn cái lỗ cho hai mắt, mũi và miệng, đeo lên mặt, chỗ cao chỗ thấp đều phù hợp, khít liền với da mặt, thì cả mừng, cảm tạ. Hoàn Nhan Bình thấy Dương Quá sau khi đeo mặt nạ vào, tướng mạo thay đổi hẳn, cực kỳ xấu xí, thì chợt tỉnh ngộ, nói:

– Muội tử, thì ra muội cũng đeo mặt nạ, thư thư ngốc quá cứ ngỡ muội sinh ra đã vậy. Thật là ngớ ngẩn.

Thiếu nữ mỉm cười, nói:

– Dương gia diện mạo tuấn tú là thế, đeo cái mặt nạ vào bị xấu hẳn đi, thiệt thòi quá. Còn muội thì đeo mặt nạ hay không đeo, diện mạo cũng thế cả.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Thư thư không tin! Muội tử hãy gỡ mặt nạ ra cho thư thư ngắm một chút đi, được chứ?

Dương Quá cũng nổi tính hiếu kỳ, muốn biết diện mạo thật của thiếu nữ ra sao, nhưng nàng ta lùi lại hai bước, cười, nói:

– Đừng, đừng, diện mạo của tiểu nữ quái dị lắm, không dám để hai vị nhìn thấy đâu.

Hoàn Nhan Bình thấy thiếu nữ nhất định không chịu, thì đành thôi.

Giữa trưa, ba người tới trấn Vũ Quan. Họ vào một tửu lâu lên trên lầu, chọn một bàn ngồi dùng cơm. Trong tửu điếm thấy Dương Quá trang phục như quan quân Mông Cổ, thì không dám chậm trễ, hầu bàn rất chu đáo. Ba người dùng được nửa bữa, bỗng thấy rèm cửa vén ra, ba nữ nhân bước vào, chính là sư đồ Lý Mạc Sầu và Lục Vô Song. Dương Quá nghĩ thầm, hiện thời Lý Mạc Sầu tuy không thể nhận ra chàng, nhưng cái diện mạo cổ quái như chàng rất dễ khiến nàng ta nghi ngờ, hành sự sẽ rất bất tiện, bèn quay mặt lo và cơm, dỏng tai nghe sư đồ Lý Mạc Sầu nói chuyện.

Nhưng sư đồ Lý Mạc Sầu ăn xong cũng không trò chuyện gì với nhau.

Hoàn Nhan Bình đã nghe Dương Quá miêu tả hình dạng sư đồ Lý Mạc Sầu, cảm thấy nóng ruột, xoay đầu đũa chấm vào nước canh, viết trên mặt bàn ba chữ “Động thủ chưa?” Dương Quá nghĩ thầm: “Dựa vào sức của ba người, cộng với Lục cô nương, vẫn khó địch nổi hai sư đồ Lý Mạc Sầu. Việc này phải dùng trí nữa mới được”. Bèn dùng đôi đũa thong thả lắc qua lắc lại vài cái.

Cầu thang lên lầu có tiếng bước chân, Hoàn Nhan Bình liếc ra, thấy huynh muội Gia Luật Tề, Gia Luật Yến bước vào. Hai người kia thấy Hoàn Nhan Bình ở đây đều lấy làm lạ, gật gật đầu với nàng, tìm một bàn ngồi xuống. Huynh muội Gia Luật Tề sau khi Hoàn Nhan Bình bỏ đi, họ biết nàng sẽ không trở lại hành thích, bèn từ biệt phụ huynh, cùng nhau đi du sơn ngoạn thủy, giờ gặp nàng ở đây, lại càng thêm yên tâm.

Lý Mạc Sầu do sách “Ngũ độc bí truyền” rơi vào tay Cái Bang, sinh ra sầu muộn, mấy ngày nay không nuốt nổi cơm, chỉ ăn nửa bát mì đã buông đũa, quay ra nhìn cảnh ngoài đường, bỗng thấy ở góc đường có hai gã hành khất, vai đeo năm cái túi vải, thì động lòng, lại bên cửa sổ, vẫy tay gọi:

– Hai vị anh hùng Cái Bang, xin hãy lên lầu đây, bần đạo có một lời, phiền hai vị bẩm lại với bang chủ quí bang.

Lý Mạc Sầu biết rằng nếu tự dưng gọi họ lên, họ vị tất chịu lên lầu, còn nếu bảo có lời cần bẩm lại với bang chủ, thì đệ tử Cái Bang không thể từ chối.

Lục Vô Song nghe sư phụ gọi đệ tử Cái Bang tới, hẳn để tra hỏi về sách “Ngũ độc bí truyền”, thì bất giác tái mặt. Gia Luật Tề biết Cái Bang ở phương Bắc thế lực cực mạnh, vị đạo cô xinh đẹp kia bảo có lời cần bẩm lại với bang chủ Cái Bang, không hiểu lai lịch của đạo cô ra sao, tính hiếu kỳ nổi lên, liền dừng uống, nghiêng đầu lắng nghe.

Phút chốc có tiếng chân ở cầu thang, rồi hai gã hóa tử bước lên lầu, hành lễ với Lý Mạc Sầu, nói:

– Tiên cô có gì sai bảo, chúng tiểu nhân xin vâng mệnh.

Hai gã hóa tử hành lễ xong đứng thẳng dậy, một gã nhìn thấy Lục Vô Song đứng bên cạnh thì mặt biến sắc, nguyên gã từng ngăn chặn nàng ở dọc đường, bèn kéo gã kia chạy ra cầu thang. Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Hai vị hãy nhìn mu bàn tay coi thử.

Hai gã hóa tử cùng đưa mắt nhìn mu bàn tay, thấy mỗi mu bàn tay của mình đều có ba vết ngón tay màu đỏ, thật không thể hiểu nổi thủ pháp mau lẹ tới mức nào của đạo cô, vì họ đã bị trúng “Ngũ độc thần chưởng” của Lý Mạc Sầu mà không hề hay biết; ngay cả Dương Quá và Gia Luật Tề cũng nhìn không rõ.

Hai gã hóa tử cả kinh, cùng kêu lên:

– Đạo cô là… là Xích Luyện Tiên Tử ư?

Lý Mạc Sầu dịu dàng nói:

– Hãy đi nói với bang chủ các vị rằng Cái Bang và Lý Mạc Sầu ta bao lâu nay đôi bên không xâm phạm lẫn nhau, bần đạo luôn luôn ngưỡng mộ quí bang chủ anh hùng, chỉ là chưa có duyên kiến diện, rất lấy làm tiếc.

Hai gã hóa tử nhìn nhau, nghĩ thầm: “Mi nói năng dễ nghe thế, tại sao bỗng dưng vô cớ lại hạ độc thủ?” Lý Mạc Sầu ngừng một lát, nói tiếp:

– Hai vị bị trúng “Ngũ độc thần chưởng” cũng đừng lo, chỉ cần đem trả lại quyển sách đã chiếm đoạt, bần đạo tất sẽ chữa trị cho hai vị.

Một gã hóa tử hỏi:

– Sách gì kia chứ?

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Một quyển sách cũ, kể ra cũng chẳng đáng gì, nếu quí bang không trả lại, cũng chẳng sao. Nhưng bần đạo sẽ lấy mạng một ngàn gã khiếu hóa tử đó.

Mu bàn tay của hai gã hóa tử chưa thấy biến chuyển gì lạ, nhưng nghe mỗi câu của Lý Mạc Sầu, họ lại nhìn mu bàn tay một lần; từ lâu họ đã nghe “Xích Luyện Thần chưởng” cực kỳ âm độc, bị trúng chưởng, khi chết sẽ đau và ngứa ghê gớm; bây giờ họ có cảm tưởng hình như ba vết ngón tay màu đỏ ở mu bàn tay đang lan rộng dần, thấy Lý Mạc Sầu nói thế, nghĩ bụng chỉ có mau về bẩm báo với trưởng lão bản lộ để đối phó, bèn đưa mắt cho nhau, cùng chạy xuống lầu.

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Bang chủ các người muốn giữ mạng sống cho hai ngươi, ắt phải đem sách “Ngũ độc bí truyền” trả lại ta… Ồ, không được, nếu y sao một bản giữ lại, rồi trả bản gốc cho ta, thì tính sao?” Lại nghĩ bụng: “Các cách cứu chữa độc tính của ám khí và Thần chưởng của ta, đều có chép rành rành trong sách; bọn họ đã có quyển sách ấy, thì còn cần gì đến ta nữa?” Nghĩ vậy, sắc diện thay đổi hẳn, nàng phi thân chặn đầu hai gã hóa tử ở giữa cầu thang, hất họ bay ngược lên lầu. Chỉ thấy bóng áo vàng vút lên, Lý Mạc Sầu đã trở lại tầng lầu, túm lấy cánh tay một gã hóa tử, “rắc” một cái, đã bẻ gãy xương cánh tay người đó. Gã hóa tử thứ hai cả kinh, nhưng rất có nghĩa khí, không bỏ chạy mà đứng che chắn cho người bạn bị thương, tung quyền đấm thẳng vào mặt Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu chộp cổ tay y, lại tiện tay bẻ gãy luôn xương cánh tay của y.

Hai gã hóa tử chỉ trong một chiêu đã bị trọng thương, biết là hôm nay đã gặp bất hạnh, bèn tựa lưng vào nhau, mỗi người sử dụng cánh tay chưa bị gãy của mình mà liều chết với Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu nhẹ nhàng nói:

– Hai vị hãy ở lại đây, đợi bang chủ mang sách tới chuộc về.

Hai gã hóa tử thấy Lý Mạc Sầu trở lại bàn uống rượu, xoay lưng về phía họ, bèn nhích dần từng bước về phía cầu thang, để thừa cơ bỏ chạy. Lý Mạc Sầu quay lại, cười, nói:

– Xem chừng phải bẻ gãy cả chân của hai vị mới chịu yên tâm ngồi lại.

Nói rồi đứng dậy.

Hồng Lăng Ba không nỡ, nói:

– Sư phụ, đệ tử canh giữ không cho họ chạy đi là được rồi.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Hừ, ngươi tốt bụng không phải chỗ.

Rồi chậm rãi tiến lại chỗ hai gã hóa tử. Hai gã hóa tử vừa phẫn nộ, vừa hoảng sợ.

Huynh muội Gia Luật Tề quan sát từ đầu, lúc này đã không nhịn nổi nữa, cùng đứng bật dậy. Gia Luật Tề nói nhỏ với Gia Luật Yến:

– Tam muội đi mau đi, nữ nhân kia lợi hại lắm đó.

Gia Luật Yến nói:

– Còn nhị ca?

Gia Luật Tề đáp:

– Ta cứu hai người kia, rồi sẽ chạy sau.

Gia Luật Yến biết nhị ca đã là một cao thủ ít ai địch nổi, thế mà nhị ca lại bảo cũng sẽ bỏ chạy, thì nàng không tin.

Lúc ấy Dương Quá vỗ bàn một cái, đến trước mặt Gia Luật Tề, nói:

– Gia Luật huynh, huynh và đệ cùng xuất thủ cứu người được chứ?

Dương Quá nghĩ rằng muốn cứu Lục Vô Song, thì sớm muộn gì cũng phải động thủ với Lý Mạc Sầu, mấy khi gặp được một hảo thủ trượng nghĩa cứu người như Gia Luật Tề, mà không kéo chàng ta vào cuộc, thì còn đợi lúc nào?

Gia Luật Tề thấy Dương Quá mặc bộ quân trang Mông Cổ, tướng mạo thập phần xấu xí, bình sinh chưa gặp người này, nghĩ thầm Dương Quá đã đi cùng với Hoàn Nhan Bình, tất biết mình là ai, nhưng Lý Mạc Sầu giỏi võ như thế, chàng khó bề thủ thắng, để một người bình thường xuất thủ, chỉ uổng mạng mà thôi, cho nên chàng còn lưỡng lự.

Lý Mạc Sầu nghe Dương Quá nói, thì nhìn chàng từ đầu xuống chân, cảm thấy giọng nói rất quen thuộc, nhưng tướng mạo một người thế này đã gặp sẽ chẳng thể quên, bèn nghĩ rằng chàng là một kẻ không quen biết.

Dương Quá nói:

– Ta không có binh khí, cần mượn một thứ.

Đoạn chàng vọt qua bên cạnh Hồng Lăng Ba, thuận tay tháo luôn cái bao kiếm nàng đeo bên hông, thơm một cái vào má nàng, nói:

– Thơm quá!

Hồng Lăng Ba đánh một chưởng, chàng đã cúi đầu trườn qua, đứng chắn giữa Lý Mạc Sầu và hai gã hóa tử. Thân pháp như thế, phải nói là mau lẹ dị thường, nhờ công phu thượng thừa mà chàng đã luyện ở trong nhà mồ với việc rượt bắt chim sẻ. Lý Mạc Sầu thầm kinh ngạc. Gia Luật Tề thì cả mừng, hỏi:

– Thỉnh vấn quý tính đại danh của huynh đài?

Dương Quá nói:

– Tiểu đệ họ Dương.

Chàng giơ cái bao kiếm lên, nói:

– Ta đoán rằng thanh kiếm bên trong đã gãy.

Chàng rút kiếm ra khỏi bao, quả nhiên là một thanh kiếm gãy. Hồng Lăng Ba đột nhiên tỉnh ngộ, kêu lên:

– Hảo tiểu tử, sư phụ, là hắn đó.

Dương Quá lột cái mặt nạ ra, nói:

– Sư bá, sư tỷ, Dương Quá tham kiến.

Gia Luật Tề nghe Dương Quá gọi “Sư bá, sư tỷ” thì chẳng còn hiểu ra sao, Lục Vô Song thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng: “Sao Đồ ngốc lại gọi Sư bá, sư tỷ?”, Lý Mạc Sầu thì cười nhạt, nói:

– Hừ, sư phụ của ngươi khỏe chứ?

Dương Quá lập tức nao lòng, nước mắt lưng tròng. Lý Mạc Sầu lạnh lùng nói:

– Sư phụ của ngươi quả dạy được một đệ tử giỏi giang.

Hôm trước Dương Quá đã dùng quái chiêu hóa giải được tuyệt kỹ bình sinh “Tam vô tam bất thủ” của nàng ta; cuối cùng dùng răng cắn, đoạt được cây phất trần của nàng ta; võ công quái dị khôn lường. Tuy rốt cuộc Lý Mạc Sầu đoạt lại cây phất trần, biết võ công của Dương Quá còn thua xa mình, nhưng sau đó nhớ lại vẫn không khỏi kinh ngạc: “Tên tiểu tử tiến nhanh như thế, thì sư muội chắc còn lợi hại hơn nữa. Võ công trong “Ngọc nữ tâm kinh” ghê gớm thật. May mà hôm trước sư muội không liên thủ với hắn, không thì… không thì…” Lúc này lại thấy chàng xuất hiện, Lý Mạc Sầu cảm thấy lo ngại, bất giác đưa mắt nhìn bốn phía, xem Tiểu Long Nữ có tới hay không.

Dương Quá đoán biết tâm ý nàng ta, cười hi hi, nói:

– Sư phụ của đệ tử hỏi thăm sức khỏe của sư bá đấy.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Nàng ta đâu? Hai ta đã lâu chưa gặp nhau.

Dương Quá nói:

– Sư phụ ở cũng gần thôi, lát nữa sẽ tới gặp.

Chàng biết mình hoàn toàn không phải là đối thủ của Lý Mạc Sầu, dù có thêm Gia Luật Tề, cũng khó thủ thắng, bèn bày kế “Bỏ ngỏ cổng thành”, đem sư phụ ra dọa Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nói:

– Ta quản giáo đệ tử của ta, can hệ gì đến sư phụ của ngươi?

Dương Quá cười, nói:

– Sư phụ của đệ tử xin sư bá một việc, xin sư bá hãy tha cho Lục sư muội.

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Ngươi loạn luân phạm thượng, dan díu ăn nằm với sư phụ của ngươi, trước mặt mọi người còn một điều sư phụ, hai điều sư phụ, không biết xấu hổ ư?

Dương Quá nghe Lý Mạc Sầu mở miệng làm nhục sư phụ, thì máu nóng bốc lên bừng bừng, dùng bao kiếm làm kiếm, đâm thật mạnh. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Ngươi làm trò xấu, lại sợ người ta biết chuyện chứ gì?

Dương Quá dùng bao kiếm tấn công dồn dập, chính là môn võ công khắc chế “Ngọc nữ kiếm pháp” của Lâm Triệu Anh mà Vương Trùng Dương khắc họa trên trần thạch thất. Lý Mạc Sầu không dám chậm trễ, vội vung cây phất trần chăm chú tiếp chiến.

Chiêu số cây phất trần của Lý Mạc Sầu đều xuất phát từ “Ngọc nữ kiếm pháp” mà ra, chỉ sau vài chiêu, Lý Mạc Sầu đã thấy kiếm pháp của Dương Quá tinh kỳ, mỗi chiêu thức của nàng đều bị chàng tiên liệu, ngăn chặn được cả, nếu không nhờ công lực thâm hậu, thì nàng đã bị núng thế. Nàng thầm oán hắn: “Sư phụ thiên vị, chỉ truyền thụ pho kiếm pháp đó cho một mình sư muội; ôi, chắc là để sư muội kiềm chế ta. Kiếm pháp này tuy lạ, nhưng ta đâu có sợ”. Nàng lập tức biến chiêu, đột nhiên phi thân nhảy lên bàn, chân phải đá chếch, chân trái đứng ngay mép bàn, thân hình chao động trước sau, phiêu dật như lá sen trên mặt hồ lộng gió. Nàng cười hi hi, hỏi:

– Nhân tình của ngươi có dạy ngươi thứ này chưa? Xem chừng chính nàng ta cũng chưa biết đâu!

Dương Quá ngẩn ra, hỏi:

– Nhân tình là cái gì?

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội ta từng thề độc, nếu không có nam tử cam nguyện chết thay nàng, thì nàng sẽ suốt đời sống trong nhà mồ, quyết không xuống núi. Nay nàng đã cùng ngươi xuống núi, hai người không phải phu thê, thì là nhân tình nhân ngãi, chứ còn gì nữa?

Dương Quá cả giận, không thèm nói, vung bao kiếm, cũng nhảy lên mặt bàn. Có điều là khinh công của chàng không bằng đối phương, không dám đứng cheo leo ở mép bàn, hai chân đạp vỡ mấy chén đĩa thức ăn mới đứng vững, lia cái bao kiếm phạt ngang thật mạnh. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần gạt bao kiếm ra, cười, nói:

– Khinh công của ngươi không tồi! Nhân tình của ngươi đối với ngươi quả nhiên tử tế, có tình có nghĩa.

Dương Quá giận không để đâu cho hết, quát:

– Họ Lý kia, mụ có còn là người hay không hả?

Lại dùng bao kiếm đâm lia lịa. Lý Mạc Sầu thản nhiên nói:

– Mọi việc xấu xa, cuối cùng lộ ra. Phái Cổ Mộ ta có hai kẻ bại hoại như nàng ta và ngươi, thật là mất hết thể diện.

Lý Mạc Sầu vừa giao đấu vừa luôn miệng trào phúng, bởi lẽ nàng ta lo sợ Tiểu Long Nữ đang ở gần đâu đây, nếu nhảy ra động thủ, nàng ta sẽ khó lòng địch nổi, nên phải dùng lời lẽ nhiếc móc tệ hại, để Tiểu Long Nữ xấu hổ, không dám hiện thân.

Dương Quá nghe nàng ta càng nói càng tệ hại; nếu nàng ta chửi bới chàng, thì cũng chẳng sao, đằng này nàng ta lại vũ nhục Tiểu Long Nữ như thế, trong cơn cuồng nộ, tay chân run run, đầu óc bỗng mụ đi, chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, tức thì đứng không vững, rú lên một tiếng, ngã từ trên bàn xuống. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần lên, quất thẳng xuống thiên linh cái của chàng.

Gia Luật Tề thấy tình thế nguy cấp, vội chộp hai ly rượu trên bàn, ném tới sau lưng Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nghe tiếng tiếng gió do ám khí phát ra, liếc ngang thấy ly rượu, lập tức hít hơi phong bế huyệt đạo sau lưng, định hãy cứ đập chết Dương Quá trước đã, rồi tính sau, nghĩ thầm chỉ hai ly rượu nhỏ thì chẳng có gì đáng ngại. Nào ngờ ly chưa đến, rượu đã văng đến trước, chỉ cảm thấy hai huyệt Chí Dương và Trung Khu bị rượu bắn vào tê tê thầm kêu: “Nguy quá, sự muội đến rồi! Chút rượu đã thế, chiếc ly sẽ thế nào?” Vội chuyển cây phất trần lại, kịp thời hất được hai chiếc ly đi, thấy cánh tay bị chấn động, càng lo thêm: “Sư muội đã luyện được khí lực mạnh mẽ vậy ư?” Đợi khi quay mình lại, Lý Mạc Sầu thấy người ném ly không phải Tiểu Long Nữ, mà là một thiếu niên cao cao, trang phục theo lối quân quan Mông Cổ, thì kinh ngạc, nghĩ thầm: “Trong đám hậu sinh thật có nhiều hảo thủ!” Thấy thiếu niên kia rút kiếm, giọng sang sảng, nói:

– Tiên cô hạ thủ quá ư tàn bạo, tại hạ muốn lĩnh giáo vài chiêu.

Lý Mạc Sầu thấy chàng thong thả lại gần, cước bộ ngưng trọng, tuổi chỉ độ hai mươi, nhưng sức ném ly rượu vừa rồi cùng tư thức rút kiếm, bước chân tựa hồ đã có công lực tu luyện hai chục năm, bèn chăm chú quan sát, cười hỏi:

– Các hạ là ai? Tôn sư là vị nào?

Gia Luật Tề cúi mình nói:

– Tại hạ Gia Luật Tề, là môn hạ của phái Toàn Chân.

Lúc này Dương Quá đã tránh sang một bên, nghe Gia Luật Tề bảo là môn hạ phái Toàn Chân, thì nghĩ thầm: “Y quả nhiên là người của phái Toàn Chân, không lẽ là đệ tử của Lưu Xứ Huyền? Xem chừng Hách Đại Thông chẳng có nổi một hảo thủ như y”.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Tôn sư là Mã Ngọc, hay là Khưu Xứ Cơ?

Gia Luật Tề nói:

– Không phải.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Là vị nào trong ba vị Lưu, Vương, Hách?

Gia Luật Tề nói:

– Đều không phải.

Lý Mạc Sầu cười ha hả, chỉ Dương Quá, nói:

– Tên kia tự xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương, vậy các hạ và hắn là sư huynh sư đệ chăng?

Gia Luật Tề ngạc nhiên nói:

– Sao thế được? Trùng Dương Chân Nhân tạ thế đã lâu, vị huynh đài này làm sao có thể là đệ tử của người được chứ?

Lý Mạc Sầu cau mày nói:

– Hừ, môn hạ phái Toàn Chân toàn là những tên tiểu tử nói khoác không ngượng mồm, giáo phái Toàn Chân nên sớm đổi tên thành phái “Toàn Giả” thì mới đúng. Tiếp chiêu!

Cây phất trần phất nhẹ, đánh xuống giữa đầu Gia Luật Tề. Gia Luật Tề tay trái giữ kiếm quyết, chân phải bước ra, sử chiêu “Định dương châm” đâm xéo lên, chính là kiếm pháp chính tông phái Toàn Chân. Một chiêu này thần hoàn khí túc, kình, công, thức, lực, hết thảy đều chuẩn xác, trông bình thường không có gì lạ, nhưng để luyện được tới mức chuẩn xác lạ lùng như thế, có người tốn công luyện cả đời cũng không được. Dương Quá trong “Hoạt tử nhân mộ” cũng từng học kiếm pháp phái Toàn Chân, dĩ nhiên biết những chỗ kỳ diệu của kiếm pháp đó, có điều là võ học của chàng pha tạp, chiêu “Định dương châm” này chàng không tài gì có thể sử một cách đoan ngưng hậu trọng như thế.

Lý Mạc Sầu thấy Gia Luật Tề sử chiêu đó, biết ngay là gặp kình địch, bèn bước chếch chân, vung cây phất trần ra phía sau. Gia Luật Tề chỉ thấy chùm sợi phất trần vùn vụt lúc bên phải khi bên trái, ập đến từ bốn phương tám hướng; chàng rất ít kinh nghiệm lâm trận, lần này gặp luôn cường địch, không dám lơ là, dốc toàn lực ứng phó. Thoáng chốc đôi bên đã trao đổi hơn bốn mươi chiêu, Lý Mạc Sầu càng đánh càng xích lại gần, Gia Luật Tề thu hẹp dần vòng kiếm, ngưng thần chống đỡ, thấy mình thua đã rõ; song Lý Mạc Sầu muốn thắng ngay thì cũng chưa thể. Lý Mạc Sầu thầm khen: “Tên tiểu tử này quả nhiên có võ công thuần chất của phái Toàn Chân, tuy chưa bằng ba vị Khưu, Vương, Lưu, song cũng chẳng thua Tôn Bất Nhị. Môn hạ phái Toàn Chân đúng là không thiếu nhân tài trẻ tuổi”.

Lại đấu thêm mấy chiêu, Lý Mạc Sầu vờ để lộ một chỗ sơ hở, Gia Luật Tề không biết mưu kế của đối phương, giơ kiếm đâm thẳng, Lý Mạc Sầu đột nhiên tung chân trái đá trúng cổ tay chàng, Gia Luật Tề tê dại cả một cánh tay, thanh kiếm văng khỏi tay; chàng tuy bại song không loạn, tay trái chém chéo, tay phải sử dụng phép cầm nã đoạt lấy cây phất trần của đối phương. Lý Mạc Sầu cười, khen:

– Công phu khá lắm!

Trong vòng vài chiêu, thấy phép cầm nã của Gia Luật Tề chứa đựng nhu kình vô tận, là điều mà Lưu Xứ Huyền và Tôn Bất Nhị không thể có được, thì nàng càng thầm kinh dị.

Dương Quá ngoạc mồm chửi:

– Tặc tiện nhân kia, đời này kiếp này ta không thèm gọi mụ là sư bá nữa.

Rồi dùng bao kiếm sấn tới giáp công. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần cuốn lấy thanh trường kiếm đã rời khỏi tay của Gia Luật Tề mà hất tới mặt Dương Quá, cười nói:

– Ngươi làm nhân tình của sư phụ, thì cứ gọi ta là sư tỷ cũng được.

Dương Quá nhìn thế bay đến của thanh kiếm, chìa bao kiếm ra đón. Lục Vô Song, Hoàn Nhan Bình cùng kêu lên thảng thốt, chỉ nghe “phập” một tiếng rất ngọt, thanh kiếm cắm gọn trong bao. Việc giơ bao kiếm đón kiếm phải cực kỳ chuẩn xác, chỉ cần chệch đi một li thôi, với sức quăng của Lý Mạc Sầu, thanh kiếm sẽ xuyên qua ngực chàng như chơi. May mà trong nhà mồ chàng đã chuyên cần rèn luyện cách sử dụng ám khí, thời khắc đón bắt, lực đạo nặng nhẹ, phương vị chuẩn đầu, đều đã luyện đến mức không sai một li, ám khí “Ngọc phong châm” nhỏ li ti như sợi tóc mà chỉ vung tay là trúng, nói chi đón lấy một thanh trường kiếm. Chàng đón kiếm xong, liền rút kiếm khỏi bao, liên thủ với Gia Luật Tề mà giao đấu với Lý Mạc Sầu.

Trên tầng lầu lúc này bàn nghiêng ghế đổ, bát vỡ đũa văng, các tửu khách đã bỏ đi từ sớm, Hồng Lăng Ba từ ngày theo sư phụ đến nay, chưa một lần thấy sư phụ ở thế hạ phong trong giao chiến, trong khu nhà mồ bị thua Tiểu Long Nữ, chỉ là vì không biết bơi lặn; cây phất trần tuy từng bị Dương Quá đoạt mất, song chỉ trong giây lát đã lấy lại được; còn buộc Dương Quá phải bỏ chạy. Bây giờ Hồng Lăng Ba tuy thấy sư phụ bị hai chàng thiếu niên giáp công, song trong lòng không chút lo lắng, chỉ đứng ngoài quan chiến. Ba người giao đấu say sưa, Lý Mạc Sầu lại biến chiêu, cây phất trần phát ra một đạo kình phong, khiến Gia Luật Tề và Dương Quá không thể đứng vững, rơi vào hiểm chiêu.

Gia Luật Yến và Hoàn Nhan Bình thốt lên:

– Nguy mất!

Hai nàng cùng xông lên trợ chiến. Chỉ sau ba chiêu, Gia Luật Yến đã bị cây phất trần đánh trúng bắp chân trái, lảo đảo đụng lưng vào mép một cái bàn mới khỏi ngã. Gia Luật Tề thấy muội tử thụ thương, tâm thần hơi rối loạn, bị Lý Mạc Sầu công kích mạnh, đành liên tiếp thoái lui.

Thanh y thiếu nữ thấy tình thế nguy ngập, chạy tới đỡ Gia Luật Yến lùi về. Lý Mạc Sầu trong lúc giao đấu mắt vẫn nhìn bốn phía, tai vẫn nghe tám phương, thấy thanh y thiếu nữ thân pháp khinh linh, hiển nhiên là danh gia đệ tử, bèn quất ngọn cây phất trần tới mặt nàng, hỏi:

– Cô nương họ gì? Sư tôn là vị nào?

Hai người cách nhau hơn một trượng, nhưng cây phất trần nói đến là đến, sợi phất trần đã vụt tới trước mặt; thanh y thiếu nữ sợ hãi, tay phải hất vội, từ trong ống tay áo phóng ra một thứ binh khí đánh bật cây phất trần sang một bên. Lý Mạc Sầu thấy món binh khí kia rất cổ quái, dài chừng ba thước, trông từa tựa một cây sáo, lấp lánh phát quang, thì tự hỏi: “Là thứ binh khí của nhà nào phái nào không biết?” Bèn công kích dồn dập để buộc thiếu nữ thể hiện hết sở trường. Thiếu nữ không địch nổi, Dương Quá và Gia Luật Tề vội tiếp cứu; song quả thật khó bề đối phó với lối đánh cực kỳ linh hoạt, đông một chiêu, tây một chưởng, dồn dập ác hiểm. Dương Quá nghĩ thầm: “Chỉ cần huynh muội bên mình sơ suất một chút, thì khó giữ được mạng sống”.

Chàng gọi to:

– Hảo tức phụ nhi, hảo muội tử, hảo thanh y tỷ tỷ, hảo Gia Luật sư muội, tất cả hãy mau mau xuống lầu, tản nhanh đi nào! Mụ tặc bà nương kia độc ác lắm đó!

Bốn thiếu nữ nghe chàng gọi ầm ĩ, loạn cả lên, người nào cũng gắn với chữ “hảo” thì bất giác cùng chau mày, thấy tình thế quả là hết sức nguy ngập. Lục Vô Song xuống lầu trước, thanh y thiếu nữ dìu Gia Luật Yến theo sau.

Hai gã hóa tử thấy mấy thiếu niên anh hiệp vì mình mà đánh nhau dữ dội với Lý Mạc Sau, rất muốn xông vào trợ chiến, khổ nỗi cánh tay đã bị bẻ gãy, không thể động thủ. Hai người cũng đầy nghĩa khí, tuy Lý Mạc Sầu không còn thời gian để ý đến họ, song họ vẫn đứng tại chỗ, không chịu bỏ chạy trước mấy người trẻ tuổi.

Dương Quá cùng Gia Luật Tề kề vai nhau chống đỡ chiêu thuật càng lúc càng lợi hại của Lý Mạc Sầu.

Hoàn Nhan Bình cũng đã xuống lầu. Dương Quá nói:

– Gia Luật huynh, ở đây khó thi triển thủ cước, chúng ta xuống lầu mà đánh.

Chàng nghĩ xuống chỗ đông người, có thể thừa cơ bỏ chạy. Gia Luật Tề nói:

– Được!

Hai người kề vai nhau lùi dần từng bước xuống cầu thang. Lý Mạc Sầu lấn dần từng bước, tuy đắc thắng, nhưng trong lòng rất chán nản: “Ta bình sinh muốn giết ai thì giết, hôm nay lại bị hai tên tiểu tử ngăn chặn; nếu để cho con tiện nhân Lục Vô Song chạy thoát, thì còn gì là uy danh của Xích Luyện Tiên Tử kia chứ?” Nàng quyết ý phải bắt giữ Lục Vô Song, nên truy sát xuống lầu.

Mọi người cùng dốc toàn lực, đấu từ tửu lâu ra đến giữa đường, rồi từ đường lớn lùi dần ra vùng ngoại vi. Dương Quá vẫn luôn miệng gọi:

– Tức phụ nhi thân ái, hảo muội tử thân ái, hãy đi càng nhanh càng tốt; thanh y cô nương, Gia Luật sư muội, tất cả hãy đi mau mau; hai nam tử hán này không chết được đâu.

Gia Luật Tề chẳng nói một lời, chàng chỉ hơn Dương Quá hai tuổi, nhưng sắc diện uy nghiêm, trầm tĩnh hậu trọng; khác hẳn với Dương Quá bồng bột nôn nóng, hăng hái ồn ào. Hai chàng đoạn hậu chặn địch; Gia Iuật Tề lẳng lặng đương đầu với độc chiêu của địch; Dương Quá thì vọt trước nhảy sau, làm rối loạn tâm thần đối phương.

Lý Mạc Sầu thấy Tiểu Long Nữ thủy chung không xuất hiện, thì càng yên tâm hơn, thi triển toàn lực. Dương Quá và Gia Luật Tề rốt cuộc công lực thua nàng ta quá xa, cả hai chàng đều đã đỏ gay cả mặt, tim đập dồn, thở hổn hển. Lý Mạc Sầu thấy vậy cả mừng, nghĩ thầm: “Không đầy nửa canh giờ nữa, ta sẽ lấy mạng hai gã tiểu quỉ này”.

Đang giao đấu kịch liệt, bỗng nghe trên không trung vang lên mấy tiếng chim kêu rất to, rồi hai con chim điêu lớn lao thẳng xuống đầu Lý Mạc Sầu, bốn cánh chim quạt gió, tung bụi cát từ dưới đất lên mù mịt, thanh thế kinh người. Dương Quá nhận ra đó là đôi chim điêu do vợ chồng Quách Tĩnh nuôi dưỡng, hồi nhỏ ở Đào Hoa đảo, chàng từng chơi đùa với đôi chim điêu này; nghĩ bụng đôi chim điêu đã tới, thì vợ chồng Quách Tĩnh cũng đang ở gần đâu đây; chàng đã tự rời bỏ cung Trùng Dương mà đi, thì không nên gặp lại Quách Tĩnh, vội nhảy lùi mấy bước, lấy chiếc mặt nạ đeo lên.

Đôi chim điêu nhào xuống vút lên, lúc bên phải khi bên trái, không ngừng lao tới mổ vào người Lý Mạc Sầu. Thì ra đôi chim điêu này nhớ rất dai, dăm năm trước chúng từng bị thương khổ sở vì trúng “Băng phách ngân châm” của Lý Mạc Sầu, chúng vẫn để bụng, hôm nay từ trên trời cao nhìn xuống, nhận ra kẻ thù, chúng liền sà xuống tấn công, nhưng vẫn sợ ngân châm lợi hại, nên mỗi khi thấy nàng ta vung tay, đôi chim điêu lại vội bay vút lên.

Gia Luật Tề thấy đôi chim điêu khó bề đánh thắng, bèn gọi Dương Quá:

– Dương huynh, chúng ta lại tiếp chiến đi, bốn phía giáp công, xem người kia đối phó sao đây?

Chàng đang định xông vào, thì từ phía đông nam bỗng vang lên tiếng vó ngựa, rồi một người cưỡi ngựa phi tới.

Ngựa phóng nhanh vô tỉ, tai vừa nghe tiếng vó ngựa, thì một con ngựa đã vọt tới trước mắt. Con ngựa thân dài, chân cao, toàn thân một màu lông hồng, thần tuấn phi phàm. Lý Mạc Sầu và Gia Luật Tề đều kinh ngạc: “Giống ngựa gì mà phóng nhanh đến thế?” Cưỡi trên lưng ngựa là một hồng y thiếu nữ, cả người lẫn ngựa đều giống như một khối lửa đỏ ào tới, chỉ có khuôn mặt trắng như tuyết của thiếu nữ là không phải màu đỏ mà thôi. Dương Quá thấy đôi chim điêu và con ngựa hồng, thì đã đoán ngay đó là Quách Phù, con gái của vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Chỉ thấy thiếu nữ gò cương, con ngựa hồng dừng ngay lại. Con ngựa này đang phi như bay, bảo dừng là dừng, không chút khó khăn, thần định khí nhàn. Gia Luật Tề từ nhỏ sống ở Mông Cổ, từng gặp không biết bao nhiêu con tuấn mã, nhưng tinh anh như con ngựa này thì chưa từng, bất giác càng thêm kinh ngạc. Chàng không biết rằng con ngựa này là con ngựa quí mà Quách Tĩnh có được hồi ở sa mạc Mông Cổ, bấy giờ còn nhỏ, nay đã thành ngựa già, nhưng thần vật cuối cùng vẫn khác ngựa thường, về già mà gân cốt vẫn cường tráng, cước lực vẫn hùng kiện gần như thời trẻ.

Dương Quá và Quách Phù nhiều năm không gặp, hồi trước chỉ nhớ nàng là một cô bé kiêu ngạo đáo để, không ngờ bây giờ đã thành một thiếu nữ vô cùng xinh tươi. Sau một phen phi ngựa gấp gáp, trán nàng lấm tấm mồ hôi, đôi má ửng hồng, càng tăng vẻ kiều diễm.

Nàng nhìn đôi chim điêu giây lát, rồi nhìn bọn Gia Luật Tề, khi ánh mắt nàng nhìn tới Dương Quá, thấy chàng mặc quân phục Mông Cổ, mặt mũi xấu xí do mang mặt nạ, thì nàng hơi cau mày, có vẻ khó chịu. Dương Quá từ nhỏ vốn không ưa Quách Phù, lần này trùng phùng, thấy nàng vẫn ghét mình, thì càng tự ti và đau buồn, nghĩ thầm: “Nàng coi khinh ta, đâu phải lỗi tại ta? Phụ thân nàng là đại hiệp thời nay, mẫu thân nàng là bang chủ Cái Bang, ông ngoại của nàng là bậc đại tông sư võ học, hết thảy những người am hiểu võ học trong thiên hạ, không ai không kính nể Quách gia nhà nàng. Còn phụ mẫu của ta thì sao? Mẹ ta chỉ là một thôn nữ; cha ta chẳng biết là ai, lại chết một cách không minh bạch… Hừ, dĩ nhiên ta không thể so với nàng. Số mạng ta đen đủi, luôn bị người vũ nhục. Nàng có vũ nhục ta, thì cũng thế thôi”. Chàng đứng một bên buồn bã, cảm thấy trên thế gian không một ai coi trọng chàng, sống trên đời thật là vô vị. Chỉ một mình sư phụ Tiểu Long Nữ đối với chàng chân tình, nhưng bây giờ không biết đã đi phương nào? Không biết kiếp này chàng còn được gặp lại sư phụ nữa chăng?

Trong lòng đang chán ngán, nghe có tiếng vó ngựa, lại thêm hai người nữa phi ngựa tới, hai con ngựa kia, một xanh một vàng, cũng đều thuộc loại tuấn mã, song chẳng thể so với con ngựa hồng của Quách Phù.

Hai người cưỡi ngựa là thiếu niên, đều mặc áo vàng. Quách Phù gọi:

– Võ gia ca ca, lại gặp mụ ác nữ rồi.

Hai thiếu niên cưỡi ngựa chính là huynh đệ Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn. Nhìn thấy Lý Mạc Sầu, mụ ta là đại cừu nhân sát hại cha mẹ họ, mấy năm nay họ đêm ngày không quên, ai dè giờ lại gặp đây, họ liền xuống ngựa, rút trường kiếm, từ hai bên tả hữu đánh tới. Quách Phù nói:

– Muội cũng tham chiến.

Nói rồi lấy thanh bảo kiếm gài bên yên, xuống ngựa lại gần trợ chiến.

Lý Mạc Sầu thấy bên địch càng đánh càng đông, toàn một bọn thiếu niên nam nữ, hai gã thiếu niên vừa tới chưa chi đã hùng hổ xông vào đánh chí chết, kiếm pháp thuần chính, hiển nhiên cũng là danh gia đệ tử; rồi lại thêm hồng y thiếu nữ, vừa xuất thủ mũi kiếm đã rung rung, phát quang loang loáng, đâm chéo tới, ngầm giấu chiêu số cực kỳ lợi hại sau đó, công lực tuy nông cạn, nhưng kiếm pháp vô cùng ảo diệu, thì giật mình, hỏi:

– Cô nương là con gái Quách gia ở Đào Hoa đảo phải không?

Quách Phù cười, nói:

– Mụ cũng nhận ra bổn cô nương.

Rồi đâm liền hai kiếm, nhắm vào chỗ yếu hại ở giữa ngực. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần gạt kiếm, nghĩ thầm: “Tiểu nữ hài nhi kiêu căng quá đấy, bản lĩnh như ngươi mà đòi vô lễ với ta, nếu ta không ngán ngại cha mẹ ngươi, thì mười đứa ngươi ta cũng đập chết”. Lý Mạc Sầu thu cây phất trần về, định đoạt thanh kiếm của Quách Phù, đột nhiên mũi kiếm của huynh đệ họ Võ cùng chọc tới hai bên sườn. Huynh đệ họ Võ và Quách Phù đều được Quách Tĩnh thân chinh truyền thụ võ công; ba người sống một nhà ở Đào Hoa đảo, cùng luyện một loại kiếm pháp. Kiếm chiêu của họ phối hợp cực kỳ chặt chẽ, người thoái kẻ tiến, người trên kẻ dưới, tuy không phải là trận pháp, nhưng ba kiếm liên thủ với nhau quả rất lợi hại.

Ba người, một đôi chim điêu, liên hoàn tấn công, vây Lý Mạc Sầu vào giữa. Nếu chỉ có vậy, lâu dần thì Lý Mạc Sầu cũng sẽ thừa sức đả thương một người, sau đó lấy mạng hai người kia. Nhưng Lý Mạc Sầu thấy bên địch đông người, nếu tất cả cùng tiến đánh, nàng khó lòng chống đỡ; thứ nữa còn vợ chồng Quách Tĩnh gần đâu đây, họ mà xuất hiện thì nguy to, bèn cuộn cây phất trần lại, cười nói:

– Bọn nhãi ranh kia, hãy nhìn thủ pháp đuổi khỉ của Xích Luyện Tiên Tử này!

Vù vù vù đánh liền sáu chiêu, mỗi chiêu đều nhắm vào chỗ yếu hại, khiến Quách Phù và huynh đệ họ Võ luống cuống chân tay, cứ phải nhảy tránh như con choi choi, quả nhiên giống khỉ. Lý Mạc Sầu cười một tràng, xoay mình gọi:

– Lăng Ba, đi thôi!

Hai sư đồ liền chạy về hướng tây bắc.

Quách Phù nói:

– Mụ sợ chúng ta rồi, đuổi mau!

Nàng cầm kiếm lao tới đuổi theo. Huynh đệ họ Võ thi triển khinh công, bám sát phía sau. Lý Mạc Sầu phẩy phẩy cây phất trần về phía sau, phong thái thản nhiên, mũi chân hơi nhún, không hề tung bụi, lướt đi nhẹ nhàng. Hồng Lăng Ba thì phải vắt chân lên cổ mà chạy. Quách Phù và huynh đệ họ Võ đã dùng đủ sức, mà khoảng cách với hai sư đồ Lý Mạc Sầu mỗi lúc một xa; chỉ có đôi chim điêu là nhanh hơn Lý Mạc Sầu, chúng không ngừng sà xuống tấn công. Võ Đôn Nhu thấy cuộc báo thù hôm nay vô vọng, bèn huýt sáo miệng, gọi đôi chim điêu trở về.

Bọn Gia Luật Tề sợ ba người có gì sơ suất, chạy theo sau tiếp ứng, thấy bọn Quách Phù quay lại, bèn tới gần hành lễ làm quen. Cả bọn đều trẻ tuổi, chỉ sau dăm ba câu đã trở nên thân tình. Gia Luật Tề bỗng sực nhớ, hỏi:

– Dương huynh đâu nhỉ?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Chàng bỏ đi một mình rồi. Muội hỏi chàng đi đâu, chàng cũng chẳng thèm trả lời.

Nói đoạn cúi đầu xuống.

Gia Luật Tề chạy lên đỉnh một cái gò, nhìn tứ phía, chỉ thấy thanh y thiếu nữ cùng Lục Vô Song sánh vai nhau mà đi, cũng đã khá xa; Dương Quá thì không thấy tăm hơi đâu cả. Gia Luật Tề có cảm giác như mất đi cái gì. Chàng gặp Dương Quá đây là lần đầu, liên thủ chống địch, chỉ trong một buổi mà mấy lần hai người tưởng nguy đến tính mạng, đôi bên đã trở nên thân thiết bởi chung kẻ thù, nay Dương Quá đột nhiên bỏ đi, không một lời từ biệt, thì cảm thấy như mất đi một bằng hữu lâu năm vậy.

Nguyên Dương Quá thấy huynh đệ họ Võ phóng ngựa đến, cùng với Quách Phù hợp lực đánh nhau với Lý Mạc Sầu, ba người ấy thần tình thân mật, kiếm pháp thi triển lại vô cùng tinh diệu, chỉ vài chiêu đã buộc Lý Mạc Sầu phải bỏ chạy. Chàng không biết đấy là Lý Mạc Sầu ngán ngại vợ chồng Quách Tĩnh mà bỏ đi, chàng cứ tưởng rằng kiếm chiêu của ba người ẩn chứa nội lực cực kỳ lợi hại, khiến Lý Mạc Sầu không thể chống đỡ.

Ngày Quách Tĩnh dẫn chàng lên núi Chung Nam học nghệ, Quách Tĩnh đã thi triển hùng uy, đánh bại vô số đạo sĩ phái Toàn Chân; võ công cao cường của Quách Tĩnh để lại ấn tượng quá sâu trong trí óc non nớt của chàng, thiết nghĩ đệ tử của Quách Tĩnh phải có võ công cao hơn chàng gấp mười lần. Với định kiến như vậy, nhìn một chiêu kiếm pháp tầm thường của ba người kia, chàng cũng ngỡ rằng nó ẩn chứa chiêu số diệu kỳ. Chàng càng nhìn càng phẫn uất, nhớ hồi nhỏ ở Đào Hoa đảo bị huynh đệ họ Võ hai phen đánh đập, Quách Phù đứng bên cạnh cứ xúi: “Đánh nữa đi! Đánh mạnh vào”. Lại nhớ Hoàng Dung cố ý không dạy võ công cho chàng; Quách Tĩnh võ công cao cường như thế, cũng không chịu truyền thụ, lại dẫn chàng lên cung Trùng Dương, núi Chung Nam, để cho bọn đạo sĩ hành hạ, thì trong lòng chàng đầy một nỗi oán hận. Lại thấy bọn Hoàn Nhan Bình, Lục Vô Song, thanh y thiếu nữ, Gia Luật Yến đều nhìn chàng với ánh mắt khác lạ, nghĩ thầm: “Lý Mạc Sầu dùng lời lẽ nhơ nhuốc chửi cô cô của ta, bọn người kia đều tin. Bọn họ coi thường ta thì cứ việc, nhưng sao dám khinh bỉ cô cô của ta? Ta lúc này mặt mũi khó coi, là do ta giận huynh đệ họ Võ và Quách Phù, giận Quách bá phụ, Quách bá mẫu; các người lại tưởng rằng vì ta tằng tịu dan díu với cô cô của ta mà ta hổ thẹn ư?” Đột nhiên chàng chạy như phát cuồng, cũng không theo đường nào cả, cứ chạy loạn giữa cảnh hoang dã. Lúc này tâm thần của chàng bất thường, chỉ nghĩ mọi người trong thiên hạ đều gây khó dễ với chàng, lại quên rằng mình đang đeo mặt nạ, dẫu sắc mặt có khó coi hay ngượng ngùng chăng nữa, bọn Hoàn Nhan Bình kia làm sao thấy được? Không dưng vô cớ mấy người kia sao lại chê cười chàng? Lý Mạc Sầu nổi tiếng xấu xa chốn giang hồ, đang chống đối mọi người, ai lại đi tin lời của mụ ta?

Chàng vốn từ vùng tây bắc đi xuống hướng đông nam; bây giờ chàng rời bỏ mấy người kia càng lúc càng xa, rốt cuộc lại chạy về hướng tây bắc. Trong lòng rối loạn, căm ghét thế gian, chàng lột mặt nạ, cứ đi bừa giữa chốn hoang sơn dã lĩnh; đói bụng thì hái quả dại rau dại mà ăn. Càng đi càng xa, chưa đầy một tháng, hình dung tiều tụy, quần áo rách nát, đến một vùng núi cao. Chàng cũng không biết đây là Hoa Sơn, một trong Ngũ nhạc của thiên hạ. Chỉ thấy sơn thế hiểm trở, thì cứ leo lên đỉnh núi như một người điên.

Khinh công của chàng tuy cao, nhưng sự hiểm trở của Hoa Sơn thì cũng không đâu bằng. Leo tới lưng chừng núi, khí trời rất lạnh, mây vờn trên đầu, gió bấc mạnh dần, tiếp đó hoa tuyết rơi lả tả. Trong lòng phiền não, chàng tự hành hạ mình, chẳng tìm chỗ tránh tuyết, gió tuyết càng mạnh, chàng càng chọn chỗ vách núi cheo leo mà đi, đi đến gần tối, tuyết rơi từng nắm lớn, dưới chân trơn trượt, đường càng khó đi, chỉ cần bước hụt một cái, rất dễ lăn xuống vực sâu vạn trượng, tan xương nát thịt. Chàng cũng bất cần, coi tính mạng của mình như cỏ rác, cứ thế cắm đầu leo thẳng lên.

Lại đi một hồi, bỗng nghe sau lưng tiếng lạo xạo khe khẽ, tựa hồ có dã thú chạy trong tuyết; Dương Quá liền quay mình lại, thấy phía sau có một bóng người nhảy xuống sơn cốc.

Dương Quá cả kinh, vội chạy lại chỗ đó, nhòm xuống hẻm núi, thấy một người dùng ba ngón tay bám vào vách đá, thân người treo lơ lửng giữa không trung. Chỉ dùng ba ngón tay bám vào vách đá, giữ toàn thân treo lơ lửng, dưới kia là vực sâu vạn trượng, võ công cao siêu như thế thật ngoài sức tưởng tượng. Thế là chàng bèn cung kính hành lễ, nói:

– Lão tiền bối, thỉnh người lên đây!

Người kia cười ha ha, vang động cả sơn cốc, bật người lên mép vực, đột nhiên gằn giọng hỏi:

– Ngươi có phải là đồng đảng của “Tạng biên ngũ xú” hay không? Giữa lúc gió to tuyết dầy, nửa đêm khuya khoắt, lén lén lút lút làm gì ở chốn này?

Dương Quá tự dưng bị nhiếc móc, nghĩ thầm: “Đại phong đại tuyết, bán dạ tam canh, rốt cuộc mình lén lén lút lút làm gì ở đây vậy?” Động đến tâm sự, chàng đột nhiên khóc òa lên, nghĩ một đời bất hạnh, bị người khinh rẻ, người mà chàng kính yêu vô hạn là Tiểu Long Nữ thì lại vô lý trách cứ chàng, đoạn tuyệt bỏ đi, chắc kiếp này chẳng còn hi vọng gặp lại, thì khóc một cách đau đớn não nề, tưởng chừng muốn dốc cho vợi ngàn mối sầu oán tích kết trong lòng.

Người kia thoạt nghe chàng khóc, thì không khỏi ngẩn ra, càng nghe càng thấy tiếng khóc đau thương, thì lấy làm lạ, cuối cùng thấy chàng khóc mãi không dừng, thì đột nhiên cất tiếng cười vang; một khóc một cười, hai thứ tiếng đụng vào nhau trong sơn cốc, chấn động, làm cho từng tảng tuyết bám trên vách núi rơi xuống tới tấp.

Dương Quá thấy người kia cười, thì nín khóc, giận hỏi:

– Lão tiền bối cười gì vậy?

Người kia cười, hỏi:

– Ngươi khóc cái gì vậy?

Dương Quá định dùng lời lẽ nặng nề, nhưng nghĩ người kia võ công cao siêu khôn lường, đành nuốt giận, cung kính vái chào, nói:

– Tiểu nhân Dương Quá, tham kiến tiền bối.

Người kia dùng một cái que trúc gẩy khẽ vào cánh tay chàng một cái, Dương Quá cảm thấy bị một luồng lực đạo đẩy mạnh ra phía sau, thế đẩy khiến chàng không thể không ngã ngửa; nhưng chàng đã từng luyện “Cáp mô công”, đầu ở dưới đất, chân chĩa lên trời, thế là chàng bèn lộn người một vòng, ngã rồi lại đứng ngay ngắn như cũ.

Việc xảy ra bất ngờ đối với cả hai người. Với võ công hiện tại của Dương Quá, người khác muốn xuất thủ một cái khiến chàng phải ngã lộn người đi một vòng, thì cao thủ như Lý Mạc Sầu, Khưu Xứ Cơ cũng chẳng thể làm nổi. Người kia thấy Dương Quá lộn một vòng lại đứng vững như cũ, thì cũng không dám coi thường chàng nữa, lại hỏi:

– Ngươi khóc cái gì?

Dương Quá nhìn kỹ, thấy người kia là một lão nhân râu tóc bạc trắng, quần áo rách rưới như một gã hành khất, tuy trong bóng tối, nhưng được ánh tuyết trắng hắt lên, chàng thấy mặt lão nhân hồng hào, thần thái hăng say, thì bất giác kính nể, nói:

– Tiểu nhân số mệnh hẩm hiu, sống trên đời như thừa, chi bằng chết quách cho xong.

Lão nhân nghe lời lẽ chua chát, đúng là đầy phẫn uất thì gật gật đầu, hỏi:

– Ai vũ nhục ngươi? Mau nói cho công công của ngươi nghe coi.

Dương Quá nói:

– Phụ thân của tiểu nhân bị người ta giết, song không biết là ai giết. Mẫu thân của tiểu nhân lại bị bệnh qua đời, trên thế gian chẳng có ai thương xót tiểu nhân.

Lão nhân nói:

– Hừm, đáng thương thật. Sư phụ dạy võ công cho ngươi là ai?

Dương Quá nghĩ thầm: “Quách bá mẫu danh nghĩa là sư phụ của ta, nhưng không dạy ta chút võ công nào cả. Bọn đạo sĩ thối tha phái Toàn Chân nhắc đến chỉ thêm bực mình. Âu Dương Phong là nghĩa phụ của ta, chứ không phải là sư phụ. Võ công của ta là do cô cô dạy. Nhưng cô cô nói muốn làm thê tử của ta, ta cứ gọi cô cô là sư phụ, thì cô cô lại tức giận. Kinh sách mà Vương Trùng Dương tổ sư và Lâm Triệu Anh bà bà khắc họa trên trần thạch thất, sao có thể gọi là sư phụ của ta? Sư phụ của ta tuy nhiều, song không thể nhắc đến một ai cả”. Câu hỏi của lão nhân lại động đến tâm sự của chàng, chàng lại khóc òa lên, nói:

– Tiểu nhân không có sư phụ, không có sư phụ!

Lão nhân nói:

– Được rồi! Được rồi! Ngươi không chịu nói thì thôi.

Dương Quá khóc, nói:

– Không phải là tiểu nhân không chịu nói, mà là không có thật.

Lão nhân nói:

– Không có thì thôi, làm sao phải khóc? Ngươi có quen biết “Tạng biên ngũ xú” hay không?

Dương Quá đáp:

– Tiểu nhân không quen biết.

Lão nhân nói:

– Ta thấy ngươi một mình đi trong đêm tối, lại tưởng ngươi là đồng đảng của “Tạng biên ngũ xú”. Đã không phải, thì rất tốt.

Lão nhân chính là “Cửu chỉ thần cái” Hồng Thất Công. Lão nhân đã đem chức vị bang chủ Cái Bang truyền cho Hoàng Dung, rồi một mình phiêu du nơi này chốn nọ, tìm kiếm và thưởng thức của ngon vật lạ trong thiên hạ. Quảng Đông địa khí ôn hòa, là nơi có nhiều món ăn trân kỳ hơn cả. Từ khi đến Lĩnh Nam, Hồng Thất Công ở lỳ tại đó hơn mười năm, không trở lên Trung Nguyên ở phía bắc nữa.

Đất Quảng rắn độc mèo già, cá đốm chuột khoang, đều là món ăn khoái khẩu; tôm hùm hấp rượu, hào mập nấu cháo, heo sữa quay giòn, thôi thì đủ món; Hồng Thất Công như lên thiên đường, khoái lạc vô cùng. Gặp chuyện bất bình, lão lại kín đáo phò nguy tế khốn, diệt ác trừ gian, với bản lĩnh hiện thời của lão, không ai có thể hay biết lão đang hiện diện chỗ nào. Có lần nghe lỏm các đệ tử Cái Bang trò chuyện, lão được biết Cái Bang dưới sự dẫn dắt của Hoàng Dung, Lỗ Hữu Cước, thái bình vô sự, bên trong giảm bớt sự tranh chấp giữa hai phe áo dơ, áo sạch; bên ngoài thì loại trừ sự uy hiếp của người Kim và bang Thiết Chưởng, lão nhân gia thảnh thơi vô sự, ngày ngày chỉ bận bịu với việc ăn uống thỏa thích mà thôi.

Năm nay Nhị xú trong “Tạng biên ngũ xú” tại Quảng Đông lạm sát người vô tội, giết hại không biết bao nhiêu người lương thiện. Hồng Thất Công ghét ác như kẻ thù, vốn đã định ra tay trừ khừ Nhị xú, nhưng muốn giết một mình hắn thì quá dễ; tìm diệt bốn tên còn lại trong “Tạng biên ngũ xú” sẽ rất khó khăn; bởi vậy Hồng Thất Công mới bí mật bám theo tung tích, chờ khi cả năm tên tụ lại một chỗ, lão sẽ một đòn diệt sạch cho gọn; không ngờ bám theo từ nam lên bắc, vượt qua ngàn dặm, cuối cùng đến tận Hoa Sơn. Hiện thời bốn trong năm “Tạng biên ngũ xú” đã tụ một chỗ, chỉ còn tên đứng đầu, gọi là Đại xú, chưa đến. Lão đang theo dõi, thì trong đêm tối tuyết dày bắt gặp Dương Quá.

Hồng Thất Công nói:

– Hai ta tạm gác chuyện ấy lại đã, ta thấy ngươi chắc đã đói bụng, phải ăn no rồi tính.

Thế là lão bới tuyết tìm một số cành củi, nhóm một đống lửa. Dương Quá giúp lão kiếm củi, hỏi:

– Lão tiền bối nấu món gì ạ?

Hồng Thất Công nói:

– Món Ngô Công (thịt rết)!

Dương Quá ngỡ lão nói đùa, chỉ cười cười, không hỏi thêm. Hồng Thất Công nói:

– Ta vất vả đuổi theo “Tạng biên ngũ xú” từ Lĩnh Nam, một mạch đến tận Hoa Sơn này, nếu không tìm được vài món ăn đặc biệt, thì hóa ra không phải với nó quá sao?

Lão vừa nói vừa vỗ vỗ vào bụng. Dương Quá thấy toàn thân lão săn chắc, chỉ riêng cái bụng là hơi phệ. Hồng Thất Công lại nói:

– Cái chất âm của Hoa Sơn là thứ cực âm hàn trong thiên hạ, lũ rết ở đây béo ngậy. Quảng Đông tiết trời nóng bức, bách vật sinh trưởng nhanh, thịt rết không ngon mấy.

Dương Quá nghe lão nói nghiêm trang, hình như không phải nói đùa, thì nửa tin nửa ngờ.

Hồng Thất Công đặt bốn hòn đá vây quanh đống lửa, lấy từ bên thắt lưng ra một cái nồi sắt nhỏ, đặt lên bếp, vốc hai vốc tuyết bỏ vào nồi, nói:

– Theo ta đi bắt rết.

Vụt một cái, lão đã nhảy lên chỗ vách núi cao hơn hai trượng. Dương Quá thấy sơn thế hiểm trở, không dám nhảy. Hồng Thất Công gọi:

– Lên đây mau! Tên tiểu tử vô dụng kia!

Dương Quá ức nhất là bị người khác coi thường, nghe gọi vậy bèn nghiến răng, đề khí nhảy lên, nghĩ thầm: “Sợ cái gì? Ngã mất mạng là cùng chứ gì?” Khi bạo gan hơn, khinh công thi triển càng nhịp nhàng như ý, chàng bám sát đằng sau Hồng Thất Công, những chỗ cheo leo trơn trượt, chàng cũng vượt qua được cả.

Chừng sau một tuần trà, hai người leo tới một đỉnh núi không có dấu chân người. Hồng Thất Công thấy chàng có tài và có gan thi triển khinh công như vừa rồi, thì rất hài lòng; với kiến thức quảng bác của mình, lão vẫn chưa nhận biết được lai lịch võ công của gã thiếu niên này, cũng định hỏi cho ra lẽ, nhưng còn mải nghĩ đến món ăn ngon lành, bèn tới bên một tảng đá lớn, hai tay bới đất vun lên miệng hố. Một lát sau thì lộ ra một con gà trống đã chết. Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Ô hay, sao ở đây lại có con gà trống?

Rồi chợt hiểu: “Thì ra lão nhân gia vùi nó ở đây”. Hồng Thất Công cười cười, lôi con gà lên. Trong ánh sáng mờ mờ của tuyết, chàng thấy có mấy chục con rết bám cắn thân con gà. Lũ rết dài bảy, tám tấc, đốt đen đốt hồng, hoa văn loang lổ, chúi đầu nhung nhúc. Chàng từ nhỏ lưu lạc giang hồ, vốn không sợ độc trùng, nhưng đột nhiên gặp ở một chỗ nhiều con rết lớn thế này, chàng cũng không khỏi rùng mình. Hồng Thất Công đắc ý, nói:

– Rết và gà hai loài xung khắc nhau, tối qua ta vùi ở đây con gà này, quả nhiên dụ được rết tứ phía bu lại.

Lão nhét con gà cùng lũ rết vào trong một cái túi vải, hoan hỉ rời khỏi đỉnh núi. Dương Quá theo sau, rùng mình nghĩ thầm: “Không lẽ xơi món rết thật? Trông thần tình của lão, không phải lão có ý dọa ta”.

Lúc này nồi nước tuyết đã sôi sùng sục, Hồng Thất Công mở túi vải, tóm đuôi rết, thả từng con vào trong nồi. Lũ rết quằn quại một lát, đều chết thẳng cẳng. Hồng Thất Công nói:

– Lũ rết lúc sắp chết, có bao nhiêu chất độc trong cơ thể đều nhả ra hết, cho nên nồi nước này độc lắm đó.

Dương Quá đổ nước luộc rết xuống vực.

Hồng Thất Công dùng một con dao nhỏ chặt đầu đuôi từng con rết, tuốt nhẹ một cái, cái vỏ của con rết tuột ra, để lộ lớp thịt màu trắng, hơi trong, như thịt tôm, trông rất đẹp.

Hồng Thất Công lại đun sôi một nồi nước, cho thịt rết vào nhúng cho hết sạch chất độc; rồi lấy từ cái bọc sau lưng ra bảy, tám lọ đựng dầu mỡ mắm muối gia vị. Lão cho mỡ vào nồi, xào thịt rết, lập tức một mùi thơm nức mũi tỏa ra. Dương Quá thấy lão nuốt nước miếng liên tục, lộ rõ vẻ hăm hở thèm ăn, thì vừa kinh ngạc vừa buồn cười.

Hồng Thất Công đợi thịt rết hơi vàng, mới cho mắm muối gia vị vào trộn đều. Đoạn lão nhón tay vào nồi, lấy một con đưa vào miệng, nhai nhai chầm chậm, hai mắt lim dim, hít một hơi dài, cảm thấy mọi khoái lạc trong thiên hạ, không gì bằng món này. Lão gỡ một bầu rượu ở thắt lưng, đặt xuống bên cạnh, nói:

– Xơi món rết thì đừng uống rượu, nếu không rượu sẽ làm mất hết vị ngon của thịt rết.

Lão ăn mười mấy con liền, rồi bảo Dương Quá:

– Ăn đi, sao phải làm khách?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Tiểu nhân không ăn đâu.

Hồng Thất Công ngẩn người, rồi cười ha hả, nói:

– Phải rồi, phải rồi, ta từng gặp không ít anh hùng hảo hán, đầu rơi máu chảy chẳng cau mày, song lại không dám xơi một con rết với lão khiếu hóa này. Ha ha, tên tiểu tử này cũng nhát gan như họ cả thôi.

Dương Quá bị lão nói khích, nghĩ thầm: “Mình nhắm mắt lại, không nhai, nuốt vài con, cho lão khỏi coi thường mình”; bèn dùng hai cái que làm đũa, gắp một con rết xào trong nồi. Hồng Thất Công như đọc được ý nghĩ của chàng, nói:

– Nhắm mắt nhắm mũi, không nhai, nuốt vài con rết, như thế gọi là hạng ngu xuẩn, thực bất tri kỳ vị, chứ đâu phải là anh hùng hảo hán.

Dương Quá nói:

– Ăn độc trùng cũng được coi là anh hùng hảo hán ư?

Hồng Thất Công nói:

– Trong thiên hạ có vô số kẻ không biết ngượng mồm tự xưng là anh hùng hảo hán, nhưng dám ăn thịt rết thử hỏi có được mấy người?

Dương Quá nghĩ thầm: “Cùng lắm là chết chứ quái gì!” Liền bỏ con rết vào miệng mà nhai. Vừa nhai một cái đã cảm thấy vị thơm ngon, ngọt đậm lạ thường, nhai vài miếng thật kỹ, nuốt xuống, lại gắp, nhai con thứ hai, tấm tắc khen:

– Ngon quá! Ngon quá đi mất!

Hồng Thất Công thấy chàng ăn ngon lành, thì cũng mừng thầm. Thế là hai người, một già một trẻ, tranh nhau gắp, hơn một trăm con rết xào trong nồi đã xơi hết sạch. Hồng Thất Công đưa lưỡi liếm quanh mép, hận rằng không có trăm con rết nữa mà ăn cho sướng miệng. Dương Quá nói:

– Tiểu nhân lại mang con gà đi vùi, dụ rết đến được chăng?

Hồng Thất Công nói:

– Không được, một là mãnh tính của con gà đã hết, hai là quanh đó chẳng còn con rết béo mập nào nữa.

Đột nhiên lão vươn vai, ngáp một cái, nằm ngửa xuống tuyết, nói:

– Ta đuổi gấp tịch đồ, đã năm ngày đêm liền không ngủ, hiếm khi được chén một bữa ngon như hôm nay, bây giờ buồn ngủ quá, phải làm một giấc ngủ ba ngày liền, dù trời có sụp, ngươi cũng chớ đánh thức ta dậy. Ngươi hãy để ý, đừng để dã thú thừa cơ ta ngủ say, ngoạm mất cái đầu của ta, nghe chưa.

Dương Quá cười, đáp:

– Tuân lệnh!

Hồng Thất Công nhắm mắt lại, không lâu đã ngủ say.

Dương Quá nghĩ thầm: “Vị tiền bối này đúng là một kỳ nhân. Không lẽ sẽ ngủ ba ngày liền thật sao? Dù thật hay giả, mình cũng chẳng biết đi đâu, thôi thì đợi lão ba ngày vậy”. Món thịt rết ở Hoa Sơn là vật chí hàn trong thiên hạ, sau khi ăn, Dương Quá cảm thấy trong bụng cứ mát lạnh, bèn tìm một tảng đá, ngồi dụng công thật lâu, mới thấy toàn thân dễ chịu.

Lúc này tuyết lông ngỗng rơi từng bông dày không ngớt, Hồng Thất Công toàn thân phủ một lớp tuyết dày, trông như đắp một tấm chăn bông vậy. Cơ thể người vốn có hơi ấm, hoa tuyết gặp nóng ấm thì tan, tại sao tuyết lại phủ trên mặt lão thế kia? Dương Quá thoạt tiên không hiểu nổi, nghĩ một hồi chợt hiểu: “Phải rồi, trong lúc ngủ, lão tiềm hành thần công, dồn hết hơi ấm vào bên trong cơ thể. Một người sống đấy, song lúc ngủ lại giống một tử thi, nội công luyện tới mức đó, thực đáng kính nể. Cô cô từng để cho ta nằm trên giường hàn ngọc, cốt mong mai sau ta có thể luyện thành nội công thâm hậu. Ôi, chiếc giường hàn ngọc giờ đây sao rồi?!”

Thấy trời sắp sáng, Hồng Thất Công đã bị vùi kín trong nấm mồ bằng tuyết cao cao. Dương Quá hoàn toàn không cảm thấy mỏi mệt, chỉ thấy bốn phía đều im lìm, bỗng phía đông bắc có tiếng chân đạp trên tuyết; chàng ngưng thần nhìn kỹ, thấy có năm cái bóng đen đang chạy lại, thân pháp ai nấy mau lẹ, đao quang sau lưng loang loáng. Dương Quá chợt nghĩ thầm: “Chắc là “Tạng biên ngũ xú” mà lão tiền bối đã nói”. Chàng bèn nấp vào sau một tảng đá lớn.

Lát sau năm người kia chạy tới phía trước tảng đá. Một người kêu lên:

– Thôi chết, đây là cái bầu rượu của lão khiếu hóa!

Người thứ hai lắp bắp:

– Lão ta… lão ta đang ở Hoa Sơn.

Năm người kia mặt lộ vẻ kinh hoàng, họ chụm đầu lại bàn tính.

Đột nhiên năm gã tách ra, chạy vội xuống núi. Đường núi vốn hẹp, một gã mới chạy vài bước đã vấp phải người Hồng Thất Công, hắn thấy đụng phải một vật mềm mềm, thì kêu “Ối” một tiếng. Bốn tên kia dừng bước, quây chung quanh, bới tuyết, thấy Hồng Thất Công nằm ngay đơ bên dưới, tựa hồ đã chết từ lâu. Năm gã cả mừng, sờ tay chỗ mũi của lão, thấy tắt thở, thân thể thì lạnh giá. Năm gã reo mừng, nhảy cỡn cả lên, còn hơn là vớ được của quí. Một tên nói:

– Lão khiếu hóa cứ bám theo như đỉa đói, ai dè cuối cùng lại chết thảm ở đây.

Tên thứ hai nói:

– Lão tặc Hồng Thất Công võ công cao siêu, sao lại chết thế này?

Một tên nói:

– Võ công cao siêu thì không chết hay sao? Thử nghĩ xem lão ta đã bao nhiêu tuổi rồi còn gì.

Bốn tên kia đồng thanh khen phải, nói:

– May mà Diêm Vương gọi lão ta đi sớm, chứ không thì bọn ta khó mà đối phó.

Tên cầm đầu nói:

– Nào, bọn ta mỗi người chém lão khiếu hóa vài nhát đao cho bõ tức! “Cửu chỉ thần cái” Hồng Thất Công anh hùng cái thế, cuối cùng bị “Tạng biên ngũ xú” chém nát thây, thành mấy chục mảnh.

Dương Quá nghĩ thầm: “Thì ra vị lão tiền bối này là Hồng Thất Công, hèn chi võ công cao siêu đến thế.” Danh tiếng Hồng Thất Công và tuyệt kỹ “Hàng long thập bát chưởng” chàng từng nghe Tiểu Long Nữ kể lúc nhàn đàm; nhưng còn hình dạng và tính khí của Hồng Thất Công, thì hồi trước Lâm Triệu Anh cũng không biết rõ, nên Tiểu Long Nữ dĩ nhiên cũng không biết. Chàng đã thủ sẵn “Ngọc phong châm” trong tay, nghĩ mình không thể đối phó cùng lúc với cả năm tên, sẽ chờ cơ hội phóng ám khí đả thương hai, ba tên trước; rồi sẽ thanh toán nốt hai, ba tên còn lại. Nhưng bây giờ nghe chúng bảo sẽ băm vằm cho bõ ghét, thì chàng sợ chúng đả thương Hồng Thất Công, không kịp phóng ám khí, lập tức quát to, từ sau tảng đá nhảy ra. Trong tay không có binh khí, chàng tiện tay nhặt hai cành cây, phát chiêu đánh năm tên kia. Năm chiêu này thần tốc dị thường, chỉ tiếc trước đó chàng đã quát to khiến Ngũ xú đề phòng, chứ không thì ít ra một hai tên đã bị trúng đòn. Nghe quát, năm tên quay lại chống đỡ.

Chúng thấy chỉ có một thiếu niên lam lũ, hai tay cầm hai cành cây, thì hầu như không chút sợ hãi. Đại xú nói:

– Tên tiểu tử thối tha kia, ngươi là tiểu khiếu hóa phải không? Lão khiếu hóa đã đi gặp tổ tông rồi, ngươi hãy mau quì xuống khấu đầu năm vị gia gia đi nào.

Dương Quá vừa nhìn thấy thân pháp của năm tên, đã biết qua võ công của chúng. Cả năm tên đều dùng đao to bản, võ công do một sư phụ truyền thụ, công phu thâm thiển khác nhau, nhưng gia số thì là một. Nếu là một đánh một, chàng thắng là cầm chắc; còn một đấu năm, thì chàng không thể địch nổi. Nghe Đại xú bảo chàng khấu đầu, bèn nói:

– Vâng, tiểu nhân xin khấu đầu năm vị gia gia.

Chàng tiến một bước, vái một cái. Động tác quì vái này chính là chiêu “Tiền cung hậu cứ”; năm trước Tôn bà bà từng sử qua, nhân lúc đạo sĩ phái Toàn Chân Trương Chí Quang xuất kỳ bất ý, ném chiếc lọ, chút nữa đánh mù mắt y. Lúc này Dương Quá sử xong chiêu đó, lại đánh tiếp chiêu “Thôi song vọng nguyệt”, đột nhiên hai tay gạt ngang, quật hai cành cây sang hai bên.

Tên đứng bên trái là Nhị xú, ở bên phải là Tam xú. Chiêu “Thôi song vọng nguyệt” rất hiểm độc, Tam xú công phu khá cao, vội dựng đứng cây đao chống đỡ, bị cành cây của Dương Quá đánh vào sống đao, hổ khẩu nóng bừng, suýt nữa buông rơi đại đao. Ngũ xú thì bị quật trúng xương ống chân, “cộc” một tiếng, xương không gãy, nhưng đau oằn cả người lại. Bốn tên còn lại cả giận, bốn thanh đao vù vù chém tới. Dương Quá thân pháp linh hoạt, nhanh nhẹn né tránh, bọn kia chưa làm gì được. Một hồi sau, Ngũ xú khập khiễng cũng tiến vào tham chiến, nhăn nhó tức giận, xuất thủ như một kẻ liều mạng.

Dương Quá khinh công hơn hẳn năm tên kia; nếu muốn bỏ chạy thì không khó; nhưng nhớ đến Hồng Thất Công, sợ rời xa lão một bước, năm tên kia sẽ hạ độc thủ. Nhưng một mình chàng không thể đánh lại năm tên kia liên thủ, sẽ mau chóng gặp nguy hiểm; thế là chàng bèn cúi xuống, ôm Hồng Thất Công lên, tay phải múa cành cây dọn đường, chạy một mạch hơn mười trượng. “Tạng biên ngũ xú” đuổi theo sau.

Dương Quá cảm thấy thân thể Hồng Thất Công lạnh giá, bất giác lo sợ, nghĩ thầm lão có ngủ say đến mấy, cũng quyết không thể không tỉnh giấc, nếu lão chưa chết. Bèn gọi:

– Lão tiền bối, lão tiền bối!

Hồng Thất Công chẳng cựa quậy gì hết, không khác gì một tử thi, chỉ chưa cứng đơ mà thôi. Dương Quá đưa tay sờ chỗ ngực trái, hình như tim lão còn đập thoi thóp, mũi thì tắt thở hoàn toàn.

Dương Quá dừng lại một chút, Đại xú đã đuổi tới, chỉ vì Dương Quá võ công cao cường, nên hắn không dám một mình tới gần; chờ Nhị xú, Tam xú, Tứ xú, cùng tới, thì Dương Quá đã lại chạy xa hơn mười trượng. “Tạng biên ngũ xú” thấy chàng cứ chạy lên đỉnh núi, từ đây lên đỉnh núi chỉ có một lối đi duy nhất, thì nghĩ không lẽ chàng có thể bay lên trời? Bọn chúng chả cần vội, cứ thong thả đuổi theo cũng được.

Sơn đạo càng lúc càng cheo leo, qua một khúc quành, Dương Quá thấy trước mặt có một đoạn đường cực hẹp. Một người đi qua chỗ đó cũng không dễ, một bên mép đường là vực sâu vạn trượng, mây bay lãng đãng, không nhìn thấy đáy. Chàng nghĩ thầm: “Chỗ này hay lắm! Mình sẽ chặn bọn chúng ở đây”. Chàng vội đi nhanh qua quãng đó, rồi đặt Hồng Thất Công xuống một tảng đá, quay trở lại, Đại xú đã tới đầu bên kia, Dương Quá bèn lao sang, quát:

– Xú bát quái, ngươi dám qua chỗ này không?

Đại xú sợ bị chàng đẩy xuống vực, vội lùi lại. Dương Quá đứng chặn ngay đầu đoạn đường hẹp ấy. Lúc này mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngừng rơi, phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy rừng núi lung linh trong lớp tuyết phủ trắng xóa, dưới ánh hồng ban mai, trông đẹp tuyệt trần.

Dương Quá đeo cái mặt nạ vào, quát:

– Các ngươi xấu xí, hay là ta xấu xí?

“Tạng biên ngũ xú” tướng mạo dĩ nhiên rất khó coi, song cũng chưa đến nỗi quá ư quái dị; chữ “xú” gắn vào chúng để chỉ hành vi xấu xa của chúng, nhiều hơn là để chỉ tướng mạo. Lúc này chúng thấy Dương Quá vừa đưa tay lên mặt xoa một cái, đột nhiên mặt chàng đã biến thành xấu xí cực độ, da vàng như sáp, thần tình lì lợm, như một cái xác chui từ dưới mộ lên, thì năm tên nhìn nhau ngơ ngác.

Dương Quá thong thả bước tới chỗ hẹp nhất, chênh vênh nhất, biểu diễn chiêu “Khôi tinh tứ đẩu thế”, chân trái làm trụ, chân phải đá lên trời, thân hình khẽ đung đưa trong gió; trong giây lát khí khái anh hùng tràn đầy lồng ngực, kẻ địch dẫu có thiên binh vạn mã xông tới, một mình chàng cũng đủ chốt chặn cửa ải này.

Năm tên kia nghĩ thầm: “Cái Bang sao lại kiếm đâu được một thiếu niên cổ quái đến thế không biết?” Chúng nhìn địa thế quá hiểm yếu, không dám đi qua quãng đường hẹp, chụm đầu vào nhau bàn tính:

– Huynh đệ ta giữ chỗ này, thay phiên nhau xuống núi mang thức ăn lên. Chỉ cần vài ngày là tên tiểu tử kia sẽ đói mờ mắt, kiệt sức thôi.

Thế là bốn tên sắp thành hàng một ở đầu cầu, để tên Nhị xú xuống núi lấy thức ăn.

Đôi bên cứ canh chừng nhau như thế, không dám xông sang đầu cầu bên kia.

Ngày thứ hai, Nhị xú mang thức ăn lên, năm tên ăn uống nhồm nhoàm, cố ý nhai tóp tép rõ to. Dương Quá đói bụng từ lâu, ngoảnh nhìn Hồng Thất Công, chỉ thấy tư thế của lão vẫn hệt như hôm trước, không có gì thay đổi. Chàng nghĩ thầm: “Lão dẫu có ngủ, thì trong giấc ngủ cũng có lúc trở mình; đằng này nằm bất động mãi như thế, e rằng đã chết thật rồi. Chờ một ngày nữa, mình đói quá kiệt sức, càng khó chống địch, chi bằng lập tức tiến sang, còn có thể chạy thoát”. Chàng thong thả đứng dậy, lại nghĩ thầm: “Lão bảo cần ngủ ba ngày liền, dặn mình canh chừng, mình đã đáp ứng, không thể bỏ lão mà đi”. Bèn cố nhịn đói, nhắm mắt dưỡng thần.

Đến ngày thứ ba, Hồng Thất Công vẫn nằm bất động như hai hôm trước. Dương Quá càng nhìn càng nghi ngại: “Lão hiển nhiên đã chết rồi, mình cứ cố thủ ở đây, chẳng hóa ra ngu lắm sao. Chờ thêm nửa ngày nữa, chỉ e năm tên kia không cần động thủ, mình cũng chết đói mất thôi”. Chàng bốc mấy vốc tuyết nuốt vào bụng, cũng đỡ cảm giác trống rỗng cồn cào. Nghĩ thầm: “Ta đối với cha mẹ đã không thể tận hiếu, lại không phải với cô cô, huynh đệ tỷ muội đều không có, ngay hảo bằng hữu cũng không có lấy một người, hai chữ “nghĩa khí” thôi đừng nhắc tới; nhưng còn chữ “Tín” sống chết gì cũng phải giữ cho bằng được!” Lại nghĩ: “Quách bá mẫu năm nào giảng sách cho ta, kể rằng thời xưa có chàng Vĩ Sinh hẹn chờ thiếu nữ ở dưới cầu; thiếu nữ không đến mà nước lũ dâng cao. Vĩ Sinh không chịu thất ước, ôm trụ cầu mà chết đuối, sau đó tên chàng được truyền tụng trăm đời. Dương Quá ta bị người đời khinh rẻ, nếu không giữ chữ tín, càng không ra gì; dẫu có vì chuyện này mà chết, ta cũng phải canh giữ đủ ba ngày”.

Một ngày đêm thấm thoắt cũng qua nhanh, sáng hôm thứ tư, Dương Quá đến bên cạnh Hồng Thất Công, thử xem hơi thở của lão, thấy hoàn toàn tắt thở, chàng không khỏi thở dài, vái lão một cái, nói:

– Hồng lão tiền bối, tiểu nhân đã canh giữ đúng ba ngày như hẹn ước, tiếc rằng lão tiền bối không may qua đời. Tiểu nhân không còn sức canh giữ di thể của lão tiền bối, đành lăn người xuống vực sâu, không để cho bọn gian kia hủy nhục.

Rồi chàng ôm xác Hồng Thất Công lên, đi ra chỗ đường hẹp.

“Tạng biên ngũ xú” tưởng chàng không nhịn đói được nữa, phải bỏ chạy, thì chúng bèn hò nhau xông tới. Dương Quá thét một tiếng, lẳng Hồng Thất Công xuống vực, xông tới chỗ tên Đại xú.

[1]出門一笑無拘礙 , 雲在西湖月在天- Xuất môn nhất tiếu vô câu ngại, vân tại Tây hồ nguyệt tại thiên. Đây là hai câu cuối trong bài thơ thất ngôn bát cú mà Toàn Chân thất tử từng ngâm khi lập Thiên cang Bắc đẩu trận (hồi 25 – Xạ điêu Anh hùng truyện).

Hồi 11: Phong trần khốn đốn

Dương Quá chạy được hai bước, thì đột nhiên một luồng gió mạnh ào qua phía trên đầu, có một người bay qua đầu chàng, đứng chắn giữa chàng và Ngũ xú, cười, nói:

– Ngủ giấc vừa rồi sướng ghê!

Chính là “Cửu chỉ thần cái” Hồng Thất Công.

Dương Quá mừng khôn xiết, Ngũ xú thì kinh hãi thất sắc.

Nguyên Hồng Thất Công ban đầu nằm trên tuyết ngủ thiếp đi thật, đến khi bị Ngũ xú đạp trúng người một cái, lão liền tỉnh giấc. Lão cố ý thử xem chàng thiếu niên có giữ đúng cái hẹn ba ngày hay không, mỗi lần Dương Quá tới thăm dò hơi thở của lão, lão lại nín thở giả chết. Cho đến tận bây giờ, lão mới đứng sừng sững chỗ đầu đường hẹp, hiển lộ thần uy. Tay trái khoát một nửa vòng tròn, tay phải đẩy ra một chưởng, chính là chiêu “Cang long hữu hối” trong “Hàng long thập bát chưởng”. Đại xú không kịp tránh, biết rõ là không được tiếp chưởng này, song hai tay vẫn buộc phải cùng đưa ra, dồn lực chống đỡ.

Hồng Thất Công chưởng lực thu phát tùy ý, chỉ mới sử dụng một thành kình lực, Đại xú đã cảm thấy hai cánh tay tê chồn, ngực đau tức. Nhị xú thấy thế nguy của Đại xú, sợ chưởng lực của Hồng Thất Công đẩy hắn xuống vực sâu, vội đưa hai bàn tay đẩy vào sau lưng Đại xú. Hồng Thất Công gia tăng chưởng lực, Nhị xú phải ngả người ra sau, suýt ngã ngửa. Tứ xú đứng sau giơ tay ra đỡ, chưởng lực của Hồng Thất Công truyền tới Tứ xú, rồi truyền tới Tam xú, từ Tam xú truyền tới người Ngũ xú. Năm tên ấy chạy không được, tránh không được, chỉ trong giây lát sẽ bị Hồng Thất Công vận lực vào một chưởng mà đánh chết.

Hồng Thất Công cười, nói:

– Năm đứa các ngươi tác ác đa đoan, hôm nay được lão khiếu hóa dùng một chưởng đánh chết, tưởng cũng được nhắm mắt đó.

Năm tên cố bấm chân cho chắc, hợp lực chống chọi đơn chưởng của Hồng Thất Công, chỉ cảm thấy áp lực càng lúc càng nặng, ngực đau tức, muốn thở một hơi cũng càng lúc càng khó hơn.

Hồng Thất Công đột nhiên kêu “A” một tiếng đầy vẻ kinh dị, thu hồi tám phần kình lực, nói:

– Nội công của các ngươi rất khá, sư phụ của các ngươi là ai vậy?

Đại xú hai tay chống đỡ đơn chưởng của lão, vừa thở hổn hển vừa nói:

– Chúng tiểu nhân… là… môn hạ của… sư phụ Đạt Nhĩ Ba.

Hồng Thất Công lắc đầu, nói:

– Đạt Nhĩ Ba à? Chưa từng nghe qua. Hừ, nội lực của các ngươi có thể truyền tiếp cho nhau, công phu ấy khá lắm.

Dương Quá nghĩ thầm: “Được Hồng lão tiền bối khen như vậy tức là khá thật; nhưng sao mình thấy năm tên kia cũng tầm thường, chẳng tên nào đánh hơn mình”.

Hồng Thất Công lại nói:

– Các ngươi thuộc môn phái nào?

Đại xú nói:

– Sư phụ của chúng tiểu nhân… là… đệ tử thứ hai của vị thánh tăng Tây Tạng… Kim Luân pháp vương.

Hồng Thất Công lại lắc đầu, nói:

– Thánh tăng Tây Tạng, Kim Luân pháp vương ư? Cũng chưa từng nghe qua. Tây Tạng có một hòa thượng, tên là Linh Trí Thượng Nhân gì đó, ta từng gặp qua, võ công của hắn cao hơn các ngươi, nhưng sở học chưa phải là công phu thượng thừa. Các ngươi học được công phu rất hay, hừ, rất có lý. Ngươi hãy đi gọi tổ sư gia của các ngươi lại đây đấu thử với ta.

Đại xú nói:

– Tổ sư gia của… chúng tiểu nhân là… Thánh tăng…vị Bồ Tát sống, đệ nhất quốc sư Mông Cổ, thần thông quảng đại… vô địch thiên hạ, làm sao… có thể…

Nhị xú nghe giọng nói của Hồng Thất Công thì hình như lão tha mạng cho bọn chúng, nhưng Đại xú nói thế, chẳng hóa ra tự hủy đường sống hay sao, bèn nói:

– Vâng, vâng. Chúng tiểu nhân sẽ… đi mời tổ sư gia tới… đấu với Hồng lão tiền bối… Cũng chỉ có… tổ sư gia… mới đủ tài động thủ… với Hồng lão tiền bối. Chúng tiểu nhân… thì bưng bầu rượu hầu… lão tiền bối… chưa đáng…

Đang nói, bỗng nghe mấy tiếng “thịch thịch”, từ mé núi truyền tới, một người ở tư thế trồng cây chuối, hai tay cầm hai cục đá chống xuống đất mà đi tới, chính là Tây Độc Âu Dương Phong. Dương Quá gọi to, lạc cả giọng:

– Cha ơi!

Âu Dương Phong như không nghe thấy, nhảy đến sau lưng Ngũ xú; đặt chân phải vào bối tâm của hắn, truyền một luồng kình lực qua thân thể năm tên kia.

Hồng Thất Công thấy Âu Dương Phong bất ngờ xuất hiện, cũng vô cùng kinh ngạc, nghe Dương Quá gọi “Cha ơi”, thì ra tiểu tử kia là con của Âu Dương Phong, hèn chi giỏi thế, cảm thấy tay trầm xuống, lực đạo của đối phương đã dồn đến, vội gia kình phản kích.

Sau cuộc luận kiếm thứ hai ở Hoa Sơn, hơn mười năm rồi Hồng Thất Công và Âu Dương Phong chưa gặp lại nhau. Âu Dương Phong thần trí tuy hồ đồ, vẫn nghịch luyện “Cửu Âm chân kinh”, võ công càng luyện càng lạ, càng lạ càng mạnh. Hồng Thất Công từng nghe Quách Tĩnh, Hoàng Dung đọc thuộc lòng một phần trong “Cửu Âm chân kinh”, đem ấn chứng với võ công vốn có của lão, lão cũng có tiến cảnh rõ ràng, cuối cùng chính phải thắng nghịch, tuy sở tri không nhiều, song cũng chẳng thua Tây Độc Âu Dương Phong. Mấy chục năm trước, hai người võ công đã khó phân cao thấp, hôm nay lần thứ ba tương phùng tại Hoa Sơn, đấu công lực với nhau, vẫn là bất phân thắng bại. Chỉ đáng thương cho “Tạng biên ngũ xú” phải đứng giữa hai đại cao thủ thời nay, làm vật thử chiêu, một thứ bao cát luyện quyền cho họ, thân thể cứ lạnh một chập lại nóng một chập, hô hấp dồn dập một chập lại chậm chạp một chập, xương cốt toàn thân kêu răng rắc, khổ sở hơn bị tra tấn hàng trăm lần.

Âu Dương Phong bỗng nói:

– Năm thằng nhãi ranh này học được thứ nội công rất khá. Là môn phái gì vậy?

Dương Quá nghĩ thầm: “Ngay nghĩa phụ của mình cũng bảo nội công của chúng rất khá, vậy thì Tạng biên ngũ xú quả thực không phải hạng tầm thường”.

Hồng Thất Công nói:

– Bọn chúng bảo chúng là đồ tôn của thánh tăng Tây Tạng Kim Luân pháp vương gì đó.

Âu Dương Phong nói:

– Cái gã Kim Luân pháp vương ấy so với các hạ, ai lợi hại hơn?

Hồng Thất Công đáp:

– Không biết, chắc là ngang ngửa.

Âu Dương Phong hỏi:

– So với lão phu thì sao?

Hồng Thất Công nói:

– Lợi hại hơn một chút.

Âu Dương Phong sững sờ, nói:

– Không tin!

Hai người trong lúc đàm thoại, chân tay vẫn tiếp tục đấu lực. Hồng Thất Công mấy lần phát chưởng lực khác nhau, đều bị Âu Dương Phong dùng chân hóa giải, tiếp đó Âu Dương Phong dồn lực vào chân đẩy đi, nhưng cũng khó buộc Hồng Thất Công lui lại nửa tấc. Hai người một phen đấu lực, thầm thán phục nhau, bất chợt cùng cười phá lên và nhảy về phía sau.

Áp lực đè nặng lên thân thể “Tạng biên ngũ xú” không còn, năm tên kia lảo đảo như kẻ say rượu, chúng vừa bị nội lực của hai đại cao thủ từ hai phía trước sau dồn ép lại, lục phủ ngũ tạng đều bị trọng thương, gân cốt mềm đi, đã thành phế nhân, với một đứa bé bảy, tám tuổi cũng chẳng làm gì nổi. Hồng Thất Công quát:

– Năm tên gian tặc kia, coi như đại hạn của các ngươi còn chưa tới, nhưng từ nay các ngươi sẽ không thể làm hại người khác được nữa. Hãy mau xéo đi cho khuất mắt. Nhớ về bảo tổ sư gia Kim Luân pháp vương của các ngươi đến Trung Nguyên tỷ thí với ta.

Âu Dương Phong nói:

– Tỷ thí cả với ta nữa.

“Tạng biên ngũ xú” vâng dạ rối rít, dìu nhau líu ríu đi xuống núi.

Âu Dương Phong lộn người đứng lên, liếc xéo Hồng Thất Công như rất lạ, nói:

– Hừ, võ công của các hạ rất cao, tên các hạ là gì vậy?

Hồng Thất Công nghe thế, lại nhìn thần sắc ngu ngơ của Âu Dương Phong, thì biết là chứng phát cuồng từ hơn mười năm trước của lão ta vẫn chưa đỡ, bèn nói:

– Ta là Âu Dương Phong, còn các hạ tên chi?

Âu Dương Phong giật mình một cái, cảm thấy ba tiếng “Âu Dương Phong” nghe rất quen thuộc, nhưng tên mình là gì, thì vẫn chưa nhớ ra được, lắc đầu, nói:

– Lão phu không biết. Ồ, lão phu tên là gì nhỉ?

Hồng Thất Công cười ha hả, nói:

– Các hạ ngay cả tên mình là gì cũng không nhớ, hãy mau về nhà ngồi nhớ lại đi.

Âu Dương Phong tức giận nói:

– Các hạ nhất định biết, hãy nói lão phu nghe đi.

Hồng Thất Công nói:

– Ừ thì nói. Tên các hạ là Xú Cáp Mô (Con cóc hôi).

Hai chữ “Cáp Mô” thì Âu Dương Phong mười phần quen thuộc, nghe hình như tên mình là thế, nhưng nghĩ một lúc, lại thấy không phải thế.

Âu Dương Phong và Hồng Thất Công mấy chục năm là tử thù của nhau, sự căm ghét hằn sâu trong trí não, bây giờ không hiểu vì sao, song tự nhiên vừa trông thấy Hồng Thất Công, lão đã nổi giận. Hồng Thất Công nhìn Âu Dương Phong đứng ngây ra đó, ánh mắt bỗng lộ hung quang, thì ngầm đề phòng, quả nhiên Âu Dương Phong gầm lên một tiếng, xông tới, thì không dám chậm trễ, vội sử dụng luôn chưởng pháp “Hàng long thập bát chưởng”. Hai người chân đạp hàn băng, gió bấc lay động vạt áo, đứng ở đoạn đường hẹp chưa đầy một thước mà thi triển tuyệt kỹ bình sinh, dốc sức đấu nhau. Một bên là vực sâu vạn trượng, chỉ cần sảy chân là thịt nát xương tan, so với giao đấu ở chỗ đất bằng, hung hiểm gấp bội. Hai người tuổi đã cao, tinh lực tuy đã suy thoái, nhưng tu vi võ học thì đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh, chiêu số vô cùng huyền diệu; chỉ sau mươi chiêu, đôi bên không khỏi thầm khâm phục đối phương. Âu Dương Phong thốt lên:

– Lão gia hỏa quá ư lợi hại!

Hồng Thất Công cười, nói:

– Xú Cáp Mô cũng ghê gớm thật!

Dương Quá thấy địa thế hiểm trở, sợ Âu Dương Phong ngã xuống vực, nhưng có lúc chàng thấy Hồng Thất Công gặp nguy, cũng tự dưng mong sao cho lão chuyển nguy thành an. Âu Dương Phong là nghĩa phụ của chàng, tình nghĩa là điều dĩ nhiên; song Hồng Thất Công khảng khái hào hiệp, có phong độ một bậc đại hiệp đương thế, khiến chàng vừa gặp đã tâm phục. Suốt ba ngày đói rét, chàng bất chấp nguy hiểm lo liệu cho Hồng Thất Công; ba ngày đêm ấy hai người không nói với nhau một lời, song trong tâm khảm Dương Quá, tựa hồ chàng đã vào sinh ra tử với Hồng Thất Công cả ngàn lần vậy.

Sau mấy chục chiêu, Dương Quá thấy hai vị lão nhân trước mọi ngón đòn cực kỳ lợi hại của đối phương đều có thể hóa giải, thì chàng không lo cho sự an nguy của cả hai bên nữa, mà chỉ chăm chú ngắm kỹ võ công kỳ diệu. “Cửu Âm chân kinh” là tổng cương của võ thuật thiên hạ; chàng biết chỉ một phần nhỏ rời rạc, song chàng thấy chiêu số của hai người ám hợp với yếu nghĩa của “Cửu Âm chân kinh”, thì bất giác cả mừng, nghĩ thầm: “Một câu rất bình thường trong Cửu Âm chân kinh lại có thể diễn hóa huyền diệu tới mức này đây”.

Đấu đến hơn một ngàn chiêu, võ công của hai người vẫn chưa tận, song tuổi đã cao, họ đều cảm thấy thấm mệt, chân tay không khỏi có phần uể oải. Dương Quá gọi to:

– Hai vị đấu chán chê, chắc đã đói bụng rồi, chúng ta hãy chén một bữa, rồi đấu tiếp, được chăng?

Hồng Thất Công nghe thấy chữ “chén” thì lập tức nhảy lùi lại, nói:

– Hay lắm! Hay lắm!

Dương Quá sớm nhìn thấy “Tạng biên ngũ xú” bỏ lại giỏ thức ăn đằng kia, bèn chạy tới, mở giỏ ra, thấy bên trong có gà luộc thịt luộc, cơm, rượu đủ cả. Hồng Thất Công cả mừng, vớ con gà luộc mà ngoạm ngon lành.

Dương Quá đưa cho Âu Dương Phong một tảng thịt luộc, dịu giọng nói:

– Cha ơi, những ngày qua cha ở đâu?

Âu Dương Phong chăm chú nhìn chàng, rồi nói:

– Ta đi tìm con.

Dương Quá nao lòng, nghĩ thầm: “Trên đời vẫn có người chân tình yêu thương ta”. Chàng nắm cánh tay lão nói:

– Cha ơi, cha chính là Âu Dương Phong. Vị Hồng lão tiền bối kia là người tốt, cha đừng đánh nhau với Hồng lão tiền bối nữa.

Âu Dương Phong chỉ Hồng Thất Công, nói:

– Lão ta là Âu Dương Phong đấy, Âu Dương Phong là kẻ xấu.

Dương Quá thấy nghĩa phụ thần trí mê loạn, thì rất khổ tâm. Hồng Thất Công cười, nói:

– Đúng lắm, Âu Dương Phong là kẻ xấu, Âu Dương Phong đáng chết!

Âu Dương Phong nhìn Hồng Thất Công, nhìn Dương Quá, hai mắt thao láo, cố nhớ lại, nhưng trong trí não tất cả vẫn rối loạn.

Dương Quá hầu Âu Dương Phong ăn xong, đứng dậy nói với Hồng Thất Công:

– Hồng lão tiền bối, đây là nghĩa phụ của tiểu nhân. Mong lão tiền bối nghĩ thương nghĩa phụ của tiểu nhân bị trọng bệnh, thần trí hồ đồ, mà không gây khó dễ cho nghĩa phụ của tiểu nhân.

Hồng Thất Công nghe chàng nói vậy, thì gật gù, nói:

– Hảo tiểu tử, thì ra lão ta là nghĩa phụ của ngươi.

Ai dè Âu Dương Phong đột nhiên đứng dậy, nói:

– Này Âu Dương Phong, hai ta đấu quyền cước bất phân thắng bại, vậy hãy đấu bằng binh khí.

Hồng Thất Công lắc đầu, nói:

– Không đấu nữa, coi như các hạ thắng ta là được chứ gì.

Âu Dương Phong nói:

– Thắng thua cái gì? Ta phải giết ngươi mới được.

Nói rồi bẻ một cành cây, tuốt lá đi, thành một cái côn, đánh xuống đầu Hồng Thất Công. Hồi trước cây xà trượng của lão tung hoành thiên hạ, lợi hại vô cùng, bây giờ cây côn này tuy không có cái đầu con rắn, nhưng một khi đánh xuống, đầu gậy chưa tới, mà một luồng kình phong đã khiến Dương Quá khó thở. Dương Quá vội nhảy tránh xa, nhìn Hồng Thất Công, thấy lão khiếu hóa nhặt một cành cây, làm cái bổng (gậy) ngắn, mà đấu với Âu Dương Phong. Đả cẩu bổng pháp của Hồng Thất Công thiên hạ vô song, song ít khi được thi triển, bây giờ gặp đối thủ, mới có dịp sử dụng.

Trận ác đấu này, so với trận đấu quyền cước vừa rồi, quang cảnh đã khác; chỉ thấy trượng đi uyển chuyển như thần long, bổng đến cuộn xoáy như linh xà; khi thì như cầu vồng vắt ngang trời, lúc thì như sao băng truy nguyệt, làm cho Dương Quá kinh tâm động phách, nhìn như si như say.

Hai người trượng đi bổng đến, đấu mãi tới gần tối, khó phân thắng bại. Dương Quá thấy địa thế hiểm trở, băng tuyết trên núi cực trơn, hai người tuổi đã cao, tái đấu tất có sơ suất, bèn gọi to bảo dừng, khuyên hai người ngừng đấu. Nhưng Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đang hăng say, há chịu dừng tay?

Dương Quá biết Hồng Thất Công mê các món ăn, nghĩ nếu có mùi thơm hấp dẫn, có thể kiến hiệu; bèn đào lấy mấy củ mài, củ sắn, đốt lửa nướng chín.

Hồng Thất Công ngửi thấy mùi thơm, nói:

– Xú Cáp Mô, không đánh nhau nữa, phải ăn cái đã.

Nói xong chạy tới chỗ Dương Quá, nhặt hai củ mài nướng lên ăn liền, tuy bị nóng bỏng cả miệng, nhưng vẫn lúng búng khen ngon. Âu Dương Phong cũng chạy tới vung trượng đập xuống đầu đối phương. Hồng Thất Công không tránh, ném một củ mài về phía Âu Dương Phong nói:

– Ăn đi đã!

Âu Dương Phong ngẩn người, giơ tay đón bắt củ mài mà ăn, quên luôn cuộc ác đấu vừa rồi.

Đêm ấy ba người ngủ trong một hang đá. Dương Quá muốn giúp nghĩa phụ phục hồi trí nhớ, gợi lại rất nhiều chuyện cũ. Âu Dương Phong chỉ ngẩn ngơ không đáp, có lúc giơ tay đấm mạnh vào đầu mình, rõ ràng cố nhớ, nhưng không lần ra manh mối, mười phần khổ não. Dương Quá sợ lão tái phát cơn điên, bèn khuyên lão nằm ngủ; còn chàng trằn trọc mãi không ngủ được, nhớ lại quyền pháp, chưởng pháp của hai người, càng nghĩ càng thú vị, không nhịn được phải rón rén ngồi dậy, luyện đến nửa đêm, mệt bở hơi tai mới đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, Dương Quá chưa tỉnh giấc, đã nghe ngoài hang tiếng gió ù ù, xen lẫn tiếng quát, chạy ra, đã thấy Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đang giao đấu với nhau. Chàng thở dài, nghĩ thầm: “Hai vị lão nhân gia này cải lão hoàn đồng hay sao mà ham đánh nhau thế không biết”. Đành ngồi một bên mà xem, thấy mỗi chiêu mỗi thức của Hồng Thất Công đều đâu ra đó, còn chiêu số của Âu Dương Phong thì chàng khó nắm bắt, mỗi khi Hồng Thất Công chiếm thượng phong, lại bị Âu Dương Phong dùng quái chiêu lấy lại thế cân bằng.

Hai người ngày đấu đêm ngủ, đấu liên tiếp bốn ngày, đều mỏi mệt cả về tâm thần lẫn thể xác, cũng muốn dừng tay, nhưng rốt cuộc không chịu nhường nhịn nhau nửa chiêu.

Dương Quá nghĩ thầm: “Ngày mai gì thì gì cũng không thể để hai người đấu nữa”. Đêm đó, chờ lúc Âu Dương Phong đã ngủ, chàng nói nhỏ với Hồng Thất Công:

– Mời Hồng lão tiền bối ra ngoài cửa hang, tiểu nhân có lời muốn thưa.

Hồng Thất Công theo chàng ra ngoài. Cách cửa hang mươi trượng, Dương Quá đột nhiên quì xuống, liên tục khấu đầu, không nói một lời. Hồng Thất Công ngẩn người một chút, chợt hiểu, rằng Dương Quá cầu xin lão nghĩ Âu Dương Phong có bệnh nặng mà nhường nhịn. Lão ngẩng mặt cười to, nói:

– Ừ thì thế vậy.

Bèn quẳng cây bổng mà đi xuống núi.

Nhưng mới đi được vài trượng, đã nghe tiếng gió dập vạt áo, Âu Dương Phong từ trong hang xông ra, vung trượng quét ngang, nói:

– Lão gia hỏa, định chuồn hả?

Hồng Thất Công nhường ba chiêu, muốn cướp đường mà đi, nhưng bị trượng phong bao vây bốn phía tám mặt, không thể thoát thân. Cao thủ tỷ võ ngang ngửa, Hồng Thất Công đã cố nhường nhịn, lập tức ở thế hạ phong, mấy lần nguy hiểm, suýt bỏ mạng dưới cây trượng của đối phương; thấy cây trượng đánh nhanh tới bụng dưới, biết sau nó còn có chiêu lợi hại hơn, không thể tránh được, vội dùng bổng chặn ngang, bỗng cảm thấy từ cây trượng truyền sang một luồng nội lực cực kỳ mạnh mẽ, bất giác ngạc nhiên: “Lão khùng lại muốn đấu nội lực với ta ư?” Vừa nghĩ thế, nội lực của đối phương đã ào ạt dồn sang, trừ việc dùng nội lực chống đỡ, không còn cách nào khác. Bèn vận kình lực kháng ngự.

Với tu vi của hai người hiện thời, dẫu có sơ suất trúng một trượng, một chưởng của đối phương, thì nội lực sẽ lập tức sản sinh, vừa giữ mình vừa chống đỡ; dù có bị thương, cũng không quá nguy hiểm; lúc này tỷ thí nội lực đã đến cảnh giới không thể nhường nhịn, chưa chết chưa dừng. Hai người mấy phen tỷ võ trước kia, đều e ngại đối phương cao cường, biết mình khó thắng, không dám liều lĩnh mạo hiểm, sợ rằng cầu vinh chẳng được, lại bị mất mạng. Không ngờ bây giờ Âu Dương Phong sau mấy ngày tỷ võ không thắng, đột nhiên vận nội lực, hùng hùng hổ hổ tấn công.

Hơn mười năm trước, Hồng Thất Công còn căm hận Âu Dương Phong tận xương tủy; nhưng hiện giờ tuổi đã cao, tính nóng đã bớt, lại thấy Âu Dương Phong điên điên khùng khùng, Dương Quá lại cầu xin, thì lão thật tình không có ý định sát hại, bèn vận khí đan điền, chỉ thủ không công, chờ cho nội lực của Âu Dương Phong suy kiệt. Nào ngờ nội lực của đối phương cứ như sóng lớn Trường Giang, ào ạt tràn tới hết lớp này lớp khác, đã không có dấu hiệu suy giảm, lại còn càng lúc càng hung mãnh. Hồng Thất Công tự tin nội lực thâm hậu, mấy chục năm nay dũng mãnh tinh tiến, dẫu không thắng nổi Âu Dương Phong, nếu dốc toàn lực phòng ngự thì nhất định không thể lạc bại, ai dè vài lần phản kích, chỉ thấy nội lực của đối phương càng lúc càng mạnh. Hồng Thất Công nhớ lại lúc đấu nội lực với Âu Dương Phong thông qua “Tạng biên ngũ xú”, Âu Dương Phong đã ba lần dồn lực ra chân mà đẩy, lần sau mạnh hơn lần trước; bây giờ nhớ lại, dường như lực đạo của lần tấn công thứ nhất chưa dứt, kình lực của lần thứ hai đã tràn tới; lực đạo của lần tấn công thứ hai chưa dứt, kình lực lần thứ ba đã tràn tới. Nếu chỉ thủ, sẽ liên tiếp bị dồn ép, càng khó chống đỡ; phải thừa lúc sơ hở mà phản công, buộc đối phương phải phòng thủ, thì thế công kích mới không tích lũy mạnh dần; nghĩ vậy, Hồng Thất Công bèn vận kình phản kích, hai người dùng cương đối cương, cùng bị chấn động toàn thân.

Dương Quá thấy hai vị lão tiền bối tỷ thí nội lực, thì bất giác lo ngại; nếu chàng xuất thủ tập kích sau lưng Hồng Thất Công, dĩ nhiên có thể giúp nghĩa phụ đắc thắng. Nhưng chàng thấy Hồng Thất Công tóc bạc như cước, trong vẻ thần uy lẫm liệt vẫn lộ rõ sự hiền từ nhân hậu, cương chính hiệp nghĩa mà hiền hòa tươi vui, thật chàng không thể đang tâm gia hại, huống hồ Hồng Thất Công đã đáp ứng lời cầu khẩn của chàng mà nhường nhịn.

Hai người lại đấu một hồi, từ đỉnh đầu Âu Dương Phong bốc lên một lớp bạch khí, càng lúc càng đậm, trông như hơi nước sôi. Hồng Thất Công cũng dốc toàn lực chống đỡ, lúc này chẳng còn nghĩ chuyện đả thương đối phương hay không, chỉ lo giữ được mạng mình đã là may lắm rồi.

Từ sáng sớm đấu đến giờ Thìn, lại từ giờ Thìn đấu đến giờ Ngọ, nội lực của Hồng Thất Công đã cạn dần, nhưng nội lực của đối phương thì vẫn cứ như sóng dữ tràn tới, nghĩ thầm: “Lão độc vật này thì ra càng điên khùng càng lợi hại, lão khiếu hóa hôm nay bỏ mạng mất thôi”. Lão đoán mình sẽ thua, đã không thể tránh né, thì đành ráng sức cầm cự, không biết rằng Âu Dương Phong cũng đã khí suy lực kiệt, khó bề giữ vững.

Lại đấu hai canh giờ nữa, đã tới giờ Thân. Dương Quá thấy hai vị sắc diện đại biến, nghĩ thầm họ đấu thêm một lúc nữa, chắc cả hai sẽ chết, nếu chàng nhảy vào chiết giải, công lực của chàng thua họ quá xa, quá nửa sẽ không tách được họ ra, mà chàng còn mất mạng, do dự hồi lâu, thấy Âu Dương Phong thần sắc sầu khổ, Hồng Thất Công thì thở dốc, nghĩ thầm: “Mình phải mạo hiểm, mới có thể cứu mạng họ”. Thế là chàng bẻ một cành cây to, đến ngồi xếp bằng giữa hai người, vận công bảo vệ toàn thân, nghiến răng đẩy vào giữa trượng bổng của họ.

Ai dè một cái đẩy ấy hoàn toàn không cần dùng sức, nội lực của hai người truyền vào cành cây, bị nội lực của chàng đẩy ra, lập tức tiêu tán. Cái nỏ cực mạnh đã hết đà bay, chẳng xuyên thủng được da thú. Bắc Cái Tây Độc tuy đều là anh hùng thời nay, nhưng tỷ thí nội lực đã mấy ngày nay, tinh lực đều kiệt, bị nội lực của Dương Quá phản kích, tức thời ngã vật ra, mặt tái nhợt, không cựa quậy nổi. Dương Quá cả sợ, gọi to:

– Cha ơi, Hồng lão tiền bối, hai vị không việc gì chứ?

Hai người cùng khó thở, không trả lời.

Dương Quá định dìu hai người vào trong hang nằm nghỉ, Hồng Thất Công khe khẽ lắc đầu. Dương Quá biết hai người đã bị thương rất nặng, không nên di động, tối hôm ấy chàng nằm ngủ giữa hai người, chỉ lo nửa đêm họ lại vùng dậy đấu tiếp. Kỳ thực hai người muốn vận nội công trị thương còn chưa nổi, lấy đâu sức lực giao đấu? Sáng hôm sau Dương Quá thấy họ thở thoi thóp, còn yếu hơn cả tối qua, thầm lo sợ, vội đào củ mài nướng cho họ ăn. Mãi đến ngày thứ ba, hai người mới phục hồi một chút sinh khí. Dương Quá dìu họ vào trong hang, nằm chắn giữa họ với nhau.

Cứ thế nghỉ ngơi mấy hôm, Hồng Thất Công ăn được, phục hồi sức lực nhanh hơn. Âu Dương Phong thì cả ngày không nói, thần sắc cau có; Dương Quá gợi chuyện, lão cũng không buồn trả lời.

Hôm nay hai người đang nằm ngoảnh mặt vào nhau, Hồng Thất Công bỗng nói:

– Xú Cáp Mô, đã phục ta chưa?

Âu Dương Phong hỏi:

– Phục cái đếch gì? Ta còn nhiều món võ công chưa sử dụng, nếu đem ra thi triển thì ngươi đã bại từ lâu rồi.

Hồng Thất Công cười to, nói:

– Chính ta cũng còn nhiều món võ công chưa sử dụng. Ngươi có nghe nói đến “Đả cẩu bổng pháp” của Cái bang hay chưa?

Âu Dương Phong chột dạ, nghĩ thầm: “Đả cẩu bổng pháp”, cái tên này hình như đã nghe qua, lợi hại lắm thì phải, không lẽ thằng cha kia biết sử dụng. Nhưng trong cuộc ác đấu vừa rồi, tại sao hắn chưa sử dụng? Hay là hắn đã thi triển từ sớm rồi? Nếu không, hắn đâu có cầm cự được tới giờ?” Bèn nói:

– Đả cẩu bổng pháp là cái quái gì?

Hồng Thất Công đã hối hận, hôm trước đấu với Âu Dương Phong, lão đã định thi triển Đả cẩu bổng pháp để chế ngự đối phương, nhưng thấy Âu Dương Phong thần trí hồ đồ, bản thân lão đã chiếm không ít tiện nghi, nếu lại đem Đả cẩu bổng pháp là môn chí bảo của Cái Bang ra đối phó, có thắng cũng chẳng vẻ vang gì, không phải là hành động anh hùng hảo hán, ai dè Âu Dương Phong tuy điên khùng, song võ công chẳng vì thế mà suy giảm, lại quyết ý đấu theo lối lưỡng bại câu thương. Bây giờ có muốn sử dụng Đả cẩu bổng pháp, lão đã không còn hơi sức, nghe Âu Dương Phong nói rõ ràng không phục, thì chợt nảy ra một kế, giơ tay vẫy vẫy Dương Quá, bảo chàng ghé tai, nói:

– Ta là bang chủ tiền nhiệm của Cái Bang, ngươi có biết hay không?

Dương Quá gật gật đầu, hồi ở cung Trùng Dương, chàng từng nghe các vị sư huynh phái Toàn Chân đàm luận về các nhân vật thời nay, họ đều nói vị bang chủ tiền nhiệm của Cái Bang “Cửu chỉ thần cái” Hồng Thất Công võ công cái thế, can đảm hơn người, là đại anh hùng hảo hán.

Hồng Thất Công nói:

– Ta có một pho võ công muốn truyền cho ngươi. Pho võ công ấy vốn chỉ truyền cho bang chủ bổn bang, không truyền cho người ngoài. Nhưng vì nghĩa phụ ngươi mở miệng coi thường ta, nên ta muốn ngươi biểu diễn cho lão ta xem.

Dương Quá nói:

– Pho võ công của lão tiền bối đã không truyền cho người ngoài, thì vãn bối không dám học. Nghĩa phụ của vãn bối thần trí chưa phục hồi, lão tiền bối khỏi cần chỉ giáo.

Hồng Thất Công lắc đầu, nói:

– Ngươi tuy học chiêu thức, không biết quyết khiếu vận kình, khi lâm địch cũng vô dụng. Ta lại không muốn ngươi đánh lại nghĩa phụ ngươi, mà chỉ cần ngươi biểu diễn tư thức cho lão ta nhìn rõ thôi. Do vậy, cũng không thể bảo là ta truyền võ công cho ngươi.

Dương Quá nghĩ thầm: “Pho võ công ấy đã là môn trấn bang của Cái Bang, nghĩa phụ mình vị tất chống đỡ nổi, tội gì mình đi giúp lão ta thắng nghĩa phụ mình?” Bèn thoái thác rằng chàng không dám học môn võ công bí truyền của Cái Bang.

Hồng Thất Công biết ý chàng, nói to:

– Xú Cáp Mô, nghĩa nhi của ngươi biết ngươi không địch nổi Đả cẩu bổng pháp của ta, nên không chịu diễn xuất cho ngươi xem.

Âu Dương Phong cả giận, nói:

– Hài nhi, ta còn mấy thứ võ công thần kỳ chưa sử dụng, sợ gì lão ta? Mau diễn xuất ta coi.

Dương Quá bị ép từ hai phía, không còn cách gì, đành tới bên cạnh Hồng Thất Công.

Hồng Thất Công bảo chàng bẻ một cành cây, nói tỉ mỉ cho chàng nghe một chiêu “Bổng đả song khuyển” trong Đả cẩu bổng pháp. Dương Quá vừa nghe đã hiểu, theo đó diễn xuất.

Âu Dương Phong thấy bổng chiêu thần kỳ, quả nhiên lợi hại, nhất thời khó hóa giải, nghĩ một hồi lâu mới nói một chiêu trượng pháp cho Dương Quá nghe. Dương Quá theo đó diễn xuất. Hồng Thất Công mỉm cười, khen:

– Hay!

Lại nói một chiêu Đả cẩu bổng pháp.

Hai ngươi cứ thế đấu võ mồm với nhau, đến tối cũng mới xong được mười chiêu, thì Dương Quá đã mệt bở hơi tai, mồ hôi đầm đìa. Mất đứt ba ngày, ba mươi sáu lộ bổng pháp mới hoàn tất. Đả cẩu bổng pháp tuy chỉ có ba mươi sáu lộ, song sự biến hóa tinh vi thì lại huyền diệu vô cùng, càng về cuối, Âu Dương Phong càng tốn thời gian suy nghĩ; song chiêu số hồi kích của lão cũng đầy đủ công thủ, uy lực không kém phần lợi hại, khiến Hồng Thất Công nhìn cũng thầm thán phục.

Đến gần tối hôm ấy, Hồng Thất Công nói đến cách biến hóa thứ sáu của chiêu “Thiên hạ vô cẩu” trong ba mươi sáu lộ bổng pháp, đây là tuyệt chiêu khi biến hóa chiêu cuối cùng của Đả cẩu bổng pháp. Khi thi triển chiêu này, tứ diện bát phương đều là gậy, dẫu có mấy chục con chó dữ xung quanh cũng đều đánh chết, bốn chữ “Thiên hạ vô cẩu” là có nghĩa như vậy, cái tinh diệu của bổng pháp đã đạt tới tuyệt chỉ trong võ học. Âu Dương Phong dĩ nhiên khó có đối sách. Cả đêm hôm ấy Âu Dương Phong cứ trằn trọc mãi.

Sáng hôm sau, Dương Quá chưa dậy, Âu Dương Phong đã reo lên:

– Có rồi, có rồi, hài nhi, mau thi triển trượng pháp hóa giải.

Tiếng gọi vừa gấp vừa mừng. Dương Quá nghe hơi lạ, nhìn về phía đó, bất giác cả kinh, thì ra Âu Dương Phong tuy tuổi cao, nhưng nội lực thâm hậu, nên tóc chỉ mới hoa râm, nay qua một đêm suy ngẫm, cả mái tóc đã bạc trắng, tựa hồ già đi hàng chục tuổi.

Dương Quá đau lòng, định mở miệng cầu xin Hồng Thất Công đừng tỷ thí nữa, Âu Dương Phong đã thúc giục rối rít. Chiêu này thập phần phức tạp, Âu Dương Phong nói đi nói lại, Dương Quá mới hiểu rõ, theo lời mà diễn xuất.

Hồng Thất Công vừa xem thì sắc mặt đại biến, lão vốn chỉ nằm liệt một chỗ, khó bề cựa quậy, thế mà lúc này như bỗng sinh thần lực, bật dậy, gọi to:

– Lão độc vật, Âu Dương Phong! Lão khiếu hóa hôm nay khâm phục ngươi đó.

Rồi bước sang ôm choàng lấy Âu Dương Phong.

Dương Quá cả kinh, tưởng Hồng Thất Công định đả thương nghĩa phụ, vội kéo lưng lão ra, nhưng lão ôm quá chặt, kéo không ăn thua gì. Chỉ nghe Hồng Thất Công cười ha hả, nói:

– Lão độc vật, Âu Dương Phong! Ngươi đã nghĩ ra được một tuyệt chiêu, giỏi quá chừng! Hảo Âu Dương Phong! Hảo Âu Dương Phong!

Âu Dương Phong qua mấy ngày ác đấu, một đêm suy ngẫm khổ sở, thần đã suy, lực đã kiệt, nghe ba tiếng “Âu Dương Phong” thì đột nhiên hồi quang phản chiếu, trí óc bỗng sáng bừng, chuyện cũ mấy chục năm dồn dập hiện ra, cũng cười ha hả, reo lên:

– Ta là Âu Dương Phong! Ta là Âu Dương Phong! Ngươi chính là lão khiếu hóa Hồng Thất Công!

Hai lão nhân bạc đầu ôm nhau cười hô hố; cười một hồi, nghe tiếng nhỏ dần, rồi tắt hẳn, cả hai không thấy cử động gì cả.

Dương Quá cả kinh, gọi:

– Gia gia, lão tiền bối!

Không ai trả lời. Dương Quá đưa tay kéo Hồng Thất Công một cái, hai lão ngã ngay ra, đã chết rồi.

Dương Quá kinh hãi, cúi xuống chỗ Âu Dương Phong, nghĩa phụ cũng đã tắt thở. Hai người đã chết, mặt vẫn giữ vẻ tươi cười, tiếng cười của họ dường như vẫn âm vang trong sơn cốc.

Bắc Cái, Tây Độc mấy chục năm vài phen ác đấu, liều chết với nhau, ai dè cuối cùng lại cùng qui tiên trên đỉnh Hoa Sơn. Hai người suốt đời oán hận triền miên, lúc sắp chết lại ôm nhau cười vang. Mối thâm cừu đại hận mấy chục năm tiêu tan trong một tiếng cười!

Dương Quá nhất thời vừa kinh ngạc vừa bi thương, chưa có chủ ý, nghĩ thầm Hồng Thất Công từng giả chết ba ngày ba đêm, hay là hai lão tiền bối lại giả vờ chết? Nhưng thấy tình hình có vẻ không giống lắm, lại nghĩ thầm: “Rất có thể họ chết một thời gian, rồi sẽ sống lại. Hai vị lão nhân gia võ công cao siêu như thế, sẽ không thể chết được. Không chừng hai vị lại thi nhau, xem ai giả chết lâu hơn cũng nên”.

Chàng túc trực bên hai cái xác đúng bảy ngày bảy đêm, sau một ngày, hi vọng lại bớt đi một phần, thấy sắc mặt hai người sạm dần, mới biết là họ đã chết thật, thì khóc to một hồi, đào hai cái hố ở ngoài cửa hang, đem hai vị kỳ nhân võ lâm mai táng. Cái bầu rượu của Hồng Thất Công, cùng trượng, bổng mà hai vị dùng làm binh khí tỷ thí, cũng chôn theo họ. Chàng thấy các vết chân của họ giẫm trên tuyết trong thời gian ác đấu, giờ đã kết thành băng cứng, dấu chân còn đó, mà thể xác thì đã nằm sâu trong lòng đất, Dương Quá không khỏi tiếc thương. Lại nghĩ đến võ công kinh thế hãi tục của hai vị, rốt cuộc lại bị một tên tiểu tử kém cỏi như chàng chôn xuống đất, bao nhiêu uy phong, bao nhiêu vinh dự cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi.

Chàng cung kính khấu đầu tám cái trước mộ hai vị, nghĩ thầm: “Nghĩa phụ tuy tài giỏi, cuối cùng vẫn thấp hơn Hồng lão tiền bối một bậc. Khi thi triển Đả cẩu bổng pháp, nghĩa phụ phải suy ngẫm khổ sở một đêm mới hóa giải được, nếu là đánh nhau thật, ai cho phép nghĩ ngợi lâu như thế?” Lại thở dài một hồi, rồi đi xuống núi.

Chàng mặc cho hai chân đưa chàng đi đâu thì đi, cũng chẳng phân biệt đông tây nam bắc, thiết nghĩ đại địa bao la, chỉ có một mình ta, phiêu bạt tứ xứ, lúc nào hết thọ mệnh, thì chỉ việc nằm xuống chết. Ở trên đỉnh Hoa Sơn chưa đầy một tháng, mà chàng tưởng như đã sống mấy năm. Khi lên núi thì đau khổ, phẫn uất vì bị người đời khinh rẻ. Khi xuống núi thì cảm thấy thế sự chỉ như phù vân, người đời quí trọng hay khinh rẻ thì cũng chẳng sao hết. Tuổi còn nhỏ, mà đã phẫn thế đố tục, coi cuộc đời như một trò đùa.

Một hôm mới một vùng hoang dã ở Thiểm Nam, phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy cành khô cỏ úa, gió bấc thổi ào ào, cỏ rạp xuống trỗi lên từng chập. Đột nhiên từ phía tây văng vẳng tiếng chân ngựa, bụi tung lên như sương mù, không lâu sau có mấy chục con ngựa hoang cuồng bôn từ tây sang đông, cách chỗ chàng đứng non một dặm. Nhìn đàn ngựa hoang thỏa sức phi nhanh, tự do tự tại giữa thảo nguyên, Dương Quá bất giác cũng cảm thấy khoan khoái dễ chịu.

Đồng cỏ bằng phẳng, đàn ngựa đã chạy xa, trời đất rộng lớn, không gì trói buộc, thật là đắc ý, bỗng nghe có tiếng ngựa hí bi thương phía sau lưng. Quay người lại, thấy một con ngựa gầy lông vàng kéo một chiếc xe chở củi thong thả chạy tới. Chàng tưởng con ngựa này thấy đồng loại được rong ruổi tự do giữa thảo nguyên, còn nó phải lao thần khổ dịch ở đây, nên hí lên bi thương như thế. Con ngựa gầy quá, gầy trơ cả xương, bốn cái vó dài teo hết cả thịt, trông khô khẳng như cành cây; lông rụng từng đám, mình mẩy rớm máu nhiều chỗ vì vết roi quất. Một hán tử thô lỗ ngồi chễm chệ trên xe, cứ không ngừng quất roi đánh ngựa, giục ngựa chạy nhanh.

Dương Quá bị người ta khi vũ đã nhiều, giờ thấy con ngựa còm khổ sở thế kia, cái roi tựa hồ đang quất vào chính thân chàng, chợt nao lòng, nước mắt muốn ứa ra. Hai tay chống nạnh, chàng đứng giữa đường, quát to:

– Tên kia, sao nỡ đánh con ngựa tàn tệ như thế?

Hán tử thấy một thiếu niên lam lũ, trông như thằng ăn mày, đứng chắn đường, bèn vung roi quát:

– Xê ra, muốn mất mạng hả?

Nói xong lại quật roi tới tấp xuống mình ngựa.

Dương Quá cả giận, nói:

– Mi còn đánh ngựa, ta sẽ giết mi.

Hán tử kia cười hô hố, vung roi đánh xuống đầu Dương Quá. Dương Quá giơ tay chộp lấy, đảo ngược cái roi, cầm đằng cán, xoay xoay một vòng trong không trung, rồi quấn vào cổ gã kia kéo hắn xuống khỏi xe mà đánh cho một trận.

Con ngựa tuy gầy ốm, nhưng rất có linh tính, thấy hán tử bị đánh, thì nó hí lên thích thú, dùng đầu giụi giụi vào ống chân Dương Quá, đầy vẻ thân thiết. Dương Quá giật đứt dây chằng giữ nó với cỗ xe, vỗ vỗ mông nó, chỉ tay về phía đám bụi mà đàn ngựa hoang còn để lại phía sau, nói:

– Mi hãy đi đi, không kẻ nào còn khi vũ mi nữa.

Con ngựa giơ hai vó trước lên, hí một tiếng dài, phi nhanh về đằng trước. Ai dè sức nó suy kiệt, đột nhiên phóng nhanh, không còn đủ sức, mới chạy được mươi trượng, thì chân trước bủn rủn, ngã khuỵu ngay xuống. Dương Quá nhìn vậy không nỡ, chạy tới luồn tay dưới bụng con ngựa, giục “Dậy nào!” bốc con ngựa đứng lên. Gã hán tử thấy thần lực của chàng như thế, thì bỏ cả chiếc xe củi mà cắm đầu chạy, chạy đến nửa dặm mới kêu toáng lên:

– Cướp cướp! Có kẻ cướp ngựa, cướp củi!

Dương Quá cảm thấy tức cười, vặt mấy túm cỏ xanh cho con ngựa ăn, thấy con ngựa bị đày đọa, bất giác nảy sinh đồng bệnh tương liên, vuốt ve lưng nó, nói:

– Ngựa ơi, ngựa ơi, từ nay mi cứ đi theo ta!

Chàng cầm cương, dắt nó thong thả tới một thị trấn, mua một ít lúa mạch cho con ngựa ăn no. Hôm sau thấy con ngựa còm có vẻ khỏe lên, chàng mới cưỡi lên mình nó mà đi.

Con ngựa thoạt đầu bước đi còn lẩy bẩy, không ngờ càng đi càng vững; sau bảy, tám ngày được ăn no, tinh lực dồi dào, đã có thể phóng như bay. Dương Quá cả mừng, càng chăm chút nó hơn.

Một hôm chàng vào nghỉ ở một tửu lâu, con ngựa tự nhiên tới bên bàn, nhìn bát rượu ở bàn bên cạnh, hí hí mấy tiếng liền, như thể muốn uống. Dương Quá nổi lòng hiếu kỳ, gọi tửu bảo mang ra một bát rượu to, đặt trên bàn. Chàng xoa xoa đầu con ngựa, chìa bát rượu cho nó, nó uống một hơi hết luôn, ve vẩy đuôi, giậm giậm chân, vô cùng thích thú. Dương Quá cũng lấy làm lạ, gọi mang rượu ra, con ngựa uống liên tục mười bát rượu, mà còn định uống thêm. Tửu bảo thấy Dương Quá ăn mặc rách rưới, sợ chàng không có tiền để trả, nói rằng đã hết rượu.

Ăn xong, tiếp tục lên đường, con ngựa có lẽ say rượu, phóng như điên, cây cối bên đường cứ vùn vụt lùi về phía sau, càng phóng càng nhanh thêm, thân mình nó cứ nhấp nhô lên xuống, Dương Quá may có khinh công cực cao, nên mới ngồi vững trên yên. Con ngựa này quái dị ở chỗ, hễ thấy đằng trước có một con vật, thì nó nhất định phải phi vượt lên mới xong, bất kể đó là trâu bò lừa ngựa. Cái tính hiếu thắng trình cường có lẽ là do nó cả đời luôn bị làm nhục mà ra. Dương Quá nghĩ bụng con tuấn mã này rơi vào tay gã thôn phu thô lỗ, phong trần khốn đốn, uất ức mãi rồi, bây giờ bỗng được một phen tung vó, ắt muốn phi đi như bay.

Cái tính nết ấy sao mà giống với Dương Quá, một người một ngựa, thành đôi hảo hữu. Chàng vốn tâm tình phẫn uất dọc đường lấy việc huấn luyện con ngựa làm vui, tính nết thiếu niên, cũng chóng quên buồn. Từ đó một mạch đi xuống phía nam, đến bờ sông Hán Thủy. Dọc đường nhớ lại chuyện đùa giỡn Lục Vô Song cùng sư đồ Lý Mạc Sầu, ngồi trên lưng ngựa bất giác cười vui. Nghĩ đến Tiểu Long Nữ không biết hiện tại ở đâu, bao giờ mới được gặp lại nàng, thì chàng lại buồn bã vô cùng.

Hôm ấy đi đến chính ngọ, dọc đường chốc chốc lại gặp một khiếu hóa tử, nhìn bộ dạng họ, phần lớn đều biết võ công, Dương Quá nghĩ thầm: “Không lẽ cuộc tranh chấp giữa Lục Vô Song và Cái Bang còn chưa chấm dứt? Hay là Cái Bang triệu tập bang chúng, nhất quyết thư hùng với Lý Mạc Sầu? Cuộc nhiệt náo này không thể không xem”. Đối với Cái Bang chàng vốn không mấy hảo cảm, nhưng vì khâm phục Hồng Thất Công, mà tự dưng chàng có cảm giác thân cận với Cái Bang, nghĩ thầm nếu mấy khiếu hóa tử kia không phải đang gây khó dễ với Lục Vô Song, thì chàng sẽ báo cho họ biết cái tin Hồng Thất Công tạ thế. Lại đi một quãng, thấy trên đường khiếu hóa tử càng đông thêm. Các khiếu hóa tử nhìn Dương Quá cũng hơi lấy làm lạ, vì lối ăn mặc của chàng hệt như khiếu hóa tử, song bang chúng Cái Bang nếu không có việc thật khẩn cấp, thì không bao giờ họ cưỡi ngựa.

Dương Quá cũng chẳng để tâm, cứ thế đi.

Đi đến giờ Thân, bỗng nghe có tiếng chim điêu trên trời, một đôi chim điêu trắng bay qua, lao xuống phía trước. Chỉ nghe một khiếu hóa tử nói:

– Hoàng bang chủ đến rồi, tối nay chín phần sẽ tụ hội.

Một khiếu hóa tử khác nói:

– Không biết Quách đại hiệp có đến hay không?

Gã hóa tử thứ nhất nói:

– Vợ chồng họ như cán cân với quả cân, có bao giờ rời nhau…

Liếc thấy Dương Quá đang chú ý nghe họ nói chuyện, gã trừng mắt với chàng một cái, không nói nữa.

Dương Quá nghe nhắc đến tên Quách Tĩnh, Hoàng Dung, hơi ngạc nhiên, rồi cười nhạt, nghĩ thầm: “Ngày trước ta ăn chực ở nhà các người, bị các người khinh rẻ; bấy giờ ta còn bé nhỏ bất tài, phải chịu không ít khổ sở. Giờ đây ta lấy thiên hạ làm nhà, đâu cần dựa dẫm vào các người?” Lại nghĩ bụng: “Chi bằng giả bộ bơ vơ khốn khổ, xem các người đối xử với ta thế nào”.

Thế là chàng bèn tìm một chỗ vắng, vò tóc rối bù, đấm mạnh một cái vào mắt trái, cào cào mấy cái vào má, mắt trái lập tức sưng lên và tím lại, má có nhiều vệt cào xước rớm máu. Quần áo của chàng vốn đã rách, chàng lại xé cho rách thêm, rồi lăn mình xuống chỗ ướt át cho lấm lem, cộng với con ngựa gầy gò xấu xí, quả nhiên trông như một kẻ cùng đồ mạt lộ, thiểu não vô cùng. Hóa trang xong xuôi, chàng khập khiễng trở ra đường cái, không cưỡi ngựa nữa, mà đi lẫn vào đám hóa tử. Chàng không cầm cương dắt ngựa, con ngựa tự đi sau chàng. Có gã hóa tử hỏi chàng có đi dự buổi đại yến hay không, chàng giương mắt nhìn không đáp, đi lẫn với đám hóa tử, lúc với đám này, lúc với đám khác.

Đi đến lúc trời sắp tối, thì tới một tòa miếu lớn cũ nát. Thấy đôi chim điêu trắng đậu trên một cây tùng. Huynh đệ họ Võ một tay cầm chậu, tay kia nhặt từng miếng thịt trong chậu ném cho chim ăn.

Lần huynh đệ họ Võ cùng Quách Phù hợp lực đấu với Lý Mạc Sầu, Dương Quá từng đứng bên cạnh quan sát, nhưng lúc ấy chàng chỉ chú ý đến Quách Phù, không để ý lắm tới huynh đệ họ Võ. Lúc này chàng có dịp nhìn kỹ, thấy Võ Đôn Nhu thần sắc dũng mãnh, cử chỉ mạnh mẽ; Võ Tu Văn thì linh hoạt sinh động, luôn chạy chỗ này chỗ kia, không lúc nào yên. Võ Đôn Nhu mặc chiếc áo lụa tơ tằm, Võ Tu Văn thì mặc áo lụa Sơn Đông màu lam, cả hai đều thắt dây lưng bằng gấm thêu, quả nhiên là thiếu niên anh hùng, nhân tài xuất chúng.

Dương Quá bước tới, ấp úng nói:

– Hai vị… Võ huynh… vẫn mạnh giỏi!

Lúc này trước miếu sau miếu tụ tập khá đông hóa tử, người nào người nấy quần áo vá chằng vá đụp, Dương Quá tuy mặt mày lem luốc, song giữa đám đông hóa tử cũng không có gì khác biệt lắm.

Võ Đôn Nhu đáp lễ, nhìn Dương Quá một cái, không nhận ra chàng, nói:

– Thứ cho tiểu đệ mắt kém, tôn huynh là ai vậy?

Dương Quá nói:

– Tiện danh chẳng đáng xưng, tiểu đệ… tiểu đệ muốn cầu kiến Hoàng bang chủ.

Võ Đôn Nhu nghe giọng nói quen quen, đang định hỏi, bỗng từ cửa miếu vọng ra giọng nói trong trẻo như tiếng chuông ngân:

– Đại Võ ca ca, muội nhờ ca ca mua giùm cái roi ngựa mềm, không biết ca ca đã mua hộ chưa?

Võ Đôn Nhu vội bỏ Dương Quá, quay sang đón người kia, nói:

– Huynh mua rồi, muội thử xem có vừa tay hay không này.

Nói rồi lấy trong túi ra một cái roi ngựa.

Dương Quá ngoảnh lại, thấy một thiếu nữ mặc áo màu xanh nhạt, từ trong miếu bước nhanh ra, đôi lông mày cong cong, cái mũi nhỏ, mặt như bạch ngọc, dung nhan tươi như hoa, chính là Quách Phù. Nàng phục sức cũng không sang trọng cho lắm, chỉ đeo một chuỗi minh châu trên cổ, hợp với khuôn mặt diễm lệ của nàng. Dương Quá chỉ nhìn nàng một cái rồi ngoảnh đi, không khỏi tự thẹn về sự nhơ bẩn của mình. Võ Tu Văn cũng chạy lại, hai huynh đệ cùng ra sức nịnh bợ Quách Phù.

Võ Đôn Nhu nói chuyện với Quách Phù một hồi, mới sực nhớ ra Dương Quá, quay lại hỏi:

– Tôn huynh đến dự anh hùng yến phải không?

Dương Quá chẳng hiểu anh hùng yến là gì, thuận miệng đáp phải. Võ Đôn Nhu bèn vẫy gọi và nói với một gã hóa tử:

– Hãy tiếp đãi vị bằng hữu này, ngày mai dẫn tới ải Đại Thắng.

Rồi quay qua trò chuyện với Quách Phù, chẳng lý gì đến Dương Quá nữa.

Gã hóa tử đáp ứng, hỏi họ tên của Dương Quá. Dương Quá nói thật ra. Chàng vốn là hạng vô danh, gã hóa tử kia tất nhiên chưa từng nghe tên chàng bao giờ, cũng không để ý. Gã tự xưng tên là Vương Thập Tam, là đệ tử hai túi trong Cái Bang. Gã hỏi:

– Dương huynh từ đâu tới?

Dương Quá nói:

– Từ Thiểm Tây.

Vương Thập Tam nói:

– Ồ, Dương huynh là môn hạ phái Toàn Chân à?

Dương Quá nghe ba tiếng “phái Toàn Chân” thì khó chịu, lắc đầu nói:

– Không phải.

Vương Thập Tam hỏi:

– Dương huynh chắc là có mang theo anh hùng thiếp đấy chứ?

Dương Quá ngẩn người, nói:

– Tiểu đệ lưu lạc giang hồ, làm sao được gọi là anh hùng? Chẳng qua ngày trước có gặp Hoàng bang chủ, nay cầu kiến để bẩm cáo vài việc liên quan.

Vương Thập Tam cau mày, ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Hoàng bang chủ bận tiếp đãi anh hùng thiên hạ, chỉ e không rỗi để gặp huynh.

Dương Quá lần này cố ý giả trang cơ hàn, đối phương càng khinh rẻ, chàng càng đắc ý trong thâm tâm, bèn ra sức cầu khẩn.

Bang chúng Cái Bang đều xuất thân bần khổ, xưa nay phò nguy giải khốn, không khinh miệt người bần cùng. Vương Thập Tam nghe Dương Quá nài nỉ khổ sở, thì nói:

– Dương huynh đệ, huynh đệ hãy ăn no bụng cái đã, ngày mai chúng ta sẽ cùng đến ải Đại Thắng. Huynh sẽ bẩm về đệ với trưởng lão, nhờ bẩm với bang chủ, tùy bang chủ phân phó, được chứ?

Vương Thập Tam lúc đầu gọi Dương Quá là Dương huynh, bây giờ nghe chàng trả lời không phải là người được mời dự anh hùng yến, mình lại nhiều tuổi hơn hẳn chàng, đổi sang gọi là Dương huynh đệ. Dương Quá rối rít cảm tạ. Vương Thập Tam mời chàng vào trong miếu, bưng suất cơm khách ra mời chàng ăn. Bang quy của Cái Bang định rằng, đệ tử bổn bang dù gặp dịp đại điển hỉ khánh, mọi thứ thịt cá đều phải đem nấu cho nhừ nát, hệt như thức ăn dư thừa, mới được ăn, để vĩnh viễn không quên gốc gác, nhưng khi chiêu đãi khách khứa, thì lại thết cơm rượu tử tế.

Dương Quá đang ăn, thấy Quách Phù cười nói vui vẻ ung dung đi vào đại điện, huynh đệ họ Võ theo hầu hai bên. Nghe Võ Tu Văn nói:

– Được, đêm nay chúng ta sẽ đi suốt đêm tới ải Đại Thắng. Để huynh đi dắt ngựa lại cho muội.

Ba người mải trò chuyện, không để ý đến Dương Quá đang ngồi ăn dưới đất. Họ đi vào hậu điện lấy bọc vật dụng, binh khí, ra khỏi miếu, sau đó lên ngựa phóng đi. Dương Quá ngồi ăn, nghe tiếng vó ngựa xa dần, trong lòng cảm xúc lẫn lộn, cũng không rõ là sầu hay hận, là nộ hay bi?

Sáng hôm sau Vương Thập Tam rủ chàng cùng đi. Dọc đường, trừ bang chúng Cái Bang, còn có không ít nhân vật võ lâm, hoặc cưỡi ngựa, hoặc bộ hành, chắc là đều đi dự anh hùng yến. Dương Quá chẳng biết anh hùng yến, anh hùng thiếp là cái gì, có hỏi chắc Vương Thập Tam cũng chả chịu nói, bèn giả si giả ngốc mà đi. Gần tối thì đến ải Đại Thắng. Đại Thắng là cửa ải hiểm yếu giữa vùng Dự Ngạc, dân cư thưa thớt, từ đây trở lên phía bắc là vùng đất do quân Mông Cổ chiếm đóng. Vương Thập Tam dẫn Dương Quá đi qua thị trấn, lại đi thêm bảy, tám dặm nữa, thấy phía trước có mấy trăm cây hòe cổ thụ bao quanh một đại trang viện, các lộ anh hùng hảo hán đều đi đến trang viện này. Trong trang viện có nhiều dãy nhà, không đếm xuể, xem chừng có thể tiếp đón hàng ngàn tân khách một lúc.

Vương Thập Tam trong Cái Bang chỉ là đệ tử thuộc hạng thấp kém, biết bang chủ hiện đang bận bịu yếu vụ đâu dám bẩm cáo những chuyện nhỏ nhặt? Sau khi bố trí cho Dương Quá một chỗ ở, y đi gặp các bằng hữu trò chuyện.

Dương Quá thấy trang viện rất sang trọng, các trang đinh qua lại nườm nượp để tiếp khách, thì kinh ngạc, không hiểu chủ nhân trang viện là ai mà thanh thế lớn vậy? Bỗng nghe đoành đoành ba tiếng súng hỏa mai, rồi nhạc trống tấu lên. Có người nói:

– Vợ chồng trang chủ thân chinh ra đón khách, bọn mình đi xem vị anh hùng nào đến đi.

Chỉ thấy tri khách, trang đinh đứng thành hai hàng, rất đông người tụ tập ở hai bên. Từ sau tấm bình phong đại sảnh sánh vai nhau bước ra một nam một nữ, đều trạc tứ tuần, nam thì mặc áo cẩm bào, để ria con kiến, phong thái hiên ngang; nữ thì trắng trẻo, có dáng dấp thanh lịch của bậc quí phái. Các tân khách nói nhỏ với nhau:

– Lục trang chủ và Lục phu nhân thân chinh ra đón đại tân khách đó.

Đằng sau hai người lại có một cặp vợ chồng, Dương Quá vừa nhìn thấy thì giật mình, mặt tự nhiên nóng bừng, đó là vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Dăm năm không gặp, Quách Tĩnh khí độ càng trầm tĩnh, Hoàng Dung thì mỉm cười, nhan sắc không kém gì ngày trước. Dương Quá nghĩ thầm: “Thì ra Quách bá mẫu quá xinh đẹp, hồi nhỏ ta không nhận biết”. Quách Tĩnh mặc trường bào bằng vải thô, Hoàng Dung thì mặc áo lụa màu tím nhạt, vì nàng là bang chủ Cái Bang nên không thể trang phục sang trọng. Theo sau Hoàng Dung là Quách Phù và huynh đệ họ Võ. Lúc này trong đại sảnh đã thắp lên vô số ngọn nến hồng, dưới ánh nến lung linh, nam càng thêm anh võ, nữ càng thêm kiều diễm. Tân khách chỉ trỏ, gật đầu:

– Vị kia là Quách đại hiệp, vị kia là Quách phu nhân Hoàng bang chủ.

– Khuê nữ tươi như hoa kia là ai vậy?

– Là nữ nhi của vợ chồng Quách đại hiệp đấy.

– Hai chàng trai kia là nhi tử của vợ chồng họ phải không?

– Không phải đâu, là điệt nhi đấy.

Dương Quá không muốn hội diện với vợ chồng Quách Tĩnh trước mặt mọi người, chàng nấp vào phía sau một hán tử cao lớn mà quan sát. Trong tiếng nhạc trống, từ bên ngoài tiến vào có bốn đạo nhân. Dương Quá vừa nhìn thấy, thì lập tức nổi giận, đi đầu là một lão đạo sĩ râu tóc và lông mày bạc như cước, mặt đầy khí tím, chính là Quảng Ninh tử Hách Đại Thông, một trong “Toàn Chân thất tử”, tiếp đến một lão đạo cô tóc hoa râm, vị này Dương Quá chưa từng gặp. Đằng sau là hai đạo sĩ trung niên sánh vai nhau, là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình.

Vợ chồng Lục trang chủ cùng vái lạy, gọi lão đạo cô là sư phụ, tiếp đến vợ chồng Quách Tĩnh, Quách Phù, huynh đệ họ Võ lần lượt hành lễ. Dương Quá nghe một lão nhân đứng bên cạnh chàng nói nhỏ:

– Vị lão đạo cô kia là nữ hiệp của phái Toàn Chân, họ Tôn, tên Bất Nhị.

Một người khác nói:

– Ồ, thì ra đó là “Thanh tịnh tản nhân” lừng danh Đại giang nam bắc.

Lão nhân nói:

– Đúng vậy. Lão đạo cô là sư phụ của Lục phu nhân. Võ nghệ của Lục trang chủ thì không phải do lão đạo cô truyền thụ.

Nguyên Lục trang chủ có song danh là Quán Anh, phụ thân của Lục Quán Anh là Lục Thừa Phong làm đệ tử của Hoàng Dược Sư, phụ thân của Hoàng Dung; do đó phải nói là vai vế của Lục Quán Anh so với Quách Tĩnh, Hoàng Dung còn thấp hơn một bậc. Phu nhân của Lục Quán Anh là Trình Dao Gia là đệ tử của Tôn Bất Nhị. Vợ chồng Lục Quán Anh vốn sống ở Qui Vân trang tại Thái Hồ, sau trang viện ấy bị Âu Dương Phong đốt trụi. Lục Thừa Phong cả giận, bảo nhi tử từ bỏ chức thủ lĩnh lục lâm ở vùng Thái Hồ, dời lên phương bắc, định cư ở ải Đại Thắng. Hiện thời Lục Thừa Phong đã qua đời từ lâu. Có dạo Trình Dao Gia gặp nạn, được Quách Tĩnh, Hoàng Dung và người của Cái Bang cứu giúp, nên luôn luôn nhớ ơn Cái Bang. Vừa rồi Cái Bang gửi thiếp mời anh hùng thiên hạ, vợ chồng Lục Quán Anh xuất lực lo liệu, bày anh hùng yến ở Lục gia trang.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung hành lễ xong, mời Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị vào đại sảnh, dẫn kiến với các vị anh hùng. Hách Đại Thông vuốt râu, nói:

– Bốn vị sư huynh Mã, Lưu, Khưu, Vương nhận được anh hùng thiếp của Hoàng bang chủ, đều bảo phải đi dự, nhưng Mã sư huynh gần đây không được khỏe, ba vị sư huynh kia phải giúp Mã sư huynh vận kình chữa trị, không thể phân thân, đành phải cáo tội với Hoàng bang chủ.

Hoàng Dung nói:

– Nói rất khéo, rất khéo. Mấy vị tiền bối quá khách sáo rồi.

Nàng tuy trẻ tuổi, nhưng làm bang chủ một bang lớn nhất trong thiên hạ, nên Hách Đại Thông tất phải hết sức tôn trọng nàng. Quách Tĩnh với Doãn Chí Bình hồi niên thiếu từng quen nhau, hôm nay gặp lại rất đỗi vui mừng, dắt tay nhau bước vào. Quách Tĩnh hỏi thăm bệnh tình của Mã Ngọc. Bàn tiệc được bày biện trong đại sảnh, tiếng người huyên náo, ánh nến sáng hồng, không khí rất tưng bừng. Doãn Chí Bình nhìn đông ngó tây, tựa hồ tìm kiếm một người nào đó. Triệu Chí Kính cười khẩy, nói nhỏ:

– Doãn sư đệ, vị Long gia nọ chẳng hay có đến hay chưa?

Doãn Chí Bình biến sắc, không trả lời. Quách Tĩnh không biết rằng Triệu Chí Kính vừa nói đến Tiểu Long Nữ, bèn hỏi:

– Vị anh hùng họ Long ấy là bằng hữu của hai vị sư huynh hay sao?

Triệu Chí Kính nói:

– Là hảo hữu của Doãn sư đệ, bần đạo đâu dám tương giao.

Quách Tĩnh thấy thần sắc hai người quái lạ, chẳng lẽ có tình ý gì khác, không tiện hỏi thêm.

Đột nhiên trong đám đông Doãn Chí Bình nhận ra Dương Quá, thì rùng mình như bị chớp giật sét đánh; y cho rằng Dương Quá đã ở đây thì Tiểu Long Nữ ắt cũng đã tới. Triệu Chí Kính nhìn theo ánh mắt của Doãn Chí Bình, tức thời sắc diện đại biến, tức giận thốt lên:

– Dương Quá! Đúng là Dương Quá! Tên tiểu… tử ấy cũng đến.

Quách Tĩnh nghe hai tiếng “Dương Quá”, vội ngoảnh nhìn. Hai người xa cách mấy năm, Dương Quá giờ đã trưởng thành, Quách Tĩnh vốn khó lòng nhận ra, nhưng nghe Triệu Chí Kính nói thế, liền nhận ra ngay, trong bụng vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, vội chạy tới nắm cánh tay chàng, mừng rỡ nói:

– Quá nhi, ngươi cũng đến đây. Ta chỉ sợ làm lỡ việc luyện võ công của ngươi, nên không gửi thiếp cho ngươi. Sư phụ ngươi cho ngươi theo cùng, thật là hay quá chừng!

Việc Dương Quá rời bỏ cung Trùng Dương, phái Toàn Chân trên dưới đều coi là nỗi nhục của bổn giáo, không ai tiết lộ ra ngoài một câu, cho nên Quách Tĩnh ở Đào Hoa đảo không hề biết.

Triệu Chí Kính phen này đi dự anh hùng yến, nhân tiện sẽ cho Quách Tĩnh biết chuyện đó, không ngờ lại gặp Dương Quá. Y sợ Quách Tĩnh chỉ nghe lời một phía là Dương Quá, nhưng vừa nghe Quách Tĩnh nói, thì biết rằng hai người họ bây giờ mới gặp nhau lần đầu, bèn sa sầm mặt, ngẩng lên trời, nói:

– Bần đạo làm gì có đức có tài để là sư phụ của Dương gia kia chứ?

Quách Tĩnh vô cùng kinh ngạc, vội hỏi:

– Triệu sư huynh nói gì vậy? Chắc là tiểu hài nhi không nghe lời giáo huấn?

Triệu Chí Kính thấy trong sảnh đông đủ anh hùng, đề cập chuyện không hay với Dương Quá chỉ làm mất thể diện phái Toàn Chân, nên chỉ cười nhạt, không nói nữa.

Quách Tĩnh nhìn Dương Quá, thấy chàng mắt sưng húp, mặt có nhiều vết máu xước, quần áo rách như tổ đỉa, toàn thân lem luốc, rõ ràng phải chịu không ít cảnh khổ sở, thì đau lòng, ôm chặt lấy chàng. Dương Quá bị Quách Tĩnh ôm, vội ngầm vận nội công bảo vệ các chỗ yếu hại. Nhưng đó là Quách Tĩnh yêu thương chàng, không hề có ý hại chàng.

Quách Tĩnh gọi:

– Dung nhi, nàng xem ai đến đây này!

Hoàng Dung nhìn thấy Dương Quá, cũng hơi ngạc nhiên, song nàng không mừng rỡ như Quách Tĩnh, chỉ thản nhiên nói:

– À ngươi cũng đến à?

Dương Quá khẽ khàng thoát ra khỏi vòng ôm của Quách Tĩnh, nói:

– Điệt nhi người nhơ bẩn, chẳng dám làm bẩn y phục của Quách bá bá.

Chàng nói câu này rất lạnh lùng, pha chút châm biếm. Quách Tĩnh đau lòng, nghĩ thầm: “Hài tử này không cha không mẹ, xem chừng sư phụ của nó cũng chẳng thương yêu nó”, bèn cầm tay Dương Quá, muốn chàng ngồi cùng một bàn với mình. Dương Quá đã được chỉ cho một chỗ ngồi ở một góc khuất trong đại sảnh, cùng với những người thấp kém, xa lạ; chàng liền lạnh lùng nói:

– Điệt nhi ngồi đây được rồi, Quách bá bá hãy đi lo tiếp các quí khách!

Quách Tĩnh cũng cảm thấy có quá nhiều tôn khách, không tiện ngồi đây, bèn vỗ vỗ nhẹ vai chàng, trở lại bàn tiệc chính. Sau ba tuần rượu, Hoàng Dung đứng dậy nói to:

– Ngày mai là ngày chính thức anh hùng đại yến. Hiện còn vài lộ anh hùng hảo hán chưa đến kịp. Tối nay mong các vị hãy uống cho thỏa thích, chưa say chưa dừng. Ngày mai hãy bàn chính sự.

Mọi người vỗ tay khen phải.

Chỉ thấy trên các bàn tiệc thịt cao như núi, rượu tràn như suối, quần hào vui vẻ chuốc rượu, hàn huyên. Hôm nay không biết Lục gia trang mổ bao nhiêu heo, cừu, rót bao nhiêu vò mỹ tửu.

Tiệc rượu đã tàn, các trang đinh đưa các lộ hảo hán về các phòng nghỉ ngơi.

Triệu Chí Kính bẩm cáo vài câu với Hách Đại Thông, Hách Đại Thông gật gật đầu. Triệu Chí Kính đứng lên, ôm quyền nói với Quách Tĩnh:

– Quách đại hiệp, bần đạo phụ lời ủy thác, hổ thẹn vô cùng, hôm nay tới đây chịu tội.

Quách Tĩnh vội trả lễ, nói:

– Triệu sư huynh quá khiêm rồi. Chúng ta hãy sang thư phòng nói chuyện. Tiểu hài nhi gia đắc tội với Triệu sư huynh, tiểu đệ sẽ phạt hắn thật nặng, mong Triệu sư huynh bớt giận.

Quách Tĩnh nói to mấy câu ấy, Dương Quá tuy ở cách xa, nghe rất rõ, định bụng: “Chỉ cần Quách bá bá chửi ta một câu, ta sẽ đi ngay, không bao giờ gặp lại nữa. Nếu Quách bá bá đánh ta, tuy võ công ta thua kém, ta cũng quyết liều chết một phen”.

Ý đã quyết, chàng cảm thấy thản nhiên, đã không còn khó chịu như lúc mới nhìn thấy Triệu Chí Kính. Thấy Quách Tĩnh vẫy tay, chàng liền đứng dậy đi theo sau.

Quách Phù cùng huynh đệ họ Võ ngồi ở bàn khác, thoạt tiên không nhận ra Dương Quá, sau thấy cha mẹ đã nhận ra chàng, mới nhớ rằng đấy là cậu bé từng chơi đùa ở Đào Hoa đảo ngày trước. Xa cách đã lâu, tướng mạo thiếu niên thay đổi nhanh chóng, vài tháng không gặp đã khác, huống hồ mấy năm; hơn nữa Dương Quá lại cố ý giả trang làm một kẻ khốn cùng, lẫn lộn vào đám hành khất hàng trăm người, Quách Phù dĩ nhiên không thể nhận ra. Nàng gặp lại Dương Quá, trong lòng không khỏi xúc động, nhớ lại đôi lần ẩu đả ở Đào Hoa đảo, không hiểu Dương Quá còn nhớ hận cũ hay chăng? Nhìn tình trạng khốn khổ của chàng, so với hình mạo tuấn tú gọn gàng của huynh đệ họ Võ thật cách nhau một trời một vực, bất giác có phần thương cảm, bèn nói nhỏ với Võ Đôn Nhu:

– Gia gia dẫn chàng ta đến phái Toàn Chân học nghệ, không biết so với bọn ta thì thế nào?

Võ Đôn Nhu chưa đáp, Võ Tu Văn đã nói:

– Sư phụ võ công vô địch thiên hạ, hắn làm sao so được với chúng ta?

Quách Phù gật đầu, nói:

– Chàng ta từ đầu căn cơ đã kém, chắc khó có tiến cảnh, nhưng tại sao lại khổ sở thế kia không biết?

Võ Tu Văn nói:

– Mấy đạo nhân kia nhìn hắn cứ như muốn ăn sống nuốt tươi. Hắn xấu tính xấu nết, chắc là đã gây đại họa gì rồi.

Ba người thì thào với nhau một hồi, nghe Quách Tĩnh mời Hách Đại Thông vào thư phòng nói chuyện, lại bảo sẽ phạt nặng Dương Quá, Quách Phù nổi tính hiếu kỳ, nói:

– Này, chúng ta mau sang nấp ở thư phòng, xem họ nói chuyện gì.

Võ Đôn Nhu sợ sư phụ trách mắng, không dám đáp ứng. Võ Tu Văn thì rối rít khen hay, đã chạy trước Quách Phù. Quách Phù giả làm mặt giận, nói với Võ Đôn Nhu:

– Ca ca không nghe lời muội hả?

Võ Đôn Nhu thấy vẻ giận dỗi rất đẹp của nàng thì tim đập dồn, không dám trái lời, liền đi theo nàng.

Ba người vừa nấp sau giá sách, thì Quách Tĩnh, Hoàng Dung dẫn Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình bốn người đi vào thư phòng, hai bên phân ngôi chủ khách mà ngồi. Dương Quá vào sau, đứng một bên.

Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi, ngươi cũng ngồi xuống đi!

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Điệt nhi không ngồi đâu.

Đối diện với sáu vị cao thủ võ lâm, chàng dẫu to gan, cũng không khỏi hồi hộp lo lắng. Quách Tĩnh vốn coi Dương Quá như con cháu ruột của mình, đối với “Toàn Chân thất tử” lại mười phần kính trọng, thiết tưởng cũng khỏi cần hỏi rõ phải trái, mặc nhiên kẻ dưới có lỗi với bề trên, bèn nghiêm nghị nói với Dương Quá:

– Tiểu hài nhi thật to gan, dám bất kính sư phụ. Mau khấu đầu tạ tội với hai vị sư thúc tổ, sư phụ, sư thúc!

Thời ấy danh phận giữa quân thần, phụ tử, sư đồ rất rõ ràng, vua muốn bề tôi chết, bề tôi không dám sống; cha muốn con chết, con không dám sống. Còn sự phân định tôn ti sư đồ trong võ lâm cũng không sai lệch một ly.

Quách Tĩnh nói thế, tức là đã thương Dương Quá cô khổ, giọng nói ôn tồn muôn phần, chứ là người khác thì đã chửi loạn lên “Tên súc sinh, đồ chó đẻ”, đã đấm đá túi bụi rồi.

Triệu Chí Kính đứng phắt dậy, lạnh lùng nói:

– Bần đạo đâu dám làm sư tôn của Dương gia? Quách đại hiệp, đừng châm biếm nữa. Phái Toàn Chân chúng bần đạo không hề đắc tội với Quách đại hiệp, hà tất phải làm nhục nhau như vậy? Dương đại gia, tiểu bần đạo xin khấu đầu tạ tội với lão nhân gia, coi như tiểu bần đạo có mắt như mù, không biết ai là anh hùng hảo hán…

Vợ chồng Quách Tĩnh thấy y thần sắc đại biến, càng nói càng giận, thì rất đỗi kinh ngạc, nghĩ rằng đồ đệ phạm lỗi, sư phụ trách mắng cũng là chuyện thường tình, hà tất phải nói năng chẳng còn ra thể thống gì như vậy? Hoàng Dung đoán là Dương Quá hẳn đã phạm lỗi rất nặng, rồi Quách Tĩnh sẽ cho hắn một trận, bèn thong thả nói:

– Chúng đệ muội gây phiền phức cho Triệu sư huynh, thật là áy náy. Triệu sư huynh cũng không nên phát nộ, hài tử này đắc tội với sư phụ như thế nào, xin cứ ngồi xuống nói rõ cho.

Triệu Chí Kính nói lớn:

– Triệu Chí Kính mỗ là đồ hèn mọn, sao dám đòi làm sư phụ của người ta? Để cho hảo hán trong thiên hạ cười thối mũi hay sao?

Hoàng Dung mày liễu hơi cau, thâm tâm cảm thấy khó chịu. Nàng với giáo phái Toàn Chân vốn không có giao tình gì nhiều, ngày trước “Toàn Chân thất tử” từng bày Thiên Cang Bắc Đẩu trận vây công phụ thân nàng là Hoàng Dược Sư; Khưu Xứ Cơ lại từng chỉ muốn Mục Niệm Từ kết hôn với Quách Tĩnh, là hai việc khiến nàng không ưa chút nào; tuy hai chuyện qua cũng lâu lắm rồi, chẳng để bụng nữa, nhưng bây giờ trước mặt nàng Triệu Chí Kính lớn tiếng, xuất ngôn như thế là quá vô lễ.

Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị tuy biết vì sao Triệu Chí Kính nổi giận, nhưng nóng nảy thô bạo kiểu đó thực không phải là bản sắc của người xuất gia. Tôn Bất Nhị nói:

– Chí Kính, hãy nói rõ với Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ xem nào. Ngươi nóng nảy thô bạo như thế có ra gì hay không? Ngươi tu hành tu cái đạo gì như thế?

Tôn Bất Nhị tuy là nữ lưu, nhưng tính khí nghiêm nghị, chúng tiểu bối đều hết sức kính sợ lão đạo cô. Mấy câu chậm rãi vừa nói khiến Triệu Chí Kính không dám cãi, chỉ vâng dạ ngồi xuống.

Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi, ngươi coi sư phụ của ngươi đối với trưởng bối có qui củ thế nào, sao ngươi không noi theo kia chứ?

Triệu Chí Kính lại định nói “Ta không phải là sư phụ của hắn”, nhìn Tôn Bất Nhị một cái, rồi nhịn lại không nói, ai dè Dương Quá nói to:

– Y không phải là sư phụ của điệt nhi.

Câu này nói ra, Quách Tĩnh, Hoàng Dung cố nhiên rất đỗi kinh ngạc, Quách Phù và huynh đệ họ Võ nấp sau kệ sách cũng lấy làm lạ. Trong võ lâm, sự phân chia sư đồ rất nghiêm minh, tục ngữ có câu “nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” (Một ngày làm thầy, suốt đời làm cha). Quách Tĩnh từ nhỏ được Giang Nam thất quái nuôi dạy nên người, lại được Hồng Thất Công truyền thụ võ nghệ, ơn thầy sâu nặng, từ nhỏ đã tin rằng cái đạo tôn sư quả là thiên kinh địa nghĩa, nào ngờ Dương Quá công khai không nhận sư phụ, nói những lời ngỗ nghịch. Quách Tĩnh đứng phắt dậy, chỉ mặt Dương Quá, hỏi, giọng run run:

– Ngươi… ngươi… vừa nói cái gì?

Chàng chưa chửi mắng, nhưng mặt đanh lại, tức là đã giận đến cực điểm. Hoàng Dung ít khi thấy chàng giận như vậy, thấp giọng khuyên chàng:

– Tĩnh ca ca, hài tử này bản tính không hay, đừng vì nó mà tức giận quá.

Dương Quá vốn đã sợ, lúc này thấy ngay cả Quách bá bá là người yêu thương mình cũng gằn giọng, thì chẳng cần gì nữa, nghĩ thầm: “Chết là cùng chứ gì? Cùng lắm thì các người giết ta”. Thế là chàng nói rành rọt:

– Điệt nhi bản tính chẳng ra gì, song cũng không hề cầu xin các vị truyền thụ võ công. Các vị đều là nhân vật lừng lẫy trong võ lâm, hà tất phải dùng quỉ kế làm hại một đứa bé bơ vơ không cha không mẹ như điệt nhi?

Nói đến bốn chữ bơ vơ “không cha không mẹ”, chàng tự thương cho thân thế của mình, nước mắt lưng tròng, nhưng lập tức cắn môi, tự nhủ “Hôm nay dù có chết, ta cũng quyết không rơi nước mắt”.

Quách Tĩnh giận nói:

– Quách bá mẫu của ngươi và sư phụ của ngươi… có hảo tâm… có lòng truyền thụ võ nghệ cho ngươi, đều là nghĩ đến giao tình giữa ta và phụ thân quá cố của ngươi, ai lại đi… lại đi dùng quỉ kế gì? Ai… ai… lại làm hại ngươi?

Quách Tĩnh vốn không biết khéo nói, trong cơn thịnh nộ lại càng ấp a ấp úng hơn.

Dương Quá thấy vậy, thì nói thật rành rọt:

– Quách bá bá đối với điệt nhi rất tốt. Điệt nhi vĩnh viễn sẽ không quên.

Hoàng Dung thong thả nói:

– Quách bá mẫu hóa ra đối với ngươi không tốt. Ngươi thích suốt đời nhớ hận, thì tùy ngươi thôi.

Dương Quá đã đến bước này thì phải nói thẳng ra:

– Quách bá mẫu đối với điệt nhi chưa tốt, nhưng cũng không xấu. Quách bá mẫu miệng nói là truyền thụ võ nghệ, kỳ thực chỉ dạy điệt nhi đọc sách, không dạy một chút võ công nào cả. Nhưng đọc sách cũng là việc tốt, điệt nhi cuối cùng biết thêm được ít chữ, được nghe Quách bá mẫu giảng giải nhiều chuyện của cổ nhân. Còn mấy lão đạo sĩ này…

Chàng chỉ Hách Đại Thông và Triệu Chí Kính, căm hận nói:

– … thì sẽ có ngày điệt nhi phải trả mối huyết hải thâm cừu mới xong.

Quách Tĩnh kinh ngạc, vội hỏi:

– Cái gì? Gì mà… huyết hải thâm cừu… tại sao ngươi nói thế?

Dương Quá nói:

– Lão đạo sĩ họ Triệu tự xưng là sư phụ của điệt nhi, nhưng không hề truyền thụ một chút võ nghệ nào cả, thế cũng được đi, nhưng lão ta lại sai một bọn tiểu đạo sĩ hùa nhau đánh đập điệt nhi. Quách bá mẫu không dạy võ công cho điệt nhi, phái Toàn Chân cũng không hề dạy võ công cho điệt nhi, điệt nhi chỉ được bọn đạo sĩ cho ăn đòn mà thôi. Lại còn lão họ Hách kia, thấy có một vị bà bà thương điệt nhi, liền ra tay đánh chết bà bà đó. Này lão đạo sĩ họ Hách thối tha kia, lão có thừa nhận việc đó hay không?

Nghĩ đến Tôn bà bà vì chàng mà bỏ mạng, chàng nghiến răng như muốn xông tới liều chết với Hách Đại Thông.

Hách Đại Thông là bậc cao sĩ của giáo phái Toàn Chân, cả Đạo học lẫn võ công đều đã tu luyện đến cảnh giới rất cao, tinh thông Dịch lý, trong phái Toàn Chân là một vị đạo sĩ xuất chúng, chỉ vì lỡ tay giết chết Tôn bà bà, mà mấy năm nay thấp thỏm không yên, coi đó là một mối hận bình sinh. “Toàn Chân thất tử” bình sinh giết không ít người, nhưng những kẻ bị giết đều là phường gian ác, chứ họ chưa hề giết người vô tội. Lúc này nghe Dương Quá chỉ trích trước mặt mọi người, Hách Đại Thông bất giác tái mặt, tình cảnh Tôn bà bà hôm nào bị lão đánh hộc máu tươi lại hiện ra trước mắt rõ mồn một. Lão không mang theo binh khí, bèn giơ tay trái rút lấy thanh kiếm từ bên hông Triệu Chí Kính. Mấy người cứ tưởng lão định dùng kiếm để đâm Dương Quá, Quách Tĩnh liền bước lên một bước, tính che chở cho Dương Quá, nào ngờ Hách Đại Thông quay cán kiếm, chìa cho Dương Quá, nói:

– Đúng vậy, bần đạo đã giết lầm người. Thí chủ cứ việc báo thù cho Tôn bà bà đi, bần đạo sẽ không chống đỡ đâu.

Mọi người thấy vậy thảy đều kinh ngạc. Quách Tĩnh sợ Dương Quá nhận kiếm đả thương Hách Đại Thông, bèn nói:

– Quá nhi, không được vô lễ.

Dương Quá biết có mặt Quách Tĩnh, Hoàng Dung, chàng không thể báo thù, bèn lạnh lùng nói:

– Lão thừa biết Quách bá bá sẽ không cho phép ta động thủ với lão, nên mới tỏ ra cao thượng như thế. Lão thật sự muốn ta giết lão, sao không đưa kiếm cho ta ở chỗ vắng người?

Hách Đại Thông là bậc tiền bối võ lâm, lại bị một gã thiếu niên châm biếm mà không đối đáp nổi, tay cầm kiếm giơ ra không xong, rút về chẳng ổn, bèn vận kình làm cho kiếm gãy đôi, rồi vứt kiếm gãy xuống đất, thở dài nói:

– Thôi đành, thôi đành!

Lão bước ra khỏi thư phòng, Quách Tĩnh định giữ chân, nhưng thấy lão cắm đầu đi, chẳng buồn ngoảnh lại.

Quách Tĩnh nhìn Dương Quá, lại nhìn Tôn Bất Nhị, nghĩ bụng lời Dương Quá nói là thật không phải bịa, một lát, mới lên tiếng:

– Lẽ nào các vị sư phụ phái Toàn Chân lại không hề dạy võ cho ngươi? Vậy thì mấy năm trời ở đấy ngươi làm những gì?

Hỏi hai câu ấy, giọng nói của Quách Tĩnh đã dịu hẳn lại.

Dương Quá nói:

– Khi Quách bá bá lên núi Chung Nam, đã đánh cho mấy trăm gã đạo sĩ cung Trùng Dương một trận tơi bời, cứ tạm coi như chư vị chân nhân Mã, Lưu, Khưu, Vương không để bụng, song những kẻ khác thì đâu có quên mối hận ấy? Bọn họ không làm gì được Quách bá bá, bèn trút giận xuống đầu một mình điệt nhi. Bọn họ chỉ hận không đánh chết điệt nhi, đời nào còn truyền thụ võ công cho điệt nhi kia chứ? Mấy năm qua, điệt nhi phải sống trong cảnh hoàn toàn tăm tối, không thấy ánh sáng ban ngày, hôm nay còn sống gặp được Quách bá bá thế này, quả là ông trời có mắt.

Chàng nói mấy câu, trút toàn bộ nguyên do từ bỏ phái Toàn Chân sang vai Quách Tĩnh. Câu “phải sống trong cảnh hoàn toàn tăm tối, không thấy ánh sáng ban ngày” cũng hoàn toàn là thật, không bịa chút nào, vì chàng mấy năm sống trong “Hoạt tử nhân mộ”, làm gì có ánh sáng ban ngày. Quách Tĩnh nghe xong, không khỏi thương xót cho chàng.

Triệu Chí Kính thấy Quách Tĩnh chín phần tin lời Dương Quá, vội đứng dậy, nói:

– Ngươi… đồ khốn kiếp… hồ thuyết bát đạo… ngươi… hừ, phái Toàn Chân ta quang minh lỗi lạc… nào… khi nào…

Quách Tĩnh tin Dương Quá nói thật. Hoàng Dung thì nhìn mặt, thấy cặp mắt Dương Quá và thần sắc lanh lợi cơ biến thế kia, nghĩ thầm: “Hài tử này giảo hoạt vô cùng, bên trong ắt hẳn có sự dối trá”, bèn hỏi:

– Như thế tức là ngươi không biết một chút võ công nào chứ gì? Ngươi làm môn hạ phái Toàn Chân mấy năm coi như trắng tay phải không?

Vừa nói vừa thong thả đứng dậy, đột nhiên giơ tay đánh thẳng xuống đỉnh đầu Dương Quá.

Một đòn này, ngón tay đánh xuống huyệt Bách Hội, cửa của bộ não, gốc bàn tay thì đánh vào huyệt Thượng Tinh ở mép tóc với trán; hai đại yếu huyệt này đều là nơi trí mạng, chỉ cần trúng đòn mạnh, sẽ táng mạng tức thời, không gì cứu vãn. Quách Tĩnh cả kinh, thốt lên:

– Dung nhi!

Nhưng Hoàng Dung xuất thủ cực nhanh, một đòn này là “Lạc Anh thần kiếm chưởng pháp” gia truyền của nàng, hoàn toàn không có triệu chứng báo trước, Quách Tĩnh có muốn cứu Dương Quá cũng chẳng kịp. Dương Quá hơi ngả người ra phía sau, định tránh né; nhưng võ công của Hoàng Dung hiện thời ở bậc nào, đã xuất thủ đâu còn để cho chàng né tránh, mắt thấy bàn tay đã vỗ xuống đầu chàng. Dương Quá cả kinh, vội giơ tay đỡ, trong óc chợt nghĩ, tay phải mới giơ lên một chút liền lập tức buông thõng xuống. Một người võ công cao cường mà trí óc chậm hiểu như Quách Tĩnh, thì trong óc chưa hiểu rõ, tay chân đã động. Còn Dương Quá liệu sự cực nhanh, trong óc nghĩ ngay: “Quách bá mẫu muốn thử xem ta có biết võ hay không, nếu ta đưa tay chống đỡ chưởng này, thì có khác gì tự nhận vừa rồi ta nói láo. Nhưng mắt thấy chiêu này của Hoàng Dung đúng là sát thủ lợi hại, nếu Quách bá mẫu không thử mà đánh thật, thì ta uổng mạng hay sao?” Trong cái sát-na ấy, tính quật cường trỗi dậy, chàng nghĩ thầm: “Chết thì chết đã sao!” Võ công của chàng bây giờ tuy chưa bằng Hoàng Dung, nhưng nếu muốn giơ tay chống đỡ chiêu đó của nàng thì cũng không khó. Song chàng chấp nhận đại hiểm sinh tử, đứng thõng tay bất động.

Chiêu này của Hoàng Dung quả nhiên chỉ để thử võ công của chàng, tay vỗ xuống đầu nhưng không vận lực, chỉ thấy Dương Quá sắc diện kinh hoàng, không giơ tay chống đỡ, cũng không ngầm vận nội công bảo vệ yếu huyệt, hiển nhiên là chàng không hề biết võ công, Hoàng Dung bèn mỉm cười, nói:

– Ta không truyền thụ võ công cho ngươi, là mong điều tốt cho ngươi thôi. Các vị đạo gia phái Toàn Chân chắc cũng có tâm ý như ta.

Rồi ngồi xuống, nói nhỏ với Quách Tĩnh:

– Nó quả nhiên không hề học võ công phái Toàn Chân.

Nói xong, đột nhiên kêu thầm: “Ôi, nhầm rồi! Suýt nữa thì mình bị mắc lừa hắn”. Nhớ hồi trước ở Đào Hoa đảo, Dương Quá từng dùng “Cáp mô công” làm chấn thương Võ Tu Văn, võ công đã có chút căn cơ, dẫu mấy năm qua không có tiến cảnh, thì vừa rồi cũng nhất định phải biết cách chống đỡ một chưởng vỗ vào đỉnh đầu, nghĩ bụng: “Tên tiểu tử, ngươi thông minh quá chừng, tí nữa thì ta bị ngươi đánh lừa. Ngươi cứ giả bộ ngớ ngẩn không biết gì ta coi”. Bèn im lặng, không nói ra, định bụng xem Dương Quá còn giở trò quỉ gì nữa. Nàng nhìn Triệu Chí Kính, lại nhìn Dương Quá, chỉ mỉm cười.

Triệu Chí Kính thấy Hoàng Dung thử một chiêu, Dương Quá hoàn toàn không hoàn thủ, biết là Hoàng Dung đã mắc lừa, như thế y càng bị đuối lý, liền cả giận, quát to:

– Tên súc sinh quỉ kế đa đoan, Hoàng bang chủ thử ngươi không xong, để ta thử coi.

Y tới trước mặt Dương Quá, chỉ vào mũi chàng, nói:

– Tên súc sinh, người quả thật không biết võ công ư? Nếu ngươi không tiếp chiêu, đạo gia thủ hạ sẽ không dung tình, sống hay chết là tùy ở ngươi đó.

Y biết Dương Quá võ công đúng là cao hơn y, song y sẽ sử dụng sát thủ, buộc chàng phải bộc lộ chân tướng, nếu cố ý giả trang, thì tiện thể một đòn lấy luôn mạng chàng, nhiều lắm chỉ là trở mặt với Quách Tĩnh, Hoàng Dung, bị giáo chủ và sư phụ trách phạt là cùng. Đúng là no mất ngon, giận mất khôn, y nghĩ thầm: “Ngươi cho rằng Hoàng bang chủ không lấy mạng ngươi, cho nên ngươi mới cả gan giả vờ như thế. Để xem dưới tay ta, ngươi có dám vậy nữa chăng?” Liền vung tay áo ra đòn.

Quách Tĩnh kêu:

– Hãy khoan!

Chàng chỉ lo Triệu Chí Kính đánh chết Dương Quá, nên định can thiệp. Hoàng Dung kéo áo chàng, nói nhỏ:

– Tĩnh ca ca đừng quản.

Hoàng Dung biết Triệu Chí Kính phẫn nộ dị thường, xuất chiêu ắt rất nặng tay, Dương Quá không mong gì sự nương nhẹ, muốn sống nhất định phải hoàn thủ, lúc ấy chân tướng sẽ rõ như ban ngày. Quách Tĩnh không biết bên trong có nhiều uẩn khúc, trong bụng rất lo, nhưng biết thê tử liệu sự không bao giờ sai lầm, nên cũng không nói thêm, chỉ bước gần thêm một bước, để nếu thật sự có nguy hiểm, sẽ kịp ra tay cứu giúp.

Triệu Chí Kính nói với Tôn Bất Nhị và Doãn Chí Bình:

– Tôn sư thúc, Doãn sư đệ, tên súc sinh kia giả vờ không biết võ công, họ Triệu ta không còn cách nào khác, đành phải thử; nếu hắn giả vờ đến cùng, họ Triệu này có một chưởng đánh chết hắn, mong hai người làm chứng cho trước mặt sư bá chưởng giáo, Khưu sư bá và sư phụ của Triệu mỗ.

Nguyên do vì sao Dương Quá từ bỏ phái Toàn Chân, Tôn Bất Nhị dĩ nhiên biết rõ, vừa rồi thấy chàng khôn khéo dồn Triệu Chí Kính vào thế bế tắc, rõ ràng phái Toàn Chân bị đuối lý, lúc này đạo cô cũng muốn Triệu Chí Kính buộc Dương Quá bộc lộ chân tướng, bèn lạnh lùng nói:

– Đối với một tên nghịch đồ hủy sư phản giáo, đánh giết sao cũng được.

Lão đạo cô là một cao nhân, há đi khuyên kẻ khác giết người? Câu này chẳng qua chỉ để dọa Dương Quá, khiến chàng không dám tiếp tục giả vờ nữa.Triệu Chí Kính có sư thúc khích lệ, càng bạo gan hơn, tung chân phải, nhắm bụng dưới của Dương Quá mà đá mạnh một cái. Chiêu “Thiên Sơn phi độ” này trong cương có nhu, dương kình ẩn chứa âm kình, vô cùng lợi hại. Nhưng cú đá này kình lực tuy mạnh, lại không có gì sâu xa, chỉ là chiêu số nhập môn của võ công phái Toàn Chân, xuất chiêu hết sức bình thường, chỉ cần hơi biết chút võ công, là có thể hóa giải.

Phàm đệ tử phái Toàn Chân ngày đầu tiên học võ, tất sẽ học chiêu “Thiên Sơn phi độ” này cùng chiêu “Thoái mã thế” là chiêu né tránh, tức là một cặp vừa công vừa thủ. Triệu Chí Kính sử chiêu này là để chứng minh với Quách Tĩnh, Hoàng Dung, rằng “Bảo là ta không truyền thụ võ công cao thâm đã đành, không lẽ chiêu nhập môn đầu tiên cũng không dạy hay sao?”

Dương Quá thấy Triệu Chí Kính sử chiêu “Thiên Sơn phi độ”, thì chàng không dùng chiêu “Thoái mã thế” mà kêu:

– Ôi chao!

Tay trái giơ ra che bụng dưới, Triệu Chí Kính thấy chàng không chịu tránh né, thì không dung tha, đá thẳng luôn, chờ lúc mũi chân chỉ còn cách bụng Dương Quá ba tấc, trong chớp mắt thấy ngón cái tay phải của chàng hơi động, nhắm vào huyệt Đại Khoát ở chân phải của y.

Cú đá này nếu cứ tiếp diễn, thì mũi chân chưa tới thân thể đối phương, chân y đã bị điểm huyệt trước. Cũng có thể nói là đối phương không hề giơ tay điểm huyệt, mà là tự y chìa mũi chân cho người ta đụng vào huyệt đạo. Y là đệ nhất cao thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, trong lúc nguy cấp vội biến chiêu, chuyển hướng của cú đá, chân phải chếch ra bên cạnh sườn Dương Quá, tuy tránh được nguy cấp song thân hình hơi chao đi, mặt đỏ bừng.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung đều đứng phía sau Dương Quá, không nhìn thấy ngón tay cái của chàng, lại tưởng Triệu Chí Kính cước hạ lưu tình, vào sát-na cuối cùng đã đá ra chỗ khác. Tôn Bất Nhị và Doãn Chí Bình thì đã nhìn thấy rõ ràng. Tôn Bất Nhị đứng phắt dậy, quát:

– Hảo tiểu tử , thật là gian trá!

Triệu Chí Kính tả chưởng đánh nhứ, hữu chưởng vỗ chếch vào má bên trái của Dương Quá, chiêu “Tử điện xuyên vân” này là chiêu số thượng thừa cực kỳ tinh diệu, bàn tay đến giữa chừng đột nhiên chuyển hướng, rõ ràng đánh má trái, song cạnh bàn tay lại chém xuống phía cổ bên phải của đối phương. Nào ngờ Dương Quá đã luyện “Ngọc nữ tâm kinh” vô cùng nhuần nhuyễn, “Ngọc nữ tâm kinh” chính là đại khắc tinh của võ công phái Toàn Chân. Mọi chiêu số quyền thuật chưởng pháp lợi hại của Vương Trùng Dương đều đã bị Lâm Triệu Anh đưa ra cách hóa giải tài tình. Dương Quá thấy Triệu Chí Kính giơ tả chưởng, chàng vội giơ tay ôm đầu, tựa hồ cả sợ, ngón trỏ tay trái đã che cổ gáy phía bên phải, có điều là bàn tay phải ở bên ngoài che lấp, nên Triệu Chí Kính không nhìn thấy, đợi lúc cạnh bàn tay của y chém xuống, thì đột nhiên ngón trỏ tay trái điểm trúng ngay huyệt Hậu Khê ở giữa cạnh bàn tay phải của Triệu Chí Kính. Chiêu này vẫn là Triệu Chí Kính tự đưa bàn tay tới cho Dương Quá điểm huyệt. Dương Quá chỉ là tiên liệu đặt ngón tay ở bộ vị chuẩn xác mà thôi. Triệu Chí Kính bàn tay bị điểm huyệt, cánh tay phải lập tức tê chồn, trong cơn cuồng nộ tung chân trái quét ngang, Dương Quá kêu to:

– Thôi chết!

Cánh tay trái hơi gập lại, đặt đỉnh cùi chỏ cách sườn bên trái hai tấc năm phân. Chân trái của Triệu Chí Kính đá tới, hai huyệt Chiếu Hải và Thái Khê ở cạnh bàn chân cùng lúc đụng vào đỉnh cùi chỏ của Dương Quá. Cú đá này tung ra trong cơn đại nộ, y dồn hết sức mạnh vào đó, cho nên huyệt đạo bị chấn động cũng mạnh, cả chân trái tê dại đi, y ngã khuỵu xuống đất.

Tôn Bất Nhị thấy sư điệt bị hố, giơ tay đỡ y dậy, vỗ mấy cái vào sau lưng, giải huyệt cho y. Dương Quá thấy lão đạo cô xuất thủ đã nhanh lại chuẩn, võ công cao hơn hẳn Triệu Chí Kính, thì cũng thầm e ngại, vội lùi về một bên.

Tôn Bất Nhị tuy tu đạo lâu năm, tính nết vẫn cực kỳ cương cường, thấy công phu của Dương Quá vô cùng kỳ bí, hình như chính là khắc tinh của võ công bản môn, tự mình ra tay cũng chưa chắc thắng nổi, bèn nói:

– Đi thôi!

Cũng chẳng thèm cáo biệt Quách Tĩnh, Hoàng Dung, phất tay áo vọt ra khỏi thư phòng bằng lối cửa sổ, rồi vọt lên nóc nhà mà đi. Doãn Chí Bình dường như vẫn còn thất hồn lạc phách, định chờ Quách Tĩnh, Hoàng Dung giải thích nguyên do, thì Triệu Chí Kính giận dữ quát:

– Còn chờ gì nữa?

Y kéo áo sư đệ, cả hai trước sau nhảy qua cửa sổ, đi theo Tôn Bất Nhị.

Bằng nhãn lực của mình, Quách Tĩnh, Hoàng Dung dĩ nhiên biết là Triệu Chí Kính bị người điểm huyệt, nhưng Dương Quá hiển nhiên không hề giơ tay điểm huyệt, chẳng lẽ cạnh đây có vị cao nhân nào ngầm tương trợ hay sao?

Quách Tĩnh vội thò đầu ra ngoài cửa sổ, song làm gì có ai? Quách Tĩnh cho rằng Triệu Chí Kính lúc hạ sát thủ bỗng nhiên không nỡ, nên giả vờ bị điểm huyệt để mượn cớ bỏ đi. Hoàng Dung thì đoán rằng Dương Quá đã dùng quỉ kế, có điều một là nàng đứng sau lưng Dương Quá, nhãn quang tinh mấy cũng chẳng thể nhìn rõ cử động của ngón tay và cùi chỏ, hai là nàng không biết trên thế gian còn có môn võ công “Ngọc nữ tâm kinh”, tiên liệu hành vi của đối phương, không tốn sức đánh trả mà vẫn khắc chế được võ công phái Toàn Chân, nên nhất thời đoán chưa ra. Nàng không có tấm lòng quân tử độ lượng như Quách Tĩnh, thấy bốn đạo nhân phái Toàn Chân rũ áo bỏ đi một cách vô lễ, thì ngấm ngầm tức giận.

Hoàng Dung ngoảnh lại phía sau, thấy bên dưới kệ sách lộ ra đôi hài màu xanh sẫm của Quách Phù, bèn gọi:

– Phù nhi, làm gì ở đó?

Quách Phù cười cười từ sau kệ sách bước ra, nói:

– Hài nhi và Võ gia ca ca đang tìm sách để xem.

Hoàng Dung biết ba đứa trẻ vốn không ham đọc sách, sao hôm nay lại chăm chỉ thế, vừa nhìn mặt Quách Phù, thì biết ngay chúng đã nấp vào đây từ trước để nghe trộm, đang định trách mắng vài câu, bỗng đệ tử Cái Bang bẩm báo có viễn khách lai lâm, Hoàng Dung nhìn Dương Quá một cái, rồi cùng Quách Tĩnh đi ra đón khách.

Quách Phù nói với huynh đệ họ Võ:

– Dương gia ca ca là bạn thời nhỏ của hai ca ca đấy, hai ca ca ra chào đi.

Huynh đệ họ Võ vốn bất hòa với Dương Quá, lúc này thấy chàng khốn khổ thế kia, ở với phái Toàn Chân đã không học được chút võ công nào, còn bị sư phụ mắng nhiếc là “Tên súc sinh, đồ khốn kiếp”, thì càng khinh bỉ, gọi một trang đinh tới, bảo hắn bố trí cho Dương Quá một chỗ ngủ.

Quách Phù đối với Dương Quá thì hết sức hiếu kỳ, hỏi:

– Dương đại ca, sư phụ của đại ca sao lại không cần đại ca vậy?

Dương Quá nói:

– Nguyên do thì nhiều. Ta vừa ngu vừa lười, tính nết khó chịu, lại không chịu cúi mình hầu hạ thân nhân của sư phụ, không chịu đi mua roi ngựa roi lừa…

Huynh đệ họ Võ nghe vậy biến sắc. Võ Tu Văn không nhịn được, quát:

– Ngươi nói cái gì?

Dương Quá nói:

– Ta nói ta vô dụng, không biết lấy lòng sư phụ.

Quách Phù cười, nói:

– Sư phụ của đại ca là đạo sĩ, chẳng lẽ cũng có con gái hay sao?

Dương Quá thấy nàng cười tươi như đóa hoa hồng chớm nở, xinh xắn vô cùng, thì bất giác xúc động, mặt hơi đỏ, ngoảnh ra chỗ khác. Quách Phù lâu nay bao giờ cũng dễ dàng làm cho huynh đệ họ Võ xoay quanh nàng như chong chóng, sớm đã mất hứng thú với họ, giờ thấy Dương Quá ngoảnh đi, biết là chàng bắt đầu rung động trước sắc đẹp của nàng, thì trong lòng đắc ý.

Dương Quá nhìn về góc phòng phía tây, thấy trên tường treo một đôi câu đối, vế trên viết “Đào hoa ảnh lạc phi thần kiếm”, vế dưới viết “Bích hải triều sinh án ngọc tiêu”. Tại “Thí kiếm đình” ở Đào Hoa đảo, chàng đã từng thấy đôi câu đối này, là do Hoàng Dược Sư viết, nhưng ở đây bên dưới lại đề “Phế nhân ở Ngũ Hồ viết trong lúc bị bệnh”. Về tuổi, chàng chỉ hơn ba người trước mặt vài ba năm, nhưng từng trải tâm sự thì phải già hơn cả chục năm, đọc năm chữ “Phế nhân ở Ngũ Hồ”, nghĩ đến mấy người thân, hoặc đã chết hoặc xa cách, bản thân mình thì phiêu bạt đó đây cũng chẳng khác gì một phế nhân, cái tâm trạng đắc ý vì vừa buộc Triệu Chí Kính phải tức giận bỏ đi lập tức tiêu tan, một nỗi xót xa xâm chiếm trái tim, bất giác chàng cúi đầu, chán chường.

Quách Phù dịu dàng nói nhỏ:

– Dương đại ca, đại ca đi nghỉ đi nhé, sáng mai muội sẽ lại tìm đại ca nói chuyện.

Dương Quá thản nhiên nói:

– Được thôi!

Chàng theo trang đinh rời thư phòng, nghe tiếng Quách Phù gắt với huynh đệ họ Võ:

– Muội thích tìm chàng ta nói chuyện đấy, hai ngươi quản được muội chắc? Võ công chàng ta kém, thì muội sẽ xin gia gia giúp chàng ta.

Hồi 12: Anh hùng đại yến

Sáng hôm sau Dương Quá ăn điểm tâm trong sảnh, thấy Quách Phù ở ngoài sân giơ tay vẫy vẫy, huynh đệ họ Võ lấp ló ở chỗ khác, thì chàng cười thầm, đi ra chỗ Quách Phù, hỏi:

– Cô nương tìm ta ư?

Quách Phù cười, nói:

– Vâng, đại ca đi theo muội ra ngoài cổng trang viện, muội muốn hỏi mấy năm rồi đại ca làm những gì?

Dương Quá thở dài, nghĩ chuyện của mình kể ba ngày đêm cũng chưa hết, hơn nữa có một số chuyện làm sao có thể đem kể với nàng kia chứ?

Hai người sánh vai nhau đi ra ngoài cổng, Dương Quá nghiêng đầu, liếc nhìn, thấy huynh đệ họ Võ lẽo đẽo bám theo ở xa xa đằng sau. Quách Phù biết thế, nhưng giả như không thấy, chỉ luôn miệng hỏi chuyện Dương Quá.

Dương Quá thì chọn mấy chuyện vô thưởng vô phạt mà nói, vừa nói vừa bịa cho vui, khiến Quách Phù thích chí cười khúc khích.

Quách Phù biết là Dương Quá bịa ra, nhưng vẫn thú vị. Hai người thong thả đến bên một cây liễu, bỗng nghe một tiếng hí dài, rồi một con ngựa còm, da bị ghẻ, chạy tới, dụi dụi đầu vào người Dương Quá, vẻ rất thân thiết.

Huynh đệ họ Võ thấy con ngựa xấu xí, không nhịn được, cười hô hố, tiến lại chỗ hai người.

Võ Tu Văn nói:

– Dương huynh, con thiên lý mã của huynh tuyệt quá nhỉ? Lúc nào huynh cho đệ mượn cưỡi với nhé.

Võ Đôn Nhu nói nghiêm trang:

– Đây là giống ngựa quí của nước Đại Thục, làm cách nào huynh mua được nó thế?

Quách Phù nhìn Dương Quá, nhìn con ngựa xấu xí, thấy cả hai bẩn thỉu, khốn khổ như nhau, bất giác cũng cười một tiếng.

Dương Quá cười, nói:

– Ta xấu, ngựa cũng xấu, một cặp xứng đôi. Ngựa của hai vị Võ huynh, chắc phải là thần mã.

Võ Tu Văn nói:

– Ngựa của tiểu huynh đệ cũng chỉ khá hơn con ngựa ghẻ của Dương huynh một chút, còn con ngựa hồng của Phù muội thì mới đúng là ngựa quí. Ngày trước ở Đào Hoa đảo huynh cũng đã nhìn thấy nó rồi đó.

Dương Quá nói:

– Thì ra Quách bá bá đã tặng con ngựa hồng cho Quách cô nương.

Bốn người vừa đi vừa trò chuyện. Quách Phù bỗng chỉ về phía tây, nói:

– Nhìn kìa, mẫu thân của muội lại đi truyền thụ bổng pháp kìa.

Dương Quá nhìn theo, thấy Hoàng Dung cùng một lão khất cái đang sánh vai nhau đi về phía một thung lũng, mỗi người tay cầm một cây gậy. Võ Tu Văn nói:

– Lỗ trưởng lão cũng ngu thật đấy, Đả cẩu bổng pháp học bao nhiêu lâu mà vẫn chưa xong.

Dương Quá nghe đến bốn chữ “Đả cẩu bổng pháp” thì hơi chột dạ, nhưng thản nhiên như không, quay đầu nhìn chỗ khác, làm như đang ngắm cảnh.

Quách Phù nói:

– Đả cẩu bổng pháp là bảo bối trấn bang của Cái Bang, mẫu thân của muội nói rằng Đả cẩu bổng pháp thần diệu vô cùng, là chiêu số lợi hại nhất trong các binh khí của thiên hạ, cho nên không phải là thứ chỉ học mươi bữa nửa tháng đã xong. Ca ca bảo Lỗ trưởng lão ngu, chắc ca ca thông minh lắm đấy?

Võ Đôn Nhu thở dài, nói:

– Chỉ tiếc trừ bang chủ của Cái Bang, Đả cẩu bổng pháp không truyền cho người ngoài.

Quách Phù nói:

– Sau này nếu Võ đại ca làm bang chủ Cái Bang, thì Lỗ bang chủ dĩ nhiên sẽ truyền cho đại ca. Đả cẩu bổng pháp, phụ thân của muội cũng không biết, đại ca đừng có sốt ruột.

Võ Đôn Nhu nói:

– Kém cỏi như huynh, làm sao có thể trở thành bang chủ Cái Bang? Phù muội này, muội bảo tại sao sư mẫu lại chọn Lỗ trưởng lão làm người thay thế mình?

Quách Phù nói:

– Mấy năm rồi mẫu thân của muội chỉ nhắc đến Lỗ trưởng lão mà thôi. Mọi việc lớn nhỏ của Cái Bang, đều giao cho Lỗ trưởng lão xử lý. Mẫu thân của muội nghe chuyện này chuyện nọ trong Cái Bang đã nhức đầu lắm rồi, bảo rằng hà tất cứ phải hữu danh vô thực thế này mãi, chi bằng để Lỗ trưởng lão chính thức làm bang chủ cho xong. Đợi Lỗ trưởng lão học xong Đả cẩu bổng pháp, thì mẫu thân của muội sẽ chính thức truyền vị cho Lỗ trưởng lão.

Võ Tu Văn nói:

– Phù muội, Đả cẩu bổng pháp rốt cuộc là đánh như thế nào? Phù muội đã nhìn thấy bao giờ chưa?

Quách Phù nói:

– Muội chưa thấy bao giờ. À, mà thấy rồi!

Nàng nhặt một cành cây ở dưới đất lên, đánh nhẹ vào vai Võ Tu Văn, cười, nói:

– Đánh thế này này!

Võ Tu Văn nói:

– Được, muội coi ta như con chó, để xem ta có tha cho muội được không?

Bèn giơ tay làm như chộp bắt nàng. Quách Phù cười, bỏ chạy. Võ Tu Văn đuổi theo, hai người chạy một vòng tròn lại trở về chỗ cũ.

Quách Phù cười, nói:

– Tiểu Võ ca ca, đừng làm ồn nữa, muội có một ý này.

Võ Tu Văn nói:

– Được, muội nói đi.

Quách Phù nói:

– Chúng ta đi xem trộm, xem Đả cẩu bổng pháp rốt cuộc là thứ bảo bối gì đi.

Võ Tu Văn vỗ tay khen hay, Võ Đôn Nhu thì lắc đầu nói:

– Nếu sư mẫu phát giác chúng ta học lén bổng pháp, thì sẽ bị mắng đó.

Quách Phù nói:

– Chúng ta chỉ nhìn trộm xem thế nào thôi, chứ không học lén. Hơn nữa, thứ võ công thần diệu ấy, nhìn qua vài cái thì làm sao biết nổi? Đại Võ ca ca, ca ca đúng là kẻ nhát gan!

Võ Đôn Nhu bị nàng nhiếc thế, chỉ mỉm cười, Quách Phù lại nói:

– Tối qua chúng ta trốn trong thư phòng nghe trộm, mẹ của muội có chửi mắng hay không? Tiểu Võ ca ca, hai chúng mình đi thôi.

Võ Đôn Nhu nói:

– Thôi thôi, coi như muội đúng, ca ca đi theo muội vậy.

Quách Phù nói:

– Môn võ công đệ nhất thiên hạ này, lẽ nào ca ca không muốn xem? Ca ca không đi xem cũng được, muội học được rồi, trở về sẽ đánh cho ca ca thế này này.

Nàng giơ cành cây lên nhứ nhứ.

Ba người họ rất chú tâm tới môn Đả cẩu bổng pháp, họ nghe danh đã lâu, nhưng nó là thế nào, thì cuối cùng họ vẫn chưa nhìn thấy. Quách Tĩnh từng giảng cho họ nghe, năm xưa tại đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, Hoàng Dung đã dùng Đả cẩu bổng pháp chiến thắng quần hùng, đoạt ngôi vị bang chủ như thế nào, ba hài tử nghe mà ngưỡng mộ vô cùng. Lúc này Quách Phù xướng nghị đi xem, Võ Đôn Nhu ngoài miệng phản đối, trong bụng thì rất muốn, chỉ giả vờ miễn cưỡng, làm theo chủ ý của Quách Phù, để lỡ có bị phát hiện, thì sư mẫu không thể trách mắng chàng ta.

Quách Phù nói:

– Dương đại ca, hãy cùng đi nào.

Dương Quá nhìn dãy núi xa xa, giả bộ đang suy nghĩ, không nghe thấy lời ba người. Quách Phù gọi thêm lần nữa, Dương Quá mới ngoảnh lại, vẻ ngơ ngác, nói:

– Được thôi, đi thì đi, nhưng đi đâu vậy?

Quách Phù nói:

– Dương đại ca đừng hỏi, cứ đi theo muội.

Võ Đôn Nhu nói:

– Phù muội, rủ chàng ta đi làm gì, chàng ta có xem cũng chả hiểu gì, lại hỏi này hỏi kia, khiến sư mẫu phát giác thì sao?

Quách Phù nói:

– Võ đại ca yên tâm, muội chú ý đến chàng ta là được. Hai người cứ đi trước đi, muội sẽ cùng Dương đại ca đi sau một chút, bốn người cùng đi thì tiếng chân nghe rõ lắm.

Huynh đệ họ Võ chẳng muốn thế chút nào, nhưng lại không dám làm trái lời Quách Phù, đành đi lên trước. Quách Phù nói:

– Hãy đi đường tắt đến chỗ cái cây to đằng kia mà nấp, mọi người cẩn thận chớ gây ra tiếng động, mẫu thân của muội sẽ không biết đâu.

Huynh đệ họ Võ đáp ứng, rảo bước hơn. Quách Phù nhìn Dương Quá, thấy bộ quần áo chàng mặc quá rách nát, thì nói:

– Khi về, muội sẽ bảo mẫu thân cho đại ca vài bộ quần áo mới, đại ca mặc vào sẽ không khó coi nữa.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ta vốn khó coi rồi, có mặc gì cũng thế thôi.

Quách Phù nói qua rồi thôi, cũng chẳng để tâm, nhìn theo bóng huynh đệ họ Võ, thở dài nhè nhẹ.

Dương Quá hỏi:

– Cô nương sao lại thở dài?

Quách Phù nói:

– Muội buồn lắm, đại ca chả hiểu được đâu.

Dương Quá thấy Quách Phù đôi má ửng hồng, mi mục thanh tú, quả là một cô nương tuyệt mỹ, xinh đẹp hơn hẳn Lục Vô Song, Hoàn Nhan Bình, Gia Luật Yến, thì lòng hơi rung động, nói:

– Ta biết cô nương buồn chuyện gì rồi.

Quách Phù cười, nói:

– Lạ nhỉ, làm sao đại ca có thể biết, đúng là chỉ đoán mò.

Dương Quá nói:

– Được, nếu ta đoán trúng, cô nương không được chối cãi đấy nhé.

Quách Phù giơ một ngón tay thon thả nõn nà chạm lên má phải, đôi mắt đung đưa, khoé miệng tủm tỉm, nói:

– Được, Dương đại ca đoán đi.

Dương Quá nói:

– Kể cũng khó chọn thật. Huynh đệ họ Võ đều thích cô nương, cố lấy lòng cô nương, cô nương chẳng biết chọn ai.

Quách Phù bị chàng đoán trúng tâm sự thầm kín, trống ngực bỗng đập mạnh. Điều này nàng biết, huynh đệ họ Võ biết, cha mẹ nàng biết, thậm chí cả sư công Kha Trấn Ác cũng biết, nhưng mọi người đều cảm thấy việc này thật khó nói ra, trong lòng ai cũng hay nghĩ đến, nhưng ngoài miệng thì lại chưa nhắc đến một lần. Bây giờ đột nhiên Dương Quá nói toạc ra, bất giác Quách Phù đỏ bừng cả mặt, vừa vui vừa buồn, vừa muốn cười, vừa muốn khóc, nước mắt lưng tròng.

Dương Quá nói:

– Đại võ ca ca tư văn ổn trọng, Tiểu Võ ca ca thì lại có thể giúp cô nương giải sầu. Cả hai cùng niên thiếu anh tuấn, võ công cao cường, lại cùng ngoan ngoãn vâng lời, ân cần săn đón, đúng là ca ca có cái hay của ca ca, đệ đệ có cái hay của đệ đệ, mà cô nương chỉ một thân này, biết gả cho ai bây giờ?

Quách Phù ngẩn ra nghe chàng nói, nghe xong câu cuối cùng, thì dẩu môi, nói:

– Dương đại ca chỉ giỏi nói quàng nói xiên, ai thèm kia chứ?

Dương Quá nhìn thần sắc của Quách Phù, biết mình đoán trúng, bèn nói như hát:

– Cô nương chỉ một thân này, biết gả cho ai bây giờ?

Quách Phù giả vờ không để tâm, nói:

– Dương đại ca, theo đại ca thì Đại Võ ca ca và Tiểu Võ ca ca, ai hơn ai?

Câu này thật bất ngờ. Nàng với Dương Quá tuy hồi nhỏ biết nhau, chơi với nhau, nhưng hồi ấy có hiềm khích, lại nhiều năm không gặp nhau, bây giờ cả hai đều đã trưởng thành, chuyện thầm kín của nữ nhi, sao lại đem ra thổ lộ với chàng? Nhưng Dương Quá tính tình hoạt bát, chỉ cần không đắc tội với chàng, thì chàng sẽ nói sẽ cười, hi hi ha ha, chỉ giây lát sẽ làm cho người khác vui như gặp gió xuân, thích như uống rượu ngon. Huống hồ Quách Phù từng nghĩ đến chuyện này hàng ngàn vạn lần, cảm thấy đúng là huynh đệ họ Võ mỗi người đều có ưu điểm riêng, thường ngày chơi đùa thì Võ Tu Văn rất hợp, nhưng cần làm việc nghiêm trang, thì phải có Võ Đôn Nhu. Thiếu nữ mới biết yêu, bình thời đối với hai chàng kia hoặc giận dỗi, hoặc vui buồn, đều làm cho họ thần hồn điêu đứng, trong thâm tâm thì nàng cảm thấy thật khó, nên chọn ai cho hơn, bây giờ buột miệng đem ra hỏi Dương Quá.

Dương Quá cười, nói:

– Ta thấy cả hai đều không được.

Quách Phù sững người, hỏi:

– Tại sao?

Dương Quá cười, nói:

– Nếu hai người ấy đều được, thì Dương Quá này còn hi vọng nỗi gì?

Dọc đường chàng đã quen mặt dày mày dạn đùa cợt giả làm vợ chồng với Lục Vô Song, kỳ thực hoàn toàn không có tà niệm, lúc này trò chuyện với Quách Phù, cũng lại buột miệng thốt ra.

Quách Phù ngẩn ra, nàng quen được nâng niu chiều chuộng, chưa ai dám nói một câu khinh bạc với nàng, lúc này không biết có nên nổi giận hay không, bèn nghiêm mặt, nói:

– Đại ca không trả lời thì thôi, ai nói đùa với đại ca? Chúng ta đi mau lên nào.

Rồi thi triển khinh công chạy về phía sau thung lũng.

Dương Quá nghe nàng nói thế, nghĩ thầm: “Mình xen vào giữa ba người ấy làm quái gì? Tự mình tránh xa ra là hơn!” Bèn quay mình đi thong thả, nghĩ bụng: “Huynh đệ họ Võ coi Quách Phù như tiên nữ, chỉ sợ nàng ta không lấy mình; thực ra nếu lấy được một cô nương đỏng đảnh kiêu ngạo như thế, thì sẽ khổ sở hơn là lạc thú, ôi, hai gã si mê, thật tức cười!”

Quách Phù chạy một hồi, cứ tưởng Dương Quá sẽ chạy theo xin lỗi, không ngờ đứng lại chờ một lát vẫn chẳng thấy chàng đâu, thì nghĩ thầm: “Chàng ta không biết khinh công, tất nhiên không theo kịp mình”, bèn chạy trở lại, thấy chàng đi ngược chiều đã khá xa, thì lấy làm lạ, chạy nhanh đến trước mặt, hỏi:

– Sao đại ca không đến?

Dương Quá nói:

– Quách cô nương, hãy thưa với thân phụ thân mẫu cô nương, rằng ta đi rồi.

Quách Phù ngạc nhiên, hỏi:

– Sao tự dưng lại bỏ đi?

Dương Quá cười nhạt, nói:

– Chẳng sao cả, ta vốn không định đến, nhưng đã đến rồi, thì cũng nên đi thôi.

Quách Phù vốn thích cảnh nhiệt náo, tuy nàng xem thường Dương Quá, chỉ cảm thấy chàng trò chuyện thú vị hơn hẳn huynh đệ họ Võ, song thực tình nàng rất muốn Dương Quá đừng bỏ đi, bèn nói:

– Dương đại ca, chúng ta lâu năm không gặp, muội có rất nhiều điều muốn hỏi đại ca. Hơn nữa tối nay mở anh hùng đại yến, anh hùng hảo hán của các gia các phái khắp bốn phương tụ hội, tại sao đại ca lại không đến xem cho biết kia chứ?

Dương Quá cười, nói:

– Ta không phải là anh hùng, nếu cũng đòi tham dự, chẳng hóa ra làm trò cười cho các vị đại anh hùng hay sao?

Quách Phù nói:

– Kể cũng phải, nhưng số người không biết võ công ở Lục gia trang cũng đông lắm. Đại ca cứ ngồi cùng bàn với các quản gia, trưởng phòng tiên sinh cũng được mà.

Dương Quá nghe vậy thì cả giận, nghĩ thầm: “Đồ nhãi ranh, mi lại xếp ta vào loại thấp kém thế sao”. Nhưng ngoài mặt thản nhiên, nói:

– Kể cũng phải.

Chàng đã định bỏ đi, nhưng thế này thì nhất định phải làm cho nàng ta bẽ mặt một phen mới được.

Quách Phù quen được nuông chiều, không hiểu nhân tình thế cố, câu vừa nói của nàng thực tâm hoàn toàn không có ý khinh thường, cũng không biết mình đã vô tình đắc tội với người khác. Thấy Dương Quá đổi ý, nàng cười, giục:

– Đi thôi nào, đừng chậm trễ nữa, đến muộn thì không được xem nữa đâu.

Nàng nhanh nhẹn đi trước, Dương Quá nặng nề đi sau, giả bộ mười phần chậm chạp, vụng về.

Chạy tới gần chỗ Hoàng Dung truyền thụ Đả cẩu bổng pháp cho Lỗ Hữu Cước, thấy huynh đệ họ Võ đã leo lên ngọn cây, ngó nghiêng tứ phía. Quách Phù nhảy lên cây, chìa tay kéo Dương Quá lên theo.

Dương Quá nắm bàn tay ấm mềm như nhung của nàng, bất giác lòng thấy xốn xang, nhưng vội nghĩ ngay: “Mi có xinh đẹp gấp mười thế này, cũng chưa bằng được nửa cô cô của ta”.

Quách Phù hỏi khẽ:

– Mẫu thân của muội vẫn chưa đến à?

Võ Tu Văn chỉ tay về phía tây, nói nhỏ:

– Lỗ trưởng lão đang múa gậy ở đằng kia, còn sư mẫu thì ra nói chuyện với sư phụ.

Quách Phù bình sinh chỉ sợ một người là phụ thân nàng, nghe nói phụ thân cũng đến đây, cảm thấy có chuyện gì không ổn. Chỉ thấy Lỗ Hữu Cước cầm một cây gậy trúc, chọc bên này, gạt bên kia, chẳng có gì ghê gớm, thì nói:

– Đấy là Đả cẩu bổng pháp ư?

Võ Đôn Nhu nói:

– Quá nửa là như vậy. Sư mẫu đang chỉ bảo, thì sư phụ tới, có việc cần bàn, mời sư mẫu ra một bên nói chuyện, Lỗ trưởng lão tự tập một mình.

Quách Phù lại xem vài chiêu nữa, thấy chả có gì huyền diệu, thì nói:

– Lỗ trưởng lão học chưa được, chả có gì đáng xem, chúng ta đi thôi.

Dương Quá thấy Lỗ trưởng lão sử bổng pháp hoàn toàn đúng như thứ mà Hồng Thất Công đã truyền thụ trên đỉnh Hoa Sơn, thì cười thầm trong bụng: “Nhãi ranh đã không hiểu, lại còn mở miệng chê bai”.

Huynh đệ họ Võ răm rắp tuân theo ý muốn của Quách Phù, đang định tụt xuống đất, thì dưới gốc cây có tiếng bước chân, vợ chồng Quách Tĩnh đang đi tới gần. Chỉ nghe Quách Tĩnh nói:

– Chung thân đại sự của Phù nhi, dĩ nhiên không thể xem nhẹ. Quá nhi còn ít tuổi, tuổi trẻ khó tránh ương ngạnh, gây chuyện rắc rối. Việc nó gây rắc rối ở phái Toàn Chân, xem ra cũng không phải chỉ mình nó có lỗi.

Hoàng Dung nói:

– Việc nó gây rắc rối ở phái Toàn Chân, thiếp chẳng ngại. Chàng nghĩ đến giao tình nhiều đời giữa hai họ Quách, Dương cũng phải. Nhưng Dương Quá quá giảo hoạt, thiếp càng nhìn, càng thấy nó giống phụ thân nó, thiếp làm sao có thể yên tâm gả Phù nhi cho nó?

Bốn người, Dương Quá, Quách Phù, huynh đệ họ Võ nghe câu đó, đều vô cùng kinh ngạc. Bốn người tuy biết hai nhà Quách, Dương có dây mơ rễ má, nhưng không ngờ lại có uyên nguyên nhiều đời sâu xa như vậy, càng không thể ngờ Quách Tĩnh có ý gả Quách Phù cho Dương Quá. Câu nói vừa rồi có quan hệ trọng đại với cả bốn người, nên cả bốn cùng chăm chú nghe, bốn quả tim cùng đập mạnh.

Quách Tĩnh nói:

– Dương Khang huynh đệ không may lưu lạc vương phủ nước Kim, ngộ giao với bọn phỉ, mới bị kết cục bi thảm, chết chẳng toàn thây. Nếu từ nhỏ chàng ta được Dương Thiết Tâm thúc phụ giáo dưỡng, thì chắc chắn không như vậy.

Hoàng Dung thở dài, nhớ lại chuyện kinh tâm động phách đêm nọ ở miếu Thiết Thương tại Gia Hưng, thì rùng mình, nói nhỏ:

– Đúng thế.

Dương Quá bao năm nay không biết lai lịch của mình, chỉ biết phụ thân chết sớm, chết bởi tay kẻ khác, nhưng chết như thế nào, kẻ thù là ai, thì chính mẫu thân của chàng cũng không chịu nói cho chàng biết. Bây giờ nghe Quách Tĩnh nhắc đến phụ thân, nào là “không may lưu lạc vương phủ nước Kim, ngộ giao với bọn phỉ”, nào là “bị kết cục bi thảm, chết chẳng toàn thây”, thì như bị sét đánh, toàn thân run rẩy, mặt tái nhợt. Quách Phù liếc sang, thấy thần sắc của chàng như vậy, chỉ sợ chàng đột nhiên ngã xuống thì nguy to.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung ngồi kề vai trên một tảng đá, xoay lưng về phía cây lớn. Quách Tĩnh vuốt vuốt mu bàn tay của Hoàng Dung, nói:

– Từ khi nàng mang thai hài tử thứ hai, gần đây sức khỏe kém hẳn dạo trước, phải mau mau giao hết mọi việc lớn nhỏ của Cái Bang cho Lỗ Hữu Cước, rồi phải lo bổ dưỡng thật chu đáo mới được.

Quách Phù cả mừng, nghĩ thầm: “Thế là mẹ sắp sinh đệ đệ, hay quá! Sao mẹ chả nói cho mình biết?”

Hoàng Dung nói:

– Công việc của Cái Bang, thiếp vốn không lo mấy. Riêng chung thân đại sự của Phù nhi, thì thiếp chưa yên tâm.

Quách Tĩnh nói:

– Phái Toàn Chân đã không chịu thu nhận Quá nhi, thì ta sẽ tự dạy cho nó vậy. Ta thấy nó là đứa hết sức thông minh, tương lai ta sẽ truyền thụ mọi môn võ công cho nó, cho bõ cái việc ta kết nghĩa với phụ thân nó.

Dương Quá lúc này mới biết thì ra Quách Tĩnh với phụ thân mình là huynh đệ kết nghĩa, ba tiếng “Quách bá bá” thực chứa đựng bao ý nghĩa, nghe lời lẽ của Quách Tĩnh đối với chàng nặng tình như thế, thì chàng cảm động ứa nước mắt.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Thiếp chỉ lo nó thông minh quá hóa hỏng, cho nên chỉ dạy nó kinh thư, không truyền võ công. Những mong sau này nó trở thành một bậc nam nhi chính phái, thâm minh đại nghĩa, dù không biết gì võ công, song chúng ta gả Phù nhi cho nó, cũng là mãn nguyện rồi.

Quách Tĩnh nói:

– Nàng việc gì cũng lo liệu chu toàn, ý định rất hay, nhưng Phù nhi tính nết như thế, lại một thân võ công như thế, bảo nó sống suốt đời với một thư sinh yếu ớt, nàng nghĩ là nó chịu ư? Nàng bảo nó chịu tôn trọng Quá nhi hay sao? Ta nghĩ một cặp vợ chồng như thế khó lòng hòa thuận.

Hoàng Dung cười, nói:

– Nói không biết ngượng? Hóa ra vợ chồng ta hòa thuận, chẳng qua là vì võ công của chàng cao hơn thiếp. Quách đại hiệp, nào chúng ta tỷ thí xem ai hơn ai.

Quách Tĩnh cười, nói:

– Được Hoàng bang chủ, nàng muốn sao thì bảo?

Chỉ nghe bộp một tiếng, Hoàng Dung vỗ nhẹ vào vai Quách Tĩnh.

Lát sau, Hoàng Dung nói:

– Ôi, chuyện này kể cũng khó, việc của Quá nhi tạm gác lại đã, còn hai huynh đệ họ Võ tính sao đây? Chàng thấy giữa Đại Võ và Tiểu Võ, đứa nào hơn?

Quách Phù và huynh đệ họ Võ tự nhiên trống ngực đập dồn. Chuyện này không liên quan đến Dương Quá, nhưng chàng cũng muốn nghe Quách Tĩnh đánh giá hai người kia thế nào.

Chỉ nghe Quách Tĩnh “Ừm” một tiếng, im lặng hồi lâu, cuối cùng mới nói:

– Chuyện nhỏ, nhìn chưa ra. Phải gặp chuyện lớn, phẩm tính thật sự của một con người mới bộc lộ rõ ràng.

Giọng Quách Tĩnh dịu lại, nói:

– Được rồi, Phù nhi tuổi còn nhỏ, vài năm sau tính chuyện kia chưa muộn, không chừng bấy giờ mọi việc sẽ tự an bài thỏa đáng, cha mẹ khỏi cần lo lắng. Nàng dạy Đả cẩu bổng pháp cho Lỗ Hữu Cước, cũng đừng gắng sức quá. Mấy ngày nay ta cảm thấy nàng thở hơi loạn, ta rất lo. Bây giờ ta đi tìm Quá nhi, nói chuyện với nó.

Đoạn đứng dậy, đi về trang viện.

Hoàng Dung ngồi lại điều hòa hơi thở một hồi, mới gọi Lỗ Hữu Cước tới diễn thử bổng pháp. Hiện tại Lỗ Hữu Cước đã học hết ba mươi sáu lộ Đả cẩu bổng pháp, chỉ chưa nắm được quyết khiếu sử dụng như thế nào mà thôi. Hoàng Dung kiên nhẫn giải thích cho Lỗ Hữu Cước nghe tỉ mỉ từng lộ một. Chiêu số của môn Đả cẩu bổng pháp này cố nhiên là tinh diệu, song tâm pháp quyết khiếu còn thần diệu vô tỉ, nếu không chỉ một cành tre cành trúc nhỏ làm sao có thể trở thành bảo bối trấn bang của Cái Bang kia chứ? Âu Dương Phong võ công lợi hại như thế, mà phải suy ngẫm khổ sở một đêm mới hóa giải nổi một chiêu Đả cẩu bổng pháp. Hoàng Dung đã tốn ngót một tháng truyền thụ chiêu số cho Lỗ Hữu Cước, bây giờ mới đem khẩu quyết và tâm pháp biến hóa đọc vài lần cho Lỗ Hữu Cước ghi nhớ thật kỹ, nói việc lĩnh hội thấu triệt tới mức nào là tùy ở tư chất và ngộ tính của mỗi người, cái đó thì sư phụ không thể truyền thụ được.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ không hiểu bổng pháp, nghe đọc thấy vô vị, nào quyết khiếu chữ “Phong” thế này thế này, còn quyết khiếu chữ “Triền” lại thế kia thế nọ, biến thứ mười tám chuyển sang thứ mười chín, thứ hai mươi như thế nào. Ba người đã định tụt xuống gốc cây, nhưng sợ Hoàng Dung phát giác, chỉ mong Hoàng Dung nói khẩu quyết cho chóng xong, rồi cùng Lỗ Hữu Cước đi về. Ai dè Hoàng Dung dự tính hôm nay tại anh hùng đại yến, trước khi truyền ngôi vị bang chủ cho Lỗ Hữu Cước, phải truyền cho lão hết khẩu quyết, thà lão chưa hiểu thì sau sẽ học tiếp chứ phải theo đúng bang qui, trước khi tiếp nhiệm chức bang chủ, lão đã học xong Đả cẩu bổng pháp. Hoàng Dung đọc gần một canh giờ mới hết. Lỗ Hữu Cước thì tư chất không được thông minh, tuổi đã già; trí nhớ sút kém, nhất thời làm sao nhớ nổi nhiều khẩu quyết đến thế? Hoàng Dung cứ nhắc đi nhắc lại, lão vẫn khó nhớ đầy đủ.

Hoàng Dung quen biết Quách Tĩnh từ năm mười lăm tuổi, đã quen với người có tư chất chậm hiểu, Lỗ Hữu Cước trí nhớ kém, nàng cũng chẳng bực mình. Khổ nỗi theo bang qui, tâm pháp khẩu quyết này phải được truyền miệng, nhất thiết không được ghi chép, chứ không thì nàng đã viết ra cho lão học thuộc dần dần, đỡ tốn bao sức lực.

Ngày Hồng Thất Công tỷ thí với Âu Dương Phong trên đỉnh Hoa Sơn, lão đã dạy từng chiêu, từng biến chiêu Đả cẩu bổng pháp cho Dương Quá, bảo chàng diễn xuất cho Âu Dương Phong thấy, nhưng tâm pháp khẩu quyết dùng khi lâm địch thì không hề truyền thụ. Lão nghĩ Dương Quá tuy biết chiêu số, không biết tâm pháp khẩu quyết, thì hoàn toàn vô dụng, như vậy không thể coi là vi phạm bang qui, khi đó lại cũng không phải giao đấu thật với Âu Dương Phong, nên tâm pháp khẩu quyết cũng chẳng cần truyền thụ. Nào ngờ Dương Quá cuối cùng ở đây lại được nghe nguyên vẹn toàn bộ. Tư chất của chàng cao hơn Lỗ Hữu Cước cả trăm lần, chỉ nghe đến lần thứ ba thì đã thuộc lòng từng chữ, trong khi Lỗ Hữu Cước vẫn cứ lẫn lộn lung tung.

Hoàng Dung sau khi có thai lần thứ hai, trong một lần tu luyện nội công đã thiếu thận trọng, làm tổn hại thai khí, cho nên cảm thấy yếu hẳn đi. Hôm nay dạy võ đã nửa ngày, nàng cảm thấy rất mệt, tựa lưng vào vách đá, nhắm mắt dưỡng thần một lát, rồi gọi:

– Phù nhi, Nhu nhi, Văn nhi, Quá nhi, tất cả xuống đây cho ta!

Bọn Quách Phù bốn người cả kinh, nghĩ thầm: “Hoàng bang chủ cứ thản nhiên như không, thật ra đã phát hiện từ lâu rồi!” Quách Phù cười, nói:

– Mẹ ơi, mẹ tài thật đấy, không có gì giấu nổi mẹ.

Nói rồi dùng chiêu “Nhũ yến đầu lâm” nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt mẫu thân.

Huynh đệ họ Võ nhảy xuống theo, Dương Quá thì vụng về tụt xuống.

Hoàng Dung nói:

– Hừ, một chút công phu như các ngươi mà cũng đòi xem trộm ư? Nếu có mấy tên tiểu tặc như các người mà còn không phát hiện ra, thì hành tẩu giang hồ chắc chưa đến nửa ngày đã bị bọn xấu mai phục hãm hại rồi.

Quách Phù ngượng ngùng, nhưng thừa biết mẫu thân cưng chiều, sẽ không trách mắng nàng, nên cười, nói:

– Mẹ ơi, con rủ ba người này đến xem Đả cẩu bổng pháp uy chấn thiên hạ như thế nào, ai dè Lỗ trưởng lão múa gậy chán quá. Mẹ diễn cho bọn con xem đi.

Hoàng Dung cười, cầm cành trúc từ tay Lỗ Hữu Cước nói:

– Được, ngươi hãy cẩn thận, coi ta đánh ngã con chó con này.

Quách Phù toàn thần chú ý đến hạ bàn, chờ cành trúc vung ra thì nhảy lên, không để mẫu thân quét dưới chân. Hoàng Dung vung cành trúc một cái, Quách Phù nhảy ngay lên, hai chân cách mặt đất nửa thước, thì cành trúc mới quét ngang, nhẹ nhàng làm cho nàng ngã liền. Quách Phù bật ngay dậy, kêu to:

– Con chưa chịu, con chưa chịu. Đấy là tại con quá vụng.

Hoàng Dung cười, nói:

– Được ngươi muốn thế nào, cho ngươi làm lại lần nữa.

Quách Phù đứng dạng chân thật vững, gọi:

– Đại Võ ca ca, Tiểu Võ ca ca, cả hai cùng lại đứng hai bên với muội.

Huynh đệ họ Võ y lời, tới đứng dạng chân thật vững; Quách Phù móc tay với họ, ba người hợp lực, đúng là vững như núi Thái Sơn, nói:

– Mẹ ơi, con không sợ nữa. Trừ phi “Hàng long thập bát chưởng” của cha con, may ra mới đẩy ngã được chúng con.

Hoàng Dung mỉm cười, dùng cành trúc quét ngang mặt ba người, thế quét rất mạnh, cả ba vội ngả người ra sau để tránh, thế là dưới chân không còn vững nữa. Hoàng Dung sử dụng khẩu quyết chữ “Chuyển”, đưa cành trúc về quét ngang dưới chân ba người, cả ba đều ngã ngửa cùng lúc. Họ có căn cơ võ công, nên đều bật dậy được ngay.

Quách Phù nói:

– Mẹ, vừa rồi mẹ lại dùng cách đánh lừa được con, con chưa chịu.

Hoàng Dung cười, nói:

– Vừa nãy ta truyền thụ cho Lỗ trưởng lão tám khẩu quyết chữ Bạn, Phách, Triền, Tài, Khiêu, Dẫn, Phong, Chuyển; khẩu quyết chữ nào dùng lực mạnh nhất? Ngươi bảo ta dùng cách đánh lừa; đúng thế, trong võ công, chín phần mười là dùng cách đánh lừa đối phương, chỉ cần đánh lừa được cao thủ, coi như đã thắng. Chỉ có môn võ công như “Hàng long thập bát chưởng” của cha con, mới là thứ công phu thật sự, không thể dùng lối xảo trá. Nhưng thiên hạ phỏng có mấy ai luyện được tới mức ấy?

Dương Quá nghe, thầm gật đầu, nghĩ tâm pháp khẩu quyết Đả cẩu bổng pháp mà Hoàng Dung đọc, đem ấn chứng với chiêu số mà Hồng Thất Công dạy chàng, quả thật huyền diệu vô cùng. Quách Phù và huynh đệ họ Võ tuy hiểu lời của Hoàng Dung, nhưng chưa ngộ được diệu chỉ trong đó.

Hoàng Dung nói:

– Đả cẩu bổng pháp là công phu đặc dị nhất trong võ lâm, đứng riêng thành một nhà, không giống công phu của các môn phái khác. Chỉ học chiêu số mà không biết khẩu quyết, thì cũng hoàn toàn vô dụng. Dù ngươi có thông minh tuyệt đỉnh, cũng khó lòng tự nghĩ ra nổi một câu khẩu quyết để phối hợp với chiêu số. Dù đã biết khẩu quyết, mà không do chính ta truyền thụ chiêu số, thì cũng chỉ nhớ tám khẩu quyết chữ Bạn, Phách, Triền, Tài, Khiêu, Dẫn, Phong, Chuyển mà thôi; bởi vậy không sợ bốn tên tiểu quỉ các ngươi nghe lén. Nếu là ta truyền thụ môn võ công khác, vị tất ta đã cho phép các ngươi làm như vậy. Từ rày trở đi, nhất thiết không được nghe lén học lén, biết chưa?

Quách Phù rối rít vâng dạ, cười, nói:

– Mẹ, võ công của mẹ, hài nhi hà tất phải học lén? Chẳng lẽ mẹ còn có môn chưa dạy cho hài nhi hay sao?

Hoàng Dung dùng cành trúc quất nhẹ vào mông con, cười, nói:

– Ngươi hãy theo hai vị Võ gia ca ca đi chơi đi. Quá nhi thì ở lại đây, ta có chuyện cần nói. Lỗ trưởng lão hãy về đi, cố nhớ dần, sau này quên chỗ nào, ta sẽ dạy lại cho.

Lỗ Hữu Cước, Quách Phù và huynh đệ họ Võ từ biệt Hoàng Dung, đi về Lục gia trang, chỉ còn Dương Quá đứng lại.

Dương Quá tim đập thình thình, sợ Hoàng Dung biết chàng học lén Đả cẩu bổng pháp, sẽ ra tay lấy mạng chàng.

Hoàng Dung thấy thần sắc của Dương Quá kinh nghi bất định, thì kéo tay chàng, bảo ngồi xuống bên cạnh, dịu dàng nói:

– Quá nhi, ngươi có nhiều chuyện ta đều không biết, ta có hỏi ngươi, chắc ngươi cũng không chịu nói. Song ta cũng không trách ngươi đâu. Thuở nhỏ, tính nết ta cũng ngang bướng lắm, Quách bá bá của ngươi cứ toàn phải nhường nhịn ta thôi.

Nói tới đây, Hoàng Dung thở dài khe khẽ, nhếch mép cười, nhớ lại những trò ngang bướng của mình hồi còn là thiếu nữ, rồi tiếp:

– Ta không truyền thụ võ công cho người, vốn là mong cho ngươi may mắn, không ngờ lại làm cho ngươi phải chịu không ít khổ sở. Quách bá bá của ngươi thương yêu ta, ân tình ấy dĩ nhiên ta sẽ hết lòng báo đáp. Quách bá bá của ngươi có một tâm nguyện rất lớn, mong ngươi trở thành một hảo nam nhi đội trời đạp đất. Ta nhất định sẽ tận lực giúp ngươi học giỏi, để thành toàn tâm nguyện ấy. Quá nhi, ngươi dù thế nào đi nữa cũng đừng để cho Quách bá bá ngươi phải thất vọng, được không con?

Dương Quá chưa bao giờ được nghe Hoàng Dung nói với mình những lời ấm áp chân thành đến thế, lại thấy ánh mắt của Quách bá mẫu tràn ngập thương yêu thì bất giác cảm động nghẹn ngào, không kìm được khóc òa lên.

Hoàng Dung xoa đầu chàng, dịu dàng nói:

– Quá nhi, ta cũng chẳng giấu gì con, trước đây ta không ưa phụ thân con, vì thế cũng không ưa con. Nhưng từ nay trở đi, ta nhất định sẽ thương yêu con; chờ khi ta khỏe mạnh trở lại, ta sẽ đem mọi môn võ công của mình truyền thụ hết cho con. Quách bá bá cũng bảo sẽ dạy võ công cho con đó.

Dương Quá càng xúc động mạnh, khóc càng to hơn, nghẹn ngào nói:

– Quách bá mẫu, rất nhiều chuyện điệt nhi giấu Quách bá mẫu, điệt nhi… sẽ nói hết với Quách bá mẫu…

Hoàng Dung xoa đầu chàng, nói:

– Hôm nay ta rất mệt, vài hôm nữa hãy kể cũng chưa muộn, con chỉ cần làm một hảo hài tử là ta vui rồi. Đại hội Cái Bang, con cũng nên đến mà xem.

Dương Quá nghĩ thầm chuyện Hồng Thất Công tạ thế, sẽ phải nói rõ tại đại hội, bèn lau nước mắt, gật đầu.

Chuyện hai người ngồi nói dưới gốc đại thụ, đều là lời lẽ chân tình, đã xua tan hết thảy những gì bất mãn trước đây giữa đôi bên. Cuối câu chuyện thì Dương Quá đã từ khóc chuyển sang cười, lại nghĩ đến sự kỳ vọng và hậu ý của Quách Tĩnh đối với chàng, thì lần đầu tiên kể từ khi xa Tiểu Long Nữ, hôm nay chàng mới cảm thấy ấm áp trong lòng.

Hoàng Dung nói một hồi, bỗng thấy bụng đau âm ỉ bèn thong thả đứng dậy, nói:

– Chúng ta về thôi.

Đoạn dắt tay Dương Quá mà đi chầm chậm. Dương Quá nghĩ cần bẩm rõ cái tin Hồng Thất Công tạ thế, bèn nói:

– Quách bá mẫu, điệt nhi có một việc rất khẩn yếu cần thưa với Quách bá mẫu.

Hoàng Dung cảm thấy khí tức trong đan điền càng lúc càng khó chịu, cau mày nói:

– Để mai hãy nói, ta… ta… đang khó chịu.

Dương Quá thấy sắc mặt Quách bá mẫu tái nhợt, không khỏi lo lắng, thấy bàn tay Hoàng Dung hơi lạnh, bèn đánh bạo ngầm vận khí, truyền một luồng nhiệt lực qua bàn tay. Hồi chàng với Tiểu Long Nữ cùng luyện “Ngọc nữ tâm kinh” ở núi Chung Nam, chàng đã luyện cách truyền lực qua bàn tay rất thành thạo, nhưng chàng chỉ sợ nội công của Hoàng Dung trái ngược với sở học của chàng; nên thoạt tiên chỉ truyền từ từ, sau thấy thông hành dễ dàng, mới gia tăng nội lực.

Hoàng Dung cảm thấy luồng nội lực của Dương Quá truyền sang mạnh mẽ, khác hẳn nội công phái Toàn Chân, song rất nhu hòa hồn hậu, thực chẳng kém gì các cao thủ phái Toàn Chân, cơ thể mình tiếp nhận ngay, chỉ trong giây lát khí huyết nghịch chuyển đã trở lại thuận sướng, hai má hồng dần, thầm kinh ngạc: “Hài tử học ở đâu được môn nội công thượng thừa này vậy?” Hoàng Dung nhìn Dương Quá, mỉm cười hài lòng.

Đang định hỏi, thì Quách Phù từ xa chạy tới, gọi:

– Mẹ, mẹ ơi, mẹ đoán xem ai đến nào?

Hoàng Dung cười, nói:

– Hôm nay anh hùng thiên hạ tụ hội, ta làm sao biết ai đến kia chứ?

Đột nhiên nghĩ ra, vui mừng nói:

– À, là mấy vị sư bá, sư thúc của Võ gia ca ca chứ gì, quá lâu rồi chưa gặp họ.

Quách Phù nói:

– Mẹ thông minh thật, sao mẹ lại đoán ra ngay thế?

Hoàng Dung cười, nói:

– Có gì khó đâu? Hai Võ gia ca ca của ngươi không xa ngươi nửa bước, bây giờ lại không thấy đi cùng với ngươi, hẳn là thân nhân của chúng tới chứ gì nữa.

Dương Quá bao lâu nay tự cho mình là người thông minh cơ biến, nay thấy Hoàng Dung liệu sự như thần, hơn hẳn mình, thì không khỏi hãi phục.

Hoàng Dung lại nói:

– Phù nhi, cung hỉ ngươi lại có dịp học thêm một môn võ công thượng thừa, chỉ e ngươi học không nổi.

Quách Phù hỏi:

– Môn gì ạ?

Dương Quá nói xen vào:

– Nhất dương chỉ!

Quách Phù không thèm lý đến Dương Quá, nói:

– Dương đại ca thì hiểu gì? Mẹ, là môn võ công gì vậy?

Hoàng Dung đáp:

– Dương đại ca đã nói rồi đó thôi.

Quách Phù nói:

– Thì ra mẹ đã nói cho Dương đại ca biết.

Hoàng Dung và Dương Quá đều mỉm cười, im lặng.

Hoàng Dung nghĩ thầm: “Quá nhi thông minh gấp hàng chục lần huynh đệ họ Võ. Phù nhi thì càng ngốc nghếch, chẳng đáng nói đến. Dương Quá biết “Nhất dương chỉ” là công phu bản môn của Nhất Đăng đại sư, sư bá sư thúc của huynh đệ họ Võ tới đây, thương hai đứa trẻ cô khổ, chắc sẽ truyền thụ cho chúng, mà hai đứa ấy đều muốn lấy lòng Phù nhi, tất học được gì sẽ đem truyền thụ cho Phù nhi”. Quách Phù thì cứ lấy làm lạ, tại sao mẹ nàng lại đem chuyện ấy nói trước với Dương Quá, không lẽ quả thật định gả nàng cho gã tiểu khiếu hóa này? Nghĩ đến đây, bất giác lườm Dương Quá một cái, dẩu môi với chàng.

Bên dưới Nhất Đăng đại sư nước Đại Lý có bốn đại đệ tử Ngư, Tiều, Canh, Độc. Phụ thân của huynh đệ họ Võ là Võ Tam Thông, chính là nông phu, đại đệ tử thứ ba. Từ ngày đánh nhau với Lý Mạc Sầu bị thương, đến nay vẫn không rõ tung tích, sống chết ra sao. Đến dự anh hùng đại yến lần này là hai vị: ngư nhân Điểm Thương Ngư Ân và thư sinh Chu Tử Liễu.

Chu Tử Liễu với Hoàng Dung vừa gặp nhau đã muốn đấu khẩu, phen này sau hơn mười năm xa cách, vừa tái ngộ hai người đã trổ tài hùng biện. Sau khi hàn huyên, Điểm Thương Ngư Ân và Chu Tử Liễu quả nhiên tìm một gian tịnh thất, đem công phu “Nhất dương chỉ” truyền thụ cho huynh đệ họ Võ.

Sáng nay, lại thêm vô số anh hùng hảo hán đến Lục gia trang. Lục gia trang tuy rộng lớn, vậy mà chỗ nào cũng đã đầy người.

Ăn trưa xong, bang chúng Cái Bang tụ tập ở cánh rừng bên ngoài Lục gia trang. Lễ bàn giao giữa bang chủ cũ và mới là khánh điển long trọng nhất của Cái Bang. Các đại đệ tử các lộ đông tây nam bắc đều về dự; quần hào đến Lục gia trang tham gia anh hùng đại yến cũng được mời tới dự lễ.

Hơn mười năm nay Lỗ Hữu Cước luôn thay mặt Hoàng Dung xử lý bang vụ, công bằng chính trực, dám làm dám chịu, cả hai phe áo dơ, áo sạch đều khâm phục. Hiện thời Giản trưởng lão của phe áo sạch đã tạ thế, Lương trưởng lão ốm liệt giường nhiều năm, Bành trưởng lão bội phản bỏ đi, trong bang không có ai tranh chấp, cho nên lần bàn giao này là thuận lý thành chương. Sau khi Hoàng Dung theo bang qui tuyên bố, trao Đả cẩu bổng của bang chủ cho Lỗ Hữu Cước, chúng đệ tử nhất tề nhổ nước bọt về phía lão, tới lúc đầu, mặt, trước ngực sau lưng lão đều ướt sũng nước bọt, thì lễ tiếp nhiệm của tân bang chủ coi như hoàn tất.

Dương Quá thấy buổi lễ bàn giao bang chủ quá đặc biệt, trong bụng cứ lấy làm lạ, đang định đứng lên bẩm cáo cái tin Hồng Thất Công tạ thế, bỗng thấy một lão khất cái nhảy lên một tảng đá, nói to:

– Hồng lão bang chủ có lệnh, sai ta truyền đạt.

Bang chúng lập tức hoan hô vang dội. Hơn mười năm nay họ không biết tin tức của bang chủ, thường vẫn nhớ đến, nay bỗng nghe có hiệu lệnh của bang chủ, thì ai nấy hồ hởi như phát cuồng. Từ trong đám đông, một gã khất cái gào to:

– Cung chúc Hồng lão bang chủ mạnh giỏi!

Bang chúng đồng thanh hô vang trời dậy đất, hồi lâu mới ngừng. Dương Quá thấy bang chúng Cái Bang ai nấy kích động, có người thậm chí khóc òa, thì nghĩ thầm: “Đại trượng phu được mọi người yêu kính như thế, mới không sống uổng một đời. Nhưng bây giờ mọi người đang hoan hỉ thế này, ta nỡ lòng nào đi báo tin Hồng lão bang chủ đã mất? Huống hồ ta là kẻ thấp hèn, lời nói không có sức nặng gì, nói chuyện lớn kia ra, vị tất họ đã tin? Tất cả sẽ nhốn nháo cả lên, cái tin ta đưa ra lại không phải là tin mừng, chả nên làm mất hứng của họ”. Lại nghĩ: “Họ hỏi đến tại sao Hồng lão bang chủ chết, ta sẽ không thể giấu việc nghĩa phụ tỷ thí với Hồng lão bang chủ. Huynh đệ họ Võ biết ta đã học “Cáp mô công” của nghĩa phụ, sẽ nói toạc việc đó ra, mọi người sẽ nghi ta ở bên cạnh ra tay trợ giúp nghĩa phụ, làm cho Hồng lão bang chủ bị chết. Ta dù có một trăm cái miệng cũng khó mà cãi lại. Đợi sau đại hội, ta sẽ kể tỉ mỉ với Quách bá mẫu, để Quách bá mẫu chuyển cáo cho mọi người thì hơn”. Chàng thầm mừng: may mà lão khất cái kia lên tiếng trước, chứ không chàng chưa nghĩ kỹ đã báo tin ra, thì rầy rà to rồi.

Chỉ nghe lão khất cái kia nói:

– Cách đây nửa năm, tại quận Thủy Hưng, Thiệu Châu đông lộ Quảng Nam, lão phu có tình cờ gặp Hồng lão bang chủ, cùng uống một bữa rượu với Hồng lão. Hồng lão vẫn khỏe, ăn uống rất ngon miệng, tửu lượng còn cao hơn trước.

Quần hào lại hoan hô vang dậy, kèm theo không ít tiếng cười. Lão khất cái kia nói tiếp:

– Hồng lão mấy năm qua đã giết không ít bọn ác bá cẩu quan hại nước hại dân, Hồng lão bảo mới nghe tin có năm tên khốn kiếp gọi là “Tạng biên ngũ xú” gì đó vâng lệnh Thát tử Mông Cổ làm nhiều việc xấu xa ở một dải Xuyên Đông, Hồ Quảng. Hồng lão phải đi tra xét, nếu đúng như thế, Hồng lão sẽ ra tay lấy năm cái mạng chó ấy.

Một gã khất cái đứng tuổi nói:

– “Tạng biên ngũ xú” hoành hành ngang ngược, có điều là hành tung của chúng đó đây bất định, chúng huynh đệ ở Xuyên Đông thủy chung không sao tìm được chúng. Gần đây đột nhiên không biết chúng đi đâu mất, chắc hẳn Hồng lão bang chủ đã trừ xong bọn đó rồi.

Lão khất cái nọ lại nói:

– Hồng lão bang chủ nói: hiện nay thiên hạ đại loạn, Thát tử Mông Cổ ngày càng lấn dần xuống phía nam, chiếm lấy thiên hạ của Đại Tống ta. Phàm là bang chúng, đều phải có lòng trung nghĩa, thề quyết giết địch, chống giặc ngoại xâm.

Bang chúng Cái Bang đồng thanh hưởng ứng hết sức hăng hái. Lão khất cái nói:

– Triều đình chính sự thối nát, gian thần lộng hành, chờ mong bọn quan lại hủ bại lo chuyện báo quốc hộ dân thì chỉ uổng công. Hiện thời cái họa ngoại xâm ngày càng lớn, người người đều phải có lòng quên mình báo quốc, Hồng lão bang chủ bảo lão phu khích lệ chư vị hảo huynh đệ hãy nhớ kỹ hai chữ “trung nghĩa”.

Bang chúng đồng thanh hô to:

– Thề vâng theo giáo huấn của Hồng lão bang chủ!

Dương Quá từ nhỏ thất học, không biết hai chữ “trung nghĩa” có quan hệ trọng đại thế nào, chỉ thấy ai nấy hừng hực hào khí chính nghĩa, thì bất giác cũng xúc động, cảm thấy dạo trước chàng đùa giỡn khinh nhờn đệ tử Cái Bang là không nên không phải.

Phần tiếp theo của đại hội Cái Bang gồm mấy việc thưởng phạt thăng giáng trong nội bộ bổn bang, tân khách không tiện nghe, đều lũ lượt cáo biệt.

Đến tối, Lục gia trang trong ngoài treo đèn kết hoa, hoa chúc huy hoàng, chính sảnh, tiền sảnh, hậu sảnh, sương sảnh, hoa sảnh các nơi bày ra tổng cộng hơn hai trăm bàn tiệc, quá nửa anh hùng hào kiệt thành danh trong thiên hạ tới đây tham dự. Mấy chục năm nay mới có một cuộc anh hùng đại yến linh đình như lần này. Chủ nhân phải là người giao du rất rộng, được ai nấy khâm phục, mới có thể mời đông đảo hào kiệt võ lâm như thế này.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung ngồi tiếp khách chính ở chính sảnh. Hoàng Dung xếp cho Dương Quá ngồi ở bàn tiệc kế tiếp, cạnh bàn của mình. Quách Phù và huynh đệ họ Võ ngồi ở bàn rất xa.

Quách Phù nổi tính hiếu kỳ, nghĩ thầm: “Chàng ta không biết võ công, sao mẫu thân lại cho chàng ta ngồi ở chỗ cao quí như thế?” Đột nhiên nghĩ bụng: “Thôi chết, phụ thân muốn gả mình cho chàng ta, hẳn là mẫu thân phải làm theo ý của phụ thân chăng?” Nàng càng nghĩ càng lo, nhớ sáng nay mẹ nàng cầm tay Dương Quá đi về, thần thái thân thiết, lại nghĩ cha mẹ nàng rất kính nể nhau, ý phụ thân đã như thế, mẫu thân nàng không thể làm khác. Nàng liếc về phía Dương Quá, vừa lo vừa tức, nghĩ thầm: “Làm sao ta có thể lấy một gã tiểu khiếu hóa kia chứ?” Không nhịn được, nàng chỉ muốn khóc nấc lên. Vừa lúc ấy Võ Tu Văn nói:

– Phù muội nhìn kìa, cái tên tiểu tử họ Dương cũng được ngồi chễm chệ đằng kia, cứ như một vị anh hùng của một môn phái không bằng!

Quách Phù bực bội nói:

– Ca ca có bản lĩnh thì tới đuổi hắn đi!

Huynh đệ họ Võ vốn đã coi khinh Dương Quá, lúc ở trên cây lại nghe Quách Tĩnh bảo muốn gả Quách Phù cho chàng, thì hai gã càng có ý thù địch. Võ Tu Văn nghe Quách Phù nói vậy, nghĩ thầm: “Tại sao mình không làm nhục hắn ta một phen, làm cho hắn ta bẽ mặt trước anh hùng thiên hạ kia chứ? Sư mẫu vốn là người hiếu thắng, ưa kẻ mạnh, hắn ta bị bẽ mặt thì sư mẫu sẽ không nhận hắn làm con rể”. Y vừa học được công phu “Nhất dương chỉ” do sư bá truyền thụ, chính là dịp đem ra thi thố, bèn nói:

– Hắn đã mạo nhận anh hùng, thì hãy để cho hắn lộ rõ chân tướng.

Y đứng dậy, rót đầy hai ly rượu, mang tới bên cạnh Dương Quá, nói:

– Dương đại ca, mấy năm qua chắc đại ca đắc ý lắm, đệ kính đại ca một ly.

Dương Quá thấy Võ Tu Văn đi tới gần mình, mắt chốc chốc lại nhìn về phía Quách Phù, vẻ mặt giảo hoạt, rõ ràng không phải tử tế, nghĩ thầm: “Ngươi tới mời rượu ta, hẳn có trò ma. Nhưng bỏ thuốc độc vào rượu thì ngươi chẳng dám”. Bèn đứng lên, nhận ly rượu, nói:

– Đa tạ.

Rồi uống một hơi cạn sạch. Đúng lúc ấy Võ Tu Văn đột nhiên giơ ngón trỏ tay phải thọc vào lưng chàng. Cú chọc này nhắm đúng vào huyệt “Tiếu yêu” của Dương Quá, nghe sư bá y nói, nếu sử dụng phép “Nhất dương chỉ” điểm trúng huyệt “Tiếu yêu” của đối phương, thì đối phương sẽ cười ầm ĩ không dừng, chỉ khi giải huyệt, mới hết cười.

Dương Quá sớm đã chăm chú đề phòng, há để bị người ám toán? Thực ra, với võ công hiện giờ của chàng, kẻ địch dẫu có bất ngờ đánh lén, chàng cũng đối phó được. Nếu là lúc khác, với cái tính không chịu lép vế của mình, chắc chàng đã hùng hổ phản kích, nếu không đánh ngã Võ Tu Văn, thì ít ra cũng điểm trả lại huyệt “Tiếu yêu” của y, nhưng sau buổi trò chuyện với Hoàng Dung, chàng đang sung sướng, dễ chịu, nghĩ thầm: “Ngươi tuy có lỗi với ta, nhưng dầu sao cũng là đồ đệ của Quách bá bá và Quách bá mẫu, ta cũng chả nên dằn mặt hắn”. Bèn ngầm vận nội công theo lối Âu Dương Phong truyền thụ, làm cho kinh mạch toàn thân tức thời nghịch chuyển, các huyệt đạo thay đổi vị trí; nhưng vì lúc này chàng không làm động tác trồng cây chuối, việc tu luyện công phu này cũng chưa sâu, nên kinh mạch chỉ nghịch chuyển giây lát, rồi lại chuyển thuận; nếu muốn kinh mạch nghịch chuyển lần thứ hai, lại phải vận công. Song chỉ một lần cũng đã đủ làm cho cú chọc của Võ Tu Văn vô hiệu.

Võ Tu Văn điểm huyệt xong, thấy Dương Quá chỉ mỉm cười, ngồi xuống như thường, thì trong bụng lấy làm lạ, trở về bàn của mình, nói nhỏ:

– Ca ca, công phu “Nhất dương chỉ” mà sư bá vừa dạy, đừng nên sử dụng.

Võ Đôn Nhu hỏi:

– Sao lại không sử dụng?

Võ Tu Văn kể lại việc vừa rồi. Võ Đôn Nhu cười khẩy, nói:

– Hoặc là đệ xuất chỉ không đúng, hoặc là đệ điểm chệch huyệt đạo.

Võ Tu Văn nói:

– Sao lại không đúng? Ca ca coi đây.

Y giơ ngón tay làm động tác điểm huyệt huynh trưởng, tư thế đúng như sư bá đã truyền thụ.

Quách Phù bĩu môi, nói:

– Muội chỉ e cái món “Nhất dương chỉ” không có tác dụng gì!

Nàng biết huynh đệ họ Võ đã học được môn “Nhất dương chỉ”, còn nàng thì chưa, tuy biết rồi hai người kia sẽ truyền thụ cho nàng, nhưng trong bụng vẫn cảm thấy khó chịu.Võ Đôn Nhu liền đứng dậy, cũng rót đầy hai ly rượu, mang tới bên cạnh Dương Quá, nói:

– Dương đại ca, mấy năm mới trùng phùng, tiểu đệ cũng xin kính đại ca một chén.

Dương Quá cười thầm: “Đệ đệ của mi đã hiện lộ thân thủ, để xem mi có cao chiêu gì nào?” đôi đũa đang gắp một miếng thịt bò to, cũng không đặt xuống, giơ tay trái nhận ly rượu, cười, nói:

– Đa tạ.

Võ Đôn Nhu chẳng cần che giấu, giơ tay phải, ống tay áo quạt gió, ngón tay thọc nhanh tới phía sau lưng Dương Quá. Dương Quá thấy đòn thế hiểm ác công phu nghịch vận kinh mạch của mình có hạn, e rằng không đối phó nổi, bèn không vận khí nghịch mạch nữa, mà đưa luôn miếng thịt bò xuống chắn huyệt “Tiếu yêu” của mình. Động tác của chàng thực hiện sau mà đến trước, ngón tay trỏ của Võ Đôn Nhu thọc ngay vào miếng thịt bò. Dương Quá buông đũa, cười, nói:

– Nhắm rượu với thịt bò là hợp nhất.

Võ Đôn Nhu rút tay lại, thấy miếng thịt bò mắc trong ngón tay, nước chảy nhỏ giọt, để nguyên hay hất đi đều bất tiện, trừng mắt nhìn Dương Quá một cái trở về chỗ cũ.

Quách Phù thấy ngón tay gã móc miếng thịt bò, thì lấy làm lạ, hỏi:

– Cái gì thế?

Võ Đôn Nhu đỏ mặt, chẳng biết ăn nói thế nào. Đang lúng túng, thì tân nhiệm bang chủ Cái Bang Lỗ Hữu Cước nâng ly rượu đứng lên.

Lão nâng ly rượu kính quần hùng, sang sảng nói:

– Hồng lão bang chủ tệ bang truyền hiệu lệnh, nói Mông Cổ ngày càng lấn dần xuống phía nam, lệnh cho bang chúng ai nấy dốc toàn lực chống lại ngoại xâm. Hiện thời anh hùng thiên hạ tề tựu ở đây, ai nấy một lòng trung nghĩa, chúng ta hãy bàn một diệu sách làm cho Thát tử Mông Cổ không dám tái xâm phạm giang sơn Đại Tống của chúng ta.

Lỗ Hữu Cước nói xong, quần hùng sôi nổi đứng dậy, mỗi người nói một câu, đều tỏ ý tán đồng. Đến dự anh hùng đại yến đa phần là người Hán, mắt thấy quốc sự ngày một nguy nan, đại họa lớn dần, sớm tự lo lắng, nay có người đề xướng, thì các bậc hào kiệt trung nghĩa tất nhiên hưởng ứng.

Một vị lão nhân tóc bạc như cước đứng dậy, giọng vang như chuông, nói:

– Tục ngữ có câu “Rắn không đầu chẳng thể bò”, chúng ta đều có chí trung nghĩa, nhưng không có người dẫn đầu, thì đại sự khó thành. Hôm nay quần hùng ở đây hãy cử một vị hào kiệt đức cao vọng trọng, người người kính phục, làm minh chủ để hiệu lệnh chúng nhân.

Quần hùng hoan hô, có người nói to:

– Để lão nhân gia dẫn đầu là được! Khỏi cần cử ai khác!

Vị lão nhân cười ha hả, nói:

– Lão phu kém tài kém đức không thể đảm đương. Cao thủ võ lâm, bao năm nay vẫn do Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông đứng đầu. Trung Thần Thông Trùng Dương Chân Nhân qui tiên đã lâu, Đông Tà Hoàng đảo chủ một mình nay đây mai đó, Tây Độc thần trí điên điên khùng khùng, Nam Đế ở tận Đại Lý xa xôi, không phải là thần dân Đại Tống. Minh chủ quần hùng nhất định phải là Bắc Cái Hồng lão tiền bối.

Hồng Thất Công là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, đúng là người được ai nấy trông đợi. Quần hùng nhất tề vỗ tay, không ai dị nghị.

Một người nói:

– Hồng lão tiền bối đương nhiên xứng đáng làm minh chủ quần hùng; ngoài Hồng lão tiền bối chẳng ai tài đức hơn người, đảm đương nổi đại nhiệm.

Giọng người ấy sang sảng, ai nấy nhìn về phía ấy, song không thấy người, thì ra người ấy quá thấp, bị những người bên cạnh che khuất. Có tiếng hỏi:

– Vị nào vừa nói đó?

Người kia đứng luôn lên bàn, thân cao chưa đầy ba thước, tuổi trạc tứ tuần, vẻ mặt sắc sảo. Có người nhận ra đó là hảo hán Giang Tây “Oải Sư” Lôi Mãnh. Mọi người định cười, nhưng thấy mục quang uy mãnh của Lôi Mãnh quắc lên nhìn hai bên tả hữu, liền thôi.

Chỉ nghe Lôi Mãnh nói:

– Thế nhưng Hồng lão tiền bối hành sự xuất quỉ nhập thần, mười năm nay khó gặp một lần, nếu gặp đại sự chống ngoại xâm, biết tìm Hồng lão tiền bối ở đâu để thỉnh thị, lúc ấy phải làm sao đây?

Quần hùng nghĩ thầm: “Kể cũng đúng”. Lôi Mãnh nói tiếp:

– Việc làm của chúng ta hôm nay là tận trung báo quốc, không một chút tư tâm. Chúng ta tiến cử một vị phó minh chủ, khi Hồng lão minh chủ đi chu du bốn phương, thì mọi người sẽ làm theo hiệu lệnh của vị phó minh chủ.

Trong tiếng hoan hô, có người kêu to đề xướng:

– Quách Tĩnh Quách đại hiệp!

Có người nói:

– Lỗ bang chủ là hay nhất!

Có người nói:

– Hoàng tiền bang chủ Cái Bang túc trí đa mưu, lại là đệ tử của Hồng lão bang chủ, tại hạ tiến cử Hoàng bang chủ!

Lại có người nói:

– Lục trang chủ.

Lại có người nói:

– Mã giáo chủ giáo phái Toàn Chân! Trường Xuân Tử Khưu Chân Nhân!

Tiếng ồn ào nhất thời nổi lên.

Giữa lúc đó, có bốn đạo nhân tiến nhanh từ cửa sảnh vào, đó là Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình. Dương Quá thấy bọn họ đã bỏ đi, giờ quay trở lại, thì nghĩ thầm: “Muốn gây sự thêm với ta chăng?” Quách Tĩnh và Lục Quán Anh cả mừng, vội rời bàn ra đón. Phái Toàn Chân hiệu xưng chính tông võ lâm thiên hạ, anh hùng đại yến hôm nay nếu không có cao thủ phái Toàn Chân tham gia, dĩ nhiên kém phần long trọng.

Hách Đại Thông nói nhỏ với Quách Tĩnh:

– Có kẻ địch sắp đến gây sự, hãy cẩn thận đề phòng. Bần đạo phải vội trở lại báo tin.

Quách Tĩnh nghĩ thầm, Hách Đại Thông là một cao thủ có hạng của phái Toàn Chân, giang hồ không mấy người võ công thắng nổi lão, vậy mà nói mấy câu vừa rồi, giọng lão hơi run, thì kẻ địch phải là nhân vật cực kỳ lợi hại, bèn hỏi nhỏ:

– Âu Dương Phong?

Hách Đại Thông nói:

– Không phải, là người Mông Cổ, bần đạo từng bại trận dưới tay đệ tử của hắn.

Quách Tĩnh chợt nhớ, gật đầu hỏi:

– Là vương tử Hoắc Đô chứ gì?

Hách Đại Thông chưa kịp trả lời, đã nghe ngoài cổng trang viện nổi lên tiếng tù và vang vang từng hồi không ngớt. Lục Quán Anh kêu to:

– Nghênh tiếp quí khách!

Lời vừa dứt, trước sảnh đã có mấy chục người đứng lố nhố. Quần hùng đang vui vẻ sướng ẩm, đột nhiên thấy có nhiều người xông vào trong sảnh, đều cảm thấy hơi khó chịu, nhưng nghĩ toàn là các nhân vật tới dự anh hùng đại yến, nhìn kỹ không thấy ai quen mặt, thì cũng chẳng để tâm.

Quách Tĩnh nói lại cho Hoàng Dung biết lời của Hách Đại Thông, rồi hai vợ chồng cùng phu thê Lục Quán Anh đi ra đón khách. Quách Tĩnh nhận ra ngay quí công tử diện mạo thanh nhã là vương tử Mông Cổ Hoắc Đô; gã Tạng tăng mặt quắt thân gầy là sư huynh của Hoắc Đô, tên Đạt Nhĩ Ba. Hai kẻ này chàng đã gặp tại cung Trùng Dương, núi Chung Nam, tuy là cao thủ hạng nhất, nhưng võ công thua kém chàng, không có gì đáng ngại. Nhưng ở giữa hai tên đó là một Tạng tăng cực cao cực gầy, thân hình như một cây trúc khô, mặc áo bào đỏ, đỉnh đầu lõm xuống như một cái đĩa. Quách Tĩnh và Hoàng Dung đưa mắt nhìn nhau, họ từng nghe Hoàng Dược Sư kể rằng có môn võ công kỳ dị của Mật tông Tây Tạng, khi luyện đến cảnh giới cực cao, thì đỉnh đầu hơi lõm xuống. Lão tạng kia đỉnh đầu lõm hẳn xuống, không lẽ võ công quả thật cực kỳ cao siêu? Tại sao lâu nay chưa hề nghe giang hồ đồn đại về một cao thủ như thế ở Tây Tạng? Hai vợ chồng ngầm đề phòng, đồng thời cúi mình thi lễ.

Quách Tĩnh nói:

– Các vị từ xa tới, mời vào bàn uống vài chén rượu.

Chàng đã biết bọn kia là địch, nên cũng chẳng cần dùng những lời giả dối như “quang lâm”, “hoan nghênh” gì cả . Lục Quán Anh sai trang đinh bày bàn tiệc mới.

Huynh đệ họ Võ tất bật trợ giúp sư phụ sư mẫu liệu lý sự vụ, Võ Tu Văn nhanh chân nhanh tay, là nhân vật tháo vát số một. Hai huynh đệ chỉ huy trang đinh, bày bàn tiệc mới ở chỗ tôn quí nhất, miệng luôn xin lỗi khách khứa di chuyển chỗ ngồi. Quách Phù thấy Dương Quá cứ ngồi yên một chỗ, chẳng làm gì cả, trông rất chướng mắt, nghĩ thầm: “Mi cũng đòi làm anh hùng ư? Anh hùng trong thiên hạ có chết hết, cũng chưa đến lượt mi”. Nàng nháy mắt ra hiệu cho Võ Tu Văn, rồi hất hàm về phía Dương Quá. Võ Tu Văn hiểu ý, tới trước mặt Dương Quá, nói:

– Dương đại ca, hãy ra đằng kia mà ngồi.

Rồi chẳng đợi Dương Quá có bằng lòng hay không, y sai trang đinh mang bát đũa của chàng tới chiếc bàn ở góc xa khuất. Dương Quá tức giận, nhưng chẳng thèm nói, chỉ lạnh lùng cười thầm.

Ở chỗ kia, vương tử Hoắc Đô nói với lão Tạng tăng cao gầy:

– Sư phụ, đệ tử dẫn kiến lão nhân gia với hai vị anh hùng lừng lẫy Trung Nguyên…

Quách Tĩnh ngạc nhiên: “Thì ra lão ta là sư phụ của vương tử Mông Cổ Hoắc Đô”. Lão Tạng tăng gật gật đầu, mắt lim dim. Vương tử Hoắc Đô nói:

– Vị này là Quách Tĩnh Quách đại hiệp, từng làm hữu quân nguyên soái Tây chinh của Mông Cổ. Vị này là Quách phu nhân, cũng là Hoàng bang chủ Cái Bang.

Lão Tạng tăng nghe mấy chữ “hữu quân nguyên soái Tây chinh của Mông Cổ” thì mở to hai mắt, đột nhiên tinh quang phóng ra tứ phía, dừng một lát ở mặt Quách Tĩnh, rồi trở lại lim dim, không thèm để ý đến bang chủ Cái Bang.

Vương tử Hoắc Đô nói, giọng sang sảng:

– Vị này là sư tôn của tại hạ, thánh tăng Tây Tạng, được người người tôn xưng là Kim Luân pháp vương, được đương kim hoàng hậu nước Đại Mông Cổ phong làm Đệ nhất hộ quốc đại sư.

Câu này Hoắc Đô nhấn mạnh, quần hùng trong sảnh nghe rành rọt. Ai nấy kinh hãi nhìn nhau, đều nghĩ thầm: “Chúng ta đang ở đây bàn cách chống chọi Mông Cổ xâm lược phía nam, sao lại có tên hộ quốc đại sư Mông Cổ tới đây?”

Dương Quá càng kinh ngạc, nhớ hôm trên đỉnh Hoa Sơn, nghĩa phụ và Hồng Thất Công cùng tán thưởng công phu sở học của “Tạng biên ngũ xú”, bảo chúng hãy về bảo sư tổ Kim Luân pháp vương mau tới Trung Nguyên tỷ thí. Bây giờ Kim Luân pháp vương cùng với sư phụ của “Tạng biên ngũ xú” Đạt Nhĩ Ba tới đây, nghĩa phụ và Hồng Thất Công đã không còn trên thế gian, thì đau lòng và biết lão Tạng tăng cao gầy kia chẳng phải tầm thường.

Quách Tĩnh chưa biết nên đối phó thế nào với mấy người này, chỉ thản nhiên nói:

– Các vị từ xa tới, mời vào bàn uống vài chén rượu.

Rượu qua ba tuần, vương tử Hoắc Đô đứng dậy, xòe cây quạt, để lộ trên cây quạt một bông mẫu đơn tuyệt đẹp, nói:

– Sư đồ tại hạ hôm nay không nhận được anh hùng thiếp, song vẫn đến dự anh hùng đại yến, muối mặt làm khách không mời, nhưng thiết nghĩ được gặp quần hiền, thì cũng không cần khách sáo gì lắm. Thịnh hội khó có, dịp may không trở lại, anh hùng thiên hạ tề tựu cả ở đây, theo thiển ý của tiểu vương, cần suy tôn một vị minh chủ của quần hùng, làm lãnh tụ võ lâm, đứng đầu hào kiệt trong thiên hạ, các vị thấy thế nào?

“Oải Sư” Lôi Mãnh nói to:

– Nói rất đúng. Ở đây quần hào đã tiến cử Hồng lão bang chủ Cái Bang làm minh chủ, hiện đang đề cử một vị phó minh chủ, các hạ thấy sao?

Hoắc Đô cười nhạt, nói:

– Hồng Thất Công đã chầu trời rồi. Tiến cử một hồn ma làm minh chủ, các hạ định coi mọi người đều là ma cả chăng?

Lời này vừa dứt, quần hùng cùng ồ lên, bang chúng Cái Bang phẫn nộ dị thường, nhao nhao phản đối.

Hoắc Đô nói:

– Thôi được, Hồng Thất Công nếu còn sống, mời vị ấy ra gặp coi!

Lỗ Hữu Cước hai lần giơ cao Đả cẩu bổng, nói:

– Hồng lão bang chủ vân du thiên hạ, hành tung vô định. Các hạ muốn gặp là gặp được sao?

Hoắc Đô cười nhạt, nói:

– Đừng nói là Hồng Thất Công sống chết khó biết, cho dù Hồng Thất Công có mặt ở đây chăng nữa, thì võ công đức vọng của Hồng Thất Công cũng không tài gì sánh nổi với Kim Luân pháp vương, sư phụ của tại hạ. Các vị anh hùng hãy nghe đây, vị minh chủ của võ lâm thiên hạ hiện nay, trừ Kim Luân pháp vương ra, không có người thứ hai xứng đáng.

Quần hùng nghe Hoắc Đô nói thế, đã biết ý định của bọn kia khi tới đây, bọn chúng biết anh hùng đại yến bất lợi cho Mông Cổ, nên tới đây phá đám và tranh chức vị minh chủ. Nếu Kim Luân pháp vương dùng võ công đoạt được chức vị minh chủ, dẫu hào kiệt Trung Nguyên không tuân theo hiệu lệnh của lão, thì vẫn làm suy giảm thanh thế chống Mông Cổ của người Hán. Mọi người đều biết Hoàng Dung túc trí đa mưu, không hẹn mà cùng quay đầu nhìn nàng, nghĩ thầm: “Mấy chục tên kia võ công dù cao đến mấy, cũng không thể địch nổi ngàn người ở đây, bất kể đơn đả độc đấu hay là quần ẩu, chúng ta nhất định đều không thua, mọi người chỉ cần nghe lệnh của Hoàng bang chủ mà hành sự là được”.

Hoàng Dung biết hôm nay nếu không động võ, chắc không xong, quần ẩu tất nhiên sẽ thắng, nhưng đối phương sẽ không phục, bèn nói to:

– Vừa rồi quần hùng đã tiến cử Hồng lão bang chủ làm minh chủ; vị hảo hán Mông Cổ này lại đến cắt ngang, đòi tiến cử một vị Kim Luân pháp vương nào đó chẳng ai biết mặt, nghe tên. Giá như Hồng lão bang chủ có mặt ở đây, thì có thể cùng Kim Luân pháp vương hiển lộ thần thông, nhất quyết thư hùng; thế nhưng lão nhân gia chu du thiên hạ, diệt trừ bọn Thát tử Mông Cổ và bọn Hán gian, không ngờ hôm nay các vị kéo đến, nên không chờ sẵn, sau này Hồng lão bang chủ biết tin này, hẳn lấy làm tiếc lắm. May sao Hồng lão bang chủ và Kim Luân pháp vương đều có đệ tử thân truyền, vậy hãy để đệ tử đôi bên thay mặt sư phụ mình tỷ thí với nhau, có được chăng?

Quần hùng Trung Nguyên quá nửa biết Quách Tĩnh võ công kinh nhân, lại đang thời tráng niên, có khi đứng thứ nhất, bây giờ Hồng Thất Công chưa chắc đã mạnh hơn chàng; nếu chàng tỷ thí với đệ tử của Kim Luân pháp vương, thì phần thắng là cái chắc, không lý gì thua được, thế là khen phải, reo to làm rung chuyển cả mái ngói. Quần hùng đang ăn uống ở thiên sảnh, hậu sảnh, nghe tin lập tức đổ dồn lại, nhất thời hành lang, ngoài sân, bên cửa đầy kín người, ai nấy hô to trợ uy. Bọn Kim Luân pháp vương ít người, thanh thế sao bì được.

Hoắc Đô năm nọ ở cung Trùng Dương từng giao đấu với Quách Tĩnh, một chiêu đã bại, bấy giờ hắn chỉ biết chàng là môn nhân phái Toàn Chân, sau dò la mới biết lai lịch của chàng. Sư huynh Đạt Nhĩ Ba và hắn võ công xấp xỉ nhau, cả sư huynh và hắn liên thủ với nhau, chắc cũng không địch nổi gã đệ tử của Hồng Thất Công là Quách đại hiệp. Nhưng nếu không chấp nhận kiến nghị của Hoàng Dung, thì hôm nay khó đoạt chức vị minh chủ; biến cố này nằm ngoài dự liệu ban đầu, không khỏi khiến cho hắn hoang mang.

Kim Luân pháp vương nói:

– Được, Hoắc Đô, ngươi cứ việc tỷ thí với đệ tử của Hồng Thất Công đi.

Giọng nói của lão ta rất nặng và đục, một câu nói dài mà lão không cần nghỉ chuyển hơi. Lão ta chỉ sống ở Tây Tạng, cho rằng võ công của Hoắc Đô ở Trung Nguyên ít có đối thủ, giỏi lắm thì cũng chỉ thua mấy vị lão tiền bối, như Bắc Cái, Đông Tà, Tây Độc gì đó mà thôi, chứ không biết hắn từng bị Quách Tĩnh đánh bại. Hoắc Đô vâng dạ, rồi nói nhỏ:

– Sư phụ, đồ đệ của Hồng lão nhi mười phần tài giỏi, đệ tử chỉ sợ khó bề thủ thắng, làm mất uy phong của sư phụ.

Kim Luân pháp vương sầm mặt lại, nói:

– Hừ, không lẽ đồ đệ của người ta, ngươi cũng đánh không nổi? Cứ đánh đi.

Hoắc Đô ngại ngần, chuyện hắn từng thua Quách Tĩnh, hắn vẫn giấu sư phụ, lúc này thực không dám bẩm cáo. Hắn cứ ngỡ sư phụ có tài thông thiên thấu địa, thời nay không ai địch nổi, chỉ cần bí mật tới được anh hùng đại yến, thì có thể giành ngay lấy chức vị minh chủ, ai ngờ cuối cùng hắn lại phải tỷ thí với Quách Tĩnh. Hắn đang lo, thì một đại hán to béo mặc quân phục Mông Cổ tới ghé tai hắn nói nhỏ mấy câu.

Hoắc Đô vừa nghe đã cả mừng, đứng dậy, phe phẩy quạt vài cái nói lớn:

– Nghe đâu Cái Bang có món bảo bối trấn bang gì đó gọi là Đả cẩu bổng pháp, là bản sự bình sinh lợi hại nhất của Hồng lão bang chủ, tiểu vương bất tài, muốn thử dùng cây quạt này phá giải Đả cẩu bổng pháp. Nếu phá được, chẳng hóa ra bản sự của Hồng Thất Công cũng chẳng có gì ghê gớm.

Hoàng Dung thoạt thấy có kẻ rỉ tai gì đó với Hoắc Đô, cũng không để ý; nhưng bỗng nghe hắn nhắc đến Đả cẩu bổng pháp, tuy chỉ vài câu, song đã gạt bỏ được người có võ công mạnh nhất là Quách Tĩnh sang một bên, thì không biết kẻ nào vừa hiến diệu kế cho hắn? Nhìn kỹ gã quân nhân Mông Cổ kia, nàng chợt nhận ra đó là một trong bốn vị trưởng lão của Cái Bang, là Bành trưởng lão. Nguyên lão ta đã chạy sang theo bọn Mông Cổ, cải trang thành quân nhân Mông Cổ, để râu dài, mũ kép sụp xuống trán, nếu không chăm chú nhìn kỹ, rất khó nhận ra; cũng chỉ có lão ta, mới biết rằng Đả cẩu bổng pháp chỉ truyền cho bang chủ; Quách Tĩnh võ công cao cường, song cũng không được biết môn võ công đó. Hoắc Đô nói vậy, tức là khiêu chiến với đích danh Lỗ Hữu Cước. Lỗ Hữu Cước mới học Đả cẩu bổng pháp, chưa hề luyện tập, lĩnh hội có hạn, sử dụng chưa thạo, vậy là nàng đành phải xuất trận.

Quách Tĩnh biết Đả cẩu bổng pháp của thê tử diệu tuyệt thiên hạ, chắc chắn đánh thắng Hoắc Đô, nhưng mấy tháng nay nàng bị động thai, nội tức không điều hòa, hoàn toàn không thể động võ với người, bèn đứng dậy, bước ra, nói:

– Đả cẩu bổng pháp của Hồng lão bang chủ xưa nay không mấy khi sử dụng đến, các hạ hãy thử lĩnh giáo “Hàng long thập bát chưởng” của lão nhân gia.

Kim Luân pháp vương lim dim mắt, thấy Quách Tĩnh đứng dậy, bước ra, đường hoàng vững chãi, khí thế phi phàm, không khỏi kinh ngạc: “Người này quả không tầm thường”.

Hoắc Đô cười hô hố, nói:

– Ở cung Trùng Dương, núi Chung Nam, tiểu vương từng có duyên kiến diện với các hạ, khi đó các hạ tự xưng là môn nhân của chư vị Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ sao bây giờ lại mạo nhận là đệ tử của Hồng Thất Công?

Quách Tĩnh định trả lời, thì Hoắc Đô đã cướp lời, nói tiếp:

– Một người theo học vài vị sư phụ, chuyện đó lẽ thường. Nhưng hôm nay là cuộc tỷ thí công phu giữa Kim Luân pháp vương với Hồng lão bang chủ, các hạ võ công tuy mạnh, song nghệ kiêm nhiều môn, không phải là bản sự đích thực của Hồng lão bang chủ.

Lời nói của Hoắc Đô kể cũng có lý, Quách Tĩnh vốn không giỏi nói năng, nhất thời chưa biết đối đáp ra sao. Quần hùng thì nhao nhao lên:

– Có giỏi thì tỷ thí với Quách đại hiệp, nhát gan thì cụp đuôi mà xéo đi.

– Quách đại hiệp là đệ tử cập môn của Hồng lão bang chủ, không xứng đại diện cho Hồng lão bang chủ thì còn ai vào đấy?

– Ngươi cứ nếm thử “Hàng long thập bát chưởng”, rồi hãy xơi món Đả cẩu bổng pháp cũng chưa muộn.

Hoắc Đô ngửa mặt cười một tràng, trong lúc cười hắn ngầm vận nội lực, dùng tiếng ha ha hô hô át mọi tiếng ồn ào của quần hùng, làm cho đèn nến trong đại sảnh lung lay muốn tắt. Quần hùng nhìn nhau thất sắc, đều nghĩ thầm: “Không ngờ hắn còn trẻ, trông như công tử, mà lại có nội công lợi hại đến thế”. Tất cả liền trở lại im lặng.

Hoắc Đô nói to với Kim Luân pháp vương:

– Sư phụ, chúng ta bỏ qua cho bọn họ thôi. Lúc đầu cứ tưởng hôm nay anh hùng thiên hạ tề tựu, mới từ ngàn dặm xa xôi tìm đến, ai ngờ rặt một phường tham sống sợ chết. Chúng ta về thôi, chẳng may sư phụ làm minh chủ cho bọn này, thì hảo hán thiên hạ sẽ bảo sư phụ đứng đầu phường giá áo túi cơm bị thịt, chẳng hóa làm ô danh sư phụ hay sao?

Quần hùng đều biết hắn cố ý khiêu khích để Hoàng Dung xuất chiến, nhưng lời lẽ ngông cuồng như thế thì ai chịu nổi? Mọi người nhao nhao nhiếc móc hắn, Lỗ Hữu Cước cầm cây gậy trúc, rời bàn tiệc bước ra, nói:

– Tại hạ là tân nhiệm bang chủ Cái Bang Lỗ Hữu Cước. Đả cẩu bổng pháp mười hai thành, tại hạ học chưa thạo một thành, lẽ ra chưa nên sử dụng. Có điều các hạ muốn nếm thử mùi vị Đả cẩu bổng, tại hạ đành chiều lòng các hạ.

Lỗ Hữu Cước võ công vốn rất tinh thâm, Đả cẩu bổng pháp tuy chưa học xong, nhưng cộng với căn cơ võ công thì cũng có không ít uy lực; thấy Hoắc Đô tuổi mới tam tuần, dẫu hắn có cao nhân truyền thụ, công lực chắc cũng chưa thâm hậu, lão biết Hoàng Dung người không được khỏe, bản thân lão dù thắng hay bại cũng không thể để nàng mạo hiểm.

Hoắc Đô chỉ cốt không phải tỷ thí với Quách Tĩnh, còn thì hắn không sợ ai khác, bèn ôm quyền cúi mình nói:

– Lỗ bang chủ, hạnh hội, hạnh hội. Được lĩnh giáo Lỗ bang chủ, thật không gì bằng.

Hoàng Dung thầm lo ngại, nhưng nghĩ Lỗ Hữu Cước vừa tiếp nhiệm chức bang chủ, đã lên tiếng khiêu chiến, nàng không tiện ngăn cản, nếu không sẽ vừa làm giảm uy phong của Lỗ Hữu Cước, vừa ra vẻ ta đây vẫn còn quyền thế ở Cái Bang, đành để lão thượng trận trước vậy.

Quản gia của Lục gia trang chỉ huy trang đinh kê lại bàn ghế trong đại sảnh, dành một chỗ trống khá rộng, đốt thêm nến hồng, chiếu sáng sảnh đường y như ban ngày.

Hoắc Đô nói:

– Xin mời!

Lời vừa dứt, cây quạt phe phẩy, một luồng kình phong quạt tới mặt Lỗ Hữu Cước, trong gió thoang thoảng mùi hương. Lỗ Hữu Cước sợ trong gió có độc, vội né tránh. Hoắc Đô vẩy tay, xoẹt một tiếng, cây quạt đã gấp lại thành một cây bút điểm huyệt dài tám tấc, chọc tới mạng sườn đối phương. Lỗ Hữu Cước vung cây gậy trúc, bất chấp Hoắc Đô định điểm huyệt, dùng khẩu quyết chữ “Triền”, một quét ngang một gảy lên, môn Đả cẩu bổng pháp quả nhiên xảo diệu dị thường, thế đánh toàn vào những chỗ người bên cạnh không thể ngờ tới. Hoắc Đô nhẹ nhàng nhảy lên tránh, nào ngờ cây gậy đột nhiên quật lại, đánh trúng vào ống chân hắn, hắn loạng choạng ba bước, suýt nữa thì ngã. Quần hùng đứng xem cùng reo lên:

– Đánh trúng con chó rồi!

– Cho mi biết thế nào là uy phong của Đả cẩu bổng pháp!

Bị trúng một đòn, Hoắc Đô đỏ mặt đến tận mang tai, xoay mình, tay trái đánh ra một chưởng. Lỗ Hữu Cước tung chân trái đá, gậy trúc quét ngang, tức thì bổng ảnh múa lượn biến ảo vô định. Hoắc Đô nghĩ thầm: “Đả cẩu bổng pháp quả nhiên danh bất hư truyền!” Hắn tập trung toàn bộ tinh thần, tay phải cầm quạt phối hợp với tả chưởng mà đối phó. Lỗ Hữu Cước rốt cuộc chưa luyện thành Đả cẩu bổng pháp, mấy lần đáng lẽ đắc thủ, lại bỏ phí. Quách Tĩnh, Hoàng Dung ở ngoài quan sát, không khỏi kêu thầm “Tiếc quá!”

Đánh hơn mười chiêu nữa, Đả cẩu bổng pháp của Lỗ Hữu Cước đã bộc lộ sơ hở càng lúc càng lớn. Dương Quá nhìn rõ từng chiêu, bất giác cau mày. May mà Đả cẩu bổng pháp vừa xuất thủ, đã đánh trúng ngay vào ống chân đối phương, Hoắc Đô thầm ngán ngại, không dám bám sát quá, chứ không thì Lỗ Hữu Cước đã lạc bại từ sớm. Hoàng Dung thấy tình hình không ổn, định gọi Lỗ Hữu Cước dừng lại, thì Lỗ Hữu Cước đột nhiên sử chiêu “Tà đả cẩu bối”, mím môi mím lợi giáng một gậy vào má trái của Hoắc Đô. Nhưng gậy này giáng quá mạnh, mất cái sự khôn khéo nhẹ nhàng; Hoắc Đô vừa đau vừa ngượng vì trúng đòn ở ống chân, đã giơ tay cực nhanh, chộp giật được cây gậy, chẳng cần suy nghĩ, tay kia giáng luôn một chưởng đánh trúng vào ngực Lỗ Hữu Cước, cây gậy thì quật ngang một cái, cách một tiếng, Lỗ Hữu Cước đã bị đánh gãy xương ống chân, miệng hộc ra một ngụm máu tươi, ngã sấp mặt xuống đất. Hai đệ tử bảy túi vội chạy tới đỡ Lỗ Hữu Cước dậy.

Quần hùng thấy Hoắc Đô xuất thủ tàn bạo, đều căm phẫn, nhiếc móc hắn.

Hoắc Đô cầm ngang cây gậy trúc nhẵn bóng màu bích lục, dương dương đắc ý, nói:

– Đả cẩu bổng, bảo bối trấn bang của Cái Bang chẳng qua chỉ thế mà thôi.

Hắn cố ý làm nhục một đại bang hội có tiếng nghĩa hiệp ở Trung Nguyên, hai tay cầm hai đầu cây gậy trúc, định bẻ gãy nó.

Đột nhiên một bóng áo xanh vọt tới trước mặt hắn, một thiếu phụ thanh nhã tú lệ, chính là Hoàng Dung, nói:

– Hãy khoan!

Hoắc Đô thấy thân pháp của nàng quá lẹ làng, kinh ngạc chưa kịp nói, thì tay phải của Hoàng Dung đã móc tới hai mắt hắn, hắn vội giơ tay gạt ra, thì tay trái của nàng đã nhẹ nhàng đoạt lấy cây gậy trúc.

Thủ pháp đoạt bổng như thế gọi là “Ngao khẩu đoạt trượng”, một chiêu số rất cao minh trong Đả cẩu bổng pháp. Năm xưa tại đại hội Quân Sơn của Cái Bang bên hồ Động Đình, Hoàng Dung từng dùng chiêu này ba lần đoạt cây gậy trúc trong tay Dương Khang. Chiêu này biến ảo khó lường, dùng để đoạt gậy thì “trăm lần được cả trăm” cao thủ giỏi mấy cũng không tránh thoát. Quần hùng hò reo vang dậy. Hoàng Dung trở về chỗ ngồi, chống cây gậy trúc ở bên cạnh, bỏ Hoắc Đô đứng tại chỗ ngơ ngác.

Hoắc Đô tuy võ học tinh thông, nhưng cũng không thể hiểu, rốt cuộc Hoàng Dung đã đoạt cây gậy trúc bằng thủ pháp gì, hắn nghĩ thầm: “Chẳng lẽ thiếu phụ kia có ảo thuật?” Nghe tiếng chế nhạo của mọi người, liếc về phía sư phụ, thấy sắc diện lầm lì, thiết tưởng bản lĩnh của thiếu phụ xinh đẹp kia cũng chỉ có hạn, bèn nói to:

– Hoàng bang chủ, tại hạ đã trả lại cây gậy cho bang chủ, mời bang chủ ra đây giao đấu, bang chủ có dám hay không nào?

Hắn nói như vậy, quả nhiên có người nghĩ rằng vừa rồi không phải Hoàng Dung đoạt lại cây gậy trúc, mà là Hoắc Đô trả lại cho nàng, để đôi bên tỷ thí. Chỉ có người võ công rất cao, mới biết thực hư mà thôi.

Quách Phù nghe câu nói của Hoắc Đô thì cả giận, cả đời nàng chưa từng thấy kẻ nào dám vô lễ như thế với mẫu thân, xoẹt một tiếng, nàng đã rút bội kiếm ra. Võ Tu Văn nói:

– Phù muội, để huynh trị hắn cho!

Võ Đôn Nhu cùng một tâm tư, huynh đệ họ Võ không hẹn mà cùng nhảy ra giữa sảnh, người này nói:

– Sư mẫu của ta là bậc tôn quí.

Người kia tiếp lời:

– Há đi động thủ với loại thô lỗ như ngươi? Ngươi hãy lĩnh giáo công phu của tiểu gia đây đã!

Hoắc Đô thấy hai người nhỏ tuổi, nhưng thân pháp đoan ổn, đích thị có danh sư chỉ điểm, nghĩ thầm: “Hôm nay bọn ta đến đây chính là dụng võ dương uy, làm nhụt khí các võ sư người Hán, đánh thêm vài trận cũng tốt. Nhưng địch đông ta ít, nếu biến thành quần ẩu, thì sẽ rất khó”, bèn nói:

– Xin anh hùng thiên hạ lưu ý, hai gã vắt mũi chưa sạch này đòi tỉ võ với tại hạ; nếu tại hạ xuất thủ, chỉ e bị mọi người cho là người lớn bắt nạt con nít, còn không thì lại cho rằng tại hạ sợ hai gã đó. Vậy chúng ta hãy nói rõ trước, đôi bên tỉ võ ba trận, bên nào thắng hai trận, sẽ giành chức minh chủ. Trận tỷ thí vừa rồi giữa tại hạ với Lỗ Hữu Cước Lỗ bang chủ coi như chưa tính. Các vị nói xem; như thế có thỏa đáng hay không?

Mấy câu vừa nói rõ ra cái giọng kẻ cả. Quách Tĩnh, Hoàng Dung với một số tân khách bàn nhỏ với nhau, thấy kiến nghị của đối phương thật khó từ chối. Tham gia đại hội hôm nay, trừ Hoàng Dung không thể xuất trận, còn ba người võ công mạnh hơn cả, là Quách Tĩnh, Hách Đại Thông, và đệ tử thứ tư của Nhất Đăng đại sư là thư sinh Chu Tử Liễu. Chu Tử Liễu là người nước Đại Lý, không phải là người Tống, nhưng Đại Lý và Đại Tống môi hở răng lạnh, những năm gần đây cũng bị Mông Cổ uy hiếp rất mạnh, nên Mông Cổ là kẻ thù chung; huống hồ Chu Tử Liễu giao hảo với vợ chồng Quách Tĩnh, ắt không từ chối. Bèn quyết định Chu Tử Liễu sẽ đấu trận thứ nhất với Hoắc Đô, Hách Đại Thông đấu trận thứ hai với Đạt Nhĩ Ba, Quách Tĩnh đấu trận cuối cùng với Kim Luân pháp vương. Trận thế này thắng thua ra sao chưa rõ; nếu Kim Luân pháp vương quả võ công cực cao, ngay Quách Tĩnh cũng địch không nổi, thì không chừng cả ba trận phía ta đều thua cũng nên.

Mọi người đang bàn chưa quyết, Hoàng Dung bỗng nói:

– Có một cách chắc thắng.

Quách Tĩnh cả mừng, đang định hỏi, bỗng nghe tiếng kiếm phong vù vù, ai nấy ngoảnh lại, thấy huynh đệ họ Võ đã bắt đầu giao đấu với Hoắc Đô, một bên sử dụng hai thanh trường kiếm, một bên là cây quạt. Vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung và hai môn hạ của Nhất Đăng đại sư là Điểm Thương Ngư Ẩn và thư sinh Chu Tử Liễu rất lo cho sự an nguy của đồ đệ, cùng chăm chú xem cuộc đấu.

Nguyên huynh đệ họ Võ nghe vương tử Hoắc Đô mở miệng càn rỡ, gọi họ là hai kẻ “miệng còn hơi sữa”, để cho các bậc thượng nhân nghe thấy thì còn gì là thể diện, huống hồ vừa thấy sư mẫu đoạt lại cây gậy trúc một cách khá dễ dàng, nghĩ bụng Hoắc Đô tuy đánh bại Lỗ Hữu Cước, nhưng xem ra Lỗ Hữu Cước võ công quá thấp; lại nghĩ hai huynh đệ được sư phụ chân truyền võ công, một người đấu có thể không thắng, hai người hợp lực, quyết chẳng thể thua. Cũng bất chấp ba trận bốn trận gì hết, đúng là nghé con không sợ hổ, hai huynh đệ họ Võ đưa mắt cho nhau, song kiếm cùng xuất.

Nhưng Quách Tĩnh võ công tuy cao, cũng chưa dạy cả cho đồ đệ, tự mình lĩnh hội tinh nghĩa võ học thượng thừa, song khi truyền thụ thì diễn giải không rõ ràng, từ không đạt ý. Huynh đệ họ Võ tư chất bình thường, vẻn vẹn trong dăm năm, phỏng học được bao nhiêu? Chỉ sau vài chiêu, trường kiếm của họ đã bị Hoắc Đô khống chế, không thi thố gì được.

Hoắc Đô muốn trổ tài lập uy trước mặt quần hùng, thấy trường kiếm của Võ Tu Văn đâm tới, bèn dùng ngón trỏ tay trái hẩy lưỡi kiếm lên thành nằm ngang, cây quạt đánh xuống giữa thanh kiếm, “cách” một tiếng, kiếm gãy làm hai đoạn. Huynh đệ họ Võ cả kinh, Võ Tu Văn vội nhảy sang một bên, Võ Đôn Nhu thì đâm một kiếm tới sau lưng Hoắc Đô để hắn không thể đuổi đánh huynh đệ. Hoắc Đô sớm đã tiên liệu chiêu này, không cần ngoái đầu, đưa cây quạt về phía sau, vừa hay chạm vào sống kiếm, ngón tay xoay xoay hai cái. Hắn chỉ cần chuyển động ngón tay, thanh kiếm trong tay Võ Đôn Nhu nếu phải thuận theo cây quạt mà xoay chuyển, thì xương vai của Võ Đôn Nhu không thể không bị trật khớp, gã đành phải buông kiếm mà nhảy sang một bên; thanh kiếm bay thẳng lên, kiếm quang loang loáng mấy lần trong không trung rồi mới rơi xuống.

Huynh đệ họ Võ vừa kinh ngạc vừa tức giận, tuy đã mất binh khí, vẫn không hề sợ, Võ Đôn Nhu tả chưởng hoành không, sử chiêu thức của “Hàng long thập bát chưởng”; Võ Tu Văn thì tay phải buông xuống, ngón tay trỏ hơi gập lại, hễ kẻ địch đánh tới, sẽ dùng “Nhất dương chỉ” đối phó.

Hoắc Đô thấy tư thế của hai người ngưng trọng, thì không dám coi thường, nghĩ thầm: “Thắng đến mức này là đủ, đừng tưởng lấn tới đã ngon”. “Hàng long thập bát chưởng” và “Nhất dương chỉ” là hai công phu đệ nhất trong võ học, huynh đệ họ Võ công lực tuy non, nhưng động tác của họ hoàn toàn chính xác, người thường nhận không ra, nhưng người có nhãn quang tinh đời như Hoắc Đô thì biết ngay giá trị, hắn bèn cười hà hà, ôm quyền nói:

– Mời hai vị về chỗ ngồi, chúng ta chỉ phân thắng bại, chứ không liều chết.

Giọng nói đã bớt hẳn ngông cuồng.

Huynh đệ họ Võ ngượng ngùng, thiết nghĩ tay không đấu với hắn, quá nửa là sẽ thảm bại, đành cúi đầu lùi về, không dám trở lại bên chỗ Quách Phù.

Quách Phù vội chạy lại, nói:

– Võ gia ca ca, ba chúng ta cùng xông ra tái đấu với hắn.

Mọi người chăm chú nhìn, Quách Phù tay phải cầm kiếm, tay trái vẫy gọi:

– Ba sư huynh muội chúng ta liên thủ với nhau.

Quách Tĩnh quát:

– Phù nhi, đừng làm ồn!

Quách Phù sợ nhất phụ thân, đành lùi mấy bước, hầm hầm nhìn Hoắc Dô. Hoắc Đô thấy nàng mỹ mạo kiều diễm, thì gật gù, cười hì hì. Quách Phù trừng mắt nhìn hắn một cái, rồi quay nhìn chỗ khác. Huynh đệ họ Võ vốn chỉ sợ Quách Phù chê cười, giờ thấy nàng bênh vực cho họ, thì trong lòng rất được an ủi.

Hoắc Đô mở quạt, phe phẩy vài cái, nói:

– Trận tỷ thí vừa rồi, dĩ nhiên cũng không tính. Quách đại hiệp, tệ phương gồm ba người là gia sư, sư huynh và tại hạ. Tại hạ võ công thấp nhất, sẽ đấu trận đầu. Vị nào bên quí phương sẽ hạ trường chỉ giáo đây? Ai thắng ai bại, chẳng phải chuyện đùa.

Quách Tĩnh nghe Hoàng Dung bảo có cách chắc thắng, biết nàng túc trí đa mưu, tuy chưa rõ diệu kế của nàng thế nào, nhưng đã không lo nữa; lớn tiếng nói:

– Được, chúng ta sẽ đấu ba trận để phân thắng bại.

Hoắc Đô biết bên phía đối phương, người có võ công mạnh nhất là Quách Tĩnh, sư phụ của hắn vô địch thiên hạ, nhất định sẽ thắng chàng; Hoàng Dung vừa rồi tuy có quái chiêu đoạt gậy, nhưng nhìn vẻ yếu ớt của nàng, nếu giao đấu thật sự, vị tất đã lợi hại, những kẻ khác chả đáng nói, thế là đưa mắt quét qua mọi người một lượt, nói:

– Các vị nếu có kiến nghị gì khác thì hãy nói sớm. Một khi thắng bại đã quyết, tất phải theo lệnh minh chủ đó.

Quần hùng cũng định đáp ứng, nhưng thấy hắn liên tiếp đánh bại Lỗ Hữu Cước và huynh đệ họ Võ, không biết còn có những bản sự gì chưa thi triển, nên chưa ai dám lên tiếng, đều quay nhìn vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung.

Hoàng Dung nói:

– Túc hạ đấu trận thứ nhất, lệnh sư huynh đấu trận thứ hai, tôn sư đấu trận thứ ba, đã chắc chắn không thay đổi nữa chứ?

Hoắc Đô đáp:

– Đúng thế.

Hoàng Dung quay lại nói nhỏ với mấy người xung quanh:

– Chúng ta chắc thắng rồi.

Quách Tĩnh hỏi:

– Làm thế nào?

Hoàng Dung nói nhỏ:

– Nay “dĩ quân chi hạ tứ, dữ bỉ thượng tứ…”

Nàng vừa nói vừa nhìn Chu Tử Liễu. Chu Tử Liễu mỉm cười, nói tiếp:

– “Thủ quân thượng tứ, dữ bỉ trung tứ, thủ quân trung tứ, dữ bỉ hạ tứ”. Đánh xong ba trận, Điền Kỵ thua một trận mà thắng hai trận, giành được ngàn lạng vàng.

Quách Tĩnh giương mắt nhìn, hoàn toàn không hiểu họ nói gì.

Hoàng Dung ghé tai chàng nói:

– Chàng tinh thông binh pháp, sao lại quên diệu kế của ông tổ binh pháp Tôn Tẫn?

Quách Tĩnh chợt nhớ thời nhỏ học “Võ Mục di thư”, Hoàng Dung từng kể với chàng tích cũ thế này: Đại tướng Điền Kỵ nước Tề đua ngựa với Tề vương, đánh cuộc ngàn lạng vàng. Tôn Tẫn bày cho Điền Kỵ cách thắng cuộc, dùng con ngựa kém nhất đua với con ngựa hay nhất của Tề vương; dùng con ngựa hay nhất đua với con ngựa trung bình của Tề vương; rồi dùng con ngựa trung bình đua với con ngựa kém nhất của Tề vương, kết quả Điền Ky thắng hai trận, giành được ngàn lạng vàng. Hoàng Dung vừa nói là ngụ ý dùng cách tương tự.

Hoàng Dung nói:

– Chu sư huynh, với công phu “Nhất dương chỉ” của mình, sư huynh thắng vương tử Hoắc Đô không khó.

Chu Tử Liễu ở nước Đại Lý từng thi đỗ trạng nguyên, từng làm Tể tướng, tất là bậc tài trí hơn người. Hiểu rất sâu về võ công của môn phái họ Ân ở nước Đại Lý. Ban đầu Chu Tử Liễu là môn hạ của Nam Đế, võ công đứng sau cùng trong bốn đại đệ tử Ngư, Tiều, Canh, Độc; mười năm đã thăng lên vị trí thứ hai. Hiện thời võ công đã cao hơn hẳn ba vị sư huynh. Nhất Đăng đại sư đối với bốn đại đệ tử như nhau, có môn võ công nào cũng đều truyền thụ cho họ, nhưng cuối cùng thì Chu Tử Liễu là người lĩnh hội được nhiều hơn cả, nhất là công phu “Nhất dương chỉ” luyện tới mức xuất thần nhập hóa. Lúc này võ công của Chu Tử Liễu so với Quách Tĩnh, Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ thì chưa bằng, nhưng đã cao hơn những người như Vương Xứ Nhất, Hách Đại Thông.

Quách Tĩnh nghe Hoàng Dung nói vậy, bèn tiếp lời:

– Mời Hách đạo trưởng đấu với Kim Luân pháp vương, kể ra rất nguy hiểm. Thắng hay bại cố nhiên không liên quan đến đại cục. Chỉ sợ kẻ địch xuất thủ quá tàn ác, không đối phó nổi.

Chàng ngay thẳng, nghĩ sao nói vậy, cũng không ngại coi mình là “con ngựa hay nhất”, Hách Đại Thông là “con ngựa dở nhất”.

Hách Đại Thông hiểu rõ cuộc đấu này quan hệ đến vận mệnh quốc gia, hoàn toàn không giống cuộc đấu giành giật danh tiếng tầm thường trong võ lâm; nếu để lão quốc sư Mông Cổ kia đoạt lấy chức vị minh chủ anh hùng thiên hạ, thì các võ sĩ người Hán chẳng những mất mặt, mà còn làm phân tán nhân tâm, e rằng khó kết minh kháng địch, bèn khảng khái nói:

– Chuyện đó khỏi cần lo nghĩ, chỉ cốt lợi cho quốc gia, lão đạo này dẫu có bỏ mạng dưới tay Tạng tăng, cũng không sao cả.

Hoàng Dung nói:

– Trong ba trận, chúng ta chỉ cần thắng hai trận đầu, thì trận thứ ba đâu cần đấu nữa.

Quách Tĩnh cả mừng, khen phải.

Chu Tử Liễu cười, nói:

– Tại hạ gánh vác trọng nhiệm rồi, nếu không thắng nổi gã vương tử Mông Cổ, thì suốt đời sẽ bị anh hùng thiên hạ phỉ thổ mất thôi.

Hoàng Dung nói:

– Không nên quá khiêm tốn, mời sư huynh xuất trận cho.

Chu Tử Liễu bước ra giữa sảnh, ôm quyền nói với Hoắc Đô:

– Trận đấu thứ nhất này, do tệ nhân lĩnh giáo các hạ. Tệ nhân họ Chu, tên Tử Liễu. Bình sinh thích ngâm thơ, làm câu đối, tụng kinh đọc Dịch, võ công thì rất thô sơ, mong được các hạ chỉ giáo thật nhiều.

Nói rồi vái một cái thật dài, rút từ ống tay áo ra một cây bút, viết mấy nét trong không trung, đúng là phong thái một gã hủ nho.

Hoắc Đô nghĩ thầm: “Kẻ trông càng tầm thường, càng có võ công cao thâm, thực không thể coi thường”, bèn ôm quyền đáp lễ, nói:

– Tiểu vương xin lĩnh giáo tiền bối, xin hãy lấy binh khí ra cho.

Chu Tử Liễu nói:

– Mông Cổ là xứ man di, chưa được thánh nhân giáo hóa, các hạ đã muốn lĩnh giáo, thì tệ nhân dĩ nhiên sẽ chỉ điểm cho.

Hoắc Đô trong bụng tức giận: “Ngươi mở miệng nhục mạ Mông Cổ ta, không thể tha cho ngươi được”.

Hắn xòe quạt, nói:

– Đây là binh khí của tiểu vương. Tiền bối sử dụng đao hay kiếm?

Chu Tử Liễu giơ bút viết chữ “Bút” trong không trung, cười, nói:

– Tệ nhân cả đời lấy cây bút làm bạn, còn biết sử dụng thứ binh khí nào khác?

Hoắc Đô nhìn kỹ cây bút của đối phương, thấy cán tre lông cừu, ngòi bút chấm mực đen một nửa, thật không có gì lạ, khác hẳn với loại bút thép dùng để điểm huyệt trong võ lâm, đang định hỏi, thì thấy từ ngoài tiến vào một bạch y thiếu nữ.

Nàng dừng chân ở cửa sảnh, thong thả đưa mắt nhìn mặt mọi người, tựa hồ đang tìm ai đó.

Quần hùng vốn đang chú mục nhìn Chu Tử Liễu và Hoắc Đô, thấy bạch y thiếu nữ bước vào, ai nấy bất giác cùng nhìn về phía nàng. Chỉ thấy nàng sắc diện trắng trẻo, xanh xao như người có bệnh, nhìn dưới ánh nến tưởng chừng không một hạt máu, càng lộ vẻ thanh nhã tuyệt tục, vô cùng tú lệ. Người đời thường dùng bốn chữ “đẹp như tiên nữ” để tả cái đẹp của nữ nhân, nhưng tiên nữ đẹp như thế nào, thì chẳng ai biết cả. Lúc này vừa trông thấy bạch y thiếu nữ, mọi người nghĩ ngay tới bốn chữ kia. Toàn thân nàng như được bao phủ bởi một lớp sương khói mỏng manh, nửa thực nửa hư, không phải như người trần tục.

Dương Quá nhìn thấy bạch y thiếu nữ thì sung sướng như điên, như có ai đấm mạnh vào ngực, tức thì từ trong góc sảnh lao ra, ôm lấy nàng, gọi to:

– Cô cô, cô cô!

Bạch y thiếu nữ chính là Tiểu Long Nữ. Sau khi giã biệt Dương Quá, nàng quanh quẩn ở vùng sơn dã một vòng, lội suối trở lại “Hoạt tử nhân mộ”. Hơn mười tám năm sống trong tòa cổ mộ, lòng nàng giống như hồ nước lặng, không hề gợn sóng. Nhưng từ khi gặp Dương Quá, lại trải qua một phen sóng gió vừa rồi, muốn trở lại nếp sống cũ đã không tài gì làm nổi. Mỗi lần ngồi tĩnh tọa luyện công trên chiếc giường hàn ngọc, nàng lại nhớ Dương Quá từng nằm ngủ trên cái giường này; mỗi lần ngồi bên bàn ăn cơm, nàng lại nhớ mình luôn có Dương Quá bầu bạn trong lúc ăn uống. Luyện công chỉ được một lát, nàng đã sốt ruột, không thể tiếp tục được nữa. Cứ vậy hơn một tháng, nàng hết chịu nổi, quyết ý đi tìm Dương Quá, nhưng nếu tìm được, sẽ đối xử với Dương Quá như thế nào, nàng cũng chưa biết. Nhân tình thế cố nàng không hiểu gì hết; y hệt một dã nhân ở chốn thâm sơn cùng cốc. Từ khi xuống núi, Tiểu Long Nữ thấy cái gì cũng hoàn toàn mới mẻ, nàng lại không biết đường, hễ gặp ai trên đường nàng cũng hỏi:

– Quí vị có thấy Dương Quá hay không?

Bụng đói, thì lấy thứ này thứ nọ của nhà người ta mà ăn, cũng không biết rằng cần phải trả tiền, dọc đường đã gây nên bao chuyện tức cười. Người ta thấy nàng xinh đẹp hồn nhiên, tự dưng đều nhường nhịn, cũng chẳng nỡ gây khó dễ với nàng. Một hôm vô tình ở một khách điếm nghe hai đại hán trò chuyện với nhau, rằng các anh hùng hảo hán hữu danh trong thiên hạ đều đi dự anh hùng đại yến ở Lục gia trang, ải Đại Thắng. Tiểu Long Nữ nghĩ bụng Dương Quá rất có thể sẽ tới đó, thế là nàng hỏi đường và đi tới Lục gia trang.

Trừ ba người Hách Đại Thông, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, hơn hai ngàn người trong đại sảnh không ai biết lai lịch của Tiểu Long Nữ, chỉ thấy nàng quá xinh đẹp, thì ai nấy đều có cảm giác đặc dị. Tôn Bất Nhị tuy biết Tiểu Long Nữ, song cũng chưa gặp mặt lần nào. Doãn Chí Bình mặt tái nhợt, người run rẩy. Triệu Chí Kính liếc nhìn sư đệ, cười nhạt. Quách Tĩnh, Hoàng Dung thấy cử chỉ của Dương Quá đối với Tiểu Long Nữ thì cũng vô cùng kinh ngạc.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ngươi quả nhiên ở đây, thế là cuối cùng ta đã tìm được ngươi.

Dương Quá ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:

– Cô cô… cô cô sẽ không hắt hủi đệ tử nữa chứ?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Ta không biết.

Dương Quá nói:

– Từ rày cô cô đến đâu, đệ tử sẽ theo cô cô đến đó.

Đại sảnh đông cả ngàn người, hai người ấy cứ làm như xung quanh chẳng có ai, cứ trò chuyện thân mật với nhau. Tiểu Long Nữ cầm tay Dương Quá, trong lòng cũng không rõ là hỉ hay bi.

Hoắc Đô thấy Tiểu Long Nữ xinh đẹp như thế, lòng cũng xúc động, nhưng hắn không biết nàng chính là cô nương ở núi Chung Nam mà hắn từng đến cầu hôn, thấy Dương Quá ăn mặc lam lũ, nhưng lại thân mật với Tiểu Long Nữ, thì hắn rất khó chịu, bèn nói:

– Bọn ta cần tỷ thí ở đây, hai người bước ra chỗ khác hộ cho!

Dương Quá cũng chẳng trả lời, kéo tay Tiểu Long Nữ sang bên cạnh, ngồi xuống tảng đá kê chân cột, lòng sung sướng không sao kể xiết.

Hoắc Đô quay lại, nói với Chu Tử Liễu:

– Các hạ đã không dùng binh khí, thì chúng ta dùng quyền cước phân thắng bại cũng được.

Chu Tử Liễu nói:

– Đâu có. Trung Hoa là nước có lễ nghĩa, không phải Mông Cổ man di. Quân tử luận văn, dùng bút hiểu nhau, tệ nhân có bút, chính là binh khí đó.

Hoắc Đô nói:

– Đã vậy thì tiếp chiêu đi!

Hắn xòe quạt, quạt một cái về phía đối phương. Chu Tử Liễu bước chếch, lắc đầu, tả chưởng đưa nhẹ trước thân, cây bút trong tay phải vạch một nét lên mặt Hoắc Đô. Hoắc Đô nghiêng mặt né tránh, thấy đối phương thân pháp nhẹ nhàng, chiêu số kỳ dị, chưa dám tấn công, muốn xem gia số võ công của đối phương thế nào, mới định cách đối phó

Chu Tử Liễu nói:

– Cây bút của tệ nhân quét sạch ngàn quân, các hạ hãy cẩn thận đấy.

Nói xong ngọn bút chọc nhanh về phía trước.

Hoắc Đô tuy học võ nghệ ở Tây Tạng, nhưng Kim Luân pháp vương có bộ não uyên bác, võ công của các danh gia Trung Nguyên món nào cũng biết. Hoắc Đô trong khi học võ, đã quyết ý đi Trung Nguyên lập uy danh, bởi vậy Kim Luân pháp vương từng đem những chiêu số đắc ý của các đại phái võ học lừng danh ở Trung Nguyên ra chiết giải với hắn. Không ngờ hôm nay lại gặp Chu Tử Liễu sử dụng cây bút như một thứ binh khí cổ quái, xuất chiêu càng lạ lùng ngoài sức tưởng tượng, chỉ thấy ngọn bút cứ tạo các nét vạch, nét sổ, nét chấm, y như đang viết chữ, nhắm vào các đại huyệt trên thân người.

Họ Ân ở nước Đại Lý vốn thuộc quận Võ Uy, Lương Châu, lập nước xưng đế tại Đại Lý, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn vật giáo hóa Trung Hoa. Chu Tử Liễu là danh gia thư pháp đệ nhất ở Thiên Nam, tuy học võ, song không bỏ văn, khi võ học càng luyện càng tinh thông, đã đem môn “Nhất dương chỉ” phối hợp làm một với thư pháp. Công phu ấy do một mình Chu Tử Liễu sáng tạo; đối phương võ công dẫu cao cường mà trong bụng ít chữ, thì quả thật khó bề đối phó nổi với môn võ công trong văn có võ, trong võ có văn, cả văn lẫn võ đều đạt tới cảnh giới cao diệu của Chu Tử Liễu. Chỉ thấy cây bút cứ chao động, trong thư pháp có điểm huyệt, trong điểm huyệt có thư pháp, lợi hại vô cùng, vừa oai hùng lại vừa uyển chuyển.

Quách Tĩnh không hiểu văn chương, nhìn mà lấy làm lạ. Hoàng Dung được phụ thân dạy dỗ, văn võ toàn tài, thấy môn võ công kỳ diệu của Chu Tử Liễu, không khỏi thầm tán thưởng.

Quách Phù đến bên cạnh Hoàng Dung, hỏi:

– Mẹ ơi, Chu tiên sinh cứ vạch vạch cái gì như đùa thế ạ?

Hoàng Dung đang mải xem đấu, trả lời:

– Bia văn Phòng Huyền Linh.

Quách Phù ngơ ngác:

– Bia văn Phòng Huyền Linh là cái gì ạ?

Hoàng Dung đang ngắm thích quá, không trả lời.

Nguyên “Bia văn Phòng Huyền Linh” là loại bia văn do vị đại thần triều Đường Chử Toại Lương viết ra, là một loại thư phẩm kỳ diệu kiểu chữ khải. Tiền nhân bình phẩm thư pháp của Chử Toại Lương là “Tiên nữ tán hoa”, thư pháp vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển, vút lên trời cao, cực kỳ phóng khoáng, thanh thoát. Môn “Nhất dương thư chỉ” của Chu Tử Liễu này dùng bút thay ngón tay, chiêu nào pháp độ cũng nghiêm cẩn, hệt như lối viết chữ khải không thể cẩu thả.

Hoắc Đô tuy không hiểu sự huyền diệu của môn “Nhất dương chỉ”, song cũng từng tập viết “Bia văn Phòng Huyền Linh”, dự tính sau nét ngang sẽ là nét sổ, nên phòng thủ rất chặt chẽ, hoàn toàn không có dấu hiệu núng thế.

Chu Tử Liễu thấy đối phương nhận biết lộ thư pháp này, bèn quát:

– Coi chừng! Giờ đến chữ thảo.

Đột nhiên ném cái mũ đang đội trên đầu xuống đất, tay áo dài múa lượn, chạy tế lên, xuất chiêu không còn theo chương pháp nào nữa. Chỉ thấy Chu tiên sinh như điên như cuồng, như kẻ say rượu, như kẻ trúng tà, bút ý lâm li, chỉ trỏ loạn xạ.

Quách Phù ngạc nhiên, hỏi:

– Mẹ ơi, Chu tiên sinh phát điên hay sao thế?

Hoàng Dung nói:

– Ừm, nếu uống ba chén rượu, thế bút càng tuyệt diệu.

Nàng cầm bình rượu, rót ra ba chén, gọi:

– Chu đại ca, hãy cạn ba chén trợ hứng.

Rồi tay trái giơ chén, dùng ngón giữa tay phải búng một cái, chén rượu bay ngang đi. Chu Tử Liễu ra một đòn bút, buộc Hoắc Đô lùi một bước, đón chén rượu uống cạn một hơi. Hoàng Dung búng tiếp chén thứ hai, chén thứ ba. Hoắc Đô thấy hai người mời rượu trước trận như thế, thật chẳng coi hắn ra gì, định dùng cây quạt đánh văng chén rượu; nhưng Hoàng Dung phối hợp rất ăn ý với cây bút của Chu Tử Liễu, búng chén rượu tới đúng lúc, Hoắc Đô không làm gì được.

Chu Tử Liễu uống liền ba chén, nói:

– Đa tạ, công phu Đạn chỉ thần công mới hay làm sao!

Hoàng Dung cười, nói:

– Sắc bén thay “Tự ngôn thiếp”!

Chu Tử Liễu cười, nghĩ thầm: “Chu mỗ một đời tự phụ thông minh, hóa ra còn thua tiểu cô nương một bậc. Ta tốn hơn mười năm khổ công mới nghĩ ra tuyệt kỹ này, nàng ta vừa nhìn đã biết”. Nguyên lối chữ Chu Tử Liễu viết lúc này chính là “Tự ngôn thiếp” của Trương Húc đời Đường. Trương Húc được tôn là “Thảo thánh”, tức là bậc thánh về thảo thư. Đỗ Phủ viết Ẩm trung bát tiên ca có câu:

Trương Húc ba ly xưng thánh thủ

Trước vương công ném mũ ngẩng đầu

Bút vung quỷ khốc thần sầu

Như mây như khói trên màu giấy hoa

Hoàng Dung mời ba chén rượu, một là rất hợp với thân phận của Chu Tử Liễu khi sử dụng môn công phu này, hai là để tăng tửu ý, bút pháp sẽ càng lợi hại, ba là cũng giảm bớt nhuệ khí của Hoắc Đô.

Chỉ thấy Chu Tử Liễu viết đến chữ “Đạo” trong câu “Đảm phu tranh đạo”, thì nét cuối cùng hất lên, như cái móc kéo toạc vạt áo của Hoắc Đô. Quần hào cười rộ, Hoắc Đô nhảy vội về phía sau.

Hồi 13: Minh chủ võ lâm

Kim Luân pháp vương mắt lúc mở lúc nhắm, tựa hồ không thèm để ý đến chiến cục trước mặt, thực ra lão nhìn rõ hết thảy, thấy Hoắc Đô đã rơi vào thế hạ phong, đột nhiên nói:

– A cu si chin tơ nhi, mi ma cáp si tâng, si ơ si ơ hô!

Mọi người không ai hiểu mấy câu tiếng Tạng ấy nghĩa là gì. Hoắc Đô thì biết là sư phụ nhắc hắn không nên chỉ thủ mãi, bèn sử “Cuồng phong tấn lôi công” mà tấn công đối phương, tức thì hú lên một tiếng dài, cây quạt cuốn lên một luồng gió mạnh, xông về phía Chu Tử Liễu. Luồng kình phong lợi hại, những người đứng xem bất giác lùi dần, nghe Hoắc Đô luôn miệng gầm lên như sấm để trợ uy, thiết tưởng “Cuồng phong tấn lôi công” ngoài binh khí quyền cước, thì tiếng gầm thét cũng là một thủ đoạn lợi hại để khắc địch chế thắng. Chu Tử Liễu vung bút, nhìn cao bước rộng, đối phó dữ dội với địch thủ.

Hai người đấu hơn trăm chiêu, Chu Tử Liễu sắp viết xong thiên “Tự ngôn thiếp”, bút ý đột nhiên biến đổi, xuất thủ chậm hẳn lại, nét bút vừa gầy vừa cứng. Hoàng Dung tự nhủ: “Cổ nhân nói “Sấu ngạnh phương thông thần” , cái lộ “Bao tà đạo thạch khắc” này quả là kỳ quan ngàn năm chưa có”.

Hoắc Đô vẫn sử dụng “Cuồng phong tấn lôi công” đối địch, thấy lực đạo của đối phương rất mạnh, thì hắn cũng gia kình tương ứng, tiếng quát cũng ầm ĩ hơn. Những người võ công kém hơn không thể đứng lại trong đại sảnh, cứ phải lùi dần ra sân.

Hoàng Dung thấy Tiểu Long Nữ ngồi kề vai với Dương Quá dưới chân cột, chỗ ấy cách trận ác đấu chỉ hơn một trượng, hai người cứ thì thầm trò chuyện với nhau, dĩ nhiên chẳng thèm để ý tới hai kẻ đang giao đấu, kình phong của Hoắc Đô không làm tổn hại nổi họ. Chỉ thấy cái dải áo của Tiểu Long Nữ bay phần phật, song nàng coi như không có chuyện gì, cứ đắm đuối nhìn Dương Quá. Hoàng Dùng càng nhìn càng lạ, sau đó nhìn hai người đó nhiều hơn là xem cuộc đấu, nghĩ thầm: “Quá nhi hình như có võ công thượng thừa, nó và cô nương kia thân mật như vậy, không rõ cả hai là môn hạ của vị cao nhân nào?”

Tiểu Long Nữ hiện thời đã ngoài hai mươi tuổi, chỉ vì nàng hoàn toàn sống trong tòa cổ mộ, không có ánh mặt trời, nên da dẻ đặc biệt trắng trẻo, nội công lại cao, nên trông chỉ chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Trước khi gặp Dương Quá, nàng hầu như không có hỉ nộ ai lạc, thất tình lục dục rất có hại cho thân thể và nhan sắc. Nàng sống hai năm, chỉ như người thường sống một năm. Ví thử nàng cứ theo đúng lời dạy của sư phụ mà tu luyện, thì chẳng những có thể thọ trăm tuổi, mà đến khi một trăm tuổi, thể lực và nhan sắc sẽ chỉ như người năm mươi tuổi; vì thế dưới con mắt của Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ không chỉ ít tuổi hơn Dương Quá, mà cử chỉ hồn nhiên chất phác thì còn nhiều hơn cả Quách Phù.

Lúc này Chu Tử Liễu dùng bút càng lúc càng thô thiển, nhưng kình lực thì cũng mạnh dần, bút tới như nhện giăng tơ, vô cùng kỳ ảo, Hoắc Đô thầm kinh sợ. Kim Luân pháp vương quát to:

– Ma mi pa mi, cu xi mo xi?

Tám chữ ấy không biết nghĩa gì, chỉ làm cho mọi người nghe đinh tai nhức óc. Chu Tử Liễu chợt sốt ruột, nghĩ thầm: “Nếu hắn lại biến chiêu, thì trận đấu này biết khi nào mới xong. Ta là người Đại Lý, đánh trận đầu giúp Đại Tống, nhất quyết không được để thua, làm hổ danh bang quốc và sư môn”. Đột nhiên bút pháp lại thay đổi, vận bút tựa hồ không phải để viết chữ, mà là như cầm búa đập đá. Điều này Quách Phù cũng nhận ra, hỏi:

– Mẹ ơi, Chu bá bá đang khắc chữ à?

Hoàng Dung cười, nói:

– Con gái ta cũng không đến nỗi xuẩn, lộ chỉ pháp ấy gọi là Thạch cổ văn. Là thứ văn tự dùng búa khắc vào đá, thời Xuân Thu. Con thử nhìn kỹ, xem Chu bá bá khắc chữ gì nào.

Quách Phù nhìn theo bút ý, chỉ thấy các chữ cứ quấn quít với nhau, như một bức vẽ nhỏ, không thể nhận biết một chữ nào cả. Hoàng Dung cười, nói:

– Đấy là lối chữ triện cổ xưa, ngươi không biết là phải, ta cũng không nhận ra được hết mọi chữ.

Quách Phù vỗ tay cười nói :

– Tên Mông Cổ ngu xuẩn kia càng nhận không ra nổi. Mẹ nhìn kìa, hắn vã mồ hôi đầy mặt kìa.

Lối chữ triện cổ xưa, quả nhiên Hoắc Đô không nhận ra được chữ nào. Hắn đã không biết đối phương viết chữ gì, tất nhiên sẽ không đoán nổi thế đi của chiêu thức trong thư pháp, khó bề chống đỡ. Chu Tử Liễu viết lối chữ triện cổ xưa hết chữ này chữ kia, “Nhất dương chỉ” làm nền cho thư pháp cũng gia tăng kình lực tương ứng. Hoắc Đô vung quạt đỡ, thu về hơi chậm, bị Chu Tử Liễu viết lên cây quạt một chữ triện to tướng.

Hoắc Đô nhìn, ngạc nhiên hỏi:

– Là chữ “Võng” phải không?

Chu Tử Liễu cười, đáp:

– Không phải, là chữ “Nhữ”.

Lại đưa bút viết luôn lên quạt một chữ nữa. Hoắc Đô hỏi:

– Chắc là chữ “Nguyệt” hả?

Chu Tử Liễu lắc đầu, nói:

– Sai rồi, là chữ “Nãi”.

Hoắc Đô chán nản, hất hất cây quạt, muốn tránh ngọn bút, không để cho đối phương đề chữ lên cây quạt; ai ngờ Chu Tử Liêu đột nhiên vung tả chưởng công kích, Hoắc Đô vội giơ chưởng chống đỡ, Chu Tử Liễu thừa cơ lại đề hai chữ lên cây quạt, nhưng vì viết vội, đã không còn lối chữ triện, mà là chữ thảo. Hoắc Đô liền nhận ra, kêu lên:

– Man di!

Chu Tử Liễu cười ha hả, nói:

– Không sai, chính là bốn chữ “Nhữ nãi man di” (Mi là mọi rợ).

Quần hùng căm hận quân thiết kỵ Mông Cổ xâm lược tàn hại bách tính, ai cũng hờn căm, nghe Chu Tử Liễu chửi Hoắc Đô “Mi là mọi rợ” thì reo hò thích thú.

Hoắc Đô bị đối phương dùng bốn kiểu chữ chân, thảo, lệ, triện, lồng vào “Nhất dương chỉ” tấn công, không chống nổi, đã khiếp đảm, nghe tiếng reo hò, tâm trí càng loạn, thấy Chu Tử Liễu múa bút viết ba chữ cổ trên không trung, không nhận biết là chữ gì; chỉ gắng gượng dùng cây quạt che đỡ vùng ngực, đột nhiên cảm thấy đầu gối tê dại, thì ra hắn đã bị đối phương quay bút, dùng cán bút điểm huyệt. Hoắc Đô thấy đầu gối mềm đi, chực ngã khuỵu xuống, nhưng nghĩ nếu ngã thì không còn mặt mũi nào làm người, bèn hít một hơi dài dẫn tới huyệt đạo đó, tính lùi lại nhận thua, thì cây bút của Chu Tử Liễu đã như tia chớp điểm tới. Chu Tử Liễu dùng bút thay ngón tay, lấy cán bút liên hoàn tiến chiêu “Nhất dương chỉ”. Hoắc Đô làm sao đỡ nổi? Đầu gối tê dại, cuối cùng hắn ngã khuỵu xuống, mặt không còn hạt máu.

Quần hùng hoan hô như sấm. Quách Tĩnh quay sang nói với Hoàng Dung:

– Diệu kế của nàng đã thành.

Hoàng Dung mỉm cười.

Huynh đệ họ Võ đứng bên xem đấu, thấy môn “Nhất dương chỉ” của Chu sư thúc biến ảo vô cùng, thì cực kỳ khâm phục, nghĩ thầm: “Công lực của Chu sư thúc mạnh mẽ thâm hậu, hóa thành thư pháp lại càng biến hóa huyền ảo thêm, bao giờ mình mới học được như vậy?” Cả hai đang định nói lời tán thưởng võ công của sư thúc, bỗng nghe Chu Tử Liễu rú lên, quay đầu nhìn lại, thì thấy Chu Tử Liễu đã ngã ngửa. Diễn biến xảy ra bất ngờ khiến tất cả kinh hãi.

Nguyên sau khi Hoắc Đô nhận thua, Chu Tử Liễu nghĩ bụng mình đã sử dụng phép “Nhất dương chỉ” điểm trúng huyệt đạo của hắn, phép điểm huyệt này khác hẳn phép điểm huyệt thông thường, người ngoài không cứu nổi, bèn đưa tay ấn vào sườn hắn mấy cái, vận khí giải huyệt cho hắn. Ai dè Hoắc Đô vừa được giải huyệt, thì sát cơ nổi lên, miệng lầm bầm, thân chưa đứng thẳng dậy, đã đưa ngón tay cái bật cái chốt trên cây quạt, bốn cây đinh bôi chất độc từ trong khung quạt bắn ra, cắm cả vào người Chu Tử Liễu. Cao thủ tỷ võ, đã phân rõ thắng bại, nhất thiết không được tái động thủ, huống hồ trước con mắt của bao nhiêu con người trong đại sảnh, ai ngờ Hoắc Đô lại dám ám toán. Nếu trong lúc giao đấu, Hoắc Đô có phóng ám khí, mấy cây đinh có giấu trong cây quạt khéo đến mấy, cũng không làm gì nổi Chu Tử Liễu; đằng này Chu Tử Liễu giải huyệt cho hắn, chỉ cách hắn chưa đầy một thước, cho nên võ công cao mấy cũng khó lòng né tránh. Bốn cây đinh bôi chất độc lấy trên núi tuyết vùng Tây Tạng, Chu Tử Liễu vừa bị trúng, lập tức cảm thấy toàn thân đau buốt ghê gớm, không thể đứng vững.

Quần hùng căm phẫn, chỉ mặt Hoắc Đô mà chửi hắn là quân hèn hạ vô sỉ. Hoắc Đô cười nhăn nhở, nói:

– Tiểu vương chuyển bại thành thắng, có gì mà hữu sỉ với chả vô sỉ? Trước khi tỉ thí, đôi bên có nói là không được sử dụng ám khí hay không? Vị Chu huynh đây nếu sử dụng ám khí trước, tiểu vương cũng sẽ không nói gì cả.

Mọi người tuy thấy hắn cưỡng từ đoạt lý, song nhất thời cũng chưa biết nên đối phó thế nào, chỉ chửi bới hắn mà thôi.

Quách Tĩnh chạy ra ôm Chu Tử Liễu vào, thấy bốn cây đinh nhỏ cắm trên ngực, sắc mặt rất quái dị, biết là chất độc bôi vào ám khí kỳ dị, vội điểm ngay ba đại huyệt để máu lưu thông chậm lại, phong bế kinh mạch, không cho khí độc chạy vào tim, rồi hỏi Hoàng Dung:

– Làm thế nào?

Hoàng Dung cau mày, im lặng, nghĩ thầm thuốc giải độc hẳn do Hoắc Đô hoặc Kim Luân pháp vương nắm giữ, làm thế nào lấy được thuốc giải, thì nhất thời nàng chưa nghĩ ra.

Điểm Thương Ngư Ẩn thấy sư đệ trúng độc trầm trọng, vừa lo vừa tức, thắt chặt dây lưng, định xông ra giao đấu với Hoắc Đô. Hoàng Dung nghĩ thầm: “Đối phương đã thắng một trận, Ẩn sư huynh nếu nhảy ra, bên đối phương Đạt Nhĩ Ba ứng chiến, thì bên ta hoàn toàn không thể thắng”, vội nói:

– Sư huynh hãy khoan?

Điểm Thương Ngư Ẩn hỏi:

– Tại sao?

Hoàng Dung tuy túc trí đa mưu, cũng chưa biết trả lời thế nào, trận thứ nhất đã thua, hai trận sau sẽ rất khó khăn.

Hoắc Đô dùng gian kế thắng Chu Tử Liễu, hắn đứng ở cửa sảnh dương dương tự đắc, đưa mắt nhìn bốn phía. Hắn thấy Tiểu Long Nữ và Dương Quá kề vai nhau ngồi dưới chân cột, thì thầm chuyện trò thân mật với nhau, chẳng để ý đến trận thắng của hắn, thì bất giác nổi giận, giơ cây quạt chỉ mặt Dương Quá, quát:

– Tiểu súc sinh, đứng lên.

Dương Quá còn mải mê ngắm Tiểu Long Nữ, cảm thấy thiên hạ tuy rộng lớn, nhưng không việc gì có thể làm cho chàng phân tâm, cho nên trận đấu rung chuyển trời đất vừa rồi giữa Hoắc Đô với Chu Tử Liễu, chàng nhìn mà chẳng thấy, nghe mà không để ý. Chàng cùng Tiểu Long Nữ đã sống mấy năm trong tòa cổ mộ, quả thực không biết rằng chàng với nàng đã khắc cốt ghi xương, sống chết có nhau. Hôm Tiểu Long Nữ hỏi chàng có muốn lấy nàng làm thê tử hay không, câu hỏi đột ngột, chàng chưa từng nghĩ đến, chưa biết trả lời thế nào; sau đó Tiểu Long Nữ bỏ đi mất tăm, chàng cứ thầm nhắc lại trong lòng hàng ngàn vạn lần: “Ta muốn, ta muốn. Thà phải chết ngay, ta cũng muốn lấy cô cô làm thê tử của ta”. Tình ý giữa Tiểu Long Nữ với chàng, cả hai đều chớm nở mà không biết, đến khi chia tay mới bột phát ra không thể kìm chế. Giờ đây Dương Quá cố nhiên không sợ trời, không sợ đất; mà Tiểu Long Nữ thì lễ giáo thế tục chẳng biết chút gì, chỉ nghĩ mình muốn luyến ái thì luyến ái, đâu có liên quan gì tới người khác? Thế nên, một người thì bất chấp, một người thì không hiểu, đôi bên ở chỗ ngàn người vây quanh, cạnh cuộc ác đấu, vẫn cứ điềm nhiên nắm tay nhau, đắm đuối chuyện trò với nhau.

Hoắc Đô quát một tiếng, Dương Quá vẫn không nghe thấy. Hoắc Đô định quát tiếp, thì nghe Kim Luân pháp vương nói:

– Bên ta đã thắng một trận, có thể bắt đầu trận thứ hai.

Hoắc Đô trừng mắt nhìn Dương Quá, lui về chỗ ngồi, nói to:

– Bên tại hạ đã thắng một trận, trận thứ hai sẽ do sư huynh Đạt Nhĩ Ba xuất thủ. Vị anh hùng nào của quí phương sẽ ra chỉ giáo đây?

Đạt Nhĩ Ba rút binh khí từ trong áo cà sa đỏ, bước ra giữa sảnh. Mọi người nhìn thấy binh khí của y đều kinh ngạc, thì ra đó là một cái chày vừa thô vừa dài bằng vàng, gọi là kim chử. Loại “Kim cương hàng ma chử” này vốn được các bậc chấp pháp trong Phật giáo sử dụng. Lão tăng này dùng nó làm binh khí cũng không lạ, nhưng cây kim chử này của Đạt Nhĩ Ba dài tới bốn thước, đầu thô, cán lấp lánh màu vàng, hình như được đúc bằng vàng nguyên chất, nặng không khác gì sắt thép.

Đạt Nhĩ Ba tới giữa sảnh, chấp tay trước ngực hành lễ với quần hùng, tung cây kim chử lên một cái, nó rơi xuống nghe hịch một tiếng, làm vỡ vụn hai hòn gạch hoa xanh lớn dưới nền, cán kim chử cắm sâu xuống đất non một thước. Trọng lượng cây kim chử nặng tới mức ấy, mà Đạt Nhĩ Ba thì là một hòa thượng gầy đét, sử nổi cây kim chử đó, đủ hiểu võ công cao cường biết chừng nào.

Hoàng Dung nghĩ thầm: “Tĩnh ca ca có thể đánh bại lão hòa thượng này, nhưng trận thứ ba sẽ do Kim Luân pháp vương xuất thủ, bên ta không ai địch nổi, cuộc đấu võ kết cục đã định mất rồi. Có lẽ mình phải gắng dùng xảo kình đấu với lão hòa thượng này vậy”. Nàng bèn cầm Đả cẩu bổng, nói:

– Để thiếp xuất thủ!

Quách Tĩnh cả kinh, vội nói:

– Không được, không được. Nàng không khỏe, làm sao động thủ với người khác được kia chứ?

Hoàng Dung cũng cảm thấy không nắm chắc phần thắng, nếu thua trận này nữa, thì khỏi cần đấu trận thứ ba, đang ngần ngừ, thì Điểm Thương Ngư Ẩn lên tiếng:

– Hoàng bang chủ, để lão phu đấu với ác tăng đó.

Điểm Thương Ngư Ẩn thấy thảm trạng của sư đệ sau khi trúng độc, thì nóng lòng báo thù. Hoàng Dung cũng không có cách nào hơn, nghĩ thầm: “Bây giờ chỉ còn cách liều thử, nếu Ẩn sư huynh đánh thắng Đạt Nhĩ Ba, thì Tĩnh ca ca quyết phân cao thấp với Kim Luân pháp vương là được”. Bèn nói:

– Xin sư huynh cẩn thận cho.

Huynh đệ họ Võ mang ra cho sư bá hai cái mái chèo bằng sắt, gọi là thiết tương. Điểm Thương Ngư Ẩn kẹp chúng vào nách, bước ra giữa sảnh, hai mắt rực lửa, đi quanh Đạt Nhĩ Ba một vòng. Đạt Nhĩ Ba không hiểu gì, thấy đối phương đi vòng quanh mình, thì xoay người theo. Điểm Thương Ngư Ẩn bỗng quát một tiếng, vung hai cái thiết tương đánh xuống đầu Đạt Nhĩ Ba. Đạt Nhĩ Ba thân pháp cực nhanh, giơ tay rút cái kim chử cắm dưới đất lên, chử – tương đụng nhau, choang một tiếng lớn, mọi người nghe rát cả tai. Hổ khẩu cả hai người đều đau nhức, biết đối phương nội công thâm hậu, cùng nhảy lùi lại Đạt Nhĩ Ba nói một câu tiếng Tạng, Điểm Thương Ngư Ẩn thì dùng tiếng Đại Lý chửi một câu, hai người không ai hiểu ai, đột nhiên cùng sấn tới, chử – tương lại đụng nhau, lại choang một tiếng lớn.

Trận ác đấu này khác hẳn trận đấu tiêu sái mềm mỏng giữa Chu Tử Liễu với Hoắc Đô. Đôi bên dùng đại lực đấu với đại lực, lấy thượng thừa ngoại môn ngạnh công đối địch nhau, chử – tương sinh gió, người xem hết sức kinh hãi.

Điểm Thương Ngư Ẩn có lực cánh tay cực khỏe. Khi Nhất Đăng đại sư ẩn cư ở chùa Sương Tây, ngày ngày Điểm Thương Ngư Ẩn dùng thiết tương chèo thuyền bơi ngược dòng, luyện hai cánh tay có gân cốt cứng như sắt. Điểm Thương Ngư Ẩn là đại đệ tử của Nhất Đăng đại sư, ở trong sư môn lâu nhất, được Nhất Đăng đại sư quí nhất vì cái tính chất phác thô lỗ; chỉ có điều thiên tư hơi kém, nội công không bằng Chu Tử Liễu, nhưng ngạnh công thì cực kỳ lợi hại. Lúc này tỷ thí ngoại công với Đạt Nhĩ Ba, chính là dùng đến sở trường của mình. Chỉ thấy hai cái thiết tương vung lên đánh xuống, công kích mãnh liệt. Mỗi cái thiết tương nặng dăm chục cân, Điểm Thương Ngư Ẩn vung múa nó linh hoạt cứ như người ta sử dụng cây đao thanh kiếm nặng vài cân vậy.

Đạt Nhĩ Ba tự phụ có hai cánh tay vô song, nào ngờ đến Trung Nguyên lại gặp một vị tướng quân có thần lực nhường này, đối phương không chỉ cực khỏe, mà chiêu số càng tinh diệu, phải dốc toàn lực sử dụng kim cương chử. Chử đối tương, tương đối chử, cả hai thủ ít công nhiều. Lúc Chu Tử Liễu đấu với Hoắc Đô, nhiều người xem trong sảnh đã phải tản đi tránh gió; bây giờ hai loại binh khí nặng đấu nhau, đừng nói luồng gió quạt ra khó chịu, mà tiếng va nhau của chúng càng không thể chịu nổi. Đa số phải bịt tai mà xem. Dưới ánh nến, cái kim chử hóa thành một đạo kim quang, thiết tương thì trông như hai luồng hắc khí, cứ xoắn lấy nhau, càng đấu càng ác liệt.

Trận đấu này, mọi người quả là bình sinh chưa từng gặp. Tình cảnh hung hiểm cố nhiên lại càng hiếm thấy; cao thủ khi đấu nội công, bên trong căng thẳng, mà bề ngoài thì rất thản nhiên. Còn việc tỷ thí bằng quyền cước và binh khí, sự xảo diệu và hiểm ác dĩ nhiên là cốt yếu. Đằng này trước hết là cuộc đấu ngạnh công. Trên thế gian mấy ai có thần lực như Điểm Thương Ngư Ẩn, trận đấu dữ dội thế này quả là khó gặp.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung hồi hộp theo dõi, mồ hôi ướt cả lòng bàn tay. Quách Tĩnh hỏi:

– Dung nhi, nàng nghĩ bên ta có thắng được không?

Hoàng Dung đáp:

– Hiện tại còn chưa rõ.

Kỳ thực Quách Tĩnh làm gì không biết lúc này chưa phân thắng bại, song chàng chỉ mong Hoàng Dung nói “Ngư Ẩn sẽ thắng” để yên tâm mà thôi. Lại đấu mươi chiêu nữa, khí lực của hai người chẳng suy giảm, tinh thần càng hăng thêm. Điểm Thương Ngư Ẩn vừa đấu vừa hò hét trợ uy. Đạt Nhĩ Ba hỏi:

– Ngươi nói gì vậy?

Y hỏi bằng Tạng ngữ; Điểm Thương Ngư Ẩn không hiểu, cũng hỏi:

– Ngươi nói cái gì?

Đôi bên không hiểu nhau nói gì, vừa đấu vừa chửi nhau, chỉ thấy đụng bàn ghế trong sảnh, làm chúng gãy rời văng tung toé; mọi người chỉ lo lỡ một trong hai đấu thủ không để ý, lại giáng binh khí vào cây cột, e rằng sảnh đường sẽ đổ sụp xuống không chừng.

Kim Luân pháp vương và Hoắc Đô cũng đều thầm kinh ngạc, xem ra trận này dẫu có đắc thắng, Đạt Nhĩ Ba cũng sẽ kiệt sức trọng thương, nhưng trận đấu đang hăng, làm sao dừng lại?

Hai người chạy nhảy, hò hét, kim quang hắc khí làm lu mờ cả ánh nến; đột nhiên hai người cùng thét lên rầm trời, cùng nhảy tách ra, cái thiết tương trong tay phải của Điểm Thương Ngư Ẩn chém vào cái kim chử của Đạt Nhĩ Ba, cả hai cùng dùng toàn lực, thiết tương không cứng bằng kim chử, nên bị gãy thành hai mảnh, một mảnh bay tới, choang một cái, rơi ngay xuống trước mặt Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ đang mải mê trò chuyện với Dương Quá, mảnh thiết tương rơi chạm vào ngón chân trái của nàng, nàng kêu “ái” một tiếng, đứng dậy. Dương Quá giật mình, hỏi:

– Cô cô có bị thương không?

Tiểu Long Nữ chỉ ngón chân, vẻ mặt đau đớn.

Dương Quá cả giận, quay lại xem kẻ nào để mảnh thiết tương rơi làm đau cô cô, chỉ thấy Điểm Thương Ngư Ẩn tay cầm cái thiết tương còn lại đang định đấu tiếp với Đạt Nhĩ Ba. Đạt Nhĩ Ba lắc đầu, biết rằng công phu và lực khí của đối phương với mình kẻ tám lạng người nửa cân, có tái đấu cũng khó thắng, giờ y đã chiếm ưu thế về binh khí, phần thắng nắm chắc trong tay trận này.

Hoắc Đô đứng dậy, nói to:

– Tệ phương ba trận đã thắng hai trận rồi, chức vị minh chủ võ lâm tất nhiên thuộc về sư phụ của tiểu vương, các vị…

Lời hắn chưa dứt, nghe Dương Quá hỏi Điểm Thương Ngư Ẩn:

– Thiết tương của lão sao lại để gãy, bay tới làm đau chân cô cô của ta?

Điểm Thương Ngư Ẩn nói:

– Lão phu… lão phu…

Dương Quá nói:

– Có cái thiết tương cũng không đúc cho chắc hơn, hãy mau tạ lỗi.

Điểm Thương Ngư Ẩn thấy chàng còn như một đứa con nít, không thèm lý đến. Dương Quá liền giơ tay đoạt cái thiết tương gãy của Điểm Thương Ngư Ẩn, gằn giọng:

– Hãy mau tạ lỗi với cô cô của ta.

Hoắc Đô bị Dương Quá ngắt lời, thì bực lắm, quát:

– Tên súc sinh kia, cút mau!

Dương Quá hỏi:

– Ai chửi là tên súc sinh đấy?

Hoắc Đô nghe Dương Quá hỏi “Ai chửi là tên súc sinh?” bèn thuận miệng nói luôn:

– Ta chửi đấy.

Hoắc Đô không biết con nít phương nam có kiểu cãi nhau dùng câu hỏi đánh lừa đối phương, nên đã mắc lừa, chỉ nghe Dương Quá cười hô hố, nói:

– Đúng thế, kẻ chửi ta chính là tên súc sinh!

Đại sảnh đang cực kỳ căng thẳng, đột nhiên anh chàng thiếu niên kia đánh lừa để Hoắc Đô tự nhận mình là tên súc sinh, thì cười ầm lên. Hoắc Đô cả giận, cầm cây quạt đánh thẳng xuống đầu Dương Quá.

Quần hùng vừa nãy thấy Hoắc Đô võ công cao cường, đòn này đánh thẳng xuống đầu Dương Quá, không chết cũng trọng thương, vội kêu to:

– Dừng tay!

– Không được ỷ lớn hiếp nhỏ.

Quách Tĩnh phi thân tới, định đoạt chiếc quạt, thì Dương Quá đã cúi đầu luồn qua dưới nách Hoắc Đô, cái thiết tương vòng trở lại, quét ngang dưới chân hắn theo khẩu quyết chữ “Triền” của Đả cẩu bổng pháp. Hoắc Đô đứng không vững, lảo đảo suýt ngã; thực ra là nhờ võ công cao cường, đang ngã đã lật người lại được.

Quách Tĩnh ngạc nhiên, hỏi:

– Quá nhi, có sao không?

Dương Quá cười, đáp:

– Không sao đâu ạ. Kẻ này dám coi thường Đả cẩu bổng pháp của Hồng lão bang chủ. Điệt nhi muốn dùng Đả cẩu bổng pháp cho hắn nếm mùi, tiếc rằng hắn vừa đỡ được.

Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Sao ngươi biết sử dụng?

Dương Quá nói khoác:

– Ban nãy Lỗ bang chủ động thủ với hắn, điệt nhi xem rồi học được vài chiêu.

Quách Tĩnh vốn quá thật thà, nghĩ rằng trên thế gian có rất nhiều người thông minh, nghe Dương Quá nói vậy đã tin tám, chín phần.

Hoắc Đô bị Dương Quá quét ngang chân, ngỡ là mình thiếu cẩn thận, chứ đâu ngờ một gã thiếu niên lại có võ công cao cường, nghĩ thầm hiện thời việc tranh chức minh chủ là đại sự, tranh xong sẽ xử lý tên tiểu tử này cũng không muộn, bèn nói lớn với Quách Tĩnh:

– Quách đại hiệp, cuộc tỷ thí hôm nay tệ phương đã thắng, sư phụ của tiểu vương là Kim Luân pháp vương từ nay làm minh chủ võ lâm thiên hạ. Có vị nào không phục…

Hắn chưa dứt lời, Dương Quá đã lặng lẽ tới sau lưng hắn, sử chiêu thứ tư theo khẩu quyết chữ “Tróc” của Đả cẩu bổng pháp, chọc vào mông hắn. Tu vi võ công của Hoắc Đô dẫu có người bất ngờ ám toán, lẽ nào hắn không biết? Nhưng môn Đả cẩu bổng pháp này thần kỳ huyền diệu, hắn tuy cảm thấy, vội vã né tránh, song vẫn cứ trúng đòn, “bộp” một cái vào mông, may nhờ hắn nội công thâm hậu, mông đít lại là chỗ dày thịt, vậy mà hắn vẫn thấy đau điếng, phải kêu “ối” một tiếng.

Dương Quá nói:

– Có ta không phục đây.

Cả đại sảnh cười ầm lên. Quần hùng đều nghĩ chàng thiếu niên không chỉ ngang ngạnh, mà còn can đảm, gã vương tử Mông Cổ hai lần bị chàng cho nếm đòn.

Đến nước này thì Hoắc Đô không tức sao được? Hắn tát ngược lại một cái cho đỡ tức đã rồi tính sau. Một chưởng này của Hoắc Đô chứa đựng kình lực đủ để làm cho gã thiếu niên kia ngã xuống ngất lịm, chính là cái tinh túy của võ công phái Tây Tạng.

Quách Tĩnh biết nó lợi hại, dùng tay trái chộp lấy chưởng của Hoắc Đô, khuyên:

– Các hạ sao lại đi đánh một hài nhi?

Hoắc Đô bị Quách Tĩnh bóp bàn tay, chỉ cảm thấy nửa thân mình tê dại, vừa kinh hãi vừa tức giận.

Dương Quá thừa thế dùng thiết tương đánh mạnh vào mông đít Hoắc Đô, nói:

– Tên súc sinh không vâng lời, cha mi phải cho mi ăn đòn này!

Quách Tĩnh quát:

– Quá nhi, lui về, đừng làm ồn!

Nhưng quần hùng đã hi hi ha ha cười rộ lên. Đám võ sĩ Mông Cổ kêu nhao nhao:

– Như thế là hai đánh một!

– Không biết ngượng!

– Như thế mà gọi là đấu võ à!

Quách Tĩnh ngẩn người, buông tay Hoắc Đô ra.

Hoàng Dung thấy hai chiêu của Dương Quá vừa dùng chính là chiêu số trong Đả cẩu bổng pháp, thì cả nghi: “Quá nhi học lén ở đâu được lộ bổng pháp này? Không lẽ hơn tháng qua mình dạy cho Lỗ Hữu Cước, nó ngày ngày đến xem trộm hay sao? Nhưng ngày nào mình cũng tra xét bốn phía, nó làm sao giấu được mình?” bèn gọi:

– Tĩnh ca ca, về đây đi.

Quách Tĩnh lui về chỗ thê tử, nhưng vẫn lo cho Dương Quá, mắt cứ nhìn chăm chú ra giữa sảnh.

Chỉ thấy Hoắc Đô vung chưởng tung cước liên tiếp tấn công Dương Quá. Dương Quá thì vừa né, miệng kêu to “Đánh đít mi này! Đánh đít mi này!” vừa dùng thiết tương đánh mạnh vào mông đít Hoắc Đô, nhưng lúc này Hoắc Đô đã triển khai thân pháp, Dương Quá không đánh trúng mông hắn được. Hoắc Đô dùng cây quạt đập vào đầu Dương Quá, Dương Quá thì dùng thiết tương đánh mạnh vào mông đít Hoắc Đô, hai người cứ thế đuổi nhau thành vòng tròn cực nhanh trong đại sảnh, không ai đánh trúng được ai.

Người xem lúc đầu thấy hoạt kê, sau vài vòng thì đều kinh ngạc, Dương Quá tuy nhỏ tuổi, song cước bộ nhanh nhẹn, thân thủ thần tốc chẳng kém gì Hoắc Đô. Hoắc Đô mấy phen dấn lên ra đòn, đều bị Dương Quá khéo léo tránh được.

Điểm Thương Ngư Ẩn và Đạt Nhĩ Ba vẫn cầm binh khí gườm gườm nhìn nhau, một người muốn xông tới tái đấu, người kia toàn thần phòng bị đối phương, thấy Hoắc Đô không làm gì nổi một gã thiếu niên, thì đều rất đỗi kinh ngạc, một người cười hô hô, một người lẩm bẩm niệm chú bằng Tạng ngữ.

Hoắc Đô, Dương Quá trong giây lát đã chạy ba vòng, Hoắc Đô nhận thấy đối phương có khinh công cao siêu, cứ thế này đuổi tiếp, có lẽ hắn sẽ thua, bỗng chuyển thân, giơ tay trái chộp lấy cái thiết tương của Dương Quá, tay phải thì dùng cây quạt điểm huyệt Hoàn Khiêu ở đùi chàng. Đòn này không còn là để phạt đứa con nít hỗn hào, mà là chiêu thức võ công hẳn hoi.

Dương Quá vẫn chưa đối chiến chính diện với Hoắc Đô, nghiêng người tránh cây quạt, quật ngang cái thiết tương, nói:

– Cha mi phải đét mông mi này! Một ngày không đánh đòn quá ba lần, đánh hai lần rồi, còn một lần nữa này!

Chàng dùng thủ đoạn đùa giỡn là để đối phương dù võ công cao cường hơn hẳn mình cũng chưa thể ra đòn nguy hiểm. Chàng đã học không ít môn võ công thượng thừa, nhưng công lực thì còn thua xa Hoắc Đô, cứ thế này lâu sẽ khó tránh tai ương. Nhưng quần hùng rất thích thú, ra sức khích lệ, vỗ tay, giậm chân trợ uy cho chàng. Hoắc Đô nghe vậy thì tâm thần bất định, chỉ sợ trước mắt anh hùng thiên hạ bị gã thiếu niên đét đít lần nữa, song cũng không dám hạ sát một đứa bé, cứ toàn thần chăm chú tránh đòn, nhất thời quên cả phản kích nên Dương Quá vẫn chưa gặp nguy.

Đến lúc này Hoàng Dung đã biết Dương Quá được cao nhân chỉ điểm, võ công rất cao, nhớ trưa nay Dương Quá truyền nội lực cho mình điều tức, thấy tu vi nội công của chàng cũng không phải tầm thường, nghĩ thầm cứ để Dương Quá đùa giỡn một phen, không chừng có thể cứu vãn tình thế thất bại hai trận bèn nói to:

– Quá nhi, hãy đấu thử với hắn một phen, ta nghĩ hắn không phải là đối thủ của ngươi đâu.

Dương Quá thè lưỡi nói với Hoắc Đô:

– Ngươi có dám hay không nào?

Chàng chỉ thẳng vào mặt hắn.

Hoắc Đô tuy tức giận, nhưng nghĩ không nên vì chuyện nhỏ mọn mà làm lỡ mưu lớn, phe hắn đã thắng liền hai trận, chức minh chủ võ lâm đã chiếm được rồi, hà tất lôi thôi với gã thiếu niên, bèn nói:

– Tên súc sinh, tên nhãi ranh hỗn hào như ngươi lẽ ra phải được giáo huấn một phen, song chuyện đó chưa vội. Bây giờ mời vị minh chủ võ lâm thiên hạ Kim Luân pháp vương chỉ giáo cho mọi người, tất cả mọi người hãy nghe hiệu lệnh của lão nhân gia.

Quần hùng phản đối ầm ĩ, náo loạn cả lên. Hoắc Đô quát to:

– Chúng ta đã nói rõ từ đầu, ba trận chỉ cần thắng hai. Các vị gây ồn ào như thế có đáng hay không?

Quần hùng đều là nhân vật hữu danh trên giang hồ, đều biết ý nghĩa câu “một lời đã nói, tứ mã khó đuổi kịp”, điều đã nói không thể nuốt lời; nhưng hai trận thua vừa rồi thực là oan uổng: trận thứ nhất bị địch ám toán, đã thắng hóa thành bại; trận thứ hai chỉ mới gãy binh khí, chưa thể bảo là đã bại. Mọi người căn vặn, Hoắc Đô cứng lưỡi.

Dương Quá nói:

– Cái lão hòa thượng kia vừa cao vừa gầy, cổ quái như thế, làm minh chủ võ lâm sao được? Ta thấy lão không xứng đáng.

Hoắc Đô tức giận, nói:

– Sư phụ của đứa nhỏ này là ai? Mau ra lôi nó về quản giáo. Còn ở đây nói láo, ta sẽ hạ thủ không lưu tình nữa.

Dương Quá nói:

– Sư phụ của ta mới xứng đáng làm minh chủ võ lâm, chứ sư phụ của ngươi có bản lĩnh gì mà đòi?

Hoắc Đô hỏi:

– Sư phụ ngươi là vị nào? Mời vị đó ra đây coi.

Hoắc Đô thấy Dương Quá thân thủ bất phàm, đoán sư phụ của gã thiếu niên ắt là một đại cao thủ, nên phải dùng chữ “mời”. Dương Quá nói:

– Hôm nay tranh chức vị minh chủ võ lâm, đều là đệ tử giao đấu thay sư phụ, phải vậy không?

Hoắc Đô nói:

– Đúng vậy, bọn ta đã thắng hai trong ba trận, do đó sư phụ của ta là minh chủ.

Dương Quá nói:

– Ừ thì vừa rồi coi như các ngươi đã thắng bọn họ đi, nhưng ngươi chưa hề thắng đồ đệ của sư phụ ta kia mà.

Hoắc Đô hỏi:

– Đệ tử của sư phụ ngươi là ai nào?

Dương Quá cười, nói:

– Đồ ngu! Đệ tử của sư phụ ta tất nhiên là ta chứ ai.

Quần hùng nghe chàng nói rất lý thú, đều cười khoái trá. Dương Quá nói tiếp:

– Chúng ta cũng đấu ba trận, các ngươi phải thắng hai trận, thì ta mới chịu nhận lão hòa thượng kia làm minh chủ. Nếu ta thắng hai trận, thì xin lỗi nhé, minh chủ võ lâm phải do sư phụ ta đảm nhiệm.

Quần hùng nghe Dương Quá nói đến đây, đều nghĩ không lẽ sư phụ của chàng quả là nhân vật không vừa, muốn đến tranh chức vị minh chủ võ lâm với Hồng Thất Công và Kim Luân pháp vương; bất kể sư phụ chàng là ai, thì cũng là người Hán, còn hơn để cho cái lão quốc sư Mông Cổ kia đoạt mất địa vị minh chủ; chàng thiếu niên này dĩ nhiên không địch nổi Hoắc Đô, nhưng hiện tại phe mình đã bại trận, phải có chuyện gì đó mới mong xoay chuyển tình hình, thế là ai nấy phụ họa:

– Đúng, đúng, trừ phi người Mông Cổ thắng hai trận nữa.

– Vị tiểu ca này nói chí phải.

– Trung Nguyên thiếu gì cao thủ, các ngươi may mắn chiếm được tiện nghi hai trận, chưa là gì cả.

Hoắc Đô nghĩ thầm: “Hai cao thủ mạnh nhất của đối phương đã bị đánh bại, thêm hai tên nữa thì có gì ngại? Chỉ sợ bọn chúng cứ dùng kiểu xa luân chiến, hết hai tên này lại hai tên khác”, bèn nói với Dương Quá:

– Tôn sư muốn tranh chức minh chủ võ lâm, kể cũng có lý; nhưng anh hùng thiên hạ đâu ít, cứ đấu hết trận này lại đấu trận khác, thì biết bao giờ mới xong?

Dương Quá ngẩng cao đầu, nói:

– Người bên ngoài đến đây đòi làm minh chủ võ lâm, sư phụ ta cũng chẳng muốn dính, nhưng nhìn thấy sư phụ của người, thì sư phụ của ta không thể ưa nổi.

Hoắc Đô hỏi:

– Tôn sư là ai? Lão nhân gia người ngồi đâu?

Dương Quá cười, nói:

– Lão nhân gia người ngồi ngay trước mặt ngươi đó. Cô cô, hắn vấn an lão nhân gia đấy.

Tiểu Long Nữ “ừm” một tiếng, nhìn Hoắc Đô gật gật đầu. Quần hùng thoạt tiên cùng sửng sốt, rồi cười ha hả. Họ thấy Tiểu Long Nữ dung mạo tú lệ, tuổi còn nhỏ hơn Dương Quá, làm sao lại có thể là sư phụ của chàng kia chứ? Hiển nhiên chàng thiếu niên này có ý đùa giỡn với Hoắc Đô. Chỉ có Hách Đại Thông, Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình mấy người là biết chàng nói thật. Hoàng Dung tuy trí tuệ hơn người cũng không thể nghĩ một thiếu nữ kiều nhược bé bỏng như thế kia lại là sư phụ của Dương Quá. Hoắc Đô cả giận, quát:

– Tên nhãi ranh hỗn hào nói nhăng nói cuội? Hôm nay quần hùng tụ hội, có bao nhiêu việc hệ trọng cần làm, đâu phải chỗ cho ngươi gây náo loạn? Mau xéo đi cho ta!

Dương Quá nói:

– Sư phụ của ngươi vừa đen vừa xấu, nói xì xà xì xồ chướng tai lắm. Ngươi thử nhìn xem, sư phụ của ta thanh nhã tú lệ, trắng trẻo biết chừng nào, nàng mà làm minh chủ võ lâm, chẳng hơn hẳn lão hòa thượng xấu xí, sư phụ của ngươi hay sao?

Tiểu Long Nữ nghe Dương Quá tán tụng mình xinh đẹp, thì trong lòng vui sướng, mỉm cười, thật y như đóa hoa lạ chớm nở, xinh tươi, diễm lệ tuyệt trần.

Quần hùng thấy Dương Quá chọc ghẹo, giễu cợt kẻ địch càng lúc càng táo bạo, thì hết sức khoái trá; một số bậc lão thành hơi lo lắng cho chàng, sợ Hoắc Đô hạ sát thủ, thì chàng ắt bỏ mạng. Quả nhiên đến lúc này Hoắc Đô không thể nhịn thêm, liền nói to:

– Xin anh hùng thiên hạ làm chứng cho, tiểu vương sẽ giết tên nhãi ranh hỗn hào này, cũng là do hắn tự chuốc lấy họa, đừng trách tiểu vương.

Nói đoạn vung cây quạt đánh xuống đầu Dương Quá. Dương Quá nhại kiểu nói của Hoắc Đô, ưỡn ngực, gọi:

– Xin anh hùng thiên hạ làm chứng cho, tên nhãi ranh hỗn hào sẽ giết gã vương tử này, cũng là do hắn tự chuốc lấy họa, đừng trách tên nhãi ranh.

Quần hùng cười rộ lên, Dương Quá đột nhiên cầm cái thiết tương quất vào mông đít Hoắc Đô. Hoắc Đô nghiêng người tránh, cây quạt đâm chếch, tả chưởng như gió, đánh thẳng vào đầu đối phương. Quạt đâm là hư, chưởng đánh là thực, Hoắc Đô dồn vào chưởng này mười thành kình lực, muốn làm vỡ đầu nát óc đối phương. Dương Quá nhảy chếch sang một bên, thuận tay hất một cái bàn vuông, “bốp” một tiếng, chưởng của Hoắc Đô đánh vào cái bàn, ván gỗ bay tung, cái bàn chỉ còn một nửa. Quần hùng thấy Hoắc Đô chưởng lực kinh người, bất giác lè lưỡi. Hoắc Đô lập tức đá tung chiếc bàn, sấn tới công kích. Dương Quá thấy hắn xuất chưởng hiểm ác thì không dám coi thường, múa thiết tương theo Đả cẩu bổng pháp mà đấu với hắn. Chiêu số Đả cẩu bổng pháp, Hồng Thất Công đã truyền thụ hết cho chàng, lần ấy trên đỉnh Hoa Sơn, Dương Quá từng biểu diễn cho Âu Dương Phong thấy mấy ngày liền, những chỗ huyền diệu khúc chiết nhất của chiêu số, chàng từng diễn qua, khẩu quyết và cách biến hóa thì chàng nghe Hoàng Dung truyền thụ cho Lỗ Hữu Cước, lúc này chàng đem hai thứ phối hợp với nhau, dĩ nhiên xuất chiêu cũng đâu ra đấy. Nhưng vì cái thiết tương quá nặng, lại gãy một nửa, sử dụng rất bất tiện, nên chỉ sau mươi chiêu đã bị cây quạt của Hoắc Đô khống chế, khó bề thi triển.

Hoàng Dung thấy Dương Quá sử dụng đúng là Đả cẩu bổng pháp, nhưng chiêu số chưa nhuần nhuyễn, tư thế xuất chiêu cũng không chuẩn xác, biết là binh khí trong tay chàng không phù hợp, bèn tới gần một chút, giơ cây gậy trúc vào khoảng giữa hai người, nói:

– Quá nhi, đánh chó thì phải dùng cẩu bổng. Ta cho ngươi mượn cây cẩu bổng này của Lỗ bang chủ, đánh xong ác cẩu, phải trả lại liền.

Đả cẩu bổng là tín vật của bang chủ Cái Bang, nên cần nói rõ rằng đây chỉ là cho mượn.

Dương Quá cả mừng, nhận lấy cây gậy trúc. Hoàng Dung nói nhỏ bên tai chàng:

– Hãy buộc hắn phải trao thuốc giải.

Nói xong nàng nhảy về chỗ ngồi. Dương Quá ban nãy không để ý đến chuyện Chu Tử Liễu bị trúng ám khí, không hiểu thuốc giải cái gì, hơi ngẩn người, thì chưởng của Hoắc Đô đã đánh tới. Dương Quá giơ Đả cẩu bổng chọc tới bụng dưới của Hoắc Đô. Cây gậy trúc này có độ dài ngắn nặng nhẹ thật vừa tay, lại vừa chắc vừa dẻo, dùng để thi triển Đả cẩu bổng pháp, tất nhiên uy lực gia tăng hẳn lên. Hoắc Đô đang đánh một chưởng tới cổ Dương Quá, thấy cây gậy trúc chọc tới huyệt Quan Nguyên ở dưới rốn ba tấc, là yếu huyệt của mạch Nhâm. “Tên tiểu tử kia nhận huyệt quả là chuẩn xác”, hắn nghĩ và giật mình. Ban nãy hắn cứ tưởng Dương Quá chẳng qua là một gã thiếu niên có thân thủ nhanh nhẹn, được cao nhân chỉ điểm; bây giờ nhìn một chiêu điểm huyệt của chàng, mới thấy chàng quả là một đối thủ đáng gờm, không thể coi thường, vội thu chưởng về, lấy cây quạt che ngực. Người xem thấy hắn lui về thế thủ, chứng tỏ ngán ngại Dương Quá, thì họ càng kinh ngạc.

Dương Quá nói:

– Hãy khoan, tên nhãi ranh quyết không đấu không với người, đã đấu thì phải đánh cuộc.

Hoắc Đô nói:

– Được, ngươi thua sẽ phải rập đầu ba cái, gọi ta là gia gia.

Dương Quá lại giở trò chơi đánh lừa của trẻ con Giang Nam, giả vờ nghe chưa rõ, hỏi:

– Gọi thế nào?

Trò chơi này bất ngờ, đối phương rất dễ bị lừa. Hoắc Đô sống ở Mông Cổ, thường ngày giao tiếp toàn với những người chất phác thực thà, làm sao hiểu nổi trò ma mãnh của trẻ con Giang Nam, liền trả lời luôn:

– Gia gia! (Cha)

Dương Quá đáp:

– Cha nghe thấy rồi, con ngoan, gọi lần nữa đi!

Mọi người cười phá lên, Hoắc Đô biết mình mắc lừa, nghiến răng, cây quạt tay phải, tay trái tung chưởng, tấn công tới tấp như cuồng phong bạo vũ.

Dương Quá vừa chống đỡ, vừa nói:

– Nếu ngươi thua, thì phải đưa thuốc giải cho ta.

Hoắc Đô giận, nói:

– Ta mà thua ngươi ư? Đừng có nằm mơ, tên súc sinh!

Dương Quá giơ cây bổng, quát:

– Ai chửi là tên súc sinh?

Hoắc Đô suýt nữa thì lại mắc lừa, may mà sực nhớ, nuốt luôn chữ “Ta chửi…” vào bụng. Dương Quá cười, nói:

– Tiểu phiên vương kia, từ rày thì nhớ nhá!

Chàng nói nghe ngon lành, nhưng tay chân xem chừng mỗi lúc một lúng túng hơn.

Hoắc Đô là đệ tử đắc ý của Kim Luân pháp vương, đã nắm vững tinh yếu của võ công Tây Tạng, đã đấu ngót ngàn chiêu với đệ tử giỏi nhất của Nhất Đăng đại sư là Chu Tử Liễu, nội công thâm hậu, Dương Quá không thể sánh nổi. Dương Quá thoạt đầu khích cho hắn tức giận, thừa cơ chiếm tiện nghi; hắn cũng chưa dốc toàn lực, bây giờ hắn mới đấu thật sự, sau hơn hai mươi chiêu, Dương Quá đã lộ rõ chỗ non kém. Quần hùng thấy chàng nhỏ tuổi, cầm cự lâu được như thế, đã là đáng khen, đều nói:

– Hài tử này giỏi thật!

Họ bàn tán, không biết chàng là môn hạ của ai.

Hoắc Đô thấy đối phương núng thế, càng gia tăng chưởng lực. Môn Đả cẩu bổng pháp mà Dương Quá sử dụng thần diệu khôn lường, vốn lợi hại hơn phiến pháp (cách dùng quạt) và chưởng pháp của Hoắc Đô, nhưng Hồng Thất Công chỉ truyền thụ cho chàng chiêu số, còn bí ẩn khẩu quyết thì chàng nghe lỏm được từ miệng Hoàng Dung, chỉ nhờ trí thông minh mới đem phối hợp hai thứ với nhau, ngay lập tức chưa thể phát huy uy lực; đấu thêm một lát nữa, Dương Quá toàn phải tránh né, đã khó chống trả.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ từ khi bắt đầu có các cuộc tỷ thí trong đại sảnh, đã toàn thần xem đấu, to nhỏ bàn luận với nhau; đến lúc Dương Quá tiến ra động thủ, cả ba quả thật bị bất ngờ. Huynh đệ họ Võ bảo Dương Quá ngu xuẩn cuồng vọng, tự chuốc lấy tai họa. Quách Phù cãi lại, khen Dương Quá dũng cảm cơ mẫn. Huynh đệ họ Võ nghe nàng nói thế thì trong lòng chua xót. Lúc họ mới thấy Tiểu Long Nữ đến, thần thái thân mật với Dương Quá, thì cả hai cảm thấy nhẹ cả người, đến khi nghe Dương Quá bảo Tiểu Long Nữ là sư phụ, chưa biết thật hay giả, thì cả hai lại thấy lòng nặng trĩu. Giờ đây thấy Dương Quá bị Hoắc Đô dồn vào thế chân tay luống cuống, huynh đệ họ Võ tự biết không nên mong cho kẻ địch chiến thắng, người đằng mình đại bại; nhưng trong thâm tâm vẫn cứ mong Dương Quá thảm bại thì hơn. Với tâm trạng ấy, huynh đệ họ Võ cứ lúc thì mừng, lúc thì lo, thay đổi xoành xoạch. Quách Phù đối với Dương Quá tuy không có hảo cảm, song cũng không ghét bỏ; vốn coi chàng là kẻ bất tài vô dụng, chẳng đáng lưu tâm; nghe phụ thân muốn gả nàng cho Dương Quá, tuy bực tức, nhưng tin rằng việc ấy quyết không thành sự thực, nên cũng không lo lắm. Bây giờ thấy chàng võ công cao cường, nàng cũng chỉ kinh ngạc mà thôi; nhìn chàng lâm vào tình thế nguy hiểm, không khỏi lo lắng cho chàng.

Dương Quá biết cứ đấu kiểu này, nội trong mươi chiêu nữa sẽ bị đối phương đánh gục. Nhác thấy Tiểu Long Nữ tuy vẫn ngồi ở chân cột, nhưng đã không tựa lưng vào cột nữa, vẻ mặt chăm chú, sẵn sàng bật dậy tiếp cứu, chàng chợt nảy ra một kế, đột nhiên quật ngang cây bổng, phi thân chếch qua bên chân Tiểu Long Nữ.

Hoắc Đô quát:

– Chạy đằng trời!

Hắn lập tức đuổi theo.

Tiểu Long Nữ hơi nâng hai chân lên, mũi chân trái chọc vào huyệt Côn Luân ở bên trên mắt cá chân phải của Hoắc Đô; mũi chân phải thì chọc vào huyệt Dũng Tuyền ở lòng bàn chân trái. Phải nói là Hoắc Đô võ công rất tinh cường, thoáng nhìn đã biết, biến hóa mau lẹ, Tiểu Long Nữ vừa nhấc hai chân lên, nhiều người không để ý, song Hoắc Đô đã biết là thiếu nữ này dùng chiêu số lợi hại trợ giúp cho Dương Quá, hấn vội sử chiêu “Uyên ương liên hoàn thoái”, hai chân liên tiếp đạp nhứ trong không trung, mới tránh được đòn điểm huyệt lai vô ảnh khứ vô tung của nàng.

Dương Quá vọt qua bên chân Tiểu Long Nữ rồi, đoán sự việc tiếp theo sẽ như thế, không đợi Hoắc Đô đặt chân xuống đất, đã quất cây bổng lại phía sau lưng mình. Hoắc Đô dùng cây quạt đè gạt cây bổng, mượn sức bay người chếch ra ngoài, xa hẳn chỗ Tiểu Long Nữ, bất giác nhìn nàng, nghĩ thầm: “Trung Nguyên quả nhiên lắm nhân tài, đôi thiếu niên nam nữ này mới mười mấy tuổi, mà đã tài ba như thế!”

Dương Quá được lợi một chiêu, thừa thế dùng bổng pháp tấn công mạnh. Hoắc Đô phải dốc toàn lực chống đỡ. Nhưng chỉ vài chiêu sau thì Dương Quá không thể công kích được nữa, bị Hoắc Đô phản kích, lại lâm vào thế bí.

Người xem không hiểu bổng pháp thì thôi, chứ Hoàng Dung thì luôn miệng thốt lên tiếc rẻ. Cuối cùng nàng không nhịn được, liền nhắc:

– Bổng hồi lược địa thi diệu thủ,

Hoành đả song ngao mạc hồi đầu.

(Khéo léo quét ngang cây gậy sát đất, đánh hai con chó, không thu về).

Đó chính là quyết khiếu Đả cẩu bổng pháp, Dương Quá tuy biết chiêu số ca quyết, song chưa biết chiêu này sử dụng lúc nào; nghe Hoàng Dung nhắc, liền giơ cây bổng đâm thẳng, không thu về.

Đòn bổng pháp này thế rất cổ quái, Dương Quá tuy sử dụng, song chưa biết công hiệu của nó ra sao, ai dè cây bổng đánh ra đúng lúc cây quạt của đối phương đâm chếch tới. Hoắc Đô chưa sử xong chiêu đó, đã biết nguy rồi, vội nhảy lên cao né tránh.

Hoàng Dung lại nói:

– Cẩu cấp khiêu tường như hà đả,

Khoái kích cẩu đôn phách cẩu vi.

(Chó nhảy vội lên cao, phải đánh sao? Mau mau quất mạnh mông, đuôi chó).

Lộ bổng pháp này truyền đời trong Cái Bang, người ngoài nghe cứ tường Hoàng Dung xuất ngôn chế giễu kẻ địch là chó, không biết rằng nàng đang mách nước cho Dương Quá. Đả cẩu bổng pháp vốn chỉ bang chủ Cái Bang mới được truyền thụ, người khác nhất quyết không được biết, nhưng một là Dương Quá đã tự học được, hai là cuộc tỷ võ này có quan hệ trọng đại bên mình phải thắng, thế nên Hoàng Dung bất chấp sự hạn chế của bang qui, căn cứ tình hình công thủ tiến thoái của hai người, mà lên tiếng mách nước cho Dương Quá.

Mỗi câu nhắc của Hoàng Dung đều là quyết yếu, Dương Quá lại hết sức thông minh, sau vài lần đắc thủ, không đợi Hoàng Dung đọc hết câu ca quyết, chỉ nghe vài chữ đầu, chàng đã có thể thi triển, Đả cẩu bổng pháp quả nhiên uy lực mạnh mẽ lạ thường, Hoắc Đô võ công đầy mình mà vẫn cứ bị cây gậy trúc buộc phải di chuyển loạn cả lên, không còn dịp đánh trả.

Thấy chỉ vài chiêu nữa, gã vương tử Mông Cổ võ công cao cường sẽ bị lạc bại, quần hùng vui mừng hẳn lên trong đại sảnh.

Hoắc Đô vung cây quạt đánh rát hai chiêu, buộc Dương Quá lùi vài bước, nói:

– Hãy khoan!

Dương Quá cười hỏi:

– Cái gì? Ngươi nhận thua gia gia rồi phải không?

Hoắc Đô sầm mặt, nói:

– Ngươi bảo ngươi đấu thay sư phụ ngươi tranh chức vị minh chủ, sao ngươi lại sử dụng võ công của Hồng Thất Công? Nói về việc Hồng Thất Công tranh chức vị minh chủ, thì hai trận đấu ban nãy đã xong rồi. Rốt cuộc các người định thế nào đây?

Hoàng Dung nghĩ thầm hắn nói đúng, định cưỡng từ đoạt lý với hắn một phen, thì Dương Quá đã trả lời:

– Lần này ngươi nói đúng, món bổng pháp này quả nhiên không phải do sư phụ ta truyền thụ, dẫu có đánh thắng ngươi, ngươi cũng không phục. Ngươi muốn lĩnh giáo võ công của sư phụ ta, chuyện đó cũng chả khó. Vừa rồi ta mượn võ công của môn phái khác, nếu dùng công phu bản môn chỉ e ngươi sẽ thảm bại quá sớm mà thôi.

Nguyên Dương Quá nghe Hoắc Đô nói thế, mới ngoảnh nhìn Tiểu Long Nữ, sực nhớ: “May mà tên phiên vương nhắc ta. Nếu ta dùng Đả cẩu bổng pháp thắng hắn, thì đâu có hiển lộ bản sự của cô cô ta? Cô cô sẽ trách ta quên ân đức cô cô đã truyền thụ võ công.” Kỳ thực Tiểu Long Nữ hết sức hồn nhiên, lòng đang tràn ngập nhu tình mật ý đối với Dương Quá; nàng chỉ cần trông thấy chàng, thì trong lòng đã thỏa mãn rồi, muôn sự khác đều không cần, chàng thắng cũng tốt, mà bại cũng chẳng sao; còn chuyện chàng có sử dụng công phu bản môn, có nghe lời mách nước của Hoàng Dung hay không, nàng nửa điểm cũng chẳng để tâm.

Hoắc Đô nghĩ thầm: “Nếu ngươi không sử dụng Đả cẩu bổng pháp, ta lấy mạng ngươi đâu có khó gì”, bèn cười khẩy, nói:

– Cứ vậy đi, ta sẽ lĩnh giáo cao chiêu do tôn sư truyền thụ.

Môn võ công mà Dương Quá cùng luyện với Tiểu Long Nữ nhuần nhuyễn nhất là kiếm pháp. Thế là chàng hướng về phía quần hùng, nói:

– Xin vị tôn trường nào đó cho mượn một thanh kiếm.

Hai ngàn người trong sảnh, có tới ba trăm người có bội kiếm. Nghe Dương Quá nói vậy, nhiều người đồng thanh đáp ứng, soàn soạt rút kiếm ra.

Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị hồi xưa bái Vương Trùng Dương làm sư phụ, đều đã có lòng trung nghĩa, sau được Vương Trùng Dương trui rèn, cái chí chống Mông Cổ xâm lấn càng sôi sục. Việc Dương Quá từ bỏ phái Toàn Chân, hai người rất phẫn nộ, nhưng hôm nay thấy chàng dốc sức chống địch, giữ thể diện cho Trung Hoa, họ liền gác bỏ thành kiến riêng sang một bên. Tôn Bất Nhị là người thấp nhất về võ công trong “Toàn Chân thất tử”, lúc lâm chung Vương Trùng Dương đem thanh bảo kiếm sắc bén nhất tặng lại, ngụ ý lấy binh khí lợi hại bù cho phần khiếm khuyết của võ công. Thấy Dương Quá mượn kiếm đánh địch, Tôn Bất Nhị là người đầu tiên chạy ra, hai tay giơ ngang một thanh bảo kiếm lấp lánh ánh biếc, đưa cho Dương Quá, nói:

– Hãy dùng thanh kiếm này!

Dương Quá nhìn thanh kiếm như một vệt thu thủy, biết là nó lợi hại vô cùng, dùng để đấu với Hoắc Đô, nhất định chàng sẽ chiếm không ít lợi thế, nhưng nhìn bộ đạo bào trên người Tôn Bất Nhị, liền nhớ ngay cảnh chàng bị vũ nhục hồi ở cung Trùng Dương. Lại nhớ lúc Tôn bà bà phải chết dưới chưởng của Hách Đại Thông, thì chàng bèn ngoảnh mặt đi, nhận một thanh kiếm sắt nặng nề màu đen, hơi hoen gỉ, của một đệ tử Cái Bang, nói:

– Xin mượn đại ca thanh kiếm này.

Để Tôn Bất Nhị đứng ngẩn tại chỗ, tiến thoái lưỡng nan. Lão đạo cô tuy xuất gia tu luyện, rốt cuộc tính nóng vẫn còn, mình có thiện chí cho mượn thanh bảo kiếm, gã thiếu niên này lại dám vô lễ như thế, thì không khỏi cả giận, đã định mở miệng mắng nhiếc, song nghĩ đại địch ở trước mặt, chẳng nên hơn thua chuyện khác, bèn cố nén giận trở về chỗ ngồi. Cũng tại Dương Quá tính nết quá cương ngạnh, yêu ghét quá rõ ràng, lẽ ra có thể nhân cơ hội này làm lành với phái Toàn Chân, đàng này chàng làm như thế, chỉ khiến cho hiềm khích giữa đôi bên càng sâu thêm.

Hoắc Đô thấy Dương Quá không nhận bảo kiếm, lại mượn thanh kiếm sắt xấu xí, chớm gỉ, thì hắn lại đâm ra lo sợ. Người luyện võ đến cảnh giới cực cao, thì hoa bay lá rụng cũng có thể đả thương đối thủ, chẳng cần binh khí sắc bén hay không, nghĩ bụng đối phương chọn thanh kiếm thô thế này, chẳng lẽ hắn không sợ gì hay sao? Bèn xòe quạt, định mở miệng khai chiến. Dương Quá dùng kiếm chỉ bốn chữ Chu Tử Liễu viết trên cây quạt, cười, nói:

– Mi là mọi rợ, tuy ai cũng biết, nhưng đừng xòe quạt thì hơn.

Hoắc Đô đỏ mặt, gấp cây quạt lại, thành một cây gậy ngắn, điểm nhẹ tới huyệt Kiên Tỉnh của Dương Quá, tả chưởng đẩy ra, một luồng kình phong ép tới rất hiểm ác. Dương Quá vung kiếm, dùng “Ngọc nữ kiếm pháp” đánh trả.

Hồi Lâm Triêu Anh khổ luyện trong tòa cổ mộ, đã sáng tạo môn võ công “Ngọc nữ tâm kinh”, sau đó không hề ra khỏi nhà mồ, chỉ truyền thụ cho a hoàn hầu cận, a hoàn truyền thụ cho Tiểu Long Nữ, rồi Tiểu Long Nữ truyền thụ cho Dương Quá. A hoàn kia không giao thiệp với võ lâm, thậm chí không rời khỏi núi Chung Nam một bước. Lý Mạc Sầu tuy là sư tỷ của Tiểu Long Nữ, song chưa được sư phụ truyền thụ kiếm pháp cao siêu, chỉ dùng cây phất trần, chưởng pháp và ám khí lập uy chốn giang hồ. Lúc này Dương Quá sử dụng kiếm pháp phái Cổ Mộ, cao thủ các môn phái tề tựu trong đại sảnh, trừ Tiểu Long Nữ ra, chẳng một ai nhận biết.

Người sáng tạo phái võ công này cố nhiên là nữ, đệ tử hai đời tiếp theo cũng đều là nữ, không tránh khỏi thừa khinh nhu mà thiếu uy mãnh. Chiêu thức mà Tiểu Long Nữ truyền thụ cho Dương Quá đều mang vài phần phong thái ẻo lả. Dương Quá sau khi luyện nhuần nhuyễn, tự nhiên loại trừ thần thái nữ nhân, biến nó thành linh động uyển chuyển. Khinh công phái Cổ Mộ là vô địch thời nay, lúc này chỉ thấy Dương Quá lướt đi trong sảnh, chiêu này chưa dứt, chiêu sau đã tới. Thoạt xuất kiếm chiêu thì thân mình còn ở bên trái, cuối chiêu thân mình đã lách sang bên phải, kiếm với người tưởng một mà hai, ngỡ hai mà một, chàng mới sử mươi chiêu pho kiếm pháp này, quần hùng ai nấy đã cùng thán phục.

Công phu sử dụng cây quạt của Hoắc Đô vốn cũng là một tuyệt kỹ võ lâm, ra đòn điểm huyệt, đâm, quét, chém, chặt, cũng là lấy sự khinh nhu thủ thắng; nhưng bây giờ gặp phải khinh công tuyệt đỉnh vô song của phái Cổ Mộ, thì không thi triển được, hơn nữa, cây quạt đã bị Chu Tử Liễu đề bốn chữ, Dương Quá nhè vào đó chế giễu, Hoắc Đô không muốn xòe quạt ra nữa, thành thử công phu chữ “phẩy” của cây quạt đã mất tác dụng.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ thấy kiếm pháp của Dương Quá tài tình như thế, cứ trố mắt mà ngắm, không thể nói gì hơn. Trong số quần hào bàng quan, người mừng nhất là Quách Tĩnh, thấy con trai của cố nhân không ngờ đã luyện thành môn võ công siêu việt mà chính chàng cũng chưa nhận biết gia số, nghĩ đến giao tình nhiều đời giữa hai họ Dương – Quách, bất giác vừa bi vừa hỉ. Hoàng Dung liếc phu quân một cái, thấy mắt chàng rưng rưng, khóe miệng mỉm cười, biết tâm ý của chàng, đưa tay nắm bàn tay chàng.

Hoắc Đô thấy không địch nổi, lo lắng nghĩ thầm, nếu hôm nay bị bại bởi tay tên tiểu tử này, thì từ đây mất hết thể diện, còn nói gì tới việc lập uy ở Trung Nguyên? Thấy trường kiếm của Dương Quá chĩa xéo, mũi kiếm rắc hoa, đâm liền ba chỗ, nếu nhảy tránh, Hoắc Đô sẽ lập tức rơi vào thế hạ phong, bèn xòe cây quạt quét liền ba chiêu; quát một tiếng, lại sử “Cuồng phong tấn lôi công” để phản kích. Với thân phận cao thủ võ lâm như hắn, giao đấu với một gã thiếu niên, phải vừa đấu vừa quát tháo, dẫu có đắc thắng, cũng chả vẻ vang gì; huống hồ bây giờ hắn chỉ cầu không thua, chẳng dám mong gì hơn.

Dương Quá kiếm đi khinh linh, chiêu dứt ý liền, liên miên bất tuyệt, quả thực nhàn nhã thảnh thơi. Pho mỹ nữ kiếm pháp này vốn lấy sự khéo léo dịu dàng để thủ thắng, bên cạnh sự hò hét cuồng tẩu của đối phương, càng lộ rõ vẻ ung dung, yên vị đàng hoàng của chàng. Dương Quá quần áo tuy rách rưới, nhưng lộ kiếm pháp này của chàng quả thật tinh diệu, ai nấy chỉ thấy kiếm quang loang loáng, chàng cứ thanh thoát tuyệt tục như một công tử phong lưu.

Nhưng Dương Quá vừa chọn tư thế, phong thái tuấn nhã, thì đường kiếm khó bề phát huy uy lực. Hoắc Đô thì liều mạng, càng đấu càng hung, Dương Quá dần dần cảm thấy đuối sức. Quách Tĩnh, Hoàng Dung lại thấy chàng sắp lạc bại, đều lắc đầu, cau mày, bất giác thầm kêu lên “Nguy mất!”

Bỗng Dương Quá chĩa kiếm, quát:

– Cẩn thận! Ta sắp phóng ám khí đó!

Hoắc Đô từng dùng đinh có độc giấu trong cây quạt đả thương Chu Tử Liễu; nghe Dương Quá kêu thế, tưởng thanh kiếm thô của chàng cũng giấu ám khí như cây quạt của hắn, hèn chi Dương Quá không dùng bảo kiếm, mà chọn thanh kiếm gỉ này, tự hắn đã dùng thủ đoạn này để vượt hiểm thủ thắng, chắc đối phương cũng bắt chước làm theo; thấy Dương Quá chĩa mũi kiếm vào mặt mình, hắn vội nhảy sang bên trái. Tay trái của Dương Quá dẫn kiếm quyết, kiếm đâm tới, chứ đâu có ám khí gì?

Hoắc Đô biết mình bị lừa, chửi:

– Tên súc sinh!

Dương Quá hỏi:

– Ai chửi là tên súc sinh?

Hoắc Đô không trả lời, sợ lại bị lừa, đánh ra một chưởng. Dương Quá vung tay trái, quát:

– Phóng ám khí đó!

Hoắc Đô vội tránh sang bên phải, thì thanh kiếm của đối phương vừa vặn từ bên phải đâm tới, hắn vội thu mình rụt người lại, mũi kiếm sượt qua bên sườn, chỉ cách không đầy một tấc, hú vía! Quần hùng suýt soa tiếc rẻ, đám võ sĩ Mông Cổ thì kêu “Hú vía!”

Hoắc Đô tuy thoát nạn, nhưng cũng sợ vã mồ hôi lạnh, thấy Dương Quá lại vung tay trái, quát:

– Ám khí này!

Hoắc Đô không thèm lý đến nữa, vung chưởng tiếp đòn, quả nhiên đối phương lại bịa. Dương Quá sấn tới, đâm một kiếm, lại vung tay trái, quát:

– Ám khí thực đó!

Hoắc Đô chửi:

– Tên súc…

Chữ “sinh” chưa ra đến đầu lưỡi, chợt thấy trước mắt loang loáng bay tới mấy thứ ám khí rất nhỏ, từ cự li cực gần, vội nhảy tránh, nhưng đã cảm thấy bắp đùi đau nhói mấy chỗ. Hoắc Đô cho rằng ám khí quá nhỏ, có trúng cũng không đáng ngại, trong cơn thịnh nộ quạt chém, chưởng vỗ, định đánh chết tươi tên nhãi ranh giảo hoạt.

Dương Quá biết đã đắc thủ, đâu còn cần liều mạng làm gì với hắn, bèn múa kiếm nghiêm thủ môn hộ, cười hì hì, nói:

– Ta đã tam phen tứ phen nhắc ngươi phải đề phòng ám khí, vậy mà ngươi cấm chịu tin. Ta đâu có đánh lừa ngươi, đúng không nào?

Hoắc Đô định ra đòn, bỗng đùi ngứa ngáy quá chừng, như thể bị một con muỗi lớn đốt, hắn cố nhịn ngứa để xuất chiêu, nhưng cơn ngứa càng dữ dội, chợt giật mình: “Thôi chết, ám khí của tên súc sinh có độc”. Vừa nghĩ thế, thì cái sự ngứa ngáy không thể chịu đựng thêm được nữa, cũng bất chấp đại địch trước mặt, hắn quẳng cây quạt để lấy tay gãi ngứa; song bây giờ thì dường như cả quả tim cũng đang ngứa ngáy, hắn bất giác kêu lên và ngã gục xuống. Nên biết, chất độc bôi vào ám khí Ngọc phong châm của phái Cổ Mộ là thứ hiếm gặp trong thiên hạ, trúng một cái châm đã khó chịu, huống hồ đang ác đấu, huyết lưu thông nhanh, lại bị trúng những mấy cái châm liền.

Lão tăng Đạt Nhĩ Ba bước ra, ôm Hoắc Đô mang vào trao cho sư phụ, rồi quay ra, nói với Dương Quá:

– Tiểu hài tử, ta tỷ võ với ngươi!

Cây kim cương chử phạt ngang lưng Dương Quá.

Cây kim cương chử nặng như thế phạt qua, mang theo một đạo kim quang, chứng tỏ cánh tay của Đạt Nhĩ Ba cực khỏe, thủ pháp cực nhanh. Dương Quá hai chân giữ nguyên vị trí, cong người ra phía sau gần một thước, cây kim cương chử đánh qua ngay trước ngực. Nào ngờ Đạt Nhĩ Ba không chờ cây kim cương chử đi hết đà, cổ tay vận kình, cây kim cương chử đang phạt ngang liền chuyển sang đâm thẳng vào bụng Dương Quá. Cây kim cương chử nặng thế, giữa chừng đột ngột chuyển hướng, khiến ai nấy cùng bất ngờ; Dương Quá cũng cả kinh, vội dùng kiếm ghìm đầu cây kim cương chử xuống, mượn sức vọt lên không trung.

Đạt Nhĩ Ba không đợi chàng đáp xuống đất, vung cây chử truy kích, Dương Quá lại ghìm đầu cây chử xuống mà nhảy vọt lên. Đạt Nhĩ Ba quát to:

– Chạy đi đâu?

Cây kim cương chử đánh tới. Dương Quá thân lơ lửng trên không, khó bề xoay trở, thấy tình thế quá nguy hiểm, bèn liều lĩnh giơ tay chộp đầu cây kim cương chử, đồng thời tay kia chém kiếm thẳng xuống. Giá như chàng có sức lực như Điểm Thương Ngư Ẩn, thì đối phương đã phải buông tay khỏi cây chử. Đằng này Đạt Nhĩ Ba lực mạnh gấp mấy lần chàng, đã giằng lại cây chứ mà nhảy về phía sau. Dương Quá thừa thế buông cây chử ra, nhẹ nhàng đáp xuống đất. Chàng bị dồn ép liền ba chiêu ở trên không, tính mệnh ngàn cân treo sợi tóc, vừa rồi tuy không đoạt được binh khí của đối phương, nhưng đã giải nguy, người xem xung quanh đều thở phào nhẹ nhõm.

Đạt Nhĩ Ba thấy Dương Quá khinh công cao cường, biến chiêu linh hoạt, bèn hỏi:

– Tiểu hài tử công phu rất khá, là ai dạy ngươi vậy?

Đạt Nhĩ Ba nói tiếng Tạng, Dương Quá dĩ nhiên chẳng hiểu lấy một chữ. Chàng đoán lão hòa thượng này chửi mắng chàng, thế là bèn bắt chước giọng nói, cũng xì xà xì xồ vài câu. Mấy câu của chàng phát âm rất chuẩn, lại đúng trật tự từ ngữ, Đạt Nhĩ Ba chỉ nghe là:

– Tiểu hài tử công phu rất khá, là ai dạy ngươi vậy?

Tưởng Dương Quá hỏi y, Đạt Nhi Ba đáp:

– Sư phụ ta là Kim Luân pháp vương, ta lại không phải là tiểu hài tử, ngươi phải gọi ta là đại hòa thượng.

Dương Quá không chịu lép vế, nghĩ thầm: “Bất kể lão chửi ta độc ác thế nào, ta cứ chửi lại đúng hệt, cái khoản đấu khẩu lão đừng hòng thắng ta. Lão dùng tiếng Tạng nhiếc ta là heo là chó, thì ta cũng nhiếc lại lão hệt như thế”. Đợi Đạt Nhĩ Ba nói xong, chàng bắt chước nhại lại y hệt:

– Sư phụ ta là Kim Luân pháp vương, ta lại không phải là tiểu hài tử, ngươi phải gọi ta là đại hòa thượng.

Đạt Nhĩ Ba lấy làm lạ, nghiêng đầu nhìn bên trái, lại nhìn bên phải, nghĩ thầm: “Ngươi hiển nhiên là tiểu hài tử, đâu phải là đại hòa thượng? Sư phụ của ngươi sao lại là Kim Luân pháp vương?” Bèn nói:

– Ta là đệ tử đời thứ nhất của Kim Luân pháp vương, ngươi là đệ tử đời thứ mấy?

Dương Quá cũng nói:

– Ta là đệ tử đời thứ nhất của Kim Luân pháp vương, ngươi là đệ tử đời thứ mấy?

Đạo Lạt Ma ở Tây Tạng xưa nay có thuyết luân hồi truyền kiếp, thời bấy giờ Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền chưa bắt đầu kiếp sau, nhưng chuyện người ta sau khi chết sẽ đầu thai tái sinh, thì đã được mọi người theo đạo Lạt Ma tin chắc như đinh đóng cột. Kim Luân pháp vương thời trẻ có thu nhận một đại đệ tử, đệ tử ấy chưa đến hai mươi tuổi đã chết, Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô đều không biết mặt người đó, chỉ biết từng có một người như vậy. Trong đám môn hạ của Kim Luân pháp vương, Đạt Nhĩ Ba là đệ tử thứ hai, Hoắc Đô là đệ tử thứ ba. Bây giờ Đạt Nhĩ Ba nghe mấy câu đối đáp vừa rồi, cứ ngỡ Dương Quá đúng là đại sư huynh đã đầu thai sang kiếp này, nghĩ thầm nếu không phải là thần đồng võ nghệ đầu thai, thì làm sao một gã thiếu niên đã giỏi võ đến thế? Hơn nữa chàng ta là một gã thiếu niên Trung Nguyên, làm sao lại nói tiếng Tạng sõi như thế được? Đạt Nhĩ Ba chăm chú nhìn Dương Quá một lát, càng nhìn càng thấy giống, bèn đặt cây kim cương chử xuống đất, chắp tay vái Dương Quá, nói:

– Đại sư huynh, sư đệ Đạt Nhĩ Ba tham kiến.

Dương Quá càng lấy làm lạ, nghĩ bụng lão hòa thượng này chửi mình không xong, đành cúi đầu nhận thua, thấy cử chỉ của lão ta cực kỳ cung kính, lời vừa nói chắc không phải chửi bới, nên chàng không bắt chước nhại lại, chỉ mỉm cười, gật đầu, ra vẻ tiếp nhận.

Người xem xung quanh thì càng kinh dị. Mọi người không hiểu Tạng ngữ, chẳng biết Dương Quá xì xà xì xồ những gì, mà sau một hồi vị lão tăng có sức lực kinh nhân kia lại cúi đầu bái phục chàng.

Chỉ có Kim Luân pháp vương biết rõ nguồn cơn, thừa biết gã đệ tử thứ hai là người thẳng thắn chất phác, đã mắc lừa Dương Quá, bèn nói to:

– Đạt Nhĩ Ba, nó không phải là đại sư huynh tái sinh đâu, mau tỷ thí với nó đi.

Đạt Nhĩ Ba giật mình, nói:

– Sư phụ, đệ tử thấy đó chính là đại sư huynh rồi, nếu không, còn nhỏ tuổi sao đã có thân thủ như vậy?

Kim Luân pháp vương nói:

– Đại sư huynh của ngươi võ công giỏi hơn ngươi rất nhiều, đứa bé này thì còn thua xa ngươi.

Đạt Nhĩ Ba cứ lắc đầu, chưa tin. Kim Luân pháp vương biết y tính quá thẳng thắn, nhất thời chưa hiểu ngay, bèn nói:

– Ngươi chưa tin, cứ đấu thử với nó một lát sẽ biết.

Đạt Nhĩ Ba luôn coi lời sư phụ như thần thánh, nếu sư phụ đã bảo Dương Quá không phải là đại sư huynh tái sinh, thì quá nửa không phải là đại sư huynh. Nhưng chàng ta mới tí tuổi đầu, đã có võ công cao minh như thế, lại tự xưng là đại sư huynh của y, thì thật là khó mà không tin, thôi thì vâng lời sư phụ, đấu thử với chàng ta vài chiêu, xem công phu đích thực của chàng ta, xem ai thắng ai bại, sẽ biết ngay thật giả, thế là y bèn ôm quyền nói với Dương Quá:

– Được, ta sẽ tỷ thí võ công với ngươi, là thật hay giả, dựa vào thắng bại mà định.

Dương Quá thấy y xì xà xì xồ mấy câu, thần sắc rất cung kính, bèn bắt chước nhại lại y như thế với y:

– Được, ta sẽ tỷ thí võ công với ngươi, là thật hay giả, dựa vào thắng bại mà định.

Đạt Nhi Ba nghe vậy, trong lòng run sợ, nghĩ thầm:

“Sư phụ bảo võ công của đại sư huynh cao hơn ta rất nhiều, tất nhiên là ta không địch nổi rồi”.

Dương Quá thấy vẻ mặt sợ hãi của Đạt Nhĩ Ba, nghĩ thầm: “Mình phải dọa thêm cho lão ta sợ mà lùi mới được” bèn nói to:

– Ngươi có năm tên đệ tử, gọi là “Tạng biên ngũ xú” ít ngày trước đây trên đỉnh Hoa Sơn dám vô lễ với ta, đã bị ta phế bỏ võ công. Năm tên đó vẫn còn sống cả chứ?

Dương Quá nói bằng tiếng Hán, Đạt Nhĩ Ba dĩ nhiên không hiểu, bèn nhờ một võ sĩ đi cùng dịch lại. Nghe xong, Đạt Nhĩ Ba cả kinh thất sắc. “Tạng biên ngũ xú” làm vật đệm cho hai đại cao thủ Hồng Thất Công và Âu Dương Phong giáp kích, gân mạch toàn thân đều bị phế, trở về chỉ còn ú ớ, nói cũng không ra lời nữa. Đạt Nhĩ Ba xem thương thế của “Tạng biên ngũ xú”, nghĩ ngay Kim Luân pháp vương cũng không thể có công lực tài tình như vậy, đánh hỏng bát mạch của cả năm người mà vẫn bảo toàn tính mạng cho họ, hạ thủ như thế thật là quỉ quái thần thông, thông thiên triệt địa. Bây giờ nghe Dương Quá nói, càng kinh hãi, quay nhìn Kim Luân pháp vương, chỉ thấy sư phụ vẻ mặt tức giận, thì không thể không động thủ với Dương Quá, đành nói:

– Xin hãy thủ hạ lưu tình.

Dương Quá bắt chước y, cũng nhại lại:

– Xin hãy thủ hạ lưu tình.

Quách Phù thấy hai người cứ nói tiếng Tạng với nhau mãi, bèn lại bên cạnh Hoàng Dung, hỏi:

– Mẹ ơi, họ nói gì thế?

Hoàng Dung sớm đã nhận biết Dương Quá chỉ nhại theo y hệt, vậy mà Đạt Nhĩ Ba lại chắp tay mà vái, thì cũng chưa hiểu vì sao, nghe nữ nhi hỏi, chỉ đáp:

– Ừm, Dương gia ca ca nói giỡn lão tăng đấy thôi!

Lúc này Đạt Nhĩ Ba đã vung cây chử tấn công Dương Quá, nghĩ bụng y đã nói rõ trước, đối phương tất có phòng bị. Dương Quá thấy Đạt Nhĩ Ba thần thái cung kính, không ngờ y lại đột nhiên xuất thủ, cây chử suýt nữa thì đánh trúng người chàng, chàng vội nhảy lùi né tránh.

Dương Quá lùi rồi, lập tức sấn tới, đâm liền ba nhát kiếm. Đạt Nhĩ Ba vốn sợ hãi, chỉ lo Dương Quá theo học sư phụ lâu năm, võ học tài giỏi hơn người, luân hồi tái sinh, càng quỉ quái thần thông, nên chỉ dùng cây chử che đỡ môn hộ, không dám lơ là chút nào; sau vài chiêu, Dương Quá nhận thấy Đạt Nhĩ Ba chỉ thủ không công, tuy chưa hiểu dụng ý, nhưng thừa thế tấn công, đâm đông chém tây, tha hồ thi triển “Ngọc nữ kiếm pháp”. Đấu hơn trăm chiêu, Kim Luân pháp vương không nhịn được nữa, quát:

– Đạt Nhĩ Ba, mau phản kích đi, nó không phải là đại sư huynh của ngươi.

Võ công của Đạt Nhĩ Ba dĩ nhiên cao hơn hẳn Dương Quá, chẳng qua y kính sợ trong bụng, nên giảm mất năm phần, Dương Quá thì thừa cơ toàn lực thi triển. Một người càng lúc càng ứng tâm đắc thủ, một người thì càng lúc càng co về thoái nhượng.

Dương Quá tuy chiếm thượng phong, cũng không đả thương y nổi, Đạt Nhĩ Ba lại cứ ngỡ đại sư huynh thủ hạ lưu tình. Kim Luân pháp vương cả giận, gằn giọng quát:

– Hãy phản kích ngay lập tức!

Tiếng quát làm rung chuyển cả đại sảnh, nghe váng cả tai. Đạt Nhĩ Ba không dám trái lời sư phụ, vội vung cây chử mà cuồng đả cấp công.

Đợt tấn công mãnh liệt này buộc Dương Quá liên tiếp né tránh, những chỗ sơ hở non nớt của chàng cũng dần dần lộ ra. Đạt Nhĩ Ba thấy kiếm chiêu của Dương Quá hơi chậm lại, bèn phang cây chử gấp tới, Dương Quá tránh không kịp, chử kiếm đụng nhau. Trong lúc tỷ thí, binh khí đôi bên đụng nhau là chuyện thường, nhưng cây kim cương chử quá nặng, Dương Quá chỉ múa kiếm, không dám cho đụng vào cây chử của đối phương, bây giờ kiếm – chử đụng nhau, chàng thấy hổ khẩu bị chấn động đau nhói, keng một tiếng, thanh kiếm của chàng gãy đôi. Đạt Nhĩ Ba nói:

– Ta thắng rồi!

Y cắm cây chử xuống đất, chắp tay trước ngực, cúi mình hành lễ. Y tuy đắc thắng, song không dám thất lễ với đại sư huynh.

Dương Quá nhại lại bằng tiếng tạng:

– Ta thắng rồi!

Đoạn ném cái kiếm gãy vào mặt Đạt Nhĩ Ba, y né tránh, nghĩ thầm: “Tại sao đại sư huynh lại thắng? Không lẽ đấy là chiêu dẫn dụ?” Chỉ thấy Dương Quá tay không đánh tới, không dám xem thường, vội múa cây chử hộ thân.

Hồi Dương Quá ở trong “Hoạt tử nhân mộ” theo Tiểu Long Nữ học chưởng pháp, chàng đã luyện thành thạo cách dùng song chưởng ngăn giữ chín chín tám mươi mốt con chim sẻ đang bay, mà không để cho một con nào bay thoát. Lộ chưởng pháp “Thiên la địa võng thế” ấy là bí quyết độc đáo của Lâm Triêu Anh, chiêu số chưởng hình chưa hề ra khỏi núi Chung Nam một bước; bây giờ đem ra sử dụng, quả nhiên kín đáo vô cùng, tuy chỉ là tay không, mà uy lực chẳng thua gì trong tay có đao kiếm.

Đạt Nhĩ Ba múa cây chử vù vù, Dương Quá thì sử dụng khinh công cao siêu, tiến thoái trong kẽ hở của cây chử. Tuy cây chử gây vô số hung hiểm, nhưng thủy chung vẫn chưa hề đụng được vào người chàng, trong khi không không ngừng công kích, trảo, đả, phách, cầm nã, kích, thi triển chưởng pháp “Thiên la địa võng thế”.

Lại đấu một trận nữa, Đạt Nhĩ Ba thần lực càng tăng, Dương Quá cũng khinh công càng lúc càng lanh lẹ. Hồi ở tòa cổ mộ, chàng từng nằm trên giường hàn ngọc luyện công, bây giờ công phu tu luyện mấy năm mới hiển lộ hết ra.

Tiểu Long Nữ ngồi bên chân cột, mỉm cười nhìn cuộc đấu thấy Dương Quá cầm cự được lâu như thế chưa thua, bèn lấy trong túi ra đôi bao tay màu trắng, gọi:

– Quá nhi, đón lấy này.

Tay phải ném đôi bao tay ra.

Đôi bao tay này của nàng được đan bằng hàng trăm sợi bạch kim, tuy mềm mỏng, nhưng bảo đao lợi kiếm chẳng làm gì được. Hách Đại Thông nhìn thấy đôi bao tay bay trong không trung thì mặt hơi biến sắc. Hồi lão giao đấu với Tiểu Long Nữ ở cung Trùng Dương, nàng đã đeo đôi bao tay này mà bẻ gãy trường kiếm của lão, buộc lão chút nữa phải tự sát, bây giờ gặp lại nó, lão không khỏi xúc động tâm cảnh.

Dương Quá đón bắt đôi bao tay, lùi lại một bước, đeo ngay vào tay, bắt đầu sử dụng môn võ công đẹp mắt và kỳ diệu nhất trong võ công phái Cổ Mộ là “Mỹ nữ quyền pháp”. Lộ quyền pháp này chàng từng sử dụng vài chiêu hôm giúp Lục Vô Song cự địch, đánh lui mấy đệ tử Cái Bang truy đuổi. Mỗi chiêu quyền pháp bắt chước một mỹ nữ thời xưa, do nam tử sử dụng thì có lẽ không được thanh nhã cho lắm; nhưng Dương Quá khi luyện tập đã cải biên tư thế, tên gọi từng chiêu vẫn giữ nguyên, nhưng động tác tay chân thì đã được chàng biến từ ẻo lả ủy mị thành phiêu dật thanh thoát. Bởi vậy quần hùng bàng quan càng không thể biết gia số, chỉ thấy chàng lúc thì múa may uyển chuyển, lúc thì đứng sững nghiêm nghị, thần thái biến ảo cực kỳ kỳ dị.

Nên biết tâm trạng thần thái của nữ nhân thay đổi đã nhiều lại nhanh, mà các mỹ nữ lừng danh thời đại thì tính cách đều có điểm phi phàm, buồn vui cười khóc càng khó tiên liệu. Đem sự thay đổi khôn lường tâm trạng thần thái của mỹ nữ bao nhiêu đời vào trong võ công, rồi thêm vào độ phong tư mỹ lệ, dáng hình phiêu diêu của tiên nữ, thì kẻ phàm phu tục tử làm sao hiểu nổi?

Dương Quá sử chiêu “Hồng Ngọc kích cổ”, hai cánh tay thay nhau đánh nhanh, Đạt Nhĩ Ba giơ cây chử đỡ ngang. Dương Quá biến chiêu thành “Hồng Phất dạ bôn”, xuất kỳ bất ý chọc thẳng vào, Đạt Nhĩ Ba giơ cây chử chặn dọc. Dương Quá đột nhiên sử chiêu “Lục Châu trụy lâu”, nhào xuống đánh vào hạ bàn đối phương. Đạt Nhĩ Ba cả kinh, nghĩ thầm: “Chiêu pháp của đại sư huynh sao mà khó đoán đến thế?”, vội nhảy lên tránh tả chưởng của chàng chém xuống. Song chưởng của Dương Quá liên tiếp vỗ ra mấy lần, ấy là chiêu “Hán Cơ qui Hán”, tổng cộng vỗ liền mười tám cái.

Mỗi chiêu của chàng đều có lai lịch, Đạt Nhĩ Ba là Tạng tăng, làm sao hiểu nổi điển cố Trung Nguyên? Trong giây lát chỉ thấy Dương Quá bất chợt đánh trên cao, bất chợt đánh dưới thấp, bất chợt bên đông, bất chợt lên tây, khiến y chân tay luống cuống cả lên. Dương Quá đeo đôi bao tay, cứ luôn luôn thừa cơ sử các chiêu “Hồng Tuyến đạo hạp”, “Mộc Lan loan cung”, “Ban cơ phú thi”, “Thường Nga khấu dược” mà đoạt cây kim cương chử. Đạt Nhĩ Ba cứ phải kêu lên hoảng sợ. Quần hùng cả mừng, hò reo trợ uy.

Kim Luân pháp vương thấy đệ tử võ công hiển nhiên cao hơn gã thiếu niên, chỉ vì có ý hoảng sợ, mà liên tiếp bị đối phương tấn công trước, đến nỗi lâm vào thế quẫn bách, bèn gằn giọng quát:

– Mau sử Vô thượng đại lực chử pháp!

Đạt Nhĩ Ba đáp:

– Vâng!

Hai tay nắm chắc cây chử, y bắt đầu múa. Y dùng một tay múa cây chử, đã là thần lực kinh nhân, bây giờ dùng cả hai tay, thêm cả sức của eo lưng, tiếng gió ù ù do cây chử phát ra càng mạnh gấp bội. “Vô thượng đại lực chử pháp” không có gì biến hóa, chỉ gồm tám chiêu phạt ngang, tám chiêu chọc thẳng, tổng cộng hai lần tám mười sáu chiêu, nhưng mười sáu chiêu đó cứ sử đi sử lại, phạt ngang chọc thẳng, buộc Dương Quá phải tránh thật xa, đừng nói giao phong chính diện, ngay cả chử phong, chàng cũng không dám tiếp xúc.

Điểm Thương Ngư Ẩn sau khi bị gãy cái thiết tương, vẫn ấm ức không phục, lúc này thấy uy lực khủng khiếp của “Vô thượng đại lực chử pháp” nghĩ bụng “Thiết tương pháp” của mình không thể có được chiêu số chí cương chí mãnh như vậy, thì bất giác cũng đã khâm phục.

Đấu một lát nữa, bảy tám cây nến hồng trong sảnh đã bị chử phong thổi tắt, Dương Quá chỉ dựa vào khinh công nhảy chỗ này luồn chỗ kia, tránh né, cốt sao không bị cây chử đánh trúng, làm gì còn khả năng phản kích?

Quần hùng Trung Nguyên thầm kinh sợ, lặng cả đi; đám võ sĩ Mông Cổ thì thích thú reo hò. Dương Quá bị cây chử dồn ép cứ liên tiếp thoái lui chẳng mấy chốc đã bị dồn vào một góc sảnh, rất muốn biến chiêu, nhưng không thể thi thố gì được. Lộ “Vô thượng đại lực chử pháp” này có mang ba phần điên khùng, Đạt Nhĩ Ba giờ đã phát cuồng, đã quên biến trước mặt là đại sư huynh tái sinh, chỉ thấy Dương Quá đã thu mình vào trong góc sảnh, không còn đường thoái lui, bèn quát lớn một tiếng:

– Ngươi chết này!

Cây chử đập vào, chỉ nghe “sầm” một tiếng to, bụi tung mù mịt, vôi gạch bay tung tóe, bức tường chỗ ấy đã bị phá thủng một mảng lớn.

Dương Quá thoát cái thế ngàn cân treo sợi tóc bằng cách phi thân vọt qua đầu đối phương, vẫn không quên nhại câu tiếng Tạng:

– Ngươi chết này!

Cú vọt này là võ công trong “Cửu Âm chân kinh”. Hồi ở trong tòa cổ mộ với Tiểu Long Nữ, Dương Quá đã luyện theo di kinh mà Vương Trùng Dương khắc trên trần thạch thất, quyền cước kiếm thuật học được mấy thành, chỉ có nội công là không được ai chỉ dẫn, hai người luyện thì luyện, song không biết đúng hay sai, bây giờ lần đầu tiên gặp đại địch, đâu dám đem ra sử dụng? Không ngờ trong cơn nguy cấp, tự nhiên bật ra, nhờ vậy thoát chết.

Quần hùng biết rằng chiêu này nhất định Đạt Nhĩ Ba đắc thủ, Quách Tĩnh không để y vung cây chử hết mức, đã nhảy ra định tập kích vào sau lưng y, chợt thấy hồng bào chao động, Kim Luân pháp vương đã phát chưởng đánh tới. Quách Tĩnh thấy chưởng thế của đối phương quá thần tốc, vội sử chiêu “Kiến long tại điền” gạt ra. Song chưởng của hai người đụng nhau, không hề phát ra tiếng động, nhưng thân hình đôi bên đều chao đảo. Quách Tĩnh lùi lại ba bước, Kim Luân pháp vương thì vẫn đứng nguyên tại chỗ. Lão ta công lực thâm hậu hơn hẳn Quách Tĩnh, song chưởng pháp võ kỹ thì lại không bằng chàng. Quách Tĩnh lùi lại giảm mãnh kình của kẻ địch, để khỏi thụ thương. Kim Luân pháp vương thì cực kỳ hiếu thắng, sau cú tiếp chiêu vừa rồi, cảm thấy ngực bị đau tức, phải đứng yên một chỗ. Cả hai cao thủ cỡ Quách Tĩnh lẫn Kim Luân pháp vương đều biết Dương Quá nhất định sẽ ngộ hiểm, nên một người phi thân ra cứu, một người thì xuất thủ ngăn cản. Nào ngờ cuối cùng Dương Quá đã có kỳ chiêu, vọt ra khỏi kẽ hở đánh tới của cây chử. Hai người thấy Dương Quá thoát hiểm, thì một người vui mừng, một người tiếc nuối, cùng trở về chỗ cũ.

Đạt Nhĩ Ba ra đòn không trúng, cũng chẳng quay người lại, vung cây chử ra phía sau. Dương Quá thấy chiêu của địch tới quá nhanh, chàng tự nhiên bay ngang một cái, giống như chim én bay vụt qua mành vậy, thân hình lướt ngang cách mặt đất hơn một thước, ở bên dưới cây chử vài tấc. Lại là võ công trong “Cửu Âm chân kinh”. Hoàng Dung rất đỗi kinh ngạc nói:

– Tĩnh ca ca, tại sao Quá nhi cũng biết “Cửu Âm chân kinh”? Chàng có dạy cho nó không vậy?

Nàng cho rằng Quách Tĩnh vì nghĩ đến tình cố nhân mà trên đường dẫn Dương Quá lên núi Chung Nam đã đem “Cửu Âm chân kinh” dạy cho nó. Quách Tĩnh nói:

– Không hề, nếu truyền thụ cho nó, ta đã chẳng giấu nàng làm gì?

Hoàng Dung “ừm” một tiếng, biết tính phu quân vốn đối với người ngoài vẫn có sao nói vậy, đối với nàng càng không khi nào nói dối. Chỉ thấy Dương Quá bay người né tránh mỗi lúc nguy cấp, đúng là dựa vào công phu hộ thân của “Cửu Âm chân kinh”.

Nhưng chàng rõ ràng chưa luyện thành thục, không biết dùng võ công “Cửu Âm chân kinh” phản kích thủ thắng, tuy giữ được tính mạng, nhưng trận đấu này rốt cuộc chàng sẽ thua mất. Hoàng Dung thở dài:

“Quá nhi quả là bậc kỳ tài, nếu nó theo học mình chừng một năm, sẽ luyện xong Đả cẩu bổng pháp và Cửu Âm chân kinh, thì lão Tạng tăng kia đâu có địch nổi nó?”

Chính đang phiền não, vừa đưa mắt, Hoàng Dung bỗng nhìn thấy gã phản đồ của Cái Bang là Bành trưởng lão đang đứng lẫn trong đám võ sĩ Mông Cổ có vẻ hí hửng, nàng chợt nảy ra một kế, gọi:

– Quá nhi, Di hồn đại pháp! Di hồn đại pháp!

Trong “Cửu Âm chân kinh” có một môn công phu gọi là “Di hồn đại pháp”, dùng sức mạnh tâm linh để khắc địch chế thắng. Lần trước tại đại hội Cái Bang bên hồ Động Đình, Hoàng Dung từng sử dụng công phu đó khắc chế “Nhiếp tâm thuật” thôi miên của Bành trường lão, cho nên bây giờ trông thấy lão ta, nàng sực nhớ ra.

Dương Quá vẫn nhớ cách luyện “Di hồn đại pháp”, nhưng chàng chưa tin rằng dùng tâm lực chăm chú nhìn đối phương, lại có thể khắc địch chế thắng, bởi vì chàng chưa từng luyện qua. Chàng vốn phục tài năng của Hoàng Dung, nên nghĩ thầm: “Quách bá mẫu đã bảo thế, tất có duyên cớ; đằng nào thì hôm nay mình cũng thua, chi bằng cứ thử một phen”. Thế là trong lúc quyền cước tiếp tục tránh né, trong óc bắt đầu gạt bỏ mọi ý nghĩ, căn cứ cái gọi là “pháp môn chỉ quán” nói trong “Cửu Âm chân kinh”, đi từ “Chế tâm chỉ” đến “Thể chân chỉ”, tinh thần qui về một điểm duy nhất, hoàn toàn không còn tạp niệm. Lúc này chàng toàn dựa vào bản tính mà chống đỡ, nghe âm thanh, tiếng gió mà né tránh, nhãn quang trừng trừng nhìn kẻ địch.

Lại thêm vài chiêu, Đạt Nhĩ Ba thấy cử chỉ của Dương Quá lạ hẳn, bèn nhìn vào mắt chàng, cây kim cương chử đánh mạnh tới. Dương Quá sử chiêu “Man yêu hiên hiên” trong “Mỹ nữ quyền pháp” uốn éo eo lưng né tránh. Chàng đã vận “Di hồn đại pháp”, tâm thể là một, quyền cước đang sử chiêu số gì, thì trên mặt có thần tình tương ứng. Đạt Nhĩ Ba thấy mặt chàng bỗng hiện khí thư quyển, đâu biết rằng chàng đang bắt chước tư thế múa của Tiểu Man, là ái thiếp của thi nhân Bạch Lạc Thiên đời Đường, bất giác ngây người, chọc thẳng cây chử. Dương Quá nghiêng đầu tránh, rồi sử chiêu “Lệ Hoa sơ trang” trong Mỹ nữ quyền pháp, giơ tay chải đầu một cái, các ngón tay mềm mại vuốt tóc, miệng mỉm cười. Trương Lệ Hoa là ái thiếp của Lý Hậu chủ, tóc dài bảy thước, bóng mượt tới mức người khác có thể soi gương. Lý Hậu chủ vì mê mệt Lệ Hoa mà phế bỏ chính sự, đi đến mất nước, đủ hiểu sức quyến rũ thế nào. Dương Quá mỉm cười, Đạt Nhĩ Ba bị lây, cũng bắt chước mỉm cười. Nhưng Dương Quá mi thanh mục tú, thêm nụ cười càng quyến rũ; còn Đạt Nhĩ Ba thì lưỡng quyền nhô cao, hai má lõm sâu, bắt chước mỉm cười, chỉ khiến cho quần hùng đứng ngoài xem không khỏi sởn gai ốc.

Dương Quá thấy Đạt Nhĩ Ba ngây người, thì giơ ngón tay sử chiêu “Bình Cơ châm thân”. Đạt Nhĩ Ba nghiêng người né tránh, trên mặt bắt chước Dương Quá làm vẻ chăm chú khâu áo.

Hoàng Dung thấy Dương Quá lĩnh hội ý tứ của nàng, biết dùng “Di hồn đại pháp” làm cho kẻ địch bị cảm ứng, thì trong bụng cả mừng, nói nhỏ với Quách Tĩnh:

– Quá nhi thông tuệ lạ thường, hồi ca ca bằng tuổi nó bây giờ, ca ca đâu đã có được bản sự như nó.

Quách Tĩnh vui mừng gật gật đầu, mắt vẫn chăm chú theo dõi hai người ở giữa sảnh. Môn “Di hồn đại pháp” là sự cảm ứng bằng sức mạnh của tâm linh, nếu đối phương tâm thần ổn định vững vàng, thì môn này thường thường vô hiệu. Nếu đối phương có nội lực cao cường, phản kích trở lại, thì người thi triển môn này sẽ bị chế ngự. Hai bên tỷ võ, người nào võ công cao hơn, có thể dùng quyền cước, binh khí thủ thắng, thì không cần thi triển môn này. Kẻ công lực thua kém, cũng không dám sử dụng nó. Vì thế, môn này tuy cao thâm tinh diệu, song khi lâm địch ít khi được sử dụng.

Đạt Nhĩ Ba nghe Dương Quá nói tiếng Tạng, sớm đã tin tám, chín phần rằng chàng là đại sư huynh tái sinh ở kiếp này, vì trong lòng vốn có ý kính sợ, nên bị cảm ứng cực nhanh, Dương Quá vừa thi triển đã thành công. Nếu chàng đem thi triển với Hoắc Đô, nội lực chàng thua kém hắn, ắt sẽ gặp đại họa.

Lúc này Dương Quá đem Mỹ nữ quyền pháp ra thi triển, khi gót sen lãng đãng, lúc thướt tha liễu rủ, Đạt Nhĩ Ba cứ bắt chước y hệt, làm cho mọi người đứng xem vừa kinh ngạc, vừa tức cười.

Quách Phù cười ngặt cười nghẽo, nói với mẫu thân:

– Mẹ ơi, công phu này của Dương gia ca ca hay thật, sao mẹ không dạy cho hài nhi?

Hoàng Dung nói:

– Ngươi mà biết “Di hồn đại pháp” chắc sẽ làm cho trời long đất lở, rốt cuộc tự làm hại mình.

Nàng kéo tay con, nghiêm trang nói:

– Ngươi chớ có đùa, Dương gia ca ca chính đang giao đấu một mất một còn với lão Tạng tăng, môn này còn hung hiểm hơn cả giao đấu bằng đao kiếm đấy.

Quách Phù lè lưỡi, chăm chú nhìn Dương Quá, nghĩ thầm dầu sao cũng có khác gì trò đùa đâu kia chứ, thấy Dương Quá cười, thì Đạt Nhĩ Ba cũng cười; Dương Quá giận, thì Đạt Nhĩ Ba cũng giận, thế là nàng bắt chước làm theo. Ai ngờ “Di hồn đại pháp” cực kỳ lợi hại, mới học theo một lát, đầu óc đã mụ mẫm, tự dưng bước ra giữa sảnh.

Hoàng Dung cả kinh, vội giơ tay kéo lại. Lúc này tâm thần Quách Phù đã bị chế ngự, bèn đẩy mạnh mẹ ra. Hoàng Dung chộp cổ tay con, xoay lại, không cho Quách Phù nhìn thấy mặt Dương Quá. Quách Phù co kéo vài cái, mạch môn đã bị giữ chặt hết bề cựa quậy, đầu óc mụ đi, gục đầu vào lòng mẫu thân mà ngủ.

Lúc này Đạt Nhĩ Ba đã bị Dương Quá chế ngự hoàn toàn, thấy chàng sử chiêu “Tây Tử bổng tâm”, y lập tức sử theo chiêu “Đông Thi hiệu Tần”; thấy chàng sử chiêu “Lạc Thần vi bộ”, y cũng “bay như chim, trườn như rắn”, nhanh chậm tùy theo Dương Quá. Kim Luân pháp vương sớm đã nhận ra không ổn, luôn miệng quát gọi, song Đạt Nhĩ Ba coi như không nghe thấy. Dương Quá thấy thời cơ đã đến, đột nhiên sử chiêu “Tào Lệnh cát tỵ”, dùng hai tay luân phiên nhau chém xéo trên mặt mình, chém liên tiếp không ngừng. Thời xưa vợ của Tào Văn Thúc tên là Lệnh, sau khi chồng chết đã tự cắt mũi mình để biểu thị quyết ý không tái giá. Trong quyền pháp, chiêu này vốn dùng để ngăn chặn quyền chưởng của đối phương đánh vào mặt mình. Tay của Dương Quá cách mặt vài tấc, trông tưởng là chém vào mặt mình, xuất thủ cực mạnh, kỳ thực hai bàn tay chàng chỉ vuốt nhẹ qua má và mũi. Đạt Nhĩ Ba đâu có biết thế, hai tay cứ tự đánh vào mặt mình, y thần lực kinh nhân, mỗi chưởng đều có kình lực cả trăm cân, đánh hơn mười chưởng thì không chịu nổi nữa, y ngã xuống ngất lịm. Dương Quá lùi mấy bước, ngồi xuống bên cạnh Tiểu Long Nữ, tay phải chống cằm, tay trái giơ ra vẫy nhè nhẹ, thở dài, vẻ mặt lộ ý tịch liêu. Đây là chiêu cuối cùng của “Mỹ nữ quyền pháp”, gọi là chiêu “Cổ mộ u cư”, do Dương Quá tự tạo ra, Lâm Triêu Anh thời trước cũng như Tiểu Long Nữ hiện thời đều không biết. Sau khi học xong “Mỹ nữ quyền pháp”, Dương Quá nghĩ thầm tổ sư bà bà có đức hạnh chẳng thua gì các mỹ nữ thời xưa, nếu trong lộ quyền pháp này không có hình bóng tổ sư bà bà thì chưa toàn vẹn, thế là chàng bèn sáng tạo ra chiêu này, tiếng là tưởng nhớ Lâm Triêu Anh, cử chỉ thần thái thì lại mô phỏng sư phụ Tiểu Long Nữ của chàng. Khi đó Tiểu Long Nữ có nhìn thấy, song chỉ mỉm cười, không đùa giỡn với chàng.

Quần hùng đồng thanh hoan hô, reo to:

– Chúng ta thắng trận thứ hai rồi! Minh chủ võ lâm là cao thủ của Đại Tống!

– Thát tử Mông Cổ mau mau cút xéo, đừng vác mặt tới Trung Nguyên nữa?

Hai võ sĩ Mông Cổ vội chạy ra, khiêng Đạt Nhĩ Ba vào.

Kim Luân pháp vương thấy hai đệ tử đều thảm bại một cách cực kỳ vô lý bởi tay một gã thiếu niên, mà không phải do võ công thua kém, thì trong bụng hết sức tức giận, nhưng ngoài mặt thản nhiên như không, tựa người vào lưng ghế, quát:

– Gã thiếu niên kia, sư phụ của ngươi là ai?

Ngoài võ công tuyệt luân, lão ta còn bác học đa tài, biết cả tiếng Hán.

Dương Quá chỉ Tiểu Long Nữ, cười nói:

– Sư phụ của ta là vị này, lão hãy mau bái kiến minh chủ võ lâm!

Kim Luân pháp vương thấy Tiểu Long Nữ dịu dàng kiều mị, còn ít tuổi hơn Dương Quá, thì không tin nàng là sư phụ của chàng, nghĩ thầm: “Người Hán Trung Nguyên quỉ kế đa đoan, đừng hòng lừa nổi ta”. Lão đứng phắt dậy, lấy trong bọc ra một cái kim luân, lập tức vang lên nhiều tiếng loong coong. Cái kim luân này đường kính một thước rưỡi, đúc bằng vàng, trên khắc chân ngôn Mật tông bằng chữ Tạng, bên trong có chín quả cầu nhỏ, cầm kim luân lắc lắc, tiếng loong coong sẽ phát ra hồi lâu không dứt. Kim Luân pháp vương chỉ Tiểu Long Nữ, nói:

– Hừ, một tiểu cô nương như ngươi cũng đòi làm minh chủ võ lâm ư? Chỉ cần ngươi tiếp nổi ta mười chiêu kim luân này, ta sẽ công nhận ngươi làm minh chủ.

Dương Quá cười, nói:

– Ta đã thắng hai trận, đấu ba thắng hai, phe của lão đã nói rõ ngay từ đầu như thế, giờ còn gây sự nỗi gì?

Kim Luân pháp vương nói:

– Ta chỉ muốn thử võ công, xem tiểu cô nương này có xứng đáng hay không.

Tiểu Long Nữ không biết Kim Luân pháp vương võ công kinh thế hãi tục, cũng không biết “minh chủ võ lâm” là cái giống gì, càng không cần biết mình có xứng đáng hay không xứng đáng, nghe lão ta bảo muốn thử coi nàng có tiếp nổi mười chiêu của lão ta hay không, bèn đứng dậy, nói:

– Để đó ta thử.

Kim Luân pháp vương nói:

-Nếu cô nương không tiếp nổi mười chiêu của ta thì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không tiếp nổi tức là không tiếp nổi, chứ còn sao nữa?

Tiểu Long Nữ lúc này tuy đối với Dương Quá tình ái đã sâu, song đối với mọi chuyện khác, nàng vẫn không hề quan tâm. Quần hùng Trung Nguyên và đám võ sĩ Mông Cổ đều không biết bản tính của nàng, thấy nàng chẳng coi Kim Luân pháp vương ra gì, thì đoán là nàng có võ công cao thâm khôn lường; có người thấy Dương Quá sử dụng Di hồn đại pháp đánh bại Đạt Nhĩ Ba, còn cho rằng nàng biết sử dụng yêu pháp, nàng là Tiểu Yêu Nữ, ai nấy xôn xao bàn luận.

Kim Luân pháp vương cũng sợ nàng hành sử yêu pháp, bèn lên tiếng niệm thần chú, câu thần chú lão niệm là chân ngôn Mật tông “Hàng yêu phục ma chú”. Dương Quá đứng bên cạnh nghe rõ ràng, ngỡ rằng lão ta dùng tiếng Tạng chửi sư phụ của chàng, bèn cố ghi nhớ thật đầy đủ mọi chữ.

Kim Luân pháp vương niệm thần chú xong, vung cái kim luân lên, loong coong một hồi, quát Dương Quá:

– Mau lui ra, để ta động thủ!

Câu này lão đã nói bằng tiếng Hán. Dương Quá xua xua tay, không dám nói, sợ phân tâm sẽ quên mấy câu tiếng Tạng vừa thuộc, rồi chàng cũng đọc lại đúng như Kim Luân pháp vương vừa niệm chú. Vừa lúc đó Đạt Nhĩ Ba tỉnh lại, thấy sư phụ tay cầm kim luân, sắp động thủ với người, nghe Dương Quá niệm chân ngôn Mật tông “Hàng yêu phục ma chú”, là bí pháp bản môn, không bao giờ truyền cho người ngoài, Dương Quá nếu không đích thực là đại sư huynh tái sinh ở kiếp này, thì làm sao lại biết niệm thần chú? Đạt Nhĩ Ba vội bật dậy, quì trước mặt Kim Luân pháp vương mà nói:

– Sư phụ, đó đúng là đại sư huynh tái sinh, sư phụ hãy thu nhận lại chàng thiếu niên kia đi!

Kim Luân pháp vương tức giận:

– Nói láo! Ngươi đã mắc lừa còn chưa tỉnh hay sao.

Đạt Nhĩ Ba nói:

– Đó là điều thiên chân vạn xác, quyết không thể sai.

Kim Luân pháp vương thấy Đạt Nhĩ Ba cứ mê muội như vậy, bèn túm lưng áo y mà quẳng đi. Thân xác Đạt Nhĩ Ba nặng hơn trăm cân bị lão tăng túm quẳng đi nhẹ như không vậy.

Mọi người vừa nãy chứng kiến Đạt Nhĩ Ba giao đấu với Điểm Thương Ngư Ẩn và Dương Quá, biết y có sức mạnh cánh tay kinh người, bây giờ cái quẳng của Kim Luân pháp vương chứng tỏ công lực của lão tăng này còn ghê gớm hơn nhiều, nhìn Tiểu Long Nữ mảnh khảnh yêu kiều thế kia, đừng nói tiếp mười chiêu, chỉ e lão ta thổi mạnh một cái, nàng cũng đã bay đi, thì không khỏi lo lắng cho nàng. Trong đám võ sĩ Mông Cổ, không ít người từng chứng kiến Kim Luân pháp vương hiển thị võ công, đúng là tài hơn muôn người, sức khỏe hơn voi. Tiểu Long Nữ tuy ở phía địch, nhưng thấy nàng bé nhỏ xinh xắn, lòng trắc ẩn ai mà chẳng có, nghĩ nàng dẫu có yêu thuật, cũng khó địch nổi huyền công thần thông của Kim Luân pháp vương, đều thầm mong nàng không bị những đòn ác hiểm.

Dương Quá niệm thần chú xong, nói nhỏ:

– Cô cô, cẩn thận với lão hòa thượng.

Kim Luân pháp vương nghe chàng niệm chú không sai một chữ, lòng thầm thán phục, nói:

– Gã thiếu niên kia, khá khen cho ngươi.

Dương Quá nói:

– Hòa thượng kia, khá khen cho lão.

Kim Luân pháp vương trừng mắt, hỏi:

– Khá khen về cái gì?

Dương Quá nói:

– Khá khen cho lão dám cả gan động thủ với sư phụ của ta, sư phụ ta là Bồ tát đầu thai, có tài thông thiên thấu địa, có công hàng long phục hổ, lão hãy cẩn thận kẻo nguy đó.

Dương Quá thấy lão tăng này lợi hại, định dọa cho lão ta lo sợ, xuất thủ không dám tận lực, sư phụ sẽ dễ đối phó hơn; nhưng Kim Luân pháp vương là anh kiệt ẩn cư ở Tây Tạng, văn võ toàn tài, đâu bị mắc lừa. Lão chỉ nói:

– Chiêu thứ nhất, tiểu cô nương, mau lấy binh khí ra!

Dương Quá cởi đôi bao tay bạch kim đưa cho sư phụ đeo, rồi lùi ra. Tiểu Long Nữ lấy từ trong bọc ra một dải lụa trắng, hất nhẹ một cái, đầu dải lụa buộc một quả cầu tròn màu vàng, quả cầu rỗng, bên trong có vật nhỏ, khi dải lụa chuyển động, quả cầu phát ra tiếng kinh coong trong trẻo rất êm tai. Mọi người thấy binh khí của đôi bên đều quái dị, nghĩ thầm hôm nay quả là được mở rộng tầm mắt, một bên binh khí cực ngắn, bên kia binh khí cực dài, một bên cực cứng, bên kia cực mềm, song cả hai loại binh khí đều phát ra âm thanh kính coong.

Cái kim luân mà Kim Luân pháp vương sử dụng chuyên dùng để khóa và cướp vũ khí của đối phương, bất kể đao thương kiếm kích, mâu chùy tiên côn, đều bị kim luân của lão làm cho bó tay, bị đoạt mất ngay từ chiêu đầu tiên. Nếu không phải lão ta thấy Dương Quá võ công cao siêu, thì hẳn lão đã chẳng nói hãy tiếp mười chiêu. Trong cả cuộc đời lão, ít ai có thể tiếp nổi ba chiêu kim luân của lão.

Dải lụa của Tiểu Long Nữ rung động, nàng đã xuất chiêu trước. Kim Luân pháp vương nói:

– Là cái thứ gì vậy?

Tay trái lão chộp dải lụa, nhìn dải lụa yêu kiều linh động, chắc hẳn có nhiều biến hóa, cho nên cú chộp của lão ám tàng năm phương vị trên, dưới, phải, trái, giữa, bất kể dải lụa lướt tới đâu, cũng không thoát nổi cú chộp của lão. Nào ngờ quả cầu nhỏ ở đầu dải lụa kêu coong một tiếng, bật lại đánh vào huyệt Trung Chử ở mu bàn tay lão. Kim Luân pháp vương biến chiêu cực nhanh, lão lật bàn tay, lại chộp lấy quả cầu. Tiểu Long Nữ hơi xoay cổ tay, quả cầu bật từ dưới lên trên, đánh vào huyệt Hợp Cốc ở hổ khẩu lão ta.

Kim Luân pháp vương lại lật bàn tay, lần này dùng hai ngón trỏ và giữa để kẹp lấy quả cầu. Tiểu Long Nữ nhìn rõ, hơi đẩy dải lụa ra, quả cầu đã đánh tới huyệt Khúc Trạch ở chỗ gập cánh tay của lão ta.

Mấy biến chiêu vừa xảy ra thực chỉ trong nháy mắt, Kim Luân pháp vương lật bàn tay hai lần, Tiểu Long Nữ thì xoay cổ tay ba lần, đôi bên đã trao đổi nhau năm chiêu. Dương Quá nhìn rất rõ, đếm to:

– Mộ hai, ba, bốn, năm… năm chiêu rồi! Còn năm chiêu nữa!

Kim Luân pháp vương đòi Tiểu Long Nữ tiếp lão mười chiêu, tức là muốn Tiểu Long Nữ chống đỡ mười chiêu tấn công bằng kim luân của lão ta; Dương Quá lại khôn ngoan đem cộng mọi chiêu số mà đôi bên trao đổi với nhau lại. Kim Luân pháp vương là bậc tông sư võ học, không lẽ lại đi tranh cãi với một gã thiếu niên vô danh về cách đếm chiêu số. Lão bèn hơi lệch cánh tay trái, để quả cầu trượt qua rồi chĩa thẳng cái kim luân ra đằng trước. Tiểu Long Nữ chỉ nghe loong coong loạn xạ, kim quang loang loáng trước mặt; cái kim luân của đối phương đã công tới cách mặt hơn một thước.

Biến đổi này thật bất ngờ, đừng nói chống đỡ, ngay cả né tránh cũng chẳng kịp, trong cơn nguy cấp, nàng bèn xoay cổ tay, dải lụa lập tức vòng lại, quả cầu đánh thẳng vào huyệt Phong Trì ở sau ót Kim Luân pháp vương. Huyệt này là nơi yếu hại của cơ thể con người, dù võ công cao cường đến mấy, bị đánh trúng huyệt này cũng khó mà toàn mạng. Chẳng qua Tiểu Long Nữ không còn cách nào khác, mới đành dùng hiểm chiêu lưỡng bại câu thương này để buộc lão ta phải đưa cái kim luân về chống đỡ, giữ lấy mạng sống. Quả nhiên Kim Luân pháp vương không định liều chết với nàng, bèn cúi thấp đầu né tránh; chỉ cần một cái cúi đầu ấy, cái kim luân trong tay lão đánh ra đã hơi chậm lại, Tiểu Long Nữ thừa cơ thu hồi dải lụa, tiếng kính coong vang dồn, quả cầu đánh bật kim luân ra. Chỉ trong chớp mắt, Tiểu Long Nữ thoát chết, vội thi triển khinh công lùi ngay sang một bên, mặt lộ vẻ kinh hoàng.

Kim Luân pháp vương mới tiến công có một chiêu này, song Dương Quá đã kêu to:

– Sáu, bảy, tám, chín, mười… hết rồi; sư phụ ta đã tiếp nổi lão mười chiêu, còn gì để nói nữa không?

Kim Luân pháp vương sau một hồi giao thủ, đã biết tiểu cô nương này võ công tuy cao, song còn thua xa lão, nếu chính thức tỷ thí, nội trong mười chiêu nhất định lão sẽ đánh bại nàng, chỉ tức nỗi Dương Quá cứ lải nhải luôn mồm ở bên ngoài, khiến cho lão tâm thần bất định, lão nghĩ thầm: “Mặc kệ tên nhãi đó mình cứ gấp tiến chiêu, đánh bại xong tiểu cô nương sẽ tính”, thế là lại dùng kim luân tung ra một chiêu cực kỳ lợi hại.

Dương Quá kêu to :

– Không biết xấu! Nói mười chiêu, hết rồi lại đánh trộm, mười một, mười hai, mười ba, mười bốn chiêu…

Chàng bất kể đôi bên công thủ bao nhiêu chiêu số miệng cứ đếm liên tục. Tiểu Long Nữ tiếp xong chiêu thứ nhất, thì cả sợ, không dám chính diện tiếp chiêu thứ hai của đối phương, mà thi triển khinh công bay lượn qua lại trong sảnh, dải lụa phiêu động, quả cầu chuyển động vùn vụt, như tạo thành một vệt sương mù, một đạo hoàng quang. Quả cầu phát ra tiếng kính coong tinh tang, lúc nhanh lúc chậm, khi cao khi thấp, nghe như một khúc nhạc. Nguyên những lúc nhàn nhã trong tòa nhà mồ, Tiểu Long Nữ dựa vào bản cầm phổ do Lâm Triêu Anh để lại mà gảy đàn, nghe rất hay. Sau đó khi luyện dải lụa, thấy quả cầu phát ra âm thanh rất có tiết tấu, cũng là do tâm tính thiếu nữ, nàng bèn đem thứ nhạc ấy phổ vào võ công. Trình tự năm tháng trong trời đất, sự sinh trưởng của thảo mộc, cho đến hơi thở, mạch đập của cơ thể người, đều có tiết tấu nhất định, âm nhạc là dựa vào tiết tấu tự nhiên của trời đất và con người mà hình thành, nên tiếng nhạc dặt dìu thì nghe êm tai dễ chịu, âm thanh nhộn nhạo, pha tạp rối rắm thì nghe rất mệt. Võ công khi phù hợp với âm nhạc, sử ra sẽ nhịp nhàng, đắc tâm ứng thủ.

Khinh công phái Cổ Mộ là tuyệt kỹ trong võ lâm, không một môn phái nào theo kịp, ở chốn trống trải hoang dã, người ta khó thấy chỗ mạnh của nó, còn đem nó ra sử dụng ở trong sảnh đường này, đích thị là phiêu dật vô luân, biến ảo vạn phương. Nàng suốt đời luyện công trong thạch thất, bây giờ trong sảnh đường tiến thoái như thần. Kim Luân pháp vương võ công tuy cao hơn hẳn nàng, nhưng khinh công thì không sánh được, chỉ thấy nàng chạy, nhảy, luồn lách, quả cầu phát ra âm thanh nghe như một khúc nhạc, nghe một hồi thì Kim Luân pháp vương cũng rung lắc cái kim luân, thế là cả đại sảnh tràn ngập âm thanh, lúc cao lúc thấp, lên bổng xuống trầm, nghe cũng thú vị. Âm thanh của cái kim luân phát ra có lúc nghe như tiếng gõ sắt, tiếng giết heo, tiếng đánh chó vô cùng quái dị.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung ngồi xem, đều nhớ lại tình cảnh hồi nhỏ ở Đào Hoa đảo, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Hoàng Dược Sư ba người giao đấu dựa theo tiếng nhạc, tưởng như đã ở một kiếp khác. Hai người này võ công tuy kỳ diệu, nhưng nói về giao đấu dựa theo tiếng nhạc, thì còn thua xa ba vị Hồng, Hoàng, Âu Dương.

Lúc này, Dương Quá vẫn thao thao bất tuyệt đếm chiêu, đã tới số “một ngàn lẻ năm, một ngàn lẻ sáu, một ngàn lẻ bảy…” song Tiểu Long Nữ vẫn không chính diện động thủ với Kim Luân pháp vương, Kim Luân pháp vương thì tính ra chưa đủ mười chiêu. Quách Phù ngủ vùi trong lòng mẹ, bị tiếng kim luân chói tai đánh thức, lấy hai tay bịt tai, ngẩng đầu lên nhìn, mặt ngơ ngơ ngác ngác, không hiểu có chuyện gì.

Lúc này Kim Luân pháp vương đã vô cùng sốt ruột, nghĩ bụng với địa vị một đại tông sư mà cứ loay hoay mãi không hạ nổi một thiếu nữ, nếu kéo dài thêm, dù có chiến thắng cũng đã mất hết thể diện, bèn giơ ngang cánh tay trái, kim luân chênh chếch, tả chưởng từ phía dưới bên trái hất lên, kim luân từ phía trên bên phải dập xuống. Hai người giao đấu đã lâu, lộ khinh công của Tiểu Long Nữ đã bị Kim Luân pháp vương xác định năm phần, hai sát chiêu này của lão là nhằm chặn đứng đường tiến thoái của nàng, nàng muốn tránh thoát đàng trước, thì không tránh nổi phía sau. Trong cơn nguy cấp, Tiểu Long Nữ hất dải lụa, cuốn lên một dải hoa trắng, thân hình vọt lên trên cao. Kim Luân pháp vương dùng kim luân khóa giữ dải lụa lại.

Nếu là binh khí thông thường, đã bị kim luân của lão khóa giữ, thì lập tức tuột khỏi tay, để lão đoạt mất; nhưng dải lụa lại chẳng có chút gì cứng rắn, quá ư nhẹ nhàng tuột khỏi vòng kim luân. Kim Luân pháp vương quát:

– Mới qua chiêu thứ hai, giờ đến chiêu thứ ba!

Lão dấn lên một bước, cái kim luân đột nhiên rời khỏi tay lão, bay về phía Tiểu Long Nữ.

Tuyệt chiêu này thực ngoài dự liệu của mọi người. Cái kim luân bay thẳng tới trước mặt Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ cả kinh, rùn người xuống, lùi nhanh ra phía sau, chỉ nghe loong chong, một vệt hoàng quang vụt qua, cách mặt chừng một tấc, luồng gió làm rát cả da. Giữa tiếng kêu hốt hoảng của mọi người, Kim Luân pháp vương rướn người, vươn dài cánh tay, hất một cái vào mép cái kim luân, cái kim luân ấy như một vật sống, đột nhiên chuyển mình trong không trung, vòng trở lại đuổi theo Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ thấy cái kim luân chuyển động dị thường như thế, đâu dám dùng dải lụa cuốn lấy, đành thi triển khinh công tuyệt đỉnh tránh sang một bên. Kim Luân pháp vương hai đòn không đánh trúng, kêu lên:

– Khinh công giỏi!

Đột nhiên dùng tả quyền đẩy một cái vào mép cái kim luân, đồng thời song chưởng cùng đẩy về phía trước mặt Tiểu Long Nữ, trong khi cái kim luân bay vòng lại tấn công sau gáy nàng. Cái kim luân bay tới không thật nhanh, nhưng kim luân chưa tới, gió đã ập đến, hiểm ác cùng cực. Kim Luân pháp vương khi đẩy một quyền vào cạnh cái kim luân, đã tiên liệu phương vị mà đối phương né tránh, cho nên cái kim luân cứ y như có mắt, bay một nửa vòng thì quay lại đánh vào gáy nàng.

Tiểu Long Nữ vừa rồi một nhảy lên, một lạng người sang bên, đã thi triển hết sở học bình sinh, lại thấy song chưởng của lão Tạng tăng ập tới trước mặt. Quần hùng tai bùng nhùng, mắt hoa lên, ai cũng kinh hồn.

Dương Quá thấy Tiểu Long Nữ bị nguy cấp, lo sợ cho nàng, thuận tay nhặt luôn cây kim cương chử mà Đạt Nhĩ Ba ném dưới đất, hai tay giơ cây chử lên hất cái kim luân đi; nghe choang một tiếng lớn, cây chử lọt ngay vào trong vòng kim luân, có điều là lực đạo của kim luân quá mạnh, làm chấn rách hổ khẩu cả hai tay chàng, máu tươi tức thì trào ra, chàng ngã huỵch xuống đất, lôi theo cây chử và kim luân. Tiểu Long Nữ thấy kim luân đã rơi xuống đất, nguy hiểm phía sau không còn, nhưng thân hình nàng đang lơ lửng trên không, làm sao tránh nổi đại địch trước mặt? Tình cấp trí sinh, dải lụa tung ra cuốn lấy cây cột phía tây, nàng kéo tay một cái, thân hình giữa không trung đã có chỗ mượn lực, liền bay chếch đi, nhẹ nhàng đáp xuống đất, rồi luồn ngay ra sau cây cột tránh được chưởng lực khủng khiếp của Kim Luân pháp vương.

Kim Luân pháp vương rõ ràng thấy mình đắc thủ, không ngờ bị Dương Quá ngăn cản giữa chừng, chẳng những đối phương thoát được, ngay cả thứ binh khí tung hoành vô địch của lão cũng bị kéo rơi xuống đất, thật là thất bại chưa từng có trong đời. Lão ta vốn khôn ngoan sáng suốt, lúc này tự dưng không còn biết gì hết, không đợi Dương Quá bò dậy, vung ngay chưởng đánh chàng. Về lý mà nói, lão là tông sư một phái, đối phương vừa là hậu bối, lại đã ngã chưa kịp đứng dậy, lão đánh như thế thật không xứng chút nào với thân phận và lòng tự phụ vốn có của lão, nhưng trong cơn thịnh nộ, lão đã bất chấp tất cả.

Quách Tĩnh thấy lão ta hầm hầm nhìn Dương Quá, cái vai hơi động, cánh tay hơi co, biết ngay là lão ta sắp hạ độc thủ, nghĩ thầm: “Nguy mất nếu mình sấn tới dù có ngăn lại, Dương Quá cũng không khỏi bị thương” thế là cũng không kịp nghĩ thêm, sử luôn chiêu “Phi long tại thiên”, bay vọt trên không, nhắm đỉnh đầu lão ta mà đánh xuống. Kim Luân pháp vương nếu không thu chưởng lại, tuy sẽ đánh chết Dương Quá, song chính lão cũng sẽ mất mạng bởi một chưởng trong “Hàng long thập bát chưởng” vô cùng lợi hại, thế là lão đành chuyển gấp chưởng về, “bùng” một tiếng, đối chưởng với Quách Tĩnh.

Hai vị đại sư võ học đương đại đối chưởng với nhau lần thứ hai. Quách Tĩnh lơ lửng trên không, không có chỗ mượn lực, thuận chưởng thế của đối phương mà lộn nửa vòng, đáp xuống phía sau. Kim Luân pháp vương đứng vững tại chỗ, người không lảo đảo chân không xê dịch, tựa hồ chẳng có gì xảy ra.

Những người biết võ công của Quách Tĩnh, như Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị, Điểm Thương Ngư Ẩn thấy thế đều không khỏi kinh hãi, công phu của lão Tạng tăng thật cao thâm khôn lường. Kỳ thực Quách Tĩnh lùi về phía sau, đã tự dưng hóa giải được chưởng lực của kẻ địch, là chính đạo vô học. Kim Luân pháp vương bị Dương Quá ngăn chặn, cảm thấy mất thể diện, muốn cứu vãn thể diện bằng cách tiếp chưởng của Quách Tĩnh, đã đại hao chân khí nội lực, tuy chiếm thượng phong, song bên trong thiệt to. Cả hai đều là hùng kiệt đương đại, trong vài chục chiêu khó phân thắng bại, Kim Luân pháp vương miễn cưỡng cố chiếm ưu thế trong một chiêu, ngực lại bị đau tức; may mà đối phương chỉ cốt cứu người, không tiếp tục tiến chiêu, nên lão có dịp mím môi, ngầm vận nội lực khai thông trệ khí trong ngực.

Dương Quá thoát chết, đứng lên, chạy tới bên Tiểu Long Nữ, Tiểu Long Nữ cũng đang bước lại xem chàng thế nào, cả hai cùng hỏi:

– Có sao không?

Hai người cùng gật đầu, cùng mỉm cười, nắm tay nhau vui sướng.

Dương Quá nhặt cây kim cương chử và cái kim luân lên, giơ cây chử quay quay cái kim luân như làm trò ảo thuật, cao giọng nói:

– Các võ sĩ Mông Cổ nghe đây, binh khí của lão đại quốc sư các ngươi đã bị ta đoạt mất, còn đòi làm minh chủ võ lâm cái cóc gì nữa, bảo lão ta mau xéo về với mụ bà bà Mông Cổ của lão đi!

Các võ sĩ Mông Cổ không phục, thấy Kim Luân pháp vương tỷ thí với Tiểu Long Nữ đã thắng rõ rồi, đối phương có Dương Quá nhảy ra chưa đủ, lại thêm Quách Tĩnh xông tới, bèn nhao nhao nói:

– Các người lấy ba địch một, không biết xấu hay sao?

– Kim Luân pháp vương tự quẳng cái kim luân đi, chứ nhà ngươi mà đòi đoạt được?

– Một chọi một thôi, người khác không được xen vào?

– Đúng đấy, đấu lại đi!

Họ nhao nhao lên, nhưng nói bằng tiếng Mông Cổ, trừ Quách Tĩnh ra, quần hùng Trung Nguyên chẳng ai hiểu họ nói gì.

Những người hiểu lý lẽ trong số quần hùng Trung Nguyên cũng biết rằng nói về võ công, Kim Luân pháp vương cao hơn Tiểu Long Nữ, song danh hiệu minh chủ võ lâm không thể để rơi vào tay một tên quốc sư Mông Cổ, nếu không võ lâm Trung Nguyên chẳng còn thể diện đã đành, mà mất cả nhuệ khí chống địch sau này. Những người trẻ tuổi thấy bọn võ sĩ Mông Cổ nhao nhao gì đó, thì cũng chửi mắng chúng ầm ĩ, đôi bên rút binh khí, sẵn sàng quần ẩu. Dương Quá giơ cao cái kim luân, nói với Kim Luân pháp vương:

– Còn chưa nhận thua hay sao? Lão đã đánh mất binh khí, còn thể diện gì nữa? Trên thế gian có vị minh chủ võ lâm nào để cho đối phương đoạt mất vũ khí hay không hả?

Kim Luân pháp vương đang ngầm vận nội lực, lời của Dương Quá lão ta nghe rõ mồn một, nhưng không dám mở miệng trả lời. Dương Quá nhìn lão đoán ngay ra ba phần, liền nói lớn:

– Các vị anh hùng nghe đây, tôi hỏi ba tiếng nữa, nếu lão ta không đáp, tức là đã nhận thua.

Chàng sợ kéo dài thời gian, Kim Luân pháp vương sẽ vận khí xong mất, liền hỏi một mạch:

– Lão nhận thua rồi phải không? Chức minh chủ võ lâm, lão không dám mơ đến nữa chứ gì? Lão im lặng không trả lời, tức là đã nhận thua phải không?

Kim Luân pháp vương chính vừa loại trừ được trệ khí, ngực không còn đau tức, định mở miệng trả lời, thì Dương Quá đã nói luôn:

– Thôi được, lão đã nhận thua, thì mọi người bên ta cũng không gây khó dễ cho lão, lão hãy đem cả bọn lui về đi.

Rồi chàng giao cái kim luân cho Quách Tĩnh. Chàng vốn định đưa cho sư phụ, nhưng sợ Kim Luân pháp vương nổi giận xông tới đoạt lại, Tiểu Long Nữ sẽ không địch nổi.

Kim Luân pháp vương giận tím mặt, nhưng sợ Quách Tĩnh võ công cao cường, cái kim luân đã rơi vào tay chàng, lão tay không xông tới khó lòng đoạt lại, nhìn các võ sĩ Trung Nguyên người đông thế mạnh, nếu là quần ẩu, phe của lão chắc chắn thảm bại. Người khôn ngoan biết nhịn nhục trước mắt, phục hận sau này, thế là lão nói to:

– Bọn Trung Nguyên ngụy kế đa đoan, cậy đông lấn lướt, không phải là anh hùng hảo hán, mọi người hãy theo ta về thôi.

Lão phẩy tay một cái, đám võ sĩ Mông Cổ cùng rút ra khỏi đại sảnh. Lão từ xa thi lễ với Quách Tĩnh, nói:

– Quách đại hiệp, Hoàng bang chủ, hôm nay lĩnh giáo cao chiêu. Non xanh không đổi, nước biếc chảy hoài, nhất định sẽ còn gặp lại.

Quách Tĩnh cúi mình đáp lễ, nói:

– Đại sư võ công tinh thâm, tại hạ hết sức thán phục. Binh khí của quí vị sư đồ, hãy nhận lại cho.

Nói xong định đưa trả cái kim luân và cây kim cương chử. Dương Quá nói to:

– Kim Luân pháp vương, lão giơ tay nhận lại mà không biết ngượng hay sao?

Quách Tĩnh quát:

– Quá nhi, đừng nói bậy.

Kim Luân pháp vương đã phất tay áo, quay người đi ra khỏi đại sảnh, không buồn ngoảnh đầu lại.

Dương Quá sực nhớ một việc, gọi giật giọng:

– Này, đệ tử Hoắc Đô của lão trúng ám khí có độc của ta, mau đưa thuốc giải đổi lấy giải dược của ta.

Kim Luân pháp vương tự phụ huyền công thông thần, hiểu sâu y lý, chất độc nào lão cũng chữa trị được, căm tức Dương Quá giảo hoạt vô lễ, nên chẳng thèm lý đến lời chàng, bỏ đi thẳng.

Hoàng Dung nhìn Chu Tử Liễu đang nhắm mắt ngủ say, nghĩ thầm quần hùng tề tựu ở đây chẳng thiếu gì danh gia sử dụng ám khí có chất độc, sẽ có người chữa trị được cho Chu Tử Liễu, nên việc Kim Luân pháp vương không chịu trao đổi thuốc giải, cũng chẳng đáng lo.

Lúc này khắp Lục gia trang người người reo hò, khen ngợi Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã chiến thắng Kim Luân pháp vương. Hàng mấy trăm người vây quanh hai người, râm ran bàn luận. Người thì bảo Dương Quá đánh bại Hoắc Đô là đã lấy “Gậy ông đập lưng ông”. Người thì ca ngợi khinh công tuyệt luân của Tiểu Long Nữ trong việc tránh né đòn phi kích của cái kim luân lợi hại. Còn về việc Dương Quá sử dụng “Di hồn đại pháp” làm cho Đạt Nhĩ Ba tự đánh hắn đến ngất xỉu, thì mười người có đến tám chín người không hiểu. Có người hỏi, Dương Quá chỉ nói nhăng nói cuội vài câu.

Hồi 14: Lễ giáo cản ngại

Lập tức Lục gia trang dọn dẹp đại sảnh, bày lại bàn tiệc. Dương Quá cả đời bị bao nhiêu ủy khuất; bị vô số khinh khi vũ nhục hôm nay mới được mở mày mở mặt, đã lập đại công cho võ lâm Trung Nguyên, ai ai cũng muốn được ngắm chàng, chàng vô cùng đắc ý.

Tiểu Long Nữ không am hiểu thế sự, thấy Dương Quá hoan hoan hỉ hỉ, nàng không rõ nguyên do, song cũng rất cao hứng. Hoàng Dung rất mến nàng, cầm tay nàng hỏi han điều này điều nọ, muốn nàng ngồi cùng bàn tiệc với mình. Tiểu Long Nữ thấy Dương Quá ngồi giữa Quách Tĩnh với Điểm Thương Ngư Ẩn, cách xa chỗ nàng, bèn vẫy tay gọi:

– Quá nhi, lại đây ngồi bên ta.

Dương Quá biết là nam nữ thụ thụ bất thân, lúc mới gặp nhất thời quên mất, đã biểu lộ chân tình, còn bây giờ trước con mắt chăm chú của bao nhiêu người, chàng không thể tỏ ra thân mật với nàng như ban nãy, cho nên nghe nàng gọi như vậy, chàng bất giác đỏ mặt, mỉm cười, song vẫn ngồi im.

Tiểu Long Nữ lại gọi:

– Quá nhi, sao không sang bên này?

Dương Quá nói:

– Tại hạ ngồi đây được rồi, Quách bá bá muốn nói chuyện với tại hạ.

Tiểu Long Nữ hơi cau mày, nói:

– Ta muốn ngươi ngồi bên cạnh ta cơ.

Dương Quá thấy thần tình hơi giận dỗi của nàng, thì dầu có tan xương nát thịt cũng chẳng dám trái ý nàng; nhớ hôm nào Lục Vô Song giận dỗi chỉ hơi giống Tiểu Long Nữ, mà chàng đã sẵn sàng thân chinh đưa nàng ta vượt ngàn dặm về phương nam, nữa là bây giờ chính người thật ngồi kia. Thế là chàng liền đứng dậy, đi tới ngồi trước mặt nàng.

Hoàng Dung thấy thần tình của hai người, thì trong bụng hơi nghi ngờ, hỏi Dương Quá:

– Quá nhi, võ công của ngươi là học được ở ai vậy?

Dương Quá chỉ Tiểu Long Nữ, nói:

– Đây là sư phụ của điệt nhi. Quách bá mẫu vẫn không tin hay sao?

Hoàng Dung vốn biết Dương Quá giảo hoạt, nhưng thấy Tiểu Long Nữ hồn nhiên thật thà, chắc nàng ta không nói dối, bèn quay đầu, hỏi nàng:

– Muội muội, võ công của Quá nhi là do muội dạy phải không?

Tiểu đong Nữ đắc ý, nói:

– Vâng, tỷ tỷ bảo muội dạy Quá nhi như thế có được không?

Hoàng Dung mới tin, nói:

– Được lắm! Muội muội, thế sư phụ của muội là ai?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ của muội đã chết rồi.

Nói rồi nước mắt rưng rưng, lòng xúc động. Sư phụ của nàng vốn dạy nàng không được khơi động thất tình lục dục, vậy mà tình ái sâu lắng đối với Dương Quá cứ không ngừng lộ ra.

Hoàng Dung lại hỏi:

– Xin hỏi quý tính đại danh của tôn sư.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Muội không biết, sư phụ là sư phụ mà.

Hoàng Dung nghĩ Tiểu Long Nữ không chịu nói, trong võ lâm người ta không cho biết sự thật về sư môn cũng là chuyển thường, nên không hỏi thêm. Kỳ thực sư phụ của Tiểu Long Nữ là a hoàn của Lâm Triêu Anh, chỉ gọi tên, chứ nàng cũng không biết họ là gì.

Lúc này các lộ quần hào võ lâm lần lượt tới chúc rượu Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ và Dương Quá bốn người, chúc mừng họ đã cùng nhau đánh bại cường địch là Kim Luân pháp vương. Quách Phù ở bên cha mẹ, vốn luôn được mọi người tôn trọng, lúc này xem ra mờ nhạt hẳn, trừ huynh đệ họ Võ vẫn ân cần săn đón, còn thì chẳng ai hỏi đến. Nàng buồn phiền, nói:

– Đại Võ ca ca, Tiểu Võ ca ca, chúng mình không uống rượu nữa, ra ngoài kia chơi đi.

Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn cùng đáp ứng. Cả ba đứng dậy, định ra khỏi sảnh, thì bỗng nghe Quách Tĩnh gọi:

– Phù nhi, lại đây nào.

Quách Phù thấy phụ thân đã chuyển sang ngồi cùng bàn tiệc với mẫu thân, mỉm cười, vẫy tay gọi nàng lại gần, nàng bèn tới cạnh, tựa người vào bên mẫu thân. Quách Tĩnh nói với Hoàng Dung:

– Nàng thoạt đầu cứ lo Quá nhi nhân phẩm bất chính, võ công non kém, khó sánh kịp Phù nhi. Bây giờ thì nàng không còn gì để chê nữa phải không? Quá nhi đã lập đại công đối với anh hùng Trung Nguyên, chẳng những không có sai phạm gì, mà dù có sai phạm, thì cũng không đáng kể so với công lao.

Hoàng Dung gật đầu, cười, nói:

– Hồi trước thiếp để mắt đi đâu không biết, Quá nhi cả nhân phẩm lẫn võ công đều tốt, thiếp rất mừng.

Quách Tĩnh thấy thê tử đã đáp ứng hôn sự của con gái, thì cả mừng, nói với Tiểu Long Nữ:

– Long cô nương, phụ thân quá cố của lệnh đồ ngày trước có kết nghĩa huynh đệ với tại hạ. Dương, Quách hai họ nhiều đời giao hảo, tại hạ có một đứa con gái, dung mạo và võ công đều rất khá…

Quách Tĩnh bộc trực, nghĩ sao nói vậy. Hoàng Dung cười, ngắt lời:

– Ô hay, sao chàng lại tự khoe khoang nữ nhi mình như thế, không sợ Long gia muội tử cười cho à?

Quách Tĩnh cười hà hà, tiếp lời:

– Ý của tại hạ là muốn gả con gái cho Quá nhi. Phụ mẫu của Quá nhi đều đã qua đời, việc hôn sự xin nhờ Long cô nương chủ trì cho. Nhân dịp hôm nay quần hiền tề tựu, có thêm điều vui, chúng ta hãy mời hai vị anh hùng tuổi cao đức lớn làm mối đính hôn luôn có được chăng?

Thời ấy việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ định liệu, người làm mối tuyên ngôn, bản thân nam nữ không được làm theo ý mình. Trước kia phụ thân của Quách Tĩnh là Quách Khiếu Thiên và tổ phụ của Dương Quá là Dương Thiết Tâm đã định hôn ước từ khi thê tử của hai người mới có thai.

Quách Tĩnh vừa nói vừa cười hì hì, nhìn Dương Quá và Quách Phù. Tường rằng Tiểu Long Nữ sẽ hoàn tất mỹ sự. Quách Phù thì mặt đỏ bừng, giấu mặt vào vai mẫu thân, cảm thấy không ổn, nhưng không dám nói gì cả.

Tiểu Long Nữ hơi biến sắc, chưa kịp trả lời, thì Dương Quá đã đứng lên, vái Quách Tĩnh và Hoàng Dung một cái thật dài, nói:

– Đại ân dưỡng dục, tình thương mến của Quách bá bá và Quách bá mẫu, điệt nhi nát thân cũng khó báo đáp. Nhưng điệt nhi gia thế hàn vi, nhân phẩm thấp kém, muôn phần không xứng với thiên kim tiểu thư của Quách bá bá và Quách bá mẫu.

Quách Tĩnh cứ tưởng vợ chồng mình nổi danh khắp thiên hạ, con gái mình phẩm hạnh và võ công đều là nhân tài hạng nhất, giờ chàng đích thân gả con cho Dương Quá, chắc Dương Quá sẽ vô cùng hoan hỉ mới phải, đằng này lại cự tuyệt, thì ngẩn ra, nhưng lại nghĩ chắc Dương Quá còn ít tuổi, bẽn lẽn ngượng ngùng, liền cười ha hả, nói:

-Quá nhi, chúng ta không phải người ngoài, chung thân đại sự này không cần phải xấu hổ.

Dương Quá lại vái dài, rồi nói:

– Quách bá bá, bá bá có gì sai khiến, điệt nhi dẫu phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, cũng không dám từ nan. Nhưng còn việc hôn nhân, điệt nhi quả thật không thể vâng mệnh.

Quách Tĩnh thấy vẻ mặt Dương Quá trịnh trọng, thì rất đỗi kinh ngạc, nhìn thê tử, mong nàng nói rõ. Hoàng Dung thầm trách phu quân trực tính, chưa thăm dò xem sao, đã nói thẳng trước mặt mọi người giữa bàn tiệc, nên vấp ngay phải sự cự tuyệt, thấy thần tình giữa Dương Quá với Tiểu Long Nữ đầy vẻ luyến ái, song rõ ràng hai người ấy tự nhận là sư đồ, không lẽ họ lại dám làm cái việc trái luân thường hay sao? Việc này thật là khó nói, nghĩ thầm Dương Quá tuy chưa hẳn đã là chính nhân quân tử, song cũng không dám làm bậy đến như vậy. Người đời Tống trọng nhất lễ giáo, tôn ti luân thường giữa sư đồ được coi trọng không khác gì quan hệ quân thần, phụ tử nhất quyết không được nghịch loạn. Hoàng Dung tuy có nghi ngờ, nhưng việc này quá lớn, nhất thời chưa dám tin, bèn hỏi Dương Quá:

– Quá nhi, Long cô nương đúng là sư phụ của ngươi chứ?

Dương Quá đáp:

– Thưa, đúng ạ!

Hoàng Dung lại hỏi:

– Ngươi đã khấu đầu, hành đại lễ bái sư chứ?

Dương Quá đáp:

– Thưa, vâng ạ !

Chàng miệng trả lời Hoàng Dung, nhưng mắt thì nhìn Tiểu Long Nữ, ánh mắt dịu dàng đắm đuối, thâm liên mật ái, đừng nói Hoàng Dung quá đủ thông minh, ngay bất cứ ai nhìn vào cũng biết ngay hai người không chỉ có tình sư đồ mà thôi.

Quách Tĩnh chưa rõ dụng ý của thê tử, nghĩ thầm: “Quá nhi đã nói ngay nó là đệ tử của Long cô nương, võ công của hai người quả nhiên nhất lộ đồng phái, đâu phải là giả mà còn hỏi? Mình nhắc đến chuyện hôn nhân với Phù nhi, sao nàng lại hỏi nó về môn phái sư thừa? Hừ, thoạt tiên nó theo phái Toàn Chân, sau đi theo sư phụ khác, tuy không phù hợp qui củ võ lâm, song chuyện ấy hóa giải cũng không khó”.

Hoàng Dung thấy thần sắc của Dương Quá với Tiểu Long Nữ, thì ngầm kinh ngạc, nháy mắt với phu quân, nói:

– Phù nhi còn ít tuổi, chuyện hôn nhân chưa cần vội. Hôm nay quần hùng tề tựu, còn phải thương nghị đại kế quốc gia. Chuyện riêng của nữ nhi, chúng ta hãy tạm gác một bên.

Quách Tĩnh nghĩ đúng vậy, bèn nói:

– Phải, phải lắm! Ta chút nữa thì lo chuyện riêng, quên việc chung. Long cô nương, việc hôn nhân của Quá nhi với tiểu nữ, chúng ta để sau hãy bàn vậy.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Muội tự mình muốn làm thê tử của Quá nhi, Quá nhi sẽ không lấy nữ nhi của huynh đâu.

Câu này nói rất rành rọt, mấy trăm người trong đại sảnh đều nghe rõ. Quách Tĩnh sửng sốt, đứng bật dậy, không tin vào tai mình nữa, nhưng thấy Tiểu Long Nữ nắm tay Dương Quá, thần tình thân mật, thì không thể không tin, ấp úng nói:

– Hắn… hắn là đồ… nhi của cô nương kia mà, chẳng lẽ không phải vậy sao?

Tiểu Long Nữ bao nhiêu năm sống trong hầm mộ, không có ánh mặt trời, mặt trắng nhợt như không hạt máu, nhưng lúc này trong lòng sung sướng, má hơi ửng hồng, trông tươi như đóa hoa chớm nở, mỉm cười, nói:

– Đúng vậy, trước đây muội có dạy võ công cho Quá nhi, nhưng hiện nay võ công của Quá nhi đã ngang với muội rồi. Quá nhi thích muội, muội cũng rất thích Quá nhi. Dạo trước…

Nói đến đây, giọng nàng thấp xuống, tuy hồn nhiên chất phác, nhưng cái ngượng ngùng của nữ nhi là đặc tính bẩm sinh, nàng thong thả nói tiếp:

– Dạo trước… muội cứ tưởng Quá nhi không thích muội, không muốn muội làm thê tử của chàng, muội … muội đau lòng quá chừng, đã định chết quách cho xong. Đến hôm nay muội mới biết Quá nhi thật lòng luyến ái muội, muội… muội…

Sảnh đường mấy trăm con người im lặng như tờ, lặng nghe nàng thổ lộ tâm sự. Thường thì một thiếu nữ dẫu trong lòng tràn đầy nhiệt ái, cũng không khi nào thổ lộ trước Quách Tĩnh là người không liên can, và trước cả công chúng như vậy. Nhưng vì nàng không biết chút gì về nhân tình lễ giáo, nàng chỉ thấy cần nói ra điều đó, liền nói ngay ra.

Dương Quá nghe nàng thổ lộ chân tình, thì vô cùng cảm động, song nhìn vẻ mặt kinh dị của hết thảy mọi người xung quanh, thấy họ vừa ngượng ngùng, vừa chê trách, thì chàng biết là Tiểu Long Nữ quá ngây thơ về thế sự, lẽ ra không nên nói ra điều đó ở đây bèn kéo nàng đứng dậy, dịu dàng nói:

– Cô cô chúng mình đi thôi!

Tiểu Long Nữ nói:

– Được!

Hai người sánh vai nhau đi ra cửa đại sảnh. Lúc này quần hùng tề tựu trong đại sảnh rất đông, nhưng dưới con mắt của Tiểu Long Nữ, thì chỉ có một mình Dương Quá mà thôi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung kinh ngạc nhìn nhau, trong đời hai vợ chồng từng gặp muôn ngàn chuyện quái dị, khó hiểu; nhưng sự việc trước mắt thì không tài nào tưởng tượng nổi, nhất thời chưa biết đối phó thế nào.

Tiểu Long Nữ và Dương Quá sắp bước ra khỏi cửa, thì Hoàng Dung gọi:

– Long cô nương, cô nương là minh chủ võ lâm, ai nấy trông chờ, hi vọng ở cô nương, mong cô nương hãy suy nghĩ cho kỹ.

Tiểu Long Nữ ngoảnh đầu lại, cười hồn nhiên, nói:

– Muội không làm nổi minh chủ minh tớ gì đâu, nếu tỷ tỷ thích, thì tỷ tỷ làm thay cho muội đi.

Hoàng Dung nói:

– Không, nếu cô nương quả thật muốn nhường, thì hãy nhường lại cho vị anh hùng tiền bối Hồng lão bang chủ.

Minh chủ võ lâm là danh vị tôn vinh nhất của các bậc võ học, Tiểu Long Nữ chẳng để tâm chút nào, chỉ cười, nói:

– Việc đó cứ tùy ý tỷ tỷ, muội không biết gì đâu.

Rồi nàng kéo tay Dương Quá bước ra. Bỗng nhiên tay áo quạt gió, nến hồng lay lắt chực tắt, một người từ trong sảnh nhảy ra, thân mặc đạo bào, tay cầm trường kiếm, chính là đạo sĩ phái Toàn Chân Triệu Chí Kính. Y giơ kiếm chắn ngang cửa sảnh, quát to:

– Dương Quá, ngươi khi sư diệt tổ, đã không biết xấu hôm nay còn giở trò cầm thú, làm sao có thể đứng giữa trời đất? Triệu mỗ dẫu còn một hơi thở, cũng không dung tha cho ngươi.

Dương Quá không muốn dây dưa với Triệu Chí Kính trước mặt mọi người, chỉ gằn giọng quát:

– Tránh ra!

Triệu Chí Kính nói to:

– Doãn sư đệ, mau tới đây, sư đệ hãy nói đi, đêm nào trên núi Chung Nam, chúng ta từng chính mắt nhìn thấy hai người này thân thể lõa lồ, đang làm trò gì nào?

Doãn Chí Bình run rẩy đứng dậy, giơ tay trái lên.

Mọi người thấy ngón tay út và ngón vô danh bị cụt một nửa, tuy không hiểu hàm ý, nhưng nhìn y run rẩy, sắc diện kỳ dị, thì đoán là bên trong có chuyện mờ ám.

Dương Quá đêm ấy cùng Tiểu Long Nữ luyện “Ngọc nữ tâm kinh” bên bụi hoa, bị Triệu, Doãn hai gã bắt gặp, Dương Quá đã buộc Triệu Chí Kính phải thề không được nói với người thứ năm, không ngờ hôm nay y lại đem ra nói trước đông đảo quần hào, thì cả giận, quát:

– Ngươi đã thề không nói với người thứ năm, tại sao lại… lại đi…

Triệu Chí Kính cười hô hố, nói to:

– Đúng, ta đã thề không nói với người thứ năm, nhưng ở đây có người thứ sáu, người thứ bảy, người thứ một trăm một ngàn, chứ đâu phải là người thứ năm. Hai đứa ngươi làm trò khỉ, ta cứ nói ra đấy.

Triệu Chí Kính nửa đêm nhìn thấy hai người ở bên bụi hoa, áo quần xộc xệch, làm sao nghĩ hai người đang tu tập võ công thượng thừa? Lúc này giận dữ đem nói toạc ra, kể cũng không phải là cố y vu hãm.

Tiểu Long Nữ đêm ấy bị thổ huyết, suýt nữa mất mạng, bây giờ nghe y lu loa, thì không nhịn được nữa, bèn giơ tay đẩy nhẹ vào ngực y, nói:

– Ngươi nói láo như thế đủ rồi.

“Ngọc nữ tâm kinh” nàng đã luyện thành từ sớm, một chưởng này vô ảnh vô tung, “Ngọc nữ tâm kinh” lại là khắc tinh của võ công phái Toàn Chân. Triệu Chí Kính vội giơ tay gạt ra, không ngờ bàn tay của Tiểu Long Nữ đã vòng qua tay y, đẩy ngay vào ngực.

Triệu Chí Kính gạt sểnh cả kinh, bàn tay của đối phương đã đẩy nhẹ vào ngực, hầu như không có cảm giác gì, thì y chẳng để tâm, cười gằn, nói:

– Nàng sờ mó ta làm chi? Ta chẳng…

Lời chưa dứt, hai mắt đã trợn ngược, huỵch một cái, y đã ngã ngửa, bị nội thương rất nặng.

Tôn Bất Nhị và Hách Đại Thông thấy sư điệt bị thương, vội chạy ra đỡ dậy, chỉ thấy máu dồn lên mặt y đỏ bừng như kẻ say rượu. Tôn Bất Nhị cười khẩy, nói:

– Nhãi con, phái Cổ Mộ các ngươi đúng là đối nghịch với phái Toàn Chân của ta.

Đoạn rút trường kiếm định động thủ với Tiểu Long Nữ.

Quách Tĩnh vội từ bàn tiệc lao ra, đứng giữa hai người, khuyên:

– Chúng ta là người mình cả, không nên tương tranh.

Quay sang nói với Dương Quá:

– Quá nhi, đôi bên đều là sư tôn của ngươi. Ngươi hãy khuyên mọi người trở lại bàn, thong thả phân biện phải trái cũng không muộn.

Tiểu Long Nữ không thể ngờ trên thế gian lại có kẻ nói rồi trở mặt bội tín, trong lòng quá ư chán ngán, bèn nắm tay Dương Quá, cau mày, nói:

– Quá nhi, chúng mình đi thôi, vĩnh viễn không nhìn mặt bọn kia nữa!

Dương Quá đi theo nàng.

Tôn Bất Nhị vung kiếm, quát:

– Đả thương người rồi bỏ đi ư?

Quách Tĩnh thấy đôi bên lại định tranh chấp hơn thua, bèn nghiêm mặt, nói:

– Quá nhi, ngươi hãy tỏ ra vững vàng, làm người tử tế, đừng gây chuyện để thân bại danh liệt. Tên của ngươi là do ta đặt, ngươi có biết chữ “Quá” có hàm ý gì hay không?

Dương Quá nghe vậy giật mình, đột nhiên nhớ bao chuyện thời thơ ấu, bao điều sỉ nhục đau lòng, lại nghĩ thầm: “Sao tên mình lại do Quách bá bá đặt nhỉ?”

Quách Tĩnh hết mực thương yêu Dương Quá, thấy hôm nay trước mặt quần hùng chàng đã lập đại công, đang vô cùng hãnh diện, thì đột nhiên phát hiện chàng lại làm một việc muôn phần không nên làm, nên ra giọng nói hết sức nghiêm nghị:

– Mẫu thân quá cố của ngươi chắc cũng đã nói cho ngươi biết, chữ “Quá” trong tên của ngươi có hàm ý gì chứ?

Dương Quá nhớ mẫu thân từng nói với chàng, nhưng bấy giờ chàng còn quá nhỏ, cũng không có ai dùng tên chữ để gọi chàng, nên hầu như chàng đã quên, bèn đáp:

– Hàm ý “sửa đi”.

Quách Tĩnh nói:

– Đúng thế, vậy nghĩa là gì?

Dương Quá nghĩ một chút, nhớ đến kinh thư mà Hoàng Dung đã dạy qua, bèn nói:

– Nghĩa là Quách bá bá bảo điệt nhi có lầm lỗi thì phải hối cải.

Giọng nói của Quách Tĩnh đã dịu lại:

– Quá nhi, người ta ai cũng có thể lầm lỗi, lầm lỗi rồi mà biết hối cải, thì không gì tốt hơn, đấy là lời thánh hiền đã dạy đó. Ngươi bất kính đối với sư tôn, là lầm lỗi lớn, ngươi hãy suy nghĩ một chút xem.

Dương Quá nói:

– Nếu điệt nhi lầm lỗi, dĩ nhiên phải hối cải, nhưng hắn ta…

Chàng chỉ Triệu Chí Kính, nói tiếp:

– Hắn ta đánh đập điệt nhi, vũ nhục, lừa dối, căm ghét điệt nhi, làm sao điệt nhi có thể nhận hắn ta làm sư phụ? Điệt nhi và Long cô cô hoàn toàn thanh bạch, có trời đất chứng giám. Điệt nhi kính ái Long cô cô, không lẽ như thế là sai hay sao?

Chàng nói, lời lẽ hùng hồn, có lý. Quách Tĩnh cơ trí, tài nói năng đều thua xa, nói sao cho lại, chỉ biết hành vi của Dượng Quá là lầm lỗi rất lớn, song không biết diễn giải thế nào mới phải, cứ ngắc ngứ:

– Chuyện ấy… chuyện ấy… ngươi không đúng…

Hoàng Dung thong thả lại gần, dịu giọng nói:

– Quá nhi, Quách bá bá chỉ mong điều tốt cho ngươi, ngươi nên nhớ kỹ.

Dương Quá nghe giọng nói dịu dàng ấm áp của Hoàng Dung, xúc động, cũng dịu giọng:

– Quách bá bá luôn đối tốt với điệt nhi, điệt nhi biết lắm chứ.

Nước mắt lưng tròng, chút nữa thì trào ra.

Hoàng Dung nói:

– Quách bá bá thật tình khuyên ngươi, ngươi chớ hiểu sai ý của Quách bá bá.

Dương Quá nói:

– Điệt nhi chỉ không hiểu, rốt cuộc thì điệt nhi đã phạm lỗi lầm gì?

Hoàng Dung cau mặt, nói:

– Ngươi quả thật không hiểu, hay là còn vờ vịt với chúng ta?

Dương Quá tức giận nghĩ thầm: “Các vị tử tế đối với ta, ta cũng báo đáp tử tế, vậy còn muốn gì nữa chứ?” Chàng cắn môi không đáp. Hoàng Dung nói:

– Được, ngươi đã muốn ta nói thẳng, thì ta cũng không vòng vo nữa. Long cô cô đã là sư phụ của ngươi, tức là bậc tôn trưởng của ngươi, thì không được phép có chuyện tư tình nam nữ.

Qui củ này, Dương Quá không phải là hoàn toàn không hay biết như Tiểu Long Nữ, song chàng chưa phục, tại sao chỉ vì cô cô từng dạy võ cho chàng, mà nàng không thể trở thành thê tử của chàng kia chứ? Tại sao chàng không hề có hành vi bất chính với cô cô mà Quách bá bá cũng không chịu tin? Nghĩ đến đây cơn giận trào lên ngực. Chàng vốn là kẻ bất cần, chẳng sợ trời sợ đất, lúc này bị oan uổng, thì càng bất chấp, bèn lớn tiếng nói:

– Điệt nhi đã làm điều gì sai trái với các vị? Đã làm hại ai chưa? Long cô cô dạy điệt nhi võ công, điệt nhi muốn lấy nàng làm vợ đấy. Các vị có chém điệt nhi nghìn đao, muôn kiếm, thì điệt nhi cũng cứ muốn lấy nàng làm vợ.

Mấy câu này quả thực khiến hết thảy kinh hãi. Thời ấy người đời Tống hết sức câu nệ lễ giáo khắt khe, có bao giờ nghe những lời ngỗ nghịch bất chấp luân lý như thế. Quách Tĩnh một đời rất mực tôn kính sư phụ, nghe vậy thì nộ khí bốc lên đầu, bèn giơ tay thộp ngực Dương Quá.

Tiểu Long Nữ giật mình, giơ tay gạt đi. Quách Tĩnh võ công cao hơn hẳn nàng, lúc này trong cơn thịnh nộ, càng xuất toàn lực, hất một cái khiến nàng bắn ra xa hơn một trượng, tiếp đó chộp tới huyệt Thiên Đột ở ngực Dương Quá, tay trái giơ lên, quát:

– Tên súc sinh, ngươi dám nói những lời đại nghịch thế ư?

Dương Quá bị Quách Tĩnh thộp ngực, toàn thân mất hết sức lực, nhưng trong lòng không một chút sợ hãi, nói bằng giọng sang sảng:

– Long cô cô toàn tâm toàn ý luyến ái điệt nhi, điệt nhi đối với nàng cũng hệt như vậy. Quách bá bá muốn giết điệt nhi thì cứ ra tay; chủ ý của điệt nhi, kiếp này quyết không thay đổi

Quách Tĩnh nói:

– Ta coi ngươi như thân sinh nhi tử, ta quyết không cho phép ngươi đã lầm lỗi còn không chịu hối cải.

Dương Quá hiên ngang đáp:

– Điệt nhi không hề lầm lỗi! Điệt nhi không hề làm việc gì bại hoại! Điệt nhi không làm hại ai.

Ba câu nói được nói ra bằng giọng quả quyết, đanh chắc.

Quần hùng trong sảnh nghe xong, cảm thấy lời nói của Dương Quá cũng vài phần có lý; giả dụ sư đồ hai người họ sống ở cõi đào nguyên, hoặc ở một hoang đảo nào đó mà kết thành phu phụ, suốt đời không ai biết, thì đúng là chẳng tổn hại gì cho ai cả. Có điều ở đây là nhân tâm thế đạo, hai người công nhiên bất chấp để làm bừa như vậy, thì bị coi là chuyện bại hoại trong võ lâm.

Quách Tĩnh giơ chưởng lên, buồn rầu nói:

– Quá nhi, ta rất đau lòng, ngươi biết không? Ta thà để ngươi chết, còn hơn để ngươi làm việc xấu, ngươi hiểu không?

Nói câu cuối, giọng Quách Tĩnh nghẹn ngào.

Dương Quá nghe vậy, biết nếu mình không nói khác đi, Quách bá bá sẽ một chưởng đánh chết chàng.

Chàng có những lúc khôn ngoan giảo hoạt né tránh, nhưng lúc này lại hết sức quật cường, sang sảng nói:

– Điệt nhi biết mình không hề lầm lỗi, Quách bá bá không tin thì cứ việc đánh chết điệt nhi đi.

Quách Tĩnh giơ cao tay trái, một chưởng này nếu đánh xuống đỉnh đầu Dương Quá, thì chàng tất mất mạng. Quần hùng nín thở, mấy trăm cặp mắt đều nhìn bàn tay đó của Quách Tĩnh. Quách Tĩnh nhìn Dương Quá, thấy chàng cắn môi, cau mày, trông giống hệt phụ thân Dương Khang của chàng năm xưa, thì trong lòng nhói đau, thở dài, tay phải đang túm ngực Dương Quá buông ra, nói:

– Ngươi hãy suy xét cho thật kỹ.

Rồi quay mình trở lại bàn, không nhìn Dương Quá lần nào nữa, vẻ mặt bi thương, tuyệt vọng.

Tiểu Long Nữ vẫy tay, gọi:

– Quá nhi, mấy người kia ngang ngược quá, chúng mình đi thôi.

Nàng hoàn toàn không biết rằng vừa rồi Dương Quá ở giữa lằn ranh sống chết. Dương Quá nghĩ bụng hai chữ “ngang ngược” rất đúng với đám người kia, chàng rảo bước đi ra, tay nắm tay Tiểu Long Nữ, ra bên ngoài trang viện, dắt theo con ngựa gầy mà đi.

Quần hùng nhìn theo bóng hai người, kẻ tức giận, kẻ tiếc nuối, kẻ cảm thông, kẻ kinh dị.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ sánh vai nhau đi đến lúc đêm đã về khuya. Hai người cửu biệt trùng phùng, đã quên luôn mấy phen ác đấu, tranh biện vừa trải qua, lúc này được thảnh thơi ở bên nhau, cảm thấy nhân sinh thật tươi đẹp, quá khứ đã sống uổng phí, tương lai chắc gì đã bằng hiện tại. Hai người tâm linh tương thông, không nói một lời, lặng lẽ đi bên nhau.

Đến dưới một gốc thùy dương, thì ngồi xuống, tựa lưng vào thân cây, cảm thấy mệt mỏi, cùng ngủ thiếp đi. Con ngựa gầy gặm cỏ cách đó một quãng, thỉnh thoảng hí khẽ một tiếng.

Tỉnh giấc, trời đã sáng bạch, hai người nhìn nhau cười. Dương Quá nói:

– Cô cô, chúng mình đi đâu bây giờ?

Tiểu Long Nữ nghĩ một lát, nói:

– Trở về tòa cổ mộ còn hơn.

Nàng từ ngày xuống núi, cảm thấy cuộc sống ở ngoài nhà mồ tuy phồn hoa, nhưng rốt cuộc lại không bằng cảnh tiêu dao tự tại trong nhà mồ. Dương Quá nghĩ thầm: “Được sống suốt đời với cô cô trong nhà mồ, cũng không cần gì hơn”. Trước đây chàng khắc khoải nhớ thế giới bên ngoài, chỉ mong Tiểu Long Nữ thả cho chàng ra khỏi nhà mồ, nhưng sau một thời gian ở bên ngoài, chàng lại lưu luyến cuộc sống thanh tịnh trong nhà mồ. Thế là hai người nhắm hướng bắc mà thong thả đi. Một người gọi “Quá nhi”, người kia gọi “Cô cô”, xưng hô như thế cảm thấy tự nhiên dễ chịu.

Giữa trưa, hai người nhắc đến võ công của Kim Luân pháp vương, đều nói là võ công quá cao cường, khó lòng địch nổi. Tiểu Long Nữ bỗng nói:

– Quá nhi, chương cuối cùng của “Ngọc nữ tâm kinh” chúng mình luyện chưa thạo, Quá nhi còn nhớ không?

Dương Quá nói:

– Nhớ thì nhớ đấy, nhưng chúng ta tập đi tập lại vẫn không thành, chắc là có chỗ nào đó không đúng cách.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta vốn cũng nghĩ mãi không ra, nhưng hôm qua nhìn lão đạo cô lắc bảo kiếm mấy cái, ta đã nghĩ ra một chuyện.

Dương Quá hồi tưởng kiếm chiêu mà Tôn Bất Nhị sử hôm qua, lập tức lĩnh ngộ, thốt lên:

– Đúng rồi, đúng rồi, cần phải sử dụng đồng thời võ công phái Toàn Chân với “Ngọc nữ tâm kinh”, hèn chi chúng ta luyện mãi không được.

Thời trước tổ sư phái Cổ Mộ Lâm Triêu Anh sống một mình trong nhà mồ, sáng tạo “Ngọc nữ tâm kinh”, tuy muốn khắc chế võ công phái Toàn Chân, nhưng tình ý với Vương Trùng Dương thủy chung không giảm, khi viết đến chương cuối cùng, tưởng tượng sẽ có một ngày nào đó sát cánh với người trong mộng mà đánh địch, cho nên võ thuật trong chương này là một người sử dụng “Ngọc nữ tâm kinh”, người kia sử dụng võ công phái Toàn Chân, phân tiến hợp kích. Khi ấy Lâm Triêu Anh đem toàn bộ cõi lòng với bao tình cảm sâu xa, ý tứ triền miên gửi gắm vào chương võ kinh này. Song kiếm tung hoành là khách, kề vai đánh địch mới là chủ; song lúc khắc lại trên trần thạch thất, không tiện ghi chú rõ tâm sự đó. Lúc Tiểu Long Nữ và Dương Quá mới luyện, đôi bên chưa luyến ái nhau, không tài nào hiểu nổi thâm ý của tổ sư bà bà, khi tập hai người đều sử dụng tâm pháp bản môn, tất nhiên không lĩnh hội được diệu chỉ hàm chứa trong đó.

Bây giờ hai cùng ngộ ra, bèn bẻ cành liễu mà đối chiêu với nhau. Tiểu Long Nữ chậm rãi sử “Ngọc nữ kiếm pháp”, Dương Quá thì sử kiếm pháp phái Toàn Chân; nhưng trao đổi mấy chiêu, vẫn cảm thấy khó bề ăn ý. Hai người không nghĩ được rằng Lâm Triêu Anh khi sáng tạo pho kiếm pháp này, trong lòng thầm mơ ước kề vai với Vương Trùng Dương chống địch, mỗi chiêu thức đều phối hợp chiếu cố nhau; còn lúc này Dương Quá và Tiểu Long Nữ lại đấu với nhau, tức thị coi đối phương là địch mất rồi, ngược hẳn với hàm ý. Thực ra Lâm Triêu Anh và Vương Trùng Dương đều là đệ nhất cao thủ đương thời, chỉ một trong hai người đã không ai địch nổi, huống hồ hai người liên thủ với nhau, thành thử môn võ công ấy sẽ trở nên vô dụng.

Chẳng qua Lâm Triêu Anh sáng tạo ra chỉ để gửi gắm tâm sự mà thôi. Khi ấy, võ công của Lâm Triêu Anh đã đạt tới cảnh giới tột đỉnh, chiêu thức kình cấp, vô cùng chặt chẽ, không sai lệch một ly, Dương Quá và Tiểu Long Nữ không hiểu hàm ý bên trong, làm sao có thể đắc tâm ứng thủ.

Hai người luyện một hồi vẫn cảm thấy không đúng,

Tiểu Long Nữ nói:

– Có lẽ chúng mình nhớ lầm, khi nào về đến nhà mồ xem lại cho rõ, rồi hãy luyện.

Dương Quá đang định trả lời, bỗng nghe phía xa có tiếng vó ngựa, rồi một con ngựa lông màu đỏ tuyền phi tới như bay, ngồi trên lưng ngựa là một thiếu phụ mặc áo tím, trong nháy mắt, một người một ngựa lướt qua như gió, chính là Hoàng Dung cưỡi con ngựa hồng. Dương Quá không muốn gặp lại người nào ở nhà ấy cho khỏi phiền phức, bèn bàn với Tiểu Long Nữ bỏ đường lớn, đi đường nhỏ, để khỏi gặp lại. Tiểu Long Nữ tuy là sư phụ, nhưng trừ võ công, mọi chuyện còn lại nàng đều không hiểu gì cả, Dương Quá bảo đi đường nhỏ, thì nàng bằng lòng ngay. Tối hôm ấy, họ nghỉ đêm trong một tiểu khách điếm. Dương Quá nằm trên giường, Tiểu Long Nữ vẫn dùng dây thừng buộc chéo căn phòng mà nằm ngủ trên dây. Hai người đã quyết ý kết thành phu phụ, nhưng mấy năm qua ở “Hoạt tử nhân mộ” họ đã quen ngủ như vậy, bây giờ gặp lại, họ vẫn tự nhiên nằm ngủ như cũ, chỉ khác là bây giờ trong lòng biết rằng có ý trung nhân ở bên cạnh, không bao giờ xa nhau nữa, đều rất vui và an tâm.

Trưa hôm sau hai người tới một thị trấn lớn. Nơi đây ngựa xe qua lại rất tấp nập. Dương Quá dẫn Tiểu Long Nữ vào một tửu lâu dùng cơm. Vừa lên trên lầu, chàng sững người, thấy Hoàng Dung cùng huynh đệ họ Võ đang ngồi ăn cơm ở một bàn. Dương Quá nghĩ thầm đã gặp, thì không tiện giả bộ không thấy, bèn bước tới hành lễ, nói:

– Quách bá mẫu.

Hoàng Dung vẻ mặt buồn bã lo lắng, hỏi:

– Ngươi có gặp nữ nhi của ta hay không?

Dương Quá nói:

– Không, Phù muội không đi với Quách bá mẫu hay sao?

Hoàng Dung chưa trả lời, thì cầu thang lầu có tiếng mấy người đi lên, người đi đầu thân hình cao lớn, chính là Kim Luân pháp vương. Dương Quá vội ngoảnh đi, không nói chuyện thêm với Hoàng Dung, lẳng lặng đến bên Tiểu Long Nữ, nói nhỏ:

– Quay mặt đi, đừng nhìn bọn chúng.

Nhưng Kim Luân pháp vương rất tinh mắt, vừa lên lầu lão ta đã nhìn khắp lượt, biết có những ai, lão cười hì hì, ngồi xuống một bàn. Dương Quá đã ngoảnh đi bỗng nghe tiếng Hoàng Dung gọi:

– Phù nhi!

Chàng bất giác quay đầu lại, thấy Quách Phù ngồi cùng bàn với Kim Luân pháp vương, mắt mở to nhìn mẫu thân, song lại không dám đi sang đó.

Nguyên Kim Luân pháp vương bị bại ở Lục gia trang, trong lòng ấm ức, nghĩ cách chuyển bại thành thắng, hiềm nỗi Hoắc Đô trúng độc Ngọc phong châm, độc tính phát tác, giải cứu nhiều cách đều vô hiệu, phải nghĩ cách lấy được thuốc giải, vì chưa đi xa, nên vẫn quanh quẩn gần Lục gia trang. Vừa hay sáng sớm hôm nay Quách Phù cưỡi con ngựa hồng đi chơi, chạm trán Kim Luân pháp vương, bị lão ta bắt giữ. Con ngựa hồng rất tinh khôn, chạy về trang viện, hí lên đau buồn. Quách Tĩnh biết nữ nhi gặp nạn, cả kinh, chia nhau đi tìm. Hoàng Dung tuy có thai, cũng dẫn huynh đệ họ Võ đi một một hướng, trưa nay ghé vào tửu lâu, gặp sư đồ Dương Quá, không ngờ Kim Luân pháp vương lại áp giải Quách Phù cũng tới nơi này.

Hoàng Dung vừa nhìn thấy nữ nhi, thì vừa mừng vừa lo, vì Quách Phù rơi vào tay đại địch, gọi một tiếng, không nói gì thêm, tay cầm đũa vẽ lên bàn, suy tính cách cứu con. Đang suy tính, bỗng nghe Kim Luân pháp vương gọi:

– Hoàng bang chủ, vị này là ái nữ của bang chủ phải không? Hôm trước ta thấy tiểu thư làm nũng với bang chủ, trông rất đáng yêu.

Hoàng Dung hừ một tiếng, không nói gì. Võ Tu Văn đứng dậy, quát:

– Không ngờ lão là tông sư một phái, tỷ võ không thắng, lại đi bắt nạt con gái nhà người, thật không biết xấu hổ.

Kim Luân pháp vương coi như không nghe Võ Tu Văn nói gì, lại tiếp:

– Hoàng bang chủ, hôm trước tỷ võ, các vị rõ ràng đã thua, lại giở trò ngang ngược, không phải là phong cách hảo hán. Bang chủ trước hết hãy trao thuốc giải độc châm cho ta, sau đó chúng ta ước định ngày tỷ thí thật công bằng, để xem danh vị minh chủ võ lâm rất cuộc sẽ thuộc về ai.

Hoàng Dung lại hừ một tiếng, không trả lời.

Võ Tu Văn quát:

– Lão hãy thả Quách cô nương ra đã, chúng ta sẽ trao thuốc giải, chuyện tỷ thí bàn sau chưa muộn.

Hoàng Dung liếc về phía Dương Quá và Tiểu Long Nữ, nghĩ thầm: “Thuốc giải là của hai người kia, ngươi đáp ứng trao thuốc, trong khi chưa biết họ có bằng lòng cho hay không”.

Kim Luân pháp vương nói:

– Tẩm độc vào ám khí, thiên hạ không lẽ chỉ một mình các người biết làm? Các người dùng độc châm đả thương đệ tử của ta, ta cũng có thể cắm vài cái đinh có độc vào người tiểu cô nương này. Các người đưa thuốc giải, thì ta sẽ chữa trị cho nó. Muốn ta thả người, đâu có dễ thế.

Hoàng Dung thấy nữ nhi thần sắc vẫn bình thường, tựa hồ chưa bị thương, nhưng mẫu nữ tình thâm, bất giác tâm trung vô chủ, ngạn ngữ có câu “Quan tâm tắc loạn”, nàng tuy cơ biến vô song, nhưng lúc này lại bối rối chẳng biết làm sao.

Chỉ thấy điếm tiểu nhị liên tục bưng thức ăn tới bàn Kim Luân pháp vương, bọn họ ăn uống nói cười rôm rả, Quách Phù thì cứ ngồi ngẩn ra nhìn mẫu thân, không hề động đũa. Hoàng Dung lòng như dao cắt, đột nhiên thấy bụng đau âm ỉ.

Kim Luân pháp vương ăn uống xong, đứng đậy, nói:

– Hoàng bang chủ, đi theo ta nào.

Hoàng Dung kinh ngạc, lập tức tỉnh ngộ, lão ta không chỉ bắt nữ nhi, mà còn bắt cả nàng đi theo; lúc này bên cạnh chỉ có huynh đệ họ Võ, tất nhiên không phải là địch thủ của lão, bất giác tái mặt. Kim Luân pháp vương lại nói:

– Hoàng bang chủ, đừng sợ, bang chủ là một nhân vật rất có tiếng tăm của võ lâm Trung Nguyên, bọn ta sẽ đối đãi tử tế. Chỉ cần danh vị minh chủ võ lâm định rõ, bọn ta sẽ lập tức tiễn về phương nam.

Khi vừa lên lầu, nhìn thấy Hoàng Dung, lão ta biết ngay là cơ hội hiếm có, chỉ cần bắt sống nàng, thì võ lâm Trung Nguyên không thể không khoanh tay thần phục; việc này còn có giá trị gấp trăm lần so với việc bắt Quách Phù, đúng là cơ hội trời cho. Hoàng Dung mải lo cho nữ nhi, chưa nghĩ đến điều này. Huynh đệ họ Võ thấy sư mẫu bị cưỡng bức, tuy biết không địch nổi, cũng không thể không ra tay, cùng rút trường kiếm khỏi bao, đứng chắn phía trước sư mẫu. Hoàng Dung nói nhỏ:

– Mau nhảy qua cửa sổ đi cầu cứu sư phụ!

Huynh đệ họ Võ nhìn sư mẫu, lại nhìn Quách Phù một cái, rồi mới chạy ra phía cửa sổ.

Hoàng Dung mắng thầm: “Đồ ngốc! Sao lại chậm trễ như thế?”

Quả nhiên chỉ chậm một giây đã không kịp. Kim Luân pháp vương chìa tay, mỗi tay tóm lưng một người, như con đại bàng chộp gà con vậy. Huynh đệ họ Võ vội xoay kiếm đâm vội; Kim Luân pháp vương cũng chẳng thèm tránh, hai tay hơi xoay, kiếm của Võ Đôn Nhu đã đâm đệ đệ, còn kiếm của Võ Tu Văn thì đâm ca ca. Huynh đệ họ Võ cả kinh, vội vàng buông kiếm, keng keng hai tiếng, hai thanh kiếm cùng rơi xuống sàn, cả hai mới không bị thương.

Kim Quân pháp vương vung nhẹ hai tay, ném huynh đệ họ Võ ra một góc xa hơn một trượng, cười nói:

– Hãy ngoan ngoãn đi theo lão Phật gia nghe.

Lão ta quay sang phía Dương Quá và Tiểu Long Nữ, nói:

– Hai vị nếu không muốn cùng đi với Hoàng bang chủ, thì đi đâu tùy ý, sau này đừng nhúng tay vào việc của ta là được. Hai vị võ công cũng khá, từ rày gắng bảo trọng, luyện tập thêm một, hai chục năm, thì thiên hạ sẽ không có đối thủ đâu.

Kim Luân pháp vương không dám coi thường hai người, lão biết Hoàng Dung, Dương Quá, Tiểu Long Nữ ba người võ công tuy thua kém lão, nhưng nếu cả ba liên thủ đấu với lão, thì lão rất khó đối phó, dẫu có thắng, cũng chưa chắc đã bắt sống được Hoàng Dung; bèn cố ý ly gián, tức là chỉ lấy thân cây, loại bỏ các cành. Lão hoàn toàn không biết rằng Hoàng Dung đang mang thai, nên không tiện động thủ; cứ tưởng nàng có Đả cẩu bổng pháp cực kỳ thần diệu, là một cường địch.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, chúng mình đi thôi, lão hòa thượng này rất lợi hại, chúng mình địch không nổi đâu.

Nàng chỉ mong sớm trở về tòa cổ mộ, chung sống với Dương Quá; về những chuyện ân oán đấu sát trên thế gian, nàng vốn chẳng hề quan tâm, lại sợ Kim Luân pháp vương, nên nói thẳng với Dương Quá như vậy. Dương Quá đáp ứng, đứng dậy, đi ra cầu thang, nghĩ thầm lần này trở về tòa cổ mộ, chắc là sẽ không bao giờ còn gặp lại Hoàng Dung, bất giác chàng ngoảnh lại nhìn lần cuối.

Chỉ thấy Quách bá mẫu mặt tái nhợt, tay trái đặt ở bụng dưới, rõ ràng đang nén cơn đau, Dương Quá liền nghĩ thầm: “Quách bá bá, Quách bá mẫu không cho ta lấy cô cô để tránh mọi phiền toái, chứ không phải có ý xấu gì với ta; hôm nay Quách bá mẫu gặp nạn, ta có thể quay mặt bỏ đi thế này được ư? Chỉ có điều kẻ địch quá mạnh, ta với cô cô cùng chống chọi, cũng không thể địch nổi lão ta, hóa ra cứu chẳng được Quách bá mẫu, mà còn làm cho cả ta lẫn cô cô mất mạng. Chẳng bằng ta lập tức đi bẩm cáo với Quách bá bá, để Quách bá bá đến cứu thì hơn”. Nghĩ vậy, chàng bèn đưa mắt ra hiệu cho Hoàng Dung. Hoàng Dung biết chàng sẽ đi báo tin cầu cứu, thấy yên tâm phần nào, chậm rãi gật đầu.

Dương Quá cầm tay Tiểu Long Nữ, đi xuống cầu thang lầu, thấy một tên võ sĩ Mông Cổ đến trước mặt Hoàng Dung, quát:

– Đi mau, sao còn lần khần mãi thế?

Hắn giơ tay nắm cánh tay Hoàng Dung để kéo đi như một tù nhân.

Hoàng Dung đã làm bang chủ Cái Bang hơn mười năm, trong võ lâm có địa vị tôn kính, tuy hôm nay gặp nạn, song há chịu để một tên vũ phu làm nhục? Thấy bàn tay lông lá to tướng của hắn sắp đụng vào tay mình, nàng phất tay áo che lấp cổ tay của hắn, thừa thế chộp lấy hất đi, thân hình to béo cửa tên võ sĩ bay qua cửa sổ, rơi xuống giữa đường nghe huỵch một cái, nằm bất động, không biết còn sống hay đã chết. Hoàng Dung tính ưa sạch sẽ, không muốn tay mình chạm vào tay hắn, đã dùng tay áo làm lớp ngăn cách.

Khách khứa trên tửu lâu thoạt tiên nghe hai bên nói nhỏ, không để ý, bây giờ thấy động thủ, tức thì nhốn nháo cả lên. Kim Luân pháp vương cười khẩy, nói:

– Hoàng bang chủ công phu quả nhiên lợi hại.

Lão ta bắt chước tên võ sĩ vừa rồi, bước tới, giơ tay y hệt; Hoàng Dung biết lão ta có ý hiển thị võ công, tuy là ra tay hệt như tên kia, song nàng thì không thể quẳng lão đi như với tên kia, đành lùi một bước.

Dương Quá đã bước xuống vài bậc cầu thang, thấy Hoàng Dung sắp bị làm nhục chợt nổi lòng nghĩa hiệp, bất chấp an nguy sinh tử, phi thân lên nhặt thanh kiếm Võ Đôn Nhu đánh rơi, dùng chiêu “Thanh long xuất hải” đâm nhanh tới sau lưng Kim Luân pháp vương, miệng quát:

– Hoàng bang chủ đang bị bệnh, lão thừa cơ cưỡng bức, không biết xấu mặt ư?

Kiếm Luân pháp vương nghe tiếng binh khí sau lưng, không thèm ngoảnh đầu, đưa tay lại, dùng ngón búng vào mặt bằng của thanh kiếm. “Tâng” một tiếng, Dương Quá thấy cánh tay tê dại, mũi kiếm đã chúi xuống, chàng vội phi thân tránh sang một bên.

Kim Luân pháp vương quay người lại, nói:

– Gã thiếu niên, đi nơi khác cho mau! Ngươi còn quá trẻ, võ công không kém, tương lai sẽ hơn hẳn ta, bây giờ thì chưa phải là đối thủ của ta, nếu cứ liều mạng, chẳng hóa chết uổng hay sao?

Mấy câu này vừa đấm vừa xoa, vừa khen ngợi Dương Quá, vừa đe dọa chàng. Chiếc kim luân của lão đã bị Dương Quá và Tiểu Long Nữ đánh rơi, khiến danh vị minh chủ võ lâm đã vào tay lão cuối cùng lại bị vuột mất, lão rất căm hận hai người. Nhưng lúc này cân nhắc nặng nhẹ, lão coi việc bắt giữ Hoàng Dung là hệ trọng nhất, không muốn có thêm kẻ thù; chỉ mong Dương Quá và Tiểu Long Nữ rút khỏi trường thị phi này, mai đây tìm hai tên nhãi ranh trừng trị cũng chưa muộn. Lão xưng hùng Tây Tạng, là người đầy mưu lược, chứ đâu chỉ lừng danh về võ công.

Mấy câu vừa rồi nửa cương nửa nhu, không hề đại ngôn khinh người, Dương Quá rốt cuộcvẫn còn tâm tính thiếu niên, nghe lão bảo tương lai chàng sẽ còn cao siêu hơn lão, trong lòng dĩ nhiên khoái trá, chàng cười nói:

– Đại hòa thượng khỏi cần khách sáo, muốn luyện được công phu lợi hại như lão, chẳng dễ gì. Vị Hoàng bang chủ này nuôi dưỡng ta từ nhỏ, lão đừng gây khó dễ thì hơn. Nếu không phải Hoàng bang chủ đang có bệnh, thì công phu của lão chưa chắc thắng nổi đâu; nếu lão không tin, cứ đợi Hoàng bang chủ khỏi bệnh hãy đấu với Hoàng bang chủ được chăng?

Chàng biết Kim Luân pháp vương tự phụ võ công cao cường, nghe chàng nói khích như thế, may ra sẽ không gây khó dễ cho Hoàng Dung nữa.

Ai dè Kim Luân pháp vương chỉ lo Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ, Dương Quá ba người liên thủ hợp lực, lão mới khách sáo với chàng; giờ nghe nói thế, nhìn kỹ Hoàng Dung, thấy sắc diện tiều tụy, có bệnh không nhẹ, thì nghĩ bụng Kim Luân pháp vương ta đâu ngán gì hai gã thiếu niên các ngươi, bèn cười khẩy, nhảy ra đứng chặn đầu cầu thang, nói:

– Thế thì cả ngươi cũng ở lại đây.

Tiểu Long Nữ đang đứng giữa cầu thang, bị Kim Luân pháp vương ngăn cách nàng với Dương Quá, thì không thích thế, nói:

– Lão hòa thượng tránh ra, để Quá nhi xuống đây nào!

Kim Luân pháp vương quắc mắt, một chưởng “Đơn chưởng khai bi” đẩy xuống; lực cánh tay của lão vốn đã mạnh, lại ở trên cao đánh xuống, càng uy mãnh vô cùng. Tiểu Long Nữ không dám đối chưởng, nghĩ Dương Quá ở trên tửu lâu, nàng không nhảy xuống bên dưới, mà dùng khinh công tuyệt đỉnh luồn người qua bên cạnh kẻ địch, lên đứng sánh vai với Dương Quá. Lúc nàng luồn qua bên cạnh, Kim Luân pháp vương có đánh cùi chỏ, vậy mà không trúng, lão cũng phải thầm khen tài khinh công của nàng.

Dương Quá nhặt thanh kiếm của Võ Tu Văn, đưa cho Tiểu Long Nữ, nói:

– Cô cô, lão hòa thượng này vô lễ, chúng mình cùng đánh cho lão một trận.

Kinh coong, Kim Luân pháp vương lấy từ trong bọc ra một cái vòng, kích thước cũng như cái kim luân đã sử dụng, cái này màu đen, đúc bằng sắt, gọi là thiết luân, trên đó cũng có đúc chân ngôn Mật tông. Lão có năm cái luân cả thảy, đúc bằng vàng, bạc, đồng, sắt, chì; khi gặp đại địch, lão sẽ sử dụng năm cái luân, nhưng thường thì chỉ dùng kim luân đã chiến thắng vô số kẻ địch, cho nên mới có biệt hiệu Kim Luân pháp vương. Bốn cái luân còn lại, đúc bằng bạc, đồng, sắt, chì, lão chưa từng dùng đến, thực ra căn cứ tu vi võ học, phải gọi lão là Ngũ Luân pháp vương mới đúng. Trong cuộc tỷ thí ở Lục gia trang, cái kim luân đã bị Dương Quá dùng cây kim cương chử đoạt mất, lúc này liền rút thiết luân ra, nói:

– Hoàng bang chủ cũng nhập bọn một thể chứ?

Kim Luân pháp vương tuy biết Hoàng Dung đang có bệnh, song vẫn ngại võ công cao cường của nàng, lão dùng ba tiếng “Hoàng bang chủ” là cốt nhắc nhở rằng nàng là bang chủ một đại bang hội, nếu hợp lực với kẻ khác đánh một người, tức là để mất thân phận bang chủ của mình.

Dương Quá nói:

– Hoàng bang chủ cần phải về nhà, không thừa thời gian huyên thuyên với lão.

Chàng quay sang phía Hoàng Dung, nói:

– Quách bá mẫu, mau đưa Phù muội về đi.

Chàng đã có chủ ý, chàng cùng Tiểu Long Nữ hợp lực cự địch, chắc là đánh không lại, nhưng dẫu gì cũng chống chọi được một hồi, rồi sẽ tìm cách bỏ chạy, quá nửa là chạy thoát, may mà bây giờ hoàn toàn không phải là tỷ võ để giành giật cái gì, nên có bỏ chạy cũng chẳng hề mất thể diện, bèn chĩa kiếm đâm Kim Luân pháp vương. Tiểu Long Nữ thấy chàng sử dụng công phu “Ngọc nữ tâm kinh”, thì cũng vung kiếm lên; nàng chẳng hề có dự tính gì, thấy Dương Quá động thủ với lão hòa thượng, thì nàng vung kiếm trợ giúp thế thôi.

Kim Luân pháp vương múa thiết luân, gạt song kiếm, lão ngại trên tửu lâu có quá nhiều bàn ghế, khó thi triển thủ cước, nên vừa múa thiết luân, vừa đá bàn ghế sang một bên. Dương Quá nghĩ thầm: “Đấu lực với lão, bọn ta nhất định thua, chỉ có làm cho lão vướng víu, mới mong cầm cự ít lâu.” Thấy lão ta đạp bàn ghế cho rộng chỗ, chàng lại đẩy bàn ghế lại chắn giữa đôi bên. Chàng và Tiểu Long Nữ đều có khinh công cao siêu, chỉ luồn ngang lách dọc, hoàn toàn không chính diện đương đầu với kẻ địch, rồi lúc thì ném bầu rượu, lúc thì ném bát đĩa, làm cho cả tửu lâu bừa bãi thức ăn, cơm nước.

Hoàng Dung đã thừa cơ kéo Quách Phù lại bên mình. Đạt Nhĩ Ba sau khi trúng “Di hồn đại pháp” của Dương Quá, hiện tại cứ lúc tỉnh lúc mê; Hoắc Đô thì trúng độc trọng thương, đám võ sĩ Mông Cổ còn lại, bản lĩnh thấp kém, làm sao ngăn nổi Hoàng Dung? Dương Quá kêu to:

– Quách bá mẫu, các vị đi về mau đi!

Hoàng Dung thấy Kim Luân pháp vương chiêu số lợi hại, Dương, Long hai người dốc toàn lực cũng khó bề chống chọi, bây giờ làm rối lên, còn ngăn chặn lão ta được một lát; nhưng rồi lão ta sẽ tìm ra chỗ sơ hở, hạ độc thủ, thì còn gì tính mạng đôi thiếu niên nam nữ. Hoàng Dung nghĩ thầm: “Quá nhi xả thân cứu ta, ta há có thể chỉ lo cho mình, bỏ đây mà đi?” Bèn cứ đứng đó quan chiến.

Huynh đệ họ Võ luôn miệng giục giã:

– Sư nương, chúng ta về thôi, sư nương không được khỏe, cần phải bảo trọng.

Hoàng Dung ban đầu còn không đếm xỉa, sau nghe hai huynh đệ họ Võ cứ giục giã, bèn nổi giận:

– Làm người không hiểu hai chữ “nghĩa hiệp” thì luyện võ mà làm gì, sống trên đời mà làm gì? Gã họ Dương kia đúng là hơn các ngươi cả trăm lần. Huynh đệ nhà ngươi cứ thử nghĩ coi.

Huynh đệ họ Võ bày tỏ hảo ý, lại bị trách mắng, chỉ biết ngượng ngùng đứng im.

Quách Phù nhặt một cái chân bàn gãy, nói:

– Võ gia ca ca, chúng ta cùng xông vào đi.

Hoàng Dung giữ con lại, nói:

– Công phu như ngươi, xông vào đó nộp mạng à?

Quách Phù bĩu môi không tin, nàng thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ xuất chiêu cũng đâu có gì là tuyệt diệu; có lúc tư thế thì đẹp, nhưng kiếm chiêu lại chẳng lợi hại chút nào.

Kim Luân pháp vương mỗi lần truy kích đều bị bàn ghế ngã đổ chỏng chơ ngăn cản, trong khi Dương, Long hai người di chuyển linh hoạt, nhẹ nhàng du đấu. Lão chợt nảy ra một kế, đột nhiên dồn sức xuống chân, tiếng bàn ghế gãy nát dưới chân lão vang lên dồn dập. Tay múa thiết luân, chân sử công phu “Thiên cân trụy”, chân giẫm tới đâu, bàn ghế chỗ đó gãy vụn; sau vài vòng, toàn bộ sàn lầu đã thành một bãi đầy các mảnh gỗ vụn; ba người giao đấu trên đó, không còn bị bàn ghế ngăn trở nữa.

Kim Luân pháp vương tha hồ sải bước, cái thiết luân phát ra tiếng kính coong liên hồi, hai cánh tay to khỏe của lão khép mở liên tục, mãnh công Dương, Long hai người.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ lúc này không còn được bàn ghế che chắn, đành dùng công phu thật sự để chống chọi. Kim Luân pháp vương tấn công liền ba chiêu, Dương Quá đỡ xong, thấy cánh tay đau âm ỉ. Kim Luân pháp vương thừa thế giáng luôn chiêu thứ tư, đánh thẳng xuống đầu Dương Quá, thiết luân chưa đến mà kình phong đã ập tới kinh người. Dương Quá và Tiểu Long Nữ song kiếm cùng xộc lại, mũi kiếm đụng vào thiết luân, hợp lực song kiếm mới gạt được chiêu này, nhưng cả hai thanh kiếm đều bị cong đi.

Hai người dồn sức đẩy thiết luân ra rồi, Dương Quá đâm thẳng tới hạ bàn, Tiểu Long Nữ thì chém ngang đùi kẻ địch. Kim Luân pháp vương tung cước đá cổ tay Tiểu Long Nữ, cái thiết luân đánh chếch lên cổ Dương Quá. Dương Quá thụp người xuống, tránh thiết luân. Không ngờ Kim Luân pháp vương ném thiết luân xuống đỉnh đầu chàng, rồi hai tay chộp lấy vai Tiểu Long Nữ.

Trong khoảnh khắc ấy, cả hai người cùng gặp kỳ hiểm. Hoàng Dung nhìn thấy, kêu “ôi” một tiếng, định xông lại cứu, chỉ thấy Dương Quá phi thân chéo lên, người chưa đáp xuống đã đâm kiếm vào lưng Kim Luân pháp vương, chiêu này nhất cử lưỡng tiện, vừa công vừa thủ, vừa giải nguy cho mình, vừa là kế “vây Ngụy cứu Triệu”, buộc Kim Luân pháp vương không dám tấn công Tiểu Long Nữ nữa, gọi là chiêu “Nhạn hành tà kích”, là kiếm pháp phái Toàn Chân. Kim Luân pháp vương kêu “ái chà!” nhân cái thiết luân chưa rơi xuống sàn, dùng mu bàn chân phải hẩy nó một cái, nó kêu kính coong, bay ngược lên phía đầu Dương Quá. Dương Quá vừa rồi trong cơn nguy cấp đã sử một chiêu kiếm pháp phái Toàn Chân, thu được hiệu quả kỳ diệu, thì lại sử tiếp chiêu “Bạch hồng kinh thiên” của kiếm pháp phái Toàn Chân, mặt bằng của kiếm đánh vào thiết luân. Luân nặng kiếm nhẹ, đòn kiếm này vốn dĩ vô hiệu, nhưng đánh đón này lại hoàn toàn phù hợp với đạo lý “bốn lạng thắng ngàn cân” trong võ học, cái thiết luân chuyển hướng, bay vụt về phía đầu Kim Luân pháp vương; Quách Phù đứng cạnh trông thấy thế thích quá, vỗ tay reo lên.

Kim Luân pháp vương cả gan ném thiết luân bay đi tấn công đối phương, vốn nghĩ rằng đối phương không tài gì tiếp thiết luân, nếu đối phương dùng binh khí đụng vào cái thiết luân đang bay, thì bất kể binh khí ấy nặng như đại đao, hay nhẹ như thiết tiên, đã đụng phải ắt văng tuột khỏi tay, ai ngờ Dương Quá lại có tài hất thiết luân như thế. Lão cả giận, giơ tay chộp lại cái thiết luân, rồi vận kình lại phóng nó đi. Lúc này thiết luân lao đi cực nhanh, quả cầu nhỏ bên trong thiết luân không kịp va đập phát ra tiếng kính coong nữa.

Dương Quá lần thứ nhất hất được thiết luân, là do vô tình sử dụng công phu “Cửu Âm chân kinh” lần này chàng lại giơ kiếm hất luân, keng một tiếng, thanh kiếm tuột khỏi tay. Kim Luân pháp vương tức thời sử chiêu “Đại suất bi thủ”, song chưởng đánh mạnh tới.

Nguyên công phu “Cửu Âm chân kinh” của Dương Quá luyện chưa thành thạo, lần này sử dụng lực đạo không chuẩn xác.

Tiêu Long Nữ thấy Dương Quá gặp hiểm, hơi uốn lưng đâm một kiếm tới, đường kiếm đi lợi hại, tư thế xuất chiêu phiêu dật vô cùng, chính là võ công trong chương cuối của “Ngọc nữ tâm kinh”. Mẫu nữ Hoàng Dung nhìn thấy quá đẹp, cùng thốt lên:

– Hay quá!

Kim Luân pháp vương thu chưởng về, nhảy lên chộp lấy thiết luân để đỡ đòn trường kiếm. Dương Quá cũng thừa cơ chộp lại thanh kiếm, vừa rồi đúng là thoát chết. Nhưng người ta trong lúc nguy cấp, tâm trí đặc biệt linh mẫn, chàng sực nhớ: “Cô cô và ta hai người cùng sử Ngọc nữ kiếm pháp thì rất khó chống đỡ lão ta; còn khi ta sử dụng kiếm pháp phái Toàn Chân, cô cô sử dụng Ngọc nữ kiếm pháp, lại giải trừ hết nguy hiểm, không lẽ chương cuối cùng của “Ngọc nữ tâm kinh” lại phải hành sử như thế sao?” bèn gọi:

– Cô cô “Lãng tích thiên nhai”!

Rồi chàng đâm chếch một kiếm. Tiểu Long Nữ không kịp suy nghĩ, theo lời chàng sử luôn chiêu “Lãng tích thiên nhai” trong “Ngọc nữ tâm kinh”, giơ kiếm chém thẳng. Hai chiêu tên gọi như nhau, nhưng chiêu thức khác hẳn, một bên là kiếm chiêu lợi hại của kiếm pháp phái Toàn Chân, một bên là gia số hiểm ác của Ngọc nữ kiếm pháp, song kiếm hợp bích, uy lực lập tức kinh hồn. Kim Luân pháp vương không thể chống đỡ song kiếm cái đâm cái chém, vội nhảy lùi, may mà kịp, hai kiếm sượt qua sườn, một kiếm đâm thủng cả vạt áo lão ta, khiến lão ta sợ toát mồ hôi lạnh.

Kim Luân pháp vương vội nhảy lùi hai bước để tránh đòn, lại nghe Dương Quá gọi:

– Cô cô, “Hoa tiền nguyệt hạ”!

Một chiêu từ trên đánh xuống, như tuyết rơi. Tiểu Long Nữ mũi kiếm rung rung như hoa tươi rơi lả tả trong gió, khiến Kim Luân pháp vương hoa cả mắt, không còn biết kiếm chiêu từ phía nào đánh tới, đành phải nhảy tránh về phía sau. Dương Quá lại nói:

– Thanh ẩm tiểu chước!

Đốc kiếm chổng lên, mũi kiếm chĩa xuống, như người róc rượu từ bầu ra chén. Mũi kiếm của Tiểu Long Nữ thì chĩa lên môi mình, như đưa chén rượu lên miệng mà uống vậy.

Kim Luân pháp vương thấy kiếm chiêu của hai người càng lúc càng quái dị, phối hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau, vô cùng lợi hại. Lão càng đấu càng hãi, nghĩ thầm: “Thiên hạ rộng lớn, quả nhiên có nhiều nhân tài, thứ kiếm pháp kỳ diệu thế này, ta ở Tây Tạng làm sao tưởng tượng ra nổi? Ôi, ta khác gì ếch ngồi đáy giếng, dám coi thường anh hùng thiên hạ”. Lão càng lúc càng núng thế, bại tượng đã rõ ràng.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ mấy phen tu luyện chương kiếm pháp này đều chưa có công hiệu; bây giờ thân lâm kỳ hiểm, hai người lo lắng cho nhau, bất chấp sự an nguy của bản thân mình, chỉ cốt cứu tình lữ, thật hợp với chủ đích của lộ kiếm pháp này. Mỗi chiêu của nó đều hàm chứa một sự tao nhã, là chiêu “Phủ cầm án tiêu” (Gảy đàn thổi sáo) hay “Tảo tuyết phanh trà” (Quét tuyết đun trà), hay “Tùng hạ đối địch” (Đánh cờ dưới gốc tùng), hay “Trì biên điều điêu” (Chăn chim điêu bên hồ) đều là cảnh nam nữ bên nhau, dịu dàng đầm ấm. Lâm Triêu Anh tình trường thất ý, ôm hận mà chết trong tòa cổ mộ. Nàng văn võ toàn tài, cầm kỳ thư họa, môn gì cũng biết, cuối cùng đem toàn bộ sở học bình sinh hóa thành pho võ công này. Khi nàng sáng tạo nó, chỉ là gửi gắm hoài bão, không ngờ mấy chục năm sau lại có một đôi tình lữ dùng nó để chế ngự cường địch.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ thoạt đầu sử dụng vẫn chưa thấy hết sự huyền diệu của nó, càng sử càng đắc tâm ứng thủ. Nếu một đôi nam nữ sử dụng kiếm pháp này mà không phải là tình lữ, thì sẽ không thể lĩnh hội được nhiều chỗ tinh diệu của nó, tâm linh không thể hoà thông với nhau; nếu hai người liên thủ là bằng hữu sẽ quá khách sáo; nếu là kẻ trên người dưới, sẽ khó tránh dựa dẫm vào nhau; nếu là phu phụ, thì tuy tốt đấy, nhưng đôi bên lại quá ư đắm đuối e lệ thẹn thùng, nửa gần nửa xa, tâm tình vẫn có chỗ chênh lệch. Hiện thời Dương Quá và Tiểu Long Nữ luyến ái nhau thắm thiết, nhưng chưa kết thành phu phụ, trong lòng vẫn cảm thấy phía trước còn đầy rẫy gian truân, vui đấy mà lo đấy, cay đắng đấy mà ngọt ngào đấy, tâm tình hệt như Lâm Triêu Anh lúc sáng tạo pho Ngọc nữ kiếm pháp.

Hoàng Dung đứng ngoài quan chiến, thấy Tiểu Long Nữ hai má hơi ửng hồng, đôi phần bẽn lẽn; Dương Quá thi thoảng liếc trộm nàng ta, lo lắng bảo vệ, tuy đang cùng chống cường địch, song hai người vẫn để lộ tâm trạng vui sướng, tình ái thân thiết; thì Hoàng Dung không khỏi kinh ngạc, đồng thời bị lây tâm trạng của họ, tự dưng nhớ lại thời nàng và Quách Tĩnh mới luyến ái nhau. Giữa tửu lâu đầy tiếng sát phạt, lại tràn ngập nhu tình mật ý.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ tâm linh hòa thông, Kim Luân pháp vương càng khó chống đỡ, hối hận là ban nãy đi hủy hết bàn ghế, nếu không, có bàn ghế ngăn trở, đối phương sẽ không thể tấn công lợi hại như thế.

Lão thấy cứ đánh tiếp, lão ắt sẽ phải bỏ mạng, bèn từng bước lùi dần ra đầu cầu thang, rồi lùi xuống từng bậc cầu thang một. Dương Quá và Tiểu Long Nữ từ trên đánh xuống, thấy sắp đuổi được lão ta đi rồi. Hoàng Dung nói:

– Trừ ác phải triệt để, Quá nhi, đừng cho lão ta chạy thoát.

Hoàng Dung thấy sở dĩ Dương Quá và Tiểu Long Nữ đánh bại Kim Luân pháp vương là nhờ pho kiếm pháp kỳ diệu, lại thêm tám phần may mắn; nếu hôm nay để lão ta chạy thoát, người này võ học cao thâm, lão ta sẽ nghĩ ra cách phá giải pho kiếm pháp nảy, thì mai sau khó lòng trừ khử nổi lão ta.

Dương Quá đáp ứng, liên tiếp sử các chiêu sát thủ “Tiểu viên nghệ cúc” “Xuyến song dạ thoại”,“Liễu âm liên cú”, “Trúc liêm lâm trì”, Kim Luân pháp vương cơ hồ chống đỡ không nổi, nói gì đánh trả.

Dương Quá cũng định giết Kim Luân pháp vương theo lệnh của Hoàng Dung, nhưng Lâm Triêu Anh khi sáng tạo pho kiếm pháp này vốn không có ý giết người, lòng đang tràn ngập nhu tình, nên không có chiêu nào lấy mạng đối phương. Lúc này Dương, Long hai người tuy làm cho Kim Luân pháp vương tối tăm mặt mũi, nhưng giết được lão ta không phải dễ.

Kim Luân pháp vương không rõ lai lịch của pho kiếm pháp, thấy đối phương liên tiếp xuất kỳ chiêu, nhưng họ chưa hề sử dụng sát chiêu; nếu họ sử dụng, mạng lão đâu còn nữa; trong cơn nguy cấp nghĩ ra một kế, dồn lực xuống chân, lùi qua bậc cầu thang nào lại đạp gãy bậc đó. Thân hình to lớn của lão choán giữa cầu thang, Dương, Long hai người không thể ào xuống; đợi khi ba bậc thang đã gãy sụp, thì trường kiếm của họ không thể với tới người lão được nữa. Lão giơ thiết luân, nói:

– Hôm nay được biết võ công Trung Nguyên, lão nạp thán phục vô cùng. Pho kiếm pháp của hai vị tên là gì vậy?

Dương Quá nghiêm trang nói:

– Võ công Trung Nguyên lấy Đả cẩu bổng pháp Thích lư (đâm con lừa) kiếm thuật làm đầu, pho kiếm pháp này của tại hạ chính là Thích lư kiếm thuật đó.

Kim Luân pháp vương ngẩn ra, hỏi:

– Thích lư kiếm thuật ư?

Dương Quá đáp:

– Phải, nghĩa là kiếm thuật đâm con lừa trọc ấy mà.

Kim Luân pháp vương bây giờ mới biết gã thiếu niên chửi xỏ mình, bèn quát:

– Tiểu nhi vô lễ, rồi có ngày ngươi được nếm đòn của Kim Luân pháp vương.

Lão vung cái thiết luân kêu loong coong, sải bước mà đi. Chỉ thấy thân hình lão ta lướt đi rất nhanh, loáng một cái đã khuất sau góc tường. Dương Quá biết là khó mà đuổi kịp, quay lại, thấy Đạt Nhĩ Ba dìu Hoắc Đô đi, mặt mày nhợt nhạt, chợt dừng lại nói với Dương Quá:

– Đại sư huynh, sư huynh có định giết đệ hay không?

Dương Quá thấy hai tên này đáng thương, bèn hỏi Hoàng Dung:

– Quách bá mẫu, tha cho chúng đi được không ạ?

Hoàng Dung gật đầu. Dương Quá thấy Hoắc Đô lờ đờ, tiều tụy chàng lấy trong bọc ra một lọ mật ong, chỉ chỉ Hoắc Đô, làm động tác uống thuốc, rồi trao cho Đạt Nhĩ Ba. Đạt Nhĩ Ba cả mừng, xì xồ một hồi với Hoắc Đô. Hoắc Đô lấy ra một gói thuốc bột, đưa cho Dương Quá, nói:

– Vị tiền bối dùng bút nọ bị trúng độc đinh của ta, đây là giải dược.

Đạt Nhĩ Ba chắp tay thước ngực hành lễ với Dương Quá, nói:

– Đa tạ đại sự huynh.

Dương Quá cũng chắp trước ngực hành lễ, nói:

– Đa tạ đại sư huynh.

Đạt Nhĩ Ba lấy làm lạ: “Đại sư huynh tại sao lại gọi ta là đại sư huynh nhỉ?” Nghĩ giây lát, chợt hiểu: “Phải rồi, đại sư huynh đầu thai sang kiếp này, thấy ta đã lớn hơn, nên không tranh địa vị đại sư huynh với ta nữa”, thế là y càng cảm kích, vái chào Dương Quá thật cung kính, đoạn tay trái cắp Hoắc Đô, cùng bọn võ sĩ Mông Cổ rút đi.

Dương Quá trao lại giải dược cho Hoàng Dung, cúi mình thi lễ, nói:

– Quách bá mẫu, điệt nhi xin cáo biệt ở đây, mong bá mẫu và Quách bá bá bảo trọng.

Chàng nghĩ sau lần biệt ly này, chắc sẽ không còn ngày gặp lại, trong lòng buồn bã. Hoàng Dung hỏi:

– Ngươi đi đâu vậy?

Dương Quá nói:

– Điệt nhi sẽ cùng Long cô cô tới một nơi ẩn cư không ai biết, vĩnh viễn không ra khỏi nơi đó, để khỏi lụy đến thanh danh của Quạch bá bá và bá mẫu.

Hoàng Dung nghĩ thầm: “Hôm nay ngươi đã xả thân cứu ta và Phù nhi, ân đức không nhỏ, bây giờ thấy ngươi sa vào cảnh trầm luân, ta há có thể không cứu hay sao?” Bèn nói:

– Vậy thì cùng không cần vội, hôm nay mọi người đều đã mệt, chúng ta hãy tìm khách điếm nghỉ một đêm, sáng mai hãy chia tay lên đường chưa muộn.

Dương Quá thấy Hoàng Dung chân tình, không tiện thoái thác, liền đáp ứng.

Hoàng Dung lấy hai lạng bạc đền cho tửu lâu về khoản thiệt hại, rồi đi tìm khách điếm nghỉ ngơi. Tối hôm ấy sau bữa ăn, Hoàng Dung bảo Quách Phù ra ngoài nói chuyện với huynh đệ họ Võ, còn nàng thì rủ Tiểu Long Nữ vào trong phòng mình, nói:

– Muội tử, tỷ tỷ có thứ này muốn tặng muội.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Tỷ tỷ tặng muội cái gì thế?

Hoàng Dung kéo Tiểu Long Nữ lại bên cạnh, dùng lược chải đầu cho nàng ta, thấy mái tóc đen óng mượt xõa vai rất đẹp, bèn cuộn lại, rồi rút một cái vòng vàng chặn tóc trên đầu mình ra, nói:

– Muội muội, tỷ tỷ tặng muội cái này.

Cái vòng vàng được chế tạo cực kỳ tình xảo, trông như một cành hoa hồng, uốn vòng với mấy đóa hoa chớm nở. Hoàng Dược Sư thu thập kỳ trân dị bảo trong thiên hạ, Hoàng Dung chọn lấy cái vòng vàng này, đủ biết nó được chế tạo tinh xảo bậc nào. Tiểu Long Nữ từ nhỏ chưa bao giờ dùng vật trang sức, nên cũng không hiểu giá trị của cái vòng giữ tóc này, chỉ nói lời đa tạ thông thường. Hoàng Dung gài lên mái tóc Tiểu Long Nữ, rồi hai người nhàn đàm với nhau.

Nói chuyện một hồi, thấy Tiểu Long Nữ hồn nhiên vô tà không hiểu chút gì về thế sự, dưới ánh nến thấy nàng dung sắc tú mỹ, thanh lệ tuyệt tục, nếu không có danh phận sư đồ với Dương Quá, thì hai người ấy sẽ là một cặp xứng đôi vừa lứa, Hoàng Dung bèn hỏi:

– Muội tử, muội thích Quá nhi lắm phải không?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Vâng, tại sao các vị không cho phép Quá nhi đối tốt với muội?

Hoàng Dung nhớ lại hồi nhỏ phụ thân không chịu cho hứa hôn với Quách Tĩnh, Giang Nam Thất Quái lại nhiếc nàng là “Tiểu Yêu Nữ”, trải qua bao sóng gió, cuối cùng mới kết thành phu phụ với Quách Tĩnh; còn hiện tại Dương Quá và Tiểu Long Nữ chân tình luyến ái nhau, tại sao mình lại nỡ nhảy vào ngăn cản? Nhưng nghĩ hai người đã định rõ danh phận sư đồ, nếu lại thêm tình nam nữ là trái với luân thường, không còn mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ. Nàng thở dài, nói:

– Muội tử, thế gian có rất nhiều chuyện muội chưa biết đâu. Nếu muội kết thành phu thê với Quá nhi, thì suốt đời người ta sẽ coi khinh muội.

Tiểu Long Nữ mỉm cười hỏi:

– Người ta coi khinh muội, thì đã làm sao?

Hoàng Dung Lại sững người, chỉ thấy lời này sao mà giống với cách nghĩ của phụ thân nàng, đúng là ta thích sao làm vậy, chẳng làm gì phải sợ thiên hạ.

Nghĩ đến đây, Hoàng Dung bất giác gật đầu, nghĩ rằng một nhân vật siêu quần như Tiểu Long Nữ ắt không câu nệ thiên kiến của thế tục. Lại nghĩ phu quân đối với Dương Quá hết sức ái hộ, bất kể Dương Quá có thành con rể của mình hay không, cũng chỉ mong Quá nhi đức hạnh hoàn mỹ, thế là bèn nói:

– Còn Quá nhi? Người ta cũng sẽ coi khinh Quá nhi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi và muội sẽ chung sống ở một nơi không ai nhìn thấy, sống sung sướng với nhau, cần gì cái việc người ta coi khinh coi trọng?

Hoàng Dung hỏi:

– Một chỗ không ai nhìn thấy là thế nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đấy là một tòa cổ mộ rất rộng lớn, muội đã sống ở đó từ khi ra đời.

Hoàng Dung ngây người, hỏi:

– Chẳng lẽ từ nay suốt đời muội sẽ sống trong đó, vĩnh viễn không ra ngoài?

Tiểu Long Nữ rất vui vẻ, đứng dậy đi đi lại lại, nói:

– Đúng thế, ra ngoài mà làm gì? Người ở bên ngoài đều quá tệ.

Hoàng Dung nói:

– Quá nhi từ nhỏ lang bạt đó đây, phải giam mình mãi trong tòa cổ mộ, liệu nó buồn chán hay không?

Tiểu Long Nữ cười, đáp:

– Có muội bên cạnh, sao lại buồn chán?

Hoàng Dung thở dài:

– Thời gian đầu dĩ nhiên sẽ không buồn chán. Nhưng vài năm sau sẽ luôn nhớ đến thế giới phồn hoa bên ngoài, nhớ mà không được ra, sẽ phiền não lắm.

Tiểu Long Nữ vốn rất vui vẻ, nghe xong mấy câu này, xịu mặt lại nói:

– Muội đi hỏi Quá nhi đây, muội không nói chuyện với tỷ tỷ nữa đâu.

Nói rồi ra khỏi phòng.

Hoàng Dung thảy khuôn mặt mỹ lệ của Tiểu Long Nữ thoáng qua bóng mây u ám, biết lời mình vừa nói đã làm tổn thương tấm lòng thiếu nữ hồn nhiên vô tà, thì rất ân hận; song lại nghĩ mình đã từng trải hơn hẳn đôi thiếu niên nam nữ này, lời nói thật dễ chướng tai, không biết Dương Quá sẽ trả lời ra sao?

Bèn rón rén tới bên cửa sổ phòng Dương Quá, nghe hai người đối đáp nhau.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Quá nhi, Quá nhi suốt đời chung sống với ta, sẽ không phiền não chứ?

Dương Quá đáp:

– Cô cô hỏi ta làm gì? Cô cô biết là ta hết sức vui lòng mà. Hai ta sẽ chung sống đến già, đến lúc tóc bạc trắng, răng rụng hết, cũng vẫn vui sướng không rời nhau.

Câu này chân tình, hoàn toàn thành thực. Tiểu Long Nữ nghe xong, cảm động, ngẩn ngơ một hồi, mới nói:

– Phải rồi, ta cũng thế.

Nàng giấy trong bọc ra sợi sây thừng, chăng ngang phòng, nói:

– Ngủ thôi!

Dương Quá nói:

– Quách bá mẫu bảo đêm nay cô cô hãy ngủ cùng phòng với mẫu nữ Quách bá mẫu, ta với huynh đệ họ Võ sẽ ngủ một phòng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không! Tại sao phải để hai nam nhân nằm với Quá nhi? Ta với Quá nhi sẽ ngủ một phòng.

Noi rồi phẩy tay tắt đèn.

Hoàng Dung nghe câu ấy thì kinh hãi, nghĩ thầm: “Sư đồ Quá nhi quả nhiên đã ăn nằm với nhau, Triệu Chí Kính nói không sai?”

Hoàng Dung cứ tưởng hai người nằm chung một giường, không tiện đứng ngoài nghe lén, đang định bỏ đi, đột nhiên thấy một vệt trắng chuyển động trong phòng, có người nằm vắt ngang giữa không trung, đung đưa mấy cái, rồi bất động.

Hoàng Dung lấy làm lạ, nhờ ánh trăng hắt vào phòng mà nhìn. Chỉ thấy Tiểu Long Nữ nằm vắt ngang trên một sợi dây, còn Dương Quá thì nằm trên giường.

Hai người tuy ngủ chung buồng, song vẫn giữ lễ. Hoàng Dung rón rén lui về, cảm thấy hai người này hành sự thật khác người thường.

Hoàng Dung đứng hồi lâu, đang định về phòng ngủ, bỗng nghe tiếng bước chân, Quách Phù vả huynh đệ họ Võ từ bên ngoài trở về. Hoàng Dung nói:

– Đôn nhi, Tu nhi, hai ngươi hãy thuê thêm một phòng, không ngủ chung với Dương gia ca ca nữa.

Huynh đệ họ Võ đáp ứng. Quách Phù hỏi:

– Mẹ, vì sao vậy?

Hoàng Dung đáp:

– Không liên quan đến ngươi.

Võ Tu Văn cười, nói:

– Điệt nhi biết vì sao. Hai người ấy sư chẳng ra sư, đồ chẳng ra đồ, cẩu nam cẩu nữ ngủ chung một buồng…

Hoàng Dung mắng:

– Tu nhi, ngươi nói nhăng nói cuội gì vậy?

Võ Đôn Nhu nói:

– Sư nương kể cũng lạ thật đấy, đối với người như hắn, ta cứ mặc xác hắn. Điệt nhi thì quyết không trò chuyện với hắn.

Quách Phù nói:

– Hôm nay hai người ấy đã cứu chúng ta, dẫu gì cũng là đại ân.

Võ Tu Văn nói:

– Huynh đệ ta thà để Kim Luân pháp vương giết đi, còn hơn phải mang ơn tên súc sinh ấy.

Hoàng Dung khó chịu, nói:

– Đừng nhiều chuyện nữa, mau đi ngủ đi.

Câu chuyện ngoài song ấy, Dương Quá và Tiểu Long Nữ đều nghe rõ ràng. Dương Quá từ nhỏ vốn đã bất hòa với huynh đệ họ Võ, nghe vậy chỉ cười. Tiều Long Nữ thì cứ trằn trọc: “Tại sao Quá nhi tốt với ta, lại thành tên súc sinh, cẩu nam cẩu nữ kia chứ?” Nghĩ mãi không ra, nửa đêm gọi Dương Quá dậy, hỏi:

– Quá nhi, có một việc Quá nhi phải thành thật trả lời ta. Quá nhi rồi đây sống với ta trong tòa cổ mộ, mấy năm sau có nhớ đến thế giới phồn hoa bên ngoài hay không?

Dương Quá đớ người hồi lâu không trả lời. Tiểu Long Nữ lại hỏi:

– Nếu không được ra ngoài, Quá nhi liệu có phiền não hay không? Lòng luyến ái ta của Quá nhi tuy không thay đổi, nhưng ở mãi trong tòa cổ mộ, liệu có phiền muộn hay không?

Hai câu trên, Dương Quá đều cảm thấy khó trả lời. Bây giờ nghĩ suốt đời được sống với Tiểu Long Nữ thì đúng là sướng như tiên, sống trong tòa nhà mồ lạnh giá, tối tăm mười năm, hai mươi năm cũng chưa chán, nhưng ba mươi năm thì sao? Bốn mươi năm sẽ thế nào? Nếu cứ trả lời bừa “Quyết không phiền muộn” thì chẳng có gì khó, song chàng đối với Tiểu Long Nữ hoàn toàn chân thành, không bao giờ nói dối, sau một lát ngẫm nghĩ, bèn đáp:

– Cô cô, giả dụ hai ta phiền muộn, thì lại cùng nhau ra ngoài đời.

Tiểu Long Nữ “ừm” một tiếng, không nói thêm, nghĩ thầm: “Quách phu nhân hóa ra nói đúng, tương lai rồi Quá nhi rồi sẽ phiền muộn; muốn rời khỏi nhà mộ, bấy giờ bị người người coi khinh, Quá nhi sống còn gì lạc thú? Mình tốt với Quá nhi, tại sao người ta lại coi khinh Quá nhi? Họ coi ta là kẻ xấu xa. Ta luyến ái chàng, thích chàng, họ muốn lấy mạng ta thì đi một nhẽ. Đàng này họ lại không chịu để cho chàng sống sung sướng, vậy thì chàng đừng lấy ta là hơn. Ngày nọ trên núi Chung Nam, Quá nhi không bằng lòng lấy ta làm thê tử, chắc là vì thế”. Nàng suy đi nghĩ lại hồi lâu nghe tiếng thở đều đều của Dương Quá, biết chàng đang ngủ say, bèn nhẹ nhàng ngồi dậy, bước lại bên giường, chăm chú ngắm khuôn mặt tuấn tú của chàng, trong lòng thổn thức, bất giác lệ chảy ròng ròng.

Sáng hôm sau Dương Quá tỉnh giấc, thấy một bên vai ẩm ướt, Tiểu Long Nữ không có trong phòng, chàng ngồi dậy, thấy trên mặt bàn có viết tám chữ bằng kim châm: “Hãy tự bảo trọng, đừng nhớ ta nữa”.

Dương Quá lập tức đầu óc rối loạn, sững sờ, thấy mặt bàn còn nhiều giọt nước mắt chưa khô hẳn, một bên vai áo là vì nước mắt của Tiểu Long Nữ. Thần trí hỗn loạn, chàng đẩy cửa sổ nhảy ra, gọi to:

– Cô cô, cô cô!

Điếm tiểu nhị chạy lại. Dương Quá hỏi y bạch y nữ khách đi từ lúc nào, đi về hướng nào, y trố mắt nhìn, không biết trả lời ra sao. Dương Quá lúc này ruột đứt trăm đoạn, nếu hôm nay tìm không thấy nàng, chỉ e khó lòng có ngày hội ngộ, liền chạy ra chuồng ngựa, dắt con ngựa gầy, cưỡi ngựa phóng đi.

Quách Phù trong phòng chạy ra hỏi:

– Dương đại ca, đi đâu vậy?

Dương Quá nghe mà không hiểu, phóng ngựa về hướng bắc theo đường cái, không lâu đã vượt mấy chục dặm. Chàng thi thoảng lại gọi to:

– Cô cô, cô cô!

Nhưng nào thấy bóng hình Tiểu Long Nữ.

Phóng ngựa một hồi nữa, chàng thấy bọn Kim Luân pháp vương cưỡi ngựa đi về hướng Tây. Bọn kia thấy Dương Quá một mình một ngựa, đều kinh ngạc, Kim Luân pháp vương thúc ngựa lại chỗ chàng.

Dương Quá không mang theo binh khí, đột nhiên chạm trán đại địch, đúng là mười phần hung hiểm, nhưng lúc này chàng chỉ nghĩ đến mỗi một điều là Tiểu Long Nữ đang ở đâu, không lo gì đến sự an nguy của bản thân mình, thấy Kim Luân pháp vương tế ngựa đến, chàng còn quay đầu ngựa về phía lão ta, hỏi:

– Lão hòa thượng có gặp sư phụ của tại hạ hay không?

Kim Luân pháp vương thấy chàng không bỏ chạy, đã lấy làm lạ, nghe chàng hỏi thế, càng ngạc nhiên hơn, đáp:

– Không gặp, nàng ta không đi cùng ngươi hay sao?

Hai người một hỏi một đáp, đều là vội vàng, không qua suy nghĩ, lúc này Dương Quá một thân một mình, không thể địch nổi Kim Luânn pháp vương. Hai người vừa nhìn nhau, chợt hiểu ngay. Dương Quá kẹp hai chân vào bụng ngựa, Kim Luân pháp vương đã giơ tay chộp đến. Nhưng con ngựa gầy thần tuấn phi phàm, phóng vút ngay đi. Kim Luân pháp vương giục ngựa đuổi theo, thoáng chốc Dương Quá một người một ngựa đã vọt xa cả dặm. Kim Luân pháp vương không đuổi theo nữa, chợt nghĩ thầm: “Sư đồ hắn mỗi đứa một nơi, ta còn sợ gì nữa? Hoàng bang chủ nếu chưa đi xa, hì hì…” Lão ta bèn dẫn đám võ sĩ Mông Cổ đi ngược trở lại. Dương Quá phóng ngựa liền mấy chục dặm, không thấy bóng dáng Tiều Long Nữ đâu cả, bỗng thấy nôn nao chóng mặt, suýt nữa ngã ngựa, trong lòng bi khổ: “Cô cô sao nỡ bỏ ta mà đi, ta lại đắc tội với cô cô hay sao? Trước khi bỏ đi, nàng khóc nhiều như thế, hẳn không phải là trách móc ta”. Chợt nghĩ thầm: “Thôi đúng rồi, ta bảo ở lâu trong tòa cổ mộ nếu buồn chán, thì nàng lại cho rằng ta không chung tình với nàng”.

Nghĩ tới đó, chàng lập tức hiểu ra: “Cô cô đã trở về tòa cổ mộ, ta về đó với nàng là xong”. Bất giác chàng cười vui, lộn mấy vòng trên yên ngựa. Vừa rồi cứ cắm đầu phi ngựa, chẳng kể đông tây nam bắc; bây giờ chàng định thần lại, xác định rõ phương hướng, cho ngựa chạy về hướng núi Chung Nam. Trưa hôm đó chàng ghé vào một phạn điếm bên đường, ăn xong bữa, chưa trả tiền, thấy điếm chủ nhân không để ý, chàng nhảy ngay lên ngựa phóng đi, chỉ nghe có tiếng người chửi phía sau, đâu làm gì được chàng, nghĩ mà cười thầm.

Đi đến giờ Thân, thấy phía trước là một cánh rừng lớn sẫm màu, từ trong rừng vọng ra tiếng chửi mắng. Dương Quá hơi ngạc nhiên, lắng nghe, nhận ra giọng nói của Kim Luân pháp vương và Quách Phù.

Dương Quá biết là có chuyện, vội xuống ngựa, buộc dây cương vào hàm thiếc, nấp mình sau các thân cây tiến về phía có tiếng ồn, đi hơn mười trượng, thì thấy trong một bãi đá lổn nhổn ở sâu giữa rừng, mẫu nữ Hoàng Dung và huynh đệ họ Võ đang chống chọi với bọn Kim Luân pháp vương. Chỉ thấy huynh đệ họ Võ trên mặt và quần áo lốm đốm vết máu, Hoàng Dung và Quách Phù thì đầu tóc rối bời, thần tình hoảng hốt; xem ra nếu không phải Kim Luân pháp vương định bắt sống, thì bốn người đã bỏ mạng từ sớm dưới thiết luân của lão ta rồi.

Dương Quá nhìn một lát, nghĩ thầm: “Cô cô không có ở đây nếu mình xông ra giúp họ, chỉ e mất mạng. Phải làm sao bây giờ? Có cách gì cứu Quách bá mẫu hay không?” Chàng thấy Kim Luân pháp vương vung thiết luân tấn công, Hoàng Dung không dám đỡ, rút vào phía sau bãi đá lổn nhổn, Kim Luân pháp vương cứ loay hoay bên ngoài bãi đá, không đánh được tới chỗ Hoàng Dung. Dương Quá lấy làm lạ, nhìn kỹ, thấy Quách Phù và huynh đệ họ Võ cũng dựa vào bãi đá kia mà tránh địch, mỗi lúc nguy cấp lại nấp vào sau một tảng đá, bọn Đạt Nhĩ Ba phải đuổi vòng tảng đá, gần kịp thì ba người đã lại lẩn vào sau một tảng đá khác. Dương Quá rất đỗi kinh ngạc, thấy một bãi đá lổn nhổn mà lại diệu dụng như vậy, thật ngoài sức tưởng tượng; xem chừng nhóm Hoàng Dung bốn người tuy nguy mà an, chẳng qua không thể rời bỏ bãi đá gọi là “Loạn thạch trận” để đào thoát mà thôi.

Kim Luân pháp vương đánh mãi không xong, tuy đả thương huynh đệ họ Võ, nhưng họ chỉ bị thương nhẹ, bên lão có một võ sĩ bị Quách Phù đâm chết, lão thấy “Loạn thạch trận” mà Hoàng Dung bố trí rất cổ quái, phải tìm hiểu chỗ huyền diệu của nó đã, mới có thể bắt sống bốn người. Lão tự phụ tài trí hơn người, đàng nào thì bốn người này cũng không thoát nổi tay lão; chờ lão tìm ra cách bố trí “Loạn thạch trận”, rồi sẽ xông vào bắt. Thế là lão khoát tay cho cả bọn đồ đệ lui ra, bản thân lão cũng lùi về hơn một trượng, quan sát “Loạn thạch trận” thật kỹ.

Phàm hành binh bố trận, không ra ngoài sự biến hóa Thái cực, Lưỡng nghi, Ngũ hành, Bát quái. Kim Luân pháp vương tinh thông Kỳ môn diệu thuật, nghĩ bụng “Loạn thạch trận” tuy quái lạ, song cũng không nằm ngoài đạo lý Ngũ hành sinh khắc.

Nào ngờ lão ngẫm nghĩ chán chê, tường đã tìm ra đầu mối, song nghĩ sâu thêm, lại thấy hoàn toàn không đúng, đúng với cánh bên phải, thì cánh bên trái đã biến đổi, tưởng thông phía trước của trận pháp, thì phía sau lại bị bế tắc, lão bất giác đứng ngây tại chỗ, khâm phục trận đồ. Lão văn, võ toàn tài, đúng là nhân vật siêu quần thời nay, bây giờ lại gặp nan đề, quyết ý dùng tài trí hóa giải mới thỏa chí.

Dương Quá thấy Kim Luân pháp vương cau mày trầm tư, hồi lâu bất động, đột nhiên ánh mắt bừng sáng, thân hình vọt đi, xông thẳng vào “Loạn thạch trận”, túm được cánh tay Quách Phù, lập tức lui ra.

Sự việc đột biến, Hoàng Dung và huynh đệ họ Võ cả kinh, luống cuống chân tay, nếu nhảy ra cứu, không thề thoát khỏi độc thủ của Kim Luân pháp vương.

Nguyên Quách Phù thấy kẻ địch đứng ngây một chỗ, nhất thời sơ ý, không đứng đúng vị trí mẫu thân chỉ định, rời khỏi chỗ che chắn của trận pháp.

Kim Luân pháp vương vừa phát hiện có sơ hở, lập tức xuất thủ bắt sống nàng, điểm huyệt bên sườn rồi bỏ nằm dưới đất. Lão ta cố ý không điểm á huyệt, để cho nàng rên rỉ cầu cứu, khiến Hoàng Dung phải xông ra khỏi “Loạn thạch trận”. Quách Phù cảm thấy toàn thân tê tái khó chịu, không nhịn được, rên lên đau đớn. Hoàng Dung làm gì chẳng biết đó là quỉ kế của kẻ địch, nhưng nghe tiếng rên rỉ của nữ nhi, lòng đau như cắt, đành cắn môi nín nhịn.

Dương Quá ở sau thân cây nhìn rất rõ, thấy Hoàng Dung lăm lăm cây gậy trúc, sắp xông ra khỏi “Loạn thạch trận” để cứu ái nữ, việc đó cực kỳ nguy hiểm, Dương Quá không nghĩ ngợi gì nữa, nhảy vọt ngay ra, túm lấy sau lưng Quách Phù, lao vào trong “Loạn thạch trận”. Kim Luân pháp vương phóng thiết luân đánh tới sau lưng chàng, Dương Quá đang lơ lửng trên không, khó né tránh, bèn quăng mạnh Quách Phù về phía Hoàng Dung, đồng thời sử chiêu “Thiên cân trụy”, cho thân hình rơi thẳng xuống, huỵch một cái, ngã ngay xuống bãi đá, chỉ nghe tiếng kính coong vang liên tục, cái thiết luân bay vào qua đầu chàng, vòng trở về tay Kim Luân pháp vương. Hoàng Dung ôm lấy ái nữ, cả mừng, thấy Dương Quá lóp ngóp bò dậy giữa bãi đá, má tím mũi sưng, vội giơ cây gậy trúc chỉ dẫn cho chàng lối vào “Loạn thạch trận”. Kim Luân pháp vương thấy mình sắp thành công, lại bị Dương Quá phá đám, tuy vậy lão chuyển giận thành vui, cười khẩy, nói:

– Càng hay, ngươi ngoan ngoãn tự chui vào lưới, để ta tóm cổ ngươi luôn thể.

Dương Quá vừa cứu người, quả thực vì nghĩa khí, sau khi vào trong “Loạn thạch trận” rồi, mới nghĩ lần này khó hi vọng thoát chết để gặp lại Tiểu Long Nữ, thì thầm ân hận.

Hoàng Dung hỏi:

– Sư phụ của ngươi đâu rồi?

Dương Quá rầu rĩ nói:

– Nàng đột nhiên nửa đêm bỏ đi, điệt nhi đang đi tìm nàng.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Quá nhi, ngươi đâu cần làm như vậy?

Dương Quá chỉ cười buồn, lắc đầu nói:

– Điệt nhi vẫn ngu ngốc lắm, nhiệt huyết đã dâng lên là điệt nhi không còn làm chủ mình được nữa.

Hoàng Dung nói:

– Hảo hài tử, ngươi thật tốt bụng, khác hẳn phụ…

Nói nửa chừng, bỗng nhiên ngừng bặt. Dương Quá giọng run run, hỏi:

– Quách bá mẫu, phụ thân của điệt nhi là người xấu phải không?

Hoàng Dung cúi đầu, nói:

– Ngươi muốn biết điều đó làm gì?

Đột nhiên kêu lên:

– Cẩn thận, lại đây nào.

Liền kéo Dương Quá qua một tảng đá tránh đòn đánh lén của Kim Luân pháp vương.

Dương Quá quan sát trước sau “Loạn thạch trận” một hồi, rồi thán phục, nói:

– Quách bá mẫu, thông minh tài trí như bá mẫu, trên thế gian thật không có người thứ hai.

Hoàng Dung đang xoa bóp giải huyệt cho Quách Phù, mỉm cười không đáp. Quách Phù nói:

– Dương đại ca biết không, bản sự của mẹ muội đều do ngoại công (ông ngoại) dạy đấy. Ngoại công mới ghê cơ.

Dương Quá từng thấy cách bày trận của Hoàng Dược Sư ở Đào Hoa đảo, có điều là hồi nhỏ chàng không thể hiểu cái hay của nó, bây giờ nghe Quách Phù nhắc đến, chàng liền gật gật đầu, bất giác thở dài, mơ màng:

– Biết bao giờ mới được bái kiến Hoàng lão nhân gia một lần, cũng không uổng một đời.

Đột nhiên Kim Luân pháp vương lại vượt qua hai tảng đá, xông tới tấn công. Dương Quá trong tay không có binh khí, bèn nhặt cây gậy trúc Hoàng Dung để dưới đất, vung lên ngăn chặn, vù vù hai gậy, đã sử Đả cẩu bổng pháp. Kim Luân pháp vương thấy Đả cẩu bổng pháp của chàng tinh diệu, ngưng thần tiếp chiến, giao đấu mấy chiêu, cả hai bỗng cùng vấp vào đá mà loạng choạng suýt ngã. Kim Luân pháp vương sợ bị ám toán, vội nhảy ra khỏi “Loạn thạch trận”.

Hoàng Dung chỉ dẫn cho Dương Quá đi vào, sai huynh đệ họ Võ và Quách Phù lăn đá, thay đổi “Loạn thạch trận”, hỏi Dương Quá:

– Đả cẩu bổng pháp, rốt cuộc là ngươi học ở đâu vậy?

Thế là Dương Quá cứ thực tình kể lại trên đỉnh Hoa Sơn chàng đã gặp Hồng Thất Công như thế nào, rồi Bắc Cái và Tây Độc tỷ võ ra sao, Hồng Thất Công truyền thụ Đả cẩu bổng pháp thế nào; nhưng Dương Quá sợ kích động tâm thần Hoàng Dung, nên giấu việc Hồng Thất Công đã tạ thế. Hoàng Dung thở dài, nói:

– Quá nhi, sự tình cờ của ngươi quả thực hi hữu vô cùng.

Bỗng nảy ra một ý, nói:

– Quá nhi, ngươi rất thông minh, hãy thử nghĩ xem có cách gì thoát nạn này không?

Dương Quá nhìn thần tình của Hoàng Dung, biết Hoàng Dung đã nghĩ ra kế sách, nhưng còn làm như chưa biết, đáp:

– Nếu Quách bá mẫu không bị bệnh, cùng điệt nhi đấu với Kim Luân pháp vương, có thể chiến thắng; hoặc có sư phụ của điệt nhi tới cũng vậy.

Hoàng Dung nói:

– Bệnh của ta làm sao có thể khỏi ngay? Sư phụ của ngươi cũng không biết đi đâu rồi. Ta có một cách, ấy là sử dụng “Loạn thạch trận”. “Loạn thạch trận” là do phụ thân ta truyền thụ, biến hóa tài tình, vừa rồi mới chỉ dùng đến hai thành của nó mà thôi.

Dương Quá vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nghĩ Hoàng Dược Sư nghiên cứu thiên địa nhân sâu xa, thật đáng khâm phục.

Hoàng Dung nói:

– Đả cẩu bổng pháp mà sư phụ ta truyền thụ cho ngươi chỉ là chiêu thức, khẩu quyết mà ngươi ở trên cây nghe ta đọc chỉ là đại ý. Bây giờ ta sẽ đem mọi biến hóa tinh vi trong Đả cẩu bổng pháp pháp dạy hết cho ngươi.

Dương Quá cả mừng, nói nhún nhường mà thực ra là để tiến tới:

– Điệt nhi chỉ sợ không tiện, Đả cẩu bổng pháp trừ bang chủ Cái Bang, xưa nay không truyền cho người ngoài.

Hoàng Dung lườm một cái, nói:

– Trước mặt ta ngươi còn giả bộ nữa ư? Đả cẩu bổng pháp, sư phụ ta đã truyền cho ngươi ba thành, ngươi nghe lén được hai thành, bây giờ ta dạy cho người hai thành. Còn ba thành nữa, ngươi hãy dùng tài trí của mình mà lĩnh hội, không ai truyền thụ được cho ngươi đâu. Môn này, một là không có ai truyền thụ toàn bộ cho ngươi; hai là hôm nay tình thế cấp bách, đành phải tòng quyền.

Dương Quá quì xuống, vái mấy cái, cười, nói:

– Quách bá mẫu, hồi điệt nhi còn nhỏ, bá mẫu đã bằng lòng truyền thụ võ công cho điệt nhi, hôm nay mới truyền thụ, cũng vẫn chưa muộn.

Hoàng Dung mỉm cười hỏi:

– Trong bụng ngươi vẫn chưa quên mối hận cũ, phải không?

Dương Quá cười, đáp:

– Điệt nhi đâu dám!

Hoàng Dung đem những điều huyền diệu của bổng pháp nói cặn kẽ cho một mình Dương Quá nghe. Kim Luân pháp vương đứng bên ngoài “Loạn thạch trận” thấy Dương Quá khấu đầu trước Hoàng Dung, rồi hai người cười cười nói nói với nhau chẳng biết những gì, xem ra không có vẻ gì là sợ sệt, không coi lão ta vào đâu cả. Tuy lão tức giận, nhưng quen thận trọng, biết hai người võ công tuy không địch nổi lão, song quỉ kế đa đoan, thiếu cẩn thận sẽ mắc lừa họ ngay, chi bằng cứ suy tính bí ẩn của trận pháp kia cho rõ, rồi hãy định đối sách. May mà Kim Luân pháp vương tạm dừng tấn công, Hoàng Dung và Dương Quá không cần ứng chiến, chưa đến nửa canh giờ đã truyền thụ xong mọi yếu quyết.

Dương Quá thông minh đĩnh ngộ gấp trăm lần Lỗ Hữu Cước, nghe một biết mười, đã thế môn bổng pháp này chàng đã hao tốn bao tâm huyết để suy đoán cho hiểu thấu về nó, hôm nay Hoàng Dung chỉ dẫn một chút là chàng đã lập tức quán thông. Kim Luân pháp vương thấy Hoàng Dung thần sắc nghiêm trang an tường, miệng mấp máy, Dương Quá thì chăm chú lắng nghe, mặt mày hớn hở, lão không biết hai người kia đang giở trò quỉ gì, song rõ ràng là bất lợi cho lão.

Dương Quá nghe xong yếu quyết, hỏi rõ mươi điều chưa rõ, Hoàng Dung giải thích xong xuôi, nói:

– Được rồi, các câu hỏi của ngươi chứng tỏ ngươi đã lĩnh hội đủ. Bước thứ hai là chúng ta hãy dụ lão hòa thượng kia vào đây để bắt sống lão ta.

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Bắt sống lão ta ư?

Hoàng Dung nói:

– Việc đó có gì là khó? Bây giờ ta và ngươi liên thủ với nhau, cả trí và lực đều đã hơn lão ta rồi. Nếu ta đem cái sự huyền diệu của “Loạn thạch trận” giảng cho ngươi, nhất thời ngươi khó lĩnh hội được, may mà ngươi có trí nhớ cực tốt, nên ngươi chỉ cần nhớ kỹ ba mươi sáu cách biến hóa là được.

Rồi bắt đầu giảng lần lượt, Thanh Long làm thế nào diễn thành Bạch Hổ, Huyền Vũ làm sao lại biến thành Chu Tước. Nguyên “Loạn thạch trận” này là biến đổi từ Bát trận đồ của Gia Cát Lượng mà ra.

Năm xưa Gia Cát Lượng tại bến sông Trường Giang dùng các khối đá xếp thành trận pháp, đại tướng Lục Tốn của Đông Ngô sau khi xông vào trong đó, không thể thoát ra. Hôm nay Hoàng Dung bố trí “Loạn thạch trận” là theo phép tắc của Gia Cát Võ Hầu, có điều sự thể bất ngờ, bố trí chưa trọn vẹn, đại địch đã tới, nên “Loạn thạch trận” có qui mô nhỏ hơn mà thôi. Tuy thế nó cũng đã khiến cho Kim Luân pháp vương tâm thần bất định, cứ trố mắt nhìn năm người trước mặt mà không dám xông vào động thủ.

Ba mươi sáu cách biến hóa trận đồ, quả thật phức tạp huyền diệu, Dương Quá tuy rất thông minh, nhất thời cũng chỉ nhớ được hơn mười cách. Thấy trời sắp tối Kim Luân pháp vương có vẻ muốn động thủ.

Hoàng Dung nói:

– Mười mấy cách biến hóa, đã đủ vây khốn địch thủ rồi. Ngươi hãy ra dụ lão ta vào trận, ta biến đổi trận pháp, vây khốn lão ta.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Quách bá mẫu, sau này nếu điệt nhi đến Đào Hoa đảo, bá mẫu có chịu dạy nốt môn học này cho điệt nhi hay chăng?

Hoàng Dung mỉm cười, gió thổi tóc bay bay, trời gần tối gió mạnh lên, Hoàng Dung nói:

– Nếu người chịu đến, lẽ nào ta không dạy? Ngươi đã xả thân cứu ta và Phù nhi hai phen, không lẽ ta còn đối xử với ngươi như cũ hay sao?

Dương Quá nghe xong, trong lòng cực kỳ ấm áp; bây giờ Hoàng Dung có bảo chàng làm bất cứ việc gì, chàng cũng không quản ngại, thế là liền cầm cây gậy trúc, ra ngoài “Loạn thạch trận”, gọi to:

– Này Thiết Luân pháp vương, lão có gan thì tới đây đấu với ta ba trăm hiệp!

Kim Luân pháp vương đang lo mấy người trong “Loạn thạch trận” bày trò quỉ ám hại lão; thấy Dương Quá ra khỏi trận khiêu chiến, thì thật là không cầu mà được, bèn vung thiết luân loong coong đánh tới.

Lão sợ Dương Quá sắp thua, lại chạy vào “Loạn thạch trận”, nên sau hai chiêu, lão chặn ngay phía sau lưng chàng, buộc chàng phải rời xa “Loạn thạch trận”. Không ngờ Dương Quá mới học được tinh yếu của Đả cẩu bổng pháp, đem ra sử theo khẩu quyết tám chữ Bạn, Phách, Triền, Tróc, Khiêu, Dẫn, Phong, Chuyển, quả nhiên biến hóa tinh vi, xuất thần nhập hóa. Kim Luân pháp vương sơ ý một chút, bị chàng chọc một gậy vào đùi, tuy trong lúc nguy cấp lão đã phong bế huyệt đạo, nên không bị thương, nhưng cũng đau, nhức nhối hồi lâu.

Bị một đòn rồi, lão không dám khinh thường, giơ thiết luân ngưng thần nghênh chiến, đối thủ trước mắt chỉ là một gã thiếu niên mười mấy tuổi, song lão coi như đại địch, lúc công thì linh hoạt, lúc thủ thì chặt chẽ, y như đang phải đối phó với một vị đại tông sư môn phái không bằng. Dương Quá cảm thấy khó cầm cự, Đả cẩu bổng pháp tuy kỳ diệu, song vừa học dùng ngay, khó bề tận thông; chàng bèn theo khẩu quyết chữ “Phong”, ngăn chặn thế công của cái thiết luân, di chuyển cước bộ, tả xung hữu đột. Kim Luân pháp vương thấy cây gậy trúc của đối phương biến chiêu, thấy Dương Quá xông ra phía ngoài, nghĩ bụng thế này quá tốt, cứ thế dẫn dụ chàng rời xa “Loạn thạch trận”, không ngờ lùi được mươi bước, đột nhiên chân phải vấp vào một tảng đá, thì ra chính lão đã bị dụ vào “Loạn thạch trận” lúc nào không biết.

Lão biết là hỏng rồi, chỉ nghe Hoàng Dung luôn miệng nói:

– Chu Tước di Thanh Long, vị trí Tốn đổi thành vị trí Ly, Ất mộc biến Quý thủy.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ xê dịch các tảng đá, “Loạn thạch trận” nhanh chóng biến đổi. Kim Luân pháp vương tái mặt cả kinh, dừng cái thiết luân chờ quan sát tình hình bốn phía, cây gậy trúc của Dương Quá lại đánh tới. Đả cẩu bổng pháp đánh chính diện với lão thì chưa đáng ngại, nhưng giữa lúc lão đang rối trí, thì có thừa lợi hại; Kim Luân pháp vương bị vấp chân liền mấy cái, đứng không vững, biết là “Loạn thạch trận” quá ư lợi hại, đã sa chân vào đây, càng di động càng loạn, trong cơn nguy cấp, lão quát to một tiếng, nhảy lên trên đống đá. Lẽ ra đứng trên đống đá sẽ không bị “Loạn thạch trận” vây hãm, không bị mê loạn phương vị, chứ cứ ở bên dưới chạy chán vẫn cứ loanh quanh trong vòng tròn mươi trượng của “Loạn thạch trận”, cuối cùng tinh hao lực tận, thì chỉ còn cách khoanh tay chờ chết. Nhưng Kim Luân pháp vương vừa nhảy lên trên một tảng đá, Dương Quá đã vung gậy trúc quật ngang ống chân, thiết luân của lão ngắn, không thể cúi thấp chống đỡ, lão đành phải nhảy xuống đất, vung thiết luân phản kích.

Lại đấu thêm mươi chiêu, trời đã sẩm tối, bốn phía nhấp nhô loạn thạch, “Loạn thạch trận” tựa hồ thấp thoáng nhiều bóng ma quỉ, lão dẫu to gan, cũng không khỏi rùng mình. Đột nhiên óc lão lóe lên một kế, lão dùng chân trái hất một hòn đá chừng hơn hai chục cân bay lên cao, rồi chân phải cũng hất một hòn lên cao. Lão cứ thế dùng hai chân hất đá bay lên, các hòn đá va vào nhau tóe lửa, có hòn vỡ ra, rơi xuống; “Loạn thạch trận” tức thời bị phá vỡ. Nhóm Hoàng Dung năm người cả kinh, cứ phải không ngừng né tránh các hòn đá từ trên cao rơi xuống.

Lúc này nếu Kim Luân pháp vương muốn ra khỏi “Loạn thạch trận”, đã dễ như trở bàn tay; song lão lại chuyển từ thủ sang công, tay trái vươn dài, túm lấy Hoàng Dung. Dương Quá chọc mũi cây gậy vào sau lưng lão, lão vung chếch cái thiết luân gạt gậy đi, tay trái lại túm lấy bả vai Hoàng Dung. Hoàng Dung đã định nhảy tránh về phía sau, nhưng nghe tiếng gió mạnh, một hòn đá lớn từ trên cao đang rơi xuống phía sau, nàng đành thi triển đại cầm nã thủ pháp, chộp lấy cổ tay trái của Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương thốt lên:

– Hay lắm!

Lão chờ nàng nắm cổ tay mình, tiện thế vận thần lực giật mạnh nàng về phía lão một cái.

Nếu là ngày thường, Hoàng Dung có thể vận kình đẩy ra, nhưng lúc này nội lực không đủ, kêu ối và ngã sấp xuống. Dương Quá bất chấp an nguy sống chết, lao tới ôm hai cẳng Kim Luân pháp vương, cả hai người cùng ngã. Kim Luân pháp vương võ công cao hơn hẳn chàng, thân hình chưa chạm đất, lão đã đánh ra một chưởng vào ngực chàng, Dương Quá vội giơ tay trái chống đỡ. “Bộp” một cái, Dương Quá cảm thấy khí huyết nhộn nhạo trong ngực, thân hình bay đi như một bó lúa.

Đúng lúc ấy, một hòn đá lớn từ trên cao rơi xuống, giáng trúng lưng Kim Luân pháp vương, nghe huỵch một tiếng; nội công của lão dẫu thâm hậu đến mấy, cũng không chịu nổi, tuy lão vận công đẩy được tảng đá sang bên cạnh, nhưng cũng lảo đảo, cuối cùng ngã gục xuống.

Lúc này đá rơi trận vỡ, Hoàng Dung, Dương Quá, Kim Luân pháp vương ba người cùng bị thương, nằm cả dưới đất.

Hồi 15: Đệ tử Đông Tà

Đạt Nhĩ Ba cùng đám võ sĩ Mông Cổ ở bên ngoài “loạn thạch trận”, Quách Phù và huynh đệ họ Võ ở trong “loạn thạch trận” cùng kinh hãi, đổ xô lại cứu. Đạt Nhĩ Ba thần lực kinh nhân, trong đám võ sĩ Mông Cổ cũng có vài hảo thủ, Quách Phù và huynh đệ họ Võ làm sao địch nổi? Đột nhiên Kim Luân pháp vương loạng choạng đứng dậy, rung cái thiết luân kêu loong coong một hồi, sắc diện nhợt nhạt, ngửa mặt cười một cách thê thảm, mọi người kinh hãi nhìn nhau, không dám tiến lại.

Kim Luân pháp vương trầm giọng nói:

– Lão nạp bình sinh động thủ với người, chưa bao giờ bị một vết thương nhỏ, hôm nay tự mình lại đả thương mình.

Rồi giơ tay túm lấy lưng Hoàng Dung. Dương Quá bị chưởng lực của lão ta làm chấn thương vùng ngực, bò dưới đất chưa dậy nổi, thấy Hoàng Dung bị nguy, bèn giơ cây gậy trúc gạt chưởng của lão ta ra, do gắng sức, chàng hộc ra một ngụm máu tươi. Hoàng Dung buồn rầu nói:

– Quá nhi, chúng ta nhận thua cho rồi, đừng liều mạng nữa, hãy tự bảo trọng.

Quách Phù chĩa kiếm bảo hộ trước mặt mẫu thân. Dương Quá nói nhỏ:

– Phù muội, mau chạy đi, báo tin cho phụ thân muội cần hơn.

Quách Phù tâm trí rối bời, biết là mình võ công thấp kém, nhưng làm sao nỡ bỏ mẫu thân mà đi? Kim Luân pháp vương dùng thiết luân đánh nhẹ vào thanh kiếm của nàng, keng một tiếng, thanh kiếm bị văng ngay về phía rừng cây.

Kim Luân pháp vương đang định gạt Quách Phù ra để bắt Hoàng Dung, thì bỗng nghe một thanh âm trong trẻo vang lên:

– Hãy khoan!

Một cái bóng áo xanh từ trong rừng cây nhảy ra, giơ tay đón thanh kiếm sắp rơi, sau ba cú nhảy đã tới bên cạnh. Kim Luân pháp vương thấy mặt mày người kia rất đáng sợ, ba phần giống người, bảy phần giống quỉ, bình sinh chưa từng gặp thứ diện mạo quái đản thế này, không khỏi giật mình, quát:

– Là ai vậy?

Thiếu nữ không trả lời, cúi xuống lăn một hòn đá vào chắn giữa lão ta với Hoàng Dung, nói:

– Các hạ có phải là Kim Luân pháp vương tiếng tăm lừng lẫy đó chăng?

Diện mạo của thiếu nữ tuy xấu xí, nhưng giọng nói trong trẻo lạ thường.

Kim Luân pháp vương đáp:

– Không sai. Tôn giá là ai?

Thiếu nữ nói:

– Tiểu nữ là kẻ vô danh, các hạ khỏi cần biết.

Nói rồi lại di chuyển một hòn đá khác đi ba thước. Lúc này mặt trời đã lặn, rừng cây một dải mông lung, Kim Luân pháp vương chợt lo ngại, quát to để ngăn thiếu nữ không được lăn đá:

– Ngươi làm trò gì vậy?

Thiếu nữ nói:

– Giốc mộc giao biến Cang kim long!

Quách Phù và huynh đệ họ Võ ngẩn người, nghĩ thầm: “Thiếu nữ này cũng biết cách biến hóa loạn thạch trận ư?” Nghe giọng nói của nàng ta uy nghiêm như mệnh lệnh, ba người vội y lời, lăn bốn, năm hòn đá, trận pháp tán loạn đã được phục hồi.

Kim Luân pháp vương vừa kinh ngạc vừa tức giận, quát:

– Nhãi ranh như ngươi cũng đòi làm loạn!

Chỉ nghe thiếu nữ lại nói:

– Tâm nguyệt hồ chuyển Phòng nhật thố, Tất nguyệt điểu di Khuê mộc lang, Nữ thổ bức tiến Thất hỏa trư.

Nàng toàn gọi tên phương vị của Nhị thập bát tú. Quách Phù và huynh đệ họ Võ nghe rõ rành rành, hệt như khi Hoàng Dung chủ trì trận pháp, thì cả mừng, ra sức di động các tảng đá, thấy rõ lại vây khốn Kim Luân pháp vương vào trong.

Kim Luân pháp vương bị hòn đá rơi trúng lưng, cố vận nội lực cầm cự, nhưng kỳ thực đã bị nội thương không nhẹ, không còn đủ sức hất hoặc lăn các hòn đá, biết rằng chỉ cần chậm trễ giây lát, sẽ bị hãm thân trong “Loạn thạch trận”, đệ tử Đạt Nhĩ Ba tuy có dũng lực, nhưng không hiểu trận pháp, khó lòng vào cứu; Hoàng Dung thì vừa gắng gượng đứng dậy được, chỉ cần tiến vài bước là đủ bắt sống nàng ta, nhưng lão nghĩ điều cốt yếu là lão phải thoát thân, bèn vung thiết luân giả bộ đánh tới ngực Võ Tu Văn.

Sau khi bị thương, cánh tay lão đã mất hết sức lực phải mười phần gắng sức mới giơ nổi cái thiết luân; Võ Tu Văn giả dụ dùng kiếm đỡ gạt, thì thừa sức đánh rớt binh khí của lão. Nhưng trông lão uy phong lẫm hệt, tuy là hư chiêu, mà trông cứ dũng mãnh phi thường, Võ Tu Văn không dám chống đỡ, vội thu mình vào trong “loạn thạch trận”.

Kim Luân pháp vương thong thả ra khỏi “loạn thạch trận”, đứng ngây một hồi, nghĩ thầm: “Hôm nay bỏ lỡ thời cơ, chỉ e mai sau khó còn gặp lại. Không lẽ ông trời quả thật phù hộ cho Đại Tống, không cho đại sự của ta được thành toàn? Võ lâm Trung Nguyên quá nhiều anh tài, chỉ vài gã thiếu niên nam nữ cũng đã văn võ kiêm toàn, đoàn hào kiệt Mông – Tạng của ta vì khinh địch mà đành bại trận”. Lão thở dài, quay đầu bỏ đi, mới được mươi bước, đột nhiên nghe “choang” một tiếng, cái thiết luân rơi xuống đất, thân hình lão lảo đảo.

Đạt Nhĩ Ba cả kinh, gọi to:

– Sư phụ!

Chạy tới đỡ, vội hỏi:

– Sư phụ có sao không?

Kim Luân pháp vương cau mày im lặng, đưa tay quàng vai y, nói nhỏ:

– Đáng tiếc, đáng tiếc! Đi thôi!

Một võ sĩ Mông Cổ dắt ngựa lại. Kim Luân pháp vương bị trọng thương, không còn đủ sức leo lên lưng ngựa, Đạt Nhĩ Ba phải dùng bàn tay trái đỡ lưng sư phụ lên yên. Đoàn người ấy bỏ đi về hướng đông.

Thanh y thiếu nữ thong thả tới bên cạnh Dương Quá, chậm rãi cúi người quan sát sắc diện của chàng, muốn biết thương thế ra sao. Lúc này trời đã tối mịt, cách hơn một thước nhìn không rõ, nàng phải cúi thật gần, thấy chàng hai mắt mở to thất thần, hơi thở hổn hển, hiển nhiên bị thương không nhẹ.

Trong cơn nửa mê nửa tỉnh, Dương Quá thấy trước mặt mình một đôi mắt đen láy hiền hòa, hệt như ánh mắt Tiểu Long Nữ vẫn nhìn chàng, vừa dịu dàng, vừa ấm áp, bèn giơ hai tay ôm lấy nàng, gọi:

– Cô cô, Quá nhi bị thương rồi, cô cô đừng bỏ mặc Quá nhi mà đi nhé.

Thiếu nữ vừa ngượng vừa lo, đẩy nhẹ ra. Vết thương ở ngực Dương Quá lập tức đau nhói, chàng kêu ối một tiếng. Thiếu nữ đành để yên, nói nhỏ:

– Muội không phải là cô cô của huynh đâu, huynh hãy buông muội ra nào.

Dương Quá nhìn trân trân vào mắt nàng, khẩn cầu:

– Cô cô đừng bỏ mặc ta, ta… ta… ta là Quá nhi của cô cô đây mà.

Thiếu nữ mềm lòng, dịu dàng nói:

– Muội không phải là cô cô của huynh đâu.

Trời tối như bưng, diện mạo đáng sợ của thiếu nữ nhòa lẫn, chỉ còn đôi mắt long lanh phát sáng. Dương Quá kéo tay nàng, không ngớt khẩn cầu:

– Phải mà, phải mà! Cô cô đừng bỏ mặc ta.

Thiếu nữ đành để cho chàng ôm, ngượng ngùng run rẩy cả người, không biết nên làm thế nào. Đột nhiên Dương Quá bừng tỉnh, biết người này không phải là Tiểu Long Nữ, thì quá ư thất vọng, trong đầu thấy trời xoay đất chuyển, lập tức ngất đi.

Thiếu nữ kinh hãi, thấy Quách Phù và huynh đệ họ Võ đều vây quanh Hoàng Dung hỏi han hầu hạ, không ai để ý đến Dương Quá, nàng nghĩ chàng bị thương rất nặng, nếu không cho uống linh dược mà sư phụ bí mật chế ra, e sẽ nguy đến tính mạng, bèn cõng chàng rời khỏi bãi đá, rồi thong thả ra khỏi cánh rừng. Con ngựa gầy của Dương Quá cực kỳ tinh khôn, nhận biết chủ nhân, chạy lại gần. Thiếu nữ đặt Dương Quá nằm lên lưng ngựa, rồi nàng dắt ngựa mà đi.

Dương Quá cứ lúc mê lúc tỉnh, có lúc thấy thiếu nữ bên cạnh là Tiểu Long Nữ thì sung sướng gọi, có lúc phát hiện không phải, toàn thân tưởng như rơi xuống hố băng. Cũng không biết bao nhiêu lâu sau, tự nhiên thấy cổ họng mát rượi, lan dần tới vết thương trong ngực, cảm giác dễ chịu vô cùng, mới từ từ mở mắt ra, thì không khỏi kinh ngạc, hóa ra chàng đang nằm trên giường, đắp ngang mình một tấm chăn mỏng. Chàng định ngồi dậy, bỗng thấy xương ngực đau nhói, không dám cựa quậy nữa.

Quay đầu nhìn ra, chỉ thấy bên song cửa một thanh y thiếu nữ tay trái đè giấy, tay phải cầm bút đang viết. Nàng ngồi quay lưng về phía chàng, không nhìn thấy diện mạo, nhưng thân hình nàng thon thả, mảnh mai, kiều mỹ vô cùng. Nhìn xung quanh, thấy đây là một gian nhà lá, bàn ghế, giường đều bằng gỗ, hết sức giản dị mộc mạc, bốn bức tường sạch bong, không một vết bụi, thanh u tuyệt tục. Trên cái chõng tre cạnh giường có một chiếc đàn dao và một cây sáo trúc.

Chàng chỉ nhớ mình bị thương trong trận ác đấu với Kim Luân pháp vương tại “loạn thạch trận”, không biết tại sao được mang đến đây, chỉ nhớ mang máng mình nằm trên lưng ngựa, có người dắt ngựa đi, người đó là nữ. Bây giờ nhìn kỹ sau lưng, nhớ ra người ấy chính là thiếu nữ đang ngồi kia. Thiếu nữ đang mải viết, chỉ thấy cánh tay phải nàng ta lay động nhẹ, tư thế thanh thoát tự nhiên. Nơi đây tĩnh mịch hoàn toàn, so với cuộc ác đấu ở “loạn thạch trận” vừa rồi thật y như một thế giới khác. Chàng không dám lên tiếng làm phiền thiếu nữ, cứ nằm yên như thể vừa tỉnh sau một giấc mộng hoặc một cơn say.

Bỗng nhiên chàng nhớ ra, thanh y thiếu nữ kia chính là người ở dọc đường Tràng An đã cảnh báo cho chàng biết về Lý Mạc Sầu, sau đó liên thủ với chàng cứu Lục Vô Song, chàng nghĩ hai bên không quen biết thân thích gì, tại sao nàng lại cứu chàng thế này? Chàng buột miệng, hỏi:

– Tỷ tỷ, thì ra lại là tỷ tỷ cứu sống đệ.

Thiếu nữ dừng bút, không ngoảnh lại, dịu dàng nói:

– Cũng không thể nói là muội cứu sống huynh, muội tình cờ đi qua, thấy lão hòa thượng Tây Tạng quá càn rỡ, huynh lại bị thương…

Nàng nói rồi hơi cúi đầu xuống.

Dương Quá nói:

– Tỷ tỷ, đệ… đệ…

Chàng cảm kích, nhất thời nghẹn ngào nói không nên lời.

Thiếu nữ nói:

– Huynh có lòng nghĩa hiệp, bất chấp nguy hiểm cứu mạng người khác, chứ muội chỉ giúp được tí chút, đâu có đáng gì.

Dương Quá nói:

– Quách bá mẫu đối với đệ có ơn dưỡng dục, Quách bá mẫu gặp nguy nan, đệ ắt phải cứu, còn tỷ tỷ với đệ…

Thiếu nữ nói:

– Muội không nói đến Quách bá mẫu của huynh, mà là nói về Lục Vô Song muội tử.

Ba chữ “Lục Vô Song” Dương Quá đã lâu không nhớ tới, nghe thiếu nữ nhắc đến, vội hỏi:

– Lục cô nương có được bình an chăng? Vết thương đã lành hẳn chưa?

Thiếu nữ nói:

– Đa tạ huynh quan hoài, vết thương của Lục muội đã lành hẳn, thì ra huynh vẫn chưa quên Lục muội.

Dương Quá nghe thiếu nữ nói về Lục Vô Song với giọng nói thân thiết, bèn hỏi:

– Không biết tỷ tỷ với Lục cô nương xưng hô thế nào?

Thiếu nữ không trả lời, mỉm cười, nói:

– Huynh đừng có một tỷ tỷ, hai tỷ tỷ nữa, muội còn ít tuổi hơn huynh mà.

Dừng một lát, cười, nói tiếp:

– Cũng không hiểu tại sao lại gọi người ta là “cô cô”, đến lúc đổi cách xưng hô, chỉ e đã muộn.

Dương Quá đỏ mặt, đoán là trong lúc hôn mê chàng đã tưởng nhầm thiếu nữ là Tiểu Long Nữ, cứ luôn miệng gọi “cô cô”, không chừng còn nói những lời thân mật, vượt quá lễ giáo, càng nghĩ càng cảm thấy bất an, ấp úng:

– Cô… cô nương… không trách ta chứ?

Thiếu nữ cười, nói:

– Dĩ nhiên là muội không trách huynh, huynh cứ yên tâm ở đây dưỡng thương, khi nào khỏe sẽ lại đi tìm “cô cô” của huynh.

Lại nói thêm:

– Cũng đừng quá lo, rồi huynh sẽ tìm thấy thôi.

Mấy lời vừa nói dịu dàng, hiền hòa, ấm áp, trân trọng, khiến người nghe vừa yên tâm, vừa vui lòng, thật khác hẳn tất cả các thiếu nữ mà Dương Quá từng gặp. Nàng không hoạt bát nhanh nhẹn như Lục Vô Song, cũng không kiêu căng khó chịu như Quách Phù. Gia Luật Yến thì hào sảng, không ràng buộc. Hoàn Nhan Bình yếu ớt đáng thương. Còn Tiểu Long Nữ ban đầu lạnh nhạt băng giá, không thèm quan tâm, về sau thì đằm thắm chung tình, sống chết có nhau, tính nết có vẻ thiên về cực đoan. Chỉ riêng thanh y thiếu nữ là dịu dàng thanh nhã, chu đáo ân cần, biết chàng thương nhớ “cô cô” thì khuyên chàng yên tâm dưỡng thương, lúc nào khỏi hãy đi tìm, mà tìm khắc thấy. Ở bên nàng, cảm thấy thật yên bình.

Nàng nói xong, lại cầm bút viết. Dương Quá hỏi:

– Cô nương, quí tính là chi?

Thiếu nữ nói:

– Huynh đừng hỏi gì nữa, hãy cứ nằm yên đó, đừng nghĩ ngợi lung tung thì nội thương mới mau lành.

Dương Quá nói:

– Thôi được, thực ra ta đã biết là có hỏi cũng vô ích; cô nương có khuôn mặt còn chẳng cho nhìn, nữa là chịu nói họ tên.

Thiếu nữ thở dài:

– Tướng mạo của muội xấu xí lắm, huynh đã nhìn thấy rồi mà.

Dương Quá nói:

– Không, không phải! Đấy là cô nương đeo mặt nạ.

Thiếu nữ nói:

– Nếu muội xinh xắn như “cô cô” của huynh, thì cần gì phải đeo mặt nạ kia chứ?

Dương Quá nghe nàng khen Tiểu Long Nữ xinh đẹp thì rất sung sướng, hỏi:

– Tại sao cô nương biết “cô cô” của ta xinh xắn?

Thiếu nữ nói:

– Muội chưa hề gặp. Nhưng trong giấc ngủ mà huynh cứ luôn miệng nhớ nhớ thương thương như thế, nàng ta hẳn phải là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ.

Dương Quá thở dài:

– Ta nhớ thương nàng, không chỉ vì nàng xinh xắn, dẫu nàng có là đệ nhất xú nhân trong thiên hạ, thì ta cũng nhớ thương nàng như vậy. Có điều… có điều là nếu cô nương nhìn thấy nàng, thì thể nào cũng phải khen nàng đẹp.

Câu này mà nói với Quách Phù và Lục Vô Song, nhất định chàng sẽ bị họ châm biếm vài câu, còn thiếu nữ này thì nói:

– Chắc chắn như vậy. Nàng không chỉ xinh xắn, mà đối với huynh hẳn là tốt lắm.

Nói xong nàng lại cúi xuống bàn mà viết.

Dương Quá nhìn lên nóc nhà một hồi, không nhịn được lại quay đầu nhìn thân hình thon thả của thanh y thiếu nữ, hỏi:

– Cô nương viết cái gì mà chăm chú vậy?

Thiếu nữ đáp:

– Muội tập viết chữ.

Dương Quá hỏi:

– Cô nương viết chữ kiểu gì?

Thiếu nữ nói:

– Chữ muội xấu lắm, đâu có kiểu cách gì.

Dương Quá nói:

– Cô nương quá khiêm tốn, ta đoán chữ cô nương phải rất đẹp.

Thiếu nữ cười, nói:

– Ồ, huynh lạ thật, tại sao huynh lại đoán như thế?

Dương Quá nói:

– Cô nương có nhân phẩm tuấn nhã dường ấy, thư pháp ắt phải tuấn nhã. Cô nương cho ta xem vài chữ được chăng?

Thiếu nữ lại mỉm cười, nói:

– Chữ của muội chẳng đáng xem đâu, chờ khi nào huynh dưỡng thương khỏe rồi, sẽ nhờ huynh dạy muội viết chữ.

Dương Quá thầm cảm kích Hoàng Dung hồi ở Đào Hoa đảo đã dạy chàng đọc sách, viết chữ; nếu hồi ấy chàng không chịu học, thì đừng nói là phân biệt thư pháp hay dở, mà ngay cả người ta viết chữ gì, mình cũng không đọc hiểu.

Mải nghĩ một hồi, chợt thảy ngực đau âm ỉ, chàng bèn vận nội công, dẫn khí đi bách huyệt, dần dần dễ chịu, ngủ thiếp đi; tỉnh dậy thì trời đã tối, thiếu nữ dọn cơm trên một cái chõng tre sát giường, bón cơm cho chàng ăn. Đũa tre bát sành, tuy là vật thô sơ, nhưng đều mới nguyên, nhìn vào thấy ngay có sự chăm chút.

Bữa cơm cũng rất bình thường, có rau xanh, đậu phụ, trứng gà, cá nhỏ, nhưng nấu nướng thật khéo léo, ăn rất ngon miệng. Dương Quá ăn một mạch hết ba tô cơm, vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Thiếu nữ tuy mang mặt nạ, không thấy được vẻ hỉ nộ, nhưng nhìn ánh mắt cũng biết nàng rất hoan hỉ.

Hôm sau thương thế của Dương Quá khá hơn một chút, thiếu nữ kéo chiếc ghế lại cạnh giường, ngồi vá áo cho chàng. Cái áo ngoài rách bươm của chàng được nàng vá víu cẩn thận. Nàng giơ cái áo lên, nói:

– Một người nhân phẩm cao đẹp như huynh, sao lại cố ý ăn mặc lam lũ thế này?

Nói rồi nàng vào buồng trong, mang ra một mảnh vải xanh, dựa theo cái áo rách mà cắt khâu cho chàng chiếc áo mới.

Nghe giọng nói, nhìn cử chỉ, thiếu nữ chỉ mười bảy, mười tám tuổi là cùng; nhưng nàng đối với Dương Quá cứ y như trưởng tỷ đối với tiểu đệ, thậm chí như một từ mẫu. Dương Quá mồ côi mẹ đã lâu, hôm nay cảm thấy như trở lại cảnh hồi thơ ấu ở bên mẹ, vừa cảm kích, vừa lạ lùng, không nhịn được, hỏi:

– Tỷ tỷ, sao tỷ tỷ đối với đệ chu đáo quá vậy? Đệ thật không xứng đáng.

Thiếu nữ nói:

– May giúp một cái áo thì có gì mà bảo là chu đáo? Huynh xả thân cứu người, thế mới quí đấy.

Hôm sau buổi sáng trôi qua yên ổn, buổi chiều thiếu nữ ngồi bên bàn viết. Dương Quá rất muốn xem nàng viết gì, xin xem mấy lần nàng đều không chịu.

Nàng viết chừng một canh giờ, viết xong một tờ, nhìn một hồi, vò nhàu tờ giấy, viết tờ khác, tựa hồ vẫn chưa vừa ý, lại vò nhàu, viết tờ mới. Kiểu cách đó, xem chừng không phải là nàng sao chép bí kíp võ công nào cả. Cuối cùng nàng để đấy, không viết nữa, hỏi Dương Quá:

– Huynh muốn ăn món gì, để muội đi làm cho huynh ăn.

Dương Quá chợt nảy ra một kế, nói:

– Chỉ sợ tỷ tỷ vất vả quá thôi.

Thiếu nữ nói:

– Món gì nào? Huynh cứ nói cho muội nghe coi.

Dương Quá nói:

– Đệ thèm ăn bánh trôi.

Thiếu nữ nói:

– Làm vài cái bánh trôi thì có gì mà vất vả. Muội cũng thích ăn bánh trôi đây. Thế huynh thích ăn loại nhân mặn hay nhân ngọt?

Dương Quá nói:

– Mặn ngọt đều được. Có bánh trôi ăn là thích lắm rồi.

Tối hôm ấy, thiếu nữ quả nhiên cho chàng ăn mấy cái bánh trôi, loại ngọt thì nhân đậu xanh với chút mỡ heo, loại mặn thì nhân thịt tươi, ngon vô cùng, Dương Quá cứ vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Thiếu nữ thở dài nói:

– Huynh thông minh thật, đoán trúng ngay thân thế của muội.

Dương Quá lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Ta đoán trúng ư? Sao lại bảo ta đoán trúng thân thế của nàng?”

Thiếu nữ nói:

– Bánh trôi ở Giang Nam quê muội nổi tiếng khắp thiên hạ, huynh nói một cái trúng luôn.

Dương Quá nhớ lại hàng loạt chuyện cách đây mấy năm ở vùng Chiết Tây chàng gặp vợ chồng Quách Tĩnh, cuộc đấu với Lý Mạc Sầu, rồi việc Âu Dương Phong nhận chàng làm nghĩa tử, vậy mà chàng vẫn chưa nhận ra thiếu nữ trước mặt mình là ai.

Chàng bảo muốn ăn bánh trôi là có dụng ý khác. Ăn xong, thừa lúc thiếu nữ không để ý, chàng giấu một cái trong lòng bàn tay; chờ lúc thiếu nữ dọn bát đũa đi, chàng lấy một sợi chỉ mà thiếu nữ khâu áo để lại buộc một đầu vào cái bánh trôi, ném cái bánh trôi tới chỗ mấy tờ giấy vò nhàu kia cho dính, kéo tờ giấy lại mở ra xem, thấy viết tám chữ “Ký kiến quân tử, vân hồ bất hỉ”. Đây là hai câu trong Kinh Thi, năm trước Hoàng Dung từng dạy Dương Quá. Hai câu này được giảng nghĩa là: đã gặp được chàng nam tử rồi, tại sao còn chưa biết vui sống?

Dương Quá lại ném cái bánh buộc sợi chỉ, kéo một tờ giấy khác lại, mở ra xem, thấy tờ này vẫn viết tám chữ kia. Dương Quá hồi hộp, tim đập dồn, kéo hơn mười tờ giấy vò nhàu lại, mở ra xem, toàn là viết tám chữ đó, chàng suy nghĩ về thâm ý của chúng, bất giác ngẩn cả người. Nghe có tiếng chân thiếu nữ đi vào, Dương Quá vội giấu cái bánh vào trong chăn, thiếu nữ đem số giấy vò nhàu ra ngoài đốt đi.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nàng viết “Khái kiến quân tử”, hai chữ quân tử không lẽ là nói về ta? Nàng và ta đều chưa nói gì với nhau, nàng đã thấy ta có gì để mà thích nhỉ? Ta nào có ra gì mà nàng coi ta là bậc quân tử kia chứ. Nhưng ở đây ngoài ta ra, đâu còn ai khác?”

Chàng đang ngẩn ngơ, thì thiếu nữ bước vào phòng, đứng bên cửa sổ một lát, thổi tắt ngọn nến, ánh trăng suông chiếu qua khung cửa, soi xuống nền nhà. Dương Quá gọi:

– Cô nương!

Thiếu nữ không đáp, thong thả bước ra ngoài.

Lát sau, nghe có tiếng tiêu (sáo) dìu dặt qua cửa sổ vọng vào. Dương Quá từng thấy nàng dùng cây ngọc tiêu đứng thủ với Lý Mạc Sầu, võ công không kém chút nào, bây giờ thổi ngọc tiêu, không ngờ nghe cũng hay đến thế.

Hồi sống trong tòa cổ mộ, Dương Quá có nghe Tiểu Long Nữ gảy đàn, chàng đứng bên nghe nàng giảng giải, cũng hiểu đôi chút về âm luật. Lúc này chàng nhận ra cây tiêu đang thổi điệu “Vô xạ thương” trong khúc “Kỳ úc”. Khúc nhạc này u nhã bình hòa, Dương Quá đã nghe mấy lần, cũng không thích lắm. Chàng thấy nàng cứ thổi đi thổi lại năm câu đầu:

Trông kìa trên dải sông Kỳ,

Bờ tre mới mọc xanh rì thướt tha,

Có người quân tử tài hoa,

Như lo mài giũa đặng mà lập thân,

Dùi mài dốc chí chuyên cần…

Tiếng tiêu lúc bổng lúc trầm, lúc nhanh lúc chậm, vẫn năm câu kia, nghe quyến luyến triền miên. Dương Quá biết đấy là mấy câu trong Kinh Thi, khen ngợi một trang nam nhi thanh nhã, tuấn tú, có chí, như một viên ngọc đẹp đã được mài giũa vậy.

Dương Quá nghe hồi lâu, bất giác ngâm nga khe khẽ hai câu đầu, Chiêm bỉ Kỳ úc, Lục trúc a a… đột nhiên tiếng tiêu ngừng bặt. Dương Quá sững lại, ân hận về sự đường đột của mình: “Nàng thổi tiêu là để biểu hiện ý nghĩ, ta lại đi ngâm nga, hóa ra biết rõ tâm tư của nàng, thật quá vô lễ”.

Sáng hôm sau thiếu nữ mang cơm vào, thấy Dương Quá đeo mặt nạ, thì ngạc nhiên, cười, hỏi:

– Huynh cũng mang mặt nạ để làm gì?

Dương Quá nói:

– Cái mặt nạ này là cô nương cho ta, cô nương không chịu để lộ bản lai diện mục, thì ta cũng đeo mặt nạ.

Thiếu nữ thản nhiên nói:

– Thế cũng hay.

Nói xong đặt mâm cơm xuống, đi ra, cả ngày hôm đó không nói câu nào.

Dương Quá thấp thỏm không yên, sợ mình đã đắc tội với nàng, định nói vài lời xin lỗi, song nàng không dừng bước trong phòng. Mãi đến tối, khi nàng vào thu dọn chén đũa, sắp bước ra, Dương Quá bèn nói:

– Cô nương thổi tiêu nghe rất hay, cô nương cho nghe một khúc nữa, được chăng?

Thiếu nữ nghĩ một lát, rồi nói:

– Cũng được.

Nàng đi lấy ống tiêu, ngồi ngay bên giường của Dương Quá mà thổi. Lần này nàng thổi khúc “Nghênh tiên khách”, là khúc nhạc chủ khách thù đáp, giai điệu cũng ôn hòa dìu dặt. Dương Quá nghĩ thầm: “Thì ra khi thổi tiêu nàng cũng đeo mặt nạ cho cả tiếng tiêu, không chịu thổ lộ tâm tư”.

Bỗng có tiếng chân, có người từ xa chạy vội đến. Thanh y thiếu nữ đặt ống ngọc tiêu xuống, bước ra cửa, gọi:

– Biểu muội!

Một người chạy tới cửa, thở hổn hển, nói:

– Biểu tỷ, nữ ma đầu ấy đã dò ra tung tích của muội, đang tìm đến đây, chúng ta mau chạy đi thôi.

Dương Quá nghe giọng, nhận ra Lục Vô Song thì rất mừng; nhưng nghe Lục Vô Song nhắc đến nữ ma đầu sắp đến, chính là Lý Mạc Sầu, thì lại thầm kinh hãi, rồi chàng nghĩ bụng: “Thì ra thiếu nữ này là biểu tỷ của Lục cô nương”.

Thiếu nữ nói:

– Có người bị thương, đang ở đây dưỡng thương.

Lục Vô Song hỏi:

– Ai thế?

Thiếu nữ nói:

– Ân nhân cứu mạng của muội đó.

Lục Vô Song kêu lên:

– A, Đồ Ngốc, chàng… ta đang ở đây ư!

Nói xong chạy ào vào.

Dưới ánh trăng, chỉ thấy nàng mừng rỡ rối rít:

– Đồ Ngốc, Đồ Ngốc! Sao huynh lại tìm tới đây được? Lần này thì đến lượt huynh bị thương nhé.

Dương Quá nói:

– Tức phụ…

Chàng đã định gọi “Tức phụ nhi” (cô vợ trẻ), nhưng nghĩ bên cạnh có thanh y thiếu nữ đoan trang thanh nhã, không thể bỡn cợt với Lục Vô Song như trước, bèn đổi cách xưng hô, hỏi:

– Lý Mạc Sầu làm sao lại lần ra tung tích cô nương?

Lục Vô Song nói:

– Sau trận đấu ở tửu lâu hôm ấy, huynh đột nhiên bỏ đi, biểu tỷ đưa muội về đây dưỡng thương. Vết thương lành rồi, muội buồn quá, mới đi chơi cho đỡ buồn, một hôm gặp hai gã khiếu hóa tử, nghe họ nói với nhau rằng ở ải Đại Thắng có đại hội quần hùng gì đó. Muội bèn đến ải Đại Thắng xem cảnh nhiệt náo, không ngờ đến nơi thì đã bế mạc. Muội sợ biểu tỷ nhớ, vội trở về, ở trước cửa một quán trà, muội bỗng nhìn thấy con lừa hoa của nữ ma đầu, lừa đã thay con khác, cái chuông vàng thì vẫn giữ nguyên…

Nói đến đây giọng hơi run:

– May mà mạng chưa tuyệt, chứ cứ đi thẳng vào quán, thì bây giờ đâu còn được nhìn thấy biểu tỷ với huynh.

Dương Quá hỏi:

– Cô nương đây là biểu tỷ của cô nương à? May được cô nương đây cứu mạng, vẫn chưa kịp hỏi họ tên.

Thanh y thiếu nữ nói:

– Muội…

Lục Vô Song đột nhiên dùng hai tay gỡ cả hai cái mặt nạ ra khỏi mặt Dương Quá và thiếu nữ, nói:

– Nữ ma đầu sắp đến rồi, hai người còn mang mặt nạ làm gì kia chứ?

Dương Quá thấy trước mặt sáng hẳn lên, thấy thiếu nữ có khuôn mặt trái soan xinh xắn, má lúm đồng tiền, da trắng như tuyết, tuy không thanh lệ tuyệt tục bằng Tiểu Long Nữ, song cũng là một cô nương rất xinh tươi.

Lục Vô Song nói:

– Biểu tỷ của muội là Trình Anh, tiểu đệ tử quan môn của Đào Hoa đảo Hoàng đảo chủ.

Dương Quá vái một cái, nói:

– Trình cô nương.

Trình Anh đáp lễ, nói:

– Dương thiếu hiệp.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nàng còn ít tuổi, sao lại là đệ tử của Hoàng Dược Sư? Tính theo Quách bá mẫu, không lẽ mình lại ở dưới nàng một bậc?”

Nguyên Trình Anh năm nọ bị Lý Mạc Sầu bắt đi, bị nữ ma đầu hạ độc thủ, may gặp Hoàng Dược Sư tình cờ đi ngang qua, cứu sống nàng. Hoàng Dược Sư từ sau khi nữ nhi xuất giá, lão lang bạt giang hồ, bốn biển là nhà, tuổi già cô đơn, bấy giờ thấy Trình Anh tuổi nhỏ bơ vơ, không nơi nương tựa, thì động lòng trắc ẩn, sau khi trị thương cho nàng, bèn mang nàng đi theo bên mình. Trình Anh hầu hạ Hoàng lão nhân còn chu đáo bằng mấy Hoàng Dung ngang ngạnh và kiêu ngạo. Hoàng Dược Sư quý mến, nhận nàng làm đồ đệ. Trình Anh tuy thông minh cơ trí thua xa Hoàng Dung, nhưng nàng chịu khó và tỉ mỉ, cũng học được không ít bản sự của Hoàng Dược Sư.

Năm nay võ công sơ thành, Trình Anh bẩm minh sư phụ, đi lên phương bắc tìm biểu muội, tại vùng Quan Thiểm gặp Dương Quá và Lục Vô Song, người cảnh báo nguy hiểm, rồi đang đêm cứu giúp, chính là nàng. Sau trận mấy thiếu niên nam nữ hợp sức chống trả Lý Mạc Sầu, nàng đưa Lục Vô Song tới cánh rừng hoang này, làm nhà tranh trị thương. Mấy hôm trước Lục Vô Song một mình đi ra ngoài, lâu không về. Trình Anh lo lắng đi tìm, thấy Hoàng Dung bày “loạn thạch trận” chống chọi Kim Luân pháp vương. Kỳ môn trận pháp này, nàng cũng đã được Hoàng Dược Sự truyền thụ, tuy biết không nhiều, nhưng nàng học kỹ, may sao cứu được Dương Quá đưa về đây.

Lục Vô Song nói:

– Tình hình khẩn cấp thế này, hai vị còn khách sáo đa lễ làm gì kia chứ?

Dương Quá hỏi:

– Rồi Lý Mạc Sầu trông thấy cô nương à?

Lục Vô Song nói:

– Huynh hỏi mới tức cười chứ? Nếu để nữ ma đầu nhìn thấy, thì muội còn chạy thoát được về đây ư? Muội nhìn thấy cái chuông vàng đeo ở cổ con lừa hoa, bèn nấp vào sau quán trà, không dám thở mạnh nữa; nghe nữ ma đầu hỏi dò tin tức trong quán; rằng có nhìn thấy hai tiểu cô nương, một đi cà nhắc, một xấu như ma lem, hay không. Biểu tỷ, nữ ma đầu gọi biểu tỷ là cô nương xấu như ma lem, không biết rằng biểu tỷ là một mỹ nhân…

Trình Anh hơi đỏ mặt, nói:

– Biểu muội đừng nói thế, Dương thiếu hiệp cười cho đấy.

Dương Quá nói:

– Ta thì thiếu hiệp cái gì kia chứ? Cô nương cứ gọi Dương Quá là được rồi.

Lục Vô Song nguýt một cái, nói:

– Huynh vừa gặp biểu tỷ của muội thì đã khép na khép nép, cả họ lẫn tên đều khai ra hết, còn với muội thì giả vờ ngớ ngẩn để đánh lừa người ta.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Cô nương cứ nhiếc ta là Đồ Ngốc, thì ta liền vâng lời làm Đồ Ngốc, như thế còn chưa phải là khép nép ngoan ngoãn hay sao?

Lục Vô Song bĩu môi, nói:

– Cứ chờ đấy, rồi muội sẽ tính sổ với huynh.

Nàng quay sang nói với Trình Anh:

– Biểu tỷ thường mang mặt nạ tới thị trấn mua gạo muối, vật dụng, mọi người ở đấy đều biết biểu tỷ; chủ quán trà cũng không ngờ Lý Mạc Sầu là một đạo cô xinh đẹp thanh nhã như thế mà lại tàn ác, nên mới kể cho mụ ta biết chỗ ở của chúng ta. Nữ ma đầu cảm tạ, rồi hỏi ở thị trấn có thể nghỉ đêm tại nơi nào, sau đó cùng Hồng Lăng Ba sư tỷ đi tìm nhà trọ. Mụ ta nóng lòng hại người, chắc là sáng ra sẽ đi ngay, coi như chúng ta còn ba canh giờ nữa.

Trình Anh nói:

– Đúng thế. Năm trước nữ ma đầu đến nhà biểu muội cũng là vào cuối giờ Dần đầu giờ Mão.

Ba người kể lại việc năm đó Lý Mạc Sầu đã hạ độc thủ sát hại cha mẹ Lục Vô Song như thế nào, mới biết ba người hồi ấy từng gặp nhau ở Gia Hưng, Trình Anh và Lục Vô Song còn tới cái nhà hầm hoang phế là chỗ trú thân của Dương Quá, nhớ lại thời ấy, cả ba không khỏi cảm thấy thêm phần thân thiết.

Dương Quá nói:

– Nữ ma đầu võ công cao cường, dù ta không bị thương, cả ba chúng ta hợp lực cũng không địch nổi mụ ta. Chi bằng chúng ta cứ theo bài cũ, chuồn đi thì hơn.

Trình Anh gật đầu, nói:

– Chúng ta còn ba canh giờ nữa. Con ngựa của Dương huynh rất hay, chúng ta chạy đi, nữ ma đầu vị tất đã đuổi kịp.

Lục Vô Song nói:

– Đồ Ngốc, huynh bị thương, có cưỡi ngựa được hay không?

Dương Quá thở dài:

– Không cưỡi được thì cũng phải cố, còn hơn rơi vào tay nữ ma đầu.

Lục Vô Song nói:

– Chúng ta chỉ có một con ngựa. Biểu tỷ, biểu tỷ hãy đưa Dương huynh chạy về hướng tây, muội sẽ nghi binh, dụ nữ ma đầu đuổi về hướng đông.

Trình Anh hơi đỏ mặt, nói:

– Không, biểu muội hãy đi với Dương huynh. Tỷ với Lý Mạc Sầu không có thâm cừu đại oán, mụ ta có bắt được, cũng không hẳn sẽ sát hại tỷ. Muội mà sa vào tay mụ ta thì nguy lắm.

Lục Vô Song nói:

– Nếu nữ ma đầu đuổi kịp muội, thấy muội đi cùng Dương huynh, chẳng hóa ra làm liên lụy đến Dương huynh hay sao?

Hai thiếu nữ cứ mỗi người một câu nhường cho nhau đi cùng với Dương Quá.

Dương Quá nghe một hồi, vô cùng cảm động, nghĩ hai cô nương này đều là người có nghĩa khí, trong lúc nguy cấp cam lòng mạo hiểm cứu mạng chàng, dù chàng có bị nữ ma đầu giết hại, cũng coi như đã sống một cuộc đời không uổng phí.

Chỉ nghe Lục Vô Song nói:

– Đồ Ngốc, huynh hãy nói một lời xem nào, huynh muốn biểu tỷ của muội đi trốn cùng huynh, hay là muốn muội đi cùng?

Dương Quá chưa trả lời, Trình Anh nói:

– Sao biểu muội còn gọi Dương huynh là Đồ Ngốc mãi thế, không sợ Dương huynh giận hay sao?

Lục Vô Song lè lưỡi, cười:

– Trông biểu tỷ kìa, biểu tỷ đối với Ngốc huynh hiền dịu như thế, chắc là Ngốc huynh sẽ chọn biểu tỷ đi cùng.

Nàng đổi cách xưng hô, gọi Dương Quá là Ngốc huynh, coi như đã lùi một bước.

Trình Anh da mặt trắng trẻo, rất dễ đỏ mặt, bị biểu muội nói thế, lập tức ngượng đỏ bừng cả mặt như một đóa hồng, cười, trêu lại:

– Người ta gọi biểu muội là “tức phụ nhi”, phải không nào? Đã là tức phụ nhi, không theo chàng sao được?

Lần này đến lượt Lục Vô Song đỏ mặt, giơ hai tay túm lấy Trình Anh, Trình Anh bỏ chạy. Gian nhà tranh lập tức ồn ào vui vẻ, ba người không còn lo sợ như lúc đầu nữa.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nếu Trình cô nương đưa ta chạy trốn, tức phụ nhi sẽ khó toàn mạng; nếu tức phụ nhi đi với ta, Trình cô nương cũng muôn phần nguy hiểm”. Bèn nói:

– Hai cô nương đối đãi như vậy, ta cảm kích vô cùng. Ta nghĩ hay là hai cô nương mau trốn đi, để ta ở lại đây đối phó với nữ ma đầu. Sư phụ ta với mụ ta là sư tỷ muội, mụ ta cũng phải nể tình hương hỏa; huống hồ mụ ta sợ sư phụ, sẽ không dám giết…

Lời chàng chưa dứt, Lục Vô Song đã cướp lời:

– Không được, không được!

Dương Quá nghĩ bụng hai người không ai chịu đi với mình, bèn cao giọng nói:

– Ba chúng ta kết bạn đồng hành, nếu nữ ma đầu đuổi kịp, cả ba sẽ liều mình tử chiến, sống chết tùy ý trời.

Lục Vô Song vỗ tay, nói:

– Đúng, cứ thế đi.

Trình Anh ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Nữ ma đầu đến như gió lốc, ba người cùng đi, nhất định mụ ta sẽ đuổi kịp ngay. Tử chiến với mụ ta ở dọc đường, chẳng bằng ta cứ ở lại đây dĩ dật đãi lao.

Dương Quá nói:

– Đúng đấy. Trình cô nương biết thuật Kỳ môn độn giáp, ngay Kim Luân pháp vương còn bị vây khốn, thì Xích Luyện Tiên Tử chắc gì đã phá nổi.

Lời vừa nói đem lại cho ba người một tia hi vọng. Trình Anh nói:

– “Loạn thạch trận” là do Quách phu nhân bố trí, muội chỉ nhân đó biến hóa đôi chút là xong, chứ bảo muội tự bày trận, thì quả thật chưa đủ tài. Thôi thì chúng ta cứ gắng hết sức, còn sống chết tùy ở ông trời. Biểu muội, hãy ra đây giúp tỷ nào.

Dương Quá nghĩ thầm: “Quách bá mẫu dạy ta cách biến đổi trận pháp, ta nhớ được mươi cách, chỉ dùng để dẫn dụ cái lão Tạng tăng gớm ghiếc Kim Luân pháp vương vào trận, chứ chẳng thể ngăn chặn nổi cái mụ Lý Mạc Sầu oán trời giận đất này. Cái môn công phu ấy quả rắc rối vô cùng, muốn thành thạo, bỏ công sức một hai năm chẳng thể xong. Trình cô nương còn ít tuổi, sở học dĩ nhiên không theo kịp Quách bá mẫu, lời nàng vừa nói cũng không phải là khiêm nhường. Nhưng trận thế do nàng bố trí dẫu đơn giản cách mấy, cũng còn hơn là không có”.

Hai cô nương mang cuốc xẻng ra khỏi nhà, đào đất, khiêng đá, bày trận. Hơn một canh giờ sau, nghe có tiếng gà gáy xa xa, Trình Anh mồ hôi nhễ nhại, nhìn thổ trận của mình so với “loạn thạch trận” của Hoàng Dung thực không ra gì, thì trong lòng buồn bã: “Tài năng của Quách phu nhân thật gấp ta trăm lần. Cái thổ trận thô sơ thế này làm sao ngăn chặn Xích Luyện ma đầu kia chứ?” Sợ biểu muội và Dương Quá thất vọng, nàng không dám nói ra.

Dưới ánh trăng, Lục Vô Song thấy sắc mặt biểu tỷ có vẻ lạ, biết Trình Anh không nắm chắc trận pháp, bèn lấy ra một quyển sách, đi vào phòng đưa cho Dương Quá, nói:

– Dương huynh, đây là quyển “Ngũ độc bí truyền” của sư phụ muội.

Dương Quá thấy bìa cuốn sách đỏ như máu, thì hơi rờn rợn. Lục Vô Song nói:

– Muội nói dối sư phụ muội, rằng quyển sách bị Cái Bang lấy mất. Khi sư phụ bắt được muội, mụ ta sẽ lục thấy nó. Dương huynh chỉ cần xem qua một lần, nhớ rồi thì hãy hủy nó đi.

Nàng và Dương Quá lâu nay chưa lần nào nói năng nghiêm túc với nhau, bây giờ nghĩ chẳng còn sống được mấy lúc nữa, thì không còn bụng dạ nào đùa giỡn.

Dương Quá thấy nàng nghiêm túc, thì gật đầu cầm lấy.

Lục Vô Song lại lấy ra một tấm khăn, nói nhỏ:

– Nếu Dương huynh không may sa vào tay nữ ma đầu, mụ ta định giết hại huynh, thì huynh hãy đưa cái này cho mụ ta.

Dương Quá thấy một trong bốn mặt của tấm khăn tua tua, rõ ràng nó bị xé ra từ mảnh vải gì đó, bông hoa hồng thêu trên khăn cũng chỉ có một nửa, chàng chưa biết dụng ý của nàng nên chưa nhận, hỏi:

– Là cái gì vậy?

Lục Vô Song nói:

– Là cái mà muội nhờ huynh giao cho nữ ma đầu, huynh có đáp ứng hay không?

Dương Quá gật đầu, nhận lấy, để bên gối. Lục Vô Song bước tới, nhặt lên, nhét vào túi áo chàng, nói nhỏ:

– Đừng để cho biểu tỷ của muội biết đấy.

Đột nhiên ngửi thấy mùi đàn ông từ người chàng tỏa ra, nhớ tới lần cởi áo nắn xương, ngủ chung một giường hôm nào, trong lòng nao nao, ngơ ngẩn nhìn chàng, rồi quay mình bước ra.

Dương Quá thấy cái nhìn vừa rồi của nàng vô cùng đắm đuối, thì trống ngực cũng đập dồn. Chàng giở sách ra xem, nhớ kỹ cách giải “Ngũ độc thần chưởng” và độc tính của “Băng phách ngân châm”, nghĩ thầm: “Hai loại giải dược này đều rất khó chế luyện, nhưng nếu hôm nay ta thoát chết, ngày sau sẽ rất hữu dụng”.

Bỗng nghe có tiếng kẹt cửa, chàng ngẩng đầu lên, thấy Trình Anh hai má đỏ bừng, bước lại bên giường, mồ hôi lấm tấm trên trán, hơi thở dồn dập, nói:

– Dương huynh, thổ trận mà muội bố trí ở bên ngoài hết sức thô thiển, chắc không ngăn nổi Xích Luyện Tiên Tử.

Nói đoạn lấy ra một tấm khăn, đưa cho chàng, nói:

– Nếu mụ ta xông vào đây, huynh hãy đưa tấm khăn này cho mụ ta.

Dương Quá thấy tấm khăn này y hệt tấm khăn Lục Vô Song vừa đưa chàng, lấy làm lạ, ngẩng nhìn, bắt gặp ánh mắt của nàng, dưới ánh đèn thấy nàng nước mắt lưng tròng, có vẻ e thẹn, đang định hỏi, thì nàng đỏ bừng cả mặt, nói nhỏ:

– Đừng để cho biểu muội của muội biết đấy.

Nói xong bước ra ngoài.

Dương Quá lấy trong túi ra tấm khăn của Lục Vô Song, ghép lại, quả nhiên là hai nửa của một tấm khăn lụa bị xé đôi, lụa đã cũ, phai màu vàng, nhưng bông hồng thêu thì vẫn đỏ hồng tươi rói. Chàng ngắm hai nửa tấm khăn, biết bên trong nhất định có thâm ý, tại sao hai nàng lại cùng trao cho chàng? Tại sao lại bảo chàng hãy đưa cho Lý Mạc Sầu? Tại sao cả hai nàng đều không muốn người kia biết chuyện? Tại sao lúc trao khăn cho chàng, cả hai nàng cùng đỏ mặt e thẹn?

Chàng ngồi trên giường ngẩn ngơ xuất thần, lại nghe xa xa có tiếng gà gáy, rồi tiếng tiêu dìu dặt nổi lên, chắc là Trình Anh đã bày trận xong xuôi, thổi tiêu để đỡ lo buồn, nàng thổi khúc “Lưu ba”, tiếng tiêu réo rắt, không hề có ý bi thương, nghe tựa hồ người thổi tiêu đang ở trong tâm trạng vui vẻ, vô tư. Dương Quá nghe một lát, liền cất tiếng hát theo.

Lục Vô Song ngồi sau động đất, nghe biểu tỷ và Dương Quá người thổi tiêu, người hòa ca, phương đông rạng dần, nghĩ thầm: “Sư phụ sắp ập đến đây, tính mạng của mình sắp tuyệt, chỉ mong sư phụ nhìn thấy tấm khăn, sẽ tha chết cho Dương huynh và biểu tỷ, hai người ấy…”

Lục Vô Song tính nết vốn đáo để, từ nhỏ trong mọi chuyện Trình Anh đều nhường nhịn nàng vài phần. Nhưng giờ đây lâm nguy, nàng chỉ mong Dương Quá bình an vô sự, ước sao tai qua nạn khỏi, Dương Quá và biểu tỷ sẽ kết thành đôi uyên ương, thì nàng có chết cũng cam lòng.

Đang mải nghĩ, chợt ngẩng lên, thấy bên ngoài đống đất sừng sững một đạo cô áo vàng, tay phải cầm ngang cây phất trần, gió lay động tay áo, chính là sư phụ Lý Mạc Sầu.

Lục Vô Song giật mình, rút kiếm đứng dậy. Lý Mạc Sầu đứng im, dỏng tai nghe.

Nguyên Lý Mạc Sầu đang nghe tiếng tiêu hòa với tiếng hát, hồi tưởng tình cảnh nàng ta cùng với ái lữ (người bạn tình) Lục Triển Nguyên thời trước vẫn thường cùng nhau hòa tấu khúc nhạc “Lưu ba” này. Đấy là chuyện hai mươi năm trước, bây giờ âm vận thì vẫn như cũ, nhưng đã là “trăng gió vô tình người đổi dạ”, tai nghe tiếng tiêu hòa với lời ca, vô cùng vương vấn, đột nhiên đau đớn hết chịu nổi, liền khóc tướng lên.

Tiếng khóc bi thương thật là hoàn toàn bất ngờ đối với Lục Vô Song. Nàng vốn chỉ quen thấy sư phụ nghiêm khắc hung sát, chưa một lần mềm yếu khóc than. Tại sao mụ ta đến đây là để báo oán sát nhân, lại đứng ngoài cổng mà khóc một cách đau đớn như vậy? Nghe tiếng khóc cực kỳ sầu thảm, tưởng chừng đứt ruột của Lý Mạc Sầu, nàng cũng không khỏi nao lòng.

Lý Mạc Sầu đứng khóc, Dương Quá và Trình Anh cũng rất đỗi kinh ngạc, tiếng tiêu và tiếng ca lập tức tán loạn. Lý Mạc Sầu đột nhiên ngừng khóc, cất tiếng ca, âm điệu thê lương, ca rằng:

Tình là chi hỡi thế gian

Câu thề sinh tử đa mang một đời

Trời Nam đất Bắc đôi nơi

Cánh chim rũ mỏi mấy hồi hàn ôn

Vui ân ái, biệt ly buồn

Si tình nhi nữ khởi nguồn bi hoan

Tiếng xưa xa khuất mây ngàn

Về đâu bóng lẻ Thiên San tuyết chiều

Khúc nhạc “Lưu ba” vốn là khúc hoan ca, lời ca của Lý Mạc Sầu lại bi thương, ai oán, thanh điệu khác hẳn, tiếng ca càng lúc càng lên cao, Trình Anh tâm thần hơi loạn, khi Lý Mạc Sầu hát ba chữ “Hoan lạc thú” chuyển qua “Ly biệt khổ”, giọng ngâm cao vút, âm điệu gấp gáp, tiếng tiêu của Trình Anh không lên theo nổi do tiêu vận thanh hòa, mà nội lực của nàng còn non. Nàng do dự một chút, rồi chạy vào phòng, bỏ cây tiêu xuống, ngồi gảy cây dao cầm. Dương Quá cũng lên cao giọng để trợ thế. Chỉ nghe tiếng ca của Lý Mạc Sầu càng vút lên, sợi dây đàn của Trình Anh cũng căng lên theo, “phựt” một tiếng, sợi dây “Chủy” đứt luôn.

Trình Anh sợ hãi, ngón tay hơi loạn, sợi thứ hai của cây đàn là dây “Vũ” đứt phựt. Tiếng ca của Lý Mạc Sầu ngân dài cùng tiếng khóc, sợi thứ ba của cây đàn là dây “Cung” đứt luôn.

Gảy đàn và thổi sáo, Trình Anh đều học ở Hoàng Dược Sư, tuy có minh sư truyền thụ, nhưng nàng còn ít tuổi, thành tựu có hạn. Lý Mạc Sầu vốn có thể thừa cơ đối phương bị đứt dây đàn, tâm ý hoảng loạn, mà xông thẳng vào, nhưng thấy thổ trận trước căn nhà tranh trông tưởng là lổn nhổn, kỳ thực ẩn tàng sự biến hóa Ngũ hành sinh khắc. Lý Mạc Sầu không am hiểu trận pháp loại này, trong “Hoạt tử nhân mộ” từng mấy lần bị mai phục trúng thương, không tránh khỏi lo ngại. Nàng ta chợt nảy ra một kế, liền vòng sang bên hông, vừa cao giọng ca, vừa đạp vách nhảy vào.

Thổ trận của Trình Anh đây một đống đất, kia một mô đất, hoàn toàn chỉ để giữ cổng, không nghĩ đến việc vách nhà tranh không kiên cố, Lý Mạc Sầu không vào lối cổng, mà vòng ra bên hông nhà, phá vách xông vào. Lục Vô Song cả kinh, vung kiếm chạy vào nhà.

Dương Quá đang bị thương, không thể đứng lên đối địch, đành nằm bất động. Trình Anh nghĩ rằng động thủ với Lý Mạc Sầu chỉ uổng mạng, bèn quyết ý bất chấp sinh tử, điều huyền chuyển luật, gảy khúc nhạc “Đào yêu”. Khúc nhạc này hoa mỹ xán lạn, tràn ngập giai điệu hoan hỉ. Nàng nghĩ thầm: “Ta một đời cô khổ, hôm nay được chết bên cạnh Dương đại ca, kể cũng không uổng”. Nàng liếc về phía Dương Quá. Dương Quá mỉm cười với nàng, Trình Anh cảm thấy trong lòng êm dịu, sung sướng, thầm ca:

Đào tơ mơn mởn xinh tươi,

Hoa hồng bát ngát dưới trời xuân trong

Tiếng đàn reo vui, nghe như có tiếng gió xuân, có hoa thơm đua nở.

Vẻ sầu khổ của Lý Mạc Sầu giảm dần, nàng ta hỏi Lục Vô Song:

– Quyển sách ấy đâu? Rốt cuộc là Cái Bang có lấy đi không?

Dương Quá đưa quyển “Ngũ độc bí truyền” cho Lý Mạc Sầu, nói:

– Hoàng bang chủ, Lỗ bang chủ Cái Bang đại nhân đại nghĩa, đời nào sử dụng cuốn tà thư này? Họ đã truyền ngay lệnh, bang chúng đệ tử không ai được giở xem một trang cuốn sách này.

Lý Mạc Sầu thấy cuốn sách còn nguyên vẹn, thì cả mừng, biết Cái Bang hành sự chính phái, luật lệnh nghiêm minh, chắc quả là họ chưa giở ra xem.

Dương Quá lại lấy trong túi ra hai nửa tấm khăn thêu, trải ở đầu giường, nói:

– Mời đạo cô hãy mang cả đi cho!

Lý Mạc Sầu biến sắc, dùng cây phất trần cuốn lấy hai mảnh khăn, ngẩn ngơ cầm trong tay, nhất thời bao nhiêu ý nghĩ dồn dập trong óc, tâm thần bất định. Trình Anh và Lục Vô Song đưa mắt nhìn nhau, cùng đỏ mặt, người này không ngờ người kia đưa khăn cho Dương Quá, để bây giờ chàng đưa ra.

Một phen người này nhìn người kia, ai nấy tâm sự trào dâng, thu ba dào dạt, sát khí trong căn nhà tranh tức thời hóa thành tình ý đậm đà. Khúc nhạc “Đào yêu” được Trình Anh gảy càng triền miên hoan hỉ.

Đột nhiên Lý Mạc Sầu xé hai mảnh khăn làm bốn, nói:

– Chuyện cũ đã quên, nhắc lại làm chi?

Rồi xé vụn bốn mảnh khăn, tung lên không, các mảnh vụn rơi lả tả như hoa lê rụng. Trình Anh giật mình, lại làm đứt thêm một sợi dây đàn.

Lý Mạc Sầu quát:

– Đứt nữa này!

Trong tiếng bi ca, quả nhiên dây “Giốc”, sợi thứ năm của cây đàn, đứt luôn. Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Bây giờ ta muốn ba đứa ngươi sống không được, chết chẳng xong, phải ôm mặt mà khóc!

Lúc này cây đàn dao chỉ còn hai sợi, cầm nghệ của Trình Anh vốn chỉ vào loại tầm thường, tự nàng khó tạo nên khúc điệu. Lý Mạc Sầu nói:

– Mau gảy vài âm thê thảm! Thế gian đầy khổ não, có gì là lạc thú?

Trình Anh gảy hai tiếng, tuy không thành điệu, nhưng vẫn là âm luật của Đào chi yêu yêu. Lý Mạc Sầu quát:

– Được lắm, ta sẽ giết một đứa trước, xem bọn bay có đau buồn hay không?

Tiếng quát này làm cho tiếng hát ngừng bặt, làm đứt thêm một sợi dây đàn, Lý Mạc Sầu giơ cây phất trần định đánh xuống đầu Lục Vô Song.

Dương Quá cười, nói:

– Ba người bọn ta hôm nay được cùng chết với nhau thật là sướng bằng mấy cuộc sống cô đơn của đạo cô trên thế gian. Anh muội, Song muội, hai muội lại đây với huynh nào.

Trình Anh và Lục Vô Song đến bên giường. Dương Quá tay trái cầm tay Trình Anh, tay phải cầm tay Lục Vô Song, cười, nói:

– Ba đứa mình cùng chết với nhau, trên đường xuống suối vàng tha hồ cười đùa, chẳng thú hơn con mụ độc ác kia hàng chục lần hay sao?

Lục Vô Song cười, đáp:

– Đúng thế, Chàng Ngốc, chàng nói không sai chút nào.

Trình Anh mỉm cười hiền dịu. Hai thiếu nữ được Dương Quá nắm tay, đều ngây ngất trong lòng. Dương Quá nghĩ thầm: “Ôi, tiếc rằng không có cô cô ở bên ta”, chàng tươi cười, kéo hai thiếu nữ sát lại, ngả vào người chàng.

Lý Mạc Sầu nghĩ bụng: “Tên tiểu tử này nói không sai, ba đứa chúng nó chết thế này, hóa ra sướng hơn ta sống. Hừ, thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng như thế? Ta phải làm cho các ngươi đau đớn khổ sở trước khi chết kia”. Mặt sa sầm, nàng ta khe khẽ hát, âm điệu lúc nối lúc đứt, khi nghẹn ngào khi nức nở, như oan hồn nỉ non trong đêm.

Tình là chi hỡi thế gian

Câu thề sinh tử đa mang một đời…

Dương Quá và hai thiếu nữ tay trong tay, nghe một hồi, bất giác lòng dạ bi ai. Dương Quá nội lực cao hơn, ngưng thần bất động, vẻ mặt nửa như đang cười. Lục Vô Song cứng cỏi, không dễ bị kích động; Trình Anh thì không nhịn được, nước mắt rơi lã chã. Tiếng ca của Lý Mạc Sầu càng lúc càng thấp, cuối cùng chỉ như một sợi dây mảnh, như có như không. Lý Mạc Sầu chỉ đợi ba người cùng rơi nước mắt, là mụ sẽ vung cây phất trần đánh chết cả ba. Tiếng ca thê thảm đang rên rỉ, bỗng nghe có tiếng cười ha hả, rồi một người vừa vỗ tay vừa hát, đi vào nhà.

Giọng hát là của nữ nhân, tuổi đã không còn nhỏ, song lại hát bài đồng dao hồn nhiên vui vẻ của nhi đồng:

Cô dâu chú rể

Đội rế lên đầu

Đi qua đầu cầu

Đánh rơi mất rế…

Tiếng ca vui nhộn át hẳn tiếng ca bi thảm của Lý Mạc Sầu. Chỉ nghe người kia mỗi lúc một tới gần, từ ngoài cổng đã tiến thẳng vào, là một phụ nữ trung niên đầu bù tóc rối, áo quần xộc xệch, hai mắt mở to, cười như một kẻ ngớ ngẩn, tay cầm một chiếc que cời than.

Lý Mạc Sầu kinh ngạc: “Làm sao mụ kia có thể dễ dàng vượt qua thổ trận, đi thẳng qua cổng vào đây? Nếu không phải là đồng bọn của ba đứa này, thì mụ ta phải tinh thông thuật Kỳ môn độn giáp”. Lý Mạc Sầu mải nghĩ sang chuyện khác, sức tác động người khác của tiếng ca bi thảm lập tức suy giảm.

Trình Anh nhìn thấy nữ nhân kia thì cả mừng, nói:

– Sư tỷ, người này muốn hại muội, sư tỷ mau giúp muội với.

Người phụ nữ kia là Khúc cô, vai vế ở dưới Trình Anh một bậc, nhưng tuổi hơn gấp đôi, nên Trình Anh mới gọi là sư tỷ.

Chỉ nghe Khúc cô lại vỗ tay, cao giọng hát hết bài “Một ông sao sáng, hai ông sáng sao” lại đến bài “Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa”, có lúc nhớ lộn chữ này sang chữ kia. Lý Mạc Sầu muốn dùng tiếng ca sầu khổ át tiếng hát vui nhộn, đâu ngờ Khúc cô vốn không hề biết phiền não khổ sở là gì, trong đầu là một khối hỗn độn, tác động tinh thần từ bên ngoài có mạnh đến mấy, cũng chẳng làm gì được Khúc cô; Lý Mạc Sầu bị Khúc cô phá rối, thì cả giận, nghĩ thầm: “Phải đập chết mụ này đi đã”, tiếng ca chưa dứt, đã vung cây phất trần đánh Khúc cô.

Năm xưa Hoàng Dược Sư hối hận vì mình hành sự thiếu sáng suốt, làm cho đệ tử Khúc Linh Phong bị địch giết hại, nên đã thu dưỡng nữ nhi của Khúc Linh Phong là Khúc cô, thề sẽ truyền thụ mọi bản sự cho Khúc cô. Nhưng Khúc cô chứng kiến cảnh phụ thân bị giết hại, quá kinh sợ mà mất trí, Hoàng Dược Sư tốn bao tâm huyết chữa trị và dạy bảo, song sức người vẫn không thắng nổi số trời, đừng nói học lấy một nửa võ công của Hoàng Dược Sư, mà ngay nhớ thêm vài chữ, biết sử vài pho võ công thô thiển, cũng là việc cực khó đối với Khúc cô. Tuy vậy, hơn mười năm trở lại đây, với sự kiên trì chỉ dẫn của minh sư, Khúc cô cũng luyện được một pho chưởng pháp, một pho xoa pháp (xoa: chiếc que cời). Gọi là pho, kỳ thực mỗi môn chỉ gồm ba chiêu. Hoàng Dược Sư biết rằng dù biến hóa kỳ chiêu thế nào chăng nữa, thì Khúc cô cũng không nhớ nổi, thế nên nghĩ hết cách, sáng tạo ra ba chiêu chưởng pháp, ba chiêu xoa pháp. Sáu chiêu cứng nhắc, hoàn toàn không có biến hóa gì hết, uy lực chỉ dựa vào công kình mà thôi. Người thường luyện võ, ít cũng vài chục chiêu, nhiều thì ngàn chiêu biến hóa, đàng này Khúc cô chỉ luyện sáu chiêu, luyện mãi tự nhiên thành thạo, tinh thuần, chiêu số tuy ít, nhưng rất lợi hại.

Còn chuyện Khúc cô vượt qua thổ trận, thì đó là vì Khúc cô sống lâu năm ở Đào Hoa đảo, trận pháp mà Trình Anh bố trí chỉ là công phu thô thiển so với ở Đào Hoa đảo, Khúc cô chỉ nhìn qua đã hiểu, nên mới đi vào dễ dàng.

Lúc này Khúc cô thấy cây phất trần của Lý Mạc Sầu đánh tới, bèn đâm ngang chiếc que cời về phía đối phương. Lý Mạc Sầu nghe tiếng que cời đâm tới nhanh và mạnh khôn tả, không khỏi cả kinh: “Không ngờ mụ kia lại có công lực thâm hậu thế này”, vội né người sang bên trái, vung cây phất trần đánh vào gáy Khúc cô. Khúc cô chẳng thèm để ý chiêu số của đối phương thế nào, chiếc que cời cứ đâm thẳng. Cây phất trần của Lý Mạc Sầu đã chuyển hướng, cuốn lấy đầu chiếc que cời. Khúc cô coi như không nhìn thấy, chiếc que cời vẫn cứ đâm thẳng. Lý Mạc Sầu vận kình giật mạnh, chiếc que cời không hề dao động, trong chớp mắt sẽ đâm tới giữa ngực Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu võ công cao cường đến mấy, cũng phải cuống quít sử chiêu “Đảo chuyển thất tinh bộ”, nhảy lùi ra phía sau, làm thủng cả vách nhà, mới tránh được cú đâm kinh hồn táng đởm, song vẫn sợ vã mồ hôi hột. Lý Mạc Sầu định thần, lại xông vào nhà, tung mình lên, vung cây phất trần đánh xuống. Khúc cô lấy bất biến ứng vạn biến, lại đâm ngang chiếc que cời, nhưng lần này đối phương đã nhảy lên cao, nên Khúc cô chĩa đầu que cời vào bụng dưới của nàng ta. Lý Mạc Sầu thấy thế đến của chiếc que cời mạnh mẽ, vội chuyển cây phất trần, dùng cán gạt ngang, mượn thế nhảy tránh đi. Tránh xong rồi, Lý Mạc Sầu sững sờ nhìn Khúc cô, nghĩ thầm: “Ba chiêu công kích vừa rồi của ta, mỗi chiêu đều ẩn chứa chín cách biến hóa, mười hai hậu chiêu, dù mụ kia có là một vị cao thủ võ lâm, cũng quyết không thể coi như không thế được. Mụ ta chỉ có mỗi một chiêu đâm que cời ngang ngực, thế mà vô hình trung đã hóa giải cả sáu mươi ba chiêu biến hóa của ta. Mụ này võ công cao thâm khôn lường, mình phải chuồn thôi!”

Ai dè xoa pháp của Khúc cô vỏn vẹn chỉ có ba chiêu, chỉ cần đấu thêm một lát, Lý Mạc Sầu ắt sẽ thấy rõ cách xuất thủ của đối phương, dễ dàng thủ thắng. Người ta bảo Trình Giảo Kim chỉ có ba cái búa, thì Khúc cô cũng chỉ có ba chiêu que cời, mới sử dụng mỗi một chiêu xoa pháp, đã đánh đuổi được kẻ địch có võ công cực kỳ lợi hại, Đào Hoa đảo chủ kể cũng đáng tự hào.

Lý Mạc Sầu quay người, định nhảy qua chỗ vách thủng ra ngoài, thì bỗng thấy cạnh chỗ đó có một vị thanh y lão nhân đang ngồi vuốt chòm râu dài, chính là Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư, người đã cứu Trình Anh khỏi tay nàng ta. Hoàng Dược Sư đặt cây đàn dao mà Trình Anh ban nãy đã gảy trên một chiếc chõng thấp. Trong lúc giao chiến, Lý Mạc Sầu mắt nhìn sáu đường, tai nghe tám phía, nhưng Hoàng Dược Sư bước vào, cầm cây đàn, ngồi xuống, mà nàng ta hoàn toàn không hay biết, nếu Hoàng Dược Sư ám toán sau lưng, thì lấy mạng nàng ta có khác gì dễ như trở bàn tay?

Khi đối chiêu với Khúc cô, Lý Mạc Sầu sợ bọn Trình Anh liên thủ tham chiến, nàng vẫn cứ dùng khúc bi ca để làm rối loạn tâm thần của ba người, lúc này thấy Hoàng Dược Sư ngồi xuống gảy đàn, thì giật mình, lập tức ngừng hát.

Hoàng Dược Sư gảy một tiếng đàn, cất tiếng ca:

Tình là chi hỡi thế gian

Câu thề sinh tử đa mang một đời…

Vẫn là ca khúc mà Lý Mạc Sầu vừa hát. Cây dao cầm chỉ còn một sợi là dây “Vũ”, nhưng trên một sợi dây đàn này, Hoàng Dược Sư vẫn gảy ra đủ năm âm luật Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ; mà cầm vận còn bi thiết hơn cả tiếng ca của Lý Mạc Sầu.

Khúc ca này Lý Mạc Sầu hát đã thuộc, Hoàng Dược Sư vừa biến điệu, cảm ứng sinh ra trong lòng nàng ta còn mạnh gấp hàng chục lần hơn bọn Dương Quá. Hoàng Dược Sư sớm biết Lý Mạc Sầu tác ác đa đoan, hôm nay rất muốn nhân cơ duyên này mà trừ khử nàng ta. Năm xưa Hoàng Dược Sư từng dùng một cây ngọc tiêu đấu với cái thiết tranh (cái diều) của Âu Dương Phong và tiếng hú của Hồng Thất Công, bất phân thắng bại. Bây giờ khí lực đã suy giảm vì tuổi tác, nội lực thì càng ngày càng thâm sâu, Lý Mạc Sầu làm sao địch nổi? Trong giây lát nàng ta đã bị nhiễm cảm, dao động không thể kiềm chế được.

Tiếng cầm ca của Hoàng Dược Sư hòa với nhau, chợt hoan lạc, chợt phẫn nộ, chợt vút lên hiên ngang, chợt hạ xuống quằn quại, khiến nàng ta cũng chợt vui chợt buồn, chợt nộ chợt sầu, ca khúc này kết thúc, Lý Mạc Sầu chắc chắn sẽ phát cuồng.

Giữa lúc đó Khúc cô ngoảnh đầu, bỗng nhìn thấy Dương Quá, dưới ánh đèn trông chàng giống hệt phụ thân chàng là Dương Khang. Khúc cô sợ nhất là hồn ma; cái cảnh tượng ngày xưa Dương Khang bị trúng độc mà chết, đã in sâu trong óc Khúc cô vĩnh viễn không quên, giờ bỗng nhìn thấy Dương Quá ngồi ngây chỗ kia, ngỡ là Dương Khang hiện hồn về, Khúc cô vội nhảy dựng lên, chỉ Dương Quá, kêu thất thanh:

– Dương… Dương huynh đệ, huynh đệ đừng… hại… không phải ta sát hại huynh đệ, huynh đệ đừng… hãm hại…người khác.

Hoàng Dược Sư không ngờ Khúc cô ở bên cạnh phá rối, “tăng” một cái, sợi dây đàn cuối cùng đứt phựt. Khúc cô nấp vào sau lưng sư tổ, kêu to:

– Ma… ma… gia gia, là hồn ma của Dương huynh đệ kìa.

Lý Mạc Sầu thừa cơ, dùng cây phất trần thổi tắt ngọn đèn, chui qua chỗ vách thủng chạy đi. Hoàng Dược Sư không chế ngự buộc nàng ta bỏ mạng được, đành để cho nàng ta chạy thoát, do thân phận của mình, cũng không thể đuổi theo. Trong bóng tối Khúc cô càng sợ hãi, cứ kêu rú lên:

– Eo ôi, ác quỉ đấy, gia gia, đánh ma đi, đánh quỉ đi.

Hoàng Dược Sư quát bảo Khúc cô đừng kêu. Trình Anh thắp đèn sáng, quì xuống vái sư phụ, rồi đứng dậy, bẩm qua lai lịch của Dương Quá và Lục Vô Song.

Hoàng Dược Sư nhìn Dương Quá, cười, nói:

– Đồ tôn kiêm đồ nhi Khúc cô của lão phu hơi ngớ ngẩn. Nó biết mặt phụ thân ngươi. Ngươi quả nhiên rất giống phụ thân ngươi.

Dương Quá ngồi trên giường cúi rạp đầu, nói:

– Thứ cho đệ tử đang bị thương, không thể khấu bái.

Hoàng Dược Sư dịu dàng nói:

– Ngươi không quản hiểm nguy, cứu mạng nữ nhi và ngoại tôn nữ của lão phu, thật là một hảo hài tử.

Nguyên Hoàng Dược Sư đã gặp Hoàng Dung, biết chuyện vài ngày trước, nghe nói Trình Anh đã cứu Dương Quá mang đi, thế là bèn dẫn Khúc cô đi tìm.

Hoàng Dược Sư lấy linh dược trị thương cho Dương Quá uống, lại vận nội lực xoa bóp cho chàng. Dương Quá chỉ cảm thấy hai bàn tay của lão nóng rực, bất giác cơ thể sinh ra kháng lực. Hoàng Dược Sư chợt cảm thấy da thịt chàng chấn động một cái, rồi kinh mạch vận chuyển, nội công thực có thành tựu dị thường, thế là lão gia tăng kình lực vào hai tay, xoa bóp bằng thời gian ăn một bữa cơm, thì Dương Quá thấy tứ chi toàn thân khoan khoái vô cùng, mơ mơ hồ hồ ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau thức giấc, Dương Quá mở mắt ra, đã thấy Hoàng Dược Sư ngồi cạnh đầu giường, vội ngồi dậy hành lễ. Hoàng Dược Sư nói:

– Ngươi có biết trên giang hồ người ta gọi lão phu bằng danh hiệu gì chứ?

Dương Quá đáp:

– Tiền bối là Đào Hoa đảo chủ.

Hoàng Dược Sư hỏi:

– Còn gì nữa?

Dương Quá cảm thấy không tiện nói ra hai chữ “Đông Tà”, nhưng lại nghĩ, ngoại hiệu của lão đã có chữ “Tà”, hẳn là tính khí phải khác hẳn người thường, bèn bạo gan nói:

– Tiền bối là “Đông Tà”.

Hoàng Dược Sư cười ha hả, nói:

– Không sai, lão phu nghe nói, ngươi võ công không kém, lòng dạ nhiệt thành, hành sự cũng có vài phần gian tà. Lại nghe đâu ngươi muốn lấy sư phụ ngươi làm thê tử, phải vậy không?

Dương Quá đáp:

– Thưa đúng vậy. Lão tiền bối, người người đều không cho phép đệ tử, nhưng đệ tử thà chết, nhất định sẽ lấy người ấy làm thê tử.

Hoàng Dược Sư nghe Dương Quá nói mấy câu này quả quyết như dao chém đá, thì chăm chú nhìn chàng một hồi, rồi ngửa mặt cười khanh khách, làm rung chuyển cả nếp nhà tranh. Dương Quá hơi bực, hỏi:

– Chuyện đó có gì tức cười kia chứ? Đệ tử tưởng lão tiền bối hiệu xưng “Đông Tà”, chắc phải có cao kiến, ai dè cũng chẳng khác gì thường nhân cả.

Hoàng Dược Sư nói:

– Hảo, hảo, hảo!

Nói xong liền đi ra. Dương Quá ngồi lại, nghĩ thầm: “Mấy câu vừa rồi của mình chắc là đắc tội với lão tiền bối, nhưng sao không thấy lão tức giận?”

Chàng đâu biết Hoàng Dược Sư một đời tung hoành thiên hạ, chúa ghét các định kiến thế tục lễ giáo đương thời, hành sự nói năng toàn là ly kinh phản đạo cho nên mới bị gắn cho chữ “Tà”. Lão suốt đời cô đơn, bình sinh thực không có tri kỷ, tuy có nữ nhi và nữ tế (con rể), nhưng họ không hợp với lão, Quách Tĩnh nghiêm trang hậu trọng, lão càng ghét hơn. Không ngờ lúc xế bóng, lão lại gặp Dương Quá. Dương Quá hành sự thế nào tại đại hội quần hùng vừa rồi, lão đã nghe kể, Hoàng Dung cũng đã thuật sơ qua lai lịch của chàng, nay trò chuyện vài câu với chàng, lão đã cảm thấy đại hợp tâm ý.

Gần tối, Hoàng Dược Sư trở vào phòng, nói:

– Dương Quá, nghe bảo ngươi phản xuất phái Toàn Chân, ẩu đả bản sư, cũng gian tà ghê gớm. Chi bằng ngươi lại phản xuất sư môn phái Cổ Mộ, bái lão phu đây làm sư phụ đi.

Dương Quá sửng sốt, hỏi:

– Để làm gì ạ?

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Ngươi trước hết không nhận Tiểu Long Nữ là sư phụ nữa, rồi lấy nàng ta làm thê tử, như thế có phải là danh chính ngôn thuận hay không?

Dương Quá nói:

– Cách đó cũng hay. Nhưng mà sư đồ không được kết thành phu thê, quy củ đó là do ai định ra vậy? Vãn bối muốn nàng ta vừa là sư phụ, vừa là thê tử của vãn bối kia.

Hoàng Dược Sư vỗ tay, cười:

– Hay lắm! Ngươi nghĩ thế, là còn cao hơn lão phu một bậc đấy.

Lão đưa tay xoa bóp trị thương cho Dương Quá, lại nói:

– Lão phu vốn định truyền y bát cho ngươi, để cho người đời biết rằng sau Hoàng lão tà còn có Dương tiểu tà. Ngươi không chịu làm đệ tử của ta, thế là hết cách.

Dương Quá nói:

– Cũng không nhất thiết phải là sư đồ mới có thể truyền lại chữ Tà của lão tiền bối. Lão tiền bối nếu không ngại vãn bối nhỏ tuổi, võ nghệ non kém, thì hai ta có thể kết làm bằng hữu, thậm chí làm huynh đệ kết nghĩa.

Hoàng Dược Sư nổi giận:

– Thằng nhãi ranh này có lá gan không nhỏ. Lão phu không phải là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông, làm sao có thể bằng vai phải lứa với ngươi kia chứ?

Dương Quá hỏi:

– Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông là ai vậy?

Hoàng Dược Sư bèn kể cho chàng nghe sơ qua Chu Bá Thông là người như thế nào, đã kết nghĩa huynh đệ với Quách Tĩnh ra sao.

Hai người chuyện trò vô cùng ý hợp tâm đầu, tục ngữ có câu “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, thoại bất đầu cơ bán cú đa” , Dương Quá ăn nói lưu loát, ngôn từ lanh lợi, tính nết lại gần giống Hoàng Dược Sư, mỗi câu nói ra đều hợp ý lão, hai người cứ như thể bạn cũ lâu ngày gặp lại, chỉ tiếc sao gặp nhau quá muộn. Hoàng Dược Sư ngoài miệng không chịu, nhưng trong bụng thì đã coi Dương Quá như người bạn vong niên, tối hôm ấy sai Trình Anh kê thêm một chiếc giường trong phòng Dương Quá, để hai người nằm cạnh nhau trò chuyện.

Mấy hôm sau Dương Quá đã khỏe hẳn, chàng và Hoàng Dược Sư hai người cứ như keo sơn, lưu luyến không rời. Hoàng Dược Sư vốn định dẫn Khúc cô xuống phương Nam, thế mà không thấy lão nhắc một câu ngày nào lên đường. Trình Anh và Lục Vô Song thấy hai người, một già một trẻ, ngày cùng ngồi uống trà, tối thắp đèn thâu đêm, cao đàm khoát luận, thao thao bất tuyệt, hai nàng không nhịn được cười, cảm thấy lão già thì bất chấp thân phận, chàng trai thì chẳng nể nang gì hết. Xét về học vấn, kiến thức mà nói, Dương Quá không bằng cái móng tay Hoàng Dược Sư, song Hoàng Dược Sư nói bất cứ chuyện gì, chàng cũng đều có thể chêm vào một hai chữ hoặc tán thưởng, hoặc rất đúng chỗ, khiến Hoàng Dược Sư bất giác xem chàng như đệ nhất tri kỷ của mình vậy.

Mấy ngày nay, ngoài thời gian trò chuyện với Hoàng Dược Sư, Dương Quá thường nhớ đến câu nói của Khúc cô buổi tối đầu tiên, khi nhận lầm chàng; khi đó, Khúc cô nói: “Không phải ta sát hại huynh đệ, huynh đệ đừng hãm hại…người khác!” Chàng nghĩ Khúc cô hẳn là biết ai sát hại phụ thân chàng, người khác giấu chàng không nói, chứ Khúc cô ngớ ngớ ngẩn ngẩn, không chừng có thể qua miệng Khúc cô mà tìm ra chân tướng.

Chiều hôm sau, Dương Quá nói:

– Khúc cô, hãy lại đây, ta có điều muốn nói với Khúc cô.

Khúc cô thấy chàng quá giống Dương Khang, vẫn sợ hãi, lắc đầu nói:

– Ta không chơi với ngươi đâu.

Dương Quá nói:

– Ta biết làm trò ảo thuật, Khúc cô có muốn xem không?

Khúc cô lắc đầu:

– Ngươi lừa ta, ta không xem đâu!

Nói xong nhắm mắt lại. Dương Quá đột nhiên lộn người trồng cây chuối, như Âu Dương Phong đã dạy chàng, nói:

– Xem này!

Rồi chàng cứ thế di chuyển bằng hai tay về phía trước. Khúc cô mở mắt nhìn, thấy thế vui quá, vỗ tay hoan hô, đi theo sau.

Đến một chỗ có nhiều bụi cây, cách ngôi nhà tranh khá xa, Dương Quá mới đứng thẳng người lại, rủ:

– Hai ta chơi trò bịt mắt bắt dê nhé? Ai thua thì phải bị phạt.

Khúc cô bao năm nay đi theo Hoàng Dược Sư, làm gì được chơi đùa với ai? Nghe Dương Quá rủ chơi, thì mừng hết chỗ nói, cứ vỗ tay thích thú, không còn sợ gì Dương Quá nữa, nói:

– Hay quá, hay quá! Hảo huynh đệ, huynh đệ bảo nên phạt thế nào?

Khúc cô gọi phụ thân chàng là huynh đệ, bây giờ đối với chàng, cũng lại gọi là huynh đệ.

Dương Quá lấy ra một cái khăn, bịt mắt Khúc cô lại, nói:

– Khúc cô hãy đuổi bắt ta, nếu bắt được, Khúc cô hỏi câu gì, ta đều phải trả lời thật thà, không được giấu giếm. Nếu không bắt được ta, ta có hỏi câu gì, Khúc cô cũng phải trả lời thật thà.

Khúc cô rối rít nói:

– Được lắm, được lắm!

Dương Quá lên tiếng:

– Ta ở đây này, Khúc cô đuổi bắt ta đi!

Khúc cô dang hai tay, đuổi theo tiếng gọi. Dương Quá đã luyện khinh công phái Cổ Mộ, là môn tuyệt diệu nhất thiên hạ, đừng nói Khúc cô đang bị bịt mắt, cho dù nhìn thấy, cũng chẳng thể đuổi kịp. Khúc cô đuổi loanh quanh một hồi không được, lại đụng trán vào một thân cây, trán sưng to một cục, miệng xuýt xoa kêu đau.

Dương Quá sợ Khúc cô mất hứng, bèn cố ý đi chậm lại, ho khẽ một tiếng. Khúc cô chạy tới, tóm lấy lưng chàng, kêu to:

– Tóm được rồi, tóm được rồi!

Cởi cái khăn ra, vẻ mặt đầy vui thích.

Dương Quá nói:

– Được ta thua rồi, Khúc cô muốn hỏi gì thì hỏi đi.

Không ngờ đặt câu hỏi lại là chuyện khó đối với Khúc cô. Khúc cô cứ ngẩn ra nhìn Dương Quá, không biết nên hỏi cái gì, hồi lâu mới nói:

– Hảo huynh đệ, huynh đệ đã ăn cơm chưa?

Dương Quá thấy Khúc cô nghĩ chán chê, mới hỏi một câu không đáng hỏi, suýt nữa thì chàng phì cười, nhưng làm vẻ mặt thản nhiên, nghiêm trang đáp:

– Ta ăn cơm rồi.

Khúc cô gật gật đầu, không nói gì. Dương Quá nói:

– Khúc cô muốn hỏi thêm gì không?

Khúc cô lắc đầu:

– Không hỏi nữa, chơi tiếp nào.

Dương Quá nói:

– Được, Khúc cô mau đuổi bắt ta đi.

Khúc cô sờ sờ cục sưng trên trán, nói:

– Bây giờ đến lượt huynh đệ đuổi bắt Khúc cô.

Khúc cô bỗng nhiên không ngớ ngẩn, thật là điều bất ngờ đối với Dương Quá, song rất hợp ý định của chàng, chàng liền cầm khăn bị mắt lại.

Khúc cô tuy ngớ ngẩn, nhưng khinh công rất khá, Dương Quá bị bịt mắt, làm sao đuổi bắt được? Chàng nhảy nhót vài lần, len lén đưa tay làm rách khăn, nhìn thấy Khúc cô nấp sau bên phải một thân cây lớn, chàng cố ý sờ soạng mé bên trái, miệng hỏi:

– Khúc cô ở đâu? Khúc cô ở đâu thế?

Rồi đột nhiên xoay ngươi lại túm lấy cổ tay của Khúc cô tay trái chàng giật tấm khăn ra, nhét luôn vào túi để Khúc cô không phát hiện vết thủng, cười, nói:

– Lần này thì ta hỏi Khúc cô đây.

Khúc cô nói luôn:

– Ta ăn cơm rồi.

Dương Quá cười, nói:

– Ta đâu có hỏi Khúc cô câu ấy. Ta hỏi câu này: Khúc cô quen biết cha ta phải không?

Nói tới đây, vẻ mặt chàng rất trịnh trọng. Khúc cô đáp:

– Cha của huynh đệ là ai? Ta không quen biết đâu.

Dương Quá nói:

– Có một người tướng mạo giống hệt ta, người ấy là ai vậy?

Khúc cô nói:

– À, đó là Dương huynh đệ.

Dương Quá hỏi:

– Khúc cô nhìn thấy Dương huynh đệ bị người ta giết chết phải không?

Khúc đáp:

– Phải, lúc ấy nửa đêm, ở trong tòa miếu, có rất nhiều quạ kêu, quạc, quạc, quạc!

Khúc cô bắt chước tiếng quạ kêu. Cây lá xung quanh âm u, Khúc cô kêu lên như vậy, bất giác thấy hơi rờn rợn. Dương Quá rùng mình, hỏi:

– Dương huynh đệ chết như thế nào?

Khúc cô nói:

– Cô cô muốn ta nói, Dương huynh đệ không cho ta nói, Dương huynh đệ đánh cô cô một chưởng, rồi cười ha ha, hô hô, hi hi!

Khúc cô cố bắt chước tiếng cười của Dương Khang trước khi chết, cười đến nỗi chính Khúc cô cũng tái mặt hoảng sợ. Dương Quá nghe chẳng hiểu thế nào, hỏi:

– Cô cô là ai thế?

Khúc cô đáp:

– Cô cô là cô cô chứ còn ai.

Dương Quá biết bí mật về cái chết của phụ thân sắp được vén mở, máu nóng dồn lên ngực, đang định hỏi tiếp, bỗng nghe có tiếng người nói sau lưng:

– Hai đứa ngươi chơi đùa ở đây hả?

Đó là Hoàng Dược Sư. Khúc cô nói:

– Hảo huynh đệ chơi bịt mắt bắt dê với Khúc cô. Là hảo huynh đệ rủ Khúc cô đi chơi, chứ không phải Khúc cô rủ đâu, đừng mắng Khúc cô.

Hoàng Dược Sư mỉm cười, nhìn Dương Quá một cái, thần sắc đầy ngụ ý, tựa hồ đọc được tâm sự của chàng. Dương Quá động lòng, định nói vài câu che giấu, chợt phía ngoài rừng cây có tiếng bước chân, Trình Anh và Lục Vô Song hớt hải chạy tới, nói với Hoàng Dược Sư:

– Lão nhân gia đoán không sai, nàng ta quả nhiên còn ở đấy.

Nói rồi chỉ tay về phía sau mé núi phía Tây. Dương Quá hỏi:

– Ai thế?

Trình Anh đáp:

– Lý Mạc Sầu!

Dương Quá kinh ngạc, nghĩ bụng sao nữ ma đầu lại cả gan như thế, chàng nhìn Hoàng Dược Sư, chờ lão giải thích. Hoàng Dược Sư mỉm cười, nói:

– Chúng ta đến đó xem sao.

Mấy người có lão ở bên cạnh, chẳng sợ gì, thế là cả bọn kéo nhau ra sau núi.

Trình Anh biết Dương Quá lòng đầy nghi vấn, bèn nói nhỏ:

– Sư phụ bảo Lý Mạc Sầu biết sư phụ có thân phận đại tông sư; tối hôm ấy có ý lấy mạng mụ ta nhưng không thành, đánh một lần không trúng, lần sau ngượng không xuất thủ nữa.

Dương Quá bỗng đại ngộ, nói:

– Do vậy mụ ta mới không chút sợ hãi, ở lại đây chờ cơ hội thuận tiện sẽ lấy mạng ba chúng ta. Nếu Hoàng đảo chủ không nhắc nhở, ba đứa mình cứ tưởng mụ ta đã chuồn đi xa, không đề phòng, rất dễ sa vào tay mụ.

Trình Anh mỉm cười, gật đầu.

Lục Vô Song nói xen vào:

– Dương huynh tự phụ thông minh hơn người, so với Hoàng đảo chủ xem ra còn thua xa.

Dương Quá cười, nói:

– Huynh là Đồ Ngốc, là hảo huynh đệ của Khúc cô mà lại.

Chẳng mấy chốc năm người đã ra sau núi, thấy cạnh một cây đại thụ có một gian nhà tranh cũ, nhỏ, rất tuềnh toàng, hai cánh cửa đóng chặt, trên cánh cửa viết mười sáu chữ: “Đào Hoa đảo chủ, đệ tử quá đông, lấy năm đánh một, giang hồ chê cười!”

Hoàng Dược Sư cả cười, cúi nhặt dưới đất hai viên sỏi, dùng ngón tay cái và ngón trỏ búng đi, bộp bộp hai tiếng, hai cánh cửa ở cách xa mươi bước bị hai viên sỏi mở tung ra. Dương Quá hồi ở Đào Hoa đảo nghe Quách Phù kể rằng ông ngoại của nàng có bản lĩnh “Đạn chỉ thần thông”, hôm nay chính mắt chứng kiến, không khỏi hết sức thán phục.

Cánh cửa mở tung, chỉ thấy Lý Mạc Sầu đang ngồi ngay ngắn trên tấm bồ đoàn, tay giữ cây phất trần, mắt lim dim, chính đang ngồi thiền, thần quang thu vào bên trong, trang nghiêm đúng như một đạo sĩ. Trong nhà chỉ có một mình Lý Mạc Sầu, không thấy Hồng Lăng Ba. Dương Quá hiểu ngay: “Lý Mạc Sầu châm biếm Hoàng đảo chủ đông đệ tử, cậy đông ăn hiếp một mình nàng ta, cho nên nàng ta đuổi cả Hồng Lăng Ba đi nơi khác, ra điều nàng ta chỉ có một mình, với thân phận Hoàng đảo chủ, Hoàng Dược Sư sẽ không động đến nàng ta”.

Lục Vô Song nghĩ đến mối thù của cha mẹ, bao năm nay nhẫn nhục khổ sở, bèn rút kiếm, nói:

– Biểu tỷ, Dương huynh, không cần Hoàng đảo chủ ra tay, ba chúng ta hãy liều chết với mụ ta.

Khúc cô xoa xoa tay, nói:

– Có cả Khúc cô nữa!

Lý Mạc Sầu mở mắt, nhìn năm người một lượt, lộ vẻ khinh bỉ, rồi lại nhắm mắt, làm như không thèm để ý tới cường địch đang ở trước mặt. Trình Anh nhìn sư phụ, chờ lệnh. Hoàng Dược Sư thở dài:

– Hoàng lão tà đúng là đệ tử rất đông, nếu bốn đại đệ tử Trần, Mai, Khúc, Lục có một người ở đây, đâu có để cho nó lẻo mép?

Rồi lão phẩy tay, nói:

– Về thôi!

Bốn người không hiểu tâm ý của Hoàng Dược Sư, theo lão về căn nhà tranh, chỉ thấy lão cau có không vui bỏ bữa ăn tối, lẳng lặng nằm ngủ.

Dương Quá nằm giường bên cạnh, nhớ lại lời Khúc cô nói chiều nay, rồi thần tình của Lý Mạc Sầu, nghĩ thầm: “Mụ ta chê cười bên này cậy đông, lấy năm đánh một; hiện giờ thương thế của ta đã lành, dùng sức một mình ta, có khi cũng đủ địch nổi mụ; chi bằng ta kín đáo đi đấu với mụ một trận, trước là rửa nỗi nhục của cô cô ta, sau là để Hoàng đảo chủ đỡ bực mình”. Tâm ý đã quyết, bèn nhẹ nhàng nai nịt quần áo gọn ghẽ. Chàng tuy nóng tính, nhưng hành sự rất cẩn thận, biết Lý Mạc Sầu đúng là cường địch, chỉ cần sơ suất một chút, sẽ mất mạng bởi tay mụ ta như chơi, bèn ngồi xếp bằng trên giường vận khí điều tức, dưỡng đủ tinh thần, rồi sẽ đi tử chiến một phen.

Vận khí chừng nửa canh giờ, đột nhiên trước mắt tựa hồ bừng sáng, toàn thân chỗ nào cũng tràn đầy khí, miệng tự dưng phát ra một âm thanh nghe như tiếng rồng hú ở vực lớn, hổ gầm trong rừng sâu, truyền đi rất xa. Hoàng Dược Sư phát hiện ngay từ lúc Dương Quá nai nịt quần áo, nghe chàng phát ra âm thanh kỳ lạ, không ngờ nội công của chàng tiến triển đến mức ấy, thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng.

Nguyên một người luyện nội công đến cảnh giới nhất định, thường sẽ tự dưng phát ra âm thanh lạ. Sau này vào thời nhà Minh, bậc đại nho Vương Dương Minh nửa đêm luyện khí trong binh doanh, đột nhiên hú lên một tiếng, toàn quân kinh hãi, điều này có chép rõ ràng trong sử sách. Hiện tại Dương Quá trung khí sung mãn, khó kìm giữ, phát ra tiếng hú vang xa mấy dặm. Trình Anh, Lục Vô Song cố nhiên kinh ngạc, ngay cả Lý Mạc Sầu ở sau núi nghe tiếng hú cũng kinh hãi, song nàng ta nghĩ rằng đấy là Hoàng Dược Sư thổ nạp canh khí, mà lão thì sẽ không xuất thủ, nên mụ chẳng lo. Không ngờ là Dương Quá từng được nằm giường hàn ngọc, lại được học “Ngọc nữ tâm kinh” và bí yếu của “Cửu Âm chân kinh”, nội công tích lũy lâu dần, mấy hôm trước được Hoàng Dược Sư truyền lực trị thương, nhận sự kích thích của nguồn nội lực mạnh mẽ đó, tự dưng chàng phát ra tiếng hú.

Tiếng hú vang rền lâu gần bằng thời gian ăn một bữa cơm, mới lặng tắt dần. Hoàng Dược Sư nghĩ thầm: “Ta tự phụ là kỳ tài, cũng phải ngoài ba mươi tuổi mới đạt tới cảnh giới này. Gã thiếu niên này chín sớm hơn ta mười năm, không hiểu từng có sự kỳ ngộ gì đây?” Chờ Dương Quá hú xong, Hoàng Dược Sư hỏi:

– Ngươi bảo môn võ công lợi hại nhất của Lý Mạc Sầu là gì?

Dương Quá nghe câu hỏi, biết hành động của chàng đã bị lão phát giác, đáp:

– Là công phu “Ngũ độc thần chưởng” và cây phất trần.

Hoàng Dược Sư nói:

– Không sai. Nội công của ngươi đã có căn cơ như thế, muốn khắc chế nàng ta cũng không khó.

Dương Quá cả mừng, bất giác vái lão sát đất. Chàng vốn rất kiêu ngạo, tuy coi Hoàng Dược Sư là bậc tiền bối, có võ công cao thâm, huyền học thông thần, song vẫn chưa cúi đầu trước lão; lúc này nghe lão bảo có thể khắc chế được võ công hoành hành thiên hạ của Lý Mạc Sầu, làm sao chàng không bái phục?

Thế là Hoàng Dược Sư liền truyền thụ cho chàng công phu “Đạn chỉ thần thông” là cái có thể khắc chế “Ngũ độc thần chưởng”, rồi dạy chàng một lộ kiếm pháp diễn xuất từ “Ngọc tiêu kiếm pháp”, có thể phá hủy cây phất trần của Lý Mạc Sầu. Dương Quá nghe lão chỉ dẫn quyết khiếu, hỏi rõ những chỗ nghi nan, để bụng ghi nhớ; nhưng cảm thấy hai môn võ công này tinh thâm huyền diệu, xem ra muốn đạt tới mức tiểu thành, tối thiểu phải luyện một năm; muốn chắc thắng, cũng không thể dưới ba năm, bèn nói:

– Hoàng đảo chủ, muốn thắng mụ ta ngay, cũng không có cách gì hay sao?

Hoàng Dược Sư nói:

– Thời gian ba năm vèo một cái đã qua, lúc ấy ngươi mới hai mốt, hai hai tuổi, mà đã luyện thành hai môn võ công như thế, còn lo chưa đủ hay sao?

Dương Quá nói:

– Đệ tử… đệ tử không phải là nghĩ cho đệ tử…

Hoàng Dược Sư vỗ nhẹ bên sườn chàng, ôn tồn nói:

– Ba năm nữa ngươi giết Lý Mạc Sầu cho ta, ta cũng chịu ơn ngươi rồi. Hồi trước ta tự hủy hoại mấy đệ tử hiền tài, bây giờ bị báo ứng cũng phải thôi.

Nói xong lão thở dài.

Dương Quá quì xuống, vái tám cái, kêu lên:

– Sư phụ!

Chàng biết Hoàng Dược Sư truyền thụ võ công cho chàng là muốn chàng thay lão rửa cái nhục mười sáu chữ Lý Mạc Sầu viết kia, không thể không có danh phận sư đồ.

Hoàng Dược Sư biết Dương Quá có tình nghĩa sâu xa với phái Cổ Mộ, không chịu nhận người khác làm minh sư, bèn đưa tay đỡ chàng dậy, nói:

– Khi nào ngươi động thủ với nữ ma đầu, thì ngươi là đệ tử của ta. Ngoài khi đó ra, ngươi là bằng hữu của ta. Dương huynh đệ, đã rõ chưa nào?

Dương Quá cười, nói:

– Được làm bằng hữu của sư phụ thì còn gì sướng hơn.

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Ta và ngươi tương ngộ, cũng hạnh ngộ ba sinh đó.

Hai người nắm tay nhau cả cười, làm rung chuyển cả bốn vách nhà. Hoàng Dược Sư lại giải thích tỉ mỉ quyết khiếu huyền diệu của “Đạn chỉ thần thông” và “Ngọc tiêu kiếm pháp”. Dương Quá nghe tường tận, biết lão sắp đi xa, buồn bã nói:

– Quen biết chưa lâu, đã phải chia ly, không rõ ngày nào mới được tái ngộ?

Hoàng Dược Sư nói:

– Hai ta như tri kỷ, dù cách xa góc biển chân trời, cũng như đang ở bên nhau. Sau này nếu ta biết có kẻ ngăn cản hôn sự của ngươi, dù xa vạn dặm, ta cũng sẽ đến giúp ngươi.

Dương Quá thấy lão vỗ ngực hứa hẹn thì rất cảm động, cười, nói:

– Chỉ e người đầu tiên đứng ra ngăn cản, lại là lệnh ái.

Hoàng Dược Sư nói, giọng châm biếm:

– Hoàng Dung gặp được tình lang như ý, nên không hiểu nỗi khổ tương tư của người khác. Con gái rượu của ta chỉ biết xuất giá tòng phu, hì hì, tam tòng tứ đức, tốt quá đi thôi!

Nói rồi cười ha hả, rũ áo bước ra, tiếng cười đã ở ngoài xa mấy chục trượng, đúng là đi như thần long, không thể biết tung tích.

Dương Quá ngẩn ngơ một hồi, ngồi ôn lại quyết khiếu hai môn võ công vừa học. Không lâu thì trời sáng, bỗng thấy cửa mở ra, Trình Anh bước vào, cầm chiếc áo trường bào màu xanh, mỉm cười, nói:

– Dương huynh hãy mặc thử, xem có vừa hay không.

Dương Quá cảm kích, nhận tấm áo mà hai tay run run.

Chàng và Trình Anh ánh mắt nhìn nhau, thấy ánh mắt nàng dịu dàng đằm thắm vô cùng, bèn mặc thử chiếc áo mới, thấy tấm áo mới ôm khít lấy thân mình, chỗ nào cũng vừa vặn, thì nói:

– Huynh… huynh… đa tạ muội.

Trình Anh lại cười vui, nhưng chợt lộ vẻ buồn, thở dài:

– Sư phụ đi rồi, không biết bao giờ mới được gặp lại.

Nàng vừa ngồi xuống định trò chuyện, bỗng thấy có bóng áo vàng thấp thoáng ngoài cửa, biết là biểu muội ở ngoài đó, nghĩ thầm: “Biểu muội hay để ý, mình không nên ngồi lâu trong phòng chàng”. Bèn đứng dậy, thong thả đi ra.

Dương Quá xem kỹ chiếc áo mới, thấy đường kim mũi chỉ rất chu đáo, bất giác cảm động: “Nàng đối với ta chu đáo thế này, Lục cô nương cũng thân ái với ta, nhưng ta đã sớm thuộc về người khác, không thể phụ nghĩa. Nếu ta không bỏ đi sớm, chỉ e gây phiền não cho mọi người”. Nghĩ chán chê, lại sợ sau khi chàng đi, Lý Mạc Sầu mò tới tập kích, bèn một mình tìm ra sau núi, đến chỗ căn nhà tranh nọ thăm dò, thấy chỉ còn một đống tro tàn, Lý Mạc Sầu đã đốt trụi mà bỏ đi.

Đại địch đã bỏ đi, tối hôm nay chàng ngồi dưới đèn viết thư từ biệt, nghĩ đến tình ý của hai thiếu nữ, chàng không khỏi nao lòng, thấy lời văn nhạt nhẽo, chữ viết xấu xí, sợ Trình Anh chê cười, thư viết nửa chừng chàng lại vò nhàu. Đêm nay chàng cứ trằn trọc mãi vẫn chưa ngủ được.

Đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe có tiếng gõ cửa, rồi Lục Vô Song gọi:

– Chàng Ngốc, chàng Ngốc! Mau ra mà xem này.

Giọng nghe rất sợ hãi. Dương Quá ngồi dậy, mặc áo, mở cửa bước ra, chỉ thấy gió bấc ù ù khá lạnh, trời chưa sáng rõ. Lục Vô Song vẻ mặt sợ hãi, chỉ lên cánh cửa. Dương Quá nhìn theo, bất giác giật mình, trên cánh cửa in bốn bàn tay máu, hiển nhiên đêm qua Lý Mạc Sầu đã đến đây dò xét, biết Hoàng Dược Sư đi rồi, mụ ta liền thị ý là sẽ giết bốn người.

Hai người sững sờ một hồi, tiếp đó Trình Anh nghe tiếng chạy ra, hỏi:

– Biểu muội trông thấy từ lúc nào?

Lục Vô Song đáp:

– Trời chưa sáng, muội đã thấy nó rồi.

Nàng vừa nói liền đỏ mặt, bởi vì nàng nghĩ đến Dương Quá, mới tinh mơ đã lảng vảng bên ngoài cửa sổ phòng chàng. Trình Anh làm như không biết, nói:

– May muội không gặp mụ ta, bây giờ mặt trời đã mọc, hôm nay nữ ma đầu sẽ không đến nữa đâu, chúng mình thong thả bàn cách đối phó chưa muộn.

Ba người vào phòng Dương Quá thương nghị.

Lục Vô Song nói:

– Hôm nọ nữ ma đầu lĩnh giáo công phu cây que cời của Khúc cô, mụ ta không sợ hay sao?

Trình Anh nói:

– Chiêu số cây que cời của Khúc cô quanh đi quẩn lại chỉ có ba chiêu, mụ ta về ngẫm nghĩ, hẳn đã nghĩ ra cách hóa giải.

Lục Vô Song nói:

– Nhưng chàng Ngốc thương thế đã lành hẳn, hợp lực với Khúc cô, uy lực sẽ vô cùng mạnh mẽ.

Dương Quá cả cười, nói:

– Hai kẻ ngớ ngẩn, ngốc nghếch hợp lực với nhau, thành một bè đại ngu, uy lực nỗi gì?

Ba người bàn một hồi, chưa ra diệu kế, nhưng nghĩ bốn người liên thủ, dẫu không thắng, cũng đủ tự bảo vệ, ngày mai cố chống chọi với Lý Mạc Sầu thì được. Dương Quá nói:

– Ngu huynh và Khúc cô hợp bích, đối chiến chính diện với nữ ma đầu, biểu tỷ biểu muội hai người tả hữu giáp công. Chúng mình hãy gọi Khúc cô tới diễn tập trước với nhau cho quen.

Gọi Khúc cô thì không thấy tiếng thưa, tìm một hồi không biết Khúc cô đi đâu. Ba người lo lắng, chia nhau đi mấy ngả tìm kiếm. Trình Anh tìm một hồi, bỗng thấy Khúc cô nằm cạnh một đống đá, hơi thở chỉ còn thoi thóp, cả kinh, vội cởi áo xem thương thế, thấy ở giữa lưng lờ mờ một vệt bàn tay máu, quả nhiên Khúc cô đã trúng “Ngũ độc thần chưởng” của Lý Mạc Sầu, vội gọi Dương Quá, Lục Vô Song cùng đến, đem linh dược sư môn “Cửu hoa ngọc lộ hoàn” cho Khúc cô uống. Dương Quá nhớ lại cách trị liệu “Ngũ độc thần chưởng” chép trong sách “Ngũ độc bí truyền”, vội vận nội kình xoa huyệt đạo cho Khúc cô.

Khúc cô cười nhăn nhở, nói:

– Ác nữ nhân, sau lưng, đánh Khúc cô. Khúc cô lật ngược tay, đánh nó.

Lật ngược tay ra đòn là một trong ba chiêu chưởng pháp mà Hoàng Dược Sư truyền thụ cho Khúc cô. Lý Mạc Sầu tuy đánh lén đắc thủ, nhưng cũng bị Khúc cô lật ngược tay đánh một chưởng trúng cánh tay, suýt nữa thì gãy xương, vừa sợ vừa đau liền bỏ chạy, không dám tiếp tục tiến chiêu lấy mạng Khúc cô.

Ba người cứu Khúc cô về rồi, ngồi nhìn nhau buồn bã, họ thiếu mất một hảo thủ, ngày mai càng khó cự địch hơn. Khúc cô bị trọng thương, nếu đưa Khúc cô đi trốn, ắt Lý Mạc Sầu sẽ đuổi kịp. Dương Quá nhìn Trình Anh, lại nhìn Lục Vô Song, thuận tay cầm cái kéo cắt đứt một sợi chỉ khâu thành nhiều đoạn. Khúc cô đang nằm trên giường đột nhiên kêu to:

– Mang kéo, cắt phăng cái chổi của ác nữ nhân! Cắt phăng cái chổi!

Khúc cô không biết cây phất trần, lại gọi là cái chổi. Dương Quá chợt nghĩ ra: “Cây phất trần của Lý Mạc Sầu là vật rất mềm, mụ ta lại sử dụng xuất thần nhập hóa, mình dùng bảo đao lợi kiếm cũng không đả thương nổi mụ ta; nếu có một chiếc kéo lớn cắt phăng cây phất trần, thì xong”. Nghĩ đến đây, tay trái cầm sợi chỉ đánh ra theo lối cây phất trần, tay phải cầm kéo thì đưa ra cắt, hình dung thế đánh của cây phất trần và đòn cắt của chiếc kéo, sáng tạo ra chiêu thuật.

Trình Anh và Lục Vô Song nhìn nhìn một hồi, hiểu ý, đều vui mừng ra mặt. Trình Anh nói:

– Đi về hướng bắc, cách đây bảy tám dặm, có một cái lò rèn…

Lục Vô Song nói xen vào:

– Chúng ta đến đó thuê thợ rèn rèn cho một chiếc kéo lớn.

Dương Quá nghĩ thầm: “Thời gian cấp bách, khó lòng rèn xong một thứ binh khí. Khi tiếp chiến ta phải tùy cơ ứng biến, như thế dễ hơn hẳn trăm lần việc luyện “Ngọc tiêu kiếm pháp” nhưng hiện tại chưa có cách gì khác, thì cứ thử xem sao”. Nghĩ nếu một mình chàng đi tìm lò rèn, Lý Mạc Sầu đến đây thì vô cùng nguy hiểm cho ba người ở lại, từ lúc này bốn người không được xa nhau nửa bước. Thế là Trình Anh và Lục Vô Song lót chăn lên lưng ngựa, dìu Khúc cô ra nằm vắt ngang trên đó, cùng đi tìm lò rèn.

Mông Cổ sau khi diệt nước Kim, quân thiết kỵ tiến vào biên cảnh nhà Tống, vùng này là biên thùy phía bắc của cương giới Đại Tống, nhiều thành trấn bị quân Mông Cổ chiếm đóng, cảnh tàn phá bày rõ nơi nơi. Lò rèn là một cái quán rất sơ sài, bước vào thấy chính giữa kê một cái đe lớn, than và sắt vụn vung vãi khắp quán, trên vách treo mấy cái lưỡi cày, lưỡi liềm, trong quán không thấy ai.

Dương Quá nhìn cảnh tượng này, nghĩ thầm: “Lò rèn thế này thì rèn được loại binh khí gì kia chứ? Nhưng đã cất công đến đây, cũng hỏi thử xem sao”, bèn lớn tiếng gọi:

– Ông chủ có nhà không đấy?

Một lát từ gian trong có một lão nhân bước ra, râu tóc muối tiêu, trạc năm mươi tuổi, chắc là nhiều năm cúi mình quai búa nên lưng bị còng, hai mắt bị khói hun nên vừa đỏ vừa hấp háy, khóe mắt có dử, chân trái tàn phế, một cây quải trượng treo ở hõm vai. Lão nhân bước ra, nói:

– Quí vị có gì sai bảo?

Dương Quá đang định nói, bỗng nghe có tiếng vó ngựa, hai người cười ngựa phi đến trước quán, là một gã thập trưởng quân Mông Cổ và một gã người Hán, không biết là thông dịch hay địa bảo. Gã người Hán gọi to:

– Lão thợ rèn họ Phùng, mau ra nghe hiệu lệnh.

Lão nhân bước ra hành lễ, nói:

– Thưa có tiểu nhân đây ạ.

Gã người Hán nói:

– Trưởng quân có lệnh, thợ rèn toàn trấn, hạn trong ba ngày phải tề tựu ở huyện thành, gắng sức làm việc trong quân. Ngày mai lão phải có mặt tại huyện thành, nghe rõ chưa hả?

Lão nhân nói:

– Tiểu nhân tuổi đã già yếu…

Gã thập trưởng quân Mông Cổ vung roi ngựa quất vun vút mấy cái, xì xồ gì đó. Gã người Hán nói:

– Ngày mai lão không đến, người ta sẽ lấy đầu lão đặt sang chỗ khác đó.

Nói rồi hai gã phóng ngựa đi.

Phùng lão nhân thở dài, đứng ngây người. Trình Anh thấy lão già cả đáng thương, bèn lấy ra mười lạng bạc đặt lên bàn, nói:

– Phùng sư phó, sư phó đã nhiều tuổi, huống hồ đi lại không tiện, bị sung quân thì sống sao nổi? Sư phó hãy cầm chút bạc này mà trốn đi thì hơn!

Phùng lão nhân thở dài:

– Đa tạ cô nương hảo tâm, lão phu sống đến tuổi này, có chết cũng đáng rồi; chỉ buồn vì muôn vạn sinh linh Giang Nam lại gặp đại kiếp nạn mà thôi.

Ba người đều kinh ngạc, hỏi:

– Vì sao vậy?

Phùng lão nhân nói:

– Bọn Mông Cổ trưng tập thợ rèn, tức là để rèn binh khí. Quân Mông Cổ vốn đủ binh khí rồi, nay lại huy động hết thảy thợ rèn, có phải chúng sắp tiến đánh giang sơn Đại Tống hay không?

Ba người nghe Phùng lão nhân nói rất có lý, định hỏi thêm, thì lão đã hỏi trước:

– Ba vị muốn rèn cái gì nào?

Dương Quá nói:

– Phùng sư phó đang có việc, lẽ ra không dám làm phiền, ngặt nỗi quá cần, đành phiền lão nhân.

Rồi chàng miêu tả kiểu dáng, kích thước cái kéo lớn, vật này rất lạ, nào ngờ Phùng lão nhân nghe xong, gật gật đầu, kéo chiếc bễ ra thổi lửa, đặt hai thanh sắt vào lửa nung cho nóng đỏ. Dương Quá hỏi:

– Không biết tối nay có rèn xong được chăng?

Phùng lão nhân nói:

– Lão phu ráng sức thì xong.

Nói rồi kéo mạnh cái bễ quạt gió.

Khúc cô ngồi gục bên bàn, bọn Dương Quá ba người quê đều ở Giang Nam, tuy rời quê hương từ nhỏ, nhưng nghe quê hương sắp gặp kiếp nạn, đều không khỏi lo lắng. Cả ba nhìn ngọn lửa, nghĩ thầm giữa thời buổi loạn lạc này, mạng người chỉ như con sâu cái kiến, chốn nào cũng khổ sở khốn cùng, mình ngày mai có nạn, nhưng sự lo sợ cũng giảm đi vài phần.

Một canh giờ sau, hai thanh sắt đã đỏ lừ, Phùng lão nhân tay trái dùng kìm kẹp thanh sắt đặt lên đe, tay phải quai cây búa lớn, tuy lão đã già, nhưng động tác quai búa dường như không hề tốn sức, đập cây búa một hồi, hai vòng khuyên của chiếc kéo lớn đã dần dần thành hình. Lục Vô Song vui mừng nói:

– Dương huynh, hôm nay chắc làm kịp đó.

Bỗng nghe phía sau có tiếng nói lạnh lùng:

– Rèn chiếc kéo này để cắt cây phất trần của ta chứ gì?

Ba người giật mình, ngoảnh lại, thấy Lý Mạc Sầu rung rung nhẹ cây phất trần, đứng chắn ngay giữa cửa.

Thế là binh khí chưa rèn xong, cường địch đã tới. Trình Anh và Lục Vô Song cùng rút trường kiếm, Dương Quá nhắm sẵn một thanh sắt cạnh bễ lò rèn, chỉ cần thấy đối phương xuất thủ, chàng sẽ lập tức chộp lấy làm binh khí.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Mấy đứa nhãi ranh các ngươi đòi rèn chiếc kéo này để cắt cây phất trần của ta. Được, ta sẽ ngồi đây, chờ rèn xong chiếc kéo, động thủ cũng chưa muộn.

Nói đoạn Lý Mạc Sầu kéo một chiếc ghế, ngồi xuống, không coi ba người ra gì cả.

Dương Quá nói:

– Thế thì còn gì bằng. Ta đã nhìn kỹ cây phất trần của mụ rồi, nhất định sẽ bị chiếc kéo của ta cắt đứt.

Lý Mạc Sầu thấy Khúc cô gục đầu xuống bàn, lưng gồ lên, nghĩ thầm: “Mụ kia trúng một chưởng của ta, sao lại còn ngồi được, lạ nhỉ?” Bèn lạnh lùng hỏi:

– Hoàng Dược Sư đâu rồi?

Phùng lão nhân nghe ba tiếng “Hoàng Dược Sư” thì rùng mình một cái, ngẩng nhìn Lý Mạc Sầu, rồi lại cúi đầu quai búa. Trình Anh nói:

– Đạo cô thừa biết sư phụ của ta không có ở đây, còn hỏi làm gì? Đạo cô biết lão nhân gia chưa đi, gan có to bằng trời cũng chẳng dám đến.

Lý Mạc Sầu hừ một tiếng, lấy trong túi ra một tờ giấy, nói:

– Hoàng Dược Sư khinh đời mạo danh, toàn dựa vào việc thu nhận nhiều đồ đệ, cậy đông mà thắng. Hừ, trong đám đệ tử của lão, có tên nào làm nên trò trống gì đâu.

Nói xong tay trái vung tờ giấy ra, cánh tay hơi động, một cái ngân châm bay ra theo, đính tờ giấy vào cây cột nói:

– Để đây làm chứng, khi nào Hoàng lão tà trở về, sẽ biết hai đệ tử quí hóa của lão bị ai giết.

Rồi mụ ta quay sang quát giục Phùng lão nhân:

– Rèn mau lên, ta không ưa chờ lâu.

Phùng lão nhân đưa cặp mắt kèm nhèm nhìn tờ giấy đính trên cột, thấy mười sáu chữ “Đào Hoa đảo chủ, đệ tử quá đông, lấy năm đánh một, giang hồ chê cười”. Rồi ngước lên mái nhà, ngẫm nghĩ. Lý Mạc Sầu quát:

– Còn không làm nhanh tay ư?

Phùng lão nhân cúi đầu, nói:

– Vâng, làm nhanh, làm nhanh.

Tay trái giơ cây kìm gắp tờ giấy cho luôn vào ngọn lửa, tờ giấy tức thời cháy thành tro. Tất cả rất đỗi kinh ngạc, Lý Mạc Sầu cả giận, giơ cây phất trần định đánh xuống đầu Phùng lão nhân, nhưng lại nghĩ thầm: “Một lão thợ rèn ở cái tiểu trấn này mà cũng to gan như thế, có lẽ lão ta không phải là nhân vật tầm thường?” Nàng ta đã nhổm lên, song lại thong thả ngồi xuống, hỏi:

– Các hạ là ai?

Phùng lão nhân nói:

– Đạo cô không nhìn thấy ư? Lão phu là thợ rèn.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Căn cớ gì các hạ đốt tờ giấy của ta?

Phùng lão nhân nói:

– Tờ giấy viết sai, tốt nhất là đừng đính ở quán của lão phu.

Lý Mạc Sầu gằn giọng, hỏi:

– Sai ở chỗ nào?

Phùng lão nhân nói:

– Đào Hoa đảo chủ có tài thông thiên thấu địa, đệ tử của người chỉ cần học thạo một nghề của người cũng đủ để tung hoành thiên hạ rồi. Đại đệ tử của người là Trần Huyền Phong xương sắt da đồng, đao thương bất nhập, đạo cô từng nghe danh chứ?

Phùng lão nhân vừa nói, vừa quai búa rèn sắt, tiếng búa đập xuống đe tăng thanh thế cho lời nói. Phùng lão nhân vừa nhắc đến Trần Huyền Phong, Lý Mạc Sầu kinh ngạc đã đành, bọn Dương Quá càng không thể ngờ một lão thợ rèn ở chốn khỉ ho cò gáy mà cũng rành rẽ nhân vật giang hồ.

Lý Mạc Sầu nói:

– Hừ, Đồng Thi Trần Huyền Phong, nghe đâu đã bị một đứa bé đâm chết, có quái gì là lợi hại? Nói đao thương bất nhập là nói khoác một tấc đến trời!

Phùng lão nhân nói:

– Hừm. Đệ tử thứ hai của Hoàng đảo chủ là Mai Siêu Phong, di chuyển như gió, xuất thủ nhanh như chớp.

Lý Mạc Sầu cười giễu, nói:

– Phải rồi, nữ đệ tử ấy xuất thủ quá nhanh, nên mới bị Giang Nam thất quái đánh mù mắt và bị Tây Độc Âu Dương Phong đánh vỡ tim phổi.

Phùng lão nhân ngẩn ra một hồi, buồn bã nói:

– Có chuyện như thế ư? Sao lão phu không biết. Đệ tử thứ ba của Hoàng đảo chủ là Khúc Linh Phong, khinh công thần diệu, phách không chưởng lợi hại tuyệt luân.

Lý Mạc Sầu nói:

– Giang hồ đồn rằng kẻ lẻn vào hoàng cung ăn cắp báu vật, bị Ngự tiền thị vệ đánh chết, chính là Khúc Linh Phong, phách không chưởng lợi hại tuyệt luân. Chưởng chưởng đánh ra, chưởng chưởng lạc không, ấy chính là phách không chưởng của Hoàng đảo chủ.

Phùng lão nhân cúi đầu, xèo xèo hai tiếng, hai giọt nước mắt rơi xuống tấm phôi sắt nóng đỏ, hóa thành hơi nước. Lục Vô Song ngồi bên cạnh, nhìn rõ mồn một hai giọt nước mắt từ mắt Phùng lão nhân rơi xuống, rất đỗi kinh ngạc. Chỉ thấy Phùng lão nhân giơ búa cao hơn, giáng xuống đe mạnh hơn.

Lát sau, Phùng lão nhân lại nói:

– Trong bốn đại đệ tử Trần, Mai, Khúc, Lục của Hoàng đảo chủ, thì Lục Thừa Phong không những võ công tinh thâm, lại giỏi thuật Kỳ môn độn giáp, đạo cô mà gặp vị đó, thì sẽ biết thế nào là lợi hại.

Lý Mạc Sầu cười khẩy:

– Kỳ môn độn giáp thì có tác dụng gì kia chứ? Y dựng tòa Qui vân trang ở Thái Hồ, hảo hán giang hồ khen là vô cùng huyền diệu, nhưng vẫn bị người ta thiêu thành tro bụi, từ đó y biến mất tăm, quá nửa là đã bỏ xác trong đám cháy rồi.

Phùng lão nhân ngẩng đầu lên, gằn giọng:

– Đạo cô hồ thuyết bát đạo. Các đệ tử thứ ba của Hoàng đảo chủ người người võ nghệ tinh thông, không lẽ đã bị giết hại hết cả rồi sao? Đạo cô khinh ta là dân quê không biết thế sự chắc?

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Lão cứ hỏi ba đứa nhãi ranh này thì biết.

Phùng lão nhân nhìn Trình Anh, ánh mắt dò hỏi. Trình Anh đứng dậy, buồn bã nói:

– Sư môn của vãn bối bất hạnh, nhân tài điêu linh. Vãn bối nhập môn chưa lâu, công phu non kém, không thể tranh tài cho sư phụ, thật là hổ thẹn. Lão nhân gia có quen biết gia sư chăng?

Phùng lão nhân không đáp, nhìn nàng từ đầu xuống chân, vẻ nghi ngờ, hỏi:

– Về già sức khỏe của Hoàng đảo chủ thế nào?

Trình Anh nhìn cái chân trái bị tàn phế của Phùng lão nhân, thấy ái ngại, nói:

– Gia sư về già cô đơn, có sai vãn bối đi theo hầu cận. Vãn bối tuổi nhỏ, võ công non nớt, thực không dám nói là đệ tử của Hoàng đảo chủ, hơn nữa vãn bối cũng chưa có duyên được đặt chân lên Đào Hoa đảo.

Nàng nói như thế cũng tức là đã thừa nhận mình là đệ tử của Hoàng đảo chủ.

Phùng lão nhân gật gật đầu, ánh mắt nhu hòa, thân tình, lại cúi đầu rèn kéo, tựa hồ đang suy tính điều gì. Trình Anh thấy chiếc búa trong tay Phùng lão nhân giơ lên nửa vòng, đánh xuống đe, thủ pháp hệt như “Lạc Anh thần kiếm chưởng pháp” bản môn, thì ngầm rõ thêm ba phần, nói:

– Lúc nhàn rỗi gia sư trò chuyện với vãn bối, nói hồi trước gia sư đuổi đệ tử rời khỏi đảo; Trần, Mai hai người ấy tự làm điều sai trái, đuổi đi đã đành. Khúc, Lục, Võ, Phùng bốn vị thì không dưng bị giận lây, nhất là Phùng Mặc Phong sư ca, là người ít tuổi nhất, hoàn cảnh lại hết sức đáng thương, sư phụ luôn thương nhớ vị ấy, hối hận đã phạt oan.

Thực ra Hoàng Dược Sư tính tình kiêu ngạo, trong lòng tuy có nghĩ như thế, nhưng quyết không khi nào nói ra. Trình Anh tinh tế, biết rõ ý người, khi nhàn rỗi trò chuyện cùng sư phụ, nghe giọng nói của Hoàng Dược Sư, nàng đoán ra được, bây giờ nàng nói thế, kể không phải là lời của Hoàng Dược Sư, song cũng không trái với nguyên ý của người.

Lý Mạc Sầu nghe hai người đối đáp, nhìn sắc diện, đã đoán ra tám chín phần; chỉ thấy Phùng lão nhân thở dài não nuột, nước mắt nhỏ như mưa xuống tấm phôi đang rèn, bốc thành khói trắng, bất giác cũng xúc động, nhưng lại mím môi, nghĩ thầm: “Dẫu bọn chúng thêm một đứa nữa, nhưng cái lão thợ rèn tàn phế này thì làm nổi trò gì?” Bèn cười khẩy, nói:

– Phùng Mặc Phong, cung hỉ sư huynh sư muội lão tương ngộ.

Lão thợ rèn này chính là Phùng Mặc Phong, đệ tử của Hoàng Dược Sư. Năm xưa Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong lấy cắp “Cửu Âm chân kinh” trốn đi, Hoàng Dược Sư cả giận, trút giận xuống đầu các đệ tử còn lại, đánh gãy đùi họ, đuổi khỏi Đào Hoa đảo. Khúc Linh Phong, Lục Thừa Phong, Võ Thiên Phong ba người đều bị đánh què cả hai chân, riêng đánh đến Phùng Mặc Phong, thì Hoàng Dược Sư thấy còn ít tuổi võ công còn thấp, bỗng thương tình, chỉ đánh gãy chân trái. Phùng Mặc Phong đau đớn tới vùng heo hút này, mở lò rèn mưu sinh, tuyệt giao với các nhân vật giang hồ, hơn ba mươi năm lẳng lặng mà sống, không ngờ hôm nay lại được tin sư môn. Tính mệnh của lão là do Hoàng Dược Sư cứu từ tay kẻ thù, đem về nuôi dưỡng từ nhỏ cho tới lúc trưởng thành, thật là ân đức sâu nặng, bất luận Hoàng Dược Sư đối với lão như thế nào, Phùng Mặc Phong cũng không hề oán trách; giờ này nghe Trình Anh nói, bất giác biết bao cảm xúc dâng trào.

Hồi 16: Sát phụ thâm cừu

Dương Quá và Lục Vô Song nghe bảo lão thợ rèn họ Phùng là sư huynh của Trình Anh, thì kinh ngạc và vui mừng, nghĩ thầm đệ tử của Hoàng Dược Sư thì võ công quyết không kém, ai dè lúc nguy nan lại có cường trợ, thật mừng không để đâu cho hết.

Lý Mạc Sầu lạnh lùng nói:

– Lão đã bị sư phụ đuổi đi, sao còn lưu luyến nỗi gì? Hôm nay ta muốn giết ba đứa nhãi ranh với một mụ ngớ ngẩn kia, lão hãy đứng sang một bên mà xem cảnh nhiệt náo.

Phùng Mặc Phong chậm rãi nói:

– Lão phu tuy có học võ nghệ, nhưng cả đời chưa từng động thủ với ai, huống hồ một chân bị gãy, có muốn đánh nhau cũng chẳng được.

Lý Mạc Sầu nói:

– Như thế còn gì bằng, vậy là lão cũng giữ được cái mạng già của mình đó.

Phùng Mặc Phong lắc đầu, nói:

– Nhưng lão phu không cho phép đạo cô động tới một sợi tóc của sư muội lão phu; mấy vị kia là bằng hữu của sư muội lão phu, đạo cô cũng chớ có động tới họ.

Lý Mạc Sầu nổi sát khí, cười:

– Thế thì cả bốn đứa cùng nộp mạng, càng vui.

Nói rồi đứng dậy. Phùng Mặc Phong vẫn thản nhiên, tiếp tục quai búa rèn sắt, giống như người đánh trống nhịp theo điệu bộ diễn tuồng, nói vài tiếng lại nện xuống đe một cái, nói rành rọt từng tiếng:

– Lão phu rời sư môn đã hơn ba mươi năm, võ nghệ không luyện, chỉ còn nhớ mang máng trong đầu.

Lý Mạc Sầu cười hi hi, nói:

– Bần đạo nửa đời hành tẩu giang hồ, thật chưa gặp ai lâm trận mới mài gươm, nước đến chân mới nhảy như lão, hôm nay được mở rộng tầm mắt. Phùng Mặc Phong, cả đời lão chưa một lần động thủ với ai thật ư?

Phùng Mặc Phong nói:

– Lão phu chưa bao giờ đắc tội với người khác; có kẻ đánh chửi lão phu, lão phu cũng không thèm chấp, tất nhiên chưa động thủ với ai.

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Hoàng lão tà quả nhiên thu nhận một đám bị thịt làm đệ tử, rồi đẩy chúng ra trước mặt bàn dân thiên hạ.

Phùng Mặc Phong nói:

– Này đạo cô, không được nói xấu ân sư của lão phu.

Lý Mạc Sầu nhếch mép cười, nói:

– Người ta đã không nhận lão làm đệ tử từ lâu, lão còn cứ ân sư ân vãi, không sợ người đời chê cười hay sao?

Phùng Mặc Phong vẫn quai búa rèn sắt, thong thả nói:

– Lão phu một đời cô khổ, thân nhân trên thế gian chỉ có một mình ân sư, lão phu không kính yêu ân sư, thì còn nghĩ đến ai kia chứ? Này tiểu sư muội, lão nhân gia ân sư ngọc thể thế nào?

Trình Anh nói:

– Lão nhân gia người rất khoẻ.

Sắc mặt Phùng Mặc Phong lập tức lộ vẻ vui.

Lý Mạc Sầu thấy lão thợ rèn biểu lộ chân tình, nghĩ thầm: “Hoàng lão tà là tông sư một đời, quả nhiên có chỗ hơn người. Lão ta làm cho đệ tử tàn phế thế kia, mà đệ tử vẫn còn trung thành lưu luyến với lão ta”.

Lúc này tấm phôi rèn đã nguội dần, Phùng Mặc Phong lẽ ra dùng kìm đưa nó vào bếp lửa, nhưng lão đang mải nghĩ chuyện khác, lại đưa cây búa lớn đang cầm bên tay phải vào lửa nung, chứ không phải đưa tấm phôi vào. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Này lão thợ rèn, lão cứ thong thả nhớ lại võ công mà sư phụ đã dạy lão cũng được, khỏi cần luống cuống chân tay như thế.

Phùng Mặc Phong không trả lời, lẳng lặng nhìn khối lửa đỏ trong lò, lát sau lại vùi một đầu cây quải trượng treo ở hõm vai vào trong lửa. Dương Quá và Lục Vô Song cùng kêu lên:

– Ô hay, ô hay, là cây quải trượng mà!

Trình Anh cũng kêu lên:

– Sư ca!

Phùng Mặc Phong vẫn im lặng nhìn lò lửa. Chỉ thấy lửa rừng rực thế kia, mà cây quải trượng không hề bị cháy, đang đỏ hồng dần, thì ra là một cây thiết trượng. Một hồi sau thì chiếc búa cũng đỏ hồng lên.

Lúc này Lý Mạc Sầu mới chuyển từ khinh miệt sang đề phòng, biết rằng lão thợ rèn diện mạo xấu xí trước mặt nàng ta là một nhân vật có điểm hơn người, chỉ sợ lão có độc chiêu, vội vung vung cây phất trần che chắn chỗ yếu hại đằng trước, nhảy ra khỏi cửa, gọi:

– Phùng Mặc Phong, ra đây coi!

Phùng Mặc Phong đi ra cửa, thân thủ hoàn toàn không giống một kẻ tàn phế, lão chống cây quải trượng đỏ hồng xuống đất, nói:

– Đạo cô, lão phu mong đạo cô đừng nhiếc móc ân sư của lão phu, đừng gây khó dễ với sư muội của lão phu, hãy tha cho cái lão thợ rèn khốn khổ này!

Lý Mạc Sầu rất đỗi ngạc nhiên: “Tại sao lâm trận lại đi cầu xin thế này?” bèn nói:

– Ta chỉ tha cho một mình lão thôi, nếu lão biết sợ rồi, thì đừng có xen vào việc của ta.

Phùng Mặc Phong nghiến răng, gằn giọng:

– Được, vậy đạo cô hãy lấy mạng ta trước đã!

Nói xong toàn thân run rẩy, vừa sợ hãi, vừa kích động.

Lý Mạc Sầu vung cây phất trần đánh tới đỉnh đầu lão, Phùng Mặc Phong vội tránh, nhảy sang bên rất nhanh nhẹn, nhưng cánh tay run run, chưa dám đánh trả. Lý Mạc Sầu tiến công ba chiêu liên tiếp, lão đều khéo léo tránh được, vẫn chưa trả đòn. Bọn Dương Quá ba người đứng một bên quan sát, chờ cơ hội trợ giúp, thấy Lý Mạc Sầu chiêu số mỗi lúc thêm dồn dập, Phùng Mặc Phong tựa hồ chưa hề động thủ với ai bao giờ, cộng với tính tình hiền hòa, chiếc búa đỏ hồng cầm tay vẫn chưa ra đòn. Dương Quá thấy không ổn, vị dị nhân võ lâm này võ công tuy cao, nhưng không có ý tranh đấu, phải kích động cho lão nổi giận mới được; thế là chàng nói lớn:

– Lý Mạc Sầu, vì lẽ gì mụ chửi Đào Hoa đảo chủ là kẻ bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa?

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Ta chửi thế bao giờ nhỉ?”, tay vẫn xuất chiêu gấp hơn, không trả lời. Dương Quá lại nói:

– Mụ vu hãm Đào Hoa đảo chủ cưỡng dâm thê nữ người khác, bắt cóc tử đệ của người khác, mụ có tận mắt nhìn thấy việc đó hay không? Mụ bảo Đào Hoa đảo chủ lừa dối bằng hữu, bán rẻ ân nhân, có đúng thế không? Tại sao mụ tung tin đồn nhảm khắp chốn giang hồ để hủy hoại thanh danh của Hoàng đảo chủ?

Trình Anh ngớ ra không hiểu, Phùng Mặc Phong nghe vậy thì nổi cơn lôi đình, cây quải trượng và chiếc búa cùng ra đòn. Lão đứng một chân, thành thế “Kim kê độc lập”, như chôn chân tại chỗ thật vững chắc, búa và trượng mang khí nóng của lửa tấn công trực diện Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu thấy khí thế của lão mãnh liệt, không dám chính diện tiếp chiến, vội nhảy tránh, thừa cơ mới phản kích. Dương Quá lại nói:

– Lý Mạc Sầu, mụ vu hãm Đào Hoa đảo chủ là hạng người xấu xa, ta thấy chính mụ mới là kẻ xấu xa!

Phùng Mặc Phong càng nghe càng giận, chiếc búa và cây quải trượng đỏ hồng bổ dọc phạt ngang cực mạnh, thoạt tiên chiêu thuật còn hơi vụng, sau một hồi, càng thấy quen tay dần.

Hai người công lực hơn kém nhau không xa, nhưng Lý Mạc Sầu ngang dọc giang hồ, từng trải vài trăm trận lớn nhỏ, dày dạn kinh nghiệm hơn Phùng Mặc Phong hàng trăm lần. Sau vài chục chiêu, Lý Mạc Sầu đã biết Phùng Mặc Phong nội công không yếu, nhưng hoàn toàn không có kinh nghiệm, hơn nữa chỉ có một chân, đấu lâu một chút, chắc chắn sẽ thua, bèn dùng lối du đấu, đợi lão nhụt bớt nhuệ khí, sẽ lại phản kích. Quả nhiên đấu một hồi nữa, nộ ý của Phùng Mặc Phong đã giảm hẳn, đấu chí nhụt đi, dần dần sa vào thế hạ phong, Lý Mạc Sầu cả mừng, vung cây phất trần đánh tới ngực lão.

Phùng Mặc Phong giơ chiếc búa gạt đi. Cây phất trần thừa thế đã cuốn lấy đầu chiếc búa, đây chính là tuyệt chiêu của Lý Mạc Sầu đoạt binh khí đối phương, chỉ cần giật một cái, chiếc búa của Phùng Mặc Phong sẽ bị văng tuột khỏi tay. Ai ngờ xèo xèo một hồi, khói xanh bốc lên, ai nấy ngửi thấy mùi khét, toàn bộ phần ngọn cây phất trần đã bị thiêu hủy.

Thế là Lý Mạc Sầu chẳng những không đoạt được binh khí của đối phương, mà chính binh khí của mình còn bị hủy hoại; nàng ta lâm nguy không rối loạn, ném cán cây phất trần đi, sử dụng Ngũ độc thần chưởng. Lộ chưởng pháp này tuy lợi hại, nhưng phải đánh gần mới có thể kiến hiệu, lúc này Phùng Mặc Phong múa búa và trượng ù ù, đắc tâm ứng thủ, chỉ thấy ở khoảng giữa hai người liên tục có tia khói xanh bay lên, nguyên y phục của Lý Mạc Sầu bị chiếc búa và quải trượng đỏ hồng chạm tới đốt cháy từng vệt. Lý Mạc Sầu cả giận, rõ ràng nàng sắp thủ thắng, rốt cuộc lại bị binh khí của lão thợ rèn giành mất lợi thế, thật tức không chịu nổi, quyết ý phải cho lão nếm một chưởng.

Phùng Mặc Phong lần đầu giao đấu, nếu liên tiếp thua kém, chắc đã co lại; nhưng lúc này đang thắng thế, lão sử búa và trượng càng thêm tinh diệu. Lý Mạc Sầu muốn giáng cho lão một chưởng, mấy lần suýt nữa thì dính đòn búa, đòn trượng của lão, may mà tránh kịp, chứ không thì đã bị bỏng nặng rồi. Đột nhiên Phùng Mặc Phong kêu lên:

– Không đánh nữa, không đánh nữa, đạo cô thế kia, trông chẳng còn ra thể thống gì cả!

Lão nhảy một chân về phía sau nửa trượng. Lý Mạc Sầu sững lại, một luồng gió mát thổi tới, áo xống trên người Lý Mạc Sầu lập tức bay đi từng mảnh, cánh tay, bờ vai, trước ngực, hai đùi, có rất nhiều chỗ hở hang cả da thịt. Nàng ta là một xử nữ, thế này thật là ngượng ngập hết chỗ nói, đang định quay đầu bỏ chạy, bỗng thấy lưng lại mát rượi, có một chiếc áo bay đến vắt lên vai nàng ta.

Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu áo quần tơi tả, bèn tháo dây lưng, cởi chiếc áo ngoài, vận nội lực ném áo khoác vào vai nàng ta. Lý Mạc Sầu vội mặc áo khép vạt vào, nàng ta từng trải trăm trận, lúc này cũng quá ngượng ngùng, mặt lúc đỏ lúc tái, không biết có nên tiếp tục động thủ nữa chăng, nghĩ thầm: “Nếu đấu tiếp, cái áo này sẽ lại bị cháy mất, thôi hãy tạm nuốt giận đã vậy”. Bèn gật gật đầu với Dương Quá, cảm ơn chàng tặng áo, rồi quay sang nói với Phùng Mặc Phong:

– Binh khí quái đản của lão đúng là tà đạo đích truyền của Hoàng lão tà. Lão hãy nói thật xem, nếu đấu bằng võ công thật sự, lão có thắng nổi bần đạo hay không? Đệ tử của Hoàng lão tà nếu đơn đả độc đấu với bần đạo, có chiếm được thượng phong hay không?

Phùng Mặc Phong buồn bã nói:

– Nếu đạo cô không bị mất binh khí, thì đấu một hồi nữa, có thể thắng lão phu.

Lý Mạc Sầu nói:

– Lão biết thế thì được rồi. Lời bần đạo viết trên giấy, rằng đệ tử Đào Hoa đảo chủ cậy đông thủ thắng, là không hề sai.

Phùng Mặc Phong cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi nói:

– Cái đó chưa chắc! Nếu bốn vị sư huynh của lão phu Trần, Mai, Khúc, Lục có ở đây, thì riêng mỗi vị ấy đều thắng đạo cô. Không kể hai vị Trần sư huynh, Khúc sư huynh võ công trác tuyệt đã đành, ngay cả Mai Siêu Phong Mai sư tỷ tuy là nữ, song đạo cô cũng không địch nổi đâu.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Mấy người ấy chết cả rồi, không đối chứng được, còn nói làm chi? Võ công của Hoàng lão tà cũng chỉ đến thế mà thôi. Bần đạo cũng định lĩnh giáo thần kỹ của thân sinh nữ nhi lão ta là Quách phu nhân, nhưng suy ra thì khỏi cần.

Nói xong quay mình định đi.

Dương Quá chợt nói:

– Hãy khoan!

Lý Mạc Sầu nhướn mày, hỏi:

– Cái gì nữa?

Dương Quá nói:

– Đạo cô bảo võ công của Hoàng đảo chủ cũng chỉ đến thế mà thôi, là sai. Ta được nghe Hoàng đảo chủ giảng về “Ngọc tiêu kiếm pháp”, thừa sức phá công phu cây phất trần của đạo cô.

Nói rồi nhặt một que sắt, vạch hình vẽ dưới đất, miệng giải thích:

– Đây, cây phất trần của đạo cô đánh thẳng tới trước mặt thế này, quả nhiên lanh lẹ lợi hại, nhưng trường kiếm của Hoàng đảo chủ chém ngang thế này, đạo cô thu về không kịp. Nếu đạo cô phản kích, thanh kiếm sẽ từ chỗ này đánh nhanh tới; nếu đạo cô điểm huyệt chính diện, Hoàng đảo chủ sẽ chộp lấy ngọn cây phất trần như cái vuốt hổ, rồi đảo cán kiếm điểm huyệt Kiên Trinh ở vai đạo cô, chiêu này đạo cô có thể ngờ được không?

Chiêu đó quả là không thể ngờ, một chiêu tinh diệu tuyệt luân; điểm huyệt chính diện vốn là một trong số tuyệt chiêu của cây phất trần Lý Mạc Sầu, song chiêu thức mà Dương Quá vạch ra sẽ khắc chế nó, khiến Lý Mạc Sầu không thể nào đánh trả, chỉ còn cách quẳng cây phất trần nhận thua.

Dương Quá lại vừa vạch vạch dưới đất, vừa nói:

– Còn về “Ngũ độc thần chưởng” của đạo cô, thì Hoàng đảo chủ có “Đạn chỉ thần thông” chế ngự, chờ một chưởng của đạo cô đánh tới, Hoàng đảo chủ búng vào lòng bàn tay đạo cô, thì bàn tay ấy chẳng phải bị hủy hoại ngay tại chỗ đó sao? Hoàng đảo chủ chỉ búng một viên sỏi, thần chưởng của đạo cô đã không thể với tới thân thể Hoàng đảo chủ.

Tiếp đó chàng còn kể ra mười mấy chiêu khắc chế võ công của Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nghe mà tái mặt, mỗi câu nói của chàng đều hợp tình hợp lý, mỗi chiêu số đưa ra đều vô cùng xảo diệu, nàng ta quả thật không thể địch nổi.

Dương Quá lại nói:

– Hoàng đảo chủ hận đạo cô nói năng vô lễ, Hoàng đảo chủ địa vị là một đại tông sư, không thèm động thủ với đạo cô, đã dạy cho ta mấy cách trên, lệnh cho ta thay lão nhân gia thu thập đạo cô. Nhưng ta nể tình đạo cô với sư phụ ta dẫu gì cũng là đồng môn, nên hôm nay ta nói cho đạo cô biết sự lợi hại của Hoàng đảo chủ. Từ rày đạo cô có gặp đệ tử của Hoàng đảo chủ thì hãy tránh xa là được.

Lý Mạc Sầu im lặng hồi lâu, rồi nói:

– Thôi được, thôi được!

Đoạn quay người đi, thoáng chốc đã khuất sau núi, thân pháp nhanh nhẹn hiếm thấy trong giang hồ.

Thực ra mấy chiêu thức kia Hoàng Dược Sư tuy đã truyền cho Dương Quá, nhưng muốn luyện tới mức thành thạo, đủ để chiến thắng kẻ địch, thì nhanh nhất cũng phải tốn vài năm. Dương Quá chỉ giải thích một phen, không cần động thủ, đã khiến Lý Mạc Sầu tâm phục khẩu phục, từ nay suốt đời sẽ không dám nói một lời xem thường Hoàng Dược Sư.

Lục Vô Song vốn chỉ nghe giọng nói của Lý Mạc Sầu đã run sợ, tim đập mạnh, bây giờ thấy sư phụ đã đi xa, thì như trút được gánh nặng, vỗ tay reo:

– Chàng Ngốc, ngay cả sư phụ của muội cũng sợ chàng quá, bỏ chạy rồi.

Trình Anh thấy Dương Quá đem tặng Lý Mạc Sầu tấm áo nàng may cho chàng, tình cảnh lúc ấy làm thế cũng phải, nhưng bên trong tấm áo mới, chàng vẫn mặc chiếc áo cũ rách, chỉ vì nó do Tiểu Long Nữ khâu cho chàng, chàng phân biệt thân sơ, không hề quên người cũ như thế, Trình Anh cảm thấy buồn, giả như không để ý. Bốn người liền vào trong quán xem Khúc cô thế nào.

Vừa bước vào, bỗng nghe ở phía trước núi có tiếng người ngựa huyên náo, ì ầm rùng rùng như tiếng sấm, bốn người cùng quay ra.

Dương Quá nói:

– Tại hạ đi xem sao.

Nói rồi nhảy lên ngựa, phóng ra khỏi thung lũng, đi vài dặm, ra đến đường cái thấy bụi tung mù mịt, tinh kỳ rợp trời, là đại quân Mông Cổ tiến xuống phía nam, thiết cung trường đao, thế như sóng trào.

Dương Quá chưa từng thấy đại quân hành binh bao giờ, nhìn cảnh tượng kinh tâm động phách, bất giác ngẩn người.

Hai tên lính vung đao quát:

– Thằng mọi kia, nhìn cái gì?

Chúng xông tới. Dương Quá quay đầu ngựa bỏ chạy. Hai tên kia lắp tên vào cung, pựt pựt hai tiếng, bắn tới sau lưng chàng. Dương Quá giơ tay tóm lấy mũi tên, cảm thấy hai mũi tên bay rất gấp, chàng mà không đầy mình võ công, thì đã bị mũi tên xuyên qua người mà chết. Hai tên kia thấy chàng bản lĩnh như thế, vội kìm ngựa lại, không dám đuổi theo.

Dương Quá trở về chỗ lò rèn, kể lại sự việc. Phùng Mặc Phong thở dài:

– Đại quân Mông Cổ quả nhiên tiến xuống phía nam. Bách tính Trung Quốc ta khốn khổ rồi!

Dương Quá nói:

– Thuật cưỡi ngựa bắn cung của người Mông Cổ, quân Tống thật không địch nổi. Tai họa phen này hẳn là không nhỏ.

Phùng Mặc Phong nói:

– Dương công tử chính đang tuổi anh niên, sao không về Nam đầu quân, chống lại ngoại xâm?

Dương Quá ngây ra, nói:

– Không, tại hạ muốn lên phía bắc tìm cô cô của tại hạ. Quân Mông Cổ thanh thế hùng hậu như vậy, sức một mình tại hạ, phỏng làm được trò gì?

Phùng Mặc Phong lắc đầu, nói:

– Sức một người tuy nhỏ, nhưng sức nhiều người sẽ mạnh. Nếu ai cũng nghĩ như công tử, thì có ai chịu đứng lên chống sự xâm nhập của dị tộc?

Dương Quá cảm thấy lời Phùng Mặc Phong nói không sai, nhưng trên đời bây giờ không có việc nào hệ trọng hơn việc đi tìm Tiểu Long Nữ. Từ nhỏ chàng lưu lạc giang hồ, đã phải khổ sở không ít vì bọn tiểu quan tiểu lại; nghĩ thầm bọn Mông Cổ cố nhiên tàn bạo, nhưng hoàng đế Tống triều chưa chắc đã là người tốt, chả tội gì xuất lực cho lão ta. Chàng nghĩ thế, mỉm cười, không nói gì.

Phùng Mặc Phong buộc kìm, búa, bễ quạt gió vào với nhau, đeo lên vai, nói với Trình Anh:

– Sư muội, sau này gặp lại sư phụ, sư muội hãy thưa với lão nhân gia người rằng đệ tử Phùng Mặc Phong không dám quên lời giáo huấn của lão nhân gia. Hôm nay ta đầu quân chống Mông Cổ, sống chết gì cũng phải giết cho được một, hai vương tử đại tướng xâm lược giang sơn chúng ta. Sư muội, nhớ bảo trọng. Hôm nay ta được gặp một vị truyền nhân của sư phụ, thực hoan hỉ vô cùng.

Nói xong chống quải trượng, đi luôn, cũng chẳng buồn nhìn Dương Quá một lần.

Dương Quá nhìn Trình Anh và Lục Vô Song, nói:

– Không ngờ ở nơi này lại gặp một vị dị nhân.

Lục Vô Song bênh Dương Quá, nói:

– Biểu tỷ, các nhân vật đệ tử của sư phụ biểu tỷ, trừ biểu tỷ ra, không ngớ ngẩn thì cũng điên điên khùng khùng.

Trình Anh mỉm cười, thản nhiên nói:

– Mỗi người một chí hướng, chẳng thể nài ép. Biểu muội bảo Phùng Mặc Phong điên điên khùng khùng, không chừng Phùng Mặc Phong lại bảo chúng ta là hạng người vô tình cũng nên. Hơn nữa, chính tỷ tỷ đây lại không có chút ngớ ngẩn, điên điên khùng khùng đó sao?

Dương Quá nghe chợt động lòng, liếc thấy thần sắc nàng ta vẫn như thường, không biết lời vừa rồi có ngụ ý cả chàng trong đó hay không.

Bỗng nghe huỵch một cái, Khúc cô ngã từ trên ghế xuống đất. Ba người vội dìu Khúc cô nằm lên giường, thấy Khúc cô mặt đỏ bừng bừng, hai mắt trợn ngược, biết là độc tính của Ngũ độc thần chưởng lại phát tác. Trình Anh liền cho uống thuốc, Dương Quá thì xoa bóp day ấn huyệt. Khúc cô trố mắt nhìn chàng, mặt lộ vẻ kinh sợ, nói:

– Dương huynh đệ, huynh đệ đừng tìm ta đòi mạng, không phải ta hại huynh đệ…

Trình Anh dịu dàng nói:

– Tỷ tỷ, đừng sợ, người này không phải là…

Dương Quá chợt nghĩ: “Lúc này Khúc cô thần trí mê loạn, chính là lúc nên buộc Khúc cô nói thật cả ra”. Bèn nắm lấy hai cổ tay Khúc cô, gằn giọng, nói:

– Vậy ai hại chết ta? Ngươi không nói, ta sẽ bắt ngươi đền mạng.

Khúc cô cầu xin:

– Dương huynh đệ, không phải Khúc cô đâu mà.

Dương Quá tức giận:

– Ngươi không chịu nói hả? Được, ta sẽ bóp chết ngươi.

Chàng đưa tay bóp cổ Khúc cô. Khúc cô hoảng hốt kêu tướng lên.

Trình Anh và Lục Vô Song đâu biết dụng ý của Dương Quá, cùng ngăn lại:

– Dương đại ca, đại ca làm cho Khúc cô sợ hết hồn rồi kìa.

– Chàng Ngốc, lúc này còn đùa cợt được.

Dương Quá mặc kệ, tay hơi dùng sức một chút, mặt thì giả bộ hung thần ác sát, nghiến răng, nói:

– Ta là ác quỷ Dương huynh đệ đây. Ta chết khổ chết sở, ngươi biết không?

Khúc cô nói:

– Khúc cô biết mà, huynh đệ chết rồi, lũ quạ rỉa thịt huynh đệ.

Dương Quá lòng đau như cắt, chàng chỉ biết phụ thân chết vì tai nạn, không ngờ sau khi chết, thi thể lại không được mai táng, để cho quạ rỉa, liền gào to:

– Kẻ nào hại chết ta? Nói mau, nói mau!

Khúc cô nói lúng búng trong cổ họng:

– Là huynh đệ tự đến đánh cô cô, cô cô trên người có độc châm, cho nên huynh đệ bị chết.

Dương Quá gào to hơn:

– Cô cô là ai?

Khúc cô bị chàng bóp cổ, không thở được, sắp ngất đi, chỉ thều thào:

– Cô cô là cô cô.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô họ gì, tên là gì?

Khúc cô nói:

– Khúc cô không… không biết đâu… Huynh đệ hãy buông ta ra.

Lục Vô Song thấy tình hình như vậy, bèn kéo cánh tay Dương Quá. Dương Quá lúc này như một kẻ điên, hất mạnh một cái, sử đến mười thành lực, Lục Vô Song không trụ nổi, hịch một cái, nàng bị hất văng vào vách, may mà không đau. Trình Anh thấy Dương Quá thường ngày ôn hòa, từ tốn, bây giờ như con hổ điên, sợ quá đờ cả người ra.

Dương Quá nghĩ: “Hôm nay nếu không hỏi cho ra tính danh của kẻ giết phụ thân ta, ta sẽ lập tức hộc máu mà chết”, liền hỏi dồn dập:

– Cô cô họ Khúc phải không? Hay là họ Mai?

Chàng đoán Khúc cô họ Khúc, thế thì cô cô của Khúc cô cũng là họ Khúc, cũng có thể là Mai Siêu Phong.

Khúc cô cố vùng ra, Khúc cô có thời gian luyện công lâu hơn hẳn Dương Quá, song võ công thua kém chàng, hơn nữa huyệt đạo ở cổ tay đang bị kiềm chế, chỉ ấp úng nói:

– Huynh đệ hãy đi lấy mạng cô cô, đừng… đừng tìm Khúc cô.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô ở đâu?

Khúc cô nói:

– Khúc cô với gia gia đi ra. Cô cô và hán tử của cô cô ở trên đảo.

Dương Quá nghe câu ấy thì cảm thấy lạnh cả sống lưng, run run hỏi:

– Cô cô gọi gia gia của Khúc cô là gì?

Khúc cô đáp:

– Gọi là gia gia, chứ còn gọi là gì nữa?

Dương Quá tái mặt, còn sợ nghe nhầm, hỏi thêm một câu:

– Hán tử của cô cô tên là Quách Tĩnh phải không?

Khúc cô nói:

– Khúc cô không biết đâu, cô cô gọi “Tĩnh ca ca, Tĩnh ca ca”.

Khúc cô bắt chước Hoàng Dung gọi Quách Tĩnh, rồi luống cuống chân tay, kêu rú lên như lợn bị chọc tiết:

– Cứu mạng, cứu mạng với! Ma… ma…

Dương Quá lúc này không còn nghi ngờ gì nữa. Thời thơ ấu cô khổ, bao nhiêu chuyện bị người đời khinh rẻ trong giây lát cùng hiện ra, nghĩ: “Nếu phụ thân không bị giết hại, mẫu thân ta đâu đến nỗi khốn khổ, mất sớm, ta cũng đâu phải cực khổ như thế”. Lại nghĩ: “Hồi ở đảo Đào Hoa, vợ chồng Quách Tĩnh đối với ta thiếu tự nhiên, có phần khách khí, có phần úy kỵ, khác hẳn thái độ mắng chửi tùy ý với huynh đệ họ Võ, bấy giờ ta không khó chịu; nào ngờ chỉ là vì họ đã giết phụ thân ta, nên trong lòng cảm thấy hổ thẹn. Họ không chịu dạy võ cho ta, đưa ta đến cho phái Toàn Chân hành hạ ta, đều là do đấy mà ra”. Ngạc nhiên và tức giận, chân tay chàng bải hoải.

Khúc cô kêu to, nhảy ra khỏi giường. Trình Anh đến bên cạnh Dương Quá, dịu dàng nói:

– Khúc cô vốn ngớ ngẩn, Dương huynh đã biết. Sau khi Khúc cô bị thương, nói năng càng lung tung, Dương huynh chớ nên tin lời Khúc cô.

Trình Anh ngoài miệng nói thế, song trong bụng tin lời Khúc cô là thật, biết có an ủi Dương Quá cũng vô dụng, nhưng nhìn vẻ mặt quá đau khổ của chàng, nàng cũng hết sức đau lòng.

Mấy câu ấy Dương Quá không hề nghe thấy, chàng ngẩn người một lát, rồi lao ra cửa, nhảy lên lưng con ngựa gầy, kẹp mạnh hai chân, con ngựa lao vút đi, chớp mắt đã xa mấy chục trượng, chỉ nghe loáng thoáng sau lưng mấy tiếng gọi “Chàng ngốc”, “Dương đại ca”. Chàng đâu thèm để ý, trong đầu chỉ một ý nghĩ: “Ta phải trả thù. Ta phải trả thù!”

Chàng phi ngựa một mạch như điên, hơn một giờ đã đi mấy chục dặm, chợt cảm thấy môi đau xót, đưa tay sờ môi, thì máu đỏ hai ngón tay, thì ra trong cơn giận dữ chàng đã cắn môi đến bật máu. Chàng nghĩ: “Quách bá mẫu đối với ta không tốt, vừa rồi đột nhiên tỏ ra tử tế, chỉ là hoàn toàn giả nhân giả nghĩa, đã đành một nhẽ; nhưng còn Quách bá bá, Quách bá bá…”

Đối với Quách Tĩnh, chàng luôn luôn một lòng sùng kính, cảm thấy Quách Tĩnh võ công, đức hạnh đều siêu phàm tuyệt tục, tưởng là vẫn hết mực chân tình đối với chàng, nào ngờ rốt cuộc chàng bị lừa; con người ấy xem chừng còn gian ngoan hơn cả Hoàng Dung. Nghĩ đến đây Dương Quá tức muốn vỡ ngực vậy.

Chàng xuống ngựa, ngồi giữa đường, ôm đầu mà khóc rống lên. Tiếng khóc bi thương quả là trời sầu đất thảm, cơ hồ mọi đau khổ phiền não trên thế gian dồn vào một mình chàng. Chàng không biết mặt phụ thân, cũng chưa nghe ai kể, ngay mẫu thân cũng không chịu nói; chàng từ bé cứ nghĩ rằng phụ thân là người thập toàn thập mỹ, tốt nhất trần đời. Một vị hào kiệt anh hùng như thế lại bị Quách Tĩnh, Hoàng Dung dùng gian kế sát hại.

Dương Quá khóc một hồi, bỗng nghe tiếng vó ngựa, từ mạn bắc có bốn võ sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa chạy tới. Tên đi đầu tay cầm trường mâu, đầu mâu xâu vào một đứa bé hai, ba tuổi, tên ấy cứ cười hô hố. Đứa bé chưa chết, tiếng khóc đã yếu lắm. Bốn tên võ sĩ Mông Cổ thấy Dương Quá ngồi khóc giữa đường, cũng hơi lạ, nhưng loại thiếu niên người Hán lam lũ thế này chẳng thiếu gì, nên chúng cũng chẳng để tâm. Một tên quát:

– Tránh ra, tránh ra!

Và dùng ngọn giáo đâm tới. Dương Quá đang tức giận, chộp luôn ngọn giáo kéo tên kia xuống ngựa, tiện tay hất hắn văng ra xa hơn một trượng, ngã vỡ sọ chết liền. Ba tên còn lại thấy chàng thần dũng như thế, hô một tiếng, cùng quay ngựa chạy ngược về đường cũ. Nghe “bạch” một tiếng, đứa bé rơi xuống đường.

Dương Quá chạy tới ẵm đứa bé lên. Đó là một đứa bé người Hán, trắng mập đáng yêu, bị trường mâu đâm thủng bụng, nhất thời chưa chết ngay, nhưng cũng không thể cứu sống nó, miệng nó khóc như gọi mẹ. Dương Quá thương đứa bé quá, chảy cả nước mắt, chàng không nỡ nhìn nó đau đớn quá mức, bèn đánh nhẹ một chưởng cho nó chết hẳn, rồi dùng ngọn giáo của tên võ sĩ Mông Cổ đào một cái hố, định vùi đứa bé xuống.

Đào được một lát, bỗng nghe tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng tù và inh ỏi, cả đại đội lính Mông Cổ phóng tới. Dương Quá tay trái cắp đứa bé chết, tay phải cầm giáo, nhảy lên lưng ngựa; con ngựa gầy này vốn là chiến mã quen với sa trường, nay thấy chiến trận thì tinh thần hăng hái hẳn lên, nó hí dài một tiếng, xông về phía quân Mông Cổ. Ngọn giáo trong tay Dương Quá trong giây lát đánh ngã ba, bốn tên. Nhưng thấy quân địch quá đông, chàng bèn quay đầu ngựa, chạy xuống ruộng hoang. Đằng sau tên bắn theo như mưa, chàng vung giáo gạt đi hết. Con ngựa chạy cực nhanh, phút chốc bỏ xa bọn truy binh rồi, mà nó vẫn cứ phi như bay.

Trời gần tối, Dương Quá cho ngựa đi thong thả, nhìn bốn phía toàn là cỏ dày, đá cứng, không gian hết sức vắng lặng, không một bóng người, chim chóc cũng không.

Chàng xuống ngựa, đứa bé chết chàng cắp bên nách trông như vẫn sống, chỉ có vẻ đau đớn còn hằn trên mặt nó, Dương Quá buồn rầu nghĩ: “Đứa bé này chắc được cha mẹ nó yêu quí vô cùng, giờ nó chết rồi, cha mẹ nó có lẽ đứt từng khúc ruột. Đại quân Mông Cổ tàn bạo tiến xuống phía nam, không biết bao nhiêu trẻ thơ bị chúng sát hại dọc đường”. Càng nghĩ càng buồn, chàng đào một cái hố cạnh một cây lớn, chôn đứa bé xuống đó, lại nhớ đến câu nói của Khúc cô, nghĩ: “Đứa bé này chết còn được ta chôn cất, phụ thân ta chết rồi còn bị quạ rỉa. Ôi các người giết cha ta xong, sao không vùi người xuống đất kia chứ? Lòng dạ các người thật độc ác quá chừng! Thù này không trả, Dương Quá ta thề chẳng làm người”.

Tối hôm ấy chàng ngủ dưới gốc cây, sáng hôm sau lên ngựa, mặc cho con ngựa gầy muốn đi đâu thì đi; có lúc chàng muốn đi về tòa cổ mộ gặp Tiểu Long Nữ, có lúc lại nghĩ dẫu thế nào cũng phải giết Quách Tĩnh, Hoàng Dung để báo thù cho cha, bụng đói thì ăn quả dại cho đỡ đói lòng.

Đi đến ngày thứ tư, bỗng thấy phía xa có một người cứ từ dưới đất nhảy lên cao, giơ tay hái quả cây dại. Dương Quá phi ngựa lại gần, nhận ra đấy là đệ tử của Kim Luân pháp vương Đạt Nhĩ Ba. Mỗi lần Đạt Nhĩ Ba nhảy lên, chỉ hái được một quả, sau y không nhẫn nại nữa, lúc nhảy lên dùng tay rung mạnh cành cây, làm cho trái cây rụng lộp bộp; y nhặt các trái cây rụng ấy, cho vào trong túi.

Dương Quá nghĩ: “Không lẽ Kim Luân pháp vương đang ở gần đâu đây?” Chàng với Kim Luân pháp vương vốn chẳng thù oán gì, bây giờ chàng coi Quách Tĩnh, Hoàng Dung là kẻ thù giết cha, thành ra chàng ân hận vừa rồi đi giúp Quách Tĩnh, Hoàng Dung đánh bại Kim Luân pháp vương. Thế là chàng bèn kín đáo bám theo sau Đạt Nhĩ Ba, xem sự việc thế nào. Chỉ thấy Đạt Nhĩ Ba đi như bay, thẳng vào trong một thung lũng. Dương Quá xuống ngựa đi bộ theo sau một quãng xa. Đạt Nhĩ Ba đi sâu vào rừng, càng lúc càng cao, cuối cùng lên một ngọn núi.

Trên đỉnh núi có một mái nhà tranh nhỏ, bốn phía thông gió. Kim Luân pháp vương đang nhắm mắt ngồi trên chõng. Đạt Nhĩ Ba đặt số trái cây xuống đất, cạnh chõng, quay người lại, bất ngờ thấy Dương Quá đi tới gần, thì tái mặt, nói:

– Đại sư huynh, sư huynh định tới gia hại sư phụ phải không?

Y xông thẳng tới, giơ tay túm vạt áo của Dương Quá. Võ công của y vốn cao hơn Dương Quá, nhưng lúc này sư phụ đang ở tình trạng cực kỳ nguy hiểm, nếu bị ngoại cảm, lập tức tính mạng khó toàn, trong lúc lo sợ, thần trí thất thường, xuất chiêu sai hết chương pháp, phạm vào điều đại kỵ trong võ học, để Dương Quá vặn trái tay một cái, đẩy y ngã sóng soài.

Đạt Nhĩ Ba trong lòng cho rằng Dương Quá là đại sư huynh đầu thai, vừa rồi đánh y ngã gục; bèn lăn mấy vòng, đứng dậy, tiến lại trước mặt Dương Quá. Dương Quá tưởng y lại định động thủ, mới lùi một bước, không ngờ Đạt Nhĩ Ba đột nhiên quì xuống, khấu đầu nói:

– Đại sư huynh, mong sư huynh hãy nghĩ đến ân tình của sư phụ ở kiếp trước. Sư phụ bị trọng thương, đang tự hành công trị liệu, nếu sư huynh kinh động sư phụ, thì… thì…

Nói đến đó, giọng y nghẹn ngào, nước mắt ứa ra. Dương Quá tuy không hiểu Tạng ngữ, nhưng nhìn thần tình của Đạt Nhĩ Ba, thấy Kim Luân pháp vương hình dung tiều tụy, thì chàng đoán được bảy, tám phần, vội đỡ Đạt Nhĩ Ba dậy, nói:

– Ta không gia hại tôn sư đâu, ngươi cứ yên tâm.

Đạt Nhĩ Ba thấy sắc diện chàng hiền hòa, thì mừng lắm, tuy không hiểu tiếng Hán, song đã không còn ý thù nghịch.

Lúc ấy Kim Luân pháp vương mở mắt ra, thấy Dương Quá, lão cả kinh, vừa rồi lão mải nhập định vận khí, hoàn toàn không nghe thấy lời đối đáp giữa Đạt Nhĩ Ba và Dương Quá; bây giờ bỗng thấy đại địch trước mặt, lão thở dài, thong thả nói:

– Ta uổng công tu luyện bao năm, không phá nổi danh quan, ai ngờ hôm nay bỏ mạng ở Trung Nguyên.

Nguyên lão bị hòn đá lớn rơi trúng, nội tạng bị trọng thương, mấy ngày vừa qua tới đây làm nhà tranh trị thương, không ngờ Dương Quá lần theo tung tích tìm thấy; hiện giờ lão không được phép dùng sức, chỉ có thể sai Đạt Nhĩ Ba đánh đuổi Dương Quá. Tình hình thế này, nội thương của lão khó lòng thuyên giảm. Nào ngờ Dương Quá cúi mình nói:

– Tại hạ tới đây, không định đối địch với đại sư, xin cứ yên tâm.

Kim Luân pháp vương lắc đầu, định nói, ngực bỗng đau nhói, vội nhắm mắt vận khí. Dương Quá bước vào trong nhà, giơ hữu chưởng đặt vào huyệt Chí Dương ở sau lưng lão ta. Huyệt này nằm ở phía dưới đốt sống thứ bảy, là đại huyệt của mạch Đốc trên cơ thể người. Đạt Nhĩ Ba thấy vậy cả kinh, vung quyền tấn công Dương Quá. Dương Quá xua xua tay trái, ra hiệu bằng mắt cho y. Đạt Nhĩ Ba thấy thần tình của sư phụ không có gì lạ, mặt còn có vẻ tươi cười, thì không đánh tới nữa.

Dương Quá tu vi chưa sâu, lại không biết gì về nội công của phái Tây Tạng, lòng bàn tay lờ mờ cảm thấy khí tức lưu động trong cơ thể Kim Luân pháp vương, chàng bèn ngầm vận nội lực truyền một luồng nhiệt khí giúp lão ta trên thì thông các huyệt Linh Đài, Thần Đạo, Thân Trụ; dưới thông các huyệt Cân Túc, Trung Khu, Tích Xung, Huyền Khu, cố gắng hết mức cũng chỉ có thể giúp lão ta bảo vệ mạch Đốc. Đạt Nhĩ Ba võ công tuy cao, nhưng chỉ luyện ngoại công, không thể giúp sư phụ trị liệu, những ngày vừa qua chỉ lo cuống quít. Bây giờ Kim Luân pháp vương đã không phải lo gì nữa, liền đẩy khí vào mạch Nhâm, toàn lực điều trị thương thế ở ngực và bụng dưới, sau hơn một canh giờ cơn đau giảm hẳn, mặt lộ sắc hồng nhuận, mở mắt nhìn Dương Quá gật đầu tạ ơn, chắp tay nói:

– Dương cư sĩ, tại sao cư sĩ tự dưng đến giúp lão nạp?

Dương Quá cũng chẳng giấu, đem việc chàng mới biết vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung giết hại phụ thân ra sao, nay chàng quyết ý báo thù, tình cờ gặp Đạt Nhĩ Ba thế nào, kể lại một lượt. Kim Luân pháp vương tuy biết gã thiếu niên này cực kỳ giảo hoạt, nói mười câu cũng chẳng thể tin một câu, nhưng hôm nay trong khi có thể giết lão dễ như trở bàn tay, Dương Quá lại giúp lão trị thương, quả thực không có ý thù nghịch, bèn nói:

– Thì ra cư sĩ mang nặng mối thâm cừu. Nhưng vợ chồng Quách Tĩnh võ công cao thâm, Dương cư sĩ muốn trả được mối thù này, chỉ e không dễ.

Dương Quá im lặng giây lát, rồi nói:

– Dù cha con tại hạ hai đời cùng phải chết bởi tay họ, cũng phải trả thù!

Kim Luân pháp vương nói:

– Lão nạp ban đầu tự phụ vô địch thiên hạ, định dùng sức một người đè bẹp quần hùng Trung Nguyên, giành chức vị minh chủ võ làm. Nhưng các võ sĩ Trung Nguyên không theo đúng qui củ đơn đả độc đấu, lại ùa cả vào mà ẩu đả, lão nạp đành tính kế khác vậy. Khi trị thương xong, lão nạp sẽ đi mời nhiều cao thủ giúp đỡ. Phe của lão nạp đông và mạnh, các võ sư Trung Nguyên sẽ không thể ỷ đông tranh thắng, mọi người quyết thắng bại một phen theo lẽ công bằng. Dương cư sĩ có muốn đứng về phe lão nạp hay không?

Dương Quá đã định trả lời có, nhưng chợt nghĩ thảm cảnh mà quân lính Mông Cổ gây ra, bèn nói:

– Tại hạ không thể giúp quân Mông Cổ.

Kim Luân pháp vương lắc đầu nói:

– Dương cư sĩ muốn đơn thương độc mã giết vợ chồng Quách Tĩnh, thì không xong được đâu.

Dương Quá trầm ngâm một hồi, nói:

– Được, tại hạ giúp đại sư giành chức vị minh chủ võ lâm, đại sư phải giúp tại hạ báo thù.

Kim Luân pháp vương giơ bàn tay ra, nói:

– Đại trượng phu nhất ngôn vi định, vỗ tay nhau ba cái để thề.

Hai người vỗ vào tay nhau ba cái đính ước. Dương Quá nói:

– Tại hạ chỉ giúp đại sư giành chức vị minh chủ, nếu đại sư giúp quân Mông Cổ tiến chiếm Giang Nam, sát hại bách tính, tại hạ sẽ không theo đâu.

Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Mỗi người một chí hướng, không nên ép nhau. Dương huynh đệ, võ công của huynh đệ đa tạp, lão nạp nói thật câu này, biết nhiều môn cố nhiên rất hay, nhưng cũng không tránh khỏi tạp loạn. Rốt cuộc thì huynh đệ có sở trường về môn nào? Phải sử dụng công phu gì đối phó với vợ chồng Quách Tĩnh đây?

Dương Quá nghe hỏi thế thì cứng lưỡi, khó trả lời. Đời chàng lắm cái ngẫu nhiên, tính chàng lại tham, nào phái Toàn Chân, nào Âu Dương Phong, nào phái Cổ Mộ, nào “Cửu Âm chân kinh”, nào Hồng Thất Công, nào Hoàng Dược Sư, môn võ công nào của họ chàng cũng học qua. Mỗi môn võ công ấy đều vô cùng huyền diệu, dùng tinh lực tài trí cả đời nghiên cứu cũng khó đi tới chỗ tận cùng, nữa là tham học mỗi thứ một chút, làm sao có thể luyện tới cảnh giới cao siêu. Gặp đối thủ bình thường, đem ra thi triển cố nhiên làm cho người ta kính nể, nhưng chạm trán với cao thủ đích thực, sẽ bị người ta phát hiện ngay chỗ yếu, ngay đệ tử của Kim Luân pháp vương như Hoắc Đô, Đạt Nhĩ Ba, chàng cũng chưa địch nổi. Chàng cúi đầu suy nghĩ, cảm thấy câu hỏi của Kim Luân pháp vương như gậy đánh vào đầu chàng, nói trúng chỗ non kém cơ bản trong võ học của chàng.

Chàng lại nghĩ: “Mình đã quyết ý chung tình với cô cô suốt đời, tại sao đi đâu cũng vương vấn lưu tình? Nào Trình cô nương, nào Lục Vô Song, nào Hoàn Nhan Bình. Mình đã không có chân tình với họ, sao cứ đi đùa cợt? Thật là tham luyến quá chừng”. Lại nghĩ: “Bất luận Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong hay Toàn Chân thất tử, Kim Luân pháp vương, phàm trở thành danh gia, đều là nhờ tinh tu công phu bản môn, chỉ biết gia số của võ công phái khác, chứ không tu luyện, vậy mình cần chuyên tu một môn công phu thôi chăng? Xét về tình về lý, phải chuyên tâm tu luyện “Ngọc nữ tâm kinh” của phái Cổ Mộ mới đúng, nhưng lại nghĩ môn Đả cẩu bổng pháp của Hồng Thất Công huyền diệu như thế, Ngọc Tiêu kiếm pháp của Hoàng Dược Sư tinh vi như thế, mà bỏ qua thì chẳng đáng tiếc lắm sao? Rồi Cáp mô công nghịch hành kinh mạch của nghĩa phụ, “Cửu Âm chân kinh” và các môn công phu khác, chỉ cần giỏi một môn trong số đó cũng đủ dương danh thiên hạ, đâu dễ có dịp được học, sao nỡ bỏ qua?”

Chàng bước ra khỏi nhà tranh, đi tha thẩn trên đỉnh núi, nặng lòng suy tư, hết sức phiền muộn, nghĩ chán chê, chợt tự hỏi: “Tại sao ta không dám lấy sở trường của các môn phái, tự thành một nhà? Võ công thiên hạ đều do từng người sáng tạo ra, chẳng lẽ ta không sáng tạo nổi?” Nghĩ đến đây, lập tức thấy sáng bừng lên.

Chàng suy nghĩ từ sáng đến trưa, từ trưa đến đêm, ở trên đỉnh núi không ăn không uống, các môn võ công tinh diệu từng biết cứ lần lượt diễn ra trong óc chàng. Chàng từng thấy Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đấu võ miệng với nhau; chàng cũng từng miệng nói tay vẽ mà có thể làm cho Lý Mạc Sầu phải kinh sợ bỏ đi; bây giờ các môn võ công tranh hùng với nhau trong óc, xem ra còn nhanh mạnh hơn cả khẩu thuật. Mải nghĩ, bất giác hoa chân múa tay thi triển võ công. Ban đầu còn có thể phân biệt chiêu này là học của Hồng Thất Công, chiêu kia là học của Âu Dương Phong, sau thì rối loạn cả lên, không không trụ nổi nữa, ngã ngửa xuống đất ngất đi. Đạt Nhĩ Ba từ xa thấy Dương Quá hoa chân múa tay, không hiểu thế nào, bỗng thấy chàng ngã vật ra, thì kinh hãi định chạy lại cứu, Kim Luân pháp vương cười nói:

– Đừng làm rối tâm tư của hắn, chỉ tiếc là ngươi tài trí tầm thường, không hiểu đạo lý bên trong.

Dương Quá tỉnh lại lúc nửa đêm, sáng hôm sau thức dậy lại nghĩ. Trong bảy ngày, chàng ngất đi năm lần. Nói tổng hợp các môn, tự sáng tạo một nhà, nghe cứ tưởng là dễ. Với kiến văn, tu vi hiện thời của mình, chàng chưa thể làm nổi việc đó, càng không phải là chuyện mươi bữa nửa tháng. Nhưng sau cả tuần tập trung suy nghĩ, chàng cũng ngộ ra một điều, ấy là tất cả các môn võ công kia, chàng đều biết cách sử dụng, đã không thể hợp làm một, thì cũng đừng cưỡng cầu; sau này khi lâm địch, cần dùng thì dùng, khỏi cần nghĩ đến lai lịch xuất xứ, như thế coi như gần ngang với việc tự mình sáng tạo một nhà. Nghĩ được như vậy, trong lòng cảm thấy dễ chịu hẳn.

Kim Luân pháp vương qua mấy ngày trị thương, đã khỏi tám, chín phần, đã có thể hoạt động như thường; hôm nay thấy Dương Quá đột nhiên thần tình bình hòa, vẻ như đã tính toán đâu ra đó, biết chàng đã tiến thêm một bước về võ học, bèn nói:

– Dương huynh đệ, lão nạp đưa huynh đệ đi gặp một người, người này hùng tài vĩ lược, khoáng đạt đại độ, bảo đảm huynh đệ gặp rồi sẽ thán phục.

Dương Quá hỏi:

– Là ai vậy?

Kim Luân pháp vương nói:

– Vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, con trai thứ tư của Đà Lôi.

Dương Quá từng thấy sự bạo ngược của quân sĩ Mông Cổ, chàng rất căm ghét người Mông Cổ, nên cau mày nói:

– Tại hạ chỉ nóng lòng trả thù, không cần gặp vương tử Mông Cổ làm gì.

Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Lão nạp đã bằng lòng giúp huynh đệ, làm sao có thể thất tín? Nhưng lão nạp tới Trung Nguyên là theo lời mời của vương tử Hốt Tất Liệt, dẫu gì cũng phải bẩm cáo với vương tử một tiếng. Vương trướng của Hốt Tất Liệt cách đây không xa, đi một ngày là đến.

Dương Quá tự nghĩ mình hoàn toàn không phải là đối thủ của vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung, bất kể đấu trí đấu lực, đều không thể sánh, nếu không có sự trợ giúp của Kim Luân pháp vương, mối thù khó mà trả được, đành phải theo lão ta đi.

Kim Luân pháp vương được phong là đệ nhất hộ quốc đại sư của Mông Cổ, binh tướng Mông Cổ đối với lão cực kỳ tôn sùng, vừa thấy lão tới, liền phi báo vương gia. Người Mông Cổ đời đời ở trong lều bạt, tuy đến thành phố, họ cũng không quen cung thất, nên Hốt Tất Liệt ở trong một cái lều lớn.

Kim Luân pháp vương cầm tay Dương Quá bước vào vương trướng. Dương Quá thấy cái lều này to gấp mấy lều thông thường của người Mông Cổ, bên trong trần thiết hết sức đơn giản. Một thanh niên trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi đang ngồi đọc sách. Thấy khách vào, người ấy vội đứng dậy đón, tươi cười, nói:

– Lâu ngày không gặp quốc sư, ta vẫn thường nhớ.

Kim Luân pháp vương nói:

– Vương gia, lão nạp xin dẫn kiến vương gia một vị anh hùng thiếu niên. Vị Dương huynh đệ đây tuy ít tuổi nhưng là một vị nhân kiệt.

Dương Quá chỉ biết Hốt Tất Liệt là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, diện mạo nếu không tôn vinh quí thịnh, thì cũng cương mãnh uy vũ, không ngờ lại là một người khiêm hòa dễ gần, biết nói tiếng Hán, thì chàng lấy làm lạ.

Hốt Tất Liệt nhìn Dương Quá một cái, tay trái kéo Kim Luân pháp vương, nói với tả hữu:

– Mau mang rượu ra để ta uống với vị huynh đệ này.

Tả hữu bưng ra ba bát rượu to, rót đầy rượu sữa ngựa Mông Cổ. Hốt Tất Liệt bưng một bát uống cạn, Kim Luân pháp vương cũng uống cạn. Dương Quá thường ngày ít uống rượu, nhưng thấy chủ nhân tự nhiên như vậy, mình là khách không tiện làm khác, bèn nhận một bát cũng uống cạn, chỉ thấy rượu rất cay, vị chua.

Hốt Tất Liệt cười, hỏi:

– Tiểu huynh đệ, rượu này có ngon không?

Dương Quá đáp:

– Rượu này cay và chua, uống vào miệng như đao, vị tuy không ngon, nhưng thể hiện bản sắc nam tử hán đại trượng phu.

Hốt Tất Liệt cả mừng, gọi tiếp rượu, ba người ai cũng uống cạn ba bát. Dương Quá nhờ nội lực tinh thâm, nên uống nhiều mà vẫn giữ được vẻ thản nhiên. Hốt Tất Liệt mừng nói:

– Quốc sư tìm đâu được một nhân tài thế này. Thật may cho Đại Mông Cổ ta.

Kim Luân pháp vương thuật qua thân phận của Dương Quá, cố đề cao chàng như một đại nhân vật của võ lâm Trung Nguyên. Dương Quá nghe lão ca ngợi mình như thế, cũng không khỏi cảm thấy lâng lâng.

Hốt Tất Liệt nhận sứ mạng thôn tính giang sơn Đại Tống, ở Trung Nguyên đã lâu, lòng bị Hán hóa, thường ngày tiếp xúc với nho sinh, học kinh sách, mời các bậc cao nhân võ học, kết giao tân khách, hoạch địch việc tấn công xuống nhà Tống ở phía nam. Nếu là người khác, thấy Dương Quá ít tuổi như vậy, hẳn là không tin, nhưng Hốt Tất Liệt tài trí siêu quần, khí độ rộng lớn, lại rất tin tưởng Kim Luân pháp vương, nên vui mừng hạ lệnh mở tiệc khoản đãi.

Không lâu thì tiệc được bày ra, với nhiều rượu thịt, các món ăn một nửa của người Mông Cổ, một nửa của người Hán. Hốt Tất Liệt sai tả hữu:

– Mời mấy vị anh hùng ở Chiêu Hiền quán tới đây.

Tả hữu vâng lệnh bước ra. Hốt Tất Liệt nói:

– Mấy hôm rồi ở Chiêu Hiền quán có thêm vài vị tân khách, vị nào cũng có dị năng, thật là cái phúc của quốc gia, song cũng chưa bằng quốc sư và Dương quân văn võ toàn tài.

Đang trò chuyện thì tả hữu bẩm khách mời đã tới, cửa lều vén ra, bốn người bước vào. Đi đầu là một người cao gầy, mặt không hạt máu, thân hình khô đét như một cái xác, Hốt Tất Liệt dẫn kiến với Kim Luân pháp vương và Dương Quá, đấy là người Quảng Tây, tên Tiêu Tương Tử. Người thứ hai cực lùn và đen, đến từ Thiên Trúc, tên Ni Ma Tinh. Tiếp đến một người thân cao tám thước, chân tay to và thô, mặt mang nụ cười ngớ ngẩn, cặp mắt lờ đờ. Người cuối cùng mũi cao mắt sâu, tóc xoăn râu vàng, là người Hồ, trang phục theo lối người Hán, cổ đeo hạt ngọc, cổ tay đeo vòng ngọc long lanh.

Hốt Tất Liệt lần lượt dẫn kiến, người thứ ba cao lớn là người Hồi Cương, tên Mã Quang Tá. Gã người Hồ vốn người Ba Tư, tổ tông ba đời buôn bán ngọc quí ở đất Biện Lương, Tràng An, Thái Nguyên, lấy một cái tên người Trung Quốc là Doãn Khắc Tây.

Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh nghe nói Kim Luân pháp vương là đệ nhất hộ quốc đại sư của Mông Cổ, thì lạnh lùng nhìn lão từ đầu xuống chân, vẻ mặt không phục; thấy Dương Quá nhỏ tuổi, đoán là đồ tử đồ tôn gì đó của Kim Luân pháp vương, càng không coi chàng ra gì. Rượu qua ba tuần, Ni Ma Tinh không nhịn được, nói:

– Vương gia, Đại Mông Cổ đất đai rộng lớn, vị đại hòa thượng này là đệ nhất hộ quốc đại sư, võ công hẳn phải rất rất cao cường, chúng tại hạ mong được chiêm ngưỡng.

Hốt Tất Liệt mỉm cười không nói gì, Tiêu Tương Tử tiếp lời:

– Vị Ni Ma Tinh nhân huynh đây đến từ Thiên Trúc, võ công Tây Tạng truyền từ Thiên Trúc, chẳng lẽ thiên hạ quả nhiên có chuyện trò giỏi hơn thầy hay sao?

Kim Luân pháp vương thấy Ni Ma Tinh hai mắt long lanh như tia chớp, mặt Tiêu Tương Tử thì ẩn hiện khí xanh, biết hai người này nội công đều thâm hậu. Doãn Khắc Tây thì cười hi hi ha ha, cố tỏ vẻ là một gã lái buôn tầm thường, hắn càng tỏ vẻ bất tài, e rằng càng đáng ngại, không thể xem thường; còn gã Mã Quang Tá cao lớn thì chẳng đáng lo, bèn mỉm cười nói:

– Lão nạp được phong quốc sư, là nhờ ân điển của đại hãn và Tứ vương tử điện hạ, bản thân lão nạp hổ thẹn không dám nhận.

Tiêu Tương Tử nói:

– Thế thì đại sư nên tị vị nhượng hiền cho rồi.

Nói đoạn liếc về phía Ni Ma Tinh, nhếch khóe miệng cười khẩy.

Kim Luân pháp vương dùng đũa gắp giữ một miếng thịt bò to, cười, nói:

– Đây là miếng thịt to nhất trong bát, lão nạp vốn không định ăn nó, nhưng tình cờ gắp đũa trúng phải, cái đó nhà Phật gọi là duyên pháp. Vị cư sĩ nào có hứng, xin mời cứ gắp đi cho.

Rồi lão tiếp tục dùng đũa giữ miếng thịt trong bát, chờ người khác gắp đi.

Mã Quang Tá không hiểu Kim Luân pháp vương nói miếng thịt bò to nhất là ngụ ý chức vị đệ nhất hộ quốc đại sư Mông Cổ, thấy lão giữ miếng thịt bảo là để nhường khách, bèn giơ đũa gắp. Đũa của y vừa chạm vào miếng thịt, thì một chiếc đũa của Kim Luân pháp vương đột nhiên gạt ngang sang chiếc đũa của y, Mã Quang Tá cảm thấy cánh tay tê dại, không cầm nổi nữa, buông rơi cả đôi đũa xuống bàn. Chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại lập tức đưa về giữ miếng thịt. Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Mã Quang Tá còn chưa hiểu, cầm đôi đũa lên, năm ngón tay giữ đũa thật chặt, nghĩ: “Lần này lão đừng hòng gạt được nữa”. Y lại gắp lấy miếng thịt. Một chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại gạt ngang sang, lần này Mã Quang Tá cầm chặt đũa, chỉ nghe “cách” một tiếng, đôi đũa của Mã Quang Tá gãy rời thành bốn, hai đoạn gãy rơi xuống bàn như bị dao chặt.

Mã Quang Tá cả giận, quát to một tiếng, nhoài sang định đánh Kim Luân pháp vương. Hốt Tất Liệt cười nói:

– Mã tráng sĩ đừng nóng vội, nếu muốn tỷ võ, đợi ăn xong cũng chưa muộn.

Mã Quang Tá sợ vương gia, đành hậm hực ngồi xuống, chỉ Kim Luân pháp vương, hỏi:

– Lão dùng yêu pháp gì làm gãy đôi đũa của người ta như vậy?

Kim Luân pháp vương cười, gắp miếng thịt, giơ lên trước mặt.

Ni Ma Tinh ban đầu không coi Kim Luân pháp vương ra gì, vừa thấy lão triển hiện nội lực thâm hậu, thì không dám xem thường nữa. Hắn là người nước Thiên Trúc, ăn cơm không dùng đũa. Hắn nói:

– Miếng thịt này, đại Hán tử gắp không được, bổn nhân muốn ăn.

Đột nhiên năm ngón tay hắn như năm cái móc sắt chộp lấy miếng thịt. Kim Luân pháp vương bật ngang chiếc đũa bên phải, nhanh như chớp điểm năm huyệt đạo ở lòng bàn tay, cổ tay, mu bàn tay, hổ khẩu và ngón giữa của hắn. Ni Ma Tinh vội lật bàn tay, chém vào cổ tay Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương cánh tay không động, bật chiếc đũa lên, lại bật bật mấy cái, Ni Ma Tinh cảm thấy đầu đũa chọc tới hổ khẩu của mình, phải vội co tay về. Chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại đưa về giữ miếng thịt, không để nó rơi xuống. Lão bật đũa điểm huyệt mấy lần nhanh như thế nào, Dương Quá và mọi người đều nhìn thấy rõ, trong giây lát hai người kia đã trao đổi mấy chiêu, Kim Luân pháp vương bật đũa cực nhanh, Ni Ma Tinh kịp thu tay về tránh đòn, võ công cũng thật cao siêu. Tiêu Tương Tử phải thốt lên:

– Hảo bản sự!

Hốt Tất Liệt biết hai người đã sử dụng công phu thượng thừa, nhưng đó là môn gì thì chưa rõ. Mã Quang Tá cũng trơ mắt ra nhìn hết người này người kia, chưa hiểu thế nào.

Doãn Khắc Tây cười hi hi, nói:

– Các vị khách sáo quá! Có miếng thịt mà cứ người này nhường người kia mãi, chả ai chịu ăn, để nguội mất rồi.

Nói đoạn thong thả giơ đôi đũa ra gắp miếng thịt. Hai chiếc vòng ở cổ tay gã, một bằng ngọc phỉ thúy, một bằng vàng, va vào nhau kinh coong. Đôi đũa của Doãn Khắc Tây chưa chạm đến miếng thịt, đôi đũa của Kim Luân pháp vương đã hơi rung rung, thì ra gã đã sử dụng nội kình để bức không cho Kim Luân pháp vương gạt đũa của gã. Kim Luân pháp vương bèn nhả đũa cho gã gắp miếng thịt, khi kình lực truyền sang đôi đũa của gã, liền dồn lực sang đánh cánh tay Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây vội vận kình phản kích. Nào ngờ nội kình của Kim Luân pháp vương vừa phát ra đã lập tức thu về, miếng thịt từng nhường cho Doãn Khắc Tây, giờ lại được hoàn trả về đôi đũa của lão. Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Doãn huynh lại cũng nhường nốt, cũng là quá khách sáo đấy!

Doãn Khắc Tây trúng kế, đồng thời cũng đã thử, thầm biết nội lực của đối phương hơn hẳn mình, nhưng không lộ ra, chỉ mỉm cười, chuyển đũa gắp miếng thịt nhỏ hơn trong bát, cười, nói:

– Huynh đệ bình sinh chỉ mê các thứ châu ngọc, miếng thịt to không ưa lắm, tạm ăn miếng thịt nhỏ này thôi.

Nói xong đưa miếng thịt vào mồm, thong thả nhai.

Kim Luân pháp vương nghĩ: “Khí độ giả dối của dân Hồ nước Ba Tư cũng bất phàm”, quay sang Tiêu Tương Tử, nói:

– Lão huynh đã khiêm nhường, thì lão nạp đành dùng vậy.

Nói rồi đôi đũa hơi kéo về phía mình, cách chừng nửa thước. Lão đoán nội lực của Tiêu Tương Tử không yếu chẳng dám sơ ý, sử dụng nội kình đưa miếng thịt gần về phía mình nửa thước, cách Tiêu Tương Tử cũng nửa thước. Tiêu Tương Tử cười khẩy, giơ đũa ra kẹp ngay lấy miếng thịt, kéo về phía mình.

Kim Luân pháp vương không ngờ thủ pháp của Tiêu Tương Tử mau lẹ như vậy, vội vận kình đoạt lại, miếng thịt chậm rãi xê dịch từng tấc một. Tiêu Tương Tử đứng dậy, tay trái tì xuống bàn khiến chiếc bàn kêu răng rắc, song vẫn không ngăn được cái thế miếng thịt vẫn di chuyển về phía Kim Luân pháp vương.

Nhìn sắc mặt nhàn nhã của Kim Luân pháp vương, trong khi Tiêu Tương Tử đã vã mồ hôi trán, đủ phân biệt mạnh yếu.

Bỗng nghe xa xa có tiếng gọi to:

– Quách Tĩnh, Quách huynh đệ, huynh đệ ở đâu? Mau ra đây, Quách Tĩnh, tên tiểu tử họ Quách!

Tiếng ban đầu phát ra từ mé đông, rồi bỗng nhiên lại phát ra từ phía tây. Hai phía đông tây phải cách xa mấy dặm, tưởng như một người gọi, một người nhắc lại, song tiếng gọi ấy chỉ là của một người, cứ liên tiếp vang vọng không ngừng ở khoảng cách như thế, đủ biết thân pháp mau lẹ và nội lực thâm hậu hiếm có trên thế gian.

Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Tiêu Tương Tử buông đũa, ngồi xuống. Kim Luân pháp vương cười ha ha, nói:

– Thừa nhượng, thừa nhượng!

Đang định đưa miếng thịt lên miệng, đột nhiên cửa lều vén ra, một bóng người vút vào, cướp miếng thịt khỏi đũa của Kim Luân pháp vương mà cho vào mồm nhai tóp tép thật to.

Mọi người đứng bật cả dậy kinh hãi; nhìn kỹ người kia, thì thấy đó là một lão nhân râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào, tươi cười dễ thân. Lão nhân ngồi trên một tấm chăn, tay trái vuốt chòm râu bạc, tay phải đưa miếng thịt bò vào miệng, nhai tóp tép thành tiếng. Kim Luân pháp vương nhớ lại lúc vị lão nhân kia đoạt lấy miếng thịt từ đôi đũa của lão, càng nghĩ càng kinh hãi.

Mấy võ sĩ canh cửa không chặn được vị lão nhân tóc bạc, quát to:

– Bắt lấy thích khách!

Bốn mũi giáo dài cùng đâm tới ngực vị lão nhân. Vị lão nhân kia giơ tay trái chộp giữ luôn cả bốn mũi giáo, nhìn Dương Quá, nói:

– Tiểu huynh đệ, lấy cho ta mấy miếng thịt nữa, ta đói bụng quá chừng.

Bốn võ sĩ Mông Cổ dùng sức đẩy tới không được, cố giằng giáo lại, nhưng cả bốn gắng sức đến đỏ cả mặt, các mũi giáo cũng không hề động đậy, y như thể chúng được đúc liền vào một quả núi sắt không bằng.

Dương Quá nhìn cảnh ấy thích chí, cầm cả bát thịt trên bàn quăng ngang về phía vị lão nhân, nói:

– Xin mời!

Vị lão nhân đưa tay phải đón lấy bát thịt, cầm ngang trước ngực, đột nhiên một miếng thịt từ trong bát tự bay lên miệng vị lão nhân như thể một vật sống động vậy. Hốt Tất Liệt thấy rất thú vị, nghĩ rằng vị lão nhân biết sử dụng ma thuật. Bọn Kim Luân pháp vương thì biết rằng vị lão nhân đã vận lực cục bộ ở lòng bàn tay để đẩy miếng thịt từ trong bát tự bay lên miệng. Người thường có thể dùng lực đẩy mạnh vào chiếc bát, làm cho thịt bay ra, nhưng cả các miếng thịt lẫn nước thịt sẽ cùng văng lên. Chứ không tài gì làm cho một miếng thịt từ trong bát tự bay lên miệng theo ý muốn như vị lão nhân này. Mọi người tự lượng không thể sánh nổi, bất giác đều kính phục.

Vị lão nhân không ngớt nhai thịt, hết miếng này đến miếng khác, chẳng mấy chốc đã hết sạch cả bát thịt. Vị lão nhân tay phải hất một cái, chiếc bát bay vòng vòng về phía Dương Quá và Doãn Khắc Tây.

Dương Quá và Doãn Khắc Tây sợ vị lão nhân ngầm sử quái kình vào chiếc bát, nên không dám giơ tay đón nó, vội né sang hai bên. Chiếc bát bay sát mặt bàn, va đúng vào bát đựng thịt cừu nướng, chiếc bát đựng thịt cừu nướng liền bay ngang về phía vị lão nhân, còn chiếc bát không kia thì xoay tròn tại chỗ vài vòng rồi đứng yên. Nguyên vị lão nhân sử dụng “Thái Cực kình”, xoay vòng rồi trở lại tư thế ban đầu; nếu là ở ngoài chỗ trống trải, thì chiếc bát sau khi ném đi sẽ bay vòng quanh thân người ném. Kình lực phát ra không khó, người giỏi trò ảo thuật đều có thể làm được tuyệt kỹ này; cái khó là ở chỗ sử kình sao cho thích hợp, chiếc bát không thì bay đến kích vào chiếc bát đựng thịt rồi dừng lại, còn chiếc bát đựng thịt thì bay về phía vị lão nhân.Vị lão nhân cười ha hả đắc ý, tay cầm bát thịt cừu vận lực đẩy từng miếng thịt bay lên miệng, lại chén hết sạch.

Khi đó bốn võ sĩ Mông Cổ ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, cố sức đoạt lại cây giáo không nổi, mà buông tay ra cũng chẳng dám. Quân pháp của Mông Cổ rất nghiêm, lâm trận mà bỏ vũ khí sẽ bị khép tội chết, huống hồ bốn võ sĩ này có trọng nhiệm hộ vệ Tứ vương tử, nên đành dốc hết sức lực tranh đoạt. Vị lão nhân thấy bốn võ sĩ kia càng luống cuống thì lão càng thích thú, đột nhiên quát:

– Biến biến biến, hai đứa rập đầu, hai đứa ngã ngửa ta coi! Một, hai, ba!

Chữ “ba” vừa dứt, bốn cây trường mâu cùng gãy. Phương hướng sử lực của vị lão nhân khác nhau, đối với hai cây giáo thì đẩy ra, đối với hai cây còn lại thì kéo vào, chỉ nghe “huỵch huỵch” liên tiếp, quả nhiên hai võ sĩ ngã sấp, hai võ sĩ ngã ngửa. Vị lão nhân vỗ tay reo lên:

– Khéo khéo quá, hay hay quá, đứng lên nào, bé bé con!

Đấy là mấy câu hát người lớn sử dụng để an ủi đứa bé bị ngã.

Doãn Khắc Tây đứng bật dậy, hỏi:

– Lão tiền bối họ Chu phải không?

Vị lão nhân cười, nói:

– Phải, ha ha, ngươi nhận ra ta rồi.

Doãn Khắc Tây ôm quyền, nói:

– Thì ra là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông Chu lão tiền bối đã tới.

Tiêu Tương Tử đã nghe danh tiếng vị lão nhân, Kim Luân pháp vương và Ni Ma Tinh thì chưa biết Chu Bá Thông là ai, nhưng thấy vị lão nhân kia võ công cao siêu, hành sự tinh nghịch như trẻ con, quả nhiên tương xứng với ba chữ “Lão Ngoan đồng”. Mọi người ai nấy giảm hẳn sự khó chịu, cùng mỉm cười.

Kim Luân pháp vương nói:

– Xin lượng thứ cho lão nạp chưa được biết tiền bối võ lâm. Xin mời lão tiền bối cùng vào bàn tiệc được chăng? Vương gia tha thiết cầu hiền, hôm nay được tiếp cao nhân, chắc là rất vui.

Hốt Tất Liệt ôm quyền, nói:

– Đúng vậy, xin mời Chu tiên sinh vào bàn.

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Ta ăn no rồi, không ăn nữa đâu. Còn Quách Tĩnh, hiện giờ y ở đâu?

Dương Quá từng nghe Hoàng Dược Sư kể về việc Chu Bá Thông kết nghĩa huynh đệ với Quách Tĩnh, bèn lạnh lùng hỏi:

– Lão tìm Quách Tĩnh để làm gì?

Chu Bá Thông hồn nhiên chất phác, thích nhất giao tiếp với trẻ con, thấy trong bàn tiệc Dương Quá là kẻ nhỏ tuổi nhất, đã có thiện cảm, lại nghe chàng hỏi trống không một chữ “lão”, không gọi là “lão tiền bối”, “Chu tiên sinh”, thì càng khoái, nói:

– Quách Tĩnh là huynh đệ kết nghĩa của ta, ngươi quen y chứ? Y từ nhỏ đã thích ở với người Mông Cổ, cho nên ta thấy chỗ nào có lều của người Mông Cổ, thì ta đến tìm y.

Dương Quá cau mày, nói:

– Lão tìm Quách Tĩnh có chuyện gì?

Chu Bá Thông là người thành thật, không biết giấu giếm, nói:

– Y sai người gửi thư cho ta, mời ta đến dự đại yến anh hùng. Ta đi ngay, nhưng dọc đường mải chơi mấy chỗ, đến muộn mất vài ngày, mọi người đã ra về cả, chán quá đi mất.

Dương Quá hỏi:

– Họ không để lại thư từ gì cho lão à?

Chu Bá Thông trừng mắt, nói:

– Ngươi vì sao cứ tra vấn ta như thế? Rốt cuộc thì ngươi có quen biết Quách Tĩnh hay không?

Dương Quá nói:

– Sao lại không quen? Quách phu nhân tên là Hoàng Dung, đúng chưa nào? Con gái của vợ chồng họ là Quách Phù, đúng chưa nào?

Chu Bá Thông vỗ tay cười, nói:

– Sai rồi, sai rồi! Ả Hoàng Dung cũng là một cô bé gái, làm sao lại có con được?

Dương Quá ngớ ra, nhưng hiểu ngay, hỏi:

– Lão không gặp vợ chồng họ mấy năm rồi?

Chu Bá Thông bấm lần lượt tất cả các đốt ngón tay, chỉ còn thừa hai đốt, nói:

– Hai mươi hai năm rồi.

Dương Quá cười, nói:

– Phải rồi, cách đây hai mươi hai năm, Hoàng Dung còn là một cô bé. Thế trong hai mươi hai năm ấy không sinh con hay sao?

Chu Bá Thông cười lớn, rung cả chòm râu bạc, nói:

– Ngươi nói đúng, ngươi nói đúng! Hai vợ chồng Quách Tĩnh sinh đứa con gái, chắc cũng xinh xắn chứ?

Dương Quá nói:

– Diện mạo của con gái họ giống Quách phu nhân nhiều hơn là giống Quách Tĩnh, theo lão thì có xinh hay không?

Chu Bá Thông cười ha ha, nói:

– Thế thì xinh, chứ một đứa con gái mà mắt to mày rậm, da đen như Quách huynh đệ của ta thì không coi được.

Dương Quá biết Chu Bá Thông đã hết ngờ vực, bèn hỏi:

– Phụ thân của Hoàng Dung là Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư huynh, là bạn vong niên của vãn bối, lão có quen biết hay không?

Chu Bá Thông sững sờ, nói:

– Một gã oắt con như ngươi cũng đòi xưng hô huynh đệ với Hoàng lão Đông Tà ư? Sư phụ của ngươi là ai?

Dương Quá nói:

– Sư phụ của vãn bối võ công cao siêu lắm, nói ra chỉ e lão quá run sợ.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Ta không khi nào run sợ.

Lão vung tay phải, chiếc bát không bay vù rất nhanh về phía Dương Quá.

Dương Quá đã biết Chu Bá Thông là sư thúc của Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, nhìn lão vung tay hất chiếc bát đi, cánh tay không gập vào phía trong, toàn dùng lực của ngón tay, chính là thủ pháp của phái Toàn Chân, mà chàng thì không hề sợ võ công của phái Toàn Chân, bèn giơ ngón tay trỏ bên trái đón lấy đáy chiếc bát, khiến chiếc bát xoay vòng vòng trên đầu ngón tay đó.

Việc đó làm cho Chu Bá Thông vô cùng thích thú, còn bọn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá, Doãn Khắc Tây thì vô cùng kinh ngạc. Tiêu Tương Tử thì ban đầu thấy Dương Quá ăn mặc lam lũ, tuổi còn nhỏ, không coi chàng ra gì; bây giờ y nghĩ: “Nhìn thế bay của chiếc bát, mình không dám giơ tay ra đón, thế mà hắn chỉ dùng một ngón! Chỉ cần đón thiếu chuẩn xác một chút, sẽ bị gãy cổ tay như chơi. Không biết gã thiếu niên này lai lịch thế nào?”

Chu Bá Thông khen: “Hay lắm, hay lắm!” và cũng đã nhận biết thủ pháp của Dương Quá đón chiếc bát là gia số của phái Toàn Chân, bèn hỏi:

– Ngươi quen biết Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ chứ?

Dương Quá nói:

– Hai gã mũi trâu ấy, sao vãn bối lại không quen biết?

Chu Bá Thông thích thú. Lão không ưa bọn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ lắm, vì cho rằng họ có quá nhiều thanh qui giới luật, quá ư cố chấp. Lão bình sinh thán phục nhất, ngoài sư huynh Vương Trùng Dương, có Cửu chỉ thần cái Hồng Thất Công; chứ đối với cái tà của Hoàng Dược Sư và cái khôn khéo của Hoàng Dung, thì lão không ưa. Lúc này nghe Dương Quá gọi Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ là “gã mũi trâu”, thì cảm thấy rất hợp ý, lại hỏi:

– Bọn Hách Đại Thông thì sao?

Dương Quá vừa nghe ba tiếng “Hách Đại Thông” đã nổi giận, nói:

– Gã mũi trâu ấy là tên khốn kiếp nhất, thể nào cũng có ngày vãn bối làm cho gã khốn khổ một phen.

Chu Bá Thông càng thích thú hơn, hỏi:

– Ngươi định cho hắn khốn khổ bằng cách nào?

Dương Quá nói:

– Vãn bối sẽ trói chân tay hắn, giúi đầu hắn vào thùng phân nửa ngày.

Chu Bá Thông thích chí, dặn:

– Khi nào ngươi bắt được hắn, đừng vội giúi đầu hắn vào thùng phân, hãy báo cho ta biết, để ta đến xem lén một chút.

Đối với Hách Đại Thông, kỳ thực lão không hề có ác ý, chẳng qua tính lão ham đùa giỡn, thấy người ta giở trò tinh nghịch, quái ác, thì lão tham dự một phần vậy thôi. Dương Quá cười, nói:

– Được, vãn bối nhớ rồi. Nhưng tại sao lão phải xem lén? Lão sợ bọn mũi trâu phái Toàn Chân ư?

Chu Bá Thông thở dài:

– Ta là sư thúc của Hách Đại Thông, để hắn nhìn thấy ta, tất nhiên hắn kêu cứu. Ta không cứu thì áy náy, nên mới phải xem lén.

Dương Quá nghĩ thầm: “Người này võ công cực cao, tính nết thật thà khả ái, nhưng là người của phái Toàn Chân, lại là huynh đệ kết nghĩa của Quách Tĩnh. Đại trượng phu phải tàn bạo, phải tìm cách trừ khử lão ta mới được”.

Chu Bá Thông đâu ngờ Dương Quá có ý tàn ác, lại hỏi:

– Bao giờ ngươi đi bắt Hách Đại Thông?

Dương Quá nói:

– Vãn bối sắp đi đây. Lão muốn xem nhiệt náo, thì hãy đi theo vãn bối.

Chu Bá Thông cả mừng, vỗ tay đứng dậy, nhưng lại buồn bã ngồi xuống, nói:

– Không được, ta phải đến thành Tương Dương mất rồi.

Dương Quá hỏi:

– Thành Tương Dương có trò gì vui mà đến đó?

Chu Bá Thông nói:

– Quách huynh đệ có để lại thư ở Lục gia trang cho ta, bảo là đại quân Mông Cổ đánh xuống phía nam, ắt công phá thành Tương Dương. Quách Tĩnh suất lĩnh hào kiệt Trung Nguyên đi cứu viện, dặn ta cũng nên góp sức. Ta tìm y chẳng thấy, đành đến thành Tương Dương vậy.

Hốt Tất Liệt và Kim Luân pháp vương đưa mắt nhìn nhau, nghĩ: “Thì ra phần lớn võ sĩ Trung Nguyên đến thành Tương Dương giúp việc giữ thành”.

Vừa lúc ấy, có một hòa thượng trạc tứ tuần, dung mạo nho nhã bước vào trong lều, thần sắc cử chỉ như một thư sinh. Y tới bên Hốt Tất Liệt, hai người chụm đầu, ghé tai nói nhỏ với nhau vài câu. Hòa thượng này là người Hán, pháp danh Tử Thông, là mưu sĩ của Hốt Tất Liệt. Tên tục của y là Lưu Khản, hồi trẻ làm thư lại ở huyện nha, sau xuất gia, học vấn uyên nguyên, thẩm sự tinh tường, Hốt Tất Liệt rất tín nhiệm y. Vừa rồi y được vệ sĩ bẩm báo có dị nhân đến trướng của vương gia, nên y tới xem sao.

Chu Bá Thông vỗ vỗ bụng, nói:

– Này hòa thượng, đứng xê ra một chút để ta nói chuyện với tiểu huynh đệ. Này tiểu huynh đệ, họ tên ngươi là gì?

Dương Quá đáp:

– Vãn bối họ Dương tên Quá.

Chu Bá Thông hỏi:

– Sư phụ ngươi là ai?

Dương Quá đáp:

– Sư phụ của vãn bối là nữ nhân, tướng mạo xinh đẹp võ công cao siêu, nhưng không thích người khác nhắc đến tên mình.

Chu Bá Thông rùng mình, nghĩ đến tình nhân cũ của lão là Anh Cô, thì lập tức không dám hỏi thêm, đứng dậy, giũ giũ chiếc quần, tức thì bụi tung mù mịt trong lều. Tử Thông hắt hơi liền hai cái. Chu Bá Thông khoái chí, đập tay vào quần cho bụi càng bay mạnh hơn, cười to, nói:

– Ta đi đây!

Lão vung tay trái, bốn cái mũi giáo gãy liền bay về phía bốn gã Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá, Doãn Khắc Tây. Bốn cái mũi giáo bay vù vù cực nhanh, ở khoảng cách gần, trong chớp mắt đã bay tới trước mặt bốn người kia.

Bọn Tiêu Tương Tử cả kinh, thấy không thể tránh kịp, đành ai nấy vận kình đón lấy, nào ngờ cả bốn bàn tay giơ ra đều chụp không trúng, chỉ nghe phập phập, bốn cái mũi giáo gãy đã cắm xuống đất. Nguyên bốn cái mũi giáo gãy được phóng đi rất tài tình, khi bay tới trước mặt bốn người kia lập tức quành ngoặt, cắm xuống đất. Mã Quang Tá ngớ ngẩn, cảm thấy thú vị, cười to nói:

– Lão râu dài này diễn nhiều trò hay đáo để!

Tiêu Tương Tử và hai gã còn lại thì kinh hãi tái mặt, nghĩ vừa rồi giơ tay bắt không trúng cái mũi giáo gãy, nếu nó không cắm xuống đất mà cắm vào bụng mình, thì đã mất mạng vào tay đối phương rồi.

Chu Bá Thông đùa cợt thành công với bốn người, cực kỳ đắc ý, quay mình ra khỏi lều. Từ Thông nói:

– Chu lão tiên sinh, thần thông như lão tiên sinh, quả là hiếm có trong thiên hạ. Tiểu tăng xin thay vương gia kính lão tiên sinh một chén.

Nói đoạn y rót một chén rượu mời Chu Bá Thông. Chu Bá Thông uống cạn luôn. Tử Thông rót một chén rượu nữa, mời:

– Tiểu tăng cũng xin kính lão tiên sinh một chén.

Chu Bá Thông lại uống cạn. Từ Thông rót chén thứ ba định mời tiếp, thì Chu Bá Thông bỗng kêu to:

– Ối chao, không hay rồi! Ta đau bụng, buồn ỉa quá!

Lão ngồi xuống, cởi thắt lưng quần, định đại tiện luôn trong lều. Kim Luân pháp vương buồn cười hết nhịn nổi, quát không được ỉa. Chu Bá Thông sững lại, nói:

– Đau bụng quá chừng, song lại không ỉa được!

Dương Quá nhìn Tử Thông một cái, đã hiểu, thì ra trong rượu có độc. Chàng từng có ý tìm cách trừ khử Chu Bá Thông để Quách Tĩnh không có người tài giỏi giúp đỡ, nhưng ác ý đó chỉ thoáng qua, chàng với Lão Ngoan đồng không hề có thù oán, thấy lão hồn nhiên chất phác, rất dễ thân, giờ lão bị trúng kế gian, chàng lại không nỡ, đang định nhắc nhở lão, bảo lão hãy bắt giữ Hốt Tất Liệt để buộc Tử Thông đưa thuốc giải độc, bỗng nghe lão nói:

– Không được, không được, rượu pha ít chất độc quá, ta mới đau bụng thế này. Hòa thượng, mau mau rót cho ta ba chén nữa nào. Càng nhiều độc càng tốt!

Mọi người kinh hãi nhìn nhau. Từ Thông sợ lão ra oai lúc lâm chung, không dám tới gần.

Chu Bá Thông sải bước tới bàn, Kim Luân pháp vương đứng chắn để bảo vệ cho Hốt Tất Liệt, chỉ thấy Chu Bá Thông tay trái giữ cạp quần, tay phải cầm vò rượu độc, ngửa cổ tu ừng ực, không còn một giọt.

Mọi người thất sắc, Chu Bá Thông cười ha hả, nói:

– Ổn rồi, trong bụng bây giờ đầy chất độc, Lão Ngoan đồng hóa thành Lão độc vật rồi chăng? Lấy độc trị độc mà lại.

Đột nhiên lão há mồm, phun thẳng rượu vào mặt Tử Thông. Kim Luân pháp vương thấy thế nguy, vội dựng đứng cái bàn lên, tia rượu độc bắn vào mặt bàn phát ra tiếng rất mạnh.

Chu Bá Thông cười đi ra, đến cửa lều thì nảy ra ý tinh nghịch, cầm cái cột lều mà lay mấy cái, cây cột gãy nghe “rắc” một tiếng, cả khối da bò lợp lều đổ ụp xuống đầu tất cả mọi người. Chu Bá Thông khoái chí chạy qua chạy lại bên trên, giẫm lung tung vào mấy người bị trùm bên dưới. Kim Luân pháp vương ở bên trong vung chưởng đánh ra, trúng vào gan bàn chân Chu Bá Thông, lão cảm thấy một luồng lực cực mạnh đẩy lên, lão bèn lộn một vòng, nói:

– Thú vị, thú vị lắm!

Rồi ung dung bỏ đi.

Khi Kim Luân pháp vương hộ giá Hốt Tất Liệt đứng dậy, bảy tám vệ sĩ kịp dựng lều lên, thì Chu Bá Thông đã đi xa. Kim Luân pháp vương và bọn Tiêu Tương Tử cùng tạ tội với Hốt Tất Liệt, hổ thẹn đã không bảo vệ chu đáo, khiến vương gia bị kinh động.

Hốt Tất Liệt không trách cứ, chỉ không ngớt tán thưởng bản lĩnh của Chu Bá Thông, nói một dị nhân như thế mà không thu nạp được, thật đáng tiếc. Bọn Kim Luân pháp vương thảy đều hổ thẹn.

Bàn tiệc được dọn lại. Hốt Tất Liệt nói:

– Quân đội Mông Cổ mấy phen công thành Tương Dương, vẫn chưa hạ được. Hiện tại hào kiệt Trung Nguyên tập trung giữ thành, lão Chu Bá Thông kia lại tới đó giúp, thật là nan giải. Không biết các vị có diệu kế gì chăng?

Doãn Khắc Tây nói:

– Lão Chu Bá Thông võ công tuy mạnh, song chúng lão nạp cũng chưa hẳn đã yếu hơn lão ta. Vương gia cứ tấn công thành, chúng ta binh đối binh, tướng đối tướng, Trung Nguyên có anh hùng thì Tây Vực cũng có hào kiệt.

Hốt Tất Liệt nói:

– Nói không sai, nhưng cổ nhân có câu “Chưa đánh, số người cho là thắng bao giờ cũng nhiều hơn”. Nhưng ta phải tính đến khả năng không thắng.

Tử Thông nói:

– Kiến giải của vương gia vô cùng anh minh…

Lời chưa dứt, bỗng nghe bên ngoài có tiếng người nói to:

– Ta đã bảo không đến là không đến, các ngươi có khẩn khoản mời mọc, cũng vô dụng.

Chính là giọng nói của Chu Bá Thông, không hiểu tại sao lão đã đi rồi, còn quay lại, đang nói với ai đó.

Mọi người nổi tính hiếu kỳ, đều muốn ra ngoài lều xem sao. Hốt Tất Liệt cười, nói:

– Mọi người hãy ra xem, Lão Ngoan đồng lại đùa giỡn với ai vậy.

Mọi người ra ngoài lều, thấy Chu Bá Thông đứng giữa một bãi trống ở phía tây, bốn người khác chia nhau đứng bốn phương vị nam, tây, tây bắc, bắc, vây lão thành hình bán nguyệt, chừa một lối thoát ở mé đông. Chu Bá Thông vung quyền, quát to:

– Không đi, không đi!

Dượng Quá lấy làm lạ: “Lão không muốn đi, thì ai bắt buộc lão được kia chứ? Hà tất phải tranh cãi?” Nhìn bốn người kia, họ đều mặc áo bào màu xanh lá cây, trang phục cổ lỗ, không theo kiểu đương thời, ba người là nam nhân trung niên, đội mũ cao, còn người đứng ở góc tây bắc là thiếu nữ, dải thắt lưng màu lục bay phất phơ trước gió.

Chỉ nghe nam nhân đứng ở mé bắc nói:

– Chúng vãn bối hoàn toàn không có ý gây khó dễ, chỉ vì tôn giá đạp đổ đan lô, giẫm nát linh chi, hủy hoại đạo thư, thiêu hủy kiếm phòng, nên buộc phải thỉnh đại giá tới nói rõ với gia sư; nếu không, gia sư trách cứ thì chúng vãn bối không đương nổi.

Chu Bá Thông cười hi hi, nói:

– Các ngươi cứ về bẩm là có một lão dã nhân đi qua, vô ý gây họa, không được hay sao?

Nam nhân kia nói:

– Tôn giá nhất định không chịu đi phải không?

Chu Bá Thông lắc đầu. Nam nhân kia chỉ tay về phía đông, nói:

– Được, được, gia sư tới đó.

Chu Bá Thông ngoảnh nhìn, không thấy ai. Nam nhân kia giơ tay ra hiệu, bốn người đột nhiên quăng ra một tấm lưới đánh cá màu xám cực lớn, chụp xuống người Chu Bá Thông. Thủ pháp của bốn người ấy hết sức thành thục, lại cổ quái vạn phần, Chu Bá Thông tuy võ công xuất thần nhập hóa, nhưng bị chụp trong lưới, chân tay vướng víu, chỉ biết kêu cha gọi mẹ, bốn người kia quấn lưới thật chặt, rồi một nam nhân vác lão lên vai, ba người kia cầm kiếm hộ vệ, chạy như bay về hướng đông.

Dương Quá lo cho sự an nguy của Chu Bá Thông, nghĩ: “Ta không thể không cứu”, bèn đề khí đuổi theo, miệng kêu:

– Các người mang lão ta đi đâu vậy?

Bọn Kim Luân pháp vương thấy chuyện lạ, sao có thể bỏ qua. Họ liền từ biệt Hốt Tất Liệt, chạy đuổi theo. Chạy mấy dặm, đến một dòng mương, bốn người kia khiêng Chu Bá Thông lên một chiếc thuyền, hai người chèo ngược dòng. Mọi người bám theo trên bờ.

Chạy chừng một dặm, thấy có một con thuyền nhỏ, mọi người cùng xuống thuyền.

Mã Quang Tá to khỏe, cầm mái chèo chèo mạnh, phút chốc chỉ còn cách chiếc thuyền kia vài trượng. Nhưng dòng mương uốn khúc mấy chỗ liền, thoáng cái đã không thấy chiếc thuyền kia đâu nữa. Ni Ma Tinh từ dưới thuyền nhảy lên bờ, leo thoăn thoắt mười mấy trượng như khỉ leo vách núi, từ trên nhìn xuống, thấy chiếc thuyền kia rẽ vào một ngách mương rất hẹp ở mé tây, chỗ ấy có một bụi cây lớn um tùm che khuất, nếu không ở trên cao thế này, không thể đoán biết chỗ ấy có một cái hang động.

Ni Ma Tinh trở xuống thuyền, chỉ đường cho mọi người chèo tới chỗ bụi cây lớn, tới nơi thấy cửa động chỉ cao chưa đầy ba thước, mấy người phải cúi rạp xuống, chiếc thuyền mới bơi lọt vào. Chèo một hồi, chỉ thấy hai bên là vách núi dựng đứng, nhìn lên trời chỉ có một khe hẹp bằng đường chỉ. Non xanh nước biếc, cảnh sắc cực kỳ tĩnh mịch, bốn phía lặng ngắt như tờ, đầy vẻ hung hiểm. Lại chèo thuyền vài dặm nữa, trước mặt bỗng có chín tảng đá chắn ngang dòng mương như một tấm bình phong, ngăn không cho thuyền đi qua.

Mã Quang Tá kêu lên:

– Hỏng rồi, thuyền hết đường đi rồi.

Tiêu Tương Tử nói:

– Mã huynh khỏe như vâm, bưng chiếc thuyền qua là xong chứ gì.

Mã Quang Tá bực bội nói:

– Đệ khỏe như vâm, cũng chẳng bằng yêu pháp tử thi của Tiêu huynh.

Kim Luân pháp vương đang nghĩ cách, nghe hai người nói móc nhau, thì nói:

– Sức một người chẳng đưa thuyền qua nổi, nhưng hợp lực cả sáu chúng ta thì được. Dương huynh đệ, Doãn huynh và lão nạp một bên, Ni huynh, Mã huynh và Tiêu huynh ba vị một bên, sáu người cùng nhấc chiếc thuyền qua được chăng?

Mọi người khen phải, cùng lên bờ, tìm chỗ đứng vững chắc, may dòng mương chỗ này rất hẹp, đứng hai bên vươn tay cũng tới mạn thuyền, Kim Luân pháp vương nói:

– Hai, ba nào!

Sáu người cùng khiêng chiếc thuyền lên khỏi mặt nước, đưa qua tấm bình phong bằng đá kia. Mọi người lại xuống thuyền, vỗ tay cười. Sáu người vốn chia thành mấy nhóm, chẳng thân thiện gì với nhau, nhưng sau việc hợp lực khiêng thuyền vừa rồi, họ trở nên thân mật hơn.

Tiêu Tương Tử nói:

– Sáu người bọn ta, công phu tuy khác nhau, nhưng đều là hảo thủ trong võ lâm, cả sáu người hợp lực khiêng một chiếc thuyền, kể không khó, nhưng…

Ni Ma Tinh cướp lời:

– Bốn người kia, ba nam một nữ, võ công thế nào mà cũng khiêng nổi chiếc thuyền qua?

Trong sáu người thì năm người sớm đã thầm ngạc nhiên, chỉ có Mã Quang Tá là chưa hiểu ngụ ý bốn chữ “võ công thế nào”. Ni Ma Tinh nói:

– Bốn người ấy khiêng nổi chiếc thuyền qua… thì họ cũng khỏe đấy.

Doãn Khắc Tây nói:

– Ba nam nhân thì có thể, chứ cô nương mười bảy, mười tám tuổi ấy thì khỏe làm sao được. Vậy tấm bình phong bằng đá kia hẳn có cơ quan, chúng ta nhất thời chưa đoán biết đó thôi.

Kinh Luân pháp vương mỉm cười, nói:

– Không thể chỉ nhìn bề ngoài, như vị Dương huynh đệ của chúng ta đây chẳng hạn, mới chút tuổi đầu đã mang võ công tuyệt đỉnh; nếu chúng ta không tận mắt chứng kiến, chắc chẳng ai tin.

Dương Quá khiêm tốn nói:

– Tiểu đệ mạt học hậu tiến, đâu có gì đáng kể. Bốn người kia có thể bắt trói Chu Bá Thông, hẳn có chỗ hơn người.

Chàng lời lẽ thì khiêm tốn, nhưng giọng nói như thể ngang hàng với bọn Tiêu Tương Tử. Mọi người từ lúc thấy chàng dùng một ngón tay đón chiếc bát Chu Bá Thông quăng tới, đã không dám coi thường chàng nữa, bây giờ nghe lời chàng có lý, đều cùng suy đoán.

Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá ba người luôn ở Tây Vực, Tiêu Tương Tử thì độc tu ở hoang sơn, ít giao thiệp với người bên ngoài; chỉ có Doãn Khắc Tây am hiểu sâu rộng về môn phái, nhân vật, võ công của võ lâm Trung Nguyên; nhưng đối với lai lịch của bốn người áo xanh kia, Doãn Khắc Tây cũng không biết gì. Mải nói chuyện, họ đã đi đến đầu dòng mương. Sáu người nhảy lên bờ, theo con đường mòn đi sâu vào thâm cốc.

Con đường độc đạo càng lúc càng lên cao, trời sắp tối vẫn chưa thấy bóng bốn người kia đâu. Đang nóng lòng sốt ruột, bỗng thấy phía xa có mấy đống lửa, mọi người vui mừng, cùng nghĩ: “Giữa chốn hoang sơn cùng cốc, có ánh lửa tức là có nhà ở, ngoài mấy người áo xanh kia, ít ai chui vào sống ở chốn này”.

Họ liền chạy vội, thầm biết thân nhập hiểm địa, cần tự phòng bị. Nhưng ai cũng từng ngang dọc giang hồ, từng trải hung hiểm, bây giờ sáu cao thủ cùng đi với nhau, thiên hạ ai dám ngăn? Tuy họ đề phòng, nhưng không hề run sợ.

Đi một lúc, thì đến một chỗ đất rộng trên đỉnh núi, thấy có một đống lửa cực lớn cháy rừng rực; lại gần vài chục trượng, mọi vật đã nhìn rõ như ban ngày; phía sau đống lửa là một tòa thạch thất.

Ni Ma Tinh gọi to:

– Này, có khách tới đó! Các người mau ra đón.

Cửa thạch thất từ từ mở, từ phía trong bước ra ba nam một nữ, chính là bốn người áo xanh đã bắt Chu Bá Thông. Họ cúi mình hành lễ, người ở mé bên phải nói:

– Quý khách từ xa lặn lội đến, chưa kịp nghênh tiếp thật áy náy.

Kim Luân pháp vương nói:

– Nói hay, nói hay.

Người kia tiếp:

– Mời các vị vào nhà.

Bọn Kim Luân pháp vương sáu người bước vào thạch thất, thấy bên trong rộng rãi, trừ vài bộ bàn ghế, không có trần thiết gì khác. Bốn người áo xanh ngồi ở vị trí chủ nhà. Một người nói:

– Không dám thỉnh vấn quý tính đại danh các vị.

Doãn Khắc Tây mau miệng, cười hi hi, giới thiệu thân phận năm người, cuối cùng nói:

– Tại hạ là Doãn Khắc Tây, là người Hồ ở Ba Tư, bản sự của tại hạ, ngoài ăn uống ra, còn biết phân biệt báu vật châu ngọc, chứ không có tuyệt kỹ như năm vị huynh đệ đồng hành.

Người kia nói:

– Tệ xứ hoang dã vắng vẻ, chưa từng có ai tới đây; hôm nay quý khách giáng lâm, quá ư hân hạnh. Không rõ sáu vị có việc gì?

Doãn Khắc Tây cười, đáp:

– Bọn ta thấy bốn vị bắt Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông thì nổi tính hiếu kỳ, đến xem thế thôi. Nơi này cảnh sắc u nhã, được ngắm một phen, không uổng công lặn lội.

Một người áo xanh nói:

– Thì ra kẻ phá rối đó là lão già họ Chu, kể mang tên Lão Ngoan đồng cũng phải.

Người áo xanh thứ hai nói:

– Các vị đồng hành với lão ta chăng?

Kim Luân pháp vương nói:

– Bọn ta hôm nay gặp lão ấy lần đầu, không hề có giao tình.

Người áo xanh thứ nhất nói:

– Lão Ngoan đồng tự tiện xông vào tuyệt cốc, ngang ngược phá phách vô lối.

Kim Luân pháp vương hỏi:

– Lão Ngoan đồng phá phách những gì? Nghe các vị nói, thì là xé sách, đốt nhà phải không?

Người áo xanh nói:

– Đúng vậy. Vãn bối vâng lệnh gia sư trông coi đan lô (lò luyện thuốc), tự dưng lão già đó lọt vào phòng, nói huyên thuyên đủ chuyện, lại đòi đánh cuộc với vãn bối, cứ như một kẻ điên điên khùng khùng. Mẻ thuốc trong lò đang hồi quyết định, vãn bối không thể lơ là, chỉ chăm chú vào công việc, không nghe lão ta dông dài; ai ngờ đột nhiên lão ta tung chân đá đổ đan lô. Phải cả năm mới hái được ngần ấy vị thuốc, lão ta đạp đổ trong giây lát.

Giọng nói và sắc mặt đầy vẻ bực bội.

Dương Quá cười, nói:

– Lão ta còn trách các hạ không tiếp chuyện lão chứ gì?

Thiếu nữ áo xanh nói:

– Đúng vậy. Tiểu nữ đang ở phòng Linh chi, nghe tiếng ầm ĩ bên phòng luyện đan, đoán là có chuyện, đang định qua đó xem sao, thì lão quái ấy vọt sang, giơ tay đánh gãy cây nấm linh chi đã hơn bốn trăm tuổi.

Dương Quá thấy thiếu nữ trạc mười bảy, mười tám, da trắng nõn trắng nà, mắt đen láy, bên miệng có một cái nốt ruồi đen nhỏ, bèn nói:

– Lão Ngoan đồng đúng là làm loạn, cây nấm linh chi hơn bốn trăm tuổi của người ta là vật quí như thế mà đem đánh gãy.

Thiếu nữ thở dài:

– Phụ thân của tiểu nữ định để dành sẽ uống vào hôm tân hôn với kế mẫu của tiểu nữ, ai ngờ bị Lão Ngoan đồng hủy hoại, khỏi nói cũng biết phụ thân của tiểu nữ tức giận tới mức nào. Lão Ngoan đồng bẻ gãy cây nấm, nhét vào trong túi, nói thế nào cũng không chịu trả lại, còn cười hô hố. Tiểu nữ không hề đắc tội với lão ta, không hiểu tại sao lão ta bỗng dưng vô cớ lại gây rắc rối với tiểu nữ.

Nói rồi nước mắt lưng tròng, có vẻ rất oan ức.

Dương Quá nghĩ: “Lão Ngoan đồng lẽ ra không nên bắt nạt một thiếu nữ như nàng”.

Doãn Khắc Tây nói:

– Xin hỏi danh hiệu của lệnh tôn. Bọn ta vô ý xông vào, ngay họ tên của chủ nhân cũng chưa biết, thật là vô lễ.

Thiếu nữ chần chừ chưa đáp. Người áo xanh thứ nhất nói:

– Chưa được phép cốc chủ, không tiện nói ra, mong quí khách lượng thứ.

Dương Quá nghĩ: “Những người này ẩn cư chốn hoang cốc, hành tung kỳ bí, không chịu tiết lộ thân phận với người ngoài”. Chàng hỏi:

– Lão Ngoan đồng lấy nấm linh chi đi, rồi sao?

Người áo xanh thứ ba nói:

– Lão già họ Chu gây sự ở phòng đan lô và phòng linh chi, sau đó nhảy sang thư phòng, cướp một quyển sách giở xem. Tại hạ trông coi ở đó, đành xuất thủ ngăn cản. Lão ta nói: “Mấy đứa con nít này không biết đùa gì cả, chán mớ đời!” Lão xé nát liền ba quyển sách đạo. Bấy giờ đại sư huynh, nhị sư huynh và sư muội cùng tới, bốn chúng tôi hợp lực cũng không ngăn nổi lão.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Lão Ngoan đồng tính nết quái dị, võ công cao cường, đâu dễ ngăn cản.

Người áo xanh thứ hai nói:

– Lão ta gây sự ở phòng đan lô, phòng linh chi, thư phòng rồi, lại xông vào kiếm phòng, nơi cất giữ rất nhiều loại binh khí, lão ta phóng hỏa, làm cháy rụi mất bức họa trên tường. Chúng tôi bận lo cứu hỏa, lão ta thừa cơ chuồn mất. Chúng tôi nghĩ việc này không nhỏ, nên phải đuổi theo ra khỏi tuyệt cốc, bắt về giao cho cốc chủ phát lạc.

Dương Quá nói:

– Không biết cốc chủ xử trí ra sao, nhưng mong rằng đừng làm hại đến tính mạng lão ta.

Người áo xanh thứ ba nói:

– Gia sư sắp đến ngày tân hôn, chắc sẽ không giết người. Nhưng nếu lão già đó cứ tiếp tục nói năng bậy bạ, nói những lời chướng tai đắc tội với gia sư, thì lão ta không thể trách người khác.

Doãn Khắc Tây cười, nói:

– Không biết Lão Ngoan đồng nói điều gì nghịch ý gây khó dễ với tôn sư vậy? Ta thấy lão tuy ngang ngược tinh nghịch, nhưng tính nết đâu đến nỗi nào.

Thiếu nữ áo xanh nói:

– Lão ta bảo phụ thân của tiểu nữ đã nhiều tuổi, mà còn đi cưới…

Vị đại sư huynh của nàng vội xen vào:

– Lão Ngoan đồng ấy nói năng vớ vẩn, chẳng có gì đáng nghe. Các vị từ xa đến, chắc đã đói bụng, để vãn bối gọi cơm.

Mã Quang Tá nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Mặt y tươi tỉnh hẳn lên.

Bốn người áo xanh vào bếp, lát sau bưng mâm cơm ra, có bốn món là rau cải xanh, đậu phụ trắng, giá vàng và nấm đông cô đen, không có gì là chất tanh.

Mã Quang Tá từ bé đến giờ, bữa ăn nhất thiết phải có thịt, nhìn bốn món không có chút dầu mỡ gì thì rất thất vọng. Người áo xanh thứ nhất nói:

– Ở đây chúng tôi hoàn toàn ăn chay, mong quí khách lượng thứ cho, xin mời dùng bữa.

Rồi bưng ra một bình nước trắng, rót đầy vào từng bát trước mặt mỗi người. Mã Quang Tá nghĩ: “Đã không có thịt, uống vài ngụm rượu cũng được”. Bèn bưng bát lên uống, thấy nhạt nhẽo vô vị, bèn nói to:

– Chủ nhà keo kiệt quá chừng, một ngụm rượu cũng chẳng có.

Người áo xanh thứ nhất nói:

– Ở đây không được phép uống rượu, đấy là tổ huấn đã mấy trăm năm nay, mong quí khách lượng thứ.

Thiếu nữ nói:

– Chúng tôi cũng chỉ thấy hai chữ “mỹ thư” trong thư phòng, còn “mỹ tửu” là thế nào, chưa ai được nhìn thấy. Trong sách viết rằng rượu có thể gây loạn tính, thiết tưởng không phải là món hay.

Bọn Kim Luân pháp vương, Doãn Khắc Tây thấy bốn người áo xanh cử chỉ nói năng cổ hủ, hơn nữa từ đầu tới giờ chưa thấy họ cười lần nào, nhìn diện mạo của họ không có gì đáng ghét, nhưng lời lẽ hết sức vô vị. Quả là “nói chuyện không hợp, nửa câu đã nhiều” ai nấy không nói nữa, cúi đầu ăn cơm. Bốn người áo xanh lui ra, không thấy trở vào.

Ăn xong, Mã Quang Tá muốn trở về ngay. Nhưng năm người còn lại thấy ở đây có nhiều chỗ bí hiểm, muốn tìm biết ngọn nguồn. Doãn Khắc Tây khuyên:

– Mã huynh, chúng ta đã tới được đây, ngày mai còn gặp cốc chủ cái đã, sao lại bỏ về giữa chừng?

Mã Quang Tá càu nhàu:

– Không có rượu thịt gì, chẳng phải là định hành hạ nhau hay sao? Sống kiểu này, nửa ngày ta cũng chả thiết.

Tiêu Tương Tử nói:

– Mọi người đều ở lại, một mình ngươi định làm trái hả?

Mã Quang Tá nhìn diện mạo đáng sợ của Tiêu Tương Tử, không dám nói gì thêm.

Đêm ấy sáu người ngủ lại trong thạch thất. Dưới đất có mấy cái chiếu cỏ; cảm thấy mọi thứ ở đây đều bất cận nhân tình, so ra còn nghiêm lạnh hơn cả miếu mạo. Ở miếu mạo tuy ăn chay, song không lạnh nhạt với khách như ở đây. Chỉ có Dương Quá đã quen ở trong tòa cổ mộ, quen với thái độ lạnh nhạt của Tiểu Long Nữ, là không thấy lạ mà thôi. Ni Ma Tinh lẩm bẩm:

– Lão Ngoan đồng đốt nhà của bọn họ đi là phải lắm!

Lời này được Mã Quang Tá tán đồng ngay. Ni Ma Tinh nói:

– Kim Luân lão huynh, lão huynh đứng đầu sáu người chúng ta, theo lão huynh thì cốc chủ là người như thế nào, có tử tế hay không? Ngày mai chúng ta sẽ khách sáo với hắn, hay là nện cho hắn một trận… nên thân?

Kim Luân pháp vương nói:

– Lộ số của cốc chủ thế nào, lão nạp cũng như các vị thôi, khó đoán biết. Ngày mai chúng ta cứ tùy cơ hành sự.

Doãn Khắc Tây nói nhỏ:

– Bốn kẻ áo xanh võ công không kém, ở đây hẳn có cao thủ. Mọi người hãy thận trọng, sơ ý một chút, sáu người bọn ta bị hãm thân chốn này thì nguy đấy.

Mã Quang Tá vẫn còn lẩm bẩm về chuyện cơm rau khó nuốt, không để ý đến lời người khác. Dương Quá nói với y:

– Ngày mai các hạ không cẩn thận, để họ bắt nhốt suốt đời e rằng chỉ cơm rau nước lã cũng không được no đâu…

Mã Quang Tá giật mình, nói:

– Hảo huynh đệ, ta nghe, ta nghe mà.

Đêm ấy mọi người thân lâm hiểm địa, giấc ngủ chập chờn, chỉ một mình Mã Quang Tá ngáy như sấm, đôi lúc nói mơ rất to:

– Nào, nào, cạn chén! Món thịt bò này ngon tuyệt!

Hồi 17: Tuyệt Tình cốc

Sáng hôm sau Dương Quá tỉnh dậy sớm, ra khỏi thạch thất. Tối qua không nhìn rõ, nguyên nơi này bốn bề thảo mộc hoa lá xanh tươi, đường tới đây cảnh vật đã đẹp, nơi này phong cảnh lại càng mỹ lệ hiếm có. Chàng thả bộ mà đi, thấy bên đường mấy con hạc tiên tha thẩn, lũ hươu trắng từng đàn, lũ thỏ nhởn nhơ không hề sợ người. Qua hai khúc quành, thấy thiếu nữ áo xanh đang hái hoa bên đường, gặp chàng, nàng ta giơ tay vẫy, nói:

– Các hạ dậy sớm thế, hãy lại đây dùng món điểm tâm đã nào.

Rồi nàng hái mấy bông hoa đưa cho chàng.

Dương Quá nhận hoa, nghĩ: “Không lẽ hoa cũng ăn được ư?” Thấy thiếu nữ ngắt các cánh hoa cho vào miệng, chàng cũng bắt chước làm theo, nhai vài cái, miệng vừa thơm vừa ngọt như mật ong, hơi có vị hăng hăng của rượu, cảm thấy lâng lâng khoan khoái. Nhưng nuốt xuống thì chợt thấy đắng chát, nửa muốn nhổ đi, nửa tiếc rẻ, nếu nuốt vào bụng, e khó trôi.

Chàng nhìn kỹ bông hoa, thấy cành và lá đầy gai, màu sắc của cánh hoa thì đẹp vô ngần, tựa như phù dung nhưng thơm hơn, như sơn trà nhưng đẹp hơn, hỏi:

– Là hoa gì vậy? Tại hạ chưa từng gặp.

Thiếu nữ đáp:

– Cái này gọi là hoa Tình, nghe đâu hiếm có trên thế gian. Các hạ thấy ăn có ngon không?

Dương Quá nói:

– Thoạt đầu cực ngọt, sau lại đắng. Gọi là hoa Tình ư? Cái tên nghe lạ quá.

Nói đoạn giơ tay ngắt hoa. Thiếu nữ nói:

– Cẩn thận! Cây có nhiều gai, khéo kẻo bị gai đâm!

Dương Quá tránh gai nhọn ở cành, thận trọng thò tay vào, nào ngờ phía sau đài hoa cũng có gai, đâm ngay vào ngón tay chàng. Thiếu nữ nói:

– Thung lũng này gọi là Tuyệt Tình cốc, hoa Tình mọc ở khắp nơi.

Dương Quá nói:

– Vì sao gọi là Tuyệt Tình cốc? Tên gọi quả là… quả là bất phàm.

Thiếu nữ lắc đầu, nói:

– Tiểu nữ cũng không biết vì sao. Cái tên ấy do tổ tông truyền lại, có lẽ phụ thân của tiểu nữ biết lai lịch.

Hai người sánh vai nhau, vừa đi vừa trò chuyện. Dương Quá ngửi thấy mùi hoa thơm từng đợt từng đợt thoảng tới, lại nhìn đàn hươu, bầy thỏ trắng nhởn nhơ khả ái, cảm thấy vô cùng khoan khoái, tự nhiên nhớ đến Tiểu Long Nữ: “Ước gì có cô cô ở bên cạnh ta, thì ta nguyện vĩnh viễn ở chốn này, không ra khỏi Tuyệt Tình cốc”. Vừa nghĩ đến đó, chỗ bị gai đâm đột nhiên đau nhói, buốt lên tận óc, còn ngực thì như bị ai giáng mạnh một chùy vậy. Chàng không nén được, buột miệng kêu ối một tiếng và đưa ngón tay đau lên miệng mà mút chặt.

Thiếu nữ hững hờ hỏi:

– Vừa nghĩ đến ý trung nhân phải không?

Dương Quá bị nàng đoán trúng tâm sự, thì đỏ mặt, ngạc nhiên, hỏi:

– Sao cô nương biết?

Thiếu nữ nói:

– Thân thể bị trúng gai hoa Tình, trong vòng mười hai canh giờ không được nhớ thương ai cả, nếu không sẽ khổ sở vô cùng.

Dương Quá kinh ngạc, nói:

– Thiên hạ lại có chuyện kỳ lạ thế ư?

Thiếu nữ nói:

– Phụ thân tiểu nữ bảo, ái tình là thế, ban đầu ngọt ngào, sau đó cay đắng; hơn nữa, toàn những gai là gai như thế này, người ta có cẩn thận mấy cũng khó tránh bị gai đâm. Loại hoa Tình chắc rất đặc biệt, mới được đặt tên như vậy.

Dương Quá hỏi lại:

– Như thế là trong vòng mười hai canh giờ không được… không được… động tình tương tư?

Thiếu nữ nói:

– Phụ thân bảo trong gai hoa Tình có độc. Phàm người nào nghĩ đến ái tình, tình dục, huyết mạch không chỉ tăng nhanh, mà trong máu còn sinh ra chất gì đó. Chất độc của gai hoa Tình lúc bình thường thì vô hại, nhưng gặp chất kia trong máu sẽ lập tức làm cho người ấy đau đớn không chịu nổi.

Dương Quá nghe nàng nói vài phần có lý, nên bán tín bán nghi.

Hai người thong thả đi tới sơn dương, chỗ này ánh nắng chan hòa, địa khí ấm áp, hoa Tình nở sớm hơn, hiện giờ đã kết trái. Chỉ thấy trái Tình hoặc xanh hoặc đỏ, hoặc nửa xanh nửa đỏ, trái nào cũng đầy lông, trông như sâu róm. Dương Quá nói:

– Hoa Tình đẹp thế, mà kết thành trái thì lại khó coi quá chừng.

Thiếu nữ nói:

– Quả Tình đúng là không ai muốn ăn, có trái chua, có trái chát, có trái rất hôi, ngửi đã buồn nôn.

Dương Quá cười, nói:

– Chẳng lẽ không có trái nào ngọt như đường hay sao?

Thiếu nữ nhìn chàng, nói:

– Kể cũng có, nhưng nhìn vỏ thì không thể đoán biết. Có trái nhìn bên ngoài xấu xí vô cùng, nhưng bên trong lại ngọt. Nói chung mười trái, thì chín đắng chát, cho nên mọi người không ăn.

Dương Quá nghĩ: “Gọi là hoa Tình, thực ra là ví von ái tình nam nữ. Chẳng lẽ nỗi tương tư mới đầu ngọt ngào, sau đó nhất định đắng chát hay sao? Chẳng lẽ một đôi nam nữ luyến ái nhau, rốt cuộc đẹp ít xấu nhiều hay sao? Chẳng lẽ nỗi nhớ cô cô của ta, sau này…”

Chàng vừa nhớ đến Tiểu Long Nữ, đột nhiên ngón tay lại đau buốt, bất giác phải vẩy vẩy mấy cái, nghiệm ra lời thiếu nữ nói quả không sai. Thiếu nữ nhìn bộ dạng của chàng, khóe miệng như sắp cười, song lại thôi. Lúc này ánh ban mai chiếu chênh chếch vào khuôn mặt nàng, thấy rõ đôi mắt đen láy, nước da trắng hồng, trông thật kiều diễm. Dương Quá cười, nói:

– Tại hạ từng nghe kể, xưa có một vị quốc vương đem đại binh đi chinh phục chư hầu, chẳng qua chỉ để thấy được nụ cười của một giai nhân tuyệt thế. Đủ biết khó có được nụ cười đến chừng nào, hóa ra thời nay cũng vậy.

Thiếu nữ bị Dương Quá trêu chọc, không nhịn được, phải bật cười một tiếng.

Dương Quá thấy nàng vốn lạnh lùng, nên ba phần e ngại; giờ thấy nàng cười, sự ngăn cách giữa hai người chỉ còn phân nửa. Chàng lại nói:

– Thiên hạ đều biết khó thấy được nụ cười của mỹ nhân, còn bảo cười một tiếng nghiêng thành, cười tiếng nữa nghiêng nước, song tại hạ chưa thấy mỹ nhân nào có được nụ cười như vừa rồi.

Thiếu nữ tròn mắt nhìn nhìn Dương Quá, nói:

– Thật vậy ư?

Dương Quá tiếp:

– Được gặp mỹ nhân đã là có duyên phận rất lớn, muốn được thấy nàng cười, tổ tông phải tích đức, bản thân cũng phải tu hành ba kiếp…

Chàng chưa nói xong, thiếu nữ đã cười khanh khách. Dương Quá nghiêm trang nói:

– Nếu được mỹ nhân thổ lộ phương danh, thì tổ tông phải mười tám đời tích âm công.

Thiếu nữ nói:

– Tiểu nữ không phải là mỹ nhân, ở đây chưa một ai bảo tiểu nữ là mỹ nhân cả, các hạ chẳng nên chế giễu như thế.

Dương Quá thở dài, nói:

– Ồ, chẳng trách sơn cốc gọi là Tuyệt Tình cốc, tại hạ cho rằng nên đổi tên đi thì hơn.

Thiếu nữ hỏi:

– Đổi tên là gì?

Dương Quá nói:

– Phải gọi là Manh Nhân cốc.

Thiếu nữ ngạc nhiên nói:

– Vì sao?

Dương Quá nói:

– Cô nương xinh đẹp thế này, mà người ta không tán thưởng cô nương, chẳng phải là người ở đây mù cả rồi sao?

Thiếu nữ lại cười khanh khách. Thực ra, dung mạo nàng tuy rất đẹp, nhưng so với Tiểu Long Nữ thì còn thua xa; so với sự dịu dàng của Trình Anh và sự uyển chuyển của Lục Vô Song cũng chưa bằng; có điều là nàng tú nhã thoát tục, đặc biệt trong trắng. Cả đời nàng quả thật chưa nghe ai khen nàng xinh đẹp; bởi lẽ mọi người ở đây dường như chuyên luyện thiền môn, tất cả nhìn nhau bằng con mắt lạnh lùng thản nhiên, người bên cạnh dù có cảm thấy nàng xinh đẹp, cũng chẳng dám mở miệng tán dương. Hôm nay nàng gặp Dương Quá, một người tinh nghịch, nàng càng nghiêm trang càng bị trêu chọc thêm. Nàng nghe lời nói của chàng, trong bụng vui thích, nhưng ngoài miệng lại nói:

– Chỉ sợ các hạ mới là người mù, đi gọi người xấu xí là mỹ nhân.

Dương Quá nghiêm mặt, nói:

– Có thể lắm. Nhưng tại hạ muốn sửa câu “nghiêng nước nghiêng thành” thành “nghiêng cả sơn cốc”.

Thiếu nữ hơi cúi người, cười nói:

– Đa tạ các hạ, đừng trêu tiểu nữ nữa, được chăng?

Dương Quá nhìn cử chỉ của nàng đáng yêu, trong lòng chợt xúc động, không ngờ lòng vừa động theo hướng kia, thì ngón tay gai đâm lại buốt nhói.

Thiếu nữ thấy chàng vẩy vẩy ngón tay thì hơi khó chịu, nói:

– Tiểu nữ nói chuyện với các hạ, mà các hạ lại chỉ nhớ đến ý trung nhân của mình.

Dương Quá nói:

– Oan quá chừng! Tại hạ bị đau tay vì cô nương, thế mà cô nương còn trách cứ.

Thiếu nữ đỏ mặt; đột nhiên bỏ chạy.

Dương Quá nói xong liền hối hận: “Ta đã một lòng với cô cô, sao cái tính ấy vẫn không chịu sửa kia chứ? Dương Quá ơi là Dương Quá, mi chớ có nói nhăng nói cuội nữa”. Chàng đúng là có ba phần cái tính khinh bạc vô lại của kẻ nam tử, tuy không có ý xấu nhưng hễ gặp thiếu nữ là lại cười nói mấy câu lả lơi, làm cho người ta ý loạn tình mê, tưởng chàng thích họ.

Thiếu nữ chạy đi mấy trượng, dừng lại cạnh một cây hoa Tình, đứng cúi đầu ngơ ngẩn hồi lâu, rồi ngoảnh đầu lại, mỉm cười, nói:

– Nếu một người xấu xí nói cho các hạ biết tên, chắc hẳn tổ tông mười tám đời của các hạ làm nhiều việc tồi tệ nên con cháu phải gánh hậu họa.

Dương Quá bước lại gần, cười, nói:

– Cô nương quả ưa nói ngược. Tổ tông mười tám đời của tại hạ làm rất nhiều việc tốt, nên tại hạ mới được hưởng đó.

Câu này lại tán dương cái đẹp của đối phương. Thiếu nữ hơi đỏ mặt, nói nhỏ:

– Thì tiểu nữ nói cho các hạ biết, nhưng các hạ không được nói lại cho người thứ hai, càng không gọi tên tiểu nữ trước mặt người khác đấy.

Dương Quá thè lưỡi, nói:

– Vô lễ với mỹ nhân, tại hạ sẽ bị tuyệt tự.

Thiếu nữ lại mỉm cười, nói:

– Phụ thân của tiểu nữ họ Công Tôn…

Thiếu nữ vẫn chưa chịu nói tên của mình ra luôn, lại vòng vo. Dương Quá liền chen vào:

– Thế cô nương tên là gì?

Thiếu nữ mỉm cười, nói:

– Tiểu nữ không biết đâu. Phụ thân tiểu nữ từng đặt cho đứa con gái độc nhất cái tên Lục Ngạc.

Dương Quá tán dương:

– Quả nhiên tên cũng đẹp như người.

Công Tôn Lục Ngạc nói tên ra rồi, hai người lại thân mật thêm vài phần. Nàng nói:

– Khi phụ thân tiểu nữ tiếp các hạ, các hạ chớ có nhìn tiểu nữ mà cười đấy.

Dương Quá nói:

– Cười thì sao?

Công Tôn Lục Ngạc thở dài:

– Ôi, nếu phụ thân tiểu nữ biết tiểu nữ cười vui với các hạ, lại biết tiểu nữ nói tên cho các hạ, thì không rõ phụ thân sẽ trách phạt tiểu nữ thế nào?

Dương Quá nói:

– Chưa nghe có người cha nào nghiêm khắc như vậy, con mình cười một tiếng với người khác cũng không được. Một người con gái như hoa như ngọc, chẳng lẽ người cha cũng không thương yêu hay sao?

Công Tôn Lục Ngạc nghe chàng nói vậy, bất giác rưng rưng lệ, nói:

– Hồi tiểu nữ còn bé, phụ thân rất yêu tiểu nữ, nhưng sau khi mẫu thân tiểu nữ mất đi, phụ thân đối với tiểu nữ ngày càng nghiêm khắc. Không hiểu sau khi phụ thân lấy người vợ mới, phụ thân sẽ đối với tiểu nữ ra sao đây?

Nói xong, hai giọt lệ ứa ra. Dương Quá an ủi:

– Phụ thân cô nương cưới vợ mới xong sẽ vui sướng, nhất định sẽ đối xử tốt hơn với cô nương.

Công Tôn Lục Ngạc lắc đầu:

– Thà phụ thân đối xử tệ, cũng còn hơn là đi cưới vợ mới.

Dương Quá sớm mồ côi cha mẹ, không hiểu tâm trạng này lắm, cố ý nói đùa cho nàng ta vui:

– Kế mẫu của cô nương chắc là chẳng đẹp bằng một nửa cô nương.

Công Tôn Lục Ngạc vội nói:

– Các hạ nhầm rồi, kế mẫu của tiểu nữ mới đúng là mỹ nhân. Phụ thân vì nàng ta… vì nàng ta… nên đêm qua… nếu không vì bận lo hôn sự, đời nào phụ thân để cho cái Lão Ngoan đồng kia trốn thoát.

Dương Quá vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, hỏi:

– Lão Ngoan đồng trốn thoát rồi ư?

Công Tôn Lục Ngạc hơi nhíu mày, nói:

– Còn không phải thế sao?

Hai người trò chuyện một hồi, mặt trời lên cao dần, Công Tôn Lục Ngạc chợt giật mình, nói:

– Các hạ mau về đi, đừng để các sư huynh thấy hai ta nói chuyện với nhau, họ sẽ mách phụ thân.

Dương Quá cảm thấy thương hại cho hoàn cảnh của nàng, tay trái nắm tay nàng, tay phải vỗ nhẹ lưng nàng vài cái tỏ ý an ủi. Ánh mắt Công Tôn Lục Ngạc lộ vẻ cảm kích, nàng cúi đầu, đột nhiên đỏ mặt. Dương Quá chỉ sợ nhớ đến Tiểu Long Nữ, ngón tay sẽ đau, vội trở về thạch thất.

Dương Quá chưa bước vào cửa đã nghe tiếng Mã Quang Tá lớn tiếng phàn nàn, rằng chỉ có ăn chay uống nước lã làm sao no bụng, rồi mấy bông hoa ngọt chẳng ra ngọt, đắng chẳng ra đắng, cũng bảo người ta ăn, thật chẳng ra sao. Doãn Khắc Tây cười, nói:

– Mã huynh, có bảo bối gì thì thu vén lại đi, đệ cho rằng cốc chủ không có chút thiện ý nào đâu.

Mã Quang Tá không biết y trêu chọc, cứ gật gù khen phải. Dương Quá bước vào, thấy có mấy bát hoa Tình để trên cái bàn đá, mấy người kia vừa ăn vừa nhăn nhăn nhó nhó, ngay cả đại hòa thượng Kim Luân pháp vương cũng phải xơi món hoa Tình, thì không khỏi buồn cười.

Chàng uống hai chén nước trắng, nghe ngoài cửa có tiếng bước chân, rồi một người áo xanh tiến vào, chắp tay cúi mình nói:

– Cốc chủ thỉnh sáu vị quí khách tương kiến.

Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh đều là tông sư một phái, bất kể đến đâu, chủ nhân cũng phải đích thân nghênh tiếp, ngay cả vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt cũng hết mực kính trọng, không ngờ đến chốn thâm sơn cùng cốc này, chủ nhân lại đối đãi vô lễ, ai nấy đều tức giận, nghĩ thầm: “Lát nữa gặp lão cốc chủ khốn kiếp, sẽ cho hắn biết tay”.

Sáu người theo gã áo xanh đi ra sau núi, đi hơn một dặm, bỗng thấy trước mặt một rừng trúc xanh mướt. Trúc ở phương bắc hiếm gặp, nơi đây là cả một cánh rừng, thật hiếm có. Họ đi xuyên qua rừng trúc, ngửi từng đợt hương hoa thoang thoảng, cảm giác phiền tục tan biến hết. Qua rừng trúc, trước mắt trải ra một rừng hoa thủy tiên thơm mát, thì ra có một cái hồ sâu chưa đến một thước, mọc đầy hoa thủy tiên. Loài hoa này vốn của phương nam, không hiểu sao lại có mặt trên đỉnh núi này. Kim Luân pháp vương nghĩ: “Bên dưới núi này phải có suối nước nóng, địa khí mới đặc biệt ấm áp”.

Trên hồ cứ cách bốn, năm thước lại cắm một cái cọc gỗ. Gã áo xanh dẫn đường nhảy trên các cọc gỗ mà qua. Sáu người làm theo. Riêng Mã Quang Tá thân xác nặng nề, khinh công lại kém, nhảy được vài cái cọc rồi thì lội phắt xuống hồ mà đi.

Đi hết một đoạn đường lát đá xanh, thấy một tòa thạch thất cực lớn. Bảy người tới gần thấy có hai tiểu đồng tay cầm cây phất trần đứng trước cửa. Một tiểu đồng đi vào bẩm báo, một tiểu đồng mở cửa đón khách. Dương Quá nghĩ: “Không biết cốc chủ có ra đón hay không?” Vừa lúc đó từ trong bước ra một lão nhân râu dài mặc áo xanh.

Lão nhân quá lùn, thân cao chưa đến bốn thước, ngũ nhạc hếch lên trời, tướng mạo kỳ quái, lạ nhất là bộ râu dài chấm đất, mặc chiếc áo màu xanh sẫm, thắt cái dây lưng bện bằng cỏ, diện mạo cực kỳ cổ quái. Dương Quá nghĩ: “Cốc chủ quái mạo thế này mà lại sinh được một cô con gái xinh đẹp”. Lão nhân vái dài sáu người, nói:

– Quí khách quang lâm, thật là hân hạnh, mời vào trong dùng trà.

Mã Quang Tá nghe chữ “trà”, liền cau mày, nói to:

– Uống trà à? Chỗ nào chẳng có trà? Hà tất phải đến đây uống?

Lão nhân không hiểu ý, nhìn y, cúi mình nhường khách.

Ni Ma Tinh nghĩ: “Mình đã lùn, lão ta còn lùn hơn. Cùng lùn, nhưng để xem võ công ai mạnh hơn”. Ni Ma Tinh bước lên trước, chìa tay, nói:

– Hân hạnh, hân hạnh.

Y bắt tay lão nhân, sử hai phần kình lực. Mọi người thấy họ bắt tay nhau, đều lui lại mấy bước, nên biết hai đại cao thủ đấu lực với nhau không phải chuyện thường.

Ni Ma Tinh thoạt tiên sử hai phần kình lực, cảm thấy đối phương không chống cự, cũng không hoàn kích, hơi lấy làm lạ, thêm hai phần kình lực, chỉ cảm thấy như nắm vào một khúc gỗ cứng. Y bèn tăng thêm hai phần kình lực nữa, thấy mặt lão nhân thoáng qua một lớp khí màu xanh, bàn tay kia cứng như sắt. Y kinh dị, còn mấy phần kình lực không dám sử nốt, sợ đối phương đột nhiên phản kích, mình không kịp chống đỡ, miệng cười ha ha, buông tay lão nhân ra.

Kim Luân pháp vương đi thứ hai, nhìn bộ dạng Ni Ma Tinh, biết y chưa phát hiện được bản lĩnh nông sâu của lão nhân, nghĩ mình không nên mù quáng xuất thủ, bèn chắp hai tay vào nhau, bước đi ngay ngắn. Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử nối nhau bước vào. Tiếp đến Mã Quang Tá. Gã thấy lão nhân râu dài quét đất, thật lạ kỳ. Sáng nay gã không được ăn, chỉ nhấm vài bông hoa Tình, bụng thêm cồn cào; bây giờ vừa đói vừa tức, lúc bước vào gã bèn giẫm chân lên mút bộ râu của lão nhân mà di di.

Lão nhân thản nhiên như không, nói:

– Quí khách cẩn thận cho.

Mã Quang Tá giẫm nốt chân kia xuống đầu mút bộ râu của lão nhân, nói:

– Cái gì?

Lão nhân hơi lắc đầu, Mã Quang Tá đứng không vững, ngã ngửa ra sau. Một thân hình hộ pháp thế này mà ngã xuống, quả là chuyện lớn. Dương Quá đi cuối cùng, vội sải bước, giơ tay đẩy mạnh vào mông Mã Quang Tá, hất gã lên. Mã Quang Tá đứng thẳng lại được, giơ tay sờ mông.

Lão nhân làm như không thấy, mời sáu người ngồi ở phía tây trong đại sảnh, nói:

– Quí khách đã tới, thỉnh cốc chủ ra tiếp.

Bọn Dương Quá ngạc nhiên: “Thì ra lão lùn không phải là cốc chủ”.

Chỉ thấy từ hậu đường có mười nam nữ áo xanh bước ra, đứng thành một hàng ở bên trái, Công Tôn Lục Ngạc ở trong số đó. Một lát nữa, từ sau bình phong bước ra một người, vái chào khách, rồi ngồi ngay xuống chiếc ghế ở mé đông. Lão nhân râu dài buông tay đứng một bên. Nhìn cung cách ấy, biết người vừa ra là cốc chủ. Người đó trạc bốn mươi lăm, bốn mươi sáu tuổi, mặt mũi anh tuấn, cử chỉ phóng khoáng, vừa bước ra sảnh, vái chào là ngồi xuống ngay, da mặt màu vàng nến, dung mạo khô khan, không giống như người võ công cao cường.

Người đó vừa ngồi xuống, các đồng tử áo xanh liền bưng trà ra. Trong đại sảnh, mọi thứ đều màu xanh; chiếc áo bào của cốc chủ bằng đoạn màu lam, nổi bật hẳn lên. Cốc chủ vén ống tay áo, bưng tách trà lên, nói:

– Mời quí khách dùng trà.

Mã Quang Tá thấy trong chén trà nguội ngắt có hai ba lát trà nổi trên mặt nước, đoán là nhạt thếch, liền nói:

– Này chủ nhân, các hạ thịt chẳng chịu ăn, trà không chịu uống, làm gì mà sắc diện chẳng ốm yếu thế này.

Cốc chủ thản nhiên uống một ngụm trà, nói:

– Bổn cốc mấy trăm năm nay vốn chỉ ăn chay.

Mã Quang Tá hỏi:

– Như thế thì có gì hay? Tưởng được trường sinh bất lão chăng?

Cốc chủ nói:

– Từ thời Đường Huyền Tông, khi tổ tiên tới đây ẩn cư đã giới định ăn chay, con cháu không dám phá giới.

Kim Luân pháp vương chắp tay nói:

– Thì ra tôn phủ đã di cư đến đây từ thời Thiên Bảo, quả là lâu đời.

Cốc chủ chấp tay nói:

– Không dám!

Tiêu Tương Tử đột nhiên lên tiếng bằng một giọng rất lạ:

– Vậy là tổ tông các hạ từng gặp Dương quí phi cơ đấy?

Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây đã nghe quen giọng y, nay thấy lạ, đều quay nhìn mặt y, vừa nhìn đã giật mình, vì thấy sắc mặt y thay đổi hẳn, trông rất kỳ bí. Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh đều thầm lo ngại, nghĩ: “Thì ra người này nội công rất lợi hại, có thể đổi hẳn dung mạo. Y ngầm vận công, chắc là muốn gây khó dễ với cốc chủ”. Mấy người nghĩ vậy, đều ngầm phòng bị.

Chỉ nghe cốc chủ nói:

– Tệ tộc quả từng làm quan trong triều thời Đường Huyền Tông, khi thấy Dương Quốc Trung làm loạn triều chính, mới phẫn chí tới đây ẩn cư.

Tiêu Tương Tử cười hô hố, nói:

– Thế thì tổ tông các hạ từng uống nước rửa chân Dương quí phi rồi.

Câu này nói ra, mọi người cùng biến sắc. Câu nói hiển nhiên thách thức cốc chủ, đôi bên sắp động thủ đến nơi. Bọn Kim Luân pháp vương kinh ngạc, nghĩ: “Tiêu Tương Tử vốn thâm hiểm, mọi việc đều để kẻ khác đương đầu, sao hôm nay y lại xông ra trước thế này?”

Cốc chủ hoàn toàn không lý đến, lão lùn râu dài đứng bên cạnh nói to:

– Cốc chủ nể các vị là khách, dùng lễ đối đãi, sao các hạ lại nói năng bất nhã như vậy?

Tiêu Tương Tử lại cười hô hố, giọng quái dị, nói:

– Tổ tông các người nhất định từng uống nước rửa chân Dương quí phi, nếu không uống, ta sẽ cắt đầu nộp cho các người.

Mã Quang Tá lấy làm lạ, hỏi:

– Tiêu Tương huynh, sao huynh biết? Chẳng lẽ ngày ấy huynh cũng cùng uống với họ hay sao?

Tiêu Tương Tử cười hô hố, giọng nói lại thay đổi:

– Nếu không uống nước rửa chân để bị đau bụng, thì làm gì phải kiêng chất tanh?

Mã Quang Tá vỗ tay cười lớn, reo lên:

– Đúng, đúng lắm, thật là chí lý.

Bọn Kim Luân pháp vương cau mày, cảm thấy lời lẽ của Tiêu Tương Tử có phần quá đáng, chuyện ăn uống của mỗi người là thói quen riêng, không nên lấy ra giễu cợt. Huống hồ sáu người tự tiện xông vào u cốc, có định động thủ với đối phương, cũng chẳng nên cạn tàu ráo máng.

Lão lùn râu dài không thể nhịn thêm, bước ra giữa sảnh, nói:

– Tiêu Tương tiên sinh, chúng tôi ở đây không hề đắc tội với tiên sinh, tiên sinh muốn động thủ, thì mời lại đây.

Tiêu Tương Tử nói:

– Hay lắm!

Chỉ thấy thân hình y mang theo cái ghế bay qua chiếc bàn, hịch một tiếng, đã đáp xuống giữa sảnh, nói:

– Gã râu dài kia, tên ngươi là gì? Ngươi biết tên ta, ta vẫn chưa biết tên ngươi, động thủ như thế chẳng công bằng chút nào.

Câu này tựa hồ nửa có lý, nửa phi lý, càng khiến lão lùn râu dài tức giận, có điều thấy Tiêu Tương Tử nhấc ghế bay đổi chỗ vừa rồi quá linh hoạt phiêu dật, thật là phi phàm, thì tăng thêm sự đề phòng.

Cốc chủ nói:

– Thì cứ cho y biết tên, không sao.

Lão lùn râu dài nói:

– Ta họ Phàn, tên Nhất Ông, mời tiên sinh đứng dậy ban chiêu.

Tiêu Tương Tử nói:

– Ngươi sử dụng binh khí gì? Lấy ra cho ta coi cái đã.

Phàn Nhất Ông nói:

– Tiên sinh muốn xem binh khí ư, được thôi.

Bèn giậm chân phải xuống nền nhà, nói:

– Mang ra đây!

Hai đồng tử áo xanh liền chạy vào nội thất, khiêng ra một cây cương trượng đầu rồng dài chừng trượng mốt. Bọn Dương Quá kinh ngạc, nghĩ: “Binh khí dài và nặng thế kia, lão lùn râu dài làm sao sử dụng nổi kia chứ?” Tiêu Tương Tử chẳng buồn để ý, rút từ trong bọc ra một cái kéo to, nói:

– Ngươi có biết ta dùng cây kéo này làm gì không?

Mọi người thấy cái kéo thì lấy làm lạ, riêng Dương Quá cả kinh, chàng không cần sờ vào bọc, cũng biết là cái kéo của mình cất trong túi đã bị mất, chàng nghĩ: “Cái kéo kia là do lão thợ rèn họ Phùng rèn cho ta để chống lại cây phất trần của Lý Mạc Sầu, đêm qua Tiêu Tương Tử đã lấy trộm mà ta không hay biết có chết không?”

Phàn Nhất Ông nhận cây cương trượng, dộng xuống nền một cái, đại sảnh rất rộng, vậy mà một cái dộng ấy cũng gây chấn động mạnh, quả thực thanh thế phi phàm.

Tiêu Tương Tử tay phải cầm cái kéo, các ngón tay cử động mạnh mới có thể đóng mở hai lưỡi kéo, nói:

– Này gã râu dài, ngươi có biết cái kéo quí này của ta có tên là gì hay không?

Phàn Nhất Ông tức giận, nói:

– Thứ binh khí bàng môn tả đạo ấy, làm sao có tên gọi tao nhã được kia chứ.

Tiêu Tương Tử cười ha ha, nói:

– Không sai, cái tên đúng là không tao nhã, gọi là cái kéo cắt lông chó đấy.

Dương Quá hơi khó chịu, nghĩ bụng: “Cái kéo tử tế của ta, ai khiến hắn gán cho nó một cái tên khó nghe như vậy”.

Chỉ thấy Tiêu Tương Tử nói tiếp:

– Ta sớm biết ở đây có con quái vật lông dài, nên mới chế ra cái kéo cắt lông chó này để xén râu của ngươi đấy.

Mã Quang Tá và Ni Ma Tinh cười ồ lên, Doãn Khắc Tây và Dương Quá cũng không nhịn được, bật cười, chỉ riêng Kim Luân pháp vương ngồi đối diện với cốc chủ là thản nhiên. Hai người ấy coi như không thấy.

Phàn Nhất Ông giơ cây cương trượng, nói:

– Râu của ta cũng đã quá dài, tiên sinh muốn làm thợ cạo thì không còn gì hay bằng, xin mời!

Tiêu Tương Tử ngẩng nhìn cây xà ngang của đại sảnh, ngẩn ngơ xuất thần, tựa hồ không để ý đến lời Phàn Nhất Ông, đột nhiên cánh tay phải giơ ra nhanh như chớp, xoẹt một tiếng, cái kéo lớn chĩa tới bộ râu của Phàn Nhất Ông mà cắt. Phàn Nhất Ông không thể ngờ đối phương đang ngồi trên ghế mà lại xuất chiêu, trong lúc nguy cấp, vội chống cây trượng, tung người lộn một vòng lên cao hơn một trượng. Tiêu Tương Tử phát động tấn công cực nhanh, Phàn Nhất Ông cũng né tránh thần tốc, một cắt một né, hai cao thủ đã bộc lộ võ công thượng thừa. Phàn Nhất Ông bị đối phương xuất thủ bất ngờ, không kịp trở tay, tuy né được nhưng cũng bị Tiêu Tương Tử cắt mất ba sợi râu.

Tiêu Tương Tử đắc ý, tay trái giơ ba sợi râu, há miệng thổi phù một cái, ba sợi râu bay tới chén trà của y ở trên bàn, “choang” một tiếng, chén trà rơi xuống nền vỡ tan. Bọn Dương Quá thừa biết Tiêu Tương Tử thổi ba sợi râu chỉ là động tác giả, chén trà rơi vỡ là do luồng hơi mà y thổi tới. Mã Quang Tá thì không hiểu điều đó, cứ ngỡ ba sợi râu thổi đi mà có sức mạnh như thế, bèn reo to:

– Tiêu Tương Tử, huynh thổi râu lợi hại quá chừng!

Tiêu Tương Tử cười ha ha, đánh kéo tanh tách, nói:

– Ngươi có muốn thử cái kéo cắt lông chó của ta một lần nữa hay không?

Mọi người thấy Tiêu Tương Tử cười ha ha mà da mặt không hề rung động, thì càng kinh ngạc, nghĩ: “Nội công luyện tới cảnh giới thượng thừa, thì hỉ nộ không thể hiện ra sắc mặt. Hiện tại y cười vui mà vẻ mặt lại lầm lì đáng sợ thì quả là hiếm thấy!” Diện mạo như xác chết của y quả khó coi, mọi người chỉ nhìn qua lại quay mặt đi ngay.

Phàn Nhất Ông liên tiếp bị giễu cợt, thì cả giận, quay về phía cốc chủ, cúi mình nói:

– Sư phụ, đệ tử hôm nay không thể giữ lễ kính khách được nữa rồi.

Dương Quá lấy làm lạ: “Lão lùn này nhiều tuổi hơn hẳn cốc chủ, sao lại gọi cốc chủ là sư phụ?” Cốc chủ khẽ gật đầu, tay trái phẩy nhẹ. Phàn Nhất Ông vung cây cương trượng quét ngang qua cái ghế, lão tuy lùn, nhưng thần lực kinh người, cây trượng nặng hơn trăm cân tạo nên tiếng gió ù ù.

Bọn Dương Quá tuy đồng hành với Tiêu Tương Tử, nhưng chưa biết công phu đích thực của y thế nào, bèn ngưng thần quan sát hai người tỷ thí. Thấy cây trượng cách chân ghế chưa đầy nửa thước, thì Tiêu Tương Tử giơ tay trái chụp lấy cây trượng, tay phải lại chĩa kéo cắt râu. Phàn Nhất Ông cả giận, nghĩ: “Ngươi dám coi thường ta đến thế ư?” bèn hất đầu, quăng bộ râu dài sang một bên, cây trượng quật mạnh, trúng vào bàn tay của Tiêu Tương Tử. Mọi người cùng ồ lên, đứng dậy, những tưởng bàn tay của Tiêu Tương Tử thể nào cũng bị trọng thương. Phàn Nhất Ông cảm thấy cây trượng như đánh xuống nước, trôi đi tuồn tuột, thầm biết không ổn, vội rút cây trượng về, nào ngờ Tiêu Tương Tử lật cổ tay một cái, đã chộp lấy đầu cây trượng.

Phàn Nhất Ông cảm thấy đối phương kéo cây trượng đi, bèn tống mạnh về đàng trước; lực tống cực mạnh, chắc chắn Tiêu Tương Tử phải rời khỏi cái ghế. Không ngờ Tiêu Tương Tử kẹp luôn cả cái ghế xê dịch sang bên trái, cây trượng đẩy vào chỗ trống không, nhưng Tiêu Tương Tử cũng phải buông tay ra. Phàn Nhất Ông xoay tay trái qua đầu, đưa cây trượng xoay một vòng, đánh tới đầu đối phương. Tiêu Tương Tử cố ý đùa giỡn, kẹp cái ghế tung người lên cao hơn trượng, cây trượng phạt qua hạ bàn. Mọi người thấy công phu của Tiêu Tương Tử nhẹ nhàng lạ lùng, thân mình kẹp chiếc ghế mà cứ thanh thoát như không, thì bất giác reo lên.

Phàn Nhất Ông thấy đối phương bản lĩnh cao cường, phải toàn thần tiếp chiến, thầm biết muốn đánh trúng thân thể đối phương chẳng dễ chút nào; nhưng nếu đập nát được chiếc ghế của y, thì coi như chiếm lĩnh tiên cơ. Nào ngờ Tiêu Tương Tử võ công thần xuất quỷ nhập, tay phải cầm kéo cứ đánh tanh tách, đe dọa cắt xén bộ râu dài của Phàn Nhất Ông, tay phải thì sử thủ pháp cầm nã, mong đoạt lấy cây trượng. Hai người xoay tròn trong đại sảnh, phút chốc đã đấu mấy chục hiệp, tựa hồ ngang sức ngang tài, bất phân thắng bại. Kỳ thực Tiêu Tương Tử thân không rời ghế, chẳng coi đối phương ra gì. Bọn Kim Luân pháp vương thầm kinh hãi: “Ai ngờ cái gã quái vật giống xác chết này lại có bản sự như thế?”

Lại đấu vài hiệp, cây trượng của Phàn Nhất Ông quét ngang liên tiếp, Tiêu Tương Tử kẹp ghế vọt tránh lên xuống cứ như con choi choi, mỗi lúc một nhanh. Cốc chủ bỗng nói:

– Đừng đánh vào cái ghế, nếu không ngươi chẳng đối phó nổi đâu!

Phàn Nhất Ông ngẩn người, nghĩ: “Hắn ngồi ghế, mình còn cố đấu ngang ngửa với hắn. Nếu để hắn đứng dậy, e rằng chỉ sau vài chiêu, mình đã bị hắn cắt mất bộ râu”. Đột nhiên lão thay đổi trượng pháp, xoay như điên cây trượng xung quanh mình.

Cốc chủ thấy Tiêu Tương Tử cố ý đùa giỡn, đấu thêm một chút, Phàn Nhất Ông nhất định đại bại, bèn chậm rãi rời bàn, nói:

– Nhất Ông, ngươi không phải là đối thủ của vị cao nhân này đâu, hãy lui ra.

Phàn Nhất Ông nghe lệnh sư phụ, đáp:

– Vâng!

Lão định thu chiêu, lui ra, thì Tiêu Tương Tử kêu to:

– Không được, không được!

Rồi thân hình rời cái ghế, bay lên, tính chộp lấy thân cây trượng. Chỉ nghe “bộp” một tiếng, cái ghế bị cây trượng đánh vỡ nát, song thân cây trượng đã bị Tiêu Tương Tử dùng tay trái giữ chặt, rồi lấy chân trái đè lên, đồng thời cái kéo chĩa ra, chỉ cần bập hai lưỡi kéo vào nhau, là bộ râu dài của Phàn Nhất Ông sẽ tiêu ma.

Ai ngờ Phàn Nhất Ông nuôi bộ râu dài là để sử dụng nó như một loại binh khí mềm lợi hại, cách dùng giống như nhuyễn tiên, vân trửu, liên tử chùy. Chỉ thấy Phàn Nhất Ông hơi lắc đầu, bộ râu dài đã cuốn lại, không chỉ thoát ra khỏi lưỡi kéo, mà còn quấn lấy nó, cái đầu ngửa ra phía sau, cái kéo đã bị đoạt đi rất mạnh. Tiêu Tương Tử kêu to:

– Úi chao, lão lùn râu dài, bộ râu của ngươi lợi hại quá chừng, ta phục ngươi đó!

Một tay y giữ cái kéo đang bị kéo đi, một tay giữ cây trượng, nhất thời do dự chưa quyết, miệng cười hô hô, nói:

– Thú vị thật, thú vị thật!

Đột nhiên có một cái bóng xám từ cửa sảnh vụt vào cực nhanh, song chưởng cùng đánh tới sau lưng Tiêu Tương Tử. Cốc chủ quát:

– Ai đó?

Nhìn kẻ đánh lén vừa nhanh vừa mạnh, thế tất đắc thủ, Tiêu Tương Tử tay trái buông cây trượng, đánh bên dưới cùi chỏ, hóa giải ngay chưởng lực của kẻ đánh lén. Kẻ đó giận dữ nói:

– Tên quái tặc, ta quyết sống mái với ngươi!

Bọn Dương Quá nhìn kẻ đó, cùng sửng sốt kêu lên:

– Tiêu Tương Tử!

Thì ra người tiến vào đánh lén cũng chính là Tiêu Tương Tử. Tại sao một gã Tiêu Tương Tử lại hóa thành hai? Tại sao gã lại tấn công hóa thân của mình? Mọi người nhất thời chưa hiểu ra sao.

Nhìn kỹ lại, người vừa tỷ thí với Phàn Nhất Ông rõ ràng trang phục hệt như Tiêu Tương Tử, bộ mặt tuy cũng ngay đơ như xác chết, nhưng tướng mạo thì không giống Tiêu Tương Tử. Kẻ vừa tiến vào mặt mũi đúng là Tiêu Tương Tử, nhưng lại mặc bộ đồ màu xanh như người trong sơn cốc. Hai tay gã như hai bộ vuốt chim, chộp tới bối tâm của Tiêu Tương Tử, miệng quát:

– Giở trò ám toán có đáng mặt anh hùng hảo hán hay không?

Phàn Nhất Ông thấy người tới giúp tuy mặc quần áo như người trong sơn cốc, nhưng không quen mặt, thì lấy làm lạ, xách cây trượng lùi sang một bên, nhìn hai người như hai tử thi kia đấu với nhau ù ù ào ào.

Dương Quá lúc này đoán rằng người sử dụng chiếc kéo kia chắc hẳn đã lấy trộm cái mặt nạ của chàng mà đeo lên mặt, lại đánh tráo bộ quần áo của Tiêu Tương Tử để lọt vào đại sảnh. Vì mặt mũi của Tiêu Tương Tử bình thường trông như xác chết, nên thoạt đầu không ai nhận biết. Dương Quá cũng có lần mang mặt nạ, khi ấy diện mạo của mình ra sao, chàng không thể biết; còn khi Trình Anh mang mặt nạ, thì chàng cũng không để ý, không dám nhìn kỹ, nên đã bị lừa.

Chàng chăm chú quan sát một lát, nhận ra võ công của người sử dụng chiếc kéo, liền gọi:

– Chu Bá Thông, hãy trả lại cho vãn bối cái mặt nạ và chiếc kéo.

Nói rồi chàng nhảy ra giữa sảnh, giơ tay đoạt lại chiếc kéo.

Người kia chính là Chu Bá Thông. Lão đã sơ ý, để bốn đệ tử của Tuyệt Tình cốc dùng lưới đánh cá bắt giữ. Nhưng lão thần thông quảng đại, bốn người kia chỉ sơ ý một chút, đã bị lão phá lưới thoát đi. Lão nấp sau mái đá, định gây náo loạn sơn cốc một phen, vừa hay thấy bọn Dương Quá sáu người tới đây. Đợi đêm khuya, lão mò vào điểm huyệt Tiêu Tương Tử, vác y ra khỏi thạch thất, cởi lấy quần áo của y mặc vào người mình. Khinh công của Chu Bá Thông cao siêu, nên bọn Kim Luân pháp vương cố nhiên không hay biết gì. Mặc quần áo xong, Chu Bá Thông mò vào thạch thất nằm cạnh Dương Quá, tiện tay thó luôn chiếc kéo và cái mặt nạ của chàng. Sáng nay mọi người tỉnh dậy, cố nhiên không ai phát giác được gì.

Tiêu Tương Tử bị điểm huyệt, vội vận nội lực tự thông, nhưng thủ pháp điểm huyệt của Chu Bá Thông lợi hại, sau ba canh giờ tứ chi mới có thể vận động như ý. Lúc ấy trên người y chỉ có độc chiếc quần lót. Y cả giận, chờ khi có một đệ tử của Tuyệt Tình cốc đi qua, y đánh ngã người đó, lấy quần áo mặc vào, chạy đi tìm, tới đây thì thấy kẻ mặc quần áo của y đang tỷ thí với Phàn Nhất Ông, y tức quá liền xông vào tung cả hai chưởng một lúc.

Chu Bá Thông thấy Dương Quá nhảy ra đoạt cái kéo, bèn vận dụng tuyệt kỹ hai tay đánh hai phía khác nhau, tay trái lúc co lúc duỗi đối phó với Dương Quá; tay phải cầm kéo đánh tanh tách, không cho Tiêu Tương Tử lại gần. Cái kéo to, khi hai lưỡi kéo mở ra, phải rộng đến hai thước; để cái đầu lọt vào đó, lưỡi kéo bập vào, thì đầu lìa khỏi cổ như bỡn, vì vậy Tiêu Tương Tử không dám mạo hiểm tới gần.

Công Tôn cốc chủ thấy Chu Bá Thông đấu với Phàn Nhất Ông, đã thầm kính phục; lúc này thấy Chu Bá Thông hai tay đấu riêng với hai người, như thể một người phân thân thành hai, cảm thấy gần giống với công phu “Âm dương song nhẫn” sở học của mình, nhưng quả thật làm sao có thể cùng lúc làm hai việc khác nhau kia chứ? Lại thấy Tiêu Tương Tử song trảo như hai cái móc sắt, xuất chiêu tàn độc; Dương Quá thì xuất chiêu ung dung nhàn nhã, động tác tay chân phiêu diêu thoát tục, nghĩ thầm: “Thiên hạ rộng lớn, quả lắm nhân tài. Hai lão nhân cố nhiên quá giỏi, gã thiếu niên kia công lực tuy nông, song thân pháp quyền cước thật uyển chuyển thanh thoát”. Bèn cao giọng nói:

– Thỉnh ba vị dừng tay.

Dương Quá và Tiêu Tương Tử cùng nhảy về phía sau, Chu Bá Thông lột mặt nạ ra, ném luôn cùng với cây kéo về phía Dương Quá, nói:

– Đùa thế đủ rồi, ta đi đây!

Nói xong lão nhún chân, vọt ngay lên cái xà nhà. Các đệ tử sơn cốc thấy lão để lộ bản lai diện mục, đều kinh ngạc. Công Tôn Lục Ngạc kêu lên:

– Cha ơi, lão già ấy đấy!

Chu Bá Thông ngồi ngang trên xà nhà, cười ha hả, cái xà nhà cách mặt đất hơn ba trượng, trong đại sảnh có nhiều hảo thủ, nhưng ai nấy tự thẹn không thể vọt lên trên đó. Phàn Nhất Ông là đại đệ tử của chưởng môn ở Tuyệt Tình cốc, võ công chỉ đứng sau Công Tôn cốc chủ, hôm nay liên tiếp bị Chu Bá Thông đùa cợt, bảo sao không tức? Phàn Nhất Ông thấp lùn, giỏi thuật leo trèo, lão bám cột mà leo lên thoăn thoắt như một con vượn. Chu Bá Thông khoái nhất khi có người đùa giỡn với lão. Thấy Phàn Nhất Ông leo lên, rất hợp ý mình, không đợi lão ta leo đến cây xà ngang, bèn chìa tay đón lên.

Phàn Nhất Ông đâu biết thiện chí của Chu Bá Thông, thấy lão nhân chìa tay, lại búng ngón tay vào huyệt Đại Lăng ở cổ tay Chu Bá Thông. Chu Bá Thông hơi có cảm giác tưng tức ở cổ tay, bèn lập tức bế huyệt, thả lỏng các cơ. Phàn Nhất Ông ngón tay như búng vào lớp bông mềm, vội thu tay về. Chu Bá Thông vỗ vào mu bàn tay Phàn Nhất Ông “bộp” một cái, miệng hát:

– Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa…

Phàn Nhất Ông cả giận, hất đầu một cái, bộ râu dài quất tới ngực Chu Bá Thông. Chu Bá Thông nghe tiếng gió quạt mạnh, bèn đạp chân trái, tay trái ôm xà ngang, toàn thân treo lơ lửng, đưa người đánh đu như đưa võng.

Tiêu Tương Tử biết Phàn Nhất Ông không phải là đối thủ của Chu Bá Thông, y có liên thủ với lão lùn râu dài, cũng khó lòng đánh thắng, bèn quay sang nói với Ni Ma Tinh và Mã Quang Tá:

– Ni, Mã nhị huynh, hắn ta không coi sáu huynh đệ chúng ta ra gì, thật là khinh người quá đỗi.

Ni Ma Tinh tính thô bạo, dễ bị kích động; Mã Quang Tá thì đầu óc đần độn, không phân phải trái, nghe câu “hắn ta không coi sáu huynh đệ chúng ta ra gì”, liền cho là đúng, gầm gừ, nhún mình nhảy lên tóm chân Chu Bá Thông. Chu Bá Thông đá từng chân vào bàn tay của hai gã Ni, Mã.

Tiêu Tương Tử lạnh lùng nhìn Doãn Khắc Tây, nói:

– Doãn huynh, huynh cứ khoanh tay đứng nhìn thôi sao?

Doãn Khắc Tây mỉm cười, nói:

– Tiêu Tương huynh cứ lên trước, tiểu đệ sẽ theo sau.

Tiêu Tương Tử gầm một tiếng lạ, rung chuyển bốn bức tường, đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân thẳng đuột, toàn thân dưới thẳng như khúc gỗ, hai tay thúc lên bụng Chu Bá Thông.

Chu Bá Thông thấy vậy, hơi co mình, thân cong cong thành hình cầu, đổi tay ôm xà ngang từ tay trái sang tay phải. Tiêu Tương Tử chộp không được, rơi xuống, thân hình vẫn cứng đơ như một khúc gỗ, chân chạm đất lại bật lên. Phàn Nhất Ông ở trên xà ngang quăng râu qua, Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh và Mã Quang Tá ba người cứ thay nhau nhảy lên rơi xuống, liên tiếp tấn công.

Doãn Khắc Tây cười, nói:

– Chu lão quả nhiên thân thủ bất phàm, tại hạ cũng phải góp vui một chút.

Gã thò tay vào túi, đột nhiên trong sảnh loang loáng ánh sáng vàng bạc. Tay Doãn Khắc Tây cầm một cây nhuyễn tiên tết bằng các sợi vàng sợi bạc, đính theo nhiều hạt ngọc. Thứ binh khí hoa mỹ đắt đỏ thế này, e rằng trong võ lâm là độc nhất vô nhị. Cây nhuyễn tiên ấy cứ đánh tới tấp vào bắp chân của Chu Bá Thông.

Dương Quá nhìn rất thú vị, nghĩ: “Năm người kia ai nấy hiển lộ thần thông vây Lão Ngoan đồng, mình cũng phải xuất kỳ chế thắng mới được”. Nghĩ vậy, bèn đeo mặt nạ vào, bắt chước Tiêu Tương Tử cũng gầm lên một tiếng, nhặt cây trượng mà Phàn Nhất Ông quẳng dưới đất, dùng nó làm cây chống, đu mình lên cao ngang đầu Chu Bá Thông, nói to:

– Lão Ngoan đồng, nhìn kéo đây!

Chàng giơ kéo cắt râu Chu Bá Thông.

Chu Bá Thông cả mừng, nghiêng đầu tránh lưỡi kéo, nói:

– Tiểu huynh đệ, trò chơi của ngươi rất thú vị.

Dương Quá nói:

– Lão Ngoan đồng, vãn bối không hề đắc tội với lão, tại sao lão giễu cợt vãn bối?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Có đi có lại, ngươi không thiệt chút nào, còn được lợi cơ đấy.

Dương Quá ngẩn người, hỏi:

– Có đi có lại là thế nào?

Chu Bá Thông cười:

– Hiện tại ta có một trò chơi, chưa thể cho ngươi biết được.

Thấy ngọn nhuyễn tiên của Doãn Khắc Tây đánh tới, Chu Bá Thông bèn giơ tay chộp. Ngọn nhuyễn tiên của Doãn Khắc Tây cuộn lại, định quất vào mu bàn tay của lão, nhưng thân hình gã đã rơi xuống đất.

Chu Bá Thông nói:

– Món đồ chơi như con rắn cạp nong cạp nia này cũng thú đấy.

Lúc ấy bộ râu dài của Phàn Nhất Ông quăng tới, lão ta hai tay giữ xà ngang, dùng bộ râu của mình tấn công.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Bộ râu dài hóa ra cũng đắc dụng!

Lão bắt chước, cũng dùng bộ râu của mình quất đi, nhưng bộ râu của lão ngắn hơn hẳn bộ râu của Phàn Nhất Ông, lại chưa từng luyện công phu, nên vô dụng; chỉ nghe “bạch” một tiếng, bộ râu của Phàn Nhất Ông đánh trúng vào một bên má lão, má lập tức đỏ bừng thành vết rát bỏng; nếu nội lực không thâm hậu, thì lão đã ngất xỉu rồi.

Lão Ngoan đồng bị đòn nhưng không tức giận, lại còn thán phục, nói:

– Gã râu dài kia, râu ta không bằng ngươi, ta chịu thua rồi, hai ta khỏi cần đấu thêm.

Phàn Nhất Ông một chiêu đắc thủ, tưởng ngon không lui, lại quăng râu đánh tới. Chu Bá Thông không dám dùng râu đối chiến, tay trái sử chiêu “Không Minh quyền” tung ra một quả đấm, quyền phong đẩy bộ râu của Phàn Nhất Ông sang bên phải, vừa hay Mã Quang Tá nhảy lên, bộ râu quất trúng luôn mặt hắn.

Mã Quang Tá hai tay chộp lấy bộ râu, Phàn Nhất Ông cố giằng lại, Mã Quang Tá cứ tóm chặt không buông, thế là cả hai cùng rơi xuống đất.

Mã Quang Tá da thịt thô dày, bị ngã cũng không đau lắm. Phàn Nhất Ông nằm đè bên trên, giận dữ nói:

– Ngươi làm trò gì vậy, còn chưa buông tay?

Mã Quang Tá ngã tuy không đau, nhưng bị hai chân Phàn Nhất Ông đạp lên bụng, rất khó chịu, cũng tức giận quát:

– Ta không buông đấy, lão làm gì được nào?

Nói rồi dùng cánh tay lực lưỡng quấn luôn mấy vòng bộ râu. Phàn Nhất Ông đánh một chưởng, Mã Quang Tá né đầu tránh, ai ngờ đó chỉ là hư chiêu, Phàn Nhất Ông tay trái giáng ngay một quyền trúng sống mũi đối phương. Mã Quang Tá khịt mũi ầm ĩ, đánh trả một quyền. Nói về võ công, Phàn Nhất Ông vốn cao hơn hẳn, nhưng bộ râu bị quấn vào cánh tay đối phương, khó bề di chuyển, nên bị trúng quyền của đối phương vào mặt. Hai người một cao một lùn, nằm dưới đất mà đánh nhau; Phàn Nhất Ông tuy nằm trên, nhưng bộ râu bị vướng vào tay đối phương, không thoát ra được.

Kim Luân pháp vương nhìn cảnh hỗn loạn trong đại sảnh, sáu người đồng hành thì năm người đã xuất thủ, nếu không hạ nổi một mình Lão Ngoan đồng, thì mất cả thể diện, liền rút từ trong bọc ra một cái ngân luân, một cái đồng luân, nghe kính coong kính coong, một cái đánh từ trái sang phải, một cái đánh từ phải sang trái, tạo thành hai hình vòng cung tập kích Chu Bá Thông. Song luân xé gió bay đi, nghe rợn người.

Chu Bá Thông không biết lợi hại, nói:

– Vật gì thế nhỉ?

Lão giơ tay bắt. Dương Quá kêu to:

– Đừng bắt!

Chàng lẳng cây cương trượng đón đầu, choang một tiếng lớn, chiếc đồng luân đụng vào cương trượng, bay vào góc tường đá, các tia lửa và vụn đá văng ra tung tóe. Chiếc đồng luân bay vòng trở lại, Kim Luân pháp vương hất tay trái một cái, chiếc đồng luân lại bay về phía xà nhà.

Chu Bá Thông đã biết lão hòa thượng kia không đùa, thiết nghĩ cả bọn liên thủ với nhau, một mình lão khó địch nổi, bèn lộn một vòng xuống đất, nói:

– Các vị, Lão Ngoan đồng thất bồi, ngày mai chúng ta hãy lại chơi tiếp.

Nói xong lão chạy ra cửa sảnh, chỉ thấy bốn gã áo xanh đã chăng sẵn lưới bên ngoài. Chu Bá Thông đã nếm mùi lưới hôm qua, kêu lên:

– Nguy rồi!

Lão xoay người phóng ra cửa sổ phía đông, thấy mấy cái bóng xanh chao động, một tấm lưới khác sắp chụp tới. Chu Bá Thông vội nhảy trở vào giữa sảnh, thấy bốn phía đông nam tây bắc đều có lưới đón sẵn, bèn nhảy trở lên xà nhà, một chiêu “Xung thiên chưởng” làm cho mái nhà thủng một lỗ lớn, vừa nhô đầu định vọt lên, thấy trên đó cũng có lưới chăng sẵn. Lão không còn đường thoát, nhảy xuống đất, chỉ mặt cốc chủ cười, nói:

– Lão mặt vàng kia, ngươi giữ chân ta làm gì, muốn ta chơi đùa với ngươi ư?

Công Tôn cốc chủ thản nhiên nói:

– Chỉ cần lão để lại bốn thứ đã lấy, sẽ lập tức cho lão ra khỏi sơn cốc.

Chu Bá Thông ngạc nhiên:

– Ơ hay, ta lấy mấy thứ thối tha của nhà ngươi làm gì? Dẫu có luyện được cái bản lĩnh như nhà ngươi, tưởng đã hiếm lắm sao?

Công Tôn cốc chủ thong thả bước ra giữa sảnh, dùng tay phải phẩy phẩy bụi trên áo, lại dùng tay trái phẩy phẩy bụi, nói:

– Không phải hôm nay là ngày đại hỉ của ta, thì ta đã lĩnh giáo lão vài chiêu. Lão hãy để lại mấy thứ của sơn cốc, rồi rút đi cho thì hơn.

Chu Bá Thông cả giận, cao giọng:

– Nói thế, tức là nhà người bảo ta lấy trộm đồ vật của ngươi. Hừ, cái xó cùng cốc này có bảo bối quái gì kia chứ?

Nói xong lão cởi bỏ quần áo ra, động tác chân tay cực lẹ, trong giây lát đã trần như nhộng. Công Tôn cốc chủ luôn miệng quát dừng, nhưng Chu Bá Thông chẳng thèm nghe, cứ cởi tuốt tuột. Mấy nữ đệ tử trong sảnh xấu hổ ngoảnh cả đi, không dám nhìn lão.

Hành động ấy cũng thật bất ngờ đối với cốc chủ. Bốn thứ của hắn bị mất trong đan phòng, thư phòng, kiếm phòng và phòng Linh Chi đều là những vật quan trọng, không thể không truy tìm, chẳng lẽ Lão Ngoan đồng không lấy trộm thật sao?

Công Tôn cốc chủ đang ngẫm nghĩ, Chu Bá Thông đã vỗ tay, nói:

– Ta thấy nhà ngươi đã ngần này tuổi, sao lại không biết tôn kính lão nhân? Nói năng không lựa lời, hành sự lỗ mãng, trước mặt bao nhiêu người mà cứ phô cái xấu ra, chẳng để cho thiên hạ chê cười hay sao?

Mấy câu này lẽ ra dùng để trách chính lão mới phải, không ngờ lão lại cướp lời nói trước, khiến Công Tôn cốc chủ cũng phải phì cười, chả biết đối đáp thế nào. Nhìn Phàn Nhất Ông vẫn đang đánh nhau với Mã Quang Tá ở dưới đất, Công Tôn cốc chủ quát:

– Nhất Ông, đừng gây náo loạn với khách nhân nữa.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Gã râu dài kia, tính nết ngươi ta đây rất khoái; hai ta kết giao với nhau được đấy.

Kỳ thực Phàn Nhất Ông một đời đoan trang ổn trọng, hôm nay đánh lộn với Mã Quang Tá thật là bất đắc dĩ, đã mấy lần định chấm dứt, ngặt nỗi bộ râu dài bị đối phương quấn vào tay mấy vòng rồi, lão muốn thoát ra cũng chẳng xong.

Công Tôn cốc chủ hơi cau mày, chỉ Chu Bá Thông, nói:

– Nói về chuyện trước mặt bao nhiêu người mà cứ phô cái xấu ra, để cho thiên hạ chê cười, chỉ e là chính các hạ đó.

Chu Bá Thông nói:

– Ta ở trong bụng mẹ chui ra như thế nào, thì bây giờ vẫn trong trắng y nguyên như thế, có gì là xấu? Còn nhà ngươi, đã già rồi lại còn lấy một thiếu nữ xinh đẹp làm vợ, hì hì, mới đáng bị chê cười!

Mấy câu này như búa giáng vào ngực cốc chủ, sắc mặt vàng vọt của y hơi đỏ lên, hồi lâu y vẫn chưa nói nên lời.

Chu Bá Thông bỗng kêu:

– Ối chao, quên mất, không mặc quần áo, lạnh quá.

Đột nhiên lão phóng ra cửa sảnh.

Bốn gã áo xanh thấy một bóng người vụt đi, vội di động phương vị, bốn góc lưới cùng nhấc bổng lên, hốt lão vào trong lưới. Chỉ cảm thấy kẻ sa lưới giãy giụa rất mạnh, bốn người gộp lại, kết lưới, khiêng đến trước mặt cốc chủ. Loại lưới này đan bằng các sợi kim loại dẻo cực bền, đao kiếm chặt không đứt. Thủ pháp chăng lưới, kéo lưới của bốn người vô cùng lanh lẹ, cao thủ giỏi mấy cũng khó bề đối phó. Bốn người vừa kéo lưới thành công, hết sức đắc ý nhưng thấy cốc chủ đang chăm chú nhìn vào trong lưới đột nhiên nhăn mặt, cũng nhìn vào đấy, thì lập tức vã mồ hôi lạnh, cuống quít gỡ lưới thả hai người ra, chính là Phàn Nhất Ông và Mã Quang Tá.

Nguyên Chu Bá Thông cởi hết quần áo rồi, chẳng ai ngờ lão chưa mặc lại quần áo mà đã phóng đi. Thân pháp của lão quá nhanh, lão đã ôm xốc Phàn, Mã hai người nằm dưới đất mà quăng vào lưới, bốn đệ tử kia vội nhấc lưới lên, lão liền thừa cơ thoát ra.

Hành động nửa thực nửa hư, dương đông kích tây, đúng là xuất quỉ nhập thần.

Lão Ngoan đồng gây náo loạn, Công Tôn cốc chủ quả thật mất mặt, ngay cả bọn Kim Luân pháp vương cũng có phần ngượng ngùng, đều nghĩ: cũng đòi là nhất lưu hảo thủ trong võ lâm, hợp lực từng ấy người vẫn chẳng làm gì nổi một lão già điên điên khùng khùng. Chỉ riêng Dương Quá mừng thầm. Đối với Chu Bá Thông, chàng hết sức thán phục, nghĩ nếu lão bị bắt, chàng nhất định sẽ tìm cách cứu ra; bây giờ lão tự thoát đi rồi, thì không còn gì hay bằng.

Kim Luân pháp vương vốn định tra tìm lai lịch cốc chủ, nhưng sau một phen Chu Bá Thông gây náo loạn, cảm thấy có ở đây thêm cũng chỉ vô nghĩa, lão bàn riêng đôi câu với Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây, rồi đứng dậy, chắp tay nói:

– Đa tạ thịnh tình tiếp đãi của cốc chủ, cũng định học hỏi thêm, nhưng chúng tại hạ ai cũng có việc, vậy xin cáo biệt.

Công Tôn cốc chủ vốn nghi sáu người cùng phe cánh với Lão Ngoan đồng, sau thấy Tiêu Tương Tử ác đấu sống còn với Lão Ngoan đồng, rồi Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây, Mã Quang Tá và Dương Quá cùng hợp lực thi triển tuyệt kỹ công kích lão ta, có ý giúp mình, bèn chắp tay nói:

– Tiểu đệ có một thỉnh cầu, không biết sáu vị có đáp ứng cho chăng?

Kim Luân pháp vương nói:

– Nếu vừa sức, chúng tại hạ chẳng từ nan.

Công Tôn cốc chủ nói:

– Chiều nay, tiểu đệ làm lễ tục huyền, kính mời các vị đại giá tham dự. Nơi đây xa lánh quạnh hiu, mấy trăm năm hiếm có người ngoài đặt chân, hôm nay được cả sáu vị quí khách cùng giáng lâm, thật là tam sinh hữu hạnh cho tiểu đệ.

Mâ Quang Tá hỏi:

– Có rượu uống chứ?

Công Tôn cốc chủ định trả lời, bỗng thấy Dương Quá cứ nhìn trân trân ra bên ngoài sảnh, vẻ mặt kỳ quái, nửa như cả mừng, nửa như đau khổ. Ai nấy kinh ngạc, nhìn theo ánh mắt chàng, chỉ thấy có một bạch y thiếu nữ đang thong thả đi ngoài hành lang, ánh nắng nhạt chiếu vào khuôn mặt trắng xanh của nàng, lạnh lùng như thể ánh nắng đã biến thành ánh trăng. Mắt nàng long lanh ngấn lệ, đi được vài bước thì có hai giọt lệ lăn trên má. Nàng bước đi nhẹ nhàng, thân hình như lướt trên mặt nước, trước sau không hề nhìn vào trong đại sảnh.

Dương Quá như người bị điểm huyệt, toàn thân đờ đẫn, đột nhiên chàng gọi to:

– Cô cô!

Bạch y thiếu nữ đã đi tới cuối hành lang, nghe tiếng gọi, thân hình chấn động, nói nhỏ:

– Quá nhi, Quá nhi, Quá nhi ở đâu? Quá nhi gọi ta phải không?

Nàng ngoảnh đầu, tựa hồ tìm cái gì, nhưng ánh mắt mơ hồ xa xăm như thể đang mơ.

Dương Quá từ trong sảnh chạy bổ ra, nắm lấy tay Bạch y thiếu nữ, nói:

– Cô cô, cô cô cũng đến đây ư? Ta tốn bao công sức tìm kiếm cô cô!

Rồi chàng kêu “Ối!” một tiếng, đầu ngón tay bị gai hoa Tình đâm chợt đau nhói lên ghê gớm.

Bạch y thiếu nữ thốt lên một tiếng “Ôi”, người run rẩy, phải ngồi bệt xuống đất, nhắm hai mắt lại như bị ngất đi. Dương Quá gọi:

– Cô cô, cô… cô cô sao thế?

Lát sau, bạch y thiếu nữ từ từ mở mắt, đứng dậy, nói:

– Các hạ là ai? Các hạ gọi tôi là gì vậy?

Dương Quá cả kinh, nhìn nàng chằm chằm, chính là Tiểu Long Nữ đây chứ ai? Vội nói:

– Cô cô, Quá nhi đây mà, tại sao… sao cô cô lại không nhận ra ta kia chứ? Cô cô vẫn khỏe chứ? Trên người có chỗ nào bị đau hay không?

Bạch y thiếu nữ nhìn chàng lần nữa, lạnh lùng nói:

– Ta không quen biết các hạ.

Nói xong đi vào đại sảnh, ngồi xuống bên cạnh Công Tôn cốc chủ. Dương Quá ngỡ ngàng, hoang mang đi vào theo, một tay phải tựa vào lưng ghế.

Công Tôn cốc chủ sắc diện vốn lãnh đạm, lúc này bất giác hoan hỉ, chìa tay về phía các vị khách, nói:

– Đây là tân hôn phu nhân của tiểu đệ, chiều nay sẽ làm lễ thành thân.

Nói đoạn liếc một cái về phía Dương Quá, tựa hồ trách chàng vừa rồi hành sự thô lỗ, nhận lầm người, làm cho tân phu nhân của y hoảng sợ.

Dương Quá càng kinh hãi hết mức, nói to:

– Cô cô, chẳng lẽ cô cô… cô cô không phải là Tiểu Long Nữ ư? Chẳng lẽ cô cô không phải là sư phụ của ta ư?

Bạch y thiếu nữ chậm rãi lắc đầu, nói:

– Không phải! Tiểu Long Nữ là ai?

Dương Quá hai tay nắm chặt lại, móng tay hằn sâu vào lòng bàn tay, đầu óc rối loạn, nghĩ: “Cô cô giận ta, không chịu nhận ta ư? Chỉ vì chúng ta lâm vào hiểm địa, cô cô phải giả bộ thế chăng? Hay là nàng cũng bị bệnh như nghĩa phụ ta, quên hết mọi việc rồi? Nhưng nghĩa phụ vẫn biết nhận ra ta kia mà. Không lẽ trên thế gian lại có người giống nàng như đúc thế sao?” Chàng chỉ biết nói:

– Cô cô… cô cô… cô cô… ta là Quá nhi đây!

Công Tôn cốc chủ thấy Dương Quá thất thần, thì hơi cau mày, nói khẽ với Bạch y thiếu nữ:

– Liễu muội, hôm nay thật lắm người kỳ quái.

Bạch y thiếu nữ chẳng nói gì, lẳng lặng rót nước trắng, thong thả uống, mắt nhìn lướt qua Kim Luân pháp vương, tránh không nhìn Dương Quá. Mọi người thấy ống tay áo của nàng run run, nước trong chén sóng sánh rơi xuống vạt áo mà nàng không biết.

Dương Quá bàng hoàng thảng thốt, quay sang nói với Kim Luân pháp vương:

– Sư phụ tại hạ từng tỷ thí với đại sư, đại sư nhất định còn nhớ. Đại sư thử nói coi, tại hạ có nhận lầm người hay không?

Khi bạch y thiếu nữ bước vào sảnh, Kim Luân pháp vương đã nhận ngay ra nàng là Tiểu Long Nữ, song thấy nàng chẳng lý gì tới Dương Quá, lão đoán đôi nam nữ thiếu niên này có chuyện không ổn với nhau, bèn mỉm cười, nói:

– Lão nạp cũng không nhớ lắm.

Tiểu Long Nữ từng liên thủ với Dương Quá sử “Ngọc nữ kiếm pháp” khiến lão bị đại bại chưa từng thấy trong đời. Lão nghĩ nếu đôi trai gái này không nhìn mặt nhau nữa, sẽ chỉ có lợi cho lão, tội gì giúp họ làm lành với nhau?

Dương Quá kinh ngạc, chợt hiểu, thầm nổi giận: “Lão hòa thượng này quá thâm độc. Khi lão đang dưỡng thương trên đỉnh núi, ta đã dốc sức giúp lão, bây giờ lão trở mặt hại ta”. Chàng căm hận muốn giết chết lão ta.

Kim Luân pháp vương thấy Dương Quá thất thần lạc phách, ánh mắt lộ rõ vẻ căm hận, thì nghĩ: “Hắn căm tức ta, để tên tiểu tử này sống chỉ lưu hậu họa. Hôm nay hắn rối loạn tâm trí, đúng là dịp tốt để trừ khử hắn”. Lão chắp tay vui vẻ nói với Công Tôn cốc chủ:

– Hôm nay may gặp ngày đại hỉ của cốc chủ, tất nhiên lão nạp ở lại dự lễ chúc mừng; chỉ hiềm lão nạp và nấy vị bằng hữu đây không kịp sửa lễ chúc mừng, nghĩ thật áy náy.

Công Tôn cốc chủ thấy lão chịu ở lại dự lễ, thì rất mừng, nói với bạch y thiếu nữ:

– Các vị đây đều là cao nhân trong võ lâm, chỉ cần mời được một vị đã đại vinh hạnh, huống hồ mời được những… những…

Y định nói “những sáu vị”, nhưng cảm thấy Dương Quá ít tuổi non nớt, ban nãy nhìn chàng động thủ với Chu Bá Thông, tư thế tuy đẹp, nhưng công lực tầm thường, nghĩ tu vi võ học non kém, chưa thể xếp hạng “cao nhân võ lâm”; nhưng nếu gạt chàng ra, nói rõ “năm vị”, thì không khỏi lộ liễu, sau một lát trù trừ, bèn tiếp:

– Những mấy vị anh hùng.

Kim Luân pháp vương nghĩ: “Gã cốc chủ khá lợi hại, cứ xem gã bày trận chăng lưới bắt Lão Ngoan đồng, đủ biết võ công và mưu trí của gã đều cao siêu, nhưng độ lượng lại hẹp hòi. Dương Quá nói vài câu với Tiểu Long Nữ, gã đã để bụng”.

Công Tôn cốc chủ nói:

– Liễu muội, vị này là Kim Luân pháp vương…

Y dẫn kiến lần lượt từng người, cuối cùng đến Dương Quá. Bạch y thiếu nữ nghe họ tên, danh hiệu từng người đều gật đầu nhẹ, sắc mặt thản nhiên, cơ hồ không lưu tâm; nghe tên Dương Quá, nàng chẳng buồn gật đầu, mắt thì lơ đãng nhìn ra ngoài sảnh.

Dương Quá đỏ bừng cả mặt, trong lòng ngổn ngang, Công Tôn cốc chủ nói gì, chàng đều không hiểu. Bọn Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây không biết nội tình, ngỡ chàng nhận lầm người nên xấu hổ.

Công Tôn Lục Ngạc đứng sau lưng phụ thân, mọi cử chỉ lời lẽ của Dương Quá, nàng không hề bỏ sót, nghĩ: “Sáng sớm nay ngón tay chàng bị gai hoa Tình; nhìn bộ dạng này, không lẽ kế mẫu của ta lại là ý trung nhân của chàng hay sao? Thiên hạ sao lại có sự tình cờ lạ lùng đến thế? Không lẽ chàng cùng mấy người kia đến sơn cốc là để tìm kế mẫu của ta?” Nàng liếc nhìn “kế mẫu” thì thấy người ấy chẳng có gì vui mừng hoặc e thẹn như một cô dâu, nên nàng càng nghi ngờ.

Dương Quá đau đớn trong lòng, nhưng lại nghĩ: “Cô cô đã cố ý không nhận ta, chắc hẳn nàng có mưu đồ gì đó, ta cần tìm cách nắm được chân tướng”. Thế là chàng bèn đứng dậy, vái cốc chủ một vái, nói:

– Tiểu tử có một người bà con diện mạo rất… rất giống vị cô nương này, vừa rồi nhận lầm người, mong lượng thứ cho.

Công Tôn cốc chủ nghe câu nói lễ độ, liền thay đổi ngay vẻ mặt, cũng vái đáp lễ, nói:

– Nhận lầm người là chuyện thường, không có gì đáng trách. Có điều…

Y dừng giây lát, rồi cười, nói tiếp:

– Thiên hạ lại có một người giống hệt như nàng, thì thật quái lạ.

Ngụ ý của y là khắp thiên hạ không thể có thiếu nữ nào xinh đẹp như tân nương của y.

Dương Quá nói:

– Đúng thế. Tiểu tử cũng thấy thật là quái lạ. Tiểu tử mạo muội, thỉnh vấn quý tính đại danh của cô nương?

Công Tôn cốc chủ mỉm cười, nói:

– Nàng họ Liễu. Người bà con của tiểu huynh đệ cũng họ Liễu chứ?

Dương Quá nói:

– Không, họ khác.

Trong bụng nghĩ: “Sao cô cô lại đổi thành họ Liễu? Phải rồi, vì ta họ Dương”. Vừa nghĩ thế, ngón tay lại đau buốt. Công Tôn Lục Ngạc nhìn vẻ đau đớn của chàng, cảm thấy thương hại, ánh mắt vẫn không rời mặt chàng.

Công Tôn cốc chủ chăm chú nhìn Dương Quá một lát lại nhìn bạch y thiếu nữ, thấy nàng cúi đầu nhìn xuống, không nói gì, thì y lại nghi ngờ, nghĩ: “Ban nãy hình như ta nghe nàng gọi Quá nhi, Quá nhi, Quá nhi ở đâu? Quá nhi gọi ta phải không? Chẳng lẽ nàng chính là người thân của gã thiếu niên này? Nhưng vì sao nàng không nhận hắn?” Y định căn vặn, nhưng lại nghĩ chỗ này đông người, đợi sau hôn lễ hỏi cũng không muộn, nên lại thôi.

Dương Quá lại nói:

– Liễu cô nương chắc không sống ở sơn cốc này, không biết cốc chủ quen biết nàng ta như thế nào?

Thời xưa, nữ nhân vốn không dễ gì tiếp xúc với người ngoài, ngày thành hôn càng không ra tiếp khách; nhưng bọn Kim Luân pháp vương hoặc là người Hồ ở Tây Vực, hoặc bôn ba giang hồ, không câu nệ lễ tiết, thấy bạch y thiếu nữ ra đây ngồi, cũng không cho là kỳ, nhưng vào ngày hôn lễ mà nàng lại mặc đồ tang, thì không tránh khỏi quái dị; nghe Dương Quá vặn hỏi cốc chủ quen biết bạch y thiếu nữ thế nào, đi sâu vào chuyện riêng tư, thì đều cảm thấy bất nhã.

Công Tôn cốc chủ cũng đang muốn biết lai lịch vị hôn thê của mình, nghĩ: “Tên tiểu tử này quả thực quen biết Liễu muội cũng không chừng”, bèn nói:

– Dương huynh đệ đoán không sai. Nửa tháng trước, tại hạ đi hái thuốc ở rìa núi, thấy nàng nằm ở chân núi, bị trọng thương, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Tại hạ thăm dò, biết nàng bị tẩu hỏa nhập ma nhân luyện nội công, bèn cứu mang về cốc, dùng linh dược gia truyền giúp nàng điều dưỡng. Nói về nhân duyên quen biết, thì quả thật là chuyện ngẫu nhiên.

Kim Luân pháp vương góp lời:

– Cái đó gọi là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, chắc Liễu cô nương cảm ân đồ báo, mới tính chuyện nâng khăn sửa túi. Đúng là lang tài nữ mạo, giai ngẫu thiên thành.

Câu nói của gã tựa hồ vừa nịnh cốc chủ, vừa đánh Dương Quá.

Dương Quá nghe câu đó quả nhiên tái mặt, toàn thân run rẩy, đột nhiên thấy cổ họng ngòn ngọt, miệng hộc ra một ngụm máu.

Bạch y thiếu nữ thấy vậy, thốt lên, giọng run run:

– Ngươi… ngươi…

Nàng đứng bật dậy, định giơ tay đỡ Dương Quá, nhưng lại kìm được, song cũng hộc ra một ngụm máu tươi, làm đỏ loang cả vạt áo.

Liễu cô nương chính là Tiểu Long Nữ đổi tên. Đêm nọ tại khách điếm, sau khi nghe Hoàng Dung nói, nàng nghĩ nếu kết thành phu phụ với Dương Quá, sẽ làm cho chàng liên lụy, suốt đời bị thóa mạ khinh bỉ; nàng sẽ không thể yên lòng; mà nếu cứ giữ chàng sống trong tòa cổ mộ, lâu ngày chàng sẽ phiền muộn, nàng trăn trở suy tính suốt đêm, cuối cùng dằn lòng lẳng lặng bỏ đi. Đối với Dương Quá, nàng đúng là tình thâm ái trọng, việc đoạn tuyệt này quả thực xuất phát từ ái tình sâu nặng với chàng. Nghĩ nếu trở về cổ mộ, Dương Quá ắt sẽ tìm gặp; thế là nàng một mình lang thang nơi khoáng dã cùng cốc; một hôm ngồi vận công, đột nhiên tình cảm dâng trào, khó bề kìm nén, nội tức xung đột kinh mạch, làm cho vết thương cũ tái phát, nếu không được Công Tôn cốc chủ tình cờ ngang qua cứu chữa, chắc đã bỏ mạng giữa hoang sơn.

Công Tôn cốc chủ góa vợ đã lâu, thấy Tiểu Long Nữ tú lệ kiều mỹ, bình sinh chưa từng thấy, bên cạnh cái ý cứu người lại càng ân cần bội phần. Tiểu Long Nữ thì chán ngán tất cả, nghĩ sau này sống độc thân, chắc khó kìm lòng, lại sẽ đi tìm Dương Quá, làm cho chàng bị liên lụy. Thấy Công Tôn cốc chủ tình ý triền miên, ngỏ lời cầu hôn, nàng bèn đáp ứng, nghĩ rằng từ nay đã thành vợ người, tự thị chấm dứt nghiệt duyên với Dương Quá, hơn nữa chốn này người ngoài hiếm tới, hẳn sẽ không bao giờ còn gặp mặt chàng.

Nào ngờ Lão Ngoan đồng đột nhiên tìm đến phá rối, dẫn lối cho chàng đến đây.

Tiểu Long Nữ đột nhiên gặp lại Dương Quá, thật quả ngổn ngang trăm mối bên lòng, nghĩ thầm: “Mình đã đáp ứng lấy người khác, vậy phải giả bộ không quen biết chàng, để cho chàng tức giận bỏ đi, hận mình suốt đời. Tài mạo như chàng, lo gì không gặp giai nhân xứng đôi? Mình tuy đau lòng cả đời, nhưng sẽ tránh cho chàng khỏi bị đau khổ”. Vì thế, nhìn Dương Quá khổ sở đấy, song nàng cứ làm ngơ. Tuy nhiên lòng đau như cắt, càng lúc càng khó chịu đựng,vừa rồi thấy chàng thổ huyết, nàng bất giác nôn nao, cũng hộc máu ra.

Mặt nàng tái nhợt, nàng chệnh choạng đi vào nội thất, Công Tôn cốc chủ vội nói:

– Đừng cử động, mau ngồi xuống, kẻo chấn động kinh mạch.

Rồi y quay sang bảo Dương Quá:

– Ngươi hãy ra khỏi đây ngay, vĩnh viễn đừng tới đây nữa.

Dương Quá nước mắt lưng tròng, nói với Tiểu Long Nữ:

– Cô cô, nếu ta làm gì sai trái, cô cô cứ việc đánh chửi ta, rút kiếm giết ta, ta cũng cam lòng. Sao cô cô nỡ không nhận ta kia chứ?

Tiểu Long Nữ cúi đầu không nói, húng hắng ho.

Công Tôn cốc chủ thấy Dương Quá làm cho Tiểu Long Nữ bị thổ huyết, đã tức giận dị thường, phải nói là công phu hàm dưỡng của y rất cao, mới không phát tác, chỉ gằn giọng nói:

– Ngươi không xéo đi, đừng trách ta thủ hạ vô tình.

Dương Quá trân trân nhìn Tiểu Long Nữ, chẳng lý gì đến cốc chủ, giọng van nài:

– Cô cô, ta bằng lòng suốt đời ở trong cổ mộ với cô cô quyết không hối hận; hai ta cùng về đi.

Tiểu Long Nữ ngẩng đầu, gặp ánh mắt của chàng, chỉ thấy vẻ mặt thâm tình vô hạn, sầu khổ vạn phần, bất giác trong lòng dao động, nghĩ: “Mình đi theo chàng thôi!” Nhưng lại nghĩ: “Mình bỏ chàng đi đâu phải chuyện giây lát. Đã suy đi tính lại mọi mặt. Bây giờ không cố nén lòng, sẽ làm cho chàng đau khổ suốt đời”. Thế là nàng bèn ngoảnh mặt đi, thở dài, nói:

– Ta không quen biết ngươi mà. Ngươi nói gì, ta không hiểu đâu. Ngươi hãy đi đi cho yên lành!

Mấy câu này nói ra có khí vô lực, song ẩn chứa biết bao nhu tình luyến ý, trừ Mã Quang Tá thô kệch không hiểu, còn hết thảy mọi người trong sảnh đều biết nàng có thâm tình với Dương Quá, những lời này trái với lòng nàng.

Công Tôn cốc chủ không khỏi ghen tức, nghĩ: “Nàng tuy bằng lòng lấy ta, song chưa từng nói với ta nửa lời thâm tình chừng ấy”. Y trừng mắt nhìn Dương Quá, thấy chàng mi thanh mục tú, anh khí tràn trề, với Tiểu Long Nữ quả xứng đôi vừa lứa, nghĩ bụng: “Xem chừng hai người này hẳn là một đôi tình lữ. Chỉ vì có chuyện bất hòa gì đây, Liễu muội mới bằng lòng lấy ta, song hoàn toàn chưa quên tên tiểu tử này. Hắn lớn hơn Liễu muội vài tuổi, sao lại gọi nàng là “cô cô” với chả “sư phụ”. Nghĩ đến đây, ánh mắt của y lộ vẻ hết sức tức giận.

Phàn Nhất Ông rất trung thành với sư phụ, thấy sư phụ bao năm vò võ cô đơn, thường mong có cách gì giải sầu cho y; nửa tháng trước sư phụ mang về một thiếu nữ xinh đẹp, thiếu nữ ấy lại bằng lòng làm vợ sư phụ, thì lão vui mừng cơ hồ chẳng kém gì sư phụ; bây giờ bỗng thấy Dương Quá xuất hiện ngăn trở, khiến sư mẫu phải thổ huyết, sư phụ vẫn nín nhịn, lão bèn đứng ra, xẵng giọng nói:

– Tên tiểu tử họ Dương kia, ngươi khôn hồn thì xéo đi! Cốc chủ của bọn ta không thích hạng tân khách vô lễ như ngươi.

Dương Quá nghe mà không thấy, lại dịu dàng nói với Tiểu Long Nữ:

– Cô cô, cô cô quên hẳn ta rồi ư?

Phàn Nhất Ông cả giận, giơ tay túm sau lưng chàng để quẳng chàng ra khỏi sảnh. Dương Quá toàn tâm toàn ý nói với Tiểu Long Nữ, không để mắt đến mọi việc khác, đến lúc ngón tay của Phàn Nhất Ông chạm tới lưng, chàng mới vội thu mình, soạt một tiếng, năm ngón tay Phàn Nhất ông làm rách một lỗ thủng to ở chiếc áo của chàng.

Dương Quá van nài, thấy Tiểu Long Nữ trước sau vẫn chẳng lý đến chàng, thì càng lo cuống, giá ở trong cổ mộ hoặc chỗ không người, còn có thể thong thả cầu xin; đàng này giữa đại sảnh đông người, vừa rồi còn bị Phàn Nhất Ông quát tháo, động thủ, thì bao nhiêu uất ức muốn trút xuống đầu Phàn Nhất Ông, chàng quay lại quát:

– Ta nói chuyện với cô cô ta, can hệ gì tới lão, hả lão lùn kia?

Phàn Nhất Ông quát to:

– Cốc chủ bảo ngươi xéo đi, vĩnh viễn không cho phép ngươi đặt chân tới đây nữa. Ngươi không nghe lệnh, thì đừng trách ta hạ thủ vô tình.

Dương Quá nổi giận:

– Ta không đi đấy, cô cô ta không đi, thì ta sẽ ở đây suốt đời. Dẫu ta có chết, xương cốt hóa thành tro, ta cũng ở bên nàng.

Mấy câu này cốt nói cho Tiểu Long Nữ nghe. Công Tôn cốc chủ nhìn trộm nét mặt Tiểu Long Nữ. Thấy nàng nước mắt lưng tròng, thì y không nhịn nổi nữa, máu nóng dâng lên ngực. Y lại cố nuốt giận, ra hiệu bằng mắt cho Phàn Nhất Ông, phẩy nhẹ mấy ngón tay, ngụ ý bảo lão hạ sát thủ, giết quách Dương Quá để Tiểu Long Nữ khỏi tơ tưởng, tránh hậu họa.

Phàn Nhất Ông thấy sư phụ ra hiệu như vậy thì không ngờ; lão vốn chỉ định đuổi Dương Quá ra khỏi sơn cốc, để chàng khỏi gây rắc rối là được rồi; nào ngờ sư phụ lại hạ lệnh giết người, bèn nói to:

– Hôm nay tuy là ngày đại hỉ của sư phụ, chẳng lẽ ta không dám giết người hay sao?

Lão quát và nhìn sư phụ. Công Tôn cốc chủ lại ra hiệu phẩy tay, ngụ ý khỏi cần ngại ngày đại hỉ gì cả, cứ giết luôn gã thiếu niên này đi. Phàn Nhất Ông cầm cây cương trượng lên, dộng mạnh xuống nền, làm chấn động cả đại sảnh, quát:

– Tên tiểu tử, ngươi không sợ chết thật ư?

Dương Quá mới bị hộc một ngụm máu, lúc này lại cảm thấy máu nóng dâng lên trong ngực, như muốn ộc ra. Nội công phái Cổ Mộ chú trọng khắc kỷ tiết dục, sư phụ của Tiểu Long Nữ khi truyền thụ tâm pháp cho nàng, đã dặn kỹ phải đoạn tuyệt mọi hỉ nộ ai lạc; sau đó Tiểu Long Nữ từng đôi phen thổ huyết vì không nén được tâm tình. Dương Quá được Tiểu Long Nữ truyền thụ, nội công cùng một lộ với nàng, lúc này chàng lạnh lùng nghĩ: “Ta phải hộc máu trước mặt nàng mà chết, xem nàng có chịu ngó đến ta hay không?” Nhưng lại nghĩ: “Cô cô thường ngày đối với ta rất thân ái, chuyện hôm nay, chắc bên trong có ẩn tình gì đây, quá nửa là bị lão tặc cốc chủ kia khống chế, mới không dám nhận ta. Nếu ta tự hành hạ thể xác mình, thì làm sao còn sức kháng cự?” Nghĩ vậy, lập tức hùng tâm đại chấn, chàng quyết ý liều mạng phá vây, cứu Tiểu Long Nữ thoát hiểm, vội trấn tĩnh, đưa khí xuống đan điền, máu nóng xuôi dần. Chàng mỉm cười, chỉ Phàn Nhất Ông, nói:

– Cái sơn cốc chết tiệt này, ta muốn tới, lão chẳng ngăn nổi ta; muốn đi, lão cũng đừng hòng giữ lại.

Mọi người thấy chàng phút chốc thay đổi hẳn, tưởng sắp phát điên, thế mà lại thần định khí nhàn, thì rất kinh ngạc.

Phàn Nhất Ông ban đầu thấy chàng thổ huyết, cũng ái ngại cho chàng, thực không nỡ lấy mạng chàng. Lão vung cương trượng, tạo thành luồng gió làm bay bay vạt áo của Dương Quá, quát:

– Rốt cuộc ngươi có xéo đi hay không?

Công Tôn cốc chủ cau mày, nói:

– Nhất Ông, sao người lắm lời mãi vậy?

Phàn Nhất Ông biết sư phụ đã hạ nghiêm lệnh, đành quật mạnh cây trượng ngang ống chân Dương Quá. Công Tôn Lục Ngạc biết đại sư huynh võ nghệ kinh nhân, tuy thân hình thấp lùn, nhưng trời phú cho thần lực, võ công đã được phụ thân nàng truyền thụ bảy, tám phần mười; cây cương trượng này đã đánh chết không ít mãnh thú. Nàng nghĩ Dương Quá trẻ tuổi, nhất định không địch nổi chín chín tám mốt lộ trượng pháp của đại sư huynh; đợi lúc hai người đã giao đấu, sẽ càng khó cứu chàng hơn; tuy nàng thấy sắc mặt nghiêm lạnh, cực nộ của phụ thân, nàng cũng đánh bạo bước ra nói với Dương Quá:

– Dương công tử, công tử ở lại đây cũng vô ích, tội gì uổng phí sinh mạng đi như vậy?

Giọng nói của nàng ấm áp, đầy vẻ quan hoài.

Bọn Kim Luân pháp vương cùng nhìn về phía nàng, thầm ngạc nhiên, nghĩ: “Dương Quá cùng vào đây với cả bọn, không hiểu làm cách nào hắn đã kịp lẻn đi kết giao với cô nương kia?”

Dương Quá gật đầu, mỉm cười, nói:

– Đa tạ hảo ý của cô nương. Cô nương có muốn lấy bộ râu dài kia tết đuôi sam chơi chăng?

Công Tôn Lục Ngạc ngẩn người, hỏi:

– Cái gì cơ?

Dương Quá nói:

– Ta sẽ cắt bộ râu của lão lùn cho cô nương làm đồ chơi, được chứ?

Công Tôn Lục Ngạc cả kinh thất sắc, nghĩ thầm chàng đùa cợt kiểu đó thì đúng là chán sống rồi. Ở Tuyệt Tình cốc này qui củ rất nghiêm, nàng khuyên Dương Quá vài câu, chắc chắn sẽ bị phụ thân phạt nặng; ai ngờ lại còn khiến chàng nói nhăng nói cuội, nàng đỏ mặt, vội lùi về chỗ cũ.

Phàn Nhất Ông thấp lùn, vốn rất tự phụ về bộ râu của mình, nghe Dương Quá xuất ngôn khinh bạc, bèn quẳng cây trượng xuống đất, quát:

– Hảo tiểu tử, hãy cho ngươi nếm đòn râu của ta trước.

Lời chưa dứt, bộ râu dài đã quất tới. Dương Quá cười, nói:

– Lão Ngoan đồng không xén được bộ râu của lão, ta sẽ cắt thử.

Chàng rút cây kéo lớn trong bọc ra, chĩa nhanh đón bộ râu. Bộ râu dài của Phàn Nhất Ông quất thẳng tới đỉnh đầu Dương Quá, đòn thế rất lợi hại. Dương Quá hơi rùn người xuống, tránh sang một bên, chĩa lưỡi kéo ra đón, tách một tiếng, hai lưỡi kép bập lại, Phàn Nhất Ông cả kinh, vội hất ra, chậm chút nữa thì bộ râu đã bị cắt mất. Lão hoảng sợ, những người đứng xem không hẹn nhau, cùng kêu “ôi”.

Nên biết Dương Quá nhờ Phùng Mặc Phong rèn chiếc kéo này là để đối phó với cây phất trần của Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu tung hoành giang hồ nhờ đôi Ngũ độc thần chưởng và một cây phất trần; Dương Quá muốn hóa giải công phu sử dụng cây phất trần của nàng ta, đã suy tính rất kỹ cách dùng chiếc kéo này; không ngờ chưa phải đấu với Lý Mạc Sầu, thì ở đây chàng lại gặp lão lùn Phàn Nhất Ông dùng bộ râu dài làm binh khí. Dương Quá nghĩ: “Công phu sử dụng bộ râu của lão có lợi hại mấy, cũng chẳng thể bằng cây phất trần của Lý Mạc Sầu”. Thế là không chút sợ hãi, cầm kéo xông tới.

Phàn Nhất Ông đã có hơn mười năm luyện tập với bộ râu, chỉ dùng đầu mặt điều khiển bộ râu, cùng với song chưởng cấp công đối phương. Ban nãy Chu Bá Thông dùng kéo cắt râu, không ngờ lại bị bộ râu của Phàn Nhất Ông quấn lấy cái kéo, đành nhận thua.

Mọi người đã biết tài nghệ của Chu Bá Thông, tự thẹn không bằng lão; nào ngờ Dương Quá cũng dùng chiếc kéo này, song thủ pháp lại thành thạo hơn hẳn Lão Ngoan đồng, thì ai cũng kinh ngạc. Nói về công lực võ kỹ, Dương Quá thua xa Lão Ngoan đồng; nhưng vì chàng đã luyện kỹ cách đối phó với cây phất trần của Lý Mạc Sầu, mà công phu sử dụng bộ râu thì đại để cũng tương tự chiêu số của cây phất trần, cho nên quả nhiên Dương Quá đắc tâm ứng thủ; chiếm hẳn thượng phong, khác hẳn lối dụng kéo tùy tiện, vô chương pháp của Lão Ngoan đồng. Bọn Kim Luân pháp vương thấy Lão Ngoan đồng trao cái kéo cho Dương Quá, cứ tưởng đấy là thứ binh khí độc đáo kỳ quái do lão chế ra. Dương Quá quen sử kiếm thế nào, thì Kim Luân pháp vương đã biết; không ngờ chàng lại giỏi sử kéo thế này.

Phàn Nhất Ông mấy lần suýt bị cắt mất bộ râu, không dám coi thường gã thiếu niên này nữa; chiêu pháp cũng thay đổi, lão múa bộ râu từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quất dọc quét ngang, vẫn thành chiêu số hẳn hoi. Dương Quá chĩa kéo cắt mấy lần đều không trúng; lại thấy chưởng phong lợi hại, có lúc bộ râu là hư chiêu, chưởng lực mới đánh thực; có lúc chưởng pháp dẫn dụ, để bộ râu thừa cơ công kích, thực thực hư hư, quả nhiên là thứ công phu kỳ diệu chưa từng gặp trong võ lâm. Đấu mấy chục chiêu rồi, Dương Quá nghĩ: “Cốc chủ nham hiểm, võ công hẳn cao hơn lão lùn; ta không thắng đệ tử, làm sao đương đầu với sư phụ của lão ta?” Chàng hơi nôn nóng. Bộ râu của Phàn Nhất Ông vừa dài vừa dày hơn hẳn cây phất trần của Lý Mạc Sầu, thành thử chàng chưa tìm ra cách hóa giải.

Lại đấu thêm mấy chiêu, Dương Quá chăm chú quan sát đối phương, thấy Phàn Nhất Ông lúc lắc đầu trông rất hoạt kê, bộ râu chuyển động càng lúc càng gấp, chàng chợt nảy ra cách hóa giải, bèn nhảy lùi nửa trượng, nói:

– Hượm đã!

Phàn Nhất Ông không đuổi theo, hỏi:

– Tiểu huynh đệ, ngươi đã chịu thua, thì nên rời khỏi sơn cốc cho mau!

Dương Quá cười, lắc đầu, nói:

– Này, bộ râu của lão nếu bị cắt cụt, phải bao lâu sau mới nuôi dài bằng nửa thế kia?

Phàn Nhất Ông nổi giận:

– Việc đó can hệ gì đến ngươi? Bộ râu của ta chưa cắt ngắn bao giờ.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Đáng tiếc, đáng tiếc!

Phàn Nhất Ông hỏi:

– Đáng tiếc cái gì?

Dương Quá nói:

– Trong vòng ba chiêu, ta sẽ cắt cụt bộ râu của lão.

Phàn Nhất Ông nghĩ: “Ngươi và ta đấu mấy chục chiêu, vẫn đôi bên ngang ngửa; nội trong ba chiêu đòi thủ thắng, hừ, đừng có nằm mơ!” Lão gầm lên:

– Tiếp chiêu!

Hữu chưởng đánh ra; Dương Quá dùng tay trái chặt xéo, cây kéo trong tay phải đánh xuống trán mé trái của đối phương. Chàng cao hơn, nên khi ra đòn thì mũi kéo xỉa từ trên xuống dưới. Phàn Nhất Ông nghiêng đầu né tránh, không ngờ tả chưởng của Dương Quá cũng đánh thẳng xuống trán mé bên phải của lão, chưởng thế cực kỳ hung mãnh. Phàn Nhất Ông vội nghiêng đầu né sang bên trái; chiêu đánh tới của đối phương rất nhanh, lão né tránh cũng cực lẹ, bộ râu dài của lão hất sang; chiếc kéo của Dương Quá đã chờ sẵn ở mé phải, xoẹt một tiếng, cắt mất hơn hai thước bộ râu của lão.

Mọi người cùng ồ lên, vô cùng kinh ngạc, thấy quả nhiên nội trong ba chiêu, Dương Quá đã cắt cụt bộ râu dài của Phàn Nhất Ông.

Nguyên Dương Quá đấu hồi lâu, cuối cùng phát hiện khi bộ râu của Phàn Nhất Ông quất sang trái, thì trước đó đầu lão ta tất hất sang bên phải; bộ râu quất từ dưới lên trên, thì trước đó đầu lão ta tất hất xuống dưới; chàng tự mắng mình ngu xuẩn: “Râu mọc từ cằm ra, muốn điều khiển bộ râu dài, đầu lão ta tất phải chuyển động trước. Mình chẳng chú ý đến cái gốc của đòn địch, cứ chăm chăm nhìn bộ râu, thật quá ngu”. Trong bụng định sẵn kế nhìn đầu mà cắt râu rồi, mới nói nội trong ba chiêu sẽ cắt được bộ râu của đối phương.

Phàn Nhất Ông sững sờ, nhìn bộ râu nửa đời nuôi dưỡng của mình rơi lả tả xuống đất, vừa tiếc nuối, vừa tức giận, cúi nhặt cây cương trượng lên, quát:

– Hôm nay ta quyết sống mái với ngươi, ngươi đừng hòng thoát khỏi chốn này.

Dương Quá cười, nói:

– Thì ta đâu có định bỏ đi!

Phàn Nhất Ông quật cây cương trượng ngang lưng Dương Quá.

Mã Quang Tá ẩu đả hồi lâu với Phàn Nhất Ông, bị lép vế, bây giờ đắc ý, reo to:

– Này lão lùn, tướng mạo lão đã không đẹp, nay mất bộ râu, trông càng xấu xí dị dạng.

Phàn Nhất Ông nghe vậy, nghiến răng, dồn thêm ba phần kình lực vào cây trượng.

Dương Quá giao đấu với bộ râu của Phàn Nhất Ông hồi lâu, chưa rõ lực cánh tay của lão ta thế nào; thấy cây trượng quật tới, chàng giơ kéo ra chặn; choang một tiếng rất lớn, tay chàng tê dại, cái kéo đã cong queo, không còn hình thù gì nữa.

Một chiêu ấy đã loại bỏ cái kéo. Mọi người thấy Dương Quá vừa đắc thắng, không ngờ đổi sang thứ binh khí khác, ưu thế đôi bên cũng đổi hẳn: Phàn Nhất Ông tay nắm cây trượng to nặng lợi hại, Dương Quá thì chỉ cầm cái kéo phế thải trong tay. Công Tôn Lục Ngạc không nén được, lên tiếng:

– Dương công tử, công tử không có sức lực bằng đại sư huynh của tiểu nữ đâu, hà tất còn tái đấu?

Công Tôn cốc chủ thấy con gái mình lại đi bênh người ngoài, thì tức giận trừng mắt với nàng, chỉ thấy mặt nàng đầy vẻ quan tâm lo lắng; y lại nhìn Tiểu Long Nữ, thấy nàng thần sắc thản nhiên, hững hờ trước sự an nguy của Dương Quá, thì y đổi giận thành vui nghĩ: “Thì ra nàng chẳng có tình ý gì với tên tiểu tử kia, nếu không, trước cảnh hắn lâm nguy hiểm, nàng đã lo sợ”. Y đâu ngờ Tiểu Long Nữ thừa biết Dương Quá rất mưu trí, võ công cũng cao hơn Phàn Nhất Ông; hai bên giao đấu, Dương Quá chỉ có thắng mà thôi, nên không có gì đáng lo.

Dương Quá quẳng cái kéo cong queo xuống đất, nói:

– Này lão Phàn, lão không phải là đối thủ của ta, hãy mau buông trượng đầu hàng.

Phàn Nhất Ông tức giận, nói:

– Ngươi thắng được cây trượng này của ta, ta sẽ đập đầu mà chết.

Dương Quá nói:

– Đáng tiếc, đáng tiếc!

Phàn Nhất Ông quát:

– Tiếp chiêu!

Lão sử chiêu “Thái Sơn áp đỉnh”, bổ cây trượng xuống đầu Dương Quá. Chàng né nhanh sang bên, chân trái đã đè lên đầu cây trượng. Phàn Nhất Ông hai tay hất cây trượng lên. Dương Quá bay lên theo cây trượng, chân trái vẫn đè lên đầu cây trượng. Phàn Nhất Ông hất hất mấy lần, vẫn không đẩy được chàng ra khỏi cây trượng, đã thế Dương Quá còn đặt cả bàn chân phải lên thân cây trượng.

Quái chiêu của chàng, dưới con mắt mọi người và Phàn Nhất Ông, là không thể hiểu nổi; kỳ thực chỉ là thường pháp của phái Cổ Mộ dùng khinh công tuyệt đỉnh vô hiệu hóa binh khí dài và lớn của đối phương.

Năm nào Lý Mạc Sầu đấu với Võ Tam Thông trước cửa hầm rượu, đứng đè lên cái cây lớn mà Võ Tam Thông dùng làm binh khí, chính là môn công phu này.

Phàn Nhất Ông đang sững sờ, Dương Quá bước chân trái lại một bước, chân phải tung cước đá vào mũi lão. Lúc này tình thế của Phàn Nhất Ông vô cùng khó khăn: đối phương đè trên cây trượng, hai tay lão phải giữ nó, không lấy gì đối phó, bộ râu thì đã bị cắt, mất lợi khí phòng thân, trong lúc nguy cấp, đành buông cây trượng, nhảy lùi tránh cước. Keng một tiếng, cây trượng rơi xuống đất, một đầu của nó chưa tới đất đã bị Dương Quá chộp lấy.

Bọn Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá, Tiêu Tương Tử cùng reo lên khen ngợi. Dương Quá dộng cây trượng xuống nền một cái, cười, hỏi:

– Thế nào?

Phàn Nhất Ông đỏ mặt, nói:

– Ta nhất thời sơ ý, trúng quỷ kế của ngươi, trong lòng chưa phục.

Dương Quá nói:

– Cho đấu lại đấy.

Chàng tung nhẹ cây trượng sang. Phàn Nhất Ông giơ tay đón. Nào ngờ cây trượng bay ngang đến cách lão hơn hai thước thì đột nhiên hất lên trên, Phàn Nhất Ông chộp hụt, Dương Quá phi thân tới, giơ cánh tay dài ra tóm lại được. Bọn Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá reo to hơn, Phàn Nhất Ông thì tím mặt lại.

Kim Luân pháp vương và Doãn Khắc Tây nhìn nhau cười, trong bụng thầm khen Dương Quá thông minh. Hôm qua Chu Bá Thông chộp mũi giáo và bẻ gãy, kình lực thu phát tùy ý, lúc này Dương Quá học theo cách ấy chỉ khác hôm qua bốn mũi giáo, bây giờ chỉ có một; cây trượng rất nặng, truyền kình không khó, động tác của Dương Quá dễ hơn nhiều so với Chu Bá Thông. Nhưng Công Tôn cốc chủ và mọi người không biết duyên do, nên không khỏi kinh dị.

Dương Quá cười, hỏi:

– Thế nào? Có muốn thử lại một lần nữa không?

Phàn Nhất Ông đã bị cắt râu, bị đoạt mất cây trượng, toàn là do đối phương dùng trí thủ thắng, đời nào lão chịu thua? Lão nói to:

– Nếu ngươi dùng bản lĩnh đích thực thắng ta, ta mới phục.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Đạo của võ học, lấy trí xảo làm đầu. Sư phụ của lão đầu óc mù mờ, thì đệ tử làm sao giỏi được. Ta khuyên lão đi tìm minh sư thì hơn.

Câu này chẳng khác gì nhổ vào mặt Công Tôn cốc chủ.

Phàn Nhất Ông nghĩ: “Mình học nghệ không tinh, để nhục cho sư tôn; nếu quả thực không thắng được hắn, hôm nay chỉ còn cách tự vẫn để tạ tội với sư phụ”. Lão nghiến răng, nhận cây trượng mà Dương Quá trao ngang tận tay lão. Chàng nói:

– Lần này phải cẩn thận hơn, nếu để ta đoạt mất, thì chớ oán trách người khác.

Phàn Nhất Ông không nói, tay phải nắm chặt cây trượng, nghĩ: “Ngươi muốn đoạt được cây trượng này, trừ phi phải chém đúng cánh tay của ta”. Dương Quá nói:

– Cẩn thận!

Thân chàng nhào tới, tay trái cầm lấy đầu cây trượng, hai ngón trỏ và giữa tay phải thì móc mắt đối phương, đồng thời chân trái giơ lên đè thân cây trượng, chính là tuyệt chiêu “Ngao khẩu đoạt trượng” trong Đả cẩu bổng pháp.

Hai lần trước Dương Quá đoạt trượng, người ngoài tuy cảm thấy thủ pháp của chàng kỳ lạ, nhưng họ nhìn thấy rõ ràng; lần này ngay cả Phàn Nhất Ông cũng không hiểu nổi sự ảo diệu, chỉ nhoáng một cái, cây trượng đã ở trong tay đối phương. Chỉ có Kim Luân pháp vương võ học uyên thâm, từng chứng kiến Đả cẩu bổng pháp, mới biết thủ pháp vừa rồi của chàng.

Mã Quang Tá nói to:

– Này lão râu dài cụt râu, lần này đã phục chưa?

Phàn Nhất Ông nói:

– Hắn sử dụng yêu thuật, không phải là võ công chân thực, làm sao ta chịu phục?

Dương Quá hỏi:

– Phải thế nào lão mới phục?

Phàn Nhất Ông nói:

– Trừ phi ngươi dựa vào bản lĩnh chân thực đánh ngã ta, ta mới chịu thua.

Dương Quá lại trao cây trượng cho lão, nói:

– Được chúng ta thử thêm vài chiêu.

Phàn Nhất Ông thấy chàng vừa tay không đoạt trượng, quá ngán ngại, nghĩ: “Mình có chiếm thượng phong, hắn hết cách chống đỡ, hắn lại giở yêu thuật ra, thì mình khó lòng thắng nổi”, hắn bèn nói:

– Ta dùng binh khí lớn, ngươi lại tay không, ta có thắng, ngươi cũng không phục.

Dương Quá cười, nói:

– Lão sợ ta sử dụng công phu tay không đoạt binh khí chứ gì. Được thôi, vậy ta cũng sẽ dùng binh khí.

Chàng đưa mắt nhìn khắp sảnh, bốn bức tường chẳng treo thứ binh khí gì, ngoài sân có hai cây dương liễu lớn, cành lá la đà; chàng nhìn Tiểu Long Nữ một cái, nghĩ: “Cô cô muốn mang họ Liễu, thì ta lấy cành liễu làm binh khí vậy!” Bèn chạy ra sân, bẻ một cành liễu to hơn một tấc, dài độ bốn thước, giống như cái gậy đánh chó, nhưng không tuốt lá, mang vào.

Tiểu Long Nữ tâm trạng rối bời, đã hoàn toàn không còn chủ kiến gì về tương lai nữa. Dương Quá ở trước mặt nàng càng lâu, nàng càng khó xa rời chàng. Khi chỉ có một mình suy nghĩ, tuy đau lòng vì phải chia tay với Dương Quá, nhưng suy đi nghĩ lại, vẫn còn chịu nổi. Bây giờ con người ấy sống động ngay trước mắt, nhất cử nhất động, nhất tiếu nhất nộ đều tác động đến nàng; nàng đã định đi vào bên trong để khỏi nhìn và nghe thấy, song lại không thể, đành cúi đầu im lặng, tưởng chừng có nhiều mũi dao đang đâm vào tim.