Hồi 38: Sinh tử mịt mù

Hôm ấy Quách Tương thấy Kim Luân pháp vương hạ độc thủ đánh chết Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ hai người, thì nàng đau lòng tự biết khó thoát ma chưởng của lão, bèn hiên ngang nói:

– Lão không mau đánh chết bổn cô nương, còn chờ gì nữa?

Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Muốn đánh chết tên nhãi con như mi, nào có khó gì? Hôm nay ta giết hai người là đủ rồi. Vài hôm nữa ta sẽ chọn ngày đem mi ra khai đao, bây giờ thì hãy ngoan ngoãn đi theo ta.

Quách Tương biết rằng chống chọi lão ta lúc này chỉ tự chuốc nhục, đành đi theo, rồi tìm cách thoát thân sau, bèn lè lưỡi, lên ngựa đi.

Kim Luân pháp vương mừng rỡ, nghĩ: “Hoàng thượng và Tứ vương gia tìm thiên phương bách kế lấy mạng Quách Tĩnh, vẫn chưa như nguyện. Hôm nay ta bắt được ái nữ của Quách Tĩnh, dùng nó để kiềm chế, lo gì hắn không cúi đầu vâng mệnh. Thế này còn hơn một kiếm đâm chết hắn. Giả dụ Quách Tĩnh quật cường không chịu khuất phục, chúng ta đem con bé này đến dưới chân thành mà hành hạ, hắn sẽ đau đớn đứt từng khúc ruột, mất hết tinh thần, bấy giờ đại quân công thành, làm gì chẳng hạ được?”

Đi đến lúc trời tối, ghé đại vào một nhà ven đường nghỉ đêm. Người sống trong nhà mang đồ đạc tản cư đi hết, nhà chỉ trơ trọi bốn bức tường. Kim Luân pháp vương lấy lương khô ra chia cho Quách Tương cùng ăn, rồi bảo nàng sang chái nhà mà ngủ, còn lão ngồi dụng công ở gian giữa.

Quách Tương trằn trọc, làm sao ngủ nổi? Đến nửa đêm, nàng rón rén ngó sang gian giữa, thấy Pháp vương ngồi dựa vào vách, hơi thở đều đều, chắc là đang ngủ say. Nàng cả mừng, rón rén vượt song ra ngoài, lấy vải bọc bốn vó ngựa, rồi dắt ngựa đi rất nhẹ, từng bước một, đến khi cách nhà chừng nửa dặm, ngoảnh lại không thấy Pháp vương đuổi theo, mới lên ngựa phóng đi. Nàng nghĩ rằng khi Pháp vương tỉnh giấc, phát giác nàng bỏ chạy, sẽ đoán nàng chạy về thành Tương Dương, tất lão sẽ đuổi theo về phía nam, nên nàng bèn phóng ngựa về hướng tây bắc, phóng một mạch chừng nửa canh giờ, con ngựa đuối sức, mới đi chậm lại, dọc đường chốc chốc nàng ngó lại phía sau, thủy chung không thấy Pháp vương đuổi theo. Đến khi trời sáng hẳn, tính ra đã chạy được năm, sáu chục dặm, trong bụng mới đỡ lo.

Lúc này nàng tới một con đường nhỏ ven núi, đường lên càng lúc càng cao, qua một thung lũng, bỗng thấy có một người nằm chắn ngang đường, ngáy như kéo bễ, nhìn kỹ, nàng giật mình suýt ngã ngựa, vì người nằm kia đầu trọc, mặc hoàng bào, chính là Kim Luân pháp vương. Cũng không biết bằng cách nào lão ta lại ở phía trước mặt. Quách Tương vội quay đầu ngựa, phi xuống dốc, ngó lại, thấy lão ta vẫn nằm đó, không hề đuổi theo.

Lần này nàng không đi trên đường nữa, mà phóng ngựa thẳng về hướng đông nam, chạy một hồi rất lâu, thấy có một người treo móc hai chân lên cây đại thụ phía trước mặt, đầu chúi xuống đất, cười hi hi với nàng, chính là Kim Luân pháp vương. Quách Tương cả giận, quát:

– Lão muốn cản đường, thì cản cho ngay ngắn tử tế, sao lại đi giở trò đùa bỡn với bổn cô nương như thế?

Nàng phóng ngựa tới gần, quất một roi vào mặt lão ta.

Chỉ thấy Pháp vương không né tránh, roi ngựa vút tới mặt lão ta mà không nghe có âm thanh gì, đúng lúc ấy con ngựa phóng đi. Quách Tương tay phải định rút cây roi về, phát giác có một luồng lực truyền thụ sang tay mình, thân mình tự rời khỏi yên ngựa, bay lên cao. Thì ra Kim Luân pháp vương thấy roi ngựa vút tới, đã há miệng cắn lấy ngọn roi, thân hình đảo ngược lên cành cây, kéo Quách Tương lên theo.

Quách Tương lơ lửng trên không, không hề hoảng loạn, thấy Pháp vương cúi lưng co người định kéo nàng xuống, nàng liền buông cây roi, lợi dụng thế rơi thẳng xuống.

Pháp vương lại hoảng hốt, sợ nàng ngã xuống bị thương, vội ngửa người giơ tay đỡ, miệng kêu:

– Cẩn thận!

Quách Tương kêu “ối chao!” rơi xuống cách hai tay Pháp vương nửa thước, đột nhiên song chưởng cùng đánh ra, bình bình hai tiếng, trúng ngực lão ta. Nàng biến chiêu quá nhanh, Pháp vương tuy võ công cao cường, lại cơ trí, cũng không tránh kịp, chỉ thấy lão ta loạng quạng chân tay ngã xuống đất, nằm bất động.

Quách Tương không ngờ vừa ra đòn đã thành công, cả mừng, nhấc một hòn đá to dưới đất lên, định đập xuống cái đầu trọc lốc của Pháp vương. Nhưng trong đời nàng chưa giết ai bao giờ, tuy nàng rất căm hận người này đã giết hai vị bằng hữu của nàng, nhưng lúc cần ra tay, nàng lại không nỡ, cứ đứng ngây ra, cuối cùng nàng quăng hòn đá đi, giơ tay điểm các huyệt Thiên Đỉnh ở vai, Thân Trụ ở lưng, Thần Phong ở ngực, Thanh Lãnh Uyên ở cánh tay, Phong Thị ở chân, điểm liền một mạch mười ba đại huyệt trên người Pháp vương, vẫn chưa yên tâm, lại bê bốn hòn đá nặng vài chục cân đè lên người lão ta, nói:

– Ác nhân ơi là ác nhân, bổn cô nương hôm nay không giết lão, từ rày lão phải biết tốt xấu, không được hãm hại người ta nữa!

Đoạn nàng nhảy lên ngựa.

Kim Luân pháp vương mở to mắt nhìn nàng, cười nói:

– Tiểu cô nương có lòng tốt, lão hòa thượng rất mến cô nương.

Chỉ thấy bốn hòn đá đột nhiên bị hất ra khỏi người lão ta, lão ta bật ngay dậy, cũng chẳng hiểu làm cách nào lão ta đã giải hết mười ba huyệt đạo bị điểm. Quách Tương kinh ngạc, ngẩn ra không nói nên lời.

Nguyên Kim Luân pháp vương trúng song chưởng của nàng, nhưng hai chưởng ấy làm sao có thể đánh lão ta ngã khỏi cây? Dù có ngã cũng chẳng đến nỗi hết cựa quậy. Pháp vương giả vờ bị thương, thử xem Quách Tương động thủ thế nào, khi thấy nàng bưng tảng đá không đập xuống, lão thầm nghĩ: “Cô nương này thông minh lanh lợi, tâm địa lại tốt, có cái hay mà không có cái dở của hai đệ tử của ta”. Bất giác lão muốn thu nàng làm đệ tử.

Pháp vương bình sinh từng thu nhận ba đệ tử. Đại đệ tử văn võ song toàn, tư chất cực hay, Pháp vương vốn định truyền cho y bát, chẳng may y chết non. Nhị đệ tử Đạt Nhĩ Ba thật thà trung hậu, có thần lực, không thể lĩnh hội nội công cao thâm huyền diệu. Tam đệ tử Hoắc Đô vương tử bản tính khinh bạc, vô tình vô nghĩa, lúc nguy nan phản sư bỏ chạy. Pháp vương tự nghĩ tuổi lão đã cao, một thân tuyệt kỹ chưa biết truyền thụ cho ai, chẳng lẽ trăm năm sau không còn ai biết đến thứ võ công tuyệt thế của lão? Mỗi lần nghĩ thế, lão lại buồn buồn. Giờ thấy Quách Tương tư chất thông minh, bình sinh hiếm gặp, tuy nói là con gái kẻ địch, nhưng nàng còn nhỏ tuổi, dễ dàng cải biến, thiết tưởng chỉ cần truyền cho tuyệt kỹ, lâu dần nàng sẽ quên chuyện cũ. Huống hồ lão ta với cha mẹ nàng chỉ do hai nước tương tranh mà đối địch với nhau, chứ chẳng có thâm cừu đại oán riêng tư gì hết. Người trong võ lâm rất kính trọng việc thu đồ truyền pháp, nhà tu hành không có con cái, bản sự đầy mình toàn dựa vào đệ tử mà truyền tông tiếp đại, việc truyền y bát càng vô cùng hệ trọng. Pháp vương vừa nghĩ đến việc này, lập tức gác ngay chuyện đánh thành Tương Dương, gây áp lực với Quách Tĩnh sang một bên.

Quách Tương thấy cặp mắt Pháp vương láo liên, trầm ngâm không nói, bèn xuống ngựa, nói:

– Lão hòa thượng bản lĩnh thật cao cường, chỉ tiếc không chịu làm việc tốt.

Pháp vương cười, nói:

– Cô nương đã bái phục bản lĩnh của ta, chỉ cần bái ta làm sư phụ, ta sẽ truyền thụ mọi công phu cho cô nương.

Quách Tương xì một cái, nói:

– Bổn cô nương học công phu của lão hòa thượng có ích gì? Bổn cô nương lại không định làm ni cô.

Pháp vương cười, nói:

– Chẳng lẽ cứ học võ công của ta thì phải làm ni cô hay sao? Cô nương điểm huyệt ta, ta tự giải huyệt, cô nương đè đá lên người ta, ta hất đá ra khỏi người, cô nương phi ngựa, ta đi bộ lại đến trước nằm ngủ, các môn công phu ấy chẳng hay lắm sao?

Quách Tương nghĩ các môn công phu ấy quả rất hay, nhưng lão hòa thượng này là kẻ ác, làm sao có thể bái lão làm sư phụ, hơn nữa nàng cần tìm gấp Dương Quá, không nhiều thời gian dính dáng với lão ta, nên lắc đầu nói:

– Lão bản lĩnh cao mấy, bổn cô nương cũng không thể bái kẻ ác làm sư phụ.

Pháp vương nói:

– Sao cô nương biết ta là kẻ ác?

Quách Tương nói:

– Lão vừa xuất thủ đã đánh chết Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ hai người, họ không hề có oán cừu gì với lão, sao lão nỡ hạ độc thủ?

Pháp vương cười, nói:

– Ta chỉ giúp cô nương tìm ngựa khỏe, hai người ấy động thủ trước, cô nương không thấy hay sao? Nếu ta bản lĩnh kém cỏi, thì đã bị họ đập chết rồi. Làm hòa thượng phải từ bi, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, thì không đời nào giết người.

Quách Tương hừ một tiếng, không tin lời lão, nói:

– Rốt cuộc thì lão muốn gì? Nếu lão là người tử tế, tại sao không để cho bổn cô nương đi?

Pháp vương nói:

– Ta không cho cô nương đi hồi nào? Cô nương cưỡi ngựa muốn đi đâu thì đi, ta chỉ nằm ngủ trên đường, có giơ tay ra chắn đường hay không nào?

Quách Tương nói:

– Đã thế, lão hãy để cho bổn cô nương đi tìm Dương đại ca, đừng bám theo nữa.

Pháp vương lắc đầu, nói:

– Như thế không được. Cô nương phải bái ta làm sư phụ, học ta hai mươi năm võ nghệ đã, rồi muốn đi tìm ai thì cứ việc.

Quách Tương thất vọng, nói:

– Lão đúng là không biết lý lẽ, bổn cô nương không thèm bái sư, lão cứ cưỡng ép là sao?

Pháp vương nói:

– Cô nương không biết lý lẽ thì có, một minh sư như ta, khắp thiên hạ tìm đâu cho thấy kia chứ. Người khác lạy ta ba trăm cái, cầu xin chín, mười năm, ta cũng chưa thèm nhận làm đệ tử. Hôm nay cô nương gặp cơ hội ngàn năm có một, lại không thụ hưởng, thế có dại không?

Quách Tương bĩu môi, nói:

– Lão mà đòi làm minh sư cái thá gì? Chẳng qua lão thắng được một cô bé hơn mười tuổi như bổn cô nương, có gì là lạ. Lão có thắng nổi phụ mẫu của bổn cô nương hay không? Có thắng nổi ngoại công của bổn cô nương là Hoàng đảo chủ hay không? Đừng nói ba người ấy, ngay đại ca ca Dương Quá của bổn cô nương, lão cũng không thắng nổi.

Pháp vương bực tức nói:

– Ai bảo… ai bảo ta không thắng nổi tên tiểu tử Dương Quá?

Quách Tương nói:

– Anh hùng hảo hán thiên hạ đều nói thế. Mấy hôm trước, tại anh hùng đại yến trong thành Tương Dương, mọi người đều bảo dù có ba Kim Luân pháp vương nhất tề động thủ, mỗi Kim Luân pháp vương ba đầu sáu tay, cũng đánh không lại Thần điêu đại hiệp Dương Quá có một cánh tay.

Câu này Quách Tương tiện miệng bịa ra để khích Pháp vương, còn đại hội anh hùng chỉ thương nghị cách giữ thành Tương Dương, chống quân Mông Cổ, giả dụ có ai nhắc đến võ công mạnh yếu của Kim Luân pháp vương và Dương Quá, thì Quách Tương không tham dự, cũng chẳng thể biết. Ai ngờ người nói vô tâm, kẻ nghe hữu ý, câu này xoáy đúng vào chỗ đau của Kim Luân pháp vương. Mới mấy năm trước lão từng ba phen bại trận dưới tay Dương Quá, lão tưởng anh hùng thiên hạ nói thế thật, liền nổi giận quát:

– Tên tiểu tử Dương Quá nếu có mặt ở đây, ta sẽ cho hắn nếm mùi “Long tượng bát nhã công”, ôm đầu thảm bại, sẽ biết thời nay rốt cuộc là Dương Quá tài giỏi hay Kim Luân pháp vương ta cao minh.

Quách Tương chợt nảy một kế, nói:

– Lão thừa biết đại ca ca của bổn cô nương không có ở đây mới dám huênh hoang như thế. Lão có gan đi tìm chàng đấu thử một trận hay không? Cái môn “Xà trư bất nhã công” của lão…

Pháp vương vội nhắc:

– Là “Long tượng bát nhã công”!

Quách Tương nói:

– Lão phải thắng đại ca ca mới là rồng là voi, còn nếu chịu không nổi một đòn, thì đến con rắn con heo lão cũng chẳng bằng! Nếu lão thắng chàng, bổn cô nương tất nhiên sẽ bái lão làm sư phụ. Có điều là lão không dám đi tìm chàng nên mới khoác lác như vậy. Bổn cô nương cho rằng lão vừa nhìn thấy bóng Dương Quá, đã hoảng hồn chạy vắt chân lên cổ.

Pháp vương làm gì không biết kế khích tướng của Quách Tương, nhưng bình sinh lão hết sức tự phụ, vậy mà từng bại dưới tay Dương Quá, những năm qua lão đã luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, cốt đi tìm Dương Quá rửa vết nhục đại bại hồi trước, nên nói lớn:

– Ta bảo ta biết Dương Quá ở chỗ nào là nói dối cô nương, chỉ tiếc là tên tiểu tử ấy chui rúc nơi nào, ta không biết, nếu biết ta sẽ tìm đến đánh cho hắn một trận phải rập đầu xin tha.

Quách Tương cười ha ha, vỗ tay, nói:

– Lão hòa thượng huênh hoang, tự khoe vô địch thiên hạ, thấy Dương Quá ở phía đông, vội vàng lủi ngay sang phía tây.

Pháp vương hừ một tiếng, hầm hầm nhìn nàng.

Quách Tương nói:

– Bổn cô nương tuy không biết hiện thời Dương Quá ở đâu, nhưng lại biết hơn một tháng nữa, đại ca ca nhất định sẽ đến một chỗ.

Pháp vương hỏi:

– Hắn đến chỗ nào?

Quách Tương nói:

– Nói cho lão biết làm gì? Lão đã không dám đi gặp chàng, có nói ra lão càng thêm kinh sợ.

Pháp vương nghiến răng ken két, giục:

– Nói đi, cứ nói ta coi!

Quách Tương nói:

– Chàng sẽ đến trước Đoạn Trường nhai ở Tuyệt Tình cốc để gặp thê tử Tiểu Long Nữ. Một mình Dương Quá đã khiến lão hoảng sợ, thêm Tiểu Long Nữ nữa, thì lão có đến Đoạn Trường nhai sẽ chỉ để chịu chết mà thôi. Giả dụ vợ chồng họ đoàn tụ vui quá, không muốn giết người, thì lão đại bại cũng sẽ đau đớn đứt ruột mà chết.

Mười mấy năm nay, Pháp vương khổ luyện “Long tượng bát nhã công” là muốn đấu với Dương Quá và Tiểu Long Nữ khi hai người ấy liên thủ sử dụng “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”. Nếu lão chưa nắm chắc một mình đánh thắng cả hai người, thì lần này lão đã chưa dám trở lại Trung Nguyên. Bây giờ nghe Quách Tương nói thế, càng chạm đúng vào dự định của mình.

Pháp vương nói:

– Vậy thì hai ta cùng đi đến Tuyệt Tình cốc! Nếu ta đánh bại Dương Quá và Tiểu Long Nữ, thì sao nào?

Quách Tương nói:

– Giả dụ lão có võ công cao cường như thế thật, bổn cô nương còn mong gì nữa mà không vội bái lão làm sư phụ. Chỉ tiếc rằng Tuyệt Tình cốc là nơi u tịch, không dễ gì tìm ra nó ở đâu.

Pháp vương nói:

– Ta đã từng đến đó, cô nương khỏi lo. Hiện thời còn sớm, cô nương hãy theo ta tới quân doanh Mông Cổ, chờ ta liệu lý vài việc, rồi sẽ cùng đi Tuyệt Tình cốc.

Quách Tương thấy Pháp vương chịu đi Tuyệt Tình cốc tìm Dương Quá tỷ võ, thì yên tâm hẳn, nghĩ thầm: “Ta chỉ lo lão không chịu đi, giờ lão chịu rồi, thì còn sợ gì nữa? Lão ác tăng hoành hành ở đây thôi, chứ khi gặp đại ca ca thì sẽ biết tay chàng”. Nàng bèn đi theo Pháp vương tới quân doanh Mông Cổ.

Pháp vương nhất quyết muốn Quách Tương tiếp nhận y bát của lão, nghĩ bụng chỉ có làm cho nàng tâm phục, mai sau nàng mới có thể trở thành cao đồ, vì thế dọc đường lão đối với nàng rất tử tế, hiền hòa. Trong võ lâm minh sư cố nhiên khó cầu, song đệ tử thông minh mỹ chất cũng hiếm có y hệt, đệ tử tìm chọn sư phụ, mà sư phụ cũng tìm chọn đệ tử. Pháp vương và Quách Tương dọc đường cười cười nói nói, lão thấy nàng thông minh hơn người, ngộ tính cao lạ thường, thì không khỏi thầm hoan hỉ. Có lúc Quách Tương buồn bã trách cứ Pháp vương hạ độc thủ gây thảm tử cho Trường Tu Quỉ và Đại Đầu Quỉ, lão cũng không tức giận, còn cho rằng nàng không có cái tính khinh bạc như vương tử Hoắc Đô.

Pháp vương đưa Quách Tương đến quân doanh Mông Cổ, là đại doanh phía nam do hoàng đệ Hốt Tất Liệt thống lĩnh, trong khi Dương Quá lại đi tìm kiếm Quách Tương mấy ngày ở đại doanh phía bắc do đại hãn Mông Kha thống lĩnh, nên không thấy nàng.

Dương Quá lên đường đi Tuyệt Tình cốc không lâu thì Pháp vương và Quách Tương cũng khởi hành, ba người chỉ cách nhau hơn trăm dặm mà thôi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung sau khi ấu nữ bỏ đi, ngày đêm thương nhớ. Những đệ tử Cái Bang phái đi tứ xứ thăm dò lần lượt trở về bẩm báo, đều nói không biết tin tức gì. Hơn mười ngày sau, đột nhiên Trình Anh và Lục Vô Song đến thành Tương Dương, mang tin của Kha Trấn Ác, nói Quách Tương đã bị bắt vào quân doanh Mông Cổ. Quách Tĩnh, Hoàng Dung cả kinh. Ngay đêm hôm đó, Hoàng Dung và Trình Anh lẻn vào quân doanh Mông Cổ dò xét mọi chỗ, cũng như Dương Quá, không tìm ra manh mối gì. Đêm thứ ba, hai người phải đấu với các võ sĩ Mông Cổ một trận, hơn bốn chục võ sĩ vây chặt Hoàng Dung và Trình Anh, may mà võ công hai người cao cường, Hoàng Dung lại thi triển ngụy kế, mới vượt khỏi vòng vây chạy thoát về thành Tương Dương.

Hoàng Dung cho rằng nữ nhi hoàn toàn không có ở trong quân doanh Mông Cổ, nhưng vẫn không nhận được tin tức gì khác, là điềm không hay. Thấy đại quân Mông Cổ không có dấu hiệu gì chứng tỏ sắp đánh xuống phía nam, sau khi bàn với Quách Tĩnh, Hoàng Dung quyết định tự rời thành đi tìm. Hoàng Dung mang theo đôi chim điêu trắng, nếu có việc khẩn cấp, có thể cho chim chuyển tin tức về. Trình Anh và Lục Vô Song nằng nặc xin đi theo. Ba người vòng qua đại quân Mông Cổ, đi về hướng tây bắc. Hoàng Dung nghĩ: “Tương nhi đi chuyến này là để khuyên Dương Quá đừng tự sát. Lần trước nó đã gặp Dương Quá ở gần Đồng Quan, bến Phong Lăng, lần này chắc nó trở lại chốn cũ, mình phải tới bến Phong Lăng dò la tung tích”.

Ba người rời thành Tương Dương vào giữa mùa đông, vừa đi vừa hỏi dò tin tức dọc đường, đến bến Phong Lăng thì đã là hạ tuần tháng Hai, băng tuyết đang tan. Ba người hỏi dò tất cả những người lái đò, chủ quán, phu xe, khách bộ hành ở bến Phong Lăng, đều không một ai nhìn thấy tiểu cô nương nào như thế cả.

Trình Anh an ủi:

– Sư tỷ đừng lo. Tương nhi mới chào đời một ngày, đã bị hai đại ma đầu là Kim Luân pháp vương và Lý Mạc Sầu bắt đi. Tục ngữ có câu đại nạn không chết, tất có phúc lớn về sau. Hồi trước hung hiểm như thế còn chẳng việc gì, nữa là bây giờ?

Hoàng Dung thở dài, không nói gì. Ba người rời bến Phong Lăng, đi loanh quanh ra bên ngoài. Hôm nay trời nắng ấm, gió nồm thổi lồng lộng, hoa nở đầu cành, ý xuân phơi phới. Trình Anh chỉ một cây hoa đào, nói với Hoàng Dung:

– Sư tỷ, bắc quốc xuân đến chậm, ở đây hoa đào nở rộ, mấy cây đào trên đảo Đào Hoa chắc đã kết trái rồi!

Nàng vừa nói vừa bẻ một cành đào chơi, rồi khẽ ngâm:

Hỏi hoa, không nói một câu

Vì đâu hoa nở vì đâu hoa tàn

Ba phần xuân sắc hồng nhan

Nửa tan sóng biếc nửa tàn trần ai

Hoàng Dung thấy Trình Anh mày đen da trắng, vẫn xinh đẹp hệt như mười mấy năm trước, vậy mà khuê phòng lạnh giá, bất giác cũng đau lòng thay cho nàng. Bỗng nghe tiếng vo vo, một con ong mật bay tới, cứ lượn quanh cành đào Trình Anh đang cầm, rồi đậu trên đài hoa mà hút mật. Hoàng Dung thấy con ong này thân màu xám nhạt, to gấp đôi loài ong mật thông thường, chợt nhớ ra, nói:

– Hình như đây là giống ong ngọc phong mà Tiểu Long Nữ vẫn nuôi, tại sao nó lại xuất hiện ở đây?

Lục Vô Song nói:

– Đúng, chúng ta hãy đi theo con ong này, xem nó bay về chỗ nào?

Con ong hút nhụy một hồi, rời cành hoa, lượn vài vòng, rồi bay về hướng tây bắc. Ba người vội thi triển khinh công bám theo. Con ong gặp cây hoa thì dừng lại hút nhụy, hút xong lại bay tiếp, cứ bay rồi đậu, đậu rồi bay như thế, lát sau thêm hai con nữa nhập bọn. Ba người đuổi theo tới chiều thì đến một sơn cốc, chỉ thấy muôn hồng nghìn tía, cảnh sắc cẩm tú, dốc núi treo liền bảy, tám đõ ong bằng gỗ. Ba con ong kia bay vào trong đõ.

Bên kia dốc núi có ba gian nhà tranh, trước cửa có hai con cáo nhỏ, đưa cặp mắt long lanh nhìn ba người khách lạ. Bỗng két một tiếng, cánh cửa gỗ mở rộng, một người bước ra, chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông. Hoàng Dung cả mừng gọi:

– Lão Ngoan đồng, xem ai đến này!

Chu Bá Thông thấy Hoàng Dung thì cười ha hả, bước ra đón, nhưng được vài bước đột nhiên đỏ bừng cả mặt, quay người đi vào nhà, kẹt một tiếng, đã đóng cửa lại. Hoàng Dung lấy làm lạ, không hiểu Lão Ngoan đồng có dụng ý gì, gõ gõ cửa, gọi:

– Lão Ngoan đồng, Lão Ngoan đồng, sao thấy khách phương xa đến, lại trốn đi như vậy?

Chu Bá Thông ở bên trong nói:

– Không mở, không mở! Chết cũng không mở đâu!

Hoàng Dung cười, nói:

– Lão không mở, chúng tôi sẽ thiêu cái ổ chó của lão thành tro đấy.

Chợt nghe cánh cửa gian bên trái mở ra, một người nói:

– Hoang sơn quang lâm quí khách, lão hòa thượng cung nghênh.

Hoàng Dung ngó qua, thấy Nhất Đăng đại sư tươi cười đứng giữa cửa, chắp tay hành lễ. Hoàng Dung bước lên bái kiến, cười, nói:

– Thì ra đại sư là láng giềng của Lão Ngoan đồng, thật chẳng thể ngờ. Lão Ngoan đồng không hiểu vì cớ gì lại đóng cửa không tiếp khách?

Nhất Đăng đại sư cười ha ha, nói:

– Mặc kệ y! Mời ba vị vào nhà, lão tăng thết trà!

Ba người bước vào, Nhất Đăng đại sư bưng trà xanh ra, Hoàng Dung hỏi thăm cuộc sống nơi này. Nhất Đăng đại sư nói:

– Quách phu nhân thử đoán xem, gian bên phải có ai đang ở?

Hoàng Dung nghĩ vừa rồi Chu Bá Thông bỗng dưng đỏ mặt, chui vào nhà đóng cửa lại, đã biết vì sao, cười nói:

– Sóng xuân cỏ biếc ai cười, phòng sâu sáng rét giặt đôi áo hồng. Hay quá, hay quá!

Mấy câu này chính là đoạn cuối bài từ “Tứ trương ky” năm xưa Lưu quí phi Anh Cô đã sáng tác.

Nhất Đăng đại sư hiện thời tâm thanh tịnh, ngày ngày ngồi thiền, mọi dư hận si tình năm xưa đã mỉm cười cho qua từ lâu, liền vỗ tay cười:

– Quách phu nhân thần cơ diệu toán, chuyện gì cũng đoán trúng.

Lão bước ra cửa gọi:

– Anh Cô, Anh Cô, sang đây gặp tiểu hữu năm xưa chút nào.

Lát sau, Anh Cô bưng một cái khay gỗ đựng trái cây, bánh mật ong, hạt tùng rang sang mời khách. Bọn Hoàng Dung bái kiến, năm người cười nói thật vui.

Mối cừu hận, ân oán mấy chục năm khó cởi giữa Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông, Anh Cô, nhưng nay ba người đã già, tu vi lại tiến xa, cùng ẩn cư ở Vạn Hoa cốc, nuôi ong trồng rau, tỉa hoa tưới cây, không còn để bụng tình thế khó xử năm nào. Nhưng Chu Bá Thông bất ngờ gặp Hoàng Dung, cảm thấy ngượng ngùng, bèn đóng cửa tránh mặt. Tuy lão ở phòng bên, song vẫn dỏng tai nghe năm người trò chuyện, nghe Hoàng Dung kể cảnh náo nhiệt tại anh hùng đại yến trong thành Tương Dương, kể đến chỗ vạch trần bộ mặt thật của Hà Sư Ngã, thì Chu Bá Thông không nhịn thêm được nữa, bèn sang gian buồng của Nhất Đăng đại sư mà hỏi:

– Sau đó tên Hoắc Đô thế nào? Không lẽ hắn chạy thoát hay sao?

Đêm ấy bọn Hoàng Dung nghỉ đêm ở gian buồng của Anh Cô. Sáng hôm sau, Hoàng Dung dậy, ra ngoài sân, thấy Chu Bá Thông đang hoa chân múa tay, có một con ong đậu trên lòng bàn tay, vẻ vô cùng đắc ý.

Hoàng Dung cười, nói:

– Lão Ngoan đồng, có gì vui thế?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Tiểu Hoàng Dung, bản lĩnh của ta ngày càng cao siêu, tiểu muội có thán phục hay chưa?

Hoàng Dung biết Lão Ngoan đồng bình sinh có hai sở thích, một là chơi đùa, hai là võ học, mười mấy năm nay ẩn cư hoang cốc, chắc là lại sáng tạo ra môn võ công cao minh nào đó, đại loại như thuật “phân tâm nhị dụng, song thủ hỗ bác”, rất muốn biết, bèn nói:

– Võ công của Lão Ngoan đồng, tiểu muội phục sát đất từ hồi còn nhỏ, sao còn phải hỏi? Mấy năm rồi lại nghĩ ra công phu kỳ diệu gì phải không?

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Không, không phải thế. Môn võ công hay nhất gần đây là “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”, do tên tiểu tử Dương Quá sáng tạo, Lão Ngoan đồng tự thẹn không bằng. Thôi đừng nhắc đến võ học nữa!

Hoàng Dung lấy làm lạ: “Hài tử Dương Quá thật tài tình, trẻ như Quách Tương, già như Lão Ngoan đồng, ai cũng mê hắn, không biết “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” là môn gì?” Bèn hỏi:

– Thế bản lĩnh ngày càng cao cường của lão là gì vậy?

Chu Bá Thông giơ cao bàn tay có con ong kia lên, dương dương tự đắc nói:

– Đấy là bản lĩnh nuôi ong của ta.

Hoàng Dung bĩu môi, nói:

– Đàn ong ngọc phong này là của Tiểu Long Nữ tặng cho, có gì mà khoe?

Chu Bá Thông nói:

– Tiểu muội chưa hiểu tường tận. Ong ngọc phong mà Tiểu Long Nữ tặng ta cố nhiên là loại ong cực quí, nhưng Lão Ngoan đồng đã tạo ra được loài ong thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có, đúng là khéo hơn cả tạo hóa, phép lạ ấy Tiểu Iong Nữ bì sao kịp ta?

Hoàng Dung cười ha ha, nói:

– Lão Ngoan đồng càng già càng không biết ngượng, cái món mặt dày và huênh hoang một tấc đến trời thì đúng là thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có, khéo hơn cả tạo hóa.

Chu Bá Thông cũng không giận, cười hi hi, nói:

– Tiểu Hoàng Dung, ta hỏi tiểu muội, người là cái linh của vạn vật, thân mình có xăm hoa xăm chữ, hoặc xăm hình đầu rồng vuốt hổ, hoặc xăm chữ “Thiên hạ thái bình”. Nhưng trừ con người ra, trên thân thể cầm thú côn trùng có khắc chữ hay không?

Hoàng Dung nói:

– Hổ có vằn vàng, báo có gấm hoa, bướm và rắn trên thân có nhiều hoa văn gấp bội.

Chu Bá Thông nói:

– Nhưng tiểu muội đã thấy trên thân côn trùng có chữ bao giờ chưa?

Hoàng Dung nói:

– Nếu là trời sinh, thì tiểu muội chưa thấy bao giờ.

Chu Bá Thông nói:

– Được, vậy hôm nay ta cho tiểu muội được một phen đại khai nhãn giới.

Đoạn giơ bàn tay trái có con ong đến trước mắt Hoàng Dung. Chỉ thấy trên đôi cánh của con ong lớn này quả nhiên có chữ, Hoàng Dung nhìn kỹ, thấy trên cánh phải có ba chữ “đáy tình cốc”, trên cánh trái có ba chữ “ta ở dưới”, mỗi chữ nhỏ như hạt gạo, nhưng nét bút rõ ràng, chắc là dùng kim mà xăm. Hoàng Dung kinh ngạc, miệng lẩm bẩm:

– “Ta ở dưới đáy tình cốc”, “ta ở dưới đáy tình cốc”…

Nghĩ: “Sáu chữ này quyết không phải là trời sinh, mà có người cố ý xăm thành, tính nết của Lão Ngoan đồng, thì cái việc tỉ mẩn này không phải do lão làm”.

Bèn cười, nói:

– Thế thì có gì đáng gọi là thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có? Lão hành hạ Anh Cô, bắt Anh Cô dùng kim xăm sáu chữ ấy trên cánh ong, tưởng che mắt được tiểu muội chắc?

Chu Bá Thông vừa nghe đã đỏ mặt, nói:

– Tiểu muội cứ việc sang hỏi Anh Cô xem có phải Anh Cô dùng kim xăm hay không?

Hoàng Dung cười, nói:

– Anh Cô dĩ nhiên sẽ chối phắt cho hợp ý lão. Lão bảo mặt trời mọc ở phía tây, Anh Cô cũng sẽ bảo “Đúng thế, mặt trời mọc ở phía tây, chưa khi nào mọc ở phía đông”.

Chu Bá Thông càng đỏ mặt hơn, vừa là ngượng ngập, vừa là uất ức vì bị oan, lão thả con ong bay đi, rồi kéo tay Hoàng Dung, nói:

– Nào lại đây, ta cho tiểu muội chính mắt nhìn thấy.

Lão kéo Hoàng Dung tới bên một đõ ong ở bên dốc núi, cái đõ ong này treo riêng một chỗ, không cùng với các đõ ong khác. Chu Bá Thông giơ tay bắt hai con ong, nói:

– Nhìn đi!

Hoàng Dung nhìn kỹ, thấy trên hai cánh mỗi con ong đều có sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc” hệt như con ban nãy. Nghĩ thầm: “Tạo hóa tuy kỳ lạ, cũng nhất định không có lý gì tạo ra loài ong này. Bên trong hẳn có duyên cớ”, bèn nói:

– Lão Ngoan đồng, bắt vài con nữa xem nào.

Chu Bá Thông lại bắt bốn con ong nữa, thì hai con trong đó trên cánh không có chữ. Lão thấy Hoàng Dung cúi đầu trầm ngâm, tựa hồ đã chịu thua, không dám bảo là do Anh Cô xăm chữ, nên cười nói:

– Tiểu muội còn gì để nói nữa không? Hôm nay đã phục Lão Ngoan đồng hay chưa?

Hoàng Dung không đáp, cứ lẩm bẩm: “Ta ở dưới đáy tình cốc” mấy lần, chợt hiểu: “Là ai ở dưới đáy Tuyệt Tình cốc? Không lẽ là Tương nhi?” Trống ngực đập dồn, liền quay sang nói:

– Lão Ngoan đồng, đõ ong này không phải do lão nuôi, mà ong từ nơi khác bay đến.

Chu Bá Thông đỏ mặt, nói:

– Ôi, kỳ thật, làm sao tiểu muội biết?

Hoàng Dung nói:

– Làm sao tiểu muội biết ư? Thế lũ ong bay đến đây được mấy hôm rồi?

Chu Bá Thông nói:

– Lũ ong này bay đến được mấy năm rồi, ban đầu ta không để ý trên cánh có chữ, mãi mấy tháng trước đây ta mới phát giác.

Hoàng Dung hỏi:

– Có thật là mới vài năm thôi hay không?

Chu Bá Thông nói:

– Đúng thế, chẳng lẽ chuyện đó còn phải giấu tiểu muội?

Hoàng Dung trầm ngâm hồi lâu, trở về ngôi nhà tranh, bàn bạc cùng Nhất Đăng đại sư, Trình Anh và Lục Vô Song, ai cũng cảm thấy bên dưới Tuyệt Tình cốc tất có sự lạ. Hoàng Dung nghĩ đến con, sốt ruột muốn cùng tỷ muội Trình, Lục đi thăm dò một chuyến.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Ở đây hiện không có việc gì, lão tăng sẽ đi cùng. Lần trước lệnh ái tới đây, tiểu cô nương ấy hào hiệp khảng khái, lão tăng rất mến.

Hoàng Dung bái tạ, nhưng trong lòng rất lo: “Nhất Đăng đại sư chắc nghĩ Quách Tương gặp tai nạn, nếu không đã chẳng tội gì bỏ nơi u cốc tĩnh tu này mà đi cùng ta?” Chu Bá Thông thấy có nhiệt náo, đời nào chịu ở lại, nhất định đòi cho Anh Cô đi cùng. Hoàng Dung thấy có thêm ba vị đại cao thủ tương trợ, đỡ hẳn lo ngại, cho rằng đoàn mình sáu người thế này, bất kể đấu trí đấu lực, e rằng thời nay không có ai địch nổi, Quách Tương có rơi vào tay kẻ gian, cũng nhất định sẽ được cứu ra. Thế là sáu người cùng cặp chim điêu cùng đi về hướng Tây.

Dương Quá đến Tuyệt Tình cốc vào cuối tháng Hai đầu tháng Ba, còn sớm năm ngày so với ước hẹn của Tiểu Long Nữ mười sáu năm về trước. Hiện thời Tuyệt Tình cốc không một bóng người, tòa ngang dãy dọc mà vợ chồng Công Tôn Chỉ và các đệ tử áo xanh dựng nên đã đổ nát hoang tàn hết cả. Dương Quá sau khi rời Tuyệt Tình cốc mười sáu năm trước, cứ dăm năm chàng lại đến đây ở vài hôm, hi vọng rằng không chừng Nam Hải thần ni động lòng từ bi, đột nhiên cho phép Tiểu Long Nữ trở về sớm hơn hạn định. Tuy mỗi lần như thế chàng đều sầu khổ ra đi nhưng coi như cũng rút ngắn được kỳ hạn dăm năm.

Lần này trở lại vùng đất cũ, nhìn cỏ dại mọc đầy, núi rừng tịch mịch, vẫn không một dấu chân người, chàng bèn chạy đến trước Đoạn Trường nhai, vượt qua chiếc cầu đá, đưa tay miết dòng chữ mà Tiểu Long Nữ dùng mũi kiếm khắc vào đá, các nét chữ bị rêu xanh phủ lấp lập tức hiện ra hai hàng to nhỏ.

Dương Quá khe khẽ lẩm bẩm:

– Tiểu Long Nữ dặn “Phu quân Dương lang, vô cùng trân trọng, mong ngày đoàn tụ.”

Bất giác trống ngực chàng đập dồn.

Chàng cứ đứng ngây người nhìn hai dòng chữ. Đến tối thì mắc dây thừng lên hai cây mà ngủ. Hôm sau chàng đi tha thẩn trong cốc, thấy những bụi cây hoa Tình mà năm xưa chàng cùng Trình Anh, Lục Vô Song chặt phá đã không mọc nữa, thấy một bông hoa hồng rực rỡ mà chàng đặt tên là hoa Long Nữ mới nở, chàng bèn ngắt lấy, đem tới cắm bên dòng chữ ở Đoạn Trường nhai. Chờ đợi khổ sở năm ngày, đã đến ngày mồng bảy tháng Ba. Chàng đã hai ngày đêm liền không ngủ, hôm nay càng không rời Đoạn Trường nhai nửa bước. Từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, mỗi khi gió thổi cây rung, hoa rơi lá rụng, chàng lại giật mình, đứng bật dậy ngó quanh tứ phía, nào thấy bóng dáng Tiểu Long Nữ?

Từ khi hỏi Hoàng Dược Sư về Nam Hải thần ni ở đảo Đại Trí, biết đó là chuyện Hoàng Dung bịa đặt, nhưng hai dòng chữ kia là do Tiểu Long Nữ khắc thì không phải giả, những mong nàng nói lời thì giữ lấy lời, cuối cùng tới gặp. Nhìn vầng dương từ từ lặn xuống núi, lòng Dương Quá cũng lặng dần. Khi vầng dương bị núi che một nửa, chàng kêu to, chạy lên đỉnh núi. Đứng trên đó, thấy vầng dương tròn trặn như cũ, lòng chàng nhẹ đi, chỉ cần vầng dương còn kia, ngày mồng bảy tháng Ba vẫn chưa hết.

Nhưng mặc dù chàng đã đứng trên đỉnh cao nhất, mặt trời rốt cuộc cũng lặn xuống dưới đất. Chàng đứng lặng, nhìn bốn phía mịt mờ, cảm thấy khí lạnh thấm vào người.

Cứ đứng bất động hơn một canh giờ, rồi mảnh trăng bán nguyệt thong thả lên đến đỉnh trời. Không chỉ một ngày đã hết, mà một đêm cũng sắp trôi qua. Tiểu Long Nữ thủy chung không tới.

Dương Quá đứng ngây như tượng đá trên đỉnh núi một đêm, mãi đến lúc vầng dương mọc lên ở phía đông. Bốn phía tiếng chim ríu rít, hoa thơm thoang thoảng, ý xuân đang nồng, lòng chàng lại như băng giá, có tiếng nói văng vẳng bên tai:

– Đồ ngốc! Nàng chết từ đời nào rồi, nàng chết từ mười sáu năm trước rồi. Nàng tự biết trúng độc không khỏi, mi lại quyết không chịu sống một mình, nên đã tự tận, song lại lừa mi chờ đợi mười sáu năm. Đồ ngốc! Nàng đối với mi tình ý sâu nặng như thế, sao đến tận hôm nay mi vẫn chưa hiểu tâm ý của nàng?

Chàng như một cái xác không hồn, chạy xuống núi, một ngày một đêm không ăn không uống, cảm thấy môi khô họng rát, bèn tới bên dòng suối vục nước mà uống. Vừa cúi xuống, thấy bóng mình trong nước, hai bên tóc mai đã bạc trắng. Chàng năm nay ba mươi sáu tuổi, sức lực dồi dào, tóc không thể bạc, nhất là nội công thâm hậu, tuy một đời gian nan nguy hiểm, song chưa hề có sợi tóc bạc nào cả, đột nhiên bây giờ thấy hai bên tóc mai bạc trắng, mặt xám ngoét lấm bụi, cơ hồ không nhận ra diện mạo của mình nữa, chàng đưa tay giật ba sợi tóc ở mép trán mà xe, thấy hai sợi đã bạc.

Thời khắc ấy, chàng bỗng nhớ mấy câu trong bài từ của Tô Đông Pha viết để cho người vợ quá cố.

Mười năm sinh tử miên man

Lòng xuân khôn dứt muôn ngàn ái ân

Quan san vạn dặm cô phần

Thê lương tình ấy phân trần nơi đâu

Tương phùng chẳng nhận được nhau

Tóc xanh mặt ngọc đượm màu phong sương

Dương Quá một đời chuyên tâm luyện võ, đọc sách không nhiều, mấy năm trước tại một tửu điếm nhỏ ở Giang Nam, chàng đọc thấy bài từ này viết trên vách, thấy tình thâm ý chân, nhẩm vài lần đã thuộc, bây giờ tự dưng nhớ lại, đã quên tác giả là ai, nghĩ bụng: “Người ấy mười năm sống chết hai đường. Ta và Tiểu Long Nữ xa nhau đã mười sáu năm. Người ấy có một nấm mộ, biết hài cốt của ái thê ở đâu, còn ta thì ái thê chôn cất ở chỗ nào cũng không biết”. Rồi chàng nhớ tiếp nửa sau bài từ, trong đó nhà thơ một đêm nằm mộng thấy ái thê:

Đêm mơ về lại cố hương

Thấy em hiên vắng soi gương chải đầu

Nhìn nhau không nói một câu

Áo xanh ướt đẫm lệ sầu chứa chan

Biết khi trăng chiếu thông ngàn

Đoạn trường chốn ấy gặp nàng được chăng?

(Đây là bài từ Giang thành tử của Tô Đông Pha. Khi ông đang ở Sơn Đông, trùng vào ngày giỗ thứ mười của ái thê, đêm nằm mơ thấy nàng, nên từ Sơn Đông hoài vọng về Ba Thục, cảm khái viết nên bài từ này)

Bất giác lòng chàng đau đớn: “Còn ta, còn ta ba ngày ba đêm không thể chợp mắt, đến một giấc mộng cũng chẳng có!” Đột nhiên chàng nhảy bật lên, chạy đến trước Đoạn Trường nhai, nhìn trân trân hai dòng chữ Tiểu Long Nữ khắc trên đá, thét lớn:

– “Mười sáu năm sau tái hợp ở đây, phu thê thâm tình, xin đừng lỡ hẹn.” Tiểu Long Nữ ơi là Tiểu Long Nữ. Đây là những chữ chính nàng viết ra, tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

Tiếng thét của chàng phát ra từ đáy lòng, nghe vang rền cả sơn cốc, rừng núi bốn phía hưởng ứng, đông nam tây bắc, núi non xung quanh cùng dội lại:

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

– …Không giữ lời hẹn… Không giữ lời hẹn…

Tính chàng vốn quật cường mạnh mẽ, giờ thì không còn thiết gì nữa, nghĩ: “Long nhi đã qua đời từ mười sáu năm về trước, ta còn sống thêm mười sáu năm thật vô vị”.

Chàng nhìn xuống vực sâu trước Đoạn Trường nhai, chỉ thấy dưới đó đầy sương mù. Mỗi lần tới đây, chàng chưa bao giờ thấy đáy cốc vì nó luôn có mây mù che phủ. Bây giờ cũng vậy. Chàng ngửa mặt hú một tiếng dài, khiến mấy trăm đóa hoa Long Nữ đã héo trên Đoạn Trường nhai bay lả tả, nói nhỏ:

– Năm xưa nàng đột nhiên mất tích, không biết đi đâu, ta tìm nàng khắp núi non, không thấy nàng, ta đoán nàng đã nhảy xuống cái vực sâu vạn trượng này, mười sáu năm nay chăng lẽ nàng không sợ tịch mịch hay sao?

Lệ làm mờ mắt, trước mắt tựa hồ thấp thoáng bóng áo trắng của Tiểu Long Nữ, rồi dường như chàng nghe văng vẳng có tiếng gọi của nàng từ dưới đáy vực:

– Dương lang, Dương lang chàng ơi, đừng đau lòng, đừng đau lòng!

Dương Quá nhún hai chân một cái, thân hình bay lên, chàng nhảy xuống vực sâu.

Quách Tương theo Kim Luân pháp vương đến Tuyệt Tình cốc. Pháp vương có khi hiểm độc hơn cả rắn rết, nhưng lão đã có ý nhận Quách Tương làm truyền nhân y bát, cho nên dọc đường lão săn sóc nàng rất chu đáo, coi nàng y như ái nữ thân sinh của mình. Quách Tương hận lão đánh chết Trường Tu Quỉ và Đại Đầu Quỉ, nên thần sắc trước sau vẫn lạnh lùng. Pháp vương cả đời được người ta tôn sùng, ở Tây Tạng lão được tôn sùng như đế vương, ngay cả Tứ vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt đối với lão cũng một mực kính nể. Vậy mà suốt dọc đường cô bé Quách Tương cứ hết chê lão võ công không bằng Dương Quá, lại trách lão hồ loạn sát nhân, làm cho đệ nhất quốc sư Đại Mông Cổ phải dở khóc dở cười.

Lúc hai người đến Tuyệt Tình cốc, bỗng nghe có tiếng thét lớn:

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

Tiếng thét đầy bi thương, tuyệt vọng, khổ đau.

Quách Tương nghe tựa hồ mỗi quả núi đều hùa theo “Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?”

Nàng kinh ngạc nói:

– Là đại ca ca đấy, ta đi mau lên!

Nàng chạy gấp vào cốc. Kim Luân pháp vương thấy đại địch ở phía trước, phấn chấn hẳn lên, rút kim, ngân, đồng, thiết, diên ngũ luân từ trong túi đeo sau lưng ra cầm tay. Lão đã luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, nhưng nghĩ mười sáu năm qua Dương Quá và Tiểu Long Nữ quyết chẳng ngồi không, cũng vẫn luyện võ, nên lão không dám khinh suất.

Quách Tương chạy về phía phát ra tiếng thét, chẳng mấy chốc đã tới trước Đoạn Trường nhai, thấy Dương Quá đứng trên sườn núi, mấy chục bông hoa lớn màu hồng bay lả tả xung quanh. Nàng thấy vách núi nhô ra rất hung hiểm, mình công phu thấp kém, không dám phi thân sang, chỉ gọi:

– Dương đại ca, muội tới đây!

Nhưng Dương Quá thẫn thờ đau khổ, không nghe thấy.

Quách Tương từ xa thấy cứ chỉ của chàng khác lạ, bèn nói:

– Muội còn có một cái kim châm của đại ca ca đây, hãy nghe muội nói, dù thế nào cũng đừng tự tận…

Vừa nói, nàng vừa chạy qua cái cầu đá sang chỗ chàng. Nàng chạy được nửa chừng, thấy Dương Quá tung người nhảy xuống vực sâu vạn trượng bên dưới.

Quách Tương sợ đến hồn xiêu phách lạc, cũng không biết là để cứu Dương Quá, hay là do thâm tình muốn theo chàng lìa trần, nàng nhún hai chân, nhảy luôn theo chàng xuống vực. Kim Luân pháp vương đi sau bảy, tám trượng, thấy nàng nhảy thì bay người tới cứu. Lão vội thi triển khinh công, hệt như mũi tên rời khỏi cung, nhanh dị thường, nhưng đã chậm một bước, Quách Tương đã rơi xuống dưới. Pháp vương không kịp nghĩ ngợi, sử chiêu “Đảo quải kim câu”, cúi chộp cánh tay nàng. Chiêu này rất mạo hiểm, chỉ cần sơ sảy một chút, lão cũng sẽ bị kéo ngã xuống vực. Tay lão vừa chạm vào tay áo nàng, thì nghe soạt một tiếng, tay áo của Quách Tương đã bị xé rách, thấy thân hình nàng chui qua mây mù mấy chục trượng bên dưới, nàng rơi qua đó, mây mù liền khép lại, không còn thấy bóng dáng đâu nữa.

Pháp vương thở dài buồn bã, tay cầm mảnh áo rách, thẫn thờ nhìn xuống vực.

Một hồi lâu, bỗng nghe có tiếng gọi từ sườn núi đối diện:

– Gã hòa thượng kia, ở đấy làm gì vậy?

Pháp vương nhìn sang, thấy bên đó có sáu người, đi đầu chính là Chu Bá Thông. Cạnh Chu Bá Thông có ba nữ tử, Pháp vương nhận ra Hoàng Dung, Trình Anh và Lục Vô Song, tiếp đến một lão tăng râu tóc bạc như cước, rồi đến một hắc y lão bà, Pháp vương chưa biết đó là Nhất Đăng đại sư và Anh Cô. Pháp vương đã mấy lần mục kích công phu của Chu Bá Thông, biết lão đầu nhi này võ công xuất quỉ nhập thần, trong bụng có ba phần ngán ngại, còn Hoàng Dung thì kiêm sở trường của hai nhà Đông Tà, Bắc Cái cơ biến lạ lùng, là một nhân vật cực kỳ lợi hại.

Pháp vương đã luyện thành thần công, vốn có thể giao đấu với hai đệ nhất cao thủ võ học, nhưng lúc này lão ta còn đang thương tiếc Quách Tương chết thảm, nên buồn rầu nói:

– Quách Tương cô nương ngã xuống thâm cốc rồi. Than ôi!

Nói xong thở dài.

Mọi người nghe thấy đều cả kinh. Hoàng Dung càng chấn động, run giọng hỏi:

– Thật vậy ư?

Pháp vương nói:

– Ta nói dối phu nhân làm gì? Chẳng phải mảnh áo của Quách cô nương đây sao?

Đoạn lão ta giơ mảnh áo lên. Hoàng Dung nhìn, đúng là mảnh rách từ áo của nữ nhi, thì toàn thân run rẩy như sa xuống hố băng, không nói nên lời.

Chu Bá Thông tức giận nói:

– Hòa thượng thối tha, sao ngươi lại đi giết hại một tiểu cô nương? Người gì mà tàn ác thế?

Pháp vương lắc đầu, nói:

– Không phải ta giết hại đâu.

Chu Bá Thông nói:

– Đang yên đang lành tại sao tiểu cô nương lại đi nhảy xuống vực? Ngươi không đẩy, thì cũng là ngươi bức tiểu cô nương phải nhảy xuống.

Pháp vương thở dài, nói:

– Đều không phải. Ta có ý thu nhận Quách cô nương làm đồ đệ, truyền cho y bát, sao lại đi giết hại làm gì?

Chu Bá Thông nhổ sang một bãi nước miếng, gằn giọng:

– Thối lắm, khó ngửi lắm! Ngoại công của Tương nhi là Hoàng lão tà, phụ thân là Quách Tĩnh, mẫu thân là Hoàng Dung, mỗi một người ấy không mạnh hơn hòa thượng thối tha nhà ngươi chắc? Ngươi lại đòi Tương nhi bái ngươi làm sư phụ, nhận y bát thối tha của ngươi. Lão Ngoan đồng ta chỉ cần dạy cho Tương nhi vài môn võ mèo quào, cũng đủ đánh bại mấy cái vòng tròn sắt gỉ đồng hoen kia của ngươi!

Chu Bá Thông và Pháp vương cách nhau rất xa, bãi nước miếng kia như một viên đạn bắn thẳng tới mặt, Pháp vương nghiêng đầu né tránh, thầm thán phục. Chu Bá Thông thấy mình vặn cho Pháp vương á khẩu vô ngôn, thì dương dương tự đắc, lại quát:

– Chắc là Quách Tương không chịu bái ngươi làm sư phụ, phải vậy không? Còn ngươi cứ một mực muốn nhận Quách Tương làm đồ đệ, phải vậy không?

Pháp vương gật gật đầu. Chu Bá Thông lại nói:

– Như thế tức là ngươi đã đẩy Quách Tương xuống vực.

Pháp vương trong lòng phiền muộn, thở dài, nói:

– Ta không đẩy. Quách cô nương tại sao tự tận, thì ta quả thật không hiểu.

Hoàng Dung tâm thần hơi trấn tĩnh, nghiến răng, giơ cây trúc bổng, xông tới chỗ Kim Luân pháp vương. Hoàng Dung sử tự quyết chữ “Phong”, bổng ảnh loang loáng, lập tức phong bế khoảng vài thước trước mặt Pháp vương. Trên chiếc cầu đá rộng chưa đầy một thước, Hoàng Dung đau đớn về cái chết của nữ nhi, chiêu nào cũng đều là sát thủ.

Pháp vương võ công tuy cao hơn Hoàng Dung, cũng không dám đối địch trực diện, thấy bổng pháp tinh kỳ, nếu tiếp chiêu của Hoàng Dung, Chu Bá Thông xông vào trợ chiến, chỗ này địa thế quá hiểm, sẽ rất khó đối phó, bèn nhún chân trái một cái, nhảy lùi ba thước, hú một tiếng dài, đột nhiên nhảy vọt qua đầu Hoàng Dung. Hoàng Dung chọc cây bổng lên, Pháp vương dùng ngân luân gạt đi. Hoàng Dung hít một hơi, quay mình lại. Chỉ thấy Chu Bá Thông đã đấu với Pháp vương. Pháp vương coi trọng thân phận một đại tông sư, thấy đối phương dùng tay không, lão ta bèn giắt ngũ luân vào thắt lưng, dùng tay không đánh trả. Hoàng Dung chạy qua cầu đá trở lại, cây bổng điểm tới sau lưng Pháp vương.

Pháp vương sau khi luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, hôm nay mới gặp cao thủ, đang rất muốn thử, thấy Chu Bá Thông vung quyền đánh tới, liền dùng quyền đối quyền, quyền của đôi bên chưa đụng nhau, đã phát ra tiếng nổ lép bép. Chu Bá Thông kinh ngạc, đoán quyền lực của đối phương bất thường, không dám đụng thẳng, cùi chỏ hơi trầm xuống, sử dụng Không minh quyền. Một quyền này của Pháp vương đánh ra, lực đạo gần ngàn cân, tuy không thể nói có đại lực của rồng của voi, song thân phàm xác trần quyết không thể chịu nổi. Nhưng khi chạm với quyền lực của Chu Bá Thông, chỉ cảm thấy nhẹ bẫng, không có chỗ nào để sử lực, lòng thầm kinh dị, tả chưởng liền vỗ ra.

Chu Bá Thông đã cảm thấy kình lực của đối phương khác hẳn thông thường, thật là chưa từng gặp. Lão tính hiếu võ, hễ biết ai có tuyệt kỹ là bám lấy để giao đấu cho bằng được, một đời trải qua không biết bao nhiêu trận lớn nhỏ, đấu với vô số hảo thủ giang hồ, nhưng luồng kình lực như Pháp vương phát ra thế này thì chưa từng nghe, chưa từng thấy, nhất thời chưa biết là môn gì, liền sử dụng bảy mươi hai lộ Không minh quyền, lấy hư ứng thực, vận không đương cường. Như thế, tuy làm cho lực đạo khủng khiếp của Pháp vương không có đất dụng võ, song bản thân cũng không thể đả thương đối thủ.

Pháp vương sử mấy chiêu, lại chỉ như gãi ngứa đối phương. Lão ta vùi đầu khổ luyện mười mấy năm, xuất thủ lại vô hiệu, tất hết sức nôn nóng, chợt nghe tiếng gió rít sau lưng, cây gậy trúc của Hoàng Dung chọc tới huyệt Linh Đài Xích, bèn gạt tay ra phía sau một cái, rắc một tiếng, cây trúc bổng lập tức gãy đôi, dư lực còn làm cho cát đá bay mù mịt.

Hoàng Dung kinh hãi nhảy ra, nghĩ thầm lão ác tăng năm xưa lợi hại, hiện thời còn lợi hại gấp mấy hồi xưa, chưởng lực của lão ta ghê gớm như thế là môn công phu gì vậy?

Trình Anh và Lục Vô Song thấy Hoàng Dung bất lợi, một dùng ngọc địch, một dùng trường kiếm, từ hai phía tả hữu tấn công Pháp vương. Hoàng Dung kêu lên:

– Hai vị hãy cẩn thận!

Lời chưa dứt, rắc rắc hai tiếng, ngọc địch và trường kiếm đã gãy cả. Vì Quách Tương đã thảm tử, Pháp vương hôm nay không muốn đả thương mạng người, chỉ quát:

– Xéo cả ra!

Chứ lão ta không đuổi theo Trình, Lục hai nàng.

Bỗng thấy một bóng đen nhào tới, Anh Cô đã đánh bên mình. Pháp vương hất chưởng đánh vào eo lưng Anh Cô. Võ công của Anh Cô vốn thấp hơn Hoàng Dung, nhưng Anh Cô luyện môn “Nê thu công”, né tránh cực kỳ tài tình; lúc cảm thấy có luồng cự kình ập đến, lão bà uốn người hai ba cái đã luồn lách tránh được. Pháp vương không biết rằng võ công của Anh Cô kỳ thực chưa tới cảnh giới đệ nhất cao thủ, lão đánh liền hai quyền đều bị lão bà dùng thân pháp cổ quái tránh được, thì không khỏi kinh ngạc. Lão cứ tưởng thần công của mình đủ để tung hoành thiên hạ, ai dè có hai lão nhân còn chưa làm gì nổi họ, thì không khỏi thất vọng, không ham đánh nữa, nhảy tránh sang một bên.

Anh Cô cố gắng hết sức mới tránh thoát hai chiêu của Pháp vương, thấy lão ta nhảy lui thì không mong gì hơn, đâu còn dám xông tới. Chu Bá Thông quát:

– Đừng hòng bỏ chạy!

Lão vọt đuổi theo.

Pháp vương đang định đánh lại một chưởng, bỗng nghe ào ào một luồng khí nhu hòa ập tới trước mặt, chính là Nhất Đăng đại sư sử dụng công phu “Nhất dương chỉ”. Pháp vương từ đầu vốn không để ý đến bạch mi lão tăng, không ngờ công phu “Nhất dương chỉ” của đại sư lại thâm hậu đến thế.

Công phu “Nhất dương chỉ” của Nhất Đăng đại sư thật đã đạt tới cảnh giới đăng phong tạo cực, lô hỏa thuần thanh. Luồng canh khí do chỉ phát ra tưởng như ấm áp bình hòa, song ào ạt thâm hậu, không thể chống đỡ. Pháp vương kinh sợ nghiêng mình né tránh, rồi mới đánh trả một chưởng. Nhất Đăng đại sư thấy chưởng lực của Pháp vương quá cương mãnh, không dám tương tiếp, nhẹ nhàng thoái lui vài bước. Một vị cao tăng Nam Triệu, một vị dị sĩ Tây Vực, đôi bên trao đổi một chiêu, không ai dám coi thường đối phương. Chu Bá Thông giữ thể diện, không xông vào giáp kích, đứng một bên quan chiến.

Khoảng cách giữa Nhất Đăng đại sư và Pháp vương bất quá chỉ vài thước, nhưng bên này phát chưởng, bên kia phát chỉ, càng lúc càng xa, dần dần cách nhau hơn một trượng, mỗi bên dùng công lực bình sinh mà đánh từ xa. Hoàng Dung đứng ngoài xem, thấy trên đỉnh đầu Nhất Đăng đại sư có một luồng bạch khí bốc lên, càng lúc càng dày, như hơi nước sôi, rõ ràng đại sư đang vận chuyển nội kình, chỉ sợ đại sư tuổi cao lực suy, không địch nổi Pháp vương, trong lòng lại thương nữ nhi thảm tử, rất muốn xông tới liều chết một phen với kẻ thù, nhưng thấy hai bên đang chưởng lai chỉ vãng, chân lực đấu nhau dữ dội, quả thật không thể xen vào, đang chưa biết tính sao, bỗng nghe có tiếng chim điêu trên cao, bèn huýt sáo ra hiệu, tay chỉ Pháp vương.

Một đôi chim điêu màu trắng vừa kêu vừa lao bổ từ trên không trung xuống đầu Pháp vương.

Nếu là Thần điêu của Dương Quá, chắc Pháp vương ngán ngại, còn đôi chim điêu này tuy to xác, song cũng chỉ là loài chim, làm gì nổi lão ta? Nhưng lúc này Pháp vương đang dốc toàn lực đấu với Nhất Đăng đại sư, không thể lơi lỏng chút nào, đôi chim điêu đột nhiên lao xuống, Pháp vương đành đẩy tả chưởng lên hai cái, hai luồng chưởng lực phân kích đôi chim điêu.

Đôi chim điêu không chịu nổi, bay vọt lên cao. Nhưng như thế đã giúp Nhất Đăng đại sư lập tức chiếm thượng phong. Pháp vương phải vội vận lực vào tả chưởng mới tái lập được cục diện ngang ngửa.

Đôi chim điêu nghe Hoàng Dung huýt sáo thúc giục, song chưởng lực của kẻ địch quá mạnh, bèn hư trương thanh thế, đột nhiên kêu to, lao nhanh xuống, nhưng còn cách đầu Pháp vương hơn một trượng, không đợi lão ta phát chưởng, đôi chim điêu đã bay lên.

Song điêu cứ thay phiên nhau lao xuống như thế, tuy không đả thương, nhưng cũng làm rối loạn tâm trí Pháp vương. Cao thủ đối địch, phải tập trung ý chí, đầu óc tỉnh táo, nội lực mới có thể phát huy tối đa, chưởng lực của Pháp vương tuy hơn hẳn Nhất Đăng đại sư, nhưng tu tâm dưỡng tính thì thua xa Nhất Đăng, vừa rồi Quách Tương thảm tử, tâm thần Pháp vương đã bất định, giờ thêm đôi chim điêu quấy nhiễu, lão ta càng thêm rối trí. Tâm ý hơi loạn, chưởng lực của lão ta lập tức cảm ứng. Nhất Đăng mỉm cười, tiến lên nửa bước. Hoàng Dung thấy Nhất Đăng tiến bước, liền nói to:

– Quách Tĩnh, Dương Quá, hai người cùng tiến vào, hợp lực bắt lấy hắn!

Kỳ thực Quách Tĩnh là trượng phu, Hoàng Dung quyết không gọi tên trống không như vậy, song tiếng gọi vừa rồi cốt làm cho Pháp vương giật mình, chứ nếu gọi “Tĩnh ca ca”, Pháp vương sẽ không biết “Tĩnh ca ca” là ai cả, hiệu lực giật mình sẽ giảm hẳn. Quả nhiên Pháp vương vừa nghe hai cái tên “Quách Tĩnh, Dương Quá” đã giật mình kinh hãi: “Hai hảo thủ nữa đến, ta nguy mất thôi!”

Lúc này Nhất Đăng lại tiến thêm nửa bước. Đôi chim điêu trên trời cũng đã nhận ra cơ hội, con chim cái kêu to, lao thẳng xuống mặt Pháp vương, dùng vuốt nhọn định móc mắt lão ta. Pháp vương chửi:

– Nghiệt súc!

Tả chưởng đánh lên.

Không ngờ động tác của con chim điêu mái chỉ là hư chiêu, cách mặt Pháp vương hơn một trượng nó đã bay vọt lên, trong khi con chim điêu trống lẳng lặng từ bên cạnh lao xuống đánh lén, chờ khi Pháp vương phát giác, thì móng vuốt của nó đã chạm đầu lão ta.

Pháp vương vừa kinh ngạc vừa tức giận, phẩy tay một cái, trúng bụng chim. Con điêu chộp cái mũ vàng trên đầu Pháp vương mà bay lên. Nhưng cái phẩy tay của Pháp vương rất mạnh, con điêu trống đã bị trọng thương, nó bay lên một đoạn thì hết chịu nổi, đột nhiên lộn nhào, rơi thẳng xuống vực sâu vạn trượng.

Hoàng Dung, Trình Anh, Lục Vô Song, Anh Cô không nhịn được cùng kêu lên. Chu Bá Thông cả giận, quát:

– Hòa thượng thối tha, Lão Ngoan đồng không câu nệ quy củ giang hồ gì nữa, hai người đánh một cũng được.

Đoạn vung quyền đánh tới sau lưng Pháp vương.

Con chim điêu mái thấy con trống rơi xuống vực, thì kêu lên thảm thiết lao qua đám mây mù xuống theo, hồi lâu không thấy nó bay lên.

Kim Luân pháp vương trước sau đều bị tấn công, bắt đầu sợ hãi. Lão ta võ công tuy cao, nhưng làm sao địch nổi hai đại cao thủ giáp công? Lão ta không dám ham đấu, vội tung kim luân và ngân luân, phía trước ngăn chặn Nhất dương chỉ, phía sau chống đỡ Không minh quyền, trong tình thế bị hai luồng nội lực giáp công, Pháp vương chạy chếch sang bên trái, lắc người một cái đã vọt sang lũng núi. Chu Bá Thông quát to, đuổi theo sau.

Pháp vương may mắn thoát thân, đề khí chạy gấp, nghĩ nếu để Chu Bá Thông đuổi kịp, phải đấu vài trăm chiêu cũng khó phân thắng bại, khi đó bạch mi lão tăng sẽ thừa cơ hạ độc thủ, lão ta sẽ phải bỏ cái mạng già ở Tuyệt Tình cốc này. Thấy phía trước có một cánh rừng dày, Pháp vương vội chạy về phía đó, bỗng nghe “chíu” một tiếng, một viên sỏi từ trong cánh rừng bắn ra.

Cánh rừng cách lão ta hơn trăm bước, viên sỏi kia không biết do kình lực thần kỳ nào phóng đi, mà hình thể tuy nhỏ, tiếng rít phá không khí lại mạnh dị thường, bay thẳng đến trước mặt như thế. Pháp vương giơ ngân luân gạt đi, “cạch” một tiếng, viên sỏi vỡ nát, mảnh vụn bay tứ tung, có hai mảnh văng vào mặt rát bỏng. Pháp vương kinh hãi: “Viên sỏi từ rất xa bắn tới mà làm chấn động ngân luân của ta, công lực của người bắn thật không thua gì Lão Ngoan đồng và bạch mi lão tăng, sao thiên hạ có nhiều đại cao thủ đến thế?”

Pháp vương đang bối rối, thì thấy từ trong cánh rừng thong thả bước ra một lão nhân mặc áo bào xanh, tay áo rộng thùng thình, phong thái tiêu sái xuất trần. Chu Bá Thông cả mừng, gọi:

– Hoàng lão tà, gã hòa thượng thối tha ấy hại chết ngoại tôn nữ nhi của huynh, hãy mau hợp lực bắt lấy hắn!

Người trong rừng đi ra chính là Hoàng Dược Sư.

Sau khi chia tay với Dương Quá, Hoàng Dược Sư đi lên phía bắc, một hôm đang ngồi uống rượu trong một tửu điếm nhỏ ở hương thôn, lão nhìn thấy có đôi chim điêu trắng bay trên trời, biết không phải nữ nhi, thì cũng là hai ngoại tôn nữ nhi đang ở gần đâu đây, bèn lẳng lặng bám theo, đến Tuyệt Tình cốc. Lão chưa muốn để Hoàng Dung nhìn thấy, chỉ đứng quan sát từ xa, mãi đến khi thấy Nhất Đăng và Chu Bá Thông động thủ không thắng nổi Pháp vương, nghĩ lão Tạng tăng này quả là hảo thủ bình sinh khó gặp, thì lão liền xuất thủ. Pháp vương gõ hai chiếc luân vào nhau keng một tiếng, nói:

– Các hạ có phải là Đông Tà Hoàng Dược Sư?

Hoàng Dược Sư gật gật đầu, nói:

– Không sai. Đại sư có gì chỉ giáo?

Pháp vương nói:

– Khi tại hạ ở Tây Tạng, nghe đồn Trung Nguyên chỉ có năm người tài giỏi là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, hôm nay được kiến diện, quả nhiên danh bất hư truyền. Còn bốn vị kia đâu?

Hoàng Dược Sư nói:

– Tây Độc, Bắc Cái, Trung Thần Thông tạ thế từ lâu, vị cao tăng kia là Nam Đế, còn vị Chu huynh đây là sư đệ của Trung Thần Thông.

Chu Bá Thông nói:

– Sư huynh của ta mà còn sống thì nhà ngươi không tiếp nổi mười chiêu.

Lúc này ba người đứng thành hình chữ Đinh, vây Pháp vương vào giữa. Pháp vương nhìn Nhất Đăng, nhìn Chu Bá Thông, lại nhìn Hoàng Dược Sư, thở dài, ném ngũ luân xuống đất, nói:

– Nếu đơn đả độc đấu, lão phu chẳng sợ ai hết.

Chu Bá Thông nói:

– Đúng. Nhưng hôm nay không phải là buổi luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn để tranh danh hiệu võ công đệ nhất thiên hạ, ai thèm đi đơn đả độc đấu với nhà ngươi làm gì? Hòa thượng thối tha tác ác đa đoan, hôm nay coi như hết thời.

Pháp vương thở dài, nói:

– Năm đại cao nhân Trung Nguyên, hôm nay được gặp hai vị, lão phu có chết dưới tay các vị, cũng không uổng. Chỉ tiếc “Long tượng bát nhã công” đến lão phu thì chấm hết, trên đời không có truyền nhân.

Nói đoạn giơ hữu chưởng đánh xuống Thiên linh cái của mình.

Chu Bá Thông nghe năm chữ “Long tượng bát nhã công” liền đưa tay gạt hữu chưởng của Pháp vương, nói:

– Khoan đã!

Pháp vương ngạc nhiên, hỏi:

– Lão phu có thể bị giết, không chịu nhục, các hạ còn muốn gì nữa?

Chu Bá Thông nói:

– “Long tượng bát nhã công” của lão quả rất lợi hại, nếu không có truyền nhân, đừng nói lão tiếc, mà Chu mỗ cũng tiếc. Tại sao lão không truyền thụ cho Chu mỗ, rồi hãy tính chuyện tự sát cũng chưa muộn?

Lời nói của Chu Bá Thông hoàn toàn thành thật.

Pháp vương chưa kịp đáp, chợt có tiếng vỗ cánh, con chim điêu mái cõng con chim điêu trống từ dưới vực bay lên, cả hai con đều ướt sũng, xem ra đáy thâm cốc là đầm nước. Con chim điêu trống lông vũ tả tơi, chỉ còn thở thoi thóp, móng vuốt chân bên phải vẫn nắm chắc cái mũ của Pháp vương. Con chim điêu mái đặt con trống xuống đất, rồi lại bay xuống vực lần nữa, lúc bay lên cõng theo một người, chính là Quách Tương.

Hoàng Dung vừa kinh ngạc vừa vui mừng, gọi to:

– Tương nhi! Tương nhi!

Rồi chạy lại đỡ con chim điêu.

Pháp vương thấy Quách Tương không hề hấn gì, cũng ngẩn ra. Chu Bá Thông chộp cánh tay Pháp vương, mắt phải nháy với Nhất Đăng, mắt trái nháy với Hoàng Dược Sư. Đông Tà, Nam Đế cùng xuất thủ, Pháp vương bị trúng chỉ ở cả hai bên sườn. Nếu là người khác, dù có điểm trúng bộ vị yếu hại, cũng chưa thể phong bế huyệt đạo của Pháp vương, nhưng hai ngón tay của Đông Tà, Nam Đế thì thời nay không có người thứ ba sánh kịp, một người sử dụng “Đạn chỉ thần thông” tinh vi ảo diệu, một người sử dụng “Nhất dương chỉ”, Pháp vương làm sao chịu nổi? Lão ta lảo đảo; Chu Bá Thông bồi thêm một quyền vào huyệt Chí Dương ở sau lưng Pháp vương, cười nói:

– Nằm xuống!

Hai gối Pháp vương mềm nhũn, lão ta từ từ khuỵu xuống. Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông nhìn nhau, đều kinh ngạc: “Lão Tạng tăng này quả lợi hại, bị trúng đòn nặng của cả ba người mà vẫn không ngã vật ra”.

Ba người chạy lại bên Quách Tương thăm hỏi, chỉ nghe nàng gọi:

– Mẹ, chàng ở dưới ấy, ở dưới ấy, mau, mau xuống… cứu chàng…

Chỉ nói được thế rồi mệt quá ngất xỉu. Nhất Đăng xem mạch cổ tay nàng, nói:

– Không sao, chỉ bị hoảng sợ đó thôi.

Đại sư xoa xoa sau lưng mấy cái. Lát sau Quách Tương hồi tỉnh, nói:

– Đại ca ca đã lên chưa?

Hoàng Dung hỏi:

– Dương Quá cũng ở dưới ấy ư?

Quách Tương gật đầu, nói khẽ:

– Đương nhiên.

Nàng tự nhủ thầm: “Nếu chàng không ở dưới ấy, con nhảy xuống đó làm gì?” Hoàng Dung thấy nữ nhi toàn thân ướt sũng, bèn hỏi:

– Bên dưới là đầm nước à?

Quách Tương gật đầu, nhắm mắt, không còn sức nói chuyện nữa, tay chỉ xuống vực.

Hoàng Dung nói:

– Dương Quá đã ở bên dưới, chỉ có cách sai điêu nhi xuống cõng lên.

Đoạn huýt sáo gọi chim. Gọi liền mấy tiếng, không thấy đôi chim điêu bay tới. Hoàng Dung lấy làm lạ, mấy chục năm qua đôi chim điêu hễ nghe tiếng sáo là tới, chưa hề trái lệnh, tại sao hôm nay chúng lại làm như không nghe thấy hiệu lệnh của chủ? Hoàng Dung lại huýt một tiếng sáo dài, thì thấy con chim điêu mái vỗ cánh bay lên trời cao, lượn vài vòng, kêu vài tiếng oắc oắc bi thương, rồi lao thẳng xuống núi. Hoàng Dung nghĩ: “Hỏng rồi” vội gọi to:

– Điêu nhi!

Chỉ thấy con chim điêu mái lao xuống tảng đá, vỡ đầu gãy cánh mà chết tức thì. Mọi người ngạc nhiên chạy lại xem, thì ra con chim điêu trống đã chết từ lâu. Mọi người thấy con chim điêu mái thâm tình trọng nghĩa như thế, ai cũng cảm khái. Hoàng Dung có đôi chim điêu bầu bạn từ nhỏ, càng đau đớn đến chảy nước mắt.

Đột nhiên Lục Vô Song tựa hồ nghe văng vẳng bên tai tiếng hát trong trẻo của sư phụ Lý Mạc Sầu: Tình là chi hỡi thế gian, câu thề sinh tử đa mang một đời…Trời nam đất bắc đôi nơi…

Nàng từ nhỏ theo Lý Mạc Sầu học nghệ, những lúc vắng vẻ thường nghe sư phụ hát khúc ca ấy, bấy giờ nàng chưa trải thế tình, chưa hiểu thâm ý của khúc ca, lúc này nhìn thấy sau khi con chim điêu trống chết, con chim điêu mái tuẫn tình, nghĩ thầm: “Con chim điêu mái giả dụ không chết, rồi đây một mình nó bơ vơ trên mây hoặc giữa núi tuyết, thử hỏi chịu sao cho thấu?” Nghĩ thế mà nước mắt rưng rưng.

Trình Anh nói:

– Sư phụ, sư tỷ, Dương đại ca đã ở dưới vực, chúng ta phải nghĩ cách cứu chàng lên mới được.

Hoàng Dung lau nước mắt, hỏi Quách Tương:

– Quang cảnh dưới đó thế nào?

Quách Tương đã phần nào trấn tĩnh tinh thần, nói:

– Hài nhi nhảy xuống, rơi ngay xuống đáy nước, hoảng hốt uống mấy ngụm nước. Sau không biết sao tự dưng nổi lên mặt nước, Dương đại ca kéo tóc hài nhi, nâng lên…

Hoàng Dung hơi yên tâm, hỏi:

– Xung quanh đầm nước có nham thạch, có hang đá làm chỗ dung thân phải không?

Quách Tương nói:

– Xung quanh đầm nước toàn là đại thụ.

Hoàng Dung hỏi:

– Tại sao con lại nhảy xuống đó?

Quách Tương nói:

– Dương đại ca kéo hài nhi lên, câu đầu tiên cũng hỏi như thế. Hài nhi bèn lấy cái kim châm đưa cho chàng, nói: “Tiểu muội nhảy xuống bảo Dương đại ca bảo trọng thân thể, không nên tự vẫn”. Chàng cứ chăm chú nhìn hài nhi, không nói gì. Lát sau thấy con chim điêu trống rơi xuống, con chim điêu mái bay xuống cõng lên, rồi nó lại bay xuống để đưa hài nhi lên. Hài nhi bảo Dương đại ca lên trước, chàng không nói một lời, nhấc hài nhi đặt lên lưng con chim điêu. Mẹ ơi, hãy sai con chim điêu xuống lần nữa đón Dương đại ca lên đi.

Hoàng Dung tạm thời chưa nói cho Quách Tương biết cặp chim điêu đã chết, cởi áo ngoài khoác lên mình Quách Tương, quay lại nói:

– Xem ra Dương Quá nhất thời chưa bị nguy hiểm, chúng ta mau tết một sợi dây dài, thả xuống kéo Quá nhi lên.

Mọi người khen phải, tản ra bóc vỏ cây. Thoáng chốc đã bóc được không ít vỏ cây.

Trình Anh, Lục Vô Song và Anh Cô tết thành một sợi dây dài. Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Hoàng Dung bốn người tiếp tục dùng dao bóc vỏ cây. Bốn người tuy là đại cao thủ võ lâm thời nay, nhưng làm những việc thô thiển thế này vẫn thua người thợ thạo nghề, mãi đến lúc trời tối, mới tết được một sợi dây dài hơn trăm trượng, xem ra còn lâu mới đủ dài. Trình Anh buộc một hòn đá vào đầu sợi dây, đầu kia vắt qua cành một cây đại thụ, rồi tết dài dây mà thả dần hòn đá qua lớp sương mù xuống vực.

Bảy người ai nấy nội lực sung mãn, làm việc cả buổi tối không nghỉ. Đến sáng hôm sau, Quách Tương cũng giúp sức. Hoàng Dung mới hỏi mấy câu sơ qua về chuyện nàng bị Pháp vương bắt đi như thế nào.

Sợi dây đã dài lắm, mà Dương Quá ở bên dưới vẫn không phát tín hiệu gì. Hoàng Dược Sư rút cây ngọc tiêu vận khí thổi mạnh, tiếng tiêu vọng xuống vực. Xét về lý Dương Quá nghe thấy tiếng tiêu, tất phải hú thật dài đáp lời, nhưng Hoàng Dược Sư thổi một hồi lâu, dưới vực vẫn tĩnh mịch vô thanh.

Hoàng Dung trầm ngâm, lấy kiếm chặt một cành cây dùng mũi kiếm khắc lên gỗ dòng chữ: “Bình an không, hãy trả lời”, rồi ném khúc gỗ xuống. Rất lâu sau vẫn không có tiếng hồi đáp. Mọi người nhìn nhau không khỏi lo âu.

Trình Anh nói:

– Sơn cốc tuy sâu, nhưng sợi dây cũng dài đến đáy, để tiểu muội xuống xem sao.

Chu Bá Thông nói:

– Để lão phu xuống trước!

Cũng không đợi người bên cạnh trả lời, lão chạy tới mép vực, nắm lấy sợi dây tuột luôn xuống, trong giây lát đã mất hút trong sương mù, không tới nửa canh giờ thấy lão leo lên nhanh nhẹn như một con vượn, đầu tóc dính đầy rêu xanh, lão cứ lắc đầu lia lịa, nói:

– Không thấy Dương Quá Dương Vừa đâu cả!

Mọi người nhìn Quách Tương nghi ngờ. Quách Tương ức phát khóc lên được, nói:

– Dương đại ca rõ ràng ở dưới đó, sao lại không thấy? Chàng ngồi trên một cây đại thụ trên bờ đầm ấy.

Trình Anh lẳng lặng nắm lấy sợi dây tuột luôn xuống vực, Lục Vô Song theo sau. Tiếp đó Anh Cô, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đều nắm lấy sợi dây tuột xuống.

Hoàng Dung nói:

– Tương nhi, con còn mệt, không thể xuống, đừng để ta lo thêm. Dương đại ca của con nếu ở dưới đó, chúng ta nhiều người thế này nhất định sẽ cứu được lên, hiểu chưa?

Quách Tương nóng ruột, nuốt nước mắt vâng lời. Hoàng Dung nhìn Kim Luân pháp vương đang ngồi một chỗ, nghĩ lão ta bị điểm huyệt, sắp qua mười hai canh giờ, người này võ công cao siêu, không thể để lão ta dùng chân khí xung khai huyệt đạo, bèn bước tới điểm các huyệt Linh Đài ở lưng, Cự Quyết ở ngực, Thanh Lãnh Uyên ở hai cánh tay lão ta, rồi mới nắm lấy sợi dây tuột xuống vực.

Tay nắm hơi lỏng, thân hình rơi xuống càng lúc càng nhanh, giữa chừng lại nắm chặt để rơi chậm lại, rồi lại nới lỏng, cứ thế mấy lần thì xuống tới đáy cốc. Thấy đáy cốc quả nhiên là đầm nước trong xanh, những người xuống trước đang đứng trên bờ đầm quan sát, chưa hề thấy tung tích Dương Quá. Lại thấy trên mấy cây lớn ở bên trái đầm treo ba chục cái đõ ong lớn, cái thấp cái cao, bay quanh các đõ ong toàn là ong ngọc phong. Hoàng Dung chợt hiểu, nói:

– Chu đại ca, hãy bắt thử một con ong, xem cánh nó có xăm chữ hay không?

Chu Bá Thông bắt một con ong, xem kỹ, nói:

– Không có chữ.

Hoàng Dung quan sát hình thế xung quanh sơn cốc, thấy bốn phía đều là vách đá cao trăm trượng, không có lối đi, các cây đại thụ bên đầm nước đều kỳ hình quái trạng, không biết cây gì, ngẩng đầu, sương mù che kín, khó thấy mặt trời, đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe Chu Bá Thông reo:

– Con này có chữ, con này có chữ!

Hoàng Dung bước lại thấy trên đôi cánh con ong ấy quả nhiên có sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc”, đoán rằng mấu chốt là ở trong đầm nước. Trong bảy người ở đây, chỉ một mình Hoàng Dung giỏi bơi lặn. Bèn ngậm vào miệng một viên “Cửu hoa ngọc lộ hoàn”, đề phòng trong nước có rắn rết gì chăng, rồi nhảy xuống đầm.

Đầm nước khá sâu, Hoàng Dung lặn nhanh, càng xuống càng lạnh, sau đó lạnh thấu xương, mở mắt ra, thấy xung quanh một màu xanh lam, tựa hồ toàn băng là băng. Hoàng Dung kinh ngạc, nhưng chưa chịu, ngoi lên mặt nước hít vài hơi, lại lặn xuống. Nhưng đến chỗ cực sâu có lực đẩy lên, càng xuống sâu lực đẩy lên càng mạnh. Hoàng Dung cố gắng hết mức cũng không thể xuống tới đáy đầm, đồng thời lại quá lạnh, xung quanh không có chỗ tựa, đành ngoi lên.

Mọi người thấy Hoàng Dung môi tím ngắt, tóc bám đầy một lớp tuyết mỏng, thì kinh hãi. Trình Anh và Lục Vô Song vội bẻ cành khô, đốt một đống lửa cho Hoàng Dung sưởi.

Quách Tương thấy mẫu thân cùng mọi người tuột cả xuống đầm, thì nghĩ: “Dương đại ca không chịu lên, ngoại công và mẹ cũng sẽ khiêng chàng lên. Rốt cuộc tại sao chàng lại muốn tự tận? Chẳng lẽ Dương đại tẩu chết rồi ư? Vĩnh viễn không gặp lại chàng nữa ư?”

Đang ngây người xuất thần, bỗng nghe Kim Luân pháp vương kêu to “Ối!”. Quách Tương ngoảnh nhìn, thấy Pháp vương mặt mũi nhăn nhó, rõ ràng đang phải chịu đựng đau đớn. Nàng hừ một tiếng, nói:

– Lão tự làm tự chịu, ai bảo động một tí lại ra tay giết người?

Pháp vương kêu to hơn:

– Ối đau quá!

Ánh mắt lộ rõ vẻ cầu khẩn.

Quách Tương không nhịn được, hỏi:

– Sao, đau lắm à?

Pháp vương nói:

– Mẹ cô nương điểm huyệt Linh Đài ở lưng, huyệt Cự Quyết ở ngực, toàn thân lão phu như bị hàng ngàn con kiến đốt, đau nhức không sao chịu nổi. Tại sao Hoàng phu nhân không điểm thêm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm kia chứ?

Quách Tương sững người, nàng từng được mẫu thân dạy phép điểm huyệt, biết Đàn Trung và Ngọc Chẩm là hai đại yếu huyệt trên thân người, chỉ cần hơi bị tổn thương, có thể lập tức mất mạng, bèn nói:

– Mẫu thân bổn cô nương tạm tha chưa lấy mạng lão, lão không cảm kích, còn kêu ca nỗi gì?

Pháp vương ngang nhiên nói:

– Nếu điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm, lưng và ngực lão phu sẽ tê dại, đỡ đau nhức rất nhiều. Lão phu tu vi thâm hậu, không lẽ lại đi coi thường mạng sống của mình?

Quách Tương không tin, nói:

– Lão đừng nói dóc. Mẫu thân bổn cô nương bảo rằng đụng vào hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm là mất mạng, lão bị đau nhức thì cố mà chịu, mọi người sắp trở lên rồi đó.

Pháp vương nói:

– Quách cô nương, suốt dọc đường lão phu đối xử với cô nương thế nào?

Quách Tương nói:

– Cũng không đến nỗi. Nhưng lão đã giết Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ, lại làm chết đôi chim điêu của gia đình bổn cô nương, lão có đối xử tử tế mấy với bổn cô nương cũng không chuộc lại được.

Pháp vương nói:

– Thôi được, giết người đền mạng, cô nương giết lão phu để trả thù cho bằng hữu của cô nương cũng được. Nhưng còn suốt dọc đường lão phu đối xử tử tế với cô nương, cô nương sẽ báo đáp sao đây?

Quách Tương hỏi:

– Lão muốn báo đáp như thế nào?

Pháp vương nói:

– Cô nương hãy điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm cho lão phu đỡ khổ sở một chút, coi như đã trả ơn lão phu.

Quách Tương lắc đầu, nói:

– Lão muốn bổn cô nương giết lão, nhưng bổn cô nương không làm thế đâu.

Pháp vương vội nói:

– Đại trượng phu một lời như dao chém đá, cô nương điểm hai huyệt ấy, lão phu nhất định không chết đâu. Lão phu còn chờ mẫu thân cô nương trở lên để cầu xin tha mạng, ai lại chết đi là sao?

Quách Tương thấy lão ta nói năng thành thật, nghĩ: “Mình hãy điểm huyệt thật nhẹ thôi xem sao”. Bèn đưa tay điểm nhẹ huyệt Đàn Trung ở ngực lão ta.

Pháp vương thở phào, nói:

– Quả nhiên dễ chịu lắm, cô nương hãy ấn mạnh chút nữa.

Quách Tương ấn mạnh thêm, chỉ thấy Pháp vương tươi cười, không có dấu hiệu gì chứng tỏ tổn thương, sắc mặt chuyển từ màu hồng sang màu trắng, rồi lại chuyển từ màu trắng sang màu hồng.

Pháp vương nói:

– Mạnh chút nữa!

Quách Tương theo phép điểm huyệt phụ mẫu đã dạy, ấn một cái vào huyệt Đàn Trung của Pháp vương.

Pháp vương nói:

– Dễ chịu quá! Ngực lão phu hết đau rồi, cô nương thấy đó, lão phu không chết được, đúng chưa?

Quách Tương lấy làm lạ, nói:

– Bổn cô nương sẽ điểm huyệt Ngọc Chẩm này!

Nàng ban đầu ấn nhẹ thử, rồi mới ấn mạnh một cái.

Pháp vương nói:

– Đa tạ, đa tạ.

Lão nhắm mắt vận khí, đột nhiên đứng bật dậy, nói:

– Đi nào!

Quách Tương kinh hãi, kêu lên:

– Lão… lão…

Pháp vương chộp ngay lấy cổ tay nàng, nói:

– Đi mau! Kim Luân pháp vương ta võ công độc bộ thiên hạ, chẳng lẽ cái công phu thô thiển “Thôi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt” lại không biết hay sao?

Nói đoạn kéo Quách Tương chạy đi.

Quách Tương kêu to:

– Quân lừa đảo, quân lừa đảo.

Nàng thầm hối hận: “Mình thật kém hiểu biết, ngay cái công phu thô thiển ấy cũng không biết”.

Nàng đâu biết rằng kỳ công “Thôi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt” chẳng thô thiển chút nào. Thực ra đó là nội công cực kỳ thâm ảo khó luyện của Mật tông Tây Tạng, tuy không bằng phép nghịch chuyển kinh mạch toàn thân của Âu Dương Phong, nhưng cũng là một môn thần công hiếm có. Khi Quách Tương điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm, Pháp vương ngầm đổi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt, đem hai huyệt khác chuyển đến chỗ này. Quách Tương lúc ấn huyệt còn sợ làm cho lão ta mất mạng, kỳ thực nàng đang giải huyệt cho lão ta.

Pháp vương kéo Quách Tương chạy được vài trượng, đột nhiên nảy sinh độc kế, thấy sợi dây dài vắt qua cành cây, chỉ cần dứt đứt nó, thì cả bọn Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng, Hoàng Dung sẽ bỏ mạng dưới đáy cốc, lão bèn chạy tới chộp sợi dây mà vận lực dứt đứt.

Quách Tương cả kinh, thúc mạnh cùi chỏ vào mạng sườn Pháp vương. Cũng tại Pháp vương coi thường, không đề phòng gì, nên lão bị cùi chỏ thúc trúng vào huyệt Uyên Dịch, nửa thân trên lập tức tê dại, trong giây lát toàn thân vô lực. Quách Tương giật mạnh một cái, cổ tay thoát khỏi bị nắm, song chưởng đặt vào lưng lão, nói:

– Bổn cô nương đẩy lão ác tăng ngã xuống vực cho chết này!

Pháp vương cả kinh, ngầm vận nội lực xung huyệt, cười ha ha, nói:

– Công phu non kém như cô nương, đẩy ngã ta sao nổi kia chứ?

Quách Tương không biết thời cơ trôi qua nhanh chóng, lúc này Pháp vương huyệt đạo chưa được giải, nàng chỉ cần đẩy mạnh một cái, lão ta sẽ ngã xuống vực hoặc phải nhanh tay lập tức điểm các huyệt đạo trên người lão ta, thì lão ta cũng chẳng tài gì kịp hoán chuyển huyệt đạo.

Nhưng nàng từng thấy ban nãy mình điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm mà lão ta chẳng việc gì, lại còn giúp lão giải huyệt, có điểm huyệt nữa cũng vô dụng, bèn tung mình nhảy đi, chạy tới bên vách núi, nói:

– Bổn cô nương sẽ chết theo mẫu thân!

Rồi nàng định bụng có gì sẽ nhảy xuống vực. Pháp vương cả kinh, hít một hơi dài, xung phá huyệt Uyên Dịch vừa bị Quách Tương điểm, không kịp dứt đứt sợi dây, vội đuổi theo nàng. Quách Tương chạy len lỏi giữa các mô đá và thân cây. Nếu ở chỗ đất bằng, Pháp vương chỉ cần nhảy vài bước cũng đủ đuổi kịp nàng, nhưng trước Đoạn Trường nhai toàn những cổ mộc quái thạch, nàng cứ len chỗ này lách chỗ kia thoăn thoắt, Pháp vương chạy loanh quanh một hồi, cuối cùng sử chiêu “Nhạn lạc bình sa” từ trên cao chụp xuống, mới chộp được cánh tay nàng.

Quách Tương kêu to:

– Mẹ ơi!

Pháp vương vội lấy tay bịt miệng nàng. Đúng lúc ấy từ xa vẳng lại tiếng gọi của Lục Vô Song:

– Tiểu Quách Tương đâu rồi?

Pháp vương giật mình, nghĩ thầm: “Tiếc quá, thế là mất cơ hội rồi!” Lão đưa tay điểm á huyệt của Quách Tương rồi kéo nàng chạy đi. Thực ra lúc ấy cơ hội vẫn còn, mới chỉ có một mình Lục Vô Song leo lên, nếu Pháp vương chạy đến dứt đứt sợi dây, Lục Vô Song làm sao cản nổi? Chỉ vì lão ta đã nếm đòn của Chu Bá Thông, Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư, may giữ được tính mạng, nên bỗng nhiên nghe có tiếng người liền tưởng cả đám người kia đã leo lên, đâu dám sinh sự.

Bọn Hoàng Dung ở dưới đáy cốc tìm kiếm một hồi, không thấy tung tích gì, bốn phía cũng không có vệt máu, xem ra Dương Quá không bị sao cả, mọi người bàn nhau, đành leo lên trước rồi định liệu sau. Người đầu tiên bám dây leo lên là Lục Vô Song, tiếp đến Trình Anh, Anh Cô.

Khi Hoàng Dung lên đến nơi, nghe bọn Trình Anh, Lục Vô Song và Anh Cô gọi to: “Tiểu Quách Tương đâu rồi?” thấy nữ nhi và Pháp vương biến mất, thì lo cuống cuồng, vội leo lên cây cao quan sát. Đợi Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông lên đủ, bảy người tìm khắp Tuyệt Tình cốc một lượt cũng chẳng thấy tung tích hai người.

Ra đến cốc khẩu, thấy có một chiếc hài của Quách Tương rơi dưới đất, Trình Anh nói:

– Sư tỷ đừng lo, Pháp vương đem Tương nhi đi xuống phía nam đây. Tương nhi để lại chiếc hài, để chúng ta cùng biết. Hài tử này thông minh cơ trí, thật chẳng thua mẹ nó.

Hoàng Dung nhớ lại câu nói của nữ nhi, rằng Pháp vương chỉ bức nó bái lão ta làm sư phụ, muốn truyền y bát cho nó, nghĩ nhất thời không có gì nguy hiểm, mới bớt lo.

Hồi 39: Đại chiến Tương Dương

Cả đoàn người đi xuống phía nam, dọc đường hỏi dò tin tức về Kim Luân pháp vương và Quách Tương. Đi được mấy hôm, dọc đường nghe tin dồn dập, nói hai đạo quân Nam Bắc của đại quân Mông Cổ giáp công thành Tương Dương, đã giao chiến mấy trận với quân Tống dưới chân thành, có thắng có bại, tình hình Tương Dương thập phần nguy cấp. Hoàng Dung lo lắng nói:

– Bọn Thát tử mãnh công thành Tương Dương, chúng ta phải cấp tốc về đó, sự an nguy của Quách Tương đành tạm lo sau.

Mọi người đồng thanh khen phải.

Mấy người như Nhất Đăng, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư vốn là các bậc cao sĩ siêu nhiên vật ngoại, không quan tâm thế sự, nhưng sự tồn vong của thành Tương Dương quá hệ trọng, hoặc Hán hoặc Lỗ, đều ở trận này, nên họ không thể khoanh tay làm ngơ.

Thế là không chút chậm trễ, cả bọn đi gấp, mấy hôm sau đã đến vùng ngoại vi thành Tương Dương. Chỉ nghe tiếng tù và nổi lên đây đó, nhìn xa xa tinh kỳ phấp phới, gươm giáo như rừng, ngựa phóng vùn vụt qua lại, bụi tung mù mịt, thành Tương Dương nằm trong vòng vây dày đặc của đại quân Mông Cổ. Mọi người nhìn thanh thế quân địch, không khỏi kinh hãi. Hoàng Dung nói:

– Quân địch dày đặc thế kia, phải chờ đêm tối mới có thể vào thành.

Bảy người bèn nấp trong một cánh rừng, trừ Chu Bá Thông cười hi hi như thường, sáu người còn lại đều ủ dột.

Chờ đến canh hai, Hoàng Dung là người đầu tiên xông vào doanh trại quân địch. Bảy người khinh công tuy cao, nhưng quân doanh Mông Cổ trùng trùng điệp điệp, vượt qua lớp này lại đụng lớp khác, cuối cùng họ bị một đội quân tuần tra phát giác. Tiếng trống, tiếng thanh la trong quân nổi lên, lập tức có ba đội bách phu vây họ lại. Các quân doanh khác hoàn toàn im lặng, không hề kinh động.

Chu Bá Thông đoạt hai ngọn giáo dài, đi trước mở đường. Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng mỗi người cầm một cái thuẫn đi sau ngăn chặn truy binh, bốn nữ nhân đi giữa, cùng tiến nhanh về phía trước. May mà trong quân doanh Mông Cổ, quân địch sợ đả thương người ngựa của chúng, không dám bắn tên, bớt được một loại binh khí hết sức lợi hại, nếu không ở chỗ trống trải thế này, vạn mũi tên cùng bắn, bọn Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông dẫu ba đầu sáu tay cũng chẳng thể chống đỡ. Bảy người vừa đánh vừa tiến, quân địch càng lúc càng bu lại, mấy chục ngọn giáo dài xung quanh cùng đâm về phía bảy người. Chưởng phong của Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đánh tới đâu, gươm giáo của quân địch gãy đến đó. Quân địch tử thương không ít, nhưng chúng cậy đông, vẫn hăng hái lăn xả vào tấn công.

Chu Bá Thông cười nói:

– Hoàng lão tà, ba cái mạng già hôm nay khéo phải bỏ lại đây mất, nhưng lão phải nghĩ cách cứu bốn con nhóc kia mới được.

Anh Cô nguýt lão một cái, nói:

– Nói năng chẳng suy nghĩ gì hết. Lão thái bà đây mà cũng là một con nhóc hay sao? Đã bỏ mạng thì cùng bỏ, chỉ cần cứu ba con nhóc kia là được.

Hoàng Dung thầm kinh hãi: “Lão Ngoan đồng vốn không sợ trời sợ đất, chưa từng nói một câu nhụt chí. Hôm nay sa vào trùng vây, lại bảo phải bỏ cái mạng già, xem chừng nguy thật!” Nhìn bốn phía quân địch đông như kiến có, trừ liều chết khổ chiến, cũng chưa nghĩ ra kế gì khác.

Lại vượt qua mấy lớp quân doanh, Hoàng Dung thấy mé trái có hai doanh trướng lớn màu đen, năm xưa từng theo Thành Cát Tư Hãn tây chinh, biết đấy là chỗ cất giữ lương thực, chợt nảy ra một kế, xông tới cướp một cây đuốc từ tay quân địch, lao thẳng tới kho lương. Quân địch la hét đuổi theo. Hoàng Dung chạy nhanh như một tia chớp, cúi thấp đầu một cái đã chui tọt vào trong doanh trướng, châm lửa vào các xe lương trong đó, giây lát lửa đã bùng lên bảy, tám chỗ. Hoàng Dung mới chạy trở ra hội họp với cả đoàn.

Các xe lương có nhiều vật dễ cháy, gặp lửa liền bùng cháy đùng đùng. Chu Bá Thông thích thú nhìn lửa cháy, cướp luôn hai cây đuốc từ tay quân địch, lao đi đốt các nơi, vô ý đốt một chuồng ngựa, bầy chiến mã tức thời hý lên inh ỏi, bỏ chạy tán loạn, đại doanh quân Mông Cổ nhốn nháo cả lên.

Quách Tĩnh ở trong thành nghe bên ngoài cửa Bắc quân địch huyên náo, bèn chạy ra mặt thành, thấy có mấy đám cháy ngút trời trong quân doanh Mông Cổ, biết có người quấy rối quân địch, bèn điểm hai ngàn binh mã, lệnh cho huynh đệ Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn xuất thành tiếp ứng.

Nhị Võ tiến ra hơn một dặm, trong ánh lửa thấy Hoàng Dược Sư dìu Lục Vô Song, Nhất Đăng dìu Chu Bá Thông, bảy người cưỡi năm con ngựa phi gấp tới. Nhị Võ không xông lên, mà triển khai trận thế, ngăn chặn quân địch đuổi theo, rồi hạ lệnh hậu đội biến thành tiền đội, yểm hộ cho bảy người ung dung rút về thành.

Quách Tĩnh đứng bên bờ thành chờ đón, thấy nhạc phụ, ái thê, Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông… tới thành thì cả mừng, vội cho mở cổng thành. Thấy Lục Vô Song bị trúng giáo vào lưng, Chu Bá Thông bị trúng ba mũi tên vào lưng, râu tóc cháy xém, hai người bị thương không nhẹ. Trình Anh, Hoàng Dung, Anh Cô cũng đều bị trúng tên, nhưng không vào chỗ yếu hại. Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư tinh thông y đạo, sau khi xem kỹ vết thương cho Chu Bá Thông và Lục Vô Song, đều cau mày, không nói gì.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Đoàn Hoàng gia, Hoàng lão tà, hai vị đừng buồn. Lão Ngoan đồng còn hăng hái lắm, biết chưa chết được đâu. Hai vị hãy dồn sức chữa cho con nhóc Lục Vô Song kia là được.

Lão vẫn cười đùa với Hoàng Dược Sư, còn đối với Nhất Đăng thì không chỉ kính nể, mà còn hơi sợ. Nhất Đăng xuất gia đã lâu, Chu Bá Thông vẫn cứ gọi là Đoàn hoàng gia. Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng thấy Lão Ngoan đồng cố nén đau, cười đùa như thường thì cũng yên tâm hơn. Nhưng Lục Vô Song thì vẫn hôn mê chưa tỉnh.

Hôm sau trời vừa sáng, đã nghe ngoài thành tiếng trống, tiếng tù và inh ỏi. Đại quân Mông Cổ tiến công. An phủ sứ thành Tương Dương Lã Văn Đức, đại tướng giữ thành Vương Kiên đốc suất binh mã giữ bốn cổng thành. Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên mặt thành nhìn xuống, thấy quân Mông Cổ hằng hà sa số, không thấy tận cùng. Đại quân Mông Cổ từng mấy phen vây công thành Tương Dương, chưa lần nào binh cường thế mạnh như lần này. May mà Quách Tĩnh ở lâu trong quân đội Mông Cổ, thông thạo rành rẽ các phương lược công thành của chúng, có chuẩn bị sớm, bất kể quân địch sử dụng cung tên, hoả khí, luỹ thạch, thang gỗ tấn công, quân Tống thủ thành từ trên cao đều phá giải tất cả. Đánh nhau đến lúc mặt trời lặn, quân Mông Cổ đã mất hai ngàn binh mã nhưng vẫn cứ dũng cảm xông lên.

Trong thành Tương Dương ngoài mấy vạn tinh binh, còn có vài chục vạn dân, ai ai cũng hiểu, thành này bị hạ sẽ không còn người nào sống sót, cho nên các tráng đinh cầm vũ khí giữ thành đã đành, ngay cả phụ nữ, cụ già, em nhỏ cũng gánh đất khiêng đá, góp sức chống giặc. Nhất thời trong thành ngoài thành tiếng hò hét chấn động đất trời, tên bay trên không như châu chấu.

Quách Tĩnh tay cầm trường kiếm, đứng trên mặt thành đốc chiến. Hoàng Dung đứng bên cạnh chồng, nhìn nửa bầu trời đỏ hồng, cảnh sắc đẹp mê hồn, dưới chân thành, kỵ binh địch phóng qua như gió, có thể nhìn thấy diện mạo hung dữ của một số tên lính, nhìn lại Quách Tĩnh, thấy chồng đứng sừng sững, oai phong lẫm liệt, thì trong lòng dâng lên một niềm ái mộ khó tả. Hai vợ chồng tương kính tương ái, bao năm vẫn như thuở ban đầu, nay cường địch áp cảnh, liệu có thể một lần nữa đánh lui chúng hay chăng, không ai dám đoán trước. Hoàng Dung nghĩ: “Cuộc sống vợ chồng của mình và Tĩnh ca ca ba mươi năm nay phần lớn tâm huyết dành cho thành Tương Dương. Phen này chung sức chống địch, dẫu cả hai vợ chồng mình có phải đổ máu trên mặt thành, cuộc đời coi như cũng không uổng chút nào”. Liếc nhìn chồng, thấy tóc mai bên trái điểm vài sợi bạc, bất giác thương mến, nghĩ: “Mỗi lần quân địch tiến đánh, Tĩnh ca ca lại bạc thêm vài chục sợi tóc”.

Bỗng nghe dưới chân thành quân Mông Cổ cùng hô:

– Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!

Tiếng hô từ xa tới gần, ầm ầm như sóng thuỷ triều, cuối cùng hơn mười vạn người cùng đồng thanh hô lớn, thật đúng như trời đất rung chuyển. Chỉ thấy một lá cờ soái được giơ cao, quân thiết kỵ hộ vệ một cái kiệu xanh có che lọng vàng tiến đến gần, chính là đại hãn Mông Kha lâm trận đốc chiến.

Quan binh Mông Cổ thấy đại hãn thân chinh ra trận, thì sĩ khí tăng mạnh hẳn lên. Chỉ thấy hồng kỳ phất ngang phất dọc, đội ngũ dưới chân thành chia ra hai phía tả hữu, hai vạn nhân đội tiến công gấp cổng Bắc. Đây là thân binh của đại hãn, là đội quân tinh nhuệ nhất, lại chưa hề bị tổn thương, ai ai cũng muốn lập công trước mặt đại hãn, mấy trăm chiếc thang được tấp vào tường thành, binh tướng Mông Cổ như kiến leo lên bờ thành.

Quách Tĩnh thét lớn:

– Hỡi các huynh đệ, hôm nay chúng ta làm cho đại hãn Thát tử chính mắt chứng kiến thân thủ của hảo nam nhi đại Tống.

Tiếng thét của Quách Tĩnh trung khí sung mãn, giữa tiếng huyên náo của hàng vạn người mà ai cũng nghe rõ. Quân Tống trên mặt thành đã đánh suốt một ngày mệt mỏi, nhưng nghe tiếng kêu gọi của Quách Tĩnh, lập tức trở nên hăng hái, đều nghĩ: “Bọn Thát tử khi vũ chúng ta lâu nay, giờ phải làm cho đại hãn của chúng thấy rõ sự lợi hại của quân ta”. Thế là ai nấy ra sức tử chiến.

Thi thể quân địch dần dần chất cao dưới chân thành, đội ngũ phía sau lại trào lên như sóng, đạp lên xác kẻ đã ngã mà tấn công. Các quan tả hữu phi ngựa đi truyền lệnh của đại hãn điều binh khiển tướng. Trong thành ngoài thành hàng vạn bó đuốc đã được đốt lên, chiếu sáng như ban ngày.

An phủ sứ Lã Văn Đức thấy tình thế nguy ngập, cho rằng không giữ nổi thành, khiếp sợ, mặt tái mét, chạy đến chỗ Quách Tĩnh, gọi:

– Quách… Quách đại hiệp, giữ không nổi đâu, chúng… chúng ta rút khỏi thành, chạy về phía nam thôi!

Quách Tĩnh gằn giọng:

– An phủ sứ gì mà nói năng như thế? Thành Tương Dương còn, chúng ta còn. Thành Tương Dương mất, tất cả sẽ chết!

Hoàng Dung nghĩ Lã Văn Đức chỉ cần ra lệnh lui binh, lòng quân sẽ dao động, thành Tương Dương lập tức sẽ thất thủ, bèn chĩa kiếm, quát:

– Ngài chỉ cần nói thêm một lời về việc bỏ thành lui binh, ta sẽ đâm chết ngài tức thời!

Bốn thân binh tả hữu của Lã Văn Đức xông tới ngăn chặn, đều bị Hoàng Dung gạt chân đánh ngã.

Quách Tĩnh quát:

– Mọi người hãy cùng lên mặt thành chống đich, không tử chiến thì còn gì là nam tử hán.

Các thân binh vốn kính phục Quách Tĩnh, nghe tiếng quát oai nghiêm ấy đều đồng thanh khen phải, xông tới bờ thành chống giặc. Đại tướng Vương Kiên nói to:

– Chúng ta liều chết tử thủ, bọn Thát tử sẽ không chịu nổi đâu!

Bỗng nghe viên quan Mông Cổ truyền lệnh nói:

– Chúng quan binh nghe đây! Đại hãn có chỉ dụ, người nào leo lên mặt thành đầu tiên sẽ được làm chúa thành này.

Quân Mông Cổ hò reo hưởng ứng, tướng sĩ ai nấy cũng liều chết xông lên. Viên quan truyền lệnh tay cầm hồng kỳ, qua lại truyền chỉ của đại hãn. Quách Tĩnh giương cung, phóng đi một mũi lang nha tiễn, trúng ngực viên quan truyền lệnh, hắn ngã ngựa liền. Sĩ khí quân địch giảm đi. Không lâu sau, lại có một vạn nhân đội mới áp tới chân thành.

Gia Luật Tề tay cầm giáo dài, chạy tới trước mặt Quách Tĩnh, nói:

– Nhạc phụ, nhạc mẫu! Bọn Thát tử mãnh công không thoái. Con xin xông ra ngoài thành chém giết một trận.

Quách Tĩnh nói:

– Được lắm! Ngươi dẫn bốn ngàn người xông ra, nhưng phải cẩn thận.

Gia Luật Tề lui xuống, lát sau trống trận rền vang, cổng thành mở ra, Gia Luật Tề suất lĩnh một ngàn đệ tử Cái Bang, ba ngàn quan binh chĩa giáo xông ra.

Quân Mông Cổ đang hung hăng đánh thành ở cửa Bắc, thấy quân Tống tràn ra chém giết, bèn rút chạy. Gia Luật Tề dẫn quân đuổi theo. Đột nhiên trong quân Mông Cổ có ba tiếng pháo lệnh, hai vạn nhân đội từ hai phía tả hữu bao vây đội quân bốn ngàn người của Gia Luật Tề vào giữa.

Ba ngàn quan binh được huấn luyện bài bản, võ nghệ thành thạo, lại có một ngàn đệ tử Cái Bang làm cốt cán, tuy bị vây nhưng không hề run sợ. Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Lã Văn Đức, Vương Kiên bốn người ở trên mặt thành nhìn xuống, thấy quân Tống trận thế không loạn, lấy một địch mười, hăng hái chống trả, đao quang loang loáng dưới ánh đuốc như hàng vạn con ngân xà chuyển động, thật là một trận đại chiến!

Quân Mông Cổ cậy đông, hai vạn nhân đội vây chặt bốn ngàn tinh binh của Gia Luật Tề, một vạn nhân đội khác lại leo thang công thành.

Quách Tĩnh thấy đội quân của Gia Luật Tề chặn ở bên ngoài, viện binh Mông Cổ điều động bất tiện, bèn hạ lệnh cho huynh đệ họ Võ lui binh một quãng, nhường cho quân Mông Cổ leo lên bờ thành. Nhị Võ vâng lệnh, dẫn binh tạm lui. Lập tức hàng trăm hàng ngàn tên lính Mông Cổ leo lên mặt thành. Ngàn vạn binh lính Mông Cổ bên dưới ngỡ thành đã bị phá, liền hò reo “Vạn tuế! Vạn tuế!”

Lã Văn Đức mặt như chàm đổ, toàn thân run rẩy, nói:

– Quách đại hiệp… giờ.. giờ phải làm sao? Chúng… ta… làm thế….

Quách Tĩnh không nói, chờ chừng năm ngàn quân Mông Cổ leo lên mặt thành, bèn phất lá cờ đen một cái, trống trận bỗng rền vang. Chu Tử Liễu và Võ Tam Thông mỗi người suất lĩnh một đội tinh binh từ chỗ mai phục xông ra, không để cho quân Mông Cổ leo lên mặt thành nữa. Năm ngàn quân Mông Cổ đã leo lên mặt thành liền bị vây chặt lại.

Lúc này quân Tống ở ngoài thành bị vây, quân Mông Cổ ở trong thành bị vây. Ba cửa Đông, Tây, Nam đều diễn ra ác chiến, tiếng hò hét chém giết dậy đất.

Đại hãn Mông Cổ cưỡi ngựa đứng trên một cái gò nhỏ, thân chinh đốc chiến. Hơn hai trăm chiếc trống lớn mặt da gõ ầm ầm điếc tai, át hết mọi tiếng nói chuyện. Chỉ thấy nào thiên phu trưởng, bách phu trưởng, kẻ chết, kẻ bị thương, áo giáp loang máu, được cáng từ trận tiền về. Đại hãn Mông Kha từng trải trăm trận, từng tây chinh, tiêu diệt liên quân các nước châu Âu, tiến đến tận sông Đa-nuýp, tận thành Viên, lúc này nhìn cảnh ác chiến cũng không khỏi kinh hãi: “Người ta cứ bảo bọn Nam man khiếp hãi vô dụng, kỳ thực họ chẳng thua gì tinh binh Mông Cổ ta!”

Lúc này đã là nửa đêm, trăng sao đều sáng, mây mỏng gió nhẹ, trên trời hiền hoà, nhưng dưới đất thì mười mấy vạn người đang liều mình ác chiến.

Trận chiến kéo dài từ sáng sớm đến nửa đêm, song phương đều tử thương nặng nề, bất phân thắng bại. Quân Tống chiếm địa lợi, quân Mông Cổ có ưu thế số đông.

Lại đánh hồi lâu. Bỗng nghe tiền quân có tiếng huyên náo, một đội quân Tống xông thẳng tới chiếc gò nhỏ. Thân binh hộ tống đại hãn vội bắn tên rào rào ngăn chặn. Mông Kha từ trên gò cao nhìn xuống, thấy một viên tướng hai tay cầm hai ngọn giáo, cưỡi một con ngựa cao lớn, tả xung hữu đột giữa chiến trận, tên bắn như mưa về phía viên tướng đó đều bị y gạt hết. Mông Kha giơ tay trái lên, tiếng trống liền ngưng, Mông Kha quay sang hỏi tả hữu:

– Người kia dũng mãnh thế, không biết là ai?

Một vị tướng bạc đầu ở bên trái nói:

– Khải bẩm bệ hạ. Người ấy là Quách Tĩnh. Năm xưa Thành Cát Tư Hãn phong y làm Kim đao phò mã, viễn chinh Tây Vực, lập nhiều chiến công.

Mông Kha lạc giọng nói:

– À, thì ra là y! Tướng quan thần dũng, quả nhiên danh bất hư truyền!!

Các tướng tả hữu nghe Mông Kha khen tướng địch, đều không bằng lòng. Bốn danh tướng liền cùng hô to, tế ngựa xông ra.

Quách Tĩnh thấy có bốn người thân cao ngựa lớn, hai đội mũ trắng của vạn phu trưởng, hai đội mũ hồng của thiên phu trưởng, thét vang như sấm, phi ngựa tới gần mình, keng một tiếng, làm gãy cán đại đao của một tên thiên phu trưởng, rồi đâm giáo xuyên qua ngực hắn. Hai vạn phu trưởng cùng xông tới, hai cây thiết thương ép mũi giáo của Quách Tĩnh lại, xà mâu của một tên thiên phu trưởng thì đánh tới bụng dưới của Quách Tĩnh. Cả bốn người đều sử dụng binh khí dài, không tiện chuyển gấp, Quách Tĩnh buông ngọn giáo dài, lách người sang bên phải tránh mũi xà mâu của tên thiên phu trưởng, đồng thời lật hai cổ tay chụp lấy mũi thương của hai vạn phu trưởng, quát to một tiếng như tiếng sấm nổ giữa trời xanh, giật mạnh hai mũi thương. Hai tên vạn phu trưởng tuy là dũng sĩ có tiếng trong quân Mông Cổ, nhưng chịu sao nổi thần lực của Quách Tĩnh? Lập tức cánh tay tê dại, thiết thương rời tay. Quách Tĩnh không kịp đảo mũi thương, tiện thể thúc ra, hự hự hai tiếng, hai cán thiết thương thúc vào ngực hai tên vạn phu trưởng, may mà chúng mặc áo giáp nên không bị thủng ngực, song cũng hộc máu, ngã lăn xuống ngựa.

Tên thiên phu trưởng rất quả cảm, tuy thấy ba người kia đều bỏ mạng, vẫn đâm xà mâu tới. Quách Tĩnh dùng thiết thương bên tay trái gạt xà mâu của hắn, thiết thương bên tay phải thì đánh xuống đỉnh đầu hắn, bộp một cái, hắn vỡ sọ liền.

Bọn thân binh thấy Quách Tĩnh trong giây lát đánh chết bốn viên dũng tướng, thảy đều kinh hãi, tuy ở bên cạnh đại hãn, cũng không ai dám xông ra trổ tài, chỉ không ngớt bắn tên. Quách Tĩnh định phi ngựa xông lên gò, nhưng mấy trăm mũi thương dài chĩa ra tua tủa nhiều lớp bảo vệ đại hãn, khiến Quách Tĩnh không thể tiến đến gần. Đột nhiên con ngựa hí một tiếng thảm thiết, khuỵa hai vó trước, nó đã bị trúng hai mũi tên vào ngực. Quân Mông Cổ hò reo xông tới.

Chỉ thấy Quách Tĩnh bật dậy, chĩa thương đâm chết một tên bách phu trưởng, nhảy lên ngựa của hắn, thoáng chốc đã giết thêm mười mấy quan binh Mông Cổ.

Mông Kha thấy Quách Tĩnh xung sát giữa ba quân như ở chỗ không người, quan binh Mông Cổ tuy đông nhưng không làm gì nổi, thì cau mày, hạ lệnh:

– Ai giết được Quách Tĩnh, lập tức thưởng hoàng kim vạn lượng, quan thăng ba cấp!

Phần thưởng khích lệ quan binh tràn lên như nước lũ.

Quách Tĩnh thấy tình thế nguy cấp, lại không thể tiến đến chỗ đại hãn, bèn vung giáo đánh dạt mấy tên lính Mông Cổ ở gần, lắp tên giương cung bắn về phía Mông Kha. Mũi tên xé gió lao đi nhanh như tia chớp, thẳng tới chỗ đại hãn. Thân binh hộ giá cả kinh, hai bách phu trưởng vội lấy thân mình che trước mặt đại hãn, mũi tên dài xuyên qua tên thứ nhất, vẫn còn đà, lại xuyên tiếp qua ngực tên thứ hai, thành một chuỗi ngay trước mặt Mông Kha.

Mông Kha thấy vậy không khỏi biến sắc, bọn thân binh vội hộ giá đại hãn rút khỏi chiếc gò.

Đúng lúc ấy trong quân Mông Cổ có tiếng kêu la, một cánh quân Tống xông tới, dẫn đầu là một người múa hai cái mái chèo bằng sắt, chính là Tứ Thuỷ Ngư Ẩn. Nguyên Hoàng Dung thấy Quách Tĩnh hãm trận, không yên tâm, lệnh cho Tứ Thuỷ Ngư Ẩn dẫn hai ngàn quân xông ra tiếp ứng. Quân Mông Cổ thấy đại hãn rút lui, trận thế hơi rối loạn.

Hoàng Dung trên mặt thành thấy rõ, hạ lệnh:

– Mọi người cùng kêu to lên, rằng đại hãn Mông Cổ chết rồi!

Binh sĩ liền hô lớn:

– Đại hãn Mông Cổ chết rồi! Đại hãn Mông Cổ chết rồi!

Binh sĩ thành Tương Dương nhiều năm đánh nhau với quân Mông Cổ, những người thông minh đều học nói vài câu tiếng Mông Cổ, lúc này có người hô to bằng tiếng Mông Cổ.

Quan binh Mông Cổ nghe tiếng hô, đều nghển cổ ngó lại phía sau, thấy đại hãn quả nhiên đã rút, cờ suý phía đó tản dần, nào biết thật giả, cứ tưởng đại hãn đã chết thật, lòng quân lập tức rối loạn, mất chí chiến đấu, lũ lượt tháo lui.

Hoàng Dung hạ lệnh truy sát, mở toang cổng thành. Ba vạn tinh binh ùa ra. Bốn ngàn quân do Gia Luật Tề suất lĩnh đã tổn thất một nửa, nửa còn lại thừa thế truy kích. Quan binh Mông Cổ từng trải chiến trận, tuy bại không loạn, tinh binh đoạn hậu, chậm rãi rút về phía bắc, quân Tống khó lòng lại gần. Riêng năm ngàn quân Mông Cổ tinh nhuệ leo được vào trong thành Tương Dương thì không một ai sống sót.

Khi quân Mông Cổ rút hết khỏi cả bốn cửa thành, thì trời đã sáng rõ. Trận đại chiến này kéo dài đủ mười hai canh giờ, máu chảy đầy đồng, thây chất thành núi. Ngựa chết, giáo gãy, cờ rách la liệt trong vòng mười dặm.

Trận này quân Mông Cổ tử thương hơn bốn vạn, quân Tống thủ thành cũng tử thương hai vạn ba ngàn người, từ khi Mông Cổ hưng binh xâm lăng phương nam đến nay, chưa bao giờ thảm liệt như trận này.

Quân Tống giữ thành Tương Dương tuy đánh lui quân địch, nhưng khắp nơi trong thành đều có tiếng khóc, mẹ khóc con, vợ khóc chồng.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung không kịp cởi áo giáp nghỉ ngơi, phải đi tuần thị bốn cổng thành, thăm hỏi tướng sĩ. Khi ghé thăm Chu Bá Thông và Lục Vô Song, thấy hai người đã đỡ. Chu Bá Thông không chịu nằm bệt một chỗ, cứ đi đi lại lại trong hoa viên. Quách Tĩnh, Hoàng Dung nhìn nhau mỉm cười, mới trở về phủ nghỉ ngơi.

Sáng sớm hôm sau, Quách Tĩnh đang ở trong dinh An phủ sứ thương nghị quân tình với Lã Văn Đức và đại tướng Vương Kiên, thì có tin báo rằng có một vạn quân Mông Cổ đang tiến đến cửa Bắc. Lã Văn Đức kinh ngạc nói:

– Tại sao… vừa rút đi đã lại kéo đến? Thật là khó hiểu!

Quách Tĩnh đập bàn đứng dậy, lên mặt thành quan sát, thấy vạn nhân đội của địch bày trận cách thành mấy dặm, chứ không tấn công. Lát sau, hơn một ngàn thợ mộc gánh đá đóng cọc, khuân gỗ, dựng lên một cái đài cao hơn mười trượng.

Lúc này Hoàng Dược Sư, Hoàng Dung, Nhất Đăng, Chu Tử Liễu đều đã ra mặt thành quan sát, thấy quân Mông Cổ dựng cái đài cao, đều không hiểu. Chu Tử Liễu nói:

– Bọn Thát tử dựng cái đài cao, nếu để nhìn trộm quân tình trong thành, thì không làm cách xa như thế. Hơn nữa quân ta chỉ cần bắn hoả tiễn, sẽ lập tức thiêu huỷ. Cái đài cao ấy thật vô dụng.

Hoàng Dung trầm ngâm, nhất thời cũng chưa biết dụng ý của quân địch.

Cái đài cao dựng xong, thấy mấy trăm quân Mông Cổ đánh ngựa chở củi cỏ đến chất xung quanh đài, như thể chuẩn bị đốt cháy nó đi. Mọi người càng lấy làm lạ. Chu Tử Liễu nói:

– Chẳng lẽ quân địch công thành không nổi, đi dựng đàn cầu trời, hoặc giả bày trò yêu pháp gì đây?

Quách Tĩnh nói:

– Tiểu đệ ở lâu trong quân Mông Cổ, chưa hề thấy họ giở trò lạ lùng thế này bao giờ.

Vừa nói vừa nhìn, thấy cả ngàn binh sĩ Mông Cổ dùng cuốc xẻng đào xung quanh cái đài cao một cái hào vừa sâu vừa rộng, đất đào lên thì đắp thành bờ phía ngoài hào như một bức tường đất. Hoàng Dược Sư tức giận nói:

– Thành Tương Dương là quê của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, bọn Thát tử vô lễ, giở trò múa rìu qua mắt vị đại hiền, chẳng hoá ra coi khinh người Tống lắm sao?

Chỉ nghe tiếng tù và, tiếng trống vang lên, một vạn nhân đội tiến đến dàn trận bên trái cái đài cao, một vạn nhân đội khác dàn trận bên phải cái đài. Trận thế dàn xong, lại thêm một vạn nhân đội dàn ra phía trước đài, cùng ba vạn nhân đội kia, tổng cộng thành bốn vạn nhân đội xung quanh cái đài cao. Đại trận trải dài mấy dặm, gươm giáo, cung thủ, trường mâu thủ, trảm mã thủ, thiết xung thủ tầng tầng lớp lớp vây quanh cái đài cao.

Bỗng nghe pháo hiệu, tiếng trống ngừng bặt, mấy vạn người im phăng phắc, từ xa có hai người phi ngựa đến chân đài. Hai người xuống ngựa, dắt tay nhau đi lên cái đài cao, chỉ vì quá xa nên không nhìn rõ diện mạo hai người ấy, chỉ lờ mờ đoán là một nam một nữ.

Mọi người đang kinh ngạc, Hoàng Dung đột nhiên kêu lên một tiếng, ngã ngửa ra sau, ngất đi. Mọi người vội cứu tỉnh, cùng hỏi:

– Sao? Chuyện gì vậy?

Hoàng Dung mặt tái nhợt, run giọng, nói:

– Là Tương nhi, là Tương nhi!

Mọi người kinh hãi nhìn nhau. Chu Tử Liễu nói:

– Quách phu nhân, phu nhân nhìn rõ chứ?

Hoàng Dung nói:

– Muội nhìn không rõ mặt mũi, nhưng xét về lý, thì nhất định là Quách Tương. Bọn Thát tử đánh thành không được, cuối cùng thực thi gian kế. Thật là… thật là quá đê hèn.

Hoàng Dược Sư và Chu Tử Liễu nghe Hoàng Dung nói, đã hiểu ra, tỏ vẻ tức giận. Quách Tĩnh thì chưa hiểu, hỏi:

– Tương nhi sao lại ở trên cái đài kia? Bọn Thát tử thực thi gian kế gì?

Hoàng Dung đứng thẳng người, hiên ngang nói:

– Tĩnh ca ca! Tương nhi không may sa vào tay bọn Thát tử. Bọn địch dựng cái đài cao kia, chất củi cỏ bên dưới, là định thiêu sống Tương nhi để ép Tĩnh ca ca đầu hàng. Nếu ca ca không đầu hàng, chúng sẽ phóng hoả để vợ chồng ta đau đứt ruột, thần trí rối loạn, không thể chuyên tâm giữ thành.

Quách Tĩnh vừa kinh ngạc vừa tức giận, hỏi:

– Tương nhi tại sao lại sa vào tay bọn Thát tử?

Hoàng Dung nói:

– Mấy ngày qua quân vụ khẩn cấp, thiếp sợ tướng công phân tâm, nên chưa kể.

Rồi thuật lại việc Quách Tương ở Tuyệt Tình cốc bị Kim Luân pháp vương bắt đi như thế nào. Quách Tĩnh nghe Dương Quá mất tích ở dưới đáy sơn cốc, thì hỏi tỉ mỉ. Sau khi Hoàng Dung kể xong, liền chau mày nói:

– Dung nhi! Nàng làm thế là sai. Dương Quá sống chết chưa rõ, sao nàng lại bỏ đấy mà đi?

Quách Tĩnh xưa nay nhất mực kính trọng ái thê, trước mặt người khác chưa bao giờ thất lễ với vợ. Lời trách cứ vừa rồi là rất nặng. Hoàng Dung ngượng đỏ cả mặt.

Nhất Đăng nói:

– Quách phu nhân đã lặn xuống đầm nước băng giá, suýt bị đông cứng, để tìm Dương Quá dưới đáy cốc. Huống hồ tiểu cô nương nằm trong tay gian tặc, mọi người đều chủ trương đuổi theo hắn trước, không nên trách Quách phu nhân.

Nhất Đăng nói thế, Quách Tĩnh không dám trách thêm, chỉ bực bội nói:

– Con nhãi Quách Tương gây lắm chuyện rắc rối. Nếu Dương Quá có mệnh hệ gì, chúng ta làm sao có thể an tâm? Cứ để cho bọn Thát tử thiêu sống con nhãi đi.

Hoàng Dung không nói gì, quay mình rời khỏi mặt thành. Mọi người đang bàn cách làm thế nào cứu Quách Tương, bỗng thấy cổng thành mở, một người cưỡi ngựa phóng ra phía bắc, chính là Hoàng Dung. Ai cũng kinh ngạc. Quách Tĩnh, Hoàng Dược Dư, Nhất Đăng, Chu Tử Liễu vội lên ngựa đuổi theo.

Đoàn người phi ngựa về phía cái đài cao, dừng lại ở chỗ cũng tên của quân địch bắn không tới. Chỉ thấy trên đài cao có hai người, một mặc áo hoàng bào, chính là Kim Luân pháp vương, người kia bị trói vào một cây cột, chính là Quách Tương.

Quách Tĩnh tuy giận con thường gây lắm chuyện rắc rối, nhưng vẫn là tình cha con, làm sao không lo, bèn cao giọng gọi:

– Tương nhi! Đừng sợ! Có cha mẹ đến cứu con đây!

Quách Tĩnh nội lực dồi dào, tiếng nói vang rành rọt lên cái đài cao. Tương nhi bị ánh nắng hun nóng đang như người say nắng, bỗng nghe tiếng gọi của phụ thân, liền mừng rỡ đáp lại:

– Gia gia, má má!

Kim Luân pháp vương cười ha ha, dõng dạc nói:

– Quách đại hiệp! Đại hiệp muốn ta phóng thích lệnh ái thì không khó chút nào. Chỉ sợ đại hiệp không có can đảm mà thôi.

Quách Tĩnh vốn trầm ổn hậu trọng, càng nguy cấp càng trầm tĩnh, nghe Kim Luân pháp vương nói thế vẫn không giận, nói:

– Pháp vương có việc gì khó, xin cứ cho biết.

Pháp vương nói:

– Nếu đại hiệp có lòng từ tâm của người làm cha, thì hãy lên đài chịu trói đổi người. Lão phu sẽ lập tức thả lệnh ái ra.

Pháp vương thừa biết Quách Tĩnh hiểu rõ đại nghĩa, không đời nào chịu vì nhi nữ mà thí bỏ trăm họ trong thành Tương Dương, nên mới nói khích để Quách Tĩnh bày tỏ sự can đảm mà mắc mưu lão ta. Nhưng Quách Tĩnh đâu dễ mắc lừa, nói:

– Thát tử nếu không sợ Quách mỗ, hà tất phải gây khó dễ đối với một tiểu nữ nhi? Thát tử đã sợ Quách mỗ, thì tấm thân này sao lại dễ dàng chịu chết?

Pháp vương cười khẩy, nói:

– Người ta bảo Quách đại hiệp võ công trác tuyệt kiêu dũng vô luân, kỳ thực chỉ là một kẻ tham sinh uý tử.

Cái kế khích tướng của Pháp vương nếu đem dùng với người khác thì có thể thu kết quả, nhưng Quách Tĩnh liên quan đến sự an nguy của cả thành Tương Dương, nên chỉ cười nhạt, không thèm lý đến.

Mấy câu nói của Pháp vương làm cho Võ Tam Thông và Tứ Thuỷ Ngư Ẩn tức giận. Hai người một vung thiết chuỳ, một vung cặp mái chèo, phi ngựa lên phía trước. Mấy ngàn xạ thủ Mông Cổ giương cung lắp tên, chờ hai người tới gần sẽ bắn, biến họ thành hai con nhím. Nhất Đăng thấy vậy liền phi thân xuống ngựa, nhảy ba bước đã tới chặn trước đầu ngựa hai đệ tử, quát:

– Quay trở lại!

Võ Tam Thông và Tứ Thuỷ Ngư Ẩn thừa biết xông lên chỉ có chết, thấy sư phụ ngăn cản, bèn quay ngựa chạy trở lại. Quan binh Mông Cổ thấy vị hoà thượng cao niên đuổi vượt cả ngựa phi, thì hoan hô rầm trời.

Kim Luân pháp vương nói:

– Quách đại hiệp! Lệnh ái thông minh lanh lợi, lão phu rất mến nó, có ý nhận nó làm đệ tử, truyền cho y bát. Nhưng đại hãn có chỉ, nếu Quách đại hiệp không quy hàng, sẽ thiêu sống nó trên đài cao. Chẳng riêng Quách đại hiệp đau đớn cho ái nữ, lão phu cũng lấy làm tiếc lắm, mong đại hiệp nghĩ cho kỹ.

Quách Tĩnh hừ một tiếng, nhìn bốn chục tên cầm đuốc đứng cạnh đống củi cỏ dưới chân đài cao, chỉ cần Kim Luân pháp vương phát lệnh sẽ châm lửa. Bốn vạn nhân đội vây kín cái đài cao, thân xác trần tục không tài gì vượt qua đó, huống hồ có xông đến gần, địch phóng hoả thì làm sao cứu được nữ nhi xuống?

Quách Tĩnh ở lâu trong quân Mông Cổ, biết quân Mông Cổ dụng binh tàn bạo, cướp đất hạ thành, trong một ngày có khi thảm sát hàng vạn phụ nữ trẻ thơ, nếu chúng thiêu sống Quách Tương thì cũng giống như chúng xéo lên một con kiến, mới ngẩng đầu lên, thấy sắc diện tiều tuỵ của nữ nhi, tự dưng lòng đau như cắt, bèn gọi to:

-Tương nhi! Con là hảo nữ nhi của Đại Tống, khẳng khái tựu nghĩa, chớ run sợ. Cha mẹ hôm nay không thể cứu con, mai sau nhất định sẽ giết tên ác tăng này trả thù cho con. Con hiểu chứ?

Quách Tương nuột lệ gật đầu, đáp to:

– Gia gia má ma! Hài nhi không sợ đâu!

Quách Tĩnh nói:

– Thế mới là hảo nữ nhi của ta!

Đoạn giương cung, bắn liền ba mũi tên dài, ba tên lính Mông Cổ cầm đuốc đứng dưới chân đài cao ngã vật xuống vì bị tên xuyên qua ngực. Quách Tĩnh học xạ thuật từ đại tướng Mông Cổ “Thần tiễn” Triết Biệt, cộng với mấy chục năm tu vi, chỗ Quách Tĩnh đứng tên của địch không thể bắn tới, song Quách Tĩnh vẫn có thể bắn tới kẻ địch. Quân Mông Cổ cùng kêu lên kinh hãi, giơ mộc hộ thân. Quách Tĩnh nói:

– Đi thôi!

Rồi quay đầu cùng Hoàng Dung quay về thành.

Mọi người về đứng trên mặt thành. Hoàng Dung thẫn thờ nhìn cái đài cao, tâm trí rối bời.

Nhất Đăng nói:

– Thát tử trị quân nghiêm chỉnh, muốn cứu Quách Tương, phải tìm cách trước tiên làm rối loạn bốn vạn nhân đội ở xung quanh cái đài cao.

Hoàng Dược Sư nói:

– Đúng thế!

Lão ngẫm nghĩ, rồi nói:

– Dung nhi, chúng ta sử dụng đại trận Nhị thập bát tú, đấu với Thát tử một phen.

Hoàng Dung cúi đầu, nói:

– Dù có thắng địch, Thát tử phóng hỏa đốt cái đài cao thì biết làm sao?

Quách Tĩnh hiên ngang nói:

– Chúng ta tận lực giết địch, Tương nhi sống hay chết còn tùy ý trời. Nhạc phụ, xin hỏi cách bày trận Nhị thập bát tú thế nào?

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Trận pháp này biến hóa rắc rối, năm xưa sau khi quan sát Thiên Cang Bắc Đẩu trận của phái Toàn Chân, ta ngẫm nghĩ mãi, tìm học trận pháp của cổ nhân, sáng tạo ra trận Nhị thập bát tú, định tranh cao thấp với các đạo sĩ phái Toàn Chân.

Nhất Đăng nói:

– Thuật Ngũ hành kỳ môn của Hoàng lão tà độc bộ thiên hạ, đại trận Nhị thập bát tú hẳn là huyền diệu.

Hoàng Dược Sư nói:

– Trận pháp Nhị thập bát tú vốn chỉ để đấu với vài chục người trong võ lâm, chứ không nghĩ đánh với thiên quân vạn mã. Nhưng nếu biến hóa, có khi cũng hữu dụng, chỉ tiếc thiếu mất đôi chim điêu.

Nhất Đăng nói:

– Xin được biết rõ hơn.

Hoàng Dược Sư nói:

– Đôi chim điêu giá không bị gã gian tăng giết hại, khi trận pháp phát động, đôi chim điêu sẽ có thể bay tới cái đài cao cứu Quách Tương, giờ thì chưa có cách nào hay hơn. Đại trận Nhị thập bát tú là dựa trên sự biến hóa ngũ hành sinh khắc, do năm vị cao thủ chủ trì. Chúng ta bốn phương vị Đông, Nam, Bắc, Trung đều có người, nhưng Lão Ngoan đồng bị trọng thương, thiếu một một người ở mé Tây. Nếu Dương Quá ở đây, võ công của y không thua gì Âu Dương Phong thời trước, bây giờ biết tìm đâu ra y? Chủ tướng mé Tây thiếu không được.

Quách Tĩnh nhìn lướt qua cái đài cao, nhìn xa tít về trời mây phương bắc, nghĩ đến Tuyệt Tình cốc, miệng lẩm bẩm:

– Quá nhi sống chết sao đây, thật khiến người ta lo quá!

Hôm Dương Quá đứng trước Đoạn Trường nhai, biết không thể gặp lại Tiểu Long Nữ, đau đớn nhảy xuống vực sâu, nghĩ rằng sẽ thịt nát xương tan, không ngờ rơi xuống hồi lâu, đột nhiên “ùm” một cái, lại rơi xuống một cái đầm nước. Chàng rơi từ trên cao hàng trăm trượng, xung lực cực mạnh, cứ thế chìm thẳng xuống, cũng không biết chìm sâu bao nhiêu thước nước, đột nhiên trước mắt sáng bừng, tựa hồ nhìn thấy một cái thủy động, đang ngưng thần nhìn kỹ, thì ở dưới sâu lực đẩy lên rất mạnh, người chàng tự nổi lên, đúng lúc ấy thấy Quách Tương rơi xuống đầm.

Lúc này chuyện lạ cứ thế nối tiếp, Dương Quá chưa kịp nghĩ kỹ, chờ Quách Tương nổi lên mặt nước, chàng giơ tay kéo nàng lên bờ đầm, hỏi:

– Tiểu muội tử, tại sao lại ngã xuống đây?

Quách Tương nói:

– Muội thấy đại ca ca nhảy xuống, thì muội cũng nhảy theo.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Loạn quá, loạn quá! Tiểu muội tử chẳng lẽ không sợ chết?

Quách Tương mỉm cười, nói:

– Đại ca ca không sợ chết, thì tiểu muội cũng chả sợ.

Dương Quá chợt nghĩ: “Chẳng lẽ tiểu cô nương này cũng có thâm tình với ta như vậy?” Nghĩ vậy, bất giác tay run run.

Quách Tương rút trong bọc ra cây kim châm cuối cùng, nói:

– Đại ca ca, lần ấy đại ca ca đưa cho tiểu muội ba cây kim châm, bảo cho tiểu muội ba điều ước, đại ca ca đều sẽ đáp ứng. Hôm nay tiểu muội cầu xin đại ca ca, bất kể Dương đại tẩu có thể tái hợp với đại ca ca hay không, đại ca ca cũng đừng tự vẫn.

Đoạn đưa cây kim châm cho chàng.

Dương Quá nhìn cây kim châm trong tay, run giọng hỏi:

– Tiểu muội tử từ thành Tương Dương đến đây, chỉ để cầu xin một việc ấy thôi ư?

Quách Tương vui vẻ nói:

– Đúng vậy, đại trượng phu nói sao làm vậy, đại ca ca đã hứa đáp ứng tiểu muội rồi đấy.

Dương Quá thở dài, một người vừa trải qua một phen từ sống đến chết, lại từ cõi chết sống lại, hẳn sẽ không muốn chết một lần nữa. Chàng nhìn Quách Tương từ đầu xuống chân, thấy nàng ướt sũng cả người, răng đánh cầm cập, nhưng sắc diện vui vẻ, bèn nhặt củi khô định đốt lửa, nhưng đồ đánh lửa hai người mang theo đều bị ướt, không sử dụng được, chàng đành nói:

– Tiểu muội tử, hãy vận nội công để hàn khí khỏi ngấm vào người dễ sinh bệnh.

Quách Tương vẫn chưa yên tâm, hỏi:

– Đại ca ca có đáp ứng tiểu muội sẽ không tự vẫn nữa chứ?

Dương Quá đáp:

– Có!

Quách Tương mừng rỡ nói:

– Vậy hai chúng ta cùng vận công.

Hai người ngồi kề bên nhau, vận khí điều tức.

Dương Quá từ nhỏ đã luyện nội công trên chiếc giường hàn ngọc, chút khí lạnh này chẳng đáng gì, chàng đưa tay xoa xoa huyệt Thần Đường ở sống lưng Quách Tương, một luồng khí dương hòa ấm áp truyền sang cơ thể nàng. Lát sau Quách Tương cảm thấy huyết mạch toàn thân thông suốt dễ chịu.

Đợi khi Quách Tương dễ chịu hoàn toàn, Dương Quá mới hỏi tại sao nàng đến Tuyệt Tình cốc. Quách Tương kể lại. Dương Quá tức giận nói:

– Kim Luân pháp vương thật đáng ghét, chờ khi nào chúng ta tìm được lối leo lên, đại ca ca của tiểu muội tử sẽ đánh cho lão ta một trận thừa sống thiếu chết.

Lời chưa dứt, bỗng có một con chim điêu rơi xuống đầm, chìm xuống rồi nổi lên, nó bị thương rất nặng.

Quách Tương kêu lên:

– Là con chim điêu của nhà tiểu muội.

Lại thấy con chim điêu mái bay xuống, cõng con chim điêu trống đưa lên. Lần thứ hai con chim điêu mái bay xuống, Dương Quá đặt Quách Tương lên lưng con chim điêu, đoán rằng nó sẽ trở xuống đưa chàng lên, ai ngờ chờ mãi vẫn không thấy, chàng đâu biết con chim điêu mái đã tuẫn tình mà chết.

Chờ chim điêu không thấy, Dương Quá bèn quan sát cảnh vật bên đầm nước. Thấy trên cây lớn có treo mấy chục cái đõ ong. Đõ ong ở đây to hơn loại đõ ong thông thường, và bay lượn quanh đõ ong chính là loài ong ngọc phong Tiểu Long Nữ từng nuôi ở tòa cổ mộ.

Dương Quá vừa nhìn thấy liền kêu lên kinh ngạc, sững người một lát, mới lại bên quan sát các đõ ong, biết đó là do tay người làm ra, không chừng có dấu tích của Tiểu Long Nữ.

Chàng định thần, nghĩ: “Không lẽ năm xưa Tiểu Long Nữ nhảy xuống đây, hiện vẫn còn sống?” Chàng đi quanh đầm nước lạnh quan sát một lượt, thấy bốn phía đều là vách đá dựng đứng, giống như mình đang ở dưới đáy một cái giếng khổng lồ, có câu “ếch ngồi đáy giếng nhìn trời”, nhưng từ đây nhìn lên chỉ thấy sương mù, nào thấy ánh nắng?

Dương Quá bẻ mấy thân cây, gõ mạnh vào vách núi bốn phía, không thấy dị trạng, nhưng nhìn kỹ, phát hiện một số cây bị người ta bóc vỏ, một số hòn đá được kê ngay ngắn cạnh cây hoa, không phải là tự nhiên, mà có bàn tay con người sắp đặt, thì chàng hồi hộp, trống ngực đập mạnh, lúc này chàng đoán chắc Tiểu Long Nữ ở đây, chỉ không biết đằng đẵng mười sáu năm rồi, người ngọc giờ đây thế nào? Dương Quá vốn không tin quỉ thần, nhưng lúc này hồi hộp quá, chàng quì xuống mà khấn:

– Lạy trời phù hộ cho con gặp lại Long nhi!

Khấn cầu mấy lần, tìm kiếm một hồi, vẫn không thêm dấu tích gì. Dương Quá ngồi dưới một gốc cây ngẫm nghĩ: “Nếu Long nhi đã chết, cũng phải còn hài cốt chứ, trừ phi hài cốt ở dưới đáy đầm”. Nhớ lúc chìm xuống đầm từng thấy có một vầng sáng rộng, thật khó hiểu, chắc phải có gì dưới đó, chàng liền đứng dậy.

Chàng nói to:

– Lành dữ gì cũng phải tìm cho ra chân tướng, tìm bao giờ thấy hài cốt của nàng mới thôi.

Chàng liền nhảy xuống đầm, lặn hẳn xuống chỗ sâu. Càng xuống sâu càng lạnh buốt, lặn một hồi, thấy bốn phía toàn là băng màu xanh sẫm. Dương Quá tuy không sợ lạnh, nhưng ở chỗ sâu lực đẩy lên rất mạnh, chàng cố gắng mấy lần cũng chỉ lặn sâu thêm vài trượng, vẫn chưa tới đáy, đã tức thở, phải ngoi lên mặt nước.

Chàng lên bờ bưng một hòn đá lớn, rồi lại nhảy xuống. Lần này chàng chìm rất nhanh, chợt thấy trước mắt sáng bừng, vội bơi tới chỗ quầng sáng, chỉ thấy một dòng nước chảy mạnh cuốn chàng đi, hóa ra quầng sáng quả nhiên là một cái động. Chàng quẳng hòn đá đi, tay chân cùng bơi trong động, đây là một cái hố băng chênh chếch lên cao. Chàng thuận thế bơi lên, không lâu thì lên tới mặt nước, cảm thấy ánh nắng lóa mắt, mùi hoa thơm nức, như lạc vào một thế giới khác. Chàng chưa vội bò lên bờ, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy cỏ xanh và vô vàn hoa lá, như thể trong một hoa viên cực lớn, nhưng im ắng không một bóng người. Chàng vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vọt lên bờ, thấy cách hơn mười trượng có một ngôi nhà tranh.

Chàng chạy nhanh về phía đó, nhưng được ba, bốn trượng, thì dừng lại bước thong thả, nghĩ: “Nếu trong nhà không có dấu vết gì về Long nhi thì sao?” Càng đến gần ngôi nhà, chàng càng bước chậm hơn, trong thâm tâm chỉ sợ tất cả chỉ là ảo ảnh, còn cách một trượng cuối cùng, chàng dỏng tai nghe ngóng, bốn phía vẫn im ắng, không tiếng chim tiếng người, chỉ có tiếng ong vo ve.

Chàng chờ một lát, cuối cùng đánh bạo nói, giọng run run:

– Dương mỗ mạo muội bái yết, xin cho gặp mặt.

Trong nhà không có tiếng trả lời, chàng giơ tay đẩy nhẹ, cửa mở ra nghe két một cái.

Dương Quá bước vào, vừa nhìn lướt qua đã chấn động toàn thân, thấy bên trong bầy biện đơn giản, nhưng vô cùng sạch sẽ, gian ngoài chỉ có một cái bàn một cái ghế, không còn vật gì khác, vị trí kê bàn ghế cũng vô cùng quen thuộc, chẳng khác gì ở trong tòa cổ mộ. Không cần suy nghĩ, chàng tự dưng đi sang bên trái, quả nhiên thấy một gian buồng nhỏ, qua gian này tới một gian rộng hơn, giường ghế ở đây kê y hệt ở trong phòng ngủ của tòa cổ mộ, chỉ khác là ở đây dụng cụ toàn làm bằng cành cây ghép lại.

Gian bên phải có một cái giường, kiểu như cái giường hàn ngọc chàng luyện công hồi nhỏ, cạnh đó chăng ngang một sợi dây, để chàng nằm luyện khinh công, một ô cửa sổ nhỏ, nơi chàng đọc sách, viết chữ. Từ lúc bước vào đây sờ giường sờ ghế, Dương Quá đã rưng rưng nước mắt, lúc này chàng không nhịn được nữa, lệ chảy ròng ròng.

Bỗng cảm thấy có một bàn tay mềm mại vuốt nhẹ tóc chàng, một giọng nói dịu dàng:

– Quá nhi, sao chàng không vui mừng?

Giọng nói này, cái vuốt tóc này hệt như xưa, mỗi lần Tiểu Long Nữ an ủi chàng. Dương Quá quay phắt lại, thấy trước mặt một bạch y nữ tử, da trắng như tuyết, diện mạo như xưa, chính là Tiểu Long Nữ chàng vẫn đêm ngày tương tư mười sáu năm qua.

Hai người đứng ngây hồi lâu, cùng kêu khẽ một tiếng “a”, rồi ôm chầm lấy nhau, ngỡ ngỡ ngàng ngàng, chưa biết là thật hay ảo?

Lát sau, Dương Quá mới nói:

– Long nhi, diện mạo của nàng chẳng thay đổi gì, còn ta thì đã già.

Tiểu Long Nữ chăm chú nhìn, nói:

– Không phải già, mà là Quá nhi của thiếp đã trưởng thành.

Tiểu Long Nữ hơn Dương Quá vài tuổi, nhưng nàng từ bé sống trong cổ mộ, theo sư phụ tu tập nội công, rũ bỏ mọi tư lự dục niệm. Dương Quá thì lo nghĩ đủ thứ, đại bi đại lạc, cho nên đến khi hai người thành hôn, trông hai người như cùng tuổi với nhau.

Phép tu luyện dưỡng sinh của “Ngọc nữ công” phái Cổ Mộ có mười hai yếu quyết chữ “Thiểu” là “Thiểu tư, Thiểu niệm, Thiểu dục, Thiểu sự, Thiểu ngữ, Thiểu tiếu, Thiểu sầu, Thiểu lạc, Thiểu hỉ, Thiểu nộ, Thiểu hiếu, Thiểu ố (Ít: suy, nghĩ, ham muốn, làm việc, nói, cười, buồn, sướng, vui, giận, ưa thích, ghét bỏ). Bởi lẽ suy nhiều ắt mệt mỏi tinh thần, nghĩ nhiều ắt tinh tán, muốn nhiều ắt trí tổn, làm nhiều ắt mệt mỏi, nói nhiều ắt hụt hơi, cười nhiều ắt hại gan, buồn nhiều ắt mệt tim, sướng nhiều ắt ý lạm, vui nhiều ắt hại trí nhớ, giận nhiều ắt huyết mạch bất định, ưa thích nhiều ắt mê muội bất trị, ghét bỏ nhiều ắt nôn nóng bất an. Không trừ bỏ mười hai cái “nhiều” ấy, chính là gốc của việc mất mạng vậy. Tiểu Long Nữ tu vi từ nhỏ, không vui không buồn, vô tư vô lự, công lực tinh thuần có điểm còn hơn cả sư tổ Lâm Triêu Anh. Nhưng sau đó Dương Quá đến tòa cổ mộ, hai người sống với nhau nhiều năm, tình ý nảy sinh, những điều “Thiểu sự, Thiểu ngữ, Thiểu lạc, Thiểu hỉ” dần dần không theo được nữa. Thành hôn xong lại biệt ly mười sáu năm, Dương Quá phiêu bạt giang hồ, tóc mai nhuốm bạc, Tiểu Long Nữ thì ở dưới u cốc, tuy không tránh khỏi nỗi khổ tương tư, song công phu tu luyện hai mươi năm không nhỏ, mấy năm sau tái tu luyện mười hai yếu quyết chữ “Thiểu”, dần dần “Thiểu tư, Thiểu niệm, Thiểu dục, Thiểu sự”, độc cư dưới đáy sơn cốc, nên khi hai người gặp lại nhau thì trông Dương Quá rõ ràng lại già hơn Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ mười sáu năm không nói, ban đầu nói năng khó khăn. Hai người nói ít, chỉ nhìn nhau mỉm cười. Sau đó Dương Quá nhiệt huyết trào dâng, chàng cầm tay Tiểu Long Nữ chạy ra bên ngoài, nói:

– Long nhi, ta sung sướng quá!

Rồi chàng tung mình nhảy lên, cao đến ngang ngọn một cây đại thụ, lộn người bảy, tám vòng.

Cái trò lộn người mấy vòng vì quá vui này có từ hồi Dương Quá chung sống với Tiểu Long Nữ ở chân núi Chung Nam. Ngót hai chục năm nay Dương Quá đã quên hẳn, không ngờ hôm nay sắp bước sang tuổi trung niên, đột nhiên chàng lại lộn người. Chỉ khác là bây giờ võ công cao siêu, nên lúc thân hình ở trên không trung chàng tự nhiên hiển lộ ra khinh công thượng thừa. Tiểu Long Nữ cười phá lên, những qui tắc “Thiểu ngữ, Thiểu tiếu, Thiểu lạc, Thiểu hỉ” đều quẳng cả xuống đầm.

Tiểu Long Nữ rút ra chiếc khăn tay, hồi còn ở chân núi Chung Nam, mỗi lần Dương Quá lộn người, rồi cười hi hi bước đến bên nàng, nàng lại rút khăn lau mồ hôi trán cho chàng, lúc này nhìn chàng lại gần, mặt không đỏ, hơi thở không dồn dập, làm gì có mồ hôi trán? Nhưng nàng vẫn dùng khăn chấm chấm vài cái trên trán chàng.

Dương Quá cầm chiếc khăn xem, thấy nó được đan bằng các gân sợi vỏ cây rất thô, hình dung nỗi khổ sở bao năm nay của nàng dưới đáy sơn cốc, bất giác quặn lòng, nhè nhẹ vuốt tóc nàng, nói:

– Long nhi, nàng phải chịu đựng mười sáu năm ở đây thật là khổ!

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Nếu thiếp không trưởng thành từ nhỏ ở trong tòa cổ mộ, chắc là không chịu đựng nổi mười sáu năm vừa rồi.

Hai người ngồi kể cho nhau nghe mọi chuyện.

Dương Quá luôn miệng hỏi hết câu này câu kia. Tiểu Long Nữ nói một hồi, bớt dần ngượng nghịu, mới thong thả thuật lại các biến cố mười sáu năm qua.

Hôm Dương Quá ném nửa viên Tuyệt Tình đơn xuống vực, Tiểu Long Nữ biết chàng nghĩ nàng trúng độc khó trị, không muốn sống một mình trên đời. Đêm ấy nàng suy đi tính lại, chỉ có cách nàng phải chết trước mới có hi vọng chàng chịu giải độc hoa Tình. Nhưng nếu nàng hé lộ ý định tự tận sẽ chỉ đẩy chàng chọn cái chết mau hơn, nên nghĩ đến nửa đêm, nàng bèn lên Đoạn Trường nhai, dùng kiếm khắc hai dòng chữ, cố ý ước hẹn mười sáu năm tái hợp, rồi mới nhảy xuống thâm cốc. Bấy giờ nếu nàng nghĩ Dương Quá may mắn thoát chết, cách mười sáu năm chàng vẫn không nguôi thương nhớ nàng, thì nàng đã chẳng tự tận.

Nàng kể đến đây, Dương Quá thở dài, nói:

– Tại sao nàng lại hẹn những mười sáu năm? Nếu hẹn tám năm thôi, chẳng phải chúng mình đã đoàn tụ sớm tám năm rồi không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp biết thâm tình của chàng đối với thiếp, chỉ tám năm thì quyết chưa phai nhạt. Ôi, mười sáu năm sau mà chàng còn nhảy xuống vực tuẫn tình.

Dương Quá cười nói:

– Thế mới biết một người càng có thâm tình càng tốt. Giả dụ lòng ta sớm phai nhạt, chỉ đứng bên Đoạn Trường nhai khóc một hồi rồi bỏ đi, thì suốt đời chúng mình không còn được gặp lại nhau

Tiểu Long Nữ nói:

– Mọi việc đều do ý trời!

Hai người vào sinh ra tử, sau bao biến cố, cuối cùng lại được đoàn tụ, giờ đây ngồi tựa bên nhau, trong thâm tâm đều cảm tạ ông trời.

Hai người im lặng hồi lâu. Dương Quá hỏi:

– Lúc nàng nhảy xuống vực, sự việc thế nào?

Tiểu Long Nữ nói:

-Thiếp nửa tỉnh nửa mê rơi xuống đầm nước, lúc đang nổi lên thì bị dòng nước đẩy vào một hố băng, thông lên đây, thế là sống ở nơi này. Chỗ này không có cầm điểu dã thú, nhưng trong đầm có nhiều thuỷ sản, hoa quả dưới đáy cốc ăn không hết, chỉ không có vải, phải bóc vỏ cây may quần áo mà thôi.

Dương Quá nói:

– Bấy giờ nàng trúng “Băng phách ngân châm”, chất cực độc đã ngấm vào kinh mạch, không thứ thuốc nào trên thế gian chữa đuợc, làm sao ở đây lại vẫn khoẻ?

Chàng nhìn kỹ Tiểu Long Nữ, thấy dung mạo nàng trắng trẻo, không hồng hào, nhưng hắc khí ẩn hiện ở hai đầu lông mày sau khi trúng độc đã biến mất.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp xuống đây mấy ngày sau thì độc tính phát tác, người sốt nóng như lửa, đầu nhức như muốn nổ tung, thật không chịu nổi. Thiếp nhớ lại đêm động phòng hoa chúc trong toà cổ mộ, chàng dạy thiếp ngồi trên giường hàn ngọc nghịch vận kinh mạch, tuy không thể trừ độc nhưng cũng đỡ khổ sở đau đớn. Thế là thiếp lặn xuống chỗ hố băng, tựa đầu vào đó một hồi, thấy hiệu nghiệm. Sau đó thiếp thường quay lại bờ đầm, nơi mình rơi xuống, ngẩng lên xem có tin tức gì của chàng hay không. Một hôm bỗng thấy có mấy con ong ngọc phong xuyên qua lớp sương mù bay xuống, hẳn là bầy ong mà Lão Ngoan đồng mang đến Tuyệt Tình cốc. Thiếp như gặp hảo hữu, bèn làm các tổ ong cho ong ở lại. Sau ong kéo đến ngày càng nhiều. Thiếp ăn mật ong, lại bắt bạch ngư dưới đầm mà ăn, cảm thấy bệnh đỡ dần, không ngờ mật ong và bạch ngư dưới hàn đầm lại là thứ giải độc rất công hiệu. Số lần độc tính phát tác trong cơ thể ít dần và cách quãng xa dần. Thoạt đầu phát tác ngày một lần, sau vài ngày một lần, rồi một tháng một lần, cuối cùng năm sáu năm nay không phát tác lần nào nữa, chắc đã khỏi hẳn.

Dương Quá cả mừng nói:

– Đủ thấy người hảo tâm tất được báo đáp. Năm xưa nếu nàng không tặng đàn ong ngọc phong cho Lão Ngoan đồng, thì lão không thể mang ong đến Tuyệt Tình cốc này, bệnh của nàng khó bề chữa trị.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sau khi khỏe lên, thiếp rất nhớ chàng, nhưng thâm cốc sâu hàng trăm trượng, bốn phía toàn vách đá dựng đứng, không thể leo lên. Thế là thiếp dùng gai nhọn xăm lên cánh ong sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc”, chỉ mong ong bay lên, có người phát hiện ra mình. Mấy năm qua, thiếp đã xăm chữ lên cánh mấy ngàn con ong, song chẳng có một chút hồi âm. Mỗi năm thiếp lại thêm nản lòng, xem chừng kiếp này không còn được gặp chàng nữa.

Dương Quá vỗ đùi ân hận, nói:

– Ta cũng ngốc thật, mỗi lần trở lại Tuyệt Tình cốc đều gặp ong ngọc phong, mà không bắt một vài con xem sao, có phải đã bớt được vài năm khổ sở cho nàng rồi không…

Tiểu Long Nữ nói:

– Cái đó chỉ là hạ sách khi thiếp không biết cách gì khác, chứ ai lại nghĩ trên cánh con ong bé nhỏ có xăm chữ bao giờ? Chữ xăm quá nhỏ, dẫu có hàng trăm con ong bay qua trước mắt, chàng cũng chẳng đọc được hàng chữ xăm trên cánh ong. Thiếp chỉ mong một lúc nào đó, một con ong sa vào màng nhện, trời rủ lòng để cho chàng nhận thấy, chàng nhớ đến tình nghĩa đôi ta, thò tay cứu con ong ra, chàng sẽ phát hiện cánh nó có xăm chữ.

Tiểu Long Nữ không ngờ rằng người phát hiện cánh ong có xăm chữ là Chu Bá Thông, và Hoàng Dung đã đoán ra hàm ý của sáu chữ xăm.

Hai người trò chuyện rất lâu, Tiểu Long Nữ vào nhà nướng một xâu cá, ăn kèm với trái cây, mật ong. Nước đầm lạnh giá, giống bạch ngư trong đầm tuy thân nhỏ nhưng thịt béo ngậy. Dương Quá ăn một bữa no nê, cảm thấy trong bụng rất ấm áp dễ chịu, bây giờ chàng mới kể những gì mình trải qua trong mười sáu năm. Chàng tung hoành giang hồ, uy danh chấn động quần hào, gặp phiền toái nguy hiểm gấp trăm lần so với Tiểu Long Nữ độc cư dưới thâm cốc này.

Nhưng Tiểu Long Nữ vốn không quan tâm đến sự đời, chỉ cần gặp được Dương Quá là đủ, cho nên nghe những chuyện kinh tâm động phách, nàng chỉ cười nhạt, nghe như thoảng qua tai, chẳng chú tâm. Còn Dương Quá thì cứ hỏi nàng cặn kẽ việc bắt cá hái quả, làm nhà may áo, việc nhỏ nhất cũng hỏi tỉ mỉ từ đầu chí cuối, làm như chốn đáy cốc nhỏ hẹp này là ngũ hồ tứ hải không bằng.

Hai người trò chuyện một đêm, gần sáng mệt quá mới ngủ thiếp đi. Tỉnh giấc thì đã ngả chiều, Dương Quá nói:

– Long nhi, chúng mình sống ở đây đến già, hay tìm cách trở lại chốn thế gian phồn hoa?

Cứ theo tâm ý của Tiểu Long Nữ, thà ở dưới đáy cốc thái bình yên ổn còn hơn, nhưng nghĩ Dương Quá thích náo nhiệt, tuy tình nghĩa sâu nặng với nàng, nhưng chàng không quen cảnh u tịch thế này, bèn nói:

– Chúng mình nghĩ cách leo lên trên kia, nếu ở trên đó không tốt, thì lại xuống đây. Có điều… có điều là muốn leo lên cũng không dễ chút nào.

Hai người lặn xuống hố băng, sang bờ đầm bên kia, thấy có một sợi dây dài bằng vỏ cây thòng từ trên xuống, ven đầm có rất nhiều vết chân, một đống lửa còn chưa nguội tro. Xem xét một hồi, thấy trên một thân cây có người dùng mũi kiếm khắc hai hàng chữ: “Nhất Đăng, Bá Thông, Anh Cô, Hoàng Dung, Trình Anh, Vô Song xuống đây tìm Dương Quá không gặp rất buồn leo trở lên”.

Dương Quá thầm cảm kích, nói:

– Họ rốt cuộc không hề quên ta.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không ai quên được chàng đâu.

Dương Quá nói:

– Họ tuy lặn xuống đầm, nhưng vì họ không ngã từ trên cao trăm trượng, nên lực chìm không mạnh, không đủ chìm tới hố băng. Nếu ta cũng dùng dây leo xuống, cũng sẽ không tìm được nàng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp đã bảo từ sớm, rằng vạn sự tiền định, ông trời đã an bài tất cả.

Dương Quá lắc đầu cười, nói:

– Cái đó gọi là thành tâm hết mực, gỗ đá cũng động lòng.

Chàng đưa tay kéo sợi dây, thử xem bên trên có được buộc chắc hay không, rồi nói:

– Ta lên trước, xem Kim Luân pháp vương còn ở đó hay không.

Nhưng nghĩ Nhất Đăng đại sư, Hoàng đảo chủ, Lão Ngoan đồng… đã tới đây, chắc Kim Luân pháp vương đã bỏ chạy rồi, lại nói:

– Võ công của nàng thế nào? Nếu không leo được, để ta cõng nàng.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Mười sáu năm qua tuy không tăng tiến, nhưng công phu sở học quá nửa vẫn còn.

Dương Quá ngoảnh đầu cười, tay trái nắm lấy sợi dây, hơi vận kình, thân mình đã bật lên hơn một trượng. Tiểu Long Nữ cũng bám dây leo lên. Không lâu sau, hai người lên khỏi thâm cốc.

Họ kề vai đứng trước Đoạn Trường nhai, nhìn hai hàng chữ năm xưa Tiểu Long Nữ khắc trên vách đá, tưởng như sang kiếp khác, họ nhìn nhau cười. Lúc này họ vô cùng vui sướng, bao nỗi thống khổ trong mười sáu năm hóa thành mây khói.

Dương Quá hái một bông hoa Long Nữ cài lên mái tóc Tiểu Long Nữ, nhất thời không biết hoa làm đẹp người hay người làm cho bông hoa thêm kiều diễm?

Hoàng Dược Sư đứng trên mặt thành nói muốn bày trận thế “Nhị thập bát tú”, đấu một trận lớn với Kim Luân pháp vương. Quách Tĩnh bẩm minh với An phủ sứ Lã Văn Đức, xin hạ tướng lệnh để Hoàng Dược Sư tại hiệu trường điều binh khiển tướng. Hiện thời các lộ anh hùng hào kiệt tham gia đại hội anh hùng tuy đã ra về quá nửa, song cũng còn rất nhiều anh tài ở lại thành Tương Dương, ai nấy tề tựu tại hiệu trường nghe lệnh.

Hoàng Dược Sư nói:

– Bọn Thát tử sử dụng bốn vạn nhân đội vây quanh cái đài cao, chúng ta nếu điều động binh mã nhiều hơn, dù có đánh bại chúng cũng không phải giỏi giang gì. Cho nên chúng ta cũng chỉ sử dụng bốn vạn người. Binh pháp Tôn Tử có nói, đông gấp mười lần thì vây địch, nhưng người giỏi dùng binh chỉ lấy một vây một, đâu có gì khó? Trận thế “Nhị thập bát tú” của chúng ta chia ra năm phương vị.

Các tướng lĩnh được triệu tập để nghe giải thích tỉ mỉ, Hoàng Dược Sư nói:

– Trận thế biến hóa phức tạp, nhất thời không thể quán thông, cho nên trận đánh hôm nay, muốn mời năm vị cao thủ võ học tinh thông thuật biến hóa ngũ hành chỉ huy, các vị tướng lĩnh cầm quân phải tuân theo hiệu lệnh của năm vị cao thủ đó.

Chúng tướng cúi mình nghe lệnh.

Hoàng Dược Sư nói:

– Hoàng lăng ngũ khí trung ương, thuộc Thổ, do Quách Tĩnh thống lĩnh tám ngàn quân, đạo quân này tiến thẳng vào giữa, chỉ lo cứu Quách Tương, không lo diệt địch. Mỗi người gánh đất đến chân cái đài cao, lập tức dùng đất dập lửa lấp củi cỏ, dỡ đài cao cứu người.

Quách Tĩnh nhận lệnh, đứng sang một bên.

Hoàng Dược Sư nói tiếp:

– Chu lăng tam khí phương nam, thuộc Hỏa, phiền Nhất Đăng đại sư thống lĩnh, gồm tám ngàn quân. Đạo quân này, một ngàn người hộ vệ chủ tướng, bảy ngàn người còn lại chia thành bảy đội, do bảy vị là Chu Tử Liễu, Võ Tam Thông, Tứ Thuỷ Ngư Ẩn, Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn, phu nhân Võ Đôn Nhu Gia Luật Yến, phu nhân Võ Tu Văn Hoàn Nhan Bình thống lĩnh, ứng với bảy sao Chu Tước, là Tỉnh mộc ngạn, Quỉ kim dương, Liễu thổ chương, Tinh nhật mã, Trương nguyệt lộc, Dực thủy xà, Sâm hỏa dẫn.

Nhất Đăng đại sư nhận lệnh.

Hoàng Dược Sư nói tiếp:

– Huyền lăng thất khí phương bắc, thuộc Thủy, do Hoàng Dung thống lĩnh, gồm tám ngàn quân. Đạo quân này, một ngàn người hộ vệ chủ tướng, bảy ngàn người còn lại chia thành bảy đội, do bảy vị là Gia Luật Tề, Lương trưởng lão, Quách Phù, các vị trưởng lão Cái Bang thống lĩnh ứng với bảy sao Huyền Vũ là Đẩu mộc ngạn, Ngưu kim dương, Nữ thổ bức, Hư nhật thử, Nguy nguyệt yến, Thất hỏa trư, Bích thủy chương.

Hoàng Dung nhận lệnh. Đạo quân này lấy đệ tử Cái Bang làm chủ lực, có nhiều nhân tài.

Hoàng Dược Sư điểm xong ba đạo binh, nói:

– Thanh lăng cửu khí phương đông, thuộc Mộc, đạo binh này do Đông Tà Hoàng Dược Sư ta thống lĩnh, cũng gồm tám ngàn quân. Các đệ tử của ta đã chết sạch, Ngốc cô không ở bên ta, ở đây chỉ còn mỗi một người là Trình Anh.

Đoạn Hoàng Dược Sư chọn sáu người trong số hào kiệt từng dự đại hội anh hùng, nói:

– Đạo binh này cũng chia thành tám đội, một đội hộ vệ chủ tướng, bảy đội còn lại ứng với bảy sao Thanh Long là Giốc mộc giao, Cang kim long, Đê thổ hạc, Phòng nguyệt hồ, Tâm nhật thố, Vĩ hỏa hổ, Ki thủy báo.

Điểm binh đến đạo quân tây lộ, Hoàng Dược Sư nói:

– Lộ này do giáo chủ giáo phái Toàn Chân Lý Chí Thường thống lĩnh..

Mọi người nghe đến đây, đều cảm thấy luận về danh vọng và võ công, chủ tướng cánh quân này thua xa bốn lộ quân trước. Bỗng nghe bên dưới có người nói lớn:

– Này Hoàng lão tà, lão không thèm đếm xỉa đến tiểu đệ ư?

Mọi người ngoảnh nhìn, người vừa lên tiếng chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông. Hoàng Dược Sư nói:

– Chu huynh, huynh bị thương ở lưng chưa khỏi, không thể xung trận, chứ nếu mời được Chu huynh làm chủ tướng tây lộ thì còn gì bằng…

Chu Bá Thông cướp lời:

– Vết thương nhỏ đâu có gì đáng kể? Cứ để tiểu đệ làm chủ tướng tây lộ. Này Chí Thường, ngươi có dám tranh chức chủ tướng với ta hay không đấy?

Lý Chí Thường cúi mình đáp:

– Đệ tử không dám.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Tốt, ta cũng biết nhà ngươi không dám.

Nói đoạn cầm lấy lệnh tiễn từ tay Lý Chí Thường.

Hoàng Dược Sư không thể làm gì khác, đành nói:

– Thế thì mong Chu huynh cẩn thận cho. Chu huynh thống lĩnh tám ngàn quân, trong đó một ngàn do Anh Cô chỉ huy, bảy ngàn còn lại giao cho các đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân như Lý Chí Thường chỉ huy, ứng với bẩy sao Bạch Hổ, là Khuê mộc lang, Lâu kim cẩu, Vị thổ trĩ, Ngang nhật kê, Tất nguyệt điểu, Chuỷ hỏa hầu, Thương thủy viên.

Điểm binh xong, lệnh cho các lộ quân sĩ đến kho quân khí nhận đủ vật dụng cần thiết, rồi phất cờ lệnh, bốn vạn binh mã chia ra năm phương đông, nam, tây, bắc, chính giữa, Hoàng Dược Sư dõng dạc nói:

– Năm xưa hai mươi tám viên tướng ứng với điềm trời, phò tá Hán Quang Vũ trung hưng, nay trận thế “Nhị thập bát tú” của chúng ta tuy không sánh nổi thanh thế của Hán Quang Vũ, nhưng chống giặc giữ nước, cũng đường đường chính chính là một kỳ soái oai hùng. Chư quân hãy nghe hiệu lệnh của chủ tướng, hôm nay quyết một trận tử chiến với bọn Thát tử Mông Cổ.

Tướng sĩ đồng thanh đáp ứng vang vang như tiếng sấm. Sau ba phát pháo hiệu, bốn cổng thành mở rộng, năm lộ binh mã hùng dũng tiến ra.

Tây lộ quân lấy phái Toàn Chân làm chủ lực, các đạo sĩ vốn thành thạo “Thiên Cang Bắc Đẩu trận”, chỉ thấy trường kiếm sáng loáng, bảy người một nhóm, bốn mươi chín người một đội, chuyển dịch như sao sa, tướng sĩ Mông Cổ nhìn hoa cả mắt, chỉ biết bắn tên ngăn chặn.

Chỉ nghe ở mạn bắc quân địch rú lên thất thanh, Hoàng Dung chỉ huy đệ tử Cái Bang dùng vòi dài phun nước độc dơ về phía quân địch. Thứ nước ấy dính vào người lập tức ngứa ngáy như điên, lát sau đã làm thối rữa cả da thịt, quân địch không chịu nổi, phải rút chạy.

Ở Nam lộ quân khói bốc ngút trời, là Nhất Đăng suất lĩnh tám ngàn quân thi triển hỏa công, dùng ống đồng phun lửa lưu huỳnh. Quân Mông Cổ thấy tình hình nguy hiểm, vội dồn vào giữa.

Quách Tĩnh suất lĩnh tám ngàn quân từ phía sau từ từ tiến lên, thấy quân địch bắt đầu rối loạn, liền xông thẳng tới chỗ đài cao.

Bỗng nghe bên cạnh đài cao nổi lên tiếng tù và vang vọng, từ dưới đất có mấy vạn quân địch đội đất chui lên. Thì ra chủ soái Mông Cổ cũng giỏi dùng binh, ngoài bốn vạn nhân đội bố trí xung quanh cái đài cao, còn đào hầm mai phục mấy vạn quân nữa. Thành thử cục diện đang bại của quân Mông Cổ lập tức thay đổi, trận thế “Nhị thập bát tú” tung hoành, tuy có làm rối loạn quân địch, song không thể tiêu diệt chúng.

Trống trận vang rền, quân Tống hò hét xông vào ác chiến với quân địch. Đội cung nỏ từ chân đài cao bắn tên ra như mưa, Trung lộ quân do Quách Tĩnh chỉ huy mấy phen xông vào đều bị mưa tên hất trở ra. Đôi bên ác chiến đã nửa canh giờ vẫn chưa phân thắng bại. Hoàng Dược Sư phất lá cờ xanh, đột nhiên Đông lộ quân đánh về phía nam, Tây lộ quân đánh lên phía bắc, trận pháp biến động.

Trận thế “Nhị thập bát tú” ngầm chứa cái lý ngũ hành sinh khắc. Hồng kỳ quân Nam lộ của Nhất Đăng đại sư đánh vào chính giữa, Hoàng kỳ quân của Quách Tĩnh đánh sang phía tây, Bạch kỳ quân của Chu Bá Thông xông về phía bắc, Hắc kỳ quân của Hoàng Dung thì xông sang phía đông, còn Thanh kỳ quân của Hoàng Dược Sư chuyển xuống phía nam. Sự luân chuyển ngũ hành này là hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa.

Quân Tống tuy chỉ có bốn vạn người, nhưng trận pháp tinh diệu, chỉ huy đều là cao thủ võ lâm, quân binh người người đều biết ơn vợ chồng Quách Tĩnh, quyết ý liều mình cứu ái nữ của vợ chồng họ, cho nên tuy quân địch đông gấp đôi, cũng không ngăn được.

Ác chiến hồi lâu, Hoàng Dược Sư hú một tiếng dài, Thanh kỳ quân lui vào chính giữa, Hoàng kỳ quân đánh lên phía bắc, Hắc kỳ quân vu hồi xuống phía nam, Hồng kỳ quân tiến sang phía tây, Bạch kỳ quân tấn công phía đông. Lần biến đổi trận pháp này là nghịch chuyển ngũ hành, là mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc.

Sự biến hóa ngũ hành sinh khắc nói ra nghe huyền diệu, thật ra là do cổ nhân Trung Quốc tinh nghiên. Sự biến đổi vật tính mà ngộ được cái lý, hiểu cái đạo âm dương, cái thuyết phản hồn thần. Nền y học, lịch số của Trung Quốc đều dựa vào đây, cái gọi là “ngũ vận cánh thủy, trên ứng thiên kỳ, âm dương vãng phục, hàn thử nghênh tùy, chân tà tương bác, nội ngoại phân li, lục kinh ba đang, ngũ khí khuynh di” có thể nói là cử thế vô song đương thời. Quân Mông Cổ tinh nhuệ, võ công cao cường, nhưng văn trí nông cạn, làm sao địch nổi đệ nhất đại gia thời nay là Hoàng Dược Sư? Thấy trận thế biến hóa mấy lần, tướng lĩnh quân địch trấn giữ cái đài cao cứ chóng mặt hoa mắt, thấy quân Tống cánh này đến, cánh kia đi, đề phòng chỗ này thì bỏ chỗ kia, thật không biết đường nào mà lần.

Kim Luân pháp vương đứng trên đài cao, quan sát cuộc đại chiến bên dưới, cũng thầm kinh hãi. Năm nào Hoàng Dung chỉ dùng tiểu thạch trận, lão ta đã không hiểu gì, huống hồ Hoàng Dược Sư tinh thông Dịch học gấp mười lần con gái mình. Trận thế “Nhị thập bát tú” dưới sự chủ trì của năm vị đại cao thủ đương đại triển khai ra, Kim Luân pháp vương không thể không thán phục, thấy quân Mông Cổ tử thương mỗi lúc một nhiều, Hoàng kỳ quân áp sát dần tới cái đài cao. Kim Luân pháp vương tuy dùng Quách Tương để uy hiếp, song lão ta cũng không nỡ thiêu sống nàng, lão ta quay nhìn nàng, thấy nàng tuy bị trói hai tay, song vẫn ngẩng cao đầu không chút run sợ. Kim Luân pháp vương nói:

– Tiểu Quách Tương, mau gọi phụ thân ngươi đầu hàng đi, ta đếm từ một đến mười, phụ thân ngươi không hàng, ta sẽ hạ lệnh phóng hỏa.

Quách Tương nói:

– Lão thích đếm thì cứ việc đếm, đừng nói là đếm từ một đến mười, lão có đếm đến một ngàn, một vạn cũng mặc lão.

Pháp vương tức giận nói:

– Ngươi tưởng ta không dám thiêu sống ngươi chắc?

Quách Tương lạnh lùng nói:

– Bổn cô nương chỉ cảm thấy lão thật đáng thương mà thôi.

Pháp vương hỏi:

– Tại sao ta lại đáng thương?

Quách Tương nói:

– Lão đánh không nổi gia gia má má của bổn cô nương, đánh không nổi ngoại công Hoàng đảo chủ, đánh không nổi Nhất Đăng đại sư, đánh không nổi Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông, đánh không nổi đại ca ca Dương Quá của bổn cô nương, lão chỉ bắt trói được bổn cô nương ở đây mà thôi. Trong thành Tương Dương của bổn cô nương, dù một gã tiểu tốt cũng không hèn mạt vô sỉ như lão. Này Pháp vương, bổn cô nương muốn khuyên lão một câu.

Pháp vương nghiến răng hỏi:

– Ngươi muốn khuyên ta điều gì?

Quách Tương nói:

– Làm một kẻ như lão thì còn có ý vị gì trên đời nữa? Chi bằng đâm đầu xuống dưới đài mà chết cho rồi!

Quách Tương lúc này đã không còn quan tâm đến sự sống chết của mình, nàng từ bé miệng lưỡi đã đáo để, nói năng không chịu thua ai, mấy câu kia làm cho Pháp vương tức muốn vỡ ngực ra. Lão quát to:

– Quách Tĩnh nghe đây, ta đếm từ một đến mười, nếu ngươi không đầu hàng, ta sẽ hạ lệnh phóng hỏa đốt đài.

Quách Tĩnh nói:

– Lão nghĩ Quách mỗ là kẻ chịu đầu hàng hay sao?

Hoàng Dược Sư dùng tiếng Mông Cổ nói lớn:

– Kim Luân pháp vương, ngươi không hiểu rõ đối phương, là kẻ bất trí, khi vũ nhược nữ, là kẻ bất nhân, không dám quyết thắng bằng đao thương thật sự với bọn ta, là kẻ bất dũng. Một kẻ bất trí, bất nhân, bất dũng như thế có còn là anh hùng hảo hán nữa chăng? Ở Tuyệt Tình cốc ngươi bị ta bắt, ngươi phải cầu xin, lạy tiểu cô nương Quách Tương mười tám cái mới được Quách Tương tha cho ngươi. Ngươi lại vong ân bội nghĩa, tham sinh úy tử, còn mặt mũi nào chiếm địa vị đệ nhất quốc sư Mông Cổ kia chứ.

Thực ra hoàn toàn không có chuyện Pháp vương lạy Quách Tương mười tám cái, nhưng Hoàng Dược Sư thâm mưu viễn lự, trước khi phát binh đã nhờ Hoàng Dung dịch mấy câu chỉ trích Pháp vương sang tiếng Mông Cổ, lão học thuộc lòng, bây giờ dùng khí đan điền nói ra trước muôn vạn người, tuy họ đang mải ác chiến, song ai cũng nghe rõ, Pháp vương dù có lên tiếng cải chính hay không cũng vô ích. Người Mông Cổ xưa nay rất tôn kính dũng sĩ, họ hết sức khinh bỉ kẻ nhu nhược hèn hạ. Binh sĩ Mông Cổ nghe câu nói của Hoàng Dược Sư bất giác đều ngẩng nhìn lên đài cao, ánh mắt lộ vẻ khó chịu. Lưỡng quân giao chiến, khí thế bên nào hăng hái sẽ thắng, quân Mông Cổ nghe bảo chủ tướng của mình hèn hạ vô sỉ như vậy, khí thế giảm hẳn đi, trong khi quân Tống người người lăn xả vào quyết thắng.

Pháp vương thấy tình hình không ổn, bèn nói to:

– Quách Tĩnh nghe đây, ta đếm từ một đến mười, đến chữ “mười” thì ái nữ của nhà ngươi sẽ hóa thành than đó. Một… hai… ba… bốn…

Pháp vương đếm xong mỗi số đều dừng lại một lát, chỉ mong Quách Tĩnh cuối cùng không chịu đựng nổi, dù không đầu hàng thì cũng rối loạn tâm trí.

Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng, Hoàng Dung, Chu Bá Thông năm lộ binh mã nghe Pháp vương trên đài cao đếm số, nhìn mấy trăm tên lính cầm đuốc đứng dưới chân đài, chỉ đợi Pháp vương hạ lệnh sẽ châm lửa vào củi cỏ, thì ai cũng tức giận và lo lắng, gắng sức xung sát, tiến đến chỗ đài cao cứu Quách Tương. Nhưng quân Mông Cổ tiễn pháp tinh diệu, mấy trăm tinh binh phóng tên, dưới làn mưa tên, Tứ Thủy Ngư Ẩn, Lương trưởng lão, Võ Tu Văn đều đã trúng tên bị thương, bốn đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, hơn chục hảo thủ Cái Bang cũng đã trúng tên bỏ mạng, tướng sĩ quân Tống bị tử thương vô số.

Hoàng Dung lúc đầu từng sai Quách Phù đưa áo giáp lông nhím cho ngoại công mặc để đỡ phần hung hiểm, kẻo lỡ vì cứu nữ nhi mà phụ thân bị thương thì suốt đời Hoàng Dung ân hận. Hoàng Dược Sư nghĩ đó là cử chỉ hiếu lễ của nữ nhi, không tiện từ chối, nhưng sau đó lão lại cởi ra, lừa mặc vào người Chu Bá Thông, cho nên Chu Bá Thông lao qua lao lại giữa làn mưa tên mà không hề hấn gì. Lão thấy tên bắn vào thân mình đều rơi rụng lả tả, thì khoái trá xông thẳng tới phía trước, chưởng phong phát đến đâu, các xạ thủ Mông Cổ giạt ra tới đó.

Chỉ nghe Kim Luân pháp vương trên đài cao đêm to:

– Tám… chín… mười! Được lắm, phóng hỏa!

Tức thì các đống củi cỏ đặt dưới chân đài được châm lửa, khói bốc lên. Tám ngàn quân Hoàng kỳ đo Quách Tĩnh thống lĩnh tuy vác bao đất trên lưng, song không thể tới được cách chân đài hai trăm bước, đành chỉ đứng nhìn.

Hoàng Dung thấy khói lửa bốc lên, thì mặt tái nhợt đi, lảo đảo chực ngã. Gia Luật Tề đưa tay đỡ, nói:

– Nhạc mẫu, hãy lùi về phía sau nghỉ ngơi, con dù mất mạng, cũng phải cứu Tương muội ra.

Đúng lúc đó, bỗng nghe đằng xa có tiếng hò reo như sấm, mấy vạn quân thiết giáp Mông Cổ từ hai cánh tiến thẳng tới tấn công thành Tương Dương. Tiếng hô “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!” chấn động đất trời. Lá cờ lớn của đại hãn Mông Cổ Mông Kha giương cao, tiến nhanh đến chân thành, tinh binh hãn tướng đông như kiến, do đại hãn thân chinh chỉ huy ào ạt công thành.

Quách Tĩnh tay trái cầm khiên, tay phải cầm mâu, vốn đã đến cách cái đài cao không đầy trăm bước, các xạ thủ Mông Cổ bắn tên như mưa, thủy chung vẫn không đả thương nổi, thấy sắp có thể xông lên trên đài cao, bỗng nghe phía sau lưng có biến, không khỏi giật mình, nghĩ: “Nguy quá, trúng kế điệu hổ ly sơn của Thát tử mất rồi. An phủ sứ nhu nhược sợ địch, trong thành binh mã tuy đông, nhưng thiếu người thống lĩnh, chỉ sợ đại sự nguy to”.

Quách Tĩnh và Hoàng Dược Sư lúc phát binh, việc phòng bị trong thành đã được gia tăng, đề phòng quân địch thừa cơ tập kích, không ngờ quân địch quanh cái đài cao kháng cự dũng mãnh, còn đại hãn Mông Cổ thì bỏ mặc mấy vạn binh mã quanh đài cao đang lâm nguy, thân chinh mạo hiểm công thành. Quách Tĩnh nghĩ: “Việc cứu con là chuyện nhỏ, giữ thành là chuyện lớn!” Bèn gọi to:

– Nhạc phụ, chúng ta đừng lo cho Tương nhi nữa, phải cấp tốc quay lại đánh quân địch ở phía sau.

Hoàng Dược Sư ngoảnh đầu nhìn lại, thấy lửa bén dần lên cao, Pháp vương chính đang thong thả theo cái thang gỗ đi xuống, trên đài cao chỉ còn một mình Quách Tương, lão đảo chủ há không hiểu khinh trọng hoãn cấp, một mình Quách Tương làm sao có thể so với sự an nguy của cả thành Tương Dương? Lão đành thở dài, nói “Thôi!” rồi lệnh cho người cầm cờ xanh phất cờ điều binh quay về phía nam.

Quách Tương bị trói trên đài cao, thấy phụ mẫu, ngoại công đều không cách gì đến cứu nàng, khói dày lửa mạnh ùn ùn dưới chân đài cao, tự biết mình sắp bị thiêu sống. Ban đầu nàng rất hoảng sợ, nhưng lúc sự việc xảy ra, nàng lại trở nên bình thản, ngẩng đầu nhìn xa tít về phương bắc, thấy bình nguyên trải dài xanh tươi, giang sơn như tranh vẽ, nghĩ thầm: “Thế giới đẹp nhường kia, mình lại sắp phải chết. Không biết đại ca ca lúc này ở đâu, đã lên khỏi đáy sơn cốc hay chưa?”

Hồi tưởng mấy lần gặp gỡ với Dương Quá, tuy từ nay không còn được gặp lại chàng, nhưng chỉ ba lần giải cấu tương phùng ấy cũng đủ cho cả đời. Lúc này thân lâm cực hiểm, trong tâm tại vô cùng thanh thản, đối với cuộc ác chiến dưới chân đài cao, nàng không quan tâm nữa. Chính đang thả hồn tới thâm cốc, hồi tưởng hôm nào, bỗng nghe có tiếng hú từ xa vọng tới, tiếng hú ấy tựa hồ át hết tiếng hò hét xung sát của thiên binh vạn mã nơi này.

Quách Tương giật mình, tiếng hú kinh tâm động phách ấy chính là tiếng hú của Dương Quá hôm chàng trấn áp bầy dã thú, nàng bèn ngoảnh về phía tiếng hú vọng tới, thì thấy ở mạn tây bắc quân Mông Cổ đang liên tiếp dạt cả ra hai bên, có hai người đang xông thẳng qua một rừng đao kiếm, như con thuyền lướt trên sóng dữ. Đi trước hai người là một con chim khổng lồ, hai cánh không ngừng vẫy đập, tạo nên hai luồng cuồng phong, đánh rơi lả tả những mũi tên bắn tới. Con chim vô cùng lợi hại ấy chính là Thần điêu của Dương Quá.

Quách Tương cả mừng, chăm chú nhìn kỹ hai người kia, thấy người đi bên trái mũ xanh áo vàng, đúng là Dương Quá, người đi bên phải áo trắng bay bay là một mỹ mạo nữ nhân. Hai người tay cầm trường kiếm, múa thành một đạo bạch quang, theo sau Thần điêu, xông thẳng tới chỗ đài cao. Quách Tương gọi lạc cả giọng:

– Đại ca ca, người kia là Tiểu Long Nữ phải không?

Nữ nhân bên cạnh Dương Quá chính là Tiểu Long Nữ, họ đang ở xa, không thể nghe thấy tiếng gọi của Quách Tương. Thần điêu đi trước mở đường, hai cánh vỗ đập đẩy rơi đẩy chệch các mũi tên bắn tới, dù tên có trúng người cũng không còn đà bay nữa, nếu không, Thần điêu dù là linh cầm, cánh cứng như sắt, rốt cuộc cũng vẫn là huyết nhục, chịu sao nổi mũi tên nhọn?

Tướng sĩ Mông Cổ thấy Thần điêu tiến đến hung mãnh như thế, bèn nhảy lên ngựa dùng giáo dài mà đâm, đều bị Dương Quá và Tiểu Long Nữ đánh cho ngã ngựa. Hai người một chim điêu yểm hộ cho nhau, thoáng chốc đã xông tới trước đài cao.

Dương Quá gọi:

– Tiểu muội tử đừng lo, ta đến cứu muội đây!

Chàng thấy nửa dưới của cái đài cao đã chìm trong lửa, chàng tung người nhảy vọt lên cái thang gỗ, leo lên mấy trượng, bỗng cảm thấy một luồng chưởng phong áp xuống đỉnh đầu, chính là Kim Luân pháp vương phát chưởng tập kích. Dương Quá tung chưởng nghênh tiếp, bùng một tiếng, hai luồng kình lực đụng nhau, hai người cùng loạng choạng, cái thang gỗ rung chuyển mấy cái tựa hồ sắp gãy. Hai người cùng kinh ngạc, thầm thán phục đối thủ lợi hại: “Mười sáu năm không gặp, công lực của y tinh tiến ghê gớm như thế!”

Dương Quá thấy tình thế nguy cấp, không thể đấu chưởng lực trên cái thang gỗ, bèn dùng trường kiếm đâm nhanh lên bắp chân hoặc bàn chân của Pháp vương. Pháp vương ở bên trên, nếu dùng kim luân đối phó, thứ binh khí ấy ngắn, phải cúi gập người rất bất tiện, lão ta đành nhảy vọt lên đài cao. Dương Quá đâm theo sau lưng Pháp vương liên tiếp vài nhát, chiêu nào cũng như cuồng phong bạo vũ, song Pháp vương không hề ngoảnh đầu lại, chỉ nghe tiếng gió mà dùng luân gạt đỡ, như thể lão ta có con mắt thứ ba ở sau lưng. Dương Quá quát:

– Lão giặc trọc, khá khen!

Pháp vương vừa lên tới mặt đài cao, liền đánh trả một luân. Dương Quá nghiêng đầu tránh, thân theo kiếm nhảy vọt lên. Pháp vương dùng kim luân và cả ngân luân gạt mạnh thanh kiếm của chàng.

Ban nãy ở cái thang gỗ hai người đã đấu một chưởng, Dương Quá cảm thấy chưởng lực của Pháp vương quá trầm hùng, chàng chưa từng gặp đối thủ nào như thế, bất giác lấy làm lạ, nghĩ bụng mình từng luyện công trong hải triều, đủ sức chống chọi với sóng dữ, mười sáu năm trước Pháp vương đã không địch nổi chàng, tại sao hôm nay một chưởng vừa rồi của lão ta, chàng lại chút nữa không đỡ nổi? Thấy song luân của Pháp vương đánh tới, chàng không tránh, mà dùng trường kiếm chống trả, muốn thử xem chân lực của Pháp vương tới mức nào. Kiếm luân đập vào nhau, choang một cái, hai luồng kình lực lại tương kháng, kiếm của Dương Quá bị gãy làm mấy đoạn, song luân của Pháp vương cũng tuột khỏi tay, bay xuống dưới đài, làm chết ba xạ thủ Mông Cổ. Dương Quá thầm kinh hãi: “Mười sáu năm nay mình không dùng đến thanh Huyền thiết trọng kiếm, hôm nay đúng là quá xem thường đối phương”.

Sau chiêu này, hai người đều tự nhảy lùi, đều cảm thấy cánh tay hơi tê dại, Pháp vương thò tay vào bọc rút ngay ra đồng luân và thiết luân mà đánh tới.

Dương Quá không còn binh khí, chàng phất ống tay áo rỗng một cái, tay trái phát chưởng chống trả.

Quách Tương kêu lên:

– Lão ác tăng kia, bổn cô nương đã bảo lão đánh không nổi đại ca ca có phải không nào? Lão khoe võ công cao siêu, tại sao lại phải dùng hai món binh khí đấu với người tay không? Thật không biết giữ thể diện!

Pháp vương hừ một tiếng, không trả lời, chiêu số của song luân trong tay càng dồn dập thêm.

Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung đang tự dẫn quân về cứu thành Tương Dương, đột nhiên thấy Dương Quá, Tiểu Long Nữ và Thần điêu vượt qua hàng ngũ quân địch, xông tới chỗ cái đài cao, thì tinh thần vô cùng phấn chấn. Hoàng Dược Sư phất cờ lệnh, điều động từ năm lộ binh mã Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung mỗi lộ bốn ngàn người, hợp thành hai vạn binh mã, đánh vào sau lưng đội quân Mông Cổ đang công thành, hai vạn binh mã còn lại thì ở quanh đài cao thanh viện Dương Quá. Quân Tống nhân số bị giảm đi một nửa, nhưng thấy Dương Quá vọt lên đài cao, thì ai nấy gắng sức tử chiến, một có thể địch mười. Song bọn xạ thủ Mông Cổ vẫn bắn tên như mưa, không nhường một tấc. Quân Tống mấy phen tràn lên, đều bị đánh bật trở lại.

Dưới chân thành Tương Dương, cuộc công thành cũng diễn ra ác liệt. An phủ sứ Lã Văn Đức không dám ra mặt thành, y mặc áo giáp sắt, mang theo hai ái thiếp, chui vào bên trong tiểu lũy mà run rẩy, miệng cứ lẩm bẩm khấn:

– Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm bồ tát… xin hãy phù hộ… phù hộ cho cả gia đình chúng ta con già trẻ gái trai bình yên… Cứu khổ cứu nạn…

Hai ái thiếp thì kẻ xoa ngực, kẻ lau bọt mép cho y.

Quân thám báo chốc chốc chạy vào bẩm,

– Ở cửa Đông quân địch lại tăng viện thêm một vạn nhân đội…

– Ở cửa Bắc quân địch đã dựng thang leo lên…

Lã Văn Đức chỉ trợn mắt hỏi:

– Quách đại hiệp đã về thành chưa? Bọn Thát tử vẫn chưa lui binh hay sao?

Lúc này Dương Quá tay không đã đấu với đồng luân và thiết luân của Pháp vương hơn hai trăm chiêu. Hai người võ công gia số khác hẳn nhau, nhưng đều càng đấu càng hăng, luân ảnh chưởng phong bao trùm cả mặt đài cao, khói đen từ dưới bốc lên làm cho ba người cay cả mắt. Dương Quá tuy không có binh khí, nhưng không hề bị núng thế.

Pháp vương đang ác đấu, cảm thấy cái đài cao hơi lung lay, thầm nghĩ chân đài cao bị cháy, cái đài cao sắp đổ sập, khi đó lão ta sẽ cùng bỏ mạng với Dương Quá và Quách Tương. Lại thấy chưởng pháp của Dương Quá càng lúc càng biến ảo, đấu thêm trăm hiệp nữa, lão ta ắt bị chàng chế ngự, trong cơn nguy cấp, liền nảy độc kế, lão đánh mạnh thiết luân tới vai phải của Dương Quá, thừa lúc chàng trầm vai tránh né, đồng luân trong tay phải đột nhiên văng mạnh tới trước mặt Quách Tương. Nàng bị trói vào cây cột, toàn thân không thể cử động, làm sao tránh nổi?

Dương Quá cả kinh, vội nhảy lên cao, vung ống tay áo phải đánh rơi đồng luân. Nhưng hai đại cao thủ giao đấu, quả thực không thể sai sót dù nhỏ, Dương Quá chỉ cốt cứu Quách Tương, nên môn hộ toàn thân lộ liễu, Pháp vương nhoài người giơ tay, cái cạnh sắc của thiết luân chém vào bắp chân trái của Dương Quá. Dương Quá đang lơ lửng trên không, vội dùng chân phải đạp vào cổ tay đối phương. Thiết luân của Pháp vương lật chếch đi, lần này thì Dương Quá không thể né tránh, phập một cái bắp chân phải của chàng trúng luân, máu chảy xối xả, chàng bị thương không nhẹ. Quách Tương thảng thốt kêu “Ối!” Pháp vương đã rút diên luân, vẫn song luân trong tay, tiếp tục tấn công Quách Tương. Lão ta biết Dương Quá tuy bị thương, nhưng lão ta chưa thể ngay lập tức chế ngự được chàng, chỉ có cách tập kích Quách Tương, buộc chàng phải dốc sức cấp cứu, luống cuống chân tay, mới xoay chuyển được cục diện.

Quách Tương kêu lên:

– Dương đại ca, đừng chú ý đến tiểu muội, đại ca ca hãy giết lão ác tăng ấy trả thù cho tiểu muội.

Chỉ nghe Dương Quá rên một tiếng, vai trái của chàng đã trúng luân.

Tiểu Long Nữ và Thần điêu đứng dưới chân đài cao, cùng Chu Bá Thông hợp lực đánh đuổi bọn xạ thủ Mông Cổ, không để chúng có thể nhắm Quách Tương mà bắn tên. Nhưng toàn bộ tâm trí của Tiểu Long Nữ đều dồn cho Dương Quá, trong lúc vung kiếm giết địch, chốc chốc nàng lại nhìn lên đài cao, đột nhiên thấy Dương Quá máu me đầm đìa thì giật mình, suýt ngất đi. Lúc này cái thang gỗ đã cháy, gãy rời, không cách gì leo lên trên kia trợ chiến. Đầu óc nàng mơ hồ, tay vung kiếm giết địch mà không biết mình đang ở đâu và đang làm gì.

Dương Quá lâm vào hiểm cảnh cực độ, mấy lần định sử dụng “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” để đánh bại cường địch, nhưng theo lộ chưởng pháp này, thân phải hợp với tâm, sau khi chàng đoàn tụ với Tiểu Long Nữ, lòng quá sung sướng, làm gì còn chỗ cho tâm trạng “Ám nhiên tiêu hồn”? Tuy gặp nguy cấp, nhưng không có nỗi khổ tương tư ngày trước, nên chiêu thức sử dụng kém hẳn uy lực.

Tình cảnh Dương Quá trên đài cao tay không chống chọi, vai và chân bị thương chảy máu, nhóm Quách Tĩnh ở bên dưới nhìn thấy cả, nhưng khoảng cách quá cao xa, không tài gì bay lên cứu trợ. Hoàng Dung chợt nghĩ ra một cách, chạy tới cầm lấy thanh kiếm trong tay Gia Luật Tề, tung cho Quách Tĩnh, nói:

– Hãy bắn lên cho Quá nhi!

Quách Tĩnh nhận thanh kiếm, lấy hai cái cung cứng chập vào nhau, đặt cán kiếm vào dây cung, tay trái giữ chắc hai thân cung, tay phải kéo căng hai dây cung, rồi buông tay, thanh kiếm bay vút lên, bạch quang loang loáng.

Thanh kiếm bay vo vo tới phía sau Dương Quá, chàng phất ống tay áo rỗng cuốn lấy nó, rồi tay trái chộp được thân kiếm. Vừa lúc ấy cái diên luân của Pháp vương đánh tới. Dương Quá đâm một kiếm vào giữa song luân. Nhưng vai trái của chàng đã bị thương, kình lực giảm hẳn. Song luân của Pháp vương dập lại cạch một cái, lại đánh gãy trường kiếm. Mọi người ở dưới đài cao nhìn rõ mồn một, thảy đều thất sắc.

Dương Quá thầm biết hôm nay thế là hết, chẳng những không cứu được Quách Tương, mà chính mình cũng bỏ mạng trên đài cao này, chàng buồn rầu nhìn Tiểu Long Nữ ở bên dưới một cái, gọi:

– Long nhi, vĩnh biệt, vĩnh biệt, nàng hãy bảo trọng!

Đúng lúc ấy thiết luân của Pháp vương đánh tới đầu chàng. Dương Quá trong lòng không còn thiết gì nữa, tuyệt vọng phất ống tay áo, đánh ra một chưởng, chỉ nghe “hự” một tiếng, chưởng đó đã trúng vai Pháp vương. Bỗng nghe Chu Bá Thông ở bên dưới reo to:

– Chiêu “Đà nê đới thủy” tuyệt quá!

Dương Quá sững sờ, chợt tỉnh ngộ, thì ra chàng biết mình sắp chết, thất hồn lạc phách, đánh đại một chiêu, không ngờ lại là chiêu “Đà nê đới thủy” trong “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”. Theo bộ chưởng pháp này, tâm điều khiển cánh tay, cánh tay điều khiển bàn tay, tâm ý hoàn toàn làm chủ. Ngày nọ tại Vạn Hoa cốc, Chu Bá Thông tuy tinh thông võ học, song không có tâm trạng như Dương Quá nên chưa hiểu được cái kỳ diệu của “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”. Nay Dương Quá và Tiểu Long Nữ trùng phùng, lộ chưởng pháp này mất đi thần hiệu, mãi đến thời khắc sinh tử hệ trọng này, lòng chàng nghĩ tới cảnh phải vĩnh biệt Tiểu Long Nữ, vô cùng đau đớn tuyệt vọng, thì “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” mới tự nhiên lại phát sinh đại uy lực.

Pháp vương vốn đang nắm chắc phần thắng, đột nhiên vai bị trúng chưởng, thân hình lảo đảo, vừa kinh hãi vừa tức giận, liền nhào cả người tới. Dương Quá lùi bước né tránh, sử liên tiếp ba chiêu “Hồn bất thủ xả”, “Đảo hành nghịch thi”, “Nhược hữu sở thất”. Tiếp đó đá một cước, sử chiêu “Hành thi tẩu nhục”. Cước này tung ra nửa hư nửa thực, Pháp vương không biết đường nào mà tránh. Hự một cái, trúng ngay giữa ngực lão ta. Pháp vương rú lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi ngã lộn khỏi cái đài cao rơi xuống đất.

Quân Tống và quân Mông Cổ không hẹn cùng kêu to, quân Tống là tiếng reo hò, còn quân Mông Cổ là tiếng kinh sợ.

Lúc này cái đài cao chao đảo, nhiều tiếng răng rắc, Dương Quá biết tình thế gấp rút, không kịp cởi dây trói cho Quách Tương, chàng vung chưởng đánh gãy cái cột, ôm nàng cùng khúc cột gãy, nhắm chuẩn lưng Thần điêu mà nhảy xuống. Thần điêu liền dang rộng hai cánh, nhảy lên cao hơn một trượng, nó thân thể quá to nặng, không bay được, nhưng cái nhảy này khá cao, Dương Quá ôm Quách Tương đáp xuống lưng Thần điêu, sau đó từ từ tiếp đất. Đúng lúc đó, khói lửa bốc cao trong tiếng nổ lốp bốp, cái đài đổ ụp xuống.

Pháp vương bị Dương Quá đạp văng khỏi cái đài cao, tuy bị trọng thương, song vẫn muốn thoát chết, lão rơi xuống đất rồi vội lăn một vòng định bật dậy, bỗng nghe có tiếng cười hô hô sau lưng, rồi một người ôm lấy lão ta mà đè nghiến xuống đất, tiếp đó lão cảm thấy có hàng ngàn mũi gai nhọn đâm ngập vào da thịt lão. Thì ra người đè Pháp vương chính là Chu Bá Thông. Chu Bá Thông mặc chiếc áo giáp lông nhím của đảo Đào Hoa, cái áo quí này đao kiếm đâm không thủng, song lại đầy gai nhọn tua tủa, Pháp vương đã bị thương nặng, còn bị Lão Ngoan đồng ôm chặt và đè nghiến xuống, làm sao còn cựa quậy? Khi cái đài cao đổ sập, Lão Ngoan đồng nhảy ra xa, Pháp vương nằm lại bị vùi trong biển lửa.

Hoàng Dung thấy ái nữ cuối cùng thoát chết thì sung sướng chảy nước mắt, lòng cảm kích đối với Dương Quá thật không bút nào tả xiết, nếu cần chết vì Dương Quá cũng cam lòng, vội chạy tới bên nữ nhi, cắt dây trói cho nàng. Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư, Gia Luật Tề cũng vô cùng phấn chấn tinh thần.

Quân Mông Cổ bên cái đài cao thấy chủ tướng bỏ mạng, lập tức rối loạn, lại bị năm lộ quân Tống đánh ập trở lại, thì nhanh chóng tan rã. Quách Tĩnh giơ tay hô to:

– Về cứu thành Tương Dương, đi giết đại hãn Thát tử!

Quân Tống reo hò hưởng ứng, hăm hở tiến về phía quân Mông Cổ đang công thành.

Tiểu Long Nữ xé vạt áo băng vết thương cho Dương Quá, hai tay run run, không nói nên lời. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Nàng ở dưới đài cao lo sợ cho ta, còn khổ hơn ta ác chiến trên đó.

Chỉ nghe tiếng quân Tống hò reo dậy đất, cờ chia ra ngũ sắc, đang xung phong về phía quân Mông Cổ. Dương Quá chăm chú nhìn ra xa, thấy quân địch đội ngũ chỉnh tề, quân số đông gấp mấy lần quân Tống, quân Tống mấy phen tràn lên như nước thủy triều, nhưng chẳng làm gì nổi quân địch.

Dương Quá nói:

– Tên đại tặc đã chết, song quân địch chưa bại, chúng ta hãy tái chiến. Long nhi có mệt không?

Ba câu đầu hiên ngang khảng khái, câu thứ tư chuyển thành giọng dịu dàng, Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Chàng bảo đánh thì đánh!

Bỗng có một giọng nói trẻ trung vang lên ngay bên cạnh:

– Dương đại tẩu, đại tẩu đẹp quá!

Người vừa nói là Quách Tương. Tiểu Long Nữ quay đầu mỉm cười, nói:

– Tiểu muội tử, đa tạ tiểu muội cầu chúc cho vợ chồng ta đoàn tụ. Đại ca ca của tiểu muội cứ khen tiểu muội hết lời, nhất định đòi dẫn ta đến thành Tương Dương gặp tiểu muội.

Quách Tương thở dài, nói:

– Đúng là chỉ có đại tẩu mới xứng với đại ca ca thôi.

Tiểu Long Nữ nắm tay Quách Tương hết sức thân mật. Tiểu Long Nữ đối với ai vốn cũng đều lạnh nhạt, hờ hững, nhưng nghe Dương Quá khen ngợi Quách Tương, bảo Quách Tương đã cầu trời phù hộ cho vợ chồng mình đoàn tụ, lại bất chấp tính mệnh nhảy theo xuống vực để khuyên chàng đừng tự tận, nên đối với Quách Tương khác hẳn.

Dương Quá kéo mấy con ngựa chiến vô chủ đang chạy lung tung lại, nói:

– Ta sẽ mở đường, mọi người hãy cùng xông lên!

Chàng nhảy lên yên, phóng đi trước. Tiểu Long Nữ và Quách Tương mỗi người cưỡi một con ngựa theo sau. Ba người phi về hướng nam, thấy có mấy trăm cái thang áp vào tường thành Tương Dương, quân Mông Cổ đông như kiến đang leo thang lên.

Ba người lên một cái gò cao nhìn tứ phía, bỗng thấy ở mé tây có hơn một ngàn quân Mông Cổ đang vây đội quân chừng ba trăm người do Gia Luật Tề suất lĩnh. Quân địch toàn dùng loan đao kéo bộ thuộc của Gia Luật Tề ngã ngựa. Quách Phù dẫn một tốp binh mã xông đến cứu, nhưng bị hai thiên nhân đội Mông Cổ ngăn chặn, hai vợ chồng nhìn thấy nhau từ xa, mà không thể xáp lại gần. Quách Phù thấy sĩ tốt bên cạnh chồng ít dần thì lo lắng, thầm biết trong chiến trận, nếu một mình bị vây hãm giữa thiên binh vạn mã, thì võ công cao mấy cũng sẽ tử trận.

Dương Quá gọi to:

– Quách đại cô nương, cô nương lạy ta ba cái, ta sẽ đi cứu phu quân của cô nương.

Với cái tính kiêu ngạo cố hữu của mình, đừng nói lạy ba cái, dù phải chết, Quách Phù cũng chẳng chịu thua Dương Quá, nhưng lúc này thấy chồng nguy ngập quá, Quách Phù liền phi ngựa lên gò, nhảy xuống đất mà quì lạy.

Dương Quá kinh ngạc, vội đỡ dậy, hối hận là mình nói năng khinh bạc, nói:

– Là ta sai, ta nói năng nhảm nhí, muội đừng cho là thật. Gia Luật huynh với ta vốn là bằng hữu, lẽ nào thấy nguy không cứu?

Chàng chạy xuống khỏi gò, thấy con ngựa chiến nào chạy qua đều bắt lấy, tổng cộng tám con, cho bốn con trước, bốn con sau, xếp thành hai hàng, đoạn chàng nhảy phốc lên lưng ngựa, một tay cầm tám dây cương, quát to, cho bầy ngựa xông thẳng vào trận.

Trong chiến trận thời Tống, vốn có kiểu giáp mã liên hoàn, bấy giờ Song Tiên Hô Diên Chước đánh lên Lương Sơn Bạc, từng dùng trận pháp giáp mã liên hoàn mà thủ thắng. Dương Quá đem tám con ngựa xếp thành hai hàng, giống như một giáp mã liên hoàn trận nhỏ. Có điều tám con ngựa ghép đại vào nhau, chưa qua huấn luyện, lúc tiến lên con chạy đông con chạy tây, không ăn ý, Dương Quá phải dùng thần lực ghì cương mới điều khiển được chúng, tám con ngựa xông tới, vó tung đất bụi. Dương Quá thi triển khinh công, cứ nhảy từ lưng con ngựa này sang lưng con ngựa khác. Quân địch chưa từng thấy thuật cưỡi ngựa kỳ dị thế này, còn đang kinh ngạc, thì bầy ngựa đã xông tới. Dương Quá cướp một lá cờ to, cắm trên yên ngựa.

Tướng sĩ Mông Cổ hò hét ngăn chặn, Dương Quá cầm lá cờ quét ngang, làm cho ba quan binh ngã ngựa, thấy chỉ còn cách Gia Luật Tề chưa đầy hai trượng, bèn gọi:

– Gia Luật huynh, mau nhảy lại đây!

Gia Luật Tề nhún người nhảy tới, Dương Quá vung lá cờ cuốn ngay lấy thân mình Gia Luật Tề. Hai người tám ngựa, thoát ra khỏi vòng vây của quân địch.

Gia Luật Tề thở phào nhẹ nhõm, nói:

– Dương huynh đệ, đa tạ ơn cứu mạng, nhưng thuộc hạ của đệ còn ở trong vòng vây, đệ không thể một mình sống sót, đệ phải chết cùng với họ.

Dương Quá chợt nảy một kế, nói:

– Huynh hãy cướp một lá cờ lớn lại đây!

Rồi chàng đánh lửa, châm vào lá cờ. Gia Luật Tề nói:

– Diệu kế!

Chàng phi ngựa lên cướp một lá cờ to, châm lửa. Hai chàng quát to, vung lá cờ cháy, lại xông vào trận địch.

Hai lá cờ quạt lửa từng chập, thanh thế kinh hồn, quân Mông Cổ đứa cháy tóc, kẻ sém mày, hung hãn mấy cũng đành phải lùi ra. Thuộc hạ của Gia Luật Tề còn bảy, tám chục người nhờ đó chạy thoát ra khỏi vòng vây. Gia Luật Tề thu thập tàn binh, ngồi nghỉ trên một cái gò.

Quách Phù đến trước mặt Dương Quá, vái thật dài, nói:

– Dương đại ca, cả một đời muội đối xử không tốt với đại ca, nhưng đại ca đại nhân đại nghĩa, lấy đức báo oán, đã cứu sống…

Nói đến đây, giọng nàng nghẹn ngào. Kỳ thực trước đây Dương Quá từng mấy đận cứu mạng nàng, song Quách Phù vẫn cứ căm tức chàng, thừa biết chàng có ơn lớn đối với nàng, song nàng không sao rũ bỏ được sự căm hận, thường nghĩ chàng cậy võ công cao hơn, cố ý ban ơn, chứ vị tất có hảo ý gì với nàng. Đến khi Dương Quá cứu chồng nàng, Quách Phù mới thật sự cảm kích, nhận ra sai lầm của mình ngày trước.

Dương Quá vội đáp lễ, nói:

– Phù muội, hai ta sống một nhà từ nhỏ, tuy thường gây sự, thực ra tình như huynh muội. Chỉ cần từ nay muội không căm hận huynh, thì huynh đã thỏa mãn lắm rồi.

Quách Phù ngẩn người, bao nhiêu chuyện cũ dồn dập tái hiện trong óc: “Không lẽ mình căm hận chàng thật ư? Huynh đệ họ Võ một mực liều chết lấy lòng mình, còn chàng thì chẳng thèm ngó ngàng đến mình. Chỉ cần chàng để mắt đến mình một chút thôi, dù có phải chết vì chàng, mình cũng cam lòng. Tại sao mình lại cứ căm hận chàng một cách vô cớ? Chỉ là vì mình cứ thầm yêu trộm nhớ chàng, mà chàng thì chẳng thèm để mắt đến mình chăng?”

Hai mươi năm nay nàng không hiểu rõ tâm sự của mình, mỗi khi nghĩ đến Dương Quá, lại coi chàng là kẻ đối đầu, trong khi thật ra từ đáy lòng nàng luôn nghĩ đến chàng với một tình cảm khó nói, tiếc rằng Dương Quá không hiểu rõ tâm sự của nàng đã đành, chính nàng cũng không hiểu rõ tâm sự của mình.

Lúc này khi đã rũ bỏ ý nghĩ căm hận, nàng mới đột nhiên hiểu, thì ra tình cảm của nàng đối với chàng lại sâu xa như vậy. “Lúc chàng xông vào trận giặc cứu Tề ca, mình rốt cuộc lo cho ai nhiều hơn nhỉ? Chính mình cũng không biết nữa”. Giữa chiến trường thiên quân vạn mã, Quách Phù đột nhiên hiểu rõ tâm sự của mình: “Hôm sinh nhật Quách Tương chàng tặng nó ba món quà lớn, vì sao mình lại căm hận tận xương? Khi chàng vạch trần âm mưu của Hoắc Đô, giúp Tề ca đắc nhiệm bang chủ Cái Bang, vì sao mình lại thầm tức giận? Quách Phù ơi là Quách Phù, thì ra mi đi ghen với muội tử của mi. Chàng dịu dàng âu yếm với Tương muội, song chẳng dành cho mi một phần nhỏ chút tình”.

Nghĩ đến đây, bất giác nàng lại bực tức nhìn Dương Quá và Quách Tương một cái, nhưng lại nghĩ: “Mi còn đứng đây làm gì? Mi là một phụ nữ có chồng, Tề ca đối với mi yêu thương như thế còn gì nữa”. Nàng thở dài lúc nào không biết. Tuy cuộc đời nàng không thiếu thứ gì, nhưng trong đáy lòng đúng là có một điều ân hận khó nói. Từ nhỏ nàng vốn muốn gì được nấy, nhưng ước muốn mãnh liệt nhất, thì không tài gì đạt được. Do đó trong đời nàng, thường thường nàng không hiểu rõ chính mình: “Tại sao mi nóng nảy khó chịu? Vì sao trong khi mọi người đều vui vẻ, thì mi lại bực tức vô cớ?”

Quách Phù mặt cứ lúc đỏ lúc tái, nghĩ về tâm sự kỳ dị của mình. Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Gia Luật Tề, Quách Tương… đều chăm chú nhìn về phía cuộc ác chiến ở tường thành Tương Dương. Quân Mông Cổ leo lên mặt thành đông như kiến, binh mã do Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư thống lĩnh tuy tấn công địch từ phía sau, nhưng quân số quá ít ỏi, không thể làm dao động đội ngũ công thành của đại quân địch. Lá cờ cửu tộc lớn của đại hãn Mông Cổ đã áp sát thành, lòng quân trong thành dường như đã loạn, không còn sức chống trả quân địch đang leo thang lên mặt thành.

Quách Tương kêu lên:

– Đại ca ca, làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ?

Dương Quá nghĩ: “Kiếp này được gặp lại Tiểu Long Nữ, ông trời đãi ta quá hậu rồi, hôm nay dẫu có chết cũng không ân hận. Nam tử hán đại trượng phu vì nước tử trận chốn sa trường, chính là cái chết hay nhất”. Nghĩ đến đây, tinh thần phấn chấn, nói:

– Gia Luật huynh, chúng ta hãy xông lên xung sát một trận!

Gia Luật Tề nói:

– Thế mới hay đó!

Tiểu Long Nữ và Quách Tương cùng nói:

– Mọi người nhất tề xông lên!

Dương Quá nói:

– Hay lắm! Ta đi tiên phong, các vị hãy mang thật nhiều trường mâu theo sau ta!

Gia Luật Tề bèn truyền lệnh cho thuộc hạ thu nhặt trường mâu trên chiến trường, mỗi người ôm theo dăm ba chiếc.

Dương Quá cầm một ngọn trường mâu, cưỡi ngựa xông lên trước. Thần điêu hùng dũng sải bước bên cạnh ngựa, vẫy cánh gạt cung tên bắn tới. Tiểu Long Nữ, Gia Luật Tề, Quách Phù, Quách Tương bốn người bám sát theo sau. Dương Quá nhắm chỗ có lá cờ cửu tộc lớn của đại hãn mà phi tới. Gia Luật Tề kinh ngạc, nghĩ đại hãn Mông Cổ thân chinh ra trận, quanh đại hãn phòng vệ cực nghiêm, toàn là tinh binh mãnh tướng, mình chỉ có hơn trăm người xông tới, chẳng hóa tự nộp mạng hay sao? Nhưng nghĩ mạng sống của mình là do Dương Quá ứng cứu, Dương Quá bảo xông vào lửa, mình cũng theo vào, hà tất nhiều lời?

Tốp người tiến rất nhanh, thoáng chốc đã vượt mấy dặm, đến chân thành Tương Dương. Thân binh của đại hãn Mông Kha thấy Dương Quá hung hăng xông tới, đã có ngay hai bách nhân đội tới ngăn chặn. Dương Quá vung tay trái, một ngọn trường mâu bay đi xuyên qua áo giáp gã bách phu trưởng ra sau lưng. Chàng thuận tay nhận tiếp ngọn trường mâu từ tay Gia Luật Tề, ném xuyên qua ngực gã bách phu trưởng thứ hai. Bọn thân binh cả kinh, rối loạn, Dương Quá đã vọt qua trận, bọn thân binh ùn ùn nhào tới, dùng đao, kích ngăn chặn. Dương Quá cứ phóng trường mâu, mỗi ngọn mâu hạ một tên. Cánh tay của chàng đã tôi luyện trong suối lũ, hải triều, trường mâu phóng đi dù là nham thạch cũng xuyên qua, huống hồ thân xác kẻ địch? Chàng cứ nhắm bọn tướng quân mà phóng trường mâu, thoáng chốc đã phóng đi mười bảy ngọn trường mâu, giết chết mười bảy mãnh tướng Mông Cổ.

Cuộc đột kích này thật như sấm sét ngang tai, đại quân Mông Cổ đông tới hơn chục vạn dưới chân thành song Dương Quá phi ngựa cứ xông thẳng qua một mạch đến trước ngựa đại hãn.

Thân binh của đại hãn Mông Kha liều chết ngăn chặn. Các giáp sĩ dàn kín phía trước đại hãn. Dương Quá giơ tay về phía sau nhận trường mâu thì không thấy gì, hóa ra nhóm Gia Luật Tề đi sau đã bị bọn thân binh chặn lại. Dương Quá thấy sắc diện đại hãn có vẻ kinh hoàng, đang kéo cương ngựa bỏ chạy, Dương Quá bèn hú một tiếng dài, hai chân đứng trên yên ngựa, rồi chàng nhún mình nhảy vọt lên phía trước. Hơn mười thân binh vội chĩa giáo mà đâm. Dương Quá đang lơ lửng trên không, lộn người một vòng, vọt qua cả chục mũi giáo.

Đại hãn thấy tình thế xấu, liền kéo cương phi ngựa bỏ chạy. Con ngựa đại hãn cưỡi là giống ngựa quí được chọn ra từ hàng vạn con ngựa ở Mông Cổ, lưng rồng cổ chim, xương thịt dẻo dai rắn chắc, hí to như sấm, phi nhanh như gió, gọi là giống ngựa “Phi vân truy”, không thua gì con ngựa quí “hãn huyết” của Quách Tĩnh ngày trước. Lúc này con “Phi vân truy” cõng đại hãn trên lưng, tung vó phóng ra giữa đồng trống. Dương Quá thi triển khinh công đuổi theo sau. Mấy trăm kỵ binh Mông Cổ phi ngựa đuổi theo phía sau Dương Quá.

Dương Quá thấy đại hãn cưỡi ngựa bỏ chạy một mình thì mừng thầm, nghĩ ngựa phóng nhanh mấy, chàng cũng sẽ đuổi kịp, nào ngờ con “Phi vân truy” quả không phải tầm thường, hai vó sau chỉ chạm đất một cái đã vọt đi vài trượng. Dương Quá đề khí đuổi gấp, song càng lúc càng cách xa đại hãn. Chàng cúi nhặt một ngọn trường mâu dưới đất, phóng mạnh tới lưng Mông Kha.

Quân sĩ đôi bên nhìn ngọn trường mâu bay vút như lưu tinh, ai nấy trố mắt há miệng, nín thở. Chỉ thấy con “Phi vân truy” dướn thân một cái, mũi trường mâu còn cách lưng đại hãn chừng một thước thì hết đà rơi xuống. Quân Tống kêu to:

– Tiếc quá!

Quân Mông Cổ hô to:

– Vạn tuế!

Lúc này Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Nhất Đăng… đều ở xa, chỉ đứng nhìn chứ không thể giúp gì cho Dương Quá. Quân Mông Cổ cả vạn người cũng chỉ biết đứng hô hoán trợ uy, dù kẻ tận tâm trung thành mấy cũng không thể đuổi kịp con “Phi vân truy”.

Mông Kha ngoảnh đầu lại, thấy đã bỏ khá xa Dương Quá, thì đỡ lo, cho ngựa phi về phía tây, nơi có một vạn nhân đội. Quân sĩ vạn nhân đội kia đồng thanh tung hô, ào lại nghênh đón. Chỉ cần đại hãn phóng ngựa tới đó, Dương Quá bản lĩnh cao mấy, cũng chẳng làm gì được nữa.

Dương Quá thấy đại sự sắp thành lại hỏng, tiếc đứt ruột nhưng chợt nghĩ: “Trường mâu quá nặng, khó phóng đến nơi, sao không dùng cục đá?” Bèn nhặt hai cục đá, vận kình ném đi. Chỉ nghe “chíu chíu”, hai cục đá cùng trúng mông con “Phi vân truy”. Con ngựa đau quá, hí một tiếng dài, dựng đứng hai vó trước lên.

Mông Kha tuy tiếng là đại hãn của một đại đế quốc lớn nhất trong lịch sử, nhưng từ nhỏ đã học cưỡi ngựa bắn cung, từng theo tổ phụ Thành Cát Tư Hãn, phụ thân Đà Lôi mấy phen xuất chinh, sang cả châu Âu, từng lập nhiều chiến công, một đời ngồi trên lưng ngựa, dạn dày chiến trận, lúc này gặp biến cố phi thường, vẫn không hề hoảng loạn, còn lắp tên, giương cung, hai chân kẹp chặt bụng ngựa, xoay người phóng một mũi tên về phía Dương Quá.

Dương Quá cúi đầu tránh được, nhảy vọt tới, tay trái đã thủ sẵn một cục đá to bằng nắm tay, vù một cái, chàng ném cục đá trúng lưng Mông Kha. Lực ném của chàng cực mạnh, Mông Kha gãy sống lưng, ngã ngựa, chết ngay tức khắc. Tướng sĩ Mông Cổ thấy đại hãn ngã ngựa, thảy đều kinh hoàng, từ bốn phía ùa tới. Quách Tĩnh lớn tiếng hạ lệnh, thừa thế xung sát. Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Hoàng Dung… phát động trận thế “Nhị thập bát tú” xung kích qua lại. Lòng quân Mông Cổ đã loạn, chúng tự tàn sát lẫn nhau, tử thương không biết bao nhiêu mà kể, cờ rách giáo gãy, hàng ngũ đại loạn, kéo nhau chạy về hướng bắc.

Quách Tĩnh đang truy kích, bỗng thấy có một cánh quân địch ở phía tây triển khai, hàng ngũ chỉnh tề, giương cao cờ hiệu của Tứ vương tử Hốt Tất Liệt. Quân Mông Cổ bại trận như núi lở, nhất thời chưa thể thu thập. Hốt Tất Liệt trị quân tuy nghiêm, nhưng bị bại binh tràn qua như nước thủy triều, thuộc hạ cũng lập tức rối loạn. Hốt Tất Liệt thấy tình thế xấu, bèn suất lĩnh một đội thân binh đoạn hậu, từ từ rút về phía bắc. Quách Tĩnh đuổi theo hơn ba chục dặm, thấy quân Mông Cổ vẫn không ngừng thoái lui, trong khi Lã Văn Đức liên tiếp truyền lệnh triệu Quách Tĩnh kéo quân về giữ thành, quân Tống mới chịu quay về.

Kể từ khi quân Mông Cổ và quân Tống giao tranh đến nay, chưa bao giờ quân Mông Cổ đại bại như lần này, vị chúa của một nước lại chết ngay dưới chân thành, khiến lòng quân càng loạn. Chức vị đại hãn Mông Cổ hoàn toàn không phải cha truyền con nối, mà do hội nghị vương công hoàng tộc, trọng thần đại tướng lập nên. Mông Kha chết đi, em trai y là Thất vương tử A Lý Bất Kha ở miền bắc Mông Cổ được các vương công đưa lên ngôi đại hãn. Hốt Tất Liệt được tin lập tức dẫn quân về nước, tranh ngôi với A Lý Bất Kha. Huynh đệ mỗi người thống lĩnh tinh binh đánh nhau. Cuối cùng Hốt Tất Liệt đắc thắng, nhưng nguyên khí của quân Mông Cổ đã bị đại tổn thương, không còn lực đánh xuống phương nam, thành Tương Dương được hưởng thái bình. Mãi mười ba năm sau, vào năm Tống Độ Tông Hàm Thuần thứ chín, quân Mông Cổ mới lại kéo xuống đánh thành Tương Dương.

Khi Quách Tĩnh kéo quân về gần đến thành Tương Dương, An phủ sứ Lã Văn Đức đã suất lĩnh thân binh tướng hiệu, xếp hàng nghênh đón long trọng từ bên ngoài thành. Trăm họ cũng nô nức đổ ra ngoài thành, bày rượu, trái cây đón mừng úy lạo.

Quách Tĩnh nắm tay Dương Quá, nhận ly mỹ tửu trăm họ dâng lên, kính cẩn trao cho Dương Quá, nói:

– Quá nhi, hôm nay Quá nhi lập đại công, dương danh thiên hạ, quân dân toàn thành trọng cảm ân đức của Quá nhi.

Dương Quá xúc động, có một câu giấu trong lòng hơn hai chục năm chưa nói ra, bây không nhịn được nữa, sang sảng đáp:

– Quách bá bá, tiểu điệt từ nhỏ nếu không nhờ có Quách bá bá nuôi dưỡng dạy dỗ, thì làm sao có được ngày hôm nay?

Hai người bao lâu nay vạn sự tâm chiếu, không quen nói lời ghi ân cảm đức, lúc này đối ẩm ba ly, hai vị đại hiệp mới thổ lộ tâm sự, đều cảm thấy đời người được đến thế này thì còn mong gì hơn?

Hai người cầm tay nhau đi vào thành, nghe quân dân đứng hai bên đường hoan hô như sấm dậy. Dương Quá chợt nghĩ: “Hơn hai chục năm trước, Quách bá bá cũng cầm tay dắt mình đến núi Chung Nam, lên cung Trùng Dương tìm thầy học nghệ. Tấm lòng chân thành của Quách bá bá không một chút sai dị. Nhưng mình lại cuồng vọng hồ náo, phản sư bội giáo, gây ra bao nhiêu tai họa! Nếu mình cứ dấn sâu vào con đường lầm lạc, làm sao có cảnh được Quách bá bá cầm tay dắt vào thành như hôm nay?” Nghĩ đến đây, chàng không khỏi bồi hồi ứa nước mắt.

Trong thành Tương Dương nhà nhà treo đèn kết hoa, tuy có người thân tử trận, song quân thắng thành còn, nỗi bi thương cũng vơi non nửa.

Tối hôm ấy An phủ sứ mở đại yến mừng chiến thắng, Lã Văn Đức muốn mời Dương Quá ngồi chỗ cao nhất. Dương Quá nói thế nào cũng không chịu. Mọi người nhường nhịn hồi lâu, cuối cùng mời Nhất Đăng đại sư lên thủ tịch, tiếp đến Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung, rồi mới đến Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Gia Luật Tề. Lã Văn Đức trong bụng không vui, nghĩ thầm: “Hoàng đảo chủ là nhạc phụ của Quách đại hiệp, cũng được đi. Nhưng còn Nhất Đăng đại sư diện mạo bình thường, Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông điên điên khùng khùng làm sao lại ngồi chiếu trên?” Quần hùng sôi nổi hứng thú kể lại tình huống chiến trận ban ngày, Lã Văn Đức đâu có gì để nói?

Rượu qua mấy tuần, quan viên, tướng lĩnh, sĩ tốt trong thành lũ lượt bưng chén tới chúc mừng Quách Tĩnh, Dương Quá… hết lời ca ngợi quần hiệp công lược phong vĩ, võ nghệ hơn người. Quách Tĩnh nghĩ đến công ơn của sư môn, nói:

– Năm xưa nếu không có Khưu đạo trưởng phái Toàn Chân trượng nghĩa, bảy vị ân sư lặn lội sang Mông Cổ, lại thêm Hồng lão ân sư dạy bảo, Quách Tĩnh này há có thể lập được một chút công lao? Hôm nay chúng ta sung sướng ăn mừng ở đây, các vị ân sư trừ Kha lão ân sư ra, đều đã tạ thế, nhớ đến thật đau lòng.

Nhất Đăng đại sư và mấy vị đều cúi đầu buồn rầu.

Quách Tĩnh lại nói:

– Bây giờ đại sự đã hoàn tất, ngày mai Quách Tĩnh ta muốn khởi hành đi Hoa Sơn tảo mộ ân sư.

Dương Quá nói:

– Quách bá bá, điệt nhi cũng định nói câu đó, mọi người cùng đi có được chăng?

Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư đều nhớ đến các vị lão hữu đã khuất, đồng thanh tán thường. Quần hùng uống rượu đến tận đêm khuya, thật say mới giải tán.

———-

CHÚ GIẢI:

“Nguyên sử” bản kỷ quyển 3 chép: “Hiến Tông húy Mông Kha, Duệ Tông là con trưởng của Đà Lôi vậy. Tháng hai (năm) Bính Tí thống suất chư binh… (Năm) Đinh Sửu, đốc chư quân đánh thành… tấn công cửa Tây, tấn công cửa Tân môn ở mé Đông, cửa Kỳ Thắng.. tấn công cửa Hộ Quốc… giết rất nhiều quân Tống… Mấy lần tấn công không hạ được… (Năm)Quý Hợi, (hoàng) đế băng hà. (Hoàng) đế sáng suốt, cương nghị, quả cảm, quyết đoán mà ít nói… đối với quần thần cực nghiêm.

“Tục thông giám” viết: “Chúa Mông Cổ mấy lần đốc quân tấn công, không hạ được… Chúa Mông Cổ tử trận. Sử Thiên Trạch cùng quần thần cử tang về bắc, thế là Hợp Châu được giải vây”. “Tục thông giám khảo dị” viết: “Nguyên Hiến Tông từ khi đánh mãi không thắng, mắc bệnh mà qua đời. “Trùng Khánh chí” viết là bị đá ném trúng… không biết thế nào.

Theo sử sách ghi chép, Hiến Tông vì đánh Trùng Khánh Tứ Xuyên không thắng mà chết, có phải là bị đá ném trúng hay không, sử chép khác nhau. Nhưng quân Mông Cổ và quân Tống đánh nhau lâu nhất, ác liệt nhất là ở thành Tương Dương, quân Mông Cổ trước sau mấy chục năm đánh thành mà không hạ được. Để tăng sự hấp dẫn cho bộ tiểu thuyết, tác giả cho Hiến Tông đánh thành Tương Dương không hạ nổi, bị đá ném trúng mà chết, thành Tương Dương nhờ đó được giải vây.

Hồi 40: Trên đỉnh Hoa Sơn

Sáng sớm hôm sau, đoàn người khởi hành, sợ quân dân thành Tương Dương long trọng đưa tiễn, nên lặng lẽ ra cửa Bắc mà đi Hoa Sơn. Chu Bá Thông, Lục Vô Song, Tứ Thủy Ngư Ẩn, huynh đệ họ Võ vết thương chưa khỏi, thì cưỡi ngựa đi thong thả. Cũng không có việc gì cần kíp, nên mỗi ngày chỉ đi vài chục dặm là dừng.

Ít ngày sau thì đến Hoa Sơn. Những người bị thương được dưỡng thương dọc đường, đến nơi thì đã đỡ hẳn. Đoàn người lên núi, Dương Quá chỉ chỗ mai táng Hồng Thất Công và Âu Dương Phong, Hoàng Dung lúc còn ở dưới chân núi đã mua sẵn gà, rượu, thực phẩm, bây giờ liền nổi lửa nấu mấy món ăn mà sinh thời Hồng Thất Công thích nhất để cúng. Quần hùng nhất nhất vái lạy. Mộ phần của Âu Dương Phong nằm ngay bên cạnh Hồng Thất Công. Quách Tĩnh căm thù Âu Dương Phong tận xương, nghĩ đến việc Âu Dương Phong giết hại năm vị ân sư như Chu Thông, Hàn Bảo Câu, tuy đã cách mấy chục năm, song vẫn vô cùng căm hận. Chỉ có Dương Quá nghĩ đến tình xưa, cùng Tiểu Long Nữ quì vái trước mộ. Chu Bá Thông bước đến vái một cái, nói:

– Lão độc vật ơi lão độc vật, lão sinh tiền tác ác đa đoan, sau khi chết lại nằm cạnh lão khiếu hóa, cũng có thể nói là may mắn ba đời. Hôm nay người người đều đến cúng viếng lão khiếu hóa, chỉ có hai đứa nhóc con tới khấu đầu trước mộ lão mà thôi, lão nằm dưới đất có biết hẳn cũng hối hận về sự tàn bạo ngày trước của mình đấy nhỉ?

Lời khấn của Lão Ngoan đồng kỳ dị, ai nghe cũng thấy tức cười.

Mọi người lấy chén đũa ra, định ngồi ăn uống ngay bên mộ, bỗng nghe từ sau núi theo gió vọng lại tiếng binh khí va chạm nhau cùng tiếng la hét, hiển nhiên có người đang động thủ. Chu Bá Thông chạy ngay về phía phát ra tiếng huyên náo. Mọi người chạy theo sau. Qua hai cái thung lũng, thì thấy trên một bãi đá bằng phẳng tụ tập ba, bốn chục nam nữ tăng tục, tay người nào cũng lăm lăm binh khí. Đám người kia cãi cọ ầm ĩ, thấy đoàn người Chu Bá Thông, Quách Tĩnh… chạy đến, chỉ tưởng là khách du sơn, nên cũng chẳng buồn để ý. Một đại hán cao lớn nói to:

– Mọi người cứ làm loạn cả lên thế này không được. Danh hiệu “Đệ nhất võ công thiên hạ” quyết không phải cứ to mồm là giành được. Hôm nay các lộ hảo hán đều tụ tập ở đây, tại sao mọi người không dựa vào binh khí, quyền cước mà thư hùng một phen? Chỉ cần người nào luôn thắng không bại, mọi người đều phục, sẽ tôn làm “Đệ nhất võ công thiên hạ”.

Một đạo nhân râu dài vung kiếm nói:

– Đúng đấy. Võ lâm tương truyền có cuộc “Hoa Sơn luận kiếm”. Hôm nay chúng ta cũng thử luận một phen, xem rốt cuộc ai là anh hùng thời nay?

Những người còn lại vỗ tay khen phải, rồi có mấy người nhảy ra trước, nói to:

– Ai dám ra nào?

Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư nhìn nhau, vì cả đám người kia không một ai quen mặt.

Cuộc “Hoa Sơn luận kiếm” lần thứ nhất, Quách Tĩnh còn chưa ra đời, bấy giờ Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông vì tranh nhau bộ “Cửu Âm chân kinh” mà hẹn nhau lên đỉnh Hoa Sơn tỷ thí, ai võ nghệ cao nhất sẽ được sở hữu, kết quả Trung Thần Thông Vương Trùng Dương độc quán quần hùng, được tôn là “Đệ nhất võ công thiên hạ”.

Hai mươi lăm năm sau, Vương Trùng Dương tạ thế, tại cuộc “Hoa Sơn luận kiếm” lần thứ hai, ngoài Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, còn có thêm ba người tham gia là Chu Bá Thông, Cầu Thiên Nhẫn, Quách Tĩnh. Mỗi người tu vi tinh thâm, đều có sở trường riêng, nhưng thật sự đạt bốn chữ “Đệ nhất thiên hạ” thì cũng khó nói, luận võ công đơn thuần, tựa hồ Âu Dương Phong mạnh nhất. Không ngờ mấy chục năm sau, lại có một đám hảo thủ võ lâm hẹn nhau làm cuộc “Hoa Sơn luận kiếm” lần thứ ba. Việc này khiến đoàn Hoàng Dược Sư vô cùng kinh ngạc, càng lạ nữa, là mấy chục người kia toàn người lạ, chẳng lẽ đúng là “Trường Giang sóng sau đè sóng trước, một lớp người mới hơn lớp người cũ”? Chẳng lẽ cả đoàn người mình đều là ếch ngồi đáy giếng, không biết rằng ngoài trời có trời, trên người có người?

Chỉ thấy đám kia nhảy ra sáu người, chia làm ba cặp sử dụng binh khí bắt đầu động thủ. Sau vài chiêu, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông… đều cười, ngay Nhất Đăng đại sư là người trang nghiêm hiền từ cũng phải tủm tỉm. Thêm vài chiêu nữa thì Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Dương Quá, Hoàng Dung… đều không thể nhịn nổi, cùng cười phá lên. Nguyên lai sáu người động thủ võ công quá ư tầm thường, ngay với huynh đệ họ Võ, tỷ muội Quách gia cũng còn thua xa. Xem chừng bọn này chỉ là một nhóm người tầm thường trong giang hồ, chẳng hiểu gì về cuộc “Hoa Sơn luận kiếm” cũng học đòi.

Sáu người kia nghe đoàn Chu Bá Thông cười to thì ngừng đấu, nhảy tách ra, gằn giọng quát:

– Đúng là một bọn chán sống muốn chết! Các lão gia đây đang tỷ võ luận kiếm, tranh danh hiệu “Đệ nhất võ công thiên hạ”, các người lại cười cợt nỗi gì. Mau mau xéo xuống núi, sẽ được bọn ta tha mạng.

Dương Quá cười ha ha, hú một tiếng dài, sơn cốc tứ phía âm vang, lập tức gió quạt mặt đất, mây mù tụ lại. Đám người kia thoạt tiên tái mặt, rồi thân hình run rẩy, nghe tiếng ù ù bất tuyệt, các thứ binh khí đều rơi xuống đất.

Dương Quá quát:

– Tất cả hãy xéo đi!

Đám người kia ngẩn ngơ một hồi, đột nhiên bảo nhau cắm đầu cắm cổ chạy xuống núi, binh khí cũng không dám nhặt, thoáng chốc đã không còn một bóng người.

Anh Cô, Quách Phù… cười gập cả bụng, cười không nói được. Hoàng Dược Sư thở dài, nói:

– Bọn mù quáng khi thế đạo danh vẫn còn khá nhiều, nhưng không ngờ trên đỉnh Hoa Sơn lại có hạng người như vậy.

Chu Bá Thông nói:

– Thiên hạ “Ngũ Tuyệt” năm xưa, Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông đã tạ thế, cao thủ thời nay liệu có mấy người xứng danh “Ngũ Tuyệt”?

Hoàng Dung cười, nói:

– Nhất Đăng đại sư và gia gia của tiểu muội công lực còn thâm hậu hơn trước, năm xưa đã nằm trong “Ngũ Tuyệt”, hiện nay càng xứng. Nghĩa đệ Quách Tĩnh của Chu huynh được Bắc Cái chân truyền, có thể xứng đáng. Quá nhi tuy trẻ tuổi nhưng võ công trác tuyệt, anh tài mấy lứa trẻ không ai sánh kịp, huống hồ còn là nghĩa tử của Âu Dương Phong. Đông và Nam là hai vị cũ, Tây và Bắc hai vị tất do nghĩa đệ của Chu huynh và Dương Quá kế thừa.

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Không đúng, không đúng!

Hoàng Dung hỏi:

– Sao lại không đúng?

Chu Bá Thông nói:

– Âu Dương Phong là Tây Độc, tên tiểu tử Dương Quá thủ đoạn và tâm địa đều không tàn độc, gọi nó là tiểu độc vật thì oan cho nó.

Hoàng Dung cười, nói:

– Tĩnh ca ca cũng không làm khiếu hóa tử, Nhất Đăng đại sư hiện cũng không còn làm hoàng đế nữa rồi. Tiểu muội thấy nên đổi ngoại hiệu của mấy vị đi. “Đông Tà” của gia gia muội thì khỏi cần đổi. Nhất Đăng đại sư hiện không còn làm hoàng đế, đang làm hòa thượng, nên gọi là “Nam Tăng”, Quá nhi thì tiểu muội tặng cho chữ “Cuồng”, các vị thấy có được không?

Hoàng Dược Sư là người đầu tiên khen hay, nói:

– Đông Tà, Tây Cuồng, một già một trẻ hai ta chính thành một cặp.

Dương Quá nói:

– Thiết tưởng tiểu tử ít tuổi, không thể sánh vai với các vị tiền bối.

Hoàng Dược Sư nói:

– A ha, tiểu huynh đệ, huynh đệ nói thế sai rồi. Huynh đệ đã có chữ “Cuồng” trong ngoại hiệu, thì cứ chơi ngông một chút đã sao? Hơn nữa, với danh tiếng lừng lẫy, võ công cao cường như huynh đệ hiện giờ, chẳng lẽ còn chưa thắng Lão Ngoan đồng hay sao?

Hoàng Dược Sư biết nữ nhi cố ý không nhắc đến Chu Bá Thông là muốn khích Lão Ngoan đồng, nên mới châm chọc một câu như thế. Dương Quá cũng hiểu tâm ý của hai cha con Hoàng Dược Sư, nên nhìn Tiểu Long Nữ mỉm cười, nghĩ: “Chữ Cuồng quả có lý”.

Chu Bá Thông nói:

– Nam Đế, Tây Độc đều đổi ngoại hiệu, còn Bắc Cái thì đổi thành gì?

Chu Tử Liễu nói:

– Hào kiệt thiên hạ thời nay khi nhắc đệ tử Quách huynh đều gọi là Quách đại hiệp, mà không gọi tên. Quách huynh mấy chục năm nay khổ thủ thành Tương Dương, bảo cảnh an dân, lòng hiệp nghĩa như thế, cái dũng nhất thời của Chu Gia, Quách Giải thời cổ quyết không sánh kịp. Đệ nói gọi Quách huynh là Bắc Hiệp, chắc ai ai cũng tâm phục.

Nhất Đăng đại sư, Võ Tam Thông đều vỗ tay khen hay. Hoàng Dược Sư nói:

– Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, bốn người đều có rồi, còn Trung ương thì ai giữ đây?

Đoạn nhìn Chu Bá Thông một cái, nói tiếp:

– Dương phu nhân là truyền nhân duy nhất của phái Cổ Mộ. Năm xưa Lâm Triêu Anh nữ hiệp võ công trác tuyệt, “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” xuất thần nhập hóa, ngay cả Trùng Dương Chân Nhân cũng phải e ngại ba phần. Bấy giờ giả dụ Lâm nữ hiệp tham gia cuộc “Hoa Sơn luận kiếm”, đừng nói danh hiệu “Ngũ Tuyệt” đã khác đi, ngay Trùng Dương Chân Nhân cũng vị tất được tôn xưng là “Đệ nhất võ công thiên hạ”. Võ nghệ của Dương Quá là do phu nhân truyền thụ, đệ tử được xếp vào “Ngũ Tuyệt”, sư phụ càng xứng đáng. Vậy địa vị Trung ương thuộc về Dương phu nhân.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Địa vị ấy, tiểu nữ không thể nào dám nhận.

Hoàng Dược Sư nói:

– Thế thì thuộc về Dung nhi. Hoàng Dung võ công tuy không cực mạnh, nhưng túc trí đa mưu, vô cùng cơ biến, xưa nay trí vẫn thắng lực, xếp Hoàng Dung vào “Ngũ Tuyệt” là xứng đáng.

Chu Bá Thông vỗ tay reo cười:

– Hay lắm, hay tuyệt! Hoàng lão tà, Quách đại hiệp gì gì, Lão Ngoan đồng nói thực, đều không phục, chỉ có con nhãi Hoàng Dung tinh linh cổ quái, Lão Ngoan đồng hễ gặp là luống cuống chân tay, không cựa quậy nổi. Xếp Hoàng Dung vào “Ngũ Tuyệt” là hay nhất.

Mọi người nghe vậy đều sững sờ, luận về võ công, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư đều tự biết còn thua Chu Bá Thông ba phần, sở dĩ chưa nhắc đến tên lão, chỉ là vì muốn chọc tức cho lão cuống lên để vui cười một phen. Ai ngờ Chu Bá Thông ngây thơ hồn nhiên, không so đo tính toán chút gì, tuy rất hiếu võ, song hoàn toàn không có ý tranh hùng dương danh, chẳng hề tính xếp mình vào hàng “Ngũ Tuyệt”.

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Lão Ngoan đồng ơi là Lão Ngoan đồng, huynh mới là bậc anh tài. Hoàng lão tà ta coi nhẹ cái danh, Nhất Đăng đại sư coi cái danh là hư ảo, chỉ có Chu huynh trong lòng không hề nghĩ đến chữ “Danh”, còn cao hơn bọn tiểu đệ một bậc. Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan Đồng, trong “Ngũ Tuyệt”, huynh đứng đầu!

Mọi người nghe mười một chữ “Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan Đồng” thì nhất tề reo hò, song cũng tức cười.

Địa vị “Ngũ Tuyệt” đã định xong, người người hoan hỉ, liền tản đi các nơi trên đỉnh Hoa Sơn mà thưởng ngoạn phong cảnh.

Dương Quá chỉ đỉnh Ngọc Nữ nói với Tiểu Long Nữ:

– Hai ta học “Ngọc nữ kiếm pháp”, đỉnh Ngọc Nữ kia không thể không đến xem.

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng vậy.

Hai người dắt tay nhau lên đỉnh núi, thấy có một ngôi miếu nhỏ, cạnh miếu có tạc một con ngựa đá. Đây là miếu Ngọc Nữ. Trong miếu, trên một phiến đá lớn có một chỗ lõm sâu, nước đọng ở đó xanh ngắt.

Dương Quá năm xưa từng lên Hoa Sơn, tuy chưa thăm đỉnh Ngọc Nữ, song từng nghe Hồng Thất Công kể về các thắng cảnh trên núi, bèn nói với Tiểu Long Nữ:

– Đây là cái chậu gội đầu của Ngọc Nữ, nước trong quanh năm không cạn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng mình vào trong điện bái lạy Ngọc Nữ đi.

Vào trong điện, thấy tượng thần Ngọc Nữ dung mạo xinh đẹp, phong tư uyển chuyển, rất giống bức chân dung sư tổ Lâm Triêu Anh trong tòa Cổ Mộ. Hai người cùng kinh ngạc.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không lẽ vị nữ thần này chính là tổ sư bà bà của chúng mình?

Dương Quá nói:

– Tổ sư bà bà đương niên hành hiệp thiên hạ, có ơn với nhiều người, người ta nhớ đến ân đức mà lập miếu thờ, không chừng đúng là tổ sư bà bà.

Tiểu Long Nữ gật đầu, nói:

– Nếu là một tiên cô thông thường, hà tất còn có một con ngựa đá? Chắc là để tưởng nhớ con ngựa của tổ sư bà bà.

Hai người kề vai quì lạy trước tượng Ngọc Nữ, tám ý tương thông, cùng lầm rầm khấn:

– Nguyện đời đời kiếp kiếp hai chúng con được kết làm phu phụ.

Bỗng có tiếng bước nhẹ vào điện. Hai người đứng dậy, thấy Quách Tương đi vào. Dương Quá vui mừng nói:

– Tiểu muội tử, hãy cùng hai ta đi chơi nhé!

Quách Tương nói:

– Vâng!

Tiểu Long Nữ cầm tay Quách Tương, ba người ra khỏi điện.

Qua một cái cầu đá, đến một núi cao, thấy ở lưng chừng núi có một cái đầm lớn. Quách Tương ngó xuống đầm, chỉ thấy từ dưới đầm một luồng hàn khí xộc lên, không khỏi rùng mình. Cái đầm lớn này sâu không thấy đáy, khác hẳn với cái vực sâu ở Tuyệt Tình cốc. Cái vực ở Tuyệt Tình cốc bị sương mù bao phủ, nhìn từ trên xuống không biết quang cảnh bên dưới thế nào, người ta cứ việc tha hồ tưởng tượng. Cái đầm này thì nhìn rõ ràng ngay trước mắt, có điều là càng nhìn càng thấy sâu thăm thẳm mà sợ. Tiểu Long Nữ kéo tay Quách Tương, nói:

– Cẩn thận!

Dương Quá nói:

– Cái đầm này nghe đồn nó thông ra tận Hoàng Hà, là một trong tám hồ chứa nước lớn nhất thiên hạ. Đời Đường phương bắc bị đại hạn, Đường Huyền Tông từng viết lời khấn cầu mưa lên mặt mảnh ngọc, rồi ném xuống đầm này.

Quách Tương nói:

– Cái đầm này thông ra tận Hoàng Hà thật ư? Lạ quá nhỉ?

Dương Quá cười, đáp:

– Là tương truyền thế thôi, chưa ai lặn xuống, khó biết có thông ra hay không.

Quách Tương hỏi:

– Lúc Đường Huyền Tông ném mảnh ngọc xuống đầm, có Dương quí phi ở bên cạnh nhà vua hay chăng? Sau đó trời có mưa hay không?

Dương Quá cười ha ha, nói:

– Chuyện ấy sao tiểu muội lại hỏi ta, ông trời muốn mưa thì mưa, không muốn mưa thì nắng, vị tất nghe lời cầu xin của hoàng đế lão nhi.

Quách Tương nhìn đăm đăm xuống đầm, rầu rầu nói:

– Đó, dù là cao quí như đế vương, cũng chưa chắc muốn sao được vậy.

Dương Quá thầm nghĩ: “Tiểu cô nương này mới một chút tuổi đầu mà đa sầu đa cảm thế. Phải tìm cách làm cho tiểu cô nương vui lên mới được”. Đang tìm lời an ủi, thì Tiểu Long Nữ động kêu “Ôi kìa” và nói:

– Ai lên núi thế kia?

Dương Quá nhìn theo tay chỉ của Tiểu Long Nữ, thấy dưới chân núi có hai người đang luồn lách trong lớp cỏ cao đi lên. Hai người ấy khinh công rất cao, luồn lách rất khôn khéo kín đáo, rõ ràng sợ bị người ta phát hiện, nhưng Tiểu Long Nữ nhãn lực hơn hẳn người thường, vẫn phát hiện từ xa.

Dương Quá nói nhỏ:

– Hai kẻ kia lén lén lút lút, võ công rất lợi hại, lên Hoa Sơn tất có duyên cớ, chúng ta hãy nấp vào một chỗ xem họ giở trò gì.

Ba người liền nấp vào sau tảng đá và gốc đại thụ.

Lát sau có tiếng bước chân vọng tới. Lúc này trời đã nhá nhem. Vầng trăng non treo phía trên ngọn đại thụ. Quách Tương dựa vào bên người Tiểu Long Nữ, hoàn toàn không quan tâm đến hai kẻ đang đi lên núi. Nàng nhìn mặt nghiêng của Dương Quá, bỗng nghĩ: “Ước gì suốt đời mình được ở bên cạnh đại ca ca, Long tỷ tỷ như thế này, thì không còn mong gì hơn”. Lúc này nàng chỉ muốn thời gian dừng lại, vĩnh viễn ngừng trôi, dù trong thâm tâm biết rằng điều đó quyết không thể xảy ra.

Tiểu Long Nữ trong bóng tối nhá nhem vẫn nhìn rất rõ, thấy dưới hàng mi dài và cong của Quách Tương có ngấn nước mắt, nghĩ bụng: “Thần tình tiểu cô nương hơi lạ, không biết có tâm sự gì. Mình và Quá nhi phải tìm cách giúp tiểu cô nương vui lên mới được”.

Chỉ nghe hai kẻ kia đã lên đến đỉnh núi, nấp sau một khối nham thạch lớn, lát sau, một người lên tiếng:

– Tiêu Tương huynh, Hoa Sơn rừng thẳm núi cao, khắp nơi có thể ẩn thân. Chúng ta lánh ở đây vài ngày, con lừa trọc ấy dù có thần thông quảng đại đến mấy, cũng chưa chắc tìm thấy. Chờ khi lão ta đi nơi khác tìm, hai ta hãy đi sang miền Tây.

Dương Quá không nhìn thấy mặt hai kẻ kia, nghe khẩu âm, kẻ vừa nói chính là Doãn Khắc Tây, còn “Tiêu Tương huynh” tất là Tiêu Tương Tử. Chàng nghĩ: “Đám võ sĩ Mông Cổ sang Trung Nguyên ta lộng hành, Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh, Hoắc Đô đã bỏ mạng. Đạt Nhĩ Ba, Mã Quang Tá làm ít điều ác, chỉ còn hai gã Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây. Lần trước mình đã tha mạng cho hai tên này, nhưng xem ra chúng không biết hướng thiện; chẳng hiểu lại đến giở trò gian ác gì đây?”

Chỉ nghe Tiêu Tương Tử nói:

– Doãn huynh đừng mừng vội, con lừa trọc tìm chưa thấy chúng ta, lão nhất định sẽ rình ở dưới chân núi. Chúng ta lớ ngớ đi xuống là rơi vào tay lão.

Doãn Khắc Tây nói:

– Tiêu Tương huynh thâm mưu viễn lự, nói rất đúng, vậy huynh có cao kiến gì?

Tiêu Tương Tử nói:

– Đệ nghĩ trên núi này có rất nhiều tự quán, chúng ta chọn một chỗ vắng vẻ, bất kể trụ trì là hòa thượng hay đạo sĩ, ta đều hạ thủ giết quách, chiếm lấy tự quán, ở lại ít lâu. Con lừa trọc ấy quyết không thể ngờ hai ta lại ở trên núi lâu như vậy. Lão ta sẽ nôn nóng tìm kiếm vài lượt, rình dưới chân núi vài tháng rồi cũng bỏ đi thôi.

Doãn Khắc Tây vui mừng nói:

– Kế của Tiêu Tương huynh hay lắm!

Hắn mừng rỡ nên nói to hơn.

Tiêu Tương Tử vội nói:

– Đừng lớn tiếng!

Doãn Khắc Tây nói:

– Chết, đệ mừng quá quên biến đi mất.

Tiếp đó hai gã hạ thấp giọng, Dương Quá không nghe rõ, thầm lấy làm lạ: “Hai tên này rất sợ một vị hòa thượng, sợ bị hòa thượng tóm được. Hai tên này võ công rất lợi hại, hiện thời ngoài mấy vị như Hoàng đảo chủ, Nhất Đăng đại sư, Quách bá bá, ít ai có thể địch nổi chúng, huống hồ hai tên này liên thủ lại càng lợi hại, không biết vị cao tăng ấy là ai mà làm cho chúng run sợ như vậy? Mà không biết vì sao lại phải khổ sở truy đuổi hai tên ác nhân này như vậy?” Lại nghĩ: “Tiêu Tương Tử nói sẽ giết người chiếm chùa, chủ ý tàn ác, mình đã biết trước, làm sao có thể bỏ qua?”

Có tiếng Quách Phù gọi vang vọng phía xa:

– Dương đại ca, Dương đại tẩu, nhị muội… Dương đại ca, Dương đại tẩu, nhị muội… về ăn cơm… về ăn cơm thôi!

Dương Quá ngoảnh lại nhìn Tiểu Long Nữ và Quách Tương, xua xua tay, bảo họ đừng lên tiếng đáp ứng. Một hồi sau, Quách Phù không gọi nữa.Bỗng nghe từ lưng chừng núi có tiếng quát:

– Hai vị bằng hữu mượn sách không trả, hãy ra đây gặp nào!

Tiếng quát vang vọng núi rừng, hiển nhiên nội lực sung mãn, tuy không uy mãnh, nhưng công lực như thế thật chẳng thua gì tiếng hú của Dương Quá.

Dương Quá kinh ngạc, nghĩ: “Trên thế gian còn có một vị cao thủ như thế mả mình lại chưa biết!”

Chàng hơi nhô người ra nhìn về phía người nói, dưới ánh trăng thấy có một vệt xám chạy nhanh lên núi, nhìn kỹ gồm hai người, một hòa thượng áo xám dắt một gã thiếu niên. Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây nấp trong cỏ cao, không dám thở mạnh. Dương Quá thấy thân hình và bộ pháp của vị hòa thượng thì kinh ngạc: “Người này khinh công vị tất cao hơn mình và Long nhi, nhưng còn phải dắt theo một người mà chạy lên dốc núi như bay, nội lực thâm hậu ngang với Quách bá bá, Nhất Đăng đại sư. Tại sao trên giang hồ chưa hề nghe nhắc đến nhân vật này?”

Vị hòa thượng chạy lên gần mé trái, nhìn tứ phía, không thấy tung tích Tiêu, Doãn hai gã, bèn chạy sang quả núi mé tây. Quách Tương không nhịn được, gọi:

– Này hòa thượng, hai kẻ kia núp ở đây này!

Tiếng gọi vừa dứt, nghe chíu chíu, có hai ngọn phi chùy, một mũi táng môn đinh bắn nhanh tới chỗ Quách Tương đang nấp. Dương Quá phẩy tay áo cuốn lấy ba mũi ám khí. Quách Tương nội công không sâu, tiếng gọi truyền đi không xa, vị hòa thượng lại chạy quá nhanh nên không nghe thấy tiếng gọi của nàng. Quách Tương thấy hòa thượng vẫn chạy đi xa hơn, vội nói:

– Đại ca ca, mau gọi họ lại đi.

Dương Quá ngâm lên:

– Hữu duyên thiên lý lai tương hội, vô duyên đối diện bất tương phùng!

Hai câu này từng chữ vang đi rất xa. Vị hòa thượng đang chạy ở lưng chừng quả núi bên kia lập tức dừng chân, ngoảnh đầu lại, nói:

– Phiền cao nhân chỉ điểm bến mê.

Dương Quá lại ngâm:

– Đạp phá thiết hài vô mịch xứ, đắc lai toàn bất phí công phu.

Vị hòa thượng cả mừng, dắt gã thiếu niên chạy như bay trở lại.

Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây nghe tiếng ngâm của Dương Quá thì hoảng sợ, nhìn nhau ra hiệu, từ trong bụi cỏ chạy vọt sang mé đông. Dương Quá thấy vị hòa thượng cước lực tuy nhanh, nhưng khoảng cách khá xa, trên Hoa Sơn này khắp nơi đầy bụi cỏ, thạch động, nếu để hai tên ác nhân kia lẩn đi, đêm tối thế này khó bề tìm được, bèn giơ ngón tay búng một cái, một ngọn phi chùy xé gió bay vút đi, chính là dùng thứ ám khí ban nãy Tiêu Tương Tử đã tập kích Quách Tương. Dương Quá chưa biết vị hòa thượng tìm hai tên kia về chuyện gì, chưa muốn lấy mạng chúng, mũi phi chùy bay vụt qua trước mặt chúng chừng một thước, gió tạt rát da, hai gã khẽ kêu la, quay đầu sang mạn bắc. Dương Quá lại búng một mũi táng môn đinh, buộc hai gã chuyển hướng.

Hai lần ngăn chặn như thế, vị hòa thượng kia đã chạy tới gần. Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây biết khó bề thoát thân, bèn rút binh khí cầm tay, đứng kề vai nhau, một gã cầm cây bổng, một gã cầm nhuyễn tiên. Sợi Kim long tiên ngọc ngà châu báu của Doãn Khắc Tây đã bị Dương Quá làm gãy nát ở cung Trùng Dương, sợi nhuyễn tiên này tuy cũng gắn nhiều vàng ngọc, nhưng không đẹp và quí bằng Kim long tiên ngày trước.

Vị hòa thượng nhìn bốn phía, thấy người giúp mình không xuất hiện, thì chưa thèm để ý đến hai tên Tiêu, Doãn kia, mà chắp tay thi lễ về phía trống không, nói:

– Tiểu tăng Giác Viễn ở Thiếu Lâm tự kính tạ cư sĩ cao nghĩa.

Dương Quá nhìn vị hòa thượng, thấy thân hình cao cao, phong thái nho nhã, nếu không mặc tăng bào thì giống như một thư sinh tướng công. So với vị hòa thượng này, Hoàng Dược Sư có ba phần sơn lâm phóng túng hơn, Chu Tử Liễu thì có ba phần sang trọng cung đình hơn. Hòa thượng Giác Viễn tuổi trạc ngũ tuần, đúng là một vị túc nho uyên thâm quảng bác, một danh gia kinh thuật siêu nhân. Dương Quá không dám xem thường, liền từ chỗ nấp bước ra, vái dài đáp lễ, nói:

– Tiểu tử Dương Quá bái kiến đại sư.

Chàng nghĩ: “Phương trượng và thủ tòa Đạt Ma viện của Thiếu Lâm tự mình đều quen biết, tu vi võ công của hai người ấy xem chừng không bằng vị cao tăng này, tại sao mình chưa hề nghe họ nhắc đến vị này?”

Giác Viễn cung kính nói:

– Tiểu tăng được Dương cư sĩ tôn phạm, may mắn quá chừng.

Rồi bảo gã thiếu niên đứng bên cạnh:

– Mau khấu đầu chào Dương cư sĩ.

Gã thiếu niên bước lên quì lạy, Dương Quá đáp nửa lễ. Lúc này Tiểu Long Nữ và Quách Tương cũng đều xuất hiện, Giác Viễn chắp tay rất mực cung kính.

Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đứng chôn chân tại chỗ; nếu xông tới động thủ, tự biết không phải là đối thủ của Giác Viễn, Dương Quá và Tiểu Long Nữ, nếu bỏ chạy, cũng hoàn toàn không thể thoát thân. Hai gã đứng đó, mắt láo liên, chờ cơ hội.

Dương Quá nói:

– Thủ tòa La Hán đường Vô Sắc thiền sư của quí tự hào sảng khoáng đạt, tương giao với tại hạ đã hơn mười năm. Sáu năm trước, tại hạ có được phương trượng quí tự Thiên Minh thiền sư mời đến núi Thiếu Thất lễ Phật, được trò chuyện với phương trượng và Thủ tòa Đạt Ma viện Vô Tướng thiền sư, mở rộng tầm mắt. Có lẽ khi ấy đại sư đi vắng, nên tại hạ không có duyên bái kiến.

Thần điêu đại hiệp Dương Quá danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, song Giác Viễn lại không biết, chỉ nói:

– Thì ra Dương cư sĩ có quen biết Thiên Minh sư thúc, Vô Tướng sư huynh và Vô Sắc sư huynh. Tiểu tăng nhận một chức vị an nhàn ở Tàng kinh các, ba chục năm nay không hề bước ra khỏi cửa, chỉ vì chức phận thấp kém, nên không dám giao tiếp với quí khách đến bản tự.

Dương Quá thầm lấy làm lạ: “Thiên hạ thật là rộng lớn, bậc kỳ tài dị năng nơi nào cũng có. Vị Giác Viễn đại sư này võ công tuyệt thế mà giấu kín không lộ, trong Thiếu Lâm tự e rằng cũng không ai hay biết, nếu không Vô Sắc giao hảo với mình như thế, nếu biết bản tự có một nhân vật cỡ đó, hẳn đã kể với mình”.

Dương Quá và Giác Viễn đối đáp với nhau, cánh Hoàng Dược Sư đã nghe thấy, biết mé núi này có chuyện, bèn nhất tề kéo đến. Trong lúc Dương Quá và Giác Viễn nói chuyện, mọi người đã tới nơi, Dương Quá liền dẫn kiến mọi người. Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh, Hoàng Dung nổi danh đã mấy chục năm trong võ lâm, có thể nói bất cứ ai trong giang hồ cũng đều biết, riêng Giác Viễn lại không hề biết, chỉ cung kính hành lễ và sai gã thiếu niên vái lạy mọi người. Mọi người thấy Giác Viễn uy nghi, nghiêm trang, cũng không khỏi kính nể.

Giác Viễn thi lễ xong, bèn chắp tay nói với Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây:

– Tiểu tăng giám quản Tàng kinh các, chỉ một trang giấy bị mất, tiểu tăng cũng bị nghiêm trách, cuốn kinh thư mà hai vị đã mượn, xin trả lại cho, thật cảm đại đức.

Dương Quá vừa nghe đã biết Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây ăn cắp cuốn kinh thư gì đó ở Tàng kinh các của Thiếu Lâm tự, nên Giác Viễn mới nhất quyết đuổi theo, song thấy đối với hai tên đạo tặc, Giác Viễn còn nói năng tử tế thì thật không ngờ.

Doãn Khắc Tây cười hi hi nói:

– Đại sư nói sai rồi. Hai chúng tôi gặp bất hạnh, may được đại sư thi ân thu lưu, báo đáp còn chưa kịp, ai lại đi mượn kinh thư của đại sư mà không trả lại, phiền đại sư phải cất công theo đòi? Hơn nữa, hai chúng tôi hoàn toàn không phải là đệ tử cửa Phật, đi mượn kinh thư của đại sư làm gì kia chứ.

Doãn Khắc Tây xuất thân buôn bán châu báu, miệng lưỡi giảo hoạt, lời hắn vừa nói nghe cũng có lý. Nhưng cánh Dương Quá thừa biết hắn và Tiêu Tương Tử không phải là người lương thiện, kinh thư mà chúng đánh cắp cũng không phải là kinh Phật thông thường, mà hẳn là quyền kinh kiếm phổ của phái Thiếu Lâm.

Cứ như Dương Quá, chỉ cần nhảy tới giáng cho mỗi tên một chưởng, lục soát kinh thư trong người chúng là xong, hà tất phải phí lời? Song Giác Viễn là người nho nhã, lại nói với mọi người:

– Sự việc thế nào, tiểu tăng xin thưa cùng các vị, mong các vị bình đạo lý cho.

Quách Tương không nhịn được, liền nói:

– Đại sư, hai người này lén lút nấp ở chỗ kia, bàn nhau giết người cướp chùa, may mà bị đại sư tìm thấy. Nếu họ không rắp tâm hành ác, thì sao lại có mưu đồ xấu xa như vậy?

Giác Viễn hướng về phía Tiêu, Doãn hai gã, nói:

– Tội quá, tội quá, hai vị cư sĩ có nghiệt tâm như thế, hãy sớm thành tâm hối cải.

Mọi người thấy Giác Viễn nói năng hành sự có phần cổ hủ, tựa hồ hoàn toàn không rõ thế sự, đối với hai tên gian ác mà lại khuyên chúng thành tâm hối cải, thì không khỏi tức cười.

Doãn Khắc Tây thấy Giác Viễn không động thủ, mà định nói lý lẽ, thì có thêm vài phần hi vọng, bèn nói:

– Mọi người cần phải bình đạo lý cơ mà?

Giác Viễn gật đầu, nói:

– Thưa các vị, một hôm tiểu tăng đang đọc kinh thư trong Tàng kinh các, bỗng nghe sau núi có tiếng ẩu đả, rồi có người kêu cứu. Tiểu tăng chạy ra xem, thấy hai vị cư sĩ đây nằm dưới đất, bị bốn võ quan Mông Cổ đánh cho chỉ còn thở thoi thóp, tiểu tăng không nỡ lòng nào, liền tới khuyên bốn vị võ quan, rồi dìu hai vị cư sĩ bị thương vào Tàng kinh các nghỉ ngơi. Xin cứ hỏi hai vị cư sĩ đây, có đúng vậy không?

Doãn Khắc Tây nói:

– Không sai. Đúng là như thế, bởi vậy hai chúng tôi vô cùng cảm kích ơn cứu mạng của đại sư.

Dương Quá hừ một tiếng, nói:

– Với võ công của hai vị cư sĩ này, đừng nói bốn võ quan Mông Cổ, dù bốn chục, thậm chí bốn trăm võ sĩ Mông Cổ cũng không đánh ngã nổi. Giác Viễn đại sư đã bị hai gã này đánh lừa rồi.

Giác Viễn lại nói:

– Hai vị đây dưỡng thương một ngày, nói nằm một chỗ buồn quá, xin tiểu tăng cho mượn kinh thư. Tiểu tăng thiết nghĩ hoằng pháp quảng đạo là việc tốt, mấy khi được hai vị cư sĩ nảy sinh tuệ căn, thân cận Phật pháp, thế là liền cho họ mượn đọc mấy bộ kinh thư. Ai ngờ có một buổi tối hai vị cư sĩ này nhân lúc tiểu tăng tham thiền nhập định, lại lấy đi bốn quyển “Kinh Lăng Già” mà tiểu đệ tử Quân Bảo đang tụng. Tự tiện lấy đi, không mở miệng hỏi, khó tránh khỏi vi phạm cái đạo của bậc quân tử, vậy xin hai vị trả lại cho.

Nhất Đăng đại sư Phật học tinh thâm, Chu Tử Liễu theo hầu sư phụ lâu ngày, cũng từng đọc không ít kinh Phật, nghe nói thế, đều nghĩ: hai kẻ này lấy trộm kinh thư trong Thiếu Lâm tự, mình cứ ngỡ chỉ là sách quyền kinh kiếm phổ, ai dè lại là bốn quyển “Kinh Lăng Già”. Bộ “Kinh Lăng Già” tuy là do Đạt Ma tổ sư sở truyền, nhưng trong kinh lại chép rằng đó là yếu chỉ thuyết pháp của Phật Như Lai trên đảo Lăng Già, minh tâm kiến tính, tuyên thuyết Phật pháp Đại thừa, không liên quan gì đến võ công. Hai tên ác nhân này lấy trộm mang đi làm gì? Hơn nữa “Kinh Lăng Già” trong thiên hạ nơi nào cũng có, không phải là bí kíp, vì sao Giác Viễn lại truy đuổi đến cùng, tất bên trong có chuyện gì đây.

Chỉ nghe Giác Viễn nói:

– Bốn quyển “Kinh Lăng Già” ấy là nguyên bản Đạt Ma tổ sư mang theo khi đi sang phía đông, viết bằng văn tự Thiên Trúc, chỉ e hai vị cư sĩ không biết đọc, trong khi đó là vật báu truyền thụ bao đời của Thiếu Lâm bổn tự.

Mọi người chợt hiểu: “Thì ra là nguyên bản Đạt Ma tổ sư mang theo từ Thiên Trúc sang, tất quí giá vô cùng.”

Doãn Khắc Tây cười hi hi, nói:

– Hai chúng tôi không biết văn tự Thiên Trúc, ai lại đi mượn đọc bộ kinh ấy? Tuy gọi là báu vật, nhưng đem bán cũng chẳng đáng giá bao nhiêu. Trừ cao tăng Phật gia, chẳng ai thiết đến nó. Mà các đại hòa thượng hóa duyên qua ngày, làm gì có tiền bạc để mua.

Mọi người nghe hắn giảo biện đã tức giận, riêng Giác Viễn vẫn điềm đạm nói:

– Bộ “Kinh Lăng Già” tổng cộng có bốn bản dịch Hán văn khác nhau, hiện còn giữ được ba bản. Một là bản dịch của Bạt Đà La thời Lưu Tống, tên là “Lăng Già A Bạt Đa La bảo kinh”, gồm bốn quyển, người đời gọi là “Bốn quyển Lăng Già”. Hai là bản dịch thời Nguyên Ngụy của Bồ Đề Lưu Chi dịch, tên là “Nhập Lăng Già kinh” gồm mười quyển, người đời gọi là “mười quyển Lăng Già”. Ba là bản dịch thời nhà Đường của Bảo Thoa Nan Đà, tên là “Đại Thừa Nhập Lăng Già kinh” gồm bảy quyển, người đời gọi là “Bảy quyển Lăng Già”. Trong ba bản dịch ấy, bản “Bảy quyển Lăng Già” dịch rõ ý, dễ hiểu nhất, tiểu tăng có mang theo đến đây nếu hai vị cư sĩ tâm cận Phật pháp, tiểu tăng sẵn lòng gửi tặng. Nếu hai vị muốn bản “Bốn quyển Lăng Già” hoặc bản “Mười quyển Lăng Già”, cũng không phải là không thể, tiểu tăng sẽ đi tìm mang tới.

Nói đoạn rút từ trong ống tay áo ra bản “Bảy quyển Lăng Già”, đưa cho gã thiếu niên, sai mang tặng Doãn Khắc Tây.

Dương Quá nghĩ thầm: “Vị Giác Viễn đại sư này quá ư cổ hủ, ít thấy trên đời, chẳng trách bộ kinh thư do đại sư giám quản bị hai tên ác nhân lấy đi.”

Chỉ nghe chàng thiếu niên nói:

– Sư phụ, hai kẻ kia có mưu đồ bất lương, họ lấy mất bộ kinh quí, đâu phải là có tâm cận Phật pháp?

Chàng thiếu niên thân hình nhỏ bé, nhưng lời nói chứng tỏ trung khí sung mãn, giọng vang như chuông.

Mọi người thấy chàng ta diện mạo kỳ dị, trán nhọn gáy nhỏ, ngực rộng chân dài, mắt tròn tai to, tuy chỉ độ mười hai, mười ba tuổi, nhưng rất chững chạc, uy nghiêm.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Vị tiểu huynh đệ này cao tính đại danh là gì?

Giác Viễn nói:

– Tiểu đồ họ Trương, tên Quân Bảo, từ nhỏ sống trong Tàng kinh các, giúp tiểu tăng quét nhà, phơi sách, tuy hắn gọi tiểu tăng là sư phụ, kỳ thực hắn chưa xuống tóc, vẫn còn là tục gia đệ tử.

Dương Quá khen:

– Danh sư xuất cao đồ, đệ tử của đại sư khí vũ bất phàm.

Giác Viễn nói:

– Sư phụ không phải danh sư, nhưng tên đồ nhi này thì quả là bất phàm. Chỉ tiếc tiểu tăng tu vi nông cạn, không khỏi thiệt thòi cho nó. Quân Bảo, hôm nay ngươi được gặp nhiều bậc cao sĩ, đúng là tam sinh hữu hạnh, ngươi hãy thỉnh giáo các vị. Tục ngữ có câu “Nghe người khôn nói chuyện một buổi hơn đọc sách mười năm”.

Trương Quân Bảo đáp:

– Vâng.

Chu Bá Thông nghe Giác Viễn cứ nói vòng vo đâu đâu mãi, tuy sự việc không liên quan đến mình, nhưng cũng là người đầu tiên hết nhịn nổi, lên tiếng:

– Này hai gã Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây kia, hai đứa bay lừa được vị đại hòa thượng chứ không lừa nổi Lão Ngoan đồng này. Hai đứa bay có biết “Ngũ Tuyệt” thời nay gồm những ai không?

Doãn Khắc Tây nói:

– Không, xin nói cho biết.

Chu Bá Thông dương dương đắc ý nói:

– Được, hai đứa bay đứng cho vững mà nghe đây: Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan Đồng. Trong “Ngũ Tuyệt”, Lão Ngoan đồng này đứng đầu, hiểu chưa. Lão Ngoan đồng đã đứng đầu “Ngũ Tuyệt”, lời nói tất nhiên có sức nặng. Bộ kinh thư ấy ta nói là hai đứa bay lấy trộm, tức là hai đứa bay lấy trộm. Cho dù không phải hai đứa bay lấy trộm, thì nó cũng đang ở trong người hai đứa bay, mau lấy ra trả cho đại hòa thượng! Nếu trì hoãn, mỗi đứa sẽ ăn một cái bạt tai, rồi tính sau. Hai đứa bay thích chìa má bên trái hay má bên phải nào?

Nói đoạn lão xoa xoa hai tay chuẩn bị động thủ.

Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cau mày, thầm biết Lão Ngoan đồng võ công cao lạ thường, nói sao làm vậy đang chưa biết làm thế nào, thì Giác Viễn nói:

– Chu cư sĩ nói sai rồi! Thế sự không qua được một chữ “Lý”. Bộ “Kinh Lăng Già” hai vị cư sĩ nếu đã mượn, tức là đã mượn. Nếu không mượn, tức là không mượn. Nếu quả thật hai vị cư sĩ không mượn, thì có lý nào lại vu cho họ lấy trộm?

Chu Bá Thông cười ha hả, nói:

– Các vị xem đại hòa thượng này có ra sao không? Ta giúp y đòi lại bộ kinh, y lại đi thanh minh cho kẻ cắp, có lý nào như thế? Đại hòa thượng, ta nói cho hòa thượng biết, Lão Ngoan đồng ta cứ thích vu cho hai đứa kia lấy trộm đấy. Bộ kinh ấy nếu quả thật chúng chưa lấy trộm, thì ta đoan chắc rằng ngay ngày mai hai đứa kia sẽ đến Thiếu Lâm tự lấy trộm. Nói tóm lại, quân trộm cắp là quân trộm cắp, chưa trộm cắp, thì sẽ trộm cắp. Hôm qua chưa trộm cắp, ngày mai tất trộm cắp, hôm nay đã trộm cắp, ngày mai tiếp tục trộm cắp.

Giác Viễn gật đầu lia lịa, nói:

– Chu cư sĩ nói rất hợp với thiền lễ. Phật gia nói sắc tức là không, không tức là sắc, ranh giới giữa sắc và không, vốn không nên phân định một cách gượng ép. Nói “lấy trộm sách” e bất nhã, chi bằng nói là “không hỏi cứ mượn”. Hai vị cư sĩ nếu đã có cái tâm “không hỏi cứ mượn”, thì dù chưa “không hỏi cứ mượn”, thể nào cũng “không hỏi cứ mượn”.

Mọi người nghe hai bên nói lý, một người cổ hủ, một người cả vú lấp miệng em, ai cũng có cái lý của mình, nếu cứ tiếp tục, không biết bao giờ mới dừng.

Dương Quá cướp lời Chu Bá Thông, nói với hai gã Tiêu, Doãn:

– Hai đứa ngươi giúp Mông Cổ xâm phạm cương thổ của bọn ta, giết hại bách tính nước ta, có chết cũng chưa hết tội. Nhưng hôm nay có hai võ hiệp cao tăng Nhất Đăng đại sư và Giác Viễn đại sư ở đây, nếu ta xuất thủ giết hai đứa ngươi, hai vị cao tăng hẳn không nỡ nhìn. Vậy ta chỉ cho hai con đường cho hai đứa ngươi tự lực chọn, một là ngoan ngoãn đưa trả bộ kinh thư, từ nay không được đặt chân lên Trung Thổ. Hai là mỗi đứa tiếp một chưởng của ta, sống chết tùy vận khí của từng đứa.

Doãn, Tiêu nhìn nhau, không dám tiếp lời. Hai gã từng ăn đòn của Dương Quá, thừa biết một chưởng của chàng, chúng không thể chịu nổi. Doãn Khắc Tây nghĩ: “Chỉ cần qua được hôm nay, mai sau luyện thành võ công, sẽ trở lại báo thù rửa hận. Trong đám người kia, chỉ có Giác Viễn hòa thượng là dễ nói chuyện nhất, muốn thoát nạn, phải dựa vào gã hòa thượng ấy”, bèn nói:

– Dương đại hiệp, chuyện giữa tại hạ và đại hiệp, để sau hãy tính. Đại hiệp võ công cao hơn tại hạ, tại hạ không dám đắc tội với đại hiệp. Còn chuyện có mượn kinh thư hay không, cứ để Giác Viễn đại sư bàn tính tỉ mỉ với hai chúng tôi, việc ấy đâu có liên quan đến Dương đại hiệp?

Dương Quá chưa trả lời, Giác Viễn đã gật đầu lia liạ, nói:

– Đúng, đúng thế, Doãn cư sĩ nói rất có lý.

Dương Quá lắc đầu cười khổ, ngoảnh đầu lại, thấy Trương Quân Bảo mục quang long lanh, ngọ nguậy muốn hành động. Dương Quá bèn nháy mắt, ngụ ý bảo cậu ta cứ hành động, chàng sẽ đứng sau hỗ trợ.

Trương Quân Bảo hiểu ý, nói to:

– Doãn cư sĩ, hôm ấy tiểu tử đang đọc kinh ở hành lang, cư sĩ lẻn đến sau lưng tiểu tử, điểm huyệt tiểu tử rồi lấy đi bốn quyển “Kinh Lăng Già”, chuyện ấy có hay không?

Doãn Khắc Tây lắc đầu nói:

– Nếu ta muốn mượn sách, thì ta chỉ việc hỏi mượn là tiểu sư phụ cho mượn, hà tất phải điểm huyệt?

Giác Viễn gật đầu nói:

– Ờ, ờ, kể cũng có lý.

Trương Quân Bảo nói:

– Hai vị bảo không hề mượn, vậy có dám để cho tiểu tử lục soát trên người hay không?

Giác Viễn nói:

– Khám người thì quá ư vô lý. Nhưng vụ này phải trái chưa rõ, hai vị cư sĩ có cách gì hay, có thể cho biết?

Doãn Khắc Tây đang định giảo biện, Dương Quá cướp lời:

– Giác Viễn đại sư, hai tên gian tặc kia quyết không có ý tiềm tâm Phật học, bốn quyển “Kinh Lăng Già” có điểm nào đặc dị hay không?

Giác Viễn hơi trầm ngâm, nói:

– Người xuất gia không nói dối, Dương cư sĩ đã hỏi, tiểu tăng đành nói thật. Bên lề bộ “Kinh Lăng Già” còn có một bộ kinh thư khác, do chính Đạt Ma sư tổ tự tay viết, gọi là bộ “Cửu Dương chân kinh”.

Lời này vừa dứt, ai nấy giật mình. Thời trước các võ sĩ tranh đoạt “Cửu Âm chân kinh” mà dẫn đến chỗ chém giết nhau khắp cả thiên hạ, cuối cùng năm đại cao thủ tụ tập tại “Hoa Sơn luận kiếm”, bộ kinh đó rốt cuộc do Vương Trùng Dương là người võ công cao nhất sở hữu. Sau đó việc Hoàng Dược Sư đuổi hết đệ tử, Chu Bá Thông bị nhốt ở đảo Đào Hoa, Âu Dương Phong mắc bệnh tâm thần, Đoàn hoàng gia xuất gia đi tu bao nhiêu việc đều có liên quan đến bộ “Cửu Âm chân kinh”. Ai dè ngoài bộ “Cửu Âm chân kinh”, Đạt Ma sư tổ còn viết bộ “Cửu Dương chân kinh”. Bốn chữ này mọi người lần đầu nghe thấy, còn bộ “Cửu Âm chân kinh” thì quá nổi tiếng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Dương Quá, Tiểu Long Nữ đều đã trước sau nghiên tập, võ công Thiếu Lâm tự là do Đạt Ma sư tổ sở truyền, bộ kinh do sư tổ tự tay viết ra tất nhiên rất hệ trọng, quần hùng vừa nghe thấy đều giật mình.

Giác Viễn không thấy sự kinh ngạc của mọi người, nói tiếp:

– Chức phận của tiểu tăng là giám quản Tàng kinh các, tất cả các bộ kinh thư tất nhiên đều phải xem qua một lượt. Cứ ngỡ trong kinh Phật toàn chép những câu danh ngôn chí lý, song tiểu tăng lại đọc thấy trong bộ “Cửu Dương chân kinh” rất nhiều pháp môn cường thân kiện thể, dịch trợ tẩy tủy, tiểu tăng nhất nhất luyện theo mấy chục năm nay, kết quả là bách bệnh không sinh; mấy năm qua bèn truyền thụ một số môn dễ luyện cho Quân Bảo. Bộ “Cửu Dương chân kinh” chẳng qua chỉ dạy người ta bảo dưỡng cái thân xác hữu sắc hữu tướng mà thôi, cái thân xác này vốn cũng không đáng gì cho lắm. Bộ kinh thư tuy do Đạt Ma sư tổ trước tác, cuối cùng chỉ là cái học bỉ tướng tiểu đạo, dù có bị mất đi cũng không sao. Nhưng bộ kinh “Lăng Già” là đại điển của nhà Phật, hai vị cư sĩ lại không biết văn tự Thiên Trúc, có mượn cũng vô dụng. Chi bằng hãy trả lại cho tiểu tăng.

Dương Quá thầm kinh hãi: “Giác Viễn đã học xong công phu thượng thừa trong võ học mà hoàn toàn không biết, cứ tưởng chỉ là pháp môn cường thân kiện thể, bách bệnh không sinh mà thôi. Chuyện lạ nhường này, trong võ lâm chưa từng xảy ra. Nếu mình không tận mắt chứng kiến Giác Viễn đại sư cố chấp, một mực giữ lễ, ắt sẽ cho rằng Giác Viễn cố ý giả bộ, giấu kín võ công. Chẳng trách các vị thiền sư cao tăng Thiên Minh, Vô Sắc, Vô Tướng chung sống với Giác Viễn mấy chục năm trong chùa mà không biết rằng đang ở bên cạnh một dị nhân”.

Nhất Đăng đại sư thì nghĩ thầm: “Vị sư huynh bảo “Cửu Dương chân kinh” chỉ là cái học bỉ tướng tiểu đạo, quả nhiên thâm ngộ Phật lý. Cái học Thiền tông cố nhằm minh tâm kiến tính. Nếu biết “Cửu Dương chân kinh” là võ công, thì Giác Viễn đã chẳng học theo”.

Doãn Khắc Tây vỗ vỗ trên người, cười, nói:

– Tại hạ tứ đại giai không, trên người làm gì có kinh thư?

Tiêu Tương Tử cũng phẩy phẩy áo, nói:

– Tại hạ cũng không có.

Trương Quân Bảo bỗng nói:

– Để tiểu tử lại soát!

Chàng ta bước tới giơ tay nắn nắn ngực Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây tay trái chộp cổ tay Trương Quân Bảo, tay phải đẩy nhẹ vào vai cậu ta một cái, Trương Quân Bảo lập tức bị ngã lộn một vòng.

Giác Viễn kêu lên:

– Úi chao, không hay rồi, Quân Bảo! Ngươi hãy khí trầm Vu Uyên, lực ngưng Sơn Căn, xem y có đẩy nổi ngươi xê dịch không nào?

Trương Quân Bảo bò dậy, nói:

– Vâng, thưa sư phụ!

Đoạn lao người về phía Doãn Khắc Tây. Mọi người đang chán chường, chợt nghe Giác Viễn chỉ điểm võ nghệ cho Trương Quân Bảo, đều vui thích, nghĩ bụng: “Không ngờ vị hòa thượng quân tử này cũng biết dạy đồ đệ đánh nhau”.

Chỉ thấy Trương Quân Bảo xông thẳng đến, Doãn Khắc Tây chộp lấy cánh tay chàng ta mà đẩy về phía trước một cái. Trương Quân Bảo y theo cách bình thời sư phụ đã dạy, khí trầm hạ bàn, cái đẩy của đối phương chỉ khiến nửa thân trên hơi nghiêng, còn toàn thân không bị xê dịch. Doãn Khắc Tây kinh ngạc, nghĩ: “Ta chỉ e ngại Chu Bá Thông, Quách Tĩnh, Dương Quá, là những đại cao thủ hạng nhất trong võ lâm, ngoài mấy người ấy ra, ta hoàn toàn có thể tung hoành thời nay, ai ngờ tới một tên tiểu hài đồng mà cũng không hạ nổi”. Bèn gia tăng kình lực đẩy thật mạnh.

Trương Quân Bảo vận khí kìm lại. Không ngờ lực đẩy của Doãn Khắc Tây đột nhiên mất tiêu, Trương Quân Bảo đứng không vững, ngã chúi xuống đất. Doãn Khắc Tây đỡ dậy, cười nói:

– Tiểu sư phụ, không cần dùng đại lễ đâu.

Trương Quân Bảo đỏ bừng cả mặt, trở lại bên cạnh Giác Viễn, nói:

– Sư phụ, vẫn chưa được.

Giác Viễn lắc đầu, nói:

– Đấy là đối phương cố ý lấy không thắng có. Trong lúc vận khí, ngươi cần phải vận khí ghìm mình, thây kệ ngoại lực từ phía nào đẩy tới. Ngươi hãy nhìn ngọn núi kia coi.

Đoạn chỉ tay về phía một ngọn núi nhỏ ở mé tây, nói tiếp:

– Ngọn núi sừng sững ở đó, thiên cổ vẫn vậy. Đại phong từ phía tây thổi tới, bạo vũ từ phía đông tràn sang, ngọn núi vẫn không di chuyển, cũng không cố ý kháng cự.

Trương Quân Bảo ngộ tính rất cao, nghe sư phụ nói xong liền gật đầu, nói:

– Sư phụ, đệ tử hiểu rồi, phải soát người y mới được.

Rồi chậm rãi tiến tới trước mặt Doãn Khắc Tây.

Dương Quá thấy cậu ta hai lần lao vội tới, lần này được Giác Viễn chỉ dẫn vài câu, lập tức cước bộ trầm ổn, thì nghĩ: “Sư đồ cậu ta tu tập Cửu Dương chân kinh đã lâu, nhờ vậy nội công thâm hậu. Song hai người hoàn toàn không ngờ bộ kinh thư ấy không chỉ dạy cách cường thân kiện thể, mà còn dạy cách khắc địch chế thắng, hộ pháp phục ma, cho nên quyết khiếu đánh địch khi lâm trận họ lại chẳng biết chút gì”.

Trương Quân Bảo đến cách Doãn Khắc Tây chừng bốn thước, giơ hai tay nắm cánh tay đối phương. Doãn Khắc Tây cười hô hô, tay trái vỗ “bộp” một cái vào ngực Trương Quân Bảo. Đại địch đứng đầy xung quanh, Doãn Khắc Tây không dám đả thương Trương Quân Bảo, cái vỗ vừa rồi chỉ sử có một thành kình lực hi vọng làm cho đối phương cảm thấy đau, không dám gây sự với hắn nữa.

Trương Quân Bảo hoàn toàn không biết cách né tránh, vừa thấy bàn tay đối phương vụt qua trước mắt, ngực đã trúng một chưởng, bèn kêu lên:

– Sư phụ, đệ tử bị đánh.

Doãn Khắc Tây đánh một chưởng vào ngực Trương Quân Bảo, cảm thấy từ ngực đối phương có một luồng lực đẩy trở lại, may mà hắn chỉ sử có một thành kình lực nếu không có khi đã nguy hại. Hắn huơ huơ tay trái, nắm lấy vai Trương Quân Bảo định nhấc bổng lên mà ném đi, song không nhấc lên nổi.

Doãn Khắc Tây ngượng ngùng bối rối, ngay mấy chiêu cầm nã thủ pháp của hắn cũng chỉ làm cho Trương Quân Bảo chao đảo chứ không ngã, bất đắc dĩ phải đánh mấy chưởng, cười nói:

– Tiểu sư phụ, ta không đánh nhau với ngươi đâu. Quân tử động khẩu không động thủ, ngươi hãy lui về đi, chúng ta nói lý lẽ thì hơn.

Mỗi chưởng của hắn đều đánh vào người Trương Quân Bảo, chưởng lực mạnh dần, nhưng cơ thể Trương Quân Bảo mỗi lần đều sinh ra phản lực, lực gia tăng thì lực đề kháng của đối phương cũng gia tăng tương ứng

Trương Quân Bảo kêu to:

– Ối, ối, sư phụ, y đánh đệ tử đau quá, sư phụ mau đến giúp đệ tử.

Doãn Khắc Tây nói:

– Ta bất đắc dĩ phải làm thế, là ngươi tới đánh ta, chứ không phải ta tới đánh ngươi. Lão sư phụ, sư phụ muốn đánh tại hạ, thì cứ việc đánh, sư phụ có ơn cứu mạng đối với tại hạ, tại hạ nhất quyết không dám đánh lại đâu.

Giác Viễn lắc đầu, nói:

– Đúng, Doãn cư sĩ nói có lý… ừm, Quân Bảo, giúp thì ta không đến giúp, nhưng ngươi phải nhớ, cần phân định hư thực cho rõ ràng, mỗi chỗ đều có hư thực, mọi chỗ đều có hư thực. Ngươi nhớ lời ta dặn, khí phải căng lên, thần cần thu vào, toàn thân không có chỗ nào khuyết hãm, không có chỗ nào lồi lõm, không có chỗ nào gãy nối.

Trương Quân Bảo từ năm, sáu tuổi làm công việc phục dịch trong Tàng kinh các, từ đấy Giác Viễn đem căn cơ công phu ghi trong “Cửu Dương chân kinh” truyền thụ cho cậu ta, có điều cả hai thầy trò đều không biết đó là tu vi nội công tinh thâm nhất trong võ học. Tăng chúng Thiếu Lâm đa phần tinh thông quyền nghệ, nhưng Giác Viễn cho rằng quả đấm không phù hợp với bản chỉ Phật gia, cũng không phải là hành động bậc quân tử nên làm, cho nên mỗi khi thấy người ta luyện võ, Giác Viễn đều tránh xa. Mãi đến lúc này, khi Trương Quân Bảo động thủ với Doãn Khắc Tây, Giác Viễn mới dạy cho đệ tử cách chống đỡ nhưng cũng chỉ để phòng thân, chứ hoàn toàn không có ý công kích kẻ địch. Trương Quân Bảo nghe sư phụ chỉ dạy, liền vận khí toàn thân, tuy không được như Giác Viễn nói “toàn thân không có chỗ nào khuyết hãm, không có chỗ nào lồi lõm, không có chỗ nào gãy nối”, song bất kể Doãn Khắc Tây ra đòn gì, cậu ta cũng chỉ cảm thấy hơi đau chứ không sao cả.

Nhưng không thể qua đó đem so sánh công lực của Doãn, Trương hai người với nhau. Doãn Khắc Tây nếu thực sự hạ sát thủ, dĩ nhiên có thể dễ dàng giết chết Trương Quân Bảo; nhưng hắn thấy Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh… đứng đầy bên cạnh, làm sao hắn dám hạ độc thủ? Hai người quấn lấy nhau hồi lâu, Trương Quân Bảo cố nhiên không thể lục soát người đối phương, mà Doãn Khắc Tây cũng không đánh ngã được Trương Quân Bảo.

Mấy người trong nhóm Dương Quá thấy tức cười, còn Tiêu Tương Tử thì không ngớt cau mày.

Quách Tương gọi:

– Tiểu huynh đệ, hãy xuất thủ đánh hắn đi chứ, sao huynh đệ chỉ chịu đòn mà không đánh trả?

Giác Viễn vội nói:

– Không được, chớ giận chớ buồn, chớ đánh chớ chửi!

Quách Tương nói:

– Huynh đệ cứ thỏa sức đánh hắn đi, đánh không lại sẽ có người giúp huynh đệ.

Trương Quân Bảo nói:

– Đa tạ cô nương!

Rồi vung quyền đánh vào ngực Doãn Khắc Tây.

Giác Viên lắc đầu, thở dài, nói:

– Nghiệt chướng, nghiệt chướng, giận dữ nổi lên, linh đài sẽ không thể như gương trong nước lặng.

Trương Quân Bảo đấm một quả vào ngực Doãn Khắc Tây, cậu ta chưa từng luyện quyền thuật, quả đấm này chỉ như người thường đấm đá, làm sao đả thương nổi đối phương? Doãn Khắc Tây ngoài miệng cười hô hố, nhưng trong bụng căm tức, hắn thành danh mấy chục năm nay, bất luận bằng hữu hay địch nhân đều không dám coi thường hắn, ai ngờ hôm nay trước mắt mọi người hắn lại không thể hạ gục một gã hài đồng, không dám giết đã đành, ngay cả quẳng nó ra xa cũng không dám, chỉ có thể đánh cho nó thấy đau mà lui đi thôi.

Giác Viễn nghe Trương Quân Bảo không ngớt kêu đau, thì chỉ lên tiếng xin tha:

– Doãn cư sĩ, xin cư sĩ chớ nặng tay đả thương tính mạng tiểu đồ. Hài tử này rất thông minh, hiền lành, tốt bụng, nó biết tiểu tăng để mất kinh thư tổ truyền, trở về chùa tất bị phương trượng phạt nặng, nên mới bám riết lấy cư sĩ lục soát, xin cư sĩ chớ đánh nó thật…

Cầu xin một hồi rồi, Giác Viễn bất giác lại chỉ điểm cho Trương Quân Bảo:

– Quân Bảo, trong kinh có nói, cần dụng ý, không dụng kình. Theo người mà động, nên co nên duỗi, bị đánh chỗ nào, tâm phải dụng ở chỗ đó…

Trương Quân Bảo đáp:

– Vâng!

Thấy Doãn Khắc Tây tâm ý bèn đưa tới chỗ đó, quả nhiên dùng tâm sử kình, chỗ bị đánh bớt đau hẳn.

Doãn Khắc Tây nói:

– Cẩn thận này, ta đánh vào đầu ngươi đó!

Trương Quân Bảo giơ cánh tay trước mặt, tinh thần chăm chú, chờ đối phương đánh tới, nào ngờ Doãn Khắc Tây nhứ nhứ quả đấm, chân trái tung đòn, huỵch một cái, đá cho Trương Quân Bảo ngã lộn đi một vòng. Trương Quân Bảo lăn đến bên cạnh Dương Quá mới đứng dậy được.

Giác Viễn kêu lên:

– Doãn cư sĩ, sao cư sĩ lại nói dối lừa người như thế? Cư sĩ bảo nó cẩn thận, sẽ đánh vào đầu, song lại đá nó là sao?

Mọi người nghe đều buồn cười, nghĩ bụng trong trò đấu võ, hư thực bất định, ai lại đi trách đối phương nói dối, đánh lừa?

Trương Quân Bảo tuy nhỏ tuổi, tâm ý lại kiên định, cậu xoa xoa chỗ chân bị đá, nói:

– Không lục soát không được!

Cậu ta lại định bước tới. Dương Quá giữ tay cậu ta lại nói:

– Tiểu huynh đệ, hãy khoan!

Trương Quân Bảo bị nắm cánh tay, nửa người lập tức tê dại, không thể cử động, kinh hãi ngoảnh đầu.

Dương Quá nói nhỏ:

– Tiểu huynh đệ chỉ chịu đòn không đánh trả, thì không thể chế ngự được hắn. Ta dạy cho huynh đệ một chiêu mà đánh hắn, hãy nhìn đây!

Đoạn phất ống tay áo rỗng bên phải trước mặt Trương Quân Bảo, tay trái đấm ra cách ngực Trương Quân Bảo nửa thước thì đột nhiên vòng xuống đánh vào mạng mỡ, miệng nói nhỏ:

– Sư phụ của tiểu huynh đệ dạy rằng bị đánh chỗ nào, tâm phải dụng ở chỗ đó. Câu ấy rất quan trọng, khi tiểu huynh đệ đánh người khác ở chỗ nào, tâm cũng phải dụng ở chỗ đó. Đánh người phải chú ý, như sư phụ tiểu huynh đệ vừa dặn, phải tập trung tinh thần, dụng ý chứ không dụng kình.

Trương Quân Bảo cả mừng, ghi nhớ chiêu thức Dương Quá vừa dạy, đến trước mặt Doãn Khắc Tây, hữu thủ thành chưởng, huơ lên trước mặt, tay trái đấm ngang ra, thẳng đến trước ngực Doãn Khắc Tây. Hắn giơ ngang cánh tay che kín, quả đấm của Trương Quân Bảo đột nhiên vòng xuống, hự một cái, đánh trúng mạng mỡ Doãn Khắc Tây.

Doãn Khắc Tây nhìn thấy Dương Quá truyền thụ chiêu số cho Trương Quân Bảo, hắn coi thường nghĩ rằng hắn có bị Trương Quân Bảo đấm một trăm quyền, hai trăm quyền, thì cũng chẳng sao. Ai ngờ một quyền vào mạng mỡ lại làm cho hắn đau thấu xương, toàn thân run rẩy, đau đến cong gập người lại.

Doãn Khắc Tây không biết Trương Quân Bảo đã luyện công phu cơ bản trong “Cửu Dương chân kinh”, chân lực sung mãn, không chút tầm thường, có điều chưa từng sử dụng, bây giờ được sư phụ và Dương Quá chỉ điểm, hiểu cách dụng ý không dụng kình, giống như bảo kiếm đã rút khỏi bao, uy lực của sự sắc nhọn đã khác hẳn lúc còn ở trong bao.

Doãn Khắc Tây vừa kinh ngạc vừa tức giận, thấy Trương Quân Bảo lại lặp lại chiêu vừa xong, biết đối phương sắp đấm xuống mạng mỡ, bèn chộp lấy cổ tay phải, giáng một chưởng, đẩy Trương Quân Bảo văng ra xa mấy trượng.

Trương Quân Bảo nội lực tuy mạnh, nhưng khi lâm địch chưa biết chút gì về cách chiết giải, làm sao địch nổi Doãn Khắc Tây? Cú văng vừa rồi, trán cậu ta bị chạm vào đá, máu chảy ròng ròng. Cậu ta không ngán, đưa tay áo lau máu, đến bên cạnh Dương Quá, quì xuống khấu đầu, nói:

– Dương cư sĩ, xin dạy thêm cho tiểu đệ một chiêu.

Dương Quá nghĩ thầm: “Nếu mình để cho Doãn Khắc Tây nhìn thấy, hắn sẽ có đề phòng, mất hết uy lực”. Bèn ghé tai Trương Quân Bảo nói nhỏ:

– Lần này ta sẽ dạy cho tiểu huynh đệ ba chiêu liền. Chiêu thứ nhất tả hữu hỗ điều, khi ta dùng tay trái, kỳ thực là phải dùng tay phải, còn khi ta dùng ống tay áo bên phải, thì lúc đánh hắn, tiểu huynh đệ phải dùng tả quyền.

Trương Quân Bảo gật đầu. Dương Quá liền dạy cho cậu ta chiêu “Thôi tâm trí phúc”, Trương Quân Bảo làm theo, xuất quyền đẩy chưởng, ghi nhớ cách tả hữu hỗ điều.

Dương Quá nói:

– Chiêu thứ hai, ta dùng tay trái là dùng tay trái, dùng ống tay áo bên phải là dùng tay phải, gọi là chiêu “Tứ thông bát đạt”, thế quyền đi mở lớn khép rộng, đều đầy uy lực.

Trương Quân Bảo làm thử hai lần thì nhớ.

Dương Quá lại nói nhỏ:

– Chiêu thứ ba “Lộc tử thùy thủ”, là chiêu khó nhất, bộ vị không được nhầm lẫn. Tiểu huynh đệ không biết nhận huyệt cũng không sao, ta sẽ đánh dấu huyệt ấy trên lưng hắn, tiểu huynh đệ cứ việc dùng ngón tay ấn mạnh chỗ đó là chế ngự được hắn.

Rồi chàng xoay người, xoay phải vặn trái, đột nhiên tay trái biến thành hình hổ trảo, ngón tay giữa đặt trên ngực Trương Quân Bảo, nói nhỏ:

– Chiêu này toàn dựa vào bộ pháp thủ thắng, tiểu huynh đệ nhớ chưa?

Trương Quân Bảo gật đầu, nói:

– Nhớ rồi!

Cậu ta nhẩm lại trong óc một lần, rồi bước tới trước mặt Doãn Khắc Tây.

Lúc Dương Quá dạy chiêu số, Doãn Khắc Tây nhìn rõ rành rành, nghĩ bụng: “Ba chiêu này quả thật tinh diệu, nếu là Dương Quá nhà ngươi đột nhiên thi triển đánh ta, thì ta cũng khó chống đỡ, nhưng nhà ngươi đã diễn trước mặt ta, lại để cho thằng nhãi con không biết võ công kia thi triển, nếu ta không đối phó nổi, chẳng hóa ra Doãn Khắc Tây này ngu xuẩn quá sao. Dương Quá ơi là Dương Quá, nhà ngươi coi thường người khác quá đấy”. Hắn bực tức nên cũng không cần nghĩ sâu, thấy Trương Quân Bảo đến gần, không đợi cậu ta xuất chiêu, liền giáng một quyền vào vai cậu ta. Trương Quân Bảo sợ lẫn lộn chiêu số Dương Quá vừa dạy, thấy đối phương đấm tới đành nghiến răng chịu đau không tránh. Doãn Khắc Tây một quyền này cốt trước tiên đánh gục uy thế, nên sử dụng năm thành kình lực, khiến xương vai Trương Quân Bảo kêu lách cách. Trương Quân Bảo vừa kêu đau, vừa thi triển chiêu thứ nhất “Thôi tâm trí phúc”.

Lúc Dương Quá truyền thụ quyền pháp cho Trương Quân Bảo, Doãn Khắc Tây đã nhìn rất rõ, nên đã có cách ứng phó, quyết làm cho Trương Quân Bảo sứt đầu chảy máu, không còn khả năng thi triển chiêu thứ hai, thứ ba nữa. Ai ngờ chiêu “Thôi tâm trí phúc” này Trương Quân Bảo lúc thi triển phương vị lại tả hữu hỗ điều, ngược hẳn với Dương Quá. Doãn Khắc Tây gạt ngang cùi chỏ bên trái, tưởng có thể gạt hữu chưởng của Trương Quân Bảo, không ngờ chỉ gạt vào khoảng không, hự một tiếng, bị trúng luôn một quyền, tay phải lại chộp vào khoảng không, bụng dưới lại trúng một chưởng, chỉ cảm thấy nội tạng đảo lộn, toàn thân vã mồ hôi lạnh, hai đòn quả không nhẹ chút nào. Nếu hắn không tự cho mình giỏi, cứ chờ Trương Quân Bảo xuất chiêu rồi hãy chiết giải, thì quyền pháp sở học của Trương Quân Bảo dẫu có tinh diệu, cậu ta cũng chưa thể xuất chiêu nhanh như chớp, Doãn Khắc Tây hoàn toàn có thể hóa giải; giả dụ có bị trúng một quyền, thì cũng tránh được đòn thứ hai.

Trương Quân Bảo một chiêu đắc thủ, phấn chấn hẳn lên, tiến lên một bước, thi triển chiêu thứ hai “Tứ thông bát đạt”. Chiêu này tuy chỉ là một chiêu quyền pháp, nhưng hàm chứa bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, tám cửa Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Tử, Cảnh, Kinh, Khai. Doãn Khắc Tây bụng đau chưa đỡ, thấy cậu bé lại sấn tới tấn công, vừa rồi hắn bị trúng đòn, đã ngộ ra rằng quyền pháp Dương Quá truyền thụ là theo kiểu tả hữu hỗ điều, cứ tưởng chiêu này cũng hoán đổi phương vị, thấy cậu bé xuất thủ cực nhanh, bèn bước sang trái phóng quyền đánh trước. Hắn đâu ngờ chiêu này phương vị không hề tả hữu hỗ điều. Hắn liệu địch đã sai, có khác gì bị trói chân trói tay, khi xuất chiêu lại toàn đánh vào khoảng không, còn chính hắn thì lại bị trúng chưởng liên tiếp ở vai trái, chân phải, trước ngực, sau lưng. May mà Trương Quân Bảo đánh nhanh quá chưa kịp vận nội lực, nên Doãn Khắc Tây bị trúng bốn chưởng không đau mấy, chỉ luống cuống chân tay mà thôi.

Giác Viễn bỗng gọi:

– Doãn cư sĩ, vừa rồi cư sĩ nhầm lẫn. Nên biết trước sau phải trái hoàn toàn không định hướng, ra đòn sau chế ngự được người, kẻ ra đòn trước bị người chế ngự.

Dương Quá nghĩ: “Vị hòa thượng này hiểu rất sâu diệu lý quyền thuật, câu vừa nói giúp mình không ít. Ra đòn sau chế ngự được người, kẻ ra đòn trước bị người chế ngự, cái lý này trước đây mình chỉ hiểu lờ mờ. Khi đệ tử của hòa thượng giao đấu với kẻ khác, hòa thượng lại đi chỉ điểm cho đối phương, kể cũng lạ thật”. Nhưng chàng lại nghĩ: “Doãn Khắc Tây có ngẫm nghĩ dăm ba năm, cũng chưa hiểu ra đạo lý ấy đâu”.

Doãn Khắc Tây nghe Giác Viễn, đâu nghĩ rằng Giác Viễn vừa vô tình thổ lộ quyết khiếu võ học thượng thừa, chỉ cho rằng Giác Viễn cố ý nói nhăng nói cuội để làm rối trí hắn, bèn quát:

– Lão giặc trọc, nói thối lắm. Úi chao…

Tiếng “Úi chao” là do hắn bị trúng một cước của Trương Quân Bảo vào chân trái. Hắn cuồng nộ, giơ cao song chưởng, vận mười thành kình lực mà đánh xuống.

Trương Quân Bảo chưa kịp sử chiêu thứ ba, dưới ánh trăng chỉ thấy râu tóc đối phương dựng nguợc, một luồng chưởng lực nặng như núi đè xuống đỉnh đầu, vội kêu:

-Thôi chết!

Định nhảy lùi lại thì toàn thân đã bị chưởng lực bao trùm.

Giác Viễn nói:

– Quân Bảo, lực của ta tiếp lực của người, trong cong cầu thẳng, mượn lực đánh người phải dùng phép bốn lạng gạt ngàn cân.

Mấy câu nhắc của Giác Viễn đúng là tinh nghĩa của quyền học trong “Cửu Dương chân kinh”, tiếc rằng nói ra quá muộn, rơi vào tình thế này, Trương Quân Bảo dù có thông minh tuyệt đỉnh cũng không thể nào hiểu ngay để dùng nó hoá giải chưởng lực của kẻ địch. Lúc này cậu ta bị chưởng lực của Doãn Khắc Tây đè cho ngộp thở, đầu óc trống rỗng, toàn thân lạnh toát như rơi vào hố băng.

Doãn Khắc Tây bị trúng đòn liên tiếp, nên dốc toàn lực vào chưởng này, quyết hạ gục gã thiếu niên cứ bám lấy hắn không buông, dù đám người kia có tha cho hắn hay không cũng thây kệ, gì thì cũng phải rửa cái nhục với gã thiếu niên vô danh tiểu tốt này. Sắp đắc thắng, hắn bỗng nghe “chíu”, một viên sỏi bay ngang tới má trái của hắn, viên sỏi tuy nhỏ, song kình lực mạnh đáng sợ. Doãn Khắc Tây đành lùi lại tránh né.

Viên sỏi chính là được Dương Quá dùng công phu “Đạn chỉ thần thông” bắn tới, trước khi bắn viên sỏi, chàng đã ngắt mấy đóa hoa tươi, vo thành viên tròn, lúc viên sỏi bay đi, chàng cũng búng luôn mấy viên tròn đó. Viên sỏi bay ngang tới má trái của Doãn Khắc Tây, còn mấy viên tròn đó thì bay sượt qua sau lưng hắn. Doãn Khắc Tây bị viên sỏi buộc phải lùi lại một bước, huyệt Đại Chùy ở sau gáy hắn liền bị “viên hoa” đánh dấu.

Nếu Dương Quá búng mấy “viên hoa” trúng vào huyệt đạo, mấy “viên hoa” ấy tuy nhỏ, cũng tất có kình phong, Doãn Khắc Tây sẽ tránh được. Đằng này chàng chỉ búng sượt qua, chạm vào áo mà đánh dấu vị trí huyệt bằng nước hoa màu hồng, Doãn Khắc Tây không cảm thấy gì hết.

Doãn Khắc Tây lùi lại, sức ép chưởng lực đè xuống thân thể Trương Quân Bảo lập tức mất đi, cậu ta liền bước sang mé tây một bước, thi triển chiêu thứ ba “Lộc tử thùy thử” mà Dương Quá đã dạy.

Doãn Khắc Tây ngẩn người, nghĩ: “Chiêu thứ nhất nó hoán đổi phương vị phải trái, chiêu thứ hai bỗng nhiên không hoán đổi, còn chiêu này ta không thể lỗ mãng, phải nhìn rõ thế quyền đánh tới đâu mà đối phó”. Hắn nghĩ thế không sai, chỉ tiếc là sớm đã nằm trong dự liệu của Dương Quá. Khi truyền thụ chiêu này, Dương Quá đã đoán rằng nhất định hắn sẽ chậm lại, nhưng thời cơ chỉ trong giây lát, chiêu “Lộc tử thùy thử (Hươu chết sẽ vào tay ai?) này phải thần tốc, cổ nhân có câu “Hươu đã trúng tên, thiên hạ cùng đuổi theo”, há có thể do dự chậm trễ?

Trương Quân Bảo nhào bên trái ngoặt sang phải, đã vòng ra sau lưng Doãn Khắc Tây; lúc này ánh trăng chiếu vào lưng hắn, thấy rõ trên cổ áo có vết màu hồng to bằng đốt ngón tay. Trương Quân Bảo nghĩ: “Dương cư sĩ thần thông quảng đại, không thấy cư sĩ bước tới đây làm sao có thể đánh dấu sau lưng hắn?” Bèn không kịp suy nghĩ, dùng ngón tay trái gập thành hình hổ trảo, ấn mạnh xuống chỗ đánh dấu. Huyệt Đại Chùy này rất hệ trọng, là nơi giao hội của Thủ, Túc Tam Dương Đốc mạch, ở đốt sống lưng thứ nhất, bên dưới ba đốt cổ gáy. Thân người có hai mươi bốn đốt sống lưng, Y kinh thời cổ nói là ứng với hai mươi bốn tiết khí, huyệt Đại Chùy là tiết khí thứ nhất. Huyệt Đại Chùy của Doãn Khắc Tây bị ấn mạnh, chân tay hắn tê dại, hai gối mềm nhũn, tức thời khuỵu xuống.

Mọi người đứng xem đều hoan hô, trừ một mình Tiêu Tương Tử.

Trương Quân Bảo thấy kẻ địch đã không thể chống cự, bèn nói:

– Đắc tội!

Rồi đưa tay lục soát khắp người Doãn Khắc Tây một hồi, nhưng không thấy kinh “Lăng Già” đâu cả.

Trương Quân Bảo ngẩng lên nhìn Tiêu Tương Tử. Tiêu Tương Tử đã hiểu ý cậu bé, nghĩ bụng võ công hắn tương đương Doãn Khắc Tây, Doãn Khắc Tây đã bị gã thiếu niên này hạ nhục, thì hắn biết đối phó cách gì hay hơn?

Bèn vỗ vỗ áo mấy cái, nói:

– Trên người ta cũng không có kinh thư, hẹn ngày sau gặp lại.

Rồi hắn lao vút đi về mạn tây nam.

Giác Viễn phẩy tay áo một cái, đã chắn trước mặt hắn. Tiêu Tương Tử nảy sinh ác niệm, hắn hít một hơi, vận toàn bộ nội kình mà hắn khổ luyện được trong thâm sơn vào song chưởng, một luồng âm phong ngần ngật ập tới ngực Giác Viễn.

Dương Quá, Chu Bá Thông, Nhất Đăng, Quách Tĩnh bốn người cùng kêu lên:

– Hãy cẩn thận!

Chỉ nghe “bình” một tiếng, ngực Giác Viễn đã trúng chưởng, ai nấy thầm thốt lên: “Nguy rồi!” Song chỉ thấy Tiêu Tương Tử bay văng đi mấy trượng như một cái diều đứt dây, rồi rơi xuống đất, nằm co quắp ngất lịm. Thì ra Giác Viễn không biết võ công, song chưởng của Tiêu Tương Tử giáng vào người Giác Viễn, Giác Viễn đã không thể chống đỡ, cũng không biết tránh né, chỉ đứng chịu trận, nhưng Giác Viễn tu tập “Cửu Dương chân kinh” đã tới mức đại thành, chân khí trong người lưu chuyển, địch yếu mình yếu, địch mạnh thì mình mạnh. Chưởng lực đánh vào người Giác Viễn bật ngược cả lại, thành thử Tiêu Tương Tử coi như dùng công lực cả đời mà đánh chính mình, làm sao không bị trọng thương?

Mọi người vừa kinh ngạc vừa vui mừng, cùng tấm tắc khen Giác Viễn nội lực mạnh mẽ. Nhưng Giác Viễn không hiểu, chỉ nói:

– A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!

Trương Quân Bảo cúi xuống lục soát khắp người Tiêu Tương Tử, cũng không thấy kinh thư.

Dương Quá nói:

– Lúc nãy tại hạ nghe hai tên gian tặc này nói chuyện với nhau, bộ kinh thư chúng đã lấy trộm được rồi, chỉ không biết chúng giấu ở chỗ nào mà thôi.

Võ Tu Văn nói:

– Chúng ta hãy tra khảo chúng một phen, xem chúng có chịu khai ra hay không.

Giác Viễn nói:

– Tội quá tội quá, nhất định không nên làm như vậy.

Hoàng Dung nói:

– Hạng người như chúng, có chặt tay chặt chân chúng cũng không chịu khai ra đâu, tra khảo chỉ vô ích.

Lúc ấy bỗng nghe ở dốc núi mé tây có tiếng chân vượn rầm rập. Mọi người ngoảnh nhìn, thấy Thần điêu của Dương Quá đang vẫy cánh xua đuổi một con vượn màu xám nhạt. Con vượn này to lớn lạ lùng, nhưng nó sợ Thần điêu hung dữ, không dám đánh nhau, cứ chạy qua chạy lại, kêu lên kinh hãi. Quách Tương thấy nó đáng thương, bèn gọi:

– Điêu đại ca, tha cho con vượn kia đi.

Thần điêu cụp cánh vào, đứng lại, vẻ oai vệ.

Doãn Khắc Tây đứng dậy, dìu Tiêu Tương Tử, vẫy vẫy con vượn. Con vượn chạy tới bên hắn, tựa hồ nó được Doãn Khắc Tây thuần dưỡng. Hai người một vượn thong thả khập khiễng đi xuống núi. Mọi người thấy tình cảnh ấy, cảm thấy thương hại, cũng không gây khó dễ với hai tên kia nữa.

Quách Tương ngoảnh lại, thấy vết thương ở trán Trương Quân Bảo vẫn chưa cầm máu, bèn rút chiếc khăn tay băng bó cho cậu ta.

Trương Quân Bảo cảm kích, định lên tiếng cảm tạ, nhưng thấy Quách Tương rơm rớm nước mắt, thì trong bụng lấy làm lạ, không biết vì sao cô nương ấy lại đau lòng, thành thử không nói nữa.

Chỉ nghe tiếng nói dõng dạc của Dương Quá:

– Cuộc gặp gỡ hôm nay thật là hào hứng. Sau này giang hồ tương hội, sẽ lại uống rượu chuyện trò. Chúng ta tạm biệt ở đây.

Nói rồi chàng phất tay áo, nắm tay Tiểu Long Nữ, cùng Thần điêu sánh vai nhau đi xuống núi.

Lúc này trăng sáng, gió nhẹ rì rào, Quách Tương không nhịn được nữa, lệ ứa ra thành hai hàng trên má.

Chính là:

Mùa thu con gió trong veo

Mùa thu trăng sáng dõi theo bóng nàng

Lá bay kìa hợp rồi tan

Lạnh lùng quạ khóc mênh mang đêm trường

Bao giờ gặp lại người thương

Đêm nay tình ấy tỏ tường cùng ai

[Bộ tiểu thuyết này đến đây là hết. Các nhân vật Quách Tương, Trương Quân Bảo, Giác Viễn, sự tích “Cửu Dương chân kinh” sẽ được kể tiếp trong bộ tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long ký ]

Hết

Viết thêm

“Thần điêu hiệp lữ” được đăng tải lần đầu tiên tờ “Minh báo” ngày 20 tháng 5 năm 1959. Bộ tiểu thuyết được đăng báo chừng ba năm, cũng là được viết trong ba năm. Ba năm ấy là giai đoạn mới ra mắt và gian khổ nhất của tờ “Minh báo”. Khi tôi sửa lại, hầu như ở mỗi đoạn tôi đều nghĩ đến tình cảnh vất vả mà tôi cùng mấy vị đồng sự từng gánh chịu năm xưa.

“Thần điêu hiệp lữ” muốn thông qua nhân vật Dương Quá miêu tả sự trói buộc của tập tục lễ giáo thế gian đối với tâm linh và hành vi của con người. Tập tục lễ giáo đều mang tính chất tạm thời, nhưng trong thời gian tồn tại, chúng có một sức mạnh xã hội cực kỳ mạnh mẽ. Quan niệm thày trò không được kết hôn, trong ý nghĩ của con người hiện đại dĩ nhiên đã không còn tồn tại, song vào thời đại của Quách Tĩnh, Dương Quá, thì đó là thiên kinh địa nghĩa. Liệu rằng rất nhiều tập tục qui định mà thời nay chúng ta coi là thiên kinh địa nghĩa, vài trăm năm nữa có thể sẽ bị người ta cho là hoàn toàn vô nghĩa hay chăng?

Quy phạm đạo đức, chuẩn mực hành vi, phong tục tập quán là các mô hình hành vi xã hội thường tùy thời đại mà thay đổi, song tính cách và tình cảm của con người thì thay đổi rất chậm. Niềm vui, nỗi buồn, niềm đau, nỗi nhớ trong Kinh Thi ba ngàn năm trước, so với tình cảm của chúng ta thời nay hoàn toàn không có khác biệt gì lớn. Bản thân tôi thủy chung cảm thấy trong bộ tiểu thuyết, tính cách và tình cảm của con người quan trọng hơn rất nhiều so với ý nghĩa xã hội. Quách Tĩnh nói:“Vì nước vì dân mới là bậc đại hiệp”. Câu này đến thời đại ngày nay vẫn có ý nghĩa tích cực lớn lao. Nhưng tôi tin chắc rằng trong tương lai, giới hạn quốc gia nhất định sẽ bị xóa bỏ, khi đó những quan niệm như “yêu nước”, “chống địch” sẽ chẳng còn ý nghĩa gì đáng kể. Còn những tình cảm và phẩm đức, như tình ruột thịt giữa cha mẹ con cái anh em, tình bạn chân thành, tình yêu nam nữ, chính nghĩa, nhân thiện, dũng cảm cứu người, hiến thân cho xã hội v.v… tôi tin rằng từ nay trở đi trong một thời gian lâu dài vẫn sẽ được mọi người ca ngợi, mà có lẽ không một thứ lý luận chính trị, chế độ kinh tế, cải cách xã hội, tín ngưỡng tôn giáo nào thay thế được.

Truyện tiểu thuyết võ hiệp không tránh khỏi sự ly kỳ và trùng hợp quá mức. Tôi chỉ cố làm sao để chuyện võ công có thể không thành sự thực, nhưng tính cách con người thì cần phải thành sự thực. Chuyện li hợp của Dương Quá và Tiểu Long Nữ quá ly kỳ, tựa hồ toàn do ý trời và sự trùng hợp, thực ra nên coi đó là kết quả của tính cách hai người. Hai người ấy nếu không chung tình đến mức ấy, cả hai nhất định sẽ không nhảy xuống sơn cốc, Tiểu Long Nữ nếu tính cách không lạnh lùng, nhất định sẽ khó lòng sống một mình dưới đáy sơn cốc mười sáu năm trời. Dương Quá nếu không chí tình như thế, tất nhiên cũng sẽ không thủy chung suốt mười sáu năm, dù chết cũng không hối hận. Đương nhiên, nếu dưới đáy sơn cốc không phải là đầm sâu, mà là nham thạch cả, thì hai người nhảy xuống đó sẽ tan xương nát thịt, chỉ chết cùng một chỗ mà thôi. Thế sự ngẫu hợp biến ảo, thành bại cùng thông tuy có liên quan đến cơ duyên, vận khí, có may rủi, nhưng suy cho cùng, vẫn là do tính cách con người mà ra.

Giống quái điểu Thần điêu không có trong thế giới hiện thực. Ở đảo Madagasca châu Phi có một loài “chim voi” (Aepyornistitan) thân cao hơn mười thước Anh, trọng lượng một ngàn pound (khoảng 450 kg), là loài chim lớn nhất thế giới, đã tuyệt chủng vào khoảng năm 1660. Loài “chim voi” này chân rất nhỏ, thể trọng quá lớn, không thể bay được. Trứng của loài “chim voi” to gấp sáu lần trứng đà điểu. Tại Viện bảo tàng New York, tôi đã nhìn thấy trứng hóa thạch của loài “chim voi”, to hơn cái ấm tích một chút. Nhưng tôi tin rằng trí khôn của loài “chim voi” nhất định rất thấp.

Bản “Thần điêu hiệp lữ” đã tu sửa này có một số thay đổi không thật lớn, chủ yếu là bổ sung những chỗ bị bỏ sót trong nguyên tác.

Tháng 5 năm 1976

Tổng hợp các mốc thời gian trong truyện kiếm hiệp Kim Dung

Là một tiểu thuyết gia yêu thích lịch sử, những tác phẩm của Kim Dung thường gắn liền với những mốc thời gian có thật.

Mốc thời gian dưới đây được tham khảo và tổng hợp từ post của ADM: Hà Túc Đạo trên fanpage Kiếm Hiệp Kim Dung.

  • Năm 483 TCN, Tây Thi tới nước Ngô, Phạm Lãi gặp được A Thanh. A Thanh truyền thụ kiếm pháp cho các kiếm sĩ nước Việt.
  • Năm 476 TCN, nước Ngô bị tiêu diệt. Phạm Lãi đi ẩn cư cùng với Tây Thi, A Thanh ra đi.
  • Năm 527, cao tăng Thiên Trúc – Đạt Ma thiền sư tới Trung thổ truyền giáo, sáng lập thiền tông Trung Quốc. Ông ở lại Thiếu Lâm Tự 9 năm.
  • Năm 536, Đạt Ma tổ sư qua đời.
  • Năm 554, Vũ Văn Thái nhà Tây Ngụy công phá thành Giang Lăng (nay là Kinh Châu), Nguyên đế nhà Lương cất giữ kho báu tại Thiên Ninh Tự, đây chính là kho báu “Liên thành quyết.”
  • Cuối nhà Tùy, Lý Tĩnh lĩnh ngộ võ học bí truyền “Dịch cân kinh”.
  • Năm 640, Hầu Quân Tập công phá Cao Xương quốc.
  • Năm 694, Minh Giáo được truyền tới Trung thổ.
  • Cuối nhà Đường, danh gia kiếm thuật Gia Hưng cải tiến Việt Nữ kiếm pháp.
  • Năm 877, Cái Bang thành lập.
  • Năm 907, nhà Đường diệt vong, Da Luật A Bảo Cơ thành lập Khiết Đan
  • Năm 937, Đoàn Tư Bình khai quốc Đại Lý
  • Năm 936 – 946, Pháp Huệ thiền sư của Thiếu Lâm Tự luyện thành Nhất chỉ thiền.
  • Năm 960, Triệu Khuông Dẫn lật đổ nhà Chu, bắt đầu thời kỳ nhà Tống.
  • Năm 1030, Mộ Dung Bác chào đời.
  • Năm 1038, nước Tây Hạ thiết lập.
  • Năm 1047, Mộ Dung Bác đánh bị thương Hoàng My Tăng
  • Năm 1051, Vô Danh Thần Tăng đến Thiếu Lâm Tự
  • Năm 1061, gia đình Tiêu Viễn Sơn gặp đại nạn ở Nhạn Môn Quan ngoại.
  • Năm 1062, Tiêu Viễn Sơn học trộm võ công tại Thiếu Lâm Tự
  • Năm 1063, Đinh Xuân Thu ám toán ân sư Vô Nhai Tử
  • Năm 1064, Mộ Dung Phục chào đời
  • Năm 1065, Người sáng lập Minh Giáo Ba Tư, Hoắc Sơn chế tạo Thánh Hỏa Lệnh, đem tinh hoa võ học cả đời khắc lên trên.
  • Năm 1069, Hư Trúc chào đời.
  • Năm 1071, Đoàn Dự chào đời.
  • Năm 1072, Mộ Dung Bác đánh bị thương Thôi Bách Tuyền.
  • Năm 1074, A Châu chào đời.
  • Năm 1083, Kiều Phong tiếp nhiệm tân bang chủ Cái Bang
  • Năm 1090, Cưu Ma Trí đại chiến Sùng Thánh Tự (Đại Lý)
  • Năm 1091, Kiều Phong rời khỏi Cái Bang. Năm 1092, đại chiến Tụ Hiền Trang.
  • Năm 1093, Kiều Phong trợ giúp cho Gia Luật Hồng Cơ lật đổ cuộc tạo phản của Hoàng Thái Thúc. Vô Nhai Tử tạ thế, Hư Trúc trở thành tân chưởng môn Tiêu Dao phái. Cùng năm, nước Tây Hạ chiêu vi phò mã.
  • Năm 1094, Đoàn Chính Minh nhường ngôi cho Đoàn Dự. Tiêu Phong tự vẫn.
  • Năm 1103, Nhạc Phi chào đời
  • Năm 1112, Vương Trùng Dương chào đời.
  • Năm 1115, Hoàn Nhan A Cốt Đả khai quốc Đại Kim
  • Năm 1120, Hoàng Thường khiêu chiến Minh Giáo
  • Năm 1125, Kim Quốc diệt Liêu.
  • Năm 1127, Kim Quốc diệt Bắc Tống.
  • Năm 1127 – 1130, Linh Hưng thiền sư của Thiếu Lâm Tự mất 39 năm để luyện thành Nhất chỉ thiền
  • Năm 1140, Độc Cô Cầu Bại sáng tạo ra thức thứ 9 Phá Khí Thức của Độc Cô Cửu Kiếm.
  • Năm 1141, Nhạc Phi viết Võ Mục Di Thư
  • Năm 1158, Đoàn Trí Hưng chào đời
  • Năm 1163, Chu Bá Thông chào đời.
  • Năm 1164, Hoàng Thường hoàn thành Cửu Âm Chân Kinh. Hồng Thất Công chào đời.
  • Năm 1168, Âu Dương Phong chào đời
  • Năm 1170, Độc Cô Cầu Bại tạ thế.
  • Năm 1171, Hoàng Dược Sư chào đời.
  • Năm 1173, Khúc Linh Phong chào đời.
  • Năm 1178, Cửu Thiên Nhận chào đời.
  • Năm 1183, Kim Luân Pháp Vương chào đời.
  • Năm 1184, Chu Tử Liễu chào đời.
  • Năm 1186, Trần Huyền Phong, Âu Dương Khắc chào đời.
  • Năm 1190, Hỏa Công Đầu Đà sát hại hàng loạt tăng lữ Thiếu Lâm.
  • Năm 1196, Vương Trùng Dương tái nhập Cổ mộ, khắc bộ Cửu Âm Chân Kinh trên hòm quan tài, lưu lại dòng chữ “Ngọc nữ tâm kinh, dục thắng toàn chân, trọng dương nhất sinh, bất nhược vu nhân”. Một ngày sau, Vô Danh Tăng cùng Vương Trùng Dương đấu rượu xem tham duyệt Cửu Âm sang Cửu Dương; hoạn quan trong triều Nam Tống sáng lập Quỳ hoa bảo điển.
  • Năm 1200, Hoa Sơn luận kiếm 1
  • Năm 1203, Vương Trùng Dương tạ thế.
  • Năm 1205, Quách Tĩnh chào đời
  • Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn khai lập Mông Cổ.
  • Năm 1208, Hoàng Dung chào đời.
  • Năm 1226, Dương Quá chào đời
  • Năm 1227, Hoa Sơn luận kiếm 2. Mông Cổ diệt Tây Hạ. Thành Cát Tư Hãn tạ thế
  • Năm 1234, nước Kim bị Mông Cổ tiêu diệt.
  • Năm 1235, cao thủ Minh Giáo dựa theo tuyệt kĩ Đẩu Chuyển Tinh Di của Mộ Dung Long Thành mà tạo nên môn thần công có uy lực hơn là Càn Khôn Đại Na Di.
  • Năm 1243, Âu Dương Phong & Hồng Thất Công tạ thế; Dương Quá và Tiểu Long Nữ dùng song kiếm hợp bích đánh bại Kim Luân Pháp Vương, Dương Quá học Đạn chỉ thần công.
  • Năm 1247, Trương Tam Phong chào đời.
  • Năm 1253, Mông Cổ diệt Đại Lý quốc.
  • Năm 1257, Thạch giáo chủ Minh Giáo bị Cái Bang đoạt mất Thánh hỏa lệnh.
  • Năm 1259, Dương Quá phi đá giết chết đại hãn Mông Cổ. Hoa Sơn luận kiếm 3.
  • Năm 1262, Quách Tương du Thiếu Lâm.
  • Năm 1271, Hốt Tất Liệt đổi tên Mông Cổ quốc thành Đại Nguyên.
  • Năm 1273, Quách Tĩnh & Hoàng Dung chết trận ở thành Tương Dương.
  • Năm 1276, Mông Cổ tấn công đô thành Lâm An của nhà Nam Tống.
  • Năm 1296, sư vương Tạ Tốn chào đời.
  • Năm 1317, Tạ Tốn bái sư phụ Thành Côn, gia nhập Minh Giáo.
  • Năm 1318, Ân Lê Đình, lục đệ tử phái Võ Đang chào đời.
  • Năm 1323, Thành Côn giết cả nhà Tạ Tốn.
  • Năm 1336, Tạ Tốn và vợ chồng Trương Thúy Sơn đến đảo Băng Hỏa.
  • Năm 1337, đại thọ 90 của Trương Tam Phong. Trương Vô Kỵ chào đời.
  • Năm 1338, quân Nguyên tiêu diệu nghĩa quân Minh Giáo ở Viên Châu, Thường Ngộ Xuân, Bành Oánh Ngọc may mắn chạy thoát.
  • Năm 1339, Chu Chỉ Nhược chào đời.
  • Năm 1340, Con gái Nhữ Dương Vương là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ chào đời, Nguyên đế phong là “Triệu Mẫn quận chúa”.
  • Năm 1341: Tiểu Chiêu chào đời.
  • Năm 1346, đại thọ 100 tuổi của Trương Tam Phong. Phu thê nhà Trương Thúy Sơn tự vẫn.
  • Năm 1351, Trương Vô Kỵ luyện Cửu Dương Chân Kinh
  • Năm 1357, lục đại môn phái vây đánh Minh Giáo. Trương Vô Kỵ trở thành giáo chủ Minh Giáo. Trương Tam Phong sáng tạo ra Thái Cực Thần Công.
  • Năm 1358: Tiểu Chiêu trở về Ba Tư.
  • Năm 1359, Thiếu Lâm đồ sư anh hùng hội, Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính tạ thế.
  • Năm 1360, Trương Vô Kỵ thoái ẩn giang hồ. Dương Tiêu trở thành giáo chủ đời thứ 35 của Minh Giáo.
  • Năm 1365, Minh Giáo tả sứ Phạm Dao dựa vào Bắc Minh Thần Công và Hóa Công Đại Pháp rồi sáng tạo ra Hấp Tinh Đại Pháp.
  • Năm 1368, Minh triều diệt Nguyên Triều
  • Năm 1372, Dương Tiêu tạ thế. Nội bộ Minh Giáo xảy ra lục đục. Các cao nhân trong giáo quyết định cải tổ, đổi tên giáo thành Nhật Nguyệt Thần Giáo.
  • Năm 1400, Quỳ Hoa Bảo Điển rơi vào tay Hồng Diệp thiền sư của Nam Thiếu Lâm.
  • Năm 1401, Thái-Nhạc xem trộm Quỳ Hoa Bảo Điển. Lâm Viễn Đồ sau khi xem bản thiếu của Quỳ Hoa Bảo Điển mà sáng tạo nên Tịch Tà Kiếm Phổ.
  • Năm 1402, Hoa Sơn bị phân liệt thành khí tông kiếm tông.
  • Năm 1406, 10 trưởng lão Nhật Nguyệt thần giáo phá Ngũ nhạc kiếm pháp.
  • Năm 1420, Nhật Nguyệt thần giáo tập kích núi Võ Đang, bộ Thái Cực Quyền Kinh và Chân Võ Kiếm do Trương Tam Phong viết tay bị lấy mất
  • Năm 1458, Thái Cực tông sư Trương Tam Phong tạ thế, hưởng thọ 212 tuổi (theo “Cổ kim Thái Cực Quyền phổ cập nguyên lưu xiển bí”, Lý Sư Dung khảo chứng)
  • Năm 1469, Lệnh Hồ Xung chào đời.
  • Năm 1479, phe Kiếm tông và Khí tông phái Hoa Sơn tranh giành.
  • Năm 1486, Nhậm Doanh Doanh chào đời.
  • Năm 1493, Đông Phương Bất Bại trở thành giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo.
  • Năm 1503, Dư Thương Hải tiêu diệt Phúc Uy Tiêu Cục
  • Năm 1504, Lệnh Hồ Xung học được Độc Cô Cửu Kiếm
  • Năm 1506, Nhậm Ngã Hành tạ thế
  • Năm 1509, Lệnh Hồ Xung & Nhậm Doanh Doanh kết thành phu thê, tiếu ngạo giang hồ.
  • Năm 1610, Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi gặp họa diệt môn.
  • Năm 1612, Hạ Tuyết Nghi giành được tam bảo trấn giáo của Ngũ Tiên Giáo.
  • Năm 1623, Viên Thừa Chí chào đời.
  • Năm 1644, Viên Thừa Chí, con trai của võ tướng Viên Sùng Hoán đã lãnh đạo hào kiệt trong giang hồ giúp Lý Tự Thành công phá thành Bắc Kinh, nhà Minh bị diệt. Ngô Tam Quế đầu hàng Thanh, vợ chồng Lý Nham tự sát. Cùng năm, Viên Thừa Chí, Hạ Thanh Thanh dẫn đầu người thân và thuộc hạ chạy trốn đến Nam Dương – Singapore ngày nay.
  • Năm 1645, giữa mùa hè, dưới sự truy sát của quân Thanh, quân chủ lực của Lý Tự Thành thất bị lui về huyện Thông Thành, Hồ Bắc. Một ngày, Lý Tự Thành mang số binh ít ỏi đi thị sát về phía nam huyện, bởi vì ngủ say trong Miếu Huyền Đế, Cửu Cung Sơn nên bị nông dân họ Khương ngộ sát, hưởng thọ 39 tuổi.
  • Năm 1655, Vi Tiểu Bảo được sinh ra ở Dương Châu.
  • Năm 1669, Khang Hy cùng Vi Tiểu Bảo bắt Ngao Bái.
  • Năm 1670, Vi Tiểu Bảo trở thành Thanh Mộc Đường hương chủ của Thiên Địa Hội.
  • Năm 1698, chưởng môn phái Vũ Đường, Lục Phỉ Thanh chào đời.
  • Năm 1711, hoàng đế Ung Chính cùng nhà họ Trần ở Hải Ninh đánh tráo con gái vừa sinh ra. Ái Tân Giác La Hoằng Lịch chính là con của nhà họ Trần ở Hải Ninh, Chiết Giang.
  • Năm 1733, Trần Gia Lạc chào đời.
  • Năm 1735, Ái Tân Giác La Hoằng Lịch đăng cơ, niên hiệu Càn Long.
  • Năm 1753, Miêu Nhân Phụng & Hồ Nhất Đao quyết chiến. Hồ Phỉ chào đời.
  • Năm 1758, Hồng hoa hội giam cầm Càn Long tại Lục Hòa tháp và ép Càn Long phải thừa nhận thân thế của mình.
  • Năm 1759, Hương Hương công chúa tự sát ở thành Bắc Kinh
  • Năm 1780, Miêu Nhân Phụng và Hồ Phỉ quyết đấu
  • Năm 1924, Kim Dung chào đời.

Hồi 01: Tai họa bất ngờ

Nước sông Tiền Đường mênh mông, ngày đêm vòng qua thôn Ngưu Gia ở Lâm An không ngừng chảy ra biển lớn. Một dãy vài mươi cây bách ven sông lá đỏ như lửa, đang lúc tháng tám. Đồng cỏ quanh thôn đang bắt đầu úa vàng, dưới ánh tà dương càng thêm mấy phần hoang liêu.

Dưới hai gốc tùng lớn có một đám thôn dân, đàn ông đàn bà và khoảng mười mấy đứa trẻ con đang tập trung lắng nghe một ông già gầy gò kể chuyện. Người kể chuyện khoảng năm mươi tuổi, mặc một chiếc trường bào màu xanh cũ đã bạc phếch biến thành màu chàm. Chỉ nghe y khua hai miếng phách gỗ hoa lê, tay trái cầm dùi đánh vào chiếc trống tiểu yết mấy tiếng “Thùng thùng”, xướng:

Đào con vô chủ tự ra hoa.

Khói cỏ mênh mông bóng ác tà

Mấy chỗ tường hoang quanh giếng cạn

Trước đây vốn vẫn chốn thôn gia

Người kể chuyện cầm phách gỗ khua lắc cắc mấy tiếng, nói:

“Bài thơ thất ngôn này nói sau cơn binh lửa, những nơi vốn là nhà cửa đều trở thành hoang vu đổ nát. Mới rồi tiểu nhân đã kể gia đình Diệp lão hán bốn người bi hoan ly hợp, họp rồi lại tan, tan rồi lại họp. Bốn người bọn họ bị quân Kim làm chia lìa, cũng may mà lại đoàn tụ được, vô cùng vui mừng trở lại cố hương thì nhà cửa đã bị quân Kim đốt sạch, không biết làm sao đành tới Biện Lương tìm cách mưu sinh. Không ngờ trời mây gió khó lường, người rủi may chớp mắt.

Bốn người bọn họ mới tới thành Biện Lương thì lại gặp một toán quân Kim kéo tới. Tên dẫn đầu đưa đôi mắt ba góc nhìn qua thấy Diệp Tam thư xinh đẹp bèn nhảy xuống ngựa ôm chặt lấy nàng hô hô cười rộ rồi nhấc nàng đặt lên ngựa, nói:

“Tiểu cô nương, theo ta về nhà hầu hạ lão gia.”

Nhưng Diệp Tam thư đời nào chịu nghe, ra sức giẫy giụa. Tên võ quan Kim binh ấy nói:

“Ngươi không chịu theo ta thì ta sẽ giết hết cha mẹ anh em ngươi!”

Rồi giơ lang nha bổng lên đập luôn một nhát vào đầu Diệp Tứ lang, lập tức xương sọ vỡ toang óc bắn tung tóe chết ngay tại chỗ. Đúng là:

Âm cảnh lại thêm hồn chết uổng,

Dương gian chẳng thấy bóng trai lành!

Diệp lão hán và vợ sợ điếng người, nhào lên phía trước ôm xác con cất tiếng khóc lớn. Tên võ quan kia lại nhấc lang nha bổng lên, mỗi nhát một mạng, tính luôn hai người. Diệp Tam thư lại không kêu khóc mà nói:

“Trưởng quan đừng nổi giận, ta theo ông về mà!”.

Tên võ quan cả mừng, đưa Diệp Tam thư đi. Không ngờ Diệp Tam thư nhân lúc y không đề phòng, đột nhiên sấn lên tuốt thanh yêu đao của y, nhắm đúng tim y một đao phóng tới, nói thì chậm chứ lúc ấy rất nhanh, một nhát đao ấy đâm ra, nàng nghĩ đã báo thù được cho cha mẹ và em, không ngờ tên võ quan ấy chinh chiến lâu năm, võ nghệ cao cường, thuận tay đẩy một cái. Diệp Tam thư lập tức bắn ra. Tên võ quan vừa mắng một câu “Con tiện nhân?” thì Diệp Tam thư đã nhấc ngọn đao lên cứa ngang cổ mình một nhát. Đáng thương cho nàng:

Dung nhan nguyệt thẹn hoa nhường

Hồn thơm phút đã cửu tuyền xa chơi.

Y kể một đoạn, xướng một đoạn, chỉ nghe đám thôn dân ai cũng nghiến răng nghiến lợi phẫn nộ than thở.

Người ấy lại nói: “Các vị khách quan, thường có câu rất hay là:

Làm người ăn ở phải hiền lành.

Ba thước trên đầu có thánh thần.

Làm ác nếu không còn báo ứng

Hung đồ đã hại hết sinh linh!

Nhưng quân Kim kia chiếm thiên hạ Đại Tống của chúng ta, giết người đốt nhà, hãm hiếp cướp bóc, không gì không làm mà vẫn không thấy chúng bị báo ứng gì cả. Chỉ trách vua quan Đại Tống chúng ta không chống lại. Trung Quốc xưa nay vốn nhiều quân lắm tướng nhưng vừa thấy quân Kim kéo tới đã hoảng hốt bỏ chạy, bỏ mặc bách tính chịu tai họa. Chuyện cả nhà gặp tai họa như gia đình Diệp Tam thư thì ở Giang Bắc quả thật có hàng ngàn hàng vạn, xảy ra như cơm bữa. Các vị sống ở Giang Nam, đúng là ở giữa thiên đường, chỉ sợ một ngày nào đó quân Kim sẽ kéo tới thôi. Đúng là thà làm chó thời bình còn hơn làm người thời loạn. Tiểu nhân là Trương Thập Ngũ, hôm nay đi ngang quý địa, câu chuyện vừa kể hầu các vị khán quan mới rồi gọi là Truyện Diệp Tam thư tiết liệt. Chuyện kể đã xong, xin phép được nghỉ.” Rồi cầm hai miếng phách gỗ hoa lê lắc cắc lắc cắc khua loạn lên một hồi, đưa ra một cái mâm gỗ.

Đám thôn dân cũng có người móc ra hai đồng ba đồng bỏ vào mâm, trong giây lát được khoảng sáu bảy mươi đồng. Trương Thập Ngũ cảm tạ, cất tiền vào tay nải, chuẩn bị lên đường.

Trong đám thôn dân có một đại hán khoảng hai mươi tuổi bước ra, nói:

– Trương tiên sinh, có lẽ ông từ phương Bắc xuống thì phải?

Trương Thập Ngũ thấy người ấy thân thể cao lớn, mày rậm mắt to, bèn nói:

– Đúng thế!

Đại hán kia nói:

– Tiểu đệ xin làm chủ, mời tiên sinh uống vài chén được không?

Trương Thập Ngũ cả mừng nói:

– Vốn không quen biết, đâu dám quấy quả.

Đại hán kia cười nói:

– Uống vài ba chén là quen thôi. Ta họ Quách, tên Khiếu Thiên.

Rồi chỉ vào một hán tử mặt mũi trắng trẻo đứng cạnh nói:

– Vị này là Dương Thiết Tâm. Dương huynh đệ. Mới rồi hai người bọn ta nghe tiên sinh kể chuyện Diệp Tam thư quả thật rất hay nên có mấy câu muốn thỉnh vấn.

Trương Thập Ngũ nói:

– Nói thế làm gì?… Nói thế làm gì? Hôm nay được gặp hai vị Quách Dương đây, cũng là có duyên.

Quách Khiếu Thiên đưa Trương Thập Ngũ tới một quán rượu nhỏ đầu thôn, cùng ngồi vào bàn.

Chủ quán là một người què, chống hai cái nạng châm rãi hâm hai vò hoàng tửu, sắp một đĩa đậu hủ, một đĩa đậu phụng rang mặn, một đĩa đậu hủ chiên, lại cắt thêm ba quả trứng muối mang ra cho bàn khách giữa cứa rồingẩng đầu nhìn mặt trời đang lặn phía chân trời, cũng không buồn nhìn ba người lấy một cái.

Quách Khiếu Thiên rót rượu mời Trương Thập Ngũ uống hai chén rồi nói:

– Đây là chỗ nhà quê, chỉ ngày mùng hai và mười sáu mới có thịt, không có gì uống rượu, xin tiên sinh đừng trách.

Trương Thập Ngũ cười nói:

– Có rượu là tốt rồi. Nghe khẩu âm của hai vị thì có lẽ cũng là người phương Bắc?

Dương Thiết Tâm nói:

– Hai anh em bọn ta vốn là người Sơn Đông. Chỉ vì không chịu nỗi sự hà hiếp của bọn chó Kim nên ba năm trước tìm tới đây, thích dân vùng này có tình nghĩa nên ngụ lại. Mới rồi nghe tiên sinh nói chúng ta ở Giang Nam cũng như đang ở thiên đường, chỉ sợ ngày nào đó quân Kim lại tới đây, ông nói quân Kim có qua sông không?

Trương Thập Ngũ thở dài nói:

– Giang Nam là trời đất phồn hoa, dưới đất đều là vàng bạc, ngước mắt là thấy gái đẹp, quân Kim ngày nào lại không muốn tới? Có điều họ tới hay không thì chủ ý không phải do nước Kim mà là do triều đình Đại Tống ở Lâm An.

Quách Khiếu Thiên và Dương Thiết Tâm đều ngạc nhiên, đồng thanh hỏi

– Sao lại lạ thế?

Trương Thập Ngũ nói:

– Bách tính Trung Quốc ta so với người Nữ Chân thì đông hơn gấp trăm lần. Chỉ cần triều đình chịu dùng trung thần lương tướng, chúng ta một trăm người đánh một người của chúng thì quân Kim làm sao chống được? Nửa mảnh giang sơn phía Bắc của Đại Tống chúng ta là do năm xưa ba cha con Huy tông, Khâm tông, Cao tông hai tay dâng lên cho người Kim thôi. Ba ông vua ấy trọng dụng gian thần, coi thường bách tính, các đại tướng ra sức chống Kim ai cách chức được thì cách chức, ai chặt đầu được thì chặt đầu, hai tay bưng giang sơn cẩm tú dâng lên, người Kim từ chối lại là không cung kính, đành phải nhận thôi. Từ nay trở đi nếu triều đình vẫn còn trọng dụng gian thần thì đó chính là quỳ xuống mời xa giá của quân Kim tới, tại sao họ không tới chứ?

Quách Khiếu Thiên giơ tay đập mạnh xuống bàn khiến cốc chén đũa bát nhảy tung lên, nói:

– Đúng thế!

Trương Thập Ngũ nói:

– Nhớ năm xưa Huy tông Đạo Quân hoàng đế dốc lòng muốn trường sinh bất lão, muốn làm thần tiên, đám gian thần được dùng loại Thái Kinh. Vương Phủ toàn là bọn vô sỉ chuyên giúp vua vơ vét, như Đồng Quán, Lương Sư Thành chỉ là bọn thái giám chuyên bợ đỡ, như Cao Cầu, Lý Bang Nhan là bọn lãng tử chuyên hầu hạ hoàng đế chơi bời. Đạo Quân hoàng đế không ngó ngàng gì tới chính sự, cả ngày nếu không cầu tiên học đạo thì phái người đi khắp nơi tìm kiếm các hoa khôi kỹ nữ. Một sớm quân Kim đánh tới trước mắt, y bó tay hết kế, co đầu rút cổ, đem ngai vàng truyền lại cho con là Khâm tông. Lúc ấy trung thần là Lý Cương đóng giữ kinh thành Biện Lương, đại tướng các nơi chỉ huy quân cần vương, quân Kim đánh không được, chỉ còn cách rút lui. Không ngờ Khâm tông nghe lời gian thần cách chức Lý Cương, lại không dùng các tướng giỏi có oai vọng quen cầm quân thì làm sao kinh thành không mất? Cuối cùng Huy tông, Khâm tông đều bị quân Kim bắt. Hai lão hôn quân ấy mình làm mình chịu cũng được đi nhưng lại làm hại lây tới hàng vạn vạn bách tính Trung Quốc chúng ta.

Quách Khiếu Thiên, Dương Thiết Tâm càng nghe càng nổi giận. Quách Khiếu Thiên nói:

– Mối nhục lớn hai vua Huy Khâm bị quân Kim bắt trong niên hiệu Tỉnh Khang chúng ta đã nghe nhiều rồi. Thiên thần thiên tướng gì đó cũng nghe nói qua, chỉ là chuyện nói cho vui, chứ chẳng lẽ lại có thật sao?

Trương Thập Ngũ nói:

– Lại còn giả à?

Dương Thiết Tâm nói:

– Về sau Khang vương ở Nam Kinh nối ngôi làm vua, thủ hạ có các đại tướng như Hàn Thế Trung, Nhạc gia gia, vốn hoàn toàn có thể ra quân Bắc phạt, cho dù không đánh thẳng tới sông Hoàng Long được thì muốn thu phục kinh thành Biện Lương cũng chẳng khó gì? Chỉ hận thằng gian tặc Tần Cối chỉ muốn nghị hòa, hại chết Nhạc gia gia.

Trương Thập Ngũ rót rượu cho hai người Quách, Dương rồi rót cho mình một chén, uống cạn một hơi, nói:

– Nhạc gia gia có hai câu thơ là:

Chí mạnh đói ăn thịt giặc Hồ.

Nói cười khát uống máu Hung Nô.

Hai câu thơ ấy đúng là nói lên tâm sự của toàn thể bách tính Trung Quốc. Ồ, thằng đại gian thần Tần Cối ấy may lắm, tiếc là chúng ta lại sinh muộn mất sáu mươi năm.

Quách Khiếu Thiên hỏi:

– Nếu sinh sớm sáu mươi năm thì sao?

Trương Thập Ngũ nói:

– Lúc bấy giờ mà bằng vào khí khái anh hùng, thân thủ hào kiệt của hai vị, tìm tới Lâm An bắt thằng gian thần ấy, ba người bọn ta ăn thịt uống máu y thì không phải ngồi đây ăn đậu hủ uống rượu lạnh!

Ba người cười rộ.

Dương Thiết Tâm thấy một vò rượu đã cạn liền gọi thêm vò nữa, ba người mặc sức chửi mắng Tần Cối. Người què lại bưng ra một đĩa đậu hủ, một đĩa đậu phụng, nghe ba người chửi tới lúc sướng miệng đột nhiên khà khà buông hai tiếng cười nhạt.

Dương Thiết Tâm hỏi Khúc Tam:

– Có chuyện gì vậy? Ngươi nói bọn ta chửi Tần Cối là không phải sao?

Lão què Khúc Tam nói:

– Chửi hay lắm, chửi hay lắm, có gì không đúng chứ? Có điều ta nghe người ta nói trong chuyện giết Nhạc gia gia để giảng hòa thì kẻ đầu sỏ tội ác lại không phải là Tần Cối.

Ba người đều kinh ngạc, cùng hỏi:

– Không phải là Tần Cối sao? Thế thì là ai?

Khúc Tam nói:

– Tần Cối làm Tể tướng, nghị hòa cũng được, không nghị hòa cũng được, y vẫn làm Tể tướng. Nhưng Nhạc gia gia toàn tâm toàn ý muốn diệt Kim, rước hai vua Huy tông, Khâm tông về. Hai ông vua ấy mà về thì Cao tông hoàng đế sẽ làm gì?

Y nói xong mấy câu ấy lại tập tễnh bước qua ngồi xuống chiếc ghế gỗ ngẩng đầu nhìn trời, lại ngồi yên xuất thần. Gã Khúc Tam này nhìn mặt bất quá chỉ hai mươi tuổi mà lưng còng gập xuống, tóc điểm màu sương. Nhìn sau lưng giống hệt một ông già. Trương Thập Ngũ và Quách, Dương hai người nhìn nhau im bặt. Hồi lâu Trương Thập Ngũ mới nói:

– Đúng, đúng lắm! Vị huynh đệ đây nói rất đúng. Đúng là người đầu sỏ hại chết Nhạc gia gia e không phải là Tần Cối mà là Cao tông hoàng đế.như núi Thái bèn nói đó là công của Tần Cối. Tần Cối vốn đã được phong là Lỗ quốc công, đến lúc ấy lại được gia phong là Thái sư vinh sủng không ai bằng, quyền thế nghiêng trời. Cao tông truyền ngôi cho Hiếu tông. Hiếu tông truyền ngôi cho Quang tông thì người Kim chiếm được quá nửa giang sơn của chúng ta. Quang tông truyền tới Khánh Nguyên hoàng đế hiện nay, ông ta ngồi trên ngai vàng ở Lâm An đã năm năm, trọng dụng vị Hàn Sá Trụ. Hàn Tể tướng thì từ nay trở đi sẽ ra sao? Hà hà, khó nói lắm, khó nói lắm?

Vừa nói vừa lắc đầu quầy quậy.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Khó nói cái gì? Đây là chỗ thôn quê, cứ nói không hề gì, không phải như trong thành Lâm An tai vách mạch rừng. Thằng Tể tướng giặc cướp Hàn Sá Trụ ấy thì ai chẳng biết là một tên đại gian thần? Nói tới bản lĩnh hại nước hại dân thì Tần Cối cũng phải chắp tay xin kết nghĩa anh em với y.

Trương Thập Ngũ nói tới chuyện hiện tại lại hơi sợ không dám nói thẳng, uống một chén rượu, nói:

– Quấy quả hai vị một bữa rượu, tiểu nhân cũng có một câu muốn khuyên, hai vị là nam tử hán ngay thẳng, lời lẽ việc làm cũng nên cẩn thận để tránh tai họa. Thời thế đã thế này, bách tính chúng ta cũng chỉ còn cách ngậm đắng nuốt cay sống cho qua ngày thôi. Ồ! Đúng là:

Ngoài cảnh lầu cao lại có lầu.

Tây Hồ múa hát đến khi nào?

Gió nam thổi tới người say khướt!

Cứ nói: Hàng Châu tức Biện Châu.

Dương Thiết Tâm hỏi:

– Bốn câu thơ ấy là nói chuyện cổ nào vậy?

Trương Thập Ngũ nói:

– Không phải nói chuyện cổ, mà nói vua tôi nhà Đại Tống ta chỉ lo uống rượu làm vui cạnh Tây Hồ, thưởng thức ca múa, tính là đời này qua đời khác cứ lấy Hàng Châu làm kinh đô, không nghĩ tới việc thu hồi đất cũ, lấy lại cựu đô Biện Lương nữa.

Trương Thập Ngũ uống đến khi say khướt mới cáo từ, xiêu xiêu vẹo vẹo đi về hướng Lâm An, chỉ nghe y lẩm bẩm mấy câu trong bài Mãn giang hồng của Nhạc Phi

Nhục Tỉnh Khang

Chưa rửa hết.

Hờn tôi con.

Bao giờ sạch?

Cười xe dài…

Quách Khiếu Thiên trả tiền rượu, cùng Dương Thiết Tâm sóng vai về nhà. Nhà hai người ở sát nhau, đi hơn mười trượng thì tới cổng.

Vợ Quách Khiếu Thiên là Lý thị đang xua gà vào chuồng, cười nói:

– Hai người lại uống rượu rồi. Dương thúc thúc, chú về đưa vợ qua ăn cơm với chúng tôi luôn, chúng ta làm thịt một con gà.

Dương Thiết Tâm cười nói:

– Được, hôm nay lại làm phiền chị. Bên nhà tôi cũng nuôi khá nhiều gà vịt nhưng chỉ uổng gạo, không sao giết được một con, cứ qua đây ăn của chị mãi.

Lý thị nói:

– Vợ chú rất tốt bụng, nói bầy gà vịt ấy nuôi từ nhỏ đến lớn, bảo làm sao nỡ lòng giết cho được?

Dương Thiết Tâm cười nói:

– Tôi nói để tôi giết cho thì cô ta lại kêu kêu khóc khóc, kể cũng buồn cười. Tối nay tôi đi săn ít thịt rừng, sáng mai xin mời lại đại ca, đại tẩu.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Anh em một nhà, mời lại với không mời lại cái gì? Tối nay anh em chúng ta cùng đi!

***

Khuya đêm ấy, Quách Dương hai người núp trong khu rừng cách thôn bảy dặm về phía tây bắc, tay cầm cung tên, đinh ba, chỉ mong có heo rừng hoặc hươu tìm ra ăn tối. Hai người chờ hơn một giờ, thủy chung vẫn không thấy gì. Đang lúc không chờ nỗi nữa chợt nghe ngoài rừng vang tới một tràng tiếng loảng xoảng, hai người giật nảy mình, đều thấy kỳ quái:

– Có chuyện gì vậy? Đúng lúc ấy chợt nghe xa xa có mấy người lớn tiếng quát:

– Chạy đi đâu? Đứng lại mau!

Trong màn đêm có một bóng người vọt vào rừng, dưới ánh trăng hai người Dương, Quách nhìn thấy rất rõ, bất giác vô cùng ngạc nhiên, té ra người ấy cầm hai chiếc nạng, chính là gã què Khúc Tam chủ quán rượu đầu thôn. Chỉ thấy y chống mạnh chiếc nạng bên tay trái xuống đất một cái, thịch một tiếng lập tức phi thân vọt tới núp sau thân cây, quả thật công phu khinh công cực kỳ cao minh. Quách Dương hai người không hẹn mà cùng nắm chặt tay nhau, trong lòng đều vô cùng kinh ngạc:

– Bọn ta ngụ ở thôn Ngưu Gia ba năm mà hoàn toàn không biết gã què Khúc Tam lại có võ công cao cường như thế.

Lúc ấy hai người nép sát xuống đám cỏ rậm, không dám cử động. Chỉ nghe tiếng bước chân thình thịch vang lên, ba người đuổi theo đã tới ven rừng, cúi đầu bàn bạc mấy câu rồi từng bước từng bước tiến vào rừng. Chỉ thấy họ đều ăn mặc lối võ quan, trên tay ánh sáng lập lòe, mỗi người cầm một thanh đơn đao. Một người lớn tiếng quát:

– Gã què kia, lão tử nhìn thấy ngươi rồi, sao còn chưa quỳ xuống đầu hàng?

Nhưng Khúc Tam cứ núp sau gốc cây bất động. Ba tên võ quan huy động đơn đao chém gió vù vù, từ từ tiến tới gần, đột nhiên nghe huỵch một tiếng. Khúc Tam chiếc nạng tay trái từ sau gốc cây phóng ra trúng giữa ngực một tên, chiêu thế và lực đạo đều rất cương mãnh. Tên võ quan ấy kêu lên một tiếng đau đớn, bay ngược về phía sau ngã vật xuống đất.

Hai tên võ quan còn lại lập tức huy động đơn đao chém tới Khúc Tam.

Khúc Tam chiếc nạng bên tay phải chống xuống đất một cái, nhảy qua bên trái vài thước né qua hai thanh đơn đao, chiếc nạng bên tay trái đâm thẳng vào mặt một tên. Tên võ quan ấy võ công cũng không kém, vung đao đón đỡ. Khúc Tam không để thanh đơn đao của y chạm vào nạng, rút chiếc nạng bên tay trái về, chiếc nạng bên tay phải lại quét ngang lưng tên kia.

Chỉ thấy hai chiếc nạng trong tay y thay nhau giơ lên đập xuống vô cùng mau lẹ, tuy luôn luôn phải có một chiếc chống xuống đất để đứng cho vững, chỉ còn một chiếc đối địch nhưng không có chút nào núng thế.

Quách Dương hai người thấy trên lưng y đeo một cái bao to nặng, đánh nhau một lúc, một tên võ quan vung đao chém trúng chiếc bao, xoảng một tiếng, chiếc bao rách toạc, rất nhiều đồ vật rơi xuống tung tóe. Khúc Tam nhân lúc y đang vui mừng kêu lên, chiếc nạng bên tay trái vung ra, chát một tiếng, một tên võ quan bị đập trúng đỉnh đầu ngã lăn quay ra đất. Người còn lại cả kinh quay lưng bỏ chạy. Cước bộ của y rất mau lẹ, trong khoảnh khắc đã chạy ra được mấy trượng. Khúc Tam quờ tay phải vào bụng một cái rồithẳng tay ném ra, dưới ánh trăng chỉ thấy một vật như cái đĩa tròn màu đen rít gió bay ra cắm vào sau gáy y.

Tên võ quan ấy gào thảm một tiếng, thanh đơn đao rời khỏi tay bay ra, hai tay khua loạn lên, ngửa mặt lên trời từ từ đổ xuống, giật giật mấy cái rồi nằm bất động, rõ ràng đã chết rồi.

Quách Dương hai người nhìn thấy gã què Khúc Tam trong khoảnh khắc giết chết ba người, võ công cao cường trước nay chưa từng nhìn thấy, trái tim trong lồng ngực đập thình thình, không dám thở mạnh một tiếng, cùng nghĩ thầm:

– Người này giết chết mệnh quan triều đình, phạm vào tội chết. Nếu chúng ta để y phát giác, chỉ sợ y muốn giết người bịt miệng, hai anh em chúng ta chắc chắn không phải là địch thủ.

Lại thấy Khúc Tam xoay người lại, chậm rãi nói:

– Quách huynh, Dương huynh, xin mời ra đây!

Quách, Dương hai người cả kinh, chỉ đành từ đám cỏ rậm đứng lên bước ra, nắm chặt ngọn đinh ba trong tay. Dương Thiết Tâm liếc ngọn đinh ba trong tay Quách Khiếu Thiên một cái rồi bước lên trước hai bước.

Khúc Tam mỉm cười nói:

– Dương huynh, ngươi dùng thương pháp dương gia thì ngọn đinh ba kia cũng hợp. Nghĩa huynh ra ngươi sử dụng một đôi đoản kích, võ khí rất không thuận tay nên người mới đứng chắn trước mặt y. Tốt tốt, có nghĩa khí!

Dương Thiết Tâm bị y nói đúng tâm sự bất giác tay chân luống cuống.

Khúc Tam lại nói:

– Quách huynh, cứ cho là ngươi cầm song kích trong tay đi, thì liệu hai người các vị hợp lực có thắng được ta không?

Quách Khiếu Thiên lắc đầu nói:

– Không! Hai anh em bọn ta đúng là có mắt không tròng, cùng ngụ với lão huynh ngươi trong thôn Ngưu Gia bấy nhiêu năm mà hoàn toàn không nhận ra lão huynh ngươi là một cao thủ thân mang tuyệt kỹ!

Khúc Tam lắc lắc đầu, thở dài một tiếng, nói:

– Hai chân ta đã tàn phế, còn nói cái gì tuyệt kỹ với không tuyệt kỹ?

Dường như mười phần chán chường, lại nói:

– Nếu như năm xưa muốn thu thập ba tên võ quan là Thị vệ đeo đao trong cung này thì cần gì phải phí sức như thế? Hừ, không ra gì, không ra gì.

Quách Dương hai người nhìn nhau một cái không dám lên tiếng. Khúc Tam nói:

– Nhờ hai vị giúp gã què ta một chuyện là chôn giúp ba cái xác này, có được không?

Quách Dương hai người lại nhìn nhau một cái. Dương Thiết Tâm nói:

– Được!

Hai người dùng đinh ba đào một cái hố lớn, đem ba cái xác vứt xuống.

Tới cái xác cuối cùng, Dương Thiết Tâm thấy vật hình tròn màu đen cắm vào gáy tên võ quan sâu mấy tấc, bèn vận kình tay phải rút ra, cảm thấy nặng trịch, té ra là một tấm bát quái đúc bằng sắt, bèn chùi vết máu vào cái xác rồi đưa lại cho Khúc Tam.

Khúc Tam nói:

– Làm phiền quá!

Rồi cho tấm bát quái vào bọc, cởi cái bao trải xuống đất, nhặt nhạnh những đồ vật bị rơi cho vào. Quách Dương hai người lấp đất chôn xác chết liếc mắt nhìn qua, thấy có ba cuốn trục dài dài, ngoài ra toàn là vàng bạc châu báu sáng rực. Khúc Tam để lại một cái bầu rượu bằng vàng, hai cái chén vàng không cho vào bao, chia ra đưa cho hai người Quách Dương, nói:

– Những vật này là ta tới hoàng cung ở Lâm An ăn trộm được. Hoàng đế làm hại bách tính chịu khổ, lấy một ít vàng bạc mà y lấy được của bách tính cũng chẳng phải là trộm cắp gì. Hai món này xin chuyển lại cho hai vị.

Quách Dương hai người nghe y nói dám vào tận hoàng cung ăn trộm tài vật trong đại nội, bất giác hoảng sợ ngẩn người, đều không dám đưa tay nhận lấy. Khúc Tam lớn tiếng nói:

– Hai vị là không dám nhận hay không chịu nhận đây?

Quách Khiếu Thiên nói:

– Bọn ta không có công không dám nhận lộc, không thể nhận vật gì của ngươi. Còn như chuyện đêm nay thì hai anh em bọn ta tự nhiên quyết không hở ra một chữ nửa lời, lão huynh cứ yên tâm.

Khúc Tam nói:

– Hừ, ta sợ các ngươi tiết lộ bí mật à? Nếu ta không sớm tra xét rõ ràng lai lịch của hai người các ngươi thì đêm nay há có thể để cho hai vị còn sống mà rời khỏi đây sao? Quách huynh, ngươi là hậu duệ của hảo hán Lương Sơn Bạc Địa hựu tinh Trại Nhân Quý Quách Thịnh, sử dụng kích pháp gia truyền, có điều biến dài thành ngắn, đổi một thành hai thôi. Dương huynh, ông tổ ngươi là Dương Tái Hưng danh tướng dưới cờ của Nhạc gia gia. Hai người các vị là dòng dõi trung nghĩa, khi phương Bắc rơi vào tay giặc, hai người các ngươi lưu lạc giang hồ, sau đó kết nghĩa anh em rồi cùng tới thôn Ngưu Gia cư trú, đúng không?

Quách Dương hai người nghe y nói toạc thân thế lại lịch của mình ra, lại càng vô cùng kinh ngạc, chỉ còn cách gật đầu thừa nhận.

Khúc Tam nói:

– Tổ tiên của hai người các vị là Quách Thịnh và Dương Tái Hưng vốn đều là hảo hán lục lâm, về sau mới quy thuận triều đình, ra sức cho Đại Tống. Chuyện cướp bóc tài vật bất nghĩa thì tổ tiên của các ngươi đều đã làm qua rồi. Hai món vàng bạc này rốt lại các ngươi có nhận không?

Dương Thiết Tâm nghĩ thầm:

– Nếu không nhận thì sẽ đắc tội với y!

Chỉ đành đưa tay nhận lấy, và nói:

– Nếu vậy xin cảm tạ.

Khúc Tam đột nhiên lộ vẻ tươi cười, quảy bao phục lên vai, nói:

– Về thôi!

Lúc ấy ba người sóng vai bước ra khỏi rừng. Khúc Tam nói:

– Đêm nay thu hoạch được nhiều, lấy được hai bức tranh của Đạo Quân hoàng đế, lại có một bức chữ viết của y. Thằng khốn ấy làm vua không ra gì nhưng về lối vẽ Linh mao và thư pháp Sấu kim thể thì quả thật là tuyệt diệu trong thiên hạ.

Quách Dương hai người cũng không hiểu lối vẽ Linh mao và thư pháp Sấu kim thể là gì, chỉ líu ríu vâng dạ. Đi được một lúc, Dương Thiết Tâm nói:

– Ban ngày nghe vị tiên sinh kể chuyện kia nói nửa mảnh giang sơn Đại Tống chúng ta đều mất từ tay Đạo Quân hoàng đế, thì tranh vẽ chữ viết của y có gì hay? Lão huynh cần gì phải xông pha nguy hiểm vào hoàng cung để lấy trộm chứ?

Khúc Tam khẽ cười đáp:

– Chuyện đó thì ngươi không hiểu đâu!

Quách Khiếu Thiên nói:

– Gã Đạo Quân hoàng đế ấy đã có thể vẽ tranh viết chữ đẹp thì rõ ràng rất thông minh, chỉ tiếc là y không chuyên tâm làm vua. Lúc ta còn nhỏ nghe gia gia nói rằng một người bất kể học văn hay học võ thì chỉ cần chuyên tâm vào một việc, chứ nếu chuyện này muốn làm, chuyện kia cũng muốn làm thì rốt lại nhất định chẳng làm được chuyện gì.

Khúc Tam nói:

– Người tư chất tầm thường thì đúng là như thế, nhưng thiên hạ có rất nhiều người thông minh tuyệt đỉnh, văn tài võ học, thư họa cầm kỳ, toán học binh thư cho tới y bốc tinh tướng, kỳ môn ngũ hành không môn nào không biết, không môn nào không giỏi, chẳng qua các ngươi không gặp đó thôi.

Nói tới đó y ngẩng đầu nhìn vầng trăng tàn ở chân trời, thở dài một tiếng. Dưới ánh trăng, Quách Dương hai người thấy khóe mắt y chợt ứa ra mấy giọt lệ thảm. Quách Dương hai người về tới nhà đem mấy món vàng bạc chôn thật sâu sau hậu viện, cũng không hề nói với vợ một câu. Hai người từ đó ngày nào cũng ra sức cày cấy săn bắn mưu sinh, lúc rảnh rỗi thì tập luyện binh khí quyền cước, cho dù lúc chỉ có hai người với nhau cũng không nhắc tới chuyện đó. Hai người có khi cũng tới quán rượu uống với nhau vài vò, gã què Khúc Tam vẫn hâm rượu bưng lên, mang đậu hủ đậu phụng ra rồi tập tễnh bỏ đi, ngồi cạnh cứa nhìn ra sông lớn im lặng với tâm sự của y, chuyện đánh nhau trong rừng đêm trước tựa hồ chưa từng xảy ra.

Nhưng Quách Dương hai người gặp y dường như cũng có mấy phần kính sợ.

Thu qua đông lại, càng ngày càng lạnh. Một hôm nửa đềm gió bấc thổi mạnh, tuyết bắt đầu rơi. Sáng hôm sau tuyết rơi càng lớn, bông bạc đầy trời, ngọc rắng khắp đất bốn bề mênh mông trắng xóa. Dương Thiết Tâm nói với vợ chiều nay chuẩn bị rượu thịt mời vợ chồng nghĩa huynh uống rượu thưởng tuyết.

Ăn cơm trưa xong, y mang hai cái bầu lớn tới quán rượu đầu thôn mua rượu, vừa tới trước quán thì thấy hai cánh cửa gỗ đóng chặt, bàn ghế cũng thu dọn sạch sẽ.

Dương Thiết Tâm gõ cửa mấy cái, gọi:

– Khúc Tam ca, bán cho ta ba cân rượu.

Nhưng không nghe trả lời. Một lúc sau y lại gọi vài tiếng, thấy vẫn không có tiếng đáp bèn tới cạnh cửa sổ nhìn vào, chỉ thấy trên bàn ghế phủ một lớp bụi dày, bèn nghĩ thầm:

– Vài hôm không ra, té ra Khúc Tam đã vắng nhà mấy hôm rồi. Mong sao đừng xảy ra chuyện gì thì hay.

Lúc ấy chỉ đành xông pha gió tuyết qua thôn Hồng Mai cách đó năm dặm mua rượu, nhân tiện mua thêm một con gà, về nhà làm thịt bảo vợ nấu nướng. Vợ y là Bao thị, khuê danh là Tích Nhược, là con của một thầy đồ tư thục ở thôn Hồng Mai, gả cho Dương Thiết Tâm chưa đầy hai năm. Chiều hôm ấy Bao thị cho gà và cải trắng, đậu hủ, miến vào một cái nồi lớn, đặt lên bếp nổi lửa rồi chặt một đa cá khô thịt khô, xế chiều qua mời vợ chồng Quách Khiếu Thiên sang uống rượu.

Quách Khiếu Thiên vui vẻ nhận lời. Vợ y là Lý thị vì đang có thai, nôn mửa mấy hôm, cứ ăn vào là nôn ra nên từ chối không qua. Lý thị khuê danh là Bình, Bao Tích Nhược với nàng cũng như chị em ruột, hai người nói chuyện hồi lâu trong phòng, Bao Tích Nhược pha cho Lý thị một bình trà nóng mới về nhà bày biện, đã thấy chồng và Quách Khiếu Thiên bưng bếp lò đặt lên bàn hâm rượu, hai người đã uống trước mấy chén.

Quách Khiêu Thiên nói:

– Em gái, bọn ta không chờ cô đâu, lên đây mau đi.

Quách Dương hai người chơi thân, lại đều là kẻ hào kiệt, người nhà quê lại không tỵ hiềm chuyện lễ tiết nam nữ. Bao Tích Nhược cười khẽ vâng dạ, thêm than vào bếp, cầm một cái chén bước tới rói rượu ngồi xuống cạnh chồng, thấy hai người sắc mặt bừng bừng, bèn cười nói:

– Có chuyện gì mà hai anh tức giận vậy?

Dương Thiết Tâm nói:

– Bọn ta đang nói chuyện lôi thôi trong triều đình Lâm An.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Hôm trước ta vào trà lâu Hỷ Vũ các ở đầu cầu Chúng An, nghe người ta nói chuyện gã Tể tướng giặc cướp Hàn Sá Trụ. Người ấy nói rất có đầu có đuôi, chắc không phải giả. Y nói bất kể là vị quan nào dâng thư bẩm báo hay gởi công văn lên chỉ cần không ghi rõ mấy chữ “Kính biếu vật này, …”vật này thì gã Tể tướng giặc cướp ấy sẽ không thèm ngó tới.

Dương Thiết Tâm thở dài nói:

– Có loại hoàng đế như thế sẽ có loại Tể tướng như thế, có loại Tể tướng như thế sẽ có loại quan lại như thế. Hoàng đại ca ngoài cửa Dũng Kim thành Lâm An nói với ta một hôm y đang đốn củi cạnh núi chợt thấy một toán quan quân hộ vệ một đám quan viên đi qua, thì Hàn Tể tướng dẫn đầu trăm quan ra ngoài thành dạo chơi nhưng y cứ lo đốn củi, cũng không để ý.

Chợt nghe gã Hàn Sá Trụ ấy than: ở đây giặc trúc lều tranh, đúng là phong cảnh rừng núi tuyệt diệu, chỉ tiếc là thiếu mất tiếng gà kêu chó sủa? Y vừa nói xong, chợt trong đám cỏ có mấy tiếng oẳng oẳng oẳng vang lên.

Bao Tích Nhược cười nói

– Con chó ấy tới thật đúng lúc!

Dương Thiết Tâm nói:

– Đúng thế, rất đúng lúc. Con chó ấy sủa một hồi rồi rừ đám cỏ chui ra, cô bảo đó là chó gì nào? Té ra đó chính là đường đường Phủ Doãn Phủ Lâm An Triệu đại nhân.

Bao Tích Nhược ôm bụng cười bò ra nói:

– Trời ạ!

Quách Khiếu Thiên nói:

– Lần ấy Triệu đại nhân giả làm chó sủa, chắc nay mai là được thăng quan.

Dương Thiết Tâm nói:

– Cái đó tự nhiên.

Ba người uống rượu một hồi, chỉ thấy ngoài cửa tuyết rơi càng lúc càng lớn, rượu nóng vào bụng, ba người đang cảm thấy nóng bức, chợt nghe trên đường cái phía đông vang lại một tràng tiếng đạp tuyết, cước bộ rất nhanh, ba người quay đầu nhìn ra thì là một đạo sĩ.

Đạo sĩ ấy đầu đội nón tre, vai khoác áo tơi, toàn thân phủ đầy tuyết trắng, trên lưng giắt chéo một thanh trường kiếm, ngù tơ màu vàng trên chuôi kiếm phất phơ trong gió, gió tuyết đầy trời, rảo bước độc hành, quả thật khí khái phi phàm. Quách Khiếu Thiên nói:

– Vị đạo sĩ này rất giỏi võ công, xem ra cũng là một hảo hán. Chỉ có một người, hay là mời vào.

Dương Thiết Tâm nói:

– Không sai, chúng ta mời y vào uống vài chén, làm quen thêm một người bạn.

Hai người đều hiếu khách, lập tức rời bàn ra cửa, chỉ thấy đạo nhân kia đi rất nhanh, chớp mắt chỉ còn cách ngoài mười trượng nhưng không phải là nhấc chân chạy mau, khinh công như thế quả thật hiếm có.

Hai người nhìn nhau một cái, đều cảm thấy kỳ lạ Dương Thiết Tâm lớn tiếng gọi:

– Đạo trưởng, xin dừng bước!

Tiếng gọi vừa dứt, đạo nhân kia liền quay lại gật gật đầu. Dương Thiết Tâm nói:

– Trời lạnh tuyết lớn, sao đạo trưởng không ghé vào uống vài chén cho đỡ lạnh!

Đạo nhân kia cười nhạt một tiếng, lướt tới như bay, trong chớp mắt đã tới trước cổng, trên mặt đầy vẻ khinh bỉ ác cảm, cười nhạt nói:

– Bảo ta dừng bước là có ý gì? Nói mau xem.

Dương Thiết Tâm nghĩ thầm bọn ta có hảo ý mời ngươi uống rượu mà đạo nhân ngươi lại vô lễ như thế, lúc ấy ngẩng đầu trợn mắt nhìn. Quách Khiếu Thiên bèn ôm quyền nói:

– Anh em bọn ta đang đun lửa uống rượu, thấy đạo trưởng một mình đi trong tuyết lạnh nên lớn mật mời ghé chơi, nếu có đụng chạm cũng xin đừng trách.

Đạo nhân kia đảo mắt một cái, lớn tiếng nói:

– Tốt rất tốt, uống rượu thì uống rượu!

Rồi rảo bước tiến vào. Dương Thiết Tâm lại bực mình, đưa tay kéo tay trái y lại, nói:

– Còn chưa thỉnh giáo pháp hiệu của đạo trưởng?

Đột nhiên thấy cổ tay của đạo nhân ấy trơn như cá chạch trượt ra khỏi tay mình, biết là không hay, vừa định lui lại đột nhiên thấy cổ tay đau buốt, đã bị đạo nhân kia lật tay lại giữ chặt, trong lúc bất ngờ thấy như bị vòng sắt bóp chặt, vừa đau vừa nóng, vội vận kình chống trả, nào ngờ cả cánh tay đã tê dại không còn khí lực, cổ tay đau buốt như bị gãy xương.

Quách Khiếu Thiên thấy sắc mặt nghĩa đệ đột nhiên đỏ bừng, biết y thua thiệt, nghĩ thầm vốn là có ý kết giao, nếu lại đổi ra động thủ thì đắc tội với hảo hán giang hồ, vội bước tới nói:

– Xin mời đạo trưởng ngồi.

Đạo nhân kia lại cười nhạt hai tiếng, buông cổ tay Dương Thiết Tâm ra bước lên thềm, nghênh ngang ngồi xuống chính giữa, nói:

– Hai người các ngươi rõ ràng là người Sơn Đông lại trốn núp ở đây giả làm dân quê Lâm An, tiếc rằng khẩu âm Sơn Đông còn chưa đổi được. Đàn ông như thế thì còn biết võ công gì?

Dương Thiết Tâm vừa quẫn vừa giận, bước vào trong nhà rút một ngọn chuỷ thủ trong tủ cho vào bọc rồi trở lại phòng khách, rót ba chén rượu, tự uống cạn một chén, im lặng không đáp.

Đạo nhân kia nhìn ra tuyết lớn ngoài cửa, không uống rượu cũng không trò chuyện, chỉ khẽ cười nhạt. Quách Khiếu Thiên thấy y có ý thù địch, biết y nghi ngờ trong rượu có chuyện bèn cầm chén rượu trước mặt đạo nhân lên một hớp uống cạn, nói:

– Rượu lạnh mau lắm, xin đổi chén rượu nóng khác cho đạo trưởng.

Nói xong lại rói một chén, đạo nhân kia đón lấy uống một hớp, nói:

– Cho dù trong rượu có thuốc mê cũng không làm gì được ta.

Dương Thiết Tâm càng thêm sôi máu, bèn phát tác nói:

– Bọn ta có hảo ý mời ngươi uống rượu, chẳng lẽ có ý hại ngươi? Đạo nhân nhà ngươi ăn nói không ra gì, mời ra khỏi đây ngay. Rượu của bọn ta không phải giấm, thức ăn cũng không phải thứ bỏ đi không ai ăn.

Đạo nhân kia hừ một tiếng, cũng không đếm xỉa gì tới cầm vò rượu tự rót tự uống, uống cạn ba chén chợt cởi áo tơi tháo nón lá ra vứt xuống đất.

Dương Quách hai người nhìn lại chỉ thấy y khoảng hơn ba mươi tuổi, lông mày xếch lên, sắc mặt hồng hào, mặt vuông tai lớn, ánh mắt sáng quắc. Y lại cởi cái bao da trên lưng giũ ra bàn rầm một cái, Dương Quách hai người đều giật mình nhảy dựng lên. Té ra vật trong bao da lăn ra là một cái đầu người máu me bê bết. Bao Tích Nhược la hoảng:

– Trời ơi!

Rồi chạy vào phòng trong. Dương Thiết Tâm đưa tay mò ngọn chuỷ thủ trong bọc, đạo nhân kia lại giũ cái bao da một cái làm rơi ra thêm hai vật tròn tròn máu me bê bết, định thần nhìn kỹ thì là một bộ tim gan, trông không giống gan heo tim heo, chỉ e chính là tim gan người. Dương Thiết Tâm kêu lên:

– Thằng đạo nhân giặc cướp giỏi lắm!

Rồi rút ngọn chuỳ thủ ra đâm mau vào ngực đạo nhân. Đạo nhân cười nhạt nói:

– Lũ chó săn, động thủ rồi à?

Rồi phất chưởng trái đánh vào cổ tay Dương Thiết Tâm. Dương Thiết Tâm cổ tay chợt tê rần, năm ngón tay lập tức mất hết khí lực, ngọn chuỳ thủ cũng bị đoạt mất. Quách Khiếu Thiên bên cạnh nhìn thấy cả kinh, nghĩ thầm nghĩa đệ là dòng dõi danh tướng, võ nghệ gia truyền của y lúc bình thời so tài thì mình cũng còn kém một bậc, mà đạo nhân này lại không coi y ra gì, ra tay vừa rồi rõ ràng là tuyệt kỹ “Không thủ đoạt bạch nhận” truyền tụng trên giang hồ, công phu này chỉ mới nghe qua chứ trước nay chưa hề được thấy, hiện chỉ e nghĩa đệ đã bị thương, bèn cúi xuống nhấc cái ghế lên, chỉ chờ ngọn chuỳ thủ trong tay đạo nhân đâm ra là đón đỡ.

Ai ngờ đạo nhân kia không đếm xỉa gì tới, cầm ngọn chuỳ thủ khua loạn lên một hồi băm nát mớ tim gan người thành một đống bầy nhầy, kế đó hú dài một tiếng, âm thanh rung cả mái ngói, tay phải đập xuống một chưởng, chát một tiếng, rượu thịt chén bát trên bàn đều bắn tung lên, nhìn tới cái đầu người thì đã bị phát chưởng của y đánh nát xương sọ, ngay cái bàn cũng bị chấn động nứt một đường dài.

Hai người đang kinh nghi bất định thì đạo nhân kia quát:

– Bọn chuột nhắt vô sỉ, hôm nay đạo gia đại khai sát giới đây!

Dương Thiết Tâm giận quá không nhịn được nữa, rút ngọn trường thương giắt ở góc nhà vọt ra bãi đất tuyết trước cổng, quát lớn:

– Ra đây ra đây, ta sẽ cho ngươi biết mùi lợi hại của thương pháp Dương gia.

Đạo nhân kia cười nhạt nói:

– Bọn chuột nhắt làm ma trành cho cọp nhà ngươi mà cũng biết thương pháp Dương gia?

Rồi vọt ra cổng. Quách Khiếu Thiên thấy tình thế không hay, chạy về nhà lấy đôi kích ra, chỉ thấy đạo nhân kia cũng không tuốt kiếm, vẫn đứng ở đó, tay áo bào phần phật trong gió vang thành tiếng. Dương Thiết Tâm quát:

– Tuốt kiếm ra!

Đạo nhân kia nói:

– Hai con chuột các ngươi nhất tề xông lên, đạo gia cũng chỉ dùng tay không đối phó thôi.

Dương Thiết Tâm ra oai, một chiêu Độc long xuất động đánh ra, tua đỏ trên đầu thương lay động, bóng thương cuốn lên thành một vầng sáng lớn phóng thẳng vào giữa ngực đạo nhân. Đạo nhân chợt sửng sốt cất tiếng khen:

– Hay lắm!

Thân hình theo ngọn thương phóng tới lách qua bên trái, chưởng trái lật lại chụp mũi thương.

Dương Thiết Tâm từng khổ luyện thương pháp từ nhỏ, học được công phu gia truyền. Nên biết thương pháp Dương gia không phải tầm thường, năm xưa Dương Tái Hưng một ngọn thương sắt dẫn đầu ba trăm quân Tống đại chiến với bốn vạn quân Kim ở cầu Tiểu Thương, hăng hái giết hơn hai ngàn quân giặc, đâm chết Vạn hộ trưởng Tán Bát Bột Đổng và hơn một trăm Thiên hộ trưởng, Bá hộ trưởng, lúc bấy giờ quân Kim bắn tên như mưa, ông ta chỉ bị trúng có một mũi, thuận tay bẻ găy mũi tên xông vào đánh tiếp, rốt lại vì ngựa rơi xuống bãi bùn mới kiệt sức tuẫn tiết. Quân Kim đốt xác ông ta, lấy ra được hơn hai thăng đầu mũi tên sắt. Trận ấy đánh giết quân Kim khiến chúng vừa kính vừa sợ, thương pháp Dương gia oai chấn Trung nguyên.

Dương Thiết Tâm tuy không oai dũng bằng tổ tiên nhưng cũng đã được chân truyền về thương pháp, chỉ thấy y khóa, đâm, đánh, hất, rê, đập, đỡ, chặn, mũi thương lấp loáng, chiếc tua đỏ trên đầu thương chớp lên, một đường thương pháp tuyệt diệu!

Dương Thiết Tâm đánh hết đường thương, chiêu số linh động, biến hóa xảo diệu. Nhưng đạo nhân kia thân hình cứ theo mũi thương né tránh tiến thoái thì làm sao đánh được y? Bảy mươi hai đường thương pháp Dương gia đánh xong, Dương Thiết Tâm không khỏi mệt mỏi, cắp ngược ngọn thương sắt xoay người bỏ chạy, đạo nhân kia quả nhiên nhấc chân đuổi theo. Dương Thiết Tâm quát lớn một tiếng, hai tay nắm chắc cán thương, đột nhiên vặn lưng vung tay, xoay người phóng thương đâm thẳng vào giữa mặt đạo nhân, chiêu này mau lẹ tàn độc, đúng là chiêu Hồi mã thương trong thương pháp Dương gia mỗi khi lâm trận phá địch thường dùng để giết danh tướng đối phương. Năm xưa Dương Tái Hưng trước khi hàng Tống đối địch cùng Nhạc Phi từng dùng chiêu này đâm chết em trai Nhạc Phi là Nhạc Phiên, quả thật vô cùng lợi hại.

Đạo nhân kia trong chớp mắt thấy ngọn thương đâm tới giữa mặt, quát lớn:

– Hảo thương pháp!

Song chưởng hợp lại, chát một tiếng đã kẹp chặt mũi thương giữa hai bàn tay. Dương Thiết Tâm cố sức đâm mũi thương tới nhưng không hề động, bất giác cả kinh, dùng hết sức bình sinh rút lại thì mũi thương vẫn như đúc cứng vào một tòa núi sắt không sao rút lại được. Y mặt mũi đỏ bừng ra sức giật lại ba lần, mũi thương thủy chung vẫn không rời khỏi song chưởng của đối phương. Đạo nhân kia hô hô cười lớn, chưởng phải đột nhiên nhấc lên nhanh như chớp đánh vào giữa ngọn thương, chát một tiếng.

Dương Thiết Tâm thấy hổ khẩu tê rần, bất giác buông tay, ngọn thương sắt rơi xuống mặt tuyết. Đạo nhân kia cười nói:

– Ngươi sử quả nhiên là thương pháp Dương gia, đắc tội rồi, xin thỉnh giáo quý tính.

Dương Thiết Tâm hoảng sợ chưa định thần, thuận miệng đáp:

– Tại hạ họ Dương, tên Thiết Tâm.

Đạo nhân nói:

– Dương Tái Hưng Dương tướng quân là tổ tiên của các hạ phải không?

Dương Thiết Tâm nói:

– Đó là ông cố ta.

Đạo nhân kia tỏ vẻ kính cẩn, ôm quyền nói:

– Mới rồi hiểu lầm, ngỡ hai vị là người xấu, đắc tội rất nhiều, té ra vốn là dòng dõi trung lương, quả thật thất kính, xin thỉnh giáo quý tính vị này.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Tại hạ họ Quách, tên Khiếu Thiên.

Dương Thiết Tâm nói:

– Y là nghĩa huynh của ta, là dòng dõi của hảo hán Lương Sơn Bạc đầu lĩnh Trại Nhân Quách Quý Thịnh.

Đạo nhân kia nói:

– Bần đạo quả thật rất thô lỗ, xin tạ lỗi ở đây.

Nói xong lại vái dài một vái. Quách Khiếu Thiên và Dương Thiết Tâm cùng đáp lễ nói:

– Nói thế làm gì, mời đạo trưởng vào trong uống ba chén.

Dương Thiết Tâm vừa nói vừa nhặt ngọn thương sắt lên. Đạo nhân cười nói:

– Được, ta cũng đang muốn cùng hai vị uống cho thật sướng!

Bao Tích Nhược sợ chồng đánh nhau với người ta, lớn mật ra cửa đứng xem, thấy ba người đổi xung đột thành bạn bè, trong lòng rất được an ủi, vội trở vào bày biện mâm bát.

Ba người ngồi xong, Quách Dương hai người thỉnh giáo pháp hiệu đạo nhân. Đạo nhân nói:

– Bần đạo họ Khưu tên Xử Cơ…

Dương Thiết Tâm kêu lên một tiếng ;

– Ái chà!

Rồi nhảy bật dậy. Quách Khiếu Thiên cũng phát hoảng kêu lên:

– Có phải là Trường Xuân tử không?

Khưu Xử Cơ cười nói:

– Đó là tiện hiệu mà bạn đồng đạo tặng cho, chứ bần đạo thẹn không dám nhận.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Té ra là đại hiệp Trường Xuân tử phái Toàn Chân, đúng là may mắn được gặp gỡ.

Hai người lạy phục xuống đất. Khưu Xử Cơ vội vàng đỡ dậy, cười nói:

– Hôm nay ta giết chết một tên gian nhân, quan phủ truy tìm rất gấp, hai vị đột nhiên lại mời vào uống rượu, đây là nơi kinh thành, hai vị lại không giống như dân quê tầm thường, vì thế mới nảy lòng nghi ngờ.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Người anh em của ta đây tính tình nóng nảy, lúc ở cửa lại kéo đạo trưởng một cái càng khiến đạo trưởng sinh nghi.

Khưu Xử Cơ nói:

– Tay người thường làm sao có được kình lực như thế? Ta chỉ cho rằng hai vị ắt là tai mắt của quan phủ cải trang chờ sẵn ở đây toan bắt bần đạo. Mới rồi ăn nói vô lễ, thật lỗ mãng quá.

Dương Thiết Tâm nói:

– Không biết thì không trách được.

Ba người cười rộ. Ba người uống được vài chén, Khu Xử Cơ chỉ cái đầu người nát bét dưới đất nói:

– Người này tên Vương Đạo Càn, là một tên đại Hán gian. Năm trước hoàng đế phái y mang lễ vật qua mừng thọ vua Kim, y lại câu kết với người Kim, mưu đồ xâm phạm Giang Nam. Bần đạo đuổi theo hơn mười ngày mới nắm được thóp của y.

Quách Dương hai người từ lâu đã nghe giang hồ đồn đại Trường Xuân từ Khưu Xử Cơ võ công cao cường, tính tình nghĩa hiệp, lúc bấy giờ thấy y một bầu nhiệt huyết vì nước trừ gian, càng thêm kính phục. Hai người nhân dịp xin truyền thụ võ công, Khưu Xử Cơ chỉ dẫn rất tường tận. Thương pháp Dương gia tuy là tuyệt kỹ của binh gia, dùng trên chiến trường có thể xung phong phá trận nên trước nay vô địch, ai chống là chết, nhưng dùng để đối địch với cao thủ võ học thì vẫn không đủ. Khưu Xử Cơ kiệm tu cả nội ngoại công phu, võ công tuy chưa tới mức đăng phong tháo cực nhưng cũng đã đạt tới cảnh giới rất cao, Dương Thiết Tâm làm sao có thể chống lại y vài mươi chiêu? Nhưng Khưu Xử Cơ thấy y xuất thủ bất phàm, trong lòng thầm khen ngợi, có ý dẫn dụ y sử dụng hết bảy mươi hai lộ thương pháp để xem y có phải là hậu nhân của Dương gia thật không rồi mới thật sự ra tay, trong vài chiêu đã đánh rơi ngọn thương sắt của y, lúc ấy bèn nói chiêu số của thương pháp này vốn là dùng trên ngựa, nếu đánh dưới đất thì phải thay đổi, không thể nhất nhất theo phép tắc có sẵn. Quách Dương hai người nghe thế không ngừng gật đầu khen phải. Thương pháp Dương gia là tuyệt nghệ truyền cho con trai không truyền cho con gái, Khưu Xử Cơ tuy hiểu biết rộng rãi nhưng cũng không rõ hết chỗ tinh vi ảo diệu, lúc ấy cũng thỉnh giáo Dương Thiết Tâm vài chiêu. Ba người rượu vào lời ra, tâm đầu ý hợp. Dương Thiết Tâm nói:

– Hai anh em ta được gặp đạo trưởng, đúng là điều may mắn trong đời. Đạo trương có thể nghỉ lại vài ngày được không?

Khưu Xử Cơ đang định trả lời đột nhiên biến sắc, nói:

– Có người tới tìm ta rồi. Bất kể là gặp chuyện gì thì các ngươi cũng không được ra mặt, nhớ chưa?

Quách Dương hai người gật đầu vâng dạ. Khưu Xử Cơ nhặt cái đầu người, mở cửa đi ra phi thân lên cây núp trong đám cành lá. Quách Dương hai người thấy y hành động kỳ quái, ngơ ngác không hiểu.

Lúc ấy chung quanh im bặt, chỉ nghe ngoài cửa gió bấc thổi ào ào, qua một trận gió, phía tây văng vẳng có tiếng vó ngựa vang tới, Dương Thiết Tâm nói:

– Vị đạo trưởng này thính tai thật.

Lại nghĩ thầm:

– Vị đạo trưởng này võ công quả nhiên rất cao cường nhưng nếu so với gã què Khúc Tam thì quả không biết ai hơn ai kém.

Lại qua một lúc, tiếng vó ngựa càng lúc càng gần, chỉ thấy trong gió tuyết có mười mấy kỵ mã phóng tới rất mau, người cưỡi ngựa đều mặc áo đen đội mũ đen, xông thẳng tới trước cổng.

Người đi đầu đột nhiên kìm ngựa quát:

– Dấu chân tới đây là ngừng. Mới rồi có người động thủ ở đây.

Mấy người phía sau nhảy xuống ngựa, quan sát dấu vết trên mặt tuyết.

Người đi đầu nói:

– Vào nhà lục soát.

Liền có hai người xuống ngựa tới đập cửa nhà Dương gia. Đột nhiên trên cây ném xuống một vật, bình một tiếng trúng ngay vào người đứng đầu. Cái ném ấy kình lực rất mạnh, người kia bị đánh trúng vào đầu vỡ sọ chết ngay. Mọi người la thét ầm ĩ, mấy người xúm lại vây quanh gốc cây.

Một người nhặt cái vật kia lên, hoảng sợ nói:

– Là đầu Vương đại nhân.

Người đứng đầu rút trường đao ra quát lớn một tiếng, hơn mười người vây thành một vòng tròn rộng dưới gốc cây. Y lại quát một tiếng khẩu lệnh, năm người rút cung lắp tên, năm mũi tên cùng bắn vào chỗ Khưu Xử Cơ.

Dương Thiết Tâm cầm thương sắt định ra cửa trợ chiến, Quách Khiếu Thiên vội kéo lại, hạ giọng nói:

– Đạo trưởng bảo chúng ta không được ra. Nếu y ít không chống được nhiều thì chúng ta ra tay cũng không muộn.

Câu nói chưa dứt, chỉ thấy trên cây có một, mũi tên phóng xuống, đó là Khưu Xử Cơ tránh qua bốn mũi, bắt được mũi sau cùng, dùng thủ pháp Hoạt thủ tiễn phóng xuống, chỉ nghe ối một tiếng, một người áo đen trúng tên ngã ngựa lăn vào đám cỏ rậm. Khưu Xử Cơ tuốt kiếm nhảy xuống, kiếm quang vừa chớp lên, hai người áo đen đã trúng kiếm. Người đứng đầu quát:

– Thằng đạo sĩ giặc cướp giỏi lắm, té ra là ngươi!

Roạt roạt roạt ba mũi tên theo tay bắn ra, trường đao xé gió, thúc ngựa sấn vào. Khưu Xử Cơ kiếm quang liên tiếp chớp lên, lại hai người trúng kiếm ngã ngựa. Dương Thiết Tâm chỉ há miệng ra nhìn, nghĩ thầm mình cũng luyện võ mười năm nhưng vị đạo gia này kiếm chiêu mau lẹ như thế thì đừng nói là chống cự, ngay cả nhìn cũng không thấy rõ, mới rồi nếu không phải y thủ hạ lưu tình thì mình đã sớm mất mạng rồi.

Chỉ thấy Khưu Xử Cơ lui tới mau lẹ giao đấu với người cưỡi ngựa cầm đao, người ấy cũng rất giỏi, một thanh đao đỡ gạt đâm chém rất oai mãnh.

Lại đấu thêm một hồi, Quách Dương hai người nhận ra Khưu Xử Cơ cố ý kéo dài cuộc đấu với y, lúc rảnh tay hoặc phát chưởng hoặc phóng kiếm sát thương một người của đối phương, dường như muốn giết tất cả số người đuổi tới nên sợ đả thương người đứng đầu thì đám còn lại hoảng sợ chạy tan, sẽ không dễ truy sát.

Qua khoảng nửa bữa cơm, phía đối phương chỉ còn sáu bảy người.

Người cầm đao biết không chống nổi liền quát lớn một tiếng, thúc mạnh hai chân quay ngựa bỏ chạy. Khu Xử Cơ tả chưởng quờ về phía trước một cái đã nắm trúng đuôi ngựa y, tay vừa phát kình, thân hình đã bay vọt lên, còn chưa lên tới lưng ngựa thì một kiếm đã đâm suốt qua hậu tâm y xuyên ra luôn trước ngực. Khưu Xử Cơ hất cái xác xuống, giật cương phi ngựa xông ra đâm chém, chỉ thấy trong tiếng vó ngựa phi mau, kiếm quang loang loáng, tiếng gào thét sợ hãi vang lên, từng người từng người đổ xuống, máu tươi loang rộng nhuốm hồng cả một bãi tuyết lớn.

Khưu Xử Cơ cầm kiếm nhìn quanh chỉ thấy một bầy ngựa không có người cưỡi chạy tứ tán, không kẻ địch nào còn sống, y hô hô cười lớn, vẫy tay nói với Quách Dương hai người:

– Giết như thế sướng tay chứ hả?

Quách Dương hai người mở cổng bước ra, trên mặt còn vẻ hoảng sợ. Quách Khiếu Thiên nói:

– Đạo trưởng, những người này là ai?

Khưu Xử Cơ đáp:

– Ngươi lục soát trên người họ xem.

Quách Khiếu Thiên mò trên xác người cầm đao thấy có một tờ công văn, mở ra xem thì là mật lệnh của Triệu Tri phủ phủ Lâm An trong nói sứ giả Đại Kim quốc tố cáo với Tri phủ phủ Lâm An về hung thủ giết Vương Đạo Càn, sai bộ khoái hợp đồng với người của Đại Kim quốc, hẹn ngày bắt hung thủ quy án. Quách Khiếu Thiên đang tức giận thì Dương Thiết Tâm bên cạnh cũng kêu lên, tay cầm mấy tấm mộc bài lấy được trên xác chết, trên khắc văn tự của người Kim, xem ra trong đám người áo đen này phải có vài người là quân Kim. Quách Khiếu Thiên nói:

– Quân giặc vào nước ta mặc ý bắt người giết người, quan phủ Đại Tống ta lại vâng lệnh sứ giả của họ, vậy thì còn trời đất nào nữa.

Dương Thiết Tâm than:

– Hoàng đế Đại Tống đã xưng thần với nước Kim, quan văn tướng võ của chúng ta lại không thành đầy tớ của người Kim sao?

Khưu Xử Cơ căm hờn nói:

– Người xuất gia vốn phải lấy từ bi làm gốc, nhưng nhìn thấy đám gian tặc hại dân, kẻ thù nước địch, bần đạo lại không thể thủ hạ lưu tình.

Quách Dương hai người đồng thanh nói:

– Giết hay lắm chứ, giết hay lắm chứ.

Cư dân trong thôn vốn ít, trời lạnh tuyết rơi lại càng không ai ra ngoài, cho dù có người trong thấy cũng đã sớm chạy ngay về nhà đóng cửa không dám ra, ai dám tới hỏi han này nọ? Dương Thiết Tâm lấy cuốc xẻng ra, ba người đem mười mấy cái xác chôn vào một cái hố lớn.

***

Bao Tích Nhược lấy chổi quét vết máu trên mặt tuyết vừa quét xong đột nhiên thấy mùi máu tanh xông thẳng lên mặt, đầu óc choáng váng, nghiến răng một cái ngồi phếch xuống mặt tuyết. Dương Thiết Tâm hoảng sợ vội bước qua đỡ lên, luôn miệng hỏi:

– Có sao không?

Bao Tích Nhược nhắm mắt không đáp, Dương Thiết Tâm thấy nàng sắc mặt trắng bệch, tay chân lạnh giá, trong lòng vô cùng hoảng sợ. Khưu Xử Cơ bước qua nắm uyển mạch tay phải của Bao Tích Nhược, chẩn mạch xong lớn tiếng cười nói:

– Chúc mừng, chúc mừng!

Dương Thiết Tâm ngạc nhiên nói:

– Chuyện gì vậy?

Lúc bấy giờ Bao Tích Nhược rên lên một tiếng tỉnh lại, thấy ba người đàn ông đứng quanh bất giác thẹn thùng, vội vàng trở vào phòng trong.

Khưu Xử Cơ mỉm cười nói:

– Tôn phu nhân có tin mừng rồi.

Dương Thiết Tâm mừng rỡ nói:

– Thật không?

Khưu Xử Cơ cười nói:

– Bình sinh bần đạo học hành chỉ có ba điều là hơi được an ủi. Thứ nhất là y đạo, luyện đan không thành nhưng về việc chữa bệnh qua đó cũng biết được không ít. Thứ hai là làm được mấy câu thơ đúng vần. Thứ ba mới là mấy môn võ công mèo què.

Quách Kiếu Thiên cười nói:

– Nếu võ công kinh người của đạo trưởng là mèo què thì võ công của hai anh em tại hạ đúng là chuột một chân!

Ba người vừa trò chuyện vừa chôn xác chết, chôn lấp đâu đó xong lại vào nhà bày mâm bát ra. Khưu Xử Cơ hôm nay một trận giết được không ít người Kim, trong lòng thoải mái, ý khí rất hào. Dương Thiết Tâm nghĩ tới vợ đang có thai, cười ha hả không ngậm miệng lại được, nghĩ thầm “Vị đạo trưởng này biết làm thơ, đúng là văn võ song toàn” bèn nói:

– Quách đại tẩu cũng đã có thai, xin phiền đạo trưởng đặt tên con giúp anh em chúng ta được không?

Khưu Xử Cơ thoáng trầm ngâm rồi nói:

– Con Quách đại ca cứ gọi là Quách Tỉnh, con Dương nhị ca cứ đặt là Dương Khang, bất kể trai hay gái đều có thể dùng hai cái tên ấy.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Hay lắm, ý của đạo trưởng là muốn bảo chúng không được quên cái nhục Tỉnh Khang, phải nhớ cái nhục hai vua bị bắt.

Khưu Xử Cơ nói:

– Đúng thế!

Rồi đưa tay vào bọc lấy ra hai thanh đoản kiếm đặt lên bàn. Hai thanh đoản kiếm này dài ngắn hình thù giống hệt nhưhau, đều vỏ màu xanh, khâu bịt vàng, chuôi bằng gỗ đen. Y cầm lấy ngọn chuỷ thủ của Dương Thiết Tâm khắc lên chuôi một thanh hai chữ “Quách Tỉnh”, khắc lên chuôi thanh kia hai chữ “Dương Khang”.

Quách Dương hai người thấy y đưa mũi dao như bay, so ra còn nhanh hơn người thường viết chữ, lập tức hiểu ngay ý y. Khưu Xử Cơ khắc xong cười nói:

– Đang trên đường chẳng có vật gì, đôi đoản kiếm này xin để lại tặng cho hai đứa bé chưa ra đời.

Quách Dương hai người cảm tạ nhận lấy, tuốt kiếm ra khỏi vỏ, chỉ thấy hơi lạnh tỏa ra, lưỡi kiếm vô cùng sắc bén. Khưu Xử Cơ nói:

– Đôi đoản kiếm này là ta vô tình lấy được, tuy sắc bén nhưng quá ngắn, bần đạo không quen dùng, tương lai bọn trẻ có thể dùng để giết giặc phòng thân. Mười năm sau nếu bần đạo còn sống trên đời, ắt sẽ trở lại truyền thụ cho bọn trẻ vài chiêu công phu, được không?

Quách Dương hai người cả mừng, luôn miệng cảm tạ. Khưu Xử Cơ nói:

– Quân Kim đóng tổ ở phương Bắc, đối đãi với bách tính rất tàn ngược, thế ắt không lâu dài được. Hai vị nên tự lo liệu.

Rồi nâng chén rượu lên uống một hơi cạn sạch, mở cửa ra đi. Quách Dương hai người định giữ lại nhưng y lướt đi như bay trên mặt tuyết, đã đi xa rồi. Quách Khiếu Thiên thở dài nói:

– Cao nhân hiệp sĩ rốt lại thoắt lui thoắt tới, bọn ta hôm nay tuy may mắn được gặp, cũng định học hỏi thêm một chút, không ngờ lại vô duyên.

Dương Thiết Tâm cười nói:

– Đại ca, đạo trưởng hôm nay giết giặc sướng tay, cũng có thể giúp chúng ta trút bớt nỗi phiền muộn.

Rồi cầm thanh đoản kiếm tuốt ra khỏi vỏ vuốt vuốt lưỡi kiếm, chợt nói:

– Đại ca, ta có một ý, anh xem có được không?

Quách Khiếu Thiên nói:

– A gì vậy?

Dương Thiếu Tâm nói:

– Nếu con chúng ta đều là trai thì cho kết làm anh em, nếu đều là con gái thì cho kết làm chị em…

Quách Khiếu Thiên nói ngay:

– Còn nếu là một trai một gái thì cho kết làm vợ chồng.

Hai người đập tay vào nhau, hô hô cười rộ. Bao Tích Nhược trong phòng đi ra, cười hỏi:

– Có chuyện gì mà vui thế?

Dương Thiết Tâm đem chuyện mới rồi nói lại. Bao Tích Nhược chợt đỏ mặt, trong lòng cũng rất vui vẻ. Dương Thiết Tâm nói:

– Chúng ta cứ đổi đôi đoản kiếm này rồi sẽ nói chuyện, kể như lễ vật đầu tiên. Nếu là anh em chị em thì chúng ta sẽ đổi lại, còn nếu là một cặp vợ chồng nhỏ…

Quách Khiếu Thiên cười nói ;

– Vậy thì nói xin lỗi, hai thanh kiếm này đều về cả nhà anh thôi.

Bao Tích Nhược cười nói:

– Biết đâu về cả nhà em thì sao.

Lúc ấy Quách Dương hai người bèn đổi kiếm cho nhau. Việc chỉ phúc định hôn thời bấy giờ cũng là chuyện thường, hai đứa con chưa ra khỏi bụng mẹ, cha mẹ đôi bên cũng đã có thể thay mặt chúng lo chuyện chung thân đại sự.

Quách Khiếu Thiên cầm đoản kiếm hớn hở về nhà nói lại với vợ. Lý Bình nghe thấy cũng vui mừng.

Dương Thiết Tâm săm soi thanh đoản kiếm, rót rượu uống một mình, bất giác say mềm. Bao Tích Nhược đỡ chồng lên giường, thu dọn mâm bát, thấy trời đã xế bèn ra hậu viện cho gà vào chuồng rồi ra đóng cửa sau, chỉ thấy trên mặt tuyết rải rác có vết máu vòng qua cửa sau. Nàng giật nảy mình nghĩ thầm:

– Vốn mình đã quét sạch vết máu rồi, nếu để công sai của quan phủ nhìn thấy há chẳng phải là mối họa tày trời sao?

Vội lấy chổi ra cửa quét tuyết. Vết máu ấy, đi thẳng vào khu rừng sau nhà, trên mặt tuyết còn lưu lại vết người bò. Bao Tích Nhược càng ngờ vực, theo vết máu tiến vào rừng thông, chuyển qua một ngôi mộ cổ, chỉ thấy dưới đất có một đống tròn tròn màu đen.

Bao Tích Nhược tới gần cúi nhìn mới hoảng sợ nhận ra là một xác chết mặc áo đen, chính là một trong những người đuổi bắt Khưu Xử Cơ mới rồi, nghĩ có lẽ y bị thương nhất thời chưa chết bò được tới đây. Nàng định quay về gọi chồng dậy ra chôn, chợt xoay chuyển ý nghĩ Không khéo quỷ thần xui khiến lại có ai đi ngang nhìn thấy. Bèn đánh bạo bước qua kéo cái xác ấy, định lôi vào giấu trong bụi cỏ rậm rồi sẽ vào gọi chồng. Không ngờ nàng vừa đưa tay kéo, cái xác ấy chợt nhúc nhích, kế rên lên một tiếng.

Bao Tích Nhược nhất thời phát hoảng hồn bất phụ thể, chỉ cho là quỷ nhập tràng, quay người định bỏ chạy nhưng hai chân như bị đóng đinh xuống đất không nhấc lên được. Khoảng nửa bữa cơm, cái xác ấy không động đậy nữa, nàng cầm chổi nhè nhẹ chọc vào một lúc, cái xác ấy lại rên lên một tiếng. âm thanh rất yếu ớt. Nàng mới biết người ấy chưa chết, định thần nhìn lại thấy đầu vai y trúng một mũi tên răng sói cắm sâu vào thịt, cánh tên dính đầy máu. Tuyết trên trời không ngừng rơi xuống, người ấy toàn thân đã bị một lớp tuyết mỏng phủ kín, chỉ cần đến nửa đêm sẽ chết cóng.

Nàng từ nhỏ đã có lòng nhân từ, chỉ cần nhìn thấy con sẻ, con ếch, thậm chí loại sâu bọ như con kiến bị thương thì nhất định cũng sẽ đem về nhà cho ăn đến khi lành lặn thả lại ra đồng, nếu chữa không được thì cả ngày không vui, tính nết ấy đến lớn vẫn không đổi, đến nỗi trong nhà nuôi đầy các loại sâu bọ, côn trùng, chim nhỏ thú nhỏ. Cha nàng là thầy đồ trong làng đi thi mấy lần không đỗ, bèn theo tính nết của nàng đặt cho nàng cái tên là Tích Nhược. Nhà họ Bao ở thôn Hồng Mai rất nhiều gà giò gà mái, vốn là vì Bao Tích Nhược nuôi từ nhỏ đến lớn, quyết không chịu giết một con, cha mẹ muốn ăn chỉ có cách ra chợ mà mua, vì vậy đám gà qué trong nhà đều được hưởng trọn tuổi trời, thọ chung là được tống táng. Sau khi nàng được gả cho họ Dương, Dương Thiết Tâm đối với người vợ như hoa như ngọc này mười phần yêu thương, việc gì cũng chiều theo ý nàng. Hậu viện Dương gia tự nhiên cũng là một thế giới của chim con thú con. Về sau đám gà con vịt con trong nhà họ Dương dần dần trở thành gà lớn vịt lớn, chỉ là nàng lấy chồng chưa bao lâu nên trong nhà chưa có gà già vịt già, nhưng đại thế đã thành, sau này nhất định sẽ có.

Lúc bấy giờ nàng thấy người kia hơi thở đứt đoạn nằm phục trên mặt tuyết lại nảy đòng từ tâm. Tuy biết rõ y không phải là người tốt nhưng giương mắt nhìn y chết rét thì trong lòng bất kể thế nào cũng thấy không nỡ. Nàng trầm ngâm một thoáng rồi chạy mau vào nhà, định gọi chồng dậy bàn. Không ngờ Dương Thiết Tâm say mê mệt, lay gọi thế nào cũng nằm bất động.

Bao Tích Nhược nghĩ thầm cứ cứu người trước rồi sẽ bàn, lúc ấy tìm thuốc kim sang cầm máu của chồng, cầm thêm con dao cắt vải và nửa bầu rượu còn ấm trên lò, lại chạy ra ngoài. Người kia vẫn nằm ở đó bất động.

Bao Tích Nhược đỡ y dậy, từ từ đổ rượu cho y. Nàng từ nhỏ đã quen chữa bệnh cho chim con thú con, về việc chữa trị vết thương cũng hiểu biết chút ít. Thấy mũi tên kia cắm vào thịt rất sâu, nhổ ngay ra chỉ e y sẽ mất máu chết tại đương trường. Nhưng nếu không nhổ thì không sao chữa vết thương được. Lúc ấy bèn cắn chặt răng, dùng con dao cắt vải khoét vết thương nắm mũi tên dùng sức giật một cái. Người kia gào thảm một tiếng ngất đi luôn, máu tươi từ vết thương phun ra dính đầy trước ngực áo Bao Tích Nhược, nhưng cuối cùng mũi tên cũng đã rút ra được.

Bao Tích Nhược trái tim đột nhiên đập mạnh, vội đem thuốc kim sang rịt vào vết thương, lấy vải bó chặt lại. Qua một lúc người kia từ từ tỉnh lại nhưng yếu ớt vô lực ngay cả rên cũng không thành tiếng.

Bao Tích Nhược tay mềm chân yếu, quả thật không đỡ nổi người đàn ông to lớn như thế linh cơ chợt động, bèn trở vào nhà lấy một cánh cửa kéo người ấy đặt lên, kế đẩy tấm cánh cửa trên mặt tuyết như một cỗ xe trượt tuyết chở y về nhà đưa vào kho củi.

Nàng vất vả suốt nửa ngày, lúc ấy mới hoàn hồn, thay áo rửa mặt, lấy một ít canh gà còn thừa trong nồi, một tay cầm giá nến, lại vào kho củi xem hán tử kia. Chỉ thấy y hơi thở yếu ớt nhưng chưa tắt hơi. Bao Tích Nhược trong lòng được an ủi rất nhiều,bèn đút canh gà cho y. Người ấy ăn được nửa bát chợt ho sù sụ một hồi.

Bao Tích Nhược phát hoảng, nhấc giá nến lên nhìn, dưới ánh nến chỉ thấy người kia mi thanh mục tú sống mũi cao, đúng là một người đàn ông tuấn tú. Nàng chợt thấy mặt nóng bừng, tay trái khẽ run lên chiếc giá nến lay động, mấy giọt sáp nhỏ xuống mặt người kia.

Người kia mở mắt ra nhìn, chợt thấy trước mặt một khuôn mặt xinh đẹp như hoa, hai má ửng hồng, mắt sáng long lanh, trong ánh mắt vừa có vẻ thương xót vừa có vẻ thẹn thùng, quang cảnh trước mắt như đang trong mơ, bất giác vô cùng ngạc nhiên. Bao Tích Nhược cúi đầu nói:

– Ngươi đã khỏe chưa? Ăn canh đi.

Người kia đưa tay muốn đón lấy nhưng cánh tay không có chút sức lực nào, suýt nữa làm đổ cả vào người. Bao Tích Nhược vội giừ lấy bát canh, lúc này cứu người là việc gấp, chỉ còn cách từng thìa từng thìa đút cho y.

Người kia ăn hết bát canh rồi, trong mắt dần dần có ánh sáng, chăm chú nhìn nàng, hiện rõ vẻ vô cùng cảm kích. Bao Tích Nhược thấy ánh mắt y có chút ý không tốt, bèn lấy mấy tấm đệm cỏ đắp cho y rồi cầm giá nến trở về phòng.

Đêm ấy nàng ngủ không yên, liên tiếp nằm mơ thấy mấy giấc mộng dữ. Lúc thì thấy chồng một ngọn thương xông vào kho củi giết chết người ấy, lúc thì thấy người ấy cầm đao chém chết chồng mình rồi đuổi bắt mình, bốn phía đều là vực thẳm, không còn chỗ nào trốn chạy, mấy lần giật mình thức dậy, hoảng sợ toát cả mồ hôi. Đến khi trời sáng trở dậy thì chồng đã dậy trước, chỉ thấy y cầm ngọn thương sắt, đang dùng đá mài mài lại mũi thương. Bao Tích Nhược nhớ lại giấc mộng đêm qua hoảng sợ giật nảy mình, vội chạy xuống kho củi đẩy cửa bước vào lại càng sững sờ, té ra chỉ thấy một đống cỏ vương vãi ở đó, còn người kia không biết đã đi đâu.

Nàng chạy ra hậu viện, chỉ thấy cánh cửa khép hờ, trên mặt tuyết còn lưu lại vết người bò về phía Tây. Nàng nhìn theo dấu vết bất giác ngẩn ngơ xuất thần. Qua một lúc lâu, một trận gió lạnh ào ào thổi tới, nàng chợt thấy lưng mềm chân nhũn, vô cùng mệt mỏi liền trở vào phòng khách. Dương Thiết Tâm đã nấu xong cháo điểm tâm, đặt ra bàn cười nói:

– Nàng xem ta nấu cháo cũng ngon lắm chứ?

Bao Tích Nhược biết chồng thấy mình có thai nên đặc biệt thương yêu, bèn cười một tiếng ngồi xuống, bưng bát cháo lên ăn. Nàng nghĩ nếu đem chuyện đêm qua nói với chồng thì y ghét kẻ ác như kẻ thù, nhất định sẽ tìm giết người kia, há chẳng phải cứu người không trót sao. Cho nên lúc ấy bèn im bặt không nói gì tới.

***

Thấm thoát đông qua xuân tới, chớp mắt đã vài tháng. Bao Tích Nhược bụng đã to dần, ngày càng cảm thấy xoay trở khó khăn, chuyện cứu người hôm ấy cũng dần dần quên đi.

Hôm ấy vợ chồng Dương thị ăn cơm chiều xong. Bao Tích Nhược ngồi dưới đèn may áo mới cho chồng. Dương Thiết Tâm đan xong đôi giày cỏ đem treo lên tường, sực nhớ ban ngày đi cày ruộng bị hỏng lưỡi cày bèn nói với Bao Tích Nhược:

– Lưỡi cày hư rồi, sáng mai gọi Trương Mộc Nhi ở thôn Đông thêm một cân rưỡi sắt hàn lại.

Bao Tích Nhược nói:

– Được rồi?

Dương Thiết Tâm nhìn vợ nói:

– Áo của ta còn đủ mặc, nàng đã yếu ớt lại thêm đứa con, nên nghỉ ngơi cho nhiều, đừng may quần áo cho ta làm gì.

Bao Tích Nhược ngoảnh đầu qua cười một tiếng, vẫn không ngừng tay. Dương Thiết Tâm bước qua, nhẹ nhàng giữ mũi kim của nàng lại. Bao Tích Nhược lúc ấy mới đứng dậy vặn lưng, tắt đèn đi ngủ.

Đến nửa đêm. Bao Tích Nhược mơ mơ màng màng chợt nghe chồng trở mình, giật mình thức giấc, chỉ thấy xa xa có tiếng vó ngựa, nghe âm thanh thì từ phía Tây chạy qua phía đông, hồi sau cũng có tiếng vó ngựa từ phía đông vang tới, kế đó hai phía nam bắc cũng đều có tiếng vó ngựa. Bao Tích Nhược ngồi dậy nói:

– Tại sao bốn phía đều có tiếng vó ngựa thế?

Dương Thiết Tâm vội xuống giường mặc áo, trong khoảnh khắc tiếng vó ngựa bốn phía đã tới gần, chó trong thôn đua nhau sủa ran. Dương Thiết Tâm nói:

– Chúng ta bị bao vây rồi!

Bao Tích Nhược hoảng sợ nói:

– Tại sao lại thế?

Dương Thiết Tâm nói:

– Không biết.

Rồi đưa thanh đoản kiếm Khưu Sử Cơ tặng cho vợ nói:

– Nàng cầm lấy để phòng thân.

Kế rút ngọn thương sắt trên tường xuống nắm chặt trong tay. Lúc ấy cả bốn phía đông tây nam bắc người reo ngựa hí đã tụ họp thành một khối.

Dương Thiết Tâm đẩy cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy đại đội binh mã đã bao vây quanh thôn, binh lính tay giơ cao đuốc, bảy tám tên võ tướng cưỡi ngựa phóng qua phóng lại.

Chỉ nghe đám quân sĩ nhất tề quát lớn:

– Bắt lấy phản tặc, không để phản tặc chạy thoát!

Dương Thiết Tâm nghĩ thầm Đây chắc là tới bắt Khúc Tam rồi. Mấy hôm trước không thấy y trong thôn, may là y không có nhà, nếu không thì cho dù võ công của y cao cường hơn cũng không chống nổi bấy nhiêu quan quân. Chợt nghe một tên võ tướng cao giọng gọi:

– Quách Khiếu Thiên, Dương Thiết Tâm hai tên phản tặc mau ra bó tay chịu trói.

Dương Thiết Tâm cả kinh. Bao Tích Nhược càng sợ xanh mặt. Dương Thiết Tâm hạ giọng nói:

– Không rõ quan quân có chuyện gì lại tới vu oan giá họa làm hại lương dân. Theo lên quan phủ thì sẽ không xét rõ ngay gian được, chúng ta chỉ còn cách bỏ trốn. Nàng đừng sợ, bằng vào ngọn trường thương này của ta nhất định đưa được nàng ra khỏi vòng vây.

Gã một thân võ nghệ cao cường, lại từng qua lại giang hồ, lúc ấy lâm nguy không loạn, đeo bao tên vào, nắm chặt tay phải vợ.

Bao Tích Nhược nói:

– Để ta đi thu thập hành lý.

Dương Thiết Tâm nói:

– Chúng ta chỉ cần thoát thân, ta và nàng tự nhiên có thể xây dựng lại nhà cửa nơi khác.

Bao Tích Nhược nói:

– Còn bầy gà con vịt con thì sao?

Dương Thiệt Tâm than:

– Con nhóc ngu ngốc, bây giờ mà còn tiếc mấy con vật ấy à?

Ngừng một lúc lại an ủi:

– Bọn quan quân đuổi bắt được đám gà con, mèo con của nàng cũng còn khó.

Câu nói vừa dứt, ngoài cửa sổ ánh lửa sáng rực, đám quân sĩ đã đốt hai gian chứa cỏ, lại có hai tên lính giơ cao đuốc châm vào mái nhà Dương gia, quát lớn:

– Quách Khiếu Thiên, Dương Thiết Tâm hai tên phản tặc còn không chịu ra, thì sẽ đốt toàn bộ thôn Ngưu Gia thành bình địa.

Dương Thiết Tâm khí tức đầy ruột, đạp cửa xông ra lớn tiếng quát:

– Ta là Dương Thiết Tâm đây? Các ngươi muốn gì?

Hai tên lính hoảng sợ vứt đuốc quay người bỏ chạy. Trong ánh lửa một tên võ quan phi ngựa phóng tới quát lớn:

– Được, ngươi là Dương Thiết Tâm à, theo ta về gặp quan trên! Bắt lấy nó.

Bốn năm tên lính nhất tề xông vào. Dương Thiết Tâm vung ngọn thương lên, một chiêu Bạch hồng kinh thiên quét ngã ba tên, lại một chiêu Bạch hồng kinh thiên quét ngã ba tên, lại một chiêu Xuân lôi chấn nộ, cán thương hất một tên ngã bò càng trên mặt đất, quát lớn:

– Muốn bắt người thì trước tiên phải nói xem ta phạm tội gì đã.

Tên võ quan kia mắng:

– Phản tặc to gan, dám chống cự à!

Y ngoài miệng chửi mắng nhưng trong lòng cũng sợ đối phương dũng mãnh, không dám tới gần. Một tên võ quan khác đứng sau lưng y quát:

– Hãy ngoan ngoãn theo lão gia lên quan, thì khỏi thêm tội danh khác. Có công văn đây!

Dương Thiết Tâm nói:

– Đưa ta xem.

Tên võ quan ấy nói:

– Còn có một tên tội phạm họ Quách nữa.

Quách Khiếu Thiên ló nửa người trên ra cửa sổ, giương cung lắp tên quát:

– Quách Khiếu Thiên trong này.

Mũi tên chĩa thẳng vào y. Tên võ quan ấy rợn tóc gáy, chỉ thấy sống lưng lạnh buốt, quát lớn:

– Ngươi bỏ tên xuống ngay, ta đọc công văn cho các ngươi nghe.

Quách Khiếu Thiên lớn tiếng quát:

– Đọc mau lên!

Cánh cung lại càng giương căng. Tên võ quan kia không biết làm sao bèn giở tờ công văn lớn tiếng đọc:

– Hai tên tội phạm Quách Khiếu Thiên, Dương Thiết Tâm ở thôn Ngưu Gia phủ Lâm An câu kết với giặc cướp, mưu đồ bất chính, lập tức bắt về tra hỏi, xét xử theo pháp luật.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Công văn của nha môn nào vậy?

Tên võ quan kia nói:

– Là thủ dụ của Hàn tướng gia.

Quách Dương hai người đều giật mình, đều nghĩ thầm:

– Chuyện gì mà quan trọng đến thế, đến nỗi đích thân Hàn Sá Trụ phải viết thủ dụ? Chẳng lẽ chuyện Khưu đạo trưởng giết chết quan quân đã bị lộ rồi sao?

Quách Khiếu Thiên nói:

– Là ai tố cáo? Có bằng chứng gì không?

Tên võ quan kia nói:

– Bọn ta chỉ biết bắt người, các ngươi cứ tới phủ đường tự phân biện.

Dương Thiết Tâm quát:

– Hàn Thừa tướng chuyên hại lương dân vô tội, ai mà chẳng biết? Bọn ta thật không làm được chuyện đó.

Tên võ quan đứng đầu quát:

– Chống lại mệnh lệnh, kháng cự quan quân thì tội thêm một bậc.

Dương Thiết Tâm nhìn qua vợ nói:

– Nàng mau mặc thêm mấy cái áo, để ta cướp ngựa của chúng cho nàng. Để ta bắn ngã đám quan tướng thì quân lính tự nhiên rối loạn.

Trong tiếng cung bật, tên bay như sao băng, trúng vào vai phải tên võ quan kia. Tên võ quan ấy “ái chà” một tiếng ngã lăn xuống ngựa, đám quân sĩ lớn tiếng la thét, một tên võ quan khác quát lớn:

– Bắt phản tặc?

Đám quân sĩ nhao nhao xông lên. Quách Dương hai người phát tên liên châu, trong chớp mắt bắn ngã sáu bảy tên lính, nhưng quan quân đông người, dưới sự đốc thúc của đám võ quan đã xông tới trước cổng hai nhà.

Dương Thiết Tâm quát lớn một tiếng xông ra khỏi cổng vung thương sắt lên, quan quân la thét chạy ngược trở lại. Y sấn tới cạnh một tên võ quan cưỡi ngựa trắng vung thương đâm, tên võ quan ấy giơ thương gạt đỡ. Nào ngờ thương pháp Dương gia biến hóa linh động, mũi thương trầm xuống một cái, tên võ quan kia đã bị đâm trúng đùi. Dương Thiết Tâm hất ngọn thương lên, tên võ quan lăn nhào xuống đất. Dương Thiết Tâm chống ngọn thương sắt xuống đất một cái phi thân lên ngựa, hai đùi kẹp chặt, con ngựa hí lớn một tiếng, dưới ánh lửa sáng phóng thẳng vào nhà. Dương Thiết Tâm nhấc thương đâm ngã một tên lính đứng cạnh cổng, khom người vươn tay kéo Bao Tích Nhược lên ngựa, lớn tiếng quát:

– Đại ca theo ta!

Quách Khiếu Thiên múa song kích bảo vệ vợ là Lý Bình, xông vào đám đông đánh giết. Quan quân thấy hai người hung hãn không thể ngăn cản, đua nhau phát tên rào rào. Dương Thiết Tâm phóng ngựa phi ngang Lý Bình, gọi lớn:

– Đại tẩu, lên ngựa mau!

Nói xong nhảy luôn xuống. Lý Bình vội nói:

– Không được!

Dương Thiết Tâm đời nào đếm xỉa, quờ một cái ngang hông nàng nhấc lên ngựa. Hai anh em kết nghĩa theo sau ngựa vừa đánh vừa chạy, cố thoát lấy thân. Chạy chưa bao lâu, đột nhiên trước mặt có tiếng hò reo vang dậy, lại có một đội quân mã đánh tới Quách Dương hai người thầm kêu khổ, toan tìm đường chạy trốn thì phía trước tên đã rào rào bắn tới. Bao Tích Nhược kêu một tiếng “ái chà!”, con ngựa trúng tên ngã quỵ xuống đất, hất ngã hai người đàn bà. Dương Thiết Tâm nói:

– Đại ca, anh bảo vệ họ, ta xông lên cướp ngựa.

Nói xong múa thương xông vào đám quan quân đánh giết. Mười tên quân sĩ xếp thanh một hàng, tay cầm trường mâu chĩa thẳng vào Dương Thiết Tâm, đồng thanh gầm lên. Quách Khiếu Thiên nhìn thấy quan quân thế mạnh, nghĩ thầm:

– Bằng vào sức hai anh em mình thì chạy thoát không khó, nhưng trước sau đều có giặc, vợ con thì bất kể thế nào cũng không thể cứu được. Bọn mình lại không phạm pháp, nếu chết uổng nơi này chẳng bằng tới phủ Lâm An phân biện. Lần trước Khưu Xử Cơ đạo trưởng giết sạch sai dịch và quân Kim không còn tên nào, kẻ chết không thể đối chứng, chắc quan phủ cũng không thể khép tội cho bọn mình. Mà nói cho cùng thì đám sai dịch và quân Kim kia cũng không phải do anh em mình giết.

Lúc ấy bèn cao giọng gọi:

– Huynh đệ, đừng đánh nữa, chúng ta theo họ về phủ thôi.

Dương Thiết Tâm sửng sốt, cầm thương quay lại. Tên võ quan cầm đầu hạ lệnh ngừng bắn, sai quân sĩ vây quanh, gọi:

– Ném binh khí cung tên xuống, sẽ tha cho các ngươi khỏi chết.

Dương Thiết Tâm nói:

– Đại ca, đừng trúng kế của chúng.

Quách Khiếu Thiên lắc lắc đầu, buông đôi kích xuống đất. Dương Thiết Tâm thấy vợ sợ đến mức hoa dung thất sắc, trong lòng bất nhẫn, thở dài một tiếng cũng ném trường thương và cung tên xuống đất Quách Dương hai người binh khí cung tên vừa rời khỏi tay, hơn chục mũi trường mâu đã lập tức chĩa vào sát bốn người. Tám tên lính bước lên, hai người hầu hạ một người, trói quặt tay bốn người ra sau lưng. Dương Thiết Tâm ha hả cười nhạt, ngẩng đầu không đếm xỉa gì tới. Tên võ quan cầm đầu giơ roi ngựa lên, roạt một tiếng đánh vào mặt Dương Thiết Tâm, chửi:

– Phản tặc to gan, quả thật ngươi không sợ chết à?

Nhát roi ấy đánh trúng từ trán tới cằm y, để lại một vết đỏ dài. Dương Thiết Tâm tức giận nói:

– Giỏi lắm, ngươi tên gì?

Tên võ quan kia càng lữa đổ thêm dầu, vung roi đập như mưa, quát:

– Lão gia đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, họ Đoàn tên Thiên Đức là chữ trong câu Thượng thiên hữu hiếu sinh chi đức (Trời cao có đức hiếu sinh), nhớ kỹ chưa? Ngươi tới gặp Diêm vương mà đưa cáo trạng.

Dương Thiết Tâm không hề né tránh, trợn mắt nhìn chằm chặp vào y. Đoàn Thiên Đức quát:

– Lão gia trên trán có vết đao, trên mặt có dấu ấn, nhớ cho kỹ đấy!

Nói xong lại đánh một roi. Bao Tích Nhược thấy chồng chịu khổ như thế, khóc nói:

– Y là người tốt, không làm chuyện gì xấu Tại… tại sao ngươi lại đánh người như thế? Tại… tại sao ngươi không chịu nói lý lẽ?

Dương Thiết Tâm phun một bãi nước bọt, chách một tiếng trúng giữa mặt Đoàn Thiên Đức. Đoàn Thiên Đức cả giận, tuốt yêu đao ra quát:

– Cứ giết thằng phản tặc nhà ngươi trước đã!

Rồi vung đao chém thẳng xuống. Dương Thiết Tâm tránh qua một bên, nhưng hai tên lính cầm trường mâu hai bên cứ ấn mũi mâu vào hai bên sườn y. Đoàn Thiên Đức chém một đao, Dương Thiết Tâm không sao né được đành lui mau về phía sau. Gã Đoàn Thiên Đức này cũng có mấy phần võ nghệ, một đao chém không trúng lại chém tiếp một đao nữa, thanh đao của y là đao răng cưa nhát đao ấy chém rách một đường trên tay trái Dương Thiết Tâm, tiếp theo đao thứ hai lại chém tới.

Quách Khiếu Thiên thấy nghĩa đệ bị nguy hiểm đột nhiên vọt ra, phóng chân đá vào mặt Đoàn Thiên Đức. Đoàn Thiên Đức giật nảy mình, rút đao về đỡ. Quách Khiếu Thiên tuy hai tay bị trói nhưng công phu cước pháp cao cường, thân hình chưa rơi tới đất, chân phải lại phóng ra đá trúng sườn Đoàn Thiên Đức. Đoàn Thiên Đức trúng đòn đau quá vô cùng tức giận, gầm lên:

– Loạn thương đâm chết nó đi? Quan trên phân phó rồi, nếu phản tặc chống cự thì giết chết không có tội.

Đám quân sĩ nhấc mâu nhất tề đâm tới. Quách Khiếu Thiên song cước liên tiếp đá ngã mấy tên, nhưng rốt lại hai tay bị trói, cử động không được linh hoạt, né người tránh qua trường mâu, Đoàn Thiên Đức từ phía sau sấn tới giơ đao chém xuống, sả đứt cánh tay phải y.

Dương Thiết Tâm đang ra sức bứt dây trói, lúc nguy cấp không sao cởi được, đột nhiên thấy nghĩa huynh bị thương ngã xuống, trong lòng vô cùng đau đớn, không biết từ đâu nảy sinh một sức mạnh phi thường, quát lớn một tiếng, dây trói đứt tung, vung quyền đánh ngã một tên lính, cướp lấy một thanh trường mâu, triển khai thương pháp Dương gia, lúc ấy đúng là một người liều mạng, vạn người khôn địch. Trường mâu vung lên lập tức đâm ngã hai tên lính. Đoàn Thiên Đức thấy tình hình không hay bèn lui ra trước. Dương Thiết Tâm lúc đầu còn có chút kiêng dè, không dám giết chết quan quân, đến lúc ấy thì bất chấp tất cả, đâm đông đập tây, trong khoảnh khắc giết chết vài người. Đám quan quân thấy y hung dữ, trong lòng đều run sợ, kêu lên một tiếng, bỏ chạy tán loạn. Dương Thiết Tâm cũng không đuổi theo, đỡ nghĩa huynh dậy, chỉ thấy chỗ cánh tay bị đứt của y máu phun như suối, toàn thân đẫm máu, bất giác ứa nước mắt. Quách Khiếu Thiên cắn chặt răng, nói:

– Huynh đệ, đừng lo cho ta… chạy, chạy mau đi!

Dương Thiết Tâm nói:

– Ta đi cướp ngựa, liều mạng cứu anh cùng chạy.

Quách Khiếu Thiên nói:

– Đừng… đừng…

Rồi ngất đi luôn. Dương Thiết Tâm cởi áo định băng bó cho nghĩa huynh, nhưng nhát đao ấy của Đoàn Thiên Đức sả từ cánh tay vào ngực, vết thương kéo dài suốt nửa người lại không sao băng bó. Quách Khiếu Thiên dần dần tỉnh lại, nói:

– Huynh đệ, ngươi đi cứu vợ và chị dâu ngươi, ta… ta… thì không cần đâu…

Nói xong tắt hơi chết luôn. Dương Thiết Tâm và nghĩa huynh tình như cốt nhục thấy y chết thảm, trong lòng bi phẫn, chợt trong óc lóe lên một tia sáng, nghĩ tới lúc hai người kết giao từng thề “Chỉ mong được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm”, ngoảnh đầu nhìn quanh thì vợ mình và Quách đại tẩu trong lúc hỗn loạn không biết đã chạy đi đâu Y cất tiếng gọi lớn:

– Đại ca, ta đi báo thù cho anh?

Rồi cầm mâu xông vào đám quan quân chém giết. Lúc bấy giờ quan quân đã bày thành đội ngũ, Đoàn Thiên Đức phát lệnh, tên bắn tới rào rào.

Dương Thiết Tâm hoàn toàn bất chấp, gạt tên xông mau vào. Một tên võ quan vung đại đao đón đường chém xuống, Dương Thiết Tâm thân hình nghiêng đi một cái đột nhiên lăn vào dưới bụng ngựa. Tên võ quan kia một đao chém trượt, đang kìm ngựa lại thì hậu tâm đã bị một mâu đâm suốt qua.

Dương Thiết Tâm hất cái xác ra nhảy lên lưng ngựa, vũ động trường mâu. Đám quan quân không dám đón đánh, bỏ chạy tứ tán. Y xung sát một hồi, chỉ thấy một tên võ quan ôm một người phụ nữ cười trên ngựa phi nhanh.

Dương Thiết Tâm phi thân xuống ngựa, vung mâu đập ngã một tên lính, cướp lấy cung tên trong tay y, dưới ánh lửa nhắm thật đúng con ngựa của tên võ quan kia, vù một tiếng phóng tên ra, trúng vào mông ngựa, con ngựa chúi hôn về phía trước, hai người ngồi trên ngựa cũng lăn xuống đất. Dương Thiết Tâm lại bắn thêm một phát giết chết tên võ quan rồi cầm thương xông qua, chỉ thấy người phụ nữ ấy lồm cồm dưới đất bò dậy, chính là vợ mình.

Bao Tích Nhược vừa nhìn thấy chồng, vừa mừng vừa sợ, lao vào ôm chầm lấy y. Dương Thiết Tâm hỏi:

– Đại tẩu đâu?

Bao Tích Nhược đáp:

– Phía trước, bị… bị… quan quân bắt đi rồi!

Dương Thiết Tâm nói:

– Nàng chờ ở đây, để ta đi cứu chị ấy.

Bao Tích Nhược hoảng sợ nói:

– Phía sau lại có quan quân đuổi tới kìa!

Dương Thiết Tâm quay đầu nhìn, quả thấy một đám quan quân cầm đuốc tràn tới. Dương Thiết Tâm nghiến răng nói:

– Đại ca chết rồi, ta bất kể thế nào cũng phải cứu được đại tẩu, bào toàn giọt máu của Quách gia. Chỉ cần trời thương, thì ta với nàng rồi đây sẽ có ngày gặp lại.

Bao Tích Nhược nắm chặt tay áo chồng liều chết không buông, khóc nói:

– Chúng ta vĩnh viễn không thể chia lìa, chàng đã nói rồi, chúng ta cho dù phi chết cũng chết một chỗ! Có đúng không? Chàng đã nói thế mà!

Dương Thiết Tâm trong lòng chua xót, ôm chặt vợ vào lòng rồi dứt khoát gỡ hai tay nàng ra, cầm mâu đuổi lên phía trước, chạy được mười bước quay đầu nhìn lại, chỉ thấy vợ khóc lăn ra trong đám bụi đất phía sau quan quân đã xông tới sát người nàng. Dương Thiết Tâm đưa tay áo lau nước mắt, mồ hôi và máu trên mặt, bỏ hết chuyện sống chết ra ngoài, chỉ mong cứu được Lý thị, bảo toàn dòng dõi của nghĩa huynh, đuổi theo một hồi lại đoạt được một con ngựa, bắt được một tên lính tra hỏi, biết được Lý thị đang ở phía trước.

Y phóng ngựa đuổi mau, chợt nghe trong cánh rừng ven đường có tiếng phụ nữ khóc lớn, vội vàng kéo cương ngựa quay lại xông vào rừng, chỉ thấy Lý thị hai tay đã cởi trói, đang đánh nhau với hai tên lính. Nàng là con gái nhà nông, thân thể khỏe mạnh, tuy không biết võ công nhưng lúc bấy giờ liều mạng chống trả cũng có thêm một phần sức mạnh, hai tên lính kia vừa cười vừa chửi nhưng nhất thời cũng không làm gì được nàng. Dương Thiết Tâm cũng không buồn lên tiếng, xông vào đâm mỗi tên một mâu, giết chết hai tên lính, đỡ Lý thị lên yên ngựa, hai người cùng cưỡi quay lại tìm vợ.

Chạy tới chỗ chia tay Bao thị thì đã không còn người nào. Lúc bấy giờ trời vừa rạng sáng, y xuống ngựa tìm kiếm, chỉ thấy trên mặt đất đầy vết móng ngựa, còn có dấu vết giằng co níu kéo, nghĩ rằng chắc vợ đã bị quan quân bắt đi rồi.

Dương Thiết Tâm vội vàng lên ngựa, hai chân thúc loạn vào hông ngựa, cơn ngựa bị đau, phóng mau như gió. Đang lúc gấp gáp, chợt ven đường có tiếng tù và vang lên, mười mấy tên võ sĩ áo đen xông ra. Người đi đầu cầm lang nha bổng sấn tới đập xuống. Dương Thiết Tâm đưa mâu gạt ra, đâm trả một mâu, người kia rút bổng đón đỡ, bổng pháp rất kỳ lạ, không giống lộ số võ thuật Trung nguyên.

Dương Thiết Tâm trước đây cùng Quách Khiếu Thiên đàm luận võ nghệ, biết năm xưa trong các hảo hán Lương Sơn Bạc có một vị là Tích lịch hỏa Tần Minh, lang nha bổng pháp thiên hạ vô song, nhưng ngoài ông ta thì trước nay hào kiệt võ lâm dùng loại binh khí này rất ít, vì lang nha bổng rất nặng, nếu không có sức khỏe thì không dễ sử dụng theo ý mình. Chỉ có quan tướng quân Kim thì rất thích dùng, vì người Kim sinh trưởng ở vùng Liêu Đông giá lạnh, thân thể to lớn khỏe mạnh, binh khí nặng thì ra trận dễ chiếm ưu thế. Năm xưa quân Kim vào cướp, đùng lang nha bổng đánh đập quân dân Đại Tống. Bách tính sau khi rức giận lại kể một chuyện cười.

Giáp nói: Quân Kim có gì đáng sợ, họ có một cái chúng ta cũng có một cái chống lại.

Ất nói: Quân Kim có Kim Ngột Truật.

Giáp nói: Chúng ta có Hàn Thiếu bảo.

Ất nói: Quân Kim có Lãnh Tử mã.

Giáp nói: Chúng ta có Ma Trát đao.

Ất nói: Quân Kim có lang nha bổng.

Giáp nói: Chúng ta có Thiên linh cái.

Thiên linh cái rức đỉnh đầu, lang nha bổng của quân Kim đánh tới thì bách tính Đại Tống chỉ có cách giơ đầu ra đỡ, trong câu chuyện cười hàm chứa cả nỗi bi phẫn vô hạn.

Lúc bấy giờ Dương Thiết Tâm đánh nhau với người sử lang nha bổng vài hợp, nhớ lại việc đàm luận với Quách Khiếu Thiên trước kia càng thêm nghi ngờ, bổng pháp của người kia rõ ràng là quan tướng quân Kim, sao lại đột nhiên xuất hiện ở đây? Lại đánh thêm vài hợp, chiêu số càng mau, nhấc mâu đâm người kia ngã lăn xuống ngựa. Đám còn lại cả kinh, la thét chạy tứ tán. Dương Thiết Tâm quay đầu nhìn Lý thị ngồi sau lưng xem trong lúc chiến đấu nàng có bị thương không, đột nhiên từ đám rừng rậm có một mũi tên ngầm bắn ra, Dương Thiết Tâm không kịp tránh, bị mũi tên ấy bắn trúng hậu tâm. Lý thị cả kinh, gọi lớn:

– Thúc thúc, tên, tên!

Dương Thiết Tâm trong lòng lạnh buốt:

– Không ngờ hôm nay ta lại chết ở đây! Nhưng trước khi ta chết cũng phi đánh tan đám giặc này, giúp đại tẩu đào sinh.

Lúc ấy bèn vung mâu quát lớn xông vào chỗ đông người đánh giết, nhưng vết thương trên lưng quá nặng, trước mắt chợt thấy tối sầm, ngất đi ngã gục trên lưng ngựa.

Lúc ấy Bao Tích Nhược bị chồng đẩy ra, trong lòng đau như dao cắt, quay nhìn thì quan quân đã đuổi sát tới vừa định chạy trốn đã bị mấy tên lính đỡ lên một con ngựa. Một tên võ quan nhấc đuốc lên soi vào mặt nàng nhìn kỹ một lúc, gật gật đầu nói:

– Không ngờ hai thằng nghiệt rử kia lại có bản lĩnh như thế, đả thương không ít anh em bọn ta.

Một tên võ quan khác cười nói:

– Bây giờ có thể nói là đại công cáo thành, chuyến này vất vả, mỗi người cũng phải được thưởng mười mấy lượng bạc.

Tên võ quan kia nói:

– Hừ, chỉ cần quan trên ăn bớt ít thôi.

Rồi quay đầu nhìn tên lính thổi kèn hiệu nói:

– Rút quân!

Lúc ấy tên lính kia nhấc tù và lên, tu tu tu thổi một tràng.

Bao Tích Nhược nín khóc nuốt lệ, trong lòng chỉ nghĩ tới chồng, không biết tính mệnh y ra sao. Lúc ấy trời đã sáng hẳn, trên đường bắt đầu có người đi, bách tính nhìn thấy quan quân đều len lét tránh xa. Bao Tích Nhược lúc đầu sợ quan quân vô lễ, nào ngờ đám võ quan ngôn ngữ cử chỉ rõ ràng đều rất khách khí, bấy giờ mới hơi yên tâm.

Đi được vài dặm, đột nhiên phía trước có tiếng reo ầm ầm, hơn mười người áo đen tay cầm binh khí từ cạnh đường đánh ra, người đi đầu quát:

– Bọn quan quân vô sỉ tàn hại dân lành mau xuống ngựa nộp mạng.

Viên võ quan dẫn đầu cả giận quát lớn:

– Bọn phỉ, đồ chuột nhắt phương nào lại dám tới làm loạn ở kinh thành? Mau mau tránh ra.

Bọn áo đen kia cũng không lên tiếng, xông vào giữa đám quan quân, đôi bên hỗn chiến. Quan quân tuy đông người nhưng bọn kia ai cũng võ nghệ tinh thông, nhất thời bất phân thắng bại. Bao Tích Nhược mừng thầm, tự nhủ:

– Biết đâu là bạn bè của Thiết ca được tin tới cứu?

Trong lúc hỗn chiến, một mũi tên bắn tới trúng vào mông con ngựa Bao Tích Nhược cưỡi, con ngựa bị đau, tung vó phóng mau về phía bắc. Bao Tích Nhược cả kinh, hai tay ôm cứng cổ ngựa, chỉ sợ rơi xuống đất. Chỉ nghe sau lưng có tiếng vó ngựa rất gấp, một người cưỡi ngựa đuổi theo.

Chớp mắt một con ngựa đen vượt qua, người cưỡi ngựa tay cầm thòng lọng khua mấy vòng trên không, vút một tiếng, sợi thòng đọng bay ra chụp xuống con ngựa của Bao Tích Nhược, hai ngựa cùng chạy song song.

Người kia dần dần rút ngắn dây, hai con ngựa cũng dần dần chạy chậm lại, chạy thêm vài mươi bước, người kia huýt một tiếng sáo, con ngựa đen y cưỡi đứng lại. Con ngựa của Bao Tích Nhược cười bị con ngựa đen giằng lại không sao chạy được nữa, hí lớn một tiếng, đứng thẳng giơ hai chân trước lên.

Bao Tích Nhược vất vả suốt từ nửa đêm, vừa hoảng sợ vừa đau lòng, lúc ấy không giữ được dây cương nữa, hai tay lỏng ra, ngã luôn xuống đất ngất đi. Nàng ngất đi không biết bao lâu, khi dần dần tỉnh lại chỉ thấy mình đang nằm trên một chiếc giường êm, lại thấy trên người dường như được đắp một tấm chăn gấm rất ấm áp, nàng mở mắt ra thì vật đầu tiên nhìn thấy là nóc màn màu thanh hoa, té ra đang nằm trên giường. Nàng quay đầu qua nhìn, thấy trên chiếc bàn đầu giường có một ngọn đèn dầu, dường như người đàn ông áo đen đang ngồi cạnh giường.

Người kia nghe thấy nàng trở mình, vội vàng đứng lên nhẹ nhàng vén màn ra, hạ giọng hỏi:

– Tỉnh rồi à?

Bao Tích Nhược thần trí vẫn chưa hoàn toàn bình thường, chỉ thấy người ấy có vẻ quen quen. Người ấy đưa tay sờ lên trán nàng, nhẹ nhàng nói:

– Đã bớt sốt rồi, y sinh vào đây mau.

Bao Tích Nhược mơ mơ màng màng, lại chìm vào giấc ngủ. Qua một lúc, cảm thấy như có y sinh bắt mạch cho nàng, lại có người đổ thuốc cho.

Nàng đang mê man đột nhiên giật mình tỉnh lại, kêu lớn:

– Thiết ca, Thiết ca!

Lại thấy có người vỗ khẽ vào vai nàng, hạ giọng an ủi. Nàng tỉnh lại lần thứ hai thì trời đã sáng, không kìm được tiếng rên. Một người bước tới gần vén màn ra. Lúc ấy đối diện, Bao Tích Nhược nhìn thấy rõ ràng bất giác hoảng sợ, người ấy diện mục thanh tú, khóe môi lộ vẻ tươi cười, chính là thiếu niên sắp chết trong bãi tuyết mà nàng đã cứu mấy tháng trước. Bao Tích Nhược nói:

– Đây là nơi nào, chồng ta đâu rồi?

Thiếu niên kia xua xua tay tỏ ý không nên nói lớn, hạ giọng nói:

– Bên ngoài quan quân đuổi bắt rất gấp, chúng ta hiện đang ngụ trong một nhà nông dân. Tiểu nhân lớn mật, nhận bừa là chồng của nương tử, xin nương tử đừng để lộ hình tích.

Bao Tích Nhược chợt đỏ mặt, gật gật đầu, lại hỏi:

– Chồng ta đâu rồi?

Người kia nói:

– Nương tử còn yếu, đợi khi nào khỏe hẳn, tiểu nhân sẽ từ từ kể lại:

Bao Tích Nhược cả kinh, nghe ngữ khí của y thì tựa hồ chồng mình đã gặp chuyện không hay, hai tay nắm chặt góc chăn, run lên nói:

– Y… y… sao rồi?

Người kia không chịu trả lời, chỉ nói:

– Bây giờ nương tử có sốt ruột cũng vô ích, sức khỏe là quan trọng.

Bao Tích Nhược hỏi:

– Y… y chết rồi à?

Người kia trên mặt hiện vẻ không biết làm sao, gật gật đầu nói:

– Dương gia bất hạnh, bị quan quân hại chết rồi.

Nói xong chỉ lắc đầu thở dài. Bao Tích Nhược đau đớn ngất đi, hồi lâu mới tỉnh, bật tiếng khóc lớn. Người kia hạ giọng an ủi, Bao Tích Nhược sụt sùi nói:

– Y… vì sao y chết?

Người kia nói:

– Dương gia có phải trạc hai mươi tuổi, lưng dài vai rộng, tay cầm một thanh trường mâu không?

Bao Tích Nhược nói:

– Đúng rồi.

Người kia nói:

– Sáng nay ta thấy y đánh nhau với quan quân, giết chết mấy người, đáng tiếc… ồ, đáng tiếc là một tên võ quan lén tới phía sau đâm trúng lưng y một thương.

Bao Tích Nhược vợ chồng tình nặng lại ngất đi lần nữa, hôm ấy không ăn uống gì, quyết ý tuyệt thực chết theo chồng. Người kia cũng không cưỡng ép, cả ngày chỉ hòa nhã trò chuyện cho nàng khuây khỏa. Bao Tích Nhược sau cùng thấy mình có lỗi, bèn hỏi:

– Cao tính đại danh của tướng công là gì? Tại sao biết ta có nạn mà tới cứu?

Người kia nói:

– Tiểu nhân họ Nhan tên Liệt, hôm trước cùng mấy người bạn đi ngang qua đó, gặp lúc quan quân tàn hại lương dân. Tiểu nhân thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ, không ngờ trời cao có mắt, lại cứu được đại ân nhân của mình, cũng đúng là duyên trời run rủi.

Bao Tích Nhược nghe thấy bốn chữ “Duyên trời run rủi” đỏ bừng mặt, quay đầu vào vách không nhìn ngó gì tới y nữa, trong lòng nghĩ ngợi, đột nhiên nảy ý nghi ngờ, quay ra hỏi:

– Ngươi và quan quân vốn cùng bọn mà?

Nhan Liệt nói:

– Cái… cái gì?

Bao Tích Nhược nói:

– Hôm trước chẳng phải vì ngươi cùng quan quân cùng tới bắt vị đạo trưởng kia mới bị thương sao?

Nhan Liệt nói:

– Chuyện hôm ấy quả thật oan uổng. Tiểu nhân rừng phương Bắc xuống, định tới phủ Lâm An, đi ngang quý thôn, nào ngờ bỗng dưng bị một mũi tên bắn trúng bả vai. Nếu không có nương tử ra tay cứu giúp thì đúng là chết không nhắm mắt. Rốt lại họ muốn bắt đạo sĩ nào vậy? Đạo sĩ bắt quỷ, quan quân lại bắt đạo sĩ, đúng là một chuyện hồ đồ.

Nói xong phì cười.

Bao Tích Nhược nói:

– À, té ra ngươi là người qua đường, không phải cùng bọn với họ. Ta cứ cho rằng ngươi cũng tới bắt vị đạo trưởng kia, hôm ấy thật còn không muốn cứu ngươi.

Lúc ấy bèn kể lại lý do vì sao quan quân tới bắt Khưu Xử Cơ và việc y giết chết quan quân ra sao. Bao Tích Nhược kể một lúc lại thấy y chăm chăm nhìn mình, vẻ mặt như ngây như dại, dường như không hề chú ý lắng nghe, lập tức im bặt. Nhan Liệt giật mình cười lấy lòng nói:

– Xin lỗi. Ta đang nghĩ cách làm thế nào trốn thoát không để quan quân đuổi bắt.

Bao Tích Nhược khóc nói:

– Chồng ta… chồng ta đã chết, ta còn sống làm gì? Ngươi đi một mình đi.

Nhan Liệt lấy vẻ mặt nghiêm trang nói:

– Nương tử! Quan nhân bị quan quân giết hại, nỗi oan không sao sáng tỏ, nàng không tìm cách báo thù cho y mà lại quyết ý muốn chết. Quan nhân lúc sinh tiền là bậc anh hùng hào kiệt, y ở dưới cửu tuyền thấy thế biết đâu không nhắm mắt được?

Bao Tích Nhược nói:

– Ta là một người đàn bà yếu ớt làm sao báo thù?

Nhan Liệt sắc mặt đầy vẻ phẫn hận nghĩa khí, hiên ngang nói:

– Nương tử muốn trả cái thù giết chồng, chuyện đó tiểu nhân xin gánh vác. Nàng có biết kẻ thù là ai không?

Bao Tích Nhược ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Là viên tướng thống suất quan quân tên Đoàn Thiên Đức, trán có vết đao, mặt có dấu ấn.

Nhan Liệt nói:

– Đã có tên họ, lại có nhân dạng thì cho dù y trốn tới chân trời góc biển cũng không phải không trả thù được.

Y bước ra ngoài bưng vào một bát cháo, trong có một cái trứng vịt muối đã bóc vỏ, nói:

– Nàng không thương thân thì làm sao trả thù?

Bao Tích Nhược nghĩ thấy có lý, đón lấy bát cháo chậm rãi ăn.

Sáng sớm hôm sau, Bao Tích Nhược mặc áo xuống giường, soi gương chải đầu, tìm một miếng vải trắng cắt thành một đóa hoa trắng giắt ở mái tóc để tang cho chồng, chỉ thấy người trong gương dung mạo như hoa mà vợ chồng đã sớm âm dương đôi ngả, trong lòng đau xót, lại nằm phục xuống bàn khóc lóc. Nhan Liệt từ ngoài bước vào, đợi nàng khóc xong, ngọt ngào nói:

– Quan quân ngoài đường đều đã rút lui, chúng ta đi thôi.

Bao Tích Nhược theo y ra khỏi nhà. Nhan Liệt lấy ra một đĩnh bạc đưa chủ nhà, dắt hai con ngựa lại. Con ngựa mà Bao Tích Nhược cưỡi vốn đã bị trúng tên, lúc ấy Nhan Liệt đã rịt lại vết thương cho nó.

Bao Tích Nhược nói:

– Đi đâu đây?

Nhan Liệt đưa mắt có ý bảo nàng không nên nói nhiều chỗ đông người rồi đỡ nàng lên ngựa, hai người dong cương song song đi về phía Bắc. Đi được hơn mười dặm, Bao Tích Nhược lại hỏi:

– Ngươi đưa ta đi đâu đây?

Nhan Liệt nói:

– Chúng ta trước tiên tìm chỗ nào trốn tránh được thì nghỉ lại tránh tai nạn trước đã. Đợi khi quan quân lơi lỏng, tiểu nhân sẽ trở lại tìm xác quan nhân an táng, sau đó sẽ tìm thằng gian tặc Đoàn Thiên Đức giết y trả thù cho quan nhân.

Bao Tích Nhược tính tình nhu hòa, ít khi có chủ ý huống hồ sau cơn đại nạn, khổ cực không nơi nương tựa, thấy y suy nghĩ chu đáo, trong lòng nảy mối cảm kích, nói:

– Nhan tướng công, ta… ta làm sao trả ơn người?

Nhan Liệt hiên ngang nói:

– Tính mệnh của ta là do nương tứ cứu, kiếp này tiểu nhân xin để cho nương tử sai sử, dù tan xưng nát thịt, dầu sôi lửa bỏng cũng xin vâng lệnh.

Bao Tích Nhược nói:

– Chỉ mong giết được gã Đoàn Thiên Đức xấu xa, trả mối đại thù cho Thiết ca thì ta sẽ chết theo y.

Nghĩ tới đó lại ứa nước mắt. Hai người đi được một ngày, chiều tối ghé vào trấn Trường An nghỉ lại. Nhan Liệt tự xưng là một cặp vợ chồng, hỏi lấy một phòng. Bao Tích Nhược trong lòng hồi hộp không yên, lúc ăn cơm chiều không nói tiếng nào, ngầm nắm thanh đơn kiếm mà Khưu Xử Cơ tặng, trong lòng đã định chủ ý:”Chỉ cần y có chút nào vô lễ thì mình sẽ một kiếm tự sát”.

Nhan Liệt sai tiểu nhị mang hai tấm đệm cỏ vào phòng, chờ tiểu nhị ra rồi, cài chặt cửa phòng, trải đệm xuống đất, tới nằm trên đệm, đắp một tấm da Cừu nhìn Bao Tích Nhược nói:

– Chúc nương tử ngủ ngon!

Nói xong nhắm mắt lại. Bao Tích Nhược tim đập thình thình, nhớ tới trượng phu đã qua đời quả thật lòng như dao cắt, ngồi im suốt nửa giờ rồi thở dài một tiếng, cũng tắt đèn, nắm chặt thanh đoản kiếm, để nguyên quần áo nằm xuống giường.

Hôm sau lúc Bao Tích Nhược tỉnh dậy thì Nhan Liệt đã thu thập xong vật dùng, sai tiểu nhị mang điểm tâm ra. Bao Tích Nhược thầm cảm kích y là bậc quân tử chí thành, lòng nghi ngại đề phòng đã giảm quá nửa. Lúc ăn điểm tâm thấy là một đĩa thịt gà xé, một đĩa chân giò sấy, một đĩa lạp xưởng, một đĩa cá hun khói, ngoài ra còn thêm một nồi nhỏ cháo gạo thơm phức. Nàng sinh trưởng trong một gia đình đủ ăn, từ khi về nhà họ Dương làm ruộng để sống, ngày thường ăn điểm tâm chỉ là mấy cọng dưa cải, nửa quả trứng muối, ngoài những dịp tết nhất, lễ lạt thì đời nào được ăn uống ngon lành như thế này? Cho nên lúc ăn sáng, trong lòng cứ áy náy không yên.

Họ ăn xong, tiểu nhị đưa vào một cái bọc. Lúc ấy Nhan Liệt đã ra khỏi phòng, Bao Tích Nhược hỏi:

– Cái gì thế?

Tiểu nhị đáp:

– Hôm nay tướng công ra đi từ sớm mua về, là y phục để nương tử thay đổi, tướng công nói mời nương tử thay áo rồi lên đường.

Nói xong đặt xuống bước ra. Bao Tích Nhược mở ra xem, chỉ thấy là một bộ váy áo tuyền màu trắng, hài trắng dây lưng trắng đủ bộ, ngay cả áo trong, quần trong cho tới khăn choàng, khăn tay cũng đều đầy đủ, bèn nghĩ thầm:

– Y chỉ là một thiếu niên nam tử, sao lại suy nghĩ chu đáo đến thế?

Lúc nàng thay áo trong, nghĩ tới lúc Nhan Liệt cầm nó khi mua, bất giác đỏ bừng mặt. Nàng đang đêm hấp tấp rời khỏi nhà, y phục vốn đã không đầy đủ lại thêm một đêm vất vả bôn ba, quần áo càng đầy bụi bặm, lúc thay xong quần áo tinh thần bất giác cũng phấn chấn. Khi Nhan Liệt trở vào thì nàng đã tươi tắn trong bộ quần áo mới.

Hai người giục ngựa lên đường, có lúc người trước người sau, có lúc sóng vai cùng đi. Bấy giờ đúng lúc sắc xuân tươi thắm nhất ở Giang Nam, ven đường liễu rủ thướt tha, mùi hoa say người, cỏ lúa trên ruộng xanh mướt một màu.

Nhan Liệt muốn nàng khuây khỏa, thỉnh thoảng nói chuyện chỉ chỏ nọ kia. Cha Bao Tích Nhược vốn là thầy đồ đi thi không đậu ở trấn nhỏ, chồng và nghĩa huynh Quách Khiếu Thiên đều là hán tử thô hào, trong đời nàng quả thật chưa từng gặp qua người đàn ông nào tuấn nhã tài hoa như thế, chỉ thấy y câu nào chữ nào cũng có hàm ý sâu xa, trong lòng ngấm ngầm khen ngợi. Có điều thấy cứ đi mãi lên phía bắc, càng lúc càng xa Lâm An, mà y lại tuyệt nhiên không nói gì tới việc trả thù, càng không nói tới việc chôn cất chồng mình, nhịn không được bèn nói:

– Nhan tướng công, không biết xác chồng ta ở đâu?

Nhan Liệt nói:

– Không phải tiểu nhân không chịu đi tìm xác tôn phu an táng cho y, mà thật tình vì hôm trước cứu nương tử đã giết chết quan quân, đang lúc nguy hiểm này chỉ cần ta xuất hiện gần Lâm An là nhất định sẽ gặp độc thủ của quan quân. Hiện nay quan phủ truy lùng nương tử khắp nơi, nói tôn phu quân giết quan quân mưu làm phản, tội nhiều ác lớn, tìm bắt cả gia quyến của y, đàn ông thì chém đầu, đàn bà thì sung làm quan kỹ. Tiểu nhân chết không đáng tiếc nhưng nếu nương tử không người bảo vệ, để quan quân bắt được thì nhất định sẽ gặp chuyện thê thảm. Tiểu nhân ở dưới suối vàng cũng phải đau lòng không nhắm mắt được.

Bao Tích Nhược nghe y nói rất thành khẩn, bèn gật gật đầu. Nhan Liệt nói:

– Ta đã nghĩ kỹ rồi, chuyện quan trọng nhất hiện tại là chôn cất tôn phu quân. Tới Gia Hưng rồi, ta sẽ bỏ tiền ra nhờ người tới Lâm An thu xếp ổn thỏa. Nếu nương tử muốn ta phải đích thân đi mới yên tâm thì sau khi tới Gia Hưng thu xếp chỗ ăn ở cho nương tử xong, tiểu nhân sẽ liều mạng đi cũng được.

Bao Tích Nhược nghĩ bắt y xông pha nguy hiểm cũng vô lý, bèn nói:

– Nếu tướng công có thể tìm người thu xếp ổn thỏa thì cũng được rồi.

Lại nói:

– Chồng ta có người nghĩa huynh tên Quách Khiếu Thiên cũng gặp nạn cùng lúc, phiền tướng công an táng cho y luôn. Ta… ta…

Nói xong chợt sa nước mắt. Nhan Liệt nói:

– Chuyện đó rất dễ, nưng tử cứ yên tâm. Còn chuyện trả thù thì thằng giặc Đoàn Thiên Đức là võ quan của triều đình, muốn giết quả thật không dễ, hiện y lại đề phòng nghiêm ngặt, chỉ có cách thong thả chờ cơ hội.

Bao Tích Nhược chỉ muốn giết chết kẻ thù xong sẽ tự sát theo chồng, Nhan Liệt nói thế tuy câu nào cũng là sự thật, nhưng không biết phi tới ngày nào năm nào mới có thể trả thù được, trong lòng chợt đau xót bật tiếng khóc lớn, nức nở nói:

– Ta cũng không muốn trả thù nữa. Chồng ta anh hùng như thế mà còn bị hại, ta.., ta.., là một người đàn bà yếu đuối, thì… thì làm được gì? Ta cứ chết theo chồng là được.

Nhan Liệt trầm ngâm một lúc, dường như có điều rất khó khăn, sau cùng mới nói:

– Nương tử, nàng tin ta không?

Bao Tích Nhược gật gật đầu. Nhan Liệt nói:

– Trước mắt chúng ta chỉ có lên phương Bắc mới có thể thoát khỏi tay quan quân truy bắt. Quan quân Đại Tống không thể vượt qua biên giới phía Bắc để bắt người, chỉ cần chúng ta qua sông là không còn nguy hiểm gì nữa. Chờ sự tình lắng xuống, chúng ta lại sẽ xuống Nam báo thù rửa hận. Nương tử cứ yên tâm, mối huyết hải thâm thù này của quan nhân, tiểu nhân xin ra sức gánh vác.

Bao Tích Nhược vô cùng ngần ngại: mình thì nhà tan người chết, nhìn quanh không ai là người thân, nếu không theo y thì một thân đàn bà yếu đuối lẻ loi biết tìm nơi nào mà nương náu? Tối hôm trước đã tận mắt thấy quan quân hung hãn giết người đốt nhà, nếu rơi vào tay chúng, bị bắt làm quan kỹ thì đúng là muốn sống không được, muốn chết không được. Nhưng người này không phải thân thích chẳng phải bạn bè, mà mình vốn là quả phụ thủ tiết thì làm sao có thể đi chung với một người đàn ông như vậy? Bây giờ nếu rút kiếm tự sát nhất định người kia sẽ cản trở. Chỉ thấy đường đi xa xôi, ngày về mờ mịt, nghĩ lui nghĩ tới, đúng là trăm mối tơ vò.

Nàng đau thương khóc lóc suốt mấy ngày, lúc ấy ngay cả nước mắt dường như cũng đã cạn hết.

Nhan Liệt nói:

– Nếu nương tử thấy tiểu nhân tính toán không chu đáo thì cứ việc sai bảo, tiểu nhân nhất định sẽ vâng lời.

Bao Tích Nhược thấy y mười phần nhún nhường, lại thấy mình có lỗi, trừ phi mình chết ngay bây giờ thì mọi việc đều kết thúc, nếu không hiện cũng không còn cách nào khác, không biết làm sao đành cúi đầu nói:

– Ngươi cứ xem xét mà làm.

Nhan Liệt cả mừng nói:

– Ơn lớn cứu mạng của nương tử, tiểu nhân trọn đời không dám quên, nương tử…

Bao Tích Nhược nói:

– Chuyện đó từ nay trở đi đừng nhắc tới nữa.

Nhan Liệt nói: “Dạ dạ”.

Chiều hôm ấy hai người nghỉ lại ở một khách điếm tại trấn Giáp Thạch, vẫn ngủ chung phòng. Từ khi Bao Tích Nhược ưng thuận cùng lên phương Bắc thì lời lẽ cử chỉ của Nhan Liệt đã không còn cẩn thận như trước, thỉnh thoảng lộ vẻ vui mừng đắc ý. Bao Tích Nhược dần dần thấy có điều không ổn, có điều vì y không hề vượt lễ nên nghĩ thầm rằng chẳng qua y mang ơn muốn báo đáp, xem ra không đến nỗi có ý khác.

Giữa trưa hôm sau, hai người tới Gia Hưng. Đây là đô thành lớn ở Chiết Tây, là nơi thương nhân buôn bán tơ lụa, thóc gạo tụ họp, trước nay mười phần phồn vinh, sau khi nhà Tống chạy về phương Nam, Gia Hưng gần kinh sư, quang cảnh lại càng náo nhiệt.

Nhan Liệt nói:

– Chúng ta tìm một khách sạn nghỉ ngơi.

Bao Tích Nhược trước giờ vẫn sợ quan quân đuổi theo bèn nói:

– Trời còn sớm, cứ đi thêm một đoạn nữa.

Nhan Liệt nói:

– Ở đây hàng quán không kém, y phục của nương tử cũ rồi, nên mua vài món thay đổi.

Bao Tích Nhược sửng sốt nói:

– Quần áo này mới thay hôm qua mà? Chẳng lẽ đã cũ rồi sao?

Nhan Liệt nói:

– Trên đường bụi bặm, quần áo mặc một hai ngày đã không còn sạch sẽ, mà nói lại thì nương tử dung mạo như thế chẳng lẽ lại không xứng đáng mặc quần áo sang trọng?

Bao Tích Nhược nghe y ca ngợi dung mạo của mình, trong lòng vui vẻ, cúi đầu nói:

– Ta đang có tang…

Nhan Liệt nói ngay:

– Tiểu nhân biết mà.

Bao Tích Nhược bèn không nói gì nữa. Nàng dung mạo xinh đẹp nhưng chồng là Dương Thiết Tâm trước nay chưa từng khen ngợi như thế, bèn cúi đầu đưa mắt nhìn trộm Nhan Liệt, thấy y hoàn toàn không có vẻ khinh bạc, nhất thời trong lòng xao xuyến, cũng không biết nên buồn hay vui.

Nhan Liệt hỏi người đi đường, tìm tới khách sạn Tú Thủy lớn nhất trong thành vào trọ. Rửa ráy xong, Nhan Liệt cùng Bao Tích Nhược ăn điểm tâm, hai người ngồi đối diện trong phòng. Bao Tích Nhược muốn y qua nghỉ ở phòng khác nhưng không biết làm sao mở miệng, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, tâm sự ngổn ngang. Qua một lúc, Nhan Liệt nói:

– Xin nương tử cứ nghỉ ngơi, tiểu nhân đi mua vài món đồ sẽ trở về.

Bao Tích Nhược gật gật đầu, nói:

– Tướng công đừng tốn kém quá.

Nhan Liệt cười khẽ nói:

– Chỉ tiếc là nương tử đang có tang không thể dùng châu ngọc, có muốn tốn kém cũng không được.

Hồi 02: Giang Nam thất quái

Nhan Liệt bước ra khỏi phòng, chỉ thấy giữa lối đi có một văn sĩ trung niên mang hài da, lẹp kẹp lẹp kẹp thành tiếng nghênh ngang bước tới trước mặt. Văn sĩ này vẻ mặt như cười mà không phải cười, trợn mắt méo miệng, dáng vẻ phờ phạc, toàn thân lấm lem dầu mỡ, áo quần xốc xếch, mặt đầy cáu ghét, xem ra ít nhất cũng hơn mười ngày chưa rửa mặt, cầm một cái quạt giấy rách lem luốc, vừa đi vừa phe phẩy.

Nhan Liệt thấy y rõ ràng là người tư văn mà dáng vẻ lại như thế bất giác cau mày bước mau về phía trước, chỉ sợ chạm vào y bị dây bẩn. Chợt nghe người ấy cười khan mấy tiếng, âm thanh rất chối tai, lúc đi ngang thuận tay xòe quạt ra đập vào vai y một cái. Nhan Liệt biết võ công nhưng lúc ấy lại không tránh kịp, không kìm được tức giận, quát:

– Làm cái gì thế?

Người kia lại cười khan một hồi, lẹp kẹp lẹp kẹp bước về phía trước, chỉ nghe y bước tới cuối lối đi nói với tiểu nhị:

– Ồ, tiểu nhị này, ngươi đừng thấy đại gia quần áo rách rưới mà coi thường, đại gia cũng có tiền đấy. Có gã tiểu tử rất tà môn, y cậy quần áo sang trọng để lòe người, lừa gạt dối trá, dụ dỗ phụ nữ, ăn cơm thì xù, ở trọ thì quỵt, loại người như thế ngươi nên để ý một chút. Để chắc ăn thì cứ bảo y đưa trước tiền phòng tiền cơm rồi sẽ nói chuyện.

Y cũng không chờ tiều nhị trả lời, lại lẹp kẹp lẹp kẹp bỏ đi.

Nhan Liệt càng tức giận, nghĩ thầm: “gã tiểu tử này giỏi thật, câu ấy không phải nói móc mình thì gì?”.

Tên tiểu nhị nghe người kia nói thế liếc y một cái, không khỏi sinh nghi, bèn bước tới trước mặt khom lưng cười nói:

– Lão gia người đừng trách, không phải tiểu nhân vô lễ…

Nhan Liệt biết ý hừ một tiếng nói:

– Trả tiền cho ngươi chứ gì!

Rồi đưa tay vào bọc, bất giác ngẩn người. Trong túi y vốn có bốn năm chục lượng bạc nhưng đưa tay vào lại thấy trống không! Tên tiểu nhị thấy vẻ mặt y khó coi, lại cho rằng người kia nói đúng, thần sắc lập tức không còn kính cẩn như trước, ưỡn ngực phình bụng nói:

– Thế nào? Không có tiền hả?

Nhan Liệt nói:

– Ngươi chờ một lúc, ta về phòng lấy tiền.

Y chỉ cho rằng mình vội vàng ra cửa quên mang tiền theo, nào ngờ về phòng mở bao phục ra thì mấy chục lượng bạc trong bao phục đã không cánh mà bay. Số tiền này tại sao mà mất thì mình cũng hoàn toàn không biết, chuyện đó mới kỳ lạ, nghĩ thầm:

– Mới rồi Bao thị nương tử ra ngoài rửa tay, mình cũng vào nhà xí một lúc, trước sau không đầy thời gian tàn một nén hương, tại sao đã có người vào phòng ra tay? Bọn trộm cắp ở phủ Gia Hưng lợi hại thật.

Tiểu nhị đứng ở cửa phòng thò đầu nhìn vào thấy y không tìm được tiền bèn phát tác nói:

– Người đàn bà kia là vợ ngươi phải không? Nếu là mới mua thì sẽ làm liên lụy tới bọn ta đấy.

Bao Tích Nhược vừa thẹn vừa sợ, mặt mũi đỏ bừng. Nhan Liệt nhảy một bước ra cửa phòng, vung tay một cái đánh tên tiểu nhị đổ máu mũi, gãy mấy cái răng. Tên tiểu nhị ôm mặt kêu lên:

– Giỏi lắm! Đã ở trọ không trả tiền lại còn đánh người à!

Nhan Liệt đá luôn vào mông y một cái, tên tiểu nhị bay lộn nhào ra ngoài. Bao Tích Nhược hoảng sợ nói:

– Chúng ta chạy ngay thôi, không ở đây được nữa.

Nhan Liệt cười nói:

– Đừng sợ, không có tiền thì hỏi họ mà lấy.

Rồi kéo một cái ghế ngồi ngay giữa cửa phòng. Không bao lâu tiểu nhị dẫn mười mấy tên lưu manh vung côn múa gậy sấn vào hậu viện. Nhan Liệt hô hô cười lớn, nói:

– Các ngươi muốn đánh nhau à?

Đột nhiên uốn lưng vọt ra, thuận tay cướp một ngọn côn, chỉ đông đánh tây trong chớp mắt đã đánh ngã bốn năm người. Đám lưu manh kia chỉ quen cậy sức làm càn, hà hiếp dân lành, lúc bấy giờ thấy tình thế không hay đều vứt bỏ gậy gộc, như một bầy ong chạy túa ra ngoài, mấy tên đang bò dưới đất cũng lồm cồm chồm dậy chạy theo, chỉ sợ rớt lại phía sau. Bao Tích Nhược sợ xanh mặt, run lên nói:

– Thế này thì to chuyện rồi, chỉ sợ làm kinh động quan phủ.

Nhan Liệt cười nói:

– Thì ta đang muốn quan phủ tới mà.

Bao Tích Nhược không biết y có ý gì, im lặng không nói. Qua khoảng nửa giờ, bên ngoài chợt có tiếng người huyên náo, hơn mười tên nha dịch cầm thương sắt đơn đao sấn vào hậu viện rung lục lạc leng keng quát tháo ầm ĩ:

– Đã đi buôn người lại còn hành hung thật chẳng ra sao!

Nhan Liệt vẫn ngồi bất động trên ghế. Đám nha dịch thấy y quần áo sang trọng, thần thái thản nhiên cũng không dám sấn lên. Người đứng đầu đám bộ khoái nói:

– Ngươi tên gì? Tới phủ Gia Hưng làm gì?

Nhan Liệt đáp:

– Ngươi gọi Cái Vận Thông lại đây.

Cái Vận Thông là Tri phủ Gia Hưng, đám nha dịch nghe y gọi thẳng tên thượng cấp đều vừa giấp vừa sợ. Viên bộ khoái kia nói:

– Ngươi điên rồi à? Lại dám gọi bừa tên của Cái đại gia.

Nhan Liệt đưa tay vào bọc lấy ra một phong thư ném lên bàn rồi đưa mắt nhìn lên nóc nhà, nói:

– Ngươi cầm về đưa Cái Vận Thông đọc, xem y có tới đây không?

Viên bổ khoái kia cầm lấy phong thư, nhìn thấy chữ trên phong bì giật nảy mình nhưng không biết là thật hay giả bèn hạ giọng nói với đám nha dịch:

– Canh chừng y, đừng để y bỏ trốn, rồi lập tức chạy như bay ra ngoài.

Bao Tích Nhược ngồi trong phòng, tim đập thình thịch, không biết cát hung ra sao. Không bao lâu lại thấy mấy chục người nha dịch rầm rộ bước vào, hai người đi đầu mặc quan phục bước tới quỳ xuống lạy chào Nhan Liệt, bẩm:

– Bọn tỳ chức là Tri phủ Gia Hưng Cái Vận Thông, Tri huyện Tú Thủy Thượng Văn xin bái kiến đại nhân. Bọn ty chức không biết đại nhân quang lâm, không kịp ra đón từ xa, xin đại nhân tha tội.

Nhan Liệt xua xua tay, khẽ khom mình một cái, nói:

– Huynh đệ bị mất một ít tiền tại quý huyện, làm phiền hai vị tra xét giùm.

Cái Vận Thông vội nói: “Dạ, dạ”.

Rồi vẫy tay một cái, hai tên nha dịch bưng hai cái mâm đưa lên, một mâm là vàng ròng sáng ngời, một mâm là bạc ròng trắng xóa. Cái Vận Thông nói:

– Tỳ chức cai trị ở đây mà lại có kẻ gian dám trộm cắp tiền bạc của đại nhân, thật là tội của ty chức, chút ít này xin đại nhân nhận cho.

Nhan Liệt mỉm cười gật gật đầu, Cái Vận Thông lại cung cung kính kính đưa trả phong thư, nói:

– Ty chức đã sắp xếp xin mời đại nhân và phu nhân lên đường.

Nhan Liệt nói:

– Cần gì như thế, ta thích yên tĩnh, các ngươi đừng tới quấy rầy.

Nói xong sa sầm mặt. Cái Vận Thông và Thượng Văn vội nói:

– Dạ, dạ? Đại nhân còn cần gì xin cứ sai khiến để bọn ty chức được kính biếu.

Nhan Liệt lắc đầu không đáp, xua xua tay mấy cái. Cái Phương hai người vội dẫn đám nha dịch rút lui. Tên tiểu nhị kia vốn đã sợ tái mặt, nhờ chưởng quỹ dắt tới tạ tội với Nhan Liệt, chỉ xin được tha chết, bị đánh vài mươi gậy cũng cam lòng. Nhan Liệt lấy một nén bạc trong mâm ném xuống đất cười nói:

– Không sao, ngươi cút mau đi cho ta.

Tên tiểu nhị ấy hoảng sợ không dám tin, viên chưởng quỹ thấy Nhan Liệt không có ác ý, sợ y nổi giận vội nhặt nén bạc, kế vừa đi vừa ngoảnh lại, đưa tên tiểu nhị ra khỏi phòng.

Bao Tích Nhược nãy giờ tâm thần bất định, hỏi:

– Phong thư kia có phép thuật gì vậy? Tại sao các quan nhìn thấy lại sợ hãi như thế?

Nhan Liệt cười đáp:

– Vốn ta không quản được họ nhưng bọn quan lại ấy cũng rất vô dụng. Triệu Khuếch dùng loại bị thịt như thế làm quan mà không mất nước thì thật không còn đạo lý gì nữa.

Bao Tích Nhược nói:

– Triệu Khuếch là ai?

Nhan Liệt nói:

– Thì là vua Ninh tông đương kim hoàng đế.

Bao Tích Nhược hoảng sợ vội nói:

– Nói nhỏ chứ! Tên của thánh thượng sao lại gọi bừa như thế?

Nhan Liệt thấy nàng lo lắng cho mình thì rất cao hứng, cười nói:

– Ta gọi thì không sao. Tới phương Bắc rồi, chúng ta không gọi y là Triệu Khuếch thì gọi bằng gì?

Bao Tích Nhược nói:

– Phương Bắc à?

Nhan Liệt gật gật đầu, đang định lên tiếng, đột nhiên ngoài cổng có tiếng vó ngựa rất gấp, mấy mươi kỵ mã đã dừng lại ở cổng khách điếm. Bao Tích Nhược sợ đến nỗi trên mặt không còn chút huyết sắc, nghe tiếng vó ngựa lập tức nghĩ tới việc quan binh đuổi bắt đêm trước, sắc mặt lập tức biến thành trắng bệch. Nhan Liệt thì cau mày một cái, dường như có vẻ không thích. Chỉ nghe tiếng bước chân, tiếng xô bàn ghế rồi có mấy mươi tên quân sĩ mặc áo bạc tiến vào hậu viện, nhìn thấy Nhan Liệt người nào cũng lộ vẻ vui mừng, đồng thanh kêu lên:

– Vương gia?

Rồi quỳ xuống làm lễ. Nhan Liệt mỉm cười nói:

– Rốt lại các ngươi cũng tìm tới được.

Bao Tích Nhược nghe họ gọi y là vương gia lại càng kinh ngạc, chỉ thấy đám đại hán ấy đứng lên, người nào cũng lưng hùm vai gấu, vô cùng hùng tráng. Nhan Liệt xua xua tay nói:

– Ra ngoài cả đi!

Đám quân sĩ đồng thanh vâng dạ rồi xếp hàng một đi ra. Nhan Liệt quay qua Bao Tích Nhược nói:

– Nàng thấy đám thuộc hạ của ta so với quân Tống thì thế nào?

Bao Tích Nhược ngạc nhiên nói:

– Chẳng lẽ họ không phải là quân Tống sao?

Nhan Liệt cười nói:

– Bây giờ ta nói thật với nàng, đó đều là tinh binh của Đại Kim quốc!

Nói xong buông tiếng cười rộ, dáng vẻ vô cùng đắc ý. Bao Tích Nhược run run nói:

– Vậy thì.. ngươi… ngươi cũng là…

Nhan Liệt cười nói:

– Không giấu gì nương tử, họ của tại hạ còn có một chữ Hoàn phía trước, tên thì còn có một chữ Hồng phía trước. Tại hạ là Hoàn Nhan Hồng Liệt, vương tử thứ sáu của Đại Kim, người được phong là Triệu vương chính là kẻ hèn này.

Bao Tích Nhược từ nhỏ nghe cha nói chuyện nước Kim giày xéo sơn hà Đại Tống ra sao, hoàng đế Đại Tống bị họ bắt đi không thả về ra sao, bách tính ở phương Bắc bị quân Kim tàn sát ra sao, từ khi được gả cho Dương Thiết Tâm, chồng nàng lại còn căm ghét người Kim hơn, nào ngờ người đi liền với mình suốt mấy hôm nay lại là vương tử nước Kim, qua cơn hoảng sợ thì nói không nên lời.

Hoàn Nhan Hồng Liệt thấy nàng biến sắc vội ngưng tiếng cười, nói:

– Ta từ lâu đã mến mộ cảnh phồn hoa của Nam triều nên năm rồi xin phụ hoàng phái tới Lâm An làm sứ giả chúc mừng năm mới. Ngoài ra vua Tống còn thiếu mấy chục vạn lượng bạc tuế cống chưa nộp, nên phụ hoàng sai ta tới đòi.

Bao Tích Nhược nói:

-Tuế cống à?

Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Phải, Tống triều muốn nước ta không tấn công, mỗi năm tiến cống vàng lụa, nhưng họ cứ nói là thu thuế không đủ nên rốt lại không chịu đưa một lần cho xong. Lần này ta không khách sáo với Hàn Sá Trụ, nói với y rằng nếu trong vòng một tháng không giao đủ thì ta sẽ đích thân đem quân tới lấy, không cần làm phiền y nữa.

Bao Tích Nhược nói:

– Thế Hàn Thừa tướng nói sao?

Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Y có gì mà nói? Ta chưa rời khỏi: Lâm An, vàng bạc vải vóc đã đưa qua sông rồi, ha ha…

Bao Tích Nhược cau mày im lặng. Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Chuyện đòi hỏi vàng lụa gì đó vốn cũng không cần tới ta phải đi, phái một sứ thần thì cũng xong. Bản ý của ta là muốn xem núi sông hình thế, nhân vật phong tục Nam triều, không ngờ lại quen biết nàng, thật là ba sinh có phúc.

Bao Tích Nhược trong lòng ngổn ngang trăm mối, đột nhiên thất thố, chỉ im lặng không nói gì. Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Ta đi mua quần áo cho nương tử.

Bao Tích Nhược cúi đầu nói:

– Không cần đâu!

Hoàn Nhan Hồng Liệt cười nói:

– Lúc ta sắp lên đường thì Hàn Thừa tướng còn biếu riêng vàng bạc, nếu đem mua quần áo thì nương tử mặc một ngàn năm cũng không hết. Nương tử đừng lo, chung quanh khách điếm này đã có thân binh của ta canh phòng nghiêm ngặt, quyết không có kẻ xấu nào dám vào đây làm hại nàng đâu!

Nói xong nghênh ngang đi ra. Bao Tích Nhược nhớ lại tất cả những chuyện từ lúc mình gặp y đến nay, y là vương tử của Đại Kim quốc mà lại nhũn nhặn nhún nhường với một người quả phụ thường dân như mình thế này không biết là có ý gì? Nhớ tới ân tình của chồng ngày trước, y lại chết thảm, để lại một người phụ nữ yếu ớt như mình rơi vào hoàn cảnh khó khăn thế này, thật không biết làm sao là hay, bất giác thẫn thờ, lại nằm phục xuống gối khóc lóc.

Hoàn Nhan Hồng Liệt có tiền rồi, đi thẳng ra chợ, thấy cư dân nhân vật trong thành ôn hòa phong nhã, tuy thua trận nhưng cũng có nhiều người tuấn tú phi phàm, trong lòng ngấm ngầm khen ngợi. Đột nhiên trước mặt có tiếng vó ngựa vang lên rất gấp, một con ngựa phóng mau tới. Đường trong chợ vốn không rộng, lại thêm người đi tấp nập, lề đường lại bày đầy các sạp các gánh hàng rong, làm sao cưỡi ngựa đi được? Hoàn Nhan Hồng Liệt vội nép vào cạnh đường đưa mắt nhìn ra, thấy một con ngựa vàng từ đám đông phóng thẳng tới. Con ngựa ấy thần tuấn dị thường, thân cao lông mượt, đúng là một con ngựa tốt hiếm có. Hoàn Nhan Hồng Liệt thầm tắc lưỡi một cái, nhìn tới người cưỡi ngựa, bất giác sững sờ.

Con ngựa thần thái như thế nhưng người cưỡi ngựa lại là một hán rử vừa béo vừa lùn, giống như một khối thịt tròn cười trên ngựa. Người ấy tay ngắm chân ngắn, không thấy cổ đâu, đầu thì rất to như thụt vào giữa hai vai.

Nói thì kỳ quái chứ con ngựa ấy phóng như bay trong đám đông mà không chạm tới người nào, cũng không giẫm lên vật gì, chỉ thấy tiếng vó ngựa vang lên, đi lại như ý, nhảy qua sạp đồ gốm, vọt qua gánh hàng rau, đều dễ dàng mau lẹ như chớp, phóng như bay giữa chợ mà không khác gì phi trên đồng trống. Hoàn Nhan Hồng Liệt không kìm được tắc lưỡi một tiếng nói:

– Hay quá!

Người béo lùn nghe thấy quay đầu nhìn một cái. Hoàn Nhan Hồng Liệt thấy y sắc mặt đầy vẻ say sưa, cái mũi đỏ vừa to vừa tròn như một quả thị đỏ dán lên mặt, bèn nghĩ thầm “Con ngựa này hay lắm, mình cứ bỏ ra nhiều tiền mua thôi”.

Đúng lúc ấy ở đầu đường có hai đứa trẻ đùa giỡn đuổi nhau, băng ngang trước con ngựa. Con ngựa bị bất ngờ hoảng sợ, mắt thấy chân trái của nó sắp xéo lên một đứa trẻ, người béo lùn kéo cương một cái vọt ra khỏi yên, con ngựa trên lưng chợt nhẹ bổng bèn thản nhiên vọt qua đầu hai đứa trẻ, người béo lùn lại nhẹ nhàng rơi xuống đúng lưng ngựa.

Hoàn Nhan Hồng Liệt sửng sốt, nghĩ thầm người béo lùn kia kỵ thuật tinh thâm như thế, Đại Kim mình rất nhiều người cười ngựa giỏi nhưng chưa ai bằng, đúng là xét người không thể căn cứ vào hình dáng bên ngoài.

Nếu đón được y về kinh huấn luyện kỵ binh thì kỵ sĩ thủ hạ của mình nhất định có thể tung hoành trong thiên hạ, so với việc mua được con ngựa kia còn hay hơn gấp vạn lần. Lần này y xuống phương Nam, nơi nào có thể đóng quân, nơi nào có thể vượt sông đều đã xem xét rất tường tận, nhất nhất đều ghi nhớ trong lòng, thậm chí tên tuổi tài năng của trưởng quan các châu các huyện y cũng hỏi han cặn kẽ. Lúc ấy thấy người béo lùn kỵ thuật thần diệu vô song, nghĩ thầm:

– Nam Tống triều chính hủ bại, kỵ sĩ như thế mà bỏ không dùng để cho phải rơi rớt nơi thảo dã, sao mình không chọn tài mà dùng?

Lúc ấy bèn quyết ý dùng nhiều tiền bạc đón về Yên Kinh làm Giáo đầu mã thuật. Y tâm ý đã quyết, sải chân đuổi mau theo, chỉ sợ con ngựa ấy cước lực quá nhanh đuổi không kịp, đang định cất tiếng gọi chợt thấy người cười ngựa phóng tới đầu đường rẽ qua thì đột nhiên đứng lại. Hoàn Nhan Hồng Liệt lại ngạc nhiên, nghĩ thầm con ngựa đang phi nhanh, phải chạy chậm dần mới có thể đứng lại được, nhưng con ngựa này lại có thể đang phi nhanh mà đột nhiên đứng ngay lại được, quả là trước nay chưa từng thấy, cho dù người có võ công cao cường cũng chưa chắc đã có thể trong lúc sãi chân chạy nhanh mà ung dung dừng ngay lại được như thế. Chỉ thấy người béo lùn ấy phi thân xuống ngựa, bước vào một khách điếm.

Hoàn Nhan Hồng Liệt bước mau tới đó, thấy trong quán dựng một tấm bảng gỗ lớn viết bốn chữ “Thái Bạch di phong”, té ra là một tửu lâu, ngẩng đầu nhìn thấy phía trên có một tấm biển rất lớn khắc ba chữ đại tự thiếp vàng “Túy Tiên lâu”, nét chữ cứng cáp thanh tú, bên cạnh ghi năm chữ tiểu tự “Đông Pha cư sĩ viết”, té ra là thủ bút của Tô Đông Pha. Hoàn Nhan Hồng Liệt thấy tòa tửu lâu này khí phái hào hoa, nghĩ thầm:

– Y vào tửu lâu thì cứ để y ăn uống một lúc rồi hãy làm quen là tốt nhất.

Chợt thấy hán rử béo lùn kia bước mau xuống thang, nách cắp một vò rượu, bước tới trước con ngựa. Hoàn Nhan Hồng Liệt lập tức né qua một bên. Người béo lùn kia đứng dưới đất trông càng béo tròn khó coi, thân hình chẳng qua chỉ cao ba thước, bề ngang dường như cũng ba thước, con ngựa thì rõ ràng chân dài lưng cao, đỉnh đầu của y chẳng qua chỉ cao tới bàn đạp. Chỉ thấy y đặt cái vạc trước đầu ngựa, xòe tay vô nhẹ mấy cái vào hông vò rồi dốc một cái, đổ rượu vào một cái vạc mẻ trước mặt, cái vạc ấy lại như một cái chậu sâu lòng. Con ngựa nhấc chân trước lên, hí một tiếng mừng rỡ rồi cúi đầu uống rượu. Hoàn Nhan Hồng Liệt ngửi mùi thì đúng là loại rượu Nữ nhi hồng nổi tiếng ở Thiệu Hưng Chiết Giang, theo mùi rượu mà xét thì ít nhất cũng phải hơn mười năm. Hán tử béo lùn trở vào trong vung tay một cái, keng một tiếng, một đĩnh bạc bay lên quầy, nói:

– Dọn ba đĩa thức ăn thượng hạng, hai đĩa gỏi, một đĩa rau.

Chưởng quỹ cười nói:

– Được mà Hàn tam gia. Hôm nay có cá vược bốn vây ở Tùng Giang, uống rượu không gì ngon bằng. Đĩnh bạc này Hàn tam gia cứ giữ, để thong thả sẽ tính.

Hán tử béo lùn trợn mắt một hồi rồi cất tiếng quát nghe rất kỳ quái:

– Cái gì? Uống rượu không cần trả tiền à? Ngươi coi Hàn lão tam ta là hạng lưu manh ăn quịt phải không?

Chưởng quỹ cười hì hì, cũng không có vẻ gì tức giận, lớn tiếng gọi:

– Tiểu nhị đâu, dọn cho Hàn tam gia một bàn mau!

Đám tiểu nhị trong ngoài nhất tề dạ ran. Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm:

– Gã béo lùn này ăn mặc bình thường mà ra tay lại rộng rãi hào hoa, mọi người đều lấy lòng y như thế thì xem ra chắc là một tay anh chị ở phủ Gia Hưng. Muốn đón y lên phương Bắc làm Giáo đầu mã thuật chỉ e phải tốn kém một chút. Nhưng cứ xem y mời khách nào rồi sẽ tùy cơ hành sự.

Lúc ấy bèn theo thang lên lầu, chọn một chỗ cạnh cửa sổ ngồi xuống, gọi một cân rượu tùy tiện gọi mấy món ăn. Hoàn Nhan Hồng Liệt đang ngắm cảnh, chợt thấy giữa hồ có một chiếc thuyền câu chèo tới như bay.

Chiếc thuyền ấy hẹp mà dài, đầu thuyền vểnh cao, hai bên mạn thuyền có hai hàng chim cốc bắt cá. Hoàn Nhan Hồng Liệt lúc đầu không để ý nhưng trong chớp mắt thấy chiếc thuyền câu ấy đã vượt qua chiếc thuyền con gần bờ nhất, vô cùng mau lẹ, khoảnh khắc đã tới gần, trong thuyền có một người ngồi, người mặc áo tơi chèo thuyền bẻ lái cuối thuyền là một cô gái.

Nàng khua nhẹ mái chèo trong nước một cái, chiếc thuyền câu lại lướt tới một đoạn như bay, thân thuyền cơ hồ như bay khỏi mặt nước, xem ra cái khua ấy ít nhất cũng phải hàng trăm cân lực, phụ nữ mà có kình lực như thế đã rất kỳ lạ rồi, còn một chiếc mái chèo gỗ thi làm sao chịu nổi sức mạnh như thế? Chỉ thấy nàng khua thêm mái chèo mấy cái, chiếc thuyền câu đã tới gần tửu lâu, ánh nắng chiếu lên mái chèo chớp chớp, té ra là một chiếc mái chèo đúc bằng đồng. Cô gái buộc thuyền vào chiếc cọc gỗ bên bậc đá dưới rửu lâu rồi nhẹ nhàng nhảy lên bờ. Hán tử ngồi trong thuyền nhấc một gánh củi lớn lên theo. Hai người lên tửu lâu, cô gái gọi hán tử béo lùn một tiếng:

– Tam ca!

Rồi ngồi xuống cạnh y. Hán tử béo lùn nói:

– Tứ đệ, Thất muội, các ngươi tới sớm đấy.

Hoàn Nhan Hồng Liệt liếc nhìn hai người, thấy cô gái khoảng mười tám mười chín tuổi, vóc dáng mảnh dẻ, mắt to mày rậm, da trắng như tuyết, đúng là người sinh trưởng ở vùng sông nước tại Giang Nam.Tay trái nàng cầm chiếc mái chèo bằng đồng, tay phải nhấc nón tre lên để lộ ra một làn tóc đen óng như mây. Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm:

– Vị cô nương này tuy không xinh đẹp bằng Bao thị nương tử nhưng cũng có phong tư riêng.

Hán tứ gánh củi kia khoảng trên dưới ba mươi tuổi mặc quần áo vải xanh, lưng thắt một sợi dây cỏ, chân đi hài cỏ, tay thô chân lớn, dáng vẻ chất phác. Y hạ cái đòn gánh trên vai xuống dựa lên cái bàn bên cạnh, lạch cạch mấy tiếng, một cái bàn Bát tiên đã bị chiếc đòn gánh xô đi mấy tấc.

Hoàn Nhan Hồng Liệt sửng sốt nhìn, thấy cái đòn gánh kia cũng không có gì kỳ lạ, đen bóng một màu, ở giữa hơi cong, hai đầu đều có mấu nhô lên. Cái đòn gánh ấy nặng như thế chắc là phải được đúc bằng gang sắt loại tốt. Trên lưng người kia còn giắt một cái búa đốn củi ngắn, cán búa bị mẻ mấy chỗ. Hai người vừa ngồi yên, dưới lầu lại có tiếng chân rồi có hai người đi lên. Cô gái kêu lên:

– Ngũ ca, Lục ca, các ngươi cũng tới rồi.

Người đi trước thân thể cao lớn, ít ra cũng phải nặng tới hai trăm năm sáu mươi cân, mặc một cái áo trường sam dính đầy dầu mỡ, ngực áo phanh ra, để lộ một đám lông dài trên ngực, tay áo xắn cao, trên cánh tay toàn là lông đen dài gần một tấc, trên sợi thắt lưng da ngang hông giắt một thanh đao nhọn cán dài khoảng mộ thước, xem dáng vẻ là một đồ tể mồ heo giết bò. Người phía sau thân hình ngũ đoản, đầu đội khăn lông, da mặt trắng trẻo, tay cầm một cái cân, một cái ống điếu tre, dáng vẻ như một tiểu thương. HoànNhan Hồng Liệt thầm lấy làm lạ:

– Ba người tới trước đều biết võ công, tại sao hai người buôn bán tầm thường này lại xưng hô anh em với họ?

Chợt nghe dưới đường vang lên một tràng tiến keng keng như vật bằng sắt gõ vào đá, kế tiếng gõ dần dần lên cầu thang, một người mù quần áo rách rưới bước lên, tay phải cầm một cây thiết trượng lớn. Chỉ thấy y khoảng ngoài bốn mươi tuổi, miệng nhọn cằm thót, sắc mặt xám ngoét, trông rất dữ tợn. Năm người ngồi ở bàn đều đứng lên, cùng nói:

– Đại ca.

Cô gái đánh cá vỗ nhẹ vào một chiếc ghế nói:

– Đại ca! Anh ngồi xuống đây.

Người mù kia nói:

– Được. Nhị đệ còn chưa tới sao?

Người dáng vẻ như đồ tể nói:

– Nhị ca đã tới phủ Gia Hưng rồi, sẽ tới ngay thôi.

Cô gái cười nói:

– Chẳng phải đã tới rồi sao?

Chỉ nghe một tràng tiếng dép da lẹp kẹp, lẹp kẹp vang lên dưới lầu. Hoàn Nhan Hồng Liệt sửng sốt, chỉ thấy đầu tiên ở chỗ cầu thang nhô lên một cái quạt rách lem luốc phe phẩy mấy cái, kế đó một người khốn cùng nghiêng đầu ngoẹo cổ bước cao bước thấp đi lên, đúng là người mình mới gặp trong khách điếm. Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm:

– Tiền bạc của mình chắc chắn là bị người này trộm cắp…

Đang nổi giận thì người kia nhăn nhở nhìn y cười một tiếng, chành môi lè lưỡi, làm ra vẻ nhát ma rồi quay lại vẫy tay với mọi người, té ra y là Nhị ca của họ. Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm:

– Xem ra đám người này đều thân mang tuyệt kỹ, nếu có thể thu dùng được họ thì quả thật rất có lợi. Gã khốn cùng kia trộm cắp tiền bạc của mình là chuyện nhỏ không đáng gì, không cần so đo, cứ xem động tĩnh thế nào rồi sẽ tính.

Chỉ thấy người kia uống một hớp rượu, nghiêng đầu ngoẹo cổ ngâm nga:

– Bạc tiền bất nghĩa.., vứt đi thôi, Ngọc Hoàng đại đế nổi cơn rồi!

Miệng thì ngâm lớn, tay thì thò vào bọc lấy ra một đống vàng bạc xếp ngay ngắn lên bàn, tất cả là tám đĩnh bạc, hai đĩnh vàng. Hoàn Nhan Hồng Liệt nhìn thấy màu sắc hình dáng số vàng bạc ấy đúng là của mình bị mất, không hề tức giận mà lại kinh ngạc:

– Y vào phòng trộm tiền của mình cũng không khó, nhưng chỉ xòe quạt đập vào vai mình một cái đã lấy cắp hết số tiền trong túi mình mà mình hoàn toàn không biết. Tuyệt kỹ trộm cắp này thì quả thật ít nghe ít thấy.

Nhìn qua tình hình bảy người thì tựa hồ họ làm chủ mời hai người khác tới uống rượu, nhưng vì khách chưa tới nên bảy người chỉ uống rượu suông, không hề động đũa tới thức ăn. Nhưng hai thồi kia chỉ bày hai đôi đũa hai cái chén thì chỉ có hai người khách. Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm:

– Bảy quái nhân này mời khách, không biết là lại mời loại quái khách nào.

Khoảng sau một tuần trà chợt nghe dưới lầu có tiếng niệm Phật vang lên:

– A di đà Phật?

Người mù nói:

– Tiêu Mộc đại sư tới rồi?

Rồi đứng lên, sáu người kia cũng đứng lên đón. Lại nghe một tiếng:

– A di Phật!

Rồi một hòa thượng cao cao gầy như que củi bước lên bậc thang. Hòa thượng này tuổi khoảng hơn bốn mươi, mặc áo cà sa màu vàng, tay cầm một thanh gỗ đen cháy sém một đầu, không biết dùng để làm gì? Hòa thượng cùng bảy người kia hỏi thăm nhau vài câu, hán tử cùng khốn dẫn y tới ngồi xuống trước một thồi trống. Hòa thượng khom người nói:

– Người ấy tìm tới cửa, tiểu tăng tự biết không phải là đối thủ, đội ơn Giang Nam thất hiệp trượng nghĩa giúp đỡ, tiểu tăng vô cùng cảm kích.

Người mù kia nói:

– Tiêu Mộc đại sư không cần khách sáo. Bảy anh em chúng tôi bình nhật được đại sư thương mến, đại sư có việc chẳng lẽ anh em chúng tôi lại có thể khoanh tay đứng nhìn? Huống chi người ấy tự cậy võ công cao cường, vô duyên vô cớ tới đối đầu với đại sư thì còn coi võ lâm Giang Nam ra gì nữa? Cho dù đại sư không báo tin, anh em chúng tôi biết được cũng quyết không bỏ qua…

Câu nói chưa dứt, chỉ nghe thang lầu kêu răng rắc như có một con vật lớn bước lên, nghe tiếng thì không phải voi mà như một con trâu nặng vài trăm cân. Chưởng quỹ và đám tiểu nhị dưới lầu hoảng sợ kêu ầm lên:

– Này, cái đó không mang lên lầu được đâu! Ngươi làm thủng ván lầu bây giờ. Mau cản y lại bảo y xuống đi!

Nhưng tiếng răng rắc vẫn tiếp tục vang lên. Hoàn Nhan Hồng Liệt hoa cả mắt, thấy một đạo nhân nâng một cái vạc đồng cực lớn bước mau lên lầu, định thần nhìn kỹ giật bắn mình sợ cuống lên, té ra đạo nhân ấy chính là Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ. Hoàn Nhan Hồng Liệt lần này vâng lệnh vua cha đi sứ qua Tống, muốn thừa cơ kết giao với đại quan nhà Tống chuẩn bị làm nội ứng cho việc đánh Tống sau này. Sứ thần nhà Tống Vương Đạo Càn theo y đi từ Yên Kinh xuống Nam là người lựa gió phất cờ, tham lam của đút, đã ngấm ngầm theo Kim, tới Lâm An chạy chọt giúp y. Không ngờ Vương Đạo Càn đột nhiên bị một đạo nhân giết chết, cả tim gan cũng bị móc sạch. Hoàn Nhan Hồng Liệt qua cơn hoảng sợ chỉ e âm mưu của mình đã bị đạo nhân phát giác, lập tức đem đám tùy tùng, lấy bọn bổ khoái ở phủ Lâm An dẫn đường đích thân truy nã thích khách. Đuổi tới thôn Ngưu Gia thì gặp Khưu Xử Cơ, nào ngờ đạo nhân này võ công cực cao, Hoàn Nhan Hồng Liệt chưa xuất thủ đã bị y dùng Hoạt thủ tiễn phóng tên trúng vai, số tùy tùng sai dịch mang theo đều bị y giết sạch. Hoàn Nhan Hồng Liệt nếu không nhân lúc đánh nhau hỗn loạn bỏ trốn trước, lại được Bao Tích Nhược cứu giúp thì một vị vương tử đường đường của nước Kim đã phải chết một cách hồ đồ trong ngôi làng nhỏ ấy rồi.

Hoàn Nhan Hồng Liệt lấy lại bình tĩnh, chỉ thấy ánh mắt y quét qua mặt mình một cái rồi ngưng thần chăm chú nhìn Tiêu Mộc và bảy người kia, hiển nhiên không nhận ra mình, liền nghĩ thầm hôm ấy mình vừa tới đã bị y phóng tên đánh ngã chứ hoàn toàn chưa nhìn rõ mặt mũi mình, lập tức yên tâm, nhưng nhìn tới cái vạc đồng to tướng trong tay y, qua cơn hoảng sợ bất giác sọ rúm người trên ghế.

Cái vạc ấy là vật thường thấy trong chùa miếu dùng để đốt giấy tiền vàng bạc và sớ văn, đường kính rộng hơn bốn thước, e phải nặng trên ba trăm cân trong đựng đầy rượu thơm phức, rõ ràng là rượu ngon, tự nhiên càng nặng hơn, nhưng y đặt trên lòng bàn tay cũng không thấy có vẻ gì gắng sức, mỗi bước Ván lầu lại kêu răng rắc. Lúc bấy giờ người dưới lầu đã họp thành một nhóm, chường quỹ, tiểu nhị, đầu bếp, người làm, khách khứa nhao nhao chạy ra ngoài chỉ sợ ván lầu sập xuống đè chết người. Hòa thượng Tiêu Mộc lạnh lùng nói:

– Vị này Trường Xuân Tử Khưu đạo trưởng của phái Toàn Chân các vị đều đã ngưỡng mộ từ lâu đấy.

Rồi nhìn qua Khưu Xử Cơ nói:

– Vị này là người đứng đầu Giang Nam thất hiệp, Phi thiên biển bức Kha Trấn Ác Kha đại hiệp.

Nói xong đưa tay chỉ vào người mù bên cạnh, kế theo thứ tự giới thiệu. Hoàn Nhan Hồng Liệt bên cạnh ngưng thần lắng tai, ngấm ngầm ghi nhớ.

Người thứ hai tức hán tử cùng khốn trộm cắp tiền của y, tên Diệu thủ thư sinh Chu Thông. Người béo lùn cười ngựa tới quán rượu sớm nhất là Mã vương thần Hàn Bảo Câu, đứng hàng thứ ba. Người nông dân gánh củi đứng hàng thứ tư tên Nam Sơn tiều tử Nam Hy Nhân. Người thứ năm là đại hán thân thể cao to, dáng vẻ như đồ tể tên Tiếu Di đà Trương A Sinh.

Người trẻ tuổi dáng như tiểu thương họ Toàn tên Kim Phát, ngoại hiệu là Náo thị hiệp ẩn. Cô gái đánh cá là Việt nữ kiếm Hàn Tiểu Oanh, là người nhỏ tuổi nhất trong Giang Nam thất hiệp.

Lúc Tiêu Mộc giới thiệu, Khưu Xử Cơ đều gật đầu làm lễ, nhưng tay phải nâng cái vạc lớn vẫn như không hề thấy mỏi. Đám người dưới lầu thấy hồi lâu vẫn yên ắng có vài người to gan bèn rón rén lên xem nhiệt náo. Kha Trấn Ác nói:

– Bảy anh em chúng tôi xưng là Giang Nam thất quái, đều là quái vật mà thôi, thất hiệp cái gì thật không dám nhận. Anh em chúng tôi đã ngưỡng mộ oai danh của Toàn Chân thất rử từ lâu, vốn biết Trường Xuân tử hành hiệp trượng nghĩa, lại càng kính phục. Tiêu Mộc đại sư đây là người tu hành lâu năm, quen biết lâu ngày, không biết y vô ý đắc tội với đạo trưởng ra sao? Nếu đạo trưởng nể mặt thì xin cho bảy anh em chúng tôi được đứng ra giảng hòa. Hai vị tuy là hòa thượng đạo sĩ, thờ phụng khác nhau nhưng đều là người xuất gia, lại cùng là người võ lâm, mọi người bỏ hết thù cũ, tất cả cùng uống một chén được không?

Khưu Xử Cơ nói:

– Bần đạo và Tiêu Mộc đại sư vốn không quen không biết, không thù không oán, chỉ cần y giao ra hai người thì ngày khác bần đạo sẽ tới chùa Pháp Hoa xin chịu tội.

Kha Trấn Ác nói:

– Giao ra hai người nào?

Khưu Xử Cơ nói:

– Bần đạo có hai người bạn bị quan phủ và quân Kim hãm hại, bất hạnh chết phí mạng để lại hai người quả phụ cô khổ không nơi nương tựa. Kha đại hiệp, các vị nói bần đạo không có lý sao?

Hoàn Nhan Hồng Liệt vừa nghe thấy, chén rượu trên tay đột nhiên nghiêng đi một cái, rượu sánh ra ngoài. Chỉ nghe Kha Trấn Ác nói:

– Đừng nói là vợ góa của bạn đạo trưởng, cho dù làm người không quen mà bọn ta biết chuyện cũng sẽ hết sức chiếu cố, đó là chuyện nghĩa không thể từ chối.

Khưu Xử Cơ lớn tiếng nói:

– Phải lắm! Đúng là taị hạ muốn Tiêu Mộc đại sư giao ra hai người phụ nữ đáng thương ấy? Y là người xuất gia, tại sao lại thu giữ hai người quả phụ trong chùa, nhất định không chịu giao ra? Bảy vị là người nghĩa hiệp, xin bàn đạo lý thử xem!

Câu ấy vừa buông ra, không những Tiêu Mộc vài Giang Nam thất quái đều giật mình mà Hoàn Nhan Hồng Liệt cũng thầm ngạc nhiên, tự nhủ:

– Chẳng lẽ nói không phải là vợ của hai người Quách Dương mà là người khác sao?

Tiêu Mộc sắc mặt vốn vàng vọt, lúc ấy tức giận trong màu vàng pha thêm màu xám, nhất thời không nói nên lời, lắp bắp:

– Ngươi… ngươi… nói bậy nói bạ… nói bậy…

Khưu Xử Cơ cả giận quát lớn:

– Ngươi cũng là nhân vật có tiếng trong võ lâm mà dám làm chuyện bậy bạ như thế!

Tay phải đẩy một cái, cái vạc đồng nặng mấy trăm cân chứa rượu bay thẳng vào Tiêu Mộc. Tiêu Mộc tung người tránh qua một bên. Những người đứng đầu cầu thang xem náo nhiệt sợ mất vía, xô đẩy nhau ba chân bốn cẳng chạy xuống dưới lầu. Tiếu Di đà Trương A Sinh ước lượng cái vạc tuy nặng nhưng mình có thể đón được, lúc ấy bèn bước lên một bước, vận khí ra hai tay quát một tiếng:

– Giỏi lắm?

Đợi cái vạc vừa bay tới thì trầm hai tay xuống bưng đáy vạc bắp thịt vai nổi lên, giữ cứng cái vạc, hai tay giơ cao nhấc lên. Nhưng chân y dùng sức quá mạnh, rắc một tiếng, chân trái đạp xuống ván lầu thủng luôn một lổ người dưới lầu cả sợ kêu ầm lên. Trương A Sinh bước lên hai bước, hai tay co lại, một chiêu Thôi song tống nguyệt ném cái vạc đồng qua Khưu Xử Cơ. Khưu Xử Cơ vươn tay phải đón lấy, cười nói:

– Giang Nam thất hiệp quả nhiên danh bất hư truyền?

Rồi lập tức sa sầm nét mặt nhìn Tiêu Mộc quát:

– Chuyện hai người đàn bà kia thì sao? Ngươi bắt nhốt hai người quả phụ ấy trong chùa, rốt lại là có ý gì? Gã hòa thượng giặc cướp nhà ngươi chỉ cần động tới một sợi tóc của họ thì ta sẽ băm nát xương ngươi, đạp bằng chùa Pháp Hoa của ngươi thành bình địa?

Chu Thông phẩy cái quạt một cái, nghiêng đầu, ngẹo cổ nói:

– Tiêu Mộc đại sư là bậc cao tăng đắc đạo đời nào đi làm chuyện vô sỉ như thế? Nhất định đạo trưởng đã lầm nghe lời bọn tiểu nhân thêu dệt rồi.

Lời ấy rất quàng xiên, quyết không thể tin được.

Khưu Xử Cơ tức giận nói:

– Bần đạo chính mắt nhìn thấy, chẳng lẽ còn giả ư?

Giang Nam thất quái đều sửng sốt, Tiêu Mộc nói:

– Cho dù ngươi muốn tới Giang Nam dương danh ra oai, cũng cần gì phải bôi nhọ ta. Ngươi.., ngươi.., ngươi tới Gia Hưng hỏi khắp nơi xem, hòa thượng Tiêu Mộc ta há lại làm chuyện bậy bạ như thế à?

Khưu Xử Cơ cười nhạt nói:

– Được lắm, ngươi mời người giúp đỡ là muốn cậy đông thủ thắng, chuyện này ta đã dính vào rồi, quyết không bỏ qua cho ngươi đâu. Chùa Phật là nơi thanh tĩnh, ngươi lại giấu phụ nữ nhà lành đã là rất không đúng, huống chi chồng họ còn là dòng dõi trung lương, gặp nạn chết thảm.

Kha Trấn Ác nói:

– Đạo trưởng nói: Tiêu Mộc đại sư giấu hai người đàn bà ấy, còn đại sư thì nói không có. Tất cả chúng ta cứ tới chùa Pháp Hoa xem xét cho kỹ, lúc ấy ai đúng ai sai lại không rõ ràng sao? Tuy ta bị mù nhưng người khác thì không mù mà.

Sáu người kia đồng thanh khen phải. Khưu Xử Cơ cười nhạt nói:

– Xét chùa à? Bần đạo đã lục soát khắp trong ngoài nhưng rõ ràng nhìn thấy hai người đàn bà kia vào rồi không thấy đâu nữa, không còn cách nào khác, chỉ có cách đòi hòa thượng giao người thôi.

Chu Thông nói:

– Té ra hai người đàn bà ấy không phải là người.

Khưu Xử Cơ ngạc nhiên nói:

– Cái gì?

Chu Thông nghiêm trang giảng giải:

– Họ là tiên nữ, nếu không biết phép ẩn thân thì đã độn thổ trốn rồi!

Sáu người còn lại nghe thế đều không kìm được nụ cười. Khưu Xử Cơ tức giận nói:

– Giỏi lắm, các ngươi đùa với bần đạo chắc. Giang Nam thất quái hôm nay nhất định giúp đỡ hòa thượng phải không?

Kha Trấn Ác hiên ngang nói:

– Bọn ta bản lĩnh kém cỏi, trong mắt của cao thủ phái Toàn Chân thì tự nhiên không ra gì. Nhưng bảy anh em bọn ta ở Giang Nam cũng có chút tiếng tăm, người biết bọn ta đều phải nói câu Giang Nam thất quái điên điên khùng khùng nhưng không phải hạng tham sống sợ chết. Bọn ta không dám khinh khi hà hiếp kẻ khác, nhưng cũng không chịu để kẻ khác khinh khi hà hiếp mình.

Khưu Xử Cơ nói:

– Giang Nam thất hiệp tiếng tăm tốt đẹp, chuyện đó ta biết. Các vị không dính líu tới chuyện này, không cần phải dấn thân vào vũng nước đục. Chuyện ta tìm hòa thượng cứ để bần đạo làm cho xong với y, bây giờ thứ lỗi không thể bồi tiếp được nữa. Hòa thượng, đi theo ta.

Nói xong vươn tay chụp cổ tay Tiêu Mộc. Tiêu Mộc cổ tay trầm xuống một cái, lập tức thoát khỏi cái chụp tay của y. Mã vương thần Hàn Bảo Câu thấy hai người động thủ, cao giọng quát:

– Đạo sĩ, rốt lại ngươi có chịu nói đạo lý không?

Khưu Xử Cơ nói:

– Hàn tam gia, chuyện gì thế?

Hàn Bảo Câu nói:

– Bọn ta rất tin Tiêu Mộc đại sư, y nói không có là không có. Nam tử hán, người võ lâm cứng cỏi ngay thẳng, chẳng lẽ lại đặt chuyện lừa dối người khác à?

Khưu Xử Cơ nói:

– Y không đặt chuyện thì chẳng lẽ là Khưu mỗ đặt chuyện vu oan cho y chắc? Khưu mỗ chính mắt nhìn thấy, nếu nhìn lầm người thì ta cũng phải tìm ra hai người ấy cho ngươi thấy. Nhất định ta cứ hỏi lão hòa thượng này.

Bảy vị cũng nhất định xen vào chuyện này rồi, phải không?

Giang Nam thất quái đồng thanh đáp:

– Không sai.

Khưu Xử Cơ nói:

– Được, ta kính bảy vị mỗi người một hớp rượu. Các vị uống rượu xong rồi sẽ ra tay.

Xong tay phải trầm xuống một cái, nâng cái vạc lên miệng uống một ngụm lớn rồi quát:

– Xin mời!

Khẽ vung tay một cái, cái vạc bay về phía Trương A Sinh. Trương A Sinh nghĩ thầm:

– Nếu chụp cái vạc như lúc nãy thì làm sao uống rượu được?

Lúc ấy bèn lùi hai bước, hai tay ôm bụng, chờ cái vạc bay tới thì giơ tay ra một cái, cái vạc bay đúng vào giữa bụng. Y thân thể to béo, bụng phệ ra như một bức vách mềm chặn cái vạc lại lập tức vận khí, da bụng phình ra đã giữ được cái vạc bay tới, hai tay ôm lại giữ chắc, cúi uống một hớp rượu lớn, cất tiếng khen:

– Rượu ngon!

Hai tay đột nhiên rút về trước bụng, cái vạc còn chưa rơi xuống đã dùng một chiêu Song thủ di sơn đẩy mạnh ra. Một chiêu ấy kình lực đã mạnh, biến chiêu lại nhanh, là công phu ngoại gia rất cao minh. Hoàn Nhan Hồng Liệt bên cạnh nhìn thấy thầm hoảng sợ. Khưu Xử Cơ đón lấy cái vạc, cũng uống một ngụm lớn, quát:

– Bần đạo kính Kha đại ca một vò!

Thuận tay ném luôn cái vạc đồng qua Kha Trấn Ác. Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm:

– Người này hai mắt bị mù, làm sao đón được?

Nhưng y không biết Kha Trấn Ác đứng đầu Giang Nam thất quái, võ công cũng đứng đầu bảy người, y lắng nghe mà phân biệt các loại ám khí còn không sai một ly, cái vạc lớn này ném tới xé gió ào ào thì tự nhiên nhận ra rất rõ. Chỉ thấy y nhàn nhã ngồi yên như chưa biết gì, khi cái vạc bay tới ngang đầu mới nhấc tay phải lên một cái, ngọn thiết trượng đã dính vào đáy vò. Cái vạc ấy xoay mau trên ngọn thiết trượng như người ta diễn trò lấy gậy trúc xoay cái đa. Đột nhiên ngọn thiết trượng chênh đi một cái, cái vạc hơi nghiêng qua, nhìn thấy như sắp rơi vào đầu y, nếu rơi xuống há lại không đánh vỡ sọ y sao? Nào ngờ cái vạc nghiêng qua mà không rơi xuống, rượu róc xuống như một dòng nước. Kha Trấn Ác há miệng đón lấy, rượu phía trên không ngừng róc xuống, y ừng ực uống từng ngụm lớn, uống liên tiếp ba ngụm, ngọn thiết trượng chống thẳng lại lại dính vào giữa đáy vò, lập tức đẩy một cái hất tung cái vạc lên. Y vung trượng quét ngang, choang một tiếng rền tai, cái vạc lại bay về phía Khưu Xử Cơ tiếng ong ong vang lên hồi lâu không dứt. Khưu Xử Cơ cười nói:

– Chắc Kha đại hiệp lúc bình thời rất thích nghịch đa.

Rồi tiện tay đón lấy cái vạc, Kha Trấn Ác lạnh lùng nói:

– Huynh đệ lúc nhỏ nhà nghèo phải nhờ mấy trò chơi trẻ con ấy làm ăn mày xin cơm.

Khưu Xử Cơ nói:

– Nghèo hèn không làm đổi chí, đó gọi là đại trượng phu. Ta kính Nam tứ ca một vò!

Rồi cúi đầu uống một hớp rượu trong vò, hất luôt cái vạc bay về phía Nam Sơn tiều tử Nam Hy Nhân. Nam Hy Nhân không nói câu nào, chờ cái vạc bay tới, nhấc cái đòn gánh đâm lên không, choáng một tiếng, cái vạc bị chặn lại trên không rơi xuống Nam Hy Nhân thò tay vốc một vốc rượu trong vò đưa lên uống rồi vung ngang đòn gánh ra, chân phải khuỵu xuống, cái đòn gánh gác ngang gối trái, tay phảt cầm một đầu đòn gánh, đầu kia đòn gánh dính vào đáy y hất ngược lại, cái vạc lại bay lên. Y đang chờ cái vạc bay về phía Khưu Xử Cơ, Náo thị hiệp ẩn Toàn Kim Phát đã cười nói:

– Ta làm người buôn bán, thích chiếm cái lợi nhỏ, không phí sức mà cũng kiếm được hớp rượu.

Cái vạc bay tới cạnh Nam Hy Nhân, y chờ lúc nó hạ xuống cũng vốc một vốc rượu uống rồi đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân đạp vào thành vò, dùng lực trên không phóng song cước ra, thân hình như mũi tên bắn lại phía sau, cái vạc cũng theo phát cước của y bay ra. Y và cái vạc cùng bị sức dội hất tung về phía sau, cái vạc lại bay thẳng về phía Khưu Xử Cơ. Thân hình y bay mau tới vách tường thì nhẹ nhàng hạ xuống, Diệu thủ thư sinh Chu Thông phe phẩy cái quạt, buột miệng khen:

– Khéo thật, khéo thật?

Khưu Xử Cơ đón lấy cái vạc lại uống một hớp lớn, nói:

– Khéo thật, khéo thật! Bần đạo kính Nhị ca một vò.

Tiếng quát chưa dứt, cái vạc đã bay về phía Chu Thông. Chu Thông la lớn:

– Đè chết người ta rồi, cứu mạng, cứu…

Rồi xòe quạt nhúng vào vò tát một hớp rượu vào miệng, cán quạt lật lại đánh cái vạc bay tung ra, chát một tiếng, ván lầu đã bị y đạp vỡ một lổ lớn, thân hình cũng theo đó rơi xuống, tiếng “Cứu mạng, cứu mạng” không ngừng từ phía dưới vang lên. Mọi người đều biết y vờ làm ra như thế nhưng ai cũng bất giác kinh ngạc. Hoàn Nhan Hồng Liệt thấy y vừa đánh cán quạt ra một cái, cái vạc đã lập tức bay trở lại cán quạt nhỏ bé mà kình lực phát ra không kém gì cái đòn gánh to nặng của Nam Hy Nhân, trong lòng thầm ngạc nhiên hoảng sợ. Việt nữ kiếm Hàn Tiểu Oanh kêu lên:

– Ta cũng tới uống một hớp!

Chân phải điểm xuống một cái, thân hình như chim én lướt sóng bay lên phía trên miệng vò, chúc đầu xuống một cái hớp một hớp rượu rồi nhẹ nhàng đáp xuống khung cứa sổ đối diện. Nàng giỏi kiếm pháp và khinh công chứ không sở trường về sức mạnh, nghĩ thầm cái vạc này quá nặng dĩ nhiên không đủ sức đón lấy, muốn ném trả lại cho đạo sĩ kia thì càng không thể, nên thừa cơ khai triển khinh công uống rượu. Lúc ấy cái vạc vẫn bay vù vù ra cửa sổ rơi xuống đường, trên đường người qua kẻ lại tấp nập, nếu rơi xuống đó ắt gây ra đại họa. Khưu Xử Cơ thầm hoảng sợ đang định vọt ra giữ lại. Chỉ nghe ào một tiếng, bên cạnh đã có một người áo vàng chênh chếch vọt qua, hú dài một tiếng, con ngựa vàng dưới lầu lập tức phi tới chỗ đó.

Mọi người đều đổ ra cửa sổ nhìn, chỉ thấy một khối thịt tròn đập vào cái vạc trên không, cái vạc đang rơi thẳng liền đổi hương rơi chếch xuống, khối thịt tròn và cái vạc song song rơi xuống lưng con hoàng mã. Con hoàng mã phóng ra mấy trượng rồi quay ngoắt trở lại phóng thẳng lên lầu.

Mã vương thần Hàn Bảo Câu nằm dưới bụng ngựa, chân trái ngoặc vào bàn đạp, hai tay và chân phải giữ vững cái vạc nằm yên trên yên ngựa, không hề nghiêng đổ. Con ngựa vàng phi vừa mau vừa ổn, lên lầu như chạy trên đất bằng. Hàn Bảo Câu lật người lên ngựa thò đầu vào vò uống một hớp rượu lớn, tay trái rung một cái ném cái vạc xuống sàn,hô hô cười lớn giật cương một cái, con hoàng mã theo cửa sổ phóng ra như thiên mã hành không, nhẹ nhàng vững chãi rơi xuống giữa đường. Hàn Bảo Câu nhảy khỏi lưng ngựa, cùng Chu Thông nắm tay nhau lên lầu. Khưu Xử Cơ nói:

– Giang Nam thất quái quả nhiên danh bất hư truyền! Người nào cũng võ công cao cường, bần đạo vô cùng bội phục! Nể mặt các vị, bần đạo không làm khó hòa thượng nữa, chỉ cần y giao hai người đàn bà đáng thương kia ra thì chuyện này kể như xong.

Kha Trấn Ác nói:

– Khưu đạo trưởng, đây chính là vì ngươi không phải. Tiêu Mộc đại sư đây thanh tu mấy mươi năm, lại là cao tăng đắc đạo, bọn ta vốn rất kính phục. Chùa Pháp Hoa cũng là cửa Phật đất thiền nổi tiếng ở phủ Gia Hưng, đời nào có chuyện gian dâm phụ nữ nhà lành?

Khưu Xử Cơ nói:

– Thiên hạ rộng lớn, thiếu gì bọn trộm danh lừa đời.

Hàn Bảo Câu tức giận nói:

– Nói thế là Khưu đạo trưởng không tin lời bọn ta chứ gì?

Khưu Xử Cơ đáp:

– Chẳng thà ta tin vào mắt mình.

Hàn Bảo Câu nói:

– Đạo trưởng muốn gì?

Y tuy thấp lùn, nhưng giọng nói vang dội, lên tiếng tự có khí thế oai mãnh. Khưu Xử Cơ nói:

– Chuyện này vốn không can dự gì tới bảy vị, nhưng bảy vị đã nhất định can thiệp, tất nhiên là cậy có võ nghệ hơn người. Bần đạo bất tài, chỉ còn cách so tài cao thấp với bảy vị, nếu không chống nổi thì xin theo để các vị tùy ý xử đoán.

Kha Trấn Ác nói:

– Đạo trưởng đã quyết ý như thế thì cứ vạch đường lối đi.

Khưu Xử Cơ thoáng trầm ngâm rồi nói:

– Ta cùng các vị không thù không oán, từ lâu cũng ngưỡng mộ Giang Nam thất quái là bậc anh hùng, vung đao động quyền sẽ không khỏi làm tổn thương hòa khí. Thôi thế này…

Rồi cao giọng gọi:

– Tiểu nhị, mang mười cái bát lớn lên đây!

Tiểu nhị vốn núp dưới lầu, lúc ấy thấy trên lầu yên ắng, nghe gọi vội vàng đưa một chồng bát lên lầu. Khưu Xử Cơ bảo y múc rượu trong vò đổ đầy mười bốn cái bát lớn xếp hàng trên bàn rồi nhìn Giang Nam thất quái nói:

– Bần đạo và các vị đấu tửu lượng. Tất cả các vị uống bảy bát, một mình bần đạo uống bảy bát, đến khi nào phân thắng phụ thì thôi. Cách này được không?

Hàn Bảo Câu và Trương A Sinh đều tửu lượng rất cao, đồng ý trước nhất. Kha Trấn Ác lại nói:

– Bọn ta lấy bảy địch một, nếu có thắng cũng là bất võ, đạo trưởng nên tìm cách khác.

Khưu Xử Cơ nói:

– Tại sao ngươi chắc là có thể thắng được ta?

Việt nữ kiếm Hàn Tiểu Oanh tuy là phụ nữ nhưng tính nết mười phần hào hiệp, lúc ấy cao giọng:

– Được trước tiên cứ so tửu lượng rồi sẽ nói. Ngươi coi thường bảy anh em bọn ta như thế thì tiểu muội người đầu tiên bước ra đây.

Nói xong nâng một bát rượu lên ừng ực uống một hơi cạn sạch. Bát rượu nàng uống quá gấp, nên trong khoảnh khắc Khuôn mặt trắng trẻo đã ửng hồng. Khưu Xử Cơ nói:

– Hàn cô nương quả thật là trượng phu trong đám phụ nữ. Mời mọi người…

Sáu người còn lại trong thất quái đều nâng bát lên uống. Khưu Xử Cơ uống cạn từng bát, trong khoảnh khắc liên tục uống cạn bảy bát, mỗi bát chỉ ực một tiếng, rượu từ miệng vào bụng không hề ngừng lại ở cổ họng. Tên tiểu nhị cao hứng luôn miệng khen hay, vội múc đầy rượu vào mười bốn bát, tám người lại uống cạn. Đến lượt thứ ba, Hàn Tiểu Oanh rốt lại tửu lượng yếu nhất, uống được nửa bát thì tay phải thoáng run lên. Trương A Sinh đỡ nửa bát rượu trong tay nàng, nói:

– Thất muội, ta uống giùm cô.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Đạo trưởng, như thế được không?

Khưu Xử Cơ nói:

– Được, ai uống cũng thế mà.

Lại qua một lượt nữa, Toàn Kim Phát cũng chịu không nổi bèn lui ra.

Thất quái thấy Khưu Xử Cơ uống liên tiếp hai mươi tám bát rượu mà sắc mặt không đổi, thần thái vẫn ung dung, người nào cũng phát hoảng. Hoàn Nhan Hồng Liệt bên cạnh nhìn thấy lại càng lè lười, nghĩ thầm:

– Tốt nhất là lão đạo này say mềm để bọn Giang Nam thất quái thừa cơ giết y cho xong.

Toàn Kim Phát nghĩ thầm bên mình chỉ còn năm người mà đều là tửu lượng rất cao, mỗi người có thể uống thêm ba bốn bát, chẳng lẽ bụng đối phương lại có thể chứa thêm hơn hai mươi bát nữa? Cho dù y tửu lượng quả thật không bờ thì sức chứa của bụng cũng có hạn, tính ra thì bên mình nắm chắc phần thắng, đang cao hứng chợt vô tình nhìn xuống ván lầu, chỉ thấy dưới hai chân Khưu Xử Cơ có một vũng nước, bất giác giật nảy mình ghé tai Chu Thông nói:

– Nhị ca, anh nhìn dưới chân lão đạo sĩ kìa.

Chu Thông vừa thấy hắn hạ giọng:

– Không xong, y dùng nội công đẩy rượu ra chân.

Toàn Kim Phát hạ giọng nói:

– Không sai, không ngờ nội công của y lại lợi hại tới mức thế, làm sao bây giờ?

Lại qua một vượt, dưới chân Khưu Xử Cơ toàn nước, như một dòng suối nhỏ từ ván lầu ròng ròng chảy xuống. Lúc ấy bọn Nam Hy Nhân, Hàn Bảo Cô cũng đều đã nhìn thấy, thấy y nội công tinh thâm như thế đều ngấm ngầm bội phục. Hàn Bảo Câu ném chén rượu xuống bàn, đã định nhận thua. Chu Thông đưa mắt nhìn y một cái rồi nói với Khưu Xử Cơ:

– Đạo trưởng nội công xuất thần nhập hóa, bọn ta vô cùng bội phục. Có điều bọn ta năm người đấu với đạo trưởng một người, rốt lại cũng là không công bằng.

Khưu Xử Cơ sửng sốt, nói:

– Chu nhị ca thấy nên làm sao?

Chu Thông cười nói:

– Chỉ huynh đệ một chọi một so tài với đạo trưởng thôi.

Câu ấy vừa buông ra, mọi người đều cảm thấy kỳ quái. Mắt thấy năm người đấu rượu với y đều tới chỗ cùng đường sắp thua, tại sao Chu Thông muốn một mình gánh vác? Nhưng sáu người đều biết vị huynh đệ này tuy ăn nói hoạt kê nhưng bụng đầy quỷ kế, hành sự thường cao thâm khôn lường, y nói thế ắt đã có cách, nên lúc ấy đều không nói gì. Khưu Xử Cơ khà khà cười nói:

– Giang Nam thất hiệp quả là rất hay muốn thắng. Thôi thế này, Chu nhị ca tiếp ta uống hết chỗ rượu trong vò, chỉ cần không phân thắng bại thì kể như bần đạo thua, được không?

Lúc bấy giờ rượu trong vò còn gần một nửa, khoảng mấy mươi bát lớn, e phải có cái bụng to như hai ông Phật Di Lặc trong chùa mới có thể uống hết. Nhưng Chu Thông không coi vào đâu, cười nói:

– Huynh đệ tửu lượng tuy không cao lắm nhưng năm xưa xuống chơi miền Nam cũng đã từng thắng được mấy con vật rất lợi hại, cạn chén thôi!

Tay phải y phe phẩy cái quạt rách, tay áo bên trái phất lên, vừa nói vừa uống. Khưu Xử Cơ từng bát từng bát uống cạn theo y, hỏi:

– Ai lợi hại thế?

Chu Thông nói:

– Lần ấy huynh đệ tới nước Thiên Trúc, vương tử Thiên Trúc dắt một con trâu ra đấu rượu với ta, kết quả rõ ràng bất phân thắng bại.

Khưu Xử Cơ biết y kể chuyện cười để mắng người liền phì một tiếng, nhưng thấy y giơ tay giẫm chân, ăn nói quàng xiên, nâng từng bát từng bát dốc vào miệng, tay chân không hề dính rượu, rõ ràng không phải dùng nội công ép ra, nhưng thấy bụng y cứ phình lên một khối lớn, chẳng lẽ bụng y quả có thể co giãn tùy ý, vô cùng kỳ quái. Lại nghe y nói:

– Huynh đệ năm trước tới nước Tiêm La, ồ, lần ấy mới rắc rối. Vua Tiêm La dắt một con voi lớn ra đấu rượu với ta, con vật ngu ngốc ấy uống hết bảy vò, ngươi nói ta uống được mấy vò?

Khưu Xử Cơ biết rõ y nói đùa, nhưng thấy y thần thái sinh động, nói rất có đầu có đuôi, bất giác thuận miệng hỏi một câu:

– Mấy vò vậy?

Chu Thông chợt làm mặt nghiêm, hạ giọng nghiêm trang nói:

– Chín vò!

Rồi chợt cao giọng nói:

– Uống mau đi, uống mau đi!

Chỉ thấy y múa tay giẫm chân, như say mà không phải say, như điên mà không phải điên, trong khoảnh khắc đã cùng Khưu Xử Cơ uống cạn chỗ rượu trong vò. Bọn Hàn Bảo Câu trước nay không biết y có tửu lượng lượng cao như thế, ai cũng vừa mừng vừa sợ. Khưu Xử Cơ giơ ngón tay cái lên, nói:

– Chu huynh quả là một bậc kỳ nhân, bần đạo xin bái phục!

Chu Thông cười nói:

– Đạo trưởng dùng nội công uống rượu, huynh đệ thì dùng ngoại công, mà là công phu ngoài thân thể, mời ngươi xem đây?

Nói xong hô hô cười rộ, đột nhiên vung tay một cái trong tay đã cầm một cái thùng gỗ khua một cái mùi rượu bốc lên sực nức, trong thùng chứa đầy một nửa là rượu ngon. Những người ở đó ai cũng võ công cao cường, ngoài Kha Trần Ác người nào cũng nhãn quang sắc bén nhưng đều không nhìn rõ cái thùng từ đâu xuất hiện, lại thấy bụng Chu Thông lúc ấy xẹp xuống bình thường, rõ ràng cái thùng gỗ vốn giắt sau vạt áo dài của y.

Giang Nam thất quái bật tiếng cười rộ, Khưu Xử Cơ thì đột nhiên biến sắc.

Nên biết Chu Thông giỏi nhất là việc trộm bắt chó, đào tường khoét vách nên có ngoại hiệu Diệu thủ thư sinh. Cách giấu thùng gỗ trong áo dài của y vẫn còn lưu truyền đến nay. Lúc các nhà ảo thuật biểu diễn tay không bước ra sân khấu, vung tay một cái, trong tay đã có một chậu cá vàng, lại vung tay một cái, trên sân khấu lại có một bát nước, có thể biến ra vài mươi bát nước trên sân khấu, bát nào cũng có một con cá vàng bơi lội, khiến người xem ai cũng trợn mắt há miệng khen ngợi không ngớt, tức là diệu thuật của môn này. Chu Thông lần thứ hai rơi xuống lầu đã lấy một cái thùng gỗ giấu sau áo dài, lúc uống rượu ăn nói quàng xiên, vung tay xòe quạt, cốt để làm phân tán ánh mắt của Khưu Xử Cơ. Lúc ảo thuật gia trổ tài biến hóa, dưới sự chú ý của hàng ngàn hàng vạn cặp mắt còn không để người ta thấy được chỗ sơ hở, lúc ấy Khưu Xử Cơ hoàn toàn không ngờ y sử dụng thủ pháp ấy thì càng không nhận ra rằng y dùng kỹ xảo, đem phần lớn rượu đổ cả vào cái thùng gỗ giấu sau vạt áo. Khưu Xử Cơ nói:

– Hừ, ngươi làm thế thì làm sao tính là uống rượu?

Chu Thông cười nói:

– Thế chẳng lẽ lại tính là ngươi uống rượu? Rượu ta uống thì ở trong thùng, rượu ngươi uống thì ở dưới đất, vậy thì có gì khác nhau đâu?

Y vừa nói vừa bước tới bước lui, chợt sơ ý đạp lên vũng rượu cạnh Khưu Xử Cơ, huỵch một tiếng, ngã dúi vào người Khưu Xử Cơ. Khưu Xử Cơ tiện tay đỡ y một cái, Chu Thông lùi lại phía sau, quay đi một vòng, kêu lên:

– Thơ hay, thơ hay!

… Từ cổ Trung thu… nguyệt rất tình,

Đêm khuya mát mẻ… gió trong lành.

Một trời… tinh tú mờ Ngân Hán.

Bốn bể ngư long… vượt thủy tinh… !

Hắn dài giọng ngâm nga ầm lên. Khưu Xử Cơ sừng sốt nghĩ thầm:

– Đây là bài thơ Đường luật tả cảnh Trung thu năm ngoái mình chưa làm xong, vẫn giữ trong người để nghĩ thêm bốn câu sau, chưa rừng đưa ai xem, tại sao y biết được?

Bèn cho tay vào bọc mò một cái thì trang giấy chép nửa bài thơ Đường quả không biết đã đi đàng nào. Chu Thông cười khì khì mở trang giấy chép bài thơ ra đặt lên bàn, cười nói:

– Không ngờ đạo trưởng võ công đã cái thế mà văn tài càng cao diệu, bội phục, bội phục.

Nguyên là mới rồi y cố ý trượt ngã một cái đã thi triển tuyệt kỹ Diệu thủ không không móc túi Khưu Xử Cơ lấy được bài thơ. Khưu Xử Cơ nghĩ thầm:

– Mới rồi y thò tay vào túi mình mà mình tuyệt nhiên không biết gì, nếu không ăn cắp bài thơ mà là dùng chủy thủ đâm mình một đao thì giờ này mình đâu còn tính mạng? Rõ ràng là y thủ hạ lưu tình.

Nghĩ tới đó trong lòng lập tức bình tĩnh lại, nói:

– Chu nhị hiệp đã bồi tiếp bần đạo uống sạch vò rượu, bần đạo nói ra là giữ tín, xin nhận thua. Cuộc gặp gỡ ở Túy Tiên lâu hôm nay là Khưu Xử Cơ thua dưới tay Giang Nam thất hiệp.

Giang Nam thất quái đồng thanh cười nói:

– Không dám, không dám. Đây là trò đùa chẳng phải là thật.

Chu Thông lại nói:

– Ðạo trưởng nội công tinh thâm, chúng tôi không sao bằng được.

Khưu Xử Cơ nói:

– Bần đạo tuy nhận thua, nhưng hai người quả phụ của hai người bạn để lại thì không thể không cứu.

Kế giơ tay làm lễ rồi nhấc cái vạc lên nói:

– Bần đạo sẽ tới chùa Pháp Hoa đòi người.

Kha Trấn Ác tức giận nói:

– Ngươi đã nhận thua, tại sao còn quấy rầy Tiêu Mộc đại sư?

Khưu Xử Cơ nói:

– Phù nguy giải nạn không liên quan gì tới việc thắng thua. Kha đại hiệp, nếu bạn của ngươi bất hạnh gặp nạn, vợ góa bị người ta khinh khi hà hiếp thì ngươi có cứu không?

Nói tới đó đột nhiên biến sắc, kêu lên:

– Lũ khốn giỏi lắm, còn hẹn người à, cho dù là thiên quân vạn mã thì đạo gia các ngươi cũng bất chấp tính mạng, cũng không vì thế mà thôi đâu.

Trương A Sinh nói:

– Có bảy anh em bọn ta, cần gì hẹn thêm người khác?

Kha Trấn Ác cũng đã sớm nghe thấy có mấy chục người chạy về phía tửu lâu, còn nghe cả tiếng binh khí cung tên của họ va vào nhau, lập tức đứng lên quát:

– Mọi người chuẩn bị, có người lạ.

Bọn Trương A Sinh cầm binh khí lên, chỉ nghe tiếng chân rầm rập lên cầu thang, mấy chục người kéo lên lầu. Mọi người quay nhìn thấy mấy chục người kia đều ăn mặc theo lối quân sĩ nước Kim. Khưu Xử Cơ vốn kính trọng Giang Nam thất quái, chỉ nghĩ họ nhất thời bị hòa thượng Tiêu Mộc lừa dối nên trong lời nói việc làm thủy chung vẫn còn chừa chỗ để lui, lúc ấy chợt thấy quân Kim sấn lên lầu, vô cùng tức giận, quát lớn:

– Tiêu Mộc hòa thượng, Giang Nam thất quái rõ ràng các ngươi cấu kết với giặc Kim, còn mặt mũi nào xưng là hiệp nghĩa nữa?

Hàn Bảo Câu tức giận nói:

– Ai hẹn quân Kim tới?

Toán quân Kim kia chính là tùy tùng của Hoàn Nhan Hồng Liệt. Họ thấy vương gia ra ngoài không về, không ai yên lòng liền theo đường đi tìm nghe nói trên Túy Tiên lâu có nhiều người hung ác tà môn, sợ vương gia gặp nguy hiểm nên vội vàng sấn vào. Khưu Xử Cơ hừ một tiếng, nói:

– Giỏi lắm, giỏi lắm? Thứ lỗi cho bần đạo không bồi tiếp được! Chuyện này giữa chúng ta chưa xong đâu!

Rồi cầm cái vạc chân bước ra cửa cầu thang.

Kha Trấn Ác đứng lên gọi:

– Khưu đạo trưởng ngươi đừng hiểu lầm.

Khưu Xử Cơ vừa đi vừa nói:

– Lầm à? Các ngươi là anh hùng hảo hán, sao lại hẹn quân Kim tới giúp đỡ?

Kha Trấn Ác nói:

– Bọn ta không có hẹn.

Khưu Xử Cơ nói:

– Ta chưa mù đâu!

Kha Trấn Ác bị mù, bình sinh rất ghét người nào mỉa mai y tật nguyền, bèn dằn thiết trượng một cái bước lên quát:

– Mù thì sao?

Khưu Xử Cơ không đáp, tay trái vung một cái, chát một chưởng đánh giữa đỉnh đầu một tên quân Kim. Tên ấy không kịp kêu một tiếng, óc bắn tung tóe chết ngay tại chỗ. Khưu Xử Cơ nói:

– Thì thế này này!

Rồi phất tay áo một cái đi thẳng xuống lầu. Đám quân Kim thấy đồng bạn bị chết quát tháo ầm lên, đã có mấy người nhấc mâu đâm vào hậu tâm Khưu Xử Cơ. Nhưng y không hề quay đầu, dường như sau lưng có mắt, vung tay nhất nhất phát lạc. Đám quân Kim đang định xông xuống, Hoàn Nhan Hồng Liệt vội bước ra cản lại rồi quay qua Kha Trấn Ác nói:

– Tên ác đạo ấy vô pháp vô thiên, mời các vị qua đây cùng uống một chén, bàn cách đối phó với y nên chăng?

Kha Trấn Ác nghe giọng y quát tháo quân sĩ biết y là người đứng đầu đám quân Kim, bèn quát:

– Con mẹ mày, tránh ra!

Hoàn Nhan Hồng Liệt sửng sốt, Hàn Bảo Câu nói:

– Đại ca của ta bảo ngươi tránh ra?

Rồi đưa vai phải huých vào sườn trái y một cái, Hoàn Nhan Hồng Liệt lảo đảo lui lại mấy bước. Giang Nam thất quái và hòa thượng Tiêu Mộc cả bọn kéo xuống lầu. Chu Thông đi sau cùng, lúc đi qua Hoàn Nhan Hồng Liệt lại giơ quạt đập vào vai y một cái, cười nói:

– Cô gái ngươi mang theo là mua được phải không? Bán cho ta nhé? Ha ha, ha ha…

Nói xong bước mau xuống lầu. Chu Thông trước đây tuy không biết lai lịch của Hoàn Nhan Hồng Liệt, nhưng lúc trong khách điếm thấy cung cách y đối xử với Bao Tích Nhược đã biết hai người không phải vợ chồng, lại nghe y khoe khoang giàu có bèn trộm cắp hết tiền bạc của y để trừng phạt qua loa. Lúc ấy đã biết y là kẻ đứng đầu quân Kim, nếu không lấy vàng bạc của y thì còn đạo lý gì nữa? Hoàn Nhan Hồng Liệt đưa tay vào bọc mò một cái, mấy đỉnh vàng bạc mang theo quả nhiên lại đều không cánh mà bay. Y nghĩ đám người này ai cũng y công kinh người, việc mời người béo lùn về làm Giáo đầu mã thuật cũng khỏi mở miệng, nếu để họ phát giác nàng Bao thị đang ở chỗ mình thì quả là đại học may mà vừa rồi việc Khưu Xử Cơ hiểu lầm Giang Nam thất quái chưa được giải thích rõ ràng, nếu không chạy mau thì ngay cái mạng mình cũng phải chôn vùi ở đây Lúc ấy vội vàng trở về khách điếm, đưa Bao Tích Nhược ngày đêm lên phía Bắc, trở về Yên Kinh, quốc đô nước Kim.

Vốn là hôm trước Khưu Xử Cơ giết được tên Hán gian Vương Đạo Càn, ở thôn Ngưu Gia kết giao với Quách Khiếu Thiên, Dương Thiết Tâm hai người lại giết sạch đám quân Kim và nha dịch đuổi bắt thích khách, trong lòng thỏa mãn, tới Hàng Châu xong mấy ngày liên tiếp đi du ngoạn phong cảnh Tây Hồ. Cát Lĩnh phía bắc Tây Hồ là nơi Cát Hồng thời Tấn luyện đan, là thắng địa của Đạo gia. Khưu Xử Cơ cứ buổi sáng đi dạo khắp nơi, buổi chiều về đạo quán Cát Lĩnh tu luyện nội công, nghiền ngẫm kinh tạnh. Hôm ấy đi qua phường Thanh Hà, chợt thấy mười mấy người quan binh thất thểu đi ngang, đao mẻ giáo rách, cung đứt thương gãy, rõ ràng là thua trận chạy về. Y ngạc nhiên nghĩ thầm:

– Hiện nay chưa đánh nhau với nước Kim, cũng không nghe nói quanh đây có trộm cướp nào làm loạn, không biết quan binh thua trận ở đâu?

Bèn hỏi dò dân quanh đó nhưng ai cũng ngơ ngác không biết. Y nảy lòng hiếu kỳ bèn đi theo, thấy đám quan quân ấy tiến vào doanh phòng chỉ huy sở doanh Oai Quả. Đến đêm y lần vào đó bắt được một tên lính, lôi ra một hẻm nhỏ tra vấn. Tên lính kia đang thiu thiu ngủ đột nhiên bị dao sắc kề vào cổ, đời nào dám giấu diếm chút gì, lập tức kể lại việc tróc nã hai người Quách Dương ở thôn Ngưu Gia. Khưu Xử Cơ không khỏi thầm kêu khổ, chỉ nghe tên lính kia nói: Quách Khiếu Thiên đã chết tại đương trường, Dương Thiết Tâm cũng bị trọng thương không biết chạy đi đâu, quá nửa là chết rồi, lại nói vợ Quách Dương hai người rốt lại bị bắt sống nhưng đi được nửa đường thì không biết tại sao lại có một toán quân mã xông ra đánh nhau lộn bậy một hồi, quan binh thua to. Khưu Xử Cơ nghe thấy vô cùng bi phẫn, lại nghĩ tên lính này vâng lệnh trên sai khiến, quả thật không thể làm chủ, lúc ấy cũng không nói gì tới y, chỉ hỏi:

– Thượng quan của ngươi là ai?

Tên lính ấy đáp:

– Chỉ huy đại nhân y… y họ Đoàn… tên là… tên là Thiên Đức.

Khưu Xử Cơ thả tên lính ấy, lần vào chỉ huy sở tìm Đoàn Thiên Đức, nhưng tìm khắp nơi không thấy. Sáng sớm hôm sau, trên cán cờ trước Chỉ huy sở có treo một cái đầu người làm hiệu lệnh thị chúng. Khưu Xử Cơ nhìn thấy phát hoảng, té ra chính là đầu của người bạn mới quen là Quách Khiếu Thiên, vừa thương xót vừa căm hờn, nghĩ thầm:

– Khưu Xử Cơ ơi Khưu Xử Cơ, hai người bạn này là dòng dõi trung nghĩa, có lòng tốt mời ngươi uống rượu, ngươi lại làm họ bị liên lụy tan nhà nát cửa. Nếu ngươi không báo thù rửa hận cho họ thì làm sao còn xứng đáng là nam tử hán đại trượng phu?

Nghĩ tới lúc sôi máu, vụt tay một cái, đánh vỡ đôi cái bệ đá dưới cột cờ trước chỉ huy sở. Đến nửa đêm y leo lên cột cờ gỡ cái đầu Quách Khiếu Thiên xuống, chạy ra cạnh Tây Hồ đào một hố chôn cất, cúi lạy vài lạy, bất giác ứa lệ, lầm rầm khấn:

– Hôm trước bần đạo nhận lời truyền thụ nghệ cho hậu duệ của hai vị, bần đạo bình sinh nói là làm, nếu không dạy dỗ được hậu nhân của hai vị thành nhân vật anh hùng thì ngày khác làm sao còn mặt mũi gặp hai vị dưới suối vàng.

Trong lòng tính toán, trước tiên phải tìm giết Đoàn Thiên Đức báo thù cho Quách Dương, sau đó sẽ đi cứu vợ hai người, thu xếp cho họ một nơi yên ổn, nếu trời thương sinh được hai đứa con mồ côi cha lúc còn trong bụng mẹ thì sẽ lưu được dòng dõi cho hai vị hảo hán. Y hai đêm liên tiếp lén xông vào chỉ huy doanh Oai Quả nhưng đều không tìm được Chỉ huy Đoàn Thiên Đức, nghĩ chắc tên này tham hưởng lạc không giữ quân kỷ, không ngủ trong doanh trại đồng cam cộng khổ với quân sĩ. Giờ Thìn hôm thứ ba y thẳng tới trước cổng doanh trại, cao giọng quát lớn:

– Đoàn Thiên Đức đâu, mau ra đây gặp ta.

Đoàn Thiên Đức vì việc cái đầu của Quách Khiếu Thiên bị mất cắp, đang tra vấn vợ Quách Khiếu Thiên là Lý Bình trong phòng, muốn nàng khai ra chồng mình có người bạn nào to gan coi thường phép nước, chợt nghe bên ngoài ồn ào, thò đầu qua cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy một đạo sĩ cao lớn oai phong lẫm liệt, hai tay túm hai tên lính đập ngang bổ dọc, đánh bọn quân sĩ kêu trời kêu đất. Đám Quân tá đua nhau quát:

– Phóng tên?

Nhưng trong lúc thảng thốt, đám quân sĩ kẻ tìm được cung thì không tìm ra tên, kẻ tìm được tên thì lại không biết cung ở đâu. Đoàn Thiên Đức cả giận, tuốt yêu đao xông thắng ra, quát lớn:

– Định làm phản à?

Rồi vung đao chém ngang hông Khưu Xử Cơ. Khưu Xử Cơ thấy là một viên võ quan bèn vứt tên lính trong tay đi, không né không đỡ, tay trái chụp một cái đã nắm cứng cổ tay y, quát lớn:

– Thằng cẩu tặc Đoàn Thiên Đức ở đâu?

Đoàn Thiên Đức cổ tay đau buốt, toàn thân nhũn ra, vội nói:

– Đạo gia muốn tìm Đoàn Thiên Đức đại nhân à? Y… y uống rượu trên thuyền ở Tây Hồ, cũng không biết hôm nay có về không.

Khưu Xử Cơ tưởng thật bèn buông tay ra. Đoàn Thiên Đức quay qua hai tên lính nói:

– Các ngươi mau dẫn vị đạo gia này tới ven hồ tìm Đoàn Chỉ huy.

Hai tên lính còn chưa hiểu, Đoàn Thiên Đức quát:

– Mau lên, mau lên, đừng để đạo gia nổi giận.

Hai tên lính lúc ấy mới hiểu ý quay người chạy ra ngoài. Khưu Xử Cơ cũng chạy ra theo. Đoàn Thiên Đức đời nào dám ở ại, vội dắt mấy tên lính, áp giải Lý Bình chạy mau qua chỉ huy sở doanh Hùng Tiết. Viên Chỉ huy sứ doanh này là bạn rượu thịt với y, vừa nghe kể chuyện, đang định điểm binh tróc nã tên ác đạo, đột nhiên ngoài doanh vang lên tiếng huyên náo, quân vào báo rằng có một đạo sĩ đánh vào, nghĩ rằng hai tên quân sĩ dẫn đường bị tra vấn không chịu nổi, đã nói ra nơi Đoàn Thiên Đức thường tới.

Đoàn Thiên Đức là con chim phải cung sợ cành cây cong, cũng không nhiều lời, mang tùy tùng và Lý Bình bỏ chạy, lần này là chạy qua chỉ huy sở doanh Toàn Tiệp ngoài thành. Doanh này địa thế chật hẹp Khưu Xử Cơ nhất thời tìm y không được. Đoàn Thiên Đức vừa hơi định thần, nghĩ tới việc đạo nhân nhân giữa đám ngàn vạn quân sĩ tả xông hữu đột, đúng là không lạnh mà run. Lúc bấy giờ cổ tay y bắt đầu đau buốt, càng lúc càng sưng vù lên, tìm tới thầy thuốc chữa trật đả trong doanh thì xương cổ tay đã bị gãy làm hai. Bó nẹp rịt thuốc xong, trong đêm không dám về nhà, cứ ở lỳ trong chỉ huy sở doanh Toàn Tiệp. Ngủ đến nửa đêm, ngoài doanh lại có tiếng la thét ồn ào, nói là tên lính canh trên đồi tự nhiên mất tích. Đoàn Thiên Đức hoảng sợ nhảy xuống giường, biết tên lính kia chắc đã bị đạo sĩ bắt đi tra vấn, bất kể là mình ở doanh trại nào y cũng có thể tìm tới, đánh thì không lại, chạy cũng không thoát, làm thế nào là tốt? Đạo sĩ ấy đã gặp mình rồi, chỉ vì riêng mình mà tìm tới, quan quân trong doanh tuy đông nhưng vị tất đã có thể bảo vệ mình yên ổn. Đang hoảng hốt chợt nhớ tới ông bác xuất gia ở chùa Vân Thê, võ công cao cường, không bằng tới đó nhờ vả, lại nghĩ đạo sĩ kia tìm tới làm khó mình, nhất định có liên quan tới vụ án Quách Khiếu Thiên, nếu đem Lý Bình theo, lúc nguy cấp có thể lấy nàng để uy hiếp, tên ác đạo kia sẽ không dám thản nhiên động thủ, lập tức ép Lý Bình cải trang thành quân sĩ, kéo nàng theo cứa sau doanh trại chạy ra, trong đêm lặn lội tìm tới chùa Vân Thê.

Bác y xuất gia đã lâu, pháp danh là Khô Mộc, là ưụ trì chùa Vân Thê, trước đây vốn là võ quan, về võ công là đệ tử chân truyền của phái Tiên Hà, một chi của phái Thiếu Lâm ở vùng giáp giới Mân Chiết. Y vốn không coi Đoàn Thiên Đức là người, không hề đi lại, lúc ấy thấy cháu nửa đêm hớt hải tìm tới, mười phần ngạc nhiên, liền lạnh lùng hỏi:

– Ngươi tới đây làm gì?

Đoàn Thiên Đức biết ông bác xưa nay vốn căm ghét quân Kim, nếu nói ra việc mình hội đồng với quân Kim tới bắt Quách Dương hai người chỉ sợ y giết mình ngay, vì vậy trên đường đã bịa sẵn một câu chuyện đầy đủ, vừa nhìn thấy ông bác thần sắc không hay vội quỳ xuống dập đầu, luôn miệng nói:

– Điệt nhi bị người ta khinh khi làm nhục, tới đây xin bá phụ làm chủ cho.

Khô Mộc nói:

– Ngươi là quan quân trong doanh không khinh khi làm nhục người ta thì người ta đã cảm tạ trời đất rồi, ai mà dám khinh khi làm nhục ngươi?

Đoàn Thiên Đức sắc mặt đầy vẻ thẹn thùng nói:

– Điệt nhi không cãi nhau mà là bị một tên ác đạo đuổi chạy khắp nơi không còn đường thoát. Xin bá phụ nể mặt người cha đã qua đời của cháu, cứu mạng diệt nhi.

Khô Mộc thấy y nói rất đáng thương, bèn hỏi:

– Đạo nhân ấy đuổi ngươi để làm gì?

Đoàn Thiên Đức biết càng nói về những điều bậy bạ của mình thì càng dễ được tin, bèn nói:

– Điệt nhi đáng chết, đáng chết. Hôm trước diệt nhi cùng mấy người bạn tới Nhà ngói phía tây cầu Thanh Lãnh chơi bời…

Khô Mộc khịt mũi hừ một tiếng, sắc mặt lập tức tỏ vẻ rất khó chịu. Nguyên thời Tống gọi kỹ viện là Nhà ngói hoặc Viên ngói, lấy ý câu “Tới thì ngói hợp, đi thì ngói vỡ” ý tứ là nói dễ hợp dễ tan. Đoàn Thiên Đức lại nói:

– Điệt nhi có quen một cô ở đó, hôm ấy đang ca hát bồi tiếp diệt nhi uống rượu, chợt có một đạo nhân tiến vào, nói cô ta là hay lắm, định mời cô ta ngồi cùng.

Khô Mộc tỏ không thích, nói:

– Nói bậy! Người xuất gia lại tới chỗ hạ lưu ấy à?

Đoàn Thiên Đức nói:

– Thật mà, điệt nhi lúc ấy cũng chọc ghẹo mấy câu, bảo y ra ngoài. Đạo nhân ấy rất hung dữ, lại chửi diệt nhi sắp tới sẽ bị đầu một nơi thân một nẻo, làm ầm lên ở đó.

Khô Mộc nói:

– Tại sao lại đầu một nơi thân một nẻo?

Đoàn Thiên Đức nói:

– Y nói quân Kim nay mai sẽ qua sông đánh xuống Nam, sẽ giết sạch quan quân Đại Tống chúng ta.

Khô Mộc đùng đùng nổi giận nói:

– Y nói thế à?

Đoàn Thiên Đức nói:

– Đúng thế. Cũng là tính tình điệt nhi không tốt, bèn cãi nhau với y, nói nếu quân Kim qua sông bọn ta sẽ liều mạng tử chiến, cũng chưa chắc đã thua.

Câu này quả rất hợp ý Khô Mộc, chỉ thấy ông ta gật đầu lia ha, cảm thấy thằng cháu mình tự lúc lọt lòng đến nay chỉ có câu này là giống con người nhất. Đoàn Thiên Đức thấy y gật đầu, trong bụng mừng thầm, nói:

– Hai người cãi nhau một lúc bèn đánh nhau, điệt nhi lại không phải là địch thủ của tên ác đạo ấy. Y cứ thế đuổi theo, diệt nhi không có nơi nào chạy trốn, chỉ còn tới đây cầu cứu bá phụ.

Khô Mộc nói:

– Ta là người xuất gia, không hơi đâu can thiệp vào chuyện ghen tuông của các ngươi.

Đoàn Thiên Đức nài nỉ:

– Chỉ xin bá phụ cứu mạng cho cháu, từ nay trở đi quyết không dám như thế nữa.

Khô Mộc nghĩ tới tình nghĩa anh em ngày trước, lại bực đạo nhân kia ăn nói hồ đồ, bèn nói:

– Được rồi, ngươi cứ ra nhà khách của chùa mà tránh mặt y vài hôm, nhưng không được làm bậy đấy.

Đoàn Thiên Đức luôn miệng vâng dạ. Khô Mộc thở dài nói:

– Một viên võ quan mà lại vô dụng như thế. Nếu quân Kim qua sông đánh tới thật, thì làm thế nào được? Ôi, nghĩ lại ta năm xưa…

Lý Bình bị Đoàn Thiên Đức khống chế uy hiếp, đứng cạnh nghe y bịa đặt như thế nhưng không dám hé miệng nói một câu. Giờ thân chiều hôm ấy, Tri khách tăng chạy vào bẩm với Khô Mộc:

– Phía ngoài có một đạo nhân kêu réo chửi mắng rất hung dữ, luôn miệng đòi Đoàn… Đoàn trưởng quan ra gặp y.

Khô Mộc gọi Đoàn Thiên Đức tới. Đoàn Thiên Đức hoảng sợ nói:

– Là y rồi, đúng là y rồi.

Khô Mộc nói:

– Đạo nhân kia hung dữ như thế, y thuộc môn phái nào vậy?

Đoàn Thiên Đức nói:

– Không biết là đạo sĩ từng ở đâu, cũng không thấy võ công của y có chỗ nào hay, chỉ bất quá cánh tay rất khỏe, điệt nhi vô dụng nên không chống được.

Khô Mộc nói:

– Được, ta ra gặp y.

Rồi lập tức ra đại điện. Khưu Xử Cơ đang định xông vào nội điện, viên Giám tự đang liều mạng cản lại nhưng cản không được. Khô Mộc ra tới bèn đẩy nhẹ vào tay Khưu Xử Cơ một cái, ngầm dụng nội lực, nghĩ sẽ đẩy được y ra, nào ngờ thấy như đẩy vào túi bông, thầm biết là không hay, đang muốn thu kình lực về thì đã không kịp, thân hình không tự chủ được đã bị hất bay ra bùng một tiếng, lưng đập vào cái bàn hương án, lách cách mấy tiếng, cái bàn hương án bị đập gãy một nửa hương đèn giá nến rơi tung tóe xuống đất. Khô Mộc cả kinh nghĩ thầm:

– Đạo nhân này võ công rất cao minh, đâu chỉ có cánh tay khỏe mà thôi?

Lúc ấy bèn chắp tay hỏi chuyện, nói:

– Đạo trưởng quang lâm tệ tự, có gì chỉ giáo?

Khưu Xử Cơ nói:

– Ta tới tìm một tên ác tặc họ Đoàn.

Khô Mộc biết mình quyết không phải là địch thủ của y, bèn nói:

– Người xuất gia ôm lòng từ bi, đạo trưởng cần gì phải suy nghĩ theo lối thế nhân như vậy?

Khưu Xử Cơ không đếm xỉa tới, sãi chân bước vào nội điện. Lúc ấy Đoàn Thiên Đức đã lôi Lý Bình trốn vào mật thất. Chùa Vân Thê hương hỏa cực thịnh, lại đang là mùa dâng hương, thiện nam tín nữ bốn Phương kéo tới nườm nượp. Khưu Xử Cơ không tiện lục soát, cười nhạt mấy tiếng lùi ra. Đoàn Thiên Đức từ chỗ trốn bò ra. Khô Mộc tức giận nói:

– Đây mà là đạo sĩ rừng à? Nếu không phải y thủ hạ lưu tình thì cái mạng già này của ta cũng đã không còn rồi.

Đoàn Thiên Đức nói:

– Chỉ e tên ác đạo ấy là tế tác của quân Kim phái tới do thám, nếu không thì sao cứ theo làm khó quan quân Đại Tống chúng ta?

Tri khách tăng quay vào bẩm, nói đạo nhân kia đã đi rồi. Khô Mộc nói:

– Y có nói gì không?

Tri khách tăng nói:

– Y nói nếu chùa ta không giao ra vị… vị… Đoàn trưởng quan này, thì y quyết không thôi.

Khô Mộc giận dữ nhìn Đoàn Thiên Đức một cái, nói:

– Ngươi nói chuyện không thật thà rõ ràng, ta cũng khó mà xét đoán. Chỉ là đạo nhân ấy võ công rất cao cường, nếu ngươi rơi vào tay y thì quả thật khó giữ được tính mạng.

Trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

– Ngươi không trốn ở đây được rồi. Sư đệ ta là Tiêu Mộc thiền sư công lực cao hơn ta nhiều, chỉ có y hoặc giả còn có thể đối địch được với đạo nhân kia, ngươi tới chỗ y trốn tránh vậy.

Đoàn Thiên Đức đời nào dám nói nửa chữ không, liền nhận lấy thư, luôn đêm thuê thuyền tới Gia Hưng, vào gặp Tiêu Mộc thiền sư trụ trì chùa Pháp Hoa. Tiêu Mộc làm sao biết người tùy tùng y dắt theo là đàn bà, được thư của sư huynh liền cho y ở lại nào ngờ Khưu Xử Cơ tra hỏi được tung tích liền đuổi tới nhìn thấy Lý Bình trong hậu viên, đang định xông vào lục soát thì Đoàn Thiên Đức đã kéo Lý Bình xuống mật thất dưới đất. Khưu Xử Cơ còn cho rằng Bao Tích Nhược cũng bị nhốt trong chùa, nhất định bắt Tiêu Mộc giao người ra. Y chính mắt nhìn thấy nên bất kể Tiêu Mộc giải thích thế nào cũng không tin. Hai người càng cãi càng căng, Khưu Xử Cơ thi triển võ công, Tiêu Mộc biết mình không phải là địch thủ, y vốn chơi thân với Giang Nam thất quái bèn mời Khưu Xử Cơ gặp nhau trên Túy Tiên lâu. Cái vạc đồng mà Khưu Xử Cơ bưng là lấy từ chùa Pháp Hoa. Đến khi đụng đầu với quân Kim trên Túy Tiên lâu, Khưu Xử Cơ hiểu lầm lại càng sâu.

***

Tiêu Mộc vốn không biết bao nhiêu về nội tình chuyện này, cùng Giang Nam thất quái ra khỏi tửu lâu về tới chùa Pháp Hoa bèn kể việc sư huynh Khô Mộc thiền sư gửi người tới, lại nói:

– Nghe nói: Toàn Chân thất tử võ công cao cường, đều học được chân truyền của Trùng Dương chân nhân ngày trước, trong đó Trường Xuân tử là kiệt xuất nhất, quả nhiên danh bất hư truyền. Người này tuy lỗ mãng nhưng xem ra cũng không phải là kẻ vô lý gây rối, lại không thù không oán với lão nạp, nhất định bên trong có chuyện hiểu lầm lớn.

Toàn Kim Phát nói:

– Xin đưa hai người lệnh sư huynh giới thiệu ra đây hỏi cho kỹ xem.

Tiêu Mộc nói:

– Không sai, tôi cũng chưa hỏi han gì họ.

Đang định sai người đi mời Đoàn Thiên Đức, Kha Trấn Ác nói:

– Gã Khưu Xử Cơ kia tính nết nóng nảy quá, cứ tới hung hăng đòi người, không coi nhân vật võ lâm Giang Nam ra gì. Phái Toàn Chân của họ xưng hùng ở phương Bắc, xuống phương Nam lại muốn hoành hành bá đạo như thế cũng chưa biết chừng. Muốn giải quyết vụ hiểu lầm này thì nói chuyện không xong, nhất định phải dựa vào võ công để quyết thắng phụ, nhưng chúng ta từng người một động thủ với y thì không ai chống nổi. Y nếu tốt thì không tới, tới thì không tốt…

Chu Thông nói:

– Chúng ta chờ y tới thì nhất tề xông lên?

Hàn Bảo Câu nói:

– Tám người đánh một à? E không phải là hảo hán.

Toàn Kim Phát nói:

– Không phải chúng ta muốn đánh giết y, chẳng qua chỉ muốn y bình tĩnh nghe Tiêu Mộc đại sư nói chuyện cho rõ ràng.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Nếu giang hồ đồn ra rằng Tiêu Mộc đại sư và Giang Nam thất quái lấy đông hiếp ít, há chẳng phải làm mất tiếng tăm của chúng ta sao?

Tám người đang bàn bạc chưa quyết chợt nghe trên đại điện vang lên một tiếng chuông lớn, như hai vật bằng đồng đập vào nhau, mọi người nghe một tràng ong ong vang rền không dứt. Kha Trấn Ác nhảy dựng lên kêu:

– Y tới rồi!

Tám người chạy ra đại điện, lại nghe một tiếng chuông nữa, còn kèm thêm cả tiếng kim khí vỡ nát chỉ thấy Khưu Xử cơ Cầm Cái vạc đồng đang đập mạnh vào cái chuông sắt treo trên điện, sau vài tiếng cái vạc đã thủng một lỗ. Đạo nhân kia râu tóc dựng ngược, mắt trợn tròn xoe, tức giận không sao dằn được. Giang Nam thất quái không biết Khưu Xử Cơ vốn cũng không phải là kẻ ngang tàng không biết đạo lý như thế, chỉ vì y đuổi theo Đoàn Thiên Đức liên tiếp mấy ngày không bắt được, lửa giận càng lúc càng tăng, lại đem lòng căm hận quân Kim vốn cộng dồn cả làm một. Thất quái lại cho rằng y cậy võ công cao cường khinh người bèn quyết ý đánh nhau một trận. Toàn Chân thất tử oai danh càng cao thì thất quái càng không chịu nhường nhịn, nếu Khưu Xử Cơ chỉ là một kẻ vô danh lại rất dễ nói chuyện.

Hàn Bảo Câu kêu lên:

– Thất muội, anh em ta lên trước.

Y là anh họ Hàn Tiểu Oanh, tính tình nóng nảy. Soạt một tiếng, ngọn Kim long tiên trong lưng đã rút ra trên tay, một chiêu Phong quyển vân tàn cuốn mau tới cổ tay phải cầm vò của Khưu Xử Cơ. Hàn Tiểu Oanh cũng tuốt trường kiếm phóng thẳng vào hậu tâm Khưu Xử Cơ. Khưu Xử Cơ trước sau thụ địch, tay phải xoay một cái, choang một tiếng, ngọn Kim long tiên đánh lên cái vạc, thân hình cũng đồng thời hơi nghiêng đi đã tránh qua mũi kiếm đâm vào hậu tâm.

Thời cổ Ngô Việt đánh nhau, Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật nghĩ cách diệt nước Ngô. Nhưng thủ hạ của Ngô vương có đại tướng Ngũ Tử Tư học được binh pháp của Tôn Tử, huấn luyện sĩ tốt vô cùng tinh nhuệ.

Câu Tiễn thấy quân mình võ nghệ không bằng đối phương, phiền muộn không vui. Một hôm chợt có một thiếu nữ xinh đẹp tới nước Việt, kiếm thuật vô cùng tinh diệu. Câu Tiễn cả mừng, mời nàng về dạy kiếm pháp cho quân Việt, cuối cùng dùng đó diệt nước Ngô. Gia Hưng là nơi giáp giới Ngô Việt ngày trước, hai nước đánh nhau đều lấy đó làm chiến trường, bộ Việt nữ kiếm pháp này cũng từ đó lưu truyền ra thiên hạ. Chỉ là kiếm pháp mà cô gái dạy cho quân Việt ngày trước nhằm quyết thắng trên chiến trường nên chỉ chú trọng vào việc chém tướng đâm ngựa, chứ dùng để giao đấu với danh gia võ thuật trên giang hồ thì không đủ phần linh động mau lẹ.

Đến cuối thời Đường, ở Gia Hưng xuất hiện một danh gia kiếm thuật, y dựa vào yếu chỉ của kiếm pháp thời cổ mà đổi mới, trong chỗ lợi hại lại ẩn giấu thêm nhiều biến hóa phức tạp. Hàn Tiểu Oanh theo sư phụ học được lộ kiếm pháp ấy, tuy chưa thật tinh thông nhưng kiếm chiêu cũng đã bất phàm, cái ngoại hiệu Việt nữ kiếm của nàng là nhờ kiếm pháp mà được.

Vừa qua mấy chiêu, Khưu Xử Cơ thấy kiếm pháp của nàng ảo diệu, lập tức lấy nhanh đánh nhanh. Kiếm pháp của nàng nhanh, Khưu Xử Cơ ra tay càng nhanh, tay trái cầm vạc đồng đón đỡ ngọn Kim long tiên của Hàn Bảo câu. Chưởng phải đánh nhanh, lúc chém lúc chụp, toan đoạt thanh trường kiếm trong tay Hàn Tiểu Oanh. Trong chớp mắt Hàn Tiểu Oanh đã gặp nguy hiểm, bị bức lùi tới cạnh tượng Phật.

Nam Sơn tiều rử Nam Hy Nhân và Tiếu Di Đà Trương A Sinh một người cầm đòn gánh bằng gang, một người vung tiêm đao giết trâu xông lên giáp công. Nam Hy Nhân không nói câu nào, một chiếc đòn gánh rít gió vù vù. Trương A Sinh thì luôn miệng quát tháo nói toàn khẩu âm Giang Nam, Khưu Xử Cơ không hiểu y nói gì nên mặc kệ không thèm đếm xỉa tới.

Giữa lúc đánh nhau đang hăng, Khưu Xử Cơ đột nhiên chưởng trái vỗ ra đánh vào mặt Trương A Sinh. Trương A Sinh ngửa người về phía sau tránh, nào ngờ đó đó chỉ là hư chiêu, chân phải Khưu Xử Cơ đột nhiên phóng lên, Trương A Sinh cổ tay tê dại, ngọn tiêm đao rời khỏi tay bay ra.

Nhưng công phu quyền thuật của y còn cao hơn công phu binh khí, ngọn đao khỏi tay hoàn toàn không để ý, chân trái hơi khuỵu xuống, chưởng phải phất qua, vù một tiếng, quyền trái đẩy mạnh ra, kình lực hùng hậu, thế công mau lẹ. Khưu Xử Cơ khen:

– Hay lắm!

Rồi nghiêng người tránh qua, liên tiếp kêu:

– Đáng tiếc, đáng tiếc!

Trương A Sinh hỏi:

– Đáng tiếc cái gì?

Khưu Xử Cơ nói:

– Đáng tiếc là ngươi một thân công phu lại cam tâm trụy lạc, đã vào hùa với tên ác tăng lại đi làm chó săn cho quân Kim.

Trương A Sinh cả giận quát:

– Thằng đạo sĩ giặc cướp ở rừng không biết lý lẽ, ngươi mới là chó săn của quân Kim?

Rồi vù vù vù liên tiếp đánh ra ba quyền. Khưu Xử Cơ thân hình co lại phía sau, cái vạc đồng chênh chếch hạ xuống, choang choang hai tiếng, Trương A Sinh hai quyền liên tiếp đánh trúng vào vò. Chu Thông thấy bên mình bốn người liên thủ mà vẫn ở thế hạ phong, nhìn Toàn Kim Phát vẫy tay một cái, hai người từ hai bên xông vào giáp kích. Toàn Kim Phát sử một chiếc cân lớn, đòn cân đánh theo bổng pháp, móc cân bay ra có thể móc vào người như phi trảo, quả cân thì như một quả chùy, một món binh khí mà có ba tính năng. Chu Thông giỏi thuật điểm huyệt, chiếc quạt giấy rách lem luốc nan làm bằng thép cứng, lấy quạt điểm huyệt, trong bóng binh khí của mọi người bay lượn tìm điểm vào huyệt đạo đối phương. Chiếc vạc đồng của Khưu Xử Cơ xoay tròn đỡ gạt như một chiếc thuẫn bài che đỡ phía trước, binh khí của mọi người làm sao đánh qua được? Tay trái y thì bắt chụp đánh chém, thừa sơ hở phản kích. Y cầm chiếc vạc đồng nặng nề, thân pháp tuy khó linh động nhưng dễ lấy ít chống nhiều, nhờ vậy có thể đón đỡ tết cả chiêu thức của đối phương đánh tới, mà còn chiếm ưu thế Tiêu Mộc thấy mọi người càng đánh càng hăng, nghĩ thầm nếu để thêm một lúc, đôi bên ắt có kẻ bị thương, vội gọi lớn:

– Xin các vị dừng tay nghe ta nói một câu.

Nhưng mọi người đánh nhau đến lúc hăng máu, làm sao có thể dừng tay? Khưu Xử Cơ quát:

– Quân hạ lưu, ai thèm nghe ngươi nói bậy? Xem đây?

Đột nhiên tay trái quyền thoắt chưởng biến hóa khôn lường, liên tiếp ra sát thủ, giữa lúc giao đấu chém mạnh một chưởng xuống vai Trương A Sinh, chiêu Thiên ngoại phi vân này ra đòn kỳ lạ, mau lẹ dị thường, mắt thấy Trương A Sinh đã không còn cách né tránh. Tiêu Mộc quát lớn:

– Đạo trưởng khoan hạ sát thủ!

Khưu Xử Cơ giao đấu với sáu người, đối phương ai cũng võ công cao cường, quả thật đã thấy mỏi mệt, đánh lâu chỉ sợ chi trì không được, vả lại đối phương còn có hai người đứng ngoài nhìn chằm chằm, có thể xông vào bất cứ lúc nào, lúc ấy chỉ e mình phải mất mạng trong ngôi chùa cổ ở Giang Nam này, hiện chỉ còn cách nắm lấy sơ hở của đối phương, há lại dung tình, một chưởng ấy đã dùng đủ mười thành công lực.

Trương A Sinh toàn thân đã luyện thành công phu Thiết bố sam, bình nhật trong lò mổ thường cởi trần húc nhau với trâu bò làm vui, toàn thân vừa cứng vừa như có một lớp da trâu phủ lên. Y biết chưởng này đối phương chém xuống không phải tầm thường, nhưng không còn tránh kịp, liền vận khí ra vai quát một tiếng:

– Giỏi!

Thẳng thắn đón tiếp một chưởng, chỉ nghe chát một tiếng, xương vai đã bị một chưởng mang nội công thượng thừa của phái Toàn Chân đánh gãy. Chu Thông nhìn thấy cả kinh, chiếc quạt thép đâm ra điểm mau vào huyệt Toàn cơ của Khưu Xừ Cơ, chiêu này chuyên chặn đối phương tấn công, sợ ngũ đệ bị thương sẽ bị địch nhân tiếp tục truy kích. Khưu Xử Cơ đả thương được một người, tinh thần phấn chấn, trong bóng binh khí đơn chưởng lại như thiết trảo liên tiếp đánh ra. Toàn Kim Phát “ái chà” một tiếng, quả cân đã bị nắm giữ. Khưu Xử Cơ dùng lực giật mạnh, Toàn Kim Phát khí lực kém hơn bị y kéo lên hai thước. Khưu Xử Cơ nghiêng cái vạc đồng đẩy ra trước mặt Nam Hy Nhân và Chu Thông, chưởng trái ào một tiếng đập thẳng xuống đỉnh đầu Toàn Kim Phát. Hàn Bảo Câu và Hàn Tiểu Oanh cả kinh, song song vọt tới, hai món binh khí đánh mau xuống đầu Khưu Xử Cơ. Khưu Xử Cơ đành nghiêng người tránh qua. Toàn Kim Phát thừa cơ lui ra, thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, sợ toát mồ hôi lạnh, nhưng hông đã bị trúng một cước đau thấu xương, lăn dưới đất không sao đứng lên được.

Tiêu Mộc vốn không muốn xuất thủ chỉ muốn tìm cách nói rõ cho Khưu Xử Cơ khỏi hiểu lầm, nhưng trước mắt nhìn thấy bạn bè mình mời tới giúp nối nhau bị thương, mà mình là chủ nhân thì không thể không xông vào, lúc ấy phất tay áo một cái, nhấc đoạn ô mộc cháy sém điểm vào dưới nách Khưu Xử Cơ. Cơ Khưu Xử Cơ nghĩ thầm:

– Té ra lão hòa thượng này cũng có chút tài năng, ra tay quả không tầm thường.

Liền ngưng thần đối phó. Kha Trấn Ác nghe thấy ngũ đệ, lục đệ bị thương không nhẹ, nhấc thiết trượng lên định xông vào. Toàn Kim Phát kêu lên:

– Đại ca, phóng thiết lăng đi! Đánh vào phương Tấn rồi đánh vào phương vị Tiểu quá!

Tiếng kêu chưa dứt, vù vù hai tiếng, hai ngọn ám khí một trước một sau bắn vào mi tâm và đùi phải Khưu Xử Cơ. Khưu Xử Cơ cả kinh, nghĩ thầm:

– Người mù này cũng biết thi triển ám khí mà nhận phương vị chuẩn xác như thế, đúng là ít nghe ít thấy, tuy có người đứng cạnh chỉ điểm phương vị của sáu mươi bốn quẻ Phục Hy, nhưng nhận cho rõ cũng rất không dễ.

Lúc ấy bèn nghiêng cái vạc đồng, keng keng hai tiếng, hai ngọn thiết lăng đều rơi vào lòng vò. Loại thiết lăng này là ám khí độc môn của Kha Trấn Ác, bốn phía có góc như củ ấu, nhưng chỗ góc sắc nhọn không giống củ ấu ở Nam Hồ quê cũ của y, đó là tuyệt kỹ y luyện thành lúc chưa bị mù, ám khí đã trì trọng, thủ pháp lại chuẩn xác. Khưu Xử Cơ đón được hai ngọn thiết lăng, thấy cái vạc đồng rung lên một cái, nghĩ thầm:

– Thủ kình của người mù này mạnh thật!

Lúc ấy anh em họ Hàn, Chu Thông, Nam Hy Nhân đều đã tránh qua một bên. Toàn Kim Phát không ngừng kêu:

– Đánh vào phương vị Trung phu, đánh vào phương vị Ly… Được, bây giờ tên đạo sĩ đang bước tới phương vị Minh di…

Y cứ thế gọi tên phương vị, vốn đã cùng Kha Trấn Ác luyện hơn mười năm rất thuần thục, lấy mắt mình làm mắt cho nghĩa huynh, trong sáu anh em chỉ có y là có khả năng như thế. Kha Trấn Ác chợt động tâm tự nhủ:

– Y nghe tiếng hô hoán của lục đệ thì đã đề phòng, tự nhiên không đánh trúng y được.

Lúc ấy Toàn Kim Phát giọng nói càng lúc càng yếu, trong tiếng kêu không kìm được tiếng rên, chắc là vết thương quá nặng, mà Trương A Sinh thì không kêu một tiếng, không biết sống chết ra sao. Chỉ nghe Toàn Kim Phát nói:

– Đánh… đánh… đánh vào phương vị… Đồng nhân.

Kha Trấn Ác lúc ấy quyết ý không theo lời y, giương thẳng hai tay, bốn ngọn thiết lăng nhất tề bắn tới, hai ngọn chia ra đánh vào hai phương vị Tiết và Tổn bên phải phương vị Đồng nhân, hai ngọn còn lại chia ra đánh vào hai phương vị Phong và Ly bên trái.

Khưu Xử Cơ sải chân bước qua bên phải một bước, rời khỏi phương vị Đồng nhân, không ngờ Kha Trấn Ác lại đột nhiên dùng kế, chỉ nghe hai người cùng bật tiếng la hoảng. Khưu Xử Cơ vai phải trúng một ngọn thiết lăng, ngoài ra một ngọn thiết lăng đánh vào phương vị Tổn thì trúng ngay bối tâm Hàn Tiểu Oanh. Kha Trấn Ác vừa sợ vừa mừng, gọi lớn:

– Thất muội, lại đây mau!

Hàn Tiểu Oanh biết trên ám khí của đại ca có tẩm chất kịch độc, lợi hại vô cùng, vội chạy tới cạnh y. Kha Trấn Ác mò trong túi lấy ra một viên thuốc màu vàng, nhét vào miệng nàng nói:

– Ra nằm trên bãi bùn hậu viện, không được động đậy, đợi ta tới trị thương cho cô.

Hàn Tiểu Oanh sãi chân chạy đi, Kha Trấn Ac gọi theo:

– Đừng chạy, đừng chạy! Đi thong thả thôi!

Hàn Tiểu Oanh lập tức hiểu ý, thầm mắng mình ngu xuẩn, trúng độc xong lại dùng lực chạy mau, khí huyết vận hành càng nhanh, đưa chất độc vào tim thì lập tức hết cứu, lúc ấy thong thả bước đi, sần ra hậu viện.

Khưu Xử Cơ trúng một ngọn thiết lăng cũng không thấy đau lắm, lúc ấy cũng không để ý, lại giao đấu với bọn Chu Thông, Tiêu Mộc, đang đánh nhau chợt nghĩ Kha Trấn Ác liên tiếp kêu mấy tiếng „Đừng chạy!” chợt động tâm niệm, chỉ thấy chỗ vết thương dần dần tê rần, bất giác cả kinh, biết trên ám khí có chất độc trong lòng lạnh buốt, không dám ham đánh, lập tức vận kình xuất quyền đánh thẳng vào giữa mặt Nam Hy Nhân.

Nam Hy Nhân thấy đòn tới mãnh liệt, lập tức xuống tấn, chiếc đòn gánh quét ngang ra chiêu Thiết tỏa trường giang gạt qua trước mặt. Khưu Xử Cơ không thu quyền mà quát lớn nhả kình, chát một tiếng đánh luôn vào giữa chiếc đòn gánh. Nam Hy Nhân toàn thân chấn động, hổ khẩu hai tay rách toạc, máu tươi phun ra, xoảng một tiếng, chiếc đòn gánh rơi xuống đất. Khưu Xử Cơ lúc nguy cấp liều mạng, một quyền ấy dùng hết sức toàn thân, Nam Hy Nhân lập tức bị nội thương, cước bộ loạng choạng, mắt nổ đom đóm, nghe cổ họng ngòn ngọt, ọe một tiếng phun ra một búng máu tươi.

Khưu Xử Cơ tuy đả thương thêm được một người nhưng đầu vai càng lúc càng tê, cầm cái vạc đồng thấy rất nặng nề, quát lớn một tiếng, chân trái quét ngang một cái. Hàn Bảo Câu nhảy lên tránh khỏi, Khưu Xử Cơ quát:

– Chạy đi đâu?

Tay phải vung ra, cái vạc đồng từ trên không chụp xuống. Hàn Bảo Câu thân hình đang trên không không sao dùng lực, chỉ kịp lật đi nửa vòng, cái vạc lớn đã úp xuống đỉnh đầu, y sợ bị thương lập tức hai tay ôm đầu, co người thành một khối tròn, bình một tiếng lớn, cái vạc đã đánh trúng người y.

Khưu Xử Cơ buông cái vạc ra tuốt kiếm điểm chân nhảy vọt lên, chặt đứt sợi dây treo cái chuông, tay trái đẩy tới, cái chuông sắt nặng hơn ngàn cân ấy rơi xuống kêu một tiếng vang rền chụp lên cái vạc Hàn Bảo Câu dù có khỏe hơn cũng không thể hất ra được. Khưu Xử Cơ hai đòn ấy dùng lực quá nhiều, chỉ cảm thấy tay chân mềm nhũn, mồ hôi trên trán như hạt đậu nhỏ xuống. Kha Trấn Ác kêu lên:

– Mau buông kiếm đầu hàng, nếu chậm thêm một khắc thì mạng ngươi khó giữ đấy.

Khưu Xử Cơ nghĩ thầm:

– Tên ác tăng này câu kết với quân Kim, giấu phụ nữ trong chùa, hành vi rất gian ác, Giang Nam thất quái đã cùng bọn với y thì danh tiếng hiệp nghĩa đồn đại trên giang hồ ắt cũng không đúng, Khưu mỗ thà mất mạng chứ há lại cam tâm quị lụy bọn gian tà?

Lúc ấy lập tức huy động trường kiếm xông ra ngoài. Trong Giang Nam thất quái chỉ còn hai người Kha Trấn Ác, Chu Thông không bị thương, số còn lại sống chết chưa biết, lúc ấy làm sao để y thoát ra khỏi chùa được? Kha Trấn Ác vung thiết trượng lên chặn ngay giữa cửa. Khưu Xử Cơ cướp đường xông ra, trường kiếm rút gió đâm thẳng vào giữa mặt Kha Trấn Ác. Phi thiên biển bức Kha Trấn Ác nghe tiếng xét hình, vung trượng gạt ra. Keng một tiếng, Khưu Xử Cơ tay cầm kiếm không vững, bất giác cả kinh nghĩ thầm:

– Người mù này nội công thâm hậu như thế, chẳng lẽ công lực lại hơn cả mình?

Rồi phóng tiếp một kiếm, lại bị thiết trượng của đối phương gạt ra, lúc ấy mới phát giác là vai phải mình bị thương mất sức chứ không phải đối phương lợi hại, nhưng kình lực của mình không vận lên được, lập tức đổi kiếm qua tay trái, dùng một đường Đồng qui kiếm pháp từ lúc luyện thành chưa bao giờ đem ra đối phó với địch nhân, kiếm quang chớp lên, chiêu nào cũng đâm vào chỗ yếu hại trên người Kha Trấn Ác, Chu Thông, Tiêu Mộc, hoàn toàn không hề phòng thủ, cứ lăn xả vào tấn công.

Đường Đồng quy kiếm pháp lấy ý từ câu Đồng qui tận, nếu địch nhân lợi hại, tính mệnh mình bị nguy cấp không còn cách nào khác thì chỉ đành dùng đường kiếm pháp này để liều mạng, chiêu nào cũng tấn công ráo riết vào chỗ yếu hại của địch nhân, chiêu nào cũng ác nhát nào cũng độc, đơn thuần là lối đánh vứt bỏ tính mạng của mình.Tuy là kiếm thuật thượng thặng nhưng rốt lại cũng giống thủ đoạn của bọn lưu manh mặt dày.

Nguyên là phái Toàn Chân có kẻ đối đầu ngụ ở Tây Vực, là người tàn độc, võ công cao thâm khôn lường, hơn hẳn Toàn Chân thất tử. Năm xưa chỉ có sư phụ của họ mới có thể chế phục được y, bây giờ sư phụ đã tạ thế, nếu một sớm y trở lại Trung nguyên, chỉ sợ cả phái Toàn Chân sẽ bị tiêu diệt.

Phái Toàn Chân có một trận pháp Thiên cang Bắc đẩu có thể cự địch nhưng phải đủ cả bảy người cùng bày trận, nếu lúc bất ngờ tình cờ gặp phải y thì chưa chắc đã đủ mặt bảy người. Đường Đồng quy kiếm pháp này cũng là có ý đối phó với y, có thể một mình sử dụng, chỉ cần hy sinh một hai người cùng chết với y thì có thể bảo toàn tất cả đồng môn. Khưu Xử Cơ lúc ấy trúng phải chất kịch độc, lại bị ba cao thủ chặn lại, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, đành sử dụng loại võ công không muốn sử dụng ấy. Qua mười chiêu, Kha Trấn Ác trên đùi trúng kiếm. Tiêu Mộc gọi lớn:

– Kha đại ca, Tiêu nhị đệ, để đạo nhân này đi thôi!

Đúng lúc y sơ ý ấy, Khưu Xử Cơ đã đâm trúng sườn phải của y. Tiêu Mộc la hoảng ngã lăn ra đất. Lúc ấy Khưu Xử Cơ đã lảo đảo sắp ngã, đứng không vững nữa. Chu Thông hai mắt đỏ ngầu, chửi mắng ầm lên, chạy quanh y tìm cách tấn công. Lại đánh nhau vài hiệp, Kha Trấn Ác rốt lại không nhìn thấy đường, bị Khưu Xử Cơ dương đông kích tây hư hư thực thực, roạt roạt roạt đâm trúng liên tiếp bảy tám kiếm, y không thể nhìn thấy chiêu thức, đùi phải lại trúng một kiếm, ngã sấp xuống đất. Chu Thông mắng lớn:

– Thằng đạo sĩ chó chết, thằng đạo sĩ giặc cướp, chất độc trong người ngươi đã tới tim rồi đấy! Ngươi cứ đâm ba kiếm nữa xem.

Khưu Xử Cơ râu tóc dựng ngược, hai mắt trợn lên, tay trái cầm kiếm, lảo đảo đuổi theo. Chu Thông sở trường về khinh công, cứ chạy như bay quanh tượng Phật trên đại điện. Khưu Xử Cơ biết mình chi trì không nổi, thở dài một tiếng, dừng lại không đuổi nữa. Chỉ thấy trước mắt mờ mờ, cố định thần muốn tìm đường ra, đột nhiên chát một tiếng, hậu tâm một vật đánh trúng, té ra là Chu Thông cởi chiếc hài vải dưới chân ném tới, chiếc hài tuy nhẹ nhưng cũng mang nội kình khá mạnh.

Khưu Xử Cơ xiêu đi một cái, chỉ thấy một màn sương mù mờ mịt dâng lên trong óc, người cứ mê đang cố trấn tĩnh thì chợt thấy đau buốt, trên đầu bị một vật gõ mạnh, lần này là Chu Thông vớ một cái dùi gõ mõ trên Phật điện ném tới. May là Khưu Xử Cơ nội công thâm hậu, chứ nếu là người thường thì mất mạng rồi, nhưng cũng thấy trước mặt tối sầm lại. Y cất tiếng kêu lên:

– Thôi thôi! Trường Xuân tử hôm nay chết trong tay lũ vô sỉ các ngươi rồi!

Đột nhiên hai chân nhũn ra, chống kiếm xuống đất. Chu Thông sợ y ngã xuống lại nhảy vọt lên, bèn nắm quạt cúi xuống điểm vào huyệt đạo của y, đột nhiên thấy tay trái y rung một cái, biết ngay là không hay, vội đưa tay phải lên đỡ trước ngực thì bụng dưới đã như bị một thanh đại đao đẩy vào, lập tức bắn tung ra phía sau, người chưa rơi tới đất miệng đã phun máu tươi. Khưu Xử Cơ lúc tối hậu đã ngưng tụ hết công lực bình sinh, tuy thân hình đã không thể cử động nhưng một chưởng ấy đem hết nội kình còn lại trong cơ thể đánh ra, quả thật không tầm thường, Chu Thông làm sao chịu nổi?

Chúng tăng chùa Pháp Hoa đều không biết võ nghệ, cũng không biết phương trượng thân mang tuyệt nghệ, đột nhiên thấy trong đại điện đánh nhau long trời chuyển đất đã xúm vào một chỗ ẩn núp. Hồi lâu nghe trên điện yên ắng, mấy chú tiểu sa di đánh bạo thò đầu vào nhìn, chỉ thấy trên mặt đất xác người ngổn ngang, trong đại điện máu tươi vương vãi, qua cơn hoảng sợ liền kêu gào ầm ĩ, ba chân bốn cẳng chạy tìm Đoàn Thiên Đức.

Đoàn Thiên Đức vẫn núp trong mật thất dưới đất nghe chúng tăng nói đôi bên đánh nhau đều tử thương quả thật vui mừng khôn xiết, còn sợ Khưu Xử Cơ không có trong đó, bèn sai chú tiểu sa di lên xem cho rõ vị đạo sĩ kia đã chết chưa, khi chú tiểu sa đi quay lại nói là đạo sĩ đã nhắm mắt nằm im mới yên tâm, kéo Lý Bình lên đại điện.

Y đứng cạnh Khưu Xử Cơ vung chân đá một cước Khưu Xử Cơ thở thoi thóp, vẫn chưa đứt hơi. Đoàn Thiên Đức rút yêu đao ra quát:

– Thằng đạo sĩ giặc cướp nhà ngươi đuổi ta khốn khổ lắm, hôm nay lão tử sẽ đưa ngươi qua Tây phương!

Tiêu Mộc bị trọng thương, thấy Đoàn Thiên Đức muốn hành hung giết người, đè khí kêu lên:

– Không!… Không được hại y!

Đoàn Thiên Đức nói:

– Tại sao?

Tiêu Mộc nói:

– Y là người tốt chỉ là nóng.., nóng tính nên xảy chuyện hiểu lầm…

Đoàn Thiên Đức nói:

– Người tốt cái gì? Cứ chém xong sẽ nói.

Tiêu Mộc tức giận nói:

– Ngươi có nghe ta nói không? Buông đao xuống!

Đoàn Thiên Đức hô hố cười rộ quát:

– Muốn ta buông đao xuống à? Ha ha! Để lập tức thành Phật sao?

Rồi nhấc yêu đao lên chém thẳng xuống đầu Khưu Xử Cơ. Tiêu Mộc nổi giận, đem hết sức bình sinh phóng thẳng đoạn ô mộc cháy sém vào Đoàn Thiên Đức. Đoàn Thiên Đức vội né tránh, nhưng võ công chênh nhau quá xa không tránh được, bị đoạn ô mộc đánh trúng giữa mặt, lập tức gãy luôn ba cái răng cửa. Đoàn Thiên Đức đau quá nổi khùng, cũng bất kể Tiêu Mộc có ơn với mình, giơ đao sấn lên chém vào đầu y. Chú tiểu sa di đứng cạnh liều mạng giữ tay y lại, một người khác sấn vào níu áo y. Đoàn Thiên Đức tức giận quay đao chém hai người ngã lăn ra đất.

Khưu Xử Cơ, Tiêu Mộc, Giang Nam thất quái tuy võ công cao cường nhưng lúc ấy ai cũng bị trọng thương chỉ còn cách giơ mắt nhìn y hành hung. Lý Bình kêu lớn:

– Ác tặc, dừng tay mau?

Nàng bị Đoàn Thiên Đức bắt ép chạy trốn khắp nơi, vốn muốn chờ thời cơ giết y trả thù cho chồng, lúc ấy thấy máu tươi đầy đất mà tên ác tặc lại định giết người, càng không nhịn nổi, liền nhảy xổ tới liều mạng cào cấu y.

Mọi người thấy nàng mặc quần áo quân sĩ, chỉ cho là thuộc hạ của Đoàn Thiên Đức, nhưng tại sao lại xoay ra liều mạng cản trở y giết người? Tất cả đều cảm thấy kinh ngạc.

Kha Trấn Ác mắt mù nên tai đặc biệt thính, vừa nghe tiếng nàng kêu lên, biết ngay là phụ nữ, thở dài nói:

– Tiêu Mộc hòa thượng, bọn ta đều bị ngươi hại chết rồi. Chùa của ngươi quả thật có giấu diếm phụ nữ!

Tiêu Mộc sửng sốt nhưng lập tức hiểu ngay, nghĩ mình nhất thời không xét kỹ để thằng súc sinh kia gây ra đại họa, thành ra vô ý bán đứng bạn tốt, vừa tức giận vừa đau lòng, đập xuống đất một chưởng vọt người lên, vung hai tay ra vồ Đoàn Thiên Đức. Đoàn Thiên Đức thấy y hung dữ, cả kinh né tránh. Tiêu Mộc bị trọng thương nên thân pháp không được linh hoạt, húc luôn vào cái cột lớn bên kia đại điện, xương sọ vỡ toang óc bắn tung tóe, chết ngay lập tức.

Đoàn Thiên Đức hoảng sợ hồn bất phụ thể, đời nào dám ở lại, kéo Lý Bình bỏ chạy ra ngoài. Lý Bình kêu lớn:

– Cứu mạng, ta không đi, cứu mạng!

Nhưng âm thanh càng lúc càng xa.

Hồi 03: Gió cát sa mạc

Các sư trong chùa thấy Tiêu Mộc viên tịch đều đau thương khóc lóc. Có người băng bó giúp vết thương cho những người bị thương, dìu vào khách xá.

Chợt nghe trong cái vạc đồng dưới cái chuông có tiếng leng keng không dứt, không biết bên trong là quái vật gì các sư ngẩn mặt nhìn nhau, tay chân luống cuống, lúc ấy đồng thanh tụng Cao vương kinh, nào ngờ trong tiếng Cứu khổ cứu nạn, A di đà Phật, cái vạc vẫn không ngừng Khua vang, sau cùng có mười mấy người to gan xúm lại hợp lực dùng dây kéo cái chuông lớn lên, vừa mới mở hé cái vạc đồng, bên trong đã có một khối thịt tròn lăn ra, các sư cả kinh chạy tứ tán. Chỉ thấy khối thịt tròn ấy nhảy phắt dậy thở ồ ồ, chính là Hàn Bảo Câu.

Y bị nhốt trong chảo, không biết đoạn cuối của trận đánh, thấy Tiêu Mộc viên tịch, nghĩa huynh nghĩa đệ ai cũng bị trọng thương, lo lắng quát ầm lên, cầm Kim long tiên định tới đập xuống Khưu Xử Cơ.

Toàn Kim Phát gọi:

– Tam ca, không được!

Hàn Bảo Câu tức giận nói:

– Tại sao?

Toàn Kim Phát hông đau nhói lên, chỉ nói:

– Ngàn… ngàn vạn lần không được.

Kha Trấn ác hai chân trúng kiếm, bị thương không nhẹ nhưng thần trí vẫn còn sáng suốt, mò trong bọc lấy thuốc giải độc ra, bảo các sư chia ra cho Khưu Xử Cơ và Hàn Tiểu Oanh uống, một mặt đem việc đã qua kể lại cho Hàn Bảo Câu. Hàn Bảo Câu cả giận, xoay người phóng ra, muốn đuổi theo giết Đoàn Thiên Đức.

Kha Trấn ác quát ngăn lại, nói:

– Thằng ác tặc ấy thong thả sẽ tìm cũng không muộn, ngươi mau cứu chữa cho các huynh đệ bị nội thương.

Chu Thông và Nam Hy Nhân bị nội thương rất nặng. Toàn Kim Phát bị trúng một cước vào hông cũng không nhẹ. Trương A Sinh xương vai gãy nát. Trước ngực bị thương, nhất thời ngất đi nhưng khi tỉnh lại cũng không đáng ngại lắm. Lúc ấy mọi người ở lại dưỡng thương trong chùa.

Giám tự chùa Pháp Hoa sai người tới chùa Vân Thê ở Hàng Châu báo tin cho Khô Mộc thiền sư, một mặt sắp xếp hậu sự cho Tiêu Mộc thiền sư.

Qua vài hôm Khưu Xử Cơ và Hàn Tiểu Oanh đã giải hết chất độc trong người. Khưu Xử Cơ hơi biết y đạo viết phương thuốc cho bọn Chu Thông điều trị, lại dạy cho từng người cách xoa bóp riêng. May là mọi người đều có căn bản võ công, nội thương ngoại thương đều dần dần giảm hẳn, qua vài ngày sau đều có thể ngồi đứng đi lại. Hôm ấy tám người hội họp trong một gian tăng phòng, nghĩ lại chuyện bị gian nhân chia rẽ làm bấy nhiêu bậc đại hành gia trên giang hồ đánh lầm giết lầm lẫn nhau, đến nỗi ai cũng bị trọng thương, lại phải bù thêm một mạng Tiêu Mộc thiền sư, tất cả đều rầu rĩ không nói gì.

Qua một lúc Hàn Tiểu Oanh lên tiếng trước:

– Tiếng tăm anh hùng của Khưu đạo trưởng thiên hạ đều biết, bảy anh em chúng tôi cũng không phải là kẻ mới bước vào giang hồ, lần này mọi người lại hồ đồ vướng phải thủ đoạn của gã vô danh kia, chuyện này mà đồn ra nhất định sẽ bị hảo hán giang hồ chê cười. Chuyện này làm sao kết thúc cho hay, còn xin đạo trưởng dạy bảo cho.

Khưu Xử Cơ trong mấy hôm ấy cũng tự trách mình quá lỗ mãng, nếu không nóng nảy như thế, chỉ cần bình tĩnh nói chuyện với Tiêu Mộc ắt sẽ có thể hiểu được mọi chuyện, lúc ấy nhìn Kha Trấn ác nói:

– Kha đại ca, ngươi nói nên làm sao?.

Kha Trấn ác tính tình vốn kỳ quái, sau khi hai mắt bì mù lại càng ương ngạnh, lần này bảy anh em đều bị một mình Khưu Xử Cơ đả thương, quả thật là một nỗi sỉ nhục lớn trong đời, thêm vết kiếm thương trên đùi đau không chịu nổi lại càng tức giận, lúc ấy cười nhạt nói:

– Khưu đạo trưởng chống kiếm ngang dọc thiên hạ, đời nào coi ai ra gì? Chuyện này cần gì phải hỏi anh em bọn ta!.

Khưu Xử Cơ ngẩn người, biết y chưa hết tức tối, lúc ấy đứng lên xoay quanh vái bảy người một vái, nói:

– Bần đạo không có công lao gì, làm việc hồ đồ, quả thật rất xấu hổ, xin tạ lỗi với các vị ở đây.

Bọn Chu Thông đều đáp lễ. Kha Trấn ác thì làm ra vẻ không biết, lạnh lùng nói:

– Chuyện giang hồ anh em bọn ta cũng không còn mặt mũi nào nói tới nữa. Bọn ta ở đây ai đánh cá cứ đánh cá, ai đốn củi cứ đốn củi, chỉ cần đạo trưởng không tới đây kiếm chuyện nữa thì bọn ta có thể yên ổn sống nốt quãng đời còn lại rồi.

Khưu Xử Cơ bị y dồn cho một chặp, mặt thoáng đỏ bừng, im lặng không đáp, ngồi ngây ra một lúc rồi đứng lên nói:

– Lần này bần đạo làm hỏng việc, từ nay trở đi quyết không dám đặt chân lên đất Hoài nữa. Mối thù của Tiêu Mộc đại sư thì bần đạo xin gánh vác, ta nhất định sẽ mổ bụng thằng gian tặc kia để rửa mối hờn này. Bây giờ bần đạo xin từ biệt ở đây. Nói xong xoay quanh vái dài một vái, quay người bước đi.

Kha Trấn ác quát:

– Khoan đã?

Khưu Xử Cơ quay lại hỏi:

– Kha đại ca có gì sai bảo?

Kha Trấn ác nói:

– Ngươi đánh tất cả anh em bọn ta bị trọng thương mà chỉ bằng vào một câu ấy là xong chuyện à?

Khưu Xử Cơ nói:

– Ý của Kha đại ca thế nào? Chỉ cần bần đạo làm được thì quyết không từ chối.

Kha Trấn ác cúi đầu trầm giọng nói:

– Khẩu khí ấy bọn ta nuốt không trôi, xin đạo trưởng chỉ giáo thêm.

Giang Nam thất quái tuy hành hiệp trượng nghĩa nhưng người nào cũng tâm cao khí ngạo, hành sự quái dị, nếu không thì làm sao mà có được cái danh hiệu Thất quái? Họ võ công đã cao, lại người đông thế mạnh, giao thủ với người trong võ lâm chưa lần nào thất bại. Năm xưa họ bất hòa với bang Hoài Dương, đôi bên động thủ, bảy người đánh bại hơn một trăm hảo hán của bang Hoài Dương ven sông Trường Giang, lúc ấy Hàn Tiểu Oanh còn rất nhỏ cũng giết được hai kẻ địch, danh tiếng Giang Nam thất quái bắt đầu lừng lẫy giang hồ. Lần này lại thất bại trong tay một mình Khưu Xử Cơ nên không sao chịu nổi.

Huống chi Tiêu Mộc là bạn của thất quái, bất hạnh gặp nạn, cũng có thể nói vì Khưu Xử Cơ hành sự lỗ mãng gây ra. Nhưng rõ ràng trong chùa Pháp Hoa có giấu nữ nhân, mà còn đúng là vợ góa của Quách Khiếu Thiên, chuyện này thì bên mình sai lè lè. Giang Nam thất quái lại không đếm Xửa gì tới.

Khưu Xử Cơ nói:

– Bần đạo bị trúng ám khí, nếu không có Kha đại ca ban thuốc giải cho thì bây giờ đã chết rồi. Đôi bên chúng ta đánh nhau một trận chí mạng, bần đạo xin nhận thua.

Kha Trấn ác nói:

– Nếu thế thì ngươi cởi trường kiếm trên lưng để lại đây, bọn ta sẽ cho ngươi đi.

Y biết rõ nếu bây giờ mà động thủ thì bên mình chỉ có anh em họ Hàn là có thể giao chiến, chuyện thắng phụ không cần phải nói, nhưng nói vì thế mà bỏ qua thì chẳng thà thất quái cùng chết dưới kiếm người ta còn hơn.

Khưu Xử Cơ khí giận bốc lên, nghĩ thầm:”Ta nể mặt các ngươi, đã nhịn đủ mọi bề, lại tạ tội nhận thua mà còn kiếm chuyện à?”

Lúc ấy bèn nói:

– Đây là binh khí hộ thân của bần đạo, cũng như thiết trượng của Kha đại ca vậy.

Kha Trấn ác cao giọng nói:

– Ngươi mỉa mai ta mù phải không?

Khưu Xử Cơ nói:

– Không dám.

Kha Trấn ác tức giận nói:

– Bây giờ mọi người chúng ta đều bị thương, khó phân thắng phụ. Ngày này năm sau mời Khưu đạo trưởng tới gặp nhau ở lầu Túy Tiên.

Khưu Xử Cơ chau mày, nghĩ thầm thất quái không phải là người xấu, mình tội gì vô ích tranh hơi với họ? Hôm trước sau khi Tiểu Mộc chết, Hàn Bảo Câu trong chảo đồng thoát ra được, nếu muốn giết mình thì dễ như trở bàn tay. Mà việc này rốt lại là do mình lỗ mãng, đại trượng phu phải trái rạch ròi, sai thì phải nhận là sai, nhưng làm sao để thoát khỏi sự lằng nhằng của họ thật cũng không dễ, trầm ngâm một lúc, chợt động tâm niệm, nói:

– Nếu các vị muốn quyết thắng phụ với bần đạo lần nữa cũng không có gì không được, chỉ là cách thức phải do bần đạo đặt ra. Nếu không thì bần đạo đấu rượu ở Túy Tiên lâu đã thua Chu nhị hiệp, so sánh võ công trong chùa Pháp Hoa lại thua bảy vị, thua hai trận liên tiếp rồi. Nếu lần thứ ba vẫn thua thì cũng không cần so tài nữa.

Hàn Bảo Câu. Hàn Tiểu Oanh. Trương A Sinh ba người lập tức đứng lên, bọn Chu Thông nằm trên giường cũng ngẩng đều lên nhìn, đồng thanh nói:

– Trước nay Giang Nam thất quái so tài với ai thì giờ giấc và địa điểm đều do họ chọn.

Khưu Xử Cơ thấy họ hiếu thắng như thế, cười khẽ một tiếng nói:

– Bất kể đánh cuộc cách nào cũng đều theo chủ ý của bần đạo phải không?

Chu Thông và Toàn Kim Phát đều nghĩ cho dù y có gian kế gì thì mình cũng không đến nỗi thua, đồng thanh nói:

– Thì người cứ nói đi.

Khưu Xử Cơ nói:

– Quân tử nhất ngôn chứ?

Hàn Tiểu Oanh nói ngay:

– Như ngựa tốt thêm roi vậy.

Kha Trấn ác còn đang trầm ngâm. Khưu Xử Cơ nói:

– Nếu các vị thấy hủ ý của ta không ổn thì bần đạo nói trước, kể như ta thua. Lúc ấy y đã hiểu nên lấy lui làm tiến, biết thất quái hiếu thắng, quyết không chịu khinh dị cho y nhận thua.

Kha Trấn ác quả nhiên nói ngay:

– Không cần phải khích, nói mau đi.

Khưu Xử Cơ ngồi xuống nói:

– Cách này của ta phải mất nhiều thời gian, mà so tài bằng chân công phu chân bản lĩnh, hoàn toàn không chỉ đấu cái dũng mãnh huyết khí nhất thời. Đao kiếm quyền cước tranh tiên quyết thắng, phàm là người học võ ai cũng từng gặp qua. Bọn ta đều là nhân vật thành danh trong võ lâm, quyết không thể giống bọn tiểu tử hậu sinh tệ hại được.

Giang Nam thất quái đều nghĩ: Không dùng đao kiếm quyền cước để phân thắng phụ thì dùng cách thức kỳ quái gì nữa đây? Chẳng lẽ lại đấu rượu?.

Khưu Xử Cơ ngang nhiên nói:

– Cuộc tỷ thí lớn này của chúng ta là một mình ta đấu với bảy vị, không những so về võ công mà còn đấu về hằng tâm nghị lực, so mưu đấu kế, phải làm tới cùng mới biết rốt lại ai là chân anh hùng chân hào kiệt.

Câu ấy khiến Giang Nam thất quái người nào cũng tim đập thình thình.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Nói mau đi, nói mau đi, chuyện càng khó càng hay.

Chu Thông cười nói:

– Nếu so tài bằng chuyện tu tiên luyện đan, vẽ bùa bắt quỷ, thì bọn ta không phải là đối thủ của đạo gia ngươi đâu.

Khưu Xử Cơ cũng cười nói:

– Bần đạo cũng không muốn so tài trộm gà bắt chó, thuận tay dắt dê với Chu nhị ca.

Hàn Tiểu Oanh cười hì hì, lại hối thúc:

– Nói mau đi, nói mau đi.

Khưu Xử Cơ nói:

– Tìm lại nguồn gốc thì việc chúng ta hiểu lầm đánh nhau là vì cứu giúp dòng dõi của người trung nghĩa mà ra, vậy chuyện này phải quy về đó.

Rốt đó bèn kể lại chuyện kết giao với hai người Quách Dương ra sao, đuổi bắt Đoàn Thiên Đức ra sao. Giang Nam thất quái lắng nghe, không ngừng chửi mắng người Kim tàn bạo, quan quân vô sỉ.

Khưu Xử Cơ kể xong, nói:

– Người mà Đoàn Thiên Đức mang đi chính là Lý thị vợ Quách Khiếu Thiên, ngoài Kha đại ca và anh em họ Hàn, bốn vị kia đều biết mặt nàng. Kha Trấn ác nói:

– Ta nhớ giọng nói của nàng ta rồi, không bao giờ quên đâu!

Khưu Xử Cơ nói:

– Hay lắm! còn như Bao thị vợ Dương Thiết Tâm thì không biết trôi dạt nơi nào. Bao thị thì bần đạo từng gặp qua, chứ các vị thì không biết mặt. Bần đạo đánh cuộc với các vị là về chuyện này. Cho nên cách thức là thế này…

Hàn Tiểu Oanh cướp lời nói trước:

– Bảy người bọn ta đi cứu Lý thị, ngươi đi cứu Bao thị xem ai thành công trước phải không?.

Khưu Xử Cơ cười khẽ nói:

– Nếu cứu người thì tuy không dễ nhưng cũng khó nói là anh hùng hảo hán. Chủ ý của bần đạo còn khó hơn nhiều, tốn công hơn nhiều.

Kha Trấn ác nói:

– Còn phải làm gì nữa?.

Khưu Xử Cơ nói:

– Hai người đàn bà ấy đều đã có thai, cứu được họ rồi phải thu xếp cho họ yên ổn, chờ họ sinh con, sau đó ta dạy đứa nhỏ họ Dương, bảy vị dạy đứa nhỏ họ Quách…

Giang Nam thất quái thấy y càng nói càng lạ lùng, đều há hốc miệng. Hàn Bảo Câu nói:

– Để làm gì thế?

Khưu Xử Cơ nói:

– Qua mười tám năm, hai đứa đều mười tám tuổi, chúng ta sẽ gặp nhau ở lầu Túy Tiên phủ Gia Hưng, mời anh hùng hảo hán giang hồ tới uống rượu một bữa. Sau khi say rượu nóng tai, để hai đứa nhỏ tỷ thí võ nghệ xem đồ đệ của bần đạo cao minh hay đệ tử của bảy vị thắng?

Giang Nam thất quái ngơ ngác nhìn nhau, im bặt không nói nên lời.

Khưu Xử Cơ lại nói:

– Nếu bảy vị đích thân tỷ thí với bần đạo, cho dù thắng được lần nữa chẳng qua cũng là lấy nhiều thắng ít, cũng chẳng có gì vinh quang. Để khi bần đạo đem bản lĩnh một đời dạy một người, bảy vị cũng đem tuyệt nghệ dạy một người, cho hai người bọn họ một chọi một đấu với nhau, lúc bấy giờ nếu đệ tử của bần đạo thắng thì thất hiệp các vị phải tâm phục khẩu phục.

Kha Trấn ác hào khí trào lên trong lồng ngực, dằn mạnh thiết trượng xuống đất một cái kêu lên:

– Hay lắm, chúng ta đánh cuộc nào.

Toàn Kim Phát nói:

– Nếu lúc ấy Lý thị đã bị Đoàn Thiên Đức hại chết thì làm sao?

Khưu Xử Cơ nói:

– Đó cũng là đánh cuộc với số phận. Trời không muốn cho chúng ta thắng thì còn nói gì nữa?.

Hàn Bảo Câu nói:

– Được, cứu người cô độc, thương kẻ lẻ loi vốn là việc người hiệp nghĩa phải làm, cứ cho là không thắng được ngươi thì bọn ta cũng làm được một chuyện tốt.

Khưu Xử Cơ giơ ngón tay cái lên, lớn tiếng khen ngợi:

– Hàn tam gia nói rất đúng. Bảy vị chịu gánh vác việc giáo dưỡng đứa con côi họ Quách thành người, bần đạo xin thay mặt Quách huynh đã chết lạy tạ.

Nói xong chắp tay vái khắp chung quanh. Chu Thông nói:

– Cách của ngươi không khỏi có chỗ bịp bợm. Bằng vào mấy câu ấy mà bắt bảy anh em bọn ta phải lo lắng cho ngươi suốt mười tám năm à?.

Khưu Xử Cơ biến sắc, ngẩng đầu lên trời cười lớn. Hàn Tiểu Oanh vội hỏi:

– Có gì đáng cười thế?

Khưu Xử Cơ nói:

– Từ lâu ta đã nghe đại danh Giang Nam thất quái, trên giang hồ đều nói thất hiệp giúp người nguy khốn, đúng là anh hùng hào kiệt hành hiệp trượng nghĩa, nào ngờ hôm nay nhìn thấy, hà hà!

Hàn Bảo Câu và Trương A Sinh đồng thanh hỏi:

– Thấy thế nào?

Khưu Xử Cơ nói:

– Đó chỉ là hư danh may mà có được, thấy mặt chẳng bằng nghe danh.

Giang Nam thất quái nổi giận. Hàn Bảo Câu đập tay xuống ván giường một cái, đang định lên tiếng. Khưu Xử Cơ nói:

– Xưa nay bậc đại anh hùng chân hiệp sĩ kết giao với người là liều thân cho bạn, chỉ cần là việc nghĩa phải làm là giao cả tính mạng cho bạn bè, có gì là quá đáng? Chẳng lẽ không từng nghe ngày xưa Kinh Kha, Nhiếp Chính đâu tính toán gì. Chu Gia, Quách Giải phù nguy cứu nạn, giúp người lúc khó khăn cũng chưa từng ra giá gì cả.

Bị dồn cho một chặp. Chu Thông sắc mặt trắng bệch, thầm thấy xấu hổ, lập tức xòe cái quạt ra nói:

– Đạo trưởng nói không sai, huynh đệ biết lỗi rồi. Thất quái chúng tôi gánh vác chuyện đó là phải lắm.

Khưu Xử Cơ đứng lên nói:

– Hôm nay là ngày hai mươi bốn tháng ba, giữa trưa ngày này mười tám năm sau, tất cả chúng ta sẽ gặp nhau ở lầu Túy Tiên, mời khắp anh hùng hảo hán trong thiên hạ tới xem ai là hán tử chân chính.

Rồi phất tay áo một cái, gió mát đầy phòng, lập tức bước ra khỏi cửa.

Hàn Bảo Câu nói:

– Ta phải đuổi theo Đoàn Thiên Đức nếu không y rút cổ rùa đen lại, không bóng không hình, làm sao mà động thủ cước. Trong thất quái chỉ có một mình y không bị thương, lập tức ra cửa lên ngựa cưỡi con danh câu Truy phong hoàng đuổi theo Đoàn Thiên Đức và Lý thị. Chu Thông vội kêu Tam đệ, tam đệ, ngươi không nhận ra được họ đâu!

Nhưng Hàn Bảo Câu tính rất nóng nảy. Truy phong hoàng lại là con ngựa như tên gọi, quả nhiên phóng đi như gió, trong chớp mắt đã xa rồi.

Đoàn Thiên Đức kéo Lý Bình chạy mau ra ngoài, quay dầu thấy trong chùa không ai đuổi theo mới hơi yên tâm, chạy tới ven sông thấy một chiếc thuyền nhỏ bên nhảy lên đầu thuyền, vung đao quát thuyền phu rời bến. Giang Nam là vùng sông nước, sông ngòi giăng mắc như mạng nhện, thuyền nhỏ là vật thay chân rất thông thường, cũng như lừa ngựa và xe ở phương Bắc cho nên trước nay có câu Người Bắc cưỡi ngựa, người Nam đi thuyền. Thuyền phu thấy một võ quan hung ác đâu dám chậm chạp, lập tức nhổ neo Khua chèo đưa thuyền ra khỏi thành.

Đoàn Thiên Đức nghĩ thầm: Mình gây ra đại họa như thế, nếu trở về Lâm An, người khác thì không nói chứ ông bác mình nhất định sẽ lấy mạng mình, chỉ còn cách lên biên giới phía Bắc tránh nạn cái đã. Tốt nhất là lão đạo sĩ giặc cướp ấy và bọn Giang Nam thất quái đều trọng thương chết hết, ông bác mình lại tức giận chết luôn, lúc ấy sẽ trở về làm quan cũng không muộn.

Lúc ấy bèn giục thuyền phu đi thẳng lên phía bắc. Con ngựa của Hàn Bảo Câu tuy đi nhanh, nhưng trên đường cứ phải dò đông hỏi tây, tự nhiên là không thể tìm được y.

Đoàn Thiên Đức liên tiếp đổi thuyền mấy lần, lại bỏ y phục võ quan, bắt Lý thị cũng thay đổi quần áo Sau hơn mười ngày qua sông tới Dương Châu, vào khách điếm nghỉ lại, nghĩ có chỗ yên thân đang định ngụ lại, nói ra cũng vừa khéo, chợt nghe có người hỏi thăm chủ khách điếm về tung tích của mình. Đoàn Thiên Đức cả sợ, nhìn ra khe cửa thấy một hán tử béo lùn tướng mạo xấu xí và một thiếu nữ xinh đẹp, cùng nói giọng Gia Hưng, nghĩ là nhân vật trong Giang Nam thất quái, may mà chưởng quỹ không thạo ngôn ngữ của hai người lắm, đôi bên nhất thời không hiểu nhau, y bèn lập tức kéo Lý Bình mở cửa sau bỏ chạy, thuê thuyền đi tiếp.

Y không dám chần chừ, xuôi theo Vận Hà lên phía Bắc, đi một mạch tới dịch trạm Lợi Quốc cạnh hồ Huy Sơn trong địa giới Sơn Đông.

Lý Bình tay thô bàn chân to, dung mạo vốn xấu, lúc ấy bụng chửa vượt mặt, cả ngày kêu khóc mắng chửi. Đoàn Thiên Đức tuy là kẻ hạ lưu nhưng đối với nàng cũng không có ý phi lễ. Hai người hàng ngày đối mặt chỉ đánh nhau chửi nhau, không có lấy một phút yên ổn.

Qua mấy hôm, hán tử béo lùn và thiếu nữ kia lại đuổi tới Đoàn Thiên Đức chỉ muốn ở yên trong phòng, không ngờ Lý Bình biết là có cứu tinh tới, cao giọng gọi lớn. Đoàn Thiên Đức vội lấy khăn bịt chặt miệng nàng, hung dữ đánh nàng một trận. Lý Bình liều mạng cào cấu la thét, tuy chưa bị anh em Hàn Bảo Câu. Hàn Tiểu Oanh phát hiện nhưng cũng vô cùng nguy hiểm.

Đoàn Thiên Đức dắt nàng cùng trốn, vốn là muốn lấy nàng làm con tin, lúc nguy hiểm có thể bắt địch nhân không dám bức bách quá, nhưng tình thế trước mắt đã thay đổi, thầm nghĩ một mình dễ bỏ trốn hơn mang một người đàn bà kè kè bên cạnh như thế này quả thật là mầm mống tai họa rất lớn, chẳng bằng một đao chém chết luôn cho đỡ vướng víu chân tay, đợi anh em họ Hàn đi xa rồi lập tức rút đao ra.

Lý Bình lúc nào cũng chờ cơ hội định liều mạng cùng chết với kẻ thù giết chồng, nhưng cứ đến tối đi ngủ lại bị y trói chân tay, không thể cử động, lúc ấy thấy y mắt lộ hung quang, lầm rầm khấn khứa: Khiếu ca. Khiếu ca, xin âm hồn chàng giúp đỡ thiếp giết chết thằng ác tặc này. Thiếp sẽ tới cùng chàng tương hội. Lúc ấy lập tức rút thanh đoản kiếm mà Khưu Xử Cơ tặng cho, thanh đoản kiếm này nàng giấu trong người, chưa bị Đoàn Thiên Đức khám xét cướp mất.

Đoàn Thiên Đức cười nhạt một tiếng vung đao chém thẳng xuống. Lý Bình đã quyết ý liều chết, không hề sợ hãi đem hết sức bình sinh nhảy xổ vào y. Đoàn Thiên Đức chỉ thấy hơi lạnh xông thẳng vào giữa mặt, rút đao gạt một cái, định đánh rơi thanh đoản kiếm, nào ngờ thanh đoản kiếm quá sắc bén, chỉ nghe leng keng một tiếng, thanh yêu đao đã bị tiện đứt một nửa rơi xuống đất, mũi kiếm đã đâm thẳng vào bụng mình. Đoàn Thiên Đức cả sợ nhảy lùi về phía sau, soạt một tiếng, vạt áo phía trước đã bị rọc rách một đường dài từ ngực tới bụng, một vệt máu đỏ hiện ra, chỉ cần Lý thị khỏe mạnh hơn một chút thì mũi kiếm đã đâm thủng ngực gây ra tai họa. Y qua cơn kinh hoàng, vội nhấc cái ghế lên chống đỡ, quát lớn:

– Mau rút đao lại, ta không giết ngươi nữa.

Lý Bình lúc ấy cũng đã tay mềm chân nhũn, toàn thân vô lực, đồng thời cái thai trong bụng lại quẫy đạp, không thể tiếp tục liều mạng với y ngồi xuống đất thở dốc một hồi, tay vẫn nắm chặt thanh đoản kiếm không buông.

Đoàn Thiên Đức sợ bọn Hàn Bảo Câu quay trở lại nếu một mình chạy trốn lại sợ Lý Bình tiết lộ dấu vết của mình cho kẻ đối đầu, vội ép nàng lên thuyền đi tiếp, vẫn theo Vận Hà lên phía bắc, qua Lâm Thanh. Đức Châu vào địa giới Hà Bắc.

Mỗi khi lên bộ tạm nghỉ, bất kể ẩn náu thế nào thì không bao lâu lại có người tìm tới, về sau ngoài hán tử béo lùn và cô gái còn có thêm một người mù cầm thiết trượng, nhưng rốt lại ba người đất, không nhận ra y, đều là y ở chỗ sáng mà đối phưng ở chỗ tối, đều có thể kịp thời trốn tránh, cũng là giữa nguy hiểm mà thoát thân.

Không bao lâu lại thêm một chuyện rất đau đầu là Lý Bình chợt lên cơn điên, trong khách điếm hay trên đường đi thỉnh thoảng lại lớn tiếng nói bậy bạ khiến người ta chú ý, có lúc thì xõa tóc xé áo, đủ trò kỳ quái. Đoàn Thiên Đức lúc đầu còn cho rằng nàng gặp biến cố lớn nên thần trí không được tĩnh táo, nhưng qua mấy hôm đột nhiên tĩnh ngộ, té ra là nàng sợ người đuổi theo bị mất manh mối nên cố ý lưu lại dấu vết, nếu cứ thế mà muốn thoát khỏi sự truy tìm của địch nhân thì càng khó khăn. Lúc bấy giờ mùa hè dần qua, gió thu vừa nổi.

Đoàn Thiên Đức trốn tránh những người theo đuổi đã lên tới phía Bắc, tiền bạc mang theo cũng đã gần hết mà kẻ thù vẫn đuổi riết không tha, không khỏi tự oán trách. Lúc đầu lão tử làm quan ở Hàng Châu, thịt béo rượu ngon, tiền bạc như đất, khoái lạc biết bao, chẳng có nguyên cớ gì lại đi tham tiền của người ta, tới thôn Ngưu Gia giết thằng cường đạo chồng mụ ác phụ này, để bây giờ phải chịu tội sống. Y mấy lần muốn bỏ rơi Lý Bình, một mình lén lút trốn đi nhưng nghĩ lại thì lại không dám, ám toán hay làm hại nàng thì chưa lần nào thành công. Đạo bùa hộ thân này đã trở thành một cục nợ bỏ không được, giết không được, lại còn phải canh cánh đề phòng nàng trả thù cho chồng, đúng là muôn phần khổ não.

Một hôm, tới Yên Kinh đô thành nước Kim. Đoàn Thiên Đức nghĩ rằng kinh sư Đại Kim đất rộng người đông, tìm một chỗ vắng vẻ yên tĩnh nương náu, chỉ cần chờ thời cơ giết con ác phụ này thì kẻ thù cho dù có bản lĩnh lớn bằng trời cũng không tìm được mình.

Y cảm thấy tính toán như thế là phải, không ngờ vừa tới cổng thành, trong thành có một đội quân Kim kéo ra, không hỏi han gì, bắt luôn hai người, bắt phải gánh vác. Lý Bình thân thể thấp lùn, quân Kim bắt nàng gánh nhẹ hơn. Đoàn Thiên Đức trên vai phải gánh hai cái thúng nặng hàng trăm cân, khiến y luôn miệng kêu khổ.

Đội quân Kim này là tùy tùng theo một viên quan lên Bắc. Viên quan này là sứ giả được phái lên bộ tộc Mông Cổ tuyên cáo sắc lệnh của vua Kim. Đám quân Kim đi theo hộ tống bắt bừa bách tính người Hán làm phu mang vác hành lý lương thực. Đoàn Thiên Đức cãi lại mấy câu, roi da của quân Kim đã đập bừa lên đầu lên mặt. Tình hình này y cũng đã trải qua rất nhiều, không có gì lạ lùng, chỉ có điều trước nay là roi của y đánh lên đầu bách tính, hôm nay thì là quân Kim lấy roi da đập lên đầu mình mà thôi. Roi thì không khác nhau lắm, nhưng đầu và mặt thì khác hẳn.

Lúc ấy Lý Bình bụng càng ngày càng to, gánh gồng đi bộ, quả thật là mệt nhọc muốn chết, nhưng nàng quyết ý đích thân giết kẻ thù, suốt đường đi cố che giấu sự mệt mỏi, không để quân Kim phát hiện chỗ sơ hở, may là nàng từ nhỏ làm nghề nông, đã quen vất vả, thân thể rất khỏe mạnh nên lúc ấy đem hết sức lực cố gắng chi trì suốt mấy mươi ngày, lặn lội trên sa mạc lạnh giá.

Lúc bấy giờ tuy mới tháng mười nhưng phương Bắc rất giá lạnh, một hôm bông tuyết bay đầy trời, cát vàng mênh mông không có chỗ nào tránh gió tuyết Hơn ba trăm người xếp thành một hàng đi trong hoang mạc bằng phẳng mênh mông. Đang đi chợt nghe từ phía xa có tiếng la thét vẳng tới, trong cát bụi mịt mù chỉ thấy hàng vạn con ngựa phi mau, vô số binh mã rầm rập xông tới.

Mọi người đang kinh hoàng thì đại đội binh mã đã tràn tới, té ra là một toán quân bại trận. Đám quân sĩ này mặc áo da cừu, cũng không biết là bộ tộc nào trên sa mạc phía Bắc, chỉ thấy họ hàng ngũ rối loạn, quân sĩ ném cưng vứt giáo tranh nhau chạy trước, người nào trên mặt cũng đầy vẻ kinh hoàng. Có người không có ngựa cắm đầu chạy bộ, bị những người cưỡi ngựa phía sau tràn lên, trong chớp mắt đã ngã lăn dưới vó ngựa.

Quan quân nước Kim thấy đám quân bại trận rất đông, lập tức bỏ chạy tứ tán. Lý Bình vốn cùng một chỗ với Đoàn Thiên Đức, nhưng đám bại binh như cơn sóng triều tràn qua rồi, trong lúc hỗn loạn không biết Đoàn Thiên Đức đã đi đâu. Lý Bình ném quang gánh xuống cố chết chạy tới những chỗ ít người, may mà mọi người chỉ muốn thoát thân nên không ai làm hại nàng.

Nàng chạy một hồi, chỉ thấy bụng đau quặn từng cơn không chi trì được nữa, nằm phục xuống một gò cát ngất đi. Rất lâu sau nàng mới dần dần tĩnh lại, trong lúc mơ mơ màng màng dường như nghe thấy tiếng trẻ con khóc. Nàng vẫn còn mơ mơ hồ hồ, không biết là đã xuống địa phủ hay còn ở dương gian, nhưng tiếng trẻ khóc càng lúc càng lớn, nàng vừa cử động, chợt thấy dưới đũng quần có một vật âm ấm. Lúc ấy đã là nửa đêm, tuyết lớn vừa ngừng rơi. Một vầng trăng tròn trong mây từ từ ló dạng, nàng đột nhiên hiểu ra, không kìm được đau đớn bật tiếng khóc thất thanh, té ra cái thai trong bụng đã ra đời trong cơn hoạn nạn lưu ly.

Nàng vội vàng ngồi dậy bế đứa bé lên, thấy là một đứa con trai, mừng rỡ rơi nước mắt, lúc ấy bèn cắn đứt cuống rốn cho nó rồi bế vào lòng. Dưới ánh trăng chỉ thấy đứa bé mày rậm mắt to, tiếng khóc rất lớn, mặt mũi giống hệt người chồng đã chết. Nàng sinh con trên đất tuyết, vốn là phải chết, nhưng vừa thấy đứa con không biết vì sao lại nảy sinh thêm một phần khí lực, bò tới một cái hố cạn cạnh gò cát để tránh gió rét, ngắm nghía đứa bé, nhớ lại người chồng đã mất, bất giác vui mừng chua xót lẫn lộn.

Núp dưới hố cát qua một đêm, đến giữa trưa hôm sau thấy bốn bề yên lắng bèn đánh bạo lần ra, chỉ thấy trên mặt đất đầy xác người chết ngựa chết, trong cát vàng tuyết trắng đầy những đao thương cung tên, quay nhìn bốn phía hoàn toàn không có một người sống.

Nàng tìm được một ít lương khô trong túi da trên lưng xác chết, lại tìm được trên xác chết đá lửa và dao đánh lửa bèn cắt một miếng thịt ngựa nướng ăn. Kế lột áo da của xác chết, lấy một cái bọc đứa bé, mình mặc một cái. May là khí trời rất lạnh, xác chết không bị thối rữa, nàng lấy thịt ngựa làm lương ăn. ở lại trên chiến trường mười mấy hôm, sức khỏe dần dần hồi phục, bèn bế con từng bước từng bước đi về phía đông. Lúc ấy trong lòng bế đứa con ruột, gã Đoàn Thiên Đức mà nàng căm hận thấu xương không biết đã đi đâu, nỗi căm hận đau xót vốn đầy lòng lập tức biến thành nỗi lòng dịu dàng từ ái, gió cát trong sa mạc rát như dao cắt, nàng chỉ cần không quét vào mặt con, còn mình thì không hề thấy khổ.

Đi được vài ngày, dưới mặt đất cây cỏ đã dần dần nhiều hơn, xế chiều hôm ấy chợt thấy phía trước có hai kỵ mã phóng tới. Người cưỡi ngựa nhìn thấy dáng vẻ của nàng bèn dừng ngựa hỏi han. Nàng vừa nói vừa ra hiệu, kể lại việc gặp bạo binh rồi sinh con trong tuyết. Hai người ấy là mục dân Mông Cổ, tuy không hiểu được lời nàng nhưng người Mông Cổ vốn hiếu khách, thương người nghèo cứu kẻ khổ, thấy mẹ con nàng đáng thương bèn mời nàng tới lều Mông Cổ ăn một bữa ngon, ngủ một giấc dài. Người Mông Cổ sinh sống bằng nghề du mục, xua súc vật đi khắp nơi tìm tới những chỗ có cỏ và nước chứ không định cư, dùng da và lông súc vật may thành lều vải che gió tuyết tức là lều Mông Cổ. Lúc toán mục dân ấy lên đường thì để lại cho nàng bốn con dê nhỏ.

Lý Bình cay đắng vất vả nuôi nấng con thơ, ở lại sa mạc. Nàng dùng cành cây dựng một gian lều tranh cạnh chỗ có cỏ có nước, nuôi dưỡng súc vật, lại dệt lông dê thành nệm đổi cho mục dân lấy lương thực.

Thắm thoát vài năm, đứa con đã được sáu tuổi. Lý Bình theo di ngôn của chồng, đặt tên nó là Quách Tĩnh. Đứa nhỏ này học nói rất chậm, đầu óc tối tăm, đến bốn tuổi mới biết nói, được cái gân cốt mạnh mẽ, đã có thể ra thảo nguyên chăn dắt dê bò. Hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống, chắt chiu làm lụng, súc vật dần dần nhiều hơn, đời sống cũng khá lên, lại đều học nói tiếng Mông Cổ, chỉ là khi mẹ con trò chuyện với nhau thì vẫn nói tiếng quê xưa ở Lâm An. Lý Bình thấy con bập bẹ những là con dê, con ngựa, toàn giọng Lâm An quê mình, thỉnh thoảng lại chua xót nghĩ thầm cha của con là hảo hán đất Sơn Đông, con cũng phải biết nói tiếng Sơn Đông mới phải. Chỉ đáng tiếc là ta theo cha con không được bao lâu, chưa từng học nói tiếng Sơn Đông nên không sao dạy cho con được.

Năm ấy đang lúc tháng mười, khí trời lạnh dần. Quách Tĩnh cưởi một con ngựa nhỏ, dắt theo con chó đi chăn dê. Đến trưa, trên không chợt có một con hắc điêu bay tới sà xuống bầy dê, một con dê nhỏ hoảng sợ chạy mau về phía đông.

Quách Tĩnh la thét ầm ĩ, nhưng con dê nhỏ ấy cứ cắm đầu bỏ chạy.

Nó vội vàng lên ngựa đuổi theo, chạy một mạch bảy tám dặm mới bắt lại được, đang định dắt về chợt nghe phía trước có tiếng ầm ầm vẳng lại. Quách Tĩnh giật mình, nó còn nhỏ nên không biết là chuyện gì, cứ nghĩ có lẽ là sấm sét, chỉ nghe tiếng sét rền càng lúc càng to. Qua một lúc, lại nghe trong tiếng ầm ầm có xen tiếng người ngựa huyên náo.

Nó từ trước tới nay chưa từng nghe thấy âm thanh như thế, trong lòng run sợ, vội dắt ngựa và dê chạy lên một ngọn núi đất, núp vào một bụi cây rậm. ẩn thân xong bèn thò đầu ra nhìn.

Chỉ thấy xa xa bụi bay mịt trời, vô số quân mã phóng mau tới, người đi đầu phát hiệu lệnh, quân mã bày thành trận thế, phía đông một đội, phía tây một đội không biết là bao nhiêu người. Binh sĩ có người trên đầu buộc khăn trắng, có người cắm lông chim ngũ sắc. Quách Tĩnh lúc ấy không sợ sệt nửa mà lại thấy rất thích thú.

Lại qua một hồi, chợt nghe cách đó vài dặm bên trái vang lên tiếng tù và, mấy đội quân mã rầm rập xông tới, người dẫn đầu là một thiếu niên cao gầy, khoác áo choàng đỏ, giơ cao trường đao xông lên trước. Binh mã đôi bên xông tới sát nhau, người reo ngựa hí ầm ầm. Đội quân tấn công nhân số rất ít, không bao lâu đã không chống nổi lui lại, phía sau đại có viện binh kéo tới, tiếng reo xung sát vang trời. Mắt thấy đội binh mã tấn công lại chi trì không được, chợt mấy chục tiếng tù và cùng vang lên, trống đánh ầm ầm, đội quân tấn công lớn tiếng reo hò:

– Đại hãn Thiết Mộc Chân tới rồi. Đại hãn tới rồi!

Quân sĩ đôi bên vẫn không ngừng đánh nhau, nhưng đều ngoái đầu nhìn về phía đông.

Quách Tĩnh nhìn theo ánh mắt mọi người, chỉ thấy trong đám bụi mịt trời, một đội quân mã xông mau tới, giương cao một ngọn sào dài, trên treo mấy chùm lông trắng. Tiếng reo hò từ xa dần dần tới gần, binh mã bên tấn công dũng khí tăng lên, hàng trận của đội quân tới trước lập tức tan vỡ. Ngọn sào dài tiến thẳng lên gò đất. Quách Tĩnh vội rúc vào bụi cây hai con mắt nhỏ lóng lánh vẫn nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một hán tử trung niên thân thể cao to thúc ngựa phóng lên núi đất. Y đầu đội mũ sắt, dưới cằm có một chòm râu màu xám, hai mắt vừa chuyển động, ánh mắt sáng quắc quét khắp chung quanh. Quách Tĩnh không biết y chính là tù trường Thiết Mộc Chân của bộ lạc Mông Cổ, mà cho dù có biết cũng không hiểu Đại hãn là gì.

Thiết Mộc Chân ngồi trên ngựa chăm chú nhìn chiến cuộc dưới núi, bên cạnh có hơn mười kỵ sĩ tùy tùng. Qua một lúc thiếu niên khoác áo choàng đỏ phóng ngựa lên núi kêu lên:

– Phụ vương, quân địch quá đông, chúng ta lui thôi!

Thiết Mộc Chân lúc ấy đã thấy rõ tình hình đôi bên, hạ giọng nói:

– Ngươi đem quân lui về phía đông đi? Y mắt nhìn binh mã đôi bên giao chiến, miệng ra lệnh:

– Mộc Hoa Lê, ngươi cùng nhị vương tử đem quân lui về phía tây. Bác Nhĩ Truật, ngươi cùng Xích Lão Ôn mang quân lui về phía bắc. Hốt Tất Lai, ngươi cùng Tốc Bất Đài mang quân lui về phía nam. Lúc nào thấy ở đây giương cờ đại độc, thổi tù và thì nhất tề quay lại xung sát.

Các tướng đồng thanh vâng dạ, xuống núi suất lĩnh bộ thuộc, trong chớp mắt quân Mông Cổ đã lui ra bốn phía.

Quân địch đồng thanh hò reo, nhìn thấy ngọn cờ đại độc treo lông trắng của Thiết Mộc Chân vẫn còn trên núi, bốn phía đều kêu ầm lên:

– Bắt sống Thiết Mộc Chân, bắt sống Thiết Mộc Chân!

Rất nhiều quân mã đua nhau xông lên núi đất, không nhìn ngó gì tới bốn toán quân Mông Cổ vừa rút lui. Hàng vạn con ngựa giẫm lên đất làm bụi bay mù mịt, bốn phía núi đất có một màn sương màu vàng cuồn cuộn bốc lên.

Thiết Mộc Chân đứng trên đỉnh núi đất, thản nhiên bất động, hơn mười quân sĩ tùy tùng giơ thuẫn sắt lên đỡ tên bốn phía bắn tới. Nghĩa đệ của Thiết Mộc Chân là Hốt Đô Hổ cùng mãnh tướng Giả Lặc Mễ suất lãnh ba ngàn tinh binh đóng giữ quanh núi đất tên bắn đao chém, tử thủ không lùi.

Trong bóng đao ánh mâu tiếng thét vang trời. Quách Tĩnh trông vừa thấy phấn khích, vừa thấy sợ hãi.

Kịch chiến qua hơn nửa giờ, mấy vạn quân địch luân phiên đánh lên, ba ngàn tinh binh của Thiết Mộc Chân đã mất hơn bốn trăm người, quân địch cũng bị giết hơn ngàn người. Thiết Mộc chân đưa mắt nhìn xuống chỉ thấy dưới bình nguyên xác quân địch nằm đầy đất, ngựa không người cưỡi từng bầy từng bầy chạy tán loạn, nhưng tên quân địch bắn tới vẫn còn rất mạnh. Nhìn thấy góc Đông bắc quân địch tấn công rất mãnh liệt, quân mình dần dần chống đỡ không được, con thứ ba của Thiết Mộc Chân Oa Khoát Đài rất sốt ruột, vội hỏi:

– Gia gia, có thể phất cờ thổi tù và chưa?

Thiết Mộc Chân hai mắt như chim ưng chằm chằm nhìn xuống quân địch dưới núi không chớp, trầm giọng nói:

– Quân địch còn chưa mệt mỏi!

Lúc ấy, quân địch phía Đông bắc đã điều động tinh binh tới tấn công, giương cao ba ngọn cờ đại độc màu đen, rõ ràng có ba viên đại tướng đốc chiến.

Quân Mông Cổ dần dần núng thế. Giả Lặc Mễ chạy mau lên núi, kêu lên:

– Đại hãn, bọn hài nhi không chống được nữa rồi?

Thiết Mộc Chân tức giận quát:

– Chống không được à? Ngươi vẫn khoe khoang là anh hùng hảo hán gì đó mà?

Giả Lặc Mễ tái mặt giật một thanh đại đao trong tay quân sĩ, quát tháo xông vào trận địch, mở một con đường máu tới trước ngọn cờ hắc độc. Chủ tướng quân địch thấy y hung dữ xông tới bèn kéo cương ngựa lùi lại Giả Lặc Mễ vung tay hạ đao xuống chém ngã ba đại hán giữ cờ rồi vứt đại đao, hai tay ôm ba ngọn cờ đen chạy trở lên, qua khúc ngoặc nhét luôn xuống đất quân địch thấy y dũng mãnh như thế đều hoảng sợ, quân Mông Cổ hò reo ầm ĩ, lại lấp lại chỗ trận thế bị vỡ phía Đông Bắc.

Lại đánh nhau hồi lâu, quân địch phía Tây nam chợt có một viên tướng mặc áo đen xông lên trước, tên bắn không mũi nào sai, liên tiếp bắn ngã mấy mươi quân sĩ Mông Cổ. Hai viên tướng Mông Cổ cầm mâu xông lên đón đánh, bị y vù vù phát ra hai mũi tên ngã ngựa. Thiết Mộc Chân khen ngợi:

– Tiễn pháp hay quá!

Câu nói chưa dứt, viên tướng áo đen ấy đã xông sát tới núi đất, tiếng dây cung bật lên, một mũi tên bắn trúng cổ Thiết Mộc Chân, mũi tiếp theo lại bắn thẳng vào bụng. Thiết Mộc Chân cổ bên phải trúng tên, nhìn thấy lại có mũi nữa bay tới vội giật cương ngựa, con ngựa đột nhiên đứng thẳng lên, mũi tên ấy kình lực mạnh mẽ lạ lùng, cắm ngập luôn vào bụng ngựa không còn thấy đuôi tên, con ngựa ngã vật ra đất. Quân Mông Cổ thấy chủ soái trúng tên ngã ngựa, ai cũng cả kinh thất sắc. Trong tiếng reo hò, quân địch như một làn sóng tràn lên đánh giết.

Oa Khoát Đài nhổ giúp mũi tên ở cổ cha ra, xé luôn vạt áo định băng bó vết thương. Thiết Mộc Chân quát lớn:

– Mặc kệ ta, cứ giữ chắc cửa núi.

Oa Khoát Đài vâng lệnh quay lại, giương cung bắn ngã luôn hai người bên địch. Hốt Đô Hổ ớ phía Tây suất lĩnh quân bản bộ nghênh chiến, đánh nhau đến lúc tên hết thương gãy đành phải rút về. Giả Lặc Mễ mắt đỏ ngầu kêu lên:

– Hốt Đô Hổ, con thỏ nhà ngươi chạy trốn à?

Hốt Đô Hổ cười nói:

– Ai chạy trốn? Ta hết sạch tên rồi.

Thiết Mộc Chân ngồi dưới đất rút trong túi tên một nắm ném qua. Hốt Đô Hổ đón lấy, tiếng cung bật liên tiếp vang lên, một viên tướng dưới ngọn cờ hắc độc đối diện trúng tên ngã ngựa. Hốt Đô Hổ xông mau xuống núi, cướp con ngựa của viên tướng ấy phóng trở lên.

Thiết Mộc Chân khen:

– Hảo huynh đệ, đúng là nhờ có ngươi!

Hốt Đô Hổ toàn thân vấy máu, hạ giọng nói:

– Có thể giương cờ hiệu, thổi tù và chưa?

Thiết Mộc Chân đưa tay sờ lên vết thương trên cổ, máu tươi từ bàn tay chảy xuống ròng ròng, nói:

– Quân địch còn chưa mệt mỏi, cứ chi trì thêm một lúc.

Hốt Đô Hổ quỳ xuống khẩn cầu:

– Chúng tôi tình nguyện tử chiến vì người, nhưng thân thể của Đại hãn là quan trọng.

Thiết Mộc Chân dắt một con ngựa tới, cầm đao nhảy lên quát:

– Mọi người hãy cố gắng giữ vững rồi vung trường đao chém chết ba tên địch xông lên núi đất.

Quân địch chợt thấy Thiết Mộc Chân lại lên ngựa, không khỏi hoảng sợ, chạy ngược trở lại, thế công chậm hẳn. Thiết Mộc Chân thấy thế địch đã hơi suy giảm bèn quát lớn:

– Giương cờ hiệu, thổi tù và?

Trong tiếng reo hò của quân Mông Cổ, một vệ sĩ đứng thẳng lên lưng ngựa, giơ cao ngọn cờ đại độc treo lông trắng, tiếng tù và thổi vang vang. Quanh núi tiếng la thét ầm ầm vang lên, xa xa từng đoàn từng đoàn quân Mông Cổ rầm rập phóng như bay tới xung sát.

Quân địch tuy đông nhưng đều tập trung bao vây tấn công núi đất, hàng ngoài cùng của vòng vây vừa bị vỡ, quân ở trong đã xô đẩy nhau tán loạn. Viên tướng áo đen thấy tình thế không hay, lớn tiếng quát tháo, nhưng thế trận đã rối loạn, quân sĩ không còn ý chí chiến đấu, không đầy nửa giờ đại quân đã tan rã như ngói vỡ, phần lớn bị giết, số còn lại bỏ chạy. Viên tướng áo đen ấy cưỡi một con ngựa đen cuống cuồng chạy tháo thân.

Thiết Mộc Chân quát:

– Ai bắt được thằng giặc ấy sẽ được thưởng ba trăm cân vàng!

Mấy chục quân sĩ Mông Cổ khỏe mạnh hò hét đuổi theo, viên tướng áo đen ấy tên bắn không phát nào sai, ai chống lại là ngã ngựa, liên tiếp bắn ngã mười người. Số còn lại không dám đuổi sát nên y thúc ngựa phi mau, bỏ chạy mất dạng.

Quách Tĩnh núp trong bụi cây rậm dõi mắt nhìn theo, tấm lòng trẻ thơ nảy sinh sự khâm phục ngưỡng mộ đối với viên tướng ảo đen ấy.

Trận này Thiết Mộc Chân thu được toàn thắng, tiêu diệt quá nửa bộ lạc Tần Diệc Xích Ngột nhiều đời thù hằn, nghĩ rằng từ đây họ không còn là mối lo nữa, nhớ lại năm xưa bị bộ lạc Tần Diệc Xích Ngột cầm tù, cổ đeo gông lớn, chịu đủ sỉ nhục, mối thù lớn ấy hôm nay mới rửa sạch, vết thương trên cổ không ngừng chảy máu nhưng trong lòng vui vẻ, không kìm được ngẩng đầu lên trời cười lớn.

Các tướng hò reo vang trời, xúm quanh Đại hãn thu quân khải hoàn.

Quách Tĩnh chờ đến lúc họ đi xa, quân sĩ dọn đẹp chiến trường vì trời tối cũng đã về mới từ bụi rậm chui ra, về tới nhà thì đã nửa đêm, mẹ nó đang lo cuống lên như kiến bò trên chảo nóng, không biết làm sao là tốt thì con về tới, vô cùng vui mừng. Quách Tĩnh kể lại mọi việc, tuy lắp ba lắp bắp không rõ ràng nhưng cũng nói được đại khái. Lý Bình thấy nó mặt mày rạng rỡ, không hề có vẻ lo sợ, nghĩ thầm con mình tuy còn nhỏ, đầu óc ngu xuẩn nhưng rốt lại vẫn là dòng dõi nhà tướng, cũng có phong thái của cha, bất giác vừa mừng vừa lo.

Sáng sớm hai hôm sau. Lý Bình mang hai tấm nệm lông ra chợ cách đó hơn ba mươi dặm đổi lương thực Quách Tĩnh thả dê ngoài cổng, nghĩ tới cuộc ác chiến mà mình thấy được trên núi hôm trước cảm thấy rất thích thú, bèn giơ cao chiếc roi chăn dê múa may trên lưng ngựa, miệng quát tháo ầm ĩ xua bầy dê đi cảm thấy mình giống đại tướng cầm quân ra trận.

Đang chơi tới lúc cao hứng, chợt nghe phía đông cỏ tiếng vó ngựa, một con ngựa từ từ đi tới, trên lưng ngựa có một người nằm gục trên yên. Con ngựa bước tới gần dừng lại, người trên ngựa ngẩng đầu lên. Quách Tĩnh giật nảy mình, không kìm được một tiếng kêu hoảng sợ.

Chỉ thấy người kia mặt đầy bùn đất máu me, chính là viên tướng áo đen hôm trước mình nhìn thấy. Tay trái y cầm thanh mã đao đã bị gãy một nửa, trên lưỡi đao vết máu khô sẫm lại loang lổ, cung tên bắn quân truy sát không biết đâu mất, có lẽ hôm trước sau khi chạy thoát lại gặp phải địch nhân. Má bên phải có một vết thương rất lớn, máu đang chảy ròng ròng, đùi ngựa cũng bị thương. Chỉ thấy y thân hình lắc lư đôi mắt đỏ ngầu cất tiếng rên rỉ:

– Nước.., nước… cho ta uống nước.

Quách Tĩnh vội vào nhà múc một bát nước trong bưng ra cửa. Người kia đưa tay giật lấy ừng ực uống một hơi hết sạch, lại nói:

– Cho thêm bát nữa?.

Quách Tĩnh lại bưng ra một bát. Người kia uống hết một nửa, máu trên mặt nhỏ vào bát nước, nửa bát nước đổi thành màu đỏ. Người ấy hô hô cười lớn, chợt da mặt giật giật nghiêng người một cái rồi rơi xuống ngựa ngất đi luôn. Quách Tĩnh cả sợ kêu ầm lên, không biết làm sao là tốt. Qua một lúc người kia dần dần tĩnh lại, nói:

– Ngươi cho ngựa ta uống nước giúp, có gì ăn không?.

Quách Tĩnh đưa ra mấy tảng thịt dê cho y ăn, lại lấy nước cho ngựa uống. Người kia được ăn no một bữa, lập tức tinh thần phấn chấn, vươn vai đứng dậy kêu lên:

– Hảo huynh đệ đa tạ ngươi!

Rồi gỡ trên cổ tay ra một chiếc vòng vàng to nặng đưa cho Quách Tĩnh nói:

– Cho ngươi đấy.

Quách Tĩnh lắc đầu nói:

– Mẹ nói nên tiếp đãi khách, không được đòi gì của khách.

Người kia hô hô cười rộ nói:

– Hảo hài tử, hảo hài tử.

Rồi đeo lại chiếc vòng vàng vào tay, xé một mảnh vải áo băng lại vết thương trên mặt mình và vết thương ở đùi ngựa. Đột nhiên từ phía đông văng vẳng có tiếng vó ngựa phóng tới, người kia mặt đầy vẻ tức giận, kêu lên:

– Hừ, đúng là không chịu tha cho ta?

Hai người ra cửa nhìn về phía đông thấy xa xa bụi bay mù mịt, rất nhiều người ngựa đang phóng thẳng tới.

Người kia nói:

– Hảo hài tử, trong nhà ngươi có cung tên không?

Quách Tĩnh nói:

– Có!

Rồi quay vào trong. Người kia nghe thế trên mặt lộ vẻ vui mừng, thì thấy Quách Tĩnh đem cung và tên nhỏ xíu để chơi đùa của mình ra. Người kia ha hả cười lớn, kế chau mày nói:

– Ta phải đánh nhau, cần thứ lớn kia.

Quách Tĩnh lắc lắc đầu.

Lúc ấy truy binh càng lúc càng tới gần, xa xa đã nhìn thấy bóng cờ xí lay động. Người kia nghĩ con ngựa của mình đã bị thương, chạy trên sa mạc không được xa, núp lại ở đây tuy nguy hiểm nhưng không còn cách nào khác, liền nói:

– Một mình ta không thể đánh lại họ, phải núp thôi.

Nhưng đưa mắt nhìn khắp trong ngoài gian lều tranh không có chỗ nào ẩn núp được, lúc khẩn cấp bèn chỉ chỉ vào đống cỏ khô cạnh nhà nói:

– Ta núp trong này. Ngươi xua ngựa của ta đi càng xa càng tốt. Ngươi cũng tìm chỗ trốn núp cho xa, đừng để họ nhìn thấy.

Nói xong vạch đống cỏ khô chui vào. Người Mông Cổ cứ qua mùa hè nóng nực là cắt cỏ đánh thành đống để mùa đông nuôi súc vật và nấu nướng, toàn nhờ vào cỏ khô, nên đống cỏ khô thường còn to hơn cả lều Mông Cổ. Viên tướng kia chui vào đống cỏ, nếu không lục soát cẩn thận, quả thật rất khó phát hiện ra.

Quách Tĩnh vung roi đập lên lưng con ngựa đen, con ngựa đen tung vó lồng lên, hạy một đoạn xa mới dừng lại ăn cỏ. Quách Tĩnh cưỡi con ngựa nhỏ của mình chạy về phía Tây.

Đám truy binh thấy có người, hai tên quân sĩ cưỡi ngựa đuổi theo, con ngựa nhỏ của Quách Tĩnh chạy không nhanh, không bao lâu đã bị đuổi kịp. Hai tên quân sĩ quát hỏi:

– Thằng nhỏ, có thấy một hán tử cười ngựa đen không?.

Quách Tĩnh không biết bịa đặt, há hốc miệng không đáp. Hai tên quân sĩ lại hỏi mấy câu, thấy nó ngu ngơ ngờ nghệch, thủy chung vẫn không trả lời bèn nói:

– Mang nó tới gặp đại vương tử?

Rồi kéo dây cương con ngựa nhỏ, đưa nó về trước căn lều tranh.

Quách Tĩnh trong lòng định sẵn chủ ý: Mình cứ không nói gì cả. Chỉ thấy vô số quân sĩ Mông Cổ hộ vệ một thiếu niên cao gầy đội khăn đỏ. Quách Tĩnh nhớ mặt y, người này hôm trước từng suất lịnh binh mã chiến đấu, sĩ tốt đều nghe theo lệnh y, biết y là kẻ thù của viên tướng áo đen. Vị đại vương tử này cao giọng hỏi:

– Thằng nhỏ nói thế nào?

Hai tên quân sĩ thưa:

– Thằng nhỏ này tệ lắm, không biết nói năng gì cả.

Đại vương tử chăm chú nhìn quanh, đột nhiên thấy con ngựa đen kia đang ăn cỏ xa xa, bèn trầm giọng nói:

– Có phải ngựa của y kia không? Đi dắt nó lại đây xem.

Mười tên lính Mông cổ Chia thành năm tổ theo năm hướng khác nhau rón rén tới gần bao vây con ngựa. Lúc con ngựa giật mình biết được, ngẩng đầu lên định chạy thì đã không còn đường thoát.

Đại vương tử thấy con ngựa đen được dắt tới, hừ một tiếng nói:

– Đây chẳng phải ngựa của Triết Biệt sao?

Bọn quân sĩ đồng thanh nói:

– Đúng thế!

Đại vương tử giơ roi ngựa lên, chát một tiếng đánh xuống đầu Quách Tĩnh, quát:

– Y núp ở đâu? Mau nói ra ngay. Ngươi đừng hòng lừa ta!

Triết Biệt núp trong đống cỏ khô, tay nắm chặt đao, thấy Quách Tĩnh bị đánh một roi, trên trán lập tức nổi lên một lằn dài rườm máu, tim đập thình thịch.

Y biết người này là Truật Xích con trưởng Thiết Mộc Chân, tính tình độc ác nổi tiếng khắp sa mạc, nghĩ thầm đứa nhỏ này nhất định sẽ sợ hãi mà nói thật vậy thì chỉ còn cách nhảy ra liều mạng một phen.

Quách Tĩnh đau quá định khóc nhưng cắn răng kìm nước mắt, ngẩng đầu nói:

– Tại sao ngươi lại đánh ta? Ta chẳng làm gì xấu cả?

Nó chỉ biết làm việc xấu mới bị đánh đòn. Truật Xích tức giận nói:

– Ngươi còn bướng à!

Roạt một tiếng lại đánh roi nữa. Quách Tĩnh khóc ầm lên.

Lúc ấy bọn quân sĩ đã lục soát khắp nhà Quách Tĩnh một lượt, hai tên xọc trường mâu đâm bừa vào đống cỏ khô, may là đống cỏ quá lớn, chưa đâm tới chỗ Triết Biệt núp.

Truật Xích nói:

– Con ngựa ở đây, nhất định y chưa chạy xa đâu. Thằng nhỏ, ngươi có nói không?

Roạt roạt roạt liên tiếp đánh luôn ba roi. Quách Tĩnh giơ tay định chụp lấy roi, nhưng làm sao chụp được?

Đột nhiên xa xa có tiếng tù và rúc lên, quân sĩ báo:

– Đại hãn tới rồi!

Truật Xích dừng lại không đánh nữa, giục ngựa ra đón. Quân sĩ hộ vệ Thiết Mộc Chân phi ngựa lại. Truật Xích tiến lên gọi một tiếng:

– Gia gia!

Hôm trước Thiết Mộc Chân bị Triết Biệt bắn trúng mũi tên ấy bị thương rất nặng, lúc kịch chiến gắng gượng nhịn đau, nhưng sau khi thu quân, đau quá ngất đi mấy lần. Đại tướng Giả Lặc Mễ và con thứ ba của Thiết Mộc Chân là Oa Khoát Đài thay phiên nhau dùng miệng hút máu đọng trong vết thương ra, lúc khạc lúc nhổ. Các tướng cùng bốn con trai y chầu chực quanh giường suốt đêm, đến sáng hôm sau mới qua cơn nguy hiểm.

Kỵ mã trinh sát của quân Mông Cổ túa ra bốn phía, mọi người thề là phải bắt sống được Triết Biệt dùng ngựa xé xác, loạn đao băm thây để trả thù cho Đại hãn. Chiều tối hôm sau, một toán nhỏ quân Mông Cổ rốt lại cũng gặp Triết Biệt nhưng bị y đả thương mấy người chạy mất, nhưng Triết Biệt cũng bị thương.

Thiết Mộc Chân được tin, trước tiên sai con lớn đuổi theo, lại đích thân dẫn con thứ hai là Sát Hợp Đài, con thứ ba là Oa Khoát Đài, con út là Đà Lôi cùng đuổi theo.

Truật Xích chỉ con ngựa đen, nói:

– Gia gia, tìm được con ngựa đen của thằng giặc đây rồi.

Thiết Mộc Chân nói:

– Ta không cần ngựa mà cần người.

Truật Xích nói:

– Dạ, nhất định chúng ta sẽ tìm ra y.

Rồi trở lại trước mặt Quách Tĩnh, tuốt yêu đao chém dọa một nhát, quát:

– Ngươi có nói không?

Quách Tĩnh bị y đánh đến nỗi máu chảy đầy mặt, nhưng lại càng bướng bỉnh, không ngừng kêu lên:

– Ta không nói, ta không nói!

Thiết Mộc Chân thấy đứa nhỏ này ăn nói ngây thơ, không nói là không biết mà nói là ta không nói. Ắt nó biết rõ nơi Triết Biệt ẩn núp bèn hạ giọng nói với con thứ ba là Oa Khoát Đài:

– Ngươi tới lừa cho thằng nhỏ này nói ra.

Oa Khoát Đài cười hì hì bước tới trước mặt Quách Tĩnh, rút trên mũ trụ của mình một cái lông công màu sắc đẹp đẽ cầm ở tay, cười nói:

– Ngươi nói ra đi, ta cho ngươi cái này.

Quách Tĩnh vẫn nói:

– Ta không nói.

Con thứ hai của Thiết Mộc Chân là Sát Hợp Đài nói:

– Thả chó ra!

Bọn quân sĩ tùy tùng của y lập tức dắt sáu con chó ngao lớn tới.

Người Mông Cổ tính ưa săn bắn, các bậc tù trưởng quý nhân ai cũng nuôi chó săn, chim ưng săn. Sát Hợp Đài lại rất thích chó, lần này đuổi theo Triết Biệt rất eần chó săn nên mang theo sáu con chó ngao, lúc ấy bèn thả ra, trước tiên cho sáu con chó vây quanh con ngựa đánh hơi một hồi, sau đó sai đi tìm nơi Triết Biệt ẩn núp. Sáu con chó ngao sủa ầm ĩ, chạy tới chạy lui trong căn lều tranh.

Quách Tĩnh vốn không quen Triết Biệt nhưng hôm trước thấy y trên chiến trường anh dũng phi thường, bất giác ngưỡng mộ, mà sau khi bị Truật Xích đánh mấy roi, trong lòng rất tức giận, tính bướng bỉnh trời cho nổi lên, bèn huýt sáo một tiếng gọi con chó chăn dê của mình tới. Lúc ấy sáu con chó ngao của Sát Hợp Đài đã tìm tới trước đống cỏ khô, con chó chăn dê của Quách Tĩnh nghe chủ ra lệnh bèn đứng chắn trước đống cỏ không cho sáu con chó ngao xông vào.

Oa Khoát Đài huýt sáo lớn một tiếng, sáu con chó ngao lớn đồng thời xúm cả vào nhất thời tiếng chó sủa ầm ĩ vang lên, bảy con chó điên cuồng giằng xé cắn sủa nhau dính thành một khối. Con chó chăn dê thân hình đã nhỏ, lại là một chọi sáu, trong chớp mắt đã bị cắn rách toàn thân nhưng vô cùng can đảm, nhất định không lui, dựa vào đống cỏ sống chết chống lại. Quách Tĩnh vừa khóc vừa cổ vũ con chó thân yêu ra sức chống lại. Thiết Mộc Chân và Oa Khoát Đài thấy tình hình như thế, biết Triết Biệt núp trong đống cỏ, đều cười vang nhìn bảy con chó cắn nhau.

Truật Xích cả giận giơ cao roi ngựa vút vút vút đánh luôn mấy roi khiến Quách Tĩnh đau thấu tim gan. Nó lăn lộn dưới đất, tới cạnh Truật Xích đột nhiên chồm lên, ôm giữ chân phải của y, liều mạng không chịu buông ra. Truật Xích dùng sức hất ra, nào ngờ đứa nhỏ này ôm chặt cứng, hất mãi vẫn không chịu buông. Ba người Sát Hợp Đài. Oa Khoát Đài. Đà Lôi thấy huynh trưởng luống cuống như thế đều cười phá ra. Thiết Mộc Chân cũng không khỏi mĩm cười.

Truật Xích mặt mũi đỏ bừng, rút trường đao trong lưng ra, nhằm giữa đỉnh đầu Quách Tĩnh bổ xuống. Mắt thấy đứa nhỏ này sẽ phải đầu một nơi thân một nẻo, đột nhiên trong đống cỏ khô có một thanh mã đao cụt đầu phóng mau ra. Choang một tiếng, hai thanh đao chạm nhau. Truật Xích chỉ thấy cánh tay chấn động tê rần, hoảng sợ mất vía. Đám quân sĩ đồng thanh quát ầm lên. Triết Biệt đã từ đống cỏ khô nhảy ra.

Y đưa tay trái nắm Quách Tĩnh kéo một cái ra phía sau lưng, cười nhạt nói:

– Tàn ác với trẻ con không xấu hổ à?

Bọn quân sĩ đều giơ đao chĩa mâu vây quanh Triết Biệt. Triết Biệt thấy không thể chống cự vứt thanh mã đao trong tay xuống đất. Truật Xích bước lên đánh thắng vào bụng y một quyền. Triết Biệt không hề đón đỡ, quát lên:

– Giết ta mau đi?

Rồi dằn giọng nói:

– Tiếc cho ta không được chết dưới tay bậc anh hùng hảo hán!

Thiết Mộc Chân nói:

– Ngươi nói gì?

Triết Biệt nói:

– Nếu ta ở trên chiến trường, bị kẻ hảo hán giỏi hơn giết chết thì cũng cam lòng. Bây giờ lại như chim ưng lớn rơi xuống đất, bị kiến cắn chết!

Nói xong trợn tròn hai mắt gầm lên một tiếng. Sáu con chó của Sát Hợp Đài đang đè con chó chăn dê xuống đất cắn túi bụi, chợt nghe tiếng gầm oai mãnh dị thường hoảng sợ nhất tề nhảy dựng lên, cụp đuôi len lét lui ra.

Đột nhiên bên cạnh Thiết Mộc Chân có một người bước ra nói:

– Đại hãn đừng cho thằng tiểu tử này khoe khoang, tôi xin đánh nhau với y.

Thiết Mộc Chân nhìn lại thì ra là đại tướng Bác Nhĩ Truật, trong lòng rất mừng rỡ, nói:

– Được, ngươi ra tỷ thí với y đi. Chúng ta không phải không có anh hùng hảo hán.

Bác Nhĩ Truật bước lên vài bước nói một mình ta giết ngươi, cho ngươi có chết cũng vui lòng Triết Biệt thấy y thân thể cao lớn, giọng nói sang sảng, bèn hỏi:

– Ngươi là ai?

Bác Nhĩ Truật nói:

– Ta là Bác Nhĩ Truật. Ngươi chưa nghe qua à?

Triết Biệt giật mình nghĩ thầm: Từ lâu đã nghe nói:

– Bác Nhĩ Truật là anh hùng trong quân Mông Cổ, té ra là y.

Rồi ngước mắt ngạo nghễ nhìn Bác Nhĩ Truật, hừ một tiếng. Thiết Mộc Chân nói:

– Ngươi tự khoe giỏi nghề cung tiễn, mọi người gọi ngươi là Triết Biệt, ngươi cứ so tài cung tên với người bạn thân này của ta.

Trong tiếng Mông Cổ, Triết Biệt có nghĩa là giáo mác, cũng có nghĩa là tay thần tiễn. Triết Biệt vốn có tên khác nhưng vì y tiễn pháp như thần nên mọi người gọi là Triết Biệt, còn tên thật thì không ai rõ.

Triết Biệt nghe Thiết Mộc Chân gọi Bác Nhĩ Truật là bạn thân bèn nói:

– Ngươi là bạn thân của Đại hãn thì ta cứ giết ngươi trước đã.

Quân sĩ Mông Cổ nghe thấy đều cười ha hả. Mọi người đều biết Bác Nhĩ Truật võ nghệ cao cường, trước nay vô địch, nổi tiếng khắp vùng sa mạc, tuy đã thấy qua tiễn pháp cao cường của Triết Biệt, nhưng nói muốn giết Bác Nhĩ Truật thì đúng là không biết tự lượng sức mình.

Lúc Thiết Mộc Chân còn trẻ, bị người bộ lạc Tần Diệc Xích Ngột bắt giam, bị đóng gông giam cầm. Bộ lạc Tần Diệc Xích Ngột mở tiệc ở bến Nạn Hà, vừa uống rượu vừa dùng roi đánh đập, định làm nhục y xong sẽ giết chết. Sau cùng, những người dự tiệc uống rượu quá say. Thiết Mộc Chân bèn dùng gông đánh tên lính canh giữ chết ngất, trốn vào rừng rậm.

Người Tần Diệc Xích Ngột đổ ra truy bắt. Có một thanh niên tên Xích Lão Ôn không sợ nguy hiểm, khẳng khái giữ y lại, đập vỡ cái gông của y vứt vào đống lửa đốt rụi, cho y lên một chiếc xe chở lông dê. Quân đuổi theo tới nhà Xích Lão Ôn tra xét, tìm tới trước xe, bốc mấy nắm lông dê lên, sắp lộ ra bàn Chân Thiết Mộc Chân. Cha của Xích Lão Ôn lúc nguy cấp chợt nảy ý khôn, cười nói:

– Trời nóng thế này ai mà núp được trong đống lông dê? Nếu y có trong đó thì cũng đã chết nóng rồi. Lúc bấy giờ đang mùa hè, ai cũng mồ hôi như tắm, đám quân đuổi theo thấy có lý bèn bỏ qua không lục soát nữa. Thiết Mộc Chân bình sinh trải qua vô số nguy hiểm, nhưng lần ấy quả thật là nguy tựa chỉ mành treo chuông.

Thiết Mộc Chân sau khi trốn thoát vô cùng vất vả cùng mẹ và em dựa vào nghề săn bắt thú rừng để sống qua ngày.

Có một hôm tám con ngựa trắng y nuôi bị một bộ lạc khác bắt trộm. Thiết Mộc Chân một mình đuổi theo, gặp một thanh niên đang vắt sữa ngựa. Thiết Mộc Chân hỏi tin tức bọn trộm, thanh niên ấy chính là Bác Nhĩ Truật, bèn nói:

– Sự khốn khổ của bậc nam nhi đều giống nhau, ta và ngươi kết bạn với nhau đi.

Hai người cưỡi ngựa đuổi theo, đuổi suốt ba ngày thì gặp bộ lạc trộm ngựa. Hai người tên bắn không phát nào sai, giết chết mấy trăm người đối phương, đoạt lại được tám con ngựa trắng. Thiết Mộc Chân muốn chia cho y, bèn hỏi y muốn lấy mấy con. Bác Nhĩ Truật nói:

– Ta ra sức vì bạn bè, chứ một con cũng không cần.

Từ đó hai người cùng dựng nghiệp. Thiết Mộc Chân vẫn gọi y là bạn thân, quả thật là bạn bè lúc hoạn nạn. Bác Nhĩ Truật, Xích Lão Ôn hai người cùng Mộc Hoa Lê, Bác Nhĩ Hốt là bốn đại công thần khai quốc của Mông cổ.

Thiết Mộc Chân vốn biết Bác Nhĩ Truật tiễn pháp như thần, bèn đưa cung tên của mình cho y rồi lập tức nhảy xuống ngựa, nói:

– Ngươi cưỡi ngựa của ta, dùng cung tên của ta cũng tính như ta bắn chết y.

Bác Nhĩ Truật nói:

– Tuân lệnh.

Rồi tay trái cầm cung tay phải lắp tên nhảy lên con ngựa quý mõm trắng của Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân nói với Oa Khoát Đài Ngươi cho Triết Biệt mượn ngựa Oa Khoát Đài nói:

– Thật có lợi cho y.

Quát rồi nhảy xuống ngựa, một tên thân binh bèn dẫn tới cho Triết Biệt.

Triết Biệt nhảy lên ngựa, nói với Thiết Mộc Chân:

– Ta đã bị vây chặt, ngươi muốn giết ta cũng dễ như giết một con dê. Ngươi đã cho ta tỷ thí cung tên với y ta cũng không thể không biết hay dở mà tỷ thí công bằng với y. Ta chỉ cần một cánh cung, không cần tên.

Quân Mông Cổ lại lớn tiếng khen ngợi:

– Thằng ngu này cũng gan dạ thật.

Thiết Mộc Chân bảo đưa cho y một cây cung tốt.

Bác Nhĩ Truật lúc ở chiến trường đã thấy qua bản lĩnh của Triết Biệt, biết y rất giỏi tiễn pháp, vốn không dám coi thường, nhưng lúc ấy y có cung không tên thì tiễn pháp có giỏi hơn cũng làm sao thi triển? Nghĩ thầm chắc y sẽ bắt tên của mình để sử dụng, bèn kẹp chặt hai chân thúc con ngựa quý mõm trắng phóng mau ra. Con ngựa này chạy rất nhanh, trải nhiều trận đánh, trên chiến trường người cưỡi chỉ cần dùng chân thúc để ra hiệu thì có thể tiến lui như ý trước nay Thiết Mộc Chân rất thương yêu nó.

Triết Biệt thấy ngựa của đối phương phóng nhanh, lập tức thúc ngựa bỏ chạy. Bác Nhĩ Truật giương cung lắp tên, vút một tiếng, mũi tên bắn vào sau gáy Triết Biệt. Triết Biệt nghiêng người qua một bên, mắt tinh tay lẹ chụp được mũi tên. Bác Nhĩ Truật khen thầm: Giỏi quá!, lại bắn thêm một mũi. Triết Biệt nghe tiếng dây cung bật, biết tên bay rất mau không thể chụp được bèn cúi xuống nằm móp trên yên ngựa, mũi tên bay sượt qua đỉnh đầu. Lúc ấy y lập tức giục ngựa phóng về phía trước, ưỡn người ngồi thẳng lên, nào ngờ Bác Nhĩ Truật có một tuyệt kỹ bắn tên liên châu, vút vút hai mũi lại liên tiếp từ hai bên bắn tới.

Triết Biệt không ngờ đối phương lợi hại như thế, nhào luôn xuống dưới bụng ngựa, chân phải móc vào bàn đạp, toàn thân gần như tiếp đất, con ngựa đang phi nhanh mang y như bay là là trên mặt đất. Y uốn lưng một cái, thân hình vừa chuyển qua một bên đã lấy mũi tên bắt được lắp vào dây cung, buông dây phóng đi, mũi tên bắn thẳng vào bụng Bác Nhĩ Truật, kế lật người ngồi lại trên yên ngựa.

Bác Nhĩ Truật quát lớn:

– Giỏi lắm!

Rồi ngắm đúng vào mũi tên bay tới bắn ra một phát, hai đầu mũi tên chạm nhau, nhưng quán tính còn lớn nên cùng bay chếch ra ngoài cắm xuống mặt cát. Thiết Mộc Chân và quân sĩ đồng thanh reo hò khen ngợi. Bác Nhĩ Truật bật dây cung không phát tên, chờ Triết Biệt né qua bên phải, đột nhiên bắn luôn một phát. Triết Biệt tay trái cầm cung gạt nhẹ, mũi tên ấy rơi xuống đất. Bác Nhĩ Truật bắn thêm ba phát liên tiếp đều bị y gạt ra.

Triết Biệt dong ngựa phi mau, đột nhiên cúi xuống nhặt ba mũi tên dưới đất, lắp vào cung bắn trả.

Bác Nhĩ Truật muốn khoe bản lĩnh, nhảy lên đứng trên lưng ngựa, chân trái đạp lên yên, chân phải đá tên bay ra, rồi từ trên cao ngắm xuống bắn trả lại một mũi. Triết Biệt giục ngựa tránh qua bắn lại một phát, rắc một tiếng, mũi tên của Bác Nhĩ Truật gãy làm hai đoạn.

Bác Nhĩ Truật nghĩ thầm:

– Mình có tên còn y không có tên mà đến bây giờ vẫn mới ngang tài thì làm sao trả thù cho Đại hãn được?

Trong lòng nóng nảy, bắn tên liên châu vút vút vút không ngừng tay, mọi người đều hoa cả mắt. Triết Biệt không kịp bắt tên, chỉ tránh đông né tây, không ngờ tên bay như mưa, vừa nhiều vừa nhanh, đột nhiên thụp một tiếng, vai trái đã bị trúng một mũi. Mọi người cùng cất tiếng reo hò ầm ĩ.

Bác Nhĩ Truật cả mừng đang định bắn thêm vài phát kết thúc tính mệnh của y, nhưng quờ tay vào túi tên một cái lại thấy trống không, té ra mới rồi bắn một loạt tên liên châu, hết sạch cả túi tên mà Thiết Mộc Chân đưa. Y ra trận trước nay mang theo rất nhiều tên, trên lưng hai túi, trên ngựa sáu bao, tất cả là tám túi tên, lần này vì là sử dụng cung tên của Đại hãn, trong lúc ác đấu lại bắn theo thói quen lúc bình thời, quên mất số tên có hạn, mới giật mình biết tên đã hết, vội quay ngựa cúi người nhặt tên rơi dưới đất.

Triết Biệt nhìn thấy rất rõ, vút một tiếng, tiếng gió rít chưa tắt thì mũi tên đã trúng hậu tâm Bác Nhĩ Truật. Mọi người đứng xem bật tiếng la hoảng nhưng nói ra rất kỳ quái, mũi tên ấy tuy kình lực rất mạnh, trúng vào lưng Bác Nhĩ Truật đau rần nhưng không cắm vào mà rơi xuống đất. Bác Nhĩ Truật thuận tay nhặt mũi tên lên xem thì đầu tên đã bị Triết Biệt bẻ gãy, té ra là thủ hạ lưu tình. Y nhảy lên lưng ngựa, nói:

– Ta báo thù cho Đại hãn, không nhận ơn nghĩa của ngươi!

Triết Biệt nói:

– Triết Biệt trước nay không thiếu kẻ thù. Mũi tên vừa rồi là một mạng đổi một mạng?

Thiết Mộc Chân thấy Bác Nhĩ Truật trúng tên vào lưng trong lòng vô cùng đau đớn, nhưng nhìn ra lại thấy y rõ ràng vẫn chưa chết, bất giác mừng rỡ như điên, lúc ấy nếu bảo y đem hàng ngàn hàng vạn bò dê ngựa trong bộ tộc ra đổi lấy sinh mạng của Bác Nhĩ Truật, y cũng không hề do dự, nghe Triết Biệt nói thế vội nói:

– Được, hai người không cần tỷ thí nữa. Một mạng của y đổi một mạng của ngươi.

Triết Biệt nói:

– Không phải đổi mạng ta.

Thiết Mộc Chân nói:

– Cái gì?.

Triết Biệt chỉ Quách Tĩnh đứng trước cửa gian lều tranh, nói:

– Đổi lấy tính mạng của nó? Xin Đại hãn đừng làm khó đứa nhỏ này. Còn như ta.

Y nhường mày nói:

– Ta bắn Đại hãn bị thương kể cũng đáng tội. Bác Nhĩ Truật, ngươi bắn đi!

Rồi giơ tay giật mũi tên trên vai ra, máu ròng ròng lắp vào dây cung. Lúc ấy bộ thuộc của Bác Nhĩ Truật đã đưa tới sáu bao tên. Bác Nhĩ Truật nói:

– Được, chúng ta tiếp tục tỷ thí.

Vút vút vút vút, một loạt tên liên châu bắn mau ra. Mũi trước mũi sau tựa hồ dính vào nhau, vạch thành một đường tên trên không.

Triết Biệt thấy thế tên quá mau bèn uốn người lật xuống núp dưới bụng ngựa, móc chân vào bàn đạp ngắm thật chính xác bắn vào bụng Bác Nhĩ Truật, con ngựa mõm trắng thấy tên bay quá nhanh, không chờ chủ nhân giật cương, lách mau qua bên trái. Nào ngờ mũi tên ấy của Triết Biệt mau lẹ phi thường, không phải như những mũi khác, thụp một tiếng bắn trúng đầu con ngựa quý, con ngựa lập tức ngã vật xuống đất.

Bác Nhĩ Truật nằm lăn dưới đất, sợ bị truy kích, xoay người bắn một mũi gãy đôi cánh cung trong tay Triết Biệt. Triết Biệt mất võ khí, càng không thể phản kích, ngấm ngầm kêu khổ, chỉ còn cách thúc ngựa chạy quanh co để tránh tên. Quân sĩ Mông Cổ đồng thanh reo hò trợ oai cho Bác Nhĩ Truật. Bác Nhĩ Truật nghĩ thầm: Người này quả thật là một hảo hán, bất giác nảy lòng anh hùng tiếc anh hùng, không muốn giết y, bèn giương cung lắp tên, nhắm thật chuẩn vào hậu tâm y, kéo căng dây cung bắn ra một mũi.

Đây quả là thần tiễn của tướng quân, không hề bắn sai, mũi tên ấy trúng vào gáy Triết Biệt. Triết Biệt thân hình lảo đảo, rơi luôn xuống ngựa, mũi tên ấy rơi xuống cạnh người y, té ra đầu mũi tên cũng bị bẻ gãy. Bác Nhĩ Truật lại đặt một mũi tên khác lên dây cung, nhắm thẳng vào Triết Biệt, quay đầu nhìn Thiết Mộc Chân nói Đại hãn, xin người ra ơn tha cho.

Thiết Mộc Chân xem tới lúc ấy đã có lòng tiếc tài Triết Biệt liền kêu lên:

– Ngươi còn chưa đầu hàng sao?

Triết Biệt nhìn thần thái oai phong lẫm liệt của Thiết Mộc Chân, bất giác nảy lòng kính phục, chạy tới quỳ xuống đất. Thiết Mộc Chân hô hô cười lớn, nói:

– Giỏi lắm, giỏi lắm, từ nay trở đi ngươi theo ta thôi?.

Người Mông Cổ biểu lộ tâm tình phần nhiều là dùng lời ca tiếng hát. Triết Biệt lạy rạp xuống đất, cao giọng hát:

– Đại hãn tha mạng cho ta, từ nay lội qua nước sôi giẫm lên lửa bỏng, ta cũng cam lòng. Chặt đứt sông dài, đập tan núi lớn, theo giúp Đại hãn. Đánh dẹp giặc ngoài, cố kết nhân tâm! Bảo ta tới đâu ta sẽ tới đó. Xin vì Đại hãn xông thành phá trận, ruổi rong ngàn dặm, sớm tối không sờn!

Thiết Mộc Chân cả mừng lấy ra hai khối vàng lớn thưởng Bác Nhĩ Truật một khối. Triết Biệt một khối. Triết Biệt tạ ơn, nói:

– Đại hãn, tôi cho đứa nhỏ kia số vàng này được không?

Thiết Mộc Chân cười nói:

– Đó là của ngươi, ngươi muốn cho ai thì cho!

Triết Biệt đưa khối vàng cho Quách Tĩnh. Quách Tĩnh vẫn lắc đầu không nhận, nói:

– Mẹ nói phải giúp đỡ khách, không được lấy gì của khách.

Thiết Mộc Chân lúc đầu thấy Quách Tĩnh bất khuất chống cự Ngột Xích, đã ưa thích phong thái của đứa nhỏ này, đến khi nghe mấy câu ấy lại càng vui vẻ nói với Triết Biệt:

– Lúc ngươi về thì đưa luôn đứa nhỏ này tới chỗ ta, rồi suất lãnh đội ngũ, theo đường cũ quay về. Mấy tên quân sĩ tùy tùng khiêng xác con ngựa quý mõm trắng vắt lên lưng hai con ngựa, chở đi sau cùng.

Triết Biệt lúc sắp chết lại được sống, lại tìm được minh chúa, vô cùng vui vẻ, nằm dài ra nghỉ ngơi chờ Lý Bình từ chợ trở về, kể lại mọi chuyện. Lý Bình thấy trán con có vết roi rườm máu vô cùng đau lòng, nhưng khi nghe Triết Biệt nói con mình cương cường nghĩa hiệp, liền nói:

– Con ngoan lắm, làm người phải như thế.

Nghĩ nếu con mình suốt đời chăn dê trên đồng cỏ thì làm sao trả thù cho cha, chẳng bằng tới quân đội rèn luyện thêm, tìm cơ hội tiến thân, lúc ấy hai mẹ con liền theo Triết Biệt về quân doanh của Thiết Mộc Chân.

Thiết Mộc Chân sai Triết Biệt giữ một chức Thập phu trưởng dưới trướng con thứ ba là Oa Khoát Đài. Triết Biệt yết kiến tam vương tử xong lại tới bái tạ Bác Nhĩ Truật. Hai người rất kính phục nhau, kết thành bạn thân.

Triết Biệt nhớ ơn Quách Tĩnh, đối xử với hai mẹ con họ rất chu đáo, đã định khi nào Quách Tĩnh hơi lớn sẽ đem hết võ công tiễn pháp của mình truyền thụ cho nó.

Hôm ấy Quách Tĩnh đang đánh đáo với mấy đứa trẻ Mông Cổ, chợt thấy từ xa có hai kỵ binh Mông Cổ phóng ngựa phi mau tới, rõ ràng là có tin gấp bẩm báo với Đại hãn. Hai người bước vào trướng của Thiết Mộc Chân không bao lâu, đã có tiếng tù và rúc vang, binh sĩ các nơi phóng ngựa rầm rập đổ về.

Thiết Mộc Chân huấn luyện quân sĩ, kỷ luật nghiêm khắc, quân pháp như sơn. Mười người lính Mông Cổ phiên chế thành một tiểu đội do một viên Thập phu trưởng suất lãnh, mười Thập phu do một Bách phu trưởng suất lãnh, mười Bách phu do một viên Thiên phu trưởng suất lãnh, mười Thiên phu đo một viên Vạn phu trưởng suất lãnh. Thiết Mộc Chân ban ra một mệnh lệnh thì mấy vạn người như tâm ý điều khiển cánh tay, cánh tay điều khiển ngón tay, chỉ như một người.

Quách Tĩnh và đám trẻ con đứng xem nghe tù và rúc hết hồi thứ nhất, quân sĩ các doanh đều đã cầm binh khí lên ngựa. Lúc tù và rúc hồi thứ hai, bốn phía đã vang lên tiếng vó ngựa, người đông như kiến. Lúc tù và rúc hết hồi thứ ba thì cánh đồng cỏ lớn trước viên môn đã dày đặc một đám năm vạn người ngựa sắp hàng chỉnh tề, ngoài tiếng ngựa thở khin khịt không hề có tiếng thì thào trò chuyện.

Thiết Mộc Chân có ba con xúm quanh bước ra cửa viên môn, cao giọng nói lớn:

– Chúng ta đã đánh bại rất nhiều kẻ địch, nước Đại Kim cũng biết. Bây giờ quốc vương Đại Kim sai Tam vương tử và Lục vương tử tới đây phong quan chức cho Đại hãn của các ngươi?

Quân Mông Cổ vung đao đi ngựa lên đông thanh reo hò. Lúc ấy người Kim cai trị phía bắc Trung Quốc, binh lực hùng cường, oai thế vang tới tận miền xa, người Mông Cổ chỉ là một bộ lạc nhỏ trên vùng thảo nguyên sa mạc, nên Thiết Mộc Chân coi việc được Đại Kim phong quan chức là điều rất vinh dự.

Thiết Mộc Chân ra lệnh, đại vương tử Truật Xích dẫn đầu một vạn người ngựa đi trước đón tiếp, bốn vạn người ngựa còn lại dàn ra trên thảo nguyên. Lúc bấy giờ vua Chương tông Hoàn Nhan Cảnh đang trị vì nước Kim, biết rõ các bộ lạc Vương Hãn. Thiết Mộc Chân ở sa mạc phía bắc rất cường thịnh, sợ sẽ trở thành mối lo ở phía bắc bèn phái Tam vương tử Vinh vương Hoàn Nhan Hồng Hy. Lục vương tử Triệu vương Hoàn Nhan Hồng Liệt tới phong cho quan chức, một là để ràng buộc, hai ỉa để thăm dò hư thực của các bộ lạc này, hoặc dùng sức mạnh trấn áp, hoặc dùng mưu kế mua chuộc, tùy cơ hành sự Triệu vương Hoàn Nhan Hồng Liệt là người từng đi sứ tới Lâm An, bị Khưu Xử Cơ đánh bị thương ở thôn Ngưu Gia, gặp Giang Nam thất quái ở Gia Hưng.

Quách Tĩnh và đám trẻ con đứng xa xem nhiệt náo, qua một hồi lâu chợt thấy phía xa bụi bay mù mịt. Ngột Xích đã đưa Hoàn Nhan Hồng Hy. Hoàn Nhan Hồng Liệt về tới.

Anh em Hoàn Nhan dẫn một vạn tinh binh, người nào cũng áo gấm giáp sắt, đội bên trái cầm trường mâu, đội bên phải cầm lang nha bổng, cưỡi ngựa lớn chân cao, tiếng giáp Khua lanh canh vang xa suốt một dặm. Đến khi tới gần, càng thấy rõ áo gấm rực rỡ, giáp trụ sáng choang, đao thương chớp ánh mặt trời, quân dung cực kỳ hùng tráng. Anh em Hoàn Nhan Hồng Hy sóng ngựa cùng đi.

Thiết Mộc Chân và các con cùng chư tướng đón tiếp bên đường.

Hoàn Nhan Hồng Hy nhìn thấy khá nhiều trẻ con Mông Cổ đứng xa xa bèn nhướng cặp mắt hí nhìn chằm chằm rồi hô hô cười lớn, đưa tay vào bọc móc ra một nắm vàng bạc vụn ném mạnh vào đám trẻ, cười nói:

– Thưởng cho các ngươi đấy?

Y ném vàng bạc ra xa xa, nghĩ ra bọn trẻ con nhất định sẽ reo hò tranh nhau nhặt lấy, lúc ấy sẽ tỏ rõ được khí phái hào hoa của mình, lại có thể làm một trò cười.

Nhưng điều người Mông Cổ coi trọng nhất là lễ phép giữa chủ khách với nhau, cử chỉ ấy của y dĩ nhiên là mười phần khinh bạc, cũng rất bất kính. Quan tướng binh sĩ người Mông Cổ đều ngạc nhiên nhìn nhau.

Đám trẻ con kia đều là con em quân sĩ Mông Cổ tuy còn nhỏ nhưng đứa nào cũng tự tôn, không buồn ngó tới số vàng bạc ném dưới đất. Hoàn Nhan Hồng Hy vô cùng cụt hứng, lại ném mạnh ra một nắm tiền vàng nữa, kêu lên:

– Giành nhau đi chứ, con mẹ chúng mày?

Người Mông Cổ nghe thấy, ai cũng tức giận biến sắc. Lúc ấy người Mông Cổ còn chưa có chữ viết, phong tục chất phác, nhưng rất trọng tín nghĩa lễ tiết, nhất là rất trọng khách. Người Mông Cổ trước nay không nói những lời nhơ bẩn, cho dù đối với bọn giặc cướp thâm thù, hoặc lúc vui vẻ đùa giỡn cũng không chửi mắng. Khách bước vào lều Mông Cổ thì bất luận là quen hay không nhất định cũng được chủ nhân khoản đãi, nhưng khách cũng quyết không được có chút nào tỏ ra khinh mạn chủ nhân, nếu không giữ lễ chủ khách là tội lỗi không gì lớn bằng. Hoàn Nhan Hồng Hy nói tiếng Nữ Chân, tướng sĩ Mông Cổ không rõ ý tứ, nhưng theo thần thái cử chỉ của y, ai cũng biết là mắng chửi bọn trẻ con.

Quách Tĩnh lúc bình thời thường nghe mẹ kể chuyện người Kim tàn ngược, gian dâm cướp bóc, tàn hại bách tính Trung Quốc ra sao, câu kết với Hán gian hại chết danh tướng Nhạc Phi của Trung Quốc ra sao, tấm lòng ngây thơ đã sớm thù hận người Kim, lúc ấy thấy gã vương tử nước Kim kia vô lễ như thế bèn nhặt mấy đồng tiền vàng dưới đất chạy tới gần ném mạnh vào mặt Hoàn Nhan Hồng Hy, kêu lên:

– Ai thèm tiền của ngươi!

Hoàn Nhan Hồng Hy nghiêng đầu tránh, nhưng rốt lại vẫn bị trúng một cái vào trán, tuy Quách Tĩnh nhỏ yếu, không đau đớn gì, nhưng rốt lại cũng mất mặt trước mấy vạn con người. Người Mông Cổ từ Thiết Mộc Chân trở xuống ai cũng thầm thích thú.

Hoàn Nhan Hồng Hy cả giận, quát lớn:

– Thằng tiểu tử ngươi muốn chết!

Y lúc ở Trung Quốc hơi có chuyện không vừa ý là nhấc tay giết người, đâu có ai dám khinh thường nhục mạ y thế này, lúc ấy lửa giận bốc lên, giật lấy một ngọn trường mâu trong tay thị vệ bên cạnh dùng sức phóng vào giữa ngực Quách Tĩnh.

Hoàn Nhan Hồng Liệt biết không hay, vội kêu:

– Tam ca dừng tay!

Nhưng ngọn trường mâu kia đã bay ra, mắt thấy Quách Tĩnh nhất định phải chết dưới mâu, đột nhiên trong đội quân Mông Cổ bên trái có một mũi tên bắn ra, mau như sao băng, keng một tiếng bắn trúng đầu ngọn mâu. Mũi tên ấy kình lực rất mạnh, tuy tên nhẹ mâu nặng nhưng cũng hất mũi mâu qua một bên, tên và mâu cùng rơi xuống đất. Quách Tĩnh vội vàng bỏ chạy. Quân Mông Cổ đồng thanh hò reo cổ vũ, thanh âm vang dội cả thảo nguyên. Người bắn mũi tên ấy chính là Triết Biệt.

Hoàn Nhan Hồng Liệt hạ giọng nói:

– Tam ca, kệ nó?

Hoàn Nhan Hồng Hy thấy thanh thế quân Mông Cổ cũng thầm sợ sệt, hung dữ trừng mắt nhìn Quách Tĩnh một cái, lại hạ giọng chửi một câu:

– Đồ con hoang.

Lúc ấy Thiết Mộc Chân và các con bước lên tiếp đón, đưa hai vị vương tử nước Kim vào trướng, đem rượu sữa ngựa, thịt dê ngựa bò lên khoản đãi. Đôi bên đều có thông dịch để phiên dịch tiếng Nữ Chân và tiếng Mông Cổ. Hoàn Nhan Hồng Hy tuyên đọc sắc lệnh của vua Kim, sắc phong Thiết Mộc Chân làm Bắc cương Chiêu thảo sứ của nước Kim, con cháu nối đời tập tước vĩnh viễn làm phiên thần ở phía bắc nước Kim. Thiết Mộc Chân quỳ xuống tạ ơn, nhận lãnh sắc thư và vàng lụa của vua Kim.

Đêm ấy, người Mông Cổ mở tiệc lớn khoản đãi sứ thần thượng quốc, đến lúc ngà ngà say. Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Ngày mai anh em tôi sắc phong cho Vương Hãn, mời Chiêu thảo sứ cùng đi.

Thiết Mộc Chân nghe thế cả mừng, luôn miệng đáp ứng.

Vương Hãn là người đứng đầu các bộ lạc trên thảo nguyên, quân đông tiền nhiều, đối xử với người khác rộng rãi, rất được tù trưởng quý nhân các bộ tộc yêu thích. Vương Hãn trước kia từng kết nghĩa anh em với cha Thiết Mộc Chân. Về sau cha Thiết Mộc Chân bị kẻ thù hạ độc giết chết. Thiết Mộc Chân lưu lạc không nơi nương tựa, bèn nhận Vương Hãn làm nghĩa phụ, theo về với y. Thiết Mộc Chân lấy vợ không bao lâu, vợ lại bị người Miệt Nhĩ ất bắt đi, toàn nhờ Vương Hãn và nghĩa đệ Trát Mộc Hợp của Thiết Mộc Chân cùng ra quân đánh bại người Miệt Nhĩ ất mới đưa được vợ y về.

Vì vậy Thiết Mộc Chân nghe nói nghĩa phụ là Vương Hãn cũng được sắc phong, vô cùng cao hứng, hỏi:

– Nước Kim còn sắc phong cho ai nữa?

Hoàn Nhan Hồng Hy nói:

– Hết rồi.

Hoàn Nhan Hồng Liệt thêm một câu:

– Phương Bắc chỉ có Đại hãn và Vương Hãn hai vị là chân anh hùng chân hào kiệt, còn người khác thì không đáng nói tới.

Thiết Mộc Chân nói:

– Ở chỗ chúng tôi còn có một người, có lẽ hai vị vương gia chưa nghe nói tới.

Hoàn Nhan Hồng Liệt hỏi:

– Ai thế? Ai thế?

Thiết Mộc Chân nói:

– Chính là nghĩa đệ của tiểu tướng tên Trát Mộc Hợp. Y là người nhân nghĩa, giỏi dùng binh, tiểu tướng xin Tam vương gia. Lụcvương gia cũng phong cho y một chức quan.

Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp là bạn bè chơi nhau từ thuở còn để chỏm, lúc hai người kết nghĩa anh em Thiết Mộc Chân chỉ mới mười một tuổi Người Mông Cổ gọi anh em kết nghĩa là Kết an đáp, an đáp tức nghĩa huynh, nghĩa đệ.

Tục người Mông Cổ thì lúc kết an đáp phải tặng quà cho nhau. Lúc ấy Trát Mộc Hợp tặng Thiết Mộc Chân một viên đạn đá. Thiết Mộc Chân tặng Trát Mộc Hợp một viên đạn đồng. Đạn là vật người Mông Cổ dùng để ném thỏ, trẻ con thường dùng để ném chơi. Hai người kết nghĩa rồi thì ra sông Cán Nạn đóng băng ném đạn nô đùa. Mùa xuân năm sau, hai người dùng cung gỗ nhỏ bắn tên. Trát Mộc Hợp tặng Thiết Mộc Chân một mũi tên hiệu mà y dùng hai chiếc sừng bò nhỏ khoét lỗ chế thành. Thiết Mộc Chân tặng lại một mũi tên bằng gỗ bách, lại kết bái lần nữa. Khi hai người đã lớn, đều trú ngụ trong bộ tộc của Vương Hãn, vô cùng thán thiết, hàng ngày đua nhau dậy sớm, ai dậy sớm thì dùng chiếc chén ngọc xanh của Vương Hãn uống sữa ngựa. Về sau vợ Thiết Mộc Chân bị bắt.

Vương Hãn cùng Trát Mộc Hợp mang quân giúp y cứu về. Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp tặng vàng ngựa cho nhau, kết bái lần thứ ba. Hai người hàng ngày uống rượu chung một chén, tối đến thường đắp chung một chăn. Về sau vì phải tìm nơi có cỏ và nước bèn suất lãnh người và súc vật chia tay nhau. Thiết Mộc Chân oai danh ngày càng lớn, các bộ tộc dưới quyền Trát Mộc Hợp cũng không ngừng tăng lên, hai người tình nghĩa thủy chung vẫn không giảm, còn hơn anh em ruột. Lúc ấy Thiết Mộc Chân nghĩ mình được vinh phong mà nghĩa đệ chưa được nên mới xin phong chức cho y.

Hoàn Nhan Hồng Hy đã ngà ngà say, thuận miệng nói:

– Mông Cổ đâu có bao nhiêu người, nếu ai cũng được phong chức thì nước Đại Kim ta có thêm bao nhiêu viên quan nữa?

Hoàn Nhan Hồng Liệt liên tiếp đưa mắt ra hiệu cho y, nhưng Hoàn Nhan Hồng Hy không buồn đếm xỉa tới.

Thiết Mộc Chân nghe thấy không vui, nói:

– Nếu vậy đem chức quan của tiểu tướng phong cho y cũng không sao.

Hoàn Nhan Hồng Hy vỗ đùi một cái, cao giọng nói:

– Ngươi coi thường chức quan của Đại Kim à?

Thiết Mộc Chân trợn mắt nhìn lại, đã toan đập bàn đứng dậy nhưng cố nén giận không nói, nhấc chén rượu lên uống một hơi cạn sạch. Hoàn Nhan Hồng Liệt vội nói đùa mấy câu. Khuyên can đôi bên.

Sáng sớm hôm sau. Thiết Mộc Chân dắt bốn con, đem năm ngàn người ngựa đưa Hoàn Nhan Hồng Hy. Hoàn Nhan Hồng Liệt tới sắc phong cho Vương Hãn.

Lúc ấy mặt trời vừa mọc lên chỗ thảo nguyên giáp chân trời. Thiết Mộc Chân lên ngựa, năm ngàn người ngựa đã sắp hàng chỉnh tề trên thảo nguyên. Quân tướng nước Kim thì vẫn ngủ mê mệt trong trướng chưa tỉnh.

Thiết Mộc Chân lúc đầu thấy quân Kim người mạnh ngựa khỏe, binh khí sắc bén, rất có ý kính sợ, đến lúc ấy thấy họ ham mê hưởng lạc, khịt mũi hừ một tiếng, nhìn qua Mộc Hoa Lê hỏi:

– Ngươi thấy quân Kim thế nào?

Mộc Hoa Lê nói:

– Một ngàn quân Mông Cổ chúng ta có thể đánh tan năm ngàn người của họ.

Thiết Mộc Chân cười nói:

– Ta cũng nghĩ thế. Chỉ là nghe nói nước Đại Kim có hơn trăm vạn quân, mà chúng ta chỉ có năm vạn.

Mộc Hoa Lê nói:

– Một trăm vạn quân không thể ra trận hết được. Chúng ta chia nhau tới đánh, hôm nay tiêu diệt mười vạn, ngày mai lại tiêu diệt mười vạn.

Thiết Mộc Chân vỗ vỗ vai y, cười nói:

– Nói tới việc dùng binh thì lời ngươi rất hợp ý ta. Một người nặng hơn trăm cân có thể ăn hết mười con bò béo ngàn cân, chẳng qua không phải ăn trong một ngày thôi.

Hai người cùng bật tiếng cười ha hả.

Thiết Mộc Chân cầm cương ngựa đi thong thả, chợt thấy trên ngựa của con thứ tư là Đà Lôi không có người cười, tức giận hỏi:

– Đà Lôi đâu?

Lúc ấy Đà Lôi mới chín tuổi, tuy còn nhỏ nhưng Thiết Mộc Chân bất kể là dạy con hay luyện binh đều rất nghiêm khắc, người vi phạm quy định quyết không tha thứ. Y cao giọng hỏi, quân tướng người nào cũng nơm nớp lo sợ Đại tướng Bát Nhĩ Hốt là sư phụ của Đà Lôi, thấy Đại hãn trách móc thầm hoảng sợ, nói:

– Thằng nhỏ này trước nay không dám dậy trễ, để tôi đi tìm. Vừa định quay ngựa đi tìm, chợt thấy hai đứa nhỏ nắm tay nhau chạy tới. Một đứa trên đầu đội khăn gấm, chính là con út của Thiết Mộc Chân là Đà Lôi đứa kia là Quách Tĩnh.

Đà Lôi chạy tới trước mặt Thiết Mộc Chân, kêu một tiếng:

– Gia gia!

Thiết Mộc Chân cao giọng nói:

– Bây giờ ngươi mới tới à!

Đà Lôi nói:

– Con vừa cùng Quách huynh đệ kết an đáp ở bờ sông, y tặng con cái này.

Nói xong xòe vật cầm trong tay ra, là một cái khăn lau mồ hôi màu hồng thêu hoa, vốn là của Lý Bình thêu cho con trai. Thiết Mộc Chân nghĩ tới việc mình kết nghĩa với Trát Mộc Hợp lúc nhỏ, trong lòng cảm thấy thương mến, trên mặt lập tức hiện vẻ từ hòa, lại thấy hai đứa nhỏ trước ngựa dáng vẻ ngây thơ, liền dịu giọng nói:

– Thế ngươi tặng y cái gì?

Quách Tĩnh chỉ lên cổ mình nói:

– Cái này!

Thiết Mộc Chân thấy là cái vòng vàng mà con út mình ngày thường vẫn đeo ở cổ cười khẽ một tiếng, nói:

– Hai người các ngươi từ nay trở đi phải tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau.

Đà Lôi và Quách Tĩnh cùng gật đầu vâng dạ.

Thiết Mộc Chân nói:

– Lên ngựa cả đi, thằng nhỏ Quách Tĩnh cũng đi luôn với bọn ta?

Đà Lôi và Quách Tĩnh vô cùng vui vẻ, đều cùng lên ngựa.

Lại chờ thêm hơn nửa giờ anh em Hoàn Nhan Hồng Hy mới chải đầu xong, bước ra khỏi trướng. Hoàn Nhan Hồng Liệt thấy quân Mông Cổ đã xếp hàng chờ từ lâu, vội ra lệnh tập hợp quân sĩ. Hoàn Nhan Hồng Hy thì làm ra vẻ vương tử thượng quốc, rói vài chén rượu uống. ăn điểm tâm xong mới thong thả lên ngựa, lại mất thêm nửa giờ nữa mới tập hợp xong một vạn người ngựa.

Đoàn người đi lên phía bắc, được sáu ngày. Vương Hãn phái con là Tang Côn và nghĩa tử là Trát Mộc Hợp tới nghênh đón. Thiết Mộc Chân nghe báo Trát Mộc Hợp tới vội ra đón. Hai người xuống ngựa ôm chầm lấy nhau, các con của Thiết Mộc Chân cũng đều bước lên bái kiến thúc phụ.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nhìn Trát Mộc Hợp, thấy y vóc dáng cao gầy, trên mép có một hàng ria thưa màu vàng, hai mắt lóng lánh có thần, hiện rõ vẻ tinh khôn mạnh mẽ. Tang Côn thì béo phì trắng trẻo, hẳn là lúc bình thời chỉ lo ăn uống chơi bời, không giống người lớn lên trên sa mạc, lại thấy dáng vẻ y ngạo mạn, không đếm Xỉa gì tới Thiết Mộc Chân, khác hẳn Trát Mộc Hợp rất thân thiết.

Lại đi thêm một ngày, còn cách chỗ Vương Hãn không xa, chợt hai tên quân tiền tiêu của Thiết Mộc Chân phi mau về, báo Phía trước có bộ lạc Nãi Man chặn đường, khoảng ba vạn người.

Hoàn Nhan Hồng Hy nghe dịch lại, giật mình hoảng sợ, vội nói:

– Họ định làm gì?

Quân tiền tiêu nói:

– Có vẻ như muốn đánh nhau với chúng ta.

Hoàn Nhan Hồng Hy nói:

– Họ.., họ.., đúng là có ba vạn người à? Chẳng phải là nhiều hơn chúng ta.., gấp… gấp…

Thiết Mộc Chân không chờ y nói hết câu, nói với Mộc Hoa Lê:

– Ngươi đi hỏi xem.

Mộc Hoa Lê mang theo mười tên thân binh phóng ngựa đi, còn đại đội quân mã dừng lại. Qua một lúc. Mộc Hoa Lê trở về bẩm báo:

– Người Nãi Man nghe nói vương tử nước Đại Kim tới phong quan chức cho Đại hãn cũng muốn được phong. Họ nói nếu không phong thì sẽ bắt hai vị vương tử giam lại, đợi lúc nào nước Đại Kim phong quan chức cho họ mới thả về. Bọn người Nãi Man kia còn nói quan chức của họ phải lớn hơn của Đại hãn Thiết Mộc Chân.

Hoàn Nhan Hồng Hy nghe xong biến sắc nói:

– Quan chức lại có chuyện bắt phong à? Như.., như thế không phải là muốn làm phản sao? Tính thế nào đây?

Hoàn Nhan Hồng Liệt lập tức ra lệnh cho quân tướng nước Kim bày thành trận thế để đề phòng bất trắc.

Trát Mộc Hợp nhìn Thiết Mộc chân nói:

– Ca ca, người Nãi Man thường vẫn cướp súc vật của chúng ta, làm khó chúng ta, hôm nay lại bỏ qua cho họ à? Không biết hai vị vương tử nước Đại Kim có ra lệnh gì không?.

Thiết Mộc Chân nhìn địa hình bốn phía, trong lòng đã có chủ ý, bèn nói:

– Hôm nay phải cho hai vị vương tử của nước Đại Kim được thấy một chút thủ đoạn của anh em ta chứ.

– Rồi hít một hơi dài quát lớn, giơ cao roi ngựa đánh trên không hai cái vút vút hai tiếng, năm ngàn quân Mông Cổ đột nhiên đồng thanh quát lớn:

– Ha, ha, ha!

Anh em Hoàn Nhan bất ngờ, bất giác hoảng sợ nhảy dựng lên. Chỉ thấy phía trước bụi bay mù mịt, quân địch dần dần tới gần, đội tiền tiêu của quân Mông Cổ đã lui về bản trận. Hoàn Nhan Hồng Hy nói:

– Lục đệ, mau sai bọn nhỏ của chúng ta xông lên đi, chứ đám quân Mông Cổ này vô dụng thôi.

Hoàn Nhan Hồng Liệt hạ giọng nói:

– Cứ để họ đánh trận đầu.

Hoàn Nhan Hồng Hy lập tức tĩnh ngộ, gật gật đầu. Quân Mông Cổ đồng thanh quát lớn, nhưng không di động. Hoàn Nhan Hồng Hy nhường mày nói:

– Đám quân Mông Cổ này kêu như bò rống ngựa hí, không biết để làm gì. Cho dù có kêu vang trời dội đất thì chẳng lẽ quân địch lại rút lui sao?

Bác Nhĩ Hốt suất lãnh cánh quân bên trái, nói với Đà Lôi:

– Ngươi theo ta, không được rơi lại phía sau, xem ta giết giặc.

Đà Lôi và Quách Tĩnh theo quân sĩ, cũng rướn cổ quát lớn. Trong khoảnh khắc, trong đám bụi bốc lên quân địch đã xông tới còn cách vài trăm bước, quân Mông Cổ vẫn chỉ quát lớn.

Lúc ấy Hoàn Nhan Hồng Liệt cũng cảm thấy kỳ lạ, thấy quân Nãi Man ào ào xông tới, chỉ sợ phá vỡ hàng trận, bèn quát:

– Bắn tên!

Mấy loạt tên của quân Kim bắn ra, nhưng khoảng cách còn xa, chưa tới hàng đầu tiên của quân địch đã rơi lả tả xuống đất. Hoàn Nhàn Hồng Hy đã dần dần nhìn thấy rõ quân địch, người nào cũng tướng mạo hung dữ, mím môi mím lợi thúc ngựa xông tới, hoảng sợ tim đập thình thịch, quay nhìn Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Chẳng bằng cứ theo ý họ, phong bừa cho một chức quan là xong. Muốn chức lớn thì phong cho chức lớn, có mất đồng nào đâu!

Thiết Mộc Chân đột nhiên vung roi, lại đánh vút vút trên không mấy tiếng, quân Mông Cổ lập tức im bặt, chia thành hai cánh. Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp mỗi người chỉ huy một cánh phóng như bay lên chiếm hai Khu đất cao. Hai người nằm rạp trên yên phi ngựa, lớn tiếng ra lệnh. Quân Mông cổ từng đội từng đội chia nhau tản ra, trong chớp mắt đã chiếm hết các Khu đất cao chung quanh, từ trên đánh xuống, tên đã lắp vào cung, mũi tên đã ngắm sẵn vào quân địch nhưng chưa bắn ra.

Chủ tướng quân Nãi Man thấy tình hình bất lợi bèn kéo quân mã đánh lên khu đất cao. Quân Mông Cổ dựng lá chắn mềm lên, là mấy lớp nệm mềm lông dê chế thành dùng để đỡ tên. Quân cung tiễn núp sau lá chắn phát tên, quân Mông Cổ ở các khu đất cao bên cạnh cũng bắn qua chi viện, đánh vào hai cánh tả hữu của quân địch. Quân Nãi Man phi ngựa khắp nơi, nhất thời lập tức tan vỡ.

Thiết Mộc Chân đứng trên khu đất cao bên trái quan sát chiến trường, thấy quân địch đã rối loạn, liền quát lớn:

– Giả Lặc Mễ, tấn công vào hậu đội của chúng!

Giả Lặc Mễ tay cầm đại đao dẫn một ngàn quân từ trên cao đánh thẳng xuống, cắt đứt đường rút lui của quân địch. Triết Biệt cầm trường mâu, giục ngựa xông lên trước. Y mới về theo Thiết Mộc Chân, quyết ý chém tướng lập công để báo đáp ơn Đại hãn tha chết, cúi người trên lưng ngựa xông thẳng vào trận quân địch.

Hai viên dũng tướng xung đột một trận, hậu quân Nãi Man lập tức đại loạn, tiền quân cũng quân tâm dao đông. Viên chủ tướng đang do dự chưa quyết. Trát Mộc Hợp và Tang Côn đã dẫn quân xông xuống. Quân Nãi Man hai bên đều bị tấn công, đánh nhau không bao lâu lập tức tan vỡ, chủ tướng quay ngựa tháo chạy, quân sĩ cũng nhao nhao theo đường cũ chạy về. Giả Lặc Mễ kìm quân lại không đuổi theo, cho đại bộ phận quân địch chạy qua, đợi khi còn khoảng hơn hai ngàn người mới quát lớn xông ra, chắn ngang đường lui. Tàn quân Nãi Man rơi vào vòng vây, không còn đường chạy, ai liều mạng ra sức chống cự đều bị giết chết, số còn lại ném cung xuống ngựa, bỏ thương đầu hàng.

Trận ấy giết hơn một ngàn quân địch, bắt sống hơn hai ngàn người. Quân Mông Cổ chỉ bị thương vong hơn một trăm người.

Thiết Mộc Chân hạ lệnh lột áo giáp của quân Nãi Man, chia hơn hai ngàn hàng binh cả người lẫn ngựa làm bốn phần, giao cho anh em Hoàn Nhan một phần, nghĩa phụ Vương Hãn một phần, nghĩa đệ Trát Mộc Hợp một phần, mình lấy một phần. Phàm những quân sĩ Mông Cổ chết trận thì mỗi nhà được cấp năm con ngựa, năm tên tù binh làm nô lệ.

Hoàn Nhan Hồng Hy lúc ấy mới bình tĩnh lại, cao hứng hùng hổ không ngớt lời bình phẩm về trận đánh vừa rồi, cười nói:

– Lục đệ, họ muốn đòi chức quan thì chúng ta phong cho họ một chức Bại bắc đào mệnh Chiêu thảo sứ là được!

Nói xong ôm bụng cười sằng sặc.

Hoàn Nhan Hồng Liệt thấy Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp lấy ít thắng nhiều, thắng trận này vô cùng vinh quang, bất giác trong lòng hoảng sợ nghĩ thầm: Hiện nay các bộ tộc ở phương bắc chém giết lẫn nhau nên biên giới phía bắc của ta mới được bình yên vô sự. Nếu Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp thống lĩnh các bộ tộc ở nam bắc sa mạc thì từ nay trở đi nước Đại Kim sẽ không được yên ổn nữa rồi. Lại thấy một vạn quân Kim của mình thủy chung chưa đánh nhau nhưng lúc ngăn chặn đội tiên phong của quân Nãi Man thì trận thế đã có vẻ rối loạn, quân sĩ đều có dáng sợ hãi, có thể nói gươm giáo chưa chạm nhau nhưng thắng bại đã thấy rõ, người Mông Cổ hùng mạnh như thế, quả thật là mối lo ở sa mạc. Đang suy nghĩ chợt phía trước bụi bay mù mịt, lại có một đội quân mã kéo tới.

Hồi 04: Hắc Phong song sát

Hoàn Nhan Hồng Hy cười nói:

– Được, đánh cho chúng thêm trận nữa.

Nào ngờ quân tiền tiêu Mông Cổ về báo Vương Hãn đích thân tới đây đón tiếp hai vị vương tử của nước Đại Kim, Thiết Mộc Chân, Trát Mộc Hợp, Tang Côn ba người vội vàng ra đón.

Trong đám bụi một đội quân mã ào ào kéo tới. Giữa mấy trăm thân binh hộ vệ, Vương Hãn phóng ngựa tới trước mặt, nhảy xuống ngựa cầm tay Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp rồi tới trước ngựa anh em Hoàn Nhan quỳ xuống làm lễ. Chỉ thấy y thân thể to béo, râu tóc bạc trắng, mặc áo trường bào lông hắc điêu thắt đai lưng vàng, thần thái rất oai nghiêm. Hoàn Nhan Hồng Liệt vội xuống ngựa đáp lễ còn Hoàn Nhan Hồng Hy thì lại chỉ ngồi trên lưng ngựa ôm quyền vái một cái.

Vương Hãn nói:

– Tiểu nhân nghe quân Nãi Man muốn vô lễ, chỉ sợ làm kinh động hai vị vương tử vội mang quân tới, may mà nhờ oai phong của hai vị điện hạ, ba đứa con của tôi đã đánh lui được họ rồi.

Kế đích thân mở đường, cung cung kính kính đưa anh em Hoàn Nhan Hồng Hy về trướng của y. Chỉ thấy trong trướng trải đầy da điêu da chồn, đồ dùng hoa lệ quý giá, ngay đám thân binh vệ sĩ cũng ăn mặc đẹp đẽ hơn cả Thiết Mộc chân, còn cha con y thì không cần phải nói. Trong vòng vài dặm quanh trướng, tiếng tù và vang lên không ngớt, người reo ngựa hí, quang cảnh rất náo nhiệt, anh em Hoàn Nhan từ lúc ra khỏi Trường thành mới được thấy lần đầu.

Phong tước xong, chiều hôm ấy Vương Hãn mở tiệc lớn khoản đãi anh em Hoàn Nhan. Một đám nữ nô dâng lời ca điệu múa trước mặt quý khách, rộn rã phi thường, so với lối khoản đãi thô hào của Thiết Mộc Chân thì cách xa trời vực. Hoàn Nhan Hồng Hy vô cùng cao hứng, vừa ý hai nữ nô, trong lòng chỉ nghĩ cách làm sao mở miệng đòi Vương Hãn.

Rượu đã ngà ngà, Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Lão anh hùng oai danh vang dội, chúng tôi ở Trung đô cũng nghe thấy, chuyện đó không cần nói. Nhưng những người trẻ tuổi nổi tiếng anh hùng hảo hán trong quân Mông Cổ, tôi cũng muốn gặp mặt.

Vương Hãn cười nói:

– Mấy đứa con nuôi của tôi đây chính là những anh hùng hảo hán nổitiếng nhất trong quân Mông Cổ.

Con Vương Hãn là Tang Côn ngồi cạnh nghe thấy rất không vừa ý, không ngừng từng chén từng chén lớn uống cạn.

Hoàn Nhan Hồng Liệt thấy y có vẻ tức giận, bèn nói:

– Lệnh lang lại càng là nhân vật anh hùng, sao lão anh hùng không nói tới?

Vương Hãn cười nói:

– Lão hán chết rồi thì tự nhiên là y sẽ thống lĩnh bộ chúng. Nhưng y làm sao bằng được hai vị nghĩa huynh chứ? Trát Mộc Hợp túc trí đa mưu. Thiết Mộc Chân dũng mãnh vô song, họ có thể tay không đánh khắp thiên hạ. Các hảo hán người Mông Cổ ai mà không vâng lệnh họ?

Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Chẳng lẽ tướng sĩ của lão anh hùng lại không bằng bộ hạ của Đại hãn Thiết Mộc Chân?

Thiết Mộc Chân thấy lời lẽ của y có ý khích bác, bèn nhìn y một cái, trong lòng cảm thấy khó chịu.

Vương Hãn vuốt râu không nói gì, uống một hớp rượu rồi thong thả nói:

– Lần trước quân Nãi Man cướp của ta mấy vạn sức vật, toàn nhờ Thiết Mộc Chân phái tứ kiệt của y tới giúp mới cướp lại được. Quân tướng của y tuy không đông nhưng người nào cũng kiêu dũng. Trận đánh hôm nay hai vị điện hạ đã thấy rồi đấy.

Tang Côn mặt lộ vẻ giận dữ, dằn cái chén vàng xuống bàn một cái. Thiết Mộc Chân vội nói:

– Con có tài năng gì đâu? Con mà có được ngày hôm nay là toàn nhờ nghĩa phụ giúp cho.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Còn tứ kiệt là những vị nào vậy? Ta muốn gặp họ.

Vương Hãn nói với Thiết Mộc Chân:

– Ngươi gọi họ vào trướng đi!

Thiết Mộc Chân khẽ vỗ tay một cái, bốn viên đại tướng từ ngoài bước vào. Người đi đầu tướng mạo văn nhã, sắc mặt trắng bệch, là Mộc Hoa Lê giỏi dùng binh. Người thứ hai thân thể cao lớn, ánh mắt như chim ưng, là Bác Nhĩ Truật bạn thân của Thiết Mộc Chân. Người thứ ba thấp nhỏ khỏe mạnh, bước đi lanh lẹ, chính là Bác Nhĩ Hốt, sư phụ của Đà Lôi. Người thứ tư mặt đầy vết sẹo, sắc đỏ như máu, là Xích Lão Ôn năm xưa cứu mạng Thiết Mộc Chân. Bốn người này về sau trở thành bốn đại công thần khai quốc của Mông Cổ, lúc bấy giờ Thiết Mộc Chân gọi là tứ kiệt.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nhìn thấy, khen ngợi mỗi người vài câu, ban cho mỗi người một chén rượu lớn. Đợi họ uống xong, Hoàn Nhan Hồng Liệt lại nói:

– Hôm nay trên trận có một vị tướng áo đen xung phong hãm trận không ai chống được, là ai thế?

Thiết Mộc Chân nói:

– Đó là một viên Thập phu trưởng tiểu tướng mới thu nhận, mọi người đều gọi y là Triết Biệt.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nói:

– Cũng gọi y vào uống một chén đi.

Thiết Mộc Chân bèn truyền lệnh ra ngoài. Triết Biệt vào trướng, tạ ơn ban rượu, đang nâng chén định uống thì Tang Côn kêu lên:

– Một gã Thập phu trưởng hèn mạt như ngươi lại dám uống rượu bằng chén vàng của ta à?

Triết Biệt vừa sợ vừa giận, dừng lại không uống, nhìn qua Thiết Mộc Chân. Tập tục của người Mông Cổ thì cản trở người khác uống rượu là hạ nhục rất lớn, huống chi đây là chỗ bao nhiêu người nhìn thấy, bảo người ta làm sao nhịn được?

Thiết Mộc Chân nghĩ thầm:”Nể mặt nghĩa phụ, mình cứ nhường Tang Côn một lần”, bèn nói với Triết Biệt:

– Mang qua đây cho ta uống!

Rồi đón lấy cái chén vàng trong tay Triết Biệt ngửa cổ uống một hơi cạn sạch. Triết Biệt tức giận nhìn Tang Côn một cái rồi sải chân bước ra ngoài.

Tang Côn quát:

– Ngươi quay lại đây!

Triết Biệt không đếm xỉa gì tới, ngẩng đầu đi thẳng. Tang Côn gặp chuyện bực mình, nói:

– Tuy nghĩa huynh Thiết Mộc Chân có tứ kiệt nhưng ta chỉ bỏ ra một vật cũng có thể một miếng nuốt sống tứ kiệt.

Nói xong khà khà cười nhạt. Y gọi Thiết Mộc Chân là nghĩa huynh vì Thiết Mộc Chân nhận cha y là Vương Hãn làm nghĩa phụ, chứ y và Thiết Mộc Chân thì chưa hề kết an đáp. Hoàn Nhan Hồng Hy nghe y nói thế, ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì mà lợi hại thế? Thật đáng ngạc nhiên.

Tang Côn nói:

– Chúng ta ra ngoài trướng xem.

Vương Hãn nói:

– Đang uống rượu ngon miệng, ngươi lại muốn giở trò gì thế?

Hoàn Nhan Hồng Hy thì chỉ muốn xem nhiệt náo, bèn nói:

– Uống rượu buồn quá, xem cái khác cũng hay.

Nói xong đứng lên bước ra ngoài trướng. Mọi người chỉ đành bước ra theo.

Quân sĩ Mông Cổ ngoài trướng đã đốt mấy trăm đống lửa lớn đang hội họp uống rượu, thấy các Đại hãn bước ra, chỉ nghe rầm rập một tràng, quân sĩ phía tây đồng loạt đứng lên, đứng ngay ngắn chỉnh tề không động đậy, đó chính là bộ thuộc của Thiết Mộc Chân. Bộ tướng sĩ tốt của Vương Hãn phía đông cũng nhao nhao đứng lên, nhưng người trước kẻ sau, có người còn cúi đầu cười nói với nhau. Hoàn Nhan Hồng Liệt nhìn thấy hết, nghĩ thầm:

– Binh tướng của Vương Hãn tuy nhiều nhưng kém xa của Thiết Mộc Chân.

Dưới ánh lửa Thiết Mộc Chân thấy mặt Triết Biệt đầy vẻ tức giận, bèn gọi:

– Mang rượu tới đây!

Tùy tùng dâng lên một bầu rượu lớn. Thiết Mộc Chân đón lấy bầu rượu lớn tiếng nói:

– Hôm nay chúng ta đánh quân Nãi Man đại bại, mọi người đều vất vả.

Các tướng sĩ đồng thanh đáp:

– Là nhờ Đại hãn Vương Hãn, Đại hãn Thiết Mộc Chân, Đại hãn Trát Mộc Hợp chỉ huy.

Thiết Mộc Chân nói:

– Hôm nay ta thấy một người đặc biệt dũng cảm, xung đột trong hậu quân của quân địch đánh ra đánh vào ba lần liên tiếp, bắn chết mười mấy tên địch, người đó là ai?

Quân sĩ kêu lên:

– Thập phu trưởng Triết Biệt.

Thiết Mộc Chân nói:

– Cái gì mà Thập phu trưởng? Là Bách phu trưởng.

Mọi người đều ngạc nhiên, kế đó lập tức hiểu ý, hò reo vang dậy:

– Triết Biệt là dũng sĩ, đâu chỉ đáng là Bách phu trưởng!

Thiết Mộc Chân nói với Giả Lặc Mễ:

– Đưa mũ trụ cho ta!

Giả Lặc Mễ hai tay dâng lên. Thiết Mộc Chân đưa tay đón lấy giơ cao lên gọi:

– Đây là mũ trụ ta đội lúc giết giặc, bây giờ trao cho dũng sĩ làm chén rượu!

Rồi mở nút bầu trút rượu vào mũ trụ, uống một hớp rồi đưa qua cho Triết Biệt. Triết Biệt vô cùng cảm kích, quỳ một chân xuống, đón lấy uống mấy hớp cạn sạch, hạ giọng nói:

– Dù cho là chén bảo thạch nạm vàng quý nhất thiên hạ cũng không bằng mũ trụ của Đại hãn.

Thiết Mộc Chân cười khẽ một tiếng, đón lấy mũ trụ đội lên đầu. Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm:

– Thiết Mộc Chân quả là hào kiệt. Lúc này mà y bảo Triết Biệt chết một vạn lần thì người kia cũng vui lòng. Các đại thần trong triều cứ nói người Man ở phương Bắc đều là bọn không có đầu óc, quả là khinh người quá đáng.

Hoàn Nhan Hồng Hy chỉ nghĩ tới việc Tang Côn muốn nuốt sống tứ kiệt. Y ngồi xuống một cái ghế da hổ do tùy tùng đưa tới, hỏi:

– Tang Côn! Ngươi có cái gì lợi hại có thể một miếng nuốt sống tứ kiệt thế?

Tang Côn cười khẽ một tiếng, hạ giọng nói:

– Mời điện hạ xem một trò vui. Cái gì mà tứ kiệt oai chấn đại mạc, quá nửa đều không bằng hai con vật của tôi.

Rồi lớn tiếng gọi:

– Tứ kiệt của nghĩa huynh Thiết Mộc Chân đâu?

Bọn Mộc Hoa Lê bốn người bước vào khom lưng làm lễ. Tang Côn quay đầu hạ giọng nói với người thân tín của mình vài câu, người ấy vâng dạ bước ra. Qua một lúc chợt nghe một tràng tiếng mãnh thú gầm thét, phía sau trướng đưa lên hai con kim tiền báo lớn toàn thân phủ lông gấm vàng rực. Trong bóng đêm chỉ thấy mắt báo ngời ngời như bốn đĩa đèn dầu xanh biếc, từ từ tới gần. Hoàn Nhan Hồng Hy giật nảy mình, đưa tay nắm chặt cán bội đao.

Khi hai con báo tới gần chỗ có đèn lửa mới nhìn thấy cổ báo có đeo vòng da, mỗi con do hai đại hán dắt. Trong tay mỗi đại hán đều cầm roi dài, vốn là báo phu chăm sóc và cho báo ăn. Người Mông Cổ thích nuôi báo để đi săn, báo săn không những phóng mau hơn chó mà còn hung dữ phi thường, những con vật bị săn chống lại là lập tức bị giết chết. Có điều nuôi báo tốn rất nhiều thức ăn, nếu không phải là bậc vương công tử trưởng quý tộc thì người thường tự nhiên không nuôi nổi. Hai con báo này của Tang Côn tuy bị báo phu cầm dây da giữ lại nhưng vẫn nhe nanh múa vuốt, mắt lộ hung quang, chồm bên này lồng bên kia, bắp thịt toàn thân như ẩn chứa sức mạnh phi thường, chỉ chờ dịp phát tiết.

Hoàn Nhan Hồng Hy trong lòng run sợ, co rúm người lại, nghĩ hai con báo này dữ tợn hung hăng như thế, nếu chúng giật ra khỏi sợi dây trong tay báo phu thì quả là việc rất dễ dàng.

Tang Côn nói với Thiết Mộc Chân:

– Nghĩa huynh, nếu tứ kiệt của ngươi quả thật là anh hùng hảo hán, có thể tay không đánh chết hai con báo săn này của ta, thì ta mới phục ngươi.

Tứ kiệt nghe thấy ai cũng nổi giận, đều nghĩ thầm:

– Ngươi làm nhục Triết Biệt, lại còn làm nhục bọn ta. Bọn ta là heo rừng hay sói rừng mà bắt bọn ta đánh nhau với báo săn của ngươi.

Thiết Mộc Chân cũng rất không vui, nói:

– Ta quý tứ kiệt như tính mạng, làm sao có thể để họ đánh nhau với báo.

Tang Côn hô hô cười lớn, nói:

– Thế à? Vậy thì có gì là anh hùng hảo hán chứ? Đấu với hai con báo của ta mà cũng không dám.

Xích Lão ôn trong tứ kiệt tính nóng như lửa, khoa chân bước lên một bước, nói với Thiết Mộc Chân Đại hãn:

– Chúng tôi bị người ta chế nhạo cũng không sao, nhưng không thể để người mất mặt được. Tôi xin đánh nhau với chúng.

Hoàn Nhan Hồng Hy cả mừng rút một chiếc nhẫn khảm bảo thạch màu hồng ra ném xuống đất, nói:

– Chỉ cần ngươi đánh thắng con báo thì cái này là của ngươi.

Xích Lão Ôn không thèm nhìn tới, sấn lên phía trước. Mộc Hoa Lê vươn tay kéo y lại, quát:

– Chúng ta oai chấn đại mạc là nhờ giết được nhiều kẻ địch. Báo đâu có thể chỉ huy quân đội, mai phục bao vây quân địch chứ?

Thiết Mộc Chân nói:

– Nghĩa huynh Tang Côn, ngươi thắng rồi.

Rồi khom người nhặt chiếc nhẫn khảm bảo thạch đặt vào tay Tang Côn.Tang Côn ướm ướm chiếc nhẫn vào ngón tay, buông tiếng cười dài, giơ giơ bàn tay đeo nhẫn lên nhìn nhìn chung quanh. Tướng sĩ bộ thuộc của Vương Hãn cất tiếng hoan hô vang dậy. Trát Mộc Hợp thì cau mày không nói gì.

Thiết Mộc Chân thì thần sắc vẫn thản nhiên, tứ kiệt căm tức lui ra. Hoàn Nhan Hồng Hy thấy cuộc đấu giữa người và báo không thành vô cùng cụt hứng, bèn đòi Vương Hãn giao cho hai nữ nô, bước vào trong trướng.

** *

Sáng sớm hôm sau, Đà Lôi và Quách Tĩnh hai đứa cầm tay nhau ra ngoài dạo chơi, chạy đông chạy tây, dần dần rời khỏi doanh trại khá xa, đột nhiên có một con thỏ trắng phóng qua cạnh hai đứa. Đà Lôi rút bộ cung tên nhỏ ra, vù một tiếng bắn trúng bụng con thỏ. Nó tuổi nhỏ sức yếu, nên tuy bắn trúng nhưng không trí mạng, con thỏ trắng mang cả tên chạy, hai đứa reo hò ầm ĩ, co cẳng đuổi theo.

Con thỏ chạy được một lúc, rốt lại cũng ngã lăn ra, hai đứa đồng thanh reo mừng, đang định tới bắt lấy, chợt trong khu rừng bên cạnh có bảy tám đứa trẻ chạy ra. Một đứa khoảng mười một mười hai tuổi nhanh tay lẹ mắt vồ một cái chụp được con thỏ nhấc lên, rút mũi tên quăng xuống đất, trừng mắt nhìn Đà Lôi và Quách Tĩnh một cái rồi ôm con thỏ quay người bỏ đi.

Đà Lôi kêu lên:

– Này, con thỏ là do ta bắn chết, ngươi mang đi đâu thế?

Đứa trẻ kia quay người lại cười nói:

– Ai nói ngươi bắn chứ?

Đà Lôi nói:

– Mũi tên kia không phải là của ta sao?

Đứa trẻ kia đột nhiên lông mày dựng ngược, hai mắt mở to, quát lên:

– Thỏ này là của ta nuôi, không bắt ngươi đền là may lắm rồi!

Đà Lôi nói:

– Ngươi nói bậy, rõ ràng là thỏ rừng mà.

Đứa trẻ kia lại càng hung hăng, sấn tới chỉ vào mặt Đà Lôi nói:

– Ngươi mắng ai? Ông nội ta là Vương Hãn, cha ta là Tang Côn, ngươi biết không? Cứ cho là do ngươi bắn đi, nhưng ta lấy thì sao nào?

Đà Lôi ngạo nghễ đáp:

– Cha ta là Thiết Mộc Chân đấy!

Đứa trẻ kia nói:

– Phì, Thiết Mộc Chân thì sao? Cha ngươi hèn nhát, sợ ông nội ta sợ cả cha ta.

Đứa trẻ ấy tên Đô Sử, là con một của Tang Côn. Tang Côn sau khi sinh được một con gái, nhiều năm sau mới sinh được đứa con trai này, ngoài ra không có con trai nào khác nên vô cùng yêu chiều, để nó mặc ý rông càn ngang ngược. Thiết Mộc Chân xa cách Vương Hãn, Tang Côn đã lâu, con đôi bên tuy có gặp nhau lúc còn nhỏ nhưng lúc ấy thì đã không còn nhớ nữa.

Đà Lôi nghe nó chửi mắng cha mình, vô cùng căm tức, ngang nhiên nói:

– Ai nói thế chứ? Cha ta chẳng sợ ai cả!

Đô Sử nói:

– Mẹ ngươi bị người ta bắt đi đều là nhờ ông nội và cha ta cướp lại cho cha ngươi, tưởng ta không biết à? Ta lấy con thỏ chút xíu này thì có gì quan trọng?

Năm xưa Vương Hãn giúp đỡ nghĩa tử việc ấy. Tang Côn đố kỵ oai danh của Thiết Mộc Chân nên thường khoe khoang, ngay con trai y cũng nhiều lần nghe thấy.

Đà Lôi một là tuổi còn nhỏ, hai là vì Thiết Mộc Chân cho rằng đó là chuyện nhục nhã lớn trong đời nên không kể lại cho con biết. Lúc ấy Đà Lôi nghe thấy, giận xanh cả mặt, tức giận quát:

– Ngươi nói bậy! Ta mách cha ta cho mà xem.

Rồi quay người chạy đi. Đô Sử ha hả cười lớn, gọi theo:

– Cha ngươi sợ cha ta, ngươi mách thì làm được gì! Tối hôm qua cha ta thả hai con báo ra, tứ kiệt của cha ngươi cũng sợ không dám động đậy.

Trong tứ kiệt có Bác Nhĩ Hốt là sư phụ Đà Lôi, khiến Đà Lôi nghe thế lại càng tức giận, lắp ba lắp bắp nói:

– Sư phụ ta thì ngay hổ cũng không sợ, lại sợ báo à? Chỉ là y không muốn đánh nhau với thú rừng thôi.

Đô Sử bước lên hai bước đột nhiên vung tay tát một cái, đánh trúng mặt Đà Lôi, thét lên:

– Ngươi còn bướng à? Ngươi có sợ ta hay không?

Đà Lôi sửng sốt, hai má đỏ bừng lên, muốn khóc mà cố nín. Quách Tĩnh đứng cạnh tức giận đã lâu, lúc ấy không nhịn được nữa, hừ một tiếng, đột nhiên xông tới húc đầu vào bụng Đô Sử. Đô Sử bất ngờ, bị húc trúng bụng ngã ngửa ra đất. Đà Lôi vỗ tay cười nói:

– Hay lắm!

Rồi kéo tay Quách Tĩnh quay người bỏ chạy. Đô Sử tức giận quát:

– Đánh chết hai thằng tiểu tử này cho ta.

Bọn trẻ cùng đi với Đô Sử đuổi theo, đôi bên xúm vào nhau đấm đá túi bụi. Đô Sử bò dậy, hung hăng nhảy vào vòng chiến. Đô Sử lớn hơn, nhân số lại đông, trong chớp mắt đã đè Đà Lôi và Quách Tĩnh ra đất. Đô Sử không ngừng đấm mạnh xuống lưng Quách Tĩnh, quát:

– Đầu hàng thì ta tha cho!

Quách Tĩnh hết sức vùng dậy nhưng bị đè xuống không cựa quậy được, bên kia Đà Lôi cũng bị hai đứa trẻ hợp sức đè xuống đất đánh túi bụi. Đang còn giằng co chưa ngã ngũ, chợt sau núi có tiếng nhạc ngựa khua vang, một đội người ngựa phóng tới. Người đi đầu thân thể béo lùn cưỡi một con hoàng mã, nhìn thấy đám trẻ đánh nhau, cười nói:

– Hay lắm, cũng biết đánh nhau à?

Rồi giục ngựa tới gần, thấy bảy tám đứa lớn đánh hai đứa trẻ, hai đứa trẻ bị đè sát xuống đất đánh cho đến nỗi mắt mũi sưng vù bầm tím, bèn quát:

– Không biết xấu hổ à? Buông tay ra ngay!

Đô Sử chửi:

– Cút đi! Đừng múa mép ở đây. Các ngươi biết ta là ai không? Ta muốn đánh người, không ai quản được cả.

Cha nó là quân trưởng hùng thị phương Bắc, nó kiêu căng đã quen, trước nay mọi người đều phải nhường nhịn nó.

Người cưỡi con hoàng mã mắng:

– Thằng tiểu tử này ngang tàng thật, buông tay ra ngay!

Lúc ấy những người còn lại cũng đã tới. Một cô gái nói:

– Tam ca, đừng dính vào chuyện không đâu, đi thôi.

Người cưỡi ngựa vàng nói:

– Cô nhìn xem. Đánh nhau thế này thì còn ra thể thống gì nữa?

Mấy người ấy chính là Giang Nam thất quái. Họ từ Nam lên Bắc đuổi theo Đoàn Thiên Đức tới sa mạc, sau đó lại không có tin tức gì. Hơn sáu năm nay họ tìm tung tích Đoàn Thiên Đức và Lý Bình khắp cả vùng sa mạc, thảo nguyên. Bảy người đều học được tiếng Mông Cổ, nhưng hai người Đoàn Lý thủy chung vẫn biệt vô âm tín. Giang Nam thất quái tính tình cương cường, lại thêm mười phần hiếu thắng, đã đánh cuộc với Khưu Xứ Cơ thì đừng nói chỉ là tìm một người đàn bà, mà cho dù có, vất vả gấp mười, nguy hiểm gấp muôn lần họ cũng quyết không thể bỏ ngang. Thất quái người nào cũng suy nghĩ như nhau, nếu vĩnh viễn không tìm được Lý Bình cũng phải tìm đủ mười tám năm mới thôi, lúc ấy sẽ trở lại lầu Túy Tiên phủ Gia Hưng nhận thua với Khưu Xứ Cơ. Huống chi Khưu Xứ Cơ cũng chưa chắc đã tìm được Bao thị vợ Dương Thiết Tâm. Nếu đôi bên đều không tìm được thì kể như hòa, lại tìm đề mục khác để tỷ thí cũng chẳng sao.

Hàn Tiểu Oanh nhảy xuống ngựa, kéo hai đứa trẻ ngồi trên lưng Đà Lôi ra, nói:

– Hai đứa lớn đánh một đứa nhỏ thì không được!

Đà Lôi trên lưng chợt nhẹ bỗng, bèn nhảy ngay dậy. Đô Sử sửng sốt, Quách Tĩnh lật mạnh người lại đánh mạnh vào bụng nó một cái. Hai đứa đã thoát thân, co cẳng bỏ chạy.

Đô Sử kêu lên:

– Đuổi theo, đuổi theo!, rồi dẫn đầu đám trẻ con đuổi theo.

Giang Nam thất quái thấy đám trẻ con Mông Cổ đánh nhau, nhớ lại lúc mình còn nhỏ nghịch ngợm bướng bỉnh đều bất giác mỉm cười. Kha Trấn Ác nói:

– Đi mau lên, nếu chợ phía trước tan rồi sẽ không hỏi được ai đâu.

Lúc ấy bọn Đô Sử đã đuổi kịp Quách Tĩnh và Đà Lôi, bao vây bốn phía. Đô Sử quát:

– Có đầu hàng hay không?

Đà Lôi mặt đầy vẻ tức giận, lắc đầu không đáp. Đô Sử nói:

– Đánh!

Bọn trẻ con nhất tề ùa vào. Đột nhiên ánh hàn quang chớp lên. Quách Tĩnh trong tay đã cầm một thanh chủy thủ gầm lớn:

– Đứa nào dám xông vào?

Nguyên là Lý Bình thương con, đưa thanh kiếm chồng để lại cho con, bảo nó mang trong người. Nàng nghĩ bảo vật có thể trừ tà, vốn là để bảo vệ con không bị tà ma xâm phạm. Lúc ấy Quách Tĩnh bị bức bách quá đáng, bèn rút ngọn chủy thủ ra.

Bọn Đô Sứ thấy nó cầm binh khí, nhất thời cũng không dám xông vào động thủ. Diệu thủ thư sinh Chu Thông đã giật cương phóng ngựa đi, chợt nhìn thấy ngọn chủy thủ lóe sáng dưới ánh nắng, lóng lánh lạ thường, bất giác giật mình. Y nhất sinh thường trộm cắp của quan lại nhà giàu, hiểu biết về bảo vật rất rộng rãi, nghĩ thầm ánh sáng này không phải tầm thường, phải nhìn xem là bảo bối gì.

Lập tức giật ngựa quay lại, chỉ thấy một đứa trẻ cầm một ngọn chủy thủ trong tay. Ngọn chủy thủ ấy lấp lánh ánh sáng màu xanh, lóng la lóng lánh, rõ ràng là binh khí sắc bén mười phần quý báu, không biết tại sao lại nằm trong tay đứa trẻ này. Lại nhìn tới bọn trẻ thì ngoài Quách Tĩnh ra đều mặc áo ngắn lông điêu quý báu, mà Quách Tĩnh thì trên cổ đeo một cái vòng vàng chạm khắc tinh xảo, xem ra cũng là con em của tù trưởng Mông Cổ.

Chu Thông nghĩ thầm:

– Chắc là thằng nhỏ này lấy trộm bảo đao của cha nghịch ngợm. Vật của vương công tù trưởng, có lấy cũng không hề gì.

Lúc ấy đã nảy ý muốn cướp, bèn cười hề hề xuống ngựa, nói:

– Mọi người đừng đánh nhau, đùa đùa một chút thôi thì được.

Câu nói vừa dứt đã nghiêng người xông vào vòng vây của đám trẻ, vươn tay cướp lấy thanh chủy thủ. Y sử dụng tuyệt kỹ võ công Không thủ nhập bạch nhận, đừng nói một đứa trẻ như Quách Tĩnh, cho dù là một người lớn võ nghệ tinh thâm, chỉ cần không phải là bậc cao thủ mà gặp phải vị Diệu thủ thư sinh này cũng đừng hòng giữ được binh khí trong tay.

Chu Thông vừa cầm được ngọn chủy thủ, quay người bỏ chạy, nhảy lên dưng ngựa hô hô cười lớn, giật cương thúc ngựa phi thẳng một mạch đuổi theo mọi người, cười nói:

– Hôm nay may mắn, tự nhiên lại vớ được vật báu.

Tiếu Di đà Trương A Sinh cười nói:

– Cái thói trộm gà bắt chó của Nhị ca vẫn không bỏ được.

Náo thị hiệp ẩn Toàn Kim Phát nói:

– Bảo bối gì vậy đưa tôi xem nào.

Chu Thông giang tay ra ném qua. Chỉ thấy một đạo ánh sáng xanh vạch ra trên không, chớp nắng mặt trời, ánh sáng lóng lánh tựa hồ tạo thành một chiếc cầu vồng nho nhỏ, mọi người đều bật tiếng khen ngợi.

Ngọn chủy thủ bay tới trước mặt, Toàn Kim Phát chỉ cảm thấy một làn hơi lạnh, bèn vươn tay chụp lấy cán kiếm, kêu ngay một tiếng:

– Tốt quá!

Càng nhìn càng không ngừng tắc lưỡi khen ngợi, lại nhìn lên chuôi kiếm thấy khắc hai chữ Dương Khang, bất giác sừng sờ nghĩ thầm:

– Đây là tên người Hán, tại sao lại lưu lạc ở Mông Cổ? Dương Khang à? Dương Khang à? Mình chưa từng nghe nói vị anh hùng nào tên Dương Khang. Nhưng nếu không phải là anh hùng hào kiệt thì làm sao xứng đáng sử dụng binh khí sắc bén thế này?

Rồi kêu lên:

– Đại cạ anh có quen ai tên Dương Khang không?

Kha Trấn Ác nói:

– Dương Khang à?

Trầm ngâm hồi lâu rồi lắc đầu nói:

– Chưa từng nghe qua.

Dương Khang là tên Khưu Xứ Cơ đặt cho đứa con trong bụng Bao Tích Nhược. Dương Quách hai người đổi chủy thủ cho nhau, vì vậy thanh kiếm khắc chữ Dương Khang thì trong tay Lý Bình. Giang Nam thất quái lại không biết chuyện này. Kha Trấn Ác lớn tuổi nhất trong bảy người, là người từng trải nhất, nhưng y đã không biết thì sáu người kia dĩ nhiên càng không biết.

Toàn Kim Phát là người tâm tư tinh tế, nói:

– Khưu Xứ Cơ đi tìm vợ Dương Thiết Tâm, không biết Dương Khang này có quan hệ gì với Dương Thiết Tâm không?

Chu Thông cười nói:

– Nếu chúng ta tìm được vợ Dương Thiết Tâm thì sau này cứ mang lên lầu Túy Tiên, cũng hơn lão đạo sĩ mũi trâu một bậc.

Bảy người vất vả tìm kiếm suất sáu năm trên sa mạc hoàn toàn không có chút manh mối, lúc ấy đột nhiên lại tìm được một chút đầu mối, tuy là rất xa xôi nhưng cũng không chịu bỏ qua. Hàn Tiểu Oanh nói:

– Chúng ta quay lại hỏi thằng nhỏ ấy xem.

Ngựa của Hàn Bảo Câu nhanh hơn, quay đầu trở lại vượt lên, chỉ thấy đám trẻ con đã xúm lại đánh nhau lộn bậy thành một đám. Đà Lôi và Quách Tĩnh lại đã bị đè xuống đất. Hàn Bảo Câu kéo ra không được, nổi nóng túm lấy mấy đứa ném ra một bên.

Đô Sử không dám đánh nữa, chỉ vào mặt Đà Lôi nói:

– Hai con chó con có giỏi thì ngày mai ra đây đánh nhau nữa.

Đà Lôi nói:

– Được, mai sẽ đánh tiếp.

Nó đã tính toán trong lòng, định trở về sẽ nhờ Tam ca Oa Khoát Đài giúp đỡ. Trong ba người anh thì Tam ca đối với nó tử tế nhất, lại rất khỏe mạnh, sáng mai nhất định có thể tới giúp đỡ. Đô Sử bèn dắt bọn trẻ chạy mất.

Quách Tĩnh mặt mũi đầy máu, chìa tay nói với Chu Thông:

– Trả kiếm lại cho ta!

Chu Thông rút chủy thủ ra cầm ở tay, tung tung lên cười nói:

– Trả thì sẽ trả cho ngươi. Nhưng ngươi hãy nói cho ta biết tại sao ngươi có thanh kiếm này?

Quách Tĩnh lấy tay áo lau máu mũi, nói:

– Mẹ tôi cho tôi.

Chu Thông nói:

– Cha ngươi tên gì?

Quách Tĩnh trước nay không có cha, nghe câu ấy chợt sững sờ, chỉ lắc đầu quầy quậy. Toàn Kim Phát nói:

– Ngươi họ Dương phải không?

Quách Tĩnh lại lắc lắc đầu. Thất quái thấy đứa trẻ này đầu óc tối tăm, đều thấy thất vọng. Chu Thông lại hỏi:

– Dương Khang là ai?

Quách Tĩnh vẫn lắc đầu. Giang Nam thất quái rất trọng tín nghĩa, nói ra là làm, tuy đối với một đứa trẻ cũng quyết không bao giờ lừa dối. Chu Thông bèn đưa thanh chủy thủ lại cho Quách Tĩnh. Hàn Tiểu Oanh rút khăn tay ra lau máu cho Quách Tĩnh, dịu dàng nói:

– Về nhà đi, từ nay về sau đừng đánh nhau nữa. Ngươi còn nhỏ, đánh không lại chúng đâu.

Bảy người quay đầu ngựa, phóng mau về phía Đông. Quách Tĩnh ngơ ngác nhìn theo họ, Đà Lôi nói:

– Quách Tĩnh, về thôi.

Lúc ấy bảy người đi được một đoạn, nhưng Kha Trấn Ác rất thính tai, nghe thấy hai chữ Quách Tĩnh giật nảy mình, lập tức kéo cương quay ngựa vòng lại, hỏi:

– Hài tử, ngươi họ Quách à? Ngươi là người Hán, không phải người Mông Cổ phải không?

Quách Tĩnh gật gật đầu. Kha Trấn Ác cả mừng, hỏi dồn:

– Mẹ ngươi tên gì?

Quách Tĩnh đáp:

– Mẹ là mẹ.

Kha Trấn Ác lắc lắc đầu hỏi:

– Ngươi đưa ta tới gặp mẹ ngươi được không?

Quách Tĩnh nói:

– Mẹ không có ở đây.

Kha Trấn Ác nghe giọng nói của nó có ý thù địch, bèn gọi:

– Thất muội, cô tới hỏi nó xem.

Hàn Tiểu Oanh nhảy xuống ngựa, dịu dàng nói:

– Cha ngươi đâu?

Quách Tĩnh nói:

– Cha bị người xấu hại chết rồi, khi nào ta lớn sẽ đi giết người xấu trả thù.

Hàn Tiểu Oanh hỏi:

– Cha ngươi tên gì?

Nàng quá phấn khích, giọng nói cũng run lên. Quách Tĩnh lắc lắc đầu. Kha Trấn Ác hỏi:

– Người xấu hại chết cha ngươi tên gì?

Quách Tĩnh nghiến răng nghiến lợi nói:

– Y… y tên Đoàn Thiên Đức!

Nguyên là Lý Bình ở tại sa mạc xa xôi, biết lúc nào cũng có thể gặp chuyện bất trắc, chuyện mình có thể còn sống mà trở về quê cũ Trung nguyên hay không quả thật rất xa xôi, nếu mình đột nhiên chết đi thì đứa con này ngay cả tên tuổi kẻ thù cũng vĩnh viễn không biết nên đã sớm đem tên tuổi diện mạo Đoàn Thiên Đức kể đi kể lại cho nó nghe. Nàng là một cô gái nhà quê thất học, trước nay chỉ gọi chồng là Khiếu ca, nghe người ngoài gọi y là Quách đại ca, còn tên thật của chồng là gì thì nàng không hề để ý. Quách Tĩnh cũng chỉ biết cha là cha, trước nay không hề biết tới tên khác. Ba chữ “Đoàn Thiên Đức” Quách Tĩnh nói ra cũng không có tiếng vang gì lớn, nhưng đột nhiên truyền vào tai thất quái, bảy người lập tức trợn mắt há miệng, như ba tiếng sét nổ rền giữa trời quang, không có oai lực nào kinh tâm động phách cho bằng. Trong chớp mắt ấy giống như đất chuyển núi nghiêng, gió mây đổi sắc. Qua một lúc, Hàn Tiểu Oanh mới bật tiếng reo lớn, Trương A Sinh đấm ngực thùm thụp, Toàn Kim Phát ôm chặt vai Nam Hy Nhân, Hàn Bảo Câu suýt ngã ngựa, Kha Trấn Ác ôm bụng cười sằng sặc, Chu Thông thì cứ xoay vòng vòng như một con ốc.

Đà Lôi và Quách Tĩnh nhìn thấy bộ dạng họ như thế vừa buồn cười vừa kỳ quái. Qua một hồi lâu Giang Nam thất quái mới dần dần bình tĩnh lại, người nào trên mặt cũng đầy vẻ mừng rỡ. Trương A Sinh quỳ xuống đất không ngừng vái lên trời, miệng cứ ầm rầm:

– Bồ tát linh thiêng, đa tạ trời xanh phù hộ!

Hàn Tiểu Oanh nhìn Quách Tĩnh nói:

– Tiểu huynh đệ chúng ta ngồi xuống đây từ từ nói chuyện.

Đà Lôi trong lòng chỉ muốn đi tìm Tam ca Oa Khoát Đài nhờ giúp đỡ, lại thấy bảy người cử chỉ lời lẽ kỳ quái, nói tiếng Mông Cổ lơ lớ, âm điệu hoàn toàn sai lạc, xem ra không phải là người tốt, tuy mới rồi họ giải vây cho mình nhưng không muốn chần chừ ở đây không ngừng giục Quách Tĩnh về.

Quách Tĩnh nói:

– Tôi phải về thôi.

Rồi kéo tay Đà Lôi, xoay người chạy đi. Hàn Bảo Câu phát hoảng, kêu lên:

– Này, này ngươi không được chạy, cứ để bạn ngươi về trước thôi.

Hai đứa trẻ thấy y hình dáng xấu xí kỳ quái chợt thấy sợ hãi, lập tức bỏ chạy thục mạng. Hàn Bảo Câu sấn lên vươn cánh tay ú nụ ra toan chụp cổ áo Quách Tĩnh kéo lại. Chu Thông kêu lên:

– Tam đệ, đừng nóng nảy! – rồi giơ tay gạt nhẹ tay y.

Hàn Bảo Câu ngạc nhiên dừng tay. Chu Thông gia tăng cước bộ vượt lên chặn trước mặt Đà Lôi và Quách Tĩnh, nhặt ba viên đá dưới đất, cười hì hì nói:

– Ta làm ảo thuật, các ngươi có xem không nào?

Quách Tĩnh và Đà Lôi lập tức thấy hiếu kỳ, bèn dừng lại nhìn nhìn ỵ. Chu Thông xòe tay phải ra, đặt ba viên đá vào lòng bàn tay, quát lớn một tiếng:

– Biến!

Tay nắm lại thành quyền, rồi xòe bàn tay ra một cái, ba viên đá nhỏ đã không thấy đâu nữa. Hai đứa trẻ vô cùng ngạc nhiên. Chu Thông chỉ vào chiếc khăn trên đầu

mình một cái, quát lớn:

– Ra mau!

Rồi lột chiếc khăn xuống thì ba viên đá đang nằm gọn ghẽ trong đó. Quách Tĩnh và Đà Lôi bật tiếng cười rộ, cùng vỗ tay ầm lên. Đúng lúc ấy, xa xa có tiếng chim nhạn kêu vang, một bầy chim hồng nhạn xếp thành hình chữ nhân từ phía Bắc bay xuống. Chu Thông chợt xoay chuyển ý nghĩ, nói:

– Bây giờ chúng ta sẽ tới xin đại ca ta làm phép ảo thuật.

Rồi mò trong bọc lấy ra một chiếc khăn lau mồ hôi đưa cho Đà Lôi, chỉ Kha Trấn Ác nói:

– Ngươi tới bịt mắt ông ta lại.

Đà Lôi theo lời, cầm khăn tới bịt mắt Kha Trấn Ác, cười nói:

– Chơi cút bắt à?

Chu Thông nói:

– Không phải, ngươi bịt kín mắt lại nhưng ông ta vẫn có thể bắn rơi chim nhạn trên không.

Nói xong đưa một bộ cung tên vào tay Kha Trấn Ác. Đà Lôi nói:

– Thế thì làm thế nào mà bắn được? Ta không tin.

Đang lúc trò chuyện, bầy chim nhạn đã bay tới ngang đầu. Chu Thông vung tay ném ba viên đá lên, thủ kình của y rất mạnh, ba viên đá bay lên rất cao. Bầy nhạn giật mình, con nhạn đầu đàn cất tiếng kêu vang, đang định dẫn bầy đổi hướng bay vòng qua một bên. Kha Trấn Ác đã nhận rõ được vị trí, buông cung phát tên, vù một tiếng bắn trúng bụng con nhạn đầu đàn, cả tên lẫn nhạn lập tức rơi xuống.

Đà Lôi và Quách Tĩnh cùng cất tiếng reo lên, chạy tới nhặt con nhạn lớn lên, đưa lại tận tay Kha Trấn Ác, tấm lòng trẻ thơ vô cùng kính phục ngưỡng mộ.

Chu Thông nói:

– Mới rồi bảy tám đứa bọn nó đánh hai người các ngươi, chỉ cần các ngươi học được võ công thì không sợ gì chúng đông người.

Đà Lôi nói:

– Sáng mai chúng tôi sẽ đánh nhau nữa, tôi sẽ gọi thêm anh tôi!

Chu Thông nói:

– Gọi anh giúp à? Hừ, đúng là bọn trẻ con vô dụng. Ta sẽ dạy các ngươi một ít võ nghệ, ngày mai thừa sức đánh thắng bọn nó.

Đà Lôi nói:

– Hai ngươi chúng tôi mà đánh thắng tám người bọn nó à?

Chu Thông nói:

– Đúng thế!

Đà Lôi cả mừng nói:

– Được, vậy thì ông dạy tôi đi!

Chu Thông thấy Quách Tĩnh đứng bên cạnh có vẻ không thích thú, bèn hỏi:

– Ngươi không muốn học à?

Quách Tĩnh nói:

– Mẹ nói không được đánh nhau với người ta, học võ đánh người thì mẹ không thích đâu.

Hàn Bảo Câu khẽ mắng:

– Thằng nhỏ hèn nhát!

Chu Thông lại hỏi:

– Mới rồi tại sao các ngươi đánh nhau thế?

Quách Tĩnh đáp:

– Là bọn nó đánh chúng tôi trước!

Kha Trấn Ác trầm giọng nói:

– Nếu ngươi gặp kẻ thù là Đoàn Thiên Đức thì ngươi tính sao?

Quách Tĩnh đôi mắt nhỏ lóe lên ánh giận dữ, nói:

– Tôi giết y, trả thù cho cha!

Kha Trấn Ác nói:

– Cha ngươi một thân võ nghệ mà còn bị y giết, ngươi không học võ đương nhiên đánh không được y, làm sao trả thù?

Quách Tĩnh ngẩn người đứng ngớ ra không sao trả lời. Hàn Tiểu Oanh nói:

– Bởi thế nên không học võ không được đâu.

Chu Thông chỉ vào dãy núi hoang bên phải, nói:

– Nếu ngươi muốn học võ trả thù thì khuya hôm nay lên đó tìm bọn ta. Có điều ngươi chỉ được tới một mình, ngoài người bạn nhỏ này của ngươi thì không được để người ngoài biết. Ngươi có dám không? Có sợ ma không?

Quách Tĩnh vẫn ngơ ngác không trả lời. Đà Lôi thì nói:

– Ông dạy võ cho tôi đi.

Chu Thông chợt kéo khuỷu tay nó một cái, chân trái móc nhẹ. Đà Lôi ngã ngửa ra đất. Nó lồm cầm bò dậy, giận dữ nói:

– Tại sao ông đánh tôi?

Chu Thông cười nói:

– Đó là võ đấy, ngươi học được chưa?

Đà Lôi vốn rất thông minh lập tức hiểu ra, theo chiêu thức làm qua một lượt rồi nói:

– Ông dạy thêm đi!

Chu Thông đánh nhứ vào mặt nó một quyền. Đà Lôi né sang bên trái, quyền phải của Chu Thông đã đánh tới trúng giữa mũi Đà Lôi, chỉ là một quyền ấy hoàn toàn không dùng sức vừa chạm vào mũi nó đã lập tức rút về.

Đà Lôi cả mừng kêu lớn:

– Hay quá. Ông dạy nữa đi.

Chu Thông chợt khom người xuống đầu vai khẽ huých vào hông nó một cái, Đà Lôi lập tức bị hất tung lên không. Toàn Kim Phát phi thân ra đỡ lấy nó, nhẹ nhàng đặt xuống đất. Quách Tĩnh đang ngơ ngác xuất thần, không biết đang nghĩ ngợi gì, đột nhiên lắc lắc đầu. Thất quái thấy Đà Lôi thông minh lanh lợi như thế, so ra thì Quách Tĩnh càng có vẻ ngu ngốc không bằng, đều không kìm được nỗi buồn bã.

Hàn Tiểu Oanh thở dài một tiếng, mi mắt đỏ lên. Toàn Kim Phát nói:

– Tôi thấy cũng không cần phải phí tâm làm gì. Chỉ cần đưa mẹ con nó về lại Giang Nam giao cho Khưu đạo trưởng. Việc tỷ võ thì chúng ta nhận thua quách cho xong.

Chu Thông nói:

– Thằng nhỏ này tư chất quá kém, không phải là người học võ.

Hàn Bảo Câu nói:

– Nó không có một chút cứng rắn, tôi cũng thấy chẳng ra sao.

Thất quái dùng thổ âm Giang Nam nhao nhao bàn bạc. Hàn Tiểu Oanh xua xua hai đứa trẻ nói:

– Các ngươi đi đi.

Đà Lôi kéo Quách Tĩnh vui vẻ đi về.

Giang Nam thất quái cay đắng sáu năm, bôn ba mấy ngàn dặm trên sa mạc mênh mông, một sớm gặp được Quách Tĩnh vốn là nỗi mừng trên trời rơi xuống, không ngờ chỉ vui vẻ được một lúc đã thấy Quách Tĩnh tư chất mười phần ngu xuẩn, rất khó học được võ công thượng thặng, bất giác lòng như tro nguội.

Chuyện này mới thật là khó chịu, tính lại chẳng bằng không tìm ra Quách Tĩnh còn hơn. Hàn Bảo Câu nhấc roi ngựa lên không ngừng đập xuống mặt cát để trút giận, đánh đến nỗi bụi bốc mù mịt, không chịu dừng tay. Chỉ có Nam Sơn tiểu tử Nam Hy Nhân thủy chung không nói câu nào.

Kha Trấn Ác nói:

– Tứ đệ, ngươi nói thế nào?

Nam Hy Nhân nói:

– Tốt lắm.

Chu Thông nói:

– Cái gì tốt?

Nam Hy Nhân nói:

– Thằng nhỏ ấy tốt lắm.

Hàn Tiểu Oanh vội hỏi:

– Tứ ca cứ cái tính ấy, khó mà cạy miệng được một câu, cũng không chịu nói thêm chữ nào.

Nam Hy Nhân cười khẽ một tiếng, nói:

– Lúc ta nhỏ cũng rất ngu ngốc.

Y trước nay trầm lặng ít nói, câu nào cũng nghĩ ngợi cặn kẽ rồi mới nói ra, nên không nói thì thôi, chứ nói là đúng. Lục quái nghe y nói thế, lập tức như thấy được một tia ánh sáng, đã không còn cúi đầu thở ra như lúc nãy.

Trương A Sinh nói:

– Đúng, đúng! Tôi có thông minh bao giờ đâu? – nói xong liếc Hàn Tiểu Oanh.

Chu Thông nói:

– Cứ xem tối nay nó có dám một mình lên núi không.

Toàn Kim Phát nói:

– Tôi thấy quá nửa là không dám. Để tôi đi tìm chỗ nó ở.

Nói xong nhảy lên ngựa, phóng theo Đà Lôi và Quách Tĩnh, từ xa nhìn thấy hai đứa chạy vào lều Mông Cổ.

***

Đêm ấy thất quái ở lại trên núi hoang, chờ đến giờ Hợi ba khắc, sao Bắc đẩu đã xoay chiều mà vẫn chẳng thấy bóng Quách Tĩnh đâu.

Chu Thông thở dài nói:

– Giang Nam thất quái oai phong một thời, rốt lại lại bị thua dưới tay lão đạo sĩ xấu xa ấy?

Chỉ thấy ở chân trời phía tây mây đen dày đặc đùn lên thành khối, trên đầu là một bầu trời xanh mờ mờ, không có bóng mây nào. Gió Tây bắc lúc thổi lúc dừng, bóng trăng dần dần lên tới giữa trời, quanh vành trăng có một quầng sáng đỏ. Hàn Tiểu Oanh nói:

– Sợ đêm nay có mưa lớn. Nếu mưa thì thằng nhỏ ấy càng không tới.

Trương A Sinh nói:

– Vậy thì sáng mai chúng ta tìm tới chỗ nó.

Kha Trấn Ác nói:

– Tư chất ngu xuẩn cũng không quan trọng. Chỉ là thằng nhỏ ấy hơi nhát gan một chút, hừ!

Nói xong lắc lắc đầu. Bảy người đang than thở, Hàn Bảo Câu đột nhiên a một tiếng, chỉ vào đám cỏ rậm nói:

– Cái gì kia?

Dưới ánh trăng sáng, chỉ thấy trong đám cỏ dày có ba khối màu trắng hình dáng rất kỳ quái. Toàn Kim Phát bước tới xem, chỉ thấy là ba đống đầu lâu nhưng xếp lên nhau rất chỉnh tề ngay ngắn.

Y cười nói:

– Nhất định là bọn trẻ bướng bỉnh kia nghịch ngợm, xếp đầu lâu người ra đây… Ồ, cái gì thế này? Nhị ca lại đây mau!

Mọi người nghe giọng nói của y đột nhiên chuyển sang kinh ngạc, trừ Kha Trấn Ác, năm người kia đều vội chạy tới. Toàn Kim Phát cầm một cái đầu lâu lên đưa Chu Thông, nói:

– Anh nhìn xem này!

Chu Thông nhìn lên tay y, chỉ thấy giữa cái đầu lâu có năm cái lỗ như dùng ngón tay chọc thủng. Y đưa tay sờ một cái, năm ngón tay vừa khớp lọt vào năm cái lỗ, lỗ chỗ ngón cái lọt vào hơi to hơn, lỗ chỗ ngón út lọt vào hơi nhỏ hơn, đúng là như cẩn thận xoi theo hình dáng bàn tay, rõ ràng không phải là trẻ con nghịch ngợm.

Chu Thông hơi biến sắc, lại khom người nhặt hai cái đầu lâu còn lại lên, chỉ thấy hai cái này cũng đều có năm lỗ thủng như cái vừa rồi, bất giác nảy lòng nghi ngờ:

– Chẳng lẽ có người dùng ngón tay cắm vào sao?

Nhưng nghĩ trên đời không có người nào võ công cao cường như thế, năm ngón tay có thể chọc thủng sọ người, cho nên chỉ trầm ngâm một mình không nói gì.

Hàn Tiểu Oanh kêu lên:

– Là yêu ma quỷ quái trên núi ăn thịt người phải không?

Hàn Bảo Câu nói:

– Đúng thế, nhất định là ma quỷ trong núi.

Toàn Kim Phát trầm ngâm nói:

– Nếu là ma quỷ trong núi thì xếp mấy cái đầu lâu này ngay ngắn như thế làm gì?

Kha Trấn Ác nghe tới câu ấy nhảy bật dậy hỏi:

– Xếp như thế nào?

Toàn Kim Phát đáp:

– Tất cả có ba đống xếp thành hình chữ phẩm, mỗi đống có chín cái đầu lâu.

Kha Trấn Ác hoảng sợ hỏi:

– Có phải chia làm ba tầng, tầng dưới năm cái, tầng giữa ba cái, tầng trên một cái không?

Toàn Kim Phát ngạc nhiên nói:

– Phải. Đại ca, sao anh biết?

Kha Trấn Ác không trả lời nói ngay:

– Mau đi về phía Đông bắc và Tây bắc mỗi hướng một trăm bước xem có gì khác không.

Sáu người thấy thần sắc của y rất nghiêm trọng, thậm chí còn như hoảng hốt, khác hẳn vẻ thản nhiên ung dung lúc bình thời, không dám coi thường, liền ba người một toán chia ra đi về hai phía Đông bắc và Tây bắc vài trăm bước. Giây lát Hàn Tiểu Oanh phía Đông bắc và Toàn Kim Phát phía Tây bắc đồng thời kêu lên:

– Ở đây cũng có đầu lâu.

Kha Trấn Ác phi thân về phía Tây bắc, hạ giọng quát:

– Đang lúc sống chết trước mắt, ngàn vạn lần không được lớn tiếng.

Ba người ngạc nhiên không hiểu. Kha Trấn Ác đã vội vàng phi về phía Đông bắc tới cạnh bọn Hàn Tiểu Oanh, cũng bảo họ nói khẽ như vậy. Trương A Sinh hạ giọng hỏi:

– Là yêu quái hay là kẻ thù vậy?

Kha Trấn Ác nói;

– Sở dĩ ta mù là nhờ họ ra ơn dạy dỗ cho đấy!

Lúc ấy bọn Toàn Kim Phát phía Tây bắc đã chạy tới, đứng vây chung quanh Kha Trấn Ác, nghe y nói thế, ai cũng hoảng sợ. Tuy sáu người bọn họ kết nghĩa anh em với Kha Trấn Ác, tình như thủ túc, nhưng y rất ghét người khác nói tới việc mình bị mù lòa, nên sáu anh em chỉ cho rằng y lúc nhỏ bất hạnh bị thương chứ trước nay không hề dám hỏi tới, đến lúc ấy mới biết là do kẻ thù gây ra. Kha Trấn Ác là người võ công cao cường, khôn ngoan thâm trầm mà còn thảm bại như thế, thì kẻ thù này nhất định phải vô cùng lợi hại.

Kha Trấn Ác cầm lấy một cái đầu lâu lên, sờ nắn thật kỹ, đưa năm ngón tay phải vào năm cái lỗ rồi lẩm bẩm:

– Luyện thành rồi, luyện thành rồi, quả nhiên đã luyện thành rồi!

Lại hỏi:

– Ở đây cũng có ba đống đầu lâu phải không?

Hàn Tiểu Oanh đáp:

– Không sai.

Kha Trấn Ác hạ giọng nói:

– Mỗi đống cũng có chín cái chứ?

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Một đống có chín cái, còn hai đống chỉ có sáu cái.

Kha Trấn Ác nói:

– Mau qua bên kia xem!

Hàn Tiểu Oanh sải chân chạy mau về phía Đông bắc, khom người nhìn qua một cái rồi lập tức chạy trở lại, nói:

– Bên đó mỗi đống có bảy cái, đều là đầu người chết, thịt còn chưa rã hết.

Kha Trấn Ác hạ giọng nói:

– Vậy thì họ sẽ tới ngay bây giờ!

Rồi đưa cái đầu lâu cho Toàn Kim Phát, nói:

– Cẩn thận để vào chỗ cũ, đừng để họ thấy có dấu vết bị di động.

Toàn Kim Phát để xong đầu lâu vào chỗ cũ quay lại cạnh Kha Trấn Ác. Sáu anh em ngơ ngác nhìn đại ca, chờ y giải thích. Chỉ thấy y ngẩng đầu nhìn trời, da thịt trên mặt không ngớt giật giật, nghiêm nghị nói:

– Đây là Đồng thi. Thiết thi!

Chu Thông giật nảy mình nói:

– Đồng thi Thiết thi chẳng phải đã chết lâu rồi sao, chẳng lẽ vẫn còn sống à?.

Kha Trấn Ác nói:

– Ta cũng cho rằng họ đã chết, nhưng té ra là họ ẩn náu ở đây để luyện Cửu âm bạch cốt trảo. Các vị huynh đệ, mọi người mau lên ngựa chạy về phía đông nam, ngàn vạn lần không được quay lại. Chạy được một ngàn dặm thì dừng lại chờ ta mười ngày, nếu ngày thứ mười mà ta không tới thì không cần chờ nữa.

Hàn Tiểu Oanh vội hỏi:

– Đại ca, anh nói gì thế? chúng ta đã uống máu ăn thề, thề đồng sinh đồng tử, sao anh bảo bọn tôi chạy?

Kha Trấn Ác xua tay lia lịa, nói:

– Chạy mau đi, chạy mau đi, chần chừ là không kịp đâu!

Hàn Bảo Câu tức giận nói:

– Anh coi bọn tôi là kẻ bất nghĩa à?

Trương A Sinh nói:

– Nếu Giang Nam thất quái đánh không lại người ta thì để lại bảy mạng sống ở chỗ này cũng được, lẽ nào có chuyện chạy trốn?.

Kha Trấn Ác vội nói:

– Hai người này võ công vốn vô cùng cao cường, bây giờ lại luyện thành Cửu âm bạch cốt trảo. Bảy người chúng ta quyết không phải là đối thủ của họ, cần gì phải chết uổng mạng ở đây?

Sáu người biết y vốn tâm cao khí ngạo, không hề chịu lép. Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ võ công cao cường như thế mà y còn dám giao đấu không hề sợ hãi nhưng lại úy ky hai người này như thế, chắc đối phương phải lợi hại vô cùng. Toàn Kim Phát nói:

– Vậy thì chúng ta cùng đi.

Kha Trấn Ác lạnh lùng nói:

– Họ làm ta suốt đời khốn khổ, chuyện đó bỏ qua cũng được Nhưng mối thù của huynh trưởng ta thì không thể không báo.

Nam Hy Nhân nói:

– Có phúc thì cùng hưởng, có nạn thì cùng chịu.

Y lời ít ý sâu, mà đã nói ra rồi thì không bao giờ đổi lại.

Kha Trấn Ác trầm ngâm giây lát, vốn biết mọi người nghĩa khí sâu nặng, vốn cũng quyết không lẽ nào gặp nạn lại bỏ chạy để thoát lấy thân, mới rồi y nói câu ấy là vì lúc nguy cấp nghĩ tới tính mạng của các anh em, lại như không lựa lời, nên lúc bấy giờ thở dài một tiếng, nói:

– Được. Nếu đã thế thì mọi người ngàn vạn lần phải cẩn thận đấy. Đồng thi này là đàn ông. Thiết thi là đàn bà, hai người là vợ chồng. Năm xưa họ bắt đầu luyện Cửu âm bạch cốt trảo bị anh em ta bắt gặp, huynh trưởng của ta chết dưới tay họ, ta thì mù hai mắt. Những chuyện khác thì bây giờ không kịp nói, mọi người phải đề phòng thủ trảo của họ lợi hại lắm đấy. Lục đệ, ngươi đi về phía Nam một trăm bước xem có một cỗ quan tài không?.

Toàn Kim Phát chạy mau về phía Nam, được một trăm bước, không thấy quan tài, nhìn quanh thật kỹ, thấy dưới đất lộ ra góc một phiến đá, bèn dùng lực kéo một cái, phiến đá không hề chuyển động. Y quay đầu vẫy vẫy tay, mọi người nhất tề chạy tới. Trương A Sinh. Hàn Bảo Câu cúi xuống dùng sức, è è mấy tiếng, hai người hợp lực nhấc phiến đá lên. Dưới ánh trăng chỉ thấy dưới phiến đá là một cái hầm đất, dưới hầm có hai xác chết mặc quần áo theo lối Mông Cổ.

Kha Trấn Ác bước xuống dưới hầm đất, nói:

– Hai tên ma đầu này đến lúc luyện công sẽ sử dụng đầu xác chết. Ta núp ở đây, bất ngờ tấn công vào chỗ yếu hại của họ. Mọi người chia ra mai phục chung quanh, ngàn vạn lần không được để họ phát giác. Phải chờ sau khi ta ra đòn, mọi người mới nhất tề xông lên, ra tay tuyệt đối không được nương nhẹ chút nào, lối ám toán này tuy không được quang minh lỗi lạc nhưng địch nhân rất ác rất mạnh, nếu không làm thế thì bảy anh em chúng ta không ai sống được đâu!

Y hạ giọng nói rõ từng câu từng chữ, sáu anh em liên tiếp vâng dạ.

Kha Trấn Ác lại nói:

– Hai người này vô cùng cơ cảnh hơi có tiếng động hay dáng vẻ khác lạ là có thể phát giác ngay từ xa. Đậy phiến đá này lên như cũ, chỉ để hở một đường nhỏ cho ta thở là được.

Sáu người theo lời, khẽ kháng đặt phiến đá tại chỗ cũ, rồi cùng tuốt binh khí ra, tản ra bốn phía núp kín trong đám cây cối rậm rạp. Hàn Tiểu Oanh thấy Kha Trấn Ác trịnh trọng như thế, quả thật là từ khi quen biết y đến nay chưa bao giờ thấy, vừa lo lắng vừa tò mò, lúc tới núp cạnh Chu Thông bèn thì thào hỏi:

– Đồng thi Thiết thi là ai thế?

Chu Thông đáp:

– Hai người này gọi chung là Hắc Phong song sát, năm xưa làm ác ở phương Bắc. Họ thủ đoạn độc ác, võ công cao cường, hành sự lại mười phần kín đáo mau lẹ, đúng là thần xuất quỷ nhập. Về sau không biết vì sao không thấy tung tích của họ trên giang hồ nữa, qua vài năm, mọi người đều cho rầng họ tội ác ngập đầu nên đã chết rồi, nào ngờ lại là ẩn náu ở vùng sa mạc hoang vắng phía bắc này.

Hàn Tiểu Oanh hỏi:

– Hai người ấy tên gì?

Chu Thông nói:

– Đồng thi là đàn ông, tên Trần Huyền Phong. Y sắc mặt vàng sẫm như màu đồng hun, xưa nay mừng giận không lộ ra mặt, giống như thây ma, vì thế người ta gọi y là Đồng thi.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Vậy thì người đàn bà Thiết thi kia chắc là mặt đen bóng chứ gì?

Chu Thông đáp:

– Không sai, y thị họ Mai, tên Mai Siêu phong.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Đại ca nói họ luyện Cửu âm bạch cốt trảo, đó là võ công gì vậy?

Chu Thông nói:

– Ta cũng chưa từng nghe tới.

Hàn Tiểu Oanh nhìn qua chín cái đầu lâu chất thành một cái tháp nhỏ màu trắng, nhìn thấy hai cái hố mắt đen ngòm của cái đầu lâu trên cùng chĩa thẳng về phía mình, giống như trợn mắt nhìn qua, bất giác trong lòng lạnh buốt, ngoảnh đầu đi không dám nhìn nữa, trầm ngâm nói:

– Tại sao trước nay đại ca không nói tới chuyện này nhỉ? Chẳng lẽ…

Nàng chưa dứt lời. Chu Thông đột nhiên đưa tay trái bịt miệng nàng lại, tay phải chỉ chỉ về phía dưới núi. Hàn Tiểu Oanh trong đám cỏ rậm nhìn xuống, chỉ thấy dưới ánh trăng sáng xa xa, có một cái bóng đen to béo lướt mau trên mặt cát tới gần, thế rất mau lẹ bèn nghĩ thầm:

– Thật xấu hổ quá? Té ra Nhị ca nói chuyện với mình mà nãy giờ vẫn không lơi lỏng việc giám sát địch nhân.

Trong chốc lát, cái bóng đen ấy đã tới gần núi, lúc ấy đã nhìn được rõ, té ra là hai người dựa vào nhau nên thấy đặc biệt to béo. Bọn Hàn Bảo Câu trước sau đều nhìn thấy, cùng nghĩ thầm Võ công của cặp Hắc Phong song sát này quả nhiên vô cùng quái dị. Hai người chạy mau như thế mà vẫn dính chặt vào nhau, dựa sát vào nhau như một tấc cũng không rời!

Sáu người nín thở ngưng thần, yên lặng chờ đại địch lên núi. Chu Thông nắm chặt ngọn Thiết phiến dùng để điểm huyệt. Hàn Tiểu Oanh cắm trường kiếm xuống đất đề phòng kiếm quang ánh lên nhưng tay phải vẫn nắm chặt chuôi kiếm. Chỉ nghe trên núi tiếng cát vang lên rào rào, tiếng bước chân vang thẳng tới, mọi người đều tim đập thình thịch, chỉ thấy lúc ấy thời gian trôi đi rất chậm. Bấy giờ gió Tây bắc càng thổi mạnh, mây đen ở chân trời phía Tây như núi đồi trùng trùng điệp điệp, từng đám từng đám ùn ùn kéo tới.

Qua một lúc, tiếng bước chân dừng lại, bãi đất trống trên đỉnh núi xuất hiện hai bóng người, một đứng bất động, trên đầu đội khăn. ăn mặc như người Mông Cổ, người kia tóc xõa tung trong gió, giống như đàn bà. Hàn Tiểu Oanh nghĩ thầm:

– Đây ắt là Đồng thi Thiết thi rồi, để xem họ luyện công ra sao.

Chỉ thấy người đàn bà kia chậm rãi đi vòng quanh người đàn ông, các khớp xương bật lên tiếng kêu răng rắc, cước bộ mau dần, tiếng răng rắc cũng càng lúc càng vang to hơn, như mấy phiến sừng dê đồng thời gõ vào nhau. Giang Nam lục quái nghe thế ngấm ngầm run sợ nghĩ thầm:

– Nội công của y thị đã luyện tới mức ấy chẳng trách đại ca lại nghiêm trọng như thế.

Chỉ thấy hai tay của y thị không ngừng lúc co lúc duỗi, mỗi lần co duỗi các khớp xương đều bật lên tiếng lách cách, mái tóc dài chuyển động theo thân hình dựng đứng trên đầu, trông rất kỳ quái đáng sợ. Hàn Tiểu Oanh chỉ thấy một làn khí lạnh dâng lên trong lòng, toàn thân nổi da gà. Đột nhiên người đàn bà kia chưởng phải dựng lên, chưởng trái vỗ mạnh vào ngực người đàn ông. Giang Nam lục quái ai cũng ngạc nhiên:

– Chẳng lẽ tấm thân huyết nhục của chồng y thị lại chịu nổi một chưởng ấy?

Mắt thấy người đàn ông kia ngã người về phía sau, người đàn bà đã chuyển về phía sau lưng y đánh mạnh một chưởng vào hậu tâm. Chỉ thấy y thị thân hình lay động, tiếng gió vù vù liên tiếp đánh ra tám chưởng, chưởng sau càng nhanh hơn mạnh hơn chưởng trước nhưng người đàn ông kia thủy chung vẫn không kêu lên tiếng nào.

Đến lúc chưởng thứ chín đã đánh ra, người đàn bà đột nhiên nhảy vọt lên, phi thân lên không chúc đầu xuống, chưởng trái biến thành trào giật chiếc khăn của người đàn ông ra, soạt một tiếng, năm ngón tay phải đã cắm ngập vào sọ người đàn ông.

Hàn Tiểu Oanh suýt kêu lên một tiếng. Chỉ thấy người đàn bà ấy rơi xuống tới đất, hô hô cười rộ, người đàn ông chúi xuống ngã vật ra, không hề động đậy Người đàn bà xòe bàn tay dính đầy máu tươi và óc ra ngắm nhìn dưới ánh trăng, chợt quay đầu lại Hàn Tiểu Oanh thấy khuôn mặt y thị tuy đen bóng nhưng đường nét cũng khá đẹp, khoảng trên dưới bốn mươi tuổi.

Giang Nam lục quái lúc ấy đã biết người đàn ông kia hoàn toàn không phải là chồng y thị, chỉ là một cái bia sống bị y thị bắt để luyện công, người đàn bà này ắt là Thiết thi Mai Siêu Phong rồi.

Mai Siêu Phong tiếng cười chợt ngừng lại, duỗi hai tay ra, soạt soạt mấy tiếng giật tung áo quần trên xác chết. Phương Bắc trời lạnh, người nào cũng mặc áo da, mà y thị lại xé tung tấm áo da dày như là xé vải dứt chỉ, không hề phí sức, rồi lập tức đưa tay xé toạc ngực xác chết, móc từng món từng món nội tạng đem ra nhìn kỹ dưới ánh trăng, xem xong thì vứt qua một bên. Lục quái thấy tim gan phèo phổi ném dưới đất món nào cũng nát bét, mới hiểu rõ dựng ý của y thị khi dùng người sống để luyện công, y thị đánh lên người ấy chín chưởng, hoàn toàn không nghe tiếng xương gãy nhưng nội tạng đã bị chấn động vỡ nát. Y thị nhìn mớ nội tạng ấy, rõ ràng là muốn biết công lực của mình đã tiến tới mức nào.

Hàn Tiểu Oanh vừa giận vừa sợ, nhè nhẹ rốt thanh kiếm lên đã định vọt ra đánh lén. Chu Thông vội kéo nàng lại xua xua tay, nghĩ thầm:

– Bây giờ chỉ có một mình Thiết thi, tuy là lợi hại nhưng bảy anh em mình hợp lực cũng có thể chống được, giết y thị trước rồi đối phó với Đồng thi sau thì dễ hơn nhiều, chứ nếu hai người cùng tới thì bất kể thế nào bên mình cũng không chống nổi… nhưng không biết Đồng thi ở chỗ nào để thừa cơ đánh lén? Đại ca hiểu rất rõ thói quen của hai tên ma đầu này, cứ theo lời y dặn dò, để y ra tay trước là hơn.

Mai Siêu Phong xem xong, cười khẽ một tiếng như rất vừa ý, ngồi xuống mặt đất nhìn về phía mặt trăng vận công điều tức. Lưng y thị quay về phía Chu Thông và Hàn Tiểu Oanh, theo nhịp thở nhô lên hạ xuống nhìn thấy rất rõ.

Hàn Tiểu Oanh nghĩ thầm Lúc này mà mình phát một chiêu “Điện chiếu trường không” thì có chín phần là đâm xuyên qua lưng y thị, nhưng nếu đánh một đòn không trúng lại làm hỏng việc lớn. Nàng toàn thân phát run, nhất thời không biết nên làm thế nào.

Chu Thông cũng không dám thở mạnh, chỉ thấy xương sống lạnh buốt, kế đó toàn thân đổ mồ hôi lạnh, liếc mắt lên chỉ thấy mây đen phía tây đã kéo tới che khuất nửa bầu trời như một tấm vải đen dày, trong mây đen lóe lên tia chớp càng làm người ta thêm phần sợ sệt. Tiếng sét văng vẳng vang lên, rền rền âm âm như bị bó chặt trong đám mây dày không sao thoát ra được.

Mai Siêu Phong ngồi điều tức một lúc, đứng thẳng người lên, bứt lấy cái đầu người, bước tới trước cái hố Kha Trấn Ác núp, khom lưng kéo phiến đá. Giang Nam lục quái người nào cũng nắm chặt binh khí, chỉ chờ y thị kéo phiến đá ra là lập tức vọt tới.

Mai Siêu Phong chợt nghe trong đám cành lá sau lưng có một tiếng động lạ không giống tiếng gió khẽ vang lên liền quay ngoắt đầu lại, dưới ánh trăng bóng cái đầu người lập tức bay thẳng vào chỗ cành cây có tiếng động, y thị hú dài một tiếng, vọt mau tới vồ vào ngọn cây.

Người núp trên ngọn cây chính là Hàn Bảo Câu y cậy mình lùn thấp núp trong đám lá không bị lộ lúc ấy chuẩn bị nhảy xuống, nhưng vừa hơi duỗi người ra đã lập tức bị địch nhân phát hiện. Y thấy mụ ác bà nhảy xổ tới hung dữ không thể chống lại, ngọn Kim long tiên ra luôn một chiêu “Ô long thủ thủy”, từ trên cao giáng xuống đánh vào cổ tay y thị. Mai Siêu Phong lại không tránh, thuận tay cuốn một cái đã chụp cứng đầu roi. Hàn Bảo Câu tý lực rất mạnh, dùng kình lực giật lại. Mai Siêu Phong thân hình theo ngọn roi bay tới, chưởng trái đã mau như sét nổ đánh ra. Chưởng chưa tới nơi gió đã rít lên, vô cùng đáng sợ. Hàn Bảo Câu thấy không chống đỡ được thả tay buông roi ra, nhào một cái từ ngọn cây lật người rơi xuống. Mai Siêu Phong không để y rảnh tay thoát thân, bèn lộn người xuống chụp theo, năm ngón tay nhắm vào hậu tâm của y vồ tới.

Hàn Bảo Câu chỉ cảm thấy trên xương sống có một làn hơi lạnh phủ lên, vội cố sức nhoài mau về phía trước, đúng lúc ấy Thấu cốt chùy của Nam Hy Nhân và Tụ tiễn của Toàn Kim Phát dưới gốc cây đã song song bắn tới Mai Siêu Phong.

Mai Siêu Phong ngón tay giữa bên trái bật ra, đánh rơi hai ngọn ám khí. Soạt một tiếng, mảnh áo chỗ hậu tâm của Hàn Bảo Câu đã bị xé rách một mảnh lớn. Y điểm chân trái xuống đất một cái, lập tức vọt lên phía trước, nào ngờ Mai Siêu Phong lại rơi xuống ngay trước mặt y. Mụ Thiết thi này cử động mau như gió thoảng, quát lớn:

– Ngươi là ai, tới đây làm gì?

Song trảo đã chụp xuống đầu vai y. Hàn Bảo Câu chỉ cảm thấy đau buốt một cơn, mười ngón tay của địch nhân như móc câu sắt đã cắm ngập vào thịt, y sau cơn hoảng sợ phóng chân trái ra đá vào bụng dưới địch nhân. Mai Siêu Phong chưởng trái hạ xuống, cách một tiếng, ống chân Hàn Bảo Câu cơ hồ gãy lìa, nhưng y lâm nguy bất loạn, lập tức thừa thế nhào xuống đất lăn luôn ra ngoài.

Mai Siêu Phong co chân đá vào mông y, chợt bên phải có một vật đen bóng chớp lên đè mạnh chân y thị xuống, chính là Nam Sơn tiều tử Nam Hy Nhân.

Mai Siêu Phong không thể đuổi theo Hàn Bảo Câu vội tránh mau qua một bên, trong chớp mắt ấy chỉ thấy bốn phía đều có địch nhân, một người văn sĩ cầm Điểm huyệt thiết phiến, một nữ lang trẻ tuổi cầm trường kiếm từ bên phải đánh tới, một hán tử to lớn béo mập cầm tiêm đao, một hán tử gầy nhỏ cầm một binh khí kỳ lạ từ bên trái đánh qua, trước mặt là một hán tử khỏe mạnh vũ động đòn gánh bằng sắt, phía sau lại có tiếng chân vang lên, nghĩ thầm chắc là hán tử béo lùn cầm nhuyễn tiên mới rồi, những người này đều lạ mặt nhưng xem ra ai cũng võ công cao cường, nghĩ thầm:

– Bọn họ đông người, trước tiên cứ ra tay tàn độc giết luôn vài người rồi sẽ nói chuyện. Bất kể họ tên tuổi là gì, lai lịch ra sao thì ngoài ân sư và thằng chồng giặc của mình ra, mọi người trong thiên hạ đều có thể giết được!

Thân hình chớp lên một cái, thủ trào đã chụp vào mặt Hàn Tiểu Oanh.

Chu Thông thấy thế tới của y thị hung dữ, ngọn quạt sắt bèn điểm mau vào huyệt Khúc trì ở khuỷu tay phải y thị. Nào ngờ mụ Thiết thi này không thèm đếm Xửa gì tới, tay trảo vẫn chụp thẳng ra. Hàn Tiểu Oanh một chiêu Bạch lộ hoành giang vung kiếm chém ngang cánh tay đối phương. Mai Siêu Phong cổ tay lật lại chụp lên thanh kiếm, xem ra tay y thị không sợ binh khí. Hàn Tiểu Oanh cả kinh, vội vàng thu kiếm lui lại. Chỉ nghe chát một tiếng, ngọn quạt sắt của Chu Thông đã điểm trúng huyệt Khúc trì của Mai Siêu Phong. Đó là yếu huyệt trên thân thể con người, bị điểm trúng thì cả cánh tay sẽ lập tức tê dại không còn linh hoạt, không co duỗi được Chu Thông đang mừng rỡ chợt thấy cánh tay địch nhân đột nhiên dài thêm ra, thủ trào đã chụp tới đỉnh đầu y. Chu Thông nhờ thân pháp hình hoạt, giữa lúc tính mạng ngàn cân treo sợi tóc lắc người một cái thoát khỏi cái chụp ấy, kinh nghi nghĩ thầm:”Chẳng lẽ trên người y thị không có huyệt đạo?”

Lúc ấy Hàn Bảo Câu đã nhặt ngọn Kim long tiên dưới đất lên, sáu người vây quanh Mai Siêu Phong, binh khí cùng đánh tới. Mai Siêu Phong không hề sợ hãi, một đôi nhục chưởng so ra còn lợi hại hơn binh khí của lục quái. Song trảo của y thị như móc sắt, không chụp giữ binh khí thì vồ vào người đối phương. Giang Nam lục quái nghĩ tới năm lỗ thủng trên mớ đầu lâu, ai cũng thầm run sợ.

Lại có một việc đáng sợ là ngoại hiệu của Thiết thi có một chữ thiết không phải là chuyện ngẫu nhiên, toàn thân quả thật như đúc bằng đồng sắt. Lưng y thị bị Toàn Kim Phát đánh trúng hai quả cân nhưng dường như chưa hề bị tổn thương, mới biết công phu hoành luyện của y thị đã đạt tới cảnh giới thượng thừa. Chỉ thấy y thị ngoài tiêm đao của Trương A Sinh, trường kiếm của Hàn Tiểu Oanh thì còn không dám để đâm trúng người, chứ đối với những binh khí khác thì không sợ sệt gì lắm, cứ hung dữ lăn xả vào tấn công.

Đánh đến lúc hăng. Toàn Kim Phát né tránh hơi chậm, đầu vai trái bị chụp trúng một trào. Ngũ quái cả kinh, sấn vào đánh gấp. Mai Siêu Phong giằng tay một cái. Toàn Kim Phát cánh tay cả áo lẫn thịt đã bị y thị cào rách một mảng rơi xuống đất.

Chu Thông nghĩ thầm:

– Người có công phu hoành luyện, trên thân thể ắt có một luyện môn không luyện cứng được, chỗ ấy vô cùng mềm mại, bị đánh trúng la chết ngay. Không biết luyện môn của mụ ác bà này là ở chỗ nào?

Y vọt lên hạ xuống. Thiết phiến chớp lên liên tiếp đánh vào hai huyệt Bách hội trên đỉnh đầu và Liêm tuyền ở cổ họng địch nhân, kế đó lại điểm vào huyệt Thần khuyết ở bụng dưới và Trung khu ở hậu tâm y thị, trong chớp mắt liên tiếp thử qua hơn mười huyệt, định thăm dò xem mụ ta đặc biệt bảo vệ kín đáo khu vực nào trên thân thể để biết chỗ luyện môn.

Mai Siêu Phong hiểu ý y, quát:

– Con ma đói kia, công phu của bà cô ngươi đã thành đại hành gia, toàn thân không có luyện môn đâu?

Rồi vung tay một cái chụp cứng cổ tay y. Chu Thông cả kinh, may là y suy nghĩ mau lẹ, thủ pháp lanh lợi, không chờ ngón tay của y thị cắm lút vào thịt đã lật bàn tay lại nhét cán quạt vào chưởng tâm y thị, kêu lên:

– Trên quạt có độc đấy!

Mai Siêu Phong đột nhiên thấy trong tay xuất hiện một vật cứng, vừa ngẩn người ra. Chu Thông đã giật tay ra được. Mai Siêu Phong cũng sợ trên cán quạt có độc thật, lập tức ném xuống đất.

Chu Thông nhảy ra mấy bước giơ tay lên nhìn, chỉ thấy mu bàn tay có năm vết máu bầm, bất giác toát mồ hôi lạnh, thấy đánh nhau đã lâu không hạ được đối phương mà bên mình đã có ba người bị thủ trảo của y thị chụp trúng, đến lúc chồng y thị là Đồng thi tới thì bảy anh em mình chắc chắn phải bỏ xác trên núi hoang này, chợt thấy Trương A Sinh. Hàn Bảo Câu. Toàn Kim Phát đều đã thở hồng hộc, trán đổ mồ hôi. Chỉ có Nam Hy Nhân công lực hơi cao hơn. Hàn Tiểu Oanh thân hình nhanh nhẹ thì chưa thấy tỏ vẻ mệt mỏi, nhưng địch nhân lại càng đánh càng mạnh, liếc mắt thấy ánh trăng xanh xao vừa nhô ra khỏi đám mây đen chiếu xuống ba đống đầu lâu, bất giác trong lòng lạnh buốt, lúc nguy cấp chợt nảy ý khôn, bèn phóng tới trước hầm đất chỗ Kha Trấn Ác núp, cao giọng quát lớn:

– Mọi người chạy mau?

Ngũ quái hiểu ý, vừa đánh vừa lùi. Mai Siêu Phong cười nhạt nói:

– Bọn con hoang ở đâu nảy ra tới đây ám toán ìão nương, bây giờ muốn chạy trốn thì đã muộn rồi.

Rồi sải chân đuổi theo. Nam Hy Nhân. Toàn Kim Phát. Hàn Tiểu Oanh ba người hết sức chống lại. Chu Thông. Trương A Sinh. Hàn Bảo Câu ba người khom lưng hợp sức, binh một tiếng ném phiến đá qua một bên.

Đúng lúc ấy, tay trái Mai Siêu Phong đã chụp cứng chiếc đòn gánh của Nam Hy Nhân, tay trảo bên phải vung ra xỉa thẳng vào hai mắt y. Chu Thông quát lớn một tiếng:

– Xuống mau đi!

Ngón tay chỉ ra một cái hai mắt nhìn lên trời, tay trái giơ cao vẫy vẫy liên tiếp, tựa hồ gọi đồng bạn trên cao nhảy xuống giáp kích. Mai Siêu Phong cả kinh, bất giác ngoảnh nhìn một cái, chỉ thấy mây đen đầy trời che mất nửa vầng trăng, chứ đâu có người nào?

Chu Thông kêu lên:

– Bảy bước phía trước?

Kha Trấn Ác hai tay cùng vung ra, sáu ngọn độc lăng chia ra ba lộ thượng trung hạ bắn mau tới vị trí bảy bước phía trước. Trong tiếng quát tháo. Kha Trấn Ác dưới hầm nhảy vọt ra.

Giang Nam thất quái bốn phía cùng xông vào. Mai Siêu Phong gào thảm một tiếng, hai mắt đã bị hai ngọn độc lăng đồng thời đánh trúng, bốn ngọn còn lại thì trượt, cũng nhờ y thị ứng biến mau lẹ, thiết lăng vừa chạm vào mắt, đầu đã lập tức ngửa về phía sau làm giảm sức mạnh, thiết đăng mới không cắm vào óc, nhưng trước mắt đã tối sầm lại không nhìn thấy gì nữa.

Mai Siêu Phong lửa giận đầy lòng, song chưởng cùng vung ra. Kha Trấn Ác đã lách qua một bên, chỉ nghe bình bình hai tiếng, song chưởng của y thị đã đánh vào một tảng đá. Y thị giận dữ như điên cuồng, cước phải phóng mau ra đá trúng phiến đá, phiến đá ấy lập tức bay tung lên. Thất quái bên cạnh thấy thế ai cũng hoảng sợ, nhất thời không dám xông vào tấn công.

Mai Siêu Phong hai mắt đã mù, không nhìn thấy gì bèn triển khai thân pháp, vồ chụp túi bụi. Chu Thông liên tiếp xua tay ra hiệu cho các huynh đệ tránh ra, chỉ thấy y thị thế như cọp điên, dáng như ma quỷ, chụp tới thì cây cối gãy đổ, đá ra thì cát đá bay tưng. Nhưng thất quái nín thở ngưng khí tránh ra xa xa, đời nào để bị y thị đánh trúng? Qua một lúc Mai Siêu Phong thấy hai mắt dần dần tê dại, biết là đã trúng phải ám khí tẩm độc, bèn cao giọng gầm lên:

– Các ngươi là ai? Mau nói ra đi? Lão nương chết cũng phải minh bạch!

Chu Thông xua xua tay ra hiệu cho Kha Trấn Ác bảo y không nên lên tiếng, cứ để y thị bị độc phát mà chết, nhưng vừa xua tay hai cái lại sực nhớ ra rằng đại ca cũng mù, làm sao thấy được thủ thế của mình.

Chỉ nghe Kha Trấn Ác cười gằn nói:

– Mai Siêu Phong, ngươi có nhớ Phi thiên thần long Kha Tịch Tà. Phi thiên biển bức Kha Trấn Ác không?

Mai Siêu Phong ngẩng đầu lên trời cười lớn, kêu lên:

– Hảo tiểu tử ngươi còn chưa chết à? Ngươi báo thù cho Phi thiên thần long phải không?

Kha Trấn Ác nói:

– Không sai, ngươi cũng chưa chết, như vậy càng tốt.

Mai Siêu Phong thở dài một tiếng, im lặng không nói.

Thất quái ngưng thần đề phòng, lúc ấy gió lạnh thấu xương, ánh trăng đã bị mây đen che khuất quá nửa, ánh sáng mờ mờ, mọi người đều cảm thấy âm khí dày đặc. Chỉ thấy Mai Siêu Phong hai tay hơi xòe ra buông rủ xuống theo thân hình, trên mười móng tay chớp lên ánh sáng màu tro xám. Y thị toàn thân như một pho tượng đá không hề động đậy, gió mạnh từ phía sau y thị thổi tới, khiến mái tóc của y thị bay lên trước trán. Lúc ấy Hàn Tiểu Oanh đang đứng đối diện với y thị, nhìn thấy từ hai hố mắt của y thị có hai dòng máu tươi chảy ròng ròng xuống cằm.

Đột nhiên Chu Thông. Toàn Kim Phát đồng thanh kêu lớn:

– Đại ca coi chừng?

Tiếng kêu chưa dứt. Kha Trấn Ác đã cảm thấy một luồng kình phong đánh thẳng vào bụng, bèn chống mạnh ngọn thiết trượng xuống đất, thân hình tung lên đáp:

– Xuống ngọn cây.

Mai Siêu Phong đánh trượt một đòn, chụp tuôn gốc cây phía sau Kha Trấn Ác, mười ngón tay cả móng cắm ngập vào thân cây. Lục quái sợ xanh mặt. Kha Trấn Ác mà chỉ nhảy lên chậm một chút để mười ngón tay ấy cắm vào người thì còn gì tính mạng? Mai Siêu Phong một đòn không trúng, đột nhiên hú lên một tiếng rùng rợn, thanh âm không lớn nhưng trung khí sung mãn, vang ra rất xa.

Chu Thông chợt nghĩ ngay:

– Không xong, đây là y thị gọi chồng là Đồng thi tới cứu.

Vội kêu lên:

– Kết thúc y thị đi?

Rồi vận khí vào tay dùng thủ pháp rất nặng vỗ vào hậu tâm y thị. Trương A Sinh hai tay nhấc một khối đá lớn, dùng sức đập xuống đầu y thị.

Mai Siêu Phong hai mắt vừa mù, chưa thể nghe tiếng xét hình như Kha Trấn Ác, nhưng lúc tảng đá lớn giáng xuống thì tiếng gió rất lớn, vẫn có thể nghe biết, thân hình xoay qua một bên, nhưng một chưởng ấy của Chu Thông thủy chung vẫn chưa đẩy ra, hự một tiếng, hậu tâm lập tức trúng chưởng. Biết là công phu hoành luyện của y thị rất lợi hại, nhưng Diệu thủ thư sinh đâu phải hạng tầm thường, một chưởng ấy cũng khiến y thị đau thấu tim gan. Chu Thông một chưởng đắc thủ, chưởng thứ hai lại đánh tới. Mai Siêu Phong tay trảo bên phải ngoặc lại Chu Thông vội nhảy tránh qua một bên.

Số người còn lại đang định xông vào giáp kích chợt nghe từ xa vang tới một tiếng hú dài, thanh âm giống hệt như tiếng hú mới rồi của Mai Siêu Phong, văng vẳng truyền tới khiến người ta nổi da gà, trong khoảnh khắc tiếng hú thứ hai lại vang lên nhưng thanh âm đã rất gần. Thất quái đều cùng hoảng sợ Người này cước bộ mau lẹ thật!

Kha Trấn Ác kêu lên:

– Đồng thi tới rồi!

Hàn Tiểu Oanh nhảy qua một bên nhìn xuống dưới núi, chỉ thấy một cái bóng đen chạy như bay lên, vừa chạy vừa hú.

Lúc ấy Mai Siêu Phong giữ kín môn hộ, không dám tấn công, một mặt vận khí ngăn chặn chất độc, không cho chất độc trong mắt tan ra mau lẹ, chỉ chờ chồng tới cứu viện, giết sạch địch nhân.

Chu Thông đưa tay ra hiệu cho Toàn Kim Phát, hai người chui vào bụi cỏ rậm. Chu Thông thấy Thiết thi lợi hại như thế, mà nhìn thấy thân pháp của Đồng thi từ xa thì tựa hồ công lực còn hơn cả vợ, ra mặt đối đầu đánh nhau rõ ràng không phải là địch thủ của vợ chồng họ, chỉ có cách ngấm ngầm đánh lén may ra còn đắc thủ.

Hàn Tiểu Oanh đột nhiên ồ một tiếng, chỉ thấy phía trước cái bóng đang chạy mau tới lại có một bóng người nhỏ thấp lần lên núi, chỉ vì y đi rất chậm, thân hình lại nhỏ nên người kia chưa phát hiện được. Nàng ngưng thần nhìn, thấy cái bóng nhỏ thó ấy là một đứa trẻ con, biết ngay ắt là Quách Tĩnh, vừa mừng vừa sợ, vội vàng chạy xuống định đón nó lên.

Nàng và Quách Tĩnh còn cách nhau không xa, lại là đường xuống núi, nhưng công phu khinh công của Đồng thi Trần Huyền Phong rất mau, trong chớp mắt đã vượt qua một quãng dài. Hàn Tiểu Oanh hơi ngần ngừ:

– Mình xuống đó thì một mình gặp phải Đồng thi, quyết không phải là đối thủ của y…

Nhưng trước mắt thằng nhỏ này nhất định sẽ gặp phải độc thủ của y, chẳng lẽ lại không cứu? Bèn lập tức gia tăng cước bộ, đồng thời kêu lớn:

– Hài tử, chạy mau lên?.

Quách Tĩnh thấy nàng, vui mừng kêu lớn, nhưng không biết đại họa đã ngay trước mắt. Trương A Sinh nhiều năm nay đã thầm yêu Hàn Tiểu Oanh, chỉ là không dám để lộ ra, lúc ấy thấy nàng xông vào chỗ nguy hiểm cứu người, trong lòng lo sợ, lập tức phóng mau xuống, chặn đúng ngay trước mặt nàng để nàng cứu Quách Tĩnh chạy trốn.

Nam Hy Nhân. Hàn Bảo Câu trên núi không tấn công Mai Siêu Phong nữa, đều chăm chú nhìn động tĩnh ở lưng núi. Mọi người trong tay đều nắm chặt ám khí, chuẩn bị chi viện cho hai người Hàn Trương.

Trong chớp mắt Hàn Tiểu Oanh đã chạy tới trước mặt Quách Tĩnh, quờ một cái nắm được bàn tay bé nhỏ của nó, xoay người chạy mau, nhưng chỉ chạy được hơn một trượng đã thấy trong tay nhẹ hẫng. Quách Tĩnh kêu lên một tiếng hoảng sợ, đã bị Trần Huyền Phong túm lấy lưng.

Hàn Tiểu Oanh chân trái điểm một cái, kiếm pháp khinh linh, một chiêu “Phượng điểm đầu” đâm hờ mau vào nách trái địch nhân, kế đó thân hình hơi nghiêng đi, mũi kiếm chớp lên một cái phóng thẳng vào mắt đối phương, vừa độc vừa chuẩn, đúng là chiêu số ảo diệu trong Việt nữ kiếm pháp.

Trần Huyền Phong cắp Quách Tĩnh dưới nách trái, chợt thấy kiếm tới lập tức vươn tay phải ra, khuỷu tay nhè nhẹ hất thanh kiếm ra ngoài một cái, thủ chưởng dùng chiêu Thuận thủy thôi chu trả đòn một chưởng. Hàn Tiểu Oanh trường kiếm xoay một vòng chênh chếch đâm qua. Nào ngờ cánh tay Trần Huyền Phong đột nhiên như dài ra thêm nửa thước. Hàn Tiểu Oanh rõ ràng đã tránh khỏi vẫn bị vỗ một chưởng trúng giữa mi tâm, lập tức ngã lăn xuống đất.

Hai chiêu này qua lại chỉ trong chớp mắt. Trần Huyền Phong hạ thủ không hề lưu tình, kế đó lại vung tay một cái nhằm Thiên linh cái Hàn Tiểu Oanh vồ xuống. Cửu âm bạch cốt tráo xé gân phá xương, tàn độc vô cùng, đòn này mà chụp xuống thì đầu Hàn Tiểu Oanh nhất định phải bị thủng năm lỗ. Trương A Sinh đứng cách nàng vài bước, mắt thấy thế nguy, sự thể nguy cấp, liền liều mạng nhảy xổ tới đem thân mình che lên đầu Hàn Tiểu Oanh, một trảo ấy của Trần Huyền Phong chụp xuống, soạt một tiếng năm ngón tay đã cắm ngập vào lưng Trương A Sinh.

Trương A Sinh gầm lên, ngọn tiêm đao đâm mạnh vào bụng địch nhân. Trần Huyền Phong đưa tay gạt mạnh, ngọn tiêm đao của Trương A Sinh bắn tung lên. Trần Huyền Phong thuận tay lại đánh một chưởng, hất Trương A Sinh bay ra. Chu Thông, Toàn Kim Phát, Nam Hy Nhân, Hàn Bảo Câu cả kinh, nhất tề xông mau xuống.

Trần Huyền Phong cao giọng kêu lớn:

– Mụ vợ ác, có sao không?

Mai Siêu Phong ôm cứng gốc cây kêu lên thảm thiết:

– Đôi mắt ta đã bị họ đánh mù rồi. Thằng chồng giặc kia, nếu trong bảy đứa cẩu tặc này có một đứa chạy thoát thì ta sẽ liều mạng với ngươi đấy.

Trần Huyền Phong kêu lên:

– Mụ vợ ác, ngươi yên tâm, một đứa cũng không chạy được. Ngươi… ngươi có đau không? Cứ đứng đó đừng cử động.

Rồi vung tay lại chụp xuống đỉnh đầu Hàn Tiểu Oanh. Hàn Tiểu Oanh một chiêu Lại lư đả cố lăn ra vài thước. Trần Huyền Phong chửi:

– Còn muốn trốn à?

Tay trái lại lập tức vồ xuống. Trương A Sinh bị trọng thương nằm ngửa dưới đất lúc nửa tĩnh nửa mê thấy Hàn Tiểu Oanh đang nguy cấp bèn dùng hết sức giơ chân phóng vào tay trảo của địch nhân. Trần Huyền Phong thuận thế chụp lấy, năm ngón tay lại cắm ngập vào bắp chân dưới của y. Trương A Sinh lật người bay lên hai tay ôm cứng lưng Trần Huyền Phong. Trần Huyền Phong chụp lấy gáy y, vận kình muốn ném y ra ngoài. Trương A Sinh chỉ sợ địch nhân đả thương Hàn Tiểu Oanh, hai tay cứ ôm cứng không chịu buông. Trần Huyền Phong đập xuống một quyền, bình một cái đánh trúng đỉnh đầu y. Trương A Sinh nhất thời ngất đi, cánh tay cũng buông ra.

Trong lúc ấy, Hàn Tiểu Oanh đã lật người nhảy lên, vung kiếm ra chiêu.

Nàng không dám khinh suất đứng gần, triển khai thân pháp khinh linh, xoay tròn quanh người địch nhân, miệng cứ kêu lên:

– Ngũ ca, ngũ ca, anh có sao không?.

Nàng xoay được hai vòng thì bọn Nam Hy Nhân. Hàn Bảo Câu đã đồng thời phóng tới. Chu Thông và Toàn Kim Phát cũng đã phóng ám khí ra. Trần Huyền Phong thấy địch nhân thấy người nào cũng võ công cao cường, lấy làm ngạc nhiên, nghĩ thầm:

– Trong vùng sa mạc hoang vu này tại sao lại nảy ra mấy người đối đầu vốn không quen biết như thế này nhỉ?

Bèn cao giọng quát lớn:

– Mụ vợ ác, bọn người này là ai thế?

Mai Siêu Phong kêu lên:

– Là đồng đảng của Phi thiên biển bức em Phi thiên thần long.

Trần Huyền Phong hừ một tiếng, chửi:

– Được, bọn cẩu tặc còn chưa chết, lại tìm tới đây nộp mạng.

Y nghĩ tới thương thế của vợ, kêu lên:

– Mụ vợ ác, vết thương ra sao rồi? Có quan hệ tới tính mạng không?

Mai Siêu Phong tức giận nói:

– Giết mau đi, lão nương không chết được đâu.

Trần Huyền Phong thấy vợ ôm cứng gốc cây, không tới giúp đỡ, biết tuy y thị ngoài miệng nói cứng nhưng nhất định bị thương không nhẹ, trong lòng nóng nảy, chỉ mong liệu lý hết địch nhân cho mau để tới cứu vợ. Lúc ấy năm người bọn Chu Thông đã vây tròn lấy y, chỉ có Kha Trấn Ác đứng ngoài chờ thời cơ ra tay.

Trần Huyền Phong dùng sức ném Quách Tĩnh xuống đất một cái, tay trái thuận thế đánh một quyền tới Toàn Kim Phát. Toàn Kim Phát cả kinh nghĩ thầm Ném thế này thì thằng hài tử kia còn gì tính mệnh, bèn khom người tránh qua phát quyền của địch nhân, thuận tay đón lấy Quách Tĩnh, lộn người một cái nhảy ra hơn một trượng, chiêu Linh miêu bộc thử ấy đã tránh được địch lại cứu được người, thật vừa nhanh vừa khéo. Trần Huyền Phong cũng ngấm ngầm khen ngợi.

Gã Đồng thi này tính tình tàn nhẫn, địch nhân càng mạnh y càng muốn họ phải chết thê thảm, huống chi địch nhân đã đả thương vợ y thì còn tệ hơn là đả thương y. Hắc Phong song sát đã sắp luyện thành Cửu âm bạch cốt trảo và Tồi tâm chưởng đánh nát nội tạng người ta, lúc ấy hỏa hầu đã được tám chín phần, y đột nhiên hú lên một tiếng quái dị, tay trái dùng chưởng, tay phải dùng trảo, liên miên đánh tới chỗ yếu hại trên người địch nhân.

Giang Nam ngũ quái biết hôm nay đã tới lúc sống chết trước mắt, đâu dám có chút nào sơ sót, lập tức hết sức chống cự, không ai dám tới quá gần, vòng vây càng đánh càng rộng ra. Đánh đến lúc hăng. Hàn Bảo Câu dũng mãnh sấn lên, dùng Địa đường tiên pháp lăn tròn dưới đất xông vào, chuyên tấn công vào hạ bàn đối phương, cứ lăn lông lốc dưới đất tấn công không ngớt. Trần Huyền Phong quả nhiên phân tâm, bùng một tiếng, hậu tâm đã bị đòn gánh của Nam Hy Nhân đánh trúng. Đồng thi đau quá kêu lên be be, tay phải chụp mạnh vào Nam Hy Nhân một trảo.

Nam Hy Nhân chiếc đòn gánh chưa kịp rút lại thì tay trảo của đối phương đã tới, lập tức dùng nửa chiêu Thiết bản kiều, nửa người trên ngã mau về phía sau, chợt thấy khớp xương trên tay Trần Huyền Phong rắc rắc kêu lên một tiếng, cánh tay đột nhiên dài thêm vài tấc, một bàn tay to đã gần chạm vào mặt mình.

Cao thủ so tài trong việc tiến lui tránh né đều không sai một ly, rõ ràng đã nhìn thấy tay y vươn ra hết tầm, lúc ấy lại đột nhiên dài thêm ra, làm sao có thể tránh kịp? Lập tức bị y đánh một chưởng trúng giữa mặt, năm ngón tay chuẩn bị cắm vào óc.

Nam Hy Nhân lúc nguy cấp tay phải vung mau, dùng Cầm nã thủ ngoặc lấy cổ tay Trần Huyền Phong kéo qua bên trái, đúng vào lúc ấy Chu Thông đã nhảy xổ tới lưng Đồng thi, tay trái như sắt xiết chặt cổ y. Chiêu này toàn bộ phần ngực của mình đều giao cho địch nhân, nhưng y thấy nghĩa đệ tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, nên bất kể tới việc phạm vào điều đại kỵ của người học võ, cứu người là chuyện gấp.

Đang lúc đôi bên liều mạng với nhau, trên không chợt vang bên một tiếng sét, mây đen che kín vầng trăng, trên núi hoang xòe bàn tay ra không nhìn thấy ngón, kế đó mưa lớn rào rào đổ xuống. Chỉ nghe hai tiếng lách cách, kế đó là một tiếng hự. Trần Huyền Phong dùng sức đón sức đã đánh gãy vai trái Nam Hy Nhân, đồng thời khuỷu tay trái đã đánh vào ngực Chu Thông. Chu Thông chỉ thấy trước ngực đau buốt, không tự chủ được buông cánh tay đang xiết cổ họng đối phương ra, người bị hất tung về phía sau. Trần Huyền Phong cũng cảm thấy chỗ cổ bị y xiết thở rất khó khăn, bèn nhảy qua một bên, đứng thở dốc.

Hàn Bảo Câu trong bóng đêm kêu lớn:

– Mọi người lui ra! Thất muội, cô có bị gì không?

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Đừng lên tiếng?

Nói xong, bước vài bước qua một bên. Kha Trấn Ác lắng nghe tiếng động tĩnh của mọi người, trong lòng kỳ quái, vội hỏi:

– Nhị đệ, ngươi có bị sạo không?

Toàn Kim Phát nói:

– Bây giờ đang tối đen, chẳng ai nhìn thấy ai cả.

Kha Trấn Ác cả mừng kêu lên:

– Trời giúp ta rồi?.

Trong Giang Nam thất quái đã có ba người bị trọng thương, vốn đã là thất bại nhưng lúc ấy đột nhiên mây đen phủ kín bầu trời, mưa lớn ào ào đổ xuống. Mọi người điều tức ngưng khí, không ai dám động thủ trước. Kha Trấn Ác tai cực thính, trong tiếng mưa rơi vẫn có thể nhận rõ tiếng người thở dốc cách tám chín bước hoàn toàn không phải là bọn anh em của mình, lập tức hai tay cùng giang ra, sáu ngọn độc lăng đánh vào chỗ ấy.

Trần Huyền Phong vừa thấy kình phong rít lên, ám khí đã tới trước mắt, vội vàng nhảy lên. Y võ công đã được chân truyền, lúc tính mạng ngàn cân treo sợi tóc như thế vẫn có thể tránh hết sáu ngọn độc lăng, lúc áy cũng nhận rõ được phương hướng của địch nhân. Y không nói tiếng nào, đột nhiên vọt lên, song trảo khua tròn trước mặt một thước, nhảy xổ vào Kha Trấn Ác. Kha Trấn Ác nghe tiếng gió tránh qua một bên, đánh trả một trượng, ban ngày hay ban đêm đối với y cũng không có gì khác nhau, nhưng Trần Huyền Phong không nhìn thấy gì, võ công chỉ có thể dùng được một phần. Hai người lập tức đánh nhau không gỡ ra được. Trần Huyền Phong đấu được mười mấy chiêu, trong màn đêm tối đen tựa hồ bốn phương tám hướng đều có địch nhân xông vào, quyền cước của mình phát ra có đánh trúng địch nhân hay không thì không hề nắm chắc, trong chớp mắt cảm thấy như đang trong giấc mộng dữ.

Hàn Bảo Câu và Hàn Tiểu Oanh. Toàn Kim Phát ba người mò mẫm đi cứu ba người bị thương, tuy biết rõ đại ca tính mạng đang ngàn cân treo sợi tóc nhưng trong màn đêm tối đen quả thật không sao tới giúp, chỉ biết lo lắng trong lòng. Trong tiếng mưa rơi rào rào, chỉ nghe chưởng thanh của Trần Huyền Phong vù vù, tiếng thiết trượng của Kha Trấn Ác ào ào hai người đánh nhau không đầy hai ba mươi chiêu nhưng mọi người đứng ngoài vô cùng khẩn trương thấy như đã qua mấy giờ. Đột nhiên nghe bùng bùng hai tiếng. Trần Huyền Phong điên cuồng kêu lên mấy tiếng quái dị, rõ ràng đã bị trúng liên tiếp hai trượng. Mọi người đang mừng thầm đột nhiên ánh chớp lóe sáng soi rõ toàn bộ khu núi.

Toàn Kim Phát vội kêu lên:

– Đại ca coi chừng?

Trần Huyền Phong đã nhân lúc có ánh sáng lóe lên lách người cất bước vận khí lên vai, bùng một tiếng vai trái thẳng thắn đón tiếp một trượng của đối phương, tay trái khua một cái đã chụp cứng ngọn thiết trượng, tay phải vươn ra, tuy ánh chớp đã tắt nhưng tay phải của y đã đánh tới trước ngực Kha Trấn Ác.

Kha Trấn Ác cả kinh, bỏ trượng nhảy lui lại. Trần Huyền Phong một đòn đắc thủ, đời nào chịu bỏ qua cơ hội, một trảo vừa rồi đã xé rách áo trước ngực đối phương, lập tức biến trảo thành quyền, thân hình bất động, tay phải đột nhiên dài ra, ngầm vận nội công, một quyền đánh thẳng vào ngực Kha Trấn Ác, vừa cảm thấy Kha Trấn Ác nhảy ra, liền vung tay trái lên, ngọn thiết trượng như thương sắt phóng thẳng vào người y. Mấy đòn tấn công liên hoàn ấy chiêu nào cũng là tuyệt kỹ bình sinh của y, bất giác vô cùng đắc ý ngẩng mặt lên trời hú lớn. Đúng lúc ấy tiếng sét lại nổ vang.

Trong tiếng sét ánh chớp lại lóe lên. Hàn Bảo Câu vừa thấy thiết trượng bay thẳng vào đại ca mà Kha Trấn Ác vẫn như không biết, vô cùng hoảng sợ ngọn Kim long tiên bay ra cuốn lấy ngọn thiết trượng.

Trần Huyền Phong kêu lên:

– Bây giờ ta sẽ lấy cái mạng chó của thằng lùn nhà ngươi!

Rồi nhấc chân phóng qua y, đột nhiên thấy chân vướng một cái như là thân người, khom người xuống mò một cái thấy người ấy vừa nhỏ vừa nhẹ, chính là Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh kêu lớn:

– Buông ta ra!

Trần Huyền Phong hừ một tiếng, lúc ấy ánh chớp lại lóe lên. Quách Tĩnh chỉ thấy người túm mình sắc mặt vàng sẫm, hai mắt lóe hung quang vô cùng dữ tợn, qua cơn hoảng sợ lại thuận tay rút ngọn chuỳ thủ trong lưng ra đâm vào y, nhát kiếm ấy đâm ngập vào rốn Trần Huyền Phong, ngọn chuỳ thủ dài tám tấc ngập tới tận cán.

Trần Huyền Phong điên cuồng kêu lên một tiếng ngã vật về phía sau. Công phu hoành luyện của y thì luyện môn đúng giữa rốn, đừng nói là thanh chuỳ thủ sắc bén vô cùng, chỉ cần đao kiếm tầm thường đâm trúng vào luyện môn cũng phải chết ngay lập tức Lúc đối phó với cao thủ, y bảo vệ luyện môn rất kín đáo, quyết không để quyền cước binh khí của đối phương chạm vào bụng dưới, nhưng lúc ấy chụp một đứa trẻ con, không hề có ý đề phòng, huống chi trước đó đã túm lấy nó, biết nó hoàn toàn không biết võ công, không hề biết đạo lý “Kẻ bơi giỏi chết đuối, đất bằng làm lật xe”. Trần Huyền Phong võ công rất cao cường lại chết dưới tay một đứa trẻ con hoàn toàn không biết võ công.

Quách Tĩnh một nhát chuỷ thủ đâm ngã người ta đã hoảng sợ tới mức lục thần vô chủ, điếng người đứng ngẩn ra một bên, mở miệng định khóc nhưng khóc không ra tiếng.

Mai Siêu Phong nghe tiếng gào thảm của chồng, vợ chồng tình sâu, từ đỉnh núi xông mau xuống, hụt chân lộn đi mấy vòng. Y thị rơi xuống cạnh chồng, kêu lên:

– Thằng chồng giặc, ngươi.., ngươi sao rồi?

Trần Huyền Phong yếu ớt đáp:

– Không xong rồi, mụ… mụ vợ ác… chạy mau đi.

Mai Siêu Phong nghiến răng nghiến lợi nói:

– Ta sẽ trả thù cho ngươi!

Trần Huyền Phong nói:

– Bộ kinh ấy… ấy.., đốt đi cho ta, còn bí quyết ở bụng ta…

Hơi thở không tiếp nối được nữa, chết ngay đương trường. Mai Siêu Phong trong lòng đau xót, lập tức vươn tay mò vào ngực y tìm bộ Cửu âm chân kinh.

Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong là sư huynh sư muội đồng môn, hai người đều là đệ tử của Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư ngoài Đông Hải. Hoàng Dược Sư võ công tự thành một phái, luận về công lực, chiêu số quả không kém gì phái Toàn Chân đứng đầu võ học trong thiên hạ và họ Đoàn oai trấn phương Nam. Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong học nghệ chưa thành nhưng ngầm tư thông với nhau, biết là nếu bị sư phụ phát hiện thì không những không giữ được tính mạng mà trước khi chết còn phải chịu hình phạt rất thảm khốc, hai người lén bàn bạc với nhau, càng nghĩ càng sợ, cuối cùng chọn một đêm tối trời lặng gió cưỡi thuyền nhỏ lén trốn tới Hoành đảo phía Đông rồi chuyển vào Ninh Ba Chiết Giang.

Trần Huyền Phong lúc chạy trốn biết võ công của mình trên giang hồ thì phòng thân có thừa nhưng thành danh thì không đủ, nên một là không làm, hai là làm thì không thôi, bèn lén vào mật thất của sư phụ lấy trộm nửa bộ Cửu âm chân kinh mà Hoàng Dược Sư quý báu nhất trốn đi. Hoàng Dược Sư đương nhiên rất tức giận nhưng vì lúc ấy đã lập lời thề không rời khỏi đảo Đào Hoa một bước, tâm nguyện chưa thỏa, không thể trái lời thề rời đảo đuổi bắt nên sau lúc quát tháo như sấm sét lại trút giận lên đầu kẻ khác, đánh gãy hết chân tất cả đám đệ tử còn lại, trục xuất tất cả ra khỏi đảo Đào Hoa, một mình đóng cửa tức giận.

Hắc Phong song sát lần ấy làm liên lụy tất cả các đồng môn phải chịu tai họa oan ức, nhưng vẫn theo bí truyền trong bộ Cửu âm chân kinh luyện tập, cuối cùng luyện thành một thân công phu ít thấy trong võ lâm. Bộ Cửu âm chân kinh này vốn ghi chép những võ học chính phái thượng thừa của Đạo gia, nhưng vợ chồng Trần Mai chỉ trộm được nửa bộ dưới, không học được tâm pháp nội công thượng thừa của nửa bộ trên mà đảo Đào Hoa của Hoàng Dược Sư lại là một chi phái tự mình sáng lập trong võ học, khác hẳn công phu nội công của Đạo gia. Hắc Phong song sát tính tình tàn nhẫn, chỉ hiểu được một nửa cũng đã thỏa mãn, học bừa tập ẩu, toàn luyện những võ công âm độc.

Hôm ấy vợ chồng Trần Mai luyện Cửu âm bạch cốt trảo trên núi hoang, đem chín cái đầu lâu chất thành đống vừa khéo đụng phải anh em Kha. Thấy vợ chồng y tàn hại người vô cớ bèn ra mặt can thiệp, đôi bên động thủ. Phi thiên thần long Kha Tịch Tà chết dưới chưởng của Trần Huyền Phong. May mà lúc ấy Cửu âm bạch cốt trảo của hai người Trần Mai còn chưa luyện thành nên Kha Trấn Ác mới chạy thoát được, nhưng đôi mắt đã bị họ đánh mù.

Hai vợ chồng Trần Mai vừa luyện được thần công, qua lại giang hồ không có địch thủ, loại võ sư tầm thường cố nhiên là thấy mặt bỏ chạy, nhưng ngay các nhân vật anh hùng thành danh chết dưới tay vợ chồng họ cũng không biết bao nhiêu mà kể, nên hai vợ chồng được cái ngoại hiệu là Hắc Phong song sát. Họ thấy sư phụ không xuất hiện lại càng hoành hành không sợ sệt gì, đến khi bị mấy chục cao thủ trong võ lâm liên thủ tấn công, hai vợ chồng đều bị trọng thương, lúc ấy mới im hơi náu tiếng ẩn cư. Nhiều năm qua trong võ lâm không nghe thấy tin tức gì của họ, chỉ cho rằng hai người đã bị trọng thương mà chết, nào ngờ họ ẩn náu ở vùng sa mạc xa xôi phía Bắc, ngấm ngầm rèn luyện võ công âm độc.

Công phu Cửu âm bạch cốt trảo và Tồi tâm chưởng đều được ghi chép trong Cửu âm chân kinh. Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong tuy là vợ chồng nhưng y đối với vợ thủy chung vẫn không cho xem nguyên bản chân kinh, chỉ khi mình tham ngộ luyện thành rồi mới truyền thụ lại cho vợ. Cho dù Mai Siêu Phong năn nỉ ỉ ôi thế nào y cũng bất kể, nói:

– Bộ chân kinh này có hai phần thượng hạ, ta chỉ trộm có quyển hạ, tất cả việc rèn căn cơ, tu chân nguyên đều nằm trong quyển thượng. Nếu ta đưa nàng xem, nàng lại nóng lòng muốn luyện tất cả những công phu ghi chép trong đó thì nhất định sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, nhẹ thì trọng thương, nặng thì mất mạng. Võ công ghi trong kinh tuy nhiều nhưng chỉ có phối hợp được với công phu võ học căn bản của chúng ta mới có thể luyện được.

Mai Siêu Phong nghe thấy có lý, vả lại biết rõ chồng đối với mình vô cùng chân thành, tuy bình nhật nói chuyện cứ chửi bừa nhau là Thằng chồng giặc, Mụ vợ ác, nhưng thật ra tình nghĩa thâm thiết, vì thế cũng không nói tới chuyện ấy nữa.

Mai Siêu Phong lúc ấy thấy chồng sắp chết mới hỏi tới chuyện đó, nhưng y đã đứt hơi, chỉ nói được nửa câu. Y thị sờ lên ngực chồng không thấy gì chợt sửng sớt, đang mò mẫm tìm lại thì bọn Hàn Bảo Câu. Hàn Tiểu Oanh. Toàn Kim Phát đã nhân lúc mây đen hơi tan, có thể nhìn thấy đối phương đã ùa vào tấn công.

Mai Siêu Phong hai mắt đã mù, đầu óc hôn mê, rõ ràng chất độc trên ám khí đã phát tác, y thị và chồng luyện Cửu âm bạch cốt trảo hơn mười năm nay đều liên tục uống một lượng nhỏ thạch tín rồi vận công đẩy ra, lấy cách thức bất đắc dĩ ngu xuẩn ấy để gượng gạo tăng thêm nội lực ngoại công, cơ thể nhờ vậy tự nhiên cũng có khả năng đề kháng chất độc, nếu không thì bị trúng độc lăng của Phi thiên biển bức Kha Trấn Ác làm sao có thể kéo dài tính mạng nảy giờ không chết? Lúc ấy bèn triển khai Cầm nã thủ, lúc kẻ địch vào sát thì hung dữ phản kích. Giang Nam tam quái không những không thể làm gì được đối phương mà còn liên tiếp gặp nguy hiểm.

Hàn Bảo Câu sốt ruột nhảy dựng lên, nghĩ thầm Bọn mình ba người hợp lực giao đấu với mụ ác bà trọng thương mù mắt mà vẫn không thể đắc thủ thì oai danh của Giang Nam thất quái mất sạch. Tiên pháp lập tức thay đổi, roạt roạt roạt ba roi liên hoàn hên tiếp đánh vào hậu tâm Mai Siêu Phong. Hàn Tiểu Oanh thấy cước bộ của địch nhân loạng choạng, dần dần không còn chi trì được, bèn phóng mau kiếm tới. Toàn Kim Phát cũng sấn vào tấn công ráo riết.

Đã thấy có thể đắc thủ, đột nhiên cuồng phong nổi lên, mây đen càng dày, ba người trước mắt lập tức chỉ còn thấy một màn đen tối sầm. Cát đá bị gió cuộn lên, từ trên không rơi xuống rào rào.

Bọn Hàn Bảo câu đều nhảy ra ngoài nằm phục xuống đất, qua hồi lâu, trận cuồng phong ấy hơi giảm, mưa cũng ngớt dần, sau lớp mây đen bóng trăng dần dần nhô ra. Hàn Bảo Câu đứng dậy bất giác kêu lên một tiếng, không những không thấy Mai Siêu Phong đâu mà cả xác Trần Huyền Phong cũng không còn ở đó, chỉ thấy Kha Trấn Ác. Chu Thông. Nam Hy Nhân. Trương A Sinh bốn người nằm dưới đất. Quách Tĩnh thì từ từ thò đầu lên phía sau tảng đá, quần áo mọi người đều ướt sũng nước mưa.

Ba người bọn Toàn Kim Phát vội tới giúp đỡ bốn anh em bị thương. Nam Hy Nhân tay bị gãy xương, may là không bị nội thương. Kha Trấn Ác và Chu Thông nội công thâm hậu, tuy trúng chưởng của Đồng thi những lấy sức chống sức, nội tạng cũng chưa bị tổn thương nặng, chỉ có Trương A Sinh liên tiếp trường hai chiêu Cửu âm bạch cốt tráo, trên đầu lại bị đánh mạnh một quyền, tuy đã tỉnh lại nhưng tính mạng vẫn còn nguy hiểm.

Giang Nam lục quái thấy y hơi thở thoi thóp, vết thương không thể cứu được, người nào cũng vô cùng đau đớn. Hàn Tiểu Oanh càng lòng đau như dao cắt Ngũ ca đối với mình có tình nghĩa sâu nặng như thế, trong lòng làm sao không biết, chỉ là nàng tính tình hào mại, dốc đòng học võ, lạt lẽo về chuyện tình ái. Trương A Sinh lại suốt ngày cười hì hì hà hà, nên giữa hai người trước nay chưa từng bộc lộ tình ý, nghĩ tới y vì cứu mạng mình mà đem thân hứng chịu tay trảo của địch nhân, bất giác vừa cảm động vừa đau xót, ôm chặt Trương A Sinh khóc lớn.

Trương A Sinh gương mặt to béo bình thường hay cười, lúc ấy vẫn hơi có vẻ cười cợt, đưa bàn tay đồ tể to như cái quạt ra nhè nhẹ vỗ lên đầu Hàn Tiểu Oanh, an ủi Đừng khóc, đừng khóc, ta khỏe lắm. Hàn Tiểu Oanh khóc nói:

– Ngũ ca. Em làm vợ anh được không?

Trương A Sinh hì hì cười hai tiếng, vết thương nhói lên, thần trí dần dần hôn mê.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Ngũ ca, anh yên tâm. em đã là người của Trương gia rồi, đời này kiếp này quyết không lấy ai khác. Anh chết rồi. em sẽ vĩnh viễn thủ tiết.

Trương A Sinh lại cười hai tiếng, hạ giọng nói:

– Thất muội, trước nay ta đối xử với nàng không tốt. Ta.., ta cũng không xứng với nàng.

Hàn Tiểu Oanh khóc nói:

– Anh đối xử với em rất tốt rất tốt em biết mà!

Chu Thông ứa nước mắt, nhìn Quách Tĩnh nói:

– Ngươi tới đây là muốn theo bọn ta học võ phải không?

Quách Tĩnh nói:

– Phải.

Chu Thông nói:

– Vậy từ nay về sau ngươi phải nghe lời bọn ta.

Quách Tĩnh gật đầu vâng dạ. Chu Thông hắng giọng nói:

– Bảy anh em chúng ta đều là sư phụ của ngươi, hiện tại vị Ngũ sư phụ kia của ngươi đã sắp quy thiên rồi, ngươi hãy dập đầu bái sư đi.

Quách Tĩnh cũng không biết quy thiên là gì, nghe Chu Thông nói thế lập tức nằm phục xuống đất bình bình bình ba tiếng không những dập đầu về phía Trương A Sinh.

Trương A Sinh cười thảm một tiếng, nói:

– Được rồi?

Rồi gắng nhịn đau, nói:

– Hảo hài tử, ta không thể dạy võ công cho ngươi rồi… ờ, thật ra ngươi có học được võ công của ta cũng vô dụng. Ta đầu óc ngu xuẩn, học võ thì lười biếng, chỉ cậy mấy phần sức lực nếu năm xưa chịu khó hơn thì hôm nay đã không đến nỗi phải chết ở đây…

Nói tới đó hai mắt trợn ngược, sắc mặt trắng bệch, hít vào một hơi, nói:

– Ngươi thiên tư cũng không tốt lắm, phải ngàn vạn lần chăm chỉ. Lúc nào thấy lười biếng thì hãy nhớ lại tình hình Ngũ sư phụ bây giờ.

Y muốn nói thêm nữa, nhưng hơi thở chỉ còn như sợi tơ. Hàn Tiểu Oanh kề tai vào miệng, chỉ nghe y nói:

– Dạy thằng nhỏ cho tốt, đừng để thua.. lão đạo sĩ xấu xa…

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Anh yên tâm. Giang Nam thất quái chúng ta nhất định không thua.

Trương A Sinh cười ngu ngơ mấy tiếng rồi nhắm mắt tắt hơi.

Lục quái nằm phục xuống đất khóc ầm lên. Bảy người bọn họ kết nghĩa kim lan, vốn đã tình như ruột thịt. Trong mấy năm nay truy tầm tung tích mẹ con Quách Tĩnh ra tới tận sa mạc lại càng không ngày nào không ở bên nhau, đột nhiên một người bị thương dưới tay địch thủ, chết thảm nơi quê người, làm sao không đau xót? Sáu người khóc lớn một trận, mới đào một huyệt mộ trên núi hoang chôn Trương A Sinh.

Lúc họ dựng một tảng đá lớn làm bia để ghi nhớ xong, trời đã sáng rõ. Toàn Kim Phát và Hàn Bảo Câu xuống núi tra xét tưng tích Mai Siêu Phong. Nhưng sau cơn mưa to gió lớn, dấu chân trên cát đã không còn nhận ra được, không biết y thị chạy đi đâu. Hai người đuổi theo vài dặm, thấy trên sa mạc cho dù tìm được dấu vết vẫn không thể có manh mối, đành trở về núi nói lại.

Chu Thông nói:

– Ở giữa sa mạc thế này, chắc mụ mù.., mụ ác bà ấy cũng không chạy xa được đâu. Y thị bị trúng độc lăng của đại ca, bây giờ có quá nửa là đã bị chất độc phát tác chết rồi. Cứ đưa thằng nhỏ này về trước, chúng ta ai bị thương thì rịt thuốc dưỡng thương, rồi Tam đệ. Lục đệ. Thất muội ba người các ngươi sẽ truy tìm sau.

Những người kia đều gật đầu khen phải, gạt lệ chia tay với nấm mồ của Trương A Sinh.

Hồi 05: Cung loan bắn điêu

Đoàn người xuống khỏi gò, đi không bao lâu chợt nghe phía trước có tiếng thú dữ gầm rít từng hồi từng hồi vang tới. Hàn Bảo Câu kéo cương thúc ngựa phóng về phía trước, được một lúc chợt con hoàng mã đứng lại, thúc thế nào cũng bất động. Hàn Bảo Câu biết có chuyện lạ bèn nhìn ra xa, chỉ thấy trước mặt có một đám người xúm thành vòng tròn, có mấy con báo săn đang cắn xé vật gì đó trên mặt đất. Y biết con ngựa sợ báo, bèn nhảy xuống ngựa rút ngọn Kim long tiên ra cầm ở tay bước lên, chỉ thấy hai con báo đang cắn xé một cái xác người trong bụi cát.

Hàn Bảo Câu bước tới vài bước nhìn, thấy cái xác ấy quả nhiên chính là Đồng thi Trần Huyền Phong, nhưng từ xương mỏ ác thẳng xuống bụng dưới có một mảng máu me bê bết như toàn bộ mảnh da đã bị người ta lột mất. Y ngạc nhiên tự nhủ:

– Đêm qua rõ ràng y bị thằng nhỏ kia đâm một truỷ thủ trúng luyện môn mà chết, tại sao cái xác lại đột nhiên xuất hiện ở đây? Vả lại người đã chết rồi, sao lại có người tàn hại thi thể của y, không biết là ai hạ độc thủ? Mà là có ý gì? Chẳng lẽ Hắc Phong song sát cũng có kẻ thù ở vùng sa mạc này sao?.

Không bao lâu bọn Chu Thông cũng tới, mọi người đều không nghĩ ra duyên cớ, thấy xác Trần Huyền Phong vẻ mặt vẫn còn hung ác, chết rồi vẫn có dư oai, nhớ lại đêm qua ác đấu trên núi hoang, nếu không có Quách Tĩnh đâm một nhát chuỳ thủ ấy thì người nào cũng khó tránh khỏi đại kiếp, trong lòng đều không lạnh mà run.

Lúc ấy hai con báo đã xé nát cái xác, một đứa nhỏ bên cạnh cười trên lưng ngựa cao giọng gọi báo phu mau kéo báo đi. Nó quay đầu nhìn thấy Quách Tĩnh bèn kêu lên:

– Ô, người núp ở đây. Ngươi không dám tới giúp Đà Lôi, quả thật vô dụng!

Đứa trẻ ấy chính là Đô Sử con trai Tang Côn.

Quách Tĩnh vội kêu lên:

– Các ngươi lại đánh Đà Lôi à? Y đâu rồi?

Đô Sử đắc ý nghênh ngang nói:

– Ta dắt báo đi vồ nó đây. Ngươi đầu hàng mau đi, nếu không thì sẽ vồ luôn cả ngươi.

Nó thấy Giang Nam thất quái đứng cạnh, trong lòng cũng sợ, nếu không đã xua báo tới vồ Quách Tĩnh rồi. Quách Tĩnh nói:

– Đà Lôi đâu?

Đô sử nói:

– Đã bị báo vồ rồi.

Rồi giục bọn báo phu chạy về phía trước. Một tên báo phu khuyên:

– Tiểu công tử, người này là con của Thiết Mộc Chân đại hãn mà.

Đô Sử giơ roi ngựa lên chát một tiếng đập lên đầu y, quát:

– Sợ cái gì? Ai bảo hôm nay nó động thủ đánh ta? Đi mau.

Tên báo phu kia không dám chống lại, đành kéo báo đi theo. Một tên báo phu khác sợ gây ra đại họa, quay đầu nhìn qua kêu lên:

– Ta đi bẩm cho Thiết Mộc Chân Đại hãn.

Đô Sử vừa định quát giữ lại, tên báo phu ấy đã chạy đi như bay. Đô Sử hậm hực nói:

– Được rồi, chúng ta cứ vồ Đà Lôi trước, xem bác Thiết Mộc Chân tới sẽ làm gì?

Rồi vung roi thúc ngựa phóng đi. Quách Tĩnh tuy sợ báo nhưng vẫn lo lắng cho sự an nguy của nghĩa huynh, bèn nói với Hàn Tiểu Oanh sư phụ:

– Nó sai báo vồ nghĩa huynh của con, để con đi bảo y trốn mau.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Nếu ngươi tới đó cũng sẽ bị báo vồ, chẳng lẽ ngươi không sợ à?

Quách Tĩnh nói:

– Con sợ chứ.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Vậy ngươi có đi không?.

Quách Tĩnh không chút ngần ngừ, nói:

– Con đi.

Rồi sải chân chạy mau về phía trước. Chu Thông vì vết thương đau quá, nằm ngửa trên yên ngựa, thấy hành động ấy của Quách rất có lòng nghĩa hiệp, bèn nói:

– Thằng nhỏ này tuy ngu ngốc nhưng đúng là người trong bọn ta.

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Tứ ca nhãn lực thật không sai. Chúng ta mau đi cứu người.

Toàn Kim Phát kêu lên:

– Thằng tiểu ác bá ấy nuôi báo săn, nhất định là con cháu của đại tù trưởng. Mọi người cẩn thận đấy, đừng gây ra chuyện gì, chúng ta còn có ba người đang bị thương.

Hàn Bảo Câu triển khai công phu khinh công vọt tới sau lưng Quách Tĩnh quờ một cái túm lấy nó đặt lên vai. Y tuy thân lùn chân ngắn nhưng hai chân di động cực kỳ mau lẹ, trong chớp mắt đã ra được mấy trượng. Quách Tĩnh ngồi trên đầu vai nần nẫn của y như cưỡi trên lưng tuấn mã, vừa mau vừa vững. Hàn Bảo Câu chạy tới cạnh con Truy phong hoàng tung người vọt lên, cõng cả Quách Tĩnh nhảy lên lưng ngựa, trong chớp mắt đã vượt qua bọn Đô Sử và mấy con báo, phóng thêm một lúc quả nhiên nhìn thấy mười mấy đứa nhỏ đang vây chặt Đà Lôi. Bọn này nghe lệnh Đô Sử, đều không xông vào tấn công, chỉ vây chặt không cho nó chạy thoát.

Đà Lôi học được ba chiêu xảo diệu của Chu Thông, đêm ấy luyện tập thật thành thục, sáng sớm hôm sau tìm Quách Tĩnh không gặp, cũng không gọi Tam ca Oa Khoát Đài giúp đỡ, một mình tới đánh nhau với Đô Sử. Đô Sử mang theo bảy tám đứa nhỏ giúp đỡ thấy nó chỉ tới một mình, vô cùng ngạc nhiên. Đà Lôi nói chỉ có thể đánh nhau với từng đứa chứ không thể đánh cả bọn một lúc. Đô Sử đâu coi nó ra gì tự nhiên ưng thuận. Nào ngờ vừa động thủ. Đà Lôi luân phiên sử dụng ba chiêu xảo diệu ấy lần lượt đánh ngã bảy tám đứa nhỏ bên phe Đô Sử.

Nên biết ba chiêu số mà Chu Thông dạy cho nó ấy tuy giản dị nhưng chính là phát huy chỗ ảo diệu của Không không quyền. Đà Lôi mười phần thông minh mà ba chiêu ấy lại không có biến hóa gì phức tạp, vì vậy vừa học là biết, đem ra sử dụng, bọn trẻ con Mông Cổ dĩ nhiên không đứa nào chống được. Người Mông Cổ rất trọng lời hứa, đã nói trước là đơn đả độc đấu thì trong bọn trẻ con tuy có đứa rất tức giận cũng không cùng lúc xông vào.

Đô Sử bị Đà Lôi đánh ngã hai lần liên tiếp, trên mũi lại trúng một quyền, sau cơn tức giận chạy về nhà đem báo của cha ra. Đà Lôi một mình đánh thắng đám trẻ con đang rất đắc ý, đứng giữa vòng vây đưa mắt ngạo nghễ, cũng không nghĩ cách xông ra, nào ngờ đại họa đã tới trước mắt.

Quách Tĩnh từ xa kêu lớn:

– Đà Lô, Đà Lôi, chạy mau đi. Đô Sử mang báo ra vồ ngươi đấy!

Đà Lôi nghe thế cả kinh, muốn xông ra khỏi vòng vây, nhưng bọn trẻ con cản trở bốn phía không sao thoát thân, không bao lâu bọn Hàn Tiểu Oanh và Đô Sử cũng lần lượt phóng tới, kế là bọn báo phu dẫn hai con báo tới. Giang Nam lục quái nếu muốn ngăn trở thì ra tay là có thể bắt sống Đô Sử nhưng họ không muốn can thiệp vào chuyện người khác, lại muốn xem Đà Lôi và Quách Tĩnh đối phó nguy hiểm thế nào nên lúc ấy hoàn toàn không ra tay.

Chợt nghe sau lưng tiếng vó ngựa dồn dập vang lên, mấy người phóng ngựa như bay tới, một người trên ngựa cao giọng quát lớn:

– Không được thả báo ra, không được thả báo ra!

Đó chính là bọn Mộc Hoa Lê, Bác Nhĩ Hốt, tứ kiệt được tên báo phu kia báo tin, không kịp báo cho Thiết Mộc Chân, vội vàng lên ngựa tới ngăn cản. Thiết Mộc Chân và Vương Hãn, Trát Mộc Hợp, Tang Côn đang ngồi trong lều Mông Cổ tiếp chuyện anh em Hoàn Nhan Hồng Hy, nghe báo phu bẩm lại, giật nảy mình vội vàng ra trướng lên ngựa. Vương Hãn nói với đám thân binh tả hữu:

– Mau tới truyền lệnh của ta không cho Đô Sử làm bậy, ngàn vạn lần không được làm con của Thiết Mộc Chân Đại hãn bị thương!

Đám thân binh vâng lệnh, lên ngựa phóng mau đi. Hoàn Nhan Hồng Hy đêm qua chưa được thấy trò vui báo đánh nhau với người đang buồn bực, lúc ấy tinh thần phấn chấn, đứng lên nói:

– Tất cả đi xem xem.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nghĩ thầm Nếu báo của Tang Côn vồ chết con Thiết Mộc Chân, hai nhà họ sẽ bất hòa, nếu vì thế mà hiềm khích đánh nhau đến lúc đôi bên cùng chết thì quả thật là phúc của Đại Kim ta?.

Anh em Hoàn Nhan, Vương Hãn, Tang Côn, Trát Mộc Hợp một đoàn phóng ngựa tới, chỉ thấy hai con báo săn vòng da trên cổ đã nới lỏng ra, bốn chân chụm lại, cổ họng không ngừng phát ra tiếng gầm gừ, trước mặt là hai đứa nhỏ, chính là Đà Lôi và nghĩa đệ Quách Tĩnh.

Thiết Mộc Chân và tứ kiệt dây cung đã kéo căng, mũi tên chĩa thẳng vào hai con báo, nhìn chằm chằm không chớp mắt. Thiết Mộc Chân tuy thấy con nhỏ đang gặp nguy hiểm nhưng biết hai con báo này là vật Tang Côn yêu thích, bắt nuôi từ nhỏ đến lúc to lớn hung dữ như thế quả thật không phải một sớm một tối có thể làm được, chỉ cần chúng không vồ con mình thì cũng không muốn phát tên bắn chết.

Đô Sử thấy nhiều người tới, cậy được ông nội và cha chiều chuộng, lại càng ra vẻ oai phong, luôn miệng quát tháo sai báo vồ người. Vương Hãn kêu lên:

– Không được!

Chợt nghe phía sau có tiếng vó ngựa vang lên gấp rút, một người cưỡi ngựa hồng phi như bay tới, một người đàn bà trung niên ngồi trên lưng ngựa, khoác áo da điêu, trong bọc có một đứa con gái nhỏ, nhảy xuống ngựa bước tới, chính là vợ Thiết Mộc Chân, mẹ của Đà Lôi. Nàng đang trong lều Mông Cổ nói chuyện với vợ Tang Côn, nghe tin vội vàng bế con gái là Hoa Tranh tới thấy con đang gặp nguy hiểm, vừa sợ vừa giận, kêu lên:

– Bắn tên mau!

Rồi thuận tay thả con gái xuống đất.

Lúc ấy nàng tập trung chú ý tới con trai, lại quên chiếu cố con gái. Cô nhỏ Hoa Tranh này mới được bốn tuổi đâu biết báo hung dữ, cười hì hì chạy tới cạnh anh, nhìn thấy con báo toàn thân có đốm có vằn rất đẹp mắt còn nói là giống chó săn của Nhị ca Sát Hợp Đài nuôi rồi đưa tay định sờ lên đầu báo. Mọi người hoảng hốt quát bảo đừng, nhưng đã không kịp. Hai con báo vốn đã lấy thế chuẩn bị vồ, chợt thấy có người bước lên, cùng gầm vang vọt tới. Mọi người cùng bật tiếng la hoảng.

Thiết Mộc Chân tuy đã ngắm rất chuẩn nhưng Hoa Tranh đột nhiên bước lên, quả thật rất bất ngờ, chỉ thấy trong chớp mắt đôi báo đã vọt lên. Lúc ấy Hoa Tranh đang đứng giữa Thiết Mộc Chân và đôi báo, che mất chỗ yếu hại của chúng, phát tên chỉ có thể làm chúng bị thương chứ nhất thời không chết ngay, chỉ thêm hung dữ. Tứ kiệt vứt cung rút đao, nhất tề xông vào. Chỉ thấy Quách Tĩnh lăn tròn dưới đất ôm lấy Hoa Tranh, lúc ấy chân trước của một con báo đã chụp tới đầu vai Quách Tĩnh.

Tứ kiệt rút đao uốn người sấn vào chợt nghe vù vù vù mấy tiếng gió rít vang lên bên tai, hai con báo đột nhiên lăn tròn về phía sau, không ngừng gầm thét lăn lộn, qua một lúc thì nằm ngửa bụng lên trời, không hề động đậy.

Bác Nhĩ Hốt bước qua nhìn, chỉ thấy trên đầu hai con báo máu tươi chảy ròng ròng, rõ ràng đã bị cao thủ dùng ám khí đánh xuyên vào óc mời có thể lập tức táng mạng. Y quay đầu nhìn chỉ thấy sáu người đàn ông đàn bà người Hán thần sắc thản nhiên đứng bên cạnh nhìn, biết là ám khí do họ phóng ra. Vợ Thiết Mộc Chân vội vàng bế Hoa Tranh đang sợ hãi khóc ngất người trên tay Quách Tĩnh, luôn miệng an ủi, đồng thời kéo Đà Lôi vào lòng.

Tang Côn tức giận nói:

– Ai đánh chết đôi báo?

Mọi người im lặng không đáp. Kha Trấn Ầc nghe tiếng đôi báo gầm vang, sợ chúng làm hại Quách Tĩnh bèn ném ra bốn ngọn Thiết tật lê, chỉ là vung tay một cái lúc ấy mọi người đều chăm chú nhìn vào đôi báo, càng không ai chính mắt thấy y thi triển ám khí.

Thiết Mộc Chân cười nói:

– Tang Côn huynh đệ, khi về ta sẽ đền ngươi bốn con báo thật đẹp, lại thêm tám đôi hắc ưng.

Tang Côn cả giận không nói tiếng nào. Vương Hãn tức giận chửi mắng Đô Sử. Đô Sử bị nhục mạ trước đám đông, chợt lên cơn lăn lộn dưới đất gào khóc Vương Hãn quát bảo nín đi, nó cũng không đếm xỉa gì tới.

Thiết Mộc Chân cảm kích ân tình năm xưa của Vương Hãn, nghĩ thầm không thể vì chuyện nhỏ này mà để mất hòa khí giữa hai nhà, lập tức mĩm cười cúi xuống bế Đô Sử lên. Đô Sử chỉ kêu khóc giẫy giụa giằng ra, nhưng bị Thiết Mộc Chân nắm chặt cổ tay, làm sao mà giằng ra được?

Thiết Mộc Chân nhìn Vương Hãn cười nói:

– Nghĩa phụ, bọn trẻ con đùa giỡn nghịch ngợm có gì quan trọng? Con thấy thằng nhỏ này hay lắm, con muốn đem đứa con gái này gả cho nó, cha thấy sao?

Vương Hãn thấy Hoa Tranh hai mắt như làn nước, da trắng như mỡ dê, trong trắng đáng yêu, trong lòng rất mừng, ha hả cười nói:

– Như vậy có gì là không tốt? Chúng ta thân lại càng thân, hay là gả cháu gái lớn của ta cho Truật Xích con trai ngươi?.

Thiết Mộc Chân mừng rỡ nói:

– Đa tạ nghĩa phụ.

Rồi quay qua Tang Côn nói:

– Tang Côn huynh đệ, chúng ta là thông gia với nhau rồi.

Tang Côn tự cho mình xuất thân cao quý, trước nay đối với Thiết Mộc Chân vừa đố ky vừa coi thường, rất không muốn kết thông gia với y, nhưng lệnh của phụ vương không thể trái, đành gượng gạo mỉm cười.

Hoàn Nhan Hồng Liệt chợt nhìn thấy Giang Nam lục quái, giật nảy mình nghĩ thầm:

– Họ tới đây làm gì? Nhất định là để đuổi bắt mình. Không biết lão ác đạo họ Khưu kia có cùng tới không?

Lúc ấy y có vô số binh tướng bảo vệ, vốn cũng không sợ gì vẻn vẹn sáu người, nhưng nếu hạ lệnh bắt họ chỉ sợ lại gây ra mối họa, thấy lục quái đang nghe bọn Thiết Mộc Chân trò chuyện, hoàn toàn chưa nhìn thấy mình, lập tức quay đầu qua một bên, thúc ngựa lui lại phía sau bọn vệ sĩ, trầm ngâm nghĩ cách đối phó, hoàn toàn không nghĩ ngợi gì tới việc Vương Hãn và Thiết Mộc Chân hai nhà kết thông gia.

Thiết Mộc Chân biết chính Giang Nam lục quái đã cứu mạng con gái mình, đợi bọn Vương Hãn đi rồi bèn sai Bác Nhĩ Hốt thưởng vàng bạc da thú cho họ rồi xoa đầu Quách Tĩnh, luôn miệng khen nó can đảm, lại có nghĩa khí, việc lăn xả vào cứu người không tiếc tính mệnh như thế đừng nói là một đứa trẻ con, ngay người lớn cũng không dễ mà làm được. Hỏi nó tại sao lại dám xông vào cứu Hoa Tranh. Quách Tĩnh cứ ngơ ngơ không trả lời được, hồi lâu mới nói:

– Vì báo muốn vồ người mà!

Thiết Mộc Chân hô hô cười rộ. Đà Lôi lại kể lại chuyện đánh nhau với Đô Sử. Thiết Mộc Chân nghe nói Đô Sử kể lại chuyện nhục nhã của y trước đây, trong lòng tức giận nhưng không nói gì, chỉ dặn:”Từ nay trở đi đừng đếm xỉa gì tới nó nữa”. Trầm ngâm một thoáng, lại nói với Toàn Kim Phát:

– Các ngươi ở lại dạy võ nghệ cho con ta, muốn bao nhiêu tiền bạc?.

Toàn Kim Phát nghĩ thầm:”Bọn mình đáng muốn tìm chỗ an thân để dạy võ nghệ cho Quách Tĩnh, nếu ở lại đây thì không còn gì tốt hơn”. Lúc ấy bèn đáp:

– Đại hãn chịu thu lưu chúng tôi thì đó là điều muốn mà còn không được, xin Đại hãn cứ tùy ý ban thưởng, chúng tôi đời nào lại dám so kè nhiều ít?.

Thiết Mộc Chân rất mừng, dặn Bác Nhĩ Hốt chiếu cố cho sáu người, rồi giục ngựa quay về đưa tiễn anh em Hoàng Nhan.

Giang Nam lục quái thong thả đi phía sau, vừa đi vừa bàn bạc. Hàn Bảo Câu nói:

– Mảnh da trước bụng Trần Huyền Phong bị lột mất, người hạ thủ ắt là kẻ thù của y.

Toàn Kim Phát nói:

– Hắc Phong song sát hung dữ tàn ác, kết oán khắp nơi, chuyện đó không có gì lạ. Chỉ là không biết tại sao kẻ thù của y lại không chặt đầu hay mổ bụng mà lại chỉ lột miếng da bụng?

Kha Trấn Ầc nói:

– Nãy giờ ta cũng chỉ nghĩ tới việc này, lý do bên trong quả thật nghĩ không ra. Việc gấp nhất hiện nay là phải tìm cho ra nơi Thiết thi ẩn náu.

Chu Thông nói:

– Đúng thế, người này mà không trừ được, rốt lại sẽ thành hậu hoạn. Tôi e rằng y thị sau khi trúng độc lăng vẫn chưa chết.

Hàn Tiểu Oanh rơi nước mắt nói:

– Mối thù lớn của Ngũ ca chẳng lẽ không trả sao?.

Lúc ấy bọn Hàn Bảo Câu, Hàn Tiểu Oanh, Toàn Kim Phát ba người cưỡi khoái mã đi tìm khắp bốn phía, nhưng liên tiếp mấy ngày thủy chung vẫn không thấy dấu vết gì của Mai Siêu Phong. Hàn Bảo Câu nói:

– Mụ ác bà này hai mắt đã trúng độc lăng của đại ca, nhất định đã bị chất độc phát tác, chết rũ ở hang sâu khe vắng nào rồi.

Mọi người đều cho rằng ắt là như thế. Kha Trấn Ầc thừa biết sự lợi hại độc ác của Hắc Phong song sát, trong lòng vẫn thầm lo lắng, nghĩ thầm nếu không phải chính tay mình sờ được xác chết của y thị thì đó vẫn là một mối lo lớn, nhưng sợ làm các nghĩa đệ nghĩa muội lo lắng nên không nói ra.

Giang Nam lục quái từ đó định cư ở sa mạc dạy võ công cho Quách Tĩnh và Đà Lôi. Thiết Mộc Chân biết bản lĩnh cận chiến ấy chỉ có thể phòng thân chứ không đủ để xưng vương chiếm đất, vì vậy bắt Đà Lôi và Quách Tĩnh chỉ học quyền cước qua loa, còn phần lớn thời gian thì học các công phu cưỡi ngựa bắn tên, xung thành hãm trận trên chiến trường. Loại tài năng này thì không phải là sở trường của lục quái, nên người dạy hai đứa chủ yếu vẫn là Thần tiễn thủ Triết Biệt và Bác Nhĩ Hốt.

Cứ mỗi buổi chiều Giang Nam lục quái lại gọi riêng Quách Tĩnh tới, quyền kiếm ám khí, khinh công nội công từng môn, từng môn dạy cho. Quách Tĩnh thiên tư ngu độn nhưng được cái là biết chỉ có dựa vào nhưng công phu ấy mới trả thù được cho cha nên cắn răng vùi đầu khổ luyện. Tuy y lãnh hội được rất ít những chỗ khéo léo uyển chuyển của Chu Thông, Toàn Kim Phát, Hàn Tiểu Oanh, nhưng công phu cơ bản của Hàn Bảo Câu và Nam Hy Nhân dạy cho thì nó nhất nhất luyện tập theo, quả nhiên luyện thành rất thuần thục. Nhưng những công phu căn bản ấy cũng chỉ có thể làm thân thể khỏe mạnh mà thôi, rốt lại vẫn không phải là thủ đoạn khắc địch chế thắng.

Hàn Bảo Câu thường nói:

– Ngươi luyện công cũng như lạc đà mạnh thì mạnh đấy, nhưng lạc đà có đánh thắng được báo không?

Quách Tĩnh nghe thế chỉ cười ngờ nghệch.

Lục quái tuy ra sức dạy dỗ không hề trễ nải, nhưng thấy dạy mười chiêu thì nó chỉ học được không đầy một chiêu cũng không khỏi chán nản, lúc ngồi riêng nói chuyện với nhau chỉ lắc đầu thở dài, đều biết muốn thắng được đồ đệ của Khưu Xử Cơ thì chỉ có một trong trăm phần, có điều cái hẹn còn đó, chẳng lẽ bỏ ngang nửa chừng. Nhưng Toàn Kim Phát là người buôn bán, giỏi tính toán, thường nói:

– Khưu Xử Cơ muốn tìm được vợ họ Dương, nhiều lắm cũng chỉ có tám phần hy vọng, trước mắt chúng ta đã thắng được hai phần rồi. Vợ họ Dương biết đâu lại sinh ra con gái, chỉ có một nửa là sinh được con trai, chúng ta lại thắng được bốn phần nữa. Nếu là con trai cũng chưa chắc đã nuôi được đến lớn, chúng ta lại thắng thêm một phần. Cứ cho là nuôi được đến lớn đi, thì biết đâu cũng ngu ngốc như Tĩnh nhi. Cho nên tôi nói chúng ta đã chiếm được tám phần thắng rồi.

Ngũ quái nghĩ nói thế cũng không sai, nhưng nói con trai họ Dương học võ cũng ngu xuẩn như Quách Tĩnh thì chẳng qua chỉ là lời an ủi của Toàn Kim Phát. Nhưng rốt lại Quách Tĩnh tính nết thuần hậu, lại biết vâng lời lục quái, về nhân cách của y thì vô cùng vui mừng.

Trên thảo nguyên sa mạc phía bắc, mùa hè cỏ xanh, mùa đông tuyết trải, thấm thoát đã qua mười năm. Quách Tĩnh đã là một thiếu niên mười sáu tuổi to lớn khỏe mạnh, chỉ còn cách cái hẹn hai năm. Giang Nam lục quái đốc thúc y càng nghiêm ngặt, bắt y tạm ngừng luyện tập cung ngựa, từ sáng đến tối chỉ khổ luyện quyền kiếm.

Trong mười năm ấy. Thiết Mộc Chân chinh chiến không ngừng, thôn tính rất nhiều bộ tộc trên sa mạc. Y thống suất quân sĩ kỷ luật nghiêm minh, ai cũng dũng cảm thiện chiến, y lại trí dũng song toàn, hoặc lấy sức đánh, hoặc dùng mưu cướp, tung hoành ở phương bắc không ai chống nổi. Lại thêm bò ngựa sinh sôi nảy nở, nhân khẩu cũng tăng lên, dần dần đã có cái thế sánh ngang Vương Hãn.

Gió bắc dần tắt, tuyết lớn ngừng rơi, sa mạc phương bắc vẫn còn giá lạnh.

Hôm ấy là tiết Thanh minh. Giang Nam lục quái dậy sớm, mang lễ vật tam sinh cùng Quách Tĩnh đi tảo mộ Trương A Sinh. Người Mông Cổ không định cư một chỗ, lúc ấy chỗ họ ở cách mộ Trương A Sinh khá xa, ngựa hay phóng mau hơn nửa ngày mới tới. Bảy người lên núi hoang, quét dọn tuyết đọng trên mộ, đốt nến thắp hương quỳ lạy trước phần mộ.

Hàn Tiểu Oanh lầm rầm khấn khứa:”Ngũ ca, mười năm nay chúng tôi dốc lòng dốc sức dạy dỗ thằng nhỏ này, chỉ là y thiên tư không cao, không thể học hết công phu của chúng tôi. Nhưng mong Ngũ ca trên trời linh thiêng phù hộ, lúc tỷ võ năm tới ở Gia Hưng đừng để y làm mất oai phong của Giang Nam thất quái chúng ta”. Lục quái vốn đều sinh trưởng ở vùng Giang Nam sông nước êm đềm, lần này cư ngụ trên sa mạc gió sắc như dao suốt mười sáu năm, băng tuyết phôi pha, râu tóc đều lốm đốm bạc. Hàn Tiểu Oanh phong tư tuy không giảm nhưng cũng không còn nhan sắc như xưa.

Chu Thông nhìn tới mấy đống đầu lâu cạnh phần mộ trải gió tuyết mười năm vẫn chưa mục nát, trong lòng cảm khái vô cùng. Trong bấy nhiêu năm y và Toàn Kim Phát hai người đã sục sạo khắp từng xó hang góc động trong mấy trăm dặm chung quanh để tìm xác Thiết thi Mai Siêu Phong. Người này nếu trúng độc mà chết nhất định phải còn hài cốt, còn nếu chưa chết thì một người đàn bà mù lòa như y thị rất khó có thể ẩn náu suốt bấy nhiêu năm mà không để lộ ra dấu vết, nào ngờ y thị lại như hồn ma đột nhiên mất tích, chỉ còn một ngôi mộ nhỏ, mấy đống đầu lâu trên núi hoang ghi lại ác tích của Hắc Phong song sát năm xưa. Bảy người bày rượu thịt ra ăn uống trước phần mộ rồi trở về, nghỉ ngơi một lúc, lục quái bèn dắt Quách Tĩnh ra sườn núi luyện võ.

Hôm ấy y và Tứ sư phụ Nam Sơn tiều tử Nam Hy Nhân đối chiêu luyện Khai sơn chưởng pháp. Nam Hy Nhân cố ý giục y thi triển hết công phu, liên tiếp đánh bảy tám mươi chiêu, chợt chưởng trái vỗ ra một cái, lật người dùng một chiêu Thương ưng bác thố, tay chưởng từ trên đập xuống. Quách Tĩnh đang định lui lại biến chiêu thì Nam Hy Nhân kêu lên:

– Nhớ lấy chiêu này?

Tay trái vươn ra vỗ vào trước ngực Quách Tĩnh. Quách Tĩnh chưởng phải lập tức dựng lên, một chưởng này cũng kể là rất nhanh. Nhưng Nam Hy Nhân chưởng trái đã đánh tới chát một tiếng song chưởng giao nhau, tuy chỉ dùng ba thành công lực nhưng Quách Tĩnh thân hình đã không tự chủ được lảo đảo ngã xuống. Y chống hai tay xuống đất một cái, lập tức đứng lên, mặt đầy vẻ xấu hổ.

Nam Hy Nhân đang định chỉ điểm cho y về chỗ tinh yếu của chiêu này, chợt trong đám cây rậm vang lên hai tiếng cười, kế đó một thiếu nữ bước ra vỗ tay cười nói:

– Quách tĩnh lại bị sư phụ đánh phải không?

Quách Tĩnh đỏ bừng mặt nói:

– Ta đang luyện quyền, cô đừng tới quấy rầy!

Thiếu nữ ấy cười nói:

– Ta lại thích xem ngươi bị đánh?.

Thiếu nữ ấy chính là Hoa Tranh con gái út của Thiết Mộc Chân. Nàng tuổi cũng xấp xỉ Đà Lôi. Quách Tĩnh, từ nhỏ vẫn cùng nhau chơi đùa. Nàng vì được cha mẹ yêu chiều nên tính nết không khỏi có chỗ kiêu căng. Quách Tĩnh thì tính tình ngay thẳng, lúc nàng vô lý gây sự thì nhất định không nhường nhịn, nhưng sau khi cãi cọ không lâu lại làm hòa với nhau, lần nào cũng là Hoa Tranh tự biết mình vô lý, tới năn nỉ y. Mẹ Hoa Tranh nghĩ tới việc Quách Tĩnh từng xả thân cứu mạng con gái khỏi miệng báo nên đối xử với y rất có biệt nhãn, thường đưa biếu mẹ con y thức ăn thức mặc và gia súc.

Quách Tĩnh nói:

– Ta đang chiết chiêu với sư phụ, cô tránh ra đi!

Hoa Tranh cười nói:

– Chiết chiêu cái gì? Bị đánh thì có!

Đang trò chuyện chợt có mấy tên quân Mông Cổ cưỡi ngựa phi tới, viên Thập phu trưởng đi đầu tới gần liền tung người nhảy xuống ngựa, khẽ khom lưng nhìn Hoa Tranh, nói:

– Hoa Tranh! Đại hãn gọi cô về!

Lúc ấy người Mông Cổ chất phác không biết văn hoa, xưng hô không cung kính như người Hán, tuy Hoa Tranh là con gái của Đại hãn nhưng mọi người vẫn gọi thẳng tên. Hoa Tranh nói:

– Có chuyện gì vậy?

Viên Thập phu trưởng nói:

– Sứ giả của Vương Hãn tới rồi.

Hoa Tranh lập tức cau mày, tức giận nói:

– Ta không về.

Viên Thập phu trưởng nói:

– Cô mà không về Đại hãn sẽ nổi giận đấy.

Hoa Tranh lúc nhỏ đã được cha hứa gả cho cháu nội Vương Hãn là Đô Sử, nhưng trong bấy nhiêu năm lại gần gũi thân thiết với Quách Tĩnh, tuy ai cũng còn nhỏ chẳng biết gì là tình ái, nhưng mỗi khi nghĩ tới tương lai phải chia tay Quách Tĩnh về làm vợ Đô Sử nổi tiếng rông càn ngang ngược thì vẫn không thích, lúc ấy chẩu miệng ra im lặng không đáp, một lúc sau rốt lại cũng không dám trái lệnh cha, bèn theo viên Thập phu trưởng ra về. Vốn là Vương Hãn và Tang Côn thấy Đô Sử đã lớn, muốn chọn ngày thành hôn nên sai người đưa lễ vật qua. Thiết Mộc Chân muốn nàng gặp mặt sứ giả.

Đêm ấy Quách Tĩnh ngủ đến nửa đêm chợt nghe ngoài lều có người khẽ vỗ tay ba tiếng, y ngồi dậy chợt nghe có người dùng tiếng Hán gọi:”Quách Tĩnh, ngươi ra đây”

Quách Tĩnh hơi ngạc nhiên, nghe giọng nói không quen bèn vén một góc lều lên nhìn ra ngoài, dưới ánh trăng chỉ thấy có một người đứng dưới gốc cây lớn phía trái trước mặt. Quách Tĩnh ra khỏi lều tới gần, chỉ thấy người ấy mặc áo rộng, tóc búi, không giống đàn ông không giống đàn bà, diện mạo bị bóng cây che khuất không nhìn rõ được. Té ra người ấy là đạo sĩ. Quách Tĩnh xưa nay lại chưa từng gặp đạo sĩ, bèn hỏi:

– Ngươi là ai? Tìm ta có chuyện gì?

Người ấy nói:

– Ngươi là Quách Tĩnh phải không?

Quách Tĩnh đáp:

– Phải!

Người ấy nói:

– Thanh chủy thủ chặt sắt như bùn của ngươi đâu? Lấy ra cho ta xem.

Rồi thân hình chớp lên một cái đã tới trước mặt, phát chưởng đánh vào ngực y.

Quách Tĩnh thấy đối phương vô cớ xuất thủ đánh người, vả lại đòn ra hung mãnh, trong lòng ngạc nhiên, lập tức lách người tránh qua, quát:

– Làm gì thế?.

Người ấy cười nói:

– Thử xem võ công của ngươi ra sao.

Tay trái vung ra đánh một quyền vào mặt Quách Tĩnh, kình lực vô cùng lợi hại.

Quách Tĩnh lửa giận bừng lên, nghiêng người tránh qua, vươn tay chụp vào cổ tay đối phương, tay trái chụp vào khuỷu tay địch nhân, chiêu “Tráng sĩ đoạn uyển” trong Phân cân thác cốt thủ này chỉ cần địch nhân bị nắm trúng cổ tay thì khuỷu tay nhất định sẽ bị giữ, đẩy về trước rồi giật xuống dưới một cái, cách một tiếng, khớp xương cổ tay sẽ lập tức rời khỏi chỗ. Đây là công phu Phân cân thác cốt mà Nhị sư phụ Chu Thông dạy y.

Chu Thông tuy cử chỉ ngôn ngữ rất hoạt kê, nhưng tâm tư lại rất tinh tế, y và Kha Trấn Ầc bàn riêng với nhau mấy lần, đều nghĩ rằng Mai Siêu Phong tuy hai mắt trúng độc lăng nhưng võ công quái đi, biết đâu lại có thể chừa khỏi, y thị nếu chưa chết ắt tới trả thù, càng tới chậm thì càng chuẩn bị chu đáo, thủ đoạn ắt cũng càng tàn độc. Cho nên mười năm nay tuy Mai Siêu Phong thủy chung không hề xuất hiện nhưng lục quái không những không dám trễ nải mà càng gia tâm đề phòng. Chu Thông mỗi lần nhìn tới năm vết sẹo trên mu bàn tay bị Mai Siêu Phong gây thương tích thì trong lòng lại cảm thấy sợ hãi, nghĩ tới y thị một thân công phu hoành luyện không sao bị thương, muốn chống Cửu âm bạch cốt trảo thì không gì bằng Phân cân thác cốt thủ. Môn công phu này chuyên bẻ gãy đánh trặc khớp xương người ta, dùng thủ pháp mau lẹ tấn công vào tứ chi và xương cổ đối phương, thì không kịp né tránh. Chu Thông hối hận năm xưa lúc ở Trung nguyên chưa từng thỉnh giáo các bậc danh gia giỏi môn này, trong sáu anh em lại không ai hiểu rõ. Về sau lại nghĩ võ học trong thiên hạ vốn do người ta sáng tạo ra, đã không ai truyền thụ thì chẳng lẽ mình lại không thể tự sáng tạo?

Ngoại hiệu của y là Diệu thủ thư sinh, một đôi bàn tay vô cùng mau lẹ khéo léo, lại giỏi môn điểm huyệt, hiểu rất rõ về huyệt đạo khớp xương trên cơ thể con người, có được hai sở trường lớn ấy thì nghiên cứu Phân cân thác cốt thủ không khó lắm, mấy năm gần đây đã hiểu sâu môn ấy, thủ pháp tuy không giống với công phu của người võ lâm được sư phụ truyền thụ nhưng cũng rất có oai lực, sau khi luyện tập thuần thục với Toàn Kim Phát bèn dạy cả cho Quách Tĩnh.

Lúc ấy Quách Tĩnh đột nhiên gặp phải cường địch, ra tay một cái chính là diệu thuật Phân cân thác cốt, y về công phu này đã luyện tập thuần thục. Tuy chưa thuần thục tới mức khéo léo nhưng cũng đã hơn hẳn kẻ tầm thường. Người kia đột nhiên bị nắm chặt cổ tay và khuỷu tay, sau cơn hoảng sợ vội phát chưởng trái đánh mau tới mặt Quách Tĩnh. Quách Tĩnh hai tay đang muốn đẩy tới để bẻ gãy khớp xương cổ tay địch nhân, nào ngờ chưởng thế tới quá mau, hai tay mình đều đang vướng không sao đón đỡ, đành buông hai tay ra lui về phía sau, chỉ thấy chưởng phong lướt qua mặt đau rát không sao chịu nổi, xoay người từ chỗ sáng vào chỗ tối đổi vị trí với địch nhân thì thấy y là một thiếu niên mi dài mắt sáng, diện mạo văn nhã, khoảng mười bảy mười tám tuổi, chỉ nghe y hạ giọng nói:

– Công phu không kém, không uổng công Giang Nam lục hiệp dạy dỗ mười năm.

Quách Tĩnh đơn chưởng hộ thân, giới bị nghiêm cẩn, hỏi:

– Ngươi là ai? Tìm ta có chuyện gì?

Ðạo sĩ kia nói:

– Chúng ta luyện nữa xem.

Câu nói chưa dứt chưởng đã phát ra.

Quách Tĩnh ngưng thần bất động chờ chưởng phong đánh tới trước ngực, thân hình hơi nghiêng đi một cái, tay trái bắt lấy cánh tay địch nhân, tay phải đánh mạnh lên mang tai đối thủ, chỉ cần trúng vào mặt một cái, sẽ phất mạnh ra, khớp xương quai hàm ở dưới sẽ theo tay gãy ra, chiêu này Chu Thông đặt cho một cái tên hoạt kê là “Tiếu ngữ giải di”, ý nói cười rơi cả xương quai hàm. Nhưng lần này thì thiếu niên kia lại không chống đỡ, tay phải lập tức rút về, chưởng trái vung ngang. Quách Tỉnh vẫn dùng “Phân cân thác cốt thủ” đối phó. Trong chớp mắt hai người đã qua lại hơn chục chiêu, thiếu niên đạo sĩ kia thân hình khinh linh, chưởng pháp mau lẹ nhàn nhã, chưởng chưa tới nơi thân hình đã di chuyển, không sao nhìn rõ được dấu vết thế công của y.

Quách Tĩnh sau khi học võ lần đầu gặp phải địch nhân võ công cao cường như thế, đấu được một lúc thì trong lòng khiếp sợ, thiếu niên kia cước trái phóng lên, chát một tiếng trúng vào sườn phải y. May là công phu hạ bàn của y chắc chắn, địch nhân lại dường như chưa dùng hết sức nên lúc ấy chỉ hơi lảo đảo một cái, lập tức song chưởng vung lên che chở những chỗ yếu hại, hết sức đón đỡ, lại qua vài chiêu, thiếu niên đạo sĩ kia từng bước ép sát, đã thấy chống cự không được, chợt phía sau có một giọng nói vang lên:

– Đánh vào hạ bàn của y?.

Quách Tĩnh rốt lại thiếu kinh nghiệm, cũng không biết làm thế nào là tốt, vừa phi chân phải đá ra đã bị địch nhân chụp cứng, thiếu niên đạo sĩ kia nhân thế đá của y vung tay hất ra ngoài. Quách Tĩnh thân hình không tự chủ được lộn nhào luôn xuống, bùng một tiếng lưng đập xuống đất, may mà không đau lắm. Y dùng một chiêu “Lý ngư đả đỉnh” lập tức ưỡn lưng bật dậy, định xông lên tái đấu, chỉ thấy sáu vị sư phụ đã vây tròn chung quanh thiếu niên đạo sĩ kia.

Đạo sĩ kia không hề chống lại, cũng không lấy thế phá vây, chắp hai tay lại lớn tiếng nói:

– Đệ tử Doãn Chí Bình vâng lệnh ân sư Trường Xuân tử Khưu đạo trưởng sai khiến xin kính cẩn thỉnh an các vị sư phụ.

Nói xong cung cung kính kính lạy rạp xuống đất.

Giang Nam lục quái nghe nói người này là do Khưu Xử Cơ sai tới, đều vô cùng ngạc nhiên, sợ là giả trá, nên không đưa tay đỡ dậy. Doãn Chí Bình đứng lên, lấy trong bọc ra một phong thư, hai tay đưa qua Chu Thông. Kha Trấn Ác nghe thấy tiếng thanh la của quân Mông Cổ đi tuần dần dần tới gần, bèn nói:

– Chúng ta vào trong nói chuyện.

Doãn Chí Bình theo lục quái bước vào lều Mông Cổ. Toàn Kim Phát thắp ngọn đèn mỡ dê lên. Túp lều Mông Cổ này là nơi ngũ quái cùng ở. Hàn Tiểu Oanh thì ở một lều riêng dành cho phụ nữ. Doãn Chí Bình thấy trong lều trần thiết đơn giản quê mùa, biết lục quái bình nhật sinh hoạt thanh đạm nghèo khổ, khom lưng nói:

– Các vị tiền bối vất vả bấy nhiêu năm, gia sư vô cùng cảm kích, đặc biệt sai đệ tử tới trước bái tạ các vị.

Kha Trấn Ác hừ một tiếng, nghĩ thầm:

– Nếu lần này ngươi đến đây mà có ý tốt thì tại sao lại đá Tĩnh nhi ngã lộn nhào? Há chẳng phải trước khi thí võ thì cứ làm giảm oai phong của bọn ta một chút sao?.

Lúc ấy. Chu Thông đã mở phong bì, rút lá thư ra, cao giọng đọc lớn:

Đệ tử Toàn Chân giáo Khưu Xử Cơ rửa tay cúi đầu kính lạy Giang Nam lục hiệp Kha công, Chu công, Hàn công, Nam công, Toàn công và Hàn nữ hiệp:

Một lần chia tay ở Giang Nam, thấm thoát đã mười sáu năm. Thất hiệp một lời tựa ngàn vàng, gian nan vạn dặm, nghĩa khí xông mây, hải nội đều kính ngưỡng, người quen kẻ lạ đều nhìn nhau vỗ tay nói rằng: Không ngờ ngày nay vẫn còn được thấy phong thái nhân hiệp của người xưa.

Kha Trấn Ác nghe tới đó, hai hàng lông mày cau lại từ từ giãn ra. Chu Thông lại đọc tiếp:

Trương công quy tiên ở sa mạc phía Bắc, thật khiến người ta phải than thở, nỗi lòng canh cánh không ngày nào quên. Bần đạo nhờ vào phúc phận của các vị, may mà không nhục mệnh, chín năm trước đây đã tìm được dòng dõi của Dương quân.

Ngũ quái nghe tới đó, đồng thanh à một tiếng. Họ đã biết Khưu Xử Cơ rất giỏi, đệ tử môn nhân của Toàn Chân giáo đầy rẫy khắp thiên hạ, đã biết thế nào cũng tìm được con Dương Thiết Tâm, vì vậy luôn luôn nghĩ tới cái hẹn tỷ võ ở Gia Hưng, không ngày nào quên, nhưng tìm đứa con mồ côi cha của một người đàn bà không biết hạ lạc nơi nào rốt lại cũng là chuyện mười phần xa vời, mà sinh ra con trai hay con gái thì chỉ biết dựa vào ý trời, nếu là con gái thì võ công cũng chỉ có hạn, lúc ấy nghe trong thư nói đã tìm được con trai họ Dương, trong lòng bất giác đều rúng động.

Sáu người trước nay chưa từng nói chuyện này cho mẹ con Quách Tĩnh biết. Chu Thông nhìn Quách Tĩnh một cái thấy y có vẻ ngạc nhiên, lại đọc tiếp đoạn dưới:

Hai năm sau, vào lúc Giang Nam hoa thơm cỏ mượt, xin sẽ cùng chư công bày rượu trên lầu Túy Tiên. Đời người như hạt sương, mười tám năm đại mộng, hào kiệt trong thiên hạ há chẳng cười chúng ta là bọn vô cùng ngây ngốc sao?

Đọc tới đó chợt im bặt.

Hàn Bảo Câu hỏi:

– Đoạn cuối nói gì nữa?

Chu Thông nói:

– Hết rồi. Đúng là bút tích của y.

Năm xưa đánh cuộc trên tửu lâu. Chu Thông từng móc túi lấy được bản thảo bài thơ của Khu Xử Cơ nên nhận ra được bút tích của y.

Kha Trấn Ác trầm ngâm nói:

– Đứa nhỏ họ Dương kia là con trai à? Y tên Dương Khang phải không?

Doãn Chí Bình đáp:

– Vâng.

Kha Trấn Ác nói:

– Vậy thì y là sư đệ của ngươi à?

Doãn Chí Bình đáp:

– Là sư huynh của tôi. Đệ tử tuy lớn hơn một tuổi, nhưng Dương sư ca nhập môn sớm hơn hai năm.

Giang Nam thất quái mới rồi nhìn thấy công phu của y. Quách Tĩnh quả thật không phải là đối thủ. Sư đệ mà đã như thế thì sư huynh rõ ràng còn giỏi hơn, lần này tới đây cũng không khỏi có ý phô trương, mà hành tung của mình thì Khu Xử Cơ đều hiểu rõ ràng, việc Trương A Sinh qua đời y cũng đã biết, cảm thấy bên mình hoàn toàn thua kém.

Kha Trấn Ác cười gằn nói:

– Mới rồi ngươi chiết chiêu với y là muốn thử bản lãnh của y phải không?

Doãn Chí Bình nghe ngữ khí của y đầy ác ý, trong lòng hoảng sợ, vội nói:

– Đệ tử không dám.

Kha Trấn Ác nói:

– Ngươi về nói với sư phụ ngươi rằng Giang Nam lục quái tuy không bằng, nhưng cái hẹn ở Túy Tiên lâu quyết không thất hứa, bảo sư phụ ngươi cứ yên tâm. Bọn ta cũng không viết thư trả lời đâu!

Doãn Chí Bình nghe mấy câu ấy, vâng dạ thì không được, không vâng dạ cũng không được, vô cùng khó xử. Y vâng mệnh sư phụ lên Bắc đưa thư. Khưu Xử Cơ quả thật có dặn y tìm cách xem xét tính tình và võ công của Quách Tĩnh.

Trường Xuân tử quan tâm tới con trai của cố nhân thì vốn là có ý tốt. Doãn Chí Bình lại thiếu niên hiếu sự, tới cạnh Cán Nạn hà ở Mông Cổ lại không lập tức xin ra mắt lục quái mà lại nửa đêm mò vào giao thủ với Quách Tĩnh. Lúc ấy, thấy lục quái thần sắc không hay, trong lòng hoảng sợ không dám lằng nhằng, bèn hướng về mọi người thi lễ rồi nói:

– Đệ tử xin cáo từ.

Kha Trấn ác đưa ra tới cửa lều. Doãn Chí Bình lại thi lễ. Kha Trấn Ác cao giọng nói:

– Ngươi cũng lộn đi một cái?

Tay trái bất ngờ vươn ra nắm chặt ngực áo Doãn Chí Bình. Doãn Chí Bình cả kinh, hai tay hết sức đẩy ra phía trước, muốn giằng ra khỏi tay Kha Trấn Ác, ngờ đâu y không đẩy tới thì thôi, bất quá chỉ bị lộn nhào một cái, chứ vừa trả đòn lại càng chọc giận Kha Trấn Ác. Y tay trái vừa trầm xuống đã nhấc toàn thân Doãn Chí Bình lên, quát lớn một tiếng, huỵch một cái ném mạnh tiểu đạo sĩ xuống đất. Doãn Chí Bình lưng đau ê ẩm, qua một lúc mới từ từ bò dậy, tập tễnh bỏ đi.

Hàn Bảo Câu nói:

– Tiểu đạo sĩ vô lễ, đại ca dạy dỗ rất phải.

Kha Trấn Ác im lặng không đáp, hồi lâu mới thở dài một tiếng. Ngũ quái cũng có ý như y, thảy đều buồn bã.

Nam Hy Nhân chợt nói:

– Đánh không được cũng phải đánh!

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Tứ ca nói đúng lắm. Bảy người chúng ta kết nghĩa cùng qua lại giang hồ, không biết đã trải bao nhiêu nguy hiểm nhưng trước nay Giang Nam thất quái chưa từng co đầu rụt cổ.

Kha Trấn Ác gật gật đầu nhìn Quách Tĩnh nói:

– Về ngủ đi, sáng mai chúng ta sẽ luyện kình.

Từ đó trở đi, lục quái truyền thụ võ nghệ ngày càng nghiêm khắc. Nhưng bất kể là đọc sách học võ hay cầm kỳ thi họa các môn, nếu mong thành tài thật mau, hết sức rèn luyện thì có lúc lại ách tắc không thể tiến bộ. Lục quái thiết tha mong đệ tử thành tài, đốc thúc gắt gao, nhưng Quách Tĩnh lại hoàn toàn không phải là người thông minh dĩnh ngộ, so với người thường còn ngu ngốc hơn ba phần, y trong lòng đã sợ sệt, chân tay càng luống cuống. Ba tháng sau đêm tiểu đạo sĩ Doãn Chí Bình tới thăm y tiến bộ rất ít, mà ngược lại còn như tụt lùi, đúng với đạo lý “Muốn mau thì không tới, ăn nhiều thì không tiêu”. Giang Nam lục quái ai cũng võ nghệ bất phàm, nhưng đều là khổ công rèn luyện lâu ngày mới có được thành tựu như thế, mà muốn Quách Tĩnh trong vòng vài năm học được tất cả thì cho dù là người thông minh tuyệt đỉnh cũng còn khó khăn, huống chi y còn chưa có tư chất bằng người trung bình sao. Giang Nam lục quái vốn cũng biết bằng vào tư chất của Quách Tĩnh thì nhiều lắm cũng chỉ có thể luyện được võ công của một mình Hàn Bảo Câu hoặc Nam Hy Nhân, sau hai ba mươi năm khổ luyện thì may ra mới đạt được một nửa thành tựu của Hàn Nam hai người.

Nếu Trương A Sinh không chết. Quách Tĩnh học công phu chất phác của y là hợp nhất. Song lục quái dốc lòng muốn thắng Khưu Xử Cơ, biết rõ trăm hay không bằng tay quen nhưng chẳng lẽ lại bỏ phí một thân võ công mà tụ thủ bàng quan giương mắt đứng nhìn, không dạy cho thằng đồ đệ ngu xuẩn này.

Trong mười sáu năm nay, Chu Thông không ngừng nhớ lại tình hình lúc động thủ trên lầu Túy Tiên và trong chùa Pháp Hoa, từng chiêu từng thức của Khưu Xử Cơ y đều nhớ rất rõ, còn hơn cả lúc chính mắt nhìn thấy, nhưng muốn tìm được chỗ sơ hở có thể lợi dụng trong võ công của y thì quả thật quá sức mình, có lúc lại nghĩ chỉ có Đồng thi Thiết thi thì may ra mới thắng được lão đạo sĩ mũi trâu ấy.

Sáng sớm hôm ấy, Hàn Tiểu Oanh dạy hai chiêu trong Việt nữ kiếm pháp cho Quách Tĩnh. Chiêu “Chi kích bạch viên” phải nhảy vọt lên không khua kiếm hai vòng mới trở kiếm đánh xuống. Quách Tĩnh công phu nặng về hạ bàn, nhảy lên không đủ nhẹ nhàng, chỉ khua kiếm được một vòng trên không đã rơi xuống đất liên tiếp thử bảy tám lần, thủy chung vẫn chỉ thêm được nửa vòng. Hàn Tiểu Oanh nổi nóng nhưng cố nén giận, dạy y khi điểm mũi chân xuống thì dùng lực thế nào, dùng kình ở bắp chân thế nào, nào ngờ lúc y nhảy lên đúng độ cao thì lại quên khua kiếm, liên tiếp mấy lần đều như thế.

Hàn Tiểu Oanh nghĩ bảy người bọn mình vì y mà chịu khổ chịu rét ở sa mạc phía bắc suốt mười sáu năm, Ngũ ca Trương A Sinh lại bỏ xác nơi quê người, mà dạy đi dạy lại lại dạy ra một gã đồ đệ ngu xuẩn thế này thì một mạng của Ngũ ca và nỗi vất vả nhiều năm của bảy người kể như mất trắng, trong lòng vô cùng đau đớn, ứa nước mắt ném trường kiếm xuống đất ôm mặt chạy đi.

Quách Tĩnh đuổi theo mấy bước không kịp, ngơ ngác đứng lại đó, thấy vô cùng khó xử. Y biết ơn các sư phụ to như núi, chỉ mong có ngày thành tài để an ủi họ, nhưng bất kể mình khổ luyện thế nào cũng vẫn không thành, quả thật không biết làm sao là tốt.

Đang ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên nghe giọng nói của Hoa Tranh từ phía sau vang lên:

– Quách Tĩnh, lại đây mau, lại đây mau.

Quách Tĩnh quay đầu lại, thấy nàng cưỡi ngựa Thanh thông, trên mặt lộ vẻ phấn khích. Quách Tĩnh nói:

– Cái gì thế?

Hoa Tranh nói:

– Lại mau mà xem, có rất nhiều chim điêu đánh nhau.

Quách Tĩnh nói:

– Ta đang luyện võ mà.

Hoa Tranh cười nói:

– Luyện không được, lại bị sư phụ mắng phải không?

Quách Tĩnh gật gật đầu. Hoa Tranh nói:

– Mấy con chim điêu này đánh nhau rất dữ, mau đi xem.

Quách Tĩnh tuổi trẻ hiếu động, nhưng nghĩ tới dáng vẻ của Thất sư phụ mới rồi cúi đầu buồn bã nói:

– Ta không đi.

Hoa Tranh vội nói:

– Ta không cần xem, chỉ tới gọi ngươi thôi. Nếu ngươi không đi thì từ nay trở đi đừng nhìn ngó gì tới ta nữa.

Quách Tĩnh nói:

– Cô mau mau đi xem rồi quay lại kể cho ta nghe cũng thế.

Hoa Tranh nhảy xuống ngựa chẩu miệng nói:

– Ngươi không đi, ta cũng không đi, chỉ không biết bạch điêu thắng hay hắc điêu thắng.

Quách Tĩnh nói:

– Là đôi bạch điêu lớn làm tổ trên sườn núi đánh nhau à?

Hoa Tranh nói:

– Phải rồi, hắc điêu rất đông nhưng bạch điêu rất lợi hại, đã giết chết ba bốn con hắc điêu rồi…

Trên dốc núi dựng đứng có một đôi bạch điêu làm tổ, thân hình vô cùng to lớn, to gấp rưỡi chim điêu thường, quả thật là giống lạ. Chim điêu lông trắng vốn đã hiếm có, mà thân thể đôi chim điêu này lại to lớn như thế, những người lớn tuổi trong bộ tộc Mông Cổ cũng nói chưa từng thấy, đều gọi đó là chim thần, đám đàn bà ngu dốt có kẻ còn tới khấn khứa.

Quách Tĩnh nghe tới đó đã nhịn không được, nắm tay Hoa Tranh nhảy lên ngựa, hai người cùng cưỡi một con ngựa phi tới dưới núi. Quả thấy có mười tám con hắc điêu bao vây tấn công đôi bạch điêu đôi bên đánh nhau, lông bay lả tả. Bạch điêu thân hình to lớn, mỏ nhọn móng sắc, một con hắc điêu né tránh không kịp bị bạch điêu mổ trúng giữa đầu lập tức chết ngay, từ trên không rơi thẳng xuống đúng trước ngựa Hoa Tranh. Số hắc điêu còn lại tan ra bốn phía, nhưng lại lập tức vòng lại bao vây tấn công đôi bạch điêu.

Lại đánh nhau thêm một lúc, đàn ông đàn bà người Mông Cổ trên thảo nguyên đều kéo tới xem, họp thành một đám sáu bảy trăm người dưới sườn núi, chỉ chỏ bàn tán xôn xao. Thiết Mộc Chân được tin, cũng dắt Oa Khoát Đài và Đà Lôi phi ngựa tới, nhìn thấy thế tỏ vẻ rất thích thú.

Quách Tĩnh và Đà Lôi, Hoa Tranh thường tới chơi dưới núi, hầu như ngày nào cũng nhìn thấy đôi bạch điêu này bay qua bay lại, có lúc còn thấy chim điêu bắt chim thú để ăn, có lúc ném một tảng thịt bò thít dê lớn lên không, bạch điêu bay xuống quắp trăm lần không sai một, nên đôi bên đều nảy sinh cảm tình với nhau, lại thấy bạch điêu lấy ít chống nhiều, ba người không ngớt hò hét trợ oai cho bạch điêu:

– Bạch điêu mổ đi, kẻ địch bên trái tới kìa, mau quay lại hay lắm hay lắm, đuổi theo đi, đuổi theo đi?.

Đánh nhau kịch liệt hồi lâu, hắc điêu lại chết thêm hai con, hai con bạch điêu cũng bị thương khắp toàn thân, lông trắng loang lỗ máu tươi. Một con hắc điêu rất lớn đột nhiên kêu lên mấy tiếng, mười mấy con hắc điêu quay đầu tháo chạy, bay vào trong mây, chỉ còn bốn con liều chết đánh nhau. Mọi người thấy bạch điêu thắng thế đều reo hò vang dậy. Qua một lúc lại có ba con hắc điêu quay đầu bay về phía Đông, một con bạch điêu không tha, cứ đuổi riết theo sau, trong chớp mắt đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Chỉ còn một con hắc điêu trốn trên lủi dưới, bị con bạch điêu còn lại đuổi theo ráo riết. Mắt thấy con hắc điêu ấy khó mà thoát chết, chợt trên không vang lên mấy tràng tiếng kêu quái dị, hơn mười con hắc điêu trong mây lao xuống, xúm vào mổ con bạch điêu. Thiết Mộc Chân cao giọng kêu lên:

– Hảo binh pháp, hảo binh pháp.

Lúc ấy con bạch điêu một mình không chống nổi mười mấy con hắc điêu cùng tấn công, tuy mổ chết một con hắc điêu nhưng rốt lại vẫn bị trọng thương rơi xuống, bầy hắc điêu đuổi theo mổ quắp túi bụi. Quách Tĩnh và Đà Lôi. Hoa Tranh vô cùng lo lắng. Hoa Tranh thậm chí bật tiếng khóc, kêu lên:

– Gia gia, bắn hắc điêu mau đi.

Thiết Mộc Chân lại chỉ nghĩ tới đạo lý chim hắc điêu xuất kỳ chế thắng, nói với Oa Khoát Đài và Đà Lôi:

– Hắc điêu thắng là nhờ đạo dùng binh rất cao minh, các ngươi phải nhớ kỹ đấy.

Hai ngươi gật đầu vâng dạ.

Bầy hắc điêu giết con bạch điêu rồi lại bay lên một cái hang trên sườn núi, chỉ thấy trong hang nhô ra hai cái đầu bạch điêu con, nhìn thấy sẽ lập tức bị hắc điêu mổ chết. Hoa Tranh kêu lớn:

– Gia gia, sao còn chưa bắn?

Lại kêu Quách Tĩnh:

– Quách Tĩnh, ngươi xem kìa, bạch điêu sinh được một đôi bạch điêu con, sao chúng ta không biết nhỉ? Trời ơi gia gia, cha mau bắn chết hắc điêu đi?.

Thiết Mộc Chân cười khẽ một tiếng giương cung lắp tên, vù một tiếng, tên bay như chớp xuyên suốt thân một con hắc điêu, mọi người đồng thanh reo ầm lên. Thiết Mộc Chân đưa cung tên cho Oa Khoát Đài nói:

– Ngươi bắn đi.

Oa Khoát Đài bắn một phát cũng giết chết một con. Đến lượt Đà Lôi lại bắn trúng một con, bầy hắc điêu thấy tình thế không xong, nhao nhao bay tản ra.

Các tướng Mông Cổ cũng đều giương cung phát tên, nhưng bầy hắc điêu đã vỗ cánh bay cao, rất khó bắn trúng, tên đi hết trớn kình lực đã kém, chưa trúng chim điêu đã rơi xuống. Thiết Mộc Chân kêu lên:

– Ai bắn trúng sẽ được thưởng.

Thần tiễn thủ Triết Biệt có ý muốn Quách Tĩnh phô bày thân thủ, bèn dúi chiếc cung cứng của mình vào tay y, hạ giọng nói:

– Quỳ xuống, bắn vào cổ.

Quách Tĩnh nhận cung tên, chân phải quỳ xuống, tay trái bình ổn cầm vững cánh cung sắt không hề lay động, tay phải vận kình kéo cong chiếc cung hai trăm cân lên. Y theo Giang Nam lục quái luyện võ mười năm, tuy chưa đạt tới chỗ võ công thượng thặng nhưng tay khỏe mắt tinh hơn hẳn kẻ tầm thường.

Mắt thấy hai con hắc điêu liền cánh từ bên trái bay qua, tay trái khẽ rê một cái, ngắm thật chuẩn vào đầu con hắc điêu năm ngón tay phải buông ra. Đúng là Cung giương như trăng tròn, tên bay như sao xẹt. Con hắc điêu định tránh thì mũi tên đã xuyên qua cổ. Mũi tên ấy kình lực chưa hết, lại cắm luôn vào bụng con hắc điêu thứ hai, một mũi tên xuyên hai con điêu, từ trên không rơi mau xuống đất. Mọi người đồng thanh hò reo ầm lên. Số hắc điêu còn lại không dám chần chừ, vọt lên cao bay tứ tán.

Hoa Tranh nhìn Quách Tĩnh nói khẽ:

– Mang hai con điêu tới dâng cho gia gia đi.

Quách Tĩnh theo lời nâng hai con điêu lên chạy tới trước ngựa Thiết Mộc Chân, khuỵu một gối xuống, hai tay đưa lên quá đầu.

Thiết Mộc Chân bình sinh thích nhất là mãnh tướng dũng sĩ, thấy Quách Tĩnh một mũi tên xuyên hai con điêu, trong lòng cả mừng. Nên biết chim điêu ở phương Bắc không phải tầm thường, hai cánh giang ra dài hơn một trượng, lông cứng như sắt, nhào xuống vồ mồi có thể quắp cả con ngựa nhỏ hay con dê lớn bay lên không, vô cùng hung dữ, ngay cả hổ báo gặp phải chim điêu lớn cũng phải vội né tránh. Một mũi tên hạ hai con điêu thì quả càng khó khăn.

Thiết Mộc Chân sai thân binh nhận hai con điêu, cười nói:

– Hảo hài tử, tiễn pháp của ngươi hay lắm?

Quách Tĩnh không giấu công Triết Biệt, nói:

– Là sư phụ Triết Biệt dạy cho con.

Thiết Mộc Chân cười nói:

– Sư phụ là Triết Biệt, đệ tử cũng là Triết Biệt.

Trong tiếng Mông Cổ, Triết Biệt có nghĩa là Thần tiễn thủ.

Đà Lôi muốn giúp nghĩa đệ, nói với Thiết Mộc Chân:

– Gia gia, người nói bắn trúng sẽ có thưởng, nghĩa đệ của con một mũi tên hạ hai chim điêu, vậy cha thưởng y cái gì?

Thiết Mộc Chân nói:

– Muốn thưởng gì cũng được.

Rồi hỏi:

– Quách Tĩnh, ngươi muốn thưởng gì nào?

Đà Lôi mừng rỡ hỏi:

– Có thật là muốn thưởng gì cũng được không?

Thiết Mộc Chân cười nói:

– Chẳng lẽ ta lại đi lừa bọn trẻ con các ngươi à?.

Quách Tĩnh trong mấy năm ấy nương tựa Thiết Mộc Chân. Các tướng đều thích y thật thà hiền hậu, cũng không hề kỳ thị y là người Hán, lúc ấy thấy đại hãn rất vui vẻ, mọi người bèn nhìn Quách Tĩnh, đều cho rằng y có thể được trọng thưởng.

Quách Tĩnh nói:

– Đại hãn đối xử với con tốt như thế, cái gì mẹ con cũng có rồi, không cần cho con thêm gì nữa.

Thiết Mộc Chân cười nói:

– Thằng nhỏ này quả rất có hiếu, cái gì cũng nghĩ tới mẹ trước. Nhưng riêng ngươi thì cần gì nào? Cứ nói ra đi, đừng sợ.

Quách Tĩnh thoáng trầm ngâm rồi quỳ hai gối xuống trước ngựa Thiết Mộc Chân, nói:

– Con thì không cần gì, chỉ thay mặt người khác xin đại hãn một việc thôi.

Thiết Mộc Chân nói:

– Việc gì?

Quách Tĩnh nói:

– Cháu nội của Vương Hãn là Đô Sử vừa độc ác vừa xấu xa. Hoa Tranh về làm vợ y nhất định sẽ phải chịu khổ. Xin Đại hãn đừng gả Hoa Tranh cho y.

Thiết Mộc Chân sửng sốt, kế hô hô cười rộ, nói:

– Đúng là lời bọn trẻ con, làm sao nghe được? Thôi thế này, ta thưởng cho ngươi một bảo vật.

Rồi cởi một thanh đoản đao trong lưng ra đưa cho Quách Tĩnh. Các tướng Mông Cổ hít hà khen ngợi, mặt mày tươi rói. Té ra đó là thanh bội đao Thiết Mộc Chân mười phần nâng niu, từng dùng giết vô số kẻ địch, nếu không phải thật vừa ý quyết không thể khinh dị đem cho.

Quách Tĩnh tạ ơn nhận thưởng, đón lấy thanh đoản đao. Thanh đoản đao này y vẫn thường thấy Thiết Mộc Chân đeo bên người, lúc ấy cầm lên nhìn kỹ, thấy vỏ đao đúc bằng vàng ròng, đầu chuôi đao chạm một cái đầu hổ bằng vàng xem rất hung dữ oai mãnh. Thiết Mộc Chân nói:

– Ngươi hãy dùng thanh kim đao của ta giết giặc thay ta.

Quách Tĩnh ứng tiếng:

– Dạ.

Hoa Tranh chợt bật tiếng khóc thất thanh, nhảy lên ngựa phóng mau đi.

Thiết Mộc Chân lòng dạ sắt đá nhưng thấy con gái khó xử cũng bất giác mềm lòng, khẽ thở dài một tiếng quay ngựa về doanh. Các vương tử và tướng sĩ Mông Cổ lục tục theo sau.

Quách Tĩnh thấy mọi người đã đi hết bèn rút đoản đao ra khỏi vỏ, chỉ thấy khí lạnh ghê người, trên lưỡi đao thấp thoáng có vệt huyết quang, biết thanh đao này đã giết rất nhiều người. Lưỡi đao tuy ngắn nhưng thân đao dày nặng, cực kỳ oai mãnh.

Y nghịch thanh đao một lúc rồi giắt vào người, tuốt trường kiếm ra lại luyện Việt nữ kiếm pháp. Luyện suốt nửa ngày vẫn không xong một chiêu Chi kích bạch viên, nếu không nhảy lên quá thấp thì là không kịp hoa kiếm hai vòng.

Y sốt ruột, đề khí không được càng luyện lại càng tệ, đến lúc mồ hôi đầy mặt chợt nghe tiếng vó ngựa vang lên. Hoa Tranh lại phi ngựa phóng tới. Nàng tới bên cạnh, lật người nhảy xuống ngựa nằm dài ra bãi cỏ, một tay chống đầu nhìn Quách Tĩnh luyện kiếm, thấy y dáng vẻ khổ sở, bèn kêu lên:

– Đừng luyện nữa, nghỉ một lúc đi.

Quách Tĩnh đáp:

– Cô đừng tới quấy rầy ta, ta không có thời giờ đâu mà tiếp chuyện cô.

Hoa Tranh không nói gì, cứ nhìn y cười khúc khích, qua một lúc rút trong bọc ra một chiếc khăn tay, thắt hai cái gút, ném qua y nói:

– Lau mồ hôi đi.

Quách Tĩnh ờ một tiếng nhưng cũng không chụp lấy, để mặc chiếc khăn rơi xuống đất, vẫn tiếp tục luyện kiếm. Hoa Tranh nói:

– Mới rồi ngươi xin cha đừng gả ta cho Đô Sử, tại sao thế?

Quách Tĩnh nói:

– Đô Sử rất xấu, trước đây thả báo ra vồ Đà Lôi anh cô. Cô lấy y rồi, biết đâu y lại đánh cô nữa.

Hoa Tranh cười khẽ nói:

– Nếu y đánh ta thì ngươi tới giúp ta mà.

Quách Tĩnh ngẩn người, nói:

– Chuyện… chuyện đó làm sao làm được?

Hoa Tranh ngưng thần nhìn y êm ái hỏi:

– Nếu ta không lấy Đô Sử thì lấy ai?

Quách Tĩnh lắc lắc đầu nói:

– Ta không biết.

Hoa Tranh phì một tiếng, mặt vốn đang đỏ bừng đột nhiên chuyển sang tức giận, nói:

– Ngươi chẳng biết gì cả?.

Qua một lúc, trên mặt nàng lại hiện vẻ tươi cười, chỉ nghe hai con bạch điêu nhỏ không ngừng kêu oang oác trên dốc núi dựng đứng, chợt xa xa có tiếng kêu thảm thiết, con bạch điêu lớn kia bay mau tới. Nó đuổi theo bầy hắc điêu đến lúc ấy mới quay về, chắc bầy hắc điêu nhử nó tới một nơi rất xa. Mắt chim điêu nhìn được rất xa, đã sớm thấy bạn tình mất mạng trên dốc núi, con chim điêu ấy trong chớp mắt như một đám mây trắng từ trên trời đáp:

– Xuống, mau lẹ lướt tới.

Quách Tĩnh dừng tay ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy con bạch điêu ấy bay vòng vòng, không ngừng kêu lên thảm thiết. Hoa Tranh nói:

– Ngươi nhìn xem, con bạch điêu ấy thật là đáng thương.

Quách Tĩnh nói:

– Ừ, nhất định là nó rất đau lòng?

Chỉ nghe con bạch điêu ấy kêu một tiếng dài rồi vỗ cánh vọt thẳng lên mây.

Hoa Tranh nói:

– Nó bay lên làm gì…

Câu nói chưa dứt, con bạch điêu ấy đã đột nhiên như một mũi tên trên mây nhào xuống, phịch một tiếng đập đầu vào tảng đá trên sườn núi, lập tức chết luôn. Quách Tĩnh và Hoa Tranh cùng bật tiếng la hoảng, nhất tề nhảy dựng lên sợ hãi hồi lâu không nói câu nào.

Đột nhiên sau lưng vang lên một giọng nói vang rền:

– Đáng kính thật, đáng kính thật?.

Hai người quay nhìn, thấy là một đạo sĩ râu bạc, sắc mặt hồng hào, tay cầm một ngọn phất trần. Người này ăn mặc mười phần cổ quái, trên đầu kết ba búi tóc cao cao nhô lên, một mảnh đạo bào không vương chút bụi. ở vùng gió cát này không biết y làm thế nào mà giữ được sạch sẽ như vậy. Y nói tiếng Hán, Hoa Tranh không hiểu, cũng không đếm xỉa gì tới y, quay đầu nhìn lại đỉnh núi, chợt nói:

– Hai con bạch điêu con kia mất cả cha mẹ, biết làm sao trên đó?

Ngọn núi dựng đứng này cao chạm mây, bốn bề đều là quái thạch không thể vin trèo, nếu hai con bạch điêu non chưa học bay thì chắc chắn sẽ phải chết đói trên đỉnh núi.

Quách Tĩnh nhìn một lúc, nói:

– Trừ phi có người mọc cánh bay lên thì mới cứu được hai con bạch điêu nhỏ ấy xuống.

Rồi nhặt trường kiếm lại tiếp tục luyện, luyện suốt nửa ngày, một chiêu Chi kích bạch viên ấy vẫn không tiến bộ được chút nào, đang lúc nóng nảy chợt nghe sau lưng có một giọng nói lạnh lùng vang lên:”Cứ luyện như thế thì có luyện một trăm năm cũng vô dụng”. Quách Tĩnh thu kiếm quay nhìn, thấy người nói chính là đạo sĩ trên đầu có ba búi tóc, bèn hỏi:

– Ngươi nói gì?.

Đạo sĩ kia cười khẽ một tiếng, cũng không trả lời chợt bước lên hai bước.

Quách Tĩnh chỉ thấy tay phải tê rần, cũng không biết vì sao nhưng thấy ánh sáng xanh chớp lên, thanh kiếm vốn cầm chặt trong tay đã nằm trong tay đạo sĩ. Thủ pháp Không thủ đoạt bạch nhận thì Nhị sư phụ vốn đã dạy, tuy chưa thuần thục nhưng đã lãnh hội được yếu quyết, mà đạo sĩ này trong chớp mắt đã cướp được trường kiếm của mình, lại không biết y dùng thủ pháp gì. Lúc ấy bất giác cả kinh, nhảy ra ba bước đứng chắn trước mặt Hoa Tranh, thuận tay rút thanh đoản đao chuôi vàng Thiết Mộc Chân ban cho ra, đề phòng đạo sĩ làm nàng bị thương.

Đạo sĩ kia kêu lên:

– Nhìn cho rõ nhé.

Rồi vọt người nhảy lên, chỉ nghe một tràng vút vút vút vút, đã vung kiếm hoa trên không sáu bảy vòng rồi nhẹ nhàng hạ xuống đất. Quách Tĩnh nhìn thấy trợn mắt há miệng, ngẩn người xuất thần.

Đạo sĩ kia ném thanh trường kiếm xuống đất, cười nói:

– Con bạch điêu kia vô cùng đáng kính, không thể không cứu con nó!

Rồi đề khí một cái lướt thẳng lên dốc núi dựng đứng, chỉ thấy y sử dụng cả tay chân, mau như khỉ vượn, nhẹ như chim bay thắng lên đỉnh núi. Ngọn núi này cao tới vài mươi trượng, có chỗ dựng đứng như vách tường, nhưng đạo sĩ kia chỉ cần mượn sức ấn tay chân vào những chỗ hợi lồi lõm là lập tức vọt lên, thậm chí ở những chỗ mặt đá nhẵn bóng lóng lánh y cũng lướt lên như thằn lằn.

Quách Tĩnh và Hoa Tranh nhìn thấy tim đập thình thình, nghĩ thầm:”Chỉ cần y sẩy chân một cái rơi xuống thì há không thành một đống thịt sao?”

Chỉ thấy y thân hình càng lúc càng nhỏ, tựa hồ đã chìm vào trong đám mây mù. Hoa Tranh bịt mắt không dám nhìn, hỏi:

– Thế nào rồi?

Quách Tĩnh nói:

– Tới đỉnh rồi…. được rồi, được rồi?

Hoa Tranh buông hai tay ra thì thấy đạo sĩ kia phi thân nhảy lên như sắp rơi xuống, vừa bất giác bật tiếng la hoảng thì y đã hạ xuống đúng đỉnh núi. Tay áo rộng trên tấm đạo bào của y bay phần phật trên đỉnh núi, từ dưới nhìn lên giống hệt một con chim lớn.

Đạo sĩ kia thò tay vào hang bắt hai con bạch điêu nhỏ ra cho vào bọc, từ từ bám vào vách núi buông người trượt thẳng xuống, qua những chỗ lồi lõm thì tay móc một cái hay chân đạp một cái để giảm sức rơi, qua những chỗ mặt đá phẳng lì thì cứ thuận thế trượt xuống, trong chớp mắt chân đã chạm đất.

Quách Tĩnh và Hoa Tranh vội chạy tới. Đạo sĩ kia lấy hai con bạch điêu trong bọc ra, dùng tiếng Mông Cổ nói với Hoa Tranh:

– Ngươi nuôi chúng tử tế được không?

Hoa Tranh vừa mừng vừa sợ, vội nói:

– Được, được, được mà rồi đưa tay ra đón lấy.

Đạo sĩ kia nói:

– Cẩn thận đừng để nó mổ đấy. Điêu non tuy còn nhỏ nhưng mổ cũng mạnh lắm.

Hoa Tranh cởi dây lưng ra buộc vào chân hai con bạch điêu nhỏ, mừng rỡ bưng lên, nói:

– Ta đi tìm thịt cho điêu nhi.

Đạo sĩ kia nói:

– Khoan đã? Ngươi phải ưng thuận ta một chuyện, ta mới đưa chim điêu cho ngươi.

Hoa Tranh nói:

– Chuyện gì?

Đạo sĩ kia nói:

– Chuyện ta lên đỉnh núi bắt chim điêu, hai người các ngươi không được nói với người khác.

Hoa Tranh cười nói:

– Được, dễ mà! Ta không nói ra là được.

Đạo sĩ kia mĩm cười nói:

– Đôi bạch điêu này lớn lên có thể rất dữ tợn, lúc nuôi phải để ý một chút.

Hoa Tranh vô cùng vui vẻ, nhìn Quách Tĩnh nói:

– Chúng ta mỗi người một con nhưng ta mang cả về nuôi giúp ngươi, được không?

Quách Tĩnh gật gật đầu. Hoa Tranh nhảy lên lưng ngựa phóng đi.

Quách Tĩnh nhớ lại công phu của đạo sĩ kia nãy giờ, đứng ngẩn ra như một thằng ngốc. Đạo sĩ kia nhặt thanh trường kiếm dưới đất lên đưa cho y, cười một tiếng quay người đi. Quách Tĩnh thấy y định đi, vội kêu lên:

– Ngươi… xin ngươi, ngươi đừng đi.

Đạo sĩ cười nói:

– Để làm gì?

Quách Tỉnh gãi đầu gãi tai, không biết làm thế nào là tốt, chợt quỳ sụp xuống đất, bình bình bình không ngớt dập đầu một mạch mười mấy cái. Đạo sĩ cười nói:

– Ngươi dập đầu với ta làm gì vậy?.

Quách Tĩnh trong lòng chợt chua xót, nhìn thấy đạo sĩ kia vẻ mặt từ hòa, thấy như gặp người thân, tựa hồ chuyện gì cũng có thể rút ruột kể với y, chợt hai giọt nước mắt lớn từ từ lăn xuống má, nghẹn ngào nói:

– Tôi tôi… tôi rất ngu xuẩn, công phu học mãi không được, lại làm sáu vị ân sư tức giận.

Đạo sĩ kia mĩm cười nói:

– Ngươi muốn thế nào?

Quách Tĩnh nói:

– Tôi ngày đêm liều mạng khổ luyện nhưng vẫn không được, nói gì cũng thế…

Đạo sĩ nói:

– Ngươi muốn ta chỉ điểm cho một con đường sáng phải không?

Quách Tĩnh đáp:

– Đúng thế.

Rồi nằm phục xuống đất lại bình bình bình dập đầu liên tiếp mười mấy cái.

Đạo sĩ kia lại cười khẽ, nói:

– Ta thấy ngươi cũng rất thành tâm. Thế này nhé, qua ba ngày nữa là rằm, lúc trăng lên tới đỉnh đầu thì ta chờ ngươi trên đỉnh núi. Ngươi không được nói với ai đấy?

Nói xong chỉ tay lên dốc núi dựng đứng một cái, nhẹ nhàng lướt đi Quách Tĩnh vội kêu lên:

– Tôi… tôi lên đó không được?

Đạo sĩ kia không đếm xỉa gì tới, vẫn như chân không chấm đất, đã lướt ra xa.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Y cố ý làm khó mình, rõ ràng là không muốn dạy mình rồi, kế lại động tâm niệm nghĩ thầm: Mình không phải không có sư phụ, sáu vị sư phụ dụng tâm dạy dỗ mình như thế, nhưng mình ngu ngốc, biết làm, sao được? Vị bá bá này bản lĩnh còn cao hơn, mình học không được, cũng chỉ uổng phí thôi.

Nghĩ tới đó lại ngẩn người nhìn lên dốc núi dựng đứng một lúc. Rồi gác chuyện ấy qua một bên, giơ thanh trường kiếm lên luyện chiêu Chi kích bạch viên, luyện đến lúc mặt trời gác núi, trong bụng đói meo mới quay về nhà.

Thấm thoát ba ngày trôi qua. Chiều hôm ấy Hàn Bảo Câu dạy y tiên pháp, loại binh khí mềm này không như loại khác, nếu không đủ xảo kình thì không những không đánh được địch nhân mà còn làm mình bị thương. Quách Tĩnh chợt nhất thời dùng kình không chính xác, nhuyễn tiên đập lại roạt một tiếng, đánh trúng đầu mình một cái đau điếng. Hàn Bảo Câu nổi giận tát y một cái. Quách Tĩnh không dám ho he, nhấc roi lên luyện tiếp. Hàn Bảo Câu thấy y cố gắng cũng cố nén giận, tuy Quách Tỉnh liên tiếp làm sai mấy lần cũng không trách móc nữa, dạy được năm chiêu, bèn khen ngợi mấy câu, bảo y tự luyện tập rồi lên ngựa đi.

Luyện môn Kim long tiên pháp này rất vất vả, chỉ luyện qua mười mấy lượt thì đầu mặt, cánh tay, bắp chân chỗ nào cũng bị bầm tím. Quách Tĩnh vừa đau vừa mệt, nằm lăn ra bãi cỏ ngủ khò khò, khi Tĩnh dậy thì trăng sáng đã nhô ra sau núi, chỉ thấy những vết roi đau buốt từng cơn, trên mặt bị Tam sư phụ tát một cái cũng còn tê rần.

Y nhìn lên dốc núi chợt nổi cơn hung dữ, nghiến răng nói:

– Y lên được thì tại sao mình không lên được?

Rồi chạy tới dưới dốc núi, bám lấy dây mây từng bước từng bước bò lên, chỉ lên được sáu bảy trượng thì trước mặt vách đá phẳng lì dựng đứng, không có một tấc cỏ làm sao lên được thêm bước nào nữa.

Y cắn chặt răng, cố gắng thử hai lần, nào ngờ vừa bò lên một bước đã trượt một cái, suýt nữa thì rơi nát thây. Y biết là vô vọng, thở phì phò một lúc, đã định leo xuống, nào ngờ nhìn xuống dưới lại phát sợ hồn phi phách tán. Nguyên là leo lên thì từng bước từng bước vững vàng, nhưng muốn theo đường cũ trở xuống thì những chỗ đặt chân đều là vách đá lồi ra, không thể bám chắc được nữa, nếu nhảy bừa xuống dưới một cái ắt sẽ va vào đá cứng mà chết.

Y giữa tuyệt cảnh chợt nghĩ tới hai câu Tứ sư phụ từng nói:

– Không có việc gì khó, Chỉ e kẻ có lòng.

Nghĩ thầm trước sau cũng chết, ở đây tiến lui đều không được thì chẳng bằng cố sức bò lên, lúc ấy bèn rút đoản đao ra từ từ khoét vào vách núi mấy tấc, kế đó lại khoét lỗ phía trên. Y cố gắng như thế lại lên được thêm hơn một trượng, đã mệt tới mức đầu váng mắt hoa, tay chân mềm nhũn.

Y định thần nằm dán xuống vách núi, điều hòa hơi thở, nghĩ thầm muốn lên tới đỉnh núi không biết còn phải khoét bao nhiêu cái lỗ nữa, mà khoét thêm mười mấy lỗ nữa thì đoản đao có sắc bén hơn cũng phải cùn, nhưng việc đã tới thế này, chỉ còn cách bò lên trên, nghỉ mệt một lúc, đang định nhấc đao khoét lỗ chợt nghe trên đỉnh núi có một tràng tiếng cười vang xuống.

Quách Tĩnh không dám ngửa người ra phía sau, trước mắt chỉ nhìn thấy vách núi phẳng lì bóng loáng, nghe thấy tiếng cười rất ngạc nhiên nhưng không thể ngẩng đầu lên nhìn. Tiếng cười vừa tắt chợt thấy một sợi dây to buông xuống, tới trước mắt thì dừng lại không động đậy nữa. Lại nghe giọng nói của đạo sĩ kia vang lên:

– Buộc dây vào lưng đi, ta kéo ngươi lên.

Quách Tĩnh cả mừng, tra đao vào vỏ, tay trái bấu vào một lỗ nhỏ, ngón tay nắm chặt, tay phải cầm sợi dây quấn quanh người hai vòng, siết chặt lại.

Đạo nhân kia kêu lên:

– Buộc chặt chưa?

Quách Tĩnh đáp:

– Buộc chặt rồi.

Đạo nhân kia dường như chưa nghe thấy, lại hỏi:

– Buộc chặt chưa?

Quách tĩnh lại đáp:

– Buộc chặt rồi.

Đạo nhân vẫn chưa nghe, lát sau chợt cười nói:

– Ô, ta quên mất, ngươi trung khí không đủ. âm thanh làm sao vang tới đây được. Nếu ngươi buộc chặt rồi thì cứ giật dây ba cái.

Quách Tĩnh theo lời giật dây ba cái, đột nhiên thấy lưng bị siết chặt, thân hình chợt như đằng vân giá vụ bay thẳng lên. Y biết rõ đạo nhân kéo mình lên, nhưng không ngờ lại mau như thế, chỉ thấy lưng bị siết chặt một cái, thân hình đã bay vọt lên rơi xuống, hai chân vừa chạm đất đã tới trước mặt đạo nhân.

Quách Tĩnh giữa cái chết lại được sống, khuỵu hai gối xuống, đang định dập đầu, đạo nhân đã kéo cánh tay y một cái, cười nói:

– Ba hôm trước ngươi đã dập đầu hàng trăm cái là đủ rồi, đủ rồi? Tốt tốt, thằng nhỏ ngươi rất có chí khí.

Đỉnh núi là một tảng đá bằng phẳng rất lớn, trên đọng đầy tuyết trắng, đạo nhân kia chỉ vào hai tảng đá tròn to như cái trống, nói:

– Ngồi xuống đi.

Quách Tĩnh nói:

– Đệ tử đứng hầu ân sư được rồi.

Đạo nhân kia cười nói:

– Ngươi không phải là người trong môn phái ta. Ta không phải là sư phụ ngươi, ngươi cũng không phải là đệ tử của ta. Ngồi xuống đi.

Quách Tĩnh trong lòng run sợ, theo lời ngồi xuống. Đạo nhân kia nói:

– Sáu vị sư phụ của ngươi đều là nhân vật đứng đầu võ lâm, ta và họ tuy không quen biết nhưng trước nay nghe danh vẫn kính phục. Ngươi chỉ cần học được công phu của bất kể ai trong sáu người cũng đủ dương danh trên giang hồ. Ngươi lại không phải không cố gắng nhưng tại sao mười năm nay tiến bộ quá chậm, ngươi có biết vì sao không?

Quách Tĩnh nói:

– Đó là vì đệ tử quá ngu xuẩn, các sư phụ có dụng tâm hơn cũng dạy không được.

Đạo nhân kia cười nói:

– Chưa chắc đã như thế, đó là vì dạy mà không dạy đúng cách, học mà không học đúng đạo.

Quách Tĩnh nói:

– Xin sư.., sư.., lời người nói con không hiểu rõ.

Đạo nhân kia nói:

– Nói tới loại võ công tầm thường thì thành tựu của ngươi hiện nay thì quả thật không kém. Nhưng sau khi ngươi học võ, lần đầu ra tay thì bị tiểu đạo sĩ đánh bại, trong lòng ấm ức cứ cho là mình không bằng, hô hô, đó mới là hoàn toàn sai đấy.

Quách Tĩnh thầm ngạc nhiên:

– Tại sao y cũng biết chuyện ấy nhỉ?

Đạo nhân kia lại nói:

– Tiểu đạo sĩ kia tuy hất ngươi lộn nhào một cái, nhưng y toàn dùng xảo kình thủ thắng, chứ nói tới căn bản võ công thì chưa chắc đã hơn được ngươi. Mà nói lại thì bản lĩnh sáu vị sư phụ của ngươi cũng hoàn toàn không thua kém gì ta, nên ta không thể dạy võ công cho ngươi.

Quách Tĩnh ứng tiếng đáp:

– Dạ.

Nghĩ thầm:

– Quả đúng thế thật. Sáu vị sư phụ của mình võ công rất cao, vốn là vì mình quá ngu xuẩn mà thôi.

Đạo sĩ kia lại nói:

– Bảy vị ân sư của ngươi từng đánh cuộc với người ta. Nếu ta truyền thụ võ công cho ngươi, các vị sư phụ của ngươi biết được nhất định sẽ không thích, họ là hảo hán rất trọng tín nghĩa, đánh cuộc với người khác đời nào lại chiếm phần tiện nghi?

Quách Tĩnh nói:

– Đánh cuộc gì vậy?

Đạo nhân kia nói:

– Chuyện này thì ngươi không biết. Ờ, sáu vị sư phụ của ngươi còn chưa nói cho ngươi biết thì bây giờ ngươi cũng không cần hỏi. Trong hai năm nữa, nhất định họ sẽ nói rõ với ngươi. Thế này nhé, ngươi một phen thành tâm, rốt lại giữa ta và ngươi cũng có duyên, ta sẽ truyền cho ngươi một ít cách hít thở, ngồi xuống, đi lại, nằm ngủ.

Quách Tĩnh rất ngạc nhiên, nghĩ thầm:

– Hít thở, ngồi xuống, đi lại, nằm ngủ thì ta đã biết rồi, cần gì ngươi dạy?

Y thầm nghi ngờ, nhưng không nói ra miệng.

Đạo nhân kia nói:

– Ngươi hãy quét sạch tuyết trên tảng đá lớn kia rồi nằm lên đó.

Quách Tĩnh càng thấy kỳ quái, nhưng vẫn theo lời quét sạch tuyết rồi nằm ngửa ra trên tảng đá. Đạo nhận kia nói:

– Nếu nằm như thế thì cần gì ta phải dạy ngươi? Ta có bốn câu, người phải nhớ cho kỹ:

Ý định thì tình quên.

Thân rỗng thì khí chạy.

Lòng chết thì thần sống.

Dương thịnh thì âm tiêu.

Quách Tĩnh đọc đi đọc lại ghi nhớ trong lòng nhưng không biết có ý tứ gì.

Đạo nhân kia nói:

– Trước khi ngủ nhất định phải làm cho đầu óc trống rỗng sáng suốt, không hề lo lắng, sau đó co người nằm nghiêng, giữ hơi thở thật đều hồn không phóng túng, thần không rời xa.

Lúc ấy liền truyền thụ cách thức hô hấp vận khí, tĩnh tọa liễm thần.

Quách Tĩnh theo lời làm theo, lúc đầu thấy ý nghĩ cứ dâng lên hạ xuống rất khó gom lại, nhưng hít thở thổ nạp theo cách đạo nhân kia dạy cho, hồi lâu dần dần cảm thấy tâm thần bình tĩnh, từ Đan điền lại có một làn khí nóng dần dần bốc lên, trên đỉnh núi gió lạnh thấu xương nhưng cũng không thấy rét lắm. Y nằm yên như thế một giờ, tay chân chợt thấy tê dại, đạo nhân kia ngồi đối diện với y mở mắt ra nói:

– Bây giờ thì ngủ được rồi.

Quách Tĩnh vâng lời ngủ đi, khi tĩnh dậy phía đông đã rạng sáng. Đạo nhân kia dòng dây thả y xuống, bảo y tối nay lại tới, dặn đi dặn lại không được kể lại chuyện này cho bất cứ ai. Quách Tĩnh tối hôm ấy lại tới vẫn được đạo nhân kia dùng dây kéo lên. Y bình nhật học võ với sáu vị sư phụ thường suốt đêm không về, nên mẹ y cũng không hỏi gì.

Cứ thế tối đi sáng về. Quách Tĩnh hàng đêm tọa công luyện khí trên đỉnh núi. Nói ra cũng kỳ quái chứ đạo nhân kia hoàn toàn chưa dạy y một phút võ công nào, nhưng từ đó trở đi mỗi khi y luyện võ lại dần dần cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, mã bộ vững chắc. Sau nửa năm, những chỗ mà kình lực vốn không thể thu phát đã có thể tự nhiên dùng được xảo kình, những chiêu số vốn vùi đầu luyện mãi không thành đột nhiên đều thi triển được vừa nhanh vừa chuẩn. Giang Nam lục quái chỉ cho rằng y đã lớn, sau khi chăm chỉ luyện tập rốt lại cũng đột nhiên khai phát, người nào cũng rất vui vẻ.

Mỗi tối y lên núi, đạo nhân kia lại sóng vai cùng lên với y, chỉ cho y làm thế nào để vận khí dùng sức. Đến khi nào y không thể lên cao hơn nữa mới lên đỉnh núi dùng dây kéo y lên. Thời gian trôi qua, y lên núi không những ngày càng nhanh mà còn ngày càng cao, những chỗ vốn khó vin trèo thì về sau đã có thể nhảy một cái vọt qua, chỉ những chỗ khó nhất mới phải nhờ đạo nhân dùng dây kéo lên.

Lại qua một năm, còn cách ngày hẹn tỷ võ không đầy vài tháng. Giang Nam lục quái mấy ngày liền trò chuyện đều không ra khỏi việc tỷ võ ở Gia Hưng nhất định sẽ làm chấn động hào kiệt võ lâm. Thấy Quách Tĩnh võ công tiến triển, lục quái đều cảm thấy nắm chắc phần thắng, lại nghĩ đến việc được trở về quê cũ Giang Nam càng thêm vui vẻ. Nhưng lý do của việc tỷ võ thì thủy chung vẫn chưa nói với Quách Tĩnh.

Hôm ấy vừa sáng ra. Nam Hy Nhân nói:

– Tĩnh nhi, mấy tháng nay ngươi ra sức luyện tập binh khí, chỉ sợ lại quên bẵng quyền thuật, hôm nay chúng ta luyện quyền pháp nhiều hơn.

Quách Tĩnh gật đầu vâng dạ.

Mọi người ra tới chỗ mọi hôm vẫn luyện võ. Nam Hy Nhân thong thả bước ra, đang định ra chiêu với Quách Tĩnh thì đột nhiên phía trước bụi khói bốc lên, người reo ngựa hí, một bầy ngựa phóng như bay tới Người Mông Cổ chăn ngựa vung roi ngăn chặn một lúc bầy ngựa mới bình tĩnh lại.

Bầy ngựa vừa bình tĩnh lại chợt từ phía tây có một con ngựa hồng nhỏ, toàn thân lông đỏ như máu xông thẳng vào bầy ngựa cắn đá túi bụi. Bầy ngựa lại đại loạn, con ngựa hồng lại phóng như bay về phía bắc không thấy bóng dáng đâu nữa. Thoáng cái chỉ thấy xa xa ánh hồng chớp lên, con ngựa hồng lại nhanh như chớp xông vào bầy ngựa gây náo loạn một lúc. Đám mục dân giận lắm, túa ra bốn phía đuổi bắt. Nhưng con hồng mã ấy phi mau như gió, làm sao bắt được ? Trong khoảnh khắc nó đã chạy xa tít, đứng cách mấy mươi trượng giậm vó hí dài, tựa hồ vô cùng đắc ý về việc mình phá bĩnh. Đám mục dân vừa tức giận vừa buồn cười, đều không có cách nào bắt được nó. Lúc con tiểu hồng mã xông vào lần thứ ba, ba người mục dân giương cung phát tên. Con ngựa ấy vô cùng nhanh nhẹn, đợi tên bay gần tới chợt quay ngoắt qua một bên, thân pháp cực mau, ngay cả người có võ công cao cường cũng chưa chắc đã bằng.

Lục quái và Quách Tĩnh đều nhìn tới mức xuất thần. Hàn Bảo Câu quý ngựa như tính mạng, cả đời chưa từng nhìn thấy con ngựa nào thần tuấn như thế, con Truy phong hoàng của y đã là vật quý hiếm có trên đời, ngựa hay ở Mông Cổ tuy nhiều nhưng cũng ít con bằng được, nhưng so với con tiểu hồng mã này thì còn thua xa. Y chạy tới đám mục dân hỏi thăm lai lịch của con hồng mã. Một mục dân nói:

– Con tiểu hồng mã này không biết ở hang cùng núi thẳm nào ra đây. Mấy hôm trước chúng tôi thấy nó rất đẹp định dùng thòng lọng bắt lấy, nào ngờ không những không bắt được mà lại làm nó tức giận, mấy hôm nay ngày nào cũng tới gây rối.

Một mục dân lớn tuổi vẻ mặt nghiêm trang, nói:

– Nó không phải là ngựa đâu.

Hàn Bảo Câu ngạc nhiên hỏi:

– Thế thì là gì?

Người mục dân ấy nói:

– Nó là rồng trên trời biến thành, không thể bắt được.

Một mục dân khác cười nói:

– Ai nói là rồng biến thành ngựa chứ? Tào lao.

Người mục dân lớn tuổi nói:

– Bọn nhãi con biết cái gì? Ta chăn ngựa đã mấy mươi năm, đâu có thấy con nào lợi hại hơn con súc sinh ấy chứ?…

Nói chưa dút lời, con tiểu hồng mã lại xông vào bầy ngựa.

Kỵ thuật của Mã vương thần Hàn Bảo Câu có thể nói là độc bộ thiên hạ, ngay những người chăn ngựa Mông Cổ suốt đời trên lưng ngựa cũng phải than là không bằng. Lúc ấy thấy con tiểu hồng mã lại xông vào gây rối, y vốn hiểu tập tính của loài ngựa, biết đường lui mà con hồng mã này thế nào cũng phải chạy qua bèn đi về phía ấy, chờ con hồng mã phóng tới chợt nhảy vọt lên, con hồng mã phóng đúng qua giữa hai chân y, thời điểm phương vị đều không sai một ly.

Hàn Bảo Câu rơi xuống đúng lưng con ngựa, y nhất sinh đã thuần phục không biết bao nhiêu là ngựa bất kham, chỉ cần ngồi được lên lưng ngựa rồi thì trong thiên hạ không con ngựa nào có thể hất y ra khỏi lưng nữa. Nào ngờ con hồng mã trong chớp mắt ấy đột nhiên gắng sức vọt lên một cái như mũi tên, khiến y không rơi xuống đúng lưng nó. Hàn Bảo Câu cả giận, sãi chân đuổi mau theo. Nhưng y thân lùn chân ngắn, làm sao đuổi kịp?

Chợt có một bóng người từ bên cạnh vọt ra, tay trái nắm cứng đám lông bờm trên gáy con tiểu hồng mã. Con hồng mã hoảng sợ càng phi nhanh, người ấy thân hình bị kéo đi như bay trên không nhưng ngón tay vẫn nắm chắc bờm ngựa không buông.

Đám mục dân đều lớn tiếng hò reo. Giang Nam lục quái thấy người nắm bờm ngựa chính là Quách Tĩnh, bất giác đều giật nảy mình vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Chu Thông nói:

– Y học công phu khinh công cao minh này ở đâu vậy?

Hàn Tiểu Oanh nói:

– Tĩnh nhi một năm nay công lực tiến bộ vượt bậc, hay là người cha đã chết của y phù hộ? Hay là Ngũ ca…

Họ làm sao biết được trong hai năm nay, đêm nào đạo nhân có ba búi tóc kia cũng lên đỉnh núi dạy y hít thở thổ nạp, tuy chưa hề dạy nửa chiêu võ nghệ nhưng đã truyền thụ cho y nội công thượng thặng. Quách Tĩnh hàng đêm lên núi xuống núi thật ra đã luyện được bản lĩnh khinh công Kim nhạn công. Y vẫn ngu ngơ, đạo nhân kia bảo y hàng đêm lên núi thì y vâng lời hàng đêm lên núi ngủ, nội công ngày càng tiến bộ, công phu Kim nhạn công luyện được cũng chỉ bộc lộ qua khinh công mà Chu Thông, Toàn Kim Phát và Hàn Tiểu Oanh dạy cho.

Ngay cả y cũng không biết, lục quái bấy giờ cũng thấy là việc mừng bất ngờ mà thôi chứ chưa phát hiện được chân tướng bên trong. Lúc ấy Quách Tĩnh thấy con hồng mã phóng qua. Tam sư phụ chưa bắt được nó bèn phi thân vọt ra nắm chặt bờm ngựa.

Chỉ thấy Quách Tỉnh đột nhiên lộn người một cái trên không, ngồi lên lưng ngựa phóng ngược trở lại Con tiểu hồng mã ấy lúc thì đứng thẳng giơ hai chân trước lên, lúc thì tung vó sau đá mạnh, lồng lộn như bị ma ám nhưng thủy chung vẫn không hất được vật trên lưng. Hàn Bảo Câu đứng bên cạnh lớn tiếng chỉ bảo, dạy y cách thuần phục ngựa. Con tiểu hồng mã lồng lên cắn đá vòng quanh bãi cỏ hơn một giờ mà khí thế càng lúc càng mạnh.

Đám mục dân nhìn thấy đều ngạc nhiên kinh hãi. Người mục dân lớn tuổi lúc nãy quỳ xuống đất lầm rầm khấn vái xin trời đừng vì họ đắc tội với long mã mà giáng tai họa xuống, lại lớn tiếng nài nỉ xin Quách Tĩnh mau mau xuống ngựa. Nhưng Quách Tĩnh ngưng thần bám cứng vào lưng ngựa, như bị dây buộc chặt lên đó, cứ theo lưng ngựa nhô lên hụp xuống, thủy chung không hề rơi xuống.

Hàn Tiểu Oanh kêu lên:

– Tĩnh nhi, ngươi xuống để Tam sư phụ giúp cho.

Hàn Bảo Câu kêu lên:

– Không được? Nếu đổi người thì công sức nãy giờ kể như mất hết.

Y biết phàm là tuấn mã ắt có tính bướng, nhưng sau khi bị chế phục nhất định sẽ trung thành kính sợ chủ nhân suốt đời, nếu đông người hợp lực đối phó thì nó thà chết cũng không chịu khuất phục.

Quách Tĩnh cũng là loại khí cốt quật cường, bị con tiểu hồng mã quần tới mức toàn thân ướt đẫm mồ hôi, đột nhiên đưa cánh tay phải luồn xuống cổ ngựa, hai tay ôm chặt vận kình siết chặt. Y vận nội lực lên cánh tay, càng siết càng chặt, con tiểu hồng mã lồng lên cắn đá nhưng giãy ra không được, cuối cùng không thở được nữa, không sao chịu nổi, lúc ấy biết đã gặp chủ nhân, đột nhiên đứng yên bất động.

Hàn Bảo Câu mừng rỡ kêu lên:

– Được rồi, được rồi.

Quách Tĩnh sợ con ngựa chạy mất vẫn không dám nhảy xuống. Hàn Bảo Câu nói:

– Xuống đi thôi. Con ngựa này đã theo ngươi rồi, ngươi có bỏ đi nó cũng không chạy đâu.

Quách Tĩnh theo lời xuống ngựa. Con tiểu hồng mã thè lưỡi liếm mu bàn tay y, dáng vẻ mười phần thân thiết cuồng nhiệt, mọi người nhìn thấy đều cười rộ. Một người mục dân bước tới cạnh nhìn kỹ, con tiểu hồng mã đột nhiên phóng hai chân sau lên đá y lộn nhào.

Quách Tĩnh dắt ngựa vào cạnh chuồng, tắm rửa chải lông cẩn thận. Y vất vả suốt nửa ngày, lục quái không bắt y luyện võ nữa, nhưng ai cũng đầy lòng ngờ vực. Cơm trưa xong. Quách Tĩnh tới lều các sư phụ. Toàn Kim Phát nói:

– Tĩnh nhi, ta thử xem Khai sơn chưởng ngươi luyện tới đâu rồi.

Quách Tĩnh nói:

– Ở ngay đây à?

Toàn Kim Phát đáp:

– Không sai. ở đâu cũng có thể gặp phải địch nhân, có thể phải động thủ với người ta trong một gian nhà nhỏ đấy.

Nói xong tay trái vung hờ một cái, quyền phải đã đẩy ra.

Quách Tĩnh theo quy củ nhường ba chiêu, tới chiêu thứ tư thì vung tay trả đòn. Toàn Kim Phát thế công lợi hại, không hề dung tình, đột nhiên song quyền ra chiêu Thâm nhập hổ huyệt đập mạnh vào ngực Quách Tĩnh. Chiêu này hoàn toàn không phải là thủ pháp luyện võ mà là tuyệt chiêu lấy mạng địch nhân, song quyền ra chiêu hung dữ, vô cùng trầm trọng cương mãnh. Quách Tĩnh vội lui lại lưng đã chạm vào vách lều. Y giật nảy mình, lúc nguy cấp ra sức tự cứu vốn là bản tính con người, huống hồ y đầu óc trước nay vốn ngu độn, không kịp suy nghĩ, tay trái vận kình khua một vòng đè song quyền của Toàn Kim Phát xuống, đẩy mạnh luồng lực đạo ra ngoài. Lúc ấy tay quyền của Toàn Kim Phát đã chạm vào chỗ yếu hại của y, chưa kịp thu kình đã thấy ngực y mềm như một nắm bông, dường như không hề có chút sức lực, trong chớp mắt đã bị y đè cứng hất ra, hai tay tê rần, loạng choạng lui lại liên tiếp ba bước mới đứng vững được.

Quách Tĩnh sau lúc ngẩn người, hai gối quỳ ngay xuống, kêu lên:

– Đệ tử làm sai, xin Lục sư phụ trách phạt

Y trong lòng vừa hoảng vừa sợ, không biết mình đã phạm tội lớn gì mà Lục sư phụ phải hạ sát thủ để lấy mạng y. Bọn Kha Trấn Ác cùng đứng lên, vẻ mặt nghiêm trọng. Chu Thông nói:

– Ngươi ngấm ngầm theo người khác luyện võ, tại sao không cho bọn ta biết? Nếu không thử qua với Lục sư phụ thì ngươi vẫn còn muốn giấu diếm, có phải không?.

Quách Tĩnh vội nói:

– Chỉ có sư phụ Triết Biệt dạy con bắn tên đánh thương.

Chu Thông sầm mặt nói:

– Còn muốn dối trá à?

Quách Tĩnh hoảng sợ ứa nước mắt, nói:

– Đệ tử.., đệ tử quyết không dám lừa dối sư phụ.

Chu Thông nói:

– Vậy thì một thân nội công ấy của ngươi là học của ai? Ngươi cậy có cao nhân sau lưng, không coi sáu người bọn ta ra gì, hừ!

Quách Tĩnh sửng sốt nói:

– Nội công à? Đệ tử không biết gì.

Chu Thông phì một tiếng, vươn tay đâm vào huyệt Cưu vĩ dưới xương mỏ ác y hai tấc. Đây là yếu huyệt trên thân người, bị điểm trúng sẽ lập tức ngất đi.

Quách Tĩnh không dám tránh né đỡ gạt, chỉ đứng yên bất động, nào ngờ y theo đạo nhân kia chuyên cần luyện tập gần hai năm, tuy tự mình không biết, nhưng thật ra toàn thân đều đã sung mãn nội kình, ngón tay Chu Thông điểm tới, bắp thịt của y tự nhiên nảy sinh kình lực hóa giải, co lại bật ra đẩy phát chỉ chệch qua một bên, cái điểm ấy tuy vẫn trúng người y nhưng chỉ khiến ngực y đau buốt một cái chứ không điểm được huyệt đạo. Chu Thông một chỉ ấy tuy chưa dùng toàn lực nhưng bị nội kình của y hất ra, bất giác ngạc nhiên, đồng thời lửa giận bừng lên, quát lớn:

– Cái này còn không phải là nội công à?.

Quách Tĩnh chợt xoay chuyển ý nghĩ:

– Chẳng lẽ vị đạo trưởng kia dạy mình là nội công?

Bèn nói:

– Hai năm nay có một người hàng đêm tới dạy đệ tử hít thở, ngồi xuống, nằm ngủ. Đệ tử trước nay cứ theo đó làm, cảm thấy chơi đùa như thế rất dễ chịu. Có điều y chưa từng dạy đệ tử nửa chiêu võ nghệ nào cả. Y bảo con ngàn vạn lần không được nói với ai, đệ tử nghĩ đây cũng không phải việc xấu, lại không bỏ bê việc luyện võ, vì vậy chưa bẩm cáo với ân sư.

Nói xong quỳ xuống đất dập đầu mấy cái, nói:

– Đệ tử biết sai rồi, từ nay trở đi không dám theo y chơi đùa nữa.

Lục quái đưa mắt nhìn nhau, nghe giọng y rất thành thật, tựa hồ không phải đặt chuyện. Hàn Tiểu Oanh nói:

– Ngươi không biết đó là nội công à?

Quách Tĩnh nói:

– Quả thật đệ tử không biết nội công là gì cả. Y dạy con ngồi xuống từ từ vận khí, trong lòng đừng nghĩ tới việc gì, chỉ nghĩ tới luồng khí vận hành lên xuống trong bụng. Ban đầu thì chưa được gần đây trong thân thể và trên đầu giống như có một luồng hơi nóng nhỏ chạy đi chạy lại, rất là thú vị.

Lục quái vừa sợ vừa mừng, nghĩ thầm thằng nhỏ ngốc này đã luyện được tới cảnh giới ấy, quả thật không dễ. Vốn là Quách Tĩnh tâm tư thuần phác, rất ít tạp niệm nên luyện nội công dễ tiến bộ hơn những kẻ thông minh trong đầu cứ có hàng trăm ý nghĩ dồn dập kéo tới khó mà khu trừ, nên chỉ không đầy hai năm đã có chút thành tựu.

Chu Thông nói:

– Ai dạy ngươi?

Quách Tĩnh đáp:

– Y không chịu nói tên họ. Y nói võ công của sáu vị ân sư không thua kém y nên y không truyền thụ võ công cho con, cũng không phải là sư phụ của con, còn bắt đệ tử thề không được nói lại hình dáng tướng mạo của y.

Lục quái càng nghe càng ngạc nhiên, đầu tiên còn cho rằng Quách Tĩnh vô tình gặp được cao nhân, quả là phúc khí của y, bất giác mừng cho y, nhưng người kia kỳ bí như thế thì bên trong ắt có chuyện rất nhiêu khê.

Chu Thông xua tay bảo Quách Tĩnh đi ra. Quách tĩnh lại nói:

– Đệ tử từ nay trở đi không dám theo y chơi đùa nữa.

Chu Thông nói:

– Ngươi cứ đi, bọn ta không trách ngươi. Có điều ngươi đừng nói bọn ta đã biết chuyện này.

Quách Tình luôn miệng vâng dạ, thấy sáu vị sư phụ không trách phạt nữa, vui vẻ bước ra, vừa mở cửa lều thì thấy Hoa Tranh đứng ngoài, bên cạnh có hai con bạch điêu đứng. Lúc ấy hai con bạch điêu đã lớn mười phần hùng dũng, đứng dưới đất mà cao xấp xỉ Hoa Tranh. Hoa Tranh nói:

– Đi mau, ta chờ ngươi suốt nửa ngày rồi.

Một con bạch điêu bay lên đậu trên vai Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh nói:

– Ta mới thu phục được một con tiểu hồng mã chạy rất mau, không biết nó có chịu cho cô cưỡi không.

Hoa Tranh nói:

– Không chịu thì ta mổ bụng nó ra.

Quách Tĩnh nói:

– Không được đâu đấy.

Hai người nắm tay nhau ra thảo nguyên phóng ngựa thả điêu.