Hồi 36: Đại quân Tây chinh

Hoàng Dung buồn bã nói:

– Âu Dương bá bá khen ta nhiều quá. Hiện Quách Tĩnh đã trúng kế của ngươi, không đội trời chung với cha ta. Đợi ngày mai ngươi đi cứu cha ta, nếu cháu ngươi còn sống, ờ, thì chuyện hôn nhân hôm trước, chẳng lẽ lại không nhắc lại được sao?

Âu Dương Phong trong lòng hoảng sợ:

– Y thị đột nhiên nhắc tới chuyện ấy là có dụng ý gì?

Chợt nghe Hoàng Dung nói:

– Cô Ngốc, vị hảo huynh đệ này đối đãi với ngươi rất tốt phải không?

Cô Ngốc nói:

– Đúng thế, y muốn đưa ta về nhà. Ta không thích chơi trên đảo. Ta muốn về nhà.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi về nhà làm gì? Trong nhà ngươi có người chết, có ma đấy.

Cô Ngốc a một tiếng, hoảng sợ nói:

– A, trong nhà ta có ma, có ma! Ta không về nhà đâu.

Hoàng Dung nói:

– Người kia là ai giết đấy?

Cô Ngốc nói:

– Ta thấy rõ mà, là vị hảo huynh đệ.

Chỉ nghe leng keng hai tiếng, hai ngọn ám khí rơi xuống đất.

Hoàng Dung cười nói:

– Tiểu vương gia, ngươi để cô ta nói hết đã, cần gì phải dùng ám khí đả thương cô ta?

Dương Khang tức giận nói:

– Con ngốc này ăn nói quàng xiên, chuyện bậy bạ gì cũng nói được.

Hoàng Dung nói:

– Cô Ngốc, ngươi nói cho đúng, ông đây thích nghe lắm.

Cô Ngốc nói:

– Không, hảo huynh đệ không cho nói thì ta không nói.

Dương Khang nói:

– Đúng đấy, nằm xuống ngủ mau đi, ngươi mà còn mở miệng nói một tiếng thì ta gọi ma tới cắn ngươi đấy.

Cô Ngốc rất sợ sệt, luôn miệng vâng dạ. Chỉ nghe tiếng quần áo loạt soạt, cô ta đã nằm xuống ngủ.

Hoàng Dung nói:

– Cô Ngốc, ngươi không nói chuyện giải buồn với ta thì ta sẽ gọi ông tới dẫn ngươi đi.

Cô Ngốc kêu lên:

– Ta không đi, ta không đi.

Hoàng Dung nói:

– Vậy ngươi nói đi, hảo huynh đệ giết người trong nhà ngươi, là y giết ai thế?

Mọi người nghe nàng đột nhiên hỏi việc Dương Khang giết người, đều cảm thấy vô cùng kỳ quái. Dương Khang thì tim đập thình thịch, ngầm vận kình lên tay phải, nghĩ nếu cô Ngốc này nói lộ việc y đã làm ở thôn Ngưu Gia ra thì cho dù Âu Dương Phong nảy ý nghi ngờ cũng phải dùng Cửu âm bạch cốt trảo giết cô ta ngay tại chỗ, lại nghĩ:

– Lúc mình giết Âu Dương Khắc chỉ có ba người Mục Niệm Từ, Trình Dao Gia, Lục Quán Anh nhìn thấy, chẳng lẽ tin tức rốt lại đã bị tiết lộ rồi sao? Ờ, có quá nửa là lúc bấy giờ con ngốc này cũng nhìn thấy, chỉ là mình không để ý tới y thị.

Lúc ấy trong miếu yên lặng không có một tiếng động, chỉ chờ cô Ngốc lên tiếng. Kha Trấn Ác thì càng không dám thở mạnh. Qua hồi lâu thủy chung cô Ngốc vẫn không nói, chỉ nghe tiếng ngáy to dần, cô ta đã ngủ rồi.

Dương Khang thở phào một hơi, nhưng lòng bàn tay đầy mồ hôi, nghĩ thầm:

– Giữ con ngốc này rốt lại là mầm tai họa, nhất định phải nghĩ cách trừ khử y thị.

Liếc qua Âu Dương Phong thấy y nhắm mắt ngồi yên, ánh trăng chiếu vào nửa mặt y, dáng vẻ rất thản nhiên, tựa hồ hoàn toàn không để ý gì tới những câu cuối đáp mới rồi.

Mọi người đều cho rằng Hoàng Dung thuận miệng nói bừa, cô Ngốc đã ngủ rồi, chuyện ấy không còn đoạn cuối, lúc ấy hoặc nậm hoặc dựa, dần dần thiếp đi.

Đang chập chờn chợt nghe cô Ngốc la lớn một tiếng, nhảy bật dậy kêu to:

– Ðừng kéo ta, đau quá đi thôi?

Hoàng Dung hạ giọng nói:

– Ma, ma, ma gãy chân! Cô Ngốc, là ngươi giết công tử gia cụt chân ấy, y tới kéo ngươi đấy!

Trong đêm vắng, mấy câu ấy quả thật khiến người ta phải nổi gai ốc. Cô Ngốc kêu lên:

– Không, không phải ta giết, là hảo huynh đệ giết… .

Câu nói chưa dứt thì ào, bùng, ái chà, ba tiếng nối nhau vang lên. Nguyên là Dương Khang đột nhiên nhảy tới vươn tay chụp xuống thiên linh cái cô Ngốc nhưng bị Hoàng Dung dùng Đả cẩu bổng hất ngã lộn nhào.

Lần động thủ đột nhiên này khiến trên điện lập tức đại loạn, bọn Sa Thông Thiên liền vây chặt Hoàng Dung. Hoàng Dung như không nhìn thấy, đưa tay trái chỉ ra cửa miếu, kêu lên:

– Công tử gia cụt chân ới, người tới đây cô Ngốc đây này!

Cô Ngốc nhìn ra cửa miếu, ban đêm tối đen không thấy gì, nhưng cô ta từ nhỏ đã sợ ma, vội nắm chặt tay áo Hoàng Dung, hoảng sợ nói:

– Đừng, đừng tới đòi mạng ta, là hảo huynh đệ dùng đầu thương sắt giết, ta núp trong nhà bếp nhìn thấy mà… Ma cụt chân, ngươi, ngươi đừng tìm ta mà.

Âu Dương Phong không bao giờ ngờ rằng con mình lại bị Dương Khang giết chết, chỉ nghĩ người khác bịa đặt nhưng lời cô Ngốc nói nhất định không phải giả, sau lúc bi thương tức giận lại bật tiếng hô hô cười rộ, nhìn qua Dương Khang nói:

– Tiểu vương gia, cháu ta quả đã chết rồi, giết hay lắm, giết hay lắm!

Tiếng cười âm trầm lạnh buốt, giọng nói hung dữ, mọi người đều thấy tai ong ong tựa hồ có vô số mũi kim nhỏ đồng thời đâm vào nhịn không được run bắn lên, răng gõ lập cập. Chỉ nghe bầy quạ kêu ầm lên, quàng quạc quang quác làm cứt quạ rơi xuống rào rào, chính là hàng trăm hàng ngàn con quạ trên đỉnh tháp bị tiếng cười của Âu Dương Phong đánh thức cùng giật mình bay tung lên.

Dương Khang thầm nghĩ phen này mạng mình thôi rồi, hai mắt liếc qua định tìm đường chạy. Hoàn Nhan Hồng Liệt cũng ngấm ngầm run sợ, đợi tiếng quạ hơi ngớt liền nói:

– Đứa con gái kia điên điên khùng khùng, sao Âu Dương tiên sinh lại nghe y thị nói chứ? Lệnh điệt là khách do tiểu vương mời tới, cha con tiểu vương rất coi trọng, lẽ nào lại vô duyên vô cớ làm hại y?

Âu Dương Phong hơi vận kình ra chân, người chưa đứng lên thân hình đã đột nhiên vọt tới, hai gối nhẹ nhàng đáp xuống cạnh cô Ngốc, tay trái chụp lấy vai cô ta, quát:

– Tại sao y giết cháu ta? Nói mau!

Cô Ngốc hoảng sợ kêu lên:

– Không phải ta giết, đừng bắt ta, đừng bắt ta.

Cô ta dùng sức giãy ra, nhưng bàn tay Âu Dương Phong như cái kìm sắt, làm sao giật ra được vừa sợ vừa hoảng, bất giác òa khóc, kêu lớn:

– Mẹ ơi!

Âu Dương Phong hỏi liền mấy câu chỉ làm cô Ngốc phát sợ không dám khóc nữa, chỉ mở to hai mắt đờ người ra. Hoàng Dung dịu dàng nói:

– Cô Ngốc đừng sợ ông đây muốn cho ngươi ăn kẹo mà.

Câu ấy đề tỉnh Âu Dương Phong, y nghĩ càng dùng sức mạnh hăm dọa cô Ngốc lại càng không dám nói, liền lấy trong bọc ra một cái bánh bao nguội làm lương khô nhét vào tay cô ta, tay trái lại buông tay cô ta ra cười nói:

– Đúng rồi, cho ngươi ăn đây?

Cô Ngốc nắm lấy cái bánh vẫn chưa hết sợ, nói:

– Ông ơi, ông nắm tay con đau quá, ông đừng nắm con nữa.

Âu Dương Phong ôn tồn nói:

– Cô Ngốc ngoan, cô Ngốc biết nghe lời thì ông sẽ không nắm nữa.

Hoàng Dung nói:

– Hôm ấy vị công tử gia gãy chân kia ôm một cô nương, ngươi thấy cô ta đẹp không?

Cô Ngốc nói:

– Đẹp lắm, cô ta đi đâu rồi?

Hoàng Dung nói:

– Ngươi biết cô ta là ai không? Ngươi không biết chứ gì, phải không?

Cô Ngốc rất đắc ý, vỗ tay cười nói:

– Ta biết chứ, ta biết chứ, cô ta là vợ hảo huynh đệ!

Câu ấy vừa nói ra Âu Dương Phong lại càng không nghi ngờ nữa, y biết đứa con riêng của mình tính nết vốn rất phong lưu, nhất định đã vì chuyện đùa giỡn Mục Niệm Từ mà gây họa, chỉ là Âu Dương Khắc võ công cao cường, tuy hai chân bị thương, nhưng Dương Khang cũng còn lâu mới là đối thủ của y, không biết làm sao mà giết y được, lập tức quay đầu nói với Dương Khang:

– Thằng cháu ta không biết hay dở mạo phạm tới tiểu vương phi, đúng là tội đáng chết muôn lần.

Dương Khang nói:

– Không… không… không phải ta giết.

Âu Dương Phong cao giọng hỏi:

– Thế thì là ai?

Dương Khang chỉ sợ nhũn cả tay chân, trán toát mồ hôi, sự thông minh cơ trí lúc bình thời đột nhiên mất hết, không nói ra được nửa câu.

Hoàng Dung thở dài nói:

– Âu Dương bá bá, người cũng đừng trách tiểu vương gia độc ác, cũng không cần trách cháu ngươi phong lưu, chỉ nên trách bản lĩnh của mình cao cường quá.

Âu Dương Phong ngạc nhiên nói:

– Tại sao thế?

Hoàng Dung nói:

– Ta cũng không biết tại sao. Chỉ là lúc ta ở thôn Ngưu Gia từng nghe hai người một nam một nữ cách tường trò chuyện, trong lòng có chỗ không hiểu được.

Âu Dương Phong nghe câu nói không đầu không đuôi ấy như rơi vào đám mây mù năm dặm, hỏi dồn:

– Nói cái gì?

Hoàng Dung nói:

– Ta sẽ nói từng câu từng chữ cho ngươi nghe, quyết không thêm bớt một chữ, để ngươi giải thích cho ta nghe. Ta không thấy mặt họ, không biết người đàn ông là ai, cũng không biết cô gái là ai. Chỉ nghe người đàn ông nói thế này:

– Việc ta giết Âu Dương Khắc nếu truyền ra ngoài, thì không xong đâu.

Cô gái nói:

– Đại trượng phu dám làm dám chịu, ngươi đã sợ thì hôm qua không nên giết y. Chú y tuy lợi hại nhưng chúng ta xa chạy cao bay, y cũng khó mà tìm được.

Âu Dương Phong nghe Hoàng Dung nói tới đó thì im bặt, bèn hỏi ngay:

– Cô gái ấy nói không sai đâu. Rồi người đàn ông ấy lại nói gì?

Hai người một hỏi một đáp khiến Dương Khang càng nghe càng sợ. Lúc ấy ánh trăng soi chênh chếch vào cửa miếu, chiếu lên trước tượng thần, Dương Khang tránh ánh trăng, rón rén bước tới sau lưng Hoàng Dung, chợt nghe nàng nói:

Người đàn ông kia nói:

– Muội tử, ta đã có kế khác. Chú y võ công cái thế, ta muốn bái y làm sư phụ. Ta đã sớm có ý ấy, chỉ là trong môn phái của họ trước nay có quy củ là mỗi đời chỉ truyền cho một người. Người này đã chết thì chú y có thể thu ta làm đệ tử rồi!

Hoàng Dung tuy chưa nói tới tên họ của người nói, nhưng ngôn ngữ âm điệu lại bắt chước rất giống giọng Dương Khang. Dương Khang từ nhỏ sống ở Trung đô, nhưng mẹ là Bao Tích Nhược là người phủ Lâm An nên giọng nói nửa bắc nửa nam, Hoàng Dung cũng bắt chước như thế, không ai không biết người ấy chính là Dương Khang.

Âu Dương Phong ha hả cười nhạt, vừa quay đầu không thấy Dương Khang đâu, chợt nghe chát một tiếng, lại một tiếng la hoảng “ái chà” tiếp theo, chỉ thấy Dương Khang đứng dưới ánh trăng, tay phải đầy máu tươi, sắc mặt trắng bệch.

Nguyên là Dương Khang nghe Hoàng Dung nói lộ bí mật của mình ra, không nhịn nổi nữa, bất ngờ nhảy tới vung tay chụp mau xuống đỉnh đầu nàng. Lúc Hoàng Dung bắt chước giọng nói của y, đã đoán là y ắt tới ám toán nên đã sớm đề phòng, võ công của nàng cao hơn Dương Khang nhiều, nghe tiếng gió rít lập tức nghiêng đầu qua một bên, để phát trảo ấy chụp xuống đầu vai. Dương Khang một chiêu Cửu âm bạch cốt trảo ấy đã dùng hết toàn lực, năm ngón tay đều cắm ngập vào gai trên tấm Nhuyễn vị giáp, từ đầu ngón tay tới tim đều đau buốt, suýt nữa ngất đi.

Mọi người trong bóng tối không nhìn thấy rõ, đều cho rằng y bị ám toán, chỉ không biết là Hoàng Dung hay Âu Dương Phong ra tay. Mọi người sợ Âu Dương Phong cao cường, không ai dám lên tiếng.

Hoàn Nhan Hồng Liệt bước lên đỡ con, hỏi:

– Khang nhi, có sao không? Tại sao lại bị thương?

Rồi thuận tay rút yêu đao ra nhét vào tay y, đoán Âu Dương Phong quyết không thể bỏ qua, chỉ cậy đông người hai cha con hôm nay mới có thể chạy thoát. Dương Khang nhịn đau nói:

– Không sao.

Vừa cầm thanh yêu đao đột nhiên cánh tay tê rần, keng một tiếng, thanh đao rơi xuống đất, vội khom xuống nhặt, nói ra cũng kỳ quái, cánh tay cứng đờ đã không còn theo ý mình điều khiển nữa. Lúc ấy y vô cùng hoảng sợ tay trái véo mạnh vào mu bàn tay phải một cái, hoàn toàn không thấy có cảm giác gì. Y ngẩng đầu nhìn Hoàng Dung kêu:

– Chất độc, chất độc? Ngươi dùng độc châm đả thương ta.

Bọn Bành Liên Hổ tuy ngại mặt Âu Dương Phong, nhưng nghĩ tới Hoàn Nhan Hồng Liệt là vương gia nước Kim, mối thù oán của Âu Dương Khắc cũng phải tìm cách hóa giải, nhìn thấy Dương Khang thần sắc hoảng hốt, lập tức người bước lên an ủi, người chạy tới trước mặt Hoàng Dung quát:

– Mau đưa thuốc giải ra chữa cho tiểu vương gia?

Nhưng đều cố đứng cách xa Âu Dương Phong.

Hoàng Dung lạnh lùng nói:

– Trên Nhuyễn vị giáp của ta không có chất độc, không cần làm người ta lo sợ, ở đây tự có người khác giết y, ta cần gì phải đả thương y?

Chỉ nghe Dương Khang đột nhiên kêu lớn:

– Ta… ta… ta không cử động được nữa rồi?

Chỉ thấy y hai chân gập lại, thân hình từ từ rủ xuống, miệng phát ra tiếng kêu hà hà, nửa giống người nửa giống thú.

Hoàng Dung cảm thấy kỳ lạ, vừa ngoảnh đầu thấy Âu Dương Phong cũng có vẻ kinh ngạc, lại nhìn qua Dương Khang, thấy y đột nhiên trên mặt đầy vẻ vui sướng, chành môi ra cười hì hì, dưới ánh trăng trắng ngà lại càng hiện rõ vẻ kỳ quái vô cùng, trong lòng đột nhiên rúng động, kêu lên:

– Té ra là độc thủ của Âu Dương bá bá.

Âu Dương Phong ngạc nhiên nói:

– Xem dáng vẻ của y thì đúng là trúng phải chất độc trên con quái xà của ta, ta vốn muốn bắt y phải nếm mùi ấy, nhưng con tiểu nha đầu ngươi đã làm thay ta, hay lắm, hay lắm. Chỉ là loại quái xà này trên đời chỉ mình ta có, con nha đầu ngươi lấy đâu ra thế?

Hoàng Dung nói:

– Ta lấy đâu ra quái xà? Đó vốn là chất độc của ngươi, biết đâu ngươi vẫn còn chưa biết.

Âu Dương Phong nói:

– Chuyện này lạ thật.

Hoàng Dung nói:

– Âu Dương bá bá, ta nhớ ngươi từng đánh cuộc với Lão Ngoan đồng. Ngươi đem nọc độc của con quái xà cho con cá mập nuốt, sau khi nó trúng độc mà chết, con cá mập thứ hai ăn thịt nó cũng bị trúng độc cứ thế lan rộng ra, có thể nói là lưu độc vô cùng, có đúng thế không?

Âu Dương Phong cười nói:

– Độc vật của ta nếu không phải cực kỳ quái dị thì hóa ra hai chữ Tây độc chỉ là danh tiếng hão thôi sao?

Hoàng Dung nói:

– Phải rồi, Nam Hy Nhân là con cá mập thứ nhất.

Lúc ấy Dương Khang đã như phát điên, chỉ lăn lộn dưới đất, Lương Tử Ông định bế y lên, nhưng làm sao giữ được?

Âu Dương Phong cau mày ngẫm nghĩ, nhưng vẫn không hiểu, nói:

– Xin nghe lời giải thích.

Hoàng Dung nói:

– Ờ, ngươi cho con quái xà cắn Nam Hy Nhân, hôm ấy ta gặp y trên đảo Đào Hoa, bị y đánh một quyền. Phát quyền ấy trúng vào vai trái ta, trên gai tấm Nhuyễn vị giáp lưu lại máu độc của y. Tấm Nhuyễn vị giáp này của ta là con cá mập thứ hai. Vị tiểu vương gia kia vung chưởng chụp ta, lưới trời thưa mà không lọt, lại chụp trúng gai nhọn trên tấm giáp, máu độc của Nam Hy Nhân truyền vào máu y. Ha ha, y là con cá mập thứ ba đấy.

Mọi người nghe tới câu ấy, nghĩ té ra quái xà của Âu Dương Phong lợi hại tới mức như thế, lại nghĩ tới việc Dương Khang bày độc kế hại chết Giang Nam ngũ quái, cuối cùng lại bị dính phải máu độc của Nam Hy Nhân, quả thật là báo ứng rất mau, ai cũng rùng mình ớn lạnh.

Hoàn Nhan Hồng Liệt bước tới trước mặt Âu Dương Phong, đột nhiên quỳ xuống kêu lên:

– Âu Dương tiên sinh, xin người cứu mạng cho tiểu nhi, tiểu vương vĩnh viễn ghi nhớ đại ân đại đức.

Âu Dương Phong hô hô cười rộ, nói:

– Mạng con ngươi là mạng, còn mạng cháu ta không phải là mạng chứ gì?

Ánh mắt từ từ quét qua bọn Bành Liên Hổ, âm trầm nói:

– Có vị anh hùng nào không phục, mời đứng ra nói chuyện!

Mọi người bất giác đều đồng thời lùi lại, không dám lên tiếng.

Dương Khang đột nhiên quỳ xuống bình một tiếng, vung quyền đánh Lương Tử Ông ngã lộn nhào. Hoàn Nhan Hồng Liệt đứng bật dậy kêu lên:

– Mau đỡ tiểu vương gia tới Lâm An, chúng ta sẽ mời danh y chữa thương cho y.

Âu Dương Phong cười nói:

– Chất độc của Lão Độc vật mà thiên hạ còn có danh y nào chữa được à? Lại có bậc danh y nào không thiết sống, dám làm hỏng việc của ta chứ?

Hoàn Nhan Hồng Liệt không để ý gì tới y, nói với bọn gia tướng võ sĩ:

– Còn không mau đỡ tiểu vương gia lên?

Dương Khang đột nhiên nhảy tung lên, đỉnh đầu suýt chạm xà ngang trên nóc miếu, chỉ mặt Hoàn Nhan Hồng Liệt quát:

– Ngươi không phải là cha ta, ngươi hại chết mẹ ta, lại còn muốn hại ta..

Hoàn Nhan Hồng Liệt vội lui lại vài bước, dưới chân lảo đảo.

Sa Thông Thiên nói:

– Tiểu vương gia, người định thần lại đi.

Rồi bước lên nắm hai cánh tay y, nào ngờ Dương Khang tay phải ngoặc lại nắm cổ tay y, tay trái hung dữ chụp mạnh xuống cánh tay y. Sa Thông Thiên bị đau vội giằng ra, đứng ngẩn người, chỉ cảm thấy cánh tay hơi tê, bất giác ruột gan như xé. Hoàng Dung lạnh lùng nói:

– Con cá mập thứ tư!

Bành Liên Hổ vốn chơi thân với Sa Thông Thiên, y lại giỏi sử dụng độc vật, biết Sa Thông Thiên đã bị trúng độc, lúc nguy cấp bèn rút yêu đao vù một tiếng chém xuống phía trên khuỷu tay Sa Thông Thiên. Hầu Thông Hải còn chưa hiểu ý y, quát lớn:

– Bành Liên Hổ, ngươi dám đả thương sư ca ta à?

Rồi tung người vọt tới muốn liều mạng với y. Sa Thông Thiên nhịn đau quát:

– Đồ ngốc, đứng lại mau! Bành đại ca là tốt với ta đấy!

Lúc ấy Dương Khang thần trí càng hồ đồ, chỉ đông đánh tây, cắn xé cào cấu.

Mọi người thấy tình cảnh của Sa Thông Thiên đời nào còn dám đứng lại, cùng bật tiếng la hoảng, chạy túa ra khỏi miếu. Trận đại loạn ấy lại khiến bầy quạ trên đỉnh tháp giật mình bay lên, dưới ánh trăng chỉ thấy trên bãi đất trống trước miếu, bóng quạ bay tung, tiếng quang quác hòa vào tiếng gào thét của Dương Khang.

Hoàn Nhan Hồng Liệt nhảy ra cửa miếu, ngoảnh lại kêu lên:

– Khang nhi, Khang nhi!

Dương Khang ứa nước mắt gọi:

– Phụ vương, phụ vương!

Rồi chạy về phía y.

Hoàn Nhan Hồng Liệt cả mừng, đưa cánh tay ra, hai người ôm nhau, nói:

– Hài tử, ngươi khỏe không?

Dưới ánh trăng đột nhiên thấy Dương Khang đổi hẳn sắc mặt, há to miệng lộ ra hai hàng răng trắng nhởn cắn tới, Hoàn Nhan Hồng Liệt cả sợ, tay trái vận kình xô ra, Dương Khang đã mất hết kình lực, ngã ngửa ra đất lại lồm cồm ngồi dậy. Hoàn Nhan Hồng Liệt không dám nhìn nữa, vội chạy mau ra khỏi miếu, tung người lên ngựa, mọi người xúm xít trước sau bảo vệ, trong chớp mắt đã chạy mất hút không thấy đâu nữa.

Âu Dương Phong và Hoàng Dung nhìn Dương Khang lăn lộn dưới đất, đều xoay chuyển ý nghĩ, không ai nói gì. Qua một lúc, toàn thân Dương Khang co rúm lại rồi nằm bất động.

Âu Dương Phong lạnh lùng nói:

– Bận rộn tới nửa đêm, trời đã gần sáng rồi. Chúng ta đi xem cha ngươi thế nào?

Hoàng Dung nói:

– Bây giờ thì cha ta đã về đảo Đào Hoa rồi, còn có gì hay mà xem?

Âu Dương Phong sửng sốt, cười nhạt nói:

– Té ra con tiểu nha đầu toàn đặt chuyện lừa người.

Hoàng Dung nói:

– Ban đầu thì tự nhiên là có ý lừa ngươi. Cha ta là loại người nào, há lại bị bọn đạo sĩ thối tha phái Toàn Chân vây khốn? Nếu ta không nói chuyện Cửu âm chân kinh thế nào, thì ngươi cũng không cho ta hỏi han cô Ngốc.

Lúc ấy Kha Trấn Ác vừa rất khâm phục, vừa rất thương yêu Hoàng Dung, chỉ mong nàng mau nghĩ ra cách nào hay để thoát thân trốn chạy. Chợt nghe Âu Dương Phong nói:

– Trong những lời bịa đặt của ngươi cũng có ba phần sự thật, nếu không Lão Độc vật cũng không dễ mà mắc câu. Được rồi, ngươi đem đoạn văn dịch của cha ngươi đọc lại từ đầu đến cuối cho ta nghe, không được giấu diếm nửa câu.

Hoàng Dung nói:

– Thế nếu ta nhớ không được thì sao?

Âu Dương Phong nói:

– Tốt nhất là ngươi nên nhớ. Nếu không thì con tiểu nha đầu xinh đẹp lanh lợi ngươi bị con quái xà của ta cắn cho vài nhát, thì quả là một cảnh tượng rất không đẹp.

Lúc Hoàng Dung từ sau tượng thần nhảy ra, vốn đã có ý quyết chết, nhưng lúc ấy nhìn thấy thảm trạng của Dương Khang lúc lâm tử, bất giác run sợ nghĩ thầm:

– Cho dù mình nói cho y biết đoạn kinh văn mà Nhất Đăng đại sư truyền thụ y vẫn không thể nào tha mình, làm thế nào nghĩ cách thoát thân đây?

Nhất thời bàng hoàng không có cách nào, nghĩ chỉ còn cách trước tiên bôi bác với y vài câu rồi sẽ tính, bèn nói:

– Ta thấy được nguyên bản kinh văn thì hoặc giả có thể dịch ra được. Ngươi cứ đọc từng câu từng câu để ta nghe thử.

Âu Dương Phong nói:

– Những lời líu la líu lo ấy, ai mà nhớ được? Ngươi không cần qua mắt ta nữa.

Hoàng Dung nghe y không đọc ra được, linh cơ chợt động, đã nghĩ ra kế, nghĩ thầm:

– Y đã không nhớ được tự nhiên phải coi kinh văn là tính mạng.

Lúc ấy bèn nói:

– Được thôi, ngươi lấy kinh ra mà đọc.

Âu Dương Phong quyết ý bắt nàng giải thích, lập tức lấy trong bọc ra một gói giấy dầu, mở liên tiếp ba lớp, mới lấy ra quyển kinh văn mà Quách Tĩnh viết cho. Hoàng Dung cười thầm:

– Tĩnh ca ca viết bừa một hơi mà Lão Độc vật y lại cho là thật.

Âu Dương Phong đánh hỏa tập lên, tìm được nửa cây nến trên bệ thờ châm vào, soi kinh văn vào đọc:

– Hốt bất nhĩ, khẳng lý đa đắc, tư căn lục phố.

Hoàng Dung nói:

– Giỏi xem tướng, chuyển vận mười hai hơi thở.

Âu Dương Phong cả mừng, lại đọc:

– Cát nhĩ văn hóa tư, thạp hổ.

Hoàng Dung nôi:

– Có thể thoát khỏi họa hoạn, đạt tới chỗ thông thần.

Âu Dương Phong đọc:

– Thủ đạt biệt tư thổ, ân nê khư.

Hoàng Dung nói:

– Sai rồi, ngươi đọc sai rồi?

Âu Dương Phong nói:

– Không sai, đúng là trong này viết như thế .

Hoàng Dung nói:

– Vậy thì lạ đấy, câu này không sao hiểu được.

Rồi đưa tay trái lên chống cằm, làm như đang khó nhọc suy nghĩ. Âu Dương Phong vô cùng sốt ruột, nhìn nàng chằm chằm, chỉ mong nàng nghĩ ra cho mau.

Qua hồi lâu, Hoàng Dung nói:

– À, phải rồi, chắc là gã tiểu tử ngốc Quách Tĩnh viết sai, đưa ta xem nào.

Âu Dương Phong không nghĩ gì khác, đưa kinh văn qua.

Hoàng Dung đón lấy, tay trái cầm nến như đọc kỹ kinh văn, đột nhiên hai chân nhảy vọt lên lui ra hơn một trượng, kề mấy trang giấy vào cách ngọn lửa nửa thước, quát:

– Âu Dương bá bá, kinh văn này là giả để ta đốt cho xong.

Âu Dương Phong cả sợ vội nói:

– Này, này, ngươi làm gì thế? Mau trả lại cho ta.

Hoàng Dung cười nói:

– Ngươi muốn lấy kinh văn hay muốn lấy mạng ta?

Âu Dương Phong nói:

– Lấy mạng ngươi làm gì, mau trả lại cho ta.

Giọng nói cấp bách khác hẳn lúc bình thời, lấy thế định nhảy lên cướp lại. Hoàng Dung kề kinh văn vào cách ngọn nến hai tấc, nói:

– Đứng lại! Ngươi mà động đậy một cái ta sẽ đốt, chỉ cần cháy mất một chữ thì suốt đời ngươi sẽ phải hối hận đấy.

Âu Dương Phong nghĩ thấy không sai, hừ một tiếng, nói:

– Ta không đấu nổi với con quỷ ranh mãnh nhà ngươi, đặt kinh văn xuống rồi ngươi đi cho xong.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi là bậc tôn sư trên đời, không được nuốt lời đấy.

Âu Dương Phong sầm mặt nói:

– Ta nói mau đặt kinh văn xuống rồi ngươi đi đường ngươi.

Hoàng Dung biết y là kẻ rất có thân phận, tuy tính tình độc ác xấu xa nhưng không nuốt lời với người khác, lập tức đặt cả kinh văn lẫn ngọn nến xuống đất, cười nói:

– Âu Dương bá bá, xin lỗi nhé.

Rồi nhấc ngọn Đả cẩu bổng lên quay người định đi.

Âu Dương Phong cũng không ngoảnh lại, đột nhiên nhảy bật lên lật tay ra chưởng, bùng một tiếng vang dội, đã đánh vỡ một nửa tượng thần Thiết thương Vương Ngạn Chương, quát:

– Lão mù họ Kha kia, ra đây mau.

Hoàng Dung cả kinh, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Kha Trấn Ác đã từ sau tượng thần nhảy ra, vung ngọn thương sắt bảo vệ trước mặt. Hoàng Dung lập tức hiểu ra:“Với bản lĩnh của Lão Độc vật thì Kha đại gia núp sau lưng thần tượng há lại qua mặt được y? Có lẽ y nghe được tiếng thở. Chỉ là y không coi Kha đại gia vào đâu, nên nãy giờ cứ ẩn nhẫn không nói ra.”

Lập tức tung người vọt tới, ngọn trúc bổng khẽ đưa ra cùng thủ thế, nói với Âu Dương Phong:

– Âu Dương bá bá, ta không đi đâu, ngươi thả y đi đi.

Kha Trấn Ác nói:

– Không, Dung nhi, ngươi đi đi, ngươi đi tìm Tĩnh nhi bảo y trả thù cho sáu anh em ta.

Hoàng Dung buồn rầu nói:

– Nếu y tin lời ta thì đã tin rồi. Kha đại gia, nếu ngươi không đi thì nỗi oan khuất của cha con ta không bao giờ được sáng tỏ. Ngươi nói với Quách Tĩnh rằng ta không hề trách y, bảo y đừng khó xử.

Kha Trấn Ác đời nào chịu để nàng xả thân cứu mình, hai người cãi cọ không thôi.

Âu Dương Phong sốt ruột, mắng:

– Con nha đầu, ta đã ưng thuận để ngươi đi, ngươi còn lằng nhằng cái gì?

Hoàng Dung nói:

– Nhưng ta không thích đi. Âu Dương bá bá, ngươi đuổi lão mù này đi đi, ta sẽ nói chuyện vui vẻ cho ngươi đỡ buồn, chứ đừng làm hại y.

Âu Dương Phong nghĩ thầm:

– Ngươi không đi là tốt nhất chứ gã mù này sống hay chết có can hệ gì tới ta?

Bèn sãi chân bước lên một bước vung tay chụp vào ngực Kha Trấn Ác. Kha Trấn Ác vung ngang ngọn thiết thương ra bảo vệ trước ngực. Âu Dương Phong rung tay gạt một cái hai tay Kha Trấn Ác tê chồn, trước ngực bị dội lại đau buốt lên, keng một tiếng, ngọn thiết thương đã tung lên chọc thủng mái ngói bay luôn ra ngoài.

Kha Trấn Ác vội nhảy lùi lại, người đang trên không chưa rơi xuống đất thì trước ngực đã bị túm chặt, thân hình đã bị Âu Dương Phong nắm lấy nhấc lên. Y từng gặp nhiều đại địch, tuy giữa lúc nguy cấp vẫn không rối loạn, tay trái khẽ giơ lên, hai ngọn độc lăng bay thẳng vào giữa mặt đối phương. Âu Dương Phong không ngờ y lại có hiểm chiêu chuyển bại thành thắng này, khoảng cách quá gần, độc lăng bắn ra rất mau, quả thật khó lòng né tránh, lập tức ngửa người về phía sau thừa thế đẩy một cái, ném Kha Trấn Ác lên cao.

Lúc Kha Trấn Ác từ sau thần tượng nhảy ra thì mặt hướng ra cổng miếu, bị Âu Dương Phong ném cái ấy không tự chủ được, lại bay xuyên cửa ra ngoài. Cái ném ấy kình lực rất lớn, thân hình y lại bay ra phía trước độc lăng, hai ngọn độc lăng bay qua đầu Âu Dương Phong, sắp đánh vào người Kha Trấn Ác. Hoàng Dung kêu lên:

– Ái chà?

Thì thấy Kha Trấn Ác hơi nghiêng người đi một cái, tay trái nhẹ nhàng khéo léo chụp lại hai ngọn độc lăng, thuật nghe tiếng xét hình của y quả đã đạt tới hóa cảnh, so với người còn đủ hai mắt có khi còn thấy rõ ràng hơn.

Âu Dương Phong bật tiếng khen ngợi, nói:

– Ngươi giỏi lắm, lão mù họ Kha, tha cho ngươi đi đấy.

Kha Trấn Ác rơi xuống đất vẫn còn ngần ngừ. Hoàng Dung cười nói:

– Kha đại gia, Âu Dương Phong muốn bái ta làm sư phụ để học tập Cửu âm chân kinh. Ngươi còn không đi, cũng định bái ta làm sư phụ sao?

Kha Trấn Ác biết tuy nàng nói năng có vẻ nhởn nhơ nhưng hoàn cảnh quả thật mười phần nguy hiểm, cứ đứng trước miếu không chịu đi.

Âu Dương Phong ngẩng đầu nhìn trời, nói:

– Trời sắp sáng rồi, đi thôi?

Rồi kéo tay Hoàng Dung đi ra khỏi miếu. Hoàng Dung kêu lên:

– Kha đại gia, nhớ mấy chữ ta viết trên tay ngươi đấy.

Nói tới tiếng cuối cùng, thân hình đã đi ra xa vài trượng.

Kha Trấn Ác ngẩn người hồi lâu, nghe tiếng quạ từng bầy từng bầy bay vào trong miếu giành nhau mổ thịt xác chết, lúc ấy nhảy lên trên nóc miếu tìm ngọn thương sắt. Y đứng ngẩn ra trên nóc miếu hồi lâu, nghĩ thầm:

– Trời đất mênh mông, mình mù lòa tìm đâu chốn yên thân?

Chợt nghe tiếng quạ kêu lên thê thảm, không ngừng từ trên không lộp độp rơi xuống, nguyên là bầy quạ ăn thịt trên xác Dương Khang nối nhau trúng độc mà chết, bất giác thở dài một hơi, nhảy xuống đất, chống ngọn thương đi lên phía bắc.

Đi tới hôm thứ ba, chợt nghe trên không có tiếng chim điêu kêu vang, nghĩ đối điêu đã ở đây thì Quách Tĩnh có lẽ cũng ở cạnh đây, lập tức cao giọng gọi to giữa đồng trống:

– Tĩnh nhi, Tĩnh nhi!

Qua không bao lâu quả nhiên nghe tiếng vó ngựa khua vang, Quách Tĩnh cưỡi con tiểu hồng mã phóng tới. Y và Kha Trấn Ác lạc nhau trong lúc hỗn chiến, lúc ấy thấy sư phụ không bị gì, vô cùng mừng rỡ, không chờ ngựa dừng lại đã vội vàng nhảy xuống, chạy tới ôm chặt Kha Trấn Ác, luôn miệng kêu “Đại sư phụ!”

Kha Trấn Ác giang thẳng tay tát y hai cái nảy lửa. Quách Tĩnh không dám né tránh, ngạc nhiên buông tay ra. Kha Trấn Ác tay trái tiếp tục đánh Quách Tĩnh, tay phải thì liên tiếp tát vào mặt mình. Lần này thì Quách Tĩnh càng kinh ngạc, kêu lên:

– Đại sư phụ, người làm gì thế?

Kha Trấn Ác mắng:

– Ngươi là thằng nhỏ hồ đồ, ta là lão già hồ đồ!

Y tát hơn mười cái mới dừng tay, hai người mặt mũi đều sưng vù Kha Trấn Ác ngoác miệng chửi Quách Tĩnh và mình suốt nửa ngày mới đem mọi chuyện trong ngôi miếu cổ nhất nhất kể lại.

Quách Tĩnh vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, vừa đau xót vừa xấu hổ, nghĩ thầm:”Té ra chân tướng là như thế, mình quả thật trách lầm Dung nhi rồi”.

Kha Trấn Ác quát:

– Ngươi nói chúng ta có đáng chết không?

Quách Tĩnh luôn miệng khen phải, lại nói:

– Là đệ tử đáng chết. Đại sư phụ mắt kém, không trách người được.

Kha Trấn Ác tức giận nói:

– Con mẹ nó, ta cũng đáng chết! Mắt ta tuy mù nhưng chẳng lẽ trong lòng cũng mù à?

Quách Tĩnh nói.:

– Chúng ta mau nghĩ cách cứu Dung nhi.

Kha Trấn Ác nói:

– Cha cô ta đâu?

Quách Tĩnh nói:

– Hoàng đảo chủ hộ tống Hồng ân sư ra đảo Đào Hoa trị thương rồi. Đại sư phụ, người nói Âu Dương Phong đưa Dung nhi đi đâu?

Kha Trấn Ác im lặng không đáp, qua hồi lâu mới nói:

– Dung nhi bị y bắt đi, cho dù không chết cũng không biết bị y hành hạ trở thành thế nào nữa. Tĩnh nhi, ngươi mau đi cứu, ta thì phải tự sát để tạ ơn cô ta.

Quách Tĩnh hoảng sợ kêu:

– Không được! Người muôn vạn lần đừng nghĩ thế

Chỉ là y vốn biết tính tình sư phụ cương cường, không nghe lời ai, nói chết là chết không hề nghĩ lại, lúc ấy bèn nói:

– Đại sư phụ, người tới đảo Đào Hoa báo tin, khi nào gặp Hoàng đảo chủ thì xin ông mau đi cứu viện, đệ tử quả thật không phải là đối thủ của Âu Dương Phong đâu.

Kha Trấn Ác nghĩ thấy không sai, bèn cầm thương sắt đi luôn. Quách Tĩnh lưu luyến không nỡ chia tay, đi theo phía sau. Kha Trấn Ác vung thương sắt đánh ra, mắng:

– Còn không đi mau đi! Ngươi không đem Dung nhi lành lặn trở về cho ta thì ta sẽ lấy mạng ngươi đấy.

Quách Tĩnh đành đứng lại, nhìn theo bóng sư phụ khuất dần trong rừng dâu phía đông, quả thật không biết đi đâu mà tìm Hoàng Dung, nghĩ ngợi hồi lâu giục ngựa thả điêu tìm đường tới miếu Thiết Thương. Chỉ thấy trước miếu sau miếu đầy xác quạ chết, trong điện thờ chỉ còn một bộ xương trắng.

Quách Tĩnh tuy căm hận Dương Khang hại chết sư phụ, nhưng nghĩ y đã chết, oán thù từ nay bỏ hết, nhớ tới việc kết nghĩa với nhau một thời gian bèn nhặt nhạnh xương y mang ra sau miếu chôn cất, lạy mấy lạy rồi khấn:

– Dương huynh đệ, nếu ngươi nghĩ tới tình nghĩa ta chôn cất ngươi hôm nay thì nên phù hộ ta tìm được Dung nhi để bù lại những lỗi lầm của ngươi lúc còn sống.

Sau đó Quách Tĩnh suốt đường hỏi thăm tìm tung tích Hoàng Dung. Lần ấy y tìm suốt nửa năm, thu qua đông tới, đông hết xuân về, y cưỡi hồng mã mang theo đôi điêu tìm kiếm khắp nơi, hỏi khắp Cái bang, phái Toàn Chân cho tới đồng đạo võ lâm các nơi, mà vẫn không có được chút tin tức nào của Hoàng Dung. Nghĩ tới trong nửa năm nay không biết Hoàng Dung đã phải chịu bao nhiêu khổ sở, quả thật lòng đau như cắt, vì thế quyết ý đi khắp chân trời góc biển cũng phải tìm được nàng. Y một là tới Yên Kinh, hai là tới Biện Lương, ngay Hoàn Nhan Hồng Liệt cũng không biết đi đâu. Quần cái trong Cái bang nghe nói bang chủ gặp nạn, cũng cho toàn bang lên đường tìm kiếm. Hôm ấy Quách Tĩnh tới Quy Vân trang lại thấy trang trại đã bị đốt thành một đống tro tàn, không biết cha con Lục Thừa Phong, Lục Quán Anh đã gặp phải kiếp nạn gì?

Một hôm tới địa giới sơn Đông, chỉ thấy dọc đường mười nhà thì chín gian bỏ trống, người trên đường nhao nhao chạy nạn, đều nói quân Mông Cổ đánh nhau với quân Kim, quân Kim tan vỡ, quân lính thua trận chạy về cướp đoạt tiền bạc, cường dâm phụ nữ, không gì không làm. Quách Tĩnh đi ba ngày, càng lên phía bắc càng đau lòng cay mắt, nghĩ việc binh là họa, việc đánh nhau là nguy, người khổ nhất vẫn là bách tính.

Hôm ấy tới một thôn trang trong sơn cốc cạnh Tế Thủy, đang muốn hỏi tìm nơi nghỉ lại đột nhiên phía trước có tiếng la thét ầm ĩ, người kêu ngựa hí, mấy chục tên quân Kim xông vào thôn phóng lửa đốt nhà, đuổi hết dân ra khỏi nhà, cứ thấy con gái trẻ tuổi là bắt trói từng người, còn bao nhiêu thì không kể già trẻ, cứ thấy người là chém.

Quách Tĩnh thấy thế cả giận, thúc ngựa xông tới, tay phải giật ngọn thương lớn trong tay viên tướng đứng đầu đội quân chưởng trái đánh vào huyệt Thái dương của y. Lúc bấy giờ y sớm tối luyện công không ngừng, nội công tiến triển rất xa, một chưởng ấy đánh qua, tên võ quan kia lập tức lòi mắt chết tươi. Đám quân Kim la hò ầm ĩ, cùng giơ đao thương lên xông vào. Con tiểu hồng mã đã trải qua chiến trận lại càng phấn khích, phóng như bay vào đám quân Kim. Quách Tĩnh tay trái lại giật được một thanh đại đao, tay phải đâm tay trái chém, sử dụng thuật song thủ hỗ bác, quát tháo đánh giết.

Đám quân Kim thấy người này mạnh mẽ dữ tợn, quân lính đã thua trận làm sao còn có ý chí đánh nhau, bỏ chạy ra khỏi thôn. Đột nhiên trước mặt có một lá cờ lớn phất gió, trong làn bụi mù có một toán quân Mông Cổ rầm rập phóng tới.

Quân Kim bị quân Mông Cổ đánh giết đã kinh hồn táng đảm, không dám đón đánh, cậy số đông quay lại đánh nhau với Quách Tĩnh, chỉ mong cướp đường bỏ chạy.

Quách Tĩnh căm hận quân Kim tàn hại bách tính, thúc ngựa ra khỏi thôn trước, một người một ngựa, oai phong lẫm liệt giữ chắc chỗ hiểm ở cửa núi. Hơn mười tên quân Kim cố gắng xông lên bị y liên tiếp giết chết mấy người. Số còn lại không dám xông tới, tiến không được thoái không xong, dồn lại thành một đám rối loạn.

Quân Mông Cổ thấy phía trước đột nhiên có người giúp đỡ cũng rất bất ngờ, xung sát một trận, hơn mười mấy tên quân Kim đều bị giết sạch trong thôn.

Viên Bách phu trưởng đứng đầu toán quân Mông Cổ đang định hỏi lai lịch Quách Tĩnh, trong toán lại có một viên Thập phu trưởng biết mặt Quách Tĩnh, bèn gọi lớn:

– Kim đao phò mã!

Rồi lạy rạp xuống đất. Viên Bách phu trưởng nghe thấy là phò mã gia của đại hãn, đâu dám khinh thường, vội xuống ngựa làm lễ, sai người ruổi ngựa về báo.

Quách Tĩnh vội truyền lệnh sai quân Mông Cổ mau dập tắt lửa trong thôn. Dân thôn đỡ người già bế trẻ con nhao nhao kéo tới cảm tạ.

Đang ầm ĩ, ngoài thôn chợt có tiếng vó ngựa dồn dập vang lên, vô số quân mã đổ tới. Đám bách tính cả kinh, bất giác ngớ mặt nhìn nhau. Chỉ thấy một con ngựa hồng phóng tới như gió, một viên tướng quân thiếu niên trên ngựa gọi lớn:

– Quách Tĩnh an đáp ở đây phải không?

Quách Tĩnh nhìn ra thì là Đà Lôi, cả mừng kêu lên:

– Đà Lôi an đáp.

Hai người chạy tới ôm chầm lấy nhau. Đôi điêu biết Đà Lôi, cũng bước tới cọ cọ, mười phần thân thiết. Đà Lôi sai một viên Thiên phu trưởng đem quân truy kích quân Kim, hạ lệnh dựng lều trướng trên sườn núi, cùng Quách Tĩnh kể lại những chuyện từ khi chia tay đến nay.

Đà Lôi nói tới quân vụ Bắc quốc, Quách Tĩnh mới biết trong hơn một năm nay, Thành Cát Tư Hãn ngựa không dừng vó, đông phạt tây chinh, mở rộng đất đai rất nhiều. Truật Xích, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài Đà Lôi bốn vương tử, Mộc Hoa Lê, Bác Nhĩ Truật, Bác Nhĩ Hốt, Xích lão Ôn tứ kiệt đều lập rất nhiều công lao hãn mã. Hiện Đà Lôi và Mộc Hoa Lê cầm quân đánh Kim, đại chiến mấy trận ở sơn Đông đánh quân Kim đại bại tan rã. Quân sĩ còn lại của nước Kim tập trung ở cửa Đồng Quan, đóng chặt cửa quan cố thủ, không dám ra sơn Đông nghênh chiến.

Quách Tĩnh ở lại trong quân Đà Lôi mấy ngày, khoái mã đưa tin khẩn tới báo Thành Cát Tư Hãn triệu tập chư vương chúng tướng đại hội ở mạc bắc. Đà Lôi và Mộc Hoa Lê không dám chần chừ, giao cờ lệnh đại cho phó tướng, liền đêm về bắc. Quách Tĩnh nhớ mẹ, lúc ấy cũng đi với Đà Lôi.

Qua nhiều ngày tới sông Cán Nạn Hà, đưa mắt nhìn ra, trên thảo nguyên rộng lớn mênh mông lều trại san sát, hàng vạn hàng vạn chiến mã chạy nhảy reo hí, hàng vạn hàng vạn thương đao lóe ánh mặt trời. Trong hàng vạn hàng vạn ngôi lều màu xám có một ngôi lều vải vàng nhô cao lên, trụ trên nóc lều đúc bằng vàng, trước lều treo cao một lá cờ đại độc có chín chòm lông trắng.

Quách Tĩnh kéo cương dừng ngựa trên đồi cát, thấy binh uy hùng tráng như thế, nghĩ thầm kim trướng oai chấn đại mạc, vua nơi tuyệt vực, tưởng tượng cảnh Thành Cát Tư Hãn trong kim trướng truyền hiệu lệnh, khoái mã từng con từng con nối nhau phóng đi đưa hiệu lệnh tới tay các vương tử và đại tướng cách xa vạn dặm, tiếng tù và thổi vang, khói lửa bốc cao trên thảo nguyên, tên bay như châu chấu, trường đao chớp sáng, vó ngựa sắt phóng trong làn bụi cát bay mù mịt.

Y đang nghĩ:“Đại hãn muốn có nhiều đất đai nhân dân như thế, không biết là có ý gì?”

Chợt thấy bụi bay mù mịt, một đội ky binh phóng mau tới. Đà Lôi, Mộc Hoa Lê, Quách Tĩnh ba người vào kim trướng của Thành Cát Tư Hãn, chỉ thấy các vương tứ và chư tướng đều đã tụ tập trong trướng, xếp hàng hai bên.

Thành Cát Tư Hãn thấy ba người bước vào, vô cùng vui mừng. Đà Lôi và Mộc Hoa Lê bẩm báo về quân tình, Quách Tĩnh bước lên quỳ xuống thỉnh tội, nói:

– Đại hãn sai con đi lấy đầu Hoàn Nhan Hồng Liệt nước Đại Kim, nhưng mấy lần gặp nhau đều bị y trốn thoát, xin đại hãn cứ trách phạt.

Thành Cát Tư Hãn cười nói:

– Chim ưng nhỏ lớn rồi, thế nào cũng có một ngày bắt được chồn thỏ, ta phạt ngươi làm gì? Ngươi tới đây rất hay, ta thỉnh thoảng vẫn nhớ ngươi.

Lúc ấy bèn cùng các tướng bàn bạc kế sách đánh Kim.

Mộc Hoa Lê dâng kế

– Tinh binh nước Kim đều cố thủ ở Đồng Quan, lúc khẩn cấp khó kéo xuống, thượng sách không gì bằng liên kết với nhà Tống cùng đánh.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Hay, vậy cứ làm theo như thế.

Lúc ấy bèn ra lệnh viết thư, sai sứ xuống nam. Đại hội họp tới tối mới tan.

Quách Tĩnh cáo từ ra khỏi kim trướng, trong sắc chiều mênh mông đang tìm tới lều của mẹ, đột nhiên sau lưng có hai cánh tay đưa ra bịt kín mắt y. Với võ công của y lúc bấy giờ thì làm sao để người ta đánh lén sau lưng, nghiêng người đang định hất người kia ra thì ngửi thấy mùi thơm, lại thấy đó là một cô gái vội rút tay lại kêu:

– Hoa Tranh muội tử!

Chỉ thấy công chúa Hoa Tranh như cười mà không phải cười đang đứng đó.

Hai người chia tay gần một năm, lần này gặp nhau, chỉ thấy nàng thân hình cao hơn, đứng thẳng giữa gió to cỏ rậm, càng hiện rõ dáng vẻ xinh đẹp khỏe mạnh.

Quách Tĩnh lại kêu một tiếng:

– Muội tử?

Hoa Tranh mừng quá rơi nước mắt, kêu lên:

– Quả nhiên ngươi về rồi.

Quách Tĩnh thấy nàng bộc lộ chân tình, trong lòng cũng rất cảm động, nhất thời có ngàn muôn lời muốn nói nhưng không biết bắt đầu từ đâu.

Hai người cầm tay nhau cùng tới lều Lý Bình. Mẹ con Quách Tĩnh gặp nhau tự nhiên một phen mừng mừng tủi tủi.

Lại qua mấy hôm, Thành Cát Tư Hãn triệu kiến Quách Tĩnh, nói:

– Những điều ngươi làm ta đều đã nghe Đà Lôi nói lại. Hài tử ngươi thủ tín trọng nghĩa, ta rất vui lòng. Qua vài hôm nữa ta sẽ cho ngươi và con gái ta làm lễ thành thân.

Quách Tĩnh giật nảy mình, nghĩ thầm hiện tại Dung nhi sống chết chưa rõ, mình làm sao có thể phản bội nàng mà kết hôn với người khác?

Nhưng thấy vẻ mặt Thành Cát Tư Hãn oai nghiêm, nên tuy trong lòng rất muốn chống mệnh, nhưng vẫn ấp a ấp úng, không nói được nửa câu Thành Cát Tư Hãn vốn biết y chất phác, chỉ cho rằng y mừng quá ngẩn ra, bèn lập tức thưởng cho y một ngàn hộ nô lệ, một trăm cân vàng, năm trăm con bò, hai ngàn con dê, bảo y trở về lo chuyện đám cưới.

Hoa Tranh là con gái út của Thành Cát Tư Hãn, được phụ vương cưng chiều từ nhỏ. Lúc ấy thế lực của Mông Cổ càng lúc càng thịnh vượng, Thành Cát Tư Hãn đánh đâu thắng đó, đại hãn các tộc nghe nói Thành Cát Tư Hãn gả con gái, nhao nhao tới chúc mừng, nhưng lễ vật quý giá chất đầy mấy chục gian lều. Công chúa Hoa Tranh mừng ra mặt, Quách Tĩnh thì trong lòng phiền não, mặt buồn rười rượi.

Nhìn thấy ngày cưới đã tới gần, Quách Tĩnh vò đầu bứt tai, không biết làm sao là tốt. Lý Bình thấy con trai có vẻ khác lạ, tối hôm ấy ngồi trong lều bèn hỏi, Quách Tĩnh bèn đem việc Hoàng Dung từ đầu tới cuối kể rõ một lượt. Lý Bình nghe xong, suốt hồi lâu không nói được tiếng nào.

Quách Tĩnh nói:

– Mẹ, hài nhi rất khó xử, không biết làm thế nào là tốt.

Lý Bình nói:

– Đại hãn đối với chúng ta ơn sâu nghĩa nặng, há có thể phụ? Nhưng Dung nhi kia, Dung nhi kia, ờ, ta tuy chưa gặp cô ta, nhưng nghĩ lại cũng là người rất đáng yêu mến.

Quách Tĩnh chợt nói:

– Mẹ, nếu cha con gặp chuyện này thì ông sẽ làm sao?

Lý Bình không ngờ y đột nhiên có câu hỏi kỳ lạ như thế, ngẩn ra hồi lâu, nhớ lại tính tình của chồng lúc còn sống, lập tức hiên ngang nói:

– Cha ngươi nhất sinh thà mình chịu đau khổ chứ quyết không chịu có nửa điểm phụ lòng người khác.

Quách Tĩnh đứng lên, quả quyết nói:

– Hài nhi tuy chưa gặp mặt cha nhưng cũng học theo cha làm người. Nếu Dung nhi bình an, hài nhi sẽ giữ lời hẹn cũ, thành thân với công chúa Hoa Tranh. Nếu Dung nhi có gì bất trắc, thì kiếp này hài nhi quyết không lấy vợ nữa.

Lý Bình nghĩ thầm:

– Nếu đúng thế thì dòng dõi nhà họ Quách ta há chẳng tới con là dứt sao? Nhưng tính tình thằng nhỏ này không khác gì cha nó, vô cùng cố chấp, nếu đã định chủ ý thì người ngoài có nói nhiều cũng vô dụng.

Lúc ấy bèn hỏi:

– Vậy con bẩm cáo với đại hãn thế nào?

Quách Tĩnh nói:

– Con cũng nói với đại hãn mấy câu vừa rồi.

Lý Bình có ý muốn thành toàn ơn nghĩa cho con, bèn nói:

– Được, chỗ này cũng không thể ở lâu, con đi tạ lỗi với đại hãn, mẹ con ta sẽ lập tức lên đường về nam.

Quách Tĩnh gật đầu khen phải.

Hai mẹ con đêm ấy thu thập hành lý, ngoài quần áo vật dừng tùy thân và một ít vàng bạc, còn tất cả những thứ đại hãn ban cho đều niêm phong lại trong lều.

Quách Tĩnh chuẩn bị đã xong, nói:

– Con đi từ biệt công chúa.

Lý Bình ngần ngừ nói:

– Chuyện này làm sao nói ra miệng được? Con rón rén trốn đi là được để cô ta khỏi phải đau lòng.

Quách Tĩnh nói:

– Không, con muốn đích thân nói chuyện với cô ta.

Rồi bước ra khỏi lều, tìm tới thẳng lều Hoa Tranh.

Công chúa Hoa Tranh và mẹ ở trong một gian lều, mấy hôm ấy đang vui vẻ tưng bừng lo lắng chuyện đám cưới, chợt nghe Quách Tĩnh ngoài lều kêu, mặt chợt đỏ bừng, kêu lên:

– Mẹ!

Mẹ nàng cười nói:

– Còn mấy ngày nữa là thành thân rồi, cả ngày không thấy mặt cũng không nên. Được thôi, con ra gặp y đi.

Hoa Tranh cười khẽ bước ra, hạ giọng nói:

– Quách Tĩnh ca ca.

Quách Tĩnh nói:

– Muội tử, ta có câu muốn nói với cô.

Rồi dắt nàng đi qua phía tây.

Hai người đi được vài dặm, cách đại doanh khá xa mới ngồi xuống bãi cỏ. Hoa Tranh nép vào người Quách Tĩnh, hạ giọng nói:

– Tĩnh ca ca, ta cũng đang có chuyện muốn nói với ngươi.

Quách Tĩnh thoáng hoảng sợ nói:

– À, cô đã biết rồi à?

Nghĩ thầm nàng biết thì càng hay, nếu không thì quả thật không biết mở miệng thế nào. Hoa Tranh nói:

– Biết chuyện gì? Ta đang muốn nói với ngươi, là ta không phải là con gái đại hãn.

Quách Tĩnh ngạc nhiên nói:

– Cái gì?

Hoa Tranh ngẩng đầu nhìn vầng trăng non vừa lên ở chân trời, thong thả nói:

– Sau khi ta thành thân với ngươi, ta sẽ quên mình là con gái của Thành Cát Tư Hãn, ta chỉ là vợ của Quách Tĩnh. Ngươi muốn đánh mắng ta thì cứ đánh mắng. Đừng vì nghĩ tới cha ta là đại hãn mà ngươi phải chịu ủy khuất.

Quách Tĩnh trong lòng chua xót, nhiệt huyết trào lên, nói:

– Muội tử, cô đối với ta quá tốt, chỉ đáng tiếc là ta không xứng đáng với cô.

Hoa Tranh nói:

– Cái gì mà không xứng đáng? Ngươi là người tốt nhất trên đời, ngoài cha ta ra không ai bằng được ngươi. Bốn vị ca ca của ta cũng không bằng một nửa ngươi.

Quách Tĩnh ngẩn ra hồi lâu, việc sáng sớm ngày mai mình đã rời Mông Cổ về nam lại càng không sao nói ra được.

Hoa Tranh lại nói:

– Mấy hôm nay quả thật ta vui lắm. Nhớ tới lúc trước ta nghe nói ngươi chết, quả thật rất hận là mình không thể chết theo cho xong. Cũng nhờ Đà Lôi ca ca giật lấy thanh đao trên tay ta, nếu không thì làm sao ta còn lấy ngươi được nữa? Quách Tĩnh ca ca, nếu không làm vợ ngươi được thì ta thà chết còn hơn.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Dung nhi thì không nói với mình như thế, có điều hai ngươi đối xử với mình đều rất tốt.

Nghĩ tới Hoàng Dung, không kìm được tiếng thở dài.

Hoa Tranh ngạc nhiên nói:

– Ờ, tại sao ngươi lại thở dài?

Quách Tĩnh ngần ngừ nói:

– Không có gì.

Hoa Tranh nói:

– Ô, đại ca và nhị ca của ta không thích ngươi, nhưng tam ca và tứ ca lại rất tốt với ngươi. Trước mặt cha ta cứ nói đại ca và nhị ca không tốt, tam ca và tứ ca tốt, ngươi không cần lo.

Quách Tĩnh nói:

– Sao thế?

Hoa Tranh rất đắc ý, nói:

– Ta nghe mẹ nói cha đã lớn tuổi, hiện đang nghĩ việc lập Hãn thái tử, ngươi đoán là lập ai?

Quách Tĩnh nói:

– Tự nhiên là đại ca Truật Xích rồi. Y lớn tuổi nhất, công lao lại lớn nhất.

Hoa Tranh lắc đầu nói:

– Ta đoán sẽ không lập đại ca, quá nửa là lập tam ca, nếu không thì là tứ ca.

Quách Tĩnh biết con trưởng Thành Cát Tư Hãn là Truật Xích tinh minh tài giỏi, con thứ hai Sát Hợp Đài dũng cảm thiện chiến, hai người so ra không thua kém gì nhau, trước nay vẫn tranh giành nhau. Con thứ ba là Oa Khoát Đài thì thích uống rượu săn bắn, tính tình rộng rãi, y biết tương lai sau khi phụ vương chết thì người kế thừa ngôi vị đại hãn nếu không phải là đại ca ắt là nhị ca, nhưng trong bốn anh em phụ vương vẫn yêu thương em mình là Đà Lôi nhất, người mà đại hãn lập quyết không phải là mình, vì vậy xưa nay không hề tranh giành với ai, ba người kia đều đối xử tốt với y. Quách Tĩnh nghe Hoa Tranh nói thế cảm thấy khó tin, nói:

– Chẳng lẽ bằng vào mấy câu của cô mà đại hãn lại thay Hãn thái tử à?

Hoa Tranh nói:

– Ta cũng không biết nữa, ta chỉ đoán mò thôi. Có điều cho dù đại ca hay nhị ca trong tương lai làm đại hãn, ngươi cũng không cần lo. Nếu họ làm khó ngươi, ta sẽ động đao liều mạng với họ.

Hoa Tranh từ nhỏ được Thành Cát Tư Hãn sủng ái bốn người anh trước nay đều nhường nàng ba phần. Quách Tĩnh biết nàng nói được là làm được, cười khẽ một tiếng, nói:

– Không cần thế đâu.

Hoa Tranh nói:

– Đúng đấy, nếu các anh đối xử với chúng ta không tốt thì chúng ta cùng về nam.

Quách Tĩnh buột miệng nói:

– Ta đang muốn nói với cô là ta phải về nam.

Hoa Tranh sửng sốt, nói:

– Chỉ sợ cha mẹ ta không rời được ta.

Quách Tĩnh nói:

– Ta chỉ đi một mình…

Hoa Tranh nói:

– Ờ, ta vĩnh viễn nghe lời ngươi, ngươi nói về nam, thì ta cũng đi với ngươi. Nếu cha mẹ không cho, hai chúng ta sẽ lén trốn đi.

Quách Tĩnh lại nhịn không được nữa, nhảy bật dậy kêu lên:

– Là hai mẹ con ta về nam.

Câu ấy vừa nói ra, một người đang đứng, một người đang ngồi, bốn mắt nhìn nhau, đột nhiên đều cứng đờ như tượng gỗ, Hoa Tranh nước mắt vòng quanh, nhất thời không rõ ý y.

Quách Tĩnh nói:

– Muội tử, ta xin lỗi cô! Ta không thể thành thân với cô.

Hoa Tranh vội nói:

– Ta làm việc gì sai trái? Ngươi trách ta không tự sát theo ngươi phải không?

Quách Tĩnh kêu lên:

– Không, không, không phải cô không tốt. Ta không biết là ai có lỗi, nghĩ đi nghĩ lại thì nhất định là ta có lỗi.

Lúc ấy bèn kể hết mọi việc về Hoàng Dung không giấu diếm gì. Nói tới đoạn Hoàng Dung bị Âu Dương Phong bắt đi, mình tìm nàng hơn nửa năm nay không gặp, Hoa Tranh nghe y kể rất xúc động, cũng không kìm được rơi nước mắt.

Quách Tĩnh nói:

– Muội tử, cô quên ta đi thôi, ta không tìm được nàng không xong.

Hoa Tranh nói:

– Ngươi tìm được nàng rồi, có về thăm ta không?

Quách Tĩnh nói:

– Nếu nàng bình yên vô sự thì nhất định ta sẽ về bắc. Nếu cô không chê bỏ ta, vẫn còn cần ta thì ta sẽ thành thân với cô, quyết không hối hận.

Hoa Tranh thong thả nói:

– Ngươi không cần nói thế. Ngươi biết ta vĩnh viễn muốn lấy ngươi. Ngươi đi tìm nàng đi, tìm mười năm, hai mươi năm, chỉ cần ta còn sống, thì ta vẫn chờ ngươi trên thảo nguyên.

Quách Tĩnh trong lòng xúc động, nói:

– Đúng rồi, tìm mười năm, tìm hai mươi năm, ta cũng phải tìm được nàng. Tìm mười năm, tìm hai mươi năm, ta lúc nào cũng nhớ tới cô đang chờ ta trên thảo nguyên.

Hoa Tranh nhảy bật dậy, ngả vào lòng y buông tiếng khóc lớn. Quách Tĩnh nhẹ nhàng ôm nàng, mi mắt cũng đỏ lên. Hai người dựa vào nhau không nói gì, đều biết việc đã như thế càng nói nhiều chỉ càng đau lòng.

Qua hồi lâu, chỉ thấy bốn con ngựa từ phía tây phóng mau tới lướt qua cạnh hai người, phóng thẳng về hướng kim trướng. Một con ngựa phi tới cách kim trướng vài mươi trượng đột nhiên ngã lăn ra không đứng lên được nữa, rõ ràng đã chạy quá sức, kiệt lực mà chết. Người cưỡi ngựa từ dưới đất bò dậy, không nhìn tới con ngựa chết một cái, co chân chạy mau về phía kim trướng.

Chỉ qua giây lát, trong kim trướng có mười người cầm tù và chạy ra, chia ra quay về bốn phía đông tây nam bắc, tu tu tu tu thổi lên một hồi.

Quách Tĩnh biết đây là hiệu lệnh triệu tập chư tướng khẩn cấp của Thành Cát Tư Hãn, bất kể là vương tử đại tướng, nếu đại hãn đếm tới mười hồi tù và mà vẫn chưa tới thì sẽ lập tức bị chém đầu, quyết không tha thứ, lúc ấy vội kêu lên:

– Đại hãn gọi tướng!

Không kịp nói nhiều với Hoa Tranh, chạy mau về phía kim trướng, chỉ nghe bốn phương tám hướng tiếng vó ngựa vang lên rầm rập.

Quách Tĩnh vào tới trướng thì Thành Cát Tư Hãn đã gập ba ngón tay, khi y gập tới ngón tay thứ tám thì tất cả các vương tử đại tướng đều đã tới đông đủ chỉ nghe y cao giọng nói:

– Gã cẩu vương Ma Ha Mạt kia có các vương tử nhanh nhẹn thế này không? Có các tướng quân anh hùng thế này không?

Chư vương chúng tướng đồng thanh trả lời:

– Không có.

Thành Cát Tư Hãn đấm ngực nói:

– Các ngươi xem, đây là vệ binh đi theo sứ giả mà ta phái tới Hoa Thích Tử Mô, thằng cẩu vương Ma Ha Mạt kia làm gì với đám tôi tớ trung thành của ta rồi?

Các tướng đưa mắt nhìn theo ngón tay của đại hãn, chỉ thấy mấy người Mông Cổ mặt mũi sưng vù, râu bị đốt trụi. Bộ râu là sự tôn nghiêm của vô sĩ Mông Cổ, chỉ cần bị người ta đụng vào là không gì nhục nhã bằng, huống chi là đốt sạch?

Chư tướng nhìn thấy đều nổi giận chửi mắng ầm lên.

Thành Cát Tư Hãn quát:

– Hoa Thích Tử Mô tuy nước lớn quân nhiều nhưng chẳng lẽ chúng ta sợ à? Chúng ta vì nhất quyết đánh bọn chó Kim nên mới hết sức nhường nhịn y. Truật Xích con ta đâu, ngươi nói với mọi người xem gã cẩu vương Ma Ha Mạt kia đối phó với chúng ta thế nào?

Truật Xích bước lên một bước cao giọng nói:

– Năm ấy phụ vương sai con đi chinh phạt bọn người Miệt Nhi Khất Thích đáng chết, đắc thắng khải hoàn. Gã cẩu vương Ma Ha Mạt kia cũng phái đại quân tới đánh người Miệt Nhi Khất Thích. Hai bên gặp nhau, hài nhi sai sứ giả qua thông hiếu, nói phụ vương muốn làm bạn với Hoa Thích Tử Mô. Gã cẩu vương râu đỏ ấy nói:”Tuy Thành Cát Tư Hãn bảo các ngươi không đánh ta nhưng Chúa trời lại sai ta đánh các ngươi”. Kế đó đánh nhau một trận ác liệt, chúng ta thắng trận, nhưng vì quân địch đông gấp mười nên nửa đêm chúng ta ngấm ngầm rút lui.

Bác Nhĩ Hốt nói:

– Tuy như thế nhưng đại hãn vẫn đối xử với gã cẩu vương ấy rất kính trọng. Thương đội của chúng ta phái đi, hàng hóa bị gã cẩu vương ấy cướp thương nhân bị gã cẩu vương ấy giết. Lần này phái sứ giả tới thông hiếu, gã cẩu vương ấy lại nghe theo sứ giả của cẩu vương nước Kim là Hoàn Nhan Hồng Liệt giết chết sứ giả trung dũng của đại hãn, giết mất một nửa vệ binh của sứ giả, một nửa thì đốt râu đuổi về.

Quách Tĩnh nghe tới tên Hoàn Nhan Hồng Liệt, trong lòng cả sợ, nghĩ thầm:

– Hoàn Nhan Hồng Liệt ở chỗ Hoa Thích Tử Mô à?

Một người vệ binh của sứ giả bị đốt râu nói:

– Tôi nhận ra y, y ngồi cạnh cẩu vương, không ngừng cúi đầu nói nhỏ với gã cẩu vương kia.

Thành Cát Tư Hãn quát:

– Bọn chó Kim liên kết với Hoa Thích Tử Mô muốn hai đầu giáp công chúng ta, chúng ta có sợ không?

Chúng tướng đồng thanh nói:

– Đại hãn của chúng ta thiên hạ vô địch. Người đưa chúng tôi tới đánh Hoa Thích Tử Mô, phá thành trì của họ, đốt nhà cửa của họ, giết sạch đàn ông của họ, bắt hết đàn bà và súc vật của họ về!

Thành Cát Tư Hãn quát:

– Phải bắt sống Ma Ha Mạt, phải bắt sống Hoàn Nhan Hồng Liệt.

Các tướng đồng thanh reo hò, đèn lửa trong trướng bị tiếng quát không ngớt lay động.

Thành Cát Tư Hãn rút bội đao ra, chém nhứ trước mặt một nhát, bước ra khỏi trướng, nhảy lên lưng ngựa. Các tướng túa ra, lên ngựa phi phía sau. Thành Cát Tư Hãn giục ngựa chạy vài dặm, phóng lên một gò núi. Các tướng biết y đang ngẫm nghĩ một mình, đều đứng lại dưới chân gò, làm thành một vòng tròn quanh gò.

Thành Cát Tư Hãn thấy Quách Tĩnh đứng cách mình không xa bèn gọi:

– Hài tử, ngươi lại đây.

Quách Tĩnh giục ngựa phóng lên gò. Thành Cát Tư Hãn nhìn ra đèn lửa như sao trong doanh trại trên thảo nguyên, chỉ roi nói:

– Hài tử, trước kia chúng ta bị Tang Côn và Trác Mộc Hợp bao vây trên núi, ta từng nói với ngươi mấy câu, ngươi còn nhớ không?

Quách Tĩnh nói:

– Nhớ Đại hãn nói người Mông Cổ chúng ta có bấy nhiêu hảo hán, chỉ cần mọi người không tàn sát lẫn nhau, kết thành một khối thì chúng ta có thể biến thế giới này trở thành bãi chăn súc vật của người Mông Cổ.

Thành Cát Tư Hãn vung roi ngựa, vút một tiếng đánh trong không khí một nhát, quát lớn:

– Không sai, bây giờ người Mông Cổ đã kết thành một khối, chúng ta đi bắt Hoàn Nhan Hồng Liệt.

Quách Tĩnh vốn đã quyết định hôm sau về nam, đột nhiên lại gặp chuyện này, mối thù giết cha làm sao không trả, lại nghĩ tới mẹ con mình chịu ơn sâu của đại hãn, đúng là lúc ra sức vì y để trả ơn đức, lập tức kêu lên:

– Lần này nhất định chúng ta phải bắt được tên cẩu tặc Hoàn Nhan Hồng Liệt.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Hoa Thích Tử Mô kia khoe khoang là có trăm vạn tinh binh, ta xem ra cũng phải có tới sáu bảy mươi vạn. Chúng ta chỉ có hai mươi vạn quân, phải giữ lại vài vạn đánh bọn chó Kim. Mười lăm vạn địch với sáu bảy mươi vạn của họ, ngươi nói có thắng được không?

Quách Tĩnh về việc chiến trận thì không biết gì, nhưng tuổi trẻ hào hùng, xưa nay không trốn tránh hoạn nạn, nghe đại hãn hỏi như thế, bèn hiên ngang nói:

– Được!

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Nhất định là được? Hôm trước ta nói sẽ đối xử với ngươi như con ruột, Thiết Mộc Chân đã nói thì trước nay không bao giờ quên. Ngươi theo ta tây chinh, bắt Ma Ha Mạt và Hoàn Nhan Hồng Liệt rồi trở về sẽ thành thân với con gái ta.

Câu ấy chính hợp ý Quách Tĩnh, lúc ấy y luôn miệng vâng dạ.

Thành Cát Tư Hãn giục ngựa xuống núi, quát:

– Điểm binh?

Đám thân binh thổi tù và, Thành Cát Tư Hãn phóng ngựa mau trở về. Dọc đường chỉ thấy bóng người loang loáng, ngựa chiến phi mau nhưng không nghe một tiếng người nào. Khi y về tới trước kim trướng đã có ba vạn người ngựa xếp hàng chỉnh tề trên thảo nguyên, ánh trăng soi lên từng dãy trường đao, khắp thảo nguyên ánh bạc chớp chớp.

Thành Cát Tư Hãn bước vào kim trướng, cho gọi thư ký bảo viết chiến thư.

Viên thư ký viết một lá thư dài trên tấm da dê, quỳ xuống cao giọng đọc cho đại hãn nghe:

– Trời lập trẫm làm đại hãn của các tộc, mở mang đất đai vạn dặm, tiêu diệt vô số quốc gia, từ xưa những người có đức nghiệp chưa có ai được như trẫm.

Trẫm một phen nổi giận lôi đình, các ngươi có thể chống sao? Quốc tộ của các ngươi mất hay còn là quyết định ở hôm nay, nên suy nghĩ cho kỹ, nếu không dâng thành nộp cống thì sẽ thấy đại quân Mông Cổ…

Thành Cát Tư Hãn càng nghe càng tức giận, nhấc chân phóng luôn một đá, đá viên thư ký râu bạc lăn lông lốc, chửi:

– Ngươi viết thư cho ai? Thành Cát Tư Hãn lại phải nói nhiều với gã cẩu vương ấy như thế à?

Rồi giơ roi ngựa lên đập túi bụi vào đầu vào mặt y hơn mười roi, quát:

– Ngươi nghe đây, ta đọc thế nào thì ngươi viết thế ấy.

Viên thư ký run rẩy bò dậy, đổi tấm da dê khác, quỳ xuống đất, nhìn nhìn miệng Thành Cát Tư Hãn.

Thành Cát Tư Hãn vén rèm nhìn ra ngoài, nhìn ba vạn tinh binh ngoài trướng xuất thần một lúc, hạ giọng nói:

– Viết lần này, chỉ cần sáu chữ.

Ngừng một lúc cao giọng đọc:

– Ngươi muốn đánh, thì ra đánh!

Viên thư ký giật mình, nghĩ thầm quốc thư thế này quả thật không có lễ phép gì, nhưng trên đầu trên mặt vừa bị đánh một trận vẫn còn đau rát lên, làm sao dám nói một câu, lập tức theo lời viết sáu chữ đại tự lên tấm da dê. Thành Cát Tư Hãn nói:

– Đóng kim ấn lên, gởi đi lập tức.

Mộc Hoa Lê bước lên dập đầu, phái một viên Thiên phu trưởng đem quân đưa thư đi.

Các tướng biết trong điệp vãn của đại hãn chỉ viết có sáu chữ, đều thấy phấn chấn, nghe tiếng vó ngựa của sứ giả xa dần trên thảo nguyên, đột nhiên không hẹn mà cùng quát lên:

– Ngươi muốn đánh, thì ra đánh.

Ba vạn quân sĩ ngoài trướng cũng đồng thanh hò reo:

– Ha hô, ha hô!

Đó là tiếng reo hò của kỵ binh Mông Cổ lúc xông trận tiếp chiến. Đám ngựa chiến nghe chủ nhân hò hét cũng lập tức hí vang. Trong chớp mắt trên thảo nguyên vang dội ầm ầm, tựa hồ đang có một trường đại chiến.

Thành Cát Tư Hãn sai chư tướng quân sĩ lui về, một mình ngồi trên ngai vàng xuất thần. Chiếc ngai vàng này lấy được lúc công phá Trung đô nước Kim, lưng đúc hình con rồng uốn khúc giữ hạt châu, mỗi tay vịn chạm một con mãnh hổ, vốn là bảo tọa của hoàng đế nước Kim. Thành Cát Tư Hãn nghĩ ngợi trầm tư, nhớ tới những gian nan nguy hiểm thời thanh niên, nhớ tới mẹ tới vợ, bốn con trai và con gái, nhớ tới vô số phi tần xinh đẹp, nhớ tới quân đội bách chiến bách thắng, tới đế quốc rộng lớn mênh mông, tới cường địch sắp gặp mặt.

Y tuy đã già nhưng tai vẫn còn rất thính, chợt nghe xa xa có tiếng một con ngựa hí lên thê thảm rồi đột nhiên im bặt. Y biết đó là một con ngựa già mắc bệnh không chữa được, chủ nhân không nỡ nhìn thấy nó đau khổ nên một đao chém chết. Y chợt nghĩ:

– Mình đã già rồi, lần này xuất chinh, liệu còn sống mà trở về không? Nếu mình mất mạng trên chiến trường, bốn đứa con trai tranh nhau chức đại hãn, há chẳng phải là long trời lở đất sao? Ờ, chẳng lẽ mình lại không bao giờ chết à?

Bất kể anh là đại anh hùng đánh đâu thắng đó không ai không sợ, nhưng khi tinh lực suy dần, nghĩ tới chữ chết trong lòng cũng không khỏi có cảm giác run sợ.

Y nghĩ:

– Nghe nói ở phương nam có một bọn người gọi là đạo sĩ, có thể dạy người ta thành tiên, trường sinh bất lão, rốt lại không biết đúng không?

Bèn vỗ tay hai tiếng gọi một tên Tiễn đồng vệ sĩ, sai đi gọi Quách Tĩnh vào trướng.

Giây lát Quách Tĩnh đã tới, Thành Cát Tư Hãn hỏi tới chuyện ấy. Quách Tĩnh nói:

– Trường sinh thành tiên thì hài nhi không biết là thật hay giả, nhưng nói luyện khí thổ nạp, kéo dài tuổi thọ thì quả là có thật.

Thành Cát Tư Hãn cả mừng, nói:

– Ngươi biết những người ấy à? Mau tìm một người tới gặp ta.

Quách Tĩnh nói:

– Loại kẻ sĩ có đạo ấy nếu tùy tiện mời gọi thì nhất định họ không tới đâu.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Không sai, ta phái một viên đại quan đem lễ vật mời họ lên bắc. Ngươi nói lần này nên mời ai?

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Huyền môn chính tông trong thiên hạ thì có phái Toàn Chân. Trong Toàn Chân lục tử thì Khưu đạo trưởng võ công cao nhất, lại rất hăng hái, hoặc giả có thể mời được.

Lúc ấy bèn nói tên họ Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ.

Thành Cát Tư Hãn cả mừng, lập tức gọi viên thư ký vào, nói qua câu chuyện bảo y thảo chiếu. Viên thư ký mới rồi bị y đánh một trận, ngẫm nghĩ hồi lâu, viết rằng: “Trẫm có việc, ngươi tới ngay”, học lối lễ pháp của đại hãn, trên chiếu thư cũng chỉ viết sáu chữ, tự cho rằng lần này nhất định sẽ được xứng chỉ. Nào ngờ Thành Cát Tư Hãn vừa nghe thấy lại cả giận, lại vung roi đánh túi bụi, chửi:

– Ta nói với bọn cẩu vương như thế chứ lại có thể nói với kẻ sĩ có đạo như thế à? Phải viết thật dài, viết cho khiêm tốn lễ độ.

Viên thư ký phủ phục dưới đất, thảo chiếu rằng:

– Trời ghét Trung nguyên kiêu sa quá đáng, trẫm ở sa mạc thương xót dân đen, theo chất phác thích yên lành, bỏ xa xỉ theo kiệm ước, mỗi manh áo mỗi miếng ăn đều cùng chia sẻ với bọn chăn trâu nuôi ngựa. Coi nhân dân tựa con đỏ, nuôi kẻ sĩ như anh em, mưu vốn hòa, ơn vốn chứa. Luyện muôn quân lấy thân yêu làm trước, gặp trăm trận không hèn nhát lùi sau. Trong bảy năm thành đại nghiệp, giữa lục hợp dựng cơ đồ. Không phải trẫm có đức, vốn là Kim bất nhân, nhờ thế được trời phù hộ, lên ngôi chí tôn. Nam liền Triệu Tống, bắc giáp Hồi Hột, đông hạ tây di thảy đều xưng thần. Nghĩ nước Thuyền Vu ta ngàn năm trăm đời lại đây chưa từng được như thế. Nhưng trách nhiệm thì to, trị bình còn thiếu, vả lại đóng thuyền làm chèo, còn mong qua sông, tìm hiền chọn tài, muốn an thiên hạ. Trẫm từ lên ngôi đến nay chuyên cần chính sự nhưng ngôi Tể tướng còn chưa gặp người. Nghe nói thầy Khưu tiên sinh rõ đời giữ mực, học rộng biết nhiều, hiểu sâu đạo lý, đạo đầy đức sáng, ôm phong thái kẻ quân tử, có tiết tháo bậc thượng nhân, ở trong hang núi, náu thân ẩn hình. Phát dương giáo hóa tổ tông, khiến kẻ sĩ có đạo ùn ùn theo về không sao kể xiết Từ sau cơn binh lửa, lại biết tiên sinh còn ẩn cư ở quê cũ sơn Đông, lòng trẫm vô cùng ngưỡng mộ.

Viên thư ký viết tới đó, ngẩng đầu hỏi:

– Đã đủ dài chưa?

Thành Cát Tư Hãn cười nói:

– Một mớ chữ như thế thì đủ rồi. Ngươi viết thêm là ta phái đại quan Lưu Trọng Lộc người Hán đi đón y, xin y nhất định phải tới.

Viên thư ký lại viết:

– Há chẳng nghe việc chung xe trên sông Vị, ba bận tới lều tranh? Chỉ vì sông núi xa xôi, cho nên đón rước thất lễ. Trẫm chỉ chừa chỗ ngồi nghiêng, trai giới tắm gội, chọn sai quan cận thị Lưu Trọng Lộc mang ngựa khỏe xe bền, không nề ngàn dặm, kính mong tiên sinh tạm khuất gót tiên, không vì sa mạc xa thẳm ngại ngần, hoặc vì việc thương dân lo đời, hoặc dạy trẫm bảo thân giữ mạng. Trẫm đợi chờ tiên giá, chỉ mong tiên sinh sau lúc coi rẻ chỉ ừ một tiếng là được. Nay tỏ ý trẫm trong muôn một, viết rõ nơi chiếu chương, rất mong tiên sinh đã rõ đầu mối đạo lớn, điều thiện không gì không nên làm, há làm trái nguyện vọng của chúng sinh sao? Vì vậy có chiếu tỏ ý, mong thầy hiểu cho.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Được, cứ thế mà làm

Rồi thưởng cho viên thư ký năm lượng vàng, lại sai Quách Tĩnh viết một lá thư khẩn khoản mời Khưu Xử Cơ ngay hôm sau phái Lưu Trọng Lộc phụng chiếu xuống nam. (Xét: tờ chiếu thư Thành Cát Tư Hãn gửi mời Khưu Xứ Cơ này là theo nguyên văn mà sách sử ghi chép).

Hôm sau Thành Cát Tư Hãn đại hội chư tướng bàn việc tây chinh. Trong đại hội phong Quách Tĩnh làm Na nhan sai thống suất một vạn người ngựa. Na nhan là quan hàm tối cao của Mông Cổ, không phải là bậc đại tướng thân quý thì không thể được danh hiệu ấy.

Lúc ấy Quách Tĩnh võ công tăng tiến, nhưng nói về việc hành quân hãm trận thì không biết gì, chỉ đành thỉnh giáo các đại tướng Triết Biệt, Tốc Bất Đài. Nhưng tư chất y vốn ngu xuẩn, việc chiến trận lại biến hóa đa đoan, trong một giờ ba khắc làm sao học được? Nhìn thấy các đại tướng điểm binh nhận lương, chọn chiến mã xét khí giới, ai cũng bận rộn. Mười lăm vạn đại quân tây chinh, đi qua vùng giá rét không có cỏ mọc, thời gian chuẩn bị lần này quả không phải tầm thường. Lúc ấy mọi sự vụ y hoàn toàn không biết, đành phân phó cho mười viên Thiên phu trưởng dưới quyền chia nhau liệu lý, Triết Biệt và Đà Lôi hai người thỉnh thoảng ghé qua chỉ dẫn.

Qua hơn một tháng, càng nghĩ càng thấy bất ổn, tự biết mình kém việc dùng mưu nghĩ kế, đánh vào hàng trăm vạn quân đối phương thì Hàng long thập bát chường và Cửu âm chân kinh lại hoàn toàn vô dụng, chỉ cần ra một lệnh không đúng thì toàn quân lập tức tan rã, không những làm thương tổn oai danh của Thành Cát Tư Hãn mà còn làm một vạn con người dưới quyền chết uổng mạng. Hôm ấy định tới gặp Thành Cát Tư Hãn từ chức, xin làm một tên lính thường, lúc gặp giặc chỉ một mình một ngựa xông vào hãm trận chém tướng là được, đột nhiên thân binh vào báo ở ngoài trướng có hơn một ngàn người Hán cầu kiến.

Quách Tĩnh cả mừng, nghĩ thầm:

– Khưu đạo trưởng tới mau thật.

Vội ra ngoài đón, chỉ thấy trên thảo nguyên có một đám người, đều ăn mặc theo lối ăn mày, đột nhiên sửng sốt. Ba người bước lên khom lưng làm lễ, nguyên là Lỗ Hữu Cước và hai trưởng lão Giản Lương trong Cái bang. Quách Tĩnh vội hỏi:

– Các ngươi được tin của Hoàng cô nương chưa?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Bọn tiểu nhân tìm kiếm khắp nơi vẫn chưa được tin tức bang chủ, nghe nói quan nhân mang quân tây chinh nên vội tới giúp đỡ.

Quách Tĩnh rất ngạc nhiên, hỏi:

– Làm sao các ngươi biết được?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Đại hãn phái người mang chiếu thư triệu kiến Khưu đạo trưởng, bang tôi được tin của quan nhân từ phái Toàn Chân.

Quách Tĩnh ngẩn ra nửa ngày, nhìn nhìn đám mây trắng lững lờ phía nam, nghĩ thầm:

– Bang chúng Cái bang đi khắp thiên hạ mà cả họ cũng không biết nơi Dung nhi hạ lạc, chỉ e là nàng dữ nhiều lành ít.

Nghĩ tới đó mi mắt đỏ lên. Lúc ấy liền hạ lệnh cho thân binh thu xếp chỗ ăn chỗ ở cho bang chúng, mình thì đi bẩm với đại hãn.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Tốt, cứ phiên chế hết vào dưới cờ của ngươi là được.

Quách Tĩnh xin từ chức, Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:

– Ai sinh ra đã biết đánh trận? Không biết à, cứ đánh vài trận là biết. Ngươi theo ta từ nhỏ đến lớn, sợ gì chuyện mang quân đánh nhau? Con rể Thành Cát Tư Hãn lại không biết đánh trận à?

Quách Tĩnh không dám nói nữa, trở về trong trướng, vô cùng lo buồn. Lỗ Hữu Cước hỏi biết chuyện, an ủi vài câu. Đến xế chiều, Lỗ Hữu Cước vào trướng nói:

– Nếu sớm biết thế này thì tiểu nhân đã đem theo bộ Tôn tử binh pháp hoặc Thái công thao lược từ nam lên thì hay quá.

Câu ấy đề tỉnh Quách Tĩnh, y sực nhớ trong người có bộ di thư của Vũ Mục, đó đều là yếu quyết hành quân hãm trận, tại sao lại quên? Lúc ấy bèn rút bộ sách trong bọc ra, thắp đèn ngồi đọc suất đêm, đến mãi trưa hôm sau mới thấy hơi mỏi mệt.

Trong bộ sách ấy phàm những việc bày mưu, xét việc tấn công, phòng ngự, luyện quân, khiển tướng, bày trận, dã chiến cho tới tình thế động tĩnh an nguy, đạo lý dùng chính xuất kỳ, không gì không giảng giải rõ ràng. Hôm trước Quách Tĩnh lúc chìm thuyền đã đọc lướt qua một lần nhưng không hề để ý, bấy giờ đang lúc cần dùng, chỉ cảm thấy không câu nào không phải là danh ngôn chí lý.

Trong sách có nhiều chỗ không hiểu, bèn mời Lỗ Hữu Cước tới thỉnh giáo. Lỗ Hữu Cước nói:

– Tiểu nhân nhất thời không rõ, để suy nghĩ thêm.

Y chỉ ra khỏi trướng giây lát liền trở vào giải thích rất rõ ràng, Quách Tĩnh cả mừng, liên tiếp thỉnh giáo y. Nói ra cũng kỳ quái, Lỗ Hữu Cước vừa hỏi thì không thể trả lời ngay trước mặt, nhưng chỉ cần ra ngoài suy nghĩ một lúc là lập tức tâm tư linh mẫn, những điều nghi nan lập tức giải thích được ngay. Quách Tĩnh lúc đầu cũng không để ý, nhưng liên tiếp mấy ngày lần nào cũng thế, bất giác cảm thấy kỳ lạ.

Tối hôm ấy, Quách Tĩnh hỏi y một chữ trong sách. Lỗ Hữu Cước lại nói không nhớ ra, phải ra ngoài suy nghĩ. Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Những chỗ khó khăn trong sách ngươi từ từ suy nghĩ cũng còn được nhưng nếu không biết một chữ thì chẳng lẽ lại suy nghĩ mà biết à?

Y tuy thân làm đại tướng nhưng rốt lại còn trẻ tuổi, tính tình vẫn còn trẻ con, chờ Lỗ Hữu Cước ra ngoài lập tức theo cửa sau trướng lần ra, rình trong bãi cỏ, muốn xem rốt lại y giở trò gì.

Chỉ thấy y vội vã đi mau vào một gian lều nhỏ, không bao lâu lập tức trở ra.

Quách Tĩnh vội trở vào trướng. Lỗ Hữu Cước bước vào, nói:

– Tiểu nhân nghĩ ra rồi.

Rồi nói rõ âm nghĩa chữ ấy. Quách Tĩnh cười nói:

– Lỗ trưởng lão, ngươi đã có thầy riêng, sao không mời tới đây gặp ta?

Lỗ Hữu Cước sửng sốt nói:

– Không có đâu.

Quách Tĩnh nắm tay y cười nói:

– Chúng ta đi xem nào.

Nói xong kéo y ra khỏi trướng, đi về phía gian lều nhỏ.

Trước lều có hai bang chúng Cái bang canh gác, thấy Quách Tĩnh tới, cùng ho khan một tiếng. Quách Tĩnh nghe tiếng ho, vội kéo Lỗ Hữu Cước sãi chân sấn mau vào. Vừa vén cửa lều lên, chỉ thấy sau trướng còn rung rung, rõ ràng mới có người ra ngoài. Quách Tĩnh rảo chân đuổi theo, vạch cửa sau ra chỉ thấy một bãi cỏ dài, không có bóng người, không kìm được ngẩn ra không nói được tiếng nào.

Quách Tĩnh quay lại hỏi Lỗ Hữu Cước, y nói gian lều này là nơi ở của y, hoàn toàn không có ai ở trong. Quách Tĩnh không hiểu, lại hỏi y mấy chỗ nghi nan trong bộ di thư của Vũ Mục. Lỗ Hữu Cước đến mãi sáng hôm sau mới trả lời rõ ràng. Quách Tĩnh biết người trong trướng không có ác ý gì với mình, chỉ là không muốn gặp mặt, đoán ắt là một vị cao nhân trên giang hồ, cũng không tiện làm khó, lúc ấy cũng gác qua một bên.

Y chiều tối nghiền ngẫm binh thư, ban ngày thì theo sách thao luyện quân sĩ.

Lại qua hơn tháng, Thành Cát Tư Hãn binh lương đã đầy đủ, một vạn quân dưới quyền Quách Tĩnh cũng đã luyện tập thuần thục Bát quái trận pháp Thiên phúc, Địa tải, Phong dương, Vân thùy, Long phi, Hổ dực, Điểu tường, Xà phiên. Trận Bát quái này vốn là Gia Cát Lượng theo phép cổ sáng chế ra, truyền tới tay Nhạc Phi lại thêm nhiều phép tắc biến hóa.

Nhạc Phi lúc trẻ tuổi chỉ thích dã chiến, quan trên là Tôn Trạch nói:

– Ngươi trí dũng tài năng, bậc lương tướng thời cổ cũng không hơn được. Nhưng thích đánh nhau ngoài đồng trống không phải là kế vạn toàn.

Nên dạy trận pháp cho. Nhạc Phi nói:

– Bày trận đánh nhau là chuyện thường của binh pháp, còn vận dụng ảo diệu là ở lòng mình.

Tôn Trạch rất tán thành lời ông. Về sau Nhạc Phi chinh phạt càng nhiều, cũng biết cố chấp vào trận pháp là không được, nhưng lấy trận pháp để dạy tướng luyện quân, dùng trên chiến trường cũng rất có công hiệu khắc địch chế thắng, những kinh nghiệm ấy đều được ghi lại trong bộ Vũ Mục di thư.

Hôm ấy trời trong gió mát, trải dài muôn dặm, xanh biếc một màu. Mười lăm vạn người ngựa Mông Cổ bày hàng trên thảo nguyên. Thành Cát Tư Hãn xem chiều trời, ra lệnh xuất chinh, nói với chư vương chúng tướng:

– Trên đá không có da, mạng người có lúc hết. Râu tóc ta đều đã bạc cả rồi, lần này xuất chinh chưa chắc đã có thể còn sống mà trở về. Đêm qua phi tử Dã Toại nói với ta việc ấy, ta nghĩ thấy không sai, hôm nay ta muốn lập một đứa con, sau khi ta chết sẽ giương cao ngọn cờ đại độc của ta.

Các tướng khai quốc theo Thành Cát Tư Hãn đánh đông dẹp tây, đến lúc ấy đã thân qua trăm trận, đều đã râu tóc đốm bạc, nghe đại hãn chợt muốn lập người nối ngôi, đều bất giác vừa mừng vừa sợ nhất tề nhìn vào mặt y, im lặng nghe y nói ra tên người nối ngôi.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Truật Xích, ngươi là con trưởng, ngươi nói ta nên lập ai?

Truật Xích tim đập thình thịch, y tinh minh dũng cảm lập công nhiều nhất, lại là con trưởng, trước nay vẫn cho rằng sau khi phụ vương chết thì phải do y nối ngôi, lúc ấy đại hãn chợt hỏi như thế, không biết trả lời thế nào là tốt. Con thứ của Thành Cát Tư Hãn là Sát Hợp Đài tính nóng như lửa, trước nay vốn bất hòa với đại ca, nghe phụ vương hỏi y, bèn kêu lên:

– Muốn Truật Xích nói, là muốn cho y nối ngôi à? Chúng con làm sao để thằng con hoang Miệt Nhi Khất Thích cai quản chứ?

Nguyên là lúc đầu Thành Cát Tư Hãn mới dấy nghiệp thì binh lực còn yếu, vợ từng bị kẻ thù là người Miệt Nhi Khất Thích bắt, sau mấy năm mới cướp được về, đã sinh được Truật Xích, chỉ là Thành Cát Tư Hãn không hề vì thế mà ghét bỏ, trước nay vẫn coi Truật Xích như con ruột.

Truật Xích nghe anh em nhục mạ như thế, đời nào nhịn được, sấn lên phía trước nắm cổ áo Sát Hợp Đài, quát:

– Phụ vương chưa từng coi ta là người ngoài, mà ngươi lại làm nhục ta như thế! Ngươi có bản lĩnh gì giỏi hơn ta chứ? Ngươi chỉ là kẻ nóng nảy ngạo mạn mà thôi. Chúng ta cứ ra ngoài tỷ thí hơn thua, nếu ta bắn tên thua ngươi, ta sẽ chặt bỏ ngón tay cái, nếu ta tỷ võ thua ngươi, ta sẽ nằm dưới đất vĩnh viễn không đứng lên nữa!

Rồi quay đầu nhìn Thành Cát Tư Hãn nói:

– Xin phụ vương hạ chỉ!

Hai anh em nắm áo nhau, định liều mạng với nhau tại chỗ.

Các tướng nhao nhao đứng lên khuyên can, Bác Nhĩ Truật kéo tay Truật Xích, Mộc Hoa Lê kéo tay Sát Hợp Đài. Thành Cát Tư Hãn nhớ lại lúc trẻ bị kẻ thù bức bách, ngay cả vợ cũng không bảo vệ được đến nỗi xảy ra chuyện tranh giành ngày hôm nay, không khỏi buồn bã im lặng. Các tướng đều trách Sát Hợp Đài không nên nói tới chuyện cũ, làm cha mẹ đau lòng. Thành Cát Tư Hãn nói:

– Hai người buông tay ra, Truật Xích là con trưởng của ta, trước nay ta yêu y trọng y, từ nay không ai được nói tới chuyện ấy nữa.

Sát Hợp Đài buông Truật Xích ra, nói:

– Bản lĩnh của Truật Xích cao cường, ai cũng đều biết. Nhưng y không nhân từ bằng tam đệ Oa Khoát Đài, con suy cử Oa Khoát Đài.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Truật Xích, ngươi nói sao?

Truật Xích thấy tình hình như thế biết không còn mong gì được làm đại hãn nữa, y trước nay vẫn hòa hảo với tam đệ, lại biết y nhân ái, sau này sẽ không hại mình, bèn nói:

– Tốt lắm, con cũng suy cử Oa Khoát Đài.

Tứ vương tử Đà Lôi cũng không nói gì. Oa Khoát Đài từ chối không nhận.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Ngươi không cần nhường nhịn, đánh nhau thì ngươi không bằng đại ca nhị ca, nhưng ngươi đối đãi với người khác thân thiết trọng hậu, tương lai làm đại hãn thì chư vương chư tướng không đến nỗi tranh giành tàn hại lẫn nhau. Người Mông Cổ chúng ta chỉ cần mình không tự đánh mình thì thiên hạ không ai địch nổi, còn gì phải lo lắng nữa chứ?

Hôm ấy Thành Cát Tư Hãn mở tiệc mời chư tướng, ăn mừng thái tử mới lập.

Tướng sĩ uống rượu ăn tiệc đến khuya mới tan. Lúc Quách Tĩnh về doanh đã hơi say, đang định cởi áo đi ngủ, chợt một tên thân binh bước mau vào báo:

– Phò mã gia, không xong rồi, Đại vương tử và Nhị vương tử say rượu mang quân chém giết lẫn nhau.

Quách Tĩnh cả kinh, nói:

– Mau đi báo cho đại hãn.

Tên thân binh kia nói:

– Đại hãn say rồi, gọi mãi không tỉnh.

Quách Tĩnh biết Truật Xích và Sát Hợp Đài đều có người thân tín, dưới cờ đều là tinh binh mãnh tướng, nếu chém giết nhau thì nhất định sẽ làm tổn thương nguyên khí của quân Mông Cổ, nhưng lúc ban ngày hai người trước mặt đại hãn còn suýt đánh nhau, bây giờ lại đều đã say, mình mà tới can thì làm sao can được.

Nhất thời bàng hoàng không có cách nào, đi đi lại lại trong trướng, lấy tay gõ vào trán, nói một mình:

– Nếu Dung nhi ở đây, nhất định sẽ chỉ được mình một cách.

Chợt nghe xa xa có tiếng quát tháo vang lên, hai đạo quân đã bắt đầu giao chiến, Quách Tĩnh càng thêm hoảng hốt, chợt thấy Lỗ Hữu Cước từ ngoài chạy vào, đưa lên một trang giấy, trên viết:

– Dùng trận Xà phiên chặn ngang hai bên, dùng trận Hổ dực bao vây kẻ nào không chịu phục tùng.

Trong mấy hôm ấy, Quách Tĩnh đã đọc thuộc làu bộ di thư của Vũ Mục, đột nhiên thấy hai hàng chữ ấy, lập tức tỉnh ngộ, kêu lên:

– Tại sao mình lại ngu như thế không nghĩ ra được, binh thư đọc để làm gì?

Lập tức ra lệnh cho quân. Quân Mông Cổ quân lệnh nghiêm minh, tướng sĩ tuy quá nửa say rượu, nhưng vừa nghe hiệu lệnh lập tức mặc giáp lên ngựa, trong giây lát đã bày thành trận thế chỉnh tề.

Quách Tĩnh sai trung quân đánh ba tiếng trống, thổi tù và làm hiệu, tiền đội quát tháo xông về phía đông bắc. Đi được vài dặm, thám báo về báo rằng thân binh của Đại vương tử và Nhị vương tử đã đối trận, xông vào giao chiến, chỉ nghe tiếng ha hô ha hô vang lên ầm ầm. Quách Tĩnh trong lòng cuống lên:

– Chỉ sợ mình tới chậm mất một bước, thì trường đại họa này không cản trở kịp nữa.

Vội vung tay ra lệnh, ba đội Thiên trục bên trái phía sau cuốn về bên phải chuyển lên, ba đội Địa trục bên phải phía sau bày thành đuôi trận, các đội Thiên xung, Địa xung, Tây bắc phong, Đông bắc phong trong hữu quân hậu quân giữ bên phải trận, các đội tương ứng bên tả quân giữ bên trái trận, theo ngọn cờ đại độc trong quân của Quách Tĩnh bày thành trận Xà phiên, xông thẳng lên trước.

Thuộc hạ của Truật Xích và Sát Hợp Đài mỗi bên có hơn hai vạn người, đang vung trường đao tiếp chiến, trận Xà phiên của Quách Tĩnh đột nhiên đánh ngay vào giữa, quân dung nghiêm chỉnh. Đôi bên vừa sửng sốt, đã có vẻ hỗn loạn. Chỉ nghe Sát Hợp Đài cao giọng quát:

– Ai đấy? Ai đấy? Là giúp ta hay tới giúp thằng con hoang Truật Xích?

Quách Tĩnh không đếm xỉa gì tới, cờ lệnh huy động, các toán quân chuyển động, trận Xà phiên lập tức biến thành trận Hổ dực quay về bên trái, bốn đội Thiên xung của hữu quân tiền quân giữ đầu trận, các đội còn lại vây hai bên quân Sát Hợp Đài, chỉ có hai đội Tả thiên Tiền xung quay về phía quân Truật Xích, giữ vững chân trận.

Lúc ấy Sát Hợp Đài đã thấy rõ cờ hiệu của Quách Tĩnh, cao giọng mắng:

– Ta đã biết thằng giặc người Hán kia không phải là người tốt.

Rồi hạ lệnh xông vào quân Quách Tĩnh xung sát. Nhưng trận Hổ dực này biến hóa tinh vi, oai lực của hai cánh rất mạnh, là thế trận mà năm xưa Hàn Tín đại phá Hạng Vũ ở Cai Hạ sáng tạo ra. Binh pháp nói:”Đông gấp mười thì vây”, vốn là phải có binh lực đông gấp mười mới có thể bao vây quân địch, nhưng trận này vô cùng biến ảo, lại có thể lấy ít vây nhiều.

Bộ thuộc của Sát Hợp Đài thấy từng đội từng đội nhỏ trong quân Quách Tĩnh tung hoành qua lại, không biết có bao nhiêu nhân mã, trong lòng cảm thấy ngờ sợ. Trong giây lát, hơn hai vạn quân của Sát Hợp Đài đã bị cắt ra tan nát, hai cánh tả hữu không cứu viện cho nhau được. Lúc họ đánh nhau với quân Truật Xích, đã vốn không có lòng giao chiến, một là đối thủ đều là người trong bộ tộc, quá nửa là quen biết nhau, hai là lại sợ đại hãn trị tội, lúc ấy bị trận thế của Quách Tĩnh đánh cho rối loạn, lại càng không có ý liều mạng, chỉ nghe cánh trung quân của Quách Tĩnh quát lớn:

– Chúng ta đều là anh em Mông Cổ, không nên tàn sát lẫn nhau. Mau ném cung tên đao thương xuống đất, thì khỏi bị đại hãn trừng phạt xử tử.

Các tướng sĩ thấy rất hợp ý mình, nhao nhao xuống ngựa, ném võ khí xuống đất.

Sát Hợp Đài suất lĩnh hơn một ngàn quân sĩ thân tín xông thẳng vào trung quân của Quách Tĩnh. Chỉ nghe ba tiếng thanh la vang lên, tám đội binh mã từ tám hướng đổ tới bao vây, trong chớp mắt hơn một ngàn kỵ binh đều vướng dây ngã ngựa. Tám đội quân của Quách Tĩnh cứ bốn năm người đè bắt một người, trói hết tất cả quân thân tín của Sát Hợp Đài.

Truật Xích thấy Quách Tĩnh đánh tan quân Sát Hợp Đài, bất giác vừa sợ vừa mừng, đang định bước lên nói chuyện, chợt nghe tiếng tù và vang lên, tiền đội của Quách Tĩnh biến thành hậu đội, hậu đội biến thành tiền đội bốn phía đổ tới bao vây. Truật Xích lâm trận đã nhiều nhưng thấy loại trận thế này cũng vô cùng kinh nghi, vội hạ lệnh cự chiến, lại thấy tám đội quân của Quách Tĩnh chia làm mười hai đội nhỏ, không xông lên trước mà lui về phía sau. Truật Xích càng thêm ngạc nhiên, nào biết mười hai đội nhỏ ấy chia làm Đại hắc Tý, Phá địch sửu, Tả đột Dần, Thanh xà Mão, Thôi hung Thìn, Tiền xung Tỵ, Đại xích Ngọ, Tiên phong Mùi, Hữu kích Thân, Bạch vân Dậu, Quyết thắng Tuất, Hậu xung Hợi, án theo mười hai chi, kỳ chính thay đổi, ruổi rong qua lại. Trận pháp của mười hai đội luân phiên thay đổi, hoặc hữu quân đánh vào bên trái, hoặc tả quân đánh vào bên phải, đánh nhau một trận, quân của Truật Xích lập tức tan vỡ. Không đầy thời gian một bữa cơm, Truật Xích cũng bị bắt sống.

Truật Xích nhớ lần đầu gặp Quách Tĩnh từng đánh y chết đi sống lại, Sát Hợp Đài nhớ tới lúc ấy mình xua chó săn cắn y, đều sợ y thừa cơ trả thù, sau lúc run sợ đều tỉnh cả rượu, lại sợ cha trừng phạt, đều vô cùng hối hận.

Quách Tĩnh bắt được hai người, nghĩ thầm mình rốt lại cũng là người ngoài, làm được việc lớn thế này cũng không biết là họa hay phúc, đang muốn tìm Oa Khoát Đài và Đà Lôi để bàn bạc, đột nhiên nghe tiếng tù và thổi vang, trong ánh lửa sáng thấy ngọn cờ đại độc chín chòm lông của đại hãn từ xa lướt mau tới.

Thành Cát Tư Hãn sau khi tỉnh rượu nghe báo hai con đem quân đánh nhau, đang lúc vừa sợ vừa giận, không kịp mặc áo khoác giáp, để đầu trần tới mau cản trở. Phóng gần tới nơi chỉ thấy tướng sĩ hai bên xếp hàng ngồi dưới đất, kỵ binh của Quách Tĩnh đang giám thị bên cạnh, lại thấy hai con tuy vẫn ngồi trên ngựa nhưng đều bị tám võ sĩ cầm đao vây chặt, bất giác rất ngạc nhiên.

Quách Tĩnh bước lên lạy rạp xuống đất bẩm rõ nguyên do. Thành Cát Tư Hãn thấy một trường đại họa lại được y xóa bỏ không còn dấu vết, vô cùng mừng rỡ. Lúc y vội vã tới, nghĩ thầm hai đội quân Mông Cổ tinh nhuệ mà hai con thống lĩnh tàn sát lẫn nhau ắt sẽ tử thương rất nặng, hai con biết đâu cũng phải phơi xác trên mặt đất, nào ngờ hai con không việc gì ba quân vẫn còn nguyên vẹn, quả thật vô cùng mừng rỡ. Lúc ấy đại hội chư tướng, chửi mắng Truật Xích và Sát Hợp Đài một trận tàn tệ, trọng thưởng cho Quách Tĩnh và tướng sĩ bộ thuộc, nói với Quách Tĩnh:

– Ngươi còn nói không biết cầm quân đánh nhau nữa không? Công lao trận này so ra còn lớn hơn công đánh chiếm Trung đô nước Kim. Thành trì của địch nhân hôm nay đánh không được thì ngày mai vẫn có thể đánh, chứ nếu hai con ta và bấy nhiêu tinh binh đều chết thì làm sao sống lại được?

Quách Tĩnh đem vàng bạc súc vật được thưởng chia hết cho quân sĩ, trong quân ầm ầm reo mừng. Các tướng thấy Quách Tĩnh lập được công lớn cũng đều tới doanh của y chúc mừng.

Quách Tĩnh đưa khách về rồi, lấy tờ giấy mà Lỗ Hữu Cước đưa cho xem kỹ, thấy nét chữ run rẩy, rất là vụng về, có quá nửa đúng là do Lỗ Hữu Cước viết, nhưng lại nảy ý nghi ngờ, hai trận Xà phiên Hổ dực tuy mình dùng để luyện tập quân sĩ nhưng chưa từng nói tên trận với Lỗ trưởng lão, lúc thỉnh giáo y những chỗ khó hiểu trong binh thư cũng không có chỗ nào quan hệ với trận thế này, tại sao y biết được hai trận này? Chẳng lẽ y đọc trộm binh thư của mình à?

Lúc ấy bèn mời Lỗ Hữu Cước vào trướng, nói:

– Lỗ trưởng lão, nếu ngươi muốn đọc bộ binh thư này thì ta cho ngươi mượn cũng được.

Lỗ Hữu Cước cười nói:

– Gã ăn mày nghèo này suốt đời quyết không làm tướng quân, còn suất lĩnh bọn ăn mày nhỏ cũng không cần tới binh pháp, đọc binh thư cũng chỉ vô dụng.

Quách Tĩnh chỉ vào tờ giấy nói:

– Làm sao ngươi biết được trận Xà phiên, Hổ dực?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Quan nhân từng nói với tiểu nhân, chẳng lẽ quên rồi à?

Quách Tĩnh thấy lời nói của y lần này không thật thà, càng nghĩ càng thấy kỳ quái, nhưng thủy chung vẫn không hiểu y giấu diếm chuyện gì.

Hôm sau Thành Cát Tư Hãn lên trướng điểm tướng. Đội tiền quân làm tiên phong do Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài thống lĩnh, tả quân do Truật Xích thống linh, hữu quân do Quách Tĩnh thống lĩnh. Ba đội tiền quân, tả quân, hữu quân đều có ba vạn người ngựa. Thành Cát Tư Hãn mang theo Đà Lôi, tự chỉ huy sáu vạn nhân mã làm hậu viện.

Mỗi quân sĩ đều dắt theo bốn con ngựa, thay phiên cưỡi để giữ sức ngựa, tướng lãnh còn mang theo nhiều hơn. Mười lăm vạn người, gần một trăm vạn con ngựa. Tiếng tù và cùng vang lên, trống nổi ầm ầm, ba vạn quân tiên phong trong đội tiền quân người mạnh ngựa khỏe ùn ùn kéo về phía tây. Đại quân dần dần đi xa, vào đất Hoa Thích Tử Mô rồi, dọc đường thế như chẻ tre. Ma Ha Mạt binh lực tuy đông nhưng còn lâu mới là đối thủ của quân Mông Cổ. Quách Tĩnh đánh thành phá địch cũng lập được không ít công lao.

Hồi 37: Trên trời rơi xuống

Một hôm Quách Tĩnh đóng quân cạnh Na Mật Hà, buổi tối đang trong trướng đọc binh thư, chợt nghe ngoài trướng có một tiếng chát nhỏ vang lên, cửa trướng mở ra, một người bước vào. Đám vệ binh trước trướng bước ra quát tháo ngăn lại, bị người đó khẽ vung tay nhất nhất điểm ngã. Người ấy ngẩng đầu lên cười, dưới ánh đèn nhìn thấy rất rõ, chính là Tây độc Âu Dương Phong. Quách Tĩnh cách Trung thổ hàng vạn dặm, không ngờ ở nơi tha hương tuyệt vực này lại gặp y, bất giác mừng sợ xen lẫn, nhảy ra kêu lớn.

– Hoàng cô nương đâu rồi?

Âu Dương Phong nói:

– Ta đang muốn hỏi ngươi là con tiểu nha đầu ấy có ở đây không? Mau giao người ra đây?

Quách Tĩnh nghe câu ấy vô cùng mừng rỡ:”Nói thế thì Dung nhi vẫn còn sống, mà đã thoát khỏi tay y rồi”.

Âu Dương Phong lại cao giọng hỏi:

– Con tiểu nha đầu ấy ở đây phải không?

Quách Tĩnh nói:

– Cô ta đi theo ngươi ở Giang Nam, sau đó thế nào? Cô ta… cô ta có khỏe không? Ngươi chưa hại chết cô ta, vậy thì quả thật phải cảm ơn ngươi! Ta… ta quả thật lòng cảm ơn ngươi.

Nói xong đột nhiên mừng quá rơi lệ.

Âu Dương Phong biết y không biết bịa đặt, nhưng theo các dấu hiệu mà nhìn thì Hoàng Dung nhất định ở trong doanh của Quách Tĩnh, tại sao y hoàn toàn không biết, nhất thời không sao hiểu được, ngồi xếp bằng xuống tấm nệm lông chiên dưới đất.

Quách Tĩnh lau nước mắt, giải khai huyệt đạo cho vệ binh, sai người mang rượu sữa và trà tới. Âu Dương Phong uống một chén rượu sữa ngựa, nói:

– Tiểu tử ngốc, ta không ngại gì nói rõ với ngươi. Con nha đầu ấy quả thật là bị ta bắt ở miếu Thiết Thương phủ Lâm An, nào ngờ qua mấy hôm thì y thị trốn mất.

Quách Tĩnh mừng rỡ kêu hay, lại nói:

– Cô ta thông minh linh lợi, nếu muốn trốn nhất định sẽ trốn được. Cô ta làm sao trốn được thế?

Âu Dương Phong căm hờn nói:

– Ở Quy Vân trang cạnh Thái Hồ… phì, nói ra nhiều chuyện lắm, tóm lại là y thị chạy mất.

Quách Tĩnh biết y vốn tự phụ, lỡ tay thua thiệt há lại chịu đích thân nói ra nên lúc ấy cũng không hỏi nữa, biết Hoàng Dung không việc gì, trong lòng vô cùng mừng rỡ, chỉ kêu lớn.

– Hay thật, hay thật!

Âu Dương Phong nói:

– Hay cái gì? Sau khi y thị trốn đi, ta đuổi riết không bỏ, mấy lần suýt bắt được nhưng y thị giảo hoạt trốn mất. Nhưng ta đuổi theo quá rát, con nha đầu ấy lại cũng không thể chạy ra đảo Đào Hoa. Hai người bọn ta một đuổi một chạy, tới biên giới Mông Cổ đột nhiên mất hút dấu vết của y thị. Ta nghĩ nhất định y thị sẽ tới quân doanh của ngươi nên mới tới đây làm kế ôm cây đợi thỏ.

Quách Tĩnh nghe Hoàng Dung đã tới Mông Cổ, càng mừng sợ xen lẫn, vội nói:

– Ngươi gặp cô ta chưa?

Âu Dương Phong tức giận nói:

– Nếu gặp thì ta lại chẳng bắt rồi sao? Ta đêm ngày rình rập trong quân của ngươi mà thủy chung không thấy bóng con nha đầu ấy đâu. Tiểu tử ngốc, rốt lại ngươi giở trò gì vậy?

Quách Tĩnh ngẩn người hồi lâu, nói:

– Ngươi ngày đêm rình rập trong quân của ta à? Tại sao ta không biết chút nào thế?

Âu Dương Phong cười nói:

– Ta là một tên lính Tây Vực trong đội Thiên tiền xung của ngươi. Ngươi là chủ soái có nhận ra ta không?

Trong quân Mông Cổ vốn có rất nhiều người vốn là tù binh, Âu Dương Phong là người Tây Vực, trà trộn vào trong quân quả thật không dễ phát giác ra.

Quách Tĩnh nghe y nói thế không kìm được hoảng sợ nghĩ thầm:”Nếu y muốn đả thương thì mình đã sớm mất mạng rồi”, rồi lẩm bẩm:

– Tại sao ngươi nói Dung nhi ở trong quân của ta?

Âu Dương Phong nói:

– Ngươi bắt hai con trai đại hãn, công thành phá địch, nếu không có con nha đầu ấy bên trong chỉ điểm, thì bằng vào thằng tiểu tử ngốc nhà ngươi mà làm được à? Nhưng con nha đầu ấy trước nay không hiện thân, chuyện đó cũng kỳ lạ thật. Bây giờ chỉ còn cách nắm lấy ngươi đòi giao người thôi.

Quách Tĩnh cười nói:

– Nếu Dung nhi hiện thân thì đó là điều ta mong còn chưa được, mà ngươi cứ nghĩ xem, ta có thể giao Dung nhi cho ngươi không?

Âu Dương Phong nói:

– Ngươi không chịu giao người thì ta tự có cách đối phó. Ngươi tuy nắm binh phù trong tay, thống lĩnh đại quân, nhưng trong con mắt của Âu Dương Phong ta, ha ha, thì trong trướng ngoài trướng đều là chỗ không người, muốn tới thì tới, muốn đi thì đi, ai cản được ta?

Quách Tĩnh gật gật đầu, im lặng không nói.

Âu Dương Phong nói:

– Tiểu tử ngốc, chúng ta giao hẹn với nhau thì thế nào?

Quách Tĩnh nói:

– Giao hẹn chuyện gì?

Âu Dương Phong nói:

– Ngươi nói ra chỗ y thị ẩn núp, ta đảm bảo quyết không làm y thị bị thương một sợi tóc. Nếu ngươi không nói thì từ từ ta cũng sẽ tìm ra, đến lúc ấy à, hừ hừ, thì chẳng có chuyện gì hay đâu.

Quách Tĩnh vốn biết y thần thông quảng đại, chỉ cần Hoàng Dung không ẩn núp ở đảo Đào Hoa thì cũng có ngày bị y bắt được, lần này nói thế cũng không phải là buột miệng khoe khoang, trầm ngâm một lúc rồi nói:

– Được, ta giao hẹn với ngươi, nhưng không phải như ngươi nói.

Âu Dương Phong nói:

– Ngươi muốn thế nào?

Quách Tĩnh nói:

– Âu Dương tiên sinh, công phu hiện tại của ngươi hơn ta rất nhiều, nhưng tuổi tác của ta nhỏ hơn ngươi, thế nào cũng phải có một ngày ngươi tuổi già sức yếu, không đánh được ta.

Trước đây Quách Tĩnh gọi y là Âu Dương bá bá, nhưng y hại chết năm vị ân sư của mình, thù sâu như biển, nên không nói gì tới hai chữ bá bá.

Âu Dương Phong trước nay chưa nghĩ tới bốn chữ tuổi già sức yếu, bị y nhắc tới, trong lòng chợt hoảng sợ:”Mấy câu ấy của thằng tiểu tử ngốc này cũng không phải ngốc”, bèn nói:

– Vậy thì sao?

Quách Tĩnh nói:

– Ngươi và ta có mối thù sâu giết hại sư phụ, mối thù ấy không thể không trả, ngươi có chạy tới chân trời cũng có ngày ta tìm tới ngươi.

Âu Dương Phong ngẩng đầu hô hô cười lớn, nói:

– Vậy thì nhân lúc ta còn chưa tuổi già sức yếu, hôm nay cứ giết ngươi trước?

Câu nói chưa dứt, hai chân xoạc ra, người đã ngồi xuống, song chưởng như lay núi dốc biển mạnh mẽ vỗ ra.

Lúc ấy Quách Tĩnh đã luyện thành Dịch cân đoàn cốt thiên trong Cửu âm chân kinh, lại được thiên tổng cương trong chân kinh mà Nhất Đăng đại sư dịch cho, công phu trong chân kinh cũng đã luyện được không ít, nội công tinh thuần hồn hậu khác hẳn trước, hơi nghiêng đi tránh qua thế chưởng, đánh trả một chiêu Kiến long tại điền. Âu Dương Phong rút chưởng đón đỡ, công phu Hàng long thập bát chưởng này y vốn biết rõ, lại biết Quách Tĩnh được chân truyền của Hồng Thất công, chưởng lực rất mạnh nhưng so với mình thì rốt lại cũng còn kém một chút, không ngờ lần thẳng thắn đón tiếp này, thân hình lại hơi loạng choạng. Cao thủ đối chưởng chỉ cần chân khí hơi nghịch hành sẽ lập tức sẽ bị trọng thương, y hơi khinh địch, suýt nữa đã thua dưới tay Quách Tĩnh, bất giác giật nảy mình:

– Chỉ sợ không chờ tới khi mình tuổi già sức yếu thì thằng tiểu tử này cũng đã hơn mình rồi.

Lập tức vỗ chưởng trái ra.

Quách Tĩnh lại nghiêng người tránh qua, đánh trả một chưởng. Chiêu này thì Âu Dương Phong không thẳng thắn đón tiếp nữa, ngoặc cổ tay lại đẩy chưởng lực của y qua một bên. Quách Tĩnh không biết trên chưởng lực của y có chỗ ảo diệu, chỉ cho rằng y chỉ hóa giải chiếu thức của mình, nào ngờ Âu Dương Phong lấy công làm thủ, trong cái ngoặc ấy lại có sức kéo về, Quách Tĩnh chỉ thấy một luồng đại lực đánh vào giữa mặt, tránh né không kịp, đành đưa tay phải đón đỡ.

Bàn về công lực của hai người thì Quách Tĩnh vẫn còn kém một bậc, tình thế lúc ấy đã giống như lúc đối chưởng chỗ cửa động sau thác nước trong hoàng cung ở phủ Lâm An, tuy Quách Tĩnh đã có thể chi trì khá lâu nhưng thời gian kéo dài rốt lại không chết, cũng bị thương. Âu Dương Phong theo đúng bài bản cũ lại lừa được y vào tròng, trong lòng đang mừng rỡ, đột nhiên thấy tay phải Quách Tĩnh hơi co lại như không chi trì nổi, lập tức tăng thêm kình lực lên tay chưởng, nào ngờ chưởng phải của y hơi trượt đi, lập tức tránh qua một bên. Âu Dương Phong gầm lớn một tiếng, chưởng lực đánh mạnh tới, nghĩ thầm:

– Hôm nay là ngày chết của ngươi rồi.

Nhìn thấy đầu ngón tay đã quét tới trước ngực y, Quách Tĩnh chưởng trái quét ngang ra đỡ trước ngực, ngón trỏ tay phải vươn ra điểm vào huyệt Thái dương của Âu Dương Phong. Đây là công phu Nhất dương chỉ mà y thấy chỗ Nhất Đăng đại sư, nhưng Nhất Đăng đại sư chưa hề truyền thụ, hôm ấy y chỉ nhìn thấy hình dáng chứ không biết yếu quyết biến hóa bên trong, lúc ấy đang nguy cấp bèn dùng thuật song thủ hỗ bác đánh ra. Nhất dương chỉ là khắc tinh của Cáp mô công, Âu Dương Phong nhìn thấy làm sao không hoảng sợ, lập tức nhảy lùi ra tức giận quát:

– Lão già Đoàn Trí Hưng cũng làm khó ta à?

Thật ra chỉ pháp mà Quách Tĩnh sử dụng không phải là Nhất dương chỉ thật, làm sao có thể phá được Cáp mô công, nhưng Âu Dương Phong trong lúc hoảng sợ không kịp nhận rõ, vừa nhảy tránh ra mới nghĩ:”Nhất dương chỉ chiêu thức tiếp theo vô cùng, tại sao y chỉ phóng một chỉ ra rồi rút tay lại, có lẽ còn chưa luyện thành”.

Không chờ Quách Tĩnh trả lời, song chưởng một trên một dưới một đẩy một rút, đột nhiên xô ra. Đòn này rất mau lẹ, Quách Tĩnh chưa xoay chuyển ý nghĩ đã tung người vọt lên, chỉ nghe chát một tiếng lớn, một cái ghế thấp trong trướng đã bị song chưởng của Tây độc đập vỡ thành mấy mảnh.

Âu Dương Phong chiếm được thượng phong, chưởng sau lại phát, chợt thấy sau lưng có tiếng gió rít, có người đánh lén, lúc ấy cũng không quay người, chân trái đá về phía sau một cái. Người sau lưng y cũng phi chân đá lên, hai chân chạm nhau, người kia ngã lăn ra nhưng xương chân rõ ràng không hề bị gãy, quả thật là điều Âu Dương Phong không ngờ tới. Y quay nhìn chỉ thấy ngoài cửa trướng có ba người ăn mày lớn tuổi, nguyên là ba trưởng lão Lỗ, Giản, Lương của Cái bang.

Lỗ Hữu Cước tung người vọt lên, hai tay nắm tay hai người Giản Lương, đây là thuật hợp số đông chống địch, lấy yếu chống mạnh của Cái bang, hôm trước trong lần đại hội tuyển lập bang chủ ở Quân sơn, Cái bang đã từng dùng công phu này kết thành tường người, ép Quách Tĩnh và Hoàng Dung tới chỗ bó tay không còn cách nào chống cự.

Âu Dương Phong trước nay chưa từng giao thủ với ba người này nhưng thấy một cước vừa rồi đã biết Lỗ Hữu Cước nội công không kém, hai người kia chắc cũng thế, mình đơn đả độc đấu với Quách Tĩnh tuy nắm chắc phần thắng nhưng thêm một bọn ăn mày thối tha thì khó lòng mà rời khỏi nơi đây yên lành, lập tức hô hô cười rộ nói:

– Tiểu tử ngốc, công phu của ngươi tiến bộ lắm!

Rồi gập hai chân ngồi xuống xếp bằng trên tấm nệm, không đếm xỉa gì tới bọn Lỗ Hữu Cước nói:

– Ngươi muốn giao hẹn với ta cái gì, cứ nói ra nghe thử .

Quách Tĩnh nói:

– Ngươi muốn Hoàng cô nương giải thích Cửu âm chân kinh cho ngươi, cô ta chịu hay không là quyền ở cô ta, ngươi không được làm cô ta bị thương một sợi tóc.

Âu Dương Phong cười nói:

– Nếu y thị chịu nói thì vốn ta cũng phải gia hại, chứ chẳng lẽ Hoàng lão tà lại chịu để yên sao? Nhưng nếu cô ta cứng đầu không chịu nói thì há ta lại không dùng chút sức mạnh à?

Quách Tĩnh lắc đầu nói:

– Không được.

Âu Dương Phong nói:

– Ngươi muốn ta đáp ứng chuyện ấy thì lấy gì để trao đổi?

Quách Tĩnh nói:

– Từ nay trở đi, nếu ngươi rơi vào tay ta thì ta tha mạng cho ngươi ba lần chứ không giết.

Âu Dương Phong đứng bật dậy, buông tiếng cười rộ, trong tiếng cười có âm thanh vang dội kỳ lạ, truyền ra xa xa, ngựa trên thảo nguyên nghe thấy đều hí vang, ầm ầm một hồi không ngớt.

Quách Tĩnh hai mắt nhìn y chằm chằm, hạ giọng nói:

– Có gì hay mà cười. Ngươi đã biết rốt lại cũng có một ngày ngươi sẽ phải thua dưới tay ta.

Âu Dương Phong tuy cười rộ nhưng quả thật cũng đã sợ nghĩ thầm:”Thằng tiểu tử ngốc này nắm được bí yếu của Cửu âm chân kinh, võ công tăng tiến mau lẹ quả thật không thể coi thường”.

Miệng buông tiếng cười không ngớt nhưng lòng đã quyết kế, cười nói:

– Âu Dương Phong ta lại cần thằng tiểu tử ngốc nhà ngươi tha à? Được thôi, chúng ta cứ quyết thế đi.

Quách Tĩnh xòe tay ra nói:

– Trượng phu nhất ngôn.

Âu Dương Phong cười nói:

– Ngựa tốt thêm roi.

Rồi đập nhẹ lên tay y ba cái. Ba cái đập ấy là nghi thức lập thệ của người thời Tống, nếu trái lời thề, thì trọn đời không được coi như con người.

Đập xong ba chưởng, Âu Dương Phong đang định hỏi về tung tích Hoàng Dung, nhưng liếc mắt chợt thấy ngoài cửa lều có một người lướt qua, thân pháp mau lẹ vô cùng, trong lòng rúng động, vội xô cửa đuổi theo thì đã không thấy đâu nữa. Y quay đầu lại nói:

– Trong vòng mười ngày ta sẽ tới thăm, để xem là ngươi tha ta hay ta tha ngươi?

Nói xong hô hô cười lớn, trong chớp mắt tiếng cười đã ra ngoài mười trượng.

Ba trường lão Lỗ Giản Lương nhìn nhau hoảng sợ đều nghĩ:

– Người này võ công cao cường hiếm thấy trên đời, chẳng trách lại nổi tiếng ngang Hồng bang chủ.

Quách Tĩnh kể chuyện Âu Dương Phong hỏi cho ba người nghe. Lỗ Hữu Cước nói:

– Y nói Hoàng bang chủ ở trong quân chúng ta toàn là nói bậy. Mà nếu Hoàng bang chủ ở đây thì lẽ nào chúng ta lại không biết? Mà nếu… .

Quách Tĩnh ngồi xuống, đưa tay chống cằm, thong thả nói:

– Ta lại nghĩ lời y nói cũng rất có lý. Ta thường cảm thấy Hoàng cô nương vẫn ở bên cạnh ta, ta có điều gì nghi nan không quyết được thì nàng lại giúp cho ta chủ ý rất hay. Chỉ là bất kể ta nhớ nhung thế nào, thủy chung vẫn không gặp được nàng.

Nói tới đó hai mắt đầy lệ. Lỗ Hữu Cước khuyên:

– Quan nhân! Cũng không cần phiền não, trước mắt nhất thời chia tay, sau này rốt lại sẽ được đoàn tụ.

Quách Tĩnh nói:

– Ta đắc tội với Hoàng cô nương, chỉ sợ nàng sẽ không chịu hiện thân nữa. Không biết ta phải làm thế nào mới có thể chuộc được tội này?

Lỗ Giản Lương ba người nhìn nhau không nói gì. Quách Tĩnh lại nói:

– Cho dù nàng không chịu nói chuyện với ta, chỉ cần cho ta thấy mặt một lần thì cũng khiến ta đỡ nhớ nhung khổ sở.

Giản trưởng lão nói:

– Quan nhân mệt rồi, đi nghỉ sớm đi. Sáng mai chúng ta còn phải bàn bạc kế sách cho ổn thỏa, đề phòng Âu Dương Phong tìm tới quấy nhiễu.

Hôm sau đại quân đi về phía tây, buổi tối hạ trại xong, Lỗ Hữu Cước vào trướng nói:

– Năm trước tiểu nhân ở Giang Nam từng được một bức họa, nghĩ bọn bỉ phu thô lỗ như bọn ta thì làm sao lãnh hội được ý tứ trong tranh? Quan nhân trong quân tịch mịch, có thể thong thả thưởng lãm.

Nói xong lấy ra một cuốn họa đặt lên bàn. Quách Tĩnh mở ra xem, bất giác ngẩn người, chỉ thấy trên giấy vẽ một thiếu nữ cài hoa, ngồi trên mấy tấm vải, dung mạo rõ ràng chính là Hoàng Dung, chỉ là vẻ mặt gầy ốm, chân mày nhíu lại, có vẻ rất tiều tụy.

Quách Tĩnh sững sờ nhìn hồi lâu, thấy bên trái bức họa có đề hai bài từ.

Một bài đề:

Bảy khung may

Tằm xuân nhả hết ruột sầu nay

Chớ rằng vải lụa là may dễ

Bỗng dưng cắt đứt

Loan tươi phượng đẹp

Trên vạt áo chia hai

Một bài đề:

Chín khung may song song đôi bướm lại đôi cây.

Bạc tình muôn thuở thường ly biệt.

Từ đầu tới cuối

Nỗi lòng vương vấn

Xâu chỉ mỏi mòn tay.

Hai bài từ này là mô phỏng bài Bốn khung may của Anh Cô mà làm ra, nhưng lòng đau tình thiết, lời lẽ cũng như bài Bốn khung may. Quách Tĩnh tuy khó hiểu thật rõ, nhưng câu: Bạc tình muôn thuở thường ly biệt thì cũng hiểu, ngẫm nghĩ nửa ngày, nghĩ thầm:

– Bức họa này là thủ bút của Dung nhi, Lỗ trưởng lão lấy được ở đâu?

Ngẩng đầu định hỏi thì Lỗ Hữu Cước đã ra khỏi trướng, Quách Tĩnh vội sai thân binh mời y vào. Lỗ Hữu cước Cứ quả quyết nói là y mua được trong chợ sách ở Giang Nam.

Quách Tĩnh cho dù có ngu ngốc hơn gấp mười cũng đã thấy trong chuyện này nhất định có sự lừa dối, Lỗ Hữu Cước là hán tử thô lỗ hào sảng thì còn biết mua thư họa gì? Cho dù có người tặng ắt y cũng tiện tay vứt bỏ. Bức họa y mua được trong chợ sách ở Giang Nam thì tại sao người trong bức họa lại chính là Hoàng Dung. Chỉ là Lỗ Hữu Cước không chịu thổ lộ chân tướng nên cũng không biết làm sao.

Đang ngẫm nghĩ thì Giản trưởng lão bước vào trướng, hạ giọng nói:

– Tiểu nhân mới thấy ở góc đông bắc có bóng người chớp lên, trong chớp mắt không biết đã đi đâu, chỉ e là lão tặc Âu Dương Phong đêm nay sẽ tới đánh lén.

Quách Tĩnh nói:

– Được, bốn người chúng ta cứ ở đây hợp sức bắt y.

Giản trưởng lão nói:

– Tiểu nhân có một kế, quan nhân xem có dùng được không?

Quách Tĩnh nói:

– Chắc là hay rồi, ngươi nói đi.

Giản trưởng lão nói:

– Kế này nói ra thì cũng bình thường. Chúng ta cứ đào ở đây một cái hầm sâu. Rồi sai hai mươi tên quân mang bao cát phục ngoài trướng. Lão tặc kia không tới thì thôi, chứ nếu tới kiếm chuyện với quan nhân thì chỉ có tới không có về.

Quách Tĩnh cả mừng, nghĩ thầm:

– Âu Dương Phong xưa nay tự phụ, vốn không coi ai ra gì, kế này tuy rất cũ nhưng đối phó với y lại rất hay.

Lúc ấy ba trưởng lão đốc suất quân sĩ đào một cái hầm sâu trong trướng, trên miệng hầm trải nệm lông chiên, trên nệm đặt một cái ghế gỗ nhẹ. Hai mươi tên quân đều mang bao cát phục ở ngoài trướng. Hành quân trên sa mạc thường phải đào đất lấy nước nên việc đào hầm trong trướng không hề khiến ai để ý.

An bài đã xong, Quách Tĩnh thắp đèn ngồi chờ, nào ngờ suốt đêm ấy Âu Dương Phong không tới. Hôm sau hạ trại xong, ba trưởng lão lại vào trướng đào hầm, đêm ấy cũng không có động tĩnh gì.

Đến đêm thứ tư, Quách Tĩnh nghe tiếng mõ cầm canh trong quân lúc trỗi lúc tắt, ý nghĩ trong lòng cũng cuồn cuộn dâng trào. Chợt nghe phía ngoài trướng như có một tiếng lá rụng, Âu Dương Phong buông tiếng cười dài, sãi chân bước vào, bước tới ngồi xuống ghế.

Chỉ nghe lách cách một tràng, y cả người lẫn ghế rơi xuống hầm. Cái hầm này sâu tới bảy tám trượng, miệng hẹp vách dựng, Âu Dương Phong công lực tuy cao, nhưng rơi xuống xong trong lúc cấp bách làm sao có thể lên được? Hai mươi tên thân binh hai bên trướng túa ra, bốn mươi cái bao cát lập tức ném xuống, đè cả nên người Âu Dương Phong.

Lỗ Hữu Cước hô hô cười rộ, kêu lên.

– Hoàng bang chủ đoán việc như thần…

Giản trưởng lão trừng mắt nhìn y một cái, Lỗ Hữu Cước lập tức im bặt. Quách Tĩnh vội hỏi:

– Tại sao lại là Hoàng bang chủ?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Tiểu nhân buột miệng nói sai, ta là nói Hồng bang chủ. Nếu là Hồng bang chủ ở đây, nhất định sẽ rất mừng rỡ.

Quách Tĩnh nhìn y chằm chằm, đang định hỏi nữa, đột nhiên đám thân binh ngoài trướng la thét ầm ĩ.

Quách Tĩnh và ba trưởng lão vội vọt ra, chỉ thấy đám thân binh chỉ xuống mặt đất hò hét inh ỏi. Quách Tĩnh rẽ mọi người ra nhìn, thấy dưới đất có một gò cát cao dần lên, như có vật gì muốn từ dưới vọt ra, lập tức hiểu ngay Âu Dương Phong công phu cao cường, lại muốn từ dưới đất xuyên lên, lập tức hạ lệnh, mấy mươi tên ky binh nhảy lên ngựa, phóng ngựa xéo lên gò cát.

Đám kỵ binh cả người lẫn ngựa sức nặng không nhỏ, lại thêm sức giẫm đạp, Âu Dương Phong võ công có cao cường hơn cũng không sao chịu nổi, chỉ thấy gò cát từ từ sụt xuống. Nhưng kế đó ở chỗ khác lại lập tức có gò cát đùn mau lên.

Đám kỵ binh thấy chỗ nào có gò cát nhô lên là lập tức phóng ngựa tới xéo lên, không bao lâu không thấy gò cát nào nhô lên nữa, nghĩ chắc y chi trì không được, đã tắt hơi chết rồi.

Quách Tĩnh sai kỵ binh xuống ngựa đào xác. Lúc ấy đã đến giờ Tý, đám thân binh giơ cao đuốc vây thành một vòng, hơn mười tên quân dùng xẻng đào cát đào xuống hơn một trượng quả nhiên thấy Âu Dương Phong đứng thẳng người trong cát. Chỗ ấy cách cái hầm trong trướng mấy trượng, tuy nói cát xốp nhưng y có thể dùng hai bàn tay không, nín thở đào đất đi như một con chuột chũi như thế thì nội công cao cường quả thật ít nghe ít thấy. Đám quân sĩ vừa sợ vừa phục, kéo y lên đặt nằm trên mặt đất.

Lỗ Hữu Cước đưa tay thăm hơi thở, chỉ thấy trên ngực y vẫn còn ấm, bèn sai người lấy xích sắt khóa lại, đề phòng y tỉnh dậy không chế phục được. Nào ngờ Âu Dương Phong đào cát đi dưới đất, trên đỉnh đầu trước sau bị ky đội giẫm đạp không sao lên được lúc ấy bèn giả chết, đợi lên mặt đất sẽ tìm cách đào tẩu. Lúc ấy y rón rén hít thở mấy hơi, thấy Lỗ Hữu Cước đứng bên cạnh cao giọng sai người mang xích tới, đột nhiên nhảy bật dậy quát lớn một tiếng, vươn tay chụp vào mạch môn tay phải Lỗ Hữu Cước.

Biến cố này xảy ra bất ngờ, xác chết sống dậy, mọi người giật nảy mình.

Quách Tĩnh bèn vung tay trái đè lên huyệt đạo trên lưng Âu Dương Phong, tay phải đè lên huyệt Tích trung trên hông y. Hai huyệt đạo này đều là đại huyệt trên lưng người ta, nếu y không bị cát đè lên tới mức dở sống dở chết, gân cốt rã rời thì đời nào để cho người ta khinh dị đè lên? Y hoảng sợ, đang đinh xoay tay cự địch chợt thấy trên huyệt đạo hơi tê, biết Quách Tĩnh lưu kình không phát ra, nếu chưởng lực của y đẩy ra thì tạng phủ của mình sẽ lập tức bị đánh nát, huống chi lúc này tay chân tê dại, cho dù huyệt đạo không bị khống chế cũng không thể giao đấu ngang tay với Quách Tĩnh, đành buông tay Lỗ Hữu Cước ra, đứng yên bất động.

Quách Tinh nói:

– Âu Dương tiên sinh, xin hỏi ngươi đã gặp Hoàng cô nương chưa?

Âu Dương Phong nói:

– Ta thấy bóng y thị nên mới qua đây tìm.

Quách Tĩnh nói:

– Quả thật là ngươi thấy rõ à?

Âu Dương Phong căm tức nói:

– Nếu không phải là con nha đầu xấu xa ấy ở đây thì ngươi cũng không bày kế đào hầm.

Quách Tĩnh ngẩn người ra một lúc, nói:

– Ngươi đi đi, lần này tha cho ngươi.

Đẩy nhẹ chưởng phải xô y ra ngoài một trượng. Y sợ Âu Dương Phong cao cường, nếu thản nhiên buông tay e y sẽ xoay tay phản kích.

Âu Dương Phong quay lại, lạnh lùng nói:

– Xưa nay ta đơn đả độc đấu với bọn tiểu bối không dùng binh khí. Nhưng ngươi có con nha đầu xấu xa kia ngấm ngầm giúp đỡ, quỷ kế đa đoan, chỉ đành phá lệ thôi. Trong vòng mười ngày ta sẽ mang xà trượng tới. Rắn độc trên xà trượng ngươi đã chính mắt nhìn thấy rồi, phải cẩn thận đấy.

Nói xong lướt người bỏ đi.

Quách Tĩnh nhìn theo bóng y mau lẹ mất hút trong màn đêm, một trận gió bắc nổi lên, lập tức cảm thấy ớn lạnh, nhớ lại rắn độc trên xà trượng, trượng pháp tinh diệu của y, không kìm được run rẩy sợ hãi, mình tuy theo Giang Nam lục quái học được nhiều môn võ khí, nhưng đều không phải là công phu thượng thừa, nếu muốn dùng tay không đối phó với độc trượng, thì muôn vạn lần không được, nhưng nếu sử dụng binh khí, thì lại không có môn nào sở trường. Nhất thời bàng hoàng không có cách nào, ngẩng đầu nhìn trời, trong màn đêm chỉ thấy từng mảng từng mảng tuyết lớn rơi xuống.

Trở về trướng không lâu, hơi lạnh càng tăng. Đám thân binh đốt than, đưa chiến mã vào lều tránh rét. Phần lớn người Cái bang đều không mang theo áo da, đột nhiên khí trời trở lạnh, chỉ còn cách vận công chống rét. Quách Tĩnh vội sai quân sĩ giết dê lột da, cũng không kịp thuộc qua, chỉ rửa sạch máu cho bang chúng khoác lên.

Hôm sau càng lạnh, tuyết dưới đất đều đóng thành băng cứng. Quân Hoa Thích Tử Mô nhân lúc giá lạnh kéo tới tấn công, Quách Tĩnh đã đề phòng, bày trận Long phi thắng một trận lớn, liền đêm đạp tuyết truy kích lên phía bắc.

Cổ nhân có bài thơ vịnh nỗi khổ gió rét lúc tây chinh như sau:

Tướng quân giáp vàng đêm vẫn mặc.

Nửa đêm hành quân gươm giáo đặc.

Gió thổi như đao mặt như cắt.

Đuôi ngựa mang tuyết, ngút mồ hôi,

Ngũ hoa vó ngựa toàn đóng băng,

Trong đêm viết hịch mực nghiên ngưng.

Lại có bài:

Trại giặc binh khí liền mây trời,

Chiến trường cỏ úa đầy xương phơi.

Sông gươm gió rít mây bay loạn,

Bãi cát đá lạnh móng ngựa rơi.

Quách Tĩnh ở mạc bắc lâu ngày, đã quen chịu rét nên cũng không thấy khổ lắm, nhưng nghĩ nếu Hoàng Dung quả thật trong quân, nàng sinh trưởng ở Giang Nam thì làm sao chịu nổi? Bất giác trong bụng càng thêm buồn bã.

Hôm sau hạ trại xong, y cũng không làm kinh động tướng sĩ, rón rén tới các doanh xem xét, nhưng kiểm tra khắp từng lều, mà đâu thấy bóng Hoàng Dung.

Y trở về trướng lại thấy Lỗ Hữu Cước đốc suất quân sĩ đang đào hầm dưới đất. Quách Tĩnh nói:

– Âu Dương Phong vô cùng gian hoạt, đã mắc lừa một lần, lần thứ hai làm sao mắc lừa nữa?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Y đoán chúng ta ắt dùng kế khác, nào ngờ chúng ta lại theo bài bản cũ. Cái này gọi là hư là thực, thực là hư đấy, người ta không thể lường được.

Quách Tĩnh liếc y một cái, nghĩ thầm:

– Ngươi nói suất lĩnh bọn ăn mày nhỏ không cần đọc binh pháp, mà lời lẽ trong binh thư thì nhớ hay lắm.

Lỗ Hữu Cước nói:

– Nhưng nếu lại dùng bao cát đè lên thì ắt y có cách hóa giải. Lần này chúng ta cho y nếm mùi khác trong cái giống, không dùng bao cát, mà dùng nước đổ lên.

Quách Tĩnh thấy mấy mươi tên thân binh bưng hơn hai mươi cái chảo lớn tới ngoài trướng, dùng búa đập nát từng khối băng lớn, lấy xẻng xúc vào chảo, liền nói:

– Như thế há lại không luộc chín y à?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Quan nhân đã giao hẹn nếu y rơi vào tay quan nhân thì người sẽ tha y ba lần. Nhưng lần này nếu luộc chín y thì không thể tính là rơi vào tay quan nhân, muốn tha cũng không tha được, không thể nói là bội ước.

Không bao lâu cái hầm sâu đã đào xong, trên miệng hầm cũng bày biện như cũ, trải một tấm nệm lông, đặt một cái ghế nhẹ. Đám thân binh ngoài trướng cũng đã chất củi lửa vào dưới chảo, nấu băng thành nước, chỉ là trời quá lạnh, có mấy chảo cho thêm củi vào hơi chậm, trên mặt chảo trong chớp mắt lại đóng thành băng mỏng. Lỗ Hữu Cước không ngừng thôi thúc “Đun mau lên, đun mau lên!” Đột nhiên trên mặt tuyết bóng người chớp lên, Âu Dương Phong cầm trượng hất cửa lều quát:

– Tiểu tử ngốc, lần này mà có hầm thì cha ngươi cũng không sợ!

Nói xong phi thân vào, thản nhiên ngồi xuống ghế.

Lỗ Giản Lương ba trưởng lão không ngờ Âu Dương Phong lại tới mau như thế, lúc ấy băng trong chảo vừa tan thành nước, mới chỉ là một chảo nước tuyết, đừng nói là muốn luộc chết người, cho dù tắm cũng còn thấy lạnh, thấy Âu Dương Phong ngồi lên ghế, không kìm được luôn miệng kêu khổ. Chợt nghe lách cách một tràng, trong tiếng chửi lớn, Âu Dương Phong lại cả người cả ghế rơi xuống hầm.

Lúc ấy ngay cả bao cát cũng chưa có, với công lực của Âu Dương Phong thì nhảy lên một cái hầm nhỏ thế này đúng là dễ như trở bàn tay, ba trưởng lão chân tay luống cuống, chỉ sợ Quách Tĩnh bị hại, đồng thanh kêu lên:

– Quan nhân, mau ra ngoài trướng.

Chợt nghe sau lưng có một người hạ giọng quát:

– Đổ nước!

Lỗ Hữu Cước nghe giọng nói ấy, không nghĩ ngợi gì nữa, lập tức làm theo, quát:

– Đổ nước?

Đám thân binh nhấc chảo lớn lên, ào ào đổ xuống hầm.

Âu Dương Phong đang dưới hầm nhảy lên, mấy chảo nước đột nhiên rót xuống đỉnh đầu, vừa giật mình thì chân khí bất giác trầm xuống, thân hình lập tức rơi xuống. Y chống mạnh xà trượng xuống đáy hầm đề khí lần thứ hai vọt lên, lần này đã có đề phòng, nước dội xuống tuy nhiều nhưng không cuốn y xuống được.

Nào ngờ trời quá lạnh, nước vừa rời khỏi chảo lập tức đóng thành băng, Âu Dương Phong lên tới giữa hầm thì nước trên đầu dưới chân đã đông lại thành băng. Y dùng sức nhảy lên rất mạnh, nhưng băng đông càng nhanh hơn, bộp một tiếng, đầu đã đập vào vật gì đau buốt, định chờ rơi xuống sẽ lấy thế nhảy lên lần nữa, nhưng hai chân đã ngập vào băng không động đậy được. Lần này y vô cùng hoảng sợ, quát lớn một tiếng, vận kình dùng sức nhảy mạnh lên, hai chân vừa lỏng ra, nửa người trên đã bị băng giữ chặt.

Đám thân binh đã được luyện tập thuần thục về việc đổ nước xuống hầm, bốn người bưng chảo đổ nước xuống xong là lập tức lui qua một bên, bốn người khác lập tức bước lên thay thế, kẻ ra người vào như bánh xe nước, vô cùng mau lẹ. Chỉ sợ bị nước sôi đổ ra làm bỏng nên trên tay trên mặt người nào cũng mang bao vải che chắn. Nào ngờ không kịp nấu sôi nước tuyết nước lạnh cũng có thể vây khốn đối phương, trong giây lát hơn hai mươi chảo nước đã róc đầy hầm, đông lại thành một cột băng lớn cao bốn năm trượng, đường kính bảy tám thước.

Lần ấy làm bừa lại nhất cử thành công, mọi người đều nửa mừng nửa sợ. Ba trưởng lão đốc suất thân binh khoét đất cạnh cột băng, đưa xích sắt lớn buộc vào, dùng hai mươi bốn con ngựa kết thành đội buộc xích vào, kéo cột băng lên.

Quân sĩ bốn doanh được tin đều kéo tới trước trướng chủ soái để xem cảnh lạ. Mọi người nhất tề dùng sức kéo cột băng lên. Dưới ánh lửa sáng chỉ thấy Âu Dương Phong nhe răng trợn mắt, vung tay nhấc chân đứng cứng đờ ở đoạn giữa cột băng, không hề động đậy. Các tướng sĩ hò reo ầm ầm.

Lỗ Hữu Cước sợ Âu Dương Phong nội công tinh thâm sẽ dùng nội lực làm băng tan ra, bèn sai thân binh tiếp tục đun nước đổ lên, làm cột băng dày thêm.

Quách Tĩnh nói:

– Ta từng giao hẹn với y, phải tha y ba lần không giết. Đập cột băng ra, thả y đi thôi?

Ba trưởng lão đều cảm thấy tiếc, nhưng kẻ sĩ hào kiệt không ai không trọng tín giữ nghĩa, lúc ấy cũng không nói gì.

Lỗ Hữu Cước nhấc xẻng sắt lên định đập vào cột băng, Giản trường lão kêu lên:

– Khoan đã.

Rồi hỏi Quách Tĩnh:

– Quan nhân, với công lực của gã Âu Dương Phong này có thể chi trì được trong cột băng mấy giờ?

Quách Tĩnh nói:

– Một giờ thì có thể được, nhưng quá nữa thì chỉ e khó giữ được tính mạng.

Giản trưởng lão nói:

– Được, qua một giờ nữa chúng ta sẽ thả y. Tính mạng thì tha được, nhưng mùi đau khổ thì phải nếm.

Quách Tĩnh nghĩ tới mối thù giết sư phụ, gật đầu khen phải.

Tin tức truyền ra, tướng sĩ các doanh khác cũng nhao nhao kéo tới xem.

Quách Tĩnh nói với ba trưởng lão:

– Từ xưa có câu: Kẻ sĩ có thể giết chứ không thể làm nhục. Người này tuy gian ác nhưng rốt lại cũng là bậc tôn sư võ học, há lại có thể để người ta cười cợt hạ nhục?

Lập tức sai quân sĩ dùng lều che kín cột băng, sai quân canh gác, bất kể bậc thân quý đại tướng thế nào cũng không được vén lều lên nhìn.

Qua một giờ, ba trưởng lão đập vỡ cột băng, thả Âu Dương Phong ra, Âu Dương Phong ngồi xếp bằng dưới đất vận công hồi lâu, nhổ ra ba ngụm máu đen, căm hờn bỏ đi. Quách Tĩnh và ba trưởng lão thấy y bị vây khốn trong cột băng đúng một giờ, tuy thần thái kiệt quệ nhưng lập tức bước đi như thường, ai cũng thán phục.

Trong một giờ ấy Quách Tĩnh tâm thần bất định nhưng chỉ cho rằng Âu Dương Phong đang bên cạnh khiến mình hoang mang lo lắng, nhưng sau khi phá băng thả người, ngồi trong trướng vẫn không thể bình tâm. Y ngồi xuống vận công, trấn nhiếp tâm thần, khoảng sau một tuần trà thì muôn ý nghĩ đều quên hết, trong lòng rỗng không sáng suốt, đột nhiên nghĩ tới lý do bất an vừa rồi. Nguyên là trước khi Lỗ Hữu Cước hạ lệnh đổ nước, y nghe rõ một người quát khẽ “Đổ nước!”

Giọng nói vô cùng quen thuộc, lại có tám chín phần là giọng Hoàng Dung, chỉ là đang lúc Âu Dương Phong rơi xuống hầm, công việc khẩn cấp chưa kịp để ý, nhưng sau đó hai tiếng “Đổ nước” ấy tựa hồ vẫn vướng vít bên tai, mà trong lòng lại không nắm bắt được.

Y nhảy phắt dậy, buột miệng kêu lên:

– Dung nhi quả nhiên đang ở trong quân. Mình cứ tập hợp tất cả tướng sĩ, không cho giấu một người nào, chẳng lẽ còn sợ không tra xét ra nàng sao

Nhưng lập tức xoay chuyển ý nghĩ:

– Nàng đã không muốn hiện thân, tại sao mình phải nhất định cưỡng ép?

Rồi giở bức tranh ra, ngơ ngẩn nhìn thiếu nữ trong tranh, trong lòng vui buồn lẫn lộn.

Trong đêm yên ắng, chợt nghe xa xa có tiếng khoái mã phi tới, kế đó nghe giọng thân binh hộ vệ quát tháo, không bao lâu sứ giả bước vào trướng trình thủ lệnh của Thành Cát Tư Hãn. Nguyên là đại quân Mông Cổ chia đường tiến quân, liên tiếp thắng trận, tiến về phía tây mấy trăm dặm sẽ là thành Tán Ma Nhĩ Hãn nổi tiếng của Hoa Thích Tử Mô. Thành Cát Tư Hãn dò xét biết đó là đô thành mới của Hoa Thích Tử Mô, quy tụ hơn mười vạn trọng binh bảo vệ, binh lương khí giới đầy đủ, thành trì kiên cố, tường thành vững chắc, có thể nói là thiên hạ vô song, nghĩ rằng nhất thời đánh mau không thể phá được, nên truyền lệnh bốn lộ quân mã hội sư giáp công.

Lúc ấy Quách Tĩnh chỉ huy quân sĩ men theo sông Na Mật Hà kéo về phía nam. Đi được mười ngày đã tới dưới thành Tán Ma Nhĩ Hãn. Trong thành thấy Quách Tĩnh quân ít, mở thành kéo cả ra đánh, lại bị Quách Tĩnh bày hai trận Phượng dương, Vân thùy trong nửa ngày giết năm sáu ngàn quân địch. Quân Hoa Thích Tử Mô mất hết nhuệ khí, thua chạy rút vào thành.

Ngày thứ ba đại quân của Thành Cát Tư Hãn cùng hai cánh quân của Truật Xích, Sát Hợp Đài lần lượt kéo tới. Hơn mười vạn người bao vây tấn công bốn phía, nào ngờ thành Tán Ma Nhĩ Hãn kiên cố, bảo vệ nghiêm mật, quân Mông Cổ đánh liền mấy ngày, tướng sĩ bị thương rất nhiều vẫn không hạ được.

Lại qua một ngày, con trưởng của sát Hợp Đài là Mạc Đồ Căn nóng lòng lập công, hăng hái tiến sát thành, bị một mũi tên trên thành bắn xuyên qua đầu mà chết. Thành Cát Tư Hãn vốn thương yêu đứa cháu này, thấy y chết trận vô cùng đau buồn tức giận. Đám thân binh đưa xác vương tôn về, Thành Cát Tư Hãn nhìn thấy lệ rơi lã chã, ôm vào lòng dùng sức nhổ mũi tên trên đầu y ra, chỉ thấy mũi tên ấy làm bằng răng sói lông điêu, đầu tên bọc vàng, khắc bốn chữ Triệu vương Đại Kim. Tả hữu có người biết được văn tự nước Kim nói ra, Thành Cát Tư Hãn tức giận quát:

– A, té ra là thằng gian tặc Hoàn Nhan Hồng Liệt!

Nhảy lên lưng ngựa ra lệnh:

– Tất cả tướng sĩ lớn nhỏ nghe đây: bất cứ ai dũng mãnh xông lên thành trước nhất, phá thành bắt sống Hoàn Nhan Hồng Liệt để trả thù cho vương tôn thì tất cả đàn bà và vàng lụa trong thành này thưởng hết cho y.

Một trăm thân binh đứng trên lưng ngựa đem lệnh đại hãn truyền đi khắp nơi.

Ba quân nghe xong đều phấn chấn nhảy nhót, nhất thời tên bắn như mưa, tiếng thét vang trời, kẻ chất bao đất làm bậc, kẻ bắc thang lên tường, kẻ ném móc câu bám vào leo lên, kẻ dùng gỗ nhọn phá tường thành. Nhưng tướng sĩ trong thành tìm đủ cách chống cự, tấn công đến chiều tối quân Mông Cổ tổn thất thêm bốn ngàn người mà thành Tán Ma Nhĩ Hãn vẫn trơ ra như núi. Thành Cát Tư Hãn từ khi tiến quân vào đất Hoa Thích Tử Mô đến nay chưa lần nào thua lớn như thế, trong đêm ấy ngồi trong trướng xót thương cháu nội, tức giận gào lên như sấm.

Quách Tĩnh về trướng giở di thư Vũ Mục ra đọc, muốn học một cách đánh thành, nhưng lối bố phòng của thành Tán Ma Nhĩ Hãn khác hẳn với Trung Quốc, những chiến pháp mà di thư ghi chép đều không dùng được.

Quách Tĩnh mời Lỗ Hữu Cước vào trướng thương nghị, biết y ắt sẽ đi thỉnh giáo Hoàng Dung, đợi y cáo từ đi ra liền rón rén theo sau, nào ngờ Lỗ Hữu Cước bố trì đầy bang chúng Cái bang trước sau, vừa thấy Quách Tĩnh đều lớn tiếng chào hỏi. Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Đây rõ ràng là mưu kế của Hoàng Dung, ờ, nàng đã có cách tránh mình thì mình nhất cử nhất động cũng không nằm ngoài dự liệu của nàng.

Qua hơn một giờ, Lỗ Hữu Cước quay lại nói:

– Tòa thành lớn này nhất thời khó hạ được, tiểu nhân cũng không nghĩ ra kế gì hay. Đợi vài ngày xem quân địch có sơ hở không sẽ tính.

Quách Tĩnh gật đầu không nói gì. Lúc vừa rời Mông Cổ xuống nam, y chỉ là một thiếu niên ngu ngơ ngốc nghếch, thành thật chất phác, nhưng một năm nay trải nhiều lo nghĩ, qua nhiều nguy hiểm, kiến thức đã tăng lên không ít, đêm ấy trong trướng ngẫm nghĩ về ý nghĩa của hai bài từ trên bức họa, chỉ thấy tình cảm triền miên không thể kìm được nghĩ thầm:

– Dung nhi quyết không phải vô tình với mình, nhất định sẽ chờ mình tạ tội. Chỉ là mình tính tình ngu xuẩn, không biết làm sao chuộc lỗi mới hợp ý nàng đây.

Nghĩ tới đó, bất giác vô cùng buồn bực.

Đêm ấy trong trướng lăn qua lật lại nghĩ tới chuyện ấy, đến canh ba mới mơ màng thiếp đi, trong giấc mơ thấy gặp Hoàng Dung, lập tức hỏi nàng làm thế nào để tạ tội, chỉ thấy nàng ghé tai mình hạ giọng nói mấy câu. Quách Tĩnh cả mừng tỉnh dậy, đã quên mất mấy câu nàng vừa nói. Y nghĩ rất lâu vẫn không nhớ được chữ nào, toan đi ngủ lại để gặp Hoàng Dung trong mộng lại không sao ngủ được nữa, đang lúc buồn bực, gõ vào trán mình liên tiếp, đột nhiên linh cơ nhợt động:

– Mình không nhớ được, chẳng lẽ không hỏi được nàng?

Rồi kêu lên:

– Mau gọi Lỗ trưởng lão vào trướng.

Lỗ Hữu Cước chỉ cho rằng có chuyện quân vụ gì khẩn cấp, khoác áo da dê đi chân đất chạy qua. Quách Tĩnh nói:

– Lỗ trưởng lão, ngày mai bất kể thế nào ta cũng phải gặp Hoàng cô nương. Bất kể ngươi nghĩ ra hay đi bàn với người khác cũng được, hạn cho ngươi đến trước giờ Ngọ ngày mai phải nghĩ cho ta một cách hay.

Lỗ Hữu Cước giật nảy mình, nói:

– Hoàng bang chủ không có ở đây, quan nhân làm sao gặp được?

Quách Tĩnh nói:

– Ngươi thần cơ diệu toán, nhất định có cách. Giờ Ngọ ngày mai nếu không nghĩ ra cách tốt đẹp, thì sẽ xử theo quân pháp.

Tự biết là mấy câu ấy nói ra rất ngang ngược, nhưng không khỏi cười thầm.

Lỗ Hữu Cước toan phân trần, Quách Tĩnh quay đầu nói với thân binh:

– Giờ Ngọ ngày mai phái một trăm đao phủ thủ chờ lệnh dưới trướng.

Đám thân binh cất tiếng dạ ran, Lỗ Hữu Cước mặt mày nhăn nhó, quay người bước ra.

Hôm sau cả buổi sáng tuyết rơi rất lớn, trên tường thành băng dày đóng lại trơn tuột như dầu, làm sao bám vào lên được? Thành Cát Tư Hãn thu quân không tấn công, nghĩ thầm đang lúc trời giá rét, sau này ngày càng lạnh thêm, chưa tới tháng hai tháng ba sang năm quyết chưa ấm lại, nhưng nếu bỏ qua thành này tiến đi, thì lúc tiến về phía tây lại để lại sau lưng mười mấy vạn tinh binh của quân địch, lúc nào cũng có thể bị chặn ngang đường lui, trước sau thụ địch, nhưng khổ nỗi đóng quân dưới thành, chỉ sợ địch nhân kéo quân tụ lại, thì mình quả bất địch chúng, một trận tan vỡ thì thế ắt không khỏi chôn vùi toàn quân nơi đất lạ, một con ngựa cũng không về được. Y chắp hai tay đi qua đi lại ngoài trướng, bàng hoàng không có cách nào, nhìn nhìn lên đỉnh núi tuyết cao chót vót tận mây cạnh tường thành, cau mày xuất thần.

Ngọn núi tuyết này vô cùng kỳ lạ, đột nhiên vọt lên giữa đất bằng, một mình lẻ loi vươn lên trên thảo nguyên như một gốc cây lớn không cành không lá, nên thổ nhân gọi là núi Cây Trọc. Thành Tán Ma Nhĩ Hãn xây dựa vào núi, tường thành phía tây mượn một mặt núi, giảm được chi phí xây dựng mà còn vô cùng kiên cố, có thể thấy người xây dựng thành này năm xưa rất có tài trí. Ngọn núi này dựng đứng dị thường, toàn là vách đá không có cây cỏ gì, cho dù là khỉ vượn cũng không leo lên được. Thành Tán Ma Nhĩ Hãn được tấm bình phong ấy, quả thật là vững như thành vàng hào sâu.

Thành Cát Tư Hãn nghĩ thầm:

– Ta từ khi kết tóc dấy nghiệp, trải mấy trăm trận lớn nhỏ, chưa bao giờ bị rơi vào tình cảnh như hôm nay, chẳng lẽ trời muốn tuyệt ta sao?

Nhìn thấy tuyết lớn lả tả rơi xuống, doanh trướng lừa ngựa đều thành màu trắng, trong thành thì khắp nơi khói bếp bốc lên, bất giác lại càng buồn phiền.

Quách Tĩnh còn có tâm sự khác, chỉ sợ kế sách ngang ngược ấy bị Hoàng Dung nhẹ nhàng hóa giải, mà nói lại nếu Lỗ Hữu Cước không nói thật thì cũng không thể chém đầu y. Gần đến giờ Ngọ, y sầm mặt ngồi trong trướng, đao phủ thủ hai bên đều cầm đại đao đứng hầu, chợt nghe tiếng tù và trong quân nổi lên, đã đến giờ Ngọ. Lỗ Hữu Cước bước vào trướng, nói:

– Tiểu nhân đã nghĩ ra một cách, nhưng chỉ sợ quan nhân khó làm theo được mà thôi.

Quách Tĩnh cả mừng, nói:

– Nói mau đi, cho dù muốn lấy mạng ta cũng được, có gì khó chứ?

Lỗ Hữu Cước chỉ lên đỉnh núi Cây Trọc, nói:

– Giờ Tý ba khắc đêm nay, Hoàng bang chủ chờ trên đó.

Quách Tĩnh ngẩn người nói:

– Làm sao nàng lên đó được? Ngươi đừng lừa ta.

Lỗ Hữu Cước nói:

– Ta đã nói trước là quan nhân không chịu nghe thì dù nghĩ được cách hay cũng uổng thôi.

Nói xong khom lưng một cái, quay ra khỏi trướng.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Quả nhiên Dưng nhi thuận miệng nói một câu cũng khiến mình bó tay hết cách. Ngọn Cây Trọc này còn cao hơn ngọn Trung Chỉ núi Thiết Chưởng gấp mấy lần, dốc núi dựng đứng ở Mông Cổ cũng không bằng được. Chẳng lẽ trên đỉnh núi có thần tiên nào có thể dòng dây xuống kéo mình lên sao?

Lúc ấy buồn bã không vui, giải tán đám đao phủ thủ, một mình một ngựa tới chân núi Cây Trọc quan sát chỉ thấy ngọn núi này trên dưới đều phẳng lì, chung quanh kết một lớp băng dày lóng lánh trơn tuột giống hệt cây băng lớn giam hãm Âu Dương Phong hôm trước, nhất định là từ khi có trời đất đến nay, ngoài chim chóc ra quyết không có thú hay người lên tới đỉnh núi. Y ngẩng đầu nhìn, đột nhiên bộp một tiếng, chiếc mũ da trên đầu rơi xuống mặt tuyết, trong chớp mắt ấy đã quyết định:

– Nếu mình không gặp được Dung nhi thì sống chẳng bằng chết. Ngọn núi này tuy hiểm trớ, nhưng nhất định mình phải liều mạng mà lên, cho dù sẩy chân ngã xuống chết thì cũng là làm theo ý nàng một lần.

Nghĩ tới đó, trong lòng lập tức khoan khoái.

Chiều hôm ấy y ăn thật no, nai nịt gọn ghẽ, hông giắt chuỷ thủ, lưng mang dây dài, trời chưa tối hẳn, đã lập tức bước ra khỏi trướng. Chỉ thấy Lỗ Giản Lương ba trưởng lão đứng ở ngoài trướng nói:

– Tiểu nhân đưa quan nhân lên núi.

Quách Tĩnh ngạc nhiên nói:

– Đưa ta lên núi à?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Đúng thế. Chẳng phải quan nhân có hẹn với Hoàng bang chủ gặp nhau trên đỉnh núi sao?

Quách Tĩnh rất ngạc nhiên, nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ Dung nhi hoàn toàn không phải lừa mình?

Vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, theo ba người tới chân núi Cây Trọc.

Chỉ thấy dưới núi có mấy chục tên thân binh dắt theo mấy chục con bò con dê đang chờ. Lỗ trưởng lão nói:

– Giết đi!

Một tên thân binh giơ tiêm đao lên chặt đùi sau của một con dê, lúc máu còn nóng dán lên vách núi, trong chớp mắt máu tươi chảy ròng ròng đông lại, chiếc đùi dê dán lên vách núi lạnh như dùng đinh sắt đóng chặt vào vách đá.

Quách Tĩnh còn chưa hiểu ý, một tên thân binh khác lại chặt một đùi dê dán lên vách đá, cao hơn cái trước khoảng bốn thước. Quách Tĩnh cả mừng, mới biết ba trưởng lão dùng đùi dê làm thành bậc thang, đang lúc trời rất lạnh, không có cách nào tốt hơn thế. Chỉ thấy Lỗ Hữu Cước tung người vọt lên, đứng vững trên chiếc đùi dê thứ hai. Giản trưởng lão chặt một đùi dê, ném lên phía trên, Lỗ Hữu Cước đón lấy lại dán lên vách núi.

Qua hồi lâu, chiếc thang dê ấy đã cao hơn mười trượng, dưới đất giết dê chuyển lên, chưa kịp dán lên vách đá đã đông lại. Quách Tĩnh và ba trưởng lão dòng dây dài xuống kéo dê sống lên, vừa giết vừa dán. Chiếc thang dê dựng tới giữa sườn núi, gió thổi càng mạnh, bốn người đều là cao thủ võ công, thân hình tuy hơi loạng choạng, hai chân đặt trên đùi dê rất vững vàng nhưng vẫn sợ trơn trượt sẩy chân, bèn buộc dây vào hông để đề phòng, tất tả đến nửa đêm, chiếc thang dê mới lên tới đỉnh núi. Ba trưởng lão cố nhiên vô cùng mệt mỏi, Quách Tĩnh cũng mồ hôi toát ra đầy người.

Lỗ Hữu Cước thở dốc mấy hơi, cười nói:

– Quan nhân, thế này có thể tha tội cho tiểu nhân được không?

Quách Tĩnh vừa xấu hổ vừa cảm kích, nói:

– Quả thật không biết phải báo đáp ba vị thế nào?

Lỗ Hữu Cước nói:

– Đây là lệnh của bang chủ, có khó hơn cũng phải tuân theo. Ai bảo bọn ta có một vị bang chủ cổ quái như thế làm chi.

Ba trưởng lão hô hô cười rộ, quay mặt vào vách đá, từ từ lần xuống.

Quách Tĩnh thấy ba người từng bước từng bước yên ổn leo xuống tới sườn núi mới quay đầu lại, chỉ thấy cảnh sắc trên đỉnh núi tươi đẹp vô cùng, băng lạnh ngàn năm kết thành một thế giới lưu ly, có chỗ như quỳnh hoa thụy thảo, có chỗ như quái điểu dị thú, có chỗ như núi non chập chùng, có chỗ như cây cối nghiêng ngã. Quách Tĩnh càng nhìn càng ngạc nhiên, khen ngợi không thôi. Đoán chắc không bao lâu Hoàng Dung sẽ theo chiếc thang dê lên, trong chớp mắt không kìm được máu nóng sôi lên, mặt mũi đỏ bừng, đang xuất thần chợt nghe một tiếng cười khúc khích khẽ vang lên.

Tiếng cười này lập tức khiến y như nghe thấy sấm rền sét nổ, lập tức quay người nhìn lại, dưới ánh trăng chỉ thấy một thiếu nữ như cười mà không phải cười đang nhìn y, không phải Hoàng Dung thì là ai? Quách Tĩnh tuy biết rõ có thể gặp nàng, nhưng lần này gặp nhau, rốt lại vẫn vừa mừng vừa sợ, ngờ là đang trong mộng. Hai người nhìn nhau hồi lâu rồi chạy tới gần nhau, không đề phòng băng trên đỉnh núi trơn láng dị thường, hai người mừng sợ lẫn lộn đều không đề phòng, soạt soạt hai tiếng, đồng thời trượt ngã. Quách Tĩnh sợ Hoàng Dung bị thương, người chưa chúi xuống tới đất đã vận kình nhảy lên trước đỡ nàng. Hai người xa nhau hơn một năm, nhớ nhau muốn phát điên, lúc ấy gặp lại, ôm chặt lấy nhau ở đó làm sao gỡ ra được?

Qua hồi lâu, Hoàng Dung nhẹ nhàng gỡ ra, ngồi xuống một tảng băng nhô lên như tấm thạch bàn, nói:

– Nếu không phải thấy ngươi nhớ ta quá thì ta không tới gặp ngươi đâu.

Quách Tĩnh ngơ ngác nhìn nàng, hồi lâu không nói nên lời. Qua một lúc lâu mới kêu:

– Dung nhi.

Hoàng Dung dạ một tiếng. Quách Tĩnh mừng rỡ vô cùng, lại kêu:

– Dung nhi.

Hoàng Dung cười nói:

– Ngươi kêu còn chưa đủ à? Trong bấy nhiêu hôm, tuy ta không ở trước mặt ngươi, chẳng lẽ mỗi ngày ngươi lại không gọi ta mấy ngàn lần sao?

Quách Tĩnh nói:

– Sao cô biết?

Hoàng Dung cười khẽ nói:

– Ngươi không thấy ta, chứ ta thì thường thấy ngươi.

Quách Tĩnh nói:

– Trước nay cô ở trong quân của ta, sao không cho ta gặp mặt?

Hoàng Dung bĩu môi nói:

– Ngươi còn mặt dày hỏi à? Ngươi biết ta bình an vô sự là sẽ đi thành thân với công chúa Hoa Tranh. Ta chẳng thà không cho ngươi biết chỗ ta ở. Ngươi bảo ta là con ngốc sao?

Quách Tĩnh nghe nàng nói tới tên Hoa Tranh, nỗi mừng rỡ lập tức tan biến, lại cảm thấy bồi hồi.

Hoàng Dung nhìn quanh một vòng, nói:

– Tòa cung điện bằng băng này rất đẹp, chúng ta vào trong ngồi nói chuyện.

Quách Tĩnh nhìn theo ánh mắt của nàng, chỉ thấy trong một khối băng dày có một cái hang rỗng, dưới ánh trăng thấp thoáng lóng lánh rất đẹp, đúng là như một cung điện lớn làm bằng băng.

Hai người dắt tay nhau vào động băng, cùng ôm vai nhau ngồi xuống. Hoàng Dung nói:

– Nhớ lại việc ngươi cư xử với ta trên đảo Đào Hoa, ngươi nói ta có nên tha cho ngươi không?

Quách Tĩnh đứng lên nói:

– Dung nhi, ta dập đầu một trăm cái để tạ tội với cô.

Y theo đúng bài bản, quả thật quỳ xuống đất, dập đầu thật mạnh. Hoàng Dung duyên dáng mỉm cười, đưa tay đỡ y dậy nói:

– Thôi đi, nếu ta không tha ngươi thì ngươi có chém một trăm cái đầu của Lỗ Hữu Cước, ta cũng không lên ngọn núi này đâu.

Quách Tĩnh mừng rỡ nói:

– Dung nhi, cô tốt lắm.

Hoàng Dung nói:

– Có gì mà tốt với không tốt? Trước đây chỉ cho rằng ngươi dốc lòng muốn trả thù cho sư phụ, trong lòng không có nửa bóng dáng của ta, ta tự nhiên tức giận? Về sau thấy ngươi và Âu Dương Phong giao hẹn, vì ta mà chịu tha cho y ba lần không giết, như thế thì trong lòng ngươi vẫn còn có ta.

Quách Tĩnh lắc đầu nói:

– Đến lúc ấy cô mới biết lòng ta.

Hoàng Dung lại chẩu môi cười nói:

– Ngươi thấy ta ăn mặc thế nào?

Quách Tĩnh nãy giờ toàn nhìn vào mặt nàng, nghe câu ấy mới nhìn lên người nàng, chỉ thấy nàng mặc một chiếc áo lông điêu màu đen, chính là chiếc áo mình tặng hôm hai người đính giao ở Trương Gia Khẩu, trong lòng xúc động, đưa tay ra nắm tay nàng.

Hai người ngồi dựa vào nhau một lúc, Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, ta nghe đại sư phụ nói lúc cô trong miếu Thiết Thương bị Âu Dương Phong bắt đi theo, về sau làm sao thoát được khỏi tay y?

Hoàng Dung thở dài nói:

– Chỉ tiếc một tòa Quy Vân trang đẹp đẽ của Lục sư ca. Hôm ấy Lão Độc vật ép ta giảng giải Cửu âm chân kinh cho y, ta nói giảng giải thì không khó nhưng phải tìm được chỗ yên tĩnh. Lão Độc vật nói cái đó tự nhiên, chúng ta đi tìm chỗ chùa miếu nào yên tĩnh. Ta nói hòa thượng trong chùa miếu rất đáng ghét, ta lại không thích ăn chay. Lão Độc vật nói vậy thì làm sao. Ta nói Quy Vân trang ở cạnh Thái Hồ phong cảnh đã đẹp, thức ăn lại ngon, chỉ có điều trang chủ là bạn ta, không khỏi khiến y lo lắng.

Quách Tĩnh nói:

– Phải rồi, nhất định y sẽ không chịu đi.

Hoàng Dung nói:

– Không, y là người rất tự đại, có coi ai ra gì. Ta càng nói thế, y càng đòi đi. Y nói bất kể trong trang có bao nhiêu bạn bè của ngươi, Lão Độc vật cũng đối phó được. Hai người tới Quy Vân trang, cha con Lục sư ca lại đều không có nhà, té ra đều tới nhà Trình đại tiểu thư ở huyện Bảo Ưng tại Giang Bắc thăm hỏi thông gia. Ngươi biết tòa trang viện ấy là xây dựng theo thuật ngũ hành bát quái của cha ta. Lão Độc vật vừa vào tới trang đã biết không hay, đang nghĩ cách kéo ta lui ra, nhưng ta thoắt bên đông, thoắt bên tây đã sớm không còn bóng dáng. Y tìm ta không được, nổi cơn giận lên, một nắm lửa đốt Quy Vân trang thành bình địa.

Quách Tĩnh a một tràng, nói:

– Ta tới Quy Vân trang tìm cô, chỉ thấy ngói vỡ gạch nát, không ngờ là việc hay của Lão Độc vật.

Hoàng Dung nói:

– Ta đoán y sẽ đốt trang viện nên trước đó đã bảo mọi người trốn đi. Lão Độc vật tuy không bắt được ta nhưng y quả thật xấu xa tàn độc, chờ ta trên đường về đảo Đào Hoa, mấy lần suýt nữa chạm mặt y, về sau ta lên Mông Cổ phía bắc, y lại đuổi theo. Ngốc ca ca, may mà ngươi ngu ngốc, chứ nếu linh mẫn cơ cảnh như Lão Độc vật trước sau bao vây thì ta thật không biết trốn ở đâu nữa.

Quách Tĩnh cười ngượng nghịu.

Hoàng Dung nói:

– Nhưng sau cùng thì ngươi cũng thông minh, biết ép Lỗ Hữu Cước nghĩ kế.

Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, là cô dạy ta mà.

Hoàng Dung ngạc nhiên nói:

– Ta dạy ngươi à?

Quách Tĩnh nói:

– Là cô dạy ta trong mơ.

Lúc ấy đem giấc mơ kể lại một lượt.

Hoàng Dung lúc ấy lại không cười cợt, trong lòng vô cùng cảm động, dịu dàng nói:

– Người xưa nói tinh thành tới mức tột đỉnh thì vàng đá cũng tan. Ngươi nhớ nhung ta như thế, quả thật ta phải gặp ngươi sớm hơn.

Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, từ nay trở đi cô vĩnh viễn đừng rời xa ta nữa, có được không?

Hoàng Dung nhìn lên biển mây dày đặc trên đỉnh núi xuất thần, chợt nói:

– Tĩnh ca ca, ta lạnh.

Quách Tĩnh vội cởi chiếc áo da trên người khoác cho nàng, nói:

– Chúng ta xuống thôi.

Hoàng Dung nói:

– Được tối mai chúng ta sẽ lên đây, ta sẽ giảng giải thật kỹ yếu chỉ trong Cửu âm chân kinh cho ngươi.

Quách Tĩnh ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì?

Tay phải Hoàng Dung vốn đang nắm tay trái y, lúc ấy bấm mạnh một cái nói:

– Cha ta đã dịch thiên văn tự líu la líu lo cuối cùng trong chân kinh, tối mai ta sẽ nói cho ngươi nghe.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Thiên Phạn văn này rõ ràng là Nhất Đăng đại sư dịch ra, sao lại nói là cha nàng?

Trong lòng nghi cảm, đang định hỏi lại, Hoàng Dung đã bấm tay y một cái.

Y biết trong chuyện này ắt có duyên cớ, lúc ấy thuận miệng đáp ứng, hai người nhất tề xuống núi. Về tới trướng, Hoàng Dung ghé vào tai nói khẽ:

– Âu Dương Phong cũng lên núi Cây Trọc, lúc chúng ta trò chuyện y đã núp phía sau nghe trộm.

Quách Tĩnh giật nảy mình nói:

– A, ta lại không phát giác ra.

Hoàng Dung nói:

– Y núp ở một tảng băng phía sau. Lão Độc vật vô cùng gian hoạt nhưng lần này lại quên là núi băng trong suốt, không thể núp được. Ta cũng nhờ ánh trăng chiếu xuống mới thấy y thấp thoáng sau tảng băng.

Quách Tĩnh nói:

– Té ra cô nói tới Cửu âm chân kinh gì đó, là nói cho y nghe.

Hoàng Dung nói:

– Ờ, ta muốn lừa y lên đỉnh núi, chúng ta gỡ hết thang dê cho y ở trên đỉnh núi mà tu tiên luyện khí làm tiên sống trọn đời.

Quách Tĩnh cả mừng, vỗ tay khen hay.

Hôm sau Thành Cát Tư Hãn hạ lệnh đánh thành lại mất hơn một ngàn quân tinh nhuệ. Quân giữ thành cười cợt chửi mắng làm Thành Cát Tư Hãn tức giận gầm lên như sấm, đưa mắt nhìn ra lại chỉ thấy trên đồng trống đều là xác người ngựa của quân Mông Cổ, càng thêm buồn bực.

Đêm ấy Quách Tĩnh, Hoàng Dung và ba trưởng lão Cái bang sắp đặt ổn thỏa, chỉ chờ Âu Dương Phong lên núi là hủy bậc thang phía dưới. Nào ngờ Âu Dương Phong vô cùng giảo hoạt, cũng đã đề phòng chuyện này, cứ chờ ở xa xa, nếu Quách Hoàng hai người không lên, thì y cũng không hiện thân.

Hoàng Dung thoáng trầm ngâm, lại nghĩ ra một kế, sai người chuẩn bị sẳn mấy sợi dây dài, ngâm dầu mỏ cho thấm vào tận trong. Đất Hoa Thích Tử Mô khắp nơi đều có mỏ dầu. Hơn ngàn năm trước, cư dân ở đây đào giếng lấy nước, lại được dầu mỏ, gặp lửa là cháy, từ đó về sau dùng để nấu cơm đốt vật. Quân Mông Cổ cũng cướp được dầu mỏ chỗ bách tính Hoa Thích Tử Mô, dùng làm nhiên liệu.

Quách Hoàng hai người đeo dây tẩm dầu mỏ lên núi, giấu vào sau đá núi, kế ngồi trong động băng trò chuyện. Qua không bao lâu, bóng Âu Dương Phong quả nhiên thấp thoáng hiện ra phía sau tảng băng. Y khinh công đã tới mức lư hỏa thuần thanh, lên núi đạp băng hoàn toàn không có tiếng động, đoán hai người nhất định khó phát hiện ra. Hoàng Dung lập tức nói mấy câu kinh văn, hai người giả làm như đang nghiền ngẫm. Nghiền ngẫm là giả, nhưng yếu chỉ kinh văn nói ra câu nào cũng là thật. Âu Dương Phong nghe được, chỉ biết ý nghĩa kỳ diệu bao la, bất giác trong lòng mừng rỡ, nghĩ thầm nếu mình ép con nha đầu này thì cho dù y thị bắt buộc phải nói ra cũng không chịu giải thích rõ ràng, nghe trộm ở đây đúng là kỳ diệu không sao nói xiết.

Hoàng Dung thong thả giảng giải, Quách Tĩnh giả vờ căn vặn. Âu Dương Phong nghĩ thầm:

– Đạo lý đơn giản như thế mà cũng không hiểu, thật ngu ngốc quá?

Chợt nghe dưới núi có tiếng tù và vang lên vô cùng cấp bách. Quách Tĩnh đứng phắt dậy kêu lên:

– Đại hãn điểm tướng, ta phải xuống thôi.

Thật ra tiếng tù và ấy là y sắp xếp từ trước. Hoàng Dung nói:

– Vậy thì tối mai chúng ta lại lên.

Quách Tĩnh nói:

– Lên núi xuống núi thật là mất công, nói ở trong trướng không được à?

Hoàng Dung nói:

– Không, lão già Âu Dương Phong tìm ta khắp nơi, người này vô cùng giảo hoạt, không ở đâu mà trốn khỏi tay y. Nhưng dù y giảo hoạt gấp mười lần cũng quyết không ngờ rằng chúng ta lại gặp nhau ở đỉnh núi chót vót này.

Âu Dương Phong ngấm ngầm đắc ý:

– Hà, đừng nói một tòa núi nhỏ nhỏ này, cho dù ngươi chạy tới chân trời, ta cũng đuổi được ngươi.

Quách Tĩnh nói:

– Vậy thì cô cứ ở đây chờ ta, nửa giờ nữa ta sẽ quay lại.

Hoàng Dung gật đầu ưng thuận. Quách Tĩnh đi thẳng ra xuống núi. Y để một mình Hoàng Dung ở lại trên núi, trong lòng vẫn hồi hộp không yên, nhưng nghĩ tới Âu Dương Phong quyết ý nghe trộm chân kinh, ắt không đến nỗi hiện thân làm hại nàng.

Qua thời gian khoảng ăn xong bữa cơm, Hoàng Dung đứng lên nói một mình:

– Tại sao Tĩnh ca ca còn chưa lên? Trên núi này không biết có ma không? Nhớ lại Dương Khang và Âu Dương Khắc quả thật rất đáng sợ, mình cứ xuống một lúc chờ Tĩnh ca ca rồi cùng lên.

Âu Dương Phong chỉ sợ nàng phát giác, co lại sau tảng băng không dám động đậy, nhìn thấy nàng cũng xuống núi.

Quách Tĩnh và ba trưởng lão đứng dưới chân núi, vừa thấy Hoàng Dung xuống, lập tức châm lửa vào sợi dây dài. Nguyên là lúc Quách Tĩnh xuống núi đã đem mớ dây dài tẩm dầu quấn trên từng chiếc từng chiếc đùi dê đông lạnh. Sợi dây dài cháy thẳng lên trên, thịt dê nóng lên, băng dính ở vách núi tan ra, từng bậc thang liên tiếp rơi xuống. Nhìn thấy một con rắn lửa ngoằn ngoèo bò lên trên, trong bóng đêm băng tuyết ánh lên sáng rực, vô cùng thích mắt.

Hoàng Dung vỗ tay khen hay, nói:

– Tĩnh ca ca, ngươi nói lần này có tha y không?

Quách Tĩnh nói:

– Đây là lần thứ ba, chúng ta không thể thất tín bội ước.

Hoàng Dung cười nói:

– Ta có cách rồi, đã không bội ước lại có thể giết y trả thù cho sư phụ ngươi.

Quách Tĩnh cả mừng kêu lên:

– Dung nhi, cô quả thật toàn thân là mưu kế. Đó là cách hay gì vậy?

Hoàng Dung cười nói:

– Không có gì khó cả. Chúng ta để Lão Độc vật trên đỉnh núi hớp gió mười ngày mười đêm cho y vừa đói vừa rét, tay chân rã rời, sau đó làm thang dê cứu y xuống, đó là lần thứ ba tha y, phải không?

Quách Tĩnh nói:

– Đúng rồi.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi đã tha y ba lần, vậy thì không cần phải khách sáo với y nữa. Y vừa xuống núi xong, đạp chân lên mặt đất thì hai chúng ta đồng thời động thủ, lại thêm ba vị trưởng lão giúp đỡ, năm người chúng ta đánh một kẻ bệnh tật dở sống dở chết, ngươi nói có giết y được không?

Quách Tĩnh nói:

– Như thế dĩ nhiên là được. Chỉ là giết y như thế, không khỏi có chỗ thắng cũng bất võ.

Hoàng Dung nói:

– Ờ, đối với loại người xấu xa độc ác như thế, còn nói chuyện võ hay bất võ à? Lúc hại năm vị sư phụ của ngươi y có chịu thủ hạ lưu tình không?

Nghĩ tới mối huyết hải thâm cừu của ân sư, Quách Tĩnh bất giác lòng đau như xé, lại nghĩ Âu Dương Phong bản lĩnh cao cường, nếu lần này tha cho y sau này chưa chắc đã có cơ hội trả thù, lúc ấy nghiến răng nói:

– Được, cứ thế mà làm.

Hai người trở về trướng, lần này thì quả thật nghiên tập võ công trong Cửu âm chân kinh, trong lúc bàn luận, đều biết người kia trong một năm nay võ công cũng tăng tiến rất mau, đều cảm thấy được an ủi.

Nói tới đoạn cuối, Quách Tĩnh nói:

– Thằng gian tặc Hoàn Nhan Hồng Liệt đang trong thành này, chúng ta phải mở to mắt nhìn, thế nào cũng phải bắt được y. Cô nghĩ kế gì công thành đi.

Hoàng Dung trầm ngâm nói:

– Mấy hôm nay ta vẫn suy nghĩ, tính qua hơn mười kế nhưng không có kế nào thật sự dùng được.

Quách Tĩnh nói:

– Trong huynh đệ Cái bang cũng có mười người công phu khinh công cao cường, thêm ta và cô, chúng ta thử trèo lên tường thành được không?

Hoàng Dung lắc đầu nói:

– Tường thành này cứ một trượng có mười cung thủ bảo vệ, đừng nói là không dễ trèo lên, cho dù mười mấy người đều lên được tới thành thì hơn mười vạn quân trong thành chống lại, cũng không có cách nào phá được cửa thành.

Hai người bàn luận suốt đêm, không hề nghỉ ngơi.

Sáng sớm hôm sau Thành Cát Tư Hãn lại hạ lệnh đánh thành, hơn một vạn quân Mông Cổ kéo máy bắn đá tới, chỉ thấy đạn đá như mưa rơi vào trong thành.

Nhưng quân giữ thành núp trong tường bảo, đạn đá đánh vào nhà dân rất nhiều, nhưng quân sĩ thương vong rất ít. Liên tiếp ba ngày, quân Mông Cổ dùng đủ cách tấn công, nhưng vẫn không làm gì được.

Sáng sớm hôm thứ tư, trên trời lại có tuyết như lông ngỗng rơi xuống: Quách Tĩnh nhìn đỉnh núi nói:

– Chỉ sợ chờ không được mười ngày, Âu Dương Phong đã chết rét rồi.

Hoàng Dung nói:

– Y nội công tinh thâm, có thể chịu được mười ngày.

Câu nói vừa dứt, đột nhiên hai người đồng thời hoảng sợ kêu lên, chỉ thấy trên núi có một vật rơi xuống, chính là Âu Dương Phong. Hoàng Dung vỗ tay cười nói:

– Lão Độc vật chịu không nổi, tự đi tìm cái chết!

Quách Tĩnh ngạc nhiên nói:

– Ờ, lạ thật, tại sao lại đến nỗi như thế?

Chỉ thấy y hoàn toàn không rơi thẳng xuống, mà thân hình chập chờn trên không như một cánh diều. Quách Hoàng hai người rất ngạc nhiên, nghĩ thầm rơi từ núi cao hàng ngàn trượng xuống mà không tan xương nát thịt mới lạ, nhưng y rơi xuống lại chậm như thế, chẳng lẽ Lão Độc vật còn biết yêu pháp sao? Trong giây lát, Âu Dương Phong lại rơi xuống một đoạn, lúc ấy hai người mới nhìn thấy rõ, chỉ thấy y toàn thân trần truồng, trên đỉnh đầu buộc hai khối tròn tròn, Hoàng Dung chợt động tâm niệm, đã hiểu rõ lý do lập tức kêu lên:

– Đáng tiếc!

Nguyên là Âu Dương Phong bị khốn trên đỉnh núi Cây Trọc, y võ công tuy cao nhưng rốt lại cũng không có cách nào trượt thẳng xuống dưới ngọn núi cao ngàn trượng, nhịn đói nhịn rét mấy ngày, lúc gấp rút nảy ý khôn, chợt nghĩ ra một cách. Y cởi hết quần áo túm chặt hai ống quần lại, lại sợ quần không bền, liền xé phần dưới áo buộc vào ống quần, hai tay nắm chặt giữa ống quần, nghiến răng nhảy một cái từ đỉnh núi rơi thẳng xuống dưới. Cách này vốn rất mạo hiểm, chỉ là trong cái chết tìm cái sống, nhưng ngoài ra thì không còn cách nào khác, quả nhiên cái quần bọc đầy gió làm giảm sức rơi của y. Y không mặc quần áo, hai tay cơ hồ đông cứng, lúc ấy cậy vào một thân nội công trác tuyệt, cố gắng vận khí lưu chuyển khắp toàn thân để chống lại giá rét.

Hoàng Dung vừa tức giận vừa buồn cười, nhất thời không nghĩ được cách nào.

Lúc ấy quân sĩ đôi bên trong thành ngoài thành đều đã nhìn thấy, mấy chục vạn người nhất tề ngẩng đầu nhìn theo người đang bay trên không. Rất nhiều quân sĩ cho là thần tiên giáng trần, cùng quỳ xuống đất dập đầu lạy lục.

Quách Tĩnh nhìn phía Âu Dương Phong rơi xuống thấy ắt là rơi vào thành, đợi y còn cách mặt đất vài mươi trượng bèn chụp một chiếc cung sắt bắn luôn mấy phát, nghĩ rằng y đang trên không, không sao tránh được, chỉ là nghĩ tới cái hẹn tha mạng ba lần, chỉ nhắm bắn vào chỗ không trí mạng trên đùi y. Âu Dương Phong người đang trên không nhưng mắt nhìn khắp bốn phía, thấy tên bắn tới, lập tức cong người ưỡn lưng, hai chân vung ra, đá tung hết tên Quách Tĩnh bắn tới.

Trong tiếng ba quân reo hò ầm ĩ, Thành Cát Tư Hãn đã được Quách Tĩnh sai người qua báo vắn tắt, liền hạ lệnh phát tên. Lúc ấy hàng vạn chiếc cung cùng giương, tên bay như châu chấu, đều bắn vào Âu Dương Phong.

Nhìn thấy y cho dù có ngàn tay muôn chân cũng khó có thể tránh được. Y toàn thân trần truồng, trên không lại không có cách nào né tránh, thế ắt bị tên cắm khắp người như lông nhím. Âu Dương Phong thấy tình thế nguy cấp đột nhiên buông tay, lập tức đầu dưới chân trên rơi mau xuống đất. Mấy mươi vạn người đồng thanh kêu ầm lên, đúng là kinh thiên động địa.

Chỉ thấy y trên không ưỡn lưng một cái, chụp vào một lá cờ lớn trên thành.

Lúc ấy gió tây bắc đang mạnh, thổi căng lá cờ từ phía tây qua phía đông Âu Dương Phong tay trái quờ xuống trước đã chụp được góc lá cờ, kế mượn lực giật một cái, lá cờ lớn rách đôi. Âu Dương Phong lộn người một vòng, hai chân móc vào cột cờ trượt thẳng xuống dưới, mất hút phía sau tường thành.

Quân sĩ hai bên thấy việc lạ ấy, ai cũng hoảng sợ, nhất thời nhao nhao bàn tán, quên cả đánh nhau.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Lần này không thể kể là tha y, lần sau há lại không phải tha một lần nữa sao? Dung nhi nhất định sẽ rất không thích.

Nào ngờ vừa quay đầu lại thấy Hoàng Dung có vẻ tươi cười, vội hỏi:

– Dung nhi, có việc gì mà vui thế.

Hoàng Dung vỗ tay một cái cười nói:

– Ta tặng ngươi một món lễ vật trọng hậu, ngươi có thích không?

Quách Tĩnh nói:

– Lễ vật gì?

Hoàng Dung nói:

– Thành Tán Ma Nhĩ Hãn.

Quách Tĩnh ngạc nhiên không hiểu. Hoàng Dung nói:

– Lão Độc vật dạy ta diệu pháp phá thành, ngươi đi điều binh khiển tướng, đêm nay có thể thành công.

Lúc ấy bèn kề vào tai y nói nhỏ mấy câu, chỉ thấy Quách Tĩnh mừng rỡ vỗ tay lia lịa.

Giờ Mùi hôm ấy, Quách Tĩnh hạ mật lệnh sai bộ thuộc cắt phá lều trướng chế thành dù lọng, dưới buộc dây da bền, hạn trong nửa giờ phải may xong một vạn cái. Tướng sĩ đều rất nghi ngờ, nghĩ thầm cắt hết vải lều, trời lạnh thế này khó lòng chịu qua một đêm băng tuyết ngoài trời, nhưng lệnh của chủ soái chỉ đành làm theo.

Quách Tĩnh lại hạ lệnh tập trung tất cả bò dê làm thực phẩm trong quân đưa hết tới chân núi tuyết chờ lệnh. Sai một vạn người bày bốn trận Thiên phúc, Địa tải, Phong dương, Vân thùy ngoài cửa bắc thành, chỉ chờ để bắt tướng soái, sai một vạn người bày bốn trận Long phi, Hổ dực, Điểu tường, Xà phiên hai bên cửa bắc thành để ép quân địch phải chạy vào chỗ bốn trận Thiên Địa Phong Vân, sai một vạn người còn lại nai nịt gọn ghẽ, chuẩn bị chờ sai khiến.

Đêm ấy ăn no, hai vạn người theo lệnh bày trận ở cửa bắc. Đến cuối giờ Tuất đầu giờ Hợi, Quách Tĩnh sai thân binh bẩm với đại hãn có thể phá thành giặc, xin điều động trọng binh đánh thành. Thành Cát Tư Hãn được bẩm báo nửa tin nửa ngờ, vội sai gọi Quách Tĩnh vào trướng báo lại. Thân binh bẩm:

– Hiện Kim đao phò mã đã dẫn quân xuất kích, chỉ đợi đại hãn tiếp ứng.

Trong quân Quách Tĩnh tù và thổi vang, hơn một ngàn quân giết bò dê, đem thịt đông dán lên sườn núi. Trong Cái bang có rất nhiều cao thủ lên xuống nối nhau chuyền thịt lên dán, làm thành hơn mười chiếc thang dê. Quách Tĩnh hạ lệnh một tiếng, trèo lên đầu tiên, một vạn tướng sĩ lấy dây dài buộc vào lưng, từ từ leo lên đỉnh núi. Lúc ấy đã truyền lệnh ra, không được gây ra tiếng động. Trong đêm tối chỉ thấy mấy chục con rồng lớn ngoằn ngoèo bò lên đỉnh núi.

Đỉnh núi này không rộng lắm, một vạn người tầng tầng lớp lớp bò lên, những người lên sau không có chỗ đặt chân. Quách Tĩnh sai tướng sĩ buộc chặt dù lọng vào hông, đều cầm võ khí nhảy xuống thành, cùng tấn công vào cửa phía nam.

Y vỗ tay một cái, nhảy xuống trước tiên, mấy trăm bang chúng Cái bang lập tức nhảy theo. Nhảy xuống từ đỉnh núi cao như thế quả thật rất nguy hiểm, nhưng tướng sĩ Mông Cổ vốn dũng cảm, lúc ban ngày lại từng thấy Âu Dương Phong từ đỉnh núi nhảy xuống, dù lọng trên lưng mọi người so ra còn bọc không khí nhiều hơn cái quần của y, lại thấy chủ soái đi đầu, lúc ấy người nào cũng hăng hái. Nhất thời trên không trung như có muôn đóa hoa cùng nở rộ, từng chiếc từng chiếc dù lọng mở tung, đưa tướng sĩ xuống đất an toàn.

Hoàng Dung ngồi ở tảng băng trên đỉnh núi, nhìn thấy đại công cáo thành, bất giác trong lòng mừng rỡ, nghĩ thầm thành Cát Tư Hãn có phá được thành hay không thì vốn chẳng can hệ gì tới mình. Nhưng nếu Tĩnh ca ca có thể nghe lời mình thì có thể thừa cơ kết thúc một chuyện lớn.

Quách Tĩnh chân vừa chạm đất, lập tức kéo bỏ cái dù da trên lưng, vũ động đại đao xông qua quân sĩ giữ thành. Lúc ấy trong thành đã có một số ít quân sĩ phát hiện được, nhưng đột nhiên lại thấy hàng ngàn hàng vạn quân địch trên trời rơi xuống, sau lúc hoảng sợ, làm sao còn có ý chí đánh nhau? Những người rơi xuống đất trước tiên lại là bang chúng Cái bang, ai cũng võ nghệ cao cường, tiếp chiến giây lát, đã sớm đánh tới cổng thành. Kế đó quân Mông Cổ nối nhau rơi xuống, tuy có mấy trăm người vì dù rách ngã chết, nhưng có đến hơn chín phần rơi xuống đất yên ổn, quá nửa bị gió thổi dạt, rơi vào khắp nơi trong thành, bị quân Hoa Thích Tử Mô bao vây, hoặc bắt hoặc giết, nhưng cũng có một hai ngàn người rơi xuống cạnh cổng thành. Quách Tĩnh ra lệnh một nửa chống cự quân địch, một nửa chém then sắt mở cổng thành.

Thành Cát Tư Hãn thấy bộ thuộc của Quách Tĩnh bay xuống thành, vừa mừng vừa sợ, lập tức điểm hết ba quân tấn công tới trước thành, chỉ thấy cửa thành phía nam mở toang, mấy trăm quân Mông Cổ cầm mâu giữ chắc. Lúc ấy mấy ngàn người túa vào, trong ứng ngoài hợp, dũng mãnh chém giết. Hơn mười vạn quân giữ thành hoảng sợ luống cuống, không biết quân địch từ đâu tới Quân Mông Cổ một mặt chém giết, một mặt rảy dầu mỏ phóng hỏa khắp nơi. Trong thành lứa cháy ngút trời, quân Hoa Thích Tử Mô đại loạn.

Chưa đến sáng, quân giữ thành đã tan vỡ hoàn toàn. Quốc vương Hoa Thích Tử Mô Ma Ha Mạt được tin cổng thành phía bắc không có quân địch lập tức mở cổng bỏ chạy. Nào ngờ một vạn quân của Quách Tĩnh đã sớm chờ sẳn hai bên, cung tên gươm giáo đánh tới rào rào, đánh giết một trận. Ma Ha Mạt không dám ham đánh, sai Hoàn Nhan Hồng Liệt đi đoạn hậu, mình được đám thân binh hộ tống chạy trước.

Quách Tĩnh dốc lòng bắt bằng được Hoàn Nhan Hồng Liệt, trong đám loạn quân thấy chóp mũ vàng của y chớp lên, bèn suất mãnh quân sĩ đuổi theo. Quân Hoa Thích Tử Mô tuy bại nhưng rốt lại vẫn rất đông người, lúc ấy chó cùng cắn giậu, ai cũng liều mạng chém giết. Quách Tĩnh ít quân, cản trở không được, khoái mã phía trước không ngừng báo tin, nói quân địch đã sắp phá vây.

Quách Tĩnh nhớ lại binh pháp có câu:

– Mồi nhử chớ ăn, quân về chớ ép.

Quân vây ắt khuyết, giặc cùng chớ đuổi.

Lập tức hạ lệnh biến trận, cờ lệnh phất lên, bốn trận Thiên Địa Long Vân tránh ra nhường đường, mấy vạn quân Hoa Thích Tử Mô nhanh chóng xông ra, lại thấy cờ lệnh phất lên, pháo hiệu nổ vang, bốn trận lại khép lại bao vây. Lúc ấy quân địch chỉ còn hơn vạn người đoạn hậu, tuy đều tinh nhuệ, nhưng sau khi bại trận, không còn ý chí chiến đấu đều bị Quách Tĩnh bắt sống. Quách Tĩnh kiểm điểm tù binh lại không thấy Hoàn Nhan Hồng Liệt trong đó, trận này tuy thu được toàn thắng nhưng ấm ức không vui. Đến sáng trong thành đã sạch bóng quân địch. Thành Cát Tư Hãn tập hợp chư tướng trong cung điện của Ma Ha Mạt.

Quách Tĩnh đang Chỉnh đốn quân sĩ, tra điểm an ủi bộ thuộc thương vong, nghe tiếng tù và của đại hãn vội chạy tới, vào trước bãi đất rộng trong cung thấy ở cửa có một toán quân sĩ, trong đó có Hoàng Dung và bọn Lỗ Hữu Cước ba trưởng lão. Hoàng Dung vỗ tay một cái, hai tên quân nhấc một cái bao lớn bước tới. Nàng cười nói:

– Ờ ngươi đoán xem trong này là cái gì?

Quách Tĩnh cười nói:

– Trong thành này có hàng ngàn vạn vật kỳ quái làm sao đoán được?

Hoàng Dung nói:

– Đây là ta tặng ngươi, nhất định ngươi sẽ rất vui vẻ.

Quách Tĩnh chợt nghĩ hay là nàng tìm được một cô gái xinh đẹp trong thành tới để đùa mình một trận? Lúc ấy lắc đầu nói:

– Ta không cần.

Hoàng Dung cười nói:

– Ngươi không cần thật phải không? Nhìn thấy thì đừng đổi lời đấy.

Nàng kéo cái bao gai một cái, trong bao quả nhiên rơi ra một người, chỉ thấy y tóc tai rũ rượi, mặt đầy máu, mặc một cái áo da của quân Hoa Thích Tử Mô, nhìn tới mặt mũi thì rõ ràng là Triệu vương Hoàn Nhan Hồng Liệt nước Kim. Quách Tĩnh cả mừng, nói:

– Hay quá, cô bắt được ở đâu thế?

Hoàng Dung nói:

– Ta thấy bại binh chạy ra cửa bắc, một đội quân giương cờ hiệu Triệu vương, nhất định là kế Kim thiền thoát xác. Cờ hiệu giương phía đông thì nhất định y sẽ chạy qua phía tây, lúc ấy bèn cùng bọn Lỗ trưởng lão mai phục phía tây, quả nhiên bắt được gã khốn này.

Quách Tĩnh hướng về nàng khom người vái dài một cái, nói:

– Dung nhi, cô trả thù cho tiên phụ, quả thật ta không biết nói thế nào là tốt.

Hoàng Dung chẩu môi cười nói:

– Đây là tình cờ thôi. Ngươi lập được công này, đại hãn nhất định sẽ có trọng thưởng, như thế mới hay.

Quách Tĩnh nói:

– Ta cũng không nghĩ gì.

Hoàng Dung bước ra một bên, hạ giọng nói:

– Ngươi qua đây.

Quách Tĩnh bước qua theo. Hoàng Dung nói:

– Quả thật ngươi không muốn chuyện gì trên đời à?

Quách Tĩnh sửng sốt nói:

– Ta chỉ muốn một việc là mong vĩnh viễn không phải chia lìa cô.

Hoàng Dung cười khẽ nói:

– Hôm nay ngươi lập được công lớn này, cho dù là xúc phạm đại hãn tới mức nào, ta nghĩ y cũng quyết không nổi giận đâu.

Quách Tĩnh ờ một tiếng, vẫn còn chưa hiểu rõ. Hoàng Dung nói:

– Bây giờ nếu ngươi xin y phong cho chức quan gì, y cũng đáp ứng. Nhưng nếu xin y không phong ngươi chức quan gì, y cũng khó cự tuyệt. Chuyện quan trọng nhất là phải được y đích thân nói rõ ra rằng bất kể ngươi xin chuyện gì y cũng sẽ ưng thuận.

Quách Tĩnh nói:

– Đúng lắm!

Hoàng Dung nghe y nói hai chữ “Đúng lắm” rồi không nói nữa, chỉ lắc đầu tức giận nói:

– Ngươi làm Kim đao phò mã tốt lắm phải không?

Mấy câu ấy mới làm Quách Tĩnh sực nghĩ ra kêu lên:

– Ờ, ta hiểu rồi, cô bảo ta vào nói với đại hãn xin từ hôn, bảo y ưng thuận trước rồi ta nói ra sẽ rất khó cự tuyệt.

Hoàng Dung dịu dàng nói:

– Chuyện này là toàn do ngươi thôi, biết đâu ngươi muốn làm “phò mã gia”.

Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, em Hoa Tranh đối với ta một mảnh chân tâm, nhưng ta đối với cô ta thủy chung vẫn như anh em. Lúc đầu ta bị câu thúc vào chuyện tín nghĩa, không tiện phản bội hôn ước, nhưng nếu đại hãn chịu rút lại mệnh lệnh, thì đúng là đôi bề đều vẹn vẻ.

Hoàng Dung trong lòng rất mừng, liếc mắt nhìn y cười. Quách Tĩnh còn muốn nói nữa, chợt nghe hồi tù và thứ hai trong cung vang lên, bèn đưa tay nắm chặt tay Hoàng Dung một cái, nói:

– Dung nhi, cô chờ nghe tin hay của ta.

Lúc ấy bèn giải Hoàn Nhan Hồng Liệt vào cung triều kiến đại hãn.

Thành Cát Tư Hãn thấy Quách Tĩnh vào, trong lòng cả mừng, đích thân bước xuống ngai đón, nắm tay y dắt lên điện, sai tả hữu lấy một cái đôn bọc gấm ra bảo y ngồi xuống cạnh mình. Đến khi nghe Quách Tĩnh nói đã bắt được Hoàn Nhan Hồng Liệt, Thành Cát Tư Hãn càng vui mừng, thấy Hoàn Nhan Hồng Liệt phủ phục dưới đất, bèn nhấc chân phải đạp lên đầu y cười nói:

– Lúc trước ngươi tới Mông Cổ diệu võ dương oai, có nghĩ rằng cũng có ngày hôm nay không?

Hoàn Nhan Hồng Liệt biết không thể thoát chết, ngẩng đầu nói:

– Lúc ấy binh lực nước Kim ta rất mạnh, chỉ hận là không tiêu diệt Mông Cổ nhỏ bé của ngươi trước, để thành cái họa hôm nay.

Thành Cát Tư Hãn cười lớn, sai thân binh giải y ra chém đầu trước điện. Quách Tĩnh nghĩ tới mối thù lớn của cha rốt lại đã trả được, trong lòng vừa mừng rỡ vừa đau xót.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Ta từng nói ai phá thành bắt được Hoàn Nhan Hồng Liệt thì đàn bà con gái và vàng bạc của cải trong thành này đều thưởng cả cho y, ngươi cứ sai quân ra nhận thôi.

Quách Tĩnh lắc đầu nói:

– Mẹ con con được đại hãn ra ơn che chở, đã đủ no ấm, nô lệ vàng lụa lấy nhiều cũng không làm gì.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Được, đó đúng là bản sắc anh hùng. Vậy ngươi muốn cái gì? Chỉ cần nói ra, điều gì ta cũng ưng thuận.

Quách Tĩnh rời ghế khom lưng một cái, nói:

– Muốn xin đại hãn một việc, xin đại hãn đừng tức giận.

Thành Cát Tư Hãn cười nói:

– Ngươi nói đi.

Quách Tĩnh đang định nói việc từ hôn, chợt nghe xa xa vang tới hàng ngàn hàng vạn tiếng khóc tiếng kêu long trời lở đất, kinh tâm động phách. Các tướng trên điện đều nhảy bật dậy, tuốt trường đao ra, chỉ cho rằng quân dân Hoa Thích Tử Mô đầu hàng trong thành nổi dậy, đều định xông ra trấn áp. Thành Cát Tư Hãn cười nói:

– Không có gì, không có gì, cái thành chó này không sợ oai trời khiến ta phải hao binh tổn tướng, lại hại chết cháu nội ta, phải giết sạch một phen. Mọi người cứ ra mà xem.

Lúc ấy rời ngai bước xuống, chư tướng cũng theo sau.

Mọi người ra khỏi cung lên ngựa phi về cửa tây thành, chỉ nghe tiếng khóc càng lúc càng thê thảm. Vừa ra khỏi cửa thành chỉ thấy mấy mươi vạn bách tính bỏ chạy kêu khóc, xô đẩy nhau ngã dúi dụi, quân tướng Mông Cổ cưỡi ngựa phóng qua xéo lại, tay cầm trường đao, chém bừa vào họ.

Nguyên là người Mông Cổ ra lệnh cho tất cả dân cư ra khỏi thành, không cho ai ở lại. Cư dân ở đó lúc đầu còn cho rằng người Mông Cổ muốn kiểm tra hộ khẩu để đề phòng gian tế, nào ngờ quân Mông Cổ lục soát lấy hết toàn bộ binh khí của họ, chọn ra thợ giỏi các nghề, sau đó lập tức kéo những thiếu phụ thiếu nữ xinh đẹp trong đám đông ra lấy dây trói lại. Cư dân thành Tán Ma Nhĩ Hãn lúc bấy giờ đã biết đại họa lâm đầu, có người muốn chống cự nhưng lập tức bị giết chết tại đương trường. Hơn một vạn quân Mông Cổ đồng thanh quát tháo, xông vào đám người, vung trường đao lên bất kể trai gái trẻ già chém bừa xuống. Một trường tàn sát này quả thật thảm tuyệt nhân hoàn, từ ông già đầu bạc tới trẻ con còn bế không ai thoát chết. Lúc Thành Cát Tư Hãn dẫn các tướng ra xem thì đã có hơn mười vạn người bị giết, khắp nơi máu thịt vương vãi, vó ngựa sắt Mông Cổ đạp lên tử thi khắp mặt đất, qua lại tàn sát.

Thành Cát Tư Hãn ha ha cười lớn, nói:

– Giết hay lắm, giết hay lắm, cho họ biết ta lợi hại.

Quách Tĩnh nhìn giây lát, không nhịn được nữa, phóng ngựa tới trước ngựa Thành Cát Tư Hãn, kêu lên:

– Đại hãn, người tha cho họ đi.

Thành Cát Tư Hãn vung tay một cái quát lớn:

– Giết sạch tất cả, không để lại người nào.

Quách Tĩnh không dám nói nữa, chợt thấy một đứa nhỏ bảy tám tuổi từ trong đám đông chạy ra, ôm một người đàn bà bị ngựa chiến xô ngã, kêu lớn:

– Mẹ, mẹ!

Một binh sĩ Mông Cổ xông mau tới vung trường đao lên, chém hai mẹ con đứt làm bốn đoạn.

Hai tay đứa nhỏ ấy vẫn còn ôm chặt mẹ. Quách Tĩnh máu nóng trong lòng sôi lên, kêu lớn:

– Đại hãn, người đã nói đàn bà con gái và vàng bạc của cải trong thành này đều là của con, tại sao lại hạ lệnh tàn sát?

Thành Cát Tư Hãn sửng sốt, cười nói:

– Ngươi nói không cần mà.

Quách Tĩnh nói:

– Người nói bất kể là con xin điều gì người cũng ưng thuận có phải không?

Thành Cát Tư Hãn gật đầu cười khẽ, Quách Tĩnh lớn tiếng nói:

– Đại hãn nói ra như núi, con xin người tha cho tính mạng của mấy mươi vạn người này.

Thành Cát Tư Hãn vô cùng kinh ngạc, không ngờ rằng y lại xin chuyện ấy, nhưng đã ưng thuận há lại có thể hối hận? Trong lòng vô cùng tức giận, hai mắt như muốn lóe lứa, trừng mắt nhìn Quách Tĩnh, đặt tay lên chuôi đao quát:

– Tiểu tử khốn kiếp, quả thật ngươi xin ta chuyện ấy à?

Chư vương chúng tướng thấy đại hãn tức giận, đều sợ tim đập thình thịch. Tả hữu của Thành Cát Tư Hãn xếp thành một hàng, ai cũng là mãnh tướng thân trải trăm trận, kiêu dũng can đảm coi chết như về, nhưng đại hãn nổi giận thì ai cũng không lạnh mà run.

Quách Tĩnh trước nay chưa từng thấy Thành Cát Tư Hãn nhìn mình giận dữ như thế cũng vô cùng sợ hãi, bất giác run lên, nói:

– Chỉ xin đại hãn tha tính mạng cho bách tính.

Thành Cát Tư Hãn dằn giọng:

– Ngươi không hối hận phải không?

Quách Tĩnh nhớ Hoàng Dung bảo y từ hôn, bây giờ bỏ qua cơ hội tốt này, suốt đời lại mất lòng đại hãn, chuyện đó cũng thôi, nhưng mối lương duyên giữa mình và Hoàng Dung cũng như hoa theo nước chảy, nhưng nhìn thấy thảm trạng mấy mươi vạn bách tính kêu gào khóc lóc, làm sao có thể thấy chết mà không cứu? Lúc ấy hiên ngang nói:

– Con không hối hận.

Thành Cát Tư Hãn thấy giọng nói y phát run, biết trong lòng y sợ hãi nhưng vẫn đánh bạo cầu xin, cũng không khỏi khâm phục y quật cường, rút trường đao ra quát lớn:

– Thu quân!

Đám thân binh thổi tù và làm hiệu, mấy vạn kỵ binh Mông Cổ người ngựa đẫm máu từ đám đông phóng trở ra, bày thành trận thế chỉnh tề.

Thành Cát Tư Hãn từ khi lên ngôi đại hãn đến nay chưa ai dám trái lại ý chỉ của y, lần này bị Quách Tĩnh ngang nhiên cản trở lệnh tàn sát dân trong thành, trong lòng vô cùng tức giận, gầm lớn một tiếng, ném mạnh thanh trường đao xuống đất, phi ngựa vào thành. Chư tướng đều liếc xéo Quách Tĩnh, nghĩ thầm đại hãn sau khi thịnh nộ, không biết ai gây ra khó mà thoát khỏi phải nếm mùi đau khổ.

Sau khi hạ được thành Tán Ma Nhĩ Hãn vốn có thể cướp bóc tàn sát mấy ngày, nhưng lần này niềm vui phá thành lại hoàn toàn tan biến.

Quách Tĩnh biết các tướng bất mãn nhưng cũng không đếm xỉa gì tới, cưỡi con tiểu hồng mã từ từ tránh ra chỗ vắng vẻ. Lúc ấy vừa qua trận đại chiến, trong thành ngoài thành có hàng vạn gian nhà vẫn đang cháy, xác chết đầy đất, tuyết rơi ngập đồng đều nhuộm màu máu. Y nghĩ:

– Thảm trạng chiến tranh đều như thế. Mình vì trả thù cho cha, đẫn quân tới giết bấy nhiêu người. Đại hãn vì muốn chinh phục thiên hạ còn giết người nhiều hơn. Nhưng hàng ngàn hàng vạn tướng sĩ bách tính lại phạm tội nghiệt gì mà đến nỗi gan óc lầy đất, xương phơi ngoài nội?

Y càng nghĩ càng cảm thấy bất an:

– Mình phá thành trả thù cho cha mà hại chết bấy nhiêu con người, rốt lại có nên hay không?

Y một mình một ngựa đi đi lại lại trên đồng trống, dằn vặt nghĩ ngợi, đến lúc trời tối mới quay vào doanh trại trong thành. Tới trước cửa cung, chỉ thấy hai tên thân binh của đại hãn đứng chờ ngoài cửa bước lên làm lễ, nói:

– Đại hãn tuyên triệu phò mã gia, tiểu nhân chờ ở đây đã lâu, xin phò mã gia vào mau.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Hôm nay mình làm trái ý chỉ của đại hãn, ông ta toan chém đầu mình cũng chưa biết chừng. Việc đã thế này, chỉ còn cách tùy cơ hành sự thôi.

Lúc ấy liền vẫy một tên thân binh của mình tới, hạ giọng dặn vài câu, bảo cấp tốc báo lại cho Lỗ Hữu Cước, mình thì đi thẳng vào cung. Y hồi hộp bất an, nhưng đã quyết ý:

– Bất kể đại hãn nổi giận ra oái thế nào thì mình cũng không rút lại lời xin tha mạng cho nhân dân toàn thành. Ông ta là đại hãn, không thể nuốt lời được.

Y chỉ nghĩ Thành Cát Tư Hãn ắt lên cơn thịnh nộ, nào ngờ tới trước điện lại nghe từng tràng tiếng cười lớn của đại hãn bên trong vang ra. Quách Tĩnh bất giác thoáng sửng sốt, rảo chân bước mau vào. Chỉ thấy bên cạnh Thành Cát Tư Hãn có một người ngồi, dưới chân lại có một thiếu nữ ngồi dựa vào gối y. Người ngồi ấy đồng nhan bạch phát, nguyên là Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ, thiếu nữ ngồi dưới chân là công chúa Hoa Tranh.

Quách Tĩnh cả mừng, vội bước mau tới gặp. Thành Cát Tư Hãn giật một ngọn trường kích trong tay thị vệ cầm ngược cán đập ra, cán kích đánh thẳng vào mặt Quách Tĩnh. Quách Tĩnh giật nảy mình, nghiêng đầu qua tránh, đầu cán kích đập vào vai trái y, chát một tiếng, ngọn kích gãy đôi. Thành Cát Tư Hãn hô hô cười rộ, kêu lên:

– Tiểu tử khốn kiếp, kể như xong. Nếu không nể mặt Khưu đạo trưởng và con gái ta thì hôm nay phải chặt đầu người.

Hoa Tranh nhảy bật dậy kêu lên:

– Cha, con không ở đây thì nhất định cha hà hiếp Quách Tĩnh ca ca.

Thành Cát Tư Hãn ném ngọn kích gãy trong tay xuống đất, cười nói:

– Ai nói thế?

Hoa Tranh nói:

– Con chính mắt nhìn thấy, cha còn chối à? Vì thế con không yên tâm, phải cùng Khưu đạo trưởng tới xem thế nào.

Thành Cát Tư Hãn một tay kéo con gái, một tay kéo Quách Tĩnh, cười nói:

– Mọi người đừng làm ầm lên, nghe Khưu đạo trường đọc thơ này.

Nguyên là Khưu Xử Cơ sau trận đánh ở lầu Yên Vũ thấy Chu Bá Thông vẫn yên ổn không việc gì, lại biết hung thủ hại chết Đàm Xử Đoan là Âu Dương Phong, lúc ấy cùng bọn Mã Ngọc trịnh trọng tạ tội với Hoàng Dược Sư. Về sau Toàn Chân lục tử tới gặp Kha Trấn ác, biết rõ mọi chuyện, đều thở than khôn xiết. Khưu Xử Cơ nghĩ lại mình thu đồ đệ không thận trọng, chỉ dạy võ công cho Dương Khang mà không đưa y ra khỏi vương phủ, người trẻ tuổi quen thói giàu sang, tính không quả quyết, rốt lại rơi vào chỗ ấy lại càng tự trách mình. Hôm ấy được thư của Thành Cát Tư Hãn và Quách Tĩnh, nghĩ thế cục thôn tính Trung Quốc của người Mông Cổ đã thành, khó mà được Thành Cát Tư Hãn gọi tới gặp, đúng là nên nhân cơ hội để dâng lời nói, nếu có thể mở lòng từ thiện của y thì có thể giúp hàng ngàn vạn bách tính trong khắp thiên hạ tránh khỏi bị tàn sát, quả thật là công đức vô lượng, lại lo lắng cho Quách Tĩnh, lập tức dẫn theo hơn mười đệ tử chịu rét sang tây.

Khưu Xử Cơ thấy Quách Tĩnh dãi dầu gió tuyết, sắc mặt sạm đen, thân thể lại càng tráng kiện, vô cùng mừng rỡ. Lúc Quách Tĩnh chưa tới, y đang trò chuyện về những điều mắt thấy tai nghe trên đường với Thành Cát Tư Hãn, nói cảm xúc về phong tục khác lạ, làm mấy bài thơ, lúc ấy bèn vuốt râu đọc:

Mười năm binh lửa vạn dân sầu,

Ngàn vạn không còn được một lưu.

Năm ngoái may nghe lời chiếu gọi,

Xuân này lạnh bước lối Tây du.

Chăng nề non bắc đường ngàn dặm,

Vẫn nhớ sơn Đông đất mấy châu.

Khốn quẫn hơi tàn còn hít thở,

Cũng đỡ sinh dân chút dãi dầu.

Một viên văn quan hiểu tiếng Hán tên Gia Luật Sở Tài dịch nghĩa bài thơ ra tiếng Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn nghe xong gật đầu không nói gì.

Khưu Xử Cơ nói với Quách Tĩnh:

– Năm xưa ta tỷ võ với bảy vị sư phụ của ngươi trên lầu Túy Tiên, Nhị sư phụ ngươi từng lấy trong bọc của ta được một bài thơ chưa viết xong. Lần này sang tây, nhớ bảy người bạn cũ, cũng viết xong bài thơ ấy.

Lúc ấy bèn ngâm:

Từ cổ Trung thu nguyệt rất tình,

Đêm khuya mát mẻ gió trong lành,

Một trời tinh tú chìm Ngân Hán,

Bốn bể giao long vượt thủy tinh.

Bốn câu thơ này Nhị sư phụ ngươi đã xem rồi, bốn câu cuối là ta mới làm, y lại không được xem:

Ngô Việt lâu đài ca múa rộn,

Yên Tần quân tướng rượu trà đoành.

Cung vua đã tới bên sông ấy,

Muốn dẹp can qua định thái bình.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Đạo trưởng sang tây, chắc đã nhìn thấy binh oai Mông Cổ ta, không biết có làm thơ ca gì đề vịnh không?

Khưu Xử Cơ nói:

– Dọc đường thấy oai phong phá thành cướp đất của đại hãn, trong lòng cảm xúc cũng làm được hai bài thơ. Bài thứ nhất là

Trời xanh xanh chừ soi hạ thổ,

Vì sao chẳng cứu muôn dân khổ?

Muôn dân sớm tối bị lăng trì,

Im tiếng qua đời khôn thổ lộ.

Ngẩng đầu kêu lớn trời không gần

Vật vật tan nát sao nhọc nhằn

Muốn lật càn khôn cho đảo lộn

Cốt sao tạo vật đừng sinh dân

Gia Luật sở Tài nghĩ thầm đại hãn nghe xong nhất định không thích, nhất thời ngần ngừ không dịch, Khưu Xử Cơ không đếm xỉa gì tới y, lại đọc tiếp:

– Bài thứ hai là

Than ôi trời rộng đất không chật,

sinh ra chúng dân ngàn vạn ức.

Tàn ác hại nhau chẳng tạm dừng,

Xoay vòng chịu khổ bao giờ dứt.

Trời cao đất rống đều có thần,

Thấy chết không cứu sao nỡ lòng?

Kẻ sĩ không lòng lại không phúc,

Nhọc nhằn sớm tối luống băn khoăn.

Hai bài thơ này tuy không hay lắm nhưng đều mang lòng đau thời thương đời, khảng khái gánh việc. Quách Tĩnh lúc ban ngày nhìn thấy thảm trạng tàn sát dân trong thành, càng thêm vô cùng cảm khái. Thành Cát Tư Hãn nói:

– Thơ của đạo trưởng ắt là hay, trong thơ nói gì, dịch mau cho trẫm nghe.

Gia Luật sở Tài nghĩ thầm:

– Mình từng tâu khuyên đại hãn ít giết bách tính vô tội, mà ông nào đếm xỉa tới. May được vị đạo trưởng này rất có lòng từ bi, làm thơ hay thế này, mong sao có thể thuyết phục đại hãn

Lúc ấy cứ theo đó dịch ra. Thành Cát Tư Hãn nghe xong không thích, nói với Khưu Xử Cơ:

– Nghe nói ở Trung Hoa có thuật trường sinh bất lão, mong đạo trưởng chỉ giáo cho ta.

Khưu Xử Cơ nói:

– Chuyện trường sinh bất lão thì trên đời không có, nhưng việc luyện khí của Đạo gia thì quả có thể chữa bệnh sống lâu.

Thành Cát Tư Hãn hỏi:

– Xin hỏi phép luyện khí thì bắt đầu từ đâu?

Khưu Xử Cơ nói:

– Đạo trời không riêng ai, thường giúp người lành.

Thành Cát Tư Hãn hỏi:

– Thế nào là lành?

Khưu Xử Cơ nói:

– Bậc thánh nhân không có lòng riêng, lấy lòng bách tính làm lòng mình.

Thành Cát Tư Hãn im lặng.

Khưu Xử Cơ lại nói:

– Ở Trung Hoa có bộ thánh thư gọi là Đạo đức kinh, Đạo gia chúng tôi coi đó là quý báu. Những câu Đạo trời không riêng ai, bậc thánh nhân không có lòng riêng đều là lời trong kinh. Trong kinh còn có câu Binh qua là vật bất tường, không phải của người quân tử, bất đắc dĩ mời dùng, chứ phải lấy sự đạm bạc làm đầu. Ai thấy nó là hay là kẻ ưa giết người. Phàm kẻ ưa giết người thì không thể đắc chí trong thiên hạ được.

Khưu Xử Cơ dọc đường sang tây, nhìn thấy thảm trạng chiến tranh, trong lòng đau xót cảm xúc, nhân dịp Thành Cát Tư Hãn hỏi về thuật trường sinh, bèn đề cập tới chuyện ấy, cũng vì tính mạng của dân.

Thành Cát Tư Hãn vì tuổi tác ngày càng cao, sức khỏe giảm sút, chỉ muốn học thuật trường sinh bất lão, thấy Khưu Xử Cơ tới rất mừng, cho rằng dù không thể tu luyện thành bất tử cũng có thể học được cách kéo dài tuổi thọ, nào ngờ y nói đi nói lại cũng đều là khuyên mình ít dùng binh, ít giết người, trò chuyện rất không hợp, nói tới đoạn sau nhìn qua Quách Tĩnh nói:

– Ngươi đưa Khưu đạo trưởng về nghỉ ngơi đi.

*****

Chú thích: Theo sử sách ghi chép, Khưu Xử Cơ có qua lại thư từ với Thành Cát Tư Hãn ba lần, lần đầu dẫn mười tám đệ tử qua núi Côn Luân tới Tuyết sơn gặp nhau. Đệ tử là Lý Chí Thường có soạn một quyển Trường Xuân chân nhân Tây du ký ghi lại đầy đủ những điều mắt thấy tai nghe trên đường, sách này hiện vẫn còn.

Hồi 38: Mật lệnh cẩm nang

Quách Tĩnh đưa Khưu Xử Cơ và mười tám đệ tử của y là bọn Lý Chí Thường, Doãn Chí Bình, Hạ Chí Thành, Vu Chí Khả, Trương Chí Tố, Vương Chí Minh, Tống Đức Phương cáo từ trở ra. Ra tới ngoài cung, chỉ thấy Hoàng Dung và ba trường lão Lỗ Giản Lương cùng hơn ngàn bang chúng Cái bang, lều cưỡi ngựa chờ ngoài cung.

Thấy Quách Tĩnh ra khỏi cung, Hoàng Dung phóng ngựa tới, cười nói:

– Không việc gì chứ?

Quách Tĩnh cười nói:

– Vận khí không kém, mới gặp Khưu đạo trưởng tới, đại hãn đang rất thoải mái.

Hoàng Dung làm lễ chào hỏi Khưu Xử Cơ xong, nói với Quách Tĩnh:

– Ta sợ đại hãn nổi giận giết ngươi, nên dắt người tới tây chuẩn bị cứu. Đại hãn nói thế nào? Có ưng thuận cho ngươi từ hôn không?

Quách Tĩnh ngần ngừ hồi lâu rồi nói:

– Ta chưa từ hôn.

Hoàng Dung sửng sốt nói:

– Tại sao?

Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, cô muôn ngàn lần đừng nổi giận nhé, bởi vì… .

Vừa nói tới đó, công chúa Hoa Tranh trong cung chạy ra, cao giọng gọi lớn:

– Quách Tĩnh ca ca.

Hoàng Dung thấy nàng lập tức biến sắc, nhảy ngay xuống ngựa, tránh qua một bên. Quách Tĩnh đang định giải thích với nàng, Hoa Tranh đã kéo tay y nói:

– Ngươi không ngờ ta tới phải không? Ngươi gặp ta có thấy vui không?

Quách Tĩnh gật gật đầu, lúc đưa mắt tìm Hoàng Dung thì đã không thấy bóng nàng đâu nữa.

Hoa Tranh chỉ chú ý tới Quách Tĩnh, cũng chưa nhìn thấy Hoàng Dung, kéo kéo tay y, líu lo khúc khích nói lòng thương nhớ từ khi chia tay. Quách Tĩnh thầm kêu khổ:

– Dung nhi ắt cho rằng mình nhìn thấy em Hoa Tranh, lại không chịu từ hôn với đại hãn.

Những lời Hoa Tranh nói, y đều không để ý tới câu nào. Hoa Tranh nói một lúc, thấy y ngơ ngẩn xuất thần, kêu lên:

– Ngươi làm sao thế? Ta từ xa xôi tìm tới gặp ngươi, ngươi lại không hề để ý tới người ta?

Quách Tĩnh nói:

– Muội tử, ta đang lo một chuyện quan trọng, phải về xem trước. Rồi sẽ quay lại trò chuyện với cô.

Rồi dặn thân binh khoản đãi Khưu Xử Cơ, chạy thẳng về doanh tìm Hoàng Dung. Thân binh nói:

– Hoàng cô nương trở về cầm lấy bức họa, ra cửa đông đi rồi.

Quách Tĩnh hoảng sợ hỏi:

– Bức họa nào?

Tên thân binh ấy nói:

– Chính là bức họa mà Phò mã gia thường xem đấy.

Quách Tĩnh càng hoảng sợ, nghĩ thầm:

– Nàng cầm bức họa ấy đi, rõ ràng là quyết ý tuyệt tình với mình rồi. Mình bất kể mọi chuyện, theo nàng về nam là được.

Rồi vội vã viết lại mấy chữ cho Khưu Xử Cơ, nhảy lên con tiểu hồng mã ra khỏi thành đuổi theo.

Con tiểu hồng mã cước lực rất mau, Quách Tĩnh lại sợ tìm không được Hoàng Dung, trong lòng nóng nảy, lại càng không ngừng thôi thúc, trong chớp mắt đã chạy được vài mươi dặm, ngoài thành xác người ngựa lẫn lộn, ngổn ngang trên mặt đất, đi một mạch mấy mươi dặm, đưa mắt nhìn chỉ thấy một màu tuyết trắng mênh mông, trên mặt tuyết có một vết chân ngựa đi thẳng về phía đông. Quách Tĩnh vô cùng mừng rỡ:

– Tiểu hồng mã cước lực mau lẹ, thiên hạ vô song, chỉ thêm lát nữa nhất định có thể đuổi kịp Dung nhi. Mình và nàng cùng về đón mẹ, nhất tề về nam. Cho dù em Hoa Tranh trách mình, cũng không thể nghĩ tới nữa.

Lại chạy thêm hơn mười dặm chỉ thấy dấu chân ngựa chuyển lên hướng bắc, bên cạnh dấu chân ngựa đột nhiên lại thêm dấu chân người. Dấu chân này rất kỳ lạ, khoảng cách giữa hai bước cách nhau bốn thước, bước chân làm sao dài tới như thế, mà đặt xuống đất rất nhẹ, chỉ lún vào tuyết có vài tấc. Quách Tĩnh giật nảy mình:

– Khinh công của người này lợi hại thật.

Kế lại nghĩ:

– Chung quanh đây ngoài Âu Dương Phong thì không ai có công phu như thế, chẳng lẽ là y đuổi theo Dung nhi?

Nghĩ tới đó, tuy trong gió rét nhưng bất giác toàn thân toát mồ hôi. Con tiểu hồng mã rất có linh tính, biết chủ nhân đuổi theo vết chân, không chờ Quách Tĩnh giật cương ra lệnh, lập tức chạy theo dấu vết. Chỉ thấy dấu chân kia thủy chung ở cạnh dấu chân ngựa, nhưng sau vài dặm, thì cả hai dấu chân đều đột nhiên xoay qua phía tây trên mặt tuyết. Rồi chợt chuyển qua phía nam, quanh co vòng vèo chứ không đi thẳng một mạch nửa. Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Chắc Dung nhi phát hiện ra Âu Dương Phong đuổi theo phía sau, nên cố ý đi đường vòng. Nhưng dấu chân ngựa in lại trong tuyết rất rõ ràng, rất dễ đuổi theo, nên Lão Độc vật đuổi riết không tha.

Lại phóng thêm hơn mười dặm, vết chân ngựa và vết chân người đột nhiên giẫm đạp lên nhau. Quách Tĩnh xuống ngựa nhìn kỹ, nhận ra một đường phía trước, một đường phía sau, thấy trên mặt tuyết xa xa có hai vết, đột nhiên hiểu ra:

– Dung nhi dùng thuật kỳ môn của cha nàng, cố ý quanh đông quẹo tây để mê hoặc Âu Dương Phong, khiến y mờ mịt một lúc lại trở về đường cũ .

Y nhảy lên ngựa, trong lòng vừa mừng vừa lo, mừng là vì Âu Dương Phong có quá nửa không đuổi kịp Hoàng Dung, lo là vì dấu chân ngựa rối loạn, mình cũng mất dấu vết để đuổi theo, ngẩn người một lúc trên mặt tuyết, nghĩ thầm:

– Dung nhi chạy tới chạy lui rốt lại cũng định đi về phía đông, mình cứ đuổi theo phía đông là được.

Bèn nhảy lên ngựa, nhận rõ phương hướng đi thẳng về phía đông. Đi được hồi lâu quả nhiên lại thấy vết chân xuất hiện, kế lại thấy chỗ chân trời giữa mặt tuyết và trời xanh giáp nhau xa xa có bóng người.

Quách Tĩnh giục ngựa đuổi tới, xa xa thấy người ấy chính là Âu Dương Phong. Lúc ấy Âu Dương Phong cũng đã nhận ra Quách Tĩnh, kêu lên:

– Lại đây mau, Hoàng cô nương rơi xuống đầm cát rồi.

Quách Tĩnh giật nảy mình, kẹp chặt hai chân, con tiểu hồng mã lướt tới như tên. Khi còn cách Âu Dương Phong hơn mười trượng, chỉ cảm thấy vó ngựa lún xuống, không phải đạp lên đất cứng nửa, tựa hồ phía dưới tuyết trắng là một cái đầm lầy. Con tiểu hồng mã cũng biết là không hay vội rút chân phi chếch qua một bên chạy vòng tới gần, chỉ thấy Âu Dương Phong bám vào một gốc cây nhỏ xoay vòng rất mau, không hề ngừng lại. Quách Tĩnh ngạc nhiên:

– Y giở trò gì thế này?

Vừa kéo cương lại, đang định nhảy xuống ngựa hỏi, nào ngờ con tiểu hồng mã không dừng chân, phóng thẳng qua rồi mới quay đầu lại.

Quách Tĩnh lập tức hiểu ra, té ra dưới đất là đầm cát, dừng lại là rơi xuống ngay. Lại xoay chuyển ý nghĩ, bất giác giật nảy mình:

– Chẳng lẽ Dung nhi đã rơi xuống đó?

Bèn nhìn Âu Dương Phong kêu lên.

– Hoàng cô nương đâu?

Âu Dương Phong chân không ngừng bước, nói:

– Ta đuổi theo dấu chân ngựa của cô ta, tới chỗ này thì mất dấu vết. Ngươi xem đây!

Nói xong đưa tay chỉ vào gốc cây nhỏ một cái.

Quách Tĩnh thúc ngựa phóng qua, chỉ thấy trên thân cây có một cái vòng.

Con tiểu hồng mã lướt qua gốc cây, Quách Tĩnh vươn tay cầm cái vòng, chính là cái vòng vàng buộc tóc của Hoàng Dung. Y quả tim cơ hồ nhảy ra khỏi lồng ngực, quay ngựa lại chạy thẳng về phía đông, được vài dặm chỉ thấy trên mặt tuyết có một vật lóng lánh phát sáng. Y nhảy xuống ngựa cúi xem, đưa tay nhặt lên, chính là một đóa kim hoa mà Hoàng Dung thường cài trên áo. Y càng hoảng sợ, kêu lên:

– Dung nhi, cô ở đâu?

Đưa mắt nhìn ra xa, trên mặt tuyết trắng mênh mông vô cùng vô tận không có bóng đen nào di động. Lại chạy thêm vài dặm, trên mặt tuyết bên trái có một tấm áo cừu bằng lông hắc điêu, chính là chiếc áo mình tặng nàng lúc ở Trương Gia Khẩu.

Y thúc con tiểu hồng mã chạy quanh chiếc áo, gọi lớn “Dung nhi” thanh âm vang xa trên mặt tuyết, chung quanh hoàn toàn không có núi nên ngay cả hồi âm cũng không có một tiếng. Quách Tĩnh vô cùng lo sợ cơ hồ suýt bật ra tiếng khóc.

Qua một lúc, Âu Dương Phong cũng đuổi tới kêu lên:

– Ta muốn lên ngựa, chúng ta cùng đi tìm Hoàng cô nương.

Quách Tĩnh tức giận nói:

– Nếu không phải ngươi đuổi theo thì nàng đã không chạy tới chỗ đầm cát này.

Hai chân kẹp một cái, con tiểu hồng mã lướt đi.

Âu Dương Phong cả giận, thân hình nhô lên hụp xuống ba cái đã tới sau con tiểu hồng mã, vươn tay chụp vào đuôi ngựa. Quách Tĩnh không ngờ y vọt tới mau như thế, vung ra một chiêu Thần long bãi vĩ, chưởng phải chém mạnh xuống phía sau chạm vào chưởng Âu Dương Phong, hai người đều dùng hết toàn lực. Quách Tĩnh bị chưởng lực của Âu Dương Phong đẩy một cái, thân hình bay khỏi yên ngựa, may là con tiểu hồng mã phóng thẳng lên, y tay trái vươn ra nắm được đuôi nó, mượn sức lại nhảy lên lưng ngựa.

Âu Dương Phong lui lại hai bước, bị chưởng lực của Quách Tĩnh đẩy ra, dưới chân chịu lực, chân trái ngập xuống cát, sâu tới tận gối. Âu Dương Phong cả kinh, biết trên bãi cát trôi này, chân trái bị lún, nếu dùng lực rút chân trái lên thì chân phải sẽ lún xuống, cứ thế càng lúc càng lún sâu, cho dù anh có bản lĩnh bằng trời cũng không thể thoát thân. Lúc gấp rút ngã người xuống nằm ngang, lăn trên mặt đất, đồng thời dùng sức mạnh đá chân phải lên, một chiêu Liên hoàn uyên ương thoái, dựa vào thế chân phải đá ra, chân trái theo đó đá lên, bùn cát bay tung, đã rút lên khỏi hố cát.

Y tung người đứng lên, chỉ nghe Quách Tĩnh kêu lớn:

– Dung nhi, Dung nhi!

Một người một ngựa đã cách hơn một dặm, xa xa thấy con tiểu hồng mã phóng đi rất vững chắc, xem ra đã ra khỏi bãi cát, lập tức đuổi mau theo vết chân ngựa, càng đuổi càng thấy dưới chân mềm hơn, tựa hồ lúc đầu chỉ mới tới rìa đầm cát, bây giờ đã vào giữa. Y liên tiếp mắc mưu Quách Tĩnh ba lần, lần cuối cùng thì trần truồng trước mấy chục vạn con người, vô cùng thảm hại, người ta khâm phục y võ nghệ cao cường nhưng y lại cho rằng đó là mối sỉ nhục lớn nhất trong đời. Lúc ấy gặp Quách Tĩnh một mình, hay dở gì cũng phải trả thù, cũng không chịu bỏ qua cơ hội tốt ấy, huống chi Hoàng Dung sống chết chưa biết, cũng quyết không thể vì thế mà thôi, lập tức triển khai khinh công đề khí đuổi theo.

Lần này y thi triển khinh công, trong mấy dặm đầu quả thật chạy mau hơn cả ngựa phi. Quách Tĩnh nghe tiếng đạp tuyết vang lên sau lưng, ngoảnh mau lại nhìn, chỉ thấy Âu Dương Phong cách đuôi ngựa còn vài trượng, sau lúc hoảng sợ, vội vàng giục ngựa phóng lên.

Một người cưỡi ngựa, một người chạy bộ, trong chớp mắt đã đi mười mấy dặm.

Quách Tĩnh vẫn không ngừng gọi lớn:

– Dung nhi!

Y thấy trời tối dần, cơ hội thấy được Hoàng Dung càng lúc càng xa, tiếng gọi của y từ chỗ to vang chuyển thành khàn khàn, từ nghẹn ngào chuyển thành tiếng khóc. Con tiểu hồng mã đã biết nguy hiểm, dưới chân càng lún, nhấc vó càng mau, sau cùng thì bốn vó như bay như cưỡi gió mà đi. Loại Hãn huyết bảo câu phóng đi mau lẹ như thế, Âu Dương Phong khinh công có cao hơn nhưng thời gian càng kéo dài, rốt lại hơi thở dần dần gấp rút, kình lực dưới chân giảm sút, bước chân dần dần chậm lại. Con tiểu hồng mã trên thân mồ hôi chảy ròng ròng, từng giọt từng giọt đỏ tươi rơi trên đất tuyết trông rất đẹp, bên cạnh từng vết từng vết móng chân, giống như từng đóa từng đóa anh đào nở tung.

Phi đến khi trời tối hẳn, con tiểu hồng mã đã ra khỏi đầm cát, bỏ Âu Dương Phong lại khá xa. Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Con ngựa Dung nhi cưỡi không thần tuấn thế này, chạy không đầy nửa dặm nhất định sẽ lún xuống đầm cát không sao động đậy. Mình thà bỏ hết tính mạng cũng phải tìm cách cứu nàng.

Y biết rõ lúc ấy Hoàng Dung mất tích đã lâu, nếu lún xuống đầm cát, cho dù cứu lên được thì cũng không có cách hoàn hồn, nhưng nghĩ thế cũng chỉ để tự an ủi mình mà thôi. Y xuống ngựa cho con tiểu hồng mã nghỉ ngơi một lúc rồi vỗ lưng ngựa kêu lên:

– Ngựa con ơi ngựa con, hôm nay bất kể cay đắng cũng phải liều mạng quay lại một lần.

Y nhảy lên yên ngựa, kéo cương quay đầu ngựa lại. Con tiểu hồng mã sợ sệt, không chịu đạp vào đất lún, nhưng bị Quách Tĩnh thúc giục, rất lại hí dài một tiếng, bốn vó phóng mau, quay vào đầm cát. Con vật biết đường phía trước còn xa, phấn chấn tinh thần, càng phi càng mau.

Đang phóng đi chợt nghe Âu Dương Phong kêu:

– Cứu mạng, cứu mạng.

Quách Tĩnh phóng ngựa lướt qua, dưới ánh sáng nhờ nhờ dưới mặt tuyết hắt lên chỉ thấy y hơn nửa người đã lún xuống cát, hai tay giơ cao khua khoắng rối lên, thấy bùn cát từ từ dâng lên đã tới ngang ngực, một khi đến mũi thì không khỏi chết ngạt.

Quách Tình thấy tình trạng y thê thảm như thế, nghĩ lúc Hoàng Dung lâm nạn ắt cũng như thế, máu nóng sôi lên, cơ hồ muốn nhảy xuống ngựa tự tử trong bãi lầy. Âu Dương Phong kêu lên:

– Cứu người mau đi!

Quách Tĩnh nghiến răng nói:

– Ngươi hại chết ân sư của ta, lại hại chết Hoàng cô nương, còn muốn ta cứu à? Đừng có hòng.

Âu Dương Phong cao giọng nói:

– Chúng ta từng đập tay giao hẹn ngươi phải tha ta ba lần, lần này là lần thứ ba, chẳng lẽ ngươi không giữ tín nghĩa à?

Quách Tĩnh rơi nước mắt nói:

– Hoàng cô nương đã không còn sống trên đời, chuyện giao ước giữa chúng ta còn ý nghĩa gì nữa?

Âu Dương Phong ngoác miệng chửi lớn. Quách Tĩnh không đếm xỉa gì tới y nữa, phóng ngựa vượt qua, được hơn mười dặm, nghe tiếng y kêu gào thê thảm từ xa xa vang tới, trong lòng rốt lại cũng bất nhẫn, thở dài một tiếng quay ngựa lại, thấy bùn cát đã ngập tới cổ y. Quách Tĩnh nói:

– Ta cứu ngươi cũng được, nhưng hai người cưỡi trên ngựa, con ngựa mang nặng quá, ắt phải lún xuống.

Âu Dương Phong nói:

– Ngươi dùng dây kéo ta.

Quách Tĩnh không mang theo dây, xoay chuyển ý nghĩ, quay đầu cởi áo dài, phóng ngựa lướt qua người y. Âu Dương Phong hai tay chụp lấy một đầu chiếc áo dài, Quách Tĩnh hai chân kẹp một cái, quát lớn một tiếng. Con tiểu hồng mã ra sức vọt lên, một một tiếng lớn, Âu Dương Phong đã được rút lên khỏi hố cát, lướt xềnh xệch trên mặt tuyết.

Nếu quay về phía đông thì không bao lâu có thể thoát khỏi đầm lầy, nhưng Quách Tĩnh lo lắng cho Hoàng Dung, há lại chịu tới đó là bỏ? Lúc ấy giục ngựa phóng về phía tây. Âu Dương Phong nằm ngửa trên mặt tuyết, trượt đi rất mau, nhân cơ hội điều tức hơi thở. Con tiểu hồng mã cắm đầu cắm cổ dùng hết sức phóng đi, trời chưa sáng hẳn lại đã ra khỏi đầm cát chỉ thấy dưới mặt tuyết vết chân ngựa từng đốm từng đốm, chính là dấu vết của Hoàng Dung, nhưng vết chân thì còn mà người đã mất, hồn thơm đâu rồi? Quách Tĩnh nhảy xuống ngựa, nhìn nhìn vết chân ngựa ngơ ngẩn xuất thần.

Y đang đau lòng, quên mất đại địch sau lưng, đứng trên mặt tuyết, tay trái nắm dây cương, tay phải cầm chiếc áo lông điêu, đưa mắt nhìn ra xa, trong lòng rối loạn, đột nhiên thấy sau lưng hơi bị đụng vào, đang giật mình định lui lại, chỉ thấy Âu Dương Phong chưởng trái đã đè lên huyệt Đào đạo trên lưng mình. Âu Dương Phong hôm trước từ hầm cát nhảy ra cũng bị Quách Tĩnh khống chế như thế, lúc ấy dùng gậy ông đập lưng ông, không kìm được vui mừng hô hô cười rộ.

Quách Tĩnh đang lúc đau thương đã đặt mình ra ngoài vòng sống chết, bình thản nói:

– Ngươi muốn giết cứ giết, chúng ta cũng chưa từng giao hẹn là ngươi phải tha ta.

Âu Dương Phong sửng sốt. Y vốn muốn hành hạ làm nhục Quách Tĩnh một phen rồi sẽ giết, nào ngờ y lại không có ý muốn sống, lập tức hiểu ngay:

– Thằng tiểu tử ngốc này và con nha đầu kia tình nghĩa thâm trọng, nếu mình giết y thì sẽ thỏa được tâm nguyện tuẫn tình của y.

Xoay chuyển ý nghĩ lại nghĩ:

– Con nha đầu kia đã chết trong đầm cát, phải lấy được đoạn dịch kinh văn từ y.

Lúc ấy bèn nắm bả vai Quách Tĩnh nhảy lên lưng ngựa, hai người cùng cưỡi phóng vào trong sơn cốc phía nam.

Đi đến giờ Ty, thấy cạnh đường cái có một thôn xóm. Âu Dương Phong phóng ngựa vào thôn, chỉ thấy khắp nơi đều là tử thi, vì trời lạnh nên xác chết không bị thối rữa, thảm trạng của các xác chết vẫn chưa thay đổi, chính là bị giết hại lúc đại quân Mông Cổ tràn qua. Âu Dương Phong gọi lớn mấy tiếng, trong thôn vẫn hoàn toàn yên ắng không có ai, chỉ có vài mươi con bò con dê rống lên họa lại. Âu Dương Phong cả mừng, kéo Quách Tĩnh vào một gian thạch thất, nói:

– Ngươi hiện đã bị ta bắt, ta cũng không muốn giết ngươi. Chỉ cần ngươi đánh thắng ta thì có thể đi.

Nói xong bắt một con dê làm thịt, xuống bếp nấu nướng.

Quách Tĩnh thấy dáng vẻ đắc ý của y, càng nhìn càng tức giận. Âu Dương Phong ném một chiếc đùi dê chín qua cho y, nói:

– Ngươi ăn no đi, chúng ta sẽ đánh nhau.

Quách Tĩnh tức giận nói:

– Muốn đánh thì cứ đánh, cái gì mà ăn no?

Rồi phi thân vọt lên đánh thẳng vào giữa mặt y một chưởng. Âu Dương Phong giơ tay gạt ra, đánh trả một chưởng. Trong chớp mắt, hai người đã đánh bàn ghế giường tủ trong thạch thất đổ lổng chổng.

Đánh hơn ba mươi chiêu, Quách Tĩnh rốt lại công lực không bằng, bị Âu Dương Phong sấn lên nửa bước, chưởng phải đập trúng sườn. Quách Tĩnh không tránh được đành buông tay chờ chết, nào ngờ Âu Dương Phong lại không phát kình, cười nói:

– Hôm nay đánh tới đây là ngừng, ngươi luyện thêm mấy chiêu công phu trong chân kinh, sáng mai sẽ tiếp tục đánh nhau với ta.

Quách Tĩnh phì một tiếng, ngồi xuống một chiếc bàn lật ngửa, cầm cái đùi dê lên định ăn, nghĩ thầm:

– Y có ý muốn học yếu quyết công phu trong chân kinh, chờ mình đánh ra, thì có thể theo đó mà làm, mình không thể mắc lừa. Y muốn giết mình thì cứ để y giết cũng được… Ờ, mới rồi y đẩy tay một cái ấy thì mình làm sao hóa giải nhỉ?

Nghĩ lại tất cả quyền thuật chưởng pháp mà mình đã học không chiêu nào có thể hóa giải, lại nhớ tới trong Cửu âm chân kinh có chép một công phu xảo kình Phi nhứ kình, cũng vô hình giống cái đẩy mới rồi của y.

Y nghĩ thầm:

– Mình cứ luyện công, y muốn học cũng không học được.

Lúc ấy ăn sạch một cái đùi dê, ngồi xếp bằng dưới đất, nhớ lại khẩu quyết trong chân kinh, theo phép tu tập. Y từ sau khi luyện thành Dịch cân đoàn cốt thiên, căn cơ càng vững, lại được Nhất Đăng đại sư chỉ dạy, yếu chỉ trong chân kinh đã sớm hiểu, những công phu như Phi nhứ kình chỉ là chi tiết lặt vặt không quá một giờ đã luyện xong, liếc mắt nhìn Âu Dương Phong thấy y đang ngồi dưới đất vận công, lập tức quát lên:

– Xem chiêu đây!

Thân hình còn chưa đứng thẳng lên đã vung chưởng chém tới.

Âu Dương Phong rút chưởng đón đỡ, đấu đến lúc kịch liệt, lại theo bài bản cũ vươn tay đẩy vào sườn Quách Tĩnh, đột nhiên thấy tay chưởng trượt đi chệch qua một bên, thân hình không tự chủ được hơi chúi về phía trước, chưởng trái của Quách Tĩnh đã thuận thế chém xuống gáy y, Âu Dương Phong vừa sợ vừa mừng, gia tăng kình lực chúi luôn về phía trước tránh qua chiêu ấy, quay lại kêu:

– Hảo công phu, đây là trong chân kinh phải không? Tên gọi là gì thế?

Quách Tĩnh nói:

– Sa tế dĩ thôi, ái mạt cầm nhi.

Âu Dương Phong sửng sốt, kế nhớ lại đây là văn tự kỳ quái trong chân kinh, nghĩ thầm:

– Thằng tiểu tử ngốc này vốn cứng cổ như trâu, chỉ có thể dùng mưu trí lừa gạt, chứ ép buộc thì vô dụng .

Lập tức chưởng thế thay đổi, lại đánh nhau với y.

Hai người đánh nhau không thôi, Quách Tĩnh cứ thua là lập tức dừng tay, lại luyện công phu mới. Đêm ấy Quách Tĩnh ngồi dựa vào tường, Âu Dương Phong thì cẩn thận, sợ y nửa đêm đánh lén, lại sợ y thừa cơ bỏ trốn.

Hai người cứ thế ở trong thạch thất hơn một tháng, ăn hết một nửa số bò dê còn lại trong thôn. Trong một tháng ấy cũng như Âu Dương Phong ép Quách Tĩnh luyện công. Âu Dương Phong võ học cao thâm, nhìn thấy sự sai biệt trong võ công của Quách Tĩnh trước và sau khi luyện tập cũng ngộ ra được không ít yếu chỉ trong chân kinh, nhưng đem ấn chứng với kinh văn mà mình có lại không thể thông hiểu tất cả. Y càng nghĩ càng không hiểu, lại càng ép Quách Tĩnh ráo riết, cứ thế công phu của Quách Tĩnh trong hơn một tháng ấy lại đột nhiên tăng tiến vượt bậc. Âu Dương Phong bất giác ngấm ngầm rầu rĩ:

– Cứ thế này thì mình chưa hiểu hết yếu nghĩa trong chân kinh đã không phải là đối thủ của thằng tiểu tử ngốc này rồi.

Quách Tĩnh mấy hôm đầu lòng đầy tức giận, nhưng về sau đánh nhau lại càng có ý khắc định chế thắng, quyết ý đánh nhau với y tới cùng, rốt lại cũng phải dùng công phu trong chân kinh giết y bằng được mới thôi, biết rõ là rất khó nhưng không hề nản lòng, cố dằn lửa giận, lại càng quyết tâm. Hôm ấy y nhặt được một thanh đoản kiếm cạnh một xác chết trong thôn, lập tức khổ luyện võ khí, dùng kiếm ra chiêu với trượng gỗ của Âu Dương Phong. Âu Dương Phong vốn dùng xà trượng, nhưng hôm trước ác đấu với Hồng Thất công trên thuyền, xà trượng đã rơi xuống biển, về sau đúc một chiếc trượng khác thả quái xà lên, nhưng sau khi bị khốn trong cột băng đã bị Lỗ Hữu Cước lấy đi hủy mất. Hiện y dùng một ngọn côn gỗ tầm thường, lại không có quái xà trợ oai, nhưng chiêu thuật biến ảo, biến hóa vô cùng, mấy lần đánh bay kiếm sắt của Quách Tĩnh, nếu trên trượng có rắn độc thì Quách Tĩnh lại càng khó chống đỡ.

Nghe đại quân Thành Cát Tư Hãn về đông, người ngựa huyên náo mấy ngày không dứt, nhưng hai người đang kịch đấu hăng máu, không hề đếm xỉa. Đêm ấy đại quân qua hết, bên tai trở nên yên ắng. Quách Tĩnh cầm kiếm đứng, nghĩ thầm:

– Đêm nay tuy không thắng được ngươi nhưng mộc trượng của ngươi bất kể thế nào cũng không đánh bay được kiếm ta nữa đâu.

Y sốt ruột muốn thử chiêu thức vừa luyện, đứng im chờ địch nhân tấn công trước, chợt nghe phía ngoài có tiếng người quát:

– Gian tặc giỏi lắm, trốn đi đâu?

Rõ ràng là giọng Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông.

Âu Dương Phong và Quách Tĩnh nhìn nhau ngạc nhiên, cùng nghĩ:

– Tại sao y lại từ vạn dặm xa xôi lên vùng Tây Vực này?

Hai người đang định lên tiếng chợt nghe tiếng bước chân vang lên, hai người một trước một sau chạy ngang thạch thất. Nhà cửa trong thôn vốn không ít, nhưng chỉ trong ngôi thạch thất này có đèn lửa. Âu Dương Phong tay trái vung ra, một luồng kình lực quạt tới đánh tắt ngọn đèn. Đúng lúc ấy cánh cửa két một tiếng mở toang, một người sải chân bước vào, người đuổi theo phía sau chính là Chu Bá Thông.

Nghe thấy tiếng bước chân của hai người này đều mau lẹ dị thường, võ công của người đi trước lại càng không kém gì Chu Bá Thông. Âu Dương Phong vô cùng kinh nghi:

– Người này rõ ràng có thể thoát khỏi tay Lão Ngoan đồng thì trên đời kẻ có bản lĩnh như thế chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu là Hoàng Dược Sư hay Hồng Thất công, thì Lão Độc vật quả không hay rồi.

Lúc ấy ngấm ngầm nghĩ cách thoát thân.

Chỉ nghe người chạy trước tung người vọt tới ngồi trên xà nhà. Chu Bá Thông cười nói:

– Ngươi chơi trò cút bắt với ta, thì Lão Ngoan đồng không gì thích hơn, nhưng ta không để ngươi trốn thoát nữa đâu.

Trong bóng đêm nghe y đóng cửa lớn lại, nhấc một tảng đá lớn bên cạnh chặn ở cửa, kêu lên:

– Này, thằng giặc xấu xa, ngươi đâu rồi?

Vừa nói vừa bước vào sờ soạng. Quách Tĩnh đang muốn lên tiếng chỉ điểm địch nhân trên xà nhà, Chu Bá Thông đột nhiên nhảy vọt lên hô hô cười rộ, chụp tới người đang ngồi trên xà. Té ra y đã sớm biết người ấy nhảy lên xà nhà, nhưng cố ý sờ soạng ở góc phòng để địch nhân không đề phòng, sau đó mới đột nhiên vọt tới tập kích.

Người trên xà nhà cũng bản lĩnh rất cao cường, không đợi hai tay y chụp tới đã lộn nhào một cái ngồi xổm trên phía bắc xà nhà, Chu Bá Thông miệng thì quát tháo ầm ĩ, nhưng trong lòng đối với y cũng rất úy kỵ, lắng tai nghe ngóng chỗ y ngồi, không dám ngang nhiên ép tới gần. Trong đêm vắng, y lại nghe thấy rõ ràng tiếng thở của ba người, nghĩ thầm đèn lửa trong gian thạch thất này đột nhiên tắt phụt, quả nhiên có người, chỉ là tại sao không lên tiếng, nghĩ chắc là họ sợ quá lập tức kêu lên:

– Chủ nhân đừng sợ, ta là đuổi theo một thằng tiểu tặc, bắt được là lập tức ra ngay.

Y nghĩ người thường hơi thở nặng nề, người nội công tinh thâm thì hơi thở chậm mà dài, nhẹ mà sâu, nếu lưu tâm thì rất dễ phân biệt. Nào ngờ lắng tai nghe thì ba người ba phía đông tây bắc ai cũng thở rất nhẹ. Chu Bá Thông giật nảy mình kêu lên:

– Thằng giặc giỏi, té ra ngươi đã phục sẵn người giúp đỡ ở đây.

Quách Tĩnh vốn định lên tiếng, chợt xoay chuyển ý nghĩ “Âu Dương Phong rình ở bên cạnh, người Chu đại ca đuổi theo cũng là kình địch, mình cứ đừng để lộ thân phận, chờ cơ hội giúp y là được.”

Chu Bá Thông từng bước từng bước tiến tới cạnh cửa, hạ giọng nói:

– Xem ra Lão Ngoan đồng không bắt người được, chỉ đành để người khác bắt thôi.

Trong lòng đã quyết kế, chỉ cần cục diện không hay là lập tức cướp đường bỏ chạy.

Đúng lúc ấy xa xa vang lên tiếng hò reo ầm ầm, vó ngựa rầm rập như sóng nước tràn tới, ngàn người muôn ngựa xông tới bên cạnh.

Chu Bá Thông kêu lên:

– Người bên ngươi càng lúc càng đông, Lão Ngoan đồng xin thất lễ không bồi tiếp được.

Nói xong đưa tay đẩy tảng đá lớn sau cửa, tựa hồ muốn ra cửa bỏ chạy, đột nhiên hai tay nhấc lên ném mạnh vào người y đuổi. Tảng đá ấy phân lượng không nhỏ, Âu Dương Phong hàng đêm vẫn dùng để chặn ở cửa, nếu Quách Tĩnh di động tảng đá ra, thì nhất định y sẽ tỉnh dậy.

Âu Dương Phong nghe tiếng gió rít mạnh, nghĩ lúc Lão Ngoan đồng ném tảng đá ra, ắt bên phải sẽ không đề phòng được, mình cứ giết y trước, trừ bớt một mối họa trước mắt, lần luận kiếm ở Hoa sơn sau này lại bớt được một kình địch. Ý nghĩ vừa động, thân hình đã ngồi xuống, hai tay cùng xô ra, vận Cáp mô công đẩy thẳng tới. Y ngồi xuống phía tây, chiêu ấy đánh từ tây qua đông, lực đạo vô cùng mãnh liệt. Quách Tĩnh cùng y giao đấu liên tiếp mấy mươi ngày, đối với một cử chỉ của y cũng đều đã thuộc lòng, tuy trong ban đêm tối om nhưng vừa nghe tiếng kình phong đã biết y đột nhiên tập kích Chu Bá Thông, lúc ấy sấn lên một bước, đánh mau ra một chiêu Kháng long hữu hối. Người đứng bên phía bắc nghe thấy tiếng đá ném tới, cũng co chân đứng vững, hai tay lật ra ngoài, muốn dùng chưởng lực đẩy ngược tảng đá lại để đả thương đối phương.

Bốn người chia đứng bốn phía, phát kình tuy kẻ trước người sau, nhưng lực đạo cơ hồ không phân cao thấp. Tảng đá ấy bị bốn luồng kình lực từ đông tây nam bắc ép tới, bay tới giữa nhà thì rơi xuống. Bình một tiếng lớn, đánh vỡ nát một cái bàn gỗ.

Tiếng ầm ấy vang lên muốn điếc tai, Chu Bá Thông lại thấy thú vị, không kìm được bật tiếng cười rộ. Nhưng tiếng cười của y đến đoạn cuối thì chính y cũng không nghe thấy, nguyên là hàng vạn người ngựa đã tràn vào thôn, chỉ nghe tiếng ngựa hí vang vang, gươm giáo loảng xoảng, quân sĩ quát tháo hòa thành một tràng.

Quách Tĩnh nghe khẩu âm quân sĩ, biết là bại quân Hoa Thích Tử Mô đã tràn vào thôn, muốn chiếm một góc cố thủ. Nhưng bày trận chưa xong, quân Mông Cổ đã đuổi tới, chỉ nghe tiếng vó ngựa nện đất, cờ lớn phất gió, quát tháo xung sát, cung bật tên bay từ xa tới gần. Kế đó là võ khí ngắn chạm nhau, đâm chém tàn sát, chung quanh không biết có bao nhiêu quân mã đang hăng máu chém giết lẫn nhau.

Đột nhiên có người đẩy cửa xông vào. Chu Bá Thông vung tay chụp y ném trở ra ngoài, bưng tảng đá lên lại chặn sau cánh cửa.

Âu Dương Phong một đòn không trúng, nghĩ thầm chính mình đã bị y phát hiện, quát lên:

– Lão Ngoan đồng, ngươi biết ta là ai không?

Chu Bá Thông nghe loáng thoáng tiếng người nhưng không nhận ra là ai, tay trái che trước ngực, tay phải vươn qua định chụp. Âu Dương Phong tay phải ngoặc vào cổ tay y, tay trái lật chưởng vỗ ra. Chu Bá Thông đón đỡ một chiêu, hoảng sợ kêu lên:

– Lão Độc vật, ngươi cũng ở đây à?

Thân hình lắc một cái, bước qua bên trái sấn vào bên cạnh, đúng lúc ấy người ở phía bắc nhân lúc sơ hở phát chưởng đánh mạnh vào hậu tâm y. Chu Bá Thông tay phải tấn công Âu Dương Phong, quyền trái vung lại đỡ đòn phía sau, nghĩ thầm thuật Tả hữu hỗ bác mình luyện được trên đảo Đào Hoa đến nay vẫn chưa có dịp chia ra để đấu với hai cao thủ, tuy tình thế hôm nay nguy hiểm nhưng cũng là cơ hội rất tốt để thử chiêu.

Tay quyền vừa chạm vào tay chưởng địch nhân, đột nhiên Quách Tĩnh từ phía đông nhảy xổ ra, tay phải gạt tay quyền của Chu Bá Thông ra, vung tay trái đỡ thay y một chưởng. Ba người đồng thanh bật tiếng la hoảng, Chu Bá Thông kêu “Quách huynh đệ.” Người kia thì kêu “Quách Tĩnh.” Quách Tĩnh thì kêu “Cừu Thiên Nhận!”

Hôm trước Chu Bá Thông tỷ võ trước lầu Yên Vũ y rất sợ rắn độc, thấy không có đường chạy bèn nằm ngửa trên nóc lầu, rút ngói trên nóc lầu đắp lên người che lên tầng tầng lớp lớp, tên của quan binh bắn tới cố nhiên không trúng được, rắn độc của Âu Dương Phong cũng không thể bò lên nóc lầu cắn y. Y chờ đến sáng, xà trận đã rút lui, mọi người cũng không biết đã đi đâu cả.

Y thẫn thờ buồn chán, đi chơi quanh vùng, qua vài tháng thì một đệ tử của Cái bang đưa tới một lá thư, đó chính là thư của Hoàng Dung. Trong thư nói: Y từng chính miệng ưng thuận là bất kể nàng thỉnh cầu chuyện gì nhất định cũng sẽ theo lời, bây giờ nàng muốn y đi giết bang chủ Thiết chưởng bang Cừu Thiên Nhận, người này có thù oán rất sâu với Lưu quý phi của Đoàn hoàng gia, giết chết y xong, Lưu quý phi sẽ không tìm y nữa. Nếu không thì Lưu quý phi cho dù phải tới chân trời góc biển cũng nhất định sẽ lấy y. Trong thư còn chỉ rõ núi Thiết Chưởng ở đâu.

Chu Bá Thông nhớ tới câu:”Bất kể thế nào cũng sẽ theo lời” thì rõ ràng là mình đã nói với Hoàng Dung. Lão già Cừu Thiên Nhận câu kết với nước Kim, vốn đã không phải là người tốt, giết y cũng phải. Còn như mối duyên oan nghiệt giữa mình và Lưu quý phi thì xưa nay vẫn áy náy trong lòng, tự biết mình đã phụ bà ta quá nhiều nếu bà ta có thù oán với Cừu Thiên Nhận thì cũng nên ra sức cho bà ta, mà có thể khiến bà ta không theo đuổi lằng nhằng với mình thì càng là điều thượng thượng đại cát, lập tức tìm tới núi Thiết Chưởng.

Cừu Thiên Nhận động thủ với y một trận, lúc đầu còn ngang tay, đến lúc y dùng thuật Song thủ hỗ bác lập tức không địch nổi, chỉ đành bỏ chạy. Cao thủ tỷ võ nếu một người nhận thua thì thắng phụ đã quyết vốn phải kết thúc, nào ngờ Chu Bá Thông lại cứ đuổi riết không tha. Cừu Thiên Nhận mấy lần hỏi y vì sao, Chu Bá Thông cứ trợn mắt líu lưỡi, không nói ra được lý do, nên biết ba chữ Lưu quý phi thì có chém đầu y cũng không chịu nói.

Hai người lúc đánh lúc dừng, người chạy người đuổi càng đi càng xa. Võ công của Chu Bá Thông tuy cao hơn Cừu Thiên Nhận một bậc nhưng muốn lấy mạng y cũng không phải dễ. Cừu Thiên Nhận trăm mưu ngàn kế cũng không thoát được, không biết làm sao, nghĩ thầm:

– Nếu mình chạy lên vùng Tây Vực giá rét, chẳng lẽ y cũng đuổi riết không tha sao?

Chu Bá Thông thì nghĩ “Để xem ngươi chạy tới đâu mới chịu dừng lại?”

Nhưng vừa lên tới sa mạc ngoài cửa ải thì đồng rộng mênh mông, đuổi theo rất dễ, Cừu Thiên Nhận lại càng không sao trốn được. May là Chu Bá Thông rất giữ tín nghĩa, chỉ cần Cừu Thiên Nhận nằm ngủ hay ngồi lại ăn cơm hoặc tiểu tiện đại tiện thì y quyết không sấn tới xâm phạm, mình cũng đi theo để chiếu cố. Nhưng bất kể Cừu Thiên Nhận thi hành gian kế thế nào, Lão Ngoan đồng thủy chung vẫn như âm hồn bất tán, bám riết không thôi.

Chu Bá Thông dọc đường đấu trí đấu lực với Cừu Thiên Nhận, càng lúc càng thấy vui thích, mấy lần đã chế phục được y nhưng không hạ thủ giết chết. Hôm ấy thật vừa khéo, hai người lại xông vào ngôi thạch thất.

Lúc ấy Chu Quách hai người đã biết người thứ ba là ai, nhưng tiếng thở của ba người đã bị tiếng hò hét quát tháo chém giết bên ngoài át đi, Âu Dương Phong và Cừu Thiên Nhận lại không nhận ra nhau. Âu Dương Phong biết y là kẻ đối đầu của Chu Bá Thông, Cừu Thiên Nhận lại cho rằng hai người trong thạch thất là cùng một phe. Chu, Cừu, Âu Dương ba người võ công trác tuyệt, mà Quách Tĩnh sau khi giao đấu mấy mươi ngày với Âu Dương Phong, khổ công rèn luyện, dần dần đã có thể sánh được với ba người. Bốn đại cao thủ tụ họp trong một gian thạch thất tối om khoảng hai trượng vuông, mắt không thấy vật, tai không nghe tiếng, ngôn ngữ bất thông, bốn người đều đột nhiên biến thành vừa điếc vừa câm vừa mù.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Mình cầm chân Âu Dương Phong để Chu đại ca kết liễu Cừu Thiên Nhận trước. Lúc ấy hai người hợp lực giết Âu Dương Phong không phải chuyện khó.

Trong lòng đã định chủ ý, song chưởng vỗ hờ ra, chưởng phải đánh hụt, chưởng trái lập tức chạm phải tay chưởng của một người. Quách Tĩnh lúc trên đảo Đào Hoa giao thủ với Chu Bá Thông đã quen, hai tay vừa chạm nhau đã biết là y, lập tức tung người vọt lên, định kéo tay y ra hiệu, nào ngờ Chu Bá Thông đột nhiên nổi tính trẻ con, tay trái rút mau lại, tay phải đột nhiên đẩy ra một quyền, đập vào đầu vai Quách Tĩnh, một quyền này không sử nội kình, nhưng Quách Tĩnh hoàn toàn không đề phòng, bị y đánh trúng đau nhói. Chu Bá Thông kêu lên.

– Hảo huynh đệ, ngươi thử xem công phu của đại ca thế nào? Cẩn thận nhé!

Tay trái lại đánh ra một quyền. Quách Tĩnh tuy chưa nghe hết câu nói của y, nhưng đã có đề phòng, lập tức vung tay gạt ra.

Lúc ấy Âu Dương Phong và Cừu Thiên Nhận đã chiết chiêu với nhau, đều đã theo võ công mà nhận ra đối phương. Hai người không oán không thù, nhưng nghĩ tới dịp luận kiếm ở Hoa sơn về sau thế ắt phải ngươi chết ta sống, lúc ấy gặp nhau nếu có thể đả thương đối thủ quả rất hay, nên đánh nhau kịch liệt. Đánh được một lúc, chỉ cảm thấy trước mặt sau lưng kình phong rít lên, cùng giật nảy mình, lập tức hiểu là Chu Bá Thông đang ra chiêu với Quách Tĩnh. Hai người trong lòng đều ngạc nhiên, chỉ nghĩ Chu Bá Thông hành sự điên đảo, người ta không sao hiểu được, có cơ hội này sao không mừng rỡ? Lúc ấy không hẹn mà cùng sấn vào tấn công.

Chu Bá Thông đánh nhau với Quách Tĩnh hơn mười chiêu, thấy võ công của y đã khác hẳn ngày trước, vừa sợ vừa mừng, liên tiếp nói:

– Huynh đệ, ngươi học công phu này ở đâu thế?

Nhưng ngoài cửa tiếng hò hét chém giết ầm ầm, Quách Tĩnh làm sao nghe được? Chu Bá Thông tức giận nói:

– Được, ngươi không chịu nói, muốn làm ra vẻ à?

Chợt thấy kình phong vỗ tới mặt, Âu Cừu hai người đồng thời tấn công, lúc ấy điểm chân một cái nhảy lên xà nhà, quát:

– Để một mình y đấu với hai người các ngươi đấy.

Âu Dương Phong và Cừu Thiên Nhận nghe tiếng áo của y phất gió, đã biết Chu Bá Thông lên xà nhà nghỉ ngơi, nghĩ thầm chính là dịp tốt để hợp lực giết thằng tiểu tử ngốc này, lập tức một trái một phải cùng sấn vào tấn công. Quách Tĩnh lúc nãy bị Chu Bá Thông kìm chân, liên tiếp đổi dùng bốn năm loại chưởng pháp mà thủy chung không sao giãy ra được, vừa may được y lui ra thì hai cường địch lại lập tức xông vào, bất giác thầm kêu khổ, chỉ đành đem hết tinh thần dùng thuật Song thủ hỗ bác chia ra đối địch với hai người. Đấu được một lúc, Âu Dương Phong và Cừu Thiên Nhận đều không khỏi ngấm ngầm khen ngợi. Nên biết với công lực của Quách Tĩnh thì chỉ một trong hai người Âu Cừu cũng đều có thể thắng y, nào ngờ hai người liên thủ mà y chưởng trái thì đỡ Âu Dương Phong, quyền phải thì đánh Cừu Thiên Nhận, hai người nhất thời cũng không làm gì y được.

Chu Bá Thông ngồi trên xà nhà một lúc, nghĩ thầm nếu không nhảy xuống thì e Quách Tĩnh sẽ bị thương, lúc ấy rón rén trượt từ vách xuống, hai tay chụp bừa tới, vừa khéo chụp tới hậu tâm Âu Dương Phong. Y ngồi xổm xuống đất, đang dùng Cáp mô công đánh mạnh tới Quách Tĩnh, đột nhiên thấy sau lưng có người vội thu chưởng đón đỡ. Quách Tĩnh thừa cơ phóng một cước vào Cừu Thiên Nhận, nhảy vào góc nhà, không ngừng thở dốc, nếu Chu Bá Thông tới chậm một bước thì đòn mới rồi của Âu Dương Phong đẩy ra nhất định sẽ không đỡ được.

Bốn người trong bóng tối lúc phân lúc hợp, có lúc Chu Bá Thông đánh nhau với Cừu Thiên Nhận, có lúc Quách Tĩnh đánh nhau với Cừu Thiên Nhận, có lúc Âu Dương Phong đánh nhau với Cừu Thiên Nhận, có lúc Chu Bá Thông đánh nhau với Âu Dương Phong, có lúc Quách Tĩnh lại giao thủ với Chu Bá Thông vài chiêu. Bốn người hỗn chiến một trận ấy, rốt lại Chu Bá Thông lại càng vui thích, cảm thấy tất cả những trận đánh nhau lúc bình sinh chưa khi nào vui bằng thế này. Mỗi khi ngừng tay y lại lằng nhằng với Quách Tĩnh không buông, nói:

– Hai tay ta tính ra là hai kẻ địch, hai thằng giặc thối tha Âu Cừu tự nhiên cũng là hai kẻ địch. Ngươi lấy một chống bốn thử xem có được không? Trò chơi mới lạ này chắc ngươi chưa từng chơi qua chứ?

Quách Tĩnh không nghe rõ y nói gì, chợt thấy ba người đồng thời xông vào tấn công, chỉ còn cách ra sức tránh né. Chu Bá Thông không ngừng khuyến khích “Đừng sợ. Đừng sợ, lúc nào nguy hiểm ta sẽ giúp ngươi.”

Nhưng trong bóng đêm tối om, chỉ cần bị trúng bất kể một quyền một cước của ai cũng đều có thể nguy tới tính mạng, cho dù sau đó Chu Bá Thông sẽ cứu nhưng làm sao còn kịp nữa?

Lại đánh thêm vài mươi chiêu, Quách Tĩnh mệt mỏi rã rời, chỉ thấy Âu Cừu hai người quyền chiêu càng lúc càng mạnh, chỉ đành vừa đỡ vừa lùi, định nhảy lên xà nhà tránh né, nhưng thủy chung bị chưởng lực của Chu Bá Thông chụp lên không sao thoát thân, lúc vừa sợ vừa giận, lại không nhịn được, ngoác miệng ra chửi:

– Chu đại ca, ngươi là lão già ngu ngốc, tại sao lại cứ lằng nhằng với ta làm gì?

Nhưng khổ nỗi tiếng hò hét chém giết ngoài cửa ầm ầm, có nói gì người khác cũng không nghe. Quách Tĩnh lại lùi hai bước, chợt vướng phải tảng đá lớn dưới đất một cái, suýt ngã lăn ra. Y ưỡn lưng chưa kịp đứng thẳng lên, thiết chưởng của Cừu Thiên Nhận đã vỗ tới. Quách Tĩnh trong lúc nguy cấp không kịp biến chiêu, thuận tay quờ tảng đá lớn đỡ trước ngực, Cừu Thiên Nhận một chưởng đập trúng tảng đá, Quách Tĩnh hai tay vận kình đẩy mạnh ra ngoài đỡ một chưởng của y. Chỉ nghe bên trái tiếng gió rít lên, chưởng lực của Âu Dương Phong đã đánh tới. Quách Tĩnh vận lực vào hai tay, quát lớn một tiếng, ném tảng đá lên khỏi đầu, rồi nghiêng người tránh qua đòn tới.

Tảng đá lớn bay lên nóc nhà, gạch ngói bụi đất đổ xuống rào rào, ánh sao trên trời xuyên qua nóc nhà chiếu xuống. Chu Bá Thông tức giận nói:

– Nhìn thấy cả rồi còn gì vui nữa?

Quách Tĩnh vô cùng mệt mỏi, hai chân dùng sức nhảy lên, vọt ra chỗ mái nhà bị vỡ. Âu Dương Phong vội phi thân đuổi theo. Chu Bá Thông quát:

– Đừng chạy, đừng chạy, ở lại chơi đùa với ta.

Rồi vươn tay chụp chân trái y.

Âu Dương Phong cả sợ, vội vung chân phải đá lại hóa giải chiêu trảo của y, nhưng thân hình không thể giữ được trên không, lại rơi xuống đất. Cừu Thiên Nhận không chờ y xuống tới đất đã phóng chân đá vào bụng y. Âu Dương Phong thót bụng lại, vung chỉ điểm vào bắp chân y. Ba người liên tiếp đánh nhau, lại càng kịch liệt. Chỉ là lần này bóng người đã có thể phân biệt được, tiếng hò hét chém giết bên ngoài cũng dần dần lắng xuống không còn nguy hiểm như lúc hỗn chiến vừa rồi. Chu Bá Thông vô cùng cụt hứng, có bao nhiêu tức giận đều trút lên hai người, quyền pháp đột nhiên thay đổi, liên tiếp ra sát thủ.

Quách Tĩnh ra khỏi thạch thất, trước mắt chỉ thấy người ngựa rong ruổi qua lại, tai chỉ nghe tiếng gươm giáo va chạm loảng xoảng, thỉnh thoảng lại có một tiếng kêu thảm của quân sĩ đôi bên trúng đao trúng tên. Y xông qua đám đông, chạy ra khỏi thôn, núp trong một khu rừng nhỏ nghỉ ngơi, ác đấu suốt nửa đêm, lúc ấy được nghỉ chỉ thấy gân cốt toàn thân rã rời, nhớ lại tình cảnh mới rồi trong thạch thất càng thêm run sợ, tuy lo lắng cho Chu Bá Thông, nhưng nghĩ với võ công của y thì đến lúc không đối địch nổi cũng có thể chạy thoát, nghỉ ngơi một lúc lại dần dần ngủ thiếp đi.

Ngủ đến sáng sớm hôm sau, chợt thấy trên mặt mát lạnh, có vật gì ngo ngoe. Y không kịp mở mắt ra, lập tức nhảy phắt lên, chỉ nghe một tiếng hí vui vẻ, té ra là con tiểu hồng mã liếm vào mặt y. Quách Tĩnh cả mừng, ôm cổ con ngựa, một người một ngựa sau tai họa lại trùng phùng, vun vẻ hồi lâu. Lúc y bị Âu Dương Phong giam giữ trong thạch thất, con ngựa tự đi tìm cỏ ăn, tối hôm qua đại quân hỗn chiến, con vật mau lẹ tinh khôn, rõ ràng đã trốn khỏi tai họa, lúc ấy lại tìm được chủ nhân.

Quách Tĩnh dắt con tiểu hồng mã trở vào trong thôn, chỉ thấy tên gãy đao mẻ đầy đất, xác người ngựa chết nằm gối lên nhau, thỉnh thoảng có người chưa chết hẳn rên lên mấy tiếng thê thảm. Y chinh chiến nhiều, đã quen thấy cảnh tử thương, nhưng lúc ấy nhớ lại thân thế của mình bất giác càng thêm cảm khái. Rón rén trở lại thạch thất, đứng bên ngoài lắng tai nghe ngóng, thấy yên ắng không có tiếng người, lại nhìn vào khe cửa thì bên trong đã không có ai. Y đẩy cửa bước vào lục lọi khắp cả trước sau, nhưng Chu Bá Thông, Âu Dương Phong, Cừu Thiên Nhận ba người không biết đã đi đâu.

Y đứng ngẩn ra một lúc. Rồi lên ngựa đi về phía đông. Con tiểu hồng mã phi rất mau, không bao lâu đã đuổi kịp đại quân của Thành Cát Tư Hãn.

Lúc ấy các thành của Hoa Thích Tử Mô hoặc đầu hàng hoặc bị hạ, mấy mươi vạn hùng binh tan tành như trúc chẻ ngói tan. Quốc vương Ma Ha Mạt của Hoa Thích Tử Mô trước nay ngạo mạn tàn bạo, sau khi bị mọi người làm phản, một mình lẻ loi, dẫn một toán tàn quân bại tướng tất tả chạy trốn về phía tây. Thành Cát Tư Hãn sai đại tướng Tốc Bất Đài cùng Triết Biệt thống lãnh hai vạn quân đuổi bắt, mình thì mang đại quân ban sư. Tốc Bất Đài và Triết Biệt đuổi tới thành Cơ Phố cạnh sông Đệ Nhiếp Bá chỗ ngày nay là Mạc Tư Khoa, đại phá mấy mươi vạn liên quân Nga La Tư và Khâm sát, dùng bánh xe đè chết đại công tước thành Cơ Phố và mười một vương công Nga La Tư đầu hàng. Trận ấy sử gọi là Chiến dịch sông Già Lặc Già, phần lớn thảo nguyên của Nga La Tư từ đó rên xiết lâu dài dưới vó ngựa Mông Cổ. Ma Ha Mạt ngày tối đường cùng, về sau mắc bệnh chết trên đảo hoang ở Lý Hải.

Hôm ấy Thành Cát Tư Hãn trong thành Tán Ma Nhĩ Hãn đột nhiên không thấy Quách Tĩnh đâu, vô cùng lo lắng, sợ y một mình rơi lại phía sau chết trong đám loạn quân, thấy y trở lại không kìm được nỗi mừng rỡ. Công chúa Hoa Tranh thì tự nhiên càng thêm vui mừng.

Khưu Xử Cơ theo đại quân về đông, dọc đường ra sức khuyên Thành Cát Tư Hãn thương dân ít giết người. Thành Cát Tư Hãn tuy trò chuyện với y không hợp, nhưng biết y là kẻ sĩ có đạo cũng không tiện trái ý y quá, vì thế trong lúc hỗn chiến, rất nhiều bách tính nhờ lời nói của Khưu Xử Cơ mà được sống sót.

Hoa Thích Tử Mô cách Mông Cổ vài vạn dặm, đại quân của Thành Cát Tư Hãn trở về mất rất nhiều thời gian, trở về tới sông Cán Nạn Hà mở tiệc lớn báo tiệp, cho quân sĩ nghỉ ngơi. Khưu Xử Cơ và bọn Lỗ Hữu Cước cùng bang chúng Cái bang lần lượt từ biệt về nam. Lại qua mấy tháng, gió thu nổi lên, người mạnh ngựa khỏe, Thành Cát Tư Hãn lại có ý nam chinh, hôm ấy đại hội chư tướng bàn kế đánh Kim.

Quách Tĩnh sau khi Hoàng Dung chết lòng buồn rười rượi, thường một mình một ngựa mang đôi điêu đi lang thang ngoài thảo nguyên Mông Cổ, ngơ ngơ ngác ngác, có khi mấy ngày liền không nói một câu. Công chúa Hoa Tranh dịu dàng khuyên giải, y như không hề nghe thấy. Mọi người hiểu được nguyên do, biết y đau khổ, không ai dám nói tới chuyện hôn nhân. Thành Cát Tư Hãn mãi lo việc đánh Kim nên cũng không rảnh nghỉ tới. Hôm ấy bàn việc nam chinh trong kim trướng của đại hãn, các tướng đều dâng kế sách, nhưng Quách Tĩnh thủy chung không nói câu nào.

Thành Cát Tư Hãn cho chư tướng lui ra, một mình lên gò trầm ngâm suy nghĩ suốt nửa ngày, hôm sau ra lệnh chia quân làm ba đường đánh Kim. Lúc ấy trưởng tử Truật Xích, thứ tử Sát Hợp Đài của y đều đang cai trị các nước vừa chinh phạt được ở phương tây nên cánh trung quân đánh Kim do con thứ ba là Oa Khoát Đài thống suất, cánh tả quân do con thứ tư là Đà Lôi thống suất, cánh hữu quân do Quách Tĩnh thống suất.

Thành Cát Tư Hãn tuyên triệu thống suất ba cánh quân vào trướng, ra lệnh tùy tùng lui ra, nói với ba người Oa Khoát Đài, Đà Lôi, Quách Tĩnh:

– Tinh binh của nước Kim đều ở Đồng Quan, phía nam dựa vào núi dài, phía bắc có sông lớn, rất khó đánh thắng mau được. Kế sách của các tướng tuy đều có chỗ dùng được nhưng đối mặt đánh mạnh, không khỏi mất nhiều thời giờ. Hiện Mông Cổ ta liên minh với Đại Tống, kế sách hay nhất không bằng mượn đường qua đất Tống, từ Đường Châu, Đăng Châu tiến quân, tới thẳng đô thành Đại Lương nước Kim.

Ba người Oa Khoát Đài, Đà Lôi, Quách Tĩnh nghe tới đó đều nhảy lên, ôm chầm nhau reo lớn:

– Diệu kế.

Thành Cát Tư Hãn nhìn Quách Tĩnh mỉm cười nói:

– Ngươi giỏi dùng binh, ta rất vừa ý. Ta hỏi ngươi đánh Đại Lương xong thì làm gì nữa?

Quách Tĩnh trầm ngâm hồi lâu, lắc đầu nói:

– Không đánh Đại Lương.

Oa Khoát Đài và Đà Lôi rõ ràng nghe phụ vương nói là tới thẳng Đại Lương, tại sao Quách Tĩnh lại nói không đánh, trong lòng ngờ vực, đều sửng sốt nhìn nhìn y. Thành Cát Tư Hãn vẻ mặt vẫn có vẻ cười cười hỏi:

– Không đánh Đại Lương thì làm gì?

Quách Tĩnh nói:

– Không đánh nhưng cũng không phải không đánh: là đánh mà không đánh, không đánh mà đánh.

Mấy câu ấy Oa Khoát Đài và Đà Lôi nghe xong càng thêm mờ mịt. Thành Cát Tư Hãn cười nói:

– Đánh mà không đánh, không đánh mà đánh, tám chữ ấy nói rất hay. Ngươi nói rõ cho hai vị huynh trưởng của ngươi nghe đi.

Quách Tĩnh nói:

– Con đoán cách dùng quân của đại hãn là giả đánh đô thành nước Kim để hạ thành giặc. Đại Lương là nơi hoàng đế nước Kim đóng nhưng quân giữ không nhiều, vừa thấy quân ta tới ắt nước Kim sẽ lập tức điều quân từ Đồng Quan về cứu. Binh pháp Trung Hoa có câu “Cuốn giáp mà chạy ngày đêm không nghỉ, cướp đường mà đi, tranh lợi ngoài trăm dặm, thì thống tướng sẽ bị bắt sống.” Người khỏe đi trước, người mệt đi sau, mười người chỉ có một người tới được. Trăm dặm đi mau, sĩ tốt trong mười người chỉ có một người có thể tới nơi. Từ Đồng Quan tới Đại Lương, ngàn dặm cứu viện, binh ròng tướng khỏe mười phần không có được một phần tới nơi, lại thêm người mệt ngựa mỏi, tuy tới cũng không có sức đánh nhau. Quân ta dĩ dật đãi lao, ắt có thể đại quá quân Kim. Tất cả quân tinh nhuệ của nước Kim đều một trận đánh tan thì thành Đại Lương không đánh cũng hạ được. Nếu ra sức đánh thành Đại Lương, lúc gấp rút khó mà hạ nổi, lại dễ bị rơi vào thế hai mặt thụ địch.

Thành Cát Tư Hãn vỗ tay cười lớn, nói:

– Nói rất hay, nói rất hay!

Bèn lấy ra một tấm bản đồ trải lên bàn, ba người nhìn xong, không ai không vô cùng kinh ngạc.

Nguyên đó là tấm bản đồ vẽ vùng phụ cận thành Đại Lương, trên bản đồ vẽ đường hành quân của đôi bên, làm thế nào để đánh vào lưng địch, công vào lòng địch, làm thế nào để dụ quân địch từ Đồng Quan tất tả về cứu, làm thế nào để nhân lúc quân địch mệt mỏi hợp lại hạ thành, hoàn toàn giống hệt lời Quách Tĩnh vừa nói. Oa Khoát Đài và Đà Lôi nhìn nhìn phụ vương, lại nhìn nhìn Quách Tĩnh, đều vừa ngạc nhiên vừa khâm phục. Quách Tĩnh trong lòng rất phục, nghĩ thầm:

– Mình học binh pháp trong di thư của Vũ Mục, cũng không có gì lạ. Đại hãn không biết chữ, không đọc sách, lại anh minh như thế.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Lần này nam chinh, phá Kim ắt xong. Ở đây có ba cái cẩm nang, mỗi người lấy một cái, sau khi hạ thành Đại Lượng xong, ba người các ngươi họp nhau trên điện Kim Loan của hoàng đế Đại Kim cùng mở ra rồi theo kế mà làm.

Nói xong móc trong bọc ra ba cái túi gấm đưa cho mỗi người một cái.

Quách Tĩnh cầm lấy nhìn qua, thấy miệng túi dùng sơn đất thảy ra niêm kín, trên lớp sơn có đóng ấn chương của đại hãn. Thành Cát Tư Hãn lại nói:

– Chưa vào thành Đại Lương không được tự ý mở ra, trước khi mở túi ra, ba người phải kiểm tra lẫn nhau xem có túi nào mất dấu niêm phong không.

Ba người nhất tề lạy rạp xuống nói:

– Mệnh lệnh của đại hãn, há dám làm trái?

Thành Cát Tư Hãn hỏi:

– Quách Tĩnh ngươi bình nhật hành sự rất ngu độn, tại sao dùng binh lại linh mẫn như thế?

Quách Tĩnh lúc ấy bèn kể lại việc học được di thư của Vũ Mục. Thành Cát Tư Hãn hỏi tới việc cũ của Nhạc Phi, Quách Tĩnh đem chuyện Nhạc Phi đại phá quân Kim ở Chu Tiên trấn thế nào, quân Kim gọi ông ta là Nhạc gia gia thế nào, nói “Chống núi dễ, chống quân Nhạc gia khó” thế nào, nhất nhất kể lại. Thành Cát Tư Hãn không nói gì, chắp tay sau lưng đi qua đi lại trong trướng, thở dài nói:

– Hận không sinh ra sớm được trăm năm để giao thủ với vị anh hùng ấy một phen. Trên đời hôm nay còn có ai là địch thủ của ta.

Trong lời nói đầy vẻ cô đơn.

Quách Tĩnh từ kim trướng trở ra, nghĩ mấy hôm nay việc quân bận rộn, chưa từng gặp mẹ, sáng mai ra quân nam chinh để trả thù mấy đời cho Đại Tống, hôm nay cũng nên làm bạn với mẹ một lúc, bèn về lều của mẹ. Nhìn thấy đồ vật trong lều đã sắp xếp gọn ghẽ, chỉ còn có một người lính già coi giữ, vừa hỏi tới thì ra Lý thị mẹ y vâng lệnh đại hãn đã chuyển qua ở một gian lều khác.

Quách Tĩnh hỏi rõ chỗ rồi tới đó, thấy gian lều này so với gian lều vẫn ở lớn hơn gấp mấy lần vén cửa bước vào bất giác giật nảy mình, chỉ thấy trong trướng vàng bạc lóa mắt, nệm gấm chăn thêu, đều là những bảo vật trân quý mà quân Mông Cổ cướp được từ các nơi mang về. Công chúa Hoa Tranh làm bạn với Lý Bình, đang nói những chuyện thú vị của Quách Tĩnh thời trẻ con. Nàng thấy Quách Tĩnh bước vào, mỉm cười đứng dậy đón.

Quách Tĩnh nói:

– Mẹ, những đồ vật này từ đâu ra thế?

Lý Bình nói:

– Đại hãn nói con tây chinh lập được công lớn, đặc biệt thưởng cho con. Thật ra chúng ta nghèo hèn quen rồi, dùng làm gì tới những vật này.

Quách Tĩnh gật gật đầu, thấy trong trướng lại có thêm tám nữ tỳ hầu hạ mẹ mình, đều là nữ nô lệ mà đại quân bắt được.

Ba người trò chuyện một lúc, Hoa Tranh cáo từ ra về. Nàng nghĩ ngày mai Quách Tĩnh lại đi xa, hôm nay ắt có rất nhiều chuyện phải nói với nàng, nào ngờ ra trướng chờ suốt nửa ngày Quách Tĩnh vẫn không ra.

Lý Bình nói:

– Tĩnh nhi, công chúa nhất định chờ con ở ngoài, con cũng ra nói chuyện với nàng một lúc đi.

Quách Tĩnh dạ một tiếng, nhưng vẫn ngồi bất động.

Lý Bình thở dài nói:

– Chúng ta ở phía bắc suốt hai mươi năm, tuy đội ơn đại hãn rất nhiều, nhưng ta vẫn rất nhớ nhà. Chỉ mong phen này con đi diệt được nước Kim, hai mẹ con chúng ta sớm về được cố hương. Chúng ta về lại nhà cũ của cha con ở thôn Ngưu Gia, con cũng không phải là kẻ tham vinh hoa phú quý, không cần lên bắc nữa. Chỉ là việc công chúa thì không biết nên làm sao, trong chuyện này quả có rất nhiều chỗ khó xử.

Quách Tĩnh nói:

– Hôm trước con đã từng nói rõ với công chúa, Dung nhi đã chết, trọn đời con sẽ không cưới vợ nữa.

Lý Bình thở dài nói:

– Công chúa có thể còn tha thứ được, nhưng ta nghĩ tới ý đại hãn, quả thật rất lo lắng.

Quách Tĩnh nói:

– Đại hãn thế nào?

Lý Bình nói:

– Mấy hôm nay đại hãn đột nhiên vô cùng ưu đãi mẹ con, vàng bạc châu báu thưởng cho vô số. Tuy nói là ban thưởng công lao tây chinh của con, nhưng ta ở mạc bắc hai mươi năm, biết rõ tính tình đại hãn, xem ra trong này còn có nguyên cớ khác.

Quách Tĩnh nói:

– Mẹ, mẹ thấy có chuyện gì?

Lý Bình nói:

– Ta là phận đàn bà, có cao kiến gì đâu, chỉ là nghĩ kỹ thì đại hãn là muốn ép chúng ta làm chuyện gì đó.

Quách Tĩnh nói:

– Ờ, nhất định là ông muốn con thành thân với công chúa.

Lý Bình nói:

– Thành thân là chuyện hay, nhưng có quá nửa là đại hãn không biết trong lòng con không muốn, cũng không đến nỗi phải cưỡng ép. Theo ta thấy là con thống suất đại quân nam chinh, đại hãn sợ con đột nhiên dấy quân làm phản.

Quách Tĩnh lắc đầu nói:

– Con không có lòng muốn giàu sang, đại hãn biết rất rõ, con phản ông ta làm gì?

Lý Bình nói:

– Ta nghĩ ra một cách, hoặc có thể dò xét được ý đại hãn. Con nói ta nhớ nhà muốn về, muốn cùng về nam với con, con đi bẩm với đại hãn xem ông ta nói thế nào.

Quách Tĩnh mừng rỡ nói:

– Mẹ, sao mẹ không nói sớm? Chúng ta cùng về quê cũ đó là việc tốt đẹp tới mức nào, đại hãn nhất định sẽ ưng thuận.

Y vén cửa lều bước ra, không thấy Hoa Tranh, nghĩ chắc nàng chờ lâu quá đã trở về rồi.

Quách Tĩnh đi hồi lâu, cúi đầu buồn bã trở về. Lý Bình nói:

– Đại hãn không chịu phải không?

Quách Tĩnh nói:

– Chuyện này con không hiểu được, đại hãn nhất định giữ mẹ ở đây làm gì?

Lý Bình im lặng. Quách Tĩnh nói:

– Đại hãn nói phá Kim xong sẽ cho con đưa mẹ về quê, lúc ấy áo gấm về làng, há không rạng rỡ hơn sao? Con nói mẹ rất nhớ quê, chỉ mong sớm được về nam. Đại hãn đột nhiên có vẻ tức giận, cứ lắc đầu không chịu.

Lý Bình trầm ngâm nói:

– Ờ, nếu Nhị sư phụ của con và Dung nhi còn sống, nhất định sẽ đoán ra được. Chỉ hận là ta chỉ là một người đàn bà nhà quê dốt nát, chỉ càng nghĩ càng thấy không yên lòng chứ không biết vì sao.

Quách Tĩnh rút cái túi gấm ra mân mê trong tay, nói:

– Lúc đưa con cái túi gấm này, thần sắc trên mặt đại hãn rất kỳ lạ, chỉ sợ có liên quan tới chuyện này cũng chưa biết chừng.

Lý Bình cầm cái túi gấm nhìn kỹ một lúc rồi lập tức đuổi đám thị tỳ ra, nói:

– Mở ra xem thử.

Quách Tĩnh hoảng sợ nói:

– Không, phá mất dấu kim ấn là phạm tội chết đấy.

Lý Bình cười nói:

– Thuật dệt gấm của phủ Lâm An nổi tiếng khắp thiên hạ. Mẹ của con là con gái Lâm An, từ nhỏ đã học được. Cần gì phải phá hỏng vết niêm, chỉ khều phá túi gấm ra, trong chớp mắt đã dệt lại xong, quyết không có dấu vết gì cả.

Quách Tĩnh cả mừng. Lý Bình lấy kim nhỏ ra nhè nhẹ dứt đứt tơ chỉ trên túi gấm, lấy ra một trang giấy, mẹ con cùng mớ xem, ngớ mặt nhìn nhau, bất giác đều thấy sống lưng lạnh buốt.

Nguyên là trên tờ giấy viết một mật lệnh của Thành Cát Tư Hãn, sai ba cánh quân cửa Oa Khoát Đài, Đà Lôi, Quách Tĩnh phá xong quân Kim thì lập tức chuyển quân xuống nam, dùng thủ đoạn sét đánh không kịp bưng tai đánh phủ Lâm An, tiêu diệt nhà Tống, từ đó thiên hạ sẽ thống nhất về Mông Cổ. Trong mật lệnh lại nói nếu Quách Tĩnh có thể lập được đại công ấy thì nhất định sẽ cắt đất phong vương cho, không tiếc trọng thưởng, còn nếu có lòng khác thì Oa Khoát Đài và Đà Lôi đã có lệnh chỉ, cứ lập tức chém đầu y, mẹ y ắt cũng sẽ bị lăng trì.

Quách Tĩnh ngẩn ra suốt hồi lâu mới nói:

– Mẹ, nếu không phải mẹ phá túi ra lấy được mật lệnh thì tính mệnh mẹ con ta không thể giữ được. Nghĩ tới con là người Đại Tống, há lại có thể bán nước cầu vinh?

Lý Bình nói:

– Kế sách hôm nay nên làm thế nào?

Quách Tĩnh nói:

– Mẹ, chỉ cần lão nhân gia người chịu vất vả chúng ta liền đêm trốn về nam thôi.

Lý Bình nói:

– Đúng thế, ngươi mau đi thu thập hành lý, nhớ đừng để tiết lộ hình tích.

Quách Tĩnh gật đầu, quay về trướng mình lấy những vật tùy thân, ngoài con tiểu hồng mã còn chọn thêm tám con ngựa khỏe. Nếu đại hãn điểm binh đuổi theo thì có thể cùng mẹ thay đổi mà cưỡi để giảm sức ngựa, dễ thoát thân hơn.

Đối với tất cả những vàng bạc châu báu mà đại hãn ban cho, y đều không lấy một món, ngay cả thanh kim đao chuôi khảm đầu hổ cũng để lại trong trướng, cởi bỏ y phục nguyên soái ra, đổi mặc áo da bình thường. Y từ nhỏ sinh trưởng ở đại mạc, hôm nay một lần ra đi, vĩnh viễn không trở lại, trong lòng cũng thấy khó xử, đóng cửa chiếc lều mà mình đã trú ngụ lâu ngày lại, đứng ngẩn ra xuất thần, nhìn thấy sắc trời đã tối, lại trở về lều của mẹ.

Vừa vén cửa lều lên, đột nhiên tim đập thình thịch, chỉ thấy dưới đất có hai cái bao vứt lăn lóc, mẹ đã không thấy đâu. Quách Tĩnh kêu lên hai tiếng:

– Mẹ?

Nhưng không nghe trả lời, trong lòng cảm thấy không hay, đang định ra ngoài tìm kiếm. Đột nhiên cửa trướng mở ra, đèn lửa sáng rực, đại tướng Xích Lão Ôn đứng ngoài cửa trướng kêu “Đại hãn tuyên triệu Kim đao phò mã!”.

Sau lưng y có vô số quân sĩ, đều tay cầm trường mâu. Quách Tĩnh thấy tình hình như thế, trong lòng vô cùng hoảng hốt, nếu dựa vào võ công xông bừa ra thì chắc Xích Lão Ôn không cản được, nhưng lại nghĩ thầm:

– Mẹ đã bị đại hãn bắt đi, mình há lại có thể chạy trốn một mình?

Lúc ấy bèn theo Xích Lão Ôn tới kim trướng. Chỉ thấy ngoài trướng có hai ngàn tiễn đồng vệ sĩ của Thành Cát Tư Hãn xếp hàng, tay cầm trường mâu đại kích, trận thế tề chỉnh. Xích Lão Ôn nói:

– Đại hãn có lệnh trói ngươi lại. Tới đây thì phải đắc tội rồi, xin phò mã gia đừng trách.

Quách Tĩnh gật gật đầu, đưa tay chịu trói, bước vào trong trướng.

Trong trướng thắp mấy mươi ngọn đèn mỡ bò, chiếu sáng như ban ngày. Thành Cát Tư Hãn bộ mặt giận dữ, đập bàn một cái quát:

– Ta đãi ngươi không bạc, nuôi ngươi từ nhỏ đến lớn, lại đem con gái ruột hứa gả cho ngươi. Tiểu tặc, sao ngươi dám phản bội ta?

Quách Tĩnh thấy chiếc túi gấm mở ra đặt trên bàn đại hãn, biết hôm nay đã có chết không sống, bèn hiên ngang nói:

– Ta là thần dân Đại Tống há lại nghe hiệu lệnh của ngươi, tấn công nước mình?

Thành Cát Tư Hãn nghe y buông lời đụng chạm lại càng tức giận, quát kéo y ra chém đầu.

Quách Tĩnh hai tay bị dây thừng lớn trói chặt, tám tên đao phủ thủ cầm đao đứng bên cạnh, không sao chống cự, kêu lên:

– Ngươi liên minh với Đại Tống đánh Kim, giữa đường lại phản bội lời thề, nói không giữ lời, sao gọi là anh hùng được?

Thành Cát Tư Hãn cả giận, phóng chân đá lật cái bàn, quát:

– Khi ta phá Kim xong thì minh ước với Triệu Tống đã kết thúc, lúc ấy nam hạ đánh Tống lại là bội ước à? Mau chém nó đi?

Chư tướng tuy có nhiều người giao hảo với Quách Tĩnh nhưng thấy đại hãn nổi giận, đều không dám xin tha y. Quách Tĩnh càng không nói gì, sãi chân bước ra khỏi trướng.

Đột nhiên thấy Đà Lôi phóng ngựa từ thảo nguyên phóng mau tới, kêu lớn “Đao hạ lưu nhân!”. Y nửa người trên cởi trần, nửa người dưới chỉ mặc một chiếc khố da, chắc đang ngủ nghe được tin vội vàng tới xin. Y xông thẳng vào trướng kêu lên:

– Phụ vương, Quách Tĩnh an đáp lập được công lớn, từng cứu tính mạng của cha và con, dù phạm tử tội cũng không thể chém được.

Thành Cát Tư Hãn nghĩ tới công lao của Quách Tĩnh, bèn quát:

– Dắt y vào đây.

Bọn đao phủ thủ lại giải Quách Tĩnh vào.

Thành Cát Tư Hãn trầm ngâm hồi lâu, nói:

– Ngươi nghĩ tới nhà Triệu Tống thì có chỗ nào hay? Ngươi từng nói với ta việc Nhạc Phi, y tận trung báo nước như thế mà rất lại vẫn bị xử tử. Ngươi đánh dẹp Triệu Tống cho ta, hôm nay trước mặt mọi người ta đáp ứng phong cho ngươi làm Tống vương, để ngươi cai trị giang sơn Nam triều.

Quách Tĩnh nói:

– Không phải tôi dám làm phản đại hãn. Nhưng nếu bắt tôi bán nước cầu vinh thì tuy phải chịu ngàn đao muôn kiếm cũng không thể vâng lệnh được.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Dắt mẹ y ra đây.

Hai tên thân binh bèn giải Lý Bình sau trướng ra.

Quách Tĩnh nhìn thấy mẹ, kêu lên:

– Mẹ?

Rồi bước lên hai bước, đao phủ thủ vung đao chặn lại. Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Chuyện này chỉ có hai mẹ con mình biết, không biết vì sao lại bị lộ ra.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Nếu chịu làm theo lời ta thì mẹ con ngươi đều được vinh hiển, nếu không thì trước hết chém mẹ ngươi làm hai đoạn, đó là ngươi hại đấy. Ngươi hại chết mẹ mình thì trước hết đã là người bất hiếu rồi.

Quách Tĩnh nghe mấy câu ấy của y chỉ hoảng sợ đứng tim, cúi đầu trầm ngâm, không biết làm sao là tốt.

Đà Lôi khuyên:

– An Ðáp, ngươi từ nhỏ đã sinh trưởng ở Mông Cổ, chẳng khác gì người Mông Cổ. Bọn tham quan Triệu Tống câu kết với người Kim, hại chết cha ngươi, ép mẹ ngươi không có nhà mà về. Nếu không phải phụ vương thu lưu, ngươi làm sao có được ngày hôm nay. Anh em ta tình sâu nghĩa nặng, ta không thể để ngươi phải làm người bất hiếu, mong ngươi hồi tâm chuyển ý, tuân phục lệnh chỉ của đại hãn.

Quách Tĩnh nhìn mẹ, đang định lên tiếng ưng thuận nhưng nhớ tới lời mẹ răn dạy lúc bình nhật, lại nghĩ tới thảm trạng nhà tan người chết ở các nước phương tây sau khi bị quân Mông Cổ chinh phục, quả thật tiến lui đều khó.

Thành Cát Tư Hãn hai mắt trừng trừng nhìm y, chờ y lên tiếng. Mấy trăm người trong kim trướng cũng im lặng không một hơi thở, tất cả ánh mắt đều đổ dồn vào Quách Tĩnh. Quách Tĩnh nói:

– Ta…

Rồi bước tới một bước, lại không nói được nữa.

Lý Bình chợt nói:

– Đại hãn, e thằng nhỏ này nhất thời không nghĩ rõ được, để tôi khuyên y được không?

Thành Cát Tư Hãn cả mừng, luôn miệng nói:

– Được ngươi mau khuyên y đi.

Lý Bình bước tới trước mặt, kéo tay Quách Tĩnh bước vào góc kim trướng, hai người cùng ngồi xuống. Lý Bình ôm ngang hông con, nói khẽ:

– Hai mươi năm trước ta ở thôn Ngưu Gia phủ Lâm An đã mang con trong bụng. Một hôm tuyết lớn Khu Xử Cơ Khưu đạo trưởng quen biết với cha con, tặng cho hai thanh chuỷ thủ, một cho cha con, một cho Dương thúc phụ của con.

Vừa nói vừa rút trong bọc Quách Tĩnh ra ngọn chuỷ thủ ấy, chỉ vào hai chữ Quách Tĩnh khắc trên chuôi, nói:

– Khưu đạo trưởng đặt tên con là Quách Tĩnh, đặt tên con của Dương thúc phụ là Dương Khang, con có biết là ý gì không?

Quách Tĩnh nói:

– Khưu đạo trưởng muốn nói bọn con không được quên cái nhục Tĩnh Khang.

Lý Bình nói:

– Đúng thế. Con nhà họ Dương nhận giặc làm cha tới nỗi thân bại danh liệt, chuyện đó không cần nói, chỉ đáng tiếc là Dương thúc phụ một đời hào kiệt mà con cháu về sau lại bôi nhọ tiếng tăm anh hùng của y.

Rồi hít vào một hơi, nói:

– Nhớ lại ta năm xưa nhịn nhục chịu khổ nuôi con khôn lớn trên vùng Mông Cổ giá rét là để làm gì? Chẳng lẽ để nuôi lớn một tên gian tặc bán nước khiến cha con dưới suối vàng đau lòng sao?

Quách Tĩnh kêu lên một tiếng:

– Mẹ?

Nước mắt chảy xuống ròng ròng.

Lý Bình nói bằng tiếng Hán, Thành Cát Tư Hãn và Đà Lôi cùng chư tướng đều không hiểu ý, nhưng thấy Quách Tĩnh rơi nước mắt, chỉ cho rằng Lý Bình tham sống sợ chết đã khuyên con ưng thuận, ai cũng mừng thầm.

Lý Bình lại nói:

– Đời người trăm tuổi, chớp mắt là qua, việc sống chết có gì là lớn? Chỉ cần một đời hành sự không có gì phải thẹn với lòng, thì cũng không uổng làm người trên đời một dịp. Nếu người khác phụ ta, cũng không cần phải nhớ tội lỗi của họ. Con nhớ lời ta đấy!

Bà chăm chú nhìn Quách Tĩnh hồi lâu, thần sắc trên mặt vô cùng dịu dàng, nói:

– Hài tử con nhìn ta cho kỹ nhé?

Nói xong giơ ngọn chuỷ thủ cắt dây trói cho y. Rồi lập tức xoay mũi kiếm lại đâm vào giữa ngực.

Quách Tĩnh hai tay rời khỏi dây, vội vàng ngăn lại nhưng thanh chuỷ thủ sắc bén dị thường đã đâm ngập tới cán. Thành Cát Tư Hãn giật nảy mình kêu lên:

– Bắt lấy?

Tám tên đao phủ thủ không dám làm phò mã bị thương, đều ném binh khí trong tay xuống, bò rạp ra đất.

Quách Tĩnh vô cùng đau thương, bế mẹ lên, một chiêu Tảo đường thoái quét ngã hai tên đao phủ thủ vọt ra ngoài. Y khuỷu tay trái hích ngược lại, đánh vào giữa ngực một tên đao phủ thủ, chát một tiếng, xương sườn gãy luôn. Các tướng kêu ầm lên, nép người sấn vào. Quách Tĩnh lui vào vách, tay trái nắm vách trướng dùng sức giật một cái, nửa gian kim trướng đổ xuống trùm lên các tướng. Trong lúc hỗn loạn, y ôm mẹ chạy thẳng ra ngoài. Chỉ nghe tiếng tù và vang lên gấp rút, tướng sĩ nhao nhao lên ngựa đuổi theo. Quách Tĩnh kêu lên mấy tiếng:

– Mẹ?

Không nghe mẹ trả lời, đưa tay lên mũi thì đã đứt hơi. Y ôm xác mẹ chạy mau trong đêm tối chỉ nghe bốn phía người reo ngựa hí, ánh lửa sáng như sao sa. Y hoảng sợ không chọn đường chạy một hồi, nhìn thấy đông nam tây bắc đều là tướng sĩ Mông Cổ cho dù y thần dũng, nhưng lẻ loi một mình, làm sao chống được hơi mười vạn tinh binh Mông Cổ? Nếu cưỡi trên lưng con tiểu hồng mã, dựa vào cước lực của con bảo mã thì hoặc giả còn có thể chạy trốn, chứ hiện đang bế xác mẹ đi chân không, thì quả thật là không thể thoát hiểm được.

Y không nói một tiếng, sãi chân chạy mau, nghĩ chỉ cần chạy lên được dốc núi dựng đứng, triển khai khinh công lên đỉnh núi, thì quân tướng Mông Cổ tuy nhiều nhưng không ai lên được, cũng có thể tạm thời ẩn náu một lúc sẽ tìm cách thoát thân. Đang chạy mau chợt nghe trước mặt có tiếng hò reo ầm ầm, một đội quân mã xông tới, dưới ánh sáng nhìn thấy rất rõ, người đi đầu là một viên đại tướng mặt đỏ râu bạc, chính là Xích Lão Ôn, một trong tứ kiệt. Quách Tĩnh nghiêng người tránh một đao của Xích Lão Ôn chém tới không hề quay người, vẫn sấn lên xông thẳng vào trận. Quân Mông Cổ cùng bật tiếng reo ầm ầm. Quách Tĩnh tay trái vươn ra nắm được chân phải một viên Thập phu trưởng, chân phải điểm xuống người đã vọt lên. Y chuyển người cưỡi trên lưng ngựa, đặt xác mẹ xuống yên ổn rồi, thuận tay ném viên Thập phu trưởng xuống ngựa, cướp lấy trường mâu trong tay y. Lên ngựa, đặt mẹ, ném địch, đoạt mâu, bốn việc liên tiếp một mạch, lúc ấy như hổ mọc cánh, hai chân kẹp một cái múa ngọn trường mâu lên, từ sau trận xông ra phía ngoài. Xích Lão Ôn lớn tiếng thúc quân đuổi theo.

Tuy xông ra khỏi trận địch nhưng hướng phóng chạy lại ngược lại với phía dốc núi dựng đứng, càng chạy càng xa. Vậy nên phi ngựa chạy về phía nam hay chạy lên dốc núi dựng đứng trước? Trong lòng còn do dự chưa quyết, đại tướng Bát Nhĩ Truật lại đã dẫn quân đánh tới. Lúc ấy Thành Cát Tư Hãn nổi giận như sấm, truyền lệnh phải bắt sống được Quách Tĩnh. Đại đội nhân mã từng lớp từng lớp kéo tới bao vây, lại có vài ngàn quân mã phóng về phía nam bày trận thế trước, đề phòng y chạy thoát.

Quách Tĩnh xông qua đám người ngựa của Bác Nhĩ Truật, trên ngựa trên áo lốm đốm vết máu, nếu không phải là đại hãn ra lệnh bắt sống, quân tướng Mông Cổ không dám phát tên, lúc xung sát còn nhường nhịn ba phần thì Quách Tĩnh cho dù thần dũng cũng làm sao ra khỏi vòng vây. Y chỉ thấy xác mẹ trên tay đã lạnh ngắt, cố nín khóc phóng ngựa về lúa nam. Truy binh phía sau xa dần, nhưng trời đã hửng sáng. Đang ở giữa đất Mông Cổ, cách Trung thổ hàng vạn dặm, một ngựa một thương làm sao thoát khỏi truy binh, trốn về quê cũ?

Chạy được không bao lâu, trước mặt bụi bay mù mịt, một toán quân xông tới.

Quách Tĩnh vội kéo ngựa chạy về phía đông. Nào ngờ con ngựa xung sát suốt nửa đêm, đã mệt mỏi chịu không nổi, lúc ấy hai chân trước khuỵu xuống không đứng lên được nữa. Lúc ấy tình thế đã vô cùng nguy cấp nhưng y vẫn nhất định không chịu bỏ xác mẹ, liền tay trái bế mẹ, tay phải cầm mâu, quay lại đón địch.

Nhìn thấy quân mã xông tới gần, trong làn bụi bốc có tiếng gió rít, một mũi tên bắn trúng ngọn trường mâu. Mũi tên này kình lực rất mạnh, Quách Tĩnh chỉ thấy ngọn trường mâu trong tay chấn động một cái, mũi mâu đã bị bắn gãy. Kế đó lại có một mũi tên bắn vào trước ngực. Quách Tĩnh ném trường mâu xuống, vươn tay chụp thì thấy mũi tên đã bị bẻ gãy đầu. Y sửng sốt ngẩng đầu lên, chỉ thấy một viên tướng kìm quân lại, một mình phóng tới, chính là Thần tiễn tướng quân Triết Biệt năm xưa đã dạy y tiễn pháp. Quách Tĩnh kêu:

– Sư phụ, người tới bắt con về phải không?

Triết Biệt đáp

– Đúng thế.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Cho dù là hôm nay không thoát khỏi vòng vây, thì để cho người khác bắt chẳng bằng để sư phụ lập công.

Liền nói:

– Được, để con chôn mẹ trước đã.

Nhìn quanh thấy bên trái có một gò đất bèn bế mẹ lên gò, dùng ngọn mâu gãy đào hố, đặt xác mẹ vào, thấy thanh chuỷ thủ còn cắm ngập vào ngực, y không nỡ rút ra, quỳ xuống lạy mấy lạy rồi vun cát lấp lại nghĩ tới mẹ suốt đời vất vả nuôi nấng mình thành người, không ngờ lại phải vùi thây ở đây, vô cùng đau đớn, nhưng không sao khóc được.

Triết Biệt nhảy xuống ngựa, quỳ xuống cạnh mộ Lý Bình lạy bốn lạy, đưa hết ống tên cung sắt, trường mâu cho Quách Tĩnh, lại dắt con ngựa của mình tới nhét dây cương vào tay Quách Tĩnh, nói:

– Ngươi đi đi, e rằng sau này chúng ta không còn gặp lại nhau đâu.

Quách Tĩnh ngạc nhiên kêu lên:

– Sư phụ?

Triết Biệt nói:

– Năm xưa ngươi xả thân cứu ta, chẳng lẽ ta không phải nam tử hán đại trượng phu, không dám xả thân cứu ngươi sao?

Quách Tĩnh nói:

– Sư phụ, người phạm quân lệnh của đại hãn, tai họa không nhỏ đâu.

Triết Biệt nói:

– Nghĩ ta đánh đông dẹp tây, lập được không ít công lao hãn mã. Đại hãn nhiều lắm là đánh đòn ta chứ không đến nỗi chém đầu. Ngươi chạy mau đi thôi.

Quách Tĩnh vẫn còn do dự.

Triết Biệt nói:

– Ta chỉ sợ thuộc hạ không tuân lệnh nên lần này chỉ đem theo bộ thuộc cũ của ngươi lúc tây chinh. Ngươi cứ bước qua hỏi thử xem họ có tham giàu sang mà bắt ngươi không?

Quách Tĩnh dắt ngựa bước tới gần, tướng sĩ nhất tề xuống ngựa, lạy rạp xuống đất nói:

– Bọn tiểu nhân kính tiễn tướng quân về nam.

Quách Tĩnh nhìn ra quả nhiên đều là những tướng sĩ bộ thuộc cũ từng theo y ra sống vào chết xông thành hãm trận, trong lòng cảm động, nói:

– Ta đắc tội với đại hãn, theo lẽ phải bị hành hình. Các ngươi thả ta chạy trốn, nếu đại hãn biết ắt sẽ bị phạt nặng.

Các tướng sĩ nói:

– Tướng quân đối xử với chúng tôi ơn nghĩa như núi, không dám phụ ơn.

Quách Tĩnh thở dài một tiếng, đưa tay chào mọi người, cầm thương lên ngựa. Đang định phóng ngựa đi, chợt thấy trước mặt bụi bay mịt mù, lại có một đội quân mã kéo tới. Triết Biệt, Quách Tĩnh và các tướng sĩ đều biến sắc. Triết Biệt tự nhủ:

– Mình liều mạng chịu trách phạt, tha Quách Tĩnh đi nhưng nếu đánh nhau với quân nhà thì là công nhiên làm phản rồi.

Bèn kêu lên:

– Quách Tĩnh chạy mau.

Chỉ nghe quân phía trước quát lớn:

– Không được làm phò mã gia bị thương.

Mọi người sửng sốt, chỉ thấy đội quân kia kéo tới gần, giương cao cờ hiệu của Tứ vương tử. Trong đám bụi Đà Lôi phóng ngựa mau tới, trong chớp mắt đã tới gần, nguyên là y cưỡi con tiểu hồng mã của Quách Tĩnh. Y thúc ngựa tới gần thì tung người nhảy xuống, nói:

– An Ðáp, ngươi chưa bị thương chứ?

Quách Tình nói:

– Không sao, sư phụ Triết Biệt đang muốn bắt ta về gặp đại hãn.

Y cố ý che giấu cho Triết Biệt, để Thành Cát Tư Hãn không biết được nội tình.

Đà Lôi liếc xéo Triết Biệt một cái, nói:

– An Ðáp, ngươi cưỡi con tiểu hồng mã chạy mau đi.

Lại đặt một cái bao lên yên ngựa, nói:

– Trong này có mười lượng vàng, anh em ta còn có ngày gặp lại.

Kẻ sĩ hào kiệt gặp tình thế ấy cũng không cần nói nhiều. Quách Tĩnh nhảy lên con tiểu hồng mã, nói:

– Ngươi nói em Hoa Tranh bảo trọng, lấy người khác đi, đừng nghĩ tới ta nữa.

Đà Lôi thở dài một tiếng nói:

– Em Hoa Tranh vĩnh viễn không lấy người khác đâu. Ta thấy nó nhất định sẽ xuống nam tìm ngươi, lúc ấy ta sẽ sai người hộ tống.

Quách Tĩnh vội nói:

– Không, không cần tìm ta. Vả lại đừng nói trời đất mênh mông khó mà tìm được, cho dù có gặp lại cũng chỉ càng thêm phiền muộn.

Đà Lôi im lặng, hai người nhìn nhau không nói câu nào. Qua hồi lâu, Đà Lôi nói:

– Đi đi, ta tiễn ngươi một đoạn.

Hai người sóng ngựa phóng về phía nam, đi hơn ba mươi dặm. Quách Tĩnh nói:

– An Ðáp, tiễn đưa ngàn dặm cũng phải chia tay, ngươi về đi thôi?

Đà Lôi nói:

– Ta đưa ngươi thêm đoạn nữa.

Lại đi hơn mười dặm, hai người xuống ngựa chào nhau, rơi lệ chia tay. Đà Lôi nhìn thấy bóng Quách Tĩnh nhỏ dần, dần dần chỉ còn là một đốm đen trên đại mạc, cuối cùng mất hẳn, nhìn về phía nam, đứng lặng hồi lâu, mới buồn rầu trở về.

Hồi 39: Thị phi thiện ác

Quách Tĩnh phi ngựa đi mau được mấy hôm, đã rời khỏi nơi nguy hiểm.

Trên đường về nam khí trời ấm dần, cỏ xanh ngày dài, dọc đường sau cơn binh lửa nhà cửa thành quách điêu tàn, xác chết đầy đường, những điều nghe thấy đều là việc cay mắt đau lòng. Một hôm tới một ngôi đình hỏng tạm nghỉ chân, thấy trên vách đề mấy hàng chữ:

“Thơ thời Đường có câu:

Róc rách khe quanh bóng nắng tà,

Chỉ nghe tiếng quạ vẳng xa xa,

Ngàn thôn muôn xóm như Hàn thực,

Khói bếp không bay chỉ thấy hoa.

Nay giang sơn gấm vóc của chúng ta đã thành chiến trường của quân mọi rợ, sinh dân đồ thán còn hơn trong bài thơ này nữa.”

Quách Tĩnh nhìn mấy hàng chữ ấy ngẩn người xuất thần, nỗi buồn kéo tới, không kìm được ứa nước mắt.

Y lang thang rong ruổi, không biết đi đâu, chỉ trong một năm mà mẹ, Hoàng Dung, sư phụ, những người thân nhất trên đời đã lần lượt ra đi. Âu Dương Phong hại chết ân sư và Hoàng Dung thì vốn có thể tìm y trả thù, nhưng vừa nghĩ tới hai chữ trả thù thì cảnh tượng thảm sát toàn thành ở Hoa Thích Tử Mô lại lập tức hiện ra trong lòng, hối hận rằng tuy trả được thù cha nhưng lại làm hại không biết bao nhiêu bách tính vô tội, trong lòng làm sao yên ổn được? Xem ra việc trả thù ấy chưa chắc đã là phải.

Bấy nhiêu ý nghĩ kéo tới trong lòng:

– “Mình một đời khổ luyện võ nghệ, luyện tới mức như bây giờ có làm được gì? Ngay cả mẹ và Dung nhi cũng không bảo vệ được thì luyện võ nghệ có ích lợi gì? Mình dốc đòng muốn làm người tốt, nhưng rốt lại để cho ai sung sướng chứ? Mẹ và Dung nhi vì mình mà chết, em Hoa Tranh thì vì mình mà đau khổ suốt đời, đúng là mình làm hại không biết bao nhiêu người.”

“Bọn Hoàn Nhan Hồng Liệt, Ma Ha Mạt tự nhiên là người xấu. Nhưng Thành Cát Tư Hãn thì sao? Ông giết Hoàn Nhan Hồng Liệt cũng gọi là người tốt, nhưng lại sai mình đi đánh Đại Tống, ông nuôi mẹ con mình hai mươi năm, rốt lại lại bức tử mẹ mình.”

“Mình kết nghĩa huynh đệ với Dương Khang, nhưng hai người thủy chung lòng dạ khác nhau. Tỷ tỷ Mục Niệm Từ là người tốt, tại sao lại dốc lòng yêu thương Dương Khang như thế? Đà Lôi an đáp tâm đầu ý hợp với mình, nếu y mang quân tấn công phía nam thì mình có phải gặp y trên chiến trường, đánh nhau sống chết hay không? Không, không, mỗi người đều có mẹ, đều là mẹ mình mang thai mười tháng sinh ra, khổ cực vất vả nuôi đến khi lớn lên, mình làm sao giết con cái người khác để mẹ họ đau lòng? Họ không nỡ giết mình, mình cũng không nỡ giết họ.”

“Nhưng chẳng lẽ cứ để mặc họ tới tàn sát bách tính Đại Tống chúng ta? Học võ là để đánh người giết người, xem ra hai mươi năm qua mình đều lầm cả, mình cứ chăm chăm khổ luyện, rốt lại chỉ hại người. Nếu sớm biết thế này, mình không biết một chút võ nghệ nào lại hay. Nhưng nếu không học võ thì làm được chuyện gì? Mình sống trên đời rất lại để làm gì? Trong mấy mươi năm tới mình phải làm gì? Sống là tốt hay chết sớm đi là tốt? Nếu sống thì bây giờ đã phiền não không biết bao nhiêu, về sau càng ngày lại càng nhiều hơn. Mà nếu sớm chết đi thì lúc đầu mẹ mình sinh mình làm gì? Lại cần gì phải vất vả nuôi mình khôn lớn?.”

Bấy nhiêu ý nghĩ trở đi trở lại, càng nghĩ càng mờ mịt.

Liên tiếp mấy ngày, y cả ngày không ăn không ngủ, lần mò trên đồng trống, chỉ nghĩ ngợi bấy nhiêu việc. Lại nghĩ:

– Mẹ và các vị ân sư trước nay vẫn dạy mình làm người phải trọng nghĩa thủ tín, vì thế mình tuy rất yêu thương Dưng nhi nhưng thủy chung vẫn không bỏ hôn ước của đại hãn, kết quả là không những làm mẹ và Dung nhi chết uổng, mà Đại hãn, Đà Lôi, Hoa Tranh trong lòng cũng có gì vui sướng đâu? Bảy vị ân sư Giang Nam thất hiệp và Hồng ân sư đều là kẻ sĩ hiệp nghĩa, cũng không ai có chưng cục tốt đẹp. Âu Dương Phong và Cừu Thiên Nhận làm nhiều điều bất nghĩa thì vẫn tiêu dao tự tại. Trên thế gian rốt lại còn có đạo trời lẽ trời không ông trời rốt lại có mắt hay không?

Hôm ấy tới một tiểu trấn thuộc phủ Tế Nam sơn Đông, y vào một tửu quán uống rượu giải sầu một mình, vừa uống được vài chén chợt một hán tử xông vào cửa chỉ mặt y ngoác mồm chửi:

– Thằng giặc Thát Đát hại ta nhà phá người chết, hôm nay ta sẽ liều mạng với ngươi.

Nói xong vung quyền đánh vào giữa mặt y. Quách Tĩnh giật mình, tay trái lật lại một cái nắm cứng cổ tay y xô nhẹ ra, người ấy ngã lăn ra đất, rõ ràng không hề biết võ công. Quách Tĩnh thấy vô ý mà hất y ngã vỡ đầu chảy máu, vô cùng hối hận, vội đưa tay đỡ y dậy, nói:

– Đại ca, ngươi nhận lầm ngươi rồi?

Người kia gào lên be be, chỉ chửi:

– Thằng giặc “Thát Đát”

Ngoài cửa lại có mấy mươi hán tử xông vào sấn tới vung quyền phóng cước đánh đá. Quách Tĩnh mấy hôm ấy đã biết võ công làm hại người, quyết ý không động thủ với ai, lại thêm những người này đều không quen biết, lại không biết võ nghệ, chỉ đánh bừa đá ẩu, lúc ấy tránh đông né tây, không hề đánh trả. Nhưng bên ngoài người kéo tới càng lúc càng đông, đứng dày đặc khắp trong ngoài quán rượu, rốt lại y cũng bị đánh trúng mấy đòn.

Y đang muốn vận kình xô mọi người ra chạy ra khỏi quán chợt nghe ngoài cửa có người cao giọng nói:

– Tĩnh nhi, ngươi ở đây làm gì thế?

Quách Tĩnh ngẩng nhìn thấy người ấy mặc đạo bào, râu dài phất phơ, chính là Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ, trong lòng cả mừng, kêu lên:

– Khưu đạo trưởng, đám người này không biết vì sao lại đánh con.

Khưu Xử Cơ hai tay vung ra hai bên, rẽ mọi người ra bước tới kéo Quách Tĩnh ra ngoài.

Mọi người theo sau đánh đá chửi bới, nhưng Khưu Quách hai người sãi chân chạy mau, Quách Tĩnh gọi con tiểu hồng mã chạy theo, trong giây lát hai người một ngựa đã chạy ra đồng trống, bỏ đám người phía sau mất hút. Quách Tĩnh kể chuyện đám người kia vô cớ đánh mình. Khưu Xử Cơ cười nói:

– Ngươi mặc quần áo theo lối Mông Cổ, họ chửi ngươi là người “Thát Đát” thôi. Kế nói việc quân Mông Cổ giao chiến với quân Kim ở một dải sơn Đông, bách tính ở đó đã chịu khổ vì quân Kim đã lâu, lúc đầu ra sức giúp đỡ quân Mông Cổ nào ngờ tướng sĩ Mông Cổ cũng tàn ngược như người Kim, đem sự tàn bạo này thay sự tàn bạo kia, cướp bóc đốt phá giết chóc hãm hiếp lại càng hại bách tính thêm khốn khổ. Đại đội quân Mông Cổ tràn qua, bách tính không dám làm gì, nhưng quan binh chỉ cần có ai rơi lại phía sau thì đều bị bách tính đánh chết.

Khưu Xử Cơ lại hỏi:

– Rồi ngươi cứ để họ đánh thế à? Ngươi nhìn xem trên người ngươi bao nhiêu là vết bầm tím.

Quách Tĩnh thở dài một tiếng, kể lại việc đại hãn ra mật lệnh tấn công phương nam, bức tử mẹ y.

Khưu Xử Cơ hoảng sợ nói:

– Thành Cát Tư Hãn đã có kế sách đánh Tống, chúng ta phải mau mau nam hạ báo cho triều đình sớm phòng bị.

Quách Tĩnh lắc đầu nói:

– Như thế có gì hay? Kết quả chỉ khiến tướng sĩ đôi bên đánh nhau thây chất thành núi, bách tính thì nhà phá người chết.

Khưu Xử Cơ nói:

– Nếu nhà Tống mất về Mông Cổ thì bách tính càng chịu khổ nhiều hơn.

Quách Tĩnh nói:

– Khưu đạo trưởng, con có rất nhiều việc không hiểu được, muốn thỉnh giáo người chỉ điểm.

Khưu Xử Cơ kéo tay y tới ngồi dưới một gốc hòe, nói:

– Ngươi nói đi!

Quách Tĩnh lúc ấy đem tất cả những suy nghĩ về việc sai đúng khó biết rõ, học võ cũng vô ích trong mấy hôm rồi nói ra, sau cùng thở dài nói:

– Đệ tử lập chí suốt đời này không tranh đấu với người ta nửa. Chỉ hận là không thể quên tất cả võ công đã học được chỉ vì luyện võ lâu ngày đã quen tay, mới rồi bất cẩn một cái lại xô người ta ngã vỡ đầu chảy máu.

Khưu Xử Cơ lắc đầu nói:

– Tĩnh nhi, ngươi nghĩ thế không đúng rồi. Mấy mươi năm trước bí kíp võ lâm Cửu âm chân kinh xuất hiện trên đời, không biết bao nhiêu hào kiệt giang hồ đã vì nó mà chuốc cái họa sát thân, về sau luận kiếm ở Hoa Sơn, sư phụ ta là Trùng Dương chân nhân đứng đầu quần hùng, đoạt được chân kinh. Lão nhân gia người vốn đã định hủy đi, nhưng về sau lại nói: Nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể làm lật thuyền, là phúc hay là họa thì còn tùy ở người dùng, rốt lại vẫn giữ bộ kinh thư ấy đến nay. Những văn tài võ lược võ khí sắc bén trên đời, không gì không thể tạo phúc cho người mà cũng không gì không thể gây họa cho đời. Chỉ cần ngươi dốc lòng làm thiện thì võ công càng cao cường càng tốt, cần gì phải quên đi?

Quách Tĩnh trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

– Lời của đạo trường tuy không sai, nhưng nghĩ tới chuyện đời hôm nay, hảo hán giang hồ đều khen Đông tà, Tây độc, Nam đế, Bắc cái bốn người là võ công cao cường nhất. Nhưng đệ tử nghĩ kỹ lại, nếu muốn luyện võ công tới mức bốn vị tiền bối ấy thì thiên nan vạn nan, mà cho dù tới được mức ấy, thì cũng có ích gì cho người cho mình đâu?

Khưu Xử Cơ ngẩn người ra hồi lâu mới nói:

– Hoàng Dược Sư hành vi hẹp hòi kỳ quái, tuy vì hận đời ghét tục nhưng trong lòng cũng có nỗi khổ khó nói ra, nhưng chỉ làm điều mình cho là đúng, trước nay không nghĩ gì tới người khác, ta thấy không được. Âu Dương Phong làm ác nhiều bề thì không cần nói nữa. Đoàn hoàng gia từ hòa khoan hậu, nếu làm vua một cõi thì vốn có thể tạo phúc cho bách tính, nhưng y lại vì một chút ân oán nhỏ trốn đời ẩn cư, cũng không thể kể là người đại nhân đại dũng. Chỉ có Hồng Thất công Hồng bang chủ hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổn phù nguy, ta đối với ông ta mới khâm phục sát đất. Lần luận kiếm ở Hoa Sơn lần thứ hai trong chớp mắt sẽ tới cho dù có ai võ công cao hơn Hồng Thất công thì kẻ sĩ hào kiệt trong thiên hạ vẫn cứ tôn Hồng Thất công là người đứng đầu võ lâm hiện nay.

Quách Tĩnh nghe tới mấy chữ Luận kiếm ở Hoa Sơn, trong lòng hoảng sợ, nói:

– Thương thế của ân sư con đã khỏi hẳn chưa? Lão nhân gia người có tới Hoa Sơn phó ước không?

Khưu Xử Cơ nói:

– Sau khi ta từ Tây Vực trở về cũng chưa gặp Hồng bang chủ, nhưng bất kể ông có xuất thủ hay không thì nhất định cũng sẽ tới Hoa Sơn. Ta cũng đang vì chuyện đó mà đi qua đây ngươi theo ta đi xem không?

Quách Tĩnh trong mấy hôm ấy trong lòng nguội lạnh thấy việc tranh bá quyết thắng rất phiền phức, lắc đầu nói:

– Đệ tử không đi, xin đạo trưởng đừng trách.

Khưu Xử Cơ nói:

– Ngươi định đi đâu?

Quách Tĩnh thẫn thờ đáp:

– Đệ tử không biết. Đi đâu cũng thế thôi!

Khưu Xử Cơ thấy thần sắc y phờ phạc, hình dung tiều tụy như vừa mắc bệnh nặng mới khỏi, trong lòng rất lo lắng, nhưng tuy gợi chuyện đủ cách mà Quách Tĩnh vẫn cứ lắc đầu không nói. Khưu Xử Cơ nghĩ thầm:

– Trước nay y vốn nghe lời Hồng bang chủ, nếu y tới Hoa Sơn, thầy trò gặp nhau, hoặc có thể khiến y trở lại như cũ, ra dáng con người. Nhưng làm sao Khuyên y đi đây?

Đột nhiên nhớ lại một chuyện, bèn nói:

– Tĩnh nhi, ngươi muốn quên tất cả những võ công đã học được thì cũng có cách đấy.

Quách Tĩnh nói:

– Thật à?

Khưu Xử Cơ nói:

– Trên đời có một người lúc vô ý học được võ công thượng thặng trong Cửu âm chân kinh, nhưng về sau lại nghĩ việc ấy là trái với lời thề, phụ mất lời dặn dò của người khác nên rốt lại đã cố gắng quên được tất cả các võ công ấy. Ngươi muốn học thì không đi thỉnh giáo ông ta không xong.

Quách Tĩnh nhảy bật dậy kêu lên:

– Đúng, là Chu Bá Thông Chu đại ca.

Rồi lập tức nhớ lại Chu Bá Thông là sư thúc của Khưu Xử Cơ, mình lại buột miệng kêu y là đại ca, há không phải là còn cao hơn Khưu Xử Cơ một bậc, không kìm được vô cùng xấu hổ.

Khưu Xử Cơ cười khẽ một tiếng, nói:

– Chu sư thúc trước nay cũng không phân biệt tôn ty lớn nhỏ giữa bọn ta, ngươi thích thế nào thì cứ gọi thế ấy, ta không để ý đâu.

Quách Tĩnh nói:

– Y ở đâu?

Khưu Xử Cơ nói:

– Lần luận kiếm này ở Hoa Sơn, nhất định Chu sư thúc sẽ tới.

Quách Tĩnh nói:

– Được, vậy thì con theo đạo trưởng lên Hoa Sơn.

Hai người đi tới thị trấn phía trước, Quách Tĩnh bỏ tiền ra mua cho Khưu Xử Cơ một con ngựa. Hai người sóng cương cùng đi, không chỉ một ngày, dần dần đã tới dưới núi Hoa Sơn.

Hoa Sơn được gọi là Tây nhạc trong Ngũ nhạc, người xưa ví Ngũ nhạc với Ngũ kinh, nói Hoa Sơn là kinh Xuân thu, chủ về oai nghiêm tiêu sái, hiểm trở cheo leo nhất trong các danh sơn trên thiên hạ. Hai người tới đình sơn Tôn ở cửa núi phía nam, chỉ thấy bên cạnh đình mọc mười hai dây mây long đằng, ngoằn ngoèo nhiều đốt nhánh chĩa lên không giống hệt con rồng đang bay. Quách Tĩnh nhìn thấy nhánh mây già bay lên không như thế đột nhiên nhớ tới chiêu Phi long tại thiên, chỉ cảm thấy theo tổng cương của Cửu âm chân kinh thì có thể dựa theo tư thế của mười hai dây mây này sáng chế ra mười hai chiêu quyền lộ cổ kính mạnh mẽ.

Đang lúc xuất thần, đột nhiên giật mình nhớ lại:

– Mình chỉ mong quên hết những võ công đã học, tại sao lại còn nghĩ tới chuyện chiêu số mới mẻ, nghiên cứu cách thức đả thương người khác? Mình chìm đắm sâu như thế, quả thật là không còn thuốc nào cứu chữa.

Chợt nghe Khưu Xử Cơ nói:

– Hoa Sơn là linh địa của Đạo gia ta, mười hai dây mây long đằng lớn này tương truyền là do Hy Di tiên sinh Trần Đoàn lão tổ trồng.

Quách Tĩnh nói:

– Trần Đoàn lão tổ à? Đó có phải là vị tiên trưởng ngủ suốt năm không dậy không?

Khưu Xử Cơ nói:

– Trần Đoàn lão tổ sinh ở thời Đường mạt, trải qua năm đời Lương Đường Tấn Hán Chu, mỗi khi nghe thay đổi triều đại thì đều buồn rầu không vui, đóng cửa nằm cao. Thế gian đồn ông ngủ một giấc cả năm trời, thật ra chỉ là ông ta lo lắng vì thiên hạ phân tranh, bách tính chịu khổ, không muốn ra cửa mà thôi. Đến khi nghe Tống Thái tổ lên ngôi, lại hô hô cười rộ, vui mừng tới nỗi ngã lăn từ lưng lừa xuống đất, nói thiên hạ từ nay được thái bình rồi. Tống Thái tổ nhân hậu thương dân, bách tính trong thiên hạ quả thật được nhiều điều hay từ ông ta.

Quách Tĩnh nói:

– Nếu Trần Đoàn lão tổ sống vào thời nay chắc cũng không khỏi lại phải đóng cửa ngủ hết năm này tháng khác đâu.

Khưu Xử Cơ thở dài một tiếng, nói:

– Mông Cổ dấy lên ở phương bắc, có ý nam xâm, vua tôi nhà Tống lại hôn mê tầm thường như thế, nhìn thấy thế cục của thiên hạ đã không làm gì được nữa rồi. Nhưng nam tử chúng ta biết rõ là không làm gì được cũng phải làm. Hy Di tiên sinh tuy là cao nhân, nhưng lo đời mà rủ tay áo nằm cao, lại không phải là lối hành sự của kẻ nhân danh hiệp sĩ.

Quách Tĩnh im lặng.

Hai người để ngựa lại dưới chân núi, thong thả lên núi, qua bãi Đào Hoa, vượt hẻm Hy Di, lên bãi sa Mộng, đường núi càng đi càng hiểm trở, lúc lên tới cửa Tây Huyền phải bám vào dây sắt mà lên, hai người đều là một thân khinh công thượng thừa, chỉ trong khoảnh khắc đã lên tới. Lại đi thêm bảy dặm tới bãi Thanh, qua khỏi bãi thì đá núi lởm chởm, trên sườn phía bắc có đá lớn chặn đường. Khưu Xử Cơ nói:

– Tảng đá này gọi là Đồng Tâm thạch, qua khỏi đó đường núi càng hiểm trở, du khách tới đây đều phải quay lại.

Từ xa nhìn thấy một ngôi thạch đình nho nhỏ.

Khưu Xử Cơ nói:

– Đó chính là Đổ Kỳ đình. Tương truyền Tống Thái tổ và Hy Di tiên sinh từng đánh cờ vây ở đó đem núi Hoa Sơn làm vật đánh cuộc, Tống Thái tổ thua, từ đó đất đai trong núi Hoa Sơn không phải đóng thuế nữa.

Quách Tĩnh nói:

– Thành Cát Tư Hãn, quốc vương Hoa Thích Tử Mô, hoàng đế Đại Kim Đại Tống đều như lấy thiên hạ làm vật đánh cuộc mọi người cùng đánh cờ.

Khưu Xử Cơ gật đầu nói:

– Đúng thế. Tĩnh nhi, mấy năm nay người họe hành suy nghĩ rất có kiến thức, đã không còn là một gã tiểu tử ngốc ngờ ngờ nghệch nghệch như lúc trước.

Lại nói:

– Bấy nhiêu các đế vương nguyên soái lấy thiên hạ làm vật đánh cuộc, thua thì không chỉ thua mất giang sơn và tính mạng của mình mà còn làm bách tính trong thiên hạ phải chịu khổ.

Lại qua hẻm Thiên Xích, hẻm Bách Xích, người đi phải nghiêng người mới lách qua được. Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Nếu có địch nhân ở đây đột nhiên ra tay tập kích thì thật khó chống cự.

Tâm niệm vừa động, chợt nghe phía trước có người quát lớn:

– Khưu Xử Cơ, hôm trước ở lầu Yên Vũ đã tha mạng cho ngươi, lại còn lên Hoa Sơn làm gì?

Khưu Xử Cơ vội bước mau tới vài bước chiếm chỗ lõm trên sườn núi mới ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy bốn người bọn Sa Thông Thiên, Bành Liên Hổ, Linh Trí thượng nhân, Hầu Thông Hải đang đứng một hàng ở đầu bên kia đường núi.

Lúc Khưu Xử Cơ lên núi đã nghĩ tới chuyến đi này nhất định sẽ gặp bọn đại địch Âu Dương Phong, Cừu Thiên Nhận, nhưng Chu Bá Thông, Hồng Thất công, Quách Tĩnh đều tới cũng có thể đối địch được, nhưng không ngờ bọn Sa Thông Thiên cũng có gan lên núi. Chỗ y đứng tuy hơi rộng rãi bằng phẳng nhưng địa thế vẫn rất hiểm trở, chỉ cần bị địch nhân xô một cái nhất định phải ngã xuống vực sâu vạn trượng, việc tới lúc nguy cấp không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, soạt một tiếng rút trường kiếm ra, một chiêu Bạch hồng kinh thiên phóng vào Hầu Thông Hải, thấy trong bốn địch nhân chỉ có Hầu Thông Hải yếu nhất, lại bị gãy một cánh tay, nên kiếm ấy là đánh vào chỗ yếu của bên địch. Hầu Thông Hải thấy kiếm chiêu lợi hại đành nghiêng người tránh qua, một tay nhấc ngọn Tam cổ xoa lên đỡ. Phán quan bút của Bành Liên Hổ và đồng bạt của Linh Trí thượng nhân hai bên giáp kích, rõ ràng muốn đẩy Khưu Xử Cơ rơi xuống vực.

Khưu Xử Cơ trường kiếm dính vào Tam cổ xoa của Hầu Thông Hải một cái, kình lực vận tới mũi kiếm, vừa mượn lực một cái thân hình đã bay lên không vọt qua đầu Hầu Thông Hải. Binh khí của Bành Liên Hổ và Linh Trí thượng nhân đánh vào vách đá trên núi, lửa bắn tung tóe. Sa Thông Thiên trong miếu Thiết Thương bị mất một cánh tay, lúc ấy vết thương còn chưa lành hẳn, thấy sư đệ làm lỡ việc lập tức dùng thuật Di hình hoán vị định chặn ngang trước mặt Khưu Xử Cơ. Chỉ thấy Khưu Xử Cơ kiếm quang chớp chớp, đâm mau mấy chiêu. Sa Thông Thiên thân hình vừa chớp lên chưa kịp chặn lại đã bị y sấn mau tới trước mặt. Sa Bành hai người cao giọng quát tháo từ phía sau đuổi tới. Khưu Xử Cơ quay kiếm đón đỡ mấy chiêu, Linh Trí thượng nhân vung đồng bạt xông tới, ba món binh khí tấn công ráo riết.

Thấy Khưu Xử Cơ tình thế nguy cấp, Quách Tĩnh vốn định xông lên cứu viện nhưng cảm thấy động thủ với người là việc vô cùng xấu xa, thấy đôi bên đánh nhau kịch liệt cảm thấy rất chán ghét, lúc ấy quay đi không nhìn, bám mây vịn cỏ theo đường khác xuống núi. Y thong thả bước đi, hai ý nghĩ trong lòng không ngừng chống đối nhau:

– Nên xông lên giúp đỡ Khưu đạo trưởng hay quả thật từ nay trở đi không động võ với người khác?

Y càng nghĩ càng thấy hồ đồ, nghĩ ngợi:

– Nếu Khưu đạo trưởng bị bọn Bành Liên Hổ hại chết, há chẳng phải toàn là do mình không đúng? Nhưng nếu xông lên giúp đỡ, đánh bọn Bành Liên Hổ rơi xuống vực thì rốt lại có nên hay không?

Y càng đi càng xa, sau cùng không nghe tiếng binh khí chạm nhau nữa, một mình ngồi trên tảng đá, ngơ ngẩn xuất thần.

Qua hồi lâu, chợt nghe sau cây thông bên cạnh có một tiếng sáo vang lên, một người sau gốc tùng nhô ra. Quách Tĩnh quay lại thấy người ấy tóc trắng mặt hồng, chính là Sâm tiên lão quái Lương Tử Ông, lúc ấy cũng không đếm xỉa gì tới, vẫn cứ tập trung suy nghĩ. Lương Tử Ông lại giật nảy mình, biết Quách Tĩnh võ công tiến triển rất xa, mình đã sớm không phải là địch thủ, lập tức co người lại núp sau gốc cây. Núp một lúc thấy y vẫn không đuổi theo, lại thấy y thất hồn lạc phách, mặt mày đăm chiêu, không ngừng lẩm bẩm một mình như bị trúng tà, nghĩ thầm:

– Thằng tiểu tử này hôm nay có vẻ kỳ quái, cứ thử y xem.

Y không dám tới gần, nhặt một viên đá ném vào lưng Quách Tĩnh. Quách Tĩnh nghe tiếng gió, nghiêng người tránh qua, vẫn không đếm xỉa gì tới.

Lương Tử Ông bạo gan hơn, từ sau gốc cây bước ra, tiến tới vài bước, hạ giọng gọi:

– Quách Tĩnh, ngươi làm gì ở đó thế?

Quách Tĩnh nói:

– Ta đang nghĩ xem dùng võ công đả thương người khác là nên hay không nên?

Lương Tử Ông sửng sốt, kế cả mừng nghĩ thầm:

– Thằng tiểu tử này quả là ngu ngốc tới mức khốn khổ.

Lại bước tới mấy bước, nói:

– Đả thương người khác là việc vô cùng xấu xa, tự nhiên là không nên.

Quách Tĩnh nói:

– Ngươi cũng nghĩ thế à? Ta đang mong có thể quên hết tất cả võ công đã học được.

Lương Tử Ông thấy y nhìn ra chân trời xuất thần, thong thả bước tới sau lưng y, dịu dàng nói:

– Ta cũng đang hết sức để quên võ công của mình, để ta giúp ngươi một tay được không?

Quách Tĩnh nói:

– Tốt lắm, ngươi nói nên làm thế nào?

Lương Tử Ông nói:

– Ờ, ta có cách hay

Hai tay vung ra đột nhiên dùng Đại cầm nã thủ nắm vào huyệt Thiên trụ trên cổ và huyệt Thần đường sau lưng y. Quách Tĩnh đang sửng sốt thì thấy toàn thân đã tê rần, không còn cách nào động đậy. Lương Tử Ông cười hung dữ nói:

– Ta hút hết máu tươi của ngươi, ngươi sẽ hoàn toàn không biết võ công.

Rồi há miệng cắn vào cổ họng Quách Tĩnh, dùng sức hút máu, nghĩ thầm:

– Mình vất vả nuôi được một con bảo xà mà bị thằng tiểu tử ngốc này hút hết máu, đến nỗi y võ công càng ngày càng cao, còn mình thì chẳng có chút tiến bộ gì, không uống máu tươi của y thì không lấy gì mà bù đắp lại được.

Tuy việc xảy ra đã lâu, máu con bảo xà chưa chắc đã còn công hiệu, nhưng y cũng không đếm xỉa gì tới.

Biến cố xảy ra bất ngờ, Quách Tĩnh chỉ cảm thấy trên cổ đau buốt, mắt nảy đom đóm, vội vàng vận kình giật ra, nhưng hai đại huyệt đã bị địch nhân giữ chặt, toàn thân không sử được nửa điểm kình lực. Chỉ thấy Lương Tử Ông hai mắt đầy vằn đỏ, vẻ mặt vô cùng hung ác cắn vào cổ y, càng cắn càng mạnh, chỉ cần cổ họng bị y cắn đứt thì làm sao còn được tính mạng? Đang lúc nguy cấp cũng không còn thời gian để nghĩ có nên động võ với người ta hay không, lập tức sử dụng công phu Dịch cân đoàn cốt, một luồng chân khí từ đan điền xông lên thúc vào hai huyệt Thiên trụ, Thần đường.

Lương Tử Ông hai tay nắm rất chặt, nào ngờ trong huyệt đạo của đối phương đột nhiên có một luồng lực đạo hất ra, y cảm thấy hổ khẩu chấn động, không tự chủ được buông tay ra. Quách Tĩnh cúi đầu hích vai, vận lực vào lưng, Lương Tử Ông chân đứng không vững, thân hình đột nhiên trượt qua vai Quách Tĩnh, trong tiếng kêu thảm rơi thẳng xuống vực sâu muôn trượng. Tiếng gào thảm dội lại trong hang núi, tiếng vọng bốn phía càng vang càng nhiều, càng vang càng to, Quách Tĩnh nghe thấy bất giác nổi da gà.

Qua hồi lâu y mới định thần, sờ sờ vết thương trên cổ mới nhớ là trong lúc vô ý đã dùng võ công giết chết một người, nhưng lại nghĩ:

– Mình không giết y, y cũng giết mình. Nếu mình giết y là không phải thì chẳng lẽ y giết mình là phải sao?

Thò đầu nhìn xuống vực, thấy vực sâu không thấy đáy, sâm tiên lão quái không biết đã chôn thây ở đâu.

Quách Tĩnh ngồi trên tảng đá xé vạt áo băng vết thương trên cổ, chợt nghe kịch kịch kịch mấy tiếng đứt nối, một con quái vật từ sau núi chuyển ra. Y giật nảy mình, định thần nhìn kỹ thì nguyên là một người, chỉ thấy người ấy đầu dưới chân trên trồng cây chuối đi tới, mỗi tay nắm một hòn đá tròn, lấy tay thay chân, tiếng kịch kịch kịch là hai viên đá trong tay y đập xuống đường núi vạng lên. Quách Tĩnh vô cùng ngạc nhiên, ngồi xổm xuống nhìn mặt người ấy lại càng kinh ngạc, té ra quái nhân ấy chính là Tây độc Âu Dương Phong.

Y vừa bị tập kích, thấy Âu Dương Phong đóng thần giả ma như thế, nghĩ thầm nhất định là có quỷ kế, lập tức lùi lại hai bước, nglmg thần đề phòng. Chỉ thấy Âu Dương Phong hai tay cong cong về phía sau, nhảy lên một tảng đá, dùng đầu đáp xuống, hai tay ép chặt vào sườn, dựng thẳng người lên, lại càng giống một cái thây ma. Quách Tĩnh nảy dạ hiếu kỳ, kêu lên:

– Âu Dương tiên sinh, ngươi làm gì thế?

Âu Dương Phong không đáp, tựa hồ không hề nghe thấy y hỏi. Quách Tĩnh lại lui lại mấy bước, đứng cách ra xa xa, chưởng trái giơ lên đề phòng y đột nhiên ra quái chiêu rồi mới nhìn xem động tĩnh.

Qua khoảng thời gian uống cạn chén trà, Âu Dương Phong cứ lộn ngược bất động. Quách Tĩnh muốn biết nguyên nhân, khổ nỗi y thân thể chổng ngược lên, không dễ nhìn rõ vẻ mặt của y, lúc ấy xoạc hai chân ra, cúi đầu nhìn qua hai chân mình một cái, chỉ thấy Âu Dương Phong mặt đầy mồ hôi, vẻ mặt vô cùng đau đớn, tựa hồ đang tu tập một loại nội công quái dị, đột nhiên giang ngang hai tay ra, thân hình lại như một con ốc lớn xoay tròn, càng xoay càng mau, chỉ nghe tiếng gió vù vù, vạt áo rít lên.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:

– Y quả nhiên đang luyện công, môn võ công này lộn ngược người lại mà luyện, thật là cổ quái.

Chỉ nghĩ tu tập loại nội công thượng thừa này rất dễ bị ngoại tà xâm nhập, vì lúc bấy giờ tinh lực hội tụ bên trong, hoàn toàn không có sức chống lại ngoại tà xâm phạm, nên lúc tu tập nếu không có sư phụ bạn bè võ công cao cường ở bên cạnh chiếu cố thì phải núp ở nơi vắng vẻ yên tĩnh để tránh chuyện bất trắc. Nhưng Âu Dương Phong một mình tu tập ở đây tựa hồ không có ai bảo vệ, quả thật vô cùng bất ngờ. Trước mắt đã là kỳ luận kiếm lần thứ hai ở Hoa Sơn, cao thủ hội họp như mây, người nào cũng rất úy ky y, cho dù khéo léo đề phòng cũng không khỏi bị người ám toán, mà y dám to gan như thế, lại ở chỗ này một mình luyện công sao? Đúng lúc ấy đừng nói là cao thủ ra chiêu hại người, chỉ cần một người đàn ông khỏe mạnh bình thường bước lên đánh cho một quyền một cước, thì y nhất định phải bị trọng thương.

Thấy Âu Dương Phong như miếng thịt nằm trên thớt, chỉ chờ người ta cắt mổ, Quách Tĩnh nghĩ thầm lúc này mà không trả thù thì còn đợi đến bao giờ? Chỉ vì mới rồi y giết chết Lương Tử Ông, trong lòng đang có ý hối hận, bước tới hai bước lại dừng lại, rõ ràng không hạ sát thủ được.

Âu Dương Phong xoay tròn khoảng thời gian uống cạn chén trà thì dần dần chậm lại, cuối cùng bất động đờ ra hồi lâu, kế cầm hai hòn đá chống xuống đất lại kịch kịch kịch theo đường cũ trở về. Quách Tĩnh nảy dạ hiếu kỳ, muốn xem y đi đâu, lối lộn ngược này rốt lại là công phu kỳ diệu gì, lúc ấy rón rén theo phía sau y.

Âu Dương Phong đi bằng tay rõ ràng cũng không chậm hơn chân, lên núi qua đỉnh, càng lên càng cao. Quách Tĩnh theo y lên thẳng trên núi, tới trước một đỉnh núi xanh biếc đầy rêu, chỉ thấy y tới trước một sơn động rồi đứng yên bất động.

Quách Tĩnh núp sau một tảng đá lớn, chợt nghe Âu Dương Phong cao giọng nói:

– Hợp hổ vân bát anh, tinh nhĩ cát cận, tư cổ nhĩ. Ngươi giải thích không đúng, ta luyện không xong.

Quách Tĩnh rất ngạc nhiên, nghĩ thầm ba câu đầu rõ ràng là đoạn tiếng Phạn trong Cửu âm chân kinh, lại có chỗ nào bất đồng với những lời ghi chép trong kinh văn, vừa xoay chuyển ý nghĩ, nhớ lại hôm trước mình bị ép viết kinh trên thuyền giữa biển, được Hồng Thất công dạy là cố ý viết sai, ba câu này nhất định là do mình tùy ý viết ra, nhưng không biết y đang nói chuyện với ai ở đó?

Chỉ nghe một giọng con gái trong trẻo trong động vang ra:

– Công phu của ngươi chưa tới nơi tới chốn, tự nhiên là luyện không được, chứ ta mà giải thích sai à?

Quách Tĩnh vừa nghe giọng nói ấy suýt bật tiếng la hoảng, không phải là Hoàng Dung mà y ngày đêm mong nhớ thì là ai? Chẳng lẽ nàng chưa từng mất mạng trên đại mạc sao? Chẳng lẽ lúc này đang trong mộng hay trong ảo cảnh? Chẳng lẽ mình thần hồn điên đảo, lại nghe lầm giọng của người khác sao?

Âu Dương Phong nói:

– Ta luyện theo đúng lời ngươi nói, không hề có chỗ nào sai, tại sao Nhâm mạch và mạch Dương duy lại không thể đảo chuyển?

Cô gái kia nói:

– Hỏa hầu không đủ, có cưỡng cầu cũng uổng công .

Giọng nói này rõ ràng là Hoàng Dung, không còn gì nghi ngờ nữa, Quách Tĩnh mừng sợ lẫn lộn, thân hình lảo đảo mấy lần suýt ngất đi, sau khi cảm xúc dâng trào, vết thương trên cổ vỡ ra, máu tươi từ miếng vải bó không ngừng thấm ra, nhưng y hoàn toàn không biết.

Chỉ nghe Âu Dương Phong tức giận nói:

– Giờ Ngọ ngày mai đã là tới kỳ luận kiếm, ta làm sao có thể thong thả tập luyện được nữa? Mau mau dịch toàn bộ kinh văn ra cho ta nghe, không được đùn đẩy lôi thôi.

Quách Tĩnh lúc ấy mới rõ y đang mạo hiểm tu tập nội công, quả thật vì kỳ luận kiếm đã tới sát trước mắt, không thể trì hoãn.

Chợt nghe Hoàng Dung cười:

– Nói ngươi và Tĩnh ca ca ta có giao ước, y tha ngươi ba lần không giết, ngươi cũng không được ép ta, vậy để lúc nào ta vui vẻ sẽ dạy ngươi.

Quách Tĩnh nghe nàng nói bốn chữ “Tĩnh ca ca ta”. Trong lòng cảm thấy ngọt ngào khoan khoái không sao tả được, hận không thể nhảy lên reo mừng để bộc lộ sự vui sướng.

Âu Dương Phong lạnh lùng nói:

– Tình thế đã tới lúc cấp bách, cho dù có hẹn ước thì việc hôm nay cũng phải tùng quyền.

Nói xong hai tay chống một cái lộn người lật lại, thân hình đã đứng thẳng lên, ném hai viên đá trong tay, sãi chân bước vào động. Hoàng Dung kêu lên:

– Không biết xấu hổ, ta không dạy ngươi nữa!

Âu Dương Phong liên tiếp cười lên quái dị, hạ giọng nói:

– Để ta xem ngươi có dạy hay không?

Chỉ nghe Hoàng Dung hoảng sợ kêu lên:

– Ái chà.

Kế đó soạt một tiếng, như tiếng vải bị xé, lúc ấy Quách Tĩnh đời nào còn nghĩ tới chuyện nên động võ với người hay không nữa, quát lớn:

– Dung nhi, ta ở đây.

Chưởng trái hộ thân, sấn mau vào động.

Âu Dương Phong tay trái nắm ngọn trúc bổng của Hoàng Dung, tay phải đang vươn ra chụp tay trái nàng. Hoàng Dung ra chiêu Bổng khiêu lại khuyển đâm chếch ra phía trước, đột nhiên giật ngọn trúc bổng ra khỏi tay y. Âu Dương Phong bật tiếng khen ngợi, đang định tấn công tiếp chợt nghe tiếng Quách Tĩnh quát ngoài động. Y là đại tôn sư võ học, vốn không thất tín với người khác, lúc ấy vì tình thế bức bách nên bất đắc dĩ phải dùng sức mạnh với Hoàng Dung, chợt nghe Quách Tĩnh tới bất giác đỏ bừng cả mặt mũi, đoán nhất định y sẽ chất vấn việc mình bội ước lúc ấy phất tay áo một cái che mặt, lướt qua người Quách Tĩnh chạy mau ra khỏi động, trong chớp mắt đã mất hút.

Quách Tĩnh chạy vào nắm chặt tay Hoàng Dung kêu lên:

– Dung nhi, thật là nhớ cô chết mất thôi!

Trong lòng khích động, bất giác toàn thân phát run.

Hoàng Dung hai tay giãy một cái, lạnh lùng nói:

– Ngươi là ai? Kéo ta làm gì?

Quách Tĩnh sửng sốt nói:

– Ta… ta là Quách Tĩnh mà. Cô… cô chưa chết, ta… ta…

Hoàng Dung nói:

– Ta không quen ngươi!

Rồi đi thẳng ra động. Quách Tĩnh đuổi lên trước vái lia lịa, khẩn cầu:

– Dung nhi, Dung nhi, cô nghe ta nói đã!

Hoàng Dung hừ một tiếng, nói:

– Cái tên Dung nhi mà ngươi được gọi à? Ngươi là người gì của ta?

Quách Tĩnh há hốc miệng, nhất thời không nói nên lời.

Hoàng Dung nhìn y một cái, thấy y thân hình gầy quắt, vẻ mặt tiều tụy, trong lòng chợt có ý bất nhẫn, nhưng kế đó lại nghĩ tới y mấy lần thất hứa với mình, căm hờn cắn môi một cái, rảo bước đi về phía trước. Quách Tĩnh quýnh lên, kéo tay áo nàng nói:

– Cô nghe ta nói một câu đã.

Hoàng Dung nói:

– Nói đi?

Quách Tĩnh nói:

– Lúc ta ở bãi cát nhìn thấy chiếc áo lông điêu và kim hoàn của cô, chỉ cho rằng cô…

Hoàng Dung nói:

– Ngươi muốn ta nghe một câu thì ta đã nghe rồi đấy.

Rồi giật tay áo lại một cái, quay người đi tiếp. Quách Tĩnh vừa quýnh vừa lo, thấy nàng quyết ý tuyệt tình, sợ từ nay trở đi sẽ không được gặp nàng, nhưng quả thật không biết nên nói thế nào để bộc lộ rõ tâm ý của mình, thấy nàng tà áo phất phơ đi thẳng lên núi, chỉ đành nín tiếng im lặng đi theo.

Hoàng Dung vừa gặp lại Quách Tĩnh, tâm tình cũng rất khích động, nhớ lại mình ném kim hoàn và áo lông điêu trên đầm cát để dụ Âu Dương Phong đuổi theo, từ Tây Vực về đông muôn ý nghĩ đều nguội lạnh, một mình cô khổ lênh đênh, chỉ muốn trở về đảo Đào Hoa gặp mặt cha, tới sơn Đông lại mắc bệnh nặng một trận. Lúc mắc bệnh không ai lo lắng lại càng đau xót, trên giường bệnh nghĩ tới Quách Tĩnh bạc tình phụ nghĩa, quả thật rất giận cha mẹ lẽ ra không nên sinh mình ra trên đời để đến nỗi phải chịu đủ mùi đau khổ giằng xé thế này. Đến khi khỏi bệnh lại bị Âu Dương Phong bắt gặp ở Lỗ Nam, bị ép theo lên Hoa Sơn giải thích kinh văn. Ngoảnh nhìn việc cũ đều là chuyện đáng hận, lại nghe thấy tiếng chân Quách Tĩnh từng bước từng bước theo sát phía sau.

Nàng đi rất mau, Quách Tĩnh theo cũng mau, nàng đi chậm Quách Tĩnh cũng đi chậm. Nàng đi một lúc đột nhiên quay lại cao giọng nói:

– Ngươi theo ta làm gì?

Quách Tĩnh nói:

– Ta vĩnh viễn đi theo cô, suốt đời này không chia lìa nữa.

Hoàng Dung cười nhạt nói:

– Ngươi là phò mã gia của đại hãn, theo con nha đầu khốn khổ như ta làm gì?

Quách Tĩnh đáp:

– Ðại hãn hại chết mẹ ta, ta làm sao làm phò mã của y?

Hoàng Dung cả giận, khuôn mặt xinh đẹp đỏ bừng lên, nói:

– Hay lắm, ngươi nói ngươi quả thật còn nhớ ta một chút, té ra là bị đại hãn đuổi đi, không làm được phò mã, mới lại tìm con nha đầu cùng khổ ta. Chẳng lẽ ta là kẻ hèn hạ, để mặc cho ngươi tùy ý coi thường à?

Nói xong không kìm được tức giận bật khóc.

Quách Tĩnh thấy nàng rơi nước mắt, lại càng luống cuống, muốn nói vài câu biện bạch, an ủi nhưng không biết làm sao mở miệng, ngẩn ra một lúc mới nói:

– Dung nhi, ta đang ở đây, cô muốn đánh muốn giết thì cứ tùy ý.

Hoàng Dung buồn rầu nói:

– Tại sao ta phải đánh phải giết ngươi, cứ cho rằng chúng ta lỡ làm quen với nhau một lần, thôi xin ngươi đừng đi theo ta nữa.

Quách Tĩnh thấy nàng thủy chung không chịu tha thứ, sắc mặt trắng bệch kêu lên:

– Cô muốn thế nào mới chịu tin tưởng ta?

Hoàng Dung nói:

– Hôm nay ngươi tốt với ta, ngày mai em Hoa Tranh, chị Hoa Tranh gì đó mà tới thì lập tức vứt ta ra sau lưng. Trừ phi ngươi chết ngay lập tức thì ta mới tin lời ngươi.

Quách Tĩnh trong lòng nhiệt huyết trào lên, gật đầu một cái, quay người sãi chân chạy ra bờ vực. Đó là một trong những chỗ hiểm trở nhất trên núi Hoa Sơn, gọi là Xả thân nhai, từ đó nhảy xuống nhất định phải tan xương nát thịt. Hoàng Dung biết tính y ngay thẳng, chỉ sợ y nói là làm, vội vàng sấn lên, quờ tay nắm lấy vạt áo sau lưng y, trên tay vừa sử kình, điểm chân đã vọt qua vai y, đứng trước bờ vực, vừa tức vừa sợ rơi nước mắt nói:

– Được, ta biết ngươi không có chút nào thương xót ta. Ta thuận miệng tức giận nói một câu, ngươi cũng không chịu dễ dàng bỏ qua. Theo như ngươi nói thì ngươi không cần giận ta, cứ vĩnh viễn không thấy mặt ta là được.

Nàng thân hình run lên, sắc mặt trắng bệch, đứng trên bờ vực cheo leo như một cành hoa bạch trà lắc lư trước gió. Quách Tĩnh không kìm được mình, cậy sức toan nhảy luôn xuống vực, nhưng đến lúc ấy lại sợ nàng sẩy chân trượt xuống, vội nói:

– Cô đứng vào trong một chút.

Hoàng Dung thấy y lo lắng cho mình, không kìm được chua xót, khóc nói:

– Ai cần ngươi giả tình giả ý nói như thế? Ta mắc bệnh ở sơn Đông không ai đếm xỉa, lúc ấy sao ngươi không tới lo lắng cho ta? Ta bị lão tặc Âu Dương Phong bắt được, dùng hết tâm cơ vẫn không thoát khỏi tay y, tại sao ngươi không tới cứu ta? Mẹ ta không cần ta, bà bỏ ta mà chết. Cha ta không cần ta, ông cũng không đi tìm ta. Ngươi tự nhiên là càng không cần ta nữa! Trên đời này không ai cần ta, không ai thương ta!

Nói tới đó giẫm chân lia lịa, buông tiếng khóc lớn, nỗi cô khổ thương tâm trong bấy nhiêu ngày đến lúc ấy mới trút ra hết.

Quách Tĩnh trong lòng muôn mối yêu thương, chỉ thấy nàng nói câu nào cũng không sai, càng nghe càng giận mình. Một cơn gió đưa tới, Hoàng Dung chỉ cảm thấy trên người ớn lạnh, co co người lại. Quách Tĩnh cởi áo ngoài đang định khoác cho nàng, chợt nghe bên sườn núi một tiếng quát lớn:

– Ai dám to gan như thế, lại dám hà hiếp Hoàng cô nương của bọn ta?

Chỉ thấy một người tóc trắng râu dài từ sau sườn núi chuyển ra, chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông.

Quách Tĩnh chỉ chăm chú nhìn Hoàng Dung, còn ai tới thì hoàn toàn không đếm xỉa. Hoàng Dung trong lòng đã hết giận, quát:

– Lão Ngoan đồng, ta bảo ngươi đi giết Cừu Thiên Nhận, đầu y đâu?

Chu Bá Thông cười hì hì, không có gì đưa ra, chỉ sợ nàng lên tiếng trách móc, muốn nghĩ cách làm nàng vui lòng, bèn nói:

– Hoàng cô nương, ai làm cô giận đấy? Lão Ngoan đồng sẽ rửa hận giúp cô.

Hoàng Dung chỉ Quách Tĩnh nói:

– Không phải y thì là ai?

Chu Bá Thông dốc ý lấy lòng Hoàng Dung, cũng không lên tiếng, lật tay tát một cái, lại thuận tay tát cho cái nữa, chát chát hai tiếng, đánh Quách Tĩnh hai tát rất nặng, Quách Tĩnh đang lúc không để ý gì tới bên ngoài, hoàn toàn không đề phòng, Lão Ngoan đồng ra tay lại nặng, chỉ cảm thấy trước mặt tối sầm, hai má lập tức sưng vù. Chu Bá Thông nói:

– Hoàng cô nương, đủ chưa, nếu không đủ ta sẽ đánh thêm.

Hoàng Dung thấy Quách Tĩnh hai má sưng vù, in rõ năm vết ngón tay, lửa giận đầy lòng lập tức biến thành thương xót, lòng thương xót lại chuyển thành tức giận Chu Bá Thông, quát:

– Ta tự tức giận y, có can hệ gì tới ngươi? Ai bảo ngươi xuất thủ đánh người. Ta bảo ngươi đi giết Cừu Thiên Nhận, sao ngươi không nghe lời ta?

Chu Bá Thông lè lưỡi không rút lại được, nghĩ thầm:

– Té ra Lão Ngoan đồng vỗ đuôi ngựa mà thành mó dái ngựa rồi.

Còn đang lúng túng, đột nhiên sườn núi sau lưng có tiếng binh khí vang lên, văng vẳng kèm theo tiếng quát tháo, nghĩ thầm bây giờ không chạy còn đợi lúc nào? Lập tức kêu lên:

– Có quá nửa là lão già Cừu Thiên Nhận tới, để ta xuống đó giết y.

Câu nói chưa dứt đã như một làn khói lướt ra sau góc núi. Nếu quả thật là Cừu Thiên Nhận tới thì Chu Bá Thông tránh mặt sợ còn chưa kịp, làm sao dám xông tới ra chiêu? Hôm ấy y và Cừu Thiên Nhận, Âu Dương Phong, Quách Tĩnh ba người trong thạch thất tối om ở Tây Vực đánh mò, Quách Tĩnh và Âu Dương Phong trước sau thoát thân, Cừu Thiên Nhận rốt lại cũng tìm được cơ hội vọt ra ngoài. Chu Bá Thông vẫn đuổi sát không tha. Cừu Thiên Nhận bị y ép tới mức gân cốt rã rời, vừa nhục nhã vừa căm hờn, nghĩ thầm mình là bang chủ một đại bang trong võ lâm mà lại bị nhục nhã thế này, chỉ mong tìm được cách tự tử cho yên thân để khỏi bị rơi vào tay y mà bị hành hạ, vừa liếc mắt thấy trong bãi cát đá có mấy con rắn độc nằm cuốn tròn. Y biết loại rắn này độc vô cùng, chỉ cần bị cắn một cái là toàn thân lập tức cứng đờ, chết không sung sướng gì, lúc ấy quờ lấy một con, cặp ngón tay vào cổ con rắn kêu lên:

– Lão tặc Chu Bá Thông, ngươi giỏi lắm!

Ðang định đưa con rắn vào cổ tay mình, nào ngờ Chu Bá Thông bình sinh sợ nhất là rắn, la hoảng một tiếng xoay người bỏ chạy.

Cừu Thiên Nhận sửng sốt, hồi lâu mới hiểu y vốn sợ rắn, lúc ấy cục diện đã đổi ngược, Cừu Thiên Nhận tay trái bắt thêm một con rắn, quát tháo la thét đuổi theo phía sau. Chu Bá Thông sợ tới mức tan lòng nát mật, sãi chân chạy mau. Cừu Thiên Nhận có ngoại hiệu là Thiết chưởng thủy thượng phiêu, khinh công còn cao hơn y, nếu không phải có lòng úy kỵ y, không dám bức bách quá mức thì đã đuổi kịp rồi. Hai người một chạy một đuổi, đến khi trời tối Chu Bá Thông mới thừa cơ thoát thân. Cừu Thiên Nhận lần ấy đuổi theo quả thật là lấy tiến làm lui, trong bụng chỉ cười thầm, lại không dám đuổi theo nữa. Hôm sau Chu Bá Thông cướp một con tuấn mã, ra roi phóng mau về đông, chỉ sợ Cừu Thiên Nhận đuổi kịp.

Hoàng Dung thấy Chu Bá Thông chạy đi, nhìn Quách Tĩnh chằm chằm một lúc, thở dài một tiếng, cúi đầu không nói gì nữa. Quách Tĩnh kêu một tiếng:

– Dung nhi!

Hoàng Dung ờ khẽ một tiếng. Quách Tĩnh muốn nói mấy câu tạ lỗi, nhưng biết mình ngu ngốc vụng về, sợ nói sai một câu lại làm nàng tức giận. Hai người đứng trước gió, Hoàng Dung đột nhiên nhảy mũi mấy cái. Quách Tĩnh vốn đã cởi áo ngoài, lập tức khoác lên người nàng. Hoàng Dung cúi đầu không đếm xỉa gì tới.

Chợt nghe Chu Bá Thông hô hô cười rộ, kêu lớn.

– Hay lắm, hay lắm?

Hoàng Dung vươn tay ra nắm tay Quách Tĩnh, cúi đầu nói:

– Tĩnh ca ca, chúng ta đi xem đi.

Quách Tĩnh mừng quá rơi nước mắt, không nói nên lời. Hoàng Dung đưa tay áo lau nước mắt cho y cười nói:

– Trên mặt vừa có nước mắt, lại vừa có vết ngón tay, người ta lại bảo là ta đánh ngươi khóc đấy.

Nàng vừa bật tiếng cười, hai người mới thấy dễ nói chuyện, trải qua biến cố ấy, tình ý lại càng sâu sắc hơn.

Hai người tay nắm tay chuyển qua sườn núi, chỉ thấy Chu Bá Thông ôm bụng nhấc chân vô cùng đắc ý, Khưu Xử Cơ cầm kiếm đứng hầu bên cạnh. Sa Thông Thiên, Bành Liên Hổ, Linh Trí thượng nhân, Hầu Thông Hải bốn người kẻ cầm võ khí sấn lên, kẻ lùi lại tránh ra, thần thái đều khắc hẳn nhau, nhưng đều đứng cứng đờ bất động như tượng gỗ, nguyên là đều bị Chu Bá Thông điểm trúng huyệt đạo.

Chu Bá Thông nói:

– Hôm ấy ta cọ ghét trên người vê thành dược hoàn cho các ngươi uống, mấy gã gian tặc xấu xa các ngươi cũng khôn ngoan, thấy không có độc lại không nghe lệnh cha các ngươi nữa, hừ hừ, hôm nay thì thế nào?

Y tuy chế ngự cả bốn người nhưng nhất thời lại không nghĩ ra cách xử trị, thấy Quách Hoàng hai người bước tới, nói:

– Hoàng cô nương, bốn gã gian tặc xấu xa này ta tặng cho cô đấy!

Hoàng Dung nói:

– Ta nhận làm gì? Hừ, ngươi không muốn giết người, lại không muốn tha người, bắt bọn gian tặc xấu xa này lại không có cách nào sai sử, ngươi gọi ta ba tiếng “Hảo tỷ tỷ” ta sẽ dạy ngươi một cách.

Chu Bá Thông cả mừng liên tiếp kêu ba tiếng: “Hảo tỷ tỷ”, mỗi tiếng lại vái một vái. Hoàng Dung bĩu môi cười một cái, chỉ Bành Liên Hổ nói:

– Ngươi mò trên người y xem.

Chu Bá Thông theo lời lục soát lấy trong người Bành Liên Hổ ra một cái nhẫn độc châm, hai bình thuốc giải. Hoàng Dung nói:

– Y từng dùng cái đó đâm sư điệt Mã Ngọc của ngươi, ngươi châm lên người họ mấy cái đi.

Bọn Bành Liên Hổ nghe thấy rất rõ, sợ tới mức hồn bất phụ thể, khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm không động đậy gì được, chỉ thấy trên người liên tiếp đau nhói, ai cũng đã bị Chu Bá Thông châm cho mấy cái. Hoàng Dung nói:

– Thuốc giải trong tay ngươi, ngươi bảo họ làm chuyện gì xem họ có dám chống lại hay không?

Chu Bá Thông cả mừng, nghiêng đầu nghĩ ngợi một lúc, cọ trên người ra rất nhiều cáu ghét, trút thuốc giải vào đó vê thành viên tròn, đưa Khưu Xử Cơ nói:

– Ngươi áp giải bốn thằng giặc xấu xa này xuống cung Trùng Dương núi Chung Nam giam cấm hai mươi năm. Nếu trên đường mà chúng ngoan ngoãn thì cho mỗi đứa uống một viên linh đan diệu dược của ta, nếu không thì cứ để cho chúng bị chất độc phát tác, cái đó gọi là mình làm mình chịu, không cần nhân từ.

Khưu Xử Cơ khom người vâng dạ. Hoàng Dung cười nói:

– Lão Ngoan đồng, mấy câu mới rồi của ngươi nói rất hợp tình hợp lý, một năm không gặp nhau, ngươi đã tiến bộ rất nhiều.

Chu Bá Thông vô cùng đắc ý, giải huyệt cho bọn Bành Liên Hổ, nói:

– Các ngươi tới cung Trùng Dương ở yên hai mươi năm ở đó cho ta, nếu thành thật sửa lỗi thì sau này còn có thể làm được người tốt, nếu không chịu học cho tốt, hừ hừ, các Đạo gia phái Toàn Chân ta ai cũng là tay lão thủ giết người không chớp mắt, lóc thịt chẳng cau mày, sẽ biến bốn thằng gian tặc xấu xa các ngươi thành thịt băm, mọi người chia nhau ăn, xem các ngươi còn tác quái được nữa không?

Bọn Bành Liên Hổ đâu dám nói nhiều, luôn miệng vâng dạ. Khưu Xử Cơ nhịn cười, hướng Chu Thông vái lạy từ biệt, cầm kiếm áp giải bốn người xuống núi.

Hoàng Dung cười nói:

– Lão Ngoan đồng, ngươi học cách giáo huấn kẻ khác lúc nào vậy? Khúc đầu nói nghe còn có lý, tới đoạn sau càng nói lại càng chẳng ra lời lẽ gì nữa.

Chu Bá Thông ngẩng lên trời cười lớn, chợt thấy trên đỉnh núi cao bên trái có ánh sáng trắng chớp lên, rõ ràng là ánh binh khí lớn lên dưới nắng, kêu lên:

– Ủa, lại là cái gì thế này?

Quách Hoàng hai người cùng ngẩng đầu thì đã không thấy ánh sáng đâu nữa. Chu Bá Thông chỉ sợ Hoàng Dung hỏi y về việc Cừu Thiên Nhận, bèn nói:

– Ta đi xem thử.

Rồi sãi chân như bay, vọt lên đỉnh núi.

Quách Hoàng hai người đều đầy bụng có lời muốn nói, lúc ấy tìm vào một sơn động, kể chuyện từ khi chia tay đến nay. Lần ấy nói chuyện đến lúc mặt trời lặn xuống núi, vẫn còn chưa hết. Quách Tĩnh mang lương khô trong túi ra, chia cho Hoàng Dung cùng ăn.

Nàng vừa ăn vừa cười, nói:

– Lão tặc Âu Dương Phong ép ta dạy Cửu âm chân kinh cho y, thiên kinh văn của ngươi viết thì lại đảo lộn lên xuống, ta giải thích bừa cho y một trận, y tưởng là thật, đã khổ luyện mấy tháng rồi. Ta nói công phu thượng thặng này phải chổng ngược đầu mà luyện, y quả nhiên đầu dưới chân trên luyện công, cố gắng vận khí cho kinh mạch trong cơ thể nghịch hành. Bản lĩnh của lão xấu xa này quả thật không kém, đã luyện được bốn kinh Âm duy, Dương duy, Âm kiều, Dương kiều nghịch hành như ý. Nếu kinh mạch toàn thân y đều nghịch hành, không biết sẽ biến ra thành cái gì nữa?

Nói tới đó cười khúc khích. Quách Tĩnh cũng cười nói:

– Chẳng trách gì ta thấy y trồng cây chuối đi trên đường, công phu này quả thật không dễ luyện.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi tới Hoa Sơn, chắc muốn tranh danh hiệu Thiên hạ đệ nhất võ công phải không?

Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, tại sao cô lại trêu ghẹo ta như thế? Ta là muốn thỉnh giáo Chu đại ca một cách để quên hết võ công mình đã học được.

Lúc ấy bèn nói lại những điều mình suy nghĩ trong thời gian vừa qua.

Hoàng Dung nghiêng đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

– Ờ, quên được cũng tốt. Võ công chúng ta càng luyện càng giỏi, nhưng trong lòng thì càng không sung sướng, lại không bằng lúc trẻ con không biết gì, không lo không nghĩ.

Nàng nào nghĩ tới một người lớn lên thì có rất nhiều điều phiền não, có rất nhiều điều buồn khổ, không có hên quan gì tới việc võ công cao hay thấp. Nàng lại nói:

– Nghe Âu Dương Phong nói ngày mai đã tới kỳ luận kiếm trên Hoa Sơn, cha ta nhất định sẽ lên núi, ngươi đã không muốn giành danh hiệu Thiên hạ đệ nhất thì chúng ta nên nghĩ một cách giúp cha ta độc quán quần hùng.

Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, không phải ta không nghe lời cô, nhưng ta nghĩ Hồng ân sư làm người quả thật hơn cha cô nhiều.

Hoàng Dung vốn đang ngồi cạnh y, nghe y nói cha mình không tốt, tức giận đẩy y ra. Quách Tĩnh ngẩn người, Hoàng Dung chợt cười nói:

– Ờ, ờ, Hồng ân sư đối xử với chúng ta vốn cũng không xấu. Vậy thì thôi, chúng ta giúp cả hai người, được không?

Quách Tĩnh nói:

– Cha cô và Hồng ân sư đều là bậc quân tử quang minh lỗi lạc, nếu biết chúng ta ngấm ngầm bày cách giúp đỡ, nhất định sẽ không thích.

Hoàng Dung nói:

– Được rồi, ta có ý giở trò, là kẻ tiểu nhân gian ác phải không?

Nói xong sa sầm mặt. Quách Tĩnh nói:

– Bậy quá, ta ngu ngốc như thế, ăn nói lỡ lời, lại khiến cô tức giận.

Bất giác trên mặt đầy vẻ hoảng sợ.

Hoàng Dung phá ra cười, nói:

– Sau này ta không biết phải tức giận ngươi bao nhiêu nữa.

Quách Tĩnh không hiểu, gãi đầu ngơ ngác nhìn nàng. Hoàng Dung nói:

– Nếu quả thật ngươi không bỏ rơi ta nữa, hai chúng ta về sau cứ ở chung với nhau. Ta đang nghĩ không ra là ngươi sẽ nói thêm bao nhiêu câu ngốc nghếch nữa.

Quách Tĩnh cả mừng, nắm chặt tay nàng luôn miệng nói:

– Tại sao ta lại bỏ cô chứ? Tại sao ta làm như thế chứ?

Hoàng Dung nói:

– Công chúa nhà người ta không cần ngươi, tự nhiên ngươi chỉ còn cách phải đối xử tốt với con nha đầu khốn cùng này thôi.

Quách Tĩnh bị câu nói của Hoàng Dung khơi gợi tâm sự, nhớ tới việc mẹ chết thảm trên đại mạc, buồn rầu không nói gì. Lúc ấy trăng non vừa lên, ánh bạc như nước, chiếu xuống hai người. Hoàng Dung thấy mặt y có vẻ khác lạ, biết mình đã lỡ lời vội nói qua chuyện khác:

– Tĩnh ca ca, chuyện cũ đừng ai nhắc tới nữa. Ta ở cùng với ngươi một chỗ, trong lòng rất vui mừng. Ta cho ngươi hôn một cái được không?

Quách Tĩnh đỏ bừng mặt, lại không dám hôn nàng. Hoàng Dung duyên dáng mỉm cười, tự biết không hay, lại đổi qua chuyện khác, nói:

– Ngươi nói sáng mai luận kiếm thì ai sẽ thắng?

Quách Tĩnh nói:

– Chuyện đó thật rất khó nói, không biết Nhất Đăng đại sư có tới không?

Hoàng Dung nói:

– Đại sư xuất gia lánh đời không tranh giành với người, quyết không giành giật cái hư danh này đâu.

Quách Tĩnh gật đầu nói:

– Ta cũng nghĩ thế. Cha cô, Hồng ân sư, Chu đại ca, Cừu Thiên Nhận, Âu Dương Phong năm người ai cũng có tài riêng, nhưng không biết Hồng ân sư đã khỏe hẳn chưa? Võ công có được như xưa không?

Nói tới đó cảm thấy lo lắng. Hoàng Dung nói:

– Theo lẽ mà nói vốn là Lão Ngoan đồng võ công cao cường nhất, nhưng nếu y không dùng công phu Cửu âm chân kinh thì lại không bằng bốn người kia.

Hai người trò chuyện, Hoàng Dung dần thấy mệt mỏi, dựa vào lòng Quách Tĩnh ngủ thiếp đi. Quách Tĩnh cũng đang thiu thiu, chợt nghe bước chân vang lên, hai bóng đen một trước một sau từ sau núi chạy mau ra.

Hai người này y phục rít gió, chạy rất mau lẹ, nhìn thân hình bộ pháp thì người chạy trước là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông, người đuổi sau là Cừu Thiên Nhận.

Quách Tĩnh không biết Cừu Thiên Nhận dùng rắn độc uy hiếp thủ thắng, không kìm được ngạc nhiên, nghĩ thầm lúc ở Tây Vực Cừu Thiên Nhận đã bị Chu đại ca đuổi chạy bán sống bán chết, tại sao bây giờ tình thế lại đảo ngược. Bèn khẽ lay Hoàng Dung, nói khẽ vào tai nàng:

– Cô xem kìa!

Hoàng Dung ngẩng đầu lên, dưới ánh trăng chỉ thấy Chu Bá Thông lách đông lòn tây, thủy chung không dám đứng lại, nghe y kêu lên:

– Lão tặc họ Cừu kia, ở đây ta có mai phục người bắt rắn giúp đỡ, ngươi còn không chạy mau đi!

Cừu Thiên Nhận cười nói:

– Ngươi cho ta là đứa trẻ con ba tuổi à?

Chu Bá Thông kêu lớn:

– Quách huynh đệ, Hoàng cô nương mau ra giúp ta.

Quách Tĩnh đang định nhảy ra, Hoàng Dung đã dựa vào lòng y, hạ giọng nói:

– Đừng động đậy!

Chu Bá Thông chạy quanh mấy vòng, không thấy Quách Hoàng hai người ra, kêu lên:

– Tiểu tử thối tha, nha đầu quỷ quyệt, các ngươi mà còn không ra, thì ta sẽ chửi mười tám đời tổ tông các ngươi đấy.

Hoàng Dung đứng lên cười nói:

– Ta cứ không ra, ngươi có bản lĩnh cứ chửi.

Chu Bá Thông thấy Cừu Thiên Nhận mỗi tay cầm một con rắn độc ngẩng đầu thè lưỡi phun phì phì, sợ tới mức nhũn chân ra, vội cầu khẩn.

– Hoàng cô nương, ra mau đi, ra mau đi, để ta chửi mười tám đời tổ tông của ta được không?

Cừu Thiên Nhận thấy Quách Hoàng hai người đứng một bên, trong lòng ngấm ngầm hoảng sợ, nghĩ thầm phải nhân cơ hội bỏ chạy cho sớm, nếu không ba người giáp công thì mình quyết không thể thoát thân, đến giờ Ngọ ngày mai đơn đả độc đấu tranh hùng quyết thắng thì không sợ gì họ. Lúc ấy hai chân điểm một cái, sấn mau lên, nhấc hai con rắn độc dí vào mặt Chu Bá Thông.

Chu Bá Thông vội vung tay áo đỡ, né qua một bên, đột nhiên trên đỉnh đầu có một tiếng động khẽ chỉ thấy trên cổ mát lạnh, một con vật sống đã từ cổ áo rơi xuống lưng, giãy giụa trong lưng, vừa trơn vừa mềm. Lần này thì y sợ tới mức hồn phi phách tán, kêu lớn:

– Chết ta rồi, chết ta rồi?

Lại không dám đưa tay lôi rắn độc trong áo ra, chỉ chạy nhảy cuống cuồng, chợt thấy dường như con rắn đã cắn vào lưng mình một cái, nghĩ thầm phen này không sao sống được nữa, toàn thân cứng đờ, ngã huỵch xuống đất. Quách Hoàng hai người cả kinh, nhất tề phi thân tới cứu.

Cừu Thiên Nhận thấy Chu Bá Thông đột nhiên thảm hại không sao chịu nổi vô cùng ngạc nhiên, đang định tìm đường xuống núi, chợt thấy trong rặng cây dày có một bóng đen phóng ra, cười nhạt nói:

– Cừu lão tặc, hôm nay thì ngươi không chạy được nữa rồi.

Người ấy đứng quay lưng về phía ánh trăng, không sao nhìn được rõ mặt. Cừu Thiên Nhận trong lòng hoảng sợ, quát lớn:

– Ngươi là ai?

Chu Bá Thông lúc mơ mơ hồ hồ co rút người dưới đất, chỉ cho rằng mình đang đi xuống âm tào địa phủ, chợt thấy một người đỡ y lên nói:

– Chu lão gia, đừng sợ, đó không phải rắn.

Chu Bá Thông ngạc nhiên vội vàng đứng lên, chỉ thấy con vật ướt lạnh lại giãy mạnh trong lưng, không kìm được tru tréo lên:

– Nó lại cắn ta, đúng là rắn, đúng là rắn?

Người kia nói:

– Đó là con Kim oa oa, không phải rắn.

Lúc ấy Quách Hoàng hai người đã nhìn rõ người kia, chính là người câu cá trong bốn đại đệ tử Ngư Tiều Canh Độc dưới trướng Nhất Đăng đại sư, chỉ thấy y đưa tay mò vào cổ áo Chu Bá Thông túm ra một con cá. Nguyên là y thấy được trong khe trên núi Hoa Sơn một đôi Kim oa oa, bắt bỏ vào bọc lại bị rơi ra, mắc ở trên cây, lại vừa khéo rơi đúng vào cổ áo Chu Bá Thông. Con Kim oa oa thật ra không biết cắn người, nhưng Chu Bá Thông cứ nghĩ rằng là rắn độc, cho rằng con vật trơn trợt lạnh buốt trên lưng mình đã cắn, nếu người đánh cá tới chậm một bước, chỉ e rằng y đã sợ quá ngất đi rồi.

Chu Bá Thông mở mắt ra, thấy người câu cá, lúc ấy kinh hồn chưa định, chỉ cảm thấy người trước mặt đã từng gặp qua nhưng chưa nhớ ra là ai, vừa quay đầu đã thấy Cừu Thiên Nhận không ngừng lùi lại, một cái bóng đen đang từng bước tiến sát tới y. Chu Bá Thông hơi định thần, lại hoảng sợ hồn phi phách tán, nhìn thấy rõ cái bóng đen ấy chính là Lưu quý phi Anh Cô trong hoàng cung nước Đại Lý.

Cừu Thiên Nhận vốn cho rằng trên đời này chỉ có Chu Bá Thông là võ công cao cường hơn mình, nếu lấy độc xà dọa cho y sợ bỏ chạy thì ngày mai tỷ võ rất có hy vọng đứng đầu quần hùng, không ngờ trước đêm luận kiếm đột nhiên Anh Cô lại xuất hiện. Hôm ở thác Thanh Long y từng thấy bà ta phát điên đánh bừa, trong lòng nghĩ nếu bị mụ điên này chụp trúng thì đại địch còn bên cạnh, nhất định khó mà giữ mạng, chỉ nghe bà ta the thé rít lên:

– Trả mạng con ta?

Cừu Thiên Nhận trong lòng cả sợ, nghĩ thầm năm xưa mình cải trang che mặt, đang đêm vào hoàng cung đánh con bà ta bị thương, nguyên là muốn Đoàn hoàng gia hao phí công lực, nào ngờ y lại nhẫn tâm không chịu cứu, chỉ là không biết tại sao bà ta nhìn ra được chân tướng? Lúc ấy cười gượng nói:

– Bà điên ơi, ngươi lằng nhằng với ta làm gì?

Anh Cô kêu lên:

– Trả mạng con ta?

Cừu Thiên Nhận nói:

– Cái gì mà con với cái? Con ngươi mất mạng có quan hệ gì với ta?

Anh Cô nói:

– Hừ, đêm ấy ta không thấy rõ mặt ngươi, nhưng nhớ được giọng cười của ngươi. Ngươi cười lại một tiếng xem! Cười đi, cười đi!

Cừu Thiên Nhận thấy bà ta hai tay vươn ra, lúc nào cũng có thể ôm cứng lấy mình, lúc ấy lui lại hai bước, đột nhiên thân hình hơi nghiêng đi, chưởng trái đập vào chưởng phải một cái, chưởng phải chênh chếch xô ra đánh thẳng vào bụng dưới Anh Cô. Đây là một trong mười ba chiêu Thiết chưởng công của y, gọi là Âm dương quy nhất, tàn độc vô tỷ. Anh Cô biết lợi hại, đang định dùng Nê thu công hóa giải, nào ngờ chiêu số của địch nhân rất mau lẹ, cước bộ của mình chưa di động, tay chưởng của y đã còn cách không đầy nửa thước.

Anh Cô trong lòng đau buốt, tự biết việc trả thù là vô vọng, liều mạng chịu trúng một chường, vọt lên định ôm y cùng lăn xuống vực cùng chết, đột nhiên có một luồng quyền phong lướt qua tai, cảm thấy mặt rát như dao chém. Cừu Thiên Nhận một chưởng ấy chưa kịp nhả kình, vội thu tay đón đỡ phát quyền từ bên cạnh đánh tới ấy, tức giận nói:

– Lão Ngoan đồng, ngươi cũng tới à?

Chính là Chu Bá Thông thấy Anh Cô nguy hiểm, thi triển công phu thượng thừa trong Cửu âm chân kinh, giải khai tuyệt chiêu Thiết chưởng của y.

Chu Bá Thông không dám nhìn thẳng Anh Cô, quay lưng lại bà ta nói:

– Anh Cô, bà không phải là đối thủ của lão già này, mau đi đi. Ta cũng đi!

Đang định phóng người xuống núi, Anh Cô kêu lên:

– Chu Bá Thông, tại sao ngươi không trả thù cho con?

Chu Bá Thông ngạc nhiên nói:

– Cái gì? Con ta à?

Anh Cô nói:

– Đúng thế. Người giết con ngươi chính là gã Cừu Thiên Nhận này.

Chu Bá Thông trước nay không biết mình và Anh Cô vui vầy mấy hôm lại sinh được một đứa con, trong lòng mơ mơ hồ hồ, nhất thời không hiểu, quay nhìn lại thấy cạnh Anh Cô có thêm mấy người, ngoài Quách Tĩnh Hoàng Dung thì Nhất Đăng đại sư và bốn đệ tử cũng đứng sau lưng mình.

Lúc ấy Cừu Thiên Nhận còn cách mép vực không đầy ba thước, nhìn thấy trước mặt người đều là kình địch, tình thế nguy hiểm quả thật bình sinh chưa từng gặp lúc ấy hai tay vỗ một cái, hiên ngang nói:

– Ta lên Hoa Sơn là để giành danh hiệu Thiên hạ đệ nhất võ công. Hừ hừ, các ngươi lại muốn hợp lực đả thương ta để trừ bớt một kình địch, hành sự gian ác như thế mà các ngươi cũng làm được à?

Chu Bá Thông nghĩ lời nói của lão già xấu xa này cũng có mấy phần có lý, bèn nói:

– Được, vậy thì đợi ngày mai luận kiếm xong sẽ lấy cái mạng chó của ngươi.

Anh Cô lại cao giọng quát:

– Oan gia sống chết, ta làm sao chờ tới ngày mai?

Hoàng Dung cũng nói:

– Lão Ngoan đồng, gặp người tín nghĩa thì nói chuyện tín nghĩa, gặp kẻ gian trá thì nói chuyện gian trá. Bây giờ cứ công nhiên mấy người đánh một mình y xem y làm gì được?

Cừu Thiên Nhận sắc mặt tái xanh, đã thấy dữ nhiều lành ít, đột nhiên lúc nguy hiểm nảy ý khôn, kêu lên:

– Các ngươi dựa vào cái gì mà giết ta?

Người thư sinh nói:

– Ngươi làm ác đã nhiều, ai cũng có quyền giết.

Cừu Thiên Nhận ngẩng đầu lên trời cười hô hô, nói:

– Nếu nói động võ, các ngươi cậy đông hiếp ít thì một mình ta không phải là đối thủ, nhưng nói tới thị phi thiện ác, ha ha, Cừu Thiên Nhận một mình ở đây, vị nào bình sinh chưa giết ai, chưa phạm qua tội lỗi, thì xin mời bước lên động thủ. Tại hạ xin vươn cổ chịu chết, nếu cau mày một cái thì quyết không phải là hảo hán.

Nhất Đăng đại sư thở dài một tiếng lui ra trước tiên, ngồi xuống đất xếp bằng cúi đầu. Mọi người bị câu ấy của Cừu Thiên Nhận trói buộc, đều nghĩ tới những điều lầm lỗi mình đã phạm trong đời. Ngư Tiều Canh Độc bốn người năm xưa làm đại thần ở Đại Lý đều đã giết người, tuy nói là làm việc công nhưng rốt lại cũng không khỏi có khi sai lầm. Chu Bá Thông và Anh Cô nhìn nhau một cái, nhớ tới chuyện hối hận trong đời, trong lòng ai cũng thẹn thùng. Quách Tĩnh lúc tây chinh trong chiến trận giết người không ít, vốn đã tự thấy mình có lỗi, Hoàng Dung nhớ tới việc gần đây làm cha lo lắng rất là bất hiếu, còn như bịa đặt lừa dối người khác thì càng không thể kể xiết.

Cừu Thiên Nhận nói câu ấy ra khiến mọi người nghẹn lời không đáp được, nghĩ thầm cơ hội tốt không nên bỏ qua, sãi chân bước tới trước mặt Quách Tĩnh. Thấy y nghiêng người tránh qua, Cừu Thiên Nhận vận kình vào chân đang định vọt lên, đột nhiên sau tảng đá có một ngọn trúc bổng vươn ra đánh tới giữa mặt.

Một bổng này đánh ra vô cùng đột ngột, Cừu Thiên Nhận chưởng trái phóng ra, đang định lật cổ tay nắm trúc bổng, nào ngờ ngọn bổng đâm luôn ba nhát, trong chớp mắt đã chia ra điểm vào ba đại huyệt trước ngực y. Cừu Thiên Nhận cả kinh, chỉ thấy ngọn trúc bổng phóng tới như gió, không sao đón đỡ, cũng không thể né tránh, đành lui lại mép vực. Phía sau tảng đá có một bóng đen theo ngọn bổng bước ra đứng sững lại đó. Quách Tĩnh Hoàng Dung cùng kêu lên:

– Sư phụ?

Chính là Cửu chỉ thần cái Hồng Thất công.

Cừu Thiên Nhận mắng:

– Lão khiếu hóa, ngươi cũng tới đây nhiều chuyện. Còn chưa tới kỳ luận kiếm mà?

Hồng Thất công nói:

– Ta tới trừ gian, chứ ai luận kiếm với ngươi.

Cừu Thiên Nhận nói:

– Được, đại anh hùng đại hiệp sĩ, ta là kẻ gian, ngươi thì xưa nay là người tốt, chưa làm việc gì xấu?

Hồng Thất công nói:

– Không sai, lão khiếu hóa nhất sinh giết hai trăm ba mươi mốt người, kẻ nào cũng là quân gian ác, nếu không là tham quan ô lại, thổ hào ác bá thì là đại gian đại ác, phụ nghĩa bạc hạnh. Lão khiếu hóa tham ăn tham uống nhưng bình sinh chưa từng giết người nào tốt. Cừu Thiên Nhận ngươi là người thứ hai trăm ba mươi hai đấy!

Mấy câu ấy đại nghĩa rõ ràng, Cừu Thiên Nhận nghe xong không kìm được hoảng sợ. Hồng Thất công lại nói:

– Cừu Thiên Nhận, bang chủ đời trước của Thiết chưởng bang ngươi là Tư Đồ Kiếm Nam anh hùng thế nào, một đời tận trung báo quốc. Sư phụ ngươi là Thượng Quan bang chủ cũng là một hán tử cứng cỏi. Ngươi tiếp nhiệm chức bang chủ của sư phụ, lại câu kết với người Kim, tư thông với giặc bán nước, sau khi chết đi còn mặt mũi nào gặp Tư Đồ bang chủ và sư phụ ngươi Thượng Quan bang chủ? Ngươi lên Hoa Sơn muốn tranh đoạt danh hiệu Thiên hạ đệ nhất võ công, đừng nói là võ công của ngươi chưa chắc đã đứng đầu quần hùng, cho dù là vô địch trên đời, anh hùng thiên hạ lại có thể khâm phục tên gian tặc bán nước như ngươi à?

Mấy câu ấy khiến Cừu Thiên Nhận nghe xong như ngây như ngốc, những việc làm mấy mươi năm nay lần lượt hiện ra trong lòng, nhớ lại lời sư phụ răn dạy ngày xưa, về sau mình tiếp nhiệm chức bang chủ Thiết chưởng bang, sư phụ nằm trên giường bệnh truyền lại di huấn bang quy, đinh ninh răn dạy phải yêu nước thương dân thế nào, nào ngờ mình vừa hơi lớn tuổi, võ công tăng tiến, càng lúc càng làm ngược với tôn chỉ trung nghĩa báo quốc, giết giặc cứu nước của bản bang. Chìm đắm ngày càng sâu, phẩm chất bang chúng ngày càng tệ, những người trong sạch trung nghĩa bỏ đi, bọn gian ác thì quy tụ về, càng khiến Thiết chưởng bang trở thành nơi chứa chất cặn bã, gian tà trộm cướp làm điều sai trái. Vừa ngẩng đầu lên, chỉ thấy trăng sáng trên trời, cúi xuống thấy đôi mắt của Hồng Thất công sáng quắc nhìn chằm chặp vào mình, đột nhiên thiên lương phát khởi, chỉ thấy việc làm một đời không việc gì không thương luân bại lý, không kìm được toàn thân toát mồ hôi ướt đẫm, thở dài nói:

– Hồng bang chủ, ngươi giáo huấn rất phải.

Rồi quay người lại nhảy luôn xuống vực.

Hồng Thất công tay cầm trúc bổng, chỉ đề phòng y sau lúc hổ thẹn đột nhiên đột kích, người này võ công không tầm thường, một phen xuất thủ ắt sẽ là tuyệt chiêu cực kỳ lợi hại, không hề ngờ rằng y lại đột nhiên tự tử. Đang kinh ngạc chợt bên cạnh bóng xám chớp lên, Nhất Đăng đại sư thân hình đã tới cạnh bờ vực, y vốn đang ngồi xếp bằng, lúc ấy vẫn ngồi xếp bằng, tay trái vươn ra nắm hai chân Cừu Thiên Nhận kéo mạnh y lên nói:

– Thiện tai, thiện tai! Bể khổ vô biên, quay đầu là bờ, ngươi đã hối cải những điều sai trái trước đây, thay đổi tính tình vẫn còn không muộn.

Cừu Thiên Nhận bật tiếng khóc lớn, quỳ xuống trước Nhất Đăng đại sư, trong lòng có ngàn muôn lời nhưng không nói được câu nào.

Anh Cô thấy y quay lưng về phía mình, đúng là cơ hội tốt để trả thù, bèn rút đao sắt trong bọc ra sấn tới đâm mạnh xuống lưng y.

Chu Bá Thông kêu lên:

– Khoan đã – Ðưa tay đỡ cổ tay bà ta.

Anh Cô giận, cao giọng quát:

– Ngươi làm gì thế?

Chu Bá Thông từ khi bà ta xuất hiện đã run rẩy sợ sệt bị bà ta mắng một câu giữa mặt, bèn kêu lên:

– Ái chà?

Rồi xoay người chạy ra sau núi. Anh Cô nói:

– Ngươi đi đâu thế?

Rồi đuổi theo sau. Chu Bá Thông kêu lớn:

– Ta đau bụng phải đi cầu.

Anh Cô hơi sững người. Rồi không đếm xỉa gì tới, vẫn sãi chân đuổi mau theo. Chu Bá Thông cả kinh kêu lớn:

– Ái chà, không xong rồi. Quần ta toàn là phân, thối lắm, bà đừng tới đây.

Anh Cô tìm y hai mươi năm, nghĩ lần này mà để y chạy thoát thì sau này sẽ không thể gặp lại nữa, bất kể y són ra quần thật hay không, cứ đuổi sát tới. Chu Bá Thông nghe tiếng bước chân tới gần, sợ tới mức hồn phi phách tán, vốn y nói són ra quần là giả, chỉ mong dọa cho Anh Cô không dám tới gần, mình có thể thừa cơ chạy thoát. Nào ngờ trong lúc hoảng sợ, kêu lớn một tiếng, quả thật són luôn ra quần.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung thấy đôi oan gia này càng chạy càng xa, rốt lại trước sau cùng chuyển qua sườn núi đều cảm thấy buồn cười, quay lại chỉ thấy Nhất Đăng đại sư đang nói khẽ vào tai Cừu Thiên Nhận, Cừu Thiên Nhận không ngừng gật đầu. Nhất Đăng đại sư nói hồi lâu, đứng lên nói:

– Đi thôi?

Quách Hoàng hai người vội bước lên bái kiến, lại thi lễ với bốn người Ngư Tiều Canh Độc. Nhất Đăng vỗ lên đầu hai người, mặt hiện nét vui vẻ thần sắc rất từ hòa, nói với Hồng Thất công:

– Thất huynh, cố nhân vẫn khỏe, anh phong còn hơn xưa, lại thu được hai vị hiền đồ, quả thật đáng vui đáng mừng.

Hồng Thất công khom lưng nói:

– Đại sư vẩn khỏe.

Nhất Đăng cười khẽ nói:

– Núi cao sông dài, có ngày gặp lại.

Rồi chắp hai tay làm lễ xoay người định đi. Hồng Thất công kêu lên:

– Ngày mai luận kiếm rồi, đại sư đi đâu?

Nhất Đăng quay người lại cười nói:

– Nghĩ lão nạp là người ngoài đời, đâu dám sánh vai tranh tài với anh hùng thiên hạ. Hôm nay lão nạp tới đây là vì muốn giải hóa một trường oan nghiệt kéo dài hai mươi năm, may là công đức được viên mãn. Thất huynh, hào kiệt trên đời ngoài ngươi ra còn ai? Ngươi cần gì phải tự khiêm?

Nói xong chắp tay làm lễ, dắt tay Cừu Thiên Nhận đi thẳng xuống núi. Bốn đại đệ tử nước Đại Lý cùng hướng về Hồng Thất công vái dài, đi theo sư phụ.

Người thư sinh bước qua cạnh Hoàng Dung, thấy nàng trên trán ửng hồng, vẻ mặt vui sướng, cười ngâm:

– Chỗ thấp có gai, Cành mềm dịu dàng?

Hoàng Dung nghe y trêu ghẹo mình, cũng ngâm:

– Gà đậu trên chuồng, Mặt trời đã xế?

Người thư sinh cười hô hô, vái dài chia tay.

Quách Tĩnh nghe mà không hiểu gì cả, bèn hỏi:

– Dung nhi, mới rồi lại là tiếng Phạn à?

Hoàng Dung cười nói:

– Không, đó là câu trong kinh Thi.

Quách Tĩnh nghe nói họ đối đáp thi văn với nhau cũng không hỏi nữa. Hoàng Dung cười hề hề nhìn y, nghĩ thầm:

– Vị Trạng nguyên này cũng rất thông minh, đoán được tâm sự của mình. Y dẫn hai câu trong kinh Thi, đoạn dưới có ba câu “Vui chàng vô tri, Vui chàng chưa ai, Vui chàng chưa vợ”, vốn là bài tình ca về việc thiếu nữ yêu đương một người đàn ông chưa vợ, chỉ vào Tĩnh ca ca cũng rất phù hợp, nói y là một gã tiểu tử ngốc chưa lấy vợ, mình rất là yêu thương.

Nghĩ tới đó đột nhiên khẽ kêu lên:

– Ái chà?

Quách Tĩnh vội hỏi:

– Cái gì thế!

Hoàng Dung cười khẽ nói:

– Ta dẫn hai câu kinh Thi ấy, đoạn dưới là Trâu dê về thôi, Trâu dê về chuồng, nói là đã không còn sớm, bò dê xuống núi về chuồng dê chuồng bò đi, vốn mắng Trạng nguyên là súc vật nhưng như thế lại là mắng cả Nhất Đăng đại sư.

Quách Tĩnh cũng không đếm xỉa gì tới mấy câu châm chọc của nàng, trong lòng chỉ nghĩ tới lời Hồng Thất công mắng Cừu Thiên Nhận vừa rồi, bao nhiêu khổ não trong bấy nhiêu ngày dằn vặt y đều được mấy câu ấy giải thích, đột nhiên nghĩ ra:

– Sư phụ nói bình sinh ông đã giết hai trăm ba mươi mốt người, nhưng hai trăm ba mươi mốt người ấy đều là kẻ ác. Chỉ cần không giết lầm một người tốt thì có thể hỏi lòng không thẹn. Xem lúc sư phụ chỉ trích Cừu Thiên Nhận mới thần oai lẫm liệt làm sao. Võ công của Cừu Thiên Nhận chưa chắc đã thua kém sư phụ, chỉ là tà không thắng được chính nên đã mất khí thế trước. Chỉ cần mình đem một thân võ công làm nghĩa hành thiện, thì cần gì phải quên hết công phu đã học?

Đạo lý ấy thật ra rất giản dị bình thường, Khưu Xử Cơ đã từng nói với y, chỉ là y không hoàn toàn tin phục Khưu Xử Cơ, mà y thẹo Thành Cát Tư Hãn tây chinh, nhìn thấy thảm trạng tàn sát, sự tàn khốc của chiến tranh, nỗi khổ của sinh dân, mẹ chết thảm dưới đao, trong đòng càng chán ghét việc binh đao chinh chiến mới có một phen khổ não suy nghĩ như thế. Nhưng trải qua một phen như thế lòng hướng thiện của y càng cao thêm một tầng.

Quách Hoàng hai người bước lên bái kiến sư phụ, cùng kể chuyện sau khi chia tay. Nguyên là Hồng Thất công theo Hoàng Dược Sư tới dưỡng thương ở đảo Đào Hoa, dùng nội công thượng thặng trong thiên tổng cương của Cửu âm chân kinh tự đả thông kinh mạch, qua nửa năm thì đã khỏi hẳn, lại qua nửa năm thì khôi phục được toàn bộ thần công. Hoàng Dược Sư vì lo cho con gái, khi y vừa khỏi hẳn lập tức lên bắc tìm con. Hồng Thất công rời đảo chậm hơn, mấy hôm trước từng gặp bọn Lỗ Hữu Cước nên cũng biết qua chuyện Quách Hoàng hai người.

Ba người trò chuyện một lúc, Quách Tĩnh nói:

– Sư phụ, người nghỉ một lúc đi, trời sắp sáng rồi, đến lúc luận kiếm tỷ võ ắt phải dùng sức.

Hồng Thất công cười nói:

– Ta tuổi tác càng già, lòng hiếu thắng càng mạnh, nghĩ tới lúc qua chiêu với Đông tà Tây độc lại càng hồi hộp không yên, nói xa cũng thật buồn cười. Dung nhi, mấy năm nay võ công của cha ngươi tăng tiến, ngươi đoán thử xem đến lúc tỷ thí thì hai người cha ngươi và sư phụ ngươi ai thắng ai thua?

Hoàng Dung nói:

– Võ công của lão nhân gia người và cha con xưa nay khó phân cao thấp, nhưng hiện người biết Cửu âm thần công, cha con làm sao là địch thủ của người được? Đến lúc gặp cha con, con sẽ nói với ông đừng tỷ thí, trở về đảo Đào Hoa sớm cho xong.

Hồng Thất công nghe ngữ khí của nàng có vẻ kỳ lạ, thoáng ngẫm nghĩ đã hiểu ý, bèn hô hô cười lớn, nói:

– Ngươi không cần quanh co, Cửu âm thần công là của hai người các ngươi, ngươi muốn khích ta, lão khiếu hóa cũng không mặt dày sử dụng đâu. Đến lúc tỷ thí với Hoàng lão tà, ta chỉ dùng võ công vốn có của mình là được.

Hoàng Dung đang muốn y nói ra câu ấy, liền cười nói:

– Sư phụ, nếu người thua dưới tay cha con, con sẽ nấu một trăm món ngon cho người ăn, để người vui lòng thua cũng thoải mái.

Hồng Thất công nuốt nước bọt một cái, hừ một tiếng nói:

– Con nhóc ngươi tâm địa không tốt, vừa khích tướng vừa đánh cuộc, điêu ngoa cổ quái, chỉ trông mong cha mình đắc thắng.

Hoàng Dung cười một tiếng, còn chưa trả lời, Hồng Thất công đứng phắt dậy, chỉ ra sau lưng Hoàng Dung quát:

– Lão Độc vật, ngươi tới sớm đấy.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung giật mình nhảy bật lên đứng cạnh Hồng Thất công, quay lại chỉ thấy thân hình cao lớn của Âu Dương Phong đang đứng đó. Y rón rén lần tới không một tiếng động, hai người không hề phát hiện ra, đều vô cùng hoảng sợ.

Hồi 40: Hoa Sơn luận kiếm

Âu Dương Phong lạnh lùng nói:

– Tới sớm thì Tỷ thí sớm, tới muộn thì tỷ thí muộn. Lão ăn mày, hôm nay ngươi tỷ thí với ta là để phân thắng phụ hay quyết sống chết?

Hồng Thất công nói:

– Vừa phân thắng phụ vừa quyết sống chết, ngươi ra tay không cần dung tình.

Âu Dương Phong nói:

– Tốt lắm!

Tay trái y vốn để sau lưng, đột nhiên vung ra, trong tay đã cầm xà trượng, dằn mạnh cán trượng xuống mặt đá một cái, nói:

– Ở đây hay là đổi chỗ khác?

Hồng Thất công chưa trả lời, Hoàng Dung đã nói chen vào:

– Tỷ võ ở Hoa sơn tỷ võ không hay, cứ xuống thuyền mà tỷ thí.

Hồng Thất công sửng sốt hỏi:

– Để làm gì?

Hoàng Dung nói:

– Để Âu Dương tiên sinh lấy oán báo ơn, đánh lén sau lưng lần nữa

Hồng Thất công hô hô cười rộ, nói:

– Mắc lừa một lần thì học khôn một ít, ngươi đừng hy vọng lão khiếu hóa ta tha cho lần nữa.

Âu Dương Phong nghe Hoàng Dung lên tiếng mỉa mai lại hoàn toàn không đổi sắc mặt, hai chân khẽ cong lại, đưa chiếc trượng qua tay phải, chưởng trái từ từ vận kình lực Cáp mô công lên.

Hoàng Dung đưa Đả cẩu bổng cho Hồng Thất công nói:

– Sư phụ, Đả cẩu bổng thêm Cửu âm thần công, động thủ với lão gian tặc này không cần nói chuyện nhân nghĩa đạo đức gì cả.

Hồng Thất công nghĩ thầm:

– Chỉ bằng vào võ công vốn có của mình mà muốn thắng y vốn rất không dễ, nhưng lúc Lão Độc vật tỷ thí với Hoàng lão tà mà đã đánh nhau tới mức gân cốt rã rời thì không thể chống Hoàng lão tà được

Liền gật gật đầu cầm ngọn Đả cẩu bổng, một chiêu Đả thảo kinh xà bên trái, một chiêu Bát thảo tầm xà bên phải chia ra đánh vào hai bên.

Âu Dương Phong giao thủ với y mấy lần vẫn chưa thấy y sử dụng Đả cẩu bổng pháp, hôm ấy trên chiếc thuyền cháy liều mạng đánh nhau, tình thế khẩn cấp mà Hồng Thất công cũng chưa từng sử dụng. Âu Dương Phong từng thấy Hoàng Dung sử dụng bổng pháp này chiêu số tinh kỳ đã không dám coi thường, lúc ấy thấy Hồng Thất công đánh ra hai chiêu, tiếng bổng rít gió, quả nhiên không phải tầm thường. Lúc ấy rung xà trượng đỡ tả gạt hữu, đánh thẳng vào trung cung địch nhân. Xà trượng của y đã rơi mất hai lần, trong tay đang cầm là chiếc thứ ba, hình đầu người trên trượng lại càng ngụy dị đáng sợ, chỉ là hai con rắn tuy độc tính không khác nhưng thuần dưỡng chưa lâu, lúc lâm địch không được linh động thuần thục như hai con đầu tiên.

Hồng Thất công hôm trước bị quái xà của y cắn vào lưng, lại bị y đập một chưởng suýt mất mạng, dưỡng thương gần hai năm nay mới hồi phục. Đó là trận đại bại suốt đời y chưa từng gặp, cũng là mối nguy hiểm trong đời chưa từng gặp, mối thù này há lại không trả? Lúc ấy vận bổng rít gió, hăng hái tấn công.

Hai người lần đầu luận kiếm ở Hoa sơn là tranh nhau danh tiếng và Cửu âm chân kinh, lần thứ hai qua chiêu ở đảo Đào Hoa là vì hôn sự của Quách Tĩnh và Âu Dương Khắc, đó đều là chỉ quyết thắng phụ chứ không quan hệ tới việc sống chết. Lần thứ ba đánh nhau trên biển, sống chết chỉ còn cách một sợi tơ nhưng Hồng Thất công ra tay vẫn còn nhường nhịn, lần ác chiến thứ tư này mới đúng là dùng hết toàn lực không chút dung tình. Hai người đều biết đối phương tuổi tác tuy tăng nhưng võ công càng lợi hại hơn trước, chỉ cần mình hơi sơ xuất, trúng phải một chiêu nửa thức của đối phương thì khó tránh khỏi mất mạng tại đương trường.

Hai người qua lại giao đấu hơn hai trăm chiêu, đột nhiên ánh trăng mất đi, sắc trời chuyển thành tối om. Đó là cảnh tối tăm trước khi trời rạng sáng, trong chớp mắt sẽ lập tức sáng lên. Hai người đều sợ trong đêm tối trúng phải độc thủ của đối phương, chỉ giữ vững môn hộ, không dám tấn công. Quách Tĩnh và Hoàng Dung không kìm được lo lắng, bước lên vài bước, nếu Hồng Thất công có chút sơ sót nào sẽ lập tức ra tay giúp đỡ. Quách Tĩnh mắt nhìn hai người ác đấu, nhưng trong lòng thì ý nghĩ dâng trào:

– Hai người này đều là cao thủ hạng nhất trên đời nhưng một người thì hành hiệp trượng nghĩa, một người thì cậy mạnh làm ác, đủ thấy bản thân võ công vốn không chia thiện ác, toàn là do người dùng. Làm việc thiện thì võ công càng mạnh càng tốt, làm điều xấu thì võ công càng mạnh càng xấu.

Đến cuối cùng sắc trời rối đen, chiêu thức của hai người đã không còn nhìn rõ, nhưng nghe tiếng binh khí rít gió và tiếng quát tháo giao đấu không kìm được tim đập thình thịch, nghĩ thầm:

– Sư phụ vì vận công trị thương, lỡ mất hai năm luyện tập. Cao thủ thì công lực vốn không chênh lệch nhau bao nhiêu, mà một tiến một thoái như thế đừng nói là vì thế mà thua vào tay Âu Dương Phong. Nếu là như thế, lúc đầu quả thật không nên tha y ba lần.

Y lại nhớ tới lời Khưu Xứ Cơ giải thích hai chữ Tín nghĩa, phải phân biệt rạch ròi đại tín đại nghĩa với tiểu tín tiểu nghĩa, nếu vì để giữ trọn điều tín nghĩa nhỏ mọn cho mình mà làm hỏng việc lớn, thì tính ra cũng không thể gọi là có tín nghĩa. Nghĩ tới chỗ đó, máu nóng tràn lên, nghĩ thầm:

– Tuy sư phụ và y có nói rõ là đơn đả độc đấu, nhưng nếu y hại sư phụ, từ đây hoành hành trong thiên hạ thì không biết còn có bao nhiêu người tốt sẽ phải chết dưới tay y. Trước đây mình không hiểu rõ ý nghĩa thật sự của hai chữ Tín nghĩa, đến nỗi làm không ít chuyện hồ đồ.

Lúc ấy tâm ý đã quyết, song chưởng cùng giơ lên, đang định nhảy vào giúp đỡ.

Chợt nghe Hoàng Dung kêu lên:

– Âu Dương Phong, Tĩnh ca ca của ta từng kích chưởng hẹn ước với ngươi, tha ngươi ba lần không giết, nào ngờ ngươi vẫn cậy mạnh hà hiếp ta. Ngươi nói không giữ lời, còn không bằng một kẻ vô danh tiểu tốt trong võ lâm, thì còn mặt mũi nào mà tranh giành danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công?

Âu Dương Phong nhất sinh làm không biết bao nhiêu điều ác, nhưng nói ra thì thủy chung một là một, hai là hai, chưa bao giờ hối hận, bình sinh cũng luôn tự phụ về điều đó, y quyết không tới nỗi trái ước cưỡng bách Hoàng Dung lúc ấy đang cùng Hồng Thất công giao đấu, chợt nghe nàng nói tới chuyện ấy bất giác tai nóng bừng, trong lòng rối loạn, ra trượng chậm lại, suýt nữa bị Đả cẩu bổng điểm trúng.

Hoàng Dung lại kêu lên:

– Ngươi có hiệu là Tây độc, hành sự gian trá vốn cũng không cần phải nói, nhưng lại bắt một gã tiểu bối hậu sinh tha cho ba lần không giết thì đã mất cả mặt mũi rồi, mà còn nuốt lời với hậu bối, đúng là khiến hảo hán trên giang hồ chê cười. Âu Dương Phong ơi Âu Dương Phong, có một chuyện mà người trong khắp thiên hạ không ai bằng lão nhân gia người, đó là mặt dày thiên hạ đệ nhất!

Âu Dương Phong cả giận, nhưng lập tức biết ngay đây là quỷ kế của Hoàng Dung, có ý khích cho mình tức giận xấu hổ, chỉ cần nội công vận chuyển hơi không thuần nhất sẽ lập tức thua dưới tay Hồng Thất công, lúc ấy bèn làm như không nghe không thấy gì. Nào ngờ Hoàng Dung càng chửi càng ngoa, trong võ lâm có rất nhiều chuyện xấu xa chẳng liên hệ gì với y cũng đổ cả lên đầu y. Nàng nói bừa bãi đủ chuyện một hồi, tựa hồ khắp dưới gầm trời này chỉ có một mình y là kẻ xấu, hàng ngàn hàng vạn tội ác trên đời đều do một mình y làm ra. Nếu nói y làm những việc xấu xa tàn ác thì Âu Dương Phong vốn chẳng hề để ý, nhưng Hoàng Dung lại mấy lần nói y làm những việc xấu xa hạ lưu trong giang hồ, nói thấy y năn nỉ Linh Trí thượng nhân, lại năn nỉ Sa Thông Thiên làm “Ông chú”, lạy Bành Liên Hổ làm “Cha nuôi” để xin một bí phương thuốc độc, đủ chuyện hạ lưu vô sỉ, xấu xa bậy bạ, nói từng nghe có lần y tự tiến cứ xin làm đội trương thân binh cho Hoàn Nhan Hồng Liệt để được hàng đêm canh gác Triệu vương phủ. Tới như việc Quách Tĩnh ba lần tha y ở Tây Vực thì kéo y trong cột băng ra thế nào, lại thêm mắm dặm muối khiến y không sao chịu nổi. Lúc đầu Âu Dương Phong còn nhịn được, sau cùng nghe nàng nói tới mức quá đáng, nhịn không được cãi lại mấy câu. Không ngờ Hoàng Dung đang muốn khích y đấu khẩu với mình, lại càng ăn nói bừa bãi. Cứ thế một hồi, Âu Dương Phong quyền cước binh khí thì ác đấu với Hồng Thất công, miệng thì gây gỗ với Hoàng Dung, nói tới mức hao hơi kiệt lực, dùng sức cãi nhau với Hoàng Dung còn hơn cả dùng sức đánh nhau với Hồng Thất công. Lại qua một lúc, Âu Dương Phong tâm trí dần dần cảm thấy không chi trì được, nghĩ thầm:

– Nếu mình không sử dụng công phu trong Cửu âm chân kinh thì nhất định khó mà thủ thắng.

Y tuy chưa từng theo lời Hoàng Dung nói mà chuyển vận kinh mạch toàn thân đi ngược, nhưng tu tập nửa năm, dựa vào võ học uyên thâm, nội công thâm hậu cũng đã có chút thành tựu, lúc ấy xà trượng vung lên, chợt ra quái chiêu. Hồng Thất công giật nảy mình, ngưng thần tiếp chiến.

Hoàng Dung kêu lên:

– Nguyên tư anh nhi, ba ba tây lạc tấn tuyết long văn binh.

Âu Dương Phong sửng sốt:

– Câu này có ý gì?

Y nào biết Hoàng Dung toàn là buộc miệng nói bừa, khua môi múa lười, đem một tràng âm thanh không có ý nghĩa gì nói bừa ra. Chỉ là giọng điệu của nàng biến hóa đa đoan, có lúc như phẫn nộ quát tháo, có lúc như thành khẩn khuyên răn, lúc như hoảng sợ than thở, lúc như mừng rỡ ca ngợi, đột nhiên nàng lại dùng giọng điệu truy vấn kêu lên mấy tiếng liên tiếp, rõ ràng là đang hỏi vặn rất gấp Âu Dương Phong tuy muốn không đếm xỉa gì tới, nhưng không tự chủ được kêu lên:

– Ngươi nói gì thế?

Hoàng Dung giả tiếng Phạn trả lời mấy câu. Âu Dương Phong ngơ ngác không hiểu, kiệt lực tìm trong kinh văn mà Quách Tĩnh viết cho, nhất thời những thanh âm, hình dáng, chiêu số, bí quyết hỗn loạn không có chương pháp gì ùn ùn hiện ra trong đầu, chỉ thấy trời đất xoay chuyển, lại càng không biết mình ở đâu Hồng Thất công đột nhiên thấy trượng pháp của y lộ ra chỗ sơ hở rất lớn, quát lên:

– Này!

Một bổng gõ vào thiên linh cái của y.

Một bổng ấy kình lực tới mức nào, Âu Dương Phong trong đầu vốn đã rối loạn, bị cái gõ ấy lại càng hoa mắt váng đầu, không biết nói gì kêu lớn một tiếng, cắp ngược xà trượng quay người bỏ chạy, Quách Tĩnh kêu:

– Chạy đi đâu?

Rồi tung người đuổi theo, Âu Dương Phong đột nhiên nhảy bật lên, lộn nhào ba vòng trên không, trong chớp mắt lăn bảy tám vòng sau sườn núi, không biết chạy đi đâu. Hồng Thất công, Quách Tĩnh, Hoàng Dung ba người nhìn nhau ngạc nhiên, hoảng sợ phá ra cười.

Hồng Thất công thở dài nói:

– Dung nhi, hôm nay đánh bại Lão Độc vật thì công lao của ngươi rất lớn. Có điều thầy trò chúng ta liên thủ lấy hai chọi một, không khỏi có chỗ thắng cũng bất võ.

Hoàng Dung cười nói:

– Sư phụ, công phu này không phải là người dạy sao?

Hồng Thất công cười nói:

– Công phu của ngươi là trời sinh. Có lão già ranh mãnh khôn ngoan như cha ngươi mới sinh ra được đứa con gái ranh mãnh khôn ngoan như ngươi.

Chợt nghe sau núi có người kêu lên:

– Giỏi lắm, nói xấu người ta sau lưng, lão ăn mày, ngươi có biết thẹn không đấy?

Hoàng Dung kêu lớn:

– Cha?

Rồi nhảy bật lên chạy ra. Lúc ấy mặt trời vừa mọc, dưới ánh nắng sớm một người mắc áo dài màu xanh thong thả bước ra, chính là đảo chủ Đào Hoa Đông tà Hoàng Dược Sư.

Hoàng Dung sấn lên trước, hai cha con ôm chầm lấy nhau. Hoàng Dược Sư thấy con gái không còn có vẻ trẻ con, đã hoàn toàn trở thành một thiếu nữ, trông giống hệt người vợ đã mất, trong lòng vừa vui mừng vừa thương cảm.

Hồng Thất công nói:

– Hoàng lão tà, trên đảo Đào Hoa ta từng nói rằng con gái ngươi thông minh lanh lợi, quỷ kế đa đoan, chỉ có người khác mắc mưu y thị, chứ y thị quyết không chịu thua ai, bảo ngươi không cần lo lắng. Ngươi nói đi, lời lão khiếu hóa có chỗ nào sai không?

Hoàng Dược Sư cười khẽ một tiếng, kéo tay con gái bước tới nói:

– Chúc mừng ngươi đánh bại Lão Độc vật. Người này thất bại, cũng đỡ được một mối lo cho cả ngươi và ta.

Hồng Thất công nói:

– Anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và lão khiếu hóa mà thôi. Ta thấy con gái ngươi, đám sâu bọ trong bụng lại cắn bừa nhảy bậy, nước dãi lại chảy ra. Chúng ta cứ sảng khoái động thủ ngay, ngươi làm thiên hạ đệ nhất cũng được, ta làm thiên hạ đệ nhất cũng được, ta chỉ chờ được ăn thức ăn ngon của Dung nhi nấu thôi.

Hoàng Dung cười nói:

– Không, nếu người thua thì con mới nấu thức ăn cho người ăn.

Hồng Thất công nói:

– Phì, không sợ xấu hổ, ngươi muốn đè nén ta phải không?

Hoàng Dược Sư nói:

– Lão khiếu hóa, sau khi ngươi bị thương đã lỡ mất hai năm luyện tập, e hiện đã không phải là đối thủ của ta. Dung nhi, bất kể ai thắng ai bại ngươi cũng phải nấu thức ăn kính mời sư phụ.

Hồng Thất công nói:

– Đúng đấy, như thế mới là lời nói của bậc đại tôn sư, đường đường đảo chủ đảo Đào Hoa, chứ như con nha đầu này thì còn nhỏ nhen lắm. Chúng ta cũng đừng chờ tới chính ngọ hay không, lại đây?

Nói xong giơ trúc bổng ra định xông lên động thủ.

Hoàng Dược Sư lắc đầu nói:

– Ngươi mới đánh nhau hồi lâu với Lão Độc vật, tuy không thể nói là gân cốt rã rời nhưng cũng đã mệt mỏi mất một lúc. Hoàng mỗ lại có thể chiếm tiện nghi sao? Chúng ta cứ chờ tới chính ngọ sẽ đấu, ngươi cứ dưỡng sức đi.

Hồng Thất công tuy biết y nói có lý nhưng không chịu chờ đợi, cứ nhất định đòi tỷ võ lập tức. Hoàng Dược Sư ngồi xuống tảng đá, không nhìn ngó gì tới y.

Hoàng Dung thấy hai người tranh cãi không thôi, bèn nói:

– Cha, sư phụ, con có một cách cho hai người có thể lập tức tỷ võ, mà cha cũng không chiếm tiện nghi.

Hồng Thất công và Hoàng Dược Sư cùng nói:

– Hay đấy, cách gì vậy?

Hoàng Dung nói:

– Hai người là bạn già lâu năm, bất kể ai thắng ai bại cũng làm tổn thương hòa khí. Nhưng lần luận kiếm ở Hoa sơn hôm nay, lại thành cái thế phải phân thắng bại, có đúng không?

Hồng Hoàng hai người vốn cũng đã nghĩ tới chuyện đó, lúc ấy nghe nàng nói tới, tựa hồ đã có một cách hay trọn vẹn đôi bề, đã có thể lập tức động thủ, lại có thể không để Hoàng Dược Sư chiếm tiện nghi, vả lại còn khiến hai nhà không bị tổn thương hòa khí, cùng hỏi:

– Ngươi có chủ ý gì vậy?

Hoàng Dung nói:

– Là thế này: Cha ra chiêu với Tĩnh ca ca trước, xem tới chiêu thứ mấy thì đánh bại y. Sau đó sư phụ lại qua chiêu với Tĩnh ca ca. Nếu cha dùng chín mươi chín chiêu để thủ thắng, mà sư phụ dùng một trăm chiêu, thì là cha thắng. Nếu sư phụ chỉ dùng chín mươi tám chiêu thì sư phụ thắng.

Hồng Thất công cười nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca tỷ võ với cha trước, hai người tinh lực đều sung mãn, đến khi sư phụ tỷ võ thì hai người cũng đều đã giao đấu một trận, há không phải là rất công bằng sao?

Hoàng Dược Sư gật đầu nói:

– Cách này quả không kém. Tĩnh nhi, lại đây, ngươi có dùng binh khí không?

Quách Tĩnh nói:

– Không!

Ðang định bước tới Hoàng Dung lại nói:

– Khoan đã còn có một chuyện phải nói rõ. Nếu hai vị tiền bối mà trong vòng ba trăm chiêu đều không đánh bại được Tĩnh ca ca, thế thì làm sao?

Hồng Thất công hô hô cười rộ, nói:

– Hoàng lão tà, lúc đầu ta còn khen ngươi sinh được đứa con gái xinh đẹp này, chỉ tận tâm kiệt lực giúp đỡ cho cha, hà, nào ngờ đàn bà hướng ra ngoài, đó quả thật là lời chí lý. Y thị chỉ dốc lòng muốn thằng tiểu tử ngốc này đạt được danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công thôi!

Hoàng Dược Sư tính tình quái dị hẹp hòi nhưng rất thương yêu con gái, nghĩ thầm:

– Mình thành toàn tâm nguyện cho nó một lần cũng được.

Lúc ấy bèn nói:

– Lời của Dung nhi cũng đúng đấy. Hai lão già chúng ta nếu không đánh bại được Tĩnh nhi trong vòng ba trăm chiêu, thì còn mặt mũi nào mà làm thiên hạ đệ nhất võ công?

Rồi xoay chuyển ý nghĩ nghĩ thầm:

– Mình vốn có thể cố ý nhường nhịn, cho y đón đỡ được ba trăm chiêu, nhưng lão khiếu hóa lại không chịu nhường, ắt trong ba trăm chiêu có thể đánh bại y. Vậy thì mình không phải là nhường Tĩnh nhi, mà là nhường lão khiếu hóa – Nhất thời trầm ngâm không quyết.

Hồng Thất công đẩy vào lưng Quách Tĩnh một cái nói:

– Động thủ mau đi, còn chờ gì nữa?

Quách Tĩnh loạng choạng một cái, xông tới trước mặt Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư nghĩ thầm:

– Tốt, ta cứ thử công phu của y trước. Rồi sẽ quyết định.

Chưởng trái lật ra, vỗ chếch tới đầu vai y, kêu lên:

– Chiêu thứ nhất.

Đang lúc Hoàng Dược Sư còn chưa quyết, Quách Tĩnh trong lòng cũng không định được chủ ý:

– Mình quyết không thể chiếm được danh hiệu thiên hạ đệ nhất, nhưng nên nhường cho đảo chủ đắc thắng hay là nhường cho sư phụ thắng?

Đang lúc ngần ngừ, Hoàng Dược Sư đã vung chưởng đánh ra. Y giơ tay phải lên đỡ gạt, thân hình loạng choạng một cái, suýt ngã, nghĩ thầm:

– Mình thật hồ đồ, còn nghĩ nhường nhịn cái gì nữa? Mình dùng hết toàn lực cũng quyết chống không được ba trăm chiêu.

Nhìn thấy chiêu thứ hai của Hoàng Dược Sư đánh tới, lúc ấy ngưng thần đón đỡ, lúc ấy tâm ý đã quyết, cứ mặc kệ hai người dùng chân công phu đánh thắng mình, ai mau ai chậm là do họ tự quyết, chứ mình tuyệt nhiên không hề thiên vị bên nào.

Vừa qua vài chiêu Hoàng Dược Sư vô cùng kinh ngạc:”Võ công của thằng tiểu tử ngốc này làm sao lại luyện được tới mức ấy? Nếu mình chỉ hơi nhường nhịn, thì đừng nói là bị y đón đỡ hơn ba trăm chiêu, chỉ sợ còn thua dưới tay y nữa”.

Cao thủ tỷ võ, quả thật không thể nhường nhịn nửa phần. Hoàng Dược sự lúc đầu xuất thủ chỉ dùng bảy phần kình lực, nào ngờ bị Quách Tĩnh dốc toàn lực tấn công, lại bị rơi vào thế hạ phong. Y trong lòng hốt hoảng, vội triển khai Lạc anh thần kiếm chưởng pháp, thân hình lãng đãng, ra sức giành lại tiên cơ.

Nhưng công lực của Quách Tĩnh quả thật đã khác hẳn ngày trước, Hoàng Dược Sư đổi dùng mười mấy loại chưởng pháp nhưng thủy chung vẫn không thể cướp được tiên cơ, đánh được hơn một trăm chiêu, y thi triển chiêu thức kỳ lạ, Quách Tĩnh không ngờ y lại dùng kế, suýt nữa bị chân trái y đá trúng, lùi lại hai bước, lúc ấy trở thành thế ngang sức. Hoàng Dược Sư thở ra một hơi, kêu thầm:

– Xấu hổ thật?

Muốn thừa cơ chiếm thượng phong, không ngờ Quách Tĩnh giữ gìn môn hộ rất nghiêm cẩn, bất kể y tấn công như sóng to gió dữ, thủy chung vẫn không cần có công chỉ cần không có tội, quyền cước lại càng không có nửa chút sơ hở. Tai nghe con gái đếm:

– Hai trăm lẻ ba, hai trăm lẻ bốn.

Hoàng Dược Sư vô cùng sốt ruột:

– Lão thiêu hóa xuất thủ mãnh liệt, nếu trong một trăm chiêu đánh bại Tĩnh nhi, thì mình còn mặt mũi nào nữa. Chiêu số chợt thay đổi, chưởng ảnh trùng trùng, ra tay vô cùng mau lẹ.

Lần này Quách Tĩnh lập tức rơi vào thế hạ phong, chỉ cảm thấy hơi thở khó khăn, như có một tòa núi lớn đè lên người mình, nhìn thấy mắt nảy đom đóm, dần dần không chống đỡ nổi. Hoàng Dược Sư ra tay càng nhanh, thế công mau lẹ, Hoàng Dung càng đếm mau hơn. Quách Tĩnh môi khô lưỡi đắng, tay chân nhũn ra, càng lúc càng thấy khó chống đỡ, chỉ đành dựa vào sự kiên nghị cố sức đón đỡ, đang lúc nguy cấp chợt nghe Hoàng Dung kêu lớn một tiếng ”Ba trăm”. Hoàng Dược Sư biến hẳn sắc mặt, nhảy lùi ra ngoài.

Lúc ấy Quách Tĩnh đã bị ép tới mức đầu váng mắt hoa, thân hình không tự chủ được, lùi mau về bên trái, kế xoay mười mấy vòng, nhìn thấy trời xoay đất chuyển, đang muốn ngã vật ra, lúc nguy cấp chân trái dùng công phu Thiên cân trụy, định kìm chế thân hình. Nhưng hậu kình trong nội công của Hoàng Dược Sư rất lớn, người tuy đã lui ra nhưng dư thế của quyền chiêu chưa giảm, Quách Tĩnh đứng không vững đành khom lưng cúi đầu, tay trái dùng lực phát kình xuống đất, mượn kình lực mãnh liệt của Hàng long thập bát chưởng xoay về bên trái mười mấy vòng, trong đầu mới cảm thấy sáng suốt, ngẩn ra một lúc rồi nói với Hoàng Dược Sư:

– Hoàng đảo chủ, người mà ra vài chiêu nữa, thì con không ngã không được.

Hoàng Dược Sư thấy y có định lực như thế, chống được Kỳ môn ngũ chuyển mà mình luyện tập hơn mười năm mới thành công, không tức giận mà lại mừng rỡ, cười nói:

– Lão khiếu hóa, ta không xong rồi, danh hiệu thiên hạ đệ nhất nhường cho ngươi thôi.

Hai tay chắp lại một cái, xoay người định bỏ đi.

Hồng Thất công nói:

– Khoan đã, khoan đã, ta cũng chưa chắc đã xong. Chiếc thiết tiêu của ngươi xin đưa cho Tĩnh nhi mượn.

Chiếc ngọc tiêu của Hoàng Dược Sư đã gãy, trong lưng giắt một ngọn thiết tiều, lúc ấy rút ra đưa cho Quách Tĩnh.

Hồng Thất công nói với Quách Tĩnh:

– Ngươi dùng võ khí, ta dùng tay không ra chiêu với ngươi.

Quách Tĩnh ngạc nhiên nói:

– Thế này… .

Hồng Thất công nói:

– Chưởng pháp của ngươi là ta dạy, làm sao đấu quyền cước được? Vào đi!

Năm ngón tay trái cong như móc câu, chụp vào cổ tay y định đoạt thiết tiêu. Quách Tĩnh không hiểu dụng ý của y, buông tay thả tiêu, không hề chống cự. Hồng Thất công mắng:

– Tiểu tử ngốc, chúng ta đang tỷ võ chứ mà!

Tay trái đưa trả thiết tiêu cho y, tay phải lại vươn ra đoạt lấy. Quách Tĩnh lúc ấy rút tiêu lại tránh. Hoàng Dung đếm:

– Một chiêu!

Cao thủ tỷ võ trên tay có binh khí hay không không khác nhau lắm, Hồng Thất công sử dụng Hàng long thập bát chưởng, chưởng phong quét ra ngoài một trượng, Quách Tĩnh tuy có thiết tiêu, nhưng làm sao vào gần phản kích? Y vốn không quen sử dụng binh khí, nhưng từ khi ở Tây Vực quạ chiêu với Âu Dương Phong trong thập thất, kiếm pháp đã có tiến bộ rất lớn. Trước nay võ công ắt phải luyện cả công lẫn thủ, Quách tĩnh lại luyện binh khí có tới tám phần là thủ, hai phần tấn cồng. Nên biết chiêu số binh khí mà Giang Nam lục quái dạy cho y không thể kể là loại võ công thượng thặng, nhưng y sau khi tập luyện Cửu âm chân kinh lại tập luyện theo đó, đó là lúc trong thập thất ở Tây Vực, lúc bấy giờ y chỉ cầu tự bảo toàn, không rảnh mà đả thương đối phương, dùng trường kiếm chống đỡ trượng gỗ của Âu Dương Phong, luyện tập không ít cách thức phòng thân thủ thế, lúc ấy dùng tiêu làm kiếm, đón đỡ chưởng phong lợi hại tuyệt luân của Hồng Thất công, lại càng có công hiệu.

Hồng Thất công thấy y giữ môn hộ rất nghiêm cẩn, trong lòng rất mừng, tự nhủ:

– Thằng nhỏ này tiến bộ rất lớn, cũng không uổng công mình dạy dỗ, nhưng nếu trong vòng hai trăm chiêu mình đánh bại y thì rất khó nhìn mặt Hoàng lão tà. Sau hai trăm chiêu rồi, mình sẽ ra đòn nặng mới nên.

Lúc ấy vẫn theo Hàng long thập bát chưởng ra chiêu, từ một lần biến tới chín lần biến theo thứ tự đánh ra, gió rít vù vù, bóng chưởng trùm lên toàn thân Quách Tĩnh.

Lúc ấy nếu Hồng Thất công quyết ra đòn thật nặng, thì công phu binh khí của Quách Tĩnh chưa đạt tới mức đăng phong tháo cực, vốn không dễ chống đỡ, nhưng Hồng Thất công quyết ý sau hai trăm chiêu mới thủ thắng, lại là nghĩ lầm một điều. Nên biết Quách Tĩnh đang lúc thiếu niên khỏe mạnh, sau khi luyện Dịch cân đoàn cất thiên nội lực lại càng hùng hậu, Hồng Thất công tuổi tác đã không còn trẻ, trên lưng lại bị rắn độc và chưởng lực của Âu Dương Phong đả thướng, Hàng long thập bát chưởng chiêu nào cũng phải dùng chân lực, đến lần biến thứ chín đã là một trăm sáu mươi hai chưởng, lực đạo tuy vẫn cương mãnh lợi hại, nhưng hậu kình đã suy giảm thấy rõ.

Đến quá chiêu thứ hai trăm, ngọn thiết tiêu của Quách Tĩnh đã không theo kiếm chiêu nữa, chiêu số ở tay trái phối hợp lại gia tăng kình lực. Hồng Thất công nghĩ thầm không hay, nếu thẳng thắn đối chưởng thì biết đâu sẽ phải thua dưới tay y, thằng tiểu tử ngốc này chỉ có thể lấy mưu mà thắng chứ không thế lấy lực mà chống, lúc ấy song chưởng dạt ra hai bên, mở toang môn hộ, Quách Tĩnh sửng sốt nghĩ thầm:

– Chiêu chưởng pháp này sư phụ chưa từng dạy qua nếu đối địch với người khác thì có thể sấn vào trung cung đánh tới trước ngực đối phương, nhưng trước mắt đối thủ lại là ân sư của mình, há lại có thể ra sát thủ?

Vừa thoáng ngần ngừ, Hồng Thất công cười nói:

– Ngươi mắc lừa rồi.

Chân trái phóng ra đá bay ngọn thiết tiêu trong tay y, chưởng phải lật lại đánh vào đầu vai y.

Một chưởng ấy thủ hạ dung tình, không muốn làm y bị thương, chỉ dùng tám thành công lực vừa đủ để y ngã ngửa là kể như thắng. Nào ngờ Quách Tình mấy năm nay dãi dầu sương gió, thân thể trở nên khỏe mạnh, bị một chưởng ấy chỉ lảo đảo, đầu vai tuy đau buốt nhưng vẫn không ngã. Hồng Thất công thấy y vẫn đứng vững không kìm được giật nảy mình nói:

– Ngươi thổ khí ra ba lần, điều hòa hơi thở, đừng để bị nội thương.

Quách Tĩnh theo lời hít thở, hơi thở lập tức thấy dễ chịu, nói:

– Đệ tử thua rồi.

Hồng Thất công nói:

– Không, mới rồi ngươi nhường ta thôi, chứ nếu vì thế mà nhận thua thì Hoàng lão tà làm sao chịu phục? Đón chiêu đây!

Nói xong lại phát chưởng đánh tới.

Quách Tĩnh trong tay không có binh khí, nhìn thấy đòn tới mãnh liệt, lập tức sử dụng Không minh quyền mà Chu Bá Thông dạy cho để hóa giải. Bộ Không minh quyền này là quyền thuật chí nhu trong thiên hạ, do Chu Bá Thông theo Đạo đức kinh sáng chế ra, trong Đạo đức kinh có câu:

– Binh mạnh ắt sẽ bị diệt, gỗ cứng ắt sẽ bị gãy. Cứng mạnh ở dưới, mềm yếu ở trên.

Lại nói:

– Trong thiên hạ không gì mềm yếu bằng nước, nhưng vật gì cứng mạnh cũng không thắng được, không gì chuyển dịch được. Yếu thắng mạnh, nhu thắng cương, thiên hạ ai cũng biết nhưng không ai làm được.

Bộ Hàng long thập bát chưởng lại là quyền thuật chí cương chí kiên trong võ học, có câu “Nhu có thể khắc cương”, nhưng cũng nên biết công lực loại nhu cũng không nhất định sẽ thắng cương, với công phu tu vi của Hồng Thất công thì cho dù Chu Bá Thông dùng quyền thuật chí nhu đối phó cũng chưa chắc có thể thắng. Nhưng Quách Tĩnh đã luyện tập công phu Song thủ hỗ bác, tay phải dùng Không minh quyền, tay trái dùng Hàng long chưởng, cương nhu giúp đỡ cho nhau, âm dương bổ sung cho nhau, quyền chiêu của Hồng Thất công tuy cương mãnh không gì chống được nhưng cũng không làm gì được y.

Hoàng Dung bên cạnh đếm, thấy sắp hết ba trăm chiêu mà Quách Tĩnh vẫn hoàn toàn không có vẻ gì thất bại, trong lòng mừng rỡ, cứ đếm từng chiêu từng chiêu. Hồng Thất công nghe nàng đếm tới chiêu hai trăm chín mươi bảy, không kìm được lòng hiếu thắng, đột nhiên ra chiêu Kháng long hữu hối, xô núi dốc biển đánh tới, chiêu này đánh ra trong lòng lập tức hối hận, chỉ sợ Quách Tĩnh đón đỡ không được lại bị trọng thương, kêu lớn:

– Cẩn thận đấy!

Quách Tĩnh vừa nghe tiếng kêu, chưởng phong đã vỗ tới giữa mặt, chỉ thấy thế tới rất mãnh liệt, biết không thể dùng Không minh quyền hóa giải, lúc nguy cấp tay trái vẽ một vòng tròn vù một tiếng cũng đánh ra một chiêu Kháng long hữu hối. Chỉ nghe bình một tiếng, song chưởng chạm nhau, hai người đều toàn thân rúng động. Hoàng Dược Sư và Hoàng Dung đều bật tiếng la hoảng, bước tới gần xem.

Chỉ thấy hai người song chưởng đè lên nhau, đứng im bất động, Quách Tĩnh có ý nhường nhịn nhưng thấy chưởng lực của sư phụ lợi hại, nếu lúc này rút lại nhất định chưởng thế của y thuận thế xô tới ắt mình sẽ bị trọng thương, quyết định vận kình chống đỡ một lúc đợi chưởng lực của y hơi giảm sẽ lui ra nhận thua, Hồng Thất công thấy Quách Tĩnh ngang nhiên chống đỡ một chưởng tụ hết công lực bình sinh của mình, bất giác vừa sợ vừa mừng, càng có ý thương tài, lòng hiếu thắng giảm bớt, quyết ý nhường y thắng một chiêu này để thành toàn danh tiếng cho y, lúc ấy lưu kình không phát, từ từ thu lực lại.

Đang lúc đôi bên bất phân thắng bại, nhường nhịn lẫn nhau ấy, chợt nghe sau núi có một người kêu lớn ba tiếng, nhào lộn ba vòng nhảy ra, chính là Tây độc Âu Dương Phong. Hồng Thất công và Quách Tĩnh đồng thời thu chưởng nhảy lùi ra phía sau. Chỉ thấy Âu Dương Phong y phục toàn thân rách nát, trên mặt máu tươi ròng ròng, quát lớn:

– Thần công trong Cửu âm chân kinh ta đã luyện thành, ta là thiên hạ đệ nhất võ công?

Rồi vung xà trượng lên quét ngang bốn người.

Hồng Thất công nhấc Đả cẩu bổng gạt xà trượng của y ra, qua lại một chiêu, bốn người ai cũng hoảng sợ chiêu số của Âu Dương Phong vốn đã kỳ lạ, lúc ấy lại càng vô cùng quái dị, lúc chợt cào lên mặt mình một cái, lúc chợt chân đá mạnh vào mông mình một cái trượng nào đánh tới giữa đường ắt cũng đổi hướng, quả thật không biết y định đánh vào đâu. Hồng Thất công vô cùng ngạc nhiên hoảng sợ, đành dùng Đả cẩu bổng pháp giữ kín môn hộ, đâu dám ngang nhiên tấn công.

Đấu đến lúc hăng, Âu Dương Phong đột nhiên giơ tay chát chát chát đánh vào mặt mình ba cái nảy lửa, gào lớn một tiếng, hai tay chụp xuống đất sấn vào.

Hồng Thất công vừa hoảng sợ vừa buồn cười, nghĩ thầm:

– Bổng pháp của ta sở trường nhất về chuyện đánh chó, ngươi lại đột nhiên làm ra hình dáng chó, há không phải là tự lao đầu vào lưới sao?

Rồi giơ ngọn trúc bổng ra đâm lên lưng y.

Nào ngờ Âu Dương Phong đột nhiên lăn một vòng đè lên đoạn giữa của ngọn trúc bổng rồi thuận thế lăn tới, Hồng Thất công cầm không vững đành bỏ trúc bổng xuống. Âu Dương Phong đột nhiên phi thân nhảy vọt lên, hai chân liên hoàn đá ra. Hồng Thất công cả kinh, lui mau về phía sau.

Lúc ấy Hoàng Dung đã nhặt ngọn thiết tiêu dưới đất đưa cho cha. Hoàng Dươc sư nhấc tiêu rung lên điểm tới. Âu Dương Phong kêu lên:

– Đoàn Hoàng gia, ta không sợ Nhất dương chỉ của người đâu.

Nói xong tung người nhảy xổ lên.

Hoàng Dược Sư thấy cử chỉ của y đã biết y thần trí điên loạn, chỉ là trong lòng tuy điên khùng nhưng ra tay còn lợi hại hơn lúc chưa điên. Cho dù y trí tuệ hơn người nhưng cũng không hiểu rõ đạo lý bên trong, làm sao biết Âu Dương Phong khổ luyện theo chân kinh giả mà Quách Tĩnh viết cho, vốn đã khiến y đầu óc mờ mịt, Hoàng Dung lại giở đủ trò đưa y vào đường ngang ngõ tắt, tập bừa luyện ẩu, lại thêm nóng lòng thủ thắng, tham luyện cho mau, dụng công càng gấp, chỉ là y võ công vốn cao cường, tuy đi lầm đường, trong lòng có lầm nhưng ra tay lợi hại, càng khiến Hồng Hoàng hai vị đại tôn sư càng ngạc nhiên không sao hiểu được.

Qua vài mươi chiêu, Hoàng Dược Sư lại thua trận. Quách Tĩnh sấn lên đón đánh. Âu Dương Phong đột nhiên khóc nói:

– Con trai ơi, con chết thảm lắm?

Rồi vứt xà trượng giang hai tay nhảy xổ lên ôm. Quách Tĩnh biết y cho rằng mình là Âu Dương Khắc cháu y, nghe y kêu lên thảm thiết, trong lòng vừa bất nhẫn vừa sợ hãi, phát chưởng xô y ra du Dương Phong tay trái đột nhiên lật lại nắm chặt cánh tay Quách Tĩnh, tay phải ôm chặt y. Quách Tĩnh vận kình giãy giụa nhưng Âu Dương Phong vô cùng khỏe mạnh, ôm chặt y không sao động đậy.

Hồng Thất công và cha con Hoàng Dược Sư cả kinh, nhất tề sấn lên cứu.

Hồng Thất công vươn chỉ điểm mau vào huyệt Phượng vĩ trên lưng Âu Dương Phong, muốn bắt y phải buông tay đón đỡ. Không ngờ lúc ấy kinh mạch toàn thân của y đã chạy ngược, huyệt đạo đều đã thay đổi vị trí, phát chỉ của Hồng Thất công đâm tới y vẫn không cảm thấy gì, không hề đếm xỉa tới. Hoàng Dung quay đầu nhấc một tảng đá lớn lên, đập mạnh xuống đỉnh đầu y, Âu Dương Phong tay phải nắm thành quyền từ dưới đánh thẳng lên. Hoàng Dung tay cầm không vững, tảng đá bay khỏi tay rơi xuống vực. Quách Tĩnh nhân lúc Âu Dương Phong buông lỏng tay phải, dùng sức giật mạnh, nhảy lui ra phía sau, vừa định thần đã thấy Âu Dương Phong đang ác đấu với Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư giắt ngọn thiết tiêu vào lưng, tay không giao đấu.

Lúc ấy chiêu số Âu Dương Phong sử dụng càng thêm kỳ quái, vô cùng ngụy dị, thân hình lúc nằm lúc đứng, thậm chí có lúc một tay chống xuống đất, thân hình nằm ngang trên không, chỉ dùng một tay đối chưởng với địch nhân. Hoàng Dược Sư toàn thần ra chiêu nghênh địch, nhưng chưa biết sẽ ra sao. Hồng Thất công, Quách Tĩnh, Hoàng Dung ba người nhìn thấy vô cùng hoảng sợ. Hoàng Dung thấy cha liên tiếp gặp nguy hiểm, kêu lên:

– Sư phụ, đối phó với gã điên này thì bất tất phải theo quy củ võ lâm, chúng ta xông cả vào đi!

Hồng Thất công nói:

– Nếu là lúc bình thời thì chúng ta vốn có thể hợp sức bắt sống y, nhưng hôm nay là ngày luận kiếm ở Hoa sơn, anh hùng thiên hạ đều biết phải đơn đả độc đấu, chúng ta lấy nhiều chống ít sẽ bị hảo hán giang hồ chê cười.

Chỉ thấy Âu Dương Phong càng thêm điên cuồng, sùi cả bọt mép, nghiêng đầu xông vào húc mạnh. Hoàng Dược Sư chống đỡ không được, đành ngã xuống đất lăn ra.

Đột nhiên Âu Dương phong cúi xuống tấn công, trên thượng bàn hoàn toàn không che đỡ. Hoàng Dược Sư cả mừng, nghĩ thầm:

– Thằng điên này rốt lại đã hồ đồ rồi.

Liên tiếp dùng công phu Đàn chỉ thần công búng mau vào huyệt Nghênh hướng cạnh mũi y. Phát chỉ này phóng tới rất mau, nào ngờ vừa chạm vào da mặt y, Âu Dương Phong hơi nghiêng đầu qua táp luôn vào ngón tay. Hoàng Dược Sư cả kinh, vội vung tay trái đập vào huyệt Thái dương của y, bắt y hả miệng ra. Âu Dương Phong tay phải cũng vung ra đỡ gạt, răng cắn càng chặt.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung từ hai bên cùng xông vào Âu Dương Phong mới nhả ngón tay Hoàng Dược Sư ra, mười ngón tay cào lên mặt Hoàng Dung. Dưới ánh nắng sáng chỉ thấy y diện mạo nanh ác, mặt đầy máu tươi, Hoàng Dung trong lòng hoảng sợ, la hoảng lùi ra. Quách Tĩnh vội phát chưởng cứu viện. Âu Dương Phong vung tay đón đỡ, Hoàng Dung mới thoát thân được.

Chỉ hơn mười hiệp, Quách Tĩnh trên vai dưới đùi liên tiếp trúng đòn. Hồng Thất công nói:

– Tĩnh nhi lui ra, để ta vào thử lại xem.

Rồi tay không sấn lên. Hai người vừa qua một phen kịch đấu, lúc ấy lại càng hung hiểm. Lúc Âu Dương Phong giao đấu với Hoàng Dược Sư và Quách Tĩnh, Hồng Thất công đứng cạnh lưu ý xem xét, thấy y ra chiêu tuy vô cùng cổ quái nhưng đường lối bên trong quả thật cũng có thể nhận ra, chủ yếu là vận dụng Cáp mô công nghịch chuyển đánh ra, đòn trên thành đòn dưới, đòn trái thành đòn phải, tuy không hoàn toàn như thế nhưng trong mười phần cũng có bảy tám phần không sai, trong lòng đã hiểu được đại khái, lúc đối chiến tuy vẫn rơi vào thế hạ phong, nhưng cũng có công có thủ, ba chiêu đánh trả được một chiêu.

Hoàng Dung lấy khăn tay ra buộc vết thương trên ngón tay cha. Hoàng Dược Sư lại càng nhìn ra đường lối rõ hơn, liên tiếp kêu:

– Thất huynh, đá vào lưng y, Đánh vào huyệt Cự khuyết. Lật tay đánh vào huyệt Thiên trụ.

Hoàng Dược Sư người ngoài thì tỉnh, Hồng Thất công theo lời đánh ra, trong giây lát đã chuyển thành thế ngang tay. Chỉ là hai người trong lòng đều thẹn thầm “Đây là hợp sức cả Đông tà Bắc cái đối phó với một mình Tây độc”.

Đang thấy đã có thể thủ thắng thì Âu Dương Phong đột nhiên há miệng phun một bãi nước bọt vào mặt Hồng Thất công.

Hồng Thất công vội nghiêng người tránh qua, Âu Dương Phong liệu được tiên cơ, phát chưởng đánh vào phương vị Hồng Thất công nghiêng qua đồng thời lại phun một bãi đờm vào chỗ ấy. Hồng Thất công tình thế nguy cấp, đã định không tránh, nhưng bãi đờm rít gió bay tới, nếu trúng mắt tuy có thể không bị thương nhưng cũng mười phần đau đớn, mà địch nhân nhất định sẽ thừa cơ tấn công, lại càng khó chống đỡ, trong lúc hoảng loạn vươn tay phải ra chụp lấy bãi đờm, tay trái đánh trả một chiêu, đánh thêm không đầy vài hợp, Âu Dương Phong lại phun mau một bãi nước bọt, y lấy cả nước bọt đờm dãi làm lợi khí tấn công đối phương, đánh kèm với quyền cước, khiến người ta hoa mắt luống cuống, trong lòng sợ sệt.

Hồng Thất công thấy rõ ràng y làm nhục mình, bất giác nộ khí bừng lên, cùng lúc tay phải nắm bãi đờm trơn ướt lầy nhầy rất khó chịu, lại không muốn bôi lên người mình, đánh đến lúc hăng, đột nhiên xòe tay phải ra quát:

– Xem đây!

Rồi mau lẹ chùi lên mặt Âu Dương Phong. Chiêu này rõ ràng là bôi đờm lên mặt y nhưng bên trong còn ẩn chứa sát thủ. Âu Dương Phong thần trí tuy điên loạn nhưng tai mắt tứ chi linh mẫn hơn cả lúc bình thời, thấy Hồng Thất công vung chưởng chà lên mặt, lập tức nghiêng đầu tránh. Hồng Thất công tay chưởng lật lại đâm thẳng qua, Âu Dương Phong đột nhiên há miệng ra táp.

Đó chính là tuyệt chiêu mới rồi y đã dùng dể đánh bại Hoàng Dược Sư, xem ra tựa hồ rất buồn cười, nhưng y há miệng rất mau khiến người ta không tránh kịp, với võ công đăng phong tháo cực của Hoàng Dược Sư như thế mà cũng bị trúng đòn. Hoàng Dược Sư, Hoàng Dung, Quách Tĩnh nhìn thấy rất rõ, chỉ thấy bàn tay Hồng Thất công xòe ra trước miệng y còn cách không đầy một tấc mà y đột nhiên há miệng, hàm răng trắng nhởn lóe lên dưới ánh nắng đã táp mạnh vào tay Hồng Thất công, bất giác đồng thanh la lên:

– Cẩn thận!

Nào ngờ ba người bọn họ và Âu Dương Phong lại quên mất một việc. Hồng Thất công có hiệu là Cửu chỉ thần cái, năm xưa vì tham ăn tham uống để chậm trễ thời khắc, không kịp tới cứu mạng một hảo hán trên giang hồ, trong cơn phẫn hận đã nổi giận chặt đứt ngón trỏ của mình. Một cái táp ấy của Âu Dương Phong vừa mau vừa chuẩn, nếu là người khác thì ngón trỏ ắt đã bị cắn trúng, nhưng Hồng Thất công lại không có ngón trỏ, chỉ nghe cạch một tiếng, hai hàm răng của y đập vào nhau, đã cắn trượt. Hồng Thất công không có ngón trỏ, Âu Dương Phong vốn biết rõ, nhưng lúc ấy y như cọp điên vồ bừa táp bậy, đời nào còn nghĩ tới những chi tiết lặt vặt ấy?

Cao thủ tỷ võ, nếu võ công đôi bên đều đạt tới mức lư hỏa thuần thanh thì đều đánh nhau cả ngày vẫn chưa phân thắng bại, cơ hội thủ thắng duy nhất chỉ là nhờ đối phương ngẫu nhiên phạm sơ sót nhỏ, lúc ấy Âu Dương Phong táp trượt một cái, Hồng Thất công đâu chịu bỏ qua? Lập tức ra chiêu Tiếu khẩu á á, ngón giữa đâm thẳng vào huyệt Địa thương trên khóe môi y.

Ba người đứng ngoài thấy Hồng Thất công đắc thủ, đang định há miệng khen hay, không ngờ chữ hay chưa ra khỏi miệng, Hồng Thất công đã lộn nhào lại lật người ra ngoài. Âu Dương Phong huỵch huỵch huỵch huỵch lui lại bốn bước, dáng như say rượu nhưng rất lại vẫn đứng vững, ngẩng đầu lên trời cười lớn. Nguyên là y kinh mạch đảo chuyển, phát chỉ ấy của Hồng Thất công tuy đâm trúng đại huyệt trên Túc Dương minh Vị kinh của y, nhưng y chỉ thấy toàn thân hơi tê song lập tức trở lại như thường, lại thừa cơ đánh một chưởng vào đầu vai Hồng Thất công. May là y trúng chỉ trước, một chưởng ấy lực đạo cũng không còn lợi hại lắm, Hồng Thất công thuận thế lật người ra ngoài, hóa giải được một nửa chưởng lực trong lúc hoảng sợ lại ra một chiêu Kiến long tại điền, cũng đẩy Âu Dương Phong lùi lại mấy bước. Hồng Thất công may mà hóa giải mau lẹ, chưa bị trọng thương nhưng nửa người tê rần, nhất thời đã không côn cách nào tái chiến. Y là thân phận đại tôn sư, nếu không nhận thua thì không khác gì kẻ vô lại, đồng thời trong lòng quả thật khâm phục đối phương võ công cao cường, bèn ôm quyền nói:

– Âu Dương huynh, lão khiếu hóa khâm phục ngươi rồi, ngươi là thiên hạ đệ nhất võ công!

Âu Dương Phong ngẩng đầu lên trời cười lớn, hai tay khua rối lên trời, với Hoàng Dược Sư:

– Đoàn Hoàng gia, ngươi có phục ta hay không?

Hoàng Dược Sư trong lòng bất nhẫn, nghĩ thầm:

– Danh hiệu thiên hà đệ nhất võ công lại rơi vào tay một thằng điên, mình và lão khiếu hóa há lại không bị thiên hạ chê cười sao?

Nhưng nếu bước lên tái đấu thì tự lượng sức mình khó lòng thủ thắng, đành gật gật đầu.

Âu Dương Phong nhìn Quách Tĩnh nói:

– Hài nhi, võ nghệ cha ngươi cái thế, thiên hạ vô địch, ngươi có mừng không?

Âu Dương Khắc là con của y tư thông với chị dâu sinh ra, tiếng là chú cháu nhưng thật ra là cha con, lúc ấy y thần trí nửa mê nửa tỉnh, tưởng Quách Tĩnh là Âu Dương Khắc, lại đem chuyện bí mật giữ kín trong lòng mấy mươi năm nói ra. Quách Tĩnh nghĩ mọi người ở đây đều không phải là đối thủ của y danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công của y quả không có gì đáng xấu hổ bèn nói:

– Bọn ta đều đánh không lại ngươi!

Âu Dương Phong hì hì cười ngờ nghệch, hỏi Hoàng Dung:

– Con dâu ngoan, ngươi mừng không? .

Hoàng Dung thấy ba người cha, sư phụ, Quách Tĩnh nối nhau thua trận đã sớm nghĩ cách đối phó với gã điên này, nhưng nghĩ tới nghĩ lui không ra kế hay, lúc ấy nghe y hỏi lại thấy y hoa tay múa chân, dáng vẻ kỳ quái dưới ánh nắng cái bóng sau lưng y cũng lắc la lắc lư, linh cơ chợt động bèn nói:

– Ai nói ngươi là thiên hạ đệ nhất? Có một người ngươi không đánh thắng được đâu.

Âu Dương Phong cả giận ưỡn ngực nói:

– Là ai? Là ai? Bảo y ra đây tỷ thí với ta.

Hoàng Dung nói:

– Người ấy võ công cao cường, nhất định ngươi không thắng được y đâu.

Âu Dương Phong nói:

– Là ai? Là ai? Bảo y ra đây tỷ thí với ta.

Hoàng Dung nói:

– Y tên Âu Dương Phong.

Âu Dương Phong gãi đầu gãi tai, nghi ngờ nói:

– Âu Dương Phong à?

Hoàng Dung nói:

– Không sai. Ngươi tuy võ công cao cường nhưng không đánh thắng được Âu Dương Phong đâu.

Âu Dương Phong trong lòng càng hồ đồ, chỉ cảm thấy cái tên Âu Dương Phong nghe rất quen, nhất định là người rất gần gũi với mình, nhưng mình là ai?

Liền buột miệng hỏi:

– Thế ta là ai?

Hoàng Dung cười nhạt nói:

– Ngươi là ngươi. Ngươi tự mình còn không biết, sao lại hỏi ta?

Âu Dương Phong trong lòng lạnh buốt, nghiêng đầu vất vả suy nghĩ, nhưng trong óc hoàn toàn rối loạn, càng muốn truy tầm xem mình là ai lại càng không hiểu rõ. Nên biết những người có trí lực siêu việt có lúc một mình suy nghĩ thường nghĩ rằng:”Mình là ai? Trước khi sinh ra mình là cái gì? Sau khi chết mình sẽ là cái gì?”, rất nhiều nghi vấn. Những triết nhân xưa nay thường vì thế mà khốn khổ. Âu Dương Phong tài trí hơn người, bấy nhiêu nghi vấn có lúc cũng từng hiện ra trong óc, lúc ấy liên tiếp đánh thắng ba đại cao thủ, nhưng kinh mạch toàn thân lúc thuận lúc nghịch, trong lòng lúc mừng lúc giận, lại chợt nghe Hoàng Dung nói thế, bất giác nhìn quanh ngơ ngác, lẩm bẩm:

– Ta, ta là ai? Ta ở đâu đây? Ta đang làm gì?

Hoàng Dung nói:

– Âu Dương Phong muốn tìm ngươi tỷ thí, muốn cướp Cứu âm chân kinh của ngươi.

Âu Dương Phong nói:

– Y ở đâu?

Hoàng Dung chỉ vào cái bóng sau lưng y, nói:

– Kia, y đứng sau lưng ngươi kia.

Âu Dương Phong quay mau đầu lại, nhìn thấy cái bóng của mình, sửng sốt nói:

– Đó… đó… y… y… .

Hoàng Dung nói:

– Y muốn đánh ngươi đấy!

Âu Dương Phong ngồi xổm xuống, phát chưởng tấn công cái bóng, cái bóng cũng đồng thời ngồi xuống đánh ra một chưởng. Âu Dương Phong cả sợ, chưởng trái chưởng phải liên hoàn đánh ra, cái bóng hai tay cũng rung lên không thôi. Âu Dương Phong thấy đối phương ra đòn lợi hại, xoay người chống cự, y quay mặt về phía mặt trời, cái bóng đã ở sau lưng. Y phát giác địch nhân đột nhiên mất hút, kêu lớn:

– Chạy đi đâu?

Rồi sấn về bên trái mấy bước.

Bên trái là một vách núi trọc nhẳn bóng, ánh nắng trời chiếu cái bóng của y lên vách núi, càng giống một địch nhân đứng thẳng. Âu Dương Phong quyền phải vung mạnh đánh vào vách núi, chỉ thấy đau tới mức muốn gãy hết xương, kêu lớn:

– Lợi hại thật?

Rồi lập tức phi chân trái đá ra. Chỉ thấy cái bóng trong vách núi cũng nhấc chân đá lên, hai chân chạm nhau, Âu Dương Phong đau không chịu nổi, không dám tái đấu, xoay người định chạy.

Lúc ấy y chạy về phía mặt trời, quả nhiên không thấy địch nhân, chạy ra một trượng, quay đầu nhìn lại chỉ thấy cái bóng đuổi sát theo sau, hoảng sợ kêu lên:

– Nhường cho ngươi danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công đấy, ta nhận thua là được.

Cái bóng không hề động đậy. Âu Dương Phong xoay người chạy tiếp, vừa quay đầu lại thấy cái bóng đuổi sát theo. Y chạy không thoát, đánh không thắng, sợ tới mức khiếp đảm, vừa kêu vừa la, chạy thẳng xuống núi. Qua một lúc, nghe tiếng y từ dưới sườn núi văng vẳng vang lên, vẫn là “Đừng đuổi ta, đừng đuổi ta!”

Hoàng Dược Sư và Hồng Thất công thấy một vị đại tôn sư võ học một đời trở thành như thế bất giác nhìn nhau thở dài. Lúc ấy tiếng kêu của Âu Dương Phong lúc đứt lúc nối đã cách mấy dặm, nhưng tiếng vọng trong sơn cốc vẫn vang lên không ngớt, nghe như sói kêu ma khóc, bốn người tuy đứng dưới ánh sáng mặt trời mà trong lòng đều cảm thấy ớn lạnh.

Hồng Thất công thở dài nói:

– Người này không sống được lâu đâu.

Quách Tĩnh đột nhiên nói một mình:

– Còn ta? Ta là ai?

Hoàng Dung biết y là người ngay thẳng, chỉ sợ y vất vả suy nghĩ về chuyện ấy lại càng ngơ ngẩn, vội nói:

– Ngươi là Quách Tĩnh. Tĩnh ca ca, đừng nghĩ về mình nữa, cứ nghĩ về việc của người ta thôi.

Quách Tĩnh giật mình tỉnh ngộ nói:

– Đúng thế. Sư phụ, Hoàng đảo chủ, chúng ta xuống núi thôi.

Hồng Thất công mắng:

– Tiểu tử ngốc, ngươi còn gọi y là Hoàng đảo chủ à? Ta lại tát cho ngươi mấy cái bây giờ.

Quách Tĩnh ngẩn người, chỉ thấy Hoàng Dung mặt đỏ bừng, như cười mà không phải cười, lập tức tỉnh ngộ, thẹn thùng kêu lên:

– Nhạc phụ!

Hoàng Dược Sư hô hô cười rộ, một tay kéo con gái, một tay kéo Quách Tĩnh, nói với Hồng Thất công:

– Thất huynh, đạo của võ học vô cùng vô tận, hôm nay nhìn thấy võ công của Lão Độc vật, quả thật khiến người ta vừa sợ vừa thẹn. Từ khi Trùng Dương chân nhân qua đời, càng không có ai là thiên hạ đệ nhất võ công nữa.

Hồng Thất công nói:

– Dung nhi thì công phu nấu nướng là thiên hạ đệ nhất, chuyện đó thì ta dám nói.

Hoàng Dung bĩu môi cười nói:

– Không cần phải khen, chúng ta xuống núi mau đi, con sẽ nấu vài món ăn ngon cho người là được.

Hồng Thất công, Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung bốn người xuống Hoa sơn, Hoàng Dung giỏi lựa thức ngon, thạo việc nấu nướng, cho Hồng Thất công ăn một trận thỏa thích. Đêm ấy bốn người ngụ lại tái khách điếm, cha con Hoàng Dược Sư ngủ một phòng, Quách Tĩnh và Hồng Thất công ngủ một phòng.

Sáng hôm sau Quách Tĩnh tỉnh dậy thì Hồng Thất công ngủ trên giường đối diện không biết đã đi đâu trên bàn còn ba chữ lớn viết bằng mỡ:

– Ta đi đây.

Cũng không biết là dùng đùi gà hay giò heo viết lên.

Quách Tĩnh vội chạy qua báo cho cha con Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư thở dài nói:

– Thất huynh nhất sinh hành sự như con thần long, thấy đầu mà không thấy đuôi.

Rồi nhìn Quách Hoàng hai người mấy cái, nói:

– Tĩnh nhi, mẹ ngươi qua đời rồi, người thân nhất trên đời là đại sư phụ Kha Trấn ác của ngươi, ngươi theo ta tới đảo Đào Hoa mời đại sư phụ ngươi làm chủ hôn, hoàn thành hôn sự giữa ngươi và Dung nhi được không?

Quách Tĩnh buồn vui lẫn lộn, nói không nên lời, chỉ gật đầu liên tiếp. Hoàng Dung bĩu môi cười khẽ, định mắng y là:

– Thằng ngốc.

Nhưng đưa mắt nhìn cha một cái, lại nhịn không nói ra.

Ba người dọc đường du sơn ngoạn thủy, thong thả đi về phía đông nam, không phải một ngày đã tới địa hạt lộ nam Lưỡng Chiết, thấy đảo Đào Hoa đã không còn xa nữa, đột nhiên trên không có tiếng điêu kêu rất gấp, hai con bạch điêu từ phía bắc bay xuống.

Quách Tĩnh cả mừng, buông tiếng hú dài, đôi điêu đáp:

– Xuống đậu trên vai y.

Y lúc rời Mông Cổ lên đường vội vã chưa kịp mang theo đôi điêu. Lúc bấy giờ gặp lại vô cùng mừng rỡ, đưa tay không ngừng vuốt ve lưng điêu, chợt thấy chân con điêu trống có buộc một miếng đa cuộn thành cái ống nhỏ, vội mở ra xem, chỉ thấy bên trên dùng mũi đao nhọn rạch mấy hàng chữ Mông Cổ:“Quân ta tấn công xuống nam, định tập kích Tương Dương, biết ông tinh trung vì nước nên liều chết báo tin. Ta làm lụy mẹ ông chết thảm, thẹn thùng không còn mặt mũi nào gặp lại, qua thành xa ở phương tây nương tựa trưởng huynh, suốt đời không về đất cũ nữa. Mong ông tự trân trọng, hưởng phúc thọ vô cùng.”

Trên tấm da ấy không đề lạc khoản nhưng Quách Tĩnh vừa nhìn thấy đã biết ngay là thủ bút của công chúa Hoa Tranh, lúc ấy bèn dịch văn tự Mông Cổ trên tấm da cho cha con Hoàng Dược Sư nghe. Rồi hỏi:

– Nhạc phụ, người nói nên làm thế nào?

Hoàng Dược Sư nói:

– Ở đây tuy gần Lâm An, nhưng báo cho triều đình biết thì người chấp chính chưa chắc đã tin, ngần ngừ không quyết, ắt lỡ việc lớn. Con tiểu hồng mã của ngươi cước lực mau lẹ, nên lập tức tới Tương Dương. Nếu viên trấn tướng ở đó chịu nghe lời thì ngươi giúp y giữ thành, nếu không thì cứ một chưởng đánh chết y, suất lãnh sĩ tốt bách tính cùng ngăn chặn đại quân Mông Cổ. Ta và Dung nhi ở đảo Đào Hoa chờ tin mừng.

Quách Tĩnh luôn miệng khen hay, Hoàng Dung trên mặt thì có vẻ không vui. Quả thật là biết con gái không ai bằng cha, Hoàng Dược Sư cười nói:

– Được, Dung nhi, ngươi đi đi. Làm xong việc lớn thì phải lập tức trở về, cho dù triều đình có phong thưởng cũng không nên đếm xỉa gì tới.

Hoàng Dung cả mừng, cười nói:

– Cái đó tự nhiên.

Hai người lạy chào cha, cùng cưỡi một ngựa giong cương đi về phía tây.

Quách Tĩnh chỉ sợ chậm mất một ngày, quân Mông Cổ đã phá thành rồi, lúc ấy thì thảm cảnh tàn sát khó có thể tưởng tượng, nên trên đường không dám trễ nải. Buổi tối hôm ấy hỏi nơi trú lại, thì đã tới nơi giáp giới giữa lộ nam Lường Chiết và lộ nam Giang Tây.

Quách Tĩnh cất miếng da có thủ bút của Hoa Tranh trong bọc, nhớ tới lúc nhỏ cùng Hoa Tranh, Đà Lôi nô đùa trên đại mạc, bao nhiêu tình cảnh đều như hiện ra trước mắt, vô cùng buồn thảm. Hoàng Dung mặc kệ y ngơ ngẩn xuất thần, cứ vá áo dưới đèn.

Quách Tĩnh chợt nói:

– Dung nhi, cô ta nói là làm lụy khiến mẹ ta chết thảm, thẹn không còn mặt mũi nào gặp ta, như thế là có ý gì?

Hoàng Dung nói:

– Cha cô ta bức tử mẹ ngươi, tự nhiên cô ta trong lòng khó xử.

Quách Tĩnh ờ một tiếng, cúi đầu nhớ lại tình hình trước và sau khi mẹ mất, đột nhiên nhảy bật dậy, đập mạnh xuống bàn một cái kêu lên

– Ta biết rồi, té ra là thế!

Hoàng Dung bị y làm giật mình, mũi kim đâm vào tay ứa máu, cười nói:

– Biết thế nào, cứ chuyện bé xé ra to, ngươi biết cái gì?

Quách Tĩnh nói:

– Ta và mẹ lén mở mật lệnh của đại hãn, quyết ý về nam, lúc ấy trong lều không có ai khác mà đại hãn lại lập tức biết ngay, bắt mẹ con ta tới, đến nỗi mẹ ta tự vẫn tựu nghĩa. Tại sao chuyện ấy lộ ra, trước nay ta vẫn không hiểu, té ra, té ra là cô ta.

Hoàng Dung lắc đầu nói:

– Công chúa Hoa Tranh thật lòng thương yêu ngươi, cô ta quyết không tố cáo làm hại ngươi đâu.

Quách Tĩnh nói:

– Cô ta không hại ta, nhưng là muốn giữ ta lại. Cô ta ở ngoài trướng nghe mẹ con ta nói chuyện, đi báo cho cha biết, chỉ cho rằng đại hãn nhất định sẽ giữ không cho ta đi, nào ngờ lại sinh ra đại họa như thế .

Nói xong liên tiếp thở dài.

Hoàng Dung nói:

– Đó là cô ta vô tình có lỗi, ngươi cũng nên tới Tây Vực tìm cô ta đi?

Quách Tĩnh nói:

– Ta và cô ta chỉ có tình nghĩa anh em, cô ta bây giờ sống dựa vào trưởng huynh, ở Tây Vực vô cùng tôn quý, ta đi tìm làm gì?

Hoàng Dung mỉm cười duyên dáng, trong lòng rất vui vẻ.

Hôm ấy hai người một ngựa tới huyện Thượng Nhiêu ở lộ nam Giang Tây, trên đường núi cỏ cao tới bụng ngựa, vô cùng hoang vắng, thấy phía trước có một dải rừng rậm tối đen. Đang trên đường đi, đôi bạch điêu trên không đột nhiên kêu lên tức giận sà mau xuống, chớp mắt đã khuất sau cánh rừng. Quách Hoàng hai người biết có chuyện lạ vội thúc ngựa đuổi theo. Vòng qua cánh rừng, chỉ thấy đôi điêu đang bay lượn lên xuống ác đấu với một người, nhìn tới thì ra là Bành trưởng lão của Cái bang. Chỉ thấy y huy động cương đao bảo vệ toàn thân, đao pháp mau lẹ hiểm độc đôi điêu tuy dũng mãnh nhưng cũng khó mà thủ thắng. Đấu được một lúc, con điêu trống đột nhiên liều mạng lao xuống quặp vào khăn của Bành trưởng lão mổ mạnh vào đầu y một cái. Bành trưởng lão cương đao vung lên, chém rụng một mớ lông cánh của nó.

Hoàng Dung thấy một bên đầu Bành trưởng lão trọc lóc, thiếu mất một miếng da, không hề mọc tóc, lập tức hiểu ra:

– Lần trước điêu nhi bị trúng tên, té ra là gã ăn mày xấu xa này bắn. Về sau đôi điêu ác đấu với người ta ở cạnh chợ Thanh Long, cào được một miếng da đầu thì cũng chính là gã ăn mày độc ác này.

Bèn cao giọng quát:

– Họ Bành kia, ngươi nhìn xem bọn ta là ai.

Bành trưởng lão ngẩng đầu thấy hai người, hoảng sợ tới mức hồn phi phách tán, quay ngươi định chạy.

Con điêu trống sà mau xuống mổ vào đỉnh đầu y. Bành trưởng lão vung đao bảo vệ trên đầu, con điêu mái bên cạnh cũng sà mau xuống, chiếc mỏ dài vươn ra mổ trúng mắt trái y. Bành trưởng lão kêu lớn một tiếng, ném cương đao xuống nhảy vào một bụi gai bên cạnh, bụi gai này rất rậm rạp, Bành trưởng lão tính mạng là quan trọng, còn kể gì tới việc bị gai cào, vừa lăn vừa bò rúc vào chỗ rậm rạp nhất. Lúc ấy thì đôi điêu đã không còn cách nào đả thương y nữa, chỉ là không chịu bỏ qua, cứ bay vòng quanh bụi gai không chịu đi.

Quách Tĩnh gọi đôi điêu, kêu lên:

– Y đã mất một mắt, tha cho y thôi.

Chợt nghe trong bụi cỏ rậm sau lưng vang lên mấy tiếng kêu, Quách Tĩnh kêu lên:

– A?

Tung người nhảy xuống ngựa, vạch bụi cỏ ra, chỉ thấy một đứa nhỏ ngồi dưới đất, bên cạnh lộ ra hai bàn chân đàn bà, vội vạch cỏ tiếp, chỉ thấy một cô ái áo xanh ngã ngất trên mặt đất, chính là Mục Niệm Từ.

Hoàng Dung vừa sợ vừa mừng, kêu lớn:

– Mục tỷ tỷ?

Rồi cúi xuống đỡ lên.

Quách Tĩnh bế đứa nhỏ lên, đứa nhỏ ánh mắt long lanh nhìn y chằm chằm, không hề sợ hãi. Hoàng Dung đẩy mấy cái lên người Mục Niệm Từ, lại dùng sức ấn lên mũi nàng.

Mục Niệm Từ dần dần tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy hai người, ngờ là đang trong mơ, run lên nói:

– Ngươi… ngươi là Quách đại ca… Hoàng muội tử… .

Quách Tĩnh nói:

– Mục thế tỷ, tại sao lại ở đây? Cô không bị thương chứ?

Mục Niệm Từ chống tay muốn đứng lên, nhưng chưa đứng vững đã ngã xuống, chỉ thấy hai tay hai chân nàng đều bị trói chặt. Hoàng Dung vội bước qua cắt dây trói cho nàng. Mục Niệm Từ không quên đứa nhỏ mà Quách Tĩnh đang bế, định thần hồi lâu, mới có vẻ xấu hổ kể lại những chuyện đã qua.

Nguyên là Mục Niệm Từ thất thân với Dương Khang trên núi Thiết Chưởng, lại có mang, chỉ mong về tới nơi ở cũ tại phủ Lâm An, nhưng đi tới Thượng Nhiêu, thì đã không còn chi trì được nữa, bèn ngụ lại ở một gian nhà bỏ hoang trong rừng, không bao lâu thì sinh được một đứa con trai. Nàng không muốn thấy mặt người khác, định cứ ở lại trong rừng săn bắt hái lượm để sống, may là đứa nhỏ thông minh lanh lợi, cũng khiến nàng đỡ được nỗi hiu quạnh.

Hôm ấy nàng dắt con đi nhặt củi trong rừng, vừa khéo Bành trưởng lão đi qua, thấy nàng xinh đẹp sấn vào định có ý phi lễ. Mục Niệm Từ võ công tuy cũng không kém, nhưng Bành trưởng lão là một trong bốn đại trường lão của Cái bang, có thể sánh ngang với bọn Lỗ Hữu Cước, chỉ sau có Hồng Thất công mà thôi, Mục Niệm Từ tự nhiên không phải là đối thủ của y, không bao lâu đã bị y đánh ngã trói lại, vừa sợ vừa giận ngất đi. Nếu không phải là Quách Hoàng hai người đi ngang, mà đôi điêu ánh mắt sắc bén, từ trên không phát hiện được kẻ thù thì Mục Niệm Từ một đời khốn khổ, thế ắt lại phải chịu nhục với tên ác đồ này rồi.

Đêm ấy Quách Hoàng hai người nghỉ lại ở nhà Mục Niệm Từ. Hoàng Dung kể việc Dương Khang chết trong miếu Thiết Thương ở huyện Gia Hưng, thấy Mục Niệm Từ lệ rơi như mưa, có ý không quên tình cũ, càng không dám nói rõ chân tình, chỉ nói Dương Khang bị trúng độc của Âu Dương Phong, nghĩ thầm:

– Như thế cũng không phải mình bịa đặt, y há chẳng phải bị trúng chất độc của độc xà của Âu Dương Phong mà chết sao?

Quách Tĩnh thấy đứa nhỏ mặt mũi anh tuấn, nhớ tới việc kết nghĩa với Dương Khang, than thở không thôi. Mục Niệm Từ rơi lệ nói:

– Quách đại ca, xin ngươi đặt cho đứa nhỏ này một cái tên.

Quách Tĩnh nghĩ một lúc rồi nói:

– Ta và cha nó kết nghĩa anh em, chỉ đáng tiếc là kết thúc không hay, ta cũng chưa hết nghĩa với bạn bè, đó là một điều đáng ân hận trong đời. Chỉ mong đứa nhỏ này lớn lên có lỗi ắt sửa, ra sức làm điều nhân nghĩa, ta đặt tên cho nó là Dương Quá, tự Cải Chi, cô thấy được không?

Mục Niệm Từ cảm tạ nói:

– Chỉ mong được như lời Quách đại ca.

Sáng hôm sau, Quách Tĩnh và Hoàng Dung tặng Mục Niệm Từ nhiều tiền bạc để hai mẹ con sinh sống qua ngày. Quách Tĩnh khuyên nàng về Lâm An. Mục Niệm Từ chỉ lắc đầu không đáp, lát sau mới khẽ nói:

– Hai mẹ con ta tới miếu Thiết Thương ở Gia Hưng thăm mộ cha nó trước.

Ba người từ biệt nhau, buồn bã chia tay.

Hai người đi về phía tây tới lộ nam Lường Hồ, chuyển lên phía bắc, không phải một ngày tới Tương Dương, thấy dân tình yên ổn chợ búa sầm uất, hoàn toàn không có dấu hiệu chiến tranh, biết đại quân Mông Cổ chưa tới, trong lòng cũng được an ủi. Tương Dương là trọng trấn phía bắc của nhà Nam Tống, có đặt chức An phủ sứ, lại thêm tinh binh bảo vệ. Quách Tĩnh nghĩ tới quân tình khẩn cấp, không kịp ghé nhà trọ, cùng Hoàng Dung tìm tới yết kiến An phủ sứ Lữ Văn Đức.

Vị An phủ sứ này tay cầm binh phù, oai phong lẫm liệt, Quách Tĩnh tuy ở Mông Cổ từng làm nguyên soái nhưng ở Nam Tống thì chỉ là một người dân thường áo vải, làm sao gặp được y? Hoàng Dung biết không có tiền không xong, bèn tiếng người giữ cửa một lượng vàng. Người giữ cửa tuy lập tức biến sắc, lộ vẻ mừng rỡ, nhưng xếp ngày tiếp khách của An phủ sứ thì mau nhất cũng phải sau nửa tháng, lúc ấy chỉ tiếp kiến các đại quan quý nhân, cũng chưa chắc đã có thể gặp được Quách Tĩnh. Quách Tĩnh sốt ruột kêu lên:

– Quân tình khẩn cấp, làm sao chờ được?

Hoàng Dung vội đưa mắt ra hiệu, kéo y qua một bên, hạ giọng nói:

– Tối nay xông vào gặp!

Hai người tìm nơi nghỉ ngơi, chờ đến quá canh hai thi triển khinh công đột nhập vào phủ An phủ sứ. An phủ sứ Lừ Văn Đức đang ôm người thiếp ngồi cao uống rượu nghe nhạc, toàn tâm toàn ý vỗ về người thiếp của mình. Quách Hoàng hai người nhảy vào, Quách Tĩnh vái dài nói:

– Tiểu nhân có chuyện quân vụ khẩn cấp xin bẩm báo.

Lữ Văn Đức cả kinh quát lớn:

– Có thích khách!

Rồi đẩy người thiếp ra chui xuống gầm bàn. Quách Tình sãi chân bước tới, nắm một cái nhấc y lên nói:

– An phủ sứ đừng sợ, tiểu nhân không có ý làm hại.

Rồi đẩy y ngồi vào chỗ cũ.

Lữ Văn Đức sợ tới mức mặt không còn huyết sắc chỉ run lẩy bẩy. Chợt thấy dưới thềm có mấy mươi tên quân sĩ xông vào, đều cầm đao thương, sấn tới định cứu. Hoàng Dung rút chuỷ thủ ra chĩa vào ngực Lữ Văn Đức. Đám quân sĩ đồng thanh quát tháo nhưng không dám sấn lên. Hoàng Dung nói:

– Ngươi bảo họ đừng làm ầm lên, bọn ta có chuyện muốn nói.

Lữ Văn Đức tay chân run bần bật hạ lệnh, đám quân sĩ lúc bấy giờ mới im lặng.

Quách Tĩnh thấy y nắm quân một mặt, lãnh trọng nhiệm ngăn giặc giữ đất mà lại bị thịt như thế, trong lòng thầm than thở, lúc ấy bèn báo tin đại quân Mông Cổ sắp đánh úp Tương Dương, xin y lập tức điều binh khiển tướng, bố trí chướng ngại vật để giữ thành. Lữ Văn Đức trong bụng hoàn toàn không tin, nhưng miệng thì liên tiếp vâng dạ. Hoàng Dung thấy y cứ phát run, bèn hỏi:

– Người có nghe không?

Lữ Văn Đức nói:

– Nghe… nghe rồi.

Hoàng Dung hỏi:

– Nghe cái gì?

Lữ Văn Đức nói:

– Có… có quân Kim sắp tới đánh úp, phải chuẩn bị đề phòng, phải chuẩn bị đề phòng.

Hoàng Dung tức giận nói:

– Là quân Mông Cổ, không phải quân Kim!

Lừ Văn Đức giật nảy mình, nới:

– Quân Mông Cổ à? Không phải đâu. Mông Cổ và thừa tướng chúng ta liên minh đánh Kim, quyết không có ý khác.

Hoàng Dung nghiến răng nói:

– Ta nói quân Mông Cổ thì là quân Mông Cổ.

Lữ Văn Đức gật đầu lia lịa, nói:

– Cô nương nói quân Mông Cổ thì là quân Mông Cổ.

Quách Tĩnh nói:

– Tính mệnh nhà cửa của bách tính trong quận toàn nằm trong tay đại nhân. Tương Dương là bình phong của Nam triều, đại nhân phải thật lưu ý.

Lữ Văn Đức nói:

– Không sai, không sai, lão huynh nói không sai chút nào. Mời lão huynh cứ về thôi.

Quách Hoàng hai người thở dài một tiếng, vượt tường ra ngoài, chỉ nghe sau lưng mọi người quát tháo ầm lên:

– Bắt thích khách, bắt thích khách!

Ầm ĩ một hồi.

Hai người chờ hai ngày, thấy trong thành không có động tĩnh gì, Quách Tĩnh nói:

– Gã An phủ sứ này thật đáng ghét! Chẳng bằng theo lời nhạc phụ, cứ giết y trước rồi sẽ định kế.

Hoàng Dung nói:

– Trong vòng vài ngày quân giặc sẽ tới. Gã cẩu quan này giết không có gì đáng tiếc, chỉ là trong thành tất nhiên sẽ đại loạn, quân không có tướng, khó mà chống địch.

Quách Tĩnh cau mày nói:

– Đúng thế, nhưng làm sao bây giờ?

Hoàng Dung trầm ngâm nói:

– Trong Tả truyện có chép một chuyện cũ gọi là Huyền Cao khao quân, hay chúng ta cứ theo cách ấy.

Quách Tĩnh mừng rỡ nói:

– Dung nhi, đọc sách quả thật là rất có ích. Đó là chuyện gì, cô mau nói cho ta nghe, xem chúng ta có học được không.

Hoàng Dung nói:

– Học thì có thể học, chỉ là phải mượn thân xác của ngươi để dùng một phen.

Quách Tĩnh sửng sốt nói:

– Cái gì?

Hoàng Dung không đáp, lại bật ra tiếng cười khúc khích.

Nàng cười một lúc mới nói:

– Được, ta kể chuyện ấy cho ngươi nghe. Vào thời Xuân thu, nước Trịnh có một thương nhân tên Huyền Cao, y ra ngoài buôn bán, trên đường gặp đại quân nước Tần đang tới đánh úp nước Trịnh. Lúc ấy nước Trịnh hoàn toàn không đề phòng, chỉ e quân Tần mà tới là sẽ lập tức mất nước. Huyền Cao tuy là thương nhân nhưng rất yêu nước, lúc ấy nghĩ ra một kế, một mặt sai người liền đêm về báo cho Trịnh bá, mình thì dắt mười hai con bò tới gặp chủ tướng quân Tần nói là vâng lệnh Trịnh bá tới khao quân. Tướng Tần cho rằng nước Trịnh đã có phòng bị, không dám đánh úp nữa, lập tức đem quân về.

Quách Tĩnh mừng rỡ nói:

– Kế ấy rất hay, nhưng tại sao lại nói phải mượn thân xác của ta?

Hoàng Dung cười nói:

– Không phải là cần mười hai con bò sao? Ngươi tuổi con trâu, có phải không?

Quách Tĩnh nhảy bật dậy kêu lên:

– Giỏi lắm, cô quanh co để chửi ta.

Rồi đưa ngón tay cù nàng. Hoàng Dung phá ra cười bỏ chạy.

Hai người trò chuyện một lúc, Hoàng Dung nói:

– Đêm nay chúng ta vào phủ An phủ sứ lấy trộm một mớ vàng bạc của y, sáng mai ta sẽ mặc nam trang, khoác quần áo nhà quan, ra ngoài khao thưởng đại quân Mông Cổ, xem có thể lừa được họ lui quân không.

Quách Tĩnh vỗ tay khen hay. Đêm ấy hai người theo kế mà làm, gã An phủ sứ này kiếm được vàng bạc chất cao như núi, hai người trộm được một bao vàng bạc lớn và một bộ quan phục, người trong phủ đều ngủ say không biết. Hoàng Dung đổi mặc quan phục, rõ ràng là một viên quý quan tuấn tú, lúc ấy mang vàng bạc lên con tiểu hồng mã phi về phía bắc.

Đến giờ Ngọ hôm sau, Quách Tĩnh ngóng cổ chờ ở cửa bắc, chỉ thấy con tiểu hồng mã phi nhứ bay trong đám bụi mù, vội bước ra đón. Hoàng Dung kéo cương ngựa, mặt hiện vẻ hoảng sợ, run lên nói:

– Đại quân Mông Cổ e có hơn mười vạn, chúng ta làm sao chống cự được?

Quách Tĩnh giật nảy mình nói:

– Nhiều đến thế à?

Hoàng Dung nói:

– Xem ra Thành Cát Tư Hãn đã dốc cả nước tới đánh, định một trận diệt Tống. Ta đem vàng bạc tặng cho viên đại tướng tiên phong, y không choán được chúng ta đã biết tin, nói mượn đường để đánh Kim chứ không phải là đánh Tống. Ta dùng lời lẽ vạch trần chân tướng, y kinh nghi bất định, lập tức dừng ngựa lại không tiến, chắc là sẽ hồi báo lại với đại nguyên soái.

Quách Tỉnh nói:

– Nếu họ lui quân thì tự nhiên không gì tốt bằng, nhưng chỉ sợ… nhưng chỉ sợ… .

Hoàng Dung nhướng mày nói:

– Xem thanh thế của quân Mông Cổ như thế nhất định sẽ không chịu khinh dị rút lui.

Quách Tĩnh nói:

– Cô nghĩ cách nào hay đi.

Hoàng Dung lắc đầu nói:

– Ta đã nghĩ suốt một ngày một đêm rồi. Tĩnh ca ca, nếu nói đơn đả độc đấu thì trong thiên hạ chỉ có hai ba người thắng được ngươi thôi, dù địch nhân có mười người trăm người cũng không đáng gì với hai chúng ta cả, nhưng hiện tại địch quân là hàng ngàn hàng vạn hàng chục vạn người thì còn có cách gì được?

Quách Tĩnh thở dài nói:

– Quân dân Đại Tống chúng ta so với người Mông Cổ thì đông gấp mười lần, nếu hàng vạn người chung lòng thì còn sợ gì tinh binh Mông Cổ? Chỉ hận là hận nhà vua hèn nhát hôn ám, dối dân hại nước.

Hoàng Dung nói:

– Quân Mông Cổ không tới thì thôi, chứ nếu tới chúng ta giết một người là được một người, lúc nguy cấp thế này chúng ta còn có có thể nhờ được con tiểu hồng mã, cũng không cần lo việc thiên hạ tới mức như thế .

Quách Tĩnh nghiêm trang nói:

– Dung nhi câu ấy không đúng đâu. Chúng ta học binh pháp trong di thư của Vũ Mục, há lại không học bốn chữ Tinh trung báo quốc mà Nhạc Vũ Mục dạy? Hai chúng ta người đơn lực bạc nhưng cũng phải tận tâm kiệt lực, vì nước chống giặc. Cho dù mất mạng ở sa trường, cũng không uổng một phen cha mẹ sư phụ nuôi dạy.

Hoàng Dung thở dài nói:

– Ta vốn biết khó mà tránh khỏi có ngày hôm nay. Thôi thôi thôi, ngươi sống thì ta cũng sống, ngươi chết thì ta cũng chết là được.

Hai người bàn bạc xong, trong lòng lại thấy khoan khoái lúc ấy trở về chỗ trọ, đối ẩm trò chuyện, nghĩ tới việc quân địch vào cõi, đối diện với cảnh sinh ly tử biệt, so với ngày trước càng thân thiết hơn. Uống đến canh hai, chợt nghe ngoài thành vang lên tiếng kêu khóc ầm ầm, từ xa xa vẳng lại, võ cùng thê thảm.

Hoàng Dung kêu lên:

– Tới rồi!

Hai người nhảy phắt dậy, chạy lên đầu thành chỉ thấy nạn dân ngoài thành ùn ùn kéo tới, dắt già bế trẻ, dòng người cuồn cuộn không dứt.

Nào ngờ quan thủ thành ra lệnh cho quân sĩ đóng chặt cửa thành, không cho nạn dân vào thành. Qua không ban lâu, Lữ Văn Đức phái thêm quân sĩ giương cung lắp tên chĩa vào nạn dân quát thét đuổi lui. Nạn dân dưới thành kêu lớn “Quân Mông cổ đánh tới rồi!”. Quan thủ thành cứ nhất định không chịu mở cửa. Nạn dân dưới thành kêu gào khóc lóc, tiếng khóc vang trời.

Quách Hoàng hai người đứng trên thành phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy từ xa có một con rồng lửa ngoằn ngoèo bò tới, rõ ràng là cánh tiên phong của quân Mông Cổ đã tới. Quách Tĩnh ở dưới trướng của Thành Cát Tư Hãn lâu ngày, biết rõ thói quen công thành của quân Mông Cổ, luôn luôn là bắt tù binh giặc lên thành trước, nhìn thấy mấy vạn nạn dân tập trung dưới thành, đội tiên phong của quân Mông Cổ mà tới, thì quân dân trong thành ngoài thành Tương Dương thế không khỏi bị tàn sát bằng hết.

Lúc ấy tình thế khẩn cấp, đã không thể còn ngần ngừ, Quách Tĩnh đứng trên thành vung tay quát lớn:

– Nếu thành Tương Dương bị quân Mông Cổ hạ, thì không ai sống được, ai là hảo hán mau theo ta xông ra chống giặc!

Quan thủ thành phía bắc là thân tín của Lữ An phủ, nghe Quách Tĩnh kêu gọi như thế, tức giận quát:

– Gian tặc dám làm loạn nhân tâm, mau bắt nó xuống đây?

Quách Tĩnh từ trên thành nhảy xuống, tay phải vươn ra đã nắm ngực viên quan thủ thành nhấc cao lên, mình thì nhảy lên con ngựa của y.

Trong quan binh vốn có nhiều người trung nghĩa, nhìn thấy nạn dân kêu khóc dưới thành đã rất bất nhẫn, lúc ấy thấy Quách Tĩnh bắt được quan thủ thành, bất giác vừa mừng vừa sợ, không ai xông lên cứu giúp trưởng quan. Quách Tĩnh quát:

– Mau truyền lệnh mở cửa thành!

Quan thủ thành tính mạng là gấp, chỉ đành theo lời ra lệnh Cửa bắc mở toang, nạn dân như sóng ùn ùn đổ vào.

Quách Tĩnh giao viên quan thủ thành cho Hoàng Dung coi giữ, lại định cầm thương giục ngựa ra thành. Hoàng Dung nói:

– Chờ một lúc!

Rồi sai quan thủ thành cởi hết áo giáp mũ trụ cho Quách Tĩnh mặc, rỉ tai Quách Tĩnh nói:

– Giả truyền thánh chỉ, đem quân ra thành.

Rồi lật tay phất vào huyệt đạo của viên quan thủ thành, vứt y xuống phía sau cổng thành. Quách Tĩnh nghĩ kế này rất hay, lúc ấy cao giọng quát:

– Vâng thánh chỉ: An phủ sứ thành Tương Dương Lữ Văn Đức hôn ám bất tài, lập tức cách chức, các tướng sĩ theo ta ra thành chống giặc!

Y nội công thâm hậu, mấy câu ấy vận khí đan điền phát thoại, tuy trong thành ngoài thành đang huyên náo nhưng người nào cũng nghe thấy rất rõ, trong chớp mắt tất cả đều im phăng phắc. Trong lúc hoảng loạn, quân sĩ làm sao còn phân biệt thật giả?

Lại thêm trong quân trên dưới đối với Lữ Văn Đức trước nay vẫn có lòng nghi ngờ, biết y nhu nhược sợ chết, lúc ấy cường địch vào cõi, giữa lúc kinh hoàng luống cuống chợt nghe thấy lệnh hôn quan bị cách chức, có người dẫn quân ra chống giặc, bốn phía đều bật lên tiếng hoan hô.

Quách Tĩnh dẫn sáu bảy ngàn người ngựa ra thành, nhìn thấy quân dung không tề chỉnh, đội ngũ rối loạn, làm sao có thể đối địch với tinh binh Mông Cổ?

Nghĩ lại trong di thư của Vũ Mục có nói:”Việc gấp thì dùng kỳ binh, binh nguy thì dùng trá kế”. Bèn lập tức truyền lệnh, sai hơn ba ngàn quân sĩ ra mai phục phía đông sau núi, nghe một tiếng pháo lệnh thì đồng thời hò reo, phất cờ, nhưng không ra đánh, lại sai hơn ba ngàn quân mai phục phía tây sau núi, nghe tiếng pháo hiệu thứ hai cũng reo hò phất cờ, hư trương thanh thế. Thống lĩnh hai đội quân thấy Quách Tĩnh đã có mưu kế, chỉ huy rõ ràng, đều vâng lệnh dẫn quân đi.

Đến lúc nạn dân đã vào hết trong thành, trời đã sáng hẳn. Tai nghe tiếng chiêng khua vang, tiếng vó ngựa rầm tập phi tới, nhìn thấy bụi bốc mù mịt, cánh tiên phong của quân Mông Cổ đã kéo tới dưới thành.

Hoàng Dung lấy một ngọn thương một con ngựa trong quân theo sát Quách Tĩnh. Quách Tĩnh cao giọng ra lệnh:

– Mở toang bốn cổng thành! Quân dân trong thành đều phải núp cả trong nhà, ai dám ra ngoài đi lại sẽ chém lập tức!

Thật ra y không ra lệnh như thế thì quân dân trong thành cũng đã sớm ẩn núp không thấy bóng dáng đâu, những người can đảm đều đã ra mai phục ở hai bên đông tây sau núi, còn loại khiếp nhược như Lữ Văn Đức nếu không chui xuống gầm bàn niệm lớn Cứu khổ cứu nạn cao hoàng kinh thì núp trong chăn run lên cầm cập.

Mấy trăm thiết ky quân Mông Cổ sầm sập phóng tới như gió, chỉ thấy cửa thành Tương Dương mở toang, hai thiếu niên một nam một nữ cười ngựa cầm thương đứng trước điếu kiều chỗ hào thành. Viên Thiên phu trưởng tiên phong nhìn thấy rất kinh ngạc, không dám xông lên, phóng ngựa về báo cho viên Vạn phu trưởng ở hậu đội. Viên Vạn phu trưởng trận mạc đã nhiều, nghe báo cảm thấy kỳ lạ, nghĩ thầm trên đời làm gì có chuyện ấy, vội giục ngựa phóng tới trước thành, từ xa nhìn thấy Quách Tĩnh đã giật nảy mình. Lúc y tây chinh, mấy lần thấy Quách Tĩnh dùng kế lạ đánh thành phá giặc, đánh đâu thắng đó, đem quân trên không nhảy xuống phá thành Tán Ma Nhĩ Hãn lại càng khâm phục sát đất, trong quân Mông Cổ đến nay vẫn còn truyền tụng, lúc ấy thấy Quách Tĩnh đứng trước thành, trong thành lại vắng ngắt không có nửa bóng người, đoán ắt là y dùng diệu kế, đâu dám tấn công. Lúc ấy xuống ngựa ôm quyền làm lễ, kêu lên:

– Kim đao phò mã ở trên, tiểu nhân xin thi lễ.

Quách Tĩnh vái lại một vái chứ không nói gì. Viên Vạn phu trưởng kéo quân lùi lại phi báo với thống soái. Qua hơn một giờ, dưới ngọn cờ đại độc phất phơ có một đội quân mặc giáp sắt loảng xoảng phi tới, xúm xít quanh một tướng quân thiếu niên phóng tới trước thành, chính là Tứ vương tử Đà Lôi.

Đà Lôi phóng ngựa lên trước gọi lớn:

– Quách Tĩnh an đáp ngươi khỏe không?

Quách Tĩnh thúc ngựa phóng ra nói:

– Đà Lôi an đáp, té ra là ngươi à?

Hai người nếu lúc bình thường gặp nhau nhất định sẽ vui mừng ôm chằm lấy nhau, nhưng lúc này còn cách nhau ngoài năm trượng thì không hẹn mà cùng kìm ngựa lại.

Quách Tĩnh nói:

– An Ðáp, ngươi dẫn quân tới đánh Đại Tống ta phải không?

Đà Lôi đáp:

– Ta vâng lệnh phụ hoàng, không tự chủ được, xin ngươi thứ lỗi.

Quách Tĩnh đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy cờ xí như mây, ánh đao lóe tuyết, không biết có bao nhiêu người ngựa, nghĩ thầm:”Đội thiết ky này mà xông tới thì Quách Tĩnh ta hôm nay nhất định phải mất mạng ở đây”. Lúc ấy lớn tiếng đáp:

– Được, vậy ngươi tới đây lấy mạng ta trước đi!

Đà Lôi hơi hoảng sợ, nghĩ thầm:

– Người này dùng binh như thần, mình quả thật không phải là địch thủ của y, huống chi mình với y tình còn hơn cốt nhục, há lại làm tổn thương tình anh em kết nghĩa.

Nhất thời ngần ngừ không quyết định được.

Hoàng Dung quay đầu lại vung tay phải một cái, quân sĩ trong thành bắn pháo hiệu, đùng một tiếng vang rền, phía đông sau núi quân sĩ ầm ầm reo hò, cờ xí phất cao. Đà Lôi biến sắc, chỉ nghe tiếng pháo nổ liên thanh, phía tây sau núi lại có quân địch hò reo, nghĩ thầm:

– Không xong, quân ta rơi vào ổ mai phục rồi.

Y theo Thành Cát Tự Hãn đánh đông dẹp bắc đâu chỉ thân trải trăm trận mà thôi, trận lớn nào cũng đã thấy qua, có coi mấy vạn quân sĩ mai phục ra gì? Nhưng lúc tây chinh Quách Tĩnh đã bộc lộ tài năng, Đà Lôi vốn vẫn sợ phục, lúc ấy thấy tình thế khác lạ, trong lòng đã e sợ, lập tức truyền lệnh đổi hậu quân làm tiền quân, lui về ba mươi dặm hạ trại.

Quách Tĩnh thấy quân Mông Cổ lui về, cùng Hoàng Dung nhìn nhau cười.

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca, chúc mừng ngươi dùng kế không thành lập công.

Quách Tĩnh vẻ tươi cười lập tức thu lại, lo lắng hiện ra mặt, lắc đầu nói:

– Đà Lôi là người kiên nhẫn quả cảm, tuy hôm nay lui quân nhưng ngày mai nhất định sẽ lại tới, lúc ấy làm sao mà ngăn chặn?

Hoàng Dung trầm ngâm hồi lâu, nói:

– Chỉ có một kế, chỉ sợ ngươi nghĩ tới tình kết nghĩa không chịu làm thôi.

Quách Tĩnh hoảng sợ nói:

– Cô muốn ta đi hành thích y à?

Hoàng Dung nói:

– Y là đứa con út rất được thương yêu của đại hãn, tôn quý vô cùng, không phải như các đại tướng cầm quân khác. Tứ hoàng tử mà chết, quân địch ắt lui.

Quách Tĩnh cúi đầu không nói gì, quay trở vào thành.

Quân dân trong thành tuy thấy quân địch đã lui, nhưng khắp nơi vẫn xôn xao nhốn nháo. Lữ Văn Đức nghe nói Quách Tĩnh nói một câu đã khiến đại quân Mông Cổ rút lui, mừng rỡ đích thân tới chỗ hai người bái phỏng, muốn mời hai người tới phủ uống rượu ăn mừng. Quách Tĩnh bàn kế sách giữ thành với y. Lữ Văn Đức vừa nghe y nói quân Mông Cổ ngày mai sẽ tới đánh thành, lập tức sợ nhũn cả người, hồi lâu không nói nên lời chỉ kêu lên:

– Sắp kiệu về phủ, sắp kiệu về phủ.

Y đã quyết ý đêm nay sẽ bỏ thành chạy về phía nam.

Quách Tĩnh buồn bã không vui, không thiết ăn uống, trời tối dần, nghe tiếng kêu khóc vang lên khắp thành, nghĩ thầm:”Giờ này ngày mai trong thành Tương Dương e không còn một thần dân Đại Tống nào còn sống”. Quân Mông Cổ lấy máu rửa thành y đã chính mắt nhìn thấy không ít, tình trạng thảm sát ở thành Tán Ma Nhĩ Hãn ngày trước không ngừng hiện ra trong đầu, đập mạnh xuống bàn một cái kêu lên:

– Dung nhi, người xưa vì đại nghĩa diệt thân, hôm nay ta há còn nghĩ tới nghĩa bạn bè?

Hoàng Dung thở dài nói:

– Chuyện này vốn rất khó khăn.

Quách Tĩnh trong lòng đã quyết, lúc ấy lập tức thay đồ dạ hành, cùng Hoàng Dung cưỡi con tiểu hồng mã ra cửa bắc thành, tới gần khu vực quân Mông Cổ thì thả ngựa vào núi, đi bộ tìm tới trướng Đà Lôi. Hai người bắt được hai tên quân canh đêm, điểm huyệt lột hết quần áo mặc vào. Tiếng Mông Cổ thì Quách Tĩnh từ nhỏ đã nói quen, quy định trong quân cũng không điều gì không biết, lúc ấy không hề tốn chút sức lực đã tới cạnh trướng đại tướng. Lúc ấy sắc trời đã tối đen, hai người núp sau trướng, ghé mắt vào cửa trướng nhìn trộm.

Chỉ thấy Đà Lôi trong trướng đi qua đi lại, thần sắc không vui, miệng chỉ kêu lên:

– Quách Tĩnh, An Ðáp! An Ðáp, Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh không hiểu, chỉ cho rằng y đã phát hiện ra tông tích của mình, suýt nữa buột miệng lên tiếng. Hoàng Dung đã sớm đề phòng, vừa thấy y há miệng, lập tức đưa tay bịt miệng y. Quách Tĩnh thầm mắng mình ngu xuẩn, vừa thấy buồn cười, vừa thấy khó xử. Hoàng Dung nói khẽ vào tai y “Động thủ đi, đại trượng phu phải tùy cơ quyết đoán, chần chừ vô ích”.

Đúng lúc ấy, chợt nghe xa xa có tiếng vó ngựa vang lên rất gấp, một kỵ mã phóng mau tới trước trướng. Quách Tĩnh biết có tin khẩn cấp, ghé vào tai Hoàng Dung nói:

– Để nghe quân tình xong sẽ giết y cũng không muộn.

Chỉ thấy một viên sứ giả áo vàng tung người nhảy xuống ngựa, bước thẳng vào trướng, dập đầu với Đà Lôi bẩm:

– Tứ vương tử, đại hãn có lệnh.

Đà Lôi nói:

– Đại hãn nói gì?

Viên sứ giả kia quỳ dưới tấm nệm, bắt đầu hát lên. Nguyên là người Mông Cổ khai hóa chưa lâu, tuy đã có văn tự, nhưng Thành Cát Tư Hãn đã không biết chữ, không biết viết, có chỉ ý gì chỉ sai sứ giả truyền miệng, chỉ sợ là có điều lầm sót truyền sai lệnh, thường biến chỉ lệnh thành bài hát, sai sứ giả học thuộc lòng, hát đi hát lại không sai mới được lên đường.

Viên sứ giả kia chỉ mới hát ba câu, Đà Lôi và Quách Tĩnh đã giật nảy mình, Đà Lôi thì ứa nước mắt. Nguyên là Thành Cát Tư Hãn sau khi tiêu diệt Tây Hạ bị mắc bệnh, gần đây ngày càng nặng, tự biết không khỏi, triệu Đà Lôi mau ban sư để về gặp. Đoạn cuối lệnh chỉ nói:

– Hàng ngày rất nhớ nhung Quách Tĩnh, nếu Đà Lôi ở phía nam biết được y ở đâu, thì phải gọi y lên bắc để vĩnh biệt đại hãn, những tội y phạm đều tha cho cả.

Quách Tĩnh nghe tới đó, đưa chuỷ thủ ra rạch vải lều chui vào trong kêu lên:

– Đà Lôi an đáp, ta đi với ngươi.

Đà Lôi giật nảy mình, thấy là Quách Tĩnh không kìm được vui mừng, hai người ôm chầm lấy nhau. Viên sứ giả nhận ra Quách Tĩnh bèn bước lên dập đầu nói:

– Kim đao phò mã, đại hãn có chỉ, mời người nhất định phải về kim trướng gặp mặt.

Quách Tĩnh nghe bốn chữ Kim đao phò mã, trong lòng hoảng sợ, chỉ sợ Hoàng Dung nghĩ ngợi vội nhảy ra ngoài, kéo tay Hoàng Dung nói:

– Dung nhi, ta và cô cùng đi cùng về.

Hoàng Dung trầm ngâm không đáp. Quách Tĩnh nói:

– Cô tin ta không?

Hoàng Dung duyên dáng mỉm cười, nói:

– Nếu ngươi còn muốn làm phò mã phò ngưu gì đó thì ta cũng sẽ đại nghĩa diệt thân, một đao chọc tiết ngươi.

Ngay đêm ấy Đà Lôi hạ lệnh rút quân, sáng hôm sau đại quân lên đường.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung trở lại tìm con tiểu hồng mã và đôi điêu. Rồi theo quân lên bắc. Đà Lôi chỉ sợ không kịp thấy mặt cha, lệnh phó tướng dẫn quân về sau, mình cùng Quách Hoàng hai người phóng ngựa đi mau trước, không đầy một tháng đã về tới kim trướng của Thành Cát Tư Hãn ở Tây Hạ. Đà Lôi từ xa nhìn thấy ngọn cờ đại độc chín chòm lông vẫn dựng trước Kim trướng không có gì lạ, biết cha vẫn còn khỏe, reo lớn một tiếng, thúc ngựa phóng tới trước trướng.

Quách Tĩnh kìm ngựa nhớ lại ơn Thành Cát Tư Hãn nuôi dưỡng, cái ơn tri ngộ, mối thù giết mẹ, việc tàn sát thê thảm, nhất thời thương giận lẫn lộn, cúi đầu không nói gì. Chợt nghe tiếng tù và thổi vang, hai hàng Tiễn đồng vệ sĩ bày ra hai hàng trước kim trướng. Thành Cát Tư Hãn mặc áo cừu lông điêu đen, vịn vai phải Đà Lôi từ trong trướng rảo chân bước ra. Y cước bộ tuy vẫn còn mau lẹ như xưa nhưng đặt xuống đất hơi run, thân hình cũng loạng choạng. Quách Tĩnh bước lên trước lạy rạp xuống đất.

Thành Cát Tư Hãn lệ nóng tràn lên mắt, run giọng nói:

– Đứng lên, đứng lên? Ta ngày nào cũng nhớ tới các ngươi.

Quách Tĩnh đứng lên, chỉ thấy đại hãn mặt đầy nếp nhăn, hai má hóp vào, xem ra không còn sống bao lâu, bất giác lòng thù hận tiêu giảm hết. Thành Cát Tư Hãn tay kia vịn vai trái Quách Tĩnh, nhìn nhìn Đà Lôi, lại nhìn nhìn Quách Tĩnh, thở dài một hơi, đưa mắt nhìn ra đại mạc xa xa, ngơ ngẩn xuất thần. Quách Tĩnh và Đà Lôi không biết y đang nghĩ ngợi gì, đều không dám lên tiếng.

Qua hồi lâu Thành Cát Tư Hãn thở dài nói:

– Lúc đầu ta cùng Trát Mộc Hợp an đáp kết nghĩa dấy quân, nào ngờ cuối cùng ta lại không giết y không được Ta làm đại hãn của thiên hạ rồi, y thì chết trong tay ta. Lại qua mấy hôm nữa thì sao? Ta lại chẳng cũng xuống đất vàng như y à? Ai thắng ai bại, rốt lại có gì khác nhau đâu?

Rồi vỗ vỗ vai hai người, nói:

– Các ngươi phải nên thủy chung hòa hảo, ngàn muôn lần đừng giết chóc lẫn nhau. Trát Mộc Hợp an đáp chết rồi, ta mỗi khi nhớ tới tình kết nghĩa, thì lại trọn đêm không sao chợp mắt.

Đà Lôi và Quách Tĩnh nhớ tới lúc dưới thành Tương Dương suýt nữa liều mạng sống chết với nhau, đều thầm xấu hổ.

Thành Cát Tư Hãn đứng một lúc, cảm thấy toàn thân rã rời, đang muốn quay về, chợt thấy một toán người ngựa phóng tới. Người đi đầu mặc áo trắng thắt đai vàng, mặc quần áo nước Kim. Thành Cát Tư Hãn thấy người tới là địch nhân, tinh thần đột nhiên phấn chấn.

Người ấy nhảy xuống ngựa từ xa, rảo bước tới gần, từ xa lạy rạp xuống đất không dám tới gần. Đám thị vệ tâu “Sứ giả nước Kim cầu kiến đại hãn”.

Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:

– Nước Kim không chịu đầu hàng, còn sai người tới gặp ta làm gì?

Viên sứ giả kia nằm rạp dưới đất nói:

– Hạ bang tự biết mạo phạm thiên uy của đại hãn, tội đáng muôn chết, xin hiến một ngàn viên minh châu tổ truyền, xin đại hãn bớt giận tha tội. Một ngàn viên minh châu này là bảo vật của hạ bang, xin thỉnh cầu đại hãn ra ơn nhận cho

Sứ giả bẩm xong, cởi bao phục trên lưng lấy ra một cái mâm ngọc, lại lấy trong bọc ra vô số minh châu, quỳ xuống dưới đất, hai tay bưng mâm ngọc đưa lên. Thành Cát Tư Hãn liếc qua chỉ thấy trong mâm có hàng ngàn viên minh châu, đều to xấp xỉ bằng đầu ngón tay út, xoay vòng quanh một viên minh châu lớn. Viên minh châu ấy quả thật là bảo vật hiếm có trên đời, huống chi hàng ngàn viên? Huống chi ngoài viên minh châu lớn, số minh châu còn lại đều to xấp xỉ nhau. Chỉ thấy ánh trân châu sáng rực lóng lánh soi sáng lẫn nhau, trên mâm ngọc như có một cái cầu vồng phủ lên. Nếu là lúc bình thời thì tự nhiên Thành Cát Tư Hãn rất vui vẻ, nhưng lúc ấy y cau mày mấy cái nói với đám thị vệ:

– Nhận lấy.

Đám thị vệ đón lấy mâm ngọc. Viên sứ giả thấy đại hãn thu nhận lễ vật vô cùng mừng rỡ, nói:

– Đại hãn cho giảng hòa, hạ bang từ vua tới dân đều cảm ơn đức.

Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:

– Ai nói cho giảng hòa? Ta trở về sẽ phát binh tiêu diệt bọn chó Kim. Tả hữu đâu, bắt lấy nó!

Đám thị vệ đổ tới bắt lấy viên sứ giả.

Thành Cát Tư Hãn thở dài nói:

– Cho dù có ngàn viên minh châu cũng khó có thể cho ta sống thêm được một ngày!

Rồi đón lấy cái mâm ngọc trong tay thị vệ, ném mạnh xuống đất, cả mâm lẫn ngọc lăn tròn, cái mâm ngọc rơi xuống bậc đá, lập tức vỡ nát. Mọi người đều hoảng sợ ngạc nhiên.

Số châu ngọc ấy về sau tướng sĩ Mông Cổ nhặt được rất nhiều nhưng vẫn còn rất nhiều vương vãi trong bãi cỏ, đến mấy trăm năm sau trên thảo nguyên thỉnh thoảng vẫn có mục dân nhặt được.

Thành cát Tư Hãn chán nản quay về kim trướng. Đến xế chiều y gọi một mình Quách Tĩnh theo đi dạo trên thảo nguyên. Hai người giục ngựa cùng đi, được hơn mười dặm chợt nghe trên đầu có mấy tiếng chim điêu kêu, ngẩng nhìn thấy đôi bạch điêu đang lượn vòng trên không. Thành Cát Tư Hãn giương cung lắp tên nhắm thẳng vào con điêu mái. Quách Tĩnh hoảng sợ kêu lên:

– Đại hãn, đừng bắn!

Thành Cát Tư Hãn tuy đã già yếu nhưng ra tay vẫn rất mau lẹ, Quách Tĩnh vừa bật tiếng kêu, mũi tên đã bắn ra.

Quách Tĩnh thầm kêu khổ, y vốn biết Thành Cát Tư Hãn tý lực hơn người, tên bắn không mũi nào sai, phát tên ấy bắn ra, con chim điêu yêu quý ắt phải mất mạng, nào ngờ con điêu mái ngoắt qua tránh khỏi, cánh trái vỗ một cái đập mũi tên rơi xuống đất. Con điêu trống cả giận rít lớn một tiếng lao xuống mổ vào đầu Thành cát Tư Hãn. Quách Tĩnh quát:

– Súc sinh, muốn chết à?

Rồi vung roi đánh con điêu trống. Con điêu trống thấy chủ nhân ra tay bèn vòng lên không, kêu lên mấy tiếng, cùng con điêu mái song song bay đi.

Thành Cát Tư Hãn thần sắc buồn thảm, ném cung tên xuống đất, nói:

– Mấy mươi năm nay đây là lần đầu tiên ta bắn điêu không trúng, chắc là đúng tới lúc chết rồi.

Quách Tĩnh định an ủi nhưng không biết nói thế nào. Thành Cát Tư Hãn đột nhiên kẹp hai chân một cái thúc ngựa phi mau lên phía bắc. Quách Tĩnh sợ y bị sơ xuất phóng ngựa vượt lên, con tiểu hồng mã lướt đi như gió trong chớp mắt đã vượt qua ngựa y.

Thành Cát Tư Hãn kìm cương nhìn quanh, chợt nói:

– Tĩnh nhi, đất nước to lớn mà ta dựng nên, xưa nay chưa từng có ai bằng được, từ giữa đất nước đi tới những nơi xa xôi nhất, đông nam tây bắc đều phải đi đường mất một năm. Ngươi nói các anh hùng cổ kim có ai hơn ta không?

Quách Tĩnh trầm ngâm một lúc rồi nói:

– Đại hãn võ công hơn đời, xưa nay không ai bằng. Chỉ là đại hãn một mình oai phong hiển hách, nhưng thiên hạ lại không biết có bao nhiêu đống xương trắng chồng chất, làm chảy không biết bao nhiêu nước mắt của cô nhi quả phụ.

Thành Cát Tư Hãn trợn mắt lên, giơ roi ngựa muốn đánh lên đầu Quách Tĩnh, nhưng thấy y ngang nhiên không sợ đưa mắt nhìn mình, chiếc roi ngựa vung lên nửa chừng lại buông xuống, quát:

– Ngươi nói gì?

Quách Tĩnh nghĩ thầm:”Từ nay trở đi chưa chắc đã có dịp gặp lại đại hãn, cho dù khiến y tức giận thì ý nghĩ trong lòng cũng phải nói rõ”, lúc ấy ngang nhiên nói:

– Đại hãn, người nuôi con dạy con, bức tử mẹ con, đó là chuyện ân oán riêng tư, lúc này không cần nói nữa. Con chỉ muốn hỏi người một câu. Sau khi người ta chết, chôn xuống đất rồi thì chiếm hết bao nhiêu đất?

Thành Cát Tư Hãn sửng sốt, ngọn roi khua lên mấy vòng, nói:

– Cái đó thì chẳng đáng bao nhiêu.

Quách Tĩnh nói:

– Đúng thế, vậy người giết chết bấy nhiêu người, làm đổ bấy nhiêu máu, chiếm được bấy nhiêu nước, rốt lại dùng để làm gì?

Thành Cát Tư Hãn im lặng không đáp.

Quách tĩnh lại nói:

– Xưa nay bậc anh hùng khiến cho đương thời kính ngưỡng, đời sau nhớ tiếc ắt là kẻ tạo phúc cho dân, thương yêu bách tính. Theo con thấy thì giết nhiều người cũng chưa chắc đã đáng gọi là anh hùng.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Chẳng lẽ suốt đời ta chưa từng làm chuyện gì tốt à?

Quách Tĩnh nói:

– Chuyện tốt thì tự nhiên là có, nhưng chuyện lớn hơn là người nam chinh tây phạt, xác chết chất thành núi, đâu là công đâu là tội cũng rất khó nói.

Y tính tình thẳng thắn, nghĩ gì nói nấy.

Thành Cát Tư Hãn nhất sinh tự phụ, lần này lại bị y dồn cho một chặp như thế, đã khó biện bác, nghĩ lại chuyện trước, giục ngựa quay đầu, không kìm được chán nản, lát sau ọe một tiếng, phun ra một búng máu tươi.

Quách Tĩnh giật nảy mình, mới biết mình ăn nói nặng lời, vội đưa tay đỡ y, nói:

– Đại hãn, người về nghỉ ngơi thôi. Con ăn nói có điều mạo phạm, xin người tha tội.

Thành Cát Tư Hãn cười nhạt một tiếng, khuôn mặt trắng bệch như sáp, thở dài nói:

– Tả hữu của ta không ai to gan bằng ngươi, dám nói mấy câu thật lòng với ta.

Rồi lập tức nhướng mày, trên mặt hiện vẻ ngạo nghễ, cao giọng nói:

– Ta nhất sinh tung hoành thiên hạ, diệt quốc vô số mà ngươi lại nói không phải là anh hùng à? Hà, đúng là lời trẻ con!

Vung roi đánh mạnh con ngựa một cái, phi mau trở về.

Đêm ấy Thành Cát Tư Hãn băng trong kim trướng, lúc lâm tử vẫn lẩm bẩm:

– Anh hùng, anh hùng… .

Chắc trong lòng vẫn suy nghĩ về lần trò chuyện ấy của Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung hướng về di thể đại hãn làm lễ xong, từ biệt Đà Lôi, ngay hôm ấy lên đường về nam. Suốt đường về thấy xương khô rải rác khắp nơi trong bụi cỏ, không kìm được bùi ngùi, nghĩ thầm hai người tuy được vẹn tình đôi lứa, có thể nói là không có gì phải ân hận, nhưng người đời khổ nạn càng sâu, không biết ngày nào mới được thái bình.

Đúng là:

Sau loạn tro còn ấm, Thôn nghèo mấy nóc nhà.

Qua đò không khách sớm, Cát lạnh ánh trăng tà!

Hồi 01: Đường loạn đầy nguy hiểm – Vua tự hủy trường thành

Vào tháng tám Ất Mùi, năm Vĩnh Lạc thứ sáu đời Minh Thành Tổ, quốc vương Ma Na Nhã Gia Na Nại của nước Bột Nê ở vùng biển Tây Nam xa xôi đến Trung thổ triều cống. Y dẫn theo cả phi tần, em trai, em gái, thế tử và một số triều thần, tiến cống đủ thứ: long não, mào chim hạc, đồi mồi, tê giác và kim ngân châu báu. Thành Tổ rất vui mừng, ủy lạo một phen rồi ban yến tiệc ở Phụng Thiên Môn.

Nước Bột Nê này chính là Brunei ở phía Bắc quần đảo Indonesia, cũng gọi là Văn Lai. Tuy họ ở xa Trung thổ tới hơn vạn dặm đường biển, nhưng đã ngưỡng mộ Trung Hoa từ rất lâu. Vào năm Thái Bình thứ hai đời Tống, vua nước đó là Hướng Đả đã từng sai sứ giả đến tiến cống long não, ngà voi, đàn hương… rồi từ đó về sau thỉnh thoảng lại triều cống.

Quốc vương Ma Na Nhã Gia Na Nại thấy thiên triều đất đai sung túc, sản vật dồi dào, dùng văn để trị nước dạy dân, dụng cụ y phục thứ nào cũng đáng ngưỡng mộ. Y lại được hoàng đế nhà Minh tiếp đãi hậu hĩ, nên lưu luyến không chịu trở về. Mãi đến tháng mười một năm đó, một là do tuổi già sức yếu, hai là do thủy thổ không hợp, nên y bị bệnh không trị được, bỏ xác lại Trung thổ.

Minh Thành Tổ thương tiếc, vì chuyện này mà bãi triều ba ngày, cho an táng tại cửa An Đức thành Nam Kinh. (Hiện nay di tích ngôi mộ đó vẫn còn trên đồi Tụy Bảo Sơn, ngoài cửa Trung Hoa thành phố Nam Kinh. Dân chúng quanh đó gọi là mộ Mã Hồi Hồi.) Sau đó, Thành Tổ hạ chiếu tấn phong thế tử Hà Vương Tập làm Quốc vương nước Bột Nê, sai sứ giả hộ tống về nước, đồng thời ban thưởng rất nhiều kim ngân châu báu, đồ sành sứ, vải vóc, thổ cẩm.

Những năm Chính Đức, Gia Tĩnh sau đó, quốc vương nước Bột Nê đều có triều cống. Một số người Trung Quốc đến Bột Nê được phong làm Na đốc, là một chức quan lớn.

Đến giữa năm Vạn Lịch thì nước Bột Nê có nội loạn. Bột Nê truyện trong Minh Sử có chép: “Quốc vương băng hà, không người kế vị, người trong nước tranh ngôi vua, chém giết lẫn nhau rất nhiều. Sau này họ tôn con gái của cựu vương lên làm vua. Có người họ Trương, quê quán ở Trương Châu, Trung Quốc, đang làm Na đốc ở nước đó, vì loạn lạc nên bỏ đi, sau đó được nữ vương đón trở về. Con gái của họ Trương thường ra vào cung điện, có lần nổi điên nói cha mình mưu phản. Nữ vương Bột Nê kinh hãi, liền sai người đến nhà tra xét. Trương Na đốc sợ tội tự tử, rồi được nhiều người Bột Nê minh oan cho. Nữ vương hối hận, giết đứa con gái kia, rồi phong cho một người con của họ Trương tiếp tục làm quan Na đốc.

Vì sao mà ái nữ của Trương Na đốc phát bệnh thần kinh, tố cáo cha mình tạo phản, gây ra tấn bi kịch đó? Chắc chắn bên trong có nhiều tình tiết ly kỳ, nhưng vì sử sách không chép lại nên người đời sau không cách nào biết được. Dù sao thì nhà họ Trương gốc ở Trương Châu tỉnh Phúc Kiến cũng nhiều đời được phong làm Na đốc tại nước Bột Nê, sống rất đàng hoàng, có quyền có thế, được dân chúng kính ngưỡng.

Không ít người Trung Hoa đi xứ khác làm ăn, dù làm ruộng hay buôn bán đều có công khai phá, mở mang đất đai, cư xử tương thân tương ái với dân chúng địa phương.

Trong sách Tinh Xà Thánh Lãm của Phí Tín có ghi: “Dân chúng nước Bột Nê tôn sùng đạo Phật, thường ăn chay. Họ rất thương mến những người Đường đến nước mình, thấy ai say rượu cũng dìu về nhà nghỉ ngơi, đối đãi hậu hĩ như hàng xóm quen biết lâu năm vậy. Có bài thơ làm chứng:

Bột Nê ở hải ngoại,

Dựng nước đã từ lâu.

Hè mát, đông ấm áp,

Đất bằng phẳng phì nhiêu.

Một lòng sùng Phật giáo,

Người say cũng đãi chiều.

Thuyền đi khắp thiên hạ,

Tiếng tốt mãi truyền lưu.”

Chức Na đốc của nhà họ Trương ở nước Bột Nê truyền được mấy đời thì đến Trương Tín. Trương Tín chỉ có một đứa con trai, đặt tên là Triều Đường để tỏ lòng không quên cố quốc. Năm Triều Đường được mười hai tuổi, có một nhân sĩ ở Phúc Kiến đến xứ Bột Nê. Ông này thi cử nhiều lần không đậu nên bỏ học đi buôn, kinh doanh cũng dở nốt nên mất sạch cả vốn, không còn tiền để về quê, vì đó phải lưu lạc xứ người. Có người giới thiệu ông ta đến nhà họ Trương, không chừng sẽ tìm được kế sinh nhai. Hai bên nói chuyện xong, Trương Tín hoan hỉ mời ông ta làm gia sư, dạy dỗ con trai mình.

Việc học của Trương Triều Đường bắt đầu tuy muộn, nhưng nhờ tư chất thông minh nên trong vòng mười năm đã thuộc làu Tứ Thư, Ngũ Kinh. Gia sư bèn khuyên Trương Tín cho con trai về Trung thổ mà thi cử, may ra đậu tú tài hay cử nhân ở Trung Hoa thì trở về nước Bột Nê chắc chắn sẽ vinh dự hơn nhiều.

Trương Tín cũng muốn cho con trai về thăm lại phong thổ nhân tình ở quê cha đất tổ, nên ban thưởng hậu hĩ cho gia sư, rồi thu xếp tiền bạc, sai thêm một đứa thư đồng là Trương Khang đi theo con trai về Trung Nguyên ứng thí. Dĩ nhiên gia sư cũng được về theo.

Đó là năm Sùng Trinh thứ sáu. Tên nghịch tặc Ngụy Trung Hiền đã bị xử tử, nhưng những chuyện hắn bán nước hại dân, tàn sát trung lương vào năm Thiên Khải thứ bảy đã làm nguyên khí của triều Minh thương tổn nặng nề. Lại còn thiên tai hạn hán mấy năm liên tiếp, dân nghèo nổi lên làm giặc, loạn lạc khắp nơi.

Ba người Trương Triều Đường lên bờ ở Hạ Môn, rồi lại thuê thuyền đi về hướng Tây để đến Trương Châu. Không ngờ mới đi được mấy dặm, đến vùng Tứ Hương thì gặp phải đại họa. Một bọn cường đạo xông thẳng lên thuyền, không nói không rằng, giết ngay ông gia sư. May mà chủ tớ Trương Triều Đường là dân biển giỏi bơi lội nên nhảy xuống nước trốn thoát, tránh được họa sát thân.

Hai người trốn ở vùng quê được ba ngày, nghe toàn những chuyện dân chúng đói khổ ở khắp bốn phương kéo đến tấn công Trương Châu, Hạ Môn. Tin tức này khiến Trương Triều Đường hoảng sợ đến mất hết hùng tâm thi cử, thấy nơi này bất an không ở được, chỉ muốn về nhà cho lẹ.

Nhưng lúc này không thể trở về Hạ Môn được nữa. Hai chủ tớ bàn nhau, quyết định đi theo hướng Tây đến Quảng Châu, rồi từ Quảng Châu sẽ mướn thuyền vượt biển. Thế là hai người mua hai con ngựa, dọc đường luôn miệng hỏi thăm đường về Quảng Đông, lòng nơm nớp hoảng sợ không lúc nào nguôi.

May mà dọc đường vô sự. Họ đi qua Tam Tịnh, Bình Hòa đến Nam Hòa Bá, đã là địa giới tỉnh Quảng Đông rồi. Từ lâu Trương Triều Đường đã nghe Quảng Đông là nơi trù phú, nhưng nhìn thấy dọc đường toàn là dân chúng đói khổ. Chàng nghĩ bụng: “Đất đai Trung Hoa sản vật phong phú, thế mà bá tính người nào cũng mạng treo đầu sợi tóc. Bột Nê chỉ là một nước nhỏ ở hải ngoại, thế mà già trẻ trai gái đều được an cư lạc nghiệp, không phải lo lắng ưu phiền gì hết”. Chàng chợt thở dài, lại nghĩ: “Nghe nói Trung thổ núi sông hùng vĩ, mình đến đây chưa thấy được một phần trăm, mà sinh mạng không biết sẽ mất lúc nào. Chi bằng trở về Bột Nê, ngồi hóng mát dưới bóng dừa mà ca hát, an lạc hơn nhiều.”

Hôm đó, khi họ vượt qua một ngọn đèo dài, đường núi khúc khuỷu hết lên lại xuống, thì trời đã gần tối. Hai chủ tớ lo lắng thúc ngựa chạy một hơi mười mấy dặm, đến một thị trấn nhỏ. Họ cả mừng, định tìm khách sạn mà tá túc, nào ngờ thị trấn vắng lặng không một bóng người.

Trương Khang xuống ngựa, tới trước một khách điếm nhỏ vẫn còn treo bảng Việt Đông Khách Sạn, lớn tiếng kêu: “Này! Chủ quán! Chủ quán!”

Khách sạn này được xây tựa vào vách núi. Chỉ nghe từ thung lũng tiếng vọng về “Chủ quán… án… án”, còn bên trong hoàn toàn không có động tĩnh gì. Ngay lúc đó một cơn gió thổi tới, những tiếng xào xạc nổi lên, hai người đều bất giác dựng tóc gáy.

Trương Triều Đường rút kiếm ra chạy vào trong tiệm. Bên trong có hai thi thể, một đàn ruồi bay quanh những vũng máu đen, mùi hôi thối xộc vào mũi. Xem ra hai người này chết đã nhiều ngày rồi. Trương Khang kinh hãi la lớn một tiếng, quay đầu chạy ra ngoài.

Trương Triều Đường nhìn quanh tứ phía, thấy chỗ nào cũng lộn xộn. Rương hòm quăng vãi tứ tung, cửa sổ xiêu vẹo, hình như đã bị cường đạo lục soát. Lúc này Trương Khang thấy chủ nhân lâu quá không ra ngoài, bèn từng bước một rón rén đi vào trong quán. Trương Triều Đường bảo: “Đi chỗ khác xem thử!”

Họ đi vào ba căn khách điếm khác, thấy căn nào cũng vậy. Có những thi hài nữ nhân thân thể lõa lồ, hiển nhiên bị hiếp trước khi giết. Không khí trong thị trấn cực kỳ thê thảm, gió thổi âm u rờn rợn, mùi hôi thối của xác chết từng cơn ập tới. Hai người không dám ở lại lâu, liền lên ngựa chạy tiếp về hướng Tây.

Đi thêm được mười mấy dặm thì trời đã tối hẳn. Trong lúc bối rối, vừa đói meo vừa sợ sệt, Trương Khang bỗng lên tiếng: “Công tử xem kìa!”

Trương Triều Đường nhìn theo hướng nó chỉ, thấy xa xa có một đốm lửa nhỏ, liền mừng rỡ nói: “Chúng ta tới đó tìm nơi tá túc đi”.

Hai người rời khỏi đường cái, đi về hướng ngọn lửa. Đường đi càng lúc càng hẹp. Trương Triều Đường bỗng nói: “Nếu đó là sào huyệt của bọn cướp, há chẳng phải chúng ta tự chuốc lấy cái chết?”.

Trương Khang kinh hoảng nhảy dựng lên, vội nói: “Thế thì đừng đi nữa!”.

Trương Triều Đường thấy mây đen kéo đến, hình như trời sắp mưa, bèn nói: “Cứ từ từ, tới đó xem sao đã.”

Hai người xuống ngựa, cột ngựa vào một gốc cây bên vệ đường, nhẹ nhàng đi về hướng có ánh lửa. Gần tới thì thấy đó là hai căn nhà tranh. Trương Triều Đường định đến cửa sổ nhìn vào, đột nhiên có một con chó lớn sủa vang lên, chồm chồm toan phóng tới.

Trương Triều Đường chĩa thanh kiếm ra, con chó kia mới không dám đến gần, nhưng vẫn đứng sủa không ngớt. Từ gian nhà chứa củi phía sau có một bà lão bước ra, tay cầm ngọn đèn dầu, run rẩy cất tiếng hỏi. Trương Triều Đường nói: “Bọn vãn bối là người qua đường, muốn xin tá túc ở quý phủ một đêm.”

Bà lão chần chừ một lát rồi đáp: “Xin mời vào.”

Trương Triều Đường đi vào gian nhà tranh, thấy trong nhà chỉ có một chiếc giường đắp bằng đất, hoàn toàn không có bàn ghế gì cả. Trên giường còn có một ông lão đang nằm, không ngớt ho hắng.

Trương Triều Đường bảo Trương Khang ra tháo cương dắt ngựa tới đây. Nhưng Trương Khang nhớ đến cảnh tượng người chết thê thảm vừa rồi, run rẩy co rúm lại, không dám bước ra ngoài. Ông lão phải gắng gượng xuống giường, cùng đi với nó ra dẫn ngựa về, cột lại bên hè nhà. Bà lão vào trong lấy ra một ít bánh làm bằng bột bắp, rồi đun một ấm nước sôi, mời khách ăn uống.

Trương Triều Đường ráng nuốt xong một miếng bánh bắp rồi hỏi: “Ở thị trấn phía trước có nhiều người bị giết. Đó là bọn thổ phỉ nào vậy?”.

Ông lão thở dài nói: “Thổ phỉ nào ư? Thổ phỉ đâu có tàn ác như vậy? Đó là bọn quan binh!”.

Trương Triều Đường giật mình hỏi: “Quan binh ư? Quan binh sao lại vô pháp vô thiên như vậy, cướp bóc hãm hiếp dân lành? Chẳng lẽ quan tướng chỉ huy không được hay sao?”.

Ông lão cười buồn rồi nói: “Nhất định đây là lần đầu tiểu tướng công ra ngoài, không hiểu thế thái nhân tình gì cả. Chỉ huy tất nhiên là được nhiều, đồ quý được lấy trước, đàn bà đẹp được cưỡng bức trước”.

Trương Triều Đường hỏi: “Thế sao bá tính không tố cáo lên quan phủ?”.

Ông lão đáp: “Tố cáo thì ích gì? Ai dám đi tố cáo thì tám chín phần là mất luôn cả mạng”.

Trương Triều Đường hỏi: “Thế là thế nào?”.

Ông lão đáp: “Dĩ nhiên người làm quan phải tương trợ lẫn nhau. Chẳng những quan huyện lão gia không nhận đơn tố cáo, lại còn đánh cho mấy hèo rồi nhốt lại. Nếu không có tiền để kính biếu thì đừng hòng thoát thân”.

Trương Triều Đường lắc đầu quầy quậy, lại hỏi: “Thế thì quan binh đến vùng núi này để làm gì?”.

Ông lão nói: “Trên danh nghĩa thì chúng đến đây để tiêu diệt thổ phỉ. Thật ra, kẻ cướp trên núi thì mười người có đến tám là bị quan phủ ép cho không còn đường sống, phải đi ăn cướp. Quan binh tới đây không lo bắt cướp mà chỉ lo cướp bóc một phen, rồi giết chết một mớ dân chúng, xách thủ cấp nộp lên mà báo công. Thế là vừa phát tài vừa thăng quan tiến chức”.

Ông lão nghiến răng nghiến lợi, lại ho hắng một chập. Bà lão không ngừng ra hiệu bảo chồng dừng nói, sợ Trương Triều Đường quen biết bọn nhà quan, sẽ gây thêm tai họa cho mình.

Trương Triều Đường nghe xong buồn bã, không ngờ thế cuộc bại hoại đến mức như thế. Chàng nghĩ: “Gia gia từng nói Trung Hoa là xứ văn vật lễ nghĩa, giáo dục bằng vương đạo, dọc đường không lượm của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, người nào cũng giữ tín nghĩa, hòa mục yêu thương lẫn nhau. Hôm nay nhìn thấy thì không phải vậy, thua xa cái nước Bột Nê mang tiếng man di của mình”. Chàng than thở một hồi rồi nằm xuống đất mà ngủ.

Mới mơ màng chợp mắt, đột nhiên ngoài cửa có tiếng chó sủa vang dội. Sau đó có tiếng quát mắng, rồi tiếng đập cửa bình bình. Bà lão bước xuống giường định ra mở cửa, nhưng ông lão nắm tay kéo lại, rồi khẽ bảo Trương Triều Đường: “Tướng công! Tướng công ra sau mà ẩn nấp một lát.”

Trương Triều Đường và Trương Khang ra sau nhà, ngửi thấy mùi rơm mới, đoán rằng đây là kho chứa củi. Hai chủ tớ chui vào trong đống rơm mà trốn. Nghe tiếng lách cách, răng rắc, cửa nhà đã bị đẩy ngã. Có tiếng quát rất thô bạo: “Sao không chịu mở cửa?”.

Chưa có tiếng đáp, đã nghe “bốp”, rõ ràng có người bị tát tai.

Bà lão khúm núm lên tiếng: “Quan sai lão gia! Vợ chồng già chúng tôi tuổi tác hồ đồ, nên không nghe gọi cửa”.

Lại nghe một tiếng “bốp” nữa, rồi tên kia chửi mắng: “Không nghe thì phải ăn đòn! Mau mau giết gà, làm cơm cho ba người ăn.”

Ông lão nói: “Vợ chồng lão sắp chết đói rồi, còn gà vịt gì nữa”.

Nghe một tiếng “bịch”, hình như ông lão đã bị xô ngã nhào xuống đất. Bà lão khóc òa lên. Một giọng khác nói: “Lão Vương, thôi đi! Hôm nay chạy suốt ngày thu thuế, chỉ thu được ba lạng bảy tiền, chẳng ai vui vẻ gì được. Ngươi có đánh lão già này cũng không hả dạ nổi đâu”.

Tên họ Vương kia đáp: “Đối với cái loại này thì không mạnh tay không được. Phải đòi mấy lạng bạc, nếu không đánh què chân lão thì lão đâu có chịu lòi tiền ra?”

Một giọng khàn khàn cất lên: “Bọn nhà quê này thật là nghèo mạt rệp. Trút lu gạo ra, đếm tới đếm lui cũng chỉ có mười mấy hạt gạo; ép thế nào cũng không ra được cái gì đâu. Dù sao thì anh em chúng ta cũng sắp bị quan lớn lão gia chửi mắng là đồ vô dụng rồi…”

Đang nói chuyện rôm rả, đột nhiên con ngựa của Trương Triều Đường hí lên. Bọn công sai kinh ngạc, vội chạy ra ngoài cửa xem xét. Chúng nhìn thấy hai con ngựa, bèn bàn nhau: “Nhất định là người cưỡi ngựa đang tá túc trong nhà. Thế nào cũng kiếm được chút ít!”.

Bọn chúng cả mừng, kéo nhau xông vào nhà trong lục lọi. Trương Triều Đường kinh hãi, vội kéo tay Trương Khang tông cửa sau mà chạy. Hai người chân thấp chân cao chạy loạn xạ trong vùng núi, không thấy ai đuổi theo mới yên tâm. May mà tiền bạc đều giấu trong người Trương Khang hết.

Hai chủ tớ chui vào lùm cây trốn suốt một đêm, đợi trời mờ sáng mới dám ra đường cái. Họ đi bộ được mười mấy dặm, chỉ mong mau mau đến thị trấn để mua ngựa đi tiếp. Trương Khang mỏi chân quá, không ngừng thóa mạ bọn công sai.

Đang thóa mạ đến lúc cao hứng, đột nhiên nó thấy trên một con đường nhỏ có bốn tên công sai bước ra, tay cầm thước sắt xích sắt. Hai tên đi sau có dắt ngựa, đúng là ngựa của hai chủ tớ.

Trương Triều Đường và Trương Khang liếc nhau một cái. Lúc này không tránh né gì được nữa, họ đành giả bộ không nghe không thấy, cứ tiếp tục đi. Bốn tên công sai giương mắt nhìn họ chằm chằm. Một tên mặt tròn cất tiếng hỏi: “Này! Ông bạn đi đâu vậy?”.

Trương Triều Đường nghe giọng nói, nhận ra đây chính là tên họ Vương hôm qua chưa hỏi đã đánh người. Trương Khang bước lên một bước, nói: “Đây là công tử của tiểu nhân, đang tới Quảng Châu để học thi”.

Lão Vương vung tay ra đoạt lấy tay nải đeo trên vai Trương Khang, mở ra thấy đầy vàng bạc. Hắn mừng rỡ la lên: “Công tử cái gì? Nhìn hai người bọn ngươi chắc chắn không phải là người tốt. Vàng bạc này từ đâu mà có? Rõ ràng là của ăn cắp hay lường gạt được. Hay lắm! Bây giờ đã có vật chứng, bọn ngươi hãy theo ta về gặp đại lão gia”.

Hắn thấy hai người này còn trẻ dễ ăn hiếp, toan dọa cho họ hoảng sợ mà bỏ chạy. Nào ngờ Trương Khang nói: “Công tử của ta là đại quan ở nước ngoài, tri phủ đại nhân mà gặp ông ấy cũng phải nói chuyện cho lịch sự. Được! Ông dẫn chúng ta về gặp đại lão gia là hay nhất.” Nó lập tức giật lấy tay nải, đeo lại sau lưng.

Một gã công sai trung niên nghe xong bỗng chau mày, nghĩ bụng: “E rằng vụ này sẽ có hậu hoạn. Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm cho trót. Chi bằng giết luôn hai thằng nhóc này, phát tài trước rồi giải quyết sau”. Hắn đột nhiên rút đao ra chém tới Trương Khang.

Trương Khang hoảng sợ, vội vã rụt đầu lại, lưỡi đao lướt sát qua đỉnh đầu. Nó bước ra ngăn trước mặt Trương Triều Đường, la lớn: “Công tử! Chạy nhanh lên.” Trương Triều Đường quay lưng chạy ngay.

Tên công sai đó xoay tay lại chém thêm một đao nữa. Lần này Trương Khang đã đề phòng, nên nó né mình tránh qua, không bị chém trúng. Hai chủ tớ vắt giò lên cổ mà chạy. Bốn tên công sai cầm khí giới, vừa la hét vừa rượt theo.

Trương Triều Đường vốn là công tử nhà giàu quen sống trong nhung lụa, bây giờ lại hoảng sợ quýu chân, làm sao mà chạy nhanh được? Rõ ràng chàng sắp bị bọn công sai đuổi kịp, bỗng thấy phía trước có một con ngựa chạy nhanh tới. Tên công sai trung niên thấy có người đến, vội vã la lên: “Phản rồi, phản rồi! Bọn cướp này cả gan, dám chống lại quan quân!”.

Mấy tên công sai kia cũng la lớn: “Bắt cướp, bắt cướp!” Chúng vu cáo chủ tớ Trương Triều Đường là trộm cướp, nghĩ bụng: “Giết đi là xong, còn ai dám đến hỏi nữa?”.

Con ngựa phía trước đã chạy tới nơi. Người cưỡi ngựa thấy hai người đang chạy trốn, phía sau có bốn công sai hò hét đuổi theo, tưởng chúng đang bắt cướp thật. Y liền thúc ngựa tới trước mặt chủ tớ Trương Triều Đường, cúi người đưa tay ra, mỗi tay túm lấy một người xách hổng lên khỏi mặt đất.

Bốn tên công sai vừa thở hổn hển vừa chạy tới. Người cưỡi ngựa quăng chủ tớ Trương Triều Đường xuống đất, mỉm cười nói: “Kẻ cướp đã bị bắt rồi!”

Nói xong, y cũng nhảy xuống ngựa. Người này thân hình khôi vĩ, thanh âm vang dội, râu ria đầy mặt, tuổi trạc tứ tuần.

Bốn tên công sai thấy y tay chân nhanh nhẹn, khí hùng lực mạnh, bèn mỉm cười chắp tay đa tạ rồi bước tới dựng hai người Trương Triều Đường đứng dậy.

Người cưỡi ngựa nhìn thấy Trương Triều Đường mặc y phục thư sinh, còn Trương Khang mặc áo xanh đội mũ nhỏ, rõ ràng là một đứa thư đồng. Y thấy hai người này chẳng giống trộm cướp chút nào, bất giác ngẩn ra.

Trương Khang vội la lớn: “Xin anh hùng cứu mạng! Chúng muốn mưu hại bọn tiểu nhân”.

Người kia quát hỏi: “Các ngươi là ai?”

Trương Khang kêu lên: “Đây là công tử của tiểu nhân, định đi Quảng Châu ứng thí…” Nó chưa nói xong, đã bị một tên công sai dùng tay bịt miệng lại.

Tên công sai trung niên nói với người cưỡi ngựa: “Lão huynh! Huynh đi đâu thì cứ việc đi, đừng nhúng tay vào việc công của chúng ta”.

Người cưỡi ngựa bảo: “Huynh buông tay ra, để người ta nói đã”.

Trương Triều Đường cũng lên tiếng: “Tại hạ là kẻ thư sinh, sức trói gà không chặt, sao làm cường đạo…”

Một tên công sai hét lên: “Còn dám nhiều chuyện!” Hắn vung tay, toan tát vào mặt chàng.

Người cưỡi ngựa liền vẫy roi ra, dùng đầu ngọn roi cuộn lấy cổ tay tên công sai đó, nên cái tát của y không trúng đích. Người cưỡi ngựa bèn hỏi: “Việc này rốt cuộc như thế nào?”

Trương Khang nói: “Công tử của tiểu nhân định đi Quảng Châu để thi tú tài, nhưng gặp phải bốn người này. Chúng nhìn thấy vàng bạc, nảy ý giết người cướp của”.

Nói đến đây, nó quỳ xuống la lên: “Xin anh hùng cứu mạng!”.

Người cưỡi ngựa bèn hỏi bọn công sai: “Chuyện này có thật không?”.

Bọn kia chỉ cười nhạt không đáp. Tên họ Vương đứng ở sau lưng, nhân lúc người kia không chú ý, đột nhiên vung đao lên chém bổ từ trên đầu xuống. Người kia nghe sau gáy có tiếng gió, không cần quay đầu lại, thân hình chỉ hơi nghiêng về bên trái, dùng chân trái xuất chiêu Ô Long Tảo Địa đá quét ngang qua. Phát cước này trúng ngay vào mắt cá chân tên họ Vương, hất hắn văng ra mấy bước.

Ba tên công sai còn lại la lớn lên: “Trùm cướp đã đến rồi!” Lập tức hai tên vung thước sắt, một tên múa dây xích sắt, vây quanh người cưỡi ngựa.

Trương Triều Đường thấy người kia tay không tấc sắt, không khỏi âm thầm lo lắng. Nhưng người kia không hoảng hốt, cứ né trái né phải, binh khí của ba tên công sai không đụng vào y được chút nào.

Tên họ Vương đã bò dậy được, cũng xách đao nhảy vào giáp công, nhưng người kia đột nhiên thét lớn một tiếng. Tên họ Vương giật bắn mình, nhát đao chém xuống lệch đi, bị đối thủ giáng cho một quyền ngay giữa mặt, máu mũi lập tức tuôn ra. Hắn bất giác đưa hai tay lên ôm lấy mặt, đơn đao rơi xuống đất nghe “choảng” một tiếng.

Người kia nhặt lấy đơn đao, lập tức chém ngược ra sau trúng vào tay trái của một tên công sai cầm thước sắt. Y có binh khí trong tay giống như hổ mọc thêm cánh, vung đao sáng lóe như chớp giật. Chỉ chốc lát là tên công sai cầm xích sắt bị trúng một đao vào đùi bên trái, té nhào xuống đất. Tên công sai cuối cùng không dám đánh nữa, vội vắt giò lên cổ mà chạy trốn, đồng bọn sống chết ra sao mặc kệ.

Người kia cười rộ lên ha hả, vứt thanh đao xuống đất rồi tung người nhảy lên lưng ngựa. Trương Triều Đường vội vã bước tới cảm ơn, hỏi han danh tính. Người cưỡi ngựa thấy hai tên công sai nằm dưới đất vừa rên la vừa giương mắt giận dữ nhìn mình, bèn nói: “Chỗ này không nói chuyện được. Chúng ta lên ngựa trước đã”.

Trương Khang dẫn ngựa tới, ba người ba ngựa đi song song với nhau. Trương Triều Đường tự giới thiệu gia thế và danh tính mình. Người kia nói: “Thì ra là Trương công tử. Tại hạ họ Dương, tên Bằng Cử, được bằng hữu giang hồ gọi là Ma Vân Kim Xí, là tiêu đầu của Võ Hội tiêu cục”.

Trương Triều Đường nói: “Hôm nay mà không được các hạ ra tay giải cứu, thì chủ tớ tiểu đệ hai người chắc chắn không toàn mạng”.

Dương Bằng Cử nói: “Tình hình nơi đây loạn lạc, quan quân thổ phỉ khó mà phân biệt, công tử mau mau về nước thì hay hơn. Tại hạ cũng có việc cần đến Quảng Châu. Nếu công tử không thấy phiền hà thì chúng ta có thể cùng đi.”

Trương Triều Đường mừng rỡ cảm tạ liên hồi. Mấy ngày nay chàng hoảng sợ đến loạn cả thần trí, bây giờ được cùng đi với một vị tiêu sư võ công rất khá, lập tức cảm thấy yên lòng.

Ba người đi được hai mươi mấy dặm đường vẫn chưa tìm được quán nào để ăn cơm. Dương Bằng Cử có mang theo lương khô, bèn lấy ra mời hai người ăn. Trương Khang nhặt được một cái hũ sành cũ kỹ, đi lượm ít củi khô, toan nấu nước để uống. Đột nhiên phía sau có người la lên: “Cường đạo đây rồi!”

Trương Khang giật mình kinh hãi, hất đổ cả nước trong hũ sành lên bếp lửa. Dương Bằng Cử quay lại nhìn, thấy tên công sai họ Vương ban nãy đang cưỡi ngựa dẫn theo mười mấy tên lính ào đến.

Dương Bằng Cử vội la lên: “Mau mau lên ngựa!”

Ba người vội vã lên ngựa. Dương Bằng Cử để hai người đi trước, rút cương đao cài bên yên ngựa ra, đi sau hộ vệ. Bọn quân sĩ lớn tiếng la lên: “Bắt cướp!”

Ba người chạy được một đoạn thì bọn công sai đuổi tới gần. Bọn lính bắt đầu bắn tên, Dương Bằng Cử phải múa đao cản trở. Y thấy phía trước có ngã ba đường, vội kêu lên: “Đi theo đường nhỏ!”

Trương Triều Đường giục ngựa chạy vào con đường nhỏ, Trương Khang và Dương Bằng Cử chạy theo sau. Bọn lính vẫn đuổi theo, không chịu tụt lại chút nào. Tên công sai họ Vương hét lớn: “Cố đuổi theo mà bắt! Bắt được tên cướp này, rồi chúng ta chia nhau tiền bạc của nó.”

Dương Bằng Cử đắn đo một chút rồi dứt khoát thắng ngựa, quay đầu lại, vung đao hét lớn một tiếng. Tên họ Vương hoảng sợ lùi lại, còn bọn quan binh đều nhảy xổ tới. Dương Bằng Cử địch không nổi số đông, hỗn chiến một lúc thì trên đùi trúng một mũi thương. Tuy vết thương không nặng, nhưng y không dám ham chiến, vội kẹp chặt hai chân, giật cương cho ngựa chạy gấp về phía trước. Y múa đao chém rớt cánh tay trái của một tên lính, bọn kia kinh hãi lùi lại phía sau.

Dương Bằng Cử cho ngựa chạy men theo con đường nhỏ. Bọn lính thấy y bỏ chạy, lại hô hoán rượt theo. Chỉ chốc lát Dương Bằng Cử đã đuổi kịp hai chủ tớ họ Trương. May mà con đường rất hẹp, bọn lính lại khiếp oai Dương Bằng Cử nên không dám đuổi quá gần.

Ba người giục ngựa chạy một hồi. Đường núi vòng vèo khúc khuỷu, tiếng la hét của bọn lính vẫn nghe rất rõ ràng, nhưng người thì không thấy. Đang chạy nhanh, bỗng phía trước xuất hiện ba con đường nhỏ. Dương Bằng Cử khẽ quát: “Xuống ngựa!” Ba người liền dắt ngựa trốn vào trong rừng cây.

Trong chốc lát bọn lính đã đuổi tới nơi. Tên họ Vương chần chừ một chút rồi dẫn cả đám chạy theo một con đường rẽ. Dương Bằng Cử nói: “Chúng đuổi một lát mà không thấy, nhất định sẽ quay trở lại. Chúng ta phải nhanh chóng đi thôi.”

Y vừa nói vừa xé ống tay áo buộc vết thương trên đùi lại. Ba người đi theo một con đường rẽ khác. Chẳng bao lâu, lại nghe tiếng binh sĩ đuổi theo phía sau.

Dương Bằng Cử thầm kêu khổ, bỗng thấy trước mặt có ba gian nhà ngói, lại có một người nông phu đang cuốc đất. Y nhảy xuống ngựa, chạy tới cất tiếng gọi: “Lão huynh! Phía sau có quan binh muốn hại bọn ta, phiền lão huynh tìm chỗ cho bọn ta trốn nhờ một chút.”

Người nông phu vẫn tiếp tục cuốc đất, như không nghe thấy gì. Trương Triều Đường cũng xuống ngựa năn nỉ. Lúc này nông phu mới ngẩng đầu lên, nhìn dò xét họ một lát.

Từ lùm cây phía trước bỗng vọng ra tiếng chân trâu đạp mạnh, rồi một chú mục đồng cỡi trâu tiến ra ngoài. Chú bé này khoảng chừng mười tuổi, dùng chỉ đỏ thắt tóc thành một cái bím nhỏ trên đỉnh đầu, da mặt hơi ngăm đen, miệng mỉm cười, cặp mắt to rất có thần khí. Người nông phu bảo chú mục đồng: “Ngươi dắt mấy con ngựa này lên núi thả cho ăn cỏ, chờ tối hãy trở về.”

Chú mục đồng nhìn ba người Trương Triều Đường một cái, vâng dạ rồi lập tức dẫn ba con ngựa lên núi.

Tuy không biết người nông phu có dụng ý gì, nhưng Dương Bằng Cử cảm thấy trong lời nói và thần sắc của y tỏa ra uy thế, nên không lên tiếng cản trở chú mục đồng.

Lúc này tiếng bọn lính đuổi theo đã rất gần. Trương Triều Đường vội vã hỏi: “Làm sao đây?”

Người nông phu bảo: “Theo ta!” Rồi y dẫn ba người vào nhà. Trong phòng khách cũng có bàn ghế gỗ, trên tường cũng treo áo rơm và lưỡi cày, nhưng thu dọn rất chỉnh tề, không giống nhà nông bình thường.

Người nông phu đi thẳng ra phía sau nhà, ba người cứ việc đi theo. Qua khỏi sân trong, đến một căn phòng nhỏ, người nông phu vén màn lên, để lộ ra một bức tường. Y đưa tay đẩy lên tường, bỗng có một tảng đá lớn xoay vào bên trong, lộ ra một cái lỗ. Người nông phu bảo: “Vào trong ấy đi!”

Ba người vào trong, thì ra đây là một sơn động rất rộng rãi. Gian nhà này xây tựa vào vách núi ngay trước sơn động, che cửa động lại. Nếu không tháo dỡ cả gian nhà đi thì không ai đoán được bên trong có nơi ẩn náu tốt như vậy.

Ba người trốn vào xong, người nông phu bèn đóng cánh cửa bí mật lại, rồi ra ngoài tiếp tục cuốc đất. Chỉ chốc lát tên công sai họ Vương đã dẫn quân sĩ đuổi đến. Hắn lớn tiếng quát hỏi: “Này! Có thấy ba người cưỡi ngựa đi qua đây không?”

Người nông phu chỉ vào con đường nhỏ rồi nói: “Qua từ lâu rồi.”

Bọn công sai và quân sĩ rượt theo bảy tám dặm vẫn không thấy dấu vết gì của ba người Trương Triều Đường, đành quay ngựa trở lại hỏi nữa. Người nông phu giả vờ ngu ngốc, ấp úng mãi chẳng nói gì. Một tên lính cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Hỏi thằng khùng này có ích gì đâu? Đi thôi!” Rồi cả bọn rẽ qua một con đường khác.

Trương Triều Đường, Trương Khang, Dương Bằng Cử ba người trốn trong sơn động, chỉ lờ mờ nghe thấy tiếng vó ngựa chạy tới chạy lui. Lát sau không nghe thấy gì nữa, nhưng cũng không thấy người nông phu quay lại mở cửa. Dương Bằng Cử bắt đầu lo lắng, ra sức kéo cửa, kéo hơn nửa ngày mà không thấy động đậy gì.

Ba người chỉ còn biết ngồi bệt dưới đất nghỉ ngơi. Vết thương của Dương Bằng Cử bắt đầu đau nhức, y không ngừng buông lời thóa mạ bọn công sai và quân lính.

Không biết sau bao lâu, cánh cửa đá mới kêu kèn kẹt rồi mở ra, chút ánh sáng hắt vào trong. Người nông phu cầm nến tới gọi: “Mời ra ngoài ăn cơm!”

Dương Bằng Cử nhảy ra trước, chủ tớ họ Trương lập tức theo sau. Ba người ra đến phòng khách, thấy trên bàn gỗ đã bày sẵn hai đĩa rau xanh, đậu hũ kho, hai con gà mái luộc và cơm nóng hổi. Cả ba thầm mừng trong bụng.

Ngoài người nông phu và chú mục đồng đã gặp ban ngày, còn có ba người khác cũng ăn mặc theo kiểu nhà nông. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử chắp tay đa tạ, tự giới thiệu danh tính, rồi xin hỏi danh tính đối phương.

Một nông phu khoảng bốn mươi tuổi, khuôn mặt gầy guộc lên tiếng: “Tại hạ họ Ưng.” Y chỉ người nông phu đã dẫn họ chạy trốn ban chiều, giới thiệu: “Vị này họ Chu.” Còn một người cao ốm tự xưng họ Nghê, một người mập lùn mang họ La.

Trương Triều Đường nói: “Tại hạ cứ tưởng các vị là người một nhà, thì ra đều khác họ cả”.

Họ Ưng đáp: “Bọn tại hạ là bạn thân”.

Trương Triều Đường thấy họ ít nói, thần sắc lỗi lạc, cử chỉ đoan chính trang nghiêm, không giống những người nông phu bình thường. Người họ Chu và họ Nghê thì khí thế oai dũng, người họ Ưng thì trông cao nhã như một nhân sĩ bụng đầy kinh sách, lại nói thổ âm vùng phía Bắc. Trương Triều Đường hỏi thêm mấy câu, nhưng người họ Ưng cứ ừ hử không đáp.

Ăn cơm xong, người họ Ưng mới hỏi tại sao họ bị quan binh đuổi bắt, Trương Triều Đường bèn kể lại đầu đuôi tỉ mỉ. Chàng có khiếu nói chuyện, diễn tả những thảm cảnh dọc đường nhìn thấy, rồi nhắc đến tình hình bọn công sai hung ác bức hiếp dân lành, ép người lương thiện phải đi làm cướp. Chàng nói mỗi lúc một hùng hồn, người họ Nghê nghe mà nổi lòng phẫn hận. Y vỗ mạnh lên bàn một cái, mày râu dựng ngược hẳn lên, há miệng toan thóa mạ. Người họ Ưng phải liếc mắt một cái, y mới im lặng không nói.

Trương Triều Đường lại kể chuyện Dương Bằng Cử ra tay cứu mình, khen ngợi một phen. Dương Bằng Cử đắc ý bèn lên tiếng: “Chuyện nhỏ xíu này không đáng nhắc đến. Năm xưa ở Giang Tây một mình ta giết chết Phan Dương Tam Hùng, chuyện đó mới thật là nở mày nở mặt”.

Y oang oang kể lại lúc đó tình thế nguy cấp, bản thân mình anh dũng, lăn vào chỗ chết để tìm đường thắng thế nào, nói đến phun cả nước bọt ra tứ phía. Mỗi lúc một thêm cao hứng, y thêm mắm dặm muối, diễn tả mình anh hùng cái thế, thiên hạ vô địch, bôn ba giang hồ đã mười mấy năm trời.

Những chuyện giang hồ mà y kể thì Trương Triều Đường chưa từng nghe, nên chàng cảm thấy rất thú vị. Trương Khang còn tính trẻ con, nghe đến há hốc mồm lại còn liên tiếp hỏi thêm.

Về sau Dương Bằng Cử nhắc đến võ nghệ, vừa kể vừa huơ tay múa chân để minh họa. Dường như mấy người nông phu này không khoái nghe chuyện đó, nên người mập họ La bỗng ngáp một cái rồi nói: “Muộn rồi, ngủ thôi!”.

Chú mục đồng bước ra đóng chặt cửa lại. Người họ Chu xách một tảng đá lớn trong góc nhà ra chèn vào sau cửa. Dương Bằng Cử nhìn thấy, bất giác thở ra một hơi, thầm nghĩ: “Người này mạnh quá! Tảng đá này tối thiểu cũng phải ba trăm cân mà y xách dễ như không, chẳng phải ra sức gì cả”.

Người họ Ưng thấy y đổi sắc mặt, bèn nói: “Vùng núi này có rất nhiều cọp, có khi nửa đêm nhảy vào nhà người ta. Vì thế phải dùng đá tảng chèn lại cửa nẻo đàng hoàng”.

Đêm hôm đó, Trương Triều Đường, Dương Bằng Cử và Trương Khang ba người ngủ chung một phòng. Trương Khang vừa đặt đầu xuống gối đã lập tức ngủ say. Trương Triều Đường nghĩ đến chuyến đi này phong ba vạn dặm, nhiều phen sợ hãi, không biết từ đây đến Quảng Châu còn gặp hung hiểm gì không. Chàng cứ suy nghĩ mãi, khó mà ngủ được.

Hồi lâu, bỗng nghe thấy tiếng đọc sách dõng dạc, đúng là giọng của chú bé mục đồng kia.

Trương Triều Đường chú ý lắng nghe, hình như trong sách có nhắc đến chuyện dàn trận đánh nhau. Chàng không nén nổi hiếu kỳ, bước xuống giường, mặc áo đi lên nhà trước.

Trên bàn thắp đèn sáng trưng, chú bé mục đồng đang ngồi học. Họ Ưng ngồi bên dạy dỗ, thấy chàng bước ra chỉ gật đầu chào một cái, rồi lại cúi đầu xuống, chỉ vào những dòng chữ trong sách để giảng giải.

Trương Triều Đường tới gần, thấy trên bàn còn mấy cuốn sách. Chàng cầm lên xem, thấy trên bìa sách có ghi bốn chữ Kỳ Hiệu Tân Thư. Thì ra đây là binh pháp do tướng quân Thích Kế Quan của bản triều soạn ra. Ở Bột Nê, Trương Triều Đường đã từng nghe tiếng Thích Kế Quan, biết ông là một danh tướng đã phá tan Qua Khấu, sau này trấn giữ tại Quế Châu, cường địch không dám xâm phạm biên cương nữa. Thích Kế Quan dụng binh như thần, oai chấn một vùng duyên hải.

Trương Triều Đường hỏi người họ Ưng: “Quý vị chắc chắn không phải thường nhân, không hiểu sao lại ẩn cư ở nơi này. Có thể cho tại hạ biết hay không?”.

Người họ Ưng đáp: “Bọn ta chỉ là thảo dân, trồng trọt săn bắn để kiếm ăn, đọc sách để biết chữ. Đó là chuyện hết sức bình thường, sao công tử lại thấy lạ? Chẳng lẽ chỉ có con cái nhà quan mới được đọc sách hay sao?”.

Trương Triều Đường thầm nghĩ: “Thì ra ở Trung thổ, ngay cả những nông dân tầm thường cũng có học vấn đến thế này. Quả nhiên là nơi văn vật, bọn man di chúng ta không thể nào sánh được”. Chàng thán phục trong lòng, xin lỗi vì đã quấy rầy, rồi trở về phòng mà ngủ.

Trong lúc mơ hồ, đột nhiên chàng cảm thấy có người khẽ kéo mình. Chàng tỉnh dậy, nghe Dương Bằng Cử nói rất nhỏ: “E rằng đây là sào huyệt bọn cướp. Chúng ta phải đi ngay!”

Trương Triều Đường giật mình một cái, khẽ hỏi: “Sao rồi?”.

Dương Bằng Cử đưa nến soi vào một cái rương gỗ, bảo: “Công tử nhìn xem.”

Trương Triều Đường thấy trong rương đầy kim ngân châu báu. Dĩ nhiên chàng kinh hãi, nhưng không dám lên tiếng.

Dương Bằng Cử đưa cây nến cho chàng cầm, nhấc cái rương ra một bên, phía dưới còn có một cái rương gỗ nữa. Y đưa tay toan bẻ cái khóa đồng.

Trương Triều Đường bảo: “Đừng tò mò chuyện bí mật riêng tư của người khác, e rằng gây họa.”

Dương Bằng Cử nói: “Không khí ở đây có mùi kỳ lạ.”

Trương Triều Đường hỏi: “Kỳ lạ chỗ nào?”

Dương Bằng Cử đáp: “Tanh mùi máu”.

Trương Triều Đường không dám nói gì nữa.

Dương Bằng Cử nhẹ nhàng vặn gãy ổ khóa, ở phòng trước vẫn hoàn toàn không có tiếng động gì. Y liền mở nắp rương ra, đưa nến đến gần soi sáng. Hai người lập tức hoảng sợ đến trợn mắt lên, đứng ngẩn ra một lúc.

Trong rương đựng hai cái thủ cấp. Một cái đã chặt lâu rồi, máu khô đen kịt lại, nhưng vẫn chưa thối rữa. Còn cái kia thì mới hơn nhiều. Rõ ràng hai cái thủ cấp này đã ướp thuốc đàng hoàng, nên râu mày vẫn còn đầy đủ, mặt mũi nhìn rất rõ ràng. Dương Bằng Cử đã bôn ba giang hồ khá lâu, nhưng cũng không khỏi tay chân bủn rủn. Trương Triều Đường lại càng không nói được lời nào.

Dương Bằng Cử khẽ đặt rương lại chỗ cũ, rồi nói: “Mau mau chuồn thôi!”.

Y đến giường lắc Trương Khang dậy. Ba người bò rạp xuống sàn, nhẹ nhàng lần ra trước cửa. Dương Bằng Cử sờ được tảng đá lớn, nhưng vận hết sức cũng không sao nhấc lên được. Y thầm kêu khổ, vừa cố gắng nhích được một chút thì bỗng có ánh lửa lóe lên, người họ Chu cầm nến bước ra.

Dương Bằng Cử nắm chặt chuôi đao, biết rõ mình không địch nổi, nhưng hoàn cảnh thế này chỉ còn cách nhắm mắt đánh liều một trận. Nào ngờ họ Chu chỉ hỏi: “Muốn đi rồi ư?”.

Rồi y dùng một tay xách tảng đá lớn kéo qua một bên. Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường không dám nhiều lời, chỉ cúi đầu ấp úng cảm ơn, rồi lên ngựa chạy về hướng Tây.

Chạy được mười mấy dặm, ba người cứ tưởng đã thoát nguy. Nhưng họ chưa kịp yên tâm, thì đột nhiên phía sau có tiếng vó ngựa vang lên, rồi có người giận dữ quát: “Này, dừng lại! Dừng lại!”.

Ba người không dám dừng lại, vội vàng giục ngựa chạy nhanh hơn. Đột nhiên có bóng người thấp thoáng, một người lướt qua bên mình ngựa, chặn ở trước mặt. Y đưa tay ra cản, con ngựa của Dương Bằng Cử giật mình hí dài một tiếng, dựng hai vó trước lên.

Dương Bằng Cử vung đao chém tới. Người kia không dùng binh khí, né chiêu đao rồi đột nhiên nhảy lên, vung quyền trái đánh vào huyệt Thái dương bên phải của Dương Bằng Cử. Dương Bằng Cử dựng thẳng đao lên, ra chiêu Hoành Giá Kim Ngưỡng chém vào cánh tay đối thủ. Nào ngờ đó chỉ là hư chiêu, thoi quyền giữa đường bỗng xòe ra thành chưởng. Người kia chưa rơi xuống đất đã túm được cổ tay Dương Bằng Cử, quát lên một tiếng: “Xuống!”

Y lôi họ Dương từ trên ngựa xuống, tiện tay đoạt lấy thanh cương đao, quăng xuống đất. Lúc này trời đã gần sáng, trong khoảng mờ mờ có thể nhận ra đó là người nông phu họ Chu.

Họ Chu lạnh lùng bảo: “Quay về!” Y quay lưng lại, cưỡi ngựa đi trước, không cần nhìn xem ba người kia có đi theo hay không.

Dương Bằng Cử biết mình có phản kháng cũng vô ích, muốn trốn cũng không được, đành ngoan ngoãn lên ngựa chạy theo.

Bốn người dắt nhau về, đến cửa đã thấy phòng khách đèn đuốc sáng trưng. Chú bé mục đồng và ba người nông phu còn lại đang ngồi chờ đợi, thần sắc rất trang nghiêm, không ai mở miệng nói gì.

Dương Bằng Cử biết mình không tránh khỏi cái chết, đành ngang tàng nói: “Hôm nay Dương đại gia này đã lọt vào tay các ngươi. Muốn giết thì giết, không cần phải nói nhiều”.

Người họ Chu lên tiếng hỏi: “Ưng đại ca! Chúng ta phải làm sao đây?”.

Người họ Ưng im lặng không đáp. Người họ Nghê nói: “Chủ tớ Trương công tử thì thả đi, còn tên họ Dương thì giết”.

Người họ Ưng bèn nói: “Tên họ Dương này làm nghề bảo tiêu, tức là chó săn của bọn nhà giàu, không phải hảo nhân. Nhưng hôm qua hắn có một phen nghĩa khí, dũng cảm làm việc tốt, thôi thì tha mạng một lần. La huynh đệ, phế cặp chiêu bài của hắn đi”.

Người họ La đứng dậy. Sắc mặt Dương Bằng Cử thay đổi trông rất thảm hại.

Trương Triều Đường không hiểu tiếng lóng giang hồ “phế chiêu bài” có nghĩa là “móc mắt”; nhưng nhìn thần sắc mọi người cũng biết là chuyện tổn hại đến Dương Bằng Cử. Chàng định mở miệng cầu xin, nhưng chú bé mục đồng đã nói trước: “Ưng thúc thúc! Cháu thấy người này cũng rất đáng thương, hay là tha hắn một lần đi”.

Người họ Ưng nhìn mọi người một cái, ngập ngừng chốc lát rồi bảo Dương Bằng Cử: “Có người xin tha cho ngươi, thì cũng được thôi. Nhưng ngươi phải thề là mọi việc hôm nay nhìn thấy, nhất định không tiết lộ ra ngoài một tiếng.”

Dương Bằng Cử cả mừng, lập tức đáp ngay: “Việc tối hôm nay, thật sự tại hạ không cố ý nhìn trộm, nhưng đã lỡ thấy rồi. Tiếc là Dương mỗ có mắt không tròng, không biết các vị là anh hùng hảo hán. Về chuyện của các vị, tại hạ xin thề sẽ thủ khẩu như bình. Nếu sau này phản bội lời thề, xin trời tru đất diệt cho tại hạ chết thê thảm không sao tả xiết”.

Người họ Ưng nói: “Được! Chúng ta tin ngươi là tay hảo hán. Ngươi đi đi”.

Dương Bằng Cử chắp tay, quay người lại định đi. Người họ Nghê đột nhiên đứng bật dậy, lớn tiếng hỏi: “Cứ thế mà đi hay sao?”

Dương Bằng Cử ngẩn ra một chút mới hiểu ý, khổ sở gượng cười rồi nói: “Được! Xin cho tại hạ mượn đao.”

Người họ Chu lấy ở dưới bàn ra một lưỡi đao rất bén, nhẹ nhàng xoay ngược lại, đưa chuôi ra ngoài. Dương Bằng Cử đưa tay đón lấy, bước tới một bước, đặt bàn tay trái lên bàn. Y vung đao xoẹt một tiếng, chặt đứt lìa hai ngón tay của mình rồi mỉm cười nói: “Tại hạ đã không có tài sản lại không có danh tiếng gì, nhưng đã tự làm thì phải tự chịu. Chuyện này hoàn toàn không liên quan gì đến Trương công tử.”

Mọi người thấy máu trên tay y tuôn ra như suối, mà nói chuyện vẫn cứng cỏi, ai cũng thán phục khí phách của y. Người họ Nghê giơ ngón tay cái lên khen ngợi rồi nói: “Hay lắm! Việc hôm nay coi như kết thúc ở đây.” Nói xong, y quay lưng đi vào bên trong, lấy thuốc trị thương và vải trắng ra, cầm máu rồi buộc lại vết thương cho họ Dương.

Dương Bằng Cử không muốn ở đây thêm nữa, liền quay lại bảo Trương Triều Đường: “Chúng ta đi thôi!”

Trương Triều Đường thấy mặt y tái xanh tái mét, chắc chắn đang rất đau đớn. Chàng muốn khuyên y ở lại nghỉ ngơi một lát, nhưng không sao nói được.

Người họ Ưng lên tiếng: “Trương công tử đã từ vạn dặm xa xôi đến đây. Chúng ta làm kinh hãi khách phương xa, thật sự áy náy trong lòng. Không ai muốn công tử về nước kể lại người Trung thổ chúng ta toàn là bọn cùng hung cực ác. Dương Bằng Cử nói vậy là khá thông minh, còn ta cũng tặng công tử một món quà.”

Nói xong, y lấy trong bọc ra một vật, đưa cho Trương Triều Đường.

Trương Triều Đường nhận lấy nhìn kỹ, thấy đó là một cái thẻ tre. Mặt trước có dùng bút lửa vẽ chìm hai chữ Sơn Tông, còn mặt sau thì chạm khắc một ít hoa văn nhìn không ra hình gì.

Người họ Ưng nói: “Hiện nay thiên hạ đang đại loạn. Công tử là một thư sinh yếu đuối, không nên đi lại bên ngoài. Ta khuyên công tử nên mau mau về nước. Mấy ngày sắp tới, nếu dọc đường gặp phải chuyện gì, công tử đưa cái thẻ tre này ra không chừng sẽ có ích. Vài năm nữa… Ôi, có thể mười năm, hai mươi năm cũng không chừng, khi nào công tử nghe thấy Trung thổ đã thái bình thì hãy quay trở lại. Thời thế này mà theo đuổi công danh cũng vô ích, lại còn thêm họa”.

Trương Triều Đường xem kỹ cái thẻ tre một lần nữa, vẫn không thấy chỗ nào kỳ lạ hay đặc biệt. Chàng không tin nó có pháp lực thần bí gì, cho rằng đó chỉ là một vật lấy hên, bèn thuận miệng cảm ơn rồi giao cho Trương Khang cất vào trong bọc quần áo.

Ba người từ biệt ra ngoài, lên ngựa chầm chậm mà đi. Quay về tới chỗ vừa rồi giao thủ với người họ Chu, Dương Bằng Cử thấy thanh cương đao vẫn còn dưới đất, phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Y nhặt lên, nghĩ bụng: “Ta tự khoe mình là anh hùng tài giỏi, nhưng khi lọt vào tay người ta thì thật không đáng một phát đánh rắm”.

***

Trời sáng thì đến một thị trấn nhỏ. Trương Triều Đường tìm khách điếm cho Dương Bằng Cử nghỉ ngơi một ngày một đêm, sáng hôm sau mới tiếp tục lên đường.

Giữa trưa họ ghé lại ăn cơm, rồi lại lên ngựa đi tiếp hai mươi dặm nữa. Đột nhiên nghe tiếng vó ngựa vang lên, một con ngựa chạy từ phía trước tới. Lúc đi ngang qua, kỵ sĩ kia nhìn họ một lượt rồi chạy tiếp.

Đi được năm sáu dặm, tiếng vó ngựa lại vang lên ở phía sau, thì ra kỵ sĩ vừa rồi quay lại đuổi theo. Lần này Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường đều nhìn thấy rõ ràng, kỵ sĩ đó đầu quấn khăn xanh, giữa cặp lông mày lộ ra sắc thái nửa anh hùng nửa ngang ngạnh. Y lại qua mặt ba người, rồi giục ngựa chạy nhanh về phía trước.

Trương Triều Đường nói: “Người này lạ thật! Sao y đi rồi lại quay trở về?”

Dương Bằng Cử nói: “Trương công tử! Lát nữa công tử cứ tự mình chạy trốn, không cần phải đợi tại hạ.”

Trương Triều Đường kinh ngạc hỏi: “Lại có kẻ cướp ư?”.

Dương Bằng Cử nói: “Trong vòng năm dặm nữa, chắc chắn có chuyện xảy ra. Nhưng bây giờ chúng ta không còn đường lùi, đành phải đi tiếp.”

Ba người lo lắng không yên, từ từ đi về phía trước. Chỉ mới được khoảng hai dặm bỗng nghe có tiếng veo véo, một mũi tên hiệu bắn lên trời. Lập tức có ba người cưỡi ba con ngựa từ vệ đường tiến ra, đứng chặn giữa đường.

Dương Bằng Cử thúc ngựa tiến lên, chắp tay nói: “Tại hạ họ Dương, ở Võ Hội tiêu cục, hôm nay đi đường qua quý địa phương, nhưng không phải đi bảo tiêu nên không trình thiếp để bái phỏng đương gia của các vị. Trương tướng công này là nhân sĩ ở ngoại quốc, xin các vị rộng lượng một phen để bọn tại hạ lên đường đi tiếp.”

Trên giang hồ Dương Bằng Cử hơi có danh tiếng, võ nghệ cũng không tệ lắm. Nhưng y vừa phải tự chặt ngón tay, nghĩ đến bằng hữu vùng này chắc phần lớn là đồng bọn của mấy người họ Ưng, họ Chu vừa gặp, nên mới dùng lời cung kính để mong giúp đỡ.

Trong ba người chặn đường, có một người tay không. Y mỉm cười nói: “Bọn ta đang túng tiền, muốn mượn một trăm lạng bạc.”

Y nói bằng thổ ngữ Nam Chiết Giang. Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường nghe chẳng hiểu gì, ngẩn ra đưa mắt nhìn nhau.

Người khi nãy chạy tới chạy lui thăm dò, bây giờ bỗng cất tiếng quát: “Muốn mượn một trăm lạng bạc! Còn chưa chịu hiểu ư?”

Dương Bằng Cử thấy họ vô lễ như thế, giận dữ không kìm được, quát trả: “Muốn mượn bạc thì dựa vào bản lãnh mà mượn!”.

Người nói thổ ngữ Nam Chiết Giang lên tiếng: “Được! Để xem bản lãnh của ta có xứng đáng mượn một trăm lạng bạc hay không!”

Y nói xong, lấy cây cung đeo sau lưng xuống, lắp đạn bắn veo véo ba viên lên trời. Khi ba viên đạn này lên hết đà bắt đầu rơi xuống, y bắn tiếp ba phát đạn liên châu nữa. Sáu viên đạn chia làm ba cặp chạm nhau vỡ vụn giữa trời, thành một đám bụi rơi xuống.

Dương Bằng Cử nhìn tuyệt kỹ thần đạn này mà ngẩn người ra. Đột nhiên y thấy cổ tay đau nhói, đơn đao rơi xuống đất nghe xoảng một tiếng. Thì ra cổ tay y đã bị bắn trúng rồi.

Người thứ ba vẫn chưa lên tiếng, xách nhuyễn tiên giật cương ngựa chạy tới, ra chiêu Khô Đằng Triền Thọ quất vào giữa lưng Dương Bằng Cử. Họ Dương phải thúc ngựa chạy ra tránh né. Người kia thừa thế dùng đầu nhuyễn tiên cuộn lấy cây đơn đao ở dưới đất, giật lên nắm trong tay, buông tiếng cười dài rồi giục ngựa chồm lên. Khi chạy qua cạnh Trương Khang, y lướt cương đao hai nhát, bạch quang vừa nháy động là hai sợi dây đeo cái bao sau lưng đã bị cắt đứt.

Người kia không thèm dừng lại, cứ thúc ngựa chạy tới trước. Cái bao vải đang từ trên lưng Trương Khang tuột xuống, người bắn đạn đã kịp thời chạy tới, vươn cánh tay ra. Cái bao chưa kịp rơi tới đất, y đã cúi người xách lên, nhấc thử xem nặng nhẹ ra sao rồi mỉm cười nói: “Cảm ơn nhé!”

Ba người đó phi ngựa quay trở lại, chớp nhoáng đã không thấy bóng dáng đâu nữa.

Dương Bằng Cử chỉ biết thở dài, không nói được tiếng nào. Trương Khang lo lắng hỏi: “Tiền sinh hoạt đi lại của chúng ta đều ở trong cái bao đó. Như vậy… như vậy… làm sao về nhà được?”.

Dương Bằng Cử nói: “Còn giữ được mạng, coi như không tệ lắm. Bây giờ chúng ta cứ đi đã, sau này hãy tính”.

Ba người cúi đầu ủ rũ đi tiếp. Mới chừng ăn được bữa cơm, đột nhiên nghe phía sau có tiếng vó ngựa chạy tới, quay lại nhìn thì thấy ba người kia quay trở lại. Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường đều lo lắng thở dài, nghĩ bụng: “Cướp hết vàng bạc rồi thì thôi chứ! Chẳng lẽ muốn lấy mạng nữa hay sao?”

Ba người kia phi ngựa đến trước mặt, rồi cùng ấn tay vào yên nhảy xuống ngựa. Người đầu tiên chắp tay nói: “Thì ra người phe mình cả, đắc tội, đắc tội! Bọn tại hạ không biết nên mới mạo phạm, xin các vị đừng trách”.

Một người khác hai tay nâng cái bao đưa cho Trương Khang. Trương Khang không dám nhận, nhìn qua chủ nhân một cái. Trương Triều Đường khẽ gật đầu, Trương Khang mới đón lấy.

Người đầu tiên lại nói tiếp: “Vừa rồi nghe nói, một người là Dương tiêu đầu, một người là Trương công tử, đều là tên họ thật phải không?”.

Trương Triều Đường đáp: “Đúng vậy.” Sau đó chàng nói rõ tên tuổi và lai lịch của mình.

Ba người kia nghe xong đều ra vẻ kinh ngạc, nhìn nhau một cái. Người đầu tiên nói: “Tại hạ họ Hoàng, còn hai người này là anh em ruột họ Lưu. Trương công tử! Nếu công tử đưa cái thẻ tre này ra từ sớm thì hay biết mấy, bọn tại hạ tránh được cái tội vô lễ”.

Trương Triều Đường nghe câu này mới biết cái thẻ tre kia có ích. Trong lúc tâm thần bất định, chàng không biết phải nói gì.

Người họ Hoàng lại nói: “Nhất định là các vị đang lên đỉnh Thánh Phong rồi. Chúng ta cùng đi nhé!”.

Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử đều đoán họ là phe đảng của một bang hội nào đó rất có thanh thế, tránh xa còn sợ không kịp, dĩ nhiên không dám đi chung để rước họa vào thân.

Trương Triều Đường nói: “Tại hạ và vị bằng hữu này đang phải đi gấp đến Quảng Châu, chắc không lên đỉnh Thánh Phong được”.

Người họ Hoàng lộ vẻ hơi giận, nói: “Ba ngày nữa đã là mười sáu tháng tám rồi. Bọn tại hạ từ ngàn dặm xa xôi cũng cố đến Việt Đông này cho kịp, còn các vị đã đến đây rồi sao không lên núi?”.

Lên núi để làm gì? Mười sáu tháng tám là ngày gì? Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử hoàn toàn không biết, nhưng không dám nhận là mình không biết. Trương Triều Đường còn bướng bỉnh nói: “Gia đình tiểu đệ đang có việc gấp, phải lập tức quay về”.

Người họ Hoàng giận dữ nói: “Lên núi không mất tới hai ngày. Ngày kỵ của Đốc sư, các vị đi ngang núi mà không lên bái, sao có thể gọi là bằng hữu Sơn Tông?”.

Trương Triều Đường càng nghe càng mù tịt, không biết ngày kỵ của vị Đốc sư nào, và Sơn Tông là cái gì. Dương Bằng Cử có kiến thức hơn, hiểu rằng phen này đỉnh Thánh Phong không thể không lên, dù gặp nguy hiểm cũng phải thử thời vận một phen. Hơn nữa, nhìn thần sắc và nghe giọng điệu của mấy người này cũng không thấy ác ý, nên y bèn nói: “Ba vị đã có hảo ý như vậy, tại hạ cùng Trương công tử nhất định phải lên núi một phen”.

Nói xong, y nháy mắt với Trương Triều Đường một cái, tỏ ý không nên từ chối.

Ba người kia đều tỏ vẻ vui mừng. Người họ Hoàng mỉm cười nói: “Phải như vậy mới đúng. Tại hạ cũng nghĩ, các vị không phải loại người không có nghĩa khí”.

Sáu người kết bạn đi cùng, suốt dọc đường ăn nghỉ ở khách sạn đều do người họ Hoàng lo liệu. Y chỉ cần đưa tay ra hiệu, nói mấy câu ám ngữ là không tiệm cơm hay khách sạn nào dám lấy tiền, lại còn tiếp đãi mười phần lịch sự.

Đi được hai ngày, phía trước đã xuất hiện một ngọn núi cao ngất chạm tới mây. Người họ Hoàng nói: “Đây chính là đỉnh Thánh Phong rồi”.

Dọc đường họ gặp rất nhiều người, phần lớn đều hướng tới đỉnh Thánh Phong. Mập ốm cao lùn loại nào cũng có, nhưng nhìn thần sắc cử chỉ đều là người có võ công. Rất nhiều người quen biết họ Hoàng và anh em họ Lưu, khi gặp mặt đều chắp tay chào hỏi.

Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử đã khôn ra, cố gắng không thám thính bí mật riêng tư của người ta nữa, mỗi khi thấy họ nói chuyện lại đứng xa ra. Dương Bằng Cử nghe những người này chào hỏi nhau bằng đủ thứ thổ âm, Nam có Bắc có, Điêu Long có Hà Sóc có, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Thiểm Tây đều có cả. Nhìn cách ăn mặc cũng biết họ từ phương xa tới, người nào cũng dày dạn phong trần. Hai người Trương và Dương đều cảm thấy kỳ lạ, cứ phập phồng lo sợ.

Dương Bằng Cử nghĩ: “Nhất định bọn này đều là cường đạo ở các sơn trại, chắc là muốn tập hợp tạo phản. Mình là lương dân trong sạch mà phải chung đụng với bọn phản tặc này, muốn rời khỏi cũng không được, thật là cực kỳ xúi quẩy”.

Đêm đó, Trương Triều Đường cùng họ nghỉ lại một khách điếm dưới chân ngọn núi Thánh Phong, để sáng sớm hôm sau cùng lên núi. Mọi người đang ăn cơm tối, đột nhiên có một người chạy vào khách điếm la lên: “Tôn tướng công đến rồi!”

Tiếng hô vừa dứt, tám chín phần thực khách trong tiệm đều lập tức đứng dậy, chạy ào ào ra ngoài. Dương Bằng Cử giật tay áo Trương Triều Đường, khẽ bảo: “Ra ngoài xem thử!”

Ra khỏi khách điếm, họ thấy mọi người sắp hàng hai bên, thõng tay đứng nghiêm chỉnh, hình như đang đợi một nhân vật quan trọng nào đó. Lát sau từ phía tây vọng đến tiếng vó ngựa, mọi người đều kiễng chân cao lên để nhìn. Một thư sinh trạc ngoại tứ tuần đang cưỡi ngựa từ từ tiến đến. Y thấy mọi người dàn hai bên đường đón tiếp, bèn thúc ngựa chạy nhanh tới nơi rồi nhảy xuống đi bộ.

Thư sinh đó đi qua chỗ nào cũng gật đầu chào hỏi mọi người. Khi tới trước mặt Trương Triều Đường, thấy chàng cũng ăn mặc ra vẻ thư sinh, y hơi ngạc nhiên, chắp tay lại hỏi: “Xin hỏi các hạ là ai?”

Trương Triều Đường đáp: “Tại hạ họ Trương. Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh các hạ.”

Thư sinh kia đáp: “Tại hạ họ Tôn, tên Trọng Thọ.”

Trương Triều Đường chắp tay nói: “Ngưỡng mộ đã lâu!”

Tôn Trọng Thọ hơi mỉm cười, đi vào trong.

Ăn cơm tối xong, Dương Bằng Cử khẽ bảo Trương Triều Đường: “Người thư sinh họ Tôn này có vẻ rất có quyền thế. Trương công tử nên qua đó nói chuyện một chút, xin ông ấy thả chúng ta đi. Hai vị đều là thư sinh cả, nói chuyện chắc dễ thông cảm hơn”.

Trương Triều Đường cũng cho là phải, bèn bước đến cửa phòng Tôn Trọng Thọ, đằng hắng một tiếng rồi đưa tay gõ cửa. Trong phòng đang có tiếng đọc thơ văn gì đó. Chàng gõ được mấy cái, tiếng đọc sách dừng lại, cửa phòng mở ra. Tôn Trọng Thọ bước ra đón tiếp, lên tiếng: “Khách điếm này tĩnh mịch quá. Được Trương huynh ghé qua nói chuyện, thật là tuyệt diệu”.

Trương Triều Đường chắp tay thi lễ xong bước vào phòng, thấy trên bàn có một quyển vở chép tay đang mở ra. Chàng liếc vào thấy mấy chữ Liêu Đông, Ninh Viễn, Thần, Hoàng thượng… giống như một bản tấu chương.

Trương Triều Đường sợ phạm vào chuyện kiêng kỵ của người khác, nên ngồi xuống không dám nhìn lâu. Tôn Trọng Thọ hỏi về gia thế lai lịch, chàng thật tình nói hết.

Tôn Trọng Thọ nói: “Phen này Trương huynh đến đây thật không đúng lúc. Triều chính Trung thổ đang ở vào thời kỳ tồi tệ, không biết ngày nào mới sáng sủa trở lại. Theo ý tại hạ thì Trương huynh hãy tạm thời trở về Bột Nê là tốt nhất, đợi khi nào Trung thổ có thánh thiên tử trị vì rồi hãy quay lại đây ứng thí”.

Trương Triều Đường vâng dạ, nói mình cũng đang muốn trở về. Sau đó chàng kể đến những việc mình trốn tránh quan sai, Dương Bằng Cử ứng cứu như thế nào, vì sao mà có được cái thẻ tre đó. Chàng hoàn toàn không nhắc đến việc nhìn thấy thủ cấp trong rương.

Tôn Trọng Thọ nói: “Chúng ta gặp nhau ở đây, có thể gọi là có duyên. Ngày mai Trương huynh hãy theo tại hạ lên núi để biết một vụ thiên cổ kỳ oan nơi Trung thổ. Chỉ cần không tiết lộ những gì đã thấy đã nghe với người khác, tại hạ có thể đảm bảo Trương huynh không bị thiệt thòi chi hết.” Trương Triều Đường đa tạ, nhưng không dám hỏi nhiều.

Tôn Trọng Thọ hỏi đến chuyện phong thổ dân tình ở nước Bột Nê. Nghe Trương Triều Đường kể lại những chuyện chưa từng được nghe, y than thở: “Không biết đến lúc nào bá tính ở Trung thổ bọn tại hạ mới được an cư lạc nghiệp, không lo nghèo đói, phước hưởng thái bình như bá tính ở nước Bột Nê!”

Hai người nói chuyện mãi đến canh hai, Trương Triều Đường mới từ biệt trở về phòng. Dương Bằng Cử thức đợi, vô cùng lo lắng. Nghe chàng nói lại lời của Tôn Trọng Thọ, y mới yên tâm.

***

Hôm sau đúng là tết Trung thu. Trương Triều Đường, Dương Bằng Cử và Trương Khang theo đám đông lên núi từ sáng sớm. Đến giờ ăn trưa, ở lưng chừng núi đã có mười mấy người gánh cơm nước thức ăn đợi sẵn, đều là thức ăn chay cả. Mọi người ăn xong, nghỉ ngơi một chút rồi tiếp tục lên núi.

Càng lên cao, dọc đường đều có người canh gác, tra xét rất nghiêm ngặt. Nhưng khi hỏi đến ba người Trương, Dương, Tôn Trọng Thọ chỉ gật đầu một cái là họ không hỏi tiếp nữa. Trương Triều Đường nghĩ thầm trong bụng: “Nguy quá! Nếu đêm qua ta không nói chuyện với ông ấy, hôm nay chết sống không biết thế nào”.

Xế chiều thì đến đỉnh núi, mấy trăm hán tử đã xếp hàng nghênh đón. Trên núi chỉ thưa thớt mấy chục gian nhà. Tòa nhà lớn nhất trông như một ngôi chùa. Những gian nhà xung quanh trông rất bình thường, không hề có trạm gác hay pháo đài phòng vệ, hoàn toàn không giống sơn trại của bọn trộm cướp.

Nhìn khí thế mọi người, Dương Bằng Cử cứ tưởng trên đỉnh núi phải là sơn trại hùng vĩ oai phong, phòng thủ nghiêm ngặt, nào ngờ hoàn toàn không phải, nên thầm kinh ngạc trong lòng. Y đã lăn lộn mười mấy năm trời trên chốn giang hồ, kiến văn khá rộng, nhưng lần này hoàn toàn không hiểu tí gì.

Có một việc lại càng kỳ lạ. Những người này từ vạn dặm xa xôi đến đây tụ họp, nhìn vẻ thân mật rõ ràng đã quen biết từ lâu. Nhưng họ gặp nhau lại không vui vẻ chút nào, cũng không lớn tiếng cười nói. Thần sắc ai cũng đầy vẻ bi tráng, lo âu, phẫn nộ.

Ba người họ Trương, Dương được dẫn vào một căn phòng nhỏ. Chốc lát đã có người đưa cơm đến, bốn đĩa đều là đồ chay cả. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử âm thầm trao đổi, đều không đoán được những người này đang định làm gì. Về vụ thiên cổ kỳ oan mà Tôn Trọng Thọ đã nhắc đến, họ lại càng mù mờ không hiểu.

Sáng hôm sau, Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử thức dậy dùng điểm tâm xong, rủ nhau ra ngoài tản bộ. Chỗ nào cũng đầy những hán tử to cao, người thì mặt mũi sứt sẹo, người thì cụt tay què chân, ai cũng ra vẻ đánh quen trăm trận, sương gió đã nhiều. Hai người Trương, Dương sợ sinh sự chuốc họa vào thân, chỉ chốc lát đã trở về phòng, không dám ra ngoài nữa.

Suốt ngày cứ phải ăn đồ chay, Dương Bằng Cử âm thầm thóa mạ: “Con mẹ nó! Chắc là bọn cường đạo này chết sạch tổ tông mười tám đời rồi, bắt lão gia ăn toàn những thứ rau xanh, đậu khô nhạt thếch, nuốt không nổi!”.

Xế chiều, đột nhiên nghe tiếng chuông binh boong vang lên. Chẳng bao lâu, có một hán tử đi vào trong phòng, lên tiếng: “Tôn tướng công mời hai vị đến đại điện xem hành lễ”.

Hai người Trương, Dương đi theo. Trương Khang cũng muốn theo, nhưng hán tử đó bảo: “Tiểu huynh đệ! Ngủ sớm một bữa đi”.

Trương, Dương theo y qua mấy gian nhà ngói, tới trước một cái miếu. Trương Triều Đường ngẩng đầu nhìn lên, thấy một tấm hoành phi viết ba chữ rất lớn: Trung Liệt Tự. Chàng nghĩ bụng: “Thì ra là một gian từ đường, không biết thờ phụng vị nào”.

Hán tử đó dắt hai người qua khỏi tiền sảnh rồi một cái sân, hai bên xếp đầy giá đựng binh khí. Trên giá bày đủ mười tám loại binh khí, nào là đao, thương, búa, mâu, kích, tiên, món nào cũng được lau chùi sáng loáng.

Vào đến đại điện, thật không ngờ bên trong đen kịt đầu người, ít ra cũng phải tới hai ba ngàn. Hai người Trương, Dương âm thầm kinh hãi, không hiểu vì sao trên đỉnh núi hoang sơ này lại tụ tập nhiều người đến thế.

Trương Triều Đường ngẩng đầu nhìn lên, thấy trong điện thờ một bức thần tượng. Người trong tranh phục sức theo kiểu đại quan bản triều, đầu đội nón sắt sơn vàng, khoác trường bào đỏ bên ngoài áo giáp màu vàng, tay phải cầm bảo kiếm, tay trái phất lệnh kỳ. Mặt ông hơi ốm, để ba chòm râu dài trông rất oai nghi, ánh mắt nghiêng nghiêng dõi về phương xa. Lông mày khóe mắt hơi chau, như có phần lo âu tư lự.

Hai bên thần tượng này còn sắp hai dãy linh vị. Trương Triều Đường đứng khá xa, không sao nhìn rõ tên tuổi ghi trên những bài vị đó. Bốn vách tường trong đại điện treo đầy cờ xí, khôi giáp, binh đao, yên cương. Cờ xí đủ màu vàng, trắng, đỏ, xanh lam, cũng có loại màu vàng viền đỏ, có loại màu trắng viền đỏ.

Trong lòng Trương Triều Đường nảy ra vô số nghi ngờ, nhưng thấy tất cả mọi người trong điện đều có sắc thái bi tráng, phẫn nộ, nên chàng im lặng không dám lên tiếng hỏi. Đột nhiên kế bên thần tượng có một hán tử vừa ốm vừa cao đứng dậy, thắp nến lên, đốt nhang rồi lớn tiếng hô: “Chí tế!”.

Cả điện lập tức quỳ xuống, chỉ thấy một bãi đen nhánh đầu người. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử cũng theo đó mà quỳ lạy.

Tôn Trọng Thọ vượt qua mọi người, tiến lên phía trước, cầm lấy bài văn tế, dõng dạc đọc lên. Dương Bằng Cử thì không hiểu lời văn nói những gì, còn Trương Triều Đường càng nghe càng kinh hãi.

Văn tế sôi sục phẫn nộ, chửi bọn Thát tử Mãn Thanh đến mức như dội máu chó lên đầu; đối với hoàng đế Sùng Trinh đương triều cũng chẳng nể mặt tí nào, nói y “hôn quân vô đạo, không biết phân biệt ngay gian, bảo thủ cố chấp, giết hại tướng tài, tự làm sụp đổ trường thành vạn dặm, đáng làm tội nhân của con cháu Diêm vương”. Đối với đương kim hoàng đế mà dám buông lời thóa mạ như vậy, còn chưa phải công nhiên tạo phản hay sao?

Trương Triều Đường càng nghe càng kinh hãi nghi ngờ. Về sau bài văn tế còn quyết liệt thêm, ngay cả liệt tổ liệt tông của Sùng Trinh hoàng đế cũng bị lôi ra thóa mạ vô cùng thống khoái. Minh Thái Tổ thì giết hại Từ Đạt, Lưu Cơ là những vị công thần. Thần Tông thì lạm thu thuế má, chà đạp bá tính. Thi Tông thì chỉ thích dùng bọn hoạn quan ẻo lả, những bậc quân tử thanh cao trong triều không bị chém đầu cũng bị giam vào ngục. Lắm vị đại thần một lòng bảo vệ sơn hà, hy sinh kháng địch như Phùng Đình, Bạch Đề bị giết hại một cách thê thảm.

Bài văn tế này lý ngay lẽ thẳng, ngữ khí hào hùng, từng chữ từng câu đều đi vào tâm khảm Trương Triều Đường. Tuy chàng ở ngoại quốc xa xôi, nhưng những việc lớn ở Trung thổ đã từng nghe biết. Nửa cuối bài văn tế là một thiên chữ nghĩa ca tụng võ công của Đốc sư oai trấn biên cương, rồi sau đó lại chửi bới Sùng Trinh giết hại trung lương.

Nghe đến đây, Trương Triều Đường mới đoán được người trong thần tượng là Kế Liêu đốc sư Viên Sùng Hoán, người đã từng liên tiếp đánh bại quân Thanh, thắng cả Thanh thái tổ Nỗ Nhĩ Ha Xích, khiến cho binh tướng nhà Thanh nghe tên là vỡ mật.

Trương Triều Đường ngẩng đầu lên nhìn, thấy thần tượng sống động như người thật, cặp mắt dõi ra xa như đang nhìn bọn dị tộc xâm lăng Trung thổ, chiếm cứ sơn hà, tàn hại lê dân, chỉ hận không thể trở lại Liêu Đông để chống đỡ ngoại xâm.

Cuối bài văn tế là lời thề của mọi người đang dự tế ở đây: “Báo cừu tuyết hận, rửa mối thiên cổ kỳ oan, xin Đốc sư trên trời chứng giám.”

Đọc xong văn tế, người xướng lễ hô lớn: “Khấu đầu, lạy tạ thần tượng Đốc sư và linh vị của các tướng quân tử nạn”.

Mọi người liền quỳ xuống khấu đầu. Một đứa bé trai mặc đồ đại tang bỗng quay đầu lại, nằm rạp xuống đất, trả lễ mọi người. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử lại kinh hãi một phen. Thì ra đứa bé này chính là chú mục đồng hôm trước họ đã gặp ở nhà mấy người nông phu.

Mọi người bái lạy xong đứng dậy, ai cũng nước mắt đầm đìa, bi phẫn khó mà nén được. Tôn Trọng Thọ lên tiếng gọi Trương Triều Đường: “Trương huynh! Bài văn tế của tại hạ có chỗ nào không ổn, xin được chỉ dạy, bổ sung sửa chữa giúp”.

Trương Triều Đường khiêm tốn trả lời: “Không dám!”

Tôn Trọng Thọ sai người đem văn phòng tứ bảo ra, lại nói: “Tại hạ mời Trương huynh lên núi, chính vì muốn mượn bàn tay tài tử hải ngoại diễn tả cho huân nghiệp Viên đốc sư càng thêm sáng tỏ, khiến mọi người trên thế gian đều biết Viên đốc sư mắc nạn hàm oan, cả thiên hạ đều phẫn nộ, Trung thổ hải ngoại đồng mối bi ai. Đám bộ hạ cũ này của Đốc sư Viên Sùng Hoán ích kỷ một phen, mong Trương huynh thông cảm”.

Trương Triều Đường bây giờ đã hiểu tại sao họ Tôn mời mình lên núi, nhưng nhất thời không biết phải làm gì. Viên Sùng Hoán bị triều đình xử tử đúng là do hoàng đế Sùng Trinh hồ đồ ngu xuẩn, không biết phân biệt người trung kẻ nịnh, nghe lời sàm tấu của bọn gian thần và thái giám, thiên hạ đều biết là oan uổng. Khi ở Bột Nê, chàng đã nghe mấy thương gia người Quảng Đông vừa rơi lệ vừa nhắc đến chuyện này. Nhưng tuân chỉ của hoàng đế mà thi hành án, ai nói oan uổng tức là phỉ báng đương kim hoàng thượng. Nếu hoàng thượng biết được, gửi một bức thư đến nước Bột Nê, thì cả nhà mình khó tránh khỏi bị liên lụy. Nhưng Tôn Trọng Thọ đã nói ra lời, tình thế này làm sao cự tuyệt?

Đang lo lắng trong lòng, Trương Triều Đường bỗng phúc chí tâm linh nhớ lại hai bộ tiểu thuyết từng xem, một là Tam Quốc diễn nghĩa, một là Tinh Trung Nhạc truyện. Chàng đọc sách có hạn, không thể viết một bài văn tứ lục dài như Tôn Trọng Thọ, phải suy nghĩ một hồi mới cầm bút viết mấy dòng:

“Tống vương hôn ám;

Vũ Mục chết oan;

Hán triều vận mạt;

Gia Cát sao tàn;

Ôi đau xót thay;

Hồn về thượng hưởng”

Chàng chỉ nhắc chuyện đời xưa. Nếu không may bài văn tế này rơi vào tay hoàng đế, cũng không ai căn cứ vào đó mà định tội được.

Tôn Trọng Thọ vốn nghĩ họ Trương là học trò hải ngoại, học vấn chẳng được bao nhiêu, chắc không viết nổi câu nào hay ho. Y chỉ mong chàng tán tụng mấy câu về công đức của Viên đốc sư là được, nhưng đọc xong sáu câu này không khỏi vui mừng. Trương Triều Đường so sánh Viên Sùng Hoán như Gia Cát Lượng và Nhạc Phi, chính là tôn kính tối đa rồi, không thể nào hơn được nữa.

Gia Cát Lượng lừng danh từ xưa đến nay, không người nào không ngưỡng mộ. Người Thanh lại là hậu duệ của người Kim, đều là tộc Nữ Chân, tự xưng là Hậu Kim. Khi Mãn Thanh mới lập quốc, đã từng xưng quốc hiệu là Kim. Nhạc Phi và Viên Sùng Hoán đều có công đối địch với quân Kim, đều chết dưới tay hôn quân gian thần. Hai người về tài lược cũng có nhiều chỗ giống nhau.

Tôn Trọng Thọ càng nghĩ càng cảm thấy không phải Trương Triều Đường nhắm mắt nói bừa. Y đem mấy câu này giải thích rõ ra, trong đại điện tức thì vang dội những lời cảm tạ. Cái nhìn của mọi người đối với Trương, Dương thân mật hơn nhiều, không cư xử như người ngoài nữa.

Tôn Trọng Thọ nói: “Trương huynh văn bút phi phàm. Võ Mục Gia Cát, hai câu này đủ khiến Đốc sư Viên Sùng Hoán ngậm cười ở chốn cửu tuyền. Lát nữa tại hạ sẽ cho người khắc bài này lên một tảng đá, dựng bên từ đường. Phải để người đời sau biết được Viên đốc sư của chúng ta lừng danh thiên hạ, ngay cả những danh sĩ ở ngoại bang xa xôi vạn dặm cũng đem lòng ngưỡng mộ”.

Trương Triều Đường vội vàng chắp tay đa tạ.

Mọi người khấu bái xong, ai về ngồi chỗ nấy. Người xướng lễ cất tiếng hô lên: “… tướng quân… tổng binh… phó tổng binh…”, toàn là quân hàm của võ tướng. Y hô đến tên ai, người đó đứng dậy vái chào.

Trương Triều Đường nghe vậy, biết những người ở đây đều là thuộc hạ cũ của Đốc sư Viên Sùng Hoán. Sau khi ông bị hại, mọi người phẫn nộ rời bỏ quân ngũ, tứ tán khắp nơi. Hôm nay là ngày giỗ kỵ ba năm Viên đốc sư gặp nạn, nên họ tụ họp về đỉnh Thánh Phong, gần quê hương của ông là Đông Quán tỉnh Quảng Đông, để tế lễ cựu soái của mình. Dường như họ còn có mưu đồ gì quan trọng nữa.

Khi người xướng lễ kêu đến Kế Chấn phó tổng binh Chu An Quốc, một người đứng dậy. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử lại giật mình một cái. Thì ra đây chính là người nông phu đã dẫn họ trốn vào mật thất. Dương Bằng Cử nghĩ thầm: “Thì ra y là Kế Liêu đại tướng, từng cầm quân kháng cự bọn Mãn Thanh. Ta thua dưới tay y cũng chẳng thiệt thòi gì lắm”.

Chu An Quốc dõng dạc nói: “Ba năm nay Viên công tử thân thể tráng kiện, võ nghệ tiến bộ nhiều, đọc sách cũng không ít. Tại hạ cùng hai vị huynh đệ Nghê, La đã truyền gần hết võ công của mình cho Viên công tử rồi, xin quý vị cử minh sư khác.”

Tôn Trọng Thọ nói: “Trong huynh đệ chúng ta, còn ai võ công cao hơn các vị? Chu tướng quân đừng quá khiêm nhường”.

Chu An Quốc nói: “Viên công tử hết sức thông minh, ba người bọn tại hạ đã đem hết võ nghệ của mình ra dạy rồi, không còn chiêu thức mới lạ nào nữa. Thật sự phải mời minh sư khác, để khỏi làm chậm trễ đà tiến bộ của Viên công tử.”

Tôn Trọng Thọ nói: “Được! Việc này lát nữa chúng ta sẽ bàn tiếp. Còn chuyện trừ gian thì sao rồi?”

Người nông phu họ Nghê đứng dậy lên tiếng: “Phạm gian tặc đã bị La tham tướng xử tội ở Chiết Giang mấy tháng trước. Còn Sử gian tặc thì mười ngày trước bị tại hạ đuổi kịp ở Triều Châu. Thủ cấp hai tên đó ở đây”.

Nói xong, y xách một cái bao vải dưới đất lên, lấy ra hai cái thủ cấp. Đại điện xôn xao, người thì cất tiếng hoan hô, người thì nghiến răng thóa mạ. Tôn Trọng Thọ đón lấy hai cái thủ cấp đó, đem đặt lên bàn thờ, ngay trước thần tượng.

Bây giờ Trương Triều Đường mới hiểu, hai cái thủ cấp mình phát hiện giữa đêm chính là kẻ thù của Viên đốc sư. Dĩ nhiên đây là bọn gian tặc có liên quan đến vụ hãm hại Đốc sư Viên Sùng Hoán.

Lúc này không ngớt có người nộp thủ cấp lên, trước mặt thần tượng đã bày mười mấy cái. Nghe họ trình bày, thì trong số đó có đầu của Cao thị lang đương triều. Hắn là phe cánh của Ngụy Trung Hiền, đã từng vu cáo bừa bãi Viên Sùng Hoán thông địch phản quốc. Còn có đầu của Tham tướng Tạ Thượng Chấn, vốn là đồng hương của Viên Sùng Hoán, đã được ông dìu dắt nâng đỡ rất nhiều. Nhưng vì hắn có mưu đồ thăng quan tiến chức mà vu cáo ân sư tạo phản. Mọi người hận thù sâu đậm tên này nhất.

Sau khi mọi người bẩm báo xong xuôi, Tôn Trọng Thọ nói: “Bọn tiểu gian đã giết không ít, nhưng đại thù vẫn chưa báo được. Bọn Thát tử Mãn Thanh còn nguyên, hôn quân Sùng Trinh đang tại vị. Làm cách nào để báo cừu tuyết hận cho Đốc sư, các vị có cao kiến gì không?”

Một người hơi lùn đứng dậy cất tiếng gọi: “Tôn tướng quân!”

Tôn Trọng Thọ nói: “Triệu tham tướng có cao kiến gì, xin nói”.

Người lùn ấy nói: “Theo tại hạ thì…”

Mới được bốn chữ, bên ngoài có một hán tử chạy vội vào bẩm báo: “Vương tướng quân Tam Thập Lục Doanh ở Sơn Tây phái người đến đây cầu kiến.”

Mọi người nghe thấy đều cất tiếng hoan hô. Tôn Trọng Thọ nói: “Triệu tham tướng! Chúng ta hãy đón tiếp sứ giả của Tam Thập Lục Doanh trước đã”.

Triệu tham tướng nói: “Đúng vậy!” Y lập tức đi ra ngoài, mọi người cũng đứng dậy hết. Cánh cửa lớn mở ra, nhìn thấy hai đại hán tay cầm đuốc. Hai đại hán đó đứng nép sang một bên, nhường lối ba người bước vào.

Từ lâu Dương Bằng Cử đã nghe danh tiếng của Tam Thập Lục Doanh. Ở Sơn Tây có hơn hai chục vạn quân dân khởi nghĩa, kết thành đồng minh gọi là Tam Thập Lục Doanh, tôn Tử kim dương Vương Tự Dũng làm minh chủ. Mấy năm gần đây họ giết quan tạo phản, thanh thế cực lớn. Trong Tam Thập Lục Doanh thì Sấm vương Cao Nghênh Tường là nổi danh nhất. Dưới trướng họ Cao có đứa cháu kêu bằng cậu là Lý Tự Thành, còn gọi là Sấm tướng, anh hùng vô địch, oai chấn vùng Sơn Tây, Thiểm Tây.

Trong ba vị khách thì người đi đầu khoảng hơn bốn mươi tuổi, mặt rỗ, đầu tóc bù xù, trên người mặc quần áo vải thô. Y phục rách thủng nhiều chỗ ở đầu gối và khuỷu tay, vá víu lung tung. Chân y mang giày cỏ, dính đầy đất bùn, trông hệt như một nông phu. Hai người đi theo y, thì một người chừng ba mươi tuổi, da dẻ trắng trẻo, còn người kia chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, thân hình khôi vĩ, da mặt ngăm đen, trông cũng giống nông phu. Ba người này dáng vẻ trung hậu thật thà, không hiểu sao lại là phe đảng bọn cường khấu đang hoành hành thiên hạ.

Ba người này đi vào đại điện, không nói lời nào, đến đứng trước thần tượng. Hán tử trắng trẻo lấy nhang đèn trong bao vải sau lưng ra, thắp lên. Ba người quỳ xuống khấu đầu, chú bé mục đồng vội tới trước bàn quỳ xuống, khấu đầu trả lễ.

Hành lễ xong xuôi, hán tử mặt rỗ dõng dạc lên tiếng: “Vương tướng quân của bọn tại hạ biết Viên đốc sư ở quan ngoại đánh bọn Thát tử đã lập đại công, người người thán phục. Viên đốc sư bị hôn quân giết hại oan uổng, bá tính trong thiên hạ đều giận dữ vô cùng. Vương tướng quân, Cao Sấm vương, Lý Sấm tướng phái bọn tại hạ đến đây thay mặt để bái lạy trước thần vị của Đốc sư. Tình hình hiện giờ là quan ép dân làm loạn, chúng ta muốn có cơm ăn thì chỉ còn cách kháng lệnh, giết quan. Khẩn cầu anh hồn của Viên đại soái phù hộ cho chúng ta đánh đến Bắc Kinh, bắt hết hôn quân gian thần giết từng tên một, để trả thù cho đại soái và bá tính khắp thiên hạ.”

Nói xong, y lại lạy thêm mấy cái.

Mọi người thấy sứ giả của Vương Tự Dũng tôn sùng Đốc sư của mình, ai cũng phát sinh hảo cảm. Mấy câu nói của y tuy rằng thô thiển, nhưng đều là lời chí lý. Tôn Trọng Thọ bước lên, chắp tay nói: “Đa tạ, đa tạ! Xin thỉnh giáo cao tính đại danh”.

Hán tử đó nói: “Tại hạ là Điền Kiến Tú. Vương tướng quân biết hôm nay là ngày giỗ của Viên đại soái, nên phái tại hạ đến đây bái tế trước linh vị, đồng thời gặp gỡ quý vị một phen”.

Tôn Trọng Thọ nói: “Xin đa tạ thịnh tình của Vương tướng quân. Tại hạ họ Tôn, tên Trọng Thọ”.

Người trắng trẻo nói: “Thì ra tướng quân là em trai của Tôn Tổ Thọ tướng quân. Tôn tướng quân đánh bọn Thát tử mà trận vong, bọn tại hạ vô cùng kính ngưỡng”.

Tôn Tổ Thọ là một đại tướng trấn giữ biên cương, lập nhiều công lớn. Khi quân Mãn Thanh xâm lăng, ông đã cùng Viên Sùng Hoán bảo vệ bờ cõi. Sau khi Viên Sùng Hoán bị hạ ngục, Tôn Tổ Thọ phẫn nộ xông ra liều chết ở ngoài Vĩnh Định Môn thành Bắc Kinh, tử trận cùng với đại tướng Mãn Quế, đã vang danh thiên hạ.

Tôn Trọng Thọ tài kiêm văn võ, trước nay vẫn là cánh tay đắc lực của huynh trưởng mình. Trong trận đó ông chạy thoát được, ôm lòng uất hận vì Sùng Trinh giết hại trung thần, nên cùng đám bộ hạ của Viên Sùng Hoán lưu lạc giang hồ, nuôi dạy con trai của Viên Sùng Hoán, âm thầm lập mưu trả thù. Ông là người túc trí đa mưu, vô hình trung chính là thủ lãnh của đám bộ hạ cũ họ Viên.

Tôn Tổ Thọ đã trung dũng lại liêm khiết, trong Minh Sử có chép hai câu chuyện về ông.

Khi Tôn Tổ Thọ trấn thủ ở quan ải, chống cự với tộc Nữ Chân, ra trận bị thương, không thể đứng dậy được. Vợ của ông là Trương Thị đã cắt thịt trên cánh tay để nấu canh cho ông uống, lại còn tuyệt thực bảy ngày bảy đêm, cầu trời cho mình chết thay trượng phu. Khi Tôn Tổ Thọ lành bệnh thì Trương Thị chết. Tôn Tổ Thọ cảm niệm ân tình của vợ, suốt đời không thân cận nữ nhân nào khác.

Khi Tôn Tổ Thọ đã làm đại tướng, có một bộ hạ đi qua Xương Bình là quê hương của ông, đưa năm trăm lạng bạc đến nhà ông. Thời kỳ đó thì việc này rất bình thường, nhưng con của ông kiên quyết không nhận. Sau này đứa con tìm đến trung quân, Tôn Tổ Thọ khen ngợi, mời con uống rượu rồi nói: “Ngươi không nhận quà cáp, rất hợp lòng ta. Nếu ngươi nhận thì phen này nhất định bị xử bằng quân pháp.”

Tôn Trọng Thọ xử sự rất có phong cách, giống như huynh trưởng của mình. Vì thế ông cũng được mọi người khâm phục.

Hồi 02: Ân cừu chung hoạn nạn – Sống chết thấy giao tình

Trong lúc mọi người nói chuyện, thiếu niên mặt đen đi cùng Điền Kiến Tú bỗng nhảy vọt từ chỗ ngồi ra phía ngoài, đứng chặn ngay trước cửa. Mọi người đều bất ngờ, không biết xảy ra việc gì, tất cả đều đứng bật dậy. Thiếu niên mặt đen chỉ mặt hai hán tử trung niên trong đám đông, quát hỏi: “Hai ngươi là tay chân của Tào thái giám! Đến đây để làm gì?”

Mọi người nghe câu này đều kinh hãi một phen. Ai cũng biết hoàng đế Sùng Trinh đã tru diệt Ngụy Trung Hiền và bọn Khách Thị, nghịch đảng hoạn quan trong triều đã bị quét sạch; nhưng hoàng đế tính đa nghi, thừa hưởng dòng máu từ ông cha Thái Tổ, Thành Tổ. Vì thế Sùng Trinh chỉ tin dùng đám thái giám đến từ Tín Vương Phủ của y, trong đó được sủng ái nhất là Tào Hóa Thuần.

Tào Hóa Thuần thống lãnh cả cẩm y thị vệ lẫn thám tử ở Đông Xưởng của hoàng đế, gọi chung là Xưởng Vệ, chuyên việc dò xét chuyện riêng tư của các đại thần trong triều và tướng soái khắp nơi. Văn võ đại thần rất thường bị hoàng đế hạ chỉ giết hại một cách không minh bạch, hoặc bắt nhốt vào thiên lao không cần tuyên bố tội danh. Sử sách về sau chỉ chép mơ hồ là họ bị bắt giết theo lời bẩm báo của bọn thân tín của Tào thái giám.

Ba chữ Tào thái giám vừa nhắc đến là quần hùng nơi đây đều thay đổi sắc mặt.

Hai người đó, một người cằm đầy râu vàng, trên dưới bốn mươi tuổi; còn người kia mặt trắng không râu, thân hình hơi lùn mập. Người lùn mập cũng biến sắc, nhưng trấn tĩnh lại được ngay, mỉm cười hỏi lại: “Ngươi nói ta đó phải không? Giỡn kiểu gì vậy?”.

Thiếu niên mặt đen nói: “Giỡn cái gì? Hai ngươi lén lút bàn bạc trong khách điếm, tìm cách lẩn vào Sơn Tông, lại nói đã bẩm báo Tào thái giám rồi, phải phái binh đến đây để bủa lưới giết cho tận tuyệt. Những chuyện đó ta đều nghe hết.”

Người râu vàng rút soạt đao, ra vẻ muốn xông lên liều mạng. Người mập mạp mặt trắng thì cười ha hả, lại nói: “Vương Tự Dũng muốn thu gom bằng hữu Sơn Tông để lập thành doanh thứ ba mươi bảy của mình. Tâm địa hiểm ác như thế, ai mà không hiểu? Còn ngươi đến đây là muốn tung tin đồn, khiêu khích ly gián. Hừ, làm sao thành công được?”.

Hắn nói chuyện nhỏ nhẹ ẻo lả, rõ ràng là giọng điệu thái giám. Nhưng mấy câu nói này cũng có hiệu lực, rất nhiều người trong đại điện đưa mắt nhìn nhau, ra vẻ nghi ngờ sứ giả của Vương Tự Dũng.

Điền Kiến Tú xuất thân làm ruộng, nhưng chiến trận lâu ngày nên đã luyện được tinh thần gang thép. Y nhìn thấy thần sắc mọi người, biết họ đã bị mấy câu này làm động tâm, liền quát hỏi: “Các hạ là ai? Có phải là bằng hữu Sơn Tông hay không?”.

Câu này đã chọc trúng vào yếu điểm. Người kia không nói được tiếng nào, chỉ biết cười nhạt.

Tôn Trọng Thọ hét lên: “Ngươi có phải là bộ hạ của Viên đốc sư không? Sao ta chưa gặp ngươi? Ngươi thuộc quyền vị tổng binh nào?”

Tên mặt trắng biết sự tình bại lộ, liền nháy mắt với tên râu vàng. Cả hai lập tức tung người nhảy ra phía cửa. Tên râu vàng vung đao chém tới thiếu niên mặt đen. Còn tên mặt trắng có vẻ bán nam bán nữ, nhưng thân thủ lại cực kỳ nhanh nhẹn. Cổ tay hắn chỉ lật một cái đã rút được đôi phán quan bút ra, điểm ngay vào trước ngực thiếu niên mặt đen.

Thiếu niên mặt đen đến đây bái tế để tỏ lòng tôn kính, không muốn bị nghi ngờ nên khi lên núi không mang theo vũ khí. Mọi người thấy chàng tay không mà bị hai địch thủ giáp công, lập tức bảy tám người xông lên cứu viện. Không ngờ võ công của thiếu niên đó không phải tầm thường. Tay trái chàng vẫy ra như gió, thi triển cầm nã thủ, túm vào cổ tay của tên râu vàng. Đồng thời ngón trỏ và ngón giữa tay phải chia ra đâm tới cặp mắt của tên mặt trắng. Hai chiêu này phát sau nhưng đến trước, lập tức ép địch phải lùi hai bước.

Quần hùng Viên đảng thấy chàng chỉ trong một chiêu vừa phòng thủ nghiêm mật vừa phản kích đối phương, đều âm thầm khen ngợi, dừng bước đứng nhìn.

Hai tên kia thấy không chạy ra cửa được, biết mình đã vào hang cọp, tình thế cực kỳ nguy hiểm. Chúng vừa lùi hai bước vào trong, lại tiếp tục xông ra. Thiếu niên mặt đen múa tít song chưởng, một mình quẫy lộn giữa đơn đao và song bút, nhưng vẫn công nhiều thủ ít. Hai tên kia mấy lần xông đến ngưỡng cửa, đều bị chàng ép trở vào.

Ba người tỷ đấu kịch liệt trong đại điện, càng lúc càng hăng. Đột nhiên tên râu vàng kinh hãi la lên một tiếng, đơn đao rời khỏi tay bay vào giữa đám đông. Chu An Quốc nhảy lên đưa tay bắt lấy. Ngay lúc đó, thiếu niên mặt đen bước tới một bước, phóng chân trái ra đá ngã ngay tên râu vàng. Chân trái của chàng chưa thu về, chân phải lại thừa thế đá lên.

Tên mặt trắng lại càng kinh hãi, chỉ muốn ép đối phương ra khỏi cửa để cướp đường chạy xuống núi. Hắn vận hết sức bình sinh, song bút một trước một sau điểm vào ngực địch thủ. Thiếu niên mặt đen đưa tay phải ra chụp được cán cây tả bút, vận sức vặn ngược lại giằng được. Bây giờ hữu bút của đối phương đã điểm tới, chàng thuận tay đưa cây bút của mình ra cản trở. Hai cây bút giao nhau nghe “keng” một tiếng, lửa bắn tứ tung. Cổ tay tên mặt trắng bị chấn động trật khớp, hữu bút vuột nốt khỏi tay.

Thiếu niên mặt đen cười dài một tiếng, đưa tay phải túm lấy ngực áo của hắn xách bổng người lên, còn tay trái nắm lấy thắt lưng của hắn. Hai tay chàng dang ra, cái quần tên mặt trắng bị tụt xuống, roạt một tiếng, hạ thể lõa lồ. Mọi người còn ngạc nhiên, thiếu niên mặt đen đã mỉm cười nói: “Đây có phải là thái giám hay không, mọi người cứ nhìn là biết.”

Hàng trăm cặp mắt đều tập trung vào một chỗ, quả nhiên thấy tên mặt trắng đã bị thiến trụi lủi rồi. Trong tiếng cười nói ồn ào, mọi người đều quây cả lại. Thấy thiếu niên mặt đen thân thủ cực nhanh, võ công cao cường, ai cũng đem lòng khâm phục.

Lúc này nhiều người đã ùa lên, đè tên mặt trắng và tên râu vàng xuống. Tôn Trọng Thọ quát hỏi: “Tào thái giám phái ngươi đến đây làm gì? Còn bao nhiêu đồng đảng? Làm sao bọn ngươi đột nhập vào đây được?”

Hai tên đó im lặng không nói lời nào. Tôn Trọng Thọ đưa mắt một cái, người họ La bèn xách đơn đao tới, chỉ xoẹt xoẹt hai cái đã cắt thủ cấp của chúng, đặt lên bàn thờ ở trước thần tượng.

Tôn Trọng Thọ chắp tay lại nói với Điền Kiến Tú: “Nếu không nhờ ba vị phát hiện gian tặc, bọn tại hạ đại họa đến trước mắt còn chưa biết.”

Điền Kiến Tú nói: “Cũng là may mắn mà thôi. Bọn tại hạ dọc đường gặp hai tên này, thấy thần sắc của chúng kỳ lạ, thân thủ lại nhanh nhẹn, nên đêm đó theo vào khách điếm để dò xét. May mà điều tra được tung tích của chúng.”

Tôn Trọng Thọ hỏi hai người đi theo Điền Kiến Tú: “Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh hai vị.”

Hai người kia xưng tên, người da dẻ trắng trẻo là Lưu Phương Lượng, còn thiếu niên mặt đen là Thôi Thu Sơn. Chu An Quốc bước tới nắm tay Thôi Thu Sơn, tán dương mãi không dứt.

Điền Kiến Tú, Tôn Trọng Thọ, mấy nhân vật đầu não vào trong hậu đường để đàm đạo. Điền Kiến Tú nói: “Vương tướng quân mong mọi người kết nghĩa, nắm tay nhau làm đại sự phản lại triều đình.”

Ba người này là thuộc hạ dưới trướng Sấm tướng Lý Tự Thành. Sấm tướng là cháu gọi Sấm vương Cao Nghênh Tường bằng cậu. Trong tam thập lục doanh, doanh của y là doanh có thanh thế hùng mạnh nhất.

Người bên Viên đảng đều ra vẻ trù trừ. Tuy mọi người đều rất hận hoàng đế Sùng Trinh, đã quyết âm thầm hành thích, những chuyện giết quan trừ tặc cũng đã làm không ít, nhưng ai cũng vốn là mệnh quan của nhà Đại Minh, nên thật sự không muốn tạo phản. Họ chỉ mong giết được Sùng Trinh, rồi lập một vị tôn thất lên làm vua nhà Minh.

Huống hồ, dù sao Vương Tự Dũng cũng là lưu khấu, danh tiếng tuy lớn nhưng vẫn làm những chuyện cường đạo, cướp bóc khắp nơi, nên trong lòng mọi người vẫn coi thường. Tam thập lục doanh lại ở xa xôi, khó mà chi viện. Mọi người trong Viên đảng sau khi rời quân ngũ, vì sinh kế mà không khỏi cướp bóc mấy vụ, nhưng trước giờ họ quyết không tự coi mình là quân cường đạo. Thân phận hai bên có chỗ khác nhau, nên bàn luận mãi mà không quyết định được gì.

Cuối cùng, Tôn Trọng Thọ nói: “Việc của chúng ta đã bị Tào thái giám biết rồi. Nếu không kết hợp với Vương tướng quân để mưu đồ đại sự, không những việc hành thích Sùng Trinh trả thù cho Viên đốc sư khó mà thành được, còn sợ Tào thái giám sẽ phái người lùng xét, chặn giết khắp nơi. Chúng ta thế đơn lực bạc, không tránh khỏi bị hạ độc thủ. Điền huynh, hay là chúng ta quyết định thế này. Sơn Tông chúng ta sẽ giúp Vương tướng quân đánh lại quan binh, nhưng sau khi đại sự thành công, Vương tướng quân phải nỗ lực đi đánh bọn Thát tử Mãn Thanh. Nói trước một câu, nếu sau này Vương tướng quân xưng làm hoàng đế thì bằng hữu Sơn Tông chúng ta không để yên đâu. Nhất định hoàng đế phải là con cháu họ Chu của Thái Tổ.”

Điền Kiến Tú nói: “Vương tướng quân và Cao Sấm vương, Lý Sấm tướng quân đều bị bọn quan phủ ép không chịu nổi, muốn sống nên mới tạo phản, chứ bản ý không muốn làm hoàng đế. Chuyện này tại hạ dám vỗ ngực đảm bảo. Bọn tại hạ bị kêu là lưu khấu, thật ra đều là nông phu quen nghề trồng trọt, chỉ mong miệng có miếng ăn, đầu yên trên cổ là mãn nguyện. Bọn tại hạ bôn ba khắp đông tây cũng là bắt buộc, chứ bản lãnh thật sự không đủ làm hoàng đế, đại quan gì hết. Còn về chuyện đánh bọn Thát tử Mãn Châu, thì tâm ý của Lý tướng quân hoàn toàn giống như quý vị ở đây. Bình thời nhắc đến chuyện này, Lý tướng quân vẫn thường nghiến răng căm hận bọn Thát tử đến tận xương tận tủy. Chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng Sấm tướng Lý đại ca. Lý đại ca thật sự anh hùng hào kiệt, nhân nghĩa vô song”.

Minh chủ của Tam Thập Lục Doanh là Vương Tự Dũng, nhưng nghe nói chuyện thì rõ ràng họ tuân phục Lý Tự Thành hơn.

Tôn Trọng Thọ đáp: “Nếu vậy thì không còn gì hay hơn nữa.” Mọi người trong Viên đảng không dị nghị gì, thế là việc kết nghĩa đã thành.

*

*   *

Trong điện thì thương nghị đại kế kết liên, còn ngoài điện thì Chu An Quốc và Nghê Hào dắt tay Thôi Thu Sơn vào một góc yên tĩnh nói chuyện.

Chu An Quốc nói: “Thôi đại ca! Chúng ta tuy mới gặp nhau, nhưng có thể nói là tình như cố cựu. Huynh đừng xem bọn ta như người ngoài.”

Thôi Thu Sơn nói: “Trước kia hai vị đại ca đánh bọn Thát tử bảo vệ giang sơn, tại hạ khâm phục từ lâu. Hôm nay được gặp gỡ nhiều bằng hữu Sơn Tông, thật sự là chuyện vui mừng.”

Nghê Hào hỏi: “Mạo muội xin hỏi, sư thừa của Thôi đại ca là vị tiền bối anh hùng nào?”

Thôi Thu Sơn đáp: “Ân sư thụ nghiệp của tại hạ là Nhất thanh lôi Bạch Giả lão gia ở phủ Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây. Lão nhân gia đã tạ thế nhiều năm rồi”.

Chu An Quốc và Nghê Hào nhìn nhau một cái, đều cảm thấy hoài nghi. Nghê Hào nói: “Đại danh của Nhất thanh lôi Bạch lão tiền bối thì bọn tại hạ đã ngưỡng mộ từ lâu, nhưng có một câu xin Thôi đại ca đừng trách. Võ công Bạch lão tiền bối tuy cao, nhưng hình như không bằng được Thôi đại ca”.

Thôi Thu Sơn im lặng không đáp. Chu An Quốc nói: “Màu xanh phát xuất từ màu lam, Trường Giang sóng sau đè sóng trước, trò giỏi hơn thầy cũng là việc thường gặp. Nhưng vừa rồi nhìn thân thủ Thôi đại ca đánh ngã hai tên gian tế đó, hình như là một loại võ công khác hẳn”.

Thôi Thu Sơn ngần ngừ một lát rồi nói: “Hai vị là hảo bằng hữu, tại hạ không dám giấu giếm. Sau khi sư phụ tạ thế, tại hạ có cơ duyên gặp gỡ một vị thế ngoại cao nhân. Lão nhân gia chỉ điểm cho một chút võ công, nhưng lại bắt tại hạ thề không được nói tới danh hiệu của ông. Vì vậy, việc này phải xin hai vị đại ca tha thứ”.

Hai người Nghê, Chu thấy chàng nói rất thành khẩn, vội lên tiếng: “Thôi đại ca đừng nói thế. Bọn tại hạ có việc cần nhờ vả, nên mới cả gan hỏi vậy”.

Thôi Thu Sơn nói: “Hai vị có việc gì cứ nói thẳng đi. Chúng ta là người một nhà, hà tất phải khách sáo như vậy.”

Chu An Quốc nói:

“Xin Thôi đại ca chờ một chút. Bọn tại hạ phải đi tìm hai người bạn để thương lượng mấy câu đã”.

Chu, Nghê bèn kéo Ưng, La qua một bên. Chu An Quốc nói: “Vị Thôi huynh đệ này võ nghệ cao cường, chỗ chúng ta không có ai sánh kịp. Nghe y nói chuyện, biết tính cách cũng rất hào phóng”.

Nghê Hào nói: “Chỉ khi nói đến sư thừa thì có phần giấu giếm mà thôi”. Họ bèn kể lại câu chuyện với Thôi Thu Sơn vừa rồi.

Người họ Ưng là Ưng Tùng, mưu sĩ dưới trướng Viên Sùng Hoán, năm xưa đã góp sức không ít giữ thành Ninh Viễn. Còn người họ La là La Đại Thiên, một pháo thủ trứ danh. Trận chiến ở Ninh Viễn, y đã dùng hỏa pháo giết chết vô số Thanh binh, luận công được thăng đến Tham tướng.

Ưng Tùng nói: “Chúng ta đừng ngại, cứ thẳng thắn mà nhờ vả, xem thử y nói thế nào”.

Chu An Quốc nói: “Việc này phải hỏi Tôn tướng quân trước”.

Ưng Tùng đáp: “Không sai”.

Họ ra sau hậu điện, thấy Tôn Trọng Thọ và Điền Kiến Tú đang nói chuyện rất thân thiết, bèn mời Tôn Trọng Thọ ra thương lượng. Chu An Quốc và bằng hữu chuyên về hành quân đánh trận, sử dụng thương dài cung cứng, đụng trận là quyết tử lập công, dũng cảm khó ai sánh kịp. Nhưng về võ công quyền cước hay binh khí, thì họ tự biết mình không sao bì được Thôi Thu Sơn.

Tôn Trọng Thọ nói: “Ưng sư gia! Chuyện này liên quan đến cả đời ấu chúa. Huynh hãy thăm dò khẩu khí của họ Thôi trước đã”.

Ưng Tùng gật đầu đồng ý, cùng ba người Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên đi gặp Thôi Thu Sơn.

Ưng Tùng nói: “Chúng ta có một việc, chỉ có Thôi đại ca mới giúp được mà thôi. Cho nên…”

Thôi Thu Sơn thấy họ cứ ấp a ấp úng, ra vẻ khó nói nên lời, bèn đáp ngay: “Tại hạ là người thô lỗ. Các vị có gì sai bảo, chỉ cần tại hạ làm được thì không điều gì không tuân lệnh”.

Ưng Tùng nói: “Thôi huynh thật là sảng khoái! Thế thì tại hạ xin nói thẳng. Khi bị hại, Viên đốc sư có để lại một vị công tử, lúc đó mới bảy tuổi. Bọn tại hạ phải tử chiến ba trận với bọn cẩm y vệ do hôn quân phái tới bắt bớ gia đình Đốc sư, hy sinh bảy huynh đệ mới bảo vệ được chút xíu cốt nhục cho cựu chủ”.

Thôi Thu Sơn “À” một tiếng. Ưng Tùng tiếp: “Ấu chúa tên là Viên Thừa Chí, do bốn người bọn tại hạ phụ trách dạy chữ và luyện võ. Ấu chúa rất thông minh, hễ dạy là hiểu ngay, nên nếu tiếp tục theo bọn tại hạ luyện tập thì nhất định tiến bộ không nhiều. Bọn tại hạ là kẻ dũng phu, chỉ biết hành quân đánh trận chứ võ công phòng thân chẳng được bao nhiêu”.

Thôi Thu Sơn đã hiểu ý, bèn hỏi: “Chắc quý vị muốn cho ấu chúa theo tại hạ học võ?”

Chu An Quốc nói: “Vừa rồi thấy Thôi đại ca ra tay giết giặc, võ công gấp mười bọn tại hạ. Nếu Thôi đại ca chịu nhận đồ đệ, dạy dỗ ấu chúa thành tài, thì anh linh của Viên đốc sư trên trời nhất định cảm kích vô cùng”.

Nói xong bốn người đều chắp tay vái lạy. Thôi Thu Sơn trả lễ, suy nghĩ một hồi mới nói: “Quý vị nể mặt như thế, tại hạ thật không dám chối từ. Nhưng bây giờ tại hạ đang ở trong quân ngũ của Sấm tướng Lý đại ca, đi lại không nơi nhất định, thường xuyên đánh trận với quan quân, chưa biết sống đến ngày nào. Nếu dẫn theo Viên công tử vào quân ngũ, tại hạ chỉ sợ không có thời gian dạy dỗ, vả lại cũng quá nguy hiểm”.

Ưng Tùng và mọi người đều biết đây là chuyện thật, không khỏi hơi thất vọng. Họ gọi Viên Thừa Chí đến gặp mặt Thôi Thu Sơn. Thôi Thu Sơn thấy Viên Thừa Chí hoạt bát linh động, da mặt ngăm đen, chẳng có chút gì ra vẻ công tử phú quý sống trong nhung lụa, bèn đem lòng yêu mến. Chàng hỏi về võ nghệ Viên Thừa Chí đã học.

Viên Thừa Chí trả lời, rồi hỏi lại: “Thôi thúc thúc! Vừa rồi thúc thúc sử dụng công phu gì để bắt hai tên khốn kia?”.

Thôi Thu Sơn đáp: “Đó là Phục Hổ Chưởng.”

Viên Thừa Chí nói: “Thúc thúc đánh nhanh quá, con nhìn không kịp”.

Thôi Thu Sơn mỉm cười hỏi: “Ngươi muốn học không?”.

Viên Thừa Chí đáp ngay: “Thôi thúc thúc! Xin thúc thúc dạy cho con”.

Thôi Thu Sơn cười bảo Ưng Tùng: “Để tại hạ xin phép Điền tướng quân ở lại đây mấy ngày, truyền pho chưởng pháp này cho ấu chúa”.

Viên Thừa Chí và ba người Ưng, Chu, Nghê đều cả mừng, cảm ơn liền miệng.

*

*   *

Sáng sớm hôm sau, Trương Triều Đường, Dương Bằng Cử xin cáo biệt. Tôn Trọng Thọ nói: “Chúng ta gặp nhau phen này, coi như là có duyên. Việc ở đây chỉ cần tiết lộ nửa câu, hậu quả thế nào không cần tại hạ phải nói nhiều”.

Hai người Trương, Dương đều vâng dạ. Tôn Trọng Thọ tặng cho mỗi người năm chục lạng bạc để làm lộ phí đi đường, rồi phái hai huynh đệ tiễn họ xuống núi. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử đi đến Quảng Châu, dọc đường không gặp sự cố gì nữa.

Phen này Dương Bằng Cử thảm bại, sinh ra nản lòng thoái chí, biết trên giang hồ còn rất nhiều kẻ hơn hẳn mình. Đúng là ngoài trời lại có trời, trên người có người, dựa vào chút xíu võ công kém cỏi của mình mà sống được đến nay đã là may mắn lắm rồi. Nếu không nhờ chú bé Viên Thừa Chí nói giúp một câu thì Dương Bằng Cử đã trở thành phế nhân mù mắt.

Y nghĩ lại vẫn còn kinh hãi, lập tức từ bỏ công việc ở tiêu cục, định về nhà làm ruộng. Trương Triều Đường nghĩ y có ơn cứu mạng, thấy tâm sự của y ưu uất không vui, bèn mời y cùng đến nước Bột Nê du ngoạn giải sầu. Dương Bằng Cử thấy mình chẳng có việc gì để làm, mà cũng không có vợ con níu kéo, nên lập tức đồng ý.

Ba người tới Quảng Châu thuê được một chiếc thuyền, vượt biển về nước Bột Nê. Dương Bằng Cử ở đó hơn một tháng, thấy xứ này thái bình an lạc, giống như một cõi đào nguyên bên ngoài thế tục, không muốn trở về nữa. Y lưu lại đốc phủ của Trương Tín, cha của Trương Triều Đường, lãnh một công việc nhỏ, mỗi ngày trực khoảng hai giờ cũng đủ tiền uống rượu đánh bạc, khoái hoạt vô cùng.

*

*   *

Điền Kiến Tú và Tôn Trọng Thọ bàn xong việc liên minh kết nghĩa, mọi người bèn tới trước thần tượng Viên Sùng Hoán lập lời thề: “Huynh đệ Sơn Tông và huynh đệ bên Sấm tướng kết thành bằng hữu, thà chết quyết chẳng phụ nhau.”

Điền Kiến Tú đang có ý giao kết với Viên đảng, nghe nói Thôi Thu Sơn dạy võ cho Viên Thừa Chí bèn rất vui mừng. Y cùng Lưu Phương Lượng xuống núi về trước.

Các lộ hảo hán Viên đảng thì có người đi tìm nơi dụng võ; có người về quê chuẩn bị cử sự; cũng có người nói rõ là không muốn tạo phản làm loạn, nhưng nhất định không tiết lộ bí mật, nhất định không chống đối anh em. Mỗi người có chí hướng riêng, không ai cưỡng ép ai.

Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, Ưng Tùng ở lại trên núi để thương lượng tỉ mỉ về tương lai Viên Thừa Chí.

Từ lúc được Thôi Thu Sơn hứa dạy Phục Hổ Chưởng, Viên Thừa Chí vui mừng đến nỗi suốt đêm không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, mọi người bận rộn về việc liên minh kết nghĩa, không rảnh để nhắc lại việc này. Buổi chiều mọi người cáo biệt xuống núi, ai cũng tới tạ từ ấu chúa, lại bận rộn thêm nửa ngày.

Đến đêm, Tôn Trọng Thọ và Ưng Tùng mới sai người thắp nến, đặt ghế mời Thôi Thu Sơn ngồi trên cao, bảo Viên Thừa Chí làm lễ bái sư.

Thôi Thu Sơn nói: “Tại hạ vừa gặp Viên tiểu huynh đệ đã cảm thấy thương mến. Viên tiểu huynh đệ thích bộ Phục Hổ Chưởng này, thì tại hạ sẽ bỏ ra mấy ngày để truyền đại khái. Còn trong mấy ngày học được tới đâu, và học xong có dùng được hay không, thì còn tùy theo tâm ý và công phu rèn luyện sau này của Viên tiểu huynh đệ. Đây chỉ là bằng hữu chỉ bảo lẫn nhau, còn danh phận sư đồ thì thế nào đi nữa cũng không thể nhắc đến”.

Ưng Tùng nói: “Dù chỉ dạy một chiêu nửa thức, cũng có thể suốt đời gọi là sư phụ rồi. Thôi đại ca hà tất phải khiêm cung đến thế”.

Thôi Thu Sơn nhất quyết không chịu, nên mọi người đành bỏ qua chuyện bái sư. Quy luật võ lâm là trong lúc truyền võ nghệ, người khác không tiện đứng xem, nên mọi người nói mấy câu khách sáo rồi cáo từ ra ngoài.

Đợi mọi người đi hết, Thôi Thu Sơn mới nghiêm giọng nói: “Thừa Chí! Pho Phục Hổ Chưởng này, ta được một vị cao nhân tiền bối truyền thụ. Chính ta cũng chưa lãnh hội được hết chỗ ảo diệu bên trong, công phu còn kém cỏi, nhưng dùng để đối phó với kẻ địch bình thường trên giang hồ thì thừa sức. Khi vị tiền bối đó truyền thụ chưởng pháp, đã từng bắt ta lập thệ: Sau khi học được, nhất định không được dùng để hà hiếp kẻ lương thiện, đả thương người vô cớ”.

Viên Thừa Chí nghe xong hiểu ý, lập tức quỳ xuống nói: “Đệ tử Viên Thừa Chí sau khi học được Phục Hổ Chưởng quyết không dám hà hiếp kẻ lương thiện, đả thương người vô cớ. Nếu không… nếu không…”

Cậu chưa biết quy luật thề thốt như thế nào, ấp úng rồi nói tiếp: “Nếu không sẽ bị Thôi thúc thúc đánh chết”.

Thôi Thu Sơn bật cười rồi nói: “Hay lắm!”

Đột nhiên thân hình chàng lắc lư một cái, không thấy bóng dáng đâu nữa. Viên Thừa Chí vội vã quay lại, thì ra Thôi Thu Sơn đã đứng sau lưng cậu, vừa vỗ vai cậu vừa mỉm cười bảo: “Ngươi bắt ta đi!”.

Viên Thừa Chí đã được Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên ba vị sư phụ chỉ điểm, có chút cơ bản võ công. Cậu lập tức cúi người xuống, tay trái đưa hờ lên, tay phải quờ ra. Đầu không quay lại, chỉ nghe tiếng gió mà đoán phương hướng, cậu toan nắm lấy chân Thôi Thu Sơn.

Thôi Thu Sơn khoái chí khen: “Chiêu này không tệ!” Lời vừa dứt, chàng lại đưa bàn tay khẽ vỗ lên vai Viên Thừa Chí, bóng người lại không thấy nữa.

Thừa Chí tập trung hết tinh thần cùng khí lực, bàn tay nhỏ xíu triển khai ra bảo vệ những chỗ quan trọng trên người. Thấy thân pháp của Thôi Thu Sơn cực nhanh, cậu biết mình không thể bắt được, bèn không chơi cút bắt với Thôi Thu Sơn nữa mà lùi từng bước về phía vách tường. Đột nhiên cậu quay người lại, tựa vào vách tường, mỉm cười nói: “Thôi thúc thúc! Con nhìn thấy thúc thúc rồi.”

Thôi Thu Sơn không thể xoay ra sau lưng cậu bé được nữa, bèn mỉm cười nói: “Được, được! Ngươi thông minh lắm, nhất định sẽ luyện thành Phục Hổ Chưởng.” Chàng bắt đầu dạy Viên Thừa Chí từng chiêu, từng thức một từ đầu đến cuối.

Pho chưởng pháp này tổng cộng có một trăm lẻ tám thức, mỗi thức lại có nhiều biến hóa, chiêu chẵn chiêu lẻ tương sinh tương khắc. Viên Thừa Chí dụng tâm ghi nhớ, chỉ học mấy lần đã đại khái nhớ được hết, không lẫn lộn nữa.

Thôi Thu Sơn vừa nói vừa ra điệu bộ làm mẫu, truyền dạy tỉ mỉ công dụng của mỗi chiêu thức, mỗi chỗ biến hóa. Viên Thừa Chí vốn có căn bản võ công, ngộ tính lại cao, nên Thôi Thu Sơn vừa nói là lãnh hội được ngay. Một người hăng say mà dạy, một người dụng tâm mà học, mãi đến khuya mới đi nghỉ.

Mờ sáng hôm sau Thôi Thu Sơn lên núi tản bộ, thấy Viên Thừa Chí đang luyện quyền, ôn lại một trăm lẻ tám chiêu biến hóa của Phục Hổ Chưởng. Quả nhiên cậu đã hiểu được nhiều chỗ tinh diệu trong tám đại yếu quyết “câu, phiệt, nại, đức, tư, nãi, băng, thố” trong chưởng pháp. Thôi Thu Sơn cao hứng, đợi đến khi Viên Thừa Chí luyện đến chỗ nhập thần, đột nhiên nhảy tới phóng cước đá vào sau lưng cậu bé.

Viên Thừa Chí đột nhiên nghe sau lưng có tiếng gió, liền nghiêng người tránh né, quờ tay phải ra sau toan bắt lấy chân địch thủ. Vừa thấy người sau lưng chính là Thôi Thu Sơn, cậu đã vội thu tay về, kinh hãi kêu lên: “Thôi thúc thúc!”

Thôi Thu Sơn mỉm cười bảo: “Đừng dừng tay, cứ đánh đi.” Chàng lại đánh một chưởng đến trước mặt.

Viên Thừa Chí biết Thôi Thu Sơn đang rèn luyện cho mình, bèn bước qua tránh né, rồi vung nắm đấm nhỏ xíu đánh vào eo lưng Thôi Thu Sơn. Đó đúng là Thâm Nhập Hổ Huyệt, chiêu thứ tám mươi chín trong Phục Hổ Chưởng. Thôi Thu Sơn cất tiếng khen ngợi: “Hay lắm! Đúng rồi.”

Miệng chàng chỉ điểm, tay xuất chiêu không dứt, mỗi khi thấy chiêu thức của Viên Thừa Chí có chỗ sai lầm liền sửa lại cho. Hai người tay đấm chân đá, ôn đi ôn lại một trăm lẻ tám thức trong Phục Hổ chưởng pháp. Viên Thừa Chí thấy bộ chưởng pháp này biến hóa vô cùng, Thôi Thu Sơn vận dụng mỗi lúc thêm kỳ ảo, lại càng mừng rỡ mà cố dụng tâm ghi nhớ.

Tỉ đấu khá lâu, Thôi Thu Sơn thấy đầu Viên Thừa Chí ướt đẫm mồ hôi, biết cậu bé đã mệt liền kêu lên: “Dừng tay!”.

Hai người ngồi xuống nghỉ ngơi, thầy vẫn không dừng giảng giải thêm cho trò hiểu. Nói được một giờ, Thôi Thu Sơn lại bảo Viên Thừa Chí đứng dậy tiếp tục tỉ đấu.

Hai người cứ thế mà luyện tập chưởng pháp không dừng, từ sáng sớm đến tối mịt, thấm thoát đã bảy ngày. Tối ngày thứ tám, Thôi Thu Sơn bảo: “Tất cả những điều ta biết, đã truyền dạy cho ngươi cả rồi. Ngươi nên ghi nhớ cho thật kỹ, sau này thành tựu tới đâu là hoàn toàn dựa vào công phu luyện tập của bản thân. Khi gặp địch, cục diện sẽ thay đổi biến hóa vô cùng, công phu chỉ dựa được bảy phần, còn ba phần phải trông vào cơ trí linh mẫn. Nếu mù quáng mà đánh thì chẳng thắng được ai”.

Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ. Thôi Thu Sơn lại nói: “Ngày mai ta phải về chỗ Lý tướng quân, mong ngươi tiếp tục dụng công luyện tập. Vị cao nhân truyền bộ chưởng pháp này cho ta đã dạy: Võ học cao hay thấp là ở đầu óc chứ không phải ở tay chân, suy nghĩ nhiều còn quan trọng hơn luyện tập nhiều. Tiếc là đầu óc của ta không được linh mẫn lắm, khó đặt đến chỗ tinh diệu. Hy vọng sau này ngươi sẽ giỏi pho chưởng pháp này hơn ta”.

Viên Thừa Chí chỉ ở cùng Thôi Thu Sơn tám chín ngày, nhưng họ Thôi đã đem Phục Hổ Chưởng ra dốc túi truyền thụ xong xuôi, đủ biết cậu bé được yêu thương sâu sắc. Nghe nói ngày mai đã phải chia tay, bất giác khóe mắt cậu bé rưng rưng. Thôi Thu Sơn thấy cậu luyến tiếc mình không nỡ rời xa, cũng không nén nổi xúc động, khẽ xoa đầu Viên Thừa Chí mà nói: “Tư chất ngươi thông minh như thế, trong võ lâm thật là hiếm thấy. Đáng tiếc chúng ta không có cơ duyên cùng ở lâu dài”.

Viên Thừa Chí nói: “Thôi thúc thúc! Con theo thúc thúc đến chỗ Lý tướng quân”.

Thôi Thu Sơn mỉm cười bảo: “Ngươi còn nhỏ thế này, làm sao mà đến đó được. Chúng ta đi theo Lý tướng quân, giờ phút nào cũng phải thí mạng, ăn bữa đói bữa no, chỉ biết chuyện hôm nay chứ ngày mai không biết sẽ ra sao”.

Đang nói chuyện, bỗng nghe tiếng dã thú kêu ở bên ngoài. Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Con gì mà lạ thế? Không phải cọp cũng không phải sói”.

Thôi Thu Sơn đáp: “Đó là con báo.”

Chàng bỗng nảy ra một ý, lại nói: “Chúng ta đi bắt con báo này. Thúc thúc cần dùng đến nó”.

Thừa Chí nghe vậy cao hứng, liền hỏi: “Thúc thúc bắt con báo để làm gì?”.

Thôi Thu Sơn không đáp. Thừa Chí đi theo, nhưng thấy chàng không mang theo binh khí, lại hỏi: “Thôi thúc thúc! Thúc thúc dùng binh khí gì để đánh con báo đó?”

Thôi Thu Sơn tới gõ cửa phòng Tôn Trọng Thọ, lên tiếng hỏi: “Chu đại ca, Nghê đại ca ở đây phải không?”

Chu An Quốc cùng mọi người đang nói chuyện, nghe gọi liền mở cửa ra. Thôi Thu Sơn nói: “Nhờ quý vị giúp một tay, dồn con báo ngoài kia vào trong nhà. Tại hạ cần dùng đến nó”.

Nghê Hào là tay giỏi nghề săn bắn, lập tức xách cây Liệt hổ xoa nhảy ra cửa sổ. Thôi Thu Sơn gọi theo: “Nghê đại ca, đừng giết con súc sinh đó!”.

Nghê Hào đáp vọng lại: “Được rồi!”.

Chỉ chốc lát là tiếng gầm gừ đã vang lên. Thôi Thu Sơn, Chu An Quốc, La Đại Thiên cũng tung người ra khỏi cửa. Viên Thừa Chí xách một cây đoản thương muốn chạy theo, nhưng Tôn Trọng Thọ đã lên tiếng: “Thừa Chí! Chúng ta đừng ra ngoài đó, cứ ở đây xem”.

Viên Thừa Chí đành ở lại với Tôn Trọng Thọ, đứng tựa vào cửa sổ mà nhìn.

Ngoài kia ba người cầm đuốc chia ra đứng ở ba hướng Đông, Nam, Bắc. Nghê Hào cầm cây Liệt hổ xoa đang lăn xả vào đánh nhau với một con Kim tiền báo khá lớn bên sườn núi. Y múa cây xoa bảo vệ toàn thân, không cho con báo phóng lại gần; đồng thời chĩa mũi xoa ra đâm không ngớt.

Con báo thấy lửa hoảng sợ muốn chạy, nhưng bị ba người Chu, Thôi, La cản mất đường. Nó thấy Thôi Thu Sơn tay không binh khí, liền gầm một tiếng, phóng lên người chàng. Thôi Thu Sơn đảo người thoát khỏi móng vuốt sắc nhọn, tả chưởng đánh ngược lên trên. Con báo bị hất lộn lại, xoay mình hướng về phía Nam. Cánh cửa phía Nam đã mở sẵn, nhưng con báo không dám vào trong phòng. Nó chạy loạn xạ bên ngoài, nhưng bị mọi người vây chặt, không còn đường nào khác để đi. Thôi Thu Sơn tung người nhảy tới, đá mạnh một phát vào mông nó. Con báo bị đau, gầm lên một tiếng rồi nhảy vào trong nhà.

Lúc này Ưng Tùng đã khóa chặt cửa nẻo bên trong, chỉ chừa lại một cánh cửa phía Tây. Con báo thấy hai người cầm đuốc đuổi theo, chạy nhảy lung tung bên trong một hồi, rồi vừa gừ gừ trong họng vừa chạy vào tòa điện phía Tây. La Đại Thiên đóng nốt cánh cửa, thế là con báo đã bị nhốt bên trong.

Mọi người đều hoan hỉ nhìn Thôi Thu Sơn, không biết chàng dùng con báo này để làm gì. Thôi Thu Sơn mỉm cười bảo: “Thừa Chí! Ngươi vào trong đó đánh báo đi.”

Câu này vừa nói ra, mọi người đều giật mình kinh hãi. Tôn Trọng Thọ vội nói: “Chuyện này xem chừng không ổn”.

Thôi Thu Sơn nói: “Tại hạ đứng bên trông chừng, con thú này không làm Viên tiểu huynh đệ bị thương được đâu”.

Thừa Chí vâng dạ, rồi lập tức cầm lấy cây đoản thương, định tới mở cửa. Thôi Thu Sơn nói: “Bỏ thương xuống, đi tay không vào trong đó”.

Thừa Chí ngẩn ra, hiểu Thôi Thu Sơn muốn mình dùng Phục Hổ Chưởng vừa học để đánh con báo này, nhưng không khỏi có phần khiếp sợ. Thôi Thu Sơn hỏi: “Ngươi không dám hay sao?”.

Thừa Chí không ngần ngừ nữa, liền mở chốt ra, đẩy cửa đi vào. Nghe tiếng gầm vang dội, rồi thấy một bóng đen phóng tới trước mặt, cậu lùi chân phải nửa bước để tránh thế tấn công, xoay tay phóng chưởng đánh trúng ngay vai con báo. Chiêu này đúng là La Hán Truyền Tinh trong Phục Hổ Chưởng.

Phát chưởng này đánh trúng, nhưng bàn tay nhỏ bé chưa đủ sức, nên con báo không đau chút nào, quay đầu lại muốn cắn. Viên Thừa Chí luồn ra sau lưng nó, dùng tay kéo chặt đuôi báo.

Lúc này Thôi Thu Sơn đã ở bên hộ vệ, sợ con báo quá hung dữ, Thừa Chí không kiềm chế nổi. Nhưng cậu bé mới học Phục Hổ Chưởng mà đã sử dụng khá nhuần nhuyễn. Con báo ba lần phóng tới, ba lần đưa móng vuốt ra cào, nhưng không đụng được vào y phục Viên Thừa Chí chút nào, lại còn trúng một chưởng và một cước. Họ Thôi thấy vậy lòng thầm mừng rỡ.

Tôn Trọng Thọ cùng mọi người thấy Thừa Chí tay không đánh báo, tuy có Thôi Thu Sơn ở bên lo liệu, nhưng dù sao cũng không thể yên tâm. Họ bèn cầm đuốc, đứng trong góc điện để nhìn. Chu An Quốc và Nghê Hào còn nắm sẵn ám khí, để trong lúc khẩn cấp có thể giết báo cứu người.

Trong ánh lửa sáng, Thừa Chí nhảy lên hụp xuống, tràn qua xoay lại, thân pháp cực kỳ linh hoạt. Lúc đầu cậu bé chạy loạn xạ, không dám để con báo đến gần. Về sau cậu thử thi triển chưởng pháp vừa học, thấy diệu dụng vô cùng, vừa thủ vừa công, hình như muốn sao là được vậy. Thế là cậu bé càng đánh càng trấn tĩnh hơn, hăng say hơn.

Viên Thừa Chí thấy mình phóng chưởng đánh trúng con báo cũng chỉ vô ích, bèn chuyển từ đánh sang kéo. Hễ cậu đánh tới một chưởng, khi rút tay về lại giật theo một nhúm lông. Con báo bị đau gầm thét om sòm, bắt đầu thấy sợ bàn tay nhỏ xíu đó. Vì thế nó vừa kêu gào vừa lùi lại tránh né, nhe hàm răng ra chống đỡ.

Nhưng thủ pháp của Thừa Chí rất nhanh, nhiều lần con báo không tránh kịp. Lát sau, lông báo bay tứ tung trong điện. Thật là đáng tiếc, con kim tiền báo có bộ lông đẹp như vậy mà bị cậu bé giật chỗ này một miếng, giật chỗ kia một miếng, mất đi không ít lông gấm trên mình. Mọi người đều cười rộ.

Tuy Viên Thừa Chí đã giật được khá nhiều lông báo, nhưng không đủ sức kiềm chế con báo bằng tay không. Tới lúc cao hứng, cậu đột nhiên sử chiêu Bồ Tát Đê Mi, cúi rạp người, xông thẳng vào trước mặt con báo. Con báo kinh hãi lùi lại hai bước, sau đó bay người phóng tới, chụp Viên Thừa Chí vào dưới bụng.

Nghê Hào hoảng hốt, phóng ra hai mũi phi tiêu, nhưng bị con báo đưa chân gạt rơi mất. Mọi người không biết Thừa Chí ở đâu, nhìn mãi mới thấy cậu bé đang nấp dưới bụng con báo, đôi chân kẹp vòng lên lưng con vật, dùng đầu đỡ dưới cằm nó, khiến cho con báo không thể cắn, móng vuốt cũng không chụp trúng được mình.

Con báo nhảy chồm chồm, lật người lăn lộn, Thừa Chí cũng không chịu thả. Nhưng cậu biết, nếu kéo dài thì sức lực mình không đủ, tay chân chỉ buông lỏng một chút là khó tránh khỏi bị thương dưới móng vuốt con báo này, bèn kêu lớn: “Thôi thúc thúc! Tới đây nhanh lên.”

Thôi Thu Sơn bảo: “Móc mắt nó ra.”

Nghe nhắc, Thừa Chí liền đưa tay phải ra, chĩa hai ngón tay đâm vào mắt trái của con báo. Con báo đau đớn điên cuồng, vừa gầm thét vừa giãy giụa mạnh hơn. Thôi Thu Sơn bước lên mấy bước, đánh liền hai chưởng liên hoàn nghe “bịch bịch”. Con báo váng đầu hoa mắt, ngã nhào dưới đất.

Thôi Thu Sơn đưa tay ôm lấy Thừa Chí dỗ dành: “Không tồi, không tồi! Ta làm khó ngươi rồi.”

Tôn Trọng Thọ cùng mọi người đều hoảng sợ đến vã mồ hôi trán. Ai cũng nghĩ: “Thôi Thu Sơn là người tốt, nhưng dù sao cũng là thủ hạ của Lý Tự Thành, ngày nào cũng phải liều mạng, sống nay đây mai đó, can đảm có thừa nhưng khả năng suy nghĩ không nhiều. Chắc y không biết tính mạng Viên công tử quý tới mức nào. Nhưng phải nói Viên công tử mới được y dạy dỗ tám chín ngày, mà võ nghệ đã tiến bộ rất nhiều.”

Thôi Thu Sơn mở cửa điện, đá vào mông hất con báo ra ngoài, lên tiếng: “Cho ngươi đi!”

Đột nhiên bên ngoài có tiếng la lên. Mọi người cứ tưởng con báo vừa được tha đã cắn người, liền chạy ra xem, lập tức bất ngờ kinh hãi. Cả một quả núi sáng rực ánh đuốc, đao thương lấp lóe vây kín xung quanh. Thì ra quan binh đã kéo tới rất đông, tấn công lên đỉnh Thánh Phong. Tình hình thế này, muốn thoát thân không phải dễ. Nhất định những người canh gác dưới núi đã bị giết sạch, nên hoàn toàn không có báo động gì.

Tôn Trọng Thọ cùng mọi người đã đánh quen trăm trận, lúc này tuy có kinh hãi nhưng không hoảng loạn. Ai cũng nghĩ: “Tiếc là huynh đệ đã xuống núi hết rồi. Không thì cũng như trận đại chiến Ninh Viễn năm xưa, mười mấy vạn tinh binh Thát tử còn bị chúng ta đánh cho cúp đuôi chạy trốn, sá gì bọn lính lác Quảng Đông này?” Thời đó, tinh binh Liêu Sóc đứng đầu thiên hạ. Thuộc hạ Viên Sùng Hoán trước nay vẫn rất coi thường quan binh ở phương Nam.

Tôn Trọng Thọ lập tức ra lệnh: “La tướng quân! Huynh tập hợp số huynh đệ nấu cơm quét tước từ đường, chạy tới đỉnh núi phía Đông phóng hỏa hò hét, làm nghi binh.” La Đại Thiên tuân lệnh đi ngay.

Tôn Trọng Thọ lại bảo: “Chu tướng quân, Nghê tướng quân! Hai vị ra phía trước núi, mỗi người bắn khoảng mười mũi tên để bọn quan binh không dám tới gần ngay. Bắn tên xong, quay trở về đây.” Hai người Chu, Nghê cũng vâng dạ rồi đi.

Tôn Trọng Thọ quay lại nói: “Tại hạ có một chuyện quan trọng, phải nhờ đến Thôi huynh.”

Thôi Thu Sơn hỏi: “Các vị muốn tại hạ bảo vệ Thừa Chí phải không?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Đúng thế!” Y cùng với Ưng Tùng quỳ xuống đất khấu đầu.

Thôi Thu Sơn kinh hãi, vội vàng trả lễ rồi nói: “Hai vị đã dặn dò thì tại hạ nhất định làm ngay. Xin đừng đa lễ như thế.”

Giữa tiếng hò hét vang trời, bỗng lờ mờ có tiếng trống, tiếng chuông từ trên núi vọng xuống. Thì ra La Đại Thiên đã khiêng trống chuông trong từ đường ra ngoài, khua lên dữ dội để nhiễu loạn quan binh.

Tôn Trọng Thọ nói: “Viên đốc sư chỉ còn một giọt máu này thôi. Xin Thôi đại ca ra sức, bảo vệ Viên công tử thoát hiểm.”

Thôi Thu Sơn đáp: “Nhất định tại hạ sẽ cố hết sức.”

Lúc này Chu An Quốc và Nghê Hào đã bắn tên xong, quay trở lại. Tôn Trọng Thọ nói: “Ta và Chu tướng quân đi một đường, tới gặp La tướng quân rồi chạy xuống phía Đông. Ưng tiên sinh và Nghê tướng quân đi một đường, chạy xuống phía Tây. Chúng ta chạy trước để dụ chủ lực quân địch chia ra mà đuổi, rồi Thôi đại ca dẫn Thừa Chí ra sau núi chạy xuống. Sau này mọi người đến chỗ Lý tướng quân để gặp nhau.”

Mọi người đồng thanh vâng dạ.

Thừa Chí đã được Ưng Tùng và mọi người dạy dỗ từ bé, bây giờ phải chia tay. Trong lòng cậu khó chịu vô cùng, liền quỳ xuống vừa lạy vừa gọi: “Tôn thúc thúc, Ưng thúc thúc, Chu thúc thúc, Nghê thúc thúc! Con… con…”

Cổ họng cậu bé bất giác nghẹn lại, không sao nói được nữa. Tôn Trọng Thọ bảo: “Con đi theo Thôi thúc thúc, phải ngoan ngoãn nghe lời.” Thừa Chí gật đầu.

Từ lưng chừng núi, quan binh la hét như vỡ chợ, hò nhau xung phong lên đỉnh núi. Ưng Tùng nói: “Chúng ta đi thôi! Thôi đại ca, huynh đợi một lát rồi hãy đi.”

Mọi người đều cầm binh khí xông xuống núi. Nghê Hào thấy Thôi Thu Sơn không mang binh khí, liền ném cây Liệt hổ xoa cho chàng, gọi: “Thôi đại ca, đón lấy!”

Thôi Thu Sơn nói: “Nghê huynh cứ dùng đi!” Chàng bắt được cây Liệt hổ xoa, muốn ném trả lại, nhưng Nghê Hào đã đi xa rồi. Thế là tay phải chàng cầm xoa, tay trái dẫn Viên Thừa Chí đi về phía sau núi. Hướng này cũng sáng rực đèn đuốc, không biết bao nhiêu quan binh vây chặt không có kẽ hở. Tên từ dưới núi bắn lên như mưa.

Thôi Thu Sơn lùi vào trong từ đường, chạy xuống bếp lấy hai cái nắp nồi, một lớn một nhỏ. Chàng cầm cái lớn, đưa cái nhỏ cho Thừa Chí rồi bảo: “Lấy cái này làm thuẫn. Chúng ta đi thôi!” Chàng thi triển khinh công, dắt Viên Thừa Chí chạy biến vào màn đêm.

Một lúc sau, bọn quan binh phát hiện tung tích hai người, vừa reo hò vừa đuổi theo. Mấy chục mũi tên đồng thời bắn tới. Thôi Thu Sơn che sau lưng Viên Thừa Chí, khua cái nắp nồi cản tên bắn tới, nghe những tiếng keng keng không dứt. Không ít mũi tên đã bắn trúng nắp nồi.

Hai người chạy thẳng xuống núi, quan binh kéo ra cản trở. Thôi Thu Sơn sử cây Liệt hổ xoa vừa đâm vừa quật, lập tức đả thương mười mấy tên lính. Cây đoản thương của Thừa Chí chẳng giết được ai, nhưng có thể tự bảo vệ mình. Quan binh thấy cậu chỉ là một đứa trẻ, nên không quan tâm gì lắm. Nhờ thế mà trong chốc lát hai người đã chạy xuống lưng chừng núi.

Mới hít thở mấy hơi, lại nghe tiếng reo hò vang dội, một đội quan binh từ kế bên xông tới, chạy đầu tiên là một tên thiên hộ. Hắn cầm đại đao hung dữ chém tới. Thôi Thu Sơn đưa cây xoa ra cản, cảm thấy sức lực tên này cực mạnh.

Chàng ra chiêu Độc Long Xuất Động đâm thẳng tới. Tên thiên hộ đưa đao gạt ra, la lớn: “Anh em xông vào cả đi!”

Thôi Thu Sơn không dám ham chiến, cầm cái nắp nồi quạt vào trước mặt tên thiên hộ. Hắn vừa né sang bên phải, Thôi Thu Sơn quát lớn vung tay, cây xoa cắm lút vào dưới nách hắn. Khi rút cây xoa ra, chàng quay đầu lại thì không thấy Thừa Chí đâu nữa.

Thôi Thu Sơn không khỏi kinh hãi, đảo mắt nhìn quanh thì thấy bên trái có một đám đông đang bao vây hò hét. Chàng sải bước chạy tới đó, múa xoa đâm loạn xạ, bọn quan binh phải dạt ra tránh né. Đến gần, quả nhiên thấy Thừa Chí bị vây ở giữa, cây đoản thương đã bị đánh rơi mất. Cậu đang thi triển Phục Hổ Chưởng đối địch với ba tên lính.

Dù sao Thừa Chí cũng tuổi nhỏ sức yếu, chưởng pháp lại mới học, nên bị giáp công cả hai bên, tình thế rất nguy hiểm. Thôi Thu Sơn không dám để lâu, vung xoa soạt soạt hai chiêu đâm ngã ngay hai tên lính, tay trái kéo Thừa Chí bỏ chạy.

Quan binh hò hét đuổi theo. Thôi Thu Sơn đột ngột quay lại, hươi xoa đâm ngã hai tên lính đuổi gần nhất. Chàng nhảy tới một bước, cây xoa quét ra lại hất một tên văng xuống núi đá. Hắn gào lên một tiếng dài như bất tận, rồi mới chết.

Bọn quan binh thấy đối thủ dũng mãnh phi thường, hoảng sợ dừng hết lại không dám đuổi theo. Thôi Thu Sơn liền kẹp Thừa Chí dưới nách, thi triển khinh công Đề Tung Thuật chạy vào những chỗ vắng vẻ âm u, chỉ chốc lát đã cách xa bọn quan binh.

Thôi Thu Sơn thả Thừa Chí xuống, cất tiếng hỏi: “Ngươi có bị thương không?”

Thừa Chí đưa tay chùi mồ hôi trên miệng, cảm thấy tay hơi rít. Cậu nhìn lại, dưới ánh trăng thấy bàn tay đầy máu. Nhìn qua Thôi Thu Sơn, thấy trên mặt, trên tay, trên áo chỗ nào cũng dính máu, cậu hoảng sợ hỏi: “Thôi thúc thúc! Máu… máu…”

Thôi Thu Sơn nói: “Không sao, toàn là máu của địch. Ngươi có đau chỗ nào không?”

Thừa Chí lắc đầu. Thôi Thu Sơn bèn nói: “Hay lắm! Vậy chúng ta chạy tiếp.”

Hai người khom lưng, luồn vào một khu rừng. Đi hơn nửa giờ, rừng cây sắp hết, Thôi Thu Sơn thò đầu nhìn ra ngoài, thấy dưới núi đèn đuốc sáng trưng, mấy trăm quan binh canh gác. Chàng khẽ nói: “Không xuống dưới được, lùi lại đi!”

Hai người quay lại mấy trăm bước, nhìn thấy một sơn động, trước động có mấy bụi cây. Họ liền chui vào trong.

Thừa Chí còn nhỏ, tuy ở nơi nguy hiểm nhưng lúc này đã quá mệt, nằm xuống chẳng bao lâu đã ngủ say. Thôi Thu Sơn nhẹ nhàng ôm cậu vào lòng, lắng tai nghe ngóng những tiếng la ó vang lên không dứt. Lát sau chàng thấy trên đỉnh núi có khói đen bay lên, ánh lửa đỏ rực soi sáng một vùng trời. Thế là từ đường của Viên Sùng Hoán đã bị quan binh đốt mất.

Qua nửa giờ nữa, nghe tiếng tù và trên núi vang lên. Thôi Thu Sơn đã đánh nhau mấy chục trận với bọn quan binh này, biết đó là hiệu lệnh thu quân xuống núi. Một lúc sau, đại đội nhân mã rầm rập kéo ngang qua kế bên, rất lâu vẫn chưa dứt. Thì ra sơn động này nằm ngay cạnh đường xuống núi của bọn quan binh.

Một lát sau, phía ngoài lùm cây có tiếng người ngồi xuống. Thôi Thu Sơn tay phải cầm cương xoa lên, tay trái đặt bên miệng Thừa Chí đề phòng cậu bé ngủ mơ thành tiếng, để hết tinh thần lắng nghe. Một người quát hỏi: “Tên nghịch tặc họ Viên có để lại một đứa con trai. Nó đâu rồi?”

Câu hỏi này rất vang dội, làm Thừa Chí thức dậy. Tay trái Thôi Thu Sơn liền khẽ ấn vào miệng cậu. Người kia lại quát tháo: “Ngươi chịu nói hay không? Không nói thì ta phải chặt đứt một cánh tay của ngươi trước”.

Một thanh âm khác mắng lại: “Ngươi muốn chặt thì chặt đi! Chúng ta vùng vẫy biên cương, cứ một đao một thương là lấy mạng một tên Thát tử, há sợ gì ngươi?”.

Đúng là giọng của Ưng Tùng. Thừa Chí khẽ la lên: “Ưng thúc thúc!”

Người kia gằn giọng: “Ngươi không chịu nói thật à?”

“Phẹt” một tiếng, hình như Ưng Tùng đã nhổ một bãi nước bọt lên mặt người đó. Tiếp theo là một tiếng la thê thảm, hình như họ Ưng đã bị tên kia chém cho một đao.

Thừa Chí không nhẫn nại được nữa, dùng sức giãy thoát khỏi tay Thôi Thu Sơn, la lớn: “Ưng thúc thúc!” Rồi cậu chạy thẳng ra ngoài.

Dưới ánh lửa, thấy rõ một người đang cầm đao chém xuống Ưng Tùng nằm dưới đất. Thừa Chí phóng người lên, thi triển thủ pháp Tả Kích Hữu Cầm của Phục Hổ Chưởng, đấm trúng ngay mắt phải của tên kia một quyền. Hắn thấy trước mắt đầy sao nhấp nháy, rồi cổ tay nhói lên một cái, thanh đao trong tay đã bị đoạt mất.

Thừa Chí thuận tay vung đao chém trúng vào vai hắn. Lực đạo yếu ớt, không chặt rớt được cánh tay, nhưng hắn đau quá thét lên ầm ĩ. Bọn quan binh bị bất ngờ, kinh hãi chạy tán loạn. Khi thấy rõ chỉ là một đứa bé, chúng lập tức quay trở lại, đao thương cùng đưa lên, rõ ràng chuẩn bị băm vụn Viên Thừa Chí ra.

Đột nhiên một cây cương xoa bay vù ra, cổ tay bọn quan binh đều chấn động, mấy tên để khí giới tuột khỏi tay. Thôi Thu Sơn túm lấy lưng Thừa Chí phóng vọt đi. Khi bọn quan binh bắn được tên, hai người đã chạy xuống dưới núi rồi.

Bọn chó săn Đông Xưởng nhận lệnh của thái giám Tào Hóa Thuần đến đây cốt ý lùng bắt Thôi Thu Sơn. Chàng vừa lộ diện, bốn tay hảo thủ lập tức rượt theo. Dưới nách chàng kẹp một đứa bé mà vẫn chạy như bay, nhanh chóng lạ thường. Một tên chó săn lấy tụ tiễn ra, vận hết kình lực ném tới sau lưng Thôi Thu Sơn.

Thôi Thu Sơn nghe sau gáy có tiếng gió, lập tức cúi người xuống, mũi tụ tiễn bay qua trên đỉnh đầu. Chàng vừa khựng lại một chút, một tên khác phóng liền ba mũi cương tiêu đến. Thôi Thu Sơn liền đặt Thừa Chí xuống đất, xoay tay trái lại chụp được hai mũi cương tiêu, né mũi thứ ba. Chàng chưa kịp phóng trả, tụ tiễn và phi hoàng thạch của địch đã phóng ào ào tới trước mặt. Thôi Thu Sơn vừa đón bắt, vừa múa xoa để gạt, vừa tránh né ám khí, kéo tay Thừa Chí chạy xuống núi.

Bốn tên chó săn của thiên tử nhìn thấy võ công Thôi Thu Sơn tinh diệu, không dám đuổi theo. Chúng chỉ đứng đó ngoác mồm ra thóa mạ, đồng thời tiếp tục phóng ám khí. Từ trên cao ném xuống, lực đạo càng thêm mãnh liệt.

Trong đêm tối chỉ nghe tiếng gió rít không dứt. Thôi Thu Sơn ôm Thừa Chí trước ngực, bước cao bước thấp vừa chạy vừa tránh né. Dù sao thì chàng phải ôm một người, chạy nhảy không tiện lợi. Né được ba hạt bồ đề tử bên phải, đùi trái chàng bỗng nhói lên một cái, trúng đoản tiễn. Vết thương chưa kịp đau đã ngứa ngáy dữ dội.

Chàng kinh hãi trong lòng, biết đoản tiễn có độc, nhưng không dám dừng lại mà cứ gấp rút chạy xuống núi. Vì chạy như thế, chất độc phát tán càng nhanh hơn. Chạy thêm được vài bước, chân trái chàng tê liệt, loạng choạng té nhào xuống đất. Thừa Chí kinh hãi, vội kêu lên: “Thôi thúc thúc!”

Bốn tên chó săn thấy địch thủ té ngã, vừa reo hò vừa chạy tới.

Thôi Thu Sơn bảo: “Thừa Chí! Chạy nhanh lên, nhanh lên! Để ta cản chúng.”

Nhưng Viên Thừa Chí bắt chéo song chưởng, nhảy ra đứng sau lưng Thôi Thu Sơn, đợi địch thủ đến. Thôi Thu Sơn nghĩ bụng: “Dựa vào chút xíu võ công của ngươi mà muốn bảo vệ ta hay sao?” Nhưng trong lòng chàng vô cùng cảm động.

Trong chớp nhoáng địch đã đuổi tới nơi, chạy đầu là hai tên sử đao. Một tên cầm quỷ đầu đao muốn bắt sống hai người, bèn trở sống đao lại gõ vào mắt cá chân Viên Thừa Chí. Cậu bé liền nhảy lên tránh né.

Thôi Thu Sơn dùng tay phải chống người dậy, quỳ một chân dưới đất, nhặt một tảng đá ném vào đầu tên cầm song đao. Hắn quá bất ngờ, muốn tránh né nhưng không thể kịp, bị đập trúng ngay trán, lập tức ngất xỉu. Tên sử quỷ đầu đao vừa ngẩn ra một chút, Thôi Thu Sơn đã phóng người tới, mười ngón tay siết chặt cổ họng của hắn.

Hắn vung đao chém lên vai Thôi Thu Sơn, nhưng chàng đã vận thêm kình lực vào tay, nên nhát đao tuy chém trúng nhưng không đủ mạnh. Chốc lát hắn đã tắt thở mà chết. Hai tên còn lại thấy đối thủ hung hãn như vậy, hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, vội vàng chạy ngược trở lại.

Cánh tay Thôi Thu Sơn chảy máu ròng ròng, nhưng vết thương không sâu lắm. Lúc này chân trái của chàng đã hoàn toàn mất hết cảm giác.

Thôi Thu Sơn nghiến chặt răng, dùng tay trái lượm thanh đao chống xuống đất, đẩy người đứng dậy. Bây giờ địch thủ đã chạy trốn, nhưng không bao lâu chắc chắn sẽ có viện binh kéo tới. Dĩ nhiên chàng không thể ở lại đây lâu, đành phải co chân trái lên, nhảy lò cò xuống dưới núi. Viên Thừa Chí đứng bên phải, kéo tay phải của chàng gác lên vai mình, từng bước đi về phía trước.

Đi được một hồi, độc tính của mũi đoản tiễn bên chân trái Thôi Thu Sơn dần dần xông lên phía trên, khiến cho tay trái cũng bắt đầu tê liệt, chỉ còn cách dùng tay phải để chống đỡ. Viên Thừa Chí cảm thấy vai mình càng lúc càng nặng, nhưng cậu không than thở tiếng nào, vẫn cố gắng hết sức dìu Thôi Thu Sơn xuống núi.

Chỉ chốc lát, hai người đã mệt mỏi vô cùng. Viên Thừa Chí thấy bên sườn núi có một nông trại, bèn gọi: “Thôi thúc thúc! Phía trước có người, chúng ta tới đó mà ẩn nấp.”

Thôi Thu Sơn gật đầu, miễn cưỡng kéo lê thân mình về phía trước. Đến trước cửa thì chàng hoàn toàn không gượng được nữa, té nhào xuống đất.

*

*   *

Viên Thừa Chí kinh hãi, cúi xuống la lên: “Thôi thúc thúc!”

Có tiếng mở cửa ken két rồi một phụ nữ trung niên bước ra. Viên Thừa Chí nói: “Đại nương! Bọn con gặp phải quan binh. Thúc thúc của con bị thương, xin đại nương cho chúng con tá túc một đêm”.

Nông phụ đó gọi một thiếu niên khoảng mười sáu mười bảy tuổi ra giúp một tay đỡ Thôi Thu Sơn vào trong, rồi xếp ba cái ghế dài lại cho chàng nằm tạm.

Thôi Thu Sơn trúng độc không nhẹ, may nhờ võ công tinh thâm nên tâm trí không hôn mê điên loạn. Chàng bảo Viên Thừa Chí cầm cây đèn dầu rọi vào vết thương bên đùi trái mà xem xét. Hai người đều giật mình hoảng sợ, thì ra bắp đùi này đã sưng to gấp đôi bình thường, chỗ tím ngắt, chỗ đen thẫm lại, trông rất kinh người.

Thôi Thu Sơn nhờ thiếu niên nhà nông đó bó lại vết thương trên cánh tay, rồi lấy vải siết mạnh đùi bên trái, đề phòng chất độc theo máu di chuyển vào tim. Sau đó chàng nắm chặt đuôi mũi đoản tiễn, dùng sức rút ra. Máu theo vết thương chảy ra, toàn là máu đen. Thôi Thu Sơn muốn cúi xuống hút máu độc ra, nhưng đùi sưng to quá, miệng không kề tới được.

Viên Thừa Chí bèn cúi xuống, dùng miệng hút từng ngụm máu đen trong vết thương ra, nhổ xuống đất. Hút được ba bốn chục ngụm, máu mới dần dần trở thành màu đỏ. Thôi Thu Sơn thở ra một hơi rồi nói: “May mà loại thuốc độc này chưa phải lợi hại nhất. Con mau đi súc miệng đi”.

Nông phụ đứng bên, mắt nhìn nhưng miệng không ngừng niệm Phật.

Trưa hôm sau, thiếu niên về nói là quan binh đã rút đi hết. Chân Thôi Thu Sơn đã bớt sưng, nhưng người phát sốt, bắt đầu nói năng lộn xộn như mê sảng. Viên Thừa Chí không biết làm sao, lo sợ khóc thút thít.

Nông phụ bảo: “Ta thấy chất độc trong mình thúc thúc của cháu chưa hút hết ra, phải lên thị trấn nhờ đại phu khám mới được”.

Viên Thừa Chí đáp: “Vâng, vâng. Nhưng làm sao con đưa thúc thúc đi được?”

Nông phụ này rất tốt bụng, cho mượn một chiếc xe bò, bảo thiếu niên đưa họ lên thị trấn. Thiếu niên đưa họ vào khách điếm rồi về ngay.

Khi hai người chạy xuống núi, không ai mang tiền theo. Viên Thừa Chí không biết làm sao, cứ rầu rĩ ngồi nhìn Thôi Thu Sơn hôn mê trên giường. Tiểu nhị trong khách điếm đến hỏi có ăn gì không, Thừa Chí không dám nói mình không có tiền, chối là không đói rồi cứ ngồi một chỗ mà khóc lóc.

Hồi lâu, rốt cuộc Thôi Thu Sơn cũng tỉnh lại một chút. Viên Thừa Chí liền hỏi mình phải làm gì. Thôi Thu Sơn hỏi: “Trong mình ngươi có mang theo món đồ nào giá trị hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Chỉ có cái vòng cổ này, không hiểu có được không.”

Cậu bé tháo cái vòng cổ đeo bên trong áo ra. Thôi Thu Sơn thấy cái vòng này làm bằng vàng, có khảm tám hạt châu nhỏ. Trên cái chốt khóa có khắc bốn chữ “Phú quý hằng xương”. Còn có hai hàng chữ nhỏ, một hàng là: “Viên công tử Thừa Chí chu tuế chi khánh”; một hàng là: “Tiểu tướng Triệu Suất Giáo kính tặng.” Thì ra đây là quà của đại tướng Triệu Suất Giáo, bộ hạ của Viên Sùng Hoán, tặng ngày Thừa Chí thôi nôi.

Triệu Suất Giáo cùng với ba người Tổ Đại Thọ, Hà Khả Cương, Mãn Quế là bốn đại danh tướng dưới trướng Viên Sùng Hoán. Năm đại thắng ở Ninh Viễn, Triệu Suất Giáo đã dẫn quân bản bộ giết được rất nhiều Thanh binh, thăng quan đến chức Tả đô đốc Bình Liêu tướng quân.

Tháng mười năm Sùng Trinh thứ hai, quân Thanh vòng qua Sơn Hải Quan, từ Đại An Khẩu tiến vào đánh úp kinh sư. Viên Sùng Hoán thống lĩnh bốn vị tướng này từ ngàn dặm xa xôi trở về cứu viện, nhưng lại bị Sùng Trinh nghi ngờ bắt giam nhốt vào đại lao. Triệu Suất Giáo và Mãn Quế xuất chiến, hy sinh trong trận đó. Còn Tổ Đại Thọ và Hà Khả Cương giận dữ, thống lãnh bộ hạ rời bỏ quân đội triều đình. Sau này, Viên Sùng Hoán từ trong ngục viết thư khuyên can, hai tướng Tổ Đại Thọ và Hà Khả Cương mới quy thuận về triều kháng địch, phòng thủ kinh sư.

Triệu Suất Giáo là danh tướng bộ hạ của Viên Sùng Hoán, thiên hạ ai cũng biết tên. Nhưng lúc này Thôi Thu Sơn thần trí mơ hồ, chưa suy nghĩ kỹ đã nói: “Bảo tiểu nhị của khách điếm dẫn ngươi đến tiệm cầm đồ, cầm tạm cái vòng cổ này. Sau này chúng ta sẽ chuộc lại”.

Viên Thừa Chí đáp: “Vâng, con đi ngay!” Rồi cậu lập tức nhờ tiểu nhị dẫn đến tiệm cầm đồ trong thị trấn.

Chủ tiệm cầm đồ vừa xem cái vòng đã giật mình kinh hãi, hỏi gặng: “Tiểu bằng hữu! Chiếc vòng này ở đâu cháu có?”

Viên Thừa Chí đáp: “Chính là của con”.

Chủ tiệm thay đổi sắc mặt, ngắm nghía Viên Thừa Chí từ đầu xuống chân rất lâu, rồi bảo: “Chờ ta một chút.”

Hắn đem cái vòng cổ đi vào trong nhà, nửa ngày vẫn chưa trở ra. Viên Thừa Chí và tiểu nhị ngồi chờ, lo lắng đến sốt ruột. Rất lâu, chủ tiệm mới bước ra nói: “Cầm được hai mươi lạng”.

Viên Thừa Chí không hiểu luật lệ, biếu tên tiểu nhị của khách điếm tới hai lạng bạc vì đã cố gắng giúp mình. Cậu cất bạc và giấy cầm đồ, tiện thể nhờ tiểu nhị dẫn đi mời đại phu, rồi mới trở về khách điếm. Nào ngờ sau lưng đã có hai tên công sai âm thầm theo dõi.

Viên Thừa Chí về phòng trọ, thấy Thôi Thu Sơn nằm thiêm thiếp, trán nóng hầm hập. Đại phu chưa tới, cậu sốt ruột chạy ra ngoài cửa nhìn xem. Đột nhiên bảy tám tên công sai cầm xích sắt và thước sắt xuất hiện, một tên nói: “Chính là thằng bé này”.

Tên công sai đi đầu quát hỏi: “Thằng nhóc kia! Ngươi họ Viên phải không?”

Viên Thừa Chí hoảng hốt đến nhảy dựng lên, chối ngay: “Không phải.”

Tên công sai cười ha hả, thò tay vào bọc lấy chiếc vòng cổ ấy ra, hỏi: “Cái vòng cổ này ngươi ăn cắp ở đâu?”

Viên Thừa Chí lo sợ đáp: “Không phải ăn cắp, mà là của con”.

Tên công sai cười gằn: “Viên Sùng Hoán là gì của ngươi?”

Viên Thừa Chí không dám trả lời, chạy vào phòng, dùng hết sức lay Thôi Thu Sơn dậy. Phía ngoài bọn công sai đã la lên: “Bọn gian tặc ở núi Thánh Phong đang trốn trong này. Đừng để chúng trốn thoát!”.

Thôi Thu Sơn nghe vậy lập tức ngồi dậy, cựa quậy muốn bước xuống đất, nhưng không cách nào gượng nổi. Chân chàng vừa chấm đất, người đã ngã nhào.

Bọn công sai ùa đến trước cửa phòng. Viên Thừa Chí không kịp dìu Thôi Thu Sơn dậy, vội chạy ra cửa, bắt chéo song chưởng đứng cản đường. Trong lòng cậu bé chỉ có một suy nghĩ: “Nhất định không để chúng bắt Thôi thúc thúc đi.”

Ngoài cửa là một khu vườn lớn. Những người giúp việc và khách trọ trong khách điếm này nghe có quan sai đến bắt phạm nhân, kéo nhau chạy tới khu vườn để xem náo nhiệt. Họ thấy bảy tám công sai đang ra oai với một đứa bé chỉ khoảng mười tuổi, đều cảm thấy kỳ lạ.

Một tên công sai vung sợi xích sắt lên, toan tròng vào cổ Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí lùi lại một bước tránh né, vẫn cản trước cửa không để chúng vào. Tên công sai đó rất giỏi nghề dùng xích bắt người, đã ăn mười mấy năm cơm của nha môn rồi, có thể nói không bao giờ thất thủ. Nào ngờ cậu bé này thân thủ nhanh nhẹn, hắn không tròng được xích vào đầu, nên tức giận vung tay phải ra toan chụp lấy tóc Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí thấy rất nhiều công sai hùng hổ, vốn đã hoảng sợ muốn khóc. Nhưng khi thấy đối phương đưa tay bắt mình, tự nhiên cậu ra chiêu Hoành Kha Đơn Tiên trong Phục Hổ Chưởng, nắm được cổ tay hắn giật một phát.

Tên công sai bước chân loạng choạng, suýt nữa té nhào, lại càng giận dữ hơn. Hắn vung cước đá mạnh, vừa đá vừa thóa mạ: “Thằng giặc con này! Hôm nay lão gia phải cho ngươi xem bản lãnh”.

Thừa Chí cúi xuống, hai tay ôm lấy đùi và mông của hắn, mượn sức đẩy ra phía ngoài. Thân hình mập mạp đó lập tức ngã ngửa ra sau, đập xuống đất nghe “bình” một tiếng sướng tai. Thật ra Viên Thừa Chí không có sức mạnh như thế, nhưng thừa lúc hắn đá chân lên cậu đã dùng sức của hắn mà hất hắn, nên hắn mới té nhào. Đây chính là một chiêu trong Phục Hổ chưởng pháp.

Những người đứng xem đều cất tiếng hoan hô. Thấy người lớn ăn hiếp con nít là họ đã ngứa mắt, huống chi bọn công sai quan phủ hoành hành bá đạo đã lâu, dân chúng hễ thấy là liếc xéo nghiến răng chửi bới. Phen này họ thấy công sai bị thua thảm hại, bất giác vui mừng.

Bọn công sai còn lại đều ngẩn ra, thầm nghĩ: “Hình như thằng nhóc này có tà pháp gì đó.” Chúng nháy mắt với nhau, vung đơn đao và thước sắt lên, cùng lúc ào tới. Mọi người thấy chúng đã dùng võ khí, ai cũng hoảng sợ lùi lại phía sau.

Tuy Thừa Chí đã học mấy năm võ nghệ, nhưng tuổi còn quá nhỏ, địch thủ lại nhiều, nên cậu không làm gì được nữa, chỉ liều mạng cản trở mà thôi. Chẳng bao lâu, vai cậu đã bị thước sắt đánh trúng rất nặng, nhịn không nổi phải khóc ầm lên.

Trong lúc nguy cấp, đột nhiên từ gian phòng bên trái có một đại hán xông ra, tung vọt người lên không, đáp xuống trước mặt Thừa Chí. Y đưa hai tay quơ chụp loạn xạ, không biết sử dụng thủ pháp gì mà chỉ chốc lát đã đoạt hết khí giới trong tay bọn công sai. Mấy tên công sai lùi lại chậm chạp một chút đã bị y đánh cho mấy quyền, mũi miệng sưng húp lên. Đại hán vừa đánh vừa kêu oa oa, thanh âm nghe rất kỳ lạ.

Một tên công sai hét lên: “Chúng ta đến đây để bắt yếu phạm. Ngươi là loại người nào? Mau mau biến khỏi đây!”.

Đại hán đó mặc kệ, nhoáng một cái đã bước tới trước mặt hắn, đưa tay phải túm lấy ngực áo quẳng ra. Tên công sai đó giống một con diều bị đứt dây, bay thẳng ra ngoài, nhào xuống đất nghe ầm một tiếng, đau đớn quằn quại. Bọn công sai còn lại không dám đứng đó nữa, kéo nhau chạy ào ra ngoài hết.

Đại hán đó bước tới trước mặt Viên Thừa Chí, hai tay quơ loạn lên, trong miệng chỉ phát ra những tiếng oa oa. Thì ra đây là một người câm, hình như đang hỏi lai lịch Viên Thừa Chí. Cậu bé không biết phải trả lời như thế nào, lo lắng trong lòng.

Đại hán đột nhiên đưa tả chưởng hướng lên trên, hữu chưởng hướng xuống đất, bắt đầu biểu diễn những chiêu thức Phục Hổ Quyền. Đến chiêu thứ mười Tỵ Thục Tiết Thủ, y thu chiêu lại.

Viên Thừa Chí hiểu ý, bắt đầu từ chiêu thứ mười một Hoành Suyễn Hổ Yêu, thi triển tiếp bốn chiêu. Ông câm mỉm cười gật đầu lia lịa, đưa tay ôm lấy Viên Thừa Chí, ra vẻ rất thân mật.

Viên Thừa Chí chỉ vào trong, ra hiệu trong phòng có người. Ông câm liền bế cậu vào phòng. Thấy Thôi Thu Sơn đang ngồi dưới đất, mặt nhợt nhạt như người chết, y giật mình kinh hãi chạy tới. Hình như Thôi Thu Sơn quen biết y, đưa tay chỉ vào chân mình ra hiệu. Ông câm gật đầu, tay trái dẫn Viên Thừa Chí, tay phải bế Thôi Thu Sơn, sải bước ra khỏi khách điếm. Thôi Thu Sơn nặng tới một trăm mấy chục cân, thế mà ông câm này bế chàng như như bế trẻ nít, chẳng thấy gắng sức gì cả, chân chạy như bay.

Hai tên công sai đang trốn bên vệ đường, thấy ông câm chạy về hướng Tây, bèn chạy xa xa theo dõi. Nhất định chúng muốn xem họ dừng ở đâu, để gọi người tới bắt.

Lúc này Thôi Thu Sơn lại mê man bất tỉnh nhân sự trên tay ông câm. Ông câm không nghe được âm thanh ở xa. Viên Thừa Chí kéo tay y, hất đầu ra sau bĩu môi một cái. Ông câm quay lại, thấy phía sau có công sai, nhưng mặc kệ, cứ tiếp tục đi về phía trước.

Bốn bề hoang vu không một nóc nhà, cũng không có người qua lại. Đi được khoảng hai ba dặm, ông câm đột nhiên đặt Thôi Thu Sơn xuống đất, tung người nhảy ngược lại, đến chỗ hai tên công sai đó. Chúng quay người chạy trốn nhưng không kịp nữa, bị y túm lấy sau lưng, xách mỗi tay một người quăng xuống thung lũng. Nghe tiếng la lên thê thảm rồi tắt lịm, rõ ràng cả hai đã chết rồi.

Ông câm lại bế Thôi Thu Sơn lên, sải bước như bay về phía trước. Phen này Viên Thừa Chí không theo kịp được nữa. Cậu miễn cưỡng sải cặp giò vừa ngắn vừa nhỏ cố gắng chạy theo, nhưng chỉ hơn một dặm là thở hổn hển rồi. Ông câm bật cười, cúi xuống ôm lấy Viên Thừa Chí nhấc lên. Y hai tay bế hai người, nhưng chạy càng nhanh hơn trước. Rất lâu y mới rẽ sang trái, chạy về phía chân núi.

*

*   *

Vượt qua hai ngọn núi, thấy ở lưng chừng núi có ba gian nhà tranh. Ông câm chạy về hướng đó. Đến gần thì thấy một người từ trong nhà bước ra, đó là một thiếu phụ chưa tới ba mươi tuổi. Bà gật đầu với ông câm một cái, rồi nhìn thấy hai người Thôi, Viên, ra vẻ kinh ngạc. Bà đưa tay ra hiệu với ông câm một hồi, rồi dẫn mọi người vào trong nhà. Thiếu phụ kêu lên: “Tiểu Huệ, mau đem trà ra đây!”

Một bé gái ở phòng bên vâng dạ, rồi xách bộ ấm chén thô kệch qua, ngẩn ra nhìn hai người Thôi, Viên. Đôi mắt của cô bé tròn xoe đen nhánh, xoay chuyển nhìn hết chung quanh.

Thiếu phụ tuy không nhung gấm phấn son, nhưng nét mặt xinh đẹp, dáng người cân đối. Đứa bé gái cũng rất linh lợi khả ái.

Thiếu phụ cất tiếng hỏi Viên Thừa Chí: “Con tên gì? Sao lại gặp ông ấy?”

Viên Thừa Chí biết bà là bạn của ông câm, nên trả lời ngay, không giấu giếm gì.

Thiếu phụ nghe nói Thôi Thu Sơn trúng độc bị thương, liền lấy trong túi ra mấy cái bình nhỏ, đổ thuốc bột màu trắng và màu đỏ ra, trộn chung lại, khuấy nước cho Thôi Thu Sơn uống. Rồi bà lấy một con dao nhỏ cắt bỏ hết chỗ thịt thối rữa trên chân Thôi Thu Sơn, bó thuốc bột màu vàng lên. Để một lúc, bà lấy nước rửa sạch, rồi lại bó thuốc khác lên. Cứ thế rửa đi bó lại ba lần, Thôi Thu Sơn đã rên được mấy tiếng.

Thiếu phụ mỉm cười với Viên Thừa Chí, nói: “Hết nguy hiểm rồi.” Bà đưa tay ra hiệu, bảo ông câm bế Thôi Thu Sơn vào trong nghỉ ngơi.

Thiếu phụ vừa thu dọn thuốc men, vừa nói với Viên Thừa Chí: “Ta họ An, con kêu ta bằng An thẩm thẩm là được. Đây là con gái của ta, nó tên là Tiểu Huệ. Con cứ ở lại đây với thẩm thẩm.”

Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ. An đại nương xuống bếp nấu mì.

Viên Thừa Chí đã mệt mỏi một ngày một đêm nên không gượng được nữa, ăn xong nằm gục ngay trên bàn mà ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, cậu bé nhận ra mình đang nằm trên giường. Tiểu Huệ dẫn đi rửa mặt, Thừa Chí nói: “Để ta đi thăm Thôi thúc thúc đã. Vết thương của thúc thúc đã đỡ chưa?”

Tiểu Huệ nói: “Bác câm đã cõng Thôi thúc thúc đi từ sớm rồi.”

Thừa Chí giật mình hỏi lại: “Thật không?”

Tiểu Huệ gật đầu. Thừa Chí chạy vào trong phòng, quả nhiên không thấy Thôi Thu Sơn và ông câm đâu nữa. Cậu đột nhiên không tự chủ được, khóc òa lên. Tiểu Huệ dỗ: “Đừng khóc, đừng khóc nữa.”

Thừa Chí không nghe lời, Tiểu Huệ liền kêu lên: “Mẹ, mẹ ơi! Đến đây nhanh lên.”

An đại nương chạy tới, Tiểu Huệ nói: “Huynh ấy thấy Thôi thúc thúc và bác câm đi rồi, khóc mãi không chịu nín.”

An đại nương dịu dàng dỗ: “Con ngoan! Thôi thúc thúc của con bị thương rồi, mà bị thương rất nặng, có phải vậy không?”

Thừa Chí gật đầu. An đại nương lại nói: “Ta chỉ cấp cứu tạm thời, giữ cho độc khí ở vết thương không chạy lung tung, chứ không chữa Thôi thúc thúc lành hẳn được đâu. Vì thế bác câm phải cõng Thôi thúc thúc đi tìm người khác để chữa trị. Khi lành vết thương, thúc thúc sẽ đến đây với con.”

Thừa Chí nghe vậy mới từ từ nín khóc. An đại nương nói: “Thúc thúc sẽ lành bệnh nhanh thôi. Bây giờ con đi rửa mặt đi, rồi vào ăn cơm.”

Ăn cơm xong, An đại nương bảo Viên Thừa Chí kể lại tỉ mỉ những chuyện đã qua, vừa nghe vừa không ngớt than thở. Thế là Viên Thừa Chí tạm trú lại đây.

*

*   *

An đại nương bảo Viên Thừa Chí biểu diễn lại tất cả những võ công đã học cho bà xem. Xem xong, bà gật đầu nói: “Vậy là khó cho con lắm rồi.”

Từ đó, ngày nào An đại nương cũng bảo Viên Thừa Chí tự mình luyện võ. Hay dở thế nào, bà chẳng bao giờ chỉ điểm thêm, mà lúc Viên Thừa Chí luyện võ bà cũng rất ít khi đứng xem. Tiểu Huệ thường chơi chung với cậu, nhưng khi cậu luyện võ, cô bé cũng bị mẹ kêu đi chỗ khác.

Thừa Chí từ nhỏ đã mất cha mẹ. Tuy rằng Ưng Tùng, Chu An Quốc mọi người chăm lo cho cậu rất chu đáo, nhưng họ đều là tướng quân quát gió gầm mây, dĩ nhiên chăm sóc trẻ nít không chu đáo được. Bây giờ cậu được An đại nương đối xử như một người mẹ hiền, quan tâm chu đáo, lại có Tiểu Huệ làm bạn, nên cuộc sống lúc này có thể nói là những ngày tháng ấm cúng nhất, hạnh phúc nhất mà từ nhỏ cậu chưa được biết. Chỉ có điều ngày nào cậu cũng lo lắng, không biết Thôi thúc thúc bao giờ mới trở về.

Mới đó mà đã mười mấy ngày. Hôm đó An đại nương phải lên thị trấn để mua thực phẩm, lại còn phải đi cắt vải để may quần áo cho Viên Thừa Chí. Hôm gặp nạn trên đỉnh Thánh Phong, cậu phải lăn lê bò lết, quần áo bị đá núi cành cây làm cho rách nát hết. Tuy An đại nương đã vá lại cho, nhưng đầy người vá víu chẳng dễ coi gì.

An đại nương dặn dò hai đứa bé ở nhà, đừng vào trong núi kẻo gặp sói. Chúng ngoan ngoãn vâng dạ.

An đại nương đi rồi, hai đứa bé đều vâng lời không bước ra ngoài, ở trong nhà kể chuyện cho nhau nghe. Chúng chơi trốn tìm được nửa ngày, rồi lấy chén đũa nhỏ để chơi đồ hàng, giả bộ nấu cơm. Tiểu Huệ nói: “Huynh ở đây làm gà đi, để muội đi mua thịt.”

Làm gà chính là xắt củ cải thành miếng nhỏ, còn mua thịt là đi nhặt hạt dẻ ở ngoài cửa.

Tiểu Huệ ra ngoài nhặt hạt dẻ, khá lâu không thấy trở vào. Viên Thừa Chí kêu lớn tiếng: “Tiểu Huệ, Tiểu Huệ”, cũng không nghe trả lời. Cậu nhớ đến lời An đại nương dặn, sợ cô bé gặp sói thật, liền xuống bếp lấy một cây chĩa dùng để đun củi, chạy ra ngoài cửa.

Vừa ra khỏi cửa, cậu giật mình nhìn thấy Tiểu Huệ bị một tên võ quan kẹp vào nách, định bắt xuống núi. Tiểu Huệ vừa giãy giụa vừa la ầm lên. Thừa Chí quát một tiếng, cầm cây chĩa đâm vào sau lưng tên võ quan.

Tên võ quan không kịp đề phòng, bị đâm trúng ngay. Nhưng Viên Thừa Chí thấp bé nên không đâm được vào lưng, chỉ đâm tới mông hắn. May mà cây chĩa này dùng để cời than nên không bén nhọn gì, không đâm sâu vào thịt.

Đại hán giận dữ thả Tiểu Huệ xuống, rút soạt đơn đao, quay lại chém tới. Viên Thừa Chí từng học thương pháp với Nghê Hào, liền cầm cây chĩa thi triển những chiêu thức Nhạc Gia Thần Thương, có công có thủ, đánh nhau kịch liệt với tên võ quan đó.

Đại hán kia sức mạnh đao bén, thế mà Viên Thừa Chí dựa vào thân pháp nhanh nhẹn cũng đối phó được mười mấy chiêu. Đại hán thấy mình đánh mãi không thắng một đứa bé, trong lòng không khỏi lo thầm. Hắn khom người xuống, thay đổi đấu pháp.

Lúc đầu hắn ra chiêu quá nửa là vô dụng, vì thân hình của Viên Thừa Chí quá thấp nên hễ hắn nhắm vào thượng bàn là hụt hết. Hắn phát giác ra, liền chuyển sang dùng địa đường đao pháp, nhưng cảm thấy đối phó với một đứa trẻ nít không cần phải dùng toàn lực, nên không nằm rạp xuống đất để xuất chiêu.

Chỉ như thế Viên Thừa Chí cũng khó chống đỡ lắm rồi. Trong lúc nguy cấp, An Tiểu Huệ bỗng xách một cây trường kiếm ra, đâm vào người tên đại hán. Hắn cất tiếng thóa mạ: “Ái chà! Con bé này cũng muốn chết phải không?”

Tên võ quan cầm đơn đao gạt ngang ra, muốn đánh văng thanh trường kiếm trong tay Tiểu Huệ. Cô bé thân thủ cũng rất linh hoạt, xoay trường kiếm lại đâm vào sau đùi hắn. Đồng thời Thừa Chí cũng đâm cây chĩa tới. Đại hán cùng lúc bị hai đứa bé làm bối rối cả tay chân, quát tháo chửi mắng lung tung.

Lúc đầu thấy Tiểu Huệ tới giúp một tay, Viên Thừa Chí cứ lo cô bé bị thương. Nhưng xem được hai chiêu ba thức, cậu mới thấy thân thủ của cô khá nhanh, kiếm pháp cũng rất thuần thục. Viên Thừa Chí trẻ con hiếu thắng, quyết không chịu thua kém, nên múa cây chĩa càng gấp rút hơn.

Đại hán thấy thương pháp và kiếm pháp của hai đứa trẻ này rất bài bản, chỉ vì khí lực quá yếu nên thành vô dụng. Dù sao hắn cũng phải phong tỏa hết những chỗ sơ hở của mình, vừa cười gằn vừa mắng nhiếc mà cầm cự. Cứ thế một hồi, quả nhiên hai đứa bé bị hao sức, gượng không nổi nữa. Đại hán đưa đơn đao lên, dùng hết sức gạt vào trường kiếm của Tiểu Huệ.

Tiểu Huệ tránh không kịp, để trường kiếm bị đơn đao chạm vào. Cô bé nắm không vững, kiếm lập tức vuột khỏi tay bay tít ra xa. Thừa Chí kinh hãi, vội múa cây chĩa đâm vào trước mặt hắn. Đại hán đưa đao lên cản, đồng thời phóng cước ra đá vào Tiểu Huệ.

Viên Thừa Chí không đếm xỉa gì đến tính mạng mình nữa, cầm chĩa cố hết sức tấn công. Nhưng trong lòng cậu bé đã hoảng loạn, nên sử cây chĩa không thành bài bản nữa.

Đại hán cười lên ha hả, tiến lên một bước, vung đao chém từ trên đầu xuống. Thừa Chí đưa chĩa lên đỡ, hắn dùng tay trái túm được, vận sức bẻ mạnh. Thừa Chí vừa thấy cổ tay đau nhói, cây chĩa đã tuột khỏi tay.

Đại hán bỏ mặc cậu, tiện tay quẳng cây chĩa đi, chạy đến bên Tiểu Huệ. Hắn vung tay phải ra ôm lấy lưng Tiểu Huệ, bế thốc cô bé chạy xuống núi.

Cổ tay Viên Thừa Chí rất đau, nhưng cậu thấy Tiểu Huệ bị bắt, liền lượm cây chĩa rượt theo. Gã đại hán kia mắng: “Thằng tiểu quỷ này, muốn chết hay sao?”

Tay trái hắn ôm chặt Tiểu Huệ, tay phải vung đao quay lại chém. Viên Thừa Chí tránh được năm sáu chiêu, cuối cùng tay trái bị đơn đao xén đi một mảnh áo, da bị rạch một đường, máu tươi ứa ra ngoài. Đại hán mỉm cười hỏi: “Tiểu quỷ! Còn dám đuổi nữa không?”

Viên Thừa Chí vẫn không lùi bước, la lên: “Ngươi bỏ Tiểu Huệ xuống đi, ta sẽ không đuổi nữa.” Cậu bé cứ xách cây chĩa mà đuổi mãi không chịu thôi.

Đại hán nổi giận, sinh ra ác tâm. Hắn nghĩ bụng: “Hôm nay mà không kết liễu thằng tiểu quỷ này, thì nó cứ lẵng nhẵng mãi không sao thoát được”.

Hắn quát lên một tiếng, quay người lại vung đao chém loạn lên. Mới được vài hiệp, hắn đã dùng chân phải quét ngang, đá ngã được Viên Thừa Chí. Phen này hắn không dung tình nữa, vung đao lên muốn chém chết cậu bé. Tiểu Huệ vô cùng kinh hãi, dùng cả hai tay níu kéo cánh tay của hắn, ra sức cắn vào cổ tay một cái. Đại hán đau quá, giận dữ thét lên be be. Thừa Chí thừa cơ lăn người ra ngoài thoát được.

Gã đại hán vung tay tát bốp vào mặt Tiểu Huệ, lại múa đao chém tới Thừa Chí. Cậu nghiêng người tránh né, nhưng cũng bị mũi đao nhọn hoắt vạch trúng lông mày bên trái, máu tươi đã chảy ra.

Đại hán nghĩ rằng cậu bé không dám đuổi theo nữa, nên xách Tiểu Huệ lên chạy đi. Nào ngờ Thừa Chí như lên cơn điên, lại xô tới ôm chặt lấy hắn. Trong lúc gấp rút mà cậu vẫn nhớ được Phục Hổ Chưởng, ra chiêu Đảo Ngũ Kim Chung toan bẻ ngược chân trái của hắn lại.

Đúng là Thừa Chí đã thừa hưởng tính cách quật cường, thà chết không khuất phục của phụ thân. Tình thế nguy cấp đến thế, mà cậu vẫn không chịu để Tiểu Huệ bị địch thủ bắt đi.

Gã đại hán kia vừa đau vừa tức, co chân phải lên đá Viên Thừa Chí lộn ngửa ra ngoài. Hắn vung đao lên, đang muốn chém xuống, đột nhiên nghe phía sau có tiếng hét, rồi sau gáy nghe một tiếng “bốp”. Gáy hắn ướt đẫm, có cái gì đó bầy nhầy dính dính. Hắn không biết có phải mình bị người ta đánh cho chảy máu hay không, giật mình quay đầu lại thì thấy An đại nương đứng xa mấy trượng, hai tay đang vung lên.

Gã đại hán biết bà lợi hại, liền bỏ Thừa Chí lại, toan ôm Tiểu Huệ chạy trốn. An đại nương lại vẫy tay, ba quả trứng gà liên tiếp ném vào mặt hắn. Đại hán né tả né hữu tránh được hai quả, còn quả thứ ba không thể né kịp nữa. “Bụp” một tiếng, hắn bị trúng ngay sống mũi, lòng trắng lòng đỏ chảy xuống đầy mặt.

An đại nương nhặt đến quả trứng cuối cùng, lại ném trúng vào mắt trái hắn. Thủ kình của bà không yếu, tuy chỉ là một quả trứng mà đối phương cũng phải váng cả mặt mày.

Gã đại hán cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Ngươi không xào trứng để mời lão gia ăn thì thôi, lại còn dùng trứng để đánh lão gia.”

Hắn ném Tiểu Huệ xuống đất, đưa tay trái lên xoa mắt mấy cái, xách đao nhảy về phía An đại nương. Trong tay An đại nương không có binh khí, chỉ còn cách tránh né liên tục.

Viên Thừa Chí thấy bà nguy cấp, liền xách chĩa tới đâm vào sau lưng gã đại hán. Cậu bé thấy đã có người trợ giúp, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Cây chĩa trên tay vừa gạt vừa đâm, vừa công vừa thủ, quả nhiên sử được Nhạc Gia Thần Thương tới ba phần công lực.

An đại nương rảnh tay một chút, liền nảy ra một ý. Bà lấy trong giỏ ra tấm vải mới mua để may quần áo cho Viên Thừa Chí, giũ thẳng ra trước gió, ném xuống khe suối sau lưng mình. Bà lại nhặt ba hòn đá ném tới.

Gã đại hán vừa phải tránh né mấy cục đá, vừa phải đề phòng cây chĩa, liền lùi ba bước. An đại nương nhặt lấy tấm vải đã thấm nước, hét lên: “Hồ lão tam! Ngươi thừa lúc ta không có nhà mà đến đây ăn hiếp bọn trẻ con, như vậy gọi là hảo hán sao?”

Bà vừa quát vừa vung tấm vải ướt đẫm lên, đánh tới gã đại hán. Tuy nội lực của bà không đủ để múa tấm vải ướt thành một cây côn, nhưng tấm vải dài thấm nước khi vẫy ra cũng khá có lực đạo.

Hồ lão tam chau mày, phóng cước đá ngã Viên Thừa Chí, rồi quay lại đánh với An đại nương. Viên Thừa Chí bò dậy, nhặt lấy cây chĩa, lại nhảy vào đánh tiếp.

Võ công của An đại nương vốn đã trên Hồ lão tam, bây giờ trong lòng phẫn nộ, tấm vải ướt càng lúc càng lợi hại hơn. Lưng của Hồ lão tam liên tục bị tấm vải đánh trúng, nước bắn tung toé, sau lưng đã cảm thấy tê nhức. Hắn xuất thủ hơi chậm một chút, đơn đao đã bị tấm vải quấn lấy kéo ngược lại, tuột khỏi tay.

Hắn tung người nhảy lùi hai bước, vừa cười gằn dữ tợn vừa nói: “Ta được chồng ngươi nhờ vả, nên mới đến đây đón con gái của ông ấy về. Đã là âm hồn bất tán, nhất định có ngày chúng ta sẽ quay trở lại. Con mụ kia! Cẩm y vệ như ta mà ngươi cũng dám đắc tội, thật sự không sợ vương pháp hay sao?”.

An đại nương nhíu đôi lông mày, lại vung tấm vải ướt lên quét ngang tới. Hồ lão tam đã đề phòng chiêu này, nói vừa dứt câu đã tung người nhảy lùi ra. Hắn đứng xa xa, chỉ trỏ chửi mắng: “Con mẹ nó! Hôm nay coi như ngươi mời ta ăn hột gà sống. Có ngày lão gia cũng bắt được ngươi nhốt vào thiên lao. Lúc đó ta sẽ xẻo thịt mông của mụ để xào măng, lại cắm mười cây tăm tre vào mười đầu ngón tay mụ, cho mụ nếm thử mùi vị. Hôm nay nể mặt chồng mụ, ta tạm tha cho mụ một phen”.

Chửi được mấy câu, hắn quay đầu chạy xuống núi. An đại nương không đuổi theo, quay lại xem xét Tiểu Huệ và Thừa Chí.

Tiểu Huệ không bị thương, nhưng hoảng sợ đến nỗi ngơ ngác thất thần, hồi lâu mới nhảy vào lòng mẹ khóc rống lên. Còn Thừa Chí thì máu tươi chảy đầy mặt đầy người. An đại nương liền rửa sạch vết thương cho cậu, lấy thuốc ra băng bó. May mà hai nhát đao không sâu lắm, chảy máu nhiều nhưng thương thế không nặng.

An đại nương bế Viên Thừa Chí vào giường ngủ, rồi mới bảo Tiểu Huệ kể lại tỉ mỉ vừa rồi Viên Thừa Chí liều mạng cứu mình như thế nào.

An đại nương nhìn Thừa Chí, trong lòng thầm nghĩ: “Không ngờ tuổi nó còn nhỏ như vậy mà đã có tấm lòng nghĩa hiệp rồi. Chúng ta không thể ở đây lâu dài nữa, phải có cách để giúp đỡ nó cho tốt đẹp hơn”.

Bà bảo Tiểu Huệ: “Con cũng đi ngủ đi. Tối nay chúng ta phải rời khỏi đây”.

Tiểu Huệ đã cùng mẹ chuyển chỗ ở quen lắm rồi, nên không ra vẻ kinh ngạc gì. An đại nương thu dọn một ít đồ đạc cần dùng, xếp vào hai cái bao.

Ăn cơm tối xong, ba người thắp đèn cầy ngồi đó. An đại nương không chốt cửa, hình như đang đợi cái gì.

Đôi mày xinh đẹp khẽ chau lại, bà chống cằm ngơ ngẩn. Lát sau khóe mắt bà hơi đỏ lên, hình như nước mắt sắp lăn xuống. Viên Thừa Chí thấy vậy thầm nghĩ: “Tên Hồ lão tam kia nói là chồng của An thẩm thẩm bảo hắn đến đây đón Tiểu Huệ về, không biết vì lý do gì. Chồng của An thẩm thẩm bức hiếp bà, khi mình lớn lên, luyện võ nhiều rồi, nhất định phải đánh cho hắn một trận để An thẩm thẩm hả dạ. Nhưng khi Tiểu Huệ thấy gia gia bị mình đánh, không biết có vui mừng hay không?”.

Cậu lại nghĩ: “Hồ lão tam tự xưng là cẩm y vệ. Hừ, bọn cẩm y vệ cực kỳ tệ hại, má má của mình cũng bị chúng bắt đi hại chết. Sẽ có một ngày mình giết sạch bọn cẩm y vệ, trả thù cho má má”.

Sau khi Viên Sùng Hoán bị Sùng Trinh xử tử, huynh đệ và thê tử của ông đều bị hoàng đế hạ chỉ sung quân, đày ra ngoài ba vạn dặm. Khi cẩm y vệ đến bắt người nhà họ Viên, đám thuộc hạ của Viên Sùng Hoán biết tin kéo đến cứu Viên Thừa Chí ra, nhưng Viên phu nhân thì không cứu được. Năm xưa cẩm y vệ đến bắt người tịch thu gia sản, tên nào cũng ra vẻ hung dữ như sài lang hổ báo. Hình ảnh đó đã in rất sâu trong trí của Viên Thừa Chí từ thuở nhỏ.

Hồi 03: Tháng năm chăm luyện kiếm – Sớm tối học chơi cờ

Vào khoảng canh hai, từ ngoài cửa vọng vào tiếng bước chân rất khẽ. Một người đi vào như bay, chính là ông câm. Thân hình ông khôi vĩ tráng kiện nhưng đi lại rất nhẹ nhàng, đặt chân xuống đất chỉ phát ra chút xíu âm thanh.

Nhìn thấy ông câm, Viên Thừa Chí cả mừng nhảy xổ vào lòng, lên tiếng hỏi ngay: “Thôi thúc thúc đâu? Thúc thúc có khỏe hay không?”. Cậu quên mất là ông ta bị câm điếc.

Ông câm hé môi mỉm cười với cậu, hiển nhiên gặp lại Viên Thừa Chí cũng rất vui mừng. Hồi lâu ông mới quay sang An đại nương, dùng tay ra hiệu, chỉ lên vạch xuống.

An đại nương quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Thôi thúc thúc không sao cả, con yên tâm đi.” Bà cũng dùng tay ra hiệu với ông câm.

Ông câm không ngớt gật đầu mỉm cười, vỗ bôm bốp hai tay vào nhau liên tục. Viên Thừa Chí không hiểu ông ta khen ngợi việc gì mà vui vẻ đến thế.

An đại nương kéo Viên Thừa Chí vào trong phòng, cho cậu bé ngồi trên giường cạnh mình. Bà dịu dàng nói: “Thừa Chí! Thẩm thẩm vừa gặp con đã thấy yêu thương, coi con như con ruột của mình vậy. Hôm nay con lại không quản tính mạng mình mà cứu giúp cho Tiểu Huệ, thẩm thẩm lại càng không thể quên con. Nhưng tối nay thẩm thẩm phải đi đến một nơi rất xa. Con hãy đi theo bác câm đi.”

Viên Thừa Chí nói: “An thẩm thẩm! Con muốn đi theo thẩm thẩm.”

An đại nương mỉm cười nói: “Thẩm thẩm cũng không nỡ xa con. Nhưng thẩm thẩm muốn bác câm dẫn con đi gặp một người, người đó sẽ dạy con biết võ công như Thôi thúc thúc. Thôi thúc thúc của con chỉ học với ông ấy hai tháng, mà võ nghệ đã cao đến thế rồi. Võ công của vị tiền bối này là thiên hạ vô song, thẩm thẩm muốn con theo học ông ấy.”

Viên Thừa Chí nghe vậy là khoái chí ngay.

An đại nương lại bảo: “Suốt đời ông ấy chỉ nhận hai đồ đệ. Nhưng đó là việc rất lâu rồi, bây giờ chưa chắc ông ấy đã chịu nhận đồ đệ nữa. Nhưng tư chất của con rất tốt, tâm địa lại lương thiện; thẩm thẩm nghĩ rằng ông ấy sẽ thích con. Bác câm là người hầu cận ông ấy. Ta nhờ bác câm dẫn con đến cầu xin. Nếu ông ấy không chịu nhận con, thì bác câm sẽ dẫn con về chỗ thẩm thẩm.”

Thừa Chí gật đầu, nghĩ bụng: “Nếu ông ấy không chịu nhận mình làm đồ đệ cũng tốt”.

An đại nương dặn tiếp: “Tính khí của vị tiền bối này rất cổ quái. Nếu con không nghe lời, ông ấy đương nhiên không thích. Nhưng nếu con quá nghe lời, ông ấy lại chê con ngu dại, không có chủ ý của mình. Phải xem duyên phận của con như thế nào thôi.”

Nói xong, bà tháo từ cổ tay ra một chiếc vòng kết bằng sợi vàng, đeo vào cổ tay Viên Thừa Chí rồi nhẹ nhàng bóp lại. Chiếc vòng lập tức rút nhỏ lại, không tuột xuống nữa. Bà mỉm cười nói: “Khi con luyện thành võ công, trở thành người lớn, đừng quên An thẩm thẩm và Tiểu Huệ muội muội.”

Viên Thừa Chí đáp: “Con vĩnh viễn không quên. Nếu vị tiền bối đó chịu nhận con, thì An thẩm thẩm sẽ dẫn Tiểu Huệ muội muội đến thăm con chứ?”

Khóe mắt An đại nương hơi đỏ lên. Bà khẽ nói: “Nhất định là thế. Thẩm thẩm cũng rất nhớ con.”

An đại nương viết một lá thư giao cho ông câm, nhờ chuyển cho chủ nhân của ông. Bốn người ra ngoài cửa rồi từ biệt nhau, ai đi đường nấy.

Viên Thừa Chí cùng ở với An đại nương và Tiểu Huệ không được bao lâu, nhưng hai mẹ con đối đãi với cậu vô cùng quan tâm thân thiết. Qua trận chiến hôm nay, họ lại có cảm giác cùng hoạn nạn, cùng sinh tử. Vì thế mà khi từ biệt, người nào cũng ra vẻ lưu luyến không nỡ rời xa.

*

*   *

Ông câm biết Thừa Chí bị thương vẫn còn chảy máu, thân thể yếu đuối, nên ôm cậu vào lòng mà sải bước chạy như bay.

Cứ ngày đi đêm nghỉ, hai người không ngừng chạy về hướng Bắc. Hơn một tháng trời, vết thương của Viên Thừa Chí đã lành, chỉ để lại phía trên lông mày bên trái một vết sẹo nhỏ. Ông câm không trú trong khách sạn, cứ mỗi hoàng hôn lại chọn bừa một hang động hay một ngôi miếu hoang để nghỉ lại. Còn khi ăn uống thì phải vào phạn điếm, Viên Thừa Chí muốn ăn gì cứ gọi. Về chuyện ăn uống thì ông câm không câu nệ, thấy gì ăn đó. Bữa nào ông cũng ăn đến hai cân mì.

Lần nào Viên Thừa Chí dùng tay ra hiệu hỏi mình đang đi đâu, ông câm cũng trỏ về hướng Tây Bắc.

Nhiều ngày nữa thì họ đến một vùng núi, càng đi càng lên cao, cuối cùng không còn đường để đi nữa. Ông câm dùng cả tay chân men theo vách núi và những sợi dây mây trèo lên, trèo hết đỉnh này lại đến đỉnh khác. Bên sườn núi toàn là những thung lũng sâu hun hút. Viên Thừa Chí phải dùng hai tay cố ôm chặt lấy cổ ông câm, chỉ sợ lỏng tay là rơi xuống tan xương nát thịt.

Cứ thế trèo hơn một ngày, hai người mới đến đỉnh núi cao nhất. Trên đỉnh núi là một khu đất bằng phẳng, đầy những cây tùng cổ đâm thẳng lên trời. Qua một khu rừng thông, trước mắt xuất hiện năm sáu gian nhà dựng bằng đá tảng.

Ông câm cười vui vẻ, kéo tay Viên Thừa Chí vào trong nhà đá. Trong nhà mạng nhện giăng đầy, hiển nhiên rất lâu không có ai ở. Ông câm lấy một cây chổi lớn, quét sạch sẽ từ trong ra ngoài, sau đó nấu nước thổi cơm. Đỉnh núi này quá hiểm trở, không hiểu lương thực và dụng cụ được vận chuyển lên bằng cách nào.

Ở được ba ngày, Viên Thừa Chí lại nóng ruột, dùng tay để hỏi: “Sư phụ ở đâu?”

Ông câm chỉ xuống dưới núi. Viên Thừa Chí tỏ ý muốn xuống núi, nhưng ông câm lắc đầu không chịu. Viên Thừa Chí không làm gì được, đành phải chờ đợi một cách khổ sở trên đỉnh núi chọc trời. Bên cạnh chỉ có ông câm không nghe không nói gì được, xung quanh không có hàng xóm, hoang vắng cô quạnh không sao tả xiết. Cậu nghĩ mãi đến những ngày ấm cúng ngắn ngủi bên hai mẹ con An đại nương; chỉ tiếc không thể mọc cánh mà bay đến bên bà.

Một đêm trong lúc mơ màng, đột nhiên Viên Thừa Chí thấy ánh sáng chói vào mắt. Cậu dụi dụi mấy cái, bỗng hiện ra một ông lão cầm nến đứng trước giường. Ông lão này râu tóc lông mày đều bạc phơ, nhưng khuôn mặt rất hồng hào, mỉm cười quan sát Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí vội nhảy xuống giường, cung kính quỳ lạy ông lão bốn cái rồi hô lên: “Sư phụ! Thì ra lão nhân gia đã đến rồi.”

Ông lão cười ha hả rồi nói: “Thằng bé kia! Ai bảo ngươi kêu ta là sư phụ? Sao ngươi biết ta sẽ nhận ngươi làm đồ đệ?”

Nghe cách ông lão nói, Viên Thừa Chí biết chắc mình được nhận rồi. Cậu bé mừng rỡ nói: “An thẩm thẩm bảo con gọi thế.”

Ông lão nói: “Lúc nào con bé đó cũng kiếm chuyện phiền phức cho ta. Được! Nể mặt người cha quá cố của ngươi, ta thu nhận ngươi.”

Viên Thừa Chí muốn bái lạy, nhưng ông lão xua tay bảo: “Đủ rồi, đủ rồi! Ngày mai nói chuyện tiếp.”

Sáng sớm hôm sau, trời chưa sáng Viên Thừa Chí đã dậy rồi. Ông câm biết ông lão đã chịu dạy Viên Thừa Chí, mừng rỡ tung cậu bé lên không rồi dang tay ra đón lấy, cứ thế bốn năm lần.

Ông lão nghe tiếng cười reo của Viên Thừa Chí, bước ra khỏi phòng mỉm cười nói: “Được đấy! Còn nhỏ như vậy mà đã biết hành hiệp trượng nghĩa, cứu trợ đàn bà con nít, giỏi thật. Ngươi có bản lãnh gì, biểu diễn cho ta xem thử.”

Viên Thừa Chí nghe khen mà đỏ mặt tía tai, ngượng nghịu đứng không yên.

Ông lão lại mỉm cười, bảo: “Ngươi không cho ta xem công phu của ngươi thế nào, thì ta biết đâu mà dạy?”

Lúc này Viên Thừa Chí mới biết sư phụ không nói đùa, bèn đem bài Phục Hổ Chưởng mà Thôi Thu Sơn đã dạy ra tập từ đầu đến cuối.

Ông lão vừa xem vừa mỉm cười, đợi Viên Thừa Chí luyện xong mới nói: “Thu Sơn không ngớt miệng khoe ngươi thông minh, lúc đó ta không chịu tin. Nó chỉ dạy cho ngươi mấy ngày mà đã được như thế, đúng là không tệ.”

Vừa nghe thấy tên Thôi Thu Sơn, Viên Thừa Chí đã muốn hỏi chuyện an nguy của Thôi thúc thúc ngay, nhưng ông lão đang nói nên cậu không dám ngắt lời. Đợi ông lão dừng lại, cậu mới hỏi: “Thôi thúc thúc đang ở đâu? Thúc thúc có khỏe không?”

Ông lão đáp: “Nó khỏe rồi, đã về chỗ Lý Sấm tướng quân, tiếp tục hành quân đánh trận.”

Viên Thừa Chí nghe vậy mừng rỡ vô cùng.

Ông câm đã bày hương án. Ông lão lấy ra một bức tranh vẽ một nho sĩ trung niên, hai tay để không nhưng giữ tư thế đang cầm kiếm. Ông lão thắp nhang đèn, đứng trước mặt bức tranh cung kính quỳ lạy, rồi bảo Viên Thừa Chí: “Đây là khai sơn tổ sư, Phong tổ sư gia của phái Hoa Sơn chúng ta. Ngươi tới khấu đầu đi.”

Viên Thừa Chí nhìn lại người trong bức tranh, nghĩ bụng: “Ông này còn trẻ hơn sư phụ của ta rất nhiều, sao lại là tổ sư gia?” Cậu bước tới khấu đầu ngay, nhưng không biết phải lạy bao nhiêu cái. Cậu nghĩ chắc là lạy càng nhiều càng tốt, nên cứ lạy mãi, đến khi ông lão bảo dừng mới thôi.

Ông lão mỉm cười, bảo Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, coi như chính thức bái sư. Ông lão nhận lễ bái sư rồi nói: “Từ nay về sau, con là đệ tử phái Hoa Sơn chúng ta. Nhiều năm trước ta đã nhận hai đồ đệ. Sau đó ta không gặp đứa bé nào thông minh lanh lợi cả, nên chưa dạy ai thêm. Ngươi là đệ tử thứ ba, cũng là đệ tử cuối cùng của ta. Ngươi phải học hành tử tế, đừng làm mất mặt ta trước người khác.”

Viên Thừa Chí gật đầu lia lịa.

Ông lão lại nói: “Ta họ Mục, tên Nhân Thanh, được bằng hữu giang hồ gọi là Thần Kiếm Tiên Viên, ngươi hãy nhớ lấy. Sau này có người hỏi sư phụ là ai, nếu ngươi ấp úng không nhớ, thì thật là hỏng bét.”

Viên Thừa Chí cười phá lên, thầm nghĩ: “An đại nương nói tính khí sư phụ rất cổ quái, mình nghe mà sợ hãi. Không ngờ sư phụ lại hòa ái dễ gần như thế, lại thích nói chuyện khôi hài.”

Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh võ công rất cao, có thể gọi là số một đương thời. Ông hành hiệp trượng nghĩa trên giang hồ đã hai mươi mấy năm, chưa từng gặp đối thủ. Chỉ vì lúc nào ông cũng hành sự âm thầm, không để lại danh tính, nên tiếng tăm không vang dội lắm.

Thật ra thì tính khí của ông vốn lạnh lùng, khó mà thân cận. Nhưng lần này gặp Viên Thừa Chí, một đứa bé côi cút đáng thương, lại được Thôi Thu Sơn và An đại nương hết sức giới thiệu, cộng thêm phần tôn kính phụ thân của Viên Thừa Chí là Viên Sùng Hoán đáng mặt trung thần, giữ nước giết giặc, hàm oan mà chết nên ông mới phá lệ, gần gũi thương yêu khác hẳn mọi khi.

Mục Nhân Thanh không con không cái, một mình một kiếm độc hành trên chốn giang hồ. Tới tuổi già, đột nhiên gặp một chú bé thông minh hoạt bát như thế, nỗi mừng rỡ trong lòng chẳng kém gì so với Viên Thừa Chí gặp được minh sư. Vì thế mà ông cười đùa với Viên Thừa Chí, cao hứng khác hẳn bình thường,

Mục Nhân Thanh lại nói: “Hai sư huynh của ngươi đều lớn hơn ngươi mấy chục tuổi, đồ đệ của chúng cũng lớn hơn ngươi nhiều. Không chừng chúng sẽ trách ta đến lúc này còn bắt chúng nhận thêm một đứa sư đệ nhỏ xíu. Hừ, nếu ngươi không chịu dụng công nỗ lực, sau này bị đồ tử đồ tôn của chúng đánh bại, thì chúng có lý lẽ để trách lão già này hồ đồ.”

Viên Thừa Chí vội nói: “Đệ tử nhất định sẽ hết sức dụng công.” Cậu bé lại hỏi: “Thôi thúc thúc có phải là đồ đệ của lão nhân gia hay không?”

Mục Nhân Thanh nói: “Nó phải đi theo Sấm tướng đánh trận, không có thời gian để học với ta cho đàng hoàng. Ta chỉ truyền cho nó một bài Phục Hổ Chưởng, không thể gọi là đồ đệ. Hơn nữa tư chất của Thu Sơn cũng không đủ để làm đồ đệ của ta.”

Ông chỉ vào ông câm, nói tiếp: “Gã này cũng vậy, ngày nào cũng nhìn ta luyện tập nên học lóm được không ít chiêu thức. Nhưng so với hai đồ đệ của ta, thì khác nhau một trời một vực.”

Viên Thừa Chí từng thấy ông câm hai lần tay không trừng trị bọn công sai, xuất thủ như sấm sét, thán phục vô cùng. Nghe sư phụ nói bản lãnh hai sư huynh của mình còn cao hơn nhiều, thế thì chỉ cần mình hết sức dụng công, dù không bằng được sư huynh thì bét ra cũng hơn được ông câm. Trong lòng cậu lại càng mừng rỡ.

Mục Nhân Thanh nói: “Phái Hoa Sơn chúng ta có rất nhiều quy luật. Những gì là Nhân giới, Sĩ giới, Bảo giới, bây giờ có nói thì ngươi cũng không hiểu. Vậy ta chỉ dặn ngươi ba câu thôi: Phải nghe lời sư phụ; Không được làm việc tồi tệ; Không được tùy tiện giết chóc đả thương người khác. Ngươi có nhớ được không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Con nhất định sẽ nghe lời sư phụ, không dám làm việc xấu, lại càng không tùy tiện đánh giết người ta.”

Mục Nhân Thanh nói: “Được! Vậy bây giờ chúng ta bắt đầu luyện công. Vì thời gian gấp rút nên Thôi thúc thúc của ngươi dạy cho ngươi một lúc trọn bài Phục Hổ Chưởng. Bộ chưởng pháp này quá thâm sâu phức tạp. Tuổi ngươi còn nhỏ, dù học được cũng chưa biết cách vận dụng. Ta sẽ dạy cho ngươi bộ Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm trước.”

Viên Thừa Chí nói: “Cái đó thì con biết, trước đây Nghê thúc thúc đã dạy rồi.”

Mục Nhân Thanh cười bảo: “Ngươi học được mấy tư thế, coi như đã biết rồi hay sao? Còn xa lắm! Nếu thực sự ngươi đã hiểu hết chỗ ảo diệu của Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm, thì trên giang hồ ít người thắng được ngươi.”

Khuôn mặt xinh xắn nhỏ nhắn của Viên Thừa Chí lập tức đỏ ửng lên, không dám mở miệng nói nhiều nữa.

Mục Nhân Thanh vừa đọc tên chiêu thức vừa thi triển Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm. Từ chiêu thức lẫn đường quyền, hoàn toàn không khác những gì Nghê Hào đã dạy. Viên Thừa Chí không khỏi thấy lạ lùng, có gì khác nhau đâu?

Mục Nhân Thanh nói: “Ngươi tưởng sư phụ đánh lừa phải không? Ngươi tới đây, nắm lấy áo của ta. Chỉ cần đụng vào một chéo áo thôi, coi như ngươi có bản lãnh.”

Viên Thừa Chí không dám chọc tức sư phụ, nên mỉm cười không dám động đậy.

Mục Nhân Thanh giục: “Tới đây nhanh lên. Ta đang dạy ngươi công phu mà?”

Viên Thừa Chí nghe nói sư phụ dạy mình mới dám bước tới, đưa tay toan nắm lấy vạt áo sau lưng sư phụ. Mắt thấy rõ ràng sờ tới rồi, nhưng cái vạt áo tự nhiên co rút lại, lệch đi hai ba tấc. Tay Viên Thừa Chí đưa lên mấy tấc, sắp nắm được cái vạt áo thì sư phụ đột nhiên không thấy đâu nữa. Rồi ông khẽ vỗ vào sau gáy Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Ta ở đây này.”

Viên Thừa Chí liền xuất chiêu Diêu Tử Phản Thanh, quờ hai tay ôm ngược ra phía sau. Nào ngờ sư phụ không còn ở đó nữa. Cậu bé vội vã xoay người lại, thấy sư phụ đã ở ngoài hai trượng.

Viên Thừa Chí hứng thú, thầm nghĩ: “Phen này phải bắt được sư phụ mới được”. Cậu tung người nhảy lên phía trước, toan kéo tay áo ông ta. Mục Nhân Thanh vẫy tay áo một cái, thân hình đã vụt ra khỏi tầm tay cậu bé.

Viên Thừa Chí mỉm cười nhưng chưa đuổi theo vội. Cậu quay lại nhìn, đột nhiên thấy ông câm đang ra hiệu bảo mình lưu ý. Viên Thừa Chí chợt hiểu, thầm nghĩ: “Rõ ràng sư phụ chỉ sử dụng những chiêu thức trong Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm, nhưng sao lại nhanh đến thế?”

Thế là cậu bé vừa rượt theo nắm bắt, vừa chăm chú để ý thân pháp của sư phụ. Pho Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm này Viên Thừa Chí đã luyện nhuần nhuyễn lắm rồi, nhưng bây giờ cậu thấy sư phụ tiến lùi tránh né vô cùng linh hoạt. Cũng một chiêu một thức như vậy, nhưng khi sư phụ thi triển lại có dụng ý xảo diệu khác thường. Viên Thừa Chí vừa đuổi vừa âm thầm học theo bí quyết, chẳng bao lâu đã bắt chước được mấy thuật nhảy tới nhảy lui của sư phụ, lập tức rượt đuổi nhanh hơn hẳn.

Mục Nhân Thanh lẩm nhẩm gật đầu, mừng rỡ nghĩ: “Thằng bé này dạy được, có tương lai đấy!”

Thừa Chí càng cố đuổi, Mục Nhân Thanh càng tránh né nhanh hơn. Hai người chạy vù vù đuổi nhau, trên mặt sân chỉ còn thấy hai bóng bay đi lượn lại. Lúc này Viên Thừa Chí đã quên hết chuyện đùa giỡn, tập trung tinh thần bắt chước thân pháp sư phụ.

Đột nhiên Mục Nhân Thanh cười ha hả quay người lại, vươn tay ôm lấy cậu bé, mỉm cười nói: “Hảo đồ đệ! Hảo hài tử! Được rồi, tập như thế là được rồi.”

Ông thả Viên Thừa Chí xuống, dặn cậu bé tự luyện thêm mấy lượt, rồi quay lưng vào nhà.

Viên Thừa Chí luyện lại pho Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm từ đầu đến cuối mười mấy lần nữa. Ngoài việc cố gắng học hỏi thân pháp của sư phụ ra, cậu còn tự sáng chế ra mấy chỗ biến hóa xảo diệu, mừng rỡ đến độ ngứa ngáy tay chân, gãi đầu gãi tai, suốt đêm không sao chợp mắt; mà có chợp mắt thì trong mơ vẫn chăm chỉ luyện quyền.

Trời mới mờ sáng, cậu sợ quên mất những gì đã học hôm qua, vội chạy ra sân để luyện tập, càng tập càng thêm hứng thú. Đột nhiên nghe phía sau có tiếng đằng hắng, cậu quay đầu lại thì thấy sư phụ đứng đó mỉm cười. Viên Thừa Chí bước tới, hô một tiếng “Sư phụ”, rồi lỏng tay đứng kế bên.

Mục Nhân Thanh nói: “Mấy chiêu ngươi sáng chế ra cũng không đến nỗi tệ. Chiêu này nhanh thì có nhanh, nhưng hạ bàn lại để lộ sơ hở. Nếu địch thủ biết đường đưa chân ra móc thế này, thì ngươi hỏng rồi. Phải làm thế này mới đúng.”

Ông vừa nói vừa dùng động tác chỉ bảo, Viên Thừa Chí khâm phục vô cùng. Hôm đó cậu lại học được không ít bí quyết.

*

*   *

Mới đó mà ba năm đã trôi qua. Trong ba năm này, Mục Nhân Thanh truyền cho Viên Thừa Chí thêm Phá Ngọc Quyền và Hỗn Nguyên Chưởng. Hỗn Nguyên Chưởng tuy là chưởng pháp, nhưng lại có công dụng tu tập nội công. Xưa nay các môn phái tu luyện nội công đều dựa vào công phu thổ nạp, đả tọa luyện khí. Nội công của phái Hoa Sơn lại có cách luyện riêng biệt, từ ngoài vào trong, tu tập dựa vào chưởng pháp.

Như vậy phải tốn rất nhiều thời gian, hiệu quả hơi chậm, nhưng trong lúc tu tập thì hoàn toàn không gặp nguy hiểm tẩu hỏa nhập ma, khi luyện thành thì oai lực vô cùng lớn. Vì nội ngoại cùng luyện một lần, nên khi đối địch thì mỗi chiêu mỗi thức đều tự nhiên có nội lực kèm theo, địch thủ chỉ sơ ý một chút là nếm mùi thất bại. Tới khi Hỗn Nguyên Công luyện thành lại càng lợi hại, có thể nói không gì cứng rắn mà không phá nổi.

Viên Thừa Chí luyện võ chưa lâu, Hỗn Nguyên Công dĩ nhiên chưa thành tựu, nhưng thân thể cậu bé đã tráng kiện lắm rồi, bệnh tật không xâm nhập được nữa. Nhiều lúc Mục Nhân Thanh xuống núi, mỗi lần hai ba tháng hoặc ba bốn tháng không chừng. Lần nào ông về kiểm tra cũng thấy cậu bé dụng công siêng năng, tiến bộ nhanh chóng, nên không ngớt khen thưởng và khuyến khích.

Tết Đoan Ngọ năm nay, uống xong rượu hồng hoàng để chống tà khí và sâu bọ theo phong tục, Mục Nhân Thanh lại bày hương án, thỉnh tranh vẽ tổ sư gia ra. Ông tự mình khấu đầu, rồi bảo Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, sau đó mới hỏi: “Hôm nay bảo ngươi bái tổ sư, ngươi biết vì lý do gì hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Xin sư phụ dạy bảo.”

Mục Nhân Thanh vào nhà trong, bưng ra một chiếc hộp gỗ dài dài, đặt trên hương án. Nắp hộp vừa mở ra, ánh sáng chói lòa cả mắt. Trong hộp gỗ có một thanh trường kiếm dài ba thước, óng ánh soi sáng cả một vùng.

Viên Thừa Chí vừa kinh ngạc vừa vui mừng, tim đập lên thình thịch. Cậu ấp úng hỏi: “Sư phụ! Sư phụ dạy kiếm cho con phải không?”

Mục Nhân Thanh gật đầu, rồi lấy trường kiếm trong hộp ra. Ông nghiêm nghị nói: “Ngươi quỳ xuống, nghe ta nói trước đã.”

Viên Thừa Chí vâng lời quỳ xuống.

Mục Nhân Thanh nói: “Kiếm là tổ của trăm loại binh khí, là đạo môn khó học nhất. Kiếm pháp bản phái lại càng rộng lớn thâm sâu. Từ nhiều đời tổ sư cho đến nay, đời nào cũng tăng cường thêm ít nhiều chiêu thức. Môn phái khác thì sư phụ thường giấu lại mấy chiêu tinh diệu nhất, nên đời sau không bằng đời trước, càng về sau võ công càng kém. Còn phái ta thì không phải vậy, tuyển chọn đệ tử cực kỳ nghiêm ngặt, mà đã chọn rồi thì phải dạy dỗ đến cùng. Bởi thế mà kiếm pháp hậu nhân giống như màu xanh, chiết từ màu lam mà đẹp hơn màu lam. Ngươi đã thông minh lại cần mẫn, muốn giỏi kiếm thuật không phải là việc khó. Sư phụ kỳ vọng nơi ngươi, sau này sẽ phát dương quang đại kiếm pháp bản phái, nhưng không chỉ có thế. Ngươi phải nhớ rõ, kiếm là lợi khí, nếu dùng để hành thiện thì nó thiện vô cùng, nếu dùng để làm ác thì nó ác cũng vô cùng. Hôm nay sư phụ muốn ngươi lập lời trọng thệ, suốt đời tuyệt đối không được vô cớ giết nhầm một người lương thiện nào.”

Viên Thừa Chí nói: “Xin sư phụ dạy con kiếm pháp. Nếu sau này con dùng kiếm giết một người tốt, nhất định sẽ bị người ta giết chết.”

Mục Nhân Thanh bảo: “Được rồi! Ngươi đứng dậy đi.”

Viên Thừa Chí đứng dậy.

Mục Nhân Thanh tiếp: “Sư phụ biết tâm địa của ngươi nhân hậu, nhất định không giết bừa người tốt. Nhưng chuyện thị phi có lúc rất khó phân biệt; thế gian xảo trá, lòng người khó lường. Người bề ngoài tốt có thể là kẻ xấu; còn người bề ngoài có vẻ xấu thì không chừng lại là người tốt. Ngươi phải thường xuyên có tấm lòng khoan dung tha thứ thì mới ít làm tổn thương người khác.”

Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ.

Mục Nhân Thanh lại nói: “Hoàng đế Sùng Trinh giết gia gia của ngươi, vì trong lòng hắn nghĩ gia gia của ngươi là người xấu. Hắn nghĩ mình giết là đúng, nhưng đó lại là một sai lầm cực lớn. Mấy năm nay Sùng Trinh đã giết không ít đại thần trong triều, dĩ nhiên cũng có người xấu, nhưng người tốt bị hắn giết còn nhiều hơn. Hắn không rõ thị phi, lại hoàn toàn không có tấm lòng khoan dung nhân hậu. Hắn giết chóc bừa bãi như thế, giang sơn Đại Minh này chắc chắn sẽ tan rã trong tay hắn.”

Viên Thừa Chí ủ rũ gật đầu. Cậu hiểu, khi nhắc đến việc Sùng Trinh giết phụ thân mình, sư phụ muốn mình biết rằng thị phi khó phân biệt, không nên vọng sát. Mình phải nhớ rõ điều đó, không lúc nào dám quên.

Mục Nhân Thanh đưa tay trái nắm kiếm quyết, tay phải đưa trường kiếm ra. Thanh kiếm vùng vẫy như rồng bay, phát sáng rực rỡ như cầu vồng. Bộ kiếm pháp thiên hạ vô song được thi triển dưới ánh mặt trời, kiếm quang càng lúc càng óng ánh, sau cùng chỉ còn thấy một khối bạch quang mờ mờ ảo ảo.

Thừa Chí đã theo sư phụ luyện quyền ba năm trời, nhãn quan khác trước rất xa. Tuy vậy, cậu vẫn không thể nhìn thấy rõ ràng thân pháp của sư phụ. Khi cần trụ chắc thì vững như một ngọn núi nguy nga, lúc nhẹ nhàng lại thoảng như một cơn gió không để lại vết tích, biến ảo khôn lường, nhanh chóng không tả được.

Đến lúc tối hậu, Mục Nhân Thanh quát lớn một tiếng, trường kiếm đột nhiên rời khỏi tay bay ra. “Xoẹt” một tiếng, kiếm ghim sâu vào thân một cây thông lớn, lưỡi kiếm ngập hẳn vào, chỉ còn chuôi kiếm thò ra ngoài.

Viên Thừa Chí biết thớ gỗ của cây thông rất mịn. Vừa rồi thấy sư phụ múa kiếm, lưỡi kiếm không dừng rung động, cậu cũng biết lưỡi kiếm đó mềm dẻo chứ không cứng rắn, nào ngờ chiêu phi kiếm này lại ghim lút được trường kiếm vào thân cây. Cậu bé không nén nổi kinh hãi, há hốc miệng, không sao ngậm lại được.

Đột nhiên phía sau có người lớn tiếng hoan hô: “Hay quá!”

Viên Thừa Chí ở trên ngọn núi này đã ba năm trời, ngoài giọng của sư phụ và mình ra, chưa nghe thấy tiếng nói của một người thứ ba. Tuy trên núi còn một người nữa là ông câm, nhưng ông này không thể lên tiếng được.

Viên Thừa Chí vội vàng quay lại, thấy một lão đạo vừa mỉm cười vừa tiến lên đỉnh núi. Lão mặc một bộ đạo bào bằng vải thô màu xanh, khuôn mặt ốm vàng, khô cằn, đầu tóc thưa thớt, trắng nhiều hơn đen, trên đầu bới một cái búi tó đúng kiểu đạo nhân. Lão lớn tiếng hô: “Con khỉ già kia! Chiêu Thiên Ngoại Quy Long này, đúng là trên đời không còn người thứ hai thi triển được như thế. Hôm nay bần đạo được mở rộng tầm mắt. Mười năm trời không thấy huynh dùng kiếm, không ngờ đã tiến bộ đến mức này.”

Mục Nhân Thanh cười ha hả, đáp: “Hay quá! Ngọn gió nào thổi huynh đến đây vậy? Vừa tới Hoa Sơn, đã bốc ta lên tận mây xanh rồi. Thừa Chí! Vị này là Mộc Tang đạo trưởng, hảo bằng hữu của sư phụ. Ngươi mau mau tới thi lễ.”

Viên Thừa Chí liền bước tới, quỳ xuống khấu đầu.

Mộc Tang đạo nhân cười bảo: “Thôi đi!” Lão đưa tay ra, kéo Viên Thừa Chí dậy.

Đã là người học võ, khi gặp ngoại lực sẽ tự động vận công chống đỡ. Mộc Tang đạo nhân kéo dậy, nhưng lúc này Thừa Chí đã thành tựu chút ít về Hỗn Nguyên Công, hai cánh tay khẽ gượng lại một chút.

Mộc Tang đạo nhân biết mức nội công của Viên Thừa Chí rồi, mỉm cười nói với Mục Nhân Thanh: “Con khỉ già này mấy năm không gặp, thì ra lén lút trốn ở chỗ này để dạy khỉ con vận khí. Phước khí của huynh không đến nỗi tồi, một chân bước vào quan tài rồi mà còn tìm được một thằng bé giỏi giang như thế.”

Mục Nhân Thanh đùa giỡn với lão đã quen, nhưng nghe lão tán dương đồ đệ của mình cũng không khỏi khoái chí. Ông vuốt râu mỉm cười, ra vẻ tự đắc.

Mộc Tang đạo nhân lại nói: “Ái chà! Hôm nay không mang theo tiền lẻ lì xì, làm sao ta dám nhận mấy cái khấu đầu của ngươi được? Phải làm sao đây?”

Mục Nhân Thanh nghe vậy, nảy ra một ý: “Võ công lão đạo này có chỗ độc đáo, được người trên giang hồ gọi là Thiên Biến Vạn Kiếp. Nếu lão chịu truyền chút xíu võ công cho Viên Thừa Chí, thì thằng bé được lợi không nhỏ. Nhưng lão này xưa nay không chịu nhận đồ đệ, ta phải tìm cách bức ép một chút.” Ông bèn nói: “Thừa Chí! Đạo trưởng đã hứa cho con cái gì rồi đó. Mau mau khấu đầu cảm tạ đi.”

Thừa Chí nghe sư phụ bảo, lập tức bước tới dập đầu.

Mộc Tang đạo nhân cười ha hả: “Ha ha! Có khỉ già tất có khỉ con. Sư phụ đã không sợ mất mặt, thì đồ đệ cũng không biết xấu hổ. Này, nghe ta nói đây: Làm người thì phải đường đường chính chính, đừng học theo sư phụ ngươi luyện bộ mặt dày, vừa nghe người ta cho quà đã hí ha hí hửng. Chẳng lẽ lão già như ta còn đi lừa gạt con nít hay sao? Thôi cũng được. Hôm nay nhân lúc cao hứng, ta tặng cho ngươi cái này.”

Nói xong, lão lấy trong cái túi sau lưng ra một gói đồ, đưa cho Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí cảm tạ, hai tay cung kính đón lấy. Cậu đứng thẳng dậy mở ra xem, thấy đó là một cái áo không tay màu đen kịt, cầm trong tay nặng trịch, không phải tơ mà cũng không phải da, chẳng biết làm bằng thứ gì. Cậu đang thắc mắc thì nghe Mục Nhân Thanh nói: “Đại huynh, đừng đùa giỡn nữa. Bảo vật này làm sao cho nó được?”

Viên Thừa Chí nghe vậy mới biết là vật quý, bèn hai tay nâng lên trả lại.

Mộc Tang đạo nhân không nhận, lại nói: “Hừ! Lão đạo này đâu có bủn xỉn như sư phụ của ngươi? Đồ đã tặng rồi, ta quyết không nhận lại! Ngoan ngoãn cầm lấy đi.”

Viên Thừa Chí không dám nhận, nhìn qua xem sư phụ nói sao. Mục Nhân Thanh bảo: “Đã vậy thì ngươi đa tạ đạo trưởng đi.”

Thừa Chí liền quỳ xuống lạy tạ. Mục Nhân Thanh nghiêm giọng nói: “Đây là một báu vật để phòng thân. Năm xưa đạo trưởng đã tốn biết bao nhiêu tâm huyết, liều mạng vào chỗ chín phần chết một phần sống mới có được. Ngươi mặc thử xem.”

Viên Thừa Chí vâng lời khoác áo vào người, trông hơi rộng so với vóc dáng của cậu.

Mục Nhân Thanh tung người đến chỗ cây thông, dùng ngón giữa và ngón trỏ kẹp vào chuôi kiếm, nhẹ nhàng rút trường kiếm ra rồi nói: “Cái áo này có hai màu chỉ vàng đen, đó là lông vượn và kim ty hỗn hợp dệt thành. Bất cứ loại vũ khí nào cũng không làm tổn thương nó được.” Nói xong, ông đưa kiếm đâm ngay vào trước ngực Viên Thừa Chí.

Nhát kiếm này nhanh vô cùng, cậu bé không sao tránh né được. Chưa kịp kinh hãi, cậu đã thấy mũi kiếm chạm vào áo rồi nhẹ nhàng dội ngược lại ngay. Viên Thừa Chí cả mừng, vội vã quỳ xuống, dập đầu cảm tạ Mộc Tang đạo trưởng.

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười nói: “Lúc nãy ngươi thấy cái này chỉ là một cục đen thui, chẳng bắt mắt gì cả, chắc là nghĩ mình khấu đầu oan uổng. Lần này mới thật sự cam tâm tình nguyện.”

Thừa Chí nghe mà thẹn đỏ chín cả mặt, ấp a ấp úng không biết nói gì.

Nói chuyện một lúc, Mục Nhân Thanh bỗng hỏi: “Gần đây có tin tức gì về hắn không?”

Mộc Tang đạo nhân lúc nào cũng cười rạng rỡ, nhưng nghe nhắc đến người ấy, bất giác thở dài, thần sắc kém vui hẳn đi. Lão nói: “Chẳng giấu gì đại ca, không biết hắn đã trốn chui trốn lủi ở đâu, nhưng gần đây lại xuất hiện ở gần Sơn Hải Quan. Lão đạo không muốn gặp hắn, phải tới Hoa Sơn này tránh né. Phen này đến đây đúng là chạy trốn.”

Mục Nhân Thanh nói: “Đạo huynh hà tất phải đề cao người khác mà làm giảm oai phong của mình. Dựa vào công phu xuất thần nhập hóa của đạo huynh, chẳng lẽ không thể đối phó với hắn hay sao?”

Mộc Tang đạo nhân lắc đầu, ủ rũ nói: “Không phải là lão đạo không đối phó nổi, chỉ vì không thể nhẫn tâm. Mấy năm nay ta đã đấu với hắn hai lần. Lần đầu ta chiếm thượng phong, nhưng cuối cùng nhớ tới tình nghĩa đồng môn, vả lại trước khi mất tiên sư cũng dặn ta phải chiếu cố quan tâm hắn cho tử tế. Lão đạo vô phương dạy dỗ, để hắn càng ngày càng lún sâu vào con đường tà ác, trong lòng có phần áy náy nên không thể ra tay được. Lần động thủ thứ hai, không biết hắn học được ở đâu mấy công phu tà phái, đâm trúng vào ngực ta một kiếm. May có cái áo này hộ thân, nên mũi kiếm không xuyên vào được. Hắn kinh hãi một phen, tưởng ta đã luyện thành công phu kỳ diệu, nên sơ suất bị ta kiềm chế. Lúc đó ta cố khuyên răn một hồi, nhưng hắn chỉ cười lạnh nhạt. Trước khi về, hắn còn quay lại nói là ta chỉ dựa vào bảo y hộ thân, lần sau động thủ sẽ đâm vào mặt cho ta hết đường tránh né.”

Mục Nhân Thanh giận dữ nói: “Loại người cuồng vọng như thế, đạo huynh lại nghĩ đến tình nghĩa đồng môn mà tha mạng. Mục mỗ thì chẳng liên can gì đến hắn. Đạo huynh cứ ở tạm đây ít lâu, bây giờ ta xuống núi tìm hắn ngay. Nếu khi gặp mà thấy hắn vẫn làm chuyện bậy bạ, Mục mỗ sẽ xách thủ cấp của hắn về gặp đạo huynh.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Đa tạ hảo ý của huynh. Nhưng ta vẫn mong hắn có thể giác ngộ hối cải, sửa chữa lỗi lầm. Mấy năm nay ta đã suy xét tỉ mỉ võ công tà môn ngoại đạo của hắn, nếu thật sự phải động thủ thì chưa chắc gì hắn đã thắng được ta. Ta né lên Hoa Sơn, chỉ mong mắt không thấy, tai không nghe là được. Nếu hắn có thể hối cải, dĩ nhiên đó là phước của sư môn. Nếu không, cứ để hắn làm những việc bất nghĩa, sẽ có người khác giết hắn.”

Lão thở ra một hơi, lại tiếp: “Nhưng hắn có chịu hối cải hay không? Ôi, khó lắm!”

Mục Nhân Thanh nói: “Con người này háo sắc tham hoa, đã làm hại danh tiết của không ít nữ nhân con nhà lương thiện; gần đây lại càng lợi hại. Loại võ lâm bại hoại này mà lần sau rơi vào tay đạo huynh, thiết tưởng không cần nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ nữa. Đạo huynh thanh lý môn hộ, diệt trừ những kẻ bất nhân, đó chính là bảo vệ danh dự sư môn, báo đáp ân đức của tôn sư.”

Mộc Tang đạo nhân gật đầu đáp: “Huynh nói rất đúng. Ôi…” Nói chưa dứt câu, lão đã thở dài sườn sượt.

Viên Thừa Chí nghe hai người nói chuyện, biết đại khái Mộc Tang đạo nhân có một người sư huynh đệ gì đó, nhân phẩm không được đoan chính nhưng võ công rất cao cường. Cậu bé cầm bộ bảo y, nói với Mộc Tang đạo nhân: “Đạo trưởng! Đạo trưởng cần diệt trừ kẻ ác ôn đó, nên mặc cái áo này cho chắc ăn hơn. Khi trừ khử xong, đạo trưởng hãy ban cho con sau. Võ công của con chưa đủ để đi động thủ với kẻ xấu đâu, nên món báu vật này chưa cần dùng đến.”

Mộc Tang vỗ vai Viên Thừa Chí, bảo: “Đa tạ hảo ý của ngươi. Nhưng dù ta không có cái áo này hộ thân, hắn cũng không giết được ta. Công phu tà môn của hắn chỉ dùng để đánh lén khi đối phương chưa phòng bị, dùng được một lần chứ không thể dùng tới lần thứ hai. Ngươi không cần lo lắng cho ta.”

Thấy đạo trưởng khổ tâm, Mục Nhân Thanh cũng chẳng vui vẻ gì. Ông biết chỉ có một việc bắt được lão đạo sĩ già quên hết mọi sự trên đời, bèn nói: “Chuyện này nói mãi rồi, càng nghe càng mất vui. Này, lão đạo kia! Kỳ nghệ của lão…”

Vừa nghe hai chữ “kỳ nghệ”, da thịt trên mặt Mộc Tang đạo nhân bỗng giãn hẳn ra, vẻ mặt vui tươi sáng sủa hẳn lên, trông như trẻ lại đến hai mươi tuổi. Mục Nhân Thanh tiếp: “… mấy năm nay có tiến bộ chút nào không?”

Mộc Tang đáp ngay: “Võ công của lão đạo thì trước giờ vẫn không bằng huynh, nhưng bản lãnh chơi cờ thì có thể làm sư phụ của huynh được. Nếu huynh không tin, chúng ta cứ…”

Mục Nhân Thanh mỉm cười ngắt lời: “Để ta lãnh giáo công phu Thiên Biến Vạn Kiếp của đạo trưởng một phen. Đạo trưởng có mang đồ nghề tới hay không?”

Mộc Tang đạo nhân cười tươi, lấy sau lưng ra một bàn cờ vây, hai gói quân cờ, rồi đáp: “Loại đồ nghề này, lão đạo quyết không để xa mình một tấc. Chắc là huynh sợ kỳ nghệ không bằng ta nên tránh né vụ chơi cờ, định chối là trên Hoa Sơn không có bàn cờ. Phen này thì không chối được rồi. Ha ha, ha ha…”

Ông câm khiêng bàn ghế ra, hai người ngồi chơi cờ dưới bóng cây.

Viên Thừa Chí không hiểu gì về cờ vây. Mộc Tang đạo nhân vừa chơi cờ vừa giảng giải cho cậu hiểu, không ngớt khoa trương nào là kỳ nghệ của mình vô địch, nước cờ này cao minh; sư phụ của Viên Thừa Chí không thể là địch thủ… Mục Nhân Thanh chỉ mỉm cười suy nghĩ, mặc kệ lão ta muốn bốc phét thế nào cũng được.

Chơi cờ vây cho tinh xảo thì khó, nhưng luật chơi cờ chỉ học một chút là hiểu ngay. Viên Thừa Chí mới xem xong một ván đã biết được đại khái.

Cái bàn cờ này làm bằng thép tinh luyện, quân cờ đúc bằng sắt đen, quân trắng thì phủ thêm một lớp đồng trắng. Quân cờ đặt xuống bàn cờ phát ra những tiếng “tinh tang” rất êm tai.

Ván đầu Mộc Tang đạo nhân thắng được hai quân. Hai người bạn cố tri chơi cờ từ giữa trưa đến tối, cả thảy được ba ván. Mộc Tang đạo nhân thắng hai thua một, vẫn muốn chơi tiếp, nhưng Mục Nhân Thanh đã nói: “Ta không còn đủ tinh thần chơi với đạo huynh nữa.”

Bấy giờ Mộc Tang mới chịu đi ngủ, nhưng vẫn còn lưu luyến.

Liên tiếp ba ngày, ngày nào Mộc Tang cũng bắt Mục Nhân Thanh chơi cờ với mình, Viên Thừa Chí hứng thú đứng xem. Đến sáng ngày thứ tư, Mục Nhân Thanh nói: “Hôm nay chúng ta nghỉ chơi một ngày, để ta truyền kiếm pháp cho đồ đệ đã.”

Mộc Tang đạo nhân biết đây là việc quan trọng, không mở miệng cản trở. Lão chờ đợi suốt ngày đến ngứa ngáy tay chân, khó khăn lắm mới đợi được tới lúc Mục Nhân Thanh dạy xong. Mộc Tang đạo nhân lập tức túm lấy ông, nói: “Lại đây, lại đây! Chúng ta giết nhau ba ván nữa.”

Mục Nhân Thanh dạy kiếm nửa ngày, đã thấy hơi mệt mỏi. Nhưng ông biết Mộc Tang đạo nhân rất ghiền chơi cờ, mình mà không chịu thì e rằng cả đêm lão ta ngủ không yên giấc được, nên đành phải ngồi xuống so cờ với lão.

Viên Thừa Chí đang ôn luyện mấy chiêu kiếm pháp mới học, đột nhiên nghe Mộc Tang đạo nhân vui vẻ la lên: “Thừa Chí! Mau mau qua đây xem, sư phụ của ngươi hỏng bét rồi.” Cậu vội vàng chạy tới.

Kỳ nghệ của Mục Nhân Thanh vốn đã không bằng Mộc Tang đạo nhân, bây giờ miễn cưỡng mà chơi lại càng bất lợi. Chưa đến nửa cuộc mà ông đã bị kiềm chế gần trọn bàn cờ.

Mục Nhân Thanh thấy một mảng cờ trắng vô cùng nguy cấp, bắt buộc phải đặt một quân làm mắt để cứu sống, nhưng bao nhiêu yếu điểm ở bốn góc đều bị quân cờ đối phương chiếm cứ cả rồi. Ông cầm một quân cờ trên tay, suy nghĩ mãi không nói tiếng nào, nhìn tới ngó lui cũng không tìm được chỗ đặt quân cờ xuống.

Viên Thừa Chí đứng bên xem, nhịn không nổi nữa bèn la lên: “Sư phụ, sư phụ đặt ở đây này! Mộc Tang sư bá nhất định sẽ phải qua cứu. Sư phụ lại đặt thêm chỗ này nữa, thì có thể giải vây để thoát ra ngoài. Không biết con nói như vậy có đúng không?”

Mục Nhân Thanh xưa nay tính khí điềm đạm, không giống cái kiểu tự phụ hiếu thắng của Mộc Tang, bèn đi theo nước cờ của đồ đệ chỉ cho. Quả nhiên một mảng cờ trắng được giải thoát ra ngoài, lại còn vây khốn được một đám cờ đen. Ván này lẽ ra Mục Nhân Thanh thảm bại, nhờ một nước cờ của đệ tử mà cuối cùng chỉ thua có năm quân.

Mộc Tang đạo nhân tấm tắc khen ngợi tâm cơ linh xảo của Viên Thừa Chí, bèn chấp cậu bé chín quân, rủ chơi một ván. Tuy rằng Viên Thừa Chí không hiểu cách chơi của người xưa, nhưng đối với môn cờ vây thì quan trọng nhất là ngộ tính. Cổ nhân từng nói: “Hai mươi tuổi chưa thành quốc thủ, chơi suốt đời cũng chỉ vô vọng.” Con người thông minh như Tô Đông Pha, về kinh sử, văn chương, thư họa, thi từ, không món nào không hiểu, không món nào không tinh, nhưng đối với cờ vây thì rút cuộc chỉ là một tay phàm tục. Đó là một chuyện áy náy suốt đời của họ Tô. Bởi thế Tô Đông Pha có câu thơ tự an ủi: “Thắng cố nhiên là sướng, nhưng bại cũng phải vui”. Sau này người đời lại khen họ Tô tâm địa khoáng đạt, không nghĩ nhiều đến chuyện thắng bại.

Độc giả nên biết, chuyện “đắc thất” trong cờ vây rất nặng. Tranh một quân cờ hay một khu đất, nhất định phải tính toán kỹ càng, tuyệt đối không được dễ dãi mới có thể đắc thắng. Ai chơi cờ mà thường xuyên có ý niệm “thắng sướng bại vui”, dĩ nhiên không phải là không thể rèn luyện cá tính, tiêu khiển cho thoải mái. Nhưng nhất định người đó sẽ “sướng” ít, “vui” nhiều.

Tính tình Mục Nhân Thanh đạm bạc hiền hòa, Mộc Tang đạo nhân cảm thấy chơi cờ với ông thiếu phần quyết liệt, không đã tay lắm. Bây giờ lão chơi với Viên Thừa Chí thì hoàn toàn khác hẳn. Viên Thừa Chí khá thông minh về kỳ nghệ, lại còn tính trẻ nít nên cố tìm thiên phương vạn kế để chiến thắng vị sư bá này. Tuy rằng ván này Mộc Tang đạo nhân vẫn thắng, nhưng phải đương đầu với không ít phen nguy hiểm, không thể thắng một cách dễ dàng được.

Sáng sớm hôm sau, Mộc Tang đạo nhân lại kéo Viên Thừa Chí chơi cờ, bị cậu bé đánh bại ba ván liền. Lão phải chùn lại, đổi từ chấp chín quân cờ xuống còn chấp tám quân. Không đến một tháng, Viên Thừa Chí đã nhớ rất nhiều xảo thuật, những nước cờ kỳ diệu mà Mộc Tang đạo nhân đã dùng, kỳ nghệ tiến bộ rất nhiều. Mộc Tang đạo nhân chỉ còn có thể nhường cậu ba quân, đánh mới có thắng có thua.

Viên Thừa Chí dụng tâm về môn cờ vây, thời gian luyện võ tự nhiên phải bớt đi, kiếm pháp tiến bộ không bằng lúc luyện quyền chưởng. Mục Nhân Thanh nể mặt ông bạn già, lúc đầu không nói gì, nhưng sau này nhìn thấy một già một trẻ suốt ngày quên ăn quên ngủ, ngồi chơi cờ riết, chẳng được tích sự gì. Ông bèn thầm dặn Thừa Chí: “Mỗi ngày chỉ được chơi một ván cờ với Mộc Tang đạo nhân thôi, phải để thời gian luyện võ.”

Nghe sư phụ nhắc nhở, Viên Thừa Chí chợt nghĩ: “Đúng là mình đã hoang phí nhiều ngày không luyện võ!” Cậu bứt rứt trong lòng, lập tức đi luyện kiếm hai ngày liền.

Hai ngày sau Mộc Tang đạo nhân rủ chơi cờ, cậu đáp là phải luyện kiếm. Mộc Tang đạo nhân bèn nói: “Ngươi cứ tới đây chơi cờ với ta. Chơi xong, ta sẽ dạy cho ngươi một môn công phu. Sư phụ của ngươi nhất định sẽ hoan hỉ.”

Thừa Chí nói: “Để con đi hỏi sư phụ đã.”

Mộc Tang đạo nhân bảo: “Được! Ngươi đi hỏi đi.”

Viên Thừa Chí liền chạy vào nhà, nói cho sư phụ biết. Mục Nhân Thanh vừa nghe đã mừng thầm.

Ngoại hiệu Mộc Tang đạo nhân vốn không phải là Thiên Biến Vạn Kiếp. Hồi còn trẻ, vì khinh công của lão tuyệt diệu, thân pháp biến hóa ảo diệu vô cùng, người trên giang hồ mới tặng cho lão một ngoại hiệu là Thiên Biến Vạn Hóa Thảo Thượng Phi. Sau này, lão mới say mê môn cờ vây. Đạo lý của cờ vây thường nhắc đến chữ “kiếp”, tức là “cướp vị trí”, vô số biến hóa đều từ đó mà sinh ra.

Võ công của Mộc Tang đạo nhân rất cao, mà lão lại cho là bình thường chẳng có chi kỳ lạ. Còn kỳ nghệ của lão chỉ hơn người thường một tí, lão lại tự phụ vô cùng, nên mới tự đặt một cái ngoại hiệu là Thiên Biến Vạn Kiếp Kỳ Quốc Thủ. Mọi người nể mặt, không tiện bỏ cái ngoại hiệu lão tự đặt, nhưng ai cũng biết kỳ nghệ của lão còn cách hai chữ “quốc thủ” hàng vạn dặm, nên mới gọi tắt đi là Thiên Biến Vạn Kiếp.

Thật ra bốn chữ này có ý ca ngợi võ công của lão biến hóa hàng ngàn chỗ, khiến người ta phải bái phục vạn đời. Nhưng nếu ai giải thích như vậy trước mặt, thì Mộc Tang nhất định không bằng lòng, thậm chí còn nổi giận nữa. Phải bắt đối phương thừa nhận cái ngoại hiệu này là chỉ về kỳ nghệ, hoàn toàn không có liên quan gì đến võ công, lão mới chịu thôi.

Trước nay chính Mục Nhân Thanh cũng phải thán phục võ công của lão có chỗ độc đáo. Lão chưa chịu nhận một đồ đệ nào, bây giờ lại đồng ý truyền thụ võ công cho Viên Thừa Chí, nhất định chỉ vì nhịn không nổi cơn nghiện chơi cờ.

Mục Nhân Thanh vội vã kéo tay Thừa Chí dắt ra, thi lễ với Mộc Tang đạo nhân rồi nói: “Huynh chịu dạy cho tiểu đồ của ta, ta xin đa tạ trước.” Ông lại bảo Thừa Chí dập đầu bái sư Mộc Tang đạo nhân.

Viên Thừa Chí quỳ ngay xuống, nhưng Mộc Tang tung vọt người đi, vừa xua hai tay loạn lên vừa nói: “Ta không nhận đồ đệ! Nếu nó muốn ta dạy võ công, thì phải dựa vào bản lãnh mà thủ thắng.”

Mục Nhân Thanh kinh ngạc hỏi: “Thằng bé này có bản lãnh gì mà thắng được huynh?”

Mộc Tang đạo nhân không đáp ngay câu hỏi mà nói: “Về kiếm pháp hay quyền thuật, thì Mục huynh thiên hạ vô song, lão đạo này bái phục chịu ở hạ phong. Thằng bé này chỉ cần học được hai ba phần công phu của huynh, là trên giang hồ đã khó tìm địch thủ rồi. Nhưng nói về khinh công hay ám khí, thì lão đạo cũng có một hai chiêu.”

Mục Nhân Thanh nói: “Ai chẳng biết huynh là Thiên Biến Vạn Kiếp, chiêu thức kỳ lạ biến hóa hàng muôn thứ?”

Mộc Tang mỉm cười lắc đầu: “Bốn chữ Thiên Biến Vạn Kiếp là nói về kỳ nghệ của lão đạo thiên hạ vô song, hoàn toàn không có liên quan gì đến võ công, tuyệt đối không nên nhầm lẫn. Chỉ vì Mục huynh là tông sư một phái, chuyện gì cũng đàng hoàng ngay ngắn, khí phách phong độ, nên mới không chịu hạ mình luyện những môn khinh công, ám khí. Vì thế mà lão đạo mới được tự hào về hai môn đó. Bây giờ huynh cứ để Thừa Chí mỗi ngày chơi với ta hai ván cờ, ta chấp nó ba quân. Nếu ta thắng, thì coi như nó có lòng hiếu thảo, bỏ thời giờ ra tiêu khiển cho sư bá. Nếu nó thắng một ván, ta sẽ dạy cho nó một chiêu khinh công. Nếu nó thắng liền hai ván, thì ngoài khinh công ra ta còn dạy thêm một chiêu ám khí. Chơi cờ phải có đặt cược mới vui, thì đó chính là những thứ để đặt cược rồi. Huynh thấy như vậy có công bằng hay không?”

Mục Nhân Thanh nghĩ bụng: “Lão đạo này thật là biết khôi hài.” Ông bèn nói: “Được! Chúng ta cứ thế mà làm. Ta vốn sợ Thừa Chí mê chơi cờ mà chậm rèn luyện công phu. Bây giờ chơi cờ có ích lợi như thế, thì mỗi ngày hai người cứ chơi tám ván hay mười ván, ta cũng mặc kệ.”

Mộc Tang đạo nhân và Thừa Chí nghe vậy cả mừng, một già một trẻ lại tiếp tục chơi cờ.

Hôm đó Mộc Tang đạo nhân thắng một ván, thua một ván. Chơi xong, lão bảo Thừa Chí: “Hôm nay ta dạy cho ngươi một chiêu khinh công. Tuy chỉ là một chiêu, nhưng nếu ngươi cố gắng luyện tập thì có thể dùng suốt đời rồi. Cố gắng nhìn kỹ đây!”

Vừa nói xong, không thấy lão cong lưng hay lấy đà gì cả, đột nhiên toàn thân bay vọt lên, đứng trên ngọn một cây lớn. Nhào lộn trên không một cái, lão lại đứng ngay trước mặt Viên Thừa Chí. Cậu bé chỉ biết há mồm trợn mắt, ngơ ngác rồi vỗ tay hoan hô vang dội.

Mộc Tang liền dạy cho Viên Thừa Chí chiêu khinh công Phiên Vân Thừa Long đó. Tuy chỉ là một chiêu, nhưng để thi triển cho đúng phải luyện kình lực ở hông đùi, cước pháp, nhãn lực, vô số ảo diệu bên trong. Thừa Chí hết sức dụng tâm mà nhất thời cũng không nhớ hết được.

Ngày hôm sau Thừa Chí thua liền hai ván, không được gì cả. Mộc Tang đạo nhân cả mừng, vô cùng hả hê. Đến sáng ngày thứ ba, Viên Thừa Chí đột nhiên xuất kỳ binh, bỏ trống cả bốn góc, chỉ lo giữ chặt trung ương, quả nhiên thắng cả hai ván. Mộc Tang đạo nhân không phục, đòi chơi hai ván nữa, lần này một thắng một thua. Cộng lại, Mộc Tang phải dạy cho Viên Thừa Chí ba chiêu.

Mộc Tang đạo nhân dạy cho Viên Thừa Chí hai chiêu khinh công nữa. Đợi cậu nhớ kỹ xong, lão mới hỏi: “Khi gặp địch thủ thì ta sử dụng binh khí gì, ngươi có biết không?”

Viên Thừa Chí lắc đầu. Mộc Tang đạo nhân mỉm cười, nắm lấy bàn cờ nói: “Trước kia ta cũng dùng kiếm, nhưng gần đây đã chuyển qua cái món này.”

Viên Thừa Chí đã thấy cái bàn cờ này đúc bằng thép tốt, nhưng cứ tưởng lão thích chơi cờ nên lúc nào cũng mang theo, sợ hư hỏng nên mới dùng thép đúc nên. Không ngờ đó cũng là binh khí để đối địch.

Mộc Tang đạo nhân nắm lấy một vốc quân cờ, cười nói: “Đây là ám khí của ta.”

Lão tiện tay ném ra, mười mấy quân cờ văng lên không trung. Đợi rơi xuống, Mộc Tang đạo nhân đưa bàn cờ đón lấy. Chỉ nghe một tiếng “kịch” duy nhất, mười mấy quân cờ đồng thời nằm yên trên bàn cờ. Thừa Chí há hốc mồm, hồi lâu không nói được tiếng nào.

Mười mấy quân cờ được quăng lên trời, khi rơi xuống nhất định phải có trước có sau. Hơn nữa, khi quân cờ bằng sắt rớt trúng bàn cờ bằng thép, nhất định phải vang lên những tiếng leng keng. Thế mà mười mấy quân cờ rơi xuống chỉ nghe “kịch” một tiếng, dĩ nhiên đã được ném lên bằng thủ kình đều đặn phi thường. Quân cờ rơi xuống bàn cờ không nảy đi chút nào, vì bàn tay phải của lão đạo hơi gằn xuống một chút, triệt tiêu hết đà rơi. Thế là mười mấy quân cờ rơi từ trên trời xuống mà giống như dùng tay đặt lên nhẹ nhàng vậy.

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười, lại nói: “Muốn phóng ám khí thì phải luyện lực đạo trước, rồi mới luyện phát xạ chính xác sau. Ám khí khi phóng ra phải nắm chắc được cân lượng nặng nhẹ, rồi mới tính cho chính xác được.”

Sau đó Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho Viên Thừa Chí tâm pháp vận thủ kình để ném quân cờ ra.

*

*   *

Mộc Tang đạo nhân ở lại tuyệt đỉnh Hoa Sơn thấm thoát đã nửa năm. Ngày nào lão cũng chơi cờ với người bạn nhỏ, lưu luyến quên hết thời gian, vui vẻ quên hết mệt mỏi. Toàn bộ tâm pháp công phu về khinh công ám khí, trong nửa năm này lão hoàn toàn không giấu giếm gì, dốc túi truyền thụ hết cho Viên Thừa Chí.

Hôm nay đã là đầu mùa đông rồi. Buổi sáng Viên Thừa Chí luyện quyền kiếm, buổi chiều cậu ngồi chơi cờ dưới tán cây với Mộc Tang đạo nhân.

Lúc này kỳ nghệ của cậu đã cao hơn Mộc Tang rồi. Nếu hai người chơi sòng phẳng không nhường nước nào, thì Mộc Tang đạo nhân thắng ít thua nhiều. Cho dù Thiên Biến Vạn Kiếp, nhưng biến tới biến lui vẫn thua trận như thường. Thua càng nhiều, lão càng phải truyền thụ lắm thứ võ công.

May mà kỳ nghệ của lão đạo biến hóa có chừng, nhưng võ học của lão lại bao la bát ngát. Thua cờ nhiều tới đâu, lão vẫn có đủ chiêu số để trả nợ cho Viên Thừa Chí, tưởng chừng không bao giờ cạn kiệt.

Hôm đó, lão dạy cho cậu thủ pháp phát xạ ám khí Mãn Thiên Hoa Vũ, đồng thời bắn ra bảy quân cờ, quân cờ nào cũng phải bắn trúng huyệt đạo địch thủ. Loại võ công thượng thừa này không phải một sớm một chiều mà học được. Viên Thừa Chí đã khổ luyện hai tháng về công phu phát xạ ám khí này, nhưng mới đồng thời phát ra ba bốn quân cờ mà mỗi lần cũng chỉ trúng được một hai quân.

Mộc Tang đã làm một cái bia bằng gỗ, trên bia vẽ hình người, sai ông câm cầm chạy qua chạy lại. Mộc Tang la lên: “Thiên Tông, Kiên Trinh, Ngọc Chẩm.”

Viên Thừa Chí bắn ra ba quân cờ, đánh trúng hai huyệt Thiên Tông, Ngọc Chẩm, còn huyệt Kiên Trinh bị lệch đi.

Mộc Tang lại la lên: “Quang Viên, Thần Phong, Trung Đỉnh.”

Ông câm vừa chạy vừa lắc lư tấm bia gỗ. Viên Thừa Chí thi triển khinh công rượt theo. Tay cậu vừa vẫy ra, Mộc Tang đã la lên: “Huyệt Quang Viên không trúng.”

Lão đang định ra lệnh tiếp, bỗng nghe Thừa Chí kinh hãi la lớn. Cậu bé chạy tới nắm lấy cánh tay ông câm, dùng sức kéo mạnh.

Ông câm ngơ ngác quay đầu lại, đột nhiên thấy một con vượn to lớn đứng sau lưng mình, mặt mũi xấu xí ghê tởm, nhe nanh múa vuốt, chồm chồm muốn phóng tới. Ông câm bèn đưa tấm bia gỗ toan đánh lên đầu con vượn đó. Đột nhiên tay ông bị túm chặt, thì ra bị Mộc Tang đạo nhân nắm kéo lại.

Mộc Tang la lên: “Thừa Chí! Ngươi đối phó với nó.”

Thừa Chí biết Mộc Tang sư bá kiểm tra công phu của mình, bèn lớn tiếng vâng dạ. Cậu bắt chéo hai tay, nhẹ nhàng tung người đến trước mặt con vượn khổng lồ này.

Con vượn thấy cậu không sợ mà nhảy đến trước mặt, bèn quay lưng muốn chạy. Thừa Chí vung tay đánh mạnh vào lưng nó, nghe “bịch” một tiếng. Con vượn khổng lồ đau quá kêu lên chét chét, quay lại vươn cánh tay dài muốn túm lấy địch thủ.

Thừa Chí nhún người nhảy ra, đang muốn tìm chỗ sơ hở để đánh tiếp, đột nhiên cảm thấy sau lưng có gió, hình như bị đánh lén. Cậu không kịp quay đầu lại, dùng chân trái điểm mạnh xuống đất, nhảy bật lên không trung. Chưa rơi trở xuống, cậu đã thấy kẻ đánh lén mình là một con vượn khổng lồ khác.

Viên Thừa Chí đã lên núi luyện võ mấy năm, nhưng chỉ chiết chiêu với sư phụ, chưa từng tỉ đấu thật sự. Hai con vượn khổng lồ này tuy dữ tợn, nhưng cậu cũng không sợ hãi, thi triển Phục Hổ Chưởng để đối địch. So với hồi nhổ lông báo trên đỉnh núi Thánh Phong, lúc này kình lực cùng chưởng pháp đương nhiên đã khác rất xa.

Nghe tiếng reo hò, Mục Nhân Thanh chạy ra, nhìn thấy Viên Thừa Chí đang ra sức giao đấu với hai con thú. Tay cậu đánh tới đâu, hai con vượn này đau đớn kêu la đến đó. Mục Nhân Thanh mừng rỡ nghĩ thầm: “Thằng bé này không uổng một phen tâm huyết của ta.”

Hai con vượn khổng lồ này trúng đòn nhiều, không dám tới gần nữa, chỉ nhảy tới nhảy lui tìm cơ hội để phóng tới.

Mục Nhân Thanh thấy rõ ràng chưởng pháp của Viên Thừa Chí đủ kiềm chế hai con súc sinh, nhưng muốn xem thử kiếm pháp của cậu thế nào, liền chạy vào trong lấy trường kiếm ra, hô lớn: “Đón kiếm!” Rồi ông tung thanh kiếm lên trời.

Viên Thừa Chí vọt người lên, vươn tay phải ra bắt lấy chuôi kiếm. Trường kiếm vào tay như hổ thêm cánh, người chưa rơi xuống cậu đã xuất chiêu Xuyên Trâm Nhẫn Tuyến, đâm vào vai một con vượn lớn. Nó vội vã nhảy lùi tránh né.

Viên Thừa Chí thi triển kiếm pháp, lập tức hai con vượn khổng lồ bị trùm trong lưới kiếm quang. Mộc Tang kêu lên: “Thừa Chí! Đừng hại mạng chúng.”

Thừa Chí vâng một tiếng, múa kiếm càng gấp rút hơn. Lúc này cậu muốn giết hai con vượn lớn này thật dễ như trở bàn tay. Chỉ một lúc là chúng bị kiếm vạch vào mông, vai, đùi, đầu, trúng thương liên tục. Nhưng rút cuộc Thừa Chí vẫn không ra sát thủ, chiêu nào cũng chỉ điểm nhẹ tới lại rút về.

Hai con vượn lớn này rất có linh tính. Lúc đầu chúng còn cố gắng tránh né, nhưng về sau nhận ra hễ mình tránh né thì lưỡi kiếm đuổi theo, khi dừng chân thì đối phương lại thu hồi chiêu thức, hiểu rằng địch thủ cố ý nương tay. Chúng đồng thanh kêu lên mấy tiếng rồi khom mình xuống đất, hai tay ôm đầu, không phóng tới mà cũng không chạy trốn nữa. Bốn con ngươi chuyển động qua lại, nhìn Thừa Chí lộ ra sắc thái van xin.

Thấy Viên Thừa Chí đã kiềm chế được hai con súc sinh, ông câm vui mừng đến nỗi giậm chân vỗ tay, chạy ngay vào nhà lấy ra một cuộn dây gai, trói hai con vượn khổng lồ này lại. Chúng nhe răng gào thét, nhưng ông câm chỉ dùng sức bấu cho một cái là gân cốt đau kịch liệt, không dám phản kháng nữa. Hai con vượn đành ngoan ngoãn chịu trói, miệng vẫn khẹc khẹc không dứt.

Mộc Tang đạo nhân và Mục Nhân Thanh đều lên tiếng khen ngợi võ công Viên Thừa Chí có phần tiến bộ. Cậu bé vui mừng, lấy thuốc kim sang ra băng bó vết thương cho hai con vượn, lại hái cho chúng một ít trái cây, hạt dẻ.

Nuôi được bảy tám ngày, hai con được tháo bỏ dây trói nhưng vẫn không bỏ trốn. Thừa Chí cả mừng, đặt tên cho con đực là Đại Oai, con cái là Tiểu Oai, hễ gọi tên là vượn đến ngay.

Mục Nhân Thanh và Mộc Tang thấy con vượn lớn lông lá xù xì lại được đặt cho cái tên nghe có vẻ lanh lợi, không khỏi buồn cười.

Đại Oai và Tiểu Oai càng nuôi càng thuần, hễ Thừa Chí ra lệnh là lập tức thi hành.

*

*   *

Một hôm, hai con vượn lớn tới bên bờ vực thẳm ở phía tây để hái trái cây. Vực thẳm này có một mặt hơi nghiêng có thể leo trèo, còn mặt kia thì giống như một bức tường rất phẳng, hoàn toàn không có chỗ nào để bám víu.

Hai con vượn vừa hái trái cây vừa đùa giỡn, Tiểu Oai đột nhiên bị sẩy chân, rơi về phía vách núi trơn tru. Chỗ này cách mặt đất hơn bốn mươi trượng, rơi xuống đương nhiên là tan xương nát thịt.

Đại Oai sợ đến mất hồn, chạy đến bên vách núi nhìn xuống thì thấy Tiểu Oai may mắn chưa rơi hẳn xuống. Hai cánh tay dài ngoằng của nó đang móc vào một cửa động trên vách núi. Sơn động này đã lâu năm không ai lui tới, đất đá bịt kín cửa động. Lúc Tiểu Oai rơi xuống dọc vách núi, nó đưa tay quơ quào loạn xạ, may mà cạy rớt được chỗ đất đá đó ra, nên mấy ngón tay chụp được nền động.

Thân hình Tiểu Oai treo giữa không trung, lên cũng không được xuống cũng không xong, bối rối không biết làm gì. Đại Oai cũng vô kế khả thi, liền chạy đi tìm người cứu.

Thừa Chí đang luyện kiếm, bỗng thấy Đại Oai bị gai góc cào rớm máu khắp nơi, thần sắc kinh hãi, vừa nhảy nhót vừa kêu chí chóe loạn xạ, biết ngay Tiểu Oai đã gặp nguy hiểm gì rồi. Cậu liền gọi ông câm, theo Đại Oai đi đến đó.

Đại Oai chỉ vào vách núi phẳng phiu, vừa nhảy chồm chồm vừa kêu thảm thiết. Viên Thừa Chí và ông câm đến gần để xem, thấy ngay Tiểu Oai bị treo giữa lưng chừng trời đất.

Viên Thừa Chí quay về thạch thất lấy mấy sợi dây dài, cùng ông câm và Đại Oai chạy đến bên vách núi, nối ba sợi dây lại thòng xuống dưới. Tiểu Oai đã gần kiệt sức, vừa thấy dây là dùng cả hai tay hai chân cố sức túm chặt. Ông câm và Đại Oai hợp sức kéo Tiểu Oai lên.

Tiểu Oai chỉ bị đá núi cào xước mấy chỗ, không nặng gì. Nhưng nó vừa kêu chét chét vừa đưa bàn tay phải ra trước mặt Viên Thừa Chí. Cậu bé nhìn kỹ, thấy trên bàn tay vượn có ghim hai mũi ám khí hình con rắn nhỏ trông rất kỳ lạ. Cậu đưa tay nhổ thử nhưng không giật ra được, Tiểu Oai lại đau đớn nhảy loạn lên, biết ngay loại ám khí này có móc ngược.

Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ có địch đến đây?” Cậu dùng tay ra hiệu, cố hỏi Tiểu Oai xem ai tấn công nó. Tiểu Oai dùng cả tay chân quơ loạn lên, hình như nói là khi thò tay vào động thì bị đâm trúng.

Viên Thừa Chí lại càng kinh ngạc. Cậu nghĩ: “Trên vách núi phẳng phiu này vốn không lộ ra cửa động, mà động đó ở lưng chừng, cách đỉnh núi và cách mặt đất đều khá xa, tại sao lại có ám khí bên trong?” Cậu nghĩ mãi vẫn không đoán ra, bèn đi tìm sư phụ và Mộc Tang đạo nhân.

Hai người nghe Viên Thừa Chí kể lại sự tình, lại thấy ám khí trên bàn tay Tiểu Oai, đều cảm thấy kỳ lạ. Mộc Tang nói: “Trước nay ta thích dùng ám khí, cứ tưởng ám khí của môn phái nào trên giang hồ mình cũng thấy rồi. Thế mà loại tiểu truy hình con rắn này hôm nay mới gặp lần đầu. Lão Mục! Chuyện này thật làm ta mất mặt.”

Mục Nhân Thanh nghe vậy lại càng thấy lạ, liền nói: “Cứ nhổ ra rồi tính.”

Mộc Tang đạo nhân về phòng, lấy trong bao thuốc ra một con dao rất bén. Lão dùng dao rạch bàn tay Tiểu Oai, lấy được hai mũi ám khí ra. Tiểu Oai cũng biết là nó đang được trị thương nên không phản kháng gì cả. Sau đó Mộc Tang bó thuốc cho Tiểu Oai, dùng vải buộc vết thương lại.

Tiểu Oai gặp phải đại nạn này, bộ dạng rầu rĩ vô cùng. Đại Oai phải tới bắt rận và gãi ngứa cho nó như để an ủi, cố gắng làm nó vui trở lại.

Hai mũi ám khí đó dài khoảng hai tấc tám phân, đúc thành hình một con rắn nhỏ thè lưỡi ra. Đầu lưỡi rắn chẻ làm hai nhánh, mỗi nhánh có một cái móc ngược. Thân rắn đen thui, dính đầy bụi đất và rêu. Mộc Tang cầm lên soi tỉ mỉ, dùng dao nhỏ cạo những chỗ dơ bẩn trên thân rắn. Mũi tiểu truy hình con rắn này từ từ sáng lên, lấp lánh ánh vàng.

Mộc Tang nói: “Chẳng trách một mũi ám khí nhỏ xíu mà nặng đến thế, thì ra được đúc bằng vàng. Người sử ám khí này thật là hào phóng, cứ vẫy tay một cái là mất hơn một lạng hoàng kim.”

Mục Nhân Thanh bỗng vỗ đùi một cái, nói: “Cái này của Kim Xà Lang Quân.”

Mộc Tang hỏi: “Kim Xà Lang Quân? Huynh nói là Hạ Tuyết Nghi ư? Nghe nói y đã chết mười mấy năm rồi.”

Nói tới đó, đột nhiên lão la lên: “Không sai! Đúng là y.”

Khi dùng dao nhỏ cạo sạch phía dưới bụng rắn, lão thấy hiện ra một chữ Tuyết. Mũi xà truy kia cũng có chữ này.

Thừa Chí hỏi: “Sư phụ! Kim Xà Lang Quân là ai vậy?”

Mục Nhân Thanh đáp: “Việc này lát nữa hãy nói. Đạo huynh! Theo huynh thì sao y lại giấu ám khí trong cái động này?”

Mộc Tang suy nghĩ mãi không nói gì, ngơ ngác xuất thần. Thừa Chí thấy thần sắc sư phụ và Mộc Tang sư bá trông rất trịnh trọng, không dám hỏi nhiều.

Ăn cơm xong, Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân ngồi trước ngọn nến, nói rất nhiều chuyện, phần lớn Thừa Chí không hiểu. Hình như họ bàn về những chuyện truy sát, báo cừu.

Mộc Tang đạo nhân bỗng nói: “Theo huynh thì Kim Xà Lang Quân đến đây có phải vì trốn tránh kẻ thù không?”

Mục Nhân Thanh nói: “Với võ công cơ trí của y, lẽ ra không cần phải chạy từ Giang Nam đến nơi xa xôi này, trốn vào nơi hoang sơn dã lãnh.”

Mộc Tang lại hỏi: “Chẳng lẽ người này vẫn chưa chết ư?”

Mục Nhân Thanh nói: “Con người này xưa nay hành sự xuất quỷ nhập thần. Nhiều năm đi lại giang hồ, ta chỉ nghe oai danh của y nhưng chưa từng gặp. Cũng nghe nói là y đã chết rồi, nhưng không ai biết chắc y chết như thế nào.”

Mộc Tang đạo nhân thở dài rồi nói: “Con người này hành sự rất kỳ lạ. Lúc thì cùng hung cực ác, lúc lại hành hiệp trượng nghĩa, khiến cho người ta không biết đâu mà lần. Ta đã mấy phen muốn tìm y, nhưng không tìm được.”

Mục Nhân Thanh nói: “Thôi, đừng đoán bừa nữa. Ngày mai chúng ta vào sơn động đó để tìm hiểu thử xem.”

Sáng sớm hôm sau, Mục Nhân Thanh, Mộc Tang đạo nhân, Viên Thừa Chí và ông câm, bốn người mang theo dây nhợ, binh khí trèo lên đỉnh vách núi đó. Mộc Tang đạo nhân bảo: “Để ta xuống dưới.”

Mục Nhân Thanh gật đầu đáp: “Nhớ cẩn thận!”

Ông lấy dây cột vào lưng lão đạo, rồi cùng với ông câm giữ chặt, từ từ thả lão xuống vách núi.

Mộc Tang đạo nhân một tay xách cái bàn cờ thép, tay kia cầm ba quân cờ, xuống đến cửa động, nhìn vào bên trong. Dưới chân lão sương mù dày đặc trôi giạt theo gió, không thấy mặt đất đâu. Tuy khinh công của lão thuộc vào loại đệ nhất thiên hạ, ngày thường vẫn coi những nơi tuyệt lãnh hiểm phong như chỗ đất bằng, nhưng bây giờ cũng thoáng chút run sợ.

Mộc Tang thò đầu nhìn vào trong động, nhưng bên trong tối đen không thấy gì cả, chỉ cảm thấy động này rất sâu. Cửa động nhỏ quá, người không chui vào được, lão bèn dùng một tấm vải quấn lấy bàn tay, nhẹ nhàng thò vào trong động để thăm dò. Đụng phải mấy vật nhọn cắm ở cửa động, sờ vào biết ngay là Kim xà truy, lão nhẹ nhàng rút ra.

Lão rút được tổng cộng mười bốn cái. Đến khi mặt lão đã áp sát cửa động thì không thể mò sâu hơn nữa, lúc đó lão mới hô lớn: “Kéo ta lên đi!”

Mục Nhân Thanh từ từ rút dây kéo lão lên. Còn cách đỉnh núi khoảng hai trượng, Mộc Tang đạo nhân ấn chân phải vào vách đá, tung người nhảy vọt lên. Lão đặt lên bàn cờ một nắm Kim xà truy, mỉm cười nói: “Lão Mục, anh em mình phát tài rồi. Kiếm được nhiều vàng thế này!”

Sắc mặt của Mục Nhân Thanh lại rất nghiêm trọng, cặp mày chau lại. Ông thủng thẳng nói: “Con người quái lạ ấy đặt những thứ này ở đó, không biết để làm gì. Trong động còn gì nữa không? Để ta xuống xem thử.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Huynh trèo xuống cũng phí công thôi. Cửa động quá nhỏ, không thể chui vào trong được.”

Mục Nhân Thanh cúi đầu ngẫm nghĩ, không nói gì. Viên Thừa Chí bỗng lên tiếng: “Sư bá! Con xuống được không?”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Có thể được. Nhưng vực sâu như thế, ngươi dám xuống không?”

Thừa Chí đáp: “Con dám. Sư phụ, con xuống đó có được không?”

Mục Nhân Thanh thầm nghĩ: “Tay quái khách giang hồ đó đã bố trí vật chí bảo phòng thân ở đây, chắc chắn là có dụng ý. Chúng ta ở kế bên, nhất định phải thám thính, tra xét rõ ràng. Nhưng e rằng trong động có nguy hiểm, thằng bé này một mình vào đó là chuyện đáng lo.” Ông bèn nói: “Ta sợ trong động có chuyện nguy hiểm.”

Thừa Chí nài nỉ: “Sư phụ, con cẩn thận là được rồi.”

Mục Nhân Thanh thấy Viên Thừa Chí đang hưng phấn, nhấp nhổm muốn thử sức một phen, liền gật đầu nói: “Ngươi hãy thắp một ngọn đuốc, đưa vào trong động trước đã. Nếu lửa tắt thì nhất định không được vào.”

Thừa Chí vâng dạ rồi tay phải cầm kiếm, tay trái cầm đuốc, thòng dây trèo xuống vực thẳm. Cậu làm theo lời sư phụ dặn dò, đưa ngọn đuốc vào trong động trước. Nhưng sau khi đất đá bịt kín ở ngoài bị phá vỡ, gió núi lồng lộng đã thổi uế khí trong động bay sạch hết, nên ngọn đuốc không bị tắt.

Viên Thừa Chí từ từ bò vào trong, thấy đây là một ngõ hẹp thiên nhiên, thật ra là một cái kẽ nứt trong lòng núi. Bò được mười mấy trượng, trần động cao dần, tiếp một trượng nữa đã có thể đứng thẳng dậy. Viên Thừa Chí duỗi thẳng lưng, tiếp tục đi tới.

Trước mặt có một chỗ quanh, cậu không dám sơ ý, tay phải cầm kiếm chĩa ra trước ngực, cẩn thận tiến tới. Đi được hai ba trượng, phía trước đột nhiên mở rộng, xuất hiện một động lớn, giống như một tòa thạch thất.

Thừa Chí vừa đưa ngọn đuốc lên soi sáng, bỗng rùng mình kinh hãi. Ở vách đá đối diện có một bộ hài cốt, y phục đã mục nát hư hỏng bảy tám phần, nhưng vẫn còn nhìn rõ hình người.

Nhìn thấy cảnh tượng này, trái tim cậu bé đập thình thịch một lúc. Nhưng trong thạch thất này không có việc gì đáng sợ xảy ra nữa, nên cậu bình tĩnh đưa ngọn đuốc lên cao, quan sát tỉ mỉ.

Trước bộ hài cốt có mười mấy mũi Kim xà truy vứt lung tung dưới đất. Vách đá nhẵn nhụi, trên vách có khắc vô số hình người bằng mũi dao kiếm gì đó. Mỗi hình người đều có tư thế khác nhau, giơ tay giơ chân như đang luyện võ.

Viên Thừa Chí nhìn tỉ mỉ, thấy toàn là đồ hình được vẽ san sát với nhau. Cậu không hiểu người ta vẽ ở chỗ này để làm gì. Cuối những đồ hình có mười sáu chữ cũng khắc bằng lợi khí: “Trọng bảo bí thuật; Tặng người hữu duyên; Làm môn hạ ta; Gặp họa đừng oán.” Chữ viết nghiêng ngả, nét khắc vào đá nông cạn, hình như khi khắc tới những chữ này thì người khắc đã kiệt lực. Bên mười sáu chữ có một cái chuôi kiếm lộ ra. Hình như đó là một thanh kiếm đã đâm sâu vào vách đá, ngập đến tận chuôi.

Cậu bé nổi tính hiếu kỳ, nắm thử chuôi kiếm, dùng sức lắc nhẹ một cái, thấy lay động nhưng không dám rút tiếp.

Đang định xem xét thêm, bỗng nghe thấy ngoài động có tiếng gọi, cậu liền chạy ra ngoài. Qua khỏi chỗ ngoặt, đi hết đoạn đường rộng, Thừa Chí đã nghe rõ giọng Mộc Tang đạo nhân kêu tên mình, liền lớn tiếng vâng dạ rồi bò ra ngoài.

Thì ra Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đứng trên đỉnh núi, thấy sợi dây bị kéo đi rất dài, đợi hồi lâu không thấy cậu bé trở ra, trong lòng lo lắng. Mộc Tang bèn theo sợi dây đó xuống để tìm hiểu, nhưng lão không chui vào trong được, đành phải đứng phía ngoài động mà hô hoán.

Thừa Chí bò ra ngoài, nói với Mộc Tang đạo nhân: “Trong động có nhiều thứ rất kỳ lạ.”

Cậu nắm dây giật một cái, Mục Nhân Thanh và ông câm ở phía trên liền kéo hai người lên. Thừa Chí định thần lại một lát, rồi kể lại những gì đã thấy trong động.

Mục Nhân Thanh nói: “Bộ hài cốt đó nhất định là của Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi. Không ngờ quái kiệt một thời lại vùi xác ở đây.”

Mộc Tang đạo nhân hỏi: “Mười sáu chữ của y để lại, không biết có ý nghĩa gì?”

Mục Nhân Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chắc là y đã chôn cất bảo vật gì trong động đó. Những đồ hình khắc trên vách đá, đương nhiên là võ công của y rồi. Nhưng mười sáu chữ này có chỗ kỳ bí, hình như ý nói ai được tặng phẩm này coi như là môn nhân của y, không chừng sẽ bị họa hoạn.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Cứ theo nghĩa chữ thì đúng là như thế. Không biết dị nhân này lại bày ra chuyện gì cổ quái nữa đây!”

Mục Nhân Thanh thở dài rồi nói: “Chúng ta không tham lam bảo vật hay bí thuật của y làm gì. Thừa Chí! Ngày mai con vào đó lần nữa, chôn cất hài cốt của vị tiền bối này, đốt nhang đèn rồi khấu bái, coi như tử tế với ông ấy một phen.”

Thừa Chí lập tức vâng dạ.

*

*   *

Sáng sớm hôm sau, Thừa Chí cùng ông câm xách cuốc trèo lên vách núi. Lần này Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đã biết trong động không có gì nguy hiểm, nên không đi cùng.

Thừa Chí và ông câm cột chặt một sợi dây dài vào gốc cây to bên vách núi. Cậu bé nghĩ rằng mai táng hài cốt phải tốn khá nhiều thời gian, nên mang theo tới ba ngọn đuốc. Cậu bò vào trong động, dùng cuốc đào một cái lỗ nhỏ dưới đất, cắm đuốc vào, đắp đất đá giữ chắc lại, rồi mới quay đầu lại nhìn bộ hài cốt.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Nghe sư phụ nói, hồi sinh tiền người này là một quái hiệp, không biết sao lại từ trần ở chốn hoang sơn này, bỏ xác trong một sơn động bí hiểm, đến nỗi hài cốt không ai chôn liệm”. Cậu đột nhiên nảy lòng trắc ẩn, bèn quỳ xuống trước bộ hài cốt khấu đầu mấy cái, âm thầm khấn vái: “Đệ tử Viên Thừa Chí vô tình nhìn thấy thi thể, hôm nay xin được an táng cho tiền bối. Mong tiền bối yên nghỉ dưới suối vàng.”

Vừa khấn xong, một đợt gió lạnh từ ngoài động thổi vào. Cậu bé cảm thấy hàn khí ép người, rùng mình lạnh thấu xương.

Viên Thừa Chí không dám ở lại lâu trong huyệt động, lập tức lấy cuốc đào đất. Cậu nghĩ: “Đất đá trong lòng núi chắc là rất cứng, nếu đào không được thì đành phải thu dọn hài cốt, đem chôn ở ngoài động”.

Không ngờ khi chạm xuống nền đất, lưỡi cuốc lại ăn ngọt xớt. Thì ra nền đất trong thạch thất này rất mềm, chẳng khác gì đất ở bên ngoài, đào bới rất dễ dàng. Đào được một hồi, đột nhiên cậu nghe một tiếng “keng”, hình như cuốc trúng vào một vật bằng sắt. Đưa đuốc tới nhìn, Viên Thừa Chí thấy đúng là dưới đó có một miếng sắt. Bới thêm mấy cái để gạt bớt đất đá xung quanh, nhìn rõ đó là một cái hộp sắt lớn, vuông vắn chừng hai thước.

Viên Thừa Chí nhấc cái hộp ra, thấy nó cao chừng một thước. Cậu nhấc rất nhẹ nhàng, hình như trong hộp không chứa đựng cái gì cả. Khi mở nắp ra, thấy cái hộp cạn tới mức kỳ cục, chỉ sâu chừng một tấc, cậu bé không khỏi thắc mắc: “Cái hộp cao tới một thước, sao đáy lại cạn như thế? Chắc chắn bên trong còn một tầng nữa.”

Trong hộp có một phong thư, ngoài viết mấy chữ: “Đã lấy được thì mở ra xem”. Viên Thừa Chí theo lời, mở bì thư ra. Bên trong có một tờ giấy, vì lâu năm nên đã ố vàng.

Thư viết: “Vật trong hộp này, tặng cho người có duyên. Phải chôn hài cốt của ta trước, mới được mở hộp ra. Nhất định phải theo lời.” Trong bì thư còn có hai phong thư nhỏ, một phong viết: “Cách mở hộp”, còn phong kia viết: “Cách chôn hài cốt ta”.

Viên Thừa Chí nhấc cái hộp lên lắc thử, quả nhiên bên trong còn chứa vật gì khác. Cậu nghĩ bụng: “Sư phụ ta thương ông bỏ xác chốn hoang sơn, mới bảo ta an táng cho ông. Đâu phải ta tham lam đồ vật của ông?”

Cậu bèn mở bao thư “Cách chôn hài cốt ta”. Trong đó cũng có một tờ giấy, viết: “Nếu ngươi thành tâm chôn hài cốt cho ta, hãy đào trong hang sâu xuống ba thước nữa rồi mới an táng. Ta muốn nằm sâu dưới đất, không bị sâu kiến hủy hoại”.

Thừa Chí nghĩ: “Làm người tốt thì phải làm đến cùng, ta cứ theo lời ông ấy dặn dò”. Cậu bèn đào tiếp xuống dưới. May mà đất trong động này mềm xốp, nên chẳng tốn nhiều sức.

Đào được chừng ba thước, lại nghe một tiếng “keng”, lưỡi cuốc đụng vào một vật. Bới đất đá ra, cậu lại thấy một cái hộp sắt nhỏ hơn, vuông vắn chừng một thước. Thừa Chí thầm nghĩ: “Vị quái hiệp này thật là kỳ lạ. Không biết hộp này đựng cái gì nữa.” Mở hộp ra xem, cậu giật mình kinh hãi, toát mồ hôi lạnh.

Thì ra trong hộp có một tờ giấy, viết: “Ngươi là kẻ nhân nghĩa trung hậu, đã chôn cất hài cốt của ta, ta sẽ đền đáp bằng trọng bảo bí thuật. Nếu ngươi mở hộp sắt lớn, sẽ có độc tiễn bắn ra. Bí lục và đồ phổ trong đó không phải đồ thật, lại có kịch độc, dùng để trừng phạt những kẻ độc ác tham lam. Đồ thật nằm trong hộp sắt nhỏ này.”

Thừa Chí không dám nghĩ nhiều, đặt hai cái hộp sắt qua một bên, cẩn thận di chuyển hài cốt của Kim Xà Lang Quân vào huyệt, lấp đất, thắp nhang đèn lên, bái lạy mấy cái. Sau đó cậu bưng hai cái hộp ra ngoài.

Dưới ánh đuốc, Viên Thừa Chí thấy phía trong cửa động là những tảng đá xếp thành. Cậu hiểu ra, ngày xưa Kim Xà Lang Quân vào trong động rồi mới dùng đá niêm phong cửa động, tự nhốt mình. Không thì một người khôi vĩ như ông, nhìn bộ xương là biết, quyết không thể chui được vào động.

Viên Thừa Chí gỡ những tảng đá xuống, mở rộng cửa động để sư phụ và Mộc Tang đạo nhân có thể vào trong xem xét. Cậu chui ra, lấy dây cột vào lưng mình, gọi ông câm kéo lên. Sau đó cậu cầm hai cái hộp sắt, đi tìm sư phụ.

Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đang chơi cờ, thấy Viên Thừa Chí đến, liền dừng chơi để nghe Viên Thừa Chí kể lại đầu đuôi. Hai người xem mấy phong thư, đều âm thầm kinh ngạc. Họ mở phong thư ghi “Cách mở hộp” của chiếc hộp sắt lớn ra xem. Trong thư viết: “Bên trái bên phải hộp sắt này đều có nút ấn. Hai tay bưng hộp, đồng thời dùng sức ấn nút, hộp sắt sẽ mở”.

Mộc Tang đạo nhân lè lưỡi, nhìn Mục Nhân Thanh nói: “Cái mạng nhỏ xíu của Thừa Chí, hôm nay suýt nữa là mất trong sơn động đó. Nếu nó hơi tham lam một chút, không chôn cất hài cốt của y mà lo mở cái hộp sắt này ngay, e rằng khó tránh được độc tiễn.”

Mục Nhân Thanh bảo ông câm vác ra một cái thùng gỗ dày, dùi hai lỗ ở hai mặt đối diện, đặt hộp sắt lớn vào trong, rồi dùng một tấm ván lớn đậy thùng gỗ lại. Ông câm lại tìm hai cây nhỏ, theo lỗ ở hai bên mà chọc vào trong thùng.

Mục Nhân Thanh cùng Viên Thừa Chí mỗi người cầm một cây, vận sức ấn vào. Nghe “soạt” một tiếng, chắc là cái nắp tầng thứ hai của hộp sắt đã mở ra. Sau đó những tiếng veo véo, bôm bốp vang lên không dứt, ngay cả cái thùng gỗ lớn cũng phải rung chuyển.

Lát sau Viên Thừa Chí không còn nghe tiếng tên bay, định mở tấm ván ra xem. Mộc Tang vội kéo cậu bé lại, quát lên: “Đợi một chút đã.”

Lão nói chưa dứt, đã nghe veo véo.

Hồi lâu, không còn âm thanh gì nữa. Lúc đó Mộc Tang đạo nhân mới mở tấm gỗ ra. Quả nhiên trên tấm ván và trong thùng gỗ đã có mấy chục mũi đoản tiễn ghim vào, nghiêng có thẳng có, phương hướng đều khác nhau. Mũi tên nào cũng đâm sâu vào thớ gỗ.

Mộc Tang lấy một cái kìm, nhẹ nhàng rút tên ra để một bên, không dám chạm tay vào. Lão thở dài rồi nói: “Người này dụng tâm quá đáng. Y sợ loạt tên đầu bị người ta tránh được, nên mới chia thành hai đợt bắn.”

Mục Nhân Thanh lắc đầu nói: “Giả tỉ người nào có lòng hiếu kỳ, muốn xem trong cái hộp sắt này có gì trước đã, thì đó cũng là lẽ thường tình của con người. Nhưng như vậy thì người đó không chôn được hài cốt của y. Mà ai không chịu chôn hài cốt của y, tưởng cũng chưa đáng chết. Người này dụng tâm sâu sắc như thế, thật sự không phải là chính nhân quân tử. Thừa Chí còn trẻ nít mà lần này lại nhẫn nại dừng tay, không mở cái hộp đó ra xem, đúng là cực kỳ may mắn.”

Ông nhấc cái hộp sắt lớn ra khỏi thùng gỗ. Trong tầng dưới của hộp sắt có rất nhiều lò xo, chính là cơ quan để phóng độc tiễn. Mộc Tang dùng kìm để nhổ bớt lò xo ra, phía dưới xuất hiện một quyển sách, bìa ghi bốn chữ: Kim Xà Bí Kíp. Lão dùng kìm lật thử mấy trang sách, thấy bên trong chi chít chữ nhỏ, lại có rất nhiều đồ hình. Có đồ hình vẽ tư thế luyện võ, cũng có đồ hình vẽ cách chế cơ quan để phóng ám khí.

Khi mở hộp sắt nhỏ ra, thấy trong đó cũng có một quyển sách. Hai quyển sách này kích thước lớn nhỏ, nét chữ, cách đóng bìa không khác gì nhau, nhưng đối chiếu thì thấy nội dung hoàn toàn khác biệt.

Mục Nhân Thanh nói: “Chỉ để trừng trị người không chịu chôn hài cốt cho mình, mà y tốn nhiều công phu như thế để viết sách giả, gắn độc tiễn. Thật ra mình chết rồi thì người khác tốt hay xấu cũng chẳng can hệ gì, không cần phải khổ sở như thế.”

Mộc Tang nói: “Vì con người của y hẹp hòi, nên mới có kết cuộc bi đát như thế. Nhưng sách giả và hộp sắt thì chắc đã được làm trước từ lâu, dùng để đối phó với kẻ địch nào khác. Trước lúc chết, nhất định y không có thời gian cùng tâm lực để chế tạo những thứ hại người này. Mà trong sơn động chưa chắc đã có công cụ để chế tạo cơ quan.”

Mục Nhân Thanh gật đầu than thở. Ông bảo Viên Thừa Chí cất giữ hai cái hộp này, lại nói: “Hành vi của con người này thật là cổ quái. Sách của y viết, có đọc cũng vô ích. Hơn nữa quyển sách giả có chất kịch độc, nhớ là không được đụng vào.”

Viên Thừa Chí lập tức vâng dạ.

Mấy năm sau đó, Viên Thừa Chí cứ tiếp tục luyện võ chơi cờ. Mộc Tang đạo nhân đã đem hết yếu quyết về khinh công và ám khí của mình để truyền thụ cho cậu.

Kỳ nghệ của Viên Thừa Chí ngày càng tiến bộ, bây giờ cậu phải chấp lại Mộc Tang đạo nhân hai quân. Trong khi chơi cậu vẫn thường phải khéo léo nhường nhịn, nhưng dù khéo léo đến đâu cũng không che giấu được.

Mộc Tang đạo nhân ngán ngẩm, cảm thấy ngoại hiệu “Thiên Biến Vạn Kiếp Kỳ Quốc Thủ” của mình không còn xứng đáng nữa. Lão vẫn cho rằng kỳ nghệ của Viên Thừa Chí chỉ ở mức bình thường, không hiểu sao mình lại không thắng nổi, nên bắt đầu cho rằng kỳ nghệ của mình chẳng cao minh gì lắm.

Nhưng bắt lão thừa nhận kỳ nghệ của mình thấp kém, thì thật là thiên nan vạn nan. Một hôm lão thua liên tiếp mấy ván, không đợi xong ván cuối cùng đã đột ngột đứng dậy. Viên Thừa Chí vội xin lỗi, nhưng Mộc Tang chỉ mỉm cười rồi quay lưng đi luôn xuống núi.

Lúc này, Viên Thừa Chí đã cao lớn hơn nhiều, võ công rất tiến bộ. Hồi mới lên Hoa Sơn cậu là một đứa trẻ con, bây giờ đã là một chàng thanh niên khỏe mạnh, anh khí đường đường.

Mấy năm nay, tình thế thiên hạ biến chuyển trong dầu sôi lửa bỏng, bá tính đang gặp vô vàn kiếp nạn. Lũ lụt, hạn hán liên tục, lại thêm nạn châu chấu tàn hại mùa màng. Bọn Mãn Thanh từ quan ngoại không ngừng cho quân xâm lấn. Triều đình không có kế sách kháng địch, bá tính đói khổ chạy nạn khắp nơi, có kẻ phải ăn cả thịt người chết.

Triều đình chỉ lo vơ vét, tăng cường thu thuế để trả đủ lương cho binh lính. Thuế má càng lúc càng nhiều loại, nên dân chúng nổi dậy khắp nơi. Lúc này các thủ lĩnh quân khởi nghĩa Vương Tự Dũng, Cao Nghênh Tường đã tử trận. Sấm tướng Lý Tự Thành lúc thắng lúc bại, tuy gặp nhiều nguy nan, nhưng nhờ đa mưu thiện chiến nên ông thường chuyển bại thành thắng.

Quần hào quy tụ quanh Lý Tự Thành, bộ hạ càng lúc càng đông. Sau vụ Thập Tam Gia Thất Thập Nhị Doanh mở đại hội quân khởi nghĩa ở Doanh Dương tỉnh Hà Nam, thanh thế của Lý Tự Thành lại càng vang dội. Ông đương nhiên trở thành tổng thủ lãnh, được gọi là Sấm Vương, tấn công thành trì, chiếm cứ đất đai, thắng trận liên tiếp.

Thời gian đó Mục Nhân Thanh vẫn thường xuống núi, mỗi khi trở về đều kể lại nỗi khổ của dân chúng cho Viên Thừa Chí biết. Ông đã uống rượu kết giao với Sấm Vương, khuyên Viên Thừa Chí sau khi học võ thành tài phải dùng hết sức để cứu khổ cứu nạn cho bá tính, mục đích của võ công chính là ở đó. Lần nào nghe xong, Viên Thừa Chí cũng cúi đầu bái lĩnh.

*

*   *

Viên Thừa Chí đã kiêm tu võ công thượng thặng của hai phái, là một cao thủ hiếm có trong võ lâm. Chỉ vì mấy năm nay chàng chưa hề đặt chân xuống núi, nên không ai biết trong phái Hoa Sơn đã xuất hiện một thiếu niên anh kiệt như thế.

Một hôm vào tiết đầu xuân, Thừa Chí đang luyện võ thì ông câm đến dùng tay ra hiệu cho biết sư phụ gọi vào. Chàng vào nhà, thấy có hai đại hán đứng hai bên sư phụ. Trên tuyệt đỉnh Hoa Sơn này, ngoài Mộc Tang ra, chưa có người khách nào khác. Viên Thừa Chí nhìn thấy hai người này, không khỏi kinh ngạc.

Mục Nhân Thanh nói: “Vị này là Vương đại ca, vị này là Cao đại ca. Ngươi tới gặp mặt đi.”

Viên Thừa Chí thấy là bằng hữu của sư phụ, liền bước tới thi lễ, cất tiếng chào hỏi: “Vương sư thúc, Cao sư thúc!”

Hai người kia lập tức quỳ xuống, nói: “Không dám! Xin Viên sư thúc đứng dậy.”

Nghe họ gọi lại mình là sư thúc, Viên Thừa Chí kinh ngạc vô cùng. Mục Nhân Thanh vừa cười ha hả vừa bảo mọi người đứng dậy. Hai người kia ăn mặc theo kiểu nông dân, nhưng thần sắc ra vẻ anh hùng thượng võ.

Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo Viên Thừa Chí: “Trước nay ngươi chưa từng theo ta xuống núi, nên không biết vai vế của mình cao đến mức nào, đừng khách sáo quá. Các ngươi đừng gọi nhau là sư thúc, cứ theo tuổi tác mà hô huynh gọi đệ là được rồi.”

Thì ra họ Vương và họ Cao là huynh đệ đồng môn. Sư phụ của họ không cùng sư môn với Mục Nhân Thanh, nhưng gọi ông là sư thúc để tỏ lòng tôn kính bậc trưởng bối. So về danh phận, thì đúng là hai người này còn dưới Thừa Chí một cấp.

Mục Nhân Thanh nói: “Hai vị đại ca này từ xa đến đây, phụng mệnh Sấm Vương mời ta đi bàn một chuyện. Sáng mai ta phải xuống núi rồi.”

Thừa Chí nói: “Sư phụ! Phen này con muốn theo sư phụ đi thăm Thôi thúc thúc, có được hay không?”

Chàng ở trên ngọn núi này đã quá lâu, rất nhiều lần đòi theo sư phụ xuống núi, nhưng chưa bao giờ được chấp thuận, lần này mới được Mục Nhân Thanh mỉm cười một cái. Vương và Cao biết hai thầy trò cần nói chuyện riêng, bèn cáo thoái ra ngoài.

Mục Nhân Thanh nói: “Lúc này thanh thế nghĩa quân rất lớn, trở tay là lấy được hai tỉnh nữa. Đây chính là cơ hội rất tốt để ngươi báo phụ thù. Ngươi đã mấy lần xin ta dẫn xuống núi để hành thích Sùng Trinh hoàng đế, nhưng ta vẫn chưa cho phép. Ngươi có biết tại sao không?”

Thừa Chí đáp: “Nhất định là công phu của đệ tử chưa học tới nơi.”

Mục Nhân Thanh nói: “Đó cũng là một nguyên nhân, nhưng còn một lý do khác quan trọng hơn. Ngươi ngồi xuống đây, nghe sư phụ nói chuyện.”

Viên Thừa Chí vâng lời ngồi xuống.

Mục Nhân Thanh nói: “Mấy năm gần đây, quân tình ở quan ngoại hết sức khẩn trương. Bọn Mãn Châu có dã tâm thôn tính giang sơn, tìm thiên phương bách kế để xâm lấn vào quan nội. Sùng Trinh tuy rất đa nghi, hành sự thường tam tâm lưỡng ý, nhưng nói về kháng cự Mãn Thanh thì hắn có ra sức đối phó, so với bọn hôn quân tiền triều như Vạn Lịch, Thiên Khải còn khá hơn nhiều. Nếu ngươi vì tư thù mà vào cung giết hắn, thái tử kế vị còn nhỏ xíu, quyền bính rơi vào tay bọn gian thần, e rằng giang sơn nhà Hán chúng ta lập tức rơi vào tay người. Khi đó, ngươi có phải là tội nhân của thiên hạ hay không? Phụ thân của ngươi cả đời kháng cự Mãn Châu, quyết chí bình định Liêu Đông. Nếu lệnh tôn trên trời mà linh hiển, biết được chuyện đó nhất định sẽ giận dữ mà mắng ngươi là bất trung bất hiếu.”

Nghe sư phụ giải thích, Thừa Chí không khỏi hoảng sợ đến nỗi mồ hôi lạnh toát đầy người.

Mục Nhân Thanh lại nói: “Quốc sự là lớn, tư thù là nhỏ. Trước đây ta không cho ngươi đi hành thích phục thù, chính vì lý do này. Nhưng cục diện bây giờ khác hẳn, Sấm Vương thắng lợi liên tục, Lạc Dương đã lấy được, chỉ một hai năm nữa là tiến vào Bắc Kinh. Sấm Vương anh minh thần võ, đứng ra chủ trì đại cuộc thì bọn giặc Mãn Châu, Liêu Đông không đáng sợ nữa.”

Viên Thừa Chí nghe mà mặt nóng bừng bừng, hưng phấn lạ thường.

Mục Nhân Thanh nói: “Bây giờ võ công của ngươi đã có căn cơ, nhưng võ học là chuyện vô cùng vô tận. Những gì ta biết, ta đã truyền thụ cho ngươi cả rồi. Sau này ngươi tiến bộ đến đâu là dựa vào bản thân dụng công tu luyện. Ngày mai sư phụ xuống núi, đi với hai người Vương và Cao để lo mấy việc. Hỗn Nguyên Công của ngươi còn thiếu một nấc cuối cùng, nhanh thì mười ngày, chậm thì một tháng sẽ được như ý, quán thông từ trên xuống dưới. Bây giờ mà ngươi bôn ba xuống núi, tất sẽ bị phân tâm, luyện công không được tập trung như ở trên núi. Ngươi hãy đợi tới khi Hỗn Nguyên Công quán xuyến toàn thân, không tắc nghẽn chỗ nào nữa rồi hãy xuống núi, đến chỗ quân đội Sấm Vương tìm sư phụ. Dọc đường nếu gặp những việc không công bằng, có thể thuận tay giúp đỡ, hành hiệp trượng nghĩa, giúp kẻ yếu đuối, cứu kẻ khốn cùng, đó là bổn phận phải làm. Dù gặp gian khó nguy hiểm đến đâu, cũng không được khoanh tay đứng nhìn.”

Thừa Chí vội vàng vâng dạ. Chàng nghe sư phụ cho phép mình xuống núi, vui mừng không sao tả xiết.

Thường ngày Mục Nhân Thanh đã dạy Viên Thừa Chí tất cả môn quy phái Hoa Sơn và những điều cấm kỵ trên chốn giang hồ, cũng đã nhắc đến tất cả các bang hội chính tà, nguồn gốc và gia số võ công các môn các phái cho chàng biết. Bây giờ ông nhắc lại những chỗ quan trọng, cuối cùng mới nói: “Ngươi là con người thận trọng ngay thẳng, chuyện này sư phụ rất an tâm. Nhưng ngươi đang lúc tuổi trẻ, huyết khí cương thịnh, phải cẩn thận về vấn đề nữ sắc. Rất nhiều đại anh hùng đại hào kiệt, chỉ vì sẩy chân vào chữ tình mà thân bại danh liệt. Ngươi phải nhớ lời ta dặn.”

Thừa Chí nghiêm chỉnh vâng dạ.

Sáng sớm hôm sau, Thừa Chí thức dậy cứ theo lệ thường mà giúp ông câm đun nước nấu cơm, xong xuôi mới vào phòng sư phụ vấn an. Nhưng Mục Nhân Thanh và hai người khách đã đi từ sớm rồi.

Thừa Chí nhìn chiếc giường trống của sư phụ mà ngẩn ngơ một lúc. Chàng nghĩ đến chỗ chẳng bao lâu mình cũng xuống núi, bèn dùng tay ra hiệu cho ông câm biết. Ông câm cũng ra vẻ buồn bã, quay lưng đi ra ngoài.

Viên Thừa Chí và ông câm đã sống chung mười mấy năm trời, tình nghĩa như anh em ruột thịt. Chàng biết ông câm không nỡ chia ly với mình, trong lòng cũng buồn man mác.

Mười bảy mười tám ngày thấm thoắt trôi qua. Viên Thừa Chí vẫn chăm chỉ luyện công, nhưng nghĩ đến mình sắp phải rời khỏi đây, nên đối với từng ngọn cỏ từng gốc cây đều có phần thương yêu luyến tiếc hơn.

Một hôm dùng xong cơm tối, ngồi trên giường luyện Hỗn Nguyên Công, chàng bỗng cảm thấy nội tức lan truyền khắp toàn thân, thông suốt nhanh chóng lạ thường. Chàng biết rằng cửa ải cuối cùng mà sư phụ nói đã thông, trong lòng vô cùng mừng rỡ.

Đang định tắt đèn đi ngủ thì ông câm vào phòng, ra hiệu hình như có người lạ lên núi. Viên Thừa Chí toan chạy ra xem, nhưng ông câm tỏ ý đã xem xét cẩn thận, không thấy chỗ nào không ổn.

Viên Thừa Chí vẫn không yên tâm, dẫn hai con vượn khổng lồ đi xem xét cả trước núi sau núi, không phát hiện được gì lạ mới quay về ngủ.

Đến nửa đêm, đột nhiên ngoài phòng có tiếng Đại Oai và Tiểu Oai kêu loạn xạ. Thừa Chí ngồi bật dậy, chú ý lắng tai nghe, đột nhiên cảm thấy mùi hương ngòn ngọt bay vào mũi. Chàng la thầm: “Hỏng bét!”

Viên Thừa Chí vận khí toan nhảy ra ngoài, không ngờ dưới chân hoàn toàn vô lực, loạng choạng suýt nữa té nhào. Đây là chuyện xưa nay chưa từng gặp, chàng đang kinh ngạc thì “bình” một tiếng, cửa phòng bị đá bật ra, một bóng đen nhảy xổ vào trong.

Một luồng đao phong rít lên trong bóng tối, chém vào phòng. Viên Thừa Chí đang xây xẩm mặt mày, chân đứng không vững, nhưng gặp lúc nguy cấp cũng gượng chống đỡ. Chàng đảo người sang trái, phóng hữu chưởng ra đánh trả. Người kia trở đao bổ thẳng xuống, chém vào cánh tay chàng.

Viên Thừa Chí không cho đối phương cơ hội phản đòn. Trong màn đêm chàng nghe tiếng mà định phương vị, bước tới một bước, tay trái đánh trúng vai đối thủ nghe “bịch” một tiếng. Tiếc là cánh tay chàng bủn rủn tê liệt, nên lực đạo không bằng một phần mười lúc bình thường. Tuy vậy người kia cũng để đao tuột khỏi tay, không tự chủ được, lảo đảo lùi ra khỏi phòng.

Một người phía ngoài đưa tay đỡ lấy hắn, cất tiếng hỏi: “Cái xương trong đó cứng lắm ư?”

Thừa Chí toan nhảy ra truy kích, nhưng đột nhiên đầu nhức mắt hoa, lăn xuống đất bất tỉnh.

Không biết bao lâu chàng mới tỉnh lại, cảm thấy toàn thân bủn rủn. Toan cử động tay chân mà không được, chàng kinh hãi nhận ra mình đã bị trói chặt. Hé mắt nhìn ra thấy trong phòng đèn đuốc sáng trưng, có hai người đang đổ hết rương hòm ra, lục lọi khắp nơi.

Viên Thừa Chí biết đã bị ám toán, trong lòng tự trách mình vô dụng. Sư phụ xuống núi chưa bao lâu, đối phương đã lên tận núi khống chế mình rồi, nói gì tới việc bôn ba giang hồ, trả thù cho thân phụ. Đầu chàng vẫn nhức, mắt nhìn tán loạn, phải âm thầm vận nội công một lúc mới trấn tĩnh lại được.

Nhưng chàng vẫn giả vờ hôn mê chưa tỉnh, hé mắt mảnh như sợi chỉ để lén nhìn, thấy một người thân hình ốm yếu chừng bốn mươi tuổi, mặt mũi khô cằn. Lại còn một người đầu trọc lóc, thân hình cao lớn, dường như là người vừa giao đấu với mình.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Trên núi này có gì quý trọng đâu mà chúng đến đây cướp giật? Cả thảy chỉ có năm chục lượng bạc, sư phụ để cho mình làm lộ phí. Nhưng hai người này chắc chắn không phải là trộm cướp bình thường. Võ công của tên trọc không tệ lắm, chắc tên ốm kia cũng vậy. Nhưng nếu chúng đến tìm sư phụ trả thù, thì sao không giết mình mà đi lục lọi tìm kiếm khắp nơi?”

Chàng thầm vận công lực, muốn giật đứt dây trói. Không ngờ địch thủ biết võ công của chàng cao cường, nên cắm thêm một cây tre vào giữa hai tay Viên Thừa Chí. Nếu dùng sức vận nội công thì cây tre sẽ bị vỡ trước, lập tức phát ra tiếng động. Viên Thừa Chí sợ bị phát giác nên lập tức dừng tay lại, cố tìm cách thoát thân khác.

Tên trọc đột nhiên vui mừng la lên: “Đây rồi!” Hắn lôi dưới gầm giường ra cái hộp sắt lớn, di vật của Kim Xà Lang Quân để lại.

Hai người ngồi bên bàn mày mò mở hộp sắt, lấy ra một quyển sách, thấy trên bìa sách viết bốn chữ Kim Xà Bí Kíp. Tên trọc nói: “Quả nhiên là ở đây. Kim sư ca! Công phu mười tám năm trời của chúng ta đúng là không uổng phí.”

Chúng mở bí kíp ra, thấy vẽ đầy đồ hình, viết đầy chữ nhỏ, mừng rỡ gãi đầu gãi tai, vui mừng không sao tả xiết.

Tên ốm đột nhiên la lên: “Ái chà! Ngươi muốn trốn ư?” Nói xong, hắn trỏ vào Thừa Chí, khiến chàng không khỏi giật mình.

Tên trọc quay đầu lại nhìn, nhưng cổ tay tên ốm bỗng xoay lại. “Xoẹt” một tiếng, trủy thủ đã cắm vào người tên trọc, sâu đến cán. Tên ốm lập tức nhảy ra ngoài một thước, rút trường kiếm ra bảo vệ trước mặt mình.

Tên trọc nét mặt bi phẫn lạ lùng, đột nhiên cười đau khổ rồi nói: “Hai mươi mấy sư huynh đệ chúng ta đã chia nhau tìm kiếm mười mấy năm trời, đến hôm nay ngươi và ta mới tìm được bảo bối này. Trương sư ca! Thì ra ngươi muốn nuốt trọn, hạ độc thủ với ta. Ha ha, ha ha… Thế là ngươi phản bội Kỳ Tiên Phái rồi. Nhưng giấu giếm năm vị lão gia không phải là việc dễ đâu. Ta… ta đoán ngươi chắc chắn không có kết cuộc tốt lành. Ha ha… ha ha…”

Trong màn đêm vắng lặng, nghe tiếng cười lạnh lẽo thảm khốc, toàn thân Viên Thừa Chí rởn ốc, dựng cả tóc gáy.

Tên trọc cứ quờ quờ muốn rút trủy thủ ra khỏi lưng, nhưng sờ mãi vẫn không tới được. Hắn hét lên một tiếng thê thảm, ngã nhào xuống đất, giãy giãy mấy cái rồi bất động.

Tên ốm sợ hắn chưa chết hẳn, bước tới đâm thêm hai nhát kiếm vào lưng, “hứ” một tiếng rồi nói: “Ta không giết ngươi thì chắc ngươi cũng giết ta. Hà tất phải khách sáo.”

Hắn phóng cước đá mạnh vào xác tên trọc, lại nói: “Ngươi nói là ta không giấu được năm lão già đó phải không? Chờ đấy mà xem!”

Hắn không biết Viên Thừa Chí đã tỉnh, nham hiểm cười gằn hai tiếng, dùng tay gạt bớt tim cây đèn nến, rồi mở sách ra xem tiếp. Hắn vừa xem vừa lắc lư qua lại, khuôn mặt đầy vẻ hoan hỉ. Lật được mấy trang, bỗng có trang lâu ngày bị dính lại không mở được, hắn bèn đưa ngón tay trỏ vào miệng, thấm nước bọt để lật tiếp; cứ thế lật thêm mấy tờ.

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ đến một chuyện. Quyển sách này có tẩm chất kịch độc, hắn lật như vậy chắc chắn phải trúng độc. Chàng không nhịn được, bất giác la lên một tiếng.

Tên ốm quay đầu lại, thấy sắc mặt Thừa Chí kinh hãi bàng hoàng. Hắn từ từ đứng dậy, rút lấy thanh trủy thủ đang cắm sau lưng tên trọc, bước tới hai bước rồi nói: “Ta với ngươi không oán không thù, nhưng hôm nay không thể tha mạng cho ngươi.”

Hắn đảo cặp mắt hung dữ, chĩa trủy thủ ra, cười gằn rồi nói: “Bây giờ giết ngươi, e rằng ngươi xuống âm phủ cũng không biết vì sao mình chết. Nói thật cho ngươi biết, ta là Trương Xuân Cửu của Kỳ Tiên Phái, tỉnh Chiết Giang. Kỳ Tiên Phái của chúng ta có đại thù với Kim Xà Lang Quân. Hắn gian dâm sư muội của chúng ta rồi chạy trốn, không biết tung tích nơi nào. Mười mấy năm trời chúng ta tìm hắn khắp nơi, không ngờ di vật của hắn đã rơi vào tay thằng lỏi này. Kim Xà Lang Quân đang ở đâu?”

Hỏi xong, hắn nhìn ra cửa sổ, sắc mặt bỗng lộ vẻ sợ hãi, hình như sợ Kim Xà Lang Quân đột nhiên xuất hiện.

Nếu Thừa Chí có kinh nghiệm giang hồ, dĩ nhiên sẽ dùng lời hù dọa, dù không thể bắt hắn sợ hãi bỏ chạy, thì cũng làm hắn phải kiêng nể không dám giết mình. Nhưng lúc này chàng chẳng nghĩ gì đến chuyện lừa gạt người khác, bèn nói: “Kim Xà Lang Quân đã chết lâu rồi. Thi hài của ông ấy do ta chôn cất.”

Trương Xuân Cửu mừng rỡ, hỏi lại: “Kim Xà Lang Quân chết thật rồi ư?”

Viên Thừa Chí gật đầu.

Trương Xuân Cửu quát hỏi: “Hắn chết vì lý do gì?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta không biết. Thật sự ta không biết.”

Sắc mặt Trương Xuân Cửu trông ghê tởm vô cùng. Hắn dữ tợn nói: “Thằng lỏi này ở trên núi Hoa Sơn, nhất định không phải là người tốt, chắc cũng một lò với Kim Xà Lang Quân. Ta giết ngươi cũng chẳng oan ức gì. Sau khi ngươi làm ma, muốn trả thù thì cứ đến Tịnh Nham ở Cù Châu để tìm Trương Xuân Cửu này. Ha ha! Nhưng từ nay về sau ta không trở về Cù Châu nữa. E rằng ngươi biến thành ma cũng không tìm được ta.”

Hắn đưa kiếm lên, toan chém vào đầu Viên Thừa Chí, nhưng đột nhiên chân bước loạng choạng.

Thừa Chí biết mình sắp gặp nguy, sức lực toàn thân đều vận hết lên hai cánh tay. “Rắc” một tiếng, cây tre dập nát trước, rồi bao nhiêu dây trói đều đứt bung nghe bừng bực. Chàng toan phóng chưởng đánh tới, nhưng Trương Xuân Cửu đột nhiên ngã ngửa ra sau, nằm ngẩng mặt nhìn trời.

Thừa Chí sợ hắn giở trò gian trá, bèn cầm lấy một đoạn dây đứt múa lên che trước mặt, phát ra tiếng gió vù vù. Bỗng chàng thấy hai chân hắn đạp đạp mấy cái rồi không động đậy nữa, mắt tai mũi đều chảy máu đen, mới tin chắc hắn đã trúng độc mà chết.

Chàng cúi xuống tháo dây trói chân mình, rồi chạy ra ngoài thạch thất, thấy ông câm cũng bị trói chặt, cặp mắt giương to mà không động đậy gì được. Chàng cởi trói cho ông câm, lại thấy Đại Oai và Tiểu Oai đang ngất xỉu, liền đi lấy một thau nước lạnh xối trên đầu xuống. Hai con vượn khổng lồ từ từ tỉnh lại.

Thừa Chí dùng tay ra hiệu, kể lại tình hình vừa rồi cho ông câm biết. Đợi sáng hôm sau, hai người khiêng hai cái thi thể ra phía sau núi. Thừa Chí nghĩ cái hộp sắt lớn này là vật hại người, nên đem cả hộp cả sách ném xuống hố, chôn chung với hai tử thi.

Nghĩ đến chuyện xảy ra đêm qua, chàng không khỏi thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Hai tên này trói chặt ta với ông câm mà không chém chết ngay, chỉ vì muốn tra hỏi tung tích của Kim Xà Lang Quân. Nếu chúng không có mưu đồ khác, thì hai cái thi hài bị chôn dưới hố này là mình và ông câm mới phải”.

Hồi 04: Lợi hại Kim xà kiếm – Văn nhã mỹ thiếu niên

Viên Thừa Chí vô tình tìm ra hộp sắt từ hồi mười bốn tuổi, mấy năm nay đã quên hẳn không nghĩ tới nữa. Nhưng bây giờ nhìn thấy bộ điệu của Trương Xuân Cửu và tên trọc kia, chàng bỗng nghĩ: “Trong Kim Xà Bí Kíp nhất định phải có một bí mật cực lớn, nên chúng mới chịu tìm kiếm mười tám năm liền, rồi khi tìm thấy lại liều mạng giành nhau như vậy. Thế thì pho bí kíp này viết những gì?”

Ý niệm này nổi lên, chàng không dằn được, bèn chui vào gầm giường lấy cái hộp sắt nhỏ đầy bụi bặm ra. Cái hộp này nhỏ hơn nhiều, nên Trương Xuân Cửu và tên trọc chưa phát hiện. Chúng vừa nhìn thấy cái hộp sắt lớn và pho bí kíp giả là đã mừng rỡ điên cuồng, chưa kịp tìm thêm vật khác.

Viên Thừa Chí mở hộp sắt nhỏ, lấy pho Kim Xà Bí Kíp thật ra đặt trên bàn, lật ra xem. Cuốn sách này hơi nhỏ hơn một chút, nhưng số trang lại nhiều hơn. Phần đầu tiên là bí quyết luyện công và tâm pháp phóng ám khí, không khác biệt gì lắm so với những gì mà sư phụ của chàng và Mộc Tang đạo nhân đã dạy. Ngoài ra còn nhắc đến những chỗ bí ảo trong võ công các môn các phái cùng phương pháp phá giải, có thể nói là phong phú. Sau đó thì đến phần võ công của Kim Xà Lang Quân tự sáng chế ra.

Đọc sơ qua, Viên Thừa Chí thấy những điều ghi trong bí kíp có nhiều chỗ không bằng sở học của mình, nhưng về mặt âm hiểm, ác độc thì hơn hẳn. Chàng nghĩ: “Lần này suýt nữa mình trúng phải quỷ kế đê tiện của địch thủ. Sau này đi lại giang hồ, khó mà tránh khỏi những thủ đoạn hiểm độc như thế. Loại thủ đoạn này dĩ nhiên mình không muốn sử dụng, nhưng biết người biết ta thì dễ phòng địch giữ mình, cũng nên đọc qua.” Chàng bèn nghiên cứu tỉ mỉ những tâm pháp ghi lại trong bí kíp.

Càng đọc, mồ hôi lạnh càng tuôn ra ướt đẫm cả tóc, rồi từng giọt nhỏ xuống. Trên thế gian có nhiều phương pháp ác độc hại người đến thế, thật khó mà tưởng tượng được. Thủ đoạn dùng thuốc mê của Trương Xuân Cửu và tên trọc đã dùng, có thể nói là không thấm vào đâu.

Đọc đến sáng ngày thứ ba, chàng thấy những võ công ghi trong bí kíp hoàn toàn khác với những gì mình đã học, chẳng những không liên quan chút nào tới võ công phái Hoa Sơn, mà trước nay chàng cũng chưa nghe sư phụ và Mộc Tang đạo nhân nhắc đến lần nào. Đây không chỉ là một con đường khác, mà có nhiều chỗ rất kỳ lạ, ngược hẳn những yếu chỉ võ công mình đã học, nhưng lại là phương pháp kỳ diệu để khắc địch chế thắng.

Ai đã giỏi một nghề thì học thêm nghề khác cũng dễ dàng hơn. Viên Thừa Chí đã có căn bản võ học thâm sâu, khi học những loại bàng môn tả đạo đương nhiên rất dễ. Trong bí kíp có nhiều quái chiêu kỳ lạ, nhưng chàng vừa đọc là hiểu ngay, nên cứ thế mà đọc tiếp.

Viên Thừa Chí đã luyện Hỗn Nguyên Công thâm hậu, nên học võ công gì khác cũng dễ dàng như trở bàn tay. Nhưng luyện được hai mươi mấy ngày thì chàng gặp phải một cửa ải khó qua. Bí quyết chỗ này ghi chép khá tường tận, nhưng lại không có đồ hình vẽ tư thế, nên chàng đành đọc sơ qua mà không luyện tập.

Mười mấy trang bí kíp cuối cùng ghi toàn những công phu dùng để đối phó với một trận pháp gọi là Ngũ Hành Trận, đòi hỏi người học phải thuộc phương vị bát quái cùng những chỗ biến hóa tương sinh tương khắc. Trận pháp này biến ảo vô cùng, phải có năm người mới hình thành được, năm phương vị bổ sung cứu trợ lẫn nhau. Kim Xà Lang Quân đưa ra phương pháp cực kỳ xảo diệu, chỉ dùng một chiêu mà phá được, nhưng trong chiêu đó bao hàm không ít võ công cao minh.

Viên Thừa Chí nghĩ chưa chắc mình sẽ gặp Ngũ Hành Trận, nhưng công phu để phá trận lại có công dụng rất rộng, luyện tập có nhiều lợi ích, nên chàng bỏ ra mấy ngày khổ luyện cho thấu hiểu.

Phần lớn võ công chép trong bí kíp đều viết một cách bình hòa, phân tích ưu điểm khuyết điểm hẳn hoi. Chỉ có mười mấy trang chép cách phá Ngũ Hành Trận là ngữ khí đầy vẻ oán giận. Rõ ràng Kim Xà Lang Quân thù hận năm địch thủ này rất sâu, nên phương pháp phá trận cực kỳ ác liệt, chiêu nào thức nào cũng muốn giết kẻ địch cho khoái chí.

Trong lúc luyện tập, Viên Thừa Chí nhiều lần lắc đầu thầm nghĩ: “Phá xong trận là được rồi, hà tất phải giận dữ như thế? Xem ra ông ấy sáng chế bộ võ công này là có mục đích, đối thủ thật sự có hình có dáng, không phải chỉ do tưởng tượng mà thôi.”

Viên Thừa Chí chỉ học chiêu thức mà bỏ qua thâm ý hiểm độc bên trong, nghĩ bụng: “Sư phụ vẫn dạy, võ công mình cao hơn thì phải nhớ hạ thủ lưu tình, chừa cho người khác một con đường sống.”

Trong bí kíp còn có một bộ Kim Xà Kiếm Pháp. Viên Thừa Chí nghĩ: “Kim Xà Lang Quân đặt tên pho kiếm pháp này là Kim Xà, nhất định ông rất coi trọng. Bên trong chắc có chỗ độc đáo.”

Chàng theo đó mà luyện, lúc đầu chưa thấy gì, nhưng về sau thì có nhiều chỗ không thuận tay, lại có mấy chiêu thức dường như hoàn toàn vô dụng, thử tới thử lui không được. Chàng liền nghĩ: “Trên vách động, chỗ mình mai táng Kim Xà Lang Quân có rất nhiều đồ hình, chẳng lẽ có liên quan đến phần này hay sao?”

Vừa nghĩ tới đó chàng đã không nhẫn nại được, lập tức gọi ông câm, mang dây và đuốc trèo xuống động. Lúc này thân hình chàng đã cao lớn rồi, may mà năm trước đã phá rộng cửa động nên rất dễ vào trong.

Chàng cầm đuốc soi lên vách động, nghiên cứu đồ hình tỉ mỉ. Quả nhiên đây là đồ hình để giải thích những yếu quyết trong bí kíp. Vách đá ở đây chẳng cứng gì, nhưng đồ hình lại vẽ sơ sài, nét khắc rất cạn. Rõ ràng lúc Kim Xà Lang Quân khắc những đồ hình này, ông chẳng còn bao nhiêu hơi sức nữa.

Viên Thừa Chí cả mừng, theo đồ hình mà tập thử, cố ghi khắc vào lòng. Chỉ tốn mấy giờ, chàng đã thuộc hết đồ hình trên vách. Chàng tới trước mộ Kim Xà Lang Quân lạy thêm mấy lạy, cảm tạ ông đã để lại võ công.

Đang định ra ngoài, đột nhiên chàng nhìn thấy chuôi kiếm trên vách động, lần trước còn bé chưa dám rút ra. Bây giờ chàng nắm chặt chuôi kiếm, chỉ khẽ vận sức là rút được ra nghe “sột” một tiếng. Bên dưới chuôi kiếm quả nhiên có lưỡi kiếm, cắm vào một kẽ nứt có sẵn trên vách đá. Lúc đó Kim Xà Lang Quân đã kiệt lực rồi, chắc không đủ sức đâm lút lưỡi kiếm này vào đá núi.

Viên Thừa Chí bỗng thấy kiếm khí lạnh ngắt ép người. Thanh kiếm này óng ánh màu vàng, hình dạng rất lạ, trông rất giống Kim xà truy trước kia đã gặp. Lưỡi kiếm giống như một con kim xà uyển chuyển bò tới, đuôi rắn uốn cong là chuôi kiếm, đầu rắn là mũi kiếm, lưỡi rắn thè ra chẻ đôi nên mũi kiếm cũng có hai nhánh hai bên.

Thanh kiếm này lấp lánh ánh hoàng kim, cầm trên tay thấy nặng, hình như khi đúc có pha lẫn vàng. Trên lưỡi kiếm có một vết máu phát ra những tia sáng xanh lục âm u, trông vừa lạ mắt vừa kỳ dị.

Viên Thừa Chí xem xét một hồi, trong lòng đột nhiên rờn rợn. Chàng nghĩ bụng: “Vết máu màu xanh lục này không biết là máu của ai? Của bậc trung thần nghĩa sĩ, của kẻ đại gian đại ác, hay là máu của hàng trăm hàng ngàn người ngưng tụ lại thành?”

Chàng cầm kiếm múa thử một lúc, bỗng hiểu được mấy chỗ quái lạ của Kim Xà Kiếm Pháp. Thì ra hai nhánh của mũi kiếm vừa có thể dùng để đâm, vừa có thể khóa chặt binh khí của địch thủ. Thanh kiếm này khi giật ngược về hoặc khi chém xéo đi đều có thể đả thương, so với trường kiếm bình thường thì có thêm không ít công dụng. Trước kia chàng cảm thấy nhiều chiêu thức trong Kim Xà Kiếm Pháp hoàn toàn vô dụng, nhưng nếu thi triển bằng thanh kiếm cổ quái này thì đó là những chiêu sát thủ.

Múa đến chỗ hăng say, Viên Thừa Chí vô ý vung kiếm chém vào vách động. Một tảng đá rơi ngay xuống, chẳng khác gì chém vào chỗ đất bùn, thì ra thanh kiếm này sắc bén vô cùng. Chàng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nhưng chợt nghĩ: “Kim Xà Lang Quân không có di ngôn tặng kiếm cho ta. Ta thấy bảo kiếm đã muốn chiếm ngay, không khỏi có lòng tham. Chi bằng để nó ở đây với chủ là hơn.”

Chàng cầm kiếm đâm trở vào vách đá. Nhát đâm này chưa dùng toàn lực, cũng không nhằm vào kẽ nứt trên vách đá, thế mà thanh kiếm chỉ còn lộ ra ngoài chưa đầy một thước. Lưỡi kiếm đu đưa, phát ra những tia sáng màu xanh lục dưới ánh lửa bập bùng, trông hệt như một con rắn còn sống đang run rẩy uốn mình, cố gắng chui vào vách đá.

Nhìn lại mười sáu chữ ghi ở trên vách động: “Trọng bảo bí thuật; Tặng người hữu duyên; Làm môn hạ ta; Gặp họa đừng oán”, Viên Thừa Chí không khỏi ngơ ngẩn xuất thần. Chàng nghĩ bụng: “Không hiểu vị Kim Xà Lang Quân tiền bối này tướng mạo ra sao? Hồi sinh tiền đã làm bao nhiêu chuyện kỳ lạ, kinh thế hãi tục? Cuối cùng sao lại bỏ xác trong sơn động này?”

Sau khi thấy Kim Xà Kiếm, Viên Thừa Chí càng ngưỡng mộ võ công chép trong Kim Xà Bí Kíp hơn, nên tự nhiên phát sinh tình cảm thân cận đối với vị quái hiệp này. Ra khỏi động, chàng lại mất hơn hai mươi ngày nữa để học hiểu hết toàn bộ võ công trong bí kíp. Trong đó, thủ pháp để bắn Kim xà truy là kỳ diệu nhất, so với tâm pháp phát xạ ám khí của Mộc Tang đạo nhân thì có thể nói mỗi môn có chỗ hay riêng.

Ba trang cuối cùng viết đầy khẩu quyết bằng chữ nhỏ xíu. Đối chiếu với những võ công ghi ở các trang trước thì rõ ràng ba trang này có nhiều chỗ biến hóa tinh xảo ảo diệu, nhưng lại cực kỳ khó hiểu. Chàng vùi đầu vào đọc tỉ mỉ ba trang khẩu quyết này, ngẫm nghĩ liên tiếp hai ngày nhưng vẫn thấy trong đó có rất nhiều mâu thuẫn. Chắc chắn còn có mấu chốt gì khác.

Viên Thừa Chí đã lật đi lật lại, nghiền ngẫm hết quyển bí kíp, toàn bộ đã thuộc lòng, chỉ còn ba trang cuối cùng là không hiểu. Chàng trở vào sơn động, xem lại đồ hình trên vách một lần, nhưng cũng không lý giải hết được.

Trong bí kíp có nhiều chiêu thức danh xưng cực kỳ quái lạ, như “Thứ niên biệt quân thời”, “Nhẫn lệ tường đế dị”, “Hàm tu bán khiết ni”, “Dương trường bách biến”, “Phấn lệ thiên thành”, “Bán tu hoàn bán hỷ”, “Dục thứ hựu y y”, “Lệ châu nan ký”, “Cựu hoa như mộng”, “Thúy ngã tảo quy gia”, “Cô nhạn thê lương”, “Đồng sinh cộng tử”, “Vọng lang hà nhật lai”… Đây là những lời lẽ yêu đương trai gái, tựa như tâm tình của người thiếu nữ phải xa cách tình lang, tương tư khổ sở ngày đêm. Lúc này Viên Thừa Chí chưa hiểu tình cảm nam nữ, cũng không đọc sách nhiều, nên cảm thấy tên gọi những chiêu thức này vô nghĩa, có vẻ dài dòng khó hiểu. Thử thi triển thì quyền chưởng hay kiếm pháp cũng vậy, muốn tiến lại lùi, muốn tấn công lại dừng bước, hư chiêu rất nhiều, thực chiêu lại hiếm. Đây giống như hai người đùa giỡn với nhau, không phải là những chiêu đoạt mạng, đem ra đối địch chắc không ích lợi gì.

Đến chiêu Ý Giả Tình Chân, đọc thấy trong bí kíp nói tỉ mỉ chiêu này như thật như ảo thế nào, lại chú thích: “Trên thế gian, người mang ý giả rất nhiều, người có chân tình thì hiếm thấy. Phải dùng nhiều cách để thăm dò chân ý của đối phương ở chỗ nào, nhưng thật khó mà biết được.” Viên Thừa Chí trằn trọc suốt đêm, ruột rối như tơ vò mà không sao lĩnh hội, cũng không thể dứt bỏ được.

Trong chiêu này bao hàm vô số hư chiêu, cuối cùng kết luận: “Đừng nói tới chuyện người khác có hay không có chân tình, mà ngay bản thân mình, chiêu này nhắm đến chỗ nào mình cũng chưa chắc đã biết. Kết liễu nửa hư nửa thực, tâm ý không định được.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Sư phụ thường dặn mình, lúc luyện tập võ công phải tránh tẩu hỏa nhập ma. Bị nhập ma thì tinh thần hỗn loạn, không trấn tĩnh được. Kim Xà Lang Quân suy nghĩ thế này, đã tẩu hỏa nhập ma rồi hay sao? Ta không thể học theo chiêu đó.” Chàng gập bí kíp lại, đột nhiên cảm thấy chiêu này hư hư thực thực, biến ảo vô cùng, thật sự xảo diệu, không có chiêu nào so sánh được. Người xuất chiêu đã không biết chiêu này nhằm vào đâu, dĩ nhiên đối thủ càng không thể biết. Đã không biết nhằm vào đâu, làm sao mà chống đỡ?

Có thể nói đây là một chiêu thức không thể chống đỡ được. Mọi chiêu thức võ công trong thiên hạ, bất luận kỳ diệu đến đâu, cũng có cách chiết giải đối phó. Đâm trái thì đỡ phải, đánh trước thì lùi sau. Còn chiêu này không biết đánh vào chỗ nào, nên bất kể cách chống đỡ nào cũng có thể sai lầm.

Đêm hôm đó, Viên Thừa Chí nghĩ ngợi đến lý lẽ này mà trằn trọc trên giường, không sao yên giấc được. Nhìn ra ngoài cửa sổ thấy ánh trăng soi vào phòng, cả nền nhà như được nhuộm một màu trắng bạc, chàng bỗng nghĩ: “Hỗn Nguyên Công của mình đã luyện thành, chỉ vì bộ Kim Xà Bí Kíp này mà ở lại trên núi thêm hai tháng. Sư phụ từng nói Kim Xà Lang Quân là con người quái lạ, sách của ông ta đọc chỉ vô ích. Mình xuất thủ mà chính mình cũng không biết đánh vào chỗ nào, tâm ý không định, thì làm sao gọi là chiêu thức được? Nhưng nói gì thì nói, cái chiêu Ý Giả Tình Chân cũng là một chiêu xảo diệu.”

Viên Thừa Chí nghiên cứu võ công đã tới cảnh giới rất cao. Khi gặp võ học cao siêu mà không tham cứu đến cùng, thật sự ngứa ngáy không chịu nổi. Bây giờ chàng phải quyết tâm: “Mắt nhìn không thấy coi như sạch. Ta đốt quách nó đi là xong.”

Đã có chủ ý, chàng lập tức xuống giường, đốt đèn lên, cầm quyển bí kíp hơ vào ngọn lửa để thiêu cháy. Nhưng đốt rất lâu mà trang bìa của bí kíp chỉ dính đầy muội khói chứ không chịu bắt lửa.

Viên Thừa Chí kinh ngạc, dùng sức để xé mà quyển sách cũng không rách. Lúc này Hỗn Nguyên Công của chàng đã luyện thành, kình lực nội gia ở hai tay cực mạnh. Lực xé này không phải tầm thường, dù là một miếng sắt cũng phải bị kéo giãn ra. Thế mà quyển sách này vẫn y nguyên, chắc chắn bên trong phải có chỗ kỳ lạ. Nhìn lại tỉ mỉ, thì ra bìa sách dệt bằng một loại chỉ giống như kim ty, gồm có hai lớp.

Viên Thừa Chí lấy dao nhỏ cắt đứt những sợi chỉ đóng sách, tháo bìa rời ra, rồi đem từng trang bí quyết đốt trên ngọn lửa. Thế là tuyệt học cả đời của Kim Xà Lang Quân đã bị đốt thành tro bụi. Nhìn lại trang bìa, hình như giữa hai lớp có một vật gì đó. Viên Thừa Chí tỉ mỉ tháo bỏ những sợi chỉ may dính hai lớp bìa, quả nhiên bên trong còn giấu hai tờ giấy.

Một tờ giấy có ghi bốn chữ: “Trọng bảo chi đồ”. Bên cạnh có vẽ một cái bản đồ, ghi rất nhiều ký hiệu. Sau tấm bản đồ có viết hai câu: “Người được món bảo bối này, thật sự là tri kỷ của ta. Hãy đến Tịnh Nham, Cù Châu, tỉnh Chiết Giang, tìm người con gái tên là Ôn Nghi, tặng giúp ta mười vạn lạng vàng.” Viên Thừa Chí nghĩ: “Khẩu khí người này lớn quá!”

Cuối tờ giấy còn mấy hàng chữ nhỏ: “Bây giờ gom hết châu báu trong thiên hạ cũng khó mua được nửa ngày gặp gỡ. Xem nặng báu vật mà coi thường ly biệt, cực kỳ ngu muội. Thật là hối hận, thật là hối hận.” Trong những chữ này có nhiều vết ố, hình như là nước mắt đã khô. Viên Thừa Chí suy nghĩ hồi lâu, vẫn không hiểu ý nghĩa ra sao.

Còn tờ giấy kia viết đầy những yếu quyết võ công, tham chiếu vào những chỗ mù mờ trong bí kíp, lập tức hiểu rõ ngay. Quả nhiên diệu dụng vô cùng. Chàng ngước mắt nhìn lên ánh trăng trong vắt trên trời, cảm thấy toàn bộ võ công bí ảo trong Kim Xà Bí Kíp bây giờ như một dòng suối trong xanh từ từ chảy qua lòng mình, trong suốt nhìn thấy đáy, không có một chút cặn bã nào. Viên Thừa Chí ngủ say một giấc, mãi đến khi mặt trời rọi vào cửa sổ mới tỉnh dậy.

Loại võ công này quá phức tạp phiền hà, chiêu thức biến ảo rất nhiều, xem ra bản tính của Kim Xà Lang Quân ở nơi bình dị vẫn thích quanh co khó hiểu, khiến cho người ta phải hoa cả mắt. Chữ trên hai tờ giấy này viết bằng bút mực, đương nhiên không phải viết trong sơn động. Đây là những khẩu quyết cuối cùng, quán xuyến hết những chiêu số cổ quái ở cuối sách.

Suy nghĩ một đêm, chẳng những Viên Thừa Chí hiểu hết bí lục của Kim Xà Lang Quân, mà đối với những võ công thượng thừa của sư phụ và Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, chàng cũng hiểu sâu thêm một tầng nữa.

Viên Thừa Chí ngồi nhìn hai tờ giấy trắng và một đống tro tàn mà ngơ ngẩn xuất thần, âm thầm than thở: “Kim Xà Lang Quân dụng tâm đến thế, cố ý để lại trong bí kíp mấy chỗ không thể lý giải được, bắt người được bí kíp phải cố ý tìm tòi, cuối cùng mới tìm được bản đồ cất giấu bảo tàng. Nếu bí kíp này rơi vào tay những kẻ bình thường, không say mê nghiên cứu võ công tới chỗ tinh vi, thì chắc họ không phát hiện được bản đồ.”

Chàng kẹp lại hai tờ giấy vào trong bìa quyển bí kíp, lại vào sơn động lấy Kim Xà Kiếm để luyện tập nhuần nhuyễn pho kiếm pháp. Sau đó chàng trả lại thanh kiếm vào chỗ cũ.

Hai ngày sau Viên Thừa Chí thu thập hành trang, từ biệt ông câm. Chàng đã ở trên núi nhiều năm, bây giờ chia xa, trong lòng không khỏi bùi ngùi. Đại Oai và Tiểu Oai rất có linh tính, nắm lấy vạt áo của chàng mà kêu “chét chét”, mãi không chịu thả. Viên Thừa Chí lại càng cảm thấy bổi hổi bồi hồi. Ông câm phải dẫn hai con vượn khổng lồ này đưa chàng một quãng dài, chúng mới chịu rơi nước mắt mà tạm biệt.

*

*   *

Phen này Viên Thừa Chí thành tài xuống núi, thế giới chung quanh chàng cái gì trông cũng lạ lẫm. Dọc đường, bá tính người nào cũng áo quần lam lũ, ốm đói, sắc mặt vàng khè. Đi được hơn trăm dặm, vẫn còn thấy mấy chục người dân kéo nhau lên núi đào rễ cây mà ăn. Trong bọc chàng có bạc của sư phụ để lại, nhưng không chỗ nào mua được thức ăn, đành phải thi triển võ công để bắt chim thú làm bữa. Chỗ nào cũng thấy dân chúng đói khổ, cuộc sống thật là thê thảm.

Đi được mấy ngày, sắp vào địa giới Sơn Tây, thấy dân chúng đang chống chọi với cơn đói bằng chính xác chết của đồng loại. Chàng không dám nhìn lâu, co giò chạy qua cho lẹ.

Đến một thị trấn, Viên Thừa Chí thấy một đám đông lê dân rách rưới đang thất thểu ca hát. Bài hát như sau:

“Mẹ thương cho ăn; Mẹ thương cho mặc; Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Sấm Vương mà đến; Khỏi đóng thuế lương.

Sáng cầu yên ổn; Chiều mong ấm no; Sống trong nghèo khó; Chết vẫn âu lo.

Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Cuộc sống thanh bình; Ai cũng hân hoan.”

Một tên võ quan dẫn mười mấy tên lính tới, lớn tiếng quát tháo: “Bọn bay dám hát những lời yêu ngôn tạo phản thế này, không sợ chém đầu sao?” Hắn vung roi quất loạn xạ vào đám đông.

Đám dân đói la lên: “Sấm Vương không đến thì mọi người phải chết đói hết. Chúng ta đang muốn tạo phản đây!”

Họ ùa cả lên, túm lấy bọn quan quân, vừa đánh vừa cắn. Chỉ chốc lát là mười mấy tên chết sạch.

Viên Thừa Chí thấy tình hình thế này, nghĩ bụng: “Chẳng trách thanh thế Sấm Vương ngày càng vang dội. Bá tính không tìm được cái ăn, chỉ còn cách giết quan tạo phản mà thôi.”

Chàng hỏi một người dân đói: “Đại ca có biết Sấm Vương đang ở đâu không? Tại hạ muốn đến đó để đầu quân.”

Người ấy đáp: “Nghe nói đại quân của Sấm Vương đang ở vùng Tương Lân, Văn Hỷ, sắp đến đây rồi. Mọi người chúng ta sẽ đi đầu quân.”

Viên Thừa Chí lại hỏi: “Vừa rồi mọi người hát bài đó nghe hay thật. Còn bài nào nữa không?”

Người ấy đáp: “Còn nhiều bài lắm, đều do Lý công tử, thuộc hạ của Sấm Vương sáng tác.” Y hát mấy bài nữa, đại ý đều khuyên dân chúng giết quan tạo phản, đón tiếp Sấm Vương.

Viên Thừa Chí vừa đi đường vừa thám thính, đến sông Hoàng Hà thì gặp một toán nhỏ Sấm quân. Người chỉ huy nghe chàng nói đến tìm Sấm Vương, không dám chậm trễ liền phái người dẫn chàng đến chỗ đại quân.

Sấm Vương nghe nói đệ tử của Thần Kiếm Tiên Viên đến gặp, tuy việc quân bận bịu nhưng vẫn đích thân tiếp kiến. Thấy ông khí thế oai mãnh, phong độ hòa ái, Viên Thừa Chí đem lòng kính phục. Sấm Vương nói sư phụ của chàng đã đi về Giang Nam.

Chắc chắn khi trao đổi với Sấm Vương, Mục Nhân Thanh đã nhiều lời khen ngợi đứa đồ đệ thương yêu, nên Sấm Vương đối với Viên Thừa Chí đầy vẻ coi trọng, có ý mở lời chiêu dụng.

Viên Thừa Chí nghe thấy sư phụ không có ở đó, không khỏi kém vui. Hỏi đến Thôi Thu Sơn, thì họ Thôi cũng đi cùng Mục Nhân Thanh đến vùng Tô Hàng ở Giang Nam để tìm kiếm quân lương.

Viên Thừa Chí nói là phải đi tìm sư phụ trước, xin phép rồi mới về đầu quân sau. Sấm Vương không miễn cưỡng, hạ lệnh cho Tế tướng quân Lý Nhai tiếp đãi, lại còn tặng thêm một trăm lạng bạc làm lộ phí. Viên Thừa Chí tạ ơn nhận lấy.

Lý Nhai cũng là võ tướng trong Sấm quân, nhưng lại mặc y phục kiểu thư sinh, ăn nói nho nhã. Chàng là con của Binh bộ thượng thư Lý Tinh Bạch, trước đây từng đậu cử nhân. Vì chẩn tế dân chúng bị thiên tai mà chàng đắc tội với huyện quan và bọn hào phú trong vùng, bị chúng vu khống bắt giam vào ngục. Có một vị nữ hiệp ngưỡng mộ chàng nên tập hợp dân đói đi phá nhà lao, cứu Lý Nhai ra. Nữ hiệp này thích mặc áo đỏ, mọi người đều gọi là Hồng Nương Tử.

Lý Nhai bị ép đến mức không thể không tạo phản, liền kết phu thê với Hồng Nương Tử, gia nhập quân khởi nghĩa của Sấm Vương. Chàng hiến kế phân chia ruộng đất công bằng, miễn giảm thuế má, đối đãi tốt với bá tính. Sấm Vương nghe lời cố vấn, cực kỳ trọng dụng Lý Nhai.

Đầu tiên thì Sấm quân chỉ là một tập hợp dân chúng do đói khổ mà tạo phản, chẳng qua chỉ muốn tìm miếng cơm manh áo chứ không có lý tưởng gì. Vì thế họ đến đâu cũng ra tay cướp bóc, không được lòng dân nên cứ chạy đông chạy tây, lúc thắng lúc bại, không phát huy được chính nghĩa. Từ khi Lý Nhai đầu quân, Lý Tự Thành mới chỉnh đốn quân kỷ, nghiêm cấm lạm sát gian dâm, lập tức thanh thế lừng lẫy khắp nơi.

Lý Nhai trị quân rất nghiêm, lại soạn nhiều bài đồng dao, sai người dạy trẻ con ca hát, lưu truyền khắp nơi. Bá tính đang đói khổ không có cơm ăn, lại bị quan phủ ép nộp quân lương. Nghe nói khi Sấm Vương đến thì khỏi đóng thuế, đương nhiên ai cũng ủng hộ. Vì thế nhiều thành trì không cần tấn công cũng chiếm được.

Lý Nhai đối với Viên Sùng Hoán trước nay hết lòng kính ngưỡng. Nghe nói có công tử của Viên đốc sư đến đây, chàng hết lòng đối đãi, mời vào doanh của mình, lại gọi phu nhân Hồng Nương Tử ra gặp. Hồng Nương Tử đường đường khí thế, sảng khoái hào hùng chẳng kém gì tu mi nam tử. Ba người đàm luận tâm đầu ý hợp.

Viên Thừa Chí chỉ giỏi võ công, còn kiến thức thì rất nông cạn. Lý Nhai thuộc làu lịch sử hưng vong trong thiên hạ cổ kim, đem ra bàn luận. Viên Thừa Chí nghe tới đâu thấm thía tới đó, lại càng khâm phục Lý Nhai hơn. Hai người ý khí tương đồng, bèn lạy nhau tám lạy, kết nghĩa huynh đệ.

Viên Thừa Chí ở trong doanh của Lý Nhai ba ngày, mãi đến khi Sấm Vương phải chuyển quân về phía bắc, hai người mới lưu luyến chia tay.

Viên Thừa Chí mới bước vào chốn giang hồ, đối với phong cách của Lý Nhai vô cùng ngưỡng mộ. Chàng muốn bắt chước, bèn đi mua y phục kiểu thư sinh để mặc.

Viên Thừa Chí chỉ biết sư phụ đang ở Giang Nam, còn cụ thể ở đâu thì không biết, đành đi bừa về hướng nam, phó mặc cho số phận.

Đất đai Giang Nam trù phú, tuy quan lại ở đây cũng tham ô vơ vét, nhưng bá tính vẫn còn có cơm ăn. So với các vùng chàng đã đi qua thì nơi này thật là chốn thiên đường.

Hôm đó Viên Thừa Chí đến Ngọc Sơn ở phía đông tỉnh Cống. Ăn cơm xong, chàng đến bến đò, tìm thuyền đi về hướng đông. Thấy bên bờ sông có một chiếc thuyền lớn, hỏi thì biết thuyền này đã được một phú thương bao thầu để chở hàng đến Kim Hoa tỉnh Chiết Giang, Viên Thừa Chí liền xin quá giang.

Chủ thuyền muốn kiếm thêm mấy đồng, bèn thương lượng với Long Đức Lân, phú thương bao chiếc thuyền đó. Long Đức Lân thấy chàng ra vẻ nho sinh nên cũng ưng thuận.

Chủ thuyền đang nhổ neo định khởi hành, bỗng trên bến có một thiếu niên nhanh chân chạy tới, kêu lớn: “Thuyền lão đại! Ta có việc gấp phải đến Cù Châu, nhờ ông giúp đỡ. Chở thêm một người cũng chẳng sao.”

Viên Thừa Chí nghe thanh âm thánh thót êm tai, ngẩng lên nhìn, không khỏi ngẩn ngơ một chút. Đó là một thiếu niên tuấn tú, khoảng mười tám mười chín tuổi, mặc trường bào vải đoạn màu xanh, đầu buộc khăn xanh khảm một miếng bạch ngọc, áo quần giày dép đều rất tinh nhã, ngang hông đeo một cái bao. Da dẻ y trắng trẻo, trông chẳng khác một tiểu thư khuê các.

Long Đức Lân thấy người này sắc phục sang trọng, khí thái hơn người, cảm thấy vui vẻ liền bảo chủ thuyền hạ tấm ván xuống để đón y.

Khi thiếu niên áo xanh vừa bước lên, chiếc thuyền bỗng hơi lún xuống như bị một vật nặng đè lên vậy. Viên Thừa Chí kinh ngạc trong lòng. Thân hình y ốm yếu chưa tới trăm cân, cái bao mà y đeo cũng không lớn lắm, sao lại nặng như thế được?

Sau đó thuyền khởi hành ngay. Thiếu niên áo xanh đi vào trong khoang, gặp Long Đức Lân và Viên Thừa Chí thi lễ, tự xưng họ Ôn tên Thanh, nghe tin mẫu thân bệnh nặng nên gấp rút về thăm. Y nhìn qua Long Đức Lân, ánh mắt không có biểu hiện gì bất thường, nhưng khi hướng về Viên Thừa Chí, cái nhìn của y lại có ý dò xét. Y hỏi: “Nghe khẩu âm Viên huynh hình như không phải là người bản xứ?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ quê quán ở Quảng Đông, từ nhỏ đã cư ngụ ở Thiểm Tây. Đây là lần đầu tiên tại hạ đến Giang Nam.”

Ôn Thanh hỏi: “Viên huynh đi Chiết Giang để làm gì vậy?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đi thăm một người bạn.”

Nói đến đây, đột nhiên có hai chiếc thuyền nhỏ chèo nhanh như bay tới, lướt ngang qua hai bên chiếc thuyền này. Cặp mắt Ôn Thanh cứ dõi theo, mãi đến khi hai chiếc thuyền nhỏ đó qua một khúc quanh, bị những ngọn núi phía trước che khuất, y mới không nhìn theo nữa.

Tới giờ cơm trưa, Long Đức Lân tỏ tình hiếu khách, mời hai người cùng ăn. Sức ăn của Viên Thừa Chí rất mạnh, mỗi bữa phải ba chén cơm lớn, cá thịt cũng ăn không ít. Còn Ôn Thanh chỉ ăn chiếu lệ một chén, đầy vẻ tuấn tú văn nhã.

Vừa ăn cơm xong lại nghe tiếng mái chèo, thêm hai chiếc thuyền nhỏ nữa lướt qua mặt. Trên mũi một chiếc thuyền nhỏ có một gã đại hán đứng yên, nhìn chằm chằm qua thuyền này. Ôn Thanh dựng ngược lông mày lên, sắc mặt đầy vẻ giận dữ.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên, không hiểu tại sao y thấy chiếc thuyền nhỏ lại nổi giận như thế. Hình như Ôn Thanh cảm giác được, bèn quay đầu mỉm cười một cái, sắc mặt lập tức trở lại hiền hòa. Bọn thuyền phu vừa pha một bình trà bưng lên. Y uống một hớp, hình như chê trà dở nên chau mày một cái, đặt ly xuống bàn.

Đến xế chiều, thuyền ghé vào một thị trấn nhỏ. Viên Thừa Chí muốn lên bờ dạo chơi một lát. Rủ Long Đức Lân thì y không muốn rời khỏi hàng hóa. Mời Ôn Thanh thì Ôn Thanh bĩu môi một cái, ra vẻ khinh miệt rồi nói: “Nơi này có gì vui đâu?” Hình như y chê Viên Thừa Chí hiểu biết nông cạn. Viên Thừa Chí cảm thấy thiếu niên này kiêu ngạo, nhưng cũng chẳng bận tâm.

Vùng Giang Nam sông núi hiền hòa, cảnh sắc đẹp đẽ, khác hẳn vẻ kỳ vĩ hiểm trở của chốn hoang sơn. Viên Thừa Chí không muốn bỏ qua dịp vui chơi tìm hiểu, bèn lên bờ, vào thị trấn nhỏ mua mấy cân quýt rồi trở về thuyền. Chàng định mời Long Đức Lân và Ôn Thanh ăn quýt, nhưng thấy hai người đã ngủ rồi, nên cởi áo ra nằm nghỉ.

Đến giữa khuya, đang mơ màng thì nghe xa xa có tiếng huýt sáo. Viên Thừa Chí lập tức tỉnh dậy, sực nhớ sư phụ từng dạy mình đề phòng những trò biến trá trên chốn giang hồ. Chàng biết sẽ có chuyện xảy ra, bèn nằm trong chăn âm thầm mặc lại quần áo.

Chẳng bao lâu nghe tiếng mái chèo nổi lên gấp rút, có thuyền từ hạ lưu chèo gấp đến đây. Ôn Thanh ngồi bật dậy. Y lấy trong chăn ra một thanh trường kiếm sáng đến chói mắt, nhảy lên đầu thuyền.

Viên Thừa Chí kinh hãi, thầm đoán: “Chẳng lẽ bọn thủy tặc phái y đến đây để làm nội ứng hay sao? Chắc chúng muốn cướp tài sản của thương gia họ Long này.”

Trước khi xuống núi, sư phụ chàng có nói là thời thế đang loạn lạc, đường đi không yên ổn, nếu mang theo trường kiếm lồ lộ trước mắt người ta thì khó mà tránh khỏi những chuyện vô duyên vô cớ. Viên Thừa Chí nghe lời sư phụ dặn nên chỉ mang theo một ngọn trủy thủ; còn thanh trường kiếm thường ngày luyện tập thì để lại Hoa Sơn. Chàng đưa tay sờ thử cây trủy thủ trong bọc, rồi cũng ngồi dậy.

Tiếng mái chèo của chiếc thuyền con lướt tới càng lúc càng gần. Trên mũi thuyền, một âm thanh thô lỗ quát lên: “Họ Ôn kia! Ngươi có hiểu đạo nghĩa giang hồ hay không?”

Ôn Thanh quát trả: “Hiểu thì sao? Không hiểu thì sao?”

Người kia mắng: “Bọn ta phải cực khổ theo dõi suốt con đường từ Cửu Giang đến đây, thế mà ngươi dám giữa đường can thiệp, bợ mất món hàng đó.”

Lúc này Long Đức Lân đã tỉnh dậy, thò đầu nhìn ra ngoài. Thấy bốn chiếc thuyền con thắp đuốc sáng rực, trên thuyền người nào cũng cầm binh khí; y lập tức hoảng sợ run lên bần bật. Viên Thừa Chí bèn tìm lời trấn an: “Đừng sợ! Không liên quan đến ông đâu.”

Long Đức Lân lắp bắp: “Không phải… không phải chúng… chúng định cướp hàng của ta ư?”

Lúc đó Ôn Thanh thét lên: “Tiền tài trong thiên hạ thì người thiên hạ đều lấy được. Chẳng lẽ chỗ tiền đó là của ngươi hay sao?”

Người kia nói: “Mau mau đem hai ngàn lượng vàng đó ra đây, chia đều ra. Hai bên chúng ta, mỗi bên được một ngàn lượng. Như vậy là dễ dãi cho ngươi rồi.”

Ôn Thanh quát: “Đừng hòng! Ngươi muốn gì thì cứ việc!”

Hai đại hán trên thuyền nhỏ giận dữ nói: “Sa đại ca, hà tất phải nhiều lời với tên gian tặc này. Hắn không muốn lấy một ngàn lạng thì thôi, một xu một cắc cũng đừng cho hắn!” Chúng cầm binh khí, tung người nhảy qua thuyền lớn.

Long Đức Lân mới nghe hai bên chửi nhau đã run rẩy toàn thân. Bây giờ thấy hai người từ thuyền nhỏ nhảy qua, y lại càng hồn phi phách tán, lớn tiếng la lên: “Viên… Viên tướng công! Bọn cướp… bọn cướp đến cướp… cướp…”

Viên Thừa Chí kéo y đến sát người mình, hạ giọng nói: “Đừng sợ.”

Thân hình Ôn Thanh hơi nghiêng một tí, chân trái phóng lên, “bõm” một tiếng đã đá người bên trái văng xuống sông, đồng thời trường kiếm bên tay phải vung lên. Người còn lại vội đưa đao lên đỡ. Nào ngờ trường kiếm đột nhiên xoay chuyển, tránh né lưỡi đao, thuận thế chém xuống. “Xoẹt” một tiếng, cả cánh tay lẫn thanh đao rơi xuống ván thuyền. Hắn ngã nhào xuống, ngất xỉu ngay tại chỗ.

Ôn Thanh cười nhạt, la lên: “Sa lão đại! Ngươi đừng bắt bọn vô dụng này đến đây chịu chết nữa.”

Đại hán đứng đối diện “hừ” một tiếng rồi nói: “Đi khiêng lão Lý về đây.”

Hai người tay không từ chiếc thuyền nhỏ tung người nhảy qua. Ôn Thanh chỉ cười nhạt, không lý gì đến chúng. Hai người đó khiêng tên bị chặt đứt cánh tay trở về thuyền nhỏ.

Chẳng bao lâu, tên bị đá lọt xuống sông cũng loi ngoi bò lên chiếc thuyền nhỏ, mình mẩy ướt như chuột lột.

Sa lão đại hô lớn: “Du Long Bang chúng ta và Kỳ Tiên Phái các ngươi, xưa nay nước sông không phạm nước giếng. Đương gia chúng ta nể mặt Ngũ Tổ của ngươi, không muốn làm khó ngươi. Nhưng ngươi muốn tốt thì đừng coi thường chúng ta.”

Viên Thừa Chí nghe nhắc đến Kỳ Tiên Phái, trong lòng bỗng nghĩ: “Ngày ấy, Trương Xuân Cửu và tên trọc không phải tự xưng là Kỳ Tiên Phái hay sao? Họ Ôn này cùng một phái với Trương Xuân Cửu, chắc chắn là quân gian ác rồi.”

Ôn Thanh nói: “Ngươi đừng lấy lòng ta. Đánh không lại, giở trò năn nỉ hay sao?”

Sa lão đại giận dữ hỏi: “Rút cuộc thì ngươi có tuân thủ quy luật giang hồ hay không?”

Ôn Thanh cười nhạt, đáp: “Ai muốn tuân thủ thì cứ việc tuân thủ. Sao phải nhiều lời vô ích như vậy?”

Sa lão đại nói: “Nghe ta nói đây. Du Long Bang chúng ta đã theo đúng quy luật, giữ đủ lễ số, nói chuyện đàng hoàng với ngươi, chỉ mong hai bên không tổn thương hòa khí. Ngũ Tổ của ngươi không thể trách chúng ta lấy nhiều hiếp ít, lấy lớn hiếp nhỏ.”

Cứ nghe khẩu khí cũng biết, tên này đối với Ngũ Tổ gì gì đó của Ôn Thanh vừa kính nể vừa sợ sệt.

Ôn Thanh mỉm cười nói: “Dựa vào bản lãnh mèo què như thế mà đòi bức hiếp ta ư?”

Viên Thừa Chí nghe hai bên càng nói càng cứng rắn, biết rằng nhất định sẽ xảy ra động thủ. Hình như Du Long Bang định cướp một số vàng, nhưng bị Ôn Thanh giữa chừng nhảy ra đoạt trước. Du Long Bang không phục, đuổi đến đây đòi chia một nửa chỗ vàng cướp được. Khi Ôn Thanh lên thuyền thân thể nặng nề như thế, chắc chắn có hai ngàn lượng vàng trong bao.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Hai bên đều chẳng tử tế gì. Mình cứ giả vờ không biết võ công, phủi tay đứng xem là được.”

Sa lão đại quát lên một tiếng, nắm chặt chuôi thanh Đại hoàn đao, nhảy qua thuyền lớn. Mười mấy đại hán tới tấp nhảy theo, đứng sau lưng hắn.

Sa lão đại chắp tay nói: “Võ công Kỳ Tiên Phái các vị có thể nói là độc đáo ở Giang Nam. Hôm nay Sa mỗ phải lãnh giáo cao chiêu của các hạ.”

Ôn Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Một mình ngươi đánh với ta, hay là cả bọn ùa lên?”

Sa lão đại giận dữ nói: “Ngươi xem thường người khác quá rồi. Trên thuyền ngươi có bao nhiêu người, hãy mời hết ra đây làm chứng. Đừng để bằng hữu giang hồ nói là Sa mỗ không biết giữ thể diện.”

Nói xong, hắn quay lại hô lớn: “Mời những người trong khoang ra đây.”

Hai đại hán vào trong khoang, bảo Viên Thừa Chí và Long Đức Lân: “Đại ca của chúng ta mời hai vị ra ngoài.”

Long Đức Lân run rẩy toàn thân, nói không ra tiếng. Viên Thừa Chí nói: “Họ muốn đánh nhau, chỉ muốn gọi chúng ta ra để làm chứng, không có gì quan trọng đâu. Ra đi!” Chàng kéo tay Long Đức Lân, dắt ra mũi thuyền.

Ôn Thanh hình như không muốn đợi lâu phiền phức. Y không để Sa lão đại nói nhiều nữa, cười gằn rồi nói: “Ngươi đã muốn chuốc lấy tai họa về mình thì đừng trách ta ra tay ác độc. Xuất chiêu đi!”

Soạt soạt hai tiếng, y phóng kiếm đâm vào cánh tay trái và ngực phải đối thủ. Thân hình Sa lão đại khôi vĩ to lớn, nhưng thân pháp cũng khá linh hoạt. Hắn múa cây Bát phong đại hoàn đao ra chiêu Thiết Ngưu Đỉnh Canh, xoay ngược sống đao chém tới Ôn Thanh. Chiêu này vừa gạt được trường kiếm đâm tới, vừa có thể tấn công kẻ địch, lại ra vẻ hạ thủ lưu tình, chỉ dùng sống đao mà đánh.

Ôn Thanh quát lên: “Ngươi có bao nhiêu bản lĩnh thì đem ra hết đi. Ta không muốn lễ nghĩa với ngươi đâu.” Miệng chưa nói xong, trường kiếm trên tay đã liên tiếp đâm tới veo véo.

Sa lão đại hơi sơ suất một chút, vai áo đã bị đâm thủng một lỗ, da thịt trên vai cũng bị vạch trúng. Hắn chửi tục mấy câu, rồi điên cuồng thi triển những chiêu sát thủ ác độc của Bát phong đại hoàn đao. Ôn Thanh múa kiếm rất nhanh, đảo qua lượn lại, trường kiếm lấp loáng ánh xanh, trùm kín thân thể đối phương.

Mới nhìn hai bên tỉ đấu mấy chiêu, Viên Thừa Chí đã biết võ công của Ôn Thanh hơn hẳn Sa lão đại. Thanh đao của Sa lão đại trầm trọng, nhìn thì oai mãnh, nhưng đao pháp lại trì trệ, không qua được những chiêu xảo diệu của Ôn Thanh.

Thời gian càng kéo dài, đầu Sa lão đại càng ướt đẫm mồ hôi. Hắn thở nghe hổn hển, thân pháp không nhanh nhẹn như trước nữa.

Trong bóng kiếm bỗng nghe Ôn Thanh quát lên một tiếng, Sa lão đại trúng kiếm vào đùi. Sắc mặt hắn thay đổi hẳn, tung người nhảy lùi ba bước, tay phải vung lên, ba mũi Thấu cốt đinh bay tới Ôn Thanh. Ôn Thanh dùng kiếm gạt văng hai mũi, còn một mũi thì né mình tránh khỏi.

Hai mũi Thấu cốt đinh bị gạt ra, có một mũi bay thẳng tới trước ngực Viên Thừa Chí. Ôn Thanh giật mình, nghĩ chắc mình vô ý đả thương người khác. Nào ngờ Viên Thừa Chí đưa tay trái ra, chỉ dùng hai ngón tay kẹp gọn mũi đinh.

Bọn đại hán theo Sa lão đại nhảy qua đều cầm đèn đuốc, mũi thuyền sáng trưng như ban ngày. Ôn Thanh nhìn thấy rõ ràng, không khỏi ngẩn ra: “Chiêu này hay quá! Thì ra võ công người này rất khá.”

Sa lão đại thấy Ôn Thanh cứ chăm chú nhìn Viên Thừa Chí ra vẻ kinh ngạc, nhân lúc y không đề phòng lại bắn tới ba mũi Thấu cốt đinh. Viên Thừa Chí bất giác la lên: “Ôn huynh cẩn thận!”

Ôn Thanh vội vã quay đầu lại, thấy ba mũi đinh còn cách mình chưa tới ba thước. Nếu không nhờ Viên Thừa Chí kịp thời nhắc nhở, thì y giỏi lắm chỉ tránh được một mũi, còn hai mũi phía dưới chắc chắn không tránh được. Y nghiêng đầu tránh một mũi, vung kiếm đánh bật hai mũi khác, quay lại gật đầu ra vẻ cảm ơn Viên Thừa Chí, rồi vung trường kiếm đâm tới Sa lão đại.

Tên này đánh lén ba mũi Thấu cốt đinh không trúng, dĩ nhiên đã có phòng bị. Hắn cầm cây Bát phong đao đâm chém loạn xạ như người điên. Ôn Thanh tức giận hắn ra tay ác độc, phen này ra toàn những sát chiêu. Mới mấy chiêu, cánh tay phải của Sa lão đại đã trúng kiếm, buông cây Bát phong đao rơi xuống sàn thuyền loảng xoảng.

Ôn Thanh nhảy tới một bước, vung kiếm phạt xuống, chặt đứt lìa chân phải của hắn. Sa lão đại kêu lên một tiếng thảm khốc, lập tức ngất xỉu. Đám bộ hạ của hắn vô cùng kinh hãi, ùa vào giải cứu. Ôn Thanh vừa phóng chưởng vừa phóng kiếm, chỉ chốc lát đã giết chết bảy tám người.

Viên Thừa Chí thấy vậy không nỡ, bèn lên tiếng: “Ôn đại ca, tha cho họ đi.”

Nhưng Ôn Thanh mặc kệ, giết thêm hai tên nữa. Bọn còn lại thấy đối phương hung hãn, bèn gọi nhau nhảy xuống sông chạy trốn. Ôn Thanh thuận tay phóng kiếm đâm vào giữa ngực Sa lão đại, rồi thuận chân đá văng thi thể của hắn xuống sông.

Viên Thừa Chí cảm thấy bất mãn, thầm nghĩ: “Thắng là được rồi, hà tất phải ra tay ác độc như thế?” Chàng quay đầu nhìn Long Đức Lân, thấy gã đã hoảng sợ đến bủn rủn toàn thân, không động đậy được.

Đám bang chúng Du Long Bang từ dưới sông trèo lên thuyền nhỏ, khua mái chèo xuôi dòng chạy trốn.

Viên Thừa Chí nói: “Họ muốn đoạt lấy tài vật của huynh mà không được thì thôi, hà tất phải hại nhiều sinh mạng?”

Ôn Thanh liếc chàng một cái rồi nói: “Huynh không thấy vừa rồi chúng đê tiện độc ác thế nào hay sao? Nếu ta lọt vào tay chúng, e rằng còn thảm khốc hơn nhiều. Huynh đừng tưởng đã giúp đỡ một lần thì có thể tùy tiện dạy dỗ người khác.”

Viên Thừa Chí không nói gì nữa, nghĩ bụng: “Người này thật là không thông tình lý.”

Ôn Thanh lau khô những vết máu trên trường kiếm, rồi tra kiếm vào vỏ. Y chắp tay vái chào Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Viên đại ca! Vừa rồi may được huynh lên tiếng nhắc nhở, nên ta mới tránh được ám khí. Đa tạ nhé.”

Mặt của Viên Thừa Chí hơi đỏ lên, chắp tay trả lễ, cảm thấy khó chịu vì không biết phải nói gì. Chàng cảm thấy người thiếu niên tuấn tú này lúc thì lễ độ đàng hoàng, lúc thì hung dữ ác ôn như lang sói. Không biết tính tình của y thật sự ra sao?

Ôn Thanh gọi chủ thuyền ra, bảo rửa sạch máu me trên mũi thuyền rồi cho thuyền đi tiếp. Người chủ thuyền thấy trận ác đấu vừa rồi, không dám ý kiến nửa câu. Hắn lập tức xách nước rửa sạch ván thuyền, rồi rút neo giương buồm, khởi hành lập tức.

Ôn Thanh lại bảo chủ thuyền dọn thức ăn và rượu của Long Đức Lân ra, đổi khách làm chủ, mời Viên Thừa Chí ra mũi thuyền ngắm trăng. Y hoàn toàn không nhắc đến trận ác đấu vừa rồi, uống mấy ly rồi nói: “Trăng sáng khi nào có; Nhấp rượu hỏi trời xanh.. Ái chà, e rằng trăng lúc nào muốn sáng thì sáng, không muốn sáng thì thôi, trời xanh cũng không biết đâu mà đáp. Viên đại ca! Huynh nghĩ có phải vậy không?”

Viên Thừa Chí nghe y đột nhiên nói chuyện văn chương, chỉ biết ừ à mấy tiếng. Chàng từng theo Ưng Tùng đọc mấy năm sách vở, mà lúc theo Mục Nhân Thanh học võ cũng đôi khi lật vài trang sách. Nhưng chàng không coi đó là chuyện chính, nên chữ nghĩa rất có giới hạn.

Ôn Thanh lại nói: “Viên huynh! Trăng trong gió mát thế này, chúng ta cùng làm câu đối có được không?”

Viên Thừa Chí nói: “Câu đối ư? Câu đối là cái gì? Chuyện này ta không hiểu.”

Ôn Thanh cười cười không đáp, rót đầy ly cho Viên Thừa Chí. Đột nhiên từ phía trước có một chiếc thuyền nhỏ lướt tới, tuy ngược dòng nhưng nhanh chóng khác thường. Sắc mặt Ôn Thanh thay đổi, cười lạnh mấy tiếng, nhưng vẫn tiếp tục uống rượu.

Thuyền lớn đang thuận gió thuận nước, chạy xuống hạ lưu. Trong chớp mắt hai chiếc thuyền đã tới sát nhau. Ôn Thanh đặt ly rượu xuống, đột nhiên tung người nhảy lên, chỉ chấm chân xuống ván thuyền một cái đã bay tới cuối thuyền. Y giành lấy tay lái trong tay thuyền phu, bẻ sang một bên. Mũi thuyền lập tức quặt sang bên trái, đâm thẳng vào chiếc thuyền nhỏ đang chạy tới.

Chiếc thuyền nhỏ muốn tránh né cũng không kịp nữa. Nghe một tiếng ầm dữ dội, hai chiếc thuyền va thẳng vào nhau. Viên Thừa Chí la lên một tiếng, nhìn thấy từ thuyền nhỏ có ba người nhảy lên rồi đáp xuống thuyền lớn, thân pháp không phải là tệ. Lúc này thuyền nhỏ đã bị lật úp, đáy thuyền hướng ngược lên trời.

Từ xa Viên Thừa Chí đã thấy trên thuyền nhỏ có năm người. Ngoài ba người này ra, còn hai người nữa, một cầm tay lái, một cầm mái chèo. Hai người này không kịp nhảy lên, đều rơi xuống sông. Họ chưa kịp kêu cứu mạng đã chìm xuống đáy. Đoạn sông này nước chảy xiết, đá ngầm lại nhiều. Dù là người bơi lội giỏi, nhưng đêm tối thế này mà rơi xuống lòng sông, không khỏi may ít rủi nhiều.

Viên Thừa Chí âm thầm chửi mắng Ôn Thanh ác độc, vô cớ làm tổn thương người khác. Chàng đợi hai người đó nhô đầu lên khỏi mặt nước, lập tức đưa tay giật đứt sợi dây cột buồm, cắn chặt vào miệng. Hai chân chàng đạp nhẹ lên be thuyền một cái, lộn người nhảy xuống sông, mỗi tay chụp lấy một người, nắm tóc kéo họ từ dưới nước lên. Chàng nương vào sợi dây cột buồm đang cắn chặt trong miệng, lượn nửa vòng trên mặt sông, xách cả hai người bay trở về thuyền.

Phen này chàng vừa vận dụng nội kình Hỗn Nguyên Công, vừa sử dụng khinh công của Mộc Tang đạo nhân đã dạy. Khi bay tới thuyền, chàng nghe bốn người cùng hoan hô vang dội. Một là Ôn Thanh, y đã từ đuôi thuyền nhảy trở ra mũi thuyền. Ba người khác là những người vừa từ chiếc thuyền nhỏ nhảy qua.

Viên Thừa Chí buông hai người phu thuyền xuống, dưới ánh trăng nhìn kỹ lại ba người kia. Có một ông lão gầy guộc ngoài năm mươi tuổi, để râu thưa thớt dưới cằm; một đại hán trung niên to khỏe; người còn lại là một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi.

Ông lão cười khẩy rồi nói: “Vị lão đệ này thân pháp tuyệt vời, xin thỉnh giáo tôn tính đại danh. Không hiểu tôn sư là ai?”

Viên Thừa Chí chắp tay nói: “Vãn bối họ Viên, vì thấy hai người này rơi xuống nước nguy hiểm nên mới kéo họ lên, chứ không phải cố ý khoe khoang công phu thô thiển, múa rìu qua mắt thợ trước mặt tiền bối. Xin đừng trách.”

Ông lão thấy Viên Thừa Chí khiêm cung như vậy, không khỏi bất ngờ. Lão tưởng Viên Thừa Chí sợ mình, nên cười nhạt rồi quay lại nói với Ôn Thanh: “Chẳng trách đứa bé này càng lúc càng lớn mật; thì ra có một tay cứng viện trợ sau lưng. Hắn có phải là huynh đệ của ngươi không?”

Ôn Thanh lập tức đỏ bừng mặt, giận dữ nói: “Ta tôn trọng ông là trưởng bối, nhưng ông phải ăn nói đàng hoàng một chút.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Xem thần sắc cũng biết những người này chẳng đứng đắn gì. Ta không nên để bị cuốn vào vòng xoáy thị phi.” Chàng bèn dõng dạc nói: “Tại hạ cùng Ôn huynh chỉ là bèo nước gặp nhau, không thể nói là có giao tình. Tại hạ khuyên quý vị có gì thì cứ thương lượng đàng hoàng, không nên động đao kiếm để tổn thương hòa khí.”

Ông lão kia nghe Viên Thừa Chí nói vậy, biết chàng không về phe Ôn Thanh, bèn mừng rỡ nói: “Viên bằng hữu đã không có dây mơ rễ má gì với tên họ Ôn này, thế thì tuyệt diệu. Lát nữa mọi việc xong xuôi, chúng ta sẽ thương thảo với nhau, kết thành bằng hữu. Dĩ nhiên chúng ta tuân thủ quy luật giang hồ, người nào có mặt người đó có phần.”

Lão nói chuyện lấy lòng, hình như hứa là cướp được số vàng đó sẽ chia cho chàng một phần. Viên Thừa Chí không tiện đáp, chỉ chắp tay thi lễ rồi lùi ra phía sau Ôn Thanh.

Ông lão kia gằn giọng với Ôn Thanh: “Ngươi tuổi tác còn nhỏ, mà hành sự lại tàn ác đến thế. Sa lão đại đánh không thắng ngươi, thì ngươi đuổi hắn đi là được rồi, sao phải đoạt mạng hắn?”

Ôn Thanh đáp: “Ta chỉ có một mình, còn các ngươi dùng số đông ùa lên một lúc, làm sao ta không tàn nhẫn được? Các ngươi mới là kẻ không sợ người khác chê cười, lấy lớn hiếp nhỏ, lấy đông hiếp ít. Nếu có bản lãnh thì cứ đoạt vàng của người ta trước đi, đằng này đợi ta lấy được rồi mới lẵng nhẵng đuổi theo như âm hồn bất tán. Muốn người khác dọn sẵn cho ăn, đúng là không biết giữ thể diện!”

Thanh âm của y dõng dạc, nói liền một thôi một hồi. Ông lão ngậm miệng, không cãi được tiếng nào.

Nữ nhân kia đột nhiên dựng ngược lông mày, cất tiếng thóa mạ: “Tên nhãi ranh kia! Nhà họ Ôn chiều chuộng ngươi quá mức, không biết quy củ là gì nữa. Ta phải đi hỏi gia gia của ngươi là ai mà không biết dạy ngươi kính trọng bậc trưởng bối.”

Ôn Thanh nói: “Muốn làm trưởng bối thì phải tỏ rõ tư cách trưởng bối mới được. Các ngươi ngông nghênh như thế, toan chiếm đoạt công sức người khác thì không được đâu!”

Ông lão kia giận dữ, tay trái phóng chưởng nghe vù một tiếng, đập vào cái bàn đặt ở mũi thuyền. Mặt bàn lập tức vỡ nát.

Ôn Thanh nói: “Công phu của Vinh lão gia thế nào, ta đã biết từ lâu rồi. Chỉ có chút xíu ngón nghề, hà tất phải khoe khoang trước mặt bọn tiểu bối làm gì. Muốn khoe khoang bản lãnh của mình, thì cứ đến trước mặt gia gia ta mà khoe.”

Ông lão kia nói: “Ngươi đừng đem ông ngoại ra mà hù dọa người khác. Ông ngoại của ngươi thì đã ra gì? Nếu họ thật sự có bản lãnh, thì con gái của họ đã không bị người ta làm nhục, đẻ ra một đứa tạp chủng như ngươi, làm mất mặt nhà họ Ôn.”

Sắc mặt Ôn Thanh thay đổi đến mức méo mó, y đưa tay nắm chặt chuôi kiếm. Bàn tay trắng trẻo như bạch ngọc của y không ngớt run rẩy, hiển nhiên tức giận đến cùng cực. Đại hán và nữ nhân kia cười rộ lên.

Viên Thừa Chí thấy trên mặt Ôn Thanh đã có hai hàng nước mắt chảy xuống, trong lòng bất nhẫn nghĩ thầm: “Huynh ấy hành sự lão luyện hơn ta rất nhiều, tại sao mới bị người ta khích bác đã khóc rồi? Còn lão già kia, tại sao lại chửi mắng cha mẹ người ta? Tuổi tác đã lớn mà ăn nói bừa bãi vô lý, thốt ra những lời khó nghe để làm tổn thương danh dự kẻ khác!”

Chàng vốn định không giúp bên nào, bây giờ thấy Ôn Thanh bị người ta bức hiếp, bèn quyết ý giúp yếu trừ bạo.

Ông lão gằn giọng nói: “Khóc thì ích gì? Mau mau đưa vàng ra đây! Chúng ta không tham lam lắm đâu. Chỗ vàng này phải chia một phần cho quả phụ của Sa lão đại, mà Viên bằng hữu đây cũng phải có một phần.”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Ta không cần.”

Ôn Thanh thì thân thể run rẩy, vừa khóc vừa nói: “Ta không đưa.”

Đại hán kia “hừ” một tiếng. Hắn thấy chiếc thuyền lớn đã hạ buồm xuống nhưng vẫn tiếp tục trôi theo dòng nước, bèn nhấc cái neo bằng sắt ở mũi thuyền lên, quay trên không trung một vòng rồi ném lên bờ. Cả neo lẫn dây xích phải nặng hơn trăm cân, mà hắn ném được xa như vậy, rõ ràng khí lực không nhỏ.

Neo sắt móc vào bờ, thuyền lớn lập tức dừng lại. Đại hán quát lên: “Rốt cuộc thì ngươi có chịu lấy ra hay không?”

Ôn Thanh đưa tay trái lên lau nước mắt, đáp: “Được! Ta đưa cho các ngươi.”

Y chạy vào khoang thuyền, chỉ chốc lát là hai tay bưng một cái bao ra, dáng vẻ trông rất nặng nề. Đại hán đưa tay ra đón, nhưng Ôn Thanh thét lên: “Hừ! Đâu có dễ dàng như thế?”

Y vận sức ném cái bao ra ngoài, rơi tõm xuống sông, rồi la lên: “Các ngươi có gan thì đến đây giết ta đi. Còn muốn lấy số vàng đó thì đừng hòng.”

Đại hán tức quá thét lên be be, rút đao ra chém tới. Ôn Thanh vừa ném cái bao là rút kiếm ra ngay, veo véo đâm trả hai chiêu. Ông lão vội la lên: “Dừng tay!”

Đại hán lập tức thu kiếm, nhảy lùi hai bước. Ông lão liếc xéo Ôn Thanh, cười nhạt rồi nói: “Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, con rùa lại đẻ ra rùa! Cha nào con nấy, có người cha như thế mới sinh ra thứ tiểu súc sinh này. Hôm nay mà lão phu để tên nhãi này làm bừa trước mặt, thì quyết không mang họ Vinh nữa.”

Thân thể lão không thấy lắc lư chút nào mà đột nhiên bay vọt lên, đáp xuống trước mặt Ôn Thanh. Ôn Thanh múa kiếm đâm tới, còn lão dùng tay không xuất chiêu, chưởng phong rít lên tiếng gió, chưởng thế rất lợi hại. Ôn Thanh có trường kiếm trên tay, nhưng cũng bị ép phải lùi liên tiếp.

Được mười mấy chiêu, cổ tay phải của Ôn Thanh bị ngón tay của lão điểm trúng, trường kiếm rơi xuống nghe loảng xoảng. Ông lão dùng mũi bàn chân hất thanh kiếm bay lên, đưa tay trái chụp lấy chuôi kiếm, tay phải vuốt dọc sống kiếm, chĩa mũi kiếm vào mặt Ôn Thanh. Lão hét lên: “Hôm nay ta phải ký tên vào mặt ngươi, kẻo sau này ngươi quên mất lão phu lợi hại.”

Lão cầm trường kiếm quẹt vào mặt Ôn Thanh, y kinh hãi lùi bước liên tục. Ông lão tiến từng bước một, tay trái đưa thẳng ra, lưỡi kiếm lấp loáng cứ nhằm thẳng vào mặt Ôn Thanh mà vạch.

Viên Thừa Chí thấy ông lão này xuất chiêu hiểm độc, nghĩ nếu mình không ra tay thì mặt mũi Ôn Thanh chắc chắn bị hủy hoại. Chàng quát lên: “Xin tiền bối dừng tay, đừng đả thương người khác.”

Ông lão không lý gì đến chàng, cứ chĩa kiếm vào mặt Ôn Thanh. Viên Thừa Chí liền lấy trong bọc ra một đồng tiền, búng vào thanh kiếm trong tay lão. “Keng” một tiếng, tay của ông lão bị chấn động kịch liệt, đau nhói lên, để trường kiếm tuột khỏi tay.

Ôn Thanh đang hoảng sợ đến co rúm người lại, bây giờ cất tiếng hoan hô rồi nhảy ra núp sau lưng Viên Thừa Chí, như muốn nhờ chàng bảo vệ.

Ông lão này họ Vinh, tên Thái, là bang chủ Du Long Bang. Ở vùng Giang Nam, ngoài Ngũ Tổ của Kỳ Tiên Phái và Lữ Thất tiên sinh ra, võ công của lão có thể coi là cao nhất.

Mười ngón tay của Vinh Thái đã luyện thành Đại Lực Ưng Trảo Công, so với đao kiếm bình thường còn lợi hại hơn. Thế mà một thứ ám khí nhỏ xíu của đối phương đánh rơi được binh khí trên tay lão, thật là suốt đời chưa từng gặp chuyện sỉ nhục nào lớn như vậy. Lão giận đến tía tai đỏ mặt, nhưng không giấu được vẻ kinh hãi: “Thủ kình của thằng lỏi này sao lại khủng khiếp đến thế?”

Đại hán và nữ nhân kia cũng đã thấy võ công Viên Thừa Chí cao cường, đều nghĩ: “Dù sao chỗ vàng kia cũng lọt xuống sông mất rồi. Hôm nay gặp phải cao thủ can thiệp, nhất định chúng ta không thể chiếm được lợi thế. Chi bằng nói mấy câu để lấy thể diện, rồi rút lui cho xong”.

Nữ nhân bèn hô lớn: “Lão gia, chúng ta đi thôi. Nể mặt Viên bằng hữu, hôm nay hãy tạm tha cho đứa nhóc đó. Hòa thượng bỏ đi, miếu còn ở lại. Sau này chúng ta sẽ đến Tịnh Nham ở Cù Châu, tìm Kỳ Tiên Phái tính sổ món nợ này.”

Ôn Thanh la lên: “Gặp người giỏi là chuồn ngay phải không? Du Long Bang các ngươi quen thói sợ mạnh hiếp yếu, thật là không biết xấu hổ.”

Viên Thừa Chí chau mày nghĩ bụng: “Người này vừa thoát khỏi đại nạn đã lập tức kiếm lời châm biếm, không để cho người ta một chút đường lùi”.

Nữ nhân kia bị Ôn Thanh mắng cho bối rối, mặt mũi sượng sùng. Vinh Thái cảm thấy khó thoát khỏi tình trạng khó xử này, bèn gượng cười nói: “Viên lão đệ công phu thật tuyệt. Hôm nay gặp nhau ở đây cũng là có duyên. Hai người chúng ta thi thố một phen quyền cước xem thử thế nào?”

Lão đã khổ công luyện tập Ưng Trảo Công không dưới hai mươi năm, rất tự tin. Lão nghĩ: “Thằng lỏi này giỏi công phu ám khí, nhưng về quyền cước chưa chắc đã thắng được ta.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình mà động thủ với ông lão này tức là ra mặt giúp Ôn Thanh rồi. Tên thiếu niên Kỳ Tiên Phái này lòng dạ hẹp hòi, điêu ngoa xảo trá. Vì vàng bạc mà hắn giết người bừa bãi, chắc chắn không phải là bạn tốt. Mình không nên vì hắn mà kết thêm thù oán.”

Chàng bèn chắp tay nói: “Vãn bối mới vào giang hồ, sao dám dựa vào chút xíu công phu nhỏ mọn mà múa rìu qua mắt thợ trước mặt tiền bối?”

Vinh Thái khen thầm: “Thiếu niên này thật là biết xử sự”. Lão nhân cơ hội để thoát khỏi khó xử, nói ngay: “Viên bằng hữu khách sáo rồi.” Rồi lão trừng to cặp mắt nhìn Ôn Thanh, giận dữ nói: “Sẽ có ngày lão phu dạy cho ngươi biết thế nào là lợi hại.”

Lão quay đầu lại, gọi đại hán và nữ nhân kia: “Chúng ta đi thôi.”

Ôn Thanh nói: “Ngươi lợi hại thế nào, ta biết từ lâu rồi. Hễ thấy công phu người ta giỏi thì không dám ra tay, chỉ muốn chuồn cho sớm, chạy gấp về nhà uống mấy gói thuốc an thần, rồi rúc đầu vào chăn mà nằm run như đuôi thằn lằn đứt.”

Miệng lưỡi Ôn Thanh không nhường nhịn chút nào, cố ý xúc xiểm cho lão đánh nhau với Viên Thừa Chí. Y đã thấy võ công Viên Thừa Chí cao cường, Vinh Thái không phải là địch thủ.

Câu nói này khiến cho Vinh Thái vô cùng khó xử, ngay cả Viên Thừa Chí cũng lộ vẻ không vui. Vinh Thái nổi giận nói: “Viên bằng hữu tuổi tuy còn trẻ, nhưng rất biết xử sự. Qua đây, chúng ta thử mấy chiêu, đừng để tên tiểu bối thiếu hiểu biết này tưởng là ta khiếp nhược.”

Viên Thừa Chí nói: “Lão tiền bối hà tất phải bận tâm. Huynh ấy chỉ nói đùa thôi mà.”

Vinh Thái cười ha hả rồi nói: “Lão đệ cứ yên tâm, nhất định ta không nặng tay với lão đệ đâu.”

Ôn Thanh lạnh nhạt nói: “Thế mà nói là không sợ! Chưa ra tay động thủ, đã lo liệu tình cảm trước rồi. Mau mau chuồn đi, đừng đánh nhau còn hay hơn. Ta sống đến tuổi này rồi, chưa bao giờ thấy tình hình như vậy, đúng là không biết nói gì nữa. Vinh lão gia! Lão sợ run đến như vậy, sao không mời Viên tướng công về, nhường ngôi bang chủ Du Long Bang đi?”

Mặt Vinh Thái nhăn nhúm lại, cơn giận như sắp vỡ toang ra. Đột nhiên trên bờ có ánh lửa lấp loáng, mấy chục người cầm binh khí và đèn đuốc chạy tới, kêu réo om sòm: “Vinh lão gia! Đã bắt được tên nhãi đó chưa? Chúng ta phải bằm nhuyễn nó ra, trả thù cho Sa lão đại.”

Ôn Thanh thấy đối phương đem toàn quân tới, tuy gan to không biết sợ gì, nhưng trong lòng không khỏi kinh hãi.

Vinh Thái hô lớn: “Lưu gia huynh đệ! Hai ngươi qua đây một chút.”

Hai người kia liền vâng dạ, chạy đến bờ sông. Thuyền lớn ở cách bờ khá xa, họ liền nhảy bừa xuống nước, bơi nhanh đến. Thủy tính của họ rất giỏi, chỉ nháy mắt đã áp mạn, tung mình nhảy lên thuyền.

Vinh Thái bảo: “Gói hàng đó đã bị tên nhãi này ném xuống sông rồi. Hai anh em ngươi xuống tìm đi.” Nói xong, lão chỉ tay xuống sông. Anh em họ Lưu liền nhảy ngay xuống, lặn mất hút.

Ôn Thanh kéo tay áo Viên Thừa Chí, kề vào tai chàng nói nhỏ: “Mau mau cứu ta đi! Chúng muốn giết ta.”

Viên Thừa Chí quay lại, dưới ánh trăng thấy sắc mặt y trông rất đáng thương. Chàng bất giác gật đầu một cái.

Ôn Thanh nắm chặt tay chàng, khẽ nói: “Chúng người đông thế mạnh. Huynh phải tìm cách chặt đứt sợi dây xích, rồi chúng ta cho thuyền rời khỏi đây chạy trốn.”

Viên Thừa Chí chưa đáp, chợt cảm thấy bàn tay Ôn Thanh mềm mại trơn tru như không có xương. Chàng kinh ngạc trong lòng, tự hỏi: “Tại sao bàn tay của thiếu niên này giống như bông gòn vậy? Thật là hiếm có.”

Lúc này, Vinh Thái đã để ý thấy hai người thầm thì bàn luận. Lão quay lại nhìn.

Ôn Thanh bỗng nhéo vào hông Viên Thừa Chí một cái, đột nhiên túm lấy cái bàn trên mũi thuyền, quét về phía ba người Vinh Thái. Đại hán và nữ nhân kia đang tập trung hết tinh thần theo dõi anh em họ Lưu dưới nước, nên không đề phòng. Họ bị cái bàn đập vào lưng, giật mình la lên một tiếng, cùng lúc té nhào xuống nước.

Vinh Thái tung người nhảy lên, vung tay chụp xuống. Năm ngón tay lão bấm thủng mặt bàn, vận sức kéo mạnh. Nghe mấy tiếng lách cách, hai cái chân bàn trên tay Ôn Thanh bị gãy lìa ra.

Vinh Thái biết đại hán và nữ nhân kia không biết bơi lội. Nước sông đang chảy xiết, anh em họ Lưu khó mà cứu họ kịp. Lão liền hất cái bàn xuống sông cho hai người nắm lấy, không đến nỗi chìm ngay. Rồi lão vung song chưởng lên vù vù, đánh vào mặt Ôn Thanh.

Ôn Thanh nắm lấy hai cái chân bàn che đỡ trước mặt, vội vã la lên: “Mau lên! Mau lên đi huynh!”

Viên Thừa Chí liền nắm lấy sợi dây xích, vận hết kình lực Hỗn Nguyên Công giật mạnh. Cái neo sắt rất lớn bị nhổ khỏi bờ sông, bay vù về phía mũi thuyền. Vinh Thái và Ôn Thanh đều kinh hãi, nhảy dạt sang hai bên tránh né. Lúc hai người quay đầu lại nhìn Viên Thừa Chí, đã thấy chàng đỡ cái neo sắt, từ từ đặt xuống mũi thuyền.

Neo vừa nhổ, chiếc thuyền lớn lập tức trôi về phía hạ lưu, xa dần mọi người đang đứng trên bờ. Vinh Thái thấy công lực đối phương như thế, biết mình ở đây chẳng được tích sự gì. Lão bèn vận sức vào chân đạp xuống ván thuyền, hít một hơi nhảy lên bờ.

Viên Thừa Chí nhìn thân pháp của lão, biết lão nhảy không đến được bờ. Chàng chụp lấy một miếng ván mặt bàn, ném mạnh ra.

Khi hết đà rơi xuống, Vinh Thái thấy dưới chân mình là mặt nước mênh mông. Lão chưa kịp kinh hãi, đột nhiên thấy một tấm ván bay tới, vừa vặn rơi vào chỗ mặt nước mà chân mình sắp chạm phải. Lão cả mừng, đưa chân trái đạp lên miếng ván đó, mượn sức nhảy lên bờ, vừa thầm cảm kích hảo ý của Viên Thừa Chí, vừa thán phục công lực của chàng. Lão nhảy ra trước, miếng ván ném theo sau mà cũng kịp tới nơi.

Ôn Thanh hừ một tiếng rồi nói: “Không biết xanh đỏ trắng vàng gì cả, đã ngốc nghếch lại cố giả làm người tốt. Rốt cuộc là huynh giúp ta hay giúp lão già thối tha kia? Để lão tắm mát một lúc, giải khát mấy ngụm nước sông không tốt hay sao? Đã đến nỗi chết chìm đâu?”

Viên Thừa Chí đã biết thiếu niên này tính tình cổ quái, nói chuyện không cần lý lẽ. Chàng nghĩ bụng: “Người như thế này, càng ít giây vào càng tốt. Mình vừa cứu mạng y, thế mà y không cảm ơn lại còn vô lễ như thế”. Chàng không nói gì, trở vào trong khoang nằm ngủ tiếp.

Chiều hôm sau thuyền đến Cù Châu. Viên Thừa Chí cảm tạ Long Đức Lân, rồi lấy năm đồng tiền ra trả cho chủ thuyền. Long Đức Lân nhất định đòi trả giúp, Viên Thừa Chí từ chối không được, đành phải chắp tay đa tạ.

Ôn Thanh nói với Long Đức Lân: “Ta biết ông không thích trả tiền thuyền giùm ta đâu. Hừ, cho dù ông đòi trả, ta cũng không chịu.” Nói xong, y lấy trong bọc ra một thỏi bạc nặng khoảng mười lượng, ném cho chủ thuyền rồi nói: “Cho ngươi hết!”

Chủ thuyền thấy thỏi bạc lớn quá, kinh hoảng đến ngẩn ra, vội nói: “Tiểu nhân không đủ tiền để thối.”

Ôn Thanh quát: “Ai bảo ngươi thối? Cho ngươi hết.”

Chủ thuyền không dám tin, lại nói: “Đâu có cần nhiều như thế?”

Ôn Thanh mắng luôn: “Lải nhải cái gì? Ta trả bao nhiêu thì ngươi phải nhận bấy nhiêu. Ngươi mà chọc ta nổi giận, thì ta phải đục thủng đáy thuyền ngươi mấy lỗ, nhận chiếc thuyền mục này chìm xuống nước.”

Đêm hôm qua chủ thuyền đã thấy thiếu niên này cất tay là giết người, hung hãn vô cùng. Hắn không dám nói nhiều, ngay cả cảm ơn cũng không dám, vội cất thỏi bạc vào trong bọc.

Ôn Thanh lấy cái bao trong người ra, trút lên bàn. Ánh hoàng kim lấp lánh, thì ra trong bao toàn là vàng ròng. Cứ mỗi thanh là mười lượng, tổng cộng có tới hai trăm thanh.

Ôn Thanh lấy tay gạt từ trên xuống, chia đống vàng làm hai phần. Y hốt lại một phần vào cái bao; dùng hai tay đẩy phần kia đến trước mặt Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Cho huynh đây.”

Viên Thừa Chí không hiểu, hỏi lại: “Gì thế?”

Ôn Thanh mỉm cười nói: “Huynh tưởng ta ném cái bao vàng ấy xuống lòng sông thật hay sao? Để chúng mò tìm dưới đáy sông, mò tới mò lui cũng chỉ thấy cái bao đá để dằn thuyền.”

Nói xong y cười khanh khách, cười đến nỗi cong lưng nằm rạp xuống bàn, run bần bật cả người.

Viên Thừa Chí không khỏi thán phục cơ trí của y, thầm nghĩ: “Hắn nhỏ hơn mình một hai tuổi, thế mà lừa được cả một tay lão luyện như Vinh Thái.” Chàng nói: “Ta không cần, huynh cứ mang đi. Ta giúp huynh không phải vì số vàng này.”

Ôn Thanh nói: “Đây là ta tặng cho huynh, không phải huynh đòi lấy. Đừng giả vờ làm ngụy quân tử nữa.”

Viên Thừa Chí lắc đầu quầy quậy.

Long Đức Lân tuy là một phú thương, nhưng thấy đống vàng sáng lóa đặt trên bàn cũng không khỏi hoa mắt. Thế mà một người nhất định không lấy, một người cố gắng nài ép đối phương mang đi. Chuyện này thật sự hắn chưa nghe chưa thấy, bây giờ tai nghe mắt thấy cũng không tin được, bèn đoán là Viên Thừa Chí chê ít.

Ôn Thanh giận dữ nói: “Bất luận huynh chịu lấy hay không, ta cũng cho huynh.” Đột nhiên y nhảy vọt lên bờ.

Viên Thừa Chí bị bất ngờ, ngẩn ra một chút mới tung người nhảy theo. Chỉ hai cú nhảy, chàng đã đứng chặn trước mặt y, dang hai tay ra cản trở, quát bảo: “Khoan đã! Hãy đem vàng của huynh đi.”

Ôn Thanh chạy sang phải thì chàng chặn bên phải, chạy sang trái thì chàng chặn bên trái. Y cố gắng mấy lần cũng không vượt qua được, bèn vung tay phóng chưởng đánh vào mặt chàng. Viên Thừa Chí đưa tay trái ra, mới nhẹ nhàng đỡ một cái là Ôn Thanh đã không chịu được, phải lùi ba bước mới đứng vững.

Ôn Thanh biết không thể trốn thoát, bỗng ngồi phịch xuống đất, hai tay bưng mặt khóc rống lên. Viên Thừa Chí kinh ngạc vội hỏi: “Ta làm đau huynh hay sao?”

Ôn Thanh “hừ” một tiếng: “Chính huynh mới đau!” Rồi y mỉm cười, nhảy vọt lên. Viên Thừa Chí không dám đuổi theo nữa, chỉ đưa mắt nhìn theo bóng y khuất dần dọc bờ sông.

Người này võ công đầy mình, giết người không nháy mắt, rõ ràng là một hào khách trong chốn giang hồ, nhưng sao lại vừa khóc vừa cười, điêu ngoa cổ quái như vậy? Chàng bất giác lắc đầu, trở lại thuyền, chắp tay tạm biệt Long Đức Lân rồi gói chỗ vàng đó lại xách đi.

Viên Thừa Chí đến con đường lớn trong thành Cù Châu, tìm khách sạn nghỉ lại. Chàng nghĩ: “Một ngàn lượng vàng này chẳng biết đến từ đâu, nhất định ta không thể nhận. Chẳng qua ta thấy y đáng thương nên ra tay giúp đỡ, đâu thể nhận thù lao? Lão già kia nói y thuộc Kỳ Tiên Phái ở Tịnh Nham, Cù Châu. Sao ta không tìm đến nhà y? Nếu y từ chối nữa, ta chỉ cần bỏ vàng xuống rồi đi ngay là xong.”

Sáng hôm sau, Viên Thừa Chí hỏi kỹ đường đến Tịnh Nham, cầm gói vàng đi tìm. Tịnh Nham cách Cù Châu khoảng hai mươi dặm, chàng bước rất nhanh, chỉ hơn nửa giờ là đến.

Tịnh Nham là một thị trấn nhỏ ở cạnh núi Lạn Kha. Tương truyền vào đời nhà Tấn, có người tiều phu tên là Vương Chất vào trong núi kiếm củi. Thấy hai vị tiên đang chơi cờ, y đứng lại xem. Xem xong một ván quay đầu nhìn lại thì cán rìu của mình đã mục nát rồi, về nhà thấy mọi người khác hẳn. Thì ra chỉ một ván cờ mà mấy chục năm đã trôi qua.

Giữa hai đỉnh của núi Lạn Kha có một trụ đá rất lớn bắc qua. Công trình này thần kỳ như búa thần rìu quỷ, sức người không thể đưa lên được. Truyền thuyết vùng này kể rằng thần tiên đã dùng pháp lực để di chuyển trụ đá tới làm một chiếc cầu. Gần Tịnh Nham có một thị trấn nhỏ khác tên là Thạch Lương, gọi theo cái trụ đá này. Tên của Kỳ Tiên Phái cũng xuất phát từ ván cờ mấy chục năm của tiên nhân.

Viên Thừa Chí đến Tịnh Nham, thấy một bà nông dân từ phía trước đi tới. Chàng liền hỏi: “Đại tẩu! Xin hỏi nhà họ Ôn trong thị trấn này ở chỗ nào?”

Bà kia giật mình đáp: “Không biết!” rồi quay đầu bỏ đi ngay. Sắc mặt bà lộ vẻ khinh ghét.

Viên Thừa Chí đến một tiệm tạp hóa, hỏi thăm chủ tiệm. Y lạnh nhạt hỏi lại: “Lão đệ tìm nhà họ Ôn có việc gì không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ đến đó để giao trả một món đồ.”

Chủ tiệm cười nhạt, nói: “Thì ra lão đệ là bằng hữu của nhà họ Ôn. Cần gì hỏi ta nữa?”

Viên Thừa Chí mất hết hứng thú, nghĩ bụng cư dân ở đây chẳng hiếu khách chút nào.

Thấy hai đứa bé đang chơi ở vệ đường, chàng lấy mười đồng tiền nhét vào tay một đứa rồi bảo: “Tiểu huynh đệ! Ngươi dẫn ta đến nhà họ Ôn đi.”

Thằng bé đã nhận tiền rồi, nhưng nghe xong lập tức trả lại cho chàng, giận dữ nói: “Nhà họ Ôn ư? Chính là căn nhà lớn đằng kia. Cái chỗ quỷ quái đó ta không đến đâu.”

Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu. Chắc là nhà họ Ôn có chỗ đắc tội với hàng xóm nên bị người ta trách móc, không ai chịu đi lại, chứ không phải dân cư vùng này vô lễ.

Chàng đi về phía căn nhà thằng bé chỉ, xa xa đã nghe tiếng người rất ồn ào. Tới gần thì thấy có đến mấy trăm nông dân đang cầm cuốc xẻng bao vây trước cửa, lớn tiếng la lối: “Chúng bay đã đánh người ta trọng thương, tính mạng khó mà giữ được, lại bỏ mặc như vậy hay sao? Họ Ôn kia! Mau mau ra đây đền mạng.”

Trong đám người đó có bảy tám nữ nhân đầu tóc bù xù, ngồi bệt dưới đất khóc lóc. Viên Thừa Chí đi tới, hỏi một nông phu: “Lão huynh! Các vị ở đây làm gì vậy?”

Nông phu ấy nói: “Tướng công là khách qua đường nên mới không biết. Nhà họ Ôn này cùng hung cực ác, hết sức bá đạo. Hôm qua chúng xuống miền quê thu tô. Lão bá nhà họ Trình xin chúng cho trả chậm mấy ngày, bị chúng hất bắn vào tường, thọ thương rất nặng. Con cháu của Trình lão bá ra cãi lý, đều bị chúng đánh cho thừa sống thiếu chết, e rằng ba người không qua nổi. Tướng công nghĩ xem, chủ điền như vậy có ác ôn hay không?”

Trong lúc nói chuyện, đám nông dân càng la lối lớn tiếng hơn. Có người cầm cuốc xẻng đập ầm ầm vào cánh cổng; cũng có người nhặt đá ném vào trong cửa.

Đột nhiên cửa lớn mở “két” một tiếng, một gã ốm nhom chạy ra ngoài. Chưa ai kịp nhìn rõ, đã có bảy tám nông dân bị hắn hất văng ra ngoài hai ba trượng, ngã tét đầu chảy máu.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thủ pháp người này nhanh quá!” Chàng định thần nhìn lại, thấy người này vừa ốm vừa cao, khuôn mặt vàng khè, lông mày xếch lên, dáng vẻ vừa lanh lẹ vừa lưu manh. Hắn quát mắng: “Cái thứ chưa bằng con heo con chó mà cả gan đến đây giở trò! Chán sống rồi ư?”

Mọi người chưa kịp trả lời, hắn đã bước tới mấy bước, xách mấy người ném vù ra xa.

Viên Thừa Chí thấy gã này quăng người như quăng củi mục, không tốn sức chút nào. Chàng nghĩ: “Không biết người này có liên quan gì đến Ôn Thanh? Nếu hôm trước hắn ở cạnh Ôn Thanh thì thừa sức chống trả bọn Vinh Thái, không cần mình phải ra tay.”

Trong đám đông có ba nông phu bước ra, lớn tiếng nói: “Các ngươi đánh người ta trọng thương, chẳng lẽ bỏ qua hay sao? Chúng ta nghèo thật, nhưng người nghèo cũng có sinh mạng chứ?”

Gã ốm cười gằn mấy tiếng rồi nói: “Không đánh chết mấy tên thì bọn ngươi chưa biết lễ độ.”

Thân hình gã nhoáng lên, nắm lưng một nông phu to lớn quẳng đi rất mạnh, nhằm thẳng vào bờ tường phía Đông. Ngay lúc đó, hai thanh niên cùng đưa cuốc lên toan đập vào đầu hắn. Hắn đưa tay trái ra đỡ, hai cây cuốc văng tuốt lên trời. Hắn lại túm lấy hai người đó, quật vào cái bệ của cột cờ trước cổng.

Thấy gã bức hiếp đám nông dân, Viên Thừa Chí đã giận lắm rồi. Nhưng chàng thấy võ công của hắn cũng khá, sợ mình nhảy vào can thiệp sẽ gặp phiền hà. Chàng toan đợi tình hình êm dịu rồi xin vào gặp Ôn Thanh, trả vàng xong là lập tức bỏ đi.

Không ngờ gã ốm này đột nhiên hạ sát thủ, ba người kia sắp va vào góc tường và đá tảng, không chết cũng trọng thương, Viên Thừa Chí động lòng nghĩa hiệp, phi thân bay vèo tới. Tay trái chàng chụp được chân phải của nông phu to lớn, buông y xuống đất. Sau đó chàng xuất chiêu Nhạc Vương Thần Tiễn, thân hình như một mũi tên rời khỏi dây cung, bay tới chụp lấy lưng hai thanh niên, rồi uốn lưng đứng thẳng lại, đặt họ nhẹ nhàng xuống đất.

Nhạc Vương Thần Tiễn là tuyệt kỹ khinh công do Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, nhanh hơn bất cứ phái nào. Chàng vốn không muốn hiển lộ võ công, nhưng phải gấp rút cứu người nên không thể không dùng.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Phen này nhất định gã ốm kia rất hận mình. May mà đã biết nhà họ Ôn rồi, để tối nay mình âm thầm đến đây giao trả.” Chàng vừa thả hai thanh niên xuống đất là quay người đi ngay, không nhìn lại gã ốm nữa.

Ba nông phu vừa thoát chết đều ngẩn ngơ đứng đó, không ai nói được tiếng nào.

Gã ốm thấy võ công chàng như vậy, kinh hãi vô cùng. Nhưng thấy chàng quay lưng bỏ đi, hắn liền phi thân đuổi theo, vừa đưa tay chụp lấy vai chàng vừa hô lên: “Bằng hữu, khoan đi đã!”

Phát chụp này đã vận kình lực nặng đến ngàn cân. Thế mà Viên Thừa Chí không tránh né, chỉ hạ đầu vai xuống một chút để hóa giải lực đạo đối phương. Chàng cũng không vận kình lực đánh trả, cứ như không biết chuyện gì.

Gã ốm lại càng kinh hãi, quát hỏi: “Có phải các hạ được đám này mời tới để làm khó dễ chúng ta hay không?”

Viên Thừa Chí chắp tay lại nói: “Thật là xin lỗi. Tại hạ chỉ sợ gây ra án mạng, mọi người sẽ gặp phiền hà, nên mạo muội đỡ họ một chút, đắc tội với huynh đài. Lão huynh đã có bản lãnh như vậy, hà tất phải chấp nhất những người nơi thôn dã.”

Gã ốm nghe chàng nói chuyện khiêm cung, lập tức giảm phần đối địch. Gã hỏi: “Xin hỏi tôn tính đại danh các hạ, đến tệ xứ có việc gì không?”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ họ Viên, có một bằng hữu trẻ tuổi họ Ôn, không biết có phải ở đây không?”

Gã ốm đáp: “Tại hạ cũng họ Ôn. Không biết người các hạ muốn tìm là ai?”

Viên Thừa Chí nói:

“Tại hạ muốn tìm Ôn Thanh tướng công.”

Đám nông dân thấy Viên Thừa Chí nói chuyện tình cảm với gã ốm kia, nên không dám ở lại nữa. Họ kéo nhau giải tán, vừa bỏ đi vừa chửi mắng, càng đi xa tiếng thóa mạ càng vang dội. Giọng miền quê rất khó nghe, Viên Thừa Chí không hiểu họ chửi mắng những gì.

Gã ốm kia mặc kệ, bảo Viên Thừa Chí: “Xin mời vào nhà uống nước.”

Viên Thừa Chí theo gã vào trong, đến một gian đại sảnh rộng lớn, chính giữa có một tấm hoành phi viết ba chữ Bát Đức Đường. Trong đại sảnh bài trí nhiều tấm bình phong cùng bình hoa, trông rất khí thế, đúng là nhà của cự phú.

Gã ốm mời Viên Thừa Chí ngồi vào thủ tọa, gọi gia nhân bưng trà lên. Gã không ngớt hỏi thăm lai lịch sư thừa của Viên Thừa Chí. Tuy lời nói khách sáo, nhưng chàng cảm thấy hắn vẫn còn mang địch ý, nên chỉ nói: “Xin mời Ôn Thanh tướng công ra đây gặp gỡ. Tại hạ muốn giao trả cho y một vật.”

Gã ốm nói: “Ôn Thanh là em trai của tại hạ. Tại hạ tên là Ôn Chính. Xá đệ đang ra ngoài, chắc chẳng bao lâu sẽ trở về. Xin huynh đài ở đây đợi một lát.”

Viên Thừa Chí không muốn kết giao với bọn hung bạo hiếp người này, nhưng Ôn Thanh không có ở đây nên chàng đành phải đợi. Chàng chẳng có chuyện gì để nói với Ôn Chính, hai người cứ yên lặng mà ngồi, không khí ngột ngạt.

Mãi đến trưa mà Ôn Thanh vẫn chưa về, nhưng Viên Thừa Chí không muốn đem số vàng lớn như vậy giao cho người khác. Ôn Chính bèn gọi gia nhân bày biện cơm trưa, có cả thịt ướp, thịt đùi, gà mập, cá tươi, thức ăn thật là phong phú.

Đến khi mặt trời ngả về phía Tây, Viên Thừa Chí không đợi nổi nữa. Chàng nghĩ bụng: “Dù sao đây cũng là nhà của Ôn Thanh, để vàng lại là được rồi.” Chàng bèn tháo cái bao vàng ra đặt lên bàn, nói: “Đây là vật của lệnh đệ, phiền huynh đài chuyển lại. Tại hạ xin cáo từ.”

Ngay lúc đó, đột nhiên từ ngoài cổng vọng vào tiếng cười đùa của một đám nữ nhân, hình như trong đó có lẫn giọng cười của Ôn Thanh. Ôn Chính nói: “Xá đệ đã về rồi.”

Gã đứng dậy chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí muốn theo ra, nhưng Ôn Chính nói: “Xin Viên huynh chờ ở đây chốc lát.” Viên Thừa Chí đành phải dừng lại.

Ôn Thanh không vào nhà, chỉ có Ôn Chính quay lại nói: “Xá đệ phải thay đổi y phục, một lát sẽ ra ngay.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Gã Ôn Thanh này thật là lắm chuyện. Chỉ gặp một người khách, phải thay đổi quần áo làm gì?”

Đợi hồi lâu, Ôn Thanh mới từ nhà trong bước ra. Y khoác trường bào màu tím, ngang lưng thắt một sợi dây tơ màu vàng lông ngỗng, đầu buộc khăn khảm minh châu. Y tươi cười nói: “Viên huynh đại giá quang lâm, thật là vinh dự.”

Viên Thừa Chí nói: “Ôn huynh để quên cái bao này, nên tại hạ đến đây giao trả.”

Ôn Thanh giận dữ hỏi: “Huynh xem thường ta có phải không?”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ hoàn toàn không có ý này, chỉ vì hậu thưởng không dám nhận. Bây giờ tại hạ xin cáo từ.”

Chàng lập tức đứng dậy, chắp tay thi lễ với Ôn Chính và Ôn Thanh. Ôn Thanh bước tới, nắm chặt tay áo chàng mà nói: “Huynh không được đi!”

Viên Thừa Chí không khỏi ngạc nhiên, sắc mặt Ôn Chính cũng thay đổi. Ôn Thanh mỉm cười nói: “Tại hạ có một việc quan trọng cần hỏi Viên đại ca. Hôm nay huynh ở lại nhà tại hạ đi.”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ còn nhiều việc cần làm ở Cù Châu này. Nếu lần sau có cơ duyên, nhất định sẽ đến đây quấy rầy.”

Ôn Thanh vẫn không chịu. Ôn Chính nói: “Viên đại ca đã có chuyện, chúng ta đừng làm lỡ việc người ta.”

Ôn Thanh nói: “Được! Nếu huynh có việc phải đi thì cứ xách cái bao này đi luôn. Nói gì thì nói huynh cũng không chịu ở lại, đúng là xem thường đệ quá.”

Viên Thừa Chí ngần ngừ một chút, thấy y chân thành muốn giữ mình lại, bèn nói: “Ôn huynh đã có hậu ý, tại hạ không dám chối từ nữa.”

Ôn Thanh mừng rỡ, liền kêu nhà bếp chuẩn bị thức ăn. Ôn Chính thì mặt sưng mày sỉa, nhưng không chịu bỏ đi mà cứ ngồi lì ra đó, chẳng nói câu nào. Ôn Thanh toan đàm luận với Viên Thừa Chí về chuyện sách vở, nhưng Viên Thừa Chí không hiểu gì về thi từ, hồi nhỏ chỉ đọc sơ qua các loại sách sử cùng binh pháp.

Ôn Thanh biết ý chàng, bèn chuyển sang bàn về những trận chiến ở Phì Thủy, dẫn ra không ít sử liệu về chuyện hành quân đánh trận. Viên Thừa Chí âm thầm thán phục, nghĩ bụng: “Người này tính tình cổ quái mà đọc không ít sách vở, chẳng bù với ta giả làm thư sinh mà thật ra vô học.”

Ôn Chính nghe chuyện chẳng hiểu chút nào, nhưng không chịu rời khỏi đó. Viên Thừa Chí áy náy khó chịu, định nói chuyện với hắn về võ công. Nhưng Ôn Chính chưa kịp mở miệng tiếp lời, Ôn Thanh đã xen vào, chuyển qua vấn đề khác.

Nhìn hai anh em này, Viên Thừa Chí thấy hơi kinh ngạc. Ôn Chính là huynh trưởng, nhưng đối với em trai lại vô cùng kính nể, không dám đắc tội chút nào. Đang nói chuyện mà bị Ôn Thanh cướp lời, hắn cứ mỉm cười ra vẻ lấy lòng. Lúc nào Ôn Thanh nói chuyện hòa nhã với hắn chút xíu, thì hắn lập tức nở mặt nở mày, vui vẻ khác thường.

Đêm đó bày tiệc rượu, thức ăn càng phong phú hơn. Dùng xong cơm tối, Viên Thừa Chí nói: “Hôm nay tại hạ mệt quá rồi, muốn nghỉ sớm một chút.”

Ôn Thanh nói: “Đệ ở vùng quê hẻo lánh, khó mà được Viên huynh đại giá quang lâm, đang định thắp đèn để nói chuyện thâu đêm, thêm phần lợi ích. Nhưng Viên huynh đã mệt thì thôi, ngày mai chúng ta nói chuyện tiếp.”

Ôn Chính bảo: “Tối nay Viên huynh đến phòng của ta mà ngủ.”

Ôn Thanh cãi ngay: “Phòng của huynh làm sao mà tiếp đãi quý khách? Viên huynh đến phòng đệ mà ngủ.”

Sắc mặt của Ôn Chính trầm hẳn xuống, hỏi lại: “Cái gì?”

Ôn Thanh nói: “Có gì không tốt đâu? Đệ qua ngủ chỗ mẫu thân.”

Ôn Chính lộ vẻ không vui, đứng dậy bỏ vào nhà trong, quên cả cáo từ. Ôn Thanh nói: “Hừ! Thật là vô lễ, không sợ người khác chê cười.”

Viên Thừa Chí thấy anh em nhà người ta cãi vã vì mình, không yên lòng, bèn nói: “Tại hạ đã quen ở vùng hoang sơn dã lãnh, Ôn huynh không cần bận tâm như thế.”

Ôn Thanh nói: “Thôi được! Đệ không bận tâm nữa là xong.”

Y cầm ngọn đèn lên, dẫn Viên Thừa Chí vào trong. Qua hai khoảnh sân, họ vào gian nhà thứ ba, theo cầu thang phía Đông mà lên lầu. Ôn Thanh vừa đẩy cửa phòng, trước mắt Viên Thừa Chí bỗng sáng rực lên.

Trong phòng thoang thoảng hương thơm, đang thắp một ngọn nến màu đỏ rất lớn, khiến cho không khí ấm áp. Giường buông rèm đỏ, chăn bằng lụa trắng có thêu một con phượng hoàng màu vàng. Đồ đạc bài trí thanh nhã, trên tường treo một bức Sĩ nữ đồ.

Trên bàn ngủ trước giường đặt một cái nghiên chạm hoa, vài món đồ chơi bằng bích ngọc, một cái ống có cắm sáu bảy cây viết lớn nhỏ đủ cỡ. Phía Tây cũng có một cái bàn nhỏ đặt chậu hoa lan, một con két trắng đậu trên cái giá.

Viên Thừa Chí từ chốn thâm sơn cùng cốc bước ra, chưa bao giờ nhìn thấy nơi nào sang trọng như thế, nên đứng ngẩn ra mà nhìn. Ôn Thanh mỉm cười nói: “Đây là phòng ngủ của đệ, cho Viên huynh mượn tạm một đêm.”

Y không đợi chàng trả lời, mở cửa ra ngoài.

Viên Thừa Chí nhìn quanh phòng thấy không có gì khác lạ, định cởi áo nằm ngủ. Đột nhiên có người gõ cửa nhẹ nhàng, chàng bèn hỏi: “Ai đấy?”

Người bước vào là một a hoàn mười lăm mười sáu tuổi, bưng một cái khay sơn màu đỏ chói. Ả lên tiếng: “Viên thiếu gia, xin mời dùng món ăn khuya.”

Ả đặt cái khay lên bàn, trong khay có một chén gì đó, trông như nhựa màu trắng. Tuy Viên Thừa Chí là con trai quan Đốc sư, nhưng từ nhỏ đã phải sống ở vùng thôn quê hẻo lánh, chưa từng nhìn thấy yến sào, nên không biết đó là thứ gì.

A hoàn mỉm cười nói: “Nô tì tên là Tiểu Cúc. Thiếu gia… thiếu gia… hí hí… đã dặn dò nô tì phụng sự Viên thiếu gia. Viên thiếu gia cần gì, xin cứ sai bảo nô tì.”

Viên Thừa Chí nói: “Không, không có gì.”

Tiểu Cúc từ từ lùi ra, đột nhiên quay đầu lại, vừa cười khúc khích vừa nói: “Bát yến sào này… hí hí… là thiếu gia của nô tì tự tay hầm cho Viên thiếu gia đó.”

Viên Thừa Chí thật sự kinh ngạc, không biết phải nói gì. Tiểu Cúc vừa cười vừa nhẹ nhàng bước ra ngoài, khép cửa lại.

Viên Thừa Chí chỉ hớp có ba miếng đã nuốt hết chén yến sào. Chàng cảm thấy món này ngọt ngào béo ngậy, vị thơm ngon không biết phải so sánh với cái gì. Rồi chàng cởi áo, lên giường. Khi giũ tấm chăn ra, mùi hương càng đậm đến say người. Một cảm giác vừa mềm mại vừa ấm áp.

Đến tuổi này Viên Thừa Chí vẫn chưa từng được ngủ với cảm giác như thế. Chàng mơ mơ hồ hồ, chỉ trong chốc lát đã thiếp đi.

Hồi 05: Hoa thơm đêm tịch mịch – Cỏ xanh nước trong veo

Đến giữa đêm, bên ngoài cửa sổ bỗng vọng vào tiếng cười trong trẻo. Viên Thừa Chí cảnh giác không dám ngủ say, nên lập tức tỉnh dậy. Người bên ngoài gõ nhẹ vào khung cửa sổ, rồi mỉm cười nói: “Trăng thanh gió mát, đêm đẹp thế này. Viên huynh là người nho nhã mà không sợ bỏ phí cảnh thiên nhiên hay sao?”

Viên Thừa Chí nhận ra giọng Ôn Thanh, cứ nằm trong màn đưa mắt nhìn ra. Quả nhiên trăng sáng trước giường như một màn sương bạc phủ lên nền đất, trong mảng ánh trăng từ cửa sổ soi vào hiện rõ bóng một đầu người. Rõ ràng Ôn Thanh đang dùng thế Đảo Quyển Châu Liêm treo ngược người, thò đầu nhìn vào trong phòng.

Viên Thừa Chí lên tiếng: “Được! Ta mặc áo rồi ra ngay.” Chàng thầm nghĩ: “Hành động của con người này thật sự khiến cho người ta không biết đâu mà lường. Đêm khuya thế này, để xem y giở trò gì cổ quái nữa đây.”

Mặc xong quần áo, chàng lén giấu trủy thủ vào trong bọc rồi đẩy cửa sổ ra. Hương hoa ập ngay vào mặt, thì ra phía ngoài cửa sổ này là một vườn hoa.

Ôn Thanh vận kình vào bàn chân, tung ngược người lên rồi đáp nhẹ xuống đất, khẽ bảo: “Đi theo đệ!”

Y xách theo một cái giỏ tre vốn đặt dưới đất. Viên Thừa Chí không biết y định đi đâu, nhưng cũng theo y vượt tường ra ngoài.

Hai người bước đi chậm rãi về phía sau đồi. Đây chỉ là một ngọn đồi nhỏ, nhưng xung quanh cây cối um tùm, sương giăng bốn bề nhẹ như làn khói lẩn quẩn giữa những cành lá. Trong đêm vắng, trên cỏ mềm, hình như bước chân hai người cũng không nỡ phát ra tiếng động.

Rẽ qua hai chỗ ngoặt thì đến đỉnh đồi. Gió khuya lồng lộng, bốn phía đầy ắp hương hoa, ánh trăng mờ mờ soi xuống. Đưa mắt nhìn quanh, thì ra quả đồi này trồng rất nhiều hoa hồng đủ màu đủ sắc, đỏ có, trắng có, vàng có.

Viên Thừa Chí khẽ tán dương: “Thật là xứ thần tiên.”

Ôn Thanh nói: “Hoa ở đây do chính tay đệ trồng. Ngoài mẫu thân và Tiểu Cúc ra, chưa có ai được phép đến chỗ này.”

Y xách cái giỏ tre, từ từ đi tới. Viên Thừa Chí chậm rãi theo sau, tâm hồn vô cùng khoái hoạt. Bao nhiêu ý tứ cảnh giác đề phòng vừa rồi, trong hương hoa và dưới ánh trăng đã đột nhiên biến mất.

Đi một quãng nữa, phía trước xuất hiện một ngôi đình nhỏ. Ôn Thanh mời Viên Thừa Chí ngồi lên ghế đá, rồi mở giỏ lấy ra một ít đồ nhắm, một bình rượu nhỏ và hai cái ly. Y rót đầy rượu, lên tiếng: “Ở đây không nên ăn mặn.”

Viên Thừa Chí nâng ly rồi gắp thức ăn, quả nhiên toàn là nấm hương, mộc nhĩ và các món chay.

Ôn Thanh lấy trong giỏ ra một ống sáo, lại nói: “Để đệ thổi một bài cho huynh nghe.”

Thừa Chí khẽ gật đầu, Ôn Thanh bắt đầu thổi sáo. Thừa Chí không rành âm luật, nhưng vẫn cảm thấy tiếng sáo triền miên lúc như oán trách, lúc như hâm mộ. Trái tim chàng nương theo tiếng sáo uyển chuyển mà phiêu du vùng tiên cảnh, quên mất mình vẫn đang ngồi trong chốn nhân gian.

Ôn Thanh thổi dứt một bài, mỉm cười nói: “Huynh thích nghe bài gì, để đệ thổi cho nghe.”

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Ta không biết bài nào cả. Đệ biết thật là nhiều thứ. Sao đệ lại thông minh như thế?”

Ôn Thanh ngẩng đầu lên nhìn, mỉm cười hỏi lại: “Có thật thế không?”

Y nâng ống sáo thổi tiếp một bài. Lần này điệu nhạc rất nhu mì, dịu dàng hòa quyện vào ánh trăng và hương hoa xung quanh.

Cả đời Viên Thừa Chí chỉ biết võ công quyền kiếm, chưa bao giờ trải qua cảm giác phong nhã thế này. Chàng không khỏi cảm thấy mình phiêu phiêu bồng bồng, như trong lúc tập những thế khinh công mà Mộc Tang đạo nhân truyền thụ.

Ôn Thanh đặt ống sáo xuống, dịu dàng hỏi: “Huynh thấy có hay không?”

Viên Thừa Chí nói: “Thì ra trên thế gian có loại nhạc nghe hay như thế, trước đây ta có nằm mơ cũng không thấy. Bài này tên là gì vậy?”

Mặt của Ôn Thanh đột nhiên đỏ ửng lên, khẽ nói: “Không nói cho huynh biết đâu.” Nhưng y lại tiếp ngay: “Khúc ca này tên là Nhã Nhi Mi.” Y liếc mắt một cái, mỉm cười với Viên Thừa Chí.

Bây giờ hai người ngồi rất gần nhau. Viên Thừa Chí ngửi thấy xen giữa mùi hương thoang thoảng của hoa hồng có mùi phấn son nhàn nhạt. Chàng nghĩ: “Người này thật sự không có khí khái trượng phu. Tướng mạo của y đã quá văn nhã tuấn tú rồi, lại trát thêm phấn son vào thì còn ra trò gì nữa? May mà mình không phải loại người ưa chọc ghẹo người khác, không thì phải trêu y mấy câu.” Rồi chàng lại nghĩ: “Phong khí ở Giang Nam rất xa hoa, chẳng lẽ con cái nhà giàu đều như vậy hay sao? Chỉ vì mình là thôn phu sơn dã, ít khi gặp họ nên mới thấy lạ.”

Đang suy nghĩ, bỗng nghe Ôn Thanh hỏi: “Ca ca thích nghe đệ thổi sáo nữa không?”

Viên Thừa Chí khẽ gật đầu. Ôn Thanh lại đặt ống sáo lên môi, tiếng bổng tiếng trầm dìu dặt. Âm vận từ từ chuyển thành như khóc như than, Viên Thừa Chí nghe đến xuất thần. Đột nhiên tiếng sáo dừng lại, bàn tay đang cầm ống sáo khẽ vặn một cái, ống sáo tre gãy nghe răng rắc.

Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Sao thế? Không phải đệ đang thổi say mê hay sao?”

Ôn Thanh cúi đầu xuống, khẽ nói: “Chẳng ai thích nghe đệ thổi sáo cả. Người ta chỉ thích động đao động kiếm, không thích nghe những tiếng này.”

Viên Thừa Chí lo lắng nói: “Ta đâu có gạt đệ? Ta thích nghe, thích nghe thật mà.”

Ôn Thanh nói: “Ngày mai ca ca rời khỏi đây rồi, không chừng sẽ không bao giờ trở lại. Thế thì đệ thổi sáo làm gì nữa?”

Y dừng lại một lúc, lại tiếp: “Tính khí của đệ không tốt, chính đệ cũng biết. Nhưng đệ không thể quản thúc được bản thân mình. Đệ biết ca ca ghét đệ, trong lòng coi thường đệ.”

Nhất thời Viên Thừa Chí chưa biết phải nói gì, Ôn Thanh đã tiếp: “Vì thế ca ca sẽ vĩnh viễn không đến đây nữa. Đệ… đệ muốn gặp ca ca cũng không gặp được.”

Nói đến chuyện không gặp lại nhau, giọng y hết sức rầu rĩ. Viên Thừa Chí không nén nổi xúc động, bèn nói: “Nhất định đệ cũng thấy ta chẳng hiểu biết gì. Ta mới vào giang hồ, không biết nói dối. Đệ nói là trong lòng ta coi thường đệ, cảm thấy ghét đệ. Nói thật với đệ, chuyện ấy vốn không sai. Lúc đầu, ta thấy đệ chỉ động tay là giết người, cảm thấy khó chịu. Nhưng bây giờ thì khác rồi.”

Ôn Thanh nhỏ nhẹ hỏi: “Có đúng thế không?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta thấy bản tính của đệ vốn lương thiện, chắc bị người ta ép bức, trong lòng uất ức không có chỗ nào trút được, nên tính khí mới kỳ lạ. Lý do thế nào, có thể nói cho ta nghe không? Có thể ta sẽ giúp được đệ.”

Ôn Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Đệ nói ra, chỉ sợ ca ca còn xem thường đệ hơn.”

Viên Thừa Chí nói: “Nhất định không.”

Ôn Thanh nghiến chặt răng lại, nói: “Được, để đệ nói. Mẹ của đệ vốn là một cô nương, bị người ta bức hiếp mà sinh ra đệ. Năm lão gia gia của đệ đánh không thắng nổi người đó; sau này phải hẹn rất nhiều cao thủ mới đuổi người đó đi được. Vì thế đệ không có cha, đệ là một đứa con hoang…”

Nói đến đây giọng y nghẹn lại, nước mắt ròng ròng.

Viên Thừa Chí nói: “Chuyện này không thể trách đệ, cũng không thể trách mẹ của đệ. Chỉ có người đó là không tốt.”

Ôn Thanh nói: “Y… y… là phụ thân của đệ. Người ta… người ta cứ ở sau lưng mà chửi đệ, chửi mẹ của đệ.”

Viên Thừa Chí tức giận nói: “Ai lại đê tiện vô sỉ như thế? Để ta giúp đệ đánh họ. Bây giờ ta đã hiểu nguyên nhân rồi, không ghét đệ nữa. Nếu đệ thật sự coi ta là bạn, nhất định ta sẽ đến thăm đệ.”

Ôn Thanh cả mừng, nhảy bật người lên. Viên Thừa Chí thấy y vui mừng lộ rõ ra ngoài, mỉm cười hỏi: “Ta đến thăm đệ, đệ có thích không?”

Ôn Thanh nắm chặt hai bàn tay chàng, vừa lắc lắc vừa nói: “Này, tự ca ca nói đấy nhé! Nhất định ca ca phải đến.”

Viên Thừa Chí nói: “Ta không gạt đệ đâu.”

Đột nhiên sau lưng có tiếng chân bước nhẹ. Viên Thừa Chí quay đầu lại, một người lên giọng hỏi: “Đêm hôm khuya khoắt, ở đây lén lút làm gì vậy?”

Đó chính là Ôn Chính. Mặt hắn đầy vẻ giận dữ, hai tay chống nạnh như muốn hỏi tội người khác.

Ôn Thanh vốn đang kinh hãi, nhưng khi nhận ra Ôn Chính liền giận dữ hỏi lại: “Đến đây làm gì?”

Ôn Chính nói: “Ngươi tự hỏi mình đi.”

Ôn Thanh nói: “Ta và Viên huynh ở đây thưởng trăng, có ai mời huynh đến đâu? Ở đây ngoài mẹ của ta ra, không ai được đến cả. Tam gia gia đã từng nói, huynh dám bất tuân phải không?”

Ôn Chính chỉ Viên Thừa Chí, hỏi: “Tại sao y đến đây được?”

Ôn Thanh nói: “Ta mời huynh ấy đến đây. Huynh không được xía vào.”

Viên Thừa Chí thấy hai anh em vì mình mà tổn thương hòa khí, không yên lòng bèn nói: “Chúng ta thưởng trăng đã vui lắm rồi. Mọi người về nghỉ ngơi thôi.”

Ôn Thanh nói: “Đệ không thích về. Ca ca ngồi xuống đây đi.”

Viên Thừa Chí đành phải ngồi xuống.

Ôn Chính ngơ ngác đứng yên tại chỗ, uất ức không nói được gì, liếc xéo Viên Thừa Chí đầy vẻ ganh ghét.

Ôn Thanh giận dữ nói: “Hoa ở đây do chính tay ta trồng. Ta không cho huynh ngắm.”

Ôn Chính nói: “Ta đã ngắm rồi, chẳng lẽ ngươi móc tròng mắt ta ra? Ta còn muốn ngửi một chút.”

Nói xong, hắn đưa mũi hít hít về phía những đóa hoa. Ôn Thanh vô cùng giận dữ, đột nhiên tung người lên vung hai tay nhổ một hơi hai mươi mấy gốc hồng, vừa nhổ vừa quẳng ra ngoài, khóc nói: “Ngươi ăn hiếp ta! Ngươi ăn hiếp ta! Ta phải nhổ hết những khóm hồng này, ai cũng không được nhìn nữa. Thế thì ngươi mừng lắm phải không?”

Ôn Chính tái mặt, giận dữ bỏ đi. Đi được mấy bước, hắn quay đầu lại nói: “Ta đối với ngươi đầy hảo ý, còn ngươi thì lại đối xử với ta như vậy! Ngươi nghĩ xem, ngươi có lương tâm hay không? Còn tên mọi rợ Quảng Đông họ Viên này đen thui đen thủi, ngươi… ngươi lại…”

Ôn Thanh vừa khóc vừa nói: “Còn ngươi thì đẹp trai tuấn tú, mặt mày trắng trẻo lắm ư? Ai cần ngươi tốt với ta? Nếu ngươi thấy ta mà ấm ức, thì cứ việc kêu các vị gia gia đuổi hai mẹ con ta ra ngoài. Ta cùng Viên huynh ở đây, ngươi đi nói với các vị gia gia đi.

Ôn Chính thở ra một hơi dài, cúi đầu đi thẳng. Ôn Thanh quay vào trong đình, ngồi xuống. Hồi lâu Viên Thừa Chí mới hỏi: “Sao đệ lại đối xử với anh mình như vậy?”

Ôn Thanh nói: “Hắn đâu có phải là ca ca của đệ? Mẹ của đệ mới là họ Ôn. Đây là nhà của ông ngoại đệ. Hắn là con trai người anh họ của mẹ đệ, là biểu ca của đệ. Nếu đệ có phụ thân, có nhà cửa, thì đã không cần ở lại nhà người khác để nghe gièm pha nhạo báng.”

Nói tới đây, y lại rơi nước mắt. Viên Thừa Chí nói: “Ta thấy huynh ấy đối xử với đệ rất tốt, chỉ có đệ là hung dữ với huynh ấy.”

Ôn Thanh đột nhiên bật cười rồi nói: “Nếu đệ không hung dữ với hắn, thì hắn còn vô pháp vô thiên hơn nữa.”

Viên Thừa Chí thấy y chợt khóc chợt cười đầy vẻ ngây thơ, lại nghĩ đến thân thế của mình, không khỏi phát sinh cảm giác đồng bệnh tương lân. Chàng nói: “Gia gia của ta cũng bị hại chết rồi. Lúc đó ta mới lên bảy tuổi. Mẹ của ta cũng chết vào năm đó.”

Ôn Thanh hỏi: “Ca ca đã trả thù được chưa?”

Viên Thừa Chí đáp: “Nói ra xấu hổ, ta thật là bất hiếu.”

Ôn Thanh nói: “Khi nào ca ca trả thù, đệ sẽ giúp một tay. Cho dù kẻ thù có lợi hại đến thế nào chăng nữa, đệ cũng nhất định giúp ca ca.”

Viên Thừa Chí cảm kích, nắm chặt lấy tay Ôn Thanh. Y bất giác rụt tay về một chút, nhưng rồi để yên cho chàng nắm, khẽ nói: “Bản lãnh của ca ca cao hơn đệ rất nhiều, nhưng đệ biết ca ca không quen thuộc những chuyện trong giang hồ. Sau này đệ sẽ giúp ca ca để ý hơn.”

Viên Thừa Chí nói: “Đệ thật là tốt. Ta chưa có người bạn nào đồng trang đồng lứa. Bây giờ mới gặp được đệ…”

Ôn Thanh cúi đầu nói: “Đệ thì tính khí không tốt, e rằng sẽ có một ngày đắc tội với ca ca.”

Viên Thừa Chí nói: “Đệ đã coi ta là bằng hữu. Ta đã biết tấm lòng đệ tốt như vậy, dù đệ đắc tội thì ta cũng không để ý.”

Ôn Thanh mừng rỡ, thở ra một hơi rồi nói: “Chính vì việc này mà đệ không yên tâm. Ca ca nói lời phải giữ lấy lời, nhất định sẽ bỏ qua lỗi lầm của đệ đấy nhé.”

Viên Thừa Chí thấy y đổi hẳn thần sắc, vừa dịu dàng vừa đàng hoàng, khác hẳn vẻ hung dữ lúc nãy, bèn nói: “Ta có một câu, không biết đệ có chịu nghe không?”

Ôn Thanh nói: “Trên đời đệ chỉ nghe lời của ba người. Người đầu tiên là mẹ đệ, người thứ hai là ông ngoại ruột của đệ, còn người thứ ba chính là ca ca.”

Viên Thừa Chí rùng mình một cái rồi nói: “Đa tạ đệ đã coi trọng như thế. Thật ra chỉ cần lời nói có lý, ai nói chúng ta cũng nên nghe.”

Ôn Thanh cãi: “Có lý đệ cũng không nghe. Nếu ai tốt với đệ, đệ… đệ… thích người đó, thì bất luận người đó nói gì đi nữa, có lý hay không, đệ cũng nghe lời. Nếu đệ ghét người đó rồi, thì người đó có nói đúng tới đâu đệ cũng không chịu làm theo.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Thật là tính khí trẻ nít. Đệ bao nhiêu tuổi rồi?”

Ôn Thanh đáp: “Đệ mười tám tuổi. Ca ca bao nhiêu?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta lớn hơn đệ hai tuổi.”

Ôn Thanh đột nhiên cúi đầu xuống, mặt đỏ lên, nhỏ nhẹ nói: “Đệ không có anh em ruột. Chúng ta kết bái thành huynh đệ, có được hay không?”

Viên Thừa Chí từ nhỏ gia đình đã gặp đại biến, đương nhiên tính tình thận trọng tỉ mỉ. Chàng hoàn toàn không biết về thân thế của Ôn Thanh, đã thấy y cướp vàng giết người, hành động tà quái, lại là người Kỳ Tiên Phái, không hiểu sao y đối với mình lại phơi hết ruột gan ra. Hai chữ “kết bái” là đại sự, liên quan đến phước họa cả đời, nên chàng buộc phải ngần ngừ.

Ôn Thanh thấy chàng nghĩ mãi không nói gì, đột nhiên đứng dậy chạy ra khỏi đình. Viên Thừa Chí giật mình đuổi theo, thấy Ôn Thanh chạy thẳng lên đỉnh đồi.

Chàng nghĩ: “Tính tình người này quyết liệt, nếu mình không đồng ý là sỉ nhục y, chuyện gì xảy ra không lường trước được.” Chàng vội thi triển khinh công, chạy lên mấy bước cản trước mặt Ôn Thanh, kêu lớn: “Thanh đệ! Đệ giận ta phải không?”

Nghe Viên Thừa Chí gọi mình là Thanh đệ, Ôn Thanh mừng rỡ, lập tức ngồi xuống đất mà nói: “Ca ca đã xem thường người ta, sao còn gọi người ta là Thanh đệ?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta xem thường đệ hồi nào đâu? Tới đây, chúng ta kết bái ở đây.”

Thế là hai người cùng quỳ xuống, hướng về mặt trăng mà phát thệ: “Có phước cùng hưởng, có họa cùng chia”. Sau đó đứng dậy, Ôn Thanh chắp tay nhìn Viên Thừa Chí, khẽ gọi: “Đại ca”.

Viên Thừa Chí chắp tay trả lễ, gọi một tiếng “Thanh đệ” rồi nói: “Bây giờ không còn sớm nữa, chúng ta về nghỉ đi.”

Hai người dắt tay nhau trở về phòng. Viên Thừa Chí nói: “Đệ đừng về, kẻo làm bá mẫu tỉnh giấc. Chúng ta ở lại đây, ngủ cùng giường đi.”

Ôn Thanh đột nhiên đỏ ửng mặt lên, vẫy tay ấp úng nói: “Đại ca… đại ca… đại ca… ngày mai gặp lại.”

Y vừa mỉm cười vừa chạy ra khỏi phòng, khiến Viên Thừa Chí ngơ ngác chẳng hiểu gì.

*

*   *

Sáng sớm hôm sau, Viên Thừa Chí đang ngồi trên giường luyện công thì Tiểu Cúc đưa đồ điểm tâm vào. Viên Thừa Chí nhảy xuống giường, lên tiếng cảm ơn.

Đang ăn sáng thì Ôn Thanh vào phòng nói: “Đại ca! Có một con bé đến đây, nói là đến để đòi vàng. Chúng ta ra ngoài xem thử.”

Viên Thừa Chí gật đầu, nghĩ bụng: “Cướp tiền người khác thì dĩ nhiên không được yên ổn. Bây giờ ta phải khuyên Thanh đệ trả lại vàng cho người ta.”

Hai người chưa đến cửa sảnh, đã nghe thấy tiếng chân gấp rút trong sảnh, lại có tiếng gió vù vù, rõ ràng có người đang động thủ. Vào trong đại sảnh thì thấy Ôn Chính nhanh chân chạy qua chạy lại, múa tít đơn đao, tỉ đấu với một thiếu nữ cầm kiếm. Kế bên có hai ông lão ngồi trên ghế mà nhìn. Một lão tay cầm quải trượng, còn lão kia tay không.

Ôn Thanh đến bên ông lão cầm quải trượng, kề tai thầm thì gì đó. Ông lão liền quay đầu lại, ngắm nhìn Viên Thừa Chí rồi gật đầu một cái.

Viên Thừa Chí thấy thiếu nữ kia khoảng mười tám mười chín tuổi, hai má ửng hồng, dung mạo thanh tú, chiêu thức công thủ rất nghiêm mật. Hai người đấu thêm mười mấy chiêu, nhất thời chưa phân cao thấp, nhưng Viên Thừa Chí càng nhìn kiếm pháp của nàng càng thấy nghi ngờ.

Thiếu nữ bước tới một bước, đưa trường kiếm điểm tới vai của Ôn Chính. Ôn Chính xoay đao lại đỡ cực nhanh. Tưởng trường kiếm sẽ bị đơn đao gạt văng đi, nào ngờ thiếu nữ kia còn nhanh hơn, xoay trường kiếm lại chém ngang cổ đối thủ. Ôn Chính giật mình lùi luôn ba bước. Thiếu nữ thừa thắng lại phóng kiếm đâm tới veo véo.

Nhìn gia số võ công, Viên Thừa Chí biết thiếu nữ này tuy không phải là người phái Hoa Sơn, nhưng chắc chắn đã được nhân vật bản môn chỉ điểm, nếu không thì công lực của nàng không đủ để duy trì đến lúc này. Nàng chỉ dựa vào kiếm thuật tinh xảo mà gắng gượng cầm cự với Ôn Chính. Chiêu thức của Ôn Chính vừa ổn định vừa hiệu quả hơn, nội kình mạnh hơn rất nhiều.

Ôn Thanh cũng đã thấy thiếu nữ đó không phải là địch thủ của Ôn Chính, bèn cười nhạt lên tiếng: “Dựa vào chút xíu bản lãnh như vậy mà muốn đến nhà đòi nợ ư?”

Tỉ đấu mấy chục chiêu nữa, quả nhiên kiếm pháp thiếu nữ đó mỗi lúc một chậm đi, còn Ôn Chính thì đao sau ác hơn đao trước. Chỉ chốc lát là thiếu nữ liên tiếp gặp nguy hiểm.

Thấy tình thế nguy cấp, Viên Thừa Chí đột nhiên tung người lên, nhảy vào giữa hai đối thủ. Hai bên đang tỉ đấu kịch liệt, binh khí không thu về kịp, một đao một kiếm cùng chém lên người Viên Thừa Chí. Ôn Thanh kinh hãi la lên, hai ông lão cùng đứng bật dậy, nhưng vì bất ngờ nên không kịp nhảy tới cứu viện.

Tay phải của Viên Thừa Chí đẩy nhẹ lên tay của Ôn Chính, còn tay trái xoay lại gõ nhẹ vào cổ tay của thiếu nữ kia. Hai món binh khí đều không giữ nổi mà bay thẳng ra ngoài; hai đối thủ lập tức nhảy lùi ra sau. Hai ông lão nhìn nhau “Ủa” lên một tiếng, rõ ràng kinh ngạc về công phu của Viên Thừa Chí.

Ôn Chính tưởng Thừa Chí nhớ mối hận đêm qua, nên ra tay làm khó dễ mình. Còn thiếu nữ kia thấy chàng cùng Ôn Thanh từ trong nhà đi ra, đương nhiên nghĩ chàng cùng phe với đối phương. Nàng thấy mình không địch nổi, bèn nhặt kiếm rồi nhảy ra ngoài.

Thừa Chí kêu lên: “Cô nương khoan đã.”

Thiếu nữ giận dữ nói: “Ta không đánh nổi các ngươi, đương nhiên sẽ có những người giỏi hơn ta đến đây để đòi vàng. Ngươi muốn gì nữa?”

Thừa Chí chắp tay lại nói: “Cô nương đừng trách. Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh, lệnh sư là vị nào?”

Thiếu nữ bĩu môi đáp: “Ta không đến đây để lảm nhảm với ngươi!”

Nàng co giò chạy thẳng ra cửa. Viên Thừa Chí nhún chân một cái, tung người ra chặn trước cửa, khẽ nói: “Đừng đi! Ta giúp cô nương.”

Thiếu nữ ngẩn ra, hỏi lại: “Các hạ là ai?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta họ Viên.”

Đôi mắt đen láy của thiếu nữ đó nhìn thẳng vào mặt chàng một lát, rồi nàng bỗng la lên: “Các hạ biết An đại nương hay không?”

Thừa Chí run rẩy cả người, lòng bàn tay cũng nóng hẳn lên, đáp ngay: “Ta là Viên Thừa Chí. Cô nương là Tiểu Huệ phải không?”

Thiếu nữ đó mừng quá, quên mất mình đang ở đâu, cứ nắm chặt lấy tay chàng mà la lên: “Đúng rồi, đúng rồi! Huynh là Thừa Chí đại ca.”

Nàng đột nhiên nghĩ đến nam nữ hữu biệt, chợt đỏ mặt buông tay chàng ra.

Tình huống diễn ra quá bất ngờ, Ôn Thanh cảm thấy cảnh vật trước mắt như nhòa đi trong một màn sương mỏng. Ôn Chính kêu lên: “Ta cứ tưởng Viên huynh này là ai, thì ra là do Lý Tự Thành phái tới nằm vùng mai phục.”

Viên Thừa Chí nói: “Đúng là tại hạ đã gặp gỡ Sấm Vương một lần, nhưng không thể nói là tới đây mai phục được. Vị cô nương này đã quen tại hạ từ hồi nhỏ. Không biết hai vị vì lý do gì mà giao đấu? Tại hạ cả gan xin hai vị giảng hòa có được không?”

An Tiểu Huệ nói: “Thừa Chí đại ca! Họ đã là bạn của ca ca, thì chỉ cần trả lại vàng là xem như không có chuyện gì.”

Ôn Thanh lạnh nhạt lên tiếng: “Đâu có chuyện dễ dàng như thế?”

Viên Thừa Chí nói: “Thanh đệ! Để ta giới thiệu cho Thanh đệ biết, vị này là An Tiểu Huệ cô nương. Hồi nhỏ chúng ta thường chơi đùa với nhau, đã hơn mười năm không gặp rồi.”

Ôn Thanh lạnh nhạt liếc nhìn An Tiểu Huệ một cái, không thi lễ mà cũng chẳng nói gì.

Viên Thừa Chí cảm thấy khó xử, liền hỏi An Tiểu Huệ: “Sao muội nhận ra ta?”

An Tiểu Huệ nói: “Trên lông mày của ca ca có một vết sẹo, muội làm sao quên được? Hồi nhỏ tên khốn kia đến bắt muội, ca ca liều mạng cứu giúp, bị hắn đả thương. Ca ca quên rồi hay sao?”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Hôm đó chúng ta còn dùng chén nhỏ nồi nhỏ để chơi đồ hàng nữa.”

Ôn Thanh lại càng cảm thấy không vui, lên tiếng riết róng: “Các vị cứ ở đó mà nói chuyện thanh mai trúc mã. Ta phải vào trong đây.”

Viên Thừa Chí vội gọi: “Đợi một lúc đã! Tiểu Huệ, sao muội lại đánh nhau với vị đại ca này?”

An Tiểu Huệ nói: “Muội và… và… Thôi sư huynh…”

Viên Thừa Chí cướp lời hỏi: “Thôi sư huynh là Thôi Thu Sơn thúc thúc có phải không?”

An Tiểu Huệ nói: “Không, huynh ấy là cháu của Thôi thúc thúc. Hai người bọn muội hộ tống một món quân lương của Sấm Vương về Chiết Đông, nào ngờ giữa đường bị tên kia lấy cắp.” Vừa nói, tay nàng chỉ về hướng Ôn Thanh.

Viên Thừa Chí đã hiểu, thì ra số vàng Ôn Thanh đã cướp là quân lương của Sấm Vương. Đừng nói Sấm Vương đối xử lịch sự với chàng, được sư phụ chàng dồn toàn lực giúp đỡ, mà chỉ vì tình cảm của ba cố nhân là Thôi Thu Sơn, An đại nương, An Tiểu Huệ thì cũng đủ để chàng phải xả thân giúp An Tiểu Huệ đoạt về. Hơn nữa Sấm Vương gửi tiền từ xa mấy ngàn dặm đến Giang Nam, nhất định rất cần sử dụng. Nếu là quân lương, đương nhiên phải dùng để chi trả cho quân đội. Nếu dùng để lôi kéo người trợ giúp, hoặc hối lộ cho bọn tham quan cũng rất có ích. Sấm Vương tạo phản là vì nhân nghĩa, muốn cứu dân khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng, làm sao chàng khoanh tay đứng nhìn được?

Lòng đã quyết, Viên Thừa Chí bèn bảo Ôn Thanh: “Thanh đệ! Xin đệ nể mặt ta, trả lại số vàng đó cho vị cô nương này đi.”

Ôn Thanh “hứ” một tiếng rồi nói: “Huynh cứ nói chuyện với hai vị gia gia của đệ trước đã.”

Viên Thừa Chí nghe y gọi hai ông lão này là gia gia, thầm nghĩ: “Đã kết bái rồi, thì họ cũng là trưởng bối của mình.” Vì thế chàng bước lên phía trước, cúi đầu chào hai ông lão rất cung kính.

Ông lão cầm quải trượng nói: “Ái chà, không dám! Viên thế huynh đứng dậy đi.”

Lão dựng cây quải trượng vào bên ghế, hai tay đỡ lấy khuỷu tay Viên Thừa Chí, nhấc chàng lên. Viên Thừa Chí đột nhiên cảm thấy một luồng kình lực rất lớn, có thể hất mình văng bổng lên không trung. Chàng phải trì đôi vai xuống, vận kình trầm ổn lại thân hình, tiếp tục khấu đầu cho đủ bốn cái mới đứng dậy.

Ông lão thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Thiếu niên này có nội lực rất thâm hậu.” Lão cười ha hả rồi nói: “Nghe Thanh nhi nói công phu của Viên thế huynh rất lợi hại, quả nhiên không sai.”

Ôn Thanh nói: “Vị này là Tam gia gia của đệ.” Y trỏ sang ông lão tay không, lại nói: “Còn đây là Ngũ gia gia.” Rồi y giới thiệu danh hiệu của hai người, một là Ôn Phương Sơn, một là Ôn Phương Ngộ.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Hai người này chắc chắn là hai tổ trong Ngũ Tổ của Kỳ Tiên Phái rồi. Võ công của các vị gia gia cao hơn Ôn Chính và Thanh đệ rất nhiều.” Chàng bèn lên tiếng chào: “Tam gia gia, Ngũ gia gia!”

Hai ông lão đồng thanh nói: “Không dám nhận cách xưng hô như thế.” Sắc mặt họ đều lộ vẻ không vui.

Viên Thừa Chí thầm tức giận: “Phụ thân ta là danh tướng kháng Thanh, là Đốc sư ở Liêu Đông. Ta kết bái với cháu của các ông, các ông lại coi là không xứng ư?”

Chàng quay lại bảo Ôn Thanh: “Thanh đệ trả lại vàng cho vị cô nương này đi.”

Ôn Thanh tức giận nói: “Huynh chỉ biết cô nương này, cô nương kia, chẳng nghĩ gì đến đệ cả.”

Viên Thừa Chí nói: “Thanh đệ! Người học võ chúng ta phải lấy nghĩa khí làm trọng. Số vàng này là của Sấm Vương, lúc đệ lấy mà không biết thì có thể cho qua. Bây giờ đã biết được tung tích rồi, nếu không trả lại há chẳng có lỗi với người ta?”

Hai ông lão vốn không biết món vàng này liên quan trọng đại như thế, cứ tưởng là của một phú thương nào đó. Bây giờ nghe An Tiểu Huệ, Viên Thừa Chí nói đến, họ bỗng thấy không yên lòng, biết thanh thế của Sấm Vương cực lớn, giang hồ hào kiệt quy tụ rất đông. Nếu mình không trả số vàng này, nhất định sẽ có vô số hảo thủ đến đây đòi lại, hậu hoạn vô cùng.

Ôn Phương Sơn mỉm cười nói: “Nể mặt Viên thế huynh, chúng ta trả lại đi thôi.”

Ôn Thanh kêu lớn: “Tam gia gia! Chuyện đó không được.”

Viên Thừa Chí nói: “Đệ định chia cho ta một nửa. Thế thì đem một nửa của ta trả cho cô ấy trước đi, rồi tính tiếp.”

Ôn Thanh nói: “Nếu bản thân huynh cần, thì phần của đệ cũng có thể cho huynh. Mấy ngàn lạng vàng chẳng phải là nhiều nhặn gì, ai lại bủn xỉn như thế? Nhưng vì cô nương này đến đây đòi, nên đệ mới không chịu trả.”

An Tiểu Huệ bước lên một bước, giận dữ nói: “Vậy phải thế nào ngươi mới chịu trả? Cho ta biết điều kiện đi.”

Ôn Thanh bảo Viên Thừa Chí: “Rốt cuộc là huynh giúp ả hay là giúp đệ?”

Viên Thừa Chí trù trừ một lúc rồi mới đáp: “Ta không giúp ai cả, ta chỉ nghe lời sư phụ thôi.”

Ôn Thanh hỏi: “Sư phụ ư? Sư phụ của huynh là ai?”

Viên Thừa Chí đáp: “Sư phụ của huynh đang ở trong quân ngũ Sấm Vương.”

Ôn Thanh giận dữ nói: “Hừ, nói đi nói lại cũng là huynh giúp cô ả này. Được! Vàng để ở đây. Đệ đã tốn công sức để lấy được, thì huynh cũng phải tốn công sức để lấy lại. Trong vòng ba ngày, nếu huynh có bản lãnh thì đến đây mà lấy. Hết ba ngày mà không lấy được, đệ sẽ tiêu xài xả láng, hết sạch trong vòng một ngày.”

Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Nhiều vàng như thế, làm sao tiêu hết trong vòng một ngày?”

Ôn Thanh nói: “Tiêu không hết, chẳng lẽ đệ không biết ném ra giữa đường cho người khác giúp đệ tiêu xài hay sao?”

Viên Thừa Chí kéo tay áo Ôn Thanh, bảo: “Thanh đệ, đi theo ta.”

Hai người đến một góc sảnh, Viên Thừa Chí nói: “Đêm qua đệ vừa nói là sẽ nghe lời ta, sao chưa tới nửa ngày đã thay đổi hẳn rồi?”

Ôn Thanh nói: “Nếu huynh tốt với đệ, thì dĩ nhiên đệ nghe lời huynh.”

Viên Thừa Chí nói: “Huynh có chỗ nào không tốt với đệ đâu? Nhưng chỗ vàng này thật sự không thể lấy.”

Khóe mắt Ôn Thanh rơm rớm, nói: “Huynh mới gặp người quen cũ là đã toàn tâm toàn ý bảo vệ, không để ai vào trong lòng nữa. Vàng của Sấm Vương, đệ tiêu xài hết thì đã sao nào? Cùng lắm là bị ông ấy giết đi. Dù sao đi nữa, cả đời cả kiếp này có ai thương đệ đâu?”

Nói tới đây, nước mắt y lại rơi xuống.

Viên Thừa Chí thấy không thể nói lý lẽ với người này được, lộ vẻ không vui. Chàng nói: “Đệ là huynh đệ kết nghĩa, còn cô ấy là con gái của cố nhân, dĩ nhiên ta phải đối xử như nhau, không bên nào nặng nhẹ. Tại sao đệ phải như vậy?”

Ôn Thanh nói ngay: “Chuyện khiến đệ hận chính là huynh đối xử như nhau, không phân nặng nhẹ. Hừ, không cần nói nhiều nữa. Trong vòng ba ngày huynh cứ đến đây mà lấy.”

Thừa Chí muốn nắm tay y khuyên bảo, nhưng Ôn Thanh giật tay ra, đi vào nhà trong.

*

*   *

Viên Thừa Chí thấy tình hình đã bế tắc, nói gì đi nữa cũng không giải quyết được. Chàng đành cùng An Tiểu Huệ rời khỏi đó, tìm một nhà nông để tá túc, rồi hỏi đầu đuôi câu chuyện mất vàng này. Thì ra An Tiểu Huệ cùng vị Thôi sư ca đó hộ tống món vàng, giữa đường có việc phải chia tay, nên Ôn Thanh có cơ hội đoạt hết.

An Tiểu Huệ nhắc đến thời gian sau khi tạm biệt, mẫu thân của nàng thường xuyên nhớ đến Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí lấy trong bọc ra một cái vòng tay thắt bằng chỉ vàng, nói rằng: “Vật này là má má của muội đã cho ta. Muội xem, cổ tay ta lúc đó nhỏ xíu thế này.”

An Tiểu Huệ cười khúc khích nhìn cánh tay chàng, lại hỏi: “Thừa Chí đại ca! Mấy năm nay ca ca làm gì vậy?”

Viên Thừa Chí nói: “Ngày nào cũng luyện võ, thỉnh thoảng có chơi cờ.”

An Tiểu Huệ nói: “Chẳng trách võ công của ca ca cao cường như thế. Vừa rồi ca ca chỉ đẩy nhẹ vào thanh kiếm mà muội không vận được chút xíu kình lực nào nữa.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao muội cũng biết kiếm pháp phái Hoa Sơn? Ai dạy cho muội vậy?”

Khóe mắt của An Tiểu Huệ đỏ lên, quay đầu đi rồi mới nói: “Chính là Thôi sư ca dạy cho muội. Huynh ấy cũng là đệ tử Hoa Sơn.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Huynh ấy bị thương phải không? Tại sao muội lại đau lòng?”

An Tiểu Huệ nói: “Có bị thương gì đâu! Huynh ấy mặc kệ người ta, giữa đường bỏ đi trước.”

Viên Thừa Chí cảm thấy chuyện này có liên quan đến tình cảm trai gái, nên không tiện hỏi thêm.

Đợi đến khoảng canh hai, hai người cùng chạy về phía nhà họ Ôn. Viên Thừa Chí nhẹ nhàng nhảy lên mái nhà, thấy bên trong đại sảnh đèn đuốc sáng trưng. Hai lão Ôn Phương Sơn, Ôn Phương Ngộ ngồi uống rượu; Ôn Chính, Ôn Thanh đứng bên hầu hạ.

Viên Thừa Chí không biết vàng giấu chỗ nào, muốn nghe lén họ nói chuyện một lúc. Nhưng Ôn Thanh bỗng cười nhạt một tiếng, ngẩng đầu nhìn lên mái nhà, buột miệng: “Vàng ở ngay đây, có bản lãnh thì đến lấy đi.”

An Tiểu Huệ kéo vạt áo của Viên Thừa Chí, khẽ nói: “Họ đã biết chúng ta đến đây rồi.”

Ôn Thanh lấy hai cái bao từ dưới gầm, đặt lên mặt bàn rồi mở ra. Dưới ánh nến, hoàng kim chói mắt, đầy bàn toàn những thỏi vàng. Ôn Thanh và Ôn Chính cũng ngồi xuống, đặt đao kiếm lên bàn mà uống rượu.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu họ cứ canh giữ như vậy, làm sao mà lấy được? Chẳng lẽ phải ra mặt đánh nhau?”

Đợi hơn nửa giờ mà bốn người dưới đại sảnh vẫn bình chân như vại. Chàng biết tối nay không có cách nào để ra tay, đành cùng An Tiểu Huệ trở về nơi trú ngụ.

Tối hôm sau hai người lại đến nhà họ Ôn, thấy trong đại sảnh vẫn có bốn người canh giữ, chỉ có điều là đã thay đổi hai ông già khác. Xem ra đây cũng là người trong Ngũ Tổ, còn ba người kia chắc đang mai phục trong bóng tối.

Viên Thừa Chí bảo An Tiểu Huệ: “Họ có cao thủ bí mật canh gác, phải cẩn thận.”

An Tiểu Huệ gật đầu một cái rồi chau mày lại. Đột nhiên nàng nghĩ ra một kế, bèn tung người nhảy xuống. Viên Thừa Chí sợ nàng đơn độc nên vội nhảy theo, thấy nàng chạy thẳng ra sau, đến chỗ nhà bếp, đập đá lửa lên, đốt một đống củi khô ở kế bên.

Chẳng bao lâu lửa đã bốc cao. Trong nhà họ Ôn lập tức ồn ào, rất nhiều trang đinh xách nước chạy tới để dập lửa.

Hai người chạy lên tiền sảnh. Đèn nến trong sảnh vẫn sáng rực, nhưng bốn người trong đó không thấy đâu nữa. An Tiểu Huệ mừng rỡ khẽ la lên: “Họ đi chữa cháy rồi.”

Nàng tung người nhảy xuống mái nhà, theo cửa sổ xông vào trong sảnh. Thừa Chí cũng nhảy theo. Hai người chạy đến bên bàn, đang đưa tay để lấy vàng thì đột nhiên bị mất thăng bằng. Thì ra dưới đất có đặt cơ quan, một tấm ván bỗng lật ngược lại.

Thừa Chí thầm la: “Hỏng bét!” Chàng tung người vọt lên, vươn tay ra toan nắm lấy An Tiểu Huệ, nhưng với không tới. Tay trái chàng nắm được một cây xà nhà, rồi lộn người lại đặt chân lên xà. Lúc này tấm ván đã lật ngược lại, nhốt An Tiểu Huệ dưới sàn nhà.

Thừa Chí kinh hãi vội chạy ra ngoài cửa sổ, xem thử có bố trí gì không rồi tìm cách để cứu An Tiểu Huệ. Vừa ra khỏi cửa, một luồng kình phong đã ập tới trước mặt. Chàng lập tức vung tay phải lên đỡ phát chưởng đánh tới. Hai chưởng chạm nhau, Thừa Chí mượn thế nhảy lên mái nhà, còn người đánh lén ở dưới thì ngã ra đất. Nhưng người này thân pháp cũng rất linh hoạt, lưng vừa chạm đất lại nhảy lên mái nhà ngay. Đó là Ôn Chính.

Thừa Chí đứng vững trên mái nhà rồi đưa mắt nhìn tứ phía, bỗng thấy ớn lạnh toàn thân. Xung quanh đầy người, có cao có lùn, có mập có ốm. Viên Thừa Chí bị bao vây trùng điệp, không biết ý đồ của đối phương như thế nào, bèn tập trung tinh thần đề khí.

Giữa đám đông có năm ông lão bước ra, trong đó có Ôn Phương Sơn và Ôn Phương Ngộ là hai người chàng đã bái kiến, có hai ông lão vừa ngồi trong sảnh canh giữ đống vàng. Ông lão còn lại thân hình khôi vĩ, cao hơn người bình thường tới nửa cái đầu. Lão cười ha hả rồi cất giọng rổn rảng như tiếng chuông đồng: “Năm huynh đệ ta sống ở nơi thâm sơn hẻo lánh này, không ngờ thủ hạ của Sấm Vương lại quang lâm đến tận đây. Đúng là tam sinh hữu hạnh, nhà cỏ huy hoàng. Ha ha… ha ha…”

Viên Thừa Chí vái chào, lên tiếng: “Vãn bối bái kiến.”

Chàng biết xung quanh toàn là kẻ địch, khi cúi đầu xuống rất dễ bị ám toán, nhưng lễ số không thể thiếu được.

Ôn Thanh bước ra, lên tiếng: “Vị này là Đại gia gia của ta. Hai vị kia là Nhị gia gia và Tứ gia gia.”

Thừa Chí hướng về từng người mà chắp tay thi lễ. Chàng đưa mắt nhìn quanh thấy ánh lửa đã tắt, biết đám cháy chưa lan rộng, nên yên tâm hơn một chút.

Lão đại Ôn Phương Đạt, lão nhị Ôn Phương Nghĩa, lão tứ Ôn Phương Thi trong Ngũ Tổ của Kỳ Tiên Phái đều gật đầu một cái nhưng không trả lễ. Họ không ngớt nhìn chàng từ đầu đến chân. Ôn Phương Nghĩa giận dữ hét lên: “Tuổi ngươi còn nhỏ như vậy mà đã coi trời bằng vung. Dám đến nhà ta phóng hỏa ư?”

Viên Thừa Chí nói: “Đó là do đồng bạn của vãn bối hơi lỗ mãng. Vãn bối thật sự áy náy trong lòng, rất may là chưa thành tai họa. Ngày mai vãn bối sẽ đến đây lạy tạ xưng tội với quý vị.”

Ông nội của Ôn Chính là Ôn Phương Thi, thân hình vừa cao vừa ốm, dung mạo rất giống Ôn Chính. Lão lên tiếng: “Dập đầu bao nhiêu cái mới gọi là đủ đây? Thằng bé này cả gan như thế, đến nhà họ Ôn ở Tịnh Nham này mà giở thói lưu manh. Sư phụ của ngươi là ai?”

Ngũ Tổ tuy đối với thanh thế của Sấm Vương có phần kiêng nể, nhưng năm huynh đệ này từ xưa đến giờ rất yêu tiền bạc. Vàng đã vào tay rồi, không dễ gì họ buông ra trả lại cho người khác. Vừa rồi lão thấy Viên Thừa Chí mới một chưởng đã hất Ôn Chính rơi xuống, võ công rất giỏi, nên định hỏi rõ sư thừa môn phái của chàng rồi mới định đối sách sau.

Viên Thừa Chí nói: “Lúc này gia sư đang ở trong quân ngũ Sấm Vương. Chỉ mong các vị trả lại món vàng của Sấm Vương, ngày sau vãn bối sẽ xin gia sư viết thư đến đây đa tạ.”

Ôn Phương Đạt hỏi: “Sư phụ của ngươi là ai?”

Viên Thừa Chí đáp: “Lão nhân gia trước nay ít khi đi lại giang hồ. Vãn bối không dám nhắc đến danh tự của lão nhân gia.”

Ôn Phương Đạt “hứ” một tiếng, rồi nói: “Ngươi không nói, chẳng lẽ có thể giấu giếm được chúng ta hay sao? Nam Dương, ra tiếp chiêu với thằng lỏi này thử xem.” Lão nghĩ bụng, chỉ cần động thủ một chút là chắc chắn Viên Thừa Chí phải lộ rõ môn phái ngay.

Trong đám đông có một người lên tiếng vâng dạ rồi bước ra. Người này khoảng bốn mươi tuổi, râu quai nón, là con trai thứ hai của Ôn Phương Nghĩa, có thể gọi là một cao thủ đời thứ hai của Kỳ Tiên Phái.

Hắn vừa tung người tới là phóng ngay một quyền vào mặt Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí vừa né đầu tránh qua, tả quyền của Ôn Nam Dương đã đánh tới ngay, kình lực cũng rất lợi hại.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Quá nhiều người tụ tập ở đây. Nếu từng người cứ đánh như thế, đến khi nào mới có kết quả? Bây giờ phải tốc chiến tốc thắng. Nhưng e rằng mình khó thoát thân được, còn Tiểu Huệ không biết ra sao rồi?”

Đợi tả quyền của địch thủ bay đến trước mặt, hữu chưởng chàng đột nhiên vươn ra cản trở, rồi năm ngón tay chụp lại túm được đầu quyền của địch, thuận thế kéo về phía sau. Ôn Nam Dương thu thế không kịp, loạng choạng nhào về phía trước, chân đạp vỡ một mảng lớn mái ngói. Nếu không nhờ Ngũ thúc của hắn là Ôn Phương Ngộ đưa tay kéo lại, chắc hắn đã lọt khỏi mái nhà.

Hắn xấu hổ đến đỏ mặt tía tai, quay lại phóng tới. Viên Thừa Chí đứng bất động, đợi hắn phóng tới mới xoay người lại, ngửa ra sau một chút, đưa chân trái móc nhẹ một cái. Ôn Nam Dương đổ người về phía trước.

Nhưng chân trái của Viên Thừa Chí vừa móc thì tay phải cũng đồng thời đưa ra. Chàng sợ địch thủ té sấp xuống, nên chụp lấy gáy hắn mà kéo lên.

Ôn Nam Dương vừa chạm đến mái ngói đã bị người ta xách bổng lên. Làm sao hắn dám đánh nữa, bèn giận dữ nhìn Viên Thừa Chí rồi lùi ra sau.

Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Thằng lỏi này quả nhiên có chút bản lãnh. Để lão phu tiếp đệ tử của cao nhân thử xem.”

Lão bắt chéo song chưởng, định bước tới. Ôn Thanh đột nhiên tung người nhảy đến, khẽ nói: “Nhị gia gia! Huynh ấy đã kết bái với con rồi. Lão nhân gia đừng đả thương huynh ấy.”

Ôn Phương Nghĩa mắng luôn: “Đồ tiểu quỷ!”

Ôn Thanh kéo chặt tay lão, lại hỏi: “Nhị gia gia! Gia gia đồng ý rồi chứ?”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Còn xem đã.” Lão vận sức hất tay Ôn Thanh ra. Ôn Thanh đứng không vững, không tự chủ được phải lùi mấy bước.

Ôn Phương Nghĩa bước tới hai bước, lấy tấn rồi bảo: “Ngươi xuất chiêu đi!”

Viên Thừa Chí chắp tay nói: “Vãn bối không dám.”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Ngươi không dám nói ra tên tuổi sư phụ thì cứ thử đánh ba chiêu, xem ta có biết hay không?”

Viên Thừa Chí thấy lão ra vẻ oai phong như thế, bèn nghĩ: “Cứ thử xem.” Chàng lên tiếng: “Thế thì vãn bối xin vô lễ. Công phu vãn bối có hạn, xin tiền bối hạ thủ lưu tình.”

Ôn Phương Nghĩa quát lên: “Động thủ nhanh lên! Ai cần ngươi lải nhải như thế? Lão Nhị này xưa nay hạ thủ không biết lưu tình.”

Viên Thừa Chí vái lạy rất cung kính. Khi tay áo vừa chạm đến mái ngói, chàng hoành tay lại. Cánh tay áo đột nhiên quét ngang qua, vù một tiếng hất lên đầu Ôn Phương Nghĩa, kình lực rất lợi hại. Ôn Phương Nghĩa cúi đầu tránh né, vung tay ra toan nắm lấy tay áo, nhưng bỗng thấy chàng nhẹ nhàng tung người lên, tay áo bên trái quét thành một vòng tròn, tay áo bên phải đột nhiên từ giữa vòng tròn đó thần tốc đâm thẳng ra, đánh ngay vào giữa mặt.

Ôn Phương Nghĩa lập tức ngửa mặt ra sau để tránh né. Viên Thừa Chí không để lão có cơ hội đánh trả, đột nhiên quay người lại, xoay lưng hướng về đối thủ.

Ôn Phương Nghĩa ngơ ngác, tưởng chàng muốn chạy trốn, bèn phóng hữu chưởng ra. Đột nhiên lão cảm thấy một luồng kình phong ào tới, hai cánh tay áo đánh ngược từ dưới lên như hai con rắn dài quật vào dưới nách mình. Chiêu này thật sự bất ngờ, lão vội đưa hai tay ra toan chụp lại. Không ngờ cả hai tay áo lại vẫy vào sau lưng lão, đánh trúng vào hông nghe bịch bịch hai tiếng. Ôn Phương Nghĩa vừa cảm thấy tê chồn, đối thủ đã nhảy ra khỏi trận.

Viên Thừa Chí quay người lại, mỉm cười đứng yên. Ôn Thanh thấy chàng thân thủ xảo diệu như thế, suýt nữa đã buột miệng khen: “Tuyệt diệu!” Y vội đưa cả hai tay lên bịt chặt lấy miệng, rồi thè lưỡi ra một cái.

Bốn huynh đệ Ôn Phương Đạt đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy kỳ lạ. Khuôn mặt già nua của Ôn Phương Nghĩa bây giờ đã đỏ ngầu lên, râu mày đều dựng ngược. Lão đột nhiên phóng chưởng đánh ra.

Dưới ánh trăng, Viên Thừa Chí thấy trên đầu lão nhiệt khí bừng bừng, bước chân trông như chậm chạp, loạng choạng mà lại vô cùng vững chắc. Chàng không dám đùa giỡn nữa, phải cúi mình tránh né hai chiêu, rồi cuộn tay áo lại, thấy chiêu đỡ chiêu, tập trung tinh thần nghênh chiến.

Viên Thừa Chí sợ bị đối phương biết môn phái của mình, nên sử dụng Ngũ Hành Quyền, loại quyền pháp tầm thường nhất trên giang hồ. Quyền pháp này thì bất cứ người học võ nào cũng từng luyện tập. Ngũ Tổ họ Ôn không thể dựa vào chiêu thức của chàng mà đoán được sư thừa môn hộ.

Ôn Phương Nghĩa ra tay không nhanh lắm, nhưng mỗi quyền mỗi chưởng phát ra đều kèm theo kình phong cực lớn. Đánh được bảy tám chiêu, Viên Thừa Chí đột nhiên cảm thấy chưởng phong của đối phương nóng hực lên. Chàng nhìn vào bàn tay lão, bỗng thấy hơi run. Lòng bàn tay lão đỏ ngầu như máu, dưới ánh trăng nhợt nhạt cũng thấy rõ ràng, trông rất đáng sợ.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Người này đã luyện Chu Sa Chưởng. Sư phụ nói chưởng lực này rất khó chống đỡ, mình quyết không để lão ta đánh trúng.” Chàng bèn thay đổi đấu pháp, vẫn sử dụng những chiêu thức bình thường nhưng kình lực thì tăng lên một bậc.

Ôn Phương Nghĩa đang đấm đá hăng say thì đột nhiên cảm thấy cổ tay nhói lên một cái. Lão vội nhảy ra ngoài, cúi xuống nhìn thì thấy cổ tay mình có một vết sưng màu đỏ, thì ra vừa bị ngón tay đối phương quét trúng. Đó vẫn là hạ thủ lưu tình, tuy trong lòng Ôn Phương Nghĩa rất giận dữ, nhưng lão không tiện tiếp tục tỉ đấu với Viên Thừa Chí.

Ôn Phương Sơn bước lên một bước, cất tiếng: “Viên lão đệ tuổi còn rất trẻ, nhưng quyền cước tinh thâm, không phải dễ dàng mà có được. Lão phu xin lãnh giáo công phu về binh khí của lão đệ một chút.”

Thừa Chí đáp: “Vãn bối không dám mang theo binh khí đến bảo trang.”

Ôn Phương Sơn cười ha hả rồi nói: “Lễ số của ngươi cũng đầy đủ lắm. Có thể gọi là tài cao mật lớn. Được, chúng ta hãy đến luyện võ sảnh.”

Lão vẫy tay một cái rồi nhảy xuống đất, mọi người đều nhảy theo. Thừa Chí cũng theo mọi người vào trong nhà.

Ôn Thanh bước lên cạnh chàng, khẽ nói: “Trong cán trượng có ám khí.”

Viên Thừa Chí đang muốn tiếp chuyện thì Ôn Thanh đã quay đi, nói với Ôn Chính: “Huynh thấy tên mọi Quảng Đông đen thui đen thủi này thế nào? Bây giờ đã phục chưa?”

Ôn Chính nói: “Nhị gia gia quen chiều chuộng ngươi, nên không nặng tay với hắn. Có gì lạ đâu?”

Ôn Thanh cười nhạt một tiếng, rồi mặc kệ Ôn Chính.

Mọi người vào luyện võ sảnh. Thừa Chí thấy đó là một gian đại sảnh rộng bằng khoảng ba gian nhà bình thường. Gia đinh vào thắp lên ba cây nến lớn, tòa sảnh lập tức sáng rực như ban ngày.

Già trẻ lớn bé trong nhà họ Ôn, ai cũng biết võ công. Họ nghe Tam lão gia sắp tỉ võ với người khách hôm trước đến đây, đều kéo lên sảnh để xem, ngay cả bọn trẻ nít cũng háo hức không kém.

Người vào cuối cùng là một phụ nữ trung niên rất đẹp, đi cùng Tiểu Cúc. Ôn Thanh vội chạy tới hô một tiếng: “Mẫu thân!”

Khuôn mặt diễm lệ của bà ẩn chứa một tâm sự u uẩn. Bà chỉ liếc Ôn Thanh một cái, hình như chẳng vui vẻ gì.

Ôn Phương Sơn chỉ vào những chiếc giá cắm đao thương ở xung quanh, bảo: “Ngươi sử dụng binh khí gì, tự chọn đi.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Chuyện hôm nay chắc không thể kết liễu một cách êm thấm được, nhưng mình lại không nên đả thương bậc tôn trưởng của huynh đệ kết nghĩa. Vừa xuống núi đã gặp chuyện nan giải thế này, không biết phải giải quyết thế nào cho tốt?”

Ôn Thanh thấy chàng chau mày không nói gì lại tưởng chàng sợ hãi, bèn lên tiếng trấn an: “Tam gia gia của đệ vốn thương yêu bọn tiểu bối, nhất định không đả thương huynh đâu.”

Câu này một nửa là nói cho Ôn Phương Sơn nghe, muốn lão không hạ sát thủ. Mẹ y bèn nói: “Thanh Thanh, đừng có nhiều chuyện.”

Ôn Phương Sơn nhìn Ôn Thanh một cái, rồi nói: “Còn phải xem may rủi thế nào. Viên thế huynh! Ngươi sử dụng binh khí gì?”

Viên Thừa Chí đưa mắt nhìn bốn phía, thấy một thằng bé khoảng sáu bảy tuổi đang đứng ở kế bên, cầm một cây kiếm đồ chơi bằng gỗ, sơn phết lòe loẹt. Cây kiếm này chỉ dài bằng một nửa trường kiếm bình thường. Chàng nảy ra một ý, bèn nói: “Tiểu huynh đệ! Cho ta mượn cây kiếm này một chút, có được hay không?”

Thằng bé mỉm cười, đưa kiếm cho chàng. Thừa Chí nhận lấy, rồi nói với Ôn Phương Sơn: “Vãn bối không dám động đao thương thật sự với tiền bối, nên dùng cây kiếm này để xin chỉ giáo mấy chiêu.”

Mấy câu nói này có vẻ khiêm cung, nhưng ngụ ý coi thường đối phương. Chàng nghĩ phía họ đông người, nếu cứ xa luân chiến thế này thì không biết lúc nào mới xong được. An Tiểu Huệ lại đang bị nhốt trong bẫy, bây giờ phải hiển thị võ công thượng thừa để nhanh chóng khuất phục địch thủ mới có thể lấy vàng cứu người, đỡ phải chậm trễ đêm dài lắm mộng, lại đỡ tổn thương tình nghĩa với Ôn Thanh.

Vừa rồi trên mái nhà Viên Thừa Chí đã động thủ với Ôn Phương Nghĩa, hiểu rõ võ công của đối phương. Nếu võ công của Ôn Thị Ngũ Lão không khác nhau lắm, thì dùng kiếm gỗ đón địch cũng không quá mạo hiểm.

Ôn Phương Sơn nghe mà tức đến nỗi tay chân run rẩy, ngẩng mặt lên trời cười ha hả rồi nói: “Lão phu đi lại giang hồ mấy chục năm trời, chưa ai dám coi thường cây Long Đầu Cương Trượng này như thế. Ha ha… hôm nay là lần đầu tiên gặp phải. Được! Ngươi có bản lãnh thì cứ dùng kiếm gỗ mà chém gãy cương trượng của ta thử xem.”

Nói vừa dứt câu, quải trượng đã quét ngang qua vù một tiếng, nhằm vào eo lưng Viên Thừa Chí, thế gió rất gấp rút. Dường như thân hình của Viên Thừa Chí bị cây cương trượng hất tung, Ôn Thanh la lên một tiếng. Nhưng chàng chưa rơi xuống đất thì mũi cây kiếm gỗ đã chỉ vào trước mặt đối phương. Ôn Phương Sơn bèn đảo ngược cây trượng, đuôi trượng điểm vào yếu huyệt sau lưng chàng.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Thì ra cây quải trượng này cũng có thể dùng để điểm huyệt. Thanh đệ còn nói trong cán trượng có ám khí. Ta phải cẩn thận.”

Thân hình chàng hơi nghiêng một chút để né quải trượng, kiếm gỗ ra chiêu Chiêm Địa Phi Tự lướt theo quải trượng mà chém tới, thế kiếm cực kỳ thần tốc.

Ôn Phương Sơn thấy vậy, biết tuy là kiếm gỗ nhưng nếu hớt trúng ngón tay thì mình cũng bị thương. Trong lúc gấp rút, tay phải lão buông lỏng cho cây trượng rơi xuống. Trượng vừa chạm vào mặt đất, tay trái lão nhanh như điện chớp lướt xuống dưới chụp lấy đuôi trượng rồi hất ngược lên, cây cương trượng nặng mấy chục cân bỗng hất đầu lên đánh tới đối phương. Thừa Chí thấy lão tinh mắt lẹ tay, biến chiêu nhanh chóng như thế, không khỏi đem lòng thán phục.

Hai người càng tỉ đấu càng khẩn trương. Cương trượng của Ôn Phương Sơn hễ quét vào chỗ trống thì phát ra tiếng gió vù vù, hễ đập xuống đất thì gạch đá sàn nhà nát vụn, thanh thế kinh người. Thừa Chí cứ luồn qua né lại trong bóng trượng, sử cây kiếm gỗ cực kỳ linh hoạt, chiêu nào cũng không rời khỏi chỗ yếu hại của đối phương.

Chớp nhoáng hai người đã qua lại bảy tám chục chiêu. Ôn Phương Sơn lo lắng nghĩ thầm: “Cây Long Đầu Cương Trượng của mình oai chấn Giang Nam, tung hoành vô địch. Hôm nay lại bị tên hậu sinh tiểu bối này dùng một cây kiếm gỗ đồ chơi để đánh ngang tay. Oai danh cả đời, chẳng lẽ mất đi như vậy hay sao?” Lão lập tức thay đổi trượng pháp, quét ngang đâm thẳng, vây kín kẻ địch vào trong bóng trượng.

Mọi người đứng xem đều cảm thấy gió lốc phát ra từ cây trượng càng lúc càng mạnh, bất giác từ từ lùi lại, tựa lưng vào vách đề phòng cương trượng quét nhằm. Dưới ánh nến không nhìn rõ cương trượng nữa, chỉ còn một khối tròn sáng loáng.

Võ công của Ôn Phương Sơn so với Vinh Thái, bang chủ Du Long bang thì cao hơn rất nhiều. Từ lúc xuống núi, bây giờ Thừa Chí mới gặp đối thủ võ công cao cường. Vì chàng sợ Ôn Thị Ngũ Lão nhận ra môn phái, không muốn sử dụng kiếm pháp chính tông của phái Hoa Sơn, nên để cương trượng của đối phương vũ lộng thần oai. Chàng không thể tiến đến gần, mà cũng không dám đụng kiếm gỗ vào cây cương trượng nặng nề, bèn nghĩ bụng: “Nếu ta không xuất tuyệt chiêu thì không dễ gì thắng được.” Đột nhiên thân pháp chàng chậm lại một chút, người hơi khựng lại.

Ôn Phương Sơn cả mừng, lập tức quét ngang trượng tới. Tay trái của Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công nắm chặt lấy đầu trượng vặn mạnh một cái, còn tay phải cầm kiếm gỗ đâm lên. “Soạt” một tiếng, vai áo Ôn Phương Sơn đã bị đâm thủng. Chiêu này còn cố ý nhường nhịn, không thì phải đâm vào ngực. Tuy là kiếm gỗ, nhưng nội kình lợi hại nhất định sẽ xuyên thủng ra tới sau lưng.

Ôn Phương Sơn kinh hãi, cổ tay đau nhói lên, cương trượng đã bị đối phương đoạt lấy.

Thừa Chí nghĩ bụng: “Đây là ông ngoại ruột của Ôn Thanh, không nên để lão bị khó xử.” Chàng lập tức thu kiếm gỗ về, tay trái đẩy ra giao lại cây trượng vào tay lão. Sự việc xảy ra trong chớp nhoáng, những người võ công hơi kém hoàn toàn không thể nhìn thấy được. Cương trượng vừa đoạt lấy đã trả lại ngay. Chàng để lão biết thua mà dừng tay như vậy, đã là cố gắng cứu vớt danh dự cho lão lắm rồi.

Không ngờ Ôn Phương Sơn lại quét ngang trượng ra. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đã thua một chiêu còn không biết thôi, không giữ thân phận cao thủ võ lâm chút nào!” Chàng lập tức né sang bên trái, đột nhiên nghe sột soạt mấy tiếng. Từ trong miệng của đầu rồng cương trượng bay ra ba mũi cương đinh, chia ra ba đường nhằm vào trên, dưới, giữa Viên Thừa Chí. Đầu trượng cách thân hình chàng chưa đầy một thước, ám khí đột ngột phát ra, rõ ràng không thể tránh né được.

Ôn Thanh không nén nổi, lạc giọng la lên một tiếng. Y thấy tình thế trước mắt vô cùng nguy cấp, sắc mặt thay đổi hẳn đi.

Nhưng Viên Thừa Chí đã kịp xoay cây kiếm gỗ lại, nghe lách cách ba tiếng, ba mũi cương đinh đã bị đánh rơi xuống đất. Chiêu kiếm Hoa Sơn này có tên gọi là Khổng Tước Khai Bình, bắt chước kiểu chim công xòe đuôi, chuôi kiếm ở ngoài còn mũi kiếm lại hướng về phía mình, dùng để đỡ gạt binh khí của địch trong lúc thập phần nguy cấp.

Viên Thừa Chí gạt rơi ám khí rồi lại dùng cây kiếm gỗ đè xuống cây cương trượng. Kiếm gỗ tuy nhẹ, nhưng khi đè lên khoảng giữa cán trượng thì hoàn toàn không cần vận sức, theo đúng yếu chỉ tứ lạng bát thiên cân trong võ học.

Ôn Phương Sơn cảm thấy một luồng đại lực đè cây cương trượng của mình xuống dưới, liền vận sức để nhấc lên nhưng lại chậm mất một chút, đầu trượng đã chạm tới mặt đất. Thừa Chí tức giận lão dùng thủ pháp âm hiểm ngầm bắn cương đinh, nên dùng chân trái đạp xuống đầu trượng. Ôn Phương Sơn dùng hết sức để kéo về mà không kéo nổi.

Khi Thừa Chí lỏng chân nhảy lùi lại, Ôn Phương Sơn mới thu hồi được cương trượng. Nền gạch màu xanh trên đại sảnh bị ấn chìm xuống thành hình nửa cái đầu rồng, nhìn thấy rất rõ ràng. Thì ra cái đầu rồng đã bị đối phương dùng chân đạp lún xuống, để lại dấu ấn trên nền gạch. Mọi người xung quanh thấy vậy, ai cũng phải kinh ngạc.

Sắc mặt Ôn Phương Sơn thay đổi hẳn, hai tay ném mạnh cây cương trượng lên mái nhà. Nghe rào một tiếng, cây trượng phá nát một khoảng mái ngói rồi bay ra ngoài.

Lão la lớn lên: “Cái thứ này đã thua một cây kiếm gỗ, còn dùng làm chi nữa?”

Thấy lão nộ khí đằng đằng, hơi thở phù phù làm chòm râu trước ngực bay ngược lên, Viên Thừa Chí thầm cười trong bụng: “Ông thua ta, chứ đâu phải cương trượng thua kiếm gỗ?”

Bụi bặm và ngói vụn rơi từ trên xuống còn chưa hết, Ôn Phương Thi đã tung người ra nói: “Tiểu bằng hữu này công phu ám khí không đến nỗi tồi. Đến đây, tiếp thử mấy mũi phi đao của ta xem!”

Lão đưa tay tháo cái bao da đeo trên lưng xuống, khoác ngang người.

Thừa Chí thấy trong bao da có cắm hai mươi bốn lưỡi phi đao óng ánh sáng ngời, lưỡi dao dài chừng một thước. Chàng nghĩ: “Bất cứ loại ám khí gì cũng phải phát ra nhân lúc người ta không phòng bị. Tụ tiễn thì giấu trong tay áo; kim tiêu, thiết liên tử thì để trong túi. Phi đao của lão lại bày trên người, đập vào mắt người ta, chắc chắn phải có chỗ kỳ lạ.”

Chàng biết bây giờ mình có khiêm tốn thế nào cũng vô dụng, bèn gật đầu nói: “Xin lão tiền bối hạ thủ lưu tình.” Rồi chàng trả cây kiếm gỗ cho thằng bé, quay người lại.

Mọi người trong nhà họ Ôn đều biết phi đao của Tứ lão gia kình lực rất mạnh, gấp rút như điện chớp, chỉ nháy mắt là lấy mạng đối phương ngay. Nếu thiếu niên này trúng đao hay đón đỡ được hết thì chẳng nói làm gì, nhưng nếu chàng phải tránh né thì cực kỳ nguy hiểm. Phi đao không có mắt, ở đây không ai chịu nổi một đao của Tứ lão gia. Lập tức ngoài bốn ông lão ra, tất cả những người còn lại đều rời khỏi đại sảnh, từ ngoài ghé mắt vào cửa lớn hay cửa sổ nhìn xem.

Ôn Phương Thi hô lớn: “Đỡ đao!”

Tay lão vừa vung lên, hàn quang lấp loáng, một lưỡi đao bay ra, phát lên những tiếng u u. Thì ra cán phi đao của lão khoét rỗng, khi bay trên không thì gió thổi xuyên qua chỗ rỗng phát ra tiếng u u như người ta thổi còi, âm thanh vừa thê thảm vừa kịch liệt. Phi đao rít lên chói tai như thế, hình như cảnh cáo cho kẻ địch biết trước, tỏ ra mình quang minh lỗi lạc. Nhưng thật ra âm thanh đó có tác dụng làm đối phương khiếp sợ hoảng hồn, tâm thần rối loạn.

Viên Thừa Chí thấy oai thế phi đao mãnh liệt, khác hẳn những loại ám khí khác lấy nhanh nhẹn hay âm độc để thủ thắng. Chàng nghĩ: “Nếu ta dùng tay đón lấy phi đao một cách bình thường, thì không thể đánh gục lòng kiêu ngạo của lão. Phải có chiêu thức gì để bắt họ tâm phục khẩu phục, thả Tiểu Huệ ra, trả lại số vàng.” Chàng bèn lấy trong bọc ra hai đồng tiền, tay trái một đồng tay phải một đồng, cùng búng vào lưỡi phi đao. Đồng tiền tay trái bay tới trước, chỉ nghe “keng” một tiếng là âm thanh của phi đao lập tức ngưng bặt. Thì ra đồng tiền này đã đánh móp phần cán đao khoét rỗng. Đồng tiền bên tay phải tiếp tục bay tới, chạm vào phi đao rồi cùng rơi xuống. Lưỡi phi đao nặng tới nửa cân, còn đồng tiền vừa nhẹ vừa nhỏ, mà hai món ám khí này chạm nhau lại cùng lúc rơi xuống. Rõ ràng thủ kình của chàng hơn hẳn Ôn Phương Thi, mà hơn không chỉ vài lần.

Sắc mặt Ôn Phương Thi thay đổi hẳn, liền phát tiếp hai lưỡi phi đao. Viên Thừa Chí cứ thế mà làm, búng ra bốn đồng tiền, làm hai lưỡi phi đao đó tắt tiếng trước rồi mới rơi xuống đất.

Ôn Phương Thi “hứ” một tiếng rồi nói: “Công phu giỏi lắm!”

Miệng lão nói mà tay không chậm trễ chút nào, sáu lưỡi phi đao liên tiếp phát ra. Lúc này lão đã biết phi đao của mình khó đánh trúng đối phương, nên cố ý phóng thêm sáu lưỡi phi đao bay ra tứ tán, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ ngươi đánh rơi được hết phi đao của ta sao?” Nhưng lại nghe sáu tiếng “keng keng” liên tiếp, sáu lưỡi phi đao đã bị mười hai đồng tiền đánh cho câm tiếng rồi rơi xuống.

Ngày trước Viên Thừa Chí ở trên đỉnh Hoa Sơn đã chơi không biết bao nhiêu ván cờ với Mộc Tang đạo nhân, học không biết bao nhiêu chiêu thức Thiên Biến Vạn Kiếp, cộng thêm nhiều năm sớm hôm khổ luyện, bây giờ mới thi triển được công phu ám khí Mãn Thiên Hoa Vũ thế gian hiếm thấy này. Nếu có Mộc Tang đạo nhân ở kế bên, không chừng lão sẽ chỉ trích thủ pháp chàng chưa đủ thành thục. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ bắt nhà họ Ôn phải kinh tâm động phách.

Ôn Phương Thi quát lớn một tiếng: “Tuyệt diệu!”

Lão vung cả hai tay, sáu lưỡi phi đao đồng thời bắn vào chỗ yếu hại của đối phương. Sáu lưỡi đao này vừa rời khỏi tay, lập tức có sáu lưỡi khác nối theo. Đó là tuyệt kỹ một đời của lão. Dù là cao thủ tránh được sáu lưỡi phi đao trước, cũng khó mà tránh được sáu lưỡi phi đao bồi theo. Mười hai lưỡi phi đao rít lên những tiếng “u u” vang rền cả phòng, từ bốn phương tám hướng bay tới Viên Thừa Chí.

Ôn Phương Đạt thấy võ công của Viên Thừa Chí tuyệt vời, nhất định phải là đệ tử của bậc tiền bối cao nhân. Đột nhiên lão thấy Tứ đệ sử dụng đao pháp lợi hại, trong lòng bất giác kinh hãi, vội la lên: “Tứ đệ! Đừng hại mạng hắn.”

Lời còn chưa dứt, đã thấy Viên Thừa Chí vung hai tay trên không loạn xạ rồi hất ra ngoài. Mười hai lưỡi phi đao vừa chụp trong tay đã bắn ra, hướng về những chiếc giá cắm binh khí.

Đao thương kiếm kích cắm trên giá vốn đã óng ánh rồi, bây giờ lại càng sáng chói hơn, mũi nhọn rơi lả tả xuống đất. Thì ra Viên Thừa Chí đã dùng mười hai lưỡi phi đao đó ném ra chặt đứt. Thế bay của phi đao vẫn chưa yếu, cắm ngập hết vào vách tường.

Đột nhiên năm ông lão cùng đứng bật dậy, bao vây quanh Viên Thừa Chí, ánh mắt vô cùng giận dữ, đồng thanh quát hỏi: “Kim Xà gian tặc phái ngươi đến phải không?”

Thủ pháp bắt đao của Viên Thừa Chí đúng là đã học từ Kim Xà bí kíp. Đột nhiên chàng thấy năm ông lão này thần sắc hung dữ, như sắp nhảy xổ vào nuốt chửng mình, không nén nổi kinh hãi. Chàng đang định trả lời thì thấy ngoài sảnh có người bước vào. An Tiểu Huệ bị hai đại hán dùng dây trói chặt giải tới; tất nhiên đã bị lôi lên từ cái hầm có ván lật.

Viên Thừa Chí vội cứu người, bèn chạy ra ngoài sảnh. Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Nghĩa cầm binh khí đuổi theo sau.

Viên Thừa Chí mặc kệ đối thủ đuổi theo, cứ phóng thẳng về phía An Tiểu Huệ. Hai đại hán cùng vung đao kiếm lên, chém xuống đầu Viên Thừa Chí. Bỗng nghe “keng keng” hai tiếng, cả đao lẫn kiếm sút tay văng ra ngoài. Hai tên này ngơ ngác, nhìn lại thấy người đánh rơi vũ khí của mình là Đại lão gia và Nhị lão gia, bèn hoảng hồn đứng yên. Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Nghĩa mắng một tiếng: “Tệ hại!”, rồi tiếp tục đuổi theo.

Thì ra Viên Thừa Chí thân pháp cực kỳ nhanh chóng, không tránh né mà cũng không chống đỡ vũ khí của địch, chỉ chui qua bên dưới đao kiếm nghe vù một tiếng. Khi chúng chém xuống thì đúng lúc hai ông lão họ Ôn chạy tới, thế là một đao một kiếm chém lên đầu Đại lão gia và Nhị lão gia.

Viên Thừa Chí vung tay giật đứt dây trói An Tiểu Huệ. Nàng mừng rỡ kêu lên: “Thừa Chí đại ca!”

Lúc này một đao một kiếm mới rơi từ trên không trung xuống. Thừa Chí dùng sợi dây vừa giật đứt quấn lấy trường kiếm, giật lại rồi bảo An Tiểu Huệ: “Đón lấy!”

Chuôi kiếm đi trước, hướng về phía An Tiểu Huệ. Nàng bèn đưa tay đón lấy.

Diễn biến vừa rồi kể thì chậm, nhưng xảy ra nhanh chóng vô cùng. Trường kiếm vừa vào tay An Tiểu Huệ, cặp đoản kích của Ôn Phương Đạt đã đâm đến trước ngực Viên Thừa Chí. Lại nghe hai tiếng “binh binh”, thì ra Ôn Phương Nghĩa bị hai đại hán đứng xớ rớ cản đường, nên giận dữ phóng cước đá văng chúng ra ngoài.

Chân của Viên Thừa Chí không động đậy, thân hình đột nhiên lùi ra hai thước, song kích của Ôn Phương Đạt đâm vào khoảng trống. Lão muốn đâm tới nữa, nhưng kình lực chưa phát xuất đã cảm thấy cặp kích tự động đi về phía trước. Thì ra sợi dây trên tay của đối phương đã quấn lấy cặp kích rồi, đang giật tới.

Ôn Phương Đạt mượn lực đối phương, song kích thừa thế mà đâm tới. Mũi kích bén nhọn, nhấp nháy dưới ánh nến. Viên Thừa Chí né qua một bên, vận sức kéo đứt sợi dây, rồi đột nhiên thả lỏng tay. Ôn Phương Đạt quá bất ngờ, thu thế không kịp, loạng choạng mất hai bước. Khi lão quay lại thì thấy Viên Thừa Chí đã kéo An Tiểu Huệ vào trong luyện võ sảnh rồi.

Ôn Phương Đạt vốn đã giận dữ đùng đùng, bây giờ lại càng đằng đằng sát khí. Lão vung tay bứt mạnh sợi dây quấn trên cây kích, rồi tung người vào trong sảnh. Mọi người vào hết trong sảnh, đứng phía sau năm lão già họ Ôn.

Ôn Phương Đạt dồn song kích qua tay trái, đưa tay phải chỉ mặt Viên Thừa Chí, giận dữ quát hỏi: “Kim Xà gian tặc đang ở đâu, nói ngay đi!”

Viên Thừa Chí nói: “Lão tiền bối có gì thì từ từ mà nói, đừng nổi nóng.”

Ôn Phương Nghĩa giận dữ hỏi: “Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi là gì của ngươi? Hắn đang ở đâu? Có phải ngươi do hắn phái tới hay không?”

Viên Thừa Chí nói: “Vãn bối chưa từng gặp mặt Kim Xà Lang Quân, làm sao được ông ấy phái đến?”

Ôn Phương Sơn hỏi: “Câu này có thật không?”

Viên Thừa Chí nói: “Nói dối tiền bối để làm gì? Vãn bối ở Cù Giang đã may mắn gặp vị Ôn huynh đệ này, rồi được y coi trọng kết thành bằng hữu. Chuyện đó đâu có liên quan gì đến Kim Xà Lang Quân?”

Năm ông lão sắc mặt đã dịu lại, nhưng trong lòng vẫn còn nghi ngờ. Ôn Phương Đạt nói: “Nếu ngươi không chịu nói ra nơi trốn tránh của Kim Xà gian tặc, thì hôm nay đừng hòng rời khỏi Tịnh Nham này.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Dựa vào chút xíu công phu của các ngươi mà muốn giữ ta ở lại, e rằng không được đâu.” Chàng nghe họ cứ gọi Kim Xà Lang Quân là gian tặc, bất giác tức giận. Trong lòng Viên Thừa Chí, Kim Xà Lang Quân đã một nửa là sư phụ, tương tự như Mộc Tang đạo nhân. Nhưng chàng vẫn giữ thần sắc hòa nhã, cung kính đáp: “Vãn bối với Kim Xà Lang Quân không quen không biết, cũng chưa từng gặp mặt. Nhưng vãn bối biết ông ấy ở đâu. Chỉ sợ rằng ở đây không có ai dám đi gặp ông ấy.”

Năm lão họ Ôn nổi giận đùng đùng, lập tức quát lên: “Ai nói không dám? Mười mấy năm nay, chẳng có ngày nào chúng ta không tìm hắn. Tên gian tặc đó đã biến thành phế nhân từ lâu rồi, còn ai sợ nữa? Hắn đang ở đâu, nói nhanh lên, nói nhanh lên!”

Viên Thừa Chí cười nhạt rồi hỏi: “Các vị thật sự muốn gặp ông ấy phải không?”

Ôn Phương Đạt bước lên một bước, đáp ngay: “Không sai!”

Viên Thừa Chí mỉm cười hỏi: “Gặp ông ấy thì có gì tốt lành đâu?”

Ôn Phương Đạt giận dữ nói: “Thằng lỏi kia, ai giỡn với ngươi? Mau mau nói cho ta biết!”

Viên Thừa Chí nói: “Các vị còn tráng kiện như thế, chắc phải đợi nhiều năm mới gặp ông ấy được. Ông ấy đã tạ thế rồi.”

Câu này vừa nói ra, mọi người đều lộ vẻ ngạc nhiên. Bỗng nghe Ôn Thanh lo lắng kêu lên: “Má má! Má má làm sao rồi?”

Viên Thừa Chí quay đầu lại, thấy mỹ phụ trung niên kia đã ngất xỉu trong lòng Ôn Thanh, mặt mày tái mét, không còn một chút huyết sắc.

Ôn Phương Sơn cũng biến sắc, chửi mắng liên hồi: “Oan nghiệt, oan nghiệt!”

Ôn Phương Nghĩa bảo Ôn Thanh: “Thanh Thanh! Mau dìu má má ngươi vào trong đi. Đừng ở đây làm chuyện xấu hổ, khiến người ta phải chê cười.”

Ôn Thanh ngẩng nhìn, vừa khóc vừa nói: “Có gì xấu hổ đâu? Má má nghe tin phụ thân đã chết, dĩ nhiên phải đau lòng.”

Viên Thừa Chí nghe vậy giật mình, thầm nghĩ: “Mẹ của y là vợ của Kim Xà Lang Quân? Ôn Thanh là con trai của ông ấy à?”

Ôn Phương Nghĩa nghe Ôn Thanh cãi lại mình trước mặt người ngoài, nói lộ ra một chuyện mà nhà họ Ôn coi là sỉ nhục, bất giác nghiến hai hàm răng ken két, rồi bảo Ôn Phương Sơn: “Tam đệ! Đệ còn nuông chiều đứa bé này nữa thì ta không chịu nổi đâu.”

Ôn Phương Sơn liền mắng Ôn Thanh: “Ai là phụ thân của ngươi? Con nít không được ăn nói bừa bãi. Còn không chịu vào cho lẹ?”

Ôn Thanh dìu mẹ mình từ từ đi vào trong nhà. Mỹ phụ đó dần dần hồi tỉnh, khẽ nói: “Con mời Viên tướng công tối mai đến gặp, má má có lời cần hỏi.”

Ôn Thanh gật đầu, quay lại nói với Viên Thừa Chí: “Còn một ngày nữa, tối mai huynh đến đây mà lấy vàng. Lúc nào huynh cũng giúp đỡ người ngoài. Huynh… huynh… Những lời thề thốt của huynh toàn là lừa gạt người ta.”

Y giận dữ nhìn An Tiểu Huệ một cái, rồi mới dìu mẹ vào trong.

Viên Thừa Chí bảo An Tiểu Huệ: “Chúng ta đi thôi.”

Hai người đi ra phía ngoài, nhưng Ôn Phương Ngộ đã đứng chặn trước cửa, dang hai tay ra cản trở, giận dữ nói: “Khoan đi đã. Ta có chuyện muốn hỏi ngươi.”

Viên Thừa Chí chắp tay lại nói: “Bây giờ đã khuya lắm rồi. Ngày mai vãn bối lại tiếp tục đến đây thăm hỏi.”

Ôn Phương Ngộ hỏi: “Kim Xà gian tặc chết ở đâu? Lúc hắn chết có ai nhìn thấy hay không?”

Viên Thừa Chí nhớ lại cái đêm mà Trương Xuân Cửu đâm chết tên sư đệ đầu trọc, thảm trạng đó tái hiện rõ ràng trong đầu. Chàng nghĩ: “Kỳ Tiên Phái các ngươi vừa gian trá vừa hung ác. Đêm đó trên núi Hoa Sơn, chính ta đã suýt chết dưới tay các ngươi, hà tất phải nói thật cho các ngươi biết. Huống chi các ngươi đang dòm ngó di vật của Kim Xà Lang Quân, ta càng không thể nói.” Chàng bèn đáp: “Vãn bối cũng chỉ nghe bạn bè kể lại, Kim Xà Lang Quân chết trên một hoang đảo, ngoài khơi tỉnh Quảng Đông.”

Nói đến đây, tính trẻ con thích đùa lại nổi lên, chàng tiếp: “Quý phái có một người ốm nhom tên là Trương Xuân Cửu, lại có một người đầu trọc, có phải vậy không? Tung tích của Kim Xà Lang Quân, hai sư huynh đệ đó biết rõ ràng nhất. Chỉ cần gọi họ đến hỏi thì bất cứ chuyện gì cũng rõ ràng, đâu cần phải hỏi vãn bối?”

Ôn thị ngũ lão nhìn nhau, đều ra vẻ kinh ngạc. Ôn Phương Nghĩa nói: “Trương Xuân Cửu, Vương Thất Động, hai thằng đó không biết chết tiệt ở đâu rồi. Con mẹ nó! Lúc chúng trở về, không lột da không được.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Các ngươi cứ đến mấy ngàn hoang đảo ngoài khơi Quảng Đông mà đào bới tìm kiếm. Nếu không thì đích thân đi gặp Trương Xuân Cửu và tên trọc mà hỏi cũng được.” Chàng chắp tay nói: “Vãn bối xin cáo lui.”

Ôn Phương Ngộ quát lên: “Bận việc gì mà phải lui?”

Lão nhất định muốn hỏi rõ ràng, bèn vươn tay ra cản lại. Viên Thừa Chí đưa chưởng ra, nhẹ nhàng đẩy vào tay lão. Cổ tay Ôn Phương Ngộ liền xoay ngược lại, định thi triển cầm nã thủ để bắt lấy cổ tay Viên Thừa Chí. Nào ngờ Viên Thừa Chí không muốn đánh nhau nữa, đây chỉ là hư chiêu. Đối phương vừa ra tay, bên trái liền lộ chỗ sơ hở. Chàng kéo tay An Tiểu Huệ, “vù” một tiếng theo khoảng trống đó chạy ra ngoài, hoàn toàn không chạm đến áo quần Ôn Phương Ngộ.

Ôn Phương Ngộ cả giận, thò tay phải vào hông lấy ra một cây nhuyễn tiên bằng da trâu, vẫy lên đánh vào sau lưng Viên Thừa Chí. Nhuyễn tiên dùng trong võ lâm cũng có loại đúc bằng thép ròng, nhưng thường được bện bằng chỉ kim loại, hoặc tơ vàng. Ôn Phương Ngộ ỷ mình nội công thâm hậu, nên lão chỉ dùng một cây nhuyễn tiên bằng da bình thường mà thôi. Cây roi da này vừa dai vừa mềm mại, vẫy ra thuận tiện như dùng cánh tay điều khiển ngón tay vậy. Có kình lực vận vào, cây roi da đó còn lợi hại hơn nhuyễn tiên bằng kim khí nhiều.

Viên Thừa Chí nghe sau lưng có tiếng gió, liền kéo An Tiểu Huệ vọt nhanh tới trước, nên phát roi đó không trúng đích. Chàng nghe “véo” một tiếng xé tai, biết đó là một loại binh khí mềm mại, không quay lại nhìn mà tung người nhảy ngay lên đầu tường.

Ôn Phương Ngộ đã luyện cây nhuyễn tiên này mấy chục năm công phu, lại bị đối phương tránh né dễ dàng như vậy, quyết chẳng chịu thôi. Tay phải lão lại vẫy ra, cây nhuyễn tiên vòng thành một đóa hoa cuộn tới chân An Tiểu Huệ. Phen này lão theo bí quyết “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, biết thiếu nữ này công lực bình thường, không tránh né chiêu này được. Nếu kéo được nàng trở lại thì cũng như cản được Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí nghe thấy tiếng gió, vung ngược tay trái ra sau chụp trúng đầu roi, đồng thời vận Hỗn Nguyên Công. Thế nhảy của chàng không hề chậm lại, tay trái dùng sức xách nguyên cả người Ôn Phương Ngộ lên. Mọi người nhà họ Ôn thấy vậy, không ai là không kinh hãi.

Ôn Phương Thi muốn cứu Ngũ đệ, lập tức vung tay phải lên. Hai lưỡi phi đao vừa rít lên vừa bay tới, bắn vào lưng Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí buông đầu roi, kéo An Tiểu Huệ nhảy ra ngoài tường. Chàng nghe tiếng phi đao, bèn quờ tay phải ra sau vỗ nhẹ trúng vào sống hai lưỡi phi đao, hất chúng quay ngược trở về.

Chân của Ôn Phương Ngộ vừa chạm xuống đất, hai lưỡi phi đao đã bay đến đầu. Lão không kịp đứng dậy, liền vung cây nhuyễn tiên định gạt phi đao ra, nào ngờ nhuyễn tiên đã đứt thành từng khúc. Thì ra vừa rồi Viên Thừa Chí đã vận Hỗn Nguyên Công thượng thừa, nên mới lơ lửng giữa trời mà xách bổng được lão Ôn Phương Ngộ nặng một trăm mấy chục cân lên. Kình lực Hỗn Nguyên Công truyền vào cái roi da này đã bứt nó đứt thành từng đoạn.

Ôn Phương Ngộ giật mình kinh hãi, vội vã dùng thân pháp Lãn Lư Đả Cổn lăn ra ngoài, nhưng cũng bị phi đao cắt rách một mảnh áo. Khi đứng dậy, lão toát mồ hôi lạnh đầy người, hồi lâu không nói được lời nào.

Ôn Phương Đạt không ngớt lắc đầu quầy quậy. Cả năm ông lão đều cảm thấy nội công này hiếm có trên đời. Ôn Phương Nghĩa nói: “Thằng lỏi này bất quá hơn hai mươi tuổi. Cho dù nó luyện võ từ trong bụng mẹ, cũng chỉ có hai mươi năm công lực. Làm sao mà giỏi như thế?”

Ôn Phương Sơn nói: “Kim Xà gian tặc lợi hại như vậy mà cũng thua dưới tay chúng ta rồi. Tối mai thằng lỏi đó đến đây, chúng ta phải đối phó nghiêm chỉnh hơn mới được.”

*

*   *

Viên Thừa Chí cùng An Tiểu Huệ quay về chỗ trọ để nghỉ ngơi. An Tiểu Huệ không ngớt khen ngợi Thừa Chí đại ca, tỏ vẻ thán phục vô cùng. Nàng nói: “Thôi sư ca lúc nào cũng khoe khoang sư phụ võ nghệ cao cường. Nhưng muội thấy sư phụ của huynh ấy nhất định không sánh được với đại ca.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Thôi sư ca tên gì vậy? Còn sư phụ của huynh ấy là vị nào?”

An Tiểu Huệ đáp: “Huynh ấy tên Thôi Hy Mẫn, ngoại hiệu là Phục Hổ Kim Cang gì gì đó, còn sư phụ là đồ đệ của Mục lão tổ sư phái Hoa Sơn, ngoại hiệu là Đồng Bút Thiết Toán Bàn. Hễ muội nghe thấy cái ngoại hiệu này là tức cười nhịn không nổi. Trước nay muội chưa hỏi Thôi sư ca sư phụ của huynh ấy tên gì.”

Viên Thừa Chí gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra là đồ đệ của Hoàng Chân đại sư ca. Vị Thôi huynh đó phải gọi mình là sư thúc.” Nhưng chàng không nói cho Tiểu Huệ biết. Hai người tự tìm chỗ mà nghỉ.

Đêm hôm sau, Viên Thừa Chí bảo An Tiểu Huệ ở nhà chờ, không cần phải đi theo. An Tiểu Huệ biết công phu của mình nông cạn, đi theo chỉ gây cản trở, đã không giúp được gì mà còn bắt chàng phải phân tâm chiếu cố. Tuy nàng không muốn, nhưng vẫn phải đồng ý.

Đợi đến khoảng canh hai, Viên Thừa Chí lại đến nhà họ Ôn. Đến nơi thì thấy xung quanh tối đen như mực, chẳng có chút đèn lửa nào. Chàng đang định nhảy vào trong tường, thì đột nhiên nghe thấy xa xa vọng đến ba tiếng sáo rất nhẹ. Tiếng sáo vừa thổi đã dừng, lát sau mới thổi ba tiếng nữa.

Viên Thừa Chí hiểu đó là tiếng sáo của Ôn Thanh gọi. Chàng nghĩ: “Ôn thị ngũ lão tuy hung ác, nhưng Ôn Thanh đã có tình kết nghĩa với mình. Tốt nhất là khuyên Ôn Thanh trả lại số vàng đó, không cần động thủ.” Chàng bèn theo hướng tiếng sáo mà chạy lên ngọn đồi trồng hoa hồng.

Tới ngọn đồi đó, từ xa chàng đã nhìn thấy trong đình có hai người ngồi. Dưới ánh trăng nhìn rõ tóc xõa như mây, cả hai đều là nữ nhân. Viên Thừa Chí lập tức dừng chân, nghĩ bụng: “Thanh đệ không có ở đây.”

Một nữ nhân bỗng đưa sáo lên miệng, âm điệu chính là bài ca thê thiết mà hôm trước Ôn Thanh từng thổi. Chàng không nhịn được, bèn bước tới mấy bước để xem đó là ai.

Cô gái cầm sáo bước ra ngoài đình để đón chàng, gọi một tiếng rất dịu dàng: “Đại ca!”

Viên Thừa Chí giật mình nhìn lại. Ánh trăng trong vắt soi lên một khuôn mặt đẹp đẽ, đúng là Ôn Thanh. Chàng lập tức ngẩn ra, hồi lâu mới ấp úng: “Đệ… đệ… đệ…”

Ôn Thanh mỉm cười rồi nói: “Thật ra tiểu muội là nữ nhân, nhưng cứ mãi giấu giếm đại ca. Xin đại ca đừng trách.”

Nói xong, nàng khom lưng vái chào. Viên Thừa Chí chắp tay trả lễ, bao nhiêu thắc mắc trước kia đã thông suốt hết. Chàng nghĩ: “Mình cứ trách người này phấn son quá nặng, tính khí hẹp hòi, hoàn toàn không có khí phách đại trượng phu. Thì ra là một nữ nhân. Ái chà! Mình chẳng biết gì, đi kết bái huynh đệ với một vị cô nương, thật là hồ đồ. Chuyện này phải giải quyết thế nào đây?”

Ôn Thanh nói: “Tiểu muội tên là Ôn Thanh Thanh. Lần trước khi giới thiệu với huynh, đã cắt bớt một chữ Thanh.”

Nói xong nàng mỉm cười một cái, lại tiếp: “Thật ra tiểu muội phải gọi là Hạ Thanh Thanh mới đúng.”

Nàng mặc y phục nữ nhân, mắt phượng mày thanh, môi má ửng hồng, đúng là giai nhân diễm lệ tuyệt vời. Viên Thừa Chí âm thầm tự trách: “Mình quá hồ đồ! Mỹ nhân như thế thì ai cũng có thể nhận ra. Chỉ có mình quá đỗi thật thà, để cô ấy lừa gạt suốt bấy nhiêu ngày.”

Thật ra từ lúc chàng khôn lớn, chỉ có hồi niên thiếu là ở với An đại nương và An Tiểu Huệ mấy ngày. Sau đó là mười mấy năm luyện võ trên tuyệt đỉnh Hoa Sơn, không hề nhìn thấy nữ nhân. Trong quân của Sấm Vương chàng có kết giao với vợ của Lý Nhai là Hồng Nương Tử, nhưng vị nữ hiệp này hào phóng sảng khoái, chẳng khác bậc đại trượng phu. Vì thế Viên Thừa Chí thật sự mơ hồ về chuyện nam nữ hữu biệt, nên chàng không nhận ra Ôn Thanh Thanh là nữ cải nam trang.

Ôn Thanh Thanh nói: “Má má của tiểu muội ở đây. Má má có mấy câu muốn hỏi đại ca.”

Viên Thừa Chí đi vào trong đình, chắp tay thi lễ rồi nói: “Bá mẫu! Tiểu điệt Viên Thừa Chí xin bái kiến.”

Mỹ phụ trung niên đứng dậy thi lễ rồi đáp: “Không dám.”

Cặp mắt bà sưng đỏ lên, sắc mặt tiều tụy, rõ ràng đang nặng mối thương tâm. Viên Thừa Chí không nói gì nữa, ngồi xuống suy nghĩ: “Nghe Thanh Thanh nói, mẹ nàng bị người ta cưỡng hiếp rồi mới sinh ra nàng. Người đó nhất định là Kim Xà Lang Quân rồi. Ôn thị ngũ lão ghét cay ghét đắng Kim Xà Lang Quân, Thanh Thanh vừa gọi một tiếng “phụ thân” đã bị Nhị gia gia quát mắng thậm tệ. Nhưng mẹ của cô ấy vừa nghe tin Kim Xà Lang Quân tạ thế là lập tức ngất xỉu, bây giờ vẫn còn đau lòng như thế. Bà đối với Kim Xà Lang Quân hiển nhiên tình sâu nghĩa nặng. Bên trong chắc chắn có sự tình gì đặc biệt.”

Mẹ của Thanh Thanh ngơ ngác một hồi mới khẽ hỏi: “Ông ấy… Ông ấy chết thật rồi ư? Viên tướng công có đích thân nhìn thấy hay không?”

Viên Thừa Chí gật đầu. Bà lại hỏi: “Viên tướng công đối với Thanh Thanh của ta rất tốt, chuyện này ta biết. Nhất định ta không như gia gia và mấy người thúc bá của ta, coi Viên tướng công là kẻ địch. Xin… xin Viên tướng công kể lại tình hình lúc ông ấy chết. Ai đã hại chết ông ấy? Ông ấy… ông ấy có đau khổ lắm không?”

Nói đến đây, giọng bà đã run run, nước mắt lưng tròng.

Ý niệm của Viên Thừa Chí về Kim Xà Lang Quân thật sự không rõ ràng lắm. Chàng đã nghe sư phụ và Mộc Tang đạo nhân nói tính khí người này kỳ lạ, rất nhiều tâm kế, ở giữa chính tà. Ông ấy bố trí độc tiễn bắn lén trong hộp sắt, tẩm chất kịch độc lên bí kíp, dụng tâm vô cùng hiểm ác, thật sự không phải hành động của bậc chính nhân quân tử. Nhưng từ khi chàng nghiên cứu võ công trong Kim Xà Bí Kíp, đối với vị kỳ tài tuyệt thế này không khỏi âm thầm thán phục, từ tận đáy lòng bất giác đã cảm thấy ông ấy gần như sư phụ của mình. Đêm qua nghe thấy Ôn Thị Ngũ Lão giận dữ quát mắng Kim Xà Lang Quân là gian tặc, chàng tự dưng nổi giận, sau này nghĩ lại cũng tự cảm thấy kỳ lạ.

Bây giờ nghe mẹ của Thanh Thanh hỏi đến, chàng bèn nói: “Kim Xà Lang Quân thì vãn bối chưa từng gặp mặt, nhưng nói đến cùng thì vị tiền bối đó với vãn bối có danh phận sư đồ. Không ít võ công của vãn bối là học từ tiền bối. Về tình hình tiền bối sau khi chết thì xin thứ lỗi, vãn bối không tiện nói với bá mẫu, e rằng có nhiều người xấu muốn đi khai quật hài cốt của tiền bối.”

Mẹ của Thanh Thanh ngồi lảo đảo, rồi chợt ngã ra sau. Thanh Thanh nhanh tay đỡ lấy, kêu lên: “Má má! Đừng thương tâm quá.”

Lát sau mẹ của Thanh Thanh tỉnh lại, vừa khóc vừa nói: “Ta chờ đợi ông ấy mười tám năm đầy khổ sở, chỉ mong ông ấy đến đây đón mẹ con ta rời khỏi nơi này. Nào ngờ ông ấy đã sớm một mình rời khỏi cõi trần. Tội nghiệp Thanh Thanh, chưa gặp cha được lần nào.”

Viên Thừa Chí nói: “Bá mẫu không cần phải quá đau lòng. Hạ tiền bối bây giờ đã yên nghỉ rồi. Hài cốt của tiền bối, tiểu điệt đã chôn cất đàng hoàng.”

Chàng ngẫm nghĩ, lại nói: “Lúc từ trần Hạ lão tiền bối ngồi ngay ngắn, trước khi chết đã sắp xếp mọi việc đàng hoàng, hiển nhiên không phải bị người ta hại chết một cách bất ngờ.”

Mẹ của Thanh Thanh nói: “Thì ra đã nhờ Viên tướng công an táng. Đại ơn đại đức này, thật không biết phải báo đáp thế nào mới được.”

Nói xong bà đứng lên thi lễ, rồi tiếp: “Thanh Thanh! Mau mau qua đây, khấu đầu tạ ơn Viên đại ca đi.”

Thanh Thanh bái lạy sát đất, Viên Thừa Chí vội quỳ xuống trả lễ. Mẹ của Thanh Thanh hỏi: “Không biết ông ấy có di thư gì để lại cho mẹ con ta hay không?”

Viên Thừa Chí nhớ lại tấm bản đồ có ghi chữ, kẹp trong tấm bìa bí kíp. Trên đó viết: “Người được bảo vật này, xin đến Cù Nham, Tịnh Châu ở tỉnh Chiết Giang, tìm Ôn Nghi để tặng mười vạn lượng vàng.” Khi chàng nhìn thấy tấm bản đồ kho báu này, không hề khởi niệm tham lam nên tiện tay nhét vào trong hành lý, từ đó về sau không nhớ tới nữa. Chàng lại nghĩ đến Kim Xà Lang Quân võ công cái thế, thông minh tuyệt đỉnh, thế mà bỏ mạng ở núi Hoa Sơn, thậm chí hài cốt cũng không có ai thu liệm, chắc chắn đã bị món trọng bảo này làm hại. Lòng tham của thiên hạ thật khó tưởng tượng, không có món bảo vật nào không gây đại họa cho người, chuyện này sư phụ thường xuyên nhắc đến. Vì thế chàng có phần chán ghét tấm bản đồ này.

Bây giờ mẹ Thanh Thanh hỏi đến chàng mới nhớ ra, bèn hỏi: “Tiểu điệt vô lễ, cả gan xin hỏi, có phải khuê tự của bá mẫu là một chữ Nghi hay không?”

Mẹ của Thanh Thanh giật mình đáp: “Không sai! Tại sao Viên tướng công biết?”

Bà lập tức nói tiếp: “Nhất định là ông ấy… ông ấy… viết lên di thư rồi. Viên tướng công có… có mang theo đây không?”

Thần sắc của bà đầy vẻ mong mỏi và lo lắng.

Viên Thừa Chí đang định trả lời, đột nhiên ấn chân phải một cái, bay nghiêng ra khỏi lan can đình. Mẹ con Ôn Nghi chưa kịp kinh hãi đã nghe tiếng “Úi chà” của ai đó.

Viên Thừa Chí thò tay vào một bụi hồng, túm lấy một đại hán lôi ra, rồi xách vào trong đình. Người đó đã bị điểm trúng huyệt đạo, tay chân bủn rủn buông thõng xuống, không phản kháng gì được.

Thanh Thanh la lên: “Thất bá bá!”

Ôn Nghi thở ra một hơi rồi nói: “Viên tướng công! Xin tướng công thả huynh ấy ra đi. Trong nhà họ Ôn này, không có ai xem mẹ con chúng tôi là thân thích cả.”

Viên Thừa Chí vỗ lên vai người đó, giải khai huyệt đạo. Đây chính là Ôn Nam Dương, đêm qua đã giao đấu với Viên Thừa Chí. Hắn là con trai của Ôn Phương Nghĩa, xếp hàng thứ bảy trong đám anh em.

Ôn Thanh Thanh giận dữ nói: “Thất bá bá! Chúng ta nói chuyện ở đây, tại sao bá bá lại đến nghe lén? Không ra vẻ trưởng bối gì cả.”

Ôn Nam Dương nghe vậy nổi giận, chỉ muốn phát tác ngay. Nhưng vừa rồi hắn bị Viên Thừa Chí điểm huyệt bắt đi, không phản kháng gì được, mà đêm qua cũng đã bị một trận đòn dưới tay chàng. Vì thế hắn chỉ trừng to cặp mắt giận dữ nhìn ba người, rồi quay đầu bỏ đi ngay. Ra khỏi đình mấy bước, hắn hằn học nói với lại: “Đồ tiện nhân không biết xấu hổ. Bản thân mình vụng trộm với đàn ông vẫn chưa thấy đủ, còn dạy con gái lén lút với người khác.”

Ôn Nghi tức nghẹn, hai hàng lệ trào ra. Thanh Thanh không sao tiêu hóa nổi câu thóa mạ này, bèn đuổi theo hét lên: “Thất bá bá! Miệng lưỡi bá bá thật là dơ dáy.”

Ôn Nam Dương chửi tiếp: “Con bé tạp chủng này muốn làm phản hay sao? Các vị gia gia bảo ta đến đây. Ngươi dám làm gì nào?”

Ôn Thanh Thanh nói: “Bá bá muốn dạy dỗ con cháu thì cứ ăn nói đàng hoàng, sao phải đến đây nghe lén chúng ta nói chuyện?”

Ôn Nam Dương cười khẩy rồi nói: “Không biết ở đâu mới chui ra một thằng đàn ông nữa, đã xưng chung là “chúng ta” rồi. Mặt mũi mười tám đời tổ tông nhà họ Ôn này đã bị các ngươi bôi tro trát trấu.”

Thanh Thanh tức đến đỏ mặt, quay lại hỏi: “Má má! Má má có nghe ông ấy nói gì hay không?”

Ôn Nghi vẫn ôn tồn nói: “Mời Thất ca vào đây, muội có chuyện cần nói.”

Ôn Nam Dương phân vân một chút rồi sải bước đi vào trong đình, nhưng đứng khá xa trước mặt Viên Thừa Chí, đề phòng chàng đột nhiên xuất thủ.

Ôn Nghi nói: “Thân thế mẹ con muội thật là bất hạnh, may mà được năm vị gia gia và các vị huynh đệ chiếu cố, cho ở lại trong nhà họ Ôn mười mấy năm trời. Việc của người họ Hạ đó, trước nay muội chưa từng kể với Thanh Thanh. Bây giờ ông ấy không còn ở trên nhân thế nữa, không cần phải tiếp tục giấu giếm làm chi. Đầu đuôi chuyện này Thất ca biết rõ nhất, nhờ Thất ca kể lại cho Viên tướng công và Thanh Thanh biết.”

Ôn Nam Dương cười khẩy rồi nói: “Sao ta phải kể? Việc của cô thì cô kể là phải rồi. Hay là cô xấu hổ không dám kể?”

Ôn Nghi nhẹ nhàng thở ra một hơi, vẫn nói dịu dàng: “Được thôi! Muội nghĩ ông ấy đã từng cứu mạng Thất ca, tưởng Thất ca cảm kích đôi chút. Nào ngờ, người nhà họ Ôn toàn là những kẻ vong… vong… ơn.”

Ôn Nam Dương giận dữ nói: “Hắn đã từng cứu mạng ta, chuyện đó không sai. Nhưng vì lý do gì hắn cứu mạng ta? Được! Ta sẽ kể lại rõ ràng, kẻo cô tự kể thì sẽ thêm mắm dặm muối những lời dối trá nào không biết.”

Thanh Thanh giận dữ nói: “Mẹ ta mà thèm nói dối ư?”

Ôn Nghi kéo nàng ra một chút, bảo: “Để Thất bá bá nói đi.”

Ôn Nam Dương ngồi xuống, bắt đầu nói: “Họ Viên kia! Thanh Thanh! Tại sao ta quen biết tên Kim Xà gian tặc đó, bây giờ ta sẽ kể lại rõ ràng, để hai ngươi biết dụng tâm của tên gian tặc đó nham hiểm thế nào.”

Thanh Thanh lại xen vào: “Nếu bá bá lại nói những lời xấu xa, thì con không thèm nghe đâu.” Nói xong nàng đưa hai tay bịt tai mình lại.

Ôn Nghi bảo: “Thanh Thanh, con hãy nghe đi. Người cha quá cố của con, tuy không thể gọi là người tốt, nhưng so với mọi người trong nhà họ Ôn thì tốt hơn không chỉ trăm lần.”

Ôn Nam Dương cười nhạt hỏi: “Cô quên mất mình họ Ôn rồi ư?”

Ôn Nghi ngẩng đầu nhìn về chân trời xa tít, mơ màng nói: “Muội… muội… muội không phải người nhà họ Ôn nữa”.