Hồi 06: Vượt tường thành duyên nghiệt – Bày trận khốn lang quân

Ôn Nam Dương nói: “Chuyện này đã hai mươi năm rồi, lúc đó ta mới hai mươi sáu tuổi. Gia gia bảo ta đi Dương Châu để giúp Lục thúc một tay.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nhà họ Ôn ở Tịnh Nham bây giờ còn Ngũ Tổ, thì ra trước kia có sáu anh em.”

Ôn Nam Dương tiếp: “Khi đến Dương Châu ta không gặp Lục thúc. Một đêm ta đi làm ăn, không cẩn thận nên thất thủ.”

Ôn Nghi lạnh nhạt hỏi: “Không biết làm ăn chuyện gì đây?”

Ôn Nam Dương giận dữ nói: “Nam tử hán đại trượng phu, dám làm chẳng lẽ không dám nói? Ta nhìn thấy một cô nương rất đẹp, nên ban đêm nhảy vào trang viện định bẻ hoa. Cô ả không chịu, nên ta dùng dao giết chết. Nào ngờ trước khi chết ả còn la lên một tiếng, người ta nghe thấy. Trong đám võ sư hộ viện ở đó có mấy tên cao thủ cùng lúc ùa tới. Hảo hán không địch nổi số đông, nên ta bị chúng bắt được.”

Viên Thừa Chí nghe hắn kể lại những chuyện tồi bại của mình mà không ra vẻ xấu hổ hối hận chút nào, thầm nghĩ: “Người này thật là vô sỉ đến cùng cực.”

Ôn Nam Dương lại nói: “Họ đánh ta một trận, rồi nhốt vào trong lao của nha môn. Ta chẳng sợ hãi gì, vì vụ án ta gây ra không phải là chuyện nhỏ, không bao lâu sẽ lan truyền rộng rãi. Ta biết Lục thúc đang ở Dương Châu. Võ công ông ấy cực cao, khi biết tin tất nhiên sẽ cứu ta vượt ngục. Nào ngờ chờ tới mười mấy ngày mà Lục thúc vẫn không thấy đến. Công văn thượng cấp đã đưa xuống, phán xử ta bị chém đầu. Khi ngục tốt nói cho biết, lúc đó ta mới hoảng sợ.”

Ôn Thanh Thanh “hứ” một tiếng rồi nói: “Ta cứ tưởng Thất bá không sợ chết.”

Ôn Nam Dương mặc kệ nàng, kể tiếp:

“Ba ngày sau, cai ngục mang tới cho ta một chén rượu to, một mâm thịt lớn. Ta biết ngày mai mình bị hành hình, nghĩ bụng: ai cũng có ngày phải chết, nhưng lão gia tuổi còn trẻ như vậy, chưa hưởng phúc đầy đủ mà đã tới số thì thật có phần đáng tiếc. Nghĩ thì cứ nghĩ, ta chén sạch hết rượu thịt của cai ngục đem vào, rồi lăn ra ngủ một giấc say sưa.

Ngủ đến nửa đêm, đột nhiên ta thấy có người nhẹ nhàng vỗ vào vai. Ta tung người ngồi dậy, nghe y kề tai nói nhỏ: “Đừng lên tiếng, ta cứu ngươi ra ngoài”.

Sau đó nghe “soạt soạt” mấy tiếng, gông xiềng trên tay chân ta đều bị binh khí cực kỳ sắc bén chém đứt. Y kéo tay ta, nhảy ra khỏi ngục. Khinh công của y cực giỏi, thủ kình lại mạnh, cứ kéo tay ta chạy trên đường, ta chẳng tốn sức chút nào.

Chạy đến một cái miếu hoang ở ngoại thành, y thắp sáng ngọn nến trên bàn bày hương án. Lúc đó ta mới nhìn rõ. Y còn nhỏ hơn ta mấy tuổi, mặt mày bảnh bao. Hừ…”

Nói đến đây, Ôn Nam Dương đưa mắt liếc xéo Ôn Nghi và Thanh Thanh, rồi giận dữ kể tiếp: “Sau đó, ta thi lễ rồi cảm ơn y. Người này kiêu ngạo vô cùng, không trả lễ mà chỉ nói: Ta họ Hạ. Ngươi họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái phải không? Ta gật đầu, nói phải. Lúc này ta mới thấy binh khí mà y đã dùng để chặt đứt xiềng xích, đang đeo trên thắt lưng y. Binh khí này giống như một thanh kiếm cong queo, nhưng mũi kiếm lại chia thành hai nhánh, trông rất cổ quái.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Chắc là Kim Xà Kiếm rồi.” Chàng không lên tiếng, cứ im lặng mà nghe.

Ôn Nam Dương nói:

“Ta hỏi danh tính của y. Y chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi không cần biết. Dù sao thì ngươi cũng không cảm kích ta đâu.”

Ta ngạc nhiên nói: “Các hạ vừa cứu mạng tại hạ, dĩ nhiên suốt đời tại hạ phải đem lòng cảm kích.”

Y nói: “Ta chỉ vì Lục thúc của ngươi là Ôn Phương Ngọc mà cứu ngươi ra. Theo ta!”

Ta theo y đến một con kênh đào, lên một chiếc thuyền. Y bảo thuyền phu cho thuyền chạy về hướng Nam. Khi thuyền rời khỏi Dương Châu mười mấy dặm đường, ta mới yên tâm trở lại, biết rằng quan phủ không thể truy đuổi được nữa. Ta hỏi mấy câu, nhưng y chỉ cười nhạt mà không trả lời. Đột nhiên, y lấy trong bọc áo ra một cặp Nghê nga mi thúy. Đó là binh khí của Lục thúc, trước giờ không để rời thân, sao lại nằm trong tay người này?

Ta đang ngạc nhiên thì y nói: “Lục thúc của ngươi là bạn cũ của ta. Ha ha…” Y cười nhạt mấy tiếng, trên mặt bỗng lộ ra sát khí. Ta bất giác rùng mình mấy cái.

Y bảo: “Ngươi mang cái rương này về nhà đi.” Nói xong, y trỏ tay vào trong khoang thuyền. Ta thấy cái rương đó rất lớn, đóng đinh chắc chắn, bên ngoài còn dùng dây thừng to buộc lại.

Y nói: “Ngươi mau mau trở về nhà, dọc đường không được ghé lại nơi nào. Cái rương này nhất định phải giao cho Đại bá bá của ngươi, để chính tay ông ấy mở ra.” Y nói gì ta cũng vâng dạ hết.

Y lại nói: “Trong vòng một tháng, ta sẽ ghé thăm nhà ngươi. Về dặn trưởng bối chuẩn bị đón tiếp ta cho tử tế.” Nghe y nói chuyện chẳng có đầu đuôi gì cả, ta không hiểu gì, nhưng chỉ còn cách vâng dạ. Dặn dò xong, đột nhiên y khom người nhấc bổng cái neo thuyền lên, rồi soạt soạt mấy tiếng, tuốt kiếm chặt cái neo đó thành bốn mảnh.”

Ôn Thanh Thanh nghe đến đây, không nén nổi kêu lên một tiếng: “Tuyệt diệu!”

Ôn Nam Dương bĩu môi, rồi nhổ phẹt xuống đất một bãi nước bọt. Thanh Thanh vốn thích sạch sẽ, thấy Ôn Nam Dương phỉ nhổ tòa tiểu đình ngắm hoa hồng do chính tay mình bài trí, trong lòng khó chịu vô cùng.

Viên Thừa Chí hiểu ý nàng, đưa chân xóa bãi nước bọt đó đi. Thanh Thanh nhìn chàng một cái, trong ánh mắt lộ vẻ cảm kích.

Ôn Nam Dương nói tiếp:

“Y biểu diễn võ công trước mặt ta, không biết có dụng ý gì. Chỉ thấy y hất cái neo đã bị chặt đứt vào trong khoang thuyền rồi nói: “Nếu ngươi không nghe lời ta dặn, lén mở rương ra xem, tự ý lấy đi báu vật bên trong; hoặc dọc đường tiếp tục gây án, thì cứ lấy cái neo này làm gương.” Rồi y lấy trong bọc ra một thỏi bạc, vất xuống sàn thuyền mà nói: “Đây là lộ phí của ngươi.”

Sau đó y nhổ hai cây sào cắm ở đầu thuyền, chống vào lòng sông một cái, thân hình đã bắn ra giữa không trung. Y buông sào ra, nhào lộn mấy vòng, thân pháp cực kỳ xảo diệu, nháy mắt đã đứng trên bờ. Bóng y khuất dần trong màn đêm, chỉ còn nghe tiếng cười xa xa vẳng lại.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Vị Kim Xà Lang Quân này thật là hào khí.” Chàng chỉ nghĩ thôi, còn Thanh Thanh lại công nhiên khen ngợi: “Đáng mặt anh hùng hào kiệt, oai phong khí khái vô cùng.”

Ôn Nam Dương tức giận nói:

“Anh hùng ư? Con mẹ cái anh hùng đó. Lúc đó ta chỉ coi y là ân nhân cứu mạng, nhưng khi nói chuyện thì ánh mắt y lại để lộ sát khí, ra vẻ chán ghét ta. Ta cứ tưởng tính khí của y kỳ lạ, nên không để ý lắm. Qua một đoạn sông khác, ta thuê một chiếc thuyền khác để về nhà. Suốt dọc đường, bọn phu khuân vác đều nói là chiếc rương này rất nặng.

Ta nghĩ bụng: “Lần này Lục thúc phát tài rồi, trong rương chất đầy kim ngân châu báu. Mình phải tốn biết bao hơi sức mới vận chuyển được về nhà, chắc chắn các vị bá bá thúc thúc sẽ chia cho mình nhiều hơn một chút.” Càng nghĩ ta càng khoái chí.

Khi trở về nhà, đúng là gia gia và các vị bá bá thúc thúc đều khen ta tài giỏi, mới lần đầu bước ra giang hồ đã hành động không tồi.”

Thanh Thanh xen vào: “Đúng là không tồi! Hạ sát một cô nương, mang về một cái rương.”

Ôn Nghi bảo: “Thanh Thanh đừng nhiều chuyện, nghe Thất bá bá nói tiếp đã.”

Ôn Nam Dương nói:

“Đêm đó đại sảnh thắp đầy đèn nến, hai tên gia đinh khiêng cái rương đó vào. Gia gia cùng các vị thúc bá ngồi giữa. Ta chính tay cắt đứt dây thừng trước, rồi nhổ từng cây đinh sắt đóng rương ra. Ta còn nhớ rõ ràng, lúc đó Đại bá bá mỉm cười nói: “Không biết lão Lục nhắm trúng cô nương nhà nào đây, quên mất cả đường về rồi. Cái rương quý thế này mà bảo Nam Dương mang về trước. Tới đây, chúng ta xem thử có những món bảo bối gì.”

Ta mở nắp rương ra, thấy bên trong chất rất đầy, trên phủ một lớp giấy. Trên giấy có một lá thư, ngoài phong bì viết: “Gửi Ôn thị huynh đệ.” Ta thấy mấy chữ đó không phải là bút tích của Lục thúc, bèn trao lá thư cho Đại bá bá.

Ông ấy không mở thư ra ngay, lại hỏi: “Phía dưới là cái gì vậy?” Ta mở lớp giấy đó ra, bên dưới là một cái bao vải vuông vức, dùng chỉ may rất chắc chắn.

Đại bá bá gọi: “Lục muội! Lục muội đem kéo đến đây để cắt ra đi. Không hiểu sao Lục đệ bỗng nhiên tỉ mỉ như thế?” Lục thẩm cắt đứt mấy sợi chỉ, vừa mở cái bao vải ra, đột nhiên trong bao “soạt soạt” bắn ra bảy tám cây độc tiễn.”

Thanh Thanh kinh hãi la lên một tiếng. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Đúng là thói quen của Kim Xà Lang Quân rồi.”

Ôn Nam Dương tiếp: “Mãi đến hôm nay, nhớ lại việc đó ta vẫn thấy rùng mình. Nếu lúc đó ta vội vã mở cái bao ra, thì cái mạng này đâu còn ở đây nữa? Mấy cây độc tiễn đó đều ghim hết vào da thịt Lục thẩm. Loại tên này tẩm thuốc độc vô cùng lợi hại, thấy máu là chết ngay. Lục thẩm lập tức đen kịt cả người, không rên được một tiếng, ngã nhào ra chết ngay.”

Nói đến đó hắn quay lại, tức giận nói với Thanh Thanh: “Đó chính là kiệt tác của thằng cha ngươi đấy. Sau khi sự việc xảy ra như vậy, mọi người trong đại sảnh nhốn nháo cả lên. Ngũ thúc đổ cho ta gây ra vụ này, ép ta mở cái bao đó ra. Ta phải đứng rất xa, lấy một cây thương dài khều mở cái bao, nhưng không có mũi tên nào bắn ra nữa. Theo ngươi thì trong bao có những trân châu, báu vật gì?”

Thanh Thanh hỏi: “Có cái gì vậy?”

Ôn Nam Dương lạnh lùng nói: “Đó là thi thể Lục gia gia của ngươi, đã bị chặt thành tám mảnh.”

Thanh Thanh giật bắn người, hoảng sợ đến nỗi môi cũng trắng bệch. Ôn Nghi vội đưa tay ôm lấy nàng.

Bốn người im lặng một hồi, Ôn Nam Dương mới nói tiếp: “Ngươi thấy con người này có ác độc hay không? Y giết Lục thúc thì thôi, còn gửi xác Lục thúc về nhà bằng cách đó.”

Ôn Nghi nói: “Tại sao y phải làm như vậy, huynh chưa kể.”

Ôn Nam Dương nói: “Hừ! Đương nhiên cô phải kể tiếp. Đã là hành động của người xưa thân ái, thì bất luận chuyện gì cô cũng thấy không sai.”

Ôn Nghi nhìn lên những ngôi sao trên bầu trời một cách xuất thần, chậm rãi nói:

“Y là phu quân của ta. Dù chúng ta chưa từng bái thiên địa, nhưng trong lòng ta thì y là phu quân thân ái của ta. Thanh Thanh! Lúc đó ta nhỏ hơn con bây giờ hai tuổi, tính tình trẻ nít hơn con bây giờ, lại không thích học võ, cái gì cũng không hiểu cả. Các vị thúc bá trong nhà rất hung dữ, việc ác nào cũng dám làm, trước nay ta vẫn không thích họ. Khi thấy xác Lục thúc, thật sự trong lòng ta không thấy buồn bã gì. Lúc đó ta chỉ cảm thấy ngạc nhiên, tại sao Lục thúc võ công giỏi như vậy mà cũng bị giết chết?

Sau đó Đại bá bá mở thư ra, đọc lớn cho mọi người cùng nghe. Chuyện này đã hơn hai mươi năm rồi, nhưng tình hình đêm hôm đó ta nhớ rất rõ ràng. Những lời nói trong thư, ta vẫn nhớ từng chữ một.

Đại bá bá tức đến nỗi mặt không còn sắc máu, đọc thư mà thanh âm có phần run rẩy. Bức thư như sau: “Anh em họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái hãy nghe đây. Ta gửi tặng các ngươi thi thể của Ôn Phương Ngọc, đệ đệ của các ngươi, hãy nhận lấy. Người này năm xưa đã làm nhục rồi giết chết chị ruột của ta, sau đó lại giết hết một nhà năm người, cha mẹ và các anh của ta. Một mình ta chạy thoát ra ngoài, bây giờ quay lại trả thù. Nợ máu phải đòi gấp mười lần mới giải được hận. Ta nhất định phải giết năm chục nhân mạng, làm nhục mười nữ nhân trong gia đình các ngươi. Không đủ con số đó, ta thề không làm người. Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi lập thệ.”

Đọc xong lá thư đó, Ôn Nghi thở ra một hơi rồi hỏi Ôn Nam Dương: “Thất ca! Lục thúc giết sạch nhà y, việc này có hay không?”

Ôn Nam Dương ngạo mạn nói: “Nam tử hán đại trượng phu chúng ta đã vào hắc đạo thì cướp tài đoạt sắc, phóng hỏa giết người là chuyện rất bình thường. Lục thúc thấy tỷ tỷ của y xinh đẹp, dùng bạo lực mà cô ả không chịu, rút dao giết chết thì đã sao nào? Lẽ ra không cần phải giết cả nhà, nhưng nhất định Lục thúc đã lộ mặt nên phải giết người diệt khẩu. Tiếc là lúc đó để thằng nhãi con chạy thoát, để lại hậu hoạn vô cùng.”

Ôn Nghi thở dài nói: “Nam nhân các người ra ngoài gây ra tội nghiệt lớn như thế, bọn nữ nhân trong nhà làm sao biết được?”

Ôn Nam Dương nói: “Đại bá bá đọc xong lá thư này, cười ha hả mà nói: “Thằng giặc đó tìm đến đây, thật là tuyệt diệu. Không thì chúng ta muốn đi tìm hắn cũng không biết hắn trốn ở chỗ nào.” Nói thì nói vậy, nhưng ông ấy lại khẽ hỏi ta tỉ mỉ về tướng mạo và võ công của tên gian tặc này. Bắt đầu từ đêm đó mọi người cảnh giới nghiêm mật, lại phái người đi ngay trong đêm mời Thất thúc và Bát thúc từ Kim Hoa và Nghiêm Châu về.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên nghĩ: “Sao huynh đệ nhà này đông tới như thế?”

Thanh Thanh cũng hỏi: “Má má! Ở nhà còn có Thất gia gia và Bát gia gia, sao con không biết?”

Ôn Nghi đáp: “Đó cũng là anh em của gia gia con, nhưng trước nay không ở đây. Nhà họ Ôn có tám người, nên mới gọi là Bát Đức Đường.”

Thanh Thanh cười khẩy: “Có đức gì mà gọi là Bát Đức?”

Ôn Nam Dương nói: “Trước nay Thất thúc vẫn ở Kim Hoa, còn Bát thúc ở Nghiêm Châu. Tuy là người một nhà, nhưng bên ngoài ít người biết đến. Nào ngờ Kim Xà gian tặc điều tra tin tức rất giỏi. Thất thúc và Bát thúc vừa mới khởi hành, đã bị y giết chết dọc đường. Tên gian tặc này thần xuất quỷ nhập, không hiểu lúc nào đã lấy cắp được một mớ thẻ tre mà nhà ta vẫn sử dụng khi thu thuế lúa gạo. Gian tặc hễ giết chết một người chúng ta lại cắm một cái thẻ tre lên xác chết. Xem ra y chưa cắm đủ năm chục thẻ tre thì không chịu buông tay.”

Thanh Thanh nói: “Gia đình chúng ta trên dưới có hơn trăm người, sao không cản nổi? Còn ông ấy có bao nhiêu người?”

Ôn Nam Dương đáp:

“Y chỉ có một mình. Gian tặc này xưa giờ không công khai lộ diện, bình thường không biết trốn ở nơi nào. Nhưng chỉ cần người nhà chúng ta lơi lỏng một chút là y ra tay hại chết. Đại bá bá đã mời mấy chục hảo hán giang hồ đến làm khách, cả ngày ngồi nhà ăn uống để đợi tên gian tặc đến. Còn ngoài cổng thì dán một tờ bố cáo lớn, mời y đến để quyết đấu một cách quang minh chính đại. Nhưng tên gian tặc đó mặc kệ, hễ thấy chúng ta đông người thì không xuất hiện.

Hơn nửa năm sau, cao thủ giang hồ từ từ giải tán. Tam ca ở chi thứ nhất và Ngũ đệ ở chi thứ năm đột nhiên chết chìm trong ao, trên người có cắm thẻ tre. Thì ra tên gian tặc rất biết nhẫn nại, đã im lặng chờ thời hơn nửa năm, bây giờ có cơ hội mới ra tay. Liên tiếp mười mấy ngày, trong nhà ngày nào cũng có người mất mạng. Tiệm bán quan tài ở thị trấn Tịnh Nham làm không kịp, phải đến Cù Châu để mua. Người bên ngoài đồn đãi là nhà họ Ôn gặp phải ôn thần. Nghi muội! Những ngày đáng sợ đó, cô còn nhớ chứ?”

Ôn Nghi nói: “Thời gian đó cả thị trấn bàng hoàng, còn gia đình chúng ta thì ngày đêm đều có người canh gác. Gia gia và các vị thúc bá thay phiên tuần tra cả ngoài lẫn trong. Đàn bà con nít tập trung trong nhà, không dám bước ra khỏi cổng một bước.”

Ôn Nam Dương nghiến chặt răng nói: “Đã vậy mà hai người chị dâu ở chi thứ tư vẫn bị y bắt cóc giữa đêm. Lúc ấy chúng ta tưởng họ bị giết rồi. Nào ngờ hơn một tháng sau, hai vị tẩu tẩu đó từ Dương Châu nhắn tin về, nói là đã bị tên gian tặc bán vào kỹ viện, ép tiếp khách cả tháng trời. Tứ thúc tức giận đến nỗi suýt ngất tại chỗ. Ông ấy mặc kệ hai đứa con dâu, đích thân đi giết sạch toàn bộ kỹ nữ, khách mua hoa, tú bà và bọn phục dịch trong kỹ viện đó. Đương nhiên hai vị tẩu tẩu cũng bị giết chết. Tứ thúc còn phóng hỏa, thiêu rụi tám tòa kỹ viện ở Dương Châu.”

Viên Thừa Chí nghe mà dựng cả tóc gáy lên, trong lòng nghĩ: “Kim Xà Lang Quân trả thù cho cha mẹ và anh chị là phải, nhưng giết chết hung thủ chủ chốt đã đủ rồi, làm như thế có phần quá đáng.” Chàng lại nghĩ: “Ôn Phương Thi thì trút giận lên đầu người khác, giết luôn hai cô con dâu.” Nghĩ đến đó chàng bất giác lắc đầu một cái, cảm thấy uất ức trong lòng.

Ôn Nam Dương tiếp: “Lại còn một việc khiến cho người ta tức tối. Mỗi năm đến tết Đoan Ngọ, Trung Thu, Nguyên Đán là y lại gửi thư tới, ghi rõ còn nợ bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu nữ nhân, cứ như kê đơn vậy. Kỳ Tiên Phái ngang dọc giang hồ mười mấy năm trời, thế mà bị tên gian tặc hại cho thê thảm đến thế. Mọi người vừa nơm nớp lo âu vừa nghiến răng căm hận, thề quyết trả mối thù này. Nhưng bản lãnh gian tặc quá cao, gia gia và các vị thúc bá đã giao thủ mấy lần với y mà không giết nổi. Khi chúng ta phòng thủ nghiêm ngặt thì mấy tháng trời y cũng không đến, chỉ cần lơi lỏng chút xíu thì lập tức có chuyện. Chúng ta ngoài sáng còn y trong bóng tối, thật sự không làm gì được. Trong vòng hai năm, nhà họ Ôn chúng ta bị y giết tổng số ba mươi tám mạng lớn có nhỏ có. Thanh Thanh! Ngươi nói đi, chúng ta có nên hận tên gian tặc đó không?”

Thanh Thanh hỏi: “Về sau thì sao?”

Ôn Nam Dương nói: “Để má má của ngươi kể tiếp.”

Ôn Nghi nhìn Viên Thừa Chí một cái, ủ rũ nói: “Hài cốt của y đã được vị Viên tướng công này mai táng. Vì thế ta không cần giấu giếm gì nữa, chỉ mong Viên tướng công sẽ kể lại tình hình lúc y tạ thế để hai mẹ con ta biết.”

Nói đến đó giọng bà nghẹn hẳn đi, hồi lâu mới nói tiếp được:

“Lúc đó ta không hiểu tại sao y lại hung hãn đến thế, thật sự không hiểu nổi. Gia gia không cho phép mọi người ra khỏi cổng một bước. Ta rất buồn bực, ngày nào cũng chỉ quanh quẩn trong vườn. Gia gia còn nói, nếu không có các vị ca ca ở cạnh thì bọn con gái dù là ban ngày ban mặt cũng không được vào vườn chơi.

Lúc đó là tháng Ba, tiết xuân rực rỡ. Hương hoa cải trong vườn theo gió thổi vào cửa sổ từng đợt, từng đợt. Ta những muốn lên đồi để ngắm hoa, thưởng thức hương vị ruộng đồng tươi mát. Chỉ vì Kim Xà Lang Quân, tên ác độc hại người đó, mà ta bị nhốt trong nhà buồn bã lúc trời đẹp thế này. Ta muốn lẻn ra ngoài một lát, nhưng nghĩ đến bộ mặt nghiêm trọng của gia gia lại không dám nữa.

Hôm đó, ta và Tam tỉ tỉ, Ngũ tẩu tẩu của chi thứ hai, lại còn huynh Nam Dương này và huynh Thiên Ba, cả thảy năm người đang chơi ở trong vườn. Ta trèo lên một cái đu, càng đu càng cao, thân thể như bay bổng hẳn lên. Lúc bay cao hơn đầu tường, nhìn ra ngoài thấy dương liễu xanh mơn mởn, hoa đào nở rộ, ta sung sướng vô kể. Nhưng đột nhiên huynh Thiên Ba kêu lên một tiếng kỳ lạ, rồi ngã xuống nằm ngẩng mặt lên trời. Ta giật mình hoảng hốt, sau này mới biết trước ngực huynh ấy đã bị phóng trúng một mũi Kim Xà Truy, chết ngay tức khắc. Còn huynh Nam Dương… Ta nhớ lúc đó huynh lập tức chạy trốn vào nhà, để mặc ba nữ nhân chúng ta ở ngoài vườn.”

Ôn Nam Dương đỏ ửng mặt lên, biện bạch: “Ta đánh không lại y, nếu không chạy đi, chẳng lẽ chết uổng mạng? Ta chạy vào nhà là để gọi người đến cứu.”

Ôn Nghi nói:

“Chẳng lẽ ta không hiểu chuyện đó hay sao? Chỉ thấy trên đầu tường có một người nhảy vào, đạp lên cái đu của ta. Y ôm chặt ngang hông ta, vận sức nhún mạnh, cái đu bay tít lên trời. Ta cảm thấy mình bay ra ngoài như đằng vân giá vũ, cứ tưởng phen này hai người sẽ cùng ngã chết. Nào ngờ tay trái y ôm lấy ta, tay phải chụp vào một cành cây to ở ngoài tường, rồi lại bắn người lên, nhẹ nhàng rơi ra xa mấy trượng.

Lúc đó ta hoảng sợ đến nỗi hồ đồ, đưa tay đấm loạn xạ lên mặt của y. Y đưa đầu ngón tay điểm vào dưới nách ta một cái, thân thể ta lập tức bủn rủn, không động đậy được nữa. Phía sau có nhiều người lớn tiếng hò hét đuổi theo, nhưng âm thanh càng lúc càng xa.

Y cứ ôm ta chạy hơn nửa ngày, lên một ngọn núi cao, chui vào sơn động trên vách núi dựng đứng. Y giải huyệt đạo cho ta, rồi nhìn ta cười rất dễ sợ. Ta bỗng nhớ đến hai vị tẩu tẩu, nghĩ bụng: “Nếu bị sỉ nhục như vậy, thì chết đi trong trắng còn hơn.” Thế là ta đập đầu vào núi đá. Y nắm lưng ta kéo lại, nên ta mới không chết, chỉ để lại một cái sẹo ở đây.”

Vừa nói bà vừa chỉ vào vết sẹo trên trán của mình. Viên Thừa Chí thấy vết sẹo đó bị mái tóc che khuất một phần, nhưng lộ ra ngoài đến hơn một tấc, dài đến tận đỉnh đầu. Vết thương lúc đó đúng là không nhẹ.

Ôn Nghi than thở:

“Nếu ta đập đầu vào đá mà chết, thì tốt cho y hơn nhiều. Y kéo ta lại một cái, chính là rước khổ vào mình. Lúc đó ta ngất xỉu tại chỗ, khi tỉnh dậy thì trên người có phủ một tấm chăn. Ta giật bắn mình, suýt ngất lần nữa. Nhìn lại thấy y phục trên người mình còn rất đàng hoàng, ta mới yên tâm hơn một chút, nghĩ bụng: “Chắc là thấy mình tự sát, tên ác nhân này đã phát thiện tâm nên chưa ra tay hãm hại.”

Ta nhắm nghiền mắt lại, không nhìn y, cũng không dám nghĩ đến những chuyện đang xảy ra. Y sợ ta tự sát nữa, nên canh giữ suốt hai ngày đêm, ngồi bên nói chuyện với ta. Dĩ nhiên ta không thèm nói gì. Y nấu cho ta ăn, ta cứ khóc, không ăn bất luận thứ gì.

Đến sáng ngày thứ tư, ta đói đến nỗi hoa cả mắt. Y nấu cho ta một chén canh thịt rất lớn, nhẹ nhàng dỗ ta uống, nhưng ta không uống. Y đột nhiên túm lấy ta, bóp mũi ta rồi đổ tô canh thịt vào miệng, ép ta nuốt hơn nửa chén canh. Tay y vừa buông lỏng, ta lập tức phun một búng canh vào giữa mặt y.

Ta muốn chọc y nổi giận, chém ta một đao chết đi cho xong, để khỏi bị bức hiếp rồi bán vào kỹ viện, khổ sở như hai vị tẩu tẩu. Nào ngờ y không giận, chỉ mỉm cười rồi lấy tay áo chùi nước canh trên mặt. Y ngẩn ra nhìn ta, không ngớt thở dài.”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh bất giác nhìn nhau một cái. Thanh Thanh đỏ hẳn mặt lên.

Ôn Nghi tiếp: “Đêm đó y nằm ngoài cửa động, hỏi ta: “Ta hát một bài cho cô nghe có được không?” Ta gắt: “Không thích nghe.” Y mừng đến nhảy chồm lên, nói: “Ta cứ tưởng cô bị câm, thì ra cũng biết nói.” Ta lại mắng: “Ai bị câm? Nhưng gặp người xấu thì ta không thèm nói chuyện.” Y không nói chuyện nữa, hoan hỉ ngồi hát những khúc sơn ca. Hát đến nửa đêm, tới khi mặt trăng ló lên y vẫn còn hát. Từ nhỏ đến lớn ta sống trong một đại gia, chưa từng nghe loại sơn ca như vậy.”

Ôn Nam Dương hét lên: “Cô vừa sợ lại vừa muốn nghe phải không? Ta không đủ kiên nhẫn để nghe cô kể những chuyện làm mất thể diện nữa.” Nói xong, hắn sải bước đi ra khỏi đình.

Thanh Thanh nói: “Nhất định bá bá đi mách các vị gia gia.”

Ôn Nghi đáp: “Cứ để ông ấy đi mách, bây giờ ta không cần gì nữa.”

Thanh Thanh nói: “Má má! Má má kể tiếp đi.”

Ôn Nghi kể tiếp:

“Sau đó ta ngủ thiếp đi, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy không thấy y đâu. Ta muốn trốn về nhà, nhưng sơn động này ở trên đỉnh một ngọn núi cao dốc đứng, không có đường xuống. Chỉ có những người giỏi khinh công như y mới lên xuống được. Mãi đến giữa trưa y mới quay lại, mang về cho ta rất nhiều đồ trang sức, vàng bạc, phấn son. Ta không nhận, quẳng hết xuống vực sâu. Nhưng y không giận, đến đêm lại hát cho ta nghe.

Một hôm y đem một mớ gà con, mèo con, rùa con lên đỉnh núi. Y biết ta không nhẫn tâm ném những con vật dễ thương này xuống vực. Suốt ngày y ngồi cạnh ta, chơi với những con mèo, đút cho lũ rùa con ăn, rồi lại hát. Buổi tối ta ngủ trong sơn động, y không bước vào một bước.

Ta thấy y không xúc phạm mình nên yên tâm hơn, bắt đầu chịu ăn uống. Trong suốt một tháng ta không thèm nói chuyện, nhưng y thủy chung vẫn rất dịu dàng, đối xử hòa nhã với ta. Ngay cả gia gia và má má cũng không chiều chuộng ta như thế.

Mấy ngày sau bỗng nhiên y nhăn mặt, nhìn ta một cách hung dữ. Lúc đó ta sợ hãi bật khóc lên. Y thở ra một hơi, rồi dỗ ngọt cho ta nín khóc. Đêm hôm ấy ta nghe tiếng y khóc, khóc rất thương tâm. Lát sau trời đổ mưa lớn, nhưng y không vào trong động. Ta không nỡ, gọi y vào sơn động tránh mưa, y cũng mặc kệ.

Ta hỏi: “Tại sao ngươi khóc?” Y thô lỗ đáp: “Ngày mai là ngày giỗ của gia gia, má má, ca ca, tỷ tỷ của ta. Hôm đó cả nhà ta đã bị gia đình cô hại chết. Dù sao thì ngày mai ta cũng phải giết một người để trả thù. Nhưng bây giờ trong nhà cô phòng bị rất nghiêm mật, lại còn mời Lý Thác đạo nhân phái Không Động và Thanh Minh thiền sư ở Thập Phương Tự đến giúp. Tuy hai người này rất lợi hại, nhưng chẳng lẽ ta chịu buông tay hay sao?”

Y vừa nói vừa nghiến răng ken két, rồi đội mưa mà chạy xuống núi. Đến xế chiều hôm sau, y vẫn chưa trở lại. Lúc đó ta có phần nhớ y, lại mong y được bình yên trở về.”

Nghe đến đây Thanh Thanh lén nhìn Viên Thừa Chí một cái, xem thử chàng có khinh rẻ mẹ con mình hay không. Nhưng nàng thấy Viên Thừa Chí vẫn cung kính ngồi yên, chú ý lắng nghe. Nàng bỗng cảm thấy nhẹ nhàng, thở ra một hơi.

Ôn Nghi nói:

“Lúc đó trời sắp tối. Thỉnh thoảng ta lại nhìn xuống núi, không biết bao nhiêu lần nữa. Cuối cùng cũng thấy trên đỉnh núi đối diện có bốn người đang rượt đuổi nhau, thân pháp cực nhanh. Ta cố gắng nhìn kỹ, người đầu tiên quả nhiên là y. Đuổi theo y là một đạo sĩ, một hòa thượng, và người thứ tư là gia gia của ta. Y cầm Kim Xà Kiếm một mình đánh với ba người, vừa đánh vừa chạy.

Được một hồi, hòa thượng dùng thiền trượng quét ngang đầu y. Thấy y không có đường tránh né, ta lo lắng trong lòng, bất giác kêu lớn. Nào ngờ y hoành Kim Xà Kiếm trở lại, chặt đứt một khúc thiền trượng của hòa thượng đó. Gia gia nghe tiếng kêu, quay lại nhìn thấy ta, bèn không đánh nữa mà chạy về hướng ngọn núi này.

Y lộ vẻ lo lắng, xuất hai chiêu kiếm ép hòa thượng và đạo nhân kia lùi lại, rồi đuổi gấp theo. Bây giờ thì gia gia của ta chạy trước, y chạy giữa, một tăng một đạo chạy sau cùng, chẳng bao lâu bốn người đã chạy xuống thung lũng. Y đuổi kịp gia gia, cố cản trở không để ông ấy chạy tới ngọn núi này.

Đánh được mấy hiệp thì một tăng một đạo đã đuổi tới nơi. Gia gia được rảnh tay, lại trèo lên ngọn núi ta đang đứng. Bốn người vừa đánh vừa rượt đuổi nhau, chốc lát đã đến nơi. Ta thật sự vui mừng, gọi lớn: “Gia gia! Mau mau đến đây.” Lúc đó y giống như người điên, nhảy xổ tới xuất liền ba chiêu kiếm, ép gia gia lùi lại. Gia gia đánh không lại y, sắp gặp nguy thì hai người tăng đạo đến giải vây.

Gia gia hô lớn: “A Nghi, ngươi ra sao rồi?” Ta đáp: “Con không sao. Gia gia yên tâm đi.” Gia gia nói: “Được! Để ta xử lý xong tên gian tặc này rồi nói chuyện.” Ba người lại vây y vào giữa.

Đạo nhân lớn tiếng nói: “Kim Xà Lang Quân! Phái Không Động chúng ta không thù không oán với các hạ, chỉ vì thấy các hạ quá đáng nên mới đứng ra giải hòa. Ta không muốn giúp bên nào. Nếu các hạ đồng ý dừng tay, từ nay về sau không kiếm chuyện với nhà họ Ôn nữa, thì vụ này có thể chấm dứt ở đây.”

Y quát trả: “Thù giết cha, mẹ, anh, chị, ta không thể không trả.”

Hòa thượng nói: “Thí chủ đã giết rất nhiều người, tưởng đã đủ rồi. Bần tăng khuyên thí chủ hãy nể mặt hai người xuất gia này mà dừng tay đi.”

Y đột ngột vung kiếm đâm tới hòa thượng, thế là bốn người tiếp tục ác đấu. Đạo nhân dùng thứ binh khí gì trông lạ mắt, chiêu thức khác thường. Còn thiền trượng của hòa thượng đã cụt một nửa, nhưng vung ra cũng nổi gió vù vù, kình lực rất mãnh liệt.

Y càng đánh càng không thành chiêu thức gì nữa, mồ hôi toát đầy đầu. Đột nhiên y bước hụt chân, loạng choạng suýt nữa té nhào. Hòa thượng vung thiền trượng đập xuống, y né qua một bên tránh được. Khi y nghiêng người như vậy, vô tình nhìn thấy mặt ta. Sau này y kể lại: “Lúc đó ta đã kiệt sức rồi, nhưng khi thấy muội lộ vẻ lo lắng cho mình, đột nhiên tinh thần phấn chấn hẳn lên.”

Y múa kiếm càng lúc càng nhanh. Lúc đó sương trong thung lũng bắt đầu bốc lên dày đặc, trong đám sương mù chỉ còn thấy kiếm quang lấp loáng. Bỗng nghe y hô lớn: “Ôn cô nương đừng sợ! Xem đây!”

Hòa thượng đột nhiên la lên một tiếng rồi lăn xuống vực thẳm, thì ra sau gáy bị trúng một mũi Kim Xà Truy. Gia gia của ta và đạo nhân đều giật mình kinh hãi. Thừa lúc y phóng kiếm đâm vào gia gia của ta, đạo nhân tập kích sau lưng. Y bỗng quát lên một tiếng, đưa ngược hai ngón tay trái ra sau, đâm vào cặp mắt đạo nhân. Đạo nhân vừa cúi đầu xuống, y vung kiếm quét ngang qua trúng vào giữa lưng, thế là đạo nhân bị chặt thành hai khúc.”

Thanh Thanh sợ hãi la lên một tiếng.

Ôn Nghi kể tiếp:

“Y thu kiếm về, đâm tới gia gia của ta. Gia gia thấy hai tay trợ thủ cao cường liên tiếp bị giết, hoảng sợ đến nỗi kinh tâm động phách, cương trượng mỗi lúc một vụng về chậm chạp. Ta liền chạy ra khỏi động, la lên: “Dừng tay, dừng tay!” Y vừa nghe đã dừng tay lại ngay. Ta nói: “Đây là phụ thân của ta.” Y giận dữ nhìn gia gia một cái rồi bảo: “Đi đi! Ta tha mạng ông.” Gia gia lộ vẻ bất ngờ, quay lưng đi ngay.

Ta suốt ngày chưa được ăn gì, lại phải chứng kiến trận đấu kinh hồn vừa rồi. Khi thấy y tha mạng gia gia, ta mừng quá, đột nhiên loạng choạng té xuống. Y vội chạy tới đỡ ta dậy. Ta nhìn qua vai y ra ngoài, thấy vẻ mặt gia gia đầy sát khí, rồi gia gia đột nhiên đưa cương trượng lên, nhằm đánh vào sau gáy y.

Y đang chăm chú xem ta có bị thương hay không, hoàn toàn không đề phòng gia gia đánh lén. Ta nhịn không được, bất giác la lên: “Cẩn thận!” Y lập tức nghiêng người, nhưng chỉ né được cái đầu, đưa lưng hứng lấy phát trượng. Y quay lại giật lấy cương trượng quẳng xuống vực sâu, đưa song chưởng lên định đánh ra. Gia gia biết mình không đỡ nổi, nhắm mắt chờ chết. Bỗng y quay lại nhìn ta một cái, thở dài rồi bảo gia gia: “Ông mau rời khỏi đây đi, kẻo ta đổi ý kiến lại không tha nữa.” Gia gia vội vã bỏ chạy xuống núi.

Lưng y bị cương trượng đả thương rất nặng. Gia gia vừa đi khuất, y đã ọe ra một ngụm máu tươi, phun ướt cả ngực áo ta.”

Thanh Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Gia gia không còn biết thể diện là gì nữa. Quang minh chính đại đánh nhau không lại, lén hạ độc thủ sau lưng.”

Ôn Nghi thở dài rồi nói:

“Đúng ra thì y là đại cừu nhân, giết liên tiếp mấy chục mạng trong gia đình ta. Nhưng khi thấy y bị bao vây, tấn công, ám toán, ta không nén nổi lòng mình hướng về y. Đúng là oan nghiệt từ kiếp trước.

Y lảo đảo bước vào trong động, lấy thuốc trị thương ra uống, lại oẹ ra rất nhiều máu tươi. Ta sợ quá, chỉ biết khóc chứ không làm gì được. Bị thương mà thần sắc y lại vui vẻ, hỏi ta: “Ai làm gì cô nương mà khóc?” Ta vừa khóc vừa nói: “Ngươi bị thương nặng đến thế này…” Y mỉm cười hỏi: “Cô nương vì ta mà khóc đấy ư?” Ta không nói gì được, vừa đau lòng vừa khó xử.

Hồi lâu y mới nói: “Từ khi cả nhà ta bị Lục thúc của cô hại chết, chưa có ai quan tâm đến ta. Hôm nay, ta giết được một ông anh họ của cô, tổng số đã bốn mươi người rồi, lẽ ra còn phải giết mười người nữa. Nhưng trừ vào chỗ nước mắt của cô, từ nay ta sẽ dừng tay.” Ta chỉ biết khóc.

Y lại nói: “Nữ nhân trong gia đình cô, ta cũng không hại nữa. Đợi vết thương lành, ta sẽ đưa cô về nhà.” Ta không lý giải được cảm xúc của mình như thế nào, nhưng thấy y hứa không giết người nữa đã là tốt rồi. Vì thế mấy ngày sau, ta nấu canh nấu cơm, quan tâm phục vụ cho y. Y thỉnh thoảng lại phun máu ra, có lúc nửa mê nửa tỉnh, luôn mồm kêu má má.

Có một hôm, suốt ngày y hết hôn mê lại nói lảm nhảm mãi đến xế chiều. Ta thấy không làm gì được nữa, khóc đến nỗi mắt sưng vù lên. Y đột nhiên mở mắt ra, mỉm cười rồi nói: “Không sao, ta không chết đâu.” Hai ngày sau, quả nhiên y dần dần bình phục.

Sau này y nói với ta: “Hôm đó trúng một đòn cương trượng, lẽ ra ta không sống nổi nữa. Nhưng sau khi ta chết, muội bị nhốt trên đỉnh núi cao không thể leo xuống, người nhà muội lại sợ ta mà không dám đến tìm, muội chắc chắn phải chết đói. Vì nghĩ đến muội mà ta cố sống.””

Thanh Thanh nói xen vào: “Má má! Phụ thân đối với má rất tốt, rất có lương tâm.” Nói xong, nàng giận dữ nhìn Viên Thừa Chí. Mặt chàng nóng bừng lên, rồi quay đầu đi, không dám để ánh mắt mình chạm vào ánh mắt nàng nữa.

Ôn Nghi lại nói: “Thân thể y dần dần hồi phục, kể lại rất nhiều chuyện hồi nhỏ, được cha mẹ cưng chiều thế nào, anh chị yêu mến ra sao. Có lần y bệnh, mẹ y ngồi bên giường y ba ngày ba đêm không ngủ. Thế mà chỉ trong một đêm, gia đình y bị Lục thúc giết sạch. Con người này tuy thủ đoạn tàn độc, nhưng khi kể đến người thân của mình thì ngữ khí lại rất lương thiện hiền hòa. Y lại lấy một cái yếm màu đỏ có thêu hoa cho ta xem, nói là mẹ thêu hồi mới thôi nôi.”

Kể đến đây, Ôn Nghi lấy trong bọc ra một cái yếm của trẻ nít, đặt lên bàn. Viên Thừa Chí thấy cái yếm này may bằng đoạn đỏ, thêu một đứa bé mập mạp đang ngủ trên một tàu lá chuối. Đứa bé mập mạp sống động trông rất dễ thương, mũi thêu tinh tế. Có thể thấy khi thêu cái yếm này, người mẹ đã dồn hết tình yêu con vào đó.

Viên Thừa Chí từ nhỏ đã mất cha mẹ. Khi nhìn cái yếm, chàng nghĩ đến thân phận mình, không nén nổi chua xót trong lòng.

Ôn Nghi nói tiếp:

“Y thường hát những khúc sơn ca cho ta nghe, lại lấy gỗ khắc thành chó con, ngựa con, búp bê cho ta chơi, cứ nói ta giống như trẻ nít chẳng hiểu biết gì. Sau này vết thương lành hẳn, y càng lúc càng lộ vẻ không vui. Ta nhịn không nổi phải hỏi tại sao, thì y nói: “Ta không nỡ xa nàng.” Ta đáp: “Thế thì ta ở đây với ông.” Y rất vui mừng, vừa hò hét vừa nhào lộn giữa hai ngọn cây lớn trên đỉnh núi, hệt như một con khỉ vậy.

Y kể: “Ta có một tấm bản đồ, vẽ nơi chôn giấu một kho báu cực lớn, chứa kim ngân châu báu nhiều đến mức không tưởng tượng nổi. Trước đây Yến Vương soán vị, đánh từ Bắc Kinh đến Nam Kinh. Kiến Văn hoàng đế vội vàng chạy trốn, phải giấu toàn bộ trân châu bảo bối trong nội phủ vào một chỗ bí mật ở Nam Kinh. Khi Yến Vương tiếp vị, lục nát thành Nam Kinh mà cũng không tìm được. Yến Vương đã phái Tam Bảo thái giám tới quần đảo Nam Dương mấy lần, một là để điều tra tung tích Kiến Văn hoàng đế, hai là để tìm kiếm số châu báu này.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Thì ra tấm bản đồ giấu trong Kim Xà Bí Kíp là bản đồ kho báu đó.”

Ôn Nghi tiếp: “Y nói là Thành Tổ hoàng đế suốt đời không tìm được tấm bản đồ, thế mà mấy trăm năm sau y lại tình cờ có được. Đại thù đã báo, y phải đi tìm kho báu này, sau khi tìm được sẽ đến đón ta. Bây giờ y tạm đưa ta về nhà trước.”

Kể đến đây, giọng bà khẽ hẳn đi: “Y không nỡ rời ta. Thật ra trong lòng ta cũng có phần không nỡ, nhưng… nhưng… ta không thể tùy tiện đi theo y như vậy. Sau khi ta về nhà, mọi người không coi ta ra gì cả. Ta rất giận dữ. Họ đã không đủ bản lãnh bảo vệ con gái nhà mình, thế mà khi ta trở về thanh bạch, mọi người lại kéo đến sỉ nhục ta. Nhưng ta cứ mặc kệ, không nói gì đến họ.”

Thanh Thanh nói: “Đúng lắm! Má má có làm gì sai đâu?”

Ôn Nghi nói: “Ta ở nhà đợi mất ba tháng, rồi một đêm đột nhiên nghe dưới cửa sổ có tiếng hát. Ta vừa nghe giọng là biết ngay y đến, liền mở cửa sổ cho y vào, hai người gặp nhau mừng mừng rỡ rỡ. Đêm đó ta trao thân cho y, nên có đứa bé này. Đó là do ta tình nguyện, mãi đến bây giờ vẫn không hối hận chút nào. Người ta nói là y cưỡng bức ta, nhưng không phải vậy. Thanh nhi! Phụ thân của con đối xử với má má rất tốt. Chẳng những ông ấy yêu thương mà còn tôn trọng má má. Thủy chung ông ấy chưa làm trái ý má má lần nào.”

Viên Thừa Chí âm thầm thán phục dũng khí của bà. Nghe nhắc đến mối tình thâm hậu, bất giác trong lòng chàng nảy ra mối cảm thông.

Đột nhiên Thanh Thanh hát nhỏ: “Một bầy chim nhạn, đến từ phương Nam. Con bay thành đôi, con bay đơn lẻ. Nhạn bay đôi vui vẻ, nhạn đơn côi vất vả. Nhìn nhạn đơn côi, ta nghĩ đến chàng. Ta buồn như chàng, chàng buồn như ta.”

Giọng hát của Thanh Thanh uyển chuyển dịu dàng, tràn đầy u uất.

Ôn Nghi ủ rũ nói: “Đó là bài hát mà phụ thân của Thanh Thanh thường hát cho ta nghe. Thanh Thanh hồi nhỏ được ta bồng bế, thường nghe bài hát này. Nó nghe mãi, quả nhiên đã thuộc mấy khúc.”

Viên Thừa Chí nói: “Lúc đó chắc Hạ tiền bối đã tìm được kho tàng rồi?”

Ôn Nghi đáp:

“Y nói là chưa tìm được, nhưng đã có đôi chút manh mối, chỉ vì lúc nào cũng nhớ ta nên không muốn vì tìm kho báu mà đến trễ. Khi y nói đến chuyện kho báu, ta không để ý nghe lắm. Hai ta bàn bạc, định sáng hôm sau lén lút trốn đi. Lúc đó ta hoan hỉ vô cùng, không phòng bị gì cả, không ngờ mình nói gì cũng bị nghe trộm hết.

Sáng hôm sau, trời chưa sáng hẳn, ta đã thu dọn quần áo rồi viết thư để lại cho gia gia, đang định lẻn đi thì bỗng có người gõ cửa. Dĩ nhiên ta rất sợ. Y bèn nói: “Không sao! Dù có thiên binh vạn mã, hai ta cũng phải rời khỏi đây.” Y cầm Kim Xà Kiếm, ra mở cửa phòng. Đại bá bá, Nhị bá bá và gia gia bước vào. Ba người đều khoác trường bào, tay không binh khí, trên mặt mỉm cười, hoàn toàn không ra vẻ thù địch. Chúng ta thấy vậy không khỏi kinh ngạc.

Gia gia nói: “Việc của hai ngươi, chúng ta biết cả rồi. Đây cũng là oan nghiệt kiếp trước. Lần trước ngươi không giết ta, ta đã hiểu rồi. Từ nay về sau chúng ta kết thành thân thích, quyết không động đao thương nữa.”

Y tưởng gia gia sợ mình tiếp tục giết người, bèn nói: “Ông yên tâm, ta đã hứa với lệnh tiểu thư từ lâu rồi, không làm hại gia đình ông nữa.”

Gia gia nói: “Nhưng lén lút trốn đi thế này thì không được. Ngày mai phải cưới gả đàng hoàng, bái đường nghiêm chỉnh.” Y lắc đầu không tin, gia gia bèn nói: “A Nghi là đứa con gái thương yêu độc nhất của ta. Ta không thể để nó bỏ trốn với người khác, suốt đời không ngẩng đầu lên được.” Y thấy câu này có lý, nào ngờ vì nghĩ đến ta mà bị gạt.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Lệnh tôn lừa gạt ông ấy, không phải thật lòng ư?”

Ôn Nghi gật đầu, lại nói:

“Gia gia dọn phòng khác cho y nghỉ ngơi, để chuẩn bị lo đám cưới. Y không tin tưởng, nên thức ăn và rượu gia đình ta bưng tới, y đều cho chó ăn trước. Chó ăn vào hoàn toàn vô sự, thế mà y vẫn không yên tâm, hoàn toàn không chạm môi vào. Đến khuya y đem đổ hết, rồi chạy lên thị trấn Tịnh Nham mua thức ăn.

Một đêm, mẹ của ta đem một chén chè hạt sen tới, bảo ta: “Con bưng chén chè này cho huynh ấy ăn đi.” Ta không biết, lại nghĩ mẹ thương mình, nên hoan hỉ bưng vào phòng. Y thấy ta đích thân bưng vào, vui vẻ chẳng phòng hờ gì cả. Ăn mấy miếng, đang nói chuyện, đột nhiên sắc mặt y đổi hẳn, lập tức đứng dậy quát lên: “A Nghi! Sao cô ác thế?” Ta hoảng sợ hỏi lại: “Chuyện gì?” Y hỏi: “Sao cô hạ độc ta?”

“Sao cô hạ độc ta?” Câu này được Ôn Nghi nói ra nhẹ nhàng, nhưng người ta nghe mà phát sợ. Viên Thừa Chí nghĩ đến lúc đó Kim Xà Lang Quân vừa tức giận vừa đau lòng thế nào, bất giác chàng dựng tóc gáy lên, Thanh Thanh cũng vậy. Nước mắt của Ôn Nghi rơi lã chã xuống vạt áo, bà không nói tiếp được nữa.

Trong màn đêm vắng lặng, đột nhiên ngoài đình vang lên những tiếng cười độc ác. Ba người quay lại, thấy năm lão già họ Ôn sánh vai nhau bước đến, phía sau còn khoảng hai ba chục người tay cầm binh khí.

Ôn Phương Sơn hét lên: “A Nghi! Ngươi đem chuyện xấu xa của mình nói cho người ngoài nghe, còn biết thể diện là gì không?”

Ôn Nghi đỏ mặt lên muốn trả lời ngay, nhưng bà cố nén, quay lại bảo Thừa Chí: “Mười chín năm nay, ta chưa nói một câu nào với gia gia. Từ nay về sau, ta cũng không nói chuyện với ông ấy. Ta không muốn ở trong nhà họ Ôn này từ lâu rồi, nhưng đã có Thanh Thanh nên chẳng đi đâu được. Hơn nữa ta vẫn mong y chưa chết, sẽ có ngày đến đây tìm ta. Nếu ta rời khỏi đây, thì làm sao y tìm ta được? Bây giờ y đã chết rồi, ta không còn gì phải lo lắng nữa. Ta không sợ họ. Viên tướng công có sợ họ không?”

Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời, Thanh Thanh đã cướp lời: “Nhất định Thừa Chí đại ca không sợ.”

Ôn Nghi nói: “Được! Vậy ta kể tiếp.”

Bà tiếp tục nói lớn tiếng: “Lúc đó ta khóc òa lên, không biết nói gì làm gì cho phải. Đột nhiên cửa phòng bị đá bật ra, rất nhiều người cầm đao thương ùa vào trong.”

Bà chỉ ra ngoài đình mà nói:

“Lúc đó chính là những người này đứng ở cửa phòng. Họ… họ… đều nắm sẵn ám khí. Dù sao gia gia đối với ta cũng còn chút xíu tình phụ tử, bèn kêu gọi: “A Nghi, ra đây!” Ta biết, họ chỉ đợi ta ra ngoài là lập tức phóng ám khí vào. Gian phòng nhỏ xíu, y trốn vào đâu được? Ta la lên: “Ta không ra! Muốn giết thì giết cả hai cùng lúc đi.” Ta đứng cản trước mặt y, trong lòng chỉ có một ý niệm: “Phải hứng hết ám khí cho chàng! Không để bọn ác nhân làm hại chàng.”

Y đang ngồi trên ghế chau mày suy nghĩ, tưởng ta cố ý hạ độc, vì thương tâm nên không muốn phản kháng gì nữa. Nghe ta nói vậy, đột nhiên y nhảy chồm dậy, mừng rỡ hỏi: “Muội không biết trong chén chè hạt sen này có thuốc độc à?”

Ta bưng cái chén đó lên, thấy trong chén còn một ít nước chè, vừa dốc vào miệng vừa nói: “Muội sẽ cùng chết với huynh.” Y vẫy tay đánh rơi cái chén, nhưng ta đã uống rồi.

Y mỉm cười nói: “Được! Hai ta chết chung, tuyệt diệu.” Rồi y quay lại mắng: “Các ngươi lén hạ độc, dùng thủ đoạn đê tiện như thế không biết xấu hổ hay sao?”

Đại bá bá giận dữ nói: “Ai hạ độc? Ai mà hạ độc thì không phải anh hùng hảo hán. Ngươi vẫn tự coi mình bản lãnh cao siêu, hãy ra đây tỉ đấu một phen.”

Y nói: “Được!”, rồi lập tức xông ra lấy một đánh năm. Đúng là trong chè hạt sen không có thuốc độc, nhưng có Túy Tiên Mật, thuốc gia truyền của nhà họ Ôn. Chỉ uống vào một chút là từ từ mất hết sức lực, ngủ say như chết, một ngày một đêm mới tỉnh dậy được. Những người này không dùng thuốc độc để hại chết y, chỉ muốn đánh thuốc mê để từ từ hành hạ. Họ… họ thật là anh hùng hảo hán!”

Nói đến đây, ngữ khí của Ôn Nghi đầy vẻ oán hận. Nhưng tính cách bà rất dịu dàng, không biết nói những lời ác độc để mắng chửi người khác.

Ôn Phương Thi ở ngoài đình lớn tiếng quát lên: “Con tiện nhân vô sỉ này lẽ ra đã chết lâu rồi. Chúng ta nuôi nó mãi đến hôm nay, nó lại lấy oán trả ơn như vậy!”

Thanh Thanh nói: “Đúng là mẹ con ta đã ăn mười mấy năm cơm gạo trong nhà họ Ôn này, nhưng… Tứ gia gia! Hai năm nay ta đã tìm được rất nhiều kim ngân châu báu cho các ông, cho dù một trăm đời người cũng không ăn hết được. Mẹ con ta mắc nợ nhà họ Ôn này bao nhiêu, đã trả sạch sẽ rồi.”

Ôn Phương Đạt không muốn vạch xấu cho người xem lưng nữa, bèn quát lên: “Này, họ Viên kia! Ngươi dám đấu với năm lão già này không?”

Hai hôm trước Viên Thừa Chí còn nể mặt họ là trưởng bối của Thanh Thanh, nên đối xử rất lễ phép. Bây giờ đã nghe Ôn Nghi kể những chuyện hiểm độc của nhà này, chàng không nén nổi mối phẫn hận trong lòng nữa, bèn quát trả: “Hừ! Đừng nói là năm người, dù có tới mười người ta cũng không sợ.”

Ôn Nghi cười nhạt rồi nói: “Đêm hôm đó, năm anh em họ liên thủ đánh một mình y. Lẽ ra y vẫn chống đỡ được, nhưng vì đã uống Túy Tiên Mật nên càng đánh tay chân càng bủn rủn. Năm anh em họ đã luyện xong Ngũ Hành Trận, khi đánh nhau phối hợp chặt chẽ năm người như một…”

Nghe đến ba chữ “Ngũ Hành Trận”, đột nhiên Viên Thừa Chí nhớ lại Kim Xà Bí Kíp đã nói tường tận về cách phá Ngũ Hành Trận. Chàng đột nhiên hiểu hết, thì ra là thế.

Ôn Phương Sơn hét lên: “Ngươi ăn cháo đá bát, tiết lộ bí mật gia truyền.”

Ôn Nghi mặc kệ cha hét gì thì hét, vẫn kể với Viên Thừa Chí: “Y ráng sức, cố mau mau đánh ngã một trong năm người để phá Ngũ Hành Trận. Nhưng mỗi lúc y một thêm choáng váng, bước chân lảo đảo. Lúc đó ta kêu: “Huynh chạy trốn nhanh lên! Muội vĩnh viễn không phụ huynh đâu.”

Bà kể ra câu này bằng một giọng thảm khốc, có lẽ hệt như tiếng kêu đêm ấy. Thanh Thanh hoảng sợ, la lên: “Má má!”

Thừa Chí nói: “Bá mẫu về phòng nghỉ ngơi đi. Tiểu điệt nói chuyện với các vị gia gia và bá bá một lát, sáng mai sẽ đến thăm bá mẫu.”

Ôn Nghi nắm tay chàng kéo lại, la lên: “Không, không! Lòng ta đã uất ức mười chín năm rồi, đêm nay phải nói ra kỳ hết. Viên tướng công! Tướng công nghe ta nói hết đã.”

Viên Thừa Chí nghe thấy giọng bà đã pha nước mắt, bèn gật đầu đáp: “Tiểu điệt xin nghe tiếp.”

Ôn Nghi vẫn nắm chặt tay áo chàng không thả, kể tiếp:

“Họ muốn lấy mạng y, nhưng họ còn muốn phát tài hơn. Vì thế họ chỉ đánh cho y bị thương không gượng nổi, té ngã xuống đất rồi bắt lấy. Ta phóng lên người y, nhưng không biết vị thúc bá nào vung cước đá ta ra. Họ ép y giao ra tấm bản đồ vẽ kho báu. Y nói: “Bản đồ không ở trên người, ai giỏi thì theo ta mà lấy.” Họ lục lọi trên người y tỉ mỉ, quả nhiên không có bản đồ.

Họ đều thấy khó xử. Nếu thả y ra, khi thuốc mê tan hết thì không ai chế ngự được y nữa. Nhưng nếu giết y đi, thì kho báu đó vĩnh viễn không lọt vào tay mình. Cuối cùng, chính gia gia ta đưa ra ý kiến cao minh. Ha ha! Cao minh lắm, còn không phải hay sao? Lúc ấy y hôn mê ngất xỉu, ta cũng nằm bất tỉnh trên người y. Khi ta tỉnh lại thì họ đã cắt đứt hết gân tay gân chân của y rồi.

Dù y bản lãnh bằng trời, vĩnh viễn cũng không vận được kình lực ra ngoài nữa. Sau đó họ áp giải y đi lấy bản đồ, tìm kiếm báu vật. Ha ha! Cao minh lắm, có phải vậy không? Ha ha… ha ha…”

Thấy ánh mắt Ôn Nghi tán loạn, hơi thở gấp rút, thần trí có vẻ bất thường, Viên Thừa Chí bèn khuyên: “Bá mẫu! Bá mẫu về phòng nghỉ ngơi đi.”

Ôn Nghi nói: “Không! Tướng công mà đi khỏi đây là họ giết ta lập tức. Ta phải nói hết rồi mới chết được… Họ đem y rời khỏi đây, lại có hai hảo thủ phái Không Động đi theo. Ai cũng muốn tìm kiếm món hoạnh tài này. Không hiểu tại sao y vẫn thoát được. Chắc là y đã đưa họ một tấm bản đồ, nên họ vui mừng mà canh giữ lỏng lẻo hơn. Họ rất thông minh, nhưng lang quân của ta cũng chẳng dại gì. Bảy người bọn họ khi cầm được tấm đồ hình vẽ nơi chôn cất bảo tàng, sinh ra tranh đoạt lẫn nhau. Năm anh em lập kế, hại chết được hai người phái Không Động.”

Ôn Phương Thi giận dữ mắng: “A Nghi! Ngươi mà nói bừa bãi nữa thì coi chừng đấy.”

Ôn Nghi mỉm cười hỏi lại: “Ta cẩn thận làm chi nữa? Ông tưởng ta còn sợ chết hay sao?”

Bà quay lại nói với Viên Thừa Chí: “Nào ngờ tấm bản đồ đó là đồ giả. Năm người đến Nam Kinh, tìm tới tìm lui hơn nửa năm trời, tốn hết mấy ngàn lạng bạc, nhưng một đồng xu mẻ cũng không tìm được. Ha ha! Thật không có gì hứng thú hơn nữa.”

Anh em họ Ôn từ ở phía ngoài đình giương mắt giận dữ nhìn vào, nhưng sợ Viên Thừa Chí nên không dám xông lên.

Ôn Nghi ngẩn ngơ xuất thần một lúc, rồi kể tiếp. Giọng bà vừa nhỏ vừa chậm hẳn đi: “Sau khi y trốn thoát, ta không nghe tin tức gì về y nữa. Gân tay gân chân bị đứt hết, y đã trở thành một phế nhân. Tâm khí y vốn cao ngạo, nếu không chết vì đau thì cũng chết vì tức tối.”

Ôn Phương Đạt la lên: “Họ Viên kia! Ngươi đã nghe con tiện nhân đó nói đến Ngũ Hành Trận rồi chứ? Có giỏi thì ra đây mà thử một phen.”

Ôn Nghi khẽ bảo: “Tướng công rời khỏi đây đi, đừng đấu với họ.”

Bà nhẹ nhàng thở ra một hơi, lại nói: “Mối oan khuất Kim Xà Lang Quân gặp phải, cuối cùng đã có người biết rồi.”

Viên Thừa Chí từng giao đấu với anh em họ Ôn, biết nếu đơn đả độc đấu thì không có lão nào là đối thủ của mình. Nhưng nếu năm lão cùng xuất thủ, lại có Ngũ Hành Trận tập luyện nhuần nhuyễn, e rằng khó chống đỡ. Trận pháp và cách phá Ngũ Hành Trận thì chàng đã học trong Kim Xà Bí Kíp, hiểu thấu hết rồi, không sợ gì lắm.

Nhưng năm ông lão họ Ôn này lại là tôn trưởng của Thanh Thanh. Phương pháp mà Kim Xà Lang Quân truyền thụ thì hiểm độc vô cùng, chàng không muốn dùng. Vì thế mà Viên Thừa Chí ngần ngừ một lúc.

Ôn Phương Thi lại la lên: “Sao? Không dám ư? Vậy thì ngoan ngoãn lạy mỗi người ba cái, chúng ta sẽ thả ngươi đi.”

Lão cười khẩy rồi tiếp: “Để lát nữa thì muốn lạy cũng không được đâu.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình cần thì giờ để suy tính đàng hoàng.” Chàng vừa bước chân ra chốn giang hồ, kinh nghiệm còn rất nông cạn, không như những tay lão luyện giang hồ hễ gặp vấn đề nan giải là lập tức có đối sách ngay.

Chàng bèn dõng dạc nói: “Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn lợi hại vô cùng, vãn bối cũng muốn mở rộng kiến văn một chút. Nhưng bây giờ vãn bối đang rất mệt, xin nghỉ một giờ có được không?”

Ôn Phương Nghĩa lẹ miệng đáp ngay: “Một giờ thì một giờ, dù ngươi nghỉ tới mười ngày nửa tháng cũng không thoát được.”

Ôn Phương Sơn khẽ nói: “Coi chừng thằng lỏi này sử dụng ngụy kế gì.”

Ôn Phương Đạt nói: “Nhị đệ đã hứa rồi, cứ để nó sống thêm một giờ nữa, khỏi phải oán trách mà chết.”

Ôn Nghi lo lắng nói: “Viên tướng công! Tướng công đừng để họ lừa. Họ tàn ác đã quen, đâu có lòng tốt mà cho tướng công nghỉ ngơi một giờ? Nhiều năm nay họ vẫn không quên được kho báu đó. Họ muốn tìm cách ám hại tướng công, cắt đứt gân tay gân chân của tướng công, áp giải tướng công đi tìm kho báu. Tướng công mau dắt Thanh Thanh rời khỏi đây, chạy càng xa càng tốt.”

Ôn Phương Đạt nghe Ôn Nghi nói rõ dụng ý của mình, sắc mặt bỗng nửa xanh nửa trắng. Lão cười nhạt rồi nói: “Ba người bọn ngươi còn muốn chạy càng xa càng tốt nữa ư? Hừ, đâu có dễ thế? Họ Viên kia! Ngươi đến luyện võ sảnh mà nghỉ ngơi. Lát nữa chúng ta động thủ sẽ thuận tiện hơn.”

Viên Thừa Chí đáp: “Được!” Chàng lập tức đứng dậy, nghĩ bụng: “Xem ra không sử tuyệt chiêu thì không thoát thân được.”

Mẹ con Ôn Nghi đã biết Ngũ Hành Trận lợi hại, trong lòng rất lo lắng. Nhưng họ không có cách nào cản trở, đành theo chàng ra khỏi mái đình.

Vào đến luyện võ sảnh, Ôn Phương Đạt sai người thắp mấy ngọn nến lớn, rồi nói: “Khi nến cháy hết, chắc ngươi đã nghỉ ngơi đủ rồi.”

Viên Thừa Chí gật đầu, ngồi xuống một chiếc ghế đặt giữa sảnh. Ôn thị ngũ lão mỗi người lấy một chiếc ghế, ngồi thành vòng tròn bao vây chàng vào giữa. Năm lão cũng nhắm mắt nghỉ ngơi. Lại còn Ôn Nam Dương, Ôn Chính cùng mười mấy cao thủ của Kỳ Tiên Phái chia nhau ngồi trên mười sáu chiếc ghế thấp hơn, vây ở phía ngoài thành một vòng tròn lớn.

Viên Thừa Chí thấy mười sáu người này ngồi theo phương vị bát quái, đúng là phụ trợ cho Ngũ Hành Trận. Ngoài Ngũ Hành Trận lại còn Bát Quái Trận, phá trận khó càng thêm khó. Chàng ngồi ngay ngắn trên ghế, nghĩ lại tỉ mỉ tất cả các loại võ công của sư môn. Càng nghĩ chàng càng thấy bị hai mươi mốt cao thủ này tấn công thì khó khăn lắm mới tự bảo vệ được. Muốn phá trận thoát thân còn khó hơn nhiều. Thời gian kéo dài, tinh thần khí lực mình suy giảm đi, chắc chắn phải thất bại.

Giả tỉ có thể dùng khinh công Mộc Tang đạo nhân đã truyền thụ mà thoát ra khỏi trận, thì số vàng kia làm sao đoạt lại? Hai mẹ con Ôn Nghi ở lại, khó mà tránh được họa sát thân. Bây giờ phải làm sao? Ngoài việc dùng bí pháp phá trận đã chép trong Kim Xà Bí Kíp, thật không còn cách nào khác.

Lúc chàng theo bí kíp mà luyện tập, ngoài việc cảm thấy thủ pháp quá ác độc ra, còn không hiểu tại sao võ công quá phức tạp, thậm chí có nhiều chiêu thức giống như rắn bò. Trong thực chiến cho dù võ công của địch thủ cao đến đâu, đông người đến mức nào, mình cũng không thể bị tấn công cùng lúc từ bốn phương tám hướng, nên lẽ ra không cần phòng thủ tới mức không lộ chút sơ hở nào như vậy. Bây giờ chàng bị vây khốn thế này mới tỉnh ngộ ra.

Thì ra năm xưa Kim Xà Lang Quân trúng phải gian kế, bị phế tay chân. Ông trốn thoát rồi trút hết tâm trí mà sáng tạo ra bộ võ công này, là để chuyên phá Ngũ Hành Trận. Dĩ nhiên ông muốn đến Tịnh Nham để trả thù, nhưng tiếc là gân ở tay chân đều bị cắt đứt, không vận được kình lực. Ông đành suy tính tỉ mỉ, ghi lại chiêu thức vào bí kíp, hy vọng người sau làm mình hả dạ.

Viên Thừa Chí ngẫm nghĩ: “Mình vô tình mà học được bộ võ công này, nhờ thế mà hôm nay có thể thoát hiểm, lại có thể trút nỗi oán hận giúp vị ân sư chưa từng gặp mặt. Nếu dưới cửu tuyền mà ông ấy biết, nhất định sẽ rất vui mừng, không uổng một phen khổ tâm ngày trước.”

Chàng hoan hỉ mở mắt ra nhìn, thấy những ngọn nến trên bàn còn không đến một tấc. Ôn thị ngũ lão thấy mặt chàng khi lo âu khi mừng rỡ, không biết chàng đang suy tính gì. Nhưng họ nghĩ Ngũ Hành Bát Quái Trận này oai lực vô cùng nên không thèm để ý, chỉ giương mười con mắt nhìn khắp căn phòng, chỉ sợ có sơ hở để chàng chạy thoát.

Viên Thừa Chí nhắm mắt, ôn lại tỉ mỉ từ đầu đến cuối những chiêu thức phá trận ghi lại trong bí kíp. Nghĩ đến chiêu Khoái Đao Trảm Loạn Ma quyết thắng cuối cùng, chàng bỗng rùng mình một cái, mồ hôi lạnh đầy đầu, thầm la trong bụng: “Hỏng rồi! Chiêu này cố tình để lộ sơ suất, dẫn dụ đối thủ tấn công, rồi theo chỗ hở của trận pháp mà đột kích, nhưng muốn không mất mạng trước thì trên tay phải có bảo đao bảo kiếm để tự vệ. Kim Xà Lang Quân tính toán dựa theo Kim Xà Kiếm của ông. Bây giờ tay mình không có Kim Xà Kiếm, trong chốc lát làm sao tìm được bảo đao hay bảo kiếm?”

Thanh Thanh đứng bên chăm chú nhìn, bỗng thấy trên mặt chàng lộ vẻ lo lắng, mồ hôi đẫm trán. Nàng biết chưa giao đấu mà trong lòng đã chán nản khiếp sợ thì nắm chắc phần thua, nên bất giác lo lắng cho chàng.

Nến đã lụn, ngọn lửa nhấp nháy rung động, sắp tắt tới nơi. Viên Thừa Chí vẫn chưa nghĩ ra phương pháp phá trận, càng lo lắng hơn. Ngay lúc đó một đứa a hoàn bưng một chén trà tới, lên tiếng: “Tướng công! Xin dùng chén trà đường này.”

Chàng vốn đã khát nước từ lâu. Bây giờ tâm trí dồn hết về việc làm sao tìm được bảo kiếm để dùng, nên nghe mời trà là chàng nhận ngay, mơ hồ đặt lên môi, mở miệng định uống. Đột nhiên tay chàng rung động một cái, chén trà bị một mũi tụ tiễn đánh trúng, rơi loảng choảng rồi nát vụn. Thừa Chí nhìn lại thấy tay của Thanh Thanh chưa thu về kịp, biết mũi tên này do nàng phát ra. Chàng kinh hãi trong lòng, thầm la lên: “Nguy hiểm quá! Sao mình hồ đồ như thế, không đề phòng họ cho uống Túy Tiên Mật gì gì đó?”

Ôn Phương Ngộ thấy quỷ kế của mình bị Thanh Thanh lật tẩy, giận dữ không sao nhịn được. Lão ngoác mồm ra thóa mạ: “Con mẹ nó! Đẻ ra một đứa con gái đê tiện, ăn cháo đá bát thế này, đúng là tổ tông nhà họ Ôn không tích đức.”

Miệng lưỡi Thanh Thanh quyết không chịu thua người khác. Nàng nói ngay: “Tổ tông nhà họ Ôn tích nhiều đức lắm chứ? Sửa cầu, làm đường, cứu tế người nghèo, việc tốt nào cũng làm. Lại còn không cướp của, không giết người, không phóng hỏa, tuyệt đối không gian dâm bắt cóc.”

Ôn Phương Ngộ giận dữ, nhảy chồm lên định đánh. Ôn Phương Đạt vội cản: “Ngũ đệ, khoan đã! Cẩn thận thằng lỏi này.”

Thì ra lúc này, mặt mày Viên Thừa Chí rạng rỡ hẳn lên. Mũi tụ tiễn của Thanh Thanh đã nhắc chàng nghĩ đến chuyện dùng ám khí. Nhìn thấy mấy ngọn nến chập chờn, hai ngọn đã tắt ngấm, chàng bèn đứng dậy lên tiếng: “Được rồi, xin các vị chỉ giáo. Lần này phân thắng bại xong thì sao?”

Ôn Phương Đạt nói: “Nếu ngươi thắng thì cứ đem số vàng đó đi. Nếu ngươi không thắng, thì không cần phải nói nhiều.”

Viên Thừa Chí biết nếu mình thua thì dĩ nhiên tính mạng không giữ được. Chàng chỉ sợ nếu mình thắng thì họ tìm cách cãi chối, bèn nói: “Các vị hãy đem vàng ra đây. Phá trận xong là vãn bối lấy đi ngay.”

Ôn thị ngũ lão thấy chàng kề cận cái chết mà còn nói cứng, nghĩ bụng: “Cao thủ như Kim Xà Lang Quân còn bị Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn bắt được. Bây giờ chúng ta thêm mười mấy năm trời chuyên tâm nghiên cứu, sáng tạo thêm Bát Quái Trận để phụ trợ, thì làm sao ngươi trốn nổi?”

Trận thế này họ đã luyện rất thuần thục, đối phó với ba bốn chục hảo thủ vẫn còn thừa sức. Đây quả là bảo vật trấn phái của Kỳ Tiên Phái, rất ít khi sử dụng để khỏi bị người khác biết chỗ lợi hại. Lần này chỉ vì Viên Thừa Chí võ công quá cao, năm anh em người nào cũng mang tuyệt kỹ mà thảm bại trong vòng hai chiêu ba thức. Năm lão họ Ôn chỉ còn cách đem bản lãnh trấn sơn này ra sử dụng, không hơi đâu mà nghĩ đến chuyện người khác nói mình lấy đông hiếp ít.

Ôn Phương Đạt gọi gia nhân thay nến, rồi bảo Thanh Thanh: “Đem vàng ra đây.”

Thanh Thanh hối hận nghĩ: “Biết trước thế này thì đem vàng trả cho huynh ấy là xong.” Bây giờ nàng muốn trả cũng không kịp nữa, bèn xách cái bao đựng đầy vàng vào luyện võ sảnh, đặt lên bàn. Nàng nghĩ đến Viên Thừa Chí đang gặp nguy hiểm thế này mà vẫn không quên đoạt lại vàng cho An Tiểu Huệ, bất giác cơn tức giận lại nổi lên.

Ôn Phương Đạt vung tay trái quét qua cái bàn, hất cái bao đựng vàng ra. Liên tiếp những tiếng loảng xoảng, mấy chục thỏi vàng rải đầy mặt đất, sáng lóe cả mắt. Lão cười nhạt nói: “Nhà họ Ôn tuy nghèo, nhưng chừng đó vàng chưa đủ để vào trong mắt. Họ Viên kia! Nếu ngươi có bản lãnh phá được Ngũ Hành Trận thì cứ việc lấy đi.”

Nghe lão lớn tiếng, mọi người đều rút binh khí ra vây chặt Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí bỗng giật mình, nghĩ bụng: “Ngay cả trên mái nhà, họ cũng bố trí rồi. Thế thì trận pháp này làm sao hóa giải được?”

Nhưng chàng bỗng nghe Ôn Phương Thi la lên: “Trên mái nhà có người! Ai ở trên đó, mau xuống đây gặp ta.”

Trên mái nhà có người vừa cười ha hả vừa đáp: “Năm vị lão gia! Vinh mỗ đến chịu tội đây.”

Hai mươi mấy người vừa reo hò vừa nhảy xuống, người đầu tiên chính là bang chủ Du Long Bang, Vinh Thái.

Viên Thừa Chí lập tức nhẹ nhõm. Chàng nhìn Thanh Thanh một cái, thấy nàng hơi đổi sắc mặt, khẽ cắn môi.

Ôn Phương Đạt hỏi: “Lão Vinh nửa đêm quang lâm tệ xá, có gì chỉ giáo không? Ái chà! Lữ Thất tiên sinh cũng đến rồi.” Vừa nói lão vừa chắp tay chào một ông lão đứng phía sau Vinh Thái.

Ông lão đó trả lễ rồi nói: “Thì ra các vị huynh đệ đều khỏe mạnh cả. Đã lâu năm chúng ta không gặp mặt nhau.”

Vinh Thái mỉm cười nói: “Năm vị lão gia thật là có phước, sinh được một đứa cháu gái võ công đã cao, mưu kế lại khá. Không những Sa lão đại và mười mấy huynh đệ mất mạng dưới tay cô ấy, ngay cả Vinh mỗ cũng chịu phần thua thiệt.”

Ôn thị huynh đệ chưa biết chuyện xích mích giữa Thanh Thanh với những người này. Bình thường Kỳ Tiên Phái cùng Du Long Bang có đi lại với nhau. Lúc này cường địch trước mắt, dĩ nhiên họ không muốn gặp thêm phiền phức.

Ôn Phương Đạt bèn nói: “Lão huynh! Cháu gái ta có lỗi gì với lão huynh, chúng ta nhất định không bao che. Giết người thường mạng, thiếu nợ trả tiền, thế có được không?”

Vinh Thái nghe mà ngẩn ra, nghĩ bụng: “Mấy lão này từ xưa đến giờ cường hung bá đạo, sao hôm nay lại ăn nói dễ nghe đến thế? Chẳng lẽ họ sợ Lữ Thất tiên sinh hay sao?”

Y đảo mắt nhìn quanh, chợt thấy Viên Thừa Chí lại càng không hiểu nổi. Nhà họ Ôn có đại cao thủ này ở đây, Lữ Thất tiên sinh cũng chưa chắc thắng được, xem ra mình xử nhũn là hơn. Y bèn nói: “Du Long Bang cùng quý phái trước nay chưa hề xích mích. Tại hạ trước nay vẫn kính trọng các vị lão gia. Dù sao Sa lão đại cũng chết rồi, không thể sống lại được, chỉ trách hắn học nghệ không tinh. Nhưng số vàng này…”

Y đưa mắt nhìn những thỏi vàng rải rác dưới đất, nói tiếp: “Du Long bang bọn tại hạ đã theo dõi mấy trăm dặm đường, tốn không ít tâm huyết, lại có người vì đó mà mất mạng. Mọi người chúng ta đều kiếm miếng ăn trên chốn giang hồ…”

Nghe y nói đến đây dừng lại, Ôn Phương Đạt hiểu y chỉ nhắm vào đống vàng, bèn nói: “Vàng ở đây cả. Nếu huynh cần thì cứ lấy hết đi, không sao.”

Vinh Thái nghe lão nói chuyện hào phóng như vậy, cứ tưởng đó là một lời nói ngược để trêu chọc. Nhưng y nhìn lại thấy mặt lão không có chút ác ý nào, bèn đáp: “Nếu Ôn lão gia chịu tặng cho bọn tại hạ một nửa, coi như trợ cấp cho những huynh đệ thương vong của tệ bang, thì tại hạ cảm kích không ít.”

Ôn Phương Sơn bảo: “Huynh cứ lấy đi.”

Vinh Thái chắp tay lại nói: “Thế thì xin đa tạ.”

Tay y vừa buông xuống, một tên đại hán đứng sau lưng lập tức khom người xuống, nhặt những thỏi vàng. Nhưng ngón tay vừa chạm đến vàng, đột nhiên vai hắn bị đẩy một cái. Hắn cảm thấy một luồng đại lực ập tới, đứng không vững phải lùi mấy bước, ngẩng đầu lên thì thấy Viên Thừa Chí đứng trước mặt.

Viên Thừa Chí nói: “Vinh lão gia! Số vàng này là quân lương của Sấm Vương, lão gia muốn lấy thì có phần không ổn.”

Ở phương Bắc thì dĩ nhiên danh tiếng của Sấm Vương vang như sấm động, nhưng nhân vật giang hồ ở Giang Nam không biết ông lắm. Vinh Thái quay lại, mỉm cười nói với Lữ Thất tiên sinh: “Hắn định đem cái tên Sấm Vương ra hù dọa chúng ta.”

Lữ Thất tiên sinh đang cầm một ống điếu to lớn khác thường. Lão rít một hơi rồi phà khói ra, từ từ quay mình lại nhìn chòng chọc Viên Thừa Chí, ra vẻ hỏi: “Ngươi biết ta không?”

Viên Thừa Chí thấy lão vô lễ, trong lòng đã tức giận. Nhưng nhìn khí phách của lão, chàng biết đây là một nhân vật đã thành danh trong võ lâm, nên không dám khinh mạn. Chàng chắp tay thi lễ rồi hỏi: “Dường như tiền bối họ Lữ? Xin thứ lỗi, vãn bối mới đến Giang Nam nên chưa được quen biết.”

Lữ Thất tiên sinh phà khói thẳng vào mặt Viên Thừa Chí, lại rít một hơi nữa. Hai làn khói từ trong mũi lão bay ra như hai con rắn trắng, tụ lại hồi lâu không chịu tan.

Viên Thừa Chí vẫn rất bình tĩnh, không nói gì. Trên mặt Thanh Thanh tỏ vẻ tức giận, định mở miệng nói gì đó, nhưng Ôn Nghi đã vuốt nhẹ vai nàng. Thanh Thanh quay lại, thấy mẹ mình chầm chậm lắc đầu, bèn nuốt lại câu thóa mạ vào trong bụng.

Lữ Thất tiên sinh từ từ gõ ống điếu xuống nền gạch nghe lóc cóc một hồi lâu, dỗ hết tàn thuốc ra, lại từ từ nhét một ít sợi thuốc vào.

Bây giờ ngay cả Ôn thị ngũ lão cũng không nhịn nổi nữa. Họ cũng biết lão này thành danh đã lâu, năm xưa từng dùng Hạc Thần Quyền đánh bại vô số cao thủ, ống điếu trên tay lão là một món vũ khí kỳ lạ dùng để đả huyệt, cũng có thể đoạt binh khí của người khác. Nhưng bản lãnh lão thật sự như thế nào thì họ chưa được thấy.

Ôn thị ngũ lão đều mong hai bên nói chuyện không hợp rồi động thủ. Nếu Lữ Thất tiên sinh thắng thì đương nhiên là tốt, không thì lão cũng tiêu hao bớt sức lực của Viên Thừa Chí.

Lữ Thất tiên sinh từ từ lấy đá lửa trong bọc ra, gõ lách cách mấy cái. Thuốc lá còn chưa bén lửa, đột nhiên trên mái nhà có người hét lên: “Mau trả vàng cho ta!”

Một thiếu nữ và một thanh niên to lớn nhảy xuống, tiếp theo là một hán tử trung niên trạc ngoại ngũ tuần, ăn mặc kiểu người buôn bán, dáng vẻ trông rất buồn cười, tay trái cầm bàn tính, tay phải cầm cây bút. Ông này chậm rãi từ trên đầu tường nhảy xuống, không biết võ công cao thấp thế nào.

Viên Thừa Chí nhận ra thiếu nữ đó là An Tiểu Huệ, vừa mừng lại vừa lo. Chàng mừng vì có người đến giúp, nhưng lo vì không biết võ công của hai người đi cùng nàng như thế nào. Địch thủ trước mắt, ngoài Kỳ Tiên Phái lại có thêm Du Long Bang và Lữ Thất tiên sinh. Mẹ con Ôn Nghi và Thanh Thanh đã va chạm ra mặt với Ôn thị ngũ lão, tình cảnh cực kỳ nguy hiểm, không thể không cứu. Giả tỉ bản lãnh của hai người mới tới chỉ tương tự An Tiểu Huệ, thì chàng phải phân tâm lo lắng, lại càng rắc rối hơn.

Trong đám nhà họ Ôn có người bước ra chặn hỏi. Thanh niên to cao bèn la lớn: “Mau mau trả vàng lại cho chúng ta.” Y thấy những thỏi vàng rải trên mặt đất, cả mừng nói: “Ha ha! Thì ra ở đây cả.” rồi cúi xuống nhặt ngay.

Viên Thừa Chí chau mày, nghĩ bụng: “Người này hành sự lỗ mãng, e rằng công phu có giới hạn.”

Ôn Nam Dương thấy y khom xuống, bèn nhảy ra phóng cước đá vào mông. An Tiểu Huệ vội kêu lên: “Thôi sư ca, cẩn thận!”

Y nghiêng người tránh né rồi lập tức tấn công, song chưởng đẩy ra rất nhanh. Ôn Nam Dương tránh không kịp, cũng đưa song chưởng ra chống đỡ. Một tiếng “chát”, bốn chưởng giao nhau, hai bên đều lui mấy bước.

Thanh niên đó lại muốn bước lên, nhưng người ăn mặc kiểu nhà buôn bỗng gọi: “Hy Mẫn, khoan đã!”

Viên Thừa Chí nhớ lại An Tiểu Huệ đã nói, có một người sư ca họ Thôi cùng nàng hộ tống món vàng này, chỉ vì dọc đường hai người gây chuyện chia tay, nên mới sơ suất để Thanh Thanh trộm mất. Chàng đoán thanh niên này chính là cháu của Thôi Thu Sơn, tên là Thôi Hy Mẫn. Thế thì nhà buôn trông tức cười này chính là đại sư ca Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân rồi. Cây bút bên tay phải của ông phát ra ánh vàng lấp loáng, quả nhiên được đúc bằng đồng. Còn bàn toán bên tay trái thì đen sì, chắc là làm bằng sắt.

Chàng cực kỳ mừng rỡ, liền nhảy tới ngay, quỳ xuống khấu đầu rồi nói: “Tiểu đệ Viên Thừa Chí bái kiến đại sư ca.”

Người đó chính là Hoàng Chân. Ông đưa hai tay đỡ Viên Thừa Chí dậy, ngắm nghía tỉ mỉ rồi vui vẻ nói: “Chào sư đệ. Thì ra sư đệ còn trẻ như thế. Thật không ngờ được gặp ở đây.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Đại sư ca! Ân sư hiện đang ở đâu? Lão nhân gia có mạnh khỏe không?”

Hoàng Chân đáp: “Lúc này ân sư đang ở Nam Kinh. Lão nhân gia rất khỏe.”

An Tiểu Huệ bước tới nói: “Thừa Chí đại ca! Đây chính là Thôi sư ca mà muội đã nói.”

Viên Thừa Chí gật đầu chào một cái. An Tiểu Huệ thấy trên lưng Viên Thừa Chí có dính mấy cọng cỏ khô bèn đưa tay nhặt giúp, chàng mỉm cười ra vẻ cảm tạ. Thôi Hy Mẫn thấy vậy, sắc mặt bất bình thấy rõ.

Hoàng Chân quát bảo: “Hy Mẫn, sao vô lễ thế? Mau qua khấu đầu với sư thúc đi.”

Thôi Hy Mẫn thấy Viên Thừa Chí còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, trong lòng không phục nhưng cũng chậm rãi bước tới, ra vẻ muốn quỳ. Viên Thừa Chí vội nói: “Không dám!”, đưa tay cản lại.

Thôi Hy Mẫn lập tức không quỳ nữa, chỉ chắp tay hô lớn: “Tiểu sư thúc!”

Hoàng Chân lại mắng: “Cái gì mà tiểu sư thúc, đại sư thúc? Dù ngươi lớn hơn sư thúc, thì sư thúc vẫn là trưởng bối. Ta già hơn ngươi, sao ngươi không kêu ta là lão sư phụ?”

Viên Thừa Chí mỉm cười hỏi Thôi Hy Mẫn: “Thúc thúc của huynh có khỏe không? Ta rất nhớ ông ấy.”

Thôi Hy Mẫn đáp: “Thúc thúc rất khỏe.”

Lữ Thất tiên sinh thấy mấy người này gặp nhau chào hỏi, cứ liên hồi sư huynh đệ, sư thúc điệt, hoàn toàn không đếm xỉa gì tới những người đứng bên. Bây giờ lão nhịn không nổi nữa, bèn ngửa mặt nhìn lên mái nhà mà hỏi: “Loại người nào đến đây vậy?”

Lão vừa lên tiếng, mọi người đều giật mình. Thanh âm của lão chói tai kỳ lạ, vừa khàn khàn vừa nhọn hoắt, rất khó nghe.

Thôi Hy Mẫn bước lên một bước, nói: “Chỗ vàng này là của chúng ta, bị các ông đánh cắp đến đây. Bây giờ sư phụ dẫn chúng ta đến đây lấy lại.”

Lữ Thất tiên sinh vẫn ngẩng mặt nhìn trời, miệng phun khói trắng, cười nhạt mấy tiếng.

Thôi Hy Mẫn thấy lão này ỷ già nhìn người bằng nửa con mắt, tức tối nói: “Có chịu trả vàng hay không, ông nói rõ một câu đi. Còn nếu ông không chủ trương được, thì để người có thể làm chủ bước ra nói chuyện.”

Lữ Thất tiên sinh lại cười hai tiếng quái dị, rồi quay lại bảo Vinh Thái: “Ngươi nói đi, bảo thằng bé này biết ta là ai.”

Vinh Thái hét lên: “Ngươi nghe đừng hoảng sợ, vị này là Lữ Thất tiên sinh lừng danh đã lâu. Tuổi còn trẻ sao dám vô lễ như vậy?”

Thôi Hy Mẫn không biết Lữ Thất tiên sinh là ai, dĩ nhiên không hoảng sợ. Y quát lên: “Thất tiên sinh, Bát tiên sinh gì gì ta cũng mặc kệ. Hôm nay chúng ta đến đây là để đòi vàng.”

Vừa rồi Ôn Nam Dương giao đấu với y chưa phân thắng bại, trong lòng còn ray rứt, bèn nhảy ra hét lớn: “Muốn lấy vàng thì rất dễ. Nhưng phải xem thử các ngươi có bản lãnh gì không, thắng được ta rồi nói chuyện sau.”

Hắn không đợi đối phương trả lời, lập tức phóng tới đánh ra một quyền. Thôi Hy Mẫn nhất thời không đề phòng, bị đánh trúng vào vai. Y cả giận, xuất quyền đánh vào bụng Ôn Nam Dương nghe “bình” một tiếng. Hai người bị đau cùng nhảy ra, giương mắt nhìn nhau, rồi lại nhảy xổ vào.

Những tiếng bình bịch nổi lên loạn xạ, mỗi bên chớp nhoáng đã trúng mười mấy quyền. Cách đánh của hai người giống hệt nhau, phòng thủ sơ hở, tấn công liều mạng.

Viên Thừa Chí âm thầm than thở, nghĩ bụng: “Sao đồ đệ do đại sư ca dạy dỗ lại hỏng bét thế này? Nếu gặp hảo thủ, trên người trúng một hai quyền thì còn gì nữa? Chẳng lẽ Thôi thúc thúc cũng không chỉ điểm cho cháu mình được mấy chiêu hay sao?”

Chàng chưa biết Thôi Hy Mẫn tính tình thẳng thắn nóng nảy, lại không chú tâm học võ. May mà thân thể y rất khỏe mạnh, chịu vài cú đấm cũng không sao. Trong lúc hỗn chiến, y bỗng dùng hữu quyền phóng một hư chiêu. Ôn Nam Dương vừa né sang trái, tả quyền của y lập tức móc tới, đánh trúng ngay dưới cằm đối thủ. “Bình” một tiếng, Ôn Nam Dương té nhào xuống đất, ngất xỉu tại chỗ.

Thôi Hy Mẫn đắc ý nhìn sang sư phụ, chắc mẩm được khen. Nhưng y lại thấy sư phụ ra vẻ giận dữ, nên thật sự không hiểu, thầm nghĩ: “Mình thắng rồi, sao sư phụ lại trách?”

Tiểu Huệ thấy miệng y sưng vù, tai bên phải chảy máu đầm đìa, liền lấy khăn tay để lau máu cho. Nàng khẽ hỏi: “Sao huynh không tránh né, cứ nhắm mắt mà đánh như vậy?”

Thôi Hy Mẫn gắt: “Tránh né cái gì? Nếu lo tránh né thì làm sao đánh trúng hắn được?”

Lữ Thất tiên sinh vừa ồm ồm vừa the thé cất giọng: “Đánh ngã một tên lỗ mãng, có gì là đắc ý? Ngươi còn muốn vàng hay không?”

Đột nhiên lão nhảy lên đứng trên hai thỏi vàng, ống điếu trên tay ấn xuống một thỏi khác, rồi nói: “Bất kể ngươi dùng quyền đánh hay dùng chân đá, chỉ cần lấy được ba thỏi vàng dưới tay chân ta, thì tất cả những thỏi vàng này đều là của ngươi.”

Câu này vừa nói ra, mọi người đều cảm thấy lão quá ngông cuồng. Ai cũng thấy võ công Thôi Hy Mẫn không cao, nhưng kình lực khá mạnh. Chỉ dùng ống điếu đè lên thỏi vàng mà cho rằng không ai lấy được, e rằng quá xem thường người khác.

Thôi Hy Mẫn tức giận nói: “Ông đã nói rồi thì không được nuốt lời.”

Lữ Thất tiên sinh ngẩng mặt lên trời cười lớn, bảo Vinh Thái: “Ngươi có nghe không? Nó sợ ta nuốt lời kìa.”

Vinh Thái chỉ có cách cười theo, nhưng trong lòng không khỏi nghi ngờ.

Thôi Hy Mẫn nói: “Được, ta đến đây!”

Y nhảy tới ba bước, nhắm ngay vào thỏi bạc bị đè dưới ống điếu, dồn hết sức vào chân phải, ra chiêu Tảo Đường Thối đá quét ngang.

Viên Thừa Chí thấy rất rõ ràng, thầm nghĩ: “Phát đá này tối thiểu cũng nặng tới hai ba trăm cân. Công lực của Lữ Thất tiên sinh cao tới đâu cũng không thể dùng một cái ống điếu mà đè thỏi vàng không cho động đậy, trừ khi lão sử dụng yêu pháp ma thuật gì.”

Khi Thôi Hy Mẫn sắp đá tới, ống điếu của Lữ Thất tiên sinh bỗng hất nhẹ một cái, điểm vào đầu gối của y. Chân phải của Thôi Hy Mẫn lập tức tê liệt, nên phát đá giữa chừng bỗng nhiên bủn rủn rồi khom gối quỳ xuống. Lữ Thất tiên sinh chắp tay lại, vừa mỉm cười vừa nói: “Không dám! Tiểu huynh đệ hà tất đa lễ như thế.”

An Tiểu Huệ kinh hãi, vội chạy tới đỡ Thôi Hy Mẫn dậy, dẫn y đến trước mặt Hoàng Chân rồi nói: “Hoàng bá bá! Lão này giở trò gian xảo, sư bá dạy lão một phen đi.”

Thôi Hy Mẫn ngoác mồm ra thóa mạ: “Lão già này chuyên nghề ám toán, không phải là anh hùng hảo hán.”

Hoàng Chân đưa tay xoa vào hông Thôi Hy Mẫn, vỗ lên đùi giải khai huyệt đạo, rồi nói: “Chẳng lẽ ngươi trúng phải ám toán mới là anh hùng hảo hán hay sao? Thật là thán phục, thật là thán phục!”

Ông thấy thủ pháp của Lữ Thất tiên sinh thần tốc như thế, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Không ngờ ở vùng Chiết Giang hẻo lánh này lại có hảo thủ đả huyệt như thế.” Tay trái Hoàng Chân sử dụng Thiết Toán Bàn làm binh khí, chuyên môn phong tỏa đoạt lấy binh khí của đối phương, còn tay phải dùng cây Đồng Bút, dĩ nhiên cũng giỏi về đả huyệt.

Ông đưa tay gảy lên bàn toán rồi nói: “Món nợ này ta ghi vào đây. Thời buổi này giao dịch bằng tiền mặt, không cho thiếu nợ. Lữ Thất tiên sinh, ra trả nợ đi.” Ông chĩa cây Đồng Bút ra trước, bước lên để đòi nợ cho đồ đệ của mình.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình là sư đệ, chắc phải lên trước.” Chàng bèn nói: “Đại sư ca, cho tiểu đệ lên trước. Nếu tiểu đệ thất bại, sư ca hãy xuất thủ.”

Hoàng Chân thấy tuổi chàng rất trẻ, thầm nghĩ: “Dù sư đệ đã học hết võ công bản môn thì hỏa hầu cũng chưa đủ. Chưa chắc sư đệ hơn Thôi Hy Mẫn bao nhiêu, nhất định không phải là đối thủ của Lữ Thất tiên sinh. Sư phụ tuổi già mới nhận một đứa đồ đệ nhỏ như thế, nhất định thương yêu vô cùng. Nếu sư đệ gặp phải chuyện gì, sư phụ há chẳng đau lòng? Chuyện này khác hẳn Thôi Hy Mẫn ra trận vừa rồi. Tên đồ đệ bảo bối của mình võ công đã tầm thường mà tính tình lại lỗ mãng tự cao. Bắt nó chịu khổ một tí, thì sau này luyện võ có phần tốt hơn.”

Ông bèn nói nhỏ: “Sư đệ! Để sư ca lên trước.”

Viên Thừa Chí cũng nói nhỏ: “Đại sư ca! Hảo thủ bên họ rất nhiều. Năm lão già kia có một bộ Ngũ Hành Trận rất lợi hại, lát nữa còn phải ác đấu. Sư ca là chủ tướng bên mình, để tiểu đệ lên trước là hơn.”

Hoàng Chân thấy Viên Thừa Chí cố chấp đòi lên trước, thầm nghĩ: “Nghé con không biết sợ cọp, mình không nên làm cậu bé này mất hứng.” Ông bèn bảo: “Thế thì sư đệ phải cẩn thận.”

Viên Thừa Chí gật đầu rồi bước lên một bước, nói với Lữ Thất tiên sinh: “Vãn bối cũng muốn đá một cái, có được không?”

Lữ Thất tiên sinh và mọi người đều kinh ngạc nghĩ thầm: “Vừa rồi tên thanh niên to lớn kia đã nếm mùi rồi, sao ngươi còn chưa sợ chết?”

Lữ Thất tiên sinh thấy chàng trẻ hơn cả Thôi Hy Mẫn, lại càng không để vào lòng. Lão mỉm cười nói: “Được thôi! Nhưng chúng ta phải nói trước, ngươi mà thi hành đại lễ thì ta không dám nhận đâu.” Vừa nói lão vừa đưa ống điếu đè lên một thỏi vàng.

Viên Thừa Chí làm hệt như Thôi Hy Mẫn, bước lên ba bước, đưa chân phải đá quét ngang qua. Thôi Hy Mẫn thấy vậy lo lắng, la lên: “Tiểu sư thúc, kiểu này không được. Ông lão đó biết điểm huyệt.”

Năm anh em họ Ôn đã biết Viên Thừa Chí còn trẻ nhưng võ công cực cao. Họ thấy chàng đi theo vết xe đổ của Thôi Hy Mẫn, đều cảm thấy kỳ lạ. Chẳng lẽ chàng có thể giấu được huyệt đạo trên người, không sợ người ta điểm trúng?

Ánh mắt mọi người đều dồn vào chân của Viên Thừa Chí. Hoàng Chân chuyển cây Đồng Bút sang tay trái, chuẩn bị hễ thấy Viên Thừa Chí thất lợi là lập tức ra tay cứu sư đệ trước, rồi mới tấn công kẻ địch sau.

Chân phải Viên Thừa Chí quét ngang qua, sắp đá trúng thỏi vàng. Ống điếu của Lữ Thất tiên sinh nhanh như điện chớp đưa ra, điểm vào đùi Viên Thừa Chí. Nào ngờ phát cước này chỉ là hư chiêu, khi tay đối phương vừa động thì chân mình đã thu hồi. Lữ Thất tiên sinh điểm không trúng, ống điếu thừa thế đưa về phía trước. Chân phải Viên Thừa Chí vạch nửa vòng tròn, vừa tránh khỏi ống điếu vừa khều nhẹ một cái, hất thỏi vàng đó lên.

Lữ Thất tiên sinh lập tức biến chiêu, đưa ống điếu điểm vào sau lưng đối thủ. Viên Thừa Chí nghiêng người sang phải, tay trái đỡ lấy thỏi vàng, lại ném lên trời. Đồng thời chàng dùng chân trái quét vào đôi chân Lữ Thất tiên sinh đang giẫm lên hai thỏi vàng. Hai thỏi vàng đó lập tức bay lên, Lữ Thất tiên sinh loạng choạng một cái, lùi bước mới đứng vững được.

Hai tay Viên Thừa Chí bắt lấy hai thỏi vàng, vỗ vào nhau. Nghe “chát” một tiếng, hai thỏi vàng đó đã kẹp trúng thỏi vàng đang từ trên không rơi xuống. Chàng mỉm cười nói: “Ba thỏi vàng này vãn bối đã lấy được. Lời nói của lão tiền bối không có gì thay đổi chứ?”

Mấy động tác này nhanh chóng vô cùng. Mọi người hoa mắt lên một cái, khi hai đối thủ tách ra thì ba thỏi vàng đã nằm gọn trong tay Viên Thừa Chí rồi. Lúc này Thanh Thanh cười tươi như hoa, Hoàng Chân vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, An Tiểu Huệ và Thôi Hy Mẫn vỗ tay khen ngợi. Ngay cả đám Kỳ Tiên Phái cũng không nén nổi phải hoan hô vang dội.

Mặt của Lữ Thất tiên sinh đỏ tận mang tai, không nói được tiếng nào. Tả chưởng lão “vù” một tiếng, rít gió đánh vào người Viên Thừa Chí. Chưởng vừa phát ra, chân trái lại xoay nửa vòng tròn, mượn đà đá tới hông của đối phương. Đây chính là quái chiêu của Hạc Hình Quyền. Hai chưởng giống như hai cánh của một con tiên hạc đang bay tới, hai chân co rút lại lúc dài lúc ngắn, giống hệt những con bạch hạc đang đánh nhau. Lão đã giấu cái ống điếu vào tay áo bên phải, hai chưởng xoay ngược lại, xòe ra cụp vào thật là linh động.

Viên Thừa Chí chưa từng gặp phải loại quái quyền này, cũng chưa nghe sư phụ nhắc đến. Nhất thời chàng không dám đến gần, chỉ chạy vòng quanh lão, càng chạy càng nhanh.

Lữ Thất tiên sinh thấy Viên Thừa Chí không dám đến gần mình, nghĩ bụng: “Thằng lỏi này chỉ có thân thủ nhanh nhạy, còn công lực thì nông cạn.” Lão lại nổi lòng khinh thị, cười ha hả rồi lấy cái ống điếu trong tay áo ra, rít một hơi dài, phà một làn khói trắng.

Chạy được mấy vòng, Viên Thừa Chí đã hơi hiểu chưởng pháp của đối thủ. Thấy lão hút thuốc khinh địch rất hợp với tâm ý của mình, chàng đột nhiên tung người lên, tống ngay một quyền vào giữa sống mũi của lão.

Lữ Thất tiên sinh giật mình đưa ống điếu ra cản trở, nhưng quyền của Viên Thừa Chí đã biến thành chưởng, áp lên ống điếu rồi xoay tay nắm lại. Lữ Thất tiên sinh vội vận sức kéo về. Viên Thừa Chí biết trước, nhân lúc lão kéo ngược về để lộ sơ hở dưới nách phải, bèn đưa tay điểm trúng huyệt Thiên Phủ của lão.

Lữ Thất tiên sinh vừa đau nhói vừa tê chồn, té nhào xuống đất, ống điếu đã rời khỏi tay.

Viên Thừa Chí liếc lại thấy Thanh Thanh mỉm cười nhìn mình, bèn nghĩ: “Để cô ấy vui vẻ một chút.” Chàng bèn xoay ngược ống điếu lại, kề vào bộ râu của Lữ Thất tiên sinh. Tẩu thuốc vừa được lão rít một hơi, lửa còn hừng, nên chòm râu của lão lập tức bén lửa, một làn khói xanh bay lên.

Hoàng Chân la lên: “Chết rồi! Hỏng bét! Lữ Thất tiên sinh lấy râu làm thuốc hút.”

Viên Thừa Chí hé miệng thổi vào tẩu thuốc. Tro bụi, tàn lửa và râu cháy dở cùng lúc bay lên, dính đầy mặt Lữ Thất tiên sinh.

Hoàng Chân cười ha hả, nhảy tới vừa vỗ vừa nắm vào người Lữ Thất tiên sinh để giải khai huyệt đạo. Ông tiện tay giật lấy cái ống điếu, nhét trở vào trong tay lão.

Lữ Thất tiên sinh lồm cồm đứng dậy, ngẩn ra một lúc. Lão thấy mọi người nhìn mình ra vẻ như cười mà không phải là cười, tức đến xanh mặt, quẳng ống điếu xuống đất, lập tức quay lưng bỏ chạy.

Vinh Thái la lên: “Lữ Thất tiên sinh!” Y nhặt cái ống điếu, đuổi theo nắm lấy tay áo của lão, nhưng bị lão dùng sức hất ra. Vinh Thái loạng choạng rồi đứng lại. Còn Lữ Thất tiên sinh thì cắm đầu chạy thẳng, nhất quyết không dừng bước.

Thôi Hy Mẫn hỏi: “Sư phụ! Lão đó thua trận thì thôi, sao lại quẳng cả ống điếu đi?”

Hoàng Chân trả lời rất nghiêm chỉnh: “Lão cai thuốc rồi.”

Thôi Hy Mẫn gãi gãi đầu, không hiểu được tại sao thua trận lại phải bỏ hút thuốc. Y không dám hỏi sư phụ nữa, bèn nhìn An Tiểu Huệ mong nàng giải thích cho mình biết. Nhưng An Tiểu Huệ cứ đứng nhìn theo Lữ Thất tiên sinh đang bỏ chạy mà cười khanh khách.

Hồi 07: Phá trận nhờ bí kíp – Bản đồ chỉ kho tàng

Bọn Kỳ Tiên Phái đã từng chứng kiến võ công của Viên Thừa Chí thì còn đỡ, chỉ tội cho đám bang chúng Du Long Bang. Xưa nay chúng vẫn coi Lữ Thất tiên sinh như một vị thiên thần, bây giờ thấy Viên Thừa Chí còn quá trẻ mà chỉ cất tay đã đánh cho lão đại bại cúp đuôi bỏ chạy, đều không khỏi chấn động hồn xiêu phách tán.

Tuy nhiên người bị chấn động nhất là Hoàng Chân. Ông thấy cái khều của Viên Thừa Chí vào dưới nách Lữ Thất đúng là tuyệt kỹ Thiết Chỉ Khuyết của phái Hoa Sơn. Nhưng bộ pháp Viên Thừa Chí chạy vòng quanh đối phương, và thủ pháp dùng hai tay cầm hai thỏi vàng kẹp lấy thỏi thứ ba, thì khác hẳn những gì ông đã tập luyện. Chiêu xoay tay đoạt lấy ống điếu của Lữ Thất thì quen thuộc, nhưng lại có ba phần kỹ xảo cổ quái, chắc chắn không phải võ công bản phái. Sở trường của võ công phái Hoa Sơn là ở chỗ nội lực mạnh, tốc độ nhanh. Không hiểu sư phụ lúc tuổi già có sáng tạo ra những chiêu thức tân kỳ, dạy cho người tiểu sư đệ này hay không, nhất thời ông không suy nghĩ cho thấu đáo được.

Hoàng Chân đưa tay gảy lách cách những hạt châu trên bàn tính, lên tiếng: “Vừa rồi lão gia kia đã nói, chỉ cần ba thỏi vàng bị nhích động là tất cả vàng ở đây đều trả lại. Tại hạ xin đa tạ trước.”

Nói xong, ông chắp tay thi lễ rồi bảo Thôi Hy Mẫn: “Nhặt đi.” Thôi Hy Mẫn bèn cúi xuống nhặt vàng.

Vinh Thái nhìn những thoi vàng sáng chói sắp rơi vào tay người khác, trong lòng không sao yên được. Y biết rõ Viên Thừa Chí đứng bên là đại cao thủ, công phu của mình không thể thắng được, nhưng luật lệ giang hồ là người nào gặp người đó có phần. Du Long Bang vì chỗ vàng này đã tổn thất nhiều nhân mạng, dù không được một nửa cũng phải được một phần ba mới phải.

Vinh Thái thấy Thôi Hy Mẫn võ công bình thường dễ bắt nạt, liền chạy đến tranh cướp, kề vai hất vai Thôi Hy Mẫn ra ngoài. Thôi Hy Mẫn lùi lại mấy bước, giận dữ hỏi: “Sao? Ông cũng muốn phân thắng bại với ta hay sao?”

Thấy thân pháp của Vinh Thái, Hoàng Chân biết đồ nhi của mình không phải là đối thủ, bèn quát lên: “Hy Mẫn, lùi ra.”

Sau đó ông bước tới, chắp tay mỉm cười nói: “Phát tài, phát tài! Xin hỏi lão bản đây là ông chủ cửa tiệm nào, trước nay buôn bán những thứ hàng gì? Chắc chắn buôn bán tấp nập, thuyền đầy tứ bể, hàng hóa trùm hết dương gian.”

Hoàng Chân xuất thân nhà buôn, tính tình rất hoạt kê, mỗi khi đối địch lại xổ rặt giọng thương lái, chẳng ra vẻ gì người biết võ cả. Vinh Thái giận dữ nói: “Ai rảnh mà giỡn? Tại hạ họ Vinh tên Thái, hiện là bang chủ Du Long Bang, chưa kịp thỉnh giáo tên tuổi của các hạ.”

Hoàng Chân nói: “Tiện tính là Hoàng, Hoàng trong câu Hoàng kim vạn lạng, nghe là thấy hên rồi. Còn thảo tự chỉ có một chữ Chân, nghĩa là chân thật. Buôn bán chân thật tức là không cần trả giá; hàng hóa thật, giá cả thật. Hàng trị giá một lượng bạc, bổn tiệm không dám bán mắc một xu. Đó mới là già trẻ đều thích thú, không ai ăn hiếp ai cả. Đại lão bản cần gì, xin chiếu cố qua một chút.”

Hình như ông nói không thể hết lời được, Vinh Thái càng nghe càng tức. Hoàng Chân là khai sơn đại đệ tử phái Hoa Sơn, nhưng ở vùng Giang Nam này ít người biết ông. Vinh Thái thấy tướng mạo ông chẳng oai phong gì nên có vẻ khinh thường, hét lên: “Đem vũ khí tới đây!”

Bọn Du Long Bang lập tức đưa đến một cây thương lớn. Vinh Thái đón lấy, chĩa ra phía trước, lập tức vẫy ra trước mặt Hoàng Chân một đóa hoa thương rất lớn, cuộn gió ào ào ập tới.

Hoàng Chân bước theo bộ pháp Thất Tinh Bộ, vọt người qua trái, la lên: “Ái chà! Chúng ta là người buôn bán, thấy vàng phải lấy.” Ông cất cái bàn tính và cây bút vào trong bọc, cúi xuống nhặt những thỏi vàng.

Ôn thị huynh đệ nhìn thân thủ đã biết Hoàng Chân là kình địch, nghe nói chuyện lại biết ông là sư huynh Viên Thừa Chí. Ôn Phương Nghĩa và Ôn Phương Ngộ biết Vinh Thái chắc chắn không phải là đối thủ, nên đồng thời nhảy ra quát lớn: “Lấy vàng không dễ như thế đâu.”

Thấy hai lão này hung hãn tấn công, Hoàng Chân liền né mình nhảy qua bên phải, tay trái xuất chiêu Kính Đức Quý Tiên, chém xéo ra nghe “vù” một tiếng.

Ôn Phương Nghĩa và Ôn Phương Ngộ vừa động thủ là bước theo bộ pháp Ngũ Hành Trận ngay, đánh xong một chiêu lập tức lùi ra, nhường chỗ cho Ôn Phương Đạt, Ôn Phương Sơn bước tới. Ôn Phương Sơn đưa tay trái lên đỡ chiêu của Hoàng Chân, còn tả quyền của Ôn Phương Thi âm thầm tập kích vào sau lưng ông.

Đại đệ tử phái Hoa Sơn nói chuyện khôi hài, nhưng hành sự vô cùng cẩn thận, võ công lại cao cường, nên cả đời hiếm khi bị hạ phong thế này. Bây giờ ông bị vây trong Ngũ Hành Trận, Ôn thị huynh đệ người ra kẻ vào, người đánh kẻ đỡ, chỉ năm người mà như mấy chục người tới lui bất tận. Hoàng Chân nghĩ bụng: “Sao trận pháp này biến hóa vừa phức tạp vừa nhanh chóng đến thế?” Ông phải bảo nguyên thủ nhất, thấy chiêu nào tránh chiêu đó, không dám mạo hiểm tấn công.

Thấy Hoàng Chân bị hãm vào giữa vòng vây của Ôn thị huynh đệ, chỉ miễn cưỡng chống đỡ chứ không có cách phản công, Vinh Thái mừng thầm. Y tưởng dễ ăn, liền dùng Dương Gia thương pháp đâm vào lưng Hoàng Chân. Tiểu Huệ kinh hãi la lên: “Hoàng sư bá, cẩn thận!”

Hoàng Chân là khai sơn đại đệ tử của Mục Nhân Thanh, võ công được chân truyền của phái Hoa Sơn. Nếu năm lão họ Ôn không dùng trận pháp độc môn này, dù họ xông lên một lúc cũng chưa phải là địch thủ của ông. Tên Vinh Thái này làm sao đánh lén được? Nghe sau lưng có tiếng gió của cây thương sắt, Hoàng Chân liền xoay ngược tay chụp trúng đầu thương. Thế tay không đoạt binh khí này giống hệt như Viên Thừa Chí vừa chụp lấy ống điếu của Lữ Thất, nhưng Hoàng Chân có mấy chục năm hỏa hầu nên vừa nhanh vừa chuẩn hơn nhiều.

Ông thuận tay kéo Vinh Thái tới, đồng thời tả chưởng ra chiêu Đơn Chưởng Khai Tiên đánh trả thoi quyền của Ôn Phương Sơn đánh tới, chân phải bước lên một bước tránh được đòn cước đá từ phía sau của Ôn Phương Nghĩa.

Nghe một tiếng “Úi chà”, cây thương lớn văng lên trước, rồi Vinh Thái văng theo. Cả thương lẫn người bay qua đầu sáu người, rớt ầm xuống đất. Bọn Du Long Bang vội chạy tới dìu bang chủ dậy. Phó bang chủ cùng đại đệ tử, nhị đệ tử thấy bang chủ thất thủ, lập tức nhảy vào. Nhưng mới mấy chiêu, cả ba đã bị Hoàng Chân mượn sức của Ôn thị ngũ lão hất văng ra hết. Phó bang chủ còn bị gãy cánh tay phải. Sau đó Du Long Bang không dám tham chiến nữa.

Hoàng Chân la lên: “Ông chủ lớn, ông chủ nhỏ, ông chủ vừa vừa, ai cũng có phần. Ai cũng được té nhào một cái, không ai bị bỏ sót đâu.” Ông một mình ác đấu với Ôn thị ngũ lão tới chỗ hăng say, chỉ còn thấy sáu bóng người vờn qua múa lại. Có lúc tưởng như Hoàng Chân đã thoát khỏi vòng vây, nhưng năm người đó như bóng theo hình, lập tức vây ông lại.

Hoàng Chân âm thầm lo lắng, kêu lên: “Vốn ít lãi nhiều thì chu chuyển không linh hoạt. Hoàng lão bản này một mình buôn bán năm mặt hàng, bận rộn không thể lo liệu hết ngay, xin thứ lỗi.”

Ôn thị huynh đệ cũng không nén được kinh ngạc, không hiểu nổi tại sao một tên quê mùa thế này mà có thể tự vệ nghiêm mật đến thế. Năm lão càng đánh càng nhanh, như năm con bướm bay lượn trong vườn hoa. Có lúc một người giơ chân định đá thì đột nhiên né qua một bên, để người sau lưng phóng quyền đánh tới. Có lúc một người dang hai tay xông tới như môn đánh vật, địch thủ vừa lùi thì sau lưng có người phóng cước đá tới, phối hợp rất ăn ý.

Hoàng Chân thấy chiêu pháp địch thủ biến hóa vô cùng, mình liên tiếp gặp nguy hiểm, may mà võ công rất tinh thuần mới tránh né được. Ông hú lên một tiếng, lấy trong bọc ra Đồng Bút và Thiết Toán Bàn, nghĩ bụng: “Năm anh em hắn đánh một mình ta, đã là một vụ giao dịch không công bằng rồi. Hoàng lão bản dùng binh khí trước, không thể gọi là ăn gian. Thế mới đúng là công bằng, già trẻ đều không ăn hiếp”.

Ông bèn lấy công làm thủ, Thiết Toán Bàn vỗ ngang đập dọc, Đồng Bút quét tới điểm lui, chiêu nào cũng nhằm vào yếu huyệt của Ôn thị ngũ lão.

Ôn Phương Đạt đột nhiên huýt một tiếng sáo. Bọn Ôn Chính, Ôn Nam Dương bèn ném binh khí của năm người vào trong vòng chiến. Năm lão họ Ôn cầm đủ thứ song kích, đơn đao, nhuyễn tiên, cương trượng, cương nhu phối hợp lẫn nhau, thỉnh thoảng lại có mấy mũi phi đao phóng tới.

Phen ác đấu này so với trận tỉ thí quyền cước vừa rồi còn hung hiểm thêm mấy phần. Chuyến đi buôn này của Hoàng lão bản rõ ràng sẽ lỗ to, không chừng sạt nghiệp là khác.

Thôi Hy Mẫn thấy tình thế sư phụ nguy cấp, biết chắc mình không đủ sức, nhưng y đã quen coi chết như về. Y hét lên một tiếng, rút đơn đao ra, tung người toan nhảy vào trong Ngũ Hành Trận. Mới bước được hai bước, thấy trước mắt có người đưa tay ra ấn xuống vai mình, Thôi Hy Mẫn liền vung đao chém tới. Nhưng người kia cực nhanh, đã đè tay lên vai của y rồi. Thân hình Thôi Hy Mẫn như bị đè dưới núi đá vạn cân, nửa bước cũng không nhúc nhích được. Y đang kinh hãi thì nghe người đó nói: “Thôi huynh! Huynh không vào được đâu.”

Bây giờ y mới nhìn rõ người đó là Viên Thừa Chí. Vừa rồi Viên Thừa Chí đánh ngã Lữ Thất tiên sinh, y chưa phục lắm, nghĩ đó chỉ là may mắn nhất thời. Bây giờ người ta chỉ để hờ tay lên vai, mà mình đã tê liệt cả người, y mới biết võ công người ta cao hơn mình rất nhiều. Chuyện này khiến y vô cùng kinh ngạc.

Viên Thừa Chí thả tay ra, nói: “Sư phụ của Thôi huynh còn chống đỡ được một lúc, đừng quá lo lắng.”

Chàng đứng nhìn sáu người tỉ đấu một hồi, đột nhiên nghĩ đến một vấn đề nan giải. Viên Thừa Chí chau mày một cái, nhất thời không định được chủ ý.

An Tiểu Huệ bước đến trước mặt chàng, lên tiếng gọi: “Thừa Chí đại ca! Huynh mau đi giúp Hoàng sư bá đi. Năm người họ đánh một mình sư bá, chẳng kể gì đến danh dự nữa.”

Viên Thừa Chí đang suy nghĩ không muốn phân tâm, bèn vẫy tay bảo nàng lùi ra. Tiểu Huệ mất cả hứng thú, vừa bĩu môi vừa rời khỏi đó. Thanh Thanh thấy vậy, thầm khoái chí trong lòng.

Sáu người càng đánh càng nhanh. Mỗi lần Hoàng Chân dùng Thiết Toán Bàn định khóa chặt binh khí đối phương, ngũ lão đều tránh né được. Sáu người đánh nhau chí tử như vậy nhưng hoàn toàn không có tiếng binh khí chạm nhau. Trong đại sảnh chỉ nghe thấy tiếng gió vù vù.

Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy bật lên, đến trước mặt Tiểu Huệ mà nói: “Tiểu Huệ muội muội, đừng trách ta vô lễ. Vừa rồi ta phải suy nghĩ đến xuất thần, bây giờ đã nghĩ ra rồi.”

Tiểu Huệ dằn dỗi nói: “Lúc này là lúc nào mà còn bày đặt xin lỗi này nọ? Mau mau vào giúp Hoàng sư bá đi!”

Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta đã suy nghĩ thông suốt rồi, không sợ nữa.”

Tiểu Huệ nói: “Huynh thật là không biết vật có nặng có nhẹ, việc có chậm có nhanh. Trong lòng khó xử thì đánh xong hãy suy nghĩ sau, không được hay sao?”

Thừa Chí mỉm cười nói: “Điều mà ta suy nghĩ, chính là phương pháp để phá trận pháp này. Muội có thấy không? Binh khí của năm ông lão này từ nãy đến giờ chưa từng đụng chạm vào Đồng Bút và Thiết Toán Bàn của Hoàng sư ca.”

Tiểu Huệ nói: “Bây giờ muội mới thấy lạ.”

Thôi Hy Mẫn đã có phần thán phục Viên Thừa Chí, liền hỏi: “Tiểu sư thúc! Thế thì có nghĩa gì?”

Viên Thừa Chí nói: “Trận thế này được tính toán hoàn chỉnh, hoàn toàn không để lộ chút sơ suất nào. Nếu binh khí hai bên chạm nhau, hơi khựng lại một chút thì không tránh khỏi để lộ sơ sót. Bí quyết để phá trận, chính là tìm cách làm cho bộ pháp, phương vị của năm người này rối loạn. Chỉ cần dụ một trong năm ông lão này đi sai một bước, hoặc chậm hơn một chút, trận pháp sẽ bị phá ngay.”

Thôi Hy Mẫn lắc đầu nói: “Họ luyện nhuyễn rồi, nhắm mắt chưa chắc đã bước sai.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Đúng là họ đã luyện đến mức cực kỳ nhuần nhuyễn.” Chàng quay lại bảo: “Tiểu Huệ! Cho ta mượn cây trâm cài tóc một chút.”

Tiểu Huệ liền tháo ngọc trâm trên đầu xuống, đưa cho Viên Thừa Chí. Cây trâm ngọc này trong veo, óng ánh sắc xanh dìu dịu. Viên Thừa Chí nhận lấy, rồi đột nhiên hô lên: “Đại sư ca! Mậu Thổ sinh Ất Mộc. Sư ca hãy đạp cung Khôn, tới cung Khảm.”

Hoàng Chân ngẩn ra một cái, chưa kịp hiểu gì, Ôn thị ngũ lão đã giật mình kinh hãi: “Bí mật của Ngũ Hành Trận đã bị thằng lỏi này hiểu được rồi sao?”

Viên Thừa Chí lại kêu lên: “Bính Hỏa khắc Canh Kim. Sư ca hãy vào cung Chấn, rời cung Ly.”

Hoàng Chân đánh nhau đã lâu, dù cương mãnh tấn công trực diện hay biến hóa hư chiêu xảo diệu cũng không thoát khỏi vòng vây của năm lão này. Ông cũng đã nghĩ, trận thế này tên là Ngũ Hành Trận, chắc chắn chứa đựng nguyên lý ngũ hành tương sinh tương khắc. Nhưng ngũ lão chạy qua chạy lại như con thoi, thế công rất lợi hại, ông buộc phải dồn hết sức chống đỡ, không rảnh chút nào để suy nghĩ về trận pháp. Đột nhiên nghe Viên Thừa Chí chỉ điểm, ông nghĩ: “Thử một chút cũng hay.” Ông lập tức chạy đến cung Chấn, rời khỏi cung Ly; quả nhiên nhìn thấy một chỗ trống.

Hoàng Chân đang đảo người toan chạy ra khỏi vòng vây, đột nhiên nghe Thừa Chí la lên rất gấp: “Nhảy đến cung Càn, nhảy đến cung Càn.”

Lúc này ở vị trí cung Càn, rõ ràng có tới hai người là Ôn Phương Thi và Ôn Phương Sơn cản trở. Hoàng Chân hơi tiếc cơ hội trước mắt, nhưng không kịp suy nghĩ cho tỉ mỉ, cứ chạy tới thẳng chỗ hai lão đó. Khi ông đến gần thì quả nhiên hai lão này tách ra chạy ra hai bên, nhường chỗ Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Ngộ bọc vào nhưng không kịp. Hoàng Chân thân thủ cực nhanh, vung Đồng Bút điểm sang phải, Thiết Toán Bàn đập qua trái, đột nhiên đã ra ngoài trận, đứng bên Viên Thừa Chí.

Thế là Hoàng Chân thoát khỏi Ngũ Hành Trận. Đây là chuyện xưa nay Ôn thị ngũ lão chưa từng gặp phải, nên họ không khỏi kinh hãi. Năm người đồng thời lui ra, xếp thành một hàng ngang.

Ôn Phương Đạt nói: “Các hạ có thể thoát khỏi Ngũ Hành Trận của chúng ta, thân thủ quả bất phàm. Các hạ có phải ở phái Hoa Sơn không? Xưng hô với Mục Nhân Thanh lão tiền bối như thế nào?”

Võ công của Hoàng Chân tinh thuần, không phức tạp lung tung như Viên Thừa Chí. Ngũ lão chỉ qua lại mười mấy chiêu đã sớm biết môn phái của ông rồi.

Hoàng Chân vui vẻ đáp: “Mục lão tiền bối là ân sư của tại hạ. Đồ đệ như thế này, đã làm ân sư mất mặt rồi.”

Ôn Phương Đạt nói: “Đệ tử của Thần Kiếm Tiên Viên, hèn chi cao minh đến thế.”

Hoàng Chân nói: “Không dám, không dám! Không sợ không biết hàng, chỉ cần đem so sánh hàng này với hàng khác thôi. Chúng ta đã so sánh rồi, Hoàng tiểu lão bản này không làm gì được năm vị đại lão bản nhà họ Ôn, mà các vị cũng không bắt được tại hạ. Coi như đây là một vụ giao dịch sòng phẳng, nửa cân tám lạng. Món vàng này bây giờ phải tính sao đây?”

Ông quay đầu lại, nói với Vinh Thái: “Còn ông chủ này thì đi buôn lỗ vốn chắc chắn rồi. Món vàng này không có phần của ông chủ nữa đâu.”

Vinh Thái nhìn thấy mặt đất vàng chói không khỏi đau lòng, nhưng tự biết công phu mình kém cỏi. Y đành nói khoác mấy câu cho đỡ xấu hổ: “Họ Hoàng kia! Ngươi đừng khoa trương quá đáng. Rồi sẽ có ngày ngươi rơi vào tay ta.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Quý hiệu có món buôn bán gì, cứ việc giới thiệu cho bản hiệu. Hàng xấu thì bán rẻ một chút cũng không sao. Các vị đã là thân chủ lâu năm, giá cả có thể thương lượng đặc biệt.”

Vinh Thái đã biết mình không đánh nổi. Họ Viên mới là sư đệ của ông ấy, mà Hạc thần quyền Lữ Thất tiên sinh đã phải cụp cánh lủi đi, nói gì đến mình. Y đành dẫn đám đồ đệ và bang chúng rời khỏi đó. Trước khi ra khỏi cửa, y nhịn không nổi phải liếc nhìn đống vàng rơi vãi dưới đất, đột nhiên hối hận: “Vừa rồi sáu người ác đấu, sao mình không lén nhặt mấy thỏi, chắc không bị người ta nhìn thấy. Mà có nhìn thấy thì chưa chắc đã có ai rảnh tay cản trở.”

Bang chúng Du Long Bang đều là người huyện Long Du, ở gần Cù Châu. Chúng đảo ngược hai chữ Long Du để đặt tên Du Long Bang. Người ở huyện Long Du phần lớn là chính nhân quân tử. Du Long Bang đem đảo ngược hai chữ này, chẳng trách nhân phẩm của chúng không đàng hoàng gì lắm.

Ôn Phương Đạt không đếm xỉa gì tới bọn Du Long Bang nữa, nói với Hoàng Chân: “Các hạ võ công đầy mình, có thể coi là hào kiệt đương thời. Thôi thì thế này, chúng ta nể mặt các hạ, xin trả lại một nửa số vàng.”

Ôn Phương Đạt khiếp sợ oai danh phái Hoa Sơn, không muốn kết thêm oan gia, nên mới giải quyết lịch sự như vậy.

Hoàng Chân mỉm cười đáp: “Giả tỉ món vàng này của riêng tại hạ thì chẳng nói làm gì. Bây giờ thời thế không bình yên lắm, kiếm tiền không phải dễ dàng, nhưng bằng hữu đã cần thì cứ lấy dùng cũng không sao. Chúng ta đều biết, thắng bại là chuyện thường của binh gia, còn lời lỗ là chuyện cơm bữa của người buôn bán. Hòa khí sinh tài, buôn bán không lời thì nhân nghĩa vẫn còn. Nhưng lão huynh nên hiểu cho một việc, đây là quân lương của Sấm Vương. Tên đồ đệ bất tài của tại hạ chịu trách nhiệm đưa đến cho Sấm Vương, nếu tặng cho lão huynh một nửa thì làm sao tại hạ ăn nói được?”

Ôn Phương Nghĩa ra điều kiện: “Nếu các hạ đòi hết, không phải là không được. Nhưng các hạ phải ưng thuận chúng ta hai việc.”

Hoàng Chân nói: “Giá cả đã niêm yết ra là thương lượng được. Lão huynh đừng ngần ngại, giả tỉ lão huynh đòi giá trên trời thì ta vẫn có thể đứng dưới đất mà mặc cả một cách thoải mái. Lão huynh cho biết giá đi, chúng ta từ từ thương lượng, trả giá đàng hoàng.”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Không trả giá gì cả. Thứ nhất, các hạ phải đem lễ vật tới để chuộc số vàng này. Lễ vật nhiều hay ít cũng được. Đây là quy luật của chúng ta. Tiền tài châu báu đã lọt vào tay chúng ta thì không dễ gì đoạt lại.”

Hoàng Chân biết, câu nói này chỉ cốt giữ thể diện mà thôi. Xem ra đối phương đã chịu trả toàn bộ số vàng, kết thêm oan gia chỉ có hại. Ông lập tức dẹp vẻ cười đùa, nghiêm chỉnh nói: “Ôn gia đã dặn dò, tại hạ dĩ nhiên tôn trọng. Sáng mai tại hạ sẽ vào thành Cù Châu, sắm một phần lễ trọng đưa tới, rồi đặt tiệc mời những bằng hữu có thể diện ở địa phương đến uống mấy ly để tỏ lòng cảm tạ quý vị.”

Ôn Phương Nghĩa nghe ông nói chuyện đàng hoàng, “hứ” một tiếng rồi nói tiếp: “Việc này coi như xong. Còn việc thứ hai, chúng ta phải giữ Viên lão đệ lại đây.”

Hoàng Chân ngẩn ra, nghĩ bụng: “Vì các ngươi chịu trả lại vàng nên ta đã nể mặt lắm rồi, thế mà còn kiếm chuyện làm phiền. Có mặt ta ở đây, làm sao các ngươi bắt nạt tiểu sư đệ được!”

Hoàng Chân không biết quan hệ bên trong phức tạp thế nào. Viên Thừa Chí đã biết bí mật giữa Kim Xà Lang Quân và Ôn Nghi, thì ngũ lão phải giết được chàng mới yên lòng. Lại còn việc quan trọng nhất, là phải dựa vào Viên Thừa Chí để tìm tấm bản đồ kho báu của Kim Xà Lang Quân. Tuy Ôn thị ngũ lão đã biết võ công của chàng cao cường, nhưng vẫn tự tin Ngũ Hành Trận của mình ảo diệu vô song, có thể kiềm chế được Viên Thừa Chí.

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Sư đệ của tại hạ ăn uống rất nhiều. Các vị muốn giữ nó lại chơi sáu tháng một năm cũng là chuyện tốt, chỉ sợ các vị tốn kém, lỗ vốn không chịu nổi.”

Ôn Phương Đạt cười nhạt nói: “Viên lão đệ vừa chỉ điểm cho các hạ thoát khỏi trận thế của chúng ta, nhất định đã hiểu bí quyết bên trong. Ta phải mời y thử một phen.”

Thì ra Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn có tới năm bộ trận pháp. Vừa rồi họ đối phó với Hoàng Chân chỉ dùng bộ Mậu Thổ, còn rất nhiều biến hóa kỳ lạ chưa đem ra hết. Ôn Phương Đạt nghĩ: “Ngươi vừa bị ép đến nỗi chỗ nào cũng suýt bị đánh trúng, tuy may mắn thoát khỏi vòng vây, nhưng chưa làm sứt mẻ đến trận pháp tí gì. Sư đệ của ngươi đứng ngoài thấy rõ ràng hơn, nên mới nhìn ra một chút manh mối. Nếu bản thân hắn bị vây vào trong trận, nhất định không khỏi mê man mờ mịt.” Vì thế lão thách thức Viên Thừa Chí không chút ngần ngại.

Hoàng Chân đã biết mùi lợi hại của trận pháp này, thầm nghĩ: “Mấy chục năm công lực của mình còn chưa đủ để thoát thân. Về thuật số tương sinh tương khắc của ngũ hành bát quái, sư phụ chẳng giỏi gì lắm, chưa từng dạy ta, chắc tiểu sư đệ không tinh thông được. Vừa rồi sư đệ chỉ điểm mấy câu, có thể vì đứng ngoài nhìn kỹ mà đột nhiên thấy chỗ sơ hở. Nếu phải tiếp chiêu với họ, năm địch thủ chạy qua chạy lại liên miên bất tuyệt, thì sư đệ làm sao đối phó nổi?”

Ông không biết Viên Thừa Chí học từ chỗ khác mà hoàn toàn hiểu rõ những biến hóa của trận pháp này. Hoàng Chân bèn nói: “Trận pháp của các vị rất lợi hại, tại hạ đã lãnh giáo rồi. Tiểu sư đệ của tại hạ còn nhỏ tuổi hơn cháu chắt của các vị lão gia, hà tất phải làm khó dễ y. Nếu các vị thật sự thấy y không vừa mắt, thì cử một vị ra dạy dỗ y một chút là được rồi.”

Câu này nghe thì khiêm tốn, thật ra là chèn ép ngũ lão, yêu cầu họ đơn đả độc đấu. Hoàng Chân đã thấy thân thủ của sư đệ đánh ngã Lữ Thất tiên sinh, tin rằng lấy một đánh một thì chàng không đến nỗi thua.

Ôn Phương Sơn cười nhạt nói: “Phái Hoa Sơn danh tiếng không vừa, thế mà gặp phải Ngũ Hành Trận nho nhỏ này thì lập tức hoảng sợ co đầu rút cổ. Từ nay về sau các vị đừng ra chốn giang hồ mà khoác lác nữa.”

Thôi Hy Mẫn giận dữ, từ sau lưng Hoàng Chân nhảy ra, quát lớn: “Ai nói phái Hoa Sơn chúng ta sợ các ngươi?”

Ôn Phương Sơn mỉm cười nói: “Ngươi cũng là nhân vật phái Hoa Sơn phải không? Hà hà… thật là lợi hại. Thế thì ngươi đến đây.”

Thôi Hy Mẫn tưởng lão khen mình lợi hại thật, toan nhảy ra động thủ ngay. Viên Thừa Chí vội đưa tay giữ lại, khẽ bảo: “Thôi đại ca, để ta lên trước. Nếu ta gặp nguy, huynh hãy đến giúp một tay.”

Thôi Hy Mẫn gật đầu nói: “Được! Lúc nào tiểu sư thúc cần ta giúp đỡ, chỉ cần gọi một tiếng Hy Mẫn là ta đến ngay. Không cần khách sáo gọi Thôi đại ca, Thôi nhị ca gì hết.”

Viên Thừa Chí gật đầu. Tiểu Huệ đứng bên bỗng phì cười một tiếng. Thôi Hy Mẫn trừng mắt lên hỏi: “Muội cười cái gì?”

Tiểu Huệ đáp: “Không cười cái gì cả. Tự nhiên muội muốn cười.”

Thôi Hy Mẫn định hỏi nữa, nhưng Viên Thừa Chí đã bước ra trước, tay vẫn cầm cây ngọc trâm. Chàng nói: “Ngũ Hành Trận của Kỳ Tiên Phái thật là kỳ diệu, vãn bối trước nay chưa từng được thấy.”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Ngươi miệng còn hôi sữa, dĩ nhiên còn rất nhiều thứ chưa được thấy, đừng nói là Ngũ Hành Trận của chúng ta.”

Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Đúng vậy, kiến thức vãn bối rất nông cạn. Các vị lão gia muốn giữ vãn bối lại chơi, đó cũng là mong ước của vãn bối. Bây giờ xin thỉnh giáo Ngũ Hành Trận bí ảo của các vị lão gia một phen.”

Thôi Hy Mẫn lo lắng nói: “Tiểu sư thúc! Chúng không giữ sư thúc lại chơi tử tế đâu. Sư thúc đừng bị chúng lừa.”

Tiểu Huệ lại cười khúc khích. Viên Thừa Chí bảo Thôi Hy Mẫn: “Các vị lão gia không chấp nhặt bọn trẻ chúng ta đâu. Thôi đại ca cứ yên tâm đi.”

Chàng quay đầu lại nói với ngũ lão: “Vãn bối học nghệ chưa tinh, võ công phái Hoa Sơn chỉ biết một chút thô thiển bề ngoài. Xin các vị lão gia hạ thủ lưu tình.”

Mọi người nghe chàng nói năng mềm mỏng như có phần khiếp sợ, nhưng thần sắc lại chẳng lo lắng gì lắm, đều không biết Viên Thừa Chí đang suy tính thế nào. Còn Hoàng Chân thì âm thầm lo lắng, nhưng không tiện cản trở sư đệ, trong lòng cứ nghĩ: “Ôi! Vụ giao dịch này không nên làm.”

Ôn thị ngũ lão đã biết công lực của Viên Thừa Chí, không dám khinh suất. Năm người vẫy tay ra hiệu, Ôn Phương Nghĩa, Ôn Phương Sơn bước qua bên phải; Ôn Phương Thi, Ôn Phương Ngộ quay sang bên trái. Chỉ mấy bước là trận thế đã bày ra, vây Viên Thừa Chí vào giữa.

Viên Thừa Chí chẳng lo âu gì, chắp tay hỏi: “Bây giờ chúng ta bắt đầu luyện tập hay sao?”

Ôn Phương Đạt lạnh nhạt bảo: “Ngươi lấy binh khí ra đây.”

Viên Thừa Chí giơ cây ngọc trâm bên tay phải ra, nói: “Các vị là trưởng bối, vãn bối đâu dám vô lễ mà động đao thương? Xin dùng cây ngọc trâm này lãnh giáo mấy chiêu của các vị lão gia.”

Câu này vừa nói ra, mọi người đều kinh hãi, cảm thấy người này quá ngông cuồng. Ngọc trâm không giết chết được một con bọ, chỉ đụng nhẹ là gãy ngay, làm sao đỡ được cương trượng, đao, kích trong tay ngũ lão? Hồ đồ bừa bãi như thế, thật chẳng khác nào tự sát. Thanh Thanh vô cùng lo âu, nhưng chỉ biết than thầm: “Phải làm sao đây?”

Hoàng Chân biết lúc này không khuyên can được nữa, thầm nghĩ: “Nhất định tiểu sư đệ đã được sư phụ nuông chiều thành tính, mới bước vào giang hồ không biết trời cao đất rộng gì cả.” Ông nắm chặt Đồng Bút và Thiết Toán Bàn, lại nghĩ: “Nếu sư đệ gặp nguy, ta phải lập tức cứu viện. Phen này vì báo đáp ân sư, dù mất cái mạng già này cũng không tiếc.”

Ông hạ giọng dặn dò Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ: “Địch thủ mạnh vốn quá, chúng ta ít tiền không chống nổi, chuyến buôn này chắc chắn lỗ lã. Lát nữa khi ta bảo các ngươi chạy, thì hai ngươi phải lập tức nhảy lên mái nhà mà chạy ra ngoài. Ta và Viên sư đệ lo phần đoạn hậu. Bất kể hung hiểm thế nào, các ngươi tuyệt đối không được quay lại trợ giúp. Còn số vàng này thì đừng nghĩ đến nữa.”

Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ đều vâng dạ.

Hoàng Chân đã tính đến chuyện liều mạng cản địch, tìm cách cứu sư đệ thoát hiểm. Việc này không khó, chỉ cần hai người Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ không bắt mình phải lo lắng là được. Hôm nay thua trận bỏ chạy là nhục nhã, nhưng cứ tạm thời nhẫn nại. Sau này hẹn đủ năm cao thủ phái Hoa Sơn đồng thời tấn công, nhất định có thể phá được Ngũ Hành Trận. Lúc đó mới hỏi lại năm lão già này, có phải phái Hoa Sơn chỉ có hư danh hay không.

Năm người mà ông dự tính, ngoài ông thì có vợ chồng Nhị sư đệ Quy Tân Thụ, đại đệ tử Bát diện oai phong Phùng Nhân Địch của ông, lại thêm sư phụ Mục Nhân Thanh chủ trì. Chỉ cần chia ra tập kích Ôn thị ngũ lão, không cho năm lão này hợp sức tấn công, thì Ngũ Hành Trận không thành vấn đề. Nói đến đơn đả độc đấu, thì Ôn thị ngũ lão nhất định không phải là đối thủ của mình.

Hoàng Chân vẫn mỉm cười vui vẻ, nhưng trong lòng mưu kế sâu xa, chưa nghĩ thắng đã lo bại trước rồi. Ông định xong kế sách thoát thân trước mắt, rồi sắp đặt kế hoạch báo thù ngày sau. Trong những người mà ông chọn để phá Ngũ Hành Trận không có Viên Thừa Chí, vì ông nghĩ rằng công lực của tiểu sư đệ còn nông cạn, không bì được Phùng Nan Địch, môn đồ đắc ý của mình.

Bỗng nghe Viên Thừa Chí hỏi: “Các vị lão gia đã có lòng chỉ giáo, sao còn giấu giếm, không cho vãn bối được thấy toàn bộ tuyệt kỹ này?”

Ôn Phương Đạt ngạc nhiên hỏi: “Cái gì mà toàn bộ với không toàn bộ?”

Viên Thừa Chí nói: “Các vị ngoài Ngũ Hành Trận ra, còn có Bát Quái Trận để hỗ trợ. Sao không bày ra cùng lúc, để vãn bối có thể mở rộng tầm nhìn?”

Ôn Phương Nghĩa thét lên: “Chính ngươi tự nói đấy nhé! Ta sẽ cho ngươi được chết mà không oán trách.”

Lão quay lại, gọi bọn Ôn Nam Dương: “Các ngươi đến đây!”

Ôn Nam Dương vẫy tay một cái, cùng mười lăm người anh em đồng thời tung người ra. Ôn Nam Dương hét lên một tiếng, mười sáu người bắt đầu chạy quanh ngũ lão, người chạy sang trái, người vòng sang phải, chạy qua chạy lại như thoi đưa. Trong mười sáu người này có Ôn Nam Dương, Ôn Chính, có con cháu nhà họ Ôn, cũng có đồ đệ của ngũ lão, đều là cao thủ Kỳ Tiên Phái đã đặc biệt chọn ra để luyện tòa Bát Quái Trận này.

Thấy tình hình xoay chuyển như thế, dù Hoàng Chân kiến thức rộng rãi cũng không khỏi hoảng sợ. Ông nghĩ: “Viên sư đệ thật là trẻ nít không biết gì, gây thêm nhiều chuyện phiền hà cho mình. Nếu y chỉ đấu với ngũ lão thôi, thì khi thật sự nguy hiểm ta còn có thể nhảy vào trong trận mà cứu giúp. Bây giờ bên ngoài lại thêm mười sáu người cản trở, bao nhiêu khoảng trống đều bị chúng bao vây cẩn mật, chim cũng không bay vào trong được. Chuyến buôn này đã ít vốn rồi, sao càng làm càng lớn? Không thể điều động vốn đến được, chỉ còn đường dẹp tiệm.”

Viên Thừa Chí cầm ngọc trâm bằng ngón cái và ngón giữa, tay trái nhẹ đưa lên, chân phải co lại, dùng chân trái làm trụ, thân hình đột nhiên quay tít bốn năm vòng. Chàng vừa nhúc nhích, Ôn thị ngũ lão lập tức di chuyển, phát động thế trận ngay, chăm chú nhìn xem chàng tấn công hướng nào. Nhưng Viên Thừa Chí chỉ quay quanh một chỗ như bông vụ, không di chuyển bước nào mà cũng không xuất thủ.

Trước đây Kim Xà Lang Quân đã giao đấu với Ôn thị ngũ lão, vì trúng độc nên bị bắt. Sau này ông được người cứu thoát, trốn trong sơn động dưới núi Hoa Sơn, ngày đêm cứ suy nghĩ về tình hình ác đấu lúc đó. Ông nhận ra, nếu khi đó mình không trúng phải Túy Tiên Mật, nội lực không trì trệ, thì cũng không thể công phá nổi Ngũ Hành Trận, chẳng qua chỉ chống đỡ thêm được một giờ hay ba khắc.”

Kim Xà Lang Quân suy nghĩ rất kỹ, nghiên cứu từng chiêu thức, từng bộ pháp của ngũ lão, cuối cùng đã phát hiện mấu chốt của trận pháp này. Đã lọt vào vòng vây thì bất luận ra tay cứng cỏi hay tránh né xảo diệu, ngũ lão vẫn có những chiêu thức lợi hại để đánh trả. Khi một lão ra tay, bốn lão kia liên tục chuyển động theo. Những chiêu thức của ngũ lão đều hỗ trợ nhau phòng thủ, bổ sung che chắn sơ hở cho nhau. Đúng là chiêu thức của năm người kín kẽ như chỉ một người. Võ công của một người mà không có chỗ sơ hở thì làm sao công phá được?

Kim Xà Lang Quân nghĩ mãi, nghĩ mãi, suy xét tỉ mỉ ngày đêm, tìm tòi không ít phương pháp kỳ lạ. Nhưng ông càng nghĩ càng cảm thấy thế trận này không có cách nào phá được.

Đương nhiên Kim Xà Lang Quân có nghĩ đến chuyện ám sát hay hạ độc. Chỉ cần hại chết một người trong ngũ lão là xong, Ngũ Hành Trận không thể tinh giản thành Tứ Hành Trận được. Nhưng ông là người cao ngạo, không muốn thắng bằng biện pháp hạ lưu. Huống chi gân mạch của ông đã bị cắt đứt, võ công mất sạch, không thể chính tay báo thù được. Đã nói là phá trận thì phải đường đường chính chính, dùng bản lãnh thật sự để phá.

Một buổi sớm, khi ra ngoài, đột nhiên ông thấy một con rắn xanh nhỏ đang bò trong bụi cỏ. Khi nghe tiếng người, nó lập tức khoanh tròn lại như cái bánh, đầu ngẩng cao ở giữa, hoàn toàn không động đậy.

Ông có ngoại hiệu Kim Xà Lang Quân vì quen hành sự linh hoạt hiểm ác, cũng vì ông thích nuôi rắn để lấy nọc chế tạo thuốc độc, ám khí. Năm xưa, vợ của Ôn Phương Ngọc trong Ôn thị huynh đệ vừa trúng độc tiễn là mất mạng ngay, thuốc độc tẩm trên đầu tên chính là nọc rắn.

Kim Xà Lang Quân rất hiểu tính nết loài rắn. Ông biết nó khoanh người lại, đầu ngẩng cao ở giữa là để đợi địch tấn công trước, rồi bất ngờ phóng tới, nhằm chỗ sơ suất của địch mà phản kích. Nếu địch không động đậy, thì loài rắn rất ít khi tấn công. Thân rắn khoanh lại thành cái bánh tròn, che giấu được những nhược điểm của mình. Đầu ngẩng lên để có thế tấn công, dùng nọc độc là vũ khí mạnh nhất của mình để thừa cơ tập kích. Nếu loài rắn mà ngang nhiên duỗi người ra để cắn, thì thân rắn rất dài nên nhược điểm sẽ nhiều, không khỏi bị địch thừa cơ đánh trúng chỗ bảy tấc trên cổ, hoặc dưới bụng, hoặc ở đuôi. Đó là thiên tính tự vệ của loài rắn.

Chuyện này Kim Xà Lang Quân đã thấy mấy trăm lần, nhìn mãi thành quen. Bây giờ trong lúc ông tập trung tinh thần suy nghĩ đến yếu quyết công phá Ngũ Hành Trận, đột nhiên trong đầu nảy ra một tia sáng. Ông mừng đến nỗi reo lên. Phương pháp để phá Ngũ Hành Trận đã được phát minh, chỉ có bốn chữ: “Hậu phát chế nhân”. Bí quyết “Hậu phát chế nhân” này hoàn toàn trái ngược đường lối “Tiên hạ thủ vi cường” thường thấy trong võ học.

Chiến lược cơ bản đã hoạch định, mọi thủ đoạn khác theo đó mà giải quyết. Kim Xà Lang Quân không khó nhọc lắm đã nghĩ ra toàn bộ phương pháp để phá Ngũ Hành Trận, chép tỉ mỉ vào Kim Xà Bí Kíp. Ông biết rõ rằng chưa chắc có người phát hiện bí kíp này, mà có người gặp cũng không chừng đã trễ cả trăm cả ngàn năm. Lúc đó hài cốt của Ôn thị ngũ lão đã hóa thành bụi lâu rồi. Nhưng uất khí trong lòng ông không trút ra được, lại nghĩ: “Có lẽ Ngũ Hành Trận sẽ được lưu truyền cho đời sau. Nếu vĩnh viễn không ai phá được, chẳng lẽ để bọn Kỳ Tiên Phái xưng bá trong thiên hạ?”

Trong lòng Kim Xà Lang Quân đã có phương pháp, coi như Ngũ Hành Trận đã bị phá. Nếu ông có thể tự mình dùng phương pháp này phá vỡ Ngũ Hành Trận, dĩ nhiên là tốt nhất, nhưng đó chỉ là một trường ảo mộng. Ông cũng không có điều kiện thu nhận đệ tử để hoàn thành tâm nguyện của mình.

*

*   *

Lúc này Viên Thừa Chí theo đúng cương lĩnh Hậu Phát Chế Nhân, chỉ quay tại chỗ mấy vòng đã làm rúng động Ngũ Hành Trận và Bát Quái Trận.

Bát Quái Trận được ngũ lão sáng lập sau này, trong Kim Xà Bí Kíp không đề cập đến. Nhưng yếu chỉ căn bản của nó không khác gì Ngũ Hành Trận, Viên Thừa Chí chỉ nhìn mười sáu người chạy quanh mấy vòng đã hiểu được rồi. Chàng nghĩ: “Nếu đối thủ không thể phá được Ngũ Hành Trận, thì có thêm Bát Quái Trận để làm gì? Còn nếu ai đã phá được Ngũ Hành Trận, thì Bát Quái Trận chắc chắn không cản được người đó.”

Kiến thức và thiên bẩm của Ôn thị ngũ lão kém xa Kim Xà Lang Quân. Có lẽ Ngũ Hành Trận là do đời trước truyền xuống, chứ bản thân Ôn thị ngũ lão không đủ sức sáng chế ra. Họ tự ý tăng cường thêm thế trận này, lại làm cho nó yếu đi. Năm xưa, nếu Kim Xà Lang Quân biết sau này Ôn thị ngũ lão bày trò vẽ rắn thêm chân thế này, thì ông vạch kế hoạch phá Ngũ Hành Trận còn dễ hơn nhiều. Muốn phá Ngũ Hành Trận, mấu chốt là ở chỗ tìm sơ suất trong trận đó. Nếu không có sơ suất, thì phải làm cho nó tự phát sinh sơ suất. Bọn đệ tử kết thành Bát Quái Trận bên ngoài, dĩ nhiên công phu kém cỏi hơn. Muốn bắt chúng phát sinh sơ suất thì dễ hơn nhiều.

Ôn thị ngũ lão đợi chàng ra tay rồi mới thừa thế xông vào. Nhưng họ thấy thân hình chàng càng xoay càng chậm, hoàn toàn không tấn công. Cuối cùng Viên Thừa Chí ngồi bệt xuống đất, hai tay đặt lên đầu gối, miệng nhoẻn cười. Ngũ lão dĩ nhiên bị bất ngờ, những người đứng bên nhìn cũng hoàn toàn không hiểu. Ai cũng nghĩ, sao chàng dám đùa giỡn trước mặt đại địch như thế?

Thật ra không phải Viên Thừa Chí khinh địch. Chàng đã cố ý dùng cây ngọc trâm yếu ớt làm binh khí là để đối thủ không có ý đề phòng. Bây giờ chàng ngồi bệt xuống đất, hoàn toàn không có thế để tấn công, ra vẻ rất khinh thị đối phương, khiến đối phương tức giận khó kiềm chế được. Khi đã nổi giận, thấy cơ hội sẽ mất thận trọng. Mình lại cố ý để lộ sơ suất, đối phương biết là không nên tấn công mà nhịn không nổi phải tấn công. Hễ họ tấn công là lập tức trận pháp để lộ sơ suất. Lúc này Viên Thừa Chí ra vẻ khinh mạn, thật ra là dụ dỗ đối phương lỗ mãng khinh địch.

Quả nhiên khi thấy Viên Thừa Chí ngồi bệt xuống đất, Ôn Phương Nghĩa nhịn không nổi nữa, bắt chéo song chưởng muốn đánh vào sau lưng chàng. Ôn Phương Ngộ vội bảo: “Nhị ca! Đừng làm loạn trận pháp.” Ôn Phương Nghĩa bèn cố nhẫn nại. Chân của ngũ lão chạy nhanh hơn, trận pháp thay đổi liên miên, chỉ đợi Viên Thừa Chí xuất thủ là lập tức ùa lên.

Bất kể là đại quân dàn trận hay hai người tỉ đấu, đã tập trung toàn lực để tấn công đối phương thì bên mình chắc chắn sẽ lộ ra yếu điểm không thể phòng bị. Nhưng nếu mình tấn công lợi hại, địch thủ phải lo tự vệ, không rảnh tay để đánh trả, thì yếu điểm của mình không cần phải thủ, đó gọi là lấy công làm thủ. Ngũ Hành Trận dùng một người dụ đối phương tấn công mà bộc lộ điểm yếu, bốn người còn lại nhằm vào điểm yếu ấy mà tập kích. Đạo lý tương sinh tương khắc chính là chỗ đó. Nhưng bây giờ Viên Thừa Chí hoàn toàn không động đậy, toàn thân không chỗ nào không phòng bị. Vì thế ngũ lão không có cách nào đánh tới.

Một lúc sau, Viên Thừa Chí đột nhiên ngáp dài rồi nằm hẳn xuống đất, hai tay đặt dưới đầu làm gối, đầy vẻ nhàn hạ thoải mái. Mười sáu tên đệ tử ở Bát Quái Trận phía ngoài đã phải chạy khá lâu, mà càng chạy càng nhanh. Những tên nội lực hơi yếu đã vã mồ hôi đầy đầu, thở hào hển nghe rõ tiếng. Phải công nhận ngũ lão nhẫn nại phi thường, đến lúc này vẫn chưa xuất kích.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Không ngờ mấy lão già này nhịn giỏi đến thế.” Chàng đột nhiên nằm sấp lại, lưng hướng lên trên, giấu mặt trong tay, ngáy khò khò. Từ xưa đến giờ, võ lâm mấy ngàn năm tỉ đấu chưa từng có tư thế kiểu này. Lưng hướng lên trên mà nằm ngủ, không phải mặc kệ cho người ta chém giết hay sao?

Thôi Hy Mẫn, Tiểu Huệ, Thanh Thanh, Ôn Nghi vừa buồn cười vừa lo lắng cho Viên Thừa Chí. Còn Hoàng Chân thấy Viên Thừa Chí ngồi xuống, rồi nằm xuống, đã hiểu sách lược đối địch của chàng, không khỏi thán phục sư đệ vừa gan dạ vừa thông minh. Nhưng lúc này thấy chàng khinh địch tới mức lật người nằm sấp, ông phải thầm lo: “Hỏng bét! Sư đệ khuyến mãi quá đáng rồi. Nếu ngũ lão đánh lén sau lưng, thì làm sao tránh né được? Đành rằng muốn bán được hàng thì không ngại ăn nói ngọt như mật, tự thổi phồng mình. Vương bà bán dưa, không dưa nào không ngọt. Có thể dựng chuyện khoe khoang khoác lác, nhưng ai lại đi dùng kiểu khổ nhục kế như thế?”

Ôn Phương Đạt thấy có cơ hội, mừng rỡ vội đưa tay trái lên vẫy. Bốn lưỡi phi đao của Ôn Phương Thi bay tới nhanh như điện chớp, nhằm vào giữa lưng Viên Thừa Chí. Phi đao vừa nhanh vừa chính xác, mọi người đứng bên kinh hãi la lên.

Bỗng thấy bạch quang nhấp nháy bắn ngược trở ra. Thì ra Viên Thừa Chí nghe tiếng phi đao lao tới, liền bật người dậy vung cả hai tay ra bắt lấy bốn lưỡi phi đao, ném trả vào Bát Quái Trận phía ngoài. Ôn Nam Dương và ba đệ tử đời thứ hai nhà họ Ôn bị trúng đao, chẳng phải vai cũng phải đùi. Tiếng la chưa dứt, chúng đã bị Viên Thừa Chí xách cổ quẳng vào trong Ngũ Hành Trận.

Ngũ lão vừa ngẩn ngơ, bước chân hơi chậm trễ đã thấy Viên Thừa Chí theo khoảng trống bắn vọt ra ngoài. Mười sáu tên đệ tử bên ngoài giống như bầy ngựa khát tranh nhau chạy xuống suối, liên tiếp bị ném vào trong. Viên Thừa Chí vung quyền phóng cước, chiêu nào cũng rất nặng nề. Bọn đệ tử nhà họ Ôn nếu không bị chàng kiềm chế yếu huyệt rồi tóm cổ quăng vào, cũng bị chàng phóng chưởng lực đẩy bật vào trong trận. Mấy tên công lực thâm hậu hơn như Ôn Chính tuy cố chống đỡ, nhưng chỉ ba chiêu hai thức là bị đánh ngã rồi lọt vào giữa Ngũ Hành Trận.

Ngũ Hành Bát Quái Trận lập tức đại loạn, trong trận không thấy địch đâu, chạy tới chạy lui đều là phe ta cả. Mọi người hoàn toàn không ngờ được, Viên Thừa Chí đang nằm sấp dưới đất mà có thể xuất quái chiêu, dẫn dụ Ngũ Hành Trận và Bát Quái Trận sơ suất đến thế này.

Ôn thị ngũ lão kêu la om sòm, tay chân múa loạn lên để đón lấy những tên đệ tử bị đẩy vào trong trận. Dĩ nhiên Viên Thừa Chí không để họ bố trí lại trận mạc. Chàng bước tới hai bước, đưa ba ngón tay chụp vào huyệt đạo của Ôn Phương Thi.

Ôn Phương Thi thấy Viên Thừa Chí tấn công tới, phóng tiếp bốn lưỡi phi đao nhằm vào trước ngực chàng. Viên Thừa Chí đưa tay vỗ trúng cán đao cho phi đao bay mất hết, lại đưa ngón tay điểm vào Cơ Huyệt ở dưới yết hầu Ôn Phương Thi hai tấc.

Cương trượng của Ôn Phương Sơn bay vù tới, nhắm vào chân phải Viên Thừa Chí. Chàng thuận tay lôi ngay một tên đệ tử Kỳ Tiên Phái vào, cản trước đầu trượng của lão.

Ôn Phương Sơn kinh hãi. Lão không mong phát trượng này đánh trúng kẻ địch, nhưng tình thế lúc đó Viên Thừa Chí dù tiến hay lùi cũng không thể tránh né, chỉ còn cách dùng binh khí đỡ gạt. Nhưng vũ khí của Viên Thừa Chí chỉ là một cây ngọc trâm nhỏ xíu, rất giòn, chỉ chạm nhẹ vào cương trượng là nát vụn ngay. Nào ngờ Viên Thừa Chí lại kéo một tên đệ tử của lão đến trước mặt để làm lá chắn, phát trượng này chắc chắn đánh cho đệ tử nát xương.

May mà võ công lão cao cường, biến chiêu cực kỳ nhanh chóng. Trong lúc khẩn cấp, đột nhiên lão bước lên một bước, tay trái dùng hết sức vỗ vào đầu trượng, miệng hô lớn: “Đại ca, cẩn thận!”

Lực đạo của cương trượng vẫn còn mãnh liệt, nhưng phương hướng đã được thay đổi, đập vào hông Ôn Phương Đạt. Ôn Phương Sơn biết đại ca chắc chắn đỡ được chiêu trượng này, quả nhiên Ôn Phương Đạt đã dựng đứng song kích lên. Một tiếng “choảng” điếc tai, tia lửa bay tứ tán. Cả cương trượng lẫn song kích đều chấn động dội ngược về.

Viên Thừa Chí tận dụng cơ hội, gấp rút tấn công Ôn Phương Ngộ. Tả chưởng chàng phóng ra che đỡ, ngọc trâm bên tay phải không ngớt đâm vào cặp mắt lão này. Ôn Phương Ngộ liền lùi lại, rung động trường tiên, định phong tỏa phía trước mặt mình. Nhưng Viên Thừa Chí đã tới cách có ba thước, còn cây roi da trong tay lão lại quá dài đâm ra vướng víu. Chỉ trong chốc lát, ngọc trâm đã tấn công liên tiếp sáu bảy chiêu.

Ôn Phương Ngộ thấy ngọc trâm nhấp nháy mãi trước mặt, không rời cặp mắt của mình, hai lần đã chạm vào mí mắt. Lão hoảng sợ đến nỗi hồn xiêu phách tán, bây giờ mới biết mùi lợi hại của cây ngọc trâm. Cuối cùng lão không tránh né được nữa, bèn vứt bỏ trường tiên, đưa hai tay bịt mắt, nhào ngửa ra sau lộn đi mấy vòng mới giữ được cặp mắt. Nhưng lưng lão đã trúng một cước rất nặng của Viên Thừa Chí, đau thấu tâm can.

Năm xưa Ôn Phương Ngộ đã dùng trường tiên đả bại liên tiếp mười hai hảo hán trên lôi đài Trịnh Châu, oai phong lẫm liệt, lừng danh cả một vùng. Mấy chục năm nay tiếng tăm lão càng lúc càng lên, nào ngờ hôm nay thảm bại dưới cây ngọc trâm trên tay một thiếu niên. Lúc đứng dậy được, dĩ nhiên lão vừa xấu hổ vừa giận dữ. Mọi người đứng bên nhìn đều phải kinh ngạc.

Hoàng Chân thấy tiểu sư đệ xuất thủ đã tuyệt diệu lại kỳ lạ, thật sự trước nay chưa từng thấy. Ông vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nghĩ bụng: “Ngay cả sư phụ cũng chưa chắc biết những công phu này. Tiểu sư đệ đã vốn lớn lại hàng hóa dồi dào, lắm thứ lắm kiểu nhìn hoa cả mắt, xem ra không chỉ là hàng phái Hoa Sơn. Đường lối đi buôn của y thật là phong phú.”

Thôi Hy Mẫn hò hét cổ vũ như điên, còn An Tiểu Huệ che miệng mỉm cười.

Viên Thừa Chí phá xong trận, tinh thần lại càng phấn chấn. Bây giờ phần thắng đã nắm chắc trong tay, chàng liên tục xuất chiêu công kích đối phương. Chàng vừa sử Phục Hổ Chưởng của phái Hoa Sơn, vừa dùng ngọc trâm ra những chiêu Kim Xà Kiếm Pháp trong Kim Xà Bí Kíp. Thân thủ này cho dù Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh đến đây, Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi phục sinh, thì mỗi người nhìn thấy cũng chỉ biết một nửa, dĩ nhiên Ôn thị ngũ lão không sao hiểu được.

Đánh lùi Ôn Phương Ngộ xong, Viên Thừa Chí quay sang tấn công Ôn Phương Nghĩa. Chàng liên tiếp xuất hiểm chiêu, ép cho lão này tay chân rối loạn.

Ôn Phương Đạt thấy tình thế gấp rút bèn lớn tiếng huýt sáo, đột nhiên phóng chưởng đẩy một tên đệ tử ra ngoài. Ôn Phương Sơn cũng dùng cả tay chân đấm đá xua bọn đệ tử ra khỏi trận cho đỡ vướng. Trong luyện võ sảnh ít người hẳn đi, Ngũ Hành Trận bắt đầu ráp lại. Nhưng Viên Thừa Chí cứ ép Ôn Phương Nghĩa không chút nương tay, khiến năm lão không thể phối hợp nhịp nhàng với nhau được.

Đột nhiên Ôn Phương Nghĩa trúng chưởng vào vai trái. Cương trượng của Ôn Phương Sơn đánh thẳng lên lưng Viên Thừa Chí, đồng thời song kích của Ôn Phương Đạt đâm tới bên trái. Tay trái của Ôn Phương Nghĩa rất đau, nhưng lão vẫn cố giữ đúng phương vị. Bây giờ Bát Quái Trận đã phá, Ngũ Hành Trận đã loạn, nhưng ngũ lão vẫn tiếp tục bước theo trận pháp, dùng hết sức chống đỡ.

Lúc đầu Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí dùng cây ngọc trâm của An Tiểu Huệ làm binh khí, nàng có phần tức tối. Nhưng bây giờ thấy chàng sắp thắng, nàng lại âm thầm mừng rỡ.

Còn Ôn Nghi thấy Viên Thừa Chí tiến thoái tránh né giữa vòng vây của ngũ lão, ung dung tiêu sái chẳng khác gì dáng vẻ của Kim Xà Lang Quân trong Ngũ Hành Trận năm xưa. Xem được một hồi, bà như nhìn thấy tình lang đêm ngày trông đợi đang áo trắng phất phơ hiển lộng thần oai. Bà không nén nổi tâm thần khích động, đứng bật dậy kêu lên: “Hạ lang! Hạ lang! Ca ca… ca ca cuối cùng đã đến!”

Ôn Nghi cất bước tiến vào cửa luyện võ sảnh. Thanh Thanh vội nắm tay bà kéo lại, la lên: “Má má! Đừng đi!”

Ôn Nghi giật mình, tập trung tinh thần nhìn lại thiếu niên trong trận. Thân hình người này hơi giống Kim Xà Lang Quân, nhưng mặt mũi khác hẳn. Bà cảm thấy choáng váng, ngã vào lòng Thanh Thanh.

Ngay lúc đó Viên Thừa Chí đột nhiên tung người nhảy lên, tay phải đưa cây ngọc trâm cắm vào búi tóc, tay trái chụp lấy cây xà ngang trên nóc sảnh. Ngũ lão đang tập trung cao độ cho trận ác đấu bỗng không thấy địch thủ đâu nữa. Họ đang kinh ngạc thì cảm thấy trên đỉnh đầu có gió cuốn tới, mấy chục món ám khí từ trên không vãi xuống, biết là hỏng rồi. Ôn Phương Sơn và Ôn Phương Thi chưa kịp tránh né đã bị kim tiền tiêu đánh trúng huyệt đạo, té nhào xuống đất.

Theo bí kíp của Kim Xà Lang Quân, lẽ ra phải dùng bảo kiếm để hộ thân rồi mới tấn công vào chỗ sơ suất của đối phương. Viên Thừa Chí không có bảo kiếm, nên phải thay đổi. Chàng lật người nằm sấp để dụ đối phương phóng phi đao, rồi thừa thế tấn công phá tan Bát Quái Trận, cuối cùng phóng ám khí để thay thế bảo kiếm mà phá nốt Ngũ Hành Trận. Tuy thủ pháp có khác nhau, nhưng sách lược cơ bản vẫn là di ý của Kim Xà Lang Quân.

Ôn Phương Đạt vội cúi xuống cứu em, nhưng Viên Thừa Chí lại ném một mớ tiền đồng từ trên xuống. Song kích của Ôn Phương Đạt lập tức ra chiêu Mật Vân Bất Vũ xoay tít trên đỉnh đầu. Nghe những tiếng tinh tang không dứt, lão gạt văng được mười mấy mũi kim tiền tiêu. Đột nhiên tay lão rung lên một cái, song kích hình như bị quấn chặt lại, không thể thi triển được nữa. Lão giật mình, cố vận sức kéo ngược lại, nào ngờ kéo mạnh như thế mà song kích vẫn tuột khỏi tay bay ra.

Ôn Phương Đạt không kịp suy nghĩ, liền nhảy sang bên hai bước, đưa song chưởng ra hộ thân. Trong tiếng la kinh hãi của những người đứng quanh, Viên Thừa Chí từ trên không nhảy xuống, đứng ở một phía luyện võ sảnh, hai tay cầm song kích. Cây roi da của Ôn Phương Ngộ đang quấn trên đầu của cặp kích đó.

Viên Thừa Chí quát: “Xem đây!” Song kích rời tay chàng bay vù ra, chia nhau cắm vào hai cây trụ rất to trong đại sảnh. Lưỡi kích đâm ngập vào thân trụ. Hai cây trụ lắc lư, mái ngói trên đầu chuyển nghe rào rào. Những người đang đứng gần cửa tranh nhau chạy ra xa, sợ đại sảnh bị sập.

Năm xưa, khi Mục Nhân Thanh bắt đầu dạy kiếm cho Viên Thừa Chí, ông từng vung tay phóng kiếm đâm ngập vào cành cây. Lúc đó Mộc Tang đạo nhân có mặt, khen là kiếm pháp thiên hạ vô song. Viên Thừa Chí hôm nay hiển lộ oai phong, chính là chiêu đó vận dụng nhuần nhuyễn.

Hoàng Chân thấy chàng dùng thủ pháp bản môn ném kích cắm vào trụ, oai phong không gì đỡ nổi. Ông không nén được, la lên: “Viên sư đệ! Chiêu Thiên Ngoại Phi Long tuyệt diệu.”

Viên Thừa Chí quay đầu lại mỉm cười, lên tiếng: “Đó là nhờ ơn dạy dỗ của sư phụ. Xin đại sư ca chỉ giáo.”

Ôn Phương Đạt hoang mang nhìn quanh tứ phía, thấy bốn người em đều nằm dưới đất.

Viên Thừa Chí bước chậm rãi đến cạnh Hoàng Chân, rút cây ngọc trâm trên đầu xuống trả cho Tiểu Huệ.

Ôn Phương Đạt thấy Ngũ Hành Bát Quái Trận “thiên hạ vô địch” của bản phái đã bị thiếu niên này phá vỡ trong khoảnh khắc, nhanh như chặt ngã cây khô mục. Lão đau lòng chỉ muốn đập đầu vào cột mà chết cho xong. May mà lão kịp thời nghĩ lại: “Ta đã là một lão già hết thời, mối thù này coi như không trả được là xong. Nên giữ lại hơi thở để tiếp tục làm những chuyện hay ho.”

Lão bèn vẫy tay bảo Hoàng Chân: “Vàng ở đây cả, các ngươi cứ lấy đi.”

Thôi Hy Mẫn không đợi nghe câu thứ hai, lập tức vơ những thỏi vàng dưới đất, nhét vào một túi da. Kỳ Tiên Phái có mấy chục người đứng kế bên mà như không có người nào, ai cũng giương mắt lên nhìn không dám cản trở. Trận đấu vừa rồi của Viên Thừa Chí đã khiến chúng vỡ gan vỡ mật, mất sạch ý chí.

Ôn Phương Đạt đến bên nhị đệ Ôn Phương Nghĩa, thấy tròng mắt đảo loạn xạ, thân thể không động đậy được. Lão biết nhị đệ đã bị Viên Thừa Chí dùng kim tiền tiêu đánh trúng huyệt đạo, bèn ra sức xoa bóp vào huyệt Vân Đài. Nhưng xoa hồi lâu mà Ôn Phương Nghĩa vẫn bủn rủn không động đậy được, Ôn Phương Đạt bèn qua xem ba đứa em kia. Nhìn là biết ngay cả ba đều bị đả huyệt, lão dùng hết sở học để vận nội lực giải khai, nhưng hoàn toàn không có công hiệu.

Ôn Phương Đạt biết phương pháp đả huyệt của Viên Thừa Chí có chỗ quái lạ. Nhưng thảm bại thế này, thân phận như lão làm sao có thể hạ mình xin giúp đỡ? Lão bèn quay lại nhìn Thanh Thanh, môi mấp máy.

Thanh Thanh biết lão muốn mình năn nỉ Viên Thừa Chí, nhưng nàng giả vờ không hiểu mà hỏi: “Đại gia gia! Gia gia sai bảo con phải không?”

Ôn Phương Đạt lầm bầm trong miệng: “Con nha đầu điêu ngoa này! Bây giờ ngươi làm khó dễ ta phải không? Để chuyện này xong xuôi ta mới sửa trị mẹ con ngươi.” Nhưng lão vẫn dịu dàng nói: “Con nhờ huynh ấy giải huyệt cho bốn vị gia gia đi.”

Thanh Thanh đến trước mặt Viên Thừa Chí, chắp tay thi lễ rồi nói lớn: “Đại gia gia của muội muốn nhờ huynh giải huyệt cho bốn vị gia gia của muội. Đây là đại gia gia của muội nhờ đại ca, chứ không phải muội nhờ đâu đấy.”

Viên Thừa Chí nói: “Được!” Chàng lập tức bước tới, cúi xuống toan chữa trị.

Đột nhiên Hoàng Chân gảy lách cách trên Thiết Toán Bàn, lên tiếng: “Sư đệ chẳng hiểu biết gì cả. Hàng hóa độc quyền có thể lên giá, tại sao không lên giá? Sư đệ cứ cho giá đi, dù đắt thế nào người ta cũng phải mua.”

Viên Thừa Chí biết đại sư huynh có ác cảm với Kỳ Tiên Phái, bây giờ muốn thừa cơ trả thù. Chàng nghĩ: “Sư phụ đã dạy, ra tay phải khoan dung, phải dành đường sống cho người khác. Thanh Thanh đã năn nỉ, vàng cũng lấy lại rồi, mình không muốn bắt bí Ôn thị ngũ lão làm chi. Nhưng đại sư ca ở đây thì mọi việc phải để huynh ấy chủ trì.” Chàng bèn nói: “Xin đại sư ca chỉ dạy.”

Hoàng Chân nói: “Ôn gia ở vùng này tàn hại lương dân, hoành hành bá đạo. Dân chúng Cù Châu oán tận xương tủy, hai ngày nay ta đã nghe thấy rõ ràng. Sư đệ! Sư đệ trị bệnh cho người ta cũng phải bỏ vốn, nên thu lại chút ít phí tổn mới không lỗ lã. Món tiền chẩn bệnh này, bản thân chúng ta không cần lắm. Nhưng nếu dùng để cứu tế những nông gia đã bị họ Ôn hãm hại, thì cần lắm chứ?”

Lúc mới đến Tịnh Nham, Viên Thừa Chí đã thấy rất nhiều nông dân kéo tới nhà họ Ôn kêu oan cãi lý, bị Ôn Chính đánh cho sứt đầu mẻ trán. Không có người nào trong thị trấn Tịnh Nham này mà không hận Ôn gia. Chàng bỗng nổi lòng nghĩa hiệp, nói: “Không sai! Nông dân ở đây đã bị họ làm khổ lắm rồi. Đại sư ca nói đi, phải như thế nào?”

Hoàng Chân đưa tay gảy lóc cóc lên bàn tính, vừa gạt lên gạt xuống vừa lẩm nhẩm tính toán: “Một với một là hai, hai thêm hai là bốn, bốn với một là năm…” Ông gảy mãi không dừng, cứ như đang cộng sổ nợ vậy.

Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ đã quen nhìn bộ điệu này của Hoàng Chân, còn Viên Thừa Chí thì cung kính với đại sư huynh nên thấy ông tính toán kỳ lạ cũng không dám cười. Bọn Kỳ Tiên Phái đang giận dữ bừng bừng, dĩ nhiên không cười nổi. Chỉ có Thanh Thanh luôn miệng khúc khích.

Cuối cùng Hoàng Chân gật đầu nói: “Viên sư đệ! Lệ phí chẩn mạch đã được ta tính xong. Cứu một mạng là bốn trăm thạch gạo trắng.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Những bốn trăm thạch ư?”

Hoàng Chân đáp: “Không sai! Bốn vị lão gia này đều là anh hùng hảo hán một phương. Tính ít như vậy là có phần coi thường họ rồi. Mỗi vị bốn trăm thạch gạo trắng thượng hạng, không được lẫn một hạt sỏi, một hạt thóc. Cân đo phải đúng tiêu chuẩn, không được thiếu một cân một lạng nào.”

Chưa cần hỏi Ôn Phương Đạt đồng ý hay không, Hoàng Chân đã nói đến chi tiết về gạo trắng.

Viên Thừa Chí nói: “Ở đây bốn vị lão gia, thế thì tổng cộng một ngàn sáu trăm thạch.”

Hoàng Chân giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Sư đệ tính toán rất giỏi, không cần dùng bàn tính vẫn tính được một người là bốn trăm thạch, bốn người là một ngàn sáu trăm thạch.”

Thôi Hy Mẫn buột miệng lên tiếng: “Con cũng tính được.”

Hoàng Chân gật đầu với y một cái, tỏ ý khen ngợi, rồi bảo Ôn Phương Đạt: “Sáng sớm ngày mai, xin quý hiệu chuẩn bị đầy đủ một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, chia cho dân nghèo quanh vùng Tịnh Nham, mỗi người một đấu. Khi các vị phát xong một ngàn sáu trăm thạch, sư đệ của tại hạ sẽ chữa trị bốn huynh đệ các vị.”

Ôn Phương Đạt nhẫn nhịn nói: “Gấp rút thế này, ta làm sao kiếm được nhiều gạo trắng như thế? Dù dọn sạch kho gạo trong nhà cũng được bảy tám chục thạch là cùng.”

Hoàng Chân nói: “Lệ phí chẩn mạch này là thống nhất trên toàn quốc, nhất định không trừ chiết khấu. Nhưng nể mặt bằng hữu lâu năm, có thể mở rộng kỳ hạn phát gạo. Phát xong bốn trăm thạch thì cứu một người; phát xong tám trăm thạch thì cứu người thứ hai. Nếu tiền bạc các vị không thuận lợi lắm, thì cứ việc để mười ngày nửa tháng, hoặc sáu tháng một năm rồi hãy phát gạo. Lúc đó dù sư đệ của tại hạ đang ở Liêu Đông hay Vân Nam cũng lập tức khởi hành đến đây cứu người, không chậm trễ một phút nào.”

Ôn Phương Đạt nghĩ: “Bốn người đã bị điểm huyệt, tối đa mười hai giờ huyệt đạo sẽ tự giải. Chẳng qua hao tổn một ít nội lực, đâu cần để hắn bắt nạt như thế?”

Hoàng Chân thấy mắt lão láo liên, đoán được tâm ý bèn nói: “Thật ra chúng ta là đồng nghiệp, đều biết sau mấy giờ huyệt đạo sẽ tự giải. Thế thì một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng đó có thể tiết kiệm. Nhưng cách điểm huyệt bằng Hỗn Nguyên Công của phái Hoa Sơn bọn tại hạ có chỗ bá đạo. Nếu không dùng công phu bản môn để giải cứu, thì người bị điểm huyệt sau này tay chân không nhanh nhẹn lắm, dần dần sẽ hoa mắt chóng mặt, đại tiện không thông, tiểu tiện bế tắc. Nội lực khó tránh khỏi bị tổn thương, chuyện này không cần tại hạ nói nhiều. May mà tuổi tác của bốn vị lão gia còn rất trẻ, chỉ rèn luyện năm sáu chục năm là khôi phục nguyên trạng ngay thôi.”

Ôn Phương Đạt biết chuyện này không phải giả dối, bèn nghiến răng lại nói: “Được! Ngày mai ta bắt đầu phát gạo là xong.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Đúng là đại lão bản, buôn bán sảng khoái, không thèm trả giá. Sau này có buôn bán gì, xin chiếu cố đến bản hiệu.”

Ôn Phương Đạt bị trêu ghẹo mà không dám nói gì, phất tay áo đi vào trong.

Viên Thừa Chí thi lễ với Ôn Nghi và Thanh Thanh rồi nói: “Hẹn mai gặp lại.” Chàng biết Kỳ Tiên Phái đang có việc cần mình, nhất định không làm khó dễ hai mẹ con này. Thế là bốn người phái Hoa Sơn vui sướng xách gói vàng quay về nông gia đang tá túc.

*

*   *

Lúc này trời đã mờ mờ sáng. Tiểu Huệ xuống bếp nấu mì, bốn người vừa ăn vừa bàn tán trận đại thắng này, ai cũng mặt mày rạng rỡ.

Hoàng Chân bưng tô mì lên nói: “Viên sư đệ! Khi nghe tin sư phụ vừa thu nhận một đồ đệ rất trẻ, ta từng nói giỡn với vợ chồng nhị sư đệ Quy Tân Thụ: “Đệ tử của chúng ta nhiều người đã ngoại tứ tuần, đột nhiên sư phụ bắt chúng có thêm một vị tiểu sư thúc, chỉ sợ chúng bị khó xử.” Nào ngờ công phu của sư đệ lại giỏi như thế. Đại sư ca này kém sư đệ rất xa. Nhị sư đệ ngoại hiệu là Thần Quyền Vô Địch, đại giang nam bắc ít khi gặp địch thủ, nhưng theo ta thì chưa chắc y thắng được sư đệ. Chuyện phát dương quang đại phái Hoa Sơn sau này phải đặt lên vai sư đệ. Ở đây không có rượu, ta dùng tô nước mì này để kính sư đệ một ly.”

Nói xong, ông đưa tô canh lên miệng rồi uống cạn.

Viên Thừa Chí lập tức đứng dậy, cũng bưng tô canh lên uống một hớp rồi nói: “Hôm nay tiểu đệ may mà đắc thắng. Cử chỉ đệ có phần khinh suất vì muốn dụ cho đối phương khinh địch mà ra tay công kích, thật sự không dám làm sai những điều sư phụ dạy dỗ. Lời khen của sư ca, đệ không dám nhận. Xin đại sư ca chỉ giáo cho đệ nhiều hơn.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Tính khiêm cung cẩn thận của sư đệ, võ lâm ít ai bì được. Ngồi xuống, ăn mì tiếp đi.”

Viên Thừa Chí ngồi xuống ăn tiếp. Hoàng Chân gắp thêm mấy đũa rồi quay lại bảo Thôi Hy Mẫn: “Chỉ cần ngươi học được một phần của Viên sư thúc là đủ sử dụng cả đời rồi.”

Thôi Hy Mẫn ở trong nhà họ Ôn đã thấy Viên Thừa Chí đại hiển thần oai, giơ tay một cái là phá tan Ngũ Hành Trận kỳ quái, trong lòng thán phục. Bây giờ nghe sư phụ nói vậy, y đột nhiên quỳ xuống khấu đầu với Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Xin tiểu sư thúc dạy cho một chút bản lãnh.”

Viên Thừa Chí vội quỳ xuống trả lễ, đáp: “Công phu của sư phụ huynh còn tinh thuần gấp mười lần ta.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Công phu của ta không bằng sư đệ, nhưng thừa sức dạy dỗ gã này. Ta chỉ thiếu lòng nhẫn nại thôi. Nếu sư đệ chịu giúp hắn, sư ca thật cảm kích không sao nói hết.”

Thì ra Hoàng Chân không khước từ nổi Thôi Thu Sơn năn nỉ, mới nhận Thôi Hy Mẫn làm đồ đệ. Tên đệ tử này tư chất ngu đần, nghe mười cũng không hiểu một hai, ngược hẳn tính cách cơ biến linh hoạt của Hoàng Chân. Vị đại sư ca này nói giỡn đã quen, dù trong lúc truyền thụ võ nghệ cũng không ngớt xen vào những chuyện khác. Đệ tử càng ngu dốt, ông trêu chọc càng nhiều.

Thôi Hy Mẫn không phân biệt nổi trong lời nói của sư phụ câu nào thật, câu nào giỡn. Rõ ràng Hoàng Chân châm biếm, y vẫn tưởng sư phụ khen ngợi mình. Học hành như thế thì khó mà thành tựu. Sau này Viên Thừa Chí nhớ tới thúc thúc của y là Thôi Thu Sơn đã liều mạng cứu mình, lại thấy y là ý trung nhân của Tiểu Huệ, nên tìm cách chỉ điểm. Tuy rằng Thôi Hy Mẫn thiên tư có giới hạn, không lãnh hội được bao nhiêu, nhưng so với trước đây thì tiến bộ rất nhiều.

Bốn người nằm trong đống rơm ngủ được mấy giờ. Đến trưa Hoàng Chân và Viên Thừa Chí mới thức dậy, phía ngoài có người kêu cửa. Một đại hán đi vào, trình danh thiếp của Ôn Phương Đạt, mời bốn người tới nhà. Hoàng Chân mỉm cười nói: “Tin tức các ngươi thật là thông suốt, ngay cả nơi ở của chúng ta mà cũng thám thính ra được.”

Bốn người tới nhà họ Ôn thì thấy thương nhân tụ tập đông đúc, gạo trắng gánh kìn kìn vào. Thì ra Ôn Phương Đạt đã sai người đi suốt đêm đến Cù Châu để mua gạo. Cù Châu là một thành phố trù phú ở Chiết Đông, nhưng đột ngột có người cần mua tới một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, không khỏi làm giá gạo tăng lên. Thế là Ôn gia lại tốn thêm mấy trăm lượng bạc.

Ôn gia mời Hoàng Chân xem lại để kiểm tra số lượng, rồi bắt đầu phát cho người nghèo quanh vùng, mỗi người một đấu. Cả vùng xôn xao bàn tán, không hiểu tại sao những vị Ôn thần này đổi tính.

Hoàng Chân thấy Ôn Phương Đạt đã phát gạo thật sự, không tiếp tục trêu ghẹo nữa. Ông nói: “Ôn lão gia! Lão gia phát gạo tế bần, thật đã tích đức cho con cháu rồi. Tại hạ mới nghe một bài hát rất hợp, để hát cho lão gia nghe thử.”

Ông lập tức gân cổ lên, vừa vung tay múa chân vừa hát:

“Năm tháng gần đây khổ liên miên; Hạn hán lũ lụt, châu chấu liền; Giá gạo tăng vọt, tiền không có; Lê dân bá tính sống không yên.

Rễ cây cành lá ăn để sống, Gái trai già trẻ phải khóc ròng; Lu rỗng, nồi niêu kết mạng nhện; Nhiều ngày một bữa cháo cũng không.

Quan phủ thúc lương như hổ dữ; Phú hào đòi nợ tựa sài lang; Thương thay những kẻ còn ngoi ngóp; Hồn phách chưa tan đã vùi hang.

Thây ma chất cao như ngọn núi; Cơ cực đói khát chỉ ngậm ngùi; Khóc mãi lệ khô thành chảy máu, Ai nhìn cảnh ấy chẳng bùi ngùi.

Khuyên kẻ giàu ra tay cứu giúp; Một hạt gạo nhường nhau đúng lúc; Phúc đức từ đó mà tích tụ; Nhân nghĩa từ đó mà vững gốc.

Trời cao có mắt giúp kẻ hiền; Ơn đức sâu dày phúc vô biên; Cứu trợ muôn dân công lao lớn; Con cháu đời đời hưởng triền miên.”

Giọng hát của Hoàng Chân chẳng hay gì, nhưng ý nghĩa của ca từ làm động lòng người, ai nghe cũng thay đổi sắc mặt.

Viên Thừa Chí khen: “Sư ca! Bài hát này hay thật.”

Hoàng Chân nói: “Ta đâu có tài như thế? Đây là do Lý Nham công tử, một đại tướng dưới trướng Sấm Vương sáng tác ra.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Thì ra do Lý Nham đại ca sáng tác. Huynh ấy chẳng lúc nào quên lê dân đói khổ, thế mới là đại anh hùng chân chính.”

Viên Thừa Chí không chờ phát hết một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, giải luôn huyệt đạo cho Ôn thị tứ lão. Bốn ông lão này khốn đốn mất nửa đêm, chỉ còn hơi mà không còn sức, lại thêm tức tối khiến cho mặt mày xanh mét.

Viên Thừa Chí chắp tay thi lễ với mấy lão, nói: “Đắc tội rất nhiều, vãn bối muôn phần áy náy.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Các vị đã đem tặng một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, không khỏi có phần đau lòng xót của. Nhưng danh tiếng của Ôn gia ở Tịnh Nham lại tốt lên không ít. Chuyến buôn này thật sự quý hiệu lời to, chẳng lẽ không tự biết?”

Năm lão không nói tiếng nào, quay lưng bỏ vào trong nhà.

Hoàng Chân thấy gạo đã phát xong, người nghèo đã giải tán hết, bèn nói: “Chúng ta đi thôi!”

Viên Thừa Chí định cáo biệt Thanh Thanh, lại nghĩ: “Hai mẹ con nàng đã ra mặt cãi lại nhà họ Ôn, e rằng không ở đây được nữa.” Chàng toan thương nghị với sư ca thì bỗng thấy Thanh Thanh ôm chầm lấy mẹ, vừa khóc vừa kêu: “Thừa Chí đại ca!”

Viên Thừa Chí nhanh chân chạy tới, thấy sau lưng Ôn Nghi đã có hai lưỡi phi đao đâm lút tới cán, rõ ràng là trí mạng không cứu nổi. Lại thấy Ôn Phương Thi mặt đầy sát khí bước ra, hai tay vẫy lia lịa, bốn lưỡi phi đao nữa phóng vào lưng Thanh Thanh. Viên Thừa Chí nhảy vọt lên, đưa hai tay ra chụp hết.

Ôn Phương Thi vừa thấy Viên Thừa Chí bắt đao đã biết là hỏng bét. Lão gấp gáp lùi lại, toan núp sau cánh cổng. Viên Thừa Chí thấy lão dã man giết hại người thân, nổi giận bừng bừng. Chàng tung người tới, phóng cước rất nặng đá trúng lưng lão. Đòn cước này đã vận Hỗn Nguyên Công, kình lực phi thường.

Ôn Phương Thi không la được một tiếng, té nhào vào trong cổng, miệng phun máu tươi liên tục. Viên Thừa Chí đá phát này tuy không lấy mạng lão, nhưng nội lực đã thấm vào yếu huyệt. Ôn Phương Thi từ đây trở thành phế nhân, suốt đời không chữa được, công phu mất sạch.

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Tứ gia gia… hạ độc thủ giết… giết má má…”

Viên Thừa Chí vừa giận vừa buồn, đưa tay muốn nhổ phi đao cho bà. Hoàng Chân vội gạt chàng ra, bảo: “Không thể rút ra được, rút ra là lập tức chết ngay.” Ông thấy Ôn Nghi trọng thương khó cứu, bèn điểm vào hai huyệt cho bà đỡ thấy đau đớn.

Ôn Nghi lộ nụ cười, nói nhỏ nhẹ: “Thanh nhi đừng buồn. Mẹ… mẹ đi đây… Mẹ đi gặp phụ thân của con đây. Ở bên phụ thân của con, không còn ai… không còn ai có thể bức hiếp mẹ nữa.”

Thanh Thanh vừa khóc vừa gật đầu liên tục.

Ôn Nghi bảo Viên Thừa Chí: “Còn một chuyện, xin Viên tướng công đừng giấu giếm ta.”

Viên Thừa Chí nói: “Bá mẫu muốn biết việc gì? Vãn bối nhất định không giấu giếm.”

Ôn Nghi hỏi: “Y có để lại di thư hay không? Có nhắc đến ta hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Hạ tiền bối có để lại đồ phổ võ công. Hôm qua vãn bối phá Ngũ Hành Trận, chính là dùng phương pháp của tiền bối. Thế là đã trả được thâm thù, bớt phần uất hận cho tiền bối.”

Ôn Nghi hỏi: “Y có để lại thư cho ta không?”

Viên Thừa Chí không trả lời, chầm chậm lắc đầu.

Ôn Nghi lộ vẻ thất vọng, nói: “Y uống xong chén chè hạt sen thì mất đi khí lực. Chén chè hạt sen đó do chính… chính ta bưng cho y uống. Nhưng ta thật… thật không biết chút nào cả.”

Viên Thừa Chí an ủi: “Hạ tiền bối linh thiêng trên trời nhất định đã hiểu, không trách bá mẫu đâu.”

Ôn Nghi nói: “Chắc chắn y chết vì thương tâm, trách ta ám hại y. Bây giờ y hiểu thì cũng muộn rồi.”

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Má má! Phụ thân đã hiểu từ lâu rồi. Hôm đó má má đã uống chỗ chè thừa, nguyện chết cùng phụ thân, lại còn ngăn cản trước mặt phụ thân. Lúc đó phụ thân đã hiểu rõ rồi.”

Ôn Nghi mơ hồ hỏi: “Y… y hiểu thật không? Sao mãi không đến đón ta? Ngay cả di thư… cũng không viết cho ta chữ nào.”

Viên Thừa Chí thấy bà sắp chết mà vẫn canh cánh bên lòng về việc này, nhất thời không nghĩ ra được câu nào an ủi. Chàng thấy ánh mắt bà tán loạn, hai tay từ từ thõng xuống, đột nhiên động tâm nhớ đến tấm bản đồ kho báu kẹp trong bìa Kim Xà Bí Kíp, trong đó có tên Ôn Nghi. Chàng vội lấy trong bọc ra, gọi lớn: “Bá mẫu, bá mẫu! Bá mẫu xem này.”

Cặp mắt Ôn Nghi đã khép lại, bây giờ từ từ mở ra. Khi thấy nét chữ trên bản đồ, đột nhiên bà phấn chấn hẳn, lên tiếng: “Đúng là chữ của y, ta nhận ra rồi.”

Rồi bà khẽ đọc mấy dòng chữ: “Người được món bảo bối này, thật sự là tri kỷ của ta. Hãy đến Tịnh Nham, Cù Châu, tỉnh Chiết Giang, tìm người con gái tên là Ôn Nghi, tặng giúp ta mười vạn lạng vàng. Đúng là tên ta rồi.”

Bà cố đọc nốt hai hàng chữ nhỏ: “Bây giờ gom hết châu báu trong thiên hạ cũng khó mua được nửa ngày gặp gỡ. Xem nặng báu vật mà coi thường ly biệt, cực kỳ ngu muội. Thật là hối hận, thật là hối hận.”

Ôn Nghi mỉm cười, nắm lấy tay áo Viên Thừa Chí, hoan hỉ nói: “Y không trách ta. Y vẫn nhớ nhung ta… vẫn thương yêu ta. Bây giờ ta đi đây. Ta đi gặp y đây…” Bà từ từ nhắm mắt lại.

Viên Thừa Chí thấy tình cảnh này, không kìm nổi nước mắt chảy ra. Ôn Nghi đột nhiên mở mắt ra nói: “Viên tướng công! Ta cầu xin tướng công hai việc. Xin tướng công ưng thuận.”

Viên Thừa Chí vội đáp: “Bá mẫu nói đi. Chỉ cần làm nổi, chuyện gì vãn bối cũng tuân theo.”

Ôn Nghi nói: “Việc thứ nhất, nhờ tướng công đem ta an táng cạnh y. Việc thứ hai… thứ hai…”

Viên Thừa Chí hỏi: “Việc thứ hai là gì? Bá mẫu nói đi.”

Ôn Nghi nói: “Ta… thân thích trên đời chỉ có… chỉ có đứa con gái này. Nhờ tướng công… đời này kiếp này… thay ta chiếu cố cho nó.”

Bà trỏ Thanh Thanh, đột nhiên nghẹn hơi không nói tiếp được, mi mắt khép lại, cổ ngoẹo xuống không động đậy nữa.

Thanh Thanh nằm phục lên người mẹ mà khóc lóc. Viên Thừa Chí nhẹ nhàng vỗ lên vai nàng an ủi. Hoàng Chân, An Tiểu Huệ, Thôi Hy Mẫn, ba người thấy Viên Thừa Chí quan tâm đến nàng như thế, lại thấy mẫu thân của nàng bị giết thảm, đều nổi lòng trắc ẩn. Nhưng họ không biết chút gì về nội tình sự việc, nên không thể nói gì để an ủi.

Thanh Thanh đột nhiên đặt thi thể mẹ xuống đất, tuốt kiếm ra chạy đến trước cổng, vung kiếm chém loạn vào cánh cổng, vừa khóc vừa la lên: “Các ngươi đã hại chết phụ thân ta, bây giờ lại hại chết mẫu thân ta. Ta… ta phải giết sạch cả nhà họ Ôn các ngươi.”

Rồi nàng tung người nhảy lên đầu tường. Viên Thừa Chí nhảy lên theo, nhẹ nắm lấy cánh tay nàng, khẽ nói: “Thanh đệ! Đúng là họ rất ác độc. Nhưng dù sao Tam gia gia vẫn là ông ngoại của Thanh đệ.”

Thanh Thanh uất nghẹn, lảo đảo rồi té quỵ xuống. Viên Thừa Chí vội đưa cánh tay quàng ngang hông đỡ lại, nhận ra nàng đã ngất xỉu. Chàng kinh hãi la lên: “Thanh đệ! Thanh đệ!”

Hoàng Chân nói: “Không sao, chỉ do thương tâm quá độ mà thôi.” Ông lấy ra một điếu ngải nhung, đốt lên rồi hơ vào dưới mũi Thanh Thanh một lúc. Nàng bỗng hắt hơi rồi từ từ tỉnh lại, cứ ngơ ngác nhìn thi thể mẹ, không nói tiếng nào.

Viên Thừa Chí hỏi: “Thanh đệ! Thanh đệ làm sao vậy?”

Thanh Thanh chẳng nói gì.

Viên Thừa Chí nghẹn ngào bảo: “Thanh đệ không thể ở đây nữa rồi. Hãy đi theo chúng ta.”

Thanh Thanh ngơ ngẩn gật đầu. Viên Thừa Chí ôm lấy thi hài Ôn Nghi, rồi năm người cùng rời khỏi căn nhà của họ Ôn.

Viên Thừa Chí đi được vài bước quay đầu nhìn lại, thấy trước sân nhà vương vãi gạo trắng, là những hạt rơi vãi lúc phát gạo. Mấy chục con chim đang nhảy nhót giành ăn. Lúc này thái dương ở giữa bầu trời, bóng người tròn trĩnh dưới chân, căn nhà lớn của họ Ôn khóa chặt cửa, im lặng không một tiếng người.

*

*   *

Hoàng Chân bảo Thôi Hy Mẫn: “Một trăm lượng bạc đây. Ngươi cầm tới cho nhà nông mình đã tá túc, nói họ phải dọn nhà tức khắc.”

Thôi Hy Mẫn nhận tiền, giương to mắt hỏi lại: “Sao phải dọn nhà?”

Hoàng Chân đáp: “Kỳ Tiên Phái không làm gì được chúng ta, dĩ nhiên sẽ trút giận qua người khác. Chúng sẽ tới làm khó dễ gia đình nông phu đó. Theo ngươi thì mấy người nông dân có phá được Ngũ Hành Trận không?”

Thôi Hy Mẫn lắc đầu đáp: “Chắc họ không phá được.” Rồi y nhanh chân chạy đi lo việc.

Bốn người đợi y trở về, rồi theo đường nhỏ rời khỏi trấn Tịnh Nham. Đi được mười mấy dặm, thấy bên vệ đường có một cái miếu cũ nát, Hoàng Chân nói: “Vào đây nghỉ ngơi một chút. Miếu cũ tượng hư, người đi lại khỏi phải nghi ngờ chúng ta tiện tay trộm mèo bắt chó.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Đương nhiên là thế. Tòa miếu cũ nát thế này, có gì đáng ăn cắp đâu?”

Vào miếu ngồi trong đại điện, Hoàng Chân hỏi: “Di thể của vị thái thái này sẽ lo liệu thế nào? Bây giờ an táng tại đây, hay vào thành khâm liệm?”

Viên Thừa Chí chau mày không đáp. Hoàng Chân lại nói: “Nếu vào thành phố tìm linh cữu khâm liệm thì có chỗ không tiện. Bà ấy chết vì phi đao, quan phủ phải điều tra hỏi đến. Tuy chúng ta không sợ, nhưng cũng phiền phức đôi chút.”

Rõ ràng ông muốn an táng thi thể ngay tại đây. Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Mẹ đã dặn, muốn được yên nghỉ cạnh phụ thân.”

Hoàng Chân hỏi: “Di thể của lệnh tôn an táng nơi nào?”

Thanh Thanh không biết, nhìn sang Viên Thừa Chí. Chàng đáp: “Trên núi Hoa Sơn chúng ta.” Mọi người nghe thấy đều tỏ vẻ kinh ngạc.

Viên Thừa Chí tiếp: “Phụ thân của cô ấy chính là Kim xà lang quân Hạ tiền bối.”

Hoàng Chân lớn hơn Hạ Tuyết Nghi mấy tuổi, nhưng Hạ Tuyết Nghi đã thành danh từ hồi trẻ. Khi Hoàng Chân mới ra giang hồ thì oai danh của Kim Xà Lang Quân đã chấn động võ lâm rồi. Ông vừa nghe là lập tức chỉnh đốn sắc mặt, suy nghĩ một chút rồi nói: “Ta có ý này, xin cô nương đừng trách.”

Thanh Thanh nói: “Xin bá bá chỉ dạy.”

Hoàng Chân trỏ Viên Thừa Chí, bảo: “Y là sư đệ của ta. Cô nương gọi ta bằng bá bá thì ta không dám nhận. Hay cô nương gọi ta là đại ca đi?”

Thôi Hy Mẫn trừng mắt nhìn Thanh Thanh, nghĩ bụng: “Chẳng lẽ ta phải gọi cô nương nhỏ xíu này là cô cô hay sao?”

Thanh Thanh nhìn Viên Thừa Chí một cái, lập tức đổi cách xưng hô ngay: “Hoàng đại ca đã dạy, dĩ nhiên tiểu muội phải nghe lời.”

Thôi Hy Mẫn âm thầm kêu khổ: “Hỏng bét, hỏng bét! Tiểu cô nương này chẳng biết khách sáo gì cả, thật thà gọi ngay Hoàng đại ca rồi.”

Hoàng Chân không thể ngờ được tên tiểu tử hỏng bét này suy nghĩ như thế, cứ nói với Thanh Thanh: “Di chí của lệnh đường là muốn được an táng cùng lệnh tôn. Chúng ta phải hoàn thành tâm nguyện này của bà. Nhưng chưa nói nơi đây cách Hoa Sơn ngàn dặm xa xôi, cho dù linh cữu đã vận chuyển đến dưới chân núi Hoa Sơn thì cũng khó mà đưa lên vách núi được.”

Thanh Thanh hỏi: “Như vậy phải làm sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Dãy núi Hoa Sơn vô cùng hiểm trở, người võ công hơi kém là không lên được. Vận chuyển linh cữu lên đó, nhất định là không thể.”

Hoàng Chân nói: “Còn một giải pháp khác, là di chuyển hài cốt của lệnh tôn xuống đây để an táng. Nhưng di thể của lệnh tôn đã yên ổn trong huyệt mộ rồi, nếu làm kinh động e rằng không tiện.”

Thanh Thanh nghe ông nói có lý, lo lắng vừa khóc thút thít vừa nói: “Thế thì làm sao bây giờ?”

Hoàng Chân nói: “Theo ý ta thì hỏa táng di thể của lệnh đường ở đây trước, sau đó đem tro cốt lên Hoa Sơn hợp táng.”

Khi đề cập vấn đề này, ông nói rất đàng hoàng nghiêm chỉnh. Tuy Thanh Thanh không muốn vậy, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào khác. Nàng đành gạt lệ gật đầu.

Mọi người lập tức gom góp củi khô, hỏa thiêu thi thể của Ôn Nghi. Thanh Thanh từ nhỏ ở trong nhà họ Ôn đã bị coi thường, tuy mấy tên anh em họ như Ôn Chính thấy nàng xinh đẹp cũng muốn lấy lòng, nhưng trong lòng chúng chỉ có tà ý mà thôi. Chỉ có một mình mẫu thân là thương yêu nàng. Bây giờ nhìn người thương yêu mình nhất từ từ tan biến trong ánh lửa, nàng không chịu đựng nổi nữa, nằm rạp xuống đất mà khóc rống lên.

Viên Thừa Chí tìm trong tòa miếu hoang được một cái hũ sành. Chàng đợi lửa tắt, thi hài đã thành tro, mới gom tro cốt vào trong hũ, vái hai vái rồi lâm râm khấn: “Bá mẫu trên trời có linh thiêng, xin hãy yên tâm. Tiểu điệt nhất định sẽ đưa hài cốt của bá mẫu đến an táng trên đỉnh Hoa Sơn, quyết không dám phụ lòng bá mẫu.”

Hoàng Chân thấy chuyện đã xong, bèn bảo Viên Thừa Chí: “Bây giờ ta phải đưa số vàng này đến phủ Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Sấm Vương đã phái rất nhiều huynh đệ đến liên lạc ở vùng Chiết Đông, Giang Nam này. Khi Trung Nguyên cử sự thì Giang Nam cũng phất cờ nghĩa mà hưởng ứng. Đông người lắm việc, chỗ nào cũng cần tiền cả. Phen này Viên sư đệ đoạt lại số vàng, công lao không nhỏ.”

Thanh Thanh nói: “Tiểu muội thật sự không biết số vàng này liên quan trọng đại đến thế. Nếu hai vị đại ca không đến kịp thời, thì không chừng muội làm hỏng mất đại sự của Sấm Vương.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Bây giờ cô mới biết thì hơi muộn.”

Thanh Thanh xưa nay miệng lưỡi không chịu nhường ai, bèn nói: “Từ đây đến đó Hoàng đại ca phải đích thân hộ tống. Không chừng giữa đường lại xảy ra chuyện nữa.”

Thôi Hy Mẫn vội vã hỏi: “Cái… cái gì? Cô muốn đến ăn cắp vàng nữa hay sao?”

Hoàng Chân liếc mắt một cái, không để y nhiều chuyện. Ông nói: “Nếu Viên sư đệ và Hạ cô nương không có việc gì khác, mọi người cùng đến Cửu Giang có được hay không?”

Viên Thừa Chí nói: “Tiểu đệ rất nhớ sư phụ, muốn đến Nam Kinh bái kiến lão nhân gia, tiện thể gặp Thôi thúc thúc. Đại sư ca thấy có được không?”

Hoàng Chân gật đầu nói: “Sư phụ thiếu người giúp việc thân cận, mà lão nhân gia cũng rất nhớ sư đệ. Sư đệ! Lần này chúng ta mới khai trương ở Cù Châu đã trúng quả lớn, lời một món to. Sau này hành hiệp trượng nghĩa, trừ bạo vì dân, cũng mong sư đệ đại cát đại lợi, buôn bán hưng thịnh, một vốn vạn lời.”

Viên Thừa Chí nghiêm trang đáp: “Phải nhờ đại sư ca chỉ dạy rất nhiều.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Ta không muốn làm phiền sư đệ nữa, bây giờ tạm biệt ở đây. Hạ cô nương! Sau này cô thuận tay phát tài, nhớ nhận rõ chiêu bài và nhãn hiệu hàng hóa rồi mới ra tay nhé.”

Ông đứng dậy, chắp tay rồi quay lưng đi ngay. Thôi Hy Mẫn cũng bái biệt sư thúc.

Tiểu Huệ dặn Viên Thừa Chí: “Thừa Chí đại ca, hãy bảo trọng.”

Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Khi gặp An thẩm thẩm, muội đừng quên nói ca ca rất nhớ thẩm thẩm.”

Tiểu Huệ nói: “Mẹ biết đại ca cao lớn thế này rồi, nhất định rất vui mừng. Tiểu muội đi đây.” Nàng thi lễ cáo biệt, rồi đuổi theo Hoàng Chân và Thôi Hy Mẫn về hướng Tây.

Nàng vừa đi vừa quay lại vẫy tay, Viên Thừa Chí cũng không ngớt vẫy tay tạm biệt. Mãi đến khi ba người đã khuất bóng qua một khúc quanh bên núi, chàng mới dừng tay thôi vẫy.

Hồi 08: Dễ phá uy cường địch – Khó hiểu dạ nữ nhi

Thanh Thanh “hừ” một tiếng, lạnh nhạt hỏi: “Sao không đuổi theo mà vẫy tay nữa đi?”

Viên Thừa Chí ngẩn ra, không hiểu câu này ý nghĩa ra sao. Thanh Thanh giận dữ nói: “Lưu luyến mãi không muốn chia tay như thế, sao không đi cùng cô ấy cho xong?”

Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu. Chàng bèn nói: “Lúc nhỏ ta từng gặp nguy nan, được mẹ cô ấy cứu giúp. Hai ta từ nhỏ đã cùng chơi với nhau rồi.”

Thanh Thanh càng tức giận hơn, cầm một cục đá đập loạn xạ trên bậc thềm, đập đến nỗi tóe lửa ra. Nàng nhăn mặt hỏi: “Cái đó gọi là… thanh mai trúc mã chứ gì?”

Rồi nàng lại hỏi: “Khi huynh phá Ngũ Hành Trận, sao không dùng binh khí gì khác, nhất định phải dùng cây ngọc trâm của cô ấy?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta muốn dùng một cây ngọc trâm đụng vào là gãy ngay, để năm vị gia gia của muội không kiêng nể mà xuất thủ tấn công. Khi họ xuất thủ tấn công, thì trong Ngũ Hành Trận mới lộ ra sơ hở. Nếu họ chỉ phòng thủ không tấn công, thì trận này không thể phá được.”

Thanh Thanh gằn giọng hỏi: “Chẳng lẽ muội không có trâm hay sao?”

Nói xong, nàng rút cây ngọc trâm trên đầu xuống, bẻ làm hai khúc, liệng xuống đất rồi lấy chân xéo lên.

Viên Thừa Chí cảm thấy nàng gây chuyện vô cớ, đành im lặng không đáp.

Thanh Thanh giận dữ nói: “Khi có mặt cô ấy thì huynh có cười có nói, có vui có giận. Khi chỉ với muội thì huynh lặng lẽ, chẳng vui vẻ gì cả.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao muội nói ta không vui?”

Thanh Thanh không đáp, lại nói: “Mẹ của người ta tốt, lúc huynh còn nhỏ đã cứu giúp huynh, thương yêu huynh. Còn muội chỉ là một đứa không có mẹ.”

Nhắc đến mẫu thân, nàng lại cúi mặt xuống khóc tức tưởi.

Viên Thừa Chí lo lắng dỗ: “Muội đừng tức giận như thế nữa. Chúng ta còn phải bàn chuyện sau này sẽ làm gì.”

Thanh Thanh nghe nói “bàn chuyện sau này”, mặt bỗng ửng hồng. Nhưng nàng vẫn tức giận nói: “Sau này ư? Huynh cứ đuổi theo Tiểu Huệ muội muội của huynh đi. Người khổ mạng như muội, cứ để phiêu bạt chân trời góc bể cũng được rồi.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Sắp xếp cho đại cô nương này như thế nào, thật sự không phải đơn giản.”

Thanh Thanh thấy chàng không nói gì, đứng dậy bưng hũ tro cốt của mẹ lên, quay lưng đi ngay. Viên Thừa Chí vội hỏi: “Muội đi đâu vậy?”

Thanh Thanh đáp: “Cứ mặc kệ muội.” Nàng đi về hướng Bắc.

Viên Thừa Chí không biết làm gì, đành phải đi theo. Suốt dọc đường Thanh Thanh không nói chuyện với chàng. Viên Thừa Chí hỏi sao thì hỏi, nàng cũng không trả lời.

Đến Kim Hoa, hai người tá túc trong một khách sạn. Thanh Thanh đi chợ mua y phục nam nhân, lại cải nam trang. Viên Thừa Chí biết nàng đột ngột rời khỏi nhà, không mang theo nhiều tiền bạc, nên nhân lúc nàng ra ngoài mà bỏ hai thỏi vàng vào túi áo nàng. Khi Thanh Thanh trở về, nàng bĩu môi một cái rồi quẳng trả hai thỏi vàng vào phòng chàng.

Đêm đó nàng ra ngoài gây án, vào nhà một phú hộ đánh cắp được năm trăm lượng bạc. Sáng sớm hôm sau thành Kim Hoa đã xôn xao bàn tán. Viên Thừa Chí biết đây là kiệt tác của nàng, không khỏi chau mày. Chàng hoàn toàn không hiểu tại sao nàng đột nhiên nổi giận vô cớ, nên cũng không biết phải đối phó thế nào. Nếu dùng lời lẽ ngọt ngào mềm mại để dỗ dành, thì không biết phải dỗ dành cô nàng như thế nào mới đúng. Còn nếu mặc kệ nàng, thì cảm thấy để thiếu nữ côi cút này một mình bôn ba trong chốn giang hồ không khỏi có phần bất nhẫn. Chàng nghĩ đi nghĩ lại cũng không biết phải làm sao.

Ngày đó, hai người rời khỏi Kim Hoa, đi về hướng Nghĩa Ô. Thanh Thanh cứ hầm hầm đi trước, Viên Thừa Chí theo sau.

Đi được hơn ba mươi dặm, đột nhiên mây đen kéo đầy trời. Hai người phải rảo bước đi nhanh hơn. Chưa đầy năm dặm, mưa to đã trút xuống. Viên Thừa Chí có đem theo dù, còn Thanh Thanh chê vướng víu không đem. Nàng liền thi triển khinh công chạy về phía trước. Quanh đó không có nhà cửa, cũng không có chùa chiền đình miếu gì.

Viên Thừa Chí mang cây dù chạy nhanh đến trước mặt đưa cho nàng. Thanh Thanh gạt ra, chàng bèn nói: “Thanh đệ! Chúng ta là anh em kết nghĩa, đã thề đồng sinh cộng tử, phúc họa cùng chia. Sao muội giận ta lâu thế?”

Sắc mặt Thanh Thanh có vẻ dịu hơn. Nàng nói: “Huynh muốn muội không giận thì rất dễ, chỉ cần hứa với muội một việc.”

Viên Thừa Chí nói: “Muội nói đi. Đừng nói là một việc, mười việc ta cũng làm theo.”

Thanh Thanh nói: “Được, huynh nghe đây! Từ nay về sau, huynh không được gặp An cô nương và mẹ của cô ấy nữa. Nếu huynh đồng ý, muội lập tức xin lỗi huynh ngay.” Nói xong nàng khẽ mỉm cười.

Viên Thừa Chí hết sức bối rối. Hai mẹ con họ An đã có ơn với chàng, sau này phải tìm cách báo đáp. Nếu vô duyên vô cớ tránh mặt không gặp người ta, thì còn ra thể thống gì nữa? Chuyện này không dễ hứa, nên chàng ngần ngừ một lúc.

Thanh Thanh cau mặt lại, giận dữ nói: “Muội biết, huynh không dễ gì bỏ rơi Tiểu Huệ muội muội của huynh đâu.”

Nàng quay phắt đi, chạy như điên về phía trước. Viên Thừa Chí kêu lớn: “Thanh đệ, Thanh đệ!”

Thanh Thanh bịt tai lại không nghe. Chạy qua mấy khúc quanh, thấy bên đường có một gian đình nhỏ, nàng liền chạy vào trong. Viên Thừa Chí cũng chạy vào theo, thấy nàng ướt sũng cả người. Lúc này tiết trời đang nóng, y phục nàng đã mỏng manh lại bị nước mưa thấm ướt, trông rất bất nhã. Thanh Thanh vừa hổ thẹn vừa lo lắng, phục lên lan can trong đình, vừa khóc vừa kêu: “Huynh ăn hiếp muội, huynh ăn hiếp muội!”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Lạ quá, mình ăn hiếp cô ấy hồi nào?” Nhưng chàng không phân trần gì cả, cởi trường bào của mình ra phủ lên người cho nàng. Viên Thừa Chí có dù che mưa, nên áo quần không bị ướt.

Chàng nghĩ: “Rốt cuộc nàng muốn gì, mình thật không hiểu. Tiểu Huệ muội muội không đắc tội gì với nàng, sao nàng lại đòi mình từ nay về sau không được gặp Tiểu Huệ? Chẳng lẽ vì Tiểu Huệ tới đòi vàng mà liên lụy hại chết mẹ của nàng hay sao? Việc đó đâu thể trách Tiểu Huệ được?”

Viên Thừa Chí đánh cho bọn Lữ Thất tiên sinh, Ôn thị ngũ lão đại bại tới kinh hồn vỡ mật, chưa phải là khó lắm. Nhưng cô chiêu Thanh Thanh này lúc hân hoan lúc nhõng nhẽo, mới khóc đã cười, khiến chàng có gãi chảy máu đầu đi nữa cũng không hiểu được. Viên Thừa Chí từ nhỏ đến giờ chưa từng giao thiệp với những cô nương trẻ tuổi. Thanh Thanh lại yêu sách quá mức, nên chàng thật không biết phải làm gì.

Thanh Thanh lại nghĩ đến cái chết thê thảm của mẫu thân, cứ khom người khóc rống lên. Viên Thừa Chí nhức đầu nhức óc. Hồi lâu mưa từ từ ngớt, nhưng Thanh Thanh vẫn khóc mãi không thôi. Nàng lén nhìn Viên Thừa Chí một cái, thấy chàng cũng đang nhìn mình, bèn xoay ánh mắt sang chỗ khác, càng khóc lớn hơn. Viên Thừa Chí dứt khoát nghĩ: “Để xem cô còn bao nhiêu nước mắt cho biết.”

Tình hình đang bế tắc, đột nhiên nghe tiếng bước chân, một nông phu trẻ dìu một bà lão bước vào gian đình. Dường như bà lão đang bệnh, rên rỉ không dứt. Nông phu đó là con của bà, cố dùng lời lẽ dịu dàng an ủi mẹ.

Thanh Thanh thấy có người lạ vào đình mới chịu ngưng khóc. Viên Thừa Chí chợt nảy ra sáng kiến: “Để ta thử xem phương pháp này dùng được hay không.”

Chẳng bao lâu, mẹ con nông phu rời khỏi đình, đi tiếp. Thanh Thanh thấy mưa đã dứt hẳn, định lên đường thì bỗng nghe Viên Thừa Chí kêu: “Úi chà! Trời ơi!”

Thanh Thanh giật mình kinh hãi, quay lại nhìn thì thấy Viên Thừa Chí ôm bụng cúi rạp dưới đất. Nàng vội chạy tới xem. Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, lập tức trên trán tươm ra những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu.

Thanh Thanh sợ hãi hỏi: “Sao rồi? Đau bụng phải không?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Đã giả vờ thì phải giả vờ cho đến cùng.” Chàng tiếp tục vận khí, bế những huyệt đạo trên tay. Thanh Thanh sờ vào tay chàng thấy lạnh như băng, hoảng sợ đến nỗi không biết làm gì, rối rít hỏi: “Huynh sao rồi? Sao rồi?”

Viên Thừa Chí rên rỉ lớn tiếng hơn, vẫn không trả lời. Thanh Thanh lo quá, bắt đầu khóc lớn.

Viên Thừa Chí vừa rên vừa nói: “Thanh đệ! Ta… ta bệnh thế này, không khỏi được đâu. Thanh đệ cứ mặc kệ ta, đi một mình đi.”

Thanh Thanh hỏi: “Tại sao đang mạnh khỏe mà đột nhiên phát bệnh?”

Viên Thừa Chí ủ rũ nói: “Từ nhỏ ta đã có tật không chịu được người khác giận mình. Nếu có ai tức giận ta, trong lòng ta lo lắng là lập tức đau bụng ngay. Úi chà! Trời ơi! Đau chết đi được. Hôm qua ta lại ác đấu với năm vị gia gia của Thanh đệ, bay giờ đuối sức rồi. Trời ơi! Đau quá!…”

Thanh Thanh kinh hãi, vòng tay ôm chầm lấy chàng, xoa nhè nhẹ trước ngực cho chàng. Viên Thừa Chí được nàng ôm, cảm thấy vừa dễ chịu vừa khó chịu.

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Thừa Chí đại ca! Muội không phải rồi, huynh đừng giận nữa.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu mình không tiếp tục giả vờ, nàng chắc chắn sẽ coi mình là đồ lợi dụng”. Lỡ phóng lao thì phải theo lao, chàng chỉ còn cách gục xuống rên rỉ: “Ta không sống nổi nữa rồi. Sau khi ta chết, nhờ Thanh đệ an táng rồi báo cho đại sư ca một tiếng.”

Viên Thừa Chí càng giả vờ càng giống, nhưng trong bụng cười thầm.

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Huynh không được chết! Huynh không hiểu, muội chỉ giả vờ tức giận để trêu tức huynh. Trong lòng của muội… muội từ lâu đã thích huynh. Thấy huynh tử tế với Tiểu Huệ muội muội, muội thấy khó chịu, cứ tưởng huynh không thích muội. Nếu huynh chết đi thì muội sẽ cùng chết với huynh.”

Viên Thừa Chí kinh hãi, thì ra cô gái này đã yêu mình. Từ nhỏ đến giờ, đây là lần đầu tiên Viên Thừa Chí được nếm mùi vị ôn nhu. Trong lòng chàng nổi lên một cảm giác khó tả, vừa ngọt ngào vừa xấu hổ, cứ ngẩn ngơ không nói được gì.

Thanh Thanh nghĩ chàng sắp chết, nên ôm càng chặt thêm, kêu lên: “Đại ca! Huynh không thể chết. Không có huynh thì muội không sống nổi.”

Viên Thừa Chí cảm thấy hơi thở nàng dịu dàng thoang thoảng như hoa lan, thân thể mềm mại tựa sát vào mình. Chàng không khỏi thần hồn điên đảo.

Thanh Thanh lại nói: “Muội chỉ giả vờ tức giận, huynh đừng coi là thật.”

Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Huynh chỉ giả vờ bệnh, muội đừng coi là thật.”

Thanh Thanh ngơ ngác, đột nhiên nhảy bật dậy, tát một phát thẳng tay lên mặt Viên Thừa Chí. Nghe một tiếng “bốp”, trước mắt Viên Thừa Chí như có ngàn sao nhấp nháy. Thanh Thanh xoay mặt lại, bỏ đi ngay.

Viên Thừa Chí lại ngơ ngác: “Nàng vừa nói là thích mình, không có mình thì không sống nổi, sao đột nhiên đánh mình rồi bỏ đi?” Chàng không hiểu tâm sự của Thanh Thanh, chỉ còn cách lẽo đẽo theo sau.

Sau phen vui mừng, Thanh Thanh đã quên hết chuyện ghen tị với An Tiểu Huệ. Thấy trên má trái của Viên Thừa Chí có năm vết ngón tay đỏ ửng, nàng bất giác vừa áy náy vừa có phần đắc ý. Nghĩ đến mình đã thổ lộ tâm sự rồi, nàng lại khó chịu trong lòng.

Hai người đều có chuyện khó nói, nên suốt dọc đường không hề trò chuyện gì với nhau. Có lúc ánh mắt chạm nhau, cả hai đều đỏ mặt quay đi tránh né, nhưng trong lòng đều cảm thấy ngọt ngào. Họ đi mấy chục dặm đường trên mặt đất, mà cảm giác như phiêu lãng trên mây.

Xế chiều hôm đó đã đến Nghĩa Ô. Thanh Thanh tìm khách sạn để nghỉ lại, Viên Thừa Chí cũng theo vào. Thanh Thanh liếc chàng một cái, nói: “Tên vô lại này, theo người ta mãi, thật là đáng ghét.”

Viên Thừa Chí sờ lên má, mỉm cười rồi nói: “Đau bụng là giả, nhưng đau má là thật.”

Thanh Thanh cũng mỉm cười, đáp: “Nếu huynh chịu không nổi thì cứ tát trả muội một tát đi.”

Hai người lại hòa như trước, ăn cơm xong nói chuyện một hồi rồi mới về phòng nghỉ ngơi. Thanh Thanh thấy mình đã thổ lộ tâm tình mà chàng vẫn giữ lễ độ, không nhắc gì đến chuyện đó, nên đỡ phải bối rối. Nhưng nàng nhịn không nổi, lại phải nghĩ: “Mình đã nói là thích huynh ấy, thế mà huynh ấy chẳng nói gì cả. Không biết lòng dạ huynh ấy đối với mình thế nào? Huynh ấy thích mình không, hay là không thích?” Suốt đêm nàng cứ trăn qua trở lại, không sao ngủ yên giấc được, cứ băn khoăn không biết Viên Thừa Chí có thích mình không.

Sáng hôm sau thức dậy, tiếp tục lên đường. Thanh Thanh hỏi chàng đã phát hiện hài cốt của phụ thân mình trong trường hợp nào. Viên Thừa Chí bèn kể lại tỉ mỉ hai con vượn phát hiện sơn động đó, rồi chàng chui vào trong động, thấy bộ hài cốt, đào hộp sắt lên, phát hiện đồ phổ. Sau đó chàng kể đến chuyện Trương Xuân Cửu và tên trọc giữa đêm đánh lén lên đỉnh núi rồi gặp họa.

Thanh Thanh nghe mà dựng tóc gáy lên, nói: “Trương Xuân Cửu là đồ đệ của Tứ gia gia, gian ác có tiếng. Còn Vương Thất Động là đồ đệ của Nhị gia gia. Cứ mười sáu tháng giêng hằng năm là năm lão gia gia của muội phái con cháu đồ đệ ra ngoài tìm kiếm. Không hiểu tìm ai hay tìm vật gì, mọi người đều giấu giếm không nói cho muội biết. Nhưng khi trở về thì ai cũng ra vẻ ủ rũ, nhất định chưa tìm được gì cả. Bây giờ nghĩ lại, đích thị là họ đi tìm tung tích của phụ thân muội rồi.”

Nàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Phụ thân của muội đã chết mà vẫn có thể dùng kế giết địch, thật không thể ngờ được.”

Thanh âm nàng đầy vẻ thán phục. Nàng lại tiếp: “Nếu phụ thân còn sống, thấy huynh đánh cho bọn ác nhân ở Ôn gia thua tơi bời, nhất định sẽ rất vui mừng… À, mẹ đã chính mắt nhìn thấy, nhất định sẽ kể cho phụ thân biết. Huynh cho muội nhìn bút tích của phụ thân một lát nữa đi.”

Viên Thừa Chí lấy tấm bản đồ đưa nàng, bảo: “Đây là bút tích của phụ thân muội, phải trả cho muội mới đúng.”

Thanh Thanh nhìn di bút của cha mình, vừa đau lòng vừa hoan hỉ.

Hôm đó, hai người đến Tùng Giang. Thanh Thanh bỗng nói: “Khi đến Nam Kinh, gặp sư phụ của huynh xong, chúng ta hãy đi tìm bảo bối.”

Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Bảo bối gì?”

Thanh Thanh nói: “Tấm bản đồ này của phụ thân, không phải bản đồ kho báu hay sao? Gia gia còn nói, người tìm được kho báu này phải tặng cho má má của muội mười vạn lượng vàng. Má má cũng nói, đây là kho của hoàng cung, không biết chứa đựng bao nhiêu kim ngân châu báu.”

Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc rồi nói: “Muội nghĩ như vậy cũng đúng. Nhưng bây giờ chúng ta làm việc chính trước đã.” Chàng chỉ nghĩ đến việc tìm gặp sư phụ, sau đó đi trả thù cho cha.

Thanh Thanh nói: “Theo bản đồ này đi tìm kho báu, chưa chắc đã tốn nhiều thời gian.”

Viên Thừa Chí lộ vẻ không vui, bảo: “Nếu chúng ta tìm được kim ngân châu báu thì có ích gì? Thanh đệ! Ta khuyên Thanh đệ nên đứng đắn hơn, bớt tham tiền một chút thì tốt.”

Nghe vậy Thanh Thanh bĩu môi tức giận, bỏ không ăn cơm tối.

Sáng hôm sau lên đường, Thanh Thanh mới nói: “Muội chỉ lấy có hai ngàn lượng vàng của Sấm Vương mà họ đã lo sốt vó, khiến đại sư ca của huynh phải đích thân đi đòi lại. Sao Sấm Vương nhỏ mọn đến thế?”

Viên Thừa Chí cãi: “Sấm Vương không nhỏ mọn đâu. Ta đã gặp rồi, ông ấy đối xử với người khác rất trọng nghĩa khí. Ông muốn trừ khổ cho thiên hạ, chính mình thì vô cùng tiết kiệm, đáng mặt là đại anh hùng, đại hào kiệt. Hai ngàn lượng vàng này chắc Sấm Vương đang cần sử dụng, nên mới không dễ dàng bỏ mất.”

Thanh Thanh nói: “Đúng vậy. Nếu chúng ta có thể tặng cho Sấm Vương hai chục vạn lượng vàng, thậm chí hai trăm vạn lượng, ba trăm vạn lượng thì sao? Huynh thấy việc này có được không?”

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ ra, cả mừng nắm chặt đôi tay Thanh Thanh mà nói: “Thanh đệ! Ta thật là hồ đồ, may mà được muội nhắc nhở.”

Thanh Thanh hất tay chàng ra nói: “Muội không cần huynh tử tế đâu. Từ nay về sau, huynh bớt mắng người ta một chút là tốt rồi.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Nếu chúng ta tìm được số kim ngân châu báu này, đem tặng Sấm Vương, thì cứu được không biết bao nhiêu sinh linh đồ thán.”

Hai người ngồi bên vệ đường, lấy tấm bản đồ ra xem tỉ mỉ. Giữa tấm bản đồ có một vòng tròn màu đỏ, bên cạnh ghi chú bốn chữ: Ngụy Quốc Công Phủ. Hai người nhìn chung quanh tường tận, rồi Viên Thừa Chí nói: “Kho báu chôn dưới một căn nhà, kế bên Ngụy Quốc Công Phủ.”

Thanh Thanh nói: “Sau khi đến Nam Kinh, chúng ta chỉ cần tìm được Ngụy Quốc Công phủ là xong. Ngụy Quốc Công là phong hiệu của tướng quân Từ Đạt. Ông ấy là đệ nhất đại công thần của bản triều, phủ đệ nhất định rất nguy nga, chắc cũng dễ tìm.”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Phủ đệ của đại tướng quân chắc chắn phòng bị nghiêm ngặt khác hẳn nhà của bá tính. Dù có thể lẻn vào trong, nhưng muốn đào bới châu báu thì chẳng dễ dàng đâu.”

Thanh Thanh nói: “Bây giờ mình đoán mò chỉ vô ích. Cứ đến Nam Kinh, rồi tùy cơ mà ứng biến.”

*

*   *

Mấy ngày sau hai người đã đến Nam Kinh. Thạch Đầu Thành ở Kim Lăng là tòa thành lớn nhất thiên hạ, nơi kiến đô khai quốc của Thái Tổ năm xưa, nay vẫn dùng tên cũ gọi là Ưng Thiên phủ. Ở đây nhà cửa san sát, đường sá quy hoạch đàng hoàng, lan can cầu được sơn son thiếp vàng, trên cầu có nhiều người đang ca hát. Dù là đường lớn hay hẻm nhỏ, dân cư vẫn ăn mặc rất bảnh bao. Các bậc vương tôn thế gia tập trung cư ngụ ở đây rất nhiều. Tuy thời thế đang loạn, nhưng sự xa xỉ so với trước kia không giảm bao nhiêu.

Sau khi tìm khách sạn nghỉ ngơi, Thừa Chí liền theo địa chỉ mà đại sư ca đã dặn để đi tìm sư phụ. Khi hỏi thì biết Mục Nhân Thanh đã tới An Khánh phủ rồi, còn An Khánh phủ ở nơi nào thì ngay cả người đưa tin cũng không biết. Thừa Chí rầu rĩ tỏ vẻ không vui. Thanh Thanh kéo chàng ra ngoài thăm viếng các nơi thắng cảnh nhưng chàng chẳng còn lòng dạ nào đi dạo, chỉ ngồi trong khách sạn mà thở dài thở ngắn.

Thanh Thanh gọi tiểu nhị vào phòng để hỏi thăm Ngụy Quốc Công phủ ở đâu. Tên tiểu nhị ngẩn ra, lắc đầu nói: “Ở Nam Kinh làm gì có Ngụy Quốc Công phủ?”

Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Ngụy Quốc Công là đệ nhất danh thần của bản triều, chẳng lẽ không có phủ đệ?”

Tiểu nhị nói: “Nếu có, tướng công hãy tự mà đi tìm. Tiểu nhân là dân bản địa, ở Nam Kinh hơn bốn mươi năm rồi, nhưng chưa từng nghe thấy.”

Thanh Thanh trách hắn ăn nói vô lễ, đưa tay định đánh, nhưng Viên Thừa Chí cản lại. Tên tiểu nhị vừa bỏ ra ngoài vừa lầm bầm một lúc.

Hai người tìm kiếm ở Nam Kinh bảy tám ngày trời, hoàn toàn không được chút manh mối nào. Viên Thừa Chí đòi đi An Khánh phủ tìm sư phụ, nhưng Thanh Thanh nói: “Đã đến Nam Kinh rồi, thì phải điều tra cho rõ mới chịu thôi.”

Lại dò hỏi năm sáu ngày nữa, có người nói: “Vào đời Vĩnh Đạt, hậu nhân của Từ Đạt tướng quân đã thay đổi tước hiệu thành Định Quốc Công, nghe nói phủ đệ bây giờ ở Thuần Thiên phủ thành Bắc Kinh.” Có người nói: “Sau khi đại tướng quân tạ thế, được truy hiệu là Trung Sơn Vương. Ở Nam Kinh có Trung Sơn Vương phủ, hai vị tới xem thử.” Lại có người nói: “Thủ Bị Quốc Công của Nam Kinh cũng họ Từ, ở Thủ Bị phủ. Còn Ngụy Quốc Công phủ thì không biết ở đâu.” Hai người tới Trung Sơn Vương phủ và Thủ Bị phủ xem xét, nhưng thấy địa thế khác hẳn hình vẽ trên bản đồ.

Đêm hôm ấy hai người thuê một chiếc thuyền để giải khuây trên sông Tần Hoài. Viên Thừa Chí nói: “Phụ thân của muội bản lãnh bằng trời, đã được tấm bản đồ mà cũng chưa tìm ra kho báu. Như thế đủ biết chuyện này rất phiêu lưu.”

Thanh Thanh nói: “Rõ ràng phụ thân đã viết như vậy, làm gì có sai sót. Không phải là chuyện một hai lượng bạc, dĩ nhiên không dễ lấy vào tay.”

Viên Thừa Chí nói: “Chúng ta tìm thêm một ngày nữa, nếu không có manh mối thì phải đi thôi.”

Thanh Thanh nói: “Tìm thêm ba ngày.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Được, cứ theo lời muội, ba ngày thì ba ngày. Muội tưởng ta không muốn tìm ra kho báu hay sao?”

Trên mặt sông vẳng tiếng xướng ca, mái chèo khua nhẹ, đèn nến mông lung. Hình như trong gió thoảng có mùi hương son phấn. Không khí ủy mị sang trọng thế này, Thừa Chí dĩ nhiên chưa thấy, mà Thanh Thanh sống nơi Chiết Đông xa xôi cũng chưa từng gặp. Nàng uống mấy ly, mặt đã hơi đỏ, nghe từ thuyền bên cạnh vọng đến tiếng ca hát cười đùa, không khỏi nổi chí tò mò.

Thanh Thanh mỉm cười nói lớn: “Đại ca! Chúng ta gọi hai cô gái đến hát ca chuốc rượu có được không?”

Viên Thừa Chí lập tức đỏ mặt hỏi: “Đệ uống say rồi phải không? Sao bừa bãi như vậy?”

Gã thuyền phu đang chèo chiếc du thuyền liền nói: “Các vị tướng công đến du ngoạn trên sông Tần Hoài này, chẳng ai là không gọi các cô đến cùng uống rượu. Nếu hai vị tướng công có ai quen biết, thì tiểu nhân đi gọi.”

Thừa Chí xua tay loạn lên, đáp: “Không cần, không cần.”

Thanh Thanh mỉm cười hỏi thuyền phu: “Trên sông này có vị cô nương nào nổi tiếng?”

Thuyền phu đáp: “Nói về danh tiếng thì có Biện Ngọc Quân, Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển, Lý Hương Quân. Cô nào cũng tài mạo song toàn, biết làm thơ lại biết ca hát.”

Thanh Thanh nói: “Thế thì ngươi gọi giúp hai cô Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển gì gì đó đi.”

Thuyền phu lè lưỡi nói: “Nhất định tướng công mới đến Nam Kinh lần đầu.”

Thanh Thanh hỏi: “Thì đã sao?”

Thuyền phu nói: “Muốn gặp những cô nương nổi tiếng đó, không phải là vương tôn công tử thì phải là bậc danh sĩ văn chương. Người buôn bán thì có khiêng cả núi vàng đến cũng chưa chắc được gặp họ một lần. Làm sao tiểu nhân gọi họ đến đây được!”

Thanh Thanh bĩu môi nói: “Ca kỹ mà cũng phách lối đến thế ư?”

Thuyền phu nói: “Trên sông Tần Hoài này còn nhiều cô nương rất khá. Để tiểu nhân gọi hai cô đến cho hai vị tướng công.”

Thừa Chí nói: “Chúng ta sắp về rồi, để hôm khác hãy gọi.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Nhưng đệ đi chơi chưa đã.” Rồi nàng bảo thuyền phu: “Ngươi gọi đi.”

Tên thuyền phu đang đợi câu này, nhanh nhẩu ngoác miệng ra kêu mấy tiếng. Lập tức một chiếc thuyền hoa từ bờ sông chèo vội ra. Hai người ca kỹ theo cầu ván bước sang, chắp tay chào Viên Thừa Chí và Thanh Thanh. Viên Thừa Chí đứng dậy trả lễ, thần sắc đầy vẻ ngượng nghịu.

Thanh Thanh ngồi ngay tại chỗ ra vẻ nhà quan, chẳng động đậy gì mà chỉ mỉm cười. Thấy Viên Thừa Chí bối rối như thế, nàng buồn cười nghĩ bụng: “Thì ra chàng quá thật thà. Giả tỉ trong lòng có thương yêu mình, chắc chàng cũng không biết đường mà nói.”

Hai người ca kỹ này dung mạo chỉ bình thường. Một cô cầm sáo thổi bài Chiết Quế Lệnh, nghe cũng khá êm tai. Thanh Thanh biết bài này lẽ ra phải thổi bằng ống địch, nhưng nữ nhân thì thổi sáo trông văn nhã hơn.

Một cô hỏi Thanh Thanh: “Tướng công! Bọn muội cùng hát bài Quá Chi Nhi cho tướng công nghe, có được hay không?”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Hay lắm!”

Người ca kỹ đó nâng đàn tỳ bà, hát giọng nam:

“Ta bảo muội gọi ca ca; Thủy chung muội không chịu gọi; Lẽ ra không chờ ta nói; Gọi ca ca mới chân tình.

Muốn nghe muội gọi ca ca; Muội cứ lắc đầu đỏ mặt; Chờ mãi không nghe muội nói; Chắc là không thương ta rồi.

Nếu muội thương ta thật lòng; Sao không gọi ta như vậy?”

Nghe đến đây, Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình quen gọi nàng là Thanh đệ, còn nàng chẳng gọi mình là ca ca bao giờ. Nàng chỉ thường gọi là Thừa Chí đại ca, cùng lắm là gọi đại ca.” Bất giác chàng liếc qua Thanh Thanh, thấy nàng mặt đỏ ửng lên, cũng đang liếc mình. Ánh mắt hai người vừa chạm nhau đều cảm thấy thiếu tự nhiên, vội vã quay đi.

Người ca kỹ lại hát tiếp:

“Oan gia ơi là oan gia; Ta không muốn nghe muội xạo; Nếu trong lòng muội không thương; Thì thôi đừng gọi cho rồi.

Đã gọi phải gọi dịu dàng; Nghe mà lòng sôi hừng hực; Còn nếu giả vờ tình cảm; Thì thôi đừng gọi hay hơn.”

Người ca kỹ cầm sáo hát giọng nữ đáp lại:

“Oan gia ơi là oan gia; Muốn muội gọi thì muội gọi; Nhưng nếu muội không mở lời; Xin ca ca đừng lo lắng.

Gọi ca ca ở ngoài miệng; Thương ca ca để trong lòng; Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương.”

Tiếng hát cực kỳ nhu mì uyển chuyển, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe mà không khỏi điên đảo thần hồn.

Hai cô hòa giọng hát lại câu cuối: “Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương.”

Tiếng tỳ bà vẫn dạo tình tang, dịu dàng lưu loát, khêu động lòng người; hòa vào ca từ ngọt như đường mật, thơm như son phấn, đầy vẻ kiêu sa.

Từ nhỏ đến lớn Viên Thừa Chí chỉ bạn cùng đao kiếm. Trước khi quen với Thanh Thanh, chàng kết giao toàn là nam nhi sảng khoái hào phóng, chưa hề nghĩ rằng một tiếng gọi “ca ca” mà có nhiều nội dung đến thế. Nghĩ đến tình ý triền miên trong ca từ, tim chàng bỗng đập rộn lên nghe thình thịch.

Mắt Thanh Thanh nhìn xuống, cầm lấy ống sáo trong tay người ca kỹ. Nàng lấy khăn tay thấm một ít rượu, lau chùi sạch sẽ lỗ sáo rồi đưa lên miệng mà thổi.

Trước đây Viên Thừa Chí từng nghe nàng thổi sáo trên đồi hoa hồng ở Tịnh Nham; bây giờ lại nghe trên sông nước, dưới trăng trên sóng, hương rượu nồng, phấn son thoang thoảng, lại có một cảm giác khác biệt. Tiếng sáo uyển chuyển du dương, chính là khúc Quá Chi Nhi vừa rồi. Nghe đến câu “Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương”, chàng ngắm nhìn khuôn mặt Thanh Thanh diễm lệ dưới ánh nến hồng, không nén nổi tâm thần say đắm.

Viên Thừa Chí nghe đến xuất thần, không nhận thấy một chiếc thuyền hoa lớn đã chạy tới sát thuyền mình. Bỗng có người cười ha hả, hô lớn: “Tiếng tiêu hay quá, tiếng tiêu hay quá!” Rồi có ba người bước sang.

Thanh Thanh thấy có người quấy nhiễu, nổi giận bỏ ống sáo xuống, đưa mắt liếc nhìn. Trong ba người bước lên thuyền, người đầu tiên cầm quạt xếp, mặc gấm vóc, khoảng hơn ba mươi tuổi, cặp mắt ti hí, da còn trắng hơn cả hai người ca kỹ. Phía sau là hai tên gia đinh cầm lồng đèn, trên đèn viết ba chữ: Tổng đốc phủ.

Viên Thừa Chí đứng dậy chắp tay nghênh đón, hai người ca kỹ khấu đầu, còn Thanh Thanh thì mặc kệ.

Người đó vừa cười lớn vừa tiến vào khoang thuyền, nói: “Làm phiền các vị rồi.” Nói xong, hắn tỉnh bơ ngồi xuống.

Viên Thừa Chí lên tiếng: “Xin hỏi tôn tính đại danh?”

Hắn chưa kịp trả lời, một người ca kỹ đã đáp hộ: “Đây là Mã công tử ở Tổng đốc phủ huyện Phượng Dương này, là một thiếu gia hào phóng có tiếng trên sông Tần Hoài.”

Mã công tử không thèm hỏi danh tính Viên Thừa Chí. Hắn cố giương cặp mắt ti hí lên, mê mẩn nhìn ngắm Thanh Thanh, cười hỏi: “Vị này ở ban nhạc nào vậy? Thổi sáo cực hay, sao không qua đây hầu hạ đại gia? Hà hà, hà hà…”

Thanh Thanh thấy hắn coi mình như một tên nhạc công nào đó, dựng ngược lông mày lên, muốn phát tác ngay. Thừa Chí vội đưa mắt ra hiệu rồi nói: “Đây là huynh đệ của tại hạ. Bọn tại hạ đến Nam Kinh để tìm bằng hữu.”

Mã công tử mỉm cười nói: “Tìm bằng hữu làm chi? Hôm nay tình cờ gặp nhau, kết Mã công tử này làm bằng hữu là được ăn nhậu không bao giờ dứt.”

Thừa Chí rất giận, nhưng chỉ lạnh lùng hỏi: “Các hạ làm chức quan gì trong Tổng đốc phủ vậy?”

Mã công tử mỉm cười đáp: “Tổng đốc Mã đại nhân chính là gia thúc.”

Từ chiếc thuyền hoa đó lại có một người bước qua. Người này mặc trường bào màu cánh sen, thân hình lùn tịt, bên mép vắt hai chòm râu, thần sắc rất hòa nhã. Hắn mỉm cười hỏi Mã công tử: “Công tử! Huynh đệ này thổi sáo không tệ phải không?”

Nhìn bộ điệu tên này, Viên Thừa Chí đoán hắn là loại khách bám theo Mã công tử để ăn nhậu. Mã công tử bảo: “Cảnh Đình! Ngươi nói với họ mấy câu đi.”

Người ấy vâng dạ lia lịa, tự xưng mình họ Dương tên Cảnh Đình, rồi nói với Viên Thừa Chí và Hạ Thanh Thanh: “Mã công tử là cháu ruột của Mã đại nhân, tổng đốc huyện Phượng Dương. Công tử rất nhiệt tâm kết giao bằng hữu, kim ngân ngàn lượng coi như không. Ai kết được người bạn như thế như nhặt được hũ vàng, chuột sa chĩnh nếp. Mã đại nhân thương yêu nhất là đứa cháu này, thương hơn cả con ruột. Vị huynh đệ này muốn tìm bằng hữu phải không? Tốt nhất là dọn ngay vào trong phủ Mã công tử mà ở.”

Viên Thừa Chí nghe chúng buông lời vô lễ, lại sợ Thanh Thanh nổi giận. Nào ngờ nàng lại nhoẻn cười mà nói: “Thế thì tuyệt diệu! Chúng ta lên bờ đi.”

Mã công tử cả mừng, đưa tay toan nắm tay Thanh Thanh. Thanh Thanh lùi lại, đẩy một người ca kỹ tới chỗ hắn. Thừa Chí kinh ngạc, nhưng nhất thời không lên tiếng.

Thanh Thanh đứng dậy, nói với Mã công tử: “Tiểu đệ muốn thưởng hai vị cô nương và thuyền gia này, mỗi người năm lượng bạc.”

Mã công tử nói: “Dĩ nhiên ta sẽ lo liệu. Ngày mai các ngươi đến nhà ta để lãnh thưởng.”

Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Thưởng ngay bây giờ, há chẳng sảng khoái hơn sao?”

Mã công tử gật đầu lia lịa: “Đúng vậy, đúng vậy!”

Hắn vẫy tay một cái, bọn gia đinh lấy ra mười lăm lượng bạc. Thuyền phu và ca kỹ khấu đầu đa tạ.

Mã công tử trố mắt nhìn Thanh Thanh không chớp, mặt mày rạng rỡ, miệng cười toe toét. Dường như hắn đang ngứa ngáy khó chịu, như lượm được một món kỳ trân dị bảo trên trời rơi xuống vậy.

Chỉ một lát sau, thuyền đã ghé vào bờ. Dương Cảnh Đình nói: “Để tại hạ đi gọi kiệu.”

Thanh Thanh bỗng kêu lên: “Trời ơi! Tiểu đệ còn một món đồ để ở nhà, bây giờ phải đi lấy ngay.”

Mã công tử nói: “Để ta sai gia nhân đi lấy là được rồi. Hiền đệ đang trú ở đâu vậy?”

Thanh Thanh nói: “Bọn đệ đang ngụ trong một ngôi chùa ở ngõ Phúc Châu, cửa Thái Bình. Món đồ đó không thể để mất được.”

Dương Cảnh Đình kề vào tai Mã công tử khẽ nói: “Hãy theo sát, đừng để con gà xinh đẹp này chạy mất.”

Mã công tử nháy mắt đáp: “Đúng thế!” Rồi hắn quay lại bảo Thanh Thanh: “Hiền đệ! Ta đi cùng hiền đệ.”

Nói xong, hắn đưa tay ôm choàng lấy vai nàng. Thanh Thanh cười khúc khích, tránh qua một bên.

Mã công tử thần hồn điên đảo, nói với Dương Cảnh Đình: “Cảnh Đình! Nếu huynh đệ này mặc y phục nữ nhân, chắc chắn không có cô nương nào trong thành Kim Lăng này sánh được. Quả nhiên trên đời có một thiếu niên tuyệt sắc đến thế. Hôm nay ta gặp được, thật là tổ tông tích đức.”

Thanh Thanh nói: “Đại ca, chúng ta đi thôi!”

Nói xong, nàng nắm tay Viên Thừa Chí đi ngay. Mã công tử đảo mắt một cái, cả bốn người đều đi theo. Mã công tử bước tới mấy bước để cười giỡn với Thanh Thanh. Nàng cũng đối đáp với hắn, câu được câu mất.

Vì vụ tìm kiếm Ngụy Quốc Công phủ mà Thanh Thanh và Viên Thừa Chí đã lục lạo khắp nội thành, ngoại thành Nam Kinh mười mấy ngày nay, lội hết đường lớn hẻm nhỏ, nên rất quen thuộc đường sá nơi này. Viên Thừa Chí thấy nàng đi về phía đồng hoang hẻo lánh, biết nàng nổi sát khí rồi.

Chàng nghĩ bụng: “Tuy tên Mã công tử này hành vi không tốt, lại có mắt không tròng, nhưng chưa đến nỗi đáng tội chết. Sư phụ thường nói, người học võ không nên lạm sát. Ta phải cản trở thôi.” Chàng bèn dừng chân lại nói: “Thanh đệ, đừng giỡn với Mã công tử nữa. Chúng ta về khách sạn ở cửa Tây Thủy đi.”

Thanh Thanh mỉm cười bảo: “Huynh về một mình trước đi.”

Mã công tử cả mừng nói: “Đúng thế, đúng thế, huynh đệ về trước đi. Huynh đệ cần tiền xài không?”

Thừa Chí lắc đầu than thở, thầm nghĩ: “Ta đã nói là về khách sạn ở cửa Thủy Tây, cố ý nói cho hắn biết không có ngôi chùa nào ở ngõ Phúc Châu hết. Tên này chết đến gáy rồi còn chưa tỉnh ngộ.”

Vừa đi vừa nói chuyện, cuối cùng đã đến một khu nghĩa địa. Mã công tử mệt muốn đứt hơi, hào hển hỏi: “Sắp… sắp… đến chưa?”

Thanh Thanh cười rộ lên đáp: “Đến rồi.”

Mã công tử ngơ ngác nghĩ: “Đến khu nghĩa địa này để làm gì?”

Dương Cảnh Đình cũng thấy tình hình có vẻ không êm, nhưng nghĩ phe ta có tới bốn người, hai tên gia đinh lại có sức khỏe, chắc hai thiếu niên mảnh dẻ này không thể bày gian kế được. Hắn bèn nói: “Tiểu huynh đệ đừng đùa nữa. Mọi người hãy về phủ công tử uống mấy ly rượu nóng, vui vẻ một phen, tiểu huynh đệ hát mấy bài cho mọi người vui một chút, há chẳng tốt hơn sao?”

Thanh Thanh chỉ cười gằn. Viên Thừa Chí quát lên: “Các ngươi mau mau về đi. Sống đàng hoàng một chút thì đỡ gặp rắc rối.”

Dương Cảnh Đình giận dữ nói: “Tên này thật là đáng ghét. Chính ngươi sao không về trước đi? Đừng để Mã công tử tức giận.”

Mã công tử giả vờ kiếm chác, bèn nói: “Hiền đệ, ta mỏi rồi. Hiền đệ dìu ta một chút đi.”

Hắn tựa mình vào người Thanh Thanh, đưa cánh tay phải quàng qua vai nàng.

Thanh Thanh lạng người ra tránh, đột nhiên hỏi Viên Thừa Chí: “Đại ca! Cái gì đằng kia vậy?” Nàng đưa tay chỉ về hướng Đông.

Thừa Chí vừa quay đi nhìn, bỗng sau lưng nghe “xoẹt” một tiếng. Chàng vội vã quay đầu lại, thì cái thủ cấp hồ đồ của Mã công tử đã lăn xuống đất, vòi máu trên cổ vẫn còn phun ra. Dương Cảnh Đình và hai tên gia đinh ngẩn ngơ đứng đó, Thanh Thanh bước lên cho mỗi người một kiếm.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đã giết một tên thì phải diệt cỏ tận gốc, tránh khỏi hậu hoạn.” Vì thế chàng không ngăn cản nữa.

Thanh Thanh lau thanh kiếm vấy máu vào người Mã công tử, rồi cười khanh khách.

Viên Thừa Chí nói: “Loại người này thì đánh cho một trận, dạy cho một bài học cũng đủ rồi. Thanh đệ làm vậy là hơi nhẫn tâm.”

Thanh Thanh lườm một cái, giận dữ nói: “Hai chúng ta đang thổi sáo nghe hát trên sông thật là thú vị, tên này bỗng tới quấy nhiễu làm mất hứng. Huynh thấy hắn có đáng chết không?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu chỉ có tội quấy nhiễu làm mất hứng, dĩ nhiên không thể nói là đáng chết. Nhưng loại người như Mã công tử và Dương Cảnh Đình quen dựa thế mà hoành hành bá đạo, chắc chắn đã làm không ít chuyện thương thiên hại lý. Giết hắn không thể nói là lạm sát người vô tội được.” Chàng bèn nghiêm giọng nói: “Bọn khốn nạn thế này, muốn giết thì cứ giết. Nhưng nếu sau này Thanh đệ giết bừa một người tốt, thì giao tình giữa chúng ta sẽ chấm dứt.”

Thanh Thanh lè lưỡi ra nói: “Muội không dám.”

Hai người đá bốn cái xác vào trong lùm cỏ. Đang định quay về khách sạn, Viên Thừa Chí đột nhiên kéo tay áo của Thanh Thanh khẽ nói: “Có người!”

Hai người lập tức khom xuống, nấp vào sau một ngôi mộ.

Xa xa có tiếng bước chân vang lên, từ hai phía Đông Tây đều có người đi tới. Hai người từ sau phần mộ ghé mắt nhìn ra, thấy mỗi bên có mười mấy người, có cầm theo lồng đèn phất giấy dầu. Hai bên tới gần nhau, phía Đông vỗ tay ba tiếng, dừng một lúc lại vỗ hai tiếng. Phía Tây cũng vậy, vỗ tay ba tiếng rồi dừng một lúc vỗ hai tiếng. Sau đó họ đến gần nhau, tụ lại một nơi, ngồi quanh một ngôi mộ lớn. Chỗ họ ngồi cách Viên Thừa Chí và Thanh Thanh hơn mười trượng, nói nghe không rõ.

Thanh Thanh nổi dạ hiếu kỳ, muốn lại gần để nghe. Viên Thừa Chí kéo tay áo nàng, khẽ bảo: “Đợi đã.”

Thanh Thanh hỏi: “Đợi gì?”

Viên Thừa Chí xua tay ra hiệu đừng lên tiếng, Thanh Thanh bèn ngoan ngoãn chờ đợi.

Khoảng uống xong tách trà, một cơn gió thổi qua. Cỏ dại bốn bề xào xạc, những cành tùng bách mọc bên mộ cũng cọ vào nhau phát ra âm thanh lạ tai. Thừa Chí đưa tay phải đỡ lấy cánh tay phải Thanh Thanh, tay trái vòng qua hông nàng, thi triển khinh công vọt đi nhưng không tung người lên. Chàng chạy mười mấy trượng mà chân hầu như không chấm đất, đến một ngôi mộ sau lưng đám người đó rồi nằm rạp xuống. Cơn gió vẫn chưa dứt, những người kia hoàn toàn không phát giác.

Hai người vừa nằm xuống, Thừa Chí lập tức rút cả hai tay về. Thanh Thanh thầm nghĩ: “Chàng đúng là bậc quân tử chí thành, nhưng không khỏi quá cổ hủ.”

Lúc này Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cách đám người kia không quá ba trượng. Nghe rõ một giọng hơi khàn nói: “Các vị đại ca từ xa đến đây rút đao tương trợ, tại hạ vô cùng cảm kích.”

Một giọng khác nói: “Sư phụ tại hạ đã nói, Mẫn lão sư đã triệu tập thì lẽ ra phải đích thân đến đây. Nhưng lão nhân gia đã ngã bệnh hơn một tháng rồi, không rời khỏi giường được, nên sai Vạn sư thúc dẫn mười hai đệ tử bọn tại hạ đến đây để Mẫn lão sư sai khiến.”

Người có giọng khàn khàn nói: “Thì ra lệnh sư Long lão gia thọ bệnh, chỉ mong lão gia sớm bình phục. Xong việc ở đây, tại hạ nhất định sẽ đến Vân Nam vấn an, cảm tạ Long lão gia. Truy phong kiếm Vạn sư huynh kiếm pháp thần thông, oai chấn thiên nam. Tại hạ vừa thấy Vạn sư huynh đến đây, tảng đá lớn đè nặng trong lòng lập tức được dỡ bỏ.”

Một người nói rất nhỏ nhẹ: “Khách sáo rồi! Chỉ sợ phái Điểm Thương chúng ta không đủ sức giúp Mẫn lão sư.”

Viên Thừa Chí động tâm, nhớ lại sư phụ khi đàm luận về kiếm pháp thiên hạ từng nói: “Võ lâm hiện nay có tứ đại kiếm phái là Nga Mi, Hoa Sơn, Côn Luân, Điểm Thương. Nhân tài bốn phái này hưng thịnh, trong kiếm pháp có chỗ bí truyền độc đáo. Còn những môn phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, thì tuy võ học thâm sâu nhưng không chuyên về kiếm thuật.” Người họ Vạn này có ngoại hiệu là Truy Phong Kiếm, lại là cao thủ trong phái Điểm Thương, kiếm thuật nhất định vô cùng tinh xảo. Ông ấy vượt ngàn dặm xa xôi đến Kim Lăng, không biết có đại sự gì.

Hai bên khách sáo mấy câu, xa xa lại có tiếng vỗ tay vọng đến. Bên này lại vỗ tay đáp lại. Chẳng bao lâu đã có thêm ba nhóm nhân vật. Nghe họ gặp nhau nói chuyện, một nhóm là tăng chúng Thanh Lương Tự trên Ngũ Đài Sơn tỉnh Sơn Tây, do giám tự Thập Lực đại sư đích thân dẫn dắt. Một nhóm là hải tặc ở vùng duyên hải Chiết Giang, Phúc Kiến, do tổng minh chủ Bích hải trường kình Trình Khởi Vân của bảy mươi hai đảo dẫn dắt. Nhóm thứ ba là ba người anh em kết nghĩa phái Thái Bạch vùng Tần Lãnh tỉnh Thiểm Tây, gọi chung là Thái Bạch Tam Anh. Ba người này mang tên Sử Bính Quan, Sử Bính Vân và Lê Cương.

Viên Thừa Chí càng nghe càng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Những người này đều là nhân vật có thể diện trong võ lâm cả, sư phụ từng nhắc đến tên tuổi họ rồi. Sao tự nhiên họ tụ tập tới thành Nam Kinh này? Người họ Mẫn không ngừng đa tạ, hiển nhiên những người này đều do ông ấy mời đến.”

Thanh Thanh thấy hành tung những người này khó hiểu, muốn hỏi Viên Thừa Chí, nhưng nàng nghe khẩu khí thì biết đây không phải những kẻ tầm thường, mình chỉ phát ra một chút xíu âm thanh là nhất định bị họ phát giác ngay, nên thở cũng không dám thở mạnh.

Người họ Mẫn cất cao giọng nói: “Các vị tiền bối, sư huynh, sư đệ từ ngàn dặm xa xôi, muôn trùng cách trở đến đây trợ giúp, nghĩa khí sâu nặng. Tại hạ Mẫn Tử Hoa thật sự vô cùng cảm kích. Xin nhận một lạy này.”

Nghe tiếng thì biết y quỳ xuống khấu đầu thật sự. Mọi người vội vã dìu y dậy, lên tiếng khiêm nhường: “Mẫn nhị ca, đừng làm như thế.”

Hoặc: “Làm khổ tiểu đệ rồi. Làm sao đệ dám nhận lễ này?”

Hoặc: “Dọc đường gặp chuyện bất bình rút đao tương trợ là bổn phận của nhân vật võ lâm. Mẫn huynh không cần khách sáo.”

Loạn xạ lên một lúc, rồi Mẫn Tử Hoa lại nói: “Trong vài ngày tới, Trương Tấn sư huynh phái Côn Luân, mấy vị đạo trưởng phái Nga Mi, mấy vị sư huynh phái Hoa Sơn có thể đến đây.”

Có người hỏi: “Phái Hoa Sơn cũng có người đến hay sao? Thế thì hay quá. Không hiểu là môn hạ của vị nào?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Ông này hỏi hay quá, chính mình cũng đang muốn biết.”

Mẫn Tử Hoa đáp: “Là mấy vị sư huynh, môn hạ của Thần Quyền Vô Địch.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra là đệ tử của Nhị ca.”

Lại có người hỏi: “Mẫn nhị ca có đi lại với phu phụ Quy nhị gia ư? Thế thì tuyệt diệu. Có phu phụ họ đứng sau lưng mình, còn sợ gì tên gian tặc họ Tiêu nữa?”

Mẫn Tử Hoa nói: “Tiền bối cao nhân như Quy thị phu phụ, tại hạ dĩ nhiên không với tới. Nhưng Mai Kiếm Hòa sư huynh, đại đồ đệ của họ thì có giao tình nồng hậu với tại hạ.”

Một người nói: “Mai Kiếm Hòa, chắc là Mạt Ảnh Tử đơn kiếm đánh bại Sơn Đông thất hùng rồi.”

Mẫn Tử Hoa đáp: “Không sai, chính là ông ấy.”

Viên Thừa Chí nghe đến đây bèn nghĩ: “Đã có nhân vật bản môn tham dự, việc này chắc chắn là ngay thẳng, mình tạm thời không nên lộ diện. Nếu gặp cơ duyên, có thể âm thầm trợ giúp.”

Lại nghe Mẫn Tử Hoa nói: “Gia huynh năm xưa bỏ mạng, mười mấy năm nay tại hạ điều tra vẫn chưa biết kẻ thù là ai. Bây giờ may được huynh đệ họ Sử phái Thái Bạch nói cho biết, người hại chết gia huynh chính là tên gian tặc họ Tiêu. Thù này không trả, thề chẳng làm người.”

Khẩu khí rất bi phẫn, lại nghe “keng” một tiếng, chắc là tiếng binh khí gõ mạnh lên bia đá.

Một giọng già nua cất lên: “Thiết bối kim tiên Tiêu Công Lễ là một hán tử có tiếng trên giang hồ, danh tiếng của Kim Long Bang xưa nay cũng không tồi tệ. Không ngờ họ lại gây ra việc này. Không hiểu Sử thị huynh đệ từ đâu mà có tin tức?”

Dường như lão này có phần hoài nghi. Mẫn Tử Hoa không đợi anh em họ Sử trả lời, đáp hộ: “Sử thị huynh đệ đã kể lại tỉ mỉ tình hình gia huynh gặp nạn ở Sơn Đông. Việc này có bằng cớ hẳn hoi, Thập Lực đại sư không cần phải nghi ngờ.”

Một người khác nói: “Tiêu Công Lễ ở Nam Kinh đã mấy chục năm rễ sâu gốc vững, Kim Long Bang người đông thế mạnh. Tuy chưa nghe nói họ có cao thủ siêu quần, nhưng dù sao cũng là thổ địa. Lần này động thủ, chúng ta nhất định phải cẩn thận.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Đúng là như vậy. Tại hạ tự biết sức mình khó chống đỡ, nên mới cả gan mời đại giá các vị đến đây. Ngày mai giờ Dậu, tại hạ bày mấy bàn rượu nhạt ở Đại Công Phường để quý vị tẩy trần. Xin quý vị quang lâm.”

Mọi người đa tạ rồi nói: “Người trong nhà không cần khách sáo.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Phen này hảo bằng hữu đến rất nhiều, khó tránh khỏi kẻ địch phát giác. Ngày mai các vị đến nhà, xin đưa ra ba ngón tay: ngón giữa, ngón áp út, và ngón út để làm ký hiệu cho người đón tiếp trước cửa biết, và khẽ nói một câu: Giang hồ nghĩa khí, rút đao tương trợ. Như vậy để tránh bọn Kim Long Bang trà trộn vào chúng ta.”

Mọi người đều nói: “Đúng là phải làm như vậy. Viện thủ đến từ khắp nơi, đa số chưa quen biết. Sau này đối địch, chúng ta nên dùng ám hiệu này để nhận ra nhau.”

Bàn xong việc chính, mọi người đàm luận một lúc về tin tức thời sự, nghĩa quân Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung các nơi đánh nhau với quan quân triều đình. Sau đó họ lục tục giải tán.

Mọi người đi hết, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới nằm xuống nghỉ ngơi. Thanh Thanh phải cúi hồi lâu không động đậy, bây giờ đôi chân hầu như tê liệt. Nàng hỏi: “Đại ca! Ngày mai chúng ta đi xem náo nhiệt chứ?”

Viên Thừa Chí đáp: “Xem một chút cũng không sao. Nhưng Thanh đệ phải nghe lời ta, không được gây chuyện.”

Thanh Thanh nói: “Ai nói muội thích gây sự với họ? Muội chỉ gây sự với huynh thôi, không gây với người khác đâu.”

Trưa ngày hôm sau, tin tức Mã công tử bị giết đã loan truyền xôn xao khắp thành Nam Kinh. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh trốn trong khách điếm suốt ngày không đi ra ngoài. Đến xế chiều, hai người mới thay đổi y phục theo kiểu những hán tử giang hồ tầm thường, đi bộ đến Đại Công Phường.

Ở đó có một căn nhà lớn, phía trước treo lồng đèn, khách khứa tấp nập kéo vào không ngớt. Căn nhà này khá rộng nhưng tường rào cũ kỹ, tam cấp đã mòn khuyết rất nhiều. Chỉ có trước cổng là mới được trang trí và quét vôi lại sơ sài, rõ ràng gấp rút nên trông rất tạm bợ.

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh đi đến trước cổng, đưa ba ngón tay rồi nói: “Giang hồ nghĩa khí, rút đao tương trợ.”

Một người khoác trường bào liền chắp tay thi lễ, một đại hán bên cạnh dẫn hai người vào trong, bưng trà ra mời rồi thỉnh giáo danh tính. Viên Thừa Chí cùng với Thanh Thanh thuận miệng bịa ra hai cái tên. Đại hán ấy nói: “Ngưỡng mộ từ lâu. Tại hạ trên giang hồ này đã nghe đại danh của hai vị từ lâu lắm rồi.”

Thanh Thanh cười thầm, nghĩ bụng: “Đại danh này thì chính ta cũng mới nghe lần đầu tiên vào đúng hôm nay, không hiểu ngươi đã nghe ở đâu.”

Khách đến càng lúc càng tấp nập. Đại hán ấy thấy hai người còn trẻ, nghĩ rằng đây là đệ tử phái nào đó theo sư trưởng đến đây, nên không xem trọng lắm. Hắn xin phép ra đón tiếp người khác.

Lát sau dọn tiệc, Viên Thừa Chí ngồi cùng Thanh Thanh một bàn. Đại diện chủ nhà ở bàn tiệc này là một tiểu đồ đệ phái Tiên Đô, ngồi trong bàn đều là môn nhân hậu bối cả.

Rót được ba tuần, Mẫn Tử Hoa đi quanh các bàn tiệc để mời rượu. Đến bàn này, Viên Thừa Chí thấy y khoảng ba mươi tuổi, gân xanh trên tay nổi vồng lên, cái nhìn rất tinh nhanh, cử chỉ và bước đi tỏ ra võ công không kém. Cặp mắt của y mọng đỏ, chắc là nghĩ đến mối thù huynh trưởng bị hại nên mấy ngày nay khóc nhiều.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Người này có tình thủ túc chí thành, thật là đáng kính. Lần này y mời bằng hữu rất đông, chắc họ Tiêu kia và Kim Long Bang thế lực không nhỏ.”

Mẫn Tử Hoa chắp tay thi lễ mọi người, nói mấy câu cảm tạ rồi mới mời rượu. Những người ở bàn này đều là vãn bối cả, ai cũng đứng dậy thi lễ.

Mẫn Tử Hoa mời rượu hết các bàn rồi trở về chỗ. Vừa mới ngồi xuống, một tên đệ tử đi lẹ đến chỗ y, kề tai nói gì đó. Mẫn Tử Hoa sắc mặt mừng rỡ, bước vội ra ngoài. Chỉ chốc lát đã thấy y dẫn ba người khác vào, cung kính ngồi vào bàn thủ tọa.

Viên Thừa Chí nhìn thần sắc Mẫn Tử Hoa, biết lai lịch ba người này không nhỏ. Chàng nhìn kỹ, thấy người đầu tiên ăn mặc theo kiểu nho sinh, lưng mang trường kiếm, hai mắt hơi xếch, mặt hất lên trời đầy vẻ kiêu ngạo. Người thứ hai là một hán tử tráng kiện, cả hình tướng lẫn dung mạo đều ra vẻ chân thật. Người thứ ba là một thiếu nữ cao ráo khoảng hai hai hai ba tuổi, mặt mày xinh đẹp, lông mày rất thanh, nhưng cặp mắt sắc như dao.

Mẫn Tử Hoa nói: “Mai huynh kịp thời đến đây, tại hạ thật sự cảm kích vô cùng.”

Nho sinh kia nói: “Việc của Mẫn huynh, tại hạ lý nào không đến?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra người này chính là Mai Kiếm Hòa, đệ tử của Nhị sư ca. Sao thần sắc y ngạo mạn như thế?”

Mai Kiếm Hòa nói: “Tại hạ rước thêm chuyện phiền phức cho huynh, mời giúp huynh hai người đến trợ quyền. Đây là Tam sư đệ Lưu Bồi Sinh và Ngũ sư muội Tôn Trọng Quân của tại hạ.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Từ lâu đã biết oai danh Ngũ linh thủ Lưu huynh và Tôn nữ hiệp. Tại hạ thật vô cùng may mắn.” Ngoại hiệu của Tôn Trọng Quân là Phi Thiên Ma Nữ, nghe không thanh nhã lắm nên y không nhắc đến.

Mẫn Tử Hoa giới thiệu ba người với Thập Lực đại sư, Thái Bạch Tam Anh, Trình Khởi Vân, Vạn Lý Phong. Mọi người gặp nhau chào hỏi, nói mấy câu ngưỡng mộ khách sáo rồi vui vẻ cụng ly.

Tiệc rượu đang nồng, một tên gia đinh cầm tấm thiệp đỏ chạy vào trong, trình lên chủ nhân. Mẫn Tử Hoa vừa xem đã đổi sắc mặt, cười khẩy rồi nói: “Họ Tiêu kia quả nhiên thần thông quảng đại. Chúng ta chưa mời hắn, hắn đã tìm đến trước rồi. Mai huynh! Các vị vừa tới mà họ đã có ngay tin tức.”

Mai Kiếm Hòa nhận lấy tấm thiệp, thấy trên bì thư ghi: “Hậu học Tiêu Công Lễ đốn thủ bách bái”. Trong thiệp viết đủ danh tính của Mẫn Tử Hoa, Thập Lực đại sư, Thái Bạch Tam Anh và những người đã thành danh. Tên của ba người Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh và Tôn Trọng Quân ghi ở cuối cùng, mực chưa ráo hẳn, hiển nhiên mới viết thêm vào. Nội dung thiệp mời mọi người trưa mai đến dự yến ở nhà họ Tiêu.

Mai Kiếm Hòa ném tấm thiệp lên bàn, nói: “Tên thổ địa họ Tiêu này thật sự có bản lãnh, tin tức cực kỳ linh nhạy. Chúng ta không biết có làm nổi thiên tướng hay không, nhưng phải đấu với thổ địa một phen mới được.”

Mẫn Tử Hoa hỏi: “Bằng hữu đưa thiệp đến đâu rồi? Mời hắn vào đi.”

Gia đinh nhận lệnh đi ra. Mọi người dừng ăn uống, ánh mắt dồn hết ra trước cổng, thấy tên gia đinh đó dẫn vào một người khoảng hơn ba mươi tuổi, khoác trường bào.

Y chậm rãi đi vào, khom người thi lễ với bàn thủ tọa, chắp tay nhìn đủ bốn hướng rồi lên tiếng: “Sư phụ của tại hạ nghe tin các vị tiền bối giá lâm Nam Kinh, vội mời đại giá các vị trưa mai đến dự tiệc để tỏ lòng kính trọng.”

Mai Kiếm Hòa cười nhạt nói: “Tên họ Tiêu bày Hồng Môn Yến đấy.”

Rồi y quay lại hỏi người đưa thiệp: “Này, ngươi tên gì vậy?”

Y ăn nói vô lễ, nhưng người kia vẫn cung kính trả lời: “Tại hạ là La Lập Như.”

Mai Kiếm Hòa quát hỏi: “Tiêu Công Lễ mời bọn ta qua đó có quỷ kế gì? Ngươi có biết không?”

La Lập Như đáp: “Gia sư nghe tin các vị tiền bối đại giá đến đây, rất lấy làm ngưỡng mộ, chỉ muốn gặp các vị để tỏ mối tình địa chủ.”

Mai Kiếm Hòa nói: “Hừ, nói hay lắm. Ta hỏi ngươi, năm xưa Tiêu Công Lễ hại chết huynh trưởng Mẫn đại gia của Mẫn lão sư, ngươi có ở đấy không?”

La Lập Như nói: “Gia sư đã nói, ngày mai mời các vị đến nhà, một là tỏ ý ngưỡng mộ các vị tiền bối, hai là có lời tạ tội với Mẫn nhị gia, mong Mẫn nhị gia đại nhân đại lượng mà thu xếp mối bất hòa này.”

Mai Kiếm Hòa hét lên: “Đã giết người rồi, chẳng lẽ chỉ tạ tội là xong hay sao?”

La Lập Như nói: “Chuyện này có tiền nhân hậu quả, theo gia sư thì có những chỗ khó nói ra, liên quan đến thanh danh của danh môn đại phái, nên…”

Tôn Trọng Quân bỗng thét lên: “Ăn nói bừa bãi gì vậy? Sư ca của ta chỉ hỏi, lúc đó ngươi có ở hiện trường hay không.”

La Lập Như đáp: “Lúc đó tại hạ còn nhỏ, chưa bái sư nhập môn. Nhưng sư phụ của tại hạ xưa nay là con người cẩn thận đàng hoàng, nhất định không lạm sát người vô tội.”

Tôn Trọng Quân quát: “Hay lắm! Ngươi còn già mồm nữa ư? Theo ngươi nói thì Mẫn đại gia có tội, chết không đáng tiếc chứ gì?”

Ả vừa quát vừa vọt người ra như một mũi lao, tay phải cầm thanh trường kiếm sáng loáng, tay trái xuất chưởng đánh vào ngực La Lập Như. Họ La giật mình kinh hãi, tay phải ra chiêu Thiết Môn Tuyên gạt ngang, cản trở phát chưởng đánh tới.

Viên Thừa Chí khẽ kêu lên: “Hỏng rồi! Mất cánh tay phải.”

Lời chưa nói dứt, đã nghe La Lập Như la một tiếng thảm khốc, quả nhiên cánh tay phải đã bị chặt đứt lìa, máu tươi phun ra đầm đìa. Mọi người trong đại sảnh đều la lên, đứng bật dậy. Sắc mặt La Lập Như trắng bệch như tờ giấy, nhưng quyết không chịu ngất đi. Y dùng tay trái xé vạt áo buộc vào vai phải, cúi nhặt cánh tay bị chặt đứt, sải bước bỏ ra ngoài. Mọi người thấy y cứng cỏi như thế đều đem lòng thán phục, nhìn nhau không ai nói tiếng nào.

Tôn Trọng Quân chùi những vết máu rồi tra kiếm vào vỏ, thần sắc rất tự nhiên. Ả quay về chỗ, nâng ly rượu lên uống cạn. Chiêu kiếm này nhanh chóng gọn gàng, xuất thủ như sấm sét, nhưng mấy trăm người trong đại sảnh không ai cất tiếng hoan hô. Ai cũng cảm thấy bất luận đối phương lỗi phải thế nào, cũng không nên đối xử tàn độc với một sứ giả đến chuyển lời mời. Ngay cả Mẫn Tử Hoa cũng kinh hãi, quên mất phải khen một tiếng “tuyệt diệu” cho Tôn Trọng Quân được hài lòng.

Mẫn Tử Hoa nói: “Tên này hung hãn như thế, đủ thấy sư phụ của hắn hiểm ác thế nào. Ngày mai chúng ta có nên qua đó dự tiệc hay không?”

Vạn Lý Phong nói: “Đương nhiên là đi. Nếu không đi, chẳng lẽ để hắn coi thường hay sao?”

Trình Khởi Vân nói: “Tối nay chúng ta cho người đi dò xét trước, xem thử Tiêu Công Lễ đã mời những tay viện thủ nào, ngày mai Kim Long Bang có quỷ kế gì, có hạ độc trong rượu thịt hay không. Phòng bị trước thì đỡ bị lừa.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Trình đạo trưởng nói rất đúng. Tại hạ cũng nghĩ chúng sẽ phòng bị rất cẩn mật. Phải nhờ mấy vị huynh trưởng cực khổ một phen mới được.”

Vạn Lý Phong nói: “Tại hạ xung phong đi trước.”

Mẫn Tử Hoa đứng dậy, rót đầy một ly rượu bưng đến, lên tiếng: “Tại hạ kính trước một ly, chúc Vạn huynh mã đáo thành công.”

Hai người chạm ly rồi uống cạn.

*

*   *

Tan tiệc, mọi người lần lượt cáo biệt trở về. Viên Thừa Chí kéo tay Hạ Thanh Thanh, dắt nàng âm thầm theo dõi Vạn Lý Phong. Lúc này đã khoảng canh một.

Vạn Lý Phong trở về khách sạn, thay y phục chẽn rồi chạy về hướng Đông. Hai người theo dõi xa xa, thấy y rẽ qua rẽ lại bảy tám con đường, ra phía sau một căn nhà khá lớn, rồi tung người nhảy vào trong. Viên Thừa Chí thấy thân pháp y khá nhanh, nghĩ bụng: “Thật không uổng ba chữ Truy Phong Kiếm.”

Hai người cũng vượt tường sau nhảy vào, thấy một gian phòng có ánh đèn rọi ra. Theo khe cửa sổ nhìn vào, thấy trong phòng có ba người. Ngồi quay mặt ra ngoài là một người trạc ngũ tuần, sắc mặt đỏ hồng, trán đầy nếp nhăn. Ông ngồi chau mày ủ rũ, mặt hiện rõ vẻ âu lo.

Ông thở ra một hơi rồi hỏi: “Lập Như sao rồi?”

Một người đứng đối diện đáp: “La sư ca ngất đi mấy lần, nhưng bây giờ đã cầm máu rồi.”

Nghe đối đáp, Viên Thừa Chí biết người lớn tuổi là Tiêu Công Lễ, thầy trò đang bàn đến vết thương của La Lập Như.

Lại nghe một người khác nói: “Sư phụ! Chúng ta hãy cử mấy huynh đệ tuần tra quanh nhà thì hơn, chỉ sợ đối phương cho người đến quấy rối.”

Tiêu Công Lễ thở dài nói: “Có đến hay không cũng vậy thôi, ta tới số rồi. Sáng sớm mai, các ngươi hãy đưa sư nương, sư muội và tiểu sư đệ đến nhà họ Ngô ở Tường Châu.”

Người đệ tử ấy nói: “Sư phụ! Tuy đối thủ lợi hại, nhưng lão nhân gia không nên nản chí. Bang chúng bản bang trong thành Nam Kinh có tới hơn hai ngàn huynh đệ. Mọi người cùng sống mái một phen, xem chúng làm gì được?”

Tiêu Công Lễ than thở: “Những người được đối phương mời đến đều là hảo thủ trong giang hồ. Anh em trong bang đối địch với họ chỉ uổng phí tính mạng mà thôi. Ôi! Sau khi ta chết, các ngươi phải thị phụng sư nương cho đàng hoàng. Sư đệ và sư muội cũng nhờ các ngươi giáo dục nên người.” Ông không nén nổi, nước mắt lăn xuống má.

Một đệ tử nói: “Sư phụ đừng nói vậy. Lão nhân gia võ công cái thế, oai chấn Giang Nam, dù không chắc thắng cũng chẳng chắc thua. Sư huynh đệ chúng con có hai mươi lăm người, trừ La sư ca còn lại hai mươi bốn. Lão nhân gia giao tình khắp thiên hạ, cũng có thể mời bằng hữu đến đây để đánh nhau một trận. Họ có bạn bè, chẳng lẽ chúng ta không có hay sao?”

Tiêu Công Lễ nói: “Năm xưa ta huyết khí phương cương, tính tình nóng nảy như ngươi bây giờ vậy, nên đã gây ra mối hận này. Bây giờ ta để cho họ giết, trả món nợ máu đó coi như xong việc.”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe vậy đều cảm thấy bất nhẫn, nghĩ thầm: “Tiêu Công Lễ hình như không phải loại cùng hung cực ác. Trước đây ông ấy làm sai một việc, bây giờ đã thành tâm hối cải.”

Lát sau bỗng nghe một đồ đệ kêu lên: “Sư phụ!”

Tiêu Công Lễ hỏi: “Sao?”

Người ấy nói: “Sư phụ không muốn đối địch với họ thì chúng ta khởi hành ngay đêm nay, tạm thời tránh né một phen. Đại trượng phu biết co biết duỗi…”

Đồ đệ kia vội nói: “Như vậy sao được? Anh danh một đời sư phụ, chẳng lẽ sợ họ mà bỏ trốn?”

Tiêu Công Lễ nói: “Anh danh hay không thì ta không nghĩ đến nữa, nhưng muốn tránh cũng không tránh kịp. Hơn nữa, bang chủ Kim Long Bang mà co đầu rút cổ bỏ chạy như thế thì mấy ngàn huynh đệ trong Kim Long Bang còn có thể đứng thẳng làm người hay không? Sáng sớm mai các ngươi rời khỏi đây hết, một mình ta ở lại đối phó với họ.”

Hai đồ đệ đều giật mình, đồng thanh nói: “Con ở lại đây với sư phụ.”

Tiêu Công Lễ giận dữ nói: “Cái gì? Đại nạn ngay trước mắt, các ngươi còn cãi lời của ta nữa ư?”

Hai đồ đệ không dám nói nữa. Tiêu Công Lễ bảo: “Các ngươi đi giúp sư nương thu thập đồ đạc, xem thử xe cộ đã xong chưa. Không cần mang quá nhiều đồ, lên đường sớm mới là quan trọng.”

Hai người miệng thì vâng dạ, nhưng vẫn đứng yên không động đậy. Tiêu Công Lễ thở dài nói: “Thôi được! Gọi hết vào đây.”

Hai người cả mừng mở cửa chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh vội rúc vào một góc tường, đang cúi xuống thì thấy ở góc tường phía Tây cũng có hai người đang nấp. Nhìn dáng người thì một là Truy phong kiếm Vạn Lý Phong, người kia là nữ nhân thân hình thon thả, chính là Tôn Trọng Quân.

Viên Thừa Chí tức giận ả này vừa rồi ra tay ác độc, muốn giáo huấn một phen, bèn khẽ bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ ở đây, đừng nhúc nhích.”

Thanh Thanh uốn vai một cái, khẽ đáp: “Muội mỏi quá thì phải nhúc nhích mấy cái chứ?”

Viên Thừa Chí mỉm cười. Thấy Vạn Lý Phong và Tôn Trọng Quân đang tập trung nhìn vào bên trong, chàng lướt tới chỗ Tôn Trọng Quân, tiện tay rút lấy thanh kiếm cài trên lưng ả. Động tác này cực kỳ nhanh chóng nhẹ nhàng. Khi trường kiếm ra khỏi vỏ cũng có một tiếng động nhỏ, nhưng lúc đó Tôn Trọng Quân đang dồn hết tinh thần quan sát Tiêu Công Lễ, nên ả không phát giác.

Khi Viên Thừa Chí quay lại, Thanh Thanh thấy chàng ra tay đoạt kiếm của một cô nương khác, lộ vẻ không vui. Viên Thừa Chí bèn đưa thanh kiếm cho nàng, khẽ bảo: “Muội giữ lấy.”

Thanh Thanh hân hoan nhận lấy, cài vào sau lưng.

Hai người lại từ khe cửa sổ nhìn vào trong phòng, thấy hai mươi mấy người liên tục tiến vào. Người lớn tuổi nhất đã gần bốn mươi, người trẻ nhất chỉ khoảng mười sáu mười bảy, xem ra đều là đệ tử của Tiêu Công Lễ. Đám đệ tử thi lễ với sư phụ rồi thõng tay đứng đó, mặt ai cũng tỏ ra giận dữ.

Tiêu Công Lễ sắc mặt tái xanh, cất tiếng: “Thời trẻ ta ở chốn lục lâm. Bây giờ không cần giấu giếm các ngươi nữa.”

Viên Thừa Chí thấy đám đệ tử đều lộ vẻ kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra họ không biết lai lịch của sư phụ.”

Tiêu Công Lễ thở ra một hơi rồi nói:

“Bây giờ kẻ thù đã tìm đến rồi, ta phải nói rõ nguyên do cho các ngươi biết.

Năm đó, ta lập trại ở sông Long Cương. Anh em thám thính được Khưu Đạo Đài ở tỉnh Sơn Đông cáo lão hồi hương, đưa gia quyến về quê, sẽ đi ngang sông Long Cương, mang theo tiền bạc rất nhiều. Chúng ta là người lục lâm, đương nhiên kiếm cơm bằng cách cướp tiền người khác, gặp bọn tham quan ô lại là sướng nhất. Một là bọn tham quan vơ vét rất nhiều, cướp một tên tham quan còn hơn cướp một trăm thương khách tầm thường. Hai là cướp của bọn tham quan không tổn âm đức. Tiền của chúng là tiền bất nghĩa, cướp lại của chúng là chuyện hợp đạo lý.

Nhưng khi điều tra rõ thì người hộ tống là một nhân vật có danh. Đó là Mẫn Tử Diệp, tổng tiêu đầu Hồi Mẫn tiêu cục ở phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông, chính là huynh trưởng của Mẫn Tử Hoa.”

Nghe đến đây Viên Thừa Chí và Thanh Thanh đã hiểu nguyên nhân hai bên xích mích. Tiêu Công Lễ muốn cướp tiền, còn Mẫn Tử Diệp đi bảo tiêu. Chắc là hai bên giao đấu, Mẫn Tử Diệp đánh thua bị giết.

Viên Thừa Chí vừa lắng nghe Tiêu Công Lễ kể chuyện trong phòng, vừa liếc xem động tĩnh của Vạn Lý Phong và Tôn Trọng Quân. Đột nhiên chàng thấy Tôn Trọng Quân đưa tay sờ lên lưng rồi giật bắn người. Ả phát hiện thanh kiếm của mình đã bị rút mất, liền đưa tay ra hiệu với Vạn Lý Phong. Hai người không dám ở lại nữa, nhảy qua tường bỏ chạy. Viên Thừa Chí không khỏi buồn cười.

Lại nghe Tiêu Công Lễ nói tiếp: “Mẫn Tử Diệp rất có danh tiếng trên giang hồ, là cao thủ phái Tiên Đô.”

Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra Mẫn thị huynh đệ đều ở phái Tiên Đô. Nghe sư phụ nói, phái Tiên Đô là nội gia chính tông, bắt nguồn từ Võ Đang, có thể gọi là một chi nhánh của Võ Đang. Chưởng môn phái này xưa nay đều thích kết giao bằng hữu, trao đổi tin tức với các môn phái khác. Chẳng trách Mẫn Tử Hoa mời được nhiều nhân vật nổi danh như vậy.”

Tiêu Công Lễ nói:

“Ta nghe tên Mẫn Tử Diệp, bèn không dám ra tay bừa bãi mà đích thân đi dò xét. Đêm đó ta lẻn vào khách sạn của họ để xem động tĩnh, tình cờ nghe một chuyện khiến người ta phải tức vỡ bụng mà chết.

Thì ra tên Mẫn Tử Diệp này tham hoa háo sắc, thấy Nhị tiểu thư của Khưu Đạo Đài có nhan sắc liền bày gian kế. Hắn âm thầm hẹn ước với Trương trại chủ Phi Hổ Trại, bảo chúng ra tay đánh cướp Khưu Đạo Đài. Mẫn Tử Diệp sẽ giả vờ cố sức kháng cự nhưng không địch nổi số đông, để Trương trại chủ giết chết cả nhà Khưu Đạo Đài, cướp hết tài sản, bắt luôn Nhị tiểu thư đi.

Sau đó Mẫn Tử Diệp sẽ đơn thân vào sào huyệt địch để cứu tiểu thư này ra. Tất cả tiền tài sản vật sẽ thuộc về Phi Hổ Trại, còn Khưu nhị tiểu thư thì gia đình tan nát, không nơi nương tựa, lại có ơn phải trả, đương nhiên sẽ nhận lời làm vợ Mẫn Tử Diệp. Trương trại chủ muốn lấy lòng Mẫn Tử Diệp, lại tham tài vật, nên đồng ý với mưu kế của hắn.

Hai người bàn tính trong phòng kín, không ngờ lọt vào tai ta hết. Ta cực kỳ giận dữ, liền trở về triệu tập huynh đệ, mai phục gần Phi Hổ Trại. Đến giờ hẹn, đoàn người Khưu Đạo Đài quả nhiên đến đó.”

Chuyện này thật sự làm Viên Thừa Chí bị bất ngờ. Lại nghe Tiêu Công Lễ kể tiếp:

“Lúc đó ta nghĩ, dù sao chúng ta cũng là nhân vật võ lâm. Tuy đường cùng mạng bạc mà bị vùi thân vào hắc đạo, làm nghề buôn không vốn, nhưng về chữ Sắc thì phải quang minh lỗi lạc mới không hổ mặt nam tử hán đại trượng phu. Nào ngờ Mẫn Tử Diệp lại vô sỉ đến thế. Hắn là đệ tử danh môn chính phái, nổi tiếng trên giang hồ, lại đang là tổng tiêu đầu, thế mà bày mưu hạ tiện.

Chính mắt ta thấy Trương trại chủ dẫn bọn lâu la đến cướp. Mẫn Tử Diệp giả vờ quát tháo, vung kiếm đâm chém loạn xạ nhưng chẳng trúng ai. Ta tức giận không chịu nổi, bèn nhảy ra can thiệp. Kiếm pháp của Mẫn Tử Diệp không tệ, lẽ ra ta không phải là đối thủ của hắn. Nhưng ta vừa đánh vừa la, lật tẩy hết quỷ kế mưu đồ của hắn. Hắn hổ thẹn lại giận dữ, không sao định thần được, rốt cuộc bị ta một đao chém chết…”

Một đệ tử kêu lên: “Sư phụ! Người này rất đáng chết, chúng ta hà tất phải sợ. Đợi ngày mai đối thủ đến đây, mọi người phải nói rõ ràng. Không chừng Mẫn Tử Hoa vẫn muốn trả thù cho huynh trưởng, nhưng những người khác chưa chắc đã không phân biệt thị phi.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Không sai! Nếu họ Tiêu thật sự thấy chuyện bất bình mà giết Mẫn Tử Diệp, võ lâm chẳng ai trách ông ấy. Nhưng đây chỉ là lời nói từ một phía, chưa chắc đáng tin. Cũng có thể ông ấy nói thật, nhưng bên trong còn có ẩn tình khác thì sao?”

Tiêu Công Lễ thở ra một hơi rồi nói:

“Sau khi giết họ Mẫn, đâu phải ta không biết rước đại họa vào thân? Hắn là một nhân vật hữu danh trong phái Tiên Đô. Sư phụ của hắn là Hoàng Mộc đạo nhân chắc chắn không chịu bỏ qua, sẽ dẫn đệ tử tìm ta trả thù. Dù ta có ba đầu sáu tay cũng không đỡ nổi. May mà lúc đó thủ hạ của ta bắt được Trương trại chủ. Ta buộc Trương trại chủ viết một bản cung, ghi ra đầy đủ âm mưu gian xảo của Mẫn Tử Diệp.

Dĩ nhiên Khưu Đạo Đài vô cùng cảm kích, muốn tặng ta hai ngàn lượng bạc. Ta vốn định cướp sạch tiền của lão, nhưng đang là một tên cường đạo mà bỗng phát thiện tâm, hành hiệp trượng nghĩa như thế này, nghĩ lại thật là hiếm có. Vì thế ta không nhận của lão một lượng bạc nào.

Khưu Đạo Đài vạn lần cảm tạ, viết lời chứng kể rõ tình hình đã xảy ra, còn gọi hai tiêu đầu của Hồi Mẫn tiêu cục đến ký tên và lăn dấu tay, coi như nhân chứng. Hai tiêu đầu này vốn không biết nội tình, nghe Trương trại chủ và đồng bọn Phi Hổ Trại khai rõ ra mới biết. Họ đều thóa mạ Mẫn Tử Diệp là đồ vô sỉ, suýt nữa bị hắn bán đứng, nếu không có ta thì đã bỏ mạng ở đây rồi. Họ rối rít cảm ơn, rất có tình cảm.

Sau vụ này, ta biết không thể sống trong hắc đạo nữa, bèn giải tán chúng huynh đệ, cầm hai lá thư lên Long Hổ Quán trên núi Tiên Đô xin gặp Hoàng Mộc đạo nhân.

Lúc đó môn nhân Tiên Đô Phái đã biết tin, không để ta lên núi mà giữa đường chặn lại làm khó dễ. Khí thế mọi người vô cùng hung hãn, không cho ta cơ hội biện minh. May mà có một kỳ hiệp giang hồ đi ngang qua đó, rút kiếm tương trợ, hộ tống ta lên núi gặp Hoàng Mộc đạo nhân, ba mặt một lời nói chuyện rõ ràng.

Hoàng Mộc đạo nhân rất biết thể diện, ra lệnh cho môn nhân vĩnh viễn không được tìm ta trả thù. Nhưng vì thanh danh phái Tiên Đô, lão xin ta đừng kể chuyện này ra ngoài. Dĩ nhiên ta đồng ý. Từ khi xuống núi, xưa nay ta không nhắc đến chuyện này, nên trên giang hồ hiếm ai hiểu rõ nguyên do sự việc. Mẫn Tử Hoa là tiểu đệ của Mẫn Tử Diệp, lúc đó còn rất trẻ, chắc là không biết nội tình. Người phái Tiên Đô dĩ nhiên không nói cho y biết.”

Một đệ tử hỏi: “Sư phụ! Hai lá thư đó sư phụ còn giữ hay không?”

Tiêu Công Lễ lắc đầu đáp: “Chuyện này thì phải trách ta có mắt không tròng, nhìn không biết người. Mùa thu năm ngoái, có bằng hữu nhắn ta là em trai của Mẫn Tử Diệp đã học nghệ thành tài, rời phái Tiên Đô xuống núi, biết ta là kẻ thù giết anh nên muốn đến trả thù. Sau này ta phát hiện giữa Thái Bạch Tam Anh và Mẫn Tử Hoa có quan hệ không phải là sơ. Tam Anh với ta là chỗ tri giao, tuy đã mười mấy năm không gặp, nhưng từng cùng vào sinh ra tử trong chốn lục lâm hồi tuổi trẻ. Vì thế ta đi tìm anh em họ Sử trong Thái Bạch Tam Anh…”

Một đệ tử nói xen vào: “À! Tháng chạp năm ngoái sư phụ đi Thiểm Tây, Tết cũng không về, chính vì việc này phải không?”

Tiêu Công Lễ nói:

“Không sai, ta đến nhà họ Sử ở núi Thái Bạch vùng Tần Lĩnh tỉnh Thiểm Tây. Ta cứ nghĩ tháng chạp, năm hết Tết đến, anh em họ nhất định ở nhà, nào ngờ lại không gặp. Thì ra họ đã đi Liêu Đông, nói là lo một món buôn bán lớn. Ta ở lại nhà họ đợi hơn mười ngày, anh em Sử Bính Quan, Sử Bính Vân mới trở về. Bạn bè lâu năm gặp mặt, ai cũng vui mừng.

Ta đem chuyện kết thù với nhà họ Mẫn kể họ nghe. Sử lão đại lập tức vỗ ngực, đảm bảo là vô sự. Ta liền giao lá thư của Khưu Đạo Đài và tờ cung của Trương trại chủ cho hắn. Anh em họ Sử đều nói, chỉ cần đưa hai lá thư này cho Mẫn Tử Hoa xem, dĩ nhiên Mẫn lão nhị chẳng còn lòng dạ nào tìm ta trả thù nữa. Không chừng y còn phải thân hành đến tạ tội, và thỉnh cầu ta đừng kể chuyện xấu xa của huynh trưởng ra ngoài.

Huynh đệ nhà họ Sử tiếp đãi ta rất ân cần. Ta rảnh rỗi chẳng có việc gì làm, nên ngày nào cũng cùng họ đi săn, nghe hát. Hai anh em từ Liêu Đông mang về không ít nhân sâm và da điêu, tặng ta một mớ.

Một hôm ba người đang uống rượu, Sử lão đại bỗng nói: “Khí số Đại Minh đã hết. Huynh đệ chúng ta đều có võ công đầy mình, sao không tìm minh chủ đầu quân để làm khai quốc công thần?”

Ta đáp: “Đến chỗ Sấm Vương đầu quân để gây sự nghiệp cũng không đến nỗi tồi.”

Hắn cười rộ lên ha hả, nói: “Lý Tự Thành là đồ thổ phỉ cướp đường, làm gì được? Nhà Mãn Thanh đang thế hùng lực mạnh, chỉ một thời gian ngắn là có thể nhập quan. Nếu Tiêu huynh chịu cùng góp sức, Sử mỗ có thể nói lời giới thiệu trước mặt Cửu vương gia Mãn Thanh.”

Ta lập tức nổi giận, mắng chúng quên mất mình là người Hán. Sao không chịu làm hào kiệt Đại Minh, lại đi đầu hàng bọn man di mọi rợ, há chẳng biến thành Hán gian vô liêm sỉ hay sao? Sau khi chết rồi, còn mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên nữa?”

Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, nghĩ bụng: “Tiêu Công Lễ xuất thân đạo tặc, thế mà thị phi phân biệt rõ ràng, gặp chuyện lớn chẳng hàm hồ gì cả.”

Tiêu Công Lễ kể tiếp:

“Lúc đó ta đập bàn thóa mạ, ba người cãi nhau một hồi. Hôm sau anh em họ Sử xin lỗi ta. Sử lão đại nói là đêm qua uống say quá, không biết đã nói những chuyện hồ đồ gì, bảo ta đừng để tâm. Chúng ta là bằng hữu lâu năm, cãi vã xong vẫn có thể bỏ qua. Họ ân cần chiêu đãi ta như trước, hoàn toàn không nhắc đến việc đó nữa. Ta ở lại Thiểm Tây thêm mười mấy ngày rồi trở về Nam Kinh.

Nào ngờ anh em họ Sử là bọn lòng lang dạ sói, chẳng những không đi giải thích với Mẫn Tử Hoa, lại còn chơi trò đòn xóc hai đầu, hoạch định kế sách, hẹn người đông đúc. Kế hoạch này đã chuẩn bị nửa năm trời, nhưng ta hoàn toàn bị che mắt chẳng hiểu tí gì, một chút phong thanh cũng không nghe thấy. Ta cứ nghĩ rằng huynh đệ Sử gia đã nói rõ đầu đuôi với Mẫn Tử Hoa, mọi chuyện yên rồi. Đột nhiên trời quang nổi sấm, rất nhiều võ lâm cao thủ kéo đến Nam Kinh.

Nhất định huynh đệ họ Sử không đưa Mẫn Tử Hoa xem hai lá thư đó. Chuyện này đã qua nhiều năm, những người có mặt lúc đó nếu chưa chết thì cũng không biết đã giải tán phương nào. Bây giờ ta có biện minh thế nào đi nữa, Mẫn Tử Hoa cũng không thể tin được. E rằng lại làm y giận dữ hơn, kết tội ta phao tin đồn nhảm, phỉ báng người anh quá cố của y.

Ta chỉ có một điều không hiểu. Ta cùng anh em họ Sử đã kết bạn lâu năm như thế, dù có lần cãi vã cũng không thể coi là đoạn tuyệt tình nghĩa. Hà tất chúng phải sắp đặt âm mưu, tập trung rất nhiều cao thủ cùng lúc đến đây? Xem cách bố trí thế này, rõ ràng là chúng muốn giết ta cho tận tuyệt. Ta đã đắc tội chuyện gì với họ, ta nghĩ mãi không ra.”

Đám đệ tử nghe xong đều nổi giận đùng đùng. Mỗi người một câu huyên náo hẳn lên, quyết chí liều chết đánh nhau với anh em họ Sử.

Tiêu Công Lễ xua tay bảo: “Các ngươi ra đi. Những chuyện tối nay ta kể, tuyệt đối không được nói lộ một câu ra ngoài. Ta từng thề trước mặt Hoàng Mộc đạo trưởng là không để lộ chuyện Mẫn Tử Diệp cho mọi người biết, nhưng chúng ta là người một nhà, kể một chút cũng không sao. Ai bất nghĩa mặc ai, ta quyết không làm con người bất tín. Sau khi ta chết, không ai được nuôi dạ báo thù. Ai nhắc tới hai chữ báo thù, người đó có lỗi với ta. Mọi người trong Kim Long Bang đều phải nhớ lấy chuyện này.”

Ông thở ra một hơi rồi xuống giọng nói: “Gọi sư đệ, sư muội vào đây.”

Đám đệ tử đều lộ vẻ bi phẫn, lùi bước ra ngoài.

Sau đó màn cửa vén lên. Một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi và một chú bé khoảng bảy tám tuổi đi vào. Dung mạo thiếu nữ đó khá xinh đẹp, mặt trái xoan, sống mũi cao, rất có anh khí, trên má có vết nước mắt. Nàng kêu một tiếng “gia gia”, rồi sà vào lòng Tiêu Công Lễ.

Tiêu Công Lễ xoa đầu con gái, hồi lâu chẳng nói gì. Thiếu nữ cứ thút thít khóc trong lòng cha, còn cậu bé thì giương mắt lên nhìn, không biết tại sao chị mình lại thương tâm như thế.

Tiêu Công Lễ hỏi: “Đồ đạc của mẹ đã dọn xong chưa?” Thiếu nữ gật đầu.

Tiêu Công Lễ dặn: “Sau khi em trai lớn lên, con hãy dạy em học chữ rồi làm ruộng nuôi thân, đừng thi cử làm quan, lại càng không nên học võ.”

Thiếu nữ vừa khóc vừa nói: “Đệ đệ phải học võ chứ? Nhất định sau này phải trả thù cho gia gia.”

Tiêu Công Lễ giận dữ quát lên: “Nói bậy! Con muốn trêu ta tức chết hay sao? Hai chữ trả thù không được nhắc tới.”

Ông ngừng một lúc, lại nói dịu dàng: “Oan oan tương báo trong võ lâm chẳng bao giờ chấm dứt. Thà làm một người dân an phận thủ thường, còn được hưởng tuổi già tử tế. Em trai của con tư chất không tốt, học võ không luyện được một nửa công phu của ta đâu. Ngay cả ta, hôm nay cũng bị bức bách đến thế này, không còn lối thoát… Ôi! Chỉ tiếc chưa gặp nơi nào tử tế để con thành gia thất, để ta bớt một nỗi lo… Con dặn mọi người, sau khi ta chết thì mọi việc của Kim Long Bang giao cho phó bang chủ Cao thúc thúc xử lý.”

Thiếu nữ nói: “Để con cho người đến Phượng Dương gọi Cao thúc thúc đến ngay.”

Tiêu Công Lễ sắc mặt trầm xuống, nói: “Con vẫn chưa hiểu được tâm tư của ta hay sao? Nếu gọi Cao thúc thúc đến đây, ông ấy tính nóng như lửa, làm sao đứng nhìn người bức hiếp ta được? Như vậy chắc chắn phải động can qua, không biết tổn thương bao nhiêu nhân mạng. Cho dù ta thoát chết, mà bắt mấy trăm huynh đệ chết vì mình, ta có nhẫn tâm như vậy được không? Con đi đi.”

Ông ôm lấy con trai, hôn lên má nó, mỉm cười rồi bảo: “Con trai ngoan! Từ nay về sau con phải nghe lời tỉ tỉ.”

Cậu bé đáp: “Con nhớ rồi. Sao gia gia lại khóc?”

Tiêu Công Lễ gượng cười nói: “Ta có khóc đâu?”

Ông đặt cậu bé xuống đất, sờ lên đỉnh đầu nó, ánh mắt chứa chan tình cảm. Cảnh sinh ly tử biệt này quá đau lòng, chẳng ai nỡ nhìn lâu.

Tiêu cô nương nước mắt đầm đìa, nắm tay em dẫn ra ngoài. Đến trước cửa, nàng dừng chân quay lại hỏi: “Gia gia! Chẳng lẽ ngoài cái chết ra không có cách nào khác hay sao?”

Tiêu Công Lễ nói: “Bất cứ cách gì ta cũng nghĩ tới rồi. Nếu có thể không chết, chẳng lẽ ta không muốn hay sao? Ôi! Bây giờ chỉ còn một người có thể cứu mạng ta. Nhưng chắc ông ấy đã tạ thế trước rồi.”

Sắc mặt Tiêu cô nương đột nhiên rạng rỡ lên, bước tới hai bước hỏi: “Gia gia, người ấy là ai? Nếu ông ấy còn sống thì sao?”

Tiêu Công Lễ nói: “Vị ân công này họ Hạ, ngoại hiệu là Kim Xà Lang Quân.”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe vậy, vô cùng kinh ngạc.

Tiêu Công Lễ lại nói: “Ông ấy là một kỳ hiệp giang hồ. Ta đã kể lại đầu đuôi vụ giết Mẫn Tử Diệp cho ông ấy biết rõ ràng. Năm xưa, mười một đệ tử phái Tiên Đô làm khó ta, ông ấy một mình đẩy lùi họ, hộ tống ta lên núi Tiên Đô để gặp Hoàng Mộc đạo nhân. Hoàng Mộc đạo nhân đã rời núi đi vân du, nhiều năm nay không biết ở đâu, chắc tạ thế từ lâu rồi. Mười mấy năm trước ta nghe nói Kim Xà Lang Quân đã bị ám toán, không biết hư thực ra sao. Ân đức này chưa báo đáp, trong lòng ta vẫn thường cảm thấy không yên. Nếu ông ấy còn sống… Ôi! Các con đi đi.”

Tiêu cô nương ủ rũ dẫn em ra ngoài.

Viên Thừa Chí đưa tay ra hiệu với Thanh Thanh, hai người âm thầm theo sau hai chị em. Đến một vườn hoa, thấy xung quanh không có ai, Viên Thừa Chí vọt đến cạnh Tiêu cô nương, hỏi nhỏ: “Tiêu cô nương! Cô muốn cứu mạng gia gia không?”

Tiêu cô nương giật mình quát hỏi: “Ai thế?”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu cô muốn cứu gia gia thì hãy đi theo ta.”

Nói xong chàng tung người nhảy lên, nhẹ nhàng lướt ra ngoài tường. Thanh Thanh phải nhảy liền ba cái mới ra theo được. Tiêu cô nương không ngờ thiếu niên này giỏi khinh công đến thế, trước nay nàng chưa từng thấy. Nàng kinh ngạc trong lòng, cầm kiếm nhảy qua tường đuổi theo.

Đuổi được một đoạn, nàng bắt đầu nổi dạ nghi ngờ, đột nhiên dừng bước lại không đuổi nữa, muốn quay về. Mới quay người lại, bỗng có một cơn gió thổi qua, dây thắt lưng phất phới bay lên, rồi nàng cảm thấy cổ tay hơi tê một cái, ngón tay thả lỏng, trường kiếm đã bị Viên Thừa Chí đoạt lấy.

Tiêu cô nương kinh hãi. Vũ khí đã tuột khỏi tay, đường lùi lại bị cản trở, nàng không biết phải làm gì. Viên Thừa Chí vội nói: “Cô nương đừng sợ! Nếu ta muốn đả thương cô thì dễ như trở bàn tay. Ta là bạn của gia đình cô.”

Nói xong, chàng hai tay cầm kiếm trả lại cho nàng. Tiêu cô nương nhận kiếm, khẽ gật đầu một cái.

Viên Thừa Chí thấy nàng vẫn còn bán tín bán nghi, bèn nói: “Gia gia của cô nương đang gặp cơn hoạn nạn. Cô có chịu mạo hiểm cứu ông ấy hay không?”

Cặp mắt Tiêu cô nương đỏ hẳn lên, nói: “Chỉ cần cứu được gia gia, dù xương tan thịt nát muội cũng cam lòng.”

Viên Thừa Chí nói: “Gia gia cô rất tốt, thà hy sinh tính mạng chứ không muốn động binh đao, làm hại những người vô tội. Ta phải giúp đỡ ông ấy một phen.”

Tiêu cô nương nghe Viên Thừa Chí nói rất thành khẩn, hơn nữa trong lúc nguy cấp thế này, một tia hy vọng nhỏ nhoi cách mấy cũng không nên bỏ phí. Nàng toan quỳ xuống.

Viên Thừa Chí nói: “Xin cô nương đừng đa lễ. Chuyện này thành công hay không, ta chưa nắm chắc lắm.”

Tiêu cô nương cảm thấy Viên Thừa Chí đỡ mình ra vẻ nhẹ nhàng, nhưng luồng lực đạo cực lớn, mình không thể nào quỳ xuống được. Nàng lại thêm phần tin tưởng Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí bảo: “Nhờ cô dẫn ta vào nhà, ta cần viết một lá thư cho gia gia cô.”

Tiêu cô nương hỏi: “Xin hỏi cao tính đại danh hai vị? Nhờ hai vị khuyên can gia gia của muội một chút có được không?”

Viên Thừa Chí nói: “Danh tính của ta tạm thời khoan nhắc đến. Gia gia của cô nương nhìn thấy lá thư này, nhất định sẽ từ bỏ ý niệm liều chết. Chúng ta phải lo xong việc này rồi hãy nói tiếp.”

Tiêu cô nương mừng rỡ nói: “Mời hai vị theo muội.”

Ba người nhảy qua tường trở vào trong nhà. Tiêu cô nương dẫn hai người vào một thư phòng nhỏ, lấy bút nghiên giấy mực. Nàng mài mực rồi ra xa ngồi, thấy Viên Thừa Chí cầm bút không biết viết những gì. Thanh Thanh ngồi cạnh chàng, sắc mặt tỏ vẻ kinh ngạc.

Viên Thừa Chí gấp tờ giấy đó thành một phong thư, lấy hồ dán lại, giao cho Tiêu cô nương rồi nói: “Mau đem lá thư này tới chỗ gia gia. Nhưng cô nương phải hứa với ta một việc.”

Tiêu cô nương nói: “Tôn giá đã dặn dò, dĩ nhiên muội phải tuân mạng.”

Viên Thừa Chí nói: “Cô nương không được đem tuổi tác, tướng mạo của ta nói cho gia gia biết.”

Tiêu cô nương ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại thế?”

Viên Thừa Chí đáp: “Nếu cô nói ra, thì ta không thể giúp cô được nữa.”

Tiêu cô nương nói: “Được, muội đồng ý.”

Viên Thừa Chí nói: “Ngày mai giờ Mão, mời cô đến phòng số ba dãy chữ Hoàng trong Hưng Long khách điếm ở cửa Thủy Tây, ta sẽ thương lượng với cô về việc giải trừ nguy nan cho lệnh tôn. Việc này tuyệt đối phải giữ bí mật.”

Tiêu cô nương gật đầu đồng ý.

Viên Thừa Chí kéo tay Thanh Thanh bảo: “Được rồi. Chúng ta đi thôi!”

Tiêu cô nương nhìn theo hai người lướt qua tường mà ra, trong lòng vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ, nhưng phần vui mừng lại nhiều hơn. Nàng lập tức chạy tới phòng của phụ thân. Thấy cửa phòng đóng chặt, nàng vừa gõ cửa vừa lớn tiếng gọi: “Gia gia, mở cửa!”

Rất lâu không nghe tiếng gì, nàng lo lắng bèn vòng qua cửa sổ, phóng chưởng đẩy gãy chốt cửa, rồi theo cửa sổ nhảy vào. Tiêu Công Lễ đang thần sắc ủ rũ, tay nâng ly rượu kề lên miệng. Tiêu cô nương la lên: “Gia gia! Gia gia xem thư đã.”

Tiêu Công Lễ vẫn ngơ ngác không nói gì. Tiêu cô nương mở phong thư ra, đưa cho phụ thân mình.

Tiêu Công Lễ vừa nhìn đã ngẩn ra, rồi run rẩy toàn thân không kìm nổi. Tay ông buông lỏng, cái ly vỡ nát loảng xoảng dưới đất. Tiêu cô nương hoảng sợ nhảy lùi ra, nhưng Tiêu Công Lễ lại đầy vẻ vui mừng, run giọng hỏi: “Thư này từ đâu gửi đến? Ai đưa cho con? Ông ấy… ông ấy đã đến rồi sao? Đã đến thật rồi sao?”

Tiêu cô nương đưa mắt nhìn xem, thấy trên tờ giấy không viết chữ nào, chỉ vẽ một thanh trường kiếm. Thân kiếm quanh co như con rắn, mũi kiếm là cái đầu rắn, lưỡi thè ra chẻ thành hai nhánh.

Nàng không hiểu tại sao phụ thân vừa thấy cây kiếm này đã vui mừng đến thế, liền hỏi: “Gia gia, đây là cái gì vậy?”

Tiêu Công Lễ đáp: “Chỉ cần ông ấy đến đây là cái mạng già này được cứu rồi. Con có thấy ông ấy không?”

Tiêu cô nương hỏi: “Ai thế?”

Tiêu Công Lễ nói: “Người vẽ thanh kiếm này.”

Tiêu cô nương gật đầu rồi nói: “Ông ấy hẹn con ngày mai gặp mặt.”

Tiêu Công Lễ hỏi: “Ông ấy có bảo ta đi hay không?”

Tiêu cô nương đáp: “Ông ấy không nói.”

Tiêu Công Lễ nói: “Vị kỳ hiệp này tính khí có phần cổ quái, đã dặn thì chúng ta không thể không tuân. Ngày mai con cứ đi một mình. Ôi! Con mà đến trễ một chút thì gia gia đã không gặp con được nữa.”

Tiêu cô nương kinh hãi, bây giờ mới hiểu ly rượu vừa rồi có thuốc độc. Nàng vội lấy chổi quét dọn, rồi lo liệu cho phụ thân nghỉ ngơi.

Tiêu phu nhân và đám đệ tử nghe nói cứu tinh đã đến, vẫn nghĩ: “Bất luận người đó võ công cao cường đến mức nào, nhưng chỉ một mình thì khó mà chống nổi rất nhiều cao thủ đối phương.” Nhưng họ thấy Tiêu Công Lễ yên tâm chắc phải có lý do, nên đều cảm thấy an ủi. Tiêu Công Lễ đang bắt họ giải tán đi bốn phương lánh nạn. Mọi người vốn không muốn làm vậy, dĩ nhiên bây giờ không ai chịu bỏ đi nữa.

Trên đường từ nhà họ Tiêu trở về, Thanh Thanh hỏi: “Huynh vẽ thanh kiếm đó là ý gì vậy?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tiêu Công Lễ nói, trên thế gian này chỉ có phụ thân của muội mới cứu được mạng ông ấy. Thanh kiếm ta vẽ chính là Kim Xà Kiếm mà phụ thân của muội vẫn dùng.”

Thanh Thanh gật đầu, im một lúc mới hỏi: “Tại sao ca ca phải cứu ông ấy?”

Viên Thừa Chí nói đáp: “Tiêu Công Lễ không phải người xấu, bị bạn bè bán đứng, bị bức ép khốn khổ như thế, chẳng lẽ ta thấy chết mà không cứu hay sao? Huống chi ông ấy lại là bạn của phụ thân Thanh đệ.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Muội cứ tưởng huynh thấy con gái của ông ấy xinh đẹp, nên muốn lấy lòng cô nương đó.”

Viên Thừa Chí tức giận hỏi: “Thanh đệ coi ta là loại người như thế nào?”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Úi chà, đừng nổi nóng! Thế thì huynh hẹn cô ấy đến khách sạn để làm chi?”

Thừa Chí cũng cười nói: “Bụng dạ hẹp hòi của Thanh đệ thật là hết thuốc chữa. Thôi, đừng nói nhiều nữa, theo ta đi nhanh lên.”

Thanh Thanh vừa cười khúc khích vừa theo chàng đi về hướng Tây, chẳng bao lâu đã tới nhà Mẫn Tử Hoa ở Đại Công Phường. Hai người vượt tường nhảy vào trong, nép vào một góc tường, im lặng quan sát động tĩnh xung quanh.

Viên Thừa Chí khẽ nói: “Trong nhà này có không biết bao nhiêu cao thủ. Nếu bị phát giác, mọi việc chắc chắn không thành công được.”

Thanh Thanh mỉm cười nói nhỏ: “Huynh muốn giúp đỡ cô nương xinh đẹp đó, nhưng muội không muốn, chỉ muốn phá hỏng kế hoạch của huynh. Muội đang muốn la làng đây.”

Viên Thừa Chí mỉm cười, mặc nàng muốn nói gì thì nói.

Đợi một lát không thấy động tĩnh gì, hai người mới bắt một tên phục dịch, hỏi rõ nơi ở của anh em họ Sử. Sau đó Viên Thừa Chí điểm á huyệt của hắn, rồi mang giấu vào lùm cây.

Hai người đi tới cửa sổ phòng ngủ của anh em họ Sử hoàn toàn không phát ra tiếng động, bẻ gãy chốt cửa rồi nhảy vào trong. Anh em họ Sử không phải tay vừa, lập tức tỉnh giấc. Nhưng chúng chưa kịp quát hỏi, đã bị điểm trúng huyệt đạo rồi.

Viên Thừa Chí lấy mồi lửa đốt nến lên, cùng Thanh Thanh lục lọi khắp nơi, dưới gối, trong hộc tủ, cả những bao đồ đạc, nhưng chỉ thấy toàn là y phục, tiền bạc, ám khí, vũ khí. Đang muốn lục nữa thì nghe ngoài cửa phòng có tiếng bước chân rất nhẹ. Viên Thừa Chí lập tức thổi tắt nến, thò tay vào bọc áo của anh em họ Sử, lôi ra một mớ giấy tờ và thư từ. Chàng hoan hỉ nhét hết vào trong bọc, khẽ nói: “Có rồi!”

Thanh Thanh nói: “Đi thôi! Hình như ngoài cửa có người.”

Viên Thừa Chí bảo: “Đợi một chút.” Rồi chàng cầm một thanh trủy thủ của anh em họ Sử, viết mò năm chữ lớn trên bàn: “Tiêu Công Lễ kính bái”.

Đột nhiên ngoài cửa có người quát hỏi: “Ai?”

Hai người theo cửa sổ nhảy ra, lập tức phóng tới chân tường. Những tiếng vỗ tay vang lên tứ phía, bên này vỗ bên kia đáp. Họ biết đối phương đã bố trí nghiêm ngặt, cao thủ phục kích từ trong tới ngoài, nên chưa dám mạo hiểm xông ra. Hai người cứ khom người dưới chân tường không động đậy, theo dõi tiếng chân tuần tra trên mái nhà.

Thanh Thanh đột nhiên khẽ gọi: “Huynh xem này!”

Nàng nắm tay chàng đặt xuống chân tường. Viên Thừa Chí đưa tay sờ, thì thấy dưới chân tường hình như có khắc chữ, nhưng rêu xanh phủ kín nên không nhìn thấy. Chàng đưa đầu ngón tay dò theo nét khắc lõm xuống, thấy quanh co uốn khúc như kiểu chữ triện. Chàng không biết chữ triện, bèn khẽ hỏi: “Chữ gì vậy?”

Thanh Thanh đáp: “Chữ Đệ, như đệ nhất đệ nhị.”

Sờ tiếp lên trên, lại có một chữ khác. Thanh Thanh nói đó là chữ Tứ, nghĩa là ban tặng. Trên nữa là chữ Công, trên nữa là chữ Quốc. Chữ ở trên cùng nhiều nét rối rắm, Thanh Thanh đọc mãi mới ra chữ Ngụy. Viên Thừa Chí ráp từ trên xuống dưới, đúng là năm chữ: Ngụy Quốc Công Tứ Đệ.

Tòa Ngụy Quốc Công phủ mà hai người tìm kiếm mười mấy ngày trời không ra manh mối, lại chính là nơi ở của đối phương. Đúng là đi rách đế giày tìm không thấy, tìm ra chẳng tốn chút công phu. Mấy chữ này lâu năm bị rêu xanh che phủ hết, nhất định hậu nhân của Từ Đạt tướng quân đã bán ngôi nhà này, không chừng còn đổi chủ mấy lần, nên mới không ai biết.

Viên Thừa Chí đang mừng rỡ, đột nhiên cảm thấy sau gáy nhột nhạt, thì ra Thanh Thanh đang hà hơi trêu ghẹo. Chắc nàng tìm được Ngụy Quốc Công phủ, hoan hỉ đến nỗi quên mất mình đang ở đâu. Viên Thừa Chí rụt cổ lại, nói nhỏ: “Đừng giỡn nữa.”

Lát sau nghe tiếng vỗ tay từ phía Tây từ từ di chuyển về phía Nam, chàng bảo: “Đi thôi!”

Hai người tung người nhanh như chớp lên đầu tường phía Tây rồi nhảy ra ngoài, chạy về khách sạn.

Về tới khách sạn thì đã sang canh tư rồi. Thanh Thanh thắp nến, Viên Thừa Chí lôi mớ giấy tờ văn kiện ra, chọn xem hai lá thư cũ kỹ nhất, giấy đã ngả màu vàng. Quả nhiên đó là tờ cung của Trương trại chủ và lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài.

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Không biết cô ấy sẽ lấy gì để cảm ơn huynh đây?”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Cô nào?”

Thanh Thanh cười khúc khích, đáp: “Dĩ nhiên là Tiêu đại tiểu thư rồi!”

Viên Thừa Chí bĩu môi, mặc kệ nàng, đọc kỹ hai lá thư đó rồi nói: “Tiếc là Tiêu Công Lễ nói câu nào cũng thật. Nếu ông ấy có lòng mờ ám thì mình có thể phủi tay không lo tới, khỏi phải đắc tội với rất nhiều tiền bối giang hồ. Trong đó lại có đệ tử của Nhị sư ca nữa.”

Thanh Thanh nửa như cười nửa như không, nói: “Phi Thiên Ma Nữ xinh đẹp tuyệt vời, không nên đắc tội là phải.”

Viên Thừa Chí nói: “Ả này lòng dạ hẹp hòi, ra tay hiểm ác, hành sự không biết nặng nhẹ, vô duyên vô cớ chặt tay người khác.”

Chàng suy nghĩ một lúc, lại tiếp: “Nếu không sợ Nhị sư ca trách móc, lúc đó ta đã ra tay để dạy cho ả một bài học. Ta dặn Tiêu cô nương đến đây gặp mặt, vì sợ mình để lộ tung tích. Nếu xảy ra hiềm khích giữa sư huynh đệ, thì có lỗi với ơn dưỡng dục của sư phụ.”

Thanh Thanh thấy chàng thần sắc nghiêm túc, không dám đùa giỡn nữa. Viên Thừa Chí lại mở mấy lá thư khác ra xem, đột nhiên giận dữ kêu lên: “Thanh đệ xem này.”

Thanh Thanh trước giờ chưa thấy Viên Thừa Chí phẫn nộ đến thế. Cho dù đối diện đại địch chàng vẫn ung dung tự tại, thế mà bây giờ đỏ mặt tía tai, gân xanh nổi vồng trên trán. Nàng không khỏi hoảng sợ, liền cầm lá thư đó xem. Thì ra đó là mật hàm do thư ký của Đa Nhĩ Cổn, Cửu vương gia Mãn Thanh, viết cho anh em họ Sử. Hắn dặn bọn này giết Tiêu Công Lễ rồi thừa cơ đoạt lấy Kim Long Bang, tạo thế lực ở Giang Nam, thám thính tin tức, liên lạc hảo hán giang hồ. Khi Thanh binh nhập quan, chúng có thể khởi sự ở Giang Nam làm nội ứng. Cuối lá thư có hai dấu ấn son rất lớn. Dấu trên là năm chữ lệ: Đại Thanh Nhuệ Thân Vương, còn dấu dưới là ba chữ triện: Đa Nhĩ Cổn. May mà Thanh Thanh đọc được nhiều thể chữ.

Nhất thời Thanh Thanh ngẩn ra không nói tiếng nào, càng nghĩ càng tức, muốn xé vụn lá thư đó. Viên Thừa Chí vội giữ tay nàng lại, bảo: “Không thể xé được.”

Thanh Thanh lập tức tỉnh ngộ, nói: “Không sai! Đây đúng là chứng cớ to bằng trời.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Thanh đệ nghĩ xem, tại sao anh em họ Sử đã lấy được hai lá thư của Tiêu Công Lễ mà không hủy đi?”

Thanh Thanh đáp: “Chúng muốn dùng để kiềm chế Mẫn Tử Hoa.”

Viên Thừa Chí nói: “Nhất định là thế. Ta định cứu Tiêu Công Lễ xong rồi phủi tay không lo tiếp nữa, nào ngờ trong này lại có gian mưu to lớn. Đừng nói là đắc tội với Nhị sư ca, ô dù lớn hơn nữa ta cũng không sợ.”

Thanh Thanh nhìn chàng đầy vẻ ngưỡng mộ, nói: “Dĩ nhiên chúng ta phải nhúng tay vào. Cho dù Nhị sư ca mách lên sư phụ, lão nhân gia cũng sẽ nói là huynh đúng. Bây giờ chúng ta mời Đại sư ca của huynh đến đây, nhờ ông ấy dùng Thiết Toán Bàn mà tính một với một là hai, xem huynh có lý hay Nhị sư ca có lý.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Được rồi, đi nghỉ đi. Ta phải suy nghĩ đàng hoàng, tìm cách đối phó với bọn gian tặc này.”

Thanh Thanh cười nói: “Muội muốn ngồi cạnh, cùng suy nghĩ với huynh.”

Viên Thừa Chí dứt khoát lắc đầu. Thanh Thanh vừa cười vừa quay về phòng mình.

*

*   *

Sáng sớm hôm sau, Viên Thừa Chí thức dậy ngồi trên giường luyện khí, điều hòa hô hấp, ý thủ đơn điền, đưa nội tức vận hành qua mọi huyệt đạo trong cơ thể. Chàng cảm thấy luồng khí nóng từ đơn điền đưa lên, hoan hỉ vì biết gần đây công lực mình tiến bộ nhiều.

Mới bước xuống giường, chàng đã thấy trên bàn có hai chén sữa đậu nành, một đĩa bánh quẩy. Thanh Thanh vừa cười khúc khích vừa từ sau cánh cửa chui ra, hỏi: “Lão hòa thượng tham thiền xong rồi chứ?”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Thanh đệ dậy sớm quá!”

Hai người vừa dùng xong điểm tâm, tiểu nhị đã dẫn một người vào. Miệng hắn cứ cằn nhằn: “Cô tìm hai vị này phải không? Đi tìm mà người ta họ gì cũng không biết!”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh chưa nhìn đã biết Tiêu cô nương đến. Nàng đợi tiểu nhị ra khỏi cửa rồi lập tức quỳ xuống khấu đầu. Viên Thừa Chí vội trả lễ. Thanh Thanh nắm tay nàng kéo dậy.

Tiêu cô nương thấy thiếu niên tuấn tú này tự nhiên nắm tay mình, xấu hổ đến mặt đỏ ửng lên, nhưng người ta có ơn cứu cha mình nên nàng không tiện giật lại ngay. Lát sau nàng mới nhẹ nhàng rút tay về.

Thanh Thanh hỏi: “Tiêu cô nương! Cô nương tên gì?”

Tiêu cô nương đáp: “Muội là Uyển Nhi. Xin hỏi quý tính hai vị?”

Thanh Thanh trỏ Viên Thừa Chí, cười nói: “Ông này dữ như sói, không cho ta nói. Cô nương tự hỏi ông ấy đi.”

Tiêu Uyển Nhi biết nàng nói đùa, cũng mỉm cười rồi trang trọng nói: “Hai vị đã cứu mạng gia gia muội. Đại ơn đại đức này, dù xương tan thịt nát cũng khó mà đền đáp.”

Viên Thừa Chí nói: “Lệnh tôn là bậc tiền bối giang hồ, cao phong hiệp nghĩa, xứng đáng để người ta khâm phục. Vãn bối chỉ góp chút sức nhỏ mọn, không cần đa lễ. Cô nương hãy trở về, bẩm báo với lệnh tôn là trưa nay cứ đãi khách bình thường. Đây có hai gói đồ, nhờ cô nương chuyển cho lệnh tôn. Đợi tình hình khẩn cấp hãy mở ra trước mặt mọi người, chắc chắn có hiệu quả. Vật trong gói vô cùng quan trọng, hãy đề phòng giữa đường có người cướp đoạt.”

Tiêu Uyển Nhi thấy một gói dài dài, trọng lượng khá nặng, hình như là binh khí gì đó. Còn gói kia thì nhỏ xíu nhẹ nhàng. Nàng dùng cả hai tay nhận lấy, rồi bái tạ.

Đợi nàng ra khỏi cửa phòng, Viên Thừa Chí bảo: “Chúng ta phải âm thầm theo sau bảo vệ, đừng để kẻ xấu đoạt mất.”

Hai người khóa cửa phòng đi ra, chợt thấy Tiêu Uyển Nhi đang ngồi trong phòng khách. Họ lùi lại tránh, ngạc nhiên không biết nàng nán lại khách điếm này để làm gì. Bỗng nghe Tiêu Uyển Nhi dõng dạc nói: “Bảo chưởng quỹ đến đây. Kim long thám trảo, tiêu lôi trấn không.”

Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Cô ấy nói gì vậy?”

Thanh Thanh khẽ đáp: “Chắc là ám hiệu của Kim Long Bang.”

Tên tiểu nhị vừa rồi lầm bầm giận dữ, bây giờ vừa nghe đã giật mình, khom lưng vâng dạ.

Chưởng quỹ chạy tới cũng khom lưng cung kính nói: “Cô nương có gì dặn dò? Tiểu nhân lập tức đi lo.”

Tiêu Uyển Nhi nói: “Ta là Tiêu đại cô nương. Phiền ông đến nhà ta, nói ta có việc quan trọng, mời các vị sư ca đến đây.”

Chưởng quỹ nghe nàng xưng là Tiêu đại cô nương, lại càng hoảng sợ. Y lập tức nhảy lên lưng ngựa, đích thân chạy đi. Chỉ khoảng ăn xong bữa cơm là ngoài tiệm đã có hai mươi mấy võ sư ùa tới, tay đều cầm binh khí, bảo vệ Tiêu Uyển Nhi rời khỏi đó.

Viên Thừa Chí nói: “Thế lực Kim Long Bang ở đây rất lớn, chúng ta không cần phải đi theo. Lát nữa đến nhà họ Tiêu ăn tiệc là được rồi.”

*

*   *

Giờ Ngọ sắp đến, hai người từ từ đi đến Tiêu phủ, thấy khách đang lục tục kéo vào. Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh theo mọi người vào trong, khi đến trước cửa cũng được Tiêu Công Lễ chắp tay thi lễ. Tiêu Công Lễ tưởng đây là môn nhân tiểu bối của đối phương, nên không để ý đến.

Đến giờ Ngọ thì khách khứa đến đủ, ngồi vào bàn tiệc. Khí thế hôm nay rực rỡ khác hẳn hôm Mẫn Tử Hoa đãi khách. Kim Long Bang tiền nhiều thế mạnh, tiếp đãi rất long trọng. Bàn nào cũng phủ khăn đỏ thêu chỉ vàng, tô chén bằng sứ tinh tế, đũa ngà. Thức ăn cũng không phải tầm thường, dĩ nhiên không thể thiếu món vịt quay nổi tiếng ở Nam Kinh. Đầu bếp nấu nướng đều là người có tiếng ở đất Nam Kinh này. Rượu đang rót đã thấy sắc đỏ như son, chính là Thiệu tửu lâu năm.

Mẫn Tử Hoa cùng các vị danh túc phái Côn Luân, Thập Lực đại sư, Trình Khởi Vân, Trương Tâm Nhất, Mai Kiếm Hòa, Vạn Lý Phong, Lưu Bội Sinh, Tôn Trọng Quân ngồi ở thủ tọa. Tiêu Công Lễ đích thân ngồi cùng, ân cần mời rượu. Bọn Mai Kiếm Hòa đều không chịu uống, còn quan sát sắc mặt Mẫn Tử Hoa.

Đột nhiên Mẫn Tử Hoa cầm ly rượu lên quẳng xuống đất vỡ nát, nghe “choang” một tiếng. Y quát lên: “Họ Tiêu kia! Hôm nay rất nhiều bằng hữu võ lâm đã nể mặt Mẫn mỗ đến đây. Mối thù giết huynh trưởng của ta phải xử lý thế nào, ngươi hãy nói đi.”

Mới mở miệng đã nói ngay chuyện chính, Tiêu Công Lễ nhất thời không biết đáp sao. Đại đệ tử Ngô Bình của ông bèn đứng dậy nói: “Mẫn nhị gia! Huynh trưởng của nhị gia thấy nữ sắc động tà khí, bại hoại quy luật võ lâm. Sư phụ tại hạ…”

Ngô Bình chưa nói hết, đột nhiên thấy một luồng kình phong đến trước mặt, phải gấp rút nghiêng đầu né. “Phụp” một tiếng, một cây đinh bằng thép hình tam giác, dài chừng năm tấc, ghim vào mặt bàn. Ngô Bình thấy mũi đinh này do Tôn Trọng Quân phát ra, lập tức nộ khí đằng đằng, rút đơn đao ra la lớn: “Ái chà! Mụ la sát này đã ám toán chặt tay La sư đệ của ta, còn muốn hại thêm người khác nữa sao?”

Y lập tức nhảy ra, toan động thủ. Tiêu Công Lễ vội cản lại, quát lên: “Trước mặt các vị tân khách, không được vô lễ.”

Ông quay lại mỉm cười nói với Tôn Trọng Quân: “Tôn cô nương là cao thủ phái Hoa Sơn, hà tất phải chấp nhất tiểu đồ…”

Mẫn Tử Hoa đỏ rực mắt lên, chụp lấy một đôi đũa trước mặt mình, nhằm vào cặp mắt Tiêu Công Lễ phóng tới, hét lên: “Hôm nay ta phải thí mạng với tên lão tặc này.”

Tiêu Công Lễ đưa đôi đũa ra, nhẹ nhàng kẹp lấy hai chiếc đũa đang bay tới mặt. Ông đặt hết xuống bàn, ôn tồn nói: “Mẫn nhị gia! Sao lại nổi giận như thế? Có gì chúng ta hãy nói từ từ. Người đâu? Đem cho Mẫn nhị gia một đôi đũa sạch.”

Mẫn Tử Hoa thấy võ công ông tinh diệu, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng trách ca ca của ta mất mạng dưới tay hắn.”

Mai Kiếm Hòa thấy Mẫn Tử Hoa đã thua một chiêu, liền đưa tay ra toan nắm lấy cánh tay của Tiêu Công Lễ, lên tiếng: “Tiêu bang chủ bản lãnh phi thường. Hai chúng ta hãy làm quen một chút.”

Tiêu Công Lễ thấy tay hắn đến quá nhanh, bèn nghiêng người tránh ra ngoài. Bàn tay Mai Kiếm Hòa nắm trúng lưng ghế, nghe “rắc” một tiếng lưng ghế đã gãy rời.

Tiêu Công Lễ thấy tình hình căng thẳng, bên họ Mẫn đã có người xắn áo xoa tay, có người rút binh khí ra. Bang chúng bên mình cũng trừng mắt lên nhìn, đề phòng nghiêm ngặt. Cuộc loạn đấu có thể xảy ra ngay, thế mà chưa thấy Kim Xà Lang Quân đến giải vây. Tình thế nguy cấp thế này, nếu hai bên động thủ thì nhất định sẽ tổn thương rất nhiều nhân mạng. Họ Tiêu lo lắng, bèn đưa mắt ra hiệu cho con gái.

Tiêu Uyển Nhi đang ôm hai cái gói, cũng đã sốt ruột từ lâu. Nàng vừa nhìn thấy ánh mắt của phụ thân, lập tức mở cái gói dài ra. Thấy trong gói là một thành trường kiếm, nàng liền đem tới đặt trước mặt cha mình.

Tiêu Công Lễ không hiểu thanh kiếm này có công dụng gì. Ông đang thắc mắc, Tôn Trọng Quân đã nhận ra binh khí của mình. Ả vừa xấu hổ vừa giận dữ, lập tức vọt tới đoạt lấy, cất tiếng mắng luôn: “Có bản lãnh thì cứ minh bạch mà tỉ đấu. Lén ăn cắp đồ, có gì đáng gọi anh hùng hảo hán?”

Tiêu Công Lễ lại càng không hiểu. Tôn Trọng Quân bước tới hai bước, mũi kiếm lóe ra những tia sáng xanh, đâm ngay vào trước ngực Tiêu Công Lễ.

Khi để Tiêu Công Lễ trả kiếm cho Tôn Trọng Quân, Viên Thừa Chí nghĩ: “Ả biết đêm qua người ta hạ thủ lưu tình, nhất định sẽ cảm kích mà ra sức giải hòa. Không ngờ ả lại hung dữ đến thế.” Chàng không khỏi vừa hối hận vừa giận dữ.

Tiêu Công Lễ thấy đối phương ra chiêu ác độc, vội lùi hai bước. Một đệ tử đưa cho ông cây Chiết thiết đao. Tiêu Công Lễ đón lấy, nhưng cố nhịn chưa đánh trả. Tôn Trọng Quân xuất thủ rất nhanh, vừa trượt một chiêu lại rung động mũi kiếm đâm tới yết hầu đối thủ. Nếu Tiêu Công Lễ không chống đỡ, thì dứt khoát phải mất mạng dưới nhát kiếm này. Ông đành đưa cây Chiết thiết đao ra chém vào lưỡi kiếm.

Thanh kiếm của Tôn Trọng Quân trầm xuống dưới như để tránh né lưỡi đao. Nào ngờ khi xuống tới hạ bàn, nó đột nhiên hất ngược lên nhanh như điện chớp, đâm vèo tới bụng dưới đối phương. Chiêu kiếm này đã nhanh lại chuẩn xác, dù Tiêu Công Lễ đã luyện mấy chục năm công phu đao pháp cũng không thể kịp xoay đao lại đỡ. Ông vội vã tung người nhảy lên, bay qua đầu những người kế bên mà ra khỏi vòng chiến, tránh được chiêu kiếm đâm tới bụng mình. Nhưng “xoẹt” một tiếng, ống quần của ông đã bị mũi kiếm quẹt rách.

Tiêu Công Lễ thầm la lên: “Nguy hiểm quá!” Ông quay đầu lại xem đối thủ có đuổi theo hay không, nhưng đột nhiên vui mừng không tả nổi. Ông vừa thấy con gái đang cầm hai lá thư trước đây đã bị Thái Bạch Tam Anh lừa lấy mất.

Lúc này hai đồ đệ của ông đang múa đao ngăn cản Tôn Trọng Quân. Hai người này tức giận cô ả chặt đứt cánh tay La sư ca, nên đao rít gió cuồn cuộn, liều mạng mà phóng tới. Khóe miệng Tôn Trọng Quân vẫn cười nhạt, tay trái chống hờ vào hông, trường kiếm bên tay phải chỉ cần đưa nhè nhẹ đã đủ bắt hai đại hán tay chân rối loạn, đón đỡ loạn xạ.

Tiêu Công Lễ cầm lấy hai lá thư, kêu lớn: “Dừng tay, dừng tay! Ta có câu này muốn nói.”

Hai đệ tử nghe sư phụ gọi liền thu đao lùi lại. Một người lùi hơi chậm, trước ngực trúng cước của Tôn Trọng Quân nghe “bình” một tiếng. Y loạng choạng lùi luôn mấy bước, ọe ra một ngụm máu tươi, mặt lập tức xanh lại.

Tiêu Công Lễ liếc xéo Tôn Trọng Quân một cái, cố nén cơn giận. Ông hô lớn: “Các bằng hữu hãy nghe ta nói một câu.”

Đại sảnh đang hỗn loạn, phải một lúc mới từ từ yên tĩnh lại. Tiêu Công Lễ nói: “Vị Mẫn bằng hữu này trách ta hại huynh trưởng của y. Không sai, Mẫn Tử Diệp là do ta giết.”

Nghe thấy câu này, đại sảnh lập tức im phăng phắc, không ai mở miệng.

Mẫn Tử Hoa nghẹn ngào nói: “Thiếu nợ trả tiền, giết người đền mạng.”

Những võ sư bên họ Mẫn đều ồ lên. Mỗi người mỗi câu ầm ĩ: “Không sai, giết người phải đền mạng.” “Giết một mạng đền một mạng.” “Tiêu Công Lễ, ngươi tự kết liễu đi.”

Tiêu Công Lễ đợi cho tiếng ồn ào giảm xuống, rồi dõng dạc nói: “Ở đây có hai lá thư, muốn nhờ mấy vị tiền bối đức cao vọng trọng xem qua. Nếu các vị này xem thư xong mà nói Tiêu mỗ phải đền mạng, Tiêu mỗ sẽ lập tức tự vẫn. Chau mày một tí cũng không xứng là hảo hán.”

Mọi người nổi dạ hiếu kỳ, ai cũng muốn tới đọc thư. Tiêu Công Lễ nói: “Khoan đã! Nhờ Mẫn nhị gia đề cử ba vị tiền bối đến xem.”

Mẫn Tử Hoa muốn biết trong thư viết gì, bèn hô lớn: “Được! Thế thì nhờ ba vị Thập Lực đại sư, Trình đảo chủ và Mai đại ca.”

Ba người nhận lấy thư, để lên bàn khẽ đọc. Thái Bạch Tam Anh tái xanh cả mặt, thì thào bàn tán với nhau.

Người đầu tiên đọc xong là Thập Lực đại sư. Lão lên tiếng: “Theo ý lão nạp, Mẫn nhị gia hãy bỏ vụ xích mích này, đổi địch thành bạn là tốt nhất.”

Thập Lực đại sư có danh vọng rất cao trong võ lâm. Cả kiến thức lẫn võ công của lão đều được mọi người thán phục. Câu này vừa nói ra, trong đại sảnh ai cũng ngạc nhiên.

Mẫn Tử Hoa đón lấy thư, đọc tờ cung của Trương trại chủ trước. Trương trại chủ viết chẳng trôi chảy gì, sai rất nhiều chữ, nhưng đọc xong vẫn hiểu một phần sự việc. Xem tới lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài, thì hành văn lưu loát, kể lại mọi chuyện rõ ràng.

Mẫn Tử Hoa mới đọc một nửa đã vừa xấu hổ vừa khó chịu, ngơ ngác đứng yên không biết nói gì. Đột nhiên y hiểu ra rất nhiều việc trước nay không sao hiểu được:

“Thái Bạch Tam Anh đến nói với mình, người hại chết ca ca là Tiêu Công Lễ ở Kim Long Bang. Khi mình đi mời các vị sư ca giúp trả thù, ai cũng tìm cách thoái thác. Đại sư ca Thủy Vân còn nói, phải tìm sư phụ để lão nhân gia chủ trì sự việc. Mọi sư ca trước nay rất tốt với mình, sao lần này không có nghĩa khí đồng môn? Chỉ có một mình Động Huyền sư đệ chịu theo mình đến đây.

Tiên Đô Phái người đông thế mạnh, gặp đại sự này mà nhân vật bản môn lại không lộ diện, buộc mình phải đi mời người ngoài tương trợ, thật chẳng ra thể thống gì cả. Thì ra năm xưa ca ca đã gây một chuyện không thể đưa ra ánh sáng, nhất định các vị sư ca đã biết rõ nên không chịu giúp mình. Nhưng họ sợ làm mình mất mặt, nên mới trút trách nhiệm qua sư phụ đã mất tích nhiều năm. Chỉ có Động Huyền sư đệ còn nhỏ, không biết…”

Đột nhiên nghe tiếng Mai Kiếm Hòa quát lên: “Đồ giả mạo, lừa gạt được ai?” Hắn đưa tay giật lấy hai lá thư, xé nát vụn.

Tiêu Công Lễ thật sự không ngờ hắn dám xé thư trước mặt mọi người. Thế là bùa hộ mạng của mình đã mất. Ông vừa lo vừa giận, đỏ mặt tía tai quát hỏi: “Họ Mai kia! Ngươi biết danh dự là gì không?”

Mai Kiếm Hòa lạnh nhạt nói: “Chưa biết ai mới không cần danh dự. Đã hại huynh trưởng người ta rồi, còn giả tạo mấy lá thư văn tự không thông suốt để vu oan người chết. Tiếc rằng người chết không đối chứng được, để mặc cho ngươi ăn nói bừa bãi như thế. Loại thư thế này, ta đóng cửa một ngày là viết được hàng trăm lá. Ngươi có tin không? Nếu ngươi muốn vu oan Thập Lực đại sư phạm đủ loại tội ác, muốn vu oan Trình đảo chủ đã giết huynh trưởng của Mẫn nhị gia, loại thư như vậy ta cũng viết được.”

Thập Lực Đại sư và Trình Khởi Vân vốn đã thấy Mẫn Tử Hoa đuối lý, nhưng nghe Mai Kiếm Hòa nói một hồi lại sinh ra trù trừ, không biết hai lá thư này thật hay giả. Hai người nhìn nhau, nhất thời không quyết đoán được.

Ngô Bình thấy sư phụ bị sỉ nhục như thế, giận dữ vô cùng. Y phóng ào tới, vừa quát lên vừa múa đao chém Mai Kiếm Hòa. Họ Mai hơi nghiêng người một chút, rút kiếm nhanh như điện chớp. Bạch quang nhấp nháy, Ngô Bình quát chưa dứt tiếng, đơn đao đã tuột khỏi tay. Mai Kiếm Hòa chỉ mũi kiếm vào yết hầu y, thét lên: “Quỳ xuống! Mai đại gia sẽ tha cái mạng nhỏ xíu của ngươi.”

Ngô Bình lùi luôn ba bước, nhưng mũi kiếm của địch thủ vẫn không rời khỏi yết hầu. Mai Kiếm Hòa cười gằn nói: “Ngươi không chịu quỳ thì ta phải đâm tới.”

Ngô Bình quát trả: “Đâm nhanh lên đi, đứng đó nói nhiều làm gì?”

Đệ tử môn nhân nhà họ Tiêu cầm binh khí kéo ùa vào trong sảnh. Đám võ sư bên họ Mẫn, đa số là loại chỉ biết nhắm mắt đánh nhau, liền rút binh khí chia nhau đón đánh. Lập tức những tiếng loảng xoảng vang lên, vô cùng náo nhiệt.

Tiêu Công Lễ nhảy lên ghế đứng, quát lớn: “Mọi người dừng tay! Nhìn ta đây.”

Ông xoay ngược cổ tay, đưa cây Chiết thiết đao kề ngang cổ họng mình, kêu lên: “Oan có đầu, nợ có chủ. Hôm nay ta đền mạng cho Mẫn Tử Diệp là xong. Các ngươi mau lui ra cho ta.”

Đám môn đồ nghe lệnh nhanh chóng lùi ra, đứng ủ rũ nhìn sư phụ. Tiêu Uyển Nhi vội la lên: “Gia gia, khoan đã! Lá thư đó đâu? Ông ấy nói sẽ đến cứu gia gia mà?”

Tiêu Công Lễ lấy ra một tờ giấy trắng, giơ lên trước mặt. Mọi người thấy trên giấy có vẽ một thanh kiếm kỳ lạ, chẳng ai biết ý nghĩa ra sao.

Bỗng nghe Tiêu Công Lễ kêu lên: “Kim Xà đại hiệp! Đại hiệp đến trễ một bước rồi.” Rồi ông vận sức, ấn mạnh vào thanh Chiết thiết đao đang kề ngang cổ.

Hồi 09: Người đẹp chơi cược lớn – Chuyện cũ giải oán sâu

Nghe “keng” một tiếng, vật gì đó đụng vào lưỡi đao. Cây Chiết thiết đao lập tức rớt xuống đất. Bên cạnh Tiêu Công Lễ đã xuất hiện thêm một người. Ai cũng thấy đây là một thiếu niên mày rậm mắt to, da dẻ đen nhẻm, chỉ khoảng hai mươi tuổi. Nhưng thiếu niên này đến bên Tiêu Công Lễ như thế nào, thì không ai nhìn thấy rõ ràng.

Dĩ nhiên thiếu niên đó chính là Viên Thừa Chí. Chàng đứng trong đám đông quan sát, cứ tưởng đã có hai lá thư thì việc của Tiêu Công Lễ có thể giải quyết nhẹ nhàng, bản thân mình không cần lộ diện để khỏi phát sinh hiềm khích với đồ đệ của Nhị sư ca. Nào ngờ Mai Kiếm Hòa lại giở trò xé vụn thư, ép Tiêu Công Lễ không còn đường tiến thối, buộc phải đưa đao tự vẫn.

Tới lúc phải nhúng tay can thiệp, chàng bèn phóng kim tiền tiêu đánh rơi cây Chiết thiết đao, rồi tung người nhảy đến dõng dạc nói: “Kim Xà Lang Quân không tới được, nên phái công tử là vị huynh đệ này tới cùng tại hạ để giải hòa cho quý vị.”

Không ít người lớn tuổi đã từng nghe danh Kim Xà Lang Quân, biết ông võ nghệ kinh người, hành sự xuất quỷ nhập thần. Mười mấy năm nay trong giang hồ không còn tung tích của ông, có lời đồn ông đã tạ thế, nào ngờ lúc này ông bỗng phái người đến đây. Mọi người đều kinh ngạc.

Tiêu Uyển Nhi kinh ngạc lại mừng rỡ, nói nhỏ với phụ thân: “Gia gia! Chính là vị này.”

Tiêu Công Lễ trấn tĩnh tâm thần, đưa mắt nhìn. Thấy chỉ là một thiếu niên, ông không khỏi nghi hoặc, khẽ lắc đầu.

Tôn Trọng Quân the thé hét lên: “Ngươi tên gì? Ai bảo ngươi đến đây nhiều chuyện?”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Tuy tuổi ta nhỏ hơn, nhưng vai vế lại lớn hơn ngươi đấy. Đợi lát nữa ta nói ra, coi thử ngươi còn dám vô lễ hay không?” Dĩ nhiên lúc này chàng chưa nói rõ, chỉ đáp: “Tại hạ họ Viên, được Kim xà lang quân Hạ đại hiệp phái đến đây để gặp Tiêu bang chủ. Hôm nay có cơ duyên bái kiến các vị tiền bối, thật là vinh dự.” Nói xong chàng chắp tay thi lễ với mọi người.

Người bên họ Tiêu thấy chàng đã cứu mạng Tiêu Công Lễ, đều cung kính thi lễ. Còn bên họ Mẫn chỉ có mấy người Thập Lực đại sư ra vẻ trang nghiêm mới chắp tay đáp lễ, số còn lại thấy tuổi chàng còn trẻ nên mặc kệ.

Tôn Trọng Quân mới hai mươi mấy tuổi, không biết oai danh Kim Xà Lang Quân lúc trước, tính tình lại nóng nảy, bèn lớn tiếng thóa mạ: “Rắn vàng rắn trắng cái gì? Mau mau bò xuống hang cho ta, đừng đứng đây vướng víu.”

Thanh Thanh cười nhạt bĩu môi, rồi thè lưỡi làm mặt xấu. Tôn Trọng Quân giận dữ, tưởng thiếu niên mặt mày tuấn tú này thấy mình xinh đẹp nên trêu ghẹo, bèn hét lên: “Thằng lỏi này vô lễ!”

Đột nhiên ả rùn người xuống, vung kiếm đâm vào bụng dưới Thanh Thanh. Thế kiếm gấp rút, chính là một chiêu hiểm ác của phái Hoa Sơn. Chiêu Tuệ Tinh Phi Đạt này là bản lĩnh độc đáo của Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh, Thanh Thanh làm sao tránh né được?

Vừa thấy chiêu này Viên Thừa Chí lập tức giận dữ, nghĩ bụng: “Mới lần đầu gặp mặt, không thù không oán, chưa hỏi thị phi phải trái, vừa ra tay đã hạ sát thủ ngay, thật là quá đáng!” Chàng bèn lạng người ra cản trước mặt Thanh Thanh, co chân trái cao lên rồi đạp xuống, đè cứng trường kiếm của Tôn Trọng Quân dưới chân mình. Đây là một quái chiêu trong Kim Xà Bí Kíp. Trong đại sảnh chưa ai từng thấy chiêu này, nên cả đám đông cùng ồ vang lên, vừa tán dương vừa kinh ngạc.

Tôn Trọng Quân dùng sức cố rút kiếm về, nhưng không sao lay chuyển được. Ả lại thấy chưởng trái của đối phương vỗ thẳng tới trước mặt mình, chỉ còn cách bỏ kiếm nhảy lùi ra. Viên Thừa Chí đang tức giận, trách ả ác độc, bèn nhấn thêm kình lực xuống chân. “Rắc” một tiếng, trường kiếm đã bị đạp gãy.

Lưu Bội Sinh thấy sư muội bị khó dễ, muốn bước lên ra tay. Mai Kiếm Hòa thấy chiêu thức của Viên Thừa Chí quái lạ, liền kéo tay Lưu Bội Sinh lại, khẽ bảo: “Đợi một lúc đã, nghe xem hắn nói bậy bạ những gì.”

Viên Thừa Chí dõng dạc lên tiếng: “Mẫn nhị gia! Lệnh huynh năm xưa có hành vi sai trái, Tiêu bang chủ thấy mà bất bình nên vung đao giết chết. Tiền nhân hậu quả vụ này Kim Xà Lang Quân biết rất rõ ràng, đã nói là trước kia có hai lá thư viết rõ nội tình. Kim Xà Lang Quân từng cùng Tiêu bang chủ đến bái kiến chưởng môn phái Tiên Đô, chính là lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân, trình hai lá thư lên. Hoàng Mộc đạo nhân xem xong thư, liền không truy cứu việc này nữa. Nhất định hai lá thư đó đây rồi.”

Nói xong, chàng trỏ đống giấy vụn rơi vãi dưới đất, lại nói: “Vị huynh đài này đã xé nát hai lá thư, không biết có dụng ý gì?”

Tiêu Công Lễ nghe Viên Thừa Chí nói không sai chút nào, trong lòng hoan hỉ vô cùng. Bây giờ ông đã tin chàng đúng là sứ giả của Kim Xà Lang Quân, bèn nắm chặt tay con gái, tim đập rộn lên.

Mai Kiếm Hòa cười nhạt rồi nói: “Đây là đồ giả tạo. Họ Tiêu muốn dùng nó để lừa gạt người khác, không xé nát thì để làm gì?”

Viên Thừa Chí nói: “Bọn tại hạ từng nghe Kim Xà đại hiệp nhắc đến nội dung hai lá thư này. Tuy thư đã bị xé, nhưng hai vị này đã từng xem qua.”

Chàng quay đầu lại, chắp tay hướng về Thập Lực đại sư và Bích hải trường kình Trình Khởi Vân nói: “Lát nữa để tại hạ cùng hậu nhân của Kim xà lang quân Hạ đại hiệp nói sơ qua nội dung hai lá thư này. Khi đó thật giả có thể xác định được ngay.”

Thập Lực đại sư cùng Trình Khởi Vân đều nói: “Được! Các hạ nói đi.”

Viên Thừa Chí nhìn Mẫn Tử Hoa hỏi: “Mẫn nhị gia! Lệnh huynh đã tạ thế rồi, bây giờ nhắc đến việc cũ thì có chỗ không tốt cho danh dự của lệnh huynh. Có nên nhắc lại không?”

Mẫn Tử Hoa đã có phần không yên tâm rồi, nhưng bây giờ bị Viên Thừa Chí hỏi thẳng trước mặt đám đông, y không thể xin chàng không tiết lộ nội dung thư được. Nhất thời y không biết phải làm gì, gân xanh từng sợi nổi vồng trên trán, kêu lớn: “Ca ca của ta đâu phải loại người như thế? Lá thư này nhất định là giả.”

Viên Thừa Chí quay lại bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ! Nội dung thư thế nào, Thanh đệ nói ra đi.”

Thanh Thanh bèn dõng dạc kể nội dung lá thư. Nàng đã đọc thư trong khách sạn, tuy không thuộc từng chữ một, nhưng đại ý thì nhớ rõ ràng.

Thanh Thanh đọc lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài trước. Giọng nàng trong trẻo, miệng lưỡi lanh lợi, người nào cũng nghe rõ từng câu từng chữ. Có chỗ quên mất, nàng tự thêm thắt mấy câu. Khi đọc đến chỗ quan trọng, nàng nhịn không nổi lại thêm vào mấy câu bài xích Mẫn Tử Diệp nặng nề hơn.

Mới đọc mấy chục câu, mọi người đã xầm xì bàn luận. Đọc chưa đến một nửa, Mẫn Tử Hoa nhịn không nổi phải hét lớn: “Câm miệng lại! Tiểu tử này, nữ không ra nữ nam chẳng phải nam, là loại gì đây?”

Thanh Thanh chưa kịp trả lời, Mai Kiếm Hòa đã lạnh lùng nói: “Nếu hắn không phải thủ hạ của họ Tiêu, thì cũng là người được Kim Long Bang mời tới giúp đỡ. Chúng sắp xếp kế hoạch trước rồi, có gì lạ đâu?”

Mẫn Tử Hoa mừng quá, la lên: “Ngươi nói bừa nói bãi là do Kim Xà Lang Quân gì gì đó phái đến. Ai biết là thật hay giả?”

Viên Thừa Chí hỏi: “Phải như thế nào thì Mẫn nhị gia mới tin được?”

Mẫn Tử Hoa chĩa trường kiếm ra, nói: “Giang hồ đồn đại võ công của Kim Xà Lang Quân kinh người. Nếu ngươi là hậu bối của Kim Xà Lang Quân thật sự, nhất định phải được ông ấy chân truyền. Chỉ cần ngươi thắng được thanh kiếm này là ta tin ngay.”

Trong lòng Mẫn Tử Hoa đã có bảy tám phần tin những lời trong thư là chuyện thật. Nếu không, tại sao các vị sư huynh đồng môn của y lại phủi tay không chịu nhúng vào? Lại có sư huynh cố sức khuyên y đừng lỗ mãng. Tình hình trước mắt đang cấp bách, càng nói nhiều càng xấu hổ, không bằng động võ có thể nắm chắc phần thắng.

Thấy Viên Thừa Chí trẻ tuổi, y nghĩ: “Cho dù ngươi đúng là truyền nhân của Kim Xà Lang Quân, học được mấy quái chiêu, nhưng tuổi tác như vậy thì làm sao công phu thâm hậu được? Ta chỉ cần xuất thủ đánh cho ngươi thảm bại, thế thì lá thư tên mặt trắng vừa đọc chẳng ai tin nữa. Việc giết Tiêu Công Lễ trả thù cho ca ca, có thể tạm gác một bên. Việc quan trọng trước mắt là bảo vệ thanh danh của ca ca. Nếu không, ngay cả danh dự của phái Tiên Đô cũng bị liên lụy.”

Viên Thừa Chí lại tính toán: “Kim Xà Lang Quân ngông cuồng quái đản, mọi người đều biết. Mình mạo nhận là sứ giả của ông ấy, cũng phải ngạo mạn điên cuồng một chút, ra vẻ cổ quái thì người ta mới tin được.” Chàng bèn cười ha hả, ngồi xuống nâng ly uống một hớp, cầm đũa gắp một miếng thịt bỏ vào mồm, vừa nhai vừa cười nói: “Muốn thắng thanh kiếm trong tay các hạ, chỉ cần học một chút xíu võ công của Kim Xà Lang Quân là thừa sức rồi. Các hạ đã biết bị người ta lợi dụng mà còn chưa giác ngộ, thật là đáng tiếc. Ôi! Thật là đáng tiếc.”

Mẫn Tử Hoa giận dữ hỏi: “Ta bị ai lợi dụng? Thằng lỏi kia có dám tỉ võ hay không? Nếu không dám thì mau mau cút khỏi đây.”

Vừa rồi Viên Thừa Chí đã dùng chân đạp gãy trường kiếm của Tôn Trọng Quân, lộ ra quái chiêu, nên bọn võ sư bên họ Mẫn có phần kiêng nể chàng. Nếu không thì đã có người lên xách cổ Viên Thừa Chí quăng ra ngoài rồi, đâu thể để chàng nói năng ngông cuồng như thế.

Viên Thừa Chí lại uống một hớp rượu rồi nói: “Từ lâu tại hạ đã nghe phái Tiên Đô là một trong Tứ Đại Kiếm Phái, kiếm pháp ảo diệu tinh vi vô cùng, hôm nay mới được may mắn lãnh giáo. Nhưng chúng ta phải nói trước, nếu tại hạ thắng thì chuyện xích mích giữa Mẫn gia và Tiêu bang chủ từ nay không được nhắc đến nữa. Nếu Mẫn gia tiếp tục sinh sự trả thù, các vị tiền bối võ lâm ở đây chắc chắn sẽ nói một câu công bằng.”

Mẫn Tử Hoa giận dữ nói: “Chuyện đó đương nhiên. Ở đây có Thập Lực đại sư, Trình đảo chủ và nhiều vị khác làm chứng. Nhưng nếu ngươi không thắng được ta thì sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ sẽ khấu đầu xin lỗi các hạ, dĩ nhiên không mặt mũi nào nhúng tay vào chuyện này nữa.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Hay lắm! Bước ra đi.”

Y rung động cây trường kiếm, phát ra tiếng ngân oai phong như tiếng hổ gầm. Đám võ sư bên họ Mẫn cùng lúc hoan hô vang dội. Chiêu kiếm này hiển thị nội công thâm hậu. Mẫn Tử Hoa đắc ý trong lòng, nghĩ bụng: “Ta phải để lại mấy ký hiệu trên mặt ngươi mới được. Nếu không thì sao hiển lộ được oai phong của Tiên Đô phái?”

Viên Thừa Chí nói: “Kim Xà đại hiệp từng dặn tại hạ: Linh Bảo Quyền, Thượng Thanh Kiếm của phái Tiên Đô đều là tuyệt nghệ của võ lâm. Chẳng qua những lộ quyền pháp kiếm pháp này quá thâm sâu, Mẫn nhị gia tuổi tác còn trẻ chắc chưa lĩnh hội được. Chỉ có Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, có lẽ Mẫn nhị gia đã luyện tập thành thục. Kim Xà đại hiệp còn nói: Lần này tại hạ đi, nhất định Mẫn nhị gia không chịu nghe lời khuyên bảo. Khi động thủ phải lưu ý lộ kiếm pháp này.”

Mẫn Tử Hoa liếc nhìn chàng một cái, thầm nghĩ: “Câu này không sai. Tại sao ông ấy biết rõ như thế?”

Thì ra sư phụ Mẫn Tử Hoa là Hoàng Mộc đạo nhân có cá tính cang cường. Võ công đời trước truyền lại của phái Tiên Đô thì Linh Bảo Quyền và Thượng Thanh Kiếm là tinh diệu nhất. Thế mà Hoàng Mộc lại không đi sâu nghiên cứu quyền pháp và kiếm pháp này. Võ công đắc ý nhất của lão là bộ Lưỡng Nghi Kiếm Pháp tự mình sáng chế, từng nhắc tới trước mặt Kim Xà Lang Quân. Trong Kim Xà Bí Kíp, phần phá địch có nói đến cách phá giải những loại võ công của phái Không Động và Tiên Đô, trong đó có Lưỡng Nghi Kiếm Pháp.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Sư phụ của y đã đắc ý như vậy, chắc chắn lộ kiếm pháp này y đã luyện tập tới nơi.” Nói đến đây chàng nhìn chăm chú thần sắc Mẫn Tử Hoa, biết mình đã đoán trúng, lại nói: “Kim Xà Lang Quân từng nói, dưới mắt ông ấy thì kiếm pháp này không đáng một nụ cười. Ông ấy đã dạy cho tại hạ mấy chiêu phá giải…”

Nói đến đây, trong đám đông có một đạo nhân còn trẻ tung người vọt ra, giận dữ nói: “Hay lắm! Lưỡng Nghi Kiếm Pháp không đáng một nụ cười ư? Ta phải xem Kim Xà Lang Quân phá giải kiểu nào.”

“Soạt” một tiếng, y đâm ngay kiếm vào mặt Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí tránh sang bên trái, nhảy vào trung tâm đại sảnh. Tay trái cầm ly rượu, tay phải cầm đôi đũa, giữa đôi đũa vẫn còn cái đùi gà, chàng nói: “Xin thỉnh giáo pháp hiệu của đạo trưởng.”

Y la lớn: “Ta là Động Huyền, đệ tử thứ mười ba phái Tiên Đô, là sư đệ của Mẫn sư ca.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay lắm. Kim Xà đại hiệp và lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân năm xưa đã từng luận kiếm ở Long Hổ quán trên núi Tiên Đô. Hoàng Mộc đạo nhân cho rằng Lưỡng Nghi Kiếm Pháp do mình sáng tạo là vô địch thiên hạ. Kim Xà đại hiệp mỉm cười rồi bỏ qua, không tranh luận với lệnh sư. Hôm nay bọn hậu bối chúng ta có thể ấn chứng một phen.”

Động Huyền đạo nhân lớn tiếng nói: “Nhất định sư phụ của ta không nói là Lưỡng Nghi Kiếm Pháp vô địch thiên hạ. Nhân vật phái Tiên Đô không bao giờ ngông cuồng ngạo mạn, tự cao tự đại như thế. Nhưng muốn giáo huấn một thằng lỏi đen thui miệng còn hôi sữa thế này, thì đúng là nhẹ nhàng như búng ngón tay.”

Nói xong y liền vẫy tay gọi Mẫn Tử Hoa, hai thanh kiếm cùng lúc đưa ra, kiếm phong gấp rút đâm tới Viên Thừa Chí. Thân hình của Viên Thừa Chí xoay nghiêng, luồn qua giữa hai thanh kiếm.

Động Huyền và Mẫn Tử Hoa múa tít trường kiếm, người công người thủ, vừa nhanh chóng vừa nghiêm mật lạ thường.

Đột nhiên Thanh Thanh kêu lên: “Xin ba vị dừng tay, ta có câu này muốn nói.”

Động Huyền đạo nhân và Mẫn Tử Hoa cùng thu kiếm về giữ trước ngực. Mẫn Tử Hoa cầm kiếm tay phải, Động Huyền đạo nhân cầm kiếm tay trái. Hai người đứng ở phương vị Khởi Thủ Thức trong Lưỡng Nghi Kiếm Pháp.

Thanh Thanh nói: “Viên đại ca đã đồng ý so tài với Mẫn nhị gia, sao lại có thêm một vị đạo gia ra đây?”

Động Huyền trợn mắt lên nói: “Thằng lỏi này không đánh mà khai, rõ ràng là đồ mạo nhận. Ai mà không biết Lưỡng Nghi Kiếm Pháp phải hai người sử dụng? Ngươi không biết, chẳng lẽ Kim Xà Lang Quân oai danh như thế cũng không biết hay sao?”

Thanh Thanh đỏ ửng mặt lên, không biết trả lời sao. Nàng nghĩ: “Phen này hỏng bét, bị hắn lật tẩy.” Nàng đành nói đông nói tây, bừa bãi một phen: “Thì ra nhân vật phái Tiên Đô hễ đánh nhau với người ta là nhất định phải có hai người. Nếu các hạ đang ở một mình, chẳng lẽ phải cưỡi khoái mã quay về núi Tiên Đô, mời một huynh đệ đồng môn, rồi cưỡi khoái mã trở lại để hai người đánh một người hay sao? Nếu đối thủ không cho các hạ đi, bắt phải đơn đả độc đấu thì sao? Lưỡng Nghi Kiếm Pháp làm sao vô địch trong thiên hạ được?”

Viên Thừa Chí nói xen vào: “Lưỡng Nghi Kiếm Pháp dựa vào âm dương tương sinh tương khắc. Bản lĩnh hơi kém thì đương nhiên phải có hai người đồng thời ra chiêu, nhưng nếu học đến nơi đến chốn thì phải một người sử dụng. Chẳng lẽ lệnh sư võ công cao như thế, cũng không biết thi triển một mình hay sao?”

Thanh Thanh không biết gì về Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, nhưng thấy hai người hợp công Viên Thừa Chí nên lo lắng mà chất vấn, nào ngờ lộ tẩy. Viên Thừa Chí đành phải nói theo, đỡ lời cho nàng. Thật ra, Lưỡng Nghi Kiếm Pháp của phái Tiên Đô xưa nay phải do hai người sử dụng đồng thời.

Mẫn Tử Hoa cùng Động Huyền đạo nhân nhìn nhau một cái, đều nghĩ: “Sư phụ chưa bao giờ nói bộ kiếm pháp này có thể sử dụng một mình. Nhất định thằng lỏi này ăn nói bừa bãi.” Dĩ nhiên họ không dám nói sư phụ biết thi triển một mình.

Thanh Thanh nghe Viên Thừa Chí chống chế kín kẽ như áo trời không có đường may, hân hoan nghĩ bụng: “Trước nay chàng rất thật thà, hôm nay mới giở trò xảo trá.” Nàng mỉm cười lên tiếng: “Hai vị đồng thời giáp công, thế thì tiền đánh cược phải tăng thêm chút ít.”

Mẫn Tử Hoa hỏi: “Ngươi muốn cược cái gì?”

Thanh Thanh nói: “Nếu các vị thua, thì ngoài việc từ nay về sau không được tìm Tiêu bang chủ sinh sự, phải chung thêm cho Viên đại ca căn nhà lớn ở Đại Công Phường.”

Mẫn Tử Hoa nghĩ bụng: “Sợ gì mà không đồng ý? Chỉ khoảnh khắc là thằng lỏi kia không chết cũng trọng thương.” Y đáp ngay: “Cứ thế! Nếu ngươi muốn nhảy vào, lấy hai đấu hai cũng được. Đừng nói chúng ta lấy lớn hiếp nhỏ, lấy nhiều thắng ít.”

Thanh Thanh nói: “Sao các hạ biết là không phải nhỏ ăn hiếp lớn, lấy ít thắng nhiều? Thật chẳng biết trời cao đất rộng là gì. Tiên Đô ơi hỡi Tiên Đô, nổ như con ếch muốn to ngang bò.”

Mẫn Tử Hoa giận dữ thét lên: “Họ Viên kia! Nếu ngươi bị ta đánh bại thì thua thứ gì?”

Nhất thời Viên Thừa Chí không thể trả lời. Tiêu Công Lễ bèn hỏi: “Mẫn nhị gia! Căn nhà của huynh đáng giá bao nhiêu?”

Mẫn Tử Hoa tức giận nói: “Ai thèm xưng huynh đệ với ngươi? Căn nhà này ta mới mua tháng trước, tốn hết bốn ngàn ba trăm lượng bạc. Nhà tuy cũ kỹ, nhưng đất đai khá rộng.”

Tiêu Công Lễ gật đầu nói: “Căn nhà ở Đại Công Phường rất rộng rãi, Mẫn nhị gia mua giá đó là quá rẻ rồi. Xin ba vị chờ một lát.”

Ông quay lại, dặn dò con gái mấy câu. Tiêu Uyển Nhi chạy vào nội thất, đem ra một xấp ngân phiếu.

Tiêu Công Lễ nói: “Vị Viên gia này đã ra sức giúp người như thế, tại hạ vô cùng cảm kích. Đây là bốn ngàn ba trăm lượng bạc. Nếu Viên gia song quyền khó địch bốn tay, thì xin Mẫn nhị gia nhận trước chỗ này, rồi muốn gì khác cứ hỏi tại hạ. Oan có đầu, nợ có chủ. Đã ra tay trợ giúp tức là hảo bằng hữu, xin mọi người hạ thủ lưu tình, điểm tới là ngưng.”

Ông nghĩ Viên Thừa Chí không địch nổi, nên không muốn chàng bị hại vì mình.

Đảo chủ Trình Khởi Vân tính tình sảng khoái hào phóng, rất thích đổ bác, bèn nổi cơn ghiền cá độ, la lên: “Câu này không sai, chỉ phân thắng bại, không quyết sinh tử. Ta theo phe Mẫn nhị gia.”

Lão lấy trong bọc ra hai thoi vàng, hô lớn: “Ta ra kèo ba ăn một. Đây là ba trăm lượng vàng, coi như ba ngàn lượng bạc, ai muốn cá với ta thì bỏ ra một ngàn lượng bạc.”

Lão hô mấy lần, vẫn không ai trả lời. Mọi người đều thấy Viên Thừa Chí còn quá trẻ, làm sao địch nổi hai cao thủ phái Tiên Đô? Tuy ăn ba thua một là rất có lãi, nhưng không ai dám đánh cá.

Tiêu Uyển Nhi lên tiếng: “Trình bá bá! Con đánh cược với bá bá.”

Nàng lập tức tháo chiếc vòng vàng nạm đá quý ra, đặt trên bàn. Những viên bảo thạch óng ánh đến chói mắt dưới ngọn đèn cầy, vô cùng trân quý. Trình Khởi Vân biết người biết của, cầm chiếc vòng lên xem rồi nói: “Chiếc vòng này trị giá ba ngàn lượng bạc. Ta không muốn ăn hiếp trẻ con. Người đâu, đưa cho ta thêm sáu ngàn lượng bạc nữa.”

Thủ hạ của lão đưa tới bốn thoi vàng. Trình Khởi Vân mỉm cười nói: “Nếu ngươi thắng, coi như đây là quà hồi môn ta tặng ngươi.”

Thanh Thanh nghe thấy hai chữ “hồi môn”, liền giương mắt nhìn Uyển Nhi. Nàng cảm thấy trong lòng không thoải mái lắm.

Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân đột nhiên đặt nửa thanh kiếm gãy lên bàn, giận dữ nói: “Ta cá khúc kiếm gãy này.”

Thanh trường kiếm của cô ả vừa bị Viên Thừa Chí đạp gãy là do sư nương ban tặng. Vì thế trong lúc mọi người tranh cãi, ả đã nhặt lấy.

Thanh Thanh ngạc nhiên hỏi: “Nửa khúc kiếm gãy này, có ai thèm lấy?”

Mọi người ai cũng ngạc nhiên. Tôn Trọng Quân giận dữ nói: “Ta cũng lấy ba cá một. Nếu thằng mọi đen này phúc tổ ông bà mà thắng, ngươi cứ dùng nửa thanh kiếm này đâm thủng ta ba lỗ. Nếu hắn thua, ta đâm thủng ngươi một lỗ. Tiểu tử thối tha kia đã hiểu chưa?”

Những hào kiệt giang hồ trong đại sảnh, suốt đời đã gặp không biết bao nhiêu hung hiểm, trải qua bao nhiêu thách thức, nhưng kiểu thách đố liều mạng này thì chưa ai thấy. Họ nghe xong lời thách của Tôn Trọng Quân, không khỏi âm thầm lè lưỡi.

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Thân thể mỹ miều như thế, làm sao ta nỡ ra tay đâm thủng?”

Mai Kiếm Hòa quát lên: “Tiểu tử khốn nạn kia! Nói năng phải sạch sẽ hơn một chút.”

Thanh Thanh cười khẩy không nói gì nữa.

Tôn Trọng Quân trừng mắt nhìn mọi người bên họ Tiêu, cười nhạt nói: “Ta cứ tưởng Kim Long Bang khai sơn lập địa ở Giang Nam phải có mấy tay khí khái. Nào ngờ toàn bọn hèn đớn, thua cả nữ nhân.”

Tiêu Uyển Nhi kêu lên: “Nữ nhân thì đã sao? Ta nhận cá với cô.”

Bốn năm đệ tử họ Tiêu đồng thời bước ra, tranh nhau hô lớn: “Sư muội! Để ta đánh cá với mụ này.”

Uyển Nhi đáp: “Không cần, cứ để ta.”

Tôn Trọng Quân cười nhạt nói: “Được! Trình đảo chủ, xin đảo chủ làm chứng.”

Trình Khởi Vân là hải tặc giết người không nháy mắt, tính lại thích cờ bạc, nhưng cũng không nỡ nhìn ván bài này. Lão bèn khuyên: “Hai vị đại cô nương! Nếu muốn đánh cá thì đánh cá một ít son phấn gì đó là được, hà tất phải làm như thế.”

Uyển Nhi nói: “Cô ấy đã chặt đứt một cánh tay La sư ca của con. Lát nữa con cũng phải chặt đứt một cánh tay của cô ấy.”

Trình Khởi Vân thở ra một hơi, không tiện khuyên can nữa.

Mai Kiếm Hòa lạnh lùng nói: “Tiêu đại cô nương đối với tên môn nhân Kim Xà này thật đã có tình cảm thâm sâu, dám lấy sinh mạng để thách đố vì hắn.”

Tiêu Uyển Nhi đỏ ửng mặt lên hỏi: “Các hạ muốn đánh cá không?”

Thanh Thanh nghe Mai Kiếm Hòa nói xong, không nén nổi lửa giận bừng bừng. Nàng quát lên: “Để ta đánh cá với tên Mạt Ảnh Tử này.”

Mai Kiếm Hòa hỏi: “Đánh cá cái gì?”

Thanh Thanh nói: “Ta cũng cá ba ăn một với ngươi. Nếu Viên huynh thua, ta lập tức gọi ngươi ba tiếng gia gia. Nếu Viên huynh thắng, ngươi chỉ cần gọi ta một tiếng là xong. Coi như ngươi lợi lắm rồi.”

Mọi người không nén nổi tức cười, cảm thấy thiếu niên này thật hay đùa giỡn.

Mai Kiếm Hòa tức giận nói: “Ai giỡn với ngươi? Ta còn phải đợi, nếu hắn thắng thì ta tiếp tục lãnh giáo.”

Thanh Thanh nói: “Nếu nói vậy, chẳng lẽ ngươi một mình một kiếm còn lợi hại hơn Lưỡng Nghi Kiếm Pháp hai người phái Tiên Đô hợp lực hay sao?”

Mai Kiếm Hòa nói: “Ta là phái Hoa Sơn, họ là phái Tiên Đô, mỗi phái đều có tuyệt chiêu. Ngươi đừng giở trò ly gián.”

Động Huyền đạo nhân nghe họ đấu khẩu qua lại mãi không dứt, càng nghe càng lo lắng, bèn lên tiếng: “Đừng nói nữa. Tiểu tử, tiếp chiêu!”

Y đưa kiếm lên đâm tới hông trái Viên Thừa Chí. Mẫn Tử Hoa theo đó tấn công vào bên tay phải. Hai đệ tử phái Tiên Đô, một đạo sĩ một tục gia, một cầm kiếm tay trái, một cầm kiếm tay phải, bước chân theo đúng phương vị sáu mươi bốn quẻ trong Kinh Dịch. Hai thanh kiếm tung hoành, bạch quang thanh quang thay phiên nhau nháy động, kiếm phong dài ngắn thay phiên nhau vũ lộng, tựa hồ bên trong ẩn tàng thế mạnh như sấm sét.

Kim Xà Lang Quân trên núi Tiên Đô đã từng luận kiếm với Hoàng Mộc đạo nhân, biết Lưỡng Nghi Kiếm Pháp tuy biến hóa phức tạp, lợi hại ác độc, nhưng vốn không sánh kịp Thượng Thanh Kiếm Pháp của đời trước phái Tiên Đô. Ông thấy nhiều chỗ sơ suất, bèn chỉ ra mấy chỗ. Nhưng Hoàng Mộc đạo nhân quá tự phụ, đã nói: “Kiếm pháp nào cũng phải có sơ suất. Nhưng e rằng trong thiên hạ không ai phá nổi Lưỡng Nghi Kiếm Pháp của ta.” Khi đó Kim Xà Lang Quân không nói gì thêm nữa.

Sau này Ôn thị ngũ lão mời nhiều người đến để chống lại Kim Xà Lang Quân. Trong những cao thủ được mời cũng có kiếm khách của phái Tiên Đô. Khi đối địch Kim Xà Lang Quân đầy lòng tự tin, thừa chỗ hổng mà vào, chỉ vài chiêu là phá được Lưỡng Nghi Kiếm Pháp. Sau này Kim Xà Lang Quân tường thuật tỉ mỉ trong bí kíp của mình, nên Viên Thừa Chí không sợ hãi gì, cứ xuyên qua xuyên lại giữa ánh kiếm của hai người, vô cùng ung dung tiêu sái.

Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đạo nhân múa hai thanh kiếm nhanh như gió, mạnh như sấm sét, nhưng không sao chạm được đến chàng. Những người đứng quanh càng nhìn càng thấy lạ.

Trình Khởi Vân nói với Thập Lực đại sư: “Khinh công của thiếu niên này thật tuyệt. Kim Xà Lang Quân đúng là danh bất hư truyền.”

Thập Lực đại sư gật đầu đáp: “Trong đám hậu bối, một nhân tài như thế thật là khó kiếm.”

Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân không kìm nỗi lo lắng trong lòng được nữa. Tôn Trọng Quân lớn tiếng nói: “Tiểu tử này nhát gan quá. Chạy đi chạy lại, tránh chỗ này né chỗ kia, không dám phản đòn, thế mà gọi là tỉ võ hay sao?”

Mẫn Tử Hoa đánh đến lúc cao hứng, chĩa kiếm theo trung cung đâm thẳng vào trước ngực Viên Thừa Chí. Động Huyền xuất chiêu Tả Hữu Khai Cung đâm soạt soạt hai kiếm, một nhát đâm sang trái, một nhát đâm sang phải. Hai người cùng lúc ép vào, tưởng như Viên Thừa Chí không còn chỗ nào tránh né nữa.

Nhưng Viên Thừa Chí đột nhiên quay nghiêng người, bước trượt theo nhát kiếm đâm tới ngực. Vai trái chàng đưa ra, hất trúng vào vai trái Mẫn Tử Hoa. Viên Thừa Chí mới vận ba thành công lực, Mẫn Tử Hoa đã bước chân loạng choạng, suýt nữa té nhào.

Động Huyền kinh hãi, ra luôn ba chiêu liên hoàn liều mạng cản trở, Mẫn Tử Hoa mới đứng yên lại được rồi mắng: “Thằng ranh con lộn giống kia! Đụng vào ông nội mi làm chi vậy?”

Lần này Viên Thừa Chí xuất thủ chỉ mong giải quyết được xích mích ở đây, không muốn đắc tội với nhân vật giang hồ, càng không muốn kết oán gây thù. Nhưng bây giờ nghe Mẫn Tử Hoa nói năng xằng bậy, xúc phạm đến tổ tiên mình, chàng không khỏi giận dữ nghĩ thầm: “Nếu hôm nay không hiển lộ võ công thượng thừa đánh ngã hai người này, sự việc khó mà kết thúc nhẹ nhàng. Hơn nữa, khi xử lý bọn Thái Bạch Tam Anh bán nước, chỉ sợ những người kế bên không phục, phải tốn công giải thích. Tốt nhất là ta cứ mạo nhận môn nhân của Kim Xà Lang Quân đến cùng, đừng tiết lộ môn phái của mình để khỏi đụng chạm đến Nhị sư ca.”

Chàng quyết định tỏ ra ngông cuồng ngạo mạn khác hẳn tính cách bình thường, bèn nhảy đến bên bàn cầm một ly rượu lên, ngửa cổ uống cạn rồi kêu lớn: “Đánh nhanh lên, đánh nhanh lên! Ta uống rượu chưa say, ăn cơm chưa no, đánh nhanh để còn ăn uống.”

Mẫn Tử Hoa thấy đối phương khinh miệt mình như thế lại càng giận dữ, vũ lộng trường kiếm nhanh hơn. Động Huyền khẽ bảo: “Mẫn sư ca! Trầm tĩnh lại, đừng trúng vào kế khích tướng.”

Mẫn Tử Hoa lập tức tỉnh ngộ. Hai người vòng sang hai bên trái phải, hai thanh kiếm vừa trầm ổn vừa ác độc lại bao vây Viên Thừa Chí vào trong. Viên Thừa Chí tay trái cầm ly, tay phải cầm đũa, tiến lùi nương theo hai thanh kiếm của địch. Tuy kiếm pháp đối phương hung hãn, nhưng không làm gì được chàng.

Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy ra khỏi vòng kiếm quang, dằn ly rượu lên bàn nghe “cốp” một tiếng, hô lớn: “Thanh đệ, rót rượu cho ta!” Thanh Thanh vâng dạ rồi rót ngay.

Viên Thừa Chí đứng bên bàn, tay trái nhấc một cái ghế lên, tiện tay gạt đỡ hai thanh kiếm tấn công tới. Đợi rượu rót đầy, chàng đưa đôi đũa gắp một đùi gà rồi mới buông cái ghế xuống, cầm ly rượu nhảy ra giữa sảnh, vừa gặm đùi gà vừa la lên: “Lưỡng Nghi Kiếm Pháp vốn đã nhiều sơ suất rồi, các ngươi lại học chưa tới nơi, làm sao đả thương được ta? Vụ buôn bán hôm nay, quý hiệu nhất định phải lỗ vốn.”

Thanh Thanh thấy vị nghĩa huynh xưa nay nghiêm cẩn trung hậu bây giờ đột nhiên tỏ vẻ ngông cuồng, nhưng không sao giống được, cố lắm mới nói được mấy câu bắt chước hơi hám của đại sư ca. Nàng không khỏi buồn cười.

Nên biết Viên Thừa Chí từ nhỏ đến giờ chưa từng ngông nghênh tiêu sái lần nào. Bây giờ chàng muốn cuồng ngạo như Kim Xà Lang Quân, nhưng đã hết ba phần khôi hài giống đại sư ca Hoàng Chân. Bảy phần còn lại thì giống vẻ ngạo mạn tự cao của Lữ Thất tiên sinh lúc mới vào Ôn gia trang.

Lưỡng Nghi Kiếm Pháp càng đánh càng nhanh. Viên Thừa Chí liên tiếp tránh né ba chiêu nguy hiểm, rồi đột nhiên quay người lại. Chàng hất cái đùi gà vào mặt Mẫn Tử Hoa, đưa đôi đũa ra kẹp lấy thanh kiếm của Động Huyền, vừa vận sức lên đầu đũa vừa quát lên dữ dội: “Buông kiếm!”

Nghe “xoảng” một tiếng, quả nhiên trường kiếm của Động Huyền rơi xuống đất. Y còn ngoan cố dựng đứng hữu chưởng lên, chân trái đá quét ngang mặt đất, muốn tìm phần thắng khi sắp bại. Viên Thừa Chí hai chân chấm đất nhẹ nhàng, thân hình tung lên tránh né cước này. Đồng thời ly rượu trong tay chàng bay ra, đánh ngay vào huyệt Khúc Xích trên tay trái Mẫn Tử Hoa. Cánh tay tê chồn, trường kiếm của họ Mẫn rơi nốt xuống đất.

Viên Thừa Chí phóng tới nhặt hai thanh kiếm lên, vừa rung động cổ tay vừa hô lên: “Hai vị chưa thấy một người sử dụng Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, chắc chắn Hoàng Mộc đạo nhân chưa dạy. Chú ý xem đây!”

Chàng múa song kiếm lên; bên trái công, bên phải thủ; bên phải đâm thẳng phía trước, bên trái chống đỡ một bên; từng chiêu từng thức đúng là Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, phức tạp biến hóa vô cùng. Động Huyền và Mẫn Tử Hoa vừa chia nhau sử dụng, ai cũng chính mắt nhìn thấy. Bây giờ thấy chàng cầm song kiếm, một mình thi triển kiếm chiêu của hai đệ tử phái Tiên Đô, mọi người đều phải ngạc nhiên.

Viên Thừa Chí múa kiếm đến lúc cao hứng, kiếm khí vọt ra như cầu vồng, kiếm phong rít như sấm động, đúng là khí thế nuốt chửng Ngân hà.

Lưỡng Nghi Kiếm Pháp có cả thảy sáu mươi bốn chiêu. Sau khi sử hết, chàng thét một tiếng, song kiếm rời tay bay ra, cắm vào một cây trụ gần mái nhà, ngập sâu hết lưỡi, chỉ còn chuôi kiếm thò ra. Chiêu Thiên Ngoại Phi Long này là tuyệt kỹ của Mục Nhân Thanh phái Hoa Sơn.

Hiển lộ xong tuyệt kỹ, Viên Thừa Chí thõng tay lùi ra. Trong sảnh nổi lên tiếng hoan hô và tiếng vỗ tay như sấm động. Nhưng trong lòng chàng âm thầm hối hận: “Trời ơi, hỏng bét rồi! Lúc ta cao hứng đã biểu diễn tuyệt chiêu của bản môn. Môn hạ của Nhị sư ca làm sao không nhận ra được?”

Thanh Thanh la lên: “Ha ha! Có người phải gọi ta là gia gia rồi.”

Mai Kiếm Hòa tái xanh mặt mũi, tay nắm chặt chuôi kiếm.

Trình Khởi Vân mỉm cười nói: “Thế là Tiêu đại cô nương thắng rồi. Ngươi cất tiền đi.” Lão thuận tay đẩy mấy thoi vàng đến trước mặt Tiêu Uyển Nhi.

Tiêu Uyển Nhi khom lưng đa tạ rồi nói: “Trình bá bá! Để con thay mặt bá bá thưởng cho mọi người.”

Nàng dõng dạc cất tiếng: “Đây có chín ngàn lạng bạc, là món tiền của Trình đảo chủ vừa đánh cược, đùa giỡn với tiểu nữ. Các vị đường xa đến đây, Kim Long Bang tiếp đãi không được chu đáo, áy náy vô cùng, bây giờ xin mượn hoa cúng Phật. Các vị tiền bối, thúc thúc, bá bá, huynh trưởng, tỉ tỉ! Trình đảo chủ tặng mỗi vị một trăm lạng bạc. Lát nữa tiểu nữ sẽ đi đổi mấy thoi vàng này ra bạc, đưa đến nơi ở của các vị. Nếu còn thiếu, Kim Long Bang sẽ bù cho đủ số.”

Thế là mối cừu này giải quyết xong mà không tổn thương nhân mạng, Kim Long Bang xử trí cũng đúng điệu. Mỗi người tự dưng được một số tiền hậu hĩ, nên ai cũng vui mừng. Kim Long Bang lại mượn danh nghĩa của Trình đảo chủ, nên không thể nói là họ nhận quà của đối thủ. Tuy không ai hoan hô thành tiếng, nhưng mắt ai cũng sáng rực lên.

Trình Khởi Vân cũng cảm thấy hoan hỉ, dõng dạc nói: “Đa tạ Tiêu đại cô nương. Sau này ngươi xuất giá, Trình bá bá sẽ tặng ngươi một phần lễ hậu khác.”

Tiêu Công Lễ lên tiếng: “Tại hạ năm xưa tính khí nóng nảy, hành sự lỗ mãng, nên lỡ tay làm tổn thương huynh trưởng của Mẫn nhị gia, thật áy náy vô cùng. Bây giờ trước mặt các vị anh hùng, tại hạ xin tạ tội với Mẫn nhị gia. Uyển Nhi! Ngươi đi thi lễ với Mẫn thúc thúc đi.”

Ông vừa nói vừa chắp tay bái Mẫn Tử Hoa. Tiêu Uyển Nhi là vãn bối, liền quỳ xuống khấu đầu.

Mẫn Tử Hoa đã hứa trước rồi. Hảo hán trên giang hồ nói một là một, nếu y nuốt lời thì số bằng hữu được mời đến cũng không chịu giúp. Đệ tử của Kim Xà Lang Quân lại có võ công cao cường như thế, bản thân y chắc chắn không phải là địch thủ. Hơn nữa, y xem hai lá thư đã biết bên mình có lỗi, tốt nhất là nhân cơ hội này để kết liễu cho xong. Vì thế y đành chắp tay trả lễ, nhưng nghĩ đến huynh trưởng quá cố, không nén nổi rơi mấy giọt lệ.

Tiêu Công Lễ lại nói: “Mẫn nhị gia rộng lượng khoan hồng, không truy cứu chuyện cũ, tại hạ cảm kích vô cùng. Về chuyện đánh cược căn nhà, thiết nghĩ đây chỉ là câu nói đùa của vị huynh đài này, không cần nhắc đến nữa. Ngày mai tại hạ lập tức tìm cho hai vị này một nơi ở tốt đẹp là xong.”

Thanh Thanh hất mặt lên một cái, nói: “Chuyện này không được. Quân tử nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Lời đã nói rồi, sao có thể bỏ qua?”

Mọi người đều ngẩn ra nghĩ bụng: “Tiêu Công Lễ đã hứa mua một căn nhà khác, nếu lớn gấp mười lần căn nhà Mẫn Tử Hoa đang ở cũng không phải là chuyện lạ. Phải xé rách mặt mày người khác làm chi? Tiểu tử mặt trắng này thật không biết cách xử thế.”

Tiêu Công Lễ chắp tay nhìn Thanh Thanh nói: “Ân tình của hai vị, tại hạ vĩnh viễn không đền đáp nổi. Xin hai vị giúp cho lần nữa. Tại hạ có một khu vườn ở cửa Nam, khá nổi danh ở thành Nam Kinh này, xin hai vị nể mặt mà sử dụng. Nhất định hai vị sẽ vừa lòng.”

Thanh Thanh nói: “Mẫn nhị gia vừa rồi đòi giết ông trả thù. Giả tỉ ông nói: “Thôi, đừng giết ta nữa. Để ta tìm một người khác cho Mẫn nhị gia giết. Người này khá nổi danh ở thành Nam Kinh, xin Mẫn nhị gia nể mặt mà giết hắn đi, nhất định Mẫn nhị gia sẽ vừa lòng.” Không biết Mẫn nhị gia có chịu hay không?”

Tiêu Công Lễ nghe mấy câu này, mặt lại ngẩn ra. Ông chỉ còn cách cười đau khổ, quay lại bảo con gái: “Vị huynh đài này đã thích căn nhà của Mẫn nhị thúc rồi. Con chuẩn bị bốn ngàn ba trăm lượng bạc, lát nữa cho người đưa qua chỗ Mẫn nhị thúc.”

Mẫn Tử Hoa tức tối, lớn tiếng nói: “Thôi đi, thôi đi! Ta còn lấy thứ bạc đó làm chi nữa? Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Oán thù giữa ta và Tiêu bang chủ từ nay xóa bỏ. Ngày mai ta sẽ về quê gánh phân trồng trọt, không còn mặt mũi nào xuất hiện trên giang hồ nữa. Căn nhà đó, các người cứ việc lấy là xong.”

Y quay bốn phía, chắp tay bái tạ mọi người rồi nói: “Đa tạ các vị bằng hữu từ phương xa đến đây tương trợ. Nào ngờ tại hạ học nghệ không tinh, không đủ tài cán để trả thù cho huynh trưởng, làm phiền các vị đi một phen vô ích. Tại hạ đành phải nghĩ cách sau này báo đáp.”

Viên Thừa Chí thấy y nói chuyện thẳng thắn, cảm thấy vừa rồi mình sỉ nhục hơi quá đáng. Chàng áy náy trong lòng, bèn nói: “Mẫn nhị gia! Tuy tại hạ vừa thắng nhị gia, nhưng thật ra chỉ dựa vào những điều Kim Xà Lang Quân chỉ điểm. Võ công của bản thân tại hạ thì kém rất xa nhị gia và Động Huyền đạo trưởng. Xin hai vị đừng lấy làm khó chịu. Vãn bối vừa rồi vô lễ, thật là có lỗi. Bây giờ xin hai vị tha thứ cho.”

Nói xong, chàng chắp tay thi lễ với hai người đến sát đất, rồi tung người lên rút hai thanh kiếm đang cắm trên cột nhà, nâng lên giao trả hai người.

Mọi người thấy khinh công của chàng nhảy lên lấy kiếm, lại một phen trầm trồ. Ai cũng nghĩ: “Thiếu niên mặt đen này võ công cực cao, lại biết khiêm cung lễ phép, nể mặt người khác. Y nói là công phu của mình không bằng người ta, dĩ nhiên chẳng ai tin được.”

Viên Thừa Chí lại nói: “Hai vị không thua tại hạ, mà thua Kim Xà đại hiệp. Ông ấy biết rõ kiếm pháp của hai vị, đã dặn tại hạ làm bộ khinh miệt ngông cuồng, để kích động hai vị giận dữ rồi thừa cơ thủ thắng. Vừa rồi tại hạ có điều bất kính, không phải là có gan cố ý sỉ nhục, mà là kế khích tướng để công phu của hai vị chỉ thi triển được một phần. Kim Xà đại hiệp là cao nhân đương thế, võ công sâu không lường được. Tại hạ không dám nhận là truyền nhân của ông ấy, chẳng qua có duyên được gặp, rồi phụng mạng đến đây giảng hòa mà thôi. Hai vị thua dưới tay Kim Xà Lang Quân, có gì là nhục đâu? Tại hạ xin nói một câu khó nghe. Đừng nói là hai vị, dù là lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân, năm xưa đối với Kim Xà đại hiệp cũng mười phần thán phục.”

Động Huyền đạo nhân và Mẫn Tử Hoa nghe mấy câu này bán tín bán nghi, nhưng tâm ý đã bình hòa lại. Động Huyền nói: “Các hạ vì phái Tiên Đô mà giữ thể diện cho huynh đệ chúng ta, bần đạo xin đa tạ. Không hiểu cao tính đại danh các hạ là gì, có thể cho mọi người được biết hay không?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Tên thật của mình không nên nói, để môn nhân của Nhị sư ca khỏi chú ý.” Chàng bèn chỉ Thanh Thanh, nói: “Vị này là công tử của Kim Xà Lang Quân, họ Hà. Tại hạ họ Viên.”

Mẫn Tử Hoa chắp tay thi lễ với Tiêu Công Lễ rồi nói: “Đã quấy nhiễu nhiều, xin cáo từ.”

Tiêu Công Lễ nói: “Ngày mai tại hạ phải đến quý phủ vác roi thỉnh tội.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Không dám!”

*

*   *

Ồn ào một buổi, đã đến xế chiều. Quần hào đang cáo từ ra về, đột nhiên Thanh Thanh la lên: “Còn vụ đánh cược nửa khúc kiếm, bây giờ làm sao đây?”

Tiêu Uyển Nhi thấy phụ thân thoát khỏi đại nạn đã mừng rỡ lắm rồi. Nàng không muốn sinh phiền phức nữa, bèn nói: “Hạ gia! Mời vào nội đường dùng trà. Chuyện đó không cần nhắc đến nữa.”

Thanh Thanh nói: “Còn một thằng cháu chưa chịu gọi ta một tiếng ông nội nữa. Như vậy sao được?”

Nàng đã thắng cuộc Ngụy Quốc Công phủ, hoan hỉ lắm rồi. Nhưng vừa rồi Mai Kiếm Hòa nói Tiêu Uyển Nhi có thâm tình với Viên Thừa Chí, câu nói này mãi canh cánh trong lòng nên nàng quyết chẳng thôi.

Mai Kiếm Hòa đã thấy Viên Thừa Chí võ công cao cường, thân thủ kỳ dị, nên không muốn sinh sự nữa. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, y đành chỉ mặt Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi ghim hai thanh kiếm vào cột, chiêu Thiên Ngoại Quy Long này học lén ở đâu? Nói nhanh lên.”

Viên Thừa Chí hỏi lại: “Học lén? Ta mà học lén à?”

Tôn Trọng Quân mắng: “Thằng lỏi dối trá kia! Đã học lén còn chối nữa ư?”

Mai Kiếm Hòa lạnh lùng hỏi: “Thế thì ngươi học ở đâu?”

Viên Thừa Chí nghĩ, bây giờ mà nói dối thì trái với bản tính của mình. Hơn nữa, chuyện sư môn không thể dối trá được, chàng bèn đáp: “Ta là môn hạ phái Hoa Sơn.”

Tôn Trọng Quân bước lên một bước, trỏ tay mắng luôn: “Lúc nãy ngươi dựa vào chiêu bài Kim Xà, Ngân Xà gì gì đó, người khác không biết lai lịch nên để mặc cho ngươi nói bậy bạ. Bây giờ thì khác rồi, dám nói mình ở phái Hoa Sơn nữa. Ngươi biết bà nội ngươi đây là nhân vật phái nào không? Hà hà… Lý Quỷ gặp phải Lý Quỳ rồi. Nói thật với ngươi, ba người chúng ta là môn hạ phái Hoa Sơn đây.”

Viên Thừa Chí nói: “Ta đã nói từ sớm rồi, ta hoàn toàn không có liên quan gì tới Kim Xà Lang Quân, chẳng qua chỉ là bằng hữu của con ông ấy. Còn ba vị, ta đã biết ở phái Hoa Sơn từ sớm rồi. Chúng ta đúng là người cùng một nhà.”

Trong ba người đó thì Lưu Bội Sinh là người trầm tĩnh nhất. Y nói: “Tại hạ quen biết hết môn nhân của Hoàng sư bá, nhưng không có các hạ trong số đó. Sư muội! Sư muội có nghe Hoàng sư bá mới nhận thêm đệ tử hay không?”

Tôn Trọng Quân nói: “Tầm nhìn của Hoàng sư bá rất cao, đâu thể thu gom bọn lừa gạt dối trá này làm đồ đệ?”

Ả còn hận Viên Thừa Chí đạp gãy trường kiếm của mình, nên nói năng càng lúc càng khó nghe.

Viên Thừa Chí vẫn không đổi giọng, đáp: “Không sai! Đồng bút thiết toán bàn Hoàng sư ca có tầm nhìn rất xa.”

Mọi người nghe chàng gọi Hoàng Chân là sư ca, đều kinh hãi một phen. Lưu Bội Sinh hỏi: “Các hạ gọi ai là Hoàng sư ca?”

Viên Thừa Chí nói: “Sư phụ ta họ Mục, tôn danh là thượng Nhân hạ Thanh. Người trên giang hồ đều gọi lão nhân gia là Thần Kiếm Tiên Viên. Đồng Bút Thiết Toán Bàn là đại sư ca của ta.”

Mai Kiếm Hòa nghe Viên Thừa Chí tự xưng là môn hạ phái Hoa Sơn đã bán tín bán nghi, tưởng chàng học nghệ rồi mới bái sư, vừa được Hoàng Chân thu nhận. Bây giờ nghe chàng xưng là đồ đệ của sư tổ mình, hắn tin chắc là buột miệng nói bừa.

Hắn nghĩ thầm: “Sư tổ xưa nay hành tung bí ẩn, chính mình cũng mới được gặp có ba lần. Sư phụ Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ đã gần năm mươi tuổi rồi. Thằng lỏi này nhỏ tuổi như vậy mà dám đến đây mạo nhận sư thúc của mình, thật là ngông cuồng hết sức.” Hắn bèn lạnh lùng nói: “Nếu thế thì các hạ là sư thúc của ta rồi.”

Viên Thừa Chí nói: “Ta không dám nhận ba vị là sư điệt.”

Mai Kiếm Hòa nghe hiểu ý mỉa mai mình, bèn nói: “Chẳng lẽ ta đã làm nhục danh tiếng của phái Hoa Sơn hay sao? Sư thúc đại nhân! Hà hà… Sư thúc hãy giáo huấn ba người tiểu điệt có tội này đi.”

Mai Kiếm Hòa đã ba sáu ba bảy tuổi rồi. Nghe hắn nói như thế, đám võ sư bên họ Mẫn đều lớn tiếng cười ồ.

Viên Thừa Chí nghiêm trang nói: “Nếu Quy sư ca có ở đây, đương nhiên sẽ giáo huấn các vị.”

Mai Kiếm Hòa tức run lên, xoẹt một tiếng kiếm đã ra khỏi vỏ, gằn giọng: “Thằng lỏi kia! Ngươi ăn nói bừa bãi gì thế?”

Tiêu Công Lễ thấy chuyện đã yên rồi, bây giờ vì một duyên cớ nhỏ mà khởi lên tranh chấp, cảm thấy lo lắng bèn nói: “Viên gia nói đùa chút thôi, Mai gia không cần giận dữ. Qua đây, qua đây! Chúng ta uống ly rượu giảng hòa.”

Nghe nói thì biết ông cũng không tin Viên Thừa Chí là sư thúc của Mai Kiếm Hòa.

Mai Kiếm Hòa dõng dạc nói: “Tiểu tử hỗn láo kia! Bây giờ ngươi thử khấu đầu gọi ta ba tiếng sư thúc đi, xem Mạt Ảnh Tử này có đồng ý hay không?”

Thanh Thanh bỗng la lên: “Này, Mạt Ảnh Tử! Ngươi kêu ta một tiếng Thanh gia gia trước đi. Đã thua cuộc rồi, muốn chối phải không?”

Viên Thừa Chí bèn bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ, đừng đùa nữa.” Rồi chàng quay lại nói với Mai Kiếm Hòa: “Ta chưa được bái kiến Quy sư ca. Ba vị tuổi tác lớn hơn ta, lẽ ra ta không dám nhận là sư thúc. Nhưng lần này ba vị hành sự có chỗ quá đáng. Nếu Quy sư ca biết, nhất định sẽ nổi giận.”

Mai Kiếm Hòa dựng ngược lông mày, ngẩng mặt lên trời cười rộ rồi quát lớn: “Quả nhiên thằng lỏi này muốn dạy dỗ người ta rồi. Xin thỉnh giáo, ba người chúng ta sai lầm chỗ nào? Bằng hữu có việc, chẳng lẽ không nên rút đao tương trợ hay sao?”

Viên Thừa Chí nghiêm trang nói: “Phong tổ sư gia của phái Hoa Sơn chúng ta đã truyền xuống thập nhị đại giới, môn nhân đệ tử phải tuân thủ nghiêm ngặt. Điều ba, điều năm, điều sáu, điều mười một là gì?”

Mai Kiếm Hòa ngẩn ra chưa đáp, Tôn Trọng Quân đã cầm nửa khúc kiếm gãy quăng tới Viên Thừa Chí, hét lên: “Biểu diễn công phu Hoa Sơn trước đi!”

Thanh quang chớp lên, nhoáng cái đã đến trước mặt. Viên Thừa Chí đợi khúc kiếm gãy bay đến gần, đưa tả chưởng hướng lên, hữu chưởng hướng xuống, vỗ “bốp” một tiếng đã ép chặt khúc kiếm gãy vào giữa hai lòng bàn tay. Chàng hỏi: “Chiêu này là Hoành Bái Quan Âm, đúng không?”

Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh lại ngẩn ra. Đây đúng là chưởng pháp bản môn, nhưng chiêu này vốn dùng để đánh nát bàn tay địch thủ. Chàng xoay chuyển phương vị để chụp ám khí, thủ pháp xảo diệu vô cùng, sư phụ họ chưa từng dạy.

Lưu Bội Sinh bước tới một bước, lên tiếng: “Chiêu các hạ vừa sử đúng là chưởng pháp bản môn. Tại hạ muốn thỉnh giáo.”

Viên Thừa Chí nói: “Lưu huynh! Ngoại hiệu của Lưu huynh là Ngũ Đinh Khai Sơn, chắc quyền pháp đã tới chỗ tinh diệu. Hai loại quyền pháp bản môn, Phục Hổ Chưởng Pháp và Bích Thạch Phá Ngọc, chắc Lưu đại ca rất tâm đắc phải không?”

Lưu Bội Sinh thấy chiêu vừa rồi của Viên Thừa Chí đã phục thầm, bèn khiêm tốn đáp: “Tại hạ chỉ học được sơ sài những gì sư môn truyền thụ, không dám nói là tâm đắc.”

Viên Thừa Chí nói: “Lưu huynh đừng quá khiêm nhường. Khi huynh chiết chiêu với lệnh sư, nếu lệnh sư thi triển công phu chân chính như Bảo Nguyên Kình hoặc Hỗn Nguyên Công, thì Lưu huynh đón được mấy chiêu?”

Lưu Bội Sinh đáp: “Sư phụ của tại hạ nội lực thâm hậu, khi chiết chiêu với đồ đệ thì trước nay không sử nội kình, không thì bọn tại hạ một chiêu cũng không đỡ nổi. Nếu chỉ đấu về quyền pháp, thì mười chiêu đầu có thể miễn cưỡng đối phó. Sau mười chiêu thì rất khó khăn.”

Viên Thừa Chí nói: “Lệnh sư ngoại hiệu là Thần Quyền Vô Địch, quyền pháp đương nhiên xảo diệu. Lưu huynh tiếp được hơn mười chiêu, trên giang hồ đã là hiếm thấy. Ba chữ Ngũ Đinh Thủ thật là xứng đáng.”

Lưu Bội Sinh nói: “Đó chỉ là cách bằng hữu gọi đùa. Công phu của tại hạ còn kém lắm, thật sự hổ thẹn không dám nhận.”

Tôn Trọng Quân nghe Lưu Bội Sinh đối với thiếu niên này càng lúc càng cung kính, như đã có ý nhận Viên Thừa Chí là sư thúc. Ả giận dữ hỏi: “Lưu sư ca! Huynh sao thế? Người ta chỉ khoác lác mấy câu là đủ cho huynh sợ rồi ư?”

Viên Thừa Chí mặc kệ ả, tiếp tục hỏi Lưu Bội Sinh: “Phải như thế nào huynh mới tin ta là sư thúc?”

Lưu Bội Sinh đáp: “Tại hạ muốn đối chiêu với các hạ. Nếu quyền pháp bản môn của các hạ thật sự giỏi hơn…”

Viên Thừa Chí đã thấy Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân xuất thủ, nghĩ võ công của Lưu Bội Sinh cũng chẳng khác bao nhiêu, bèn đáp: “Lưu huynh đã nói, nếu lệnh sư dùng tới nội kình thì một chiêu cũng không đón nổi. Công phu của ta dĩ nhiên không bằng được lệnh sư. Ông ấy cần một chiêu, ta phải cần năm chiêu. Bây giờ nếu huynh tiếp được ta năm chiêu, thì xem như ta là đồ giả mạo. Được chứ?”

Mai Kiếm Hòa vốn lo sư đệ không thắng nổi Viên Thừa Chí. Nghe chàng nói chỉ dùng năm chiêu là đánh bại Lưu sư đệ, người giỏi quyền nhất trong huynh đệ đồng môn, hắn bèn yên tâm trở lại, nghĩ chắc Viên Thừa Chí chỉ nói bừa. Hắn bèn xen vào: “Cứ thế, để ta đếm cho.”

Lưu Bội Sinh chắp tay nói: “Công phu của tại hạ có chỗ nào chưa đúng, xin các hạ chỉ điểm.”

Thừa Chí từ từ bước đến, nói: “Chiêu đầu tiên là Thạch Phá Thiên Kinh, huynh phải đỡ cho cẩn thận.”

Lưu Bội Sinh nói: “Được!” Trong lòng y nghĩ: “Động thủ đối chiêu, làm gì có chuyện nói cho đối thủ biết trước chiêu số? Chắc chắn bên trong có gian trá gì đây. Không chừng hắn dặn ta lưu ý thượng bàn, rồi bất ngờ tấn công vào hạ bàn cũng nên.” Y bèn đưa tay phải che trước mặt, còn tay trái hoành ngang thủ giữ Đan Điền, đợi Viên Thừa Chí tấn công vào giữa là lập tức vung quyền đánh trả.

Viên Thừa Chí hô lớn: “Chiêu thứ nhất!” Tả chưởng chàng ra hư chiêu, hữu quyền phóng tới nghe “vù” một tiếng. Đúng là Thạch Phá Thiên Kinh, một chiêu của phái Hoa Sơn.

Lưu Bội Sinh vội đưa tay phải ra đỡ. Viên Thừa Chí sắp đánh trúng mặt y, đột nhiên dừng tay lại hỏi: “Sao huynh không tin ta? Một tay không cản nổi đâu, phải dùng hai tay cùng lúc.”

Lưu Bội Sinh đã thấy thế quyền của Viên Thừa Chí hùng mạnh, biết tay phải mình không đủ sức cản trở, rõ ràng mũi mình sắp bị đối phương đánh dập. Y đang lo lắng thì thấy thoi quyền của Viên Thừa Chí đột nhiên dừng lại, bèn lập tức đưa thêm chưởng trái lên cản trước ngực. Y ra chiêu Thiết Thuyên Hoành Môn, khẽ quát lên một tiếng, vận kình lực đẩy cả song chưởng ra ngoài.

Lúc này Viên Thừa Chí mới tiếp tục đấm tới, đánh thẳng vào song chưởng của Lưu Bội Sinh. Họ Lưu cảm thấy sức ép lên hai tay mình rất nặng, xương cốt chuyển nghe răng rắc, kinh hãi nghĩ thầm: “Quyền của hắn dừng lại nửa chừng rồi đánh tiếp, không cần thu lại lấy đà, làm sao kình lực vẫn mạnh như thế được?”

Viên Thừa Chí thu quyền về rồi nói tiếp: “Bây giờ ta xuất ba chiêu liên hoàn là Lực Phách Tam Quan, Phao Chuyên Dẫn Ngọc, Kim Cang Chế Vĩ, huynh đón đỡ thế nào?”

Lưu Bội Sinh không cần suy nghĩ, đáp ngay: “Tại hạ dùng Phong Bế Thủ, Bạch Vân Xuất Tụ, Bàng Hoa Phất Liễu để nghênh đón.”

Viên Thừa Chí nói: “Hai chiêu trước thì đúng, chiêu cuối thì sai. Huynh nên biết chiêu Bàng Hoa Phất Liễu trong thủ có công, nếu đối chiêu với người có công lực tương đương thì dĩ nhiên là tốt. Nhưng chiêu này muốn thừa cơ phản kích, nên thế thủ phải yếu đi một nửa. Do đó chiêu Kim Cang Chế Vĩ của ta, huynh sẽ không đón nổi.”

Lưu Bội Sinh nói: “Thế thì tại hạ dùng Thiên Cân Trụy Địa.”

Viên Thừa Chí nói: “Đúng rồi. Đón chiêu!”

Thấy chàng vung tay phải lên, Lưu Bội Sinh bèn đứng tấn đàng hoàng để chống đỡ. Nào ngờ chàng để hữu chưởng lơ lửng trên cao, còn tay trái đột nhiên đánh xuống, miệng nói: “Võ công không phải là luật lệ, không nên bảo thủ. Sư phụ dạy huynh là chiêu Lực Phách Tam Quan dùng tay phải, nhưng tùy cơ ứng biến vẫn có thể dùng tay trái.”

Miệng nói nhưng tay vẫn làm, chàng không đợi Lưu Bội Sinh phong bế đã nắm lấy cổ tay y kéo về phía trước. Lưu Bội Sinh ra chiêu Bạch Vân Xuất Tụ giải khai. Trong chiêu này ngầm chứa nhiều chiêu khác, nếu đối phương không cảnh giác thì huyệt đạo trước ngực sẽ bị điểm ngay. Nhưng bây giờ y không dám phản kích, vừa giải được chiêu đã thu thế lại, trầm khí xuống hạ bàn, hai chân bám chặt dưới đất như đóng đinh vậy. Chiêu Thiên Cân Trụy Địa này đúng là sức nặng ngàn cân.

Viên Thừa Chí ra chiêu Kim Cang Chế Vĩ, tả chưởng vòng ra sau lưng Lưu Bội Sinh, vận sức đẩy một cái. Lưu Bội Sinh không đứng vững nổi, phải chạy tới hai bước, lắc lư mấy cái mới quay người lại được. Mặt y đỏ hẳn lên, vội hít một hơi thật sâu.

Viên Thừa Chí nói: “Huynh không công nhiên đón tiếp chiêu này để khỏi bị thương, thế là hay lắm. Đệ tử của Nhị sư ca thật sự bất phàm. Chiêu thứ năm của ta là Khởi Thủ Thức của Phá Ngọc Quyền.”

Lưu Bội Sinh nghe mà kinh ngạc, nhưng không dám nói ra.

Viên Thừa Chí hỏi: “Huynh tưởng Khởi Thủ Thức chỉ là thế chào khách sáo, trong thực chiến hoàn toàn vô dụng phải không? Nên nhớ, tổ sư gia chúng ta sáng tạo bộ quyền này, không chiêu thức nào là không thể thắng địch. Huynh xem đây!”

Chàng hơi khom người, tay phải nắm thành quyền, tay trái xòe thành chưởng, chắp vào nhau như đang thi lễ. Thân hình theo thế chào này mà hướng về phía trước, cả quyền lẫn chưởng đều giáng trúng vào mông trái của Lưu Bội Sinh.

Lưu Bội Sinh không thể đứng vững được, văng lên cao rồi té nhào xuống. Viên Thừa Chí nhảy tới một bước, đưa tay đón lấy Lưu Bội Sinh, đặt y đứng xuống đất.

Lưu Bội Sinh quỳ ngay xuống đất, nói: “Vãn bối chưa biết sư thúc, vừa rồi mạo phạm thật là vô lễ. Xin sư thúc nể mặt gia sư mà giáo huấn.”

Viên Thừa Chí đáp lễ rồi nói: “Lưu huynh lớn tuổi hơn ta, gọi nhau huynh đệ là được rồi.”

Lưu Bội Sinh nói: “Việc này thì vãn bối nhất định không dám. Quyền pháp của sư thúc thần diệu không sao lường được. Năm chiêu vừa rồi, tuy nói là đối chiêu, thật ra là sư thúc dạy dỗ về tinh nghĩa của quyền pháp bản môn. Vãn bối cảm kích vô cùng. Khi trở về, nhất định sẽ suy ngẫm tỉ mỉ, luyện tập đàng hoàng.”

Viên Thừa Chí khẽ mỉm cười.

Lưu Bội Sinh từ năm chiêu này mà hiểu được yếu chỉ “Tùy cơ ứng biến”, sau này theo đó mà mở rộng quyền pháp, quả nhiên tiến bộ rất nhiều. Suốt đời y đối với Viên Thừa Chí vô cùng cung kính. Sư phụ y là Quy Tân Thụ, quyền pháp chắc chắn không dưới Viên Thừa Chí. Nhưng tính tình ông nghiêm ngặt, câu nệ cố chấp, không thích thay đổi; khi dạy đồ đệ cũng không biết dạy từ từ. Đồ đệ vừa thấy mặt ông đã sợ hãi rồi, khi chiết chiêu phải xuất thủ đúng răm rắp theo quy củ, không dám sai lệch chút nào. Vì thế mà họ không thể lĩnh hội tới nơi tinh yếu võ công của phái Hoa Sơn.

Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân lúc này không dám nghi ngờ gì nữa. Nhưng Mai Kiếm Hòa tự thị kiếm pháp của mình đã học tới chỗ tinh túy của bản môn, bèn nghĩ: “Công phu quyền cước của ngươi tuy cao, nhưng kiếm thuật chưa chắc đã thắng nổi ta.”

Hắn đang nghĩ ngợi, Tôn Trọng Quân đột nhiên kêu lên: “Mai sư ca! Huynh thử kiếm pháp của hắn xem.”

Mai Kiếm Hòa gật đầu, rồi quay sang nói với Viên Thừa Chí: “Ta muốn lãnh giáo mấy chiêu kiếm pháp của các hạ.” Hắn nói chuyện đã khiêm tốn hơn trước rất nhiều, nhưng trên mặt vẫn đầy ngạo khí.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Chắc là người này đã được chân truyền kiếm pháp bản môn, trên giang hồ chưa gặp cường địch, quen được thiên hạ nể nang nịnh bợ, nên kiêu ngạo vô cùng. Hành vi của hắn đã đến mức ngông cuồng, khác hẳn Lưu Bội Sinh. Ta phải làm khó hắn đôi chút, để sau này môn hộ phái Hoa Sơn không đến nỗi bị người ta sỉ nhục”.

Chàng bèn nói: “Muốn tỉ kiếm cũng được. Nhưng sau khi phân thắng bại, huynh phải nghe ta nói mấy câu trái tai.”

Mai Kiếm Hòa ngạo mạn nói: “Lúc này thắng bại chưa quyết, dường như các hạ nói câu này hơi sớm.”

Hắn liền đưa trường kiếm lên ngang ngực, bước sang bên trái. Lưu Bội Sinh kêu lên: “Mai sư ca! Huynh đứng mé dưới đi.” Mai Kiếm Hòa mặc kệ, coi như không nghe thấy.

Theo quy luật võ lâm, vãn bối chiết chiêu với trưởng bối phải đứng ở mé dưới, tỏ vẻ không dám đối địch mà chỉ là học hỏi, xin trưởng bối giáo huấn. Bây giờ, Mai Kiếm Hòa đứng bên trái, tức là coi mình ngang hàng Viên Thừa Chí, không nhận chàng là sư thúc.

Hắn đưa tay trái lên chuôi kiếm, chắp tay lại hỏi: “Các hạ dùng kiếm chứ?”

Viên Thừa Chí đã quyết ý bắt hắn bỏ thói kiêu ngạo, bèn nói với Tiêu Công Lễ: “Tiêu lão bá! Nhờ lão bá sai người mang mười thanh kiếm tới đây.”

Tiêu Công Lễ vội nói: “Viên tướng công đừng xưng hô như vậy, tại hạ thật không dám nhận.”

Tiêu Uyển Nhi vẫy tay một cái, mấy môn đồ của Tiêu Công Lễ lập tức bưng mười thanh trường kiếm ra. Họ thấy Viên Thừa Chí ra sức vì sư môn của mình, dĩ nhiên đã tuyển lựa những thanh kiếm sắc bén nhất.

Mười thanh kiếm đã bày lên mặt bàn. Lúc này trời đã âm u, dưới ánh nến mười thanh kiếm lấp loáng hào quang. Mọi người hết nhìn mười thanh bảo kiếm lại nhìn Viên Thừa Chí, không biết chàng chọn thanh nào.

Không ngờ Viên Thừa Chí lại nhặt lấy nửa khúc kiếm gãy mà Tôn Trọng Quân đã ném tới, mỉm cười nói: “Ta dùng nửa thanh kiếm này.”

Lời vừa nói ra, mọi người lại kinh ngạc nghĩ thầm: “Khúc kiếm này không có chuôi, làm sao y sử dụng được?”

Viên Thừa Chí cầm khúc kiếm đó bằng ngón trỏ và ngón cái, bảo: “Xuất chiêu đi!”

Mai Kiếm Hòa vô cùng giận dữ, nghĩ bụng: “Ngươi coi thường ta như thế, chết đừng oán ta. Bất luận ngươi là sư thúc thật hay sư thúc giả, ngông cuồng như vậy là đáng chết rồi.”

Hắn vận nội kình lên cánh tay, rung động thanh kiếm một cái. Hào quang loé lên rồi tiếp đến tiếng ngân nga bất tuyệt, cuối cùng là tiếng quát: “Xem chiêu!”

Thanh kiếm xoay nghiêng đi, đâm vào cổ tay Viên Thừa Chí. Mai Kiếm Hòa nghĩ: “Ngươi cầm kiếm như thế, tay phải nhất định chuyển động không linh hoạt. Ta tấn công ngay vào nhược điểm này, xem thử ngươi đối phó thế nào.” Mấy trăm cặp mắt trong đại sảnh cùng lúc nhìn vào mũi kiếm của hắn.

Kiếm sắp tới nơi, cổ tay Viên Thừa Chí đột nhiên xoay lại, khúc kiếm gãy đưa lên đỡ. Hai lưỡi kiếm giao nhau nghe “xoẹt” một tiếng, sau đó là tiếng rơi loảng xoảng. Trường kiếm trong tay Mai Kiếm Hòa đã gãy lìa. Lưỡi kiếm rơi xuống đất, trong tay hắn chỉ còn lại cái chuôi.

Mọi người đồng thanh “Ồ” lên một tiếng.

Viên Thừa Chí chỉ lên bàn, ra ý bảo: “Chuẩn bị sẵn cho ngươi mười thanh kiếm rồi đó, đổi kiếm đi”. Bây giờ mọi người mới biết, chàng đòi mười thanh kiếm đó là chuẩn bị cho đối phương sử dụng.

Mai Kiếm Hòa vừa kinh hãi vừa giận dữ, lấy ngay một thanh kiếm trên bàn, đâm vào đầu gối Viên Thừa Chí. Chàng biết đây là hư chiêu, không thèm chống đỡ. Quả nhiên, thanh kiếm đang đâm xuống bỗng nhiên biến thế, hất ngược lên đâm vào bụng dưới.

Viên Thừa Chí đưa khúc kiếm gãy ra đỡ, cũng nghe “xoẹt” một tiếng rồi loảng xoảng, trường kiếm trong tay Mai Kiếm Hòa đã gãy thành hai khúc. Mai Kiếm Hòa đổi thêm ba thanh kiếm nữa, cả ba đều bị chấn động gãy lìa. Hắn ngơ ngác đứng yên tại chỗ, miệng ú ớ không nói được tiếng nào.

Tôn Trọng Quân la lên: “Nói là tỉ kiếm mà cứ dùng yêu pháp! Không biết tỉ cái gì nữa.”

Viên Thừa Chí vứt khúc kiếm gãy đi, mỉm cười rồi lấy trên bàn hai thanh trường kiếm, đưa Mai Kiếm Hòa một thanh. Chàng quay lại nói với Tôn Trọng Quân: “Xấu hổ thật! Cô nhận là người của bản môn, mà ngay cả Hỗn Nguyên Công cũng không biết, lại nói là yêu pháp.”

Mai Kiếm Hòa không đợi chàng quay đầu lại, phóng kiếm đâm tới. Mũi kiếm gần tới lưng địch thủ, hắn mới hô lên: “Xem chiêu!”

Chiêu kiếm này rõ ràng đánh lén, người nào đứng ngoài cũng thấy. Viên Thừa Chí né sang một bên, quay lại hô lên: “Xem chiêu!”

Chàng xuất chiêu Thương Ưng Tróc Thố, hệt như chiêu của Mai Kiếm Hòa vừa sử dụng. Mai Kiếm Hòa bắt chước chàng mà tránh. Nào ngờ Viên Thừa Chí vừa đâm ra đã lập tức xoay mình, thay đổi phương vị. Mai Kiếm Hòa chưa đứng vững đã cảm thấy mũi kiếm nhọn hoắt dí vào lưng. Hắn hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh, vội phóng tới trước rồi nhảy lên không. Thế mà mũi kiếm của địch thủ vẫn điểm vào lưng hắn như bóng theo hình.

Bất luận Mai Kiếm Hòa tránh qua né lại, nhảy nhót thế nào cũng không thoát khỏi mũi kiếm. May mà Viên Thừa Chí hạ thủ lưu tình, chỉ điểm vào lưng áo hắn. Nếu chàng đẩy nhẹ tới, thì Mai Kiếm Hòa có mười mạng cũng không giữ được mạng nào.

Ngoại hiệu của Mai Kiếm Hòa là Mạt Ảnh Tử, khinh công dĩ nhiên rất cao. Bây giờ hắn hoảng sợ, liên tiếp sử dụng bảy tám loại thân pháp, biến hóa liền liền để thoát khỏi mũi kiếm sau lưng, nhưng cuối cùng vẫn không thoát được.

Viên Thừa Chí thấy hắn hoảng sợ đến tay chân run rẩy, thầm nghĩ: “Dù sao cũng là sư điệt, mình đừng bức bách hắn quá”. Chàng bèn mỉm cười thu kiếm về, cất tiếng hỏi: “Đây cũng là kiếm pháp bản môn. Huynh đã học chưa?”

Mai Kiếm Hòa định thần lại, cúi đầu vừa thở hổn hển vừa đáp: “Đây là chiêu Phụ Cốt Chi Thư.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không sai! Danh xưng không hay lắm, nhưng kiếm pháp rất hữu dụng.”

Bên kia Thanh Thanh la lên: “Ngoại hiệu ngươi là Mạt Ảnh Tử, sao lúc nào sau lưng cũng có mũi kiếm của người khác vậy? Ba chữ Mạt Ảnh Tử nên đổi thành Kiếm Ảnh Tử đi.”

Mai Kiếm Hòa cố gắng trầm tĩnh lại, không lý gì đến Thanh Thanh. Hắn đã chuyên tâm nghiên cứu kiếm pháp hơn hai chục năm trời, thế mà nãy giờ không có cơ hội thi triển, trong lòng bất phục bèn nói với Viên Thừa Chí: “Chúng ta tỉ kiếm đàng hoàng đi. Tạp học của các hạ nhiều quá, ta không hiểu được.”

Viên Thừa Chí nói: “Tất cả những chiêu này đều là võ công chính tông của bản môn, sao gọi là tạp học? Được, xem kiếm đây.”

Chàng đưa kiếm ngang trước ngực, đâm tới. Mai Kiếm Hòa vung kiếm ra gạt rồi đánh trả. Viên Thừa Chí hất ngược kiếm lại, đè vào trường kiếm đối thủ. Mai Kiếm Hòa muốn thu kiếm về để đâm tới, nhưng không hiểu sao kiếm của hắn đã dính chặt vào kiếm của đối phương.

Viên Thừa Chí xoay tay thành hai vòng tròn, tay của Mai Kiếm Hòa bất đắc dĩ phải quay theo, trường kiếm tuột khỏi tay bay ra ngoài. Viên Thừa Chí hỏi: “Cần thử nữa không?”

Mai Kiếm Hòa vẫn còn ngoan cố, chạy đến bàn lấy một thanh kiếm khác. Hắn lướt thanh kiếm rất linh hoạt nhẹ nhàng, đâm vào cánh tay trái đối phương. Lần này Mai Kiếm Hòa đã biết khôn, quyết không để kiếm mình chạm vào kiếm địch, vừa thấy Viên Thừa Chí đưa kiếm ra đỡ là lập tức thu kiếm về ngay.

Nào ngờ kiếm của Viên Thừa Chí nhân chỗ sơ hở đó mà đâm nhanh tới trước ngực hắn. Nếu hắn không đỡ gạt thì bị đâm thủng một lỗ ngay, nên đành vung kiếm gạt ra. Hai thanh kiếm vừa giao nhau, tay Viên Thừa Chí hất đi một cái, trường kiếm của Mai Kiếm Hòa bay lên trời rồi phát ra một tiếng “rắc”, gãy làm hai đoạn rơi xuống.

Hắn lại chụp lấy một thanh kiếm khác. Viên Thừa Chí quát lên: “Đến nước này mà huynh còn chưa phục hay sao?”

Chàng đâm veo véo liền hai kiếm. Mai Kiếm Hòa phải ngửa người ra sau tránh né, nên hạ bàn trống rỗng. Viên Thừa Chí dùng chân trái móc nhẹ một cái, hắn lập tức khuỵu gối xuống, mặt hướng lên trời. Viên Thừa Chí trỏ mũi kiếm vào cổ họng hắn, hỏi: “Huynh phục chưa?”

Mai Kiếm Hòa từ khi bước ra giang hồ chưa từng phải nhục nhã đến thế. Uất khí của hắn không thể nuốt trôi xuống được, ngã ra ngất xỉu ngay tại chỗ.

Tôn Trọng Quân thấy cặp mắt hắn trợn ngược lên, nằm sát dưới đất không động đậy, tưởng hắn đã bị Viên Thừa Chí giết chết. Ả tung người nhảy ra, lớn tiếng la làng: “Giết nốt ta đi!”

Viên Thừa Chí thấy Mai Kiếm Hòa ngừng thở, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Nếu mình lỡ tay đánh chết y, sau này làm sao gặp mặt sư phụ và Nhị sư ca?” Chàng cúi xuống xem xét, thấy tim hắn vẫn đập đều mới yên tâm, liền vỗ mấy cái lên huyệt đạo dưới nách và trên cổ hắn.

Tôn Trọng Quân vung song quyền đánh xuống lưng Viên Thừa Chí như đánh trống, đánh mãi không thôi. Viên Thừa Chí mặc kệ ả, cứ lo cứu chữa Mai Kiếm Hòa. Thanh Thanh và Lưu Bội Sinh cùng nhảy tới quát ả dừng tay, Tôn Trọng Quân mới ngồi bệt xuống đất khóc rống lên.

Chẳng bao lâu Mai Kiếm Hòa hồi tỉnh, thều thào nói: “Các hạ giết ta đi!”

Lưu Bội Sinh vội khuyên: “Mai sư ca! Chúng ta đừng bướng bỉnh nữa, nghe sư thúc giáo huấn đi.”

Thanh Thanh mỉm cười nói với Tôn Trọng Quân: “Hắn chưa chết, cô khóc cái gì? Cô đối với hắn thật là mối tình thâm hậu.”

Tôn Trọng Quân lúc này vừa giận dữ vừa xấu hổ, đột nhiên từ dưới đất nhảy lên, vung quyền đánh Thanh Thanh. Dù sao ả cũng là cao thủ phái Hoa Sơn, thoi quyền này vừa nhanh vừa mạnh. Thanh Thanh không thể tránh được, bị đấm trúng vào vai trái. Nàng chưa kịp đánh trả, Tôn Trọng Quân đột nhiên đau đớn la lên: “Trời ơi!”

Thanh Thanh ngẩn ra, giận dữ nói: “Đánh người ta, mà chính mình lại kêu đau là nghĩa gì?”

Viên Thừa Chí đưa mắt ra hiệu, Thanh Thanh không hiểu gì nhưng cũng không nói tiếp. Nàng nhìn lại thấy hai nắm đấm của Tôn Trọng Quân sưng vù. Ả đau quá, nước mắt chảy ròng ròng xuống mặt.

Thì ra vừa rồi Tôn Trọng Quân dùng sức đánh vào lưng Viên Thừa Chí, chàng đã vận khí lên lưng. Ả đánh càng mạnh, sức phản chấn vào nắm tay càng lớn, giống như tự đánh mình vậy. Lúc đầu ả chưa cảm thấy, nhưng khi vận sức đánh lên vai Thanh Thanh thì xương cốt đau nhói, như bị hàng ngàn mũi kiếm nhọn đâm xuyên vào trong thịt.

Viên Thừa Chí tức giận ả này ra tay tàn độc, chưa hỏi tiếng nào đã chặt đứt một cánh tay của họ La. Mai Kiếm Hòa tuy ngông cuồng, nhưng so với ả thì hung ác chưa thấm vào đâu. Vì thế chàng cố ý bắt Tôn Trọng Quân chịu khổ một phen.

Mọi người đứng bên không biết, cứ tưởng Thanh Thanh là con trai của Kim Xà Lang Quân, võ công phải cao hơn Viên Thừa Chí. Tôn Trọng Quân không lượng sức mình, đương nhiên tự chuốc khổ vào thân. Chỉ có Thập Lực Đại sư, Trình Khởi Vân và Vạn Lý Phong thì biết Tôn Trọng Quân bị phản chấn, chỉ cần vuốt lại gân cốt, điểm mấy huyệt đạo là giảm đau và bớt sưng ngay. Nhưng họ biết mình không phải là địch thủ của Viên Thừa Chí, nên không dám mạo muội ra tay giải cứu.

Mai Kiếm Hòa từ nhỏ đã theo học Quy Tân Thụ, nhìn thấy ân sư như chuột thấy mèo vậy. Hắn bị áp chế quá lâu, nên khi được một mình ngang dọc giang hồ thì ngông cuồng tự đại gấp bội người khác. Tính tình Quy Tân Thụ lại trầm lặng ít nói, rất ít khi dạy cho đệ tử cách xử thế làm người.

Bản thân Mai Kiếm Hòa thì bị giày vò, thà chết không khuất phục. Nhưng khi thấy sư muội đau đớn như vậy, hắn không dám quật cường nữa, vội định thần đứng dậy, quay về phía Viên Thừa Chí chắp tay vái luôn ba vái, nhỏ nhẹ nói: “Viên sư thúc! Vãn bối không biết sư thúc giá lâm, mạo phạm đã nhiều. Xin sư thúc giải cứu cho Tôn sư muội.”

Viên Thừa Chí nghiêm giọng hỏi: “Huynh biết lỗi mình chưa?”

Mai Kiếm Hòa cúi đầu xuống đáp: “Đệ tử không nên tự tiện hủy hai lá thư của Tiêu bang chủ, cũng không nên ra mặt giúp đỡ Mẫn nhị ca.”

Viên Thừa Chí nói: “Sau này Mai đại ca hành sự, phải cẩn thận hơn mới tốt.”

Mai Kiếm Hòa nói: “Đệ tử xin nghe sư thúc chỉ dạy.”

Viên Thừa Chí nói: “Mẫn nhị gia không biết chuyện năm xưa, muốn trả thù cho huynh trưởng là đúng. Huynh cùng các vị anh hùng ở đây được mời tới trợ giúp, là xuất phát từ nghĩa khí bạn bè. Bây giờ chuyện đã rõ ràng, mọi người buông tay hóa địch thành bạn, nghĩa khí lại càng cao đẹp. Chuyện này thì ta hoàn toàn không trách huynh. Nhưng huynh đã làm một việc rất sai, e rằng chính huynh cũng chưa hiểu.”

Mai Kiếm Hòa ngạc nhiên hỏi: “Xin hỏi đó là việc nào?”

Viên Thừa Chí hỏi lại: “Thập nhị đại giới phái Hoa Sơn chúng ta, điều thứ ba là gì?”

Mai Kiếm Hòa đáp: “Vừa rồi sư thúc đã hỏi đệ tử bốn điều giới luật. Điều thứ ba là lạm sát vô cớ. Tôn sư muội đã phạm lỗi này, chỉ còn cách trịnh trọng xin La huynh thứ tội, rồi chúng ta đền bù phần nào tổn thất cho huynh ấy…”

Một đệ tử của Tiêu Công Lễ từ giữa đám đông la lên: “Ai cần mấy đồng tiền thối của ngươi? Đứt cánh tay rồi, tiền bạc có thể nối lại được không?”

Mai Kiếm Hòa biết mình đuối lý, bèn im lặng không cãi.

Viên Thừa Chí quay lại nói với người vừa lên tiếng: “Sư điệt của tại hạ đúng là có hành vi lỗ mãng, tại hạ rất áy náy. Đợi vết thương của La huynh lành hẳn, tại hạ muốn nghiên cứu với huynh ấy một đường Độc Tí Đao. Công phu này không phải của phái Hoa Sơn, nên tại hạ không cần bẩm báo tôn sư trước.”

Mọi người đã thấy chàng võ nghệ kinh người. Chàng khiêm tốn nói là nghiên cứu đao pháp, thật sự là hứa truyền cho một môn tuyệt nghệ. Tuy La Lập Như mất một cánh tay, nhưng do họa mà được phước, sau này võ công cao hơn huynh đệ đồng môn rất nhiều. Đệ tử nhà họ Tiêu thấy chàng đã đền bù cho tội lỗi của Tôn Trọng Quân, nên không nói gì nữa.

Mai Kiếm Hòa lại tiếp: “Điều thứ sáu là bất kính tôn trưởng, điều này đệ tử biết tội. Điều thứ mười một là không phân biệt thị phi, đệ tử cũng biết tội. Chỉ còn điều thứ năm là kết giao với gian nhân. Mẫn nhị ca là trang hảo hán, rất đáng kết giao…”

Phần lớn mọi người không biết thập nhị đại giới của phái Hoa Sơn là gì. Nghe Mai Kiếm Hòa nói tới đây, Mẫn Tử Hoa nhảy chồm lên la lớn: “Cái gì? Ta là gian nhân ư?”

Viên Thừa Chí nói: “Xin đừng hiểu lầm! Dĩ nhiên tại hạ không nói đến Mẫn nhị gia.”

Mẫn Tử Hoa giận dữ hỏi: “Vậy các hạ nói đến ai?”

Viên Thừa Chí định đáp, bỗng thấy hai đệ tử nhà họ Tiêu dìu La Lập Như từ hậu đường ra ngoài, hướng về Viên Thừa Chí bái lạy. Chàng vội vàng trả lễ.

Tay áo bên phải của La Lập Như trống rỗng buông thõng xuống, mặt không chút huyết sắc. Nhưng thần thái y vẫn rất cứng cỏi, lên tiếng: “Viên đại hiệp đã cứu sư phụ tại hạ, lại hứa truyền thụ võ nghệ cho tại hạ. Thật sự cảm kích vô cùng.”

Viên Thừa Chí khiêm nhường nói: “Đã là bằng hữu thì nghiên cứu võ nghệ là chuyện bình thường, La huynh không cần khách sáo.”

Khi La Lập Như đi vào thì mồ hôi trán Tôn Trọng Quân đã nhỏ giọt bồm bộp xuống đất. Ả đau đến run rẩy toàn thân, môi tím ngắt lại. Viên Thừa Chí thấy ả chịu khổ đủ rồi, bèn bước tới, đưa tay muốn điểm huyệt cứu cho.

Tôn Trọng Quân giận dữ nói: “Đừng đụng vào ta. Có đau tới chết đi nữa ta cũng không cần các hạ cứu.”

Viên Thừa Chí đỏ mặt, muốn đem phương pháp giải cứu nói cho Mai Kiếm Hòa biết. Bỗng nghe “bình bình” hai tiếng, hai cánh cửa đã bị chưởng lực đánh văng vào trong sảnh.

*

*   *

Mọi người kinh hãi quay lại nhìn, thấy hai người từ từ bước vào. Một người tuổi khoảng trên dưới năm mươi, lưng thắt một sợi dây cỏ, mặc y phục kiểu nông phu. Người kia là một nông phụ, trên tay bồng đứa con nít.

Tôn Trọng Quân hô lớn: “Sư phụ, sư nương!” Rồi ả vội chạy tới đón.

Mọi người nghe ả gọi, đều biết vợ chồng Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ đã đến.

Quy nhị nương giao con cho chồng bế, mặt hơi tái lại, dùng phép thôi cung quá huyệt chữa cho Tôn Trọng Quân. Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh cùng bước lên tham kiến. Lưu Bội Sinh khẽ kể lai lịch của Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí thấy tướng mạo Quy Tân Thụ chất phác trung hậu, nhưng Nhị tẩu lại có âm khí ép người. Chàng theo sau Mai và Lưu bước lên bái kiến. Quy Tân Thụ đưa tay đỡ chàng dậy, nói cộc lốc một câu: “Không dám!” rồi thôi.

Quy nhị nương vừa xoa nắn cánh tay Tôn Trọng Quân vừa liếc nhìn Viên Thừa Chí, ngay cả gật đầu cũng không một cái nào.

Tôn Trọng Quân đã đỡ đau, vừa khóc vừa nói: “Sư nương! Tên này tự xưng là sư thúc gì gì đó, đánh cho tay con đau đến thế này. Ngay cả thanh kiếm mà sư nương cho con, hắn cũng đạp gãy rồi.”

Viên Thừa Chí vừa nghe đã biết là hỏng bét. Chàng nghĩ bụng: “Nếu biết thanh kiếm đó là Nhị tẩu cho cô ả, thì bất luận thế nào mình cũng không bẻ gãy.”

Chàng liền nói: “Tiểu đệ cuồng vọng không biết, xin sư ca sư tẩu thứ tội.”

Quy nhị nương hỏi chồng mình: “Này, Nhị ca! Nghe nói gần đây sư phụ có nhận một tiểu đồ đệ, không lẽ chính là tên này? Sao lại bừa bãi như thế?”

Quy Tân Thụ đáp: “Ta chưa gặp.”

Quy nhị nương nói: “Phải biết là sự học không có điểm dừng. Ngoài trời có trời, trên người có người. Học được chút xíu công phu đã đi bức hiếp người khác hay sao? Đồ đệ của ta không tốt thì để ta trách phạt, không phiền đến sư thúc.”

Viên Thừa Chí chắp tay lại nói: “Vâng, vâng! Tiểu đệ lỗ mãng rồi.”

Quy nhị nương nhăn mặt nói: “Ngươi dám đạp gãy kiếm của ta, trong mắt còn thấy bậc tôn trưởng nữa không? Cứ cho là sư phụ thương ngươi, chẳng lẽ vì thế ngươi dám vô lễ với sư ca?”

Mọi người nghe mụ nói càng lúc càng hung dữ hàm hồ, rõ ràng cưỡng từ đoạt lý, thế mà Viên Thừa Chí cứ mãi khiêm cung nhỏ nhẹ. Những người bên Tiêu Công Lễ thì giận dữ bất bình; còn Mẫn Tử Hoa, Động Huyền và Vạn Lý Phong lại âm thầm đắc ý, trong lòng nghĩ: “Vừa rồi ngươi chiếm thế thượng phong, nhưng sư ca sư tẩu ngươi đã đến đây, xem ngươi còn dám làm gì?”

Tôn Trọng Quân nói: “Sư phụ, sư nương! Hắn dựa vào một tên Kim Xà Lang Quân gì gì đó đỡ đầu, dám đánh ngã Lưu sư ca, Mai sư ca, còn dám ăn nói lung tung, lên mặt dạy dỗ chúng con cả nửa ngày, hoàn toàn không nể mặt sư phụ sư nương gì cả.”

Con trai độc nhất của vợ chồng Quy Tân Thụ là Quy Chung đang mắc trọng bệnh, họ phải đem đi khắp nơi tìm kiếm danh y. Mấy bậc danh y khám xong đều nói giống nhau, lúc Quy nhị nương có thai mà động thủ đánh người nên tổn thương đến thai nhi. Đứa bé này bị nội thương từ trong bụng mẹ, bây giờ phát tác ra ngoài. Đã mắc chứng này thì ngàn người không sống được một. Sách thuốc cổ có nói, phải có đại bổ linh dược như thiên niên phục linh, thêm vào hà thủ ô đã thành hình, thì mới cứu chữa được. Không thì phải có thiên niên nhân sâm, linh chi thiên thảo, những thứ còn khó tìm hơn nữa. Nếu không có linh dược thì tối đa chỉ kéo thêm được hai năm, sau đó kiệt quệ mà chết.

Vợ chồng Quy Tân Thụ lớn tuổi mới có con, nên yêu con hơn cả mạng mình. Họ hỏi khắp đồng đạo võ lâm để tìm thuốc, nhưng chỉ thiên niên phục linh đã khó tìm rồi, lại thêm hà thủ ô đã thành hình thì biết tìm ở đâu ra? Họ tìm kiếm đã hơn một năm, hoàn toàn không có kết quả. Thấy đứa con càng lúc càng ốm yếu, Quy nhị nương chỉ còn cách rơi nước mắt. Hai vợ chồng bàn nhau, Kim Lăng là thị trấn nổi tiếng nhất Giang Nam, dược vật trân quý chắc chắn rất nhiều, nên cùng đến Nam Kinh để tìm thuốc, rồi hỏi thăm võ lâm đồng đạo, biết ba người đệ tử đang theo Mẫn Tử Hoa tới đây. Hai vợ chồng nghĩ ba người này đều tinh minh mẫn cán có thể giúp mình tìm thuốc, nên lập tức tìm đến nhà họ Tiêu. Nào ngờ vừa đến đã thấy hai bàn tay Tôn Trọng Quân đang đau nhức.

Tính tình của Quy nhị nương đã nóng nảy, lại thêm con trai bệnh nặng nên trong lòng lo lắng, mới nghe lời nói một phía của đồ đệ cưng đã chửi mắng Viên Thừa Chí chẳng kể số gì. Nghe nói sau lưng chàng còn một người chống đỡ, mụ càng tức giận hơn, quay lại hỏi chồng: “Kim Xà quái vật còn sống ư?”

Quy Tân Thụ đáp: “Nghe nói đã tạ thế rồi, nhưng không ai biết rõ.”

Thanh Thanh nghe mụ vô cớ trách mắng Viên Thừa Chí đã tức giận rồi, bây giờ nghe mụ gọi cha mình là quái vật càng giận dữ hơn. Nàng đốp ngay: “Con mụ lắm mồm kia, sao mắng chửi người khác bừa bãi thế?”

Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Ngươi là ai?”

Tôn Trọng Quân nói leo vào: “Hắn chính là con trai của Kim Xà quái vật.”

Cổ tay Quy nhị nương rung lên một cái, một mũi kim bắn vào vai Thanh Thanh nhanh như điện xẹt.

Viên Thừa Chí kêu thầm: “Hỏng rồi!” Chàng vọt ngay lại, nhưng Quy nhị nương xuất thủ bất ngờ như sấm nổ giữa trời quang, chẳng ai đỡ kịp. Thanh Thanh rùng mình một cái, ám khí đã ghim vào vai trái.

Viên Thừa Chí kinh hãi nắm lấy cánh tay nàng xem xét, thấy đó là một mũi táng môn đinh đen nhánh. Thanh Thanh vừa sợ vừa giận, đau đến biến hẳn sắc mặt. Viên Thừa Chí vội bảo: “Đừng cử động!”

Chàng dùng ngón giữa và ngón trỏ tay trái ấn vào hai bên vết thương, khẽ bóp cho mũi đinh lồi ra ngoài khoảng ba bốn phân. Biết chắc đầu đinh không có móc ngược, chàng mới vận kình vào hai ngón tay. Mũi đinh lập tức bị đẩy ra, văng xuống đất nghe “keng” một tiếng.

Tiêu Uyển Nhi đã đứng bên giúp đỡ, liền đưa hai cái khăn tay để chùi máu. Viên Thừa Chí bó lại vết thương cho Thanh Thanh, khẽ bảo: “Thanh đệ! Thanh đệ đứng đây đợi ta, đừng cãi nhau với bà ấy.”

Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Tại sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Nể mặt sư ca, chúng ta chỉ còn cách nhẫn nhịn.”

Thanh Thanh nhăn nhó gật đầu. Viên Thừa Chí biết cô nương này trước nay tính khí quật cường, thế mà lần này bị thiệt thòi vẫn chịu nghe lời mình, so với trước kia thì dịu dàng nhu thuận hơn nhiều. Chàng bất giác vui mừng, mỉm cười với nàng một cái.

Quy nhị nương đợi băng bó xong mới cười nhạt nói: “Ta chỉ tiện tay phóng một mũi đinh nhỏ để xem hư thực ra sao. Nếu cha hắn là Kim Xà Lang Quân có bản lãnh, thì sao hắn tránh né không nổi một cây đinh nhỏ? Kim Xà Ngân Xà gì gì đó, chẳng qua chỉ là đồ lừa bịp, gạt người ta để kiếm chút hư danh.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Lúc này Nhị tẩu hiểu lầm đã sâu, mình càng phân trần thì bà ấy càng thêm giận dữ.” Chàng bèn im lặng, không nói gì nữa.

Quy nhị nương nói: “Ở đây người ngoài rất đông, việc trong môn hộ không tiện nói nhiều. Canh ba đêm mai, vợ chồng ta đợi ở Ngũ Hoa Đài trên núi Tử Kim, mời Viên gia đến. Chúng ta phải điều tra rõ ràng, xem ngươi có đúng là đồ đệ của lão nhân gia hay không. Hà hà…” Nói xong, mụ cười lạnh thêm mấy tiếng.

Mọi người nghe đều hiểu, đây rõ ràng là bày trận thách đấu. Tiêu Công Lễ cảm thấy khó chịu, bèn lên tiếng: “Hiền khang lệ oai chấn Giang Nam, mọi người nghe thấy đại danh Thần Quyền Vô Địch không ai là không ngưỡng mộ. Hôm nay may mắn được hai vị quang lâm, thật sự tại hạ muốn mời cũng không thể mời.”

Quy nhị nương “hứ” một tiếng. Quy Tân Thụ đang bận ôm con, tâm thần không bình tĩnh nên không để ý nghe.

Tiêu Công Lễ lại nói: “Viên gia vì thấy tại hạ gặp việc khó giải quyết nên trượng nghĩa mà giúp đỡ. Ba vị Mai huynh, Lưu huynh, Tôn cô nương đã biết rõ rồi. Tại hạ xin làm chủ nhà tiếp đón hiền khang lệ, đồng thời chúc mừng sư huynh đệ tương phùng. Nếu tiện, ly rượu nhạt tối nay…”

Quy nhị nương không thèm nghe tiếp, quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Sao? Ngươi không dám đến phải không?”

Viên Thừa Chí nói: “Sư ca sư tẩu đang ngụ ở đâu? Sáng mai tiểu đệ sẽ đến xin hai vị trách phạt, nhất định không dám giấu giếm chuyện gì.”

Quy nhị nương “hứ” một tiếng rồi nói: “Có ma mới biết ngươi là thật hay giả, đừng xưng hô như thế. Để tối mai xem rõ rồi nói chuyện tiếp. Đi thôi!” Mụ kéo tay Tôn Trọng Quân, xoay lưng đi ngay.

Vừa rồi Thái Bạch Tam Anh thấy Viên Thừa Chí ra tay can thiệp, đã biết âm mưu khó thành. Chúng nghĩ: “Người đêm qua kiềm chế mình để lấy mật thư, nhất định là hắn rồi.” Chúng biết bất cứ lúc nào Viên Thừa Chí cũng có thể lấy thư của Đa Nhĩ Cổn ra, lật tẩy việc thông địch bán nước của mình, nên vừa rồi mới tranh thủ định chuồn.

Bất ngờ vợ chồng Quy Tân Thụ xuất hiện, khởi lên một vụ tranh chấp khác. Tam tặc âm thầm mừng rỡ, chỉ mong xảy ra động thủ để thừa nước đục thả câu. Nhưng nghe đêm mai họ mới hẹn nhau tỉ võ tại Ngũ Hoa Đài, đêm nay không còn việc gì nữa, ba tên bèn nháy mắt với nhau, định chuồn trước khi vợ chồng họ Quy rời khỏi.

Viên Thừa Chí vội quát lên: “Này, khoan đã!” Chàng tung người nhảy ra cản trở.

Quy nhị nương hét lớn: “Tiểu tử vô lễ! Ngươi dám chặn đường ta ư?”

Mụ đưa tả chưởng vỗ lên đầu Viên Thừa Chí, chàng vội rùn người, lùi lại. Phát chưởng của Quy nhị nương đánh xuống sượt bên vai, thế mà chàng cũng bị chưởng phong ảnh hưởng, hơi tê một chút.

Ngày nào Quy nhị nương cũng so chưởng với chồng, siêng năng luyện tập võ công, nên không phát chưởng nào là không ác độc. Mụ tự phụ là ngoài chồng mình ra, trong võ lâm ít khi gặp địch thủ. Phát chưởng này không đánh trúng đối phương, đó là chuyện mười năm nay chưa gặp, nên trong lòng mụ càng tức giận.

Tả chưởng đổi từ vỗ thành chém, thuận thế quét ngang qua. Viên Thừa Chí vội vận kình lực xuống chân, tung người lên nhảy qua một cái bàn. Vì thế Quy nhị nương không tiện truy kích nữa, chỉ trừng mắt nhìn chàng rồi cùng Quy Tân Thụ, Tôn Trọng Quân, Mẫn Tử Hoa, Lưu Bội Sinh đi ra khỏi cổng.

Thái Bạch Tam Anh thấy cơ hội tốt lập tức chạy theo ra ngoài. Viên Thừa Chí sợ Quy nhị nương lại hiểu lầm nên không dám hô hoán nữa, im lặng nhảy ra. Chàng chụp được người chạy sau cùng là Lê Cương, tiện tay điểm huyệt rồi quẳng xuống đất. Còn anh em họ Sử đã chạy thoát ra ngoài.

Viên Thừa Chí đuổi ra cổng, nhưng lúc này trời đã tối mịt, không thấy bóng dáng tên nào. Chàng nghĩ, bắt được một tên cũng đủ hỏi khẩu cung, bèn quay về nhà họ Tiêu. Đột nhiên nghe sau lưng có một thanh âm già nua vừa cười vừa nói: “Tiểu bằng hữu! Lâu quá không gặp, công phu ngươi lại giỏi lên nhiều.”

Viên Thừa Chí nghe giọng nói quen thuộc, bèn quay lại nhìn thì thấy ngoài sảnh có hai người đang sải bước tiến vào. Người đi trước râu mày bạc phơ, sau lưng đeo một tấm thép hình vuông đen nhánh, đúng là Mộc Tang đạo nhân từng truyền thụ cho chàng khinh công ám khí. Lão một tay xách cổ Sử Bính Quan, tay kia xách cổ Sử Bính Vân.

Viên Thừa Chí cả mừng chạy tới, quỳ xuống bái kiến, hô lên: “Đạo trưởng! Lão nhân gia khỏe chứ?”

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười bảo: “Đứng dậy đi, đứng dậy đi! Ngươi xem thử ai đây?”

Viên Thừa Chí đứng dậy nhìn, thấy đứng cạnh Mộc Tang đạo nhân là một hán tử trung niên, râu tóc hơi bạc, khuôn mặt đầy vẻ phong trần. Chàng nhìn tỉ mỉ mới nhận ra người này chính là Thôi Thu Sơn, từng dạy chưởng pháp cho mình, lại từng liều mạng cứu mình hồi nhỏ.

Chàng nhận ra Mộc Tang đạo nhân ngay vì cách biệt chưa lâu lắm, diện mạo lão lại chẳng thay đổi bao nhiêu. Còn Thôi Thu Sơn thì xuất sinh nhập tử trong quân ngũ Sấm Vương từ tuổi trẻ đến trung niên, trải qua phong sương rất nhiều, nên thần sắc lẫn tướng mạo đã khác trước rất xa.

Viên Thừa Chí vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nhảy ngay tới ôm chầm lấy Thôi Thu Sơn, không ngớt reo lên: “Thôi thúc thúc! Thì ra là thúc thúc.”

Chàng không nén nổi nước mắt trào ra. Thôi Thu Sơn thấy Viên Thừa Chí tình nghĩa thâm trọng lộ hẳn ra ngoài, nên mi mắt cũng hơi ươn ướt.

Đột nhiên nghe Mẫn Tử Hoa quát hỏi: “Này! Các vị làm khó dễ Thái Bạch Tam Anh chi vậy? Sao không thả họ xuống?”

Mọi người đều biết anh em họ Sử võ công không tệ, thế mà bị lão già này nắm trong tay như xách hai đứa bé, không cục cựa được chút nào, hiển nhiên đã bị điểm trúng huyệt đạo. Ai cũng thấy ngạc nhiên.

Mộc Tang đạo nhân cười ha hả rồi quẳng anh em họ Sử xuống đất, mỉm cười hỏi: “Ta xách chơi một tí không được hay sao?”

Viên Thừa Chí trỏ vào Mộc Tang đạo nhân, giới thiệu: “Vị này là Mộc Tang đạo trưởng, cao nhân tiền bối của Thiết Kiếm Môn.”

Chàng lại trỏ Thôi Thu Sơn, nói: “Vị này là Thôi đại thúc, lừng danh thiên hạ về Phục Hổ Chưởng Pháp, có ơn dạy dỗ từ hồi tại hạ bắt đầu học võ.”

Những người lớn tuổi trong sảnh đều biết đại danh Thiên Biến Vạn Kiếp của Mộc Tang đạo nhân, chỉ vì hành tung của lão xuất quỷ nhập thần nên tám chín phần mười chưa từng gặp mặt. Chỉ có Thập Lực đại sư và Trương Tâm Nhất phái Côn Luân là quen biết lão, nhưng tính ra cũng là vãn bối. Hai người vội bước tới chào hỏi.

Mọi người thấy thân phận Thập Lực đại sư và Trương Tâm Nhất như vậy mà phải cung kính hết mực, nên ai cũng đứng dậy chào hỏi đàng hoàng.

Mộc Tang đạo nhân nói: “Bần đạo ngoài việc ăn cơm chỉ thích đánh cờ, còn những việc tạp nhạp khác trước nay không muốn để vào lòng. Nếu không, kỳ thuật của lão làm sao xuất thần nhập hóa như thế? Nhưng tháng trước nhận được tin tức, nói rằng có người tư thông với giặc, đến Nam Kinh để mưu đồ bán nước. Bần đạo không thể phủi tay đứng nhìn nữa, nên mới theo chúng đến đây.”

Mẫn Tử Hoa ngạc nhiên hỏi: “Ai là gian tặc bán nước? Chẳng lẽ Thái Bạch Tam Anh hay sao?”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Không sai! Chính là ba vị anh hùng hào kiệt, danh tiếng lẫy lừng này.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Ba vị này đã là anh hùng hào kiệt, sao lại làm chuyện vô sỉ như thế? Ông đừng vu oan người khác.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Bần đạo với ba người này không thù không oán, vu oan chúng làm chi? Chúng lén lút thương lượng với bọn Mãn Châu, ta ở quan ngoại chính mắt nhìn thấy, chính tai nghe thấy, làm gì sai được!”

Mẫn Tử Hoa hỏi: “Có chứng cứ gì không?”

Mộc Tang đạo nhân hỏi lại: “Chứng cứ gì nữa? Chẳng lẽ câu nói của ta không thể coi là chứng cứ hay sao?”

Mẫn Tử Hoa cười nói: “Thế thì chuyện này ai mà tin được?”

Mộc Tang đạo nhân giận dữ hét lên: “Ngươi là ai?”

Viên Thừa Chí đáp hộ: “Vị này là Mẫn Tử Hoa nhị gia của phái Tiên Đô.”

Mộc Tang đạo nhân bực bội nói: “Sư phụ ngươi là Hoàng Mộc đạo nhân, từ xưa đến giờ hễ nghe giọng ta là không dám nói nửa chữ không. Thế mà tiểu tử này cả gan không tin lời nói của lão gia hay sao?”

Mọi người tuy kính trọng bậc võ lâm tiền bối, nhưng không khỏi cảm thấy lão nói chuyện vô lý. Ai cũng có phần không phục, nhưng không ai dám bước ra tranh biện. Mộc Tang đạo nhân thì tức tối đứng vuốt râu, không biết nói sao.

Viên Thừa Chí lấy trong bọc ra một lá thư, đưa cho Mẫn Tử Hoa rồi nói: “Mẫn nhị gia! Nhờ nhị gia đọc cái này cho mọi người nghe.”

Mẫn Tử Hoa đón lấy, mới xem mấy dòng đã run lên bần bật. Viên Thừa Chí đứng cạnh đề phòng, giả tỉ y học theo sách Mai Kiếm Hòa mà xé thư diệt chứng, thì lập tức điểm huyệt để đoạt lại. Nhưng y hai tay cầm thư, dõng dạc đọc lớn.

Đây chính là thư của Nghệ thân vương Đa Nhĩ Cổn xứ Mãn Châu viết cho Thái Bạch Tam Anh, dặn chúng thừa cơ thâm nhập các bang hội ở Giang Nam, khiêu khích cho nhân sĩ võ lâm xích mích tàn sát lẫn nhau, đồng thời tìm cách mở mang thế lực, đợi quân Thanh nhập quan là khởi sự làm nội ứng. Cuối thư còn có hai dấu ấn son của Nghệ Thân Vương.

Mẫn Tử Hoa chưa đọc xong, quần hào đã giận dữ vô cùng, quát tháo thóa mạ om sòm. Trình Khởi Vân xách Lê Cương dậy, giải huyệt cho hắn rồi quát hỏi: “Các ngươi còn gian kế gì nữa không! Khai ra đi!”

Lê Cương nhắm mắt, không nói. Trình Khởi Vân tát cho hai phát vào mặt, hai má hắn lập tức sưng vù. Sau đó Viên Thừa Chí kể vụ lấy được lá mật thư này cho mọi người cùng nghe.

Lê Cương biết không còn cách nào chối cãi nữa, bèn kêu lớn: “Nhất định quân Thanh chẳng bao lâu nữa có thể nhập quan, thiên hạ là của Đại Thanh rồi. Các vị bây giờ quy thuận thì không mất địa vị khai quốc công thần, còn nếu…”

Hắn nói chưa dứt câu đã bị Trình Khởi Vân nện cho một quyền vào giữa ngực, lập tức ngất xỉu. Sử thị huynh đệ còn run hơn cả Lê Cương, biết chắc mình sẽ bị đòn nên muốn biện bạch mấy câu, chỉ vì đang bị điểm huyệt nên không lên tiếng được.

Trình Khởi Vân nói: “Đạo trưởng! Loại gian tặc này để lại làm chi? Cho bốc hơi ngay được rồi.”

Tiêu Công Lễ nói: “Chắc bọn gian tặc này còn có đồng đảng, chúng ta phải điều tra cho rõ. Hôm nay không còn sớm nữa, mời quý vị sáng mai quay lại đây thương lượng.”

Mọi người đồng ý, cáo biệt quay về. Có người trước khi về còn ghé qua chỗ Thái Bạch Tam Anh nhổ nước bọt, đá vào mông.

Mẫn Tử Hoa biết mình bị kẻ gian lợi dụng, hối hận vô cùng. Y rối rít xin lỗi Tiêu Công Lễ, lại nói với Viên Thừa Chí: “Nếu không nhờ Viên tướng công đứng ra giải hòa cho yên đại họa, rồi lại vạch trần âm mưu độc kế của kẻ gian, thì tội lỗi của tại hạ không ai tha nổi.”

Thập Lực đại sư, Trình Khởi Vân và Trương Tâm Nhất cũng đến trước mặt Viên Thừa Chí ngỏ lời cảm ơn rồi mới cáo từ.

Mộc Tang đạo nhân tháo bàn cờ trên lưng xuống, lôi túi quân cờ ra, nói với Viên Thừa Chí: “Lúc nào ta cũng nhớ ngươi, nhớ nhất là những lúc chúng ta đánh cờ.”

Viên Thừa Chí thấy lão cao hứng, bèn mỉm cười ngồi xuống, nhặt lấy quân cờ. Chàng nghĩ: “Đạo trưởng đối với mình ơn nặng như núi, khó mà báo đáp. Sở thích duy nhất của lão là chơi cờ, mình phải chơi với lão để tỏ tấm lòng hiếu thảo.”

Mộc Tang đạo nhân lập tức mặt mày rạng rỡ, bảo những người xung quanh: “Các ngươi đi ngủ cả đi. Lão đạo kỳ nghệ cao thâm, thiên biến vạn hóa, các ngươi có xem chắc cũng không hiểu được.”

Tiêu Công Lễ dặn dò sắp xếp cơm rượu tiếp đãi mọi người, rồi dẫn Thôi Thu Sơn vào phòng để nghỉ ngơi. Còn Thanh Thanh nhất định đòi ngồi xem chơi cờ, không chịu đi ngủ. Tiêu Uyển Nhi ở một bên phục vụ nước, rượu, trái cây.

Thanh Thanh không biết chơi cờ vây, chốc lát đã thấy chán. Hơn nữa, vai nàng đang bị thương, không khỏi tinh thần mỏi mệt. Xem được một lúc, nàng gục xuống bàn ngủ thiếp đi. Mộc Tang bảo Tiêu Uyển Nhi: “Tiêu đại cô nương! Đưa vào phòng cô nghỉ ngơi đi.”

Uyển Nhi đỏ mặt lên giả bộ không nghe, nghĩ bụng: “Sao vị đạo trưởng này lại trêu ghẹo mình?”

Mộc Tang cười ha hả rồi nói: “Ngươi sợ cái gì? Đây là nữ nhân mà.”

Uyển Nhi hỏi Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Có phải thế không?”

Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Cô ấy cải dạng nam trang để đi lại bên ngoài dễ dàng hơn.”

Uyển Nhi nhỏ hơn Thanh Thanh hai tuổi, nhưng đã quen lo liệu công việc trong bang giúp phụ thân, nên tinh nhanh linh hoạt hơn nhiều. Thanh Thanh là nữ cải nam trang, lẽ ra nàng có thể nhìn ra. Chỉ vì hai ngày nay nàng lo lắng đến chuyện an nguy sinh tử của phụ thân, nên không để ý những chuyện khác. Cũng vì nàng thấy Thanh Thanh là một thiếu niên tuấn tú mà mới gặp mình đã muốn nắm tay, cảm thấy người này không nghiêm chỉnh lắm nên không muốn nhìn thẳng đối phương.

Bây giờ nghe Thừa Chí nói, nàng vẫn chưa yên tâm, bèn khẽ tháo cái khăn trùm đầu Thanh Thanh, để lộ ra mái tóc đen nhánh, còn cắm hai cây ngọc trâm. Uyển Nhi bèn đỡ dậy nhìn tỉ mỉ, thấy nét mặt Thanh Thanh đẹp đẽ, mày dài môi đỏ, da dẻ trắng trẻo, quả nhiên là một thiếu nữ mỹ miều. Nàng mỉm cười gọi: “Tỉ tỉ! Để muội đưa tỉ tỉ vào nghỉ.”

Thanh Thanh mơ hồ nói: “Ta không mệt, ta còn phải xem… Đạo trưởng thua mấy ván rồi?”

Mộc Tang đạo nhân mắng ngay: “Nói bậy!”

Uyển Nhi liền cười nói: “Được rồi, được rồi! Vào nghỉ ngơi một lát đi, rồi chúng ta lại ra xem tiếp.” Nói xong, nàng dìu Thanh Thanh vào phòng mình để nghỉ ngơi.

Đã rất lâu Viên Thừa Chí chưa đánh cờ nên hơi lạ tay. Trong lòng chàng lại đang lo lắng đến cuộc hẹn với vợ chồng họ Quy vào đêm mai, tâm thần không yên ổn nên liên tiếp sai lầm, nhường cả một đám quân cờ cho Mộc Tang đạo nhân. Định thần lại, đột nhiên chàng nghĩ đến một chuyện, bèn hỏi: “Đạo trưởng! Sao đạo trưởng biết cô ấy là nữ nhân?”

Mộc Tang đạo nhân cười ha hả rồi đáp: “Ta và Thôi thúc thúc đã gặp ngươi từ năm ngày trước rồi, nhưng âm thầm quan sát công phu và nhân phẩm của ngươi nên chưa để ngươi gặp. Cẩn thận đấy, ta ăn đám này đây.”

Lão vừa đặt quân cờ xuống vừa nói: “Võ công của ngươi tiến bộ rất nhiều, đã thành cao thủ. Có thể ngươi chưa sánh kịp sư phụ ngươi, nhưng lão đạo này thì không phải đối thủ của ngươi nữa rồi.”

Viên Thừa Chí đứng dậy đa tạ, nói: “Hoàn toàn trông vào ơn chỉ dạy của ân sư và đạo trưởng. Nếu mấy ngày nay đạo trưởng rảnh rỗi, xin dạy cho con mấy chiêu.”

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười nói: “Đúng là hệt như xưa, chơi cờ với ta mà không chịu uổng phí thời gian. Nhưng ta biết dạy ngươi gì nữa? Võ công ngươi đã hơn ta rồi, hay là ngươi dạy ta mấy chiêu đi. Nếu ngươi muốn ta dạy cho mấy đường biến hóa trên bàn cờ này, thế thì còn được.”

Lão càng thắng thế càng đắc ý, lại nói: “Ngươi giỏi võ công chưa đáng nói. Chơi cờ được như ngươi chẳng dễ gì, còn nhân phẩm đoan chính của ngươi lại càng khó kiếm. Một thiếu niên mà có thể không lợi dụng người ta trong bóng tối, đối với thiếu nữ cùng đường vẫn ngay ngắn quy củ, ta và Thôi thúc thúc của ngươi phải khen đến mỏi miệng.”

Viên Thừa Chí hổ thẹn mặt nóng rực lên, thầm nghĩ: “Nếu mình có cử chỉ thân mật với Thanh Thanh, há chẳng bị lão nhìn thấy hết? Sao lão kế bên dò xét, mà bản thân mình hoàn toàn không phát giác? Đủ biết khinh công của lão đạo này cao đến mức nào.”

Đi thêm mấy nước, Mộc Tang đạo nhân đột nhiên đặt một quân cờ vào góc phía tây. Nơi đó là vùng cờ trắng của Viên Thừa Chí, một quân đen đơn độc xâm nhập vào trong là mạo hiểm vô cùng. Lão nói: “Ta hạ quân này là cố ý. Mấy ngày nữa lão đạo phải đi Tây Tạng. Nước cờ này đi vào trọng địa, họa phước ra sao khó mà đoán trước.”

Viên Thừa Chí hiếu kỳ hỏi: “Đạo trưởng đi tới vùng Tây Tạng vạn dặm xa xôi để làm gì?”

Mộc Tang đạo nhân thở dài rồi nói: “Đi tìm đồ. Đó là di vật của tiên sư, tìm không ra cũng không quan trọng gì lắm, nhưng nếu bị người khác lấy được thì cực kỳ không ổn. Giống như chơi cờ phải cố tranh tiên, nếu lão đạo mất đi cơ hội là sẽ thua sạch ván cờ. Thì ra đối phương đã đến đó tìm kiếm mấy năm rồi. Chuyện này ta mới biết mấy ngày, lập tức đi theo.”

Viên Thừa Chí thấy sắc mặt lão lo âu, hoàn toàn không tiêu sái như lúc bình thường, biết chuyến đi này liên quan trọng đại, bèn nói: “Để con cùng đi với đạo trưởng. Bây giờ chúng ta khởi hành luôn.”

Mộc Tang đạo nhân lắc đầu nói: “Không được, không được. Việc này ngươi không giúp được ta đâu.”

Đột nhiên ngoài sảnh có tiếng động nhẹ nhàng, nghe thì biết trên mái nhà có ba người nhảy xuống. Viên Thừa Chí thấy Mộc Tang đạo nhân không lên tiếng nên cũng mặc kệ, tiếp tục chơi cờ.

Mộc Tang đạo nhân nói: “Hành động vừa rồi của sư tẩu ngươi, ta đã thấy hết rồi. Ngươi yên tâm đi. Ngày mai ta sẽ giúp ngươi đối phó với họ.”

Viên Thừa Chí nói: “Con không thể động thủ với sư ca, sư tẩu. Xin đạo trưởng tìm cách hòa giải, để con có thể nhận lỗi.”

Mộc Tang đạo nhân cao giọng nói: “Sợ gì? Cứ động thủ đánh bừa một phen, chưa chắc đã thua. Nếu sư phụ ngươi trách, thì nói là ta bảo ngươi đánh.”

Nói đến đây, trên mái nhà lại thêm bốn người nhảy xuống. Kình phong rít lên, bốn mũi cương tiêu bay vù vào phòng. Mộc Tang đạo nhân không thèm để ý, đưa tay ra chụp hết rồi đặt lên bàn, coi như không có việc gì xảy ra. Bảy người ngoài sảnh đồng thời nhảy vào trong phòng, trên tay đều cầm binh khí.

Mộc Tang đạo nhân hỏi: “Ngươi có thể ăn hết đám quân cờ này không?”

Viên Thừa Chí hiểu ý, đáp: “Để con thử xem.”

Trong bảy người này, hai người tới dìu Thái Bạch Tam Anh đang nằm dưới đất, năm người còn lại thì cầm đao kiếm xông tới.

Viên Thừa Chí bốc một nắm quân cờ ném vãi ra. Những tiếng loảng xoảng vang lên, thì ra cả bảy người đều bị ném trúng huyệt đạo, thả binh khí rơi xuống đất. Mộc Tang đạo nhân gật đầu khen: “Rất tiến bộ, rất tiến bộ!”

Uyển Nhi vừa lo cho Thanh Thanh nằm nghỉ, nghe tiếng binh khí rơi liền chạy ra ngoài, thấy hai người vẫn tập trung tinh thần chơi cờ, còn dưới đất có thêm bảy tên đại hán. Nàng không hỏi nhiều, gọi gia đinh tới, bảo họ lấy dây trói bảy người đó và Thái Bạch Tam Anh lại.

Lúc này quân cờ đen của Mộc Tang đạo nhân đặt vào góc trên phía tây đã bị bao vây trùng điệp, rõ ràng đã vào tuyệt lộ. Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Đạo trưởng đã ví đám cờ này với cuộc hành trình đi Tây Tạng. Nếu ta giết cho tận tuyệt, e rằng chuyến đi này không may mắn.” Chàng suy nghĩ một lúc rồi đặt một quân cờ vào phía đông bắc.

Mộc Tang đạo nhân cười ha hả, tiếp tục đặt thêm quân cờ vào phía tây rồi nói: “Cực kỳ hung hiểm! Quân cờ này đặt xuống là sống được rồi. Ngươi không giết nổi ta, mà ta còn có thể phản kích.”

Mất nửa giờ nữa, hai bên đã đặt hết quân xuống, Viên Thừa Chí thua năm quân. Mộc Tang đạo nhân đắc ý, mỉm cười nói: “Mấy năm nay võ công của ngươi tiến bộ rất nhiều, nhưng kỳ nghệ không tiến triển lắm.”

Viên Thừa Chí cười đáp: “Đó là do những nước đi biến hóa tuyệt diệu của đạo trưởng, con không đỡ nổi.”

Mộc Tang đạo nhân cười ha hả, vui sướng tới tận đáy lòng. Lão tự khoa trương một hồi, rồi mới quay lại bảo Uyển Nhi: “Sai người lục soát bọn này.”

Uyển Nhi gọi gia đinh lục soát cả mười người, lôi ra một mớ thư từ và mấy quyển sổ chép mật khẩu, ám hiệu. Trong đống thư đó, có một lá thư do Cửu vương gia Đa Nhĩ Cổn của Mãn Thanh viết cho Tư lễ thái giám Tào Hóa Thuần trong hoàng cung, đại ý nói quan ải tra xét nghiêm ngặt nên phải phái người đi vòng đường biển đến đây. Những chuyện đại sự cơ mật có thể thương lượng với sứ giả Hồng Thắng Hải cầm lá thư này.

Mộc Tang đạo nhân vô cùng giận dữ, la lên: “Bọn gian tặc này to gan quá rồi. Ngay cả thái giám trong hoàng cung cũng bị chúng mua đứt.”

Chân phải lão phóng ra, chỉ một phát đã đá vỡ óc một tên gian tế. Lão vung chân định đá tiếp, nhưng Viên Thừa Chí vội cản: “Xin đạo trưởng khoan đã, đợi con tra xét rõ ràng.”

Mộc Tang đạo nhân không kìm được giận dữ, muốn xé thư nhưng cũng bị Viên Thừa Chí khuyên ngăn. Lão hậm hực nói: “Thôi thì ta nghe lời ngươi. Nhưng ngày mai phải chơi với ta ba ván cờ.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Nếu đạo trưởng hứng thú thì chơi luôn mười ván cũng không sao.”

Mộc Tang đạo nhân hoan hỉ, theo gia đinh vào trong nghỉ ngơi.

Viên Thừa Chí đọc qua thư từ và sổ ghi ám hiệu mật ngữ, bỗng nảy ra một ý: “Đại thù của gia gia đến nay vẫn chưa trả được. Dựa vào những thứ này, ta có thể xâm nhập hoàng cung để hành thích hôn quân, trả thù cho gia gia.”

Chàng bèn giải huyệt cho một tên, hỏi xem ai là Hồng Thắng Hải. Hắn chỉ một người khoảng hơn ba mươi tuổi, da mặt trắng trẻo.

Viên Thừa Chí giải khai huyệt đạo cho Hồng Thắng Hải để tra hỏi, nhưng tên này quật cường không chịu nói.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Trước mặt đồng bọn, nhất định y không chịu thổ lộ một câu nửa chữ.” Chàng bèn bảo gia đinh dẫn y vào thư phòng, rồi mới nói: “Ta hỏi gì, ngươi phải trả lời thành thật thì còn một con đường sống. Nếu có gì giấu giếm thì ta phải giam ngươi lại cho chết dần mòn.”

Hồng Thắng Hải giận dữ nói: “Yêu đạo kia sử dụng tà pháp mê hoặc người ta, ta dù chết cũng không phục.”

Viên Thừa Chí nói: “Hừ! Ngươi tưởng võ công ngươi cao cường lắm sao? Ngươi là người Hán, lại đi làm nô tài cho bọn phiên bang là tội đáng chết, mà chết cũng chưa hết tội. Nếu ngươi không phục cứ thử tỉ thí với ta. Nếu ngươi thắng, ta sẽ thả ngươi đi. Nếu ngươi thua thì phải khai cho thật.”

Hồng Thắng Hải mừng rỡ nghĩ thầm: “Vừa rồi không biết tại sao huyệt đạo mình đột nhiên tê liệt rồi té nhào, nhất định lão yêu đạo kia đã thi triển yêu pháp. Bây giờ yêu đạo không có ở đây, tên nhóc này làm sao đánh lại ta?” Y bèn gật đầu lia lịa rồi đáp: “Yêu đạo kia dùng yêu pháp, ta thua mà không phục. Nếu ngươi dùng công phu chân thực đánh bại ta, thì bất luận ngươi hỏi gì ta cũng thành thật trả lời.”

Viên Thừa Chí bước tới, đưa tay nắm lấy sợi dây đang trói quanh người y. Chàng mới giật một cái, dây đã đứt thành mấy đoạn.

Hồng Thắng Hải ngẩn người ra. Dây trói y rất to, bện bằng sợi đay. Sau khi huyệt đạo được giải, y đã thầm vận sức giãy giụa để mong tuột khỏi, nhưng càng giãy thì dây thít vào càng chặt. Thế mà thiếu niên này chỉ tiện tay giật một cái là sợi dây đứt ngay.

Tâm lý khinh địch của y bỗng chuyển thành sợ hãi, bèn hỏi: “Chúng ta ra ngoài đi. Tỉ thí binh khí hay quyền cước?”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta dùng quân cờ ném trúng huyệt đạo của ngươi, ngươi lại tưởng đạo trưởng dùng yêu pháp. Thật là tức cười! Xem thân pháp ngươi nhảy vào trong này, đúng là công phu nội gia của phái Thê Hà.”

Hồng Thắng Hải lại càng kinh ngạc, khẽ gật đầu. Lúc y nhảy vào trong sảnh, hai người đang tập trung chơi cờ, mắt cũng không nhìn lên, tưởng như hoàn toàn không phát giác. Nào ngờ hành động y đã lọt vào mắt người ta một cách rõ ràng, ngay cả gia số võ công cũng nói không sai.

Viên Thừa Chí lại nói: “Không cần phải ra ngoài. Cứ ở đây, chúng ta chơi đẩy tay một chút là được rồi.”

Hồng Thắng Hải để hai tay trước ngực, người hơi khom xuống, thủ thế đợi chàng đứng dậy.

Viên Thừa Chí mặc kệ y, cứ mài mực, thấm bút, trải một tờ giấy trắng lên bàn rồi nói: “Ta ngồi đây viết chữ. Viết cái gì đây?”

Hồng Thắng Hải vừa nghe chàng nói là tỉ võ, bây giờ lại thấy chàng viết chữ, kinh ngạc ngồi xuống lại.

Viên Thừa Chí bảo: “Ngươi đừng ngồi xuống.” Chàng đưa tả chưởng ra nói: “Nếu ngươi đẩy được ta lắc lư một cái, chữ viết bị nghiêng hay hỏng nét thì coi như ngươi thắng, lập tức ta thả đi ngay. Nhưng nếu ta viết đầy tờ giấy mà ngươi vẫn chưa đẩy ta nhúc nhích được thì sao?”

Hồng Thắng Hải nói: “So tài như vậy không công bằng lắm.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không sao! Bây giờ ta bắt đầu viết, ngươi cứ xông vào đi.” Chàng đưa tay phải cầm lấy bút, viết bốn chữ: Đại kế khôi phục.

Hồng Thắng Hải vận nội lực xuất chiêu Bàn Sơn Đảo Hải, song chưởng đẩy mạnh vào cánh tay trái Viên Thừa Chí. Y thấy cánh tay chàng hơi nghiêng sang một bên, kình lực của mình đánh vào khoảng không.

Hồng Thắng Hải ra chiêu không trúng, hữu chưởng bèn ép xuống, tả chưởng hất lên, kẹp cánh tay trái Viên Thừa Chí vào chính giữa. Khi trên dưới đều vận sức, cánh tay này dứt khoát phải gãy.

Viên Thừa Chí vẫn viết chữ bằng tay phải, bình thản nói: “Chiêu Thăng Thiên Nhập Địa này hình như là chiêu số của phái Bột Hải ở Sơn Đông? À, đúng là Trảm Giao Quyền. Phái Bột Hải xuất phát từ một chi nhánh của phái Thê Hà. Vậy ngươi ở phái Bột Hải.”

Năm xưa Mục Nhân Thanh dạy võ, từng phân tích tỉ mỉ võ công các nhà các phái đương thời, nên Viên Thừa Chí hiểu biết rất nhiều.

Hồng Thắng Hải nghe chàng nói ra lai lịch võ công của mình không sai một mảy, trong lòng bắt đầu sợ hãi. Lúc này song chưởng của y đã kẹp cánh tay của đối phương vào giữa, liền vận kình lực mấy lần. Nhưng cánh tay này như đúc bằng sắt vậy, hoàn toàn không động đậy.

Viên Thừa Chí nói mấy câu rồi rút tay về. Cánh tay trái chàng như một con cá, lướt ra từ giữa hai bàn tay của Hồng Thắng Hải. Nghe một tiếng “bốp”, hai bàn tay của y thu lại không kịp nên vỗ vào nhau. Hồng Thắng Hải vừa kinh hãi vừa giận dữ, cố thi triển tuyệt học bản môn để tấn công, chẳng khác gì một cơn sóng dữ ào ạt trút lên người Viên Thừa Chí.

Tay phải Viên Thừa Chí vẫn viết không dừng, còn tay trái ung dung tiêu sái đưa lên đưa xuống, hóa giải những chiêu thức đối phương đánh tới. Chàng hoàn toàn không nhìn về phía Hồng Thắng Hải cái nào. Dĩ nhiên, thỉnh thoảng chàng cũng đánh trả một hai đòn, nhưng cánh tay trái chỉ co duỗi đến nách là cùng, toàn thân ổn định không động đậy, không ngửa ra sau mà cũng không chồm tới trước truy kích đối phương.

Hồi lâu, bộ Trảm Giao Quyền của Hồng Thắng Hải đã dùng sắp hết. Viên Thừa Chí nói: “Trảm Giao Quyền của ngươi còn những chín chiêu nữa, thế mà bản văn của ta lại sắp viết xong rồi. Được, ta chờ ngươi một chút. Ngươi đánh một chiêu, ta viết một chữ.”

Hồng Thắng Hải càng kinh hãi hơn, thầm nghĩ: “Sao người này rành rẽ quyền pháp của ta đến thế? Chẳng lẽ y là nhân vật bản môn hay sao? Nhưng chưởng pháp của y vừa kỳ lạ vừa lợi hại, nhất định không phải người phái mình rồi”.

Tám chiêu gần cuối của Trảm Giao Quyền, y thi triển bằng toàn bộ công lực bình sinh, chiêu nào cũng như đao chém hay búa đập, lợi hại phi thường. Lúc này y không mong đánh ngã đối phương nữa, chỉ mong thân hình Viên Thừa Chí lung lay một chút, chữ chàng đang viết có nét bị lệch hay tờ giấy bị vấy mực, là có cớ để thoát thân rồi.

Viên Thừa Chí vừa viết vừa đọc: “Nhưng việc nguy cấp có thể xảy ra, không dám không tấu trình”. Đến chữ “trình”, Hồng Thắng Hải tự biết hai chiêu cuối cùng không thể đẩy ngã đối phương, bèn đột nhiên cúi đầu xuống, rút hai khuỷu tay ra sau, hai vai chĩa ra phía trước, dùng hết sức lực phóng ào tới. Y thầm nghĩ: “Võ công của ngươi có bằng trời, thì cái ghế này cũng phải bị ta đẩy lệch đi!”

Nào ngờ Hồng Thắng Hải vận kình đến tột độ, phát ra không thể thu về kịp, phạm vào đại kỵ của người học võ. Y cảm thấy dưới nách có một luồng đại lực nhấc mình lên, hai chân không ổn định, người ngửa ra sau không thể tự chủ được. Thân hình y lộn mấy vòng trên không, rồi rớt xuống ngồi phệt dưới đất nghe “bình” một tiếng. Hồi lâu y mới hiểu ra mình đã bị đối phương đánh ngã, liền duỗi chân ra đứng dậy.

Ngay lúc đó Tiêu Uyển Nhi bưng đến một cái khay đựng bình trà vào thư phòng rồi nói: “Viên tướng công! Đây là trà Sư Phong Long Tỉnh mới pha, tướng công uống thử một chén.”

Nói xong, nàng đặt khay lên bàn, rót trà cho Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí đón lấy chén trà, thấy nước trà trong xanh như phỉ thúy, hương thơm xông vào mũi. Chàng nhấp một ngụm, cất tiếng khen ngợi: “Trà ngon quá.”

Rồi chàng cầm lấy tờ giấy trên bàn, hỏi: “Tiêu cô nương! Cô xem thử trên tờ giấy này có chữ nào thiếu nét hay viết ẩu không?”

Tiêu Uyển Nhi đón lấy tờ giấy, nhẹ nhàng đọc:

“Đại kế khôi phục, không ngoài những gì thần đã trình tấu năm ngoái: dùng người Liêu giữ đất Liêu, dùng đất Liêu nuôi dân Liêu, thủ hòa để luyện binh, đã đánh là phải thắng, củng cố từng bước không đột biến, tích trữ thật chắc chắn, không hy vọng hão huyền. Đó là những điều mà người canh giữ biên cương có thể thực hiện. Về việc dùng người thì phải danh chính ngôn thuận, không tin thì không dùng, đã dùng thì không được nghi ngờ. Đại thần trong triều vốn hay nghi kỵ tướng soái bên ngoài. Trong quân ngũ cũng có nhiều việc đáng nghi ngờ, nhưng chỉ nên luận đại cục thành hay bại, không nên xoi mói từng chữ từng câu. Lo việc càng trọng đại thì sơ suất càng nhiều. Đó là điều bất lợi cho thần đang canh giữ chốn biên thùy. Ta muốn tiêu diệt địch, địch cũng có kế hoạch ly gián. Bệ hạ yêu thần, hiểu thần, thần không lo sợ. Nhưng việc nguy cấp có thể xảy ra, không dám không tấu trình.”

Ý nghĩa bản văn này, Uyển Nhi hiểu không rõ lắm. Nàng cũng không rành về thư pháp, nhưng thấy khoảng trăm chữ này viết cũng thường thôi. Kết cấu, chương pháp, bố cục, có thể nói là rất thô thiển; nhưng nét nào cũng có lực in sâu vào giấy, không hề cong quẹo hay dơ bẩn chút nào. Nàng bèn nói: “Bút pháp rõ ràng, nét nào cũng ngay ngắn. Bản văn này là gì vậy?”

Viên Thừa Chí nói: “Đây là một tấu chương trình lên Hoàng thượng của Viên đốc sư năm trước, trong lúc canh giữ Kế Liêu.”

Tiêu Uyển Nhi khen: “Viên tướng công thật văn võ toàn tài, lưu ý đến việc biên cương. Ngay cả những tấu chương này cũng thuộc lòng hết.”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Ta chỉ đọc mấy bài thôi. Đó là những bài ta học thuộc lòng từ hồi nhỏ.”

Năm xưa Viên Sùng Hoán canh giữ đất Liêu, ngăn chống Mãn Châu xâm nhập. Ông biết tính cách vua Sùng Trinh đa nghi, thường nghe bọn tiểu nhân khiêu khích ly gián, nên mới viết bản tấu chương này. Sau này quả nhiên Sùng Trinh đã trúng kế phản gián của Hoàng Thái Cực ở Mãn Châu. Sùng Trinh vốn đã kiêng sợ Viên Sùng Hoán, bây giờ lại tin lời sàm tấu của bọn gian thần, bèn cho giết ông. Những chuyện Viên Sùng Hoán lo sợ nghi ngờ, không may là ông nghi đúng cả.

Hồi Viên Thừa Chí còn nhỏ, Ưng Tùng dạy chàng đọc sách viết chữ, đã đem những bài tấu chương của phụ thân chàng là Viên Sùng Hoán ra giảng giải tường tận. Ngoài những bài ấy ra, chàng học hành không nhiều. Bây giờ phải viết chữ, lại nghĩ đến mưu đồ của Mãn Châu ngày càng hung bạo, biên cương thiếu tướng tài canh giữ, nên tiện tay viết bài này.

Tiêu Uyển Nhi nói: “Bản thư pháp này, Viên tướng công cho muội xin.”

Viên Thừa Chí nói: “Chữ của ta rất tệ, vừa rồi vì đánh đố với ông bạn này mà viết chơi thôi. Tiêu cô nương cần thì cứ lấy, nhưng nhất định đừng để người có học vấn nhìn thấy, kẻo người ta chê cười.”

Tiêu Uyển Nhi cảm tạ, cẩn thận thu cất rồi ra khỏi thư phòng.

Viên Thừa Chí hỏi Hồng Thắng Hải: “Cửu vương gia Mãn Châu phái ngươi đi gặp Tào Hóa Thuần thương lượng việc gì vậy?”

Hồng Thắng Hải ấp úng không đáp.

Viên Thừa Chí hỏi: “Vừa rồi không phải chúng ta đã đánh cuộc hay sao? Ngươi đâu có đẩy ngã ta?”

Hồng Thắng Hải nhỏ nhẹ nói: “Tướng công võ nghệ kinh người, tại hạ chưa từng nghe chưa từng thấy, thật vô cùng bái phục.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi sờ thử xương sườn thứ hai trước ngực, xem có cảm giác gì không?”

Hồng Thắng Hải đưa tay sờ rồi kinh hãi nói: “Chỗ đó hoàn toàn tê liệt, không có chút cảm giác nào.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Còn dưới nách phải thì sao?”

Hồng Thắng Hải sờ một cái, đột nhiên la lên một tiếng rồi đáp: “Không sờ thì không thấy gì, nhưng sờ vào thì đau đến không chịu nổi.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Vậy là đúng rồi.” Chàng rót một tách trà, vừa uống trà vừa lật sách trên bàn ra đọc, không đếm xỉa gì đến y nữa.

Hồng Thắng Hải muốn đi nhưng lại không dám. Lát sau y ngẩng lên, hỏi Viên Thừa Chí: “Tướng công thả tại hạ đi ư?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tự ngươi đến đây, ta đâu có mời ngươi? Nếu ngươi muốn đi, ta cũng không giữ khách đâu.”

Hồng Thắng Hải cả mừng, quỳ xuống khấu đầu thi lễ rồi nói: “Tiểu nhân không dám quên ân đức của tướng công.”

Viên Thừa Chí gật đầu, tiếp tục đọc sách.

Hồng Thắng Hải đi tới cửa thư phòng, đột nhiên sợ mình đi ra sẽ có người cản trở, bèn xô cửa sổ nhảy ra ngoài. Y quay đầu lại, thấy Viên Thừa Chí vẫn đang đọc sách, không có vẻ gì muốn đuổi theo, bèn yên tâm nhảy lên mái nhà rồi chạy mất.

*

*   *

Từ khi Viên Thừa Chí cứu cha mình thoát khỏi đại nạn, Tiêu Uyển Nhi đã cảm kích tận đáy lòng. Nàng nghĩ: “Chàng võ nghệ kinh người, từ nay về sau chắc mình không còn cơ hội báo đáp”. Vì thế, nhân lúc chàng còn ở lại nhà mình mấy ngày, nàng tận tâm săn sóc cho chàng.

Bây giờ đã hết canh ba, tuy đêm đã khuya nhưng nàng vẫn đi qua đi lại mấy lần trước cửa thư phòng. Thấy trong khe cửa vẫn còn ánh sáng rọi ra, biết chàng chưa ngủ, nàng bèn sai tỳ nữ làm mấy món lót dạ, đích thân bưng tới. Nàng khẽ gõ cửa rồi đẩy cửa đi vào, thấy Viên Thừa Chí đang cầm quyển Trung Nghĩa Thủy Hử Truyện mà đọc say mê.

Tiêu Uyển Nhi lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công chưa nghỉ hay sao? Xin dùng một ít điểm tâm rồi đi nghỉ đi, có được hay không?”

Viên Thừa Chí đứng dậy, cảm ơn rồi nói: “Cô nương đi nghỉ trước đi, không cần lo lắng cho ta. Ta phải ở đây đợi một người.”

Nói đến đó, đột nhiên cửa sổ động đậy rồi có người nhảy vào. Tiêu Uyển Nhi kinh hãi, nhìn lại thì ra Hồng Thắng Hải. Y quỳ ngay trước mặt Viên Thừa Chí, nói: “Viên đại anh hùng! Tiểu nhân biết lỗi rồi, xin anh hùng cứu mạng.”

Viên Thừa Chí ra hiệu bảo y dậy. Hồng Thắng Hải vẫn quỳ không chịu dậy, lại nói: “Từ nay về sau, tiểu nhân nhất định sửa chữa lỗi lầm, đái công chuộc tội. Cầu xin Viên đại anh hùng tha mạng.”

Uyển Nhi đứng bên mở to cặp mắt, hoàn toàn không hiểu.

Viên Thừa Chí đưa tay đỡ, Hồng Thắng Hải không tự chủ được phải lộn đi một vòng rồi ngã ngồi xuống. Y tiện tay sờ vào dưới nách, lập tức tỏ vẻ vui mừng, rồi sờ vào dưới ngực, ủ rũ trở lại.

Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi hiểu rồi chứ?”

Hồng Thắng Hải suy nghĩ một chút, hiểu ý Viên Thừa Chí liền nói: “Viên đại anh hùng muốn hỏi gì, tiểu nhân xin nói thật. Vừa rồi tiểu nhân từng nói, nếu tỉ võ bị thua thì không dám giấu giếm việc gì.”

Tiêu Uyển Nhi biết hai người có việc cơ mật cần bàn, bèn cáo từ lùi ra.

Thì ra sau khi được thả, Hồng Thắng Hải trốn khỏi nhà họ Tiêu rồi gấp rút chạy về. Y cởi áo ra, thấy trước ngực mình có một đốm đỏ to khoảng đồng tiền, sờ vào không có cảm giác gì. Dưới nách lại có ba chấm đen như ba hạt đậu, hễ chạm vào là đau kịch liệt. Đúng là trong lúc động thủ, y đã bị nội lực của đối phương đả thương mà không tự biết.

Y vội ngồi xếp bằng trên giường, vận nội công để trị thương. Không vận thì thôi, hễ vận nội tức thì dưới nách đau thấu tâm can, phải nằm xuống nghỉ. Nằm yên thì không sao cả. Liên tiếp ba lần như vậy, y nghĩ đến võ công Viên Thừa Chí cao thâm, có thể dùng nội lực vô hình đả thương người khác khó mà chữa trị; càng nghĩ càng kinh sợ không nén nổi, nên phải quay lại đây cầu cứu.

Viên Thừa Chí nói: “Ngươi bị thương hai chỗ. Chỗ đau đớn thì ta đã trị cho ngươi rồi. Còn một chỗ, trước mắt không có cảm giác gì. Ba tháng sau, vùng mất cảm giác từ từ lan rộng ra, đến khi trái tim bị tê liệt là xong.”

Hồng Thắng Hải lại quỳ rạp xuống đất, dập đầu lia lịa.

Viên Thừa Chí nghiêm trang hỏi: “Ngươi đầu hàng Mãn Thanh, đi làm Hán gian, tội này lẽ ra không tha được. Ta hỏi ngươi, ngươi muốn chuộc tội hay không?”

Hồng Thắng Hải cúi đầu, vừa rơi nước mắt vừa nói: “Tiểu nhân cũng có lúc tự vấn lương tâm, cũng có lúc cảm thấy tội lỗi với tổ tiên. Tướng công cho tiểu nhân một con đường sửa lỗi, phục sinh thành con người mới, thật là ơn bằng phụ mẫu. Tiểu nhân cũng không phải tự mình muốn vậy, chỉ vì năm xưa bị ép đến không còn đường sống, nên mới sai lầm như thế.”

Viên Thừa Chí thấy y ra vẻ thành khẩn, bèn bảo: “Ngươi đứng dậy đi!” Chàng chậm rãi hỏi: “Ai đã ép ngươi đến không còn đường sống?”

Hồng Thắng Hải nghiến răng nói: “Là Quy nhị nương và Tôn Trọng Quân, hai thầy trò phái Hoa Sơn.”

Viên Thừa Chí bị bất ngờ, hỏi lại: “Cái gì? Là hai người đó ư?”

Hồng Thắng Hải biến sắc mặt, hỏi: “Tướng công quen biết họ hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta vừa đánh nhau với họ.”

Hồng Thắng Hải nghe vậy, nửa mừng nửa lo. Mừng vì đại cao thủ này là đối thủ của hai thầy trò đó, lo vì họ cũng đang ở Nam Kinh, oan gia ngõ hẹp rất dễ gặp nhau. Y bèn nói: “Hai mụ này bản lãnh không tệ, nhưng chắc chắn không phải là đối thủ của tướng công. Nhưng họ lòng dạ hung ác, việc gì cũng dám làm, tướng công phải cẩn thận một chút.”

Viên Thừa Chí “hừ” một tiếng rồi hỏi: “Tại sao họ phải ép ngươi?”

Hồng Thắng Hải ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Thật không dám giấu, tiểu nhân vốn ở vùng biển Sơn Đông, làm nghề buôn không vốn. Trong đám bằng hữu có một người nghĩa huynh si mê Tôn Trọng Quân, ngỏ lời cầu hôn cô ả. Ả không chịu thì thôi, lại còn rút kiếm ra xẻo mất hai tai huynh ấy. Tiểu nhân bất bình, bèn hẹn mấy chục người đi bắt cóc cô ả, định ép ả thành thân với nghĩa huynh. Không ngờ sư phụ của ả là Quy nhị nương đêm đó đến kịp, mỗi kiếm một người, đâm chết sạch cả nghĩa huynh lẫn bao nhiêu bằng hữu khác. Tiểu nhân may mắn chạy nhanh trốn thoát, giữ được cái mạng này.”

Viên Thừa Chí nói: “Bắt cóc người ta để ép hôn, thế thì ngươi có lỗi trước.”

Hồng Thắng Hải nói: “Tiểu nhân cũng biết mình lỗ mãng gây ra đại họa, nên sau khi chạy thoát không dám thò mặt ra ngoài. Nào ngờ họ điều tra được chỗ ở của tiểu nhân, liền tới giết sạch cả mẹ già bảy mươi tuổi, vợ và ba đứa con của tiểu nhân, không chừa lại một mạng nào.”

Viên Thừa Chí thấy y vừa nói vừa chảy nước mắt ròng ròng, biết chuyện này không dối, liền khẽ gật đầu.

Hồng Thắng Hải nói tiếp: “Tiểu nhân đánh không lại họ, nhưng thù này không thể không trả. Không trả mối thù này thì nỗi hận không sao tiêu được. Tiểu nhân ở Trung Nguyên không còn đường sống, biết sớm muộn gì cũng bị hai mụ chằn này tìm ra giết bỏ. Nhất thời nghĩ quẫn, tiểu nhân liền đến Liêu Đông, dựa dẫm vào Cửu vương gia…” Nói đến đây, y ra vẻ vừa tức giận vừa hối hận.

Viên Thừa Chí nói: “Họ giết mẹ và vợ con của ngươi, tuy rằng quá đáng nhưng nguyên nhân là ngươi có lỗi trước. Hơn nữa đây chỉ là việc tư thù, sao ngươi lại đi đầu hàng Mãn Thanh, cam chịu làm Hán gian?”

Hồng Thắng Hải nói: “Cầu mong Viên đại anh hùng giúp tiểu nhân trả mối thù này. Anh hùng muốn sai bảo tiểu nhân việc gì cũng được.”

Viên Thừa Chí nói: “Trả thù ư? Suốt đời ngươi đừng nghĩ đến nữa. Võ công Quy nhị nương đã cực cao, chồng của bà ấy là Thần Quyền Vô Địch lại còn giỏi hơn. Ông ấy là sư huynh của ta. Ta hỏi ngươi, Cửu vương gia sai ngươi đi gặp Tào thái giám để làm gì?”

Hồng Thắng Hải nói: “Cửu vương gia dặn tiểu nhân bảo Tào thái giám kể cho nghe mọi việc lớn nhỏ trong triều đình, sau đó về trình báo lại.”

Viên Thừa Chí lại hỏi: “Tào Hóa Thuần làm đến chức Tư Lễ Thái Giám, đã là đầu lĩnh trong bọn thái giám rồi. Hắn đầu hàng Mãn Thanh là có mưu đồ gì? Đa Nhĩ Cổn hứa cho hắn cái gì? Chẳng lẽ cho nhiều hơn hoàng đế được sao?”

Hồng Thắng Hải nói: “Cửu vương gia Mãn Thanh chỉ hứa với hắn một việc: sau này tấn công vào Bắc Kinh không chém đầu hắn và cho hắn giữ lại gia sản. Nếu hắn không làm nội ứng, khi phá được Bắc Kinh sẽ chém hắn ngàn vạn nhát đao.”

Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu, bèn nói: “Thì ra Tào thái giám chịu làm Hán gian chỉ vì sợ chết, sắp xếp đường lùi trước cho mình.”

Hồng Thắng Hải đáp: “Đúng vậy.”

Viên Thừa Chí thở ra một hơi rồi nói: “Rất nhiều người sợ chết, sợ mất gia tài, sợ mất vinh hoa phú quý. Nếu bảo toàn được tính mạng tài sản cho họ, thì bảo họ làm gì họ cũng chịu làm.”

Nói tới đây chàng nhìn Hồng Thắng Hải nghĩ thầm: “Người này cũng sợ chết, cũng vì muốn giữ tính mạng mà chịu làm bất cứ việc gì. Việc xấu hắn đã chịu làm, nói gì đến việc tốt.” Chàng bèn nói: “Bây giờ ngươi muốn cải tà quy chính làm người tốt, hay muốn chờ ba tháng rồi chết?”

Hồng Thắng Hải đáp ngay: “Xin Viên anh hùng chỉ cho một con đường sáng. Phải làm bất cứ việc gì, tiểu nhân cũng không dám từ chối.”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Ngươi đi theo làm tùy tùng cho ta.”

Hồng Thắng Hải vô cùng mừng rỡ, quỳ xuống đất khấu đầu ba cái.

Viên Thừa Chí bảo: “Sau này ngươi đừng gọi ta là anh hùng gì gì nữa.”

Hồng Thắng Hải đáp: “Vâng! Tại hạ xin gọi là tướng công.”

Y mừng rỡ nghĩ thầm: “Được đi theo ông ấy thì không sợ hai mụ nữ tặc Quy nhị nương và Tôn Trọng Quân tới giết mình. Ba tháng sau vết thương phát tác, nhất định ông ấy không phủi tay đứng nhìn.” Y lập tức yên tâm, lòng dạ thoải mái hẳn đi. Trước đây làm gian tế cho Mãn Thanh, y thường bứt rứt ăn ngủ không yên, bây giờ như đã cất đi được một tảng đá lớn trong lòng, sự thoải mái không thể nào nói hết.

Viên Thừa Chí bận rộn suốt ngày đêm, bây giờ mới vào phòng nghỉ ngơi. Chàng bảo Hồng Thắng Hải ngủ chung một phòng, cho y nằm dưới đất. Hồng Thắng Hải thấy Viên Thừa Chí tín nhiệm mình, hoàn toàn không đề phòng gì cả, lại càng thêm cảm kích.

Thật ra, Viên Thừa Chí đã dùng Hỗn Nguyên Công đả thương y, biết y phải nhờ mình giải cứu. Nếu y hại mình, cũng là hại chính y.

Hồi 10: Bất truyền, truyền bách biến – Vô địch, địch ngàn chiêu

Ngày hôm sau Viên Thừa Chí ngủ đến khi mặt trời lên ba sào mới chịu thức dậy. Tiêu Uyển Nhi đích thân bưng chậu rửa mặt và đồ điểm tâm vào phòng. Viên Thừa Chí vội đứng dậy đa tạ. Hồng Thắng Hải ở bên phục vụ cho Viên Thừa Chí.

Vừa rửa mặt xong, Mộc Tang đạo nhân đã cầm bàn cờ, Thanh Thanh cầm gói quân cờ, hai người cùng vào trong phòng. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Hai người mê ngủ quá, mãi đến giờ này mới chịu thức dậy, bắt đạo trưởng chờ đợi nóng ruột đến phát điên. Mau mau dậy chơi cờ đi.”

Viên Thừa Chí nhìn nàng một cái, rồi mỉm cười. Thanh Thanh hỏi: “Cười cái gì vậy?”

Chàng vừa cười vừa hỏi lại: “Đạo trưởng cho Thanh đệ cái gì mà Thanh đệ ra sức giúp đạo trưởng tìm đối thủ?”

Thanh Thanh đáp: “Đạo trưởng vừa dạy cho muội một công phu. Công phu này rất kỳ diệu, người ta dùng tay đánh chân đá mình, mình chỉ cần chơi trò rượt bắt, chạy bên này né bên kia là người ta đừng hòng đánh trúng.”

Viên Thừa Chí chợt động tâm, liếc nhìn Mộc Tang đạo nhân, thấy lão đã nhặt hai quân cờ đen đặt lên góc bàn cờ, trên tay cầm một quân nữa gõ nhẹ lên bàn cờ phát ra những tiếng tinh tang, khóe miệng lộ ra một nét cười. Lúc trước chơi cờ trên Hoa Sơn, Viên Thừa Chí đã từng nhường Mộc Tang ba nước, nhưng bây giờ thì chơi ngang tay.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Cuộc hẹn với Nhị sư ca, Nhị sư tẩu ở Ngũ Hoa Đài đêm nay, không thể không đi. Nhìn thần sắc của Nhị sư tẩu, e rằng không thể không động thủ, mà mình lại không thể đánh với họ. Nhị sư ca xưng danh là Thần Quyền Vô Địch, mình dốc toàn lực cũng chưa chắc thắng. Giả tỉ nhường nhịn thì chắc chắn bị trọng thương, sơ sót thì mất luôn cả mạng. Đạo trưởng truyền thụ võ công cho cô ấy, hình như có thâm ý sâu xa.” Chàng bèn nói: “Chơi cờ thì chơi, nhưng đạo trưởng phải truyền cho con công phu đó mới được.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Được rồi! Ai có mặt, người đó có phần. Thế là ca ca hiểu biết quy luật trong hắc đạo rồi.”

Nói giỡn mấy câu rồi Viên Thừa Chí ngồi xuống chơi cờ với Mộc Tang đạo nhân. Lúc này chàng cũng đã ít nhiều từng trải giang hồ, không hiếu thắng như thuở nhỏ nữa, đương nhiên hạ thủ lưu tình để Mộc Tang đạo nhân thắng cho khoái chí.

Sau bữa cơm trưa, Viên Thừa Chí cùng Thôi Thu Sơn ngồi ôn lại những chuyện từ lúc xa nhau. Viên Thừa Chí thì biết thế lực Sấm Vương mở rộng, không bao lâu sẽ tấn công vào kinh thành; còn Thôi Thu Sơn thì thấy người bạn nhỏ năm xưa đã học võ thành tài, cả hai đều cảm thấy vui mừng. Lát sau họ lại nói đến chuyện Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ mất vàng.

Thanh Thanh không ngớt ra hiệu với Viên Thừa Chí, gọi chàng ra. Thôi Thu Sơn mỉm cười nói: “Bạn ngươi gọi kìa, mau mau tới đi.”

Viên Thừa Chí đỏ ửng mặt lên, không vui lắm nhưng cũng rời khỏi đó. Thôi Thu Sơn cười cười đứng dậy đi chỗ khác.

Thanh Thanh cười nói: “Qua đây nhanh lên, để muội dạy lại công phu của đạo trưởng cho. Lúc đạo trưởng dạy cho muội, muội chẳng hiểu gì, nhưng đạo trưởng bảo là cố gắng nhớ lấy, sau này sẽ hiểu. Muội sợ để lâu lại quên mất hết.”

Nàng vừa nói vừa dùng tay chỉ trỏ, đem bộ khinh công tuyệt đỉnh Thần Hành Bất Biến của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ lại cho Viên Thừa Chí.

Khinh công và ám khí của Mộc Tang đạo nhân đã độc bộ thiên hạ, pho khinh công Thần Hành Bất Biến này lại càng ảo diệu nhất. Trước đây trên núi Hoa Sơn, võ học của Thừa Chí còn nông cạn, không thể lãnh hội được, nên lão chưa dạy cho chàng.

Võ công Thanh Thanh tuy không giỏi lắm, nhưng trí nhớ của nàng cực tốt, suy nghĩ lại linh hoạt, biết Mộc Tang đạo nhân dạy mình là phụ, dạy cho Thừa Chí mới là chuyện chính. Nàng không hiểu tại sao lão phải bắt mình làm trung gian, nhưng đã cố gắng nhớ như chôn vào ruột, bây giờ nàng lặp lại y khuôn từng khẩu quyết, cách vận khí và bộ pháp. Viên Thừa Chí càng nghe càng lộ vẻ vui thích ra mặt.

Viên Thừa Chí đã tập luyện khinh công của Mộc Tang đạo nhân nhiều năm rồi. Bộ khinh công Thần Hành Bất Biến này biến hóa ảo diệu hơn nhiều, cần nội công thâm hậu để làm nền tảng, nhưng đạo lý cơ bản so với những môn khinh công trước đây chàng đã học thì không khác lắm. Lúc này võ công chàng đã có nhiều tiến bộ, nên vừa nghe yếu quyết là lãnh hội được ngay.

Có mấy chỗ Thanh Thanh không hiểu kỹ, Thừa Chí hỏi lại không biết đường trả lời, nàng phải chạy vào trong để hỏi Mộc Tang đạo nhân. Đến khi nàng lặp lại lần thứ hai thì Thừa Chí đã hoàn toàn hiểu rõ, lập tức chiếu theo khẩu quyết mà tập luyện trong đại sảnh.

Pho khinh công này chuyển biến thật là linh hoạt, giống như cá đang bơi trong nước vậy. Khi động thủ với người khác, nếu chỉ mong bảo vệ bản thân mình thì binh khí quyền cước của đối thủ không sao chạm vào được. Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu dụng ý của Mộc Tang đạo nhân. Nhưng chàng biết võ công của Nhị sư ca rất tinh tuyền. Năm trước sư phụ từng nói, Đại sư ca là người hoạt kê hay đùa giỡn, không tránh khỏi có phần không chắc chắn. Còn Nhị sư ca thì thâm trầm mộc mạc, dụng công rèn luyện nên võ công rất có căn bản. Nhất định công lực của Nhị sư ca hơn hẳn Đại sư ca. Công phu này mới luyện chưa nhuần nhuyễn, chưa chắc đã tránh né thành công.

Viên Thừa Chí ngẫm nghĩ hồi lâu, đột nhiên nhớ đến lần đầu sư phụ truyền thụ võ công cho mình, dạy bộ Thập Đoạn Cẩm. Lúc đó chàng dùng hết sở học bình sinh cũng không sờ được chéo áo của sư phụ. Thần Hành Bất Biến của Mộc Tang đạo nhân linh hoạt vô cùng, nhưng từ đầu đến cuối đều là những chiêu tránh né, không hề phản kích. Do đó đối phương chẳng phải kiêng nể gì hết. Nếu kết hợp với công phu bản môn để cùng sử dụng, trong phòng ngự lại có tấn công, nhất định đối thủ phải phân tâm chia sức ra thủ thế. Lúc đó phòng ngự sẽ có hiệu quả hơn.

Viên Thừa Chí ngồi trong thư phòng nhắm mắt trầm tư, suy niệm lại từng chiêu thức một. Mọi người đều giữ ý không vào quấy nhiễu chàng. Đến khoảng giờ Thân, chàng đã nghĩ thông suốt hết, nhưng vẫn ngại có gì trục trặc nên muốn thử luyện tập một phen. Chàng bèn nhờ Tiêu Uyển Nhi cùng mười mấy huynh đệ, mỗi người xách một thùng nước lớn, đứng vây quanh luyện võ trường, mình đứng vào chính giữa rồi giơ tay làm hiệu.

Mọi người xung quanh dùng gáo múc nước, nhắm chàng mà tạt. Chàng hết nhảy lên lại hạ xuống, tránh tả né hữu, đến khi mười mấy thùng nước tạt hết, chỉ có tay áo bên phải và chân bên trái hơi ướt một chút. Mọi người đều bước lên khen tặng, chúc mừng chàng lại luyện thành một tuyệt kỹ mới.

Mộc Tang đạo nhân mặc kệ, cứ nằm ngáy o o trong phòng như chẳng biết gì.

Ăn tối xong, Viên Thừa Chí đi phó ước ở Ngũ Hoa Đài. Cha con Tiêu Công Lễ, Tiêu Uyển Nhi muốn đi theo để giải thích, Thanh Thanh thì muốn đi theo trợ giúp, nhưng Viên Thừa Chí đều lựa lời từ chối.

Thanh Thanh dẩu môi, ra vẻ không hài lòng. Viên Thừa Chí bèn nói: “Họ là sư ca, sư tẩu của ta. Tối nay ta chỉ bị đòn, không thể đánh trả được. Nếu Thanh đệ nhìn thấy tất sẽ nổi giận, há chẳng làm hỏng việc của ta?”

Thanh Thanh hỏi: “Huynh nhường họ ba chiêu là được rồi, chẳng lẽ không đánh trả từ đầu chí cuối?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta sẽ đem công phu của Thanh đệ mới dạy ra áp dụng, xem thử sư ca sư tẩu có đánh trúng hay không.”

Thanh Thanh vỗ tay mỉm cười nói: “Thế thì Thanh đệ lại càng phải đi, chính mắt xem tên đồ đệ ngoan ngoãn biểu diễn võ công. Huynh sợ Thanh đệ đắc tội với sư ca sư tẩu của huynh, thì Thanh đệ không nói một câu nào là xong.”

Thừa Chí mỉm cười hỏi: “Thanh đệ chịu giả câm hay sao?”

Thanh Thanh đáp: “Muội không giả vờ. Muội bẩm sinh đã bị câm.” Rồi nàng quơ tay ra dấu, miệng ú ớ giống hệt người câm. Thừa Chí phì cười, đành phải để nàng đi cùng.

Chàng vào trong cáo từ Mộc Tang đạo trưởng, nhưng thấy lão nằm trên giường quay mặt vào tường, kêu mấy tiếng vẫn không dậy. Thôi Thu Sơn thì đi đâu từ trước rồi.

*

*   *

Hai người mượn nhà họ Tiêu hai con ngựa khỏe, khoảng canh hai đã tới Ngũ Hoa Đài, thấy bốn phía không có ai, liền xuống ngựa chờ đợi. Đợi khoảng nửa giờ, thấy phía đông có hai người chạy tới. Họ vỗ tay hai tiếng, Thừa Chí vỗ tay trả lời. Một người hỏi: “Viên sư thúc đến chưa?”

Nghe giọng biết là Lưu Bội Sinh, Viên Thừa Chí bèn đáp: “Ta đang ở đây chờ sư ca, sư tẩu.”

Lưu Bội Sinh cùng Mai Kiếm Hòa vừa đến gần, xa xa lại có tiếng một nữ nhân la lên: “Hay lắm! Thì ra ngươi đã đến.”

Nói vừa dứt câu, hai bóng người đã chạy tới trước mặt. Thanh Thanh giật mình nghĩ bụng: “Thân pháp hai người này nhanh quá”.

Mai và Lưu bước ra một bước nhường chỗ cho hai bóng người đó xông vào vòng chiến, đúng là vợ chồng Quy Tân Thụ và Quy nhị nương. Từ xa lại có người chạy tới, Viên Thừa Chí nhìn dáng dấp biết là Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân. Công phu của ả kém sư phụ sư nương rất nhiều, chạy một hồi lâu mới đến nơi. Trên tay ả đang ẵm một đứa bé, chính là con của vợ chồng họ Quy.

Quy nhị nương lạnh lùng nói:

“Viên gia đúng là người giữ chữ tín. Vợ chồng ta còn việc quan trọng phải làm, đừng mất thời gian. Ra chiêu ngay đi.”

Viên Thừa Chí khom người thi lễ, cung kính nói: “Hôm nay tiểu đệ đến đây thỉnh tội sư ca, sư tẩu. Tiểu đệ đã làm gãy thanh bảo kiếm của sư tẩu, nhưng lúc đó thật sự không biết nên mới mạo muội. Xin sư ca sư tẩu nể mặt sư phụ mà rộng lòng bao dung.”

Quy nhị nương cười nhạt rồi nói: “Ngươi có phải là sư đệ của chúng ta hay không, bây giờ chưa biết. Qua chiêu rồi hẵng nói.”

Viên Thừa Chí vẫn thoái thác không chịu ra tay. Quy nhị nương thấy chàng cứ nhịn hoài, bèn nghĩ: “Nếu không phải đồ giả mạo, sao lại hèn nhát run sợ đến thế?” Mụ đột nhiên đưa tay trái lên, từ trên vỗ xuống.

Viên Thừa Chí vội ngửa người ra sau cho chưởng phong lướt qua trên đầu mũi, nghĩ thầm: “Không ngờ bà ta là nữ nhân mà chưởng pháp lợi hại như thế.”

Quy nhị nương đánh một chưởng không trúng, tay trái lại đưa lên, thi triển một chiêu trong Phá Ngọc Quyền của phái Hoa Sơn.

Loại quyền pháp này Viên Thừa Chí đã thuộc nằm lòng, nắm chắc phần thắng nên thõng hai tay xuống, ép sát vào người, tỏ ý tuyệt đối không đánh trả. Chàng lắc người một cái, triển khai khinh công Thần Hành Bất Biến dung hòa với công phu Thập Đoạn Cẩm, tìm chỗ sơ hở mà chạy qua chạy lại dưới cơn mưa quyền cước của Quy nhị nương. Mụ càng điên tiết, đánh luôn mười mấy chiêu liên hoàn gấp rút, thế như gió bão, nhưng đều bị chàng uốn mình tránh khỏi.

Quy Tân Thụ đứng bên nhìn thấy không khỏi kinh ngạc, thầm nghĩ: “Võ công của thiếu niên này sao lại tinh diệu như thế? Khinh công của hắn đúng là thân pháp bản môn, nhưng lại có mấy chỗ khác hẳn. Chẳng lẽ hắn là gian đồ phái khác, không hiểu làm cách nào học lén được võ công thượng thừa của bản môn?” Y lập tức chăm chú tinh thần theo dõi, chỉ sợ vợ mình bị thiệt thòi.

Quy nhị nương thấy Viên Thừa Chí không đánh trả, nghĩ thầm: “Ngươi coi thường ta như thế, phải cho ngươi biết mùi lợi hại!” Song quyền mụ vung lên như gió, càng đánh càng nhanh. Đối phương không đánh trả nên mụ hoàn toàn không cần phòng thủ, chiêu nào thức nào cũng là chiêu thức tấn công.

Viên Thừa Chí âm thầm kêu khổ, không ngờ lộ Phá Ngọc Quyền được Nhị sư tẩu sử dụng lợi hại như vậy, lại chỉ tấn công chứ không phòng thủ nên oai lực càng tăng. Chàng nghĩ bụng: “Tới lúc né tránh không nổi nữa, không chừng ta phải đưa tay ra mà đỡ mấy chiêu.”

Tôn Trọng Quân thấy Viên Thừa Chí buông thõng hai tay, mặc kệ cho sư nương mình công kích, nhưng đánh mãi cũng không trúng chiêu nào. Ả càng xem càng tức, liếc qua thấy Thanh Thanh đứng bên đang vui vẻ mỉm cười, bèn lập tức giao tiểu sư đệ trong tay cho Mai Kiếm Hòa, rút soạt trường kiếm tung người nhảy đến, đâm vào trước ngực Thanh Thanh.

Thanh Thanh giật mình, vội vàng né tránh. Nàng nghe lời Viên Thừa Chí dặn dò nên phen này không mang theo binh khí. Tôn Trọng Quân chém thêm mấy kiếm vun vút, tay chân Thanh Thanh lập tức loạng choạng. Võ công nàng vốn đã không bằng Tôn Trọng Quân, huống hồ lúc này tay không lại càng nguy hiểm muôn phần.

Viên Thừa Chí nghe nàng kinh hãi la lên, rất muốn chạy tới cứu viện, nhưng bị Quy nhị nương trói buộc không sao thoát ra được.

Quy Tân Thụ nhìn Tôn Trọng Quân, quát bảo: “Đừng hại mạng người ta.”

Tôn Trọng Quân nói: “Sư phụ! Tên này chính là con trai của Kim Xà Lang Quân. Hắn thiếu niên khinh bạc, từng gây họa rất nhiều.”

Quy Tân Thụ từng nghe võ lâm Giang Nam nói Kim Xà Lang Quân ra tay ác độc chẳng tử tế gì, nên không nói gì nữa. Tôn Trọng Quân thấy sư phụ thầm cho phép, nên ra chiêu vừa cấp bách vừa hiểm độc hơn. Bạch quang nháy động liền liền, rõ ràng Thanh Thanh sắp mất mạng trong khoảnh khắc.

Viên Thừa Chí thấy tình thế gấp rút, đột nhiên tung hai chân lên. Hai tay chàng vẫn ép vào bên hông, nhưng hai chân liên hoàn, trái trước phải sau đá liền sáu cước. Cả sáu cước đều sắp chạm vào người Quy nhị nương là lập tức thu hồi, ép mụ lùi luôn sáu bước. Nhờ đó mà Viên Thừa Chí thoát khỏi sự quấy rầy của Quy nhị nương.

Chàng tung người lên không, phóng lên phía trước, chĩa hai ngón tay trái ra điểm tới sau lưng Tôn Trọng Quân, toan đoạt lấy trường kiếm trong tay ả. Đột nhiên kế bên có một tiếng hú dài, kình phong quét tới ngang hông rất gấp. Thừa Chí không kịp tấn công nữa, phải lo đỡ đòn trước. Chàng đưa hữu chưởng móc lấy cổ tay người đó, tiện tay kéo tới. Nào ngờ người kia không nhúc nhích gì, còn chính chàng lại bị đẩy hất ra ngoài.

Viên Thừa Chí từ khi xuống núi đến nay chưa từng gặp ai có công lực đến thế. Chàng biết Nhị sư huynh đã xuất thủ, không khỏi kinh hãi nghĩ bụng: “Mình đã biết võ công của Nhị sư ca không phải tầm thường, nhưng không ngờ thân hình huynh ấy ốm nhỏ như vậy mà kình lực phi thường.”

Khi Viên Thừa Chí rơi xuống, thân hình chàng như một cây trụ cắm thẳng xuống đất, không lung lay chút nào. Chàng hô lớn: “Nhị sư ca! Tiểu đệ đắc tội.”

Tiếng hô chưa dứt, tả chưởng của Quy Tân Thụ đã đánh tới nơi. Lần này Viên Thừa Chí đã đề phòng, hơi nghiêng người một chút cho phát chưởng lệch đi. Đây chính là thân pháp hôm nay mới học, một trong những chiêu Thần Hành Bất Biến.

Vừa rồi xô đẩy một cái, Quy Tân Thụ đã nhận ra nội kình của Viên Thừa Chí hoàn toàn là Hỗn Nguyên Công của bản môn. Chiêu thức có thể học lén, nội lực thì phải đích thân truyền thụ. Chỉ trong khoảnh khắc một cái xô đẩy, y đã biết Viên Thừa Chí chính là tiểu đồ đệ mà sư phụ mình mới nhận. Chiêu thứ hai y ra tay như sấm sét, thấy rõ mình sắp đánh trúng vào vai Viên Thừa Chí. Y sợ mình đả thương sư đệ sẽ bị sư phụ la rầy, nên định khi phát chưởng trúng đích sẽ chuyển lực ngang qua một bên, chỉ để lại ba phần công lực. Nào ngờ đối phương linh hoạt dị thường, trong khoảng cách không chen được sợi tóc vẫn có thể né ra.

Quy Tân Thụ bất giác kinh hãi, la lên: “Thân pháp nhanh quá!”, rồi lại vung quyền đánh tới mấy chiêu liên tiếp. Quyền pháp của y giống hệt Quy nhị nương, nhưng công lực tùy ý mà thu phát, thật sự đã đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh.

Viên Thừa Chí vừa kinh hãi vừa thán phục, trong lòng nghĩ: “Chẳng trách Nhị sư ca nổi danh đến thế, đồ đệ của huynh ấy bước ra giang hồ đều được cao thủ võ lâm cung kính lạ thường. Thì ra võ công huynh ấy thật sự cao thâm.” Lúc này chàng không dám sơ suất chút nào nữa. Thân pháp Thần Hành Bất Biến vừa mới học, còn chưa thuần thục lắm, đối phó với Quy nhị nương thì có thừa, nhưng nếu tiếp chiêu với Nhị sư ca thì e rằng không tránh nổi mười quyền. Chàng phải triển khai tuyệt nghệ của sư môn, dùng Phá Ngọc Quyền để đỡ chiêu.

Quyền pháp hai người giống nhau, mọi biến hóa đều thuộc nằm lòng. Họ càng đánh càng nhanh, ý vừa khởi lên chiêu đã thu về, chưa chạm đối phương quyền đã dừng trước, có thể nói là thuần thục vô cùng. Hồi Viên Thừa Chí luyện chiêu với sư phụ trên núi Hoa Sơn cũng hệt thế này. Nhưng khi đối chiêu với sư phụ thì chàng biết rõ không bị nguy hiểm, còn Nhị sư ca thì quyền nào chưởng nào cũng rất nặng nề, nhất định không thể để dính vào mình. Thanh Thanh đang nguy cấp, thế mà chàng không đủ thời gian để nhìn nàng một cái nào.

Chỉ trong chớp nhoáng, lưng Viên Thừa Chí đã thấm đẫm mồ hôi lạnh. Chàng gấp rút qua cứu Thanh Thanh, nên xuất chiêu bằng hết sức lực của mình, không nể nang tình nghĩa gì nữa. Chàng nghĩ bụng: “Nếu Thanh đệ mất mạng ở đây, thì huynh là sư ca mặc kệ, ta cũng phải giết.”

Bên kia Tôn Trọng Quân thấy Viên Thừa Chí bị sư phụ mình ngăn trở, trong lòng mừng rỡ nên kiếm pháp càng lợi hại hơn. Lưu Bội Sinh và Mai Kiếm Hòa đồng thời kêu gọi: “Sư muội! Không được giết người!”

Tiếng kêu chưa dứt, Tôn Trọng Quân đã đưa kiếm đâm đến trước ngực Thanh Thanh rồi. Thanh Thanh vội vàng nhào ngửa ra sau, lộn một vòng tránh được. Tôn Trọng Quân xoay ngược kiếm chém ngang, Thanh Thanh cúi đầu xuống né. Khăn buộc đầu nàng bị chém rơi xuống, mái tóc dài xõa ra che hẳn khuôn mặt. Tôn Trọng Quân thấy Thanh Thanh là nữ nhân, hơi ngẩn ra một chút, nhưng vẫn phóng kiếm đâm nữa. Chiêu này thì Thanh Thanh hết đường tránh né.

Đột nhiên trên đỉnh đầu có một giọng già nua thét lên: “Con bé này quá ác độc!”

Một bóng đen từ ngọn cây phóng xuống, vung chân đá thanh trường kiếm bay đi. Tôn Trọng Quân kinh hãi lùi lại hai bước, dưới ánh trăng nhìn lại thấy đó là một đạo nhân râu mày bạc phếch, đứng cản trước mặt Thanh Thanh. Ả và hai người Mai, Lưu đều không biết lão đạo này là ai. Quy nhị nương nhận ra đây là Mộc Tang đạo nhân, hảo bằng hữu của sư phụ mình, lập tức bước đến thi lễ.

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười bảo: “Đừng thi lễ vội, xem hai huynh đệ chúng luyện võ đã.”

Quy nhị nương quay lại nhìn chồng mình, thấy hai bóng người nhảy qua nhảy lại lộng gió vù vù, ác đấu càng lúc càng kịch liệt. Quy Tân Thụ thì kình lực mạnh, chiêu thức chậm; còn Viên Thừa Chí thì thân pháp linh hoạt. Một người thì thuần thục võ nghệ bản môn, một người thì học được sở trường ba phái. Hai bên tỉ đấu ngang tay, khó phân cao thấp.

Lúc đầu Viên Thừa Chí phải lo lắng đến Thanh Thanh, trong lòng không tránh khỏi phân tâm. Bây giờ chàng thấy Mộc Tang đạo nhân đã đến cứu viện, bèn tập trung lại tinh thần để đối chiêu với sư huynh. Trận đấu bây giờ không hung hãn nữa, nhưng mỗi lúc một khẩn trương. Phục Hổ Chưởng, Bích Thạch Quyền, Phá Ngọc Quyền, Hỗn Nguyên Chưởng, những môn võ công thượng thừa của bản môn đều được đem ra sử dụng. Dù sao công lực của Viên Thừa Chí cũng nông cạn hơn, tu tập không lâu bằng Quy Tân Thụ, nên đấu tới gần một ngàn chiêu thì chàng ở vào thế hạ phong.

Quy nhị nương thấy chồng mình mỗi lúc một công nhiều thủ ít, âm thầm mừng rỡ. Mụ thấy Viên Thừa Chí thuần thục công phu bản môn như vậy, biết chàng thật sự là sư đệ của mình, không còn nghi ngờ gì nữa. Thấy quyền thuật chàng tinh diệu, mụ không khỏi phục thầm.

Đánh thêm mấy chục chiêu, Viên Thừa Chí đột nhiên thay đổi quyền pháp, thân hình như một con rắn nước lướt qua lướt lại. Đây chính là Kim Xà Du Thân Chưởng do Kim Xà Lang Quân sáng chế khi ngắm nhìn một con rắn nước đang bơi lội. Pho chưởng pháp này có rất nhiều chiêu số dùng biện pháp hiểm độc để thủ thắng, nhưng lúc này Viên Thừa Chí bỏ đi không dùng. Chàng pha thêm vào đó khinh công Thần Hành Bách Biến và Thập Đoạn Cẩm.

Viên Thừa Chí lúc tiến lúc lùi, đột nhiên phía này đột nhiên phía kia, mọi người đứng xem đều hoa cả mắt. Quyền pháp của Quy Tân Thụ tuy cao, nhưng y không hiểu thân pháp của đối thủ nên không biết xuất thủ đánh vào chỗ nào cho trúng. Y không khỏi cấp bách, lo lắng trong lòng: “Mình xưng danh là Thần Quyền Vô Địch, nhưng đấu với tiểu sư đệ trên ngàn chiêu vẫn không làm gì được. Thế là ngoại hiệu của mình có phần quá đáng rồi.”

Viên Thừa Chí đang lạng qua lạng lại, đột nhiên Quy Tân Thụ nhảy ra ngoài kêu lớn: “Khoan đã!”

Viên Thừa Chí vội vã đứng lại, nói: “Vâng!” Chàng nghĩ: “Sư huynh đánh mãi không trúng mình, hai bên coi như ngang nhau, ngừng đấu để cùng giữ thể diện là hơn.”

Bỗng thấy Quy Tân Thụ chắp tay vái lạy lên không trung, hô lên: “Sư phụ! Lão nhân gia đã đến rồi.”

Viên Thừa Chí kinh hãi, lúc đó mới nhìn thấy trên cành cây có bốn người nối nhau tung người xuống, người đầu tiên đúng là ân sư Mục Nhân Thanh. Chàng cả mừng, vội chạy tới bái lạy. Khi đứng dậy, nhìn thấy phía sau sư phụ là Thôi Thu Sơn và đại sư huynh Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân, còn người cuối cùng chính là ông câm.

Viên Thừa Chí đột nhiên gặp gỡ ân sư và cố nhân, mừng rỡ đưa tay ra hiệu với ông câm mấy cái. Chàng nghĩ: “Dù sao kinh nghiệm mình cũng rất nông cạn, mải lo chiết chiêu với Nhị sư huynh mà không để ý tình thế xung quanh. Nếu người nấp trên cây không phải là sư phụ, không chừng mình phải trúng ám toán của người khác. Còn Nhị sư huynh thì mắt nhìn sáu phương tai nghe tám hướng, đại hành gia trên giang hồ rốt cuộc khác hẳn người thường.” Bất giác trong lòng chàng vô cùng thán phục.

Mục Nhân Thanh xoa đầu Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Đại sư ca của ngươi đã kể những chuyện ở Phù Châu, tỉnh Chiết Giang. Việc đó ngươi xử lý không đến nỗi tồi.”

Sau đó ông trầm hẳn mặt xuống, nghiêm giọng hỏi: “Còn trẻ sao không biết tôn kính tôn trưởng, đánh nhau với sư ca sư tẩu thế này?”

Viên Thừa Chí cúi đầu nói: “Đệ tử có điều không phải, lần sau nhất định không dám nữa.” Sau đó chàng đi tới trước mặt vợ chồng Quy Tân Thụ, khom lưng vái lạy mà nói: “Tiểu đệ xin thỉnh tội với sư ca, sư tẩu.”

Quy nhị nương tính tình thẳng thắn, bèn nói với Mục Nhân Thanh: “Sư phụ! Sư phụ đừng trách sư đệ động thủ. Đó là vợ chồng chúng con đã ép sư đệ. Chúng con trách sư đệ dùng võ công của phái khác để làm nhục mấy tên đồ đệ bất tài này.” Nói xong, mụ chỉ sang ba người Mai Kiếm Hòa.

Mục Nhân Thanh nói: “Nói đến chuyện môn hộ, ta lại không hiểu. Kiếm Hòa, qua đây ta hỏi. Viên sư thúc của ngươi động thủ với sư huynh, thì sư thúc không tốt. Còn ba người các ngươi, sao lại đối chiêu với sư thúc? Môn hộ chúng ta có tôn ti trật tự, chẳng lẽ mọi người không cần tuân thủ hay sao?”

Trước mặt sư tổ Mai Kiếm Hòa không dám giấu giếm, bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện Mẫn Tử Hoa mời mình đi báo thù. Khi nhắc đến việc Tôn Trọng Quân chặt đứt cánh tay người khác, hắn chỉ nói đơn giản là ả ra tay động thủ với một đồ đệ của Tiêu Công Lễ. Hắn nhấn mạnh vào chuyện Viên Thừa Chí đạp gãy thanh trường kiếm Quy nhị nương tặng Tôn Trọng Quân.

Thanh Thanh nhịn không nổi, nói xen vào: “Lão sư phụ! Vị Phi Thiên Ma Nữ này vô cớ phóng kiếm chặt đứt cánh tay người khác. Người đó chỉ phụng mạng sư phụ đến đưa thư mời khách, không hề phòng bị, tay không tấc sắt. Viên đại ca nói, môn nhân phái Hoa Sơn không thể lạm sát vô cớ. Huynh ấy nhìn thấy việc này, không thể không can thiệp, nếu bị sư phụ trách phạt cũng đành chịu, nên mới đứng ra. Huynh ấy còn nói, đắc tội với sư ca sư tẩu không khỏi trong lòng áy náy, nhưng không có cách gì khác.”

Nàng biết Viên Thừa Chí không giỏi nói năng mà cũng không thích tự biện minh cho mình, nên mới lên tiếng giùm chàng. Sau đó nàng quay qua khẽ nói với Viên Thừa Chí: “Kẻ câm đã mở miệng rồi. Xin lỗi nhé.”

Sắc mặt Mục Nhân Thanh lạnh băng như sương sớm, trầm giọng hỏi: “Có thật vậy không?”

Vợ chồng họ Quy không biết việc này, cùng nhìn Tôn Trọng Quân. Mai Kiếm Hòa khẽ đáp: “Sư tổ gia gia! Lúc đó Tôn sư muội tưởng hắn là kẻ xấu, nên ra tay không dung tình. Bây giờ sư muội đã hối hận rồi, xin sư tổ tha thứ.”

Mục Nhân Thanh nổi giận quát lên: “Giới luật lớn nhất của phái Hoa Sơn chúng ta, chính là không được lạm thương vô cớ. Tân Thụ! Khi ngươi nhận đứa đồ đệ này, có dạy cho nó biết hay không?”

Trước giờ Quy Tân Thụ chưa từng thấy sư phụ tức giận ghê gớm đến thế, vội quỳ xuống đáp: “Đệ tử dạy dỗ sơ sót, thật là không phải. Xin sư phụ bớt giận! Đệ tử nhất định sẽ trách phạt nó đến nơi đến chốn.”

Bốn người Quy nhị nương, Mai, Lưu, Tôn cùng quỳ phía sau Quy Tân Thụ. Mục Nhân Thanh không bớt giận, mắng sang Viên Thừa Chí: “Ngươi đã gặp việc này, sao chỉ bẻ gãy kiếm rồi thôi, coi như xong việc? Sao không chặt đứt một cánh tay của ả? Chúng ta không tự tẩy rửa môn hộ, há chẳng để bằng hữu giang hồ sỉ vả chê cười?”

Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, đáp: “Vâng, vâng! Đệ tử xử trí không đúng.”

Mục Nhân Thanh lại nói: “Còn cô gái này…” Ông chỉ Thanh Thanh, hỏi Tôn Trọng Quân: “Cô gái này phạm vào tội ác nào không thể tha thứ, mà ngươi liên tiếp ra chín chiêu đoạt mạng, chưa giết người quyết chẳng chịu thôi? Ngươi qua đây.”

Tôn Trọng Quân hoảng sợ đến nỗi hồn lìa khỏi xác, nhất định không dám bước qua. Ả nằm rạp xuống đất, vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Đồ tôn tưởng cô ấy là nam nhân, là loại sở khanh…”

Mục Nhân Thanh giận dữ nói: “Ngươi đã chém rớt khăn bịt đầu, thấy rõ cô ấy là nữ nhân rồi, nhưng vẫn tiếp tục hạ độc thủ. Hơn nữa, chẳng lẽ gặp nam nhân thì có thể lạm sát ư? Cứ nghe bốn chữ ngoại hiệu Phi Thiên Ma Nữ cũng biết cách xử thế từ xưa đến giờ của ngươi. Ngươi không chịu qua đây phải không?”

Quy nhị nương biết chắc sư phụ sẽ điểm huyệt cho Tôn Trọng Quân thành phế nhân, tước bỏ võ công. Mụ bèn khấu đầu năn nỉ: “Sư phụ! Xin lão nhân gia bớt giận. Khi trở về, đệ tử nhất định sẽ trách phạt nó nặng nề.”

Mục Nhân Thanh bảo: “Ngươi chặt đứt cánh tay của nó đi, ngày mai cầm qua nhà họ Tiêu mà thỉnh tội.”

Quy nhị nương không dám nói gì nữa. Viên Thừa Chí lên tiếng: “Đồ nhi đã xin lỗi gia đình họ Tiêu, còn giúp họ một việc lớn, cứu mạng bang chủ của họ, lại hứa dạy một môn võ công cho nạn nhân. Về phía nhà họ Tiêu thì không cần lo lắng nữa.”

Mục Nhân Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Rất may Mộc Tang đạo huynh không phải người ngoài, không thì ông ấy phải cười cho. Ông ấy thật là thông minh, biết sợ loại học trò mất dạy, nên suốt đời không chịu nhận đồ đệ để tránh khỏi chết vì tức giận. Các ngươi đứng dậy cả đi.”

Sau khi mọi người đứng dậy, Mục Nhân Thanh trừng mắt nhìn Tôn Trọng Quân một cái. Tôn Trọng Quân hoảng sợ, chân nhũn ra lại quỳ xuống. Mục Nhân Thanh bảo: “Đưa kiếm tới đây.”

Tim Tôn Trọng Quân đập nghe ầm ầm, nhưng ả chỉ còn cách hai tay bưng kiếm đặt lên đỉnh đầu, dâng lên sư tổ.

Mục Nhân Thanh nắm lấy chuôi kiếm, rung tay một cái. Tôn Trọng Quân thấy tay trái nhói lên, máu tươi chảy đầm đìa, thì ra ngón tay út đã bị sư tổ chém rơi xuống đất. Mục Nhân Thanh rung tay một cái nữa, thanh trường kiếm lập tức gãy thành hai khúc. Ông quát lên: “Từ nay về sau không cho phép ngươi dùng kiếm nữa.”

Tôn Trọng Quân ráng nén cơn đau, trả lời: “Vâng! Đồ tôn biết lỗi.” Ả vừa sợ hãi vừa xấu hổ, nước mắt chảy ào ra.

Quy nhị nương xé một góc áo, bó vết thương cho ả rồi nhỏ nhẹ dỗ dành: “Được rồi, sư tổ không phạt con thêm nữa đâu.”

Mai Kiếm Hòa nhìn thấy sư tổ rung tay mà trường kiếm gãy lìa, bây giờ mới biết Viên Thừa Chí liên tiếp chấn gãy trường kiếm trong tay mình đúng là công phu của bản môn. Hắn nghĩ thầm: “Thì ra võ thuật bản môn tinh diệu đến thế. Mình chỉ học được tí xíu ngoài da đã ra ngoài diễu võ giương oai rồi.” Hắn nghĩ đến những chuyện cuồng vọng ngạo mạn trước đây, vừa kinh hãi vừa xấu hổ, lại sợ sư tổ trách phạt, không kìm nổi mồ hôi lạnh toát đầy người.

Mục Nhân Thanh trừng mắt nhìn hắn một cái, không nói gì. Ông quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Ngươi đã hứa truyền thụ công phu cho người ta, thì phải dạy dỗ đàng hoàng. Ngươi dạy cái gì?”

Viên Thừa Chí đỏ mặt lên đáp: “Đệ tử chưa được sư phụ đồng ý, không dám đem võ công bản môn dạy cho người khác, định truyền cho y bộ Độc Tí Đao Pháp. Đó là một môn tạp học mà đệ tử vô ý học được.”

Mục Nhân Thanh nói: “Tạp học của ngươi hơi bị nhiều rồi đấy. Vừa rồi ta thấy ngươi đối chiêu với Nhị sư ca, hình như đã dùng công phu Thần Hành Bách Biến của Mộc Tang đạo trưởng. Có một vị kỳ hữu kế bên trợ giúp, Nhị sư ca dĩ nhiên không làm gì được ngươi.”

Nói xong ông cười ha hả. Mộc Tang đạo nhân mỉm cười hỏi: “Thừa Chí! Ngươi dám nói dối trước mặt sư phụ hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đệ tử không dám.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Được, vậy ta hỏi ngươi! Từ khi rời khỏi Hoa Sơn, ta có dạy võ công cho ngươi hay không? Nghe cho kỹ, ta có dạy cho ngươi hay không?”

Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu, Mộc Tang đạo nhân nhờ Thanh Thanh truyền thụ vì sợ sư phụ và Nhị sư ca trách móc. Vị đạo trưởng này linh mẫn, lắm mưu nhiều trí, hình như đoán trước được toàn bộ sự việc rồi. Chàng bèn đáp: “Trên núi Hoa Sơn đạo trưởng đã truyền cho đệ tử không ít công phu, đệ tử cảm kích không bao giờ hết. Từ lúc xuống núi Hoa Sơn, đạo trưởng chưa đích thân dạy cho đệ tử võ công. Lần này gặp mặt chỉ mới chơi hai ván cờ.”

Chàng nghĩ: “Tuy câu này không phải là nói dối, nhưng hàm ý vẫn là dối trá, ít ra cũng có chỗ gian xảo. Nhưng bây giờ nói rõ thì Nhị sư ca chắc chắn sẽ trách đạo trưởng. Đợi lát nữa Nhị sư ca rời khỏi đây, ta phải kể rõ lại tình hình cho sư phụ biết.”

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười nói: “Vậy là đúng rồi. Ngươi tiếp tục luyện chiêu với sư ca đi. Tất cả võ công trước đây ta từng dạy, một chiêu ngươi cũng không được dùng.”

Viên Thừa Chí nói: “Nhị sư ca biệt hiệu là Thần Quyền Vô Địch, quả nhiên danh bất hư truyền. Đệ tử đã chống đỡ không nổi, chỉ còn biết tránh né. Đang định nhận thua, xin Nhị sư ca dừng tay, không ngờ Nhị sư ca đã nhìn thấy sư phụ. Lúc đệ tử đối chiêu, thật không đủ khả năng lo liệu đến những việc xung quanh.”

Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo: “Được rồi, được rồi! Đạo trưởng đã bảo các ngươi luyện chiêu thì cứ luyện, xấu hổ một tí đã sao?”

Viên Thừa Chí không còn cách nào thoái thác, bèn đi đến trước mặt Quy Tân Thụ, chắp tay nói: “Xin Nhị sư ca chỉ giáo.”

Quy Tân Thụ chắp tay đáp: “Không cần khách sáo.” Y quay lại bẩm với Mục Nhân Thanh: “Chúng con có sai sót gì, xin sư phụ chỉ điểm thêm.” Hai người lại bắt đầu tỉ thí.

Trận đấu này khác hẳn vừa rồi. Trước mặt Mộc Tang đạo nhân, sư phụ, đại sư huynh cùng bọn đồ đệ, Quy Tân Thụ quyết không chịu mất mặt. Lúc y tấn công thì nhanh mạnh như sấm chớp, lúc thủ thế thì vững chắc như núi cao, thân thủ danh gia quả nhiên cao diệu.

Viên Thừa Chí cũng có công có thủ, dùng toàn tuyệt kỹ của sư môn. Trong vòng một trăm chiêu, quyền pháp hai người hoàn toàn không sơ suất chút nào. Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đứng bên cùng vuốt râu mỉm cười.

Mộc Tang nói: “Đúng là trong cửa danh sư ắt có cao đồ, dưới tay tướng mạnh không có quân hèn. Xem hai vị hiền đồ, lão đạo này phải ghen đến đỏ mắt lên, hối hận năm xưa sao không dạy dỗ mấy đứa đồ đệ đàng hoàng.”

Mới nói có thế, hai đối thủ đã qua lại thêm mấy chục chiêu. Quy Tân Thụ đánh mãi vẫn không hạ được đối phương, nên dần dần gia tăng kình lực, thế công dũng mãnh hơn. Viên Thừa Chí thấy tỉ thí đã lâu, tới lúc mình nên nhường nhịn. Nhưng chiêu nào của Quy Tân Thụ cũng vô cùng lợi hại, nếu không ra sức đón đỡ thì lập tức trọng thương ngay. Chàng muốn nhường sư huynh một chiêu, thật là vô cùng khó.

Cầm cự một lát nữa, chàng bỗng nghĩ: “Vừa rồi sư phụ có ý trách mình tham lam, thích nghiên cứu tạp học phái khác, không tán đồng lắm. Lúc nãy mình sử dụng hoàn toàn quyền pháp bản môn, sau mấy trăm chiêu phải ở thế hạ phong, đến khi dùng công phu của Mộc Tang đạo trưởng và Kim Xà Lang Quân thì hơi thắng thế. Bây giờ nếu mình chỉ thi triển võ công bản môn mà chịu thua, há chẳng phải nói võ công phái khác giỏi hơn võ công phái mình? Bây giờ mình phải dùng võ công phái khác để thua huynh ấy. Đạo trưởng đã không cho phép mình dùng võ công của ông ấy, thế thì mình thi triển võ công của Kim Xà Lang Quân vậy.” Chàng lập tức thay đổi đấu pháp, sử dụng bộ Kim Xà Chế Hạc Quyền.

Quy Tân Thụ thấy chiêu đỡ chiêu, thế công vẫn không chậm trễ. Viên Thừa Chí đột nhiên xuất liền bốn quái chiêu, y mới hơi kinh hãi, thu quyền về cản trở. Viên Thừa Chí hít được một hơi chân khí, liền vận khí sẵn sàng sau lưng.

Quy Tân Thụ thấy sau lưng sư đệ có chỗ sơ suất, lập tức tấn công ngay theo phản xạ của người học võ. Y không kịp suy nghĩ sâu hơn, phát chưởng đánh trúng vào giữa lưng đối thủ. Viên Thừa Chí đã chuẩn bị sẵn, vọt người tới trước, loạng choạng bốn năm bước rồi quay lại nói: “Tiểu đệ thua rồi.”

Quy Tân Thụ vừa phóng chưởng đã hối hận ngay, sợ sư đệ bị trọng thương nên vội chạy tới đỡ. Thấy Viên Thừa Chí không sao, y vừa kinh ngạc vừa nổi dạ nghi ngờ. Thì ra Viên Thừa Chí đã vận khí thủ sẵn sau lưng, thừa thế phóng lên phía trước để tiêu giảm chưởng lực của đối phương, lại được cái áo kim ti của Mộc Tang đạo nhân tặng cho bảo hộ. Tuy trên lưng chàng hơi đau, nhưng chưa bị nội thương.

Khi Viên Thừa Chí quay người lại, mọi người đều thấy lưng áo chàng rách bươm. Một cơn gió thổi qua, những mảnh vải vụn bay phất phơ như đàn bướm. Thanh Thanh vô cùng lo lắng, vội chạy tới hỏi: “Có sao không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Thanh đệ yên tâm.”

Mục Nhân Thanh bảo Quy Tân Thụ: “Công phu của ngươi đúng là có tiến bộ. Nhưng chiêu này hơi ác, ngươi có biết không?”

Quy Tân Thụ đáp: “Vâng! Võ công Viên sư đệ rất giỏi, đệ tử cũng phải thán phục.”

Mục Nhân Thanh nói: “Công lực bản môn của sư đệ không tinh thuần bằng ngươi, còn kém rất xa.” Ông dừng một lát rồi nói tiếp: “Trước đây ta từng nghe nói vợ chồng ngươi chiều chuộng đồ đệ, bên ngoài tai tiếng rất nhiều. Ta vẫn nghĩ vợ ngươi không hiểu đạo lý, chứ ngươi thì chưa phải loại người như vậy. Nhưng vừa rồi thấy ngươi đối phó với sư đệ của mình… Hừ!”

Quy Tân Thụ cúi đầu xuống nói: “Đệ tử biết lỗi rồi.”

Mộc Tang vội lên tiếng: “Tỉ võ chiết chiêu, ra tay chẳng ai dung tình được. Thừa Chí lại không bị thương, lão già kia còn nói gì nữa?”

Nghe vậy Mục Nhân Thanh mới im không nói tiếp.

Phu phụ Quy Tân Thụ thành danh đã lâu, hiện nay rõ ràng là lãnh tụ võ lâm Giang Nam. Lần này bị sư phụ trách mắng trước mặt đông người như vậy, vì sư ân sâu nặng nên họ không dám trách cứ sư phụ, bèn đem mối hận trút qua Viên Thừa Chí. Quy Tân Thụ cũng biết sư đệ có ý nhường nhịn, nhưng bị sư phụ trách mắng nên y không nghĩ đến hảo ý đó nữa.

Mục Nhân Thanh lên tiếng: “Mùa thu năm nay Sấm Vương sẽ cử sự. Các ngươi hãy triệu tập môn hạ, lập tức ra tay liên lạc với võ lâm hào kiệt Giang Nam. Khi quân khởi nghĩa của Sấm Vương tiến về hướng nam, phải lập tức phất cờ hưởng ứng.”

Phu phụ Quy Tân Thụ lên tiếng vâng dạ.

Mục Nhân Thanh nhìn sang Quy Tân Thụ, sắc mặt ra vẻ từ hòa, dịu dàng nói: “Tân Thụ! Ngươi đừng nghĩ ta thương tiểu sư đệ hơn. Tuy rằng tuổi ngươi không còn nhỏ, nhưng trong lòng ta thì ngươi vẫn là một tên tiểu đồ đệ, chẳng khác gì năm xưa mới lên núi Hoa Sơn.”

Quy Tân Thụ cúi đầu xuống, trong lòng cảm thấy ấm áp ngay. Y nói: “Đệ tử quyết không nghĩ đến chuyện sư phụ thiên ái sư đệ.”

Mục Nhân Thanh nói: “Tính tình của ngươi xưa nay thẳng thắn. Ba mươi năm nay ngươi chuyên tâm luyện võ, những việc bên ngoài càng ít suy nghĩ tới. Nhưng việc trong thiên hạ, không chỉ dựa vào võ công cao cường mà lo liệu được. Khi gặp đại sự phải suy nghĩ tiền nhân hậu quả, tuyệt đối không được dễ dàng tin lời người khác.”

Quy Tân Thụ nói: “Vâng! Đệ tử sẽ cố ghi nhớ những điều sư phụ chỉ dạy.”

Mục Nhân Thanh quay sang bảo Viên Thừa Chí: “Ngươi và người bạn nhỏ này hãy đi Bắc Kinh thám thính động tĩnh của triều đình, nhưng tuyệt đối không được vạch cỏ động rắn làm kinh động người khác, cũng không được hại mạng hoàng đế và các đại thần trong triều. Nếu thám thính được tin tức gì quan trọng, hãy tới Thiểm Tây để báo tin.”

Viên Thừa Chí vâng dạ.

Mục Nhân Thanh lại nói: “Tối nay ta còn phải đi gặp Minh chủ Thất thập nhị đảo Trình Khởi Vân và Thập Lực đại sư của Thanh Lương Tự. Nghe nói Thập Lực đại sư vừa nhận được pháp chỉ của trụ trì Thanh Lương Tự Ngũ Đài Sơn, phái đi tiếp nhận chức trụ trì Thanh Lương Hạ Viện ở tỉnh Hà Nam. Một là ta đến chúc mừng, hai là muốn thương lượng cùng ông ấy một số việc về võ lâm tỉnh Hà Nam. Đạo huynh! Còn đạo huynh đi đâu?”

Mộc Tang đạo nhân đáp: “Các vị là trung thần nghĩa sĩ vì nước vì dân, suốt ngày bận rộn như ngựa không dừng vó. Còn lão đạo này giống như dã hạc nhàn vân. Ta muốn làm chậm trễ tiểu đồ đệ của ông mấy ngày, có được không?”

Mục Nhân Thanh mỉm cười đáp: “Dù sao nó cũng đã hứa dạy người ta võ công, phải ở lại Nam Kinh mấy ngày. Ông cứ ở lại mà chơi với nó mấy ván cờ, còn bao nhiêu bản lãnh về kỳ đạo và võ công thì tiện thể đem ra dạy nó một thể cho rồi.”

Mộc Tang đạo nhân bỗng dưng ủ rũ, ảm đạm nói: “Sau mấy ván cờ này, không biết sau này còn được chơi nữa hay không?”

Mục Nhân Thanh ngơ ngác hỏi: “Sao đạo huynh lại nói thế? Trước mắt dân chúng còn bị vùi trong dầu sôi lửa bỏng, đại sự chỉ vài tháng nữa là có thể thành công. Sau này bốn phương yên ổn, thiên hạ thái bình, bá tính an cư lạc nghiệp, chúng ta không có việc để làm. Đừng nói là Thừa Chí, ngay cả ta cũng có thể chơi cờ với đạo huynh hàng ngày.”

Mộc Tang lắc đầu nói: “Chưa chắc, chưa chắc! Biến cũ vừa xong, biến mới lại phát sinh. Trong bàn cờ còn có cờ trắng cờ đen, thì vạn kiếp tuần hoàn không bao giờ tận.”

Mục Nhân Thanh cười rộ lên nói: “Nhiều ngày không gặp, đạo huynh ngộ đạo càng cao thâm. Huyền cơ đó thì bọn phàm tục chúng ta không sao hiểu nổi.”

Ông vừa cười ha hả vừa chắp tay từ biệt. Hoàng Chân và Thôi Thu Sơn đi theo, còn ông câm đưa tay ra hiệu muốn đi cùng Thừa Chí. Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo: “Ngươi nhớ người bạn nhỏ thì cứ đi theo nó.”

Ông câm cả mừng, chạy qua ôm Viên Thừa Chí lên, tung chàng lên cao, đợi chàng rơi xuống rồi đưa tay đón lấy. Đó là một trò đùa quen thuộc của hai người khi ở Hoa Sơn. Bây giờ Thừa Chí đã lớn, thân hình to nặng, nhưng ông câm thần lực kinh người, vẫn có thể ném chàng lên rất cao.

Thanh Thanh hoảng sợ nhảy chồm lên, dưới ánh trăng nhìn rõ gương mặt Viên Thừa Chí đầy vẻ hân hoan, mới biết ông câm hoàn toàn không có ác ý.

Sau đó ông câm mở cái bọc trên lưng, lấy ra một thanh kiếm giao cho Viên Thừa Chí. Đó chính là cây Kim Xà Kiếm. Thì ra lần trước y từng theo Viên Thừa Chí vào sơn động, cắm trả thanh Kim Xà Kiếm về chỗ cũ. Lần này rời núi, nghe Mục Nhân Thanh nói là đi gặp Viên Thừa Chí, y nghĩ: “Trên núi không còn ai, không khéo thanh bảo kiếm này sẽ bị trộm mất.” Y bèn chui vào trong động, rút thanh kiếm ra giấu vào trong bọc, ngay cả Mục Nhân Thanh cũng không biết.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Thanh kiếm này là di vật của phụ thân Thanh đệ, mình tạm thời cất giữ. Sau này mình sẽ truyền Kim Xà Kiếm Pháp cho nàng, rồi trả kiếm luôn một thể.”

Thanh Thanh cầm thanh kiếm lên ngắm nghía, nghĩ đến phụ thân cùng mẫu thân, trong lòng rầu rĩ không sao tả xiết.

Viên Thừa Chí cùng sư phụ mới gặp mặt đã chia tay, lưu luyến không nỡ rời xa. Mục Nhân Thanh mỉm cười nói: “Ngươi giỏi lắm! Ta rất mừng, không uổng một phen dạy dỗ.” Ông phất tay áo bào một cái, khuất vào trong bóng tối.

Phu phụ Quy Tân Thụ chắp tay tiễn đưa. Đợi sư phụ cùng đại sư huynh rời khỏi, họ chắp tay hướng về Mộc Tang đạo nhân khom lưng vái lạy, không nói tiếng nào, ôm con dẫn ba đồ đệ đi ngay.

Mộc Tang đạo nhân bảo Viên Thừa Chí: “Trong lòng họ đã hận ngươi rồi đấy. Công phu hai người này khá lợi hại, sau này gặp phải cẩn thận một chút.”

Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ. Phen này phải đắc tội với nhị sư huynh, trong lòng chàng rất buồn. Về tới nhà họ Tiêu, chàng lăn ra giường ngủ ngay.

*

*   *

Sáng hôm sau chàng vừa thức dậy, Thanh Thanh đã vừa kêu réo om sòm vừa bước vào. Nàng bưng một cái hộp gỗ, mỉm cười hỏi: “Huynh đoán thử, đây là cái gì?”

Viên Thừa Chí không hào hứng chút nào, hỏi: “Có khách đến tìm phải không?”

Thanh Thanh mở nắp hộp ra, cười tươi như hoa nở. Trong hộp là một tấm thiếp đỏ rất lớn, viết: “Ngu đệ Mẫn Tử Hoa bái”. Nàng giở tấm thiệp lên, bên dưới là một quyển khế ước nhà, một tờ giấy liệt kê đồ đạc.

Thế là Mẫn Tử Hoa tôn trọng lời hứa, đem tặng căn nhà đó. Viên Thừa Chí cảm thấy áy náy, liền khoác trường bào qua đó để đa tạ. Nào ngờ người nhà họ Mẫn đã đi hết, chỉ để lại hai gia nhân đang quét dọn khắp nơi. Viên Thừa Chí hỏi, họ nói là Mẫn nhị gia đã dẫn gia quyến và bằng hữu rời khỏi đó từ sáng sớm, đi đâu thì không biết.

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh lấy tấm di đồ của Kim Xà Lang Quân ra, đối chiếu với căn nhà này. Phòng ốc và hành lang có chút ít thay đổi, nhưng kiến trúc cơ bản thì rất phù hợp. Hai người mừng rỡ, biết tòa nhà Ngụy Quốc Công Tứ Đệ này đúng là nơi bản đồ đã chỉ. Theo ký hiệu ghi trên bản đồ mà tìm kiếm, thì ra nơi chứa kho báu là một gian nhà chất củi ở phía sau vườn hoa.

Chiều hôm đó Tiêu Uyển Nhi sai người qua giúp đỡ quét dọn bố trí. Nàng gửi cả hai cô tì nữ đến phục thị Thanh Thanh, ngoài ra đầu bếp, gác cửa, làm vườn, mã phu… tất cả đều đầy đủ. Hồng Thắng Hải được Viên Thừa Chí phong làm tổng quản.

Viên Thừa Chí nói: “Tiêu cô nương tuổi tác còn trẻ như vậy, thế mà suy nghĩ rất chu đáo.”

Thanh Thanh dẩu môi ra rồi cười: “Nếu cô ấy đích thân đến đây chủ trì nội trợ, lại càng vô cùng chu đáo. Lúc đó muội… muội…” Mặt nàng bỗng đỏ ửng lên, nửa câu sau không nói tiếp được.

Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút rồi hiểu ý, nghĩ bụng: “Cô này cái gì cũng được, chỉ có tính hay ghen là hơi dở.” Chàng mỉm cười, không nói gì.

Canh hai đêm đó Viên Thừa Chí gọi ông câm dậy. Hai người dọn hết củi rơm trong kho củi ra, lấy cuốc xẻng đào xới nền nhà. Thanh Thanh cầm kiếm đứng canh giữ phía ngoài. Đào hơn nửa giờ, bỗng nghe một tiếng keng, cuốc sắt đụng phải đá. Quét dọn hết đất cát bên trên thì lộ ra một phiến đá lớn. Hai người hợp sức nhấc phiến đá đó lên, bên dưới là một hang động lớn.

Thanh Thanh nghe thấy tiếng hô mừng rỡ, vội chạy vào xem. Viên Thừa Chí nói: “Đúng là ở đây rồi.”

Chàng đốt hai bó rơm ném vào trong động, đợi uế khí bay hết mới đưa tay ra hiệu bảo ông câm canh giữ bên ngoài, rồi cùng Thanh Thanh men theo bậc thang bằng đá đi xuống. Bên dưới có mười chiếc rương sắt lớn, xếp thành một dãy. Mười chiếc rương này đều khóa bằng những ổ khóa lớn, nhưng tìm mãi cũng không thấy chìa khóa đâu.

Viên Thừa Chí lấy đồ hình ra xem tỉ mỉ, thấy ở góc trái có vẽ một con rồng nhỏ. Chàng nảy ra một ý, bèn cầm cuốc theo phương hướng đó đào xuống. Đào chẳng bao lâu thì thấy một cái hộp sắt, cái hộp này không khóa. Viên Thừa Chí nhớ đến độc tiễn trong cái hộp mà Kim Xà Lang Quân giấu bí kíp giả, bèn dùng dây buộc chặt vào nắp hộp sắt, đứng xa xa mà nắm dây giật nắp ra. Hồi lâu không thấy gì, chàng mới đưa đuốc tới xem. Trong hộp có hai tờ giấy và một xâu chìa khóa.

Chàng cầm lên đọc, thấy trong một tờ giấy có viết: “Hoàng thúc của trẫm làm phản, đại thần đầu hàng hết. Chỉ có Ngụy quốc công Từ Huy Tổ xứng với bậc công thần dựng nước, trung nghĩa đáng khen. Gấp rút không kịp mang theo trọng bảo, gửi lại trong nội phủ. Ngụy công giữ giúp trẫm, sau này quang phục tông miếu xã tắc sẽ lấy làm kinh phí. Tháng sáu Canh Thân năm Kiến Văn thứ tư, ngự bút.”

Viên Thừa Chí xem xong bất giác rùng mình, nghĩ bụng: “Quả nhiên đây là trọng bảo Kiến Văn Đế để lại hồi Yến Vương soán vị.”

*

*   *

Lúc triều Minh khai quốc, có công lớn nhất là đại tướng quân Từ Đạt. Từ Đạt cùng Minh Thái Tổ là bạn thân thời áo vải chưa khởi sự. Sau khi làm hoàng đế, Chu Nguyên Chương vẫn gọi ông là Từ huynh. Từ Đạt dĩ nhiên không dám hô huynh gọi đệ với hoàng đế, lúc nào cũng cung kính, cẩn thận giữ mồm giữ miệng.

Có một hôm Minh thái tổ Chu Nguyên Chương ngồi uống rượu với ông, nói: “Từ huynh công lao rất lớn, vẫn chưa có chỗ an cư. Tặng huynh ngôi nhà cũ của ta.” (Nguyên văn trong Từ Đạt truyệnMinh sửviết là: “Từ huynh công đại, vị hữu ninh cư, khả tứ dĩ cựu đệ”.)

Cựu đệ là tòa phủ đệ hồi Thái Tổ còn làm Ngô Vương đã ở; sau khi đăng quang, dĩ nhiên y đã xây cung điện khác. Từ Đạt nghĩ, Thái Tổ từ Ngô Vương lên ngôi hoàng đế, nếu mình vào ở trong nhà cũ của Ngô Vương thì phạm điều cấm kỵ, nhất định bị nghi ngờ. Ông biết bệnh đa nghi của Thái Tổ rất nặng, nên lúc đó vội vã đa tạ khước từ, nói sao thì nói cũng không chịu nhận.

Thái Tổ quyết định thử một lần nữa, mấy hôm sau bèn triệu Từ Đạt đến cựu đệ của mình uống rượu. Y không ngớt chuốc rượu cho ông say mèm, rồi sai người hầu khiêng ông vào phòng, đặt lên chiếc giường trước đây mình từng ngủ. Sau khi tỉnh rượu, Từ Đạt thấy vậy vô cùng kinh hãi, vội nhảy xuống giường, phủ phục dưới đất mà vái lạy, luôn mồm nói là “tử tội, tử tội”; rồi ngồi suốt đêm dưới đất, không dám leo lên giường ngủ nữa.

Hôm sau bọn người hầu kể lại, Thái Tổ nghe mà mừng rỡ, nghĩ bụng: “Người này lấy chữ trung làm đầu, hoàn toàn không có ý phản nghịch”. Y lập tức hạ chỉ, cho xây một ngôi nhà lớn trước tòa cựu đệ để ban cho Từ Đạt, đích thân viết hai chữ Đại Công để làm tên phường có tòa nhà lớn này. Đó là nguồn gốc Đại Công Phường và Ngụy Quốc Công Tứ Đệ ở Nam Kinh.

Theo sử đã ghi, Từ Đạt tinh thông mưu lược, giỏi phép dùng binh, đánh trận bách chiến bách thắng, nên dù ông cung kính cách nào Thái Tổ vẫn sợ ông tạo phản. Vào năm Hưng Võ thứ mười tám, lưng Từ Đạt nổi nhọt. Nghe nói người nổi nhọt sau lưng mà ăn thịt ngỗng là chết ngay. Thái Tổ cho người đến thăm bệnh, gửi tặng một con ngỗng hầm. Từ Đạt nhìn mà nước mắt giàn giụa, bèn ăn sạch con ngỗng hầm trước mặt sứ giả. Đêm đó ông phát độc mà chết.

Không rõ người bị nhọt sau lưng (giống như bệnh ung thư) mà ăn ngỗng hầm có chắc chết hay không. Nhưng Thái tổ Chu Nguyên Chương ban tặng con ngỗng hầm này, đồng nghĩa với ban tặng cái chết. Giả tỉ Từ Đạt ăn hết con ngỗng mà vô sự, cũng phải uống thuốc độc tự vẫn mà thôi. Chuyện này chính sử không ghi, không rõ hư thực thế nào.

Từ Đạt có bốn trai ba gái. Ba đứa con gái đều là vương phi của các con Thái Tổ. Trưởng nữ là vương phi của Yến Vương, sau này trở thành hoàng hậu của Thành Tổ. Thứ nữ là vương phi của Đài Vương, tam nữ là vương phi của An Vương. Khi Yến Vương tạo phản, trưởng tử Từ Huy Tổ của Từ Đạt trung thành với Kiến Văn Đế, đem binh kháng cự Yến Vương. Con trai út của Từ Đạt là Từ Tân Thọ lại âm thầm cấu kết với anh rể mình là Yến Vương. Khi Yến Vương đưa quân tới thành Nam Kinh, Kiến Văn Đế triệu Từ Tân Thọ đến chất vấn. Từ Tân Thọ không chịu trả lời, bị Kiến Văn Đế đích thân vung kiếm chém chết.

Sau khi Thành Tổ soán vị, Từ Huy Tổ dọn vào từ đường của phụ thân mà ở, không chịu vào triều. Thành Tổ phái quan đến tra hỏi, Từ Huy Tổ viết mấy chữ: “Phụ thân là khai quốc công thần, con cái miễn tội chết” để trả lời. Thành Tổ nhìn thấy vô cùng giận dữ; nhưng y mới lên ngôi hoàng đế, muốn thu phục nhân tâm, nên tha không giết.

Từ Huy Tổ một mực trung thành với Kiến Văn Đế, trước sau vẫn mưu đồ phục hồi ngôi vị. Hậu nhân của ông nối tước Ngụy Quốc Công, đời đời thống lĩnh binh tướng phòng thủ thành Nam Kinh, mãi đến khi nhà Minh bị diệt. Vào đời Minh, quan Thủ Bị thành Nam Kinh có quyền hành rất lớn, dân chúng Nam Kinh chỉ biết Từ công gia là quan Thủ Bị chứ không biết tước Ngụy Quốc Công, nên Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới dò hỏi không ra.

Thành Tổ cảm niệm Từ Tân Thọ chết vì mình, truy phong cho y là Định Quốc Công. Vì thế con cháu Từ Đạt có hai tước hiệu là Ngụy Quốc Công và Định Quốc Công. Hậu duệ của hai vị công tước này, một ở Nam Kinh một ở Bắc Kinh.

Từ Huy Tổ đắc tội với Thành Tổ, con cháu của ông không dám ở lại tòa Tứ Đệ ở Đại Công Phường, nên dọn ra ngoài xây nhà khác mà ở, tòa Tứ Đệ này đổi chủ mấy lần. Sau hai trăm bốn mươi mấy năm, người đời sau không hiểu được lai lịch của ngôi nhà cũ này nữa. Những chuyện bể dâu đó, dĩ nhiên Viên Thừa Chí và Thanh Thanh không hiểu.

*

*   *

Viên Thừa Chí mở tờ giấy thứ hai ra xem, thấy đó là một bài thơ luật: “Lao lạc Tây Nam tứ thập thu; Tiêu tiêu bạch phát kỷ doanh đầu; Càn khôn hữu hận gia hà tại; Giang hán vô tình thủy tự lưu; Trường lạc cung trung vân khí tán; Triều nguyên các thượng vũ thanh thu; Tân bồ tế liễu niên niên lục; Giả lão khốn thanh khốc vĩnh hưu.”

(Tạm dịch: Luân lạc Tây Nam bốn chục thu; Phong sương tóc đã bạc phơ đầu; Ôm hận càn khôn nhà đã mất; Vô tình sông đổ nước về đâu; Mây tản bốn bề cung Trường Lạc; Mưa thu thổn thức chốn sân chầu; Năm nào hàng liễu còn xanh ngắt; Lão vẫn khôn nguôi nhỏ lệ sầu.”

Bút tích giống hệt lá thư trước, nhưng có phần mạnh mẽ và thoáng đạt hơn. Bài thơ này do Kiến Văn Đế sáng tác sau bốn mươi năm long đong lưu lạc các nơi vùng Tây Nam như Phúc Kiến, Quảng Châu, Tứ Xuyên. Trải qua các triều Vĩnh Lạc (Minh Thành Tổ), Hồng Hy (Minh Nhân Tông), Tuyên Đức (Minh Tuyên Tông), Chính Tống (Minh Anh Tông); khi trở về ông đã hơn sáu mươi tuổi, ý muốn khôi phục ngôi vị đã mất. Quay về Ngụy Quốc Công Phủ nhìn lại vật xưa, ông không nén nổi lòng cảm khái, viết bài thơ này rồi từ đó phiêu diêu xuất thế, không biết đi đâu về đâu.

Những chuyện bên trong, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh không sao biết được. Thừa Chí đọc không hiểu bài thơ này nói gì. Thanh Thanh thì nóng ruột muốn xem báu vật trong rương, chỉ liếc qua bài thơ rồi đặt sang một bên.

Viên Thừa Chí lấy chìa khóa, mở những cái rương sắt ra. Vừa mở nắp rương là ánh sáng chói chang làm hoa cả mắt, nguyên cái rương lớn toàn là bảo ngọc trân châu. Mở một cái rương khác, lại là đồ mã não phỉ thúy, không có món nào giá dưới vạn lượng. Thanh Thanh giật mình khẽ la lên, bất giác đổi hẳn sắc mặt, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Lục tiếp trong cái rương này, dưới đáy chất đầy những thỏi vàng. Cả mười cái rương đều như vậy cả.

Viên Thừa Chí nói: “Những bảo vật này là năm xưa Minh Thái Tổ vơ vét của bá tính trong thiên hạ. Chúng ta làm gì đây?”

Thanh Thanh ở lâu hiểu ý, biết mình chỉ cần tham lam một chút là không tránh khỏi bị Viên Thừa Chí coi thường. Nàng bèn đáp: “Chúng ta đã nói rồi, sau khi tìm được báu vật phải ủng hộ Sấm Vương để mưu cầu đại sự. Dĩ nhiên tài sản của dân phải đem dùng cho dân.”

Viên Thừa Chí vô cùng mừng rỡ, nắm chặt tay nàng mà nói: “Thanh đệ! Muội thật là tri kỷ của ta.”

Từ nhỏ Viên Thừa Chí đã biết phụ thân mình tận tụy lo việc nước, quên ăn quên ngủ, chẳng những không tham tiền tài, mà ngay cả những chuyện vui vẻ với gia đình hay bằng hữu cũng khó mà hưởng được. Năm xưa Ưng Tùng dạy chàng học chữ, từng dạy một bài văn của Viên Sùng Hoán diễn tả tâm trạng của mình, trong đó có đoạn: “Mười năm nay cha mẹ ta không được nhận tình cảm của con, vợ ta không được nhận tình cảm của chồng, anh em ta không được nhận tình cảm của thủ túc, bạn bè ta cũng không được nhận tình cảm của bằng hữu. Ta là loại người gì vậy? Nói thẳng ra, chỉ là một kẻ vong mạng ở Đại Minh.”

Hồi đó Viên Thừa Chí còn nhỏ, không thể lĩnh hội hết tinh thần tận tâm tận lực canh giữ đất đai, phòng chống kẻ địch của cha mình. Sau khi trưởng thành, mỗi khi nhớ đến câu “là một kẻ vong mạng ở Đại Minh” chàng không khỏi sôi bầu nhiệt huyết, quyết chí noi gương phụ thân.

Mỗi khi tặng chữ cho người khác, Viên Sùng Hoán thường viết hai câu: “Tâm tư phải cùng trời đất không đổi, ngôn hành phải cho con cái noi gương.” Di vật của cha mình, Viên Thừa Chí chỉ còn giữ được mấy chữ này. Lúc này nhìn thấy vô số kim ngân tài bảo, suy nghĩ đầu tiên của chàng dĩ nhiên là noi gương phụ thân, dùng chỗ trân báu này để bảo vệ quốc gia, giúp đỡ muôn dân.

Thanh Thanh thì xuất thân trong nhà ăn cướp. Xưa giờ hễ thấy tiền là nàng cất giữ ngay, bất kể tiền đó có chủ hay vô chủ, hợp với đạo nghĩa hay không. Huống chi số châu báu giá trị liên thành này là dựa vào tấm di đồ của Kim Xà quái hiệp, cha của nàng mà có được. Nếu nàng không có mối tình thâm hậu với Viên Thừa Chí, nhất định đã giữ làm của riêng. Bây giờ nghe Viên Thừa Chí gọi mình là tri kỷ, nàng không nén nổi một cơn ngọt ngào khởi lên tự đáy lòng. Bất giác nàng nhớ tới hai câu thơ cổ: “Bảo vật dễ tìm; Tình lang khó kiếm”.

Viên Thừa Chí nói: “Mình đã được số tài sản này, có thể đến Bắc Kinh làm chuyện lớn rồi. Hoàng đế triều Minh uổng công vơ vét bảo vật về đây, chắc không ngờ sau này dùng để giúp Sấm Vương lật đổ triều Minh.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Đây gọi là lấy mâu của ngươi đâm thuẫn của ngươi.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Không sai! Vốn liếng Nho học của Thanh đệ đâu phải là tồi?”

*

*   *

Đến chiều hôm sau, Viên Thừa Chí sai Hồng Thắng Hải đến nhà họ Tiêu mời La Lập Như đến.

Vết thương bị chặt tay của họ La còn rất đau, nhưng y vừa nghe Viên Thừa Chí muốn gặp là lập tức nhờ người dìu mình đến. Sau khi gặp mặt, y muốn hành lễ bái sư. Viên Thừa Chí kiên quyết không chịu, bảo y ngồi, rồi giảng tỉ mỉ cho hiểu một bộ Độc Tí Đao Pháp.

Võ công của La Lập Như vốn có căn bản, Viên Thừa Chí lại dạy từng chiêu từng thức đàng hoàng. Dạy liền năm ngày, La Lập Như đã hiểu chắc, chỉ đợi vết thương lành hẳn là có thể tập luyện. Bộ đao pháp này Viên Thừa Chí học được từ Kim Xà Bí Kíp, khác hẳn những loại đao pháp dùng cho người cụt tay đang lưu truyền trên chốn giang hồ. Chiêu nào cũng hiểm trở, thức nào cũng nhanh chóng, thật sự vô cùng lợi hại.

Tuy rằng La Lập Như mất một cánh tay, nhưng đổi được một tuyệt kỹ đủ để nổi tiếng trong giang hồ, có thể nói là trong họa tìm được phước. Y hoan hỉ vô cùng. Trong đám đệ tử môn hạ nhà họ Tiêu, sau này võ công của y là số một.

Sau khi thực hiện xong lời hứa, Viên Thừa Chí liền thuê xe, chuẩn bị lên đường đến kinh thành. Cha con Tiêu Công Lễ cùng môn đồ bày tiệc rượu đưa tiễn ân cần. Viên Thừa Chí nhờ Tiêu Công Lễ chuyển thư cho Mẫn Tử Hoa, trả lại khu nhà ở Đại Công Phường.

Tiêu Công Lễ cả mừng, cảm thấy Viên Thừa Chí xử sự thật là viên mãn, vừa giữ được thể diện vừa nể mặt bằng hữu giang hồ. Còn bọn Hán gian Thái Bạch Tam Anh đã giao cho quan phủ xử lý.

Hôm đó khí trời tốt đẹp, cây xanh mơn mởn. Viên Thừa Chí, Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải tạm biệt Mộc Tang đạo nhân, đưa mười mấy chiếc rương sắt lên những cỗ xe lớn, khởi hành về hướng Bắc. Cha con Tiêu Công Lễ cùng đệ tử tiễn chân qua khỏi Trường Giang, ra ngoài ba mươi dặm mới tạm biệt quay về.

Giang Bắc vẫn là vùng ảnh hưởng của Kim Long Bang. Tiêu Công Lễ đã cho người đưa tin từ mấy ngày trước, nên đến bến bãi nào cũng có người ân cần đón tiếp tiễn đưa.

Đi được mười mấy ngày thì đến ranh giới tỉnh Sơn Đông. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Từ đây không phải là địa phận của Kim Long Bang nữa. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải lưu ý hơn một chút.”

Thanh Thanh hỏi: “Cái gì? Có người cả gan dám đụng đến Thái Tuế hay sao?”

Hồng Thắng Hải nói: “Lúc này đạo tặc trong thiên hạ vô cùng đông đúc. Cường bạo ở Sơn Đông càng đặc biệt nhiều, lợi hại nhất là hai bang phái.”

Thanh Thanh nói: “Chắc một là Bột Hải Phái của ngươi rồi.”

Hồng Thắng Hải mỉm cười đáp: “Bột Hải Phái chuyên mua bán trên mặt biển. Còn đồ đạc ở trên đất liền, dù là hoàng kim châu báu để rơi dưới đất, bọn tại hạ nhìn thấy cũng không lượm.”

Thanh Thanh cười nói: “Thì ra không có quý phái trong đó. Thế hai bang phái đó là gì?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Một là Thiên Liễu Trang ở Thương Châu, thuộc hạ của Chử Hồng Liễu đại gia.”

Viên Thừa Chí nói: “Ta cũng đã nghe sư phụ nói đến. Chử Hồng Liễu có môn Chu Sa Chưởng rất nổi tiếng trong giang hồ.”

Hồng Thắng Hải nói: “Đúng vậy! Còn bang kia lập nghiệp ở Ác Hổ Câu. Đại đương gia là Âm dương phiến Sa Thiên Quảng võ công cao cường, người đông thế mạnh.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Từ nay trở đi, chúng ta cẩn thận lưu ý hơn. Mỗi đêm chúng ta cử một người thay phiên canh gác.”

Hai ngày sau, đến giờ Ngọ bỗng nghe tiếng chuông leng keng phía trước, hai con ngựa phi nhanh tới, lướt qua mặt mọi người. Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Chắc sắp có chuyện rồi.”

Y nghĩ bụng, võ công Viên Thừa Chí cực cao, mà chính mình cũng không phải tay vừa, bọn trộm vặt này không cần phải để vào mắt. Chưa đầy một giờ sau, quả nhiên hai con ngựa đó từ phía sau chạy ngược lại, lại lướt qua mặt đoàn xe.

Thanh Thanh cười nhạt. Hồng Thắng Hải nói: “Không ngoài mười dặm, phía trước chắc chắn có cường đạo cản đường.”

Không ngờ đi thêm mười mấy dặm vẫn bình yên vô sự. Đêm hôm đó, mọi người nghỉ ngơi tại sông Thạch Bổ. Hồng Thắng Hải tặc lưỡi, ngạc nhiên nói: “Chẳng lẽ con mắt giang hồ của tại hạ bị lé rồi sao?”

Sáng hôm sau đi tiếp, chưa tới năm dặm đã thấy phía sau có bốn kỵ sĩ xa xa theo dõi. Hồng Thắng Hải nói: “Đúng rồi! Hôm qua chúng chưa điều động đủ người. Hôm nay chắc chắn sẽ có chuyện.”

Ăn cơm trưa xong, lại có hai kỵ sĩ phi tới xem xét tình hình. Hồng Thắng Hải nói: “Chuyện này thật là kỳ lạ. Sai người thám thính tin tức, trước nay đâu cần đông đến thế?”

Đi được nửa ngày, lại có hai con ngựa lướt qua. Hồng Thắng Hải chau mày suy nghĩ, bỗng la lên: “Đúng rồi!” Y quay sang nói với Viên Thừa Chí: “Tướng công! Đêm nay chúng ta phải đến kịp một thị trấn lớn để nghỉ ngơi.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao phải thế?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Theo dõi chúng ta, không chỉ có nhân mã của một sơn trại mà thôi.”

Viên Thừa Chí hỏi lại: “Có phải vậy không? Đã có mấy trại chủ ngắm nghía món hàng của chúng ta rồi?”

Hồng Thắng Hải nói: “Nếu mỗi phái cử hai người, thì trước sau đã có năm bang phái rồi.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Thế thì vô cùng náo nhiệt.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao họ biết chúng ta mang theo kim ngân tài bảo? Nếu mười mấy cái rương sắt này đựng đầy đất đá, thì năm đại trại chủ đó há chẳng cực khổ một phen vô ích?”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Huynh đúng là dân ngoại đạo. Xe chở vàng bạc thì dấu vết bánh xe, tiếng xe đi dọc đường, ngay cả bụi bặm bay lên nhìn thấy khác hẳn. Đừng nói mười chiếc rương sắt này đập vào mắt người ta, Tiểu Huệ muội muội của huynh chỉ đem có hai ngàn lượng vàng cũng bị tên cướp vặt này nhìn thấy.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Bái phục, bái phục!”

Hồng Thắng Hải nghĩ bụng: “Chẳng lẽ tiểu cô nương dịu dàng này cũng là đồng nghiệp của mình hay sao?”

Đang nói chuyện, lại có hai con ngựa phi ngang qua mặt. Thanh Thanh cười nhạt nói: “Muốn ra tay lại không dám, cứ cưỡi ngựa chạy qua chạy lại không biết để làm gì. Bọn vô dụng như thế, có đông đúc cũng không doạ được ai.”

Hồng Thắng Hải nghiêm chỉnh nói: “Tiểu thư! Hảo hán cũng khó địch số đông. Tuy chúng ta không sợ, nhưng đồ vật trong rương nhiều như thế, nếu muốn hoàn toàn không mất mát thì phải phí một phen tâm sức.”

Viên Thừa Chí nói: “Ngươi nói không sai. Hôm nay chúng ta bớt lại mấy chục dặm đường, nghỉ đêm tại Thạch Giao Trấn.”

Đến Thạch Giao Trấn, mọi người tìm một khách điếm lớn ở lại. Viên Thừa Chí sai khiêng mười chiếc rương sắt vào trong phòng mình, ngủ chung với ông câm. Vừa khiêng rương xong đã thấy hai đại hán đi vào khách điếm, nhìn Viên Thừa Chí một cái rồi nói với chưởng quỹ là muốn trú lại. Tiểu nhị vừa dẫn hai người vào trong, lại thêm hai hán tử thô lỗ đầy hào khí đi vào.

Viên Thừa Chí gật đầu, khẽ bảo: “Ăn cơm tối xong, mọi người cứ về phòng mà nghỉ.”

Đến giữa đêm, nghe trên mái nhà có tiếng động nhỏ, biết bọn cướp đã đến, chàng liền thức dậy thắp đèn, mở rương sắt ra. Chàng hốt ra một mớ minh châu, bảo thạch, phỉ thúy, mã não, ngồi ngắm nghía dưới ánh nến. Những kỳ trân dị bảo này lập lòe ánh sáng, thu hút được không biết bao nhiêu cặp mắt thèm thuồng ghé sát vào khe cửa nhìn trộm.

Hồng Thắng Hải cũng nghe động, không yên tâm bèn vào phòng Viên Thừa Chí xem xét. Y vừa đến gần, mười mấy tên thám tử đều ẩn núp hết. Hồng Thắng Hải cười nhạt, khẽ gõ cửa phòng. Viên Thừa Chí bảo: “Vào đi!”

Hồng Thắng Hải vừa đẩy, cửa phòng đã mở nghe “két” một tiếng, thì ra không cài chốt. Y vào là thấy ngay châu quang bảo thúy trên bàn óng ánh chói mắt, bất giác ngẩn ra. Đến gần nhìn rõ những hạt trân châu tròn trịa lớn bằng đầu ngón tay cái, cây san hô đỏ tươi dài tới hai thước, những thỏi bích ngọc màu xanh trong veo rất lớn. Ngoài ra còn có hồng bảo thạch, kim cương, tử ngọc… không món nào không phải là báu vật.

Hồng Thắng Hải chưa biết trong mười chiếc rương sắt đựng những thứ gì, cứ tưởng là vàng bạc. Chỉ thế cũng đủ khơi gợi lòng tham của bọn đạo tặc rồi, nào ngờ lại nhiều đồ trân báu như thế. Hồng Thắng Hải lăn lộn giang hồ nhiều năm, kiến thức khá rộng, nhưng báu vật quý như thế, nhiều như thế, thì xưa nay chưa từng gặp.

Y đến bên Viên Thừa Chí, hạ giọng nói: “Tướng công! Để tại hạ đem cất được không? Bên ngoài có người đang nhìn lén.”

Viên Thừa Chí khẽ đáp: “Ta đang muốn cho họ xem một tí.” Chàng cầm một chuỗi trân châu lên, lớn tiếng hỏi: “Nếu đem xâu chuỗi này đến kinh thành, ngươi nghĩ bán được bao nhiêu?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Mỗi hạt châu này khoảng ba trăm lạng bạc, giá đó là thấp nhất rồi. Ở đây tổng cộng hai mươi bốn hạt, ít ra cũng bán được một vạn năm ngàn lạng bạc.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại một vạn năm ngàn?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Một hạt châu óng ánh, tròn trịa, to lớn như thế đã là hiếm thấy. Hai mươi bốn hạt này to hệt như nhau, hoàn toàn không có tì vết gì cả, lại càng khó có trên đời. Một hạt đáng giá ba trăm lạng bạc, thế thì hai mươi bốn hạt tối thiểu cũng đáng giá một vạn năm ngàn lạng.”

Câu nói này khiến cho bọn đạo tặc ngoài phòng càng ngứa ngáy trong lòng, vô cùng khó chịu, chỉ muốn nhảy vào giành giật ngay. Nhưng thủ lĩnh của chúng đã có lệnh cấm, vì có quá nhiều sơn trại nhìn ngắm món hàng này, mọi người phải thương lượng đàng hoàng mới ra tay. Không ai được hành động trước để khỏi tổn thương hòa khí đồng nghiệp.

Viên Thừa Chí vẫy tay chào Hồng Thắng Hải rồi đi ngủ. Chàng không tắt đèn, châu báu cũng không cất giữ, cứ rải đầy trên mặt bàn, làm bọn đạo tặc phía ngoài tía tai đỏ mặt, nghe rõ cả tiếng nuốt nước miếng ừng ực.

Từ khi phát hiện bọn trộm cướp tập hợp đông đúc, có ý cướp đoạt, Viên Thừa Chí suốt dọc đường đã tính toán kế hoạch đối phó. Đúng như Hồng Thắng Hải đã nói, hảo hán khó địch đông người, châu báu trong rương nhiều như thế, muốn hoàn toàn không mất mát thì phải tốn một phen sức lực. Chàng đã nghĩ, nếu Kim Xà Lang Quân gặp việc này thì sẽ đối phó thế nào?

Viên Thừa Chí nhớ lại, Kim Xà Lang Quân từng bị phái Không Động và Ôn Thị Ngũ Lão bắt được. Ông dùng kho báu cực lớn này làm mồi nhử cho hai bên tranh chấp. Ôn Thị Ngũ Lão ra tay giết hết bằng hữu phái Không Động mà chúng mời đến, nên Kim Xà Lang Quân thừa cơ chạy thoát. Chàng lại nghĩ, đêm mà Trương Xuân Cửu và Vương Thất Động của Kỳ Tiên Phái lên núi Hoa Sơn, chúng vì cuốn bí kíp giả có tẩm thuốc độc mà giết cả sư huynh đệ của mình. Du Long Bang vì tranh đoạt món vàng của Sấm Vương với Thanh Thanh mà tranh đấu, mất mạng không ít. Như vậy đủ thấy, khi trước mắt có món lợi lớn thì loại người thấy lợi quên nghĩa nhất định tàn sát lẫn nhau. Bọn trộm cướp này đang nhiều, để chúng giết lẫn nhau thì nhân số sẽ ít đi.

Chàng nghĩ vậy nên cố ý để lộ báu vật trong khách điếm, cho rằng báu vật càng quý, bọn cường đạo tàn sát lẫn nhau càng kịch liệt.

Đi tiếp hai ngày nữa, đã qua khỏi địa giới phủ Tế Nam. Bọn cướp bám theo đoàn xe mỗi ngày một đông. Hồng Thắng Hải biết có mặt Viên Thừa Chí thì không phải sợ gì, nhưng thấy bọn cường đạo đã lâu không chịu ra tay, không biết chúng đang sắp xếp gian mưu gì, nên không sao yên lòng nổi. Y ra sức khuyên Viên Thừa Chí đi theo đường thủy: “Bằng hữu trên thủy đạo của tại hạ rất đông. Thuê thuyền khởi hành từ Thiên Băng đi đến Bắc Kinh, tuy phải đi vòng tốn thời gian hơn, nhưng đảm bảo không xảy ra sự cố.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta đang muốn dùng số châu báu này để kết giao với anh hùng hảo hán trong thiên hạ, dù dùng hết cũng không sao. Tiền tài là vật ngoại thân, chỉ có nhân nghĩa là đáng nói.”

Hồng Thắng Hải nghe vậy, nửa tin nửa ngờ nhưng không tiện khuyên can nữa.

Viên Thừa Chí lại suy nghĩ: “Ta muốn dụ bọn cường đạo tự giết lẫn nhau để tranh giành châu báu, nhưng tính tới cũng phải tính lui. Nếu trong bọn chúng có một tay lão thành như Tiêu Công Lễ, thì chúng sẽ tránh khỏi việc tàn sát lẫn nhau. Lúc đó, mình phải đối phó như thế nào?”

Khi chàng được số bảo vật này, vẫn muốn theo lời sư phụ mà dùng để kết giao anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, giúp Sấm Vương một tay mưu đồ đại sự. Nếu bọn cường đạo có nghĩa khí, thì có thể đem tài bảo trong rương sắt ra, chia cho mọi người để kết giao bằng hữu. Vì thế chàng không lo nhiều đến việc quần đạo dòm ngó, cũng không lo nhiều đến châu báu mất còn. Nhưng chàng bỗng nghĩ: “Nếu bọn cường đạo này bất cần nghĩa khí, tên nào cũng gian manh tự tư tự lợi, tham lam tiền bạc như Ôn Thị Ngũ Lão của Kỳ Tiên Phái, đòi đoạt hết toàn bộ tiền tài báu vật, lại còn đối địch với Sấm Vương thì hỏng bét.”

Chàng biết Thanh Thanh vốn cũng nghề này, hành tung của Ngũ Lão Kỳ Tiên Phái thì nàng hiểu rõ nhất, liền gọi nàng tới hỏi: “Thanh đệ! Chắc bọn cường đạo này cũng như Thanh đệ lúc chưa quen biết ta, chưa có giao tình. Nếu Thanh đệ thấy nhiều tài bảo như thế, Thanh đệ sẽ làm gì?”

Thanh Thanh liếc chàng một cái, đáp: “Thế thì có gì cần khách sáo? Muội phải ra tay cướp đoạt ngay.”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ta muốn kết giao với Thanh đệ thì sao? Chia cho họ một số châu báu, thì họ có chịu làm bạn với ta hay không? Có chịu nghe lời ta hay không?”

Thanh Thanh nói: “Huynh không cần chia tiền tài báu vật cho muội. Muội không những làm bạn tốt với huynh, lại còn kết bái với huynh, gọi huynh là đại ca. Muội không những nghe lời huynh, mà sống chết cũng đi theo huynh, vĩnh viễn không muốn tách rời.”

Trong ngữ khí của nàng có phần đùa giỡn, nhưng nghe vẫn rõ tấm lòng chân thật. Viên Thừa Chí vô cùng cảm động, đưa tay ra nắm chặt tay nàng, khẽ nói: “Ta cũng thế.”

Thanh Thanh nói: “Nhưng bọn cường đạo kia thì không kết bái với huynh đâu. Chúng nhìn thấy nhiều kim ngân tài bảo như thế, mắt đỏ lên lập tức. Dù huynh là cha mẹ đi nữa, chúng cũng quyết không chịu nghe lời.”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì chúng ta tiên lễ hậu binh, nói chuyện tình cảm trước, không đả thương người để tránh gây thù oán. Nhưng bọn cường đạo này rất đông, nếu không muốn đả thương người, không tổn thương hòa khí thì vô cùng khó.”

Thanh Thanh nói: “Gặp việc trước mắt, trầm tĩnh là hơn. Huynh phải nhận ra người cầm đầu bọn cường đạo đó, rồi ra tay khống chế ngay. Bọn tiểu lâu la nhất định không dám động đậy nữa.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Bắt giặc bắt kẻ cầm đầu trước. Ý này hay lắm.”

Suốt cả ngày hôm sau, bọn thám thính diễu qua diễu lại không dứt, cả gan đi sát đến gần, hoàn toàn không coi Viên Thừa Chí ra gì. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Cứ nhìn bọn chúng như thế, chắc chắn hôm nay có chuyện.”

Viên Thừa Chí nói: “Lúc đó ngươi chỉ cần chú ý đoàn xe, đừng để lừa ngựa kinh hãi chạy loạn lên. Còn cường địch thì ba người chúng ta đối phó.”

Hồng Thắng Hải vâng dạ. Viên Thừa Chí ra dấu với ông câm, dặn y nhìn rõ hiệu của mình rồi mới ra tay bắt người. Ông câm gật đầu đồng ý.

*

*   *

Đoàn người đi tiếp, đến khoảng giờ Mùi thì sắp đến Trương Trang. Trước mặt là một khu rừng rậm rạp, đột nhiên nghe thấy trên đầu vang lên những tiếng “u u”, mấy mũi tên có gắn sáo bay tới. Phía trước có tiếng thanh la vang dội, rồi trong khu rừng rậm mấy trăm đại hán kéo ra. Tên nào cũng quấn vải xanh trên đầu, áo quần toàn màu đen, tay nắm chặt binh khí, im lặng đứng chặn giữa đường.

Bọn phu xe biết là có chuyện, vội nắm cương lừa ngựa dừng xe lại, rồi ôm đầu ngồi bệt xuống đất. Đây là quy luật giang hồ, chỉ cần phu xe không chạy lung tung thì bọn cướp đường nhất định không làm hại họ.

Lại nghe tiếng sáo liên hồi, rồi tiếng vó ngựa vang lên. Từ trong rừng phóng ra mấy chục kỵ sĩ, chạy vòng ra chặn phía sau đoàn xe của Viên Thừa Chí, thế là trước sau đều bị cản trở. Sau đó bốn bề yên lặng, hoàn toàn không một tiếng động.

Viên Thừa Chí thấy tám người xếp thành một dãy trước mặt. Một người mặt trắng hơn năm mươi tuổi tách ra bước lên phía trước. Y không cầm vũ khí, chỉ cầm một cây quạt xếp, nhẹ nhàng nói: “Chào Viên tướng công.”

Viên Thừa Chí thấy bước chân y vững chãi, nghĩ thầm: “Võ công người này không yếu. Y cầm quạt xếp có nan bằng sắt, chắc chắn giỏi về điểm huyệt.” Chàng chắp tay lại nói: “Chào trại chủ.”

Trại chủ đó hỏi: “Viên tướng công từ xa đến đây, cực nhọc quá nhỉ?”

Viên Thừa Chí giả vờ khờ khạo, đáp: “Chắc trại chủ cũng mệt mỏi lắm rồi. Tiểu đệ đi đường chẳng có gì cực nhọc, chỉ có điều hành lý nặng nề. Kim ngân châu báu quá nhiều, mang theo thật là mệt.”

Trại chủ bật cười rồi hỏi: “Viên tướng công lên kinh thành, có phải để dự thi hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không phải thế. Tiểu đệ học hành chẳng ra gì, thi tới thi lui cũng không lên được bảng vàng. Chỉ còn cách hối lộ quan trên để kiếm chút công danh. Đúng là bút mực trong bụng không nhiều, tài vật trong tay không ít. Ha ha… Thật là xấu hổ, thật là xấu hổ.”

Trại chủ mỉm cười nói: “Các hạ thật là thẳng thắn, không giống bọn nho sĩ hủ lậu chút nào.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Thì tiểu đệ có đỗ đạt gì đâu? Hôm qua có nhiều bằng hữu nói cho biết, hôm nay sẽ có rất nhiều trại chủ đón tiếp tiểu đệ dọc đường, người nào cũng là hào kiệt cả. Tiểu đệ vô cùng mừng rỡ, nghĩ bụng phen này náo nhiệt, kết giao được nhiều bạn tốt. Suốt dọc đường tiểu đệ không dám lơ đãng chút nào, cứ mải ngó đông ngó tây chờ đợi, chỉ sợ làm mất cơ hội tốt. Quả nhiên được gặp trại chủ ở đây, đúng là tam sinh hữu hạnh. Các hạ ăn mặc thế này, cũng muốn lên kinh hay sao? Chúng ta cùng đi có được không? Dọc đường có thể nói chuyện tâm tình, uống rượu tiêu khiển, không còn cô đơn buồn chán nữa.”

Trại chủ thầm nghĩ: “Thì ra tên này chỉ là một con mọt sách.” Y mỉm cười nói: “Viên tướng công ngồi nhà đọc sách chẳng tốt hơn ư, sao phải ra ngoài bôn ba vất vả? Tướng công nên biết giang hồ vô cùng hiểm ác.”

Tên này là trại chủ Ác Hổ Câu tỉnh Sơn Đông, tên là Sa Thiên Quảng. Lần này đến cướp đoàn xe của Viên Thừa Chí, có tất cả tám trại hợp tác với nhau, trong đó Ác Hổ Câu người đông thế mạnh nhất. Võ công của Sa Thiên Quảng cũng giỏi nhất trong đám, nên hắn đương nhiên trở thành thủ lĩnh của Sơn Đông bát trại.

Viên Thừa Chí nói: “Lúc ở nhà tiểu đệ cũng từng nghe nói, trên giang hồ có rất đông bọn lừa gạt cướp bóc ác ôn gì gì đấy. Nào ngờ đi hơn ngàn dặm vẫn chưa gặp được người nào. Xem ra đó chỉ là chuyện để dọa người mà thôi, không phải là thật. Rất đông bằng hữu xếp hàng ở đây để làm gì vậy? Có phải trại chủ đang duyệt binh hay không? Thế thì thú vị đấy.”

Bảy tên trại chủ kia nghe Viên Thừa Chí nói mãi những chuyện nửa ngu nửa dại, nhẫn nại không nổi nữa, không ngừng liếc mắt nhìn Sa trại chủ, bảo hắn mau mau hạ lệnh. Sa trại chủ đột nhiên tắt nụ cười, hú dài một tiếng, xòe cây quạt trên tay ra. Trên cây quạt trắng vẽ một cái đầu lâu màu đen, giữa miệng đầu lâu cắn ngang một con dao nhỏ, trông rất đáng sợ.

Thanh Thanh nhìn thấy, bất giác rùng mình một cái, khẽ la lên kinh hãi. Viên Thừa Chí tuy tài cao mật lớn, nhưng vẫn cảm thấy một luồng khí lạnh âm u. Sa trại chủ cười khành khạch, vẫy cây quạt một cái. Mấy trăm tên đạo tặc lập tức phóng tới chỗ đoàn lừa ngựa.

Viên Thừa Chí đang định nhảy xổ ra để bắt Sa trại chủ, đột nhiên nghe trong rừng vọng ra một tiếng sáo trúc nhọn hoắt. Sa trại chủ vừa nghe là sắc mặt đột nhiên thay đổi, lại vẫy quạt một cái. Bọn cường đạo lập tức dừng lại.

Từ trong rừng có hai con ngựa bước ra. Đi trước là một ông lão, râu mày bạc trắng. Phía sau là một thiếu nữ mặc áo xanh, tóc búi ngược, chỉ nhìn thoáng qua đã thấy nhan sắc tuyệt trần. Hai người chầm chậm tiến đến khoảng giữa rồi dừng ngựa.

Sa trại chủ trừng mắt, nói: “Đây là địa giới tỉnh Sơn Đông.”

Ông lão hỏi: “Có ai nói là không phải đâu?”

Sa trại chủ nói: “Năm xưa chúng ta từng mở đại hội anh hùng ở Thái Sơn. Khi ấy đã hẹn nhau những gì?”

Ông lão đáp: “Thanh Trúc Bang chúng ta không đến Sơn Đông gây án, còn các vị không lên Hà Bắc ra tay.”

Sa trại chủ nói: “Đúng vậy! Thế thì hôm nay cơn gió nào thổi Trình lão gia đến đây?”

Ông lão nói: “Nghe nói có một món hàng cần đưa đến Hà Bắc, nên chúng ta đến đây một là đón khách, hai là xem thử hàng hóa ra sao.”

Sa trại chủ sầm mặt xuống nói: “Đợi khi món hàng đó đi vào địa giới của Trình lão gia, thì lão gia hãy xem cũng chưa muộn.”

Ông lão cười ha hả rồi nói: “Sao lại không muộn? Lúc đó hàng đã nằm gọn trong trại Ác Hổ Câu của lão đệ rồi. Lão nhi đâu có tư cách đến đó mà xem? Nếu làm như vậy, mới thật là không còn nghĩa khí giang hồ gì nữa.”

Viên Thừa Chí, Thanh Thanh và Hồng Thắng Hải nhìn nhau thầm nghĩ: “Thì ra bọn đại đạo ở Hà Bắc cũng nhận được tin, đến đây đòi chia một phần. Bây giờ phải xem chúng thương lượng ra sao đã.”

Quần đạo Sơn Đông rộ lên, người này một tiếng, người kia một tiếng, la ó om sòm: “Trình Thanh Trúc! Ngươi thật là mọi rợ, không biết đạo lý gì cả.” “Con mẹ nó! Nếu ngươi biết điều nghĩa khí thì đừng đến địa giới tỉnh Sơn Đông này.” “Ngươi có giữ quy luật trong hắc đạo hay không?” “Thật chẳng có chút danh dự nào!”

Ông lão Trình Thanh Trúc nghiêng tai nghe ngóng rồi hỏi: “Mọi người nói năng loạn xạ gì vậy? Lão nhi tuổi tác đã cao, tai không còn tốt, nghe không rõ. Các bằng hữu Sơn Đông khen ngợi lão nhi nghĩa khí ngất trời có phải không? Thế thì xin đa tạ quý vị.”

Sa trại chủ vẫy quạt lia lịa, bọn cường đạo mới ngậm miệng lại. Y nói: “Chúng ta đã hẹn trước rồi. Sao Trình lão gia lại nuốt lời, không giữ chữ tín, không giữ nghĩa khí? Không sợ các vị hảo hán trên giang hồ chê cười hay sao?”

Trình Thanh Trúc không đáp, quay lại hỏi thiếu nữ đứng bên: “A Cửu! Lúc ở nhà ta đã nói gì với ngươi?”

Thiếu nữ đáp: “Lão nhân gia nói là chúng ta đang rảnh rỗi, chi bằng đến Sơn Đông dạo chơi một vòng, tiện thể xem thử món hàng đó ra sao.”

Nghe thanh âm dịu dàng thanh thoát, vô cùng êm ái dễ nghe, Thanh Thanh liền quay lại nhìn kỹ. Cô gái này khoảng mười sáu mười bảy tuổi, thần sắc rất ngây thơ, hai má ửng hồng, da dẻ trắng trẻo, cặp mắt vừa to đen vừa trong sáng; nhan sắc đã rất tú lệ, phong độ lại cao nhã, thật sự đẹp hơn cả những mỹ nữ được vẽ trong tranh. Không ngờ trong đám đạo tặc này lại có một con người sáng như minh châu đẹp như mỹ ngọc, diễm lệ vô cùng.

Thanh Thanh trước nay vẫn rất tự phụ về vẻ đẹp của mình, nhưng tự so sánh thì cảm thấy mình có nhiều chỗ không bằng cô gái này, quả là xưa nay chưa từng gặp. Nàng nhịn không nổi, liếc Viên Thừa Chí một cái để xem thần sắc anh chàng thế nào.

Trình Thanh Trúc mỉm cười hỏi: “Ta có nói là định ra tay gây án ở đây không?”

A Cửu đáp: “Đâu có? Lão nhân gia nói là chúng ta đã ước hẹn với bằng hữu ở Sơn Đông. Trong địa giới tỉnh Sơn Đông, dù có núi vàng núi bạc để ngay trước mắt, Thanh Trúc Bang cũng không lấy một xu. Như thế mới gọi là nói lời phải giữ lấy lời.”

Trình Thanh Trúc quay lại hỏi Sa trại chủ: “Lão đệ đã nghe chưa? Ta đâu có định gây án trong địa phận tỉnh Sơn Đông?”

Khuôn mặt Sa trại chủ đang nhăn nhó lập tức duỗi ra. Y mỉm cười rồi nói: “Thế thì hay quá! Như vậy mới là nghĩa khí. Trình lão gia từ xa đến đây, lát nữa sẽ được chia một ít.”

Trình Thanh Trúc mặc kệ y, lại hỏi A Cửu: “A Cửu! Ở nhà ta còn nói gì nữa không?”

A Cửu đáp: “Lão nhân gia còn nói, món hàng này không ít. Nếu dọc đường mất mát gì thì chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Còn nếu người ta thuận tay lấy hết, thì chúng ta không khỏi mất mặt.”

Trình Thanh Trúc hỏi: “Ừ, nhưng nếu người ta không nể mặt mà cứ lấy thì sao?”

A Cửu đáp: “Lão nhân gia đã nói, khi ở Hà Bắc thì chúng ta kiếm lời bằng con đường hắc đạo. Khi vào tỉnh Sơn Đông phải đổi nghề thành bảo tiêu cho mới mẻ. Nếu người khác nhất quyết ra tay cướp tiêu, dĩ nhiên chúng ta không khuyên can họ được. Nhưng nếu bị ép lên Lương Sơn, thì chúng ta chỉ còn cách ra tay bảo vệ.”

Trình Thanh Trúc mỉm cười khen: “Ngươi còn nhỏ tuổi, trí nhớ quả nhiên rất khá. Ta nhớ là mình có nói như thế.”

Lão quay đầu lại, hỏi Sa trại chủ: “Lão đệ hiểu chưa? Chúng ta đã hứa không gây án trong tỉnh Sơn Đông, mà hứa thì phải giữ. Nhưng bây giờ Thanh Trúc Bang chuyển nghề làm bảo tiêu. Trên đại hội Thái Sơn, ta đâu có hứa với lão đệ là không đi bảo tiêu trong tỉnh Sơn Đông?”

Sa trại chủ xanh hẳn mặt, nói: “Ông không cho chúng ta ra tay, đợi món hàng này đi vào địa phận Hà Bắc rồi tự mình ra tay. Có phải vậy không?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đúng vậy! Ở đại hội Thái Sơn đã hẹn ước rồi. Hà Bắc là xứ sở của chúng ta. Về tới đó, mặt mũi đâu mà chúng ta làm tiêu cục để cản đường phát tài của huynh đệ đồng hương?”

Bọn cường đạo nghe ông lão này nói toàn những câu cưỡng từ đoạt lý, xoay qua xoay lại vẫn là muốn cướp đoạt số châu báu này, không ai là không giận dữ. Thấy bên địch chỉ có hai người, một ông già, một thiếu nữ, chúng nhốn nháo ùa lên, chỉ muốn loạn đao phanh thây.

A Cửu đặt hai mảnh lá tre lên môi, thổi một tiếng nhẹ nhàng. Trong rừng đột nhiên có mấy trăm đại hán ùa ra. Bọn này mặc áo quần đủ màu sắc, nhưng trên đầu đều cài một cành tre xanh dài khoảng năm tấc, còn cả lá tre.

Sa trại chủ giật mình kinh hãi, thì ra lão già này bố trí sẵn rồi, đem rất nhiều nhân mã vào địa giới Sơn Đông. Quân thám thính bên mình đúng là đồ ăn hại, chẳng phát hiện được chút xíu tin tức gì. Y suy nghĩ một chút rồi vẫy cây quạt xếp. Bảy trại chủ kia cùng hai trại chủ Ác Hổ Câu thống lĩnh nhân mã tám trại, bày thành trận thế.

Rõ ràng sắp xảy ra loạn đấu. Nhân số của quần đạo Sơn Đông vẫn nhiều hơn, nhưng Thanh Trúc Bang đến đây đã chuẩn bị chu đáo, chọn toàn những hán tử tinh nhanh, mạnh khỏe. Nếu thật sự giao đấu, chưa chắc họ phải chịu thế hạ phong.

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nhìn nhau mỉm cười. Thanh Thanh khẽ nói: “Hàng chưa lấy vào tay mà bọn chúng đã lo tranh chấp rồi. Thật là tức cười.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Cứ để hai bên tranh nhau chết sống đã. Chúng ta làm ngư ông đắc lợi, thật là thú vị.”

Quần đạo Sơn Đông dàn ra chuẩn bị loạn đấu, nhưng để lại mấy chục người giám sát đoàn xe của Viên Thừa Chí, đề phòng những cỗ xe vận chuyển báu vật này thừa lúc lộn xộn mà chạy trốn.

Viên Thừa Chí vẫy tay gọi Hồng Thắng Hải tới. Đợi y đến gần, chàng hỏi: “Thanh Trúc Bang hư thực ra sao?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Địa giới Hà Bắc là phạm vi thế lực của Thanh Trúc Bang. Lão già Trình Thanh Trúc chính là bang chủ. Đừng thấy lão vừa ốm vừa già mà coi thường, công phu của lão thật sự lợi hại.”

Thanh Thanh hỏi: “Còn cô gái kia thì sao? Là cháu gái của lão phải không?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Nghe nói tính tình Trình Thanh Trúc cổ quái, suốt đời không cưới vợ, lẽ ra không có con cháu. Không chừng là cháu nuôi.”

Thanh Thanh gật đầu một cái, không hỏi nữa. Nàng thấy A Cửu thần sắc tự nhiên, hoàn toàn không lộ vẻ hoảng sợ, bèn nghĩ: “Chắc cô ấy cũng biết võ công. Ta hãy xem hai bên thắng bại ra sao đã.”

Lúc này tiếng sáo hiệu của Thanh Trúc Bang nổi lên liên tục. Mấy trăm người đã xếp thành bốn đội. Trình Thanh Trúc và A Cửu giục ngựa quay về trận, đứng trước mặt bốn đội này, trong tay vẫn không cầm binh khí.

*

*   *

Hai bên đã kiếm tuốt cung giương, chỉ cần một tiếng hô là xông vào loạn đả. Đột nhiên phía Nam vang lên tiếng nhạc ngựa, ba kỵ sĩ gấp rút phi tới. Người đi đầu hô lớn: “Mọi người đều là hảo bằng hữu cả! Hãy nể mặt tại hạ, khoan ra tay đã.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Người giảng hòa đã đến, chắc tình hình có thay đổi.”

Ba con ngựa đó chạy tới gần, nhìn rõ người vừa hô là một ông mập khoảng năm mươi tuổi, mặc trường bào bằng cẩm đoạn có thêu hoa lớn, tay cầm ống điếu rất to, mặt mày tròn trịa, nhìn là biết ngay một tay hào phú ở địa phương. Phía sau ông ta là hai đại hán khỏe mạnh.

Ông mập cho ngựa đi tới giữa hai đội nhân mã, cầm ống điếu vẫy ra một cái, dõng dạc hỏi: “Giữa huynh đệ có chỗ hiểu lầm, sao không nói chuyện đàng hoàng mà phải động đao thương? Không sợ bằng hữu giang hồ cười chê hay sao?”

Sa trại chủ nói: “Chử trang chủ! Trang chủ nghe thử vụ này xem sao.” Y bèn kể lại sơ lược chuyện Thanh Trúc Bang vượt biên gây án. Trình Thanh Trúc chỉ cười nhạt, không nói xen vào câu nào.

Hồng Thắng Hải nói với Viên Thừa Chí: “Tướng công! Sa Thiên Quảng trại chủ có biệt hiệu là Âm Dương Phiến, cùng Chử Hồng Liễu trang chủ là Lưỡng Bá ở tỉnh Sơn Đông.”

Thanh Thanh nói: “Đúng rồi, trước đây ngươi đã nhắc tới hai người này.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao Chử Hồng Liễu lại là trang chủ gì gì đó?”

Hồng Thắng Hải nói: “Sa Thiên Quảng thì khai sơn lập trại, ra mặt cướp bóc. Còn Chử Hồng Liễu thì êm ấm ở nhà làm viên ngoại, có cả một trang trại. Trước sau trang trại đó trồng cả ngàn cây liễu, nên gọi là Thiên Liễu Trang. Thật ra y là một tay độc hành đại đạo, khi ra ngoài gây án thường đi một mình, nhiều lắm chỉ mang theo hai ba người giúp việc.”

Thanh Thanh nghĩ bụng: “Thì ra là đồng nghiệp với năm lão gia của mình, hành nghề buôn không có vốn. Hồi trước ta cũng là đồng nghiệp, nhưng hình như ông mập không biết vị tiểu muội này.”

Chử Hồng Liễu lên tiếng: “Trình đại ca! Chuyện này nghĩ đi nghĩ lại cũng là đại ca không đúng. Năm trước đại hội trên đỉnh Thái Sơn, các vị cũng đã nể mặt mà mời tại hạ tham dự. Mọi người đều nói là không được vượt qua ranh giới để gây án mà?”

Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta đâu phải đến đây để gây án? Thanh Trúc Bang chỉ đùa giỡn một chút, đổi nghề đi bảo tiêu một phen. Luật pháp Đại Minh đâu có cấm người ta đi bảo tiêu? Chử lão đệ! Tin tức của lão đệ cũng thật linh thông. Ở đâu có thể nhúng tay vào, thì cái tẩu thuốc kia thò ngay tới đó.”

Chử Hồng Liễu cười rộ lên ha hả, chỉ hai hán tử đi sau mình rồi nói: “Hai vị này là Hoài Âm Song Kiệt, mấy hôm trước đã ghé qua trang trại, nói là có một món tiền muốn tặng cho tại hạ. Thân hình tại hạ ngày càng mập mạp, tính lại sợ nóng, vốn không muốn động đậy. Nhưng huynh đệ họ quá sức nhiệt tâm, tại hạ chỉ còn cách ra đây xem thử thế nào. Nào ngờ quý vị ở cả đây, thật là náo nhiệt.”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nhìn nhau một cái, cùng nghĩ: “Hay quá! Lại thêm ba con mèo ăn đêm nữa.”

Sa Thiên Quảng biết họ Chử võ công cao cường, muốn liên kết để cùng đối phó với Thanh Trúc Bang. Y bèn nói: “Chử trang chủ là người cùng địa giới tỉnh Sơn Đông, muốn chia phần thì dĩ nhiên chẳng ai nói được gì. Nhưng người tỉnh khác nhúng tay vào, nếu lần này chúng ta nhường nhịn thì sắp tới anh em trong tỉnh Sơn Đông còn có cơm ăn nữa hay không?”

Chử Hồng Liễu hỏi: “Trình đại ca nói sao đây?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Chúng ta khó khăn lắm mới lãnh được một chuyến tiêu, Sa trại chủ đã nhất định không nể mặt thì còn biết nói gì? Thôi thì mọi người mau lẹ một chút, lấy đao thương mà tìm chân lý.”

Chử Hồng Liễu quay lại hỏi: “Sa lão đệ thấy sao?”

Sa Thiên Quảng đáp: “Hảo hán Sơn Đông chúng ta không thể để người ngoài kéo tới bức hiếp.” Câu này rõ ràng kéo Chử Hồng Liễu vào cùng bè với mình.

Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta cùng xông lên một lúc, hay là lấy một đánh một? Sa trại chủ cứ đưa ra điều kiện, ta nhất định vâng lời.”

Âm dương phiến Sa Thiên Quảng xòe cây quạt ra, cười nhạt hai tiếng rồi hỏi Chử Hồng Liễu: “Chử trang chủ muốn thế nào?”

Vừa được Hoài Âm Song Kiệt đến báo tin là Chử Hồng Liễu khởi hành ngay, muốn một mình nuốt trôi chỗ trân bảo này. Nhưng y được tin trễ nên đã chậm chân, bây giờ lại ít người yếu thế, chỉ mong chia được một phần. Y biết hảo thủ trong Thanh Trúc Bang không phải là ít, bang chủ Trình Thanh Trúc nổi tiếng nhiều năm không phải tay vừa, không nên để xảy ra hiềm khích nặng nề.

Chử Hồng Liễu bèn nói: “Chuyện đã vậy rồi, không tránh khỏi tỉ thí một phen. Nếu loạn đấu thì tổn thương nhân mạng rất nhiều. Mọi người không thù không oán, hà tất phải làm mất hòa khí? Tại hạ có ý kiến này, không hiểu có dùng được không.”

Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng đồng thanh nói: “Chử trang chủ cứ nói đi.”

Chử Hồng Liễu đưa tẩu thuốc lên, chỉ vào mấy cỗ xe lớn rồi nói: “Ở đây có mười cái rương. Sơn Đông và Hà Bắc mỗi bên cử ra mười người, tỉ thí tổng cộng mười trận. Điểm trúng là dừng, không được hại mạng, bên nào thắng một trận thì lấy một cái rương. Thế là công bằng nhất. Chúng ta cứ coi như đang rảnh rỗi, ấn chứng võ công một chút để học hỏi lẫn nhau. Nếu lấy được rương, đó là tiền thưởng. Nếu không lấy được, dù sao cũng không phải vật của mình, không đến nỗi xót ruột mà tổn thương tì vị. Hai vị xem thử có được hay không.”

Trình Thanh Trúc cảm thấy phương pháp này rất tốt, nên đồng ý ngay. Sa trại chủ thì đối với Trình Thanh Trúc đã có phần kiêng nể, lại thấy Thanh Trúc Bang đến đây có chuẩn bị trận mạc nghiêm chỉnh, hơn hẳn quần đạo ô hợp bên tỉnh Sơn Đông, nếu hỗn chiến chưa chắc mình thắng được. Y lại nghĩ: “Bảy trại kia, mỗi trại phái một người ra trận. Nếu họ đủ bản lãnh mà thắng, thì cũng như mình định chia cho họ. Còn nếu họ thua thì không liên quan gì đến trại mình. Mình và Đàm lão nhị ra trận nhất định không thua, thế là đoạt được hai cái rương. Còn cái rương cuối cùng thì để Chử trang chủ tự lấy.” Y cũng lập tức đồng ý.

Sau đó hai bên thu quân về, thương lượng đưa người ra tỉ đấu. Chử Hồng Liễu sai người dùng đất màu vàng viết những chữ Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý lên mười chiếc rương sắt để làm ký hiệu.

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mặc kệ cho quần đạo làm bừa. Trình Thanh Trúc thấy hai người này không hoảng sợ chút nào, bất giác nổi dạ nghi ngờ, không tự chủ được phải nhìn Viên Thừa Chí và Thanh Thanh thêm mấy cái.

Bọn cường đạo đứng thành một vòng tròn lớn. Chử Hồng Liễu bước vào chính giữa để làm trọng tài.

Trận đầu tiên Sơn Đông phái người ra trước, hai bên thi thố về quyền thuật. Hai đấu thủ đều thân hình to lớn, sức khỏe kinh người. Đánh nhau bình bịch hồi lâu, người bên Hà Bắc bị đối phương dùng chân móc một cái té nhào xuống đất. Khi người bên Sơn Đông muốn nhảy tới đánh bồi, Chử Hồng Liễu lập tức vẫy tay cản trở. Sau đó, y tới cái rương sắt có ghi chữ Giáp, viết thêm một chữ Lỗ. (Lỗ là tên tắt của tỉnh Sơn Đông, còn Hà Bắc gọi là Trực). Sơn Đông thắng trận đầu tiên, quần đạo hoan hô như sấm động.

Trận thứ hai, Hà Bắc phái người ra. Sa Thiên Quảng biết đó là một hảo thủ Thiết Sa Chưởng, bên mình có Đàm nhị trại chủ giỏi hơn một bậc. Y nghĩ: “Không thể để mất cơ hội này”, liền bảo Đàm nhị trại chủ ra trận. Chưởng pháp gia số hai bên chẳng khác nhau bao nhiêu, nhưng công lực của Đàm nhị trại chủ thâm hậu hơn. Được vài chục chiêu, y đánh trúng vai đối phương một chưởng. Cánh tay người đó không đưa lên được nữa, thế là Sơn Đông thắng thêm một trận.

Quần đạo Sơn Đông đắc ý, nào ngờ sau đó thua liền bốn trận ba, tư, năm và sáu. Thế là trên bốn cái rương sắt có ghi chữ Trực. Đến trận thứ bảy tỉ thí về binh khí, Hậu trại chủ trại Sát Báo Cương bên tỉnh Sơn Đông vác cây Bát Phong Cửu Hoàn Đao ra trận, oai phong lẫm liệt. Quả nhiên y vừa xuất thủ đã trúng ngay, chặt đứt một cánh tay của đối phương.

Chử Hồng Liễu nghĩ: “Trước mắt chỉ còn lại ba chiếc rương sắt. Nếu mình không ra trận, để hai bên chia sạch, chẳng lẽ mình không có gì? Trận thứ tám Thanh Trúc Bang đưa người ra trước, mình phải đại diện bên Sơn Đông ra nghênh chiến để lấy một cái rương rồi tính tiếp.” Y bèn nói với Sa Thiên Quảng: “Sa lão đệ! Đối phương càng lúc càng lợi hại, trận tiếp theo lão đệ cho ta thử một phen.”

Sa Thiên Quảng biết lão này nhất định không chịu về tay không, bèn nói: “Nhất định Chử trang chủ sẽ giữ vững oai danh cho tỉnh Sơn Đông chúng ta.”

Khi bên đối phương có người bước ra, Chử Hồng Liễu bất giác ngơ ngác. Thì ra đối thủ chính là cô thiếu nữ A Cửu, xem ra chỉ mười sáu mười bảy tuổi, tay cũng không cầm binh khí, chỉ nắm hai cây tre nhỏ xíu.

Chử Hồng Liễu nghĩ thầm: “Ta là đại hào kiệt võ lâm, tỉ đấu với tiểu cô nương này há chẳng mất đi thân phận?” Y đã bước ra mấy bước, đột nhiên quay về bảo Sa Thiên Quảng: “Lão đệ phái người khác đi, trận tiếp theo để ta.”

Sa Thiên Quảng biết y không muốn giao đấu với cô bé này vì thắng cũng không hay, bèn hô lớn: “Huynh đệ nào cao hứng tỉ thí một trận với cô gái này?”

Trong quần đạo có một người bước ra. Tên này cao lớn, vai rộng, mặt mày trắng trẻo, cầm một đôi phán quan bút, chính là trại chủ Tần Đống của trại Hoàng Thập Ba trong Sơn Đông Bát Trại. Hắn tự cho mình là phong lưu, thấy thiếu nữ xinh đẹp vô cùng, tuy còn nhỏ mà nhan sắc đã nổi bật phi thường, nãy giờ đã bứt rứt trong lòng. Vừa nghe Sa Thiên Quảng kêu gọi, hắn lập tức xông ra.

Sa Thiên Quảng mỉm cười nói: “Bên chúng ta, chỉ có lão đệ là xứng đáng.”

Tần Đống cố ý khoe mẽ, đột nhiên tung người nhảy lên rồi nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt A Cửu. Hắn muốn biểu diễn khinh công một chút, rồi buông mấy câu chọc ghẹo. Nào ngờ chân vừa chạm đất, trước mặt đã thấy bóng xanh nháy động, một thanh tre đâm tới yếu huyệt trước ngực của mình. Thế đâm như gió, nhanh chóng vô cùng.

Tần Đống sử phán quan bút, dĩ nhiên biết phép đả huyệt. Hắn vô cùng kinh hãi, vội đưa tả bút gạt ra, thấy thanh tre bên tay trái đối phương lại đến. Hắn vội vã nhào sấp xuống đất mới tránh né được, nhưng đầu đầy bụi đất, cả người toát mồ hôi lạnh.

Quần đạo Sơn Đông thấy A Cửu tuổi còn nhỏ mà võ công lại khá như thế, ai cũng phải kinh ngạc. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cũng bất ngờ, nhìn nhau mấy cái.

A Cửu sử dụng hai cây tre trong tay như một cặp song thương. Nhưng thanh tre mềm dẻo, có thể vẫy ngang ra điểm huyệt, nên thỉnh thoảng nàng lại thi triển những chiêu số nhuyễn tiên.

Tần Đống thầm nghĩ: “Một con bé nhỏ xíu như vậy mà ta không thu dọn được, thì làm sao đứng vững trong hắc đạo tỉnh Sơn Đông nữa?” Hắn lo lắng trong lòng, múa cặp phán quan bút càng lúc càng khẩn trương hơn.

A Cửu đột nhiên chống thanh tre bên trái xuống đất, tung người nhảy lên. Thanh tre bên phải chấm tiếp xuống đất, nàng vọt lên cao hơn nữa, thanh tre bên trái từ trên cao đánh xuống địch thủ. Tần Đống không biết phải chống đỡ thế nào, phải lùi bước liên tục. Hắn sơ sẩy một chút, bị A Cửu dùng thanh tre điểm trúng huyệt Kiên Trinh, cánh tay trái tê liệt, bút rơi xuống đất, đỏ mặt tía tai thua trận bước về.

A Cửu đang lùi lại, Chử Hồng Liễu bỗng sải bước tiến ra, hô lớn: “Cô nương giỏi quá! Để ta lãnh giáo vài chiêu xem thử được không?”

A Cửu mỉm cười nói: “Bản cô nương đang cao hứng, đánh chưa đã tay. Chử gia chịu chỉ giáo vài chiêu thì thật là tuyệt diệu. Chử gia sử dụng binh khí gì?”

Chử Hồng Liễu cười nói: “Người lớn đùa với trẻ con, lại cần tới binh khí hay sao? Ta dùng tay không tiếp chiêu.”

Y đứng bên theo dõi trận chiến vừa rồi, trong lòng tính toán: “Con bé này đã lợi hại như thế, chắc hai trận tiếp theo đối phương còn có cao thủ mạnh hơn. Chi bằng ta cản nó lại đánh một trận, thủ một cái rương rồi hãy tính tiếp.”

Thanh Trúc Bang sợ A Cửu đấu liền hai trận ắt phải mệt mỏi, ba người đồng thời nhảy ra muốn thay cho nàng. Nhưng A Cửu tuổi trẻ hiếu thắng, nói ngay: “Ta đã nhận lời với Chử gia rồi.” Ba người đó đành lùi lại.

Trình Thanh Trúc vẫy tay gọi, A Cửu vội tung người nhảy tới. Trình Thanh Trúc kề tai nàng dặn dò gì đó. A Cửu gật đầu rồi quay lại vòng đấu, khom lưng thi lễ. Nàng huy động hai thanh tre bảo vệ toàn thân, không vội ra chiêu tấn công.

Chử Hồng Liễu chậm chạp từng bước đến gần. Đột nhiên y phóng tả chưởng ra, tấn công vào tay phải đối thủ. A Cửu chống hai thanh tre dưới đất, bay người tránh né. Khi quay trở lại, nàng đưa thanh tre ra, thanh bên phải vừa đánh tới, thanh bên trái đến theo lập tức, thế công như cuồng phong vũ bão.

Chỉ trong chốc lát, trong khối bóng màu xanh đó phóng ra một thanh tre, đâm trúng vào dưới xương vai Chử Hồng Liễu. Bang chúng Thanh Trúc Bang hoan hô vang dội, nhưng Chử Hồng Liễu lại không lộ vẻ gì đau đớn. Màu chu sa trên mặt y đã đỏ đến tận cổ, vẫn từ từ tiến công từng bước.

Thân pháp A Cửu vô cùng linh hoạt, bay qua nhảy lại, chỉ cần đối phương sơ suất một tí là tấn công chớp nhoáng. Chử Hồng Liễu cậy vào thân hình to mập, chỉ lo bảo vệ yếu huyệt của mình. Tay chân, thậm chí vai lưng hắn đã bị mấy thanh tre đánh trúng, nhưng chẳng hề gì.

Viên Thừa Chí bảo Thanh Thanh: “Tên này lớn tuổi như thế, lại đi bức hiếp một tiểu cô nương. Y sắp hạ độc thủ rồi.”

Thanh Thanh lo lắng nói: “Để muội đi cứu cô ấy.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Hai bên đều muốn cướp đoạt tài vật của chúng ta, đi cứu làm gì?”

Thanh Thanh nói: “Tiểu cô nương này rất dễ thương, để cứu cô ấy rồi hãy tính tiếp. Đại ca! Đại ca ra tay đi.”

Thừa Chí mỉm cười rồi gật đầu.

Bên trong hai người càng đánh càng ác liệt. Da mặt Chử Hồng Liễu đỏ nhừ, như sắp ứa máu ra. Một lát sau, cánh tay y cũng từ từ đỏ ửng lên. Viên Thừa Chí nói: “Đến khi cánh tay của y đỏ hẳn, tiểu cô nương đó sẽ gặp nguy hiểm ngay.”

Lúc này Chử Hồng Liễu lại trúng liên tiếp mấy thanh tre. Y không nói tiếng nào, cứ từng chưởng phát ra chậm rãi, vừa ổn định vừa hung dữ. A Cửu dần dần thất thế, bị chưởng phong của đối phương ép cho khó thở, thân pháp không nhanh nhẹn như trước nữa.

Trình Thanh Trúc la lên: “A Cửu! Quay lại, Chử gia thắng rồi.”

A Cửu toan lùi ra, nhưng Chử Hồng Liễu không cho nàng thoát khỏi vòng chiến. Y hét lên: “Đã đánh trúng ta nhiều như vậy, muốn bỏ chạy hay sao?”

Y xuất thủ tuy chậm chạp, nhưng A Cửu vẫn không thể nào thoát khỏi màn lưới chưởng phong bao trùm. Thấy bàn tay y càng lúc càng đỏ, Trình Thanh Trúc giật lấy hai thanh tre trong tay thuộc hạ, tung người nhảy vào giữa Chử Hồng Liễu và A Cửu để cản trở, kêu lên: “Thắng bại đã rõ. Chử huynh từng nói điểm trúng là dừng, xin hạ thủ lưu tình.”

Sa Thiên Quảng la lên: “Hai người đánh một hay sao?” Y lập tức cầm cây quạt sắt nhảy ra, bay tới điểm vào huyệt đạo Trình Thanh Trúc. Họ Trình vội đưa thanh tre gạt ra.

Chử Hồng Liễu cười nhạt nói: “Điểm trúng là dừng, đương nhiên là vậy. Nhưng bây giờ ta chưa điểm trúng.” Y lại tăng thêm kình lực vào song chưởng.

Trình Thanh Trúc muốn cứu A Cửu, nhưng bị Sa Thiên Quảng giữ chân. Lão không biết phép phân thân, chỉ còn cách tập trung tinh thần ứng chiến với Sa Thiên Quảng. A Cửu mồ hôi đầy đầu, vất vả chống chọi hai bên trái phải, rõ ràng sắp trọng thương dưới bàn tay Chử Hồng Liễu.

Viên Thừa Chí đột nhiên kêu lớn: “Trời ơi! Không được rồi, không được rồi! Ngựa điên, cứu mạng, cứu mạng!” Chàng giục ngựa xông vào vòng chiến, chen vào giữa Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng.

Trình, Sa dĩ nhiên phải nhảy qua hai bên tránh né. Viên Thừa Chí ngồi trên lưng ngựa lắc lư lảo đảo, hai tay ôm lấy cổ ngựa, đột nhiên lộn nhào xuống bụng ngựa rồi lại trèo ngược lên, hai chân đạp loạn xạ, dáng vẻ bối rối thảm hại.

Khi con ngựa chạy thẳng đến chỗ A Cửu, đứng chặn giữa nàng và Chử Hồng Liễu, Viên Thừa Chí mới vừa thở hổn hển vừa bò xuống ngựa. Chàng loạng choạng như sắp té nhào, miệng la oai oái: “Nguy hiểm vô cùng! Phen này thế là thoát chết. Súc sinh ơi là súc sinh, ngươi muốn lấy mạng đại gia hay sao?”

Nhờ chàng cản trở mà A Cửu thoát nạn. Nàng lau mồ hôi trán, thu lại thanh tre, hổ thẹn lùi về. Tuy Chử Hồng Liễu không cam lòng, nhưng y không dám đuổi vào trong trận đối phương.

Trình Thanh Trúc nói: “Sa trại chủ! Lão phu còn muốn lãnh giáo Âm Dương Bảo Phiến của Sa trại chủ.”

Sa Thiên Quảng nói: “Đúng vậy! Còn cái rương cuối cùng, hai người chúng ta quyết một phen thắng bại.”

Hai người vừa giao đấu mười mấy chiêu chưa phân cao thấp, phen này đánh tiếp không dung tình gì nữa, hai bên đều hạ sát thủ. Hai thanh tre của Trình Thanh Trúc rất dài, chiêu thuật kỳ lạ. Cây quạt sắt của Sa Thiên Quảng đánh mãi vẫn chưa thể áp sát vào người đối thủ.

Lúc này mặt trời đỏ bầm đã nghiêng về phía tây, từng bầy quạ bay ngang trời kêu quang quác điếc tai. Đánh thêm mấy chiêu nữa, Sa Thiên Quảng dần dần rơi vào thế hạ phong, bước chân có phần loạng choạng.

Chử Hồng Liễu la lên: “Hai bên sức lực cầm đồng, khó phân thắng bại. Chiếc rương cuối cùng này, chúng ta chia đều nhau đi.”

Trình Thanh Trúc cười dài một tiếng, quét ngang thanh tre là là mặt đất. Sa Thiên Quảng vội nhảy lên tránh né. Hai tay Trình Thanh Trúc thu về đánh ra nhanh như chớp giật, liên tiếp quất luôn mấy phát. Sa Thiên Quảng đang lơ lửng trên không, khó mà tránh né, chân trái trúng ba đòn liên tiếp. Khi hạ xuống đất y đứng không vững nữa, té lăn ra.

Trình Thanh Trúc chắp tay nói: “Đa tạ lão đệ nhường nhịn.” Lão thu lại thanh tre, quay về đội ngũ phe mình.

Sa Thiên Quảng nghiến răng lại, ấn vào một cái nút trên cây quạt. Năm mũi cương đinh trong cán quạt bắn vèo vèo tới sau lưng Trình Thanh Trúc. Khi họ Trình nghe tiếng gió thì không kịp tránh né nữa, bị cả năm mũi cương đinh ghim trúng vào lưng.

Lão mới đau nhói lên đã tê chồn ngay, biết là hỏng rồi, lập tức vận hết hơi tàn, không nói tiếng nào tung người nhảy đến. Hai thanh tre phóng ra rất nhanh, điểm vào bụng dưới Sa Thiên Quảng. Chiêu này phát xuất trong lúc vô cùng căm phẫn, nên đã dùng hết kình lực bình sinh. Sa Thiên Quảng lập tức ngất xỉu tại chỗ.

Quần đạo tỉnh Sơn Đông vội xách binh khí ùa lên cứu giúp. Nhưng chúng chưa đến gần thì Trình Thanh Trúc đã không gượng nổi nữa, ngã ngửa xuống đất, nằm ngẩng mặt lên trời. Khi lão té xuống, năm mũi cương đinh lại ghim vào sâu thêm một khúc. A Cửu tức tốc chạy tới, dìu lão về bổn trận.

Bang chúng Thanh Trúc Bang không biết bang chủ của mình sống chết thế nào, chẳng ai là không giận dữ. Bốn đội nhân mã lập tức ào lên, hỗn chiến với quần đạo tỉnh Sơn Đông. Lúc này không giống ấn chứng võ công chút nào nữa. Chỉ trong chốc lát là hai bên đều có chết có bị thương, máu tươi bắn tóe ra bốn phía.

Chử Hồng Liễu chụp lấy tay Đàm nhị trại chủ của Ác Hổ Câu, kêu lớn: “Mau mau bảo anh em dừng tay!”

Đàm nhị trại chủ lấy còi sừng ra, thổi mấy tiếng tu tu, quần đạo tỉnh Sơn Đông lùi lại. Bên kia tiếng sáo tre cũng vang lên, bang chúng Thanh Trúc Bang cũng lùi về. Thì ra A Cửu thấy Trình Thanh Trúc đã hồi tỉnh, biết có hỗn chiến cũng không thể ổn định cục diện được. Nàng thấy đối phương thu quân về, cũng lo ổn định bang chúng của mình lại.

Chử Hồng Liễu đứng giữa hai bên, cất tiếng hô lớn: “Mọi người đừng để tổn thương hòa khí nữa. Chúng ta phân chia những rương sắt này đi, còn chuyện xích mích thì từ từ rồi tính.”

Đàm nhị trại chủ nói: “Cái rương cuối cùng là của chúng ta.”

Thanh Trúc Bang nhao nhao lên nói: “Các ngươi có đếm xỉa đến mặt mũi nữa không? Ám toán người khác mà gọi là hảo hán ư?”

Hai bên chửi mắng om sòm, chỉ muốn tiếp tục giết nhau.

Chử Hồng Liễu nói: “Thôi thì mở cái rương này ra, chia đều.”

Hai bên thấy thủ lĩnh đều bị thương nặng, không dám trái ý Chử Hồng Liễu. Dù sao trong tay họ đã có không ít trân báu, khá thỏa mãn rồi. Họ bèn phái người ra khiêng rương về.

A Cửu la lên: “Rương thứ tám là do ta thắng. Ta không cần lấy. Để lại cho vị khách này, không ai được đụng vào.”

Chử Hồng Liễu hỏi: “Sao lại thế?”

A Cửu đáp: “Nếu không nhờ con ngựa của huynh ấy nổi điên, thì ta trọng thương dưới chưởng của Chử gia rồi. Để lại một rương, coi như cảm tạ.”

Chử Hồng Liễu mỉm cười nói: “Cô bé này cũng biết ân oán phân minh. Được thôi, mọi người khiêng đi! Trên rương đã viết sẵn chữ rồi, đừng khiêng nhầm.”

Quần đạo kéo tới định khiêng rương sắt, Viên Thừa Chí đột nhiên lên tiếng: “Các vị vừa luyện võ phải không? Xem vui lắm, thật là thích mắt, giống hệt những người trổ tài mãi võ kiếm sống trên giang hồ. Bây giờ các vị làm gì nữa đây?”

A Cửu cười khúc khích, hỏi: “Huynh không biết hay sao? Bây giờ chúng ta phải khiêng những cái rương này.”

Viên Thừa Chí nói: “Chuyện này thì không dám phiền đến các vị, ta đã thuê đủ phu xe rồi. Các vị nhiệt tình thật, nhưng mới gặp nhau dọc đường, ta đâu dám phiền hà quá đáng?”

A Cửu mỉm cười nói: “Không phải chúng ta khiêng giùm huynh, mà là khiêng cho mình.”

Viên Thừa Chí kinh ngạc nói: “Úi chà, thế thì lạ quá. Hình như những cái rương này của ta mà? Chẳng lẽ quý vị nhận lầm rồi sao?”

Một tên trộm cướp Sơn Đông vừa chửi vừa nói: “Loại công tử bột này chỉ biết ăn cơm rồi đi đại tiện, nói nhiều với hắn làm chi? Lần này hắn còn giữ được cái mạng nhỏ xíu, coi như tổ tiên tích đức lắm rồi.” Nói xong, hắn cúi xuống khiêng rương.

Viên Thừa Chí la lên: “Trời ơi, không được đâu!”

Chàng lóp ngóp bò lên cái rương. Lúc đang trèo, một chân đạp ra, đại hán kia bị hất văng ra ngoài. Viên Thừa Chí ngã phịch lên mặt rương, quơ tay quơ chân, kêu la liền miệng: “Trời ơi! Cứu mạng, cứu mạng!”

A Cửu tưởng chàng té thật, bèn nhảy tới nắm tay kéo chàng đứng dậy, nửa cười nửa mắng: “Con người này thật là…”

Quần đạo thấy chàng thảm hại như thế, tưởng phát đá vừa rồi chỉ là may mắn, lại đi khiêng rương tiếp.

Viên Thừa Chí xua hai tay lia lịa, kêu lên: “Khoan đã, khoan đã! Quý vị khiêng rương đi đâu thế?”

A Cửu đáp: “Dĩ nhiên là khiêng về nhà rồi.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Còn ta thì sao?”

A Cửu mỉm cười nói: “Huynh nhìn cũng sáng sủa, sao đầu óc ngu muội đến thế? Ngoan ngoãn trở về nhà đi, kẻo mất mạng dọc đường.”

Viên Thừa Chí lập tức gật đầu, nói: “Cô nương nói câu này thật là chí lý. Bây giờ ta sẽ mang rương về nhà.”

Gã đại hán vừa bị đá một cước đã bò dậy. Hắn vô cùng giận dữ, vung tay đánh mạnh lên vai Viên Thừa Chí, mồm quát lên: “Cút con mẹ mày đi!”

Mắng chưa dứt câu, lưng hắn đã bị Viên Thừa Chí nắm chặt lấy. Chàng vung tay, quăng đại hán đó bay tuốt lên trời, vẽ một vòng tròn rồi rơi lên ngọn cây ngoài xa bảy tám trượng. Hắn cố hết sức ôm được một cành cây, kêu cứu ầm ĩ. Một đàn quạ đang đậu trên cành kinh hãi vỗ cánh, vừa kêu vừa bay loạn xạ trên đầu hắn.

Lúc này quần đạo mới biết thiếu niên trước mặt thân mang tuyệt kỹ. Dáng vẻ bối rối yếu đuối như công tử chỉ là giả bộ để đùa giỡn với mình. Nhưng chúng ỷ người đông thế mạnh, không nể nang chàng chút nào.

Năm mũi cương đinh trên lưng Trình Thanh Trúc đã được thuộc hạ nhổ ra. Lão tự biết mình bị thương không nhẹ, lo vận khí bảo vệ vết thương, chỉ đợi chia xong bảo vật là lập tức rút lui. Đột nhiên thấy Viên Thừa Chí hiển lộ võ công cao thâm, trước mắt không ai là địch thủ. Lão không nén nổi kinh hãi, vội vẫy tay gọi A Cửu đến nói nhỏ: “Người này võ công cực cao, phải hết sức cẩn thận.”

A Cửu gật đầu một cái, vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ. Kinh ngạc vì không ngờ vị tướng công tú tài này lại là cao thủ võ lâm, còn hoan hỉ vì nghĩ đến lúc nãy chàng giục ngựa giải vây cho mình, không phải may mắn tình cờ mà là có lòng cứu giúp. Nàng không khỏi âm thầm cảm kích.

Viên Thừa Chí lớn tiếng nói: “Các vị đánh nhau mất nửa ngày trời, lại viết những gì Giáp Ất Bính Đinh trên rương của ta, còn viết thêm Lỗ Trực gì gì đó. Bây giờ đùa giỡn đã đủ chưa? Ha ha! Ta phải xóa rồi đây.”

Chàng lập tức túm cổ một đại hán đứng gần, nhấc bổng lên xoay ngang lại, quơ một vòng trên mấy cái rương sắt. Chàng dùng hắn làm giẻ lau, chùi sạch những chữ Giáp Ất Bính Đinh Lỗ Trực, rồi vung tay một cái, quẳng hắn lên một ngọn cây khác.

Mười mấy người trong quần đạo Sơn Đông lớn tiếng hò hét, cầm binh khí phóng tới. Viên Thừa Chí tay đấm chân đá, lập tức trên trời đầy binh khí và những gã đại hán bị ném tung lên. Tiếng người la kinh hãi hòa vào tiếng quạ kêu quang quác. Chỉ nháy mắt là mười mấy đại hán đã bị Viên Thừa Chí trước sau nắm lấy, ném lên các ngọn cây xung quanh. Chàng ra tay rất vừa phải, không có tên nào rớt xuống đất bị thương.

Quần đạo Sơn Đông và Thanh Trúc Bang đều loạn hẳn trận mạc, bây giờ mới bắt đầu kinh hãi. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng đã bị thương nặng, chúng cùng nhìn về phía Chử Hồng Liễu, đợi hắn chủ trương đại cuộc.

Chử Hồng Liễu hừ một tiếng rồi dõng dạc nói: “Thì ra các hạ cũng là võ lâm đồng đạo, thế thì phải thỉnh giáo danh tính rồi. Không hiểu các hạ là môn hạ của vị nào?”

Viên Thừa Chí đáp: “Vãn sinh họ Viên. Sư phụ của vãn sinh là lão phu tử Cơ Lý Cô Lỗ. Lão nhân gia là một đại sư về Kinh Dịch, đối với Lễ Ký và Xuân Thu lại càng tâm đắc. Còn một vị Lý lão phu tử, đã dạy dỗ vãn sinh môn Bát Cổ Văn. Nói đến các phép chuyển thừa khởi hợp…”

Chử Hồng Liễu tức giận ngắt lời: “Bây giờ còn giả bộ làm gì nữa? Mau mau nói rõ sư môn ra. Nếu giữa chúng ta có nguồn gốc liên quan, thì mọi người ở đây không phải là không biết nghĩa khí giao tình.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì tuyệt diệu. Nguồn gốc liên quan thì trước đây không có, nhưng hôm nay gặp nhau ở đây, còn không phải là có duyên gặp gỡ ư? Chuyện buôn bán của các vị không thành, nhưng vẫn còn nhân nghĩa. Tuy không kiếm được chút lãi nào, nhưng đâu có bị mất vốn? Trời không còn sớm nữa, xin mời, xin mời! Bây giờ tại hạ phải đi thôi.”

Hậu trại chủ của trại Sát Báo Cương lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Y xách cây Bát Phong Cửu Hoàn Đao ra, xuất chiêu Phong Tảo Bại Dịch chém vào vai Viên Thừa Chí. Thân hình chàng hơi nghiêng một chút, cửu hoàn đao chém trượt qua kế bên. Chiêu này dùng sức cực mạnh, đao thế không thu về được, chém thẳng vào trước ngực Chử Hồng Liễu.

Trong tiếng quần đạo la hoảng, Chử Hồng Liễu đảo người né tránh, đưa ngón trỏ và ngón giữa tay trái ra kẹp lấy sống đao. Y giật tay một cái, lưỡi đao lập tức dừng lại. Hậu trại chủ mắc cỡ đến đỏ mặt tía tai, ấp úng nói: “Chử trang chủ! Xin… xin lỗi.”

Chử Hồng Liễu mỉm cười lỏng ngón tay ra, quay sang bảo Viên Thừa Chí: “Dựa vào công phu này, xứng đáng lấy một cái rương của ngươi đấy chứ?”

Viên Thừa Chí hỏi: “Công phu đó gọi là gì vậy?”

Chử Hồng Liễu nói đầy vẻ đắc ý khoe khoang: “Đó là Giải Kiềm Công. Nếu ngươi biết công phu này thì ta phục ngươi sát đất.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Giải kềm giải búa cái gì? Ta không thấy gì cả.”

Chử Hồng Liễu vô cùng giận dữ, hét lên: “Ta vừa dùng hai ngón tay kẹp chặt lưỡi đại đao, chẳng lẽ ngươi mù rồi sao?”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “À, thì ra là chuyện đó. Đó là hai người đã sắp xếp trước rồi, có chi kỳ lạ đâu? Thanh đệ qua đây, chúng ta luyện thử chiêu đó xem sao.”

Thanh Thanh cười khúc khích, nhặt dưới đất một thanh đơn đao, từ từ chém tới. Đao tới càng gần càng chậm, cuối cùng nhẹ nhàng để yên lưỡi đao trước mặt Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí quơ tay loạn lên một hồi, rồi nắm lấy sống đao. Thanh Thanh giả vờ dùng sức giãy giụa một hồi nhưng không giật được đao về. Nàng buông tay, hô lớn: “Úi chà! Giải Kiềm Công lợi hại quá!”

Thấy hai người chọc ghẹo Chử Hồng Liễu, A Cửu không nén nổi phải cười khanh khách. Quần đạo Hà Bắc và Sơn Đông đều không nhịn được, buông tiếng cười rộ.

Chử Hồng Liễu một đời tung hoành trong tỉnh Sơn Đông, xưa nay chỉ quen sai sử người khác, làm sao nhịn nổi hai kẻ hậu sinh tiểu bối chọc ghẹo mình? Y bèn đưa tay đoạt lấy thanh đao của Hậu trại chủ, cầm đưa cho Viên Thừa Chí rồi bảo: “Ngươi dùng thanh đao này chém ta một đao thử xem. Không phải bàn tính trước đấy chứ?”

Y vừa thấy Viên Thừa Chí ném quần đạo lên cây, võ công cực cao, nếu động thủ tay chân với chàng thì chưa chắc đã thắng. Nhưng dựa vào Giải Kiềm Công đã luyện tập mấy chục năm trời, thì hy vọng có thể hạ độc thủ lấy mạng thằng nhóc không biết lợi hại này.

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ta chém chết ông thì không có mạng để đền. Ông không được đi báo quan phủ. Nếu định thưa kiện thì ta không thử đâu.”

Chử Hồng Liễu lại càng nổi giận, đã khởi sát tâm. Khuôn mặt y vừa nhăn nhúm vừa tím đen lại, nói: “Bất luận ai chết cũng không đền mạng.”

Viên Thừa Chí hô lớn: “Cẩn thận! Ta chém đây.” Đột nhiên chàng xoay tay lại, hớt lưỡi đao ngang qua.

Chử Hồng Liễu không sao ngờ được chiêu đao đến từ phương vị này, kinh hãi vội cúi đầu xuống; cái mũ bị chém rơi xuống đất. Quần đạo lại cười vang lên một hồi.

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Đâu? Giải Kiềm Công của ông đâu rồi? Hình như ta chưa nhìn thấy.”

Chàng vừa nói vừa vung đao chém là là dưới đất. Chử Hồng Liễu tung người gấp rút nhảy lên, lưỡi đao chém sượt dưới giày. Bịch bịch hai tiếng, cặp đế giày rơi xuống. Nếu chiêu đao này chém lên trên ba tấc, thì Chử trang chủ đã biến thành trang chủ của “Vô Cước Trang” rồi.

Viên Thừa Chí nói: “Đúng rồi! Cao quá không được, thấp quá không xong, nhanh quá ông cũng không tránh được. Thế thì ta từ từ chém vào quãng giữa cho ông dễ chụp.”

Nói xong, chàng bắt chước Thanh Thanh lúc nãy, từ từ đưa thanh đao tới trước mặt Chử Hồng Liễu. Họ Chử đưa hai ngón tay trái ra, chuẩn bị kẹp được binh khí đối phương là lập tức phóng hữu chưởng đánh cho mặt mày Viên Thừa Chí không phân biệt được đâu là mũi đâu là miệng nữa. Không ngờ khi lưỡi đao của Viên Thừa Chí đến gần, đột nhiên chàng trở ngược quét ngang một cái. Lưỡi đao quẹt nhẹ qua hai ngón tay họ Chử, lập tức máu tươi chảy đầm đìa.

Ba chiêu đao này cao thấp, nhanh chậm, biến hóa không thể lường được, trông như trò đùa mà bao hàm võ công cao thâm, hơn nữa kình lực lại rất chuẩn xác. Chiêu đao cuối cùng nếu nặng hơn một chút thì đã chặt đứt hai ngón tay Chử Hồng Liễu rồi.

Chử Hồng Liễu giận dữ điên cuồng, hét lên: “Tên giặc chuột kia! Thử nếm mấy chưởng của ta.”

Viên Thừa Chí vung tay ném thanh đao đi. Một đại hán đang leo từ trên ngọn cây xuống, thanh đao bay tới chặt đứt cành cây hắn định đặt chân. Hắn lộn một cái, té phịch từ trên cao xuống đất.

Giữa tiếng la hét ầm ĩ của mọi người, Viên Thừa Chí hít một hơi, vận Hỗn Nguyên Công, xách từng rương sắt ném chồng lên nhau. Chàng chồng mười chiếc rương lên nhau thành cột cao khoảng ba trượng, rồi nói: “Tỉ thí thì tỉ thí, nhưng ta phải đề phòng mình đang đánh nhau cao hứng thì bị khiêng trộm mấy cái rương này. Mặt mũi các vị ở đây đều trông như trộm cướp cả.”

Chàng nhảy lên đỉnh chồng rương, lớn tiếng hô: “Lên đây mà tỉ thí!”

Chử Hồng Liễu thấy chàng ném những cái rương sắt nặng nề càng lúc càng cao, đã kinh hãi thần lực. Khi thấy chàng nhảy lên nhẹ nhàng như vậy, y biết khinh công mình không thể bằng được, lại càng sợ hơn. Y không dám nhảy lên để chuốc họa vào thân, bèn quát trả: “Ngươi có giỏi thì xuống đây.”

Viên Thừa Chí đứng tít trên cao la lớn: “Ngươi có giỏi thì lên đây.”

Chử Hồng Liễu bước tới một bước, đưa tay ôm lấy chiếc rương sắt dưới cùng, lắc lắc mấy cái. Viên Thừa Chí từ trên cao té nhào xuống, đầu dưới chân trên. Quần đạo đồng loạt hoan hô.

Nhưng khi rơi gần tới đầu Chử Hồng Liễu, đột nhiên Viên Thừa Chí xuất chiêu Thương Ưng Bát Thố, tả chưởng từ trên không chụp xuống. Chử Hồng Liễu kinh hãi, vội phóng hữu chưởng ra đánh trả. Viên Thừa Chí xoay tay tóm được ngay cổ tay của y. Khi hai chân vừa chạm tới đất, chàng quát: “Lên!”, lập tức cái thân thể nung núc những thịt của Chử Hồng Liễu bị quẳng lên trời, rơi ngay trên đỉnh cái chồng rương sắt đó.

Mười cái rương này vốn đã xếp không ngay ngắn lắm, vừa rồi lại bị họ Chử xô đẩy lệch đi. Bây giờ có thêm một người mập ở trên, chồng rương lập tức lắc lư qua lại. Chử Hồng Liễu đứng trên đó quơ hai tay loạn lên, bối rối đến thảm hại. Cuối cùng y không chịu nổi nữa, bèn cúi rạp xuống ôm lấy nắp rương. Quần đạo vừa kinh hãi vừa không khỏi tức cười.

Thanh Thanh hét lên: “Ngươi có giỏi thì xuống đây.” A Cửu nghĩ đến câu nói vừa rồi, bất giác che miệng mỉm cười.

Chỗ tinh yếu của võ công Chử Hồng Liễu nằm trong bốn chữ: ổn, hậu, chẩn, nhẫn. Vừa rồi tỉ võ với A Cửu, y đã dùng hết sở trường của bốn yếu quyết này. Y thân hình mập mạp, biết mình biết người, trước giờ ít luyện tập khinh công, lấy sự ổn định để chống cái nhanh của người khác, lấy sự dày dặn chịu đòn để thay thế cái tinh xảo. Chưởng pháp y tuy thô kệch nhưng rất hiệu quả. Bây giờ đột nhiên ở tít trên cao, đúng là phạm vào đại kỵ của mình, võ công đầy người mà không sao sử dụng được. Vừa rồi Viên Thừa Chí xem y xuất thủ đã thấy rõ khuyết điểm, nên cố ý bố trí cái bẫy này để làm khó dễ y.

Viên Thừa Chí cũng muốn kết giao với bọn cường đạo này, nhưng vừa rồi thấy Chử Hồng Liễu truy sát cô bé A Cửu, tâm địa nham hiểm, ra tay tàn độc, nên mới trừng phạt y một chút. Một là bắt y giảm đi khí thế, hai là ra oai để bắt quần đạo phải tâm phục khẩu phục.

Quần đạo không ai dám bước tới chỗ mười cái rương sắt, chỉ sợ động đậy làm rương trên cao rơi xuống, không chỉ thiệt mạng Chử Hồng Liễu mà còn đè chết thêm nhiều người, nên lùi ra đứng khá xa.

Hai bên im lặng một hồi, Sa Thiên Quảng bỗng thều thào nói: “Đàm hiền đệ! Bao vây thằng lỏi đó, tấn công dứt điểm trước đi.”

Đàm nhị trại chủ được câu nói này nhắc nhở, lập tức thổi ám hiệu lên. Quần đạo tỉnh Sơn Đông rút binh khí ra, tấn công về phía Viên Thừa Chí. Ông câm, Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải kéo tới chống đỡ. Thanh Thanh cầm kiếm, Hồng Thắng Hải sử đao, vung lên chém giết. Viên Thừa Chí cùng ông câm lại dùng tay không, nắm lấy những tên chạy tới quăng loạn ra ngoài. Bọn quần đạo từ khi ra ngoài trộm cướp chưa từng thấy cách đánh kiểu này. Hai người đi đến chỗ nào, quần đạo chạy trốn tới đó.

Viên Thừa Chí chỉ nhảy vài bước đã xông đến chỗ Sa Thiên Quảng đang nằm dưới đất, có hai tên chăm sóc. Đột nhiên thấy Viên Thừa Chí chạy tới, một tên vung đao lên chém, còn tên kia cõng Sa Thiên Quảng chạy đi chỗ khác. Viên Thừa Chí cúi đầu xuống, khom người luồn dưới lưỡi đao, chụp lấy đầu của tên chạy trước. Hắn đau quá la ầm lên, buông tay thả Sa Thiên Quảng xuống. Viên Thừa Chí đưa tay chụp lấy, tung người nhảy lên một cỗ xe lớn, quát to: “Các ngươi muốn giữ cái mạng này không?”

Quần đạo nhìn thấy thủ lĩnh bị bắt, lập tức ngẩn ra đứng yên, không tên nào dám động thủ nữa.

Viên Thừa Chí đưa tay ra hiệu, ông câm liền chạy về phía Thanh Trúc Bang. Bang chúng Thanh Trúc Bang đang khoanh tay đứng xem, đột nhiên thấy ông câm chạy tới, vội vàng cầm binh khí cản trở. Ông câm đã theo Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh nhiều năm, bọn võ sư tầm thường không thể chống nổi. Mặc cho đao thương đâm chém loạn xạ xung quanh, ông câm chỉ dùng hai bàn tay không đã chạy đến sát bên Trình Thanh Trúc.

Viên Thừa Chí đứng trên cao nhìn thấy ông câm đắc thủ, đang vui mừng thì bỗng thấy A Cửu ôm lấy Trình Thanh Trúc nằm sát dưới đất, khóc rống lên. Chuyện này khiến chàng phải bất ngờ. Nếu Trình Thanh Trúc chết, Thanh Trúc Bang như rắn không đầu, muốn giữ yên chẳng dễ dàng gì. Chàng vội kêu lớn: “Thắng Hải! Mau mau đi gọi lão huynh về đây.”

Hồng Thắng Hải bỏ rơi đối thủ, chạy vội tới ra hiệu. Ông câm quay đầu lại, thấy Viên Thừa Chí đang đứng trên nóc một cỗ xe lớn vẫy tay, bèn lập tức lùi về. Viên Thừa Chí giao Sa Thiên Quảng nửa sống nửa chết cho ông câm, tung người nhảy vào giữa vòng vây của Thanh Trúc Bang, hỏi vội: “Sao rồi?”

A Cửu vừa khóc vừa kêu: “Sư phụ ta chết rồi.”

Viên Thừa Chí cúi người xem xét, quả nhiên Trình Thanh Trúc đã ngừng thở. Chàng sờ vào trước ngực thì thấy tim lão vẫn còn đập yếu ớt. Lật người lão lên, thấy năm lỗ nhỏ trên lưng tuy đã cầm máu nhưng đều đúng vào yếu huyệt. May mà nội công của Trình Thanh Trúc thâm hậu, không thì lão không thể gượng nổi đến lúc này.

Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, điểm vào huyện Thiên Phủ và Dũng Tuyền dưới bàn chân lão, truyền nội lực qua người Trình Thanh Trúc. Huyết khí lão bắt đầu chuyển động, từ từ hồi tỉnh, mở mắt ra. A Cửu mừng rỡ, lớn tiếng kêu lên: “Sư phụ, sư phụ!”

Trình Thanh Trúc khẽ gật đầu một cái. Viên Thừa Chí nói: “Yên tâm đi, vết thương của sư phụ cô có thể trị khỏi.”

Trên khuôn mặt sáng ngời của A Cửu vẫn còn mấy giọt nước mắt, nhưng đôi mắt trong veo đã tràn ngập vẻ vui mừng. Nàng khẽ nói: “Đa tạ tướng công.”

Lúc này ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải đang kiềm chế Sa Thiên Quảng lùi vào giữa trận Thanh Trúc Bang. Quần đạo tỉnh Sơn Đông thấy thủ lĩnh bị bắt, muốn chạy tới cứu người, nhưng bang chúng Thanh Trúc Bang đã ra tay cản trở. Hai bên hò hét ầm ĩ, loạn đấu với nhau. Những tiếng loảng choảng vang lên kịch liệt, chỉ khoảnh khắc là mỗi bên đã mất mấy chục người trọng thương hoặc chết.

Thanh Thanh nói: “Nếu đánh tiếp nửa giờ nữa, chắc hai bên cùng chết rất nhiều.” Viên Thừa Chí chỉ mong kiềm chế được trận ác đấu để tránh khỏi tổn thương nhân mạng.

Đột nhiên Chử Hồng Liễu đang đứng trên chồng rương sắt bỗng vung tay lên, hô lớn: “Không xong rồi! Quan binh kéo đến, phải mấy ngàn người. Mọi người nhanh chóng rút lui… Không! Có cả vạn người… Chạy thôi, chạy thôi…”

Y đứng trên cao, dĩ nhiên nhìn thấy đầu tiên. Mọi người nghe hô hoán như vậy, ai cũng kinh hãi, nên đao thương đều dừng hết. Chỉ nháy mắt đã thấy ba kỵ sĩ phi nhanh tới, hai là của quần đạo tỉnh Sơn Đông cử đi thám thính, còn một là người thăm dò của Thanh Trúc Bang. Cả ba đều kêu réo om sòm, bảo mọi người rút lui, đại đội quan binh đã đến.

Chử Hồng Liễu không kể gì tới nguy hiểm nữa, tung người nhảy bừa xuống. Y đứng không vững phải lăn dưới đất mấy vòng, khi bò dậy thì hai chân sưng vù lên đau đớn. Y giật lấy một con ngựa, dẫn quần đạo tỉnh Sơn Đông rút lui.

Viên Thừa Chí ra dấu bảo ông câm trả Sa Thiên Quảng cho họ. Quần đạo tỉnh Sơn Đông đón lấy, đặt thủ lĩnh trên lưng ngựa rồi chạy vào rừng rậm. Bên Thanh Trúc Bang cũng nổi sáo tre liên tiếp, nhanh tay khiêng đồng bọn bị thương và chết đang nằm dưới đất, chia thành bốn đội chạy đi. Trong chốc lát, giữa khoảng đất trống chỉ còn lại đoàn xe của Viên Thừa Chí.

Hồi 11: Khẳng khái chung thù địch – Gian nan lập nghĩa quân

Viên Thừa Chí nhảy lên đỉnh chồng rương, vận Hỗn Nguyên Công thả nhẹ từng chiếc rương xuống. Ông câm đứng dưới chụp lấy, xếp lên xe lớn. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Họ tổn thương nhiều người như thế, chỉ sờ được ngoài rương mấy cái, không hiểu có lời hay lỗ vốn? Chuyện này phải nhờ đại sư ca của huynh dùng Thiết Toán Bàn tính toán lại.”

Nghe thấy xa xa tiếng còi hiệu vang lên liên tục, tiếng người ồn ào, tiếng ngựa hí om sòm, quả nhiên đại đội nhân mã đang kéo đến đây. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Phen này mình định lôi kéo hai nhóm anh hào Sơn Đông, Hà Bắc, nhưng xem ra không thành công”. Chàng bảo: “Chúng ta đi thôi.”

Mọi người tập trung lừa ngựa và bọn phu xe lại, rất may là không tổn thất gì. Đang định khởi hành thì thấy mấy trăm quan binh chia thành hai đội xung phong đến trước. Tên bả tổng cầm trường đao quát hỏi: “Làm gì ở đây?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Bọn tại hạ là bá tính đi đường.”

Bả tổng hỏi: “Sao ở đây lại có vết máu cùng binh khí gãy?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Đó là bọn cường đạo chặn đường cướp bóc. May mà các vị quan binh đến đây, nên chúng hoảng sợ bỏ chạy.”

Mấy toán lính xông lên trước, truy kích quần đạo đang chạy trốn. Bả tổng liếc nhìn mấy chiếc rương lớn đặt trên xe, lạnh lùng hỏi: “Trong đó có gì vậy?”

Hồng Thắng Hải nói: “Chỉ là hành lý của bọn tại hạ thôi.”

Bả tổng bảo: “Mở ra xem thử.”

Hồng Thắng Hải đáp: “Toàn là quần áo tùy thân, không có gì đặc biệt đâu.”

Bả tổng quát luôn: “Ta bảo mở thì cứ mở, lải nhải gì nhiều thế?”

Thanh Thanh tức giận lên tiếng: “Không phải đồ phi pháp, cần gì phải xem?”

Tên bả tổng bắt đầu thóa mạ: “Thằng lỏi lộn giống này láo thật!” Hắn trở ngược trường đao, dùng cán đao gõ lên đầu Thanh Thanh. Nàng vội né mình tránh khỏi.

Bả tổng thấy mười chiếc rương sắt rất chắc chắn, đoán là bên trong chứa đồ quý. Mới nhìn là hắn đã khởi lòng tham, bây giờ nhân cơ hội bèn la lên: “Thằng lỏi này cả gan kháng lệnh! Anh em, sung công hết tang vật cho ta.”

Bọn quan binh này cướp đoạt tài vật bá tính đã quen, không cần phải nói nhiều. Mới nghe hai chữ “sung công”, đã có mười mấy tên ùa tới, cứ ba bốn tên khiêng một cái rương sắt xuống xe.

Tên bả tổng kia nổi lòng ác độc, sợ khổ chủ tố cáo lên thượng cấp, bèn quát lớn: “Bọn này đều là thổ phỉ, cả gan kháng cự quan binh, giết hết không cần luận tội!” Hắn lập tức vung đao chém tới.

Viên Thừa Chí nổi giận nghĩ thầm: “Nếu bọn ta không biết võ nghệ, há chẳng phải bị các ngươi sát nhân diệt khẩu? Loại chó này không biết đã hại chết bao nhiêu lương dân rồi.” Đợi thanh trường đao chém tới, chàng nghiêng người tránh né rồi xoay tay vỗ vào lưng hắn. Tên này làm sao chịu nổi, lập tức té nhào xuống ngựa mất mạng.

Bọn quan binh kinh hãi kêu la: “Cường đạo cản đường cướp tào vật! Cướp tào vật rồi!”

Những tên đi đầu bị ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải xông tới tấn công nên chạy tản ra tránh né, đại đội nhân mã phía sau cũng theo đó mà lộn xộn. Viên Thừa Chí nhặt thanh đại đao của bả tổng, múa lên cản hậu. Ba người kia dẫn đoàn xe đi trước, lùi vào trong rừng.

Nghe đầy những tiếng vũ khí chạm nhau loảng choảng, rõ ràng trong rừng quan binh đang đánh nhau với quần đạo Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang. Tuy quần đạo và bang chúng hiểu võ nghệ, nhưng không cản nổi quan binh người đông thế mạnh, chẳng bao lâu bắt đầu thất thế phải lùi. Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc đều bị thương rất nặng, không ai chỉ huy, quần hào lúc này như ong vỡ tổ, mạnh ai nấy đánh, bị quan binh bao vây từng nhóm nhỏ mà tấn công. Tiếng kêu gào thê thảm ở đây vừa tắt nghẹn, ở chỗ khác lại nổi lên.

Tập hợp xong đoàn xe vào một gốc cây ở bìa rừng, Thanh Thanh hỏi: “Bây giờ phải làm sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Giúp đỡ cường đạo, giết bọn quan binh. Thanh đệ ở đây canh giữ.”

Thanh Thanh gật đầu đồng ý, cùng ông câm và Hồng Thắng Hải chia ra trông chừng đoàn xe. Tên quan binh nào xông vào là bị giết ngay, nên nhất thời bọn chúng chưa dám ép tới gần.

Viên Thừa Chí tung người lên cây, quan sát tình thế. Chàng thấy A Cửu và mấy đầu mục của Thanh Trúc Bang đang bị mấy chục quan binh vây chặt, tình thế ở đó là nguy hiểm nhất. Viên Thừa Chí lập tức tung người nhảy xuống, chạy thẳng tới trước, cánh tay trái vừa đưa ra đã hất văng hai ngọn thiết thương đang đâm tới A Cửu. Chàng hô lớn: “Lùi về ngọn đồi phía tây!”

Lại có một tên võ quan vung đao chém A Cửu. Viên Thừa Chí phóng cước đá cương đao bay đi mất, đánh thêm một quyền vào trước ngực. Tên võ quan lập tức hộc máu ra, té ngửa xuống đất. A Cửu thổi sáo tre ra lệnh, bang chúng Thanh Trúc Bang lập tức lùi về phía tây, dần dần tụ lại được với nhau.

Viên Thừa Chí chạy qua chạy lại, bảo quần đạo Sơn Đông cũng lùi về phía tây. Hễ thấy nhóm cường đạo nào bị quan binh bao vây không thoát thân được, chàng lập tức xông vào giải cứu. Khi tập họp được thành một nhóm đông, tình thế tức thì khác hẳn. Viên Thừa Chí dẫn họ vừa đánh vừa lùi, lên ngọn đồi đó phòng thủ.

Chàng lại lựa trong bang chúng và quần đạo ra mấy chục người võ công cao nhất, dẫn họ xung phong xuống, dẫn nốt đoàn xe và ba người Thanh Thanh lên đỉnh đồi. Bọn quan binh đứng dưới la hét ỏm tỏi, bao vây rất chặt.

Viên Thừa Chí hạ lệnh cho quần hào dùng ám khí để phòng thủ ngọn đồi. Quần hào rõ ràng sắp thua trận, tính mạng khó toàn, bây giờ được hướng dẫn tạm thời thoát khỏi nguy hiểm, nên rất tôn trọng hiệu lệnh của Viên Thừa Chí. Hơn hai trăm quan binh xông lên đồi liền bị một trận mưa ám khí hất xuống, bỏ lại mấy chục cái xác.

Quan binh vừa rồi thừa thắng mới dám xung phong, bây giờ gặp trở ngại bắt đầu sợ chết, không có tên nào liều mạng tấn công lên núi nữa. Chúng chỉ reo hò lớn tiếng cho trưởng quan nghe thấy mà thôi. Những tiếng hô “Xung phong! Giết!” vang động cả trời, nhưng người thì chẳng thấy ai. Rất lâu vẫn không có tên lính nào chạy đến gần.

Viên Thừa Chí sắp xếp kế hoạch phòng thủ, bảo bốn người là Đàm nhị trại chủ, Chử Hồng Liễu, Hồng Thắng Hải và A Cửu mỗi người dẫn một đội canh giữ một hướng. Những người còn lại ngồi tại chỗ băng bó vết thương, nghỉ ngơi điều tức.

Viên Thừa Chí dùng phép thôi cung quá huyệt xoa bóp cho Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng một hồi, hai người ngủ thiếp đi trên đỉnh đồi. Quần đạo Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang thấy thủ lĩnh mình vô sự, càng kính phục Viên Thừa Chí hơn.

Viên Thừa Chí hỏi mấy trại chủ về địa hình nơi đó, rồi nhảy lên nóc xe đứng xem xét tình hình đám quan binh. Thấy phía sau đội quan binh này có những chiếc xe rất nặng, chàng liền nhảy xuống hỏi Thanh Thanh: “Lúc nãy chúng kêu la tào vật gì vậy?”

Chử Hồng Liễu đang được Hoài Âm Song Kiệt nắn bóp hai chân, nghe Viên Thừa Chí hỏi đến chuyện này bèn đáp: “Nhất định bọn quan binh này đang áp tải tiền thuế đi Bắc Kinh. Chúng ta gặp chúng ở đây thật là may mắn.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Vận chuyển tiền thuế, sao phải cần đại đội quan binh như thế?”

Chử Hồng Liễu đáp: “Bây giờ thiên hạ đại loạn, quần hùng nổi dậy khắp nơi, chẳng nơi nào không có hào kiệt khai sơn lập trại. Triều đình chỉ biết thu vét lương thực cùng tiền thuế ở Giang Nam, vận chuyển về Bắc Kinh để phát quân lương. Sùng Trinh vừa phải đề phòng quân Mãn Châu ở Liêu Đông, vừa phải đối phó với Sấm Vương và các lộ anh hùng, số tiền thuế này là mạng của hắn. Nếu xảy ra sơ suất thì hắn không thể ngồi yên trên ngai vàng được nữa, dĩ nhiên phải phái rất nhiều nhân mã hộ tống. Lương thực cùng tiền thuế vốn vận chuyển bằng đường thủy, nhưng chắc hoàng đế cần tiền gấp quá, nên mới đi đường bộ cho nhanh.”

Viên Thừa Chí nói: “Bọn quan binh này đang gánh nặng như thế, còn dám đến đây làm khó dễ chúng ta.”

Chử Hồng Liễu mỉm cười nói: “Chúng cứ tưởng nhấc tay một cái là giết sạch chúng ta, chụp cho mấy cái mũ đại vương ma vương gì đó rồi trình tấu lên trên. Há chẳng lập công lớn hay sao?”

Y ngừng một chút, lại nói: “Bọn tại hạ vốn là cường đạo thổ phỉ, không đến nỗi oan uổng. Chỉ tiếc là liên lụy đến tướng công.”

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Quan ép dân phản, hôm nay chính mắt ta nhìn thấy.”

Hồi nhỏ chàng đã học Ưng Tùng được một chút binh pháp thô thiển, suy nghĩ chốc lát rồi nói: “Ở hướng Tây Bắc có một cửa thung lũng hẹp. Chúng ta theo đó mà chạy ra ngoài.”

Lúc này Chử Hồng Liễu đã phục chàng sát đất, bèn nói: “Xin Viên tướng công dặn dò, mọi người sẽ nghe theo hiệu lệnh.”

Viên Thừa Chí vẽ bản đồ dưới đất, trình bày kế hoạch phá vây, rồi chia công việc cho mọi người. Khi chàng phát lệnh, quần hào đồng thanh reo hò vang dội. Viên Thừa Chí cùng ông câm đi trước mở đường, dẫn mọi người xung phong xuống núi.

Bọn quan binh đã uể oải lắm rồi, chỉ có một số ít được lệnh canh giữ, phần lớn ngồi nằm la liệt để nghỉ ngơi. Đột nhiên thấy quần hào reo hò xung phong tới, khí thế hung hãn vô cùng, chúng chưa kịp chống đỡ đã bị quần hào phá vỡ một khoảng trống để thoát thân.

Quần hào chạy về phía cửa thung lũng, quan binh hò hét đuổi theo sau. Truy đuổi một hồi, mấy chục cường đạo và bang chúng chạy sau cùng đột nhiên quay lại chiến đấu, cản trở quan binh truy đuổi. Khi đại đội quan binh tấn công tới, nhóm cản hậu này cũng lùi hết vào trong thung lũng.

Hai bên con đường dẫn vào thung lũng này là những ngọn núi cao chót vót, địa thế vô cùng nguy hiểm. Khi quan binh đuổi vào thung lũng, tên tổng binh chỉ huy bèn hạ lệnh đuổi chậm lại, đề phòng mai phục.

Đột nhiên trên cỗ xe lớn phía trước có một chiếc rương sắt rơi xuống, nắp rương bật mở đổ ra. Một quãng đường vương vãi kim ngân châu báu, chiếu sáng lấp loáng, hấp dẫn vô cùng. Tổng binh cả mừng, hạ lệnh gấp rút đuổi theo. Đuổi được một lúc, chúng thấy quần hào quăng cả binh khí mà chạy loạn xạ; dưới đường rải rác rất nhiều tiền tài châu báu. Bọn quan binh lập tức tranh nhau mà lượm, rối loạn cả lên.

Quan tổng binh thấy quần hào tan rã, ngay cả binh khí cũng vứt đầy dưới đất, nên không đề phòng gì nữa. Hắn một lòng một dạ muốn đoạt lấy chiếc rương bảo bối, bèn hạ lệnh cho cả tiền quân, trung quân, hậu quân cùng đuổi gấp lên.

Lúc này Viên Thừa Chí đã trèo lên vách núi, bám cả tay chân vào những sợi dây mây trên cành cây vách đá, đi vòng lại phía sau bọn quan binh. Quả nhiên hậu đội là một đoàn xe dài dằng dặc, nhiều không sao đếm xuể. Quanh xe đều dùng vải vàng che chắn, trên xe có cắm cờ hiệu ghi chữ đỏ: “Đại Minh Giang Nam tào vật”. Càng nhìn ra xa, đoàn xe càng giống một con rồng vàng rất dài.

Viên Thừa Chí vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Thế triều đình còn mạnh, không dễ dàng đối địch, nếu cướp được số tiền thuế này thì chính là một nhát búa bổ vào đầu kẻ đại thù Sùng Trinh hoàng đế, nghĩa binh của Sấm Vương sẽ dễ thành công hơn. Chàng thấy dưới đồi cây cối um tùm, bèn chui ra khỏi rừng để quan sát. Chỉ chốc lát chàng đã tới sát đội ngũ quan binh, nhờ cây cối che chắn mà nghe rõ cả tiếng trò chuyện của chúng.

Những cỗ xe ồn ào lăn bánh qua mặt chàng, mãi không dứt. Lát sau tiếng bánh xe lách cách có vẻ nhẹ nhàng hơn, hình như hàng chở trong xe không phải tiền bạc hay lương thực nữa. Chàng theo kẽ hở trong bụi rậm nhìn ra ngoài, thấy đó là hơn trăm chiếc xe chở tù. Mỗi người tù đều bị trói quặt hai tay, bỏ ngồi trong xe. Trên xe cắm cờ trắng ghi những chữ: “Hậu trảm cự khấu…”, nào là giang dương đại đạo, lưu khấu đầu mục, vân vân. Hiển nhiên đây đều là quân khởi nghĩa, hoặc là những kẻ cầm đầu sơn trại phản kháng triều đình.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Những người này đều nên cứu, nhưng mình ra tay cách nào đây?”

Đang suy nghĩ, đột nhiên chàng thấy một chiếc xe đi ngang qua viết chữ: “Hậu trảm phản nghịch Tôn Trọng Thọ”. Viên Thừa Chí kinh hãi, đuổi theo nhìn kỹ thì người ngồi trong xe đúng là Tôn Trọng Thọ. Tóc hai bên thái dương ông đã bạc, sắc mặt đầy vẻ phong sương, so với hồi chàng gặp trên đỉnh Thánh Phong thì già đi nhiều, nhưng dáng vẻ vẫn vô cùng khẳng khái. Tuy ngồi trong xe tù mà phong độ ông vẫn không kém năm xưa.

Viên Thừa Chí còn đang kinh hãi, lại thấy những chiếc xe tù phía sau đẩy tới đều nhốt thuộc hạ của cha mình, trước kia từng dạy dỗ nuôi dưỡng mình. Ba vị thúc thúc Nghê Hào, Chu An Quốc, La Đại Thiên cũng có trong đó, chỉ thiếu Ưng Tùng. Viên Thừa Chí chua xót trong lòng, sau đó thầm mừng rỡ: “Ông trời có mắt, hôm nay cho mình gặp các vị thúc thúc tại đây.”

Không bao lâu, những chiếc xe tù đã đi qua hết. Viên Thừa Chí phóng người chạy ngược ra sau. Bọn quan binh nhìn thấy chàng, lập tức nổi hiệu báo động, có tên kịp lấy cung ra bắn. Nhưng thân pháp Viên Thừa Chí cực nhanh, khi tên bắn tới người đã không thấy đâu nữa. Chàng chạy được mấy chục trượng thì hết đội ngũ quan binh. Đi cuối cùng là một tên võ quan cưỡi ngựa, cầm đại đao áp giải.

Viên Thừa Chí đang định ra tay thì đột nhiên thấy xa xa cát bụi bay mù, mấy con ngựa đang phi tới. Chàng nghĩ bụng: “Thì ra có quân tiếp ứng. Mình đợi họ tới đây, xem rõ ràng mới tính.”

Chỉ chớp mắt là năm con ngựa đã chạy tới nơi. Đi đầu là một nữ nhân, chính là Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân. Bốn người phía sau là vợ chồng Quy Tân Thụ và Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh.

Viên Thừa Chí cả mừng kêu lớn: “Nhị sư ca!” Chàng lập tức phóng ra, đứng trước mặt vợ chồng Quy Tân Thụ. Quy nhị nương dừng ngựa, nhận ra chàng liền gật đầu một cái, hỏi: “Thì ra là ngươi. Có chuyện gì không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tiểu đệ đang có chuyện gấp, mong sư ca sư tẩu cùng các vị ra tay trợ giúp.”

Quy nhị nương nói: “Chúng ta cũng có việc quan trọng, không rảnh.” Mụ cùng Quy Tân Thụ lại giật dây cương, hai con ngựa chạy qua hai bên Viên Thừa Chí, tiếp tục phi về phía trước. Mai Kiếm Hòa chắp tay hô một tiếng: “Sư thúc!”, rồi chạy theo sư phụ, sư nương.

Lưu Bội Sinh nhảy xuống ngựa, lên tiếng: “Sư phụ sư nương đang có việc quan trọng. Đệ tử lo liệu xong sẽ lập tức tới đây, nghe lời sư thúc sai khiến.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì không cần nữa. Lưu huynh cho ta mượn ngựa một chút.”

Lưu Bội Sinh nói: “Sư thúc cứ dùng đi.” Y đưa dây cương cho Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí nói: “Hai người chúng ta cưỡi chung con ngựa này, đuổi kịp bọn quan binh phía trước là được rồi.” Nói xong, chàng tung người lên ngựa. Lưu Bội Sinh cũng nhảy lên. Viên Thừa Chí kẹp hai chân lại, con ngựa lập tức cất vó phi nhanh tới trước.

Lưu Bội Sinh hỏi: “Sư thúc rượt theo bọn quan binh để làm gì?”

Viên Thừa Chí đáp: “Cứu người.”

Lưu Bội Sinh mừng rỡ nói: “Thế thì hay quá! Bọn đệ tử cũng đang đuổi theo bọn quan binh này để đánh cho một trận.”

Viên Thừa Chí nghe vậy mừng rỡ, thúc ngựa chạy càng gấp hơn. Cuối cùng chàng đã nhìn thấy sau lưng đội quan quân áp giải, nhưng không thấy vợ chồng Quy Tân Thụ, chắc đã vượt qua bọn chúng rồi. Chàng bèn giục ngựa tới gần

Tên chỉ huy quân áp giải nghe tiếng vó ngựa phía sau, vừa quay đầu lại đã thấy một người từ lưng ngựa nhảy tới. Hắn giật mình kinh hãi, vội vung đại đao chém lên trời. Tay phải Viên Thừa Chí đưa ra phía trước chụp lấy cán đao, người đã nhảy lên lưng ngựa của hắn, tay trái điểm trúng huyệt đạo sau lưng. Tên kia lập tức tê chồn, muốn phản kích nhưng không động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí quát bảo: “Mau hạ lệnh cho đoàn xe chở tù nhân dừng lại.”

Tên chỉ huy chưa kịp hạ lệnh, đã thấy vợ chồng Quy Tân Thụ bất ngờ từ trong rừng nhảy xổ ra. Bốn người cùng rút binh khí chém giết quan binh, đội ngũ lập tức lộn xộn.

Viên Thừa Chí bảo Lưu Bội Sinh tới giúp sư phụ, rồi giật lấy đại đao, chạy tới cỗ xe nhốt Tôn Trọng Thọ. Chàng chém vỡ chiếc xe, la lớn: “Tôn thúc thúc! Con là Viên Thừa Chí đây.” Tôn Trọng Thọ nghe mà như đang nằm mộng, ngơ ngác một hồi mới hiểu.

Viên Thừa Chí lại tới cứu Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên. Những người này đều là võ tướng đánh quen trăm trận, tuổi già mà phong thái anh hùng chưa mất, vừa được cứu đã giật lấy binh khí. Người thì chém giết quan binh loạn xạ, người thì phá vỡ xe tù cứu người khác ra. Những ai thoát hiểm đều lo phá xe cứu người, chỉ chốc lát bao nhiêu xe tù đều bị phá vỡ, hơn trăm hảo hán như cọp sổng chuồng. Trong đó có ba mươi mấy người là thuộc hạ cũ của Sơn Tông. Nghe nói người đến cứu là công tử của Viên đốc sư, ai cũng phấn chấn hẳn lên.

Đánh nhau loạn xạ một hồi, hậu đội của quan binh không còn đội ngũ gì nữa, tranh nhau chạy trốn về phía trước. Lúc này tiền đội của quan binh đã phát hiện phía trước có đá lớn cản đường, không thể đuổi tới được. Thế là cả đầu lẫn đuôi đều loạn xạ.

Viên Thừa Chí thấy bọn quan binh đang rối loạn, nhưng quân số rất đông, không dễ gì tiêu diệt được. Chàng vứt bỏ đại đao, nhảy lên nóc đội xe vận chuyển lương thực và tiền thuế đang xếp hàng dài. Chạy trên nóc xe khoảng một dặm, chàng mới thấy tên tổng binh của đội quân này, đầu đội nón sắt, tay múa trường đao chỉ huy tác chiến.

Viên Thừa Chí nhảy lên lưng ngựa tên tổng binh đó. Hắn xoay đao về định chém, Viên Thừa Chí vươn tay định chụp lấy. Nào ngờ hắn tung người nhảy xuống ngựa nhanh như chớp, nên chàng không túm được cổ tay hắn.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Không ngờ trong quan quân cũng có người võ công cao như thế.” Tay trái chàng vung lên, ba đồng tiền nhỏ bay ra. Đây chính là thủ pháp phát xạ quân cờ do Mộc Tang đạo nhân truyền dạy.

Tên tổng binh đó múa trường đao gạt được hết ba đồng tiền. Viên Thừa Chí cất tiếng khen: “Giỏi lắm! Bây giờ ngươi đỡ thử xem.” Chàng vẫy liền hai tay, ném ra ba lần chín là hai mươi bảy đồng tiền, chia làm ba đường thượng trung hạ, đánh vào người hắn. Dù là võ lâm cao thủ cũng khó đỡ chiêu này.

Tên tổng binh tuy võ nghệ cao cường, nhưng làm sao tránh được thủ pháp Mãn Thiên Hoa Vũ? Loảng choảng một tiếng, trường đao tuột khỏi tay hắn rơi xuống đất. Sau đó đầu gối hắn gập lại, tay và lưng đều trúng kim tiền tiêu, khuỵu chân quỳ xuống trước mặt Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không cần đa lễ.” Chàng đưa tay nắm cánh tay trái hắn đỡ dậy. Không ngờ hắn xuất một quyền đánh vào trước ngực chàng, thế quyền vừa nhanh vừa có lực. Viên Thừa Chí đứng yên, bảo: “Ta để ngươi đánh một quyền cho hả dạ.”

Rõ ràng thoi quyền này đánh trúng vào ngực chàng, nhưng lại giống như đánh trúng một khối bông gòn, hoàn toàn không phát ra tiếng động, cũng không có tác dụng gì cả. Viên Thừa Chí vận nội công, nhấc bổng tên tổng binh quăng lên. Thấy hắn bay lên trời như một con diều bị đứt dây, bọn quan quân đều kinh hãi la lên.

Tên tổng binh tưởng phen này chắc chết, nên nhắm nghiền mắt lại. Nào ngờ khi rơi xuống thì hắn được hai bàn tay đỡ lấy, mở mắt ra vẫn thấy thư sinh lúc nãy. Bây giờ hắn đã biết võ công người này cao hơn mình mấy chục lần, đã lọt vào tay thì không còn cách nào kháng cự, nên không nghĩ gì tới chuyện sống chết nữa. Mà nếu hắn muốn chống đỡ, cũng không biết phải chống đỡ từ đâu.

Viên Thừa Chí nói: “Ngươi hãy hạ lệnh cho tất cả buông vũ khí, ta sẽ tha không giết các ngươi.”

Tên tổng binh nghĩ: “Số tào vật này quan trọng vô cùng, nếu để cướp đi thì chắc chắn mình bị xử tử.” Hắn bèn ngẩng cao đầu, dõng dạc nói: “Các ngươi muốn giết thì cứ giết, không cần phải nhiều lời.”

Viên Thừa Chí mỉm cười, lại vận kình ném hắn lên trời. Khi hắn rơi xuống, chàng chụp lấy rồi lại ném lên, cứ thế ba lần. Tên tổng binh hoa mắt chóng mặt, không biết mình đang ở đâu nữa.

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ngươi không hạ lệnh, thì ngươi chết ngay mà thuộc hạ của ngươi cũng không sống nổi. Đầu hàng là hay nhất.”

Tên tổng binh nghĩ: “Đúng là trước mắt chỉ còn một con đường sống!” Hắn bèn gật đầu.

Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi họ gì?”

Hắn đáp: “Tiểu tướng họ Thủy.”

Hắn định thần một chút, rồi hạ lệnh gọi bọn tham tướng, thủ bị, du kích, đô tư dưới tay mình đến. Bọn tùy tướng nghe hắn đầu hàng đạo tặc, đều hoảng sợ nhìn nhau. Một tên đô tư cất tiếng thóa mạ: “Ngươi ăn lộc vua mà bất trung bất…”

Chưa nói dứt câu, Viên Thừa Chí đã túm lấy hắn quật xuống đất, ngất xỉu lập tức. Hết thảy số võ quan còn lại đều run rẩy nói: “Thuộc hạ… xin phụng… phụng tướng lệnh của tổng binh.”

Thủy tổng binh quát lên: “Hạ lệnh ngừng chiến!”

Viên Thừa Chí truyền lệnh cho quần hào không chém giết nữa, lại bảo Thủy tổng binh hạ lệnh cho quan binh bỏ vũ khí xuống. Thủy tổng binh không làm gì được nữa, chỉ còn cách vâng lời. Thế là trận hỗn chiến chấm dứt.

Dưới ánh đuốc sáng trưng đột nhiên thấy năm người chạy tới, lục lọi lung tung trong đoàn xe, phá nắp rất nhiều rương hòm. Họ thấy toàn là tiền bạc và lương thực, hất ra một bên không lấy. Bọn quan binh thấy năm người này hung hãn, mình đang bại trận nên không dám cản trở.

Khi họ đến gần, thì ra là năm thầy trò Quy Tân Thụ. Viên Thừa Chí hô lớn: “Nhị sư ca! Sư ca tìm gì vậy? Để tiểu đệ bảo chúng lấy ra.”

Quy Tân Thụ thấy bọn võ quan lớn nhỏ đều tập trung ở cạnh Viên Thừa Chí, chỉ nhô lên hụp xuống ba cái đã đến chỗ Thủy tổng binh, đưa tay nắm lấy ngực hắn xách hổng lên. Lúc này Thủy tổng binh chưa hoàn hồn, lại đột nhiên gặp phải một đại cao thủ nữa, giãy giụa thế nào cũng là vô dụng.

Quy Tân Thụ quát hỏi: “Phục Linh Thủ Ô Hoàn của Mã Sĩ Anh tiến cống giấu ở chỗ nào?”

Thủy tổng binh đáp: “Mã tổng đốc chê đoàn xe này đi chậm, đã phái người khác đưa vào kinh rồi.”

Quy Tân Thụ hỏi: “Có thật không?”

Thủy tổng binh đáp: “Tính mạng tiểu tướng đang nằm trong tay các vị, đâu dám nói dối?”

Quy Tân Thụ vứt hắn xuống đất, thét lên: “Nếu ta điều tra được ngươi nói bừa bãi gạt người, sẽ trở về lấy cái mạng chó của ngươi.”

Y quay lại bảo Quy nhị nương: “Đuổi lên phía trước.”

Quy nhị nương vẫn bồng đứa bé, trong lòng lại càng lo lắng, xoay tay đánh vào một tên quan binh xớ rớ cản đường phía trước, khiến hắn té chết ngay tại chỗ. Vợ chồng họ Quy không đếm xỉa gì đến Viên Thừa Chí nữa, dẫn đồ đệ rời khỏi đó.

Viên Thừa Chí biết vợ chồng nhị sư ca không thân thiện với mình, nên cũng im lặng không nói gì. Đợi năm người rời khỏi đó, chàng mới hỏi Thủy tổng binh: “Họ tìm dược hoàn gì vậy?”

Thủy tổng binh bị bắt rồi đầu hàng, lúc này lòng dạ rối beng, hồn bất phụ thể. Hắn nghĩ đến hoàng đế sẽ hạ chỉ chém hết nhà mình, lại nghĩ đến công danh tiền đồ từ nay như nước trôi ra bể. Viên Thừa Chí hỏi mãi, hắn cứ ấm ớ trả lời không biết những gì. Mất nửa ngày Viên Thừa Chí mới hiểu được đại khái.

Thì ra gần đây, dưới vực sâu ở Hoành Sơn xa thẳm có người tìm được một miếng phục linh lớn, ước tính đã trên ngàn tuổi. Thật là xảo hợp, cũng lúc này ở Liêu Đông có người đào được một cây hà thủ ô đã thành hình người. Hai món này đều là báu vật ngàn năm khó gặp. Tổng đốc Phụng Dương là Mã Sĩ Anh nhận được tin tức, cùng bọn tham mưu dưới trướng tốn cả nửa năm, vừa dùng thủ đoạn cưỡng ép vừa trả giá cao để thu mua. Sau đó hắn tìm những dược sư cao thủ, sai chế luyện thành tám chục viên Phục Linh Thủ Ô Hoàn. Trong thuốc còn phối chế thêm nhân sâm lâu năm, ngũ sắc linh chi, xạ hương, ngưu hoàng, toàn là dược liệu quý cả. Chỉ riêng dược liệu đã tốn tới hai ba vạn lạng bạc rồi. Vụ này làm chấn động cả quan trường lẫn giới hành nghề y dược ở Giang Nam.

Theo cổ phương ghi lại, thì loại hoàn này thật sự có công hiệu cải tử hoàn sinh. Ai thể chất yếu kém, chỉ cần uống một hoàn là khỏe ra lập tức. Mã Sĩ Anh giữ lại bốn mươi viên chuẩn bị cho bốn mươi năm cuối đời mình, mỗi năm uống một viên. Còn bốn chục viên thì hắn tiến cống vào cung, ước mong Sùng Trinh làm hoàng đế thêm bốn chục năm nữa, mỗi năm thăng quan cho mình một cấp.

Khó khăn lắm Viên Thừa Chí mới hiểu được Thủy tổng binh kể những gì. Chàng nghĩ bụng: “Thế là đúng rồi. Con của nhị sư ca có bệnh, chữa trị lâu ngày không khỏi, nên ông ấy nóng lòng đoạt lấy số dược hoàn này.”

Thủy tổng binh lại nói: “Mã tổng đốc định sai tiểu tướng đem loại thuốc quý này vào Bắc Kinh. Nhưng về sau tổng đốc chê đoàn xe này quá đông, hành trình chậm chạp, lại áp tải bọn tử tội nên không cát lợi. Tổng đốc bèn sai tổng tiêu đầu Vĩnh Thắng tiêu cục ở Kim Linh hộ tống, đưa vào kinh dâng lên hoàng thượng.”

Còn chuyện Mã tổng đốc giữ lại bốn chục viên thuốc cho mình là một chuyện cực kỳ bí mật, ngay cả thê thiếp sủng ái nhất của hắn cũng không được biết. Dĩ nhiên Thủy tổng binh lại càng không biết.

Viên Thừa Chí rất mong nhị sư ca đoạt được thuốc hoàn để cứu mạng con trai, bèn hỏi: “Bọn tiêu sư đó đi được mấy ngày rồi?”

Thủy tổng binh đáp: “Khởi hành cùng một ngày, nhưng tiêu cục chỉ có mười mấy người nên đi nhanh hơn nhiều. Chắc họ đã đi trước năm sáu ngày đường rồi.”

Lúc này Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên cùng mọi thuộc tướng của Viên Sùng Hoán đã kéo tới gặp Viên Thừa Chí. Mọi người thoát khỏi đại nạn, lại thấy Viên Thừa Chí đã lớn thành người, thân hàm tuyệt kỹ. Trận chiến hôm nay chỉ là thử sức, nhưng chàng đã hiển lộ được hùng phong ngày trước của phụ thân. Không ai là không kinh ngạc, mừng rỡ.

Viên Thừa Chí hỏi nguyên do bị bắt, Tôn Trọng Thọ kể lại đại khái. Năm xưa thuộc hạ Sơn Tông tụ hội trên đỉnh Thánh Phong, quân Minh bất ngờ đột kích. May mà đa số đã rời khỏi đó, chỉ có Ưng Tùng bị hại, còn bọn Tôn Trọng Thọ đều thoát hiểm. Sau này lại tụ họp ở phía Nam tỉnh Sơn Đông, tập trung hào kiệt, chuẩn bị khởi sự. Không ngờ tiết lộ bí mật, tháng trước bị tổng đốc Mã Sĩ Anh phủ Phụng Dương đánh úp. Những nhân vật quan trọng đều bị bắt, áp giải lên kinh thành xử trảm. May mà thiên duyên xảo hợp, họ được Viên Thừa Chí cứu thoát.

Tôn Trọng Thọ nghe nói Viên Thừa Chí có liên lạc với Sấm Vương, bèn nói: “Công tử! Ở đây đã có quần đạo và bang chúng, lại thêm một số quan binh đông đúc mới đầu hàng. Họ đều rất thán phục công tử, đúng là cơ hội ngàn năm khó gặp. Tại sao công tử không hoãn chuyện về kinh, chỉnh đốn nhóm người này một phen?”

Viên Thừa Chí mừng rỡ nói: “Tôn thúc thúc nói rất đúng. Phải nhờ Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc và các vị cùng tham gia mưu đồ đại sự. Vùng này rất đông anh hùng hào kiệt, chúng ta phải cố gắng làm ra chuyện lớn. Trước mắt phải tìm một nơi tụ tập quần hùng.”

Tôn Trọng Thọ vỗ đùi, kêu lên: “Hay lắm! Sao chúng ta không đến Thái Sơn?”

Viên Thừa Chí nói: “Thái Sơn cách đây không xa lắm, không còn chỗ nào tốt hơn nữa.”

Mọi người lập tức thu nhặt số kim ngân châu báu đã quăng vãi khắp nơi, rồi lấy tiền thuế ra, chia cho bang chúng Thanh Trúc bang và quần đạo tỉnh Sơn Đông hai chục vạn lượng. Chử Hồng Liễu cũng được năm ngàn lượng. Sau đó họ lấy ra thêm năm chục vạn lượng, thưởng cho số quan binh đầu hàng. Trong thung lũng lúc này tiếng hoan hô vang dội như sấm động. Quan quân đầu hàng vốn đang ủ rũ, khi được chia tiền tinh thần phấn chấn hẳn lên.

*

*   *

Hai tên bang chúng Thanh Trúc Bang khiêng một cái cáng, đưa bang chủ Trình Thanh Trúc tới. Viên Thừa Chí thấy trên mặt lão đã có sắc máu, hoan hỉ nói: “Vết thương của bang chủ bình phục rất nhanh, đủ biết nội lực thâm hậu thế nào.”

Trình Thanh Trúc nói: “Đa tạ công tử! Tại hạ vừa được biết công tử là cốt nhục của Viên đốc sư, thật hết sức vui mừng.” Nói đến đây, thanh âm lão nghẹn hẳn đi.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Trình bang chủ có quen biết tiên phụ hay sao?”

Trình Thanh Trúc lắc đầu. Lão bảo bọn tùy tùng mở bọc lấy ra một phong thư lớn, đưa cho Viên Thừa Chí rồi nói: “Công tử xem cái này thì sẽ biết đầu đuôi.”

Viên Thừa Chí nhận lấy, thấy trên bì thư ghi ba chữ lớn: “Tuyền thanh ký”, dưới có mấy chữ: “Trình Bản Trực soạn”, trên góc phải viết một đôi câu đối: “Đôi mồ tri kỷ; Hai kẻ ngu si”. Chàng chưa hiểu, bèn hỏi: “Vị Trình Bản Trực tiên sinh này là thế nào với Trình bang chủ?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đó là tiên huynh. Tại hạ tên là Trình Bản Cương.”

Viên Thừa Chí gật đầu, mở phong thư ra. Trong thư viết:

“Sùng Hoán mười năm là thần nhân bảo vệ biên cương, một mình dẫn quân giữ yên quan ải…”

Trong lòng chàng nhói lên một cái, lại hỏi: “Lá thư này nói về tiên phụ ư?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đúng vậy. Lệnh tôn Đốc sư đại nhân là người mà tiên huynh thán phục nhất trên đời.”

Viên Thừa Chí cung kính nâng lá thư lên đọc tiếp:

“Sơn Hải Quan trong vòng một dặm, mỗi vọng gác đều do Sùng Hoán lập nên, mỗi viên gạch trên tường thành đều do Sùng Hoán xây dựng. Thử hỏi, từ khi xảy ra chiến trận ở đất Liêu, có ai bắt địch bỏ thành trì mà rút chạy trong vòng trăm dặm? Người giữ chắc biên cương, lại khiến địch kinh hoàng bỏ ý xâm lăng, ngoài Sùng Hoán ra còn ai khác nữa?”

Viên Thừa Chí đọc xong đoạn này, khóe mắt đã đẫm lệ. Chàng lật sang trang khác, đọc tiếp:

“Thảo dân xin hỏi, từ khi địch bắt đầu xâm lấn, có trận nào địch không thắng, có thành nào địch không chiếm? Thưa rằng không có. Thảo dân xin hỏi, phải chăng từ trận phòng thủ Ninh Viễn năm Bính Dần, triều đình mới biết phải phòng thủ, từ trận tấn công Cẩm Châu năm Đinh Mão, triều đình mới biết phải tấn công? Thưa rằng đúng vậy.

Hôm nay thu hồi Lạc, Tôn là quân lính đất nào? Quân lính đất Liêu. Chiến mã đất nào? Chiến mã đất Liêu. Trước khi Sùng Hoán đặt chân tới đất Liêu này, vùng này có binh mã của thánh thượng không?”

Viên Thừa Chí lật sang trang khác, đọc tiếp:

“Khắp thế gian đều là những người khôn khéo, chỉ có Viên công là một kẻ đại ngu si. Tiền bạc là thứ mà khắp thế gian không ai không thích, chỉ một mình Viên công không thích. Ai cũng thích được người đời yêu quý, chỉ một mình Viên công không tiếc mạng mà chịu nhận những lời trách móc. Những nỗi cực nhọc không ai dám nhận, Viên công nhận ngay chẳng tiếng nề hà. Những chuyện hiềm khích nghi ngờ không ai không tránh né, Viên công không ngần ngại rước lấy vào mình. Còn nữa, chuyện đói rét không ai chịu được, Viên công đứng ra chịu đói rét làm gương cho binh sĩ. Những điều lễ giáo ít ai dám phá, Viên công cũng giẫm đạp lên để phơi bày gan ruột cùng thuộc hạ dưới trướng mình.”

Viên Thừa Chí đọc đến chỗ này thì không gượng được nữa, nước mắt ào ra rơi lộp bộp lên trang giấy. Qua màn nước mắt mờ mờ, chàng cố đọc mấy dòng chữ cuối cùng:

“Vì thế, có đào xới hết mười hai tỉnh vùng Trực Lệ để tìm người gan dạ thẳng thắn, đảm đương trọng trách mà giữ mình trong sạch như Viên công, e rằng không thể có được. Vì thế, chỉ một mình Viên công là xứng đáng để Trình Bản Trực này chết thay.”

Viên Thừa Chí ôm lá thư vào sát ngực, vừa tuôn nước mắt vừa nói: “Lệnh huynh thật là tri kỷ của tiên phụ, xưng tụng tiên phụ như thế. Tại hạ cảm kích vô cùng.”

Trình Thanh Trúc thở dài nói: “Tiên huynh cùng lệnh tôn vốn không quen biết. Tiên huynh chỉ là bá tính bình thường, đã ba lần xin gặp nhưng lệnh tôn bận rộn nên chưa được tham kiến. Tiên huynh vẫn không nguôi lòng, liền xin vào làm thuộc hạ trong phủ Đốc sư, ra sức lo việc, cuối cùng cũng được Đốc sư coi trọng thu làm môn sinh. Lệnh tôn bị oan hạ ngục, lại bị độc hình lăng trì, tiên huynh bèn viết lá thư này gửi triều đình để minh oan cho lệnh tôn. Chỉ vì văn từ vô cùng thẳng thắn, nên hôn quân giận dữ mà xử tử tiên huynh.”

Viên Thừa Chí kêu lên một tiếng, nghiến răng nói: “Hôn quân đáng chết!”

Trình Thanh Trúc lại nói: “Tiên huynh có di ngôn để lại: chết vì Viên công thật không uổng phí. Chỉ mong được chôn cạnh mộ của Viên công, trên bia ghi cho câu đối: Đôi mồ tri kỷ; Hai kẻ ngu si. Được vậy thì tiên huynh yên lòng nhắm mắt.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Không hiểu việc này đã thực hiện được chưa?”

Trình Thanh Trúc thở ra một hơi rất dài, đáp: “Lệnh tôn bị một kỳ oan. Bọn gian thần và hôn quân đều nói Viên Đốc sư thông địch, cấu kết Mãn Thanh. Một đám dân chúng ngu dốt không phân biệt được đúng sai, tin vào chuyện này. Sau khi lệnh tôn bị bắt lên pháp trường, bọn ngu dân ào lên cắn nát thân thể Đốc sư, còn nói là phải uống sạch máu, ăn sạch thịt của gian tặc bán nước…”

Viên Thừa Chí nghe đến đây buông tiếng khóc ròng, quay lại hỏi Tôn Trọng Thọ: “Tôn thúc thúc! Tôn thúc thúc… Chuyện này có thật hay không?”

Tôn Trọng Thọ cúi đầu, rơi lệ đáp: “Đúng là như vậy. Năm xưa con còn nhỏ, chúng ta không nói để con đỡ đau lòng.”

Viên Thừa Chí giận dữ nói: “Bọn hôn quân gian thần làm chuyện bậy bạ, còn có thể hiểu được. Nhưng tại sao dân chúng trong thành Bắc Kinh lại ác độc như thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Bá tính không hiểu được chân tướng, tin rằng thánh chỉ của hoàng đế không thể sai được. Lúc đó quân Thanh vây thành Bắc Kinh, cướp bóc đốt nhà, giết hại cả ngàn cả vạn người, nên bá tính trong thành Bắc Kinh hận bọn Hán gian cấu kết với địch đến tận xương tủy.”

Trình Thanh Trúc nói: “Tại hạ phẫn nộ vì huynh trưởng, tìm mọi cách xâm nhập kinh thành làm một kẻ sai dịch đê tiện, tìm cơ hội hành thích hôn quân để trả thù cho tiên huynh và Viên Đốc sư. Tiếc là võ nghệ kém cỏi, hành thích không thành, bị bọn thị vệ bắt được. May mà có người cứu giúp nên thoát khỏi hoàng cung, rồi đi vào hắc đạo làm nghề buôn bán không cần vốn. Phen này có mắt không tròng, lại toan cướp bóc tài vật của công tử.”

Viên Thừa Chí nói: “Khi nói ra mới thấy nguồn gốc sâu xa. Không nhờ vậy thì tại hạ không được quen biết bang chủ.”

Thanh Thanh bỗng kêu lên: “Ủa, tiểu cô nương đâu rồi? Cô ấy không sao chứ?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đa tạ cô nương lo lắng. Tiểu đồ đã tự về trước rồi.”

Thanh Thanh hỏi: “Ta đang muốn nói chuyện với cô ấy, sao cô ấy lại rời khỏi đây rồi?”

Mọi người nghỉ ngơi một ngày. Viên Thừa Chí phái những người đắc lực của Thanh Trúc Bang và quần đạo Sơn Đông đưa thư đi khắp nơi, hẹn ngày hai mươi tháng bảy tập trung tại đỉnh Thái Sơn. Chàng lại mời Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc và những thuộc hạ cũ của Sơn Tông, cùng Thủy tổng binh dẫn bọn quan binh đầu hàng, dựng doanh trại ở một vùng đồi núi hiểm trở hoang vu. Mọi người đặt tên doanh trại này là Sơn Tông Doanh.

Trong trận này sáu ngàn quan binh của Mã Sĩ Anh đầu hàng hết, hai trăm mấy chục vạn lượng tiền thuế mất sạch. Từ kinh sư đến Sơn Đông, không nơi nào không chấn động. Khi Mã Sĩ Anh điều đại quân đến truy đuổi, thì đạo tặc và bang chúng hoàn toàn không còn dấu tích ở đó nữa, nên không sao tìm thấy.

*

*   *

Từ sau rằm tháng bảy, ngày hẹn sắp đến, hơn ngàn anh hùng hào kiệt các bang các phái lục tục kéo tới, chật cứng các chùa miếu, đạo quán trên núi Thái Sơn.

Sáng sớm hai mươi tháng bảy, quần hùng tụ tập ở Thạch Kinh Cốc. Nơi này có một mặt đá bằng phẳng, rộng tới vài mẫu, vừa sáng sủa vừa sạch sẽ. Tương truyền đây là nơi mà các vị cao tăng thời cổ đại đã giảng kinh. Trên vách núi có khắc mấy đoạn Kinh Kim Cang, chữ lớn bằng cái đấu, bút lực hùng hồn.

Những người đến dự hội ngày hôm đó, ngoài Viên Thừa Chí, ông câm, Thanh Thanh và Hồng Thắng Hải ra, còn những thuộc hạ dưới trướng Viên Sùng Hoán như Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên. Còn có Tiêu Công Lễ bang chủ Kim Long Bang ở Giang Tô, dẫn theo bọn Tiêu Uyển Nhi, Ngô Bình, La Lập Như. Còn có Thanh Trúc Bang ở Hà Bắc do Trình Thanh Trúc dẫn đầu, còn có quần đạo Sa Thiên Quảng, Chử Hồng Liễu, Đàm Vân Lý tỉnh Sơn Đông. Còn có Vinh Thái ở Du Long Bang tỉnh Chiết Giang. Có cả Thập Lực đại sư trụ trì Thanh Lương Hạ Viện ở Hà Nam, minh chủ Trình Khởi Vân của thất thập nhị đảo nơi hải ngoại. Có cả một số người vừa được cứu khỏi xe chở tử tù, như trại chủ Nhiếp Tiên Phong ở Phi Hổ Cốc tỉnh Hoài Nam, bang chủ Lương Ngân Long của Phàn Dương Bang ở phía bắc Giang Tây. Có cả những thuộc hạ của Thủy tổng binh Minh triều đã đầu hàng. Ngoài ra còn vô số hảo hán giang hồ, danh gia võ thuật đương thời.

Trên đỉnh Thái Sơn đủ mặt anh hùng, nhưng Viên Thừa Chí nhìn mãi không thấy cô A Cửu mỹ miều của Thanh Trúc Bang, hơi thất vọng. Chàng nghĩ ngợi một lúc, nhưng chẳng bao lâu đã quên đi.

Bình minh ngày hôm đó, mây trắng vần vụ đầy trong thung lũng, rồi dồn tụ lại, bốc thẳng lên trời. Hồi lâu, ở phía đông đang âm u bỗng xuất hiện một áng mây ngũ sắc lơ lửng trên trời. Màu sắc đám mây này thay đổi không dừng, lúc trắng lúc cam, dần dần đã có những tia hồng quang chiếu ra bốn phía. Ánh sáng như phun trào ra, rồi chớp mắt là vầng thái dương to như cái khay nhảy vọt lên bầu trời, chiếu vào áng mây ngũ sắc phía dưới. Cảnh tượng vừa đẹp đẽ vừa kỳ ảo, quần hùng reo hò tán thưởng.

Ngắm mặt trời mọc xong, quần hào ngồi ngay xuống đất. Âm dương phiến Sa Thiên Quảng là địa chủ ở đất Sơn Đông này, bây giờ vết thương đã khỏi, đứng dậy tuyên bố dõng dạc: “Đa tạ các vị tiền bối đại ca nể mặt mà đến nơi này. Tại hạ tiếp đãi không được chu đáo, xin quý vị thứ lỗi.”

Nói xong, y chắp tay vái chào bốn hướng. Quần hào đồng thanh khiêm tốn đa tạ. Sa Thiên Quảng lại nói: “Tại hạ là người thô lỗ, không hiểu đạo lý. Bây giờ xin mời Trình Thanh Trúc tiền bối nói chuyện với quý vị.”

Hai người này nhiều năm không chịu nhường nhịn lẫn nhau, nhưng hôm trước ác đấu một trận nhất sinh thập tử, cùng thán phục võ công đối phương nên đã kết thành bạn tốt.

Trình Thanh Trúc đứng dậy lên tiếng: “Bọn giang hồ chúng ta cũng từng tụ hội trên đỉnh Thái Sơn, nhưng nhân số lúc đó không nhiều như thế này. Nói ra chỉ sợ quý vị chê cười, trước đây chúng ta tụ hợp ở đây làm gì? Chẳng qua là phân vùng ảnh hưởng, chia tiền cướp được.”

Quần hào nghe vậy đều cười rộ. Trình Thanh Trúc nói tiếp: “Lần này rất nhiều anh hùng bằng hữu đại giá quang lâm đến đây, chúng ta không thể cứ như trước đây nữa. Trước mắt thiên hạ đang loạn lạc, dân chúng khó mà sống nổi, hôn quân vô đạo, trong triều toàn bọn tham quan ô lại. Bên ngoài quan ải thì bọn Thát tử xâm phạm biên giới, cướp bóc giết người, coi sinh mạng bá tính không bằng sâu kiến. Phen này chúng ta phải thương nghị đàng hoàng, làm nên một phen sự nghiệp. Xin nói rõ, từ nay về sau chúng ta kết nghĩa tạo phản. Vị nào không muốn nhập bọn, ngay bây giờ có thể xuống núi.”

Mọi người nghe xong lời tuyên bố, phần lớn đều máu sôi hừng hực, cất tiếng reo hò. Chỉ có số ít không muốn tạo phản, liền cáo biệt ra đi.

Trình Thanh Trúc nói tiếp: “Hôm nay những người tụ họp tại đây đều là hảo bằng hữu. Chúng ta lấy máu ăn thề, sau này hoạn nạn tương trợ lẫn nhau, cùng mưu đồ đại sự. Nếu có ai tham phú quý mà bán đứt bạn bè, hoặc là tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, mọi người sẽ giết quách con mẹ nó!”

Mọi người lại ồn ào cười nói. Sa Thiên Quảng lên tiếng: “Đã tụ hợp thành minh hội, không thể không có minh chủ. Chúng ta phải đề cử một vị anh hùng đại ca mọi người đều thán phục, để sau này cùng nghe hiệu lệnh người đó. Bất kể ai làm minh chủ, tại hạ nhất định phò tá đến cùng, quyết không dị nghị.”

Thập Lực đại sư đứng dậy nói: “Quần long không thể vô thủ. Không có đầu, nhất định không hoàn thành đại sự. Chuyện đề cử minh chủ, lão nạp nhất trí tán thành. Vị minh chủ này phải trí dũng song toàn, có nhân có nghĩa, mới khiến mọi người khâm phục.”

Trình Khởi Vân nói: “Đó là cái chắc. Ta thấy đại sư rất phù hợp.”

Thập Lực đại sư mỉm cười nói: “Lão nạp già nua như ngọn đèn trước gió, làm sao đảm đương nổi nhiệm vụ trọng đại này? Trình đảo chủ đừng trêu chọc nữa.”

Mọi người xì xào bàn tán, đều cảm thấy nên đề cử minh chủ để hiệu lệnh được nhất quán. Quần hùng phân tán khắp nơi, không lệ thuộc nhau nhưng lại liên kết thành một khối. Lúc đó giữa các bang hội dĩ nhiên không đấu tranh tàn sát lẫn nhau, mà quan phủ cũng không dễ dàng bắt bớ. Chỉ có điều, quần hùng xưa nay mỗi người hùng cứ một phương, không ai chịu phục ai, nếu vì tranh đoạt ngôi minh chủ mà gây ra ác đấu thì không ai mong muốn.

Các lộ dân quân kết nghĩa tạo phản là chuyện rất bình thường. Mọi người đều biết, ở vùng Sơn Đông Thiểm Tây đã có Tam Thập Lục Doanh, Thất Thập Nhị Doanh, ở Hoành Dương thì có Thập Tam Gia. Chuyện kết nghĩa của họ đồn đãi khắp nơi, Lý Tự Thành cũng từng tham dự.

Trình Thanh Trúc đợi mọi người bàn luận một hồi, rồi lớn tiếng nói: “Nếu các vị không còn dị nghị gì nữa, bây giờ có thể bắt đầu đề cử.”

Giữa đám đông bỗng có một đại hán khôi vĩ đứng dậy. Y cao tới bảy thước, thanh âm vang dội như đại hồng chung, lớn tiếng tuyên bố: “Trong võ lâm, không ai là không kính nể, không thán phục Cái mạnh thường Mạnh lão gia. Tuy lão nhân gia hôm nay không có mặt, nhưng ngôi minh chủ đương nhiên phải là ông ấy. Tại hạ cho rằng không cần đề cử ai khác nữa.”

Y vừa nói xong, trong quần hùng lập tức có nhiều người lên tiếng reo hò đồng ý.

Viên Thừa Chí hỏi Hồng Thắng Hải: “Cái Mạnh Thường là ai vậy?”

Hồng Thắng Hải kinh ngạc hỏi: “Tướng công không biết ông ấy hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Bằng hữu trên giang hồ, ta quen biết rất ít.”

Hồng Thắng Hải nói: “Đó là Mạnh Bá Phi lão gia, người ta quen gọi là Cái Mạnh Thường. Ông ấy hành hiệp trượng nghĩa, rất thích kết giao bằng hữu, nhân duyên trong võ lâm cực tốt. Ông ấy sáng chế ra Mạnh Gia Thần Quyền, Khoái Hợp Tam Thập Chưởng, biến ảo khó mà lường được. Đệ tử môn hạ của ông ấy nhiều không đếm xuể, có thể nói là đầy khắp thiên hạ. Những người học võ ở phương Bắc, nhắc đến Cái Mạnh Thường không ai không thán phục. Đại hán này là Đinh giáp thần Đinh Du, đại đệ tử của ông ấy.”

Viên Thừa Chí nói: “À! Thế thì đề cử Mạnh lão gia làm minh chủ là tuyệt diệu rồi.” Chàng nghĩ bụng: “Vị Mạnh lão gia này chắc chắn nhân duyên cực tốt, nhưng võ công chưa biết thế nào, không thì sư phụ đã kể cho mình nghe rồi. Nhưng làm minh chủ võ lâm thì nhân duyên quan trọng hơn cả võ công.”

Minh chủ thất thập nhị đảo Trình Khởi Vân đứng dậy nói: “Oai danh của Mạnh lão gia vang dậy khắp thiên hạ, tại hạ tuy phiêu bạt nơi hải ngoại cũng nghe tiếng từ lâu. Đề cử ông ấy làm minh chủ, có thể nói là không còn ai tốt hơn được nữa. Nhưng tại hạ còn một chỗ lo lắng…”

Đinh Du sốt ruột giục: “Xin Trình đảo chủ nói tiếp.”

Trình Khởi Vân nói: “Mạnh lão gia đã nhiều năm an cư ở Bảo Định phủ, gia thế cực kỳ toàn mỹ. Chúng ta tụ họp ở đây, lại là chuyện khuất tất nơi rừng núi. Những việc giết quan tạo phản, không biết Mạnh lão gia có đồng ý hay không, có tự nguyện hướng dẫn chúng ta hay không. Nếu không, liên lụy đến ông ấy thì trong lòng mọi người chắc không yên được.”

Quần hùng đều cảm thấy câu này có lý. Mọi người lại im lặng hồi lâu.

Bang chủ Tiêu Công Lễ của Kim Long Bang đứng dậy lên tiếng: “Tại hạ xin đề cử một vị anh hùng khác, võ công cái thế, nhân nghĩa trùm đời. Tuy vị anh hùng này tuổi còn rất trẻ, đa số bằng hữu võ lâm chưa được biết, nhưng tại hạ dám nói một câu chém đinh chặt sắt: chỉ cần vị anh hùng này đứng ra hướng dẫn chúng ta, hành sự nhất định công bằng, danh tiếng nhất định lừng lẫy, quan phủ nhất định không dám coi thường.”

Sa Thiên Quảng nói: “Trong lòng tại hạ cũng có một vị thiếu niên anh hùng, chắc không tệ hơn vị mà Tiêu bang chủ nói đến.”

Thanh âm Sa Thiên Quảng vốn đã bén nhọn, khi nói lớn càng chói tai hơn. Y tiếp: “Tuổi tác tại hạ không dám nói là lớn, nhưng đã sống vô tích sự hơn năm mươi năm rồi. Kiến thức tại hạ không dám nói là rộng, nhưng đã từng gặp vô số hào kiệt thành danh trong thiên hạ. Nhưng bắt tại hạ phải phục sát đất, trên thế gian chỉ có vị anh hùng mà tại hạ vừa nhắc đến thôi.”

Trình Thanh Trúc nghiêm trang nói: “Danh tiếng và tính cách Sa Thiên Quảng trại chủ, ta rất hiểu. Ông ấy đã tâm phục khẩu phục ai, nhất định không lầm. Thanh Trúc Bang chúng ta nhất định tán thành lời đề cử của Sa trại chủ.”

Tiêu Công Lễ đỏ mặt lên nói: “Thế thì ngôi minh chủ làm sao đề cử đây? Kim Long Bang chúng ta tuy vô dụng, nhưng nhân số quyết không ít hơn Thanh Trúc Bang.” Rõ ràng hai bên sắp tranh chấp đến nơi.

Thập Lực đại sư vội khuyên ngăn: “Tiêu bang chủ xin đừng vội. Bang chủ muốn đề cử vị anh hùng nào, lão nạp đã đoán chắc đến chín phần mười. Xin hỏi Sa trại chủ muốn đề cử vị anh hùng nào? Hai vị đều nói ra đi, để mọi huynh đệ có mặt ở đây công minh nhận xét. Không chừng cả hai vị đó đều không được mọi người tâm phục thì sao?”

Sa Thiên Quảng trỏ Viên Thừa Chí rồi đáp: “Người mà tại hạ nói đến, chính là vị Viên tướng công này. Các vị đừng thấy huynh ấy trẻ tuổi mà lầm, võ công và mưu trí huynh ấy cao hơn hẳn mọi người. Tại hạ xin nói rõ, gần đây tại hạ mới được quen biết Viên tướng công, chỉ vì thán phục anh hùng mà nhất quyết đề cử.”

Sa Thiên Quảng dứt lời, quần đạo tỉnh Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang hoan hô vang dội, thanh thế cực kỳ hùng hậu.

Viên Thừa Chí không ngờ y nhắc đến mình, vội vàng đứng dậy, xua hai tay loạn xạ mà nói: “Không được, không được!”

Tiêu Công Lễ chờ cho tiếng ồn ào dịu bớt, rồi ngẩng mặt trên trời cười ha hả. Sa Thiên Quảng giận dữ hỏi: “Tiêu bang chủ! Xin thỉnh giáo, tại hạ đã làm gì đáng bị chê cười?”

Trình Thanh Trúc cũng giận dữ nói: “Tiêu bang chủ! Xưa nay tại hạ vẫn thán phục bang chủ, nhưng nếu bang chủ vô lễ với Sa trại chủ thì tại hạ không thể bỏ qua.”

Tiêu Công Lễ chắp tay thi lễ, mỉm cười nói: “Tại hạ đâu dám chê cười ai? Sa trại chủ, Trình bang chủ! Hai vị biết tại hạ muốn đề cử ai chưa?”

Sa Thiên Quảng giận dữ hỏi lại: “Làm sao ta biết được?”

Tiêu Công Lễ nói: “Ngoài Viên tướng công ra, còn ai khác nữa?”

Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng lập tức chuyển giận thành vui, đều ngẩng mặt lên trời cười ha hả. Mọi người thấy ba người tranh chấp hồi lâu, thì ra cùng muốn giới thiệu một người, lập tức cả thung lũng vang dội tiếng cười.

Viên Thừa Chí rất lo lắng, vội nói: “Tại hạ nhỏ tuổi, kiến thức nông cạn, hôm nay được tham dự vào đại hội Thái Sơn là vinh dự lắm rồi. Tại hạ chỉ mong đi theo các vị tiền bối để góp sức mọn, quyết không dám đảm đương đại nhiệm. Xin quý vị hãy đề cử một hiền tài khác.”

Tôn Trọng Thọ lên tiếng: “Viên công tử là con trai duy nhất của Viên đốc sư chúng ta. Đám cựu bằng hữu Sơn Tông này vì tị hiềm thân thích nên mới chưa lên tiếng đề cử Viên công tử làm minh chủ. Thật sự không còn ai thích hợp hơn nữa.”

Trình Khởi Vân ngạc nhiên hỏi: “Viên đốc sư nào thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Chính là người từng chỉ huy lực lượng kháng Thanh ở Liêu Đông, vô cớ bị hôn quân hại chết, tôn danh là Viên Sùng Hoán đốc sư.”

Viên Sùng Hoán kháng địch có công với nước. Hồi đó chỉ có bá tính trong thành Bắc Kinh mới tưởng ông bán nước thông địch. Vì cường địch đang vây chặt tấn công thành Bắc Kinh, từ vua quan đến dân chúng đều hoang mang không biết làm gì, nên không xét rõ thị phi. Khi Viên Sùng Hoán bị sát hại thê thảm như thế, dân chúng các nơi khác biết chuyện đều cực kỳ phẫn hận.

Quần hùng vừa nghe được chuyện này, tiếng hoan hô lập tức nổi lên. Những người chưa có chủ ý đều nhất trí tán thành.

Viên Thừa Chí cương quyết chối từ nhưng không thể được. Hơn nữa, Thủy tổng binh vừa đầu hàng và những người như Nhiếp Tiên Phong, Lương Ngân Long vừa được chàng cứu khỏi xe tù cũng cật lực phụ họa. Thế là ngôi vị minh chủ đã định xong.

Bang chủ Vinh Thái của Du Long Bang vốn có xích mích với Viên Thừa Chí. Nhưng bây giờ y thấy mọi người đều đặt niềm tin vào chàng, Du Long Bang nhỏ xíu không sao cự lại số đông. Hơn nữa y nghĩ đến chuyện trên sông Cừu Giang chàng không làm khó dễ mình, còn ném cho một tấm ván để mình khỏi rơi xuống nước xấu hổ trước mặt bang chúng, coi như mình đã chịu ơn rồi. Bây giờ nhân tiện thêu hoa trên gấm mấy lời nói tốt, y bèn đứng dậy tuyên bố: “Viên tướng công võ công tinh thâm, rất nhiều bằng hữu có mặt ở đây đều biết. Tại hạ cũng từng thảm bại dưới tay huynh ấy.”

Mọi người chưa kịp ngơ ngác, Vinh Thái lại nói: “Nhưng huynh ấy rất biết giữ thể diện cho người khác, tại hạ tuy thua nhưng vẫn đem lòng cảm kích. Mọi người đề cử huynh ấy làm minh chủ, tại hạ đồng ý cả hai tay.”

Quần hào thấy người từng đối địch với chàng cũng nói như vậy, bèn hoan hô vang dội. Viên Thừa Chí nghe Thanh Thanh khẽ mắng: “Đồ nịnh bợ!”

Đinh giáp thần Đinh Du đi đến bên Viên Thừa Chí, ngắm nghía chàng từ trên xuống dưới. Thấy Viên Thừa Chí thân hình không cao lắm, mặt mũi đen đúa, diện mạo chẳng tuấn tú chút nào, tuổi lại còn nhỏ, trông rất dễ hù dọa, y không hiểu tại sao quần hùng lại đề cao chàng đến thế. Y thấy oai danh của chàng chỉ trong chốc lát đã hơn hẳn sư phụ mình, hết sức không phục, bèn nói: “Phải chúc mừng Viên tướng công rồi.”

Đồng thời y đưa tay ra nắm tay Viên Thừa Chí, tỏ vẻ thân mật. Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ không dám…”

Lời chưa nói dứt, tay chàng đột nhiên bị siết lại. Thì ra Đinh Du sử dụng tuyệt nghệ Bá Vương Cử Đỉnh của sư phụ đã truyền, toan dùng sức giật ngã Viên Thừa Chí, làm vị minh chủ này mất thể diện trước mặt đông người. Nếu y làm được, đúng là đắc tội với vô số anh hùng hảo hán, không chừng sẽ bị mọi người bằm vụn ra tại chỗ. Nhưng Đinh Du xưa nay tính tình lỗ mãng, hễ tức giận là làm, bất cần hậu quả.

Hắn âm thầm vận công, không phát ra tiếng, không đổi sắc mặt, dốc toàn lực kéo luôn ba lần, cơ bắp trên cánh tay nổi vồng từng múi. Nhưng Viên Thừa Chí đứng vững như một tảng đá núi, vẫn tiếp tục nói: “… đảm đương đại nhiệm. Lệnh sư Mạnh lão gia đức cao vọng trọng, dĩ nhiên thích hợp hơn tại hạ nhiều.”

Đinh Du càng ra sức kéo, đến khi cánh tay mình kêu lắc cắc, trật khớp đến nơi mới buông ra. Y thấy Viên Thừa Chí không lộ vẻ gì, bây giờ mới biết võ công của đối phương cao hơn mình không biết mấy lần. Nếu chàng thừa thế đánh trả, nhất định mình đã văng xuống thung lũng rồi, nhưng chàng đã cố ý che mắt mọi người để bảo vệ danh dự cho mình. Y vô cùng cảm kích, lớn tiếng hô: “Tuyệt diệu! Công tử là một vị minh chủ có một không hai.”

Nói xong, y quỳ xuống bái lạy. Viên Thừa Chí vội đáp lễ, trong lòng hoan hỉ. Chàng thấy đại hán này tuy lỗ mãng nhưng có chỗ khả ái.

Trình Thanh Trúc lên tiếng: “Chúng ta kết minh thì phải có minh quy. Bây giờ xin minh chủ tuyên bố, để mọi người cùng bàn bạc.”

Viên Thừa Chí còn muốn chối từ, nhưng Tôn Trọng Thọ đã nói vào tai chàng: “Công tử! Khiêm cung không được thì nên chấp nhận. Nếu không may ngôi minh chủ rơi vào tay kẻ gian, hậu họa sẽ không nhỏ. Công tử lãnh đạo quần hùng mưu đồ đại sự, mối huyết hải thâm thù của Đốc sư có thể được báo. Đốc sư suốt đời hành sự không hề lùi bước, không hề tránh né khó khăn.”

Viên Thừa Chí nghe ông dạy mình đại nghĩa, lại nhắc đến gương sáng của phụ thân, bất giác hào khí bừng bừng. Chàng lập tức chắp tay thi lễ tứ phía, dõng dạc nói: “Quý vị đã có hảo ý, tại hạ cung kính không bằng phụng mạng. Chỉ có điều tại hạ kiến thức nông cạn, rất mong các vị tiền bối thường xuyên chỉ dạy. Tại hạ quyết không dám cuồng vọng tự cao.”

Nghe Viên Thừa Chí chịu làm minh chủ, quần hùng trên đỉnh Thái Sơn lập tức hoan hô như sấm động. Tiếng hô trong thung lũng vọng đi vọng lại rất lâu không dứt, bốn phía đều rền vang tiếng vỗ tay và tiếng reo hò. Dường như cả ngàn ngọn đồi, vạn thung lũng chung quanh cũng đang hưởng ứng vậy.

Quần hùng lập tức thắp nến đốt nhang, cùng khấn vái thiên địa. Viên Thừa Chí bảo Tôn Trọng Thọ: “Nhờ Tôn thúc thúc thảo cho minh ước.”

Tôn Trọng Thọ không từ chối, vào miếu soạn thảo ngay. Ông biết quần hùng lấy tín nghĩa làm đầu, không đặt nặng văn chương, bèn viết mấy trăm chữ, lời giản dị nhưng ý thâm sâu.

Viên Thừa Chí tuyên đọc trước mọi người, rồi quần hùng trích máu tuyên thệ, thề không bội ước. Thế là cuộc đại hội Thái Sơn quy tụ võ lâm các tỉnh Nam Bắc đã thành công rực rỡ.

Viên Thừa Chí bước ra giang hồ mới chỉ vài tháng, dựa vào võ công thượng thừa, đối đãi chí thành, lại nhờ cơ duyên xảo hợp và oai danh của phụ thân, bây giờ đã trở thành đại thủ lĩnh của quần hào thổ mãng khắp bảy tỉnh.

*

*   *

Đêm hôm đó, quần hùng ngồi bệt dưới đất mà bày tiệc, đấu tửu say sưa. Tiếng huyên náo cười đùa không dứt, vang động cả một vùng thung lũng.

Đang vui vẻ, đột nhiên thấy một quả pháo lưu tinh bay vọt lên trời. Đây là tín hiệu cảnh giới bắn từ dưới núi. Quần hùng lập tức ngừng chén, không uống nữa. Viên Thừa Chí cùng mấy người Tôn Trọng Thọ nghĩ đến năm xưa tụ hội trên đỉnh Thánh Phong, cũng bị quan binh đến đột kích. Chẳng lẽ quan phủ đã biết tiền thuế bị cướp, điều binh khiển tướng đến đây tấn công hay sao?

Không bao lâu, hai hán tử đang canh gác ở sườn núi chạy lên đỉnh núi bẩm báo với Viên Thừa Chí: “Khải bẩm minh chủ, dưới núi có tin cấp báo. Đại quân Mãn Châu đã tấn công hạ được Thanh Châu, đang trên đường tiến quân tới Thái An, cách đây chỉ mười mấy dặm. Xin minh chủ định đoạt.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Quân Mãn Châu tiến nhanh thế hay sao?” Chàng từng nghe quân Mãn Châu vượt qua quan ải, nhưng tưởng chúng chỉ quấy nhiễu ở Lan Châu, Cổn Châu, cướp bóc, tàn sát, đốt nhà. Không ngờ chúng đã công hãm tới Thanh Châu.

Tôn Trọng Thọ nói: “Tháng mười năm ngoái bọn lính Mãn Châu vượt qua quan ải, đánh vào Cổn Châu, cướp bóc tàn sát nhiều vùng trong tỉnh Sơn Đông. Nghe nói tướng chỉ huy là đại tướng quân A Ba Thái. Tên này là con thứ bảy của Nỗ Nhĩ Ha Xích, cũng là ca ca của Thát tử hoàng đế. Hắn rất giỏi dụng binh, đã từng cùng Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn đánh Sơn Đông, nên đối với địa thế tỉnh Sơn Đông rất quen thuộc.”

Viên Thừa Chí lại hỏi: “Đa Nhĩ Cổn đã từng đánh Sơn Đông ư?” Chàng lo nghiên cứu võ học, hiểu biết thế sự rất ít.

Tôn Trọng Thọ thở dài nói: “Đó là chuyện đã bốn năm rồi. Hồi đó minh chủ đang học võ nghệ trên núi Hoa Sơn nên mới không biết.”

Ông thấy quần hùng đang nhốn nháo hỏi nhau, nhân tâm xao động, bèn trèo lên một tảng đá lớn ở chỗ cao, lớn tiếng nói: “Huynh đệ dưới núi cấp báo là bọn lính Mãn Châu đã công phá Thanh Châu, đang tiến tới Thái An. Các vị cứ tiếp tục uống rượu, minh chủ sẽ có chủ trương sau.”

Trong quần hùng có người la lên: “Mọi người xung phong xuống núi, giết bọn Thát tử này một trận con mẹ nó.”

Lại có người la lên: “Bọn quân Thát tử này bức hiếp dân chúng quá đỗi rồi. Phen này phải liều mạng sống mái với chúng một phen.”

Quần hùng vô cùng phẫn khích, hò hét om sòm. Tôn Trọng Thọ quay lại chỗ Viên Thừa Chí, nói: “Minh chủ! Mọi người đều muốn đi đánh bọn quân Thát tử. Minh chủ thấy sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Phụ thân con suốt đời tận trung báo quốc, mục đích chính là giết bọn Thát tử. Bây giờ chúng đi ngang cửa chúng ta, lại gặp lúc nhiều huynh đệ tụ hội ở đây, chúng ta phải đánh cho một trận. Có điều con không hiểu cách hành quân đánh trận, phải nhờ Tôn thúc thúc ra hiệu lệnh.”

Tôn Trọng Thọ suy nghĩ một lúc, phái mười mấy người ra ngoài điều tra tình hình bọn lính Mãn Châu, rồi nói: “Từ khi Đốc sư Viên công bị hại, trong triều không còn ai quyết tâm chống cự, mà cũng không còn sức chống cự với bọn Mãn Thanh nữa. Tháng sáu năm Sùng Trinh thứ chín, Hoàng Thái Cực đã phái A Ba Thái tấn công vào trong trường thành, đánh sâu vào tận Hà Bắc. Tháng mười một, Cửu vương Đa Nhĩ Cổn lại thống lĩnh bọn A Ba Thái tấn công Hà Bắc, các trung thần Lô Tượng Thăng và Tôn Thượng Tông hy sinh vì nước. Năm đó Đa Nhĩ Cổn còn công phá Tế Nam, bắt đi bốn mươi mấy vạn bá tính dẫn về hướng Bắc. Lần này tên Thát tử A Ba Thái lại đến đây.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao bọn Thanh binh không tấn công vào Bắc Kinh, mà chỉ đánh các nơi Hà Bắc Sơn Đông?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Hoàng Thái Cực là một người rất giỏi dụng binh. Hắn phái binh đến Hà Bắc và Sơn Đông không để chiếm cứ đất đai, mà để cướp đoạt tài vật, phóng hỏa giết người, bắt bớ bá tính về làm nô lệ, cố ý phá hủy tinh lực Trung Quốc chúng ta, khiến triều đình Đại Minh kiệt quệ, cuối cùng chỉ đánh một trận là chiếm được Bắc Kinh. Năm xưa hắn từng đánh Bắc Kinh, thua dưới tay Viên Đốc sư một trận lớn, suýt nữa không còn đường về. Sau đó hắn co vòi, chưa dám tiến công kinh sư lần nào nữa.”

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Sấm Vương và các lộ nghĩa quân tạo phản khắp nơi, há chẳng giúp sức rất nhiều cho bọn Thát tử hay sao?” Câu này chàng không tiện nói ra, nhưng trong lòng hết sức không yên.

Tôn Trọng Thọ lại nói: “Mấy năm nay quân Thát tử hết đánh Hà Bắc lại đánh Sơn Đông, thế mạnh như chẻ tre. Bọn lính nhà Minh chưa thắng nổi trận nào, quân Thát tử đương nhiên nhìn lính triều đình chỉ bằng nửa con mắt. Nhưng người xưa từng nói, kiêu binh tất bại. Chúng ta phải nhân cơ hội tốt này để giảm bớt uy phong của chúng, đánh một trận ra trò thử xem.”

Viên Thừa Chí cả mừng, lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Chúng ta chuẩn bị đi giết quân Thát tử. Đêm nay ngủ một giấc ngon lành, sáng sớm mai chúng ta xuống núi.”

Quần hùng lớn tiếng reo hò: “Giết quân Thát tử! Giết quân Thát tử!”

Viên Thừa Chí ít hiểu về thao lược, đêm đó phải nhờ Tôn Trọng Thọ bày kế. Sáng hôm sau chàng điều khiển quần hùng xuất phát, đại quân mai phục ở Cẩm Dương Quan. Khi thấy cờ vàng minh chủ dựng cao ở trung quân, đại quân sẽ xông ra chém giết. Chàng hạ lệnh Thủy tổng binh đem theo hai ngàn binh mã thuộc hạ chặn địch đánh trận đầu, nhưng sợ Thủy tổng binh sau khi xuống núi sẽ đổi ý, bèn phái thêm Tiêu Công Lễ dẫn thủ hạ Kim Long Bang theo giám thị.

Nhiệm vụ của Thủy tổng binh là chỉ được bại không được thắng, dụ quân Thanh lọt vào ổ mai phục. Cánh quân của Thủy tổng binh có áo giáp vũ khí rất đầy đủ, mặc toàn sắc phục triều đình, quả là không có chút sơ sót. Đánh thua chạy trốn lại là ngón nghề của lính triều đình, phen này họ có thể thi triển hết sở trường mà phục vụ cho minh hội.

Cẩm Dương Quan chỉ có một con đường mòn rất hẹp, hai bên là vách núi. Quần hùng nấp đến xế chiều thì nghe tiếng la ó vang dậy, một toán lính Minh tháo áo giáp, vứt binh khí, theo con đường mòn chạy tới. Thủy tổng binh cưỡi tuấn mã, nắm đại đao đích thân cản hậu. Không bao lâu đã thấy quân Thanh rượt đuổi.

Viên Thừa Chí nằm sau một tảng đá phía trái đỉnh đồi. Lần đầu tiên chàng nhìn thấy lính Mãn Châu, nghĩ đến phụ thân nhiều năm huyết chiến với bọn quân Thát tử này, không nén nổi máu sôi sùng sục. Chàng đưa thanh Kim Xà Kiếm lên nói: “Tôn thúc thúc! Chúng ta xung phong xuống đi.”

Tôn Trọng Thọ nói: “Đợi một lát đã. Khi đại đội bọn quân Thát tử đến đây, chúng ta mới dựng cờ vàng lên. Khi đó huynh đệ mai phục xung quanh cùng lúc tấn công, bọn Mãn Thanh không sao chạy thoát được nữa.”

Nghe tiếng kèn hiệu nổi vang, một đám lớn kỵ binh Thanh xung phong tới nơi. Mấy chục tên lính Minh chạy không kịp, lập tức bị đao thương đâm chém, thi thể ngổn ngang dưới đất. Viên Thừa Chí trong lòng bất nhẫn, lại giục: “Mau mau xung phong xuống dưới mà tiếp ứng!”

Tôn Trọng Thọ bảo: “Phải đợi một lúc nữa.”

Thanh Thanh lo lắng nói: “Nếu không xuống ngay, đám quân này sẽ bị chúng giết sạch.”

Tôn Trọng Thọ cứ nói: “Phải đợi một lúc nữa.” Thanh Thanh sốt ruột, lo lắng giậm chân tại chỗ.

Đột nhiên trên đỉnh đồi bên phải có tiếng reo hò dữ dội, Sa Thiên Quảng đã dẫn quần đạo tám trại Sơn Đông từ trên đỉnh đồi xung phong xuống. Tôn Trọng Thọ la lên: “Úi chà, hỏng bét!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Đám kỵ binh này chỉ là tiên phong mà thôi. Phen này không bắt được nguyên soái của chúng rồi. Sao họ chưa thấy cờ hiệu đã tự tiện ra tay?”

Lúc này quần đạo Sơn Đông đã hùng hổ chém giết vào trận quân Thanh. Sau đó bang chúng Thanh Trúc Bang, Kim Long Bang đang mai phục khắp nơi đều vùng dậy. Thủy tổng binh cũng dẫn quân Minh quay lại đánh trả.

Tôn Trọng Thọ thở dài sườn sượt, buồn rầu nói: “Năm xưa Viên công điều binh, nếu đại tướng không nghe hiệu lệnh mà tự xông ra giết địch thế này, nhất định sẽ bị Viên công thỉnh Thượng phương bảo kiếm ra chặt đầu hết.”

Viên Thừa Chí áy náy, bèn nói: “Con không ngờ được chuyện này, nên chưa tuyên bố nghiêm ngặt là phải tôn trọng hiệu lệnh.”

Tôn Trọng Thọ an ủi chàng: “Đám anh hùng hảo hán chúng ta ở đây, ai cũng có võ công nhưng chỉ là quân ô hợp, không thể so với tinh binh mà Viên công huấn luyện ở Ninh Viễn năm xưa. Minh chủ không có cách nào quản thúc họ được đâu. Ôi! Cờ vàng chưa dựng lên, mọi người đã xung phong chém giết loạn cào cào. Như vậy đâu phải là dàn quân đánh trận, chỉ là loạn đả bừa bãi mà thôi.”

Tôn Trọng Thọ than thở mãi không dừng. Ông nghĩ đến năm xưa Viên Sùng Hoán lãnh binh tại Ninh Viễn, hiệu lệnh nghiêm ngặt, mười mấy vạn binh lính không ai là không nghiêm túc phụng mạng. Trong lúc ảo não, ông lại cảm thấy phần nào chua xót.

Thanh Thanh nói: “Chuyện đã thế rồi, có than thở cũng vô dụng. Thừa Chí đại ca, chúng ta ra tay đi!”

Viên Thừa Chí đã bứt rứt từ lâu, bèn hô lớn: “Được! Mọi người xung phong giết giặc!” Chàng cầm Kim Xà Kiếm xung phong xuống núi.

Tôn Trọng Thọ kinh hãi, gọi theo: “Minh chủ, minh chủ! Minh chủ là chủ soái, phải ngồi trấn giữ trung quân, không được đích thân nghênh địch.”

Gọi chưa dứt câu, Viên Thừa Chí đã thi triển khinh công chạy xa rồi. Chàng xung phong vào trong trận, Kim Xà Kiếm vừa vẫy ra đã chặt đứt hai cái thủ cấp lính Thanh. Tôn Trọng Thọ lại thở dài một tiếng, nước mắt chảy xuống như mưa, thầm nghĩ: “Ngay cả minh chủ cũng vậy, làm sao mà sánh được với Viên Đốc sư năm trước?”

Hơn ngàn quân Thanh bị kẹt giữa con đường núi, tuy dũng cảm cũng không lập được trận mà đón đỡ. Địch tới sát mình, cung tên không dùng được. Chúng bị quần hào bao vây tấn công từ bốn phương tám hướng, không đầy một giờ là chết sạch. Thống soái A Ba Thái của quân Thanh được tiền quân hồi báo là trúng mai phục ở Cẩm Dương Quan, lập tức dẫn quân lui về Thanh Châu.

Trận này không giết được A Ba Thái, nhưng đã diệt được hơn ngàn lính Thanh, thật là đại thắng mười mấy năm nay chưa có. Quần hùng ở Cẩm Dương Quan reo hò đến khản giọng, hoan hỉ đến phát cuồng. Viên Thừa Chí nhìn những vết máu trên Kim Xà Kiếm, nghĩ: “Thanh kiếm này hôm nay đã giết không ít quân Thát tử. Phải thế mới không uổng phí vết bích huyết trên thân nó.”

Đêm đó Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên ngồi đàm luận, cho rằng trận thắng hôm nay có thể an ủi vong linh Viên Đốc sư trên trời, đều không nén nổi nhiệt lệ tuôn tràn. Tôn Trọng Thọ vẫn ân hận không giết được nguyên soái A Ba Thái của bọn Thanh.

Viên Thừa Chí nói: “Tôn thúc thúc! Huynh đệ chúng ta đánh trận lớn chưa được đâu. Ngày mai con phải lên phía Bắc. Số quan binh nhà Minh và hết thảy huynh đệ ở đây, nhờ Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc, Nghê thúc thúc, La thúc thúc và các vị thao luyện đàng hoàng. Sau này gặp bọn Thát tử, quyết không xung phong giết giặc loạn xạ như ngày hôm nay nữa.” Tôn Trọng Thọ và mọi người đều vâng dạ.

Chu An Quốc, La Đại Thiên, Nghê Hào đã từng huyết chiến nhiều trận với quân Thanh ở Cẩm Châu và Ninh Viễn. Họ cùng thấy thuộc hạ không tuân hiệu lệnh, kỷ luật không nghiêm, chưa phải là một đội quân tinh nhuệ, trận thắng này thật là may mắn. Quân Thanh không chỉ tinh thông thuật cưỡi ngựa bắn tên, ngay cả bộ binh của chúng mỗi khi xung sát chỉ biết hướng về phía trước, dũng cảm can trường không gì sánh được. Quân triều đình nhà Minh chắc chắn không phải là địch thủ. Năm xưa Viên đốc sư thắng trận ở Ninh Viễn, hoàn toàn dựa vào thành trì vững chắc, sử dụng đại pháo. Nếu phải giao chiến ở nơi bình nguyên dã ngoại, quân Minh triều chắc chắn sẽ bại.

Trận chiến hôm nay, một là mai phục bất ngờ, giết bọn lính Thanh trong lúc vô ý; hai là chỉ cắt rời hơn ngàn quân tiên phong của bọn Thanh. Quần hào và quân Minh có số lượng gấp bội bao vây, về nhân số đã chiếm thượng phong, còn viện quân của bọn Thanh không tiến vào được. Hơn nữa, dưới tay Viên Thừa Chí có rất đông người võ nghệ cao cường, nên khi đối địch với quân Thanh không bị sút kém.

Chu An Quốc lắc đầu nói: “Tôn tiên sinh, Viên minh chủ! Không phải tại hạ muốn đề cao địch mà làm giảm oai phong mình. Trận chiến này, nếu một vạn quân địch đối phó với một vạn quân ta, thì quân ta chắc chắn sẽ bại. Nếu địch có hai vạn, ta cũng có hai vạn, quân ta càng thua đậm hơn. Ôi! Bọn Thát tử lợi hại đến thế, thật sự không dễ đánh.”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Chu huynh, ta hiểu rồi. Huynh muốn nhắc nhở mọi người, trận này thắng do may mắn. Từ nay về sau mọi người phải nỗ lực gấp bội. Kiêu binh tất bại, ai binh mới thắng.”

Sau này mọi người cố rèn luyện cho quân lính võ nghệ, dạy họ biết coi trọng hiệu lệnh và kỷ luật, tuy không hơn được quân Thanh, nhưng không đến nỗi đánh đâu thua đó như quân Minh triều trước đây. Quân Thanh từ nhỏ đã quen nghề bắn tên cưỡi ngựa, luyện tập thế nào cũng không bằng chúng nổi.

*

*   *

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh sánh vai tản bộ, thấy quần hào chỗ này một nhóm, chỗ kia một nhóm đàm luận với nhau. Thần tình người nào cũng sôi nổi, đều nói về trận thắng lớn hôm nay. Viên Thừa Chí nói: “Hôm nay chúng ta mới đánh trận đầu, tiêu diệt bọn Thát tử Mãn Thanh. Sau này còn phải huyết chiến cả trăm trận nữa. Đúng là: Ngày ngày khẳng khái diệt thù; Tháng tháng gian nan bách chiến.”

Thanh Thanh khen ngợi: “Hai câu thơ của huynh hay thật.”

Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Ta đâu biết làm thơ? Đây là di tác của gia gia.”

Thanh Thanh “Ủa” một tiếng.

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Ta làm gì cũng không bằng được gia gia. Gia gia biết làm thơ, lại biết dụng binh đánh trận. Ta hoàn toàn không hiểu.”

Thanh Thanh an ủi: “Võ công của huynh thì hơn hẳn lệnh tôn rồi.”

Viên Thừa Chí nói: “Gia gia của ta xuất thân tiến sĩ, chưa từng luyện võ. Nhưng võ công cao cường đến mấy cũng chỉ giải quyết được chút ít việc nhỏ, không thể lo được đại sự.”

Thanh Thanh cãi: “Chưa chắc đã thế. Võ công cao cường, đương nhiên phải có chỗ ích lợi.”

Viên Thừa Chí đột nhiên rút soạt Kim Xà Kiếm, vạch lên không trung hai nhát xé gió vù vù, lên tiếng: “Thanh đệ nói đúng! Ta phải đi hành thích Thát tử hoàng đế Hoàng Thái Cực, rồi lại hành thích Sùng Trinh hoàng đế để trả thù cho gia gia.”

Chàng bèn thương nghị với Tôn Trọng Thọ, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và Thủy tổng binh; đem toàn bộ quần hào Sơn Đông Hà Bắc, hàng quân Minh, bằng hữu Sơn Tông và các lộ anh hào chia thành ba doanh; chọn ba người hiểu chuyện dàn quân đánh giặc là Chu An Quốc, Thủy Giám, La Đại Thiên chia nhau thống lĩnh. Tôn Trọng Thọ thì chỉ huy tổng quát.

Viên Thừa Chí cùng thủ lĩnh ba doanh thương nghị, mọi người đều nói: “Đã chém giết quân triều đình rồi, thì nên quy thuận Sấm Vương. Binh mã ba doanh chúng ta nên tới Tương Dương, Nam Dương, giúp tấn công quân Minh của đốc sư Tôn Truyền Định ở Thiểm Tây.”

Viên Thừa Chí nói: “Tuy triều đình vô đạo, nhưng đại cuộc trước mắt phải lấy chuyện kháng cự Mãn Thanh xâm lược là chính. Nếu chúng ta đánh đổ nhà Minh, quân Thanh tất sẽ thừa cơ đoạt lấy giang sơn của người Hán. Lúc đó chúng ta há chẳng trở thành thiên cổ tội nhân?”

Mọi người thương nghị một hồi, quyết định binh mã ba doanh này tạm thời đi về phía đông bắc tỉnh Sơn Đông, đóng trại ở Diêm Sơn, Lưu Sơn và Mã Cốc Sơn ở ranh giới Trực Lệ và Sơn Đông. May mà phen này đã cướp được rất nhiều lương tiền, có thể khai khẩn và mua sắm nhiều ruộng đất. Viên Thừa Chí để lại hai rương vàng thỏi, đủ cho sáu bảy ngàn nhân mã ăn uống mấy năm, không cần phải ra ngoài cướp bóc để buộc triều đình phái binh tiêu diệt.

Nếu quân Thanh nhập quan kéo đến Sơn Đông, thì nhân mã ba doanh này tiến lên phía Bắc mà kháng địch. Khi Viên Thừa Chí nhận được tin tức sẽ lập tức trở về, sánh vai quần hào tham chiến. Còn nếu Sấm quân bất lợi, thì nhân mã ba doanh này sẽ chi viện cứu trợ. Thế là tạm thời ẩn giấu một đội nhân mã hùng mạnh vì nước vì dân, đợi thời cơ mà hành sự.

Mọi người nghe kế hoạch này đều vỗ tay khen hay.

Sáng hôm sau Viên Thừa Chí cáo biệt Tôn Trọng Thọ và mọi người, cùng Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải áp tải mấy cái rương sắt đi tới phủ Thuận Thiên tại kinh sư. Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Thủy tổng binh thì thống lĩnh ba doanh, đợi đêm sẽ hành quân tới vùng Mã Cốc Sơn, ranh giới Sơn Đông và Trực Lệ mà đóng trại.

Trong trận chiến Cẩm Dương Quan, Thái An, Thanh Châu tỉnh Sơn Đông, Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ, Tiêu Công Lễ, Thủy Giám không những cướp được trăm vạn tiền lương của triều đình, lại diệt được một đội quân tinh nhuệ của tướng Thanh A Ba Thái, danh tiếng lập tức vang động cả một vùng Sơn Đông, Trực Lệ và Hà Bắc. Nhiều người hỏi thủ lĩnh là ai, quần hùng biết Viên Thừa Chí không thích nêu danh tính của mình nên chỉ đáp qua loa. Có người hỏi kỹ, bang chúng Kim Long Bang bèn nói vị anh hùng thủ lĩnh là truyền nhân của Kim Xà Lang Quân năm trước, bằng hữu của Sấm Vương.

Thuộc hạ của Sấm Vương lúc này có Hoành Thiên Vương, Tranh Thế Vương, Loạn Thế Vương, Cải Thế Vương, Tả Kim Vương, mỗi người thống lãnh một doanh nhân mã đối kháng với quân Minh trong khắp Trung Nguyên. Trên giang hồ bèn gọi lộ nhân mã của Viên Thừa Chí là Kim Xà Doanh, tương xứng với mười ba doanh khác dưới trướng Sấm Vương. Còn trong nội bộ thì gọi là Sơn Tông Doanh hay Sùng Tự Doanh, tỏ ý kế thừa đại chí của phụ thân.

Viên Thừa Chí nghĩ, phụ thân mình tận trung với Minh triều, lúc chịu kỳ oan tay đang nắm binh quyền mà hoàn toàn không có ý tạo phản. Ông thà bị hoàng đế giết oan, quyết không mang tội phản tặc hay soán nghịch. Vì thế chàng hạ lệnh cho mọi người đừng nhắc tới chuyện mình là con trai Viên Sùng Hoán, để phụ thân có linh thiêng đỡ phải áy náy. Hơn nữa, thời đó con nhà quan lại coi hai chữ “trung hiếu” còn nặng hơn trời. Tuy Viên Thừa Chí vì bá tính mà tạo phản, nhưng không dám công nhiên dựng cờ khởi nghĩa phản Minh.

Chàng vốn không thích xưng hiệu Kim Xà Vương, nhưng cái tên này có thể dùng để giấu giếm thân phận con trai Viên Sùng Hoán, nên cứ để bằng hữu giang hồ thuận miệng mà gọi như thế.

Hồi 12: Đầu đà dùng mỹ tửu – Đào tiên giấu dược hoàn

Viên Thừa Chí cùng ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải áp tải mấy chiếc rương sắt đến kinh thành. Sa Thiên Quảng đột nhiên nổi hứng, đòi theo minh chủ tới kinh sư dạo chơi. Trình Thanh Trúc từng ở Bắc Kinh lâu ngày, rất quen thuộc đất và người ở đó, cũng xin đi cùng. Viên Thừa Chí có thêm hai trợ thủ đắc lực, dĩ nhiên hoan hỉ đồng ý. Lúc này chàng thấy Hồng Thắng Hải một dạ trung thành, không hề có ý phản bội, nên đã trị nội thương cho. Y càng tỏ lòng cảm kích.

Một đoàn sáu người quất roi giục ngựa tiến về phía Bắc, rong ruổi trên vùng bình nguyên thẳng cánh cò bay tỉnh Sơn Đông thuộc địa phận ảnh hưởng của Sa Thiên Quảng, rồi tiến vào Hà Bắc là địa giới của Thanh Trúc Bang. Dọc đường bọn đầu mục địa phương đều nghênh tiếp rất long trọng. Thanh Thanh thấy ý trung nhân của mình được thiên hạ coi trọng như thế, dĩ nhiên vô cùng đắc ý. Tính khí nhõng nhẽo và nhỏ nhen của nàng đã giảm bớt đi nhiều.

Một hôm đến phủ Hà Giang, đầu mục của Thanh Trúc Bang ở đây mở tiệc tưng bừng đón tiếp minh chủ. Khách dự tiệc đều là danh sĩ có tiếng trong võ lâm. Sau ba tuần rượu, mọi người đàm luận đến những chuyện trên giang hồ cùng võ lâm cố sự, hào hứng vô cùng.

Đột nhiên có người hỏi Trình Thanh Trúc: “Bang chủ! Bốn ngày nữa là lễ mừng thọ lục tuần của Mạnh Bá Phi lão gia rồi. Bang chủ có tới không?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Ta phải theo minh chủ lên kinh thành, không thể đi chúc thọ, phải tạm gửi quà. Ta đã chuẩn bị một món quà, sai người đưa đến Bảo Định phủ là được.”

Sa Thiên Quảng cũng nói: “Tại hạ đã gửi quà mừng thọ từ sớm. Mạnh lão gia biết chúng ta có việc quan trọng không đến được, chắc không trách đâu.”

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Cái Mạnh Thường lừng danh khắp đại giang nam bắc. Sắp đến ngày chúc thọ, sao ta không nhân cơ hội kết giao với ông ấy?” Chàng bèn nói: “Ta đã nghe tiếng Mạnh lão gia từ lâu rồi. Thì ra mấy hôm nữa đã đến ngày chúc thọ lục tuần của lão nhân gia, ta muốn đến đó chúc mừng. Các vị xem có được không?”

Mọi người vỗ tay khen hay, đều nói: “Minh chủ nể mặt như thế, Mạnh lão gia nhất định rất vui.” Thế là hôm sau mọi người đổi hướng đi về phía Tây, có thêm mười mấy hào kiệt phủ Hà Giang đi cùng.

Khi đến Cao Dương, cách phủ Bảo Định chưa tới một ngày đường, mọi người nghỉ lại khách sạn Duyệt Lai trên đại lộ. Sắp xếp hành lý và rương hòm xong, quần hào đến đại sảnh ăn cơm uống rượu.

Ở bàn phía Đông có một đầu đà to béo, trên đầu dùng một cái vòng đồng để buộc mớ tóc dài, tướng mạo vừa oai phong vừa dũng mãnh. Trên bàn có tới bảy tám bình rượu đã uống cạn. Hễ tiểu nhị đưa rượu đến, y liền mở nắp bình, trút rượu vào một cái tô lớn, chỉ một hơi là uống cạn ngay. Hai tay y lên xuống liên hồi, đĩa thịt bò trong chớp nhoáng đã sạch nhẵn. Y lên tiếng hối thúc: “Thêm rượu, thêm thịt! Nhanh lên!”

Lúc này bọn tiểu nhị trong tiệm đang bận tiếp đãi những người khác, không kịp để ý đến y. Đầu đà cả giận, đưa tay vỗ mạnh lên bàn. Bao nhiêu hũ rượu, ly tách đều nhảy bật lên, ngay cả bình rượu trên bàn bên cạnh cũng chao đi rồi ngã xuống, rượu đổ lênh láng.

Người khách ngồi bàn đó “úi chà” một tiếng rồi nhảy chồm lên. Đó là một hán tử thân hình ốm yếu, trên mép để hai túm râu chuột, cặp mắt trợn ngược lên sáng quắc dị thường. Y la lên: “Đại sư phụ! Sư phụ muốn uống rượu, thì người khác cũng muốn uống chứ?”

Đầu đà không chịu xin lỗi, lại đập bàn cái nữa, hét lên: “Ta kêu tiểu nhị là chuyện của ta, liên quan gì đến tên thối tha kia?”

Hán tử kia nói: “Xưa nay ta chưa gặp người xuất gia nào hung hãn đến thế.”

Đầu đà quát tháo: “Thì hôm nay ngươi gặp phải rồi.”

Thanh Thanh thấy mà tức mình, nói với Viên Thừa Chí: “Để muội qua can thiệp một chút.”

Viên Thừa Chí bảo: “Đợi xem đã. Đừng tưởng hán tử thấp bé kia yếu ớt, chắc y không dễ đối phó đâu.”

Thanh Thanh đang muốn xem hai người đánh nhau. Không ngờ hán tử khiếp sợ oai phong của đầu đà, bèn nói: “Được, được! Coi như ta có lỗi, được chưa?”

Đầu đà thấy đối phương nhận lỗi, cũng đúng lúc tiểu nhị đưa rượu lên, nên không đếm xỉa tới nữa, tiếp tục uống rượu.

Hán tử kia bỏ ra ngoài một chút, rồi lại trở vào trong tiệm. Viên Thừa Chí cùng mọi người thấy không còn gì náo nhiệt để xem, bèn cắm cúi uống rượu ăn cơm. Đột nhiên một cơn gió thổi qua, một luồng hôi hám ập vào. Thanh Thanh vội lấy khăn tay ra bịt mũi.

Viên Thừa Chí quay lại, thấy giữa bàn của đầu đà đã có một cái bô đặt rất ngay ngắn, mà đầu đà chưa hề phát giác. Chàng nhịn không nổi, suýt bật cười, liền liếc Thanh Thanh một cái, bĩu môi về phía đầu đà. Thanh Thanh quay sang nhìn thấy, ôm bụng gập người xuống mà cười.

Trong đại sảnh còn rất nhiều người đang ăn uống. Họ chưa thấy cái bô, nhưng đều ngửi thấy mùi hôi, bèn nói: “Thối quá, thối quá!”

Hán tử ốm yếu lớn tiếng hô lên: “Thơm quá, thơm quá!”

Thanh Thanh khẽ nói: “Nhất định hán tử kia đem tới. Tay chân y nhanh nhẹn thật. Không hiểu y để lên bàn bằng cách nào?”

Lúc này đầu đà đưa tay định quờ lấy bình rượu trên bàn, nhưng cầm trúng cái bô. Y thấy nặng tay bèn nhìn lại, thì ra bên trong chứa đầy nước tiểu. Y giận dữ không sao kìm được, xoay tay trái đánh ra một chưởng, hất tên tiểu nhị đang đứng cạnh văng xa hơn trượng, té nhào lăn lóc dưới đất.

Hán tử kia vẫn ngoác mồm ra khen ngợi: “Rượu ngon quá, rượu ngon quá! Thơm thật!”

Đầu đà biết hán tử đó gây chuyện, bèn xoay mình ném cái bô sang. Hán tử đã đề phòng, khom người chui qua mấy gầm bàn tới đứng phía sau đầu đà, thân pháp uyển chuyển vô cùng. Cái bô đập xuống mặt bàn, nước tiểu văng tung tóe. Mọi người la hét om sòm, tranh nhau đứng dậy tránh né.

Đầu đà lại càng giận dữ, quờ hai bàn tay to tướng ra sau lưng toan bắt, nhưng hán tử kia lại chui qua gầm bàn nữa rồi. Đầu đà đứng bật dậy, phóng chân đá ngã chiếc bàn. Trong đại sảnh lập tức náo loạn, mọi người đổ xô nhau nép sát vào tường.

Hán tử chạy đông né tây, đầu đà tay đánh chân đá thế nào cũng không chạm được vào y. Không bao lâu bàn ghế trong đại sảnh đều bị hai người đẩy ngã. Chén đũa, bình rượu rơi vãi dưới đất, hán tử nhặt lên không ngừng ném về phía đầu đà. Đầu đà quát tháo om sòm, chụp bắt rồi quăng lại. Thân pháp hai người rất nhanh, quả nhiên đều võ công đầy mình.

Sau cùng thì giữa đại sảnh đã có một khoảng trống. Hán tử không trốn tránh nữa, đứng lại múa quyền đánh trả, thi triển công phu tiểu xảo tỉ đấu với đầu đà. Đầu đà thân thể tráng kiện, sử dụng Hùng Quyền của Thương Châu, quyền thế lộng gió vù vù. Quyền pháp của hán tử lại đặc biệt lạ mắt, hai tay thường xuyên áp sát vào hông mà ngoe nguẩy, cúi người bước đi lạch bạch. Bộ điệu y cổ quái, nhưng thân pháp lại rất linh hoạt.

Thanh Thanh bật cười nói: “Khó coi quá. Đó là công phu gì vậy?”

Viên Thừa Chí cũng chưa từng nhìn thấy công phu như thế, nhưng cảm thấy tay chân y rất nhanh, dáng vẻ tuy xấu xí nhưng có chương pháp đàng hoàng, đỡ gạt được hết những chiêu thức của địch thủ tấn công.

Trình Thanh Trúc kiến thức rộng hơn, bèn nói: “Đó là Áp Hình Quyền. Rất ít nhân vật giang hồ biết loại quyền pháp này.”

Thanh Thanh nghe xong càng tức cười hơn. Nàng nhìn lại thân thủ và bộ pháp của hán tử đó, quả nhiên giống hệt con vịt đang đi.

Đầu đà đánh mãi vẫn không hạ nổi đối phương, bắt đầu sốt ruột. Đột nhiên y nhào xuống đất, thi triển pho Túy Đả Sơn Môn Quyền của Lỗ Trí Thâm, nghiêng bên này ngả bên kia như đang say rượu. Có lúc y duỗi hai chân lăn lộn dưới đất, đợi địch thủ tấn công tới đột nhiên nhảy lên đánh trả. Đầu đà lăn lộn như thế, trên người vấy đầy canh thừa rượu cặn và những hạt cơm rơi vãi. Ngay cả nước tiểu trong bô đổ ra cũng thấm vào y phục của y không ít.

Tỉ đấu hồi lâu, đầu đà bỗng tấn công dứt khoát hơn. Tả quyền y xoay chuyển một vòng, đánh vào sau lưng hán tử, còn hữu chưởng đánh thẳng vào trước ngực. Hán tử ốm yếu trước sau đều bị đánh, không còn cách nào tránh né, buộc phải vận nội công để ngang song chưởng trước ngực, quát lên một tiếng: “Hay lắm!”

Ba bàn tay đã chạm vào nhau. Bàn tay của đầu đà đặc biệt to lớn, còn bàn tay của hán tử ốm yếu thì nhỏ hơn cả người thường. Hai bàn tay của hán tử lọt thỏm vào giữa một bàn tay của đầu đà.

Hai người cùng vận hết nội lực đẩy mạnh ra trước. Tuy tay trái của đầu đà rảnh rỗi, nhưng sức lực toàn thân đã vận lên hữu chưởng nên cánh tay trái như bị phế, không thể nào vận sức đánh ra nữa. Hai bên thế lực quân bình, lập tức đứng cứng ở đó không sao động đậy, tiến không được lùi không xong. Hai người đều biết, ai thu hồi lực đạo về trước sẽ phải lập tức mất mạng dưới chưởng của đối phương. Còn tiếp tục đấu nội công như thế, chắc chắn không khỏi tiêu hao hết nội lực, đi tới chỗ lưỡng bại câu thương.

Hai bên đều hối hận nghĩ thầm: “Vốn không thù không oán, chẳng qua giận dữ nhất thời mà tranh chấp. Thế mà phải đem tính mạng ra liều, thật là vô duyên vô cớ.”

Một lát sau, trên trán hai người đều tươm ra những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu. Sa Thiên Quảng lên tiếng: “Trình bang chủ! Huynh cầm thanh trúc bổng đi giải cứu họ đi, chậm một chút nữa là cả hai đều hỏng bét.”

Trình Thanh Trúc đáp: “Một mình ta thì không đủ bản lãnh. Hay là anh em mình cùng lên?”

Sa Thiên Quảng nói: “Được! Nhưng hai tên quậy phá này chỉ giữ được tính mạng, nhất định phải bị nội thương.”

Họ đang định tiến lên giải cứu, Viên Thừa Chí bỗng mỉm cười nói: “Để ta!”

Chàng chầm chậm bước đến, đưa hai tay gác lên cánh tay hai người. Bàn tay của đầu đà và hán tử đột nhiên tuột ra. Họ không thu thế được, ba chưởng đồng thời đánh vào trước ngực Viên Thừa Chí nghe “bịch” một tiếng.

Thanh Thanh, Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc đều la lớn: “Trời ơi! Không xong rồi!” Họ cùng lúc nhảy lên cứu giúp, nào ngờ thấy Viên Thừa Chí thần sắc vẫn tự nhiên, hoàn toàn không bị thương gì cả. Thì ra chàng đã biết, nếu dùng sức đẩy ngược lại thì không được. Hai người này đang dùng hết sức đánh nhau, nội lực phát ra mạnh như thế, nếu thu hồi đột ngột thì coi như tự đánh vào mình, nhất định sẽ bị trọng thương. Vì thế Viên Thừa Chí vận khí vào trước ngực để hứng lấy ba phát chưởng, dựa vào nội công thần diệu của mình mà nhẹ nhàng hóa giải chưởng lực của hai đối thủ.

Đầu đà và hán tử đều kiệt sức, bủn rủn lăn ra nằm dưới đất. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng dìu hai người dậy, bảo bọn tiểu nhị lo dọn dẹp.

Viên Thừa Chí lấy mười lượng bạc ra, đưa cho chưởng quỹ rồi nói: “Ta đền cho ông những đồ đạc bị hư hỏng. Trong này còn nhiều khách chưa ăn uống xong, ông sửa soạn giống như cũ đi. Hao phí bao nhiêu, để ta thanh toán tiếp.”

Chưởng quỹ đón lấy thỏi bạc, không ngớt đa tạ, gọi bọn tiểu nhị thu xếp đồ đạc bị hỏng, nấu nướng dọn lên lại. Những người khách đang ăn uống đều hướng về Viên Thừa Chí mà cảm tạ.

Lát sau sức lực đầu đà và hán tử dần dần phục hồi. Họ đến chỗ Viên Thừa Chí để bái tạ ơn cứu mạng.

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không cần khách sáo. Xin thỉnh giáo quý tính đại danh hai vị. Hai vị võ công như thế, nhất định là anh hùng hảo hán đã thành danh trên giang hồ.”

Đầu đà nói: “Pháp danh của tại hạ là Nghĩa Sinh, nhưng mọi người đều gọi là Thiết La Hán.”

Hán tử nói: “Tại hạ họ Hồ, tên Quế Nam. Xin thỉnh giáo quý tính đại danh các vị.”

Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời, Sa Thiên Quảng đã nói: “Thì ra là Thánh thủ thần thâu Hồ đại ca.”

Hồ Quế Nam thấy y biết ngoại hiệu của mình, cả mừng hỏi lại: “Không dám! Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh các hạ?”

Trình Thanh Trúc cầm lấy cây quạt trong tay Sa Thiên Quảng, xòe ra. Hồ Quế Nam thấy trên quạt có vẽ một cái đầu lâu rất đáng sợ, liền khom người nói: “Thì ra là Âm dương phiến Sa trại chủ. Tại hạ ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.”

Họ Hồ lại nhìn thấy một cây tre xanh đang dựng bên bàn. Y biết Thanh Trúc Bang phân biệt ngôi vị cao thấp dựa theo số đốt tre, thanh tre xanh này có mười ba đốt, tương ứng với thủ lĩnh cao nhất trong bang. Y liền chắp tay thi lễ với Trình Thanh Trúc, hỏi: “Vị này là Trình lão bang chủ có phải không?”

Trình Thanh Trúc cười ha hả: “Thánh Thủ Thần Thâu nhãn quan lợi hại, quả nhiên danh bất hư truyền. Hai vị không đánh nhau thì không quen biết. Mọi người qua đây, chúng ta cùng cạn một ly.”

Quần hào ngồi chung một bàn. Hồ Quế Nam và Thiết La Hán mời nhau một ly rượu, cùng nói: “Đã lỗ mãng rồi, xin đắc tội.”

Thiết La Hán mỉm cười nói: “Không biết huynh ăn cắp cái bô hôi thối này ở đâu ra. Thật là kỳ lạ.”

Mọi người nghe vậy đều cười rộ lên. Hồ Quế Nam và Thiết La Hán cạn với nhau một ly, lập tức từ địch thủ trở thành bằng hữu. Tính khí hai người giống nhau, nói chuyện rất hợp.

Hồ Quế Nam biết Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng là thủ lĩnh hào kiệt giang hồ ở Hà Bắc và Sơn Đông. Thấy thần sắc hai người đối với Viên Thừa Chí vô cùng cung kính; hơn nữa vừa rồi chàng ra tay cứu giúp, thể hiện nội công thâm hậu, nhất định đây là một nhân vật khác thường. Y chưa hiểu danh tính, nhưng không dám mạo muội hỏi thêm.

Hồ Quế Nam tính tình hoạt kê, thế mà bây giờ ngồi rất nghiêm chỉnh, không dám đùa giỡn chút nào. Trình Thanh Trúc hỏi: “Hai vị đến đây có việc gì không? Chắc là Hồ lão đệ đã chọn được một món lớn, định hiển lộ thân thủ chứ gì?”

Hồ Quế Nam mỉm cười nói: “Trước mặt Trình lão tiền bối, tại hạ quyết không dám làm bừa. Tại hạ đến đây là để chúc thọ Mạnh Bá Phi lão gia.”

Thiết La Hán vỗ bàn la lên: “Sao không nói sớm? Ta cũng đi chúc thọ, biết trước thì đã không đánh nhau. Nhưng trong tiệc rượu của Mạnh đại gia, huynh không được đem bô tới nhé.”

Mọi người lại cười rộ một hồi. Trình Thanh Trúc mỉm cười nói: “Thật là may mắn! Chúng ta cũng đi chúc thọ Mạnh lão gia, thế là ngày mai có thể cùng đi. Hai vị là hảo bằng hữu của Mạnh lão gia phải không?”

Thiết La Hán đáp: “Hảo bằng hữu thì không dám trèo cao, nhưng quen biết hơn hai mươi năm rồi. Sau này tại hạ thường ở vùng Hồ Quảng, rất ít lên hướng Bắc, nên đã tám chín năm chưa gặp mặt.”

Hồ Quế Nam cười nói: “Thế thì phải nhờ La Hán huynh giới thiệu cho tại hạ làm quen.”

Thiết La Hán ngạc nhiên hỏi: “Sao? Huynh chưa quen biết Mạnh đại gia ư? Thế thì đi chúc thọ ông ấy để làm gì?”

Hồ Quế Nam đáp: “Trước nay tại hạ vẫn rất hâm mộ Cái mạnh thường Mạnh đại gia, nhưng chưa có duyên bái kiến. Lần này tình cờ kiếm được một bảo vật, muốn mượn hoa cúng Phật làm quà chúc thọ, chỉ mong được gặp vị hào kiệt vang danh bốn biển này.”

Thiết La Hán nói: “Dĩ nhiên là được. Đừng nói là huynh có quà chúc thọ, cho dù không có, Mạnh đại gia cũng tiếp đãi như thường. Ai bảo ngoại hiệu của ông ấy là Cái Mạnh Thường?”

Trình Thanh Trúc tò mò hỏi: “Hồ lão đệ! Lão đệ tìm được bảo vật gì vậy? Có thể cho bọn ta mở rộng tầm mắt được không?”

Sa Thiên Quảng cũng nói: “Những vật tầm thường dĩ nhiên không lọt vào mắt Thánh Thủ Thần Thâu! Hồ huynh đã khen ngợi như thế, nhất định phải là thứ giá trị liên thành.”

Hồ Quế Nam tỏ ra đắc ý, lấy trong bọc ra một cái hộp bằng vàng ròng có khảm trân châu, chạm trổ tinh tế. Y nói: “Ở đây tai mắt rất nhiều, mời quý vị vào phòng tại hạ để xem.”

Mọi người thấy chỉ riêng cái hộp đã giá trị không nhỏ, đoán rằng vật cất bên trong càng quý trọng hơn.

Hồ Quế Nam đợi mọi người vào hết trong phòng mới đóng cửa phòng lại, mở hộp ra. Trong hộp là hai con bạch thiềm thừ đã chết. Cặp thiềm thừ này toàn thân trắng toát, chỉ có cặp mắt đỏ tươi như máu, trông khá dễ thương nhưng không hiểu trân quý chỗ nào.

Hồ Quế Nam mỉm cười nói với Thiết La Hán: “Vừa rồi ta đối chưởng với lão huynh, nếu hai người cùng ô hô ai tai ngay tại chỗ, thì đó là đại nạn lâm đầu, không còn cách nào. Nhưng nếu chỉ bị trọng thương thì ta có phương pháp giải cứu.”

Y trỏ cặp bạch thiềm thừ, lại nói: “Đây là Chu Tinh Băng Thiềm trên đỉnh Tuyết Sơn ở Tây Vực. Ai bị nội thương hay ngoại thương lợi hại cách mấy đi nữa, chỉ cần không chết tại chỗ, uống băng thiềm này là chắc chắn khỏi bệnh. Đúng là linh đơn diệu dược, thần hiệu vô cùng. Băng thiềm này cũng giải được những chất kịch độc.”

Trình Thanh Trúc hỏi: “Bảo vật quý giá như thế, Hồ lão đệ từ đâu mà có?”

Hồ Quế Nam đáp: “Tháng trước tại hạ trú trong một khách sạn ở tỉnh Hà Nam, gặp một lão già hái thuốc bệnh nặng sắp chết. Thấy lão đáng thương, tại hạ giúp cho mấy chục lượng bạc, còn kêu đại phu chữa bệnh. Nhưng tuổi tác lão quá cao, phần số đã hết, dù thuốc tiên cũng không linh nghiệm, nên không sống nổi nữa. Trước khi chết, lão đưa cặp băng thiềm này cho tại hạ, nói là báo đáp công ơn chăm sóc.”

Thiết La Hán nói: “Cái hộp này rất đẹp.”

Hồ Quế Nam nói: “Lão già ấy vốn để băng thiềm trong một cái hộp gỗ cũ kỹ, nhưng dùng làm quà tặng thì nhất định phải đặt vào một cái hộp đẹp đẽ hơn…”

Sa Thiên Quảng mỉm cười hỏi: “Vì thế mà huynh trổ tài diệu thủ không không, mượn tạm hộp vàng của một phú gia phải không?”

Hồ Quế Nam cười đáp: “Sa trại chủ đoán việc như thần, thán phục, thán phục! Đây vốn là hộp đựng đồ trang sức của tiểu thư nhà Lưu đại tài chủ ở phủ Khai Phong.”

Mọi người cùng cười rộ lên.

Hồ Quế Nam lại nói: “Vừa rồi hai người bọn tại hạ suýt dắt tay nhau xuống quỷ môn quan. Trong lúc tỉ thí tại hạ đã nghĩ, nếu mình và Thiết La Hán huynh may mắn không chết, thì tại hạ sẽ uống một con băng thiềm, dùng con còn lại để cứu mạng huynh ấy. Hai bên không thù không oán, hà tất vì một cái bô thối mà gây chuyện mất mạng. Việc này vốn là lỗi của tại hạ.”

Thiết La Hán mỉm cười nói: “May mà hảo ý của huynh không dùng được.” Mọi người lại cười rộ lên.

Hồ Quế Nam nói: “Dù sao thì hai con băng thiềm cũng không phải của tại hạ nữa rồi.” Y hai tay bưng cái hộp vàng đến trước mặt Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Không dám nói là báo đáp, chỉ là tỏ chút lòng kính trọng. Xin tướng công nể mặt nhận lấy.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Như vậy sao được? Đây là quà của Hồ huynh định tặng Mạnh lão gia mà?”

Hồ Quế Nam nói: “Nếu không nhờ tướng công trượng nghĩa cứu giúp, tại hạ không chết cũng bị thương, đôi băng thiềm quyết không đến được tay Mạnh lão gia. Còn nói về quà chúc thọ, thì tại hạ tuy chẳng giỏi gì nhưng chỉ đưa tay ra là có, bất cứ lúc nào cũng tìm được. Tướng công không cần lo lắng.”

Viên Thừa Chí nhất định từ chối. Hồ Quế Nam lộ vẻ không vui, nói: “Tướng công đã không chịu cho biết danh tính, lại không chịu nhận cặp băng thiềm. Chắc là hoài nghi tại hạ ăn cắp mà có được, sợ dơ không lấy phải không?”

Viên Thừa Chí vội nói: “Hồ huynh nói gì thế! Lúc nãy gấp rút nên chưa kịp thông báo danh tính. Tại hạ họ Viên, tên Thừa Chí.”

Thiết La Hán và Hồ Quế Nam cùng la lên kinh hãi. Hồ Quế Nam nói: “Thì ra là Viên đại gia, minh chủ bảy tỉnh! Chẳng trách thân thủ cao cường như thế. Viên đại gia thống lãnh quần hùng đại phá quân Thát tử ở Cẩm Môn Quan, khắp thiên hạ không ai không ngưỡng mộ.”

Thiết La Hán nói: “Mấy ngày trước nghe được tin này, tại hạ không tự chủ được, bất giác vung tay lên tự tát vào mặt mình.”

Mọi người đều ngạc nhiên không hiểu. Thanh Thanh hỏi: “Sao huynh phải tự tát mình?”

Thiết La Hán đáp: “Tại hạ bực bội số mình xúi quẩy, không có mặt để tham gia trận đó. Ngay cả một tên Thát tử cũng không giết được.”

Đầu đà hung dữ này lại chọc cho mọi người cười rộ lên.

Viên Thừa Chí nói: “Hồ đại ca đã nhất định ban tặng, tại hạ từ chối mãi thì có phần không cung kính, chỉ còn cách xin nhận. Đa tạ, đa tạ!” Chàng dùng hai tay nhận lấy hộp băng thiềm, cất vào trong bọc. Hồ Quế Nam mừng rỡ, sắc mặt đầy vẻ hân hoan.

Viên Thừa Chí về phòng mình, lát sau bưng một cành san hô màu đỏ qua phòng Hồ Quế Nam. Nhánh san hô này cao chừng hai thước, óng ánh từ trên xuống dưới. Nói ra khó tin, nó hoàn toàn không có tì vết, hoàn toàn không có một hạt sạn bám vào. Vừa đặt lên bàn, cả gian phòng lập tức huy hoàng đẹp đẽ vô cùng.

Hồ Quế Nam kinh hãi nói: “Nhà bọn phú hào thì tại hạ đã ghé qua không ít, nhưng chưa từng thấy cây san hô nào vừa lớn vừa hoàn mỹ đến thế. E rằng phải trong nội viện hoàng cung mới có những món trân quý như vậy. Đây là vật chí bảo gia truyền của Viên tướng công phải không? Thật khiến cho người ta mở rộng tầm nhìn.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Vật này tại hạ vô tình mà được, xin Hồ huynh nhận lấy. Ngày mai đến phủ Bảo Định, coi như đây là quà mừng thọ của Hồ huynh tặng Mạnh lão gia.”

Hồ Quế Nam giật mình nói: “Thế thì quý trọng quá!”

Viên Thừa Chí nói: “Đây chỉ là vật để thưởng ngoạn, tuy quý trọng nhưng vô dụng, không thể so với băng thiềm cứu được mạng người. Hồ huynh hãy nhận đi.”

Hồ Quế Nam chỉ còn cách cảm ơn nhận lấy. Y và Thiết La Hán thấy Viên Thừa Chí cư xử rộng rãi, lại càng âm thầm mừng rỡ.

Xế chiều hôm sau mọi người đã tới phủ Bảo Định, tìm khách sạn tá túc để sáng sớm hôm sau đến Mạnh phủ tặng quà chúc thọ.

Mạnh Bá Phi thấy danh thiếp ba người Viên Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, liền đích thân ra cửa đón tiếp. Lão đã biết Viên Thừa Chí trẻ tuổi, nhưng đoán chàng phải có chỗ hơn người. Phen này gặp mặt, thấy chàng chỉ là một thiếu niên đen đủi, hình tướng rất bình thường, bất giác lão ngẩn ra một chút, không vui thầm nghĩ: “Tại sao anh hùng hảo hán bảy tỉnh lại hồ đồ như vậy, đề cử một thằng lỏi còn hôi sữa thế này làm minh chủ?”

Nhưng dù sao mọi người đi đường xa xôi đến đây chúc thọ, dĩ nhiên đã nể mặt lão rồi, nên lão cùng trưởng nam là Mạnh Tranh, thứ nam là Mạnh Đào đa tạ liên hồi, nghênh tiếp vào trong rất lịch sự.

Viên Thừa Chí thấy Mạnh Bá Phi thân hình khôi ngô, râu tóc bạc phơ, tuy đã lục tuần mà thanh âm vang dội như đại hồng chung, bước chân vững chãi lạ thường, dĩ nhiên võ công thâm hậu. Hai đứa con trai đang tuổi tráng niên, đều anh khí đằng đằng.

Khi nói chuyện, dường như Mạnh Bá Phi không xem đại hội Thái Sơn là quan trọng. Khi Trình Thanh Trúc nhắc đến cuộc họp này, lão giả vờ không nghe, không nhắc gì đến vấn đề đó. Lát sau lại có khách đến chúc thọ, Mạnh Bá Phi nói một câu: “Xin lỗi”, rồi ra ngoài đại sảnh để tiếp khách.

Thanh Thanh nghĩ bụng: “Người này biệt hiệu là Cái Mạnh Thường, thì ra chỉ có hư danh. Nếu biết lão dựa vào tuổi già mà phách lối thế này, ta đã không thèm đến đây chúc thọ. Lão làm gì được ta? Người già như thế, ta gặp chưa đủ hay sao? Già hơn cũng gặp rồi, ngay trong nhà đã có năm người.”

Sau khi gia đinh bưng điểm tâm lên mời, Mạnh Đào dẫn đoàn người vào trong hậu đường để xem lễ chúc thọ. Lúc này Mạnh Bá Phi đang cùng rất nhiều khách ngồi quanh một cái bàn, khen ngợi không dứt. Vừa thấy Viên Thừa Chí bước vào, Mạnh Bá Phi vội đứng lên nói: “Đa tạ Viên huynh, Hồ huynh tặng cho báu vật. Đại lễ đến thế, tại hạ làm sao dám nhận?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ngày vui của lão tiền bối, bọn tại hạ chỉ tặng chút quà để tỏ lòng kính trọng, còn sợ chưa đủ phần cung kính.”

Mọi người đi đến bên bàn, thấy trên bàn xếp đầy lễ vật, ánh sáng chói mắt. Trong đó quý trọng nhất là tám con tuấn mã bằng bạch ngọc của Viên Thừa Chí tặng, chiếc hộp bằng ngọc phỉ thúy của Thanh Thanh tặng. Cây san hô màu đỏ của Hồ Quế Nam tặng cũng đập vào mắt người ta.

Đối với việc Viên Thừa Chí được cử làm minh chủ bảy tỉnh, Mạnh Bá Phi rất không bằng lòng. Nhưng lão thấy chàng nói chuyện khiêm cung hòa ái, mở miệng là gọi “lão tiền bối”, quà chúc thọ lại là bảo vật trân quý lạ thường, rõ ràng rất tôn trọng mình. Lão nhận ra chàng tuy tuổi còn trẻ nhưng hành sự có chỗ khác người, bất giác phát sinh hảo cảm, nói chuyện lịch sự hơn lúc nãy rất nhiều.

Khách đến mừng lần lượt chúc thọ tặng quà. Đến đêm, Mạnh Bá Phi bày yến tiệc chiêu đãi bạn bè. Cái Mạnh Thường giàu nhất phủ Bảo Định này, xưa nay rất thích kết bạn. Hôm nay là đại thọ lục tuần, khách khứa từ khắp nơi kéo đến, phải hơn ba ngàn người. Mạnh Bá Phi vô cùng hoan hỉ, liền miệng tiếp đãi, chào hỏi các anh hùng hào kiệt. Trong đại sảnh đã bày bảy tám chục bàn tiệc dành cho những người có danh vọng. Còn ai vai vế hơi thấp thì nhập tiệc ở phía sau và bên ngoài đại sảnh.

Viên Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng được xếp vào bàn chính, đặt giữa đại sảnh. Mạnh Bá Phi ngồi ở chủ vị, cạnh Viên Thừa Chí. Ở bàn này còn có lão anh hùng Uyên ương đảm Trương Dược Cốc, có quan trú phòng phủ Bảo Định là Phùng tham tướng, biệt hiệu là Mã Đao Quan, có Đổng Khai Sơn, tổng tiêu đầu Vĩnh Thắng tiêu cục. Ngoài ra còn một số nhân vật lãnh tụ võ lâm.

Quần hào nâng ly chúc thọ Mạnh Bá Phi, rồi đố tay đấu rượu vô cùng náo nhiệt. Trong lúc ăn uống vui vẻ, bỗng có một tên gia đinh bên ngoài bước lẹ vào. Tay hắn bưng một cái quả, đến cạnh Mạnh Tranh khẽ nói mấy câu gì đó.

Mạnh Tranh đang mời khách uống rượu, nghe tên gia đinh bẩm xong lập tức đứng dậy, đến chỗ Mạnh Bá Phi nói: “Gia gia! Lão nhân gia thật là nổi tiếng. Phu phụ Thần quyền vô địch Quy nhị gia cũng dẫn đồ đệ đến chúc thọ gia gia.”

Mạnh Bá Phi chưng hửng nói: “Trước giờ ta có đi lại với Quy lão nhị đâu?”

Lão mở hộp quả ra, thấy một tấm thiệp đỏ viết: “Đệ là Quy Tân Thụ, cùng môn nhân và yểu tử Quy Chung chúc mừng.” Bên dưới có dòng chữ nhỏ: “Xin chúc thọ mười lượng hoàng kim”. Cạnh tấm thiệp đỏ là một đôi nguyên bảo bằng vàng, mỗi thỏi chừng năm lượng.

Mạnh Bá Phi vô cùng mừng rỡ, lên tiếng nói với khách khứa bàn mình: “Xin lỗi, tại hạ phải ra ngoài một lúc.” Lão lập tức dẫn hai đứa con ra ngoài đón khách.

Chẳng bao lâu lão đã vui vẻ dẫn năm người là vợ chồng Quy Tân Thụ, Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, Tôn Trọng Quân vào. Trong tay Quy nhị nương vẫn ẵm Quy Chung, cậu quý tử ốm yếu chỉ còn da bọc xương, hơi thở thoi thóp.

Viên Thừa Chí đứng chờ từ nãy, chắp tay chào: “Nhị sư ca, Nhị sư tẩu! Hai vị vẫn khỏe?”

Quy Tân Thụ gật đầu đáp: “À, sư đệ cũng ở đây.” Còn Quy nhị nương chỉ “hứ” một tiếng, không nói gì.

Viên Thừa Chí nói: “Sư ca, sư tẩu! Mời ngồi! Tiểu đệ ngồi với bọn Kiếm Hòa một chỗ là được rồi.”

Mạnh Bá Phi nghe Viên Thừa Chí xưng hô như thế, bèn mỉm cười nói: “Hay quá! Có một vị sư ca tài giỏi như thế đỡ lưng, đừng nói là minh chủ bảy tỉnh, dù là minh chủ mười bốn tỉnh cũng có thể làm.”

Rõ ràng lão nói Viên Thừa Chí thiếu niên đắc ý, được làm minh chủ bảy tỉnh hoàn toàn dựa vào sức lực của sư huynh. Viên Thừa Chí chỉ mỉm cười, không nói tiếng nào.

Sau này Quy Tân Thụ vẫn bận rộn trong việc tìm thuốc chữa trị cho đứa con yêu quý, chưa biết vụ đại hội Thái Sơn, bèn ngạc nhiên hỏi: “Minh chủ gì thế?”

Mạnh Bá Phi cười nói: “Tại hạ chỉ nói giỡn thôi, Quy nhị ca đừng để ý.”

Lão bèn mời Quy thị phu phụ ngồi cạnh Uyên ương đảm Trương lão anh hùng. Khách đến chúc thọ đều là hào kiệt nhân sĩ võ lâm, nam nữ ngồi chung chứ không phân biệt tiệc nam, tiệc nữ. Viên Thừa Chí qua bàn khác, ngồi giữa Thanh Thanh và Mai Kiếm Hòa. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng tới ngồi với ông câm và Hồ Quế Nam.

Quy Tân Thụ nâng ly chúc thọ Mạnh Bá Phi. Mọi người mời nhau được ba tuần rượu, Đổng Khai Sơn tổng tiêu đầu Vĩnh Thắng tiêu cục bỗng đứng dậy nói: “Tửu lượng tại hạ kém quá. Xin các vị cứ uống, tại hạ phải ra sau nghỉ ngơi một lúc.”

Quy Tân Thụ lạnh lùng nói: “Chúng ta đi tìm Đổng tiêu đầu khắp nơi không gặp, nghĩ chắc là ở đây. Quả nhiên không lầm.”

Đổng Khai Sơn thần sắc rất bối rối, hỏi lại: “Tại hạ xưa nay chẳng có oán thù gì với Quy nhị gia, sao Quy nhị gia lại ép tại hạ khổ sở đến thế?”

Mọi người dừng ly không uống, nhìn hai người này. Mạnh Bá Phi mỉm cười nói: “Hai vị có xích mích gì, xin hãy nể mặt mà để tại hạ dàn xếp thử xem.” Dàn xếp những chuyện xích mích là sở thích bình sinh của lão.

Đổng Khai Sơn nói: “Tại hạ từ lâu đã ngưỡng mộ uy danh của Quy nhị gia, kính trọng vô cùng nhưng chưa có duyên quen biết, đắc tội lại càng không dám. Không biết tại sao Quy nhị gia theo đuổi tại hạ suốt dọc đường?”

Mạnh Bá Phi nghe vậy, trong lòng đã hiểu: “Thì ra hai ngươi đều không thành tâm đến đây chúc thọ lão phu. Một người là tránh nạn, một người là theo dõi. Họ Đổng này trốn đến nhà ta, xem như coi trọng ta, không thể để y bị thiệt thòi.”

Lão bèn nói với Quy Tân Thụ: “Quy nhị gia có việc gì, đợi hết hôm nay rồi chúng ta từ từ nói chuyện. Mọi người đều là hảo bằng hữu, khi đã nói ra Đổng tiêu đầu có chuyện gì đắc tội với Quy nhị gia, nhất định y sẽ xin lỗi đàng hoàng.” Lão không hỏi nguyên do, tạm đặt Đổng Khai Sơn vào bên quấy trước đã.

Quy Tân Thụ không giỏi nói năng. Quy nhị nương đưa tay chỉ đứa bé đang bồng, lên tiếng: “Đây là đứa con trai duy nhất, đích tôn đơn truyền của dòng họ chồng ta. Nó bệnh sắp chết rồi, phu phụ ta muốn xin Đổng tiêu đầu khai ân tặng cho mấy viên dược hoàn để cứu cái mạng nhỏ xíu này. Suốt đời phu phụ ta quyết cảm ơn đại đức.”

Mạnh Bá Phi nói: “Chuyện đó nên làm.” Lão quay lại bảo Đổng Khai Sơn: “Đổng tiêu đầu! Cứu một mạng người còn hơn xây dựng bảy tháp phù đồ, huống chi một đại anh hùng như Quy nhị gia lên tiếng thỉnh cầu. Mau mau lấy dược hoàn ra đi. Tiêu đầu nhìn xem, đứa bé này quả thật đang bệnh nặng.”

Đổng Khai Sơn nói: “Nếu Phục Linh Thủ Ô Hoàn này là của bản thân tại hạ, thì Quy nhị gia chỉ nói nửa câu là tại hạ đã hai tay dâng lên rồi. Nhưng đây là cống phẩm của Mã đại nhân, tổng đốc phủ Phụng Dương, sai Vĩnh Thắng tiêu cục bọn tại hạ chuyển về kinh sư tiến cống. Chỉ thiếu một viên, chẳng những tại hạ mất mạng mà già trẻ trai gái cả nhà cũng bị chặt đầu. Vì thế phải nhờ Quy nhị gia lượng thứ.”

Mọi người nghe xong, đều cảm thấy việc này khó mà giải quyết. Phùng tham tướng nghe lọt hai chữ “cống phẩm”, liền nói: “Thì ra đây là vật của thánh thượng. Ai dám cả gan đụng vào?”

Quy nhị nương nói: “Hừ! Dù là của Ngọc Hoàng đại đế, phen này cũng phải đụng vào.”

Phùng tham tướng quát lên: “Hay lắm! Con mụ này muốn tạo phản phải không?”

Quy nhị nương cả giận, liền đưa đũa gắp một cục bò viên. Nhân lúc Phùng tham tướng còn mở miệng nói, mụ hất vào miệng hắn nghe “phụp” một tiếng. Phùng tham tướng chưa kịp kinh hãi, lại thêm hai cục bò viên bay vèo tới. Thế là miệng hắn bị trám chặt, nuốt cũng không được, nhổ cũng không xong, bối rối không biết làm sao.

Lão anh hùng Trương Dược Cốc thấy vậy nổi giận, nghĩ thầm: “Hôm nay là ngày chúc thọ của Mạnh huynh đệ, sao bọn này dám đến đây phá rối?” Lão tiện tay cầm lấy cái giá gác đũa hình dạng như một thỏi nguyên bảo đang đặt trên bàn, dùng sức vỗ một cái cho nó lún xuống mặt bàn. Lão muốn biểu diễn võ công, để Quy thị phu phụ không dám sinh sự quấy rối nữa.

Quy Tân Thụ đang đặt hai khuỷu tay trên bàn, âm thầm vận khởi Hỗn Nguyên Công truyền xuống mặt bàn, toàn thân hoàn toàn không động đậy. Cái giá gác đũa đang khảm trên mặt bàn đột nhiên nhảy bật lên, bay vèo tới mặt Trương Dược Cốc. Họ Trương vội nhào ngửa ra tránh né, tuy không bị văng trúng nhưng trông bối rối thảm hại vô cùng. Mặt lão đỏ bầm, đứng dậy đưa tay vỗ xuống mặt bàn một cái, quay lại nói với Mạnh Bá Phi: “Mạnh lão đệ! Thế là hôm nay lão già này mất mặt trong nhà lão đệ rồi.”

Nói xong, lão sải bước đi thẳng ra ngoài. Hai tên đệ tử Mạnh gia phụ trách chiêu đãi vội bước ra nói: “Trương lão gia xin đừng gấp rút, mời vào hậu đường dùng ly trà đã.”

Trương Dược Cốc xanh mét mặt, vung tay hất hai tên đệ tử đó té nhào.

Dĩ nhiên Mạnh Bá Phi bất mãn nghĩ thầm: “Tiệc chúc thọ đang tốt lành như vậy, lại bị tên ác khách Quy Tân Thụ này đến quấy rối, khiến lão bằng hữu phải bỏ tiệc mà về. Thật chẳng vui vẻ chút nào.”

Lúc này Phùng tham tướng, không biết đã thi triển tuyệt kỹ gì mà dùng mười ngón tay lôi được hai cục bò viên trong miệng ra, còn viên đầu tiên nuốt chửng vào bụng. Y lập tức thét lên be be: “Phản rồi, phản rồi! Ở đây còn có vương pháp nữa không? Người đâu!”

Hai tên tùy tùng vẫn chưa biết tại sao lão gia của mình giận dữ như thế, vội vàng chạy tới. Phùng tham tướng quát lên: “Khiêng quan đao của ta đến đây!”

Tên Phùng tham tướng này dựa vào âm đức tổ tiên mới được làm quan, võ nghệ rất thấp nhưng muốn trổ tài, bèn kêu thợ rèn làm một cây đại quan đao rỗng ruột, chỉ bọc bằng những tấm thiếc mỏng, còn bên ngoài thì mạ vàng, thắt tua đỏ, cán đao rất dài. Hắn thường cưỡi trên lưng ngựa, sai hai tên tùy tùng thân cận khiêng cây quan đao này theo. Thỉnh thoảng chúng lại la lên “Trời ơi! Nặng quá!”, thở hổn hển, giả vờ khiêng không nổi nữa. Thế là hắn tiện tay cầm lấy ra vẻ nhẹ nhàng thoải mái, khiến người đi đường nhìn thấy phải thán phục tham tướng lão gia thần lực kinh người.

“Khiêng quan đao của ta đến đây!” là câu cửa miệng của hắn. Lúc này hắn đang nổi giận, quen mồm hô lên câu đó. Hai tên tùy tùng ngơ ngác, lần này đến đây chúc thọ, đâu có khiêng võ khí theo? Một tên vội lấy thanh đơn đao trên lưng mình xuống, đưa cho tham tướng.

Mạnh Bá Phi đã biết hết ruột gan tên tham tướng này. Thấy hắn làm bộ, lão vừa tức giận vừa tức cười, vội vàng ngăn cản: “Không cần, không cần đâu!”

Phùng tham tướng đã quen coi sinh mạng bá tính như rơm rác. Hắn không biết danh tiếng Quy Tân Thụ lớn đến thế nào, chỉ thấy dáng vẻ trông như bọn nhà quê làm ruộng, không đáng để vào trong mắt. Hắn bèn đứng dậy, cầm đơn đao chém xuống đầu Quy nhị nương.

Tay phải Quy nhị nương đang bận ẵm con. Mụ đưa tay trái ra, dùng ngón trỏ và ngón giữa kẹp lấy sống đao, hỏi: “Đại tướng quân! Tướng quân muốn gì?”

Phùng tham tướng dùng sức giật đao về, nào ngờ thanh đao như bị kềm sắt kẹp chặt, vận hết sức cũng không động đậy. Hai tay hắn nắm chặt chuôi đao, hai chân xuống tấn thật vững, cố gắng kéo đao về, chỉ chốc lát là cả khuôn mặt đỏ bừng lên. Trong tay hắn không có quan đao, nhưng mặt đỏ như trái táo rất giống Quan Công. Chỉ có điều cặp mắt Quan Công cười mà vẫn oai, còn cặp mắt Phùng Công cả đời mỗi mắt nhìn về một hướng, quyết không thỏa hiệp nhau (nói nôm na là mắt lé).

Quy nhị nương đột nhiên buông lỏng tay. Phùng tham tướng té bật ra, mông đập xuống đất nghe “phịch” một tiếng trầm rất chắc, còn chuôi đao thì va vào giữa trán. Lập tức xuất hiện một khối u tròn trĩnh, dường như cục bò viên vừa nuốt vào bụng đã chuyển lên trán, muốn chui ra ngoài. Hai tên tùy tùng vội vàng bước tới, đỡ hắn dậy.

Phùng tham tướng hết dám chửi ai, cũng không dám mở miệng nói nữa. Hắn dùng cả hai tay đè lên trán, ba chân bốn cẳng rời khỏi đó. Chưa tới cửa hắn chưa dám nói, ra khỏi cửa mới lớn tiếng thóa mạ tùy tùng: “Đồ con rùa khốn nạn! Sợ nặng làm biếng, không chịu khiêng thanh quan đao đã quen dùng của lão gia đến đây. Không thì con mẹ nó, ta phải một đao chặt con mụ đó thành hai khúc.”

Đổng Khai Sơn thừa lúc lộn xộn, toan bỏ trốn. Quy Tân Thụ chặn hắn lại, nói: “Đổng tiêu đầu! Để lại dược hoàn đi, ta nhất định không làm khó dễ.”

Đổng Khai Sơn chịu không nổi nữa, bước ra giữa sảnh la lớn: “Đổng mỗ tự biết không phải là địch thủ của Thần Quyền Vô Địch. Nhưng tính mạng ta đây, ngươi cần thì tới mà lấy.”

Quy nhị nương nói: “Ai cần mạng ngươi làm chi? Mau lấy dược hoàn ra đi.”

Trưởng tử Mạnh Tranh của Mạnh Bá Phi không nhịn được nữa, la lớn: “Quy nhị gia! Mạnh gia chúng ta không đắc tội với ông. Nếu ông có xích mích gì, xin ra ngoài mà giải quyết.”

Quy Tân Thụ nói: “Được! Đổng tiêu đầu, chúng ta ra ngoài.”

Nhưng họ Đổng không chịu bước đi, Quy Tân Thụ bèn vung tay ra toan nắm lấy vai hắn. Đổng Khai Sơn bước lùi, bàn tay Quy Tân Thụ vẫn đuổi theo.

Đổng Khai Sơn đã làm tổng tiêu đầu một tiêu cục, dĩ nhiên võ công không phải tầm thường. Thấy chưởng của Quy Tân Thụ đưa tới, hắn vội nghiêng vai né tránh, ra tay đón đỡ. Nào ngờ bàn tay đối phương nhanh quá, nghe “xoẹt” một tiếng, vai áo hắn đã bị xé rách một mảnh.

Mạnh Tranh bước ra cản trước mặt Đổng Khai Sơn, lên tiếng: “Quy nhị gia! Đổng tiêu đầu là khách đến chúc thọ, chúng ta không thể để ông ấy bị bức hiếp trong nhà mình.”

Quy nhị nương hỏi: “Vậy phải làm sao? Rõ ràng chồng ta đã mời hắn ra ngoài, mà hắn không chịu.”

Mạnh Tranh nói: “Các vị có việc tìm Đổng tiêu đầu, không biết đến Vĩnh Thắng tiêu cục mà tìm hay sao? Sao lại đến đây quấy rối?”

Y nói chuyện càng lúc càng không khách sáo. Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Đến đây quấy rối thì đã sao?”

Mấy tháng nay mụ phiền muộn vì con trai trọng bệnh khó chữa, ngay cả mạng mình cũng không nghĩ tới nữa. Nếu không, nhất định mụ sẽ nghĩ tới danh tiếng và địa vị của Mạnh Bá Phi trong võ lâm mà không quấy rối buông tuồng ở đây.

Mạnh Bá Phi tức giận đến đổi hẳn sắc mặt, đứng dậy nói: “Được lắm! Quy nhị gia đã không nể mặt, thì lão phu phải xin lãnh giáo mấy chiêu.”

Mạnh Tranh vội nói: “Gia gia! Hôm nay là ngày lành của lão nhân gia, để con tiếp chiến.”

Y hạ lệnh cho gia đinh dọn dẹp bàn ghế trong đại sảnh thành một khoảng trống, rồi la lên: “Các vị muốn quấy rối, cứ quấy rối cho xong đi. Mời Quy nhị gia biểu diễn công phu thần quyền vô địch.”

Quy nhị nương cười nhạt, nói: “Ngươi muốn động thủ với chồng ta, luyện thêm hai chục năm nữa chưa biết có thắng nổi không.”

Mạnh Tranh đã được Mạnh Bá Phi chân truyền bộ Khoái Hoạt Tam Thập Chưởng, đang tuổi tráng niên, bình sinh ít gặp địch thủ. Tuy y từng nghe đại danh Thần Quyền Vô Địch, nhưng trước mặt mấy ngàn tân khách quyết không thể nuốt nổi cơn tức tối vào trong bụng. Y hét lên: “Quy lão nhị! Ông cường hung bá đạo, dám đến đây quấy rối. Mạnh thiếu gia này tỉ quyền mà thua ông, thì mặc kệ ông muốn làm gì Đổng tiêu đầu cũng được, Mạnh gia chúng ta coi như không đủ khả năng can thiệp. Còn nếu ta thắng được ông thì sao?”

Quy Tân Thụ không thích nhiều lời, khẽ đáp: “Nếu ngươi tiếp được ba chiêu, Quy mỗ sẽ dập đầu lạy ngươi.”

Mọi người trong sảnh không nghe thấy, vội thì thào hỏi nhau. Còn Mạnh Tranh thì giận đến cực điểm, cười rộ lên nói: “Quý vị thấy lão này có điên không? Lão nói, chỉ cần ta tiếp được ba chiêu là lão dập đầu lạy ta. Ha ha! Có phải vậy không Quy nhị gia?”

Quy Tân Thụ đáp gọn: “Không sai! Tiếp chiêu đi.” Vù một tiếng, hữu quyền xuất chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh, đánh thẳng tới đầu Mạnh Tranh.

Lúc này Thanh Thanh đứng cạnh Viên Thừa Chí. Nàng khẽ nói: “Sư ca của huynh bắt chước huynh kìa.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao?”

Thanh Thanh nói: “Khi huynh tỉ quyền với đồ đệ của sư ca, không phải đã giới hạn năm chiêu cho người ta đón đỡ hay sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Người họ Mạnh này chưa biết Thần Quyền Vô Địch là lợi hại.”

Mạnh Tranh thấy quyền của đối phương đánh tới, cố gắng chống đỡ. Y dùng tay phải hết sức đỡ lên, còn tay trái đánh trả. Khi hai cánh tay chạm nhau, Quy Tân Thụ nghĩ thầm: “Tên này cuồng vọng, quả nhiên có chút ít công phu.” Y đưa tả chưởng ấn vào khuỷu tay trái họ Mạnh nghe “bịch” một tiếng, dùng sức định hất ra ngoài. Nào ngờ công phu Mạnh Tranh khá vững, thế đẩy này chỉ khiến y lắc lư mấy cái.

Viên Thừa Chí khẽ nói: “Chết rồi! Chiêu thứ hai chưa chịu ngã, họ Mạnh nhất định phải trọng thương.”

Quy Tân Thụ lại phóng chưởng đánh ra. Mạnh Tranh cảm thấy luồng kình phong ép tới, dùng cả hai tay cố gắng chống đỡ. Y lập tức thần trí hồ đồ, té ngửa ra ngẩng mặt lên trời, ngất xỉu ngay tại chỗ.

Mọi người kinh hãi la lên, Mạnh Bá Phi và Mạnh Đào chạy tới nâng đỡ. Mạnh Tranh dần dần tỉnh lại, nhưng trong miệng phun máu cục ra liên tiếp, hơi thở không nối được nhau.

Quy Tân Thụ không ngờ võ công y khá cao, nên đã dùng hai chiêu mà chưa đẩy ngã được y. Họ Quy đã nói trước chỉ sử dụng ba chiêu, nên phát chưởng thứ ba đã vận toàn lực. Mạnh Tranh đỡ xong hai chiêu, khí lực đã cạn kiệt rồi. Giả tỉ chiêu thứ ba chỉ là một ngón tay nhẹ nhàng ấn tới, không chừng y cũng té nhào. Chưởng lực đánh tới lại như dời non lấp biển, làm sao y chịu nổi?

Quy Tân Thụ hoàn toàn không biết đối phương đã hết sức chống đỡ. Thấy y bị thương sắp chết, trong lòng ông có phần hối hận.

Đinh giáp thần Đinh Du là bạn chí thân của Mạnh Tranh. Y cùng Mạnh Đào nổi giận, hai người nhảy vào giáp công Quy Tân Thụ. Mạnh Bá Phi lo thôi cung quá huyệt cho con trai, thấy hơi thở y nhẹ như tơ, lão không nén nổi nước mắt trào ra. Đột nhiên lão đứng bật dậy, quay lại tấn công Quy Tân Thụ.

Thấy người cần theo đuổi là Đổng Khai Sơn định thừa cơ chạy trốn, Quy Tân Thụ bèn luồn dưới tay Đinh Du và Mạnh Đào, xoay mình chạy ra ngoài, chĩa ngón tay điểm trúng nách Đổng Khai Sơn. Họ Đổng lập tức đứng đờ tại chỗ, chân trái trước chân phải sau, bộ điệu trông như vội vã chạy trốn nhưng không sao cất chân lên được. Miệng hắn vẫn kêu la: “Quy lão nhị! Lão gia… lão gia liều mạng với ngươi đây.”

Lúc này Quy nhị nương đã chặn Mạnh Bá Phi lại tỉ đấu. Hai người võ công tương đương, Quy nhị nương phải ẵm con có phần thiệt thòi, nên bị đối thủ tấn công hung dữ như cọp điên, liên tiếp phải hóa giải những chiêu hiểm độc. Ba người Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh và Tôn Trọng Quân đã cùng đám đệ tử nhà họ Mạnh ác đấu kịch liệt.

Trình Thanh Trúc bảo Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Chúng ta mau mau khuyên ngăn, đừng để gây thành chuyện lớn.”

Viên Thừa Chí đáp: “Sư ca, sư tẩu có hiềm khích với tại hạ. Nếu tại hạ bước ra để khuyên can, thì chuyện càng hỏng bét hơn. Phải xem một lúc rồi mới tính được.”

Quy Tân Thụ bước vào trợ chiến, chỉ mấy chiêu đã điểm trúng huyệt đạo Mạnh Bá Phi. Y lại chạy đông chạy tây trong đại sảnh, chỉ chốc lát đã điểm trúng huyệt đạo của toàn bộ mấy chục đệ tử thân tín nhà họ Mạnh. Bọn này người đang xuất quyền, người đang phóng cước, người đang khom lưng, người đang xoay mình, tư thế khác nhau nhưng tất cả đều không động đậy gì được, chỉ còn cặp mắt xoay chuyển qua lại. Tân khách đến đây chúc mừng tuy có không ít cao thủ võ lâm, nhưng thấy Thần Quyền Vô Địch lợi hại như thế, không ai dám bước ra lên tiếng.

Quy nhị nương bảo Mai Kiếm Hòa: “Lục soát tên họ Đổng kia!”

Mai Kiếm Hòa tháo cái bọc đeo trên lưng Đổng Khai Sơn xuống, rồi lục soát hết từ trong ra ngoài thân thể hắn, nhưng không thấy bóng dáng Phục Linh Thủ Ô Hoàn. Quy Tân Thụ bèn giải huyệt cho hắn rồi hỏi: “Dược hoàn để ở đâu?”

Đổng Khai Sơn đáp: “Hừ! Muốn lấy dược hoàn thì theo ta đến đây để làm chi? Ngươi thật hổ danh là lão luyện giang hồ, ngay cả kế kim thiền thoát xác này cũng không biết.”

Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Ngươi nói gì?”

Đổng Khai Sơn đáp: “Dược hoàn đã đến Bắc Kinh từ lâu rồi.”

Quy nhị nương vừa kinh hãi vừa giận dữ, quát lên: “Thật đấy chứ?”

Đổng Khai Sơn nói: “Ta ngưỡng mộ Mạnh lão gia là hảo bằng hữu, nên thành tâm đến đây chúc thọ. Chẳng lẽ đã biết rõ các ngươi muốn đoạt lấy dược hoàn, ta còn đem đến đây để liên lụy tới lão nhân gia hay sao?”

Mọi người nghe vậy đều thấy hắn nói có lý, đa số xôn xao chê bai vợ chồng họ Quy, bảo họ dẫn đệ tử biến đi cho lẹ thì hơn. Quy thị phu phụ lỗ mãng nóng nảy, không giỏi ứng biến, nhất thời không biết phải làm gì. Ba người Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, Tôn Trọng Quân cũng đã dừng tay.

Thánh thủ thần thâu Hồ Quế Nam đi đến bên minh chủ, khẽ nói: “Viên tướng công! Tên tiêu sư này nói dối.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao?”

Hồ Quế Nam nói: “Dược hoàn của hắn giấu ở đây.”

Nói xong, y chỉ cái dĩa đựng trái đào chúc thọ, bên dưới một tấm liễn có viết chữ Thọ rất lớn. Viên Thừa Chí kinh ngạc, khẽ hỏi: “Sao huynh biết?”

Hồ Quế Nam mỉm cười đáp: “Những thủ đoạn giang hồ mờ ám này rất khó che được mắt tại hạ.”

Thanh Thanh đứng bên cũng nghe thấy, cười nói: “Muốn làm trò trước mặt lão thần thâu này, đúng là múa rìu qua mắt Lỗ Ban.”

Hồ Quế Nam cười nói: “Hồ mỗ chuyện gì thì không biết, nhưng nói đến chuyện trộm cắp thì quyết không chịu thua ai. Họ Đổng thật là gian xảo. Hắn đã biết Quy nhị gia sắp đuổi đến đây, nên giấu trước dược hoàn vào trong những trái đào chúc thọ, đợi đối thủ bỏ đi rồi sẽ lén lút lấy lại.”

Viên Thừa Chí gật đầu, rẽ đám đông bước ra. Chàng đi đến chỗ Mạnh Bá Phi, đưa tay ấn vào huyệt Huyền Cơ, Thần Đình của lão. Nội lực truyền đến đâu, thân hình Mạnh Bá Phi cử động được tới đó.

Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Cái gì? Ngươi muốn nhúng tay vào việc này ư?”

Mụ giao đứa con trai cho Tôn Trọng Quân ẵm, đưa tay toan chụp lấy vai Viên Thừa Chí. Chàng đảo người sang trái, tránh thoát chiêu trảo của mụ, la lên: “Sư tẩu! Nghe tiểu đệ nói đã.”

Mạnh Bá Phi duỗi người một cái, tay trái liền ra chiêu Qua Bàn Bất Tiễn, tay phải ra chiêu Cổ Đào Dương Tiên, liên tiếp đánh tới Quy nhị nương. Pho Khoái Hoạt Tam Thập Chưởng này của lão đã nổi tiếng võ lâm, dĩ nhiên có chỗ dùng được. Gặp phải Quy Tân Thụ thì lão như bị trói chân tay, nhưng so với Quy nhị nương thì không chênh lệch lắm. Hai bên quyền tới chưởng đỡ, chưởng đánh quyền ngăn, chốc lát đã giao thủ mười mấy chiêu.

Quy Tân Thụ lên tiếng: “Bà tránh ra!”

Quy nhị nương né sang bên trái. Mạnh Bá Phi vung hữu chưởng đánh theo, Quy Tân Thụ từ bên cạnh đưa quyền ra chặn lại, chỉ mấy chiêu lại điểm trúng huyệt đạo của lão. Nếu Viên Thừa Chí tới giải huyệt cho lão lần nữa, nhất định phải động thủ với sư ca của mình. Chàng chau mày đứng đó, không dám động đậy.

Tính Quy nhị nương vốn nóng, bây giờ lại dồn hết tâm trí vào cậu con yêu, nên hành sự càng thiếu suy nghĩ. Mụ la lên: “Họ Đổng kia! Ngươi không giao thuốc ra, thì ta phải bẻ vụn hai cánh tay ngươi.”

Tay trái mụ nắm lấy cổ tay Đổng Khai Sơn, vặn ngược cánh tay hắn ra sau. Hữu quyền mụ đã đưa lên, chỉ cần đánh nhẹ xuống khuỷu tay là cánh tay lập tức gãy lìa. Đổng Khai Sơn nghiến chặt răng, nói nhỏ: “Thuốc không ở đây, hành hạ ta chỉ vô dụng.”

Số đông khách đến chúc thọ đã không nhịn được nữa, nhảy ra ngăn chặn. Viên Thừa Chí thấy cục diện đại loạn, bèn kêu lớn: “Mọi người dừng tay lại!”

Chàng kêu mấy tiếng vẫn không ai đếm xỉa tới, bèn nghĩ: “Chỉ trong chốc lát là có tổn thương nhân mạng, tình thế hết đường cứu vãn. Ta phải nhanh chóng giải quyết mới được.”

Chàng lập tức nhảy vọt lên, đáp xuống bên cạnh Tôn Trọng Quân, tay trái xuất chiêu Song Long Thương Châu, ngón trỏ và ngón giữa nhằm vào cặp mắt ả. Tôn Trọng Quân kinh hãi, vội đưa tay phải ra cản trở. Nào ngờ chiêu này của Viên Thừa Chí chỉ là hư chiêu dùng để dương đông kích tây. Thừa lúc cô ả lo bảo vệ cặp mắt, chàng đưa hữu chưởng đẩy nhẹ vào vai. Tôn Trọng Quân phải lùi luôn ba bước, đứa bé trong lòng đã bị Viên Thừa Chí đoạt lấy.

Tôn Trọng Quân vừa kinh hãi vừa lo lắng, la lên: “Sư phụ, sư nương! Nhanh lên, nhanh lên! Hắn cướp tiểu sư đệ…”

Khi vợ chồng Quy Tân Thụ quay đầu lại, Viên Thừa Chí đã ôm lấy thằng bé nhảy lên một cái bàn, gọi lớn: “Thanh đệ, đưa kiếm đây!”

Thanh Thanh liền ném kiếm tới cho chàng. Viên Thừa Chí đưa tay trái bắt lấy, hô lớn: “Mọi người dừng tay, nghe tại hạ nói đã.”

Quy nhị nương cặp mắt đỏ ngầu, lạc giọng kêu la: “Thằng lỏi lộn giống kia! Ngươi dám đả thương con trai ta, ta… ta phải liều mạng với ngươi.”

Nói xong, mụ phóng tới ngay, toan liều mạng với Viên Thừa Chí thật. Quy Tân Thụ vội đưa tay kéo lại, khẽ bảo: “Con đang ở trong tay hắn. Đừng vội!”

Viên Thừa Chí nói: “Nhị sư ca! Xin sư ca giải huyệt cho Mạnh lão gia.”

Quy Tân Thụ xanh mặt, hừ một tiếng. Tuy y vô cùng giận dữ, nhưng cũng nghe lời mà giải khai huyệt đạo cho Mạnh Bá Phi.

Viên Thừa Chí hô lớn: “Các vị tiền bối, các vị bằng hữu! Con trai của sư ca tại hạ có bệnh, muốn mượn tạm mấy viên thuốc của tên tham quan Mã Sĩ Anh để cứu mạng. Đổng tiêu đầu cam tâm bán mạng cho bọn tham quan, nên sư ca của tại hạ mới xích mích với hắn. Mạnh lão gia là cao nhân tiền bối, hôm nay là ngày vui lâu năm mới có một lần của lão nhân gia, sư huynh đệ tại hạ quyết không cố ý đến đây vô lễ làm bừa.”

Mọi người nghe vậy đều cảm thấy ngạc nhiên. Rõ ràng sư huynh đệ này vừa tranh chấp, sao bây giờ sư đệ lại nói đỡ cho sư huynh? Quy thị phu phụ lại càng kinh ngạc. Quy nhị nương la lên: “Mau trả con cho ta.”

Viên Thừa Chí lớn tiếng nói: “Mạnh lão gia! Xin lão gia cắt đĩa đào chúc thọ này ra, xem thử bên trong có gì lạ không.”

Đổng Khai Sơn vừa nghe đã thay đổi sắc mặt. Mạnh Bá Phi không biết trong đầu Viên Thừa Chí nghĩ gì, nhưng vẫn theo lời mà bẻ đôi một trái. Lão thấy trong ruột trái đào có một viên dược hoàn bọc sáp trắng, không khỏi ngơ ngác, nhất thời chưa hiểu đó là thứ gì.

Viên Thừa Chí lại hô lớn: “Giả tỉ tên Đổng tiêu đầu này chỉ bán mạng cho bọn tham quan thì chưa nói gì, nhưng hắn tâm địa ác độc, bày trò đến đây ly gián, muốn phá hủy nghĩa khí đồng đạo võ lâm chúng ta. Mạnh lão gia! Mấy đĩa đào chúc thọ này có phải do Đổng tiêu đầu đưa tới hay không?”

Mạnh Bá Phi gật đầu. Viên Thừa Chí lại nói: “Hắn giấu dược hoàn vào trong đào chúc thọ, rõ ràng đã có tính toán. Dĩ nhiên số đào này không ai lấy ăn ngay. Đợi xong tiệc chúc thọ, khi sư ca tại hạ đã tổn thương hòa khí với Mạnh lão gia rồi, hắn mới quay lại đây lấy trộm rồi đưa vào kinh thành. Há chẳng lập được kỳ công?”

Viên Thừa Chí sợ có người muốn đoạt lấy đứa bé, nên vẫn đứng trên mặt bàn, tay trái đưa thanh kiếm ra cản trở. Chàng gọi: “Thanh đệ, Thắng Hải, Hồ huynh! Nhờ các vị bẻ đào chúc thọ ra, lấy hết dược hoàn đến đây.”

Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải và Hồ Quế Nam tuân lệnh, đi đến cái bàn ở giữa, bên dưới chữ Thọ lớn đó. Họ bẻ đôi những trái đào của Đổng Khai Sơn mừng thọ, từ trong ruột lấy ra cả thảy bốn chục viên dược hoàn.

Tân khách đến mừng thọ đều há hốc miệng ra nhìn, không ngừng bàn luận: “Trời ơi, còn nữa không?”, “Hết rồi, lấy ra hết rồi.” “Đổng tiêu đầu thật là xảo quyệt, sao tiểu tướng công này lại biết?” “Ngươi hỏi huynh ấy đi, hỏi ta làm gì?”

Ba người đã bẻ hết đào ra, không thấy viên thuốc nào nữa. Thanh Thanh mỉm cười, xoa tay nói: “Ở đây cả rồi.”

Nàng hoan hỉ bưng chỗ dược hoàn tới, giao cho Viên Thừa Chí. Chàng trả lại kiếm cho nàng, đưa tay cầm lấy một viên thuốc, bảo: “Phiền vị nào lấy cho một ly nước. Cần nước ấm, đừng quá nóng hay quá nguội.”

Bọn gia đinh nhà họ Mạnh nghe thấy, lập tức bưng tới một ly nước, đưa Thanh Thanh.

Viên Thừa Chí ấn vỡ viên sáp màu trắng trong tay, hương thơm tức thì xông lên mũi, lộ ra một viên tròn màu đỏ son, lớn cỡ hạt nhãn. Viên Thừa Chí sợ sức thuốc mạnh quá, trẻ con không chịu nổi, bèn bẻ một nửa viên thuốc hòa vào nước, rồi rót vào miệng chú bé. Nó chỉ còn thở thoi thóp nên không khóc lóc gì cả, uống hết chỗ nước thuốc đó.

Quy nhị nương ràn rụa nước mắt. Bà vừa cảm kích vừa xấu hổ, thầm nghĩ: “Nếu hôm nay không nhờ tiểu sư đệ phá được độc kế này, mình giết Đổng tiêu đầu cũng không cứu được mạng con trai. Lại còn đắc tội với không ít anh hùng hào kiệt ở đây, lụy đến thanh danh một đời của trượng phu nữa.”

Viên Thừa Chí đợi đứa bé uống thuốc xong mới nhảy xuống bàn, hai tay giao trả đứa bé cho Quy nhị nương. Bà đón lấy, khẽ lên tiếng: “Sư đệ! Phu phụ chúng ta thật sự không biết phải cảm tạ thế nào.”

Quy Tân Thụ chỉ nói: “Sư đệ! Sư đệ thật là tốt.”

Thanh Thanh, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải đem toàn bộ dược hoàn giao cho Quy nhị nương. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Giả tỉ đứa bé này bệnh nặng thêm mấy trận nữa, cũng đủ thuốc uống rồi.”

Quy nhị nương chưa hết mừng rỡ, nên mặc kệ những lời bóng gió của Thanh Thanh. Bà cảm tạ liên hồi, nhận lấy số dược hoàn.

Quy Tân Thụ vội đi giải huyệt cho những người đã bị mình điểm trúng, giải cho một người lại nói một câu xin lỗi. Mạnh Bá Phi im lặng, nghĩ bụng: “Con của ngươi được cứu sống rồi, nhưng con ta đã bị ngươi đánh chết. Nhất định ta phải hẹn những người có khả năng, trả mối thù này.”

Viên Thừa Chí thấy đám đệ tử nhà họ Mạnh đang khiêng Mạnh Tranh hấp hối vào trong nội đường, bèn kêu lên: “Xin chờ một chút.”

Mạnh Đào giận dữ nói: “Ca ca của ta đã chết rồi, ngươi còn muốn gì nữa?”

Viên Thừa Chí nói: “Sư ca của tại hạ xưa nay vẫn ngưỡng mộ oai danh của Mạnh lão gia, kết thân còn chưa được, sao dám hại mạng Mạnh đại ca? Tuy phát chưởng đó hơi mạnh một chút, nhưng tính mạng Mạnh đại ca không trở ngại gì đâu. Các vị không cần lo lắng.”

Mọi người nghe vậy đều nghĩ: “Rõ ràng Mạnh Tranh bị thương sắp chết, ngươi nói vậy thì gạt được ai?”

Viên Thừa Chí lại nói: “Sư ca của tại hạ hoàn toàn không muốn làm hại huynh ấy. Chỉ cần cho Mạnh đại ca uống một thang thuốc, điều dưỡng một thời gian là tự nhiên vô sự.”

Nói xong, chàng lấy trong bọc ra cái hộp vàng, mở nắp lấy một con Chu Tinh Băng Thiềm bẻ nát, hòa vào chén rượu, đổ cho Mạnh Tranh nuốt xuống. Chỉ một lúc sau, quả nhiên sắc mặt y hồng lại, bắt đầu rên rỉ kêu đau.

Mạnh Bá Phi mừng quá, không kìm nổi nước mắt trào ra, run giọng nói: “Viên tướng công! Viên minh chủ! Minh chủ đúng là đại ân nhân cứu mạng con trai lão già này.”

Viên Thừa Chí nói mấy câu khiêm tốn. Sau đó Mạnh Đào sai phái gia nhân đưa huynh trưởng vào phòng nghỉ ngơi, còn đại sảnh thì dọn lại chén bát, tiếp tục ăn uống.

Quy nhị nương nói với Mạnh Bá Phi: “Mạnh lão gia! Bọn vãn bối lỗ mãng thật rồi, xin lão gia tha thứ.” Bà kéo chồng mình, cùng ba tên đồ đệ quỳ xuống vái lạy.

Mạnh Bá Phi cười ha hả: “Con trai sắp chết, dĩ nhiên phải hoảng hồn. Lão phu cũng vậy thôi, chuyện này không thể trách hiền phu phụ.” Lão cũng quỳ xuống trả lễ.

Quy thị phu phụ lại tới xin lỗi những người vừa động thủ với mình, chắp tay khom lưng, lịch sự vô cùng. Quần hùng say sưa một hồi, Mạnh Bá Phi bỗng sốt ruột, đi vào trong xem xét bệnh tình của con trai. Thấy y ngủ say, hơi thở rất điều hòa, lão biết chắc là vô sự, bấy giờ mới thật yên tâm.

Mạnh Bá Phi không lo lắng gì nữa, lại ra cạn ly với những người khách đến chúc thọ mình. Uống say đến tám chín phần, lão bèn sai người lấy tô lớn ra, rót đầy hai tô, bưng tới trước mặt Viên Thừa Chí rồi dõng dạc lên tiếng: “Viên minh chủ! Trên đại hội Thái Sơn, toàn thể anh hùng đã đề cử minh chủ lên ngôi tôn quý. Nói thật, lúc đó trong lòng tại hạ có phần không phục. Nhưng hôm nay thì cách xử sự của minh chủ bắt tại hạ không những cảm kích, còn phải thán phục đến sát đất. Xin kính minh chủ một chén.”

Nói xong, lão lập tức bưng tô lên, uống một hơi cạn sạch. Tửu lượng Viên Thừa Chí không cao, nhưng thấy lão có hảo ý như vậy, chỉ còn cách uống cạn rượu trong tô của mình. Quần hùng reo hò vang dội. Mạnh Bá Phi giơ ngón cái lên nói: “Viên minh chủ từ nay về sau có gì sai khiến, tuy lực lượng của tại hạ chẳng có bao nhiêu, nhưng tiền thì mười vạn hay tám vạn lạng bạc vẫn lo liệu được. Nếu cần người, cha con thầy trò tại hạ phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng không từ chối. Cần mời thêm ba bốn trăm anh hùng hảo hán, tại hạ vẫn có khả năng.”

Viên Thừa Chí nghe lão nói năng sảng khoái, bỗng nghĩ đến trận phong ba lớn này đã hóa giải êm xuôi, hiềm khích giữa sư huynh đệ mình đã tan thành mây khói. Chàng thoải mái vô cùng.

Trong đêm mọi người vui vẻ say sưa, Đổng tiêu đầu không biết đã trốn về đâu. Sùng Trinh hoàng đế không có linh dược, e rằng khó mà thọ mạng. Đổng tiêu đầu lại càng phải thu xếp cho tuổi thọ của mình.

Mọi người cùng Viên Thừa Chí ở lại Mạnh gia mấy ngày. Đã vài lần họ xin cáo biệt, nhưng Mạnh Bá Phi nài nỉ giữ lại, không chịu cho đi. Vết thương của Mạnh Tranh chỉ còn ở ngoài da, vài ngày là bình phục. Cậu con Quy Chung của Quy Tân Thụ uống Phục Linh Thủ Ô Hoàn rất có hiệu quả, quả nhiên mỗi ngày một khỏe hơn. Vợ chồng Quy Tân Thụ vui mừng đến thế nào, tưởng không cần phải nói. Họ chia cho Mạnh Tranh ba viên dược hoàn để bồi bổ sau khi lành hẳn.

Đến sáng ngày thứ bảy, tuy Cái Mạnh Thường hiếu khách nhưng cũng biết không thể giữ khách ở thêm, bèn bày đại tiệc tiễn hành Quy Tân Thụ và Viên Thừa Chí. Trên bàn tiệc, Trình Thanh Trúc nói: “Mạnh lão ca! Tên họ Đổng ở Vĩnh Thắng tiêu cục không phải hảo nhân. Hắn đã mất cống phẩm, không thể về phụng mệnh, lại không dám tìm Quy nhị gia kiếm chuyện. E rằng lão ca sẽ bị phiền hà, nên đề phòng một chút.”

Mạnh Bá Phi nói: “Nếu thằng lỏi đó đến đây gây sự, ta sẽ không khách sáo với hắn nữa.”

Quy nhị nương nói: “Mạnh lão ca! Việc này hoàn toàn do bọn vãn bối gây nên. Nếu có gì phiền phức, phải báo tin cho bọn vãn bối biết ngay.”

Mạnh Bá Phi nói: “Được! Nhưng ta không sợ thằng lỏi đó đâu.”

Sa Thiên Quảng nói: “Mạnh lão gia phải đề phòng hắn cấu kết với bọn quan phủ.”

Mạnh Bá Phi cười ha hả: “Nếu không ở đây được nữa, ta sẽ học nghề lão đệ, chiếm núi làm chủ trại.”

Quần hùng vừa cười vừa cáo từ lên ngựa. Quy nhị nương ôm lấy con trai. Quy Tân Thụ nắm tay Viên Thừa Chí, nghĩ thầm: “Ơn đức khó đền, nói lời vô dụng”. Ông nói rất thành khẩn: “Sư đệ! Từ nay về sau ta coi sư đệ như em ruột.”

Viên Thừa Chí cảm động đáp: “Vâng!”

Vợ chồng họ Quy hoan hỉ dẫn ba đồ đệ đi về hướng Nam. Viên Thừa Chí, Thanh Thanh, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, ông câm, Thiết La Hán, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải cùng áp tải rương sắt đi về hướng Bắc.

*

*   *

Một hôm đi tới Cao Bài Lý, trời đã xế chiều. Vì hành lý nặng nề nên quần hào không cố đi thêm một đoạn đường nữa, trú lại khách sạn Yến Triều Cư phía tây thị trấn.

Mọi người đi một ngày trời, khá mệt mỏi. Đang định nghỉ ngơi thì bỗng nghe thấy ngoài cửa có tiếng bánh xe chuyển đất ầm ầm, tiếng người huyên náo, ồn ào đến nỗi chó chạy gà bay. Ngoài ông câm không nghe thấy gì ra, mọi người đều cảm thấy tiếng ồn ào này thật là kỳ lạ. Sau đó một toán người kéo vào khách sạn. Chúng nói năng xí xô xí xào, nửa chữ cũng không ai hiểu.

Quần hào ra khỏi phòng xem, thấy trong sảnh đứng ngồi lố nhố mấy chục tên lính ngoại quốc, cầm binh khí rất kỳ lạ, đang nói chuyện loạn xạ. Viên Thừa Chí cùng mọi người đều chưa từng gặp ai có mắt xanh mũi lõ thế này, không khỏi tò mò, chăm chú ngắm nghía.

Bỗng có một người Trung Quốc quát tháo chưởng quỹ, bảo hắn phải lập tức tìm mười mấy căn phòng thượng hạng.

Chưởng quỹ nói: “Đại nhân, thật là xin lỗi! Trong tiểu điếm này chỉ có mấy phòng thượng hạng, đã có khách ở rồi.”

Tên kia không thèm nói năng gì nữa, xoay tay tát luôn một phát. Chưởng quỹ vừa đưa tay lên xoa má vừa kêu: “Ông… ông…”

Tên kia hét lên: “Nếu không tìm được phòng thượng hạng, thì ta phải phóng hỏa đốt trụi cái tiệm chó này.”

Chưởng quỹ không còn cách nào, đành đến cầu xin Hồng Thắng Hải. Hắn khom lưng vái lạy, năn nỉ bọn Viên Thừa Chí nhường cho hai phòng.

Sa Thiên Quảng tức giận nói: “Hay nhỉ! Khách đến phải có trước có sau chứ? Tên đó là cái thá gì?”

Chưởng quỹ vội nói: “Đại gia! Xin đừng chấp nhặt cái bọn ăn cơm Tây dương này.”

Sa Thiên Quảng kinh ngạc hỏi: “Cơm Tây dương là món gì vậy? Chẳng lẽ hễ ăn cơm Tây dương vào là oai phong như thế?”

Chưởng quỹ khẽ nói: “Đám lính ngoại quốc này đang chuyển những khẩu Hồng Di đại pháo đến kinh thành. Còn người biết nói tiếng Tây dương là thông dịch cho những đại nhân ngoại quốc.”

Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu, thì ra đây là đồ cáo mượn oai hùm, dựa vào oai thế của người ngoại quốc mà tác oai tác quái.

Sa Thiên Quảng nhúc nhích cây quạt sắt trong tay, nói: “Ta phải dạy dỗ thằng lỏi kia một chút.”

Viên Thừa Chí vội giữ chặt y lại, bảo: “Khoan đã!” Chàng gọi mọi người vào trong phòng rồi nói: “Tiên phụ năm xưa trấn thủ đất Liêu, thắng lớn hai trận ở Ninh Viễn có phần nhờ công hiệu của đại pháo Tây dương. Hồng Di đại pháo từng giết rất nhiều quan binh Mãn Châu. Bây giờ thế lực bọn Mãn Thanh càng hung dữ hơn, đám lính ngoại quốc này lại đang vận chuyển đại pháo đi trợ chiến. Chúng ta nên nhường nhịn họ một chút.”

Sa Thiên Quảng hỏi: “Chẳng lẽ để thằng lỏi kia tác oai tác quái hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Loại người hạ tiện như thế, không nên để vào mắt.”

Mọi người nghe Viên Thừa Chí nói vậy, bèn đồng ý nhường lại hai căn phòng thượng hạng.

Tên thông dịch kia họ Tiền, tên Thông Tứ. Thấy có hai phòng thượng hạng rồi, hắn vẫn lầm bầm trách mắng, nhưng không sai chưởng quỹ tìm thêm phòng khác nữa. Hắn ra ngoài một lúc, rồi dẫn hai võ quan ngoại quốc vào khách sạn.

Hai võ quan này, một người chừng hơn bốn mươi tuổi, người kia khoảng ba mươi. Hai người xì xồ với nhau một lúc, rồi võ quan trẻ tuổi đi ra ngoài, dẫn một cô gái Tây dương vào. Cô gái này còn trẻ, Thanh Thanh cũng không đoán được bao nhiêu tuổi, chỉ nghĩ khoảng trên dưới hai mươi. Tóc nàng đen nhánh, da dẻ trắng trẻo, tròng mắt màu xanh như ngọc, trên người đeo đầy châu báu nhấp nháy loang loáng dưới ánh đèn.

Viên Thừa Chí trước giờ chưa từng gặp nữ nhân ngoại quốc, không khỏi nhìn thêm mấy cái. Thanh Thanh ra vẻ không vui, khẽ hỏi: “Huynh thấy cô gái này có đẹp không?”

Viên Thừa Chí nói: “Thì ra nữ nhân ngoại quốc cũng thích trang điểm đến thế.”

Thanh Thanh “hứ” một tiếng.

Sáng hôm sau thức dậy, mọi người ngồi ăn điểm tâm trong đại sảnh. Hai võ quan ngoại quốc cùng cô gái ấy ngồi chung một bàn. Tên thông dịch Tiền Thông Tứ không ngừng qua đó nịnh nọt, khom lưng uốn gối, miệng cười toe toét. Nhưng hễ quay đầu lại là hắn lập tức lớn tiếng hò hét bọn tiểu nhị trong khách sạn, sai này bảo nọ, phật ý một chút là tát tai ngay.

Trình Thanh Trúc nhìn mà ngứa mắt, bèn nói với Sa Thiên Quảng: “Sa lão đệ! Để ta biểu diễn một chút.”

Lão không cần quay lại nhìn, tiện tay vẫy ngược ra sau một cái. Đôi đũa tre bay ra cắm ngay vào giữa miệng Tiền Thông Tứ, đập vào hàm răng nghe “chát” một tiếng, suýt nữa làm rớt hết răng. Ám khí Trình Thanh Trúc quen dùng là những thanh tre rất nhỏ, gọi là Thanh Trúc Tiêu, trong vòng hai chục bước đánh vào huyệt đạo bách phát bách trúng, kình lực không kém cương tiêu. Lão nghe lời Viên Thừa Chí nên mới hạ thủ lưu tình, không thì đôi đũa này cao lên mấy tấc là cặp mắt Tiền Thông Tứ đừng hòng giữ được.

Tiền Thông Tứ đau quá, thét lên be be nhưng không sao biết được đôi đũa tre này từ đâu bay tới. Hai võ quan ngoại quốc gọi hắn tới hỏi, hắn nói gì không biết. Nữ nhân kia ôm bụng mà cười, đôi hoa tai không ngừng rung động.

Võ quan lớn tuổi nhìn sang bàn Viên Thừa Chí, nghĩ bụng: “Chắc là bọn kia tác quái.” Hắn nắm lấy hai cái ly trên bàn quăng lên không trung, rồi hai tay chụp lấy hai khẩu súng ngắn. Hai tiếng nổ chát tai, hai cái ly nát vụn trên không.

Viên Thừa Chí cùng mọi người nghe tiếng nổ đều hoảng sợ giật mình, thầm nghĩ: “Hỏa khí quả nhiên lợi hại, mà hắn bắn cũng không tồi.”

Võ quan lớn tuổi ra vẻ đắc ý, lấy một cái hộp ra. Y lấy thuốc súng và những thỏi chì nạp vào súng ngắn, rồi bảo người võ quan trẻ tuổi: “Bỉ Đắc, anh bắn thử xem.”

Bỉ Đắc đáp: “Thương pháp của tôi làm sao bằng được Đệ nhất thần thương thủ Bồ Đào Nha?”

Cô gái mỉm cười hỏi: “Lôi Mông là Đệ nhất thần thương thủ à?”

Bỉ Đắc nói: “Nếu không phải đệ nhất thế giới, ít ra cũng là đệ nhất châu Âu.”

Lôi Mông cười hỏi: “Đệ nhất châu Âu chẳng lẽ không phải đệ nhất thế giới?”

Bỉ Đắc nói: “Người Đông phương rất kỳ lạ, có những bản lãnh lợi hại hơn người châu Âu, nên tôi không dám chắc. Nhược Khắc Lâm, cô nghĩ sao?”

Nhược Khắc Lâm vừa cười vừa nói: “Em nghĩ là anh nói đúng.”

Bọn Viên Thừa Chí nghe ba người nói chuyện xì xồ, dĩ nhiên không hiểu chữ nào.

Lôi Mông thấy Nhược Khắc Lâm đối với Bỉ Đắc ra vẻ thân mật, có phần đố kỵ bèn nói: “Người Đông phương kỳ lạ lắm sao?”

Hắn lại nổ liền hai phát súng, lần này nhắm vào khăn trùm đầu của Thanh Thanh. Ánh lửa vừa lóe lên, chiếc khăn rơi xuống bàn, xổ ra bộ tóc dài của nữ nhân. Viên Thừa Chí cùng mọi người đều kinh hãi. Lôi Mông và bọn lính ngoại quốc ngồi các bàn khác đều cười hô hố.

Thanh Thanh tức giận đứng dậy, rút trường kiếm ra khỏi vỏ nghe “soạt” một tiếng. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Nếu động thủ, hỏa khí của đối phương lợi hại, hai bên chắc chắn có chết có bị thương. Bọn lính ngoại quốc này đang giúp quan binh triều đình đánh Thát tử Mãn Thanh, giết họ là làm hại quốc gia. Nhẫn nhịn một chút là hơn.”

Chàng bèn bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ, thôi đi!” Thanh Thanh đưa mắt giận dữ liếc nhìn ba người ngoại quốc rồi mới chịu ngồi xuống.

Nhược Khắc Lâm nói: “Thì ra là một cô gái, không ngờ xinh đẹp đến thế.”

Lôi Mông cười nói: “Hay lắm. Em thấy con trai Đông phương có tuấn tú không?”

Bỉ Đắc nói: “Cô ấy còn biết dùng kiếm nữa, hình như muốn đánh nhau với chúng ta.”

Lôi Mông hỏi: “Nếu cô ấy đến, ai sẽ ra đấu? Bỉ Đắc! Hai chúng ta ai giỏi kiếm pháp hơn?”

Bỉ Đắc nói: “Tôi mong rằng chuyện này vĩnh viễn không ai biết được.”

Lôi Mông ra vẻ giận dữ, hỏi: “Tại sao?”

Nhược Khắc Lâm vội nói: “Này, các anh đừng vì chuyện này mà cãi nhau.” Nàng mỉm cười nói tiếp: “Người Đông phương rất thần bí, chỉ sợ cả hai anh đều không đánh thắng được cô nương xinh đẹp đó.”

Lôi Mông kêu lên: “Tiền Thông Tứ, qua đây!”

Tiền Thông Tứ vội chạy đến, hỏi: “Đại tá có gì sai bảo?”

Lôi Mông nói: “Ngươi qua hỏi, có phải cô nương đó muốn đấu kiếm với ta hay không? Hỏi nhanh đi.”

Tiền Thông Tứ vâng dạ liên hồi.

Lôi Mông lại lấy trong túi ra mười mấy đồng tiền Tây dương, ném lên bàn rồi mỉm cười nói: “Nếu cô ấy muốn đấu kiếm thì qua đây. Thắng được ta, thì những đồng vàng này là của cô ấy. Nếu cô ấy thua, phải để ta hôn một cái. Ngươi mau mau qua đó nói đi.”

Thế là Tiền Thông Tứ ngạo nghễ bước tới, dịch lại cho Thanh Thanh nghe. Đến mấy chữ “hôn một cái”, Thanh Thanh xoay tay tát lên má phải của hắn, nghe một tiếng “bốp” vang dội. Cái tát này kình lực rất lớn, Tiền Thông Tứ hự một tiếng, phun ra một bụm máu tươi lẫn bốn cái răng rồi mới kêu trời kêu đất được. Nửa mặt hắn lập tức sưng vù lên.

Lôi Mông cười ha hả rồi nói: “Con bé này quả nhiên có sức.” Hắn rút kiếm ra, vạch veo véo lên không trung mấy nhát, bước ra giữa đại sảnh, la lên: “Qua đây, qua đây!”

Thanh Thanh nghe không hiểu, nhưng nhìn thì biết hắn muốn tỉ kiếm với mình. Nàng lập tức rút kiếm, đứng dậy.

Viên Thừa Chí gọi: “Thanh đệ! Muội qua đây.”

Thanh Thanh tưởng Viên Thừa Chí lại cản trở, lắc đầu nói: “Muội không nhịn nữa đâu.”

Viên Thừa Chí nói: “Để ta dạy Thanh đệ cách đánh thắng hắn.”

Thanh Thanh vừa thấy hỏa khí của ngoại quốc vô cùng lợi hại, chỉ sợ kiếm pháp cũng oai lực như thế, không chừng thanh kiếm có thể nổ đoàng đoàng. Nàng có phần sợ hãi, vừa nghe vậy đã mừng rỡ đứng lại.

Viên Thừa Chí nói: “Hắn vừa chém lên không mấy nhát, xuất thủ nhanh nhẹn, kình lực đầy đủ, kiếm pháp trong nhu có cương. Phải đề phòng hắn đâm thẳng, chứ hắn bổ xuống hay chém ngang thì không đáng sợ.”

Thanh Thanh nói: “Thế thì muội phải tìm cách chấn động cho thanh kiếm của hắn tuột khỏi tay.”

Viên Thừa Chí hoan hỉ nói: “Không sai! Đúng là như vậy, nhưng đừng đả thương hắn.”

Lôi Mông thấy hai người nói chuyện mãi, nóng ruột gọi lớn: “Mau qua đây, mau qua đây!”

Thanh Thanh xoay người nhảy ra, đột nhiên vung kiếm chém vào bả vai hắn. Lôi Mông không ngờ nàng ra tay nhanh đến thế, nhưng dù sao hắn cũng là một cao thủ kiếm thuật của Bồ Đào Nha, lại từng được danh sư của Pháp và Ý Đại Lợi chỉ điểm. Thấy nguy hắn vội lăn nhào xuống đất, đưa kiếm lên đỡ nghe “keng” một tiếng, lửa bay tứ tán.

Lôi Mông bật người đứng dậy, hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh. Nhược Khắc Lâm đứng bên vỗ tay khen ngợi. Hai bên triển khai kiếm thuật có công có thủ, giao đấu hồi lâu. Viên Thừa Chí xem tỉ mỉ kiếm pháp của Lôi Mông, thấy hắn đỡ đòn và phản kích rất linh hoạt.

Tỉ đấu đến chỗ hăng say, Thanh Thanh đột nhiên thay đổi kiếm pháp. Nàng xuất toàn hư chiêu, hễ mũi kiếm đâm sắp tới là lập tức thu hồi. Đây chính là Lôi Chấn Kiếm Pháp của Kỳ Tiên Phái, cả thảy sáu lần sáu ba mươi sáu chiêu, hoàn toàn không có một thực chiêu nào. Đây chính là những tia chớp trong cơn giông bão, khiến cho kẻ địch phải chóng mặt hoa mắt, sau đó mới xuất chiêu tấn công dữ dội như sét đánh.

Lôi Mông tuy kiếm pháp cao minh, nhưng kiếm thuật thế này thì chưa gặp phải. Hắn thấy đối phương đâm loạn xạ, hình như chiêu nào cũng đâm vào chỗ yếu hại của mình, nhưng khi đưa kiếm lên cản trở thì đối phương lại rụt về. Trong kiếm thuật Tây phương cũng có những hư chiêu, tưởng công mà lại không công như thế, nhưng tối đa chỉ một hai chiêu, nhất định không có mấy chục chiêu tấn công giả vờ thế này.

Lôi Mông nghĩ: “Những chiêu thức hoa hòe này chỉ đẹp mắt, không có ích.” Hắn mỉm cười, đang định chê bai thì Thanh Thanh đột nhiên vẫy kiếm chém mạnh tới. Lôi Mông vội đưa kiếm ra đỡ, nhưng cổ tay bị chấn động, trường kiếm tuột khỏi tay văng ra. Thanh Thanh thừa thế tiến lên, chĩa mũi kiếm vào trước ngực đối phương. Lôi Mông chỉ còn cách đưa hai tay lên đầu hàng.

Thanh Thanh cười khẩy, thu kiếm quay về chỗ cũ. Lôi Mông hổ thẹn lộ ra ngoài mặt, không ngờ mình vẫn tự phụ kiếm thuật cao cường mà thua dưới tay một thiếu nữ da vàng mũi tẹt.

Nhược Khắc Lâm mỉm cười, hốt mớ tiền vàng trên bàn, bước qua bàn Viên Thừa Chí, đưa cho Thanh Thanh. Thanh Thanh xua tay không lấy. Nhược Khắc Lâm vừa cười vừa xì xồ toàn tiếng Bồ Đào Nha, cương quyết đưa nàng.

Trình Thanh Trúc đưa tay đón lấy, sắp mười mấy đồng tiền vàng Tây dương này thành một chồng, hai bàn tay đè ở hai đầu. Lão vận nội công một lúc rồi trả lại Nhược Khắc Lâm.

Nhược Khắc Lâm định cầm đưa Thanh Thanh, nhưng vừa cầm vào tay đã giật mình kinh hãi. Thì ra mười mấy đồng tiền vàng này đã dính chặt lại với nhau thành một khối trụ tròn, không thể tách rời được nữa. Nàng giương tròn đôi mắt vốn đã rất tròn, nói thầm trong miệng: “Người Đông phương thật là thần bí, thật là thần bí!”

Nàng đem khối trụ vàng đó về, đưa hai võ quan Tây dương xem. Lôi Mông nói: “Hình như bọn người này có ma thuật.”

Bỉ Đắc nói: “Đừng gây chuyện với họ. Chúng ta đi thôi.”

Lát sau nghe tiếng lách cách ngoài cửa, những chiếc xe kéo đại pháo lăn bánh lên đường.

Thiết La Hán nói: “Hồng Di đại pháo trông như thế nào, tại hạ chưa được nhìn thấy.”

Hồ Quế Nam nói: “Chúng ta ra xem thử.”

Sa Thiên Quảng cười nói: “Hồ huynh! Nếu huynh có thể thi triển tuyệt kỹ diệu thủ không không, ăn trộm được một khẩu pháo đó, thì ta phục huynh vô cùng.”

Hồ Quế Nam mỉm cười đáp: “Những thứ cồng kềnh như thế, đúng là ta chưa ăn trộm bao giờ. Nhưng Sa huynh có muốn đánh cuộc không?”

Sa Thiên Quảng nói: “Đại pháo này dùng để bắn bọn Thát tử Mãn Thanh, không nên ăn trộm. Không thì ta phải đánh cuộc với huynh một phen.”

Mọi người vừa cười giòn vừa bước ra ngoài sảnh, chỉ chốc lát đã đuổi kịp toán quân áp tải đại pháo. Cả thảy có mười khẩu đại pháo to đùng, chỉ nhìn bề ngoài cũng thấy oai phong lẫm liệt. Mỗi khẩu phải dùng tám con ngựa kéo, phía sau còn có phu dịch đẩy giúp. Xe pháo đi tới đâu, trên đường xuất hiện vết bánh xe sâu hoắm tới đó.

*

*   *

Quần hùng đi được hơn hai mươi dặm, bỗng nghe phía trước có tiếng nhạc ngựa leng keng, mười mấy con ngựa phi tới. Đến gần thì thấy những người cưỡi ngựa đều cầm cung tên, dưới yên treo đầy những loại thú vừa săn được như chồn, thỏ. Đoàn người đi săn này ăn mặc sang trọng, toàn là giày da và trường bào gấm đoản, rất có khí thế. Ở giữa là một thiếu nữ chừng tuổi đôi mươi.

Vừa nhận ra đoàn người Viên Thừa Chí, thiếu nữ đó vội ruổi ngựa lên trước, hô lớn: “Sư phụ, sư phụ!”

Trình Thanh Trúc mỉm cười nói: “Hay lắm! Con cũng đến đây ư?” Thì ra thiếu nữ này chính là A Cửu, đồ đệ của lão.

Trong trận quần đạo tranh giành rương sắt, Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh đã từng gặp cô gái này. Lần trước nàng mặc áo vải xanh như người nhà quê, bây giờ lại trang điểm đẹp đẽ vô cùng. Trên tai trái đeo một hạt trân châu lớn bằng đầu ngón tay cái, trên áo khảm một phiến hồng bảo thạch nhấp nháy sáng ngời.

Cô gái này mặc loại y phục gì cũng thích hợp. Khi phục sức kiểu con gái nhà nông thì trông khỏe mạnh dứt khoát, khi áo quần sang trọng kiểu con nhà quý phái thì diễm lệ như một đóa hồng ngậm sương buổi sớm.

Trong lòng Viên Thừa Chí nhói lên, như vừa bị cao thủ nội gia đánh trúng một quyền. Chàng quay đầu chỗ khác, không dám nhìn thêm.

A Cửu nhìn Viên Thừa Chí, mỉm cười hỏi: “Huynh đi cùng sư phụ của muội à?”

Viên Thừa Chí mỉm cười, gật đầu một cái. A Cửu lại quay sang chào Sa Thiên Quảng: “Sa trại chủ! Chúng ta đúng là không đánh không quen.”

Trình Thanh Trúc bảo nàng đến tham kiến Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, rồi hỏi: “Con đi đâu vậy?”

Nàng đáp: “Con ra ngoài săn bắn. Sư phụ thấy con đi có xa không?”

Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta đang định lên kinh thành, con đi cùng đi.”

A Cửu hoan hỉ vâng dạ, đi sát vào sư phụ, hai người hai ngựa song song mà tiến.

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh thấy cô gái này tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã có khí phách cao sang, quen sai khiến người khác, đám tùy tùng nghe lời răm rắp. Lần trước gặp nhau ở Sơn Đông, họ tưởng nàng là cháu gái của Trình Thanh Trúc, sau này mới biết là đồ đệ của lão. Bây giờ lại thấy nàng là tiểu thư cưng chiều của nhà thế gia vọng tộc, ra ngoài săn bắn cũng mang theo nhiều tùy tùng như thế. Không biết tại sao nàng bái Trình Thanh Trúc làm sư phụ, lại đi cùng Thanh Trúc Bang, hai người nghĩ mãi không ra.

Đêm đó mọi người nghỉ lại một khách sạn tại Ẩm Mã Tập. Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh thấy bọn tùy tùng của A Cửu nói chuyện sặc mùi quan phủ. Trừ A Cửu ra, chúng không thèm ngó tới ai, thần sắc khá ngạo mạn. Nhìn riêng từng người, thì mỗi tên giống một ông quan, chẳng giống tùy tùng chút nào. Họ càng kinh ngạc hơn.

Thanh Thanh hỏi: “Cửu muội! Hôm đó chúng ta đánh giết quan binh một trận sướng tay, sau đó đột nhiên cô đi đâu mất. Cô xinh đẹp như thế, hôm đó ta vừa gặp đã vĩnh viễn không quên được nữa. Sau đó Cửu muội đi đâu?”

A Cửu đã biết Thanh Thanh là nữ nhân, nhưng mặt cũng đỏ lên. Nàng hắng giọng rồi nói: “Tỉ tỉ! Tỉ tỉ mới là mỹ nhân, muội không sao sánh kịp. Tỉ tỉ không cần phấn son phải không?”

Thanh Thanh muốn hỏi nữa, nhưng Trình Thanh Trúc đứng đối diện cứ liên hồi nháy mắt ra hiệu. Nàng bèn mỉm cười nói: “Đi đường xa, đầu mặt toàn là bụi bặm, ta có trang điểm cũng chẳng ai dám nhìn.”

Mọi người nói đùa một lúc rồi chia nhau về phòng nghỉ ngơi.

Viên Thừa Chí vào phòng, đang định lên giường thì Trình Thanh Trúc vào nói: “Viên tướng công! Tại hạ có một chuyện cần thương lượng với tướng công.”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Mời bang chủ ngồi.”

Trình Thanh Trúc khẽ nói: “Chúng ta ra ngoài tìm chỗ vắng người, nói chuyện hay hơn.”

Viên Thừa Chí biết là chuyện cơ mật, bèn khoác trường bào. Hai người ra khỏi khách sạn, đến một ngọn đồi bên ngoài thị trấn.

Trình Thanh Trúc nhìn quanh bốn phía không thấy ai, bèn nói: “Viên tướng công! Đồ đệ A Cửu của tại hạ có lai lịch rất kỳ lạ. Tại hạ từng chịu đại ân của cô ấy. Lúc nhận lễ bái sư, tại hạ đã hứa là tuyệt đối không tiết lộ thân phận của cô ấy.”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ cũng thấy cô ấy không phải loại người tầm thường. Nhưng bang chủ đã hứa rồi, thì không cần nói với tại hạ làm chi.”

Trình Thanh Trúc nói: “Bọn thủ hạ cô ấy dẫn theo đều là người trong quan phủ. Mưu đồ của chúng ta, tuyệt đối không thể cho họ biết chút nào.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Quả nhiên đúng là bọn quan phủ.”

Trình Thanh Trúc nói: “Cô ấy không đến nỗi bán đứt tại hạ, nhưng tuổi tác còn nhỏ mà thế sự đa đoan, kết cục thế nào khó mà ngờ được.”

Viên Thừa Chí nói: “Vậy trước mặt cô ấy, chúng ta cẩn thận hơn một chút là xong.”

Hai người chỉ trao đổi chốc lát là xong, lại xuống đồi trở về khách sạn.

Về đến cửa khách sạn, bỗng thấy một hán tử từ con đường phía đông chạy tới, tay xách lồng đèn, cũng vào khách sạn này. Dưới ánh sáng mờ mờ, Viên Thừa Chí cảm thấy hán tử đó có vẻ quen quen, nhưng nhất thời không nghĩ ra được đã gặp ở đâu. Chàng nằm trên giường suy tới nghĩ lui, cố nhớ lại buổi tiệc chúc thọ ở nhà họ Mạnh, đại hội Thái Sơn, vụ hỗn chiến đoạt rương sắt, ở Nam Kinh, ở Tịnh Nham, Cù Châu, trong quân ngũ Sấm Vương, đều không có mặt người này. Nhưng nhất định chàng đã gặp rồi, vậy hắn là ai?

Đang suy nghĩ thì bỗng có tiếng gõ cửa rất nhẹ. Chàng mặc áo xuống giường, hỏi: “Ai vậy?”

Ngoài cửa Thanh Thanh cười khúc khích, lên tiếng: “Muốn ăn chút gì không?”

Viên Thừa Chí thắp đèn, mở cửa. Nàng đang bưng một cái khay đựng hai cái chén, mỗi chén có ba quả trứng gà, chắc vừa xuống bếp làm cho chàng. Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Đa tạ nhé. Khuya rồi, sao không đi ngủ?”

Thanh Thanh nói nhỏ: “Muội cứ nghĩ mãi đến cô A Cửu kỳ lạ đó, không ngủ được. Nhất định huynh cũng đang nghĩ đến cô ấy, không ngủ được đâu.”

Nói xong, nàng nhoẻn miệng cười. Viên Thừa Chí cười cười hỏi lại: “Ta nghĩ đến cô ấy làm gì?”

Thanh Thanh nói: “Cô gái này đẹp tuyệt vời, đẹp đến nỗi không giống người phàm. Huynh thấy cô ấy có đẹp không?”

Viên Thừa Chí biết Thanh Thanh tính hay hờn ghen. Nếu chàng nói A Cửu đẹp, chắc chắn nàng sẽ không vui. Nhưng nếu nói A Cửu không đẹp thì rõ ràng là nói dối, trái với lương tâm, mà nàng cũng quyết không tin. Chàng bèn mỉm cười nói: “Không giống người phàm, chẳng lẽ giống ma quỷ hay sao?”

Thanh Thanh nói: “Rõ ràng huynh muốn nói cô ấy trông như tiên nữ, nhưng lại không chịu nói.”

Viên Thừa Chí cầm muỗng múc một quả trứng gà, vừa cho vào miệng bỗng để rơi cái thìa, khẽ quát lên: “Đúng rồi! Thì ra là hắn.”

Thanh Thanh hoảng sợ nhảy dựng lên, hỏi lại: “Hắn là ai thế?”

Viên Thừa Chí quay mặt nhìn ra cửa, bảo: “Mau đi theo huynh!”

Thanh Thanh thấy chàng không ăn trứng gà, hơi giận bèn hỏi: “Đi đâu vậy?”

Viên Thừa Chí đến chỗ Hồng Thắng Hải, rút lấy thanh kiếm đưa cho nàng, nói: “Cầm lấy!”

Thanh Thanh cầm kiếm, bây giờ mới biết chàng vừa nhận ra địch thủ.

Thì ra khi Viên Thừa Chí ăn trứng gà, chàng đột nhiên nhớ lại năm xưa ở nhà An đại nương, tên cẩm y vệ Hồ lão tam đến bắt Tiểu Huệ, chàng đã liều mạng chống đỡ. May mà An đại nương kịp trở về, dùng trứng gà đánh đuổi Hồ lão tam, cứu được hai đứa bé. Người chàng vừa nhìn thấy chính là tên Hồ lão tam đó. Không hiểu hắn lén lút đến đây để làm gì, phải thám thính rõ ràng mới được.

Hai người khom người, đến từng phòng trong khách sạn mà ghé tai lắng nghe. Khi đến một căn phòng lớn phía sau, quả nhiên có tiếng người đang bàn luận. Đang định nghe lén thì cửa phòng bật mở, có người bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí khẽ nói vào tai Thanh Thanh: “Thanh đệ về, bảo Sa Thiên Quảng và mọi người phòng bị. Ta đi theo xem thử.”

Thanh Thanh gật đầu khẽ đáp: “Cẩn thận nhé!”

Viên Thừa Chí núp trong bóng tối, thấy người đầu tiên bước ra chính là Hồ lão tam. Phía sau có tám người đi theo, tay đều cầm binh khí. Dưới ánh nến nhìn thấy rõ ràng, đây đều là tùy tùng của A Cửu. Chín người nối nhau vượt tường khách sạn nhảy ra.

Thanh Thanh khẽ nói: “Thì ra là chúng. Muội đã biết cô gái đó có chỗ kỳ lạ mà!” Viên Thừa Chí cũng ngạc nhiên, lập tức vượt tường ra ngoài khách sạn, âm thầm theo dõi.

Chín người kia hoàn toàn không biết có người theo dõi, ra khỏi thị trấn đi chừng một dặm thì đến một căn nhà lớn. Hồ lão tam cất tiếng gọi, cửa lớn mở ngay để chín người vào.

Viên Thừa Chí vòng ra phía sau, vượt tường nhảy vào, thấy một căn phòng có ánh sáng rọi ra ngoài cửa sổ. Chàng nhảy lên mái nhà, nhẹ nhàng gỡ một viên ngói, từ trên nhìn xuống thấy trong phòng có một hán tử tuổi khoảng tứ tuần, thân hình to lớn. Hồ lão tam cùng tám người tùy tùng của A Cửu vào trong phòng, hành lễ tham kiến hán tử kia.

Hồ lão tam nói: “Tiểu nhân vào thị trấn tình cờ gặp Vương phó chỉ huy, biết mọi người đang ở đây, nên mời mấy huynh đệ này đến giúp đỡ một tay.”

Người ấy nói: “Hay lắm! Vương phó chỉ huy nói sao?”

Hồ lão tam đáp: “Vương phó chỉ huy nói là An đại nhân đã có việc, dĩ nhiên là phải giúp.”

An đại nhân nói: “Lần này nếu mà đắc thủ, công lao mọi người nhất định không nhỏ. Ha ha…”

Một người nói: “Hoàn toàn dựa vào đại nhân giúp đỡ.”

An đại nhân nói: “Huynh đệ chúng ta đừng phân biệt ai là thị vệ trong cung, ai là cẩm y vệ. Mọi người đều ra sức cho hoàng đế cả.”

Cả bọn cùng nói: “An đại nhân nói rất đúng. Bọn thuộc hạ nhất định vâng lời đại nhân chỉ bảo.”

An đại nhân nói: “Được! Vậy chúng ta đi ngay.”

Viên Thừa Chí càng kinh ngạc hơn, thầm nghĩ: “Hồ lão tam và An đại nhân đã là cẩm y vệ, thế thì bọn tùy tùng của A Cửu phải là thị vệ trong cung. Không hiểu cô bé đó làm gì, sao lại dẫn theo một đám thị vệ trong cung, chạy loạn xạ khắp nơi.”

Chẳng bao lâu, An đại nhân dẫn cả bọn ra ngoài. Viên Thừa Chí vẫn nấp trên mái nhà, đếm thấy tất cả mười sáu người, thì ra chính An đại nhân đã có sẵn sáu người. Chàng để chúng đi một quãng, rồi lén lút bám theo.

Càng đi càng thấy phong cảnh hoang vu. Được bảy tám dặm thì có người khẽ nói gì đó, rồi cả bọn tản ra, bao vây một căn nhà lẻ loi ở vùng hoang vắng này. Cả đám đều khom mình, không phát ra một chút tiếng động, tiến đến gần căn nhà đó.

Viên Thừa Chí bắt chước họ, cũng khom người tiến vào. Có tên nhìn thấy chàng, nhưng trong bóng tối tưởng là đồng bọn nên không để ý. An đại nhân thấy vòng vây đã kín, bèn vẫy tay bảo mọi người cúi xuống, rồi đưa tay gõ cửa.

Lát sau trong nhà có tiếng nữ nhân hỏi ra: “Ai vậy?”

An đại nhân giật mình hỏi lại: “Ai thế?”

Thanh âm nữ nhân trong nhà ra vẻ kinh hãi: “Thì ra là… là… ngươi. Đêm khuya thế này, ngươi tới đây làm gì?”

An đại nhân la lên: “Thế mới gọi là oan gia không thể tránh nhau. Thì ra muội đang ở đây, mau mở cửa đi.” Giọng hắn vừa kinh hãi vừa mừng rỡ.

Nữ nhân trong nhà nói: “Ta đã nói là quyết không gặp ngươi nữa. Đến đây làm gì?”

An đại nhân mỉm cười nói: “Muội không muốn gặp ta, nhưng ta thì nhớ nương tử quá rồi.”

Nữ nhân trong nhà giận dữ nói: “Ai là nương tử của ngươi? Chúng ta đã vạch đất dứt tình rồi. Nếu ngươi không chịu buông tha ta, thì phóng hỏa đốt nhà đi. Ta thà chết cũng không chịu gặp một kẻ vô lương tâm, bệnh hoạn điên cuồng như ngươi.”

Viên Thừa Chí càng nghe càng cảm thấy thanh âm này rất quen. Cuối cùng chàng giật mình nhận ra An đại nương. Thì ra An đại nhân là chồng của An đại nương, là cha của Tiểu Huệ. Năm xưa, Hồ lão tam đến bắt Tiểu Huệ, chính là tuân lệnh lão An đại nhân này.

Hồi 13: Hẹn bạn ngày quy ẩn – Hủy pháo giúp Sấm quân

An đại nhân vừa cười đểu giả vừa nói: “Ta cực khổ mới tìm ra muội, sao lại nỡ tự thiêu? Bây giờ chúng ta đoàn tụ, nối lại mối tình xưa.”

Nói xong hắn phóng chân đá vào cánh cửa. Mới đá hai cái, chốt cửa đã gãy, cánh cửa kèn kẹt mở ra. Viên Thừa Chí nghe tiếng gió của đòn cước, biết võ công hắn không tệ.

Trong đêm tối bỗng có ánh đao lấp loáng. An đại nương đã múa đao chém vào An đại nhân. An đại nhân mỉm cười nói: “Hay lắm! Dám mưu sát trượng phu.”

Hắn sợ trong nhà còn có người khác nên chưa dám xông vào, cứ đứng ngoài cửa dùng tay không đấu với An đại nương. Viên Thừa Chí từ từ bò đến gần, giương to mắt mà xem hai người giao đấu.

Võ công An đại nhân khá cao. Chung quanh tối mịt, hắn chỉ cần nghe tiếng đao rít gió là tránh né được hết, vừa phản kích vừa không ngớt nói những câu bóng gió để chọc ghẹo. An đại nương tức giận, vừa đánh vừa mắng chửi liên hồi. Đấu được một lúc, An đại nhân bỗng sờ được vào người bà một cái.

An đại nương càng giận dữ hơn, vung đao chém bổ từ trên đầu xuống. An đại nhân đang muốn dụ bà xuất chiêu này, nghiêng người bước tới, nắm được cổ tay bà rồi dùng sức vặn ngược lại. Đơn đao của An đại nương rơi xuống đất. An đại nhân nắm cả hai bàn tay An đại nương, chân phải gác đè lên khuỷu chân bà. Thế là An đại nương không sao động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nghe khẩu khí tên họ An này, chắc hắn không làm tổn thương bà ấy ngay đâu. Ta cứ thám thính một lúc nữa rồi sẽ ra tay cứu viện.”

Thừa lúc An đại nhân cười ha hả như điên dại và An đại nương quát tháo chửi mắng, Viên Thừa Chí nhón chân bước tới một góc cửa, lách vào trong, nép bên tường rồi thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường trèo lên xà ngang ẩn mình quan sát.

An đại nhân gọi lớn: “Hồ lão tam! Vào trong thắp đèn nhanh lên.”

Hồ lão tam đứng ngoài lấy mồi lửa ra, rút đao hộ thân, rồi lại cúi nhặt mấy viên đá ném vào trong nhà. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, hắn mới dám vào trong, tìm được ngọn nến đang đặt trên bàn rồi thắp sáng lên.

An đại nhân bế An đại nương vào trong nhà, đảo mắt liếc Hồ lão tam một cái. Tên này lấy trong người ra một sợi dây, trói chặt tay chân bà lại.

An đại nhân mỉm cười nói: “Muội nói quyết không gặp mặt ta nữa, thế là không giữ lời được rồi. Nhìn ta đây, xem tóc đã bạc thêm mấy sợi?” An đại nương nhắm mắt, không thèm trả lời.

Viên Thừa Chí nấp trên xà nhìn xuống, thấy rõ ràng mặt mũi An đại nhân. Tuy hắn đã sang tuổi trung niên, nhưng diện mạo còn coi được. Hồi trẻ nhất định đây là một thiếu niên tuấn tú, rất xứng đôi với An đại nương.

An đại nhân đưa tay sờ mặt An đại nương, cười nói: “Tuyệt diệu! Mười mấy năm không gặp, khuôn mặt trái xoan này vẫn mịn màng như xưa.” Hắn hất đầu bảo Hồ lão tam: “Ra ngoài đi!”

Hồ lão tam mỉm cười vâng dạ lui ra ngoài, tiện tay khép cửa lại. Hai người trong nhà đối diện nhau không nói lời nào. Hồi lâu, An đại nhân bỗng thở dài lên tiếng: “Tiểu Huệ đâu? Mấy năm nay, ngày nào ta cũng nhớ đến con.”

An đại nương vẫn mặc kệ. An đại nhân lại nói: “Hồi đó chúng ta là vợ chồng trẻ, tính khí cả hai đều nóng nảy nên nhất thời xích mích. Đã xa cách nhiều năm rồi, hòa thuận lại như trước là hơn.”

Hắn im lặng một lúc, lại nói: “Muội xem, mười mấy năm nay ta không cưới vợ khác, có lúc nào quên muội đâu? Chẳng lẽ muội không còn chút tình phu thê nào nữa?”

Lúc này An đại nương mới giận dữ lên tiếng: “Gia gia và ca ca của ta đã chết như thế nào, chẳng lẽ ngươi quên rồi?”

An đại nhân thở dài nói: “Nhạc phụ và huynh trưởng là do cẩm y vệ hại chết, điều đó không sai. Nhưng không thể vì thế mà vơ đũa cả nắm, cẩm y vệ có người xấu, cũng có người tốt. Ta ra sức vì hoàng thượng, cũng để làm rạng rỡ tổ tiên…”

Hắn nói chưa dứt câu, An đại nương đã nhổ phẹt nước bọt xuống đất.

Im lặng hồi lâu, An đại nhân bỗng đổi sang đề tài khác: “Ta rất nhớ Tiểu Huệ nên mới sai người đến đón con. Sao muội phải trốn chỗ này chỗ nọ, rốt cuộc vẫn không để ta và con gặp mặt nhau?”

An đại nương đáp: “Ta đã nói với nó, người cha tốt của con đã chết từ lâu rồi. Phụ thân con rất có bản lãnh, rất có chí khí, nhưng tiếc là tuổi thọ hơi ngắn.” Giọng bà đầy vẻ oán hận.

An đại nhân nói: “Tội gì bà phải lừa gạt con như thế? Mà sao lại trù ẻo ta?”

An đại nương nói: “Cha của nó trước đây đúng là người tốt, rất có chí khí. Nào ngờ…” Giọng bà bỗng nghẹn hẳn đi, rồi lại nói rất giận dữ: “Ngươi đã hại chết người chồng tốt của ta. Ta hận, chỉ muốn giết ngươi.”

An đại nhân la lên: “Ủa, lạ chưa? Ta chính là chồng của muội, sao lại nói là ta hại chết chồng của muội?”

An đại nương nói: “Chồng của ta vốn là một hảo nam tử. Không hiểu sao, đột nhiên hắn bị lợi lộc làm mờ mắt, không nghĩ gì đến vợ con nữa, một lòng một dạ muốn thăng quan phát tài. Người chồng tốt trước đây của ta đã chết rồi, từ đó về sau không thể nào gặp mặt nữa.”

Viên Thừa Chí nghe vậy, trong lòng cũng xót xa theo.

An đại nương lại nói: “Chồng của ta là An Kiến Thanh, vốn là một giang hồ hảo hán, không phải bị tên cẩm y vệ ở Trường An là An đại nhân này hại chết hay sao? Chồng của ta có một vị ân sư là Sở Đại Đao lão quyền sư, cũng là gia gia của ta, đã bị An đại nhân hại chết. Cả phu nhân và con cái của lão quyền sư cũng táng mạng dưới tay An đại nhân…”

An Kiến Thanh giận dữ thét lên: “Không được nói nữa!”

An đại nương nghiến răng nói: “Tên lòng lang dạ sói kia, tự mình suy nghĩ lại đi!”

An Kiến Thanh nói: “Quan phủ gọi Sở Đại Đao đến hỏi chuyện, chắc gì đã làm khó dễ ông ấy? Ông ấy cần gì phải xách đao đến định giết ta? Vợ con của ông ấy tự tử mà chết, chuyện đó thì trách được ai?”

An đại nương nói: “Đúng vậy! Sở Đại Đao không trách được ai, phải tự trách mình mù mắt. Ai bảo ông ấy nhận một đồ đệ tốt như thế? Hắn đói rét sắp chết đến nơi, Sở Đại Đao dạy hắn võ công, nuôi hắn thành người…” Bà càng nói càng giận dữ hơn.

An đại nhân vỗ mạnh bàn một cái, nói: “Hôm nay vợ chồng chúng ta đoàn tụ nơi đây, tốt đẹp biết bao. Muội nhắc đến chuyện chết chóc xui xẻo đó làm chi?”

An đại nương la lên: “Ngươi muốn giết thì cứ giết, ta vẫn phải nhắc đến.”

Viên Thừa Chí nghe hai bên nói chuyện, suy nghĩ một chút liền hiểu rõ hết. Sở Đại Đao từng có công nuôi dưỡng An Kiến Thanh, dạy võ công, lại gả con gái là An đại nương cho hắn. Không ngờ An Kiến Thanh tham phú quý, vào làm cẩm y vệ trong hoàng cung. Cha mẹ, huynh trưởng của An đại nương đều bị cẩm y vệ hại chết. An đại nương phẫn hận không chịu được, bỏ chồng trốn đi. Trước đây Hồ lão tam đến bắt cóc Tiểu Huệ, An đại nương phải chuyển nhà khắp nơi, nguyên do cũng từ người chồng ác độc An Kiến Thanh đại nhân này.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Lúc người này hại chết cả nhà ân sư nhạc phụ, tình cảnh nhất định rất thảm khốc. Tên này giết đi cũng chưa hết tội, nhưng không biết An đại nương đối với hắn còn tình phu phụ hay không, bây giờ không nên vội vàng lỗ mãng.” Chàng muốn nghe nhiều hơn một chút, sau đó mới quyết định có nên ra tay trừ ác cứu người hay không, nào ngờ hai người đều im bặt.

Hồi lâu, dường như xa xa có tiếng vó ngựa vọng tới. An Kiến Thanh rút đao ra, khẽ nói: “Lát nữa có người đến đây, nếu muội lên tiếng thì ta không thể nào nghĩ tới tình phu phụ được nữa.”

An đại nương “hừ” một tiếng, giận dữ nói: “Ngươi lại muốn hại người rồi!”

An Kiến Thanh biết tính vợ, bèn dùng đao cắt một miếng vải nhét vào miệng bà. Lúc này tiếng vó ngựa đã đến gần. An Kiến Thanh đặt An đại nương lên giường, buông màn xuống, cầm đao nép vào sau cửa.

Viên Thừa Chí biết hắn muốn lén hạ độc thủ. Chàng không biết người đang tới là ai, nhưng nhiều phần là người thân của An đại nương, bèn dùng nước bọt thấm một ít bụi bám trên cây xà ngang, vo thành một viên đất nhỏ, nhắm vào ngọn lửa búng tới. Ngọn nến lập tức tắt ngóm, An Kiến Thanh lầm bầm thóa mạ.

Viên Thừa Chí thừa lúc hắn đi tìm mồi lửa, nhẹ nhàng tuột xuống đất, đi ra phía sau nhà. Thấy bên chái nhà có một tên cẩm y vệ cầm đao nằm rạp dưới đất, tập trung tinh thần quan sát động tĩnh trong nhà, chàng bèn đến sát bên hắn, khẽ nói: “Có người đến!”

Tên cẩm y vệ đó hạ giọng trả lời: “Ừ, nằm xuống đi!”

Viên Thừa Chí nhanh tay điểm vào huyệt đạo hắn, cởi áo ngoài của hắn khoác lên người mình. Sau đó chàng xé một miếng vải trên người hắn để bịt mặt, khoét hai cái lỗ để nhìn được ra ngoài. Chàng ôm lấy hắn, bò đến bên tường.

Trong đêm tối tiếng vó ngựa mỗi lúc càng nghe rõ, rồi năm con ngựa dừng ngay trước cửa. Người trên lưng ngựa nhảy xuống, khẽ vỗ tay ba cái. An Kiến Thanh trong nhà cũng vỗ tay ba tiếng trả lời, thắp nến lên rồi núp vào sau cửa. Nghe tiếng cửa mở, một người thò đầu vào trong.

An Kiến Thanh vung đao chém lẹ, một cái đầu người rơi xuống lăn long lóc, máu tươi phun tóe ra. Dưới ánh nến, An Kiến Thanh nhìn cái đầu một cái, bất giác kinh hãi. Thì ra hắn vừa chém chết một đồng bọn của mình. Hắn chưa kịp la lên, bên ngoài đã có một người bịt mặt vọt vào, đưa tay điểm huyệt An Kiến Thanh, lại xoay tay điểm bồi vào huyệt Đại Truy ở sau gáy hắn. Huyệt Đại Truy là nơi tụ hội hai mạch Tam Dương, Đốc Mạch trên người nên An Kiến Thanh không sao động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí tiện tay đón lấy thanh đao trong tay hắn, nhẹ nhàng thả hắn xuống để đề phòng bọn gác ở ngoài nghe thấy. Chàng nhảy đến trước giường, dìu An đại nương lên, dùng đao cắt hết dây trói tay chân bà, khẽ nói: “An thẩm thẩm! Con đến cứu thẩm thẩm đây.”

An đại nương thấy chàng mặc sắc phục cẩm y vệ, mặt lại có khăn che kín, không khỏi lo lắng nghi ngờ. Bà vừa hỏi được một câu: “Tôn giá là ai” thì đã có năm người bước vào. Người vào đầu tiên chào hỏi An đại nương một tiếng, nhìn thấy tình hình trong nhà bỗng ngơ ngác đứng yên.

Bọn cẩm y vệ ở ngoài cửa thấy số người vào nhà đã khá đông, sợ một mình An Kiến Thanh không đối phó nổi. Hai tên liền xông vào trong, múa đao muốn chém. Viên Thừa Chí phóng chưởng ra cản trở, hai tên này gãy cổ chết ngay. Bọn địch bên ngoài liên tiếp chạy vào, Viên Thừa Chí vừa đánh vừa bắt từng tên một quẳng ra ngoài. Cũng có tên chưa kịp vào tới cửa đã bị đá ra. Chỉ chốc lát là mười hai cẩm y vệ và đám thị vệ trong hoàng cung đã bị Viên Thừa Chí đánh cho tối tăm mặt mũi, vắt giò lên cổ mà chạy.

Viên Thừa Chí xé hai miếng vải nhét vào tai An Kiến Thanh, lại cởi hai cái áo của bọn cẩm y vệ đã chết, bọc kín đầu hắn mấy lớp, để hắn không thể nghe được tiếng động bên ngoài, cũng không thể nhìn thấy chút xíu ánh sáng nào nữa. Sau đó chàng mới cởi khăn che mặt của mình, nhìn người đi đầu trong số năm người đến sau, mỉm cười nói: “Đại ca! Huynh khỏe chứ? Sấm Vương có khỏe không?”

Người kia ngẩn ra một chút rồi cười rộ lên ha hả, nắm lấy tay chàng lắc lia lịa. Thì ra đây là một đại tướng dưới trướng Sấm Vương, từng kết nghĩa huynh đệ với Viên Thừa Chí, chính là Lý Nham. Bốn người còn lại là vệ sĩ của ông.

Viên Thừa Chí vô tình cứu được hai cố nhân liên tiếp, hoan hỉ quay lại hỏi An đại nương: “An thẩm thẩm! Thẩm thẩm còn nhớ con không?”

Từ hồi Viên Thừa Chí tránh nạn ở nhà An đại nương đến nay đã nhiều năm rồi. Viên Thừa Chí từ một đứa bé đã thành người lớn, An đại nương làm sao nhận ra được?

Viên Thừa Chí lấy trong bọc ra chiếc vòng tay thắt bằng chỉ vàng mà ngày trước An đại nương đã tặng, lại nói: “Lúc nào con cũng mang theo bên mình.”

An đại nương nhớ ra, bèn kéo chàng đến bên ánh nến để nhìn cho kỹ. Quả nhiên trên lông mày bên trái của chàng vẫn còn vết sẹo dao để lại, bà vừa kinh hãi vừa mừng rỡ nói: “Con đấy ư? Con đã cao đến thế này rồi, lại học được võ công nữa.”

Viên Thừa Chí nói: “Con đã gặp Tiểu Huệ muội muội ở Chiết Giang. Muội muội cũng cao lắm rồi.”

An đại nương nói: “Thời gian trôi nhanh quá, bọn trẻ đều lớn cả rồi.” Bà liếc nhìn người chồng đang nằm dưới đất một cái, thở ra một hơi rồi ủ rũ nói: “Không ngờ vẫn là con đến cứu ta.”

Lý Nham không biết những giao tình lúc trước, nghe An đại nương kêu Viên Thừa Chí là con, chỉ nghĩ hai người là họ hàng. Ông mỉm cười nói: “Hôm nay nguy hiểm quá! Ta phụng mạng Sấm Vương, đến đây hẹn gặp mấy người ở tỉnh Hà Bắc. Tin tức của bọn cẩm y vệ thật là nhanh, biết được manh mối bèn tới đây mai phục.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Đại ca! Bạn của đại ca sắp đến chưa?”

Lý Nham chưa kịp đáp, tiếng vó ngựa đã từ xa vọng tới. Ông mỉm cười nói: “Đó không phải tiếng vó ngựa hay sao?”

Đám thủ hạ của ông ra mở cửa, không bao lâu đã đón ba người vào trong nhà. Trong ba người này có Điền Kiến Tú và Lưu Phương Lượng, năm xưa Viên Thừa Chí đã gặp ở đỉnh Thánh Phong. Hai người không thể nhận ra Viên Thừa Chí, nhưng chàng vẫn còn nhớ diện mạo của họ. Người còn lại họ Hầu, tên Phi Vân, mới gặp chàng trên đỉnh Thái Sơn.

Sau khi chào hỏi Lý Nham, Hầu Phi Vân quay sang cung kính thi lễ với Viên Thừa Chí, nói: “Minh chủ! Xin tham kiến minh chủ.”

Lý Nham và An đại nương cùng nói: “Thì ra mọi người đã quen biết nhau.”

Hầu Phi Vân nói: “Viên minh chủ là minh chủ bảy tỉnh, huynh đệ bọn tại hạ đều phải nghe hiệu lệnh.”

Lý Nham mừng rỡ nói: “Ta bận rộn ở tỉnh Hà Nam, tin tức ở phía đông đều bị chặn không nghe được. Thì ra đã có chuyện lớn như thế, thật đáng chúc mừng.”

Viên Thừa Chí nói: “Tháng trước tiểu đệ được bằng hữu giang hồ nể mặt mà tấn phong như vậy. Thật ra tiểu đệ không sao đảm đương nổi.”

Hầu Phi Vân nói: “Võ công minh chủ ít ai sánh nổi, kiến thức lại uyên thâm, chuyện đó không cần phải nói nhiều. Chỉ riêng phần nhân nghĩa của minh chủ, trong võ lâm chẳng ai là không thán phục. Trận chiến ở Thanh Châu, Kim Xà Doanh chúng ta nở mặt nở mày, hoàn toàn nhờ Viên minh chủ chỉ huy.”

Lý Nham cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu.” Sau đó ông truyền đạt lại chỉ thị của Sấm Vương. Thì ra Lý Tự Thành đã đại phá mười mấy vạn quân binh do Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình thống lĩnh tại Nhữ Châu, Nam Dương tỉnh Hà Nam. Lúc này Sấm Vương đang vây ép Đồng Quan, hạ lệnh cho Lý Nham bí mật đến Hà Bắc liên lạc quần hào để hưởng ứng.

Hầu Phi Vân hỏi: “Xin minh chủ cho ý kiến.”

Viên Thừa Chí nói: “Sấm Vương làm việc nghĩa, dĩ nhiên hào kiệt khắp thiên hạ nghe tin là khởi sự ngay. Bây giờ tiểu đệ lập tức đưa tin, hảo hán bảy tỉnh chúng ta phải làm một trận thật oanh liệt mới được.”

Sáu người nói chuyện khẳng khái hào hùng, mặt mày rạng rỡ. Viên Thừa Chí nhắc đến ba doanh thủ hạ của mình gồm sáu bảy ngàn nhân mã, đang đóng ở vùng Mã Cốc Sơn biên giới Trực Lệ Sơn Đông. Lý Nham mừng rỡ nói: “Ta từng nghe tiếng Kim Xà Doanh, nhưng không sao thám thính được danh tính của Kim Xà Vương, thì ra là hiền đệ. Để ta bẩm báo với Sấm Vương rõ ràng ba doanh này do đệ chỉ huy, thế thì binh lực chúng ta càng mạnh hơn.”

Lý Nham lại nói: “Quan quân đã thối nát lắm rồi, nghĩa binh bao vây chỗ nào là chỗ đó lập tức tan rã. Sấm quân thắng dễ như chẻ tre, nhưng trước mắt đang có một vấn đề nan giải.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Vấn đề gì thế?”

Lý Nham đáp: “Vừa rồi có tin cấp báo, nói là có mười khẩu Hồng Nhi đại pháo của Tây dương đang vận chuyển đến Đồng Quan, yểm trợ cho Tôn Truyền Đình. Sau khi lão họ Tôn đại bại, binh sĩ không còn tinh thần chiến đấu nữa, không thể làm khó dễ chúng ta. Nhưng oai lực của Hồng Nhi đại pháo thì không thể nào coi thường, một khẩu pháo bắn ra là sát thương mấy chục mạng ngay lập tức. Đó chính là việc chúng ta lo lắng.”

Viên Thừa Chí nói: “Mười khẩu đại pháo đó, tiểu đệ từng gặp dọc đường. Mới nhìn đã thấy đáng sợ, chắc là oai lực phi thường. Chẳng lẽ mười khẩu đại pháo này không phải vận chuyển đến Sơn Hải Quan để đánh bọn Mãn Châu hay sao?”

Lý Nham đáp: “Những khẩu đại pháo này từ vạn dặm xa xôi vận chuyển đến đây. Nghe nói, đáng lẽ chúng được đưa đến Sơn Hải Quan để đối phó với quân Mãn Châu. Nhưng Sấm Vương thắng hết trận này đến trận khác, nên triều đình đã thay đổi ý kiến. Bây giờ mười khẩu đại pháo đã chuyển hướng về phía tây, đi về phía Đồng Quan.”

Viên Thừa Chí chau mày nói: “Thì ra hoàng đế coi việc trấn áp bá tính còn quan trọng hơn kháng cự ngoại xâm. Đại ca! Theo đại ca thì phải làm gì?”

Lý Nham nói: “Nếu những khẩu đại pháo đến được Đồng Quan, khi chúng ta tấn công quan ải này chắc phải đem máu thịt mà chọi với hỏa khí. Tuy chưa chắc thua trận, nhưng nhất định tổn thương rất nhiều.”

Viên Thừa Chí nói: “Vậy chúng ta phải chặn dọc đường.”

Lý Nham xoa tay, mừng rỡ nói: “Đại công này phải phiền tới hiền đệ rồi.”

Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc rồi nói: “Hỏa khí của bọn lính Tây dương này thật là lợi hại, tiểu đệ đã thấy rồi. Muốn đoạt đại pháo, phải có mưu kế đặc biệt, thành công hay không thì bây giờ khó nói. Nhưng việc này liên quan đến khí số cả thiên hạ, tiểu đệ nhất định sẽ tận lực. Nếu dựa vào thần oai của Sấm Vương mà ra tay thành công, đó là phước của muôn dân.”

Mọi người nói chuyện một hồi về quân lữ, rồi Viên Thừa Chí hỏi đến phu nhân của Lý Nham. Lý Nham đáp: “Bà ấy ở Hà Nam, vẫn thường nhắc đến hiền đệ.”

An đại nương nói xen vào: “Phu nhân của Lý tướng quân đúng là nữ trung hào kiệt. Thừa Chí, con đã có ý trung nhân chưa?”

Viên Thừa Chí chợt nghĩ đến Thanh Thanh, đỏ mặt mỉm cười không đáp. An đại nương thở dài nói: “Nhân tài như con, không biết cô nương nhà nào có phước đây?”

Đột nhiên bà nhớ đến Tiểu Huệ. Tiểu Huệ cùng Viên Thừa Chí là bạn thanh mai trúc mã, cùng chung hoạn nạn từ hồi nhỏ. Nếu chàng có thể là con rể của mình, thì coi như chuyện chung thân của Tiểu Huệ có nơi có chốn. Nhưng Tiểu Huệ lại thân thiết với tên Thôi Hy Mẫn ngơ ngơ ngáo ngáo rồi! Chuyện này phải có duyên mới được.

Ba người Điền, Lưu, Hầu nghe họ nhắc đến chuyện riêng, không thể nói xen vào, bèn đứng dậy cáo từ. Hầu Phi Vân nói: “Minh chủ! Sáng sớm mai tại hạ sẽ dẫn anh em bản bộ đến nghe lệnh.”

Viên Thừa Chí đáp: “Hay lắm.” Hầu Phi Vân hỏi địa điểm gặp nhau, rồi ba người cáo từ rời khỏi đó.

Lý Nham và Viên Thừa Chí ngồi đàm luận tình hình thiên hạ cả một đêm dài, càng nói càng tâm đầu ý hợp. Viên Thừa Chí hiểu biết về quốc gia hưng suy, thế cuộc biến hóa có phần nông cạn, mỗi câu nói của Lý Nham đều khiến chàng tăng thêm phần kiến thức. Mãi đến khi trời sáng hẳn, gà đã gáy ba lần, hai người vẫn chưa hết hứng thú.

Quay lại nhìn An đại nương, chợt thấy bà đang chống tay dưới cằm, ngẩn ngơ nhìn người chồng đang nằm dưới đất, im lặng xuất thần. Lý Nham khẽ gọi: “An đại nương!”

An đại nương ngẩng đầu lên. Lý Nham hỏi: “Người này xử lý như thế nào?”

Lúc này lòng dạ An đại nương trăm mối ngổn ngang, lắc đầu không đáp. Lý Nham biết bà khó mà quyết đoán, không muốn xen vào việc đó nữa. Ông nói với Viên Thừa Chí: “Hiền đệ, chúng ta tạm biệt ở đây.”

Viên Thừa Chí nói: “Để tiểu đệ tiễn đại ca một đoạn.”

Hai người cáo biệt An đại nương, dắt tay nhau bước ra đường. Vệ sĩ của Lý Nham xa xa đi theo. Hai người vừa đi vừa nói chuyện, được bảy tám dặm đường thì Lý Nham bảo: “Hiền đệ về đi.”

Viên Thừa Chí chưa nỡ chia tay người anh kết nghĩa. Lý Nham lại nói: “Hiền đệ! Sau khi đại nghiệp của Sấm Vương thành công, ta sẽ cùng hiền đệ ẩn cư vào nơi rừng núi, uống rượu nói chuyện làm vui. Ngày tháng sau này còn dài lắm.”

Viên Thừa Chí hân hoan nói: “Nếu được như thế, tiểu đệ coi như toại nguyện.”

Hai người chia tay tại đó.

Viên Thừa Chí đưa mắt nhìn nghĩa huynh lên ngựa, chờ đám bụi mù khuất hẳn đằng xa mới quay về khách sạn. Hầu Phi Vân đã dẫn mấy chục hán tử tráng kiện chờ trong khách sạn, đứng đầy cả đại sảnh lẫn mấy khu vườn xung quanh. Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải lại không có ở đó. A Cửu cùng đám tùy tùng nhìn thấy nhiều đại hán thô lỗ như vậy, cứ ở yên trong phòng không bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí bảo Hầu Phi Vân: “Hầu huynh! Huynh dẫn mấy huynh đệ đi về hướng tây nam, xem đội lính Tây dương kia mang đại pháo đi về hướng bắc hay quay lại hướng tây. Xem rõ rồi lập tức quay về cho ta biết.” Hầu Phi Vân nhận lệnh, chọn ba người khỏe mạnh rồi ra khỏi khách sạn lên ngựa đi ngay.

Hầu Phi Vân vừa đi, Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc chạy vào trong khách sạn, mừng rỡ nói: “À, Viên tướng công về rồi.”

Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời thì thấy Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải đi vào trong sảnh. Bộ tóc mượt mà của Thanh Thanh bị gió thổi rối bù, mặt đỏ bừng. Vừa nhìn thấy Viên Thừa Chí là nàng lộ vẻ hân hoan ngay, cất tiếng hỏi: “Sao đến bây giờ mới quay lại?”

Viên Thừa Chí biết mọi người không yên tâm, chia nhau đi đón mình, bèn kể lại những chuyện đêm qua. Thanh Thanh cúi mặt nhìn xuống, không nói tiếng nào. Viên Thừa Chí thấy thần sắc nàng khác lạ, liền kéo qua một bên khẽ nói: “Ta bắt muội phải lo lắng rồi.”

Thanh Thanh xoay lưng lại chàng. Viên Thừa Chí biết nàng đang tức giận, nhưng vẫn cố nói: “Tiếc là Thanh đệ không gặp Lý đại ca của huynh. Huynh ấy cũng là đại ca của Thanh đệ rồi.” Tuy Thanh Thanh là nữ nhân, nhưng Viên Thừa Chí cứ thuận miệng gọi nàng là Thanh đệ.

Thanh Thanh giận dỗi nói: “Huynh không có lương tâm, ai cần ca ca làm gì nữa!”

Viên Thừa Chí nói: “Huynh thật sự xin lỗi, lần sau nhất định không để Thanh đệ phải lo lắng nữa.”

Thanh Thanh nói: “Lần sau đã có người khác lo lắng cho huynh rồi, cần gì muội phải lo lắng!”

Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Ai vậy?”

Thanh Thanh bĩu môi nói: “A Cửu chứ còn ai! Người đẹp không ngớt hỏi huynh đi đâu, lo lắng muôn phần.” Nàng dậm chân một cái, bỏ về phòng mình.

Đợi đến bữa trưa, không thấy nàng ra ngoài ăn cơm, Viên Thừa Chí bèn gọi tiểu nhị đưa thức ăn vào phòng cho nàng, đợi ăn cơm xong rồi vào tạ lỗi. Chàng nhớ lại sắc thái hoảng loạn của nàng khi nãy, trong lòng có phần cảm động. Nào ngờ tiểu nhị bưng thức ăn quay lại, nói: “Cô nương không có trong phòng.”

Viên Thừa Chí kinh hãi buông đũa, chạy vào phòng Thanh Thanh. Chẳng những phòng không có người, ngay cả binh khí và hành lý cũng không còn nữa. Chàng lo lắng nghĩ thầm: “Nàng đang tức giận như vậy, không biết sẽ đi đâu. Cô này thường gây chuyện không hay, thật sự khiến cho người ta không yên tâm được.”

Bây giờ chàng đang có việc lớn để lo, không thể đích thân đi tìm, bèn nhờ tới Hồng Thắng Hải. Chàng dặn Hồng Thắng Hải hễ gặp nàng thì khó khăn cách mấy cũng phải khuyên nàng quay lại.

Đợi đến xế chiều, Hầu Phi Vân cưỡi khoái mã quay về, vào cửa là nói ngay: “Quả nhiên bọn Tây dương đã rẽ sang hướng tây. Chúng ta nhanh chóng đuổi theo!”

Viên Thừa Chí lập tức đứng dậy, phân công ông câm ở lại khách sạn canh giữ rương sắt, còn mình dẫn bốn người Trình, Sa, Hồ, Thiết, cùng Hầu Phi Vân và quần hào Hà Bắc suốt đêm chạy về hướng tây nam, đoán là những khẩu đại pháo không thể đi nhanh, nhất định sẽ đuổi kịp. Đến sáng sớm ngày thứ ba, đoàn người Viên Thừa Chí đi ngang một thị trấn nhỏ, nhìn thấy mười khẩu đại pháo đó xếp một dãy bên ngoài khách sạn, bên cạnh có sáu tên lính Tây dương cầm súng canh giữ.

Mọi người mừng rỡ nhìn nhau mỉm cười. Thiết La Hán la lên: “Đói bụng rồi, đói bụng rồi!”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Chúng ta vào gặp lại hai võ quan Tây dương kia.”

Mọi người vào phạn điếm. Thiết La Hán đi đầu, vừa lên lầu bỗng kinh hãi la lên. Y thấy mấy tên lính Tây dương đang cầm súng nhắm vào Thanh Thanh, ngón tay đã đặt vào cò súng. Trên đó còn có hai võ quan Bỉ Đắc, Lôi Mông và cô gái Tây dương Nhược Khắc Lâm.

Lôi Mông thấy mọi người đi lên, bèn xì xồ ra lệnh mấy tiếng. Lại thêm mấy tên lính Tây dương đưa súng lên nhắm vào quần hào. Trong lúc gấp rút Viên Thừa Chí nảy ra một ý, bèn xách một cái bàn quăng lẹ vào bọn lính Tây dương, rồi bay người tới đưa tay nắm vai Thanh Thanh ấn xuống. Hai người cúi rạp xuống, một đợt khói mù khét lẹt xộc vào mũi. Khi loạt đạn đó bắn ra, những viên đạn chì ghim hết vào mặt bàn.

Viên Thừa Chí sợ hỏa khí Tây dương lợi hại, vội la lên: “Mọi người mau xuống lầu!” Rồi chàng kéo Thanh Thanh theo mọi người nhảy xuống.

Lôi Mông cả giận, đưa súng ngắn bắn ra một phát. Thiết La Hán “úi chà” một tiếng, dưới mông bị một viên chì bắn trúng, té nhào xống đất. Sa Thiên Quảng vội tới dìu y dậy, rồi mọi người lên ngựa chạy về hướng nam.

Lúc này hỏa khí của Tây dương sử dụng chưa được tiện lợi, cứ bắn xong một phát lại phải nạp thêm thuốc súng và những viên chì. Bọn lính Tây dương bắn một phát không trúng, nạp xong thuốc súng để chuẩn bị bắn phát thứ hai thì mọi người đã chạy xa rồi.

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cỡi chung một con ngựa. Vừa chạy Viên Thừa Chí vừa hỏi: “Sao lại cãi nhau với bọn lính Tây dương?”

Thanh Thanh đáp: “Đệ có biết đâu!”

Viên Thừa Chí thấy thần sắc nàng vẫn tươi tỉnh yểu điệu, nhưng có vẻ không muốn nói thật. Chàng biết chắc nàng có gì muốn giấu, nên chỉ mỉm cười một cái không nói gì. Ba ngày nay, ngày nào đêm nào cũng mong nhớ, bây giờ gặp lại nhau vui vẻ vô cùng.

Chạy hơn hai mươi dặm thì đến một thị trấn, mọi người xuống ngựa ăn cơm. Hồ Quế Nam dùng dao nhỏ khều lấy viên chì ghim ở mông Thiết La Hán ra, y đau quá kêu la ầm ĩ.

Thanh Thanh kéo Viên Thừa Chí đến ngồi ở một cái bàn phía tây, khẽ nói: “Ai bảo con mụ ấy trang điểm giống như yêu quái, ngay cả cánh tay cũng để lộ ra ngoài. Thật là không biết xấu hổ.”

Viên Thừa Chí không hiểu gì cả, hỏi lại: “Muội nói ai?”

Thanh Thanh đáp: “Nữ nhân Tây dương kia chứ còn ai!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Cô ấy làm phiền gì tới Thanh đệ?”

Thanh Thanh mỉm cười đáp: “Muội nhìn không quen mắt, nên dùng hai đồng tiền đánh rơi cặp hoa tai của cô ấy.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Trời ơi, Thanh đệ ẩu tả quá. Sau đó thế nào?”

Thanh Thanh nói: “Tên võ quan Tây dương tỉ kiếm thua muội lần trước kêu bọn lính chĩa súng nhắm vào muội. Muội nghe không hiểu, đoán là hắn muốn tỉ kiếm báo thù, nên không nói gì, nghĩ bụng: Muốn tỉ kiếm thì tỉ kiếm, chẳng lẽ ta sợ ngươi? Đúng lúc đó thì huynh đến.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao muội một mình bỏ đi?”

Thanh Thanh đang cười nói vui vẻ, vừa nghe câu này bỗng xịu mặt xuống, hỏi lại: “Huynh lại còn hỏi muội! Chuyện chính mình làm, mình lại không biết ư?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta không biết thật mà. Ta đắc tội với Thanh đệ chuyện gì thế?”

Thanh Thanh nói: “Huynh cả đêm không về khách sạn, nhất định là hẹn hò với cô A Cửu xinh đẹp rồi. Đêm đó hai người vui vẻ ở đâu vậy?”

Viên Thừa Chí mắng: “Vui vẻ cái đầu muội!”

Thanh Thanh đưa tay ra toan tát, Viên Thừa Chí túm được rồi kề môi hôn nhẹ lên lưng bàn tay. Thanh Thanh phì cười rồi cựa quậy rút tay về.

Viên Thừa Chí nói: “Đúng là đêm đó ta ở cạnh một nữ nhân, nhưng tuổi tác bà ấy so với bà nội của A Cửu chắc không chênh lệch lắm.”

Thanh Thanh hỏi: “Ai vậy?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đó là An thẩm thẩm, mẫu thân của An Tiểu Huệ. Nhưng An Tiểu Huệ không có ở đó.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Đồ vô dụng! Thì ra người đẹp không đếm xỉa đến huynh, huynh phải đi tìm bà lão.”

Viên Thừa Chí biết, nếu kể tiếp về An đại nương thì Thanh Thanh nhất định tiếp tục không vui, bèn đổi đề tài: “Hỏa khí của bọn Tây dương lợi hại thật. Muội nghĩ xem, mình phải dùng cách gì mới cướp được những khẩu đại pháo của chúng?”

Thanh Thanh gắt gỏng: “Ai thèm nói chuyện với huynh?”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì ta đi bàn bạc với Sa Thiên Quảng.” Nói xong chàng đứng dậy đi ngay.

Thanh Thanh vội đưa tay ra túm lấy vạt áo chàng, la lên: “Không cho huynh đi!”

Nàng nói chưa dứt câu, Thừa Chí đã mỉm cười ngồi xuống. Hồi lâu, Thanh Thanh cất tiếng hỏi: “Tiểu Huệ muội muội của huynh đâu rồi?”

Thừa Chí đáp: “Từ lúc chia tay vẫn chưa gặp lại. Không biết cô ấy ở đâu.”

Thanh Thanh hỏi: “Huynh nói chuyện suốt đêm với mẹ cô ấy, không nỡ chia tay, nhất định là nói về cô ấy chứ gì?”

Viên Thừa Chí đã hiểu, thì ra nàng tức giận vì vấn đề này. Chàng bèn thành khẩn nói: “Thanh đệ! Tấm lòng của ta đối với muội, chẳng lẽ muội còn chưa hiểu?”

Khuôn mặt Thanh Thanh đỏ ửng lên, từ từ quay đi. Viên Thừa Chí lại mỉm cười nói: “Từ nay về sau, ta vĩnh viễn không rời Thanh đệ nữa. Thanh đệ hãy yên tâm.”

Thanh Thanh hỏi: “Thế thì tại sao mỗi khi huynh gặp cô A Cửu đó là cặp mắt của hai người đều chứa chan tình cảm? Huynh nhìn cô ấy, cô ấy cũng nhìn huynh, cứ như hai bên đều mong muốn vĩnh viễn không phải phân ly. Huynh thích nhìn cô ấy, là vì cô ấy xinh đẹp. Muội cũng thích nhìn, chuyện này không thể trách huynh được. Nhưng sao cô ấy cứ nhìn huynh hoài? Chẳng lẽ huynh tuấn tú lắm sao?”

Viên Thừa Chí gắng gượng cãi: “Làm gì có chuyện đó? Thanh đệ cứ nhắm mắt nói bừa, vu oan người khác.”

Thanh Thanh nói rất nhỏ: “Thế thì tại sao huynh… huynh tốt với Tiểu Huệ muội muội?”

Thừa Chí đáp: “Hồi nhỏ huynh được mẫu thân cô ấy đối đãi rất tốt, coi như con ruột vậy, dĩ nhiên huynh phải cảm kích. Hơn nữa, Thanh đệ không thấy Tiểu Huệ có tình cảm với sư điệt của ta hay sao?”

Thanh Thanh bĩu môi nói: “Huynh nói thằng lỏi họ Thôi ấy à? Hắn vừa ngu ngốc vừa không có bản lãnh, lại rất xấu trai, làm sao cô ấy thích được?”

Thừa Chí mỉm cười nói: “Người thích rau xanh người thích củ cải, ai cũng có sở thích riêng. Thằng lỏi họ Viên này vừa ngu ngốc vừa không có bản lãnh, lại rất xấu trai, tại sao Thanh đệ lại thích?”

Thanh Thanh phì cười rồi nói: “Thật là không biết xấu hổ! Ai thèm thích huynh?”

Cãi nhau sơ sơ một trận, hai người lại hòa thuận như cũ. Thừa Chí bảo: “Thôi, ăn cơm đi.”

Thanh Thanh nói: “Muội còn một câu muốn hỏi. Huynh nói đi, tiểu cô nương A Cửu có xinh đẹp hay không?”

Thừa Chí đáp: “Cô ấy xinh đẹp hay không, chẳng liên quan gì đến ta. Người này hành tung vừa kỳ lạ vừa bí mật, chúng ta phải cẩn thận đề phòng.” Chàng nghĩ bụng: “Cô ấy dẫn theo một số thị vệ trong triều đình, không biết vai vế thế nào. Nếu không phải hoàng thân quốc thích, chắc chắn cũng là quyến thuộc của bọn đại quan.” Chàng không khỏi ủ rũ, trong lòng khó chịu.

Thanh Thanh khẽ gật đầu, rồi hai người quay lại bàn của quần hào, ngồi xuống ăn cơm. Viên Thừa Chí bàn bạc với Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, tìm cách cướp lấy đại pháo.

Hồ Quế Nam nói: “Đêm nay để tại hạ đi thám thính, thừa cơ lấy trộm mấy khẩu súng. Hôm nay mấy khẩu, ngày mai mấy khẩu, từ từ ăn cắp hết súng ống của chúng thì chúng không còn đáng sợ nữa.”

Viên Thừa Chí khen: “Kế ấy rất hay. Để tại hạ cùng đi với huynh.”

Sa Thiên Quảng nói: “Minh chủ hà tất đích thân xuất mã, để Hồ lão đệ đi một mình là được.”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ muốn xem rõ cách sử dụng hỏa khí của bọn Tây dương. Khi lấy được súng, chúng ta có thể dùng gậy ông đập lưng ông.”

Mọi người cùng gật đầu khen phải. Thanh Thanh mỉm cười nói thêm: “Huynh ấy còn muốn nhìn trộm người đẹp Tây dương một chút.”

Quần hào cười ha hả.

Chiều hôm đó, Viên Thừa Chí cùng Hồ Quế Nam quay ngựa đi ngược lại, từ xa theo dõi lính Tây dương, đợi xem chúng trú lại khách sạn nào. Đợi đến canh ba, hai người vượt tường vào trong khách sạn. Vừa nhảy xuống sân, đã nghe tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng, từ một căn phòng vọng ra ngoài không dứt.

Hai người nấp sau cửa sổ, theo khe cửa nhìn vào, thấy hai võ quan Tây dương đang cầm trường kiếm đấu nhau kịch liệt. Viên Thừa Chí không ngờ hai tên này là đồng bọn mà đánh nhau như thế, bèn im lặng ngồi yên, theo dõi hai người tỉ đấu. Xem được mấy chục chiêu, chàng thấy Lôi Mông tấn công ráo riết, kiếm pháp ác độc còn Bỉ Đắc thì bình tĩnh lạ thường, thủ nhiều công ít, nhưng mỗi khi phản đòn đều rất lợi hại. Viên Thừa Chí biết, thời gian kéo dài thì tên võ quan lớn tuổi hơn chắc chắn phải thua.

Quả nhiên tỉ đấu hồi lâu, Bỉ Đắc xoay kiếm đâm sang bên trái. Nhân lúc thanh kiếm của đối phương chưa rút về ngay được, y đột nhiên đâm thẳng tới. Lôi Mông vội vàng thu kiếm lại cản trở, thân kiếm bị lệch đi, không có thế để cầm chắc. Bỉ Đắc lập tức từ dưới vung kiếm hất mạnh lên, trường kiếm của Lôi Mông tuột ngay khỏi tay.

Bỉ Đắc bước lên, dùng chân đạp cứng thanh kiếm đó xuống đất, chĩa mũi kiếm vào giữa ngực đối phương, nói xì xồ mấy câu gì đó. Lôi Mông tức đến run cả người, lầm bầm chửi mắng. Bỉ Đắc nhặt thanh kiếm lên đặt trên bàn, rồi quay người mở cửa đi ra.

Lôi Mông cầm kiếm, vừa chửi vừa chém ngang chém dọc trong phòng. Đột nhiên hắn dừng tay lại, cười rạng rỡ, mở cửa ra ngoài lấy vào một cây xẻng sắt, bắt đầu đào dưới nền nhà. Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam lại càng tò mò hơn, chờ xem hắn định chôn giấu thứ gì.

Hắn đào một cái lỗ vuông chừng hai thước, đất đá bới lên đều hất vào gầm giường. Đào sâu khoảng hai thước hắn mới dừng tay, xé một miếng chăn đậy lên miệng lỗ, dùng đất đá nén chặt quanh mép chăn, cuối cùng rải một lớp đất mỏng lên trên để ngụy trang. Hắn cười nhạt mấy tiếng, mở cửa bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam không hiểu hắn định làm gì, chắc là chuẩn bị thi triển yêu pháp gì đó của Tây dương.

Lát sau Lôi Mông lại vào phòng, Bỉ Đắc theo sau. Lôi Mông nói gì đó ra vẻ giận dữ, còn Bỉ Đắc cứ lắc đầu quầy quậy. Đột nhiên nghe “bốp” một tiếng, Lôi Mông vung tay tát đối phương một phát. Bỉ Đắc nổi giận tuốt kiếm ra khỏi vỏ, hai người tiếp tục tỉ đấu. Lôi Mông không ngừng di chuyển bước chân, từ từ dụ Bỉ Đắc tới bên miệng hố.

Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu rõ. Thì ra tên này đánh không lại, bèn âm thầm cài bẫy. Hắn xử sự nham hiểm như thế, rõ ràng không thể không giết đối phương. Viên Thừa Chí đối với cả hai vốn không có thiện cảm, nhưng bây giờ thấy Lôi Mông mưu đồ xảo trá, bất giác nổi lòng hiệp nghĩa.

Lôi Mông liên tiếp đâm thẳng mấy kiếm, đều bị Bỉ Đắc đỡ gạt. Khi Bỉ Đắc vung kiếm phản công, Lôi Mông bèn lùi hai bước. Chân phải Bỉ Đắc bước theo, đạp trúng vào miệng hố. Y la lên một tiếng, té nhào xuống. Lôi Mông chĩa mũi kiếm xuống, định đâm vào lưng đối thủ.

Viên Thừa Chí đã chuẩn bị sẵn rồi, vội xô cửa sổ nhảy vào. Thanh Kim Xà Kiếm đưa ra, lưỡi rắn trên đầu kiếm móc lấy sống kiếm của Lôi Mông kéo ngược ra sau. Bỉ Đắc thoát được đại nạn, lập tức nhảy lên, nhưng chân phải đã trật khớp.

Lôi Mông thấy chuyện đã hỏng, vừa kinh hãi vừa giận dữ vung kiếm đâm tới Viên Thừa Chí. Chàng cười lạnh, cầm Kim Xà Kiếm vẫy trái vẫy phải. Nghe những tiếng keng keng không dứt, thanh kiếm của Lôi Mông bị Kim Xà Kiếm chặt đứt từng tấc một, trong chốc lát chỉ còn lại một đoạn ngắn ngủn. Lôi Mông đứng ngẩn người ra.

Viên Thừa Chí vọt đến nắm lấy cổ tay hắn, thuận tay nhấc bổng lên, chân trên đầu dưới quẳng hắn vào trong cái hố chính tay hắn đào ở trong phòng, rồi vừa cười ha hả vừa nhảy ra ngoài cửa sổ.

Hồ Quế Nam từ phía sau chạy tới, cười nói: “Viên tướng công xem này.” Y đưa tay lên, trong tay đang cầm ba khẩu súng ngắn.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Huynh lấy ở đâu ra thế?”

Hồ Quế Nam chỉ vào trong cửa sổ. Thì ra lúc Viên Thừa Chí xuất thủ cứu người, Hồ Quế Nam cũng vào trong đó, thừa lúc lộn xộn mà đánh cắp ba khẩu súng ngắn của bọn võ quan Tây dương.

Viên Thừa Chí mỉm cười khen: “Thật không hổ danh Thánh Thủ Thần Thâu.”

Hai người chạy lẹ về, tụ họp với quần hào. Thanh Thanh lấy một khẩu súng cầm chơi, vô ý ấn vào cò súng. Lập tức nghe tiếng nổ “đoàng”, khói mù mịt xung quanh. Sa Thiên Quảng ngồi đối diện nàng, rất may là tay chân nhanh nhẹn nên rụt đầu xuống tránh được. Cả nón lẫn khăn quấn trên đầu đều bị bắn rơi, mặt y vương đầy khói súng.

Thanh Thanh vô cùng kinh hãi, luôn miệng xin lỗi. Sa Thiên Quảng le lưỡi ra nói: “Lợi hại quá!”

Mọi người xem xét tỉ mỉ hai khẩu súng ngắn kia, thấy trong nòng súng nhồi đầy thuốc súng và đạn chì. Trình Thanh Trúc nói: “Thuốc súng vốn là phát minh của Trung Quốc, nhưng chúng ta chỉ dùng làm pháo để đốt hay pháo hoa để bắn chơi. Người Tây dương học được, lại dùng thuốc súng để giết người. Đội lính Tây dương này có hơn trăm tên, nếu hơn trăm cây súng đồng loạt bắn ra thì không phải chuyện đùa.”

Mọi người đều cảm thấy hỏa khí của bọn Tây dương lợi hại, không thể dùng võ công mà đối địch, nên nhất thời đều im lặng để suy nghĩ cách đối phó.

Hồ Quế Nam lên tiếng: “Viên tướng công! Tại hạ có một quỷ kế, có thể dựng tuồng trên sân khấu, nhưng không biết có dùng được hay không.”

Thiết La Hán cười nói: “Hình như tên ăn trộm này chẳng có ý kiến nào đàng hoàng cả.”

Viên Thừa Chí nói: “Hồ huynh cứ nói thử xem.”

Hồ Quế Nam mỉm cười nói ra. Thanh Thanh là người đầu tiên vỗ tay khen ngợi, Sa Thiên Quảng cùng mọi người đều tán dương là diệu kế. Viên Thừa Chí suy nghĩ kỹ lưỡng, cảm thấy mưu kế này có thể thực hiện được, bèn hạ lệnh chia nhau bố trí.

*

*   *

Cô gái Tây dương Nhược Khắc Lâm có phụ thân là đại quan Bồ Đào Nha đồn trú tại Ma Cao, vừa chết năm ngoái. Lần này nàng theo chiếc thuyền vận chuyển đại pháo đến Trung Quốc, lại theo đội quân áp tải đại pháo lên phía bắc, khi đến Thiên Tân sẽ lên thuyền về nước.

Bỉ Đắc là thuộc hạ của phụ thân Nhược Khắc Lâm, đã thầm yêu nàng từ lâu rồi. Còn Lôi Mông mới từ Bồ Đào Nha đến, thấy người đẹp muốn ra tay đoạt lấy. Hắn cấp bậc cao hơn, lại tự cho mình phong lưu, nhưng nghĩ mãi không biết phải ra tay như thế nào. Trong lúc giận dữ, hắn khiêu chiến với tình địch, tỉ kiếm bị thua nên mới sử dụng quỷ kế, không ngờ quỷ kế sắp thành lại bị Viên Thừa Chí nhảy vào phá đám. Bỉ Đắc coi hắn là thượng cấp nên không dám làm gì, chỉ biết đề phòng nghiêm ngặt hơn.

Một hôm đến một thôn trang lớn, gọi là thôn Phàn Công. Bọn lính Tây dương nghỉ lại ở từ đường nhà họ Vạn trong thôn trang này. Đến giữa đêm đột nhiên nghe thấy tiếng người ồn ào, rồi tên lính Tây dương canh gác chạy vào hô lớn: “Trong thôn có đám cháy!”

Lôi Mông và Bỉ Đắc nhảy chồm dậy, thấy lửa cháy rất gần, bèn hạ lệnh cho quân lính khiêng thuốc súng ra khỏi từ đường, để ở chỗ trống. Trong lúc hỗn loạn, bỗng thấy dân làng xách nước đến cứu hỏa. Mấy chục đại hán xông vào trong từ đường, tưới nước khắp nơi.

Lôi Mông quát hỏi nguyên nhân, đám dân làng bèn nói với tên phiên dịch Tiền Thông Tứ: “Đây là từ đường tổ tiên bọn tiểu nhân, phải tạt nước trước để đề phòng ngọn lửa bén sang.”

Lôi Mông nghe có lý, nên không can thiệp. Nào ngờ dân làng tiện tay vẩy nước loạn xạ, tạt bừa lên cả những thùng thuốc súng. Bọn lính Tây dương dùng báng súng đánh đuổi, nhưng đuổi người này đi người khác lại tới. Thời gian chưa ăn xong bữa cơm, trong ngoài từ đường đều ướt sũng, kể cả những thùng thuốc súng cùng đại pháo. Lúc này thế lửa đã dần dần hạ xuống.

Đợt lộn xộn này kéo dài đến sáng. Lôi Mông và Bỉ Đắc thấy hành động của đám dân làng này khác lạ, thuốc súng của mình ướt hết, dường như súng ống cũng mất nhiều, bèn nghĩ: “Nơi này có phần cổ quái, nhanh chóng rời khỏi thì hay hơn”.

Chúng định hạ lệnh khởi hành, bỗng một tên lính chạy vào báo: “Trong lúc hoảng loạn đêm qua, đám ngựa kéo xe kéo pháo đã chạy trốn sạch.”

Lôi Mông vung roi ngựa quất loạn lên, mắng chửi bọn lính không cẩn thận. Hắn hạ lệnh cho Tiền Thông Tứ dẫn lính Tây dương ra ngoài tìm lừa ngựa. Không ngờ trong cái thôn khá lớn này không có một con lừa hay ngựa nào. Chắc chắn dân làng đã biết tin, đem giấu hết rồi.

Thế này thì không sao khởi hành được. Lôi Mông đành sai Tiền Thông Tứ dẫn Bỉ Đắc đến thị trấn phía trước để tìm mua lừa ngựa.

Lôi Mông ở lại, chỉ huy quân sĩ mở thùng thuốc súng đổ ra phơi. Phơi đến xế chiều thì thuốc súng đã khô. Binh lính đang định gom lại vào trong thùng, đột nhiên từ nhà bên cạnh có mấy chục ngọn đuốc quăng ra, rơi vào giữa chỗ thuốc súng đang phơi.

Ngọn lửa lập tức bốc lên, cao thấu trời xanh. Bọn lính Tây dương hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, giẫm đạp lên nhau mà chạy trốn. Lôi Mông phải luôn mồm quát tháo chúng mới tập hợp lại được, rồi lấy súng ra bắn ầm ầm vào ngôi nhà đó. Trong khói súng mịt mù, mấy chục đại hán chuồn vào trong rừng rồi mất hút.

Lôi Mông kiểm điểm lại, thấy thuốc súng đã cháy mất tám chín phần mười, súng cũng bị mất chừng một nửa. Hắn vô cùng ủ rũ.

Đến chiều ngày thứ ba, Bỉ Đắc mới dẫn về được mấy chục con lừa ngựa để kéo pháo.

Sau bốn năm ngày đường, hôm đó đoàn lừa ngựa kéo pháo đến một eo núi hẹp, dẫn xuống thung lũng. Trước mắt là đoạn đường dốc rất đứng. Lôi Mông và Bỉ Đắc chỉ huy binh sĩ, mười mấy tên phụ trách một khẩu đại pháo, dùng dây lớn cột chắc để kéo ghịt lại, đề phòng đại pháo rơi xuống vực.

Càng xuống càng thấy nguy hiểm hơn. Trong lúc cả bọn đang lo lắng, dồn hết sức để kéo đại pháo, đột nhiên xung quanh eo núi rít lên những tiếng veo véo, mấy chục mũi tên bắn ra ngoài.

Mười mấy tên lính Tây dương lập tức trúng tên, lại còn mười mấy mũi ghim trúng vào thân lừa ngựa. Lừa ngựa bị đau, nhảy cẫng lên chạy gấp xuống dưới, làm sao bọn lính Tây dương ghìm lại nổi? Mười mấy khẩu pháo, mỗi khẩu nặng hơn ngàn cân, tuôn ào ào xuống dốc, khí thế không sao cản được. Họa vô đơn chí, dọc đường lại bất ngờ xuất hiện rất nhiều ổ gà và hầm hố, một số lừa ngựa rơi xuống hố.

Nghe tiếng lăn ầm ầm, hai khẩu đại pháo đi sau cùng đã mất điều khiển, đổ nhào xuống, ép mấy tên lính Tây dương nát ra thành tương. Tám khẩu đại pháo phía trước cũng lập tức bị hai khẩu đại pháo này đẩy nhào xuống.

Quân lính không còn tâm trí đâu mà chống địch nữa, phải lo chạy trốn sang hai bên đường. Có tên không còn đường để chạy, khi thấy đại pháo nhằm thẳng mình xô tới, đành phải nhảy sang một bên tránh né, rơi xuống vực sâu.

Mười khẩu đại pháo vừa chạy vừa lăn, càng xuống phía dưới càng nhanh thêm. Đám lừa ngựa phía dưới chạy trốn không kịp, chẳng bao lâu đã bị cán cho thịt xương tan nát. Hồi lâu vang lên những tiếng ầm ầm điếc tai, cả mười khẩu đại pháo đã rơi xuống thung lũng.

Khi Lôi Mông và Bỉ Đắc hơi định thần lại, quay sang nhìn Nhược Khắc Lâm thì thấy nàng đã hoảng sợ ngất đi rồi. Hai người vực nàng dậy, rồi chỉ huy binh lính nằm xuống chống địch. Nhưng địch thủ đã khoét sẵn những hố sâu hai bên sườn núi, dùng vách núi làm lá chắn, súng đạn bắn tới không làm rụng mất của họ sợi lông nào. Còn bọn lính Tây dương thì phơi mình ra làm đích cho tên bắn, lát sau mới khoét được một đường hào mà nấp.

Trận chiến đã xảy ra hơn hai giờ, quân Tây dương vẫn không phá nổi vòng vây. Lôi Mông nói: “Thuốc súng quân ta không đủ dùng, bây giờ chỉ còn cách xung phong cận chiến.”

Bỉ Đắc nói: “Đại tá thử sai Tiền Thông Tứ qua đó, hỏi xem bọn thổ phỉ này muốn gì.”

Lôi Mông giận dữ nói: “Sao phải nói chuyện với bọn thổ phỉ? Ngươi không dám, để ta xung phong.”

Bỉ Đắc nói: “Cung tiễn của thổ phỉ rất lợi hại, không cần dũng cảm vô ích.”

Lôi Mông nhìn Nhược Khắc Lâm một cái, giận dữ nhổ một bãi nước bọt, mắng luôn: “Thằng hèn!”

Bỉ Đắc tức giận đến nỗi mặt trắng bệch ra, rít qua kẽ răng: “Đợi đuổi xong bọn thổ phỉ, ta sẽ cho ngươi biết cái giá của sự vô lễ.”

Lôi Mông nhảy chồm dậy, hô lớn: “Ai là người dũng cảm thì theo ta!”

Bỉ Đắc kêu lên: “Đại tá Lôi Mông! Đại tá muốn chết hay sao?”

Bọn lính Tây dương biết chắc xông lên là chết, nên chẳng ai chịu theo chủ soái xung phong. Lôi Mông cầm kiếm vừa chạy vừa hò hét, nhưng mới vài bước đã bị một mũi tên bắn xuyên qua ngực, ngã xuống chết ngay.

Bỉ Đắc và bọn lính Tây dương nấp trong hào cố thủ, nhờ hỏa khí lợi hại nên địch thủ không dám ép tới gần. Chúng chống chọi như vậy một ngày một đêm, chỉ mong có quan binh đến cứu. Nhưng lúc này quan trường thối nát, muốn điều binh khiển tướng thì phải công văn qua lại, rồi thỉnh thị, rồi thương nghị đủ trò. Trong vòng mười ngày nửa tháng, chắc chắn không có tên lính nào được phái tới đây.

Đến xế chiều ngày thứ hai, bọn lính đã đói đến nỗi chóng mặt hoa mắt, đành phải dựng cờ trắng lên. Tiền Thông Tứ hô lớn: “Chúng ta đầu hàng rồi! Đại nhân Tây dương nói là đầu hàng rồi.”

Trên vách núi có người quát lên: “Ném hết súng ra ngoài!”

Bỉ Đắc nghe dịch xong liền hô: “Không được nộp súng!”

Chẳng hiểu đối phương có hiểu không, mà ngừng tấn công. Lát sau đột nhiên ngửi thấy mùi thơm rượu thịt, từng đợt từng đợt xông vào mũi bọn lính Tây dương. Chúng đã hai đêm một ngày chưa ăn uống gì, bây giờ không sao gượng được nữa, bèn quẳng súng đi rồi nhảy ra khỏi đường hào. Bỉ Đắc thấy mình thất thế, chỉ còn cách hạ lệnh nộp vũ khí đầu hàng.

Quân lính dồn hết súng ống lại một chỗ, rồi la lên đòi ăn uống. Hai bên sườn núi có tiếng hiệu lệnh vang lên, mấy trăm đại hán từ trong những hố đất đứng dậy, giương cung lắp tên nhằm thẳng bọn lính Tây dương. Vài người chậm rãi bước ra. Khi đến gần, Bỉ Đắc nhìn thấy rõ ràng người đi đầu chính là thiếu niên đã cứu mạng mình đêm trước, bên cạnh là thiếu nữ từng bị Lôi Mông bắn rơi khăn bịt tóc.

Nhược Khắc Lâm kêu lên: “À! Thì ra là nhóm người có ma thuật này.”

Bỉ Đắc gỡ thanh kiếm đang đeo ra, bước lên mấy bước, hai tay nâng lên giao cho Viên Thừa Chí tỏ ý đầu hàng. Y nghĩ bụng: “Người này từng có ơn với mình, thua dưới tay anh ta cũng đáng.”

Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút, rồi cũng hiểu đây là ý chịu thua đầu hàng, bèn xua tay rồi bảo Tiền Thông Tứ: “Ngươi nói với y, lính Tây dương mang đại pháo đến đây, nếu để giúp Trung Quốc bảo vệ đất đai, chống đỡ ngoại xâm, thì chúng ta vô cùng cảm tạ, coi như bạn tốt.”

Tiền Thông Tứ theo lời mà dịch. Bỉ Đắc gật đầu lia lịa, đưa tay ra định bắt tay Viên Thừa Chí, nhưng Viên Thừa Chí lại nói: “Nhưng các ông đến Đồng Quan là để giúp hoàng đế giết dân chúng. Chuyện này chúng ta không cho phép.”

Bỉ Đắc ngạc nhiên hỏi: “Đi đánh dân chúng Trung Quốc ư? Sao tôi không biết chuyện đó?”

Viên Thừa Chí thấy vẻ mặt y thành khẩn, không có dấu hiệu dối trá, lại nói: “Dân chúng ở Trung Quốc rất cực khổ, không có cơm ăn, sắp chết đói cả rồi. Họ rất mong có người dẫn họ đi đánh hoàng đế, giúp họ thoát khỏi cảnh khổ này. Hoàng đế hoảng sợ, nhờ các ông đem đại pháo đi bắn chết dân chúng.”

Bỉ Đắc nói: “Tôi cũng xuất thân con nhà nghèo khó, thấu hiểu được nỗi khổ của người nghèo. Bây giờ tôi sẽ trở về nước.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay lắm. Ông dẫn binh lính đi hết đi.”

Bỉ Đắc hạ lệnh triệu tập đội ngũ. Viên Thừa Chí bảo bộ hạ lấy rượu thịt ra, đãi quân lính Tây dương ăn no một bữa.

Bỉ Đắc đưa tay chào Viên Thừa Chí, rồi dẫn quân đi ngược về đường cũ. Viên Thừa Chí la lên: “Sao không mang súng đi luôn?”

Tiền Thông Tứ phiên dịch lại. Bỉ Đắc ngạc nhiên nói: “Đây là chiến lợi phẩm của các ông. Ông khoan hồng thả chúng tôi đi, không bắt chúng tôi đem tiền đến đây chuộc mạng, chúng tôi đã cảm tạ lắm rồi.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ông đã làm mất những khẩu đại pháo, nếu không mang những cây súng này theo, khi trở về nhất định thượng cấp sẽ trách phạt nặng nề. Lấy đi đi!”

Bỉ Đắc hỏi: “Ông không sợ chúng tôi dùng súng bắn các ông hay sao?”

Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Người Trung Quốc chúng ta coi trọng chữ tín. Đã coi ông là bạn, thì không nghi ngờ gì nữa.”

Bỉ Đắc đa tạ liên hồi, hạ lệnh cho binh sĩ nhận lại súng, xếp thành đội ngũ trở về. Y leo hết con dốc, càng nghĩ lại càng thán phục, bèn hạ lệnh cho binh lính ngồi nghỉ tại chỗ, rồi dẫn Tiền Thông Tứ quay lại.

Y lấy trong túi ra một gói vải, nói với Viên Thừa Chí: “Ông hào kiệt như thế, tôi có một vật muốn tặng.” Tiền Thông Tứ dịch câu này sang tiếng Hoa.

Viên Thừa Chí mở cái gói ra xem, thấy đó là một xấp giấy dày được xếp gọn gàng, trải ra xem thì ra là một tấm bản đồ. Dường như tấm bản đồ này vẽ một cái đảo giữa biển khơi, ghi chú rất nhiều chữ quanh co.

Bỉ Đắc nói: “Đây là một cái đảo lớn ở vùng biển phía nam. Trên đảo này khí hậu ấm áp, sản vật phong phú, giống như thiên đường vậy. Khi tôi đi biển, từng đến chỗ ấy.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Ông cho ta tấm bản đồ này để làm gì?”

Bỉ Đắc đáp: “Các ông ở đây cực khổ, chi bằng dẫn theo những người Trung Quốc không có cơm ăn đến đảo đó mà sinh sống.”

Viên Thừa Chí cười thầm, nghĩ bụng: “Người ngoại quốc này lòng dạ rất tốt, nhưng không biết Trung Quốc chúng ta rộng lớn, đông đúc chừng nào. Cả mấy trăm triệu người, cái đảo này lớn tới đâu cũng không đủ ở”. Chàng hỏi: “Trên đảo này không có người ở hay sao?”

Bỉ Đắc đáp: “Có lúc có bọn hải tặc Tây Ban Nha, có lúc không có. Anh hùng hảo hán như các ông, nhất định không sợ bọn hải tặc Tây Ban Nha đáng chết đó.”

Viên Thừa Chí thấy y rất chân thành, bèn đa tạ rồi cất giữ tấm bản đồ. Bỉ Đắc từ biệt trở về.

Tiền Thông Tứ theo về, nhưng vừa quay đi thì bị Thanh Thanh đưa tay ra xách lấy tai, quát lên: “Lần sau mà ta còn thấy ngươi tác oai tác quái, ăn hiếp đồng bào thì coi chừng cái mạng chó của ngươi đây!”

Tai của Tiền Thông Tứ bị xé rách ra, đau thấy ông bà ông vải nên liên tục van nài: “Tiểu nhân không dám, tiểu nhân không dám!”

Miệng hắn đã rớt hết răng cửa, nên nói ấm ớ nghe như: “Tiểu nhân không dám không dám, tiểu nhân không không dám”.

Viên Thừa Chí dẫn mấy người bò xuống đáy vực để xem. Họ thấy mười khẩu đại pháo va đụng vào nhau bể nát gãy vụn, không thể dùng được nữa, bèn xúc đất lấp lên.

Đại công đã thành, Viên Thừa Chí cùng quần hào say sưa vui vẻ nửa ngày rồi mới chia tay. Hôm sau chàng lại cùng ông câm, Hồng Thắng Hải… mang theo những rương sắt tiếp tục đi về hướng kinh sư.

Chiến dịch này Hồ Quế Nam góp công nhiều nhất. Diệu kế của y đã mang lại kết quả còn hơn cả mong muốn. Dọc đường mọi người tán tụng y không dứt, không ai dám coi thường y xuất thân trộm cắp nữa.

Thế là ba doanh bộ thuộc của Viên Thừa Chí vừa tham gia khởi nghĩa đã liên tiếp lập được kỳ công, danh tiếng Kim Xà Doanh lừng lẫy khắp nơi. Sau này Sấm quân tiến công Đồng Quan, Đốc sư Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình của Thanh triều chết trận, đại tướng Cao Kiệt bỏ quan ải chạy về phía Tây An. Sấm quân phá Đồng Quan rồi mới đoạt Tây An, sau đó đánh chiếm Bắc Kinh. Công lao hủy pháo, làm suy yếu lực lượng của triều đình đúng là không nhỏ.

*

*   *

Suốt dọc đường lên kinh thành, đâu đâu cũng tàn tạ điêu linh, nơi nơi đều có dấu tích tàn sát cướp bóc của bọn lính Thanh. Thỉnh thoảng lại gặp lũ chó đói tha xác người đi gặm. Quần hùng thấy vậy đều nổi giận bừng bừng.

Sa Thiên Quảng nói: “Tiếc là hôm đó không giết được nguyên soái A Ba Thái của bọn Thát tử. Minh chủ! Chúng ta rượt theo để ám sát hắn, có được không?”

Thanh Thanh là người đầu tiên vỗ tay khen phải. Viên Thừa Chí suy nghĩ không trả lời ngay, nàng liền hỏi: “Đi giết nguyên soái Thát tử thì có gì không tốt? Lại khỏi phải nghe Tôn Trọng Thọ thúc thúc oán trách nữa.”

Viên Thừa Chí nói: “Đã ám sát bọn Thát tử to đầu, thì càng to đầu càng đáng giết. Chúng ta đi hành thích hoàng đế Hoàng Thái Cực của bọn Mãn Thanh quách!”

Mọi người ngẩn ra một chút, rồi lập tức hoan hô. Viên Thừa Chí hỏi tỉ mỉ Hồng Thắng Hải, tình hình kinh thành Mãn Thanh phòng bị như thế nào, làm sao vào được nội cung.

Hồng Thắng Hải đáp: “Kinh đô Mãn Thanh đang ở Thẩm Dương, bây giờ chúng gọi là Thịnh Kinh. Quy mô Thịnh Kinh rất đơn giản, không thể sánh với Bắc Kinh. Tiểu nhân trước đây từng làm sai dịch dưới tay Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn, còn giữ một tấm bài đeo lưng có thể đi thẳng vào vương phủ Nhuệ Thân Vương. Còn hoàng cung thì tiểu nhân chưa vào lần nào.”

Viên Thừa Chí bảo: “Bây giờ chúng ta đi Thịnh Kinh ngay, đến nơi sẽ thừa cơ hành sự.”

Quần hào đến Bắc Kinh ở phủ Thuận Thiên trước. Họ thuê một căn nhà, chôn những chiếc rương sắt dưới đất, để Trình Thanh Trúc cùng vài đầu mục đắc lực của Thanh Trúc Bang ở lại canh giữ. Viên Thừa Chí cùng những người còn lại ra khỏi kinh thành, tiến về phía bắc. Ra khỏi Sơn Hải Quan, đi chưa đầy một ngày đã đến Thịnh Kinh.

Mọi người trú trong một khách sạn nhỏ, bàn kế hoạch để vào cung. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Theo ý tiểu nhân thì xin tướng công ủy khúc một chút, giả làm đồng bọn của tiểu nhân để gặp Đa Nhĩ Cổn trước. Hắn là em trai ruột của Thát tử hoàng đế. Trong các vị vương gia thì hắn được sủng ái nhất, quyền lực lớn nhất. Không chừng chúng ta có thể dụ hắn dẫn vào cung.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Đa Nhĩ Cổn từng phái ngươi đưa thư đến thái giám Tào Hóa Thuần. Làm sao ngươi phúc đáp được?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tiểu nhân sẽ nói là chưa gặp Tào Hóa Thuần, nhưng khi ở Bắc Kinh đã thám thính được một số quân tình cơ mật, nên quay về bẩm báo trước.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Những quân tình cơ mật gì?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tiểu nhân cứ nói bừa một phen, đại khái như hoàng đế Minh triều cầu viện bọn Tây dương, mượn được mấy trăm khẩu đại pháo, mấy ngàn binh lính cầm súng, đặt kế hoạch tiến công Mãn Châu.”

Viên Thừa Chí cả mừng nói: “Kế này tuyệt diệu! Đa Nhĩ Cổn nghe vậy, nhất định sẽ bẩm lên Thát tử hoàng đế.” Chàng bảo Thanh Thanh lấy cây súng Tây dương ra, nói với Hồng Thắng Hải: “Ngươi cứ nói ta là tên thông dịch Tiền Thông Tứ của bọn Tây dương, nên hiểu rõ nội tình.”

Thanh Thanh phá ra cười rồi nói: “Thừa Chí đại ca! Huynh không cải trang thành ai khác, lại đi giả mạo thành tên thông dịch chó má Tiền Thông Tứ kia. Muội phải đánh gãy hàm răng của huynh cho giống, rồi tính tiếp.”

Vừa nói xong, nàng đưa tay tát vờ lên mặt Viên Thừa Chí. Chàng há miệng ra đớp ngay bàn tay, Thanh Thanh rút tay về không kịp. Sau đó Viên Thừa Chí xì xồ mấy câu bắt chước kiểu Tây dương, mọi người đều cười ồ lên.

Trưa hôm đó Viên Thừa Chí cùng Hồng Thắng Hải tới Nhuệ Thân Vương Phủ để cầu kiến vương gia. Đa Nhĩ Cổn lập tức gọi vào gặp mặt.

Viên Thừa Chí thấy Đa Nhĩ Cổn chừng ba mốt ba hai tuổi, người vừa cao vừa ốm, mặt đầy vẻ tinh ranh. Hồng Thắng Hải nói một hồi bằng tiếng Mãn Châu. Quả nhiên thần sắc Đa Nhĩ Cổn dần dần biến đổi, rồi dùng tiếng Hán hỏi Viên Thừa Chí mấy câu. Viên Thừa Chí lấy khẩu súng Tây dương ra đặt lên bàn, kể lại những chuyện đã cùng Hồng Thắng Hải thương lượng.

Đa Nhĩ Cổn suy nghĩ hồi lâu rồi nói: “Các ngươi báo tin có công, ta nhất định sẽ trọng thưởng. Bây giờ về đi, mai trở lại đây nghe ta dặn dò.”

Hai người không làm gì được, chỉ còn cách khấu đầu lùi ra.

Viên Thừa Chí dập đầu lạy Thát tử vương gia mấy cái oan uổng mà không được gặp Hoàng Thái Cực, khi về khách sạn ngồi rầu rĩ một hồi. Tính toán xong, chàng bảo Hồng Thắng Hải dẫn mình đi xem xét quanh hoàng cung một phen, chuẩn bị đêm đó sẽ vào hoàng cung hành thích.

Chàng biết, bất kể đêm nay thành bại thế nào thì hôm sau chúng cũng lùng sục khắp nơi tìm bắt thích khách, nên yêu cầu mọi người ra khỏi thành trước, hẹn trưa mai sẽ gặp nhau ở một cái miếu cũ phía nam cách hai mươi dặm.

Mọi người tự biết võ công chênh lệch rất xa, đi theo không giúp gì được chàng, lại bắt chàng phải lo lắng nữa. Để chàng đi một mình thì việc thoát thân dễ dàng hơn nhiều, nên tất cả đều tuân lệnh, chỉ dặn dò chàng phải cẩn thận tuyệt đối.

Khi bước ra cửa, Thanh Thanh đắm đuối nhìn Viên Thừa Chí một hồi, rồi khẽ nói: “Thừa Chí ca ca! Ám sát được Thát tử hoàng đế, dĩ nhiên là tốt. Nhưng ám sát không được thì thôi, ca ca quyết phải bảo trọng thân mình. Ca ca biết đấy, trong lòng muội thì một trăm tên Thát tử hoàng đế cũng không bằng được một sợi tóc của ca ca. Nếu từ nay muội không được gặp ca ca nữa…” Nói đến đây, khóe mắt nàng đã đỏ lên.

Viên Thừa Chí muốn nàng yên lòng, bèn bứt trên đầu một sợi tóc, mỉm cười nói: “Tặng muội một trăm tên Thát tử hoàng đế đây.”

Nói xong, chàng đưa sợi tóc cho Thanh Thanh. Nàng phì cười thành tiếng, nhưng nước mắt đã rơi xuống.

*

*   *

Đợi đến canh một, Viên Thừa Chí mang theo Kim Xà Kiếm và Kim Xà Truy đi tới ngoài tường hoàng cung. Chàng đã biết bên ngoài hoàng cung canh giữ rất nghiêm ngặt, nên vòng ra phía sau một gốc cây to để giấu mình, đợi bọn vệ sĩ tuần tra đi qua rồi mới nhẹ nhàng vượt tường vào cung. Bên trong điện các đầy rẫy, chàng phân vân không biết Hoàng Thái Cực ở điện nào, nghĩ bụng chỉ còn cách cố bắt một tên vệ sĩ hoặc thái giám để hỏi cung.

Chàng rón rén đi qua đi lại cả nửa giờ vẫn không thấy manh mối gì, thầm nghĩ: “Việc này tuy khó, nhưng vẫn không bằng lần trước nửa đêm dò xét Đại Công Phường. Ta phải bình tĩnh, đêm nay không thành công thì đêm mai đến tiếp. Mất một hai tháng cũng không sao”.

Viên Thừa Chí nghĩ vậy nên thoải mái trong lòng, nhẹ chân đi vòng qua một hành lang. Đột nhiên thấy giữa lùm hoa có ánh đèn chớp lên, chàng liền co người lại núp phía sau một hòn non bộ. Không bao lâu thì có bốn tên thái giám xách lồng đèn yểu điệu đi tới, dẫn theo ba viên quan.

Viên Thừa Chí thấy đông người, nếu mình nhảy ra bắt thì nhất định sẽ làm kinh động, hoàng đế đề phòng thì không thể hành thích thành công được. Chàng bèn nhẹ nhàng đi theo bảy người đó tới một tòa đại điện ở vào khoảng giữa. Tấm hoành phi ngoài điện ghi ba chữ Sùng Chính Điện, bên cạnh đầy những chữ Mãn Thanh cong queo.

Viên Thừa Chí vòng ra sau điện, nằm rạp xuống đất quan sát xung quanh. Chàng thấy quanh điện có bốn năm chục vệ sĩ cầm đao canh giữ, mừng rỡ nghĩ: “Nơi này phòng thủ thâm nghiêm, chắc là chỗ ở của Thát tử hoàng đế.”

Viên Thừa Chí lượm một viên đá nhỏ dưới đất ném vào giữa vườn hoa. Bọn vệ sĩ nghe tiếng, một số bước sang đó xem xét, số còn lại cũng chăm chú nhìn theo. Viên Thừa Chí lập tức chạy tới bên tường, thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường bò dọc lên, chỉ chốc lát đã tới đỉnh điện. Chàng nằm sát mái nhà, im lặng lắng nghe bốn phía.

Thấy không có tiếng động gì, biết tung tích của mình chưa bị phát hiện, chàng mới khẽ gỡ một phiến ngói lưu ly trên mái điện. Theo khe hở nhìn xuống, thấy trong điện đèn đuốc sáng trưng, ba viên quan đó đang xì xụp dưới đất, hành đại lễ ba quỳ chín lạy. Viên Thừa Chí cả mừng, biết họ đang tham kiến hoàng đế.

Người đứng trên cùng là một lão quan râu tóc bạc phơ, lên tiếng: “Thần là Phạm Văn Trình kiến giá.”

Viên quan đứng giữa thân hình to lớn, nói: “Thần là Ninh Hoàng Ngã kiến giá.”

Viên quan đứng cuối khuôn mặt khô gầy, nói: “Thần là Bao Thừa Tiên kiến giá.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Ba tên quan này là người Hán mà đầu hàng bọn Thát tử, đều là Hán gian.” Chàng bỗng thắc mắc, sao họ lại dùng tiếng Hán để nói chuyện với hoàng đế Thát tử, bèn từ từ di chuyển về phía nam, theo khe hở nhìn dịch về phía bắc. Thấy trên long ỷ có một người mặt vuông tai lớn, cặp mắt rất có thần, trên mép lớt phớt râu, chừng hơn năm mươi tuổi, chắc chắn là Hoàng Thái Cực, đại địch năm xưa của cha mình.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu ở đây phóng Kim Xà Truy thì cũng có thể lấy mạng hắn, nhưng khoảng cách hơi xa, không chắc lắm. Không chừng trong đám thị vệ có cao thủ, chúng mà gạt được thì hỏng việc. Hay là mình nhảy xuống dưới đó, dùng kiếm cắt thủ cấp của hắn cho bảo đảm.”

Bỗng nghe Hoàng Thái Cực nói: “Quân tình ở Nam triều mấy hôm nay thế nào? Ta vừa nhận được báo cáo của A Ba Thái, nghe nói y vừa trúng mai phục ở Thanh Châu Thái An tỉnh Sơn Đông, thua một trận lớn. Chẳng lẽ quân Minh còn đánh trận như thế được hay sao? Các ngươi biết tổng binh ở vùng Thanh Châu Thái An là ai không?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra chúng đang nói về trận thắng của mình. Để xem chúng nói gì nữa.”

Ninh Hoàng Ngã nói: “Khải bẩm hoàng thượng, thần đã điều tra tường tận, tổng binh của quân Minh là Thủy Giám, võ nghệ rất giỏi. Nhưng chỉ huy thật sự là một đám vong mạng dưới tay Lý Tự Thành, gọi là Kim Xà Doanh gì gì đấy. Thủy tổng binh đã bị chúng thu phục rồi.”

Hoàng Thái Cực “À” lên một tiếng rồi nói: “Hắn đầu hàng bọn phản tặc rồi ư? Thế thì đáng tiếc quá. Các ngươi đi điều tra tỉ mỉ xem có thể tìm cách dụ hắn đầu hàng Đại Thanh chúng ta hay không. Xem thử hắn tham tiền tài hay tham nữ sắc? Người này có thể đánh bại A Ba Thái, nhất định là một nhân tài, chúng ta quyết không dễ bỏ qua.”

Ba viên quan cùng nói: “Hoàng thượng thánh minh! Nếu Thủy Giám chịu quy thuận thì hay quá, coi như hắn có phước khí.”

Hoàng Thái Cực thở ra một hơi rồi nói: “Năm xưa chúng ta dùng kế phản gián giết Viên Sùng Hoán, mỗi lần trẫm nghĩ đến lại thấy tiếc vô cùng.”

Viên Thừa Chí nghe y nhắc đến tên phụ thân mình, trong tai bỗng ù ù, toàn thân nóng hổi, ý nghĩ cứ lặp đi lặp lại: “Kế phản gián! Chúng dùng kế phản gián! Gia gia mình bị y hại chết! Tên này là đại thù nhân, hại chết phụ thân mình!”

Lại nghe Hoàng Thái Cực nói tiếp: “Nếu trẫm dùng được Viên Sùng Hoán, chắc bây giờ giang sơn Nam triều đã thuộc về Đại Thanh chúng ta rồi.”

Viên Thừa Chí “Xì” một tiếng, mắng thầm: “Tên cẩu Thát tử này nói chuyện nghe sướng quá. Phụ thân ta trung can nghĩa đảm, làm sao chịu đầu hàng ngươi?”

Hoàng Thái Cực lại nói: “Có điều Viên Sùng Hoán ngu trung không hiểu thời thế, chắc không chịu đầu hàng đâu.”

Y lại thở dài rồi hỏi: “Phùng Thừa Đồ gần đây như thế nào?”

Năm xưa Viên Sùng Hoán từng làm Tổng đốc Kinh Liêu. Sau này Phùng Thừa Đồ kế tục chức đó. Hắn được Sùng Trinh hoàng đế cấp đại quyền binh mã, nhưng vừa thua trận bị bắt đã đầu hàng Mãn Thanh ngay. Lúc Phùng Thừa Đồ mới bại trận mất tích, Sùng Trinh còn tưởng hắn hy sinh vì nước, đích thân tế tự. Sau này biết hắn đầu hàng Mãn Thanh, người trong thiên hạ đều chê cười Sùng Trinh là thứ chẳng biết gì.

Phạm Văn Trình nói: “Khải tấu hoàng thượng, Phùng Thừa Đồ đã nói hết tình hình Nam triều rồi. Y nói Sùng Trinh hoàng đế bảo thủ ngoan cố, dùng kế sách không đúng, tin dùng gian nịnh, sát hại trung lương, lưu khấu bốn phương khởi dậy. Đại quân Đại Thanh chúng ta có thể thừa cơ hội này mà tiến công vào quan ải, giải tỏa nỗi khổ cho dân chúng.”

Hoàng Thái Cực lắc đầu nói: “Về Sùng Trinh thì hắn nói không sai một chút nào. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để Thanh binh tiến công vào quan ải. Không phải bây giờ chúng ta không nắm chắc phần thắng, nhưng nên để triều đình nhà Minh đánh với bọn lưu khấu trước đã, đợi hai bên mệt mỏi kiệt sức, lưỡng bại câu thương, bấy giờ Đại Thanh chúng ta có thể ngư ông đắc lợi, nhấc tay một cái là lấy được thiên hạ. Người Hán các ngươi gọi kế này là Biện Trang Thí Hùng, có phải hay không?”

Ba viên quan đồng thanh nói: “Vâng, vâng! Hoàng thượng thánh minh.”

Viên Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Thát tử hoàng đế thật là lợi hại, so với Sùng Trinh cách một trời một vực, ta không thể không giết hắn. Không diệt tên này thì giang sơn Đại Hán chúng ta không thể vững vàng. Cho dù Sấm Vương lấy được thiên hạ đi nữa, cũng sợ rằng… sợ rằng…” Chàng cảm thấy người này có tầm nhìn xa rộng, bao quát được cục diện, suy nghĩ thấu suốt, đánh trận nào chắc trận đó, không nóng nảy chút nào, hình như tài năng của Sấm Vương cũng không so được với hắn. Tên hoàng đế này nói tiếng Hán rất lưu loát, lại từng đọc sách Trung Quốc nữa, biết cả chuyện Biện Trang giết cọp.”

Lại nghe Hoàng Thái Cực hỏi: “Phùng Thừa Đồ còn nói gì nữa không?”

Phạm Văn Trình nói: “Phùng Thừa Đồ đã mấy lần nói với thần, chỉ mong hoàng thượng ân điển ban cho y việc để làm. Y muốn góp công góp sức, làm khuyển mã cho hoàng thượng để báo thiên ân.”

Hoàng Thái Cực cười rộ lên rồi nói: “Muốn có việc để làm ư? Chuyện này từ từ rồi tính.”

Bao Thừa Tiên nói: “Hoàng thượng! Hạ thần ngu muội, trong lòng có việc không hiểu, mong hoàng thượng chỉ điểm.” Hoàng Thái Cực gật đầu.

Bao Thừa Tiên nói: “Khi Phùng Thừa Đồ mới quy thuận, hoàng thượng ban cho y rất nhiều ân sủng, chính tay cởi áo bào da điêu khoác lên người y, lại mở tiệc đãi đằng mấy ngày liên tiếp. Từ xưa đến giờ, ngay cả những khai quốc công thần của Đại Thanh chúng ta cũng chưa được vinh dự như thế. Chúng thần đều không sao hiểu được. Hoàng thượng bèn dạy bảo: “Chúng ta cực khổ chinh chiến mấy năm nay để làm gì?” Chúng thần khải tấu: “Để đánh chiếm giang sơn Nam triều”. Hoàng thượng dạy bảo: “Đúng vậy! Nhưng chúng ta không hiểu nội tình của Nam triều, giống như kẻ mù vậy. Khi Phùng Thừa Đồ quy thuận, mắt chúng ta sáng hẳn cả ra, còn gì vui mừng hơn nữa?” Chúng thần đều bái phục hoàng thượng thánh minh. Sau đó Phùng Thừa Đồ kể hết các quan chức canh giữ thành trì của Nam triều, ngay cả phong thổ nhân tình cũng nói tỉ mỉ, quả nhiên không ngoài dự liệu của hoàng thượng. Nhưng tại sao hoàng thượng không thưởng cho y tước vị hay quan chức gì, chúng thần hoàn toàn không hiểu.”

Hoàng Thái Cực mỉm cười nói: “Tính tình lão Bao thật là thẳng thắn, muốn hỏi gì là hỏi thẳng ngay, không kiêng kỵ. Ba người các ngươi tuy là người Hán, nhưng đã phụng sự cho tiên hoàng và trẫm từ lâu, một dạ trung thành. Phùng Thừa Đồ làm sao so sánh với các ngươi được?”

Bọn Phạm Văn Trình đều quỳ xuống dập đầu binh binh lên nền nhà, tỏ vẻ vô cùng cảm kích. Viên Thừa Chí thầm thóa mạ: “Vô sỉ!”

Hoàng Thái Cực lại nói: “Con người Phùng Thừa Đồ tuy có bản lãnh, nhưng cốt khí thì không được chút nào. Trước đây trẫm đã đối đãi với hắn quá tốt, nếu bây giờ lại ban cho tước cao lộc hậu, thì loại người này có chịu ra sức làm việc hay không? Hừ! Sùng Trinh phong quan cho hắn còn chưa đủ lớn hay sao? Trước kia hắn làm chức quan gì?”

Phạm Văn Trình đáp: “Khải tấu Hoàng thượng, hồi ở Nam triều y giữ chức Thái tử Thái bảo, Binh bộ Thượng thư, Tổng đốc Kinh Liêu quân vụ, thống lĩnh tám quan Tổng binh dưới trướng, thật là quan to quyền lớn.”

Hoàng Thái Cực nói: “Thế đấy! Ta phong quan cho hắn dù lớn đến đâu cũng không thể lớn hơn chức quan của Sùng Trinh đã phong cho hắn. Nếu muốn hắn tận tâm tận lực, thì không thể cho hắn làm quan, mà nên treo một chỗ cho hắn lắc lư qua lại, không biết dựa dẫm vào đâu.”

Ba người đó nghe xong cùng nói: “Hoàng thượng thánh minh!”

Viên Thừa Chí càng nghĩ càng thấy có lý, nhận ra Hoàng Thái Cực có phương pháp sử dụng nhân tài cực kỳ sáng suốt. Chàng nghe mấy câu này, cảm giác giống như hồi ở Hoa Sơn tuyệt đỉnh vừa đọc Kim Xà Bí Kíp. Loại pháp môn này hiểu được mà không bắt chước được, tuy không phải là chính đạo nhưng bắt người ta phải khâm phục.

Chàng nằm yên ở đó một lát, nghe Hoàng Thái Cực thương nghị với bọn Phạm Văn Trình, sau này lấy được thiên hạ triều Minh sẽ cai trị thế nào, bây giờ phải chuẩn bị ra sao, cứ như giang sơn Đại Minh đã là đồ vật trong túi rồi vậy. Viên Thừa Chí vô cùng giận dữ, nhẹ nhàng gỡ thêm hai viên ngói lưu ly, nhìn chính xác những chỗ sẽ đặt chân khi nhảy vào trong điện.

Chàng bỗng nghe Hoàng Thái Cực nói: “Hiện nay ở Nam triều lưu khấu nổi lên tứ phía, nói tới nói lui cũng chỉ có một lý do. Đó chính là bá tính không có cơm ăn. Sau khi chúng ta lấy được giang sơn Nam triều, việc lớn đầu tiên là phải làm sao cho bá tính trong khắp thiên hạ người nào cũng có cơm ăn…”

Viên Thừa Chí bỗng động tâm nghĩ: “Câu này rất đúng.”

Bọn Phạm Văn Trình tán dương mấy câu. Hoàng Thái Cực lại nói: “Muốn cho dân chúng có cơm ăn, các ngươi nghĩ xem cách gì tốt nhất? Phạm tiên sinh nói thử xem.”

Hình như y đối với Phạm Văn Trình khách sáo hơn, gọi là tiên sinh, không như vừa rồi gọi Bao Thừa Tiên là lão Bao.

Phạm Văn Trình nói: “Hoàng thượng chưa đoạt được giang sơn đã nghĩ đến bá tính, tâm ý này nhất định sẽ được hoàng thiên chiếu cố. Theo ngu ý của thần, muốn cho bá tính trong thiên hạ đều có cơm ăn, việc thứ nhất là phải thuế má nhẹ nhàng, không như Sùng Trinh ra sức vơ vét tăng lương tăng thuế.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Sau khi vào quan ải chúng ta phải ra quy củ: vĩnh viễn về sau không được tăng thuế. Mỗi khi trong kho dư thừa tiền bạc, phải hạ chỉ giảm thuế ngay.”

Phạm Văn Trình nói: “Hoàng thượng có lòng như vậy, thật là phước cho muôn dân. Thần may được góp sức mọn cho minh chúa, nếu phải tan xương nát thịt vì hoàng thượng, cũng… cũng cam lòng.”

Nói đến cuối câu, thanh âm của y ra vẻ nghẹn ngào. Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Hình như tên đại Hán gian này cũng biết yêu dân, nhưng không biết là đóng tuồng hay thật lòng đây?”

Hoàng Thái Cực nói: “Hay lắm! Người Hán chửi các ngươi là Hán gian, sau này các ngươi lo việc đàng hoàng cho trẫm cũng chính là lo cho bá tính, phải cố gắng giành lại một chút tiếng tăm. Phải cho hàng nghìn hàng vạn bá tính nhìn thấy ai là Hán gian thật sự, các ngươi tốt cho người Hán hơn, hay là bọn tay chân Sùng Trinh chỉ biết thăng quan phát tài, vơ vét bá tính tốt cho người Hán hơn. Lão Ninh, ngươi còn điều gì trình tấu hay không?”

Ninh Hoàng Ngã nói: “Khải tấu hoàng thượng, người Mãn Châu của Đại Thanh chúng ta ít, người Hán lại rất đông. Sau khi hoàng thượng có được thiên hạ rồi, theo ngu ý của thần thì phải xem người Mãn người Hán đều là con dân của hoàng thượng, đừng như người Mông Cổ đời Nguyên xem người Hán ở phương Nam là dân hạ đẳng. Chỉ cần Đại Thanh chúng ta đối xử với dân chúng bình đẳng như nhau, cho dù trong số người Hán có kẻ quật cường thì cũng không thể gây thành chuyện lớn.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Câu này rất có lý. Người Mông Cổ vô địch về cung tiễn, cưỡi chiến mã giày xéo khắp thiên hạ, nhưng giang sơn tại Trung Quốc của họ thì không sao yên ổn được, chính vì đã ngược đãi người Hán. Cái này gọi là… tiền cư… gì gì đó?”

Bao Thừa Tiên mỉm cười nhắc: “Tiền cư phúc thiết.”

Hoàng Thái Cực nói: “Đúng rồi. Lão Bao! Sách chữ Hán ta đọc rất ít, mãi không thấy tiến bộ chút nào.”

Bao Thừa Tiên nói: “Hoàng thượng đêm ngày phải lo muôn việc, điển cố trong sách của người Hán không cần phải để trong lòng làm chi. Chỉ cần hiểu được đạo lý trong sách về chuyện trị quốc bình thiên hạ là đủ lắm rồi.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Người Hán có không ít đạo lý rất hay. Khi học chỉ cần học đạo lý và sách lược bên trong, chứ không cần học như bọn tú tài tiến sĩ người Hán, toàn lo chuyện ngâm nga thơ phú”.

Viên Thừa Chí nghe câu nào cũng đúng ý, quên mất mình đến đây là để hành thích, trong lòng như muốn nghe thêm một chút. Bốn người thương nghị đến việc chỉnh đốn quân kỷ, sau khi nhập quan tuyệt đối không được tàn sát bá tính, tuyệt đối không cho quân lính cướp bóc.

Bỗng có hai tên thị vệ vào trong, tháo hai cây nến lớn trên long án ra đổi. Giữa lúc ánh sáng mờ mờ, Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Bây giờ mà không xuất thủ, còn đợi lúc nào?” Chàng vung tả chưởng lên đập xuống, nghe rắc một tiếng, hai cây xà ngang trên nóc điện gãy lìa. Giữa đám ngói vụn cùng bụi bặm, chàng nhảy xuống dưới điện, chân phải đạp lên long án, Kim Xà Kiếm đâm vèo ra nhằm vào trước ngực Hoàng Thái Cực.

Hai bên Hoàng Thái Cực lập tức có bốn tên vệ sĩ nhảy ra. Chúng không kịp rút đao, lấy thân mình cản trước mặt Hoàng Thái Cực, hai tên trúng kiếm chết ngay. Chân tay Hoàng Thái Cực cũng rất nhanh, lập tức nhảy ra khỏi long ỷ, lùi lại hai bước.

Lại thêm năm sáu vệ sĩ chạy lên cản trở. Ninh Hoàng Ngã và Bao Thừa Tiên cũng phóng tới sau lưng Viên Thừa Chí, đưa tay ra ôm lấy chàng. Viên Thừa Chí phóng cước đá ngược lại “bình bình” hai tiếng, hất Ninh và Bao văng thẳng ra ngoài. Vì chậm trễ như vậy mà Hoàng Thái Cực lùi được hai bước nữa.

Viên Thừa Chí vô cùng lo lắng, nghĩ thầm: “Nếu hôm nay để Thát tử hoàng đế trốn được, sau này việc hành thích không phải dễ.” Chàng phóng ra hai mũi Kim Xà Truy, nhưng bị bọn vệ sĩ xông ra cản trở, làm con ma thế mạng. Viên Thừa Chí múa Kim Xà Kiếm liên tiếp đâm ra, mặc kệ bọn vệ sĩ bu đến tấn công, cố gắng chạy về phía Hoàng Thái Cực.

Khoảng cách chỉ hơn một trượng, nhưng trong chốc lát phía sau bức màn lại có tám tên võ sĩ tay không chạy ra, đồng thời phóng tới trước mặt Viên Thừa Chí. Chân phải Viên Thừa Chí hất lên, “binh” một tiếng đá văng một tên. Chàng dùng Uyên Ương Liên Hoàn Cước, chân trái theo đó bay lên. Lúc này một tên võ sĩ từ bên tay trái phóng tới, bị chân trái của Viên Thừa Chí đá trúng ngực, nhưng hai tay hắn đã ôm chặt lấy chân Viên Thừa Chí. Miệng hắn hộc máu tươi ra, nhưng hai tay vẫn nắm chặt quyết chẳng chịu buông.

Tám tên võ sĩ đô vật này giỏi về cầm nã, tiếng Mãn Châu gọi là bố khố. Khi bối lặc hay vương công thiết yến, thường có những trận đô vật để xem. Sau khi tiếp kiến đại thần, Hoàng Thái Cực quen xem một trận đô vật rồi mới đi ngủ. Tám tên bố khố này đang đợi phía sau điện, nghe có thích khách liền chạy ra ngoài cứu giá.

Viên Thừa Chí cố gắng kéo chân trái về, nhưng không sao thoát khỏi tay tên võ sĩ này. Chàng vẫy Kim Xà Kiếm ra, chém đứt một nửa cái đầu của hắn, nhưng bàn tay đã chết vẫn nắm chặt lấy chân Viên Thừa Chí.

Đột nhiên chàng nghe sau lưng có người hét lên: “To gan đến đây phạm giá!” Câu này quát bằng tiếng Hán. Viên Thừa Chí mặc kệ, chân trái lôi theo xác tên võ sĩ, sải bước đuổi theo Hoàng Thái Cực. Mới bước được một bước, trên đỉnh đầu bỗng nghe tiếng gió. Binh khí chưa đánh tới nơi mà kình phong đã quét vào gáy như một lưỡi dao sắc bén.

Viên Thừa Chí kinh hãi, biết võ công của địch thủ này rất cao. Trong lúc nguy cấp chàng vội nhào xuống đất, lộn đi một vòng ra ngoài, múa kiếm bảo vệ đỉnh đầu, tay trái cố gắng gỡ bàn tay xác chết đang nắm chặt chân mình, bấy giờ mới đứng dậy được.

Dưới ánh nến chàng thấy một đạo sĩ trung niên đứng trước mặt, khuôn mặt thanh tú trắng trẻo, tay cầm một cây phất trần, cười nhạt nói: “Thích khách to gan! Còn không buông binh khí mà chịu trói?”

Viên Thừa Chí chỉ liếc hắn một cái, lại quay sang Hoàng Thái Cực thì thấy đã có mười mấy vệ sĩ đứng chặn trước mặt y. Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy vọt lên, phóng về phía Hoàng Thái Cực. Chàng còn lơ lửng trên không, bỗng thấy đạo sĩ kia cũng nhảy lên, phất trần vẫy tới trước mặt mình.

Viên Thừa Chí huy động Kim Xà Kiếm đâm hai nhát cực nhanh. Đạo sĩ nghiêng đầu tránh được một kiếm, múa phất trần cản được một kiếm, sau đó hàng trăm hàng ngàn sợi tơ trên phất trần này vẫy tới rất nhanh. Tay trái Viên Thừa Chí chụp lấy phất trần, tay phải cầm kiếm đâm vào yết hầu đối thủ.

“Xoẹt” một tiếng, đuôi phất trần vừa quét trúng tay trái chàng, máu chảy đầm đìa. Thì ra cây phất trần này kết bằng tơ vàng tơ bạc, tuy mềm mại nhưng khi vận nội kình lên thì biến thành binh khí lợi hại có thể lấy mạng đối phương. Ngay lúc đó lưỡi rắn trên mũi Kim Xà Kiếm cũng móc trúng đầu vai của trung niên đạo sĩ.

Hai người còn lơ lửng đã trao đổi ba chiêu, hai bên đều bị thương nhẹ, khi rơi xuống đất đã đổi vị trí cho nhau. Cả hai đều kinh hãi nghi ngờ: “Người này là ai? Sao võ công lại giỏi đến thế? Thật là xưa nay hiếm gặp”.

Hồi 14: Sùng Chính Điện kiếm lòe – Đạo sĩ truồng tỉ thí

Viên Thừa Chí quay lại định giết Hoàng Thái Cực, nhưng phất trần của đạo nhân kia đã vẫy tới gáy chàng. Những sợi tơ phất trần đầy rẫy nội kình, duỗi thẳng ra đâm tới như một bó roi. Viên Thừa Chí không làm gì được, đành phải quay kiếm lại để chống đỡ.

Hai người vừa giao thủ là tấn công chớp nhoáng, nháy mắt đã tỉ đấu hai mươi mấy chiêu. Viên Thừa Chí dùng hết sức bình sinh vẫn không chiếm được thượng phong, càng đánh càng kinh hãi. Đột nhiên có tiếng gió rát mặt, má bên phải bị phất trần quét qua một cái. Chàng biết trên mặt mình có thêm mấy chục đường rớm máu, lập tức câu nói của Thanh Thanh hiện lên trong óc: “Thừa Chí ca ca! Ám sát được Thát tử hoàng đế, dĩ nhiên là tốt. Nhưng ám sát không được thì thôi, ca ca quyết phải bảo trọng thân mình.” Thấy kẻ địch lợi hại như thế, chàng bèn tính chuyện thoát thân, vừa chiến đấu vừa di chuyển từ từ về phía cửa điện.

Đạo nhân cười nhạt rồi nói: “Gặp phải Ngọc Chân Tử này mà muốn trốn ư? Đừng mơ tưởng nữa.” Nói xong, hắn dùng phất trần tấn công liền ba chiêu, từ những phương vị không sao ngờ được.

Viên Thừa Chí nhất thời không biết làm sao đón đỡ, hai chân tự động sử dụng bộ phách Thần Hành Bách Biến của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, chạy đông chạy tây, tránh né hết ba chiêu của Ngọc Chân.

Không ngờ Ngọc Chân Tử rượt sát như bóng theo hình, hiểu hết thân pháp Thần Hành Bách Biến của chàng. Viên Thừa Chí né sang phía đông, hắn đuổi sang phía đông. Chàng chạy sang phía tây, hắn đuổi sang phía tây. Tuy Viên Thừa Chí tránh được ba chiêu đó, nhưng không sao thoát khỏi những đợt tấn công liên tục như thác đổ của Ngọc Chân Tử.

Lúc này hai người lại càng kinh ngạc trong lòng. Ngọc Chân Tử quát hỏi: “Ngươi tên gì? Là đệ tử lão Mộc Tang phải không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không phải.”

Ngọc Chân Tử hỏi: “Sao ngươi biết bộ pháp của Thiết Kiếm Môn?”

Viên Thừa Chí hỏi lại: “Ngươi là người Hán, sao lại giúp bọn Thát tử?”

Ngọc Chân Tử giận dữ nói: “Thằng nhóc cứng đầu này, chết đến gáy vẫn còn hỗn láo!” Hắn lại tấn công veo véo mấy chiêu.

Viên Thừa Chí thấy võ công đối phương quá giỏi, chỉ phân tâm một chút là khó giữ mạng mình. Chàng bèn tập trung hết tâm lực, sử dụng kiếm pháp bản môn phái Hoa Sơn để tiếp chiêu.

Ngọc Chân Tử chiết giải mấy chiêu, lại la lên: “À, thì ra ngươi là khỉ con, học trò của con khỉ già họ Mục phái Hoa Sơn. Có đúng hay không?”

Viên Thừa Chí không muốn che giấu sư môn của mình, quát trả: “Đúng thì đã sao?” Chàng xuất chiêu Thương Tùng Nghênh Khách, trường kiếm chém nghiêng ra. Nội lực từ thân kiếm phát ra những tiếng veo véo, tư thế đoan chính trang nghiêm, chiêu thức vừa nhanh vừa có lực.

Ngọc Chân Tử khen: “Hảo kiếm pháp! Khỉ con không tồi.”

Viên Thừa Chí mắng lại: “Đồ Hán gian!”

Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Khỉ già còn chưa phải đối thủ của ta, nói gì đến khỉ con.”

Viên Thừa Chí không đối đáp nữa, tập trung tinh thần để chống đỡ những chiêu thức của đối phương. Ngọc Chân Tử hơi sơ suất một tí, cánh tay trái đã bị móc câu của Kim Xà Kiếm quẹt trúng một đường. Phen này hắn không dám tự cao tự đại nữa, lo múa phất trần phản kích.

Hai người lăn xả vào nhau, đấu hơn trăm chiêu vẫn khó phân cao thấp, đều âm thầm kinh ngạc. Viên Thừa Chí không dám sử dụng Kim Xà Kiếm Pháp vì chưa thập phần thuần thục, cũng không dám sử dụng những công phu của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ vì đối phương biết hết. Do đó chàng chỉ thi triển Hoa Sơn kiếm pháp.

Kim Xà Kiếm sắc bén vô cùng, không gì không hủy hoại được, nhưng những sợi tơ trên phất trần của Ngọc Chân Tử lại mềm mại không chịu lực, nên cắt không đứt. Kiếm và phất trần cùng phát ra những chiêu thức biến ảo vô cùng, kình phong trùm hết xung quanh, những ngọn nến trên bốn vách Sùng Chính Điện chập chờn như sắp tắt.

Đánh được vài chục chiêu nữa, bỗng nghe Hoàng Thái Cực dùng tiếng Mãn Châu quát mấy câu. Sáu tên bố khố chia ra ba phía xông tới.

Viên Thừa Chí biết chắc hôm nay không hành thích được Thát tử hoàng đế, bèn múa trường kiếm công gấp hai chiêu, rồi quay người toan chạy ra cửa điện. Phất trần của Ngọc Chân Tử vẫy ra, những sợi tơ quấn chặt lấy hai móc câu trên đầu Kim Xà Kiếm. Hai bên cùng giật mạnh, nhất thời thành thế đọ sức với nhau.

Ngay lúc đó, hai tên võ sĩ đồng thời từ hai bên Ngọc Chân Tử phóng lên, túm chặt hai bả vai Viên Thừa Chí. Chàng thét một tiếng, lỏng tay buông kiếm ra, vung song chưởng xô đẩy hai tên võ sĩ. Nội kình Hỗn Nguyên Công đã vận, hai tên này không sao tự chủ được, ngã nhào về phía Ngọc Chân Tử.

Ngọc Chân Tử không làm gì được, cũng phải buông rơi phất trần, đưa hai tay đẩy hai tên võ sĩ ra. Loảng xoảng một tiếng, phất trần và Kim Xà Kiếm đều rơi xuống đất, còn hai tên võ sĩ đó ôm lấy cặp đùi Viên Thừa Chí.

Ngọc Chân Tử phóng hữu chưởng đánh vào trước ngực Viên Thừa Chí. Chàng xuống tấn vững như núi, vung chưởng đánh trả. Hai tên võ sĩ dùng hết sức, cố sống cố chết muốn kéo Viên Thừa Chí té xuống, nhưng không sao kéo nổi. Ngọc Chân Tử múa chưởng nhanh như gió, chỉ chốc lát đã phát ra mười hai chưởng, Viên Thừa Chí hóa giải được hết.

Đột nhiên cổ chàng bị cái gì đó ép chặt lại. Thì ra một tên võ sĩ đã phóng lên lưng chàng, đưa tay bóp chặt yết hầu. Chàng huých ngược khuỷu tay phải ra sau, trúng ngay giữa ngực hắn. Hắn lập tức phun vọt máu vào sau gáy Viên Thừa Chí, máu từ trong cổ áo chảy xuống lưng nóng hổi, bàn tay bóp ở yết hầu từ từ thả lỏng.

Viên Thừa Chí đang vận kình lực để cố thoát khỏi bàn tay tên võ sĩ đó, một tên khác lại phóng lên, nắm chặt được bàn tay phải của chàng. Ngọc Chân Tử thừa cơ phóng chỉ điểm tới vèo vèo, Viên Thừa Chí đưa tay trái ra đỡ. Tứ chi chàng chỉ còn lại cánh tay trái tự do, thế mà chàng vẫn cản được bảy phát chỉ của Ngọc Chân Tử.

Ngọc Chân Tử dùng tay phải điểm tới, tả chưởng đánh vào trước mặt Viên Thừa Chí. Chàng vừa nghiêng đầu tránh né, cánh tay trái bỗng bị một tên võ sĩ ôm chặt nốt. Ngọc Chân Tử điểm liền ba phát, trúng vào ba đại huyệt trước ngực chàng, rồi mỉm cười bảo: “Thả ra đi! Hắn không động đậy được nữa đâu.”

Nhưng hắn nói sao thì nói, bốn tên võ sĩ đang ôm cứng hai tay hai chân Viên Thừa Chí vẫn không dám buông tay.

Đội trưởng thị vệ của Hoàng Thái Cực cầm dây xích tới, quấn quanh người và tay chân Viên Thừa Chí mấy vòng. Bấy giờ bọn võ sĩ mới chịu buông tay, gỡ đồng bọn đang bóp cổ Viên Thừa Chí. Cặp mắt hắn lồi hẳn ra, đầu lưỡi cũng thè ra ngoài, tắt thở từ lâu rồi.

Hoàng Thái Cực nói: “Tổng giáo đầu Ngọc Chân Tử và chúng võ sĩ, chúng thị vệ hộ giá có công, sẽ được trọng thưởng. Lão Bao, lão Ninh! Các ngươi có bị thương không?”

Bao Thừa Tiên và Ninh Hoàng Ngã đã được đám thị vệ dìu dậy, nhưng cứ ôm ngực mà ho, nói chưa ra tiếng được.

Hoàng Thái Cực ngồi trở lại long ỷ, mỉm cười nói: “Này, tên võ sĩ kia! Võ công ngươi khá lắm. Ngươi tên gì vậy?”

Viên Thừa Chí ngang nhiên nói: “Ta hành thích không thành thì mau đem giết, hỏi nhiều làm chi?”

Hoàng Thái Cực hỏi: “Ai sai ngươi đến ám sát ta?”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Ta nên nói thật, để bọn Thát tử này biết Viên đốc sư có người kế hậu.” Chàng lớn tiếng nói: “Ta là con trai của cố Kinh Liêu đốc sư Viên Sùng Hoán, tên là Viên Thừa Chí. Tên mọi rợ kia xâm chiếm giang sơn Đại Minh của chúng ta, hàng ngàn hàng vạn người Hán chúng ta chỉ hận không ăn được thịt ngươi. Hôm nay ta đến đây hành thích là để trả thù cho phụ thân, cũng là để trả thù cho hàng ngàn hàng vạn người Hán đã chết dưới tay ngươi.”

Hoàng Thái Cực nhổm dậy hỏi: “Ngươi là con trai của Viên Sùng Hoán ư?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy! Phụ thân đặt cho ta cái tên Viên Thừa Chí, chính là muốn ta kế thừa di chí của người, kháng cự bọn mọi rợ xâm chiếm giang sơn người Hán.”

Bọn thị vệ thi nhau quát: “Quỳ xuống”, nhưng Viên Thừa Chí mặc kệ. Hoàng Thái Cực vẫy tay ra lệnh cho chúng đừng làm ồn nữa, dịu dàng nói: “Thì ra Viên Sùng Hoán còn có hậu nhân, thật là tuyệt diệu. Ngươi có huynh đệ gì không?”

Viên Thừa Chí ngẩn ra nghĩ bụng: “Hắn hỏi chuyện này làm gì?”. Chàng đáp: “Không.”

Hoàng Thái Cực lại hỏi: “Ngươi có bị thương không?”

Viên Thừa Chí la lên: “Mau giết ta đi! Ta không cần ngươi giả vờ thương xót.”

Hoàng Thái Cực thở dài rồi nói: “Viên công, gia gia của ngươi là một người mà ta thán phục. Tiếc rằng Sùng Trinh hoàng đế không rõ thị phi, sát hại trung lương. Năm xưa phụ thân của ngươi từng đề nghị với ta, hai nước Minh Thanh rút quân cho dân được nghỉ, từ đây giao hảo với nhau. Nhưng chẳng những nghị hòa không thành, Sùng Trinh còn quy tội cho phụ thân ngươi. Ta nghe chuyện đó không khỏi đau lòng. Sùng Trinh giết phụ thân ngươi vì hai tội danh, ngươi có biết không?”

Viên Thừa Chí im lặng. Chàng cũng biết Sùng Trinh ghép cho gia gia mình hai tội: một là nghị hòa với nhà Thanh, cấu kết ngoại địch; hai là giết Bì Đảo tổng binh Mao Văn Long. Các thuộc hạ cũ của Viên Sùng Hoán như Tôn Trọng Thọ, Ưng Tùng đã nói rõ cho chàng biết. Năm xưa Viên đốc sư nghị hòa với Hoàng Thái Cực chỉ là kế quyền biến nhất thời. Quân Thanh dũng cảm thiện chiến, cưỡi ngựa bắn tên thiên hạ vô song. Quân Minh không sao địch nổi, phải rèn luyện thành tinh binh mới có cơ hội thủ thắng, nên Viên đốc sư nghị hòa để luyện binh và hoàn thiện quân khí giữ thành. Còn tổng binh Mao Văn Long thì tham ô, cướp bóc bá tính, không phụng mạng triều đình, không nghe lệnh chỉ huy. Không giết hắn thì không thể chỉnh đốn quân kỷ.

Hoàng Thái Cực lại nói: “Phụ thân ngươi bị Sùng Trinh hại chết, còn ta là bằng hữu của phụ thân ngươi. Sao ngươi không biết phân biệt phải trái, không đi giết Sùng Trinh mà đến đây hành thích ta?”

Viên Thừa Chí cãi: “Phụ thân ta là địch thủ của ngươi, sao là bằng hữu của ngươi được? Ngươi dụng kế phản gián, lừa gạt Sùng Trinh hại chết phụ thân ta. Sùng Trinh đáng giết, ngươi cũng đáng giết.”

Hoàng Thái Cực lắc đầu rồi nói: “Ngươi còn trẻ, chưa hiểu hết sự việc. Nói thế nào thì nói, ngươi cũng không hiểu được đâu.” Hắn quay lại bảo Phạm Văn Trình: “Phạm tiên sinh! Dẫn thiếu niên này về đi.”

Viên Thừa Chí quát lớn: “Ngươi muốn ta bắt chước Phùng Thừa Đồ hay sao? Hừ! Chẳng lẽ con trai của Viên đốc sư lại đi đầu hàng Mãn Châu?”

Lúc này phía ngoài Sùng Chính Điện đã tụ tập không ít quan văn võ, nghe có thích khách bèn kéo đến đây hộ giá. Hoàng Thái Cực hỏi: “Tổ Đại Thọ có đây không?”

Bên dưới, một võ tướng đáp: “Có thần!” Y lập tức bước lên trên điện, quỳ gối khấu đầu.

Viên Thừa Chí bỗng động tâm nghĩ: “Tổ Đại Thọ là đại tướng số một dưới trướng cha mình năm xưa. Khi cha mình bị Sùng Trinh hạ chỉ bắt giam, y giận dữ không phục, bèn dẫn quân ra khỏi Bắc Kinh phản kích. Sau này cha mình từ trong ngục viết thư khuyên ngăn, y mới chịu tuân chỉ Sùng Trinh. Y đã huyết chiến với quân Thanh trước sau mấy chục trận, nhưng Sùng Trinh vẫn đem lòng nghi kỵ, không cho cứu viện. Vì thế trong trận Đại Ninh Hà y bị Hoàng Thái Cực bao vây trùng điệp, bất đắc dĩ phải đầu hàng, hàng xong lại phản, huyết chiến mấy trận ở Thẩm Châu, hậu viện không có nên bị bắt rồi lại đầu hàng. Tổ Đại Thọ tuy đối xử với cha mình không tệ, nhưng dù sao cũng không nên đầu hàng Thát tử.”

Chàng nhịn không nổi, lớn tiếng trách mắng: “Tổ Đại Thọ! Đồ Hán gian vô sỉ!”

Tổ Đại Thọ đứng dậy, quay lại nhìn chàng. Y đã cạo bớt tóc ở trước trán, sau lưng thắt bím dài, đầu tóc trắng bạc, sắc mặt tiều tụy, không còn chút nào anh khí của một đại tướng thống binh. Viên Thừa Chí lại quát lên: “Tổ Đại Thọ! Ngươi còn mặt mũi nào nhìn ta nữa? Sau khi ngươi chết, dám đi gặp phụ thân ta hay không?”

Khi ở dưới điện, Tổ Đại Thọ đã nghe Hoàng Thái Cực và Viên Thừa Chí đối đáp rồi. Đột nhiên nước mắt y lăn dài hai bên má, run giọng nói: “Viên công tử! Công tử… công tử đã lớn đến thế này rồi! Hồi công tử ba tuổi, ta đã từng ẵm công tử.”

Viên Thừa Chí giận dữ nói: “Hừ! Ta từng bị Hán gian ẵm, hèn gì xui xẻo.”

Tổ Đại Thọ người run bần bật, dang tay bước lên hai bước, hình như muốn ôm lấy Viên Thừa Chí. Nhưng cuối cùng y dừng lại, mở miệng muốn nói chuyện, nhưng giọng cũng khàn lại, chỉ nghe mấy tiếng nghẹn trong cổ.

Hoàng Thái Cực nói: “Tổ Đại Thọ! Giao tên này cho ngươi. Cố khuyên hắn quy thuận, nếu không chịu thì chúng ta sẽ chém hắn ngàn đao, vạn đao. Hừ! Thằng lỏi này gan to thật, dám đến đây hành thích trẫm. Ha ha… ha ha…”

Tổ Đại Thọ quỳ xuống, vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Hoàng thượng khai ân! Nhất định hạ thần sẽ cố gắng hết sức mà khuyên giải.”

Hoàng Thái Cực gật đầu bảo: “Được! Dẫn hắn đi đi.”

Tổ Đại Thọ đi đến bên Viên Thừa Chí, đưa tay định dìu chàng. Viên Thừa Chí lùi vội hai bước, xích sắt quấn quanh chân tay và trên người khua loảng xoảng, hét lên: “Đừng đụng vào ta!” Tổ Đại Thọ rút tay về, cúi đầu lùi lại. Hai tên thị vệ bèn luồn tay dưới nách Viên Thừa Chí, xốc chàng đi theo Tổ Đại Thọ.

Viên Thừa Chí quay đầu lại nhìn Hoàng Thái Cực, thấy cặp mắt sáng loáng của hắn đang nhìn mình, thần sắc trông rất hòa ái. Chàng không sao hiểu được, thầm nghĩ: “Tên Thát tử hoàng đế này đang bày mưu ma chước quỷ gì đây?”

Ra khỏi cung, Tổ Đại Thọ sai bọn tùy tùng thân cận dìu Viên Thừa Chí lên lưng ngựa của y, còn y cưỡi một con ngựa khác trở về phủ đệ. Y lại sai tùy tùng đưa Viên Thừa Chí vào thư phòng, rồi bảo: “Các ngươi ra ngoài đi.”

Bốn tên tùy tùng khom lưng thi lễ rồi bước ra khỏi phòng. Tổ Đại Thọ đóng chặt cửa lại, không nói tiếng nào, tới tháo xích sắt trên người Viên Thừa Chí xuống.

Viên Thừa Chí còn ở trong cung đã bắt đầu vận khí, giải gần hết những huyệt đạo bị điểm trên ngực rồi. Thấy y dám cởi xích cho mình, chàng nghĩ: “Ngươi tưởng ta bị điểm huyệt thì không động đậy được ư? Hừ, coi thường ta quá.”

Tổ Đại Thọ từ từ cởi hết xích sắt cho Viên Thừa Chí, rốt cuộc vẫn không nói tiếng nào. Viên Thừa Chí âm thầm vận khí, cảm thấy những kinh mạch trước ngực vẫn còn trì trệ, nghĩ bụng: “Kình lực của đạo nhân đó thật ghê gớm. Mình trúng ba chỉ, có mặc cái áo kim ti của Mộc Tang đạo trưởng tặng mà cũng bị thế này. Nếu không có bảo y hộ thân, không biết sẽ ra sao”.

Chàng lại nghĩ: “Tổ Đại Thọ muốn khuyên ta đầu hàng bọn Thát tử, ta cứ vờ nghe lời hắn để kéo dài thời gian. Đợi đả thông xong kinh mạch trước ngực, ta sẽ phóng chưởng đánh chết tên Hán gian này, rồi nhảy ra cửa sổ bỏ đi.”

Tổ Đại Thọ cởi xong xích sắt trên người Viên Thừa Chí, cất giọng trầm trầm nói: “Viên công tử! Công tử đi đi.”

Viên Thừa Chí giật mình, không tin vào tai mình nữa, hỏi lại: “Ông… ông nói gì?”

Tổ Đại Thọ nói: “Ám sát Đại Thanh hoàng đế khó khăn vô cùng. Công tử đi đi.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Ông thả ta đi ư?”

Tổ Đại Thọ đáp: “Đúng thế! Công tử có bị thương không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không.”

Tổ Đại Thọ bảo: “Công tử cứ dùng con ngựa của ta, đợi trời sáng là ra khỏi thành ngay.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao ông thả ta đi?”

Tổ Đại Thọ ủ rũ nói: “Công tử là cốt nhục của Viên đốc sư. Tổ Đại Thọ này chịu ơn rất nặng của Đốc sư, không biết lấy gì báo đáp.”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ông thả ta đi, ngày mai Thát tử hoàng đế hỏi tới, nhất định ông bị khép vào tội chết.”

Tổ Đại Thọ nói: “Chuyện đó còn phải xem. Đại Thanh hoàng đế từng hứa là không giết ta.”

Viên Thừa Chí nói: “Ông tự ý thả thích khách đi, tội danh cực lớn. Không chừng hoàng đế sẽ nghi ngờ là ông sai ta hành thích. Ta không thể tham sống sợ chết mà hại mạng ông.”

Tổ Đại Thọ cười đau khổ, nói: “Mạng ta còn đáng giá nữa ư? Ngày thành Đại Ninh Hà bị phá, ta nên chết. Ngày thành Cẩm Châu bị phá, ta càng nên chết. Viên công tử! Công tử không cần lo lắng cho ta, cứ việc đi đi.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì ông theo ta mà trốn.”

Tổ Đại Thọ lắc đầu nói: “Lão mẫu, thê tử, anh em con cháu… Tám mươi mấy nhân khẩu nhà ta đều ở trong thành này cả. Ta không thể chạy trốn.”

Viên Thừa Chí bị kích động, đột nhiên nội tức trước ngực chạy ngược lại, nhịn không nổi phải nổi cơn ho hắng. Chàng nghĩ: “Y đầu hàng Thát tử, chính là Hán gian, lẽ ra ta phải vung chưởng đánh chết. Không ngờ y lại thả ta đi. Nhất định Thát tử hoàng đế phải giết y. Ta giết y, hay bọn Thát tử giết y, vốn không khác gì nhau. Nhưng chẳng lẽ ta để y chết thay cho mình? Nếu ta không đi, dĩ nhiên sẽ bị bọn Thát tử giết. Ta còn nhiều việc lớn chưa hoàn thành, không thể dễ dàng mất mạng, dĩ nhiên không nên chết. Vì một tên Hán gian mà chết, lại càng không đáng. Nhưng… nhưng…”

Chàng càng phân vân khó quyết định thì càng ho dữ dội, ho đến nỗi đỏ mặt tía tai, hơi thở không thể nào thông suốt.

Tổ Đại Thọ nhẹ nhàng vỗ lên lưng Viên Thừa Chí, bảo: “Viên công tử vừa phải ác đấu kịch liệt, mất sức quá nhiều. Nghỉ ngơi một chút đi.”

Viên Thừa Chí gật đầu, xếp bằng ngồi xuống, không suy nghĩ gì nữa mà tập trung tinh thần vận khí. Công phu điểm huyệt của Ngọc Chân Tử thật là lợi hại. Vừa rồi chàng tưởng có thể giải khai được hết các huyệt đạo bị phong tỏa, nhưng khi vận khí mới biết kinh mạch trước ngực chưa thông suốt. Nếu ngồi yên không động đậy thì không sao, nhưng nếu động thủ với người khác hoặc thi triển khinh công chạy nhảy, chắc chắn chàng sẽ bị bế khí mà ngất xỉu. Vì thế bây giờ chàng phải theo pháp môn điều hòa nội tức mà sư phụ đã truyền thụ, từ từ đưa luồng chân khí vận hành qua các kinh mạch toàn thân.

Không biết đã bao lâu, Viên Thừa Chí mới cảm thấy chân khí lưu chuyển trong thân thể không bị trì trệ nữa. Chàng từ từ mở mắt ra, bỗng thấy ánh dương quang rọi qua cửa sổ, thì ra trời đã sáng hẳn rồi. Chàng giật mình một cái, thấy Tổ Đại Thọ vẫn ngồi bên cạnh, hai tay đặt trên đầu gối, ngơ ngẩn xuất thần.

Viên Thừa Chí đứng dậy hỏi: “Ông ngồi cạnh ta suốt đêm ư?”

Trên mặt Tổ Đại Thọ có phần vui vẻ, hỏi lại: “Công tử đã khỏe rồi sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Khỏe hẳn rồi. Ngọc Chân Tử lai lịch thế nào mà võ công lợi hại đến như vậy?”

Tổ Đại Thọ nói: “Đạo nhân này mới từ Tây Tạng đến đây tháng trước, xin tỉ thí võ công với bọn bố khố trong cung. Hắn liên tiếp đả bại hai mươi ba tên bố khố hạng nhất, rồi bốn năm tên võ sĩ liên thủ ra tay cũng bị hắn đánh bại nốt. Hoàng đế cả mừng, phong cho hắn tước hiệu Hộ Quốc Chân Nhân gì gì đó, bảo hắn làm Tổng giáo đầu dạy võ cho bọn bố khố. Công tử! Công tử uống chén canh gà này đi, rồi ăn vài miếng bánh, sau đó chúng ta rời khỏi đây.”

Nói xong, ông đi đến bên bàn, bưng một tô canh tới. Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình chuyên tâm vận công, có người đưa thức ăn vào đây cũng không biết. Ông ấy muốn giết mình thì đã giết rồi, không cần hạ độc.” Chàng bèn nhận lấy tô canh đó uống mấy hớp, cảm thấy vị hơi đắng.

Tổ Đại Thọ nói: “Tô canh này hầm bằng nhân sâm già ở Liêu Đông, bổ khí rất tốt.”

Viên Thừa Chí ăn thêm hai cái bánh rồi nói: “Bây giờ ông dẫn ta đi gặp Thát tử hoàng đế. Ta chịu đầu hàng.”

Tổ Đại Thọ giật bắn người, giương mắt nhìn chàng, bỗng hiểu chàng không muốn ông mất mạng vì mình, nên giả vờ đầu hàng trước rồi mới tìm cách thoát thân. Ông suy nghĩ một chút rồi đáp: “Được!”

Hai người đi ra ngoài phủ, lên ngựa. Tổ Đại Thọ không mang theo tùy tùng, cho ngựa đi trước. Viên Thừa Chí giục ngựa theo sau.

Qua mấy chỗ rẽ, Viên Thừa Chí thấy ông cho ngựa ra khỏi cửa thành. Trên cổng thành ghi ba chữ lớn: Đức Thạnh Môn, kế bên có nhiều chữ Mãn Châu cong cong vẹo vẹo. Chàng biết đây là cửa nam của thành Thịnh Kinh, hôm qua chàng vào thành bằng chính cửa này.

Chàng ngạc nhiên, hỏi: “Sao chúng ta ra ngoài thành?”

Tổ Đại Thọ đáp: “Hoàng đế đang đi săn bắn ở vùng núi Ha Nhĩ Tản phía nam thành.”

Hai người ra khỏi thành hơn mười dặm. Tổ Đại Thọ bỗng dừng ngựa lại nói: “Công tử! Bây giờ chúng ta từ biệt ở đây, xin công tử bảo trọng. Nguyện cầu Bồ Tát bảo hộ công tử bình an.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Sao? Không phải chúng ta đi gặp Thát tử hoàng đế ư?”

Tổ Đại Thọ lắc đầu, vừa cười đau khổ vừa nói: “Viên đốc sư trung nghĩa ngất trời. Công tử của Viên đốc sư đâu có vô sỉ như ta mà đầu hàng Thát tử!”

Ông tháo thanh kiếm trên lưng ra, ném cả vỏ kiếm cho Viên Thừa Chí. Chàng chỉ còn cách đón lấy. Tổ Đại Thọ đột nhiên quay đầu ngựa lại, quất cho hai roi thật mạnh vào mông. Con ngựa lập tức cuốn vó chạy nhanh, ngược về phía Thịnh Kinh.

Viên Thừa Chí la lên: “Tổ thúc thúc! Tổ thúc thúc!” Nhất thời chàng không định được chủ ý, có nên đuổi theo gọi ông ấy đi với mình hay không.

Chàng chần chừ một chút, con ngựa của Tổ Đại Thọ đã phi xa rồi. Nhưng vẫn nghe thấy giọng của ông xa xa vẳng lại: “Cảm ơn hai tiếng thúc thúc của công tử.”

*

*   *

Viên Thừa Chí ngồi yên trên ngựa, cảm thấy trong lòng mất mát cái gì đó. Hồi lâu chàng mới cho con ngựa đi về hướng nam.

Đi thêm mười dặm nữa, xa xa đã nhìn thấy Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải, Sa Thiên Quảng cùng mọi người đứng đợi ngoài tòa miếu cũ đã hẹn. Thanh Thanh hô lên một tiếng, nhanh chân chạy tới nhảy vào lòng chàng, thầm thì: “Ca ca về rồi, ca ca về rồi!”

Thấy mặt nàng ra vẻ rất mệt mỏi, Viên Thừa Chí đoán chắc nàng đã suốt đêm không ngủ lo lắng cho mình. Thanh Thanh thấy chàng không hưng phấn chút nào, biết hành thích không xong, bèn hỏi: “Huynh tìm không được Thát tử hoàng đế hay sao?”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Tìm thì tìm được, nhưng không giết được.” Chàng kể sơ lại tình hình, mọi người nghe xong đều há hốc mồm ra, không sao ngậm lại.

Thanh Thanh vỗ vỗ trước ngực mình, thở ra một hơi dài rồi nói: “Cảm ơn trời đất.”

Viên Thừa Chí nghĩ đến Tổ Đại Thọ sẽ mất mạng vì mình, trong lòng có phần không yên, liền nói: “Đêm nay ta lại vào thành. Nếu Tổ thúc thúc bị Thát tử hoàng đế bắt rồi, ta phải ra tay giải cứu.”

Thanh Thanh nói: “Đi thì mọi người cùng đi! Lần này Thanh đệ không cho huynh mạo hiểm một mình nữa.”

Đến giờ Thân, cả đoàn người kéo vào thành Thịnh Kinh. Sợ chuyện hôm qua đã bị tiết lộ, nên họ ngụ trong một khách sạn khác.

Hồng Thắng Hải đến phủ đệ của Tổ Đại Thọ quan sát, khi về báo cáo: “Không nghe tin Tổ Đại Thọ bị Thát tử hoàng đế bắt giam. Ngoài cửa phủ không có động tĩnh gì.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Chắc là Thát tử hoàng đế chưa biết thúc thúc thả mình ra, cứ tưởng thúc thúc đang cố khuyên mình đầu hàng.” Chàng bảo Hồng Thắng Hải tiếp tục đi thám thính, Thiết La Hán bèn nói: “Để ta đi với!”

Thanh Thanh nói: “Huynh đừng đi. Đánh nhau với người khác, làm hỏng việc lớn mất.”

Thiết La Hán bĩu môi nói: “Chắc gì ta đã gây sự đánh nhau?”

Hồ Quế Nam nói: “Để ta đi với La Hán huynh. Hễ huynh ấy muốn gây sự thì ta kéo lại là xong.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Các vị nhớ cẩn thận đề phòng.”

Xế chiều ba người trở về khách sạn, Thiết La Hán giận dữ nói: “Nếu Hạ cô nương không dặn trước, thì ta đã bẻ cổ mấy thằng lỏi đó rồi.”

Mọi người vội hỏi nguyên nhân, Hồng Thắng Hải kể lại. Thì ra ba người không nghe tin bắt Tổ Đại Thọ, cũng không nghe ai bình luận gì về chuyện đêm qua trong cung có thích khách, bèn kéo nhau đến một tửu lầu uống rượu, gặp tám tên võ sĩ bố khố đang ăn nhậu say sưa, nói toàn tiếng Mãn Châu. Hồng Thắng Hải nghe hiểu, dịch lại cho Thiết La Hán và Hồ Quế Nam biết.

Bọn này đang khoa trương Tổng giáo đầu anh dũng vô địch, đêm qua lại đoạt được một thanh bảo kiếm, mũi kiếm có móc câu, thân kiếm cong queo, sắc bén vô cùng, thổi lông cũng đứt, chém sắt như bùn. Đây không phải là Kim Xà Kiếm của Viên Thừa Chí hay sao? Thiết La Hán nổi giận đứng dậy, muốn qua đó để dạy chúng một bài học. Hồ Quế Nam vội vã kéo y lại. Đợi tám tên võ sĩ kia ăn xong xuống lầu, ba người mới lén đi theo, dò được nơi ở của chúng.

Viên Thừa Chí đánh thua bị bắt, binh khí bị người ta đoạt lấy, thật là một nỗi nhục chưa từng gặp phải. Chàng nghĩ: “Võ công của Ngọc Chân Tử không dưới mình. Thanh kiếm đó dĩ nhiên phải đoạt về, nhưng làm sao mà đoạt được trong tay một cao thủ tuyệt đỉnh như thế?” Nhất thời chàng im lặng không nói tiếng nào.

Hồ Quế Nam mỉm cười nói: “Minh chủ! Đêm nay để ta trổ nghề diệu thủ lấy về. Dù sao Ngọc Chân Tử cũng phải đi ngủ. Võ công hắn có cao gấp mười thì cũng không thể vừa ngủ vừa đánh ta được.”

Mọi người cười ồ lên. Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì phiền Hồ huynh rồi, nhưng nhất định không được khinh địch, sơ suất. Hồ huynh chỉ cần lấy kiếm, không cần giết người. Bắt hắn chết trong lúc ngủ, làm con ma hồ đồ, đó không phải là hành động của anh hùng hảo hán.”

Hồ Quế Nam nói: “Đúng vậy! Sau này minh chủ sẽ tỉ đấu công bằng với hắn, bắt hắn tâm phục khẩu phục mà chết.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Dù là đơn đả độc đấu, ta vẫn chưa chắc thắng được hắn.”

Chàng dặn Hồ Quế Nam không được hành thích, vì chuyện này quá nguy hiểm. Ngọc Chân Tử dù ngủ say đến đâu, khi có động vẫn có thể tỉnh dậy đánh trả. Võ công của hắn quá cao, dù bị trọng thương chí tử thì trước lúc chết vẫn có thể xuất chiêu lấy mạng Hồ Quế Nam.

Ăn tối xong, Hồ Quế Nam thay y phục đen, hoan hỉ đi ra ngoài. Viên Thừa Chí nghĩ tới võ công của Ngọc Chân Tử lợi hại, không yên tâm được, bèn nói: “Hồ huynh! Ta đi cảnh giới cho huynh.”

Hai người cùng ra khỏi khách điếm. Thanh Thanh biết chuyến đi này không mạo hiểm như chuyện hành thích Thát tử hoàng đế ngày hôm qua, lại biết nghề diệu thủ không không của Hồ Quế Nam là thiên hạ vô song, nên nàng không quá lo lắng.

Hồ Quế Nam đi trước dẫn đường, khoảng ba dặm thì đến nơi ở của bọn võ sĩ bố khố. Chính giữa là một cái lều da trâu cực lớn, xung quanh là những căn nhà nhỏ. Hồ Quế Nam khẽ nói: “Tám tên võ sĩ đó đều ở trong căn nhà nhỏ phía bắc. Không biết tên đạo sĩ kia có ở đây hay không.”

Viên Thừa Chí nói: “Mình cứ bắt một tên võ sĩ mà hỏi. Tiếc là chúng ta không biết tiếng Mãn Châu.”

Hồ Quế Nam nói: “Để ta dùng tay ra hiệu, bảo hắn dẫn…”

Nói chưa dứt câu, đã thấy hai tên võ sĩ vừa ca hát vừa đi tới, thoải mái vô cùng. Viên Thừa Chí đợi chúng đến gần, đột nhiên nhảy ra chìa ngón tay điểm vào huyệt đạo sau lưng. Kình lực thấu vào trọng huyệt, lập tức cả hai không động đậy được.

Viên Thừa Chí xuất thủ có phân biệt nặng nhẹ, một tên võ sĩ lập tức ngất xỉu, còn tên kia vẫn tỉnh táo. Chàng kéo tên võ sĩ bị xỉu, giấu vào trong lùm cây thấp. Tay trái của Hồ Quế Nam cầm dao nhọn kề vào yết hầu tên kia, tay phải giơ lên đỉnh đầu mình, bắt chước hình cái búi tóc đạo sĩ, ra ý hỏi hắn: “Đạo sĩ đang ở chỗ nào?”

Hắn nói: “Ngươi làm gì, ta không hiểu.”

Không ngờ tên này biết nói tiếng Hán. Thì ra Thịnh Kinh chính là Thẩm Dương, vốn thuộc về Đại Minh. Thành này bị người Mãn Châu đánh chiếm vào năm Thiên Khải thứ năm, trở thành kinh đô của Đại Thanh chưa đầy hai mươi năm. Dân cư trong thành, hết chín phần là người Hán. Bọn bố khố này thường đi đánh bạc uống rượu, nên phần lớn biết nói tiếng Hán.

Hồ Quế Nam cả mừng hỏi: “Tên đạo sĩ tổng giáo đầu của các ngươi ở chỗ nào?”

Tên võ sĩ kia bị dao nhọn kề sát yết hầu, vốn đang kinh hoảng. Hắn nghe hỏi câu này, nghĩ bụng: “Các ngươi muốn tìm Tổng giáo đầu mà chịu chết, thật chẳng có gì hay hơn nữa.” Hắn bĩu môi, nhìn về phía một căn nhà ở hướng đông, nói: “Tổng giáo đầu Hộ Quốc Chân Nhân ở trong căn nhà đó.”

Căn nhà đó cách những gian nhà nhỏ khác tới khoảng bốn năm chục trượng, kiến trúc sang trọng hơn nhiều. Viên Thừa Chí tin là thật, bèn điểm thêm một huyệt nữa cho hắn ngất xỉu, phải ba bốn giờ nữa mới tỉnh dậy được. Hồ Quế Nam kéo hắn bỏ vào trong lùm cây cho có bạn.

Hai người nhẹ bước đi tới gian nhà lớn đó. Chỗ nào cũng tối đen, trong cửa sổ không có ánh nến rọi ra. Hồ Quế Nam thì thầm: “Tên mũi trâu đó ngủ rồi. Chúng ta không cần đợi nữa.”

Hai người vòng ra cửa sau. Hồ Quế Nam nép người vào tường, bò lên không hề phát ra tiếng động, rồi lại men theo tường bò xuống. Viên Thừa Chí thấy tư thế trèo tường của y chẳng đẹp chút nào, tay chân thò ra, đầu cổ rút lại, hành động chậm chạp giống hệt một con rùa, nhưng không hề phát ra tiếng động. Bản lãnh này chàng quyết không sánh kịp, thầm nghĩ: “Thật không hổ danh Thánh Thủ Thần Thâu.”

Viên Thừa Chí sợ mình nhảy vào phát ra âm thanh sẽ bị Ngọc Chân Tử phát giác, bèn ngồi lại canh gác ngoài tường, chăm chú tinh thần để lắng nghe.

Lát sau nghe con quạ trên một cành cây gần nhà kêu mấy tiếng, rồi lại im lặng rất lâu. Đột nhiên nghe thấy tiếng cười khúc khích của một cô gái, sau đó là tiếng cười ha hả của nam nhân. Hai bên nói chuyện mấy câu, khoảng cách khá xa nghe không rõ được, nhưng thoang thoảng vẫn nhận ra giọng Ngọc Chân Tử.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Hắn vẫn chưa ngủ, thế thì Hồ huynh không ra tay được rồi.” Chàng sợ Hồ Quế Nam gặp nguy hiểm, bèn nhảy qua tường đi vào, nhắm hướng có tiếng trai gái cười đùa không dứt mà lần tới.

Đột nhiên nghe Ngọc Chân Tử vừa cười vừa hỏi: “Trên người muội, chỗ nào trơn tru nhất?”

Cô gái vừa cười vừa đáp: “Muội không biết.”

Ngọc Chân Tử cười nói: “Để ta sờ thử xem.”

Viên Thừa Chí đỏ mặt tía tai, dừng bước nghĩ thầm: “Tên giặc già kia đang bày trò. May mà Thanh đệ không có ở đây.” Chàng nghe tiếng cười đùa phóng túng của cô gái đó, trong lòng không khỏi khó chịu, bèn âm thầm nhảy ra khỏi tường, ngồi đợi trong bãi cỏ.

Lát sau một cơn gió thổi qua, chàng bỗng rùng mình. Bây giờ mới chớm thu, nhưng ở phương bắc thì ban đêm đã cảm thấy hơi lạnh của mùa đông rồi. Đột nhiên nghe tiếng Ngọc Chân Tử giận dữ quát: “Ai?”

Viên Thừa Chí giật mình đứng dậy, la thầm: “Hỏng rồi! Bị hắn phát giác rồi.” Chàng lập tức nhảy lên đầu tường, thấy một bóng đen chạy nhanh tới. Đến gần thì thấy trong tay y ôm một mớ gì đó bùng nhùng.

Viên Thừa Chí động tâm nghĩ: “Đúng là ăn cắp quen tay. Không hiểu Hồ huynh lấy gì của hắn, cả một đống to thế kia.” Nhất thời chàng không kịp suy nghĩ, vội nhảy xuống nắm lấy y rồi tung người vọt qua tường. Khi đáp xuống đất, nghe tiếng Ngọc Chân Tử hét: “Bọn chuột nhắt kia! Chán sống hay sao?” Thì ra hắn đã đứng trên đầu tường.

Hồ Quế Nam la lên: “Lấy được rồi! Chạy nhanh lên!”

Viên Thừa Chí cả mừng quay lại nhìn, bỗng không nén nổi kinh ngạc. Dưới ánh sao mờ nhạt, chàng thấy nửa thân trên Ngọc Chân Tử lõa lồ, phía dưới quấn một tấm chăn rất dày, phải dùng hai tay giữ lấy.

Chàng nhịn không nổi, cười phì ra. Hồ Quế Nam mỉm cười nói: “Lão mũi trâu đang làm trò khỉ thì bị ta lấy cắp hết quần áo.” Y nói xong đưa hai tay lên, đúng là đang ôm một đống quần áo.

Y quay lưng lại nói: “Minh chủ, lấy bảo kiếm đi.” Viên Thừa Chí thấy Kim Xà Kiếm đang cài sau lưng y, bèn rút lấy cắm vào thắt lưng mình.

Hai người chạy được mấy bước, Ngọc Chân Tử cả người lẫn chăn đã phóng tới, vừa quát mắng vừa vung hữu chưởng đánh tới Hồ Quế Nam. Viên Thừa Chí xuất chưởng nhằm vào vai hắn, cũng quát lên: “Hai chúng ta lại tỉ thí một trận nữa!”

Ngọc Chân Tử cảm thấy thế chưởng cực kỳ lợi hại, vội thu tay về chống đỡ. Hai chưởng giao nhau, mỗi người phải lùi ba bước. Ngọc Chân Tử giật mình kinh hãi, khi nhìn rõ đối thủ càng kinh hãi hơn. Hắn la lên: “Ái chà! Thằng lỏi này trốn thoát rồi sao?”

Lúc nãy hắn tưởng là bọn trộm cắp đến đây trộm kiếm, nên mới lõa lồ đuổi theo, nghĩ chỉ một chiêu là xong. Nào ngờ lại có một đại cao thủ như Viên Thừa Chí chờ sẵn ngoài tường.

Viên Thừa Chí vừa lùi lại đã tiến lên. Tay trái của Ngọc Chân Tử lo giữ chăn cho khỏi tuột, chỉ còn tay phải chống đỡ với đối thủ. Nhưng cái chăn này vừa dài vừa rộng, nên chỉ được hai chiêu là chân hắn vướng phải tấm chăn, bước đi loạng choạng. Viên Thừa Chí thừa thế xuất một quyền khá nặng đánh trúng đầu vai hắn.

Ngọc Chân Tử vừa lo lắng, vừa giận dữ. Hắn đang tận tình hưởng lạc thì bị Hồ Quế Nam lấy mất bảo kiếm và y phục, vốn đã kinh hãi rồi, bây giờ lại gặp phải kình địch. Đầu vai trúng một chiêu Phá Ngọc Quyền của Viên Thừa Chí, cả cánh tay phải hắn tê chồn.

Từ hồi tám tuổi cho đến bây giờ, hắn chưa từng lõa lồ thân thể trước mặt nam nhân khác. Bây giờ tâm trạng bối rối, hắn không nghĩ được chuyện vứt bỏ tấm chăn, để thân thể lõa lồ động thủ với Viên Thừa Chí cũng chẳng trở ngại gì. Lúc này đêm khuya, kế bên không có nhiều người. Cho dù bị người ta nhìn thấy, thì hắn phong lưu háo sắc đã quen, chẳng mang tiếng gì thêm. Nhưng thói quen mặc áo quần đã bắt rễ trong lòng rồi, lúc này hắn tay chân loạn xạ lo chống đỡ mà tay trái vẫn nắm chặt tấm chăn không chịu buông ra, chỉ dùng một tay đối địch.

Chưa tới hai chiêu nữa, sau lưng hắn lại bị Viên Thừa Chí đánh trúng một chưởng. Phát chưởng này đã vận nội kình Hỗn Nguyên Công, Ngọc Chân Tử không gượng nổi, hộc một tiếng rồi thổ ra một ngụm máu tươi.

Viên Thừa Chí dừng tay không truy kích, mỉm cười nói: “Lúc này giết ngươi, chắc ngươi chết cũng không phục. Lần sau ngươi ăn mặc đàng hoàng, chúng ta lại đánh một trận.”

Hồ Quế Nam lo lắng nói: “Minh chủ không nên tha hắn, e rằng nguy đến tính mạng Tổ Đại Thọ.”

Viên Thừa Chí động tâm nghĩ: “Không sai! Hắn đi bẩm lên Thát tử hoàng đế, lại tăng thêm tội danh cho Tổ thúc thúc. Lần này ta phải giết người diệt khẩu.” Chàng bèn tung người tới, vung cả song quyền đánh vào hai bên thái dương của hắn.

Ngọc Chân Tử thấy chiêu này ác độc, dĩ nhiên phải đưa cả hai tay ra đỡ. Tuy hắn gạt được song quyền của đối phương, nhưng tấm chăn đã tuột xuống chân. Hắn vừa kinh hãi la lên, lại bị Viên Thừa Chí phóng cước đá trúng vào trước ngực. Ngọc Chân Tử sợ quá, không nghĩ đến chuyện trên người có vải hay không nữa, cứ vắt giò lên cổ mà chạy trốn. Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam đuổi riết theo sau.

Võ công đạo sĩ này thật sự cao cường. Liên tiếp trúng ba chiêu, bị thương rất nặng mà hắn vẫn chạy như bay, khinh công hiếm có trên đời. Viên Thừa Chí đuổi theo, thấy hắn chuồn vào trong cái lều bằng da bò lớn ở giữa. Chàng định nhảy vào giết hắn diệt khẩu, nhưng vừa chạy tới ngoài lều đã thấy trong căn lều đó đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, lố nhố đầy người. Chàng lập tức dừng lại, né sang một bên. Lúc này mọi người trong lều đều kinh hãi la lên.

Hồ Quế Nam đã chạy tới nơi, nắm tay Viên Thừa Chí dẫn vòng ra phía sau lều. Hai người cúi rạp xuống, vén mép lều lên, nhìn vào bên trong. Họ thấy Ngọc Chân Tử đã té nhào xuống đất, nằm ngẩng mặt nhìn trời, cả người không chút vải dính thân. Nam tử hán như hắn mà toàn thân phô bày da thịt trắng trẻo, trước ngực dính đầy máu tươi, trông vừa quái lạ vừa tức cười.

Mọi người trong lều khi hết kinh hãi đều im lặng không lên tiếng. Lát sau mới nghe một giọng oai nghiêm cất lên, nói tiếng Mãn Châu. Viên Thừa Chí giật mình, người nói chính là Hoàng Thái Cực, hoàng đế Mãn Thanh.

Trong lều đứng đầy võ sĩ bố khố, không dưới hai trăm tên. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đúng rồi! Thát tử hoàng đế thích xem tỉ võ, đêm nay lại đến đây xem nữa. Coi như hắn có nhãn phước, được thấy tổng giáo đầu của bọn võ sĩ kỳ lạ thế này.”

Đêm qua Viên Thừa Chí đã giao đấu với bọn bố khố. Tuy võ công chúng chỉ bình thường, nhưng hễ nắm được ai là chết cũng không buông, thật là khó đấu. Võ sĩ trong lều lại đông như thế, bây giờ muốn hành thích hoàng đế quyết không thể được. Chàng bèn im lặng, đợi xem biến chuyển thế nào.

Một tên võ sĩ ra vẻ thủ lãnh bước lên, cung kính bẩm báo. Hoàng Thái Cực nói mấy câu rồi đứng dậy, hình như đã mất hứng không muốn xem tỉ võ nữa. Khi hắn đi tới cửa lều, mấy chục tên thị vệ vây quanh tiền hô hậu ủng, đưa ra khỏi lều rồi lên ngựa.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Đây đúng là cơ hội trời cho. Ta ra tay xuất kỳ bất ý dọc đường, so với vào cung hành thích thì tiện lợi hơn rất nhiều.” Chàng khẽ bảo Hồ Quế Nam: “Đó là Thát tử hoàng đế. Huynh về trước đi, ta thừa cơ ra tay dọc đường.”

Hồ Quế Nam vừa mừng vừa sợ, nói: “Minh chủ nhớ cẩn thận.”

Viên Thừa Chí bám theo nhóm người tiền hô hậu ủng Hoàng Thái Cực, thấy bọn thị vệ giơ cao đuốc đi về phía tây. Chàng nghĩ: “Đợi hắn đi xa xa rồi hãy ra tay, đỡ bị đám võ sĩ trong lều kéo tới quấy rầy.”

Chưa tới một dặm, bỗng thấy đám thị vệ đưa Hoàng Thái Cực vào trong một căn nhà lớn. Viên Thừa Chí ngạc nhiên nghĩ: “Giờ này sao hắn không về cung, vào căn nhà này làm gì?” Chàng vòng ra sau nhà, nhảy qua tường, lọt vào một vườn hoa rất rộng, thấy một căn phòng ở hướng nam có ánh sáng rọi ra.

Chàng cúi người tiến tới, theo khe cửa sổ nhìn vào, thấy trong phòng chăn màn rất sang trọng. Trên tấm màn bằng lụa hồng có thêu một đôi phượng hoàng lớn. Tấm màn này bỗng được vén lên, Hoàng Thái Cực bước vào trong. Viên Thừa Chí mừng rỡ, thầm nghĩ: “Trời giúp ta đây!”

Một nữ nhân Mãn Châu đứng dậy nghênh đón. Trang phục nữ nhân này vô cùng diễm lệ, trên mũ cũng cũng khảm trân châu bảo ngọc. Sau khi Hoàng Thái Cực vào phòng, nữ nhân ấy quay người lại. Viên Thừa Chí thấy nàng khoảng hai tám hai chín tuổi, dáng vẻ đoan trang thùy mị, toàn thân đeo kín châu bảo. Chàng nghĩ: “Nữ nhân này nếu không phải hoàng hậu thì cũng là quý phi. Đúng rồi, Hoàng Thái Cực đi xem võ sĩ tỉ thí, nương nương không thích xem nên ở đây chờ đợi. Đây chính là nội cung của hoàng đế.”

Hoàng Thái Cực đưa tay sờ má nữ nhân, nói mấy câu gì đó. Nàng vừa trả lời vừa cười khúc khích. Hoàng Thái Cực ngồi lên giường, đang định nằm xuống thì đột nhiên đứng bật dậy, trên mặt đầy vẻ hoài nghi. Y nhìn quanh phòng, bỗng thấy bên giường có một đôi giày nam nhân đang để nghiêng ngả, bèn lớn tiếng vừa mắng vừa hỏi.

Nữ nhân sắc mặt tái xanh, lấy tay che mặt khóc rấm rứt. Hoàng Thái Cực túm lấy ngực, đưa tay toan đánh. Nàng khuỵu gối, quỳ xuống ngay trước mặt y. Hoàng Thái Cực buông nàng ra, cúi xuống nhìn vào gầm giường.

Viên Thừa Chí vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Chắc là hoàng hậu nương nương thừa lúc hoàng đế đi xem tỉ võ mà hẹn với tình nhân. Không ngờ Hộ quốc chân nhân Ngọc Chân Tử diễn tuồng hay, khiến hoàng đế trở về sớm hơn nên cơ quan bại lộ. Chẳng lẽ hoàng hậu nương nương cũng lén lút với nam nhân khác? Thật chẳng ra thể thống gì nữa. Nếu tình nhân của mụ vẫn còn trong phòng, thì phen này không sao thoát được.”

Ngay lúc đó, phía sau Hoàng Thái Cực, một cánh cửa đột ngột hé mở, một người nhảy ra. Ánh đao vừa lóe lên, ngọn trủy thủ đã đâm lút vào lưng Hoàng Thái Cực. Nữ nhân la lên kinh hãi, ngọn nến lắc lư mấy cái rồi tắt hẳn. Lát sau, khi nến được thắp lên thì Hoàng Thái Cực đã nằm yên dưới đất không động đậy được nữa, máu tươi nhuộm đỏ lưng áo hoàng bào.

Phen này Viên Thừa Chí lại càng kinh hãi. Người kia chính là Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn mà chàng từng gặp. Nữ nhân nhảy vào trong lòng hắn, hắn ôm lấy, khẽ an ủi dỗ dành.

Nhìn thấy tình cảnh thương tâm này, trống ngực Viên Thừa Chí đập lên loạn xạ. Chàng nghĩ bụng: “Không ngờ Đa Nhĩ Cổn gan to bằng trời, đã dám tư thông với chị dâu còn ám sát cả anh trai. Chuyện này sắp rắc rối rồi, ta mau mau thoát thân là hơn.”

Chàng lập tức nhảy ra ngoài tường, chạy về khách sạn. Thanh Thanh thấy thần sắc chàng kinh hãi, bèn an ủi: “Phước khí của Thát tử hoàng đế rất lớn, huynh không ám sát được hắn thì thôi vậy.”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Thát tử hoàng đế bị giết rồi, nhưng không phải ta giết.”

Mọi người đều nghĩ, Thát tử hoàng đế bị hành thích, nhất định kinh thành sẽ đại loạn. Vì thế sáng sớm hôm sau họ lập tức rời khỏi Thịnh Kinh, đi về hướng nam.

Chưa đầy một ngày, quần hào đã vào Sơn Hải Quan. Khi đến kinh sư ở Thuận Thiên Phủ, họ mới nghe tin Mãn Thanh hoàng đế Hoàng Thái Cực vào đêm Canh Ngọ tháng Tám không bệnh mà băng hà. Con trai của Hoàng Thái Cực là Phước Lâm tiếp ngôi hoàng đế, Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn giữ quyền nhiếp chính.

Viên Thừa Chí nói: “Đa Nhĩ Cổn thật là lợi hại. Hắn chính tay giết chết hoàng đế, mà vẫn hoàn toàn vô sự. Không biết hắn giấu giếm việc này như thế nào.”

Hồng Thắng Hải nói: “Nhuệ Thân Vương trước nay vẫn được Hoàng Thái Cực tin yêu, tay nắm binh quyền. Vương công thân thích Mãn Thanh, không ai là không sợ hắn. Hắn nói Hoàng Thái Cực không bệnh mà băng hà, dĩ nhiên không ai dám nói gì.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Thế thì sao chính hắn không làm hoàng đế?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Chuyện này tiểu nhân không biết. Có thể hắn sợ có người không phục, sau này sẽ lộ chuyện giết Hoàng Thái Cực ra. Còn thằng bé Phúc Lâm đó là con của Trang Phi. Quý phi mà tướng công gặp đêm đó, nhất định là Trang Phi rồi.”

Phen này Viên Thừa Chí đến Liêu Đông, mục đích là hành thích hoàng đế Mãn Thanh Hoàng Thái Cực để trả thù cha, kết quả là chính mắt nhìn thấy Hoàng Thái Cực bị đâm chết. Tuy không phải chính tay mình giết, nhưng dù sao kẻ đại thù cũng đã chết rồi. Thế mà trong lòng chàng không thấy vui mừng chút nào, cứ ngẫm nghĩ: “Sao hắn lại giao mình cho Tổ thúc thúc? Biết người biết ta như Hoàng Thái Cực, dĩ nhiên sẽ nghĩ đến chuyện Tổ Đại Thọ thả mình ra. Hắn muốn thu phục lòng người, khiến Tổ thúc thúc một lòng một dạ làm việc cho hắn, hay là cố ý làm vậy để lấy lòng, dụ ta đầu hàng thật sự?”

Có lúc Viên Thừa Chí lại nghĩ: “Tổ thúc thúc đầu hàng Thát tử, dĩ nhiên là Hán gian rồi. Nhưng ông ấy vừa cứu mạng ta, ta đã buột miệng gọi ông ta là thúc thúc. Chẳng lẽ đó không phải là nhớ ơn riêng mà quên đại nghĩa? Chuyện này nên hay không nên?”

Chàng lại nghĩ đến lúc Hoàng Thái Cực sắp chết, khi đó mình nhịn không nổi, chỉ muốn xông vào nhà để cứu mạng hắn. Nếu Đa Nhĩ Cổn ra tay chậm một chút, thì có thể mình đã ra tay cứu kẻ thù rồi. Bây giờ nhớ lại, thật là khó nghĩ. Hoàng Thái Cực kiến thức cao siêu, Đa Nhĩ Cổn thủ đoạn ác độc, bọn Phạm Văn Trình tầm nhìn rất xa, Ngọc Chân Tử võ công cao cường, võ sĩ Mãn Thanh dũng cảm, triều đình Đại Minh chẳng thể nào sánh kịp. Thế sự vô cùng gian nan, những ngày sắp tới còn khó khăn nhiều. Bấy giờ trong lòng chàng trống trải, chẳng nghĩ được chuyện gì.

*

*   *

Viên Thừa Chí xuất tiền, sai Hồng Thắng Hải tìm mua một tòa nhà ở hẻm lớn gần Cấm Thành. Lần này đến kinh thành phải kết giao với các bậc vương công và đại quan văn võ để làm nội ứng cho Sấm quân, nên cần tạo vẻ sang trọng hào nhoáng.

Viên Thừa Chí đem châu báu và vàng thỏi trong rương sắt đổi dần thành ngân lượng. Có lúc chàng bảo Hồng Thắng Hải đổi ở Thiên Tân, có lúc đến tận Trương Gia Khẩu để khỏi gây chú ý cho người khác. Sau khi đổi thành ngân lượng, lại cho người đem về Sơn Tông Doanh ở Mã Cốc Sơn. Tôn Trọng Thọ quân lương đầy đủ, sai người đến Quan Liêu chiêu binh mãi mã, đồng thời kêu gọi người cũ của Sơn Tông.

Vừa nghe được công tử của Viên đốc sư chỉ huy đánh trận, đám thuộc hạ năm xưa của Viên Sùng Hoán lập tức kéo tới Sơn Tông Doanh. Họ phần lớn đã già, đi tới cuối cuộc đời tướng sĩ, chí trai chưa dứt nhưng khi xung phong hãm trận thì không khỏi lực bất tòng tâm. Tuy nhiên người nào cũng trải nhiều chiến trận, hiểu cách dùng binh, nên rất đắc lực trong việc chỉnh lý đội ngũ, rèn luyện sĩ tốt. Trong vòng vài tháng, Kim Xà Tam Doanh đã được luyện thành một đội quân tinh nhuệ. Tuy chưa thể sánh được Ninh Viễn hùng binh dưới tay Viên Sùng Hoán năm xưa, nhưng không còn là đám quân ô hợp trong trận phục kích Cẩm Dương Quan nữa.

Nhiều lần Viên Thừa Chí nhân lúc rảnh rỗi phóng ngựa đến Mã Cốc Sơn thăm Tôn Trọng Thọ, Thủy Giám, Chu An Quốc và mang quân lương đến. Kim Xà Tam Doanh chiêu binh mãi mã, rèn tạo khí giới, đã trở thành một đội quân hùng mạnh. Giả tỉ quân Thanh dám đến tấn công, phe mình có thể quyết một phen tử chiến. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Khi đó mới không uổng hai chữ Thừa Chí trong tên mình.”

Hôm đó Thanh Thanh ở nhà, chỉ huy gia nhân tô điểm, bố trí tòa nhà lớn. Viên Thừa Chí một mình đi dạo trên những con đường ở nội thành. Đến một nơi, chàng thấy mấy chục quân canh của Bộ Hộ cầm binh khí cảnh giới nghiêm ngặt. Hỏi người đi đường thì biết là phương nam vừa gửi tào ngân tới, bây giờ đang chuyển vào cất trong kho.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Đây là vốn liếng của Sùng Trinh hoàng đế, ta phải xem cho tỉ mỉ.” Chàng đứng ở xa xa, xem xét tình hình chung quanh. Đột nhiên có hai bóng đen từ nóc nhà ngân khố nhảy vọt lên, thân pháp cực nhanh, chỉ chớp nhoáng đã mất hút về hướng đông. Viên Thừa Chí ngạc nhiên thầm nghĩ: “Ban ngày ban mặt thế này, lại có đại đạo dám cướp kho.”

Sáng hôm sau mọi người ngồi ăn sáng trong đại sảnh, ngoài sân tuyết phủ dày hơn một tấc. Thì ra đêm qua đã có tuyết rơi. Hai cây mai trong vườn trổ hoa, hương bay thoang thoảng. Giữa nền tuyết trắng tinh, hoa mai càng đẹp hơn nhiều.

Một tên gia đinh chạy vào, bẩm với Thanh Thanh: “Tiểu thư! Ngoài kia có người đưa quà tới.”

Một tên gia đinh khác bưng lễ vật vào. Đó là một bình hoa bằng sành đời nhà Tống, một tấm bình phong nhỏ có tranh vẽ của Thẩm Thạch Điền. Viên Thừa Chí nghĩ: “Hai món lễ vật này rất tinh nhã, nhưng không kèm danh thiếp, chẳng hiểu do ai gửi tặng.”

Thanh Thanh gói một lạng bạc, sai gia đinh mang ra ngoài thưởng cho người mang tới, rồi hỏi rõ ai gửi đến. Nhưng một lúc sau, gia đinh quay vào bẩm báo: “Người mang quà tới đã đi rồi, không sao đuổi kịp.”

Mọi người đều cười người tặng quà là thiếu cẩn thận. Bây giờ nhận lễ vật của người ta mà không biết chủ nhân là ai, cũng không biết ý định người ấy thế nào.

Hồng Thắng Hải nói: “Viên tướng công lừng danh thiên hạ; phen này đến kinh đô chắc trên giang hồ có nhiều lời đồn đãi. Dù sao cũng phải có bằng hữu mộ danh, tỏ ý kính trọng tướng công chứ.”

Mọi người đều biết chắc là như vậy. Đến giờ ngọ, lại có người gánh nguyên một bàn tiệc đến, toàn những món của phạn điếm Toàn Tụ Hưng nổi tiếng ở Bắc Kinh. Khi hỏi thì đầu bếp nói: “Có người đã thanh toán ngân lượng, sai gánh đến đây.”

Quần hào nổi dạ nghi ngờ, đem rượu thịt đó cho mèo chó ăn thử trước, nhưng không thấy gì khác lạ.

Buổi chiều có người đưa quà tới liền liền, hoặc là bàn ghế, hoặc là hoa cỏ cây cảnh, đều là những vật rất thích hợp để bày trong tòa nhà sang trọng. Thanh Thanh chỉ buột miệng nói một câu: “Ở đây phải treo một ngọn đèn lớn mới đúng” là chưa tới một giờ sau đã có người gửi tặng một đôi cung đăng rất lớn, vừa đẹp đẽ vừa sang trọng.

Rồi lại có người đem đến gấm lụa vải vóc, khăn áo nón giày, ngay cả những đồ phấn son Thanh Thanh dùng hàng ngày cũng tuyển loại thượng hạng gửi tới. Thiết La Hán vung tay chụp lấy người đưa quần áo đến, quát hỏi: “Ngay cả áo cà sa ta mặc mà ngươi cũng đem tới. Sao ngươi biết ở đây có đầu đà?”

Tên giúp việc cho tiệm may đó bị y túm chặt, hoảng sợ vừa run cầm cập vừa đáp: “Chuyện này tiểu nhân không biết. Sáng nay có người trả tiền gấp đôi, dặn phải làm nhanh rồi đưa đến đây.”

Bây giờ quần hào đều cảm thấy chuyện này cổ quái. Thanh Thanh cố ý nói: “Nếu thật sự người tặng quà đọc được suy nghĩ của ta, đưa một chuỗi trân châu đến đây thì tuyệt.”

Lát sau, một tên gia nhân lén lút đi ra khỏi sảnh. Thanh Thanh khẽ bảo Hồng Thắng Hải: “Theo hắn, xem hắn đi đâu.”

Chẳng bao lâu tên gia nhân đó đã quay về làm việc, nhưng Hồng Thắng Hải thì một giờ sau mới về. Y vừa bước vào trong cửa, một hiệu châu báu đã gửi tới hai chuỗi trân châu. Thanh Thanh nhận lấy trân châu, đi thẳng vào nhà trong. Viên Thừa Chí cùng Hồng Thắng Hải cũng theo vào.

Hồng Thắng Hải nói: “Tên gia nhân đó ra ngoài cửa, nói mấy câu với một lão ăn xin rồi lập tức quay vào nhà. Tiểu nhân đi theo lão ăn xin đó, thấy hắn băng qua bên kia đường, gặp một tên công sai của nha môn. Hai người nói chuyện mấy câu, rồi lão ăn xin quay về trước cửa nhà chúng ta.”

Thanh Thanh hỏi: “Chắc ngươi theo dõi tên ưng trảo đó phải không?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Đúng vậy. Tên ưng trảo đó không tới nha môn mà đi vào một con hẻm nhỏ, tới một khu vườn lớn. Tiểu nhân thấy xung quanh không có ai, liền nhảy lên nóc nhà nhìn trộm. Thì ra trong vườn đã có mười mấy người công sai tụ họp, ngồi giữa là một lão già chột mắt. Mọi người đều gọi lão là Đơn lão sư. Hình như lão là thủ lĩnh của bọn này. Tiểu nhân sợ họ phát giác nên trở về đây.”

Thanh Thanh nói: “Hay quá! Tai mắt của bọn quan phủ thật là minh mẫn, chúng ta vừa đến Bắc Kinh là bọn ưng trảo đã biết tin ngay. Hừ! Nếu chúng muốn nhúng vào việc của chúng ta, e rằng không dễ đâu.”

Viên Thừa Chí nói: “Lạ ở chỗ bọn chúng gửi quà đến đây, mà không muốn cho chúng ta biết. Bọn người ăn cơm triều đình nhất định tinh nhanh, hành sự đắc lực, không làm những việc dại dột đâu. Không biết chúng làm như thế có ý nghĩa gì.”

Chàng bảo Hồng Thắng Hải mời Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam vào. Mọi người thương nghị một hồi, chẳng ai đoán được gì.

Thanh Thanh nói: “Đồ dơ bẩn của bọn công sai, chúng ta không cần.”

Đêm đó nàng cùng ông câm, Thiết La Hán, Hồng Thắng Hải gom hết những món đồ được tặng, khiêng đến bỏ trong khu vườn mà bọn công sai tụ tập.

Sáng hôm sau Thanh Thanh gọi tên gia nhân làm gián điệp tới, cho nghỉ việc nhưng không làm khó dễ gì. Hắn cung kính nhận lấy tiền công, đa tạ mấy lần mới rời khỏi đó, không để lộ chút buồn bã nào. Viên Thừa Chí cùng mọi người cảnh giới nghiêm ngặt, đợi xem có biến cố gì nữa hay không. Hôm đó quả nhiên không ai đem quà đến tặng nữa.

Đêm đó gió thổi rất mạnh tuyết rơi suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, Hồng Thắng Hải lộ vẻ kinh ngạc chạy vào bẩm báo: “Tuyết trước cửa không biết ai đã quét dọn sạch sẽ. Chuyện này lạ thật.”

Viên Thừa Chí nói: “Hình như bọn ưng trảo đang âm thầm muốn giao hảo với chúng ta.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Muội biết rồi.”

Mọi người vội hỏi, nàng liền nói: “Họ sợ chúng ta gây án trong kinh thành, không đối phó nổi, nên đến chào hỏi chúng ta trước để giao kết làm bằng hữu.”

Sa Thiên Quảng mỉm cười nói: “Nghe cũng có lý lắm. Nhưng ta đã làm cường đạo nhiều năm mà chưa từng nghe những việc như vậy.”

Trình Thanh Trúc bỗng lên tiếng: “Ta nhớ ra rồi! Lão bộ khoái chột kia tên là Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh. Lão ẩn dật lâu rồi, nên nhất thời ta không nghĩ tới.”

Mấy ngày sau đó, quần hào không thấy chuyện gì kỳ lạ, nên dần dần không để việc đó trong lòng nữa. Một buổi trưa, mọi người đang uống rượu nói chuyện trên đại sảnh, gia đinh đưa vào một tấm thiếp màu đỏ. Trên thiếp có mấy chữ: “Vãn sinh Đơn Thiết Sinh thỉnh an”, đồng thời có tám hộp quà. Viên Thừa Chí bảo: “Mau ra mời vào!”

Gia đinh nói: “Vị Đơn gia này thật là kỳ lạ. Ông ấy nói là thỉnh an Viên tướng công, rồi quay đầu đi ngay. Mời mãi, ông ấy cũng không chịu vào ngồi chơi một lúc.”

Hồng Thắng Hải phụng mạng Viên Thừa Chí đem lễ vật trả lại, kèm theo danh thiếp của ba người là Viên Thừa Chí, Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng.

Ba ngày liên tiếp, Đơn Thiết Sinh đưa danh thiếp đến thỉnh an từ sáng sớm. Trình Thanh Trúc nói: “Độc Nhãn Thần Long trên giang hồ đâu phải hạng vô danh tiểu tốt, sao phải làm chuyện lén lút như vậy? Ngày mai ta phải tìm y hỏi thử.”

Hồ Quế Nam nói: “Vụ này lại không thấy ác ý ở đâu, không hiểu là chiêu số tà môn gì.”

Đột nhiên Thiết La Hán lớn tiếng nói: “Ta biết lão đó muốn gì rồi.”

Mọi người thấy vị đầu đà này thường ngày chẳng sáng suốt gì, bây giờ lại có kiến giải độc đáo, đều ngạc nhiên hỏi: “Huynh thấy lão muốn gì?”

Thiết La Hán đáp: “Lão thấy Viên tướng công võ công đã cao, danh tiếng lại lớn, nên muốn chọn làm con rể.”

Lời vừa nói ra, không ai nhịn cười nổi. Sa Thiên Quảng đang uống trà, sặc sụa phun hết lên người Hồ Quế Nam. Hồ Quế Nam vừa lau chùi vừa mỉm cười nói: “Con gái của Độc Nhãn Thần Long, chắc chỉ có một mắt. Làm sao Viên tướng công thích được!”

Thiết La Hán giương mắt lên hỏi: “Sao ngươi biết?”

Hồ Quế Nam cười đáp: “Trứng rùa lại nở ra rùa, Độc Nhãn Thần Long dĩ nhiên phải sinh ra loài độc nhãn rồi.”

Mọi người đùa giỡn một chập. Thanh Thanh không biết nói gì, trong lòng cứ khó chịu hoài. Nàng nghĩ bụng: “Lão Độc Nhãn Thần Long kia thật lắm mưu mô, không chừng muốn chọn đại ca làm con rể thật.” Đêm đó nàng lấy bảy tờ giấy, tờ nào cũng vẽ hình một lão công sai chột mắt, chú thích mấy chữ: “Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh kính viếng”. Đêm đó nàng phi thân vào bảy nhà phú hào trong kinh thành, trộm mỗi nhà một ít đồ trang sức và ngân lượng, rồi để lại một tấm hình Độc Nhãn Thần Long.

Sáng sớm hôm sau, Hồng Thắng Hải gõ cửa phòng Thanh Thanh, lên tiếng: “Tiểu thư! Độc Nhãn Thần Long đến đây rồi. Viên tướng công đang nói chuyện với lão trên đại sảnh.”

Thanh Thanh bèn khoác nam trang lên sảnh, quả nhiên thấy Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng đang ngồi uống trà với một lão già vừa lùn vừa ốm. Viên Thừa Chí giới thiệu cho nàng biết. Thanh Thanh thấy lão Đơn Thiết Sinh đã ngoài sáu mươi, râu mày trắng bạc, con mắt bên trái sáng lấp lánh, ra vẻ tinh minh lanh lợi.

Lão lên tiếng: “Hành động của tiểu lão thật vô cùng mạo muội. Chẳng qua có một chuyện muốn nhờ Viên tướng công cùng quý vị ra sức giúp đỡ, tiểu lão lại chưa được quen biết, chỉ còn cách dùng hạ sách này. Không ngờ đã làm phiền hà quý vị, tiểu lão xin đa tạ và xin lỗi trước.”

Nói xong, lão quỳ ngay xuống đất khấu đầu. Viên Thừa Chí vội đỡ dậy. Chàng chưa kịp hỏi lão có chuyện gì cần giúp, Thanh Thanh bỗng lên tiếng hỏi: “Con gái của ông có khỏe không? Sao không theo ông đến đây?”

Đơn Thiết Sinh ngẩn ra đáp: “Tiểu lão một đời cô độc, ngay cả bạn đời cũng không có, đừng nói là con gái.”

Thanh Thanh lại hỏi: “Thế thì ông có cháu gái, hay con gái nuôi gì không?”

Đơn Thiết Sinh đáp: “Tiểu lão không có.”

Thanh Thanh mỉm cười, vào phòng bưng đồ trang sức và ngân lượng ra, đưa cho lão rồi nói: “Đùa giỡn với ông một phen, xin ông đừng trách. Nhưng nếu không làm thế thì không sao vời được đại giá của ông đến đây.”

Đơn Thiết Sinh đa tạ, nghĩ bụng: “Trò đùa suýt nữa hại chết lão già này.” Lão lại nghĩ: “Không hiểu sao cô nương cải nam trang này lại hỏi mình có con gái nuôi hay không. Chẳng lẽ cô ấy muốn bái ta làm dưỡng phụ?”

Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ. Chưa ai kịp hỏi gì thì đột nhiên một tên bộ khoái đi vào. Hắn thi lễ cùng mọi người rồi nói với Đơn Thiết Sinh: “Đơn lão sư! Ngân khố lại mất thêm hai ngàn lượng.”

Đơn Thiết Sinh đổi hẳn sắc mặt, đứng dậy chắp tay nói: “Tiểu lão có việc gấp phải điều tra, lát nữa sẽ quay lại thỉnh an các vị.” Lão thu cất những món Thanh Thanh giao trả, rồi vội vã đi theo tên bộ khoái.

*

*   *

Đến chiều một trận tuyết lớn đổ xuống, trông như một tấm màn lông ngỗng. Thanh Thanh hẹn Viên Thừa Chí ra phía tây thành để uống rượu thưởng tuyết. Hai người đã rất lâu không đi riêng với nhau, hôm nay mới có nửa ngày nhàn hạ nên rất sảng khoái.

Vùng này bốn bề đều là cỏ tranh. Trên cỏ tranh đã phủ thêm lớp tuyết, nhìn ra xa cả vùng trắng xóa. Thanh Thanh có mang theo rượu thịt, hai người vào một quán lương đình uống rượu, hàn huyên nhàn nhã, ngắm nhìn cảnh tuyết. Nơi này ngày thường đã rất hoang vu, hôm nay trời lạnh tuyết lớn nên càng ít người hơn.

Viên Thừa Chí hỏi Thanh Thanh vừa giao trả những thứ gì cho Đơn Thiết Sinh. Nàng mỉm cười, kể lại những chuyện đêm qua. Viên Thừa Chí nói: “Trời ơi! Ta vừa khen Thanh đệ lúc này ngoan ngoãn, nào ngờ vẫn ngỗ nghịch như xưa.”

Thanh Thanh hỏi: “Huynh khen muội hồi nào?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta thầm khen trong lòng, dĩ nhiên muội không biết.”

Thanh Thanh vui sướng, mỉm cười nói: “Ai bảo lão ấy không chịu lộ diện, cứ âm thầm quấy rối người ta.”

Viên Thừa Chí nói: “Không biết lão muốn nhờ chúng ta việc gì đây.”

Thanh Thanh nói: “Loại người tệ hại như thế thì mặc kệ. Lão muốn nhờ việc gì, chúng ta cũng không đồng ý.”

Hai người uống rượu một hồi, bỗng nhắc đến cái đêm uống rượu thưởng hoa ở Tịnh Nham, Cù Châu. Thanh Thanh nghĩ đến cố hương và người mẹ hiền đã khuất, bất giác rơi lệ. Viên Thừa Chí vội tìm chuyện khác để trêu nàng vui vẻ bật cười.

Chú thích của Kim Dung:

Thanh thái tông Hoàng Thái Cực chết không rõ nguyên nhân. Thanh Sử Cảo Thái Tông Bản Kỷ viết: Ngày Canh Ngọ tháng tám năm Sùng Đức thứ tám, Hoàng Thái Cực ngự ở chính điện, giờ Hợi đêm đó vô bệnh băng hà, thọ 52 tuổi.

Hôm đó Hoàng Thái Cực vẫn xử lý chính sự rất bình thường, đột nhiên giữa đêm không bệnh mà mất. Sau này nhiều người nghi ngờ là Đa Nhĩ Cổn mưu sát, nhưng hoàn toàn không có chứng cớ. Vào năm Thuận Trị thứ sáu, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn chính thức kết hôn với Trang Phi của Hoàng Thái Cực, tức là mẹ của Thuận Trị hoàng đế, Hiếu Trang hoàng thái hậu. Việc này lưu truyền rộng rãi trong dân gian, nhưng không có văn bản ghi lại rõ ràng. Gần đây, sử gia Mạnh Sâm cho rằng chuyện này không chính xác. Còn Hồ Thích lại cho rằng khảo chứng của Mạnh Sâm không đủ sức thuyết phục.

Tập tục của các dân tộc du mục săn bắn ở phương bắc có nhiều chỗ khác với người Hán ở Trung Nguyên. Khi anh mất, em trai kế thừa mọi thứ là việc thường tình. Thanh thái hậu tái giá với Đa Nhĩ Cổn, phần lớn những sử gia cận đại đời Thanh không phủ định là có thể xảy ra.

Chuyện thâm cung bí sử vốn đã không thể hoàn toàn tin tưởng, bây giờ lại mượn chuyện cả ba triều Hán, Tống và Thanh cho dính liền làm một, gần như là ngụy tạo.

Hồi 15: Thiết Thủ quen dùng độc – Kim Xà rải oán sâu

Hai người ngồi đó khoảng hai giờ, nói chuyện rất vui. Khi trời sắp tối, họ thu dọn những đồ ăn uống để quay về.

Thanh Thanh nói: “Thừa Chí đại ca! Đa tạ vì hôm nay huynh ở bên muội toàn tâm toàn ý.”

Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Thanh đệ! Đa tạ vì hôm nay muội ở bên ta toàn tâm toàn ý.”

Thanh Thanh nói: “Ngày nào muội cũng toàn tâm toàn ý bên huynh, nhưng huynh thì không phải thế.”

Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Sao ta không phải thế?”

Thanh Thanh nói: “Thừa Chí đại ca! Muội muốn xin huynh một việc, có được hay không?”

Thừa Chí nói: “Không cần phải hỏi, muội nói là được ngay.”

Thanh Thanh nói: “Nam tử hán, đại trượng phu, minh chủ hào kiệt bảy tỉnh, nói ra không được nuốt lời đấy nhé!”

Viên Thừa Chí nói: “Dù ta không phải là minh chủ bảy tỉnh, nhưng đã nói gì với Thanh đệ thì quyết không nuốt lời.”

Trong ánh mắt Thanh Thanh lộ vẻ khẩn cầu, nhỏ giọng nói: “Thừa Chí đại ca! Muội xin huynh đừng nhớ đến cô A Cửu kia nữa. Mấy hôm nay, bất luận đang làm việc gì, huynh cũng nhớ đến A Cửu.”

Thừa Chí cãi: “Oan quá! Ta nghĩ đến cô ấy hồi nào?”

Thanh Thanh nói: “Khi lão Độc Nhãn Thần Long đưa thiệp đến nhà, tay huynh đón lấy tấm thiệp, mặt đầy vẻ dịu dàng. Dĩ nhiên huynh mong đó là thư của A Cửu gửi tới, mong người tặng quà cho chúng ta là cô nương xinh đẹp đó. Đơn Thiết Sinh vừa già vừa chột, thế mà huynh nhận thiếp của lão lại ngơ ngẩn si mê đứng đó, khóe miệng mỉm cười. Chẳng lẽ huynh thấy lão chột đó tuấn tú hay sao?”

Thừa Chí nghĩ thầm: “Cô nương này thật là lợi hại, ngay cả suy nghĩ trong lòng mình cũng không giấu nổi.”

Trên đường cái bỗng có hai người chạy lẹ tới, lưng đeo bao vải. Phía sau có ba người đuổi theo. Người đuổi đầu tiên, tay cầm thước sắt, thân pháp nhanh nhẹn vô cùng, chính là Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh. Chạy sau lão là hai tên công sai cầm đơn đao và xích sắt. Viên Thừa Chí nắm tay Thanh Thanh, đứng bên đường để xem.

Đơn Thiết Sinh la lên: “Bằng hữu đừng chạy, để tang vật lại đã!”

Đột nhiên bên trái có năm sáu người cầm binh khí xô ra cản đường cho hai người phía trước chạy trốn. Đơn Thiết Sinh thấy đối phương đông người, phải dừng bước. Được năm sáu người kia tiếp ứng, hai người đeo bao vải từ từ chạy khuất.

Đơn Thiết Sinh nhìn thấy Viên Thừa Chí và Thanh Thanh, bèn cài thiết xích vào thắt lưng, dừng lại chắp tay cung kính vái chào Viên Thừa Chí. Sau đó lão nói: “Tiểu nhân đáng chết, tiểu nhân đáng chết!”

Thừa Chí ngạc nhiên không hiểu, vội hỏi: “Đơn lão đầu đừng khách sáo. Xảy ra việc gì thế?”

Đơn Thiết Sinh nói: “Xin hai vị vào trong đình ngồi một lát, để tiểu nhân từ từ bẩm cáo.”

Ba người đi vào trong đình, Đơn Thiết Sinh bắt đầu kể lại tiền nhân hậu quả chuyện này.

Thì ra tháng trước kho của Hộ Bộ bị trộm liên tiếp ba lần, mất cắp mấy ngàn lạng ngân khố. Ngay dưới chân thiên tử mà xảy ra chuyện lớn như thế, Cửu Thành đều chấn động. Mới hai ngày hoàng đế đã biết, bèn giận dữ trách mắng Hộ Bộ chánh phó thượng thư, Ngũ Thành binh mã chỉ huy sứ. Y còn xuống chỉ, trong vòng một tháng mà không phá án thì toàn bộ quan viên lớn nhỏ của Hộ Bộ và nha môn binh mã chỉ huy sứ đều bị cách chức nghiêm trị.

Bọn công sai ở Thuận Thiên Phủ bị thượng cấp quát tháo đến mức kêu khổ thấu trời xanh. Ngay cả người nhà của bọn công sai cũng bị bắt giam hết. Không ngờ tuy nha môn truy lùng gắt gao, nhưng ngân khố vẫn liên tiếp bị đánh cắp thêm. Bọn công sai không còn cách nào phá án, bèn đi tìm lão công sai Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh đã về hưu từ lâu, khấu đầu năn nỉ lão ra tay giúp đỡ.

Đơn Thiết Sinh đến ngân khố xem xét tỉ mỉ, biết thủ phạm đánh cắp ngân lượng không phải là bọn trộm cắp bình thường, mà phải là hảo thủ võ lâm. Lão cho dò hỏi, biết gần đây hảo thủ đến kinh thành chỉ có nhóm người Viên Thừa Chí.

Nghe đến đây, Thanh Thanh hừ một tiếng rồi nói: “Thì ra lúc đó ông nghi ngờ chúng ta là trộm cắp.”

Đơn Thiết Sinh nói: “Tiểu nhân đáng chết! Đúng là khi đó tiểu nhân nghĩ như vậy. Nhưng sau này thám thính tỉ mỉ, được biết Viên tướng công từng tới Ứng Thiên Phủ cứu Thiết bối kim tiên Tiêu Công Lễ, rồi tới Sơn Đông kết giao với Sa trại chủ cùng Trình bang chủ, được quần hùng đề cử làm minh chủ bảy tỉnh Sơn Đông, đánh cho bọn Thát tử chạy loạn lên một trận, thật đáng mặt anh hùng hào kiệt, vĩ nhân đương thế.”

Thanh Thanh nghe lão tán dương Viên Thừa Chí một hồi, không khỏi trong lòng hoan hỉ, sắc mặt hiền dịu hẳn đi.

Đơn Thiết Sinh lại nói: “Lúc đó tiểu nhân đã nghĩ, anh hùng như Viên tướng công nhất định không cần ghé thăm ngân khố. Cho dù thủ hạ gây nên, mà lão nhân gia biết được chắc chắn cũng hạ lệnh nghiêm cấm. Sau này tiểu nhân nghĩ quẩn, đoán là Viên tướng công trách bọn tiểu nhân vì tội không đến bái kiến. Đại anh hùng đến kinh sư mà bọn tiểu nhân không đến trình diện, thật khó trách Viên tướng công nổi giận. Ôi! Thật là tiểu nhân có mắt như mù!”

Thanh Thanh nhìn vào con mắt trắng dã của lão, không nén nổi bật cười khúc khích. Đơn Thiết Sinh lại tiếp: “Vì thế bọn tiểu nhân quyết tâm sửa lỗi, ngày nào cũng đến quý phủ thỉnh an đền tội.”

Thanh Thanh nói: “Ông không nói ra, thì ai mà biết được trong lòng ông nghĩ gì?”

Đơn Thiết Sinh nói: “Không ngờ lại xảy ra biến cố. Bọn tiểu nhân chỉ mong Viên tướng công bớt giận, trả lại ngân khố để cứu mạng già trẻ lớn bé cả nhà mấy trăm công sai trong thành. Nào ngờ Viên tướng công trả hết quà lại, còn điều tra biết được tên và bỉ hiệu của tiểu nhân, phát danh thiếp rộng rãi để giáo huấn tiểu nhân một phen.”

Chuyện này Thanh Thanh coi như không nghe thấy, sắc mặt không động chút nào.

Đơn Thiết Sinh lại nói: “Từ lúc đó mọi người càng rầu rĩ hơn. Hôm nay tiểu nhân nấp sẵn trong kho, chỉ đợi Viên tướng công phái người đến là liều mạng một phen. Nào ngờ người đến chỉ là hai tên trộm đó. Bọn tiểu nhân rượt chúng đến đây, thì có người chạy ra cản địa. Tiểu nhân nhận ra người tiếp ứng là Trương phó tổng quản ở Huệ Vương Phủ. Họ Trương rất ít khi ra ngoài, nhưng năm mươi năm trước tiểu nhân từng gặp hắn ở Sơn Tây. Tiểu nhân cũng biết, ở Huệ Vương Phủ có Chiêu Hiền Quán, gần đây mời đến không ít cao thủ võ lâm. Nhưng Huệ vương gia là thúc phụ của đương kim hoàng thượng, là hoàng tử thứ sáu của tiên đế Thần Tông, xưa nay tiếng tăm rất tốt, không bao giờ dung thứ cho người trong phủ làm chuyện sai trái. Ông ấy thích võ nghệ, mở Chiêu Hiền Quán mời mọc cao thủ võ lâm. Nhiều năm nay ông ấy chỉ lo nghiên cứu võ công, không can dự việc bên ngoài. Đất phong của ông ấy ở Kinh Châu, gần đây vì lưu khấu nổi loạn ở Sơn Đông mà ông ấy về kinh thành tránh nạn. Không biết vì sao Huệ Vương Phủ lại liên quan đến chuyện mất ngân lượng trong quốc khố. Viên tướng công! Lão nhân gia giao du rộng rãi, nghe thấy xa vạn dặm, xin lão nhân gia chỉ điểm một con đường sáng.”

Nói xong, lão quỳ xuống đất, dập đầu lia lịa.

Viên Thừa Chí vội đỡ lão dậy, thầm nghĩ: “Lũ trộm kia dĩ nhiên không lương thiện lắm, nhưng dẫu sao họ cũng đối đầu với quan phủ. Ta hà tất phải tương trợ bọn công sai. Hơn nữa, ăn cắp ngân khố của triều đình cũng là chuyện có lợi cho Sấm Vương.” Chàng bèn mỉm cười, lắc đầu.

Đơn Thiết Sinh cứ nài nỉ Viên Thừa Chí giúp lão truy xét việc này. Viên Thừa Chí cười nói: “Bắt trộm cướp là việc của công sai. Tại hạ tuy chẳng là gì, nhưng chưa đến nỗi phải làm những chuyện như thế.”

Nghe kiểu nói của Viên Thừa Chí, Đơn Thiết Sinh không dám nói gì nữa. Lão đành chắp tay từ biệt, dẫn hai tên công sai ủ rũ đi về.

Dọc đường về Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh gặp phải một bọn cẩm y vệ của nha môn áp tải một nhóm lớn phạm nhân. Trong đám phạm nhân này có người già nua ốm yếu đầu tóc bạc phơ, có nữ nhân đang bế con, có cả bọn trẻ nít. Quan binh hung dữ như cọp sói, la mắng không ngừng. Một thiếu phụ cầu xin: “Các vị đại gia! Xin tử tế hơn một chút, mọi người đều ăn chén cơm công môn cả. Chẳng ai phạm tội gì, chẳng qua vì trong kinh thành xuất hiện phi tặc nên liên lụy đến mọi người thảm khốc thế này.”

Một tên lính sờ lên khuôn mặt trái xoan của nàng, cười đểu nói: “Nếu không có phi tặc xuất hiện, ta với nàng đâu có duyên phận gặp nhau?”

Viên Thừa Chí cùng với Thanh Thanh thấy vậy không khỏi tức giận. Thì ra phạm nhân đều là gia quyến của đám bộ khoái trong kinh thành. Bộ khoái ngày thường tàn hại lương dân, làm nhiều chuyện ác ôn, phen này bị quả báo không trách được ai. Nhưng đám đàn bà con nít vô tội này bị liên lụy như thế, ai thấy cũng phải bất nhẫn.

Đi được một lúc nữa, đột nhiên lại gặp một đám bộ khoái dùng xích sắt kéo lê mười mấy người dọc đường, không ngớt reo hò: “Bắt được phi tặc rồi! Bắt được phi tặc rồi!”

Dân chúng bên đường nhìn thấy, ai cũng lắc đầu than thở. Khi Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh đến gần, thì ra đám “phi tặc” này đều là những người nghèo khổ, mặt mày lem luốc. Nhất định bọn bộ khoái bắt bớ bừa bãi để lập công, hai người lại càng giận dữ.

*

*   *

Về đến nơi, thấy Hồng Thắng Hải đang thò đầu ra khỏi cổng mà trông ngóng. Y vừa thấy hai người đã mừng rỡ nói: “Hay quá! Tướng công về rồi.”

Viên Thừa Chí vội hỏi: “Chuyện gì thế?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Trình lão gia đã bị đánh trọng thương, mọi người đang đợi tướng công trở về cứu mạng.”

Viên Thừa Chí kinh hãi thầm nghĩ: “Võ công của Trình Thanh Trúc cao như thế, sao bị đánh trọng thương?” Chàng nhanh chân theo Hồng Thắng Hải vào phòng Trình Thanh Trúc, thấy lão Trình đang nằm trên giường, sắc mặt xám xanh như người chết, phủ đầy hắc khí. Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán đều ngồi bên giường, ai cũng lo âu. Mọi người nhìn thấy Viên Thừa Chí, trong vẻ mặt rầu rĩ lộ ra một chút vui mừng.

Viên Thừa Chí thấy Trình Thanh Trúc hai mắt nhắm nghiền, hơi thở mỏng như tơ, trong lòng bỗng bàng hoàng. Chàng hỏi: “Trình lão gia bị thương ở đâu?”

Sa Thiên Quảng nhẹ nhàng dìu Trình Thanh Trúc dậy, trật vai áo ra. Viên Thừa Chí vừa nhìn đã kinh hãi. Cả cánh tay phải của lão đã biến thành màu đen như bị đổ mực lên vậy. Sắc đen không dừng lan vào bên trong, bây giờ đã đen tới eo lưng. Màu đen trên vai là đậm nhất, lại có dấu của năm cái vuốt khảm sâu vào thịt.

Viên Thừa Chí hỏi: “Trúng loại độc gì vậy?”

Sa Thiên Quảng đáp: “Trình lão gia cố gắng lắm mới chạy về tới nhà, không nói được tiếng nào nữa. Không hiểu ông ấy trúng phải chất độc gì.”

Viên Thừa Chí nói: “May mà có Chu Thiên Băng Thiềm ở đây.”

Nói xong, chàng lấy băng thiềm ra, kề miệng băng thiềm vào vết thương, đưa tay ấn vào lưng băng thiềm, vận nội lực hút chất độc ra. Con băng thiềm vốn trắng như tuyết dần dần trở thành màu xám, cuối cùng đen kịt lại.

Hồ Quế Nam nói: “Ngâm băng thiềm vào trong rượu, nó sẽ nhả chất độc ra.”

Thanh Thanh vội đi rót một chén rượu, thả băng thiềm vào. Quả nhiên một làn khói đen từ trong miệng băng thiềm tuôn ra ngoài. Chỉ một lúc là cả chén rượu đen như mực, băng thiềm trắng lại như tuyết. Cứ thế hút độc rồi ngâm rượu, đến chén rượu thứ tư thì sắc đen trên người Trình Thanh Trúc bắt đầu nhạt.

Trình Thanh Trúc ngủ được một đêm. Sáng hôm sau, khi Viên Thừa Chí qua thăm, lão đã có thể ngồi dậy cảm ơn. Viên Thừa Chí xua tay bảo lão đừng nói chuyện, rồi mời một vị danh y trong thành Bắc Kinh tới kê mấy thang thuốc thanh huyết giải độc, sắc cho Trình Thanh Trúc uống. Điều dưỡng đến sáng ngày thứ ba thì Trình Thanh Trúc đã đủ khí lực để kể lại đầu đuôi chuyện mình trúng độc.

Trình Thanh Trúc nói: “Xế chiều hôm đó ta đi ngang cửa cấm cung, nghe có tiếng người ồn ào như đang đánh mắng nhau. Đến gần thì thấy dưới đất rải đầy đậu phộng, một gã đại hán đang túm chặt một người ốm yếu, không ngớt vung quyền mà đánh. Hỏi ra mới biết người ốm yếu này đi bán đậu phộng, không cẩn thận nên chạm vào đại hán kia, làm bẩn quần áo. Ta thấy người ốm yếu đáng thương, bèn bước lên khuyên giải. Đại hán không chịu hiểu lý lẽ, nhất định bắt người ốm yếu bồi thường. Ta hỏi bao nhiêu, chẳng qua chỉ có một lạng bạc, bèn thò tay vào bọc áo để lấy tiền, nghĩ bụng: “Quẳng cho hắn hai lượng bạc là yên chuyện”. Nào ngờ vì lòng tốt mà mình trúng vào cạm bẫy của kẻ gian. Tay phải ta vừa cho vào bọc áo, hai người đó lập tức chia ra hai bên giữ chặt lấy tay ta…”

Thanh Thanh nghe đến đây, bất giác la lên một tiếng.

Trình Thanh Trúc kể tiếp: “Ta biết ngay là hỏng bét, vội vận kình lên hai cánh tay để giãy thoát khỏi hai người ấy, rồi hỏi lý do sau. Nào ngờ vai phải đột nhiên đau đến thấu xương. Đòn này đột ngột quá, ta hoàn toàn không phòng bị trước. Ta vội vặn ngược cổ tay gã đại hán, nhấc bổng hắn lên quẳng vào đầu tên ốm yếu, đồng thời tung người nhảy tới trước. Khi quay đầu lại mới nhìn rõ người đánh lén sau lưng là một mụ ăn xin mặc áo đen. Mụ này cực kỳ xấu xí, mặt đầy những sẹo lồi sẹo lõm trông rất đáng sợ. Mụ trợn mắt lên cười nhạt, chĩa mười ngón tay nhọn hoắt ra, lại nhảy xổ vào ta.”

Trình Thanh Trúc kể đến đây, hình như trong lòng vẫn có phần hoảng sợ, mặt lộ vẻ kinh hãi. Chẳng những Thanh Thanh la lên, ngay cả Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam cũng phải giật mình.

Trình Thanh Trúc tiếp: “Lúc đó ta vừa sợ vừa giận, nhảy lùi né tránh, toan phóng chưởng đánh ra, không ngờ tay phải không động đậy được nữa. Mụ ăn xin âm trầm hỏi: “Trình Thanh Trúc! Ngươi là tay chân của Kim Xà Vương phải không?” Ta hỏi lại: “Nếu phải thì sao?” Mụ nói: “Thì ta phải lấy mạng ngươi.” Mụ cười khành khạch, rồi lại nhảy xổ vào. Trong lúc nguy cấp, ta dùng tay trái xách một thùng đậu phộng hất lên mặt mụ. Tay mụ vừa quờ lên che mặt, ta thừa cơ phóng hai mũi thanh trúc tiêu ghim trúng vào ngực mụ, cho mụ cũng nếm mùi đau khổ. Lúc đó ta biết mình không gượng lâu được nữa, nên nhắm hướng mà chạy lẹ về. Sau đó thế nào, ta không biết gì hết.”

Sa Thiên Quảng hỏi: “Mụ ăn mày đó có xích mích gì với huynh không?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Từ xưa đến giờ ta chưa từng gặp mụ.”

Thanh Thanh hỏi: “Chẳng lẽ mụ nhận lầm người hay sao?”

Trình Thanh Trúc nói: “Rõ ràng là không phải. Lúc mụ đả thương ta thì không nói, nhưng khi ta quay đầu lại, mụ nhìn rõ mặt mà vẫn tiếp tục hạ độc thủ.”

Viên Thừa Chí nói: “Mụ hỏi đến Kim Xà Vương, hình như muốn kiếm chuyện với ta.”

Hồ Quế Nam nói: “Không biết móng tay mụ tẩm chất độc gì, mà độc tính lợi hại như thế.”

Sa Thiên Quảng nói: “Trên tay mụ nhất định có đeo bao tay sắt. Không thì chất độc lợi hại đến thế, chính bản thân mụ quyết không chịu nổi.”

Mọi người đều đưa ra kiến giải của mình, nhưng không ai đoán được lai lịch của mụ ăn xin này. Trình Thanh Trúc càng nghĩ càng tức giận, luôn miệng chửi mắng.

Sa Thiên Quảng nói: “Trình huynh! Huynh cứ yên tâm nghỉ ngơi đi. Chúng ta ra ngoài thám thính tin tức, nhất định sẽ giúp huynh trút được cơn tức tối này.”

Thế là Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, Hồng Thắng Hải lập tức đi khắp Thuận Thiên Phủ điều tra vụ này. Đã hai ngày mà tin tức vẫn như đá chìm đáy bể, hoàn toàn không được chút manh mối.

Sáng nay Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh lại đến thỉnh an, Sa Thiên Quảng ra tiếp. Đơn Thiết Sinh mặt đầy vẻ lo âu, kể rằng kho của Hộ Bộ lại mất thêm ba ngàn lạng.

Sa Thiên Quảng nghĩ chuyện này không liên quan gì tới mình, nên cứ ừ hử mấy câu. Lát sau, y thuận miệng nói đến chuyện Trình Thanh Trúc bị đánh lén rồi trúng độc, nghĩ thầm: “Đơn Thiết Sinh lão luyện giang hồ, kiến thức rộng rãi, không chừng hỏi được chút xíu manh mối.”

Đơn Thiết Sinh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Sa trại chủ! Mụ ăn xin đó hỏi đến ba chữ Kim Xà Vương, mà Trình bang chủ lại trúng kịch độc. Tại hạ bỗng nghĩ đến một nhóm người mới được mời vào Chiêu Hiền Quán ở Huệ Vương Phủ không lâu.”

Sa Thiên Quảng hỏi: “Thật vậy ư? Xin hỏi, đó là nhóm người nào?”

Đơn Thiết Sinh hỏi lại: “Chắc Sa trại chủ cũng biết Ngũ Độc Giáo ở vùng Vân Nam, Quế Châu chứ?”

Sa Thiên Quảng gật đầu đáp: “Ta có nghe nói họ dụng độc xuất thần nhập hóa, nhân vật võ lâm nghe thấy là vỡ mật, không ai dám đắc tội. Nhưng dường như Ngũ Độc Giáo chỉ hoành hành ở vùng Vân Nam, Quế Châu, trước nay chưa đến Trung Nguyên. Chẳng lẽ người đả thương Trình bang chủ là nhân vật Ngũ Độc Giáo hay sao?”

Đơn Thiết Sinh nói: “Tại hạ chưa dám khẳng định, nhưng từng nghe nói linh vật của Ngũ Độc Giáo là một con Kim Xà nhỏ. Họ coi Kim Xà là một pháp bảo thần thông. Viên tướng công ngoại hiệu là Kim Xà Vương, không biết có phạm vào chuyện kiêng kỵ của họ hay không.”

Sa Thiên Quảng vội chạy vào trong, kể với Viên Thừa Chí. Thanh Thanh nói: “Ngoại hiệu của phụ thân ta là Kim Xà Lang Quân, chẳng lẽ cũng phạm vào đại kỵ của họ?”

Viên Thừa Chí nói: “Không chừng lão Độc Nhãn Thần Long không đối phó nổi với Huệ Vương Phủ, tính chuyện kéo chúng ta vào trong vũng nước đục này. Chúng ta phải thám thính rõ ràng, đừng để người ta lợi dụng.”

Sa Thiên Quảng gật đầu khen phải, rồi ra ngoài nói với Đơn Thiết Sinh là đã bẩm báo với minh chủ. Sau đó y hỏi tiếp về tình hình Ngũ Độc Giáo.

Đơn Thiết Sinh nói: “Nghe nói giáo chủ của họ là một thiếu nữ xinh đẹp, tên là Hà Thiết Thủ, võ công cực cao, còn bản lãnh hạ độc thì dĩ nhiên khỏi nói.”

Sa Thiên Quảng tặc lưỡi rồi nói: “Thiếu nữ mà làm giáo chủ, đã là chuyện lạ rồi. Thiết thủ vô tình, chắc cô ấy ra tay cực kỳ ác độc.” Y thè lưỡi ra, nói tiếp: “Thế thì còn ai dám đụng vào cô ấy nữa?”

Đơn Thiết Sinh đang định cáo từ thì người gác cửa nhanh chân chạy vào, đưa một tấm bái thiếp màu đỏ. Sa Thiên Quảng nhận lấy xem, thấy trên thiếp có ghi: “Vãn sinh là Ngụy Đào Thanh, tổng quản Chiêu Hiền Quán ở Huệ Vương Phủ, xin bái kiến Viên tướng công Minh chủ bảy tỉnh, Trình bang chủ Thanh Trúc Bang, Sa trại chủ ở Sơn Đông cùng các vị anh hùng.”

Sa Thiên Quảng nghĩ thầm: “Người này không quen biết, nhưng lễ số chu đáo như vậy, không thể coi thường được.” Y bèn hạ lệnh: “Mở cửa chính ra, nghênh tiếp quý khách.” Y lại bảo người gác cửa đem tấm bái thiếp vào trong cho Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí dẫn Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán ra đại sảnh. Thanh Thanh vẫn mặc nam trang. Đơn Thiết Sinh đi theo phía sau.

Sa Thiên Quảng dẫn khách vào, giới thiệu với từng người một. Viên Thừa Chí thấy người này tuổi trạc ngũ tuần, vẻ mặt tinh anh, áo quần sang trọng, ngón tay đeo nhẫn phỉ thúy màu xanh bích. Khi gặp Viên Thừa Chí, y thi lễ rất cung kính. Viên Thừa Chí trả lễ, mời khách thượng tọa.

Ngụy Đào Thanh rất chu đáo, thi lễ với cả Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải. Nhưng khi nghe giới thiệu Đơn Thiết Sinh là bộ đầu của nha môn Thuận Thiên Phủ thì y không đếm xỉa gì tới, quay lại nói với Viên Thừa Chí: “Viên minh chủ! Huệ vương gia của bọn tại hạ tính tình hiếu võ, rất thích kết giao với những nhân vật thủ lĩnh võ lâm. Nghe nói Viên minh chủ cùng các vị anh hùng đến Thuận Thiên Phủ này, vương gia nóng lòng gặp mặt, không muốn chờ đợi phút nào. Đáng lẽ Huệ vương gia đích thân đến đây bái kiến, nhưng vì chưa báo tin trước nên sợ có phần mạo muội, bèn sai tiểu nhân lập tức đến đây xin gặp. Vương gia đã sắp sẵn tiệc rượu, kính mời Viên minh chủ cùng các vị anh hùng nể mặt mà đến dự, để Huệ vương gia kính mấy ly tỏ lòng ngưỡng mộ. Chỉ trách bọn tại hạ không được minh mẫn, được tin quá trễ, sáng nay mới biết các vị đã đến Thuận Thiên Phủ. Vương gia nói đây là chuyện mừng nhất trên đời, càng sớm được gặp các vị anh hùng càng tốt. Bây giờ vương gia đang đi qua đi lại trước cổng, dỏng tai lên đợi nghe tin các vị giá lâm.”

Ngụy Đào Thanh nói đúng giọng Bắc Kinh, vừa thành khẩn vừa thanh thoát, nghe thật êm tai. Môi y lúc nào cũng nở nụ cười, khiến người ta cảm thấy Huệ vương gia đang thành tâm thành ý trông mong quý khách đến nhà mình thật sự.

Viên Thừa Chí chưa đáp, ngoài cửa đã có tiếng xe ngựa vang lên, rồi người gác cửa dẫn một tùy tùng của vương gia vào. Y nói với Ngụy Đào Thanh: “Ngụy tổng quản! Vương gia sai tiểu nhân đem sáu chiếc xe đến đây, đón quý khách đến vương phủ dự tiệc.” Sau đó y cung kính nằm rạp xuống đất, dập đầu trước Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí thấy đối phương thành tâm mời khách, mà trước đây chàng cũng từng nghe Đơn Thiết Sinh nói là Huệ vương gia tính tình hiếu võ, rất thích kết giao với bằng hữu võ lâm. Thành Bắc Kinh nhất định sắp xảy ra việc lớn, chàng muốn kết giao thêm một số nhân vật có quyền thế, bèn quay lại hỏi Hồng Thắng Hải: “Thế nào?”

Hồng Thắng Hải không hiểu nội tình, nhưng nghĩ Huệ vương gia là hoàng thân quốc thích, kết giao với ông ấy có lợi chứ không có hại, bèn khẽ gật đầu.

Viên Thừa Chí nói với Ngụy Đào Thanh: “Huệ vương gia đã có hảo ý, nếu bọn tại hạ khước từ thì có phần không cung kính. Bây giờ xin theo Ngụy tổng quản đi bái kiến vương gia.”

Chàng cùng Thanh Thanh, Sa Thiên Quảng, ông câm, Hồ Quế Nam lên xe, ngay cả Đơn Thiết Sinh cũng đi theo. Trình Thanh Trúc thương tích chưa lành, phải ở nhà nghỉ ngơi. Viên Thừa Chí sợ địch thủ thừa cơ hội đến trả thù, bèn bảo Hồng Thắng Hải ở lại bảo vệ.

*

*   *

Xe chạy chẳng bao lâu đã ra khỏi thành, đi thêm về phía tây bảy tám dặm nữa thì đến một tòa phủ đệ rộng lớn. Viên Thừa Chí thấy trên cánh cổng sơn son thiếp vàng có ghi năm chữ Sắc Tứ Huệ Vương Phủ, biết là đến nơi rồi. Cổng đang mở rộng, bọn tùy tùng mặc áo xám hoặc áo đen xếp thành hai hàng từ trước cổng vào tận trong nhà, trông rất khí thế.

Đoàn xe ngựa chạy thẳng vào trong cổng. Bọn tùy tùng nô bộc đứng hai bên đồng thanh hô lớn: “Cung nghinh quý khách quang lâm”. Tiếng hô vừa dứt, tiếng trống và thanh la vang lên. Dứt ba hồi chiêng trống, lại tới tiếng sáo trúc thổi véo von đón khách.

Xe chạy hết con đường trải đá thì bọn nô bộc dừng xe lại, vén màn xe lên. Viên Thừa Chí cùng mọi người xuống xe, thấy một bậc vương giả mặc áo bào thêu kim tuyến đang đứng dưới hiên nhà đón khách. Y nhanh chân bước tới, chắp tay thi lễ.

Viên Thừa Chí biết người này là Huệ Vương, nếu theo lễ số thì mình phải quỳ lạy. Nhưng chàng nghĩ, mình không phải người trong quan trường, đối phương lại là thúc phụ của hoàng đế, có thể nói là cùng phe kẻ thù giết cha mình, nên không muốn quỳ xuống trước mặt y. Chàng chầm chậm lấy tư thế định quỳ. Huệ Vương vội vàng đưa tay ra cản, mỉm cười nói: “Không dám! Viên minh chủ đừng đa lễ.”

Hai người chắp tay vái nhau, Thanh Thanh và quần hào cũng tùy nghi chắp tay thi lễ. Chỉ có Đơn Thiết Sinh theo đúng quy luật quan trường, quỳ xuống khấu đầu hô lớn: “Tiểu chức là bộ đầu Đơn Thiết Sinh ở Thuận Thiên Phủ, xin tham kiến vương gia thiên tuế.”

Huệ Vương trang nghiêm mời Viên Thừa Chí cùng mọi người vào nhà. Trong đại sảnh đã xếp hai dãy ghế, trên ghế đều phủ bọc màu đỏ, thêu những đóa hoa bằng chỉ vàng lấp loáng hoàng kim.

Huệ Vương mời Viên Thừa Chí và mọi người ngồi vào dãy ghế phía tây. Nô bộc đưa trà lên mời. Y tự mình ngồi vào chủ vị, chắp tay nói: “Viên minh chủ đã đảm trách ngôi minh chủ của hảo hán võ lâm bảy tỉnh, thật đáng chúc mừng.”

Viên Thừa Chí nói: “Đây chỉ là trò đùa trong đám huynh đệ lỗ mãng bọn tại hạ, không thể coi là chuyện thật. Huệ vương gia đừng chê cười nữa.”

Mọi người hàn huyên mấy câu, đều là những lời khách sáo chẳng đâu vào đâu. Được mấy tuần trà, Huệ Vương quay sang bảo Ngụy Đào Thanh: “Ngụy tổng quản! Tâm ý của tiểu vương thế nào, tổng quản hãy nói ra giùm.”

Ngụy Đào Thanh khom người thi lễ, rồi đứng dậy dõng dạc nói: “Viên minh chủ, các vị anh hùng! Vương gia mời các vị đến phủ, dĩ nhiên đã xem các vị là hảo bằng hữu. Tiếc rằng biết tin hơi trễ, nên mãi đến hôm nay mới cung thỉnh được đại giá các vị. Lễ số thiếu phần cung kính, xin các vị thứ lỗi.”

Nói xong, y chắp tay thi lễ. Viên Thừa Chí và bọn Sa Thiên Quảng vội vàng chắp tay trả lễ, khiêm tốn nói: “Xin đừng khách sáo! Vương gia đa lễ quá rồi.”

Ngụy Đào Thanh dõng dạc nói tiếp: “Huệ vương gia kính hiền đãi sĩ, tính thích giao kết bạn bè, đã thiết lập một tòa Chiêu Hiền Quán, mời tân khách tứ phương đến đây hội tụ, để được dễ dàng thỉnh giáo. Không giấu gì quý vị, Huệ vương gia làm vậy chỉ vì tấm lòng hiếu khách. Không ngờ trong triều bỗng có gian thần bày trò ly gián, nói xấu Huệ vương gia trước mặt vạn tuế gia. Vương gia là chú ruột của hoàng thượng, xưa nay vẫn một dạ trung thành, được hoàng thượng đem lòng sủng ái. Nhờ vậy mà bọn gian thần đơm đặt chỉ tổ uổng công. Nhưng vương gia cũng muốn tránh bọn tiểu nhân truyền bá lời đồn, nên phải hỏi quý vị tân khách một câu. Nếu lời đồn của bọn ngu dân đến tai quý vị, quý vị sẽ làm gì? Nếu có kẻ gian mưu đồ bất lợi với vương gia, không biết chủ ý của quý vị ra sao?”

Câu hỏi này rất thẳng thắn. Viên Thừa Chí nhất thời cảm thấy khó trả lời, nên chỉ nói: “Vương gia là thúc phụ của hoàng thượng, giả tỉ hoàng thượng có nghe thấy lời đồn bất lợi, chắc cũng mỉm cười bỏ qua không cần đếm xỉa. Không chừng hoàng thượng còn nghiêm trị kẻ gian buông lời đồn đãi. Bọn tại hạ là người ngoài vòng thân thích, lại chẳng có chức quan. Kẻ dân đen áo vải không cần để ý bá tính đồn đại những gì.”

Ngụy Đào Thanh lớn tiếng khen: “Đúng rồi! Viên minh chủ nói mấy câu này, không thể đúng hơn được nữa. Nhưng tại hạ có hai việc không yên tâm, cần thỉnh giáo Viên minh chủ.”

Viên Thừa Chí đáp: “Xin cho biết.”

Ngụy Đào Thanh nói: “Việc thứ nhất, nghe nói Trình Thanh Trúc bang chủ đã tham gia vào minh hội của Viên minh chủ. Trình bang chủ trước đây là vệ sĩ trong hoàng cung, là người thân tín của hoàng thượng. Nếu hoàng thượng có việc cần sai khiến, Viên minh chủ có nhúng tay giúp đỡ Trình bang chủ hay không? Đơn lão đầu cũng vậy, mấy ngày nay bận rộn vì chuyện của hoàng thượng đến nỗi tối mày tối mặt. Lão này không ngớt ra vào quý phủ, e rằng Viên minh chủ khó nỗi khước từ. Bọn tại hạ thật sự không yên tâm về chuyện này.”

Viên Thừa Chí đã hơi hiểu, cười ha hả rồi nói: “Vấn đề này thì Ngụy gia có thể yên tâm. Trình bang chủ và Đơn lão đầu sẽ làm gì, tại hạ không thay mặt hai người đó mà nói được. Còn bản thân Viên Thừa Chí này cùng Hạ nghĩa đệ, thì quyết không làm những chuyện ám muội. Tại hạ tuy chỉ là một người lỗ mãng, nhưng quyết không bị chiêu an. Nếu ra sức cho triều đình để tìm công danh phú quý, không khỏi có lỗi với các hảo bằng hữu, với phụ thân và tổ tiên mình.”

Trong lòng Viên Thừa Chí chỉ muốn nói: “Ta đầy lòng phẫn hận, chỉ muốn giết quách hoàng đế để trả thù rửa hận cho phụ thân.” Chàng đưa tay vỗ mạnh xuống bàn. “Rầm” một tiếng, mặt bàn lập tức vỡ mất một góc.

Ngụy Đào Thanh cả mừng hô lớn: “Hay lắm!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Còn việc thứ hai Ngụy gia muốn hỏi là gì?”

Ngụy Đào Thanh đáp: “Việc thứ hai thì…” Y bỗng dừng lời, vỗ tay một tiếng rồi gọi lớn: “Mang ra đây!”

Mười mấy tên nô bộc đồng thanh vâng dạ rồi tiến vào phòng. Chúng bưng những chiếc mâm lớn, trong mâm đầy những thỏi nguyên bảo, ánh kim ngân loang loáng. Ngụy Đào Thanh bảo chúng đặt mười mấy cái mâm gỗ lên cái bàn đặt giữa đại sảnh, rồi nói: “Khải bẩm Vương gia! Đây là năm ngàn lượng hoàng kim, một vạn lượng bạch ngân, tổng cộng là sáu vạn lượng bạch ngân. Tiểu nhân đã kiểm tra tỉ mỉ, toàn bộ đều thuần chất không bị pha trộn, số lượng quyết không nhầm lẫn.”

Huệ Vương gật đầu một cái.

Viên Thừa Chí không ngờ y đột nhiên đưa ra nhiều ngân lượng như vậy, không hiểu có dụng ý gì. Chàng đã từng đào được vô số kim ngân châu báu của Kiến Văn Đế cất giấu, lại từng cướp được trăm vạn lượng bạc tào ngân, nên thấy đống vàng bạc này mà không cảm xúc gì, chỉ khẽ mỉm cười.

Ngụy Đào Thanh nói: “Vương gia bọn tại hạ đã biết Viên minh chủ vừa dẫn dắt các vị anh hùng Kim Xà Doanh đại phá quân Thát tử của A Ba Thái ở Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, nên đem lòng kính nể. Chút ít ngân lượng này là Vương gia đóng góp quân lương, xuất phát từ lòng kính trọng Kim Xà Doanh, kính trọng Kim Xà Vương, kính trọng các vị anh hùng, đa tạ các vị đã có công lớn bảo quốc an dân.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đối phương nói đến chuyện bảo quốc an dân, giết địch Mãn Thanh, có nghĩa cử giúp đỡ quân lương, mình khó mà từ chối.” Chàng bèn chắp tay nói: “Tại hạ xin thay mặt các vị huynh đệ đa tạ Vương gia. Còn ba chữ Kim Xà Vương là do bằng hữu giang hồ thuận miệng gọi bừa, không nên coi là thật.”

Ngụy Đào Thanh giơ ngón tay cái lên nói: “Dưới tay Sấm Vương có Hoành thiên vương Vương Tử Thuận, Cải thế vương Hứa Khả Biến, Loạn thế vương Quách Dưỡng Thành, Tranh thế vương Lưu Huy Hiểu, Tả kim vương Hạ Cẩm, chẳng vị nào không phải là anh hùng hảo hán, danh tiếng lẫy lừng. Thêm vào một vị Kim xà vương Viên minh chủ, có gì mà không được?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Người này hiểu quân tình của Sấm Vương khá rõ.” Thấy Đơn Thiết Sinh không ngừng đưa mắt nhìn mình ra hiệu, chàng bèn hỏi: “Vương gia khao quân hậu hĩ như thế, không biết muốn dặn dò bọn tại hạ những việc gì?”

Thanh Thanh thầm nghĩ: “Thừa Chí đại ca bây giờ khác hẳn anh chàng thật thà ngốc nghếch ở Cù Châu ngày trước. Câu này không thể không hỏi, không hỏi thì mình không biết điều.”

Ngụy Đào Thanh nói: “Không dám thế. Gần đây thanh thế Sấm Vương mở rộng, bây giờ đã chiếm Tây An Phủ, không chừng sẽ có ngày tiến vào Thuận Thiên Phủ này. Vương gia của bọn tại hạ tuy là tôn thất Đại Minh, nhưng đối với hiệu lệnh của hoàng thượng vẫn cho rằng không đúng, đã trình tấu rất nhiều lần nhưng tiếc rằng trung ngôn thường nghịch nhĩ, hoàng thượng nghe mà không chịu làm theo. Nếu Sấm Vương tiến vào kinh thành, Vương gia bọn tại hạ muốn nhờ Kim Xà Vương có lời với Sấm Vương cho giữ lại tính mạng toàn bộ gia đình. Còn gia sản thì Vương gia xin hiến hết cho Sấm Vương làm quân lương.”

Viên Thừa Chí nghe vậy nghĩ thầm: “Thì ra Huệ Vương suy nghĩ giống hệt Tào Hóa Thuần, chỉ mong bảo vệ được tính mạng toàn gia sau khi Sấm Vương tiến quân vào kinh thành.” Chàng nói: “Tâm ý của Huệ vương gia, tại hạ nhất định sẽ bẩm cáo với Sấm Vương. Nhưng tại hạ tuổi trẻ, e rằng lời nói trước mặt Sấm Vương không có cân lượng.”

Huệ Vương và Ngụy Đào Thanh chắp tay đa tạ liền miệng. Ngụy Đào Thanh nói: “Tuy rằng Kim Xà Doanh thành lập chưa lâu, nhưng nghe nói công lao lớn nhất. Lời nói của Kim Xà Vương dĩ nhiên rất có trọng lượng.” Y bèn sai gia nhân dồn hết kim ngân trên bàn vào những chiếc bao vải, đặt dưới chân Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Số tiền mua mạng này, chưa chắc Huệ Vương lấy trong hầu bao ra, mà chắc là cướp từ ngân khố. Ta giữ lại một nửa chia cho Kim Xà tam doanh, còn một nửa nộp lên Sấm Vương.”

Ngụy Đào Thanh lại nói: “Hiếm khi mời được đại giá quý vị quang lâm đến đây. Hôm nay tại hạ muốn giới thiệu với Viên minh chủ một số bằng hữu Ngũ Tiên Giáo ở Vân Nam. Tại hạ phụng mạng Vương gia, thiên phương vạn kế mới mời được các vị anh hùng Ngũ Tiên Giáo đến Chiêu Hiền Quán này. Ngũ Tiên Giáo xưa nay chỉ hành đạo ở vùng Vân Nam Quế Châu, rất ít khi vào tới Giang Nam, chắc là Viên minh chủ chưa gặp. Tại hạ xin giới thiệu cho bằng hữu gặp nhau một chút. Quần hiền tụ tập nơi đây, có thể nói là buổi kỳ ngộ trăm năm khó kiếm.”

Viên Thừa Chí gật đầu.

Huệ Vương lên tiếng: “Ta cáo lui trước. Sau khi bằng hữu giang hồ gặp gỡ, xin vào hậu sảnh dự tiệc, uống mấy ly rượu chia vui. Lúc đó tiểu vương sẽ kính rượu quý vị sau.”

Viên Thừa Chí nói: “Không dám.”

Huệ Vương chắp tay thi lễ, lùi ra sau hậu đường.

Ngụy Đào Thanh nói: “Viên minh chủ cùng các vị anh hùng Ngũ Tiên Giáo đều là quý khách của Chiêu Hiền Quán, Vương gia bọn tại hạ đối đãi chân thành, không phân cao thấp. Hai bên đều là hảo bằng hữu, tại hạ chỉ phụ trách việc giới thiệu. Các vị đều là anh hùng hào kiệt danh tiếng lẫy lừng, nhất định vừa gặp mặt đã như tình cố cựu. Xin Viên minh chủ dời bước.”

Ngụy Đào Thanh nói xong, chắp tay đi trước dẫn đường. Viên Thừa Chí cùng quần hào đi theo y.

Quanh qua rẽ lại một hồi, qua một hành lang khá dài thì đến một tòa đại điện. Những căn nhà bình thường nhất định không có tòa điện lớn đến thế, nhưng đây là phủ đệ vương gia nên không ai cảm thấy ngạc nhiên. Ngoài điện có một khoảng đất trống rất rộng.

Trong điện đã xếp hai dãy ghế, trên ghế đều phủ khăn đỏ. Ngụy Đào Thanh mời Viên Thừa Chí cùng quần hào ngồi vào dãy ghế phía tây, Viên Thừa Chí ngồi ghế đầu tiên. Ngụy Đào Thanh ngồi ở hàng ghế nhỏ hơn, phía sau hai dãy ghế này.

Từ phía sau điện vọng ra tiếng chuông. Nhiều người đi ra, có cao có thấp, có nam có nữ, chia nhau ngồi vào dãy ghế phía đông, để trống cái ghế đầu tiên chưa có ai ngồi. Tổng cộng có mười sáu người. Ngồi ghế thứ năm là một người trông như ăn mày, mặc áo gấm nhưng đã rách nát. Ngồi ghế thứ ba là một mụ ăn xin mặt mày hung dữ, mũi khoằm xuống, mắt rất sâu, mặt đầy vết sẹo.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Chẳng lẽ mụ này chính là người đả thương Trình bang chủ?”

Sau điện lại có tiếng sáo vang lên. Mười sáu người đang ngồi đồng thời đứng dậy, khom lưng xuống. Hai thiếu nữ chậm rãi bước ra, đứng hai bên chiếc ghế thứ nhất, khẽ hô: “Mời giáo chủ ngồi.”

Sau đó nghe thấy những tiếng leng keng của kim loại chạm nhau, nghe thanh thoát như tiếng nhạc. Gió đưa tới mùi hương kỳ dị, rồi từ sau điện có một nữ nhân mặc áo màu hồng phấn bước ra. Cô này khoảng hai hai, hai ba tuổi, có cặp mắt phượng, lông mày dài tới tận chân tóc, khóe miệng luôn mỉm cười, ánh mắt đong đưa vô cùng xinh đẹp. Nàng đi chân đất, mỗi cổ chân cổ tay đều đeo hai chiếc vòng vàng. Khi đi lại, những chiếc vòng vàng đó khua chạm vào nhau, vang ra những tiếng leng keng. Nước da nàng trắng mịn lạ thường, xa xa trông như ngọc. Mái tóc dài xõa xuống ngang vai, cũng dùng những chiếc vòng vàng thắt lại.

Nàng đi đến chiếc ghế đầu tiên ở dãy phía đông, ngồi xuống. Hai thiếu nữ phía sau, cô cầm quạt, cô cầm phất trần phe phẩy.

Viên Thừa Chí cùng mọi người đều thắc mắc. Ngũ Độc Giáo oai phong lừng lẫy, nhân vật võ lâm nghe tiếng là vỡ mật. Nghe nói giáo chủ Hà Thiết Thủ của họ là một cô gái trẻ tuổi, chẳng lẽ chính là cô nương nhỏ nhắn xinh đẹp này?

Cô gái ấy hỏi: “Xin thỉnh giáo quý danh tôn khách.” Thanh âm vừa trong trẻo vừa kiêu kỳ.

Ngụy Đào Thanh đứng dậy, giới thiệu từng người một. Cô gái này quả nhiên là Hà giáo chủ của Ngũ Tiên Giáo.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Đơn Thiết Sinh gọi là Ngũ Độc Giáo, Ngụy tổng quản lại gọi là Ngũ Tiên Giáo. Chắc là cái tên Ngũ Độc nghe không được nhã nhặn, nên y mới gọi là Ngũ Tiên.”

Người cao cao ngồi ghế thứ hai tên là Phan Tú Đạt. Người ăn xin ngồi ở ghế thứ năm là Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo. Còn mụ ăn xin tên là Hà Hồng Dược, tướng mạo tuy khó nhìn nhưng tên rất văn nhã. Người ngồi ghế thứ tư trông như một gã nông phu quê mùa, tên là Trầm Kỳ Tư.

Ngụy Đào Thanh giới thiệu tới từng người bên Viên Thừa Chí. Khi giới thiệu Thanh Thanh, y chỉ nói vị Hạ tướng công này là sư đệ của Viên minh chủ. Đơn Thiết Sinh là ai thì y hoàn toàn không nhắc đến, cứ như trong đại sảnh không có người này vậy.

Hà Thiết Thủ đứng dậy, nhún chân thi lễ theo kiểu công nương, Viên Thừa Chí cũng chắp tay đáp lễ.

Hai bên uống mấy hớp trà, rồi Hà Thiết Thủ dõng dạc lên tiếng: “Viên tướng công! Nghe nói Viên tướng công có ngoại hiệu là Kim Xà Vương, từng thống lãnh Kim Xà Doanh đại phá quân Thát tử ở Sơn Châu, tỉnh Sơn Đông. Chuyện này có thật không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Xin đừng gọi tại hạ là Vương gì gì đó. Đó chỉ là cách người ta quen gọi các đầu lĩnh trong Sấm quân mà thôi. Mỗi người một nơi khởi nghĩa, xưng là Vương này Vương nọ, đó chỉ là tự cao tự đại cho thanh thế mạnh hơn, hù dọa triều đình. Ba chữ Kim Xà Vương này, tại hạ cảm thấy không ổn, từng truyền lệnh cho các huynh đệ không được gọi như thế. Bọn tại hạ tự gọi mình là Sơn Tông Doanh.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Viên tướng công làm như vậy là tuyệt diệu. Ngũ Tiên Giáo chúng ta từ Vân Nam xa xôi đi đến Thuận Thiên Phủ này, chỉ vì mong muốn Viên tướng công phế bỏ ba chữ xưng hiệu Kim Xà Vương.”

Thanh Thanh hỏi: “Chuyện đó có liên quan gì? Sao các vị lại rảnh rỗi can thiệp vào việc của người khác?”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Không phải chúng ta rảnh rỗi đâu. Kim Xà Đại Thánh là pháp bảo của Ngũ Tiên Giáo chúng ta. Giáo phái chúng ta, từ trên xuống dưới đều cực kỳ tôn trọng Kim Xà Đại Thánh. Tề sư huynh!”

Tề Vân Ngạo đứng dậy đáp: “Có.”

Hà Thiết Thủ bảo: “Huynh thỉnh Đại Thánh ra đây, cho quý khách được tham kiến.”

Tề Vân Ngạo đáp: “Tuân lệnh!”

Hà Thiết Thủ gọi hắn là sư huynh, nhưng Tề Vân Ngạo ra vẻ rất kính trọng giáo chủ.

Tề Vân Ngạo vẫy tay một cái. Hai tên giáo đồ đứng sau ghế hắn liền vào trong nội đường, bưng ra một cái bàn tròn, đặt giữa đại sảnh. Cái bàn này làm bằng gỗ, trên mặt là một cái khay chứa cát mịn, có vành cao. Một tên khác xách vào một chiếc lồng tre, mở nắp rồi trút vào khay cát. Thì ra trong lồng là mấy chục con cóc nhỏ, bây giờ nhảy nhót loạn xạ trong khay. Rồi lại có bốn tên bưng bốn chiếc hũ sành tới, cũng mở nắp rồi đổ những vật chứa trong hũ vào khay. Bốn cái hũ này đựng rắn xanh, rết, bò cạp và nhện, đều là loài vật có nọc độc.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Bây giờ trong cái khay này có năm loại độc vật. Chắc cái tên Ngũ Độc Giáo từ đó mà có.”

Tề Vân Ngạo cầm lấy một cái hũ sành khác, vốc ra một nắm bột màu vàng, rải trên vành lồi của cái khay gỗ, kín thành một vòng tròn. Viên Thừa Chí ngửi thấy mùi cay hắc, biết đây là loại thuốc để khắc chế rắn, như lưu hoàng vậy.

Tề Vân Ngạo quay lại, bưng một chiếc hộp màu vàng lên đặt ở giữa bàn. Hắn thắp ba nén hương, cắm vào lư hương rồi quỳ xuống khấu đầu. Hà Thiết Thủ, Phan Tú Đạt, Hà Hồng Dược cùng mọi người Ngũ Độc Giáo đều quỳ xuống hành lễ.

Bái lạy xong, Tề Vân Ngạo đứng dậy mở nắp hộp vàng, lấy ra một cái ống tròn màu vàng. Hắn đi đến bên cái khay cát, tay trái cầm ống vàng giơ lên cao, tay phải mở nắp đậy miệng ống. Đột nhiên ánh vàng nhấp nháy, một con rắn vàng nho nhỏ đã nhảy vào trong khay. Tề Vân Ngạo lập tức lùi ra. Trong làn khói hương đang lơ lửng bay lên, mọi giáo đồ Ngũ Độc Giáo đều khom lưng thi lễ, miệng lẩm nhẩm niệm chú.

Con tiểu kim xà kia ngẩng đầu lên, vừa mở miệng đã nuốt một con cóc vào bụng. Kim xà linh hoạt lạ thường, hễ nhìn thấy con cóc nhỏ nào nhảy ngang qua là nó tựa đuôi vào đáy khay, tung mình bay theo nuốt chửng, thân pháp vừa xảo diệu vừa đẹp mắt. Thanh Thanh thấy vậy vỗ tay khen hay, hoan hỉ vô cùng.

Kim xà ăn được năm sáu con cóc, dường như đã no bụng. Nó há miệng, phà hơi độc tới lũ cóc, rắn, rết còn lại. Con nào bị hơi kim xà phun trúng là lập tức lật ngửa ra nằm yên trong khay. Những con chưa bị phun trúng đều hoảng sợ, chạy loạn khắp nơi. Nhưng tiểu kim xà linh hoạt vô cùng, cứ rượt theo phun độc. Chỉ trong chốc lát, mười mấy con độc vật trong khay đã lật ngửa nằm yên hết. Lúc đầu da bụng của chúng còn nhấp nhô lên xuống, nhưng lát sau không động đậy gì nữa, hình như đã bị hơi độc phun cho chết hẳn.

Viên Thừa Chí âm thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Con tiểu kim xà này độc tính lợi hại đến thế, thật là hiếm thấy.”

Tiểu kim xà chạy quanh khay cát hai vòng, đột nhiên tung mình lên lộn trên không hai vòng, hình như muốn biểu diễn một phen. Sau đó nó lại chạy mấy vòng, rồi khoanh thành một cái bánh hình tròn, ngẩng đầu nhìn quanh bốn phía, không động đậy gì nữa.

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Phương pháp phá Ngũ Hành Trận của Kỳ Tiên Phái mà bí kíp của Kim Xà Lang Quân truyền thụ, chắc đã học hỏi từ con tiểu kim xà này. Nó khoanh tròn ngay giữa trận địch, lấy tĩnh chế động, giấu được hết nhược điểm của mình, đợi địch thủ ra tay trước. Tiểu kim xà cũng biết hậu phát chế nhân, thật là cao minh. Ngoại hiệu Kim Xà Lang Quân nhất định có liên quan đến chú tiểu kim xà này.”

Sau đó Tề Vân Ngạo dùng dây để cột cái ống vàng vào đầu một thanh tre dài, thòng thanh tre xuống cái khay rải cát. Miệng của ống vàng vẫn mở, hướng về phía kim xà. Hình như hắn không dám đến gần khay cát, sợ kim xà nhảy lên cắn trúng.

Toàn thể giáo đồ lại khom lưng niệm chú. Kim xà duỗi người ra, đột nhiên chui tọt vào trong cái ống vàng rồi không ra nữa. Tề Vân Ngạo thu thanh tre về, lấy cái ống vàng xuống, khẽ đậy nắp lại. Hắn cung kính dùng cả hai tay bưng ống cất vào trong hộp vàng, đậy nắp hộp rồi lại dập đầu.

Hà Thiết Thủ quay về ngồi ở ghế, nhìn Thanh Thanh hỏi: “Hạ tướng công! Xin hỏi tôn tính đại danh của lệnh tôn?”

Thanh Thanh đáp: “Ta họ Hạ, dĩ nhiên phụ thân ta cũng họ Hạ.”

Mụ ăn mày Hà Hồng Dược từ nãy vẫn nhìn Thanh Thanh không ngớt, đột nhiên nhảy ra khỏi ghế, vung tay túm lấy vai Thanh Thanh, quát hỏi: “Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi là gì của ngươi?”

Mụ này tướng mạo cực kỳ xấu xí, nhưng thanh âm lại thánh thót dễ nghe. Thanh Thanh giật mình kinh hãi, vội nhảy ra khỏi ghế để tránh né, la lên: “Bà muốn gì?”

Hai người ngồi phía dưới giáo chủ Hà Thiết Thủ đột ngột nhảy lên, áo lộng bay trong gió. Chúng đứng hai bên mụ ăn mày, đồng thời quát hỏi: “Thằng khốn họ Hạ đang ở đâu?”

Viên Thừa Chí thấy hai người này vừa nhổm người đã vọt lên nửa trượng, võ công khá cao. Một người vừa cao vừa ốm là Phan Tú Đạt; người kia thân hình vừa phải, sắc mặt ngăm đen, trông như một nông phu bình thường, tên là Trầm Kỳ Tư. Hai người đều tuổi trạc ngũ tuần.

Trước đây Thanh Thanh chưa hiểu rõ thân thế mình, thường cảm thấy xấu hổ. Nhưng sau khi nghe mẫu thân kể lại những chuyện năm xưa, nàng vô cùng thán phục cha mình, bèn ngang nhiên đáp: “Kim Xà Lang Quân là phụ thân ta. Các ngươi hỏi ông ấy làm gì?”

Mụ ăn mày ngẩng mặt cười dài, thanh âm đầy vẻ thảm khốc khiến cho người ta không lạnh mà run. Mụ la lên: “Quả nhiên hắn chưa chết, còn để lại tên nghiệt chủng này. Ta là Hà Hồng Dược. Hắn ở đâu?”

Thanh Thanh hất cằm lên hỏi: “Sao ta phải nói với bà?”

Mụ ăn mày giương cặp lông mày lên, đột nhiên vung tay cào lên mặt Thanh Thanh. Diễn biến quá đột ngột, Thanh Thanh không kịp tránh né, ai cũng thấy mười ngón tay nhọn hoắt đeo vuốt thép sắp chụp thủng khuôn mặt mịn màng trắng trẻo của Thanh Thanh.

Viên Thừa Chí vội phất tay áo bên phải ra trúng vào giữa hai vai của mụ ăn mày nghe “bịch” một tiếng, thừa thế hất ra ngoài. Mụ không sao tự chủ được nữa, lộn ra sau té phịch ngay xuống đất.

Mọi người Ngũ Độc Giáo đều nhìn nhau hoảng sợ. Hà Hồng Dược là cao thủ trong giáo, so với giáo chủ Hà Thiết Thủ còn cao cường hơn một bậc, thế mà thiếu niên này vừa ra tay đã hất té mụ dễ dàng như thế. Tuy Ngụy Đào Thanh đã giới thiệu chàng là minh chủ võ lâm bảy tỉnh, nhưng thấy chàng còn quá trẻ, diện mạo không có gì nổi bật mà võ công lại cao một cách kỳ lạ như thế, mọi người đều phải kinh ngạc.

Hà Thiết Thủ lại càng ngơ ngẩn xuất thần. Võ công của bản thân nàng đã thuộc vào hàng đệ nhất cao thủ rồi, nhưng nàng vẫn không sao hình dung được tại sao tay áo của Viên Thừa Chí chỉ phẩy một cái là hất nhào Hà Hồng Dược. Trong sự kinh hãi lại có phần ngưỡng mộ.

Phan Tú Đạt và Trầm Kỳ Tư là tả hữu hộ pháp của Ngũ Độc Giáo. Hai tên nhìn nhau gật đầu một cái, rồi Phan Tú Đạt lên tiếng: “Để ta lãnh giáo thử.” Nói xong, hắn múa song chưởng bước ra.

Sa Thiên Quảng nói: “Viên tướng công! Để tại hạ tiếp chiến.”

Viên Thừa Chí bảo: “Sa huynh lấy thiết phiến ra đi. Trên đầu ngón tay của hắn có đeo vòng tẩm độc, đó cũng là binh khí.”

Sa Thiên Quảng bèn thi triển Âm Dương Phiến tỉ đấu với Phan Tú Đạt. Bên kia ông câm đã nhảy ra đánh Trầm Kỳ Tư, dĩ nhiên không nói tiếng nào. Hai cặp vừa xoắn vào nhau, mọi người Ngũ Độc Giáo đều ùa hết lên. Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, Thanh Thanh liền cầm binh khí để nghênh chiến. Giáo đồ của Ngũ Độc Giáo không chỉ có mười bốn người đang ngồi trên ghế, từ sau điện lại có thêm hai mươi mấy người kéo ra trợ chiến.

Hà Hồng Dược như một con cọp điên, phóng thẳng tới người Thanh Thanh. Viên Thừa Chí biết mụ này ra tay rất độc, không thể để tới gần. Chàng đột ngột nhảy ra, đưa tay túm lấy lưng mụ xách lên, quẳng ra ngoài.

Khuôn mặt trắng muốt của Hà Thiết Thủ bỗng trầm xuống. Nàng cho ngón trỏ tay phải vào trong miệng, thổi một tiếng sáo. Toàn bộ giáo đồ của Ngũ Độc Giáo đồng thời lùi lại. Chúng phóng lên rất hung dữ, thối lui cũng rất nhanh. Chỉ chốc lát là mọi người đã xếp hai hàng ngay ngắn phía sau giáo chủ.

Hà Thiết Thủ nhoẻn cười, nói với Viên Thừa Chí: “Viên tướng công nhìn có vẻ văn nhã, không ngờ đầy mình tuyệt kỹ. Cho muội lãnh giáo mấy chiêu.”

Viên Thừa Chí nói: “Chúng ta chưa từng quen biết các bằng hữu trong quý giáo. Không biết có chỗ nào đắc tội, xin nói rõ trước.”

Mặt của Hà Thiết Thủ đỏ lên, nhưng lời nói vẫn dịu dàng: “Chúng ta đều là khách trong Chiêu Hiền Quán của Huệ vương gia, vốn dĩ cùng đường cùng lối. Tướng công lại hứa phế bỏ danh hiệu Kim Xà Vương, bọn muội đã cảm kích lắm rồi, nhưng đột nhiên lại có chuyện liên quan tới Kim Xà Lang Quân. Xin hỏi người đó đang ở đâu?”

Thanh Thanh kéo tay Viên Thừa Chí, nói nhỏ: “Đừng nói cho ả biết.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Giáo chủ có quen biết với Kim Xà Lang Quân ư?”

Hà Thiết Thủ đáp: “Hắn có liên quan sâu xa với tệ giáo. Gia phụ muội vì hắn mà quy thiên. Cả vạn giáo đồ tệ giáo, không người nào không muốn tìm hắn.”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh kinh hãi, đều nghĩ: “Cách hành xử của Kim Xà Lang Quân vượt hẳn lẽ thường, đi đến đâu gây oán thù đến đó. Ngũ Độc Giáo hận ông đến tận xương tủy, không phải là chuyện lạ.”

Viên Thừa Chí nói: “Bây giờ Kim Xà Lang Quân xa xôi vạn dặm, e rằng quý vị vĩnh viễn không thể tìm ra.”

Hà Thiết Thủ nói: “Thế thì bọn muội giữ con trai của hắn lại để tế vong linh tiên phụ, rồi sẽ tính tiếp.” Nàng vừa nói chuyện vừa mỉm cười, thần thái dịu dàng, trông như một thiếu nữ ngây thơ e lệ, nhưng lời nói lại vô cùng ác độc.

Viên Thừa Chí nói: “Người xưa từng nói, ai gieo nấy gặt. Các vị có xích mích với Kim Xà Lang Quân, phải đi tìm chính ông ấy mới phải.”

Hà Thiết Thủ nói: “Hồi tiên phụ tạ thế, muội mới có năm tuổi. Đã mười tám năm rồi, làm sao tìm ra vị tiền bối đó nữa? Bây giờ bọn muội giữ con trai ông ấy ở đây, dĩ nhiên ông ấy sẽ đến tìm. Thế là món nợ xa xưa có thể đem ra tính sổ.”

Thanh Thanh la lên: “Hừ! Ngươi đừng hòng! Gia gia ta mà đến đây, nhất định sẽ giết sạch từng tên một.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Chưa chắc đâu.” Nàng quay lại hỏi Hà Hồng Dược: “Vị nhân huynh này có giống phụ thân không?”

Hà Hồng Dược nói: “Tướng mạo rất giống. Nhất là thần sắc kiêu ngạo không khác chút nào.”

Hà Thiết Thủ dịu dàng nói: “Viên tướng công! Xin các vị cứ bình tĩnh, bọn muội chỉ giữ lại một mình Hạ công tử thôi.”

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Họ chỉ muốn kiếm chuyện với một mình Thanh đệ. Nơi đây tình thế hiểm ác, ta phải đưa Thanh đệ ra ngoài rồi tính tiếp.” Chàng chắp tay, nhìn Hà Thiết Thủ nói: “Xin cáo biệt.”

Lời vừa dứt, chàng đã dùng tay trái ôm ngang lưng Thanh Thanh đi ra khỏi đại sảnh, băng qua vườn, định nhảy lên đầu tường. Bức tường này rất cao, chàng đang ôm Thanh Thanh không thể nhảy một phát lên ngay, bèn vừa ném nàng lên trước vừa hô: “Thanh đệ, hãy cẩn thận!”

Bọn người Ngũ Độc Giáo vừa la hét vừa phóng ám khí tới ào ào. Viên Thừa Chí múa hai tay áo, những tiếng “tinh tang” liên tiếp vang lên, bao nhiêu ám khí đều bị đánh rơi hết. Hai tay của Thanh Thanh đã nắm được đầu tường, đang rướn mình toan nhảy ra ngoài, Hà Thiết Thủ đột nhiên vọt ra khỏi chỗ ngồi, vung tay trái đánh tới trước mặt Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí thấy nàng vừa nhoáng lên một cái đã như luồng gió ập đến mặt mình, một thiếu nữ trông yếu đuối mà thân pháp nhanh như vậy, không khỏi giật mình cất tiếng khen ngợi: “Hay lắm!”

Chàng vội rùn người xuống tránh, nhìn thấy món vũ khí đánh tới mặt mình là một chiếc thiết câu đen nhánh, càng kinh hãi hơn. Tay phải Hà Thiết Thủ vung lên một cái, một chiếc vòng vàng rời khỏi cổ tay bay lên đầu tường. Nàng quát lên: “Xuống đây!”

Thanh Thanh lập tức cảm thấy chân trái đau kịch liệt, hai tay lỏng ra té nhào xuống chân tường. Hà Hồng Dược cười dài một tiếng, năm cái vuốt thép đột nhiên rời khỏi ngón tay, bắn hết vào người Thanh Thanh.

Trong khoảnh khắc đó, Viên Thừa Chí đã tỉ đấu với Hà Thiết Thủ được năm chiêu, hai bên đều công thủ cực nhanh. Chàng đang bận tay, nhưng thấy Thanh Thanh nguy cấp cũng lấy được một mớ tiền đồng ném tới. Những tiếng leng keng vang lên, cả năm chiếc vuốt thép của Hà Hồng Dược đều bị đánh rơi xuống đất.

Hà Thiết Thủ khẽ la lên: “Tuyệt diệu!” Tay trái nàng tấn công liền hai chiêu. Viên Thừa Chí thấy rõ tay phải nàng da dẻ trơn mịn như mỡ đông, đầu ngón tay thon thả màu hồng nhạt như hoa thủy tiên, khi phóng chưởng thì chưởng phong mang tới từng đợt mùi hương thơm ngát. Nhưng bàn tay trái nàng đã bị cắt mất, trên cổ tay có lắp một cái móc sắt. Cái móc sắt này đúc theo hình dáng như bàn tay con gái thon dài, năm ngón tay cực kỳ bén nhọn. Bàn tay sắt có thể khóa, có thể đâm, có thể chặt, chiêu thức lộng gió vù vù, linh hoạt chẳng kém gì bàn tay bằng da thịt.

Viên Thừa Chí la lên: “Sa huynh! Các vị mau mau tự tìm đường ra ngoài.”

Nhưng lúc này Sa Thiên Quảng cùng quần hào đã bị giáo đồ Ngũ Độc Giáo vây hãm loạn đấu, làm sao xông ra ngoài ngay được?

Viên Thừa Chí bất ngờ gặp phải kình địch, bèn phấn khởi tinh thần thi triển Phục Hổ Chưởng Pháp, oai phong không gì đỡ nổi.

Đấu pháp của Hà Thiết Thủ hoàn toàn khác hẳn. Nàng cũng dùng quyền để đánh, dùng chân để đá, dùng chưởng để phóng, dùng móc để đâm; nhưng quyền pháp có rất nhiều hư chiêu, lắm khi chưởng đánh tới nơi mà không có chút kình lực nào. Viên Thừa Chí nghĩ rằng nàng hạ thủ lưu tình không dùng sát chiêu, nên bất giác lơi tay một chút.

Đang lúc tỉ đấu, chàng vẫn thường quay nhìn về phía Thanh Thanh. Thấy nàng ngồi dưới đất mãi vẫn không đứng dậy được, chàng lo lắng trong lòng bèn đánh rát mấy chiêu, ép Hà Thiết Thủ lùi vài bước để qua đỡ Thanh Thanh đứng dậy.

Đột nhiên nghe ầm một tiếng, bốn bàn tay của Thiết La Hán và Tề Vân Ngạo đập thẳng vào nhau, rồi cả hai đều bị chấn động lùi ra. Thiết La Hán la lớn một tiếng, cố bước lên đánh được mấy chiêu thì bàn tay đã sưng vù. Y vừa tức giận vừa lo lắng, lớn tiếng hô hoán: “Trên bàn tay bọn này có chất độc, đừng bị trúng kế!”

Viên Thừa Chí bây giờ mới tỉnh ngộ. Thì ra chưởng pháp của Hà Thiết Thủ mềm dịu như thế là để dụ mình đối chưởng, dụng tâm hiểm độc chứ không phải có ý nhường nhịn. Chàng thấy tình thế đã khẩn cấp rồi, lập tức nhảy đến bên Thanh Thanh, dìu nàng dậy.

Thấy chàng dìu Thanh Thanh dậy xong lại toan đi cứu Thiết La Hán, Hà Thiết Thủ bèn lướt như một cơn gió đến bên cản trở. Viên Thừa Chí la lên: “Hà giáo chủ! Xưa nay ta không thù không oán với cô, sao phải ép người như thế? Nếu không để chúng ta đi, đừng trách ta vô lễ.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười, trên mặt lộ ra hai núm đồng tiền rất dễ thương, cất tiếng đáp: “Bọn muội chỉ cần giữ lại một mình Hạ công tử. Còn tôn giá cứ tùy tiện.”

Chân trái của Viên Thừa Chí quét ngang qua, hữu chưởng vù một tiếng vỗ thẳng lên mặt Hà Thiết Thủ. Nàng đưa tay toan đỡ, đột nhiên cảm thấy phát chưởng của Viên Thừa Chí kình lực vô cùng, nếu dùng hai tay đỡ lấy, dù đối phương trúng độc thì bàn tay của mình cũng phải gãy trước. Trong chớp nhoáng, nàng chìa một ngón tay ra, đưa lên phía trên điểm vào huyệt Khúc Trì của Viên Thừa Chí. Chiêu thức này biến chưởng thành chỉ, vừa nhanh chóng vừa chính xác, lấy công làm thủ, thật là cao diệu.

Viên Thừa Chí hô lớn: “Chỉ pháp tuyệt diệu!” Chàng liền xòe tả chưởng ra, chém ngang vào cổ tay địch thủ.

Chàng biết, tuy trên tay Hà Thiết Thủ có chất độc, nhưng nàng lại e sợ chưởng lực của mình cường mãnh, bèn thay đổi quyền pháp sử dụng tuyệt nghệ Phá Ngọc Quyền của sư môn. Quyền pháp này chiêu nào cũng vận kình rất mạnh. Lưu Bội Sinh biệt hiệu là Ngũ Linh Thủ, nhưng không sao đỡ nổi năm chiêu của chàng.

Hà Thiết Thủ võ công tuy cao, nhưng vẫn là phận nữ nhi. Thấy đối phương quyền nào đánh tới cũng giống như búa sắt giáng vào núi đá để mở đường, nàng không dám đón đỡ. Trên mặt nàng vẫn có nụ cười, nhưng khi thấy quyền thế của đối phương dữ dằn như vậy, bất giác nảy lòng sợ hãi, bắt đầu tránh né. Trong lòng nàng thán phục, chỉ mong thừa cơ nghiên cứu học lóm một chiêu nửa thức võ công thần diệu của Viên Thừa Chí, hoặc thấy được chút xíu sơ hở của đối phương. Nhưng đối phương lại biến chiêu quá kỳ lạ, quá nhanh chóng, chỉ nháy mắt đã đổi sang chiêu khác. Bây giờ Hà Thiết Thủ chuyển sang khao khát, chỉ muốn quỳ ngay xuống mà mở miệng thỉnh cầu: “Sư phụ! Xin dạy cho đệ tử chiêu này”.

Viên Thừa Chí nhân lúc đối thủ lùi ra nửa bước, liền đưa tả chưởng lên đầu để phòng vệ, còn hữu quyền thì tập kích vào Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo đang đứng gần đó.

Tề Vân Ngạo la lên: “Hay lắm!” Hắn đưa tay ra, toan nắm lấy đầu quyền của chàng. Chỉ cần đầu ngón tay đụng vào nắm đấm của Viên Thừa Chí là kịch độc có thể truyền qua.

Viên Thừa Chí đâu thể để ngón tay của hắn đụng đến mình? Chàng hơi cúi xuống, xoay tay trái chụp được cổ áo của hắn. Chàng tức giận tên này hung hãn ác độc, dùng độc chưởng đả thương người, bèn dùng chân phải móc chân của hắn ra sau. Tay phải chàng vỗ vào khoảng ba tấc ở dưới đầu gối bên phải của hắn. “Rắc” một tiếng, đầu gối của Tề Vân Ngạo lập tức bị trật khớp, hắn quỳ ngay xuống đất.

Hồ Quế Nam vốn đang kịch đấu với Tề Vân Ngạo, bây giờ rảnh tay lập tức đi cứu viện cho Sa Thiên Quảng đang bị ba kẻ địch bao vây vào giữa. Viên Thừa Chí la lên: “Lùi đến bên tường, để ta cứu người!”

Hồ Quế Nam vâng lời, quay lại dìu Thanh Thanh và Thiết La Hán đang bị thương đến bên bờ tường.

Viên Thừa Chí đảo mắt nhìn quanh tứ phía, thấy Sa Thiên Quảng và ông câm đều lấy một chọi ba, nhưng tình hình bên Sa Thiên Quảng nguy hiểm hơn. Chàng lập tức nhún chân trái một cái, chân phải phóng ra đá văng hai tên Ngũ Độc Giáo, rồi tung người vào giữa đám đông. Soạt soạt ba tiếng, ba tên đang bao vây Sa Thiên Quảng đã bị thương rồi. Tên thì vai bị trật khớp, tên thì cổ bị vặn nghiêng, tên thì gãy tay.

Viên Thừa Chí không muốn hại mạng nhiều người, cũng không dám tiếp xúc với độc chưởng của đối phương, nên cứ nhanh như điện chớp mà tung mình tới, cách lần áo của đối phương mà nhằm đánh vào những khớp xương. Địch thủ bị chàng đánh trúng khớp xương, nếu không đau đớn ngất xỉu ngay tại chỗ thì cũng không động đậy được.

Cứu xong Sa Thiên Quảng, Viên Thừa Chí lại nhảy đến cạnh ông câm. Quyền pháp của ông câm đã học được mấy phần tinh yếu của phái Hoa Sơn. Nãy giờ y cố sức chống chọi với ba tên cao thủ, tuy chưa thể thoát thân được, nhưng không đến nỗi thua ngay.

Hà Thiết Thủ huýt một tiếng sáo, toàn bộ giáo chúng Ngũ Độc Giáo đều chạy đến bao vây hai người. Nhưng Viên Thừa Chí chỉ lạng sang đông một cái, đảo sang tây một cái, là hai tên đang vây hai bên ông câm đều bị trật khớp tay. Còn sót lại một tên, đang ngơ ngác thì bị ông câm xuất một quyền đánh trúng vào sống mũi, máu tươi chảy ra đầm đìa. Dường như ông câm đã nổi hứng, còn muốn rượt theo đánh tiếp. Nhưng Viên Thừa Chí vội nắm tay y kéo đến bờ tường, la lên: “Mọi người mau mau rời khỏi đây, để ta cản hậu.”

Quần hào giúp sức nhau nhảy lên bức tường cao, chỉ chốc lát đã lên hết đầu tường. Viên Thừa Chí chạy qua chạy lại dưới chân tường, lại đánh ngã mười mấy đối thủ nữa. Bọn này đều là tay khá trong Ngũ Độc Giáo, nhưng đều bị đánh trật khớp hoặc gãy xương, nằm rạp hết dưới đất. Phen này Ngũ Độc Giáo thua đến thảm hại, hoàn toàn không còn tinh thần chiến đấu.

Viên Thừa Chí chắp tay nhìn Hà Thiết Thủ, nói: “Giáo chủ cô nương! Tạm biệt!” Chàng cười ha hả một tràng, tựa lưng vào bức tường chuẩn bị nhảy lên.

Hà Thiết Thủ đang thiết tha mong chàng chỉ điểm võ công, bất giác không nén nổi hô lớn: “Sư phụ…” Mới nói được hai chữ, nàng vội vàng nuốt lại phần sau, mọi người đều không biết giáo chủ gọi ai. Lúc này tâm thần Hà Thiết Thủ phiêu diêu, chân đứng không vững cơ hồ ngất xỉu.

Hà Hồng Dược quát lên một tiếng, năm cái vuốt thép trên đầu ngón tay chia ra trên dưới ba đường bắn vào Viên Thừa Chí, nghĩ bụng: “Hắn đang tựa sát vào tường, hết đường tránh né rồi.”

Viên Thừa Chí vẫy tay áo trái ra, năm chiếc vuốt thép lập tức bay ngược về, ghim vào bọn giáo chúng Ngũ Độc Giáo.

Hà Hồng Dược thấy công phu đánh trả ám khí này, lớn tiếng kêu gào: “Ngươi là đệ tử của Kim Xà Lang Quân phải không?” Thanh âm của mụ nghẹn lại như muốn khóc.

Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút, thầm nghĩ: “Nhất định bà này với Kim Xà Lang Quân có quan hệ rất sâu”. Suy nghĩ đã nhanh, thân pháp càng nhanh hơn, chàng chưa kịp mở miệng trả lời đã tung người nhảy lên.

Phan Tú Đạt nằm dưới đất lớn tiếng ra lệnh, bọn giáo chúng Ngũ Độc Giáo đang cầm ống lập tức thụt mạnh ra. Bốn luồng nước độc bắn vọt về phía Viên Thừa Chí. Chàng cảm thấy mùi tanh ập vào mũi, vội vã đề khí tung người lên thêm mấy trượng. May mà loại nước độc đó bắn không xa được, đổ xuống đất thành vũng đen như mực.

Viên Thừa Chí đã chụp được đầu tường, lộn trên không trung nửa vòng rồi lật người ra phía ngoài tường, tư thế cực đẹp. Hà Thiết Thủ nhìn thấy, không khỏi buột ra tiếng khen. Ông câm cùng quần hào đã ra hết bên ngoài tường.

Viên Thừa Chí thấy bốn bề vắng lặng, không có ai đuổi theo. Nhưng chàng không dám dừng chân, cõng Thanh Thanh trên lưng cùng mọi người chạy nhanh vào thành.

Lúc nãy Ngụy Đào Thanh thấy hai bên mới mấy câu không hợp đã động thủ đánh nhau, xuất thủ lợi hại vô cùng. Hắn vội vã lên tiếng khuyên ngăn, mời hai bên ăn cơm uống rượu đã rồi từ từ nói chuyện. Nhưng hai bên đều hung hãn, không ai đếm xỉa gì đến hắn. Hắn chỉ còn cách đứng đó giậm chân la lớn: “Xin lỗi! Khoan đi đã, xin chậm bước, xin chậm bước!”

Mặc dù Ngụy Đào Thanh đã nghe Viên Thừa Chí tuyên bố không giúp triều đình, nhưng lúc này mưu đồ của Huệ Vương liên can rất lớn, lỡ tiết lộ ra thì chém hết cả nhà vẫn chưa hết tội. Ngụy Đào Thanh biết Ngũ Độc Giáo lợi hại, nên khi giới thiệu Viên Thừa Chí với bọn này là có ý thị oai, để nhóm Viên Thừa Chí biết điều mà bỏ đi ý định đối địch với Huệ vương gia.

Khi thấy hai bên kịch đấu, hắn nghĩ rằng Ngũ Độc Giáo võ công đã cao, lại dụng độc cực kỳ đáng sợ, trong lòng âm thầm mừng rỡ, mong rằng phen này diệt sạch nhóm Viên Thừa Chí. Không ngờ chuyện xảy ra ngược với ý muốn, Viên Thừa Chí cùng quần hào đã thoát thân. May mà không ít người đã trúng độc, dù không chết thì trong vòng nửa tháng cũng không khỏe nổi, không thể đến đây để xía vào đại sự của Huệ vương gia nữa.

Sắp về đến nhà, đột nhiên Viên Thừa Chí cảm thấy một luồng hơi nóng thổi vào gáy mình, ngứa ngáy khó chịu. Chàng quay đầu lại, bỗng nghe Thanh Thanh bật cười khúc khích. Chàng biết nàng bị thương không nặng lắm, trong lòng yên tâm hẳn đi.

Vừa vào trong nhà, Viên Thừa Chí vội lấy băng thiềm ra để trị thương cho Thiết La Hán. Những người còn lại tuy chưa trúng độc, nhưng trong trận kịch đấu đã hít trúng không ít hơi độc, đều cảm thấy chóng mặt và tức ngực. Họ cũng được Viên Thừa Chí dùng băng thiềm để trục độc ra. Thanh Thanh bị Hà Thiết Thủ đánh trúng một chiếc vòng vào chân, da dẻ trắng trẻo chỗ đó tím đen lại, sưng vù lên.

Trình Thanh Trúc ngồi im lặng nghe kể lại trận ác đấu vừa rồi, cứ chau mày không nói gì. Cuối cùng lão mới lên tiếng: “Viên tướng công! Hoàng Mộc đạo nhân của Tiên Đô Phái, nghe nói đã chết dưới tay Ngũ Độc Giáo.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Có người chứng kiến ư?”

Trình Thanh Trúc nói: “Nếu có người chứng kiến, e rằng người đó cũng khó mà thoát khỏi độc thủ của Ngũ Độc Giáo. Nhưng rất nhiều người nghĩ như vậy, vì Hoàng Mộc đạo nhân chết rất kỳ lạ. Sau này Tiên Đô Phái dốc hết toàn lực đến Vân Nam để trả thù, nhưng hoàn toàn không có kết quả. Chuyện đó cũng lạ.”

Sa Thiên Quảng nói: “Trình huynh! Mụ ăn mày kia thật là ác độc. Đáng tiếc, chúng ta gặp mụ mà chưa trả thù được cho Trình huynh.”

Trình Thanh Trúc nói: “Ta chẳng có xích mích gì với Ngũ Độc Giáo, không biết tại sao họ lại tìm ta. Chuyện này cũng khó hiểu.”

Viên Thừa Chí nói: “Họ không thích ngoại hiệu Kim Xà Vương của tại hạ. Bang chủ đi chung với tại hạ nên họ mới hạ độc thủ.”

Trình Thanh Trúc nói: “Chắc là như thế.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Trình bang chủ…” Chàng bỗng liếc nhìn Thanh Thanh một cái, không nói tiếp nữa.

Thanh Thanh lên tiếng: “Sợ cái gì? Để muội hỏi giùm cho. Trình bang chủ! Bang chủ bị trọng thương, đồ nhi của bang chủ là A Cửu có biết hay không? Cô ấy đã đến thăm bang chủ chưa?”

Trình Thanh Trúc lắc đầu. Thanh Thanh hỏi tiếp: “Có cần phái người báo cho cô ấy biết hay không?”

Trình Thanh Trúc lại lắc đầu. Thanh Thanh quay lại, xua tay trước mặt Viên Thừa Chí rồi nhún vai một cái. Quả nhiên Viên Thừa Chí đang nhớ đến A Cửu, nhưng chàng không hiểu tại sao Thanh Thanh lanh lợi đến như thế, đoán là trúng ngay.

Đột nhiên một tên gia đinh chạy vào bẩm báo: “Tiêu đại cô nương ở Kim Long Bang muốn gặp Viên tướng công.”

Đôi mày của Thanh Thanh bỗng dựng lên một cái, bực dọc hỏi: “Cô ấy còn đến đây làm gì nữa?”

Viên Thừa Chí bảo: “Mời vào trong!” Tên gia đinh ra ngoài, dẫn Tiêu Uyển Nhi vào.

Vừa vào trong sảnh, nàng lập tức quỳ sụp xuống trước mặt Viên Thừa Chí, khóc lóc dữ dội. Viên Thừa Chí thấy nàng mặc tang phục, biết là có chuyện không hay. Chàng vội đỡ nàng dậy, hỏi: “Tiêu cô nương đứng dậy đi. Lệnh tôn có được khỏe không?”

Tiêu Uyển Nhi vừa khóc vừa nói: “Gia gia… bị… bị tên gian tặc Mẫn Tử Hoa hại chết rồi.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Lão nhân gia… lão nhân gia… tại sao gặp nạn?”

Tiêu Uyển Nhi lấy trong người ra một bọc vải, đặt lên bàn. Khi mở ra thì thấy một thanh trủy thủ sáng chói, trên lưỡi vẫn còn dính những vết máu ố đen. Viên Thừa Chí cầm cả bọc vải lẫn trủy thủ lên, thấy trên cán dao có dùng chỉ kim tuyến khảm vào mấy chữ: “Tiên Đô môn hạ, đệ tử Mẫn Tử Hoa thu chấp”. Hiển nhiên đây là lợi khí mà sư phụ trong Tiên Đô Phái tặng cho đệ tử của mình.

Tiêu Uyển Nhi vừa khóc vừa nói: “Bọn muội đã tới Mã Cốc Sơn, sắp xếp xong xuôi thì gia gia có việc cần làm ở Ứng Thiên Phủ. Xin phép Tôn Trọng Thọ thúc thúc xong, muội theo gia gia về nhà, ngụ trong khách sạn ở Từ Châu. Sáng hôm sau, gia gia ngủ đến giờ Thìn vẫn chưa chịu dậy. Muội vào gọi, nào ngờ… nào ngờ… trước ngực gia gia đã cắm lưỡi dao này rồi. Viên tướng công! Xin Viên tướng công lo liệu!” Nói xong, nàng khóc òa lên.

Thanh Thanh vốn có phần ganh tỵ, nhưng bây giờ thấy nàng khóc lóc thê thảm như thế, bỗng nổi dạ thương tâm. Thanh Thanh kéo nàng đến bên mình, lấy khăn tay ra lau nước mắt cho, rồi nói với Viên Thừa Chí: “Đại ca! Tên họ Mẫn đã hứa bỏ qua những chuyện trước đây, sao lại giở trò đê tiện mà ám toán? Chuyện này chúng ta không thể để yên.”

Viên Thừa Chí cũng đang đau lòng, nghĩ đến Tiêu Công Lễ khẳng khái trọng nghĩa, chàng không nén nổi hai dòng lệ chảy xuống. Hồi lâu chàng mới hỏi: “Tiêu cô nương! Sau này cô nương có gặp họ Mẫn không?”

Tiêu cô nương nghẹn ngào đáp: “Muội thấy gia gia bất hạnh lâm nạn, lập tức báo tin về Mã Cốc Sơn. Tôn Trọng Thọ thúc thúc liền sai những bộ hạ cũ của Kim Long Bang đến ngay Từ Châu để nghe lệnh muội, trả thù cho gia gia. Dọc đường bọn muội đuổi theo tên họ Mẫn, đêm qua thì đuổi đến Thuận Thiên Phủ.”

Thanh Thanh la lên: “Hay quá! Hắn ở đây, chúng ta đi tìm ngay. Muội yên tâm đi, chúng ta nhất định sẽ trả thù cho muội.”

Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và quần hào đã biết chuyện Viên Thừa Chí ở Ứng Thiên Phủ hóa giải mối thù giữa hai nhà Tiêu, Mẫn. Nghe chuyện Mẫn Tử Hoa không giữ đạo nghĩa giang hồ, họ đều phẫn khích. Sa Thiên Quảng giận dữ nói: “Mẫn Tử Hoa! Bất kể hắn là thứ gì, Sa mỗ cũng phải đấu với hắn một trận.”

Tiêu Uyển Nhi vái lạy mọi người, cất giọng thê thảm nói: “Xin quý vị bá bá thúc thúc chủ trì công đạo.”

Trình Thanh Trúc vỗ bàn thét lên: “Mẫn Tử Hoa đang ở đâu? Bất kể Tiên Đô Phái người đông thế mạnh, lão Trình này quyết không sợ hắn. Kim Xà Tam Doanh chúng ta đã là người một nhà rồi.”

Tiêu Uyển Nhi nói: “Sau khi gia gia tạ thế, muội đã cùng mấy vị sư huynh thu liệm, gửi linh cữu lại ở Quảng Võ tiêu cục, Từ Châu, rồi lập tức truy tìm tung tích Mẫn Tử Hoa. Nhờ anh linh gia gia phù hộ, chỉ mấy ngày là có tin từ Hà Nam truyền đến, nói rằng có người đã thấy tên gian tặc họ Mẫn đi từ Hà Nam về phía bắc. Tất cả các hương chủ nội ngoại đường của Kim Long Bang đều chia nhóm để ngăn chặn hắn, từng giao đấu hai lần nhưng hắn chạy thoát. Tiểu điệt vô dụng, còn bị tên gian tặc đó đâm trúng một kiếm.”

Viên Thừa Chí thấy vai trái nàng nhô cao, biết rằng trong áo đang có băng bó. Nhất định nàng nghĩ đến thù cha mà không đếm xỉa đến tính mạng, nhưng võ công không sánh kịp Mẫn Tử Hoa, một hảo thủ Tiên Đô Phái.

Tiêu Uyển Nhi tiếp: “Hôm qua bọn muội đuổi tới Thuận Thiên, đã điều tra được rõ ràng nơi ở của tên gian tặc.”

Thanh Thanh hỏi ngay: “Ở đâu? Chúng ta mau mau tới đó, kẻo hắn lại trốn thoát.”

Tiêu Uyển Nhi đáp: “Hắn ở hẻm Phổ Gia, cửa tây thành. Hơn một trăm huynh đệ tệ bang đang canh giữ xung quanh.”

Viên Thừa Chí khẽ gật đầu một cái, thầm nghĩ: “Tuổi tác cô này còn nhỏ, nhưng sắp xếp công việc đâu ra đấy. Lần này Kim Long Bang dồn hết sức ra, Mẫn Tử Hoa mọc cánh cũng không thoát nổi.”

Tiêu Uyển Nhi lại nói: “Vừa rồi một vị sư huynh của muội dọc đường tình cờ gặp một vị bằng hữu quen mặt trên đại hội Thái Sơn, nhờ vậy mới biết Viên tướng công cùng các vị đang ở đây.”

Sa Thiên Quảng giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Tiêu cô nương! Cô nương hành sự thật là chu đáo. Mẫn Tử Hoa đã nằm trong lòng bàn tay của các vị rồi, cô nương vẫn đến đây mời minh chủ đứng ra chủ trì công đạo, để bằng hữu giang hồ đều nói một câu: Mẫn Tử Hoa đáng giết. Thế là hay lắm.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Cô nương định bao giờ ra tay?”

Tiêu Uyển Nhi đáp: “Canh hai đêm nay.” Nàng lại gói thanh trủy thủ vào trong bọc vải.

Thanh Thanh nói: “Muội muội! Tối nay muội phải dùng thanh trủy thủ này đâm chết hắn.” Tiêu Uyển Nhi gật đầu.

Viên Thừa Chí nghĩ đến Tiêu Công Lễ trượng nghĩa suốt đời, cuối cùng lại chết một cách không minh bạch. Mình đã hết sức giúp đỡ mà rốt cuộc vẫn không giữ được mạng ông, trong lòng cảm thấy vô cùng tiếc nuối. Hơn nữa Kim Long Bang đã tham gia vào Kim Xà Tam Doanh, bản thân chàng không thể khoanh tay đứng nhìn, nhất định phải đứng ra gánh vác. Mẫn Tử Hoa lén lút giết người, dĩ nhiên phải chịu quả báo. Nhưng vụ này phải làm sao để Tiên Đô Phái tâm phục khẩu phục, thì mới không phát sinh hậu hoạn.

Quần hào ăn xong cơm tối, nghỉ ngơi một lúc. Sau đó Viên Thừa Chí dẫn theo Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, ông câm, Hồng Thắng Hải, năm người theo Tiêu Uyển Nhi đến hẻm Phổ Gia.

Thanh Thanh và Thiết La Hán bị thương, không thể đi theo. Đơn Thiết Sinh tự về nhà dưỡng thương. Thanh Thanh than thở liền miệng, vừa thóa mạ vừa trù ẻo con yêu nữ Hà Thiết Thủ hại mình phải ngồi yên không tham gia được.