Hồi 30: Ly hợp vô thường

Thời khắc bình yên này kéo dài không lâu, bé Quách Tương vừa ngủ được một lát, thì từ phía đông vọng lại tiếng chân người đạp trên tuyết, nhịp bước rất nhanh. Dương Quá đứng dậy, nhìn qua cửa sổ phía đông, thấy có hai lão nhân sánh vai đi, một mập một gầy, áo quần lam lũ, hệt như người của Cái Bang, giữa lúc trời đổ mưa tuyết lớn, chắc rẽ vào đây nghỉ chân. Dương Quá lúc này không muộn gặp bất cứ ai trên đời, đối với nhân vật võ lâm càng khó chịu, chàng quay lại nói:

– Có người đến, nàng hãy vào gian trong nằm ngủ, giả vờ bị bệnh.

Tiểu Long Nữ ẵm Quách Tương vào gian trong, nằm xuống giường, đắp một tấm da sói rách tã lên người. Dương Quá lấy một cục than, bôi nhem nhuốc lên mặt và cổ, kéo sụp cái mũ xuống trán, lại đem thanh Huyền thiết trọng kiếm giấu vào gian trong, nghe hai lão nhân tới gần, rồi có tiếng gõ cửa. Dương Quá bôi mớ thịt hoẵng lên quần áo, giả làm thợ săn, rồi mới mở cửa.

Lão khất cái mập nói:

– Giữa núi rừng gặp tuyết lớn, khổ quá chừng, mong quan nhân làm phúc cho khiếu hóa tử trú nhờ một đêm.

Dương Quá nói:

– Nhà tranh vách đất của một gã thợ săn tầm thường, lão trượng sao lại gọi là quan nhân? Mời lão trượng cứ vào nghỉ ngơi.

Lão khất cái mập cứ luôn miệng đa tạ. Dương Quá nghĩ mình đã đại hiển thân thủ tại anh hùng đại yến, không muốn để hai người này nhận ra chàng, bèn đưa hai cái đùi hoẵng đã nướng cho họ, nói:

– Tuyết rơi dày thế này chính là dịp cánh thợ săn chúng tôi kiếm ăn. Sáng mai tiểu nhân phải đi đặt bẫy sớm, không thể hầu chuyện hai vị lão trượng được.

Lão khất cái mập nói:

– Xin tiểu quan nhân cứ tự nhiên.

Dương Quá nói theo lối bình dân:

– Này mẹ hĩm, đã bớt ho chút nào chưa?

Tiểu Long Nữ khàn giọng đáp:

– Từ lúc tuyết rơi, càng thấy tức ngực hơn, bố nó ạ.

Rồi nàng vừa ho vừa đưa tay lay nhẹ cho bé Quách Tương tỉnh giấc. Tiếng ho của người mẹ, tiếng khóc của đứa bé sơ sinh, thật không còn gì giống hơn một gia đình thợ săn có ba người.

Dương Quá đi vào gian trong, khép cửa lại, lên giường nằm cạnh Tiểu Long Nữ, nghĩ: “Lão khất cái mập trông mặt quen quen, hình như đã gặp ở đâu rồi thì phải?”

Nhất thời chàng chưa nhớ ra.

Hai lão khất cái chỉ đoán Dương Quá đúng là một gã thợ săn cùng khổ giữa vùng hoang sơn, nên họ không để tâm, vừa ăn thịt nướng vừa trò chuyện. Lão gầy nói:

– Núi Chung Nam bị cháy lớn cả một ngày trời, chắc là xong xuôi rồi.

Lão mập cười nói:

– Đại quân Mông Cổ đông chinh tây phạt, khắp thiên hạ không gặp địch thủ, muốn tiêu diệt đám đạo sĩ phái Toàn Chân, có khác gì giẫm nát một bầy kiến.

Lão gầy nói:

– Mấy bữa trước Kim Luân pháp vương đại bại rút về, trông cũng thảm hại.

Lão mập cười, nói:

– Như thế cũng rất hay. Để cho Tứ vương tử biết rằng muốn lấy được giang sơn cẩm tú của Trung Quốc, cuối cùng phải dựa vào người Trung Quốc, chứ chỉ trông vào người Mông Cổ và đám võ sĩ Tây Vực thì chẳng thể xong.

Lão gầy nói:

– Bành trưởng lão, lần này Cái Bang Nam phái nếu muốn thành lập, hoàng đế Mông Cổ sẽ phải phong cho trưởng lão chức quan gì?

Dương Quá nghe đến đây, chợt nhớ ra, lão khất cái mập này chàng đã gặp tại anh hùng đại yến ở ải Đại Thắng, có điều hôm ấy lão ta mặc trang phục người Mông Cổ, chốc chốc rỉ tai mách nước cho Kim Luân pháp vương, chàng nghĩ: “Thì ra hai tên này đều là hạng mãi quốc tặc, phải trừ sớm đi để tránh hậu họa”.

Lão khất cái mập chính là Bành trưởng lão, một trong bốn đại trưởng lão của Cái Bang, hắn đã đầu hàng Mông Cổ từ lâu. Chỉ nghe hắn cười, nói:

– Đại hãn hứa phong cho chức quan “Trấn nam đại tướng quân” nhưng cổ nhân có câu “Ăn chực ba năm, hoàng đế lười làm”. Bọn ta là người của Cái Bang, còn thiết quan chức gì nữa?

Giọng nói của hắn lộ đầy vẻ đắc chí. Lão khất cái gầy nói:

– Đệ xin cung hỉ Bành trưởng lão trước.

Bành trưởng lão cười, nói:

– Mấy năm qua công lao của huynh đệ không nhỏ, rồi đây cũng không thể thiếu phần của huynh đệ.

Lão khất cái gầy nói:

– Làm quan thì đệ không muốn. Cái môn Nhiếp hồn đại pháp Bành trưởng lão đã hứa, không biết bao giờ mới truyền thụ cho đệ?

Bành trưởng lão nói:

– Đợi khi Cái Bang Nam phái chính thức thành lập, ta làm bang chủ rồi, hai ta nhàn rỗi, ta sẽ truyền thụ cho huynh đệ.

Lão khất cái gầy nói:

– Bành trưởng lão đã làm bang chủ Cái Bang Nam phái, lại kiêm chức quan “Trấn nam đại tướng quân” sẽ càng bận rộn hơn, lấy đâu ra thời gian nhàn rỗi?

Bành trưởng lão cười, nói:

– Lão đệ, chẳng lẽ lão đệ không tin ca ca ư?

Lão khất cái gầy không nói gì, chỉ xì mũi, rõ ràng không tin. Dương Quá nghĩ: “Thiên hạ vốn chỉ có một Cái Bang, không phân chia Nam Bắc, lão ta muốn thành lập Cái Bang Nam phái, tức là giúp bọn Mông Cổ làm trò ma.”

Lão khất cái gầy nói:

– Bành trưởng lão, đại ca đã đáp ứng truyền thụ, sớm muộn gì cũng thế. Đại ca cứ thoái thác, khiến đệ thất vọng lắm.

Bành trưởng lão hỏi:

– Vậy huynh đệ định làm gì ta?

Lão khất cái gầy nói:

– Đệ đâu dám làm gì? Có điều là đệ võ công thấp kém, lá gan lại nhỏ, không có tuyệt kỹ gì mà đòi theo đại ca đi đánh lừa chúng huynh đệ, lỡ Hoàng bang chủ, Lỗ bang chủ truy cứu, đệ mới nghĩ đến đã run sợ, thì còn làm được trò trống gì nữa?

Dương Quá nghĩ: “Lão gầy không có gì đáng ngại. Còn Bành trưởng lão thì ôm chí lớn, tâm địa tàn ác, vừa gian hoạt vừa hồ đồ”.

Bành trưởng lão cười ha hả, nói:

– Việc ấy cứ thong thả tính, huynh đệ đừng cả nghĩ.

Lão khất cái gầy im lặng, một lát sau mới nói:

– Cái đùi hoẵng ăn chưa no, để đệ ra ngoài kiếm món gì về ăn.

Rồi gỡ cung tên trên vách, mở cửa đi ra.

Dương Quá ra bên vách, nhìn qua khe, thấy lão gầy vừa ra ngoài, thì Bành trưởng lão liền đứng dậy, rút đoản đao, nấp sau cánh cửa, nghe tiếng bước chân của lão gầy đi xa rồi, mới len lén đi theo. Dương Quá cười nói với Tiểu Long Nữ:

– Hai tên gian đồ sẽ tự giết nhau, ta đỡ tốn công. Lão mập lợi hại hơn hẳn, lão gầy nhất định không thể địch nổi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Tốt nhất là cả hai lão không quay trở lại, để ngôi nhà này được bình yên, không bị kẻ khác quấy nhiễu.

Dương Quá nói:

– Đúng vậy.

Đột nhiên chàng hạ giọng nói nhỏ:

– Có tiếng chân.

Chỉ nghe từ mé tây có người đi vòng sườn núi tới sau nhà. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Lão gầy trở lại tính đánh lén.

Chàng đẩy song cửa nhẹ nhàng nhảy ra, quả nhiên thấy lão gầy đang dán người vào vách nhìn vào nhà qua khe hở. Lão ta không nhìn thấy lão mập đâu, tựa hồ do dự. Dương Quá bước đến sau lưng lão ta, cười một tiếng.

Lão gầy bị bất ngờ, vội ngoảnh đầu, tưởng Bành trưởng lão đến sau lưng, sắc mặt đầy vẻ hoảng sợ.

Dương Quá cười, nói:

– Đừng sợ, đừng sợ.

Chàng giơ tay điểm ba huyệt ở ngực, bên sườn và dưới đùi lão ta, vác lão ta ra cửa, đưa mắt nhìn tuyết trắng mênh mông, bỗng nổi tính nghịch ngợm trẻ con, gọi:

– Long nhi, mau ra đây giúp ta đắp người tuyết.

Chàng vốc tuyết đắp quanh người lão gầy. Tiểu Long Nữ từ gian trong chạy ra, hai người vừa cười hi hi ha ha vừa làm, chẳng mấy chốc lão gầy đã bị tuyết phủ kín. Trừ cặp mắt còn có thể chuyển động đưa qua đưa lại, lão ta đã biến thành một người tuyết khổng lồ.

Dương Quá cười, nói:

– Lão già gầy đen này trong giây lát đã trở nên mập ú và trắng trẻo.

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Thế còn cái lão mập và trắng, chàng định biến thành thế nào đây

Dương Quá chưa trả lời, đã nghe tiếng bước chân từ xa, bèn nói nhỏ:

– Lão mập quay lại đấy, chúng mình trốn đi thôi.

Hai người trở vào gian trong, khép cửa lại. Tiểu Long Nữ lay bé Quách Tương cho nó khóc, miệng thì giả vờ dỗ:

– Con ngoan của mẹ, đừng khóc nào, nín đi nào!

Nàng cả đời chưa từng dối trá, cái trò đánh lừa quái quỷ này nàng không thể nghĩ ra, nhưng thấy Dương Quá vui vẻ, nàng cũng đùa theo.

Bành trưởng lão trở về, lần theo dấu chân trên tuyết, thấy vết chân của lão gầy cứ loanh quanh, rõ ràng hắn mai phục đâu đây. Theo dấu chân trên tuyết, Bành trưởng lão đi tới sau nhà, rồi lại vòng ra trước cửa. Dương Quá và Tiểu Long Nữ từ gian trong qua kẽ vách nhìn ra, thấy lão ta cúi người nhìn trộm vào trong nhà, tay phải lăm lăm cây đoản đao, toàn thần phòng bị. Lão gầy toàn thân bị tuyết phủ kín, rét thấu xương, nhìn Bành trưởng lão đứng ngay trước mặt mình mà vẫn không phát giác được, chỉ cần giơ tay là đủ đánh trúng chỗ yếu hại trên người lão kia, khốn nỗi lão đã bị điểm huyệt, đâu có thể cử động?

Bành trưởng lão thấy trong nhà không người, lấy làm lạ, đẩy cửa vào, đang định tìm xem lão gầy nấp ở đâu, bỗng từ xa vọng đến tiếng bước chân. Bành trưởng lão bèn nép mình vào sau cánh cửa, chờ lão gầy trở về.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ đều kinh ngạc, lão gầy rõ ràng đã biến thành người tuyết, sao lại thế?

Chắc là có người khác chăng? Đang ngẫm nghĩ, đã nghe ra có hai vị khách mới đến. Khi hai người kia tới gần, Bành trưởng lão mới giật mình. Chỉ nghe bên ngoài có người lên tiếng:

– A Di Đà Phật, bần tăng gặp tuyết dày trong núi, xin thí chủ cho tạm trú một đêm.

Bành trưởng lão bước ra, thấy có hai lão tăng, một vị lông mày trắng rủ dài, thần sắc hiền từ, vị kia thấp nhỏ hơn nhiều, để râu, mặc bộ đồ màu đen, tuy giữa tháng Chạp giá rét, y phục của hai vị lão tăng đều mỏng manh.

Bành trưởng lão còn đang sững sờ, thì Dương Quá đã từ gian trong bước ra, nói:

– Mời hai vị đại hòa thượng vào nhà nghỉ ngơi.

Lúc này Bành trưởng lão bỗng nhận ra lão gầy đã biến thành người tuyết, thì vô cùng kinh dị, không hiểu thế nào, nhìn sang Dương Quá, thấy chàng tỉnh khô, tựa hồ không biết gì.

Dương Quá mời hai vị lão tăng vào nhà, nghĩ: “Hai vị hòa thượng này không phải hạng tầm thường, nhất là hắc y lão tăng tướng mạo hung ác, mắt lộ dị quang, chỉ e cùng một hạng người như Bành trưởng lão.” Chàng nói:

– Đại hòa thượng, các vị nghỉ lại ở đây, tệ xá nghèo hèn, không có giường đề các vị nằm, không biết hai vị có muốn dùng món thịt rừng hay chăng?

Bạch mi lão tăng chắp tay, nói:

– Tội quá, tội quá, bần tăng có mang theo lương khô, không dám phiền thí chủ.

Dương Quá nói:

– Thế thì càng hay.

Chàng đi vào gian trong, ghé tai Tiểu Long Nữ nói nhỏ:

– Hai lão hòa thượng có lẽ vào hàng đại cao thủ.

Tiểu Long Nữ cau mày, nói nhỏ:

– Trên đời ác nhân quá nhiều, giữa chốn thâm sơn cũng chẳng được yên lành.

Dương Quá nhìn qua kẽ vách, thấy bạch mi lão tăng lấy từ trong cái bọc sau lưng ra bốn cái bánh khô, đưa cho hắc y lão tăng hai cái, còn mình cầm hai cái, bắt đầu nhai chầm chậm. Dương Quá nghĩ: “Bạch mi lão tăng thần sắc hiền hòa, cử chỉ an tường, chắc là một vị cao tăng đắc đạo, nhưng trên đời có quá nhiều kẻ mặt hiền tâm ác, như Bành trưởng lão kia, trông tươi cười thế mà xem ra còn hung ác hơn cả hắc y lão tăng cũng nên”.

Đang nghĩ, bỗng nghe tiếng khua loảng xoảng, hắc y lão tăng lôi từ trong bọc ra một bộ xiềng xích bằng sắt màu đen. Bành trưởng lão đang ngồi trên ghế vội bật dậy, tay đặt lên cán đao. Hắc y lão tăng chẳng để ý gì để Bành trưởng lão, xiềng hai chân mình lại, rồi xích luôn cả hai tay mình. Dương Quá và Bành trưởng lão kinh ngạc vạn phần, không hiểu hắc y lão tăng xiềng xích tay chân mình là có dụng ý gì, nhưng như thế thì giảm hẳn sự đề phòng đối với hắc y lão tăng.

Bạch mi lão tăng tỏ ra quan hoài, hỏi nhỏ:

– Lại sắp phát tác?

Hắc y lão tăng đáp:

– Đệ tử suốt dọc đường cứ cảm thấy ngứa ngáy, có lẽ lại sắp phát tác.

Đột nhiên y quì xuống đất, hai tay chắp lại, miệng niệm:

– Cầu Phật tổ từ bi.

Rồi gục đầu, cong lưng, quì bất động hồi lâu, sau đó thân hình run run, hơi thở hổn hển thành tiếng, cuối cùng thở hồng hộc như trâu, khiến vách gỗ rung rung, tuyết ở mái hiên cũng rơi xuống lả tả. Bành trưởng lão cố nhiên kinh dị vô cùng, Dương Quá và Tiểu Long Nữ cũng kinh ngạc nhìn nhau, không biết hắc y lão tăng làm trò gì, nghe tiếng thở thì tựa hồ thể xác y đang vô cùng đau đớn. Dương Quá vốn có ý căm ghét y, lúc này bất giác cảm thấy thương hại, nghĩ: “Không biết lão ta bị căn bệnh quái ác gì mà Bạch mi lão tăng cứ mặc kệ lão ta như vậy?”

Lát sau, hơi thở của hắc y lão tăng càng gấp gáp hơn, như thể sắp bị hụt hơi. Bạch mi lão tăng chậm rãi nói:

– Không nên làm cứ làm, việc nên làm chẳng làm, lửa hối hận thiêu đốt, chính giác bắt đầu từ đây…

Đó là mấy câu kệ, được Bạch mi lão tăng đọc lầm rầm giữa tiếng thở như kéo bễ của hắc y lão tăng, mà mọi người nghe vẫn rõ từng lời. Dương Quá kinh ngạc: “Lão hòa thượng này nội công thâm hậu, thế gian có ai sánh kịp?” Chỉ nghe Bạch mi lão tăng đọc tiếp:

– Kẻ có tội biết hối, hối rồi không tái phạm, thì tâm an lạc…

Bạch mi lão tăng đọc xong câu kệ, hắc y lão tăng ngừng thở như kéo bễ, ngây người ngẫm nghĩ, lẩm bẩm:

– Kẻ có tội biết hối, hối rồi không tái phạm… Sư phụ, đệ tử hiểu rõ nhiều việc trong quá khứ là tội nghiệt, tự mình đau khổ phiền não vô cùng. Nhưng thủy chung tâm vẫn không an lạc, thì phải làm sao đây?

Bạch mi lão tăng nói:

– Phạm tội biết hối, vốn đã là khó. Người không phải thánh hiền, ai chẳng có lỗi? Có lỗi biết sửa, không gì thiện bằng.

Dương Quá nghe đến đây, bỗng nghĩ: “Quách bá bá đặt cho ta cái tên Quá, ngụ ý phải sửa lỗi, vì có lỗi biết sửa, không gì thiện bằng. Không lẽ vị lão hòa thượng này là thánh tăng, hôm nay đến đây giáo hóa cho mình chăng?”

Hắc y lão tăng nói:

– Đệ tử ác căn khó trừ. Mười năm trước, đệ tử đã qui y theo học sư phụ, vẫn còn đả thương ba người. Hôm nay máu nóng trong người sôi sục, khó tự kiềm chế, chỉ sợ lại phạm đại tội, xin sư phụ từ bi hãy chặt đứt hai tay của con đi.

Bạch mi lão tăng nói:

– Thiện tai thiện tai! Ta có thể chặt đứt hai tay cho con, nhưng ác niệm trong tâm con vẫn còn, vậy con phải tự diệt trừ ác niệm đã; nếu không dù chặt hai tay rồi, cũng chẳng ích gì.

Hắc y lão tăng toàn thân xương cốt kêu răng rắc, đột nhiên khóc òa lên đau đớn, nói:

– Sư phụ hãy tìm cách cứu con, con không thể tự diệt trừ ác niệm.

Bạch mi lão tăng thở dài, nói:

– Trong tâm ngươi đầy sự thù hận, tuy biết hành vi quá khứ sai trái, nhưng vì thiếu lòng nhân ái, cho nên khó tự diệt trừ ác niệm. Để ta kể câu chuyện “Phật thuyết lộc mẫu kinh” (Phật đọc kinh hươu mẹ) cho ngươi nghe.

Hắc y lão tăng nói:

– Đệ tử xin lắng nghe.

Rồi ngồi theo lối kiết già. Dương Quá và Tiểu Long Nữ ở gian trong cũng dỏng tai nghe.

Bạch mi lão tăng kể:

– Ngày ấy có một con hươu mẹ sinh được hai con hươu con. Hươu mẹ không cẩn thận, bị người thợ săn bắt được. Người thợ săn định làm thịt nó. Hươu mẹ khấu đầu van xin: “Tôi mới sinh hai đứa con, chúng quá nhỏ chưa biết gì, chưa thể tự tìm thức ăn nước uống. Tôi xin người cho tôi sống thêm một giờ, để tôi về dạy cho hai đứa con biết cách tự tìm thức ăn, rồi tôi sẽ trở lại đây chịu chết”. Người thợ săn không cho, hươu mẹ khẩn khoản van xin, người thợ săn động lòng, thả cho nó đi. Hươu mẹ tìm hai con, âu yếm với chúng, mừng mừng tủi tủi, nói: “Mọi sự yêu thương đoàn tụ đều do nhân duyên, đoàn tụ rồi sẽ biệt li, không có gì trường cửu. Mẹ sắp phải xa hai con mất rồi”. Hai hươu con quá nhỏ, chưa hiểu gì. Thế là hươu mẹ dẫn hai hươu con đi, chỉ cho chỗ cỏ non nước sạch, ứa nước mắt, nói: “Mẹ đi không cẩn thận, sa vào bẫy thợ săn, hôm nay bị làm thịt, thân mẹ lẽ chẳng còn. Thương con mẹ xin về, giờ mẹ phải đi thôi. Tội nghiệp hai con phải mồ côi sớm, hai con cố mà sống”.

Tiểu Long Nữ nghe đến đây nghĩ mình còn sống chẳng được bao lâu, nước mắt ứa ra. Dương Quá biết câu chuyện Bạch mi lão tăng đang kể chỉ là ngụ ngôn nhà Phật, song cũng hết sức cảm động về tình mẫu tử bi thiết. Lại nghe Bạch mi lão tăng kể tiếp:

– Hươu mẹ nói xong thì vĩnh biệt hai con. Hai con hươu con kêu khóc cứ chạy theo mẹ, tuy chúng quá nhỏ, chạy không nhanh, luôn vấp ngã, nhưng ngã rồi lại dậy, không chịu rời mẹ. Hươu mẹ dừng chân, ngoảnh đầu, nói:

– Hai con chớ chạy theo mẹ nữa, người thợ săn mà trông thấy, thì ba mẹ con ta sẽ phải chết cả đó. Mẹ cam lòng chịu chết, nhưng mẹ thương hai con còn nhỏ. Thế gian vô thường, đều có biệt li. Mẹ bạc mệnh, để hai con phải mồ côi sớm.

Nói xong hươu mẹ chạy nhanh đến chỗ người thợ săn. Hai con hươu con thèm sữa mẹ, không sợ cung tên của thợ săn, cứ chạy theo đến. Người thợ săn thấy hươu mẹ giữ chữ tín, xả thân chịu chết, thành tâm thương con, hơn cả loài người, nhìn ba mẹ con con hươu quyến luyến không rời, thì động lòng trắc ẩn, tha không giết hươu. Ba mẹ con con hươu mừng mừng tủi tủi đa tạ người thợ săn.

Người thợ săn đem chuyện đó tâu lên nhà vua, nhà vua bèn hạ chiếu cấm săn hươu từ đó.

Hắc y lão tăng nghe xong câu chuyện, nước mắt chan hòa, nói:

– Loài hươu thủ tín trọng nghĩa, mẹ hiền con ngoan, đệ tử không bằng cái móng chân của chúng.

Bạch mi lão tăng nói:

– Từ tâm trỗi dậy, sát nghiệp tiêu tan.

Nói rồi nhìn sang phía Bành trưởng lão ở bên cạnh, tựa hồ cũng muốn khuyên hắn như vậy. Hắc y lão tăng đáp:

– Vâng!

Bạch mi lão tăng nói:

– Muốn chuộc lỗi lầm, chỉ có hành thiện. Cứ hối hận khổ sở về tội lỗi trong quá khứ, chẳng bằng từ nay trở đi mau làm nhiều việc thiện.

Đoạn thở dài, tiếp:

– Cũng như ta đây, trong cuộc đời mình cũng từng có không ít lỗi lầm.

Nói xong nhắm mắt trầm tư.

Hắc y lão tăng dường như cũng ngộ ra, nhưng tính nóng nảy trong tâm cuối cùng rất khó kiềm chế, ngẩng đầu lên, thấy Bành trưởng lão vừa cười vừa chằm chằm nhìn mình, ánh mắt rất lạ. Hắc y lão tăng ngẩn ra, hình như đã gặp người này ở đâu đó rồi, cảm thấy ánh mắt hắn khiến mình rất khó chịu, vội ngoảnh mặt đi, nhưng lát sau không cưỡng được, lại ngoảnh nhìn hắn. Bành trưởng lão cười, nói:

– Tuyết rơi đẹp quá phải không?

Hắc y lão tăng nói:

– Phải, tuyết dày và đẹp.

Bành trưởng lão nói:

– Hai ta ra xem cảnh tuyết đi.

Đoạn mở cửa. Hắc y lão tăng nói:

– Được, ta ra xem cảnh tuyết.

Y đứng dậy, theo ra cửa, đứng kề bên Bành trưởng lão. Dương Quá tuy ở cách bức vách, cũng cảm thấy nhãn quang của Bành trưởng lão rất lạ, trong lòng bất an.

Bành trưởng lão nói:

– Sư phụ của hòa thượng nói rất đúng, hoàn toàn không nên giết người, nhưng kình lực toàn thân của hòa thượng đang dồi dào, nếu không động thủ với ai thì khó chịu trong người lắm phải không?

Hắc y lão tăng mơ hồ đáp:

– Đúng thế!

Bành trưởng lão nói:

– Hòa thượng cứ việc phát chưởng đánh vào người tuyết kia, chẳng có tội lỗi gì hết.

Hắc y lão tăng nhìn người tuyết, song chưởng nhăm nhăm chỉ muốn đánh thử. Từ lúc hai lão tăng đến đây đã nửa canh giờ, lão khất cái gầy bị tuyết phủ kín, hai mắt đã nhắm nghiền. Bành trưởng lão nói:

– Hòa thượng hãy giáng cả song chường vào người tuyết! Đánh đi nào! Đánh đi!

Lời lẽ nhẹ nhàng đầy ý dẫn dụ. Hắc y lão tăng vận lực ra hai cánh tay, nói:

– Được, ta đánh này!

Bạch mi lão tăng ngẩng đầu lên, thở dài não nề, lẩm bẩm:

– Sát cơ đã nổi, nghiệp chướng tất sinh.

Chỉ nghe rầm một tiếng, Hắc y lão tăng song chưởng cùng giáng, tuyết trắng bay tứ tung. Lão khất cái gầy bị trúng chưởng vào người, chấn động huyệt đạo, rú lên một tiếng “Ối!” thảm thiết, vang vọng. Tiểu Long Nữ khẽ kêu lên, tay nắm lấy bàn tay Dương Quá.

Hắc y lão tăng cả kinh, thốt lên:

– Ôi, trong tuyết có người!

Bạch mi lão tăng chạy ra, cúi xem. Lão gầy bị trúng thiết chưởng cực mạnh của Hắc y lão tăng, đã chết tươi. Hắc y lão tăng sợ hết hồn, đứng ngay như phỗng.

Bành trưởng lão giả vờ lấy làm lạ, nói:

– Người kia lạ quá, sao lại đi nấp vào trong tuyết cơ chứ? Mà này, trong tay hắn vẫn lăm lăm cây đao.

Bành trưởng lão đã dùng môn Nhiếp hồn đại pháp xúi hắc y lão tăng giết được lão gầy, trong bụng rất đắc ý, song cũng không khỏi lấy làm lạ: “Sức chịu đựng của hắn cũng ghê thật, hắn đứng lâu thế trong tuyết, không thèm cựa quậy, chẳng lẽ tuyết đút nút kín tai, nên hắn không nghe thấy ta xúi người đánh hắn.”

Hắc y lão tăng gọi:

– Sư phụ!

Rồi trố mắt nhìn. Bạch mi lão tăng nói:

– Oan nghiệt, oan nghiệt. Người này chết không phải bởi ngươi, nhưng cũng là đã bị ngươi giết.

Hắc y lão tăng gục đầu xuống tuyết, giọng run rẩy:

– Đệ tử không hiểu.

Bạch mi lão tăng nói:

– Ngươi tưởng đó là người tuyết, vốn không có ý giết người. Nhưng chưởng lực của ngươi ác mãnh, khi xuất chưởng, chẳng lẽ không có dụng tâm sát nhân?

Hắc y lão tăng nói:

– Đệ tử quả có dụng tâm sát nhân.

Bạch mi lão tăng nhìn Bành trưởng lão chăm chăm một hồi, mục quang nhu hòa, đầy lòng từ bi, cái nhìn ấy làm cho môn Nhiếp hồn đại pháp của Bành trưởng lão mất hết tác dụng. Hắc y lão tăng đột nhiên kêu to:

– Mi là… là trưởng lão Cái Bang, ta nhớ ra rồi.

Cái thần sắc hớp hồn của Bành trưởng lão đã biến mất tăm, đôi mày cau cau, nói:

– Còn các hạ là Cầu bang chủ bang Thiết Chưởng, tại sao lại đi tu?

Hắc y lão tăng chính là bang chủ bang Thiết Chưởng Cầu Thiên Nhẫn. Năm nọ trên đỉnh Hoa Sơn đốn ngộ tội lỗi đã làm, qui y làm môn hạ của Nhất Đăng đại sư. Còn vị Bạch mi lão tăng thì chính là Nhất Đăng đại sư, nhân vật lừng danh ngang với Vương Trùng Dương, Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong và Hồng Thất Công. Cầu Thiên Nhẫn sau khi qui y, lấy pháp danh Từ Ân, thành tâm qui Phật, nỗ lực tu vi, có điều quá khứ tội lỗi quá nhiều, ác căn trong tâm khó trừ hết, khi bị ngoại dụ quá mạnh, không tránh khỏi xuất thủ giết người; vì thế y phải làm một bộ xiềng xích, để khi nào chân tay ngứa ngáy muốn động thủ, thì tự xiềng xích lại để khỏi hành ác. Vừa rồi Nhất Đăng đại sư đang ẩn cư ở vùng Hồ Quảng thì nhận được thư cầu cứu của đệ tử Chu Tử Liễu, bèn đem Từ Ân đi Tuyệt Tình cốc. Không ngờ đến đây thì gặp Bành trưởng lão, Từ Ân vô ý lại giết chết người. Từ Ân từ khi xuất gia, đã hơn mười năm tuy có phạm giới luật, nhưng giết người thì đây là lần đầu, nhất thời tâm trí rối bời, hoang mang, chỉ cảm thấy công phu tu vi mười năm hóa thành mây khói. Y hầm hầm nhìn Bành trưởng lão, mắt như tóe lửa.

Nhất Đăng đại sư biết đã đến thời khắc nghiêm trọng, nếu không dùng vũ lực cưỡng chế Từ Ân, ác niệm trong tâm y dồn tích càng nhiều, cuối cùng sẽ tràn ra như vỡ đê, khó bề thu thập; chỉ mong sao thiện niệm tăng tiến, ác niệm tiêu giảm, thì y mới có thể bớt được nghiệt chướng. Nhất Đăng đại sư đứng cạnh Từ Ân, miệng niệm khe khẽ:

– A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!

Niệm đến lần thứ mười, thì mục quang của Từ Ân mới rời khỏi thân hình Bành trưởng lão, y đi vào trong nhà, ngồi xuống, lại thở dốc như kéo bễ.

Bành trưởng lão sớm biết Cầu Thiên Nhẫn võ công trác tuyệt, song hắn không nhận ra Nhất Đăng đại sư, thấy vị đại sư lông mày trắng như tuyết, quá hiền từ, thì chẳng để tâm, dùng môn Nhiếp hồn đại pháp để sai khiến Cầu Thiên Nhẫn làm theo ý hắn, nào ngờ Nhất đăng đại sư chiếu mục quang tới, khiến đầu óc hắn như bị sức nặng ngàn cân đè xuống, hắn không thể tiếp tục thi thố pháp thuật, lập tức hoảng sợ, chưa biết làm sao; nếu bỏ chạy, gã Cầu Thiên Nhẫn hiệu xưng “Thiết chưởng thủy thượng phiêu” kia khinh công dị thường, vết chân hằn trên tuyết rành rành, hắn có chạy đằng trời cũng không thoát. Hắn chỉ mong Cầu Thiên Nhẫn nghe lời khuyên hành thiện của Nhất Đăng đại sư, không gây khó dễ cho hắn. Hắn co ro trong một góc nhà, lòng bồn chồn bất an. Từ Ân vẫn thở dốc, tim y đập càng dồn dập hơn.

Dương Quá nghe Nhất Đăng đại sư kể chuyện ba mẹ con con hươu, nghĩ mọi sinh vật đều muốn sống, không muốn chết; lão khất cái gầy tuy tà ác, chết chưa đền hết tội, nhưng bất ngờ bị thảm tử như thế, kể cũng tội nghiệp. Mà chưởng lực của gã hòa thượng này rất ghê gớm, không biết gã là ai mà võ công cao cường như vậy.

Từ Ân thở hổn hển, nói to:

– Sư phụ, đệ tử vốn là ác nhân, ông trời không cho đệ tử hối lỗi. Đệ tử tuy vô ý giết người, song rốt cuộc vẫn không tránh khỏi việc giết người, đệ tử không tu hành gì nữa!

Nhất Đăng đại sư nói:

– Tội quá, tội quá. Để ta kể thêm một đoạn kinh Phật cho con nghe.

Từ Ân nói:

– Còn nghe kinh Phật làm gì kia chứ? Sư phụ đánh lừa đệ tử mười mấy năm rồi, đệ tử không tin thêm nữa đâu.

“Cách cách” hai tiếng, xiềng xích chân tay y đã bị y vặn gãy. Nhất Đăng đại sư dịu dàng nói:

– Từ Ân, việc gì đã qua, cũng đừng phiền não.

Từ Ân đứng dậy, lắc đầu với Nhất Dăng đại sư, đột nhiên xoay mình, song chưởng cùng xuất, đẩy mạnh tới ngực Bành trưởng lão, “rầm” một tiếng lớn, Bành trưởng lão văng vào vách gỗ mà bay ra ngoài. Đòn thiết chưởng này dĩ nhiên khiến hắn gãy xương nát cốt có mười cái mạng cũng mất cả mười.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ nghe tiếng giật mình, cầm tay nhau từ gian trong bước ra, thấy Từ Ân hai tay còn giơ cao, mắt lộ hung quang, quát họ:

– Các người nhìn gì? Hôm nay đã trót thì trét, lão phu phải đại khai sát giới mới được!

Nói rồi vận kình ra cánh tay, sắp sửa sử dụng Thiết chưởng công.

Nhất Đăng đại sư bước tới chắn trước mặt Dương, Long hai người, ngồi xếp bằng dưới đất, miệng niệm Phật hiệu, nói:

– Đường mê đi chưa xa, hãy mau quay trở lại. Từ Ân, Từ Ân, không lẽ con muốn chìm vào cảnh ngộ vạn kiếp không được hồi sinh?

Từ Ân sắc mặt cứ lúc xanh lúc đỏ, tâm thần hoàn toàn rối loạn, thiện niệm và ác niệm không ngừng giao chiến. Hôm nay khi đi ngoài trời mưa tuyết, tâm y đã nôn nóng, tay chân ngứa ngáy, bị môn Nhiếp hồn đại pháp sai khiến, y giết liền hai người, không thể kiềm chế được nữa. Bây giờ trước mắt y, Nhất Đăng đại sư có lúc là ân sư cứu trợ y, có lúc lại biến thành đại cừu nhân chống đối y.

Tình thế căng như dây đàn, ác niệm trong tâm càng lúc càng thắng thế, đột nhiên Từ Ân phóng chưởng về phía Nhất Đăng đại sư. Nhất Đăng đại sư đưa tay chếch trước ngực, thân mình hơi nghiêng, gạt đỡ chưởng đó. Từ Ân nổi giận, nói:

– Sư phụ nhất định không đánh trả phải không?

Tay trái y lại phóng một chưởng, Nhất Đăng đại sư giơ tay đỡ, vẫn không đánh trả.

Từ Ân quát:

– Sư phụ giả bộ hiền từ làm gì? Mau trả đòn đi. Nếu không trả đòn, sư phụ có uổng mạng thì chớ trách đệ tử.

Y tuy thần trí hỗn loạn, nhưng nói mấy câu vừa rồi rất tỉnh táo. Công phu Thiết chưởng của y so với Nhất dương chỉ của Nhất Đăng đại sư cũng ngang ngửa, từng lừng danh võ lâm như nhau. Tu vi Phật học của Nhất Đăng đại sư thì thừa sức làm sư phụ y, nhưng nói về võ công, nếu toàn lực thi triển Nhất dương chỉ, có thể thắng công phu Thiết chưởng một, hai chiêu thức; song nếu chỉ đỡ đòn, không đánh trả, thì lâu dần dù không mất mạng cũng bị trọng thương.

Nhất Đăng đại sư đã ôm hoài bão đại dũng là xả thân độ nhân, thà chịu đòn Thiết chưởng, chứ không đánh trả, chỉ mong cuối cùng Từ Ân sẽ hối ngộ. Đây hoàn toàn không phải là sự tỷ thí nội lực võ công mà là cuộc đấu giữa thiện niệm với ác niệm. Dương Quá và Tiểu Long Nữ thấy Thiết chưởng của Từ Ân cứ giáng tới Nhất Đăng đại sư như búa bổ, đến chưởng thứ mười bốn, thì Nhất Đăng đại sư hộc ra một ngụm máu tươi. Từ Ân sững lại, quát:

– Sư phụ chưa chịu đánh trả hay sao?

Nhất Đăng đại sư nhẹ nhàng nói:

– Hà tất ta phải đánh trả ngươi? Ta đánh thắng ngươi để làm gì? Ngươi đánh thắng ta thì được cái gì? Hãy thắng chính mình, khắc chế chính mình!

Từ Ân lẩm bẩm:

– Hãy thắng chính mình, khắc chế chính mình!

Câu nói của Nhất Đăng đại sư như tiếng sấm vang trong lòng Dương Quá. Chàng nghĩ: “Muốn thắng cái tính tùy tiện của chính mình, khắc chế vọng niệm của chính mình quả khó hơn việc đánh thắng cường địch! Câu nói của vị cao tăng này thật là câu danh ngôn chí lý.” Thấy song chưởng của Từ Ân sững lại giữa chừng một chút, rồi lại giáng xuống. Nhất Đăng đại sư né người, lại hộc ra một ngụm máu tươi, hoen ố cả chòm râu bạc và chiếc tăng bào.

Dương Quá nhìn thủ pháp tiếp chiêu và sức chịu đựng của Bạch mi lão tăng, biết võ công của người này cao hơn hắc y lão tăng, nhưng cứ nhất mực chịu đòn, thì thân thể có là sắt đá cuối cùng cũng bị hủy hoại. Lúc này đối với Nhất Đăng đại sư chàng đã vô cùng thán phục, biết người này xả thân giáo hóa kẻ khác, song chàng không thể để Nhất Đăng đại sư phải bỏ mạng, nghĩ chỉ dùng một tay, chàng không thể chống chọi Thiết chưởng của hắc y lão tăng, bèn cầm lấy thanh Huyền thiết trọng kiếm, tiến ra, chờ lúc Từ Ân giáng chưởng tới thì giơ kiếm đâm thẳng.

Huyền thiết kiếm tạo một luồng kình phong đụng với chưởng phong của Từ Ân, cả hai người thân hình đều hơi loạng choạng.

Từ Ân hừ một tiếng, không thể ngờ một gã thợ săn trẻ tuổi giữa chốn rừng núi hoang vu lại có võ công cao cường như vậy. Nhất Đăng đại sư nhìn Dương Quá một cái, cũng mười phần kinh ngạc. Từ Ân gằn giọng nói:

– Mi là ai? Làm nghề gì?

Dương Quá nói:

– Tôn sư hảo ngôn khuyên can, tại sao đại sư chấp mê không ngộ? Không chịu nghe lời vàng ngọc thì thôi, cớ sao đại sư lấy oán báo đức, dám hạ độc thủ với tôn sư? Làm người như thế, không bằng cầm thú!

Từ Ân cả giận, quát:

– Mi cũng là Cái Bang, cùng một hạng người lén lén lút lút như gã trưởng lão ban nãy phải không?

Dương Quá cười, nói:

– Hai lão kia là hai kẻ bại hoại trong Cái Bang, đại sư trừ ác tức là hành thiện, hà tất phải hối hận?

Từ Ân sững sờ, lẩm bẩm:

– Trừ ác tức là hành thiện… Trừ ác tức là hành thiện…

Dương Quá ở gian trong nghe sư đồ y đối đáp, đã lờ mờ hiểu tâm sự của y, biết y vì hối hận mà hóa ra căm hận, nên ác niệm trỗi dậy; chàng lại nói:

– Hai kẻ kia là phản đồ Cái Bang, dẫn voi về giày mả tổ, đem giang sơn Đại Hán ta bán rẻ cho dị tộc. Đại sư giết hai kẻ đó là một công đức lớn. Hai kẻ đó không chết, không biết bao nhiêu thiện nam thiện nữ sẽ bị gia phá nhân vong. Ngã Phật tuy từ bi, nhưng gặp ngoại đạo tà ma, cũng sẽ đại hiển thần thông mà diệt trừ đi.

Kiến thức Phật học của Dương Quá chỉ đến thế, rất nông cạn, song Từ Ân nghe rất lọt tai. Y từ từ buông chưởng, nhưng chợt nhớ năm xưa chính y từng nhận sắc phong của Đại Kim, cũng từng giúp dị tộc xâm đoạt giang sơn Đại Tống, câu nói của Dương Quá chẳng khác gì vạch tội y, y bèn phóng chưởng về phía chàng, quát:

– Tên súc sinh nói năng hồ đồ!

Chưởng này vừa nhanh vừa mạnh, Dương Quá chỉ muốn dùng lời lẽ thiệt hơn để khuyên y, không ngờ y lại ra đòn, trong khoảnh khắc chưởng phong đã tới ngực, chàng không kịp vận kình đối kháng, bèn thuận theo chưởng lực của y mà nhảy về đằng sau, rầm một tiếng, vách ván bị thủng toang một khoảng lớn, thân hình Dương Quá bay ra khỏi nhà.

Nhất Đăng đại sư cả kinh, nghĩ: “Không lẽ chàng thiếu niên đã bỏ mạng? Xem chừng võ công của chàng ta rất cao. Ôi, thế là ta không kịp thời cứu mạng chàng ta!” đại sư cảm thấy ân hận.

Bỗng đống lửa trong nhà bị một luồng gió từ bên ngoài thổi mạnh qua lỗ hổng trên vách tràn vào suýt nữa thổi tắt, Dương Quá theo gió bay vào, đâm kiếm về phía Từ Ân, quát:

– Được, hôm nay ta phải dấu với đại sư một phen!

Từ Ân hữu chưởng phách chếch đi, định dùng chưởng lực hất mũi kiếm đi. Nhưng lộ kiếm pháp này của Dương Quá chính là tuyệt kỹ của Độc Cô Cầu Bại, tuy khoảng cách thời gian rất xa về năm tháng, Dương Quá không được đích thân vị tiền bối truyền thụ, nhưng chàng đã luyện kiếm dưới dòng nước lũ, đã nuốt mật rắn tăng lực, được thần điêu trợ giúp, nên kiếm pháp của chàng từa tựa như của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại vô địch thiên hạ. Từ Ân phách ra một chưởng, mũi kiếm của Dương Quá chỉ chếch đi vài tấc, vẫn chĩa mũi tới cánh tay trái của y. Từ Ân kinh hãi, tránh gấp sang bên phải mới thoát được đòn này, rồi lập tức trả đòn. Hai người cùng vận thần công, kiếm chưởng ác đấu với nhau.

Nhất Đăng đại sư càng nhìn càng lấy làm lạ, nghĩ chàng thiếu niên chỉ hai mươi tuổi, lại có thể đấu ngang ngửa với đệ nhất cao thủ Cầu Thiết chưởng, đại sư kiến văn quảng bác mà sao không nhận biết gia số võ công của chàng ta, thanh kiếm đen kia nặng nề như thế, quả nhiên kỳ diệu. Ngoảnh lại, thấy Tiểu Long Nữ ẵm một đứa bé sơ sinh đứng đó, dung nhan mỹ lệ, thần sắc nhàn nhã, nhìn cuộc ác đấu không chút hoảng sợ, thì nghĩ thầm: “Thiếu nữ này cũng không phải là nhân vật tầm thường”. Đại sư thấy ấn đường và nhân trung của nàng lờ mờ một lớp hắc khí, thì buột miệng thốt lên:

– Nguy đó!

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nghĩ bụng: “Người này đã nhận biết tình trạng trúng độc của ta”.

Lúc ấy hai người một kiếm song chưởng càng đấu càng dữ dội. Dương Quá chiếm lợi thế về binh khí. Từ Ân thì có hơn một cánh tay. Chỉ nghe rầm một tiếng, một tấm ván ở vách bay đi, rồi “rắc” một tiếng, một cây cột nhà bị gãy; ngôi nhà tranh vốn nhỏ, không thật vững chắc, quả không thể chứa nổi cuộc ác chiến giữa hai đại cao thủ. Lưỡi kiếm và chưởng phong tới đâu, ván vách bay loạn xạ, cuối cùng rầm một tiếng lớn, ngôi nhà tranh đổ sụp xuống.

Tiểu Long Nữ bế Quách Tương phi thân qua cửa sổ, Nhất Đăng đại sư đi sau bảo hộ, phất tay áo gạt phăng các mảnh ván vỡ nát.

Gió bấc ù ù, tuyết dày chưa ngừng rơi, cuộc ác đấu của hai người vẫn tiếp diễn. Từ Ân hơn mười năm nay chưa bao giờ đánh nhau sướng tay như hôm nay, càng đánh càng hăng, vừa gầm gừ vừa tung thiết chưởng, đấu hơn trăm chiêu, cảm thấy kình lực của đối phương không ngừng gia tăng, dần dần chống đỡ không nổi.

Dương Quá đang đâm kiếm thẳng trước ngực, thấy đối phương tránh chéo đi, bèn chém ngang, kình phong cuốn tuyết bay lên tung tóe. Từ Ân bị tuyết che lấp hai mắt, vội đưa tay lên gạt tuyết, liền bị Huyền thiết trọng kiếm đè xuống vai bên phải như gánh nặng ngàn cân, y không chịu nổi, khuỵu ngay xuống đất. Mũi kiếm của Dương Quá chĩa ngay giữa ngực, mũi kiếm tuy không nhọn, nhưng lực đạo quá lớn, ép xương ngực xuống, khiến y chỉ thở ra, chứ không hít vào được.

Lúc này Từ Ân vụt thoáng trong đầu một chữ “Chết”. Y từ khi luyện thành tuyệt nghệ thần công, tung hoành giang hồ, chỉ có y sát thương người khác, hiếm ai đả thương nổi y. Chỉ một lần y bị Chu Bá Thông đánh bại, phải chạy một mạch đến Tây Vực, cuối cùng khôn khéo dùng kế buộc Chu Bá Thông phải thoái lui. Chưa lần nào y kề cận cái chết như bây giờ. Trước cái chết nhãn tiền, y vô cùng hối hận, nhưng nghĩ một đời hành ác, cuối cùng bỏ mạng ở đây không còn cách gì cứu chuộc. Ngàn vạn lời của Nhất Đăng đại sư vẫn không dẫn dắt được y, nhưng một kiếm này của Dương Quá đủ khiến y nghĩ: “Ta đã giết hại bao nhiêu người, bây giờ đến lượt mình bị người ta giết. Tất cả đều là thảm tử”.

Nhất Đăng đại sư thấy Dương Quá đã chế ngự được Từ Ân, nghĩ: “Thật hiếm có một thiếu niên anh kiệt như thế này”. Đại sư bước tới, giơ ngón tay điểm nhẹ vào thân kiếm, Dương Quá cảm thấy cánh tay nóng lên, Huyền thiết trọng kiếm lập tức được gạt sang một bên.

Từ Ân đứng lên, rồi lại quì xuống đất, nói:

– Sư phụ, đệ tử tội đáng chết vạn lần, đệ tử tội đáng chết vạn lần!

Nhất Đăng đại sư mỉm cười, đưa tay vỗ nhẹ vào lưng y, nói:

– Đại giác đại ngộ, chẳng dễ chút nào. Còn chưa đa tạ vị tiểu cư sĩ đã giáo huấn cho ngươi.

Dương Quá vốn nghĩ vị lão hòa thượng này là Nhất Đăng đại sư, khi bị đại sư dùng một chỉ gạt kiếm. Công phu Nhất dương chỉ này kỳ diệu giống như Đạn chỉ thần thông của Hoàng Dược Sư, trên thế gian không có người thứ ba có được chỉ lực thế này, chàng liền quì lạy, nói:

– Đệ tử Dương Quá tham kiến đại sư.

Thấy Từ Ân quì lạy chàng, chàng vội hoàn lễ, nói:

– Tiền bối hành lễ thế này, tiểu nhân không dám nhận. Vừa rồi đã đắc tội, xin lượng thứ.

Chàng chỉ Tiểu Long Nữ, nói:

– Đây là hiền thê của đệ tử, nàng họ Long. Long nhi, mau khấu kiến đại sư.

Tiểu Long Nữ ẵm Quách Tương, bước tới hành lễ.

Từ Ân hỏi:

– Đệ tử vừa nãy phát điên, thương thế của sư phụ có nặng lắm không?

Nhất Đăng đại sư mỉm cười, hỏi lại:

– Ngươi đã thấy đỡ chưa?

Từ Ân cảm thấy có tội, ngượng ngùng không biết nói sao.

Bốn người ngồi trên ngôi nhà đổ sập. Dương Quá thuật sơ qua việc chàng đã gặp Võ Tam Thông, Chu Tử Liễu và Điểm Thương Ngư Ẩn ra sao, mình bị trúng độc ở Tuyệt Tình cốc, rồi Thiên Trúc cao tăng và Chu Tử Liễu đi xin giải dược cho chàng bị bắt nhốt thế nào.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Ta cùng Từ Ân đi Tuyệt Tình cốc chính vì hai người đó. Tiểu cư sĩ có biết Từ Ân hòa thượng và nữ cốc chủ Tuyệt Tình cốc có quan hệ thế nào không?

Dương Quá từng nghe Bành trưởng lão gọi “Thiết Chưởng bang Cầu bang chủ”, bèn nói:

– Từ Ân đại sư tục gia có phải họ Cầu, là Thiết Chưởng bang Cầu bang chủ?

Thấy Từ Ân thong thả gật đầu, chàng nói tiếp:

– Như vậy nữ cốc chủ Tuyệt Tình cốc là lệnh muội.

Từ Ân nói:

– Đúng thế. Muội tử của bần tăng khỏe mạnh chứ?

Dương Quá khó trả lời. Cầu Thiên Xích bị chồng cắt đứt gân mạch tứ chi, thành kẻ tàn phế, thực không thể nói là “vẫn khỏe” được. Từ Ân thấy chàng lưỡng lự thì nói:

– Muội tử của bần tăng tính nết nóng nảy, nếu có bị báo ứng, cũng không phải chuyện lạ.

Dương Quá nói:

– Lệnh muội chỉ có chân tay bị tàn phế, chứ thân thể vẫn khỏe mạnh.

Từ Ân thở dài, nói:

– Bao năm đã qua, mọi người đều già cả rồi… Ôi, muội tử vốn chỉ trò chuyện với nhị ca…

Nói đến đây, y ngẩn ngơ xuất thần, hồi tưởng chuyện cũ.

Nhất Đăng đại sư biết y trần duyên chưa dứt, vừa rồi sở dĩ y hối ngộ, chỉ là vì lâm vào thời khắc sinh tử khẩn yếu, ác niệm đột nhiên tiêu tan, chứ thực ra nghiệt căn trong tâm y chưa trừ được, sau này gặp ngoại cảm cực mạnh, sẽ dễ dàng phát tác, mình còn sống ngày nào sẽ cố gắng cảm hóa y ngày ấy, tất cả đều nhờ vào duyên pháp mà thôi.

Dương Quá thấy Nhất Đăng đại sư nhìn Từ Ân bằng ánh mắt thương mến, thì nghĩ: “Nhất Đăng đại sư võ công quyết không thua Từ Ân, nhưng thủy chung không đánh trả, ắt có thâm ý. Mình vừa ra tay, e làm hỏng việc”. Bèn nói:

– Đại sư, đệ tử ngu muội không hiểu sự việc, vừa rồi khinh cử vọng động, nếu có gì sai trái, xin đại sư chỉ giáo.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Lòng người khó biết, có khi Từ Ân đánh chết lão nạp rồi, hắn cũng chưa chắc đã có thể đại triệt đại ngộ, không chừng còn chìm đắm sâu hơn. Tiểu cư sĩ đã cứu sống lão nạp, lại làm cho hắn đang đi giữa đường mê biết quay trở lại, đâu có gì sai trái? Lão nạp thâm cảm thịnh đức.

Rồi quay sang phía Tiểu long Nữ, hỏi:

– Tiểu nương tử bị chất độc ngấm vào nội tạng như thế nào?

Dương Quá nghe câu hỏi, tựa hồ đang trong hầm tối nhìn thấy tia sáng, vội nói:

– Hiền thê của đệ tử sau khi bị thương đang đả thông huyệt mạch để trị liệu, thì bị trúng ám khí cực độc. Đại sư có thể rủ lòng từ bi cứu mạng cho nàng được chăng?

Đoạn chàng quì ngay xuống đất.

Nhất Đăng đại sư đưa tay đỡ chàng dậy, hỏi:

– Đả thông huyệt mạch như thế nào? Nội tức vận hành ra sao?

Dương Quá nói:

– Nàng nghịch vận kinh mạch, có giường hàn ngọc và đệ tử ở bên cạnh trợ giúp.

Nhất Đăng đại sư nghe chàng giải thích, luôn miệng lấy làm lạ, nói:

– Âu Dương Phong đúng là một vị kỳ nhân trong thiên hạ, khai sáng phép nghịch vận kinh mạch, thực là ngoài sức tưởng tượng, mở ra một con đường mới trong võ học.

Đại sư đưa tay bắt mạch hai cổ tay cho Tiểu Long Nữ, vẻ mặt lo lắng, im lặng hồi lâu.

Dương Quá chăm chú nhìn Nhất Đăng đại sư, chỉ mong đại sư nói rằng có thể cứu chữa. Nhãn quang của Tiểu Long Nữ thì thủy chung chỉ nhìn Dương Quá.

Nàng cũng không ngờ mình còn sống được tới ngày hôm nay; nhìn vẻ mặt trầm trọng của Dương Quá lo lắng cho nàng, nàng thong thả nói:

– Sống chết có số, chẳng thể cưỡng cầu. Quá nhi, lo quá hại sức, chàng đừng quá lo.

Nhất Đăng đại sư từ lúc tới đây, bây giờ mới nghe Tiểu Long Nữ nói, giọng nàng ôn nhu, tâm tình bình hòa, đạt quán tri mệnh, thì bất giác sững sờ. Đại sư không biết rằng Tiểu Long Nữ từ nhỏ đã được sư phụ giáo huấn, lòng dạ trong sáng, ít bị sự vật chi phối, đại sư cứ ngỡ cô nương này còn ít tuổi, trúng độc khó chữa, hẳn sẽ lo cuống lên, ai ngờ lời nàng nói ra lại là khẩu khí của một người dày công tu hành, nghĩ: “Đôi phu phụ thiếu niên này đúng là loan phượng trên thế gian, nam thì võ công cao cường, nữ lại tu ngộ sinh tử, càng không dễ có. Ta bình sinh chỉ gặp vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung mới cảm thấy sánh với đôi này, các đệ tử của ta không một ai sánh kịp. Ôi, chỉ tiếc nàng ta trúng độc đã sâu, mà ta thì sau khi bị thương, không thể sử dụng thần công Nhất dương chỉ.” Đại sư ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Hai vị tuổi còn nhỏ mà tu vi quả thực bất phàm, lão nạp không ngại nói thẳng…

Dương Quá nghe đến đây thì lòng nặng trĩu, tay lạnh ngắt.

Nhất Đăng đại sư nói tiếp:

– Tiểu phu nhân bị chất độc ngấm vào yếu huyệt, lão nạp giá như không bị thương, có thể sử dụng công phu Nhất đương chỉ làm cho chất độc trong cơ thể tạm thời chưa phát tác, sau đó đi tìm linh dược giải độc. Giờ thì… cũng may tiểu phu nhân nội công thâm hậu, lão nạp có một món thuốc, uống vào bảy ngày bình an. Chúng ta đến Tuyệt Tình cốc tìm sư đệ của lão nạp…

Dương Quá vỗ đùi đứng dậy, reo lên:

– Ôi đúng rồi, Thiên Trúc thần tăng có bản lĩnh trị độc xuất thần nhập hóa, ắt sẽ có cách giải độc.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Nếu sư đệ của lão nạp cũng không thể cứu thì đó là do số mệnh. Trên đời có đứa bé sơ sinh đã phải chết; tiểu phu nhân thì sau khi lấy chồng mới bị bệnh bất trị, không thể coi là yểu.

Nói đến đây đại sư nhớ lại đứa bé sơ sinh của Chu Bá Thông và Lưu quí phi, chỉ vì mình ghen tức mà sinh hận, không chịu trị thương cho nó, cuối cùng nó bị chết. Kẻ đả thương đứa bé ấy chính là Từ Ân.

Dương Quá mở to mắt nhìn Nhất Đăng đại sư, nghĩ: “Long nhi có được chữa khỏi hay không chưa rõ, tại sao đại sư chẳng nói cho một câu an ủi”. Dương Quá cười nhạt, nói:

– Đại sư nói chí phải.

Nàng nhìn các bông tuyết rơi lả tả quanh mình, nói:

– Các bông tuyết này rơi xuống, trắng xiết bao, đẹp xiết bao; vài hôm sau có nắng, các bông tuyết đã chẳng còn tung tích đâu nữa. Đến mùa đông sang năm, lại có rất nhiều bông tuyết rơi, chỉ khác đó không phải là các bông tuyết hôm nay mà thôi.

Nhất Đăng đại sư gật đầu, nhìn Từ Ân, hỏi:

– Ngươi có hiểu không?

Từ Ân gật đầu, nghĩ bụng nắng lên tuyết tan, mùa đông tuyết rơi, đạo lý thô thiển ấy có gì khó hiểu?

Dương Quá và Tiểu Long Nữ vốn tâm tâm tương ấn, tâm sự sâu kín nhất của đối phương, mình cũng biết cả; nhưng lúc này nghe nàng đối đáp với Nhất Đăng đại sư, thì chàng cảm thấy mình bị cách xa một lớp. Tựa hồ nàng và Nhất Đăng đại sư hiểu nhau hơn, chàng hóa thành người ngoài, điều này chưa từng xảy ra từ ngày chàng và nàng tương ái; bất giác chàng cảm thấy buồn buồn.

Nhất Đăng đại sư lấy ra một thứ có màu sắc và hình dạng y hệt quả trứng gà, đưa cho Tiểu Long Nữ, nói:

– Quả trứng có trước hay con gà có trước?

Câu hỏi có từ ngàn xưa này vẫn chưa có lời giải.

Dương Quá nghĩ: “Giữa lúc sinh tử khẩn yếu, sao đại sư lại đi hỏi những chuyện vớ vẩn làm gì?”

Tiểu Long Nữ cầm quả trứng, hơi ngẫm nghĩ, đã hiểu ý, nói:

– Trứng tách ra thành gà con, gà con lớn lên đẻ trứng, đã có sinh, tất có diệt.

Nàng bóp nhẹ cái vỏ, một thứ nước thuốc rất sánh chảy ra, hệt như lòng đỏ trứng gà. Nhất Đăng đại sư nói:

– Hãy uống mau.

Tiểu Long Nữ biết thứ thuốc này quí hiếm, liền đưa lên miệng uống vào bụng.

Sáng hôm sau tuyết vẫn còn rơi. Dương Quá nghĩ lộ trình đến Tuyệt Tình cốc không gần, viên thuốc của Nhất Đăng đại sư tuy có thể kéo dài sinh mạng bảy ngày, song vẫn phải toàn lực mà đi, không thể chần chừ, mới đến kịp, bèn hỏi:

– Đại sư, thương thế của đại sư thế nào ạ?

Nhất Đăng đại sư bị thương thực không nhẹ, nhưng muốn cứu sư đệ, Chu Tử Liễu và Tiểu Long Nữ ba người, thì không thể chậm trễ chút nào, bèn phất tay áo nói:

– Không sao cả.

Đoạn đề khí lao vút đi trên tuyết. Ba người theo sau.

Tiểu Long Nữ sau khi uống viên thuốc, cảm thấy đan điền ấm áp, tinh thần phấn chấn, nàng thi triển khinh công chỉ giây lát đã vượt Nhất Đăng đại sư. Từ Ân kinh ngạc, nghĩ một cô nương mảnh mai yếu ớt không ngờ lại có võ công như thế, chợt nổi tính hiếu thắng, dồn sức xuống chân, đuổi theo thật nhanh. Một người là truyền nhân của phái Cổ Mộ khinh công thiên hạ vô song, người kia là một anh hùng thành danh hiệu xưng “Thiết chưởng thủy thượng phiêu”, thoáng chốc đã vọt đi xa mấy chục trượng, thành hai điểm đen trên tuyết. Dương Quá sợ Từ Ân ác tính phát tác, gia hại Tiểu Long Nữ, bèn đuổi theo để bảo vệ. Chàng khinh công không bằng hai người kia, nhưng nội công thâm hậu cước lực dẻo dai, thoạt đầu còn cách hai người kia rất xa, đi chưa dầy nửa canh giờ, đã thấp thoáng thấy lưng hai người kia càng lúc càng gần.

Bỗng nghe có tiếng cười của Nhất Đăng đại sư ở phía sau:

– Tiểu cư sĩ nội công thâm hậu quá. Có thể cho biết sư thừa là ai?

Dương Quá hơi chậm lại, sánh vai với Nhất Dăng đại sư, nói:

– Võ công của vãn bối là do hiền thê truyền thụ.

Nhất Dăng đại sư kinh ngạc, nói:

– Nhưng tôn phu nhân lại không bằng tiểu cư sĩ.

Dương Quá nói:

– Mấy tháng nay không biết tại sao vãn bối tự dưng nội lực tăng tiến rất nhanh?

Nhất Đăng đại sư nói:

– Tiểu cư sĩ có uống loại đan dược tăng trưởng nội lực nào không? Như nhân sâm hay linh chi ngàn năm chẳng hạn?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Vãn bối có nuốt vài chục cái mật rắn, sau khi nuốt, lực khí lập tức tăng lên, không biết có phải nhờ thế hay chăng?

Nhất Đăng đại sư nói:

– Mật rắn ư? Mật rắn chỉ có thể trừ phong thấp, hoàn toàn không có tác dụng tăng lực.

Dương Quá nói:

– Đấy là mật của một loài rắn lạ, trên thân mình loài độc xà đó kim quang lấp lánh, đầu rắn có mào, hình thù quái dị.

Nhất Đăng đại sư ngẫm nghĩ giây lát, đột nhiên nói:

– À đấy là Bồ tư khúc xà. Kinh Phật có nói về loài rắn ẩy, vốn cũng có ở Trung Thổ. Nghe đâu loài rắn ấy lướt đi như gió, khó lòng bắt được nó.

Dương Quá nói:

– Có một con chim điêu lớn lấy mật rắn cho vãn bối uống.

Nhất Đăng đại sư tán thưởng:

– Thật là một kỳ duyên hiếm có trên thế gian.

Hai người miệng nói chuyện, chân không dừng bước, càng lúc càng tới gần Tiểu Long Nữ và Từ Ân. Nhất Đăng đại sư và Dương Quá nhìn nhau mỉm cười.

Khinh công của hai người tuy không bằng Tiểu Long Nữ và Từ Ân, nhưng đường càng dài, thì phần thắng cuối cùng thuộc về người có nội công thâm hậu. Nhìn hai người phía trước, thấy Tiểu Long Nữ đã tụt lại sau hơn một trượng, luận về nội lực, tất nhiên nàng không thể bằng Từ Ân. Lúc vòng qua một cái thung lũng, Dương Quá chỉ phía trước, hỏi:

– Ồ, sao lại có những ba người?

Nguyên phía sau Tiểu Long Nữ một quãng ngắn có thêm một người đang tiến rất nhanh. Thoáng nhìn, khinh công của người ấy chẳng thua gì Tiểu Long Nữ và Từ Ân, người ấy vai vác một vật khá lớn, trông từa tựa một cái hòm, đi sau Tiểu Long Nữ vài trượng. Nhất Đăng đại sư cũng lấy làm lạ, chốn hoang sơn không ngờ lại gặp cao nhân, tối qua thì gặp một cặp vợ chồng thiếu niên anh tuấn, hôm nay thì gặp một vị lão nhân.

Tiểu Long Nữ sau khi bị Từ Ân vượt lên trước, không lâu khoảng cách càng xa, bỗng nghe có tiếng bước chân sau lưng, tưởng là Dương Quá đã đến, bèn nói:

– Quá nhi, vị đại hòa thượng kia khinh công quá cao, thiếp không sánh nổi, chàng thử đuổi theo xem sao.

Sau lưng có tiếng cười, nói:

– Ngươi hãy ngồi lên cái hòm của ta mà nghỉ một lát, dưỡng dưỡng lực khí, đừng sợ cái gã hòa thượng ấy.

Tiểu Long Nữ nghe giọng khác lạ, ngoảnh đầu lại, thấy một vị râu tóc bạc phơ, chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông.

Lão tươi cười chỉ cái hòm đang vác trên vai, nói:

– Nào lại đây, lại đây, ngồi lên đây!

Chiếc hòm ấy chính là cái hòm đựng sách ở Tàng kinh các của cung Trùng Dương, chắc bên trong đựng toàn kinh thư đạo tàng, được lão vác đi theo. Tiểu Long Nữ mỉm cười, chưa kịp trả lời, Chu Bá Thông đã vọt tới bên cạnh, giơ tay túm eo lưng nàng đặt ngồi lên trên cái hòm. Thân pháp đã nhanh, xuất thủ lại kỳ lạ, Tiểu Long Nữ không kịp kháng cự, đã chễm chệ ngồi trên cái hòm, thì nàng không khỏi thán phục: “Phái Toàn Chân hiệu xưng võ học chính tông thiên hạ, quả có chỗ hơn người, đạo nhân của cung Trùng Dương không địch nổi ta chỉ là vì họ chưa học được tinh túy võ công sư môn mà thôi”.

Lúc này Dương Quá và Nhất Đăng đại sư cũng đã nhận ra Chu Bá Thông, chỉ có Từ Ân sợ Tiểu Long Nữ vượt lên trước, nên cứ cắm đầu đi nhanh đằng trước, không biết phía sau có thêm một người. Chu Bá Thông theo sau, nói nhỏ:

– Chạy nửa canh giờ nữa, hắn sẽ càng chậm dần.

Tiểu Long Nữ cười, hỏi:

– Sao tiền bối biết?

Chu Bá Thông nói:

– Ta đã tỷ thí cước lực với hắn, từ Trung Nguyên chạy thẳng đến Tây Vực, rồi lại từ Tây Vực chạy trở về Trung Nguyên, chạy mấy vạn dặm với nhau, sao lại không biết?

Tiểu Long Nữ ngồi trên cái hòm, bình ổn dễ chịu, hơn cả cưỡi ngựa, cười hỏi nhỏ:

– Lão Ngoan đồng, sao lại giúp tiểu nữ?

Lão Ngoan đồng nói:

– Ngươi hiền hậu khiến người ta thích, không tinh khôn quỷ quái như Hoàng Dung. Lão thó trộm mật ong của ngươi, mong ngươi đừng giận lão.

Chạy như thế nửa canh giờ, quả nhiên như Chu Bá Thông dự liệu, cước bộ của Từ Ân chậm dần. Chu Bá Thông nói:

– Giờ thì tự chạy đi!

Lão hất vai lên, Tiểu Long Nữ văng lên phía trước hơn một trượng, nàng đã dưỡng đủ khí lực, liền phóng chạy, chẳng mấy chốc đã vượt qua Từ Ân, ngoảnh lại mỉm cười. Từ Ân kinh ngạc, vội tăng lực chạy. Nhưng hai người khinh công vốn ngang ngửa, một người được nghỉ cả giờ, người kia cắm đầu chạy miết, làm sao theo cho kịp, khoảng cách càng lúc càng xa thêm.

Từ Ân bình sinh có hai đại tuyệt kỹ, tự cho là thiên hạ vô song; thế mà chỉ trong một ngày đêm, thiết chưởng thua Dương Quá, khinh công thua Tiểu Long Nữ, y không khỏi đại thất vọng, chỉ thấy hai chân bỗng mềm đi, không chịu tuân theo sự điều khiển nữa. Từ Ân nghĩ: “Chẳng lẽ đại hạn của ta đã đến, ngay một tiểu cô nương ta cũng không bằng?” Tối qua ác tính phát tác, y đã xuất thủ đả thương sư phụ, trong lòng thấp thỏm bất an; vừa rồi dốc toàn lực đuổi theo Tiểu Long Nữ không kịp, tâm thần càng hoảng hốt, bối rối.

Dương Quá ở phía sau thấy rõ, biết Chu Bá Thông ám trợ Tiểu Long Nữ chiến thắng Từ Ân, cảm thấy lý thú, chạy nhanh tới bên lão, cười, nói:

– Chu lão tiền bối, đa tạ đa tạ!

Chu Bá Thông nói:

– Cầu Thiên Nhẫn lâu rồi ta không gặp, tại sao hắn lại giở trò cạo đầu đi làm hòa thượng thế không biết?

Dương Quá nói:

– Cầu Thiên Nhẫn bái Nhất Đăng đại sư làm sư phụ, lão tiền bối không biết hay sao?

Chàng chỉ tay về phía sau. Chu Bá Thông kinh ngạc, thốt lên:

– Đoàn hoàng gia cũng đến đây ư?

Lão nhìn thấy Nhất Đăng đại sư ở phía xa, bèn nói:

– Xuất hành bất lợi, lánh đi là đại cát!

Đoạn chạy chéo vào một cánh rừng. Dương Quá cũng không hiểu Đoàn hoàng gia là thế nào, chỉ thấy cây cỏ lay động, thoáng chốc Chu Bá Thông đã biến mất tăm. Chàng nghĩ: “Người này hành sự kỳ quái, thật là hiếm gặp trong thiên hạ!”

Nhất Đăng đại sư thấy Chu Bá Thông né tránh, rảo bước tới, thấy Từ Ân thần tình uể oải, mất hết vẻ hăng hái, bèn nói:

– Đối với chuyện thắng bại, ngươi vẫn chưa dứt bỏ được sự cay cú ư?

Từ Ân rầu rĩ không nói. Nhất Đăng đại sư nói:

– Còn ham muốn tất còn mê muội. Võ công cao như ngươi, nếu không hiếu thắng, làm gì đến nỗi không biết sau lưng có thêm một người?

Bốn người đi nhanh, đi được năm ngày, đến sáng ngày thứ sáu, Nhất Đăng đại sư thương thế không nhẹ, dần dần không chịu được nữa. Dương Quá nói:

– Đại sư hãy tạm nghỉ ngơi; bảo dưỡng thân thể là trọng. Từ đây đến Tuyệt Tình cốc không còn bao xa, vợ chồng vãn bối cùng Từ Ân đại sư đến đó trước, sống chết gì cũng phải cứu Thiên Trúc thần tăng và Chu đại thúc ra.

Nhất Đăng đại sư mỉm cười, nói:

– Lão nạp ở lại thì không yên tâm.

Dừng một lát, nói tiếp:

– Chỉ sợ ở đó xảy ra lắm chuyện, lão nạp phải thân chinh đến đó mới được.

Từ Ân nói:

– Để đệ từ cõng sư phụ đi.

Rồi cúi xuống cõng Nhất Đăng đại sư mà rảo bước.

Qua giờ Ngọ, bốn người đến cốc khẩu. Dương Quá nói với Từ Ân:

– Chúng ta có nên báo rõ thân phận, để lệnh muội ra nghênh tiếp đại sư hay chăng?

Từ Ân chưa kịp trả lời, bỗng nghe trong cốc loáng thoáng vọng ra tiếng binh khí giao tranh. Từ Ân chỉ sợ muội tử động thủ với nhóm Võ Tam Thông, bất cứ bên nào bị thương cũng đều không được, bèn nói:

– Chúng ta phải vào ngay để ngăn chặn họ giao đấu.

Rồi thi triển khinh công, nhưng không biết đường, Dương Quá phải đi trước chỉ dẫn.

Chạy đến vùng lân cận, thấy có bảy, tám đệ tử áo xanh tay cầm binh khí, chặn ngoài bìa rừng, tiếng binh khí giao tranh từ trong rừng vọng ra, không nhìn thấy những người giao tranh là ai. Bọn đệ tử áo xanh thấy có ngoại địch kéo tới, liền hò nhau xông lại, tới gần họ nhận ra Dương Quá và Tiểu Long Nữ thì cùng dừng chân. Gã cầm đầu tiến lên hai bước, tay đặt ở chuôi kiếm, hỏi:

– Chúa mẫu muốn biết việc giao cho Dương tướng công đã làm xong hay chưa?

Dương Quá hỏi lại:

– Những người đang giao tranh ở trong rừng là ai?

Gã đệ tử áo xanh không trả lời, chăm chú nhìn chàng, chưa biết chuyến này chàng đến đây với dụng ý gì, thiện hay ác? Dương Quá mỉm cười, nói:

– Tiểu đệ lần này đến đây hoàn toàn không có ác ý. Công Tôn phu nhân có khỏe không?

Gã đệ tử áo xanh đỡ ngại phần nào, nói:

– Ơn trời, chúa mẫu và cô nương đều khỏe.

Lại hỏi:

– Còn hai vị đại hòa thượng là ai? Các vị có cùng một phường với bốn nữ nhân ở trong rừng hay không?

Dương Quá hỏi:

– Bốn nữ nhân ư, là ai vậy?

Gã đệ tử áo xanh nói:

– Bốn nữ nhân chia hai ngả tiến vào cốc, chúa mẫu hạ lệnh ngăn chặn; bọn họ cả gan không nghe, hiện đã bị dụ vào thung lũng hoa Tình, ai ngờ họ vừa thấy nhau thì lập tức ẩu đả.

Dương Quá nghe bốn chữ “Thung lũng hoa Tình” không khỏi giật mình, không đoán được bốn người ấy là ai, nếu là Hoàng Dung, Quách Phù, Hoàn Nhan Bình và Gia Luật Yến, thì sao họ lại đánh nhau? Bèn nói:

– Phiền cho tiểu đệ vào gặp họ, không chừng tiểu đệ quen biết họ, có thể khuyên họ ngừng đấu, đồng thời vào khấu kiến cốc chủ.

Gã đệ tử áo xanh nghĩ bụng, có lẽ bốn nữ nhân kia đã bị bắt rồi, để cho các ngươi cũng thấy sự lợi hại của Tuyệt Tình cốc này, bèn dẫn họ vào trong rừng. Quả nhiên bốn nữ nhân chia làm hai cặp, đang ác chiến với nhau.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ vừa nhìn thấy thì thầm kinh hãi. Nguyên bốn nữ nhân đang ở trên một bãi cỏ hình tròn, đường kính hai trượng, xung quanh là các bụi hoa Tình dày đặc, nhiều lớp, tạo thành một vành đai hoa Tình rộng tám chín trượng, khinh công giỏi mấy cũng không thể nhảy qua; muốn nhảy qua một khoảng rộng bằng nửa như thế đã khó.

Tiểu Long Nữ nói:

– Là sư tỷ kìa!

Hai nữ nhân quay mặt về phía nam là Lý Mạc Sầu và đệ tử Hồng Lăng Ba của mụ. Hai người sử dụng trường kiếm, cây phất trần của Lý Mạc Sầu đã bị đánh gãy trong tòa cổ mộ, mụ chưa kịp làm cây khác.

Đối địch với sư đồ Lý Mạc Sầu, một người sử dụng cây đao lá liễu, người kia sử dụng binh khí giống như một cây tiêu, cả hai thân hình mảnh dẻ, bộ pháp lanh lẹ, võ công cũng không kém, song không thể sánh ngang Lý Mạc Sầu. Dương Quá kinh ngạc: “Thì ra họ là biểu tỷ biểu muội thì phải?” Lúc này Hồng Lăng Ba hơi nghiêng mình, thiếu nữ mặc áo vàng nhạt nghiêng mặt lại, thiếu nữ mặc áo tím cũng vậy, chính là Trình Anh và Lục Vô Song. Bãi cỏ tròn mà bốn nữ nhân giao đấu có đường kính hai trượng, chẳng khác gì một cái sàn tỷ võ, địa hình giới hạn, không thể bước nhầm nửa bước, như thế, ai võ công kém sẽ như bị trói chân trói tay. May mà Lý Mạc Sầu binh khí không quen tay, Hồng Lăng Ba đối với Lục Vô Song thì nể tình ngày trước, không nỡ hạ độc thủ, cho nên Trình, Lục nhị nữ tuy ở thế hạ phong, vẫn còn gắng gượng chống đỡ.

Dương Quá hỏi gã đệ tử áo xanh:

– Bốn người kia sao tự dưng lại nhảy vào giữa cái bãi kia mà đánh nhau?

Gã đệ tử áo xanh tỏ vẻ đắc ý, vênh mặt nói:

– Đây là cách bố trí tài tình của Công Tôn cốc chủ. Bọn ta dồn gian tế vào bãi hoa Tình, rồi lại dùng các bụi hoa Tình lấp kín lối ra vào, bọn chúng làm sao còn thoát nổi?

Dương Quá lo lắng hỏi:

– Bọn họ đã bị trúng độc hoa Tình hay chưa?

Gã đệ tử áo xanh nói:

– Nếu chưa trúng, thì cũng chẳng mấy chốc sẽ trúng.

Dương Quá nghĩ: “Võ công của các người thì làm sao có thể dồn Lý Mạc Sầu vào bãi hoa Tình kia chứ? À phải, chắc bọn này đã dùng ngư võng trận pháp độc ác. Nếu Trình, Lục nhị nữ bị trúng độc hoa Tình, thì trên đời đã không còn thuốc giải”. Chàng bèn nói to:

– Trình tỷ tỷ, Lục tỷ tỷ, tiểu đệ Dương Quá đây. Hoa lá xung quanh các vị có gai cực độc, phải hết sức cấn thận đó!

Lý Mạc Sầu sớm nhận ra sự dị dạng của hoa Tình. Bọn đệ tử áo xanh đã dùng cây hoa này chắn đường, tất phải có duyên cớ. Vì thế sau khi lọt vào trong bãi hoa Tình, mụ đã khẽ dặn Hồng Lăng Ba cẩn thận, phải cố tránh xa các bụi hoa. Trình Anh và Lục Vô Song cũng thừa lanh lợi, dĩ nhiên cũng nhận biết.

Bốn người đoán trong các bụi hoa Tình có cơ quan hãm hại, bây giờ nghe Dương Quá nhắc nhở, càng e sợ các bụi hoa xung quanh hơn, cố ý lấn vào giữa bãi cỏ mà cận chiến, chiến cuộc đấu ác liệt thêm.

Trình Anh và Lục Vô Song nghe Dương Quá đến thì rất mừng, mong sớm diện kiến, khổ nỗi kẻ địch đánh rát, khó bề thoát thân. Lý Mạc Sầu thì chỉ muốn giết hai thiếu nữ, làm vật lót đường, để đạp lên xác họ mà thoát đi. Dương Quá và Tiểu Long Nữ đến, mụ vốn cả kinh, nhưng có các bụi hoa Tình chắn lối, hai người chưa thể xông vào giúp hai thiếu nữ kia được, mụ bèn xẵng giọng, nói:

– Lăng Ba, ngươi không dốc toàn lực, thì chính ngươi sẽ phải bỏ mạng tại đây đó.

Hồng Lăng Ba đáp “Vâng!” và gia tăng kình lực đâm kiếm về phía Trình Anh. Trình Anh giơ cây tiêu gạt đỡ, trường kiếm của Lý Mạc Sầu cũng đâm tới cổ nàng. Lục Vô Song đưa đao gạt ngang. Lý Mạc Sầu cười gằn một tiếng, trường kiếm hơi rung, tung chân trái đá trúng cổ tay Lục Vô Song, thanh đao lá liễu của nàng bay văng ra một bụi gai. Lý Mạc Sầu đâm Trình Anh liền ba nhát kiếm. Trình Anh chống đỡ không nổi, vội lùi gấp. Nàng chỉ lùi một bước nữa, chân trái sẽ giẫm vào bụi hoa Tình, Lục Vô Song kêu lên:

– Biểu tỷ, đừng lùi nữa.

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Không lùi nữa thì tiến lên đi.

Nói đoạn mụ lùi chếch một bước. Trình Anh thừa biết đối phương quyết không có thiện ý, nhưng chỗ mình đặt chân quá nguy hiểm, đành bước lên trước một bước. Lý Mạc Sầu cười gằn nói:

– To gan thật!

Trường kiếm rung nhanh, tạo ra mười mấy điểm ngân quang bao trùm toàn bộ nửa thân trên của Trình Anh.

Dương Quá đứng ngoài thấy rõ, biết đấy là chiêu số lợi hại của kiếm pháp phái Cổ Mộ, có tên “Lãnh nguyệt khuy nhân”, nếu không biết đường hướng của nó, cứ dốc toàn lực che đỡ nửa thân trên thì bụng dưới thể nào cũng bị trúng kiếm. Chàng thấy Trình Anh giơ cây tiêu chắn trước ngực, vội cúi nhặt một viên sỏi, dùng ngón cái và ngón giữa búng đi, nhắm tới đôi mắt Lý Mạc Sầu. Lúc ấy mũi kiếm của mụ ta đã chúi xuống, cách bụng dưới của Trình Anh chỉ vài tấc. Mụ chợt thấy viên sỏi bay tới, không kịp giết đối phương, phải hồi kiếm gạt viên sỏi.

Công phu mà Dương Quá vừa sử dụng chính là Đạn chỉ thần thông do Hoàng Dược Sư truyền thụ, song chưa đạt mức hỏa hầu, chỉ có thể dương đông kích tây, đỡ đòn của địch mà thôi. Nếu viên sỏi do đích thân Hoàng Dược Sư búng đi, thì nó đã bắn vào thanh kiếm của Lý Mạc Sầu làm kiếm rơi xuống đất hoặc bị hất ra. Dù sao cũng nhờ lão truyền thụ công phu cho Dương Quá mà nữ đệ tử cuối đời của lão mới được cứu mạng. Dương Quá và Trình Anh cùng sợ vã mồ hôi lạnh.

Lý Mạc Sầu thấy Trình Anh thoát chết, sắc mặt trắng hồng hồng tái mét, biết nàng tâm thần còn hoảng, bèn quát:

– Nữa này!

Trường kiếm rung chếch, lại sử chiêu “Lãnh nguyệt khuy nhân”. Trình Anh lần này đã biết đòn tấn công thượng bàn là hư, tấn công hạ bàn mới là thực, nên dùng cây tiêu bảo hộ đan điền. Nào ngờ Lý Mạc Sầu biến hóa đủ cách, mũi kiếm quả nhiên chĩa xuống đan điền của Trình Anh, song mụ lại sấn tới sát người, dùng ngón trỏ tay trái điểm trúng huyệt Ngọc Đường ở ngực Trình Anh. Trình Anh còn đang ngẩn người, chân trái của Lý Mạc Sầu đã gạt ngang, trước hết đá ngã Lục Vô Song, rồi mũi chân lại điểm huyệt Dương Quan ở cạnh khoeo chân Trình Anh, động tác biến chiêu của mụ cực kỳ mau lẹ trong giây lát Trình, Lục hai nàng cùng ngã, Dương Quá muốn cứu cũng không kịp.

Lý Mạc Sầu túm lưng Trình Anh quẳng ra xa, rồi lại túm Lục Vô Song quẳng ra theo, quát:

– Lăng Ba, hãy đạp lên xác chúng mà ra…

Lời chưa dứt, Dương Quá đã phi thân vào, đưa tay trái đón lấy Trình Anh, rồi nhảy tiếp về phía trước. Trình Anh ngực và chân tuy bị điểm huyệt, song hai tay không sao, liền ôm đón Lục Vô Song, kêu lên:

– Dương đại ca, chàng…

Nàng vốn có thâm tình với Dương Quá, lúc này thấy chàng xả thân nhảy vào đám hoa Tình cứu mình thì càng không thể kìm lòng.

Dương Quá đón hai thiếu nữ rồi liền nhảy trở ra, nhẹ nhàng đặt hai nàng xuống đất. Trình Anh chân trái tê dại, đứng không vững, Tiểu Long Nữ giải huyệt cho nàng. Ba thiếu nữ cùng nhìn Dương Quá, thấy ống quần chàng bị gai xé rách mấy chỗ, từ đùi xuống bắp chân có máu chảy, không biết chàng bị bao nhiêu cái gai độc cào xước vào người. Trình Anh nước mắt lưng tròng, Lục Vô Song lo lắng ấp úng nói:

– Đại ca… đâu cần… cứu muội, ai bảo đại ca làm như thế kia chứ?

Dương Quá cười, nói:

– Chất độc hoa Tình trong người ngu huynh chưa trừ hết, có bị thêm một ít cũng có khác gì đâu.

Nhưng mọi người đều biết, chất độc ngấm vào người nhiều hay ít rất khác nhau, chàng nói thế chỉ là để an ủi ba thiếu nữ mà thôi.

Trình Anh rưng rưng lệ nhìn ống tay áo rỗng của Dương Quá. Lục Vô Song thì dịu dàng nói:

– Chàng ngốc, cánh tay phải của huynh đâu? Sao lại mất?

Tiểu Long Nữ thấy hai thiếu nữ kia hết sức quan hoài đối với Dương Quá, thì nàng lập tức coi họ như bằng hữu thân thiết nhất, mỉm cười nói:

– Sao cô nương lại gọi Quá nhi là “Chàng ngốc”? Chàng không ngốc nghếch đâu.

Lục Vô Song bỗng kêu “À” một tiếng, nói:

– Muội gọi quen miệng, nhất thời chưa thay đổi được.

Rồi đưa mắt sang phía Trình Anh, hỏi:

– Vị tỷ tỷ này là?

Dương Quá nói:

– Đó là…

Trình Anh tiếp lời:

– Nhất định là Tiểu Long Nữ tiền bối.

Lục Vô Song nói:

– Đúng rồi. Muội phải sớm đoán ra nhân vật như tiên nữ kia mới phải.

Trình, Lục hai nàng trước đây thấy Dương Quá chung tình với Tiểu Long Nữ, trong lòng không khỏi có phần đố kỵ, bây giờ gặp rồi thì tự thẹn mình thua kém xa, đều nghĩ: “Mình làm sao sánh nổi nàng ta?”

Lục Vô Song lại hỏi:

– Dương đại ca, cánh tay của đại ca rốt cuộc sao lại bị mất vậy? Vết thương đã lành hẳn chưa?

Dương Quá nói:

– Lành hẳn rồi. Bị người ta chém đấy.

Lục Vô Song nói, giọng tức giận:

– Cái mụ ác tặc đáng chết kia chém phải không? Chắc nữ ma đầu ấy đã dùng gian kế hèn hạ chứ gì?

Đột nhiên một giọng nữ lạnh lùng vang lên ở sau lưng:

– Ngươi nói xấu người ta sau lưng, chẳng phải là hèn hạ đó sao?

Mọi người ngạc nhiên, ngoảnh lại, thấy người nói là một thiếu nữ xinh đẹp, chính là Quách Phù. Nàng đặt tay đốc kiếm, mặt hầm hầm, bên cạnh nàng còn có mấy người khác nữa, cả nam lẫn nữ. Lục Vô Song kinh ngạc, nói:

– Ta không hề nói xấu cô nương, mà ta chửi tên ác tặc đê hèn nào chém đứt cánh tay của Dương đại ca.

Soạt một cái, Quách Phù đã rút kiếm khỏi bao, nói:

– Cánh tay của Dương đại ca là do ta chém đấy. Ta đã xin lỗi rồi, cha mẹ ta cũng đã trách phạt ta rồi; các người còn chửi bới sau lưng ta…

Nói đến đây nước mắt lưng tròng, cảm thấy oan ức vô cùng.

Nguyên cha con Võ Tam Thông, Quách Phù, Gia Luật Tề ở dưới dòng suối ngầm tránh lửa, đợi lửa yếu dần, mới men dòng suối đi xuống hạ du, gặp Hoàng Dung với Hoàn Nhan Bình và Gia Luật Yến, rồi cùng kéo đến Tuyệt Tình cốc. Họ đến nơi sớm hơn nhóm Dương Quá và Nhất Đăng đại sư nửa ngày, tìm kiếm Thiên Trúc cao tăng và Chu Tử Liễu ở phía trước và phía sau cốc không thấy, tốn khá nhiều thời gian. Còn việc sư đồ Lý Mạc Sầu và biểu tỷ muội Trình Anh vào được Tuyệt Tình cốc đều là do Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông nổi tính tinh nghịch dẫn dắt.

Bọn Hoàng Dung, Võ Tam Thông hành lễ với Nhất Đăng đại sư và đôi bên dẫn kiến.

Trình Anh chưa từng gặp Hoàng Dung, nhưng đã nghe đại danh của vị sư tỷ này, nhất mực kính phục, nay cung kính bước tới khấu đầu, chào một tiếng:

– Sư tỷ!

Hoàng Dung qua lời kể của Dương Quá, biết phụ thân về già đã thu nhận một nữ đệ tử, giờ thấy người ấy phong thần tú mỹ, bèn hỏi thăm về phụ thân, biết người bình an khỏe mạnh thì rất mừng.

Gã đệ tử áo xanh đứng canh ven rừng thấy đám người vào cốc tụ tập với nhau, thanh thế quá mạnh, không dám ngăn cản, vội chạy đi phi báo với Cầu Thiên Xích.

Quách Phù và Lục Vô Song giận dữ nhìn nhau. Quách Phù nghe mẫu thân bảo phải xưng hô với Trình Anh như với bề trên thì càng khó chịu, một tiếng “sư thúc” nghe thật gượng ép.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ cầm tay nhau đứng cách xa. Dương Quá nhìn bé Quách Tương đang được Tiểu Long Nữ ẵm, nói:

– Long nhi, mình trả đứa bé này cho mẹ nó thôi.

Tiểu Long Nữ đưa Quách Tương lên thơm thơm vào má nó, rồi bước tới trao cho Hoàng Dung, nói:

– Quách phu nhân, hài nhi của phu nhân đây.

Hoàng Dung đa tạ đón lấy, từ hôm sinh hài nhi này đến giờ mới được yên ổn ôm nó vào lòng, lòng sung sướng kể sao cho xiết.

Dương Quá nói to:

– Quách cô nương, muội tử của cô nương nguyên vẹn an lành đấy, ta không hề đem nó đi đổi lấy thuốc cứu mạng.

Quách Phù giận dữ:

– Mẫu thân của muội tới đây rồi, dĩ nhiên huynh chẳng dám. Huynh nếu không có ý đó, thì mang muội muội đến đây làm gì?

Cứ như tính cách hồi trước của Dương Quá, hẳn chàng sẽ lập tức đốp lại vài câu, nhưng một tháng nay chàng đã trải bao biến cố sinh tử, chuyện hơn thua lời lẽ chẳng đáng gì, nên chàng chỉ cười, dắt tay Tiểu Long Nữ bước đi. Lục Vô Song nhìn Quách Phù một cái, nói với Trình Anh:

– Kia là con gái của sư tỷ biểu tỷ ư? Mong rằng sau này lớn lên, nó sẽ không ngang ngược điêu ác.

Quách Phù làm sao nghe lọt tai một câu chê trách mình như thế, bèn nói:

– Muội tử của ta ngang ngược điêu ác hay không thì can dự gì đến nhà ngươi? Nhà ngươi nói câu ấy là có dụng ý gì?

Lục Vô Song nói:

– Đây không có nói với đó. Kẻ ngang ngược điêu ác, ai ai trong thiên hạ cũng có quyền giám quản, sao lại bảo là không can dự gì đến ta?

Trong thâm tâm, Lục Vô Song chỉ nể một mình Dương Quá, nàng và Trình Anh thấy Dương Quá bị Quách Phù chém mất một cánh tay, thì rất đau lòng, nhưng nàng không đằm tính như biểu tỷ, nên trước mặt nhiều người vẫn cứ phát tác như thường. Quách Phù cả giận, giơ kiếm quát:

– Đồ thọt…

Hoàng Dung quát:

– Phù nhi, không được vô lễ!

Bỗng nghe đằng xa có tiếng “Ối!” Mọi người quay đầu nhìn, thấy từ trong bãi cỏ, Lý Mạc Sầu giơ cao thân hình Hồng Lăng Ba, tiếng kêu vừa rồi là do Hồng Lăng Ba phát ra. Mọi người mải hàn huyên, nhất thời quên biến sư đồ Lý Mạc Sầu đang được ngăn cách với họ bởi các bụi hoa Tình. Lục Vô Song kêu lên:

– Nguy mất, sư phụ định dùng sư tỷ làm vật lót chân, mau tìm cách cứu…

Mọi người còn đang ngẩn ra thì Lý Mạc Sầu đã quẳng Hồng Lăng Ba tới bụi hoa Tình, rồi phi thân tới đó chân trái đạp xuống ngực Hồng Lăng Ba, lại vọt đi, tay phải cắp Hồng Lăng Ba, lại quẳng ra phía ngoài mấy trượng, lại đạp chân lên người Hồng Lăng Ba để nhảy hẳn ra ngoài các bụi hoa Tình. Lý Mạc Sầu sợ bọn Hoàng Dung ngăn chặn, nên mụ chọn nơi nhảy ra ngược với chỗ mọi người đang đứng. Bước nhảy cuối cùng của mụ, Hồng Lăng Ba đột nhiên bật dậy, ôm chặt lấy chân trái của mụ. Thân hình mụ đang nhảy bị kéo xuống, lưng chừng không có chỗ mượn lực, mụ tung chân phải đạp vào ngực Hồng Lăng Ba nghe hự một tiếng, cú đạp này khiến Hồng Lăng Ba chấn vỡ nội tạng, chết tươi; nhưng hai tay nàng vẫn cứ bám chặt chân trái Lý Mạc Sầu, khiến cả hai cùng ngã xuống, cách chỗ đất an toàn chưa đầy hai thước, nhưng chỗ ngã xuống có hàng ngàn cái gai hoa Tình đâm vào người mụ ta.

Biến cố thê thảm đáng sợ, người người đều kinh tâm động phách, trố mắt nhìn, không nói nên lời.

Lục Vô Song nghĩ đến ân tình của sư tỷ đối với mình, đau đớn khóc rống lên, gọi:

– Sư tỷ, sư tỷ!

Dương Quá nhớ lần chàng trêu chọc Hồng Lăng Ba, cũng không khỏi cảm thương. Lý Mạc Sầu gỡ hai tay của Hồng Lăng Ba, thấy nàng tuy chết, hai mắt không nhắm, lộ đầy vẻ oán trách. Lý Mạc Sầu nghĩ: “Ta đã trúng độc hoa Tình, thuốc giải phải vào tìm trong sơn cốc này”. Mụ ra chỗ an toàn, đang đi bỗng nghe Hoàng Dung gọi:

– Lý tỷ tỷ, hãy lại đây, tiểu muội có lời muốn nói.

Lý Mạc Sầu sững lại, hơi chần chừ, đi được vài trượng, thì đứng hẳn lại, hỏi “Gì vậy?” thầm mong Hoàng Dung cho thuốc giải độc hoặc chí ít cũng chỉ dẫn nên tìm thuốc giải ở đâu.

Hoàng Dung nói:

– Tỷ tỷ muốn thoát khỏi các bụi hoa, lẽ ra không nên sát hại lệnh đồ.

Lý Mạc Sầu lạnh lùng nói:

– Phu nhân định giáo huấn ta chăng?

Hoàng Dung nói:

– Không dám. Muội chỉ muốn nói để tỷ tỷ biết rằng, chỉ cần dùng kiếm đào đất, cởi áo ngoài bọc thành hai bao, quẳng vào đám bụi hoa, há không phải làm chỗ đặt chân tuyệt diệu hay sao? Tỷ tỷ vừa thoát ra an toàn, mà lệnh đồ cũng chẳng phải chết thảm.

Lý Mạc Sầu sắc mặt đổi từ tái sang đỏ, rồi lại từ đỏ sang tái, hối hận vô cùng; cách Hoàng Dung vừa nói thật quá dễ, tiếc thay trong lúc bối rối mụ không nghĩ ra, đến nỗi phải giết hại người thân duy nhất của mình đã đành, chính mụ cũng không thoát khỏi tai ương, mụ buột miệng nói:

– Bây giờ mới nói, đã muộn mất rồi.

Hoàng Dung nói:

– Phải, đã muộn mất rồi. Kỳ thực, chất độc hoa Tình tỷ tỷ có trúng hay không trúng cũng vậy cả thôi.

Lý Mạc Sầu trừng mắt, không hiểu ý Hoàng Dung.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Lý tỷ tỷ sớm đã bị trúng độc si tình, làm loạn thế gian, hại người hại mình, lúc này đã muộn mất rồi.

Lý Mạc Sầu lại ngạo mạn nói:

– Đệ tử của ta là do ta cứu mạng, nếu nó không được ta nuôi dưỡng từ bé, thì nó đâu được sống đến ngày hôm nay. Sống được do ta, chết đi do ta, vốn là lẽ công bằng trong trời đất.

Hoàng Dung nói:

– Mỗi người đều do cha mẹ sinh ra, nhưng cha mẹ cũng không vì thế mà được phép giết con, huống chi người ngoài?

Võ Tu Văn cầm kiếm xông tới, quát:

– Lý Mạc Sầu, hôm nay mụ tàn ác quá chừng, khỏi cần phí lời với mụ.

Võ Đôn Nhu, Võ Tam Thông, Gia Luật Tề, Gia Luật Yến, Hoàn Nhan Bình, Quách Phù sáu người cùng vây lấy Lý Mạc Sầu từ hai phía.

Trình Anh và Lục Vô Song cầm tiêu và đao, bước lên hai bước. Lục Vô Song nói:

– Mụ tàn ác giết hại cả gia đình ta, hôm nay chỉ một mình mụ phải đền mạng là quá nhẹ cho mụ. Đừng nói bao nhiêu tội ác trước kia, chỉ riêng việc mụ giết Hồng sư tỷ, cũng đáng chết rồi.

Quách Phù quay nhìn Lục Vô Song một cái, cười khẩy, nói:

– Cô nương có một vị sư phụ tốt quá chừng!

Lục Vô Song quắc mắt nhìn lại, nói:

– Một người có chỗ dựa lớn bằng trời, mà còn làm loạn, thật không biết xấu! Cô nương chớ có bắt chước nữ ma đầu kia.

Lý Mạc Sầu nghe Lục Vô Song nói hai chữ “chỗ dựa”, chợt nhớ ra, gọi to:

– Tiểu sư muội, sư muội không nghĩ gì đến tình sư môn hay sao?

Mụ suốt đời ngang dọc giang hồ, không coi bất cứ ai ra gì, lúc này lại cầu cứu Tiểu Long Nữ, chẳng qua vì mụ lâm vào tình thế hung hiểm vạn phần, sau khi giết Hồng Lăng Ba thì nội tâm không khỏi tự trách, bối rối.

Tiểu Long Nữ nhất thời chưa biết trả lời thế nào. Dương Quá nói to:

– Mụ bội sư sát đồ, còn nói gì đến tình sư môn nữa chứ?

Lý Mạc Sầu thở dài, giơ kiếm, nói:

– Được, vậy các người hãy cùng xông lại cả đây, càng đông càng tốt.

Huynh đệ họ Võ song kiếm cùng xuất, Trình Anh và Lục Vô Song từ mé trái tiến lại, Võ Tam Thông, Gia Luật Tề cũng múa binh khí xông tới.

Vừa rồi chứng kiến thủ đoạn tàn bạo của Lý Mạc Sầu đối với Hồng Bầng Ba, ai ai cũng căm phẫn, Nhất Đăng đại sư cũng nghĩ nếu để nữ ma đầu này sống trên thế gian, chỉ thêm nhiều người phải bỏ mạng. Chỉ nghe tiếng binh khí khua vang, Lý Mạc Sầu võ công dù cao đến mấy, cũng sắp bị mọi người phanh thây.

Đột nhiên Lý Mạc Sầu vung tay trái, quát:

– Coi ám khí này!

Mọi người đều biết món Băng phách ngân châm lợi hại của mụ ta, cùng ngưng thần chú mục, chỉ thấy mụ bay người vào đám bụi hoa Tình; ai nấy không khỏi thốt lên kinh hãi.

Nguyên Lý Mạc Sầu nghĩ rằng nếu gai hoa Tình quả có độc, mụ đã bị gai đâm khắp mình mẩy, nay thêm một số vết nữa cũng thế thôi. Lý Mạc Sầu nhảy đại vào các bụi hoa Tình, ngay Hoàng Dung và Dương Quá cũng không ngờ, chỉ thấy mụ ta lao qua các bụi hoa Tình rồi mất hút trong rừng cây.

Võ Tu Văn nói:

– Mọi người hãy đuổi theo!

Y vung kiếm chạy vòng về phía đông đuổi theo, nhưng các lối mòn trong rừng có nhiều khúc ngoặt, chạy được mấy trượng đã thấy ngã ba, chỉ lưỡng lự một chút, chợt thấy trước mặt xuất hiện năm thiếu nữ áo xanh, người đi đầu bưng một làn hoa, bốn người đi sau lưng giắt bội kiếm.

Thiếu nữ đi đầu hỏi:

– Cốc chủ thỉnh vấn các vị hạ cố đến đây, có gì chỉ giáo?

Dương Quá từ xa nhìn tới, gọi:

– Công Tôn cô nương, là chúng tôi đây mà.

Thiếu nữ ấy chính là Công Tôn Lục Ngạc. Nàng vừa nghe thấy tiếng Dương Quá, liền rảo bước tới, vui mừng nói:

– Dương đại ca, đại ca đã đại công cáo thành rồi phải không? Mau tới gặp mẫu thân của muội đi!

Dương Quá nói:

– Công Tôn cô nương, để huynh dẫn kiến vài vị tiền bối.

Rồi chàng dẫn nàng tới bái kiến Nhất Đăng đại sư, sau đó bái kiến Từ Ân và Hoàng Dung.

Công Tôn Lục Ngạc không biết hắc y tăng nhân trước mặt chính là cữu cữu của mình, nên cũng chẳng để ý, nhưng khi nghe Dương Quá gọi Hoàng Dung là Quách phu nhân, thì biết ngay đây là kẻ thù mà mẫu thân nàng ngày đêm căm hận, Dương Quá chẳng những không giết mụ ta, còn dẫn mụ ta đến đây, thì bất giác cả nghi, lùi lại hai bước, không hành lễ, nói:

– Gia mẫu thỉnh các vị tới đại sảnh dùng trà.

Nàng thầm nghĩ có quá nhiều biến cố, mọi việc hãy để mẫu thân chủ trì, thế là nàng dẫn mọi người tới đại sảnh.

Cầu Thiên Xích ngồi trong sảnh, lên tiếng:

– Lão phu nhân chân tay tàn phế, không thể đón khách, xin được lượng thứ.

Từ Ân trong lòng nhớ muội tử hồi còn là thiếu nữ mười tám tuổi, trắng trẻo dễ thương, thành hôn với Công Tôn Chỉ, bây giờ chỉ thấy trước mắt một bà lão xấu xí, mặt mày nhăn nheo, tóc lưa thưa, thì nao nao trong dạ.

Nhất Đăng đại sư thấy mục quang của Từ Ân có ánh lạ thì không khỏi lo lắng cho y. Đại sư bình sinh giáo hoá được không biết bao nhiêu người, chỉ riêng gã đệ tử này vẫn chưa thể đại triệt đại ngộ, hối ác hành thiện, bởi lẽ y võ công cao thâm, lại từng làm bang chủ một bang, quả là một nhân vật phi thường trong võ lâm, chìm đắm quá sâu, sửa lỗi càng khó vô cùng. Y đã ẩn cư chốn thâm sơn hơn mười năm, sống yên ổn; nay trở lại giang hồ, sự vật trước mắt lại khiến y gợi nhớ dĩ vãng. Tục ngữ có câu “Không nhìn thấy cái mình muốn, tâm không rối loạn”, vừa thấy cái mình muốn, thì tâm càng loạn, nói gì đến chuyện tự tu tự dưỡng? Nhất Đăng đại sư lần này cho Từ Ân đến Tuyệt Tình cốc, cố nhiên để cứu sư đệ là Chu Tử Liễu song cũng là có thâm ý rèn giũa thêm cho y. Cầu Thiên Xích thấy Dương Quá biệt tăm không trở về, tưởng chàng đã bị chất độc phát tác mà chết, đột nhiên thấy chàng tươi cười xuất hiện trước mặt, thì lấy làm lạ hỏi:

– Ngươi vẫn chưa chết ư?

Dương Quá cười đáp:

– Tại hạ đã uống linh dược, giải hết chất độc của các vị rồi.

Cầu Thiên Xích nghĩ: “Hừ, không lẽ trên thế gian còn có linh dược khác trị được chất độc hoa Tình hay sao?” Đột nhiên mụ nghĩ ra, cười khẩy, nói:

– Đừng nói chuyện hoang đường, nếu quả có linh dược khác giải độc, thì Thiên Trúc lão tăng và gã thư sinh Chu Tử Liễu còn đến đây làm gì?

Dương Quá nói:

– Cầu lão tiền bối, Thiên Trúc thần tăng và Chu tiền bối bị nhốt ở chỗ nào vậy? Nay vãn bối đã thân chinh tới đây, xin lão tiền bối hãy thả họ ra!

Cầu Thiên Xích cười gằn, nói:

– Trói hổ dễ, thả hổ khó đấy!

Mụ nói thật, mụ bị tàn phế tứ chi, chỉ dựa vào Ngư võng trận mới bắt được Thiên Trúc cao tăng và Chu Tử Liễu. Nếu đem họ thả ra, Thiên Trúc cao tăng không biết võ công đã đành, chứ Chu Tử Liễu nhất định sẽ báo thù, chúng đệ tử Tuyệt Tình cốc đâu có ai địch nổi Chu Tử Liễu.

Dương Quá nghĩ chỉ cần để Cầu Thiên Xích gặp được huynh trưởng, mọi việc sẽ tốt đẹp, bèn mỉm cười, nói:

– Cầu lão tiền bối, hãy nhìn kỹ xem tại hạ dẫn ai về gặp lão tiền bối nào? Nhất định lão tiền bối sẽ mừng lắm.

Cầu Thiên Xích và huynh trưởng xa nhau đã mấy chục năm, Từ Ân lại ăn mặc như một hòa thượng, mụ tuy biết huynh trưởng đã xuất gia, nhưng trong lòng chỉ nhớ Cầu Thiên Nhẫn là một thanh niên khỏe mạnh nhanh nhẹn, nhất thời làm sao nhận ra hắc y lão tăng là huynh trưởng của mình? Mụ nghe nữ nhi bẩm cáo, chỉ biết kẻ thù giết đại ca là Hoàng Dung đã đến, nên đưa mắt quét cả bọn một lượt, cuối cùng dừng lại ở Hoàng Dung, nghiến răng nói:

– Ngươi là Hoàng Dung! Đại ca ta đã chết bởi tay ngươi!

Dương Quá kinh ngạc, chàng vốn muốn để huynh muội mụ ta gặp nhau, mụ lại nhận ra kẻ thù trước, vội nói:

– Cầu lão tiền bối, việc ấy tạm thời nói sau, lão tiền bối hãy nhìn kỹ xem còn ai nữa nào?

Cầu Thiên Xích quát:

– Chẳng lẽ cả Quách Tĩnh cũng đến hay sao? Càng hay, càng hay!

Cầu Thiên Xích nhìn Võ Tam Thông, lại nhìn Gia Luật Tề, cảm thấy một người thì quá già, một người quá trẻ, đều không phải là Quách Tĩnh, đưa mắt tìm xem Quách Tĩnh đứng đâu, đột nhiên ánh mắt bắt gặp ánh mắt của Từ Ân, bốn mắt nhìn nhau, tâm ý tương thông.Từ Ân bước nhanh tới, gọi:

– Tam muội!

Cầu Thiên Xích cũng gọi to:

– Nhị ca.

Hai người trong lòng có muôn lời, nhưng nhất thời không biết nói gì, lát sau, Cầu Thiên Xích hỏi:

– Nhị ca, sao nhị ca lại đi làm hòa thượng?

Từ Ân hỏi:

– Tam muội, chân tay tam muội sao lại bị tàn phế?

Cầu Thiên Xích đáp:

– Muội bị trúng gian kế của tên gian tặc Công Tôn Chỉ.

Từ Ân kinh ngạc hỏi:

– Công Tôn Chỉ? Chồng của muội ư? Hắn đi đâu rồi?

Cầu Thiên xích tức giận nói:

– Nhị ca còn bảo hắn là chồng của muội nữa ư? Tên gian tặc lang tâm cẩu phế ấy đã ám toán muội.

Từ Ân khó kìm cơn giận, nói to:

– Tên gian tặc ấy đâu rồi? Để ta băm hắn thành muôn mảnh, cho muội bõ tức.

Cầu Thiên Xích lạnh lùng nói:

– Muội tuy bị ám toán song chưa mất mạng, đại ca thì lại bị kẻ khác hại chết.

Từ Ân buồn rầu nói:

– Phải.

Cầu Thiên Xích bỗng gằn giọng, nói:

– Nhị ca bản lĩnh đầy mình, cớ sao đến hôm nay vẫn chưa báo thù cho đại ca? Tình thủ túc để đâu?

Từ Ân giật mình, lẩm bẩm:

– Báo thù cho đại ca? Báo thù cho đại ca?

Cầu Thiên Xích quát:

– Tặc nhân Hoàng Dung đang ở ngay trước mắt, nhị ca hãy giết nó trước, rồi sẽ đi tìm Quách Tĩnh sau.

Từ Ân nhìn Hoàng Dung, dị quang trong mắt chợt mạnh hẳn lên.

Nhất Đăng đại sư thong thả bước đến, dịu giọng nói:

– Từ Ân, người xuất gia sao lại khởi sát niệm? Huống hồ cái chết của huynh trưởng ngươi là do hắn tự chuốc lấy, không nên oán trách người khác.

Từ Ân cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, rồi nói nhỏ:

– Sư phụ nói phải, tam muội, mối thù này không thể báo.

Cầu Thiên Xích trừng mắt nhìn Nhất Đăng đại sư, tức giận nói:

– Lão hòa thượng hồ thuyết bát đạo, nhị ca, họ Cầu ta người người hào kiệt, đại ca bị kẻ khác giết mà nhị ca hoàn toàn bỏ qua, thì có đáng mặt anh hùng hảo hán nữa không?

Từ Ân trong lòng bối rối, lẩm bẩm một mình: “Ta có đáng mặt anh hùng hảo hán nữa không?”

Cầu Thiên Xích nói:

– Đúng thế! Nhị ca năm xưa tung hoành giang hồ, đại danh “Thiết chưởng thủy thượng phiêu” xiết bao uy phong, nào ngờ về già lại biến thành một gã thất phu tham sống sợ chết. Cầu Thiên Nhẫn, muội nói cho nhị ca biết, nhị ca mà không trả thù cho đại ca thì đừng coi ta là muội muội nữa!

Mọi người thấy Cầu Thiên Xích dồn ép như vậy, đều nghĩ: “Mụ già này lợi hại quá chừng!” Hoàng Dung năm xưa từng trúng một chưởng của Cầu Thiên Nhẫn, may được Nhất Đăng đại sư trượng nghĩa cứu giúp mới thoát chết, dĩ nhiên biết Cầu Thiên Nhẫn võ công rất cao cường, lập tức thầm tính mấy cách thoát thân. Quách Phù thì không nhịn được nữa, nói:

– Mẫu thân ta chẳng qua chưa cho mụ biết tay chứ không sợ gì mụ già đâu! Mụ già còn nhiều lời xúc phạm, bổn cô nương sẽ không khách sáo với mụ già nữa đó.

Hoàng Dung định quát con, nhưng nghĩ lại: “Cầu Thiên Nhẫn bị mụ ta nói khích, xem chừng không kìm được, Phù nhi xen vào như thế có thể làm cho y bị phân tâm”. Quách Phù thấy mẫu thân không ngăn cản, lại nói:

– Chúng tôi từ xa đến, đều là khách, mụ đã chẳng tiếp đãi thì chớ, lại còn vô lễ như thế, đừng có mà khoe mẽ anh hùng với chả hảo hán!

Cầu Thiên Xích lẩm bẩm:

– Hay, ngươi là con gái của Quách Tĩnh và Hoàng Dung, ngươi là con gái của Quách Tĩnh và…

Hai chữ “Hoàng Dung” chưa nói ra, bỗng “phụt” một tiếng, một hạt táo cứng từ trong miệng phụt ra, bay nhanh tới mặt Quách Phù. Lúc Cầu Thiên Xích nói “Ngươi là con gái của Quách Tĩnh và…” ai cũng nghĩ mụ sẽ nói tiếp hai tiếng “Hoàng Dung”, nào ngờ mụ lại tròn môi phóng ám khí; điều này hoàn toàn bất ngờ, mà phóng hạt táo lại là thần kỹ của Cầu Thiên Xích, ngay Công Tôn Chỉ võ công cao minh như thế mà còn bị mụ bắn mù mắt phải, Quách Phù đừng nói chống đỡ, ngay việc tránh né cũng không kịp.

Trong đám đông, chỉ có Dương Quá và Tiểu Long Nữ biết Cầu Thiên Xích có thần kỹ kia. Tiểu Long Nữ không ngờ mụ đả thương người khác, Dương Quá thì thời thời khắc khắc đều lưu tâm, luôn luôn chăm chú nhìn mặt Cầu Thiên Xích, thấy môi mụ ta tròn lại, không phải cái kiểu nói hai tiếng “Hoàng Dung”, chàng liền vọt tới, rút thanh kiếm sau lưng Quách Phù, đưa ra gạt. Nghe “cạch” một tiếng, trường kiếm bị hạt táo cứng đánh gãy đôi, một nửa rơi xuống đất.

Mọi người ồ lên kinh hãi, Hoàng Dung và Quách Phù càng sợ tái cả mặt. Hoàng Dung tự trách: “Mình đoán mụ ta tất có thủ đoạn tàn ác, song không thể ngờ mụ ta thân bất động, chân không giơ, tay không vung, đầu không hất, vậy mà lại có thể phóng ám khí ghê gớm đến thế”. Hạt đánh gãy đôi thanh kiếm, kình lực mạnh cỡ đó, người người đều nhìn rõ, cùng nghĩ bụng: “Nếu không có Dương Quá đỡ hộ, Quách Phù còn gì tính mạng nữa chứ? Chàng xuất thủ thần tốc quá chừng!”

Cầu Thiên Xích quắc mắt nhìn Dương Quá, không ngờ chàng dám cả gan cứu người, lạnh lùng nói:

– Hôm nay ngươi lại trúng độc hoa Tình một lần nữa, hiện thời chưa phát tác, nhưng ngươi nhất định sẽ không sống quá ba ngày nữa. Trên thế gian còn có nửa viên thuốc giải độc mà thôi, ngươi chưa chịu tin hay sao?

Dương Quá khi xuất thủ cứu Quách Phù, trong khoảnh khắc ấy làm gì còn thời gian để nghĩ đến chuyện ấy, giờ nghe Cầu Thiên Xích nhắc nhở, không khỏi rùng mình, bèn bước tới, cúi mình sát đất, nói:

– Cầu lão tiền bối, vãn bối chưa đắc tội gì với lão tiền bối, nếu được lão tiền bối ban cho giải dược, suốt đời xin ghi tạc đại đức.

Cầu Thiên Xích nói:

– Ta được nhìn thấy ánh mặt trời, có thể nói cũng là nhờ ngươi cứu ra. Nhưng mụ già này có thù tất báo, chịu ơn chưa chắc đã nhớ. Ngươi đã đáp ứng mang thủ cấp Quách Tĩnh, Hoàng Dung về đây, ta sẽ cho giải dược. Ai ngờ ngươi chẳng những không thực hiện ước hẹn, còn cứu giúp kẻ thù của ta, còn nói cái gì nữa?

Công Tôn Lục Ngạc thấy tình thế gấp rút, nói:

– Mẹ ơi, oán cừu của cữu cữu không liên quan gì đến Dương đại ca. Mẹ… mẹ hãy tỏ ra từ bi một lần đi mẹ.

Cầu Thiên Xích nói:

– Nửa viên thuốc giải độc ấy, ta sẽ ban cho con rể của ta, chẳng thể dễ dàng đem cho người ngoài.

Công Tôn Lục Ngạc nghe vậy đỏ bừng cả mặt.

Quách Phù được Dương Quá cứu mạng, đến lúc này mới tin Dương Quá đầy lòng nghĩa hiệp, quả nhiên không có ý đem muội tử đi đổi lấy giải dược, nghĩ mình toàn làm cho chàng tổn thương, mà chàng thì toàn lấy đức báo oán, bèn nói to:

– Dương đại ca, tiểu muội trước đây toàn nghĩ sai, xin đại ca tha thứ cho.

Nhưng rồi chẳng hiểu vì sao nàng không bỏ được ác cảm với chàng, vừa nói câu kia xong, lại nghĩ: “Ngươi cứu ta, chẳng qua chỉ muốn ta mến phục ngươi, cảm kích ngươi, chứng tỏ ngươi tuy chỉ có một tay vẫn hơn ta đủ hai tay chứ gì?”

Dương Quá mỉm cười, nụ cười có ý cam chịu, chàng nghĩ: “Cô nương nhận lỗi, thật quá dễ, đâu biết ta và Long nhi vì cô nương mà phải gánh chịu bao nhiêu đau khổ.” Chàng thấy Cầu Thiên Xích trừng mắt nhìn mình, rõ ràng nếu không đáp ứng lấy con gái mụ ta, mụ ta quyết không chịu cho nửa viên thuốc giải độc, chàng chưa dứt khoát, sẽ gây khó xử cho Công Tôn Lục Ngạc và Tiểu Long Nữ, bèn nói rành rọt:

– Tại hạ đã có thê tử là Long thị, Dương Quá này thà chết há có thể làm kẻ phụ nghĩa được sao?

Đoạn chàng quay mình, cầm tay Tiểu Long Nữ đi ra cửa, nghĩ: “Các người cứ việc ở đây mà tranh biện với nhau, ta càng dễ đi cứu Thiên Trúc cao tăng và Chu đại thúc”.

Cầu Thiên Xích cười khẩy, nói:

– Được được lắm? Ngươi tự nguyện mất mạng, lão bà này vô can.

Đoạn mụ quay sang phía Từ Ân, nói:

– Nhị ca, nghe nói Hoàng Dung là bang chủ Cái Bang, bang Thiết chưởng của chúng ta không dám đắc tội với nó phải không?

Từ Ân nói:

– Bang Thiết chưởng ư? Đã giải tán từ lâu, làm gì còn bang Thiết chưởng nào nữa?

Cầu Thiên Xích nói:

– Thảo nào, chẳng trách nhị ca không còn chỗ dựa, cho nên lá gan cũng nhỏ đi…

Mụ không ngớt nói khích, Công Tôn Lục Ngạc không nghe mẫu thân nói nữa, chỉ nhìn Dương Quá đang thong thả đi ra khỏi đại sảnh. Nàng đột nhiên chạy đuổi theo, gọi:

– Dương Quá, huynh vô tình vô nghĩa, phụ lòng mong đợi của muội.

Dương Quá ngạc nhiên dừng bước, nghĩ cô nương này vốn giữ lễ đâu ra đó, sao bỗng dưng lại thất thường thế này, chàng lẽ nghe chàng và Long nhi thành hôn, thì khó chịu hay sao? Chàng cảm thấy hơi ngần ngại, ngoái đầu, nói:

– Công Tôn cô nương…

Công Tôn Lục Ngạc mắng:

– Ngươi là tên gian tặc, bổn cô nương sẽ cho ngươi biết, vào đây thì dễ, ra khỏi đây không dễ đâu…

Miệng nàng nói nặng lời, nhưng sắc diện lại dịu dàng, đồng thời liên tiếp nháy mắt với chàng. Dương Quá thấy vậy, đoán có duyên cớ gì đây, cũng giả bộ quát:

– Thì cứ thử coi làm gì nổi ta? Một cái Tuyệt Tình cốc nhỏ hẹp này cũng khó ngăn được người.

Chàng ngoảnh mặt vào phía đại sảnh, Cầu Thiên Xích nhìn thấy rõ, cho nên sắc mặt không dám tỏ vẻ gì khác thường.

Công Tôn Lục Ngạc mắng:

– Bổn cô nương hận không bẻ ngươi làm hai, xem trong ruột ngươi có cái gì…

Nàng tròn miệng thổi ra một hạt táo bay về phía Dương Quá.

Dương Quá giơ tay đón lấy, cười khẩy, nói:

– Cô nương hãy mau quay vào đi, ta không muốn đả thương cô nương, cái thứ ám khí tầm thường này của cô nương mà đòi gây khó dễ với ta ư?

Công Tôn Lục Ngạc nháy mắt, ngụ ý bảo chàng hãy mau đi ra, rồi bỗng ôm mặt, kêu to:

– Mẹ ơi, hắn… hắn khinh người?

Đoạn chạy trở vào. Nàng một phen tương tư hóa thành hư không, ý trung nhân đã kết duyên với người khác, nỗi thương tâm này chẳng giả dối chút nào.

Cầu Thiên Xích thấy nàng nước mắt giàn giụa, bèn quát:

– Ngạc nhi, còn ra thể thống gì nữa? Tên tiểu tử ấy chỉ còn sống được vài ngày nữa thôi.

Công Tôn Lục Ngạc gục đầu vào lòng mẹ, khóc nức nở.

Vở diễn ấy mọi người trong sảnh đều bị mắc lừa, chỉ riêng Hoàng Dung cứ cười thầm trong bụng, nghĩ: “Cô nương giả vờ giận dỗi với Dương Quá, cốt bà mẹ không đề phòng, để thừa cơ lấy trộm giải dược. Không ngờ tên tiểu tử Dương Quá ở nơi nào cũng làm cho các cô nương xinh đẹp phải điêu đứng vì hắn”. Nghĩ đến đó, Hoàng Dung nhìn Trình Anh và Lục Vô Song một cái.

Dương Quá bắt lấy hạt táo, rảo bước ra ngoài, cảm thấy câu nói rất lạ của Công Tôn Lục Ngạc, nhất thời chưa hiểu dụng ý của nàng. Tiểu Long Nữ nhìn sắc diện và ánh mắt của Công Tôn Lục Ngạc, cũng biết lời mắng nhiếc là giả, bèn nói:

– Quá nhi, nàng ta giả bộ giận chàng, nhân lúc bà mẹ không đề phòng, thừa cơ lấy trộm giải dược hay chăng?

Dương Quá nói:

– Hình như là thế.

Hai người qua một chỗ quanh, thấy xung quanh không có ai, mới đưa hạt táo lên xem kỹ, thấy dường như bên trong có chứa vật gì. Chàng bóp nhẹ, hạt táo vỡ đôi, trong rỗng, có nhét một mẩu giấy mỏng vo tròn. Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Lời cô nương ấy là một câu đố, cái gì mà “bẻ ngươi làm hai, xem trong ruột ngươi có cái gì”. Thì ra là vậy!

Dương Quá mở tờ giấy, hai người chụm đầu xem, trên đó viết: “Nửa viên thuốc giải độc mẫu thân cất vào một chỗ bí mật, đang tìm cách lấy trộm tặng huynh. Thiên Trúc cao tăng và Chu tiền bối bị nhốt ở Hỏa hoàn thất”. Bên dưới vẽ địa đồ, thông lộ ngoằn ngoèo, dừng lại ở chỗ đề ba chữ “Hỏa hoàn thất”.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Chúng ta đi mau, giờ chính là lúc không có ai cản trở.

Hồi 31: Nửa viên linh dược

Tuyệt Tình cốc chiếm một diện tích rộng hơn ba vạn mẫu, nằm lọt giữa bốn bề rừng núi, đường đi ngoằn ngoèo, gò đống nhấp nhô; nhưng Dương Quá và Tiểu Long Nữ thi triển khinh công, theo địa đồ mà đi, chẳng mấy chốc đã đến nơi. Trước mặt bảy, tám trượng có mấy cây du lớn sum sê, tán lá đan vào nhau, bên dưới tán lá là một cái nhà hầm lớn xây bằng gạch chịu lửa, theo địa đồ thì đây là Hỏa hoàn thất, nơi nhốt Thiên Trúc cao tăng và Chu Tử Liễu.

Dương Quá nói với Tiểu Long Nữ:

– Long nhi ở đây chờ, ta vào trước xem sao, trong ấy muội than, bụi đất, chắc dơ dáy lắm.

Chàng cúi người chui vào nhà hầm, một luồng hơi nóng phả vào mặt, tiếp đó có tiếng quát hỏi:

– Ai đấy?

Dương Quá nói:

– Cốc chủ có lệnh đến dẫn tù đi.

Người hỏi từ sau bức tường gạch bước ra, hỏi “Cái gì?” Y thấy Dương Quá thì càng kinh ngạc, lắp bắp:

– Công tử… công tử…

Dương Quá thấy y là một đệ tử áo xanh, bèn nói:

– Cốc chủ lệnh cho ta dẫn lão hòa thượng và thư sinh họ Liễu rời khỏi nơi đây.

Gã đệ tử áo xanh biết cốc chủ chính là người được Dương Quá cứu sống, trước mọi người nói muốn gả con gái cho chàng, Công Tôn Lục Ngạc giao hảo với chàng, người này rồi đây hẳn sẽ làm cốc chủ, mình chớ nên đắc tội, gã nói:

– Nhưng… xin cho xem lệnh bài của cốc chủ…

Dương Quá không lý đến, chỉ nói:

– Ngươi mau đưa ta vào coi.

Gã đệ tửáo xanh đáp ứng, quay người đi vào.

Qua bức tường chắn, hơi nóng càng rõ, có hai kẻ đang ôm củi ném vào lò đốt, trời bên ngoài giá lạnh, mà hai gã kia đóng khố cởi trần, mồ hôi nhễ nhại. Gã đệ tử áo xanh đẩy một hòn đá lớn, lộ ra một lỗ hổng nhỏ. Dương Quá ngó vào bên trong, thấy một gian thạch thất chỉ rộng hơn một trượng, Chu Tử Liễu đang ngồi quay mặt vào vách, giơ ngón tay trỏ, vạch vạch các nét trên tường, hẳn là đang ghi lại nhưng lời trăn trối, chỉ thấy cánh tay Chu Tử Liễu lên xuống như múa, tựa hồ cực kỳ đắc ý. Vị Thiên Trúc cao tăng thì nằm dưới nền, không biết sống chết thế nào. Dương Quá gọi:

– Chu đại thúc, mạnh khỏe chứ?

Chu Tử Liễu ngoảnh đầu nhìn ra, cười, đáp:

– Có bằng hữu từ phương xa đến, không vui sao được?

Dương Quá thầm thán phục, nghĩ bụng vị này bị nhốt lâu ngày, mà an nhiên như thường, lâm nạn mà bình thản tự đắc, được cứu cũng không hớn hở, tu luyện đến thế, chàng thật không theo kịp, mới hỏi:

– Lão thần tăng đang ngủ ư?

Chàng hỏi câu đó mà trống ngực đập mạnh, lòng hồi hộp, bởi lẽ tính mạng của Tiểu Long Nữ hoàn toàn trông chờ vào vị thần tăng này. Chu Tử Liễu không đáp, một lát sau mới khẽ thở dài, nói:

– Bản lĩnh chống chọi hàn nhiệt của lão sư thúc vốn hơn hẳn ta, thế nhưng…

Dương Quá nghe ngữ ý, tựa hồ lão thần tăng đã gặp điều bất trắc, lòng thầm sợ hãi, không chờ Chu Tử Liễu nói hết câu, quay sang bảo gã đệ tử áo xanh:

– Mau mở cửa đưa họ ra.

Gã đệ tử áo xanh kinh ngạc, hỏi:

– Chìa khóa đâu? Cốc chủ đích thân cầm chìa khóa. Nếu đã sai công tử đến thả người, sao không đưa chìa khóa cho công tử?

Dương Quá nóng ruột, quát:

– Xê ra!

Chàng vung Huyền thiết trọng kiếm chém một cái, bức tường đá thủng một lỗ to; gã đệ tử áo xanh trố mắt kinh ngạc. Dương Quá chọc ba nhát kiếm, thúc ngang hai nhát, tạo được một lỗ hổng to, vừa cho một người chui qua.

Chu Tử Liễu reo lên:

– Dương huynh đệ, cung hỉ huynh đệ võ công đại tiến!

Rồi cúi xuống xốc lão thần tăng đưa qua lỗ hổng. Dương Quá đưa tay đón lấy, chạm vào cánh tay của lão thần tăng, thấy âm ấm, chàng bớt lo hẳn, nhưng lại thấy hai mắt lão thần tăng nhắm nghiền, nghĩ: “Ôi chao, ở trong cái Hỏa hoàn thất này thì xác chết cũng sẽ ấm nóng”. Chàng vội đưa tay xem hơi thở đằng mũi, cảm thấy vẫn có hơi thở nhè nhẹ. Chu Tử Liễu từ bên trong chui ra, nói:

– Sư thúc bị hôn mê, nhưng không đáng ngại lắm đâu.

Dương Quá đỏ mặt, ngượng thầm. Chàng tự biết mình quan tâm thật sự không phải đến sự sống chết của lão thần tăng, mà là không biết có cứu được vợ mình hay không, chàng hỏi:

– Lão thần tăng bị ngất vì khí nóng chăng? Mau mang ra chỗ thoáng khí mới được.

Rồi chàng ôm lão thần tăng đi ra ngoài.

Tiểu Long Nữ thấy ba người ra thì mừng rỡ lại đón. Dương Quá nói:

– Lấy ít nước mát vẩy lên mặt đại sư.

Chu Tử Liễu nói:

– Không, sư thúc ta bị trúng độc hoa Tình đấy.

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Trúng nặng lắm không?

Chu Tử Liễu nói:

– Ta nghĩ không ngại lắm, là sư thúc tự lấy gai hoa đâm vào mình.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ kinh ngạc, cùng hỏi:

– Sao vậy?

Chu Tử Liễu nói:

– Sư thúc ta bảo, loài hoa này đã sớm tuyệt chủng ở nước Thiên Trúc, không biết sao lại truyền đến Trung Nguyên. Nếu truyền tiếp đi, tai họa sẽ không nhỏ, hồi xưa ở Thiên Trúc đã có vô số người và gia súc bị chết vì trúng độc loài hoa này. Lão thần tăng bình sinh tinh nghiên thuật trị độc, nhưng độc tính hoa Tình quả nhiên quá lạ, khi mới đến sơn cốc này, sư thúc ta đã biết khó lấy được nửa viên linh đan, dẫu có lấy được, cũng chỉ cứu sống một người, nên lão thần tăng thề tìm bằng được bài thuốc giải độc để cứu giúp mọi người. Lão thần tăng lấy thân mình thử độc, phải biết đích xác độc tính hoa Tình thế nào mới có thể phối dược.

Dương Quá vừa kinh ngạc vừa thán phục, nói:

– Phật bảo ta không xuống địa ngục, thì ai chịu xuống? Đại sư muốn cứu người đời mà không ngại đại nạn, thật làm cho người ta khâm ngưỡng.

Chu Tử Liễu nói:

– Theo truyền thuyết, Thần Nông nếm thửhàng trăm loài thảo mộc, tìm thần dược cứu người, do luôn luôn bị trúng độc mà mặt mày xanh lè. Sư thúc của ta cũng có hoài bão như vậy.

Dương Quá gật đầu, nói:

– Đúng thế. Không biết khi nào lão thần tăng sẽ tỉnh lại?

Chu TửLiễu nói:

– Sư thúc ta lấy gai hoa Tình tự đâm vào người, bảo rằng nếu đúng như dự liệu, ba ngày ba đêm sẽ tỉnh lại, tính đến lúc này đã hai ngày đêm rồi.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ nhìn nhau, cùng nghĩ: “Lão thần tăng hôn mê ba ngày ba đêm, trúng độc rất nặng. May mà độc tính của hoa Tình công phạt tùy người, ai có ái tình nam nữ, nó càng phát tác dữ dội. Vị đại hòa thượng này tứ đại giai không, khả năng chống độc cao hơn người thường rất nhiều”.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hai vị ở trong nhà hầm, lấy đâu ra hoa Tình vậy?

Chu Tử Liễu nói:

– Hai ta bị nhốt trong Hỏa hoàn thất, có một cô nương trẻ trung thường ghé thăm…

Tiểu Long Nữ nói:

– Là người lưng dài, mặt trắng, bên mép có nốt ruồi nhỏ phải không?

Chu Tử Liễu nói:

– Đúng vậy.

Tiểu Long Nữ nhìn Dương Quá, cười, nói với Chu Tử Liễu:

– Đó là con gái của cốc chủ, Lục Ngạc cô nương. Nàng ta nghe nói hai vị đến xin giải dược cho Dương Quá, nên đối đãi khác hẳn với hai vị. Trừ việc không dám mở cửa thả hai vị ra, còn hai vị muốn xin thứ gì, nàng ta cũng cho.

Chu Tử Liễu nói:

– Đúng thế. Sư thúc ta xin một cành hoa Tình, ta nhờ nàng gửi thư cầu cứu ra bên ngoài, nàng đều đáp ứng. Hỏa hoàn thất này có qui định mỗi ngày đốt lò một canh giờ, nhờ có nàng bảo người giảm lửa mà hai ta mới không bị hun nóng quá. Ta hỏi nàng là ai, nàng không chịu nói, không ngờ lại là con gái cốc chủ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng vãn bối sở dĩ tìm đến đây, cũng là nhờ cô nương ấy chỉ điểm.

Dương Quá nói:

– Tôn sư Nhất Đăng đại sư cũng đã đến đây.

Chu Tử Liễu cả mừng, nói:

– Ôi, chúng ta đi ra thôi.

Dương Quá hơi cau mày, nói:

– Cả Từ Ân hòa thượng cũng đến, chỉ e sự việc có điều phiền toái.

Chu Tử Liễu nói:

– Cả Từ Ân sư huynh cũng đã đến rồi, thế thì có gì không tốt kia chứ? Huynh muội họ gặp nhau, Cầu cốc chủ không thể không nể tình thân.

Chu Tử Liễu tuy nhập sư môn trước, nhưng Từ Ân về võ công và thân phận trên giang hồ đều ngang vai với Nhất Đăng đại sư, nên bọn Điểm Thương Ngư Ẩn và Chu Tử Liễu kính nể Từ Ân, tôn y làm sư huynh. Chu Tử Liễu nhờ Công Tôn Lục Ngạc gửi thư cầu cứu, là mong Từ Ân cùng đến, để hai nhà hòa hảo, giờ nghe Dương Quá bảo là có điều phiền toái, thì Chu Tử Liễu chưa hiểu vì sao.

Dương Quá kể sơ qua tình hình Từ Ân tâm trí thất thường, Cầu Thiên Xích luôn dùng lời lẽ nói khích Từ Ân. Chu Tử Liễu nói:

– Quách phu nhân giá lâm sơn cốc, thật không gì bằng. Hoàng Dung quyền mưu cơ trí, thiên hạ vô song; huống hồ lại có sư phụ ta chủ trì đại cục, Dương huynh đệ thì võ công đại tinh tiến, tất không thể thua. Ta chỉ lo cho sức khỏe của sư thúc mà thôi.

Dương Quá cũng cảm thấy sự an nguy của Thiên Trúc cao tăng là chuyện hệ trọng nhất, bèn nói:

– Chi bằng hãy tìm một chỗ yên tĩnh, chờ đại sư hồi tỉnh. Vợ chồng vãn bối và Chu đại thúc cùng bảo hộ là được.

Chu Tử Liễu ngẫm nghĩ, nói:

– Tìm chỗ nào bây giờ?

Nghĩ ở Tuyệt Tình cốc này nơi nào cũng ngụy bí, khó bề tĩnh dưỡng, chợt nảy ra một ý, nói:

– Cứ ở ngay chỗ này.

Dương Quá hiểu ý ngay, nói:

– Chu đại thúc nói chí phải, chỗ này tưởng là hung hiểm, kỳ thực lại là nơi yên ổn nhất trong sơn cốc, chỉ cần khống chế mấy gã đệ tử áo xanh canh giữ, không để bọn họ tiết lộ cơ mật là được.

Chu Tử Liễu chỉ chỉ ngón tay, cười nói:

– Việc ấy dễ thôi.

Đoạn ôm lão thần tăng lên, nói:

– Bọn ta ở Hỏa hoàn thất này vững như bàn thạch, nhờ vợ chồng Dương huynh đệ đi giúp sư phụ ta một tay.

Dương Quá nghĩ Nhất Đăng đại sư bị thương chưa khỏi, Từ Ân thiện ác khó lường, nếu mình chỉ lo ở bên cạnh lão thần tăng thì không tránh khỏi tự tư, tâm khó an, thấy Chu Tử Liễu ôm lão thần tăng đi vào trong Hỏa hoàn thất, liền cùng Tiểu Long Nữ trở lại chỗ cũ.

Hai người đi qua một khu vực có rất nhiều bụi hoa Tình, hồi này mùa đông giá rét, hoa Tình cố nhiên không nở, lá cũng rụng hết, trơ lại toàn là cành gai xấu xí.

Dương Quá đột nhiên nhớ đến Lý Mạc Sầu, nói:

– Hoa Tình có mùa trông rất đẹp, mùa này quá xấu, y như sư tỷ của Long nhi vậy. Hoa xuân sớm tàn, gai nhọn đâm chết người.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ước sao lão thần tăng tìm ra phương thuốc chữa được chất độc hoa Tình, không chỉ cứu chàng, mà cứu sống cả sư tỷ.

Dương Quá chỉ thầm mong lão thần tăng trước hết chữa trị chất độc trong nội tạng Tiểu Long Nữ, nếu lão thần tăng sau khi hôn mê không tỉnh lại, thì không biết sẽ thế nào? Chàng nhìn vợ, nhu tình vô hạn, bỗng ngực đau nhói lên một hồi. Chàng biết hôm nay chàng nhảy vào cứu tỷ muội Trình Anh, tái trúng độc hoa Tình nên thế. Chàng sợ Tiểu Long Nữ lo lắng cho chàng, bèn quay đầu nhìn các cành hoa Tình, nghĩ đến niềm sung sướng của tình ý và nỗi đau khổ của sự sinh tử mà ngẩn ngơ hồi lâu.

Lúc này ở đại sảnh của Tuyệt Tình cốc diễn ra một cảnh tượng khác. Cầu Thiên Xích nói khích huynh trưởng, giọng điệu càng lúc càng dữ. Nhất Đăng đại sư không nói một lời, để Từ Ân tự quyết định. Từ Ân lúc nhìn muội tử, lúc nhìn sư phụ, lúc nhìn Hoàng Dung, một người là thủ túc đồng bào, một người là ân sư truyền pháp, một người là kẻ thù sát huynh, trong lòng ân oán cứ khởi phục, thiện ác giao tranh, làm sao dễ dàng quyết định? Bao đại sự trong mấy chục năm từ nhỏ đến lớn, cứ không ngừng trôi qua trong óc, mắt có lúc rưng rưng lệ, miệng có lúc nở nụ cười, cuộc ác chiến diễn ra trong đầu chưa bao giờ dồn dập bằng hôm nay.

Lục Vô Song thấy Dương Quá đi ra ngoài hồi lâu không trở lại, mà tâm ý của Từ Ân như thế nào cũng chẳng can hệ gì đến nàng, bèn khẽ kéo áo Trình Anh một cái, rồi lẳng lặng ra khỏi sảnh. Trình Anh ra theo. Lục Vô Song hỏi:

– Chàng ngốc đi đâu nhỉ?

Trình Anh không trả lời, chỉ nói:

– Chàng bị trúng độc hoa Tình, không biết có nặng lắm không?

Lục Vô Song cũng lo lắng, nói:

– Ôi! Thật không ngờ cuối cùng chàng lại cùng sư phụ của chàng…

Trình Anh nói:

– Long cô nương vừa xinh đẹp, vừa tốt nết, người như thế mới xứng với Dương đại ca.

Lục Vô Song nói:

– Biểu tỷ làm sao biết Long cô nương tốt nết? Đến chuyện cũng chưa nói với nhau vài câu…

Bỗng nghe sau lưng có tiếng nói lạnh lùng:

– Nàng ta chân không thọt, dĩ nhiên là rất tốt.

Lục Vô Song rút phắt diệp liễu đao, quay người lại, thấy người vừa nói chính là Quách Phù. Quách Phù thấy đối phương rút diệp liễu đao, vội rút trường kiếm từ sau lưng Gia Luật Tề, hầm hầm quát:

– Muốn động thủ à?

Lục Vô Song cười hi hi, hỏi:

– Tại sao không dùng kiếm của mình?

Nàng bị thọt chân từ nhỏ, vốn coi đó là đại hận, người khác tránh không nhắc điều đó trước mặt nàng; hôm nay đấu khẩu với Quách Phù, bị Quách Phù mấy lần dùng chữ “thọt” để châm biếm, nàng bèn gợi lại chuyện đối phương mới bị gãy kiếm để trả miếng.

Quách Phù tức giận nói:

– Ta mượn kiếm người khác để lĩnh giáo võ công của ngươi đó.

Đoạn chém nhứ mấy cái, tiếng oăng oăng bất tuyệt. Lục Vô Song nói:

– Không còn ra trên dưới gì hết. Thì ra hài tử Quách gia quen vô lễ với bề trên thế đấy. Được, hôm nay ta sẽ giáo huấn cho ngươi một phen, để ngươi biết phải trái.

Quách Phù nói:

– Hừ, ngươi là bề trên ở chỗ nào?

Lục Vô Song cười, nói:

– Biểu tỷ của ta là sư thúc của ngươi, ngươi không gọi ta là cô cô, thì cũng phải gọi là a di, ngươi thử hỏi biểu tỷ ta xem có đúng thế không!

Đoạn chỉ Trình Anh.

Quách Phù vâng lệnh mẫu thân, đã gọi Trình Anh là “sư thúc”, trong bụng hoàn toàn không phục, thầm trách ông ngoại quá tùy tiện thu nhận ấu đồ; lại nghĩ Trình Anh cùng lứa tuổi với mình, vị tất có bản lĩnh gì, lúc này bị Lục Vô Song giễu cợt, bèn nói:

– Ai biết là thật hay giả. Ông ngoại ta lừng danh thiên hạ, có vô số kẻ vô sỉ vẫn mạo nhận là đồ tử đồ tôn của người đó.

Trình Anh tuy tính nết ôn nhu, nhưng nghe câu nói ấy cũng tức giận; có điều lúc này nàng chỉ lo cho sự an nguy của Dương Quá, không muốn tranh hơn thua, bèn nói:

– Biểu muội, chúng mình đi tìm… đi tìm Dương đại ca thôi.

Lục Vô Song gật đầu, nói với Quách Phù:

– Ngươi nghe rõ rồi chứ? Có đúng sư thúc ngươi gọi ta là biểu muội hay không? Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ lừng danh thiên hạ, có vô số kẻ vô sỉ vẫn mạo nhận là con gái của họ đấy!

Nói đoạn cười hi hi, quay mình đi.

Quách Phù ngẩn người, nghĩ: “Có ai mạo nhận là con gái của cha mẹ ta kia chứ?” Nàng chợt hiểu, kêu “Thôi chết! Nó chửi mình là con hoang, không phải do cha mẹ mình sinh ra”. Hiểu như vậy thì chịu sao nổi? Bèn đuổi theo, đâm một kiếm vào sau lưng Lục Vô Song.

Lục Vô Song nghe tiếng kiếm xé gió, liền vụt đao ra phía sau gạt kiếm. “Keng” một tiếng, cánh tay hơi tê dại. Quách Phù quát:

– Ngươi bảo ta là đồ con hoang phải không?

Trường kiếm liên tiếp tiến chiêu. Lục Vô Song đỡ trái gạt phải, cười khẩy, nói:

– Quách đại hiệp trung hậu, Hoàng bang chủ là nhi nữ của Đào Hoa đảo chủ, phẩm đức của hai vị ấy vô cùng cao siêu…

Quách Phù nói:

– Đừng nói nữa. Chớ có ca tụng cha mẹ ta để lấy lòng ta làm gì.

Quách Phù cho rằng Lục Vô Song thật lòng tán dương cha mẹ mình, thế kiếm đánh ra hơi chậm lại, nào ngờ Lục Vô Song lại nói:

– Còn ngươi, ngươi chém đứt cánh tay của Dương đại ca, chẳng biết phân biệt trắng đen phải trái, làm hại người tốt, hành động như thế đâu có chút gì giống với vợ chồng Quách đại hiệp? Chỉ làm cho người ta nghi ngờ.

Quách Phù hỏi:

– Nghi ngờ cái gì?

Lục Vô Song nói:

– Thì ngươi cứ nghĩ thử xem.

Gia Luật Tề đứng bên cạnh, biết Quách Phù tính ruột ngựa, không linh cơ bằng Lục Vô Song, đấu khẩu tất sẽ thua, mới vài câu Quách Phù đã không đối đáp nổi, bèn nói:

– Quách cô nương, đừng nhiều lời với nàng ta nữa.

Chàng đoán Quách Phù võ công cao hơn Lục Vô Song, cứ động thủ nhất định thắng. Ai ngờ Quách Phù đang tức giận, không rõ dụng ý của chàng, nói:

– Huynh chớ có đa sự, muội phải hỏi cho ra lẽ đã.

Lục Vô Song nhìn Gia Luật Tề, nói:

– Chó cắn Lã Động Tân, có người rồi đây sẽ khốn khổ.

Gia Luật Tề đỏ mặt, thầm nghĩ Lục Vô Song đã nhận biết chàng có tình ý với Quách Phù, câu nói vừa rồi ngụ ý Quách Phù là một vị cô nương ngang ngạnh, sau này chàng sẽ khổ sở vô cùng.

Quách Phù thấy Gia Luật Tề tự nhiên đỏ mặt, thì cả nghi, hỏi:

– Huynh nghi ngờ muội không phải là con gái của cha mẹ muội ư?

Gia Luật Tề nói:

– Không phải, không phải thế, chúng ta đi thôi, đừng chấp họ nữa!

Lục Vô Song cướp lời:

– Dĩ nhiên là chàng ta nghi ngờ rồi, nếu không sao bảo ngươi đi mau?

Quách Phù đỏ bừng cả mặt, tay lăm lăm thanh kiếm, không nói. Gia Luật Tề đành nói thẳng:

– Lục cô nương nói năng châm chọc, muội muốn tỷ võ thì làm luôn, không nên nhiều lời.

Lục Vô Song lại cướp lời:

– Chàng ta bảo ngươi không biết ăn nói, càng nói càng lộ cái ngốc đó.

Hiện thời Quách Phù cũng đã có tình ý với Gia Luật Tề, người ngoài nói động tới ý trung nhân một câu, cũng khiến nàng phải suy nghĩ, nghe Lục Vô Song nói vậy, nàng chỉ lo Gia Luật Tề sẽ coi thường mình. Nàng từ nhỏ được cha mẹ cưng chiều, hai người bạn nhỏ là huynh đệ họ Võ thì nhất nhất nghe lời nàng, trừ Dương Quá ngẫu nhiên đối chọi ra, chưa một ai đấu khẩu với nàng; hôm nay tự dưng gặp một đối thủ quá lợi hại, nàng liên tiếp bị lép vế, cũng biết nói thêm chỉ tổ thua kém, bèn nói:

– Ta không làm cho người thọt nốt cái chân còn lại, thì ta không phải người họ Quách.

Đoạn múa kiếm như gió mà tấn công Lục Vô Song. Lục Vô Song nói:

– Ngươi không cần đả thương chân ta, đã không phải người họ Quách rồi, ai mà biết ngươi họ Trương hay họ Lý?

Như vậy là nàng lại chửi Quách Phù là đứa “con hoang”. Đôi bên đấu nhau kịch liệt. Vợ chồng Quách Tĩnh truyền thụ cho con toàn là võ công thượng thừa. Các môn công phu đó đều phải luyện từ căn cơ, nhất thời không thể tốc thành. Quách Phù về thiên tư ngộ tính thì giống cha chứ không giống mẹ, nên căn cơ tuy vững, võ công lại học chính tông, nhưng hiện thời chưa đến mức hỏa hầu, nhiều ngón sát thủ lợi hại còn chưa sử được; dù vậy, Lục Vô Song cũng không thể địch nổi Quách Phù; hơn nữa chân trái bị thọt, Lục Vô Song tiến thoái kém linh hoạt. Quách Phù giận dữ, chiêu số toàn tấn công hạ bàn, kiếm quang loang loáng, cứ nhắm chân phải đối phương mà đâm.

Trình Anh đứng ngoài nhìn, mày liễu hơi cau, nghĩ: “Biểu muội nhiếc móc người ta tuy cay độc, nhưng Quách cô nương cũng quá ngang ngược, chẳng trách nàng ta chém đứt cả cánh tay Dương đại ca. Cứ đấu nữa, chân phải của biểu muội nguy mất”. Chỉ thấy Lục Vô Song liên tiếp thoái lui, Quách Phù chiêu chiêu dồn ép, bỗng soạt một tiếng, ống quần của Lục Vô Song bị rách một miếng, Lục Vô Song kêu “Úi chao!” nhảy lùi, mặt tái nhợt. Quách Phù sấn tới hai bước, đưa chân gạt ngang. Trình Anh thấy nàng ta đã thắng còn tấn công, Lục Vô Song lâm vào hiểm cảnh, bèn nhảy tới, dang hai tay can, nói:

– Quách cô nương thủ hạ lưu tình.

Quách Phù giơ mũi kiếm lên, thấy có dính máu, biết Lục Vô Song đã bị thương vào chân, đắc ý chỉ mặt đối phương, nói:

– Hôm nay ta giáo huấn ngươi, để từ nay ngươi không dám hồ thuyết bát đạo.

Lục Vô Song bị thương rất đau, tức giận nói:

– Một thanh kiếm của ngươi đòi bịt nổi miệng thiên hạ ư?

Nàng biết Quách Phù ỷ danh tiếng cha mẹ, nên cứ vu cho Quách Phù không phải là con gái của Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Quách Phù quát:

– Miệng thiên hạ bảo sao?

Rồi sấn thêm bước nữa, chĩa mũi kiếm vào ngực Lục Vô Song.

Trình Anh đứng giữa, thấy thanh kiếm chĩa tới, bèn giơ ba ngón tay đẩy nhẹ vào thân kiếm, gạt sang một bên, khuyên:

– Biểu muội, Quách cô nương, chúng ta đang ở nơi nguy hiểm, đừng tranh giành hơn thua vô vị nữa.

Quách Phù đang chĩa kiếm ra, bị Trình Anh tay không đẩy gạt đi, thì vừa ngán vừa tức, quát:

– Muốn giúp kẻ kia phải không? Được lắm, hai người cứ việc liên thủ mà đối phó với một mình ta, ta cũng không sợ, lấy binh khí ra đi!

Nói đoạn chĩa kiếm vào ngực Trình Anh, lăm lăm định đâm, nhưng chờ đối phương rút cây ngọc tiêu sau lưng ra.

Trình Anh cười nhạt, nói:

– Muội khuyên hai vị đừng tranh giành, tự mình lẽ nào lại đi tranh giành hơn thua? Gia Luật huynh, huynh cũng hãy khuyên nhủ Quách cô nương đi.

Gia Luật Tề nói:

– Đúng thế, Quách cô nương, chúng ta đang ở trong sơn cốc do địch nhân kiểm soát, phải rất cẩn thận mới được.

Quách Phù nói:

– A, huynh không giúp muội, lại đi giúp người ngoài phải không?

Nàng thấy Trình Anh nhã nhặn dễ thương, phong thái điềm tĩnh, đột nhiên nghi: “Không chừng chàng thích nàng ta?” Gia Luật Tề không đoán biết Quách Phù nghĩ gì, nói:

– Lão hòa thượng Từ Ân hơi cổ quái, chúng ta phải vào giúp lệnh đường thì hơn.

Lục Vô Song nghe câu nói của Quách Phù, nhìn sắc mặt, lập tức đoán biết tâm sự của nàng ta, liền nói:

– Biểu tỷ của ta tướng mạo xinh đẹp hơn nhà ngươi, nhân phẩm thì ôn nhu hơn, võ công cũng cao hơn hẳn nhà ngươi, nhà ngươi phải cẩn thận mà giữ đấy!

Mỗi lời ấy đều đánh trúng tâm sự của Quách Phù, nàng giật mình, hỏi:

– Ta phải cẩn thận giữ cái gì?

Lục Vô Song cười khẩy, nói:

– Chỉ có kẻ ngốc mới không thích biểu tỷ ta, đi thích nhà ngươi! Nhà ngươi ngang ngược đanh ác, có gì tốt kia chứ?

Ý hai câu này đã quá rõ, Quách Phù chịu sao nổi? Trường kiếm rung động, lách qua Trình Anh mà đâm tới sườn Lục Vô Song.

Chiêu này gọi là “Ngọc lậu thôi ngân tiễn”, là tuyệt kỹ gia truyền do Hoàng Dung dạy cho nàng, mũi kiếm đâm cong đi, thế đi tựa hồ không gấp, nhưng mũi kiếm bao trùm một khoảng rộng, đối phương võ công phải cao cường mới có thể dùng binh khí chống đỡ nổi. Trình Anh cau mày, nghĩ thầm: “Cô nương này sao lại sử dụng chiêu số tàn ác thế? Biểu muội ta dù có lời lẽ đắc tội với ngươi, song cũng đâu phải là tử cừu đại địch mà bất phân khinh trọng, nỡ hạ sát thủ?” May Hoàng Dược Sư cũng dạy cho nàng lộ kiếm pháp này, bèn dồn sức ra ngón tay giữa, búng vào thân kiếm của Quách Phù nghe “tăng” một cái, kiếm bị văng xuống đất.

Cái búng này của Trình Anh tuy là công phu “Đạn chỉ thần thông”, song cách sử kình rất xảo diệu, chỉ vì đã biết rõ trước đường kiếm của đối phương, búng ra đúng lúc, mới có thể biến kình lực của Quách Phù thành hư không, đánh rơi binh khí của nàng ta. Tiếp đó nàng bước tới, chân trái đạp lên thanh kiếm, rút cây ngọc tiêu ra, nhắm đúng huyệt đạo ở eo lưng Quách Phù. Búng kiếm, đạp lên kiếm, rút tiêu chỉ vào huyệt, bốn động tác liền một mạch, Quách Phù bị Trình Anh chiếm mất tiên cơ, quá ngượng ngùng, nếu cúi xuống nhặt kiếm, tất mấy huyệt ở eo lưng sẽ bị điểm, nhưng nếu nhảy lùi né tránh, ắt sẽ bị đối phương đoạt mất thanh kiếm. Nàng võ công không kém, nhưng còn ít kinh nghiệm trận mạc, nhất thời đỏ bừng cả mặt, chưa biết làm thế nào.

Gia Luật Tề kêu lên:

– Ơ kìa cô nương, sao lại đạp lên kiếm của tại hạ thế?

Chàng vươn tay chộp lấy cây tiêu. Trình Anh rụt tay về, quay mình kéo Lục Vô Song bước đi. Quách Phù chộp lấy thanh kiếm, gọi:

– Hãy khoan, phải tỷ thí một phen đã.

Lục Vô Song ngoảnh đầu lại, cười, nói:

– Còn tỷ thí cái…

Trình Anh kẹp tay Lục Vô Song nhảy liền ba bước, hai người đã ra xa vài trượng, Lục Vô Song không thể nói hết câu.

Gia Luật Tề nói:

– Quách cô nương, nàng ta may mắn một chiêu đắc thủ, kỳ thực đôi bên thắng bại chưa phân.

Quách Phù giận dỗi nói:

– Đúng thế, kiếm của muội đang cong, chưa đâm ra, nàng ta đã búng đi. Không ngờ nàng ta trông hiền lành mà xảo quyệt thế.

Gia Luật Tề ừ hữ, tính chàng cương trực, không muốn giả dối lấy lòng, nói:

– Trình cô nương võ công lợi hại, lần sau động thủ với nàng ta, không thể coi thường.

Quách Phù nghe chàng khen Trình Anh thì xịu mặt, không nhịn được, hỏi:

– Huynh bảo nàng ta võ công cao siêu chứ gì?

Gia Luật Tề nói:

– Đúng vậy.

Quách Phù tức giận:

– Thế thì huynh mặc xác muội mà đi theo nàng ta đi.

Nói rồi quay mặt đi. Gia Luật Tề vội nói:

– Huynh khuyên cô nương chớ nên coi thường, phải lưu tâm đối phó, là giúp cô nương hay là giúp nàng ta nào?

Quách Phù nghe giọng nói, biết chàng có ý bênh vực mình, bất giác mỉm cười. Gia Luật Tề nói:

– Huynh đã chẳng giúp cô nương đoạt lại kiếm đó sao? Cô nương còn trách huynh ư?

Quách Phù quay lại, nói:

– Trách huynh, trách huynh đấy!

Miệng nói thế, nhưng vẻ mặt tươi cười.

Gia Luật Tề vui mừng, bỗng nghe trong đại sảnh vọng ra tiếng hổ gầm, tiếng loảng xoảng của xiềng xích. Quách Phù kêu lên:

– Úi chao, mau vào đó xem sao.

Nàng vốn nghe tiếng Cầu Thiên Xích luôn miệng nhắc lại chuyện mấy chục năm trước, không biết rằng mỗi câu đều chứa đựng nguy cơ, càng nghe càng chán, nên mới lẳng lặng bỏ ra ngoài này, tự dưng động thủ với tỷ muội Trình Anh một hồi, bây giờ nghe có âm thanh lạ, mới nhớ đến mẫu thân, vội chạy trở vào.

Chỉ thấy Nhất Đăng đại sư ngồi xếp chân bằng tròn ở giữa sảnh, tay lần tràng hạt, miệng niệm Phật hiệu, sắc diện trang nghiêm hiền từ. Từ Ân hòa thượng đang chạy vòng vòng trong sảnh, chốc chốc gầm lên như tiếng hổ gầm, sợi xích sắt nối hai tay đã bị giật đứt, y cứ liên tiếp vung vung tay khiến sợi xích sắt phát ra tiếng loảng xoảng. Cầu Thiên Xích ngồi một chỗ, sắc diện lạnh lùng; tướng mạo mụ vốn đã khó coi, lúc này trông càng hung dữ đáng sợ. Bọn Hoàng Dung, Võ Tam Thông đứng ở một góc trong sảnh, chăm chú theo dõi hành động của Từ Ân.

Từ Ân chạy một hồi, trán đẫm mồ hôi, từ giữa đỉnh đầu có làn bạch khí bốc lên càng lúc càng đậm, y cũng chạy càng lúc càng nhanh. Nhất Đăng đại sư bỗng quát:

– Từ Ân, Từ Ân, đến giờ ngươi vẫn chưa phân biệt được thiện ác hay sao?

Từ Ân ngẩn người, thân hình lảo đảo, ngã nhào xuống nền.

Cầu Thiên Xích gọi:

– Ngạc nhi, mau đỡ cữu cữu dậy!

Công Tôn Lục Ngạc chạy tới dìu Từ Ân, Từ Ân mở mắt ra, thấy khuôn mặt của Công Tôn Lục Ngạc cách chừng một thước, mơ hồ nhìn lông mày dài, cái miệng nhỏ, tóc mai xanh xanh, đúng là diện mạo muội tử năm xưa, bèn gọi:

– Tam muội, huynh đang ở đâu đây?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Cữu cữu, điệt nhi là Lục Ngạc mà.

Từ Ân lẩm bẩm:

– Cữu cữu ư? Ai là cữu cữu của muội? Tam muội gọi ai thế?

Cầu Thiên Xích gằn giọng:

– Nhị ca, nó là nữ nhi của tam muội mà. Nó muốn nhị ca dẫn nó đi gặp đại cữu cữu đấy.

Từ Ân giật mình, nói:

– Đại ca của ta ư? Ngươi không gặp được đâu, đại ca ta đã ngã từ trên đỉnh Thiết Chưởng phong xuống vực nát thân mất xác rồi.

Nói đoạn bật dậy, chỉ về phía Hoàng Dung, quát:

– Hoàng Dung, đại ca ta là do mi hại chết, mi… mi… mi phải đền mạng!

Quách Phù sau khi chạy vào sảnh, đứng bên mẹ, đón bế muội tử, đột nhiên thấy Từ Ân hung dữ quát tháo mẫu thân, thì không nhịn được, tiến ra mấy bước, nói:

– Hòa thượng, lão còn vô lễ, bổn cô nương sẽ không tha cho lão nữa đâu.

Cầu Thiên Xích cười khẩy, nói:

– Con nhóc kia phải nói là to gan…

Từ Ân nói:

– Ngươi là ai?

Quách Phù đáp:

– Quách đại hiệp là phụ thân, Hoàng bang chủ là mẫu thân của bổn cô nương.

Từ Ân nói:

– Đứa bé ngươi đang ẵm là ai?

Quách Phù đáp:

– Là muội muội của bổn cô nương.

Từ Ân gằn giọng, nói:

– Hừ, Quách Tĩnh, Hoàng Dung, còn thêm hai đứa con này.

Hoàng Dung nghe giọng nói khác thường của Từ Ân thì gọi giật giọng:

– Phù nhi, mau lui ra!

Quách Phù thấy Từ Ân điên điên khùng khùng, nói chán chê cũng chưa động thủ, lại tưởng lão hòa thượng e sợ mẫu thân nàng, nàng chẳng sợ gì lão ta, đã chẳng lùi ra còn tiến thêm một bước, cười, nói:

– Lão có bản lĩnh thì mau báo thù, không có bản lĩnh thì đừng mở miệng nữa!

Từ Ân quát:

– Phải lắm, có bản lĩnh thì mau báo thù!

Tiếng quát của y nghe như tiếng sấm giữa không trung, mấy cái chén uống nước trên bàn kêu lanh canh. Quách Phù không thể ngờ một người lại có thể phát ra âm thanh ghê gớm như vậy, giật mình, chân tay luống cuống, thấy Từ Ân tả chưởng vỗ ra, hữu thủ thành trảo, cùng ập tới, hai luồng cường lực như bài sơn đảo hải, muốn tránh né đã chẳng kịp.

Hoàng Dung, Võ Tam Thông, Gia Luật Tề ba người không hẹn cùng nhào tới. Ba người chăm chú theo dõi, đều thấy đòn trảo tay phải của Từ Ân tuy hung mãnh, nhưng không trí mạng bằng tả chưởng; cho nên cả ba người cùng xuất chưởng đón đánh tả chưởng của y; “bình” một tiếng, bốn luồng chưởng lực đụng nhau.

Từ Ân hộc lên một tiếng, đứng bất động. Bọn Hoàng Dung ba người cùng bật lùi mấy bước. Gia Luật Tề công lực yếu nhất, bật lùi xa nhất, tiếp đến Hoàng Dung. Hoàng Dung đứng chưa vững, đã nhìn nữ nhi, thấy Quách Tương đã bị Từ Ân chộp mất, Quách Phù thì đứng ngây như trời trồng, quên cả tránh né. Hoàng Dung cả kinh, nghĩ: “Không biết Phù nhi có bị thương vì chưởng lực hay chăng?” Liền nhảy tới, tay trái kéo Quách Phù lui ra, tay phải giơ cây Đả cẩu bổng che trước mặt, chỉ cần sử tự quyết chữ “Phong” thì chưởng lực của Từ Ân dù mạnh mấy, nhất thời cũng chưa thể đả thương. Quách Phù thực ra chưa bị thương, nhưng tâm trí hỗn loạn, mãi đến lúc dựa vào người mẹ, mới kêu lên được một tiếng “Ôi”.

Lúc này huynh đệ họ Võ, Gia Luật Tề, Hoàn Nhan Bình thấy Từ Ân cuối cùng đã động thủ thì đều rút binh khí ra. Đám đệ tử của Cầu Thiên Xích cũng dàn ra, chỉ chờ lệnh của cốc chủ sẽ lập tức vây công. Riêng Nhất Đăng đại sư vẫn ngồi giữa sảnh, coi như không thấy diễn biến vừa xảy ra, miệng niệm kinh Phật, giọng không to, nhưng nghe rõ từng lời.

Từ Ân giơ bé Quách Tương lên, nói lớn:

– Đây là nữ nhi của Quách Tĩnh, Hoàng Dung, ta giết nó trước, rồi sẽ giết Hoàng Dung!

Cầu Thiên Xích cả mừng, nói:

– Hảo nhị ca! Thế mới là “Thiết chưởng thủy thượng phiêu” Cầu đại bang chủ anh danh cái thế!

Tình thế lúc này, đừng nói là bọn Hoàng Dung không một ai võ công cao hơn Từ Ân, dẫu có cao hơn y, cũng sợ đánh chuột vỡ vật quí, khó lòng cứu nổi đứa bé khỏi tay kẻ điên điên khùng khùng kia.

Quách Phù đột nhiên gọi to:

– Dương Quá, Dương đại ca, mau đến cứu muội tử của muội với!

Nàng mấy phen gặp đại nạn, đều được Dương Quá xuất kỳ bất ý cứu thoát, lúc này thấy ai ai cũng vô pháp khả thi, trong lòng nàng tự dưng chỉ mong Dương Quá xuất hiện. Nhưng Dương Quá và Tiểu Long Nữ bây giờ đang dắt tay nhau thong thả đi, thưởng ngoạn cảnh tịch dương ở Tuyệt Tình cốc, đâu nghĩ đến tình cảnh chết người trong đại sảnh.

Từ Ân tay phải giơ Quách Tương lên trên dầu, tay trái hộ thân, cười gằn, nói:

– Dương Quá ư? Dương Quá là ai? Bây giờ dẫu Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông cùng đến đây, cũng chỉ có thể lấy mạng ta chứ không cứu nổi đứa bé này.

Nhất Đăng đại sư chậm rãi ngẩng đầu, thấy hai mắt Từ Ân nổi vằn đỏ, đầy sát khí, thì nói:

– Ngươi tìm người ta trả thù, người ta tìm ngươi trả thù, cứ thế biết đến bao giờ?

Từ Ân quát:

– Kẻ nào có gan thì hãy lại đây!

Lúc này trời đã hoàng hôn, mọi người nhìn ra chỉ thấy mông lung, sắc diện của Từ Ân trông càng hung dữ đáng sợ…

Đột nhiên nghe tiếng Hoàng Dung cười hô hố, tiếng cười lúc cao lúc thấp, chẳng khác gì của một kẻ điên. Mọi người bất giác sởn gai ốc. Quách Phù gọi:

– Mẹ ơi!

Võ Tam Thông, Gia Luật Tề cùng gọi:

– Quách phu nhân!

Ai nấy hồi hộp lo sợ, đều nghĩ đứa con sơ sinh của Hoàng Dung rơi vào tay kẻ thù, đã khiến Hoàng Dung thần thái thất thường. Chỉ thấy Hoàng Dung quẳng cây Đả cẩu bổng xuống đất, xõa tóc rũ rượi, tiến lên hai bước, phát ra tiếng cười hố hố, the thé. Quách Phù lại gọi:

– Mẹ ơi!

Đoạn tới kéo tay mẹ. Hoàng Dung hất tay một cái khiến Quách Phù văng ra xa, rồi dang rộng hai tay, vừa cười như điên vừa tiến tới bên Từ Ân. Biến cố này ngay Cầu Thiên Xích cũng bị bất ngờ, cứ trố mắt mà nhìn đầy kinh ngạc. Hoàng Dung dang rộng hai tay, trừng trừng nhìn Từ Ân, la lối:

– Mau đập chết đứa bé cho ta, hãy đánh thật mạnh vào lưng nó, đừng có nhẹ tay

Từ Ân tái mặt, ôm Quách Tương vào lòng, nói:

– Ngươi… ngươi… là ai?

Hoàng Dung cười phá lên, nhào tới. Từ Ân tả chưởng chắn phía trước, nhưng không dám ra đòn, mà lại né sang bên hai bước, hỏi tiếp:

– Ngươi là ai?

Hoàng Dung gầm gừ hỏi:

– Mi quên hết rồi sao? Buổi tối hôm ấy trong hoàng cung nước Đại Lý mi đã túm lấy một đứa bé. Phải rồi, cũng như thế này đây, mi đã hành hạ nó sống dở chết dở; cuối cùng đứa bé phải bỏ mạng… Ta là mẫu thân của đứa bé ấy đây. Mi hãy mau đánh chết đứa bé này, mau đánh chết đứa bé này. Tại sao còn chưa hạ thủ?

Từ Ân nghe đến đây thì toàn thân run rẩy, sự việc mấy mươi năm trước chợt hiện về.

Năm ấy y đả thương hài tử của Lưu quý phi nước Đại Lý, đòi Nam Đế Đoàn Hoàng gia tốn mấy năm chữa trị, song Đoàn Hoàng gia nhẫn tâm không chữa, đứa bé cuối cùng bị chết. Sau đó Lưu quý phi Anh Cô hai phen gặp Từ Ân, lần nào cũng như con hổ điên lao vào cắn xé để cùng chết với y. Từ Ân tuy võ công cao cường song không dám chống cự, chỉ ôm đầu chạy trốn. Hoàng Dung năm nọ ở bãi Thanh Long và trên đỉnh Hoa Sơn hai phen chứng kiến Anh Cô cười như điên, tóc rũ rượi thế nào, biết tâm bệnh lớn nhất trong đời của Từ Ân, nay thấy y giơ bé Quách Tương lên, không thể làm gì ngoài việc mạo hiểm giả điên, bảo y mau đánh chết Quách Tương. Võ Tam Thông, Cầu Thiên Xích và bọn Gia Luật Tề đều tưởng Hoàng Dung điên thật, mới nói năng như thế. Chỉ riêng Nhất Đăng đại sư thầm thán phục Hoàng Dung đại trí đại dũng, nghĩ rằng bậc tu mi nam tử cũng chưa chắc có được đảm thức như thế; dẫu có ai nghĩ ra được cách này, thì câu “mau đánh chết đứa bé này” cũng không dám thốt ra. Nhìn Từ Ân oán khí xung thiên, hung hãn dữ tợn thế kia, y chỉ giáng nhẹ một chưởng, Quách Tương cũng bỏ mạng tức thời.

Từ Ân nhìn Hoàng Dung, lại nhìn Nhất Đăng đại sư rồi nhìn đứa bé mình đang ẵm, đột nhiên vô cùng đau đớn và hối hận, nghẹn ngào nói:

– Chết rồi! Bé chết rồi! Một đứa bé kháu khỉnh đã bị ta đánh chết rồi!

Đoạn thong thả đến trước mặt Hoàng Dung, trao đứa bé cho Hoàng Dung, nói:

– Đứa bé này là vì ta mà chết, ngươi hãy đánh chết ta đi!

Hoàng Dung cả mừng, giơ tay định đón, bỗng nghe Nhất Đăng đại sư quát:

– Oan oan tương báo, bao giờ mới ngừng? Con dao trong tay, bao giờ mới ném đi?

Từ Ân giật mình, buông tay, Quách Tương rơi thẳng xuống đất.

Không đợi Quách Tương chạm đất, Hoàng Dung giơ chân phải hất đứa bé bay ra ngoài, đồng thời cười như điên, nói:

– Mi đã bóp chết đứa bé, hay lắm, hay lắm!

Cái hất chân tưởng là dùng lực, thật ra chỉ chạm nhẹ vào lưng Quách Tương, rồi đưa nhẹ ra phía ngoài. Hoàng Dung biết đây là khoảnh khắc khẩn yếu, nếu mình cúi xuống bế con lên, tâm thần của Từ Ân rất có thể sẽ thay đổi.

Quách Tương bay về phía Gia Luật Tề. Chàng giơ tay đón, thấy đôi mắt đen láy của bé Quách Tương mở thao láo, cái miệng nhỏ há ra sắp khóc, hoàn toàn sống động, không có vẻ tổn thương mảy may, thì chàng sững sờ, lập tức hiểu rằng Hoàng Dung biết Quách Phù thô thiển, mới hất ấu nữ về phía chàng, vội giơ tay ấp nhẹ lên miệng đứa bé để nó khỏi khóc, rồi cũng kêu to:

– Ôi, đứa bé bị lão hòa thượng đánh chết rồi!

Từ Ân mặt xám ngoét, trong giây lát đại triệt đại ngộ, hướng về phía Nhất Đăng đại sư chắp tay cúi mình, nói:

– Đa tạ sư phụ điểm hóa!

Nhất Đăng đại sư đáp lễ, nói:

– Cung hỉ hòa thượng cuối cùng đắc đạo!

Hai người nhìn nhau mỉm cười, rồi Từ Ân đi thẳng ra ngoài. Cầu Thiên Xích gọi to:

– Nhị ca, nhị ca, mau quay trở lại!

Từ Ân ngoảnh đầu, nói:

– Muội bảo ta quay trở lại, ta cũng khuyên muội hãy quay trở lại!

Đoạn phất tay áo, ung dung bước ra khỏi sảnh.

Nhất Đăng đại sư cả mừng, nói:

– Hảo, hảo, hảo!

Rồi lùi vào một góc sảnh, cúi đầu, lim dim mắt, im lặng.

Hoàng Dung vấn lại tóc. Gia Luật Tề bế Quách Tương. Quách Phù thấy mẫu thân và muội tử không việc gì vừa kinh ngạc vừa vui mừng, sà vào lòng mẹ, nói:

– Mẹ, con cứ tưởng mẹ phát điên thật cơ đấy!

Hoàng Dung đến trước mặt Nhất Đăng đại sư hành lễ, nói:

– Điệt nữ không còn cách nào khác, đành gợi chuyện cũ, xin đại sư lượng thứ.

Nhất Đăng đại sư mỉm cười, nói:

– Dung nhi, Dung nhi, đúng là một Gia Cát Lượng trong hàng nữ lưu!

Trong đại sảnh, hình như chỉ một mình Võ Tam Thông biết chuyện cũ thế nào, những người còn lại đều ngơ ngác nhìn nhau.

Cầu Thiên Xích thấy sự việc diễn biến đến bước này, nhìn theo bóng huynh trưởng đã đi khuất, nghĩ kiếp này sẽ không còn dịp gặp lại, bất giác se lòng, nghĩ đến câu “Muội bảo ta quay trở lại, ta cũng khuyên muội hãy quay trở lại” tựa hồ huynh trưởng khuyên mụ ngoảnh lại là bờ, thì trong lòng vừa rầu rĩ, vừa hối hận; nhưng sự hối hận thoáng qua rất nhanh, mụ gằn giọng nói:

– Các vị hãy chờ ở đây, lão bà tử còn bận việc khác.

Hoàng Dung nói:

– Hãy khoan! Hôm nay chúng tôi đến đây là để cầu Tuyệt Tình đơn…

Cầu Thiên Xích gật đầu với đám đệ tử hầu cận. Đám đệ tử nhất tề hô hoán, mỗi cửa ra vào lập tức có bốn đệ tử áo xanh giơ cao tấm lưới gắn dao sắc xuất hiện chắn giữ. Bốn thị nữ khiêng chiếc ghế luôn cả Cầu Thiên Xích đi vào trong nội đường.

Bọn Hoàng Dung, Võ Tam Thông, Gia Luật Tề thấy thanh thế ngư võng trận thì kinh hãi, nghĩ: “Ngư võng trận lợi hại đây, không biết phá bằng cách gì?” Còn đang do dự, thì cửa trước cửa sau của đại sảnh đều đóng sập cả lại, các đệ tử áo xanh đều rút ra. Huynh đệ họ Võ cầm kiếm xông ra theo, hai cánh cửa đóng sập lại, hai thanh kiếm của họ bị kẹp lại, cùng gãy, thì ra cánh cửa đúc bằng sắt. Hoàng Dung nói nhỏ:

– Đừng cuống! Ra khỏi sảnh không khó, nhưng chúng ta phải nghĩ cách phá các tấm lưới gắn dao nhọn và lấy trộm thuốc giải độc.

Công Tôn Lục Ngạc theo mẫu thân đi vào nội đường, hỏi:

– Mẹ, làm thế nào bây giờ?

Cầu Thiên Xích thấy huynh trưởng đã bỏ đi, các hảo thủ đối phương tụ tập, quả là bế tắc, nhưng đại cừu nhân sát huynh đã tới, quyết không thể khuất phục hoặc cho qua, ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Ngươi ra ngoài coi Dương Quá và ba thiếu nữ đang làm gì.

Câu này chính hợp tâm ý của Công Tôn Lục Ngạc, nàng gật đầu đáp ứng, liền đi tới Hỏa hoàn thất.

Đi được nửa đường, nghe phía trước có người nói chuyện, chính là giọng của Dương Quá, rồi tiếng Tiểu Long Nữ đáp lại, hình như có bốn chữ “Công Tôn cô nương”. Lúc này trời đã tối sẫm, Công Tôn Lục Ngạc liền nấp vào một bụi liễu bên đường, nghĩ: “Không biết nàng ta nói gì về mình?” Nàng rón rén tới gần, thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ đứng kề vai nhau, nghe Dương Quá nói:

– Nàng bảo việc này hoàn toàn nhờ sự lo liệu chu đáo của Công Tôn cô nương là đúng lắm. Chỉ mong lão thần tăng chóng tỉnh lại, mọi người xóa bỏ oán thù, giải hết tà độc thì hay biết mấy! Úi chao!

Hai tiếng “Úi chao!” thốt lên bất ngờ, Lục Ngạc giật mình, không biết Dương Quá gặp chuyện kỳ quái gì.

Nàng quan hoài, thò cổ nhìn ra, trong bóng tối mờ mờ chỉ thấy Dương Quá ngã xuống, Tiểu Long Nữ cúi nắm lấy tay trái chàng mà đỡ dậy. Lưng Dương Quá rung rung, hình như chàng đang cố nhịn đau. Tiểu Long Nữ nói nhỏ:

– Chất độc hoa Tình phát tác phải không?

Dương Quá chỉ ậm ừ, vì đang nghiến răng nhịn đau. Công Tôn Lục Ngạc thương tình, nghĩ: “Chàng đã uống nửa viên đơn dược rồi, uống nốt nửa viên còn lại sẽ giải hết độc. Nửa viên còn lại, nhất định mình phải xin mẹ cho chàng bằng được”.

Lát sau, Dương Quá đứng thẳng dậy, thở dài. Tiểu Long Nữ nói:

– Khoảng cách giữa hai lần phát tác càng lúc càng ngắn, cơn đau càng lúc càng dữ hơn. Vị thần tăng còn phải một ngày nữa mới tỉnh, cứ coi như có thể chế được bài thuốc giải độc, cũng vị tất… cũng vị tất… Chàng khổ sở thế này…

Nàng định nói “Cũng vị tất cứu kịp”, nhưng nàng nói chệch đi. Dương Quá gượng cười, nói:

– Công Tôn lão thái thái tính tình cố chấp quá, thuốc giải đem cất giấu quá kỹ; nếu lão thái thái không tự nguyện đưa cho, thì dù có giết sạch mọi người trong sơn cốc, kề gươm vào cổ, lão bà cũng chả chịu đưa ra.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thế mà thiếp có cách đấy.

Dương Quá đoán biết tâm ý của nàng, nói:

– Long nhi, nàng đừng nhắc chuyện ấy nữa. Thâm tình của vợ chồng ta nếu được đến khi đầu bạc răng long, dĩ nhiên nhờ ơn trời đất; nếu có bất trắc, cũng do số mệnh cả thôi. Nhất định không để cho người thứ ba xen vào giữa đôi ta.

Tiểu Long Nữ nghẹn ngào nói:

– Thiếp thấy Công Tôn cô nương… rất tốt, chàng hãy nghe lời thiếp!

Công Tôn Lục Ngạc chấn động, biết Tiểu Long Nữ khuyên Dương Quá lấy mình, để có được nửa viên thuốc cứu mạng. Chỉ nghe Dương Quá cười, nói:

– Công Tôn cô nương dĩ nhiên rất tốt. Thực ra, các thiếu nữ tốt trong thiên hạ đâu có ít? Trình Anh cô nương, Lục Vô Song cô nương cũng là những người nặng tình trọng nghĩa. Có điều là đôi ta hai lòng như một, làm sao có thể nghĩ khác? Nàng hãy thử đặt mình vào địa vị ta xem, nếu có một nam nhân có thể giải độc trong người nàng, chỉ cần nàng chịu lấy hắn, vậy nàng có chịu hay không nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp là nữ, phải khác.

Dương Quá cười, nói:

– Người ta trọng nam khinh nữ, Dương Quá ta trọng nữ khinh nam…

Bỗng có tiếng động trong bụi cây sau lưng, Dương Quá hỏi:

– Ai đó?

Công Tôn Lục Ngạc tưởng chàng phát hiện ra mình, đang định lên tiếng trả lời, bỗng nghe một giọng nữ đáp:

– Chàng Ngốc, là muội đây!

Chỉ thấy Lục Vô Song và Trình Anh từ con đường mòn sau bụi cây đi ra. Công Tôn Lục Ngạc thừa cơ lặng lẽ thoái lui, trong óc ngổn ngang bao ý nghĩ: “Đừng nói Long cô nương, ngay cả Trình, Lục nhị vị cô nương, phẩm mạo và võ công đều hơn ta, lại từng quen biết chàng từ trước, ta làm sao sánh nổi?” Từ khi gặp Dương Quá, nàng nhất mực có thâm tình với chàng, tuy biết chàng tình nghĩa sâu nặng với Tiểu Long Nữ, song vẫn nghĩ hai gái có thể chung một chồng, giờ nghe vợ chồng họ trò chuyện với nhau, thì biết mình đã không còn hi vọng gì nữa. Nàng từ nhỏ đã không có mấy ngày vui, hôm nay mọi hi vọng đều tiêu tan, nàng quyết ý không thiết sống nữa, thong thả đi về phía tây.

Công Tôn Lục Ngạc mặc cho bước chân đưa đến đâu thì đưa, trong óc chỉ có một ý nghĩ: “Ta không thiết sống nữa, ta không thiết sống nữa!”

Cũng không biết đi bao nhiêu lâu, từ sườn núi trước mặt văng vẳng vọng tới tiếng người nói. Công Tôn Lục Ngạc dỏng tai nghe, bất giác giật mình, nguyên trong lúc thần hồn điên đảo, nàng tha thẩn thế nào lại đi đến một chỗ hiếm ai trong cốc lai vãng, ngẩng đầu lên, thấy một ngọn núi cao ngất trời, chính là Tuyệt Tình phong, một nơi tuyệt hiểm trong Tuyệt Tình cốc.

Lưng chừng Tuyệt Tình phong có một sườn núi, không biết từ thời nào có người khắc ở đó ba chữ “Đoạn Trường nhai”. Từ chỗ này lên trên, mấy chục trượng nhẵn thín không một ngọn cỏ, quanh năm mây mù bao phủ, gió thổi lồng lộng, ngay chim chóc cũng không con nào đậu lại trên đỉnh núi. Dưới sườn núi là vực sâu thăm thẳm, nhìn không thấy đáy. Trước sau “Đoạn Trường nhai” phong cảnh thanh u, chỉ vì địa thế quá hiểm, sơn thạch trơn trượt, rất dễ rơi xuống vực, cho nên cư dân trong cốc không dám bén mảng, những đệ tử áo xanh giỏi võ công cũng ít ai lui tới, không hiểu ai lại lên đó mà chuyện trò vậy?

Công Tôn Lục Ngạc đang chỉ nghĩ đến cái chết, chợt nổi tính hiếu kỳ, bèn nấp sau một tảng đá mà nghe trộm, vừa nghe chợt giật mình, trống ngực đập dồn, thì ra người đang nói là phụ thân nàng. Công Tôn Chỉ tuy có tội với mẫu thân nàng, đối với nàng cũng tàn nhẫn vô tình, nhưng mẫu thân nàng bắn hạt táo làm mù một con mắt của y, lại đuổi y ra khỏi Tuyệt Tình cốc, Lục Ngạc nghĩ đến tình cha con, vẫn luôn luôn thương nhớ, lúc này đột nhiên nghe thấy giọng nói quen thuộc, nàng mới biết phụ thân hoàn toàn không rời khỏi Tuyệt Tình cốc mà trốn ở chốn không ai lai vãng này, nàng cũng mừng thầm cho cha.

Chỉ nghe Công Tôn Chỉ nói:

– Đạo cô bị thương khắp người, ta thì mất một mắt, đều là do tên tiểu tử Dương Quá mà ra, hai ta chẳng những có chung kẻ thù, mà còn đồng bệnh tương liên.

Y nói rồi cười, không thấy đối phương hồi đáp. Công Tôn Lục Ngạc lấy làm lạ, không biết phụ thân trò chuyện với ai thế nhỉ? Chỉ biết chắc chắn người kia là nữ nhân.

Công Tôn Chỉ lại nói:

– Hai ta gặp nhau chốn vắng vẻ không vết chân người này, có thể nói là ý trời, đúng là “hữu duyên thiên lý lai tương hội”.

Người kia “hừ” một tiếng, nói:

– Toàn thân bần đạo bị thương vì gai hoa Tình, các hạ chẳng quan tâm gì cả, toàn nói những chuyện trăng gió đâu đâu.

Công Tôn Lục Ngạc nghĩ: “Ồ, thì ra là Lý Mạc Sầu, kẻ sáng nay đã xông vào trong cốc”. Nghe Công Tôn Chỉ vội nói:

– Không, không phải thế, sao ta lại chẳng quan tâm kia chứ? Tất nhiên ta sẽ tìm mọi cách cứu chữa. Cái đau trên thân thể đạo cô cũng là cái đau trong lòng ta đó.

Người đang nói chuyện với Công Tôn Chỉ chính là Lý Mạc Sầu. Mụ bị trúng độc hoa Tình, gai đâm khắp người, trúng độc quả không nhẹ, may mà lòng mụ chứa đầy căm hận, oán trời ghét người, không động tình nam nữ cho nên thân thể đỡ bị đau đớn, song mụ biết chất độc hoa Tình lợi hại, vội đi tìm thuốc giải, không thông thuộc lối đi trong cốc, mụ cứ chạy loạn lên, cuối cùng đến trước Đoạn Trường nhai. Công Tôn Chỉ ở đây từ lâu, cố trốn tránh người trong cốc, chờ cơ hội giết chết Cầu Thiên Xích, rồi đoạt lại địa vị cốc chủ. Hai người từng giao đấu với nhau, biết đối phương võ công cao cường, lần này gặp nhau đều nghĩ: “Mình đang có chuyện cần đến đối phương”, chỉ sau vài câu đã thấy hợp nhau.

Công Tôn Chỉ sau lần Nhu nhi mà hắn si mê bị chết, hắn chuyên tâm luyện võ, không để ý đến nữ sắc, nhưng từ hôm định thành hôn với Tiểu Long Nữ không thành, tình dục mà y kìm nén đã lâu đột nhiên trào ra như đê vỡ, không thể thu thập, đường đường một đại cao thủ võ học như hắn mà lại xuất thủ cưỡng đoạt Hoàn Nhan Bình, đã chẳng khác gì hạng hạ lưu chốn giang hồ, bây giờ giải cấu tương phùng với Lý Mạc Sầu, hắn thấy mụ dung nhan mỹ lệ, thì liền nghĩ: “Sau khi giết mụ ác phụ Cầu Thiên Xích, ta sẽ lấy vị đạo cô này, dung mạo lẫn võ công, nàng ta đều xứng với ta”. Hắn đâu ngờ Lý Mạc Sầu tâm địa độc ác, vốn bị thất tình mà sinh ác nghiệt, giờ nghe Công Tôn Chỉ lời lẽ càng lúc càng lả lơi thì bực tức, nhưng vì cần tìm giải dược, mụ đành miễn cường đối đáp.

Công Tôn Chỉ nói:

– Ta là cốc chủ, phép phối chế thuốc giải độc hoa Tình, thiên hạ trừ ta ra, không có người thứ hai nào biết. Có điều là thời gian phối chế khá lâu, nước xa không cứu được lửa gần, may mà trong cốc còn một viên thuốc giải, đang ở trong tay ác phụ. Hai ta chỉ cần giết mụ ta đi, thì tất cả sẽ đều là của đạo cô.

Câu cuối cùng có hai ngụ ý: không chỉ lấy thuốc giải cho Lý Mạc Sầu, mà địa vị bà chủ sơn cốc cũng sẽ thuộc về mụ. Thiên hạ chỉ có một mình hắn biết phép phối chế thuốc giải độc hoa Tình, câu này không sai, hoa Tình mọc ở đây đã lâu năm, tổ tiên mấy đời trước của Công Tôn Chỉ đã không ít người bị mất mạng, mới chế ra được bài thuốc giải độc, vì hoa Tình có công ngăn cản người ngoài xâm nhập sơn cốc, nên không phá bỏ nó; còn bài thuốc giải độc thì chỉ bí truyền từ đời cha sang đời con, không lộ cho người ngoài. Ngay Cầu Thiên Xích cũng chỉ biết thuốc giải là do đời trước để lại, bài thuốc đã thất truyền. Nhưng Cầu Thiên Xích chỉ còn giữ nửa viên thuốc, thì Công Tôn Chỉ không biết.

Lý Mạc Sầu trầm ngâm, nói:

– Các hạ biết phép chế thuốc thì cũng vô dụng. Thuốc giải độc đang ở trong tay tôn phu nhân, mà tôn phu nhân lại hận thù các hạ, việc giết tôn phu nhân không khó, nhưng làm sao lấy được viên thuốc giải kia?

Công Tôn Chỉ lưỡng lự chưa đáp, một lát sau mới nói:

– Lý đạo hữu, hai ta vừa gặp đã hợp duyên, ta dẫu chết cũng không tiếc.

Lý Mạc Sầu lạnh lùng nói:

– Điều đó bần đạo không dám nhận.

Công Tôn Chỉ nói:

– Ta có một kế, có thể đoạt lấy viên thuốc giải độc từ tay ác phụ, nhưng mong đạo hữu đáp ứng cho một việc.

Lý Mạc Sầu nói:

– Bần đạo cả đời xông pha giang hồ, một mình đây đó, chưa từng bị ai khống chế. Thuốc giải độc các hạ chịu cho thì nhận, không thì thôi. Lý Mạc Sầu ta há phải cầu xin lòng thương hại của kẻ khác?

Công Tôn Chỉ võ công tuy cao cường, nhưng suốt đời sống trong u cốc, không biết đến các nhân vật tối lợi hại trong giang hồ, dù có nghe qua, cũng chỉ là qua lời kể của Cầu Thiên Xích mà thôi. Mười năm nay danh tiếng lừng lẫy của Lý Mạc Sầu thế nào, võ lâm ai cũng biết mụ diện mạo đẹp như đào mận, tâm địa thì như rắn độc, song Công Tôn Chỉ thì lại không biết, nghe mụ nói mấy câu khí khái, hắn càng mừng rỡ, nói:

– Lý đạo hữu hiểu lầm ý ta rồi. Ta chỉ mong chiều lòng đạo hữu còn chưa được, đời nào lại khống chế đạo hữu? Chỉ có điều là muốn lấy được Tuyệt Tình đơn, con gái của ta khó tránh khỏi phải mất mạng, cho nên ta mới nói vậy thôi.

Công Tôn Lục Ngạc nấp sau tảng đá, nghe câu “con gái của ta khó tránh khỏi phải mất mạng” thì bất giác giật mình.

Lý Mạc Sầu cũng lấy làm lạ, hỏi:

– Giải dược ở trong tay lệnh ái ư?

Công Tôn Chỉ nói:

– Không phải thế, ta nói thật với đạo hữu vậy! Mụ ác phụ tính nết cố chấp, giải dược tất bị mụ ta giấu ở một chỗ bí mật, không thể cưỡng bức mụ ta lấy ra, chỉ có một cách dụ mụ mà thôi.

Lý Mạc Sầu gật đầu nói:

– Đúng vậy.

Công Tôn Chỉ nói:

– Mụ ác phụ ấy đối với hết thảy mọi người đều vô tình vô nghĩa, không từ mọi việc tàn ác; duy đối với đứa con gái độc nhất thì mụ ta thương yêu nhất mực. Hai ta lợi dụng điểm này, ta sẽ đi dụ con gái ta là Lục Ngạc tới, đạo hữu hãy bắt nó, quẳng vào bụi hoa Tình. Như thế mụ ác phụ sẽ không thể không đưa giải dược ra cứu con gái. Hai ta chỉ việc đoạt lấy là xong. Tiếc rằng Tuyệt Tình đơn trên đời chỉ còn có một viên duy nhất, đã dành cho đạo hữu, tất con gái ta phải mất mạng.

Lý Mạc Sầu ngẫm nghĩ, nói:

– Chúng ta cũng đâu cần quẳng lệnh ái vào bụi hoa Tình, chỉ cần làm giả như nó bị trúng độc, vừa lấy được giải dược, vừa bảo toàn tính mạng cho nó.

Công Tôn Chỉ thở dài, nói:

– Mụ ác phụ ấy khôn ngoan lắm, con gái ta làm giả như nó bị trúng độc, không che mắt nổi mụ ta đâu!

Nói đến đây, giọng hắn nghẹn ngào, như thể xúc động lắm. Lý Mạc Sầu nói:

– Để cứu mạng bần đạo, phải sát hại lệnh ái, bần đạo sao nỡ? Xem ra các hạ cũng không nỡ. Thôi, đừng tính việc ấy nữa.

Công Tôn Chỉ vội nói:

– Không, không, ta tuy không nỡ với nó, nhưng càng không nỡ đối với đạo hữu.

Lý Mạc Sầu im lặng, nghĩ trừ cách đó, cũng không có cách nào khác. Công Tôn Chỉ nói:

– Hai ta chờ đến nửa đêm, ta sẽ đi gọi Lục Ngạc tới, nó dẫu mười phần lanh lợi cũng không thể ngờ mưu kế này của phụ thân nó.

Hai người đối đáp với nhau như thế, Công Tôn Lục Ngạc nghe rõ từng câu, càng nghĩ càng kinh hãi. Hôm Công Tôn Chỉ đẩy nàng cùng Dương Quá xuống hồ cá sấu, nàng đã biết phụ thân không có chút gì gọi là tình cha con; nhưng bấy giờ còn có thể bảo là do nóng giận nhất thời; chứ hôm nay đã suy tính kỹ, quyết hại chết thân sinh nữ nhi để lấy lòng một nữ nhân mới gặp, thì tâm địa tàn bạo thật hơn cả sói lang. Công Tôn Lục Ngạc vốn chẳng thiết sống nữa, nhưng nghe hai người tính kế hại nàng, nàng bất giác tìm cách trốn đi; may nơi này cây cối rậm rạp, vách núi hiểm trở, có nhiều chỗ tránh, nàng bèn lẳng lặng lùi dần từng bước một, khi đã cách xa mấy chục trượng, nàng mới quay mình rảo bước.

Công Tôn Lục Ngạc đi nửa canh giờ, cách Tuyệt Tình phong đã xa, biết phụ thân không lâu nữa sẽ đến dụ mình, nàng không dám trở về phòng ngủ, buồn bã ngồi trên một tảng đá, gió rét cắt da, trăng lạnh vô tình, cảm thấy thế gian thật không có gì lưu luyến, nàng lẩm bẩm một mình: “Ta vốn chẳng thiết sống nữa, cha ơi, hà tất cha còn dùng độc kế giết hại con? Cha muốn con chết thì cứ việc làm đi. Lạ thật, sao ta lại phải chạy trốn kia chứ?”

Đột nhiên một ý nghĩ vụt lóe lên như tia chớp: “Cha ta dụng tâm tàn ác, nhưng kế đó quả nhiên rất hay. Ta đã muốn chết, sao không dùng kế ấy lừa lấy linh đơn của mẫu thân, đem đi cứu mạng Dương đại ca? Phu thê chàng được đoàn viên, nhất định sẽ cảm kích Lục Ngạc cô nương khốn khổ này”. Nghĩ đến đây nàng vừa mừng vừa đau đớn, song cảm thấy phấn chấn, nhìn quanh xác định mình đang ở đâu, rồi đi về phòng của mẫu thân.

Khi đi ngang qua một bụi hoa Tình, nàng bẻ hai cành, cầm theo, đến cửa phòng mẹ, gọi khẽ:

– Mẹ ơi, mẹ đã ngủ chưa?

Cầu Thiên Xích ở bên trong đáp:

– Ngạc nhi, có chuyện gì vậy?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Mẹ, mẹ ơi, hài nhi bị trúng độc hoa Tình rồi.

Đoạn dang tay ôm chặt lấy hai cành hoa Tình.

Hàng trăm gai nhọn của cành hoa Tình đâm vào cơ thể nàng. Nàng từ nhỏ đã được căn dặn, nhất thiết không được để gai hoa Tình đâm phải, còn bé dù vô ý có bị một hai cái gai hoa Tình đâm phải, do chưa có tình ái nam nữ, cũng chẳng đáng ngại. Về sau càng lớn, người bên cạnh càng khuyến cáo nghiêm nghị hơn. Cái vật hơn mười năm nay luôn cẩn thận đề phòng, không ngờ hôm nay nàng lại tự để nó đâm vào da thịt mình, cảm thấy càng đau khổ hơn. Nàng nghiến răng, gọi thêm vài tiếng “Mẹ!”

Cầu Thiên Xích nghe giọng gọi là lạ, vội bảo thị nữ mở cửa, dìu Công Tôn Lục Ngạc vào. Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Thân ta đang bị gai hoa Tình đâm, các ngươi chớ lại gần.

Hai thị nữ kinh hãi biến sắc, để Công Tôn Lục Ngạc tự đi vào, không dám chạm tới người nàng.

Cầu Thiên Xích thấy con gái sắc mặt tái nhợt, thân hình run rẩy, hai cành hoa Tình ở trước ngực, vội hỏi:

– Hài nhi, làm sao vậy, làm sao vậy?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Tại gia gia, là tại gia gia đó!

Nàng sợ mục quang lợi hại của mẫu thân, cúi đầu không dám nhìn mẹ. Cầu Thiên Xích giận, nói:

– Ngươi còn gọi hắn là gia gia ư? Lão tặc ấy làm gì?

Công Tôn Lục Ngạc ấp úng:

– Lão tặc ấy… Lão tặc ấy…

Cầu Thiên Xích nói:

– Ngươi ngẩng mặt lên ta coi.

Công Tôn Lục Ngạc ngẩng lên, thấy cặp mắt long sòng sọc của mẫu thân thì không khỏi run sợ, nói:

– Lão tặc ấy… cùng với mụ đạo cô xinh đẹp đến cốc sáng nay lén lút trò chuyện với nhau ở Đoạn Trường nhai, hài nhi nấp sau tảng đá, nghe lão tặc ấy bảo…

Mấy câu này đúng sự thực, tiếp đó sẽ là nói dối, nàng sợ mẫu thân nhận biết, nên nói đến đây liền cúi mặt xuống.

Cầu Thiên Xích hỏi:

– Hai đứa chúng nó nói sao?

Công Tôn Lục Ngạc đáp:

– Nói nào là đồng bệnh tương liên, nào là hữu duyên thiên lý lai tương ngộ. Họ bảo… bảo mẫu thân là ác phụ nọ ác phụ kia, hài nhi nghe tức quá…

Nói đến đây nàng khóc nấc lên.

Cầu Thiên Xích nghiến răng, nói:

– Đừng khóc, không làm gì phải khóc! Rồi thế nào?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Hài nhi không cẩn thận, gây tiếng động, bị họ phát giác. Mụ đạo cô… đạo cô liền đẩy hài nhi vào bụi hoa Tình.

Cầu Thiên Xích thấy con ấp úng, liền quát:

– Không đúng! Ngươi nói dối. Rốt cuộc thế nào? Đừng có đánh lừa ta!

Công Tôn Lục Ngạc toát mồ hôi lạnh, nói:

– Hài nhi không đánh lừa đâu, cái này chẳng phải là hoa Tình hay sao?

Cầu Thiên Xích nói:

– Vừa rồi ngươi nói dối. Từ nhỏ ngươi không biết nói dối. Lúc nào ngươi nói dối, ta còn lạ gì.

Công Tôn Lục Ngạc chợt nảy ra một ý, nghiến răng nói:

– Phải, hài nhi nói dối mẹ đó. Chính là gia gia đẩy hài nhi vào bụi hoa Tình. Gia gia giận con theo mẹ, giúp mẹ, chống lại gia gia, nói con chỉ muốn có mẹ, không cần đến cha. Lão ta… cứ chăm chăm tìm cách lấy lòng mụ đạo cô xinh đẹp.

Cầu Thiên Xích vốn căm hận trượng phu, mấy lời này của Công Tôn Lục Ngạc đánh trúng tâm sự của mụ, mụ lập tức tin ngay, vội kéo bàn tay con, ôn tồn nói:

– Ngạc nhi đừng lo, để ta đối phó với lão tặc một phen cho hả giận.

Đoạn sai thị nữ cẩn thận kéo cành hoa Tình ra khỏi người con, rồi dùng cái nhíp nhổ đi mấy cái gai gãy trong da thịt nàng.

Công Tôn Lục Ngạc nghẹn ngào nói:

– Mẹ, hài nhi phen này chết mất thôi.

Cầu Thiên Xích nói:

– Đừng sợ, đừng sợ. Chúng ta còn có nửa viên Tuyệt Tình đơn, may chưa cho tên tiểu tặc vô tình vô nghĩa Dương Quá. Ngạc nhi uống nửa viên ấy, chất độc tuy không trừ hết, song chỉ cần Ngạc nhi ngoan ngoãn sống với mẹ, đừng để mắt tới bất cứ gã nam tử thối tha nào, thậm chí không thèm nghĩ đến chúng, thì không đáng ngại.

Cầu Thiên Xích bị chồng hành hạ khổ sở, Dương Quá lại không chịu làm con rể mụ, mụ căm hận nam nhân khắp thiên hạ, nếu con gái mụ suốt đời không lấy chồng, thì càng hợp ý mụ.

Công Tôn Lục Ngạc cau mày im lặng, Cầu Thiên Xích lại hỏi:

– Lão tặc và mụ đạo cô đang ở đâu?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Con cố bò ra khỏi bụi hoa Tình, không dám ngoái nhìn, chắc hai người ấy vẫn còn ở Đoạn Trường nhai.

Cầu Thiên Xích nghĩ bụng: “Lão tặc có cường trợ, tất sẽ đến đoạt lại sơn cốc. Bọn đệ tử trong cốc đa phần là tay chân thân tín của hắn, khi ấy chúng sẽ ngả theo lão tặc; chí ít cũng tụ thủ bàng quan, không ngả theo bên nào, không đánh lại hắn. Ta tứ chi tàn phế, chỉ trông vào tuyệt kỹ phun hạt táo. Ám khí đó nếu bắn ra bất ngờ, uy lực cực lớn, nhưng lão tặc đã có đối phó, quá nửa ta sẽ chẳng làm gì nổi hắn; giả dụ hắn che mộc xông tới tấn công, thì ta bó tay. Phải làm sao đây?”

Công Tôn Lục Ngạc thấy mẫu thân mục quang long lanh, trầm ngâm không nói, lại ngỡ mẫu thân đang đoán xem lời nói của nàng là thật hay giả, sợ mẫu thân cứ truy vấn cuối cùng sẽ lộ chân tướng, bản thân nàng chịu khổ cũng chẳng sao, nhưng sẽ không lấy được thuốc giải độc cho Dương Quá thì thật tội nghiệp cho chàng. Vừa nghĩ đến Dương Quá, thì ngực đau nhói, nàng rên lên đau đớn. Cầu Thiên Xích đưa tay vuốt tóc nàng, nói:

– Chúng ta đi lấy Tuyệt Tình đơn nào.

Mụ vỗ tay, lệnh cho bốn thị nữ khiêng ghế đưa mụ đi.

Công Tôn Lục Ngạc từ sau ngày Dương Quá ra đi, luôn nghĩ không biết mẫu thân giấu nửa viên Tuyệt Tình đơn ở chỗ nào. Nàng từng nghe mẫu thân bảo không thể để Tuyệt Tình đơn trong người, đề phòng kẻ khác giết mụ, cướp mất thuốc. Lại nghĩ mẫu thân tứ chi tàn phế, hành động phải có người hầu hạ, quyết không thể với cao cúi thấp, càng không thể đem giấu vào hang hốc nào, chắc chỉ giấu trong phủ đệ mà thôi. Nhưng cả tháng trời nàng tìm kiếm khắp nơi, nào đan phòng, nào kiếm thất, nào hoa viên, nào phòng ngủ, chỗ nào cũng nhòm ngó, tuyệt nhiên không thấy dấu vết gì. Lúc này nàng thấy mẫu thân sai thị nữ khiêng ra phía đại sảnh, thì lấy làm lạ, nghĩ đại sảnh là nơi ai ai cũng đến, khó cất giấu hơn cả, huống hồ hiện thời cường địch đang tụ tập cả ở đó, lại tới đó mà lấy nửa viên Tuyệt Tình đơn trước mặt bao nhiêu người hay sao?

Cửa sắt trước sau của đại sảnh đều đóng im ỉm, chúng đệ tử cầm lưới gắn dao nhọn canh giữ bên ngoài, thấy Cầu Thiên Xích tới, vội hành lễ. Gã cầm đầu cúi mình bẩm báo:

– Địch nhân tuyệt vô thanh tức, tựa hồ thúc thủ đợi chết.

Cầu Thiên Xích nói:

– Hừ, ếch ngồi đáy giếng, thật không biết trời cao đất dày thế nào. Người tử tế không đến, đã đến chẳng phải người tử tế. Những nhân vật xông vào cốc hôm nay mà lại thúc thủ đợi chết hay sao?

Rồi quát:

– Mở cửa!

Hai đệ tử mở cánh cửa sắt, tám đệ tử khác chăng hai tấm lưới hộ vệ hai bên tả hữu Cầu Thiên Xích, tiến vào đại sảnh. Chỉ thấy Nhất Đăng đại sư, Hoàng Dung, Võ Tam Thông, Gia Luật Tề… đều ngồi ở một góc. Cầu Thiên Xích chờ thị nữ đặt ghế xuống, mới giơ tay nói:

– Trừ ba mẹ con Hoàng Dung, tất cả những người còn lại, ta có thể bỏ qua cho cái tội tự tiện xông vào sơn cốc, hãy cùng nhau rời khỏi nơi đây cho mau.

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Cầu cốc chủ, đại nạn sắp giáng xuống đầu cốc chủ, cốc chủ đã chẳng tránh né, lại còn xuất khẩu đại ngôn, thật nực cười!

Cầu Thiên Xích chột dạ, nghĩ: “Sao nó biết đại nạn sắp giáng xuống đầu ta? Chẳng lẽ nó biết lão tặc kia trở về gây chuyện?” Chỉ lạnh lùng nói:

– Là phúc hay họa, đợi khi báo ứng mới biết. Lão phụ nhân tứ chi tàn phế, còn sợ gì đại nạn?

Hoàng Dung dĩ nhiên không biết Công Tôn Chỉ đã trở về Tuyệt Tình cốc, nhưng nhìn mặt mà đoán, thấy Cầu Thiên Xích sắc diện hơi có vẻ âu lo, khác hẳn thần thái đắc ý lúc rời đại sảnh, đoán rằng trong cốc đã có nội biến, bèn lên tiếng thăm dò, nghe Cầu Thiên Xích trả lời tuy mạnh miệng, nhưng dự đoán của mình quá nửa là đúng, nên nói:

– Cầu cốc chủ, lệnh huynh vốn tự sảy chân rơi xuống vực mà chết, hoàn toàn không phải do tiểu muội đả thương. Nhưng nếu cốc chủ cứ khăng khăng cố chấp, tiểu muội xin chịu cho cốc chủ bắn liền ba hạt táo mà không né tránh, có được hay chăng? Với điều kiện là sau đó, dù tiểu muội sống hay chết, cốc chủ cũng phải ban cho linh dược để giải độc cho Dương Quá. Tiểu muội dù có chết, rất nhiều bằng hữu quyết không ghi hận, mà vẫn giúp cốc chủ giải thoát đại họa, đánh lui nội địch. Vậy cốc chủ có chịu làm vậy hay chăng?

Hoàng Dung nói thế, quả dành cho đối phương mọi lợi thế, thấy Cầu Thiên Xích ngoài tuyệt kỹ bắn hạt táo, không còn khả năng đả thương nào khác, lại lớn tiếng nhắc hai chữ “nội địch”, càng đánh trúng chỗ yếu của cốc chủ. Cầu Thiên Xích nghĩ: “Có thật vậy không?” nói:

– Ngươi là bang chủ Cái Bang, nói phải giữ lời. Ta sẽ bắn ba hạt táo, có đúng là ngươi sẽ không né tránh, cũng không được dùng binh khí đỡ gạt chứ?

Hoàng Dung chưa kịp trả lời, Quách Phù đã nói:

– Mẫu thân ta chỉ nói là không né tránh, chứ không hề bảo rằng không dùng binh khí đỡ gạt.

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Cầu cốc chủ muốn trút giận, tiểu muội cũng không dùng binh khí đỡ gạt.

Quách Phù kêu lên:

– Mẹ, như vậy sao được?

Ban nãy trường kiếm của nàng đã bị hạt táo đánh gãy, nàng biết lực đạo của ám khí mạnh vô tỷ, nếu quả thật không tránh né, không dùng binh khí đỡ gạt, thì thể xác chịu đựng sao nổi?

Hoàng Dung thì nghĩ: “Dương Quá đối với cả bốn người nhà họ Quách đều có đại ân, hiện giờ chất độc trong người nan giải, gì thì gì cũng phải đòi Cầu Thiên Xích giao thuốc giải độc cho bằng được. Hạt táo là thứ ám khí lợi hại nhất thiên hạ của mụ ta, để mụ ta bắn liền ba hạt táo quả mười phần nguy hiểm, mất mạng như bỡn. Nhưng không làm thế, chẳng đời nào mụ ta chịu cho giải dược”.

Hoàng Dung nói thế là đã tự đặt mình vào địa vị Cầu Thiên Xích, nghĩ hộ cho mụ một cách hết sức chu đáo, vừa để cho mụ có dịp trút hết oán hận bao năm, vừa giúp mụ trong lúc nguy cấp có thể chống địch giải nạn, mà cả hai việc đó đều được thực hiện bằng sở trường duy nhất của mụ, bảo chính mụ nghĩ cũng chẳng nghĩ ra được cách hay như thế.

Cầu Thiên Xích cảm thấy việc này quá lợi cho mụ, không tránh khỏi bất cận nhân tình, bèn nói:

– Ngươi là tử địch của ta, lại cam tâm chịu để ta bắn ba hạt táo, rốt cuộc là ngươi có ngụy kế gì?

Hoàng Dung bước lên, nói nhỏ:

– Chỗ này nhiều tai mắt, chỉ e có không ít kẻ thiếu thiện ý với cốc chủ, tiểu muội cần ghé tai nói với cốc chủ vài lời.

Cầu Thiên Xích đưa mắt quét qua đám đệ tử một lượt, nghĩ bụng: “Bọn này đa phần là tay chân thân tín của lão tặc, đúng là không thể không đề phòng”, bèn gật gật đầu.

Hoàng Dung bước lại gần, nói rất nhỏ:

– Kẻ đối địch với cốc chủ sắp ra tay đó. Chúng ta hãy mau mau hoàn tất việc nhỏ này đi. Tiểu muội dù sống hay chết, mọi người cũng sẽ kề vai chống địch. Hơn nữa Dương Quá có ơn đối với tiểu muội, tiểu muội dù mất mạng cũng phải xin bằng được Tuyệt Tình đơn cho y. Sống làm người mà chịu ơn không báo đáp, thì có khác gì loài cầm thú?

Nói rồi thoái lui ba bước, chăm chú nhìn Cầu Thiên Xích.

Cầu Thiên Xích nghe câu “chịu ơn không báo đáp, thì có khác gì loài cầm thú?” cũng chột dạ, nghĩ: “Nếu ta không được Dương Quá cứu giúp, thì lúc này chắc vẫn ngồi thui thủi khổ sở một mình dưới hầm đá”. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua, ác niệm lại trỗi dậy, mụ lạnh lùng nói:

– Ngươi có khéo mồm khéo miệng, lão phụ nhân cũng không thay đổi chủ ý ban đầu; nào lùi lại đi mà tiếp nhận ba hạt táo của ta!

Hoàng Dung phất tay áo, nói:

– Tiểu muội đành liều chết vậy.

Đoạn nhảy lùi ra đứng giữa sảnh, cách Cầu Thiên Xích chừng ba trượng, nói:

– Mời cốc chủ bắn đi!

Bọn Võ Tam Thông tuy biết Hoàng Dung túc trí đa mưu, nhưng tuyệt kỹ phun hạt táo của Cầu Thiên Xích lợi hại thế nào, ai cũng đã chứng kiến. Lúc này nhìn Hoàng Dung tay không đứng đó, ai cũng lo âu. Quách Phù càng lo sợ, bước tới kéo tay áo Hoàng Dung, nói nhỏ:

– Mẹ, hai mẹ con mình ra một chỗ vắng, con cởi tấm áo lông nhím cho mẹ mặc, thì khỏi sợ mụ già kia.

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Lấy tấm áo lông nhím mềm chống sao nổi hạt táo cứng? Hài nhi cứ chờ coi thủ pháp của ta.

Chỉ nghe Cầu Thiên Xích nói:

– Các người hãy…

Chữ“tránh ra” chưa nói, thì hạt táo thứ nhất đã bắn thẳng tới bụng dưới của Hoàng Dung. Hạt táo tuy nhỏ, nhưng cứng như viên bi sắt, bay rít lên trong không khí cực kỳ hung hãn, Hoàng Dung kêu “Ối!” và gập người lại.

Quách Phù và bọn Võ Tam Thông cùng cả kinh, định chạy lại giúp, thì hạt táo thứ hai đã xé gió bắn tới nhắm giữa ngực Hoàng Dung. Hoàng Dung lại kêu ối một tiếng, lảo đảo lùi lại vài bước, tựa hồ sắp ngã.

Cầu Thiên Xích thấy Hoàng Dung quả nhiên giữ lời không tránh không gạt, hai hạt táo đã đánh trúng chỗ hiểm trên người Hoàng Dung, với lực đạo dù gặp nham thạch cũng xuyên qua, đừng nói là da thịt. Vậy mà Hoàng Dung bị trúng hai hạt táo, tuy hình như trọng thương, song vẫn không gục ngã, có vẻ cố chịu một hạt táo nữa, thì Cầu Thiên Xích thầm kinh hãi, nghĩ: “Thoạt nhìn thân hình mảnh mai kiều diễm, không ai tin là nàng ta có thể làm bang chủ Cái Bang. Xem ra nàng ta đúng là một nhân vật kiệt xuất!” Nhưng lại nghĩ Hoàng Dung đã trúng hai hạt táo, tính mạng khó toàn, mụ đã trả được mối thâm cừu, nên vui mừng, “phụt” một cái, hạt táo thứ ba lại bắn đi từ miệng, lần này nhắm yết hầu Hoàng Dung. Hạt táo này mà xuyên qua yết hầu, thì kẻ thù giết huynh trưởng sẽ lập tức táng mạng tại chỗ.

Khi Hoàng Dung nói cam chịu ba hạt táo, vẫn chưa nghĩ ra cách nào hay, chỉ biết phải như thế mới lấy được giải dược, dẫu bỏ mạng, cũng phải báo đáp đại ân của Dương Quá. Đến lúc lại gần nói nhỏ với Cầu Thiên Xích, có chút thời gian, Hoàng Dung mới chợt nghĩ ra cách đối phó, nhặt nửa thanh kiếm gãy ban nãy của Quách Phù, giấu vào trong ống tay áo, đợi lúc hạt táo bắn tới, thì gập cánh tay lại cho đoạn kiếm gãy đỡ đòn, miệng kêu ối thật to để át tiếng hạt táo đập vào kiếm. Xảo chiêu đó, quả nhiên Cầu Thiên Xích không phát giác được.

Hoàng Dung cố ý giả trang bị trọng thương, vừa có thể giảm sự giận dữ của đối phương, vừa bảo toàn thân phận cốc chủ cho mụ ta. Nhưng hạt táo thứ ba bắn tới yết hầu, nếu giơ tay áo lên để đoạn kiếm gãy giấu bên trong đỡ đòn, tất sẽ bị Cầu Thiên Xích phát hiện, là Hoàng Dung vi phạm lời cam kết không tránh không đỡ. Lúc này đành phải mạo hiểm, người hơi rùn xuống, hít một hơi đầy bụng, chờ hạt táo bay đến gần miệng liền tròn môi thổi phù ra một luồng khí. Hoàng Dung biết lực bay của hạt táo cực mạnh, mình dùng luồng chân khí đối chọi, địch xa ta gần, lợi thế thuộc về mình, hạt táo nếu không rơi xuống đất, thì cũng giảm hẳn kình lực. Nào ngờ Cầu Thiên Xích độc cư sơn động, tứ chi đã tàn phế, suốt ngày chỉ khổ luyện mỗi môn công phu bắn hạt táo mà thôi. Công lực của Hoàng Dung đã không thâm hậu bằng mụ ta, lại phải lo bang vụ, giúp việc thủ thành Tương Dương, sinh con, săn sóc chồng, làm sao có thể chuyên tâm tu luyện? Vì thế luồng khí thổi ra chỉ làm cho hạt táo bay chậm lại một chút, chứ kình lực vẫn còn mạnh vô cùng.

Hoàng Dung thầm kinh hãi, hạt táo đã bay đến môi, thời khắc chỉ mành treo chuông này chỉ còn cách duy nhất là há miệng cắn gấp lấy hạt táo, hai hàm răng bị chấn đau tê nhức, chân đứng không vững, phải lùi hai bước. Hai lần trước Hoàng Dung lảo đảo lùi lại là giả trang, lần này thì là bị lực xung kích của hạt táo đẩy đi thật, cũng may Hoàng Dung ứng biến thần tốc, lùi bước giảm thế, nếu không chắc hẳn bốn chiếc răng cửa đã gãy tức thời, may sao chỉ bị chảy máu chân răng mà thôi.

Mọi người kêu lên kinh ngạc, xúm lại. Hoàng Dung ngẩng đầu, thổi hạt táo cắm lên xà nhà, cau mày, nói:

– Cầu cốc chủ, tiểu muội đã tiếp nhận ba hạt táo, sắp chết rồi, mong cốc chủ giữ lời cho đơn dược.

Cầu Thiên Xích thấy Hoàng Dung lại có thể dùng răng cắn lấy hạt táo thứ ba, thì không khỏi kinh hãi; hai hạt táo trước rõ ràng cũng đã xuyên vào người, tại sao vẫn không ngã quị? Mụ ngoảnh nhìn Công Tôn Lục Ngạc một cái, nghĩ: “Con gái ta trúng độc hoa Tình, đừng nói Dương Quá không chịu làm con rể ta, dù hắn có chịu, nửa viên Tuyệt Tình đơn há có thể đem cho hắn?” Nhưng chính mụ đã đáp ứng cho đơn dược, mọi người ở đây đều nghe thấy, mụ không thể trở mặt ngay lập tức. Mụ đảo mắt một cái, đã nghĩ ra một cách, nói:

– Quách phu nhân, hai ta tuy là nữ lưu, nhưng hành sự khảng khái, thủ tín còn hơn cả đám mày râu. Phu nhân dám chịu ba hạt táo của ta, khí phách như thế, quả là hiếm có, ta vô cùng thán phục; giải dược sẽ giao cho phu nhân. Nếu ta có gặp chuyện gì, mong được các vị viện thủ.

Quách Phù ngỡ mẫu thân bị trúng hạt táo thật, liền nói:

– Mẫu thân của bổn cô nương mà bị trọng thương, mọi người ở đây sẽ liều chết với mụ.

Rồi quay sang Hoàng Dung, nói:

– Mẹ, hạt táo của lão thái bà trúng vào chỗ nào trên người mẹ?

Hoàng Dung không trả lời câu hỏi của con, nói với Cầu Thiên Xích:

– Tiểu nữ nói xằng, mong cốc chủ đừng chấp. Tiểu muội bình sinh nói một là một, tất nhiên sẽ giúp cốc chủ chống địch, xin cốc chủ ban cho đơn dược.

Bọn Võ Tam Thông nghe Hoàng Dung nói, trung khí sung mãn, thanh âm vang vọng, không có gì là của một người bị thương, thì cảm thấy nhẹ người.

Điều đó Cầu Thiên Xích cũng nhận biết, lấy làm lạ, nghĩ bụng: “Hoàng Dung võ công như thế, ta có trở mặt cũng không dễ, phải dùng cách gian trá vậy”. Bèn gật đầu, nói:

– Xin đa tạ phu nhân trước.

Rồi quay sang Công Tôn Lục Ngạc, nói:

– Ngạc nhi, lại đây ta bảo.

Hoàng Dung trong đời đã đối phó với không biết bao nhiêu kẻ gian xảo thất tín; Cầu Thiên Xích nhãn quang cứ láo liên bất định thế kia, làm sao qua khỏi cặp mắt Hoàng Dung. Hoàng Dung biết Cầu Thiên Xích quyết không chịu dễ dàng giao giải dược, nhưng mụ ta gian trá kiểu nào, thì nhất thời chưa đoán ra được.

Chỉ nghe Cầu Thiên Xích nói:

– Hãy nậy viên gạch xanh thứ năm kể từ chỗ ta ngồi đến đó cho ta!

Công Tôn Lục Ngạc kinh ngạc: “Chẳng lẽ mẫu thân giấu Tuyệt Tình đơn ở dưới nền?” Hoàng Dung nghe vậy, thầm thán phục Cầu Thiên Xích khôn ngoan: “Tuyệt Tình đơn quí hiếm, không biết có bao nhiêu kẻ mưu đoạt. Mụ ta giấu ngay trước mắt mọi người, thật không ai đoán ra nổi. Mụ ta hoàn toàn không liệu trước tình thế này, cho nên Tuyệt Tình đơn giấu ở kia hẳn là thuốc thật”. Nếu Cầu Thiên Xích sai người tới đan phòng hoặc vào nội thất lấy thuốc, Hoàng Dung cũng khó biết Tuyệt Tình đơn là thật hay giả; còn bây giờ thấy mụ sai con gái nậy viên gạch xanh, thì chắc đấy là thuốc thật.

Công Tôn Lục Ngạc bước đến chỗ viên gạch xanh thứ năm, dùng mũi dao lách xuống kẽ mạch, nậy lên, nhấc viên gạch ra, thấy bên dưới chỉ có đất bụi, không có gì khác. Cầu Thiên Xích nói:

– Chỗ giấu thuốc ở bên dưới viên gạch, hoàn toàn bí mật, không thể cho người ngoài hay biết. Ngạc nhi, hãy ghé tai lại đây.

Hoàng Dung biết Cầu Thiên Xích xảo quyệt, bèn kêu to một tiếng “Úi chao!” oằn người lại, giả bộ thương thế phát tác, để Cầu Thiên Xích không còn đề phòng, mà mình thì ngưng thần lắng nghe mụ ta nói gì với con gái. Ai ngờ Cầu Thiên Xích cũng vẫn cẩn thận, ghé tai Công Tôn Lục Ngạc nói rất khẽ. Hoàng Dung tuy căng tai, cũng chỉ nghe thấy tám tiếng “Tuyệt Tình đơn ở dưới viên gạch xanh”, mà tám chữ ấy thì ai cũng biết cả rồi, có nghe thấy cũng vô dụng. Tiếp đó chỉ thấy miệng Cầu Thiên Xích mấp máy, nhìn sang Công Tôn Lục Ngạc, thì thấy nàng hơi cau mày, ậm ừ đáp ứng.

Hoàng Dung biết sắp đến thời khắc hệ trọng, đang bối rối chưa biết phải làm sao, bỗng nghe Nhất Đăng đại sư gọi:

– Dung nhi lại đây, để ta xem thương thế của con thế nào?

Hoàng Dung ngoảnh lại, thấy Nhất Đăng đại sư ngồi trong góc, mặt đầy vẻ quan thiết, nghĩ: “Chắc đại sư bắt mạch, sẽ biết ngay mình không bị thương”.

Bèn tới bên, giơ bàn tay ra. Nhất Đăng đại sư dùng ba ngón tay đặt lên mạch cổ tay Hoàng Dung, nói:

– A Di Đà Phật… A Di Đà Phật… Lão bà bà bảo… A Di Đà Phật…dưới viên gạch có hai cái bình… A Di Đà Phật… A Di Đà Phật… cái bình mé đông đựng thuốc thật… A Di Đà Phật… cái bình mé tây đựng thuốc giả… A Di Đà Phật… thuốc giả đưa cho ngươi… A Di Đà Phật…

Nhất Đăng đại sư khi niệm Phật hiệu thì cao giọng, nhưng đến câu “dưới viên gạch có hai cái bình”, thì nói rất nhỏ. Hoàng Dung nghe câu “Lão bà bà bảo”, thì hiểu ngay, Nhất Đăng đại sư tu luyện mấy chục năm, tai thính mắt tinh, hơn hẳn người thường. Phật gia vốn có câu “Thiên nhãn thông”, “Thiên nhĩ thông”. Kinh Phật có nói, bậc đại thần thông khi ngồi thiền định “có thể nghe thấy ngữ ngôn của sáu đạo chúng sinh cùng các loại âm thanh một cách dễ dàng”. Nói tưởng khó tin, nhưng một người nội công thâm hậu, tâm tư trong sáng, có thể nghe thấy nhưng cái mà thường nhân không nghe thấy, cũng không có gì lạ. Cầu Thiên Xích nói nhỏ bên tai con gái, Nhất Đăng đại sư nhắm mắt tĩnh tọa ở cách xa mấy trượng, nghe rõ từng lời từng chữ. Nhất Đăng đại sư biết thuốc thật thuốc giả liên quan đến tính mạng của Dương Quá, Phật gia có đức hiếu sinh, há có thể thấy chết không cứu, bèn nói cho Hoàng Dung biết.

Hoàng Dung đợi Nhất Đăng đại sư niệm xong mỗi câu Phật hiệu, lại hỏi:

– Thương thế của con sẽ đỡ chăng? Hạt táo cứng có sao không ạ?

Hai câu ấy vừa vặn át hai câu của Nhất Đăng đại sư “cái bình mé đông đựng thuốc thật, cái bình mé tây đựng thuốc giả”. Cầu Thiên Xích mấy lần nhìn về phía hai người, thấy Hoàng Dung sắc diện có vẻ lo âu, chỉ hỏi về thương thế, Nhất Đăng đại sư thì luôn miệng A Di Đà Phật, đâu nghĩ rằng gian kế của mụ đã bị đối phương phát hiện.

Công Tôn Lục Ngạc nghe mẫu thân nói xong, gật đầu đáp ứng, tới chỗ viên gạch nọ, cúi xuống moi đất lên, quả thấy có hai cái bình nhỏ nằm kề nhau, nàng xốn xang trong lòng, nghĩ thầm: “Dương lang ôi Dương lang, hôm nay muội xả thân lấy giải dược cho chàng đây. Tấm lòng của muội, chắc gì chàng biết được?” Bèn lấy cái bình ở mé đông lên, nói:

– Mẹ, Tuyệt Tình đơn đây rồi!

Chỉ riêng nàng mới biết cái bình này ở mé đông, còn Cầu Thiên Xích và Hoàng Dung thì đều nghĩ nàng lôi cái bình ở mé tây ra.

Hai cái bình hình dạng hệt như nhau, nửa viên Tuyệt Tình đơn ở bên trong mỗi cái cũng không có gì phân biệt, Cầu Thiên Xích chưa hề nếm thử vị dược, cũng khó biết thật giả. Mụ thấy Công Tôn Lục Ngạc lấy một cái bình ra, thì nghĩ: “Ban đầu ta còn lo con a đầu này lấy trộm giải dược cho tình lang của nó, bây giờ chính nó trúng độc hoa Tình rồi, tất nhiên nó sẽ lo cứu mạng nó trước”. Mụ bản tính gian ác hẹp hòi, mau quên ân nghĩa, quyết không tin trên thế gian lại có ai tự nguyện chết đi để cứu người khác, nên mụ nói:

– Chúng ta phải giữ chữ tín, ngươi hãy giao đơn dược cho Quách phu nhân.

Công Tôn Lục Ngạc đáp:

– Vâng!

Rồi hai tay nâng cái bình đi về phía Hoàng Dung.

Hoàng Dung hành lễ với Cầu Thiên Xích đã, nói:

– Đa tạ hậu ý.

Bụng thì nghĩ: “Đã biết thuốc thật chỗ nào, lo gì không lấy trộm được?”

Đang định giơ tay nhận cái bình, đột nhiên trên mái nhà roạt một tiếng, bụi đất mù mịt, lập tức xuất hiện một lỗ hổng lớn, từ trên đó một người nhảy xuống chộp luôn cái bình trên tay Công Tôn Lục Ngạc. Công Tôn Lục Ngạc cả kinh thất sắc, thốt lên:

– Gia gia!

Hoàng Dung thấy Công Tôn Lục Ngạc sắc diện đại biến, cực kỳ hoảng hốt, thì bất giác sững sờ: “Cái bình mà Công Tôn Chỉ cướp đi rõ ràng đựng thuốc giả, cớ sao nàng ta lại hoảng hồn như thế?”

Đúng lúc ấy cửa lớn của đại sảnh nghe rầm một tiếng lớn, khiến các cây nến hồng trong đại sảnh chao đảo muốn tắt, ánh sáng chập chờn lúc tỏ lúc mờ, hai cánh cửa lớn bị gãy then mở toang ra hai bên, một nam ba nữ bước vào. Nam chính là Dương Quá, nữ là Tiểu Long Nữ, Trình Anh và Lục Vô Song.

Công Tôn Lục Ngạc thấy Dương Quá tới thì kêu lên thất thanh:

– Dương đại ca…

Nàng tiến về phía chàng, mới được hai bước, bỗng cảm thấy không ổn, lời muốn nói bỗng nín bặt, bước chân cũng sững lại. Hoàng Dung vẫn chăm chú theo dõi sắc diện của Công Tôn Lục Ngạc, thấy mục quang của nàng ta để lộ thâm tình vô hạn, lo âu vô hạn, thì chợt hiểu, nghĩ thầm: “Hoàng Dung ơi Hoàng Dung, mi làm mẹ mà vẫn chưa hiểu tâm sự con gái nhà người ta hay sao? Mẫu thân của nàng bảo nàng ta đưa thuốc giả cho mi, nhưng nàng ta si luyến Dương Quá, nên đã đưa thuốc thật; cái bình mà Công Tôn Chỉ cướp đi chính là đựng linh đơn, bảo làm sao nàng ta không lo cuống lên kia chứ?”.

Hồi 32: Cái tình là cái chi chi

Khi Hoàng Dung, Nhất Đăng đại sư và những người khác bị nhốt trong đại sảnh, Dương Quá và Tiểu Long Nữ sánh vai nhau trò chuyện ở gần hoa viên, không lâu thì Trình Anh và Lục Vô Song đến. Tiểu Long Nữ thấy Trình Anh dịu dàng nhã nhặn, rất hợp với mình, liền kéo tay nàng ta mà trò chuyện. Lục Vô Song kể lại cho Dương Quá cuộc tỷ võ vừa rồi với Quách Phù, việc mình châm chọc khiến cho Quách Phù dở cười dở khóc như thế nào, Trình Anh búng rơi kiếm của Quách Phù ra sao. Dương Quá lần này gặp lại Trình, Lục hai nàng, nghĩ hai nàng tình ý thâm trọng đối với chàng, mà chàng không thể đền đáp, trong lòng không khỏi áy náy như kẻ có lỗi; thấy Lục Vô Song đã biết rõ chàng thành thân với Tiểu Long Nữ mà không hề tỏ vẻ oán trách, cứ luôn miệng nói phải trừng phạt Quách Phù cho chàng bõ tức, còn Trình Anh cũng thân thiết với Tiểu Long Nữ, thì chàng rất mừng.

Bốn người ngồi trên một phiến đá, Tiểu Long Nữ trò chuyện với Trình Anh, Dương Quá thì nói chuyện với Lục Vô Song. Nhưng Long, Trình hai nàng tính nết đều trầm tĩnh, ít lời, chỉ nói vài câu đã ngừng. Dương Quá và Lục Vô Song thì cứ “Chàng Ngốc” với “Tức phụ nhi” luôn miệng, Trình Anh bỗng chen vào, nói:

– Dương đại ca, hiện thời đại ca đã có Dương đại tẩu, nên thay đổi cách xưng hô với biểu muội của muội đi thôi.

Dương Quá kêu “Ôi”, vội đưa tay bịt miệng. Lục Vô Song cũng đột nhiên hiểu ra, xấu hổ đỏ bừng cả mặt. Trình Anh thầm ân hận, nghĩ: “Hai người họ cười nói tự nhiên, không có ý gì khác, mình đi nhắc nhở họ, hóa ra họ có lỗi không bằng”, vội nói chữa:

– Dương đại ca, đại ca bị trúng độc hoa Tình, bây giờ cảm thấy thế nào?

Dương Quá nói:

– Không sao. Quách bá mẫu túc trí đa mưu, nhất định sẽ có cách xin được linh dược cho ngu huynh; ngu huynh chỉ lo cho thương thế của người này thôi.

Đoạn chàng chỉ Tiểu Long Nữ.

Trình Anh và Lục Vô Song thất kinh, cùng hỏi:

– Sao? Dương đại tẩu bị thương thế nào mà muội không hay biết?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Cũng không sao. Muội vận nội lực khu trú chất độc, không để nó phát tác, trong vài ngày chưa có gì đáng ngại…

Lục Vô Song nói:

– Là chất độc gì, có phải trúng độc hoa Tình hay không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, là bị trúng Băng phách ngân châm của sư tỷ muội.

Lục Vô Song nói:

– Lại là nữ ma đầu Lý Mạc Sầu. Chàng… Dương đại ca, đại ca đã đọc quyển “Ngũ độc bí truyền” rồi. Chất độc Băng phách ngân châm tuy lợi hại, nhưng cũng có thể giải độc kia mà.

Dương Quá thở dài, nói:

– Chất độc ngấm vào tạng phủ, giải dược thông thường không trị nổi.

Đoạn chàng kể lại việc Tiểu Long Nữ trị thương bằng cách nghịch hành kinh mạch, bị Quách Phù tưởng lầm là Lý Mạc Sầu, đã phóng Băng phách ngân châm trúng người nàng như thế nào. Lục Vô Song vỗ mạnh tay xuống phiến đá, tức giận nói:

– Quách Phù ỷ thế cha mẹ, cứ vô pháp vô thiên như thế. Biểu tỷ, hai ta không thể để yên cho Quách Phù được. Cha mẹ nó là đại hiệp đương thời thì sao kia chứ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Việc này kể cũng không thể trách Quách cô nương, không giống như lần nàng ta chém mất cánh tay Quá nhi.

Trình Anh nói:

– Dương đại tẩu, sư phụ của muội từng bảo rằng vận nội lực khu trú chất độc, tuy có thể làm cho nó nhất thời chưa phát tác, song chất độc ở lâu trong cơ thể rất có hại, phải sớm tìm cách giải độc mới được.

Tiểu Long Nữ ậm ừ. Dương Quá nghĩ: “Sau khi Thiên Trúc cao tăng tỉnh lại, thật không biết có cách giải độc hay chăng?” Chàng không muốn nói thêm về chuyện này, để khỏi làm cho Tiểu Long Nữ thêm buồn và chàng thêm đau đớn, bèn nói:

– Quách bá mẫu và Nhất Đăng đại sư đối phó với lão hòa thượng điên điên khùng khùng thế nào rồi không biết, chúng ta thử vào xem sao.

Bốn người liền trở về đại sảnh, cách đại sảnh mươi trượng chợt thấy có bóng người lướt trên mái nhà, nhận ra chính là Công Tôn Chỉ, tiếp đó thấy hắn phá thủng mái sảnh rầm rầm mà nhảy xuống, Dương Quá sợ hắn sẽ bố trí ngư võng trận để hãm hại mọi người, chàng bèn dùng Huyền thiết trọng kiếm dộng mạnh cánh cửa sắt mà xông vào trước.

Công Tôn Chỉ lấy được Tuyệt Tình đơn rồi, tuy thấy bọn hảo thủ Hoàng Dung tụ tập, hắn cũng chẳng lo, nghĩ bụng: “Ta đánh không lại chúng, chẳng lẽ chạy không thoát hay sao?” Hắn đang tìm cách cướp đường thoát ra, thì bỗng thấy Dương Quá tông cửa xông vào, thanh thế quá mạnh. Hắn hốt hoảng, nhún hai chân một cái, phi thân qua lỗ hổng trên mái để thoát đi, nghĩ rằng việc cần kíp trước hết là mang viên Tuyệt Tình đơn đi cho Lý Mạc Sầu uống giải độc, còn việc giết Cầu Thiên Xích, đoạt lại Tuyệt Tình cốc thì để vài hôm sau cũng chưa vội.

Hắn vừa vọt lên, thì Hoàng Dung đã nhảy cao, dùng cây Đả cẩu bổng thi triển tự quyết chữ “Triền” mà kéo chân hắn xuống. Cầu Thiên Xích quát:

– Lão tặc!

Vèo một tiếng, một hạt táo cứng bắn thẳng tới bụng dưới Công Tôn Chỉ. Hắn đã sớm đề phòng chiêu này, giơ đao gạt hạt táo, thế phi thân lên vẫn không chậm lại chút nào; tai nghe tiếng gió rít, hạt táo thứ hai bắn chếch tới. Kim đao hắn đã gạt ra ngoài, chưa kịp thu về để gạt tiếp, cây Đả cẩu bổng của Hoàng Dung lại móc tới, thà để cho hạt táo xuyên qua đùi còn hơn nó xuyên vào bụng dưới, hắn bèn nghiêng mình dùng đùi hất hạt táo ra.

Nào ngờ hạt táo này của Cầu Thiên Xích không phải nhắm bắn Công Tôn Chỉ, mà là nhằm vào Hoàng Dung. Biến cố bất ngờ này ngay cả Hoàng Dung cũng không dự liệu được, vội dùng Đả cẩu bổng đỡ gạt, nhưng kình lực của hạt táo quá mạnh, Hoàng Dung cảm thấy toàn thân chấn động, cánh tay tê dại, cây Đả cẩu bổng rơi xuống đất, Hoàng Dung cũng đáp xuống theo. Công Tôn Chỉ lực nhảy lên cũng đã hết đà, hắn đáp xuống gần chỗ Hoàng Dung, lập tức vung kim đao chém ngang.

Dương Quá chĩa thẳng Huyền thiết trọng kiếm thật nhanh, một luồng kình phong thốc tới, đẩy bạt kim đao của Công Tôn Chỉ ra xa ba thước. Công Tôn Chỉ cảm thấy kình lực của Huyền thiết trọng kiếm như bài sơn đảo hải thì cả kinh, không ngờ sau hơn một tháng tên tiểu tử kia tuy đã bị mất một cánh tay, mà võ công lại tinh tiến như vậy.

Công Tôn Lục Ngạc đứng giữa phụ thân và mẫu thân, nàng vốn rất sợ phụ thân, chưa bao giờ dám nói thêm với cha một lời, nhưng từ lúc ở “Đoạn Trường nhai” nghe những lời lẽ Công Tôn Chỉ nói với Lý Mạc Sầu thì nàng vô cùng đau khổ, không còn sợ gì hắn nữa, hỏi Công Tôn Chỉ:

– Gia gia, gia gia đã làm cho mẫu thân tứ chi tàn phế, rồi bỏ xuống hầm đá, thật là tàn ác hiếm thấy. Tối nay ở “Đoạn Trường nhai” gia gia lại còn nói gì với Lý Mạc Sầu vậy?

Công Tôn Chỉ chột dạ, những điều hắn nói với Lý Mạc Sầu ở chỗ kín đáo không ai lui tới, không ngờ lại lọt vào tai kẻ khác. Hắn tuy tàn ác, nhưng bày mưu hãm hại con gái mình như thế thì không tránh khỏi bị cắn rứt lương tâm; đột nhiên nghe con hỏi trước mặt mọi người, bất giác tái mặt, chối:

– Cái… cái gì? Ta chẳng nói gì cả.

Công Tôn Lục Ngạc lạnh lùng nói:

– Gia gia muốn hãm hại nữ nhi, để lấy lòng một nữ tử hoàn toàn xa lạ với gia đình ta. Nữ nhi là thân sinh của gia gia, gia gia muốn nữ nhi chết, nữ nhi cũng không dám trái lời, nhưng Tuyệt Tình đơn mà gia gia đang cầm trong tay là mẫu thân đã đáp ứng cho người khác, gia gia hãy trả lại cho nữ nhi.

Công Tôn Chỉ cất cái bình dược vào trong túi, cười khẩy, nói:

– Hai mẹ con ngươi lòng hướng người ngoài, một kẻ phản phu, một kẻ nghịch phụ, đều không tốt. Hôm nay ta tạm chưa hỏi tội hai ngươi. Mai này đến lúc báo ứng, mẹ con ngươi sẽ hiểu.

Đoạn gõ đao kiếm vào nhau choang một tiếng, sải bước đi ra.

Dương Quá nghe Công Tôn Lục Ngạc chỉ trích Công Tôn Chỉ, chàng chưa rõ nguyên do, bèn giơ Huyền thiết trọng kiếm chặn đường Công Tôn Chỉ, hỏi Công Tôn Lục Ngạc:

– Công Tôn cô nương, tại hạ có điều muốn biết.

Công Tôn Lục Ngạc nghe câu đó, một cảm giác tự thương mình bỗng trào lên trong lòng, nghĩ thầm: “Muội xả thân lấy linh dược cho chàng, quyết không để chàng hay biết. Nhiều năm về sau, chàng con cái đầy nhà, đã quên biến đứa con gái bạc mệnh đáng thương này rồi. Thôi, chàng còn muốn biết làm gì cho áy náy suốt đời kia chứ?” Bèn nói:

– Dương đại ca có điều gì sai bảo?

Dương Quá nói:

– Cô nương vừa bảo, lệnh tôn định hãm hại cô nương để lấy lòng một nữ tử hoàn toàn xa lạ, nữ tử đó là ai vậy?

Công Tôn Lục Ngạc đáp:

– Nữ tử ấy là Lý Mạc Sầu, còn tại sao thì…

Nàng ngập ngừng, rồi tiếp:

– Gia gia muội đối với muội tuy tệ hại, nhưng vẫn là phụ thân của muội, chuyện đó muội phận nữ nhi, không tiện nói ra…

Cầu Thiên Xích quát:

– Ngươi cứ việc nói! Lão tặc làm được, mà ngươi không dám nói ra ư?

Công Tôn Lục Ngạc lắc đầu, nói:

– Dương đại ca, nửa viên Tuyệt Tình đơn đang ở trong túi áo gia gia muội. Muội… muội là một đứa con bất hiếu.

Rồi không nhịn thêm được nữa, nàng gọi “Mẹ!” và chạy đến sà vào lòng Cầu Thiên Xích. Câu “muội là một đứa con bất hiếu”, Cầu Thiên Xích nghe lại tưởng là chỉ việc nàng không vâng lời phụ thân, kỳ thực Công Tôn Lục Ngạc muốn nói rằng nàng đã không tuân lệnh mẫu thân. Mấy chục người trong sảnh, chỉ một mình Hoàng Dung hiểu chân ý của Công Tôn Lục Ngạc.

Công Tôn Chỉ thấy cường địch vây quanh, trong bụng sớm nghĩ cách đối phó: “May quá, mụ ác phụ đúng thời khắc quyết định lại bắn Quách phu nhân một hạt táo. Ta chỉ cần làm cho hai kẻ ấy đánh nhau, là có thể thừa cơ thoát thân”. Bèn cười phá lên, nói:

– Hay, hay lắm, nữ nhi ngoan ngoãn quá, không uổng công gia gia yêu thương con. Con hãy cùng mẫu thân canh chừng phía bên ấy, hôm nay gia đình ta phải làm cho những kẻ đến cốc thì được, chứ rời khỏi cốc thì đừng hòng.

Đoạn hắn vung đao kiếm lao tới tấn công Hoàng Dung đang ngồi trên ghế.

Hoàng Dung cánh tay phải bị tê dại, không nhấc nổi cây Đả cẩu bổng, đành nghiêng mình né tránh. Quách Phù vẫn cẫm thanh kiếm của Gia Luật Tề, liền vung kiếm bảo vệ mẹ. Hắc kiếm của Công Tôn Chỉ đâm nhanh tới cổ họng Quách Phù, Quách Phù đưa kiếm gạt đi. Hoàng Dung kêu lên:

– Cẩn thận!

“Cạch” một cái, trường kiếm của Quách Phù gãy đôi, hắc kiếm của Công Tôn Chỉ không dừng lại, cứ đâm thẳng tới cổ nàng; Hoàng Dung tim tưởng chừng nhảy ra khỏi lồng ngực, vì nghĩ khoảnh khắc này không có cách nào giải cứu. Lục Vô Song ở bên cạnh quát:

– Giơ tay phải mà gạt đi!

Quách Phù thấy mũi kiếm đã gần tới cổ, đâu còn phân biệt tiếng quát vừa rồi là của ai, bất giác đưa cánh tay gạt đi.

Trình Anh quát:

– Biểu muội, sao lại…

Trình Anh biết Lục Vô Song giận Quách Phù chém mất cánh tay Dương Quá, cố ý làm cho Quách Phù rối trí, bảo nàng ta giơ cánh tay đỡ đòn, thể nào Quách Phù cũng sẽ bị thương vào cánh tay. Trình Anh đối với việc Dương Quá bị mất cánh tay cũng mười phần đau đớn, lúc nãy trong bóng đêm nàng đã khóc lén một hồi, nhưng nàng chỉ nghĩ đấy là một điều bất hạnh, tuy rất giận Quách Phù hạ độc thủ, song không hề muốn chém một cánh tay Quách Phù để trả thù, cho nên khi nghe tiếng quát của Lục Vô Song, nàng vội ngăn lại, nhưng đã không kịp; mũi kiếm của Công Tôn Chỉ đâm sượt qua cánh tay của Quách Phù.

Chỉ nghe soạt một tiếng, ống tay áo của Quách Phù bị rách một vệt dài, đồng thời thân hình nàng cũng bị kiếm lực làm cho đứng không vững, phải nhảy sang bên cạnh. Nhưng lạ thay, cánh tay nàng không hề bị đâm chém, máu tươi cũng không chảy một giọt. Trình Anh và Lục Vô Song kinh ngạc, Công Tôn Chỉ và Cầu Thiên Xích cũng giật mình. Quách Phù nhảy vài bước, đứng vững lại, còn cho rằng Lục Vô Song có hảo ý giải cứu, lòng thầm cảm kích, nói:

– Đa tạ tỷ tỷ! Vì sao tỷ tỷ lại biết…

Dương Quá vội tiếp lời:

– Công Tôn Chỉ không biết cô nương võ công cao siêu đâu

Chàng biết Hoàng Dung có một tấm áo giáp lông nhím không hề bị tổn thương bởi đao kiếm. Quách Phù giữ được cánh tay chắc là nhờ tấm áo giáp ấy, Quách Phù hỏi “Vì sao tỷ tỷ lại biết…” tất sẽ tiếp đến câu “muội có tấm áo giáp hộ thân?” Dương Quá nghĩ thanh kiếm sắc bén của Công Tôn Chỉ đã không thể đả thương nổi Quách Phù thì hắn sẽ khiếp sợ, vậy không nên để cho hắn biết nguyên do thật sự, nên chàng mới nói với hắn:

– Vị cô nương này là nữ nhi của Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ, là ngoại tôn nữ của Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư, Quách cô nương có tuyệt nghệ gia truyền, khắp người đao kiếm không làm gì được, cái thanh kiếm gỉ của lão thì làm gì nổi kia chứ?

Công Tôn Chỉ tức giận nói:

– Hừ, vừa rồi ta thủ hạ lưu tình, chẳng lẽ không đủ sức đả thương nó.

Đoạn vung hắc kiếm, phát ra tiếng “oăng oăng”. Quách Phù nghĩ: “Mình đã không sợ đao kiếm của hắn, cứ xông vào tấn công là được. Đấu với hắn chỉ có thắng không thua, tội gì không đấu?” Bèn nói:

– Tiểu Võ ca ca, hãy cho muội mượn kiếm. Lão già này không tin công phu gia truyền của đảo Đào Hoa, thì để bổn cô nương cho lão ta nếm mùi.

Võ Tu Văn đưa kiếm cho nàng. Quách Phù nhận kiếm, múa tít, nói:

– Lão già kia, tiến lại đi chứ!

Vẻ dương dương đắc ý, không sợ gì cả, tựa hồ một cao thủ đứng trước một kẻ võ công tầm thường vậy.

Công Tôn Chỉ trông nàng múa kiếm thì biết kiếm thuật của nàng chưa tới mức hỏa hầu, liền quát:

– Được, để ta lĩnh giáo!

Hắn chém một đao trước mặt, Quách Phù né tránh, đánh trả một kiếm. Hắc kiếm của Công Tôn Chỉ bật lại dón đường kiếm của nàng. Quách Phù nghĩ: “Không ổn! Thân ta có tấm áo giáp, chứ thanh kiếm thì không, song kiếm đụng nhau, kiếm của ta ắt gãy”, bèn thu kiếm về né tránh. Công Tôn Chỉ chập hai tay vào nhau, đao và kiếm đều đã cầm bên tay phải, tả chưởng đánh ra. Quách Phù cả mừng, nghĩ: “Chưởng của lão mà giáng vào tấm áo giáp của ta thì khốn cho lão đó!” Nhưng nàng sợ chưởng lực lợi hại, giáng trúng người sẽ làm chấn thương nội tạng, nên né tránh chưởng thứ nhất đang rất mạnh mẽ của đối phương, chờ chưởng sau yếu hơn sẽ tiếp nhận.

Nào ngờ Công Tôn Chỉ sử chưởng giữa chừng bỗng nhảy lùi về hơn một trượng, nói:

– Con a đầu kia, ngươi ám tiễn thương nhân!

Quách Phù kinh ngạc nói:

– Bổn cô nương đâu đã đả thương lão?

Nàng lấy làm lạ: “Không lẽ tấm áo giáp lại diệu dụng đến thế? Bàn tay lão ta còn chưa chạm đến áo của ta, mà lão đã bị thương rồi”.

Nàng làm sao biết Công Tôn Chỉ gian ngoan xảo quyệt, trong bụng chỉ tính cách mau chóng mang Tuyệt Tình đơn đi cho Lý Mạc Sầu uống chứ đâu muốn tranh cường đấu thắng với một tiểu cô nương. Hắn giả trang bị thương lảo đảo vài bước, luồn ngay về phía hậu đường. Vừa rồi hắn đã quan sát rõ tình thế, trước mặt là Dương Quá và Hoàng Dung, hai nhân vật lợi hại, lại thêm trường my lão tăng tuy có vẻ đang thần du nhập định, song quyết không phải hạng tầm thường; thừa lúc Quách Phù đang dương dương đắc ý, hắn chuồn ra lối hậu đường.

Công Tôn Lục Ngạc thấy hắn mang Tuyệt Tình đơn lẻn đi, vội chặn lại, nói:

– Gia gia hãy khoan đi vội!

Ngay lúc ấy, có tiếng vèo vèo, hai hạt táo cứng đã bắn về phía Công Tôn Chỉ. Cầu Thiên Xích sợ Công Tôn Chỉ né tránh, hạt táo sẽ bắn trúng người nữ nhi, nên đã phun lên cao, nhắm đầu hắn mà bắn tới. Công Tôn Chỉ rùn người xuống, hai hạt táo bay vụt phía trên mái tóc Công Tôn Lục Ngạc, cắm vào bức tường đá.

Công Tôn Chỉ quát:

– Tránh ra!

Miệng quát, chân không dừng bước. Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Tuyệt Tình đơn…

Lời chưa dứt, Công Tôn Chỉ đã chộp lấy cổ tay nàng, quay người lại, kéo nữ nhi che trước ngực, nói:

– Ác phụ kia, mụ muốn liều thì cho chết cả lũ!

Cầu Thiên Xích hai hạt táo đã bắn ra tới môi, chợt thấy biến cố bất trắc, không thu về được, vội nghiêng đầu, để hai hạt táo bắn sang bên cạnh. Trong thời khắc ấy, mụ chỉ cốt sao hai hạt táo không bắn vào người Công Tôn Lục Ngạc, chứ đâu còn cái đích nào khác, nhưng bỗng nghe hai tiếng kêu “Ối!” hai đệ tử áo xanh bị trúng một vào ngực, một vào trán, chết ngay tại chỗ.

Công Tôn Chỉ biết rằng muốn đoạt lại Tuyệt Tình cốc ngoài việc nhờ sự trợ giúp của Lý Mạc Sầu, còn phải có sự qui tâm của chúng đệ tử, biến cố này chính là dịp tốt để kích nộ chúng đệ tử, hắn bèn nói to:

– Ác phụ, mụ tàn nhẫn sát hại đệ tử của ta, quyết không thể để yên cho mụ!

Lúc này Dương Quá đã chặn lối đi của hắn, nói:

– Mọi chuyện giữa chúng ta phải có phần kết thúc, đừng có vội bỏ đi!

Công Tôn Chỉ giơ ngang người Công Tôn Lục Ngạc lên cao, nói:

– Ngươi dám cản đường ta à?

Hắn lấy chân trái làm trụ, xoay một vòng, rồi lại lấy chân phải làm trụ, xoay một vòng, cứ thế chuyển dịch về phía trước đến bốn thước, đã gần chỗ Dương Quá. Dương Quá thấy hắn lại xoay một vòng nữa, sợ mình đả thương nhầm Công Tôn Lục Ngạc, vội tránh sang một bên.

Công Tôn Lục Ngạc thân ở trong tay phụ thân, không cựa quậy được, bị quay vòng, đột nhiên nhìn thấy Dương Quá nhảy tránh sang một bên, nhãn quang lộ rõ vẻ quan hoài, thì không khỏi cảm thấy mình được an ủi lớn: “Chàng chỉ lo cho ta, chàng chẳng cần nghĩ đến giải dược. Ta chết cũng nhắm mắt được rồi”. Nàng tuy chân tay không thể cử động, nhưng cổ vẫn xoay được. Nàng khẽ gọi “Dương lang, Dương lang!” bổ trán vào lưỡi hắc kiếm của Công Tôn Chỉ. Hắc kiếm sắc như nước, Công Tôn Lục Ngạc bị chết tức thì trong tay phụ thân!

Dương Quá kêu lên “Ôi chao!” định nhảy vào cứu nhưng làm sao kịp? Công Tôn Chỉ cũng kinh ngạc, lòng hơi xao động, tai nghe có tiếng quát giận dữ sau lưng, tiếng rít của ba hạt táo bắn tới, hắn bèn quẳng ngay xác nữ nhi ra phía sau, ba hạt táo găm cả vào người Công Tôn Lục Ngạc.

Mọi người thấy hắn tàn nhẫn như thế, Công Tôn Lục Ngạc đã chết còn bị hắn đối xử như thế, ai ai cũng căm phẫn, rút binh khí xông tới.

Công Tôn Chỉ nói to:

– Chúng đệ tử, ác phụ câu kết ngoại địch, định giết hết nam phụ lão ấu ở Tuyệt Tình cốc ta. Ngư võng đao trận, hãy nhất tề vây lấy bọn chúng.

Bọn đệ tử bao năm vốn coi Công Tôn Chỉ như thần linh, từ hôm hắn bị Cầu Thiên Xích bắn mù một mắt phải đào tẩu, họ đành phải tuân lệnh Cầu Thiên Xích; bây giờ nghe tiếng kêu gọi của Công Tôn Chỉ, chẳng ai kịp suy nghĩ gì, kéo các tấm lưới có gắn dao từ bốn góc quây lại.

Mỗi tấm lưới đều rộng hai trượng vuông, có gắn các lưỡi dao sắc nhọn, mọi người võ công tuy cao, song chưa biết phải đối phó thế nào với các tấm lưới, nhìn các tấm lưới từ bốn phía chụp vào giữa, mỗi người khó lòng thoát khỏi bị tấm lưới chụp vào người. Cả Cầu Thiên Xích cũng bị vây luôn. Mụ quát to:

– Chúng đệ tử chớ nghe hồ ngôn loạn ngữ của lão tặc! Các người mau dừng lại, các người mau dừng lại!

Nhưng bọn đệ tử làm như không nghe thấy, chúng chỉ nghe lệnh của Công Tôn Chỉ:

– Khôn võng tiến lên phía trước, Khảm võng lùi sang trái, Chấn võng chuyển sang phải!

Bọn đệ tử răm rắp làm theo, các tấm lưới có gắn dao dần dần chụm lại.

Hoàng Dung lấy trong túi ra một nắm cương châm, vung tay ném về phía tám đệ tử áo xanh ở góc phía tây, nghĩ cự ly rất gần, cương châm lại nhiều, tối thiểu cũng phải đến năm sáu đệ tử áo xanh bị thương, ngư võng trận sẽ bị phá vỡ một khoảng, có thể thoát ra qua ngả đó. Chỉ nghe keng keng bộp bộp nhiều tiếng, các cương châm và hạt táo do Hoàng Dung và Cầu Thiên Xích bắn ra đều bị nam châm gắn trên các tấm lưới hút lấy cả. Hoàng Dung thầm kêu “Hỏng rồi!” và quát:

– Phù nhi, hãy giơ kiếm che đầu, cường công phá lưới!

Quách Phù nghe tiếng gọi của mẫu thân, vung động trường kiếm xông về góc đông bắc. Bốn đệ tử điều khiển tấm lưới chụp lấy nàng, năm sáu lưỡi dao đâm vào tấm áo giáp lông nhím của nàng bị bật ra, tấm lưới tuy không đả thương được nàng, nhưng sắp cuốn nàng vào trong.

Dương Quá đứng phía sau lưng Công Tôn Chỉ, vốn ở bên ngoài ngư võng trận, nhưng sau đó tám tấm lưới chuyển dịch lúc sang phải, khi sang trái theo hiệu lệnh của Công Tôn Chỉ, đã vây chàng vào bên trong. Dương Quá thấy tình thế nguy cấp, liền dùng Huyền thiết trọng kiếm chém mạnh vào tấm lưới sắp chụp tới Quách Phù. Nhiều tiếng keng keng, tấm lưới bị đứt đôi, kéo bốn gã đệ tử cùng ngã xuống đất. Bọn Võ Tam Thông, Gia Luật Tề không chút chậm trễ, xông tới đả thương bốn gã đệ tử áo xanh đó, đề phòng chúng chăng ra tấm lưới mới. Dương Quá hú lên hai tiếng dài, chém hai nhát kiếm nữa, lại chặt đứt hai tấm lưới khác. Các tấm lưới này đan bằng các sợi thép cực bền, nhưng Huyền thiết trọng kiếm có thứ gì mà không chém đứt; ba nhát chém, ba tấm lưới đứt đôi. Chúng đệ tử kêu lên kinh hãi, cùng lùi cả lại.

Công Tôn Chỉ quát:

– Năm tấm lưới cùng xông vào! Một kiếm của hắn khó phá năm tấm lưới!

Dương Quá nghĩ: “Năm tấm lưới cùng xông tới, quả thật khó phá!” Chàng liền lao chếch sang mé trái, chiếm tiên cơ, lại chém một tấm lưới nữa. Tấm lưới rất căng, khi bị kiếm chém đứt, nghe “phựt” một tiếng chối tai.

Lúc ấy bỗng nghe ngoài sảnh có tiếng quát:

– Ngươi chạy đi đâu?

Một cái bóng vàng vụt vào trong sảnh, chống kiếm đứng lại, chính là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu vừa đứng lại, thì từ cửa có một người nữa xông vào, máu me đầy mình, tóc tai rũ rượi, chính là Chu Tử Liễu. Họ Chu hai tay không, tả chỉ hữu chưởng, hùng hổ lao vào chỗ Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu tuy tay cầm binh khí, nhưng thấy Chu Tử liễu lao tới như kẻ điên liều chết, thì không dám tiếp chiêu, chạy nhanh vào một góc sảnh. Hai người đều có khinh công cực cao, thoáng chốc đã chạy bảy, tám vòng trong đại sảnh. Dương Quá kinh ngạc nghĩ: “Lý Mạc Sầu võ công vị tất thua kém Chu bá bá, sao mụ lại sợ Chu bá bá như thế? Thiên Trúc cao tăng sao rồi?”

Hai người võ công có sở trường riêng, nhưng về khinh công thì Lý Mạc Sầu cao hơn hẳn, sau mấy vòng chạy, ai cũng thấy Chu Tử Liễu nhất định không thể đuổi kịp Lý Mạc Sầu, huống hồ từ thân mình Chu Tử Liễu máu chảy thành giọt xuống đất, xem chừng bị thương không nhẹ. Cha con Võ Tam Thông từ hai phía vây lại, Chu Tử Liễu gọi:

– Sư ca, ác phụ này đã hại chết sư thúc. Chúng ta bất luận thế nào…

Rồi hổn hển không nói được nữa, đã đứng lại mà thân hình cứ loạng choạng.

Nhất Đăng đại sư nghe tin Thiên Trúc cao tăng đã chết, mặc dù tu vi cực thâm, cũng không kìm được nữa, đứng bật ngay dậy.

Dương Quá choáng váng, quay sang nhìn Tiểu Long Nữ, Tiểu Long Nữ lúc ấy cũng ngoảnh nhìn chàng. Hai người bốn mắt nhìn nhau, lập tức như rơi xuống hố băng, lạnh toát cả người. Tiểu Long Nữ chậm rãi bước lại dựa vào người chàng. Dương Quá hú một tiếng dài, cầm tay nàng kéo đi ra ngoài.

Nguyên Thiên Trúc cao tăng bình thời thường tiếp cận độc dược, lực kháng độc trong cơ thể rất mạnh, vị cao tăng lấy nhiều gai hoa Tình đâm vào người mình, dự tính hôn mê ba ngày đêm sẽ tỉnh lại, nhưng sau hơn hai ngày đêm một chút, đã hồi tỉnh. Vị cao tăng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói:

– Chất độc hoa Tình tuy rất lợi hại, nhưng không đến mức nặng như ta tưởng, tất sẽ có cách giải độc.

Chu Tử Liễu cả mừng, liền bẩm cáo rằng Nhất Đăng đại sư và Dương Quá đã tới Tuyệt Tình cốc, thạch môn của Hỏa hoàn thất cũng đã được Dương Quá phá vỡ. Thiên Trúc cao tăng nói:

– Việc không nên chậm trễ, chúng ta phải lập tức tìm cách chế dược cứu người.

Hai người ra khỏi Hỏa hoàn thất, Thiên Trúc cao tăng đến dưới gốc một bụi hoa Tình tìm dược thảo. Vị cao tăng biết rằng vật này khắc trị vật kia; chỗ rắn độc ra vào tất có thảo dược chữa trị được nọc độc của rắn. Dược thảo cần có để phối chế thuốc giải chất độc hoa Tình, có một vị chính chắc hẳn sẽ mọc ở dưới gốc bụi hoa Tình. Ai ngờ Lý Mạc Sầu nấp ngay sau tảng đá bên bụi hoa Tình, thấy Thiên Trúc cao tăng cúi đầu lại gần, mụ chẳng hỏi nguyên do đã bắn một mũi Băng phách ngân châm. Thiên Trúc cao tăng không biết võ công, mũi châm cắm vào ngực, vị cao tăng lập tức bỏ mạng.

Chu Tử Liễu nghe một tiếng “huỵch”, sư thúc đã nằm bất động, thì biết sau tảng đá có kẻ địch mai phục, nhưng chưa biết sư thúc đã chết, chẳng nề gian nguy của bản thân, lao tới cứu người. Lý Mạc Sầu biết tâm ý của Chu Tử Liễu, lại phóng một mũi châm nữa về phía thi thể Thiên Trúc cao tăng. Chu Tử Liễu tay không binh khí, vội xuất một chưởng đánh rơi mũi châm, lưng hướng về phía kẻ địch. Lý Mạc Sầu thừa cơ chém một kiếm vào vai phải của Chu Tử Liễu. Chu Tử Liễu vội rùn vai xuống, cũng đã bị lưỡi kiếm chém sâu vào thịt hơn một tấc, chỉ kịp điểm liên tiếp mấy chỉ vào eo lưng đối phương. Nhưng vai đã bị thương, cố nhiên không cứu nổi Thiên Trúc cao tăng, mà kẻ địch thì tiến chiêu không ngừng, thực vô cùng nguy hiểm.

Hai bên đấu qua lại mấy chiêu, Chu Tử Liễu thấy Thiên Trúc cao tăng nằm sấp dưới đất không hề động đậy bèn gọi:

– Sư thúc, sư thúc!

Thiên Trúc cao tăng hoàn toàn không trả lời. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Ngươi muốn lão ta trả lời cũng dễ thôi. Ta cho ngươi một mũi Băng phách ngân châm, để ngươi xuống suối vàng mà gọi lão ta.

Chu Tử Liễu đau lòng, càng thêm căm hận, gia tăng kình lực khi xuất chỉ, chiêu thức không hề rối loạn. Dưới ánh trăng sao mờ mờ, Lý Mạc Sầu thấy nhãn thần của đối phương như tia chớp, các chiêu tấn công đều dữ dội, tựa hồ liều mạng để cả hai cùng chết; cho nên đấu thêm mấy chiêu, mụ không khỏi hoảng sợ, vung kiếm đâm gấp hai nhát, rồi quay người bỏ đi. Chu Tử Liễu cúi xuống xem mạch cổ tay Thiên Trúc cao tăng, thấy không có mạch nữa, vị sư thúc đã tắt thở hẳn rồi, liền hú lên một tiếng bi thống, đề khí đuổi theo Lý Mạc Sầu. Hai người một trước một sau chạy đến đại sảnh.

Công Tôn Chỉ thấy Lý Mạc Sầu tới thì vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, gọi:

– Lý đạo hữu hãy lại bên này!

Rồi hắn tiến lại đón.

Hoàng Dung nhìn thần sắc Công Tôn Chỉ, đoán ra vài phần, gọi:

– Quá nhi, hãy ngăn cách hai tên ma đầu ấy, đừng để lại gần nhau!

Dương Quá nghe tin vị Thiên Trúc cao tăng đã chết thì không còn thiết gì nữa, Tuyệt Tình đơn có bị Công Tôn Chỉ mang đi hay không, cũng chẳng còn ý nghĩa gì đối với chàng; nghe Hoàng Dung nói vậy, chàng chỉ cười khổ, không xuất thủ.

Gia Luật Tề nâng một góc tấm lưới bị đứt, gọi:

– Đôn Nhu huynh, hãy kéo một góc!

Cùng với Võ Đôn Nhu, Hoàn Nhan Bình và Gia Luật Yến mỗi người một góc kéo nửa tấm lưới ngăn cách Công Tôn Chỉ với Lý Mạc Sầu.

Trong sảnh hỗn loạn, bọn đệ tử áo xanh chạy nháo nhào. Cầu Thiên Xích thừa cơ phun hạt táo, liên tiếp năm, sáu đệ tử áo xanh bị trúng đòn gục chết, các tấm lưới gài dao nhọn cái bị chặt đứt, cái bị đám đệ tử quẳng đi.

Công Tôn Chỉ nói to:

– Lý đạo hữu, hãy ra khỏi chốn này, hẹn gặp lại ở chỗ ban nãy.

Hắn và Lý Mạc Sầu chạy ra khỏi đại sảnh ngang qua chỗ Dương Quá và Tiểu Long Nữ. Dương Quá coi như không nhìn thấy, chẳng lý gì đến. Hoàng Dung gọi:

– Long gia muội tử, hãy ngăn chặn Công Tôn Chỉ, hắn đang giữ Tuyệt Tình đơn đó.

Tiểu Long Nữ giật mình, nghĩ: “Thiên Trúc cao tăng đã chết, chất độc hoa Tình trong người Quá nhi chỉ trông chờ vào nửa viên Tuyệt Tình đơn còn lại mà thôi”. Nàng bèn giật tay khỏi tay Dương Quá mà đuổi theo Công Tôn Chỉ. Dương Quá gọi:

– Cứ mặc cho hắn đi!

Tiểu Long Nữ nói:

– Làm sao để cho hắn đi kia chứ?

Dương Quá đành chạy theo sau.

Công Tôn Chỉ chạy về hướng đông bắc, Lý Mạc Sầu thì chạy về hướng tây bắc, mọi người cùng chia ra hai ngả đuổi theo. Tiểu Long Nữ, Dương Quá, Trình Anh và Lục Vô Song bốn người đuổi theo Công Tôn Chỉ. Cha con họ Võ, Chu Tử Liễu và Hoàn Nhan Bình năm người thì đuổi theo Lý Mạc Sầu. Huynh muội Gia Luật Tề và Quách Phù ở lại cùng Nhất Đăng đại sư và Hoàng Dung giám thị Cầu Thiên Xích.

Ở nhóm cha con Võ Tam Thông năm người, Chu Tử Liễu bị thương ở vai, vừa qua kịch chiến, bị mất nhiều máu, chạy được một quãng thì đuối dần. Mọi người dừng lại băng bó vết thương, chậm một chút đã không thấy tung tích Lý Mạc Sầu đâu nữa.

Chu Tử Liễu nói:

– Hôm nay nếu để nữ ma đầu ấy chạy thoát, chúng ta sẽ có lỗi với sư thúc.

Năm người sục sạo các bụi cây một hồi, không thấy Lý Mạc Sầu đâu cả. Võ Tam Thông nộ hóa xung thiên, ráng sức nhổ một cây bật rễ mà quật ngang quật dọc. Chu Tử Liễu nói:

– Công Tôn Chỉ có hẹn mụ ta “gặp lại ở chỗ ban nãy”; chúng ta tuy không biết “chỗ ban nãy” là đâu, nhưng chỉ cần bám theo Công Tôn Chỉ, nữ ma đầu cần có giải dược, sớm muộn gì cũng sẽ tìm gặp hắn.

Võ Tam Thông nói:

– Sư đệ nói chí phải.

Thế là năm người chạy về hướng tây bắc.

Chạy một hồi, quả nhiên nghe loáng thoáng có tiếng quát tháo từ phía trước vọng tới. Võ Tam Thông dìu Chu Tử Liễu đi nhanh thêm, tiếng quát lúc gần lúc xa, có khi lặng bặt hoàn toàn. Năm người lần mò trong bóng đêm. Trời rạng dần, họ đang đi, bỗng nghe phía trước, ở trên cao, có người cười phá lên một tràng dài, âm thanh chói tai. Mọi người dừng chân ngẩng đầu, thấy trên sườn núi đối diện có một người đứng ngửa mặt lên trời mà cười, chính là Công Tôn Chỉ. Bên dưới sườn núi là vực sâu, bên trên là đỉnh núi cao vút chìm trong sương mù, không thấy ngọn.

Chu Tử Liễu thấy Công Tôn Chỉ hình dạng như một kẻ điên, nghĩ: “Nếu hắn sảy chân rơi xuống vực sâu vạn trượng, hắn chết chẳng tiếc, nhưng nửa viên Tuyệt Tình đơn cũng sẽ mất tiêu”, liền chạy như bay, qua một khúc quành, thấy Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Trình Anh và Lục Vô Song bốn người đứng một chỗ, cùng ngẩng đầu nhìn về phía Công Tôn Chỉ.

Tiếu Long Nữ thấy nhóm Chu Tử Liễu đến, bèn nói nhỏ:

– Chu đại thúc, hãy mau nghĩ cách dụ hắn xuống.

Chu Tử Liễu nhìn địa thế xung quanh, thấy có một đoạn như cái cầu đá, rộng chưa đầy một thước, dẫn sang chỗ sườn núi mà Công Tôn Chỉ đang đứng, cầu đá và sườn núi đều phủ rêu xanh, một người đi qua cầu cũng bất tiện, trừ phi Công Tôn Chỉ tự nguyện xuống dưới này, không thể đi sang chỗ đó động thủ với hắn.

Võ Tam Thông nghĩ Dương Quá đã cứu mạng hai đứa con của lão, việc hôm nay lão không thể từ nan, bèn xắn tay áo, nói:

– Để ta sang bắt hắn xuống đây!

Lão vừa đi hai bước, một bóng người đã vọt tới trước lão, là Trình Anh, nói:

– Tiểu nữ đi cho!

Thân pháp của nàng quá mau lẹ, vụt một cái nàng đã đặt chân lên cái cầu đá. Ai dè nàng nhanh nhưng Dương Quá còn nhanh hơn. Trình Anh chỉ cảm thấy eo lưng bị ống tay áo của Dương Quá cuốn giữ, nàng bị kéo lại, nghe Dương Quá nói:

– Huynh có đáng gì mà mọi người phải khổ như vậy?

Trình Anh đỏ mặt, ngượng không nói nên lời.

Lúc ấy chỉ nghe Tiểu Long Nữ nói:

– Cho muội mượn kiếm!

Nàng đã lướt ngang qua chỗ Võ Đôn Nhu và Hoàn Nhan Bình, hai tay đoạt hai thanh kiếm của họ. Thủ pháp quả thực nhanh như tia chớp, Võ Đôn Nhu và Hoàn Nhan Bình còn đang sững sờ, đã thấy Tiểu Long Nữ chạy qua chiếc cầu đá tới trước mặt Công Tôn Chỉ.

Công Tôn Chỉ đứng chỗ tuyệt địa, thấy Tiểu Long Nữ cả gan tiến sang, bèn xáp tới chặn đầu cầu đá, giơ ngang kiếm hộ thân, cười nham hiểm, nói:

– Cô nương thật chán sống rồi ư?

Tiếu Long Nữ nghĩ: “Bất kể thế nào, ta cũng phải đoạt bằng được Tuyệt Tình đơn rồi mới chết” dịu dàng nói:

– Công Tôn tiên sinh, tiên sinh có ơn cứu mạng tiểu nữ; không ngờ tiểu nữ lại làm cho tiên sinh bị mấy phen khổ sở. Tiểu nữ… tiểu nữ trong lòng rất áy náy. Tiểu nữ đến đây không phải để liều chết với tiên sinh.

Công Tôn Chỉ hỏi:

– Vậy cô nương muốn gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tiểu nữ xin tiên sinh ban cho Tuyệt Tình đơn, cứu phu lang của tiểu nữ. Tiên sinh không dùng thứ đó, hãy ban cho tiểu nữ, tiểu nữ vĩnh cảm đại ân đại đức.

Dương Quá ở đầu cầu đá bên kia, gọi:

– Long nhi, trở về đây thôi, nửa viên thuốc ấy không cứu sống được hai ta đâu, có nó cũng vô dụng.

Công Tôn Chỉ thấy Tiểu Long Nữ mảnh mai đứng trên cầu đá, vạt áo gió thổi bay bay, tựa hồ nàng muốn theo gió bay đi, phong thái kia Lý Mạc Sầu làm sao sánh nổi một phần? Con mắt duy nhất của hắn cứ nhìn nàng đắm đuối, miệng hỏi:

– Cô nương gọi tên tiểu tử họ Dương là phu lang ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Phải, tiểu nữ đã thành thân với Dương lang.

Công Tôn Chỉ nói:

– Nếu cô nương đáp ứng ta một việc, ta có thể tặng viên Tuyệt Tình đơn cho cô nương.

Tiểu Long Nữ nhìn con mắt láo liên của hắn, đã biết ý muốn của hắn, bèn lắc đầu, nói:

– Tiểu nữ đã có chồng, làm sao có thể lấy tiên sinh? Công Tôn tiên sinh, tiên sinh có tình với tiểu nữ, nhưng trái tim của tiểu nữ đã thuộc về người khác, đành phụ hảo ý của tiên sinh.

Con mắt của Công Tôn Chỉ long lên, hắn gằn giọng nói:

– Thế thì cô nương hãy mau lui về, nếu còn đối địch với ta, thì đừng trách ta đao kiếm vô tình.

Tiểu Long Nữ nói:

– Công Tôn tiên sinh nhất định muốn động thủ, coi tiểu nữ như kẻ thù, chẳng hóa ra uổng phí sự quen biết giữa chúng ta hay sao?

Giọng nàng hiền hòa, thâm tâm quả vẫn ghi nhớ ơn cứu mạng lần trước của Công Tôn Chỉ.

Công Tôn Chỉ cười khẩy, nói:

– Ta muốn tận mắt thấy tên tiểu tử Dương Quá bị trúng độc quằn quại, đau đớn rên rỉ mà chết; muốn thấy vị hiền thê như cô nương cuối cùng trở thành quả phụ đeo vành khăn tang.

Hắn càng nói càng độc ác, hắn nghiến răng, trừng mắt. Dương Quá luôn miệng gọi:

– Long nhi, Long nhi, quay lại đi, nói với một kẻ như hắn làm gì!

Nếu không phải chiếc cầu đá quá hẹp, không đủ chỗ cho hai người đứng, thì chàng đã sang kéo Tiểu Long Nữ về. Tiểu Long Nữ cười buồn, nói:

– Tiên sinh nghe thấy chứ? Phu lang của tiểu nữ gọi tiểu nữ về đó, chàng đâu có nghĩ gì đến chất độc trong người chàng.

Công Tôn Chỉ và Tiểu Long Nữ cách nhau chưa đầy nửa trượng, tưởng chỉ cần tiến lên một bước sẽ bắt được nàng, có điều là địa thế quá hiểm, nàng chỉ cần vùng vẫy một cái là cả hai sẽ cùng rơi xuống vực sâu, nhưng nếu không bắt nàng làm con tin để bọn địch có điểm e ngại, thì chính hắn bị vây khốn ở “Đoạn Trường nhai” này, làm sao có thể thoát thân? Trong bọn địch chỉ có một mình Dương Quá lợi hại, song nếu hắn cố phá vây, thì Dương Quá vị tất ngăn được hắn, tốt nhất là để cho Tiểu Long Nữ qua cầu sang hẳn bên này, hắn sẽ bắt nàng, sau đó hội hợp với Lý Mạc Sầu. Chủ ý đã định, Công Tôn Chỉ gõ đao kiếm vào nhau một cái, nghe vang động cả sơn cốc, miệng quát:

– Còn chưa lui về này!

Hắc kiếm đâm luôn Tiểu Long Nữ, Tiểu Long Nữ tả kiếm đỡ gạt, hữu kiếm trả đòn. Sau khi nàng học được thuật phân tâm nhị dụng của Chu Bá Thông, võ công tăng tiến gấp đôi. Tuy tạng phủ ngậm độc, nội lực suy giảm, song hai tay cùng sử “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” một cách thần diệu, kim đao hắc kiếm của Công Tôn Chỉ làm sao địch nổi? Đao kiếm của hắn tuy biến ảo muôn phần, song đao vẫn là đao, kiếm vẫn là kiếm, chẳng qua chỉ thêm một món binh khí mà thôi. Thoáng chốc song kiếm của Tiểu Long Nữ đã múa thành hai vùng bạch ảnh, đâm chém đỡ gạt, hệt như có hai đại cao thủ liên thủ tiến công, Công Tôn Chỉ càng đấu càng hoảng, thầm hối hận: “Biết nàng ta học được môn kiếm thuật lợi hại thế này, ta đã không động thủ với nàng”. Nhưng “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” tuy tinh diệu, uy lực sát nhân lại không mạnh, Tiểu Long Nữ cũng không có ý giết Công Tôn Chỉ, nên hắn nhất thời vẫn còn trụ được.

Hai người đấu trên sườn núi một lát, thì Nhất Đăng đại sư, Hoàng Dung, Quách Phù và huynh muội Gia Luật Tề cũng đều chạy tới. Mọi người ngẩng đầu quan chiến, thấy sườn núi chênh vênh, hai người ác đấu, thì không khỏi kinh hãi.

Quách Phù nói với Gia Luật Tề:

– Chúng ta mau lên đó giúp một tay!

Gia Luật Tề lắc đầu, nói:

– Cầu đá kia không có chỗ cho hai người đặt chân.

Quách Phù đã động thủ với Công Tôn Chỉ, biết hắn võ công cực cao, mẫu thân cũng không địch nổi, Tiểu Long Nữ một mình đánh sao lại hắn? Nàng lo lắng nói:

– Mẹ, mau nghĩ cách giúp Long tỷ tỷ đi!

Kỳ thực Quách Phù không giục, thì mấy người kia đều mong tìm cách giúp Tiểu Long Nữ thoát khỏi hiểm cảnh, nhưng cái cầu đá kia không có chỗ cho hai người đặt chân, họ thấy kim đao hắc kiếm của Công Tôn Chỉ liên tiếp tung sát thủ, còn song kiếm của Tiểu Long Nữ tung hoành trước sau, trông hình như vô lực, tình thế này kéo dài, không chừng Tiểu Long Nữ sẽ táng mạng dưới tay Công Tôn Chỉ. Chỉ có Nhất Đăng đại sư, Dương Quá, Hoàng Dung và Chu Tử Liễu bốn người nhận biết chiêu số của Tiểu Long Nữ đang chiếm thượng phong, nhưng trong lúc ác đấu, chỉ cần trượt chân một cái sẽ lập tức rơi xuống vực sâu, mỗi thời khắc đều vô cùng hung hiểm. Chỉ thấy hai khối bạch ảnh bao trùm một đạo hoàng quang, một đạo hắc khí, thì ai nấy nín thở, toát mồ hôi lạnh.

Hai người đấu được một lúc, Hoàng Dung nhận ra Tiểu Long Nữ sử dụng thuật phân tâm hợp kích. Môn võ công này trên đời trừ Chu Bá Thông và Quách Tĩnh, không người thứ ba nào biết sử, Tiểu Long Nữ hẳn đã được Chu Bá Thông truyền thụ. Song kiếm hợp kích vốn có uy lực kỳ lạ, nhưng nàng sau khi bị trọng thương còn bị trúng độc, nội lực đại tổn, nên khó bề thủ thắng. Hoàng Dung chợt nghĩ ra một cách, bèn nói:

– Quá nhi, ta và ngươi cùng lên tiếng nói với Công Tôn Chỉ, ngươi dùng lời dọa hắn, ta sẽ làm cho hắn cao hứng, khiến hắn bị phân tâm.

Rồi cao giọng, nói:

– Công Tôn tiên sinh, mụ ác phụ Cầu Thiên Xích đã bị ta giết rồi.

Công Tôn Chỉ nghe thấy, hơi chấn động, bán tín bán nghi. Dương Quá nói:

– Công Tôn Chỉ, Lý Mạc Sầu bảo ngươi không chịu đưa giải dược cho mụ ta, mụ ta sẽ đến tìm ngươi trút giận đấy.

Hoàng Dung nói:

– Không, Lý Mạc Sầu bảo chỉ cần tiên sinh chữa khỏi cho nàng ta, thì nàng ta sẽ kết hôn với tiên sinh đó.

Dương Quá nói:

– Bọn ta nhất quyết không để cho ngươi được thỏa nguyện; sau khi bắt giữ ngươi, bọn ta sẽ dùng gai hoa Tình đâm vào khắp cơ thể ngươi.

Hoàng Dung nói:

– Chuyện ấy có thể thu xếp, Công Tôn tiên sinh đừng lo, mọi người hoá thù thành bạn thì hơn, phải vậy không?

Dương Quá nói:

– Nàng Nhu Nhi ngươi hại chết năm nọ đã hóa thành quỉ sứ đến bắt ngươi, kìa nàng Nhu Nhi đang ở ngay sau lưng ngươi đó, ngươi ngoảnh lại mà coi?

Hai người cứ thay nhau nói, lời của Hoàng Dung khiến Công Tôn Chỉ vui mừng, nhưng nghe Dương Quá nói thì hắn lại sợ. Tiểu Long Nữ nghe thấy cả, nhưng một là việc chẳng liên quan gì đến nàng, hai là khi sử dụng môn võ công phân tâm nhị dụng, thì tâm trí hoàn toàn “không minh”, thế kiếm chẳng chậm lại chút nào. Công Tôn Chỉ vốn đang bối rối, vất vả chống đỡ, phải nghe hai người kia gọi dồn dập như thế, thì càng rối trí, quát:

– Các người hồ ngôn loạn ngữ quá thể! Hãy câm miệng lại!

Dương Quá gọi:

– Ê, Công Tôn Chỉ, cô nương đầu tóc rũ rượi ở sau lưng ngươi là ai vậy? Vì lẽ gì nàng ta lại thè lưỡi, đầy mặt máu me thế kia? Ô, móng vuốt của nàng ta dài quá, sắp thộp đến gáy ngươi rồi kìa!

Rồi chàng quát to:

– Hay lắm, Nhu Nhi, hãy thộp đến gáy Công Tôn Chỉ cho ta!

Công Tôn Chỉ thừa biết là Dương Quá muốn làm cho hắn rối trí, nhưng tự dưng nghe chàng quát như vậy thì không khỏi giật mình, liếc mắt về phía sau một cái. Đúng lúc ấy mũi kiếm của Tiểu Long Nữ đâm trúng cổ tay trái của hắn, Công Tôn Chỉ buông tay, cây kim đao bay vùng lên, loáng một cái dưới ánh nắng ban mai vừa ló, rồi rơi xuống vực, một hồi lâu mới nghe tõm một tiếng rất nhẹ, tựa hồ đáy vực là đầm nước. Võ Tam Thông, Chu Tử Liễu nhìn nhau kinh hãi, cây đao rơi lâu thế mới có tiếng vọng lên, đủ biết vực sâu bao nhiêu mà kể.

Công Tôn Chỉ mất đao, đừng nói tấn công, chỉ phòng ngự thôi cũng khó. Tiểu Long Nữ hai tay đâm liền bốn nhát kiếm, Công Tôn Chỉ loạng choạng, cổ tay phải trúng đòn, hắc kiếm rơi nốt xuống vực. Hữu kiếm của Tiểu Long Nữ chĩa thẳng giữa ngực, tả kiếm thì chĩa vào bụng hắn, nói:

– Công Tôn tiên sinh, tiên sinh đưa Tuyệt Tình đơn cho tiểu nữ, tiểu nữ sẽ tha mạng cho tiên sinh.

Công Tôn Chỉ nói, giọng run run:

– Cô nương có thiện tâm, nhưng những người khác thì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Họ sẽ không giết tiên sinh.

Đến bước này, Công Tôn Chỉ chỉ cần giữ mạng sống cho mình, đâu còn nghĩ đến Lý Mạc Sầu. Hắn lấy cái bình nhỏ trong túi chìa ra. Tiểu Long Nữ tả kiếm vẫn chĩa vào bụng hắn, tay phải nhận lấy cái bình, trong lòng cảm thấy vừa ngọt ngào vừa cay đắng, nghĩ: “Mình tuy khó sống, nhưng cuối cùng đã đoạt được Tuyệt Tình đơn để cứu Quá nhi”.

Đoạn nàng đề khí, nhún chân chạy qua cầu đá về chỗ Dương Quá.

Võ Tam Thông, Chu Tử Liêu vốn biết Tiểu Long Nữ võ công cao cường, nhưng không thể nào ngờ lại đến mức xuất thần nhập hóa, hai tay cùng lúc sử song kiếm theo hai kiếm pháp khác nhau, phân tiến hợp kích, quả thật bình sinh chưa thấy. Họ từng nghe đồn Chu Bá Thông và Quách Tĩnh hai tay có thể cùng lúc sử dụng hai môn võ công khác nhau, nghe thì bán tín bán nghi, hôm nay tận mắt chứng kiến, ai cũng thán phục, nhìn những chỗ hung hiểm huyền diệu, thì vừa kinh tâm động phách vừa thích thú khoái trá. Bọn trẻ như huynh muội Gia Luật Tề, huynh đệ họ Võ, Trình Anh, Lục Vô Song, Quách Phù thì nhìn hoa cả mắt, nghĩ Tiểu Long Nữ cùng trạc tuổi mình mà võ công cao siêu khôn lường, trong bụng hoàn toàn kính phục. Nhìn nàng tay cầm bình giải dược lướt trên cầu đá như một tiên nữ, mọi người nhất tề hoan hô.

Dương Quá chạy lại đón, ôm lấy nàng. Mọi người ùa tới vây quanh hỏi han. Tiểu Long Nữ mở nút bình, dốc nửa viên Tuyệt Tình đơn ra lòng bàn tay, mỉm cười hỏi:

– Quá nhi, thuốc này không giả chứ?

Dương Quá thong thả xem kỹ viên thuốc, nói:

– Không giả đâu, Long nhi. Nàng cảm thấy trong người thế nào? Sao mặt tái nhợt đi thế? Nàng thử vận khí xem nào!

Tiểu Long Nữ gượng cười, lúc chạy trở sang đây, nàng đã cảm thấy khí huyết đan điền nghịch chuyển, rất buồn nôn, thử vận chân khí nén xuống không được, biết chất độc ngấm đã sâu, may sao lấy được viên Tuyệt Tình đơn, ngoài ra không cần gì hơn nữa.

Dương Quá nắm tay phải của nàng, cảm thấy lòng bàn tay lạnh giá, hỏi:

– Nàng cảm thấy thế nào?

Tiểu Long Nữ đáp:

– Không sao đâu, Quá nhi uống thuốc mau đi!

Dương Quá nhận nửa viên Tuyệt Tình đơn, run run nói:

– Nửa viên thuốc này không cứu nổi mạng sống của hai người, cần gì đến nó? Không lẽ sau khi nàng chết đi, ta sống một mình hay sao?

Nói đến đây, chàng tuyệt vọng đau đớn, vung tay ném nửa viên thuốc duy nhất có thể giải độc cho mình xuống dưới vực sâu muôn trượng.

Biến cố này làm cho tất cả mọi người bị bất ngờ, sững sờ kêu lên.

Tiểu Long Nữ biết Dương Quá quyết ý đồng sinh cộng tử với mình, trong lòng vừa đau đớn vừa cảm kích, sau cuộc ác đấu chất độc phát tác, không chịu đựng thêm được nữa, lảo đảo ngã vào lòng Dương Quá.

Bọn Quách Phù, huynh đệ họ Võ, Hoàn Nhan Bình, Gia Luật Yến không biết nguyên do, xôn xao nghị luận.

Đúng lúc ấy, nghe Võ Tam Thông quát to:

– Lý Mạc Sầu, hôm nay ngươi đừng hòng tẩu thoát.

Lão chạy như bay lên sườn núi mé bên trái, mọi người ngoảnh nhìn, thấy Công Tôn Chỉ theo đường mòn men dốc núi chạy nhanh về phía tây, nơi có một đạo cô đứng đó, chính là Lý Mạc Sầu. Hai kẻ kia sắp gặp nhau, Võ Tam Thông thì còn cách một quãng xa.

Bỗng có tiếng cười hô hô, từ sau núi tiến ra một người vai vác một chiếc hòm gỗ lớn, râu tóc bạc phơ, chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông.

Hoàng Dung gọi:

– Lão Ngoan đồng, hãy đuổi đạo cô kia lại đây

Chu Bá Thông nói:

– Hay lắm! Mọi người hãy xem bản lĩnh của Lão Ngoan đồng!

Lão mở nắp cái hòm gỗ, hai tay phẩy phẩy, một bầy ong bay ra, xông thẳng tới chỗ Lý Mạc Sầu. Nguyên đại quân Mông Cổ đốt núi Chung Nam, toàn bộ phái Toàn Chân rút lui, mang theo kinh sách đạo tàng. Chu Bá Thông chọn một chiếc hòm, nuôi lũ ong đã được Tiểu Long Nữ thuần dưỡng vào đó, lão chơi đùa nhiều ngày không biết mệt, đã phần nào nắm được cách điều khiển đàn ong, lúc này nghe Hoàng Dung gọi, đúng là có dịp đại hiển thân thủ.

Công Tôn Chỉ thấy đàn ong thì cả kinh, không dám chạy về phía Lý Mạc Sầu, mà trốn vào một khe núi. Lý Mạc Sầu nghe tiếng đàn ong vo vo bay tới, đành men theo sơn lộ lùi về phía đông. Huynh đệ họ Võ, Trình Anh, Lục Vô Song lăm lăm binh khí chờ sẵn. Gia Luật Tề gọi:

– Sư phụ, bản lĩnh của lão nhân gia hay quá, sư phụ mau thu đàn ong lại thôi!

Chu Bá Thông rối rít hô huýt để thu đàn ong lại, nhưng sau khi lùa được đàn ong bay ra tấn công như ý muốn, lão quá đắc ý, gọi đàn ong trở lại không đúng kiểu, đàn ong làm sao chịu nghe hiệu lệnh? Chúng cứ vo vo đuổi theo Lý Mạc Sầu.

Dương Quá ôm Tiểu Long Nữ, gọi nhỏ:

– Long nhi, Long nhi.

Tiểu Long Nữ từ từ mở mắt, nghe tiếng ong quen thuộc, tưởng đâu đã trở về cố cư ở núi Chung Nam, sung sướng nói:

– Chúng mình về nhà rồi phải không?

Nàng định thần lại, hiểu ra sự việc, liền huýt sáo mấy tiếng, đàn ong lập tức bay vòng tròn quanh Lý Mạc Sầu, không bay loạn đi nữa.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ, sư tỷ bình sinh cứ hành sự tàn ác, hôm nay đã chịu hối hận hay chưa?

Lý Mạc Sầu mặt tái mét, hỏi:

– Tuyệt Tình đơn đâu?

Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Tuyệt Tình đơn đã rơi xuống vực rồi. Sư tỷ tại sao lại đi sát hại vị Thiên Trúc cao tăng? Vị cao tăng ấy nếu không chết, sẽ có thể cứu sống không chỉ Dương Quá và muội, mà cả sư tỷ nữa đấy.

Lý Mạc Sầu lòng nặng trĩu, biết sư muội nói thật, không ngờ mình dùng một mũi Băng phách ngân châm giết hại Thiên Trúc cao tăng, rốt cuộc cũng là hại chết mình.

Lúc này cha con họ Võ, Trình Anh và Lục Vô Song đã vây xung quanh. Chu Bá Thông đang chỉ tay giậm chân hô gọi đàn ong. Tiểu Long Nữ nói:

– Chu lão gia tử, phải huýt thế này cơ.

Rồi nàng tròn môi huýt sáo. Chu Bá Thông học theo, quả nhiên đàn ong lũ lượt bay nhanh vào trong chiếc hòm. Chu Bá Thông cả mừng, nói:

– Đa tạ Long cô nương chỉ dẫn!

Nhất Đăng đại sư mỉm cười, gọi:

– Bá Thông huynh, bao năm không gặp, huynh vẫn thanh kiện như xưa.

Chu Bá Thông lập tức sững sờ, đỏ bừng cả mặt, vội đậy nắp hòm, nói:

– Huynh cũng khỏe, đệ cũng khỏe, mọi người đều khỏe.

Rồi vác hòm lên vai, bỏ đi ngay.

Lý Mạc Sầu nhìn tình thế xung quanh, chỉ riêng từng người như Hoàng Dung, Dương Quá, Tiểu Long Nữ, mụ đã không thể địch nổi; huống hồ cả bọn hợp vây? Bèn nói:

– Các vị cũng đòi tự xưng là người hiệp nghĩa, thế mà hôm nay lại ỷ đông người để ăn hiếp ta! Tiểu sư muội, ta là đệ tử phái Cổ Mộ, không thể chết bởi tay phái khác, sư muội hãy tới mà giết ta!

Nói rồi xoay ngược trường kiếm, chĩa mũi nhọn vào giữa ngực mình. Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Sự đã thế này, muội giết sư tỷ làm gì?

Võ Tam Thông đột nhiên quát:

– Lý Mạc Sầu, ta muốn hỏi ngươi một câu, thi thể của Lục Triển Nguyên và Hà Nguyên Quân, ngươi đã đem vứt ở đâu?

Lý Mạc Sầu đột nhiên nghe tên Lục Triển Nguyên và Hà Nguyên Quân thì toàn thân run rẩy, cơ mặt giật giật, nói:

– Đã thiêu thành tro, một đám tro rải trên đỉnh Hoa Sơn, một đám tro ném xuống biển Đông, để hai kẻ đó vĩnh viễn không thể tái hợp.

Mọi người nghe câu nói rít qua kẽ răng, đầy sự oán độc, đều bất giác rùng mình.

Lục Vô Song nói:

– Long gia tỷ tỷ hảo tâm, không chịu giết mụ. Cả gia đình ta đã bị mụ giết hết, một mình ta may mắn thoát chết, hôm nay ta phải trả thù. Biểu tỷ, chúng ta tiến lên nào!

Huynh đệ họ Võ cùng nói:

– Mẫu thân ta bị mụ giết hại, người khác tha cho mụ, chứ huynh đệ ta thì không đời nào.

Lý Mạc Sầu thản nhiên nói:

– Một đời ta đã giết không biết bao nhiêu người, nếu ai cũng muốn báo thù, thì ta phải có bao nhiêu mạng mới đền nổi? Dù ta nợ máu với hàng ngàn người, cũng chỉ có một mạng này thôi.

Lục Vô Song và Võ Tu Văn nói:

– Thế thì lợi cho mụ quá chừng!

Hai người một đao một kiếm, cùng bước tới.

Lý Mạc Sầu vẩy cổ tay một cái, cạch một tiếng, trường kiếm trong tay gãy đôi, nhếch mép cười khinh miệt, hai tay chắp sau lưng, không chống cự, đợi đao kiếm chém chết.

Đúng lúc ấy, bỗng thấy mé đông khói lửa bốc lên trời, Hoàng Dung kêu lên:

– Ôi chao, trang viện cháy rồi!

Chu Tử Liễu nói:

– Tạm hoãn việc giết Lý Mạc Sầu, phải đi cứu di thể của sư thúc đã.

Đoạn phi thân tới, dùng thủ pháp Nhất Dương chỉ điểm ba huyệt đạo trên người Lý Mạc Sầu để mụ không thể đào tẩu. Trình Anh nói:

– Cả di thể của Công Tôn cô nương nữa.

Mọi người đều nói:

– Đúng vậy!

Mọi người cùng chạy nhanh. Huynh đệ họ Võ áp giải Lý Mạc Sầu. Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Hoàng Dung và Nhất Đăng đại sư bốn người thong thả đi sau cùng.

Cách trang viện nửa dặm, đã thấy khí nóng phả vào mặt, nghe tiếng huyên náo, tiếng xà nhà, mái nhà đổ sụp không ngớt. Võ Tam Thông nói:

– Gã Công Tôn Chỉ gian ác phóng hỏa thế này, Long cô nương lẽ ra nên giết hắn đi mới phải.

Chu Tử Liễu nói:

– Vụ cháy này chắc không phải do bàn tay Công Tôn Chỉ gây ra. Đệ đoán là do lão thái bà Cầu Thiên Xích.

Võ Tam Thông ngạc nhiên hỏi:

– Cầu Thiên Xích ư? Cả một cơ nghiệp bề thế ngần ấy của mình, hà tất lại tự tay phóng hỏa?

Chu Tử Liễu nói:

– Đệ tử trong cốc đều không phục mụ ta, dù có giết được Công Tôn Chỉ, mụ ta cũng không thể an cư ở đây, đệ thấy lão thái bà ấy tâm địa hẹp hòi vô cùng…

Mọi người đã chạy tới bên bụi hoa Tình, nơi Thiên Trúc cao tăng bỏ mạng. Chu Tử Liễu ôm di thể vị cao tăng lên, thấy mặt mũi như người sống, tươi cười. Võ Tam Thông nói:

– Sư thúc chết cực nhanh, không bị đau đớn gì cả.

Chu Tử Liễu trầm ngâm nói:

– Sư thúc lúc ấy đang tìm dược thảo giải độc hoa Tình…

Lúc này Hoàng Dung và Nhất Đăng đại sư cũng đã tới nơi, Hoàng Dung nghe Chu Tử Liễu nói, xem kỹ khắp thân mình Thiên Trúc cao tăng, không phát hiện có gì khác lạ, thò tay vào túi áo của vị cao tăng, cũng không tìm thấy vật gì, hỏi Chu Tử Liễu:

– Lệnh sư thúc có dặn lại điều gì không?

Chu Tử Liễu nói:

– Không. Tại hạ cùng sư thúc từ Hỏa hoàn thất đi tới đây, không ngờ có đại địch mai phục ở chỗ này.

Hoàng Dung nhìn sắc diện của Thiên Trúc cao tăng, đột nhiên nghĩ ra một điều, cúi xuống lật bàn tay của vị cao tăng, thấy ngón cái và ngón trỏ có cầm một ngọn cỏ màu tím sẫm. Hoàng Dung nhẹ nhàng gỡ hai ngón tay vị cao tăng, lấy ngọn cỏ ra, hỏi:

– Đây là thứ cỏ gì?

Chu Tử Liễu lắc đầu, hoàn toàn không biết. Hoàng Dung đưa lên mũi ngửi, thấy mùi tanh hôi đến mức buồn nôn. Nhất Đăng đại sư vội nói:

– Quách phu nhân hãy cẩn thận, cỏ này gọi là “Đoạn Trường thảo” cực độc.

Hoàng Dung sững sờ, thất vọng.

Huynh đệ họ Võ áp giải Lý Mạc Sầu đến. Võ Tu Văn nghe Nhất Đăng đại sư nói “Đoạn Trường thảo” là thứ cỏ cực độc, bèn nói:

– Sư nương, hay là bắt nữ ma đầu vạn ác này ăn ngọn cỏ ấy đi.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Thiện tai! Thiện tai! Hài nhi nhỏ tuổi chớ nên khơi dậy ác tâm.

Võ Tu Văn nói:

– Sư tổ gia gia, không lẽ đối với mụ ác ma này, sư tổ cũng còn rủ lòng từ bi hay sao?

Lúc này cây cối xung quanh đã bén lửa, khí nóng càng lúc càng khó chịu. Hoàng Dung nói:

– Mọi người hãy lui lên hòn núi đá phía đông bắc đã.

Mọi người chạy lên dốc, thấy rất nhiều dãy nhà đã chìm trong biển lửa.

Lý Mạc Sầu bị điểm huyệt, tuy có thể đi lại nhưng không thể thi triển võ công, mụ ngầm vận khí để tự giải huyệt, thừa cơ mọi người không đề phòng sẽ đào tẩu, tuy không đả thương được ai, song cũng có thể thoát thân. Nào ngờ vừa động chân khí thì ngực và bụng lập tức đau nhói, phải kêu ối lên một tiếng. Mụ khắp người bị gai hoa Tình đâm phải, ban đầu còn dùng chân khí hộ thân, chất độc nhất thời chưa phát tác; lúc này huyệt đạo bị chế ngự, chân khí tản mác, chất độc càng phát tác mạnh. Mụ bị đau nhói ở ngực và bụng, nhìn Dương Quá và Tiểu Long Nữ sánh vai nhau từ xa đi tới, một người là chàng trai anh tuấn, một người là thiếu nữ kiều diễm, thì tự dưng hoa mắt, mơ hồ nhìn ra đấy là ý trung nhân Lục Triển Nguyên mà mụ tương tư khắc cốt, còn người kia là Hà Nguyên Quân, thê tử của Lục Triển Nguyên. Mụ buột miệng, nói:

– Lục Triển Nguyên, chàng tàn ác thế, lúc này còn vác mặt đến gặp ta ư?

Tình cảm trong lòng vừa bị kích động, chất độc hoa Tình càng tăng sự lợi hại, toàn thân run rẩy, cơ mặt giật giật. Mọi người nhìn diện mạo đáng sợ của mụ, bất giác lùi cả ra mấy bước.

Lý Mạc Sầu một đời cao ngạo, chưa từng tỏ ra hèn yếu trước mọi người, nhưng lúc này tim đau thắt, mụ buột miệng kêu:

– Ta đau quá, mau cứu ta với!

Chu Tử Liễu chỉ di thể của Thiên Trúc cao tăng, nói:

– Sư thúc ta vốn có thể cứu ngươi, nhưng ngươi đã giết chết người.

Lý Mạc Sầu nghiến răng, nói:

– Phải, ta đã giết mất rồi, người xấu người tốt trên thế gian ta đều giết cả. Ta muốn chết, ta muốn chết cho xong! Các người vì sao được sống? Ta muốn các người cùng chết với ta!

Mụ đau quá hết nhịn được, đột nhiên dang hai tay, lao thẳng người vào mũi kiếm đang chĩa tới của Võ Đôn Nhu. Võ Đôn Nhu bao năm rồi chỉ mong một kiếm đâm chết Lý Mạc Sầu để trả thù cho vong mẫu, vậy mà lúc này thấy mụ ta lao thẳng người vào mũi kiếm của mình, tự nhiên lại thu kiếm về.

Lý Mạc Sầu lao trượt, ngã nhào một cái, rồi cứ thế lăn xuống dốc núi, về phía biển lửa. Mọi người đồng thanh kêu lên, nhìn theo, thấy tà áo của Lý Mạc Sầu đã bén lửa, lưỡi lửa đỏ liếm quanh người mụ, chỉ thấy mụ bật thẳng dậy, đứng bất động, thì ai nấy cùng kinh hãi.

Tiểu Long Nữ nghĩ tình sư môn, gọi:

– Sư tỷ, mau nhảy ra đi!

Lý Mạc Sầu vẫn hiên ngang đứng trong biển lửa, không lý gì đến tiếng gọi. Thoáng chốc, lửa đã trùm kín người mụ. Đột nhiên từ trong lửa vọng ra tiếng ca thê lương: Tình là chi hỡi thế gian, câu thề sinh tử đa mang một đời…

Đến chữ “đời” thì tiếng ca tắt lặng.

Tiểu Long Nữ nắm lấy cánh tay Dương Quá, nước mắt lã chã. Mọi người nghĩ Lý Mạc Sầu một đời gây bao nghiệt chướng, hôm nay bỏ mạng quả thật chết chưa hết tội, nhưng mụ ta cũng không phải bẩm sinh tàn ác. Chỉ vì nhầm lẫn tình trường, đâm quàng vào bụi rậm, càng lúc càng gai góc, cuối cùng không thể gỡ ra được nữa, hối cũng chẳng kịp. Trình Anh và Lục Vô Song không bao giờ quên mối thù cả nhà bị giết, nhưng nhìn Lý Mạc Sầu phải chịu kết cục bi thảm thế này, tuy thù lớn đã báo, trong lòng cũng không vui gì. Hoàng Dung ẵm Quách Tương, nghĩ Lý Mạc Sầu không từ bất cứ việc ác nào, song bình sinh cũng có lúc làm việc thiện, ấy là nuôi dưỡng bé Quách Tương hơn một tháng, bèn cầm hai tay bé Quách Tương mà vái mấy cái về phía biển lửa.

Dương Quá lúc từ “Đoạn Trường nhai” tới đây, vốn định đến đại sảnh cứu thi thể Công Tôn Lục Ngạc, nhưng lửa phát cháy chính từ đại sảnh, đi chưa đến nửa đường đã thấy bốn phía đại sảnh lửa cháy ngút trời, nghĩ Công Tôn Lục Ngạc và Lý Mạc Sầu, một hiền một ác đều tuẫn tình mà chết, cùng táng thân trong biển lửa, thì không khỏi ngậm ngùi, thở dài buồn bã.

Lúc ấy bỗng nghe trên đỉnh núi phía đông bắc có tiếng cười man rợ, nghe như tiếng cú kêu. Dương Quá buột miệng nói:

– Là Cầu Thiên Xích? Sao mụ ta lại leo được lên đỉnh núi?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng ta thử lên hỏi lão thái bà, liệu có còn viên Tuyệt Tình đơn nào chăng?

Dương Quá cười khổ, nói:

– Long nhi, Long nhi, đến lúc này mà nàng vẫn chưa hiểu ư?

Hoàng Dung, Võ Tam Thông, Chu Tử Liễu nghe Tiểu Long Nữ nói thế, đều nghĩ: “Thì cứ hỏi thử mụ ta xem, nếu xin được Tuyệt Tình đơn, nhất định phải buộc Dương Quá uống thuốc, chứ không được hủy giải dược chịu chết như vậy”. Mọi người cùng nghĩ thế, cùng nói:

– Lên đó thử coi.

Cha con họ Võ, Gia Luật Tề, Hoàn Nhan Bình chạy luôn lên trước. Dương Quá thở dài, lắc đầu nhè nhẹ, nghĩ thầm: “Trừ phi các vị tìm được tiên đơn linh dược mới đồng thời cứu mạng được hai vợ chồng ta”.

Trình Anh vẫn lẳng lặng nhìn chàng, đột nhiên nói:

– Dương đại ca, đại ca không nên từ chối hảo tâm của mọi người. Chúng ta hãy cùng lên đó xem sao!

Nàng đối với Dương Quá một mực hậu tình, Dương Quá trong lòng vô cùng cảm kích, tuy tình có một mối, không thể di ái, song đối với vị hồng nhan tri kỷ này chàng hết sức kính nể. Từ ngày hai người quen biết, Trình Anh chưa hề nhờ chàng việc gì, lúc này nghe nàng nói thế, Dương Quá không thể khước từ, đành gật đầu nói:

– Được, chúng ta cùng lên xem lão thái bà giở trò quỉ gì trên đỉnh núi.

Mọi người theo tiếng cười của Cầu Thiên Xích chạy lên đỉnh núi. Dương Quá thấy thảo mộc tiêu điều, kia chính là nơi hôm nào chàng đã cùng Công Tôn Lục Ngạc và Cầu Thiên Xích từ dưới hầm đá leo lên thoát thân; hôm nay cảnh vật vẫn như cũ, mà Công Tôn Lục Ngạc đã không còn, bản thân chàng cũng chỉ còn được sống vài ngày trên thế gian.

Mọi người còn cách đỉnh núi một quãng xa, đã nhìn rõ Cầu Thiên Xích ngồi trên một cái ghế thái sư, ngửa mặt cuồng tiếu như một kẻ điên. Lục Vô Song nói:

– Có lẽ lão thái bà phát điên rồi.

Hoàng Dung nói:

– Mọi người chớ lại gần, mụ già tâm địa độc ác, phải đề phòng mụ ta có quỉ kế. Chưa chắc mụ ta phát điên đâu.

Mọi người biết công phu phun hạt táo của Cầu Thiên Xích lợi hại thế nào, nên đều dừng chân ở xa. Hoàng Dung hít một hơi, đang định lên tiếng, bỗng thấy từ sau sườn núi đối diện có một người chạy ra, áo lam khăn vuông, chính là Công Tôn Chỉ.

Công Tôn Chỉ cởi trường bào, cầm nơi tay phải, phất tay một cái, trường bào vươn thẳng lên trời như một cây bút. Chỉ nghe hắn cười to, rồi quát:

– Lão phụ ác độc kia, mụ phóng hỏa đốt sạch cơ nghiệp mấy trăm năm của tổ tiên ta, hôm nay làm sao có thể tha thứ cho mụ?

Đoạn chạy về phía Cầu Thiên Xích.

Nghe “véo” một tiếng, Cầu Thiên Xích đã phun một hạt táo về phía Công Tôn Chỉ. Tiếng bay của hạt táo từ trên đỉnh núi phát đi, xạ trình lại xa, nghe đầy uy mãnh. Công Tôn Chỉ phất trường bào, cuộn lấy hạt táo. Kình lực của hạt táo tuy mạnh, nhưng lực phất trường bào đủ làm nó chệch đi, xuyên thủng lớp vải, song không chạm tới người Công Tôn Chỉ. Công Tôn Chỉ ban đầu cũng chưa biết trường bào có thể ngăn được hạt táo hay không, chỉ là hắn vô cùng tức giận, thấy Cầu Thiên Xích ngồi một mình trên đỉnh núi, cô lập vô viện, chính là cơ hội giết mụ, nên hắn mạo hiểm xông lên. Khi thấy hạt táo không đả thương được mình thì hắn chạy nhanh hơn. Cầu Thiên Xích thấy hắn tới gần, hoảng sợ kêu to:

– Mau cứu người!

Quách Phù nói:

– Mẫu thân, Công Tôn Chỉ sắp giết người kìa!

Hoàng Dung trong bụng chưa hiểu: “Mụ già rõ ràng không điên, cớ sao mụ cuồng tiếu để dụ hắn đến?” Chỉ nghe véo véo hai tiếng, Cầu Thiên Xích phun liên tiếp hai hạt táo. Khoảng cách đôi bên rất gần, hạt táo bắn đi cực nhanh, Công Tôn Chỉ dùng trường bào gạt được cả, bỗng hắn rú lên một tiếng to, thân hình biến mất như độn thổ. Cầu Thiên Xích cười phá lên hô hố.

Tiếng cười của mụ vừa phát ra, thì từ dưới đất bỗng có trường bào vung lên chụp lấy chiếc ghế mụ đang ngồi mà kéo xuống, tiếng cười của Cầu Thiên Xích biến thành tiếng rú, hòa với tiếng rú kinh hoàng của Công Tôn Chỉ từ dưới lòng đất vọng lên. Thanh âm ấy kéo dài hồi lâu, rồi tất cả chìm vào cảnh tĩnh mịch hoàn toàn.

Mọi người từ lưng chừng núi nhìn và nghe thấy rõ, cứ đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác.

Chỉ có Dương Quá biết nguyên do, bất giác than thầm: “Báo ứng, báo ứng!” Mọi người chạy nhanh lên đỉnh núi, thấy thi thể bốn nữ tì nằm ngổn ngang, bên cạnh một cái lỗ hổng lớn, nhìn xuống dưới tối mò mò không thấy đáy.

Nguyên Cầu Thiên Xích từng bị hãm nhiều năm dưới hốc đá, oán độc tích tụ trong lòng quá sâu. Mụ phóng hỏa đốt Tuyệt Tình trang, rồi sai bốn nữ tì khiêng mụ lên đỉnh núi này. Tháng trước Dương Quá đã cứu Công Tôn Lục Ngạc và mụ từ dưới hầm đá lên. Mụ sai bốn nữ tì bẻ cành lá gác ngang trên lỗ hổng, phủ lên trên một lớp cỏ ngụy trang, rồi mụ giết bốn nữ tì. Mụ cười như điên dại, rồi việc phun hạt táo, kinh sợ kêu cứu toàn là giả bộ, để Công Tôn Chỉ khỏi nghi ngờ.

Công Tôn Chỉ không biết trên đỉnh núi hoang này lại có một cái hốc đá, khi phi thân chạy tới đã đạp vào lỗ hổng; nhưng khi rớt xuống, hắn còn giãy giụa, kịp quăng trường bào lên chụp cái ghế Cầu Thiên Xích đang ngồi để kéo mình lên, ai ngờ vừa kéo một cái thì cả hai người cùng rơi xuống qua lỗ hổng. Hai người khi sống căm hận nhau như kẻ thù, rốt cuộc lại cùng chết một lúc, một chỗ. Rơi từ trên cao hơn trăm trượng xuống đáy hốc đá, hai người sẽ thịt nát xương tan lẫn vào nhau, muốn tách ra cũng chẳng được.

Dương Quá kể xong nguyên do, mọi người ai cũng thở dài. Bọn Trình Anh, huynh muội Gia Luật Tề đào một cái hố mai táng bốn nữ tì. Thấy Tuyệt Tình cốc đang cháy lớn, đã không còn chỗ an cư, mọi người nội trong một ngày đã thấy không ít người bỏ mạng, cảm thấy chỗ nào trong cốc cũng có nguy cơ rình rập, đều muốn sớm rời khỏi chốn này.

Chu Tử Liễu nói:

– Dương huynh đệ trúng độc chưa có giải dược, chúng ta cần mau đi tìm danh y chữa trị cho Dương huynh đệ.

Ai nấy khen phải, riêng Hoàng Dung lại nói:

– Không, hôm nay chưa đi được.

Chu Tử Liễu hỏi:

– Quách phu nhân có cao kiến gì chăng?

Hoàng Dung cau mày, nói:

– Ta bị chấn thương bởi đòn hạt táo của Cầu Thiên Xích, nội tức vẫn chưa thể điều hòa, phiền các vị đêm nay tá túc trong sơn cốc một đêm, sáng mai hãy khởi hành được chăng?

Mọi người nghe Hoàng Dung bảo sức khỏe có chuyện, dĩ nhiên không dị nghị gì, chia nhau tìm hang hốc nào đó để nghỉ đêm.

Tiểu Long Nữ và Dương Quá sánh vai nhau, định đi xuống núi thì Hoàng Dung gọi:

– Long gia muội muội, hãy lại đây, ta có vài lời muốn nói.

Đoạn giao bé Quách Tương cho Quách Phù ẵm, cầm tay Tiểu Long Nữ, mỉm cười với Dương Quá, nói:

– Quá nhi, cứ yên tâm, Long nhi đã thành hôn với ngươi, ta sẽ không khuyên nàng ly dị với ngươi đâu.

Dương Quá cười không đáp, thầm lấy làm lạ: “Quách bá mẫu nói gì với Long nhi kia chứ?” Thấy hai người dắt nhau tới ngồi xuống một gốc đại thụ, chàng tuy lo ngại, nhưng nghĩ: “Long nhi sẽ không giấu gì ta, lo gì nàng không kể lại?”

Hoàng Dung kéo Tiểu Long Nữ ngồi xuống, nói:

– Long gia muội muội, đứa con thô lỗ của ta đắc tội không ít với Quá nhi và muội muội, ta thật muôn phần áy náy.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không có gì.

Trong bụng nghĩ: “Quách Phù phóng độc châm định lấy mạng hai chúng tôi, phu nhân chỉ bảo muôn phần áy náy, phỏng có ích gì?”

Hoàng Dung thấy thần sắc lạnh nhạt của Tiểu Long Nữ, thì càng cảm thấy có lỗi. Hôm ấy Hoàng Dung không vào trong tòa cổ mộ, không rõ nguyên do, chỉ biết ngân châm tuy độc, cũng không khó chữa; hồi trước Võ Tam Thông, Dương Quá từng bị trúng độc ngân châm, sau chữa trị đều khỏi; không ngờ Tiểu Long Nữ đang lúc nghịch vận kinh mạch thì bị Quách Phù phóng trúng ngân châm, quả thực là đòn trí mạng, nên nói:

– Có một điều ta không rõ, muốn thỉnh giáo muội muội. Muội muội khổ sở biết bao mới đoạt được Tuyệt Tình đơn, Dương Quá đã không chịu uống, lại đem ném xuống vực sâu vạn trượng, là vì lẽ gì?

Tiểu Long Nữ thở dài nhè nhẹ, nghĩ: “Mình đã chẳng còn sống được mấy ngày, Quá nhi đối với mình tình ý sâu nặng, há chịu sống một mình? Nhưng đến nước này, mình hà tất nói nhiều, gây thêm sóng gió làm gì?” Chỉ nói:

– Tính nết Quá nhi có phần cổ quái.

Hoàng Dung nói:

– Quá nhi là người chí tính chí tình, có lẽ Quá nhi thấy Công Tôn cô nương đã xả thân vì Tuyệt Tình đơn, nên không nỡ uống, cốt lấy đó báo đáp hồng nhan tri kỷ. Muội muội, Quá nhi nghĩ thế cố nhiên khiến người ta kính nể, nhưng người chết rồi đâu có thể phục sinh, Quá nhi cố chấp như vậy hóa ra lại trái với ý muốn xả thân cầu thuốc của Công Tôn cô nương.

Tiểu Long Nữ gật gật đầu.

Hoàng Dung lại nói:

– Quá nhi chỉ nghe lời một mình muội, muội hãy khuyên Quá nhi vài lời.

Tiểu Long Nữ buồn bã nói:

– Dù chàng có chịu nghe lời tiểu muội, trên thế gian làm gì còn có Tuyệt Tình đơn nữa?

Hoàng Dung nói:

– Tuyệt Tình đơn tuy không còn, nhưng chất độc hoa Tình trong người Quá nhi không phải là không có cách chữa trị, khó là Quá nhi không chịu uống thuốc mà thôi.

Tiểu Long Nữ vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, đứng bật dậy, nói:

– Có… vẫn có thuốc giải độc ư?

Hoàng Dung kéo tay nàng, nói:

– Muội hãy ngồi xuống đây.

Rồi lấy trong túi ra một nhúm cỏ màu tím sẫm, nói:

– Đây là Đoạn Trường thảo, vị Thiên Trúc cao tăng lúc chết có cầm trong tay thứ thảo dược này. Chu Tử Liễu đại ca nói rằng vị Thiên Trúc cao tăng đang tìm giải dược thì bị trúng châm mà chết. Muội có hiểu một người chết mà vẫn nở nụ cười rất tươi là vì sao không? Là vì vị cao tăng đã tìm ra giải dược. Sư phụ của ta là Hồng Thất Công từng dạy: phàm chỗ hang rắn độc qua lại trong vòng bảy bước tất có thảo dược giải cứu nọc độc của rắn. Các chất độc khác cũng vậy cả, đó là cái lý vạn vật sinh khắc nhau trong trời đất. Đoạn Trường thảo này mọc đầy ngay dưới gốc cây hoa Tình, tuy chứa chất cực độc, nhưng ta nghĩ đi nghĩ lại, cho rằng nên lấy độc trị độc, Đoạn Trường thảo chính là khắc tinh của hoa Tình.

Chỉ thấy Tiểu Long Nữ gật đầu lia lịa. Hoàng Dung nói:

– Uống Đoạn Trường thảo dĩ nhiên là rất mạo hiểm, nhưng hiện thời đã vô dược khả cứu, chúng ta đành tử lý cầu sinh, phải thử một phen. Theo ta suy đoán, chín phần mười sẽ khỏi.

Tiểu Long Nữ biết Hoàng Dung đa trí, đã suy đoán thế chắc không sai; hơn nữa cũng chẳng còn cách nào khác. Chứng kiến chất độc hoa Tình phát tác trên cơ thể Lý Mạc Sầu đáng sợ như thế nào, vạn nhất Đoạn Trường thảo không trị nổi chất độc hoa Tình, Dương Quá có bị chết vì Đoạn Trường thảo thì vẫn còn dễ chịu hơn là chết vì chất độc hoa Tình phát tác Nàng cúi đầu ngẫm nghĩ, tâm ý đã quyết, nói:

– Được, tiểu muội sẽ khuyên chàng uống.

Hoàng Dung lấy trong bọc ra một nắm Đoạn Trường thảo, đưa cho Tiểu Long Nữ, nói:

– Ta nhặt ngần này là đủ dùng. Muội hãy cho Quá nhi uống một ít trước đã, vận khí bảo hộ tâm tạng, xem công hiệu thế nào để tăng giảm liều lượng.

Tiểu Long Nữ cất vào trong túi, quì xuống vái Hoàng Dung, nói nhỏ:

– Quá nhi… Quá nhi một đời cô khổ, hành sự tùy hứng. Xin nhờ Quách phu nhân để tâm săn sóc chàng.

Hoàng Dung vội đưa tay đỡ dậy, nói:

– Muội săn sóc cho Quá nhi sẽ tốt hơn ta hàng trăm lần. Đợi sau khi giải vây thành Tương Dương, chúng ta hãy cùng nhau đến đảo Đào Hoa nghỉ ngơi một thời gian.

Hoàng Dung tuy thông minh, song không biết rằng Tiểu Long Nữ tự biết mình chẳng còn sống được mấy ngày, câu nói vừa rồi là hoàn toàn thật lòng mong Hoàng Dung săn sóc cho Dương Quá. Hoàng Dung ngẩng đầu lên, thấy Dương Quá đứng ở phía xa đang ngóng chờ Tiểu Long Nữ.

Dương Quá ngóng chờ Tiểu Long Nữ, không biết nàng và Hoàng Dung nói với nhau chuyện gì, thấy Hoàng Dung đi rồi, chàng mới thong thả lại gần. Tiểu Long Nữ đứng dậy, nói:

– Hôm nay đã gặp nhiều chuyện bi thảm, ngày tháng của đôi ta cũng chẳng còn nhiều. Quá nhi, việc của người khác, chúng mình tạm không nhắc đến, chàng hãy đưa thiếp đi nào.

Dương Quá nói:

– Chính ta cũng đang nghĩ thế.

Hai người dắt tay nhau đi theo con đường mòn lưng núi.

Đi một quãng, thấy một đôi nam nữ ngồi kề vai nhau trò chuyện trên một phiến đá, là Võ Đôn Nhu và Gia Luật Yến. Dương Quá mỉm cười, rảo bước ngang qua phía sau hai người. Bỗng nghe từ bụi cây phía trước vọng lại tiếng cười vui vẻ, rồi Hoàn Nhan Bình chạy ra, có một người đuổi theo sau, cười nói:

– Xem muội chạy đi đâu nào?

Hoàn Nhan Bình thấy Dương, Long hai người thì đỏ mặt, gọi:

– Dương đại ca, đại tẩu!

Đoạn chạy vào cánh rừng bên trái, có Võ Tu Văn chạy theo.

Dương Quá thấp giọng ngâm:

– Tình là chi hỡi thế gian…

Ngừng một lát, nói:

– Cách đây chưa lâu, huynh đệ họ Võ vì Quách cô nương mà quyết một phen sống chết, vậy mà bây giờ cả hai đều đã hướng sang người khác. Có người cả đời chỉ chung tình với một người. Lại có những kẻ như Công Tôn Chỉ, Cầu Thiên Xích. Ôi, tình là chi hỡi thế gian? Câu này quả là đáng hỏi lắm.

Tiểu Long Nữ cúi đầu trầm tư, không nói gì. Hai người đi xuống chân núi, ngoảnh nhìn lên chỉ thấy tịch dương nhuộm hồng nửa bầu trời, nửa còn lại là màu lam phía trên đỉnh núi phủ tuyết trắng, cảnh đẹp thật khó tả, hai người còn được sống trên thế gian không lâu, nhìn cảnh đẹp ấy càng thêm lưu luyến.

Tiểu Long Nữ ngắm cảnh ngơ ngẩn một hồi, bỗng hỏi:

– Chàng bảo sau khi người ta chết, có thật sẽ xuống cõi âm, có thật sẽ gặp Diêm vương hay không?

Dương Quá nói:

– Mong sao như thế. Cõi âm dù có rừng đao, có khổ hình với vô số vạc dầu, nhưng có cõi âm vẫn hơn. Nếu không, đôi ta làm sao còn có dịp gặp lại nhau?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng thế, nếu có cõi âm thật vẫn hơn. Nghe bảo trên đường xuống suối vàng có Mạnh bà, cho người ta uống một bát canh để quên hết mọi việc trên trần gian. Bát canh ấy, thiếp sẽ không uống đâu. Quá nhi, thiếp muốn vĩnh viễn ghi nhớ ân tình của chàng.

Nàng vốn giỏi kiềm chế mình, lòng bi thương khôn tả mà giọng nói vẫn thản nhiên. Dương Quá thật không chịu nổi, phải ngoảnh đi lau nước mắt.

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Chuyện ở cõi u minh, chẳng biết thật hư thế nào, nếu được bất tử thì vẫn hơn. Quá nhi, chàng nhìn xem, bông hoa này đẹp quá chừng.

Dương Quá nhìn theo ngón tay nàng chỉ, thấy bên đường có bông hoa tươi mới nở màu hồng sẫm to bằng miệng chén, đang lay động trước gió, trông như hoa mẫu đơn mà không phải mẫu đơn, như hoa thược dược mà không phải thược dược, bèn nói:

– Loài hoa này ít gặp, giữa mùa đông mà nở rực rỡ thế này. Ta sẽ đặt cho nó một cái tên, gọi là hoa Long Nữ.

Nói rồi chàng bước tới ngắt bông hoa, cài lên mái tóc Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Đa tạ chàng đã tặng thiếp một bông hoa đẹp, đã đặt cho loài hoa một cái tên dễ nghe.

Hai người lại đi một chặp nữa, rồi ngồi xuống một bãi cỏ. Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng còn nhớ tình cảnh hôm bái thiếp làm sư phụ hay không?

Dương Quá nói:

– Sao lại không nhớ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng đã thề suốt đời nghe lời thiếp, bất kể thiếp nói gì, chàng cũng sẽ không làm trái. Hiện tại thiếp đã trở thành thê tử của chàng, theo ý chàng thì nên là “xuất giá tòng phu” hay nên là “vâng lệnh sư phụ”?

Dương Quá cười, đáp:

– Nàng bảo sao, ta làm vậy, lệnh sư phụ không dám trái, lệnh của thê tử càng không dám trái.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ồ, chàng còn nhớ thì tốt.

Hai người ngồi dựa vào nhau trên cỏ, nghe văng vẳng tiếng Võ Tam Thông gọi hai người đến dùng bữa tối. Dương Quá và Tiểu Long Nữ nhìn nhau cười, đều nghĩ: “Hà tất vì một bữa ăn mà bỏ cảnh đẹp thế kia?” Lát sau, trời tối dần, hai người đã mệt suốt một ngày đêm, lại bị thương sẵn, cuối cùng đều nhắm mắt ngủ thiếp đi.

Nửa đêm, Dương Quá mơ mơ màng màng gọi:

– Long nhi, nàng có lạnh không?

Chàng quờ tay định ôm nàng vào lòng, nào ngờ thấy trống không. Dương Quá giật mình mở mắt ra, Tiểu Long Nữ đã đi đâu không rõ. Chàng vội bật dậy, nhìn tứ phía, ánh trăng lạnh lẽo chiếu xuống núi rừng tịch mịch, không thấy bóng Tiểu Long Nữ đâu cả. Chàng liền chạy lên núi, miệng gọi to:

– Long nhi, Long nhi!

Trên đỉnh núi, chàng gọi to:

– Long nhi, Long nhi!

Sơn cốc tứ phía âm vang, vọng lại “Long nhi, Long nhi!” nhưng Tiểu Long Nữ thủy chung không hồi đáp. Dương Quá kinh dị nghĩ: “Nàng đi đâu kia chứ? Vùng núi này không hề có mãnh cầm quái thú; mà dù có, cũng không thể làm gì được nàng. Giả dụ ban đêm có cường địch tấn công, nàng nằm sát bên ta, nhất định ta đã phát giác”. Chàng gọi lớn như thế, Nhất Đăng đại sư, Hoàng Dung, Chu Tử Liễu đều tỉnh giấc. Mọi người nghe nói Tiểu Long Nữ không biết đi đâu mất, ai cũng kinh ngạc, chia nhau đi tìm khắp Tuyệt Tình cốc, nào thấy tung tích của nàng?

Dương Quá cứ chạy chỗ này chỗ nọ như một kẻ điên. Cuối cùng mọi người hội tụ về một chỗ, Dương Quá cũng đã trấn tĩnh lại, nghĩ: “Vậy là nàng tự bỏ đi, ta mới không biết chút gì. Nhưng tại sao lại bỏ đi? Việc này tất liên quan đến những gì Quách phu nhân nói với nàng chiều qua. Lần trước nàng bỏ đi, cuối cùng lạc đến Tuyệt Tình cốc này, cũng là sau khi trò chuyện với Quách phu nhân mà ra”. Chàng liền cao giọng, hỏi:

– Quách bá mẫu, chiều qua rốt cuộc bá mẫu đã nói gì với Long nhi?

Hoàng Dung cũng nghĩ không ra vì sao Tiểu Long Nữ đột nhiên mất tích, thấy trán Dương Quá nổi gân xanh, thì càng lo ngại, nói:

– Ta muốn nàng khuyên ngươi uống Đoạn Trường thảo, hi vọng may ra có thể giải độc hoa Tình cho ngươi.

Dương Quá buột miệng nói:

– Long nhi đã không sống được, Dương mỗ còn sống một mình trên thế gian làm gì?

Hoàng Dung an ủi:

– Ngươi đừng nôn nóng quá. Long cô nương nhất thời chưa biết đi đâu, nàng võ công cao cường, không thể gặp bất trắc, sao lại bảo “không sống được”?

Dương Quá đang nôn nóng, không kìm được, liền nói to:

– Nữ nhi bảo bối của phu nhân đã dùng Băng phách ngân châm phóng trúng vào người Long nhi, đúng vào lúc nàng đang nghịch vận kinh mạch trị thương, chất cực độc đem hút hết vào đan điền nội tạng, Long nhi lại không phải thần tiên, làm sao còn sống nổi kia chứ?

Hoàng Dung đâu ngờ sự thể lại đến mức ấy? Có nghe nói nữ nhi trong tòa cổ mộ dùng Băng phách ngân châm đả thương Dương Quá và Tiểu Long Nữ, nhưng nghĩ hai người đều là truyền nhân của phái Cổ Mộ, cùng một phái với Lý Mạc Sầu, tất có giải dược bản môn, chẳng qua chỉ bị đau nhất thời, chứ không có hậu họa gì, giờ nghe Dương Quá nói vậy thì kinh hãi tái mặt đi. Hoàng Dung suy nghĩ rất nhanh: “Thì ra Quá nhi không chịu uống Tuyệt Tình đơn là vì thê tử không giữ được tính mạng, nên Quá nhi không muốn sống một mình. Thế thì Tiểu Long Nữ đi đâu mới được chứ?” Ngẩng nhìn lên đỉnh núi, nơi Công Tôn Chỉ và Cầu Thiên Xích rơi xuống thạch động, bất giác rùng mình.

Dương Quá từ nãy vẫn không rời mắt khỏi Hoàng Dung, Hoàng Dung nhìn lên đó rùng mình, tâm ý thế nào làm gì chàng chẳng biết? Chàng lập tức vừa kinh hãi vừa giận dữ, nói:

– Long nhi đã khó giữ được mạng sống, phu nhân còn đi khuyên nàng tự tận, mong cứu mạng Dương mỗ chứ gì? Phu nhân tự cho rằng đó là vì thiện ý đối với Dương mỗ, Dương mỗ ta… căm hận phu nhân…

Nói đến đây, chàng nghẹn thở ngã ngửa ra, ngất đi.

Nhất Đăng đại sư xoa lưng cho chàng một hồi, Dương Quá dần dần tỉnh lại. Hoàng Dung nói:

– Ta chỉ khuyên nàng cứu mạng ngươi, không đời nào khuyên nàng tự tận, ngươi không tin, cái đó tùy ngươi.

Mọi người nhìn nhau, thực không biết phải làm sao. Hoàng Dung nói:

– Chúng ta thử lên đỉnh núi đó xem.

Thế là mọi người cùng kéo lên đó, ngó xuống thạch động, bên dưới tối om, chẳng nhìn thấy gì.

Trình Anh bỗng nói:

– Chúng ta tước vỏ cây bện thành dây dài, để tiểu nữ xuống dưới đáy xem sao. Dương đại tẩu lỡ có… trượt chân…

Hoàng Dung gật đầu, nói:

– Chúng ta nhất định phải tìm cho ra.

Thế là mọi người dùng đao kiếm tước vỏ cây, đông người, đến lúc trời sáng đã bện xong một sợi dây dài hơn trăm trượng. Cánh trẻ ai cũng tự nguyện xin xuống, Dương Quá nói:

– Dương mỗ sẽ xuống.

Mọi người nhìn Hoàng Dung, chờ nghe lệnh. Hoàng Dung biết Dương Quá nghi ngờ mình, có lên tiếng can ngăn, Dương Quá cũng chẳng chịu nghe, nhưng nếu để chàng xuống đó, lỡ Tiểu Long Nữ rơi xuống chết dưới đó thật, thì làm sao chàng chịu leo lên? Vì thế nhất thời do dự không nói.

Trình Anh quả quyết nói:

– Dương đại ca, để muội xuống, đại ca có tin muội hay không?

Ngoài Tiểu Long Nữ, người được Dương Quá phục nhất là Trình Anh; tự chàng cũng biết mình đang nôn nóng, mà chân tay thì bủn rủn vô lực, đành gật đầu. Cha con họ Võ cùng Gia Luật Tề dòng giữ sợi dây, thả dần cho Trình Anh xuống đáy thạch động. Sợi dây chỉ còn dư vài trượng, Trình Anh mới tới nơi.

Mọi người vây quanh miệng lỗ hổng, không ai nói gì chỉ chăm chăm ngó xuống, đợi Trình Anh báo tin kéo lên. Mọi người đều sốt ruột, vì đã lâu không thấy tín hiệu của Trình Anh. Hoàng Dung và Chu Tử Liễu nhìn nhau, cùng nghĩ bụng: “Nếu Tiểu Long Nữ quả nhiên chết ở dưới kia, Dương Quá nhất định sẽ nhảy xuống đó, phải kịp thời giữ hắn lại”.

Dương Quá thấy Hoàng Dung và Chu Tử Liễu nhìn nhau, nghĩ thầm: “Nếu ta muốn tìm đến cái chết, ắt tự có cách kết thúc, đâu có ở đây để các người lôi lôi kéo kéo như một gã ngốc?”.

Bỗng sợi dây Võ Tam Thông đang cầm lay động, Quách Phù và huynh đệ họ Võ cùng kêu:

– Mau kéo lên!

Mọi người hợp lực kéo dây đưa Trình Anh lên. Trình Anh chưa lên tới miệng lỗ hổng, đã nói to:

– Không có, Dương đại tẩu không ở dưới đó.

Mọi người cả mừng, không hẹn cùng thở dài nhẹ nhõm. Trình Anh đã đứng bên miệng hố, nói:

– Dương đại ca, tiểu nữ đã tìm kỹ khắp nơi, dưới ấy ngoài di hài gãy nát của vợ chồng Công Tôn Chỉ, không có vật gì khác.

Chu Tử Liễu trầm ngâm nói:

– Chúng ta đã tìm khắp nơi, thiết nghĩ Long cô nương đã rời khỏi sơn cốc rồi.

Lục Vô Song bỗng nói:

– Còn một chỗ chưa tìm, không chừng Dương đại tẩu đang nghĩ cách tìm viên Tuyệt Tình đơn cũng nên.

Dương Quá giật mình, không chờ nghe hết câu, lập tức chạy ngay lên Đoạn Trường nhai, vừa chạy gấp, vừa gọi to:

– Long nhi, Long nhi!

Đến trước sườn núi, cúi nhìn xuống vực sâu, chỉ thấy sương mù, nào thấy bóng người?

Chàng nghĩ: “Long nhi tâm tư đơn thuần, nếu có tâm sự gì, nhất định sẽ không giấu ta”. Chàng nhớ lại câu nàng nói: “Nàng bảo nàng muốn ta vĩnh viễn nhớ lời thề là sẽ nghe nàng phân phó. Ta dĩ nhiên sẽ không làm trái tâm ý của nàng. Nhưng nàng hoàn toàn không có phân phó gì cả, đã tự bỏ đi là sao? Long nhi, Long nhi, nàng rốt cuộc đi đâu vậy? Nàng muốn ta làm theo lời gì của nàng?” Chàng nhìn sang Đoạn Trường nhai đối diện, thấy thấp thoáng như có một bạch y thiếu nữ tóc cài đóa hoa hồng, thân hình uyển chuyển, hai tay song kiếm, chính đang kịch chiến với Công Tôn Chỉ. Chàng gọi to:

– Long nhi!

Khi định thần, nào có thấy Tiểu Long Nữ? Chỉ thấy từng lớp từng lớp sương mù bị gió thổi qua mà thôi, nhưng đúng là có đóa hoa hồng ở sườn núi đối diện.

Chàng lấy làm lạ: “Hôm qua Long nhi đấu với Công Tôn Chỉ ở đó, rõ ràng không hề có đóa hoa hồng. Nơi này toàn là núi đá, thảo mộc chẳng mọc nổi, đào đâu ra hoa? Nếu bảo gió thổi đến, làm sao có sự trùng hợp như vậy được?” Bèn hít một hơi, chạy qua chiếc cầu đá sang sườn núi đối diện. Tới gần, trống ngực đập dồn, chính là đóa hoa màu đỏ sẫm chàng đã cài lên tóc Tiểu Long Nữ chiều qua; lúc này đã hơi héo. Chàng nhớ rất kỹ, tối qua trước lúc ngủ, đóa hoa ấy vẫn còn cài trên mái tóc nàng. Đóa hoa ở đây, Tiểu Long Nữ đêm qua chắc hẳn đã tới chỗ này.

Dương Quá cúi xuống cầm đóa hoa lên, thấy bên dưới có một gói giấy, vội mở gói giấy ra, bên trong là một nắm cỏ màu tím sẫm, chính là loài Đoạn Trường thảo mọc dưới gốc cây hoa Tình. Trống ngực đập dồn, chàng lật cái bao giấy xem kỹ, không có chữ nào, bỗng nghe có tiếng Lục Vô Song gọi ở sườn núi bên kia:

– Dương đại ca, đại ca làm gì ở đó thế?

Dương Quá ngoảnh sang, chợt thấy trên sườn núi bên đó có hai hàng chữ được vạch bằng mũi kiếm lên mặt đá, dòng chữ to viết:

“Mười sáu năm sau, tại đây tái hợp, phu thê thâm tình, xin đừng thất ước”.

Dòng chữ nhỏ viết:

“Tiểu Long Nữ thuộc phu quân Dương lang, muôn phần trân trọng, mong ngày đoàn tụ”.

Dương Quá ngẩn ngơ nhìn hai dòng chữ, nhất thời tâm thần rối loạn, thực không hiểu dụng ý thế nào, nghĩ: “Nàng hẹn ta mười sáu năm sau tái hợp ở đây, vậy thì nàng đi đâu kia chứ? Nàng bị trúng độc nặng, khó bề chữa trị, chưa chắc sống nổi mươi bữa nửa tháng, làm sao lại hẹn những mười sáu năm? Nàng cũng thừa biết ta đã ném viên Tuyệt Tình đơn xuống vực, sao còn hẹn mười sáu năm tái hợp?” Chàng càng nghĩ tâm trí càng rối loạn, thân hình lắc lư chực ngã.

Mọi người ở sườn núi bên kia thấy chàng như kẻ phát điên, chỉ sợ chàng trượt chân ngã xuống vực sâu. Nếu sang đó khuyên chàng, chỗ sườn núi chỉ đủ chỗ cho một người đặt chân, nếu Dương Quá phát điên thật, chàng võ công lại cao, không ai chế ngự được, tất sẽ bị chàng kéo ngã theo xuống vực. Hoàng Dung hơi chau mày, nói với Trình Anh:

– Sư muội, hình như Dương Quá chỉ nghe lời sư muội thì phải.

Trình Anh gật đầu, nói:

– Phải! Để muội qua đó xem sao.

Rồi nàng lướt nhanh qua chiếc cầu đá, tiến đến chỗ Dương Quá. Dương Quá nghe sau lưng có tiếng bước chân, bèn quát to:

– Không ai được tới đây!

Đoạn chàng quay ngoắt lại, mắt phóng ra tia hung quang. Trình Anh dịu dàng nói:

– Dương đại ca, là muội đây mà. Muội chỉ giúp đại ca tìm Dương đại tẩu, chứ không có ý gì khác.

Dương Quá chằm chằm nhìn Trình Anh một hồi, ánh mắt mới dịu dần.

Trình Anh bước lên một bước, hỏi:

– Bông hoa này là của Dương đại tẩu để lại ư?

Dương Quá nói:

– Phải. Tại sao phải mười sáu năm? Tại sao phải mười sáu năm?

Trình Anh thong thả đến bên cạnh chàng, nhìn theo ánh mắt chàng, đọc xong hai hàng chữ bên sườn núi đối diện, cũng không hiểu gì, nói:

– Quách phu nhân túc trí đa mưu, liệu sự như thần, không ai sánh kịp. Chúng ta sang bên kia hỏi phu nhân, ắt sẽ hiểu ra.

Dương Quá nói:

– Đúng lắm. Cầu đá rất trơn, cô nương hãy cẩn thận.

Rồi chàng phi thân qua sườn núi bên kia, kể lại hai hàng chữ cho Hoàng Dung nghe.

Hoàng Dung lặng lẽ trầm tư một hồi, đột nhiên hai mắt sáng lên, vỗ tay một cái, cười nói:

– Quá nhi, đại hỉ, đại hỉ!

Dương Quá vừa kinh ngạc vừa vui mừng, run run hỏi:

– Quách bá mẫu bảo… bảo… có tin mừng ư?

Hoàng Dung nói:

– Tất nhiên rồi. Long gia muội tử đã gặp được Nam Hải thần ni, quả là kỳ duyên độc nhất vô nhị.

Dương Quá vẻ mặt ngơ ngác, hỏi:

– Nam Hải thần ni là ai vậy?

Hoàng Dung nói:

– Nam Hải thần ni là vị đại thánh trong cửa Phật, tu vi về Phật pháp và võ công đều cao thâm khôn lường. Chỉ vì Người ít đặt chân lên Trung Thổ, nên hiếm có nhân sĩ võ lâm biết được đại danh của Người. Gia gia ta từng kiến diện Người một lần, được Người truyền thụ một lộ chưởng pháp, dùng cả đời chưa hết. Ôi đó là chuyện xảy ra mười sáu, ba mươi hai, đúng rồi, ba mươi hai năm trước.

Dương Quá bán tín bán nghi, lẩm bẩm:

– Ba mươi hai năm…

Hoàng Dung nói:

– Đúng, vị thần ni này có lẽ đã ngót trăm tuổi. Gia gia ta bảo cứ mười sáu năm Người lại tới Trung Thổ một lần, kẻ ác gặp Người tức là do kiếp trước không tu. Người tốt gặp Người, tất được ban phúc. Long gia muội tử là nhân vật mỹ diễm như tiên, Người nhất định sẽ yêu thích, thu làm đồ đệ, đưa ra Nam Hải.

Dương Quá lẩm bẩm:

– Cứ mười sáu năm, cứ mười sáu năm… Nhất Đăng đại sư, có chuyện đó thật ư?

Nhất Đăng đại sư “ừm” một tiếng.

Hoàng Dung cướp lời, nói:

– Vị thần ni này Phật pháp tuy cao thâm, song tính nết có phần cổ quái. Nhất Đăng đại sư đã được gặp thần ni hay chưa?

Nhất Đăng đại sư lắc đầu, nói:

– Lão nạp vô duyên, chưa được gặp Người.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Vị thần ni có một điều không thông tình lý, ai lại đi bắt một đôi vợ chồng trẻ như hoa phải xa nhau những mười sáu năm, như thế chẳng tàn nhẫn quá sao? Long gia muội muội võ công đã cao như thế, còn học thêm mười sáu năm nữa, để hoàn toàn chế ngự trượng phu hay sao?

Nói đoạn cười to.

Dương Quá nói:

– Không phải thế đâu, Quách bá mẫu.

Hoàng Dung hỏi:

– Thế thì là gì?

Dương Quá nói:

– Long nhi chất độc ngấm vào tạng phủ, tính mạng khó toàn, nếu quả được Nam Hải thần ni ban phúc, thì trong mười sáu năm Người sẽ dùng đại thần thông để khu trừ chất độc khỏi cơ thể Long nhi. Điệt nhi cho rằng… dẫu sao cũng không khỏi hẳn được.

Hoàng Dung lại thở dài, nói:

– Quách Phù thô lỗ đả thương người khác, ta… ta hổ thẹn vô cùng. Quá nhi, dự đoán của ngươi có vẻ hợp lý hơn đấy. Long gia muội muội chất độc ngấm vào tạng phủ, Nam Hải thần ni dù có tiên đơn diệu dược cũng không thể giải hết độc trong một thời gian ngắn. Chỉ mong nàng sớm lành bệnh, Nam Hải thần ni đại phát từ bi, không cần lâu ngần ấy đã cho vợ chồng ngươi đoàn tụ.

Dương Quá chưa từng nghe bốn chữ “Nam Hải thần ni”, hoang mang chưa muốn tin, nhưng nào hoa nào cỏ trong tay, nào chữ khắc trên vách núi, đều hoàn toàn là sự thực hiển nhiên, Tiểu Long Nữ nếu gặp bất trắc, làm gì có chuyện hẹn ước mười sáu năm tái hợp? Chàng ngẫm nghĩ một hồi, lại hỏi:

– Quách bá mẫu, vì sao bá mẫu biết Nam Hải thần ni thu Long nhi làm đệ tử? Tại sao Long nhi không viết rõ thực tình trên vách núi, để cho điệt nhi khỏi khắc khoải đợi chờ?

Hoàng Dung nói:

– Đó là ta đoán từ bốn chữ “mười sáu năm sau” mà ra. Ta chỉ biết cứ mười sáu năm Nam Hải thần ni lại tới Trung Thổ một lần, trừ Người ra, không còn ai có cái lệ kỳ lạ đó. Nhất Đăng đại sư, đại sư nghĩ có người nảo khác hay chăng?

Nhất Đăng đại sư lắc đầu:

– Không có.

Hoàng Dung nói:

– Vị thần ni này đến tên tuổi còn không cho phép ai nhắc đến, làm sao Long muội muội biết để khắc vào đá? Chỉ tiếc là không biết Đoạn Trường thảo có thể giải độc cho ngươi hay không, ôi, nếu mười sáu năm sau… Long muội muội trở về mà không gặp ngươi, chỉ e nàng cũng không thiết sống nữa thôi.

Dương Quá mắt rưng rưng lệ, tất cả trở nên mờ ảo, nhìn sang sườn núi bên kia tưởng như có bóng bạch y thiếu nữ mười sáu năm sau đang tìm kiếm, rồi thất vọng đau khổ vì không thấy chàng. Một cơn gió lạnh thổi qua, chàng rùng mình, quả quyết nói:

– Quách bá mẫu, vậy điệt nhi sẽ đi tìm Nam Hải thần ni, nhưng không biết Người sống ở nơi nào?

Hoàng Dung nói:

– Ngươi nhất thiết chớ theo đuổi ý nghĩ đó, đảo Đại Trí, nơi Nam Hải thần ni cư trú, há cho người ngoài đặt chân, nam tử tới đó sẽ lập tức mất mạng. Gia gia ta lọt vào mắt xanh của Người mà cũng không dám tới hòn đảo ấy bái yết. Long muội muội đã được vị thần ni thu nhận, nhất định sẽ có ngày tái hợp, mười sáu năm thấm thoắt qua nhanh, hà tất nôn nóng.

Dương Quá quắc mắt nhìn Hoàng Dung, gằn giọng hỏi:

– Quách bá mẫu, tất cả những lời vừa rồi là thật hay giả?

Hoàng Dung nói:

– Ngươi hãy tới đọc lại hai hàng chữ kia, nếu không phải là nét chữ của Long muội muội, thì lời ta nói vị tất là thật.

Dương Quá nói:

– Nét chữ thì đúng rồi. Long nhi viết chữ “Dương” bao giờ cũng thiếu một nét trong chữ “nhật” bên phải, hàng chữ kia không phải là giả.

Hoàng Dung vỗ tay:

– Thế thì tốt. Chẳng giấu gì ngươi, ta chỉ cảm thấy chuyện này quá trùng hợp, nên còn nghi rằng Chu đại ca ngầm bố trí như thế để an ủi ngươi.

Dương Quá cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Được, điệt nhi sẽ uống thử món Đoạn Trường thảo, nếu vô hiệu, mười sáu năm sau nhờ Quách bá mẫu đến đây nói cho Long nhi biết số phận của điệt nhi!

Đoạn quay sang phía Chu Tử Liễu, nói:

– Chu đại thúc, thảo dược này uống bằng cách nào?

Chu Tử Liễu chỉ biết Đoạn Trường thảo cực độc, còn dùng nó như thế nào để dĩ độc trị độc thì hoàn toàn không biết, bèn nói với Nhất Đăng đại sư:

– Sư phụ, việc này xin sư phụ chỉ dẫn cho.

Nhất Đăng đại sư dùng ngón trỏ tay phải thong thả điểm bốn huyệt Thiếu Hải, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Xung trên người Dương Quá. Bốn huyệt này đều thuộc “Thủ Thiếu dương tâm kinh” là vùng khí dương mới sinh. Dương Quá cảm thấy có một luồng khí ấm từ bốn huyệt dồn ra phía ngực, tim lập tức dễ chịu hẳn.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Chất độc hoa Tình đã tương thông với tâm ý, thì thiết tưởng khi Đoạn Trường thảo giải độc cũng ắt sẽ công tâm. Lão nạp điểm bốn huyệt cho ngươi để bảo vệ tâm mạch. Ngươi hãy dùng thử trước một chút xem sao đã.

Dương Quá lạy tạ. Nhất Đăng đại sư thở dài, nói:

– Nếu sư đệ của lão nạp còn sống, chắc sẽ có thể phối chế lương dược theo lối quân thần tá sứ, chúng ta đỡ phải mò mẫm như thế này.

Dương Quá khi nghe tin Thiên Trúc cao tăng bị Lý Mạc Sầu giết hại, biết Tiểu Long Nữ không còn ai chữa trị, thì đã quyết chết; nhưng lúc này nghĩ đến lời hẹn mười sáu năm, ý tưởng cầu sinh lại trỗi dậy mạnh mẽ, thế là chàng liền lấy ra một nhúm Đoạn Trường thảo, cho vào miệng nhai thật chậm, cảm thấy vô cùng tanh hôi, vị thì đắng hơn cả hoàng liên. Chàng nuốt cả nước lẫn bã vào ruột, trước đây không thiết sống một mình, bây giờ lại sợ chết trước, lo rằng mười sáu năm sau Tiểu Long Nữ về Đoạn Trường nhai tìm chàng chẳng thấy, nàng sẽ thất vọng đau khổ không chịu nổi. Chàng ngồi xếp bằng tròn, ngầm vận nội lực, bảo hộ tâm mạch và đan điền, không lâu thì bụng bắt đầu chuyển động đau nhói lên.

Cái đau này tựa hồ bị hàng ngàn mũi kim nhọn đâm vào bụng, từng khúc từng khúc ruột đứt rời, hai chữ “Đoạn Trường” thật không phải hư ngôn. Dương Quá không rên một tiếng, ráng sức nhịn đau, sau khoảng thời gian bằng uống hết một ấm trà thì cơn đau lan ra toàn thân, tứ chi bách hạch, riêng vùng tim vẫn đều đều dễ chịu, đủ biết thần công Nhất Dương chỉ của Nhất Đăng đại sư tinh thâm trác tuyệt mức nào. Cơn đau kéo dài nửa canh giờ thì lui dần về vùng bụng, đột nhiên Dương Quá ọe ra một ngụm máu đỏ tươi, đỏ hơn hẳn máu tươi của người thường.

Trình Anh, Lục Vô Song thấy thổ huyết đều khẽ kêu lên có vẻ lo ngại, Nhất Đăng đại sư thì rất mừng, nói nhỏ:

– Sư đệ, sư đệ tuy đã chết, vẫn còn ban ân huệ cho người đời.

Dương Quá đứng bật dậy, nói:

– Tính mạng của điệt nhi là nhờ đại sư, Thiên Trúc thần tăng và Quách bá mẫu cứu sống.

Lục Vô Song cả mừng, nói:

– Chất độc trong người đại ca đã hết rồi chứ?

Dương Quá nói:

– Làm sao nhanh thế được? Nhưng đã biết thứ cỏ này công hiệu, mỗi ngày chỉ việc nhai một nắm, độc tính sẽ hết dần.

Lục Vô Song nói:

– Làm sao đại ca biết khi nào trừ hết chất độc? Nhỡ trong người hết chất độc rồi, mà đại ca cứ uống, đứt ruột thì chết đó!

Dương Quá nói:

– Điều ấy thì huynh tự biết, nếu chất độc chưa hết khi động tình sẽ đau đớn.

Quách Phù đứng nghe bên cạnh, đột nhiên nói chen vào:

– Dương đại ca chỉ nhớ đến Dương đại tẩu, chứ chẳng nhớ đến ngươi đâu.

Hôm trước Công Tôn Chỉ dùng hắc kiếm đâm Quách Phù, Lục Vô Song bảo Quách Phù giơ tay mà đỡ, lúc ấy cứ tưởng Lục Vô Song có hảo ý, nhưng sau nghĩ lại, càng nghĩ càng thấy không phải thế, Lục Vô Song đâu biết Quách Phù mặc áo giáp lông nhím mà nhắc; chẳng qua Lục Vô Song muốn trả thù cho Dương Quá. Quách Phù giận lắm, bây giờ có dịp liền châm biếm vài câu. Hoàng Dung vội quát:

– Phù nhi, nói gì vậy?

Lục Vô Song đỏ bừng cả mặt. Quách Phù chưa chịu thôi, còn nói:

– Mười sáu năm sau Dương đại tẩu chắc chắn sẽ trở về, ngươi đừng hòng si tâm vọng tưởng.

Lục Vô Song không nhịn được nữa, xoẹt một tiếng đã rút ra thanh đao lá liễu, gằn giọng nói:

– Nếu không phải tại mi, Dương đại ca và Dương đại tẩu đâu phải biệt li những mười sáu năm? Mi tự nghĩ xem mi đã hại Dương đại ca biết chừng nào?

Quách Phù trợn mắt định cự lại, thì Hoàng Dung quát:

– Phù nhi, ngươi còn vô lễ với người khác sẽ phải lập tức một mình về đảo Đào Hoa, không được phép đến thành Tương Dương nữa.

Quách Phù không dám nói thêm, chỉ hầm hầm nhìn Lục Vô Song.

Dương Quá thở dài, nói với Lục Vô Song:

– Chuyện đó do trời xui đất khiến, Quách cô nương cũng không có ý hại người. Vô Song muội tử, từ nay đừng nhắc đến chuyện đó nữa.

Lục Vô Song nghe Dương Quá gọi mình là Vô Song muội tử, còn gọi Quách Phù là Quách cô nương, rõ ràng phân biệt thân sơ, thì vui lòng tra đao vào bao, hất hàm một cái về phía Quách Phù.

Nhất Đãng đại sư nói:

– Dương thiếu hiệp uống Đoạn Trường thảo mà thân thể không bị tổn hại, xem chừng thứ cỏ này quả nhiên có tác dụng giải độc, nhưng để bảo đảm an toàn, không nên uống liên tục, đợi bảy ngày sau hãy dùng lần thứ hai. Trước khi nhai, thiếu hiệp hãy tự điểm bốn huyệt đạo bảo hộ tâm mạch, lượng thảo dược nhai cũng nên giảm dần.

Dương Quá cúi mình nói:

– Cẩn lĩnh đại sư chỉ giáo.

Hoàng Dung thấy mặt trời đã lên đỉnh đầu, nói:

– Chúng ta rời thành Tương Dương đã lâu, không biết quân tình thế nào, thật rất lo lắng, hôm nay cần trở về. Quá nhi, ngươi cũng nên cùng về thành Tương Dương một thể, Quách bá phụ nhớ ngươi lắm đó.

Dương Quá nói:

– Điệt nhi muốn ở đây chờ thê tử.

Quách Phù lấy làm lạ:

– Dương đại ca định ở đây mười sáu năm ư?

Dương Quá nói:

– Huynh cũng không biết, vả lại huynh cũng chẳng có chỗ nào đáng để đến cả.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi cứ ở lại đây mươi bữa nửa tháng cũng tốt. Nếu không có thêm tin tức gì của Long gia muội tử, thì ngươi cứ tới thành Tương Dương.

Dương Quá cứ ngẩn ngơ nhìn sườn núi đối diện, không trả lời.

Mọi người từ biệt Dương Quá. Quách Phù thấy Lục Vô Song hoàn toàn không có ý đi, không nhịn được, nói:

– Lục Vô Song, ngươi ở lại đây bầu bạn với Dương đại ca chăng?

Lục Vô Song đỏ mặt, nói:

– Việc đó liên can gì đến ngươi?

Trình Anh nói:

– Dương đại ca chưa khỏe hẳn, ta cùng biểu muội ở lại săn sóc Dương đại ca vài hôm.

Hoàng Dung biết vị tiểu sư muội này ngoài mềm trong cứng, nếu con gái mình làm rầu lòng nàng ta, không chừng hậu họa vô cùng, bèn quắc mắt với Quách Phù, nói:

– Quá nhi có tiểu sư muội và Lục cô nương săn sóc thật không còn gì bằng. Đợi khi chất độc trong người Quá nhi đã được giải hết, mời ba vị cùng đến thành Tương Dương, chuyết phu và tiểu muội ta xin rộng cửa đón chờ.

Dương Quá, Trình Anh, Lục Vô Song ba người đứng trên sườn núi nhìn Nhất Đăng đại sư, Hoàng Dung và mọi người đi xa dần, cuối cùng khuất hẳn trong rừng cây. Đám cháy lớn trong rừng núi đã tắt.

Dương Quá nói:

– Hai vị muội muội, huynh có một ý định, nói ra xin đừng giận.

Lục Vô Song nói:

– Không ai trách Dương đại ca đâu.

Dương Quá nói:

– Ba người chúng ta từ khi gặp nhau thấy rất hợp, Dương Quá ta hoàn toàn không có huynh đệ tỷ muội, muốn được kết nghĩa kim lan với hai vị, từ nay ta coi nhau như huynh muội, tình như cốt nhục. Ý hai vị thế nào?

Trình Anh chợt nao lòng, biết tình của chàng đối với Tiểu Long Nữ thủy chung như nhất, do phải chờ mười sáu năm đằng đẵng, nên cần định rõ danh phận huynh muội, để tránh ở bên nhau nhiều ngày đôi bên khó xử, thấy Lục Vô Song cúi đầu mắt rưng rưng lệ, vội nói:

– Hai chúng tôi có một vị đại ca như huynh, thật là cầu được ước thấy.

Lục Vô Song đến bên một cây hoa Tình, nhổ ba cọng Đoạn Trường thảo cắm xuống đất, cười nói:

– Người ta khi kết bái thì thắp nhang, ba chúng ta làm theo kiểu mới, dùng cỏ thay nhang.

Nàng tuy đã gắng gượng vui vẻ, nhưng nói đến đây, giọng cũng hơi nghẹn ngào, không đợi Dương Quá trả lời, liền quì ngay xuống. Dương Quá và Trình Anh cũng quì xuống bên cạnh, vái tám vái, hành lễ kết nghĩa.

Dương Quá nói:

– Nhị muội, tam muội, vật đáng ghét nhất trong thiên hạ là cây hoa Tình, nếu để giống cây này lan ra bên ngoài sơn cốc, sẽ độc hại khôn lường. Chúng ta quyết phá hủy hết chúng đi, muội nghĩ sao?

Trình Anh nói:

– Đại ca có thiện nguyện ấy, chắc Bồ Tát sẽ phù hộ cho sớm được đoàn tụ với đại tẩu.

Dương Quá nghe câu đó, tinh thần phấn chấn hẳn lên.

Ba người liền chọn mấy vật dụng bằng sắt ở khu vực trang viện bị cháy, lấy cành cây làm cán, đi chặt phá những cây hoa Tình chưa bị cháy. Số cây hoa Tình trong sơn cốc không ít, lại phải thận trọng không để gai hoa Tình đâm vào mình, cho nên mất đứt sáu ngày mới chặt phá hết. Ba người chỉ sợ còn lại một cây, không trừ tận gốc, lại dễ sinh họa; cho nên tìm kỹ khắp nơi, đến khi không còn một cây hoa Tình mới dừng tay. Từ đấy trở đi, cái họa do hoa Tình gây nên bị Dương, Trình, Lục ba người tuyệt diệt, hậu nhân không bao giờ gặp phải nữa.

Sáng ngày thứ bảy, Lục Vô Song lấy ra một nhúm Đoạn Trường thảo, nói:

– Đại ca, hôm nay đại ca lại phải nhai thứ cỏ độc này đấy.

Dương Quá đã có kinh nghiệm bảy ngày trước đó, biết Đoạn Trường thảo tuy độc, cơ thể mình chịu được, thế là tự điểm bốn huyệt đạo, cho mấy nhánh cỏ vào miệng nhai, nuốt xuống. Lần này chất độc trong cơ thể đã bớt, sự đau đớn không còn lợi hại như lần trước, nửa canh giờ sau thổ ra một ngụm máu tươi, lập tức hết đau.

Dương Quá đứng thẳng dậy, vươn vai, cử động tứ chi một hồi, thấy Trình Anh và Lục Vô Song sắc diện hoan hỉ, thì nghĩ thầm: “Hai vị nghĩa muội đối với ta tốt thế này, bình sinh có được một hồng nhan tri kỷ như thế đã không phải ân hận, huống hồ có cả hai? Chỉ tiếc là ta không thể báo đáp”. Một lát, chàng lại nghĩ: “Nhị muội gặp minh sư, sở học đại tiến, chỉ cần có thời gian tu luyện, tuần tự tiệm tiến, có thể trở thành cao thủ hạng nhất. Tam muội thua kém rất xa”, bèn nói:

– Tam muội, sư phụ của muội và sư phụ của huynh là sư tỷ muội, hóa ra hai chúng ta còn là sư huynh muội đấy. Võ công tinh diệu nhất của phái Cổ Mộ chúng ta được ghi trong “Ngọc nữ tâm kinh”. Tâm nguyện cả đời của Lý Mạc Sầu là được đọc bộ kinh ấy nhưng đến chết cũng không thỏa nguyện. Bây giờ không có việc gì, để huynh truyền thụ cho muội vài môn võ công được chứ?

Lục Vô Song cả mừng, nói:

– Đa tạ Dương đại ca, lần sau gặp Quách Phù, muội không còn sợ nàng ta vô lễ nữa.

Dương Quá mỉm cười, đem khẩu quyết trong “Ngọc nữ tâm kinh” đọc cho nàng nghe, từ nông đến sâu, dặn:

– Muội hãy học thuộc lòng khẩu quyết, khi luyện công có thể nhờ nhị muội trợ giúp. Nơi này không có người lạ, chính là nơi tuyệt diệu để luyện công.

Mấy ngày liền Lục Vô Song chuyên tâm ghi nhớ “Ngọc nữ tâm kinh”, sở học của nàng vốn là công phu phái Cổ Mộ, tương thông cùng mạch, dễ dàng lĩnh hội. Dần dần học đến chỗ thâm thúy, Dương Quá dạy nàng cứ cố ghi nhớ, lâu ngày sẽ hiểu. Cứ như thế dạy gần một tháng, Lục Vô Song đã ghi nhớ thuộc lòng toàn bộ tâm kinh từ đầu chí cuối, không bỏ sót chữ nào. Dương Quá cũng cứ cách bảy ngày lại nhai Đoạn Trường thảo để giải độc, với liều lượng ít dần.

Một buổi sáng nọ, Trình Anh và Lục Vô Song nấu bữa ăn xong, chờ hồi lâu không thấy Dương Quá đến, hai người tới cái hang chàng ở, thì thấy trên đất có hàng chữ lớn vạch bằng vật nhọn:

Tạm thời li biệt, hậu hội hữu kỳ. Huynh muội chi tình, sáng như nhật nguyệt.

Lục Vô Song sững sờ, nói:

– Dương đại ca… thế là chàng đi rồi.

Đoạn nàng chạy lên đỉnh núi, nhìn xuống bốn phía, Trình Anh cũng chạy lên theo. Hai người phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy sương mù lãng đãng, nào thấy đâu bóng hình Dương Quá? Lục Vô Song đau lòng, nghẹn ngào nói:

– Chàng bảo chàng… chàng đi đâu kia chứ? Mai sau… mai sau còn có dịp tái ngộ hay chăng?

Trình Anh nói:

– Tam muội, muội hãy nhìn mấy đám mây trắng kia, chúng ta tụ lại rồi tản mác, nhân sinh li hợp, cũng chẳng khác chi, sao muội còn phiền não?

Nàng tuy miệng nói vậy, song nước mắt không cầm được, vẫn lăn dài.

Sau khi ở lại Đoạn Trường nhai hơn một tháng, truyền thụ xong “Ngọc nữ tâm kinh” cho Lục Vô Song, thủy chung không biết thêm chút tin tức gì về Tiểu Long Nữ, Dương Quá biết có đợi thêm cùng vô ích, bèn hái một bó Đoạn Trường thảo cất vào bọc, viết dòng chữ trên mặt đất, rồi lẳng lặng bỏ đi. Chàng hi vọng Tiểu Long Nữ lại trở về núi Chung Nam chăng, bèn trở lại tòa cổ mộ, chỉ thấy mũ áo cưới để trên giường, quần áo vứt dưới nền, càng thêm đau lòng mà thôi.

Chàng xuống núi, lang bạt giang hồ đó đây, thấm thoắt đã mấy tháng, một hôm đến gần thành Tương Dương, thấy những nơi quân Mông Cổ san thành bình địa, đốt sạch, nay đã mọc lên những nếp nhà tranh, khói bếp đó đây, hiển nhiên quân Mông Cổ mấy tháng nay không tiến đánh xuống phía nam. Dương Quá tuy nhớ Quách Tĩnh, nhưng không muốn gặp mặt Quách Phù, nghĩ: “Mình xa Điêu huynh đã lâu, tại sao không đến thăm một chuyến?” Thế là tìm đường đến hoang cốc.

Gần đến nơi ẩn cư năm xưa của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại, chàng cất tiếng hú thật dài, vừa đi vừa hú. Một lát sau, nghe trên lưng chừng núi phía trước vọng xuống tiếng “oắc oắc”. Chàng ngẩng lên, thấy Thần điêu đứng dưới một gốc một cây lớn, bộ vuốt đang đè gí đầu một con báo. Thần điêu nhìn thấy Dương Quá, liền thả con báo ra, sải bước dài về phía chàng; con báo thoát chết, cụp đuôi lẩn ngay vào bụi cỏ. Dương Quá ôm lấy Thần điêu, người và thú đều mười phần hoan hỉ, cùng đi vào thạch thất. Chàng xa đây mới có vài tháng, nhưng đã trải qua mấy phen vào sinh ra tử, bi hoan tụ tán, chỉ tiếc Thần điêu không biết nói, nếu không chàng đã có thể thổ lộ với Thần điêu nhiều điều.

Sau mấy ngày bầu bạn với Thần điêu, hôm nay chàng trở lại chỗ của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại chôn kiếm. Chàng đọc lại dòng chữ khắc trên đá, bên dưới thanh kiếm gỗ đã mục:

Sau bốn mươi tuổi, bất kể vật gì, cây cỏ gỗ đá, đều có thể dùng làm kiếm. Từ đây tinh tu, dần dần tiến đến cảnh giới không kiếm thắng có kiếm.

Chàng nghĩ: “Mình sử dụng thanh Huyền thiết trọng kiếm nặng nề, đã mấy lần vô địch thiên hạ. Nhưng đọc di ngôn của Độc Cô tiền bối, thì rõ ràng kiếm gỗ có thể thắng Huyền thiết trọng kiếm, cuối cùng không dùng kiếm lại thắng kiếm gỗ. Long nhi đã hẹn mười sáu năm sau gặp lại, vậy thì trong vòng mười năm mình cứ thong thả tinh nghiên phép kiếm gỗ thắng Huyền thiết trọng kiếm, không dùng kiếm lại thắng kiếm gỗ”.

Thế là chàng liền bẻ cành cây làm một thanh kiếm gỗ, nghĩ: “Huyền thiết trọng kiếm nặng bảy chục cân, thanh kiếm gỗ nhẹ bẫng này muốn thắng Huyền thiết trọng kiếm chỉ có hai cách: một là kiếm pháp tinh diệu, lấy nhanh đánh chậm; hai là nội công sung mãn, lấy mạnh đánh yếu”.

Từ đó chàng ngày đêm chuyên tu nội công, tinh nghiên kiếm thuật, sau mỗi trận mưa lớn, chàng lại ra dòng suối chống chọi với nước lũ để tăng lực xuất chiêu; thấm thoắt hết hè sang thu, qua thu sang đông, Dương Quá tuy rất chuyên cần tu luyện, song nội lực và kiếm thuật đều tiến triển chậm. Chàng biết mình tu vi vốn đã tới cảnh giới rất cao, muốn tiến bộ thêm quả thật cực khó, cho nên chàng cũng không vì thế mà nôn nóng.

Một hôm trời có tuyết lớn, Thần điêu kêu to vui mừng, nhảy ra ngoài bãi rộng, dang hai cánh vẫy mạnh, hất từng đám tuyết lớn tung tóe. Dương Quá chợt nghĩ: “Mùa đông không có nước lũ, luyện kiếm trong tuyết cũng là một cách tuyệt diệu”. Chàng thấy Thần điêu vỗ cánh càng lúc càng mạnh, các bông tuyết rơi xuống tuy rất dày, song không có bông nào rơi xuống thân mình Thần điêu.

Dương Quá nổi hứng, vung thanh kiếm gỗ hất tuyết lên, đồng thời hất ống tay áo rỗng bên phải không cho các bông tuyết rơi xuống người mình. Đùa như thế nửa ngày, lực đạo của thanh kiếm gỗ và ống tay áo rỗng đều tăng tiến rõ rệt.

Tuyết rơi ba hôm liền, Dương Quá ngày nào cũng luyện kiếm ngoài tuyết. Buổi chiều ngày thứ ba, tuyết rơi càng dày, Dương Quá đang mải vung kiếm hất tuyết thì Thần điêu đột nhiên vẫy cánh quét về phía chàng. Dương Quá không đề phòng, suýt bị quét trúng, vội nhảy tránh, cảm thấy trán mát lạnh, có một bông tuyết dính vào. Chàng nghĩ: “Điêu huynh lại muốn luyện kiếm cho mình tăng tiến về kiếm thuật đây”, liền vung thanh kiếm gỗ đâm Thần điêu. “Rắc” một tiếng, thanh kiếm gỗ đụng cánh Thần điêu, lập tức gãy rời. Thần điêu không tấn công nữa, cụp cánh lại, kêu “oắc oắc”, thần sắc có vẻ trách móc.

Dương Quá nghĩ: “Muốn dùng thanh kiếm gỗ chống chọi thần lực của Điêu huynh, chỉ có cách né tránh thật nhanh, thừa sơ hở trả đòn”. Bèn làm một thanh kiếm gỗ khác, tái đấu ngoài tuyết với Thần diêu. Lần này cầm cự được mười mấy chiêu, thanh kiếm gỗ mới bị gãy.

Cứ thế luyện tập không nghỉ, Dương Quá thấy Thần điêu cũng không lơ là, tựa hồ đôn đốc chàng thật nghiêm, thì trong lòng vừa cảm kích, vừa hổ thẹn, nghĩ: “Ta không luyện được thanh kiếm gỗ, sẽ phụ mỹ ý của Điêu huynh. Dịp may hiếm có này, ta chẳng thể bỏ qua”. Thế là ngay cả lúc ngủ chàng cũng nghĩ cách tránh chiêu xuất chiêu và tăng cường nội lực như thế nào. Luyện công đã chăm, nỗi nhớ nhung Tiểu Long Nữ cũng không còn da diết như mấy tháng trước. Hiện thời chất độc hoa Tình trong cơ thể đã được giải hết, nội lực tăng tiến, thể chất cường tráng, đã không còn vẻ tiều tụy hôm nào.

Nhìn quang cảnh trời đất, biết mình biệt li với Tiểu Long Nữ đã một năm, Dương Quá nói:

– Điêu huynh, tại hạ muốn đi Tuyệt Tình cốc một chuyến, hôm nay tạm biệt Điêu huynh.

Rồi chàng mang theo thanh kiếm gỗ, rời khỏi hoang cốc. Thần điêu đi theo chàng đến chỗ đường rẽ, Dương Quá vái Thần điêu một cái, đoạn đi theo đường lớn về hướng bắc. Thần điêu ngậm vạt áo chàng kéo về hướng nam. Dương Quá nói:

– Điêu huynh, tại hạ đi phương bắc có việc, chúng ta chia tay ở đây thôi.

Nhưng Thần điêu cứ kéo chàng về hướng nam. Dương Quá lấy làm lạ: “Điêu huynh dạo trước rất thấu hiểu, sao bây giờ lại cố chấp như thế?” Khổ nỗi ngôn ngữ bất đồng, đành theo Thần điêu đi về hướng nam. Thần điêu thấy chàng chịu rồi thì nhả vạt áo ra, không kéo nữa, nhưng thấy chàng quay người đi lên hướng bắc, nó lại ngậm vạt áo chàng không nhả ra nữa. Dương Quá nghĩ: “Điêu huynh kéo ta về hướng nam, tất có thâm ý, ta đi theo thì hơn”. Thế là chàng dứt bỏ ý định đi Tuyệt Tình cốc, mà cùng Thần điêu đi về hướng đông nam.

Đi hơn mười dặm, Dương Quá chợt nghĩ: “Điêu huynh thọ cao, thông linh, hay là Điêu huynh dẫn ta đi gặp Long nhi?” Nghĩ vậy, nhiệt huyết trào dâng, khó kìm lại được, bèn rảo cẳng cùng Thần điêu đi như bay. Chưa đầy một tháng, đã tới bờ Đông Hải.

Dương Quá đứng trên ghềnh đá ven biển, đưa mắt nhìn ra ngoài khơi, thấy sóng bạc đầu từ rất xa chạy lại, trong lòng lo âu xen lẫn hi vọng. Không lâu, tai nghe viễn triều rùng rùng như tiếng sấm ì ầm không ngớt. Chàng thuở nhỏ từng ở trên đảo Đào Hoa, biết thủy triều mỗi ngày đêm diễn ra hai lần, vào giờ Tí giờ Ngọ. Lúc này gần trưa, chắc là lúc triều dâng. Tiếng thủy triều càng lúc càng rõ, ầm ầm như thiên binh vạn mã cùng rầm rập xô tới, chỉ thấy một dải bạch tuyến trào gấp vào bờ, thanh thế còn lợi hại hơn cả sấm sét. Dương Quá thấy trời đất thị uy thì bất giác biến sắc.

Phút chốc thủy triều đã tràn đến trước mặt, tựa hồ muốn đâm bổ lên ghềnh đá. Dương Quá vội nhảy lùi về phía sau, đột nhiên cảm thấy có một kình lực cực mạnh đẩy vào lưng chàng, chính là Thần điêu vẫy cánh tấn công. Chàng đang ở trong không trung, không chống đỡ được, ùm một cái, rơi tõm xuống giữa làn sóng bạc đầu, nước mặn xộc ngay vào miệng.

Tình thế lúc này rất nguy, may chàng từng luyện kiếm bao nhiêu lâu giữa dòng nước lũ trên núi, lập tức sử chiêu “Thiên cân trụy” đứng thật vững trên đáy biển bằng đá. Trên mặt biển sóng cao như núi, nhưng dưới đáy biển thì tĩnh lặng hơn. Chàng đã hiểu ra: “Thần điêu dẫn mình ra biển là để mình luyện kiếm trong sóng dữ”. Bèn nhún mạnh hai chân, vọt lên mặt nước, một đợt sóng cao như núi ập xuống đầu chàng. Chàng tung mình lên đầu sóng, hít một hơi dài rồi lại chìm xuống đáy biển.

Cứ thế tung mình vọt lên mặt nước để thở, đến khi thủy triều rút thì chàng đã mệt phờ, mặt nhợt nhạt. Giờ Tí, thủy triều lại dâng, chàng cầm thanh kiếm gỗ nhảy xuống múa kiếm trong sóng, cảm thấy lực thủy triều từ tứ phía ập đến, không giống như nước lũ chỉ đẩy từ trên xuống dưới; mỗi khi chống đỡ không nổi, chàng lại chìm xuống đáy biển tạm tránh.

Cứ thế mỗi ngày tập hai lần, chưa đến một tháng, tự cảm thấy công lực đại tiến, nếu đứng trên bờ múa kiếm, nghe từa tựa như tiếng triều dâng. Bây giờ Thần điêu đấu với chàng, đã không dám dùng cánh đụng vào thanh kiếm gỗ nữa.

Một hôm Dương Quá nổi hứng, lúc vung kiếm đâm, sử đến mười thành công lực. Thần điêu kêu “oắc” một tiếng, vội né tránh. Dương Quá thu kiếm không kịp, thanh kiếm gỗ chém trúng vào một thân cây nhỡ nhỡ, kiếm gãy, thân cây cũng gãy đổ. Dương Quá tay cầm cán của thanh kiếm gỗ vừa gãy, nghĩ: “Thanh kiếm gỗ mỏng manh vô lực này mà chém gãy cây là do kình lực của tay ta, khi nào cây gãy mà kiếm không gãy, tức là sẽ bằng thần kỹ của Độc Cô tiền bối năm xưa”.

Xuân qua thu tới, năm tháng trôi mau, Dương Quá ngày ngày luyện kiếm với thủy triều, ngày cũng như đêm, trời nóng cũng như trời rét. Tiếng thanh kiếm gỗ phát ra khi đâm càng ngày càng to, ầm ầm ù ù, vang như thế mấy tháng, rồi nghe nhỏ dần, cuối cùng không nghe thấy gì nữaa. Lại luyện thêm vài tháng, tiếng lại nghe to dần, từ nhỏ tới to, lại từ to tới nhỏ, lặp đi lặp lại bảy lần, luyện đến bước ấy, bấm đốt ngón tay, tính ra chàng đã ở bên bờ biển sáu năm. Hiện thời Dương Quá tay cầm thanh kiếm gỗ, đứng bên bờ biển đón sóng mà đâm, kình phong do kiếm tạo nên đã ngang với sóng lớn từ trên cao đổ xuống. Thần điêu tuy có lực đạo kinh hồn, cũng đã không chịu nổi vài ba chiêu thức của thanh kiếm gỗ; bây giờ chàng mới hiểu tâm trạng cuối đời của Độc Cô Cầu Bại: “Từ đây kiếm thuật làm gì có ai trong thiên hạ địch nổi. Hèn chi Độc Cô tiền bối buồn bã chôn kiếm nơi hoang cốc”. Lại nghĩ: “Nếu không có Điêu huynh năm xưa chứng kiến phép luyện kiếm của Độc Cô tiền bối, thì làm sao ta có được thần kỹ thế này? Ta gọi Thần điêu là Điêu huynh, kỳ thực Thần điêu là lương sư của ta. Nói về tuổi tác, càng không biết Thần điêu bao nhiêu tuổi, không chừng Thần điêu đáng để ta gọi là Điêu công công, Điêu gia gia cũng nên”.

Trong những năm luyện kiếm trên bờ biển, Dương Quá luôn luôn nghe ngóng tin tức qua những người đi biển trở về, xem có ai biết gì về Nam Hải thần ni hay chăng. Nhưng mấy năm, hỏi qua cả ngàn thuyền sư hải khách, không một ai có tin gì, chàng cũng bỏ dần ý định hỏi han, nghĩ thôi cứ chờ mười sáu năm sẽ tái hợp với Tiểu Long Nữ. Một hôm trời mưa gió như trút, Dương Quá cảm thấy bồn chồn, bèn giắt thanh kiếm gỗ sau lưng, khoác áo tơi che mưa, cùng Thần điêu lẳng lặng đi về hướng tây, từ ấy dấu chân chàng đặt khắp chốn Giang Nam Trung Nguyên.

———-

Ghi chú:

Lời và điệu của “Hỏi thế gian tình ái là chi, mà đôi lứa thề nguyền sống chết” là dựa theo bài hát “Mại Bì đường”, tác giả là Nguyên Hiếu Vấn, người nước Kim, sáng tác vào năm Kim Thái Hòa thứ năm, bấy giờ phụ thân của Dương Quá là Dương Khang mới năm tuổi.

Hồi 33: Phong lăng dạ đàm

Thời Tống Lý Tông, năm Khai Khánh nguyên niên, là năm thứ chín sau khi đại hãn Mông Cổ Mông Ca lên ngôi, bấy giờ vào đầu xuân tháng Hai, bến Phong Lăng ở bờ bắc Hoàng Hà đầy tiếng ngựa hí lừa kêu, tiếng người tiếng xe huyên náo. Mấy ngày liền trời chợt lạnh chợt ấm, Hoàng Hà thoạt tiên tan băng, đến hôm nay gió bấc thổi mạnh, tuyết rơi dày, mặt sông lại đóng băng. Thuyền không thể qua lại, mà băng thì chưa đủ dày cho xe ngựa lại qua, rất nhiều khách đi xuống miền nam đều bị ách lại ở bến Phong Lăng, không thể đi tiếp. Bến Phong Lăng tuy có mấy tòa khách điếm, nhưng dòng người từ phía bắc đổ xuống lũ lượt không ngớt, chưa đến nửa ngày, các nơi đã hết chỗ, những khách thương đến sau không còn phòng để thuê làm chỗ nghỉ đêm.

Tòa khách điếm lớn nhất ở đây có tên “An độ lão điếm”, nổi tiếng là tòa khách điếm an toàn. Nơi đây phòng ốc rộng rãi, ít khách thương nào không tìm đến trú ở đây, cho nên càng chật ních. Chưởng cự phải khua môi múa mép mới dồn được ba, bốn khách vào một phòng, còn hai chục người không biết bố trí vào đâu, đành phải ngồi ở gian đại đường. Điếm tiểu nhị bày bàn ăn, đốt một đống lửa lớn ở giữa gian. Ngoài cửa gió lạnh thổi ù ù, tuyết bay lả tả lùa vào qua khe cửa, thổi lửa lúc sáng bừng, lúc tối lại. Mọi người đoán chừng sáng mai chưa thể lên đường, chau mày buồn bã.

Gần tối, tuyết rơi càng dày, bỗng nghe có tiếng vó ngựa, ba người cưỡi ngựa dừng lại ngoài điếm môn khẩu. Một vị khách già ngồi bên đống lửa cau mày, nói:

– Lại có người đến thêm.

Quả nhiên nghe giọng một nữ nhân:

– Chưởng cự, hãy chuẩn bị cho ta hai phòng rộng rãi, sạch sẽ.

Chưởng cự cười hề hề:

– Xin phu nhân lượng thứ, tiểu điếm đầy chật rồi, không còn một chỗ nào nữa.

Giọng nữ nhân:

– Được, thôi thì chuẩn bị cho ta một phòng vậy.

Chưởng cự nói:

– Được quí khách quang lâm quả là vinh hạnh cho tiểu điếm, nhưng hôm nay quả thật không còn lấy một phòng.

Nữ nhân vút vút cây roi ngựa, xẵng giọng:

– Nói vớ nói vẩn! Ngươi mở khách điếm mà không có đủ phòng trọ thì mở khách điếm làm gì? Ngươi bảo người ta nhường phòng lại không được hay sao? Ta trả nhiều tiền cho ngươi được chưa?

Đoạn xông thẳng vào đại đường.

Mọi người thấy nữ nhân trạc ba mươi tuổi, mặt hạnh má đào, dung nhan mỹ lệ, mặc chiếc áo da cừu lót lụa màu lam, cổ quàng tấm lông chồn, phục sức rất sang trọng. Theo sau thiếu phụ có một nam một nữ, đều khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, nam thì mày rậm mắt to, thần tình thô hào, nữ thì thanh nhã tú mỹ. Thiếu niên và thiếu nữ cùng mặc áo da, thiếu nữ cổ đeo một chuỗi minh châu, mỗi hạt ngọc to bằng đầu ngón tay út, phát quang long lanh. Đám khách thương choáng ngợp bởi khí thế của ba người mới tới, ngẩn ngơ nhìn họ.

Điếm bạn cúi mình cười hề hề, nói:

– Phu nhân coi đó, các vị quan khách đây cũng đều không tìm được phòng trống. Ba vị nếu không hiềm phiền toái, tiểu nhân sẽ bảo các vị đây nhường cho một bàn, thôi thì tạm ngồi sưởi qua đêm nay, ngày mai băng đóng cứng, không chừng có thể qua sông.

Thiếu phụ xinh đẹp thấy tình cảnh này là thực, cau mày không nói. Một thiếu phụ trung niên ngồi bên đống lửa nói:

– Phu nhân hãy ngồi xuống đây mà sưởi cho đỡ lạnh đã, rồi tính sau.

Thiếu phụ xinh đẹp nói:

– Được, xin đa tạ.

Một vị khách nam ngồi cạnh thiếu phụ trung niên vội xê dịch sang một bên, dành ra một khoảng rộng.

Ba người ngồi một lát, điếm tiểu nhị bưng thức ăn tới. Thức ăn nhiều món, thịt thà đủ cả, còn thêm một bình rượu trắng. Thiếu phụ xinh đẹp tửu lượng rất cao, uống hết bát này đến bát khác. Thiếu niên và thiếu nữ cùng uống với thiếu phụ xinh đẹp.

Nghe ba người xưng hô, họ là tỷ đệ, chàng thiếu niên là út.

Mọi người ngồi vây quanh đống lửa, nghe gió thổi ù ù bên ngoài, nhất thời chưa định ngủ.

Một hán tử nói giọng Sơn Tây lên tiếng:

– Thời tiết thật là trái chứng, làm khổ người ta, lúc thì tan băng, lúc thì đóng băng.

Một người lùn nói giọng Hồ Bắc:

– Các hạ đừng có oán trách trời đất nữa, chúng ta được ngồi sưởi ấm thế này, được ăn uống no đủ, còn đòi gì hơn? Các hạ mà sống trong thành Tương Dương bị vây hãm, sẽ thấy nơi khốn cùng trong thiên hạ cũng vẫn còn là nơi an lạc chán.

Thiếu phụ xinh đẹp nghe bốn chữ “trong thành Tương Dương”, thì nhìn đệ muội một cái.

Một vị khách nói giọng Quảng Đông hỏi:

– Lão huynh, xin hỏi trong thành Tương Dương bị vây hãm, tình cảnh thế nào?

Người nói giọng Hồ Bắc đáp:

– Sự tàn bạo của bọn Thát tử Mông Cổ, các vị hẳn đã nghe cả rồi. Cái năm hơn mười vạn đại quân Mông Cổ vây đánh thành Tương Dương, thống chế Lã đại nhân thủ thành là một kẻ bất tài, may có vợ chồng Quách đại hiệp ra sức chống địch…

Thiếu phụ nghe nhắc đến “vợ chồng Quách đại hiệp” thì lắng nghe.

Người nói giọng Hồ Bắc tiếp:

– Mấy chục vạn quân dân thành Tương Dương cũng dốc sức thủ thành, không một ai run sợ thoái hậu. Như tiểu nhân chỉ là một tiểu thương, cũng dùng xe chở đá giúp cho việc phòng thủ. Vết sẹo trên mặt tiểu nhân đây là do bị trúng tiễn của quân Mông Cổ đó.

Mọi người cùng nhìn người đó, thấy bên dưới mặt trái quả nhiên có một vết thương vì trúng tiễn to bằng miệng chén trà, thì bất giác có ý kính nể.

Vị khách Quảng Đông nói:

– Đại Tống ta đất rộng người đông, nếu ai cũng như lão huynh, thì bọn Thát từ Mông Cổ có hung bạo gấp mười, cũng không thể chiếm được giang sơn ta.

Người nói giọng Hồ Bắc:

– Đúng thế, các hạ thấy đó, đại quân Mông Cổ tấn công thành Tương Dương hơn chục năm, vẫn không hạ nổi, thành thử cũng không chiếm được các nơi khác. Nghe đồn mấy chục quốc gia bên ngoài Tây Vực đều bị quân Mông Cổ tiêu diệt, thành Tương Dương của nước ta vẫn vững vàng như núi. Tứ vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt thân chinh đứng dưới chân thành đốc chiến, cũng không làm gì nổi người Tương Dương chúng tôi.

Vị khách Quảng Đông nói:

– Trăm họ đều sẵn sàng liều chết với bọn Thát tử, nếu bọn Thát tử tiến đánh vùng Quảng Đông chúng tôi, dân Quảng Đông cũng sẽ đánh cho chúng một trận tơi bời.

Người Hồ Bắc nói:

– Không liều chết với bọn Thát tử thì cũng mất mạng. Bọn Thát tử Mông Cổ đánh không nổi thành Tương Dương, bèn bắt người Hán ở ngoài thành, giải tới dưới chân thành mà chém đầu. Chúng còn dùng dây trói những đứa trẻ thơ năm, sáu tuổi rồi cho ngựa kéo chạy vòng vòng dưới chân thành, vài vòng thì đứa trẻ đã chết tươi. Chúng tôi ở trên mặt thành nghe tiếng trẻ thơ khóc thét mà như đứt từng khúc ruột. Bọn Thát tử tưởng dùng thủ đoạn tàn bạo làm cho chúng tôi sợ hãi mà đầu hàng, nhưng chúng càng tàn bạo, ta càng giữ thành thật vững. Năm ấy lương thực trong thành Tương Dương hết nhẵn, nước cũng cạn, rồi vỏ cây, nước dơ cũng bị người ta ăn uống hết sạch, vậy mà bọn Thát tử vẫn không hạ nổi thành, đành phải lui binh.

Vị khách Quảng Đông nói:

– Mười mấy năm nay, không có thành Tương Dương kiên cường bất khuất, e rằng một nửa giang sơn Đại Tống ta đã mất rồi.

Mọi người nhao nhao hỏi han về tình hình thủ thành Tương Dương, người nói giọng Hồ Bắc kể đâu ra đó, ca ngợi vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung như thần như thánh, ai nấy tấm tắc không thôi.

Một người khách nói giọng Tứ Xuyên bỗng lên tiếng:

– Thực ra quan tốt giữ thành nơi nào cũng có, chẳng qua triều đình không phân biệt trung gian, để cho gian thần tận hưởng vinh hoa phú quí, còn trung thần thì hàm oan mà chết. Chuyện anh hùng Nhạc Phi thời trước khỏi nói, như đối với Tứ Xuyên chúng tôi triều đình đã giết oan mấy vị đại trung thần.

Người Hồ Bắc nói:

– Là ai vậy, xin cho biết.

Người khách Tứ Xuyên nói:

– Bọn Thát tử Mông Cổ đánh Tứ Xuyên hơn mười năm, nhờ có Dư Giới Dư đại soái trấn thủ, trăm họ ở Tứ Xuyên đều coi Dư đại soái như vị Phật sống. Ai ngờ hoàng thượng tin lời tên gian thần Đinh Đại Toàn bảo Dư đại soái lạm quyền, dối trên nạt dưới, ban cho rượu độc buộc Dư đại soái tự vẫn, phái về một tên gian đảng bất tài làm nguyên soái. Sau đó bọn Thát tử Mông Cổ đánh tới, vùng bắc Tứ Xuyên lập tức thất thủ. Ngoài mặt trận toàn là thuộc hạ cũ của Dư đại soái, ai cũng liều chết đánh địch. Nhưng viên nguyên soái mới chỉ biết nịnh nọt thượng ti, không biết gì việc điều binh khiển tướng, tất nhiên không chống nổi quân địch. Bọn gian thần Đinh Đại Toàn, Trần Đại Phương che chở cho viên cẩu nguyên soái kia, lại đi đổ oan cho tướng quân Vương Duy Trung, một vị tướng quân anh dũng bất khuất là tư thông với giặc, áp giải cả gia đình Vương tướng quân về kinh, chém đầu Vương tướng quân.

Nói đến đây, giọng người đó nghẹn ngào, mọi người cùng thở dài.

Vị khách Quảng Đông căm phẫn nói:

– Đại sự quốc gia lại do bọn gian thần thao túng. Nghe nói trong triều có ba con chó, tên gian thần Đinh Đại Toàn là một trong ba con đó.

Một thiếu niên mặt trắng trẻo từ đầu chỉ ngồi nghe, lúc này bỗng lên tiếng:

– Đúng vậy, đứng đầu bọn gian thần trong triều là ba tên Đinh Đại Toàn, Trần Đại Phương, Hồ Đại Xương. Người Lâm An chúng tôi thêm một dấu chấm trên chữ “Đại”, thành chữ “Khuyển” (chó), ba tên ấy hóa thành Đinh Khuyển Toàn, Trần Khuyển Phương, Hồ Khuyển Xương.

Mọi người nghe vậy cùng cười ồ lên.

Vị khách Tứ Xuyên nói:

– Nghe khẩu âm của lão đệ, hình như là người Lâm An ở kinh đô thì phải?

Thiếu niên kia nói:

– Đúng thế.

Vị khách Tứ Xuyên nói:

– Vậy lão đệ có nghe kể về tình cảnh tướng quân Vương Duy Trung bị hành hình ra sao chứ?

Thiếu niên nói:

– Tiểu đệ đã chính mắt chứng kiến. Vương tướng quân trước lúc chết vẫn bình thản như không, uy phong lẫm liệt, chửi Đinh Đại Toàn, Trần Đại Phương là bọn họa quốc ương dân, ngoài ra còn có một chuyện lạ.

Mọi người cùng hỏi:

– Là chuyện gì vậy?

Thiếu niên nói:

– Vương tướng quân bị một tay Trần Đại Phương sát hại. Khi Vương tướng quân bị dẫn ra pháp trường, dọc đường Vương tướng quân lớn tiếng nói rằng sau khi chết sẽ lên kêu oan với Ngọc hoàng đại đế. Ngày thứ ba sau khi Vương tướng quân chết, Trần Đại Phương quả nhiên bị chết thảm tại nhà. Thủ cấp của hắn bị treo cao ở gác chuông cửa Đông thành Lâm An, trên một cây sào. Chỗ ấy loài khỉ cũng không thể leo lên nổi, đừng nói là người, nếu không phải thiên thần thiên tướng do Ngọc hoàng đại đế phái xuống, còn ai có thể làm được việc đó?

Mọi người đều cho là lạ. Thiếu niên nói:

– Chuyện ấy thành Lâm An ai cũng biết, không phải do tại hạ bịa ra. Vị nào đến Lâm An, cứ hỏi thăm khắc biết.

Người khách Tứ Xuyên nói:

– Vị lão đệ này nói không sai. Có điều người giết Trần Đại Phương không phải thiên thần thiên tướng, mà là một vị anh hùng hào kiệt.

Thiếu niên lắc đầu nói:

– Thiết nghĩ Trần Đại Phương là đại quan trong triều, có thân binh gia tướng canh phòng cẩn mật, thường nhân làm sao giết nổi hắn? Hơn nữa, thủ cấp của hắn bị treo cao ở gác chuông, trừ phi có cánh mới làm nổi việc đó.

Người khách Tứ Xuyên nói:

– Kỳ nhân hiệp sĩ bản lĩnh phi phàm, trên thế gian vẫn có đấy. Nếu tiểu đệ không chính mắt chứng kiến, thì cũng khó tin.

Thiếu niên ngạc nhiên hỏi:

– Các hạ chính mắt nhìn thấy thủ cấp của Trần Đại Phương bị treo cao ở gác chuông ư? Làm sao các hạ chính mắt thấy được?

Người khách Tứ Xuyên do dự một lát, rồi nói:

– Tướng quân Vương Duy Trung có một người con trai, lúc Vương tướng quân bị bắt thì người con trai ấy không có nhà. Bọn gian thần trong triều đình muốn nhổ cỏ tận gốc, mới sai quân mã truy nã. Người con của Vương tướng quân cũng là một quân quan, tuy biết võ nghệ, song quả bất địch chúng, thấy sắp bị truy binh bắt được, thì gặp một vị cứu tinh, tay không đánh tan mấy chục quân mã. Người con của Vương tướng quân liền đem việc hai cha con anh dũng vệ quốc mà bị hãm hại như thế nào kể lại, vị đại hiệp kia ngay đêm ấy tới Lâm An, định cứu Vương tướng quân, nhưng đã chậm mất hai ngày, Vương tướng quân đã bị giết hại. Vị đại hiệp nổi giận, ngay đêm ấy đi chặt đầu Trần Đại Phương, treo lên trên gác chuông. Chỗ ấy đúng là loài vượn cũng không leo lên nổi, vậy mà vị đại hiệp kia chỉ nhún chân một cái đã bay lên được.

Vị khách Quảng Đông hỏi:

– Vị hiệp khách ấy là ai? Hình dạng như thế nào?

Người khách Tứ Xuyên nói:

– Tại hạ không biết tính danh vị đại hiệp kia, chỉ thấy người ấy thiếu mất cánh tay phải, tướng mạo… tướng mạo rất đặc sắc, cưỡi một con ngựa, dắt theo một con ngựa thứ hai, trên lưng con ngựa thứ hai có một con quái điểu ly kỳ cổ quái…

Chưa nói hết thì một đại hán dõng dạc nói to:

– Đúng thế, đấy chính là vị Thần điêu hiệp lừng danh khắp giang hồ.

Người khách Tứ Xuyên hỏi:

– Là Thần điêu hiệp ư?

Đại hán nói:

– Phải, vị đại hiệp ấy hành hiệp trượng nghĩa, đả phá bất bình, song không chịu nói rõ tính danh; bằng hữu giang hồ thấy chàng lúc nào cũng ở bên cạnh một con quái điểu như hình với bóng, bèn tặng cho chàng ngoại hiệu “Thần điêu đại hiệp”. Chàng nói rằng hai chữ “đại hiệp” chàng quyết không dám nhận, người ta đành gọi chàng là “Thần điêu hiệp”. Kỳ thực những việc chàng làm hoàn toàn xứng danh với hai chữ “đại hiệp”. Chàng mà không xứng, thì còn ai xứng kia chứ.

Thiếu phụ xinh đẹp đột nhiên xen vào nói:

– Ngươi là đại hiệp, ta là đại hiệp, hừ, sao mà lắm đại hiệp thế!

Người khách Tứ Xuyên bình thản nói:

– Phu nhân nói nghe lạ, chuyện giang hồ tiểu nhân tuy không hiểu, nhưng đúng là vị Thần điêu đại hiệp cứu mạng Vương tướng quân, đã đi một mạch từ Giang Tây đến Lâm An, suốt bốn ngày đêm không chợp mắt. Thần điêu hiệp không quen biết Vương tướng quân, nhưng thương Vương tướng quân tận trung báo quốc lại bị gian thần hãm hại, nên bất chấp nguy hiểm, đi kêu oan cho Vương tướng quân, phu nhân bảo như vậy đã xứng là một vị đại hiệp hay chưa?

Thiếu phụ hừ một tiếng, định nói, thì thiếu nữ văn nhã ngồi bên cạnh thiếu phụ nói:

– Tỷ tỷ, vị anh hùng hành xử như thế, rất xứng với hai chữ “đại hiệp”.

Giọng nàng trong trẻo, nghe rất êm dịu, ai nghe cũng thích.

Thiếu phụ nói:

– Muội thì hiểu gì?

Đoạn quay sang phía vị khách Tứ Xuyên, hỏi:

– Làm sao các hạ biết rõ mọi chuyện đó? Lại nghe chuyện dọc đường chứ gì? Tin đồn trên giang hồ, chín phần mười là không đáng tin.

Vị khách Tứ Xuyên trầm ngâm giây lát, rồi nghiêm trang nói:

– Tiểu nhân họ Vương, tướng quân Vương Duy Trung chính là tiên phụ; tính mạng của tiểu nhân là do Thần điêu đại hiệp cứu thoát, tiểu nhân thân là khâm phạm, triều đình ra lệnh truy nã, muốn chém đầu tiểu nhân. Nhưng một khi nhắc đến danh tính của ân nhân cứu mạng, tiểu nhân đâu dám tham sống sợ chết, giấu diếm không nói.

Mọi người nghe y nói vậy đều sững sờ. Vị khách Quảng Đông giơ ngón tay cái, nói to:

– Tiểu Vương tướng quân, các hạ là một trang hảo hán, nếu có kẻ nào đi tố giác các hạ với quan phủ, mọi người sẽ băm hắn thành trăm mảnh.

Mọi người cùng khen phải. Thiếu phụ xinh đẹp nghe nói thế, cũng không thể phản bác.

Thiếu nữ văn nhã nhìn ngọn lửa bập bùng lúc sáng lúc tối, đăm đăm xuất thần, khe khẽ thốt lên:

– Thần điêu đại hiệp, Thần điêu đại hiệp…

Rồi ngoảnh sang tiểu Vương tướng quân, nói:

– Vương đại thúc, vị Thần điêu đại hiệp võ công đã cao cường thế, sao lại thiếu mất một cánh tay?

Thiếu phụ xinh đẹp thần sắc đại biến, môi mấp máy định nói gì, lại thôi. Tiểu Vương tướng quân lắc đầu nói:

– Tại hạ ngay đến tính danh của Thần điêu đại hiệp còn không hỏi được, làm sao biết thân thế của chàng.

Thiếu phụ xinh đẹp nói:

– Hừ, các hạ dĩ nhiên không thể biết.

Chàng thiếu niên Lâm An nói:

– Thần điêu đại hiệp giết gian thần, tiểu Vương tướng quân chính mắt mục kích, không phải là thiên thần thiên tướng thực hiện. Nhưng còn việc tên gian thần Đinh Đại Toàn sau một đêm sắc mặt trở nên xanh lè, thì chắc chắn là do trời phạt.

Vị khách Quảng Đông nói:

– Làm sao mà sau một đêm sắc mặt lại trở nên xanh lè?

Chàng thiếu niên Lâm An nói:

– Trước đây dân Lâm An gọi Đinh Đại Toàn là Đinh Khuyển Toàn, nhưng hiện thời đã gọi hắn là Đinh Thanh Bì. Hắn vốn mặt mũi trắng trẻo, bỗng nhiên sau một đêm sắc mặt trở nên xanh lè, rồi cứ bị như thế, chẳng thầy thuốc nào chữa khỏi. Nghe nói hoàng thượng cũng từng hỏi tại sao, tên gian thần tâu là hắn một lòng một dạ lo việc nước, mấy đêm mất ngủ, cho nên sắc mặt trở nên như vậy. Nhưng khắp thành Lâm An ai ai cũng bảo tên gian thần họa quốc ương dân ấy bị Ngọc hoàng đại đế sai thiên tướng xuống làm cho mặt hắn hóa xanh như thế.

Vị khách Quảng Đông lắc đầu, nói:

– Chuyện càng nghe càng kỳ lạ.

Hán tử thẳng thắn kia cười ha hả, vỗ đùi nói:

– Việc ấy cũng là do Thần điêu hiệp làm đó, ha ha, thống khoái thống khoái!

Mọi người vội hỏi:

– Sao lại cũng là Thần điêu hiệp?

Đại hán chỉ cười ha ha, nói:

– Thống khoái thống khoái!

Vị khách Quảng Đông muốn biết chi tiết, liền gọi điếm tiểu nhị mang ra hai cân rượu, mời đại hán uống.

Đại hán uống cạn một bát rượu to, cao hứng nói lớn:

– Chuyện này không phải huynh đệ khoe khoang, mà huynh đệ cũng có đôi chút công lao. Một đêm nọ Thần điêu hiệp đột nhiên tới Lâm An, bảo huynh đệ dẫn mấy chục anh em xông vào nha môn huyện Tiền Đường Lâm An trói bọn sai dịch lại, lột quần áo của bọn chúng, mặc vào giả làm quan dịch. Ai nấy vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, chưa biết Thần điêu hiệp phân phó như thế để làm gì, nhưng chắc sẽ có trò vui, tất nhiên tuân lệnh làm ngay. Đến hết canh ba, Thần điêu hiệp tới nha môn huyện Tiền Đường, mình mặc sắc phục quan huyện, ngồi trên công đường, đập tay xuống bàn quát: “Giải tên phạm quan Đinh Đại Toàn ra đây!”

Nói đến đây, đại hán văng cả bọt mép, lại tợp một ngụm rượu to.

Vị khách Quảng Đông nói:

– Lão huynh bấy giờ làm nghề gì ở Lâm An vậy?

Đại hán trừng mắt nhìn người kia một cái, nói to:

– Làm nghề gì à? Uống bát rượu to, ăn miếng thịt lớn, lấy cân chia vàng bạc, làm ăn kiểu ấy, hiểu chưa?

Vị khách Quảng Đông chột dạ, không dám hỏi thêm. Đại hán nói tiếp:

– Khi huynh đệ nghe ba chữ “Đinh Đại Toàn” thì giật mình, nghĩ: “Đinh Đại Toàn ư, tên cẩu quan ấy đang làm Tể tướng đương triều, Thần điêu hiệp làm sao có thể bắt hắn mang tới đây?” Chỉ thấy Thần điêu hiệp lại vỗ bàn một cái nữa, hai hán tử quả nhiên áp giải một người trang phục đại quan vào công đường. Năm ngoái Đinh Đại Toàn có đến Hựu Thánh quán thắp hương, huynh đệ ở ngoài cổng đạo quán có nhìn thấy mặt hắn, lúc này nhìn kỹ, đúng là Đinh Đại Toàn chứ còn ai vào đấy? Hắn run rẩy toàn thân, nửa như sắp quì nhưng chưa chịu quì. Một huynh đệ bèn đạp vào khoeo chân hắn, hắn phải vội quì xuống. Ha ha, thống khoái, thống khoái! Thần điêu hiệp hỏi, Đinh Đại Toàn, ngươi biết tội hay chưa? Đinh Đại Toàn nói, chưa biết. Thần điêu hiệp quát, ngươi mưu lợi riêng, giết oan người trung lương, tàn hại trăm họ, tư thông với kẻ địch làm hại đất nước, bao nhiêu hành động gian ác, hãy mau cung khai. Đinh Đại Toàn nói, nhà ngươi rốt cuộc là ai, dám bắt giữ đại thần, có biết vương pháp là gì hay không? Thần điêu hiệp nói, ngươi còn nghĩ đến vương pháp hả? Tả hữu đâu, đánh cho hắn bốn chục gậy ta coi! Các huynh đệ vốn căm hận tên gian thần, lúc này được đánh hắn thì giáng thật mạnh, khiến Đinh Đại Toàn ngất đi mấy lần, rối rít xin tha. Thần điêu hiệp hỏi câu nào, hắn ngoan ngoãn trả lời câu ấy, không dám cứng đầu nữa. Thần điêu hiệp sai đưa giấy bút, bảo hắn tự khai. Hắn hơi do dự, Thần điêu hiệp quát đánh vào mông, vả vào miệng hắn.

Thiếu nữ văn nhã mỉm cười, nói nhỏ:

– Thú vị, thú vị!

Đại hán lại tợp một ngụm rượu, nói:

– Đúng, hết sức thú vị. Cái tên Đinh Đại Toàn ấy không chịu nổi đòn, đành tự tay viết lời khai, nhưng hắn viết rất chậm, Thần điêu hiệp luôn miệng thúc giục, hắn cố chần chừ, không chịu viết nhanh. Trời sắp sáng, ngoài cổng nha môn có tiếng huyên náo, rất nhiều quân mã kéo đến, chắc đã bị lộ. Thần điêu hiệp nổi giận, quát: “Chém đầu hắn cho ta!” rồi nháy mắt với huynh đệ. Huynh đệ biết Thần điêu hiệp không muốn giết người, bèn vung đao lên chém xuống, nhưng lúc đụng vào gáy Đinh Đại Toàn thì huynh đệ đã xoay đằng sống đao và chỉ dứ nhẹ. Song nhát đao ấy cũng đủ làm cho Đinh Đại Toàn sợ vỡ mật, chỉ thấy mặt hắn đột nhiên trở nên xanh lè, hắn ngất đi. Thần điêu hiệp cười to, nói: như thế đủ để hắn kinh sợ rồi, chúng ta không cần giết hắn, cứ để triều đình lấy hắn làm gương. Thần điêu hiệp bảo chúng tôi thay y phục nha dịch, lẻn ra cổng sau, ai về nhà nấy. Thần điêu hiệp tự đi đoạn hậu, cũng không phải đánh nhau gì cả, ai nấy bình an rút đi. Nghe nói Thần điêu hiệp hôm sau đích thân vào hoàng cung, đem tờ khai của Đinh Đại Toàn giao cho lão hoàng đế. Nhưng không hiểu Đinh Đại Toàn khéo ăn khéo nói thế nào mà lão hoàng đế tin lời hắn, vẫn cứ cho hắn làm Tể tướng.

Tiểu Vương tướng quân thở dài, nói:

– Chúa thượng nếu không hôn mê vô đạo, gian thần đã không thể làm ác. Giết được Tần Cối, lại đẻ ra Hàn Thác Vị, khử Hàn Thác Vị, lại nảy nòi ra Sử Di Viễn; trừ bỏ Sử Di Viễn, lại đến Đinh Đại Toàn. Ôi, gian thần cứ hết tên này đến tên khác, giang sơn Đại Tống ta khó lòng giữ được.

Đại hán nói:

– Trừ phi mời Thần điêu hiệp làm Tể tướng, may ra mới đánh lui được bọn Thát tử, thiên hạ thái bình.

Thiếu phụ xinh đẹp nói:

– Hừ, y làm Tể tướng sao nổi?

Đại hán tức giận nói:

– Thần điêu hiệp làm không nổi, phu nhân làm nổi chắc?

Thiếu phụ xinh đẹp cũng nổi giận, quát:

– Ngươi là ai mà cả gan vô lễ với ta?

Thấy đại hán tay cầm chiếc que cời than, bèn tiện tay nhặt một khúc củi đánh xuống chiếc que cời một cái. Đại hán chấn động cánh tay, thấy nửa người tê dại, chiếc que cời tuột tay rơi xuống đất, lửa bắn tung tóe, làm cháy sém cả mấy chục sợi râu của y. Mọi người kêu lên thất thanh. Đại hán tuy nóng tính, nhưng vừa lĩnh giáo võ công của thiếu phụ, không dám phát tác, chỉ quặp râu vào, đến rượu cũng không thiết uống nữa.

Thiếu nữ văn nhã kia nói:

– Tỷ tỷ, người ta kể chuyện Thần điêu hiệp hay như thế, tại sao tỷ tỷ lại không thích nghe kia chứ?

Rồi nàng ngoảnh sang mỉm cười với gã đại hán, nói:

– Đại thúc, xin đừng trách.

Đại hán vốn đang căm tức, nhưng thấy thiếu nữ cười dịu dàng thì hết giận, ngoác miệng cười, định nói một câu khách sáo, nhưng chưa biết chọn từ nào cho hay.

Thiếu nữ nói:

– Đại thúc, đại thúc làm sao quen được Thần điêu hiệp vậy?

Đại hán ngoảnh nhìn thiếu phụ, lưỡng lự chưa nói. Thiếu nữ giục:

– Đại thúc cứ nói đi, chỉ cần không đắc tội với tỷ tỷ của tiểu nữ là được. Thần điêu hiệp chừng bao nhiêu tuổi? Thần điêu của Thần điêu hiệp trông có đẹp hay không?

Không đợi đại hán trả lời, nàng quay sang nói với thiếu phụ:

– Tỷ tỷ, không biết Thần điêu của Thần điêu hiệp so với đôi chim điêu nhà ta thì như thế nào?

Thiếu phụ nói:

– Làm sao có thể so với đôi chim điêu nhà ta, không có con ưng con điêu nào trong thiên hạ sánh bằng đôi chim điêu nhà ta.

Thiếu nữ nói:

– Cái đó chưa hẳn. Gia gia thường nói, người học võ cần biết ngoài trời có trời, trên người có người, quyết không được tự mãn. Người đã như vậy, cầm điểu giỏi hơn đôi chim điêu nhà ta chắc cũng có đấy.

Thiếu phụ nói:

– Muội còn nhỏ tuổi, chưa hiểu được gì. Khi chúng ta lên đường, cha mẹ đã bảo muội phải nghe lời ta, muội quên rồi sao?

Thiếu nữ cười, nói:

– Cái đó còn xem lời tỷ tỷ nói có đúng hay không đã. Đệ đệ, đệ thấy ta nói đúng, hay là tỷ tỷ nói đúng?

Chàng thiếu niên ngồi bên nàng cao lớn vạm vỡ nhưng mặt đầy vẻ trẻ con, do dự một lát, rồi nói:

– Đệ không biết. Gia gia dặn hai chúng ta phải vâng lời đại tỷ, dặn tỷ đừng đấu khẩu với đại tỷ.

Thiếu phụ hết sức đắc ý, nói:

– Thấy chưa?

Thiếu nữ thấy đệ đệ bênh đại tỷ, cũng không giận, chỉ cười, nói:

– Đệ đệ chẳng hiểu gì cả.

Rồi nàng quay sang nói với đại hán:

– Đại thúc hãy tiếp tục kể chuyện Thần điêu hiệp đi.

Đại hán nói:

– Được, cô nương đã muốn nghe, thì ta kể cho, họ Tống ta bản lĩnh tuy thấp kém, song cũng là một trang hán tử, bình sinh nói một là một, không bịa một câu. Cô nương không tin thì không nên nghe.

Thiếu nữ cầm bầu rượu rót cho đại hán một bát, cười nói:

– Sao tiểu nữ lại không tin? Đại thúc kể mau đi!

Lại gọi:

– Điếm tiểu nhị, hãy mang ra đây mười cân rượu, hai mươi cân thịt bò. Tỷ tỷ của tiểu nữ kính mời các vị bá bá, thúc thúc uống rượu cho ấm người.

Điếm tiểu nhị dạ ran. Mọi người tươi cười, cùng lên tiếng đa tạ. Lát sau, ba gã điếm tiếu nhị đã bưng rượu thịt ra.

Thiếu phụ xinh đẹp nặng mặt nói:

– Ta có mời khách, cũng không mời kẻ hồ thuyết bát đạo. Này điếm tiểu nhị, số rượu thịt này không được tính tiền với ta đâu đấy.

Điếm tiểu nhị sững lại, nhìn thiếu nữ, bối rối không biết làm sao. Thiếu nữ liền gỡ một chiếc kim thoa trên đầu, đưa cho điếm tiểu nhị, nói:

– Đây là cái thoa bằng vàng thật, đáng giá mười mấy lạng bạc. Phiền ngươi mang đi đổi cho ta. Rồi mang thêm mười cân rượu, hai chục cân thịt dê nữa.

Thiếu phụ tức giận, nói:

– Muội muội, muội định trêu tức ta phải không? Chỉ riêng hạt minh châu gắn trên chiếc kim thoa đã có giá hơn trăm lạng bạc, muội cứ đòi Chu bá bá phải cho bằng được, thế mà bây giờ muội lại tùy tiện đem đi đãi người ta uống rượu. Để xem khi trở về thành Tương Dương, mẫu thân hỏi đến, muội sẽ trả lời thế nào dây?

Thiếu nữ thè lưỡi, cười đáp:

– Muội sẽ bảo muội đánh rơi dọc đường, tìm mãi chằng thấy.

Thiếu phụ nói:

– Ta sẽ không để cho muội nói dối trót lọt đâu.

Thiếu nữ cầm đũa gắp một miếng thịt bò cho vào miệng, nói:

– Đằng nào cũng ăn rồi, đâu có thể trả lại? Nào các vị xin chớ làm khách.

Mọi người thấy tỷ muội hai người đấu khẩu với nhau, đều cảm thấy thú vị, ai cũng thầm mến thiếu nữ ngây thơ hào phóng, người không biết uống rượu cũng tợp vài ngụm, ngầm ủng hộ nàng. Thiếu phụ xinh đẹp tức quá, nhắm mắt, giơ tay bịt tai lại.

Thiếu nữ cười, nói:

– Tống đại thúc, tỷ tỷ của điệt nhi ngủ rồi, đại thúc kể đi đừng ngại, tỷ tỷ không thức dậy đâu.

Thiếu phụ mở mắt ra, tức giận nói:

– Ta ngủ hồi nào?

Thiếu nữ nói:

– Thế thì càng hay, có nói to cũng không ngại làm cho tỷ tỷ bị thức giấc.

Thiếu phụ gằn giọng nói:

– Tương nhi, ta nói cho muội biết, muội còn sinh sự với ta, ngày mai ta sẽ không cho muội đi cùng nữa đâu.

Thiếu nữ nói:

– Muội chả sợ, muội đi với tam đệ cũng được rồi.

Thiếu phụ nói:

– Tam đệ sẽ đi với ta.

Thiếu nữ hỏi:

– Tam đệ, đệ sẽ đi cùng với ai nào?

Chàng thiếu niên khó xử, theo đại tỷ thì nhị tỷ buồn; mà theo nhị tỷ thì đại tỷ sẽ giận, lẩm bẩm:

– Mẫu thân bảo ba chị em cùng đi với nhau, không được thất tán.

Thiếu phụ quắc mắt nhìn muội tử, giận dỗi nói:

– Sớm biết muội khó bảo thế này, thì hồi bé muội bị kẻ xấu bắt mang đi, ta chẳng lo cứu muội về cho xong.

Thiếu nữ nghe vậy thì mềm lòng, cầm cánh tay thiếu phụ, nũng nịu:

– Hảo tỷ tỷ, đừng giận mà, là muội sai rồi.

Thiếu phụ ngoảnh mặt làm ngơ, thiếu nữ nói:

– Tỷ tỷ mà không cười, muội sẽ cù cho đấy.

Rồi giơ tay phải thọc vào nách thiếu phụ. Thiếu phụ không quay đầu, dùng tay trái gạt ra sau, thiếu nữ đưa tay trái tóm cổ tay của thiếu phụ, tay phải tiếp tục chĩa tới. Thiếu phụ hơi trầm cùi chỏ bên phải, kẹp cánh tay của muội tử lại. Thiếu nữ xoay bàn tay một cái để tránh bị kẹp, tư thái trông cực đẹp.

Trong giây lát, hai người đã chiết giải bảy tám chiêu, cả hai cùng khéo léo sử dụng “Tiểu cầm nã thủ pháp”.

Thiếu nữ cố nhiên không cù được tỷ tỷ, mà thiếu phụ cũng không tóm được cổ tay muội tử.

Đột nhiên ở góc nhà có người thấp giọng khen:

– Hảo công phu!

Tỷ muội hai người cùng dừng tay, nhìn về góc nhà, thấy một người ngồi bó gối, đầu thụt vào giữa hai gối, đang ngủ say. Tỷ muội hai người ngồi bên đống lửa, vẫn thấy người kia ngồi bất động như vậy từ lâu, người bên cạnh cũng không thấy được mặt mũi y, y cũng không thể nhìn thấy tỷ muội hai người vừa đùa nhau thế nào, tiếng khen kia chắc không phải do y phát ra. Chàng thiếu niên nói:

– Đại tỷ nhị tỷ, gia gia dặn chúng ta không nên tùy tiện hiển lộ công phu.

Thiếu nữ mỉm cười, nói:

– Này ông cụ non, đệ nói không sai đâu.

Rồi quay sang đại hán, nói:

– Tống đại thúc, xin lỗi, tỷ muội chúng tôi mải đấu khẩu, quên nghe đại thúc kể chuyện, đại thúc mau kể tiếp đi.

Đại hán họ Tống nói:

– Ta không kể chuyện cổ tích, mà là chỉ kể những gì chính ta chứng kiến.

Thiếu nữ nói:

– Phải, đại thúc cứ thế mà kể.

Đại hán uống một ngụm rượu, cười, nói:

– Uống nhiều rượu, ăn nhiều thịt của cô nương thế này, không kể cũng không xong. Nếu không phải hôm qua ta đánh bạc thua sạch cả ba hộc lúa, thì ta đã có tiền trả thay cô nương mới phải. Cô nương cứ một điều đại thúc, hai điều đại thúc, không lẽ ta không kể. Về chuyện làm sao ta quen biết Thần điêu hiệp, thì ta cũng gần giống trường hợp tiểu Vương tướng quân kia, cũng là được Thần điêu hiệp cứu mạng. Có điều không phải Thần điêu hiệp sử dụng võ công, mà là bỏ tiền ra chuộc ta.

Thiếu nữ cười, nói:

– Ồ, lạ thật, Thần điêu hiệp bỏ tiền ra chuộc đại thúc ư? Đại thúc đáng giá mấy cân bạc thế?

Đại hán cười hô hô, nói:

– Xương thịt Tống mỗ ta so với thịt heo thịt bò đắt hơn rất nhiều, Thần điêu hiệp bỏ ra những hai ngàn lượng bạc cơ đấy. Năm năm trước, tại phủ Tế Nam, Sơn Đông, ta bênh vực kẻ yếu, có giết một tên côn đồ; giết người đền mạng, ta bị án chém đầu, khỏi phải nói nhiều. Nào ngờ mấy hôm sau, viên tri huyện hỏi cung một gã thổ hào tàn ác, lại lôi ta ra công đường tra tấn, dồn cho ta đủ các tội mà gã thổ hào kia gây ra như cướp của giết người, cưỡng hiếp dân nữ, bắt cóc tống tiền, rồi thả ngay gã thổ hào ra. Sau đó trong ngục người ta kể với ta rằng gã thổ hào đã đem một ngàn lượng bạc dâng cho viên tri huyện, nên viên tri huyện mới trút tội danh của gã sang người ta. Thôi thì phạm một tội bị chém đầu, phạm mười tội cũng bị chém đầu, chẳng qua hai người phạm tội, sao một mình ta phải gánh. Ta nghe oan ức quá, liền gầm thét trong ngục, chửi viên tri huyện ăn của đút, nhưng như thế có ích gì?

Mấy ngày sau, viên tri huyện lại cho điệu ta ra công đường thẩm vấn, thấy gã thổ hào kia cũng quì bên cạnh ta. Ta cất tiếng chửi to: “Tên cẩu tri huyện kia, ngươi tham ăn của đút, xét xử oan uổng, mai sau sẽ không được chết yên lành đâu Viên tri huyện cười hi hi, nói: “Tống Ngũ, đừng có nóng, bổn quan đã tra xét rõ ràng, ngươi bị oan. Gã côn đồ không phải do ngươi giết, mà là tên này!” Hắn chỉ gã thổ hào, lệnh cho nha dịch dùng cực hình tra tấn, buộc gã thổ hào nhận đã giết tên côn đồ cùng với các tội khác. Ta thì được thả ra liền. Ta chẳng còn hiểu đầu đuôi gì nữa. Tên côn đồ thì rành rành do ta giết, sao bây giờ lại gán tội cho kẻ khác?

Thiếu nữ nghe đến đây cười khanh khách, nói:

– Viên tri huyện xem ra quá ư hồ đồ.

Tống Ngũ nói:

– Hắn chẳng hồ đồ chút nào. Ta về đến nhà, mụ vợ ta mới bảo, sau khi ta bị ghép vào tội chết, vợ ta ngày ngày ra đường than khóc, một hôm Thần điêu hiệp đi ngang qua, hỏi nguyên do. Thần điêu hiệp dò hỏi chỗ này chỗ nọ, biết rõ nguồn cơn, bảo rằng chàng đang bận việc, chưa rỗi rãi để xử viên tri huyện tham ăn của đút, mới đưa cho vợ ta hai ngàn lượng bạc, bảo đi chuộc ta về. Ba tháng sau, trong huyện đồn ầm lên rằng viên tri huyện đang tức quá, tức đến hộc cả máu, vì dêm vừa qua mới bị kẻ trộm lấy mất bốn ngàn lượng bạc. Ta biết nhất định là Thần điêu hiệp lấy, ta không dám ở lại huyện nhà, phải dọn đến phủ Lâm An, Giang Nam. Hơn một năm sau, có người kể với ta rằng ngoài bờ biển có một vị tướng công cụt một tay, dẫn theo một con quái điểu, cứ đứng ngây nhìn hải triều mấy ngày liền. Ta vội tới coi, quả nhiên là Thần điêu hiệp, ta mới khấu đầu tạ ơn Người.

Thiếu phụ bỗng nói:

– Tạ ơn cái nỗi gì, y bỏ ra hai ngàn lượng bạc, lấy lại bốn ngàn lượng, còn được lời những hai ngàn lượng bạc. Gã họ Dương ấy đâu có thiệt chút nào?

Thiếu nữ nói:

– Họ Dương ư? Thần điêu hiệp họ Dương ư?

Thiếu phụ nói:

– Ta không biết, ta đâu có bảo y họ Dương?

Thiếu nữ nói:

– Muội rõ ràng nghe tỷ tỷ nói thế mà.

Thiếu phụ nói:

– Tức là muội nghe nhầm.

Thiếu nữ nói:

– Thôi được. Muội không tranh cãi với tỳ tỷ nữa; vị Thần điêu hiệp cứ coi như được lời hai ngàn lượng bạc, cũng chỉ là để cứu khốn tế bần, chàng đã là một vị đại hiệp khảng khái hào phóng, không lẽ lại đi tham của?

Mọi người cùng lên tiếng:

– Cô nương nói chí phái!

Thiếu nữ hỏi:

– Tống đại thúc, Thần điêu hiệp ngóng ra biển để làm gì? Chàng đợi người ư?

Tống Ngũ lắc đầu, nói:

– Chuyện ấy thì ta không biết, cũng không dám hỏi.

Thiếu nữ cầm hai thanh củi ném vào đống lửa, nhìn ánh lửa đỏ hồng, nói nho nhỏ:

– Thần điêu hiệp tuy sốt sắng cứu khốn phò nguy cho người khác, nhưng không chừng chính chàng cũng có tâm sự nan giải chăng? Tại sao chàng cứ đứng ngây người nhìn hải triều?

Một thiếu phụ trung niên ngồi ở góc phía tây bỗng lên tiếng:

– Tiểu phụ nhân có một biểu muội, có duyên gặp được Thần điêu hiệp, từng thấy chàng cứ đứng ngây nhìn hải triều, thần sắc kỳ dị, mới đánh bạo hỏi chàng. Thần điêu hiệp nói: “Ta có người vợ kết tóc xe tơ ở bờ bên kia, không thể gặp nàng”.

Mọi người không hẹn cùng ồ cả lên.

Thiếu nữ văn nhã nói:

– Thì ra Thần điêu hiệp có vợ, không biết vì sao lại ở bờ bên kia? Chàng bản lĩnh cao cường như thế, sao không vượt biển đi tìm thê tử kia chứ?

Thiếu phụ trung niên nói:

– Biểu muội cũng có hỏi Thần điêu hiệp câu đó. Chàng trả lời: “Biển cả mênh mông, biết tìm nàng ở phương nào?”

Thiếu nữ thở dài nhè nhẹ, nói:

– Tiểu nữ thiết nghĩ một nhân vật như chàng hẳn là người chí tính chí tình, quả nhiên không lầm.

Rồi hỏi:

– Biểu muội của đại tẩu xinh lắm phải không? Nàng ta trong lòng thích Thần điêu hiệp chứ gì?

Thiếu phụ xinh đẹp xẵng giọng nói:

– Nhị muội, đừng có nghĩ ngợi viển vông!

Thiếu phụ trung niên nói:

– Biểu muội của tiểu phụ nhân vốn cũng có thể gọi là một mỹ nhân. Thần điêu hiệp đã cứu sống mẫu thân nàng ta, giết chết phụ thân nàng ta. Nàng ta có thích Thần điêu hiệp hay không, thì người ngoài khó biết. Hiện thời nàng ta đã có chồng là một nông phu trung hậu thật thà. Thần điêu hiệp có cho nàng ta một số tiền lớn, vợ chồng sống dư dả.

Thiếu nữ nói:

– Thần điêu hiệp cứu sống mẫu thân nàng ta, giết chết phụ thân nàng ta, chuyện nghe quá lạ.

Thiếu phụ xinh đẹp nói:

– Con người ấy tính nết cổ quái, hứng lên thì cứu mạng người này, giết chết người kia. Đúng, y từ nhỏ đã như vậy.

Thiếu nữ nói:

– Thần điêu hiệp từ nhỏ đã như vậy ư? Làm sao tỷ tỷ biết?

Thiếu phụ xinh đẹp chỉ nói:

– Thì cứ biết thế.

Thiếu nữ liên tục truy vấn nguyên nhân, thiếu phụ xinh đẹp vẫn không chịu nói. Thiếu nữ nói:

– Được tỷ tỷ không chịu nói thì thôi, muội cũng không muốn nghe nữa, tỷ tỷ có nói, muội chưa chắc đã tin đâu. Rồi quay sang thiếu phụ trung niên, nói:

– Đại tẩu, đại tẩu hãy kể chuyện biểu muội của đại tẩu cho muội nghe có được chăng?

Thiếu phụ trung niên nói:

– Được chứ, biểu muội của ta và ta là ty muội cô biểu (chị em con dì). Hai chúng ta chênh nhau bảy, tám tuổi, mẫu thân nàng ta là cô mẫu (dì) của ta…

Thiếu nữ cười, nói:

– Phụ thân nàng ta là cô trượng của đại tẩu chứ gì.

Thiếu phụ trung niên cười, nói:

– Ta nói năng vòng vo như thế, chẳng trách cô nương sốt ruột là phải. Cô trượng của ta là người Hà Nam, bị bọn Thát tử Mông Cổ bắt đi làm nô lệ. Cô mẫu của ta mới đem biểu muội của ta đi hành khất dọc đường, từ Hà Nam đến Sơn Đông, lại từ Sơn Đông đến Sơn Tây, để tìm xem cô trượng ở đâu.

Tiểu Vương tướng quân nói:

– Lặn lội vạn dặm tìm chồng, thật là hiếm có.

Thiếu phụ trung niên nói:

– Chỉ vì cô mẫu và biểu muội của ta xinh xắn, nên bôn ba dọc đường chẳng dễ chút nào. Hai người ấy phải lấy bùn đất bôi lên mặt mũi, để kẻ xấu khỏi thấy sắc nảy ý…

Thiếu nữ hỏi:

– Thấy sắc nảy ý là gì?

Quá nửa số người ngồi quanh đống lửa phì cười, thiếu phụ xinh đẹp nói:

– Nhị muội, muội không hiểu thì đừng có nói, để người ta cười cho kìa.

Thiếu nữ ngơ ngác, nói:

– Muội không hiểu thì mới hỏi, đã hiểu thì còn hỏi làm gì?

Thiếu phụ trung niên mỉm cười, nói:

– Những lời không đẹp, cô nương không hiểu càng tốt. Vậy là cô mẫu và biểu muội của ta tìm kiếm suốt bốn năm, ông trời không phụ người có lòng, cuối cùng tại Hoài Bắc đã tìm thấy cô trượng đang làm nô lệ trong nhà một tên thiên hộ Mông Cổ. Tên thiên hộ ấy rất hung ác, khi cô mẫu gặp cô trượng, thì cô trượng mới bị tên thiên hộ đánh què chân. Cô mẫu đau đớn cầu xin tên thiên hộ thả cho chồng về nhà, tên thiên hộ không chịu, nói hắn từng bỏ ra một trăm lượng bạc mua nô lệ về, bây giờ phải đem năm trăm lượng bạc đến chuộc, nếu không hắn thà đánh chết cô trượng chứ quyết không thả. Cô mẫu ta năm lượng bạc còn chẳng có, đào đâu ra năm trăm lượng bạc? Suy đi tính lại, đành muối mặt đem bán… bán mình và con gái…

Thiếu nữ lại không hiểu, nhưng câu hỏi lúc nãy đã bị mọi người cười, lần này nàng không dám hỏi nữa, chỉ nghe thiếu phụ kể tiếp:

– Cứ thế mấy năm, hai mẹ con cô mẫu dành dụm cũng được kha khá, nhưng kiếm năm trăm lượng bạc đâu phải dễ? May khách làng chơi biết hai mẹ con nàng ta khổ tâm chịu nhục, cốt để chuộc chồng cứu cha, nên mỗi người cho thêm một chút. Cuối cùng gần Tết năm ngoái thì kiếm đủ năm trăm lượng bạc. Hai mẹ con cô mẫu đến phủ của tên thiên hộ, giao cho hắn năm trăm lượng bạc, tưởng rằng từ nay gia đình được đoàn tụ đón năm mới.

Thiếu nữ nghe đến đây, cũng mừng cho hai mẹ con người nọ, chỉ nghe thiếu phụ kể tiếp:

– Tên thiên hộ Mông Cổ nhận năm trăm lượng bạc, rồi gọi cô trượng ra cho vợ chồng cha con họ gặp nhau.

Gia đình cô trượng ba người khấu đầu từ biệt tên thiên hộ, nào ngờ hắn thấy biểu muội của ta xinh xắn liền nổi tà tâm, bèn nói: “Được, các người đến chuộc nô tài về thì không gì tốt bằng, nhưng phải nộp năm trăm lượng bạc đã”. Cô mẫu cả kinh, năm trăm lượng bạc đã đưa cho tên thiên hộ rồi, sao còn phải nộp gì năm trăm lượng nữa? Tên thiên hộ liền trở mặt, quát: “Ta đường đường là một vị thiên hộ Mông Cổ, lại đi lừa tiền bạc của một tên nô tài hay sao?” Cô mẫu ta vừa sợ vừa đau đớn, khóc tướng lên giữa sảnh đường. Tên thiên hộ nói: “Thôi được, hôm nay sắp giao thừa đón năm mới, ta cho hai vợ chồng ngươi về nhà đoàn tụ, nhưng sợ sau Tết tên nô tài không quay lại, ta tạm giữ đứa con gái này làm con tin”. Cô mẫu ta biết tên thiên hộ có ý xấu, đời nào đáp ứng? Tên thiên hộ liền sai thủ hạ đuổi cô mẫu, cô trượng của ta ra khỏi phủ.

Cô mẫu ta thương con, cứ đứng trước cổng phủ thiên hộ mà than khóc kêu trời. Dân chúng biết rõ cô mẫu ta bị hàm oan, nhưng vùng Hoài Bắc đã không còn thuộc Đại Tống, quan binh Mông Cổ giết người Hán như giết con sâu cái kiến, ai dám đứng ra chủ trì công đạo? Cô trượng ta lại nói: “Ngài thiên hộ đã ưng con gái chúng ta, đó là phúc phận mà người khác kiếp trước phải khéo tu lắm mới có được, bà còn khóc nỗi gì?” Thì ra y làm nô tài đã lâu, đã nhiễm nặng cái hơi hướng nô tài. Đoạn y tra vấn tại sao có năm trăm lượng bạc. Cô mẫu ta ban đầu không chịu nói, sau bị ép quá đành phải nói thật. Cô trượng cả giận, nói cô mẫu ta bại hoại danh tiết, đi vào con đường trụy lạc để kiếm tiền, liền viết giấy ly dị với cô mẫu ta.

Mọi người cùng thở dài, nói người đàn bà kia quả gặp lắm nỗi bất hạnh.

Thiếu phụ trung niên nói:

– Cô mẫu ta trăm cay ngàn đắng bảy, tám năm trời, bây giờ đến bước này thì chẳng thiết sống nữa, bèn vào cánh rừng, cởi dây thắt lưng treo cổ tự vẫn.

Ông trời có mắt, Thần điêu hiệp đi ngang qua, cứu cô mẫu ta xuống, hỏi rõ nguồn cơn, mới nghe qua đã đùng đùng nổi giận, tối hôm ấy xông vào phủ thiên hộ đúng lúc tên thiên hộ đang muốn cưỡng bức biểu muội của ta, trong khi cô trượng ở bên cạnh khuyên biểu muội của ta hãy mau ưng thuận, còn danh giá nỗi gì mà không ưng. Thần điêu hiệp giáng cho cô trượng ta một quyền chết tươi, xách cổ tên thiên hộ ném xuống sông Hoài, cứu biểu muội của ta thoát ra. Thần điêu hiệp bảo cô mẫu ta bán mình cứu chồng, còn đáng kính hơn ngồi một chỗ thủ tiết; còn bảo bình sinh chàng chúa căm hận những kẻ phụ tình bạc nghĩa, cô trượng của ta đây phạm cả hai tội đó, nên chàng hạ thủ thẳng tay.

Thiếu nữ nghe chuyện say sưa, tiện tay cầm chén rượu uống một ngụm, khe khẽ nói:

– Các vị nhiều người đã được gặp Thần điêu hiệp, tiểu nữ chưa có cái phúc ấy. Ước gì được gặp chàng một lần, nghe chàng nói vài câu, thì tiểu nữ… không còn mong gì hơn.

Thiếu phụ xinh đẹp nói to:

– Người ấy võ công dĩ nhiên rất cao, nhưng so với gia gia chúng ta thì còn thua xa. Muội nhỏ tuổi chưa biết thế sự, nghe người ta kể thêm mắm thêm muối, cứ tưởng Thần điêu hiệp ghê gớm lắm, thực ra người ấy muội đã từng gặp, y còn ẵm muội là đằng khác.

Thiếu nữ đỏ bừng hai má, nói:

– Tỷ tỷ nói năng lung tung gì vậy, ai tin được lời tỷ tỷ?

Thiếu phụ xinh đẹp nói:

– Muội không tin thì tùy muội, cái gã Thần điêu hiệp ấy họ Dương tên Quá, hồi nhỏ từng ở đảo Đào Hoa với chúng ta. Cánh tay y bị mất là do… là do… ồ, muội chào đời được vài ngày, thì y đã ẵm muội.

Thiếu phụ xinh đẹp chính là Quách Phù, thiếu nữ là Quách Tương, chàng thiếu niên là cậu em sinh đôi với Quách Tương, tên Quách Phá Lỗ. Thấm thoắt đã hơn mười năm, Quách Phù từ lâu đã thành hôn với Gia Luật Tề, Quách Tương và Quách Phá Lỗ cũng đã lớn. Tỷ đệ ba người phụng mệnh cha mẹ đi Tấn Dương mời Trường Xuân tử Khưu Xứ Cơ phái Toàn Chân đến thành Tương Dương chủ trì đại hội anh hùng. Hôm nay trên đường từ Tấn Dương xuôi về nam, ba người bị băng tuyết giữ chân ở bến Phong Lăng, nghe mọi người trò chuyện cả đêm.

Quách Tương hết sức vui mừng, tự nói nhỏ một mình:

– Mình chào đời được vài ngày, thì chàng đã ẵm mình.

Quay sang Quách Phù, nói:

– Tỷ tỷ, Thần điêu hiệp hồi nhỏ từng ở đảo Đào Hoa với chúng ta thật ư? Sao muội không nghe cha mẹ nói gì?

Quách Phù nói:

– Muội còn nhỏ đã hiểu gì mà cha mẹ phải nói cho biết.

Nguyên việc Dương Quá bị mất cánh tay, Tiểu Long Nữ bị trúng độc toàn là do Quách Phù hành sự lỗ mãng mà ra, mỗi khi nhắc đến hai việc ấy, Quách Tĩnh lại cả giận. Quách Phù tuy đã lấy chồng, song Quách Tĩnh vẫn quát mắng, chẳng nể gì mặt chàng rể, bởi vậy trong gia đình họ Quách lớn nhỏ không ai nói đến, Quách Tương và Quách Phá Lỗ dĩ nhiên không biết chuyện Dương Quá.

Quách Tương nói:

– Như thế là Thần điêu hiệp rất có giao tình với gia đình ta, sao chàng không hề lai vãng? Ồ, đại hội anh hùng rằm tháng Ba này ở thành Tương Dương, Thần điêu hiệp nhất định sẽ đến.

Quách Phù nói:

– Người ấy hành sự kỳ quái, tính nết cao ngạo, quá nửa sẽ không đến đâu.

Quách Tương nói:

– Tỷ tỷ, chúng ta phải tìm cách gửi thiếp mời chàng đến mới được.

Rồi quay sang phía Tống Ngũ, nói:

– Tống Ngũ thúc, ngũ thúc có thể tìm cách mang thư tới cho Thần điêu hiệp được chăng?

Tống Ngũ lắc đầu, nói:

– Thần điêu hiệp vân du thiên hạ, hành tung vô định. Chàng cần đến ai sẽ tự có sự phân phó. Chúng tôi muốn đi tìm chàng, có mà cả đời cũng vị tất tìm được.

Quách Tương cảm thấy thất vọng, nàng nghe mọi người kể chuyện Dương Quá cứu cha con tướng quân Vương Duy Trung, cắt đầu Trần Đại Phương, hỏi cung Đinh Đại Toàn, chuộc Tống Ngũ, giết phụ thân người mà cứu mẫu thân người, bao nhiêu là nghĩa cử hào hiệp, bất giác cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, nghe tỷ tỷ bảo hồi nhỏ từng được chàng bế ẵm, càng tha thiết mong được gặp chàng; nghe bảo quá nửa Thần điêu hiệp sẽ không đến dự đại hội anh hùng, thì thở dài, nói:

– Các nhân vật ở đại hội anh hùng chưa hẳn đều là anh hùng, trong khi đại anh hùng đại hào kiệt thật sự thì lại chẳng chịu đến cho.

Bỗng soạt một tiếng, người ngồi trong góc nhà đứng phắt dậy, chính là kẻ vốn cứ ngồi thu lu, rụt đầu vào giữa hai gối mà ngáy. Y cất giọng to như tiếng lệnh vỡ, nói:

– Cô nương muốn gặp Thần điêu hiệp cùng không khó, đêm nay ta dẫn cô nương đi gặp là được ngay thôi.

Mọi người mới nghe giọng nói của y đã thất kinh, lúc nhìn kỹ y thì càng thêm kinh dị. Chi thấy y thân cao chưa đầy bốn thước, gầy gò, nhưng đầu to tướng, cánh tay dài ngoằng, bàn tay bàn chân to bè, dài hơn hẳn người thường, tứ chi và cái đầu kia ở một thường nhân đã hoàn toàn không cân xứng, y vừa lùn vừa gầy trông càng kinh dị.

Quách Tương cả mừng, nói:

– Hay lắm, nhưng tiểu nữ không quen biết Thần điêu hiệp, tự dưng cầu kiến, không tránh khỏi đường đột, chẳng biết chàng có cho gặp hay không.

Gâ lùn đầu to nói:

– Nếu cô nương không gặp hắn đêm nay, chỉ e sau này sẽ không còn dịp gặp hắn nữa.

Quách Tương lấy làm lạ, hỏi:

– Vì sao?

Quách Phù đứng dậy, nói với gã lùn đầu to:

– Thỉnh vấn quý tính đại danh của tôn giá.

Gã lùn đầu to cười khẩy, nói:

– Làm gì còn người thứ hai nào trong thiên hạ xấu xí như ta? Cô nương đã không biết, thì cứ về nhà hỏi gia gia má má của cô nương sẽ biết.

Lúc ấy từ xa văng vẳng vọng lại âm thanh rất thấp:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ, mười người đã đến chín, Đại Đầu Quỉ, Đại Đầu Quỉ! Bây giờ chưa đến, còn đợi khi nào?

Tiếng gọi lúc đứt lúc nối, có khí vô lực, đầy vẻ ma quái nhưng mọi người nghe rõ ràng từng chữ một.

Gã lùn đầu to sững lại, quát to một tiếng, rầm một cái, đống lửa vụt tối lại, gã lùn đầu to đã biến mất. Mọi người kinh ngạc, thấy cửa mở toang, thì ra gã lùn đầu to đã tông cửa nhảy ra.

Quách Phá Lỗ nói:

– Đại tỷ, gã lùn rất lợi hại!

Quách Phù luôn theo cha mẹ, từng gặp không ít nhân vật võ lâm, song gã lùn đầu to này thì chưa từng nghe cha mẹ nói đến, nên nhất thời chưa biết nói gì.

Quách Tương nói:

– Trong số ân sư Giang Nam thất quái truyền thụ võ nghệ cho gia gia, có một vị lùn là Mã Vương Thần Hàn gia gia. Tam đệ, đệ gọi trống không như thế, gia gia biết sẽ không ưng đâu. Đệ phải gọi người ấy là tiền bối mới được.

Quách Tĩnh đối với ân đức của Giang Nam thất quái suốt đời không quên, bất kể họ là người mù hay người lùn, đều nhất mực kính trọng, đồng thời cũng giáo huấn các con như vậy.

Quách Phá Lỗ chưa kịp trả lời, ào một cái, gã lùn đầu to đã xuất hiện trở lại, kéo theo gió tuyết qua cửa tràn vào, thổi tàn lửa bay tung toé. Quách Phù sợ gã lùn đầu to xuất thủ đả thương đệ muội, bèn nhào tới chắn trước mặt Quách Tương và Quách Phá Lỗ.

Gã lùn đầu to nghé đầu qua bên hông Quách Phù, nói với Quách Tương:

– Tiểu cô nương, muốn gặp Thần điêu hiệp thì hãy đi theo lão phu.

Quách Tương nói:

– Vâng, đại tỷ, tam đệ, chúng mình cùng đi luôn thể.

Quách Phù nói:

– Thần điêu hiệp có gì lạ mà phải gặp? Muội chớ có đi? Chúng ta đâu quen biết gì vị tôn giá này.

Quách Tương nói:

– Muội đi một lúc rồi về, hai người cứ chờ muội ở đây.

Tống Ngũ đột nhiên đứng lên, nói:

– Cô nương, nhất định chớ có đi. Người này là một nhân vật trong… Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ, cô nương đi sẽ dữ nhiều lành ít đó.

Gã lùn đầu to cười nham hiểm, nói:

– Ngươi biết Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ không mà bảo bọn ta không phải là người tốt?

Tả chưởng đột nhiên đánh tới vai Tống Ngũ. Rầm một cái, Tống Ngũ bay vào tường, lập tức ngất lịm.

Quách Phù cả giận, nói lớn:

– Tôn giá thôi đi cho, muội muội của ta niên ấu vô tri, há có thể theo tôn giá đang đêm đi lung tung?

Rồi quay sang Quách Tương, gằn giọng:

– Muội đừng hồ náo, không đi đâu cả!

Lúc này, tiếng gọi văng vẳng rất khẽ lại vọng đến:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ, mười người đã đến chín, Đại Đầu Quỉ, Đại Đầu Quỉ! Âm hồn chẳng đến, để người chờ lâu!

Tiếng gọi nghe có lúc như cách mấy dặm, có lúc như gần vài thước, chợt trước chợt sau, chợt bên phía này, chợt ở phía kia, ai nghe cũng sởn gáy.

Quách Tương chủ ý đã quyết: “Đêm nay dù gặp yêu ma quỉ quái, mình cũng phải gặp Thần điêu hiệp một phen”, bèn nói:

– Tiền bối, hãy dẫn vãn bối đi nào!

Đoạn nhún chân phi người theo gã lùn đầu to ra qua cửa chính. Quách Phù gọi giật giọng:

– Muội làm trò gì vậy?

Đưa tay chộp muội tử không trúng, cũng vội phi thân đuổi theo. Nào ngờ sắp bay qua cửa thì không thấy khoảng trống đâu nữa, Quách Phù vội trầm người xuống, hai chân tiếp đất, chỉ cách cửa một thước, nhìn kỹ, suýt kêu lên thất thanh, hóa ra gã lùn đầu to đứng chắn khuôn cửa, mũi y cơ hồ gần chạm vào ngực nàng, bảo sao nàng không sợ? Quách Phù vội nhảy lùi, một luồng gió lạnh thổi tuyết vào người nàng, gã lùn đầu to đã biến đi. Quách Phù gọi to:

– Nhị muội, quay lại đi!

Nàng nhảy ra ngoài, chỉ nghe từ xa tiếng cười hô hố, không thấy bóng Quách Tương đâu nữa.

Gã lùn đầu to dọa Quách Phù phải lùi vào rồi, liền quay mình nhảy ra tuyết, nói:

– Tiểu cô nương có gan, khá lắm!

Y cầm cổ tay Quách Tương, nhảy choi choi về phía trước. Khinh công của y khác với thông thường, cứ nhảy từng bước dài như con ếch, thân tuy lùn nhưng mỗi bước nhảy rất dài.

Cổ tay trái của Quách Tương bị y nắm cứ như bị kẹp bởi một cái kìm sắt, đau thấu xương, trống ngực đập dồn, không biết gã lùn đầu to lôi nàng đi đâu.

Nàng từ nhỏ đã được Quách Tĩnh và Hoàng Dung truyền dạy, võ công đã có căn cơ, nhưng thoạt đầu còn nhảy theo kịp gã lùn, về sau cứ để y lôi nàng cùng nhảy đi.

Nhảy như thế chừng một dặm, sau núi đột nhiên có người nói:

– Đại Đầu Quỉ, sao đến muộn thế. Ha ha, còn dẫn theo một nữ oa nhi kháu khỉnh ra phết!

Gã lùn nói:

– Nó là con gái của Quách Tĩnh, Hoàng Dung, muốn đi gặp Thần điêu hiệp, nên huynh dẫn nó theo.

Người kia kinh ngạc, nói:

– Con gái của Quách Tĩnh, Hoàng Dung ư?

Một giọng nói rì rầm khác từ sau núi vọng ra:

– Sắp hết canh ba, mau mau lên đường!

Chỉ thấy tiếng vó ngựa rậm rịch, từ sau núi chạy ra mấy chục con ngựa. Lúc này tuyết lớn vẫn rơi không ngừng, tuyết trắng dưới đất hắt lên, Quách Tương thấy mấy chục con ngựa mà chỉ có chín người cưỡi, quá nửa số yên ngựa để trống. Gã lùn kéo hai con ngựa lại, trao dây cương một con cho nàng, y cưỡi một con, quát:

– Đi nào!

Thế là cả mấy chục con ngựa cùng phi về hướng tây bắc.

Quách Tương nhìn chín người kia, có hai là nữ, một lão thái lụ khụ, người thứ hai mặc bộ đồ màu đỏ tươi, toàn thân trông như một khối lửa, nổi bật trên tuyết trắng. Bảy người còn lại đều không nhìn rõ mặt mũi. Quách Tương nghĩ: “Lúc đầu nghe tiếng gọi Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ, mười người đã đến chín, bây giờ trước mặt quả nhiên có mười người, chắc đây là Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ. Tống Ngũ thúc chỉ nói một câu, rằng mình đi sẽ lành ít dữ nhiều, liền bị một chưởng hôn mê, xem ra đám người này hung hãn thật. Nhưng gã lùn bảo dẫn ta đi gặp Thần điêu hiệp, tất không đánh lừa ta. Mà họ đã quen biết Thần điêu hiệp, tất họ không phải là kẻ xấu”.

Không lâu đã đi hơn mười dặm. Người đi đầu hô to một tiếng “Họ!” mấy chục con ngựa cùng dừng chân. Người đi đầu phi ngựa lên một cái gò, rồi quay trở lại. Quách Tương nhìn thấy diện mạo người đó, lại kinh ngạc, vừa tức cười, vì y quá lùn, thân ngồi trên ngựa chỉ cao không đầy hai thước, mà râu thì dài đến ba thước, xõa dài xuống bụng ngựa, mặt đầy nếp nhăn, hai đầu lông mày liền nhau, tướng mạo vô cùng sầu khổ.

Chỉ nghe người ấy nói:

– Từ đây đến Mã Bình còn chưa đến ba chục dặm đường. Giang hồ đều nói Thần điêu hiệp võ công cao cường, bọn ta hãy bàn qua trước đã, không thể để mất nhuệ khí của Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ.

Lão thái bà nói:

– Xin đại ca cứ hạ lệnh.

Gã râu dài nói:

– Chúng ta sẽ luân xa đại chiến với hắn, hay là tất cả cùng xông lên?

Quách Tương cả kinh: “Nghe khẩu khí, hóa ra đám người này đối địch với Thần điêu hiệp”.

Lão thái bà nói:

– Thần điêu hiệp bản lĩnh rốt cuộc thế nào? Thất đệ, hãy kể rõ xem nào.

Một đại hán thân hình như khối thép, nói:

– Đệ tuy gặp hắn, nhưng chưa hề động thủ, đệ thấy… đệ thấy… hắn hình như có tà môn.

Thiếu phụ quần hồng nói:

– Thất ca, rốt cuộc vì sao ca ca lại kết cừu với Thần điêu hiệp? Hãy nói rõ ra đi, để đến lúc động thủ mọi người cùng biết vì sao. Ca ca cứ ấp a ấp úng, nói nửa câu lại giấu ba câu.

Đại hán nổi giận, nói:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ đồng sinh đồng tử, hắn đã tìm đến, chúng ta còn lùi được chăng?

Một người cao gầy, giọng âm hiểm, nói:

– Ai bảo lùi bước? Nhưng mà cửu muội không hỏi, thì ta cũng sẽ hỏi. Chúng ta không hề đắc tội với Thần điêu hiệp, tại sao hắn lại đòi đuổi Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ ra khỏi Sơn Tây?

Đại hán nổi giận, nói:

– Mọi người nhìn đây, hắn cắt mất hai tai đệ, thù này không trả, có còn là hảo huynh đệ, hảo tỷ muội nữa chăng?

Nói rồi gỡ chiếc mũ ra khỏi đầu, dưới ánh tuyết, thấy đầu gã thiếu mất hai cái tai. Chín người còn lại của Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cùng cả giận, đều nói nhất định phải tử chiến một phen với Thần điêu hiệp.

Hồng y thiếu phụ nói:

– Thất ca, vì sao hắn hắn cắt mất hai tai ca ca? Ca ca phạm việc gì? Chắc lại chọc ghẹo con gái nhà lành chứ gì?

Một gã mặt luôn cười cười, nói bằng giọng bực tức:

– Thất ca dù có chọc ghẹo con gái nhà lành thì kẻ khác cũng không được làm như thế với thất ca.

Tướng mạo gã này kỳ quái, tuy giận dữ, nhưng mặt vẫn cứ cười cười. Quách Tương chăm chú nhìn, thì ra khóe miệng gã hếch lên, hai mắt him híp, quá nửa là do đau đớn khóc lóc, nhưng người ngoài nhìn vào lại cứ ngỡ gã cười.

Đại hán nói:

– Không phải, không phải! Một hôm mụ vợ cả và bốn nàng thiếp của huynh cãi lộn nhau, rồi đánh nhau. Vừa hay Thần điêu hiệp gì đấy đi ngang qua, hắn là kẻ chuyên lo chuyện bao đồng, hắn lên tiếng khuyên can, nàng thiếp thứ ba của huynh không đánh nhau, cứ nhìn hắn cười cười…

Hồng y thiếu phụ nói:

– À muội hiểu rồi, thất ca ghen, không cho nàng ta cười chứ gì?

Đại hán nói:

– Ghen gì mà ghen? Huynh không cho phép người ngoài xen vào chuyện nhà huynh. Huynh bèn đấm một quyền khiến nàng thiếp thứ ba của huynh bị gãy ba cái răng cửa, và bảo tên cụt tay kia mau xéo đi cho rồi.

Quách Tương nghe đến đây, buột miệng nói:

– Người ta có hảo ý khuyên can, sao các hạ lại nói năng vô lễ thế? Vậy là các hạ sai rồi.

Mọi người cùng ngoảnh nhìn nàng, không ngờ một tiểu cô nương lại cả gan như vậy.

Đại hán quả nhiên nổi sùng, quát:

– Một đứa oắt con như mi cũng đòi quản việc của lão tứ hả? Ngũ ca, đứa oắt con ấy là người của ngũ ca phải không?

Gã lùn đầu to nói:

– Nó muốn gặp Thần điêu hiệp thì huynh mang nó đi gặp, chuyện khác, huynh không quản.

Đại hán nói:

– Được vậy đệ sẽ giáo huấn nó một chút.

Roi ngựa vung lên, vút một cái, đánh tới đỉnh đầu Quách Tương.

Quách Tương vung roi ngựa chống đỡ, hai cái roi quấn vào nhau. Đại hán giằng tay lại, Quách Tương cảm thấy một luồng đại lực kéo đi, nàng không cầm roi được, liền buông tay, lòng bàn tay đã rát bỏng.

Đại hán đoạt được chiếc roi ngựa, lại định ra đòn, thì trường tu lão ông gọi:

– Thất đệ, không còn sớm sủa gì, sao chưa đi, còn ở đấy chấp nhặt với một tiểu hài tử.

Chiếc roi ngựa của gã đại hán giơ lên giữ chừng, không quật xuống nữa.

Trường tu lão ông cười khẩy, nói:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ không sợ trời không sợ đất, tên tuổi của Quách Tĩnh, Hoàng Dung lừng lẫy đến mấy cũng chẳng dọa được bọn ta. Con oắt con kia, mi còn nhiều lời ta sẽ giết mi lập tức đó.

Đoạn lão ta quay sang, nói:

– Thất đệ, đại trượng phu ngã thì bò dậy, bộ râu dài của huynh cũng từng bị người ta cắt đứt. Hai tai của đệ rốt cuộc sao lại bị cắt thế?

Đại hán nói:

– Đệ bảo Thần điêu hiệp hãy mau xéo đi, hắn đã cười cười quay người bỏ đi rồi, tất cả đều tại cái nàng thiếp thứ ba của đệ không ra gì. Nó lại khóc tướng lên, bảo nó bị đệ bá chiếm cưỡng hôn, chứ nó không muốn lấy đệ, hiện tại nó luôn bị mụ vợ cả của đệ ăn hiếp; nó còn nói sau khi lấy nó, đệ còn cưới nàng thiếp thứ tư, thật vô lương tâm. Gã Thần điêu hiệp kia bèn quay lại, mặt biến sắc, hỏi đệ: “Điều nữ nhân vừa nói là thật hay giả?” Đệ bèn đáp: “Thật thì sao? Giả thì sao? Lão tử đây có ngoại hiệu Sát Thần Quỉ, quen giết người không chớp mắt, ngươi có biết hay không?” Hắn sầm mặt, nói: “Lão đã thích nàng ta, đã lấy nàng ta, sao lại còn cưới thêm người khác? Mà đã không thích nàng ta, thì hồi trước còn lấy nàng ta làm gì?” Đệ cười ha hả, nói: “Lão tử đây ban đầu thích nó, nhưng chơi xong thì chán. Nam tử hán năm thê bảy thiếp, có gì lạ đâu? Lão tử còn định lấy bốn nàng thiếp nữa kia”. Hắn nói: “Hạng vô tình vô nghĩa như lão thêm vài đứa trên thế gian, chỉ làm cho nữ nhân thiên hạ kinh sợ mà thôi”. Đột nhiên hắn xáp tới, rút cây chủy thủ của đệ, xẻo luôn cả hai tai đệ, rồi gí mũi dao vào giữa ngực đệ, nói: “Ta phải moi tim gan ngươi ra, để xem rốt cuộc nó màu gì nào!”

Quách Tương nghe vậy thích quá, định reo lên, nhưng thấy Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ người nào người nấy lầm lầm lì lì, tướng mạo hung ác, thì cắn môi lại, không dám lên tiếng. Đại hán kể tiếp:

– Lúc ấy mụ vợ và cả bốn nàng thiếp của đệ cùng quì xuống van xin hắn, nàng thiếp thứ ba và thứ tư cũng khóc rất to, mẹ nó chứ, chúng nó bảo thà để hắn giết chết chúng nó, chứ hắn đừng giết đệ; nếu đệ chết, chúng nó cũng sẽ tự vẫn tuẫn phu, mẹ kiếp! Nhục quá đi mất, thật không còn ra thể thống gì! Đệ bèn quát to: “Mau hạ thủ đi, hãy giết ta đi! Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ sẽ thành ma bám theo ngươi không buông tha!” Hắn cau mày, nói với năm thê thiếp của đệ: “Hạng người vô tình vô nghĩa như vậy, sao các người còn cầu xin cho y?” Năm thê thiếp của đệ cứ một mực khấu đầu. Hắn hỏi người thiếp thứ ba của đệ: “Nàng bảo bị y bá chiếm, trong bụng không muốn lấy y, vậy ta để cho nàng giết y cho bõ tức đó”. Nàng ta nói: “Thoạt đầu không muốn, nhưng về sau lại muốn. Xin đừng giết chồng tôi”. Đệ tức giận nói: “Ngươi có giỏi cứ giết ta đi, giết ta, còn những chín người nữa kia”. Hắn nói: “Được, hôm nay tạm chưa giết mi. Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ là cái gì? Đêm cuối tháng này, tại Mã Bình, ta sẽ đợi, ngươi đi bảo cả bọn đến cho đủ. Nếu không dám đến thì Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ sẽ phải rời khỏi Sơn Tây, vĩnh viễn không được trở lại.”

Mọi người nghe gâ đại hán nói xong, đều im lặng, lát sau, lão thái bà nói:

– Hắn sử dụng binh khí gì? Võ công là gia số của phái nào?

Đại hán nói:

– Hắn chỉ còn một cánh tay trái, không sử dụng binh khí gì. Võ công… thì đệ không nhận biết được.

Lão thái bà nói:

– Đại ca, người ấy vừa xuất thủ đã chế ngự được thất đệ, thiết tưởng thủ cước rất linh hoạt, võ công có chút tà môn. Chúng ta ỷ đông thủ thắng, đại ca đi đầu, muội và ngũ đệ từ hai bên hỗ trợ, lấy ba đánh một, lập tức hạ độc thủ, không để cho hắn thi triển công phu.

Trường tu lão ông cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi ngẩng lên, nói:

– Thần điêu hiệp danh tiếng lừng lẫy, mười năm nay đã bao nhiêu cao thủ bại trận dưới tay hắn, xem chừng tất có võ nghệ kinh nhân. Trận chiến hôm nay không phải thường đâu. Ta và nhị muội chính diện nghênh kích, tam đệ tứ đệ xáp tới công kích hạ bàn; ngũ đệ lục đệ tấn công từ phía sau; thất đệ bát đệ dùng binh khí dài du đấu từ bên ngoài, làm cho hắn rối trí; cửu muội phóng ám khí, thập đệ phóng khí độc. Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ từ khi kết nghĩa chưa hề cả mười người nhất tề động thủ, đêm nay là lần đầu tiên, nếu không đánh gục được hắn, thì bọn ma giả chúng ta sẽ thành ma thật cả đấy!

Gã lùn đầu to nói:

– Đại ca, chúng ta mười người đánh một người, có thắng cũng chẳng vẻ vang gì, tin đồn lan rộng, chỉ tổ làm trò cười cho giang hồ mà thôi.

Lão thái bà nói:

– Chúng ta giết Thần điêu hiệp, trừ con nhỏ kia ra, làm gì còn ai biết?

Lời chưa dứt, tay mụ đã vung. Gã lùn đầu to vội phất tay áo trái che phía trước người Quách Tương, một mũi châm rất nhỏ đã cắm vào tay áo. Gã nói:

– Nhị tỷ, nó do đệ dẫn tới, không nên giết nó.

Rồi gã quay sang nói với Quách Tương:

– Tiểu cô nương, nếu cô nương muốn đi gặp Thần điêu hiệp, chuyện đêm nay không được cho bất cứ ai biết, nếu không thì cô nương hãy lùi về đi.

Quách Tương vừa sợ vừa tức, nghĩ: “Lão thái bà xuất thủ quá thâm độc, không có vị thúc thúc lùn cứu giúp thì ta đã mất mạng bởi mũi châm vô hình vô thanh của mụ rồi”, bèn nói:

– Tiểu nữ không nói thì được.

Rồi hỏi:

– Các vị có mười người, chẳng lẽ Thần điêu hiệp không có trợ thủ hay sao?

Gã lùn đầu to cười hô hô, nói:

– Thần điêu hiệp xông pha giang hồ mười năm nay, chưa từng nghe nói hắn có trợ thủ nào hết. Hắn chỉ có một con quái điểu không biết nói bầu bạn mà thôi.

Nói đoạn giong cương, quát to:

– Đi nào!

Mọi người cùng phi đi, gã lùn đầu to bảo Quách Tương:

– Đến lúc động thủ, cô nương chớ rời khỏi chỗ ta.

Quách Tương gật đầu, nàng biết bọn Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ có nhiều kẻ lòng lang dạ sói, riêng gã lùn có ý chiếu cố, đề phòng đồng bọn có kẻ bất ngờ hạ độc thủ hại nàng.

Quách Tương phóng ngựa theo, thấy Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ tên nào cũng có tuyệt kỹ, Thần điêu hiệp võ công cao mấy, làm sao có thể lấy một địch mười? Nàng nghĩ: “Nếu cha mẹ mình ở đây, chắc chắn hai người sẽ không tụ thủ bàng quan”.

Đang đi, từ cánh rừng tối om trước mặt bỗng vọng ra tiếng hổ gầm, lũ ngựa giật mình, có con đứng sững lại, có con quay đầu định chạy. Gã cao gầy vụt roi ngựa liên tiếp, xông trước vào rừng. Lão thái bà thì chửi mắng ngựa:

– Đồ súc sinh vô dụng, một con mèo rừng cũng làm các ngươi run sợ hay sao?

Bầy ngựa bị roi quất, đều chạy vào rừng. Mọi người phóng đi mấy chục trượng, bỗng nghe trước mặt có tiếng quát to:

– Kẻ nào to gan làm càn, đang đêm dám xông vào Vạn Thú sơn trang?

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ ghìm ngựa lại, chỉ thấy có một người đứng chắn đường, có hai con mãnh hổ quì ở hai bên gầm gừ. Bầy ngựa thấy mãnh hổ, lại kinh sợ.

Trường tu lão ông ngồi trên lưng ngựa, ôm quyền, nói:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ đi qua quí địa, không vào cửa hỏi thăm, xin lượng thứ cho sự vô lễ.

Người đối diện nói:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ à? Các hạ là Trường tu Quỉ Phàn gia phải không?

Trường tu lão ông nói:

– Chính ta. Bọn ta có việc cần đi Mã Bình gấp, khi trở về sẽ ghé vào tạ tội.

Lão biết các nhân vật trong Vạn Thú sơn trang chẳng tử tế gì, lúc này bọn lão cần toàn lực đối phó với Thần điêu hiệp, không muốn rắc rối về chuyện khác, nên mới nói khiêm nhường như thế.

Người đối diện nói:

– Các vị đợi một lát.

Rồi cao giọng nói:

– Đại ca, là Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ đi Mã Bình gấp, bảo khi trở về sẽ ghé vào tạ tội.

Lũ quỉ nghe vậy đều khó chịu, nghĩ: “Bọn ta bảo khi trở về sẽ ghé vào tạ tội, chỉ là một câu khách sáo, không lẽ Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ lại chịu cúi đầu trước bọn ngươi hay sao?” Mười con quỉ Tây Sơn, người nào cũng võ nghệ đầy mình, trước khi kết nghĩa với nhau, đều đã xông pha đủ nơi, đến khi tụ lại, thanh thế càng lớn, mấy năm qua hoành hành khắp một dải Tấn Thiểm, người trong võ lâm đều ba phần ngán ngẩm họ. Nếu không phải đêm nay có hẹn trước với Thần điêu hiệp, thì chỉ một câu của người đối diện kia đã khiến họ động thủ rồi.

Chỉ nghe từ trong rừng sâu có tiếng the thé vọng ra:

– Khỏi cần tạ tội, để cho họ vòng qua rừng mà đi.

Lũ Quỉ nghe câu đó thì cả giận, gã cao gầy như cây sào cười khẩy, nói:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ xưa nay không quen đi đường vòng!

Đoạn kéo cương phóng thẳng tới người chắn đường.

Người kia giơ tay trái, hai con hổ lập tức chồm tới, con ngựa gã cao gầy cưỡi hoảng sợ dựng hai vó trước lên. Gã cao gầy tinh thông kỵ thuật, rạp người trên yên, roạt một cái, hai tay đã cầm hai cây đoản thương đâm hai con hổ. Con hổ bên trái nhảy tránh, con hổ bên phải thì đã dùng một chân trước tát vào bụng con ngựa thủng một miếng, nó gầm lên vì cũng đã bị thương.

Gã cao gầy nhảy xuống đất, quát:

– Lấy binh khí ra đi!

Cây đoản thương bên trái ở trên cao, cây đoản thương bên phải ở dưới thấp, giữ thế Song long phục uyên chưa đâm tới phía trước.

Người đối điện lạnh lùng nói:

– Vô Thường Quỉ, các hạ đã đả thương con mèo canh đêm của nhà ta, muốn đi đường vòng bây giờ cũng khó đấy. Hãy bỏ hai cây đoản thương lại!

VôThường Quỉ nghe người kia nói đúng ngoại hiệu của mình, bèn hỏi:

– Tôn giá là ai? Vạn Thú sơn trang vốn ở Tây Lương, sao lại dời đến Tấn Nam này? Các hạ muốn ta bỏ hai cây đoản thương lại, cũng không dễ đâu.

Người kia nói:

– Vạn Thú sơn trang muốn dọn đến đâu, đâu phải bẩm cáo Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ? Ở Tây Lương chán, thì dời đến Tấn Nam cho vui. Đại ca ta đã để cho các vị đi vòng qua rừng là đã khách sáo lắm rồi. Tam ca ta đang bị bệnh, không thích người ngoài quấy nhiễu, các hạ hiểu chưa?

Nói rồi đột nhiên giơ tay trái chộp lấy thân cây đoản thương bên phải, gần chỗ mũi thương của Vô Thường Quỉ. Vô Thường Quỉ không ngờ đối phương xuất thủ thần tốc, vội đâm cây đoản thương bên trái, đồng thời giữ chắc cây đoản thương bên phải. Người kia tay phải cũng nhứ nhứ, chộp luôn được cây đoản thương bên trái của Vô Thường Quỉ. Hai người lực đạo đều mạnh, không ai giành giữ được binh khí, rắc rắc cả hai cây đoản thương đều bị gãy.

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ rúng động, Lão ông có ngoại hiệu Trường Tu Quỉ nói:

– Tôn giá là Bát Thủ Tiên Hầu Sử gia thì phải? Thanh Giáp Sư Vương không được khỏe ư? Hiện giờ bọn ta có việc gấp, ngày mai giờ này, hẹn gặp tại đây.

Chủ nhân của Vạn Thú sơn trang gồm huynh đệ năm người, đại ca là Bạch Ngạch Sơn Quân Sử Bá Uy, nhị ca là Quản Kiến Tử Sử Trọng Mãnh, tam ca là Thanh Giáp Sư Vương Sử Thúc Cương, tứ ca là Đại Lực Thần Sử Quí Cường, út nhất là Bát Thủ Tiên Hầu Sử Mạnh Tiệp. Tổ tiên của năm huynh đệ tương truyền nhiều đời sống bằng nghề dạy thú, năm huynh đệ đều có tài bẩm sinh, chẳng những có bản sự thuần dưỡng thú xuất thần nhập hóa, mà còn ngộ ra pháp môn võ công từ các động tác của dã thú. Huynh đệ họ Sử từ nhỏ đã bầu bạn với mãnh thú, rồi coi mãnh thú như thầy, mỗi người luyện tập đầy mình bản lĩnh. Sử Thúc Cương năm hơn hai mươi tuổi vào rừng bắt thú, gặp được kỳ nhân, học được nội công vô cùng tinh thâm, sau khi về nhà truyền thụ cho huynh đệ. Số mãnh thú do năm huynh đệ thuần dưỡng càng ngày càng nhiều, võ công của họ cũng ngày càng cao. Danh tiếng Vạn Thú sơn trang nổi dần trên giang hồ, người trong võ lâm đặt cho năm huynh đệ ngoại hiệu “Hổ Báo Sư Tượng Hầu”. Trong năm người thì Thanh Giáp Sư Vương Sử Thúc Cương phiêu dật tuyệt luân. Vừa nãy Trường Tu Quỉ nghe bảo Sử Thúc Cương bị bệnh thì cảm thấy nhẹ người, nghĩ thầm huynh đệ họ Sử tuy lợi hại, song Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cũng không sợ, huống hồ đã bớt được Thanh Giáp Sư Vương, cho nên lão mới hẹn đêm mai quyết đấu.

Bát Thủ Tiên Hầu Sử Mạnh Tiệp nói:

– Được, giờ Tí đêm mai, huynh đệ tại hạ sẽ chờ các vị ở bìa rừng.

Nói rồi vung hai tay, hai đoạn thương gãy phóng đi cắm vào thân cây gần chỗ Trường Tu Quỉ. Trường Tu Quỉ sững người: “Sao hắn vẫn không chịu để chúng ta băng qua rừng? Huynh đệ họ Sử đang có trò gì trong cánh rừng này?” Bèn ôm quyền, nói:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cáo từ!

Hai chân kẹp lại, quất ngựa xông lên trước. Sử Mạnh Tiệp nói to:

– Hãy khoan! Đại ca ta đã bảo các vị đi vòng cánh rừng, chẳng lẽ các vị điếc cả hay sao?

Trường Tu Quỉ đang định trả lời, bỗng nghe ở góc đông bắc và góc tây bắc trong rừng cùng có tiếng cười hô hô, rồi khói bốc lên dày đặc, tiếng một người nói:

– Huynh đệ các người giở trò quỉ gì trong rừng, đừng hòng che mắt nổi Nhất Khuất Quỉ.

Một người khác nói:

– Cái này gọi là giở trò ma, lại gặp phải tổ sư ma.

Thì ra Táng Môn Quỉ thứ tám và Tiếu Kiểm Quỉ thứ mười đã lợi dụng Trường Tu Quỉ và Sử Mạnh Tiệp mải nói với nhau, đã lẻn đi phóng hỏa.

Lửa vừa bốc lên, đã nghe Táng Môn Quỉ và Tiếu Kiểm Quỉ kêu thất thanh, cắm cổ chạy lại, thở hổn hển, sắc diện kinh hoảng. Trường Tu Quỉ hỏi:

– Cái gì vậy?

Táng Môn Quỉ kêu lên:

– Hổ, hổ! Một trăm con, hai trăm con…

Sứ Mạnh Tiệp thấy rừng bốc cháy, thì cả giận, gọi to:

– Đại ca, nhị ca, việc chính cần hơn, hãy để cho lũ Quỉ đi đi! Lúc nào tìm bọn họ chẳng được?

Đột nhiên mắt mọi người hoa lên, một con dã thú trông như con chó nhỏ từ trong rừng dày lao vọt ra, con thú này thân không lớn, bốn chân rất dài, toàn thân trắng như tuyết, đuôi màu đen sẫm, không giống mèo, cũng không giống chó. Sử Mạnh Tiệp kêu to:

– Cửu vĩ linh hồ chạy mất rồi!

Y phi thân đuổi theo. Tiếng kêu của y đầy vẻ kinh hãi.

Chợt nghe từ phía sau cánh rừng một tiếng kêu to, từa tựa như tiếng hổ gầm, tiếng sư tử rống, hoặc tiếng người hú, Quách Tương nghe âm thanh ấy mà lạnh cả sống lưng. Tiếp theo âm thanh ấy, bách thú bốn phía cùng kêu lên, nào sư tử, nào hổ báo, nào chó sói, nào voi, tinh tinh, khỉ vượn… hàng ngàn dã thú vừa kêu vừa xông ra. Chỉ nghe một người nói:

– Đại ca đến góc đông bắc, nhị ca góc tây bắc, tứ đệ góc tây nam…

Âm thanh chính là tiếng hú vừa rồi.

Quách Tương thấy mấy cái bóng đen vút qua, đã ra khỏi cánh rừng dày. Nàng biết rõ nguy hiểm, nhưng nổi tính hiếu kỳ, vội giục ngựa ra khỏi cánh rừng. Gã lùn đầu to gọi:

– Quách cô nương, không được chạy lung tung!

Cũng vội phóng ngựa theo nàng.

Quách Tương vừa ra khỏi rừng, thì trước mắt hiện ra cảnh tượng kỳ lạ, thấy năm người, mỗi người chỉ huy một bầy dã thú, chạy gấp ra năm phương trên bình nguyên phủ tuyết trắng xóa. Bầy mãnh thú rõ ràng đã được huấn luyện kỹ, chúng không hề cắn xé nhau mà kết thành đội, chạy phía này phía nọ đâu ra đấy. Quách Tương vừa sợ vừa thích thú, thấy năm đội mãnh thú dần dần tiếp cận, thành một vòng vây lớn.

Bỗng nhiên một cái bóng trắng vút đi, con vật nhỏ ban nãy từ giữa bầy mãnh thú chạy vụt qua trước mặt Quách Tương. Thân pháp của nó nhanh như một tia chớp. Quách Tương giật mình, cúi xuống định bắt nó, nhưng con thú đã vọt đi xa mấy trượng. Nó dừng lại ngoảnh đầu nhìn Quách Tương, cặp mặt tròn đỏ như hai đốm lửa, long lanh đưa qua đưa lại trong đêm tối.

Chi nghe huynh đệ họ Sử gọi:

– Cửu vĩ linh hồ, cửu vĩ linh hồ, sang mé kia, sang mé kia!

Rồi một bầy dã thú ào qua như núi lở.

Quách Tương giục ngựa nhảy tránh sang một bên, nhưng con ngựa thấy quá nhiều dã thú, sợ quá toàn thân run rẩy, hai chân trước khuỵu xuống đất. Quách Tương cả kinh: “Bầy dã thú tràn qua chỗ ta sẽ giẫm nát ta mất!” Nàng vội rời yên ngựa, chạy chéo đi, mũi ngửi thấy từng đợt gió tanh tưởi, bầy dã thú tràn qua bên cạnh nàng như một dòng sông, chẳng mấy chốc đã đi ra xa.

Lúc này Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cũng đều đã ra khỏi cánh rừng, Trường Tu Quỉ nói:

– Huynh đệ họ Sử võ công cao mấy, chúng ta cũng không sợ, có điều nhiều dã thú thế này không dễ đánh tan. Đêm nay tạm bỏ qua, để dành sức đối phó với Thần điêu hiệp, mọi người cùng đi nào?

Lão thái bà nói:

– Phải, đêm nay giết Thần điêu hiệp trước, đêm mai sẽ đến đây nướng thịt sư tử, hổ báo sau!

Nói rồi cả bọn định phóng ngựa vòng cánh rừng mà đi.

Bỗng nghe tiếng sư tử, hổ báo gầm cả lên, bầy dã thú đã chia đường chạy ngược trở lại. Lần này bầy dã thú chạy chậm hơn ban nãy, tiếng kêu cũng đỡ hung hăng. Trường Tu Quỉ tái mặt, nói:

– Hỏng rồi, mọi người chạy mau!

Nhưng tứ diện bát phương đều có tiếng dã thú, mọi người đã lọt vào vòng vây. Trường Tu Quỉ hô khẽ một tiếng, cả bọn cùng xuống ngựa, chiếm giữ năm phương vị, lăm lăm binh khí trong tay, chờ địch tới, không nói một lời.

Đại Đầu Quỉ nói khẽ:

– Quách cô nương, mau trở về đi, ở đây nguy hiểm lãm.

Quách Tương nói:

– Còn Thần điêu hiệp? Tiền bối đã đáp ứng dẫn vãn bối đi gặp chàng kia mà.

Đại Đầu Quỉ cau mày, nói:

– Bầy dã thú nhiều thế kia, cô nương không nhìn thấy hay sao?

Quách Tương nói:

– Tiền bối hãy nói lý lẽ với chủ nhân bầy dã thú, rằng các vị có hẹn với Thần điêu hiệp, không còn thời gian lưu lại chốn này.

Đại Đầu Quỉ cau mày, nói:

– Hừ, Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ không quen nói lý lẽ với người khác.

Đang nói thì huynh đệ họ Sử đã chỉ huy bầy dã thú quay lại. Năm người mình mặc áo da ngắn, dừng chân cách chỗ Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ dăm trượng.

Vẫn là ngũ đệ Sử Mạnh Tiệp lên tiếng trước:

– Vạn Thú sơn trang và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ vốn không hề có hiềm khích, tại sao các hạ vị lại phóng hỏa đốt rừng, đuổi Cửu vĩ linh hồ?

Quách Tương nghe giọng nói đầy căm phẫn của người kia, thì nghĩ: “Con thú nhỏ kia tuy khả ái, nhưng có gì đặc biệt mà phải giận dữ đến thế? Hiển nhiên nó chỉ có một cái đuôi, sao lại gọi nó là Cửu vĩ linh hồ?”

Hồng y thiếu phụ nói:

– Việc hôm nay là do huynh đệ họ Sử mà ra. Vạn Thú sơn trang vốn khai sơn lập nghiệp ở một dải Cam Lương, đột nhiên lại kéo đến vùng Sơn Tây của bọn ta, nửa đêm còn ngang nhiên chặn đường. Ngang ngược như thế, còn đòi trách cứ người khác ư?

Bạch Ngạch Sơn Quân Sử Bá Uy quát:

– Việc đã thế này, khỏi cần nhiều lời. Không kẻ nào trong Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ có thể sống sót.

Nói xong tay không lao về phía Trường Tu Quỉ, song chưởng ở tư thế hổ trảo, người chưa tới, gió đã đến trước, uy phong y như mãnh hổ.

Trường Tu Quỉ di chân một cái, lướt tránh sang bên trái hơn một trượng, vù một cái, cây cương trượng vụt ngang qua người Sử Bá Uy. Sử Bá Uy hổ trảo giơ ra, chộp lấy đầu cây trượng. Tay y chưa nắm chắc, cảm thấy cánh tay nóng lên, vội buông ra, tả chưởng vận công hất cây trượng đi, nếu y không kiến cơ hành sự mau lẹ, thì đã bị cây trượng điểm trúng ngực. Sử Bá Uy chột dạ, nghĩ: “Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ mấy năm nay tiếng tăm lừng lẫy, quả nhiên không phải hạng xoàng”. Y không dám coi thường, bèn rút binh khí ra, là một cặp hổ đầu câu. Cặp hổ đầu câu này cái bên tay phải nặng tám chục cân, cái bên tay trái nặng bảy chục cân, thật là thứ binh khí cực nặng. Cặp hổ đầu câu tạo thành hai luồng hoàng quang, ác đấu với cây cương trượng của Trường Tu Quỉ.

Quản Kiến Tử Sử Trọng Mãnh tay cầm cây Lạn ngân điểm cương quản đấu với hai người là Thôi Mệnh Quỉ và Táng Môn Quỉ. Đại Lực Thần Sử Quí Cường, đấu với lão thái bà Điếu Tử Quỉ. Sợi dây dài của Điếu Tử Quỉ quá lợi hại, khiến cho Sử Quí Cường tuy có thần lực mà chẳng làm gì nổi mụ ta, chỉ luôn miệng gầm thét. Đối thủ của Bát Thủ Tiên Hầu Sử Mạnh Tiệp là Đại Đầu Quỉ với cây đồng chùy bát giác. Nhìn thấy đôi phán quan bút của Sử Mạnh Tiệp chiêu số tinh kỳ, Đại Đầu Quỉ chống đỡ không lại, Hồng y thiếu phụ Tiêu Quỉ vung đao tới trợ lực.

Trên bãi tuyết, mười người chia thành bốn nhóm ác đấu tuyết bắn tung tóe, nhất thời bất phân thắng bại.

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ còn bốn người chưa xuất thủ, phía đối phương thì chỉ còn một mình Thanh Giáp Sư Vương Sử Thúc Cương tay không đứng ngoài, thấy y dựa vào thân một con sư tử đực, hình như đang bị bệnh, có khí vô lực. Hiện thời Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ đông người hơn, rõ ràng chiếm thượng phong, nhưng huynh đệ họ Sử chỉ cần hô một tiếng bầy dã thú sẽ xông vào, Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ sẽ lập tức lâm vào thế hạ phong.

Quách Tương thấy bầy dã thú vây quanh, rất sợ, nhưng vẫn muốn đi gặp Thần điêu hiệp, bèn gọi:

– Đại Đầu thúc thúc, đừng đánh nhau nữa, các vị đông người hơn, có thắng cũng chẳng vẻ vang gì. Là các vị đắc tội với người ta, hãy xin lỗi họ đi thì hơn!

Chẳng ai buồn để ý đến nàng.

Mười người đấu hồi lâu. Trường Tu Quỉ và Sử Bá Uy đôi bên ngang ngửa. Sợi dây dài của lão thái bà Điếu Tử Quỉ biến hóa chiêu số đa đoan, thành các vòng lớn vòng nhỏ, Sử Quí Cường sơ ý một chút, suýt nữa bị sợi dây của Điếu Tử Quỉ quấn vào cổ, may mà y hung mãnh, Điếu Tử Quỉ cũng có phần ngán ngại. Đại Đầu Quỉ và Tiêu Quỉ một cương một nhu hỗ trợ nhau, nhưng Sử Mạnh Tiệp xuất chiêu cực nhanh, cổ nhân có câu: “Một nhanh đánh ba chậm”, ba người lăn xả vào nhau mà đánh, Sử Mạnh Tiệp vẫn không hề bị núng thế. Chỉ nghe Đại Đầu Quỉ hầm hè, còn Tiêu Quỉ chỉ nhếch mép cười nham hiểm, luôn miệng cười nói để làm rối trí đối phương.

Sử Mạnh Tiệp coi như không nghe thấy, chăm chú tiếp chiêu.

Cạnh đó, Thôi Mệnh Quỉ và Táng Môn Quỉ xem chừng đã không địch nổi cây ngân quản của Sử Trọng Mãnh. Cây ngân quản như một cây côn, nhưng rỗng ruột, chiêu số vô cùng cổ quái, ba người đấu một hồi, Táng Môn Quỉ đâm cây thương ra, Sử Trọng Mãnh cũng nhắm mũi cây thương mà đâm cây ngân quản ra, khiến cây thương chui vào trong lòng cây ngân quản. Táng Môn Quỉ cả kinh, nhưng chưa chịu buông tay. Thảo Trái Quỉ nhảy vào trợ lực Táng Môn Quỉ, vung cỗ thiết bài đánh vào cây ngân quản của Sử Trọng Mãnh. Sử Trọng Mãnh phải lùi lại. Táng Môn Quỉ mới thu hồi cây thương về. Binh khí của Thảo Trái Quỉ là một khối thiết bài, giống như một quyển sổ, gồm năm tờ, là năm lá thép sắc cạnh không thua gì đao kiếm, quả là một kỳ môn lợi khí.

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ vốn mỗi người đều có danh tính, nhưng từ khi ngoại hiệu “Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ” vang danh trên giang hồ, thì mười người bỏ cả tên thật, lấy một ngoại hiệu có chữ “Quỉ”. Mười người hành sự vốn đều có bản sắc riêng, họ nói với nhau:

– Hảo hán trên giang hồ gọi chúng ta là Quỉ thì chúng ta cứ nhận vậy đi, để xem con người lợi hại, hay con Quỉ hùng mạnh hơn?

Thảo Trái Quỉ là kẻ không chịu bỏ qua bất cứ người nào có oán thù nho nhỏ với hắn, nên trong võ lâm người ta đặt cho hắn ngoại hiệu “Thảo Trái Quỉ” (Quỉ đòi nợ). Hắn nghe vậy, liền thuê đúc bộ thiết bài thành hình quyển sổ nợ, trên mỗi lá thép lấy mũi dao khắc tính danh cừu nhân, sau khi trả thù rửa hận rồi, hắn mới xóa tên người ấy đi.

Lạn ngân điểm cương quản là một thứ binh khí dị hình, cỗ thiết bài lại càng dị dạng hơn, năm lá thép gõ vào nhau lanh canh. Thôi Mệnh Quỉ, Táng Môn Quỉ và Thảo Trái Quỉ ba gã hợp lực đấu với Sử Trọng Mãnh, tình thế mới dần dần có lợi cho tam quỉ.

Quách Tương đứng bên ngoài, thấy Nhất Khuất Quỉ và huynh đệ họ Sử cứ đánh nhau mãi không thôi, nghĩ đã quá giờ hẹn với Thần điêu hiệp, chỉ sợ chàng không đợi nữa bỏ đi, nàng càng nghĩ càng nóng ruột, song không thể can ngăn cuộc ác đấu của đám người này.

Hàng ngàn con thú nằm mọp dưới đất, vây quanh thành một vòng kín. Nhất Khuất Quỉ nhìn đâu trong bóng đêm cũng thấy những con mắt long lanh sáng quắc, đều nghĩ dẫu có đánh chết cả năm huynh đệ họ Sử, muốn thoát ra khỏi vòng vây dã thú cũng chẳng dễ gì. Lão thái bà Điếu Tử Quỉ muốn dùng sợi dây dài trói Đại Lực Thần Sử Quí Cường để bắt giữ y, buộc huynh đệ họ Sử giải tán bầy dã thú, mở đường cho đi.

Nhưng Sử Quí Cường võ công vốn cao hơn Điếu Tử Quỉ, chỉ vì vũ khí của mụ đặc biệt, mụ mới chiếm được phần nào lợi thế, đôi bên ngang ngửa, muốn bắt trói y đâu có dễ? Tiếu Kiểm Quỉ gọi:

– Nhị tỷ, có đệ giúp đây.

Hắn cầm binh khí lao vào tấn công Sử Quí Cường.

Sứ Quí Cường đang sốt ruột, thấy Tiếu Kiểm Quỉ nhảy vào, càng hợp tâm ý, liền nói:

– Càng hay!

Cây đồng chùy bổ mạnh xuống đầu Tiếu Kiểm Quỉ. Tiếu Kiểm Quỉ lạng người sang bên để tránh, quét song tiên qua, phựt một tiếng, song tiên lập tức bị đứt. Tiếu Kiểm Quỉ cả kinh, vội lăn một vòng ra ngoài. Huỵch một cái, cây đồng chùy nện xuống đất.

Tiếu Kiểm Quỉ thò tay vào túi, lấy ra một gói phấn độc chưa đứng dậy đã vung tay ném về phía Sứ Quí Cường. Sử Quí Cường thấy trước mắt xuất hiện một màn sương mỏng màu hồng, đang bối rối thì bước chân lảo đảo, ngã khuỵu ngay xuống.

Sợi dây dài của Điếu Tử Quỉ đã văng tới, quấn hai chân y lại.

Sử Bá Uy, Sử Trọng Mãnh, Sử Mạnh Tiệp ba người thấy Sử Quí Cường thất thủ, thì vừa kinh hãi vừa tức giận; khổ nỗi họ đang bị lũ quỉ đeo bám, không thể phân thân đi giải cứu. Quách Tương lên tiếng:

– Các vị làm gì vậy, dùng quỉ kế đả thương người khác có đáng mặt hảo hán hay không?

Nàng không giúp bên nào trong cuộc giao đấu, nhưng thấy chiêu vừa rồi của Tiếu Kiểm Quỉ quá ám muội, không nhịn được, đã lên tiếng chỉ trích. Lúc ấy bỗng nghe một tiếng gầm nhỏ, Thanh Giáp Sư Vương Sử Thúc Cương thong thả đứng dậy, trầm giọng quát:

– Thả tứ đệ của ta ra!

Sử Quí Cường hôn mê chưa tỉnh, Điếu Tử Quỉ dùng dây trói cả hai tay y lại, sợ y khỏe quá, đột nhiên tỉnh lại sẽ giật tung dây trói, nên mụ còn điểm huyệt y, nói với Sử Thúc Cương:

– Ngươi đuổi lũ súc sinh dọn đường đi, bọn ta sẽ thả người!

Mụ ta nhìn Sử Thúc Cương hai mắt lõm sâu, mặt tái nhợt, bước đi loạng choạng, rõ ràng bị bệnh khá nặng, mụ ta chẳng coi y ra gì.

Quách Tương thấy Sử Thúc Cương chậm rãi bước về phía lũ Quỉ, chủ yếu y quá trọng tình huynh đệ, bệnh đang nặng vẫn nghênh địch, thực là một trang hảo hán, vội nói:

– Ôi, các hạ đang bệnh, không nên động thủ.

Sử Thúc Cương gật gật đầu, nói với nàng:

– Đa tạ!

Chân vẫn bước về phía Sử Quí Cường.

Tiếu Kiểm Quỉ nháy mắt với Điếu Tử Quỉ, từ hai bên tả hữu cùng xông vào bắt trói Sử Thúc Cương.

Hai người xáp tới bên Sử Thúc Cương, bốn tay giơ ra chộp, bỗng nghe Sử Thúc Cương gầm khẽ một tiếng, tay trái vỗ vai Điếu Tử Quỉ, tay phải ấn vào lưng Tiếu Kiểm Quỉ, hai kẻ đó cảm thấy có một luồng lực mạnh đột nhiên đẩy họ suýt ngã; họ vội nhảy tránh ra; may sao Sử Thúc Cương không đuổi theo. Hai người kinh hãi nhìn nhau, đều sợ toát mồ hôi, không ngờ một bệnh nhân lại có sức mạnh lợi hại như vậy.

Sử Thúc Cương cúi xuống giải huyệt cho Sử Quí Cường, giật nhẹ sợi dây trói, sợi dây đứt luôn mấy đoạn. Nhưng Sử Quí Cường bị trúng phấn độc, vẫn chưa tỉnh lại. Sử Thúc Cương cau mày quát:

– Mau đưa giải dược!

Tiếu Kiểm Quỉ nói:

– Ngươi thu hồi lũ súc sinh, ta khắc đưa giải dược cho ngươi.

Sử Thúc Cương hừ một tiếng, lảo đảo bước về phía Tiếu Kiểm Quỉ. Tiếu Kiểm Quỉ không dám đối địch, vội tránh đi. Sử Thúc Cương đang có bệnh, không thể chạy nhảy, song vẫn cứ tiến về phía Tiếu Kiểm Quỉ. Bốn tên Quỉ đang đứng không bèn ùa tới, Tiếu Kiểm Quỉ cũng quay lại đấu. Sử Thúc Cương xuất chưởng rất chậm, nhưng chưởng lực vô cùng hùng hậu, năm con quỉ quây tròn xung quanh, kẻ đâm mũi thương, đứa chém một đao, song không tên nào dám xáp lại gần. Tiếu Kiểm Quỉ cũng không dám ném phấn độc vì sợ huynh đệ của mình dính độc.

Quách Tương nghĩ: “Người kia bị trúng quỉ kế, thật đáng thương!” Nàng bèn bốc tuyết xoa xoa trán Sử Quí Cường, lại vốc một nắm tuyết nhét vào miệng y. Phấn độc vốn không giữ lâu, thể phách của Sử Quí Cường lại mạnh mẽ, đầu mặt bị lạnh một lát liền hồi tỉnh, thấy Quách Tương dùng tuyết xoa trán cho mình, liền nói:

– Đa tạ tiểu cô nương!

Rồi bật người đứng dậy, dùng mu bàn tay dụi dụi mắt, thấy ngũ quỉ vây đánh Sử Thúc Cương, bèn gọi to:

– Tam ca hãy lui ra!

Đoạn đưa tay túm gáy Tiếu Kiểm Quỉ.

Sử Bá Uy đang múa song câu giao đấu với cây cương trượng của Trường Tu Quỉ, thấy Sứ Quí Cường đã hồi tỉnh thì cả mừng, liền hú to một tiếng. Bầy dã thú đang nằm phục vây quanh nghe tiếng hú, đều bật cả dậy, sẵn sàng chồm tới. Sử Bá Uy lại gầm một tiếng, bầy dã thú nhất tề gầm theo.

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ tuy từng trải không ít trận đánh lớn, nhưng trước tình cảnh này cũng không khỏi rùng mình sởn gáy. Bầy mãnh thú chưa dứt tiếng gầm, đã ào ào xông tới tấn công mười tên quỉ.

Quách Tương kêu “Ối” một tiếng, sợ xanh mặt. Sử Thúc Cương đưa tay gạt một con hổ đang lao tới chỗ Quách Tương, gỡ chiếc mũ da trên đầu mình chụp lên đầu nàng. Bầy thú đã được huấn luyện kỹ, thấy nàng đội mũ da thì không con nào tấn công nàng nữa, chuyển sang công kích mười tên quỉ. Bầy mãnh thú nào hổ báo, sư tử, chó sói, gấu, vượn xông vào cắn xé mười tên quỉ. Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ ra sức chống trả, đã giết chết bảy, tám con ác thú, nhưng một là bị huynh đệ họ Sử đứng bên khống chế, hai là số lượng mãnh thú quá nhiều, thoáng chốc mười tên quỉ đa phần đã bị thương, quần áo rách bươm, máu tươi loang lổ, sắp sửa bỏ mạng tại chỗ, không một tên nào có thể thoát khỏi nanh vuốt dã thú.

Quách Tương thấy ba con sư tử vây công một mình Đại Đầu Quỉ, cây đồng chùy của lão đã rơi dưới đất, tay phải của lão bị một con sư tử cắn chặt không nhả, lão chỉ còn dùng một bàn tay trái phách chưởng gắng gượng chống đỡ hai con sư tử kia. Quách Tương nghĩ Đại Đầu Quỉ đã dẫn nàng tới đây, thấy lão bị như thế, không nỡ lòng, bèn gỡ ngay cái mũ da ném sang đầu lão. Đầu lão thì to tướng, cái mũ thì nhỏ, trông thật tức cười, hơn nữa lại cứ như sắp rơi xuống đất.

Huynh đệ họ Sử khi tập luyện cho bầy thú đều đội một loại mũ da đặc chế; lũ súc sinh vô tri, đâu có phân biệt bạn thù, vừa thấy Đại Đầu Quỉ đội cái mũ da thì lập tức lùi ra. Có bốn con báo gấm vây lấy Quách Tương.

Lúc này Sử Thúc Cương đang cố đoạt cây cương trượng từ tay Trường Tu Quỉ, để lão ta khỏi sát thương quá nhiều con vật, nghe tiếng Quách Tương kêu cứu, ngoảnh lại, không khỏi giật mình, nhưng vì ở quá xa, không kịp đến giải cứu. Nghĩ kể cũng lạ, bốn con báo gấm không hề vồ cắn Quách Tương, mà cứ đi quanh nàng hít hít ngửi ngửi hết sức thân thiện. Quách Tương thoạt tiên sợ đờ người ra, sau thấy bốn con báo gấm hoàn toàn không có ác ý, thì nàng sững sờ, nhớ mẫu thân và tỷ tỷ từng kể rằng hồi nhỏ nàng đã bú sữa con báo gấm mà lớn lên, xem chừng bốn con báo gấm này ngửi thấy trên người nàng có mùi đồng loại. Nàng vừa kinh ngạc vừa vui mừng, cúi xuống quàng tay ôm cổ hai con báo gấm, hai con kia đưa lưỡi liếm mu bàn tay và má nàng. Quách Tương cảm thấy nhộn nhột, cười khanh khách. Huynh đệ họ Sử từ khi dạy thú đến nay chưa thấy cảnh lạ này lần nào, cũng vừa kinh ngạc vừa vui mừng.

Đại Đầu Quỉ nhờ cái mũ da mà tạm thoát họa, nhưng thấy huynh đệ tỷ muội chín người khó thoát nguy khốn, thì y đâu chịu sống sót một mình? Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ hoàn toàn không phải chính nhân quân tử, bình thời làm nhiều việc bàng môn tả đạo nhưng nghĩa khí đối với nhau rất sâu nặng, y bèn cầm chiếc mũ da ném cho Hồng y thiếu phụ Tiêu Quỉ, nói:

– Cửu muội, muội hãy mau thoát đi!

Hồng y thiếu phụ đón chiếc mũ da, lại ném luôn cho Trường Tu Quỉ, nói:

– Đại ca, đại ca thoát trước đi, sau này tìm cách báo thù cho đệ muội.

Trường Tu Quỉ ném chiếc mũ da cho Tiếu Kiểm Quỉ, nói:

– Thập đệ, quân tử báo thù mười năm chưa muộn, đại ca của đệ không sống được tới lúc ấy đâu.

Mười người không một ai chịu nhận vật cứu mạng. Tiếu Kiểm Quỉ đang bị năm con sói dữ bám riết, không ngơi tay để ném chiếc mũ da đi nữa. Chó sói lại là loài vật cực tham cực dữ, miệng đã cắn vào thịt tươi, tuy thấy Tiếu Kiểm Quỉ trên đầu có chiếc mũ da, chúng cũng không chịu nhả miếng mồi ngon. Tiếu Kiểm Quỉ kêu váng lên đau đớn, mặt trông vẫn như đang cười.

Bỗng nghe trên cao có tiếng hú lảnh lót, rồi một giọng nói sang sảng:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ không giữ lời hẹn, để ta chờ cả nửa đêm, thì ra đang hồ náo với bầy dã thú ở đây!

Quách Tương nghe vậy cả mừng, nghĩ: “Thần điêu hiệp đến rồi!” Nàng ngẩng đầu, thấy có người ngồi vắt vẻo trên cây đại thụ, có một con chim điêu lớn cực xấu đậu bên cạnh. Người ấy mặc chiếc trường bào màu xám, ống tay áo bên phải giắt vào thắt lưng, quả nhiên bị mất một cánh tay; nhìn kỹ lại diện mạo, thì nàng không khỏi rùng mình, chỉ thấy một bộ mặt vàng vọt, khô khan, cứng nhắc, không phải mặt của người sống, mà y như mặt của tử thi. Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ tuy tên nào tướng mạo cũng hung ác, nhưng không ai xấu xí như người kia.

Khi chưa gặp Thần điêu hiệp, tiểu cô nương cứ ngỡ chàng là một trang anh tuấn, phong lưu nho nhã, bây giờ gặp thì đại thất vọng, nghĩ bụng: “Trên thế gian sao lại có người tướng mạo xấu xí đến thế!” Không nhịn được, nàng lại nhìn chàng một lần nữa, thấy đôi mắt chàng sáng quắc, anh khí bức nhân. Nhãn quang như tia chớp ấy quét qua, dừng lại ở mặt nàng, hình như hơi lấy làm lạ. Quách Tương thấy ngực và hai má nóng bừng, nàng cúi đầu xuống, lờ mờ cảm thấy Thần điêu hiệp cũng không đến nỗi xấu xí lắm.

Hồi 34: Bài nan giải hạn

Người kia chính là Dương Quá. Mười sáu năm nay chàng khổ công chờ ngày tái hợp với Tiểu Long Nữ, cứ du hành bốn phương, hành hiệp trượng nghĩa, vì có Thần điêu làm bạn nên được người ta đặt cho cái tên “Thần điêu hiệp”. Chàng tự nghĩ hồi thiếu thời nghiệt duyên phong lưu quá nhiều, khiến cho Công Tôn Lục Ngạc vì chàng mà mất mạng, Trình Anh và Lục Vô Song suốt đời đau khổ, cho nên chàng thường đeo cái mặt nạ mà Hoàng Dược Sư chế tạo, ít khi để lộ chân diện mục cho người ta biết.

Đêm nay chàng hẹn giao đấu với Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ ở Mã Bình, đối phương quá giờ hẹn không tới, chàng bèn tìm đến đây.

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ bị bầy mãnh thú vây công, tính mạng cả bọn đều như trứng để đầu đẳng, đột nhiên nghe tiếng nói của Dương Quá, lại thêm một cường địch, thì nghĩ: “Thôi thế là hết, không còn một chút hi vọng mong manh gì nữa!” Lại nghe Dương Quá nói lớn:

– Mấy vị đây là các hiền huynh Vạn Thú sơn trang phải không? Các vị hãy dừng tay, nghe tại hạ nói đã.

Sử Bá Uy nói:

– Bọn ta chính là họ Sử đây. Các hạ là ai? À xin lỗi, các hạ chắc là Thần điêu hiệp chứ gì?

Dương Quá nói:

– Không dám, chính là tại hạ. Hãy mau quát bảo lũ dã thú kia, kẻo chậm chút nữa thì e rằng đám Quỉ giả sẽ hóa thành ma thật.

Sử Bá Uy nói:

– Đợi khi nào cả đám Quỉ giả hóa thành ma thật, ta mới có thời gian nói chuyện với các hạ.

Dương Quá cau mày, nói:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ có hẹn trước với tại hạ, các hạ để bầy ác thú cắn chết họ rồi, thì tại hạ còn ai để nói?

Sử Bá Uy nghe lời lẽ của chàng càng lúc càng vô lễ thì chỉ cười khẩy, suỵt thú công kích mạnh hơn nữa. Dương Quá xẵng giọng, nói:

– Các hạ đã biết Thần điêu hiệp, sao lại không thèm lý gì đến lời nói của tại hạ?

Sử Bá Uy nói:

– Thần điêu hiệp thì sao? Các hạ có bản lĩnh thì cứ việc tự ngăn bầy dã thú!

Dương Quá nói:

– Được, Điêu huynh, chúng ta cùng xuống nào!

Ống tay áo bên phải phất một cái, một người một điêu từ trên cây nhảy xuống.

Bầy dã thú chưa đợi người và điêu chạm đất đã gầm gừ hùa nhau xông tới. Thần điêu dang hai cánh, vỗ bên trái hất bên phải, quạt một luồng kình phong mãnh liệt, lũ chó sói thân hình nhỏ bị gió thổi bạt, đứng không vững, nhảy dạt cả ra. Một con sư tử và một con hổ chồm tới, Thần điêu quét ngang cánh bên phải một cái, hai con thú lăn đi mấy vòng, cánh bên trái đập xuống, trúng ngay đầu một con báo gấm, con báo khuỵu xuống đất, không thấy cựa quậy gì nữa.

Bầy dã thú thấy Thần điêu uy mãnh như thế, không con nào dám tới gần, chỉ mon men đằng xa mà gầm gầm gừ gừ.

Sử Bá Uy cả giận, nhảy vọt tới chỗ Dương Quá, tay thành hình hổ trảo, chộp tới ngực chàng. Vai phải của Dương Quá khẽ động, ống tay áo quất từ trên xuống, trúng hai cổ tay Sử Bá Uy, Sử Bá Uy cảm thấy cổ tay đau nhói như bị đao chém, không kìm được, kêu ối lên một tiếng.

Sử Thúc Cương chậm rãi bước tới, giơ chưởng đẩy ngang ra. Dương Quá khen:

– Hảo công phu!

Chàng giơ tả chưởng ra chống đỡ, mỉm cười, sử ba thành chưởng lực. Chàng hơn mười năm nay luyện công trong sóng biển, nếu vận đủ kình lực, đừng nói thân thể con người, cây lớn tường dày cũng bị phá thủng tức thì. Sử Thúc Cương từng được dị nhân truyền công, nội lực cũng phi phàm, thân hình hơi lắc lư, nhưng chưa phải lùi bước. Dương Quá nói:

– Cẩn thận này!

Chàng tăng thêm hai thành kình lực. Sử Thúc Cương trước mắt tối sầm, biết tính mạng khó toàn, bỗng nghe Dương Quá kêu lên:

– Ồ, các hạ đang có bệnh!

Luồng kình lực bài sơn đảo hải đang dồn đến lập tức biến mất tiêu. Sử Thúc Cương thoát chết, đứng ngây ra không nói nên lời.

Sử Bá Uy, Sử Trọng Mãnh, Sử Quí Cường và Sử Mạnh Tiệp bốn người thấy Sử Thúc Cương đứng ngây ra bất động, đoán là y bị trọng thương thì giận dữ lao tới chỗ Dương Quá. Chỉ thấy chàng hơi rùn người xuống, vừa lúc có một con mãnh hổ vọt qua, chàng đã giơ tay tóm được gáy con mãnh hổ, dùng nó làm một món binh khí sống, gạt ngân quản của Sử Trọng Mãnh và cây đồng chùy của Sử Quí Cường, rồi dùng bốn chân con hổ mà chộp tới ngực Sử Mạnh Tiệp và Sử Bá Uy. Dương Quá hơn mười năm trước từng sử thanh Huyền thiết trọng kiếm nặng bảy tám chục cân, con mãnh hổ này tuy rất to, cũng chỉ nặng vài chục cân là cùng; chàng giơ nó lên cứ như cầm một vật tầm thường nhẹ bẫng. Con hổ bị túm gáy, vừa sợ vừa tức, đâu còn nhận biết chủ nhân, cứ nhe răng múa vuốt mà chộp và cắn huynh đệ họ Sử. Sử Mạnh Tiệp và Sử Bá Uy bình thời tuy vẫn đùa giỡn với hổ, nhưng lúc này cứ luống cuống cả tay chân.

Quách Tương đứng ngoài vỗ tay cười, nói:

– Thần điêu hiệp, hảo công phu, huynh đệ Sử gia đã phục chưa?

Dương Quá nhìn nàng một cái, nghĩ: “Tiểu cô nương kia đi theo ai vậy? Đã chơi với lũ báo gấm, sao còn chế giễu huynh đệ họ Sử?” Sử Thúc Cương hít thở hai cái thấy bình thường, biết chưa bị thương, Thần điêu hiệp thủ hạ lưu tình, tha chết cho y, nghĩ: “Dùng công phu chân thực, cả năm huynh đệ mình cùng hợp lực, cũng không địch nổi Thần điêu hiệp”, thấy nhị ca và tứ đệ rút binh khí lao tới tấn công, vội nói:

– Nhị ca, tứ đệ, hãy dừng tay, chúng ta không thể không biết tốt xấu.

Quản Kiến Tử Sử Trọng Mãnh nghe vậy lập tức thu hồi cái ngân quản. Đại Lực Thần Sử Quí Cường là kẻ thô lỗ, nghĩ: “Thế nào là không thể không biết tốt xấu? Hãy tiếp một chùy của ta đi đã”. Hai tay y nắm cán chùy bổ thẳng xuống đầu Dương Quá, chiêu này gọi là “Cự tượng khai sơn”, bắt chước tư thế con voi lớn dùng vòi quật. Cây đồng chùy của y đúc giống hình cái vòi voi, trước nhỏ sau lớn, hơi cong cong, trong dương cương có lực âm nhu, một đòn bổ xuống, cực kỳ uy mãnh.

Dương Quá cũng không tránh, chàng ném con hổ đi, đưa tay trái chộp lấy đầu cây chùy, cười nói:

– Chúng ta đấu lực một chút, xem ai mạnh hơn.

Sử Quí Cường dùng lực đè cây chùy xuống, nhưng cây chùy ở phía trên đầu Dương Quá, không tiến xuống nổi một li. Sử Thúc Cương gọi:

– Tứ đệ, không được vô lễ!

Sử Quí Cường giữ chắc cây chùy, chờ thu hồi nó về, nhưng đầu cây chùy bị Dương Quá nắm cứng như đúc thành một khối, Sử Quí Cường ba lần vận sức giằng lại đều không được. Dương Quá phát hiện lực giằng lại của đối phương cực mạnh, nghĩ: “Ta không hiển lộ thần công, gã thất phu này sẽ không chịu phục”. Chàng đột nhiên hất cây chùy lên trên. Lực hất dồn vào phần giữa cây chùy, vận kình đã khéo lại mạnh, đáng lý cây chùy sẽ vuột khỏi tay Sử Quí Cường. Nào ngờ y cứ giữ cây chùy thật chặt, khiến cây chùy to thô như cái vòi voi bị uốn thành hình cái thước thợ.

Dương Quá quát:

– Hảo!

Chàng chuyển kình đẩy xuống, “cạch” một tiếng, cây đồng chùy gãy đôi. Sử Quí Cường bị chấn động, hai hổ khẩu rách dài cả tấc, tóe máu tươi, nhưng y vẫn cố giữ cây chùy không buông.

Dương Quá cười ha ha, thuận tay cắm phập nửa cây chùy gãy xuống tuyết mất tiêu. Tuyết dày chưa đầy một thước, đoạn chùy gãy dài ngót ba thước, chàng cắm một cái lút mất tiêu, đủ biết thần công ghê gớm chừng nào. Chàng đưa mắt nhìn quanh, thấy bọn Sử Thúc Cương và Sử Mạnh Tiệp đang quát bảo bầy dã thú ngừng lại, nhưng thú tính của lũ hổ báo đã phát tác, đã thấy máu người, thật không dễ lập tức có thể ngăn chúng lại.

Dương Quá nhìn Quách Tương, làm động tác tay, bảo nàng dùng hai ngón tay đút nút hai lỗ tai. Quách Tương chưa hiểu dụng ý, nhưng vẫn làm theo. Dương Quá há miệng hú dài, tiếng hú như tiếng rồng gầm vang thẳng lên mây xanh. Quách Tương tuy đã đút nút hai lỗ tai, nhưng vẫn bị chấn động, tim đập dồn, thân hình đung đưa như người say rượu, chân đứng không vững. May từ nhỏ nàng đã tu luyện nội công Huyền môn chính tông của phụ thân, võ công tuy chưa cao, song nội công đã có căn cơ hơn hảo thủ võ lâm thông thường, nghe tiếng hú của Dương Quá vẫn chưa bị ngã.

Tiếng hú vang vọng bất tuyệt, ai nghe cũng biến sắc, bầy thú lần lượt ngã xuống, tiếp đến Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ và huynh đệ họ Sử cũng trước sau ngã xuống, chỉ còn hơn chục con voi lớn, Sử Thúc Cương và Quách Tương hai người là gắng gượng đứng được. Thần điêu nghển cổ nhìn quanh, vẻ ngạo nghễ.

Dương Quá nghĩ có một bệnh nhân, tuy nội lực thâm hậu, nhưng nếu chàng hú tiếp, có thể khiến y ngã mà bị nội thương, bèn phất tay áo, ngừng hú. Lát sau, mọi người và bầy thú mới thong thả bò dậy. Lũ thú nhỏ như chó sói vẫn ngất chưa tỉnh, trên tuyết cứt đái do bầy thú vãi ra lung tung. Bầy thú không đợi lệnh của huynh đệ họ Sử, lũ lượt cụp đuôi bỏ chạy vào rừng, không dám ngoái đầu lại.

Huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ bình sinh chưa từng thấy uy thế như vậy, cứ đứng ngây ra, không biết nói chi. Dương Quá nói:

– Mong huynh đệ Sử gia tha lỗi, chỉ vì tại hạ có hẹn với Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ nên phải ngăn đôi bên động thủ. Chờ hoàn tất việc kia xong, đôi bên cứ việc phân cao thấp, tại hạ sẽ tụ thủ quan đấu, không giúp bên nào.

Rồi chàng quay sang Sát Thần Quỉ hỏi:

– Thế nào? Các vị muốn xa luân chiến với ta, hay là tất cả cùng ùa vào một thể?

Sát Thần Quỉ bị chấn động vì tiếng hú của chàng, tuy đã đứng lên, nhưng hồn vía chưa định, nhất thời chưa thể trả lời. Trường Tu Quỉ vái dài, cung kính nói:

– Thần điêu đại hiệp, võ công của đại hiệp cao hơn hẳn chúng tôi, Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ làm sao còn dám động thủ với đại hiệp? Tính mạng chúng tôi là nhờ đại hiệp cứu sống, từ nay đại hiệp có gì sai khiến, chúng tôi sẵn sàng, đại hiệp bảo nhảy vào lửa, chúng tôi cũng không dám trái lệnh. Đại hiệp bảo huynh đệ chúng tôi rời khỏi Sơn Tây, chúng tôi xin lập tức đi ngay, không dám chần chừ một khắc.

Dương Quá nhìn bề ngoài của lão ta đã ngờ ngợ, bây giờ nghe giọng, bèn hỏi:

– Tôn giá có phải họ Phàn, đại hiệu Nhất Ông hay chăng?

Trường Tu Quỉ chính là Phàn Nhất Ông, đứng đầu đám đệ tử của Công Tôn Chỉ ở Tuyệt Tình cốc, từ ngày được Dương Quá cứu mạng, lão đi ẩn cư, mấy năm nay tái nhập giang hồ, nhờ võ công trác tuyệt, trở thành đại ca trong bọn Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ.

Hồi lão gặp Dương Quá, chàng chưa bị mất cánh tay, hiện thời chàng lại mang mặt nạ nên lão không thể nhận ra chàng. Nghe hỏi, lão cúi mình đáp:

– Tiểu nhân chính là Phàn Nhất Ông, xin nghe phân phó của Thần điêu đại hiệp.

Dương Quá mỉm cười, giơ tay nói:

– Không dám! Các vị đã chịu nghe lời tại hạ thì không phải rời khỏi Sơn Tây nữa. Sát Thần Quỉ lão huynh, lão huynh hãy thả cho bốn người thiếp về nhà họ thì được.

Sát Thần Quỉ nói:

– Vâng!

Ngừng một chút, y nói thêm:

– Bốn con tiện nhân ấy mà không chịu đi, tiểu nhân sẽ lấy gậy đánh đuổi chúng đi.

Dương Quá sững lại, nhớ cảnh năm thê thiếp của Sát Thần Quỉ quì xin tha mạng cho y, họ đối với y chân tình như thế, nếu họ tình nguyện đi theo y, chàng lại bắt y phải bỏ bốn người thiếp, không chừng sẽ làm cho họ đau khổ, bèn cười, nói:

– Cũng không cần thế. Nếu bọn họ muốn đi, lão huynh không nên giữ họ; còn nếu họ tình nguyện đi theo, thì còn cách gì khác? Lão huynh nói còn muốn lấy bốn người thiếp nữa, có thật không vậy?

Sát Thần Quỉ nói:

– Tiểu nhân còn mặt mũi nào, năm mụ ở nhà đánh chửi nhau loạn xạ, đã khiến đại hiệp phí tâm rồi, suýt nữa còn hại chết huynh đệ tỷ muội, tiểu nhân sao còn dám làm bậy? Dẫu có dám, đại ca của tiểu nhân cũng quyết không cho làm.

Mọi người nghe vậy, cùng cười ồ.

Dương Quá nói:

– Được rồi. Chuyện của tại hạ đã kết thúc, đôi bên cứ việc động thủ.

Đoạn chàng cùng Thần điêu bước sang một bên, chờ xem Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ và huynh đệ họ Sử tái đấu. Phàn Nhất Ông chắp tay nói với Sử Bá Uy:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ xông qua quí sơn trang, ai nấy đều đã bị thương, hôm nay tạm cáo biệt, không biết các vị có định an nghiệp ở Sơn Tây, hay là trở về Lương Châu? Chúng tôi sẽ ghé thăm các vị.

Sử Bá Uy nghe giọng đối phương, ngụ ý là sẽ tìm đến báo thù, bèn hiên ngang nói:

– Huynh đệ ta cung kính chờ đại giá ở Lương Châu. Nếu tam đệ của ta cuối cùng… cuối cùng vì chuyện này mà không cứu chữa được, há có thể bỏ qua mối thâm cừu đại hận? Chỉ cần các người đại giá Lương Châu, bốn huynh đệ ta sẽ tự tìm đến chỗ các vị.

Phàn Nhất Ông giật mình, nói:

– Sử tam ca vốn có bệnh từ trước, chuyện hôm nay can hệ đến chúng tôi thế nào, xin cho biết?

Sử Bá Uy tức giận đỏ cả mặt, quát:

– Tam đệ ta…

Sử Thúc Cương thở dài, nói:

– Đại ca, việc ấy đừng nhắc đến nữa. Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cũng không cố ý để sổng, số mạng tiểu đệ như vậy, không nên kết oán một cách vô vị làm gì.

Sử Bá Uy nén giận, nói:

– Thì thôi vậy.

Rồi ôm quyền, nói với Phàn Nhất Ông:

– Non xanh không đổi, nước biếc chảy hoài, bọn ta còn có ngày gặp lại.

Đoạn quay sang phía Dương Quá:

– Thần điêu đại hiệp, huynh đệ chúng tôi có luyện võ công ba mươi năm nữa cũng không phải là đối thủ của đại hiệp; xin nhận thua, đúng là khẩu phục tâm phục. Từ đây chúng tôi cũng chẳng dám gặp lại đại hiệp; đại hiệp tới đâu, chúng tôi sẽ tránh trước đi là xong.

Dương Quá cười, nói:

– Sử đại ca quá lời.

Sử Bá Uy nói:

– Đi thôi!

Y bước lại bên Sử Thúc Cương, đưa tay dìu tam đệ, quay mình đi. Phàn Nhất Ông nghe lời nói của y có chỗ khó hiểu, vội nói:

– Xin Sử đại ca dừng bước, Sử tam ca nói chúng tôi cũng không cố ý để sổng, trừ việc huynh đệ chúng tôi xông qua quí sơn trang, còn có điều gì mạo phạm nữa ư? Nếu quả thật chúng tôi có sai trái, Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ mất đầu còn không sợ, sợ gì việc khấu đầu tạ tội?

Sử Bá Uy ban nãy thấy đối phương bị bầy thú vây công cứ ném mũ da cho nhau, cả bọn đúng là không sợ chết, phải trái phân minh, thì buồn rầu nói:

– Các vị đã làm cho con Cửu vĩ linh hồ của bọn ta sợ hãi chạy mất, khiến nội thương của tam đệ ta hết cách cứu chữa, các vị dù có khấu đầu ngàn lần vạn lần cũng chẳng ích gì.

Phàn Nhất Ông kinh ngạc, nghĩ lúc đầu huynh đệ họ Sử chỉ huy hàng ngàn con thú đuổi theo một con cáo nhỏ, không ngờ con tiểu hồ li ấy lại hệ trọng như vậy.

Sát Thần Quỉ nói:

– Con tiểu hồ li ấy có gì đáng giá kia chứ? Ồ, nếu nó đã liên can đến quí thể của Sử tam ca, thì mọi người hợp lực đuổi bắt nó lại, một con tiểu hồ li đâu có đáng gì?

Sử Quí Cường nói to:

– Sao lại không đáng gì? Chỉ cần các hạ bắt lại được con Cửu vĩ linh hồ, thì Sử mỗ sẵn sàng khấu đầu trước các hạ một trăm, không, một ngàn lần cũng cam lòng.

Giọng nói về cuối hơi nghẹn ngào.

Phàn Nhất Ông nghĩ: “Huynh đệ họ Sử giỏi thuần dưỡng dã thú, thời nay không ai sánh kịp. Họ đã bảo khó như vậy, thì người khác còn hi vọng gì?” Nghĩ đến đây, lão bất giác nhìn Dương Quá.

Quách Tương không nhịn được, nói xen vào:

– Các vị nói qua nói lại, sao không nhờ Thần điêu hiệp?

Quản Kiến Tử Sử Trọng Mãnh chợt nghĩ: “Thần điêu hiệp võ công cao siêu khôn lường, không chừng chàng ta có cách”, bèn nói:

– Tiểu cô nương thì biết cái gì? Trừ phi Đại La Kim tiên hạ phàm, ngoài ra không ai có thể bắt nổi Cửu vĩ linh hồ.

Dương Quá mỉm cười, thừa hiểu y nói khích, nhưng chàng im lặng. Quách Tương nói:

– Cửu vĩ linh hồ rốt cuộc có cái gì kỳ lạ, mong Sử nhị thúc nói cho biết.

Sử Trọng Mãnh thở dài, nói:

– Cuối năm ngoái, tam đệ của ta ở Lương Châu có giúp kẻ yếu chống kẻ mạnh, động thủ với đối phương, bị đối phương dùng quỉ kế, tam đệ ta thiếu cẩn thận, bị trọng thương…

Quách Tương lấy làm lạ:

– Vị Sử tam thúc võ công rất cao, kẻ nào lợi hại đến thế?

Sử Thúc Cương nói:

– Cô nương quá khen, tại hạ có một chút bản lĩnh, thật có khác gì ánh sáng đom đóm. Cô nương nói thế, chỉ tổ Thần điêu đại hiệp chê cười tại hạ đó.

Quách Tương nhìn Dương Quá, nói:

– Thần điêu đại hiệp tất nhiên khác người, tiểu nữ muốn biết đó là kẻ nào?

Sử Trọng Mãnh nói:

– Đả thương tam đệ của ta là một vương tử Mông Cổ, tên gọi Hoắc Đô, nghe đâu là đệ tử của Đệ nhất Hộ quốc đại sư Kim Luân pháp vương.

Dương Quá nghĩ bụng: “Thì ra hắn, hèn chi võ công lợi hại”.

Quách Tương nói với Dương Quá:

– Thần điêu hiệp, xin đại hiệp hãy đánh cho tên vương tử Mông Cổ một trận, trả thù cho Sử tam thúc!

Sử Trọng Mãnh nói:

– Việc đó không dám phiền đến đại giá của Thần điêu hiệp, chỉ cần tam đệ của ta khỏi bệnh, sẽ đi tìm hắn, đấu một trận chính đại quang minh, vị tất đã thua. Có điều là nội công của huynh đệ chúng tôi thuộc một phái riêng, sau khi bị nội thương chữa lâu không đỡ phải uống máu con Cửu vĩ linh hồ mới có thể lành.

Quách Tương và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cùng ồ lên:

– Thì ra vậy.

Sử Trọng Mãnh nói:

– Cửu vĩ linh hồ là con vật cực hiếm, cực linh dị trong bách thú. Năm huynh đệ chúng tôi tìm kiếm hơn một năm, mới phát hiện tung tích Cửu vĩ linh hồ ở Tấn Nam. Con vật này ẩn thân ở một nơi cũng rất kỳ dị, trong một cái đầm lầy bùn cách đây hơn ba mươi dặm về phía tây bắc…

Sát Thần Quỉ hỏi:

– Một cái đầm lầy bùn ư? Là đầm Hắc Long phải không?

Sử Trọng Mãnh nói:

– Đúng thế. Các vị ở Tấn Nam lâu, tất nhiên biết đầm Hắc Long rộng vài dặm, chỉ toàn bùn lầy hôi hám, người và thú chẳng thể dung thân. Chúng tôi tốn bao nhiêu công sức mới dụ được Cửu vĩ linh hồ đến cánh rừng này.

Sát Thần Quỉ đại ngộ, nói:

– Ồ, chẳng trách các vị không cho phép chúng tôi xông thẳng qua rừng.

Sử Trọng Mãnh nói:

– Chính vậy. Huynh đệ chúng tôi đến Tấn Nam đây là khách, dù vô lễ mấy cũng không thể bá chiếm đất Tấn Nam, việc này thực là vạn bất đắc dĩ. Cửu vĩ linh hồ chạy nhanh tuyệt luân, ban nãy các vị đều đã chứng kiến tận mắt. Chúng tôi chỉ huy bầy thú đã vây chặt Cửu vĩ linh hồ trong rừng, sắp bắt được nó, không ngờ các vị lại phóng hỏa hai nơi, bầy thú hoảng sợ, Cửu vĩ linh hồ chạy thoát ra mất. Nói thật hổ thẹn, chúng tôi đã dốc toàn lực đuổi theo, nhưng không bắt được nó. Cửu vĩ linh hồ đã chạy thoát về sào huyệt, muốn dụ nó lần nữa thật khó muôn phần. Tam đệ của ta nội thương ngày một trầm trọng, không thể chần chừ, huynh đệ chúng tôi vì quá lo lắng nên hành sự lỗ mãng, nói năng vô lễ, những mong các vị lượng thứ cho.

Nói rồi ôm quyền lắc lắc, mắt chỉ nhìn Dương Quá.

Phàn Nhất Ông nói:

– Việc này đúng là tội mạo phạm của Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ chúng tôi. Nhưng không biết các vị đã dùng cách gì dụ được Cửu vĩ linh hồ tới đây?

Sử Trọng Mãnh nói:

– Loài cáo tính đa nghi, rất khó lừa nó. Cửu vĩ linh hồ giảo hoạt vô tỉ. Chúng tôi phải nướng một ngàn con gà trống, cách vài trượng lại để một con, thổi mùi thơm gà nướng về phía đầm Hắc Long, hôm nay cho nó ăn một con, ngày mai ăn một con, ăn hơn hai tháng liền, nó giảm hẳn sự đề phòng, mới từ từ dụ nó đến cánh rừng này. Bây giờ nó kinh sợ rồi, có dụ mười năm nó cũng chẳng để bị lừa lần nữa.

Phàn Nhất Ông gật đầu:

– Đúng thế. Nhưng nếu chúng ta xông thẳng vào đầm Hắc Long mà bắt, thì sao?

Sử Trọng Mãnh nói:

– Đầm Hắc Long trong vòng mấy dặm toàn là bùn lầy sâu hàng chục trượng, khinh công cao siêu cũng chẳng thể đặt chân; bất kể dùng thuyền bè đều không thể đi vào. Trong khi con Cửu vĩ linh hồ nhân hình nhỏ nhắn, bàn chân lại dày, chạy nhanh như gió, có thể lướt trên mặt đầm.

Quách Tương đột nhiên nghĩ đến đôi chim điêu nhà nàng nuôi, tỷ đệ ba người thường cưỡi điêu bay chơi, Thần điêu này to gấp đôi chim điêu của nhà nàng, có khi hai người cưỡi nó cũng thừa sức, bèn nói:

– Thần điêu hiệp, chỉ cần đại hiệp chịu giúp thì sẽ có cách.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Huynh đệ Sử gia là đại hành gia bắt hổ báo phải hàng phục, mà họ còn bó tay, người khác chỉ mong muốn thôi, đâu có ích gì?

Sử Trọng Mãnh nghe khẩu khí, đoán chàng chịu ra tay cứu giúp, điều này rất hệ trọng đối với sự sống còn của huynh đệ y, thế là chẳng ngại có mặt người ngoài, y liền quì xuống tuyết mà lạy Dương Quá, nói:

– Thần điêu đại hiệp, mạng của xá đệ rất nguy kịch, cúi xin đại hiệp rủ lòng thương.

Sử Bá Uy, Sử Quí Cường, Sử Mạnh Tiệp ba người cũng đều quì xuống.

Dương Quá vội đỡ họ dậy, nói:

– Không dám, không dám.

Mục quang như tia chớp ngó sang phía Quách Tương, nói:

– Cô nương bảo có cách, chúng ta thử nghe cao kiến của tiểu muội xem nào.

Quách Tương nói:

– Đại hiệp cưỡi lên Thần điêu mà bay vào đầm có được chăng?

Dương Quá cười ha hả, nói:

– Vị điêu huynh của ta khác loài chim tầm thường là thân hình quá nặng, không bay được. Đôi cánh sắt của Điêu huynh có thể đập chết hổ báo, song lại chẳng thể bay.

Dương Quá quay sang phía huynh đệ họ Sử, nói:

– Tuy nhiên tiểu đệ cố thử xem sao, nếu không được, xin chư vị đừng trách.

Huynh đệ họ Sử cả mừng, nghĩ vị đại hiệp này lừng danh thiên hạ, một lời đáng giá ngàn vàng, nếu chàng cũng không làm được, thì tức là số mệnh như thế. Sử Bá Uy lại lạy mấy cái, nói:

– Vậy xin mời đại hiệp và chư vị đại ca Tây Sơn vào tệ xá nghỉ một chút, cùng bàn cách.

Phàn Nhất Ông nói:

– Tai họa này do huynh đệ chúng tôi gây ra, chúng tôi xin tuân theo sự sai khiến.

Sử Bá Uy nói:

– Không dám. Mọi người chưa đánh nhau vỡ đầu chưa nhận ra nhau, các vị nếu không ngại, chúng ta hãy kết thành bằng hữu.

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ và huynh đệ họ Sử đã động thủ quá chiêu, đều biết bản lĩnh đối phương, đôi bên vốn không có thù oán gì, chẳng qua nhất thời ngôn ngữ bất hòa, thế là mỗi bên nói vài câu khách sáo, kết bạn với nhau.

Dương Quá nói:

– Bây giờ tiểu đệ đi đến đầm Hắc Long một chuyến, bất kể thành hay bại, cũng sẽ trở lại quí sơn trang.

Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ và huynh đệ họ Sử thấy chàng không rủ ai đi theo, nghe đồn chàng chỉ một mình hành sự, nên tuy họ sẵn sàng xuất lực, cũng không dám tự đề xướng việc trợ giúp.

Dương Quá ôm quyền từ biệt mọi người, quay mình đi về hướng bắc.

Quách Tương nghĩ: “Mình đến đây là để gặp Thần điêu hiệp, hiện đã gặp rồi. Chàng tuy dung mạo xấu xí, nhưng võ công kinh nhân, phù nguy tế khốn, lo cho người khác, quả nhiên xứng danh hai chữ “đại hiệp”, chuyến đi của mình không uổng”. Nhưng không biết chàng sẽ dùng cách gì để bắt Cửu vĩ linh hồ, lòng hiếu kỳ trỗi dậy, tự dưng nàng bước theo sau Dương Quá.

Đại Đầu Quỉ định gọi nàng lại, nhưng nghĩ bụng: “Cô nương ấy quyết ý đi gặp Thần điêu hiệp, tất có điều muốn nói với chàng ta”. Huynh đệ họ Sử không biết lai lịch Quách Tương, càng không tiện nói gì với nàng.

Quách Tương đi theo sau Dương Quá, cách vài trượng, nhất mực muốn xem chàng làm thế nào bắt Cửu vĩ linh hồ; nàng thấy Dương Quá càng đi càng nhanh, Thần điêu sánh vai chàng sải bước, không khác gì ngựa phi. Thoáng chốc Quách Tương đã tụt lại phía sau đến mươi trượng, nhìn ống tay áo phe phẩy của chàng, tựa hồ chàng thong thả đi trên tuyết, song khoảng cách với chàng cứ xa dần. Quách Tương thi triển khinh công gia truyền, ra sức đuổi theo, nhưng sau thời gian uống cạn một tuần trà, Dương Quá và Thần điêu chỉ còn là hai chấm đen trên tuyết.

Quách Tương cuống lên, gọi:

– Ấy, chờ muội với!

Tiếng gọi khiến nội tức bị rối loạn, chân ríu lại, nàng ngã bạch xuống tuyết một cái. Vừa ngượng vừa cuống, bất giác nàng khóc òa lên.

Bỗng nghe một giọng ôn hòa bên tai:

– Sao lại khóc? Kẻ nào khi vũ cô nương?

Quách Tương ngẩng đầu lên, thì ra là Dương Quá, không biết chàng làm thế nào có thể quay lại nhanh đến thế. Nàng kinh ngạc và mừng rỡ, cảm thấy áy náy, cúi đầu rút chiếc khăn tay ra lau nước mắt, không ngờ vừa rồi chạy vội, chiếc khăn đã bị rớt mất.

Dương Quá lấy từ trong ống áo ra chiếc khăn, cầm bằng ngón cái và ngón trỏ, cười nói:

– Cô nương tìm cái này phải không?

Quách Tương nhìn đúng là chiếc khăn tay có thêu một bông hoa nhỏ ở góc, bèn nói:

– Phải, là đại hiệp khi vũ muội đó.

Dương Quá lấy làm lạ:

– Sao lại là ta khi vũ cô nương?

Quách Tương nói:

– Đại hiệp đã lấy chiếc khăn của muội, chẳng phải là khi vũ hay sao?

Dương Quá cười, nói:

– Cô nương tự đánh rơi xuống đất, ta có hảo ý nhặt giùm, sao nói là ta lấy chiếc khăn của cô nương?

Quách Tương cười, nói:

– Muội đi đằng sau đại hiệp, muội đánh rơi chiếc khăn thì làm sao đại hiệp lại nhặt được kia chứ? Rõ ràng là đại hiệp đã lấy từ trước.

Kỳ thực Quách Tương đi theo phía sau, Dương Quá đã biết ngay từ đầu, chàng cố ý đi nhanh, thử xem khinh công của nàng ra sao, thấy cô nương tuy còn nhỏ tuổi, nhưng võ công được danh gia truyền thụ; khi phát hiện nàng ngã, sợ nàng bị thương, vội phi trở lại, thấy phía sau nàng mấy trượng có chiếc khăn rơi, chàng bèn nhặt lên, nhưng vì chàng hành động quá nhanh, nên nàng không nhận biết được.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Cô nương họ gì, tên gì? Tôn sư là ai? Vì sao đi theo ta?

Quách Tương nói:

– Quý tính đại danh của đại hiệp? Đại hiệp cho muội biết trước, rồi muội sẽ nói.

Dương Quá mười mấy năm nay ngay diện mạo thật còn không để người ta biết, dĩ nhiên không nói lộ tính danh với một cô nương xa lạ, nên nói:

– Cô nương hơi kỳ quái đấy, đã không chịu nói thì thôi. Hãy cầm lấy chiếc khăn này.

Nói rồi hất nhẹ chiếc khăn khiến nó trải ra, bay tới trước mặt Quách Tương. Quách Tương lấy làm lạ, giơ tay đón, nói:

– Thần điêu hiệp, công phu gì hay vậy? Đại hiệp dạy cho muội được chăng?

Dương Quá thấy nàng thật thà ngây thơ, không sợ gì bộ mặt nạ đáng sợ của chàng, nghĩ: “Mình thử dọa cô nàng xem sao”, đột nhiên gằn giọng:

– Cô nương to gan thật! Vì sao không sợ ta? Ta muốn hại cô nương đấy.

Nói rồi tiến lại, vung tay để ra đòn. Quách Tương kinh ngạc, nhưng lập tức cười khanh khách, nói:

– Muội không sợ đâu. Đại hiệp nếu định hại muội thật, không khi nào lại nói trước. Thần điêu hiệp nghĩa bạc vân thiên, ai lại đi hại một tiểu nữ tử?

Người ẩn sĩ thanh cao nghe thấy câu tán dương này cũng còn thích, Dương Quá tuy không ham nghe người ta ca tụng, nhưng nghe Quách Tương nói bằng một giọng chân thành, quả lộ vẻ thán phục, thì mỉm cười, nói:

– Cô nương không quen biết ta, sao đoán là ta sẽ không hại cô nương?

Quách Tương nói:

– Muội tuy không quen biết đại hiệp, nhưng tối qua ở bến Phong Lăng được nghe nhiều người kể sự tích của đại hiệp, nên muội nghĩ: “Một nhân vật anh hùng như thế, nhất định phải đi gặp mới được”. Cho nên muội mới theo Đại Đầu Quỉ đến gặp đại hiệp.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ta đâu có gì là anh hùng? Cô nương gặp rồi, nhất định cảm thấy không được như nghe đồn.

Quách Tương vội nói:

– Không, không! Đại hiệp không được coi là anh hùng thì còn ai xứng chữ “anh hùng” nữa?

Nói xong, Quách Tương liền cảm thấy câu này không ổn, chẳng hóa ra nàng coi phụ thân không bằng Thần điêu hiệp, bèn nói thêm:

– Đương nhiên, trừ đại hiệp ra, thì cũng còn vài vị đại anh hùng, đại hào kiệt, song đại hiệp là một người trong số đó.

Dương Quá nghĩ: “Một cô bé mười mấy tuổi lại có thể biết vài vị đại anh hùng thế ư?” Chàng mỉm cười, hỏi:

– Cô nương bảo vài vị đại anh hùng, đại hào kiệt ấy là những ai?

Quách Tương nghe giọng chàng có ý coi thường nàng, bèn nói:

– Muội nói ra mà đúng, đại hiệp phải đem muội đi theo bắt Cửu vĩ linh hồ, được không nào?

Dương Quá nói:

– Được, cô nương nói ta coi.

Quách Tương nói:

– Có một vị anh hùng trấn thủ thành Tương Dương, quên mình chống lại Mông Cổ, bảo cảnh an dân. Như thế có được coi là vị đại anh hùng hay chăng?

Dương Quá giơ ngón tay cái, nói:

– Được! Quách Tĩnh Quách đại hiệp đúng là một vị đại anh hùng.

Quách Tương nói:

– Còn một vị nữ anh hùng, phò tá phu quân, kháng địch thủ thành, mưu trí vô song, liệu sự như thần. Có được coi là vị đại anh hùng hay chăng?

Dương Quá nói:

– Cô nương định nhắc đến Quách phu nhân Hoàng bang chủ phải không? Ồ, cũng có thể coi là một vị đại anh hùng.

Quách Tương nói:

– Còn một vị lão anh hùng, ngũ hành kỳ thuật, quỉ thần khôn lường, Đạn chỉ thần công, môn nào cũng thạo. Như thế có được coi là vị đại anh hùng hay chăng?

Dương Quá nói:

– Đó là Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư, tiền bối võ lâm, ta hằng kính ngưỡng.

Quách Tương nói ba người, thấy chàng đều thừa nhận, thì rất đắc ý, nói:

– Còn có một vị suất lĩnh Cái Bang, trừ gian sát địch, dốc lòng vì nước vì dân, có được coi là vị đại anh hùng hay chăng?

Dương Quá nói:

– Cô nương định nói về Lỗ Hữu Cước Lỗ bang chủ phải không? Người này võ công không cao lắm, cũng chưa có công lao gì đặc biệt, nhưng với mười chữ “trừ gian sát địch, dốc lòng vì nước vì dân”, có thể coi là một nhân vật đáng nể.

Quách Tương nghĩ: “Đại hiệp tài giỏi, nhãn giới cực cao, mình nói thêm, e rằng chàng sẽ bảo không đúng. Huống hồ, ngoài cha mẹ, ông ngoại, Lỗ lão bá ra, mình không nghĩ ra được ai nữa”. Dương Quá thấy vẻ mặt trù trừ của nàng, nghĩ: “Quách bá bá, Quách phu nhân, Hoàng đảo chủ, Lỗ bang chủ bốn người là hào kiệt nổi danh thiên hạ, tiểu cô nương kể ra được cũng không có gì lạ”, bèn nói:

– Cô nương chỉ cần nói đúng một vị nữa, ta sẽ dẫn cô nương đến đầm Hắc Long bắt Cửu vĩ linh hồ.

Quách Tương định kể đến tỷ phu là Gia Luật Tề, cảm thấy võ công của Gia Luật Tề tuy cao, nhưng chưa xứng ba chữ “đại anh hùng”, còn hai vị sư huynh Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn thì càng không xứng, đang khó nghĩ, chợt nghĩ ra, nói:

– Được, còn một vị cứu khốn phò nguy, trừ cường phù nhược, ai nấy tán dương, Thần điêu đại hiệp! Vị ấy mà không được coi là vị đại anh hùng, thì đại hiệp khó tính quá trời.

Dương Quá cười, nói:

– Cô nương nói rất hay.

Quách Tương hỏi:

– Đại hiệp sẽ dẫn muội đến đầm Hắc Long chứ?

Dương Quá cười, nói:

– Cô nương đã gọi ta là đại anh hùng, đại anh hùng há có thể thất tín với tiểu cô nương? Nào chúng ta đi!

Quách Tương cao hứng đưa tay phải nắm lấy tay trái của chàng. Nàng từ nhỏ đã bầu bạn với hào kiệt trong thành Tương Dương, mọi người đều coi nàng như một tiểu điệt nữ, nàng ứng xử tự nhiên, hoàn toàn không hiềm nam nữ, lúc này quá mừng, cũng không coi Dương Quá như người xa lạ.

Dương Quá tay trái bị nàng nắm chặt, cảm thấy bàn tay nhỏ nhắn rất êm dịu của nàng thì lại hơi ngượng, nếu gỡ ra, tức là mình vô lễ, chàng liếc nhìn nàng một cái, thấy nàng hồ hởi, chứ không có ý gì khác, bèn mỉm cười, đưa tay chỉ về hướng bắc nói:

– Đầm Hắc Long đằng kia, sắp đến nơi rồi.

Mượn động tác chỉ đó, chàng rút tay ra khỏi bàn tay nàng. Dương Quá hồi thiếu niên cười nói không chút ngại ngần với các thiếu nữ, nhưng từ khi Tiểu Long Nữ bỏ đi, chàng như thu mình lại, mười mấy năm hành tẩu giang hồ, mỗi lần gặp thiếu nữ, chàng đều giữ lễ nghiêm nghị còn hơn cả tiên sinh đạo học. Tuy thấy Quách Tương thuần khiết vô tà, nhưng mười mấy năm cẩn thận đã quen, ngay bàn tay nàng, chàng cũng không dám cầm lâu.

Quách Tương thì hồn nhiên sánh vai chàng mà đi, đi mấy bước, thấy Thần điêu hình dạng tuy xấu, nhưng thân thể hùng vĩ, nàng bèn giơ tay vỗ vỗ nhẹ vào lưng nó. Nàng từ nhỏ vẫn đùa nghịch với đôi chim điêu trắng ở nhà mình, cũng hay vỗ vỗ như vậy. Nào ngờ Thần điêu hơi xù cánh, hất nhẹ tay nàng ra. Quách Tương giật mình, kêu ôi một tiếng.

Dương Quá cười, nói:

– Điêu huynh đừng giận! Hà tất phải giáo huấn một tiểu cô nương nhà khác?

Quách Tương lè lưỡi, lánh sang bên tay phải của chàng, không dám đi cạnh Thần điêu nữa. Nàng đâu biết rằng đôi chim điêu của nhà nàng vẫn là gia súc, còn Thần điêu đối với Dương Quá nửa là thầy, nửa là bạn, nói về tuổi tác, thân phận, lại càng khác xa.

Hai người một điêu đi đến đầm Hắc Long, nơi này rất dễ nhận biết, trong phạm vi bảy tám dặm vuông không có cây cỏ gì hết. Đầm Hắc Long vốn là một cái hồ lớn, nước tù đọng, sau nhiều năm cạn dần, biến thành một đầm lầy khổng lồ. Bằng thời gian ăn xong một bữa cơm, Dương Quá và Quách Tương đã đến bên bờ đầm lầy, nhìn ra xa, trước mắt chỉ thấy tử khí nặng nề, ở giữa đầm lầy nổi lên nhiều đống củi rác, con Cửu vĩ linh hồ chắc ẩn náu ở chỗ đó.

Dương Quá bẻ một cành cây ném xuống đầm. Thoạt đầu cành cây nằm ngang trên mặt tuyết, sau đó chìm dần, tuy thế chìm rất chậm, nhưng không hề dừng, cuối cùng cành cây biến mất tiêu. Quách Tương không khỏi kinh hãi: “Cành cây rất nhẹ mà còn như thế, con người làm sao có thể đặt chân trên đầm lầy?” Nàng nhìn Dương Quá, chưa biết chàng sẽ có diệu kế gì.

Dương Quá bẻ hai cành cây, mỗi cành dài chừng sáu thước, tước hết các cành nhỏ, buộc bên dưới bàn chân, nói:

– Ta thử xem có được hay không đã.

Chàng chúi người về phía trước, giống như người trượt đi trên tuyết, chỉ thấy chàng chúi người sang bên này bên kia mà lướt đi, không dừng lại chút nào, chàng lượn một vòng trên mặt đầm lầy, rồi trở về chỗ xuất phát.

Quách Tương vỗ tay cười, nói:

– Hảo bản sự, hảo công phu!

Dương Quá thấy ánh mắt nàng đầy vẻ thích thú, biết nàng chỉ mong theo mình vào đầm bắt Cửu vĩ linh hồ, nhưng tự lượng nàng không đủ bản lĩnh khinh công, nên cười, nói:

– Ta đáp ứng đưa cô nương vào đầm lầy bắt Cửu vĩ linh hồ, cô nương có dám không nào?

Quách Tương khe khẽ thở dài, nói:

– Muội không có được bản lĩnh như đại hiệp, dù có dám cũng chịu.

Dương Quá cười không nói, bẻ hai cành cây, mỗi cành dài chừng năm thước, đưa cho nàng, nói:

– Hãy buộc vào dưới bàn chân!

Quách Tương mừng rỡ, buộc chặt cành cây vào dưới bàn chân. Dương Quá nói:

– Hãy hơi chúi người về đằng trước, đừng dồn chút sức nào xuống chân cả.

Tay trái chàng cầm tay phải của Quách Tương, nói:

– Đừng sợ!

Rồi chàng vừa nhấc vừa kéo, Quách Tương không tự chủ được, lướt đi theo chàng trên đầm lầy, thoạt tiên còn hoảng, sau khi trượt đi vài trượng, chỉ cảm thấy người nhẹ lâng lâng như cưỡi gió mà đi, chân không hề dùng sức, miệng nói:

– Thích quá, thích quá!

Hai người lướt đi một hồi, Dương Quá bỗng kêu lên:

– Lạ thật!

Quách Tương hỏi:

– Cái gì kia?

Nàng hơi ngưng thần, dưới chân hơi nặng, chân trái ấn xuống một chút, bùn đã ngập mu bàn chân, nàng vội kêu “Ôi chao!”. Dương Quá nhấc nàng lên, nói:

– Nhớ luôn luôn di động, nhất thiết không được dừng lại.

Quách Tương nói:

– Phải rồi, đại hiệp vừa nhìn thấy gì vậy? Cửu vĩ linh hồ à?

Dương Quá nói:

– Không phải! Trong đầm lầy hình như có người ở.

Quách Tương lấy làm lạ:

– Con người làm sao sống ở đây được?

Dương Quá nói:

– Ta cũng không hiểu. Nhưng các đống củi có bố trí rất lạ, hoàn toàn không phải vật tự nhiên.

Lúc này hai người đã tới gần các đống củi cỏ, Quách Tương nhìn kỹ, nói:

– Đúng vậy, Ất mộc ở phía đông, Bính hỏa ở phía nam, Mậu thổ ở giữa, phía bắc lại không phải là Quý thủy, mà là tượng Canh kim.

Nàng từ nhỏ nghe mẫu thân đàm luận về sự biến hóa âm dương ngũ hành, cũng học được đôi điều. Tính cách nàng khác hẳn Quách Phù, tuy hào sảng, nhưng không lỗ mãng, lại thông minh hơn tỷ tỷ rất nhiều.

Hoàng Dung thường nói:

– Ông ngoại của con mà gặp con, chắc chắn sẽ thích lắm.

Hoàng Dược Sư rất giỏi các môn tạp học y bốc tinh tướng, cầm kỳ thư họa cùng binh pháp. Quách Tương còn rất nhỏ tuổi, đã có nhiều điểm giống ông ngoại, hay quan tâm nhiều chuyện, võ công tiến cảnh chậm chạp, đồng thời suy nghĩ kỳ quái, hành sự tùy hứng, thường gây bất ngờ, khiến cho Quách Tĩnh, Hoàng Dung hết sức nhức đầu. Ở nhà đặt cho nàng ngoại hiệu “Tiểu Đông Tà”. Tỷ như việc nàng đem kim thoa đổi lấy bữa tiệc rượu đãi mọi người, rồi theo Đại Đầu Quỉ không quen biết đi gặp Thần điêu hiệp, tiếp đó lại theo Thần điêu hiệp không quen biết đi bắt Cửu vĩ linh hồ, can đảm và tùy hứng đến thế thì ngay Hoàng Dung, Quách Phù hồi trẻ cũng thua xa. Dương Quá nghe nàng nói rõ phương vị bố trí các đống cỏ thì rất ngạc nhiên, hỏi:

– Sao cô nương biết? Ai dạy cô nương vậy?

Quách Tương cười đáp:

– Muội xem sách đấy, cũng không biết có đúng hay không. Nhưng muội cho rằng cách bố trí ở đây cũng bình thường, chẳng có gì lạ, không phải có vị cao nhân ghê gớm nào đâu.

Dương Quá gật đầu, nói:

– Nhưng người ấy có thể sống trên đầm lầy mà không bị chìm, thì lạ lắm đấy.

Thế là chàng cất tiếng gọi to:

– Vị bằng hữu trong đầm Hắc Long, có khách tới đây!

Đợi một lát, trong đầm tĩnh mịch vô thanh… Dương Quá gọi lần nữa, vẫn không ai trả lời. Dương Quá nói:

– Xem ra tuy có người chất cỏ bày trận, nhưng không sống ở đây, chúng ta tới đó xem sao.

Rồi chàng lướt đi hai chục trượng, tới sát khu vực các đống củi cỏ.

Quách Tương bỗng cảm thấy dưới chân vững chắc, tựa hồ đạp trên đất cứng. Dương Quá cũng phát hiện như vậy, cười, nói:

– Thì ra giữa đầm lầy có một tiểu đảo.

Lời vừa dứt, trước mắt đột nhiên từ trong đống cỏ có hai con cáo nhỏ màu trắng chạy ra, chính là một đôi Cửu vĩ linh hồ, một con chạy về phía đông bắc, một con chạy về phía tây nam, chớp mắt đã vọt ra xa.

Dương Quá nói:

– Cô nương đứng yên ở đây, đừng động.

Rồi chàng đuổi theo con linh hồ chạy về hướng đông bắc. Lúc này chàng không phải dìu Quách Tương, nên thi triển khinh công lướt trên mặt đầm đúng là như chim bay. Song con linh hồ chạy cũng nhanh cực kỳ, không khác gì một luồng khói mỏng vút trở lại, qua ngay trước mặt Quách Tương. Bỗng có tiếng gió nhẹ, Dương Quá đã lướt tới, ống tay áo vung ra định cuốn lấy con linh hồ; con linh hồ liền nhảy vọt lên, lộn một vòng trên không trung, khiến ống tay áo của Dương Quá cuốn hụt. Quách Tương thốt lên:

– Tiếc quá!

Chỉ thấy một người một cáo cứ vun vút lướt đi như tia chớp trên mặt tuyết trắng, làm cho Quách Tương đứng nhìn thích thú, không ngớt kêu lên trợ uy cho Dương Quá:

– Thần điêu hiệp, nhanh chút nữa! Cửu vĩ linh hồ, mi rốt cuộc chạy chẳng thoát đâu, chi bằng đầu hàng sớm đi thì hơn!

Con linh hồ thứ hai cứ chui đống cỏ này lại nhảy sang đống cỏ kia, chốc chốc lại chạy gần chỗ Dương Quá.

Dương Quá biết nó cố ý làm rối trí chàng, nên cứ coi như không thấy nó, chỉ đuổi theo con linh hồ thứ nhất, chờ con đó kiệt sức vì chạy. Ai dè linh hồ nhỏ con, nhưng rất dẻo dai, tự biết hôm nay gặp đại nạn, nên cứ ráng sức chạy, không có dấu hiệu gì chứng tỏ sắp kiệt sức.

Dương Quá cảm thấy hưng phấn, càng chạy càng nhanh, thấy con linh hồ thứ hai muốn cứu đồng bọn, lại chạy xéo qua, chàng cười mắng nó:

– Tiểu súc sinh, chẳng lẽ ta không trị nổi ngươi.

Chàng cúi xuống vốc một nắm tuyết, ném vù một cái trúng ngay đầu con linh hồ thứ hai, thấy nó lập tức ngã lăn quay. Dương Quá không muốn giết chết nó, chàng xuất thủ rất nhẹ, con linh hồ lăn vài vòng, rồi đứng dậy, chui vào một đống cỏ, không dám ló mặt ra nữa.

Dương Quá có thể dùng cách tương tự để bắt con linh hồ thứ nhất đang chạy thục mạng, nhưng chàng có ý đua cước lực với nó. Chàng nói:

– Tiểu hồ li, nếu ta dùng tuyết ném mi, mi có chết cũng không tâm phục. Đại trượng phu quang minh chính đại, nếu ta không đuổi kịp mi, ta sẽ tha chết cho mi.

Chàng hít một hơi dài, nhào người về đằng trước, mượn thế lướt nhanh, cuối cùng đã vọt tới trước con linh hồ, quay người đưa tay chộp. Con linh hồ cả kinh, chạy sang bên phải. Dương Quá đã chờ sẵn, phất tay áo cuốn lấy con linh hồ vào trong ống tay áo rỗng, tay trái túm gáy nó nhấc lên, trong lúc đắc ý cười phá lên ha hả.

Nhưng chàng đang cười bỗng ngừng bặt, vì thấy con linh hồ duỗi thẳng cẳng, không cựa quậy gì hết, có lẽ nó chết rồi. Dương Quá nghĩ: “Hỏng, mình vung tay áo quá mạnh, con linh hồ không ngờ quá yếu như vậy; không biết máu của con linh hồ đã chết có thể chữa trị nội thương cho Sử tam ca được chăng?”

Chàng cầm con linh hồ lướt đến chỗ Quách Tương nói:

– Con này chết rồi, sợ không sử dụng được, chúng ta phải bắt lấy con linh hồ còn sống kia mới được.

Chàng nói và buông rơi con linh hồ xuống tuyết.

Chàng lo nó giả chết, nên sau khi buông nó ra, ống tay áo sẵn sàng, hễ nó động đậy chàng sẽ cuốn nó lại ngay, nhưng con linh hồ không hề cựa quậy, rõ ràng nó đã chết.

Quách Tương nói:

– Con tiểu hồ li trông khả ái thật, không ngờ nó chạy đến nỗi kiệt sức mà chết.

Nàng cầm một thanh củi, nói:

– Để muội đuổi con linh hồ thứ hai chạy ra, đại hiệp cứ chờ ở đây.

Nói đoạn nàng tiến tới mấy bước, thọc que củi vào đống cỏ khô kia.

Nàng thọc vào rồi, định rút ra thọc chỗ khác bên cạnh, thì lạ thay, không thể rút ra được, tựa hồ có con dã thú nào đó nấp bên trong tóm lấy que củi mà giữ chặt. Quách Tương kêu “Ơ” một tiếng, dùng sức giật mạnh, thì que củi lại tuột khỏi tay mà chui vào trong đống cỏ.

Thế rồi từ trong đống cỏ chui ra một lão thái bà tóc bạc phơ, áo quần lam lũ. Lão phụ hầm hầm nhìn Quách Tương, giơ que củi lên như sắp đánh. Quách Tương cả sợ, vội nhảy lùi về bên cạnh Dương Quá.

Lúc ấy con linh hồ chết nằm dưới đất bỗng bật dậy, chui vào vòng tay của lão phụ, đôi mắt nhỏ long lanh nhìn Dương Quá, thì ra là nó giả chết.

Dương Quá nhìn cảnh ấy vừa tức vừa buồn cười, nghĩ: “Hôm nay mình lại thua một con tiểu súc sinh, xem chừng cặp linh hồ kia là do lão phụ nuôi. Người này không biết là ai, giang hồ chưa nghe nói gì về nhân vật này. Muốn bắt con linh hồ, e không dễ với lão phụ”, bèn xuôi tay nói:

– Vãn bối mạo muội tới đây, xin tiền bối tha tội.

Lão phụ nhìn cành cây buộc dưới hai người, sắc diện hơi có vẻ kinh dị, nhưng lập tức trở lại bình thường, nói:

– Lão phụ nhân ẩn cư chốn hoang vu không tiếp khách, các người hãy đi đi!

Giọng nói nghe nhỏ nhưng gay gắt, mày hơi cau, lộ rõ vẻ khó chịu.

Dương Quá thấy lão phụ dung nhan đáng sợ, nhưng mi mục thanh tú, thời trẻ hẳn là một mỹ nhân, không biết người này là ai, lại thi lễ, nói:

– Tại hạ có một vị bằng hữu bị nội thương, cần có huyết của Cửu vĩ linh hồ mới chữa được, kính xin lão tiền bối khai ân ban cho, cứu mạng một người, tại hạ và người ấy cùng đội ơn tiền bối.

Lão phụ ngừa mặt cười hô hô, ha ha, hi hi hồi lâu không dứt, trong tiếng cười lại chứa đựng sự thê thảm và độc ác. Lão phụ cười một hồi, rồi nói:

– Bị nội thương à, phải cứu mạng hắn à? Hay đấy, thế tại sao hài nhi của ta bị nội thương, kẻ khác lại nhất quyết không chịu cứu mạng nó?

Dương Quá ngạc nhiên hỏi:

– Không biết lệnh lang bị nội thương thế nào, bây giờ thì cứu có còn kịp chăng?

Lão phụ lại cười ha hả, nói:

– Có còn kịp chăng? Có còn kịp chăng? Nó chết đã mấy chục năm rồi, xương cốt đã thành đất bụi, ngươi còn hỏi có còn kịp chăng?

Dương Quá biết lão phụ đang nhớ lại chuyện xưa, tâm tính dị thường, không tiện nói gì, chỉ nói:

– Tại hạ mạo muội đến cầu xin con linh hồ, lẽ ra không nên. Tục ngữ có câu “Vô công bất thụ lộc”, lão tiền bối nếu có gì sai bảo mà vừa sức tại hạ, tại hạ xin làm ngay.

Lão phụ đảo mắt qua lại rất nhanh, nói:

– Lão phụ nhân cô cư ở đầm lầy vô thân vô hữu, chỉ có Cửu vĩ linh hồ làm bạn. Ngươi muốn bắt nó đi, cũng được, nhưng hãy để tiểu cô nương ở lại đây với lão phụ mười năm.

Dương Quá cau mày, chưa đáp, thì Quách Tương cười, nói:

– Chỗ này chỉ toàn bùn lầy cỏ khô, chẳng có gì vui chơi. Vãn bối không thích ở đây. Lão tiền bối nếu không ngại một vùng đất rộng chơi đùa thỏa thích, thì hãy đến ở với gia đình vãn bối, ở mười năm cũng được, ở hai mươi năm cũng được, gia gia má má của vãn bối nhất định sẽ coi lão tiền bối như thượng khách, như thế chẳng tốt hơn sao?

Lão phụ sầm mặt lạnh, nói:

– Cha mẹ ngươi là cái thá gì mà mời được ta?

Quách Tương tính nết khoáng đạt đại lượng, người khác dù nói năng thất lễ, nàng cũng chỉ cười, rất ít khi tức giận. Câu nói vừa rồi của lão phụ rõ ràng đắc tội với Quách Tĩnh, Hoàng Dung, nếu là Quách Phù nghe thấy, chắc đã nổi phong ba, đằng này Quách Tương chỉ mỉm cười, nhìn Dương Quá và lè lưỡi.

Dương Quá thấy tiểu cô nương này hiền hòa dễ thân, không hề gây khó dễ gì cho chàng, thì gật đầu nhẹ với nàng, đoạn quay sang lão phụ, nói:

– Được tiền bối để mắt đến tiểu muội muội như thế, vốn là không còn gì bằng, nhưng tiểu muội muội chưa được phụ mẫu cho phép, tự mình lại chưa thể đưa ra chủ ý…

Lão phụ gằn giọng, hỏi:

– Phụ mẫu nó là ai? Ngươi là thế nào đối với nó hả?

Dương Quá hơi lưỡng lự, hai câu nói ấy quả là khó trả lời, thì Quách Tương đã nói:

– Gia gia má má của vãn bối là người thôn quê, có nói tên ra, tiền bối cũng chẳng biết là ai. Còn đây… đây là đại ca ca của vãn bối!

Nói rồi nàng nhìn Dương Quá.

Lúc này Dương Quá cũng đang nhìn nàng. Hai ánh mắt gặp nhau. Dương Quá mang mặt nạ, trông trơ trơ cứng nhắc, không thể hiện vẻ hỉ nộ, nhưng ánh mắt thì lộ rõ ý thân ái trìu mến. Quách Tương xúc động, bất giác nghĩ: “Giá mình quả thật có một vị đại ca ca như Thần điêu hiệp, đại ca ca sẽ chiếu cố, giúp đỡ mình, đâu có như tỷ tỷ chỉ luôn miệng mắng mỏ, không được thế này, không được thế nọ”. Nghĩ thế, sắc diện lộ rõ vẻ ôn nhu kính phục. Dương Quá nói:

– Vâng! Tiểu muội tử của tại hạ nhỏ tuổi chưa hiểu, tại hạ dẫn đi theo cho biết đây biết đó…

Quách Tương chỉ sợ Dương Quá lên tiếng phủ nhận, nghe chàng nói vậy thì cả mừng, lại thấy chàng nói tiếp:

– Muội tử thấy Cửu vĩ linh hồ thần dị như thế, biết tất là do một vị cao nhân tiền bối nuôi dưỡng, cho nên mới đi theo vãn bối cùng đến bái kiến. Được lọt vào mắt tiền bối, thực là hân hạnh.

Lão phụ cười khẩy, nói:

– Đừng có nịnh bợ vô ích. Các ngươi đánh đuổi rượt bắt con linh hồ của ta như thế mà gọi là tôn trọng tiền bối đấy hả? Hãy mau cút xéo đi cho ta, đừng bao giờ vác mặt đến đây nữa!

Nói xong vung song chưởng lên, một chưởng đẩy về phía Dương Quá, một chưởng đẩy về phía Quách Tương. Ba người cách nhau hơn một trượng, lão phụ lăng không xuất chưởng, vốn không thể đánh tới Dương, Quách hai người, nhưng Quách Tương cảm thấy có một luồn hàn phong ập đến. Dương Quá tay áo phẩy nhẹ, hóa giải ngay chưởng phong đánh đẩy về phía Quách Tương, còn chưởng phong đánh về phía chàng thì chàng chẳng buồn để ý.

Lão phụ vốn không định đả thương hai người, chỉ tính đuổi họ ra khỏi đầm Hắc Long, nên chỉ vận năm thành công lực vào chưởng, thấy hai người bình yên vô sự, thì bất giác vừa ngạc nhiên vừa tức giận, ngưng khí đan điền, tăng gấp đôi kình lực mà đẩy song chưởng ra, bất chấp sự sống chết của đối phương.

Quách Tương vừa cảm thấy chưởng phong ào đến, tức ngực khó thở, nhưng Dương Quá liền phất tay áo, hàn khí tiêu luôn, biết hai người lớn đang tỷ thí nội công, nhìn lão phụ hung hăng, trong khi Dương Quá trầm tĩnh nhàn nhã, rõ ràng chàng chiếm thượng phong.

Lão phụ vọt tới như tên bắn, chỉ nghe “bình” một cái, song chưởng đã giáng vào ngực Dương Quá. Lão phụ giáng đòn xong lập tức lùi ra, không để cho đối phương đánh trả, thoắt một cái đã ở xa hai trượng.

Quách Tương cả kinh, kéo tay Dương Quá, hỏi:

– Đại ca ca… có bị thương không?

Lão phụ gằn giọng nói:

– Ngươi đã trúng chưởng lực “Hàn âm tiễn” của ta, không sống nổi đến giờ này ngày mai; đấy là do ngươi tự chuốc lấy, đừng có trách người khác.

Mười lăm năm về trước, võ công của Dương Quá đã cao hơn hẳn lão phụ này, hiện thời chàng nội ngoại kiêm tu, đã đạt cảnh giới tấu nhập thần tòa, chưởng lực “Hàn âm tiễn” của lão phụ dù tàn ác mấy cũng đả thương chàng sao được? Chẳng qua chàng với lão phụ không thù không oán, lại đang cầu xin con vật yêu thích của lão phụ, nên đành tiếp nhận ba chưởng mà không hoàn thủ.

Lão phụ hơn hai chục năm nay khổ luyện chưởng lực “Hàn âm tiễn”, một chưởng đã có thể đánh vỡ cả chồng mười bảy viên gạch xanh, kình lực quả thật ghê gớm. Lão phụ thấy Dương Quá đã trúng song chưởng, chắc hẳn nội tạng đã vỡ nát, lại vẫn nhơn nhơn nói cười vô sự thì nghĩ: “Tên tiểu tử sắp chết còn ngang ngạnh”, nói:

– Hãy nhân lúc còn sống, mau mau đưa con nhóc kia về đi, kẻo chết mất xác trong đầm lầy của ta đấy.

Dương Quá ngẩng đầu, nói:

– Lão tiền bối ẩn cư chốn này, không biết võ học thế gian đa đoan, tu vi của mỗi người đều có sở trường.

Rồi chàng cười to một tràng đầy sảng khoái, rõ ràng trung khí sung mãn, nội lực thâm hậu.

Lão phụ nghe, biết đối phương không hề thụ thương, thì bất giác tái mặt, thân hình loạng choạng, mới biết rằng vừa rồi đối phương nhường cho ba chưởng, mình hoàn toàn không phải là đối thủ của chàng; bèn không đợi chàng cười dứt tiếng, giơ con linh hồ trong bọc lên, huýt gió một tiếng, con linh hồ thứ hai cũng từ trong đống cỏ chui ra, nhảy vào túi của lão phụ.

Lão phụ gằn giọng, nói:

– Tôn giá võ học kinh nhân, khiến người ta thán phục; nhưng muốn ỷ mạnh cướp đoạt con linh hồ của lão bà tử, thì chớ có hòng. Ngươi chỉ bước lên một bước, ta sẽ bóp chết con linh hồ, để ngươi đến tay không, ra về cũng tay không cho coi.

Dương Quá thấy bà lão nói quả quyết, biết tính lão bà ngang ngạnh, thà chết không khuất phục, thành thử chàng rất do dự, nếu chàng xuất thủ điểm huyệt lão bà rồi cướp con linh hồ mang đi, có thể cứu sống Sử Thúc Cương đấy, nhưng lại đả thương một bà lão vô tội hay sao?

Đúng lúc ấy, phía sau bỗng vọng lại tiếng niệm Phật hiệu “A Di Đà Phật” tiếp đến tiếng người nói:

– Lão tăng Nhất Đăng cầu kiến, những mong Anh Cô chấp nhận.

Quách Tương nhìn tứ phía không người, thầm lấy làm lạ, nghe tiếng nói hoàn toàn không vang to, rõ ràng phát ra rất gần, nhưng bốn phía quanh đây không hề có một chỗ ẩn thân, thì người nói ở đâu? Nàng từng nghe mẫu thân nói Nhất Đăng đại sư là một vị cao nhân tiền bối, từng cứu mạng mẫu thân, lại là sư phụ của Võ Tam Thông, phụ thân của huynh đệ họ Võ, chỉ có điều là nàng chưa từng gặp mặt, lúc này đột nhiên nghe hai tiếng “Nhất Đăng” thì cả mừng.

Dương Quá nghe tiếng nói của Nhất Đăng đại sư, cũng vô cùng hoan hỉ. Chàng biết Nhất Đăng đại sư vừa sử dụng phép “Thiên lý truyền âm”. Công phu này tuy gọi là “Thiên lý truyền âm”, dĩ nhiên không phải là nghìn dặm nghe thấy được, song nếu hoàn toàn không có chướng ngại vật lớn, như núi non ngăn cách, thì người công phu cao thâm có thể truyền âm đi xa vài dặm, hơn nữa, nội công càng thâm hậu, thì âm thanh nghe càng nhu hòa. Dương Quá nghe hai câu nói kia, đã rất khâm phục, tự nghĩ vị cao tăng kia nội công quá thâm hậu, chàng không thể sánh kịp, lại nghĩ: “Lão phụ thì ra tên là Anh Cô. Không hiểu Nhất Đăng đại sư muốn gặp lão bà bà có việc gì? Có Nhất Đăng đại sư xuất hiện điều hòa, rất có thể sẽ có được Cửu vĩ linh hồ”.

Lão phụ trên đầm Hắc Long đúng là Anh Cô. Năm xưa, khi Nhất Đăng đại sư còn làm vua nước Đại Lý thì Anh Cô là quí phi trong cung, Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông đã tư thông với Anh Cô, sinh hạ một đứa con trai; sau đó Cầu Thiên Nhẫn dùng Thiết chưởng công đả thương đứa bé, Đoàn Hoàng gia do ghen tức không cứu, đứa bé vì vậy bị chết, Đoàn Hoàng gia liền hối hận xuất gia, lấy pháp hiệu Nhất Đăng.

Anh Cô trên đỉnh Hoa Sơn giết Cầu Thiên Nhẫn không được, đuổi theo Chu Bá Thông cũng không xong, từ đó lang bạt giang hồ, cuối cùng định cư ở đầm Hắc Long này. Nhất Đăng đại sư tới đây đã bảy ngày bảy đêm, ngày nào cũng dùng phép “Thiên lý truyền âm” cầu kiến, nhưng Anh Cô nhớ mối hận mấy chục năm trước Nhất Đăng không cứu con bà, nên không muốn gặp đại sư.

Dương Quá thấy Anh Cô lùi vài bước, ngồi xuống một đống cỏ khô, mục quang lộ rõ thần sắc tàn ác.

Một lát sau, lại nghe Nhất Đăng nói:

– Lão tăng Nhất Đăng từ ngàn dặm lặn lội tới đây, những mong Anh Cô cho được gặp một lần.

Anh Cô cầm hai con linh hồ, chẳng lý gì đến. Dương Quá nghĩ: “Nhất Đăng đại sư võ công cao hơn bà lão rất nhiều, muốn đến gặp, bà lão cản sao được, hà tất phải cầu xin khổ sở như vậy?” Chỉ nghe Nhất Đăng đại sư lại nói một lần nữa, rồi hoàn toàn im lặng.

Quách Tương nói:

– Đại ca ca, Nhất Đăng đại sư là một nhân vật cao siêu, chúng ta đi gặp đại sư xem sao đi?

Dương Quá nói:

– Đúng, ta cũng đang định như thế.

Chàng thấy Anh Cô từ từ đứng dậy, mắt lộ hung quang, thần sắc rất khó coi, chàng bèn nắm tay Quách Tương, nói:

– Đi thôi!

Hai người cùng lướt đi trên mặt tuyết. Quách Tương được Dương Quá kéo đi mấy chục trượng, hỏi:

– Đại ca ca, Nhất Đăng đại sư ở chỗ nào thế? Muội nghe đại sư nói như ngay bên cạnh mình vậy.

Dương Quá hai lần thấy nàng gọi mình là “Đại ca ca”, bằng một giọng rất âu yếm, thân thiết, thì chột dạ nghĩ thầm: “Quyết không để người khác sa vào tình chướng. Tiểu cô nương này nhỏ tuổi vô tri, ngây thơ hồn nhiên, phải kịp thời chia tay với nàng ta để khỏi sinh thị phi”. Nhưng giữa đầm lầy thế này không thể dừng chân giây lát, càng không thể buông tay nàng ra. Quách Tương nói:

– Muội hỏi gì, đại ca ca không nghe thấy ư?

Dương Quá nói:

– Nhất Đăng đại sư ở phía đông bắc, cách chúng ta vài dặm, đại sư nói tưởng ở gần, thật ra ở xa, đấy là dùng phép “Thiên lý truyền âm”.

Quách Tương nói:

– Đại ca ca cũng biết phép đó chứ? Dạy cho muội với được chăng? Sau này hai chúng ta cách nhau ngàn dặm, muội dùng phép ấy nói chuyện với đại ca ca, chẳng thích lắm sao?

Dương Quá cười, nói:

– Gọi là “Thiên lý truyền âm”, kỳ thực chỉ nghe được trong vài dặm đã là công phu cao siêu lắm rồi. Muốn luyện được công lực như Nhất Đăng đại sư, người thông minh như cô nương cũng phải luyện đến lúc bạc phơ mái đầu đấy.

Quách Tương nghe chàng khen mình thông minh thì cao hứng nói:

– Muội thì thông minh nỗi gì? Chỉ mong bằng được một phần mười mẫu thân muội, cũng đã tâm mãn ý túc rồi.

Dương Quá chợt thấy nét mặt Quách Tương có vài phần hao hao Hoàng Dung, nghĩ: “Bình sinh nhân vật sở kiến, bất luận nam nữ, nói về thông minh cơ biến, không một ai theo kịp Quách bá mẫu, không lẽ cô nương này lại là con gái của Quách bá mẫu? Thế gian làm gì có sự trùng hợp thế được. Nếu quả thực nàng ta là con gái Quách bá mẫu, Quách bá bá nhất định không để cho nàng đi loạn ra bên ngoài thế này”, bèn hỏi:

– Lệnh đường là ai?

Quách Tương ban nãy trót nói phụ mẫu là đại anh hùng, lúc này không tiện bảo mình là con gái của Quách Tĩnh, Hoàng Dung, chỉ cười, nói:

– Mẫu thân của muội là mẫu thân của muội, có nói tên ra đại ca ca cũng chẳng biết. Đại ca ca, bản sự của đại ca ca so với Nhất Đăng đại sư, ai cao hơn?

Dương Quá hiện thời đã gần tuổi trung niên, lại từng trải bao đau khổ vì phải chia tay với Tiểu Long Nữ, tuy hào khí không giảm, nhưng tính nết huênh hoang thời trai trẻ đã loại trừ quá nửa, nói:

– Nhất Đăng đại sư vọng trọng võ lâm, mấy chục năm trước đây tề danh cùng Đào Hoa đảo chủ, là một trong năm đại cao nhân, tức Nam Đế, ta làm sao sánh được với Người?

Quách Tương nói:

– Nếu đại ca ca ra đời sớm vài chục năm, thì đương thời sẽ có sáu đại cao thủ. Đó là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, Thần điêu hiệp. À còn có Quách đại hiệp và Quách phu nhân. Vị chi là tám đại cao thủ.

Dương Quá không nhịn được, hỏi:

– Cô nương đã gặp Quách đại hiệp và Quách phu nhân hay chưa?

Quách Tương nói:

– Muội tất nhiên đã gặp rồi. Hai người đó thích muội lắm. Đại ca ca cũng quen biết họ à? Chờ khi xong việc cho Vạn Thú sơn trang, muội sẽ cùng đại ca ca đi thăm họ được chứ?

Nỗi oán hận của Dương Quá đối với Quách Phù về chuyện chặt tay chàng, sau ngần ấy năm đã nguôi hẳn, nhưng Tiểu Long Nữ bị trúng chất độc, đến nỗi phải xa chàng mười sáu năm, việc đó không thể không làm cho chàng hết sức căm hận Quách Phù, bèn hờ hững nói:

– Sang năm có thể ta sẽ đi bái kiến phu phụ Quách đại hiệp, nhưng phải chờ sau khi ta gặp được thê tử của ta đã, bấy giờ vợ chồng ta sẽ cùng đi với nhau.

Vừa nhắc đến Tiểu Long Nữ, lòng chàng trở nên đại phấn chấn.

Quách Tương cũng cảm thấy lòng bàn tay chàng đột nhiên ấm lên, nàng hỏi:

– Phu nhân của đại ca ca nhất định phải đẹp lắm, võ công cũng cao phải không?

Dương Quá thở dài, nói:

– Trên thế gian không ai xinh đẹp như nàng, ồ, nói về võ công, thì hiện thời chắc cao hơn ta gấp bội.

Quách Tương cảm thấy vô cùng kính nể, nói:

– Đại ca ca, đại ca ca nhất định phải dẫn muội đi gặp phu nhân đấy, có được không đại ca ca?

Dương Quá cười, nói:

– Có gì mà không được? Nội nhân nhất định cũng sẽ thích cô nương, bấy giờ cô nương hãy gọi ta là đại ca ca.

Quách Tương sững lại, hỏi:

– Vì sao bây giờ không được gọi thế?

Nàng dừng lại một chút, bàn chân phải liền chìm xuống bùn. Dương Quá kéo nàng lướt đi hơn chục trượng, nhìn xa xa thấy có một người đứng trên tuyết, râu trắng rủ dài xuống ngực, thân khoác tăng bào màu xám, chính là Nhất Đăng đại sư, bèn cao giọng lên tiếng:

– Đệ tử Dương Quá khấu kiến đại sư.

Rồi hít một hơi, kéo Quách Tương lướt nhanh tới.

Chỗ Nhất Đăng đại sư đang đứng là bờ đầm, bên ngoài đám bùn lầy, nghe bốn chữ “đệ tử Dương Quá”, Nhất Đăng đại sư vui mừng, thấy chàng vái sát đất, vội đỡ lên, cười nói:

– Dương hiền điệt thần công có tiến cảnh thế này, thật đáng mừng.

Dương Quá đứng dậy, thấy phía sau lưng Nhất Đăng đại sư có một người nằm trên tuyết, sắc diện vàng vọt, hai mắt nhắm nghiền, trông như một tử thi, bất giác ngẩn ra, nhìn kỹ chính là Từ Ân, kinh ngạc hỏi:

– Từ Ân đại sư sao vậy?

Nhất Đăng đại sư thở dài, nói:

– Y bị thương bởi chưởng lực kẻ khác, lão nạp đã tận lực cứu chữa nhưng không cứu nổi. Dương Quá cúi xuống xem mạch cho Từ Ân, thấy mạch đập chậm và yếu, cách quãng lâu mới lại đập khẽ một cái, nếu Từ Ân không có nội công thâm hậu, thì đã chết từ lâu, chàng hỏi:

– Từ Ân đại sư võ công cao thế, không biết sao lại bị kẻ địch hạ độc thủ?

Nhất Đăng đại sư nói:

– Ta cùng Từ Ân ẩn cư tại Nam Hồ, gần đây nghe tin đại quân Mông Cổ đánh thành Tương Dương lâu năm không được, đem quân đi đường vòng tấn công nước Đại Lý, sau đó sẽ đánh vu hồi thành Tương Dương. Từ Ân thấy lão nạp thương nhớ cố quốc mới đi dò la tin tức, dọc đường gặp kẻ địch, đôi bên giao đấu một ngày một đêm, cuối cùng Từ Ân bị hắn đả thương.

Dương Quá liền nói:

– Ồ, thì ra lão tặc Kim Luân pháp vương lại tới Trung Nguyên!

Quách Tương lấy làm lạ, hói:

– Làm sao đại ca ca biết hắn là Kim Luân pháp vương, trong khi Nhất Đăng đại sư chưa nói?

Dương Quá nói:

– Nhất Đăng đại sư bảo Từ Ân đại sư đấu một ngày một đêm, tức là không phải bị kẻ khác dùng gian kế ám toán. Mà thời nay dùng chưởng lực đả thương được Từ Ân đại sư, chỉ có vài ba người thôi, trong số vài ba người ấy, chỉ duy nhất Kim Luân pháp vương là kẻ gian ác.

Quách Tương nói:

– Đại ca ca hãy tìm tên gian đồ ấy mà thanh toán đi, được chăng? Như thế sẽ tra thù được cho lão hòa thượng đây.

Từ Ân nằm ngang dưới tuyết, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở thoi thóp, lúc này đột nhiên mở mắt, nhìn Quách Tương lắc lắc đầu. Quách Tương hỏi:

– Tại sao? Đại sư không cần trả thù ư? Ồ, đại sư muốn nói là Kim Luân pháp vương rất lợi hại, sợ đại ca ca của điệt nhi không địch nổi hắn chứ gì?

Nhất Đăng đại sư nói:

– Tiểu cô nương hiểu nhầm rồi. Đệ tử của lão nạp bình sinh tạo nghiệt quá nhiều, mười mấy năm nay gắng sức chuộc tội, ác nghiệp đã tiêu đi quá nửa; nhưng có một việc y canh cánh mãi, lúc lâm chung không thể nhắm mắt. Việc đó hoàn toàn không phải y mong có người trả thù cho y, đánh chết kẻ thù; mà y chỉ mong được tha thứ, mới có thể an tâm tắt thở.

Quách Tương nói:

– Từ Ân đại sư muốn cầu xin lão thái bà trong đầm lầy phải không ạ? Lão bà bà tâm địa hẹp hòi lắm, ai mà đắc tội với bà ta, bà ta quyết không tha thứ cho đâu.

Nhất Đăng đại sư thở dài, nói:

– Đúng thế! Lão nạp đã cầu khẩn ở đây bảy ngày bảy đêm, lão bà bà cũng chưa chịu cho gặp mặt.

Dương Quá chột dạ, bỗng nhớ đến chuyện lão bà bà kể rằng có đứa bé bị thương không được cứu chữa, nói:

– Có phải là do chuyện đứa bé bị thương không được cứu chữa hay không?

Nhất Đăng đại sư hơi giật mình, gật đầu, nói:

– Thì ra Dương hiền điệt cũng đã biết rồi.

Dương Quá nói:

– Đệ tử không rõ nguyên do chuyện đó. Chỉ mới nghe lão tiền bối trong đầm nhắc đến bằng đôi ba câu.

Rồi chàng thuật lại vắn tắt việc truy đuổi Cửu vĩ linh hồ và việc gặp lão bà bà trong kia.

Nhất Đăng đại sư nhỏ nhẹ nói:

– Tên bà ấy là Anh Cô, trước kia từng là thê tử của lão nạp, Anh Cô tính khí mười phần cương cường. Ôi, kéo dài thế này, chỉ e Từ Ân không chịu nổi nữa.

Quách Tương trong lòng lập tức nảy ra nhiều nghi vấn, nhưng nhất thời cũng không dám hỏi.

Dương Quá khảng khái nói:

– Làm người ai chẳng có lầm lỗi, đã biết hối lỗi, thì nên bỏ qua chuyện cũ. Anh Cô lão bà không được độ lượng cho lắm.

Chàng thấy Từ Ân sắp chết, bất giác nổi lòng hiệp nghĩa, nói:

– Đại sư, đệ tử sẽ có cách buộc Anh Cô lão bà phải tới đây nói cho ra lẽ.

Nhất Đăng đại sư trầm ngâm một lát, nghĩ: “Mình và Từ Ân đến đây cầu xin Anh Cô tha thứ, tất nhiên không được dùng vũ lực. Khẩn khoản nhiều ngày nay, Anh Cô trước sau vẫn không chịu diện kiến. Dương Quá nếu có cách gì cứ thử, nếu không được cũng chẳng sao”, bèn nói:

– Nếu hiền điệt có thể khuyên Anh Cô ra gặp thì không còn gì bằng, nhưng nhất thiết đừng làm mất hòa khí, kẻo chỉ tăng thêm tội nghiệt của chúng ta mà thôi.

Dương Quá gật đầu đáp ứng, lấy ra một cái khăn tay, xé thành bốn mảnh, hai mảnh nhét vào lỗ tai Từ Ân, hai mảnh đưa cho Quách Tương, Quách Tương hiểu ý, đút nút tai lại. Dương Quá nói với Nhất Đăng:

– Đệ tử múa rìu qua mắt thợ, xin đại sư đừng chê cười.

Nhất Đăng chắp tay, nói:

– Hiền điệt diệu ngộ thần công, hiếm có trên đời, lão nạp chính cần lĩnh giáo.

Dương Quá nói vài lời khiêm nhường, rồi ngưng khí đan điền, tay trái chống nạnh, ngửa cổ mà hú.

Tiếng hú thoạt tiên nghe thanh và rõ, càng lúc càng vang động, như tiếng sấm ì ầm xa xa, rồi đột nhiên đoành đoành như tiếng sấm sét giữa trời, Quách Tương tuy hai tai đã đút nút, vẫn bị tiếng hú làm chấn động tâm trí, tái cả mặt. Nàng cả sợ, chỉ mong Dương Quá sớm ngừng hú, song tiếng sấm sét vẫn nổi lên từng chập không dứt, lại kèm theo tiếng cuồng phong ào ào. Quách Tương kêu lên:

– Đừng hú nữa, muội chịu hết nổi rồi!

Nhưng tiếng kêu của nàng bị át hẳn bởi tiếng hú của Dương Quá, chính nàng cũng chẳng nghe thấy chút gì, chỉ cảm thấy hồn phi phách tán, tựa hồ xương cốt toàn thân đều bị tiếng hú chấn động.

Lúc ấy Nhất Đăng bèn giơ tay nắm lấy bàn tay nàng. Quách Tương định thần, cảm thấy có một luồng khí ấm từ bàn tay Nhất Đăng truyền sang, biết đại sư dùng nội lực giúp nàng trấn tĩnh, thế là nàng nhắm mắt cúi đầu, ngầm tự vận công, tiếng bên tai tuy vẫn ầm ầm như thiên binh vạn mã chạy qua, nhưng đã không khiến người ta kinh hoàng như cũ.

Dương Quá hú rất dài, bằng thời gian ăn xong một bữa cơm, mà âm thanh vẫn chưa có vẻ yếu đi, thậm chí còn mạnh hơn. Nhất Đăng nghe cũng thầm thán phục, tuy thấy tiếng hú quá ư bá đạo, không phải là chính khí thuần dương, nhưng nghĩ thời mình khỏe mạnh nhất cũng không có được nội lực sung mãn thế này, bây giờ tuổi già lực suy, càng thua kém xa; nghĩ bụng Dương Quá nội lực cương mãnh, thật không một cao thủ đương thời nào sánh kịp, không biết chàng đã luyện bằng cách nào. Việc Dương Quá cùng Thần điêu luyện công trong sóng biển, Nhất Đăng hoàn toàn không biết.

Sau thời gian bằng cháy hết nửa nén nhang nữa, có một bóng đen từ đầm Hắc Long lướt tới. Dương Quá phất tay áo, ngừng hú. Quách Tương thở ra một hơi dài, cảm thấy nôn nao chóng mặt. Chỉ nghe bóng đen kia nói bằng giọng the thé:

– Đoàn Hoàng gia, vương gia giở thói bá đạo, bức ta diện kiến, rốt cuộc là để làm gì?

Nhất Đăng nói:

– Đấy là vị Dương hiền điệt hú to mời người.

Trong lúc nói, bóng đen đã tới trước mặt, chính là Anh Cô. Lão bà bà nghe Nhất Đăng nói vậy thì kinh nghi bất định, nghĩ: “Thế gian trừ Đoàn Hoàng gia, vẫn có người nội lực cao thâm đến mức đó kia ư? Người này tuy mặt mũi khó coi, nhưng râu tóc vẫn đen, cùng lắm chỉ ngoài ba mươi tuổi, làm sao có được công lực nhường ấy? Ban đầu hắn nhận ba chưởng của ta mà không hề hấn, đã đáng kinh ngạc, tiếng hú vừa rồi thật là ghê gớm”. Tiếng hú của Dương Quá khiến lão bà bà tâm thần bất định, biết nếu không ra gặp, tất sẽ bị đối phương làm cho thần trí hỗn loạn, bị nội thương trầm trọng, bị đối phương khống chế, không thể không ra, thần sắc mười phần miễn cưỡng.

Anh Cô định thần, lạnh lùng nói với Dương Quá:

– Cửu vĩ linh hồ ta sẽ cho ngươi, lão bà tử coi như phục ngươi, hãy mau xéo đi cho ta.

Nói đoạn cầm gáy con linh hồ định ném về phía Dương Quá. Dương Quá nói:

– Khoan đã, Cửu vĩ linh hồ là chuyện nhỏ, Nhất Đăng đại sư có việc cầu kiến, xin lão bà hãy nghe đại sư nói.

Anh Cô lạnh lùng nhìn Nhất Đăng, nói:

– Nào thử nghe Đoàn Hoàng gia hạ chỉ!

Nhất Đăng nói:

– Chuyện xưa đã qua như một giấc mộng, còn xưng hô lối cũ làm chi? Anh Cô, lão bà có nhận ra hắn hay không?

Rồi đưa tay chỉ Từ Ân nằm dưới tuyết. Hiện thời Từ Ân đã dùng trang phục của hòa thượng, khác hẳn lần gặp hơn ba mươi năm trước trên đỉnh Hoa Sơn, diện mạo cũng khác hẳn. Anh Cô nhìn Từ Ân, nói:

– Ta không thể nhận ra hắn là ai.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Người nặng tay đả thương hài nhi của lão bà là ai?

Anh Cô toàn thân run rẩy, sắc mặt từ trắng chuyển sang đỏ, rồi lại từ đỏ chuyển sang trắng, nói:

– Tên ác tặc Cầu Thiên Nhẫn ấy, dẫu xương thịt thành tro, ta cũng nhận ra hắn.

Nhất Đăng đại sư thở dài, nói:

– Chuyện mấy chục năm trước, lão bà vẫn không quên nỗi oán độc. Người này chính là Cầu Thiên Nhẫn Lão bà ngay đến diện mạo của hắn còn không nhận ra, vậy mà cứ nhớ mối hận ngày xưa.

Anh Cô kêu to một tiếng, sấn tới, mười ngón tay như chùm móc câu định chụp xuống ngực Từ Ân, nhìn qua diện mạo y, thấy quả nhiên hao hao Cầu Thiên Nhẫn, nhưng nhìn kỹ thì hình như không phải, thấy người kia hai má hõm sâu, nằm bất động dưới đất, tựa hồ quá nửa đã chết, liền quát:

– Mi có đúng là Cầu Thiên Nhẫn hay không? Mi đến gặp lão bà nương làm gì?

Nhất Đăng đại sư nói:

– Hắn chính là Cầu Thiên Nhẫn. Hắn tự biết tội nghiệt quá nặng, đã qui y cửa Phật, làm đệ tử của ta, pháp danh là Từ Ân.

Anh Cô hừ một tiếng, nói:

– Cứ gây tội nghiệt, rồi xuất gia thì sẽ hóa giải, chẳng trách thiên hạ sao mà lắm đạo sĩ với hòa thượng đến thế!

Nhất Đăng nói:

– Tội nghiệt rốt cuộc vẫn là tội nghiệt, há có thể xuất gia là hóa giải xong? Từ Ân thân bị trọng thương, mạng hết trong sớm tối, nghĩ năm xưa đả thương hài nhi của lão bà, lòng không yên, chết khó nhắm mắt, nên cố sống, lặn lội ngàn dặm đến đây, cầu xin lão bà tha tội.

Anh Cô trừng trừng nhìn Từ Ân hồi lâu không chớp mắt, vẻ mặt đầy oán hận, tưởng chừng nỗi thống khổ bất hạnh cả đời đều hiển lộ lúc này.

Quách Tương thấy thần sắc Anh Cô đáng sợ như vậy, lại thấy lão bà bà giơ hai tay sắp đánh xuống, nàng tuy sợ, song không nhịn được, vẫn nói:

– Khoan đã! Từ Ân hòa thượng đã bị thương như vậy, lão bà bà còn đánh nữa, thì đạo lí ở đâu?

Anh Cô cười khẩy, nói:

– Hắn giết hài nhi của ta, ta đau khổ mấy chục năm, hôm nay mới được chính tay mình lấy mạng hắn, coi như đã quá muộn. Ngươi còn hỏi đạo lí cái gì?

Quách Tương nói:

– Từ Ân hòa thượng đã hối ngộ, chuyện cũ hà tất khơi lại làm chi?

Anh Cô ngửa mặt cười to, nói:

– Nhãi con, ngươi nói nghe mới dễ làm sao! Giả dụ hắn giết hài nhi của ngươi, thì ngươi sẽ thế nào đây?

Quách Tương ấp úng:

– Vãn bối… vãn bối… vãn bối làm gì có hài nhi?

Anh Cô nói:

– Hừ, giả dụ hắn giết chồng hay tình nhân của ngươi, thì ngươi sẽ thế nào đây?

Quách Tương đỏ mặt, nói:

– Lão bà bà hồ thuyết bát đạo, vãn bối làm gì có chồng hay tình nhân?

Anh Cô càng tức giận thêm, không muốn dây dưa với tiểu cô nương, chăm chú nhìn Từ Ân, song chưởng lại định đánh xuống, bỗng thấy Từ Ân thở dài một cái, khóe miệng cười cười, nói nhỏ:

– Đa tạ Anh Cô thành toàn!

Anh Cô sững lại, không đánh xuống, quát:

– Thành toàn cái gì?

Lão bà bà chợt hiểu ra tâm ý của Từ Ân, nguyên Từ Ân tự biết mình sắp chết, chỉ mong Anh Cô giáng cho một chưởng chết luôn, trả lại một chưởng năm xưa của y, kết liễu sự oan nghiệt. Anh Cô cười lạnh vài tiếng, nói:

– Đâu có tiện lợi cho ngươi như thế! Ta sẽ không giết ngươi, song cũng không tha cho ngươi!

Ba câu ấy được nói bằng một giọng thâm hiểm, khiến người nghe bất giác sởn gai ốc.

Dương Quá biết Nhất Đăng đại sư quyết không cưỡng ép Anh Cô, còn Quách Tương là một tiểu hài nhi, có nói gì cũng không được Anh Cô coi trọng, nếu chàng không can thiệp, việc này khó bề chấm dứt, bèn nói:

– Anh Cô tiền bối, chuyện ân oán giữa các vị, vãn bối cũng không rõ. Nhưng tiền bối nói năng hành sự có phần cạn tàu ráo máng, vãn bối bất tài, song cũng phải xen vào vậy.

Anh Cô ngảnh lại, lão bà đã đánh chàng ba chưởng, lại nghe tiếng hú của chàng, biết chàng võ công cao siêu, mình không thể đối địch, bây giờ chàng lại đứng ra ép buộc, nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy bi thương, liền ngồi phệt xuống đất mà khóc òa lên.

Không riêng Dương Quá và Quách Tương, ngay cả Nhất Đăng đại sư cũng bị bất ngờ, chỉ nghe Anh Cô vừa khóc vừa nói:

– Các người muốn gặp ta, cầu xin không được, liền xuất thủ bắt ép ta. Trong khi có người không chịu gặp ta, thì các người chẳng thèm đếm xỉa.

Quách Tương vội nói:

– Lão tiền bối, là ai không chịu gặp? Chúng tôi sẽ giúp lão tiền bối buộc hắn phải đến gặp.

Anh Cô nói:

– Các người chỉ giỏi khi vũ hạng nữ lưu như ta, chứ gặp nhân vật thật sự lợi hại, liệu có dám động đến hắn hay không?

Quách Tương nói:

– Tiểu nhân dĩ nhiên vô dụng, nhưng có Nhất Đăng đại sư và đại ca ca của tiểu nhân đây, lão tiền bối còn sợ ai kia chứ?

Anh Cô ngẫm nghĩ, rồi đứng dậy, nói:

– Các người chỉ cần đi tìm y tới đây gặp ta, nói chuyện tử tế với ta một phen, thì muốn Cửu vĩ linh hồ cũng có, muốn ta tha tội cho Cầu Thiên Nhẫn cũng xong.

Quách Tương hỏi:

– Người tiền bối muốn gặp là ai mà khó như vậy?

Anh Cô chỉ Nhất Đăng nói nhỏ:

– Ngươi cứ hỏi người kia thì biết.

Quách Tương thấy mặt Anh Cô hơi đỏ lên, thì lấy làm lạ, nghĩ: “Bà lão ngần ấy tuổi, sao còn xấu hổ?” Nhất Đăng đại sư thấy Dương Quá và Quách Tương cùng nhìn mình, thong thả nói:

– Người lão bà muốn gặp là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông Chu sư huynh.

Dương Quá mừng rỡ, nói:

– Lão Ngoan đồng à? Lão Ngoan đồng và đệ tử rất hợp nhau, đệ tử đi tìm Lão Ngoan đồng thì được thôi.

Anh Cô nói:

– Tên ta là Anh Cô, ngươi cần nói cho y rõ trước khi đến gặp ta, kẻo vừa nhìn thấy ta, y đã bỏ đi, không thể đuổi theo y được. Chỉ cần y chịu đến, các người bảo gì ta cũng làm theo.

Dương Quá thấy Nhất Đăng đại sư chậm rãi lắc đầu đoán là giữa Chu Bá Thông và Anh Cô tất có chuyện rắc rối nghiêm trọng, nên Chu Bá Thông mới nhất quyết không chịu gặp, nhưng chàng nghĩ Chu Bá Thông tính khí rất trẻ con, không chừng có thể dùng cách gì đó đánh lừa lão đến, bèn nói:

– Thế Lão Ngoan đồng ở đâu? Vãn bối sẽ tìm mọi cách mời lão đến bằng được.

Anh Cô nói:

– Từ đây đi về phía bắc hơn trăm dặm, có một sơn cốc, gọi là Bách Hoa cốc, y ẩn cư ở đó, lấy việc nuôi ong làm niềm vui.

Dương Quá nghe mấy chữ lấy việc nuôi ong làm niềm vui, thì lập tức nhớ đến Tiểu Long Nữ, Chu Bá Thông năm nào từng học Tiểu Long Nữ cách điều khiến bầy ong, bất giác mắt rưng rưng, nói:

– Được! Vãn bối đi ngay, các vị hãy chờ ở đây.

Rồi chàng hỏi Anh Cô về vị trí của Bách Hoa cốc, quay mình đi luôn. Quách Tương liền đi theo.

Dương Quá cúi đầu nói nhỏ: “Nhất Đăng đại sư võ học tinh thâm, tính lại hiền từ, cô nương hãy ở lại đây, chỉ cần được đại sư chỉ điểm cho một chút, cũng đủ dùng cả đời không hết đâu”.

Quách Tương nói:

– Không, muội muốn theo đại ca ca đi gặp Lão Ngoan đồng cơ.

Dương Quá cau mày, nói:

– Đây là cơ hội hiếm có, sao cô nương lại bỏ lỡ như vậy?

Quách Tương nói:

– Tìm được Lão Ngoan đồng rồi, đại ca ca phải đi, muội cũng phải về nhà, vậy hãy cho muội đi cùng đại ca ca một chút nữa!

Ngụ ý là thời gian ở bên chàng chẳng còn bao nhiêu, được thêm khắc nào hay khắc đó.

Dương Quá thấy Quách Tương lưu luyến với chàng như vậy, nghĩ: “Giá mình có một tiểu muội muội như nàng bầu bạn lãng du giang hồ, thì cũng bớt phần tịch mịch”, bèn mỉm cười, nói:

– Cô nương đã không ngủ cả đêm, chẳng lẽ không mệt hay sao?

Quách Tương nói:

– Mệt thì có hơi mệt, song muội vẫn muốn đi theo đại ca ca.

Dương Quá nói:

– Thôi được!

Đoạn cầm bàn tay nàng, thi triển khinh công mà chạy như bay.

Quách Tương được chàng kéo đi, thân hình tức thời nhẹ bẫng quá nửa, chân bước không hề tốn sức, cười nói:

– Nếu đại ca ca không kéo, muội cũng có thể chạy nhanh được như thế này mới tốt.

Dương Quá nói:

– Khinh công của cô nương đã có căn cơ, chịu khó luyện tiếp thì sẽ có ngày được như vậy.

Đột nhiên chàng ngẩng đầu, huýt sáo một tiếng.

Quách Tương giật mình, đưa tay trái bịt lỗ tai. Dương Quá không hú, chỉ thấy Thần điêu từ cây đại thụ bên phải bước ra. Dương Quá nói:

– Điêu huynh, chúng ta hãy cùng đi lên mạn bắc, có việc cần làm.

Thần điêu nghển cổ, kêu “oắc oắc” vài tiếng, cũng chẳng rõ nó có hiểu hay không, song nó đi sánh vai với Dương Quá và Quách Tương.

Đi được hơn một dặm, Thần điêu càng đi càng nhanh, Quách Tương tuy có Dương Quá dắt đi, song cũng dần dần đuổi không kịp. Thần điêu rùn mình thấp xuống, Dương Quá cười, nói:

– Điêu huynh tình nguyện cõng cô nương đấy, cô nương hãy cảm ơn đi!

Quách Tương không dám vô lễ với Thần điêu, trước hết thi lễ với nó, rồi mới cưỡi lên lưng chim.

Thần điêu sải bước, Quách Tương cảm thấy gió thổi ù ù bên tai, cây cối hai bên lùi nhanh về phía sau, tuy không nhanh như cưỡi chim điêu ở nhà bay chơi, nhưng cũng không khác gì phi ngựa. Dương Quá đi như lướt bên cạnh Thần điêu, vừa đi vừa chỉ trỏ sông núi, nghị luận phong cảnh, nói đùa vài câu. Quách Tương thích thú, cảm thấy bình sinh chưa bao giờ vui sướng bằng hôm nay, chỉ mong Thần điêu đi chậm lại một chút, chậm đến Bách Hoa cốc càng tốt.

Đến buổi chiều thì một chim điêu hai người đã đi hơn trăm dặm, Dương Quá theo lối Anh Cô chỉ, qua hai thung lũng, đột nhiên thấy trước mặt sáng lên, có một sơn cốc xanh tươi, đầy hoa nhiều màu, đỏ tím trắng vàng đủ cả, khắp nơi không có tuyết dày, mà chỉ là đất mềm, cứ như lạc vào một thế giới khác.

Quách Tương vỗ tay reo mừng:

– Lão Ngoan đồng thật biết cách tận hưởng, chọn một nơi kỳ diệu. Đại ca ca, sao phong cảnh ở đây đẹp thế?

Dương Quá nói:

– Nơi này sơn cốc hướng nam, núi cao ngăn gió bấc, chắc dưới lòng đất lại có khoáng sản như than, lưu huỳnh, địa khí rất ấm, cho nên mùa xuân đến sớm, trăm hoa đua nở.

Quách Tương nói:

– Điêu bá bá, xin đa tạ!

Nàng tụt khỏi lưng Thần điêu, đi bên cạnh Dương Quá. Hai người tiến vào sơn cốc, qua vài chỗ quành, thấy trước mặt hai bên là vách núi, có ba cây tùng cổ thụ cao chọc trời, như thể hai môn hộ thiên nhiên.

Nghe tiếng vo vo bất tuyệt, những con ong ngọc phong bay qua bay lại giữa cây lá.

Dương Quá biết Chu Bá Thông ở bên trong, bèn gọi to:

– Lão Ngoan đồng, tiểu huynh đệ Dương Quá dắt theo một tiểu bằng hữu, đến chơi đùa với đằng ấy đây.

Chàng và Chu Bá Thông kỳ thực chênh nhau xa về tuổi tác, gọi lão là tổ sư gia cũng chưa đủ, nhưng chàng biết Lão Ngoan đồng tuy rất già song vẫn ham chơi, càng không phân biệt tôn ti lão càng thích thú.

Quả nhiên tiếng gọi vừa dứt, từ phía sau mấy cây tùng đã có một người vút ra, Dương Quá thoạt nhìn giật mình, hơn mười năm trước, lần đầu chàng gặp Chu Bá Thông, lông mày và râu của lão đã bạc như cước; ai dè bây giờ diện mạo hầu như không thay đổi, nhưng tóc, râu, lông mày lại trở thành hoa râm, trông trẻ hẳn lại so với ngày trước. Chỉ nghe lão cười hô hô, nói:

– Dương huynh đệ, sao mãi hôm nay mới đến tìm ta? A ha, huynh đệ đeo mặt nạ để dọa ai thế?

Nói rồi giơ tay giật cái mặt nạ ra.

Một trảo này của Lão Ngoan đồng chộp từ mé trái, Dương Quá vai phải hơi co lại, đầu hơi chếch sang trái, khiến Chu Bá Thông chộp hụt. Năm ngón tay của lão sượt qua cổ Dương Quá, hơi sững lại, tự nhiên lão ngẩng mặt cười to, nói:

– Dương huynh đệ, hảo công phu, hảo công phu! Chỉ e đã hơn thời Lão Ngoan đồng còn trai trẻ.

Nguyên hai người một trảo một né, đã hiển lộ võ công cực cao. Một trảo của Chu Bá Thông, kình lực của các ngón tay đã bao trùm phạm vi một trượng, Dương Quá đừng nói nghiêng đầu né tránh, dù có tung mình nhảy vội, cũng không thể thoát đòn trảo ấy trừ phi đưa tay gạt đi mới có thể hóa giải. Nhưng Dương Quá vai phải hơi co lại, dùng Thiết tụ công đánh vào ngực Chu Bá Thông. Lão Ngoan đồng ngưng thần chống đỡ, kình lực bên trái lập tức yếu đi, Dương Quá chỉ hơi né đầu đã tránh được cường kình của đòn trảo kia.

Quách Tương không hiểu gì đạo lí bên trong, chỉ nghe Chu Bá Thông khen Dương Quá, trong bụng đắc ý, nói:

– Chu lão gia tử, công phu hiện thời của tiền bối cao hơn, hay thời trai trẻ cao hơn?

Lão Ngoan đồng nói:

– Thời trẻ tóc ta bạc, hiện thời tóc ta đen, dĩ nhiên hiện thời hơn ngày trước.

Quách Tương nói:

– Hiện thời tiền bối không thắng nổi đại ca ca tiểu nữ, trước kia lại càng không bằng.

Chu Bá Thông không hề giận, cười hi hi, nói:

– Tiểu cô nương hồ thuyết bát đạo!

Đột nhiên lão giơ hai tay chộp sau lưng nàng, nhấc bổng lên, xoay ba vòng, tung lên cao, rồi đỡ lấy và đặt nhẹ xuống đất.

Thần điêu cùng đến đây với Quách Tương, thấy Chu Bá Thông hí lộng nàng như vậy, thì tức giận, dang cánh quạt về phía Chu Bá Thông một cái. Chu Bá Thông nghĩ: “Để xem tên súc sinh nhà ngươi có được bao nhiêu bản lĩnh?” Song chưởng vận kình đánh trả. Bình một tiếng, song phương đụng nhau, Chu Bá Thông đứng bất động, cánh chim điêu sượt qua bên người lão. Thần điêu định truy kích, thì Dương Quá quát:

– Điêu huynh không được vô lễ! Đây là một vị cao nhân tiền bối!

Thần điêu cụp cánh đứng ngẩng đầu, thần sắc cao ngạo. Chu Bá Thông thầm phục, cười nói:

– Hảo súc sinh! Lực khí quả không nhỏ, hèn gì cứ vênh mặt lên.

Dương Quá nói:

– Vị điêu huynh này không biết đã mấy trăm tuổi, chắc già hơn Chu huynh nhiều đấy. Ồ, Lão Ngoan đồng, làm thế nào mà huynh cải lão hoàn đồng, tóc bạc như cước lại đen trở lại thế?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Râu tóc đâu do người làm chủ, trước kia nó thích biến đen thành trắng thì ta để cho nó biến, bây giờ nó lại biến từ trắng thành đen, ta cũng chả có cách nào ngăn được.

Quách Tương nói:

– Rồi đây tiền bối sẽ biến thành trẻ con, ai gặp tiền bối cũng xoa đầu, gọi chú nhóc, chú nhóc, bấy giờ mới vui đấy.

Chu Bá Thông nghe vậy, đâm ra lo thật, cứ đứng ngẩn người, không nói gì. Kỳ thực trên thế gian làm gì có chuyện cải lão hoàn đồng, chẳng qua tính nết lão quá hồn nhiên, cả đời không lo nghĩ, nội công lại thâm hậu, ở trong núi nhất định nhiều chất đại bổ như hà thủ ô, phục linh, mật ong, nên râu tóc đổi màu. Ngay người không luyện nội công, vẫn có khi răng không rụng còn mọc lại, xương cốt càng già càng dẻo dai. Chu Bá Thông tuy không phải là đạo sĩ, nhưng hiểu rõ tinh yếu phép dưỡng sinh xung hư của Đạo gia, cho nên ngót trăm tuổi mà tinh thần vẫn trẻ trung, quá nửa có thể nói là nhờ thiên tính bẩm sinh.

Dương Quá thấy lão nghe Quách Tương nói mà lo chuyện trời ơi đất hỡi, thì không khỏi tức cười, nói:

– Chu huynh, chỉ cần huynh đi gặp một người, đệ bảo đảm huynh sẽ không bao giờ bị biến thành trẻ con.

Chu Bá Thông hỏi:

– Đi gặp ai?

Dương Quá nói:

– Đệ mà nói tên người ấy ra, huynh không được rũ áo bỏ đi đấy.

Chu Bá Thông chỉ trực tính, chứ chẳng ngốc nghếch chút nào, nếu không đã không luyện được võ công cao cường đến thế. Lão nghe câu trên của Dương Quá, đã lờ mờ đoán ra, bèn nói:

– Trên thế gian có hai người ta không gặp, một người là Đoàn Hoàng gia, người kia là quí phi Anh Cô của y. Trừ hai người ấy, ai ta gặp cũng được.

Dương Quá nghĩ: “Xem ra chỉ có cách khích tướng”, nói:

– Thì ra Chu huynh từng thua họ, võ công thấp hơn, nên không dám gặp họ.

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Không, không phải vậy. Lão Ngoan đồng hành sự thấp hèn hạ lưu, có lỗi với hai người đó nên không còn mặt mũi nào đi gặp họ.

Dương Quá ngẩn ra, không thể nào ngờ Chu Bá Thông không chịu gặp Anh Cô là vì thế, chàng nghĩ rất nhanh, nói:

– Chẳng lẽ hai người ấy sắp bị đại họa, chết đến nơi mà Chu huynh không chịu cứu giúp họ hay sao?

Chu Bá Thông sững lại, đối với Nhất Đăng và Anh Cô, lão mắc tội với họ từ lâu, nếu họ gặp nạn, lão sẵn sàng xả thân cứu giúp, không một khắc trù trừ, nhưng lão thấy Quách Tương cười vui, không có vẻ lo lắng gì hết nên lão cười, nói:

– Huynh đệ đánh lừa ta, Đoàn Hoàng gia võ công xuất thần nhập hóa, làm sao gặp đại họa? Nếu có đối thủ quá lợi hại, y không địch nổi, thì ta cũng chịu.

Dương Quá nói:

– Nói thật với huynh, Anh Cô nhớ huynh quá, nhất định cứ đòi gặp huynh cho bằng được.

Chu Bá Thông đột nhiên tái mặt, xua tay rối rít, gằn giọng nói:

– Dương huynh đệ, huynh đệ chỉ nhắc thêm một câu nữa thì hãy rời khỏi Bách Hoa cốc lập tức, đừng trách Lão Ngoan đồng ta trở mặt.

Dương Quá phẩy tay áo, nói:

– Chu lão huynh, huynh tưởng có thể đuổi đệ khỏi Bách Hoa cốc dễ dàng vậy sao?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Hì hì, chẳng lẽ huynh đệ định động thủ với ta chăng?

Dương Quá nói:

– Đệ chính đang muốn lĩnh giáo! Nếu đệ thua, sẽ lập tức rời Bách Hoa cốc, vĩnh viễn không đến đây nữa. Nếu huynh thua, thì phải theo đệ đi gặp Anh Cô.

Chu Bá Thông nói:

– Không đúng, không đúng! Thứ nhất, ta làm sao lại thua một gã nhóc con như huynh đệ? Thứ hai, dù ta có thua, ta cũng sẽ không đi gặp Lưu quí phi.

Dương Quá tức giận nói:

– Huynh thắng, cố nhiên không đi gặp, nhưng nếu thua mà không chịu đi, thì chúng ta còn đánh cuộc làm quái gì?

Chu Bá Thông nói:

– Không gặp là không gặp, có gì để nói với nhau đâu kia chứ. Mau mau động thủ nào.

Dương Quá nghĩ nhẹ nhàng đánh lừa không được, thì phải cưỡng bức, tỷ võ thật sự cũng không chắc thắng, nhưng cứ đấu rồi tùy cơ định liệu.

Chu Bá Thông vốn say mê võ công, tuy ẩn cư ở Bách Hoa cốc, nhưng ngày ngày vẫn không ngừng luyện công; mặc dù công lực của lão như thế, khắp thiên hạ làm gì có đối thủ. Bây giờ thấy Dương Quá tình nguyện tỷ võ thì chân tay lão ngứa ngáy, cứ nhảy nhảy định đấu, chỉ lo nói thêm, đối phương lại không muốn động thủ nữa, sẽ mất cả dịp may. Lão liền giơ tả chưởng, quát:

– Tiếp quyền đi!

Tay phải lão đánh ra một quyền, theo bảy mươi hai lộ “Không Minh quyền pháp”.

Dương Quá tay trái đánh trả một chưởng, cảm thấy quyền lực của đối phương như có như không, chưởng lực của mình nếu đánh thật thì không đúng, nếu đánh nhứ cũng rất nguy hiểm, bất giác chột dạ, bèn sử dụng thứ chưởng pháp chàng khổ luyện mười mấy năm nay trong sóng biển. Chàng ào ào phách liền ba chưởng, chưởng lực tản ra, khiến hoa lá xung quanh rụng lả tả, vàng đỏ tím trắng, rớt xuống như mưa hoa, trông thật đẹp mắt; phách tiếp ba chưởng, tiếng rắc rắc vang liên tiếp, là các cành cây bị gãy.

Dương Quá thoạt tiên lo Chu Bá Thông tuổi cao lực suy, không chịu nổi chưởng lực cương mãnh của chàng, nên xuất chưởng vừa phát ra đã thu về, nhưng sau sáu chiêu, thì biết nội lực của đối phương vững vàng, quyền pháp xảo diệu hơn hẳn chàng, chỉ cần sơ suất một chút, sẽ lập tức bị bại, chàng mới vận sức xuất chiêu, không e ngại nữa.

Chu Bá Thông cao hứng nói:

– Hảo công phu, hảo chưởng pháp! Đánh thế này mới sướng!

Vòng quyền chưởng của hai người càng lúc càng rộng, Quách Tương cứ lùi ra xa từng bước, từng bước.

Đấu một hồi lâu, Lão Ngoan đồng đã sử hết bảy mươi hai lộ Không Minh quyền, lão tuy chiếm lợi thế về chiêu số, nhưng luận về kình lực thì lão không thể bằng uy thế hùng dũng như sóng thủy triều vô cùng vô tận mà Dương Quá đã luyện được.

Quách Tương đứng ngoài xem, thấy Dương Quá và Chu Bá Thông say sưa giao đấu giữa tơi bời hoa lá, nàng thừa biết hai người không ai có ý đả thương đối phương, nhưng cao thủ tỷ võ, hưng phấn đến mức này, chỉ cần lỡ tay một chút, sẽ lập tức nguy đến tính mạng, nên không khỏi lo cho Dương Quá, hai lòng bàn tay đều toát mồ hôi lạnh.

Chu Bá Thông thấy môn Không Minh quyền mình luyện mấy chục năm vẫn chẳng làm gì nổi Dương Quá thì nghĩ: “Tên tiểu tử giỏi thật”. Đột nhiên lão biến chiêu, tả quyền hữu chưởng, song thủ sử đồng thời hai công phu khác nhau, chính là thuật phân tâm nhị dụng do lão sáng tạo. Như thế chàng khác gì Lão Ngoan đồng một thân biến thành hai, từ hai bên giáp kích.

Dương Quá dùng một tay đối phó với hai tay, vốn đã núng thế, lúc này càng cảm thấy lúng túng. Năm xưa Tiểu Long Nữ được Chu Bá Thông dạy cho thuật phân tâm nhị dụng, hai tay cùng sử Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp, nhờ vậy đánh bại Kim Luân pháp vương, sau đó Dương, Long hai người gặp nhau, Dương Quá đã mất một cánh tay, Tiểu Long Nữ sợ chàng đau khổ, chỉ nhắc qua, không nói kỹ về thuật phân tâm nhị dụng. Bây giờ Chu Bá Thông sử dụng mỗi tay một chiêu số, Dương Quá thầm kinh hãi, đành tăng kình lực ra tay trái, ống tay áo phải cũng tiếp đỡ một phần thế công của đối phương.

Quách Tương tuy không thể lĩnh hội những chỗ tinh vi ảo diệu trong chiêu số của hai người, nhưng từ chỗ đôi bên ngang ngửa, Dương Quá chuyển dần sang thế thua, thì nàng nhận ra. Nàng càng nhìn càng sợ, chợt nhớ phụ thân khi dạy võ công cho nàng, hai tay từng sử dụng đồng thời hai môn võ công để chiết chiêu với nàng và với Quách Phá Lỗ, xem ra Chu Bá Thông lúc này chính đang sử dụng môn công phu của phụ thân nàng. Nàng không biết rằng môn ấy phụ thân nàng có được là nhờ Chu Bá Thông truyền thụ, cứ tưởng Chu Bá Thông học lén của phụ thân, bèn kêu lên:

– Lão Ngoan đồng dừng tay, không công bằng, không công bằng! Đừng đấu với lão ta nữa!

Chu Bá Thông ngẩn người, nhảy ra hai bước, quát:

– Cái gì không công bằng?

Quách Tương nói:

– Quái chiêu của tiền bối là do học lén của phụ thân tiểu nữ, đem ra đấu với đại ca ca tiểu nữ, không biết xấu hổ hay sao?

Chu Bá Thông nghe nàng cứ một điều gọi Dương Quá là đại ca ca, hai điều đại ca ca, nghĩ nàng quả thật là muội tử của Dương Quá, nhất thời chưa nghĩ ra phụ thân nàng là ai, nên cười, nói:

– Tiểu cô nương lại nói bậy, công phu này do ta tự nghĩ ra trong sơn động, sao lại bảo ta học lén của gia gia cô nương?

Quách Tương nói:

– Được cứ coi như tiền bối không học lén, nhưng tiền bối có hai tay, đại ca ca tiểu nữ chỉ có một cánh tay, đánh nhau lâu sao được? Nếu đại ca ca tiểu nữ cũng có hai cánh tay như tiền bối, thì tiền bối đã thua từ lâu rồi!

Chu Bá Thông ngẩn ra, nói:

– Nói thế cũng có lý, nhưng dẫu hắn có hai cánh tay, hắn cũng không thể cùng lúc sử dụng hai loại chiêu số khác nhau!

Nói rồi cười ha hả rất đắc chí.

Quách Tương nói:

– Tiền bối thừa biết cánh tay bị mất của đại ca ca tiểu nữ không thể mọc lại, nên mới huênh hoang như vậy. Nếu tiền bối đúng là anh hùng hảo hán, thì khi tỷ võ quá chiêu, không được chiếm lợi thế, đôi bên giao đấu phải công bằng, mới định rõ ai mạnh ai yếu.

Chu Bá Thông nói:

– Được, cả hai tay ta cùng sử một môn quyền chiêu thì xong.

Quách Tương bĩu môi, nói:

– Nói thế mà không biết ngượng, còn gì là công bằng kia chứ!

Chu Bá Thông nói:

– Chẳng lẽ ta phải học hắn, cũng đi nhờ nữ nhân chém đứt một cánh tay hay sao?

Quách Tương sững lại, nhìn Dương Quá một cái, nghĩ: “Thì ra chàng bị mất một cánh tay là do bị nữ nhân chém, không hiểu nữ nhân nào mà độc ác như vậy?”

Liền nói:

– Thế cũng vô dụng. Tiền bối chỉ cần giắt một cánh tay vào thắt lưng, đôi bên một tay đấu một tay, vậy mới công bằng.

Chu Bá Thông cảm thấy tỷ võ như vậy cũng rất thú vị, lại nghĩ một cánh tay sử dụng một môn võ công đã luyện thành thạo, vị tất thua kém hai cánh tay, liền giắt một cánh tay vào thắt lưng, nói với Dương Quá :

– Thế này mà huynh đệ thua thì đừng oán thán gì đấy!

Trong lúc Quách Tương và Chu Bá Thông nói với nhau, Dương Quá chỉ nghe, không xen vào. Từ sau khi chàng bị mất một cánh tay, tuy không thích nghe người khác nhắc đến hai chữ “cánh tay”, song vẫn tự phụ rằng tuy chỉ có một cánh tay, cũng quyết không thua bất cứ ai chân tay đầy đủ trong thiên hạ, giờ thấy Lão Ngoan đồng giắt một cánh tay vào thắt lưng, tỏ ý coi thường chàng, thì tức giận nói:

– Lão Ngoan đồng, huynh làm thế hóa ra khinh thường Dương Quá hay sao? Nếu một cánh tay đệ đánh không lại hai cánh tay của huynh, thì đệ sẽ tự… tự…

Chàng vốn định nói “sẽ tự vẫn tại Bách Hoa cốc này”, nhưng chợt nhớ Tiểu Long Nữ ước hẹn gặp chàng một ngày không xa, há có thể tùy tiện nói năng? Thế nên chàng dừng lại, không nói tiếp nữa.

Quách Tương rất hối hận, ban đầu nàng lấy tâm tình thiếu nữ lo lắng cho Dương Quá, bây giờ nghĩ chàng là một vị đại hiệp lừng lẫy tiếng tăm, ai lại đi giao đấu với một người tự giắt một cánh tay vào thắt lưng, nên vội nói:

– Đại ca ca, đều tại muội mà ra…

Nàng chạy tới bên cạnh Chu Bá Thông, kéo cánh tay giắt vào thắt lưng của lão ra, nói:

– Đại ca ca của tiểu nữ chỉ dùng một cánh tay, cũng thừa sức đấu với cả hai cánh tay của tiền bối, không tin tiền bối cứ thử xem.

Dương Quá không đợi Chu Bá Thông nói gì, thân hình hơi nghiêng đi, phách ra một chưởng, Chu Bá Thông tay trái đánh trả một quyền, tự thấy không nên chiếm lợi thế, cánh tay phải buông thõng, không xuất chiêu.

Chu Bá Thông tuy dùng một cánh tay ứng chiến, nhưng chiêu số thần diệu vô phương, Dương Quá đối phó không dễ chút nào. Thoáng chốc đã qua hơn hai mươi chiêu, Dương Quá nghĩ thầm, mình tuy có một cánh tay, nhưng đang còn trai trẻ, đã đấu hơn trăm chiêu với một lão nhân ngót trăm tuổi mà vẫn không thắng, thì công phu tu luyện mười mấy năm qua phỏng có đáng gì? Chàng cảm thấy khí dương cương trong kình lực mà Chu Bá Thông phát ra cứ mạnh dần, khác hẳn với khí âm nhu của Không Minh quyền, thì bỗng nhớ đến bộ “Cửu âm chân kinh” khắc trên vách đá trong tòa cổ mộ, lúc này chiêu số mà Chu Bá Thông đang sử chính là lộ Đại phục ma quyền pháp trong Cửu âm chân kinh. Chàng quát to:

– Đại phục ma quyền pháp có gì đáng kể! Lão huynh hãy dùng cả hai tay mà chống đỡ Ám nhiên tiêu hồn chưởng của đệ này!

Chu Bá Thông nghe chàng gọi đúng tên quyền pháp của mình, đã sững lại, lại nghe chàng nói cái gì Ám nhiên tiêu hồn chưởng, thì càng lấy làm lạ. Chu Bá Thông từ bé đã hiếu võ, có kiến văn cực kỳ quảng bác về các môn pháp võ công trong thiên hạ, nhưng cái tên Ám nhiên tiêu hồn chưởng thì lão chưa nghe lần nào. Chỉ thấy Dương Quá tay đưa ra sau lưng, đưa mắt nhìn ra xa, chân không ở thế vững chãi, hở ngực hở bụng, tư thế toàn thân đại kỵ đối với võ học. Chu Bá Thông tiến lên một bước, tay trái nhứ một chưởng thăm dò. Dương Quá làm như không để ý. Chu Bá Thông liền nói:

– Cẩn thận này!

Rồi tung quyền đánh tới bụng dưới của chàng.

Lão sợ đả thương đối phương, nên chỉ sử dụng ba thành kình lực, nào ngờ nắm đấm vừa chạm vào người Dương Quá, thì đột nhiên cơ bụng rung động, đồng thời ngực đối phương lõm vào, tiếp đó bật ra. Chu Bá Thông cả kinh, vội nhảy sang bên trái, nghĩ cao thủ nội gia lõm ngực bụng để tránh đòn là chuyện bình thường, nhưng dùng cơ ngực bụng đả thương đối phương thì lão chưa từng thấy, cũng chưa từng nghe kể. Lòng hiếu kỳ trỗi dậy, lão quát:

– Huynh đệ có môn võ công gì vậy?

Dương Quá nói:

– Đấy là chiêu thứ mười ba trong Ám nhiên tiêu hồn chưởng, có tên là Tâm kinh nhục khiêu!

Chu Bá Thông lẩm bẩm:

– Chưa từng thấy qua, chưa từng nghe qua!

Dương Quá nói:

– Đó là mười bảy chiêu chưởng pháp do đệ tự nghĩ ra, lão huynh làm sao biết được.

Dương Quá sau khi chia tay với Tiểu Long Nữ ở Tuyệt Tình cốc, không lâu sau được Thần điêu dẫn ra bờ biển luyện công trong hải triều, mấy năm sau trừ nội công tuần tự nhi tiến, không còn gì để luyện thêm, trong lòng lúc nào cũng chỉ nhớ đến Tiểu Long Nữ, dần dần hình tiêu cốt lập, không còn gì hứng thú. Một hôm đứng lặng trên bờ biển rất lâu, tự dưng hoa chân múa tay, lúc này nội công đã tới mức hỏa hầu, mỗi khi xuất thủ đều có uy lực cực lớn, chỉ đánh nhẹ một chưởng đã làm nát bét một con vích lớn đang bò trên cát. Từ đó chàng ngẫm nghĩ, sáng tạo nên một bộ chưởng pháp hoàn chỉnh, gồm mười bảy chiêu, khi xuất thủ khác hẳn với võ công thông thường, sự lợi hại hoàn toàn dựa vào nội lực.

Chàng bình sinh được không ít danh gia võ học chỉ điểm, học được khẩu quyết nội công chính tông Huyền môn của phái Toàn Chân, học được Ngọc nữ tâm kinh cùng Tiểu Long Nữ, trong tòa cổ mộ được thấy Cửu âm chân kinh, Âu Dương Phong truyền cho Cáp mô công và nghịch chuyển kinh mạch; Hồng Thất Công và Hoàng Dung truyền thụ Đả cẩu bổng pháp, Hoàng Dược Sư truyền thụ Đàn chỉ thần công và Ngọc tiêu kiếm pháp, ngoài Nhất dương chỉ ra, các môn võ công của Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Trung Thần Thông chàng đều học qua, hiện tại dung hội quán thông, đã nghiễm nhiên thành gia. Chỉ vì có một cánh tay, không thủ thắng bằng cách biến hóa chiêu số, mà cố ý tương phản với đạo lý võ học. Chàng đặt tên cho bộ chưởng pháp ấy là Ám nhiên tiêu hồn chưởng, là lấy ý của câu “Ám nhiên tiêu hồn giả, duy biệt nhi dĩ hĩ”° (°黯然銷魂者,唯別而已矣–Khuôn mặt u uất vô hồn, chỉ biệt ly mới khiến con người như thế. Giang Yêm, tự Văn Thông, văn học gia đời Tề Lương. Thơ ông hiếm bài hay, nhưng thể phú có thành tựu tương đối cao với gần 30 bài, Biệt phú là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông.)trong bài “Biệt phú” của Giang Yêm.

Từ khi luyện xong chưởng pháp đến giờ, mới gặp Chu Bá Thông là một đối thủ thật sự.

Chu Bá Thông nghe nói là môn võ công do chàng sáng tạo, thì càng cao hứng, nói:

– Càng cần phải biết, nhất định phải biết!

Lão vung quyền, vẫn chỉ dùng tay trái. Dương Quá ngẩng mặt lên trời, làm như không thấy, vù một chưởng vỗ ngang qua đầu mình, từ trên chéo xuống, chưởng lực hóa thành hình cánh cung, tán lạc tứ phía.

Chu Bá Thông biết chưởng lực kiểu này không thể né tránh, bèn giơ chưởng nghênh tiếp, “bộp” một cái song chưởng tương giao, thân hình lão chao đảo, chỉ vì lão khinh địch, không biết rằng võ công của mình tuy không yếu hơn đối phương, song chưởng lực của lão không thể hùng hậu bằng của Dương Quá.

Chu Bá Thông thở ra một luồng trọc khí, nói:

– Hay, chiêu này tên là gì?

Dương Quá nói:

– Là chiêu Khởi nhân ưu thiên! Cẩn thận này, tiếp theo sẽ là chiêu Vô trung sinh hữu!

Chu Bá Thông cười hi hi, nghĩ cái tên gọi “Vô trung sinh hữu” vừa cổ quái vừa lý thú, tên tiểu tử vẫn nghĩ ra được, bèn lại sấn tới. Dương Quá buông tay, hoàn toàn không có ý phòng thủ, đợi khi chiêu quyền của Chu Bá Thông còn cách da thịt mình chừng một tấc đột nhiên chân tay cùng động, tả chưởng, ống tay áo bên phải, hai chân, đầu cổ, ngay cả lưng ngực bụng cũng đều phát ra chiêu thức tấn công đối phương.

Chu Bá Thông tuy sớm đề phòng chàng có tuyệt chiêu, song không thể ngờ chàng lại dùng toàn thân công kích, trong chớp mắt đã có mười mấy chiêu đánh ra, gọi là một chiêu Vô trung sinh hữu, nhưng biến hóa thành mười mấy chiêu thức, ngay võ học tinh thâm như Chu Bá Thông mà cũng luống cuống chân tay. Lão vốn buông thõng cánh tay bên phải không dùng, lúc này đành phải giơ lên toàn lực chống đỡ, mới cản được lộ chưởng pháp này, nói về việc hoàn chiêu, là điều không thể làm được. Chống đỡ rồi, lão nhảy lùi hơn một trượng, đề phòng Dương Quá xuất chiêu quái quỉ gì tiếp đó.

Quách Tương kêu lên:

– Chu lão gia tử, tiền bối sử dụng cả hai tay chưa đủ! Tốt nhất là mọc thêm một cánh tay nữa.

Chu Bá Thông cũng không giận, cười nói:

– Con nhãi ranh, mi bảo ta luống cuống chân tay chứ gì?

Dương Quá thấy Lão Ngoan đồng hóa giải hết các chiêu thức tấn công bất ngờ của chàng một cách kỳ diệu, thì không khỏi thán phục, nói:

– Chiêu tiếp theo là Đà nê đới thủy!

Chu Bá Thông và Quách Tương cùng cười, kêu lên:

– Tên nghe kỳ quá!

Dương Quá nói:

– Tiếp theo còn kỳ hơn! Tiếp chiêu!

Đoạn ống tay áo phiêu động, y như nước chảy, bàn tay trái làm như đang vét lớp bùn nặng ngàn cân. Chu Bá Thông năm xưa từng nghe sư huynh Vương Trùng Dương nói rằng Hoàng Dược Sư sáng tạo một lộ Ngũ hành chưởng pháp, trong chưởng lực ám hợp ngũ hành, lúc này thấy Dương Quá tay áo bên phải là tượng Quý thủy ở phương bắc, tả quyền là tượng Mậu thổ ở trung tâm, vừa khinh linh, vừa trầm mãnh, thì lão không dám xem nhẹ, tay trái sử một chiêu trong Không Minh quyền tay phải sử một chiêu trong Đại phục ma quyền, dùng khinh linh đối phó với khinh linh, dùng trầm mãnh đối phó với trầm mãnh. Quyền chưởng đôi bên đụng nhau, hai người cùng hô lên, cùng lùi lại mấy bước.

Bốn chiêu vừa rồi, một già một trẻ đều thầm thán phục đối phương. Dương Quá nghĩ: “Từ khi luyện thành Ám nhiên tiêu hồn chưởng, đến nay mới gặp cường địch nhất là Lão Ngoan đồng, muốn thắng lão quả không dễ. Muốn phân thắng bại thật sự, tất phải tỷ thí nội lực, khi đó không chết cũng sẽ trọng thương, giống như Hồng Thất Công với nghĩa phụ mình cùng bỏ mạng vậy, thì có khổ hay không?” Chàng bèn dẹp ngay khí cuồng ngạo, vái dài sát đất, nói:

– Chu lão tiền bối, thán phục thán phục, vãn bối xin nhận thua.

Rồi chàng quay sang phía Quách Tương, nói:

– Tiểu muội tử, vậy là không mời được Chu lão tiền bối đi gặp, chúng ta về thôi.

Chu Bá Thông vội nói:

– Khoan đã, khoan đã nào! Huynh đệ bảo cái món Ám nhiên tiêu hồn chưởng này có những mười bảy chiêu, còn mười ba chiêu huynh đệ chưa thi triển, sao đã bỏ đi?

Dương Quá nói:

– Chúng ta không thù không oán, hà tất phải thí mạng? Chu huynh đối với đệ rất tử tế, đối với thê tử của đệ cũng rất tử tế, đệ luôn luôn cảm kích. Tiền bối võ công cao siêu, vãn bối xin nhận thua mà.

Chu Bá Thông xua tay lia lịa, nói:

– Không đúng, không đúng! Huynh đệ chưa thua, ta cũng chưa thắng. Huynh đệ muốn rời khỏi Bách Hoa cốc, trừ phi thi triển hết mười bảy chiêu chưởng pháp đã.

Lão nghe Dương Quá gọi tên bốn lộ chưởng pháp, nào “Tâm kinh nhục khiêu”, “Khởi nhân ưu thiên”, nào “Đà nê đới thủy”, “Vô trung sinh hữu”, tên gọi lý thú, chưởng pháp càng lạ, đến người thường còn muốn xem rốt cuộc là thế nào, huống hồ Chu Bá Thông một là hiếu võ, hai là hiếu kỳ, phải biết cho kỳ hết mới được.

Dương Quá nói:

– Buồn cười thật. Đệ đã không mời được lão huynh đi chẳng lẽ bị buộc phải ở lại hay sao?

Chu Bá Thông khẩn khoản:

– Hảo huynh đệ, mười ba chiêu chưởng pháp còn lại của huynh đệ, ta làm sao đoán ra được? Mong huynh đệ đại phát thiện tâm, làm một việc tốt là nói cho ta biết. Rồi huynh đệ muốn học công phu gì, ta cũng sẽ dạy cho.

Dương Quá chợt nảy một ý, nói:

– Lão huynh muốn học bộ chưởng pháp của đệ cũng hoàn toàn không khó. Mà đệ cũng không cần lão huynh dạy võ công; chỉ cần sau khi lão huynh học xong, phải theo đệ đi gặp Anh Cô một phen.

Chu Bá Thông mặt mày nhăn nhó, nói:

– Huynh đệ có cắt đầu ta, ta cũng quyết không đi gặp Anh Cô.

Dương Quá nói:

– Đã vậy thì vãn bối xin cáo từ.

Chu Bá Thông nhảy tới chắn đường, đánh ra một quyền, cười lấy lòng, nói:

– Hảo huynh đệ, thi triển thêm một chiêu nữa di!

Dương Quá đưa chưởng gạt đi, chàng sử dụng võ công phái Toàn Chân. Chu Bá Thông thay đổi quyền pháp, Dương Quá thủy chung chỉ chống đỡ bằng chưởng pháp phái Toàn Chân và võ công nói trong Cửu âm chân kinh.

Dương Quá muốn đánh bại Chu Bá Thông, vốn không phải chuyện dễ, nhưng nếu chỉ tự bảo vệ mình thì Lão Ngoan đồng cũng không làm gì nổi chàng.

Bất kể Chu Bá Thông cố ý để lộ sơ hở, cố ý tỏ ra non kém, chàng thủy chung cũng không mắc lừa. không thi triển thêm các chiêu thức khác của Ám nhiên tiêu hồn chưởng, ngoài bốn chiêu “Tâm kinh nhục khiêu”, “Khởi nhân ưu thiên”, “Đà nê đới thủy”, “Vô trung sinh hữu”, khiến cho Chu Bá Thông càng háo hức muốn biết. Hai người giao đấu ngót một canh giờ, Chu Bá Thông đã cao tuổi, khí huyết đã suy, nội lực dần dần không còn bằng lúc đầu, biết không thể dụ Dương Quá thi triển Ám nhiên tiêu hồn chưởng, bèn nhảy lùi lại nói:

– Thôi, thôi! Ta khấu đầu trước huynh đệ tám cái, bái huynh đệ làm sư phụ, huynh đệ chịu dạy cho ta đi. Dương sư phụ, đệ tử Chu Bá Thông xin khấu đầu!

Nói đoạn quì xuống đất.

Dương Quá buồn cười thầm, nghĩ bụng thế gian sao lại có người si mê võ công đến thế, vội bước tới đỡ dậy, nói:

– Tiểu đệ đâu dám! Để tiểu đệ nói cho lão huynh đệ biết mười ba chiêu còn lại của Ám nhiên tiêu hồn chưởng vậy.

Chu Bá Thông cả mừng, rối rít nói:

– Hảo huynh đệ! Hảo huynh đệ!

Quách Tương nói:

– Đại ca ca, Chu tiền bối không chịu đi theo chúng ta, thì đại ca ca đừng có dạy!

Dương Quá biết Lão Ngoan đồng là một tay si võ như kiểu người ta si tình, sau khi nghe tên gọi mười ba chiêu kia, lão sẽ càng không thể kháng cự, tất đòi chàng diễn võ, nên chàng mỉm cười, nói:

– Chỉ nghe tên gọi thì có gì đâu.

Chu Bá Thông vội nói:

– Phải rồi, chỉ nghe tên gọi thì có gì đâu, tiểu cô nương chớ có hẹp lượng.

Dương Quá ngồi xuống một tảng đá, nói:

– Chu huynh, mười ba chiêu còn lại của Ám nhiên tiêu hồn chưởng là: “Bồi hồi không cốc”, “Lực bất tòng tâm”, “Hành thi tẩu nhục”, “Đảo hành nghịch thi”…

Nói đến đây, Quách Tương đã cười ngặt cười nghẽo, Chu Bá Thông thì nghiêm trang lẩm bẩm ghi nhớ, nghe Dương Quá kể tiếp:

– “Phế tẩm vong thực”, “Cô hình chích ảnh”, “Ẩm hận thôn thanh”, “Lục thần bất an”, “Cùng đồ mạt lộ”, “Diện vô nhân sắc”, “Tường nhập phi phi”, “Ngai nhược mộc kê”.

Quách Tương chợt cảm thấy buồn rầu, không cười được nữa.

Chàng nói tên mười ba chiêu ra rồi, Lão Ngoan đồng càng như si như cuồng, sau một hồi lâu, lão mới nói:

– Cái chiêu “Diện vô nhân sắc” làm thế nào để khắc địch chế thắng?

Dương Quá nói:

– Tuy là một chiêu, nhưng biến hóa đa đoan, hỉ nộ ai lạc, mọi sắc thái quái dị đều lộ trên mặt, kẻ địch nhìn thấy, lập tức hoảng loạn tâm thần, phải vui buồn theo ta, cuối cùng phải tuân lệnh ta. Đấy là phép vô thanh vô ảnh thắng địch, còn cao hơn một bậc so với phép dùng tiếng hú trấn nhiếp kẻ địch.

Chu Bá Thông mặt mày rạng rỡ, hỏi:

– Còn chiêu “Đảo hành nghịch thi”?

Dương Quá đột nhiên làm động tác trồng cây chuối, vỗ tay một cái, nói:

– Đây là một trong ba mươi bảy biến hóa của chiêu “Đảo hành nghịch thi”.

Chu Bá Thông gật đầu, nói:

– Nguyên lai nó bắt nguồn từ võ công của Tây Độc Âu Dương Phong.

Dương Quá trở lại tư thế bình thường, nói:

– Đúng vậy, có điều là môn chưởng pháp của đệ, trong nghịch có chính, chính phản tương xung, tự tương mâu thuẫn, không thể tự hoàn tất.

Chu Bá Thông nghĩ một hồi, chưa hiểu nghĩa là gì, gãi đầu, hỏi:

– Nghĩa là thế nào?

Dương Quá nói:

– Nghĩa lý cụ thể, không thể nói cho người khác biết.

Chu Bá Thông ồ một tiếng, không hỏi thêm, vì biết rằng có hỏi, Dương Quá cũng chẳng chịu nói rõ.

Quách Tương thấy Lão Ngoan đồng gãi đầu gãi gáy, vẻ mặt bối rối, thì bỗng thương thương lão, đến bên cạnh lão, hỏi nhỏ:

– Chu lão gia tử, rốt cuộc nhất định tiền bối không chịu đi gặp Anh Cô ư? Chúng ta sẽ cùng nghĩ cách cầu đại ca ca truyền thụ bộ chưởng pháp ấy cho tiền bối, được chứ?

Chu Bá Thông thở dài, nói:

– Đấy là chuyện hồ đồ thời trẻ của ta, nói ra thật xấu hổ.

Quách Tương nói:

– Sợ gì kia chứ? Tiền bối cứ nói ra, sẽ thấy dễ chịu hơn là cất giữ trong lòng. Vãn bối nói cho tiền bối hay, khi vãn bối làm gì sai, gia gia má má hỏi đến, vãn bối không hề giấu, họ mắng chửi cho một trận là xong. Còn nói dối quanh co, chối cãi dù được, nhưng sau đó trong lòng lại rất khổ sở. Như lần này vãn bối tự đi chơi, gia gia má má nhất định sẽ giận lắm, nhưng đằng nào cũng đi rồi, vãn bối sẽ không giấu họ.

Chu Bá Thông thấy nàng nhất mực hồn nhiên vô tà bèn nhìn nàng, nói:

– Được, để ta kể câu chuyện hồ đồ thời trẻ của ta cho cô nương nghe, nhưng không được cười ta đấy.

Quách Tương nói:

– Ai lại đi cười tiền bối?

Nàng kéo tay Lão Ngoan đồng, thân thiết dựa vào bên người lão, nói:

– Tiền bối cứ coi như đang kể chuyện cổ tích, hoặc chuyện của người.khác vậy. Lát nữa, vãn bối cũng sẽ kể một chuyện xấu vãn bối đã làm cho tiền bối nghe.

Chu Bá Thông nhìn khuôn mặt nhỏ anh tú của nàng, cười nói:

– Cô nương mà cũng làm việc xấu ư ?

Quách Tương nói:

– Dĩ nhiên, tiền bối cho rằng vãn bối không làm gì sai ư ?

Chu Bá Thông nói:

– Được vậy cô nương hãy kể trước một việc ta nghe coi.

Quách Tương nói:

– Đâu chỉ một việc, mười việc tám việc kể cũng được. Đây có một quân sĩ gác thành ban đêm ngủ quên, phụ thân vãn bối sai trói lại, bảo sẽ chém đầu làm gương cho kẻ khác. Vãn bối thấy y đáng thương, nửa đêm mới lén thả y ra, bảo y mau mau trốn đi. Phụ thân cả giận, sai gọi vãn bối tới, định đánh cho một trận. Một chuyện khác, có một nữ hài tử nhà nghèo nọ rất mê cái vòng đeo tay bằng ngọc của mẫu thân vãn bối, vãn bối liền lấy trộm của mẫu thân đem cho người kia. Mẫu thân vãn bối bị mất cái vòng, cứ đi tìm nháo lên, vãn bối buồn cười quá, nhưng không nói ra. Về sau nói ra, mẫu thân cho qua, nhưng tỷ tỷ của vãn bối lại đến nhà kia đòi lại cái vòng.

Chu Bá Thông thở dài, nói:

– Mấy chuyện cô nương kể, so với chuyện hồ đồ của ta, thì chẳng đáng gì.

Rồi lão kể lại chuyện năm xưa theo sư huynh Vương Trùng Dương sang nước Đại Lý, bái kiến Đoàn Hoàng gia, sau đó Lưu quí phi học võ nghệ của lão, rồi hai người cùng làm chuyện hồ đồ với nhau; Lưu quí phi si mê lão, tiếp đó lão tránh mặt; Đoàn Hoàng gia thì nổi giận, bỏ cả ngai vàng, xuất gia đi tu, nhất nhất kể hết cho Quách Tương và Dương Quá nghe.

Quách Tương ngẩn người nghe, thấy Lão Ngoan đồng rất ngượng ngùng, bèn hỏi:

– Đoàn Hoàng gia trừ Lưu quí phi, còn có bao nhiêu phi tần?

Chu Bá Thông nói:

– Đoàn Hoàng gia tuy không có ba ngàn phi tần như thiên tử Đại Tống, nhưng trong tam cung lục viện cũng có đến vài chục nàng hậu phi.

Quách Tương nói:

– Úi chao! Đoàn Hoàng gia có những mấy chục hậu phi, tiền bối thì một vị phu nhân cũng không có, lẽ ra Đoàn Hoàng gia phải nghĩ tình bằng hữu, đem Lưu quí phi tặng tiền bối mới đúng.

Dương Quá gật gật đầu, nghĩ: “Tiểu cô nương này không câu nệ lễ giáo thế tục, nói rất hợp ý ta”. Chu Bá Thông nói:

– Hồi ấy Đoàn Hoàng gia cũng có nói như vậy, nhưng Lưu quí phi là người y vô cùng tâm ái, vì chuyện ấy mà y chẳng thiết làm hoàng đế, bỏ đi tu, đủ thấy ta có lỗi với y đến mức nào.

Dương Quá đột nhiên nói xen vào:

– Nhất Đăng đại sư xuất gia đi tu là do đối xử không phải với Chu lão huynh, chứ không phải tại lão huynh có lỗi với đại sư, chẳng lẽ lão huynh không biết hay sao?

Chu Bá Thông lấy làm lạ, hỏi:

– Y có gì mà bảo là đối xử không phải với ta?

Dương Quá nói:

– Kẻ khác đả thương nhi tử của lão huynh, Nhất Đăng đại sư thấy chết mà không cứu.

Chu Bá Thông mấy chục năm nay thủy chung không biết Anh Cô từng có con với lão, nghe Dương Quá nói vậy thì lấy làm lạ, vội hỏi:

– Nhi tử nào của ta?

Dương Quá nói:

– Tiểu đệ cũng không rõ lắm, chỉ nghe Nhất Đăng đại sư và Anh Cô nói thế.

Rồi thuật lại lời Nhất Đăng đại sư nói ở bên đầm Hắc Long.

Chu Bá Thông đột nhiên nghe nói lão có một đứa con thì như sét đánh ngang tai, sững sờ không nói nên lời, trong lòng nửa bi thương, nửa hoan hỉ, nghĩ Anh Cô mấy chục năm trời một mình chịu khổ, thì lão càng cảm thấy có tội và thương Anh Cô.

Dương Quá thấy Lão Ngoan đồng như thế, nghĩ thầm: “Vị tiền bối này cũng là người chung tình như ta, ta còn tiếc gì mười bảy chiêu Ám nhiên tiêu hồn chưởng?” Bèn nói:

– Chu lão tiền bối, đệ sẽ diễn toàn bộ pho chưởng pháp cho lão huynh xem, chỗ nào chưa được, mong lão huynh chỉ điểm cho.

Rồi miệng nói tay múa, diễn liền mười bảy chiêu từ đầu đến cuối, riêng chiêu “Diện vô nhân sắc”, do chàng đang mang mặt nạ, nên chưa hiển thị, chàng chỉ nói cách biến hóa, Chu Bá Thông thông thuộc “Cửu âm chân kinh”, có thể lĩnh hội được ngay. Hai chiêu “Hành thi tẩu nhục” và “Cùng đường mạt lộ” thì lão không ngộ nổi yếu chỉ của chúng.

Dương Quá giảng lại vài lần, Chu Bá Thông vẫn không hiểu. Dương Quá thở dài, nói:

– Chu lão tiền bối, mười lăm năm trước, nội tử và tiểu đệ chia tay, tiểu đệ tuơng tư sầu khổ, mới sáng tạo pho chưởng pháp này. Lão tiền bối vô lo vô nghĩ, tiêu dao khoái lạc, dĩ nhiên không sao lĩnh hội và thấm thía nỗi ưu tư ẩn chứa trong đó.

Chu Bá Thông nói:

– Ồ, phu nhân của huynh đệ sao lại chia tay với huynh đệ? Nàng ta vừa xinh đẹp, vừa tốt bụng, huynh đệ chung tình tương tư, làm sao có thể trách huynh đệ?

Dương Quá không muốn nhắc lại việc Tiểu Long Nữ bị Quách Phù phóng nhầm độc châm, chỉ kể sơ qua việc Tiểu Long Nữ trúng độc, được Nam Hải thần ni mang đi cứu chữa, mười sáu năm mới được tái hợp; chàng đêm ngày một dạ khổ tư, chỉ mong nàng bình an trở về, cuối cùng chàng nói:

– Vãn bối chỉ mong được gặp lại nàng, dù bắt vãn bối phải chịu ngàn vạn nhát dao đâm chém cũng cam lòng.

Quách Tương vốn không ngờ việc tương tư lại khổ sở đến như vậy, bất giác hai hàng lệ ứa ra, nàng nắm tay Dương Quá, dịu dàng nói:

– Cầu trời phù hộ cho đại ca ca cuối cùng được gặp lại đại tẩu!

Dương Quá từ ngày xa Tiểu Long Nữ đến giờ, hôm nay mới được nghe một lời an ủi chân tâm thành ý, trong lòng rất cảm kích, lời này hẳn cả đời chẳng quên, bèn thở dài, đứng dậy, vái Chu Bá Thông một cái, nói:

– Chu huynh, cáo từ!

Đoạn cùng Quách Tương sánh vai đi ra.

Quách Tương đi mấy bước, ngoảnh lại nói:

– Chu lão tiền bối, đại ca ca của tiểu nữ thương nhớ phu nhân của mình như thế nào, Anh Cô của tiền bối cũng thương nhớ tiền bối y như vậy. Tiền bối nỡ lòng nhất quyết không chịu đi gặp Anh Cô hay sao?

Chu Bá Thông giật mình, tái mặt. Dương Quá nói nhỏ:

– Tiểu muội tử, đừng nói nữa. Mỗi người một chí hướng, nhiều lời cũng vô ích.

Hai người một chim điêu, thong thả đi ngược trở lại con đường đã tới.

Quách Tương nói:

– Đại ca ca, nếu muội hỏi chuyện phu nhân, đại ca ca sẽ không đau lòng chứ?

Dương Quá nói:

– Không, vả lại chỉ vài tháng nữa, ta đã có thể gặp lại nàng.

Nói câu này, trong lòng náo nức vô cùng: “Chỉ vài tháng nữa thôi, mình quả thật sẽ được gặp Long nhi ư?”. Quách Tương nói:

– Đại ca ca làm sao quen biết phu nhân?

Dương Quá liền đem chuyện hồi nhỏ mình cô khổ lênh đênh thế nào, tại cung Trùng Dương học nghệ, bị sư phụ cùng đồng môn khi vũ ra sao, làm cách nào chạy vào tòa cổ mộ, được Tiểu long Nữ thu dung, lâu ngày sinh tình, rồi trải qua bao nhiêu gian nan đau khổ mới kết thành phu phụ ra sao, kể lại cho Quách Tương nghe, tránh nhắc đến mấy cái tên Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Lý Mạc Sầu.

Quách Tương im lặng nghe, rất xúc động trước thâm tình của Dương Quá, cuối cùng nàng nói:

– Cầu trời phù hộ cho đại ca ca cuối cùng được gặp lại đại tẩu, không bao giờ phân li nữa.

Dương Quá nói:

– Đa tạ tiểu muội tử, ta vĩnh viễn ghi nhớ mối hảo tâm của muội. Sau này gặp thê tử, ta cũng sẽ nói cho nàng biết.

Nói đến đây, giọng chàng nghẹn ngào.

Quách Tương nói:

– Mỗi năm đến ngày sinh nhật của muội, mẫu thân và muội đều thắp nhang khấn trời, mẫu thân bảo muội khấn thầm ba điều tâm nguyện, muội lắm khi nghĩ chán chẳng ra. Ngày sinh nhật năm nay, muội đã nghĩ ra rồi, sẽ mong đại ca ca sớm được đoàn tụ với phu nhân.

Dương Quá nói:

– Thế còn hai điều tâm nguyện ka?

Quách Tương mỉm cười, nói:

– Muội không thể nói cho đại ca ca biết được.

Đúng lúc ấy, bỗng có tiếng gọi to:

– Dương huynh đệ, đợi ta với!

Chính là giọng của Chu Bá Thông. Dương Quá cả mừng, quay lại, thấy Chu Bá Thông chạy như bay, gọi:

– Dương huynh đệ, ta nghĩ lại rồi, huynh đệ hãy mau đưa ta đi gặp Anh Cô.

Quách Tương vui mừng nói:

– Có thế chứ, lão tiền bối không biết người ta chờ mong tiền bối khổ sở thế nào đâu.

Chu Bá Thông nói:

– Sau khi hai ngươi đi rồi, ta nghĩ lại lời của Dương huynh đệ, càng nghĩ càng đau lòng. Nếu không đi gặp Anh Cô, chắc từ nay sẽ không thể ngủ yên. Ta phải đích thân hỏi Anh Cô cho rõ mọi chuyện mới được.

Dương Quá và Quách Tương thấy Lão Ngoan đồng thật lòng chịu đi, thì cả mừng.

Cứ như tính cách của Chu Bá Thông, thì phải đi gặp Anh Cô ngay lập tức, nhưng trời đã tối, Quách Tương cũng đã mệt mỏi, thế nên ba người một điêu ngồi tựa gốc cây mà ngủ. Sớm hôm sau họ đi, chưa quá giờ Tị, đã đến bên đầm Hắc Long. Anh Cô và Nhất Đăng đại sư thấy Dương Quá quả nhiên mời được Chu Bá Thông đến thì cả mừng. Anh Cô trống ngực đập dồn, xúc động không nói nên lời.

Chu Bá Thông tới trước mặt Anh Cô, nói to:

– Anh Cô, hài nhi của hai ta lúc sinh ra, trên đỉnh đầu có một cái xoáy hay là hai cái?

Anh Cô ngẩn người, không ngờ hai người xa nhau từ thời trẻ, khi về già mới gặp nhau, đầu tiên lão lại hỏi một câu không liên quan gì, bèn đáp:

– Có hai cái xoáy.

Chu Bá Thông vỗ tay sung sướng, nói:

– Hay lắm, vậy là nó giống ta, đúng là một đứa bé thông minh.

Rồi lão thở dài, lắc đầu, nói:

– Tiếc rằng không còn nữa!

Anh Cô nửa buồn nửa vui, không nhịn được nữa, khóc oà lên. Chu Bá Thông vỗ nhẹ lưng Anh Cô, an ủi:

– Đừng khóc, nín đi nào!

Quay sang Nhất Đăng, nói:

– Đoàn Hoàng gia, ta cướp mất thê tử của đại sư, đại sư không chịu cứu sống con ta, vậy là hòa, từ nay không nhắc chuyện cũ.

Nhất Đăng chỉ Từ Ân nằm dưới đất, nói:

– Đây là hung thủ đã giết con của Chu huynh, Chu huynh hãy giáng cho hắn một chưởng, đánh chết hắn đi!

Chu Bá Thông nói:

– Anh Cô, hãy tới mà hạ thủ!

Anh Cô nhìn Từ Ân, nói nhỏ:

– Không có hắn, kiếp này thiếp đã chẳng bao giờ còn được gặp lại tướng công; huống hồ người chết chẳng thể sống lại, vì niềm vui hôm nay, mọi nỗi oán khổ trước đây hãy quên hết cho rồi!

Chu Bá Thông nói:

– Nói rất đúng, vậy chúng ta tha cho hắn!

Từ Ân thương thế cực nặng, chỉ còn một hơi thở cuối cùng, lúc này nghe Chu Bá Thông và Anh Cô đều nói tha cho y tội giết con họ thì rất cảm kích, không còn lưu luyến gì nữa, nói thều thào:

– Đa tạ hai vị.

Rồi nhìn về phía Nhất Đăng, nói:

– Đa tạ sư phụ thành toàn.

Lại nhìn sang phía Dương Quá, nói:

– Đa tạ thí chủ tân khổ.

Rồi nhắm hai mắt, tắt thở.

Nhất Đăng đại sư miệng niệm Phật hiệu, chắp tay cúi mình, nói:

– Từ Ân, Từ Ân, hai ta danh tuy sư đồ, nhưng thực ra là bằng hữu, hơn hai chục năm bên nhau không rời. Cùng nhau tu luyện, hôm nay ngươi vãng sinh cực lạc, lão nạp vừa hỉ vừa bi.

Đoạn cùng Dương Quá, Quách Tương bắt tay đào hố mai táng cho Từ Ân.

Chu Bá Thông và Anh Cô bốn mắt nhìn nhau, thực chưa biết nói từ chuyện gì.

Dương Quá nhìn mộ phần của Từ Ân, nhớ lại tình cảnh trong ngôi nhà tranh giữa núi tuyết, đêm tân hôn của chàng với Tiểu Long Nữ, Từ Ân đã phát điên lên thế nào, một vị đại sư võ học lừng lẫy giang hồ với ngoại hiệu Thiết chưởng công, cuối cùng đã trở về lòng đất, chàng không khỏi cảm khái.

Anh Cô lấy trong bọc ra hai con linh hồ, nói:

– Dương công tử, đại đức sâu nặng, lão phụ nhân thẹn không có gì báo đáp, xin tặng công tử hai con vật này.

Dương Quá nhận một con, nói:

– Chỉ cần một con, xin nhận thịnh tình.

Nhất Đăng nói:

– Dương hiền điệt, hãy nhận cả hai con linh hồ, nhưng đừng giết chúng, chỉ cần chích chân của chúng lấy huyết, mỗi ngày uống một chén nhỏ, lệnh hữu dù bị nội thương nặng mấy, cũng sẽ chóng lành.

Dương Quá và Anh Cô cùng mừng rỡ, nói:

– Nếu không phải giết linh hồ thì hay quá!

Dương Quá nhận hai con linh hồ, bái biệt với Nhất Đăng, Chu Bá Thông và Anh Cô. Anh Cô nói:

– Công tử lấy xong huyết Cửu vĩ linh hồ, cứ việc thả chúng ra, chúng sẽ tự biết đường về.

Chu Bá Thông đột nhiên nói xen vào:

– Đoàn Hoàng gia, Anh Cô, chúng ta hãy cùng đến Bách Hoa cốc của ta, ta sẽ chỉ huy bầy ong cho mà xem; ta lại mới học được một bộ chưởng pháp mới, hi hi, tài tình vô cùng. Dương huynh đệ, sau khi chữa trị cho bằng hữu, huynh đệ cùng tiểu muội tử cũng đến đó chơi cho vui một thể.

Dương Quá cười, nói:

– Lúc ấy nếu không bận việc gì, vãn bối xin đến lĩnh giáo ba vị tiền bối.

Nói rồi cúi mình thi lễ cáo biệt.

Hai con linh hồ đưa mắt long lanh nhìn Anh Cô, kêu líu ríu đáng thương, Anh Cô nói:

– Dương công tử sẽ tha mạng cho các ngươi, làm gì ồn lên thế!

Quách Tương đưa tay xoa đầu hai con linh hồ, mỉm cười an ủi chúng.

Hồi 35: Ba mũi kim châm

Dương Quá mời được Chu Bá Thông đến đoàn tụ với Anh Cô, làm cho Từ Ân yên tâm mà chết, lại có được cặp linh hồ, một phen vất vả, làm xong ba việc tốt, tất nhiên mười phần cao hứng, cùng Quách Tương và Thần điêu trở lại Vạn Thú sơn trang.

Huynh đệ họ Sử thấy Dương Quá mang về cả một cặp linh hồ, mừng không để đâu cho hết, liền chích huyết ở chân chúng, Sử Thúc Cương uống huyết rồi tự vận công trị thương.

Tối nay Vạn Thú sơn trang mở đại tiệc, mời Dương Quá ngồi ở vị trí cao nhất, bàn tiệc toàn các món thịt thú quí hiếm, như môi vượn, đùi sói, bàn tay gấu, bào thai hươu, toàn là các món lạ miệng người ngoài chưa từng thưởng thức, Thần điêu cũng được hưởng dụng.

Huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cũng không nhắc thêm về ân đức lớn lao của Dương Quá, trong thâm tâm người nào cũng hiểu rõ mạng sống của mình là do chàng ban cho, từ rày bất kể chàng sai khiến điều gì, họ dù phải chết cũng không dám khước từ. Tại bàn tiệc mọi người cao đàm khoát luận, toàn những chuyện lạ thường trong giang hồ.

Quách Tương từ lúc gặp Dương Quá lúc nào nàng cũng vui vẻ, nhưng tối nay lại lẳng lặng, chỉ nghe mọi người trò chuyện. Dương Quá liếc nàng, thấy sắc diện nàng ủ dột, cho rằng mấy ngày liền tiểu cô nương bôn ba lao lực, không tránh khỏi mỏi mệt, nên cũng không để tâm, đâu biết rằng Quách Tương buồn rầu vì sắp phải xa chàng.

Uống được vài chén rượu, đột nhiên cánh rừng bên ngoài có tiếng vượn kêu to, rồi mấy chục con vượn khác cùng kêu ầm ĩ. Huynh đệ họ Sử hơi biến sắc, Sử Mạnh Tiệp nói:

– Dương đại ca và Tây Sơn chư huynh cứ an tọa, tiểu đệ ra ngoài một chút xem sao.

Nói rồi ra khỏi sảnh.

Mọi người đều biết có ngoại địch xông vào rừng; nhưng ở đây tụ tập nhiều hảo thủ thế này, kẻ địch mạnh mấy cũng chẳng đáng sợ.

Sát Thần Quỉ nói:

– Nếu là vương tử Hoắc Đô tới thì hay nhất, mọi người có dịp đấu với hắn, trả thù cho Sử tam ca…

Lời chưa dứt, đã nghe tiếng Sử Mạnh Tiệp quát ở bên ngoài:

– Vị nào đêm tối xông vào tệ trang, hãy mau dừng bước!

Một giọng nữ nhân nói:

– Trong nhà có một lão lùn to đầu hay chăng? Ta muốn hỏi xem lão đưa muội tử của ta đi đâu?

Quách Tương nghe tiếng tỷ tỷ tìm đến thì vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, liếc sang, thấy ánh mắt Dương Quá lóe lên rất lạ, nàng đã định kêu lên hai tiếng “tỷ tỷ” lại thôi.

Chỉ nghe Sử Mạnh Tiệp giận dữ nói:

– Nữ nhân gì mà nói năng vô lễ, ta hỏi không trả lời, cứ làm loạn lên?

Lại nghe tiếng Quách Phù quát:

– Tránh ra!

Tiếp đến tiếng binh khí va nhau, rõ ràng là Quách Phù xông vào, Sử Mạnh Tiệp chặn lại, đôi bên đã động thủ. Dương Quá từ ngày chia tay với Quách Phù tại Tuyệt Tình cốc, đã mười mấy năm chưa gặp, giờ đây nghe tiếng nàng ta, trong lòng chàng trỗi dậy nhiều cảm xúc khác nhau, thấy tiếng binh khí va chạm xa dần, tức thị Sử Mạnh Tiệp đã kéo Quách Phù ra xa. Đại Đầu Quỉ nói:

– Thiếu phụ ấy tìm lão phu đó, để lão phu ra gặp.

Rồi chạy ra khỏi sảnh. Sử Quí Cường và Phàn Nhất Ông cũng chạy theo.

Quách Tương đứng dậy, nói:

– Đại ca ca, tỷ tỷ của muội đến tìm muội, muội đi đây.

Dương Quá kinh ngạc, nói:

– Người ấy… người ấy… là tỷ tỷ của cô nương ư ?

Quách Tương nói:

– Vâng, muội muốn gặp Thần điêu đại hiệp, vị đại thúc thúc kia dẫn muội đi gặp đại ca ca. Muội… rất thích…

Nàng chưa nói hết đã chạy đi.

Dương Quá thấy một giọt nước mắt của Quách Tương rơi xuống ly rượu, nghĩ: “Thì ra cô bé sơ sinh ngày nào, giờ đã lớn ngần ấy rồi. Tiểu cô nương đang đêm đi tìm ta, tất có việc hệ trọng, sao chưa nói gì đã bỏ đi? Xem chừng nàng ta có nhiều tâm sự, ta không thể bỏ mặc”. Bèn phi thân ra ngoài, chạy đuổi theo.

Thấy lưng Quách Tương khuất vào rừng, chàng nhún vài lần, đã tới sau lưng nàng, nói:

– Tiểu muội tử, có chuyện gì khó, cứ nói cho ta hay, đừng ngại.

Quách Tương mỉm cười, nói:

– Không có gì, muội không có chuyện gì đâu.

Ánh trăng nhàn nhạt chiếu vào khuôn mặt tú mỹ trắng trẻo nhỏ nhắn của nàng, Dương Quá nhìn rõ còn ướt lệ, bèn dịu dàng nói:

– Thì ra tiểu muội tử là cô nương của Quách đại hiệp và Quách phu nhân, bị tỷ tỷ của tiểu muội bắt nạt phải không?

Chàng nghĩ Quách Tĩnh, Hoàng Dung lừng danh thiên hạ, uy chấn thời nay, nữ nhi của họ quyết không gặp việc gì khó, quá nửa chắc là Quách Phù ngang ngược bá đạo, bắt nạt tiểu muội muội.

Quách Tương cười, nói:

– Tỷ tỷ của muội có bắt nạt muội, muội cũng không sợ; có mắng muội, muội sẽ cãi lại, còn đánh muội thì tỷ tỷ chẳng dám.

Dương Quá nói:

– Thế cô nương lại gặp ta là vì chuyện gì, hãy nói ta nghe!

Quách Tương nói:

– Muội ở bến Phong Lăng nghe kể các sự tích hiệp nghĩa của đại ca ca, muội thán phục, chỉ muốn gặp đại ca ca, chứ không có ý gì khác. Trong bữa tiệc tối nay, muội nghĩ đến câu “Mọi bữa tiệc trong thiên hạ đều đến lúc tàn”, thì rất buồn; nào ngờ bữa tiệc chưa tàn, muội… muội đã phải đi rồi.

Nói tới đây, giọng nàng hơi nghẹn lại.

Dương Quá xúc động, nhớ lại ngày nàng mới chào đời, chàng đã ẵm nàng, sau đó mấy phen tranh giành nàng từ tay Kim Luân pháp vương và Lý Mạc Sầu, từng bắt con báo mẹ cho nàng bú sữa; đem nàng về tòa cổ mộ nuôi dưỡng ít ngày, không ngờ bây giờ gặp lại nàng đã trở thành một thiếu nữ xinh xắn thế này. Chàng nhớ lại chuyện cũ, không khỏi bồi hồi ngơ ngẩn.

Quách Tương nói:

– Đại ca ca, muội phải đi đây! Muội nhờ đại ca ca một việc.

Dương Quá nói:

– Cô nương nói đi.

Quách Tương hỏi:

– Khi nào phu nhân và đại ca ca sẽ gặp nhau?

Dương Quá đáp:

– Mùa đông năm nay.

Quách Tương nói:

– Sau khi đại ca ca gặp phu nhân, hãy sai người mang tin đến thành Tương Dương cho muội, để muội cũng được mừng cho đại ca ca.

Dương Quá rất cảm kích, nghĩ tiểu cô nương này và Quách Phù tuy cùng một mẹ sinh ra, nhưng tính nết khác hẳn nhau, chàng hỏi:

– Gia gia má má của cô nương có khỏe không?

Quách Tương nói:

– Gia gia má má của muội vẫn khỏe.

Nàng chợt nghĩ ra điều gì đó, nói:

– Đại ca ca, sau khi gặp phu nhân, hai người đến làm khách nhà muội ở thành Tương Dương được chăng? Gia gia má má của muội và phu phụ đại ca ca đều là hào kiệt, tất sẽ rất hợp nhau, tiếc rằng gặp nhau quá muộn.

Dương Quá nói:

– Đến lúc ấy hãy hay! Tiểu muội tử, chuyện tiểu muội và ta gặp nhau, tốt nhất đừng nói với tỷ tỷ của tiểu muội… Và cũng đừng nói với gia gia má má của tiểu muội.

Quách Tương lấy làm lạ, hỏi:

– Tại sao vậy?

Chợt nhớ ở bến Phong Lăng, khi mọi người nhắc đến Thần điêu hiệp, tỷ tỷ tỏ vẻ không ưa chàng, xem chừng giữa hai người có hiềm khích gì chăng, bèn nói:

– Muội không nói thì được.

Dương Quá cứ đăm đăm nhìn Quách Tương, trong óc hiện lên hình ảnh khuôn mặt bé nhỏ của hài nhi mà chàng ẵm mười lăm năm trước. Quách Tương bị chàng nhìn như thế thì hơi xấu hổ, cúi đầu xuống.

Dương Quá cảm thấy muốn được bảo hộ và chiếu cố nàng, giống như với hài nhi sơ sinh mười lăm năm về trước vậy. Chàng nói:

– Tiểu muội tử, phụ mẫu của tiểu muội tử là bậc đại hiệp thời nay, người người đều kính nể, tiểu muội tử có việc gì thì cũng không cần nhờ ta đâu. Nhưng thế sự đa biến, họa phúc khôn lường. Nếu tiểu muội tử có điều gì không muốn nói với phụ mẫu, cần có trợ thủ, thì cứ cho người mang tin đến, ta sẽ làm đúng như ý tiểu muội tử.

Quách Tương cười nói:

– Đại ca ca đối với muội tốt quá. Tỷ tỷ thường tự xưng với mọi người rằng mình là nữ nhi của Quách đại hiệp và Quách phu nhân; lắm lúc muội nghe mà thấy xấu hổ thay. Phụ mẫu danh vọng tuy lớn, nhưng cũng không nên suốt ngày cứ xưng xưng như vậy. Bây giờ khi muội nói Thần điêu đại hiệp là đại ca ca của muội, thì tỷ tỷ không học theo được rồi.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Lệnh tỷ chẳng coi trọng ta đâu.

Chàng đếm đầu ngón tay, nói:

– Năm nay tiểu muội tử mười sáu tuổi, ồ, đến tháng Chín, tháng Mười… ngày hai mươi hai, hai mươi ba, hai mươi bốn tháng Mười… Sinh nhật của tiểu muội tử là ngày hai mươi bốn tháng Mười phải không?

Quách Tương quá lạ, kêu to:

– Ôi đúng thế, sao đại ca ca biết?

Dương Quá mỉm cười không đáp, lại nói:

– Tiểu muội tử sinh tại thành Tương Dương, nên đơn danh có một chữ Tương chứ gì?

Quách Tương nói:

– Sao đại ca ca cái gì cũng biết, thế mà cứ làm như không quen muội? Muội mới chào đời được một ngày, thì đại ca ca đã ẵm muội phải không?

Dương Quá ngẩn ngơ, không đáp, ngẩng đầu nói:

– Mười sáu năm, ngày hai mươi bốn tháng Mười, trong thành Tương Dương đại chiến với Kim Luân pháp vương, Long nhi ẵm hài nhi này…

Quách Tương không hiểu chàng đang nói gì, nghe trong rừng văng vẳng tiếng binh khí va nhau, nàng hơi lo, sợ Sử Mạnh Tiệp đả thương tỷ tỷ, nói:

– Đại ca ca, muội phải đi thật rồi.

Dương Quá lẩm bẩm:

– Ngày hai mươi bốn tháng Mười, ngày hai mươi bốn tháng Mười, nhanh quá, sắp mười sáu năm tròn.

Đột nhiên giật mình, nói:

– À, tiểu muội tử đi về… à, ngày hai mươi bốn tháng Mười năm nay, tiểu muội tử sẽ thắp nhang cầu khấn ba điều.

Chàng nhớ nàng từng bảo khi thắp nhang, nàng sẽ cầu trời phù hộ cho chàng và Tiểu Long Nữ mau được đoàn tụ.

Quách Tương nói:

– Đại ca ca, tương lai nếu muội cầu xin đại ca ca ba điều, thì đại ca ca có đáp ứng hay không?

Dương Quá quả quyết nói:

– Nếu vừa sức ta, nhất định ta sẽ đáp ứng.

Chàng lấy trong bọc ra một chiếc hộp nhỏ, mở nắp, nhặt ba cái kim châm mà Tiểu Long Nữ vẫn dùng làm ám khí, đưa cho Quách Tương, nói:

– Ta thấy cái kim này, coi như thấy mặt tiểu muội tử. Tiểu muội tử nếu không thể đi gặp ta, cứ việc nhờ người mang kim châm truyền lệnh, ta sẽ làm cho tiểu muội.

Quách Tương nói:

– Đa tạ đại ca ca.

Nàng nhận ba cái kim, nói:

– Muội xin nói ước muốn thứ nhất.

Rồi nàng đưa một cái kim châm cho Dương Quá, nói:

– Muội muốn đại ca ca gỡ cái mặt nạ ra, để muội được ngắm diện mạo thật của đại ca ca.

Dương Quá cười, nói:

– Việc ấy quá dễ dàng, ta chỉ vì không muốn gặp nhiều người quen cũ, nên mới mang mặt nạ. Tiểu muội tử tùy tiện sử dụng cái kim châm như vậy, chẳng tiếc hay sao?

Chàng nghĩ: “Ta đã cam kết, sẽ không hối hận, cô nương cứ giữ lại cái kim châm, bao giờ cần ta làm việc gì khó bằng trời, ta cũng sẽ làm cho cô nương. Ai lại bảo ta làm một việc không đáng như vậy?” Quách Tương nói:

– Ngay diện mạo thật của đại ca ca cũng không được nhìn thấy, thì làm sao có thể bảo là quen biết đại ca ca? Cho nên việc này không nhỏ đâu.

Dương Quá nói:

– Được!

Chàng đưa tay gỡ cái mặt nạ ra. Quách Tương lập tức nhìn thấy một khuôn mặt tuấn tú, nhưng xanh xao, tái nhợt, trông rất tiều tụy. Dương Quá thấy nàng cứ ngẩn ngơ nhìn chàng, thần sắc rất lạ, thì mỉm cười, hỏi:

– Sao nào?

Quách Tương hơi đỏ mặt, nói nhỏ:

– Dạ không sao.

Trong bụng thầm nghĩ: “Không ngờ Thần điêu hiệp lại tuấn tú đến thế”.

Nàng định thần rồi, lại đưa cái kim châm thứ hai cho Dương Quá, nói:

– Muội sẽ nói ước muốn thứ hai.

Dương Quá cười, nói:

– Tiểu muội tử để vài năm sau hãy nói cũng chưa muộn. Kẻo lại nói ước muốn quá trẻ con.

Chàng không giơ tay nhận cái kim châm. Quách Tương cứ đưa cái kim châm vào tay chàng, nói:

– Đại ca ca, ước muốn thứ hai của muội là vào ngày sinh nhật hai mươi bốn tháng Mười năm nay, đại ca ca hãy đến thành Tương Dương thăm muội!

Điều này tuy có tốn sức hơn ước muốn thứ nhất một chút, song vẫn đầy tính trẻ con. Dương Quá cười, nói:

– Ta đáp ứng. Việc đó chẳng khó, có điều là ta sẽ chỉ gặp một mình cô nương, chứ không gặp gia gia má má của cô nương đâu.

Quách Tương cười, nói:

– Việc đó tùy đại ca ca.

Nàng cầm cái kim thứ ba trong bàn tay nhỏ nhắn, trông nó lóng lánh dưới ánh trăng, nói:

– Ước muốn thứ ba của muội…

Dương Quá mỉm cười, lắc đầu nghĩ: “Dương Quá ta đâu dễ hứa hẹn với người? Tiểu cô nương không cân nhắc nặng nhẹ, đem lời hứa của ta ra làm trò đùa ư?” Chỉ thấy nàng đột nhiên đỏ mặt, cười nói:

– Ước muốn thứ ba của muội, hiện thời muội chưa nghĩ ra, mai sau sẽ nói với đại ca ca.

Đoạn nàng quay người chạy vào rừng, gọi:

– Tỷ tỷ, tỷ tỷ!

Quách Tương chạy về phía có tiếng binh khí va chạm, thấy Quách Phù đang giao đấu rất hăng với Sử Mạnh Tiệp, Đại Đầu Quỉ hai người; còn Phàn Nhất Ông và Sử Quí Cường thì đứng ngoài quan chiến. Quách Tương gọi:

– Tỷ tỷ, muội đến đây, mấy vị này đều là hảo bằng hữu.

Võ công của Quách Phù nhờ sự chỉ dạy của phụ mẫu, ngày ngày lại cùng luyện tập với Gia Luật Tề là một cao thủ đương đại, so với mười mấy năm trước đã có tiến cảnh rất lớn, chỉ tại nàng nôn nóng tự mãn, không chịu khổ công đi sâu tìm tòi, nên tuy phụ mẫu và trượng phu là danh gia võ học, nàng trước sau vẫn chỉ là cao thủ hạng hai hạng ba, lúc này bị Sử Mạnh Tiệp và Đại Đầu Quỉ giáp kích, dần dần chống đỡ không nổi, đang luống cuống, bỗng nghe tiếng gọi của muội tử, bèn kêu to:

– Muội muội mau tới đây!

Sử Mạnh Tiệp nghe Quách Tương gọi Dương Quá là “đại ca”, sao lúc này Quách Phù lại gọi Quách Tương là “muội muội”, không khỏi giật mình, nghĩ: “Không lẽ thiếu phụ này là phu nhân hay muội muội của Thần điêu hiệp”, vội thu chiêu về, nhảy lùi lại.

Quách Phù biết rõ đối phương nhường nhịn, song nàng đang tức giận, trường kiếm cứ đâm tới, Sử Mạnh Tiệp bị trúng kiếm vào ngực. Đại Đầu Quỉ giật mình, kêu lên:

– Ơ hay, sao lại…

Quách Phù vòng kiếm, hàn quang loáng lên, lại đâm một kiếm trúng vai Đại Đầu Quỉ, nàng đắc ý, quát:

– Cho các người thấy sự lợi hại của cô nãi nãi!

Quách Tương gọi giật lại:

– Tỷ tỷ, muội đã bảo mấy vị này đều là bằng hữu.

Quách Phù tức giận quát:

– Mau về cùng ta! Ai biết muội quen với loại bằng hữu chó má này?

Sử Mạnh Tiệp ngực bị trúng kiếm khá nặng, người lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống. Quách Tương vọt tới, khom người đỡ Sử Mạnh Tiệp lên, hỏi:

– Sử ngũ thúc, Sử ngũ thúc, thương thế ra sao?

Sử Mạnh Tiệp máu trào ra miệng vết thương, loang đỏ cả ngực áo. Quách Tương vội xé vạt áo băng lại cho y.

Quách Phù cầm kiếm đứng một bên, luôn miệng thúc giục:

– Đi thôi, đi thôi! Về nhà ta sẽ mách gia gia má má đánh cho muội một trận nên thân mới xong!

Quách Tương tức giận nói:

– Tỷ tỷ làm loạn, xuất thủ đả thương người khác, muội cũng sẽ mách gia gia má má!

Sử Mạnh Tiệp thấy khuôn mặt nhỏ của nàng đỏ bừng, nước mắt lưng tròng, thì gượng cười, nói:

– Cô nương đừng lo, ta bị thương không đến nỗi chết đâu!

Sử Quí Cường nhất thời chưa biết nên xông tới liều mạng với Quách Phù, hay là tới cứu thương cho ngũ đệ.

Quách Phù đột nhiên kêu “ối” một tiếng kinh hoảng, thấy hai con mãnh hổ đang lừ lừ tiến lại, nàng quay người định chạy, thì bên trái có hai con sư tử đực bên phải có bốn con báo gầm gừ chờ sẵn.

Nguyên lúc ấy Sử Trọng Mãnh đã chỉ huy bầy thú vây Quách Phù vào giữa. Quách Phù mặt cắt không còn hạt máu, muốn khuỵu xuống. Bỗng nghe có tiếng nói:

– Ngũ đệ, thương thế của đệ ra sao?

Sử Mạnh Tiệp đáp:

– Chưa đến nỗi nào!

Người kia nói:

– Thần điêu hiệp truyền lệnh, cho hai cô nương kia rút đi!

Sử Trọng Mãnh hô vài tiếng, lũ thú quay mình, lẩn vào trong lớp cỏ cao.

Quách Tương nói:

– Sử ngũ thúc, điệt nhi thay tỷ tỷ xin lỗi ngũ thúc.

Sử Mạnh Tiệp nén đau, cười gượng, nói:

– Nể mặt Thần điêu hiệp, lệnh tỷ có giết ta, ta cũng cam chịu.

Quách Tương vội nói:

– Thương thế của ngũ thúc… có đúng là không nặng chứ ?

Quách Phù kéo tay muội tử, xẵng giọng:

– Muội còn chưa chịu về hả?

Rồi dùng lực kéo chạy ra khỏi rừng.

Huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ ẩn một bên, thấy tỷ muội hai người đã đi khỏi, mới chạy tới xem vết thương của Sử Mạnh Tiệp và Đại Đầu Quỉ. Mỗi người một lời, đều chê cười Quách Phù, chỉ không biết nàng ta rốt cuộc có quan hệ thế nào với Dương Quá, nên không dám nói năng vô lễ. Sử Quí Cường bực tức nói:

– Tiểu cô nương ngoan thế, trong khi tỷ tỷ thì ngang ngược vô lối. Ngũ đệ rõ ràng đã nhường nhịn, thị còn hạ độc thủ, nhát kiếm ấy đâm sâu thêm hai tấc thử hỏi ngũ đệ sống nổi được chăng?

Đại Đầu Quỉ nói:

– Chúng ta phải đi hỏi Thần điêu hiệp, xem nữ tử ấy rốt cuộc là kẻ nào. Ở bến Phong Lăng, thị luôn miệng chê Thần điêu hiệp, tại hạ nghĩ Thần điêu hiệp cũng không bênh thị đâu.

Từ sau gốc đại thụ, có một người thong thả bước ra, nói:

– May sao thương thế của Sử ngũ ca không quá nặng. Nữ tử đó hành sự quen lỗ mãng, cánh tay phải của đệ chính là bị nàng ta chặt đó.

Người nói chính là Dương Quá.

Mọi người nghe đều kinh ngạc, ngây ra không nói nên lời, ai cũng đầy nghi vấn, song không ai dám hỏi.

Khi Quách Phù kèm Quách Tương về đến bến Phong Lăng, thì mặt sông Hoàng Hà đã tan băng, tỷ đệ ba người qua sông, về thẳng thành Tương Dương. Suốt dọc đường Quách Phù cứ luôn miệng trách mắng Quách Tương, bảo nàng lẽ ra không nên đi theo kẻ lạ mặt gây phiền phức rắc rối. Quách Tương giả câm giả điếc, không thèm lý đến, ngay cả chuyện gặp được Dương Quá, nàng cũng không hề nói ra.

Về đến thành Tương Dương, Quách Phù gặp cha mẹ, dâng thư của Trường Xuân chân nhân Khưu Xứ Cơ, nói Khưu chân nhân tuổi cao có bệnh, nằm liệt giường, nhưng giáo chủ Lý Chí Thường sẽ dẫn hảo thủ phái Toàn Chân đến dự đại hội. Bẩm xong việc chính, câu đầu tiên nàng nói:

– Cha, mẹ, muội muội dọc đường không chịu vâng lời, gây bao nhiêu rắc rối.

Quách Tĩnh kinh ngạc, vội hỏi đầu đuôi. Quách Phù liền kể lại việc ở bến Phong Lăng, Quách Tương đi theo một hào khách giang hồ lạ mặt, hai ngày đêm không trở về, vừa kể vừa thêm mắm thêm muối.

Quách Tĩnh những ngày này đang bận lo quân vụ, ưu tâm quốc sự, nghe đại nữ nhi nói vậy thì bực mình hỏi:

– Tương nhi, có đúng như tỷ tỷ nói hay không?

Quách Tương cười hì hì nói:

– Tỷ tỷ lo sợ vớ vẩn, hài nhi cùng một vị bằng hữu đi xem nhiệt náo, đâu có gì sai trái.

Quách Tĩnh cau mày hỏi:

– Bằng hữu nào vậy, tên là gì?

Quách Tương lè lưỡi nói:

– Ôi, hài nhi quên hỏi tên, chỉ biết người ấy có ngoại hiệu Đại Đầu Quỉ.

Quách Phù nói:

– Hình như là một nhân vật trong Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ.

Quách Tĩnh cũng có nghe danh “Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ”, nghe đâu họ không làm điều ác, song cũng chẳng phải là chính nhân quân tử, tiểu nữ nhi cuối cùng lại dính vào đám người ấy, thì thật đáng buồn. Nhưng vốn trầm tĩnh, Quách Tĩnh chỉ hừ một tiếng, không hỏi thêm. Hoàng Dung thì trách cứ Quách Tương một hồi.

Tối hôm ấy phu phụ Quách Tĩnh mở tiệc trong nhà tẩy trần cho Quách Phù, Quách Phá Lỗ, không nhắc đến Quách Tương. Gia Luật Tề lên tiếng can nhạc phụ nhạc mẫu. Quách Tĩnh nói:

– Nữ hài nhi mà quản không nghiêm, mai sau sẽ hại cho chính nó. Tương nhi từ bé đã cổ cổ quái quái, khiến mọi người không biết đằng nào mà lần. Ngươi là tỷ phu, cũng nên thay ta quản giáo nó mới được.

Gia Luật Tề vâng dạ, không dám nói thêm.

Phu phụ Quách Tĩnh trước kia quá nuông chiều Quách Phù, dẫn đến nhiều hậu quả xấu, nên đối với Quách Tương và Quách Phá Lỗ dùng cách ngược lại, từ nhỏ đã quản thúc chặt chẽ. Quách Phá Lỗ trầm tĩnh trang trọng, phong thái giống cha, coi như yên tâm. Quách Tương thì ngoài miệng vâng dạ, nhưng trong bụng một trăm hai chục cái không ưng. Tối nay a hoàn nói rằng lão gia thái thái sai bày tiệc, cố ý không cho mời nhị tiểu thư. Quách Tương giận dỗi, đã thế nhịn luôn hai ngày, đến sáng hôm thứ ba, Hoàng Dung đau lòng quá, giấu Quách Tĩnh, tự xuống nhà bếp làm vài món ngon, mang lên dỗ dành tiểu nữ nhi.

Tài nấu nướng của Hoàng Dung thiên hạ vô song, đã lâu không dùng, hôm nay hiển lộ thân thủ, Quách Tương tất nhiên mặt mày tươi như hoa. Nhưng như thế là bao nhiêu tâm huyết của hai vợ chồng trong việc quản giáo tiểu nhi nữ đều trôi ra sông ra biển hết cả.

Bấy giờ đại quân Mông Cổ đã chiếm được nước Đại Lý, kéo quân lên phía bắc, một lộ binh mã khác tiến từ bắc xuống nam, hai đạo quân dự định hội sư ở Tương Phàn, phen này quyết diệt Đại Tống. Cuộc tiến quân này được trù liệu mấy năm, cánh quân từ nam lên bắc do hoàng đệ Hốt Tất Liệt thống lĩnh, cánh quân từ bắc xuống nam do hoàng đế Mông Ca thân chinh ngự giá, tinh binh mãnh tướng đều ra trận, thanh thế cực lớn, thật là chưa từng có. Hiện thời mùa thu khô ráo, cỏ cao ngựa béo, lợi cho quân thiết kỵ Mông Cổ.

Đại quân Mông Cổ chưa tới gần, trong thành Tương Dương đã biết. Nhưng triều đình Đại Tống ở Lâm An do tên gian thần Đinh Đại Toàn nắm giữ, chúa hôn thần gian, không hề chuẩn bị đối phó gì hết. Văn thư cáo cấp của thành Tương Dương tuy bay về tới tấp, nhưng quân thần trong triều đình nói với nhau:

– Bọn Thát tử Mông Cổ đánh thành Tương Dương mười mấy năm không hạ được, lần này ắt cũng cụp cánh rút về, thành Tương Dương là khắc tinh của bọn Thát tử. Chuyện đó thành lệ, còn cách gì khác? Ta cứ việc ăn no ngủ kỹ, hà tất chuốc lấy lo phiền?

Khi đại quân Mông Cổ tiến đánh Đại Lý, Quách Tĩnh biết phen này cục diện sẽ khẩn cấp, liền gửi thiếp mời anh hùng thiên hạ tề tựu ở thành Tương Dương để bàn đại kế chống địch xâm lăng. Đại quân Mông Cổ hành binh thần tốc, không lâu sau đã chiếm được Đại Lý, lúc này vua nước Đại Lý là Đoàn Hưng Trí, là tằng tôn của Nhất Đăng đại sư, hiệu xưng “Định Thiên hiền vương”, tuổi còn quá nhỏ, lên ngôi chưa đầy hai năm đã mất nước, được bọn Võ Tam Thông, Chu Tử Liễu, Điểm Thương Ngư Ẩn cứu ra.

Khi các lộ anh hùng tề tựu ở thành Tương Dương, đại quân Mông Cổ đã đến gần. Anh hùng đại yến sẽ bắt đầu vào ngày rằm tháng Mười, dự kiến họp liền mười ngày; hôm nay đã là ngày mười ba, cách hôm khai mạc hai ngày; các lộ hảo hán đông tây nam bắc như trăm sông đổ ra biển, lũ lượt dồn về thành Tương Dương. Vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung toàn thần bố trí quân vụ, giao việc đón tiếp tân khách cho Lỗ Hữu Cước và Gia Luật Tề xử lý; có vợ chồng Võ Đôn Nhu, Gia Luật Yến, và vợ chồng Võ Tu Văn, Hoàn Nhan Bình trợ giúp.

Ngày hôm nay tới đây có Chu Tử Liễu, có Điểm Thương Ngư Ẩn, có Võ Tam Thông, có giáo chủ phái Toàn Chân Lý Chí Thường suất lĩnh mười sáu sư huynh đệ, có các vị trưởng lão Cái Bang cùng một số chư bang thủ bảy túi, tám túi; có vợ chồng Lục Quán Anh, Trình Dao Ca… Nhất thời trong thành Tương Dương cao thủ, quần hiền tụ hội rất đông. Nhiều tiền bối anh hiệp bình thời ít khi lộ diện chốn giang hồ, lần này biết anh hùng đại yến ở thành Tương Dương liên quan đến vận khí thiên hạ, thật chẳng tầm thường, lại ngưỡng mộ vợ chồng Quách Tĩnh nhân nghĩa, phàm nhận được thiếp mời, đều tới phó hội. So với anh hùng đại yến ở ải Đại Thắng, lần này rầm rộ hơn.

Tối ngày mười ba tháng Mười, vợ chồng Quách Tĩnh bày tiệc nhỏ tại Quách phủ, mời Chu Tử Liễu, Võ Tam Thông… mươi vị tri giao. Rượu qua tam tuần, mà bang chủ Cái Bang Lỗ Hữu Cước vẫn chưa đến, mọi người biết Lỗ Hữu Cước bận bịu bang vụ, không thể phân thân, nên cũng không để tâm. Mọi người vui vẻ uống rượu, bàn luận chuyện lạ trong võ lâm mười mấy năm qua. Vợ chồng Gia Luật Tề, Quách Phù cùng với một nhóm tiểu bằng hữu như huynh đệ họ Võ thì ngồi riêng một bàn, cũng đang đánh đố nhau để uống rượu cho vui, cũng đang huyên náo.

Đúng lúc ấy, đột nhiên có một đệ tử tám túi của Cái Bang hớt hải tới, ghé tai nói nhỏ vài câu với Hoàng Dung. Hoàng Dung tái mặt, đứng ngay dậy, run giọng nói:

– Có chuyện đó ư?

Mọi người cả kinh, cùng ngoảnh nhìn Hoàng Dung.

Hoàng Dung nói:

– Ở đây hoàn toàn không có người ngoài, ngươi cứ kể lại mọi chuyện thế nào?

Mọi người thấy Hoàng Dung nói mà mặt rưng rưng lệ, đoán đã xảy ra chuyện bất hạnh, nghe gã đệ tử tám túi kia nói:

– Chiều nay, Lỗ bang chủ dẫn hai đệ tử bảy túi đi tuần ở phía nam thành, ai ngờ qua giờ Thân vẫn chưa thấy trở về. Chúng đệ tử không yên tâm, chia nhau đi thám thính, cuối cùng trong miếu Dương Thái Phó thấy di thể của lỗ bang chủ.

Khi y nói đến hai chữ “di thể”, ai nấy cùng kêu “Ôi”. Giọng người kể cũng nghẹn lại. Nên biết Lỗ Hữu Cước võ công tuy không cao lắm, nhưng giàu nhân ái, tín nghĩa, được bang chúng tin yêu. Đệ tử tám túi kể tiếp:

– Hai đệ tử bảy túi cũng nằm bên cạnh bang chủ, một người đã chết, người kia trọng thương, nhưng còn thở thoi thóp. Y nói ba người chạm trán với vương tử Mông Cổ Hoắc Đô ở bên ngoài miếu, Lỗ bang chủ bị hắn ám toán trước, hai đệ tử liều mình đấu với hắn, đều bị đả thương bởi chưởng của hắn.

Quách Tnh giận tái mặt, chỉ nói:

– Hoắc Đô, hừ, Hoắc Đô!

Nghĩ thầm, nếu sớm biết thế này, thì năm xưa ở cung Trùng Dương mình đã chẳng nên thủ hạ lưu tình.

Hoàng Dung nói:

– Hoắc Đô hắn có nhắn lại gì không?

Gã đệ tử kia đáp:

– Đệ tử không dám nói.

Hoàng Dung nói:

– Có gì mà không dám nhắc lại. Hắn bảo rằng Quách Tĩnh, Hoàng Dung hãy mau mau đầu hàng Mông Cổ, nếu không, số phận sẽ y như Lỗ Hữu Cước, phải vậy không?

Gã đệ tử đáp:

– Bang chủ minh kiến. Tên ác tặc Hoắc Đô chính là đã nhắn lại như thế.

Tập tục trong Cái Bang, tuy Hoàng Dung đã từ nhiệm bang chủ từ sớm, song bang chúng bất kể trước mặt hay sau lưng đều gọi Hoàng Dung là bang chủ.

Hoàng Dung cau mày, nói:

– Cây Đả cẩu bổng của Lỗ bang chủ chắc đã bị Hoắc Đô cướp đi mất chứ gì?

Gã đường đáp:

– Đúng vậy.

Mọi người liền rời bàn tiệc, đi xem di thể của Lỗ Hữu Cước, thấy trên lưng có cắm một cái nan quạt bằng thép, xương sườn trước ngực bị gãy, rõ ràng Hoắc Đô đã dùng ám khí đánh lén đắc thủ trước, rồi mới dùng chưởng lực đánh chết Lỗ Hữu Cước. Mọi người thấy vậy đều bi phẫn.

Hiện thời trong thành Tương Dương đệ tử Cái Bang đông hàng ngàn người, cái tin Lỗ Hữu Cước bị kẻ gian hãm hại lan đi, nơi nào trong thành cũng có tiếng khóc thương.

Quách Tương bình thời giao hảo rất thân thiết với Lỗ Hữu Cước, thường rủ Lỗ Hữu Cước ra chỗ vắng ngoài thành, một già một trẻ uống rượu với nhau, Quách Tương nài nỉ Lỗ Hữu Cước kể các chuyện lạ chốn giang hồ, có khi hết cả nửa ngày, hai người cùng thích thú. Miếu Dương Thái Phó cách thành Tương Dương không xa, cũng là nơi Quách Tương và Lỗ Hữu Cước thường tới chơi. Hôm nay nàng nghe tin người bạn già bị giết hại ở miếu Dương Thái Phó thì đau lòng, lấy một hồ lô rượu, một giỏ thức ăn, giống như mọi khi, đi tới miếu.

Lúc này đã gần nửa đêm, Quách Tương đặt chén đũa, rót rượu đầy chén, nói:

– Lỗ lão bá, nửa tháng trước, điệt nhi còn cùng lão bá ngồi uống rượu chuyện trò ở đây, ai ngờ anh hùng gặp thảm họa, vong hồn lão bá có linh thiêng, xin hãy về đây hưởng chén rượu nhạt này.

Nól đoạn nàng dốc chén rượu xuống đất, còn chén của mình thì nàng uống cạn; nghĩ người bạn vong niên thế là mất hẳn, không khỏi bi thương, nước mắt chảy dài trên má, lại nói:

– Lỗ lão bá, điệt nhi cạn thêm chén này với lão bá

Nàng rót rượu và lại uống cạn.

Tửu lượng của Quách Tương thực ra không đáng kể, có điều tính nết khoáng đạt, thích kết giao với hào sĩ giang hồ, nên bắt chước họ khề khà đại ngôn, bây giờ sau hai chén rượu, mặt đã đỏ bừng, chếnh choáng. Trong bóng tối bỗng thấy ngoài cổng miếu hình như có người vụt hiện, Quách Tương nghĩ rằng linh hồn Lỗ Hữu Cước về thật, bèn gọi:

– Là Lỗ lão bá đấy phải không? Lão bá có linh thiêng, hãy vào đây một lát.

Nàng tuy sợ, trống ngực đập dồn, nhưng cũng muốn nhìn thấy linh hồn Lỗ Hữu Cước. Chỉ nghe một giọng nữ tử nói:

– Bán dạ tam canh, muội làm trò quỉ gì ở đây thế? Mẹ bảo muội phải về nhà ngay.

Một người từ ngoài cổng miếu chạy vào, chính là Quách Phù.

Quách Tương tỏ vẻ thất vọng, nói:

– Muội đang mời linh hồn Lỗ lão bá về gặp, tỷ tỷ xông vào, linh hồn làm sao còn dám đến? Tỷ tỷ cứ về trước đi, muội nhất định sẽ về sau.

Quách Phù nói:

– – Muội lại hồ thuyết bát đạo rồi, cái đầu bé nhỏ của muội chứa toàn những ý nghĩ rồ dại. Linh hồn Lỗ Hữu Cước tại sao phải đến đây gặp muội?

Quách Tương nói:

– Bình nhật Lỗ lão bá rất thân với muội, huống hồ muội còn đáp ứng sẽ nói cho Lỗ lão bá nghe một bầu tâm sự của muội trước ngày sinh nhật của muội, lẽ nào Lỗ lão bá không đến?

Nói đến đây, bất giác cảm thấy đau lòng.

Quách Phù nói:

– Mẹ không thấy bóng muội, liền đoán ngay là muội tới đây. Con khỉ nhỏ là muội thoát sao nổi bàn tay của mẫu thân? Mẫu thân mắng muội là kẻ ngày càng to gan, không chừng Hoắc Đô còn lẩn quất đâu đây, muội đêm hôm khuya khoắt một mình đến chốn này, chẳng nguy hiểm quá sao?

Quách Tương thở dài, nói:

– Muội nhớ Lỗ lão bá, nên cũng quên cả nguy hiểm. Tỷ tỷ hãy ngồi xuống chờ một chút, không chừng linh hồn Lỗ lão bá sẽ đến gặp muội thật đó. Có điều là tỷ tỷ đừng lên tiếng, để hồn khỏi sợ.

Quách Phù bình thời không coi trọng Lỗ Hữu Cước, cho rằng sở dĩ Lỗ Hữu Cước làm bang chủ Cái Bang hoàn toàn là nhờ mẫu thân nàng nâng đỡ, linh hồn Lỗ Hữu Cước có đến thật thì cũng không đáng sợ.

Nàng lại biết tính khí của muội muội, nó đã muốn ở đây chờ, trừ phi đích thân cha mẹ đến gọi, chứ nàng thì không cách gì khuyên nó về được. Bèn ngồi xuống, thở dài, nói:

– Nhị muội, muội càng lớn, càng không hiểu gì cả. Năm nay muội mười sáu tuổi rồi, hai năm nữa là về nhà chồng, chẳng lẽ về nhà chồng vẫn cứ điên điên khùng khùng thế này hay sao?

Quách Tương nói:

– Có gì khác kia chứ. Tỷ tỷ thành thân với tỷ phu, vẫn cứ tự do tự tại như thời khuê nữ đó thôi?

Quách Phù nói:

– Ồ, làm sao muội có thể lấy người ngoài so sánh với tỷ phu của muội được? Chàng là hào kiệt thời nay, thuộc vào hàng đệ nhất cao nhân, nên không hề câu thúc ta. Chàng văn tài võ lược, những người cùng trang lứa, đâu có ai sánh nổi chàng? Trượng phu tương lai của muội hãy được bằng nửa chàng, thì cha mẹ đủ tâm mãn ý túc rồi.

Quách Tương nghe tỷ tỷ nói ngạo mạn, thì bĩu môi, nói:

– Tỷ phu dĩ nhiên tài giỏi, nhưng muội không tin trên thế gian không có ai sánh kịp.

Quách Phù nói:

– Muội không tin, để rồi xem!

Giọng nói vẫn ngạo mạn. Quách Tương nói:

– Muội biết có một người hơn tỷ phu gấp mười lần.

Quách Phù tức giận, nói:

– Là ai? Muội thử nói ta coi.

Quách Tương nói:

– Tại sao muội phải nói kia chứ. Muội tự biết trong lòng là được rồi.

Quách Phù cười khẩy, nói:

– Là Chu tam đệ phải không? Hay là Vương Kiếm Dân?

Quách Phù kể tên vài gã thiếu niên anh hiệp.

Quách Tương liên tiếp lắc đầu, nói:

– Bọn họ đến tỷ phu còn chưa bằng, làm sao có thể hơn tỷ phu gấp mười lần.

Quách Phù nói:

– Trừ phi muội bảo đó là mấy vị tiền bối anh hùng như ông ngoại, cha mẹ, Chu đại thúc.

Quách Tương nói:

– Không, người muội nói tuổi còn ít hơn tỷ phu, diện mạo cũng anh tuấn hơn tỷ phu, võ công thì cao hơn nhiều lần, một trời một vực, tỷ phu không thể sánh nổi.

Nghe nàng nói, Quách Phù cứ xì xì liên tiếp. Quách Tương mặc kệ, nói tiếp:

– Tỷ tỷ tin hay không là tùy. Người đó phẩm hạnh cực tốt, người khác gặp nạn, bất kể quen biết hay không, chàng cũng tận lực cứu giúp.

Nói rồi nàng hơi ngửa mặt lên, nhìn đăm đăm ra xa.

Quách Phù tức giận, nói:

– Muội toàn là nghĩ những thứ vớ vẩn trong đầu thôi. Lỗ Hữu Cước chết, Cái Bang khuyết chức bang chủ. Mẫu thân vừa bảo nhân dịp anh hùng đại yến, quần hào tụ hội, mọi người tỷ võ quyết thắng, cử một vị võ công cao nhất đảm nhiệm chức bang chủ, tránh cho hai phái áo sạch áo dơ tranh chấp nhau. Anh chàng mà muội nói lợi hại như thế, thì bảo y đến đấu võ với tỷ phu của muội, xem ai đoạt được chức bang chủ nào.

Quách Tương phì cười, nói:

– Chàng chẳng thiết làm bang chủ Cái Bang đâu.

Quách Phù tức giận, nói:

– Tại sao muội dám coi thường chức bang chủ? Trước kia Hồng lão công công từng làm, mẫu thân cũng từng làm, không lẽ muội dám coi thường cả Hồng lão công công lẫn mẫu thân ư ?

Quách Tương nói:

– Muội nói coi thường hồi nào? Tỷ tỷ biết muội chơi thân nhất với Lỗ lão bá mà.

Quách Phù nói:

– Thôi được! Muội hãy gọi vị đại anh hùng của muội đến đấu võ một trận với tỷ phu của muội. Hiện thời hảo hán đương thế đều tề tựu ở thành Tương Dương, ai là anh hùng, ai là gấu chó, chỉ cần đấu một trận là lộ rõ tức thì.

Quách Tương nói:

– Đại tỷ, đại tỷ nói hớ lắm, muội không bao giờ muốn tỷ phu là gấu chó cả. Nếu tỷ phu là gấu chó, hóa ra đại tỷ cũng là đồ súc sinh mất hay sao? Tỷ và muội cùng một mẹ sinh ra, muội cũng chẳng vẻ vang gì.

Quách Phù nghe giận không được mà cười cũng chẳng xong, đứng dậy nói:

– Ta không rỗi hơi đấu khẩu với muội. Nếu muội không chịu về, đừng có lôi thêm ta ở lại đây để ta bị mắng lây.

Quách Tương miệng lưỡi sắc sảo, rất thích đấu khẩu với tỷ tỷ, nói:

– Úi chao, đại tỷ là cô nãi nãi đã xuất giá, được cha mẹ cưng chiều nhất đời. Đại tỷ lại sắp thành phu nhân bang chủ, ai dám mắng đại tỷ kia chứ.

Quách Phù nghe muội tử bảo mình sắp thành phu nhân bang chủ, thì rất thích, nói:

– Có nhiều anh hùng hảo hán nhòm ngó chức vụ bang chủ, tỷ phu của muội chưa chắc đã giành được, đừng có nói trước mà người ta cười cho đấy.

Quách Tương xuất thần hồi lâu, nhìn vầng trăng sắp tròn treo ở bên trời, thở dài, nói:

– Xem chừng linh hồn của Lỗ lão bá không đến rồi. Đại tỷ, đừng vội nhắc đến tân bang chủ làm gì, hãy để mọi người tưởng nhớ Lỗ lão bá có hơn không?

Quách Phù nói:

– Muội lại nói như một đứa trẻ, Cái Bang là bang lớn nhất trên giang hồ, làm sao có thể để quần long vô thủ kia chứ.

Quách Tương hỏi:

– Mẹ bảo hôm nào chọn bang chủ?

Quách Phù nói:

– Ngày mười lăm khai mạc anh hùng đại hội, điều quan trọng nhất là thương nghị làm thế nào liên hợp hào kiệt bốn bể chung sức chống Mông Cổ. Việc đó mất tối thiểu dăm sáu ngày, có khi tám chín ngày; vậy việc chọn bang chủ sẽ vào khoảng ngày hai mươi ba, hai mươi bốn.

Quách Tương “à” một tiếng.

Quách Phù hỏi:

– Cái gì?

Quách Tương nói:

– Không có gì, hai mươi bốn chính là sinh nhật của muội. Các vị chọn lựa bang chủ, mẫu thân bận bịu, sẽ không còn bụng dạ nào làm sinh nhật cho muội.

Quách Phù cười ha hả, nói:

– Làm sinh nhật cho một đứa nhóc con như muội thì hệ trọng lắm sao? Làm sao có thể so sánh với đại sự lựa chọn bang chủ kia chứ? Nói ra chỉ sợ người ta cười rụng răng. Thế gian có lẽ chỉ một mình muội để tâm đến những chuyện vặt vãnh như vậy.

Quách Tương đỏ mặt, nói:

– Phụ thân có thể không nhớ, mẫu thân nhất định phải nhớ; tỷ tỷ bảo là chuyện vặt vãnh, thế muội tròn mười sáu tuổi, tỷ tỷ có biết hay không?

Quách Phù càng buồn cười, châm biếm nói:

– Đến hôm ấy, mấy ngàn vị anh hùng hảo hán trong thành Tương Dương sẽ tới chúc thọ nhị tiểu thư nhà ta, người nào cũng tặng lễ vật thật hậu hĩ. Bởi lẽ Quách nhị tiểu thư tròn mười sáu tuổi, không còn là trẻ con nữa, đã thành đại cô nương! Ha ha, hô hô!

Nghiêng đầu một bên, Quách Tương nói:

– Người ngoài tất nhiên không để ý, nhưng tối thiểu cũng có một vị đại anh hùng nhớ sinh nhật của muội; chàng đã đáp ứng sẽ đến gặp muội vào hôm đó.

Nàng nói câu này với vẻ kiêu hãnh.

Quách Phù nói:

– Vị đại anh hùng nào thế? À, là cái vị thiếu niên anh hùng hơn tỷ phu của muội gấp mười lần. Ta nói cho muội biết, thứ nhất, chẳng có nhân vật nào như thế, tất cả chỉ là do cái đầu vớ vẩn của muội bịa ra. Thứ hai, coi như có thật đi, thì người đó chẳng thiếu gì đại sự để làm, chẳng rỗi hơi đến chúc mừng sinh nhật của một cô bé nhóc con. Trừ phi người đó đi dự anh hùng đại yến, thì mới đến thành Tương Dương.

Quách Tương bị tỷ tỷ châm biếm cơ hồ phát khóc lên được, giậm chân nói:

– Chàng đã đáp ứng sẽ đến mà. Chàng cũng không đi dự anh hùng đại yến, không đến tranh chức bang chủ đâu.

Quách Phù nói:

– Y không phải là anh hùng, phụ thân tất nhiên không gửi thiếp mời y. Y có muốn đi dự anh hùng đại yến, cũng hoàn toàn chưa đủ tư cách.

Quách Tương lấy khăn tay ra chấm nước mắt, nói:

– Đã thế, anh hùng đại yến của các vị, muội cũng thèm vào dự; các vị chọn bang chủ hay làm gì có vui mấy, muội cũng chẳng thèm xem.

Quách Phù cười khẩy, nói:

– Thôi chết, Quách nhị tiểu thư mà không đến, anh hùng đại yến còn ra thể thống gì nữa? Làm tân bang chủ Cái Bang còn vinh hạnh gì nữa? Không thể thiếu muội được đâu!

Quách Tương đưa hai tay bịt tai, chạy ra cổng miếu.

Bỗng một bóng đen vụt hiện, chắn ngay giữa cổng miếu. Quách Tương giật mình, vội nhảy lùi mới không ngã vào lòng người đó. Dưới ánh trăng, thấy người kia thân hình cực cao, mặt mũi đen sì, nửa thân trên rất ngắn, ngưng thần nhìn, thì ra người kia cụt cả hai chân, hai nách tựa vào hai cây quải trượng dài sáu thước, hai ống quần dài thượt, đung đưa bên dưới đôi cà kheo, thành một người khổng lồ. Quách Phù kinh ngạc, nói:

– Các hạ là Ni Ma Tinh phải không?

Người kia chính là Ni Ma Tinh, lần này hoàng đế Mông Cổ thân chinh ngự giá, các dũng sĩ Tây Vực đều đi theo, ai cũng muốn hiển lộ thân thủ trong chiến dịch này để được hưởng công danh phú quí. Ni Ma Tinh tuy bị cụt hai chân, võ công không mất, trải qua mười mấy năm khổ luyện, cặp thiết trượng còn lợi hại hơn cả khi chân hắn còn nguyên lành. Đại quân Mông Cổ còn cách thành Tương Dương mấy trăm dặm, nhưng bọn võ sĩ như Ni Ma Tinh đã đến trước xung quanh thành thăm dò. Đêm nay Ni Ma Tinh định ghé vào miếu Dương Thái Phó trú một đêm, ở ngoài cổng nghe tỷ muội Quách Phù đối đáp thì mừng như vớ được của báu, nghĩ bụng Quách Tĩnh tuy không phải là chủ soái trấn thủ thành Tương Dương, nhưng số phận thành này liên quan mật thiết tới Quách Tĩnh, nếu bắt được hai ái nữ của Quách Tĩnh, thì dù không thể buộc Quách Tĩnh đầu hàng, cũng làm Quách Tĩnh rối loạn tâm trí, quả là một đại kỳ công. Hắn thấy Quách Phù nhận ra mình, bèn nói:

– Quách đại cô nương nhãn lực khá lắm, lâu năm không gặp, cô nương trông càng xinh tươi. Hai người muốn yên lành, hãy ngoan ngoãn đi theo ta?

Quách Phù vừa sợ vừa tức, biết tên này võ công cao cường, hai tỷ muội cùng chống chọi cũng không địch nổi hắn, không nhịn được tức giận nhìn Quách Tương một cái, nghĩ: “Tại muội gây nên mối họa này, không biết phải làm sao đây?” Quách Tương thì hỏi Ni Ma Tinh:

– Hai chân của các hạ sao trông kỳ vậy? Khi chưa bị cụt cũng dài ngoằng thế ư ?

Ni Ma Tinh hừ một tiếng, không đếm xỉa đến nàng, nói với Quách Phù:

– Hai tỷ muội cô nương hãy đi trước ta, đừng có dại dột tính chuyện bỏ chạy!

Giọng nói rõ ràng là muốn bắt tỷ muội Quách Phù làm tù binh. Quách Tương cười, nói:

– Các hạ nói năng kỳ quái, bán dạ tam canh đòi bắt tỷ muội bổn cô nương đi đâu kia chứ?

Ni Ma Tinh tức giận nói:

– Nhóc con chớ nhiều lời, mau đi theo ta.

Hắn sợ trong thành có người ra tiếp ứng, dễ bị xôi hỏng bỏng không.

Quách Phù nói nhỏ:

– Nhị muội, gã lùn này là võ sĩ Mông Cổ, công phu cao cường lắm, ta đánh bên trái, muội hây tấn công bên phải.

Đoạn rút soạt trường kiếm khỏi bao, đâm tới eo lưng Ni Ma Tinh.

Quách Tương ra khỏi thành không mang theo binh khí, đồng thời nghĩ rằng người này cụt hai chân, hoàn toàn dựa vào đôi quải trượng, tỷ tỷ dùng kiếm đâm hắn, hắn địch sao nổi? Bèn gọi:

– Tỷ tỷ, người này đáng thương, không nên đả thương người ta?

Lời chưa dứt, Ni Ma Tinh tả trượng chống xuống đất, hữu trượng quét ngang, “cạch” một tiếng, trúng kiếm của Quách Phù, trong bóng đêm tia lửa tung tóe, thanh kiếm chút nữa tuột khỏi tay. Quách Phù cảm thấy cánh tay tê dại, ngực hơi nhoi nhói, bèn tay trái giữ kiếm quyết thi triển “Việt nữ kiếm pháp” đấu với Ni Ma Tinh. “Việt nữ kiếm pháp” là công phu Hàn Tiểu Oanh trong Giang Nam thất quái truyền thụ cho Quách Tĩnh, sau Hàn Tiểu Oanh không may bị thảm tử, Quách Tĩnh tưởng niệm ân sư, liền đem truyền thụ cho hai nữ nhi.

Kiếm pháp này nguồn gốc sâu xa, biến hóa tinh vi, vốn là một đại tông trong kiếm học, nếu do Quách Tĩnh thi triển, tất nhiên uy lực sấm sét, nhưng Quách Phù công lực có hạn, kiếm pháp tuy tinh, song không thể đối phó với đôi thiết trượng của Ni Ma Tinh.

Quách Tương thấy Ni Ma Tinh lần lượt sử dụng đôi thiết trượng, tả trượng ra đòn thì hữu trượng chống xuống đất, tiến thoái mẫn tiệp, chẳng kém gì người có hai chân nguyên lành, đã vậy thiết trượng lại dài, hắn từ trên cao vung thiết trượng đánh xuống, càng thêm uy lực, tỷ tỷ dĩ nhiên không địch nổi, lúc này mới kinh hãi. Quách Phù cảm thấy áp lực cây thiết trượng của kẻ địch càng lúc càng nặng, cứ đè ép trường kiếm của nàng, mũi kiếm đâm tới cứ bị chếch đi. Quách Tương lo cho tỷ tỷ, song chưởng liền đánh tới Ni Ma Tinh. Chỉ nghe Ni Ma Tinh quát:

– Coi đây!

Tả trượng đẩy xuống đất một cái, thân hình lơ lửng trong không trung, song trượng cùng xuất kích, nhanh như cắt, hữu trượng điểm trúng vai trái của Quách Tương, tả trượng điểm trúng ngực Quách Phù.

Quách Tương lảo đảo lùi mấy bước. Quách Phù bị đòn không nhẹ, kêu hự một tiếng, ngã xuống đất.

Ni Ma Tinh vọt lên thụp xuống một cách ma quái, đã nhanh lại hiểm, thiết trượng hơi nhún, đã vọt tới trước mặt Quách Phù, cười khẩy, nói:

– Ta đã bảo hãy ngoan ngoãn đi theo ta…

Quách Phù vọt dậy, nói:

– Nhị muội mau chạy ra lối cửa hậu!

Ni Ma Tinh giật mình, thiết trượng rõ ràng đã điểm trúng huyệt Thần Tàng của Quách Phù, làm sao nàng ta lại vẫn cử động như thường? Hắn không thể biết Quách Phù có mặc Nhuyễn vị giáp, hắn ngỡ đó là tuyệt kỹ bế huyệt gia truyền nhà họ Quách.

Kỳ thực huyệt đạo của Quách Phù không hề bế, nàng bị trúng thiết trượng cũng rất đau đớn, không thể sử kiếm linh hoạt được nữa. Quách Tương thi triển “Lạc Anh chưởng pháp” bảo vệ sau lưng cho tỷ tỷ, gọi:

– Tỷ tỷ, tỷ tỷ đi trước đi!

Cây thiết trượng bên tay trái Ni Ma Tinh đánh thẳng tới mặt Quách Tương, chỉ còn cách chót mũi nàng chưa đầy ba tấc, kình phong làm rát cả mặt. Hắn quát:

– Không đứa nào được chạy đâu hết!

Quách Tương tức giận:

– Bổn cô nương cứ tưởng ngươi đáng thương, hóa ra ngươi quá ngang ngược đáng ghét!

Ni Ma Tinh cười hô hố, nói:

– Nhãi con không ăn đòn, thì còn chưa biết cha mi lợi hại.

Cây thiết trượng chống xuống đất cộc cộc, miệng cười nhăn nhở, hắn tiến lại. Quách Tương bình sinh chưa sợ thế này bao giờ, nhìn bộ mặt đen đúa nham nhở, cặp mắt tròn mở to lộ vẻ nham hiểm, hàm răng trắng nhởn như sắp cắn người của Ni Ma Tinh, nàng bất giác rú lên thất thanh.

Bỗng phía sau lưng nàng có tiếng nói nhỏ nhẹ:

– Đừng sợ! Hãy dùng ám khí mà đánh hắn!

Trong cơn nguy cấp Quách Tương cũng chẳng kịp phân biệt người nói là ai, đưa tay sờ thắt lưng, nói:

– Muội không có ám khí.

Nàng thấy Ni Ma Tinh lại tới gần thêm một bước, không biết phải làm thế nào, song chưởng đành sử chiêu Tán hoa thế che đỡ trước mặt. Bàn tay nàng vừa đưa ra đằng trước, từ phía sau bỗng có một luồng gió thổi nhẹ, chỉ cảm thấy cánh tay lâng lâng, đôi vòng đeo tay bằng vàng liền tuột khỏi cổ tay bay tới đụng vào cây thiết trượng của Ni Ma Tinh nghe tinh tinh hai tiếng.

Tiếng đụng nghe khẽ khàng, vậy mà hai cây thiết trượng nặng nề của Ni Ma Tinh lại bị hất mạnh ra phía sau, tuột tay hắn văng vào bức tường miếu hai tiếng thình thình, khiến bụi bậm trên nóc miếu rơi xuống lả tả. Ni Ma Tinh tuột mất cả hai cây thiết trượng, thân hình liền ngã xuống, nhưng hắn lộn một vòng, dùng lưng chạm đất, mượn thế bật dậy, miệng gầm gừ, mười ngón tay đen sì cùng với cả người lao bổ về phía Quách Tương.

Quách Tương cả kinh, không kịp nghĩ, thuận tay rút một chiếc trâm bằng ngọc xanh, vung tay ném về phía Ni Ma Tinh, chỉ thấy từ phía sau lại có luồng gió nhẹ đẩy cái trâm đi. Ni Ma Tinh tay trái ở trước, tay phải ở sau, đột nhiên thấy cái trâm bay đến rất kỳ dị, bèn giơ cả hai tay gạt đi, miệng thốt lên khe khẽ:

– Cổ quái thay!

Hắn ngã xuống, không cựa quậy gì nữa.

Quách Tương sợ Ni Ma Tinh có quỉ kế gì, nhảy tới bên Quách Phù, run run nói:

– Tỷ tỷ, đi mau!

Hai tỷ muội đứng bên cạnh tượng thần trong miếu Dương Thái Phó, thấy Ni Ma Tinh không cựa quậy gì nữa, Quách Phù nói:

– Chẳng lẽ hắn đột nhiên trúng gió mà chết?

Rồi quát:

– Ni Ma Tinh, ngươi giở trò quỉ gì vậy?

Nàng nghĩ hắn đã mất đôi thiết trượng, khó bề cử động, không còn đáng sợ nữa, bèn chĩa kiếm tiến lên vài bước, chỉ thấy Ni Ma Tinh mắt mở trừng trừng, lộ vẻ kinh hoàng, miệng há hốc, hóa ra đã chết.

Quách Phù vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, thắp sáng cây nến trên bàn thờ, định bước lại nhìn cho kỹ, bỗng nghe ngoài cửa miếu có người gọi:

– Phù muội, nhị muội, hai người có ở trong miếu hay không?

Chính là Gia Luật Tề. Quách Phù mừng rỡ, gọi:

– Tề ca, lại đây mau lên, kỳ quái… kỳ quái lắm!

Quách Phù đi tìm muội tử, lâu không trở về, Gia Luật Tề nghĩ Lỗ Hữu Cước đã bị ám toán, lúc này bên ngoài thành Tương Dương lởn vởn kẻ địch, nên chàng không yên tâm, bèn đi đón tỷ muội về thành. Chàng dẫn theo hai đệ tử Cái Bang sáu túi, chạy vào trong miếu, thấy Ni Ma Tinh nằm chết dưới đất, thì giật mình. Chàng biết gã lùn ở Thiên Trúc này võ công cực cao, ngay chàng cũng không địch nổi, cuối cùng Quách Phù lại giết được hắn, thật là ngoài sức tưởng tượng. Chàng cầm cây nến từ tay Quách Phù, lại bên nhìn kỹ, lại càng kinh ngạc.

Chỉ thấy hai lòng bàn tay của Ni Ma Tinh đều bị xuyên thủng, chiếc trâm ngọc cắm trúng huyệt Thần Đình bên trên trán Ni Ma Tinh. Chiếc trâm ngọc phóng mạnh hơn chút nữa, sẽ bị gãy. Đằng này nó có thể xuyên qua hai lòng bàn tay của một danh gia võ học, lại đánh chết được hắn, bản lĩnh phóng châm thật quá ư cao cường. Gia Luật Tề quay sang nói với Quách Phù:

– Ngoại công đã tới đây đấy. Mau đưa ta dẫn kiến người.

Quách Phù ngạc nhiên hỏi lại:

– Ngoại công đã tới khi nào?

Gia Luật Tề nói:

– Không phải ngoại công tới ư?

Chàng mừng rỡ, nói:

– Thì ra là ân sư đến.

Chàng nhìn quanh, không thấy bóng dáng Chu Bá Thông đâu cả. Chàng biết tính sư phụ hay đùa, chắc sư phụ đang nấp đâu đây để dọa chàng, bèn chạy ra khỏi miếu, nhảy lên mái nhà quan sát, song bốn phía không một bóng người. Quách Phù kêu lên:

– Chàng cứ nói lung tung nào ngoại công, nào sư phụ cái gì vậy?

Gia Luật Tề trở vào đại điện, hỏi kỹ tỷ muội hai người về việc đã gặp Ni Ma Tinh thế nào, hắn chết ra sao. Quách Phù nói, chỉ thấy muội tử dùng chiếc trâm ngọc đánh chết hắn, thật chẳng có lý chút nào hết.

Gia Luật Tề nói:

– Phía sau nhị muội tất có cao nhân ám trợ. Ta nghĩ thời nay ngoài nhạc phụ, chỉ ngoại công, ân sư của ta, Nhất Đăng đại sư và Kim Luân pháp vương năm người là có được công phu đó. Kim Luân pháp vương là quốc sư Mông Cổ, ắt không đối địch với Ni Ma Tinh; Nhất Đăng đại sư không dễ gì khai sát giới; cho nên ta đoán hoặc ngoại công, hoặc ân sư của ta đến thôi. Nhị muội, muội đoán người ám trợ cho muội là ai?

Quách Tương sau khi phóng chiếc trâm, Ni Ma Tinh ngã xuống, nàng lập tức ngoảnh lại, nhưng phía sau không thấy bóng một ai, nàng thầm nhẩm lại câu “Đừng sợ. Hãy dùng ám khí mà đánh hắn”. Câu này nghe giọng rất quen thuộc, chẳng lẽ là Dương Quá? Nhưng vừa nghĩ đến Dương Quá, nàng tự nhủ: “Quyết không phải là chàng! Chỉ vì mình mong mỏi chàng, nên nghe giọng người khác cũng ngỡ là chàng”. Khi Gia Luật Tề hỏi, nàng mải nghĩ nên không nghe thấy.

Quách Phù thấy muội tử đỏ mặt, ánh mắt long lanh, thần tình khác lạ, nghĩ muội tử vừa rồi bị hoảng hồn, bèn kéo tay, hỏi:

– Nhị muội, muội làm sao vậy?

Quách Tương giật mình, càng đỏ mặt thêm, nói:

– Không sao cả.

Quách Phù nói:

– Tỷ phu hỏi vừa rồi ai đã xuất thủ cứu muội, muội có nghe thấy không vậy?

Quách Tương đáp:

– À, ai giúp muội đánh chết tên ác nhân ấy ư? Dĩ nhiên là người ấy! Ngoài người ấy ra, còn ai có bản lĩnh như vậy được?

Quách Phù nói:

– Người ấy nào? Người ấy là ai? Là vị đại anh hùng mà muội đã nói ấy à?

Quách Tương trống ngực đập dồn, vội nói:

– Không, không! Là muội nói linh hồn của Lỗ lão bá.

Quách Phù hừ một tiếng, buông tay muội tử. Quách Tương nói:

– Vừa rồi không thấy bóng người, nhất định là linh hồn của Lỗ lão bá đã ám trợ muội. Tỷ tỷ biết đấy Lỗ lão bá vốn rất quí mến muội mà lại.

Quách Phù bán tín bán nghi, nghĩ bụng không có linh hồn, không lẽ hồn ma của Lỗ Hữu Cước không tan, nhưng nếu không phải linh hồn, thì ai giơ tay giết người được kia chứ. Nàng đứng ngay một bên, không hề thấy bóng người.

Gia Luật Tề nhặt hai cây thiết trượng của Ni Ma Tinh lên, cảm thán:

– Công lực như thế, thật đáng khâm phục.

Quách Phù và Quách Tương cùng nhìn kỹ, thấy hai chiếc vòng đeo tay hình hoa phù dung dính vào thiết trượng như đúc liền một khối. Hai cái vòng thủ công tinh xảo, nhỏ bé, mà nội lực của người tác động vào đủ làm hai cây trượng thô nặng tuột tay bay đi, chẳng trách Gia Luật Tề phải trầm trồ thán phục.

Quách Phù nói:

– Chúng ta đem về cho mẫu thân xem, mẫu thân sẽ đoán biết người ấy là ai.

Hai đệ tử Cái Bang liền một người vác xác, một người vác cặp thiết trượng, theo Gia Luật Tề và tỷ muội Quách Phù trở về thành Tương Dương. Quách Tĩnh và Hoàng Dung nghe Quách Phù thuật lại, nghĩ đến mối nguy hiểm vừa thoát, không khỏi kinh hãi.

Quách Tương cứ tưởng phen này sẽ bị phụ phẫu phạt nặng, nhưng Quách Tĩnh mừng rằng nữ nhi tình nghĩa sâu nặng, nên lại còn an ủi nàng vài câu. Hoàng Dung thấy chồng không giận, liền ôm tiểu nữ nhi vào lòng mà vỗ về, khi xem kỹ cặp thiết trượng và cái xác của Ni Ma Tinh, thì ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói với Quách Tĩnh:

– Tĩnh ca ca, tướng công đoán là ai?

Quách Tĩnh lắc đầu, nói:

– Cái này hoàn toàn dựa vào nội lực cương mãnh, theo chỗ ta biết, chỉ có hai người.

Hoàng Dung hơi nghiêng đầu, nói:

– Nhưng ân sư Thất Công đã sớm lìa trần, lại không phải chính tướng công ra tay.

Hoàng Dung hỏi kỹ chuyện động thủ ở miếu Dương Thái Phó, thủy chung vẫn chưa đoán ra được.

Chờ khi Quách Phù, Quách Tương về phòng nghỉ ngơi rồi, Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca, nhị tiểu thư của chúng ta có tâm sự gì đó giấu chúng ta, tướng công có biết không?

Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Giấu cái gì?

Hoàng Dung nói:

– Từ khi lên phương bắc đưa thiếp mời trở về, nó thường thường ngẩn ngơ xuất thần một mình, đêm nay giọng nói của nó lại càng cổ quái.

Quách Tĩnh nói:

– Nó bị kinh sợ một phen, tất nhiên tâm thần hốt hoảng.

Hoàng Dung nói:

– Không phải thế. Nó lúc thì bẽn lẽn ngượng nghịu, lúc thì tủm tỉm cười một mình, trong lòng hẳn có niềm vui không thể thổ lộ.

Quách Tĩnh nói:

– Con bé bỗng dưng được cao nhân ám trợ, cho nên mừng mừng tủi tủi, cũng không có gì lạ.

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Tâm sự của thiếu nữ, hồi Tĩnh ca ca còn trẻ đã không hiểu, bây giờ sắp già, càng không thể biết đâu.

Hai vợ chồng liền nói sang chuyện khác, bàn một hồi về phương lược bày trận chống địch, cách nghênh tiếp tân khách trong anh hùng đại yến hôm sau, cách bố trí bàn tiệc, rồi mới đi nghỉ.

Hoàng Dung nằm xuống giường, nghĩ đến thần tình của Quách Tương, không thể ngủ được, nghĩ: “Con bé ngay hôm chào đời đã gặp kiếp nạn, mình chỉ lo trong đời nó sẽ khó tránh nhiều thử thách, may sao mười sáu năm qua đều bình yên, không lẽ hôm nay lại sắp có biến cố giáng xuống đầu nó”. Lại nghĩ cường địch áp sát thành, đại nạn đe dọa, trăm họ trong thành đứng trước đại họa, nếu có thể biết trước điều gì để đề phòng thì tốt; mà tiểu nữ nhi thì tính nết cổ quái, từ nhỏ có chuyện gì đã không chịu nói, bất kể phụ mẫu dỗ dành trách mắng thế nào, nó cũng chỉ xị mặt, chẳng hé nửa lời, khiến cha mẹ vừa bực bội, vừa tức cười.

Hoàng Dung càng nghĩ càng không yên tâm, bèn khẽ khàng ngồi dậy, đi ra mặt thành, bảo quân sĩ mở cổng thành cho mình ra ngoài, rồi nhắm miếu Dương Thái Phó ở phía nam mà đi.

Lúc này là canh tư, vầng trăng sáng bị mây đen che khuất. Hoàng Dung tay cầm cây đoản côn, thi triển khinh công, chạy đến Hiện Sơn, còn cách miếu Dương Thái Phó vài chục trượng, bỗng nghe cạnh Trụy lệ bi có tiếng người. Hoàng Dung rùn người xuống thấp, lẻn tới gần, cách tấm bia vài trượng, nấp sau một thân cây lớn. Chỉ nghe một người nói:

– Tôn tam ca, ân công dặn chúng mình chờ ở cạnh Trụy lệ bi, tại sao tấm bia này lại mang cái tên chẳng lành chút nào như thế?

Gã họ Tôn nói:

– Ân công bình sinh tựa hồ có một chuyện bất hạnh gì đó, cho nên hễ gặp những cái tên như Đoạn Trường, Ưu Sầu, Trụy Lệ, đều để tâm cả.

Người thứ nhất nói:

– Bản lĩnh như ân công, trong thiên hạ làm gì có chuyện nào khó, vậy mà đệ nhìn ánh mắt của ân công, nghe giọng nói của ân công, hình như có điều gì rất rầu lòng thì phải. Ba chữ Trụy lệ bi, chỉ e do ân công tự đặt ra.

Gã họ Tôn nói:

– Không phải đâu. Ta từng nghe tiên sinh trong tuồng cổ kể rằng thời Tam Quốc, thành Tương Dương thuộc nước Ngụy, tướng trấn thủ Dương Hộ công lao rất lớn, được phong chức Thái Phó, bảo cảnh an dân, ân trạch rất hậu. Thường ngày Dương Hộ thích du ngoạn núi Hiện Sơn này, sau khi qua đời, trăm họ nhớ ơn ông, mới dựng tòa miếu Dương Thái Phó kia, lập bia ghi đức. Trăm họ nhìn thấy tấm bia này, nghĩ đến công ơn bình sinh của ông, lại cất giây lát than khóc, cho nên mới gọi là Trụy lệ bi. Trần lục đệ, một người như Dương Thái Phó, đúng là một đại trượng phu.

Người họ Trần nói:

– Ân công hành hiệp trượng nghĩa, giữa chốn tứ hải ngũ hồ, không biết bao nhiêu người được ân công cứu giúp. Nếu ân công làm quan trấn thủ thành Tương Dương, không chừng còn hơn cả Dương Thái Phó.

Gã họ Tôn nói:

– Quách đại hiệp thành Tương Dương đã bảo cảnh an dân, lại hành hiệp trượng nghĩa, kiêm cái tốt của cả Dương Thái Phó lẫn ân công của chúng ta.

Hoàng Dung nghe họ tán dương chồng mình, không khỏi thầm đắc ý, lại nghĩ: “Không biết ân công của họ là ai? Chẳng lẽ lại chính là người đã ám trợ Quách Tương?” Nghe gã họ Tôn nói:

– Hai chúng ta trước đây chống lại ân công, sau lại được ân công cứu mạng, tấm lòng bao dung của ân công có thua gì Dương Thái Phó. Vị tiên sinh kể chuyện Tam Quốc còn nói, hồi Dương Hộ giữ thành Tương Dương, con trai của đại tướng Đông Ngô là Lục Kháng có chống lại Dương Hộ. Dương Hộ phái binh đến đánh trận trong địa phận của Đông Ngô, nếu cắt lúa của dân chúng làm quân lương, nhất định đều trả tiền cho dân. Lục Kháng bị bệnh, Dương Hộ sai mang thuốc tặng, Lục Kháng uống ngay không chút nghi ngờ. Thuộc hạ khuyên y phải cẩn thận đề phòng, y nói: “Há có ai bằng Dương thúc tử?” Uống thuốc xong quả nhiên đỡ bệnh. Dương thúc tử chính là Dương Hộ. Vì Dương Hộ nhân phẩm cao thượng, nên kẻ địch cũng phải kính nể. Khi Dương Hộ chết, ngay tướng sĩ Đông Ngô ở vùng biên giới cũng thương khóc mấy ngày. Con người đức độ như thế mới đáng mặt anh hùng đó.

Gã họ Trần sờ tấm bia, luôn miệng cảm thán một hồi, rồi nói:

– Ân công bảo chúng ta gặp nhau ở đây, chắc cũng là để ngưỡng mộ Dương Thái Phó chăng?

Gã họ Tôn nói:

– Ta từng nghe ân công bảo Dương Hộ sinh thời có một câu nói rất hợp tâm khảm của ân công.

Gã họ Trần vội hỏi:

– Là câu gì nhỉ, tam ca đừng nói vội, để đệ cố nhớ xem nào. Ngay ân công cũng thán phục, thì câu ấy phải rất hay.

Gã họ Tôn nói:

– Năm Lục Kháng chết, vua Ngô vô đạo, Dương Hộ có dâng sớ rằng thừa dịp này vừa có thể cứu trăm họ Đông Ngô, vừa thống nhất thiên hạ, nhưng bọn gian thần trong triều cản ngăn, nên Dương Hộ có than một câu: “Mười việc trong thiên hạ, thường bảy, tám việc không như ý muốn”. Câu mà ân công thích chính là câu đó.

Gã họ Trần không ngờ lại là câu ấy, có vẻ thất vọng, lẩm bẩm gì đó, đột nhiên kêu to:

– Tôn tam ca, Dương Hộ, Dương Hộ, hai tiếng ấy nghe rất gần với tên của ân công…

Gã họ Trần suýt:

– Đừng nói, có người đến.

Hoàng Dung hơi giật mình, quả nhiên nghe có tiếng chân người chạy ở lưng núi, nghĩ: “Tiếng đồng âm với Dương Hộ là Dương Quá, không, không thể là Dương Quá, võ công của Quá nhi dẫu có tiến cảnh, cũng chẳng thể đến mức xuất thần nhập hóa như vậy”.

Lát sau, nghe có tiếng vỗ tay khe khẽ ba cái, gã họ Tôn cũng vỗ đáp lại ba cái. Có người chạy đến trước Trụy lệ bi nói:

– Hai vị Tôn, Trần lão đệ, ân công bảo hai vị không phải chờ ân công nữa. Ở đây có hai tấm danh thiếp của ân công, nhờ hai vị lập tức mang đi. Tôn tam đệ mang một tấm đến phủ Tín Dương, Hà Nam cho Triệu lão tước gia, Trần lục đệ mang một tấm đến phủ Thường Đức, Hồ Nam cho Ô Nha sơn Lung Á Đầu Đà, mời hai vị ấy nội nhật mười ngày phải tụ hội ở đây.

Tôn, Trần hai người cung kính đáp ứng, nhận danh thiếp, cất vào túi.

Hoàng Dung nghe vậy vô cùng kinh ngạc, Triệu lão tước gia ở phủ Tín Dương là hậu duệ tôn thất triều Tống, Thái Tổ tam thập tam thế trường quyền và Thập bát lộ tề mi bổng là tuyệt kỹ gia truyền, vốn không giao du với các võ sĩ giang hồ. Ô Nha sơn Lung Á Đầu Đà thì là một cao thủ lừng danh, võ công cao cường, chỉ vì vừa câm vừa điếc, nên cũng không đi lại với người ngoài. Đại hội anh hùng ở thành Tương Dương lần này, Quách Tĩnh và Hoàng Dung biết rõ hai vị đó ẩn cư chốn thâm sơn, sẽ không đi đâu cả, song vẫn gửi anh hùng thiếp mời họ. Quả nhiên hai người ấy khôn khéo chối từ rồi, không lẽ “ân công” lại có uy tín cao tới mức chỉ cần một tờ thiếp mời là có thể khiến hai vị cao nhân ẩn cư thâm sơn nội nhật mười ngày phải đến đây?

Hoàng Dung chợt cảm thấy rất lo ngại: “Đại hội anh hùng ngày mai đã khai mạc, người này chiêu tập cao thủ giang hồ đến thành Tương Dương, là mưu mô gì? Liệu có phải trợ giúp Mông Cổ, bất lợi cho ta chăng?” Nhưng nghĩ Triệu lão tước gia và Lung Á Đầu Đà tuy lánh đời, song không phải hạng gian tà, vị “ân công” đã ám trợ Quách Tương giết Ni Ma Tinh, chính là người đứng về phe ta.

Đang trầm ngâm, nghe ba người kia nói nhỏ với nhau, vì ở xa nên chỉ nghe lõm bõm vài câu:

– … Ân công chưa từng sai phái bọn ta việc gì, lần này tất là… cuộc nhiệt náo lớn lắm đây… thể diện… lễ vật của bọn ta phải….

Rồi gã họ Tôn nói to:

– Được, chúng ta đi thôi, cứ yên tâm, quyết không làm lỡ việc ân công giao phó.

Đoạn ba người đi nhanh xuống núi.

Về lai lịch của “ân công”, Hoàng Dung không dò ra manh mối gì, song cũng không muốn bứt dây động rừng, nên không bắt ba người kia để truy hỏi. Đợi ba người ấy đi xa, Hoàng Dung vào trong miếu, quan sát kỹ một lượt, không thấy có gì lạ, nghĩ rằng vì quân địch đến gần, nên người ở đây đã chạy vào thành cả, không còn ai. Bèn rời miếu về thành, lúc này trời đã rạng sáng.

Gần đến ngã ba bên ngoài cửa Tây, bỗng có hai người phóng ngựa tới, Hoàng Dung vội lánh sang bên nhường đường, thấy ngồi trên mình ngựa là hai hán tử cường tráng. Đến ngã ba, một người quay ngựa chạy về hướng tây bắc, người thứ hai phi về phía tây nam, người này nói với người kia:

– Đệ nhớ dặn Trương Đại Khoa Tử dẫn các đoàn hát xướng ở Hán Khẩu đến cả đấy, nhớ dẫn theo cả thợ khéo chăng đèn kết hoa.

Người kia cười, đáp:

– Huynh khỏi cần dặn đi dặn lại mãi, giả dụ Xuyên Thái đại sư phó đến chậm một ngày, ân công có tha cho huynh, mọi người cũng chẳng tha đâu.

Người nọ nghe cười, nói:

– Chứ sao, chậm một ngày, đầu ta khó còn trên cổ đấy.

Họ ôm quyền từ biệt, đi về hai hướng khác nhau.

Hoàng Dung thong thả về thành, trong bụng càng phân vân: “Nghe đồn Trương Đại Khoa Tử làm bá chủ ở Hán Khẩu, kết giao với quan phủ, các hào khách sơn trại quanh vùng đều lấy lòng y, làm sao “ân công” chỉ nói một câu đã có thể gọi y tới? Bọn họ hư trương thanh thế rốt cuộc để làm gì?” Đột nhiên nghĩ ra, thốt lên:

– Đúng rồi, đúng rồi! Ắt là như vậy!

Hoàng Dung về phủ, nói với Quách Tĩnh:

– Tĩnh ca ca, chúng ta đã quên mời người rồi.

Quách Tĩnh ngạc nhiên:

– Chúng ta đã điểm đi điểm lại, không bỏ sót ai cả.

Hoàng Dung nói:

– Thiếp cũng tưởng thế, chúng ta sợ đắc tội với các vị hảo hán, nên tuy biết mười mấy vị danh vọng không lớn, cũng không chịu đi, song ta vẫn gửi thiếp mời. Nhưng hôm nay thiếp mới biết có một đại nhân vật không hài lòng, cũng định mở anh hùng đại yến trong thành Tương Dương để đua tranh với chúng ta.

Quách Tĩnh vui vẻ nói:

– Vị anh hùng ấy có cùng chí hướng với chúng ta, thế thì còn gì bằng. Chúng ta cứ việc bầu vị đó làm minh chủ suất lĩnh quần hùng, chung sức chống Mông Cổ, vợ chồng mình nghe theo hiệu lệnh của vị đó là xong.

Hoàng Dung hơi cau mày, nói:

– Nhưng xem ra hành động của người ấy lại không phải đến để chung sức chống ngoại xâm. Hắn gửi danh thiếp đi mời nhưng người như Triệu lão tước gia ở Tín Dương, Ô Nha sơn Lung Á Đầu Đà, Trương Đại Khoa Tử ở Hán Khẩu cùng tới.

Quách Tĩnh vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vỗ bàn đứng dậy, nói:

– Người ấy nếu có thể mời được các vị cao nhân Triệu lão tước gia, Lung Á Đầu Đà đến đây thì thanh thế thành Tương Dương đại tráng. Hoàng Dung, với các nhân vật đó, chúng ta phải kết giao mới được.

Hoàng Dung trầm ngâm không nói, đệ tử tri tân (tiếp khách) vào báo có các trại chủ Giang Nam Thái Hồ đến. Quách Tĩnh, Hoàng Dung liền ra đón. Ngày hôm nay các lộ hào kiệt lũ lượt kéo đến, Hoàng Dung bận tiếp khách túi bụi, không còn lúc nào để nghĩ đến nhưng gì nhìn và nghe thấy đêm qua.

Hôm sau chính là ngày khai mạc anh hùng đại yến, An phủ sứ Lã Văn Đức thống suất ba quân, cùng đại tướng giữ thành Vương Kiên bày bốn trăm bàn tiệc thết đãi các lộ anh hùng. Trong bữa tiệc, mọi người nói đến sự bạo tàn của quân Mông Cổ sát hại bách tính, chiếm đoạt giang sơn Đại Tống, ai cũng căm phẫn, quyết ý chống địch. Ngay tối hôm ấy mọi người cử Quách Tĩnh làm minh chủ hội minh, uống máu ăn thề quyết tử chiến với địch. Quách Tương hôm xảy ra biến cố ở miếu Dương Thái Phó, có nói với tỷ tỷ sẽ không tham dự anh hùng đại yến, quả nhiên tối nay giận dỗi ngồi uống rượu một mình trong phòng, nói với a hoàn hầu hạ nàng:

– Đại tỷ đi dự anh hùng đại yến, ta ở đây khoan khoái uống rượu, vui có kém gì đâu.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung mải lo đại kế chống địch, lúc này đâu còn bụng dạ nào nghĩ đến tâm trạng của tiểu nữ nhi? Quách Tĩnh không biết đã đành, Hoàng Dung cũng hỏi qua đến, nhưng biết tính con bé cổ quái cũng chỉ cười cho qua.

Chúng anh hùng mười người thì tám, chín tửu lượng rất cao, lúc chếnh choáng rồi, hứng thú nổi lên, có người hiển thị công phu ngay tại bàn tiệc, mọi người cùng cười vui vẻ. Hoàng Dung cuối cùng nhớ đến tiểu nữ nhi, bảo Quách Phù:

– Ngươi hãy đi gọi muội tử đến xem nhiệt náo, cảnh tượng đông đảo thế này, cả đời vị tất được thấy một lần.

Quách Phù nói:

– Hài nhi không đi đâu. Nhị tiểu thư đang giận dỗi, muốn trút giận sang hài nhi, hài nhi mà đi gọi, nó càng không chịu đâu.

Quách Phá Lỗ nói:

– Để con đi rủ nhị tỷ cho.

Liền rời bàn, đi vào nội thất.

Lát sau, Quách Phá Lỗ một mình trở ra, chưa kịp mở miệng, Quách Phù đã nói:

– Tỷ bảo nó không chịu đi đâu, đệ thấy có đúng thế không?

Hoàng Dung thấy sắc mặt Quách Phá Lỗ đầy vẻ kinh dị, bèn hỏi:

– Nhị tỷ bảo sao?

Quách Phá Lỗ đáp:

– Nhị tỷ bảo rằng đang bày anh hùng tiểu yến trong phòng, không đến dự anh hùng đại yến…

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Nhị tỷ của ngươi nghĩ ra trò quái dị, thì cứ mặc nó.

Quách Phá Lỗ nói:

– Nhị tỷ có khách thật, những năm nam hai nữ, đang ngồi uống rượu trong phòng của nhị tỷ.

Hoàng Dung cau mày, nghĩ bụng nữ hài nhi này càng ngày càng vô pháp vô thiên, tại sao lại đi mời đại nam nhân vào khuê phòng cô nương gia mà uống rượu kia chứ? Thật đúng với biệt hiệu “Tiểu Đông Tà”; nhưng bữa nay khách khứa đông đủ, không thể trách phạt nữ nhi, làm cho chúng anh hùng mất hào hứng, bèn nói với Quách Phù:

– Huynh đệ của ngươi còn non nớt, không biết ứng phó với khách lạ, ngươi hãy vào đó mời các bằng hữu của muội tử cùng ra đại sảnh uống rượu vui chung với mọi người.

Quách Phù nổi lòng hiếu kỳ, muốn biết khách khứa trong phòng muội tử là ai, vốn biết muội tử không hiềm nam nữ thụ thụ bất thân, hạng người nào ngoài phố chợ nó cũng có thể kết giao; nhưng hôm nay chắc chắn không phải hạng khách tầm thường, nghe mẫu thân phân phó, liền đứng dậy đi về phía buồng của Quách Tương.

Cách cửa buồng vài trượng, nghe tiếng Quách Tương nói:

– Tiểu bổng đầu, gọi nhà bếp mang hai vò rượu lớn đến đây.

“Tiểu bổng đầu” là a hoàn, đối với a hoàn, Quách Tương cũng đặt cho những cái tên khác thường. A hoàn vâng dạ, lại nghe Quách Tương nói:

– Bảo nhà bếp nướng thêm hai cái đùi cừu, thái thêm hai chục cân thịt bò chín mang lên đây.

“Tiểu bổng đầu” vâng lệnh đi ra. Nghe một giọng nói ồm ồm trong buồng:

– Quách nhị tiểu thư thật là hào sảng, tiếc rằng Nhân Úy Tử ta trước đây không biết, nếu không đã kết bạn với tiểu thư từ sớm.

Quách Tương cười, đáp:

– Bây giờ kết bạn cũng chưa muộn.

Quách Phù cau mày, nhìn qua khe cửa sổ vào phòng, thấy trong khuê phòng của muội tử kê một chiếc bàn thấp, bên trên ngổn ngang bát đũa. Tám người ngồi quanh bàn vui vẻ uống rượu với nhau. Một người ngồi ngoảnh mặt ra, đầu to trán rộng, trước ngực lộ ra một đám lông đen dài. Bên trái người ấy là một văn sĩ, râu dài ba chòm, y phục ngay ngắn, tay phe phẩy cái quạt gấp, trông rất nho nhã, trên mặt cái quạt vẽ hình con quỉ Vô Thường thè lưỡi rất dài. Bên trái văn sĩ là một nữ nhân trạc bốn mươi tuổi, ngũ quan rất thanh tú, nhưng mặt đầy vết sẹo đao kiếm, tối thiểu phải mười vết. Ngồi nghiêng là một đầu đà cao gầy, cái mũ màu vàng lóng lánh phát quang, miệng đang gặm một cái đùi gà rất ngon lành. Ba người còn lại lưng quay ra cửa sổ, không nhìn thấy diện mạo, chỉ biết hai người là bạch phát lão ông, một người là hắc y ni cô. Quách Tương ngồi giữa đám người kia, mặt hơi đỏ, rõ ràng đã chếnh choáng say, cười nói thập phần đắc ý. Quách Phù nghĩ: “Bọn họ đang cao hứng thế này, có mời ra đại sảnh, họ cũng chẳng chịu”.

Chỉ thấy bạch phát lão ông đứng lên, nói:

– Cơm rượu hôm nay kể đã vừa bụng, đợi đến hôm sinh nhật của cô nương, bọn ta lại tới say sưa một buổi. Tiểu lão nhi có chút quà mọn, mong cô nương đừng chê cười.

Lão lấy trong bọc ra một cái hộp, đặt lên bàn.

Bạch phát lão ông kia nói:

– Bách Thảo Tiên, lão huynh tặng món gì, cho ta xem một chút.

Nói đoạn mở nắp hộp, reo lên:

– A, tuyết sâm ngàn năm, lão huynh tìm đâu ra thế?

Nói rồi nhấc củ sâm ra khỏi hộp.

Quách Phù nhìn qua khe cửa, thấy củ sâm trắng, dài một thước, hình dạng như một đứa bé, có đủ đầu, mình, chân tay, màu trắng nhưng có ánh huyết hồng, quả là củ sâm quí hiếm trên thế gian. Mọi người trầm trồ, Bách Thảo Tiên hết sức đắc ý nói:

– Củ sâm ngàn năm này chữa được bệnh nan y, giải mọi thứ độc, gọi là có công hiệu cải tử hoàn sinh. Cô nương vô tai vô nạn, sống đến trăm tuổi, vốn không cần đến nó. Nhưng đến ngày mừng thọ trăm tuổi, cô nương đem uống, sẽ sống thêm một thế kỷ nữa thì càng hay.

Mọi người vỗ tay cười, khen Bách Thảo Tiên nói khéo.

Gã đầu to trán rộng Nhân Úy Tử lấy trong bọc ra một cái hộp sắt, cười, nói:

– Có một thứ đồ chơi, có thể mua vui cho cô nương.

Gã mở hộp, lấy ra hai gã hòa thượng đúc bằng sắt dài chừng bảy tấc, có chốt và dây cót bên trong, mở chốt và lên dây cót một cái, hai hòa thượng liền đấm đá nhau; ai nấy thấy vậy cùng cười phá lên. Chỉ thấy quyền cước của hai hòa thượng tí hon kia rất có pháp độ, rõ ràng là một pho Thiếu Lâm La Hán quyền, đấu hơn mười chiêu, dây cót hết đà, hai hòa thượng mới dừng lại ở tư thế đúng như phong cách cao thủ võ lâm.

Mọi người nhìn đến đây thì không cười nữa, sắc mặt có vẻ lo lắng. Nữ nhân có nhiều vết sẹo trên mặt nói:

– Nhân Úy Tử, huynh chớ có tranh hơn thua mà gây phiền phức cho Quách nhị cô nương! Đôi thiết La Hán này của Thiếu Lâm tự Tung Sơn, huynh làm sao lấy trộm được vậy?

Nhân Úy Tử cười, nói:

– Hì hì, Nhân Úy Tử ta dẫu gan to bằng trời, cũng không dám lấy trộm thứ gì của Thiếu Lâm tự. Món quà này là thủ tọa La Hán đường Thiếu Lâm tự Vô Sắc thiền sư sai ta mang đến. Thiền sư bảo rằng hôm sinh nhật, Người sẽ thân chinh đến thành Tương Dương chúc mừng Quách cô nương. Còn đây là chút quà mọn của Nhân Úy Tử ta.

Nói rồi mở nắp bên cạnh của chiếc hộp, lộ ra một cái vòng đeo tay bằng ngọc đen. Cái vòng đeo tay bằng ngọc đen thoạt trông không có gì lạ, Nhân Úy Tử rút từ thắt lưng ra một cái quỉ đầu đao lưỡi mỏng sống dày, nhắm cái vòng đeo tay chém mạnh xuống một cái. “Tâng” một tiếng, lưỡi đao bật nảy lên, cái vòng ngọc không suy suyển chút nào. Mọi người cùng trầm trồ. Tiếp đó, văn sĩ, ni cô, đầu đà, nữ nhân mỗi người đều đưa quà tặng Quách Tương, toàn là những vật quí hiếm thấy. Quách Tương cười nhận và cảm tạ.

Quách Phù càng nhìn càng lấy làm lạ, bèn chạy trở ra đại sảnh, kể lại tỉ mỉ với mẫu thân.

Hoàng Dung nghe còn kinh ngạc hơn cả Quách Phù, liền vẫy vẫy tay cho Chu Tử Liễu, ba người cùng lui vào nội đường. Hoàng Dung bảo Quách Phù kể lại chuyện vừa nói một lần nữa, Chu Tử Liễu cũng kinh ngạc vạn phần, nói:

– Nhân Úy Tử, Bách Thảo Tiên cuối cùng cũng đến thành Tương Dương ư? Hắc y ni cô chắc là Tuyệt hộ thủ Thánh Nhân sư thái giết người không chớp mắt; cái quạt của gã văn sĩ vẽ quỉ Vô Thường, ồ, không lẽ là Chuyển luân vương Trương Nhất Manh?

Nghe Chu Tử Liễu nói, Hoàng Dung gật gật đầu.

Chu Tử Liễu thì cứ lắc đầu, nói:

– Chuyện thật khó tin, lạ thật, Quách nhị cô nương còn rất ít tuổi, trừ lần gần đây, chưa khi nào rời khỏi thành Tương Dương vài chục dặm, làm sao có thể kết giao với các quái nhân vùng xa xôi kia chứ. Hơn nữa, Tung Sơn Thiếu Lâm tự Vô Sắc thiền sư nghe đồn mấy năm nay chuyên tâm ngồi tu vi một chỗ, các cao nhân võ lâm lặn lội lên núi xin yết kiến, thiền sư còn chẳng tiếp, đâu dễ gì lại đến thành Tương Dương chúc mừng một tiểu nữ hài? Ôi dào, nhất định tiểu cô nương sai mấy kẻ hiếu sự bày trò hư trương thanh thế để trêu tức tỷ tỷ đó thôi.

Hoàng Dung trầm ngâm, nói:

– Nhưng mấy nhân vật như Trương Nhất Manh, Thánh Nhân sư thái, bình thời chúng tôi hầu như không nhắc đến, Tương nhi không thể biết, muốn bịa ra cũng không được.

Chu Tử Liễu nói:

– Thế thì là chuyện có thật rồi. Chúng ta hãy tới đó xem, dùng lễ đón tiếp. Họ đã là bằng hữu của nhị cô nương, thì họ đến thành Tương Dương hoàn toàn không có ác ý gì.

Hoàng Dung nói:

– Muội cũng nghĩ thế. Nhưng mấy vị như Trương Nhất Manh, Thánh Nhân sư thái, hành sự lúc chính lúc tà, hỉ nộ khôn lường. Chúng ta tuy không sợ họ, nhưng dính với họ rất dễ nhức đầu, hiện thời đại địch áp cảnh, thật không thể phân tâm đối phó với mấy quái nhân ấy…

Đột nhiên ngoài song có tiếng cười hô hô, nói:

– Quách phu nhân, bọn quái nhân đến thành Tương Dương là để chúc mừng sinh nhật, không có ác ý, hà tất phải nhức đầu?

Nói câu “không có ác ý, hà tất phải nhức đầu?” thì giọng nói đã cách xa mấy trượng, Hoàng Dung, Chu Tử Liễu, Quách Phù cùng chạy ra cửa sổ, chỉ thấy có bóng đen vượt tường, thân pháp cực kỳ lanh lẹ, thoáng cái đã mất hút. Quách Phù định đuổi theo, nhưng Hoàng Dung níu lại, nói:

– Đừng khinh cử vọng động, đuổi chẳng kịp đâu.

Ngẩng đầu lên, thấy trên cây ngân hạnh ngoài sân có gài một cái quạt giấy màu trắng.

Cái quạt giấy cách mặt đất hơn bốn trượng, Quách Phù tự biết mình không thể nhảy lên nổi, bèn gọi:

– Mẹ!

Hoàng Dung gật đầu, khẽ nhún người tung mình lên, tay trái chạm nhẹ vào thân cây, mượn thế bay lên, tay phải lại chạm vào một cành ngang, thân hình đã vọt lên cao bốn trượng, gỡ cái quạt giấy, nhẹ nhàng đáp xuống đất.

Ba người cùng vào nhà, xem dưới đèn, thấy trên mặt cái quạt giấy vẽ con quỉ Vô Thường lè lưỡi, cười cười dễ thân, hai tay ôm quyền thi lễ, cạnh đó có hàng chữ lớn: “Cung chúc Quách nhị cô nương tuổi hoa kéo dài trăm năm”, mặt bên kia viết “Hắc y ni Thánh Nhân, Bách Thảo Tiên, Nhân Úy Tử, Cửu Tử Sinh, Cẩu nhục đầu đà, Trương Nhất Manh, Hàn Vô Cấu bái thượng Quách đại hiệp, Quách phu nhân; nhân dịp sinh nhật lệnh ái, mạo muội không dám vào thăm, xin được lượng thứ!” Hai hàng chữ viết bằng mực đen, nét bút phóng khoáng, mạnh mẽ.

Chu Tử Liễu là danh gia thư pháp, khen:

– Chữ đẹp, chữ đẹp!

Hoàng Dung trầm ngâm, nói:

– Chúng ta vào xem Tương nhi thế nào.

Chu Tử Liễu đã nhiều tuổi, không ngại việc vào khuê phòng của tiểu nữ hài, thế là cùng đi vào buồng của Quách Tương. Chỉ thấy tiểu bổng đầu và một a hoàn khác đang thu dọn bàn ăn. Quách Tương nói:

– Chu bá bá, má má, tỷ tỷ, mời các vị xem mấy món quà sinh nhật người ta tặng này.

Hoàng Dung và Chu Tử Liễu xem củ sâm ngàn năm, đôi thiết La Hán, cái vòng đeo tay bằng huyền ngọc cùng các món quà quí hiếm mà bọn Thánh Nhân sư thái, Trương Nhất Manh đem tặng, đều thầm lấy làm lạ. Quách Tương lên dây cót, cho đôi thiết La Hán đánh nhau rất thích thú. Hoàng Dung đợi đôi thiết La Hán đấu xong mười mấy chiêu “La Hán quyền”, mới dịu dàng bảo Quách Tương:

– Tương nhi, rốt cuộc có chuyện gì, hãy kể cho mẹ nghe nào.

Quách Tương cười, nói:

– Mấy vị bằng hữu biết sắp đến ngày sinh nhật của hài nhi, nên mang vài món đồ chơi cho hài nhi thôi mà.

Hoàng Dung hỏi:

– Mấy vị ấy, làm sao con quen họ?

Quách Tương nói:

– Hôm nay là ngày đầu tiên hài nhi gặp họ. Hài nhi đang ngồi uống rượu một mình trong buồng, thì Hàn Vô Cấu tỷ tỷ ở ngoài song nói: “Tiểu muội tử, bọn ta vào uống rượu chơi với muội có được không?” Hài nhi nói: “Còn gì hay bằng, mời vào, mời vào?” Họ liền nhảy vào, bảo đến ngày hai mươi bốn này, sẽ cùng đến chúc mừng hài nhi. Không biết tại sao họ lại biết ngày sinh nhật của hài nhi? Mẹ, mấy người ấy đều quen biết mẹ và gia gia phải không? Nếu không, sao tự dưng họ lại tặng con nhiều món quà quý như thế?

Hoàng Dung nói:

– Cha mẹ đều không quen biết họ. Chắc có vị bằng hữu cổ quái nào đấy của con lo hộ cho con phải không?

Quách Tương cười, nói:

– Hài nhi không có bằng hữu cổ quái nào đâu, trừ phi là tỷ phu.

Quách Phù tức giận, nói:

– Nói bậy! Tỷ phu của ngươi sao lại cổ quái?

Quách Tương lè lưỡi, cười, nói:

– Tỷ phu lấy tỷ tỷ, không cổ quái cũng sẽ hóa thành cổ quái.

Quách Phù giơ tay định đánh, Quách Tương cười khanh khách, chạy trốn.

Hoàng Dung nói:

– Tỷ muội hai đứa ngươi đừng làm ồn nào! Tương nhi, ta hỏi con, Chuyển Luân Vương, Bách Thảo Tiên có đến dự anh hùng đại yến hay không?

Quách Tương đáp:

– Không hề. Nhưng lão nhân Cửu Tử Sinh và Bách Thảo Tiên đều bảo rất khâm phục gia gia.

Hoàng Dung hỏi thêm vài câu, thấy Quách Tương không còn giấu điều gì, nói:

– Thôi được, con hãy đi ngủ đi!

Rồi cùng Chu Tử Liễu, Quách Phù ra khỏi phòng.

Quách Tương theo ra cửa, nói:

– Mẹ ơi, củ sâm ngàn năm chắc tốt lắm đấy, mẹ hãy ăn một nửa, gia gia ăn một nửa.

Hoàng Dung nói:

– Đấy là quà sinh nhật của Bách Thảo Tiên tặng cho con kia mà.

Quách Tương nói:

– Nhưng hài nhi chưa có công cán gì, trong khi mẹ quá vất vả.

Hoàng Dung nghĩ không nên phụ tấm lòng của đứa con hiếu đễ, liền nhận củ sâm, nhớ lại mối hung hiểm hôm Quách Tương chào đời, không khỏi bồi hồi.

Đêm ấy anh hùng đại yến vui vẻ kết thúc. Quách Tĩnh trở về phòng, trò chuyện với thê tử về sự đồng tâm hiệp lực chống địch ở đại hội, lời lẽ đầy hưng phấn. Hoàng Dung kể lại chuyện Thánh Nhân sư thái, Bách Thảo Tiên bảy người đối ẩm với Quách Tương ra sao. Quách Tĩnh kinh ngạc, nói:

– Lại có chuyện như vậy ư ?

Nhìn củ sâm ngàn năm, quả nhiên là thứ lần đầu tiên gặp trong đời. Hoàng Dung cười, nói:

– Danh vọng của bảo bối tiểu cô nương nhà ta có khi còn cao hơn cả cha mẹ nó đấy.

Quách Tĩnh im lặng, cúi đầu ngẫm nghĩ về lối hành sự của bọn Thánh Nhân sư thái, Bách Thảo Tiên, Trương Nhất Manh, Hàn Vô Cấu…

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca, việc chọn bang chủ Cái Bang, chi bằng làm sớm trước vài hôm, để đến ngày sinh nhật của Quách Tương, bọn Bách Thảo Tiên kéo tới thật, trong thành Tương Dương rồng rắn hỗn tạp, e rằng có biến.

Quách Tnh nói:

– Ta lại nghĩ khác. Chúng ta cứ để đến ngày hai mươi tư tháng Mười hãy chọn bang chủ cho thêm phần náo nhiệt. Nếu Vô Sắc thiền sư, Lung Á Đầu Đà giá lâm, chúng ta dùng đại nghĩa mời họ chung sức kháng địch, chẳng hay lắm sao?

Hoàng Dung cau mày, nói:

– Thiếp chỉ sợ bọn họ mượn cớ chúc mừng sinh nhật đến gây rối loạn. Tướng công cho rằng họ có giao tình với Tương nhi mà đến mừng sinh nhật thật sao? Xưa nay cây cao ngại gió lớn, người sợ lừng danh, chỉ e võ sĩ thiên hạ có đến một nửa không muốn tướng công làm minh chủ võ lâm đấy.

Quách Tĩnh đứng dậy, cười ha hả, nói:

– Dung nhi, chúng ta hành sự chỉ cần không thẹn với trời, không thẹn với lòng. Để chống Mông Cổ, trợ thủ càng nhiều càng tốt. Chức minh chủ võ lâm, ai làm cũng vậy. Hơn nữa, tà không thể thắng chính, bọn người ấy nếu quả có ý xấu, chúng ta sẽ đấu với họ một phen, môn Đả cẩu bổng pháp của nàng và Hàng long thập bát chưởng của ta mười mấy năm nay chưa dùng đến, vị tất đã không xử lý được!

Hoàng Dung thấy chồng hào khí không kém gì thời trai trẻ thì cười, nói:

– Được, vậy xin tuân lệnh chủ soái. Tướng công hãy dùng củ sâm ngàn năm này đi, thiếp nghĩ nó đáng giá công lực dăm ba năm đó.

Quách Tĩnh nói:

– Không, nàng sinh liền ba hài tử, nội lực không tránh khỏi bị tổn thương, cần được bổ dưỡng mới đúng.

Phu thê ân ái giữa hai người sau mấy chục năm vẫn như ngày nào, đôi bên cứ nhường nhau hồi lâu, cuối cùng Quách Tĩnh nói:

– Sắp tới long tranh hổ đấu, nhất định có hảo bằng hữu bị thương, củ sâm ngàn năm là vật cứu mạng, chúng ta để dành cho họ vậy.

Hồi 36: Quà mừng sinh nhật

Hôm sau anh hùng đại yến tiếp tục. Quách Tương lại bày anh hùng tiểu yến ở phòng mình. Hoàng Dung dặn trước nhà bếp chuẩn bị chu đáo các món ăn cho tiểu nữ nhi đãi khách. Quách Phù mấy ngày nay toàn nghĩ đến việc trượng phu liệu có thể giành chức bang chủ Cái Bang, nên cũng không còn bụng dạ nào để ý đến đám quái khách của muội tử.

Cứ thế mấy hôm, tại anh hùng đại yến mọi người đã bàn bạc ổn thỏa với nhau về cách thức liên lạc các lộ hào kiệt, cách gây rối hậu quân Mông Cổ, cách hiệp trợ giữ thành. Quần hào sẵn sàng, chỉ chờ quân địch tới là đánh. Quách Tĩnh thấy quần hào đồng tâm, tuy mừng, nhưng từng ở lâu trong quân ngũ Mông Cổ, biết binh thế đại quân Mông Cổ hùng cường, vài ngàn hảo hán giang hồ quyết không thể địch nổi, nên trong lòng không khỏi lo lắng.

Hôm nay hai mươi bốn tháng Mười, anh hùng đại yến đã chấm dứt, buổi chiều sẽ tiến hành bầu chọn bang chủ Cái Bang. Quần hào dùng xong bữa trưa, lũ lượt kéo nhau ra bãi rộng phía tây thành Tương Dương, thấy ở đó đã dựng lên một đài cao, phía nam kê hàng ngàn chiếc ghế.

Lúc này cạnh đài tụ tập hơn hai ngàn bang chúng Cái Bang, toàn là những nhân vật từng trải, võ nghệ siêu quần, phẩm cấp thấp nhất cũng là đệ tử bốn túi. Hơn hai ngàn bang chúng chia ra bốn lộ, do bốn vị trưởng lão thống suất. Cái Bang vốn có bốn vị trưởng lão Lỗ, Giản, Lương, Bành. Lỗ Hữu Cước sau khi thăng nhiệm bang chủ, vừa qua bị giết hại. Bành trưởng lão phản bang, đã bị Từ Ân giết chết. Giản trưởng lão chết bệnh, hiện chỉ còn Lương trưởng lão đang đứng đầu bốn vị trưởng lão, trong đó có ba vị trưởng lão mới từ đệ tử tám túi thăng nhiệm. Bang chúng căn cứ các lộ châu huyện, ngồi bốn phía đông nam tây bắc xung quanh đài cao. Qui củ tổ truyền của Cái Bang, bất luận đại hội lớn nhỏ, mọi người đều ngồi dưới đất, không để mất bản sắc Cái Bang.

Bang chúng lo việc tiếp khách mời quần hào vào các dãy ghế xem lễ. Vợ chồng Gia Luật Tề, Quách Phù; vợ chồng Võ Đôn Nhu, Gia Luật Yến; vợ chồng Võ Tu Văn, Hoàn Nhan Bình vì là hàng tiểu bối, lại có thân phận nửa chủ nửa khách, nên ngồi ở dãy ghế cuối cùng; họ đã khổ luyện hơn mười năm, đều tự cảm thấy võ công có tiến cảnh đáng kể, thầm tính cách hiển lộ thân thủ trước mặt mấy ngàn vị anh hùng.

Quách Phá Lỗ ngồi cạnh đại tỷ, nhìn quần hùng thanh thế phi phàm, trong lòng rất vui, nói:

– Nhị tỷ lạ thật, cảnh nhiệt náo thế này mà lại không đến xem.

Quách Phù bĩu môi, nói:

– Tiểu Đông Tà lắm trò quái quỉ, không ai đoán biết trước đâu.

Chỉ thấy trong đám đệ tử Cái Bang ở mé đông có một đệ tử tám túi đứng lên, đưa vỏ một con ốc biển cực lớn lên môi, thổi một hồi. Hoàng Dung bước lên đài cao, thi lễ với quần hùng bên dưới, sang sảng nói:

– Đại hội hôm nay của tệ bang, được các lộ anh hùng tiền bối và hào kiệt thiếu niên tới dự, mọi người trong tệ bang đều cảm thấy vô cùng vinh hạnh, tiểu muội xin cảm tạ trước.

Đoạn cúi mình thi lễ. Quần hùng dưới đài nhất tề đứng dậy đáp lễ.

Hoàng Dung lại nói:

– Lỗ cố bang chủ của tệ bang nhân hậu trượng nghĩa, một đời vì nước vì dân, tân cần lao khổ, không may hôm rồi bị gian nhân Hoắc Đô hãm hại tại miếu Dương Thái Phó núi Hiện Sơn. Mối thù này chưa báo là vết kỳ sỉ đại nhục của tệ bang…

Nói đến đây, bang chúng Cái Bang nghĩ đến Lỗ Hữu Cước một đời công bằng chính trực, nhân hậu khiêm nhường, có người nghẹn ngào, có người khóc nấc lên, có người nghiến răng căm hờn, nguyền rủa tên gian tặc Hoắc Đô.

Hoàng Dung nói tiếp:

– Nhưng đại quân Mông Cổ xâm phạm thành Tương Dương, đang hùng hổ kéo tới, chúng tôi không thể vì chuyện riêng tư của tệ bang mà để lỡ đại sự quốc gia, nên việc báo thù của bổn bang tạm gác lại, chờ đánh lui cường địch sẽ xử lý sau.

Quần hào bên dưới lớn tiếng khen phải, đều nói chuyện công trước, chuyện tư sau, mới đúng là cách hành xử của anh hùng hào kiệt.

Hoàng Dung nói tiếp:

– Có điều là đệ tử tệ bang mười mấy vạn người rải khắp thiên hạ, cần tiến cử một vị bang chủ mới. Hôm nay chúng ta cần tiến cử một vị anh hùng đức tài kiêm bị, văn võ song toàn làm bang chủ Cái Bang. Về việc tiến cử như thế nào, tiểu muội hoàn toàn không có thành kiến, xin mời Lương trưởng lão thượng đài.

Lương trưởng lão nhảy lên đài cao, mọi người thấy lão tóc bạc như cước, song lưng thẳng, thần thái tinh anh, cú nhảy thượng đài uyển chuyển lộ rõ công phu, thì ai nấy hò reo. Nơi đây tụ tập bốn năm ngàn người, ai nấy trung khí sung mãn, tiếng hò reo nghe vang như tiếng sấm.

Lương trưởng lão ôm quyền đáp tạ, đợi bang chúng thôi hò reo, mới nói lớn:

– Hoàng tiền bang chủ thần cơ diệu toán, nói đâu trúng đó, lần nào cũng đúng. Nhưng Hoàng tiền bang chủ khách khí, cứ muốn để bốn vị trưởng lão chúng tôi cùng tám đệ tử tám túi thương lượng quyết định. Mười hai gã thợ giày thối chúng tôi thương lượng chán chê, đã nghĩ ra một cách.

Nhất thời bên dưới im phăng phắc, nghe lời tuyên bố. Lương trưởng lão nói:

– Chúng tôi thiết nghĩ, đệ tử Cái Bang rải khắp thiên hạ, tuy đều bản lĩnh kém cỏi, không thể làm nên chuyện lớn, song nhân số lại không ít. Muốn thống lĩnh mấy chục vạn nhân mã, như Hoàng tiền bang chủ vừa nói, phải có đức tài kiêm bị, văn võ song toàn. Cái Bang chúng ta tuy không thể nói nhân tài điêu linh, nhưng muốn có nhân vật hiếm gặp trăm năm như Hồng lão bang chủ, Hoàng tiền bang chủ, thì thật không dễ chút nào; thậm chí có nhân phẩm mọi người mến phục như Lỗ cố bang chủ, cũng tìm không ra. Chúng tôi nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có cách mời Hoàng tiền bang chủ miễn cưỡng trở lại thống suất mấy chục vạn đệ tử.

Lương trưởng lão nói đến đây, bên dưới tiếng lại nổi lên như sấm, mạnh hơn lúc trước. Ai nấy đều nghĩ: “Đừng nói trong Cái Bang không có nhân tài như Hoàng Dung, chỉ e khắp thiên hạ cũng không tìm ra được người thứ hai”.

Lương trưởng lão đợi mọi người im lặng, nói tiếp:

– Hoàng tiền bang chủ dẫu không đáp ứng, chúng tôi sẽ khổ cầu kỳ được, ngặt nỗi trước mắt còn có một việc cực khó. Đại quân Mông Cổ lần này từ hai phía nam bắc hợp vây thành Tương Dương, tình thế thật nguy ngập. Hoàng tiền bang chủ cần toàn thần phò tá Quách đại hiệp mưu tính đại kế chống địch, là việc hệ trọng số một. Nếu chúng ta cứ liên tục đem việc nhỏ của bầy khiếu hóa nhi làm phiền Hoàng tiền bang chủ, thì trăm họ trong thiên hạ sẽ nguyền rủa bọn khiếu hóa thối tha chúng ta. Vì thế, suy đi tính lại, chỉ còn cách chúng ta phải tuyển chọn một vị bang chủ mới xong.

Những lời này, chỉ thấy người bên dưới gật gật đầu đều nghĩ: “Cái Bang hành sự luôn luôn lo việc công trước việc tư sau, chẳng trách mấy trăm năm nay thủy chung vẫn là đệ nhất đại bang trên giang hồ”.

Lương trưởng lão nói tiếp:

– Trong bổn bang đã không có nhân tài kiệt xuất, Hoàng tiền bang chủ lại không thể phân tâm, thì rõ ràng chỉ còn một con đường là mời một vị anh hùng ở ngoài bang làm bang chủ thống suất mấy chục vạn đệ tử bổn bang. Thiết nghĩ đại hội Quân Sơn của bổn bang năm xưa tuyển chọn bang chủ, cuối cùng cử ra Hoàng tiền bang chủ, bấy giờ Hoàng tiền bang chủ cũng không phải là đệ tử Cái Bang. Chẳng giấu gì các vị, bấy giờ huynh đệ không phục chút nào, còn động thủ quá chiêu với Hoàng tiền bang chủ, kết quả ra sao? Ha ha, khỏi cần nói nhiều, tóm lại là phục sát đất, tâm phục khẩu phục. Sau khi Hoàng tiền bang chủ trở thành bang chủ, tệ bang trở nên hưng vượng, phất lên như diều gặp gió. Tại đại hội Quân Sơn, Hoàng tiền bang chủ chỉ là một tiểu cô nương mới mười mấy tuổi, song cây gậy trúc của nàng làm cho bốn vị trưởng lão phải khâm phục là một vị anh hùng thật sự.

Mọi người nghe vậy cùng nhìn Hoàng Dung. Trong số đệ tử Cái Bang, những người lớn tuổi đều từng tham dự kỳ đại hội đó, nhớ lại tình cảnh đương thời, hào khí lại dâng lên.

Lương trưởng lão nói tiếp:

– Hôm nay ngồi đây, toàn là các vị hảo hán nổi danh trên giang hồ, vị nào muốn làm bang chủ tệ bang, chúng tôi đều hoan hỉ. Có điều anh hùng hảo hán quá đông, thật khó tuyển chọn. Mười hai gã thợ giày thối chúng tôi bèn nghĩ ra một cách, mời các vị anh hùng thượng đài hiển lộ thân thủ, ai mạnh ai yếu mọi người đều cùng mục kích.

Lương trưởng lão nói đến đây, tiếng reo hò nổi lên tứ phía.

Lương trưởng lão nói tiếp:

– Bất quá huynh đệ có một câu nói rõ từ trước, cuộc tỷ võ hôm nay, mỗi người chỉ đánh chạm thì dừng, nếu có ai bị tổn thương tính mạng, thì bổn bang chịu tội quá nặng. Giữa các vị với nhau nếu có hiềm khích gì, quyết không được định liệu tại đây, nếu không tệ bang trên dưới sẽ khó xử, nhất định đành phải đắc tội.

Lương trưởng lão nói mấy câu này, mục quang quét từ phải sang trái một lượt, thần sắc nghiêm trang. Nên biết tỷ võ quyết thắng, ai nấy giở tuyệt kỹ, thường là hạ thủ không dung tình, dễ có người tử thương; còn hôm nay đang lúc tụ nghĩa kháng địch, không thể tàn sát lẫn nhau. Vì vậy Lương trưởng lão trịnh trọng cáo giới, ngụ ý nếu có kẻ thừa cơ báo thù, mọi người sẽ cùng công kích kẻ đó.

Quần hùng sớm biết đại hội hôm nay của Cái Bang sẽ rất náo nhiệt, nghe Lương trưởng lão nói như vậy, ai nấy thầm tính toán. Nhân vật bề trên vốn có danh vị, hoặc đang làm chưởng môn phái, hoặc đang làm bang chủ trại chủ, tất nhiên không ra tranh giành chức bang chủ Cái Bang. Cao thủ ẩn cư không thuộc bang phái nào cũng khá đông, song đều nghĩ không dễ gì nổi danh chốn võ lâm, võ công của mình tuy không thua người khác, song muốn áp đảo mấy ngàn vị anh hùng ở đây thì không có gì nắm chắc, lỡ bị người ta đánh cho rớt đài, thì chẳng còn gì là thể diện, cho nên phải suy tính thật kỹ. Những tráng niên, thanh niên dưới bốn mươi tuổi, tuy háo hức muốn nhảy lên đấu thử, nhưng đều biết cuộc tỷ võ này đương nhiên là xa luân chiến, thượng đài càng sớm bao nhiêu, càng thiệt bấy nhiêu. Cho nên Lương trưởng lão nói xong, hồi lâu vẫn không có ai thượng đài.

Lương trưởng lão nói lớn:

– Trừ mấy vị tiền bối cao tuổi, các vị cao nhân xuất thế, anh hùng thiên hạ đều tề tựu ở đây, chỉ cần chiếu cố đến tệ bang, xin mời thượng đài chỉ giáo. Đệ tử bổn bang nếu tự tin tài nghệ xuất chúng, cũng mời thượng đài, dù là đệ tử bốn túi, nhưng lâu nay chưa hiển lộ, nên người ngoài chưa hay biết người ấy là một vị anh hùng.

Bỗng nghe bên dưới có tiếng nói to như sấm:

– Có ta đây!

Hịch một cái, một người nhảy lên đài.

Quần hào nhìn, thảy đều kinh ngạc, thấy người kia cao to phốp pháp, nặng phải đến ba trăm cân, nhẩy lên đài khiến cho cái đài dựng chắc chắn là thế mà cũng hơi lung lay. Người kia bước tới đài khẩu, không ôm quyền hành lễ, đứng hai tay chống nạnh, nói:

– Ta là Thiên cân đỉnh Chương Đại Hải, chức bang chủ Cái Bang ta không thể đảm đương. Nhưng vị nào muốn động thủ với ta, thì cứ lên đây.

Mọi người nghe vậy đều thích thú, nghe câu nói, biết ngay là một người ngớ ngẩn.

Lương trưởng lão cười, nói:

– Chương Đại Hải, chúng ta hôm nay không bày sạp đấu vật, nếu Chương Đại Hải không muốn làm bang chủ tệ bang, thì xin mời xuống cho.

Chương Đại Hải gãi gáy, nói:

– Rõ ràng đây là sạp đấu vật, ai bảo không phải nào? Lão không cho ta ra tay, sao còn mời thượng đài?

Lương trưởng lão định nói, thì Chương Đại Hải đã nói tiếp:

– Được, lão muốn động thủ với ta cũng được luôn!

Vù một cái, đã giáng một quyền tới mặt Lương trưởng lão. Lương trưởng lão nhảy lùi để tránh, cười, nói:

– Lão phu già quá rồi, làm sao chịu nổi một quyền của Chương đại ca?

Chương Đại Hải cười, nói:

– Ta bảo lão chẳng nghe, mới…

Lời chưa dứt, có một bóng người nhảy lên, là một khiếu hóa tử quần áo lam lũ.

Khiếu hóa tử này tuổi trạc ba mươi, lưng đeo sáu túi là đồ tôn đích truyền của Lương trưởng lão, tính tình nóng nảy, bình thời kính nể sư tổ như thần thánh, thấy Chương Đại Hải vô lễ với sư tổ, không nhịn được liền nhảy lên đài, lạnh lùng nói:

– Sư tổ của huynh đệ không động thủ với kẻ hậu bối, Chương đại ca, để huynh đệ tiếp đại ca ba quyền!

Chương Đại Hải nói:

– Không còn gì hay hơn!

Cũng chẳng buồn hỏi tính danh, giơ ngay quả đấm to như cái tô lớn, nói:

– Tiếp chiêu đi!

Đoạn giáng thẳng tới ngực gã khiếu hóa tử. Gã khiếu hóa tử xoay người tiến một bước, “bịch” một cái, quả đấm kia trúng vào một cái túi đeo sau lưng.

Chương Đại Hải cảm thấy đấm vào một vật gì trơn tuột lấy làm lạ, hỏi:

– Trong túi ngươi có con gì thế?

Gã khiếu hóa tử lạnh lùng hỏi lại:

– Khiếu hóa tử hay bắt con gì?

Chương Đại Hải cả kinh, kêu lạc cả giọng:

– Rắn… rắn…

Gã khiếu hóa tử nói:

– Không sai, đúng là rắn!

Chương Đại Hải nghĩ đến quả đấm vừa rồi, bất giác ghê ghê, quyền thứ hai đánh tới mặt đối phương, nào ngờ gã khiếu hóa tử tung mình nhảy lên, xoay nửa vòng trên không, lại chìa lưng về phía Chương Đại Hải.

Chương Đại Hải sợ đấm vào túi bị rắn cắn, hoặc đấm trúng vào răng độc của con rắn thì nguy, bèn thu quyền về, đưa tay chộp ngực áo gã khiếu hóa tử, chân phải đá tới hạ bàn đối phương. Gã khiếu hóa tử thấy Chương Đại Hải hoảng sợ thì cười thầm, lăn người một vòng trên sàn, làm cho cái túi chạm vào bắp chân của Chương Đại Hải. Con rắn lớn trong túi kỳ thực đã được thuần dưỡng, răng độc đã bị bẻ đi, nhưng Chương Đại Hải không biết, nên miệng la oai oái, hai chân đạp loạn lên. Gã khiếu hóa tử vươn tay phải chộp ngực áo Chương Đại Hải, thuận thế vận kình, quát:

– Ngũ Tử Tư giơ cao “Thiên cân đỉnh” này!

Nói rồi giơ Chương Đại Hải lên trên không.

Chương Đại Hải trong lúc hoảng loạn bị đối phương túm ngực, điểm huyệt Tử Cung, lập tức toàn thân tê dại, không thể cựa quậy, tức giận vô cùng, nhưng bất lực. Quần hào bên dưới nghĩ đến ngoại hiệu “Thiên cân đỉnh”, nhìn tình trạng hiện thời của Chương Đại Hải, đều không nhịn được, cùng cười ồ lên. Lương trưởng lão cố nhịn cười, quát gã khiếu hóa tử:

– Mau đặt xuống, không được vô lễ!

Gã khiếu hóa tử đáp:

– Vâng!

Rồi đặt Chương Đại Hải đứng xuống, đoạn nhảy khỏi đài cao, chui vào đám đông.

Chương Đại Hải tái mặt, chỉ xuống dưới đài, chửi mắng:

– Tặc hóa tử, có giỏi quay lại đánh bằng đao thương thật với Chương đại gia, chơi trò lén lén lút lút như thế đâu phải là hảo hán! Đồ khiếu hóa thối tha, đồ khiếu hóa ôn dịch.

Y cứ lảm nhảm chửi khiếu hóa, mấy ngàn đệ tử Cái Bang bên dưới chỉ cảm thấy lý thú, không thèm chấp nhặt với y.

Bỗng một bóng người tung mình nhẹ nhàng nhảy lên đài cao, chân trái đặt trên mép đài, thân hình lảo đảo tựa hồ chực ngã. Chương Đại Hải tốt bụng, vội nói:

– Cẩn thận!

Rồi giơ tay đỡ. Chương Đại Hải đâu ngờ người kia có ý hiển lộ võ công thượng thừa trước mặt quần hào, bàn tay vừa đỡ cánh tay của người kia, thì người kia lập tức thi triển chiêu “Đảo điệt kim cương” trong Đại cầm nã thủ, chộp lấy và đẩy mạnh, Chương Đại Hải bị bay ra khỏi đài cao, rơi xuống đất đánh huỵch một cái. Mọi người nhìn kẻ kia, thấy một gã y phục bảnh bao, mày dài mắt sáng, là Võ Tu Văn, đệ tử của Quách Tĩnh. Quách Tĩnh ngồi ở hàng ghế đầu bên trái đài cao, thấy chiêu Đại cầm nã thủ của đệ tử tuy xảo diệu siêu thoát, nhưng hành động trái ngược đạo trung hậu, thì không vui, vẻ mặt sa sầm. Quả nhiên bên dưới có nhiều người không phục, từ hai phía có ba người lên tiếng:

– Công phu khá lắm, huynh đệ phải lĩnh giáo vài chiêu!

– Sao lại làm như thế?

– Người ta có thiện chí đỡ ngươi, ngươi lại giở trò ám toán!

Ba người vừa nói vừa cùng nhảy lên đài cao.

Võ Tu Văn học cả hai nhà Quách Tĩnh, Hoàng Dung, lại là con nhà võ, được phụ thân và sư thúc truyền thụ thần kỹ Nhất dương chỉ, hiện thời đã là đệ nhất nhân tài trong số anh hùng hậu bối, thấy cả ba người cùng thượng đài, thì mừng thầm, nghĩ: “Mình đánh bại cùng lúc ba người này, mới hiển lộ rõ công phu”. Sợ ba người lần lượt giao đấu, chàng ta chẳng nói chẳng rằng, lập tức phát chiêu tấn công cả ba người kia, mỗi người một chiêu. Cả ba người chưa đứng vững, đối phương đã đánh tới, vội giơ tay chống đỡ. Võ Tu Văn không để cho ba người kịp trở tay, song chưởng múa như bay, vây cả ba người vào một chỗ, mình ở bên ngoài chiếm thế tấn công. Ba người kia cứ đụng vào nhau, khó bề thi triển quyền cước. Quần hào bên dưới nhìn nhau thất sắc, đều nghĩ: “Quách đại hiệp danh chấn đương thế, quả nhiên danh bất hư truyền, đệ tử cũng quá ư lợi hại”.

Ba người kia không quen nhau, không biết quyền lộ võ công của người bên cạnh, bị Võ Tu Văn bao vây, đã không thể chiếu ứng cho nhau, lại còn cản trở nhau. Cả ba mấy lần phá vây, song không thoát ra khỏi vòng vây chưởng pháp của Võ Tu Văn.

Hoàn Nhan Bình ở dưới đài thấy chồng chiếm thượng phong, trong lòng hoan hỉ. Quách Phù nói:

– Ba kẻ bị thịt kia dĩ nhiên không phải là đối thủ của tiểu Võ ca ca. Kỳ thực tiểu Võ ca ca chưa nên trổ tài lúc này, chỉ hao phí sức lực mà thôi. Đợi khi có cao thủ thật sự thượng đài, có phải sẽ dễ chiến thắng hơn không?

Hoàn Nhan Bình mỉm cười không nói.

Gia Luật Yến bình thời rất thích đấu khẩu với Quách Phù, đôi bên không ai nhường ai, lúc này sớm đoán ra tâm ý của tẩu tử (chị dâu), nói:

– Tiểu thúc thúc lên thu thập trước một số, đến khi không làm nổi nữa, Đôn Nhu sẽ lên thu thập một số nữa. Đến khi không làm nổi, ca ca của muội mới thượng đài, một mình đánh bại quần hùng, để đại tẩu yên yên ổn ổn làm phu nhân bang chủ, chẳng đẹp quá sao?

Quách Phù hơi đỏ mặt, nói:

– Ở đây có biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, ai chẳng muốn làm bang chủ? Sao lại nói chuyện “yên yên ổn ổn”?

Gia Luật Yến nói:

– Kỳ thực cũng khỏi cần ca ca của muội thượng đài.

Quách Phù lấy làm lạ, hỏi:

– Tại sao?

Gia Luật Yến nói:

– Ban nãy Lương trưởng lão chẳng đã nói đó sao, tại đại hội Cái Bang ở Quân Sơn năm xưa, sư mẫu chỉ mới mười mấy tuổi, với một cây gậy trúc đã khiến quần hùng bái phục, trở thành bang chủ. Tục ngữ có câu “Mẹ nào con ấy”. Đại tẩu hãy thượng đài đi, sẽ còn hơn cả ca ca của muội đó.

Quách Phù bực tức, nói:

– Giỏi, muội dám cười ta hả?

Đoạn đưa tay cù nách Gia Luật Yến. Gia Luật Yến nấp vào sau lưng Gia Luật Tề, cười nói:

– Bang chủ cứu mạng, bang chủ cứu mạng, bang chủ phu nhân định lấy mạng muội kìa.

Hiện thời Quách Phù, huynh đệ họ Võ đều đã ngoài ba mươi tuổi, song họ đùa nghịch với nhau đã quen; Gia Luật Yến và Hoàn Nhan Bình đều đã sinh con, nhưng hễ gặp nhau lại cười khúc khích hệt như hồi thiếu nữ.

Hoàng Dung sớm đã bố trí đệ tử Cái Bang ở bốn phía sân bãi, dặn hễ thấy có dị trạng, phải lập tức bẩm báo; mình thì ngồi bên Quách Tĩnh, chốc chốc đưa mắt tứ phía, quan sát xem có người lạ trà trộn vào đây hay không. Hoàng Dung vẫn lo bọn Thánh Nhân sư thái, Hàn Vô Cấu, Trương Nhất Manh đến gây sự, nhưng đã cuối giờ Mùi, đầu giờ Thân, bốn phía vẫn không có động tĩnh gì, nghĩ bụng: “Bọn người ấy đến thành Tương Dương làm gì kia chứ? Nếu bảo bọn họ có mưu đồ gì, sao chẳng thấy một chút manh mối? Nếu bảo họ đến chỉ để chúc mừng sinh nhật Tương nhi, thì thế gian không có lý gì như vậy”. Nhìn lên đài cao, thấy Võ Tu Văn đã đánh cho hai người bay khỏi đài, còn người thứ ba đang cố chống đỡ, xem chừng trong vòng dăm chiêu cũng sẽ lạc bại, nghĩ: “Hôm nay quần hùng thiên hạ đấu giao hữu để giành chức bang chủ Cái Bang, không biết cuối cùng ai sẽ là người chiếm được ngôi đầu?”

Lúc này trong lòng mấy ngàn anh hùng bên dưới đài cao ai cũng nghĩ như thế. Riêng tại hoa viên Quách phủ, có một người thủy chung chẳng hề nghĩ đến đại sự kể trên. Quách Tương chỉ nghĩ: “Hôm nay sinh nhật tròn mười sáu tuổi của mình, hôm ấy mình đưa một cây kim châm cho chàng, muốn chàng hôm nay đến gặp mình, chàng đã đáp ứng, sao giờ này vẫn chưa tới?”

Nàng ngồi trong đình Thược Dược, tì tay vào lan can, nhìn vầng dương đang chếch dần sang phía tây, nghĩ: “Hôm nay đã quá nửa ngày, giả dụ chàng đến ngay bây giờ, thì nhiều nhất cũng chỉ còn nửa ngày được ở bên chàng”. Nhìn bóng hoa thược dược dưới đất, nàng dùng hai ngón tay cầm mũi kim châm, nói nhỏ:

– Mình còn được cầu xin chàng một điều nữa… nhưng không chừng chàng đã quên hẳn mình rồi, có mỗi việc hôm nay hẹn đến gặp mình, chàng còn không nhớ, thì còn nói điều ước thứ ba làm gì kia chứ?

Nàng lại nghĩ: “Không, không phải vậy. Chàng là bậc đại hiệp thời nay, trọng nhất lời hứa, làm sao lại không giữ lời? Cố đợi chút nữa, đúng, chỉ đợi chút nữa, nhất định chàng sẽ đến gặp mình”. Nghĩ sắp được gặp chàng, bất giác hai má nóng bừng, mũi kim châm cầm trong hai ngón tay run run.

Nàng thở dài, có một ý nghĩ dai dẳng không xóa đi được: “Chàng tuy coi trọng lời hứa, nhưng rốt cuộc mình chỉ là một tiểu cô nương. Nếu chàng hứa với gia gia, thì nhất định sẽ giữ lời; đằng này là mình, Tiểu Đông Tà Quách Tương, đâu có đáng gì dưới con mắt chàng? Chẳng qua chỉ là một tiểu hài nữ mơ mộng viển vông. Giả dụ lúc này chàng có nhớ lời đã nói với mình, chàng cũng chỉ cười cười, lắc đầu nói ‘Vớ vẩn, vớ vẩn!’ mà thôi”.

Tại đình Thược Dược, Quách Tương cứ quanh quẩn suy nghĩ lan man. Trong khi ở ngoài thành, trên sân bãi, Hoàng Dung cũng nghĩ đi nghĩ lại: “Ở miếu Dương Thái Phó, Quách Phù, Quách Tương gặp nạn, được cao nhân ngầm giải cứu. Tĩnh ca ca bảo thời nay chỉ hai người có nội lực cương mãnh như vậy, nhưng Hồng Thất Công ân sư đã tạ thế từ lâu, Tĩnh ca ca càng không phải. Chẳng lẽ mấy vị bàng môn tả đạo đến mừng sinh nhật Quách Tương đã ám trợ giết Ni Ma Tinh? Không phải họ, vậy thì ai? Lão ngoan đồng Chu Bá Thông tuy thích đùa, song hành sự không cẩn mật như thế. Nhất Đăng đại sư đoan trang phương chính, không nhàn rỗi như vậy. Tây Độc Âu Dương Phong, Từ Ân hòa thượng Cầu Thiên Nhẫn đều đã chết, không lẽ lại là gia gia?”

Hoàng Dung đã mười mấy năm nay không gặp phụ thân. Hoàng Dược Sư nhàn du giang hồ như loài dã hạc, không ai biết hành tung của Người. Nói về chuyện cổ quái khôn lường, thì có mấy phần giống Người. Hoàng Dược Sư lừng danh giang hồ mấy chục năm, có ngoại hiệu “Hoàng Lão Tà”, một số tà ma ngoại đạo quá nửa chơi với lão, lão mà đứng ra triệu tập, bọn họ không thể không nể mặt lão. Nghĩ đến đây Hoàng Dung bất giác vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Xét về lý, Hoàng Dược Sư không đời nào đến gây náo loạn cho nữ nhi và ngoại tôn nữ như thế, nhưng lão cả đời vẫn hành sự khác hẳn với lý lẽ thông thường, cứ như thần long biến ảo, Hoàng Dung tuy là thân sinh nữ nhi, cũng thường thường không đoán biết. Lão mà sai người đến chúc mừng sinh nhật ngoại tôn nữ, không chừng tự có thâm ý.

Hoàng Dung nghĩ đến đây, bèn vẫy vẫy tay gọi Quách Phù tới, thấp giọng hỏi:

– Muội tử của ngươi tại bến Phong Lăng đi chơi một ngày hai đêm, khi trở về có nhắc gì đến ngoại công hay không?

Quách Phù hơi sững, hỏi:

– Ngoại công ư? Không nhắc gì cả! Muội tử ngay diện mạo của ngoại công còn chưa biết mà.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi nhớ kỹ lại đi, Quách Tương ở bến Phong Lăng cùng đi với Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ, cuối cùng là để gặp ai?

Quách Phù nói:

– Không gặp ai, muội tử không kể gặp ai cả.

Quách Phù biết rõ hôm ấy Quách Tương muốn đi gặp Dương Quá, nhưng trước mặt cha mẹ, nàng sợ nhất nhắc đến hai chữ “Dương Quá”. Mẫu thân thì còn khả dĩ, chứ phụ thân nghe thấy sẽ lập tức sa sầm sắc mặt, không thèm nói nửa lời với nàng vài ba ngày liền. Cho nên Quách Tương đã không nói thì nàng chẳng dại gì nhắc đến, huống hồ chuyện qua đã lâu, hà tất nhắc đến người ấy để tự chuốc lấy phiền phức?

Hoàng Dung thấy sắc diện hơi lạ của Quách Phù, đoán nàng còn giấu điều gì, liền nói:

– Chuyện trước mắt không phải chuyện đùa, ngươi nghe hoặc nhìn thấy gì, hãy nói hết cho ta biết.

Quách Phù thấy sắc diện nghiêm trang của mẫu thân, không dám giấu nữa, đành nói:

– Chỉ nghe mấy kẻ nhàn rỗi kể chuyện Thần điêu đại hiệp Dương… Dương… Dương Quá gì đó, thế là muội tử bảo phải đi gặp bằng được.

Hoàng Dung chột dạ, hỏi:

– Thế nó có gặp được hay không?

Quách Phù đáp:

– Chắc là không. Nếu gặp rồi, muội tử lại chịu kín miệng không nói gì vậy sao?

Hoàng Dung tự nhủ: “Là Quá nhi, là Quá nhi, chẳng lẽ đúng là hắn?” Bèn hỏi:

– Ở miếu Dương Thái Phó, người xuất thủ giết Ni Ma Tinh, theo ngươi, có phải là Dương Quá hay không?

Quách Phù nói:

– Làm sao Dương… Dương đại ca có công phu lợi hại đến mức ấy?

Hoàng Dung nói:

– Ngươi và Quách Tương ở miếu Dương Thái Phó nói những gì, hãy kể tỉ mỉ từ đầu cho ta nghe coi, không được bỏ sót câu nào hết.

Quách Phù nói:

– Cũng không nói gì nhiều, muội tử thích đấu khẩu với hài nhi thôi mà.

Rồi nàng kể lại Quách Tương bảo sẽ không đến dự anh hùng đại yến, không xem Cái Bang tuyển chọn bang chủ, rằng hôm sinh nhật sẽ có một vị anh hùng anh tuấn đến gặp, cuối cùng Quách Phù cười, nói:

– Các bằng hữu của muội tử quả nhiên đến không ít, song chỉ toàn là hòa thượng, ni cô, lão đầu nhi và lão thái bà, làm gì có vị anh hùng anh tuấn nào đâu?

Nghe đến đây, Hoàng Dung càng không còn hoài nghi gì nữa, người mà Quách Tương muốn nói đến chính là Dương Quá, nghĩ rằng Quách Tương và Dương Quá đã hẹn gặp nhau ở miếu Dương Thái Phó, Quách Phù chạy đến khiến Dương Quá phải lánh đi, sau đó sai các cao thủ giang hồ mang quà tới mừng sinh nhật Quách Tương để chọc tức Quách Phù. “Nhưng vì sao hắn phải tốn công đến thế cho Quách Tương?” Nghĩ đến tiểu nữ nhi dạo này tâm thần bất định, ánh mắt mông lung, hoảng hoảng hốt hốt, thi thoảng tự dưng đỏ mặt, Hoàng Dung bất giác rùng mình: “Không lẽ Quách Tương rời bến Phong Lăng một ngày hai đêm không về, đã cùng ở với Dương Quá?” Lại nghĩ: “Dương Quá hận ta giết hại phụ thân hắn, hận Quách Phù chặt mất cánh tay hắn, hận Quách Phù dùng độc châm đả thương Tiểu Long Nữ. Thôi chết, Tiểu Long Nữ hẹn tái hợp với Dương Quá sau mười sáu năm, chính là vào năm nay đây. Dương Quá đến đây để trả thù!”

Nghĩ tới chuyện Dương Quá đến đây để trả thù, Hoàng Dung chợt lạnh cả sống lưng. Biết Dương Quá từ nhỏ hành sự vốn thập phần lợi hại, lại nặng tình với Tiểu Long Nữ. Nếu sau khi mười phần đau khổ chờ đợi mười sáu năm mà không gặp được, Dương Quá sẽ tìm đến họa căn, tức là cả nhà Quách gia. Oán hận tích tụ mười sáu năm trời, với tính khí như Dương Quá, hắn sẽ không chém cho Quách Phù một kiếm chết ngay mà sẽ tìm kế trả thù thật độc địa. “Chẳng lẽ hắn lại quyến rũ Quách Tương, khiến con bé si mê hắn, rồi sẽ hành hạ nó sống dở chết dở ư? Đúng thế, đúng thế, với tính cách Dương Quá, hắn sẽ hành động đúng như thế”. Nghĩ đến đây, mọi hồ nghi đã sáng tỏ: Dương Quá sở dĩ giết Ni Ma Tinh cứu Quách Tương, sở dĩ mời các cao thủ mang quà mừng sinh nhật, chỉ cốt để chinh phục trái tim Quách Tương.

Hoàng Dung lại nghĩ: “Nhưng mà có điểm không phải! Hôm nay là sinh nhật Quách Tương. Mười sáu năm trước, sau khi Quách Tương chào đời, phải vài tháng sau Dương Quá mới phải chia tay Tiểu Long Nữ ở Tuyệt Tình Cốc. Xét về lý, hắn muốn trả thù cũng phải đợi tròn mười sáu năm, qua thời hạn tái hợp với Tiểu Long Nữ đã chứ. Lời hẹn mười sáu năm tuy quá mờ mịt, nhưng rõ ràng là chữ viết của Tiểu Long Nữ, ai có thể nghi ngờ hai vợ chồng hắn sẽ không tái hợp? Chẳng lẽ phụ thân ta… chẳng lẽ Nam Hải thần ni…” Hoàng Dung nhíu mày, càng nghĩ càng cảm thấy bất an: “Dù thế nào, Quách Tương mà gặp lại hắn cũng vô cùng nguy hiểm. Tương nhi ngây thơ hồn nhiên, làm sao hiểu nổi lòng dạ nham hiểm của kẻ khác?”

Chỉ nghe một tiếng “Úi chao!” tiếp đến tiếng huỵch, Hoàng Dung ngẩng lên, thấy Võ Tu Văn lại dùng chưởng lực đẩy vị hòa thượng béo mập rớt đài. Hoàng Dung tới bên Quách Tĩnh, nói nhỏ:

– Tướng công ở đây lo liệu, thiếp đi xem Tương nhi thế nào.

Quách Tĩnh nói:

– Tương nhi không đến đây à?

Hoàng Dung nói:

– Để thiếp đi gọi nó, con a đầu này thật là cổ quái.

Quách Tĩnh mỉm cười, nhớ thời kỳ mới quen Hoàng Dung, nàng mặc nam trang, cải dạng y hệt một tiểu khiếu hóa, như thế không cổ quái hay sao?

Hoàng Dung thấy chồng cười hiền hậu, cũng mỉm cười, rồi vội vã trở về phủ, dọc đường tuy sốt ruột, nhưng nghĩ đến nụ cười của chồng, nghĩ đến đôi vai dày và chắc của chồng, tựa hồ trời có sụp xuống vẫn nâng lên được, thì vợi hẳn nỗi lo trong lòng.

Hoàng Dung đi thẳng tới khuê phòng của Quách Tương, không thấy con trong đó, hỏi “Tiểu Bổng Đầu”, nó đáp nhị tiểu thư đang ở trong hậu hoa viên, dặn không được quấy nhiễu tiểu thư. Hoàng Dung chợt nghĩ: “Tương nhi ngay cuộc đại tỷ võ cũng không đi xem, nhất định là đã hẹn hò với Dương Quá”. Bèn trở về phòng mình, giấu ám khí kim châm vào người, giắt một thanh đoản kiếm bên lưng, lại cầm một cây đoản bổng, rồi đi ra hậu hoa viên. Hoàng Dung biết Dương Quá hiện thời võ công đã hơn hẳn ngày trước, là một cường địch đáng sợ, nên hoàn toàn không dám coi thường. Hoàng Dung không dám đi theo con đường nhỏ trải đá dăm, mà vòng theo đường mòn phía sau hòn giả sơn, đến gần đình Thược Dược thì nghe tiếng thở dài não nuột của Quách Tương.

Hoàng Dung cúi mình, nấp sau hòn giả sơn, nghe nữ nhi nói:

– Sao giờ này chưa đến, làm cho người ta sốt ruột quá chừng.

Hoàng Dung yên tâm: “Thì ra hắn chưa đến, ta có thể ngăn cản trước”. Lại nghe Quách Tương nói:

– Sinh nhật mỗi năm, mẫu thân đều bảo mình nói ba điều ước. Bây giờ bên cạnh không có ai, mình nói với ông trời vậy.

Hoàng Dung đang định bước ra trò chuyện với nữ nhi, nghe câu ấy, liền đứng nguyên tại chỗ, nghĩ: “Ta tuy là mẹ nó, bình thời cũng không dễ đoán biết tâm tư của nó. Lúc này thử nghe nó nói ba điều ước là gì”.

Chỉ nghe Quách Tương nói:

– Lão thiên gia, điều ước thứ nhất của con, mong sao gia gia má má suất lĩnh nhân mã, sẽ cùng các vị anh hùng hảo hán đánh tan quân Mông Cổ xâm phạm, giữ vững thái bình cho trăm họ thành Tương Dương.

Hoàng Dung thở dài nhẹ nhõm, nghĩ: “Tiểu a đầu tuy cổ quái, song không phải là đứa không hiểu đại thể”. Nghe Quách Tương nói tiếp:

– Điều ước thứ hai của con, mong sao gia gia má má thân thể an thái, bách niên trường thọ, mong sao gia gia má má vạn sự như ý.

Hoàng Dung khi sinh hạ Quách Tương, hai vợ chồng đều gặp đại hiểm sinh tử, về sau nghĩ lại, không khỏi kinh hồn, cho nên tất nhiên đối với nàng không cưng chiều như đối với đại nữ nhi; giờ nghe điều ước của con, bất giác rơm rớm nước mắt, cảm thấy thêm yêu tiểu nữ nhi.

Điều ước thứ ba, Quách Tương nhất thời chưa nói ngay, lát sau mới nói:

– Điều ước thứ ba của con, mong sao Thần điêu đại hiệp Dương Quá…

Hoàng Dung sớm đoán điều ước thứ ba của Quách Tương nhất định liên quan đến Dương Quá, nhưng khi nghe chính miệng nàng nói ra hai tiếng “Dương Quá”, vẫn giật mình. Nghe Quách Tương nói tiếp:

-…cùng phu nhân của chàng là Tiểu Long Nữ sớm được đoàn tụ, bình an hỉ lạc.

Câu này thì Hoàng Dung hoàn toàn không ngờ tới, cứ ngỡ Dương Quá muốn lừa tiểu nữ nhi, ắt dùng hoa ngôn xảo ngữ, dối trá là chính, ai ngờ nữ nhi đã biết chuyện Tiểu Long Nữ, cũng biết rõ Dương Quá một lòng một dạ chờ ngày gặp lại Tiểu Long Nữ, nên mới chúc cho Dương Quá như vậy. Nhưng Hoàng Dung lại nghĩ: “Ôi, nguy rồi! Dương Quá dụng tâm thế mới sâu xa, hắn càng kể với Quách Tương không quên tình cũ, Quách Tương sẽ càng thấy hắn là người tình nghĩa sâu nặng đáng kính, lại càng mê hắn. Đúng, đúng thế. Năm xưa Tĩnh ca ca sau khi gặp ta, thường nhắc đến Hoa Tranh công chúa cùng ân nghĩa ngày trước, khiến ta càng thương chàng hơn”.

Hoàng Dung suy tính mọi mặt quá ư chu đáo, bao năm nay đối với Dương Quá vẫn có vài phần đề phòng, lại quá quan tâm đến con, cho nên càng nghĩ càng lo.

Bỗng nghe một tiếng hịch nhỏ, từ trên bờ tường có người nhảy xuống, đầu to thân lùn, diện mạo cổ quái.

Quách Tương nhìn thấy người kia, thì đứng bật dậy, mừng rỡ nói:

– Đại Đầu Quỉ, Đại Đầu Quỉ thúc thúc, chàng… chàng cũng đến cùng chứ?

Đại Đầu Quỉ bước vào đình Thược Dược, cúi mình thi lễ, thần thái cung kính dị thường, Quách Tương cười hỏi:

– Đại Đầu Quỉ thúc thúc, sao thúc thúc lại khách sáo với điệt nhi như vậy?

Đại Đầu Quỉ nói:

– Tiểu thư đừng gọi lão phu là Đại Đầu Quỉ thúc thúc, cứ gọi ba tiếng “Đại Đầu Quỉ” là được rồi. Thần điêu đại hiệp sai lão phu đến thưa với Quách nhị tiểu thư…

Quách Tương vừa nghe vậy liền thất vọng, mắt đỏ hoe, nói:

– Đại ca ca bảo có việc không thể đến gặp điệt nhi chứ gì? Nhưng chàng đã đáp ứng…

Đại Đầu Quỉ lắc lắc đầu, nói:

– Không phải, không phải vậy…

Quách Tương vội hỏi:

– Cái gì không phải? Rõ ràng đại ca ca đã đáp ứng.

Giọng nói như sắp khóc. Đại Đầu Quỉ nói:

– Lão phu không bảo Thần điêu đại hiệp không đáp ứng, mà bảo không phải không đến gặp tiểu thư!

Quách Tương cười giận dỗi:

– Thúc thúc nói chẳng rõ gì cả, chỉ nói không phải, chẳng biết không phải cái gì.

Đại Đầu Quỉ mỉm cười, nói:

– Thần điêu đại hiệp bảo rằng chàng muốn đích thân chuẩn bị cho tiểu thư ba món quà mừng sinh nhật, bởi vậy hôm nay sẽ đến muộn một chút.

Quách Tương sung sướng như mở cờ trong bụng, nói:

– Nhiều người đã tặng điệt nhi các món quà quí, điệt nhi thứ gì cũng có, xin thúc thúc hãy thưa với đại ca ca đừng tốn công chuẩn bị quà làm gì cả.

Đại Đầu Quỉ lắc đầu, nói:

– Ba món quà ấy, món quà thứ nhất đã lo xong, món quà thứ hai Thần điêu đại hiệp chính đang dẫn các huynh đệ đi lấy, lúc này chắc cũng đã lấy được rồi.

Quách Tương thở dài, nói:

– Điệt nhi mong đại ca ca đến sớm thì hơn là vì mang quà mà đến muộn.

Đại Đầu Quỉ nói:

– Món quà thứ ba, Thần điêu đại hiệp bảo sẽ thân chinh trao tận tay tiểu thư tại đại hội Cái Bang ngoài kia, vậy mời tiểu thư đi ra đó, xem chừng cũng sắp đến lúc rồi đấy.

Quách Tương thở dài, nói:

– Điệt nhi vốn nói dỗi với tỷ tỷ sẽ không đến dự đại hội Cái Bang, đại ca ca đã bảo thế thì đành đi vậy. Được, thúc thúc hãy đi cùng với điệt nhi.

Đại Đầu Quỉ gật đầu, miệng huýt vài tiếng sáo, một con vật to tướng màu đen từ bên ngoài tường nhảy vào, chính là Thần điêu.

Quách Tương vừa thấy Thần điêu, liền chạy lại định vuốt cổ nó như thể đối với một hảo hữu cửu biệt trùng phùng. Nhưng Thần điêu lùi hai bước, nghển cổ, nghiêng đầu nhìn. Quách Tương cười, nói:

– Điêu đại ca không nhận ra muội ư? Muội đây mà.

Đoạn lại bước tới ôm cổ Thần điêu. Lần này Thần điêu không né tránh, chỉ nghếch đầu, nghiêm nghị như một người cha gặp đứa con gái tinh nghịch đáng yêu. Quách Tương nói:

– Điêu đại ca, chúng ta cùng đi nào, muội sẽ mời Điêu đại ca ăn nhiều món ngon, Điêu đại ca có biết uống rượu hay không?

Đại Đầu Quỉ cười, nói:

– Tiểu thư mời Thần điêu uống rượu, thì đó là thứ Thần điêu khoái nhất đó.

Hai người một điêu cùng chạy ra cửa Tây, lúc ra tới sân bãi, quần hùng thấy Thần điêu thân hình hùng vĩ, diện mạo cổ quái, đều trầm trồ. Quách Tương dẫn Đại Đầu Quỉ và Thần điêu đến bên đài cao, chọn một chỗ trống ngồi xuống. Đệ tử Cái Bang lo việc tiếp khách thấy Đại Đầu Quỉ là người lạ, bèn gọi lại, hỏi tính danh. Đại Đầu Quỉ lạnh lùng nói:

– Ta không có tên, không biết gì hết, Quách nhị cô nương dẫn ta đến đây, thì ta đến.

Lát sau Hoàng Dung cũng tới, nghĩ: “Dương Quá công nhiên muốn đến đại hiện trường, mọi việc đã bố trí trước đâu ra đó, chắc sẽ đại náo một phen”.

Lúc này huynh đệ Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn đã bị đánh rớt đài, điệt nhi của Chu Tử Liễu, ba đệ tử của Điểm Thương Ngư Ẩn, bốn đệ tử tám túi của Cái Bang, sáu đệ tử bảy túi, đều lần lượt thất thủ. Trên đài cao Gia Luật Tề đánh bại liên tiếp ba hảo thủ, chính đang thi triển bảy mươi hai lộ Không Minh quyền do Chu Bá Thông truyền thụ, đấu với một trang đại hán trạc ngoại tứ tuần.

Đại hán tên là Lam Thiên Hòa, là người dân tộc Miêu ở Quí Châu, hồi nhỏ theo người đến núi Thanh Thành ở Tứ Xuyên hái thuốc, sảy chân ngã xuống vực, gặp được kỳ nhân, được truyền thụ võ công ngoại môn cực kỳ cương mãnh. Chưởng lực của Lam Thiên Hòa như có tiếng gió tuyết, uy phong nghe ù ù ghê gớm. Quyền pháp của Gia Luật Tề thì lại vô thanh, cước di vô hình, phiêu phiêu hốt hốt khiến đối phương không biết đằng nào mà lần; hai người một cương một nhu, giao đấu ngang ngửa trên đài cao. Công phu mà họ hiển lộ làm cho mấy trăm hảo hán bên dưới vốn định thượng đài, tự thẹn không bằng, nghĩ: “May mà mình chưa nhảy lên đấu, nếu không đã bộc lộ sự kém cỏi của mình. Nội lực ngoại công của người ta thế kia, mình có luyện thêm mười năm nữa cũng vị tất đã địch nổi hai người này”.

Chưởng lực của Lam Thiên Hòa tuy mạnh, nhưng cuồng phong bạo vũ không thể kéo dài mãi, chỉ nghe họ Lam phát chưởng cứ ù ù, kỳ thực tiềm lực ẩn chứa bên trong đã không bằng lúc ban đầu. Quyền chiêu của Gia Luật Tề thì không nhanh hơn, cũng không chậm hơn lúc trước, vẫn chăm chú kiến chiêu chiết chiêu.

Chàng biết cuộc đấu hôm nay không phải chỉ đánh bại vài đối thủ là xong, người thượng đài càng về sau sẽ càng mạnh hơn, cần phải giữ sức cho trận sau.

Lam Thiên Hòa đánh lâu không thắng, cảm thấy nôn nóng, tự nghĩ hơn hai chục năm qua ở vùng tây nam, y chưa từng gặp đối thủ nào chịu nổi quá ba chục chiêu của y, không ngờ trước đông đảo anh hùng hôm nay, y lại không hạ nổi một gã hậu bối, bèn vận nội kình, không ngừng gia tăng chưởng lực. Hai người lại đấu hơn hai mươi chiêu, Lam Thiên Hòa chợt thấy quyền pháp của đối phương có chỗ sơ hở, liền quát to:

– Xem đây!

Một chiêu “Cửu quỉ trích tinh” đánh tới ngực Gia Luật Tề. Gia Luật Tề hữu chưởng đẩy ra, song chưởng đụng nhau, lập tức giữ nguyên bất động, biến thành cục diện đôi bên tỷ thí nội lực.

Lát sau, Lam Thiên Hòa bỗng biến sắc, loạng choạng lùi hai bước, ôm quyền nói:

– Thán phục, thán phục!

Y bước tới đài khẩu, nói to:

– Gia Luật đại gia thủ hạ lưu tình, không muốn hại tính mạng huynh đệ, quả nhiên là bậc anh hùng nhân nghĩa, huynh đệ chân thành cảm phục.

Nói xong hít một hơi dài, lắc lắc đầu, nhảy xuống khỏi đài.

Gia Luật Tề ôm quyền, nói:

– Đấy là Lam huynh nhường nhịn.

Nguyên Lam Thiên Hòa đánh ra một chưởng, đụng hữu chưởng của Gia Luật Tề, vội vận nội lực, bỗng cảm thấy bàn tay đột nhiên hụt hẫng như thể thọc tay xuống nước, như có như không, bàn tay như có cái gì hút lấy. Cảm giác quái dị ấy nhanh chóng lan từ bàn tay lên cánh tay, từ cánh tay chạy vào ngực, xuống đan điền, bụng dưới tức thời như nồi nước sôi dâng lên để ộc ra ngoài. Lam Thiên Hòa kinh hãi, hồn vía lên mây, vội vận kình rút tay về, nhưng bàn tay như bị dính chặt vào lòng bàn tay đối phương. Năm xưa khi được sư phụ truyền thụ võ nghệ, từng dặn rằng một lộ Phong Tuyết chưởng pháp này đủ để hành tẩu giang hồ, nhưng nếu gặp cao thủ nội gia, phải hết sức thận trọng. Nếu để nội lực của đối phương xâm nhập đan điền, dẫu không mất mạng tại chỗ, toàn bộ võ công có thể bị phế bỏ. Y nghĩ ấy vừa lóe lên trong óc, Lam Thiên Hòa liền nhắm mắt chờ chết, bỗng lực hút bàn tay không còn nữa, khí nóng sôi sục trong đan điền cũng dịu dần, y từ từ vận kình, cảm thấy công phu toàn thân không hề bị tổn thương, tự biết đối phương thủ hạ lưu tình, nên rất hổ thẹn, mới nói mấy lời như trên với quần hào. Trận đấu vừa rồi, chưởng lực uy mãnh của Lam Thiên Hòa lợi hại thế nào, mọi người bên dưới đều mục kích, vậy mà Gia Luật Tề vẫn đánh bại Lam Thiên Hòa một cách vô hình, phàm là người có chút kiến thức, đều không dám thượng đài khiêu chiến.

Gia Luật Tề là con rể của Quách Tĩnh, Hoàng Dung, có quan hệ sâu xa với Cái Bang, bốn đại trưởng lão và các đệ tử tám túi đều muốn Gia Luật Tề làm bang chủ. Chàng lại là đệ tử của bậc cao niên nhất phái Toàn Chân Chu Bá Thông, đệ tử phái Toàn Chân coi như đều là vãn bối của chàng. Phàm những đệ tử phái Toàn Chân có giao tình với vợ chồng Quách Tĩnh, đều không muốn tranh giành với chàng. Chỉ có vài kẻ thô lỗ không tự lượng sức mới thượng đài lĩnh giáo, nhưng chỉ sau vài chiêu, đã lạc bại.

Quách Phù thấy chồng mình võ nghệ áp đảo đương trường thì hoan hỉ khó nói nên lời, đưa mắt nhìn sang, thấy một con chim điêu khổng lồ và gã lùn to đầu từng gặp ở bến Phong Lăng đang ngồi cạnh muội tử không khỏi sững sờ. Lúc Quách Tương cùng Đại Đầu Quỉ và Thần điêu tới đây, Lam Thiên Hòa và Gia Luật Tề đang mải giao đấu, Quách Phù chăm chú nhìn chồng, nên không để ý. Bây giờ cường địch đã phải thoái lui, nàng mới nghĩ, sao muội tử bảo không đến vẫn cứ đến? Nàng nghĩ: “Hỏng rồi! Dương Quá tự xưng “Thần điêu đại hiệp”, con chim hung ác dữ tợn kia chắc là Thần điêu gì đó. Thần điêu đã tới, Dương Quá hẳn đang ở gần đâu đây; nếu hắn đến tranh chức bang chủ, nếu hắn đến tranh chức bang chủ…” Phút chốc đang mừng hóa lo, cái cảnh năm xưa Dương Quá phẩy tay áo làm cong thanh kiếm của nàng như hiển hiện trước mắt, “Tề ca võ công tuy cao, liệu có địch nổi quái nhân cụt tay ấy hay không? Ôi, kẻ đó từ nhỏ đã là khắc tinh trong số mệnh ta, hôm nay lại xuất hiện đúng vào lúc hệ trọng nhất, không sớm cũng không muộn hơn!” Nàng đưa mắt nhìn tứ phía, hoàn toàn không thấy tung tích Dương Quá.

Lúc này trời sắp tối, Gia Luật Tề liên tiếp đánh bại bảy người, đợi hồi lâu, không còn ai thượng đài tỷ thí.

Lương trưởng lão bước tới đài khẩu, lớn tiếng nói:

– Gia Luật đại gia văn võ song toàn, bổn bang trên dưới vốn kính phục, nếu trở thành bang chủ, hẳn mọi người đều cảm phục, ủng hộ…

Lương trưởng lão nói đến đây, bang chúng Cái Bang bên dưới cùng đứng dậy hoan hô.

Lương trưởng lão lại nói:

– Không biết có vị anh hùng hảo hán nào còn muốn thượng đài hiển lộ thân thủ nữa chăng?

Lương trưởng lão hỏi ba lần, bên dưới hoàn toàn im lặng.

Quách Phù cả mừng, nghĩ thầm: “Dương Quá lúc này chưa đến thì đã bỏ lỡ thời cơ! Chờ khi Tề ca tiếp nhiệm bang chủ, hắn mới đến làm loạn, thì đã muộn”. Đúng lúc ấy, bỗng nghe tiếng vó ngựa phi nhanh, rồi hai kỵ mã phóng tới, khách cưỡi ngựa hẳn là có việc khẩn cấp.

Quách Phù giật mình: “Cuối cùng cũng đến rồi!”

Chỉ thấy hai người phi ngựa như bay vào sân bãi, họ mặc quần áo màu tro, là hai thám tử Quách Tĩnh phái đi dò xét quân tình. Quách Tĩnh tuy ngồi xem tỷ võ trên đài cao, nhưng lúc nào cũng nghĩ đến quân tình, thấy hai thám tử phi ngựa như thế, nghĩ bụng: “Cuối cùng cũng đến rồi!” Hai cha con cùng nghĩ: “Cuối cùng cũng đến rồi!” nhưng Quách Phù thì chỉ Dương Quá, còn Quách Tĩnh thì chỉ đại quân Mông Cổ.

Hai thám tử tới cách đài cao vài trượng thì xuống ngựa, chạy tới trước mặt Quách Tĩnh thi lễ. Quách Tĩnh và Hoàng Dung không đợi hai người mở miệng, quan sát sắc diện của họ, quân tình tốt xấu thế nào sẽ bộc lộ rõ ràng, thấy cả hai đều háo hức mừng rỡ, như thể gặp phải sự bất ngờ nào đó.

Một thám tử nói:

– Bẩm cáo Quách đại hiệp: một thiên nhân đội tiên phong cánh tả của đại quân Mông Cổ đã đến Tân Dã.

Quách Tĩnh giật mình, nghĩ: “Chúng tiến quá nhanh!”

Thám tử thứ hai nói:

– Bẩm cáo Quách đại hiệp: một thiên nhân đội tiên phong cánh hữu của đại quân Mông Cổ đã tới Đặng Châu.

Quách Tĩnh hừ một tiếng, nghĩ: “Cánh quân phía bắc của địch lại chia hai đường, hành quân thần tốc, tràn đầy nhuệ khí”. Tân Dã và Đặng Châu đều cách thành Tương Dương bất quá hơn trăm dặm, từ hai nơi đó xuống phía nam, đến Phàn thành đối diện với thành Tương Dương là một dải đồng bằng, không có núi sông ngăn trở, quân thiết kỵ Mông Cổ muốn tấn công chỉ một ngày là tới.

Thám tử thứ hai lại hớn hở nói:

– Nhưng có một chuyện lạ, thiên nhân đội Mông Cổ ở bên ngoài thành Đặng Châu tất cả đều bị giết, quân quan sĩ tốt, không còn một tên sống sót.

Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Có chuyện vậy sao?

Thám tử thứ nhất nói:

– Tiểu nhân cũng nhìn thấy y như thế. Một thiên nhân đội tiên phong của quân Mông Cổ đến Tân Dã cũng biến thành ma, thây phơi đầy đồng. Nhưng kỳ dị nhất là tất cả thủ cấp của binh sĩ Mông Cổ đều bị cắt mất tai bên trái.

Thám từ thứ hai nói:

– Quân Mông Cổ tới Đặng Châu cũng vậy, tất cả đều bị cắt mất tai bên trái.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung nhìn nhau, vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nghĩ: “Hai cánh quân tiên phong của Mông Cổ đều bị tiêu diệt, làm tiêu tan nhuệ khí của chúng. Tuy quân địch đông tới chục vạn người, mất hai ngàn tên chẳng thấm thía gì, nhưng tin này lan ra, ba quân Mông Cổ mất vía, đại lợi cho ta. Không biết ai dùng binh tài tình, diệt sạch hai thiên nhân đội Mông Cổ như thế?” Quách Tĩnh bèn hỏi:

– Quân giữ thành ở Tân Dã và Đặng Châu thế nào?

Hai thám tử cùng nói:

– Hai thành đều cố thủ bên trong, quân Mông Cổ chết như rạ bên ngoài thành Đặng Châu, chỉ e quân trong thành vẫn chưa hay biết.

Hoàng Dung nói:

– Hai ngươi mau đi bẩm cáo với Lã đại soái, đại soái cao hứng, không chừng sẽ trọng thưởng cho các ngươi.

Hai thám tử khấu đầu, hoan hỉ chạy đi.

Đội quân tiên phong của Mông Cổ chưa kịp giao chiến với quân giữ thành Tương Dương, hai cánh đã bị tiêu diệt; Hoàng Dung lên đài cao tuyên bố tin đó, lập tức toàn trường hoan hô như sấm động. Hoàng Dung nói:

– Cái Bang lập bang chủ mới, cố nhiên là hỉ sự, nhưng làm sao sánh với đại sự tiêu diệt quân địch? Lương trưởng lão, mau sai người bày tiệc, chúng ta phải ăn mừng một phen ra trò mới được.

Khoản tiệc rượu đã được chuẩn bị sẵn, Cái Bang tối nay vốn phải thết đại tiệc quần hùng, mừng bang chủ mới lập, giờ thêm tin chiến thắng, như gấm thêu hoa, người người cùng cao hứng. Võ Đôn Nhu đấu võ bị thua, tuy đang ủ dột, nhưng sân bãi tràn ngập không khí tưng bừng hồ hởi, làm cho một số ít người không vui cũng hết cả buồn. Đại tiệc của Cái Bang không bày bàn ghế, mà đặt ngay dưới đất, quần hùng túm tụm thành từng đám ăn uống vui vẻ. Tuy bày tiệc dưới đất, nhưng rượu thịt thì ê hề.

Quần hùng đều nghĩ chiến thắng là nhờ kỳ kế của Quách Tĩnh, Hoàng Dung sắp đặt, nên dồn dập tới chúc rượu hai người. Quách Tĩnh luôn miệng nói đó hoàn toàn không phải công lao của mình, nhưng Quách Tĩnh xưa nay vốn khiêm nhường, quần hùng nào chịu tin? Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca, chuyện đó lạ thật, lúc này chưa hiểu tại sao. Chúng ta đừng vội nói gì, hãy chờ thêm tin tức chính xác đã.

Nguyên Hoàng Dung nghe thám tử báo tin, đoán bên trong có chuyện khó hiểu, liền phái ngay tám đệ tử Cái Bang tinh minh cường cán, chia thành hai tốp, phi ngựa đi Tân Dã và Đặng Châu dò xét thêm.

Quách Tương ngồi cùng Đại Đầu Quỉ và Thần điêu. Người khác thấy Thần điêu uy mãnh như thế, không ai dám tới gần. Quách Tương chỉ hỏi:

– Tại sao đại ca không đến?

Đại Đầu Quỉ nói:

– Thần điêu đại hiệp đã nói đến, thì nhất định sẽ đến.

Lời chưa dứt, bỗng nói tiếp:

– Tiểu thư có nghe thấy gì không?

Quách Tương dỏng tai, nghe từ xa văng vẳng tiếng sư tử hổ báo, voi vượn gầm rống từng chập, thì vui mừng nói:

– Huynh đệ Sử gia đến đó!

Lát sau, tiếng gầm rống của bầy thú càng gần hơn. Quần hào biến sắc, ai nấy rút binh khí, đứng dậy, sân bãi lập tức rối loạn:

– Ở đâu ra lắm mãnh thú như vậy?

– Sư tử hổ báo, lại có cả voi nữa!

– Mọi người hạ độc thủ cẩn thận!

– Đề phòng chó sói, đối phó hổ báo!

Quách Tĩnh bảo Võ Tu Văn:

– Hãy đi truyền lệnh của ta, điều hai ngàn cung nỏ đến đây!

Võ Tu Văn đáp:

– Vâng!

Vừa định quay mình chạy đi, bỗng nghe từ xa có tiếng nói lớn:

– Huynh đệ Sử gia ở Vạn Thú sơn trang phụng mệnh Thần điêu đại hiệp, mang quà đến mừng sinh nhật Quách nhị cô nương.

Thanh âm không phải do một người phát ra, mà do cả năm huynh đệ họ Sử cùng lên tiếng. Nội công của năm người tuy không thuộc hàng đệ nhất cao thủ, song tiếng hú của họ gồm đủ năm âm Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ, nghe lanh lảnh rát cả tai.

Hoàng Dung phẩy tay về phía Võ Tu Văn, bảo y cứ đi truyền lệnh, nghĩ bụng huynh đệ họ Sử tuy nói vậy, nhưng lòng người khó đoán, thà điều cung nỏ đến sẵn sàng vẫn hơn là bị người ta khống chế. Võ Tu Văn nhảy lên ngựa, phóng đi.

Không lâu sau, đội cung nỏ thứ nhất đã đến, bố trí ở một bên sân bãi. Quách Tĩnh từng học thuật cưỡi ngựa bắn cung ở Mông Cổ, dùng thuật ấy huấn luyện sĩ tốt thành tinh binh của thành Tương Dương, chống chọi hữu hiệu quân Mông Cổ mấy chục năm nay. Đội cung nỏ của thành Tương Dương bắn cung không thua kém gì các võ sĩ Mông Cổ.

Đội cung nỏ vừa bố trí xong thế trận, thì thấy một đại hán mình khoác tấm da hổ, suất lĩnh một trăm con mãnh hổ chạy tới bên ngoài sân bãi. Người ấy chính là Bạch Ngạc Sơn Quân Sử Bá Uy. Một trăm con mãnh hổ xếp hàng chỉnh tề, nằm phục dưới đất. Tiếp đó Quản Kiến Tử Sử Trọng Mãnh suất lĩnh một trăm con báo gấm, Kim Giáp Sư Vương Sử Quý Cường dẫn một trăm con voi, Bát Thủ Tiên Hầu Sử Mạnh Tiệp dẫn một trăm con vượn lớn, tất cả dàn thành đội ngũ xung quanh sân bãi. Bầy mãnh thú trông dữ tợn, không ngớt gầm gừ, nhưng hàng ngũ chỉnh tề, không chút rối loạn. Quần hùng tuy kiến văn quảng bác, nhưng đột nhiên gặp nhiều mãnh thú đến thế này, cũng không khỏi lạnh gáy.

Năm huynh đệ họ Sử mỗi người tay cầm một cái túi bằng da thú, đến trước mặt Quách Tương, cúi mình nói:

– Cung chúc cô nương trường mệnh bách tuế, bình an như ý!

Quách Tương vội đứng dậy đáp lễ, nói:

– Đa tạ năm vị Sử gia thúc thúc. Sử tam thúc, tam thúc đã khỏe hẳn chưa? Sử ngũ thúc, vết thương ở ngực ngũ thúc sao rồi?

Sử Thúc Cương, Sử Mạnh Tiệp cùng nói:

– Đa tạ cô nương quan hoài, đã khoẻ hẳn rồi.

Sử Bá Uy chỉ năm cái túi da thú, nói:

– Đây là món quà thứ nhất của Thần điêu đại hiệp mừng sinh nhật của cô nương.

Quách Tương cười, nói:

– Thật là chẳng nhận chẳng được, xem trong túi có cái gì nào? Ồ, điệt nhi đoán trong cái túi của thúc thúc có một con hổ nhỏ, cái túi khác có con báo con, phải không ạ? Thế thì tha hồ chơi với chúng.

Sử Bá Uy lắc đầu, nói:

– Không phải đâu, món quà này là Thần điêu đại hiệp suất lĩnh hơn bảy trăm vị hảo thủ giang hồ đi lấy, tốn công sức không ít đâu.

Nói đoạn mở miệng túi ra. Quách Tương vừa ngó vào đã cả kinh, kêu lên:

– Toàn là tai người?

Sử Bá Uy nói:

– Đúng vậy! Năm cái túi này đựng tổng cộng hai ngàn cái tai tướng sĩ quân Mông Cổ.

Quách Tương chưa hiểu ý, hỏi:

– Nhiều tai người như thế, điệt nhi… biết dùng làm gì?

Quách Tĩnh, Hoàng Dung nghe rõ ràng, cùng rời chỗ, đến trước mặt Sử Bá Uy, ngó vào túi, nghĩ đến lời nói của hai thám tử ban nãy, bất giác vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Hoàng Dung nói:

– Sử đại ca, thì ra quân sĩ Mông Cổ ở bên ngoài thành Tân Dã và Đặng Châu là do… Thần điêu đại hiệp chỉ huy mọi người tiêu diệt ư?

Năm huynh đệ họ Sử vái lạy Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Vợ chồng Quách Tĩnh vội vái đáp lễ. Sử Bá Uy mới nói:

– Thần điêu đại hiệp bảo rằng Quách cô nương hiện ở thành Tương Dương, hôm nay mừng sinh nhật mười sáu tuổi của nàng, quân Mông Cổ man rợ dám vô lễ xâm phạm, làm cho Quách cô nương kinh hãi, vậy phải giết chúng mới được. Chỉ hận là đại quân Mông Cổ quá lớn, không thể tận diệt, đành suất lĩnh hào kiệt tiêu diệt hai cánh quân tiên phong của chúng trước.

Quách Tĩnh hỏi:

– Thần điêu đại hiệp hiện đang ở đâu? Tại hạ muốn được bái kiến, để thay mặt trăm họ thành Tương Dương cảm tạ.

Mười mấy năm nay Quách Tĩnh chuyên tâm luyện binh thủ thành, rất ít để ý đến chuyện giang hồ du hiệp; còn Dương Quá thì ẩn tính mai danh, giao du phần lớn với những nhân vật không rõ chính tà, cho nên Quách Tĩnh không biết Thần điêu đại hiệp chính là Dương Quá.

Sử Bá Uy nói:

– Thần điêu đại hiệp bận nhiều ngày chuẩn bị quà mừng sinh nhật cho lệnh ái, nên chưa kịp đến bái kiến Quách đại hiệp và Quách phu nhân, xin tạ tội sau.

Bỗng nghe xa xa có tiếng hú, rồi một tiếng nói cất lên:

– Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ phụng mệnh Thần điêu đại hiệp mang quà đến chúc mừng sinh nhật Quách nhị cô nương.

Thanh âm rất nhỏ, tưởng chừng đứt quãng, nhưng người người đều nghe rõ. Quách Tĩnh thấy món quà thứ nhất quá lớn, vội lên tiếng đáp:

– Quách Tĩnh cẩn hậu đài giá.

Giọng nói của Quách Tĩnh hồn hậu nhu hòa, truyền đi rất xa, đoạn cùng Hoàng Dung đi ra đón khách.

Hoàng Dung đứng sánh vai bên chồng, hỏi:

– Tĩnh ca ca có đoán ra Thần điêu đại hiệp là ai chưa?

Quách Tĩnh nói:

– Ta đoán không ra.

Hoàng Dung nói:

– Là Dương Quá đấy!

Quách Tĩnh ngẩn người, rồi sung sướng thốt lên:

– Giỏi quá, giỏi quá! Quá nhi lập được kỳ công như thế, quả là phúc lớn cho Đại Tống.

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca thử đoán xem món quà thứ hai là gì nào?

Quách Tĩnh mỉm cười, nói:

– Dương Quá tài trí trác tuyệt, chỉ có nàng hơn được nó, cũng chỉ có nàng mới đoán trúng tâm tư của nó.

Hoàng Dung lắc đầu, nói:

– Lần này thiếp đoán không ra.

Nghĩ thầm: “Dương Quá vì thành Tương Dương lập đại công, nhưng cứ luôn luôn nói là vì Quách Tương. Nỗi oán hận của hắn đối với vợ chồng ta và Quách Phù chẳng giảm đi chút nào”.

Không lâu sau, Trường Tu Quỉ Phàn Nhất Ông cùng tám Quỉ đến nơi, thi lễ với vợ chồng Quách Tĩnh, rồi tới trước mặt Quách Tương, nói:

– Cung chúc cô nương khang ninh an lạc, phúc trạch vô tận! Thần điêu hiệp sai chúng tôi mang món quà thứ hai mừng sinh nhật cô nương.

Quách Tương nói:

– Đa ta, đa tạ.

Chỉ thấy Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ người nào cũng bưng một cái hộp gỗ, nàng sợ bên trong lại đựng tai, mũi người, vội nói:

– Nếu là vật khó coi, xin đừng mở ra.

Đại Đầu Quỉ cười, nói:

– Lần này thì rất dễ coi.

Phàn Nhất Ông mở nắp hộp, lấy ra một cái hỏa pháo lưu tinh rất lớn, châm lửa vào ngòi. Cái hỏa pháo bay vút lên trời, ở lưng chừng trời nổ “đoàng” một tiếng, ánh sáng tung tóe, mưa hoa đầy trời, tạo thành chữ “Cung”. Quách Tương vỗ tay cười, reo lên:

– Hay quá, hay quá!

Điếu Tử Quỉ phóng tiếp một cái hỏa pháo, nổ bung trên trời thành chữ “Chúc”. Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ phóng hỏa pháo, tạo thành mười chữ lớn “Cung chúc Quách nhị cô nương đa phúc đa thọ”. Mười chữ mỗi chữ một màu, lơ lửng cao tít giữa không trung, hồi lâu mới tắt. Quần hùng hoan hô dậy đất. Loại hỏa pháo này do một nghệ nhân lừng danh ở trấn Hán Khẩu là Hoàng Nhất Pháo chế tạo, vô cùng hoa mỹ, có một không hai trên thế gian.

Quách Tĩnh mỉm cười, nghĩ: “Tiểu nữ hài nhi thích món này, khiến Quá nhi phải tốn công tìm nghệ nhân chế tạo”.

Mười chữ lớn trên không trung vừa tắt, bầu trời mạn bắc đột nhiên có một vệt lưu tinh bay vọt lên cao, cách nơi này vài dặm, tiếp đó ở xa mãi phía bắc lại có một vệt lưu tinh bay vọt lên.

Hoàng Dung nghĩ: “Truyền tin kiểu lưu tinh là học theo lối đốt lửa cảnh báo, trong giây lát, tin tức lan truyền hàng trăm dặm. Không biết Dương Quá bố trí như thế để làm gì? Món quà thứ hai của hắn quyết không chỉ là cảnh bắn pháo hoa vừa rồi”. Bèn phân phó đệ tử Cái Bang bày tiệc thết đãi huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ.

Rượu vừa rót, bỗng nghe từ rất xa ở mạn bắc vọng về tiếng ì ầm như sấm rền không ngớt, vì quá xa nên nghe ầm ì.

Huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ nghe thấy âm thanh ấy thì cùng nhảy cẫng lên, reo to:

– Thành công rồi, thành công rồi!

Quần hùng ngơ ngác chưa hiểu. Đại Đầu Quỉ chỉ tay về phía bắc, nói to:

– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Lúc này trời đã tối hẳn, chân trời phương bắc đỏ hồng lên.

Hoàng Dung vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nói:

– Nam Dương cháy lớn kìa!

Quách Tĩnh vỗ đùi reo to:

– Không sai, đúng là Nam Dương!

Hoàng Dung hỏi Phàn Nhất Ông:

– Xin được nghe cụ thể.

Phàn Nhất Ông nói:

– Đó là món quà thứ hai của Thần điêu hiệp mừng sinh nhật Quách nhị cô nương, đốt cháy kho lương của hai mươi vạn đại quân Mông Cổ.

Hoàng Dung đã đoán được ba phần, nghe họ Phàn nói vậy, bất giác nhìn Quách Tĩnh cả mừng.

Nguyên đại quân Mông Cổ tiến xuống phía nam đánh thành Tương Dương, đặt kho lương ở Nam Dương, mấy năm trước đã xây dựng tại Nam Dương kho lương thảo rộng lớn, chở từ tứ xứ tới đây hàng muôn vạn hộc lúa mạch và các kho chứa cỏ khô. Tục ngữ có câu: “Đại quân chưa lên đường, lương thảo đã đi trước”. Lúa mạch là để nuôi sĩ tốt, cỏ khô để nuôi ngựa, là thứ sống còn của đại quân. Mông Cổ vốn lấy kỵ binh làm lực lượng chính, cỏ khô càng không thể thiếu một ngày. Quách Tĩnh từng mấy lần đem binh tập kích Nam Dương, nhưng quan binh Mông Cổ phòng thủ nghiêm mật, cả mấy lần đều thất bại; không ngờ Dương Quá lại phóng hỏa thành công. Quách Tĩnh nhìn ánh hồng ở phương bắc bốc lên mỗi lúc một cao, thì lo ngại, hỏi Phàn Nhất Ông:

– Chư vị xuất thủ liệu có rút ra an toàn được không? Có cần chúng ta đi tiếp ứng hay không?

Phàn Nhất Ông nghĩ: “Quách đại hiệp không hỏi chiến quả, mà lo cho sự an nguy của tướng sĩ trước, quả nhiên nhân nghĩa hơn người”, nói:

– Đa tạ Quách đại hiệp quan hoài, Thần điêu hiệp đã an bài từ sớm. Việc phóng hỏa đốt Nam Dương do hơn ba trăm cao thủ đảm nhiệm, như Thánh Nhân sư thái, Nhân Úy Tử, Trương Nhất Manh, Bách Thảo Tiên… Thiết nghĩ bọn võ sĩ Mông Cổ tầm thường chẳng đả thương nổi họ.

Quách Tĩnh chợt đại ngộ, nói với Hoàng Dung:

– Nàng nghe đó, Quá nhi triệu tập quần hào thì ra là để lập kỳ công này. Nếu không có rất nhiều cao thủ cùng ra tay, đâu dễ gì tiêu diệt hai ngàn quân Mông Cổ.

Phàn Nhất Ông lại nói:

– Chúng tôi thám thính, biết quân Mông Cổ định dùng hỏa pháo oanh tạc thành Tương Dương, các kho ngầm ở Nam Dương chứa đến mấy chục vạn cân hỏa dược. Cho nên khi chúng tôi ở đây bắn pháo hoa mừng sinh nhật, lưu tinh truyền tin, những cao thủ mai phục trong thành Nam Dương sẽ đồng thời ra tay, đốt kho hỏa dược trước, rồi mới đốt kho lương thảo. Sĩ tốt, ngựa chiến của đại quân Mông Cổ phen này cứ gọi là chết đói.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung nhìn nhau, thầm kinh hãi. Hai vợ chồng từng theo Thành Cát Tư Hãn tây chinh hai năm, từng chứng kiến quân Mông Cổ dùng hỏa pháo đánh thành, uy thế đúng là như đá lăn núi lở.

Vì hỏa dược và thiết pháo không dễ chế tạo, nên mấy phen đánh thành Tương đương, quân Mông Cổ chưa sử dụng hỏa pháo. Lần này hoàng đế Mông Cổ thân chinh ngự giá, tất có vũ khí lợi hại nhất để công thành. Nếu không có Dương Quá đốt kho hỏa dược của địch, quân dân thành Tương Dương khó tránh gặp đại họa. Hai vợ chồng lại nghĩ: “Tiêu diệt hai thiên nhân đội dĩ nhiên làm giảm hẳn nhuệ khí quân địch, nhưng đốt kho hỏa dược và lương thảo mà địch tích trữ mấy năm ở thành Nam Dương, chỉ cần việc tiếp tế bị gián đoạn, quân địch không thể không lui binh. Chiến công này càng lớn lao”. Hai vợ chồng cùng luôn miệng đa tạ huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ.

Sử Bá Uy và Phàn Nhất Ông đều nói:

– Tiểu nhân chỉ phụng mệnh Thần điêu hiệp hành sự, chạy đây chạy đó đôi chút, đâu có đáng để hai vị khen ngợi?

Lúc này tiếng hỏa dược cháy nổ vẫn ì ầm truyền lại, chỉ vì khoảng cách quá xa, nên nghe mơ hồ. Đột nhiên có mấy tiếng nổ lớn hơn, mặt đất hơi rung chuyển, Phàn Nhất ông vui mừng nói:

– Kho hỏa dược lớn nhất cũng cháy rồi.

Quách Tĩnh gọi huynh đệ họ Võ, nói:

– Hai ngươi dẫn hai ngàn tay cung nỏ đi đánh Nam Dương. Nếu thấy quân địch hàng ngũ chỉnh tề thì rút về; nếu thấy chúng hoảng loạn, thì thừa cơ bắn cung sát thương.

Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn vâng lệnh đi ngay.

Hai sự kiện vui mừng liên tiếp, quần hùng hoan hô rầm trời, uống rượu ăn mừng ầm ĩ, người người đều ca tụng công đức lớn lao của Thần điêu hiệp.

Quách Phù thấy chồng mình vô địch quần hùng, giành được chức vị bang chủ Cái Bang, hiển lộ tài nghệ rõ ràng trước hào kiệt thời nay, ai ngờ lại có mấy sự kiện trên. Dương Quá người chưa đến, đã lấn át hết uy phong của chồng nàng. Tuy việc tiêu diệt hai thiên nhân đội quân Mông Cổ, đốt kho hỏa dược và lương thảo thành Nam Dương là tin vui, nhưng nàng không khỏi buồn, lại nghe huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ bảo đấy là hai món quà của Dương Quá mừng sinh nhật của muội tử, rồi mười chữ chúc thọ bằng pháo hoa trên trời, càng làm cho nàng lu mờ đi trước mắt quần hùng. Nàng nghĩ: “Dương Quá hận ta chém mất cánh tay của hắn, cho nên mới cố ý làm mất thể diện của ta!” Nghĩ đến đây, nàng càng tức giận.

Lương trưởng lão và Gia Luật Tề, Quách Phù ngồi cùng mâm, thấy người người cao hứng hồ hởi, Quách Phù lại mặt nặng mày nhẹ, Lương trưởng lão nghĩ một chút, đã hiểu ra lý do, bèn cười, nói:

– Lão phu thật quá hồ đồ, vui quá đến nỗi quên cả đại sự trước mắt.

Rồi nhảy lên đài cao, nói bằng giọng sang sảng:

– Thưa các vị anh hùng, quân Mông Cổ bị hai thất bại liên tiếp, chúng ta tất nhiên hết sức vui mừng. Nhưng còn một việc đáng mừng không kém, vừa nãy Gia Luật đại gia đã hiển thị võ công thượng thừa, người người khâm phục. Vậy Cái Bang chúng ta cử Gia Luật đại gia làm bang chủ bổn bang. Các vị anh hùng thiên hạ có ai không phục chăng? Đệ tử bổn bang, ai có dị ngôn hay chăng?

Lương trưởng lão hỏi liền ba lần, bên dưới không ai lên tiếng. Lương trưởng lão nói:

– Vậy xin mời Gia Luật đại gia thượng đài.

Gia Luật Tề nhảy lên đài cao, ôm quyền hướng xuống bên dưới thi lễ, đang định nói vài lời khiêm tốn “vô đức bất tài”, bỗng bên dưới có người nói:

– Hãy khoan, tiểu nhân có một câu, đánh bạo thỉnh giáo Gia Luật đại gia.

Gia Luật Tề sững lại, thấy người nói từ trong đám đệ tử Cái Bang đứng dậy, bèn ôm quyền, hỏi:

– Không dám, xin cứ nói!

Người kia nói lớn:

– Lệnh tôn của Gia Luật đại gia làm Tể tướng Mông Cổ, lệnh huynh cũng từng làm quan to, tuy đều đã qua đời, nhưng Cái Bang chúng tôi đối địch với Mông Cổ, trọng nhiệm bang chủ bổn bang, Gia Luật đại gia há có thể gánh vác?

Gia Luật Tề nói:

– Tiên phụ Sở Tài bị hoàng hậu Mông Cổ hạ độc mà chết, tiên huynh Gia Luật Tấn bị đương kim hoàng đế Mông Cổ giết hại, tại hạ với bạo chúa Mông Cổ quả có mối thù bất cộng đái thiên.

Người kia nói:

– Tuy nói vậy, song cái chết của lệnh tôn còn nhiều ám muội, chuyện hạ độc chỉ là đồn đại, chưa nghe tin xác thực. Lệnh huynh phạm pháp, đáng tội chết, mối thù ấy không báo cũng chẳng sao. Còn mối thù lớn của bổn bang chưa trả…

Quách Phù nghe gã kia xuất ngôn châm chọc chồng nàng, không nhịn được thêm, liền quát:

– Ngươi là ai mà dám hồ ngôn loạn ngữ. Có gan thì thượng đài mà nói.

Gã kia ngửa mặt cười to, nói:

– Hay, hay, hay! Bang chủ chưa lên ngôi, bang chủ phu nhân đã hiển lộ uy phong.

Cũng chẳng biết gã di chuyển cước bộ thế nào, mà thoắt một cái đã đứng tại đài khẩu. Quần hùng thấy gã hiển lộ khinh công như vậy, đều kinh ngạc: “Kẻ có khinh công cao siêu này là ai vậy?” Mấy ngàn con mắt đều dồn vào người ấy.

Chỉ thấy gã mặc bộ hắc y rách rưới, tay cầm một cây thiết trượng to bằng bắp tay, đầu tóc rối bù, nước da bủng beo, mặt đầy các vết sẹo lồi lõm, lưng đeo năm cái túi, thì ra là một đệ tử năm túi. Cái Bang vốn hiếm có ai tướng mạo tuấn nhã, nhưng người này xấu xí quá chừng. Bang chúng Cái Bang biết gã tên là Hà Sư Ngã, tính vốn ít nói, bảo gì làm nấy, mười mấy năm nay chăm chỉ hiền lành, cho nên được thăng dần lên đệ tử năm túi, còn võ nghệ thì thấp kém, tài trí thấp hèn, không một ai kính trọng gã; đều cho rằng gã lên tới địa vị đệ tử năm túi là đã cực hạn, ai ngờ một kẻ tầm thường như gã đột nhiên lại lên tiếng chất vấn Gia Luật Tề trước mặt quần hùng, còn thể hiện võ công cao đến bất ngờ, nên đều nghĩ: “Cái gã Hà Sư Ngã này học lỏm được một thân công phu bao giờ thế không biết?”

Hà Sư Ngã tuy là kẻ bình thường, nhưng tướng mạo quá xấu xí khiến người ta gặp một lần khó quên, cho nên Gia Luật Tề cũng biết gã, bèn ôm quyền, nói:

– Không biết Hà huynh có cao kiến gì, muốn nghe chỉ giáo.

Hà Sư Ngã cười khẩy, nói:

– Hai chữ “chỉ giáo” thật chẳng dám nhận. Tiểu nhân có hai việc chưa rõ, nên mạo muội lên đây để hỏi.

Gia Luật Tề nói:

– Là hai việc gì?

Hà Sư Ngã nói:

– Việc thứ nhất, việc bàn giao từ bang chủ cũ sang bang chủ mới của bổn bang xưa nay vẫn lấy Đả cẩu bổng làm tín vật, Gia Luật đại gia hôm nay muốn làm bang chủ, có biết vật chí bảo của bổn bang là cây Đả cẩu bổng hiện giờ ở đâu hay không? Tiểu nhân rất mong được biết.

Lời này nói ra, bang chúng Cái Bang đều nghĩ: “Câu hỏi này hóc búa thật!” Gia Luật Tề nói:

– Lỗ bang chủ mất mạng bởi tay kẻ gian, cây Đả cẩu bổng cũng bị kẻ gian lấy đi mất. Đó là kỳ sỉ đại nhục của bổn bang, phàm ai là đệ tử bổn bang, đều có trách nhiệm đoạt lại chiếc gậy đó.

Hà Sư Ngã nói:

– Việc thứ hai tiểu nhân chưa rõ, muốn hỏi: mối thù lớn của Lỗ bang chủ rốt cuộc có trả hay không trả?

Gia Luật Tề nói:

– Lỗ bang chủ bị Hoắc Đô sát hại, ai cũng biết vậy, hào kiệt đương thế ai cũng bi phẫn. Có điều nhiều ngày tìm kiếm, vẫn chưa biết tên gian tặc Hoắc Đô ở đâu; đấy là một yếu vụ của bổn bang, chúng ta dẫu phải đi khắp chân trời góc biển, cũng phải tìm cho ra tên gian tặc Hoắc Đô, trả thù cho Lỗ bang chủ.

Hà Sư Ngã lạnh lùng nói:

– Thứ nhất, Đả cẩu bổng còn chưa đoạt lại được. Thứ hai, hung thủ sát hại tiền bang chủ còn chưa tìm ra. Hai việc lớn chưa làm, lại đòi làm bang chủ, như vậy có nóng vội quá chăng?

Mấy câu này lẽ chính từ nghiêm, Gia Luật Tề không biết đối đáp thế nào.

Lương trưởng lão nói:

– Lời của Hà lão đệ nói cũng có lý. Nhưng mấy chục vạn đệ tử bổn bang trải khắp thiên hạ, không thể không có người cầm chịch; còn việc tìm vật chí bảo và truy tìm hung thủ, càng không thể bảo làm là làm. Phải có người chủ trì mới có thể hoàn tất hai việc lớn này. Chúng ta lập ngay vị tân bang chủ, chính là vì thế.

Hà Sư Ngã lắc đầu, nói:

– Lương trưởng lão nói quá sai, có thể gọi là đảo ngược nhân quả, gốc ngọn.

Lương trưởng lão là người đứng đầu bốn vị trưởng lão Cái Bang, sau khi bang chủ chết càng phải được tôn trọng; gã đệ tử năm túi lại dám cả gan nói năng vô lễ trước mặt mọi người. Lương trưởng lão tức giận nói:

– Lời của lão phu sai thế nào?

Hà Sư Ngã nói:

– Theo ý đệ tử, người nào có thể đoạt lại cây Đả cẩu bổng, người nào giết được tên gian tặc Hoắc Đô, trả thù cho Lỗ bang chủ, chúng ta sẽ cử người ấy làm bang chủ. Còn như hôm nay, ai võ công cao nhất, thì người ấy được làm bang chủ; giả dụ Hoắc Đô bỗng nhiên đến đây, võ công lại cao hơn Gia Luật đại gia, chẳng lẽ chúng ta phải cử hắn làm bang chủ hay sao?

Câu nói này khiến quần hùng cứ đưa mắt nhìn nhau, cảm thấy hết sức có lý.

Quách Phù từ bên dưới nói lên:

– Hồ thuyết bát đạo. Võ công của Hoắc Đô làm sao thắng được Gia Luật đại gia?

Hà Sư Ngã cười khẩy, nói:

– Gia Luật đại gia võ công tuy mạnh, nhưng cũng chưa phải là vô địch thiên hạ. Tiểu nhân chỉ là đệ tử năm túi của Cái Bang, chưa chắc đã thua Gia Luật đại gia.

Quách Phù đang tức gã nói năng vô lễ, nghe gã tự nguyện động thủ thì không còn gì bằng, bèn gọi:

– Tề ca, hãy giáo huấn cho tên cuồng đồ kia một trận.

Hà Sư Ngã lạnh lùng nói:

– Sự vụ của bổn bang xưa nay là do bang chủ xử lý, bốn đại trưởng lão có quyền xử lý, bang chủ phu nhân thì không có quyền. Đừng nói Gia Luật đại gia còn chưa làm bang chủ, dù có làm rồi đi nữa, Gia Luật phu nhân cũng không được phép mắng mỏ chỉ trích đệ tử trước mặt mọi người, phải vậy không?

Quách Phù đỏ bừng cả mặt, chỉ nói:

– Ngươi…nhà ngươi…

Hà Sư Ngã không thèm lý đến nàng, quay sang nói:

– Lương trưởng lão, nếu đệ tử thắng Gia Luật đại gia, thì chức bang chủ thuộc về đệ tử, phải vậy không? Hay là chờ có ai đoạt bổng giết thù, bấy giờ sẽ cử người ấy làm bang chủ?

Lương trưởng lão thấy gã càng lúc càng ngông cuồng, thì nộ khí dâng lên ngực, nói:

– Bất luận người nào thắng được quần hùng đều có thể làm bang chủ, sau đó nếu không đoạt bổng giết thù, sẽ phải hổ thẹn về chức vị đang nắm giữ. Gia Luật đại gia nếu làm bang chủ, hai việc lớn ấy không thể không làm. Nhưng nếu không thắng Hà huynh đệ, làm sao có thể đảm đương chức bang chủ?

Hà Sư Ngã nói to:

– Lương trưởng lão nói chí lý, tiểu nhân xin lĩnh giáo Gia Luật đại gia trước, rồi sẽ đi đoạt bổng giết thù.

Ngụ ý là gã nắm chắc chín phần mười sẽ đánh bại Gia Luật Tề.

Gia Luật Tề vốn hành sự ổn trọng, nhưng nghe câu nói của Hà Sư Ngã cũng không khỏi tức giận, nói:

– Tiểu đệ tài sơ học thiển, vốn không dám đảm đương trọng nhiệm bang chủ. Hà huynh chịu chỉ giáo thì quá hay.

Hà Sư Ngã nói:

– Nói hay, nói hay lắm!

Đoạn gã cắm cây thiết trượng xuống sàn đài, vù một cái, tung chưởng đánh Gia Luật Tề. Lực đạo của chưởng này tựa hồ không thật mạnh, nhưng tầm bao quát phải tới cả một trượng vuông. Lương trưởng lão chưa kịp lùi ra, bị chưởng lực quạt nóng rát cả mặt, vội nhảy sang một bên.

Gia Luật Tề không dám coi thường, tay trái giơ lên, tay phải sử chiêu “Thám tàng nhược hư”, sử dụng chiêu số của bảy mươi hai lộ “Không Minh quyền”.

Hai người quyền lai cước vãng, bắt đầu tỷ thí trên đài cao. Lúc này sắp đến giờ Tuất, ánh trăng không sáng lắm, mười mấy cây đuốc lớn được đốt ở bốn phía đài cao, quần hùng bên dưới nhìn rõ mồn một cuộc đấu của hai người. Hoàng Dung xem hơn mười chiêu, thấy Gia Luật Tề chưa chiếm được thượng phong, quan sát kỹ võ công của Hà Sư Ngã, không nhận biết gia số thế nào; quyền cước, chiêu thức của gã hết sức tạp loạn, song công lực rất thâm hậu, tối thiểu cũng có bốn chục năm cần tu khổ luyện, nghĩ thầm: “Mười một mười hai năm nay, trong danh sách Cái Bang có thấy tên Hà Sư Ngã từng bước thượng thăng nhờ chuyên cần, chưa nghe ai nhắc tới võ công của hắn, nhưng nhìn thân thủ của hắn, quyết không phải hắn mới tiến mạnh gần đây mà nhờ sự kỳ ngộ nào đó. Bao lâu nay hắn giấu mình trong bang, không lẽ là để dành cho ngày hôm nay?”

Đấu đến năm chục chiêu, Gia Luật Tề dần dần kinh hãi, bất luận mình biến chiêu thế nào, đối phương cũng đều ung dung hóa giải, thật là cường địch bình sinh hiếm thấy; song hắn lại không thừa thế tấn công, tựa hồ hắn chỉ định tiêu hao nội lực của chàng, rồi mới dồn sức công kích vậy.

Gia Luật Tề tối nay đã đấu với nhiều người, nhưng trừ Lam Thiên Hòa ra, các đối thủ khác đều không đáng kể, nên chàng chưa bị hao tổn nhiều lực khí, thấy Hà Sư Ngã thân pháp phiêu hốt bất định, song quyền của chàng đột nhiên biến thành song chưởng, sấn lên công kích. Thuật song thủ hỗ bác của Chu Bá Thông không phải ai cũng học được; Gia Luật Tề tuy là cao đồ nhập thất của Chu Bá Thông, cũng không học được môn công phu kỳ lạ ấy; nhưng võ công chính tông Huyền môn của phái Toàn Chân thì Gia Luật Tề nắm vững đến chín phần mười, lúc này chàng đem ra thi triển, thấy ngọn lửa của mười mấy cây đuốc quanh đài đều dạt cả ra phía ngoài; chỉ riêng điều đó đủ biết chưởng lực mạnh mẽ biết chừng nào. Dưới ánh đuốc, hai người trên đài quyền chưởng múa lượn, hình ảnh qua lại lúc chờn vờn, lúc quyết liệt.

Hoàng Dung hỏi Quách Tĩnh:

– Tĩnh ca ca có biết gia số của người này thế nào không?

Quách Tĩnh nói:

– Cho đến lúc này, y vẫn chưa để lộ võ công bản môn, chứng tỏ y cố giấu giếm lai lịch; đấu thêm bảy, tám chục chiêu, Tề nhi dần dần thắng thế, bấy giờ nếu y không nhận thua, sẽ phải bộc lộ chân tướng.

Lúc này hai người càng đấu càng nhanh, thoáng chốc đã thay nhau công thủ năm chục chiêu, rồi bảy, tám chục chiêu, quả nhiên như Quách Tĩnh dự đoán, chưởng phong của Gia Luật Tề đã chụp lên toàn thân đối phương. Quách Tĩnh và Hoàng Dung chăm chú quan sát Hà Sư Ngã, biết y trong tình cảnh này nếu không sử dụng bản lĩnh nội gia, mà cứ chống đỡ bằng võ công bàng môn tạp phái, ắt sẽ đại bại. Gia Luật Tề cũng đã nhận ra điểm này, chưởng lực dần dần gia tăng, nhưng không mạo hiểm tấn công, chỉ duy trì thế chủ động.

Thấy Hà Sư Ngã đã không thể không biến chiêu, đột nhiên y cùng phất mạnh hai ống tay áo, một luồng kình phong thổi mạnh, mười mấy cây đuốc quanh đài bạt đi, chập chờn rồi tắt phụt. Quần hùng thấy tối sầm, chỉ nghe Gia Luật Tề và Hà Sư Ngã cùng thét to, hịch một cái, có người từ trên đài ngã xuống đất. Hà Sư Ngã cười phá lên ha ha trên đài. Mọi người kinh ngạc, không ai lên tiếng, chỉ nghe tiếng cười đắc chí của Hà Sư Ngã.

Lương trưởng lão nói:

– Đốt đuốc lên!

Hơn chục đệ tử Cái Bang chạy lên đốt đuốc sáng, mọi người thấy Gia Luật Tề đứng dưới đài, má bên trái máu chảy ròng ròng từ vết thương to bằng miệng chén. Hà Sư Ngã chìa bàn tay trái, cười khẩy, nói:

– Hảo thiết giáp, hảo thiết giáp!

Bàn tay gã đỏ lòm máu tươi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung nhìn nhau, biết Quách Phù đã đưa áo giáp lông nhím cho chồng mặc, nên khi Hà Sư Ngã đánh trúng một chưởng, bàn tay lập tức bị thương vì lông nhím đâm vào. Nhưng Gia Luật Tề bị thương vào má trái và ngã xuống khỏi đài như thế nào, thì trong đêm tối không thể nhìn được.

Nguyên Hà Sư Ngã đúng lúc ác đấu, đột nhiên sử dụng công phu “Đại phong tụ” làm tắt ngấm mười mấy cây đuốc quanh đài. Gia Luật Tề sững lại, vội vỗ ra một chưởng bảo vệ phía trước, bỗng cảm thấy ngón tay lạnh ngắt vì chạm vào một thứ thiết khí gì đó, lập tức biết đối phương đánh lâu không thắng đã giở gian kế, trong bóng tối rút binh khí ra đánh trộm. Chàng tuy tay không, cũng không sợ đối phương có binh khí, liền thi triển “Đại cầm nã thủ” để đoạt binh khí của đối phương, vạch mưu gian của đối phương trước mặt quần hùng. Chàng sử chiêu “Xảo thủ bát đả”, đến cách Hà Sư Ngã hai thước thì lật cổ tay một cái, đã chộp được cán binh khí đối phương. Tả chưởng liền đánh thẳng tới mặt Hà Sư Ngã, như thế gã không thể không buông binh khí.

Trong bóng tối, Hà Sư Ngã quả nhiên nghiêng đầu né tránh, buông ngón tay. Gia Luật Tề đoạt lấy binh khí. Đúng lúc ấy, má trái của chàng đau nhói lên, rồi hự một cái, ngực chàng lại trúng chưởng, chàng đứng không vững, bị văng khỏi đài. Chàng không ngờ binh khí của đối phương rất kỳ quặc, có gài cơ quan bên trong, đứt thành hai đoạn, đoạn trên bị chàng đoạt lấy, đoạn dưới lại bật lên đánh trúng má chàng, ngập vào nửa tấc, chạm xương, song không yếu hại; vì sát thủ của Hà Sư Ngã là dồn vào một chưởng. May mà Quách Phù cứ bắt chàng phải mặc thêm cái áo giáp lông nhím bên trong trường bào, cho nên chàng không bị tổn thương vì chưởng, trong khi Hà Sư Ngã lại bị chảy máu cả bàn tay.

Quách Phù thấy chồng bị rớt đài, vừa sợ vừa tức, chạy lại trợ giúp. Lương trưởng lão thừa biết Hà Sư Ngã đã hành sự gian trá trong bóng tối, nhưng không có chứng cứ, đồng thời cả hai người đều bị thương chảy máu, cũng không thể trách riêng bên nào vi phạm lời dặn “chạm đến thì đừng”; xem ra hai người chỉ bị thương nhẹ, nhưng Gia Luật Tề bị rớt khỏi đài, tức là đã thua trận này.

Quách Phù không phục, nói:

– Người kia sử dụng gian kế, Tề ca, hãy thượng đài tái quyết thắng bại với hắn!

Gia Luật Tề lắc đầu, nói:

– Hắn đã dùng trí thủ thắng, coi như đã thắng. Huống hồ xét về võ công, ta cũng chưa chắc thắng hắn.

Hoàng Dung vẫy vẫy tay, bảo Gia Luật Tề lại gần, xem đoạn binh khí mà chàng đoạt được, thấy là một thanh sắt dài năm tấc, nhất thời cũng chưa nghĩ ra trong võ lâm có ai sử dụng binh khí này.

Hà Sư Ngã vênh cái mặt xấu xí bủng beo, nói:

– Tại hạ tuy đánh thắng Gia Luật đại gia, nhưng chưa dám nhận chức Bang chủ. Cần phải tìm lại cây Đả cẩu bổng, giết được Hoắc Đô đã, bấy giờ xin nghe các vị quyết định.

Mọi người nghe câu nói đó rất công bằng, thấy gã tuy thắng một cách ám muội, nhưng võ công thập phần cao cường, nghe gã nói xong, một số đệ tử Cái Bang vỗ tay hoan hô.

Hà Sư Ngã đứng ở đài khẩu, ôm quyền thi lễ với mọi người, nói:

– Các vị anh hùng có ai muốn chỉ giáo, xin mời thượng đài.

Chữ “đài” vừa dứt, bỗng nghe Sử Bá Uy hét to một tiếng, năm trăm con mãnh thú ở bốn phía sân bãi liền đứng dậy cùng gầm lên. Chỉ riêng tiếng gầm của sư tử và mãnh hổ đã đầy uy lực, huống hồ cả năm trăm con mãnh thú cùng gầm rống một lúc. Thanh âm y như núi lở, chỉ thấy bụi cát bốc lên trên sân bãi, chén bát trước mặt quần hùng va vào nhau lanh canh không dứt.

Trong tiếng gầm của mãnh thú, huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ cùng lao tới bên đài cao, rút binh khí ra vây quanh đài.

Rồi ở lối vào bãi, có đuốc sáng bừng, tám người giơ cao đuốc, nói to:

– Thần điêu hiệp có món quà thứ ba mừng sinh nhật Quách nhị cô nương.

Họ nói xong trong chớp mắt đã vọt tới trước mặt Quách Tương, cả tám người cùng hiển lộ khinh công thượng thừa. Bốn người đi giữa mỗi người một tay khiêng một cái bao tải lớn, xem chừng món quà thứ ba ở trong chiếc bao tải kia.

Tám người cúi mình thi lễ với Quách Tương, tự báo tính danh, quần hùng nghe thấy đều kinh ngạc, nguyên lai vị thứ nhất là một lão hòa thượng, phương trượng chùa Phật Quang ở Ngũ Đài sơn, tên Đàm Hoa đại sư là người lừng danh ngang với phương trượng Thiếu Lâm tự Thiên Minh thiền sư, các vị còn lại như Triệu lão tước gia, Lung Á đầu đà, chưởng môn phái Côn Luân Thanh Linh Tử, đều là bậc tiền bối lừng lẫy tiếng tăm trong giang hồ.

Quách Tương chưa biết danh tiếng các vị đó, đứng dậy đáp lễ, cười tươi như hoa, nói:

– Thật phiền các vị bá bá thúc thúc vất vả. Không biết trong này có món đồ chơi gì đây?

Bốn người khiêng túi cùng giật tay ra sau một cái, chiếc bao tải rách toạc thành bốn mảnh, lộ ra một vị hòa thượng trọc đầu.

Hồi 37: Ân oán ba đời

Vị hòa thượng kia tì vai xuống đất, lập tức bật dậy, thân thủ rất mau lẹ. Chỉ thấy y mặt mũi hầm hầm, xí la xí lô mấy câu gì đó không ai hiểu nổi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung nhận ra y chính là Đạt Nhĩ Ba, nhị đệ tử của Kim Luân pháp vương, chẳng biết tại sao lại bị đám Đàm Hoa đại sư, Triệu lão tước gia bắt sống.

Quách Tương cứ ngỡ trong chiếc bao tải có thứ đồ chơi gì lạ lùng, nhưng lại thấy một Tạng tăng hình thù thô lậu, thì hơi thất vọng, nói:

– Đại ca ca gửi cho tiểu nữ một lão hòa thượng, tiểu nữ chả thích. Đại ca ca hiện ở đâu, sao vẫn chưa đến?

Trong số tám người mang món quà thứ ba mừng sinh nhật, Thanh Linh Tử là người sống lâu ở sát vùng Tây Tạng, biết nói tiếng Tạng, ghé tai Đạt Nhĩ Ba nói nhỏ vài câu gì đó, thấy Đạt Nhĩ Ba biến sắc, cả kinh, chằm chằm nhìn Hà Sư Ngã trên đài cao. Thanh Linh Tử lại dùng tiếng Tạng nói to vài câu, rồi trao cây kim chử đeo sau lưng cho Đạt Nhĩ Ba. Đấy vốn là binh khí của Đạt Nhĩ Ba, y bị tám đại cao thủ vây công và bắt sống, đoạt mất binh khí.

Đạt Nhĩ Ba nhận cây kim chử, quát to một tiếng, tung mình nhảy lên đài cao.

Thanh Linh Tử cười, nói với Quách Tương:

– Quách nhị cô nương, gã hòa thượng ấy biết diễn trò, Thần điêu đại hiệp sai gã diễn trò cho cô nương xem.

Quách Tương vui mừng, vỗ tay, nói:

– Thì ra vậy. Tiểu nữ cứ lấy làm lạ, sao đại ca ca tốn công tìm lão hòa thượng để làm gì.

Đạt Nhĩ Ba lớn tiếng nói gì đó với Hà Sư Ngã, Hà Sư Ngã nói:

– Gã hòa thượng kia, ngươi nói gì, ta không hiểu gì hết.

Đạt Nhĩ Ba sấn tới, bổ cây kim chử xuống đầu Hà Sư Ngã. Hà Sư Ngã né người tránh. Đạt Nhĩ Ba vung cây kim chử cứ xông tới. Hà Sư Ngã tay không, trước sự công kích mãnh liệt của cây kim chử to nặng, chỉ liên tiếp thoái lui.

Bang chúng Cái Bang thấy Tạng tăng hung mãnh như vậy, đều tức giận coi gã như kẻ địch, xôn xao cả lên.

Lương trưởng lão quát:

– Đại hòa thượng không được lỗ mãng, vị này tương lai sẽ là bang chủ của bổn bang.

Đạt Nhĩ Ba thây kệ, cứ múa cây kim chử thành một đạo hoàng quang, càng lúc càng phát ra tiếng ù ù.

Sáu, bảy đệ tử Cái Bang không nhịn được, định nhảy lên đài cao trợ giúp Hà Sư Ngã, nhưng tám đại cao thủ, huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỷ, tổng cộng hai mươi ba người vây quanh đài cao, không cho ai lên đó. Bang chúng Cái Bang tuy đông đảo, song nhất thời chưa làm gì được, đang huyên náo thì Thanh Linh Tử nhảy lên đài, nhổ cây thiết bổng mà Hà Sư Ngã cắm một chỗ. Hà Sư Ngã cả kinh, xông tới cướp lại, nhưng bị cây kim chử của Đạt Nhĩ Ba tấn công dồn dập, không tách ra nổi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung không rõ lý do, không đoán biết Dương Quá phái tám người mới đến gây náo loạn là có dụng ý gì. Nhưng nghĩ món quà thứ nhất và món quà thứ hai hết sức có lợi cho thành Tương Dương, thì món quà thứ ba chắc cũng không tệ, nên hai vợ chồng cứ lẳng lặng quan sát động tĩnh.

Gia Luật Tề tuy bị Hà Sư Ngã dùng gian kế đánh rớt đài, nhưng chàng đã quyết chí kế tục đại nghiệp của nhạc mẫu, xuất lực cho Cái Bang, thấy Hà Sư Ngã bị Đạt Nhĩ Ba dồn cho chân tay luống cuống, bèn quát to:

– Hà huynh đừng hoảng, có đệ giúp huynh đây!

Chàng lao tới mép đài. Bỗng có người ở bên trái nói:

– Không ai được thượng đài cả!

Đoạn giơ tay ra chắn đường. Gia Luật Tề lấy tay gạt đi, người kia ngoặt cổ tay chộp bắt, chiêu số tinh diệu, nội lực thâm hậu. Gia Luật Tề chột dạ, nhìn người kia, đó chính là Sử Thúc Cương. Gia Luật Tề biến chiêu mấy lần liền, vẫn không đẩy lùi được đối phương, chàng thầm kinh dị: “Người này chỉ là một thuộc hạ vô danh của Thần điêu hiệp mà đã lợi hại như thế. Thần điêu hiệp có thể tập hợp ngần ấy đại cao thủ, không hiểu bản thân Thần điêu hiệp là nhân vật cỡ nào?”

Thanh Linh Tử giơ cao cây thiết bổng, nói to:

– Thưa các vị anh hùng, xin hãy nhìn xem là vật gì đây?

Đột nhiên chém cạnh bàn tay vào ngang cây thiết bổng, cây thiết bổng lập tức vỡ toác, thì ra nó rỗng ruột, Thanh Linh Tử lôi từ trong ruột nó ra một cây gậy trúc xanh bóng.

Bang chúng Cái Bang vừa nhìn thấy nó thì đang lặng như tờ bỗng cùng reo to:

– Đả cẩu bổng của bang chủ!

Những đệ tử đang động thủ với huynh đệ họ Sử và Tây Sơn Nhất Khuất Quỷ đều nhảy lui, ai cũng lấy làm lạ: “Đả cẩu bổng tại sao lại giấu bên trong cây thiết bổng? Tại sao nó lại lọt vào tay Hà Sư Ngã? Tại sao Hà Sư Ngã giấu giếm việc đó?”

Mọi người chờ nghe Thanh Linh Tử giải thích nhiều nghi vấn, nhưng Thanh Linh Tử không nói gì, nhảy khỏi đài, hai tay cầm ngang cây Đả cẩu bổng, cung kính trao cho Quách Tương. Quách Tương nhìn vật nhớ người, nhớ lại diện mạo và giọng nói của Lỗ Hữu Cước, bất giác se lòng, nhận cây gậy trúc, đưa cho mẫu thân.

Lúc này cây kim chử của Đạt Nhĩ Ba tấn công dồn dập hơn, Hà Sư Ngã chỉ dựa vào thân pháp tiểu xảo để né tránh, tình thế rất nguy hiểm. Bang chúng Cái Bang sau khi nhìn thấy cây Đả cẩu bổng, biết nhóm Thanh Linh Tử bắt sống Đạt Nhĩ Ba mang tới đây là để đối phó với Hà Sư Ngã, bên trong tất có duyên cớ hệ trọng, nên không còn ai muốn thượng đài cứu giúp nữa.

Chỉ chừng mươi chiêu nữa Hà Sư Ngã sẽ bỏ mạng dưới cây kim chử, Hoàng Dung chợt nghĩ: “Hà Sư Ngã dùng ám khí đả thương Tề nhi, trong tay áo gã rõ ràng có giấu binh khí, sao lúc nguy cấp này gã không lấy ra chống đỡ?” Thấy cây kim chử của Đạt Nhi Ba quét sát đất một cái, Hà Sư Ngã vội nhảy tránh. Đạt Nhĩ Ba lật cây kim chử một cái, đánh bật từ dưới lên. Hà Sư Ngã hai chân ở trên không trung, không cách gì né tránh chiêu này, bỗng nghe keng một tiếng, binh khí đụng nhau, Hà Sư Ngã mượn thế nhảy ra, trong tay gã đã cầm một món binh khí ngắn.

Đạt Nhĩ Ba hầm hầm giận dữ, miệng chửi lảm nhảm, cây kim chử múa tít. Nhưng Hà Sư Ngã đã có binh khí trong tay, tình thế lập tức thay đổi, gã chọc, đâm, gạt, chém, binh khí tuy ngắn, song chiêu số cực kỳ vi diệu, đấu ngang ngửa với Đạt Nhĩ Ba.

Chu Tử Liễu nhìn một lát, chợt tỉnh ngộ, nói:

– Quách phu nhân, tại hạ biết hắn là ai rồi. Nhưng còn một điều chưa rõ.

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Cái đó chỉ việc trộn keo, bột thạch cao với mật ong, bôi đắp lên mặt là xong.

Gia Luật Tề và Quách Phù, Quách Tương lúc này đứng bên cạnh Hoàng Dung, nghe hai người đối đáp, cứ gãi gáy. Quách Phù hỏi:

– Chu bá bá, bá bá nói hắn là ai vậy?

Chu Tử Liễu hỏi:

– Điệt nhi muốn nói cái gã Hà Sư Ngã đã đả thương chồng điệt nhi ấy à?

Quách Phù nói:

– Hắn không phải là Hà Sư Ngã, thì là ai vậy?

Chu Tử Liễu nói:

– Điệt nhi thử nhìn kỹ xem, hắn sử dụng thứ binh khí gì?

Quách Phù chăm chú nhìn, nói:

– Thứ này dài chưa đầy một thước, không phải là nga mi thích, phán quan bút, cũng không phải là điểm huyệt quyết.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi thử suy nghĩ xem tại sao hắn không hề dùng binh khí, thà chịu nguy hiểm lớn, tránh đông tránh tây mãi, đến lúc bị gã hòa thượng dồn chí chết, mới đành rút binh khí ra? Tại sao khi dùng binh khí đả thương Tề nhi, hắn phải làm tắt hết các cây đuốc?

Quách Phù nói:

– Kẻ đó gian trá xảo quyệt, chứ có đạo lý gì đâu?

Quách Tương nói:

– Chắc là hắn sợ có người ở đây nhận ra thân pháp của hắn khi sử dụng binh khí, cho nên hắn không muốn để lộ chân tướng.

Chu Tử Liễu khen:

– Đúng, Quách nhị tiểu thư thông minh lắm!

Quách Phu nghe Chu Tử Liễu khen ngợi muội tử, thì không phục, nói:

– Cái gì mà bảo hắn không muốn để lộ chân tướng? Chẳng phải hắn đứng sờ sờ trên đài đó sao? Ai cũng nhìn rõ mồn một.

Quách Tương nghĩ đến câu vừa rồi của mẹ, nói:

– Ồ, các vết sẹo lồi lõm trên mặt hắn chẳng qua là trộn keo, bột thạch cao với mật ong, bôi đắp lên mặt. Cái bộ mặt đáng sợ của hắn, muội nhìn một lần, không muốn nhìn lần nào nữa.

Hoàng Dung nói:

– Hắn càng giả trang đáng sợ, càng khó để lộ sơ hở; bởi vì người ta thấy bộ mặt khó coi, không dám nhìn kỹ, cho nên khó lòng phát giác. Ôi, nhưng mà giả trang được lâu như thế, thật cũng chẳng dễ chút nào.

Chu Tử Liễu nói:

– Diện mạo có thể giả trang, chứ võ công và thân pháp thì không giả trang được. Công phu luyện mấy chục năm, giả bộ sao nổi?

Quách Phù nói:

– Các vị bảo Hà Sư Ngã là kẻ giả trang, vậy hắn là ai? Muội tử, muội thông minh lắm, thử đoán xem nào.

Quách Tương lắc đầu, nói:

– Muội không thông minh, cho nên chẳng biết gì chuyện này.

Chu Tử Liễu nói:

– Đại tiểu thư từng nhìn thấy hắn, khi ấy nhị tiểu thư còn chưa ra đời. Mười bảy năm trước, tại đại hội anh hùng ở ải Đại Thắng, có một kẻ từng đấu với ta mấy trăm hiệp, kẻ đó là ai?

Quách Phù nói:

– Là Hoắc Đô. Không, không phải hắn. Hắn sử dụng cây quạt gấp, không giống thứ binh khí kia, đúng rồi, cây quạt trong tay hắn hiện thời chỉ có cái khung, không có lá.

Chu Tử Liễu nói:

– Trận ác đấu giữa ta với hắn là một đại hiểm sự trong đời ta, thân pháp và chiêu số của hắn, làm sao ta lại không hận ra? Người kia mà không phải là Hoắc Đô, thì Chu Tử Liễu ta mù mắt mất rồi.

Khi Quách Phù nhìn kỹ Hà Sư Ngã một lần nữa, thấy hắn cước bộ lẹ làng, xuất thủ nham hiểm, quả nhiên giống gã Hoắc Đô tại đại hội anh hùng năm xưa, nhưng trong bụng còn nhiều hồ nghi, bèn hỏi:

– Nếu hắn đúng là Hoắc Đô, lão hòa thượng Tây Tạng kia là sư huynh của hắn, sao lại không nhận ra hắn, cứ liều chết đánh hắn như vậy?

Hoàng Dung nói:

– Chính vì Đạt Nhĩ Ba biết hắn là sư đệ mới đánh hắn như vậy. Năm xưa trong cuộc đại chiến ở cung Trùng Dương, núi Chung Nam, Dương Quá dùng thanh Huyền thiết trọng kiếm đè ép hai gã Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô. Hoắc Đô thấy nguy đến tính mạng, liền giở gian kế, phản sư đào thoát. Việc đó mọi người trên dưới phái Toàn Chân đều thấy, ngươi không nghe ai kể hay sao?

Quách Phù nói:

– Thì ra vì thế Đạt Nhĩ Ba mới căm hận hắn.

Quách Tương nghe mẫu thân nói “Dương Quá dùng thanh Huyền thiết trọng kiếm đè ép hai gã Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô”, liền hình dung phong thái anh hùng của Dương Quá năm ấy, đứng ngẩn người ra.

Quách Phù lại hỏi:

– Tại sao hắn lại biến thành khất cái? Đả cẩu bổng của chúng ta tại sao lại rơi vào tay hắn?

Hoàng Dung nói:

– Như thế vẫn chưa nghĩ ra được ư? Hoắc Đô phản bội sư môn, tất nhiên sợ sư phụ và sư huynh tìm hắn, bèn cải trang, chui vào Cái Bang, nem nép một bề, không lộ bản lĩnh, mười mấy năm thăng dần đến địa vị đệ tử năm túi; người của Cái Bang cố nhiên không ai nghi ngờ. Kim Luân pháp vương càng không tìm ra hắn. Nhưng hạng người gian ác như hắn không khi nào chịu mai một suốt đời, cơ hội vừa đến là sẽ chộp lấy ngay. Hôm Lỗ bang chủ ra ngoài tuần tra, Hoắc Đô mai phục một bên, bất ngờ hạ độc thủ, khi ấy hắn để lộ bản lai diện mục, đồng thời nhắn lại rằng người giết Lỗ Hữu Cước chính là Hoắc Đô. Sau khi lấy cây Đả cẩu bổng, hắn giấu vào trong cây thiết bổng kia. Đợi khi bản bang tuyển chọn bang chủ, hắn bèn đề xướng đại sự “tìm lại Đả cẩu bổng”. Đó là bang qui truyền đời của Cái Bang, ai dám bác bỏ? Ôi, tên gian tặc Hoắc Đô, mưu kế đánh vào lòng người của hắn phải nói là vô cùng lợi hại.

Chu Tử Liễu cười, nói:

– Nhưng có Quách phu nhân, hắn dẫu ngụy trang được nhất thời, cuối cùng cũng không che mắt được phu nhân.

Hoàng Dung mỉm cười không đáp, nghĩ thầm: “Hoắc Đô chui vào Cái Bang, thủy chung không lộ diện, có thể che mắt được ta, nhưng đòi làm bang chủ, thì xem thường Hoàng Dung này quá”.

Chu Tử Liễu nói:

– Dương Quá thật tài tình, có thể nắm chắc được động thái của Hoắc Đô, lại lột trần bộ mật thật của hắn ta, món quà tặng Quách nhị tiểu thư thật không nhỏ.

Quách Phù nói:

– Hừ, chẳng qua may mắn phát hiện được thôi, có gì mà tài tình.

Quách Tương nghĩ: “Hôm ấy đại ca ca ở bên ngoài miếu Dương Thái Phó, thấy mình cúng Lỗ bá bá, biết mình với Lỗ bá bá là hảo bằng hữu, nên tìm muôn ngàn cách trả thù cho mình, ôi, món quà này thật lớn lao, tâm ý của chàng…” Nàng bỗng nhớ ra một việc, nói:

– Hoắc Đô tuy cải trang chui vào Cái Bang, làm một khiếu hóa tử xấu xí, nhưng có lần lại hiện nguyên hình ra ngoài gây sự. Sử tam thúc trong huynh đệ Sử gia từng bị hắn đả thương, chắc Sử tam thúc quyết ý tìm hắn báo thù, nên đã lần ra tung tích hắn.

Hoàng Dung gật đầu, nói:

– Đúng vậy, trên giang hồ thi thoảng vẫn có hình tích của Hoắc Đô, nên người ta sẽ không ngờ Hà Sư Ngã trong Cái Bang và Hoắc Đô là một người. Hà Sư Ngã, Hà Sư Ngã, con hãy xem cái tên giả của hắn, có nghĩa “ta làm thầy”, lấy chính mình làm sư phụ. Một cá nhân quá đề cao mình, tất có ngày thảm bại.

Quách Phù nói:

– Mẹ, tại sao Hà Sư Ngã lại bảo sẽ đi giết Hoắc Đô? Như thế chẳng hóa ngu lắm sao?

Hoàng Dung nói:

– Câu ấy chỉ để che mắt làm cho người ta càng không nghi ngờ hắn mà thôi.

Quách Phù nói:

– Dương… Dương đại ca đã sớm biết Hà Sư Ngã chính là Hoắc Đô, lẽ ra phải nói sớm, không để cho Hà Sư Ngã đả thương Tề ca.

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Dương Quá không phải là thần thánh, làm sao đoán biết Tề nhi sẽ bị Hà Sư Ngã ám toán?

Quách Tương nói:

– Đại tỷ là thần thánh, nên đem áo giáp cho tỷ phu mặc đó.

Quách Phù lườm muội tử một cái, trong bụng cũng không khỏi đắc ý.

Trong lúc ấy, ở trên đài cao cuộc đấu giữa Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô càng thêm ác liệt. Hai người cùng học một sư phụ, biết rõ gia số võ công của nhau, Đạt Nhĩ Ba khỏe hơn, Hoắc Đô thì nhanh hơn, đôi bên đấu mấy trăm chiêu, bất phân thắng bại. Đột nhiên Đạt Nhĩ Ba thét lớn, cây kim chử rời tay bay nhanh về phía Hoắc Đô; cây kim chử nặng hơn năm chục cân, thế bay vô cùng lợi hại. Hoắc Đô cả kinh, bình sinh chưa từng thấy sư huynh sử dụng chiêu số này, nghĩ: “Y đánh lâu không thắng, đã phát rồ rồi chăng?” Vội né người tránh. Đạt Nhĩ Ba sấn tới, dùng tay đẩy cây kim chử một cái, cây kim chử liền chuyển hướng bay, lại đuổi theo Hoắc Đô. Hoắc Đô kinh hãi, mới biết mười mấy năm nay sư huynh theo hầu sư phụ, sư phụ lại truyền thêm cho môn võ công lợi hại, môn này chính là biến hóa từ môn phóng ngũ luân mà ra. Hắn thấy lực đạo của cây kim chử quá mạnh, không thể nào dùng cái gọng quạt sắt chống đỡ, đành cứ đảo người né tránh, cây kim chử bay sượt qua đầu hắn, chỉ cách không đầy hai tấc.

Cây kim chử của Đạt Nhĩ Ba bay càng lúc càng nhanh, các cây đuốc xung quanh đài bị thổi bạt ngọn lửa, ánh sáng chập chờn. Hoắc Đô cuống cuồng tránh né trong chử ảnh, quần hùng bên dưới quan đấu, nhìn tình thế nguy hiểm cũng lạnh gáy. Đạt Nhĩ Ba đẩy cây kim chử đến lần thứ mười tám thì quát to một tiếng, song chưởng cùng đẩy, cây kim chử như một mũi tên bay ngang cực nhanh, Hoắc Đô không thể né tránh kịp nữa, hự một cái, cây kim chử giáng trúng ngực hắn. Người hắn mềm oặt, sụm xuống, nằm vật trên sàn đài, không cựa quậy gì cả.

Đạt Nhĩ Ba cầm cây kim chử khóc to ba tiếng, ngồi xếp bằng phía trước sư đệ, niệm bài chú “Vãng sinh”, niệm xong liền nhảy xuống khỏi đài, tới trước mặt Thanh Linh Tử, trao trả cây kim chử. Thanh Linh Tử không nhận binh khí của y, nói:

– Chúc mừng các hạ thanh lý xong sư môn. Thần điêu hiệp tha cho các hạ, bảo các hạ hãy trở về Tây Tạng, từ nay không được đến Trung Nguyên nữa.

Đạt Nhĩ Ba nói:

– Đa tạ Thần điêu đại hiệp, tiểu tăng xin vâng mệnh.

Nói xong chắp tay trước ngực, thi lễ, rồi thong thả lui ra. Quách Phù thấy Hoắc Đô nằm chết trên sàn đài, mặt mày ủng thũng đáng sợ, vẫn không tin đó là bộ mặt giả trang, bèn rút kiếm, nhảy lên đài, nói:

– Phải xem bản lai diện mục của kẻ gian này rốt cuộc thế nào.

Đoạn dùng mũi kiếm hẩy hẩy vào mũi Hoắc Đô.

Đột nhiên Hoắc Đô thét lớn, bật dậy thật cao, song chưởng từ trên không đánh thẳng xuống. Nguyên hắn bị cây kim chử thúc vào ngực, bị trọng thương chí mạng, xong chưa chết ngay. Hắn cố ý giả vờ không cựa quậy, chờ Đạt Nhĩ Ba lại gần sẽ giáng cho một đòn cuối cùng để cả hai cùng chết. Ai ngờ Đạt Nhĩ Ba niệm chú cho hắn được vãng sinh cực lạc, rồi lại rời khỏi đài cao mà đi. Quách Phù nhảy lên dùng mũi kiếm đụng vào mũi hắn. Hoắc Đô còn chút sức lực nào đều dồn vào đòn này. Quách Phù thấy tử thi sống lại, thì cả kinh, quên cả vung kiếm chống đỡ. Chiếc áo giáp lông nhím nàng đã cho chồng mặc. Thấy nàng sắp bỏ mạng dưới song chưởng của Hoắc Đô; Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Gia Luật Tề cùng bật dậy, định nhảy lên đài để cứu nàng, nhưng đã không còn kịp.

Chỉ nghe hai tiếng chíu chíu, có hai ám khí từ hai phía trên không trung bắn tới, cùng trúng vào ngực Hoắc Đô. Hai thứ ám khí này hình thể cực nhỏ, tựa hồ chỉ như hai viên sỏi, song lực đạo mạnh mẽ dị thường. Hoắc Đô ngã bật ngửa ra sau, hộc ra một ngụm máu tươi, bây giờ thì chết thẳng cẳng.

Mọi người kinh ngạc, ngẩng đầu nhìn nơi hai ám khí bắn tới, chỉ thấy mây nhẹ sao mờ, trăng lưỡi liềm chênh chếch, ngoài ra không có vật gì khác; ám khí hình như từ hai đầu cột cờ ở phía trước đài cao bắn tới.

Hoàng Dung nghe tiếng rít trong không trung của ám khí, biết rằng thời nay trừ phép “Đạn chỉ thần thông” của phụ thân ra, không còn ai có nội lực nhường ấy, song hai cái cột cờ đều cao mấy trượng, cách nhau mười mấy trượng, làm sao từ hai nơi cùng phóng ra ám khí? Vừa kinh ngạc vừa vui mừng, Hoàng Dung thốt lên:

– Là gia gia giá lâm chăng?

Chỉ nghe từ cái cột cờ bên trái phát ra tiếng cười của lão nhân, tiếp đến tiếng nói:

– Tiểu hữu Dương Quá, hai ta cùng xuống thôi chứ?

Từ cái cột cờ bên phải có tiếng đáp “Vâng”, rồi từ mỗi đỉnh cột cờ có một người nhảy xuống.

Dưới ánh trăng sao, tà áo hai người phất phơ, cùng nhảy xuống đài, một người râu trắng áo xanh, một người cụt tay, trường bào màu lam, chính là Hoàng Dược Sư và Dương Quá. Hai người đều rơi chênh chếch, cách đài cao vài trượng thì đã gặp nhau, Hoàng Dược Sư đưa tay phải nắm lấy tay trái của Dương Quá, từ trên không trung cùng đáp xuống. Mọi người nếu không nghe thấy tiếng nói của hai người trước, thì sẽ tưởng là tướng nhà trời hạ phàm.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung vội nhảy lên đài hành lễ với Hoàng Dược Sư. Dương Quá quì xuống vái chào vợ chồng Quách Tĩnh, nói:

– Điệt nhi Dương Quá khấu đầu trước Quách bá bá, Quách bá mẫu.

Quách Tĩnh vội đưa tay đỡ chàng dậy, cười, nói:

– Quá nhi, ba món quà lớn của Quá nhi thật là…thật là…

Quách Tĩnh trong lòng cảm kích, không biết nói gì sau hai chữ “thật là”.

Quách Phù sợ phụ thân bắt nàng lạy tạ Dương Quá về ơn cứu mạng, liền chạy tới trước mặt Hoàng Dược Sư, nói:

– Ngoại công, may nhờ có công phu “Đạn chỉ thần thông” của ngoại công, cháu mới thoát khỏi song chưởng của kẻ gian.

Dương Quá nhảy xuống khỏi đài, đến trước mặt Quách Tương, nói:

– Tiểu muội tử, ta đến hơi muộn.

Quách Tương trống ngực đập dồn, hai má đỏ bừng, nói nhỏ:

– Đại ca ca tốn bao nhiêu công lo ba món quà lớn cho muội, thật là… thật là… vất vả cho đại ca ca.

Dương Quá cười, nói:

– Để mừng sinh nhật cho tiểu muội tử, mọi người gây náo nhiệt một phen cho vui vậy mà.

Nói rồi phất tay một cái.

Đại Đầu Quỉ gọi to:

– Tất cả ra đi!

Ở lối vào sân bãi, có tiếng nhắc lại thật lớn:

– Tất cả ra đi!

Xa xa lại có tiếng lặp lại “Tất cả ra đi!” như mệnh lệnh truyền lan.

Lát sau, từ cửa sân bãi có nhiều tốp người tiến vào có người xách đèn lồng, có người quảy gánh đồ, có người khiêng đạo cụ, họ tản ra bốn góc sân bãi, đóng cọc, kê sàn, treo đèn, gõ trống, người người lũ lượt nhưng trật tự đâu ra đấy, tất cả lẳng lặng, không ai nói một lời, chỉ chăm chú vào công việc của mình.

Quần hùng thấy Dương Quá đã mang tới ba món quà lớn, đối với chàng đều phục sát đất, thấy chàng triệu tập đông người như vậy, hẳn có việc lớn, không ngờ lát sau một sân khấu ở góc tây nam đã dựng xong, chiêng trống nổi lên, người ta bắt đầu diễn kịch múa rối, diễn tích “Bát tiên giá thọ”. Tiếp đó, ở góc tây bắc có đoàn kịch diễn vở “Mãn sàng hốt”, kể tích bảy con trai tám con rể chúc thọ sinh nhật Quách Tử Nghi. Thoáng chốc chỗ này bắn pháo hoa, chỗ kia diễn tuồng, cả sân bãi tràn ngập không khí vui vẻ. Các đoàn kịch Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Hà Nam trình diễn tuyệt nghệ của mình.

Quần hùng tùy sở thích mà tìm xem thứ mình ưa thích, tiếng reo hò tán thưởng chốc chốc lại nổi lên.

Lúc này huynh đệ họ Sử đã dẫn bầy mãnh thú đi khỏi, Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ và nhóm cao thủ Thanh Linh Tử cũng đã lẳng lặng rút đi.

Quách Tương thấy Dương Quá lo liệu cho nàng quá chu đáo thì sung sướng ứa nước mắt, nhất thời không biết nói gì. Quách Phù nhớ lại lúc ở miếu Dương Thái Phó, muội tử nói có một vị đại hiệp thiếu niên đến chúc mừng sinh nhật, bây giờ sự việc diễn ra đúng như vậy, thì không khỏi tức tối, cứ kéo tay Hoàng Dược Sư hỏi hết chuyện nọ chuyện kia, không thèm để ý đến cảnh náo nhiệt xung quanh.

Quách Tĩnh thấy Dương Quá lo liệu quá ư trịnh trọng cho tiểu nữ nhi, nghĩ chàng vẫn hành sự khó hiểu, nhưng chỉ trong một ngày hôm nay đã làm giúp ba việc lớn lao cho thành Tương Dương, bây giờ có vui đùa thì cứ để tùy thích, nên chỉ mỉm cười, khe khẽ lắc đầu.

Hoàng Dung hỏi phụ thân:

– Gia gia, gia gia hẹn trước với Quá nhi nấp ở trên đỉnh cột cờ hay sao?

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Đâu có! Một hôm ta đang thưởng nguyệt tại hồ Động Đình, bỗng nghe nửa đêm có người đến thăm Ân Ba điếu tẩu (ông già câu cá), nói có gã Thần điêu hiệp gì đó mời y đến thành Tương Dương phó hội. Ân Ba điếu tẩu võ công không kém, tính nết cổ quái, ta thấy hơi lo lắng, sợ y làm điều gì bất lợi cho con gái ngoan, con rể tốt của ta, nên bí mật bám theo đến đây. Ai dè Thần điêu hiệp lại là tiểu hữu Dương Quá, nếu biết sớm như thế, ta đâu phải tốn công?

Hoàng Dung biết phụ thân tuy vân du khắp nơi trên giang hồ, song vẫn luôn lo cho mình, thì cười, nói:

– Gia gia, lần này gia gia đừng đi đâu nữa, chúng ta đoàn tụ thôi.

Hoàng Dược Sư không đáp, vẫy vẫy tay với Quách Tương, cười nói:

– Hài tử lại đây, để ngoại công ngắm coi nào.

Quách Tương chưa từng gặp ngoại công, vội bước tới thi lễ. Hoàng Dược Sư kéo tay nàng, ngắm kỹ khuôn mặt nhỏ bé của nàng, buồn rầu nói:

– Giống thật, giống thật!

Hoàng Dung biết phụ thân nhớ đến người vợ đã khuất, vừa bảo Quách Tương giống bà ngoại hồi thiếu nữ, sợ phụ thân buồn, nên không tiếp lời. Quách Phù cười, nói:

– Đâu có giống tí nào, ngoại công là Lão Đông Tà, nó là Tiểu Đông Tà…

Quách Tĩnh xẵng giọng:

– Phù nhi, không được vô lễ với ngoại công!

Hoàng Dược Sư cả mừng, nói:

– Tương nhi, ngoại hiệu của Tương nhi là Tiểu Đông Tà ư?

Quách Tương hơi đỏ mặt, nói:

– Ban đầu tỷ tỷ gọi như vậy, sau đó ai cũng gọi theo.

Lúc này bốn đại trưởng lão Cái Bang vây quanh Dương Quá, luôn miệng cảm tạ, đều nói chàng đã lập đại công cho thành Tương Dương, lại đoạt về cây Đả cẩu bổng, vạch trần mưu gian của Hoắc Đô, trả thù cho Lỗ bang chủ; nếu chàng chịu làm bang chủ bổn bang, thật không còn gì bằng.

Lương trưởng lão nói:

– Dương đại hiệp, Lỗ bang chủ của bổn bang không may đã mất…

Dương Quá đoán biết ngay tâm tư của Lương trưởng lão, không đợi lão nói tiếp, đã cướp lời:

– Gia Luật đại gia văn võ song toàn, anh minh nhân nghĩa, là hảo bằng hữu của tại hạ năm xưa, để Gia Luật đại gia làm bang chủ quí bang, nhất định sẽ kế thừa được đại nghiệp của ba vị Hồng, Hoàng, Lỗ bang chủ.

Hoàng Dược Sư hỏi vài câu về võ công của Quách Tương, quay đầu lại định vẫy Dương Quá tới nói chuyện, thấy chàng đã đi ra cổng sân bãi, bèn gọi:

– Dương Quá tiểu hữu, ta cũng đi đây!

Tay áo phe phẩy, thoáng chốc đã đuổi kịp Dương Quá, một già một trẻ nắm tay nhau chìm vào bóng đêm.

Hoàng Dung có một câu rất cần nói với phụ thân, nhưng bên cạnh đông người, chưa tiện nói, ai ngờ phụ thân nói đi là đi liền, bèn kinh ngạc đuổi theo.

Nhưng Hoàng Dược Sư và Dương Quá đi rất nhanh, khi Hoàng Dung đuổi theo, thì đã xa hơn mười trượng.

Hoàng Dung gọi:

– Gia gia, Quá nhi, ở lại chơi vài hôm hẵng đi!

Chỉ nghe tiếng Hoàng Dược Sư văng vẳng từ xa:

– Bọn ta là giống người hoang dã, chỉ sợ bị câu thúc, cứ để bọn ta được tự do tự tại.

Câu cuối cùng nghe đã xa mấy chục trượng. Hoàng Dung thầm kêu khổ, thấy đuổi theo chẳng kịp, đành quay lại. Sân bãi vẫn chiêng trống rầm rĩ vui nhộn.

Bốn vị trưởng lão Cái Bang chụm đầu thương nghị, một là nếu không bị Hoắc Đô gây rối, thì đã lập Gia Luật Tề làm bang chủ, hai là Dương Quá có đại ân với Cái Bang, chàng cũng tiến cử Gia Luật Tề, việc này có thể nói là thuận lý thành chương. Bốn người liền bẩm rõ với Hoàng Dung, rồi lên đài tuyên bố lập Gia Luật Tề làm bang chủ.

Bang chúng theo lệ vốn có, tới nhổ nước bọt vào người Gia Luật Tề. Quần hùng ngoài bang lũ lượt tiến lại chúc mừng.

Quách Tương thấy Dương Quá đến lần này chỉ mỉm cười nói với nàng vài lời đã lập tức chia tay, thì trong lòng buồn bã khó nói, nhìn tỷ tỷ hoan hoan hỉ hỉ đứng bên cạnh tỷ phu đáp lại lời chúc mừng của quần hùng, thì cảm thấy trong lòng hết sức đau khổ, bèn quay mình đi về nhà. Mới đi vài bước, Hoàng Dung đã đuổi theo, cầm tay nàng, dịu dàng nói:

– Tương nhi, sao vậy? Hôm nay không vui ư?

Quách Tương nói:

– Có, hài nhi vui lắm mà.

Nói rồi cúi đầu, nước mắt lưng tròng. Hoàng Dung làm gì chẳng hiểu tâm sự của nữ nhi, chỉ nói đùa vài câu cho nó khỏi buồn.

Hai mẹ con thong thả về phủ. Hoàng Dung theo con về tận buồng, hỏi:

– Tương nhi, con đã mệt hay chưa?

Quách Tương nói:

– Chưa ạ, mẹ, mẹ cả đêm không ngủ, nên đi nghỉ thôi.

Hoàng Dung ngồi xuống bên giường với con, đưa tay vuốt vuốt tóc, nói:

– Tương nhi, chuyện về đại ca Dương Quá, mẹ chưa hề nói với con. Chuyện này khá dài, nếu con chưa mệt, mẹ sẽ kể cho nghe.

Quách Tương lập tức phấn chấn, giục:

– Mẹ, mẹ kể đi.

Hoàng Dung nói:

– Chuyện này phải bắt đầu từ tổ phụ của Dương Quá.

Rồi thuật lại năm xưa Quách Khiếu Thiên và Dương Thiết Tâm kết nghĩa với nhau ở Ngưu Gia thôn phủ Lâm An; Quách, Dương hai nhà hứa hôn từ khi mới mang thai ra sao, sau Dương Khang nhận giặc làm cha, mãi quốc cầu vinh, cuối cùng chết mất xác thế nào; Dương Quá từ nhỏ sống ở đảo Đào Hoa, bị Quách Phù chặt mất cánh tay, rồi cảnh chia li với Tiểu Long Nữ ở Tuyệt Tình cốc ra sao, nhất nhất kể lại hết.

Quách Tương nghe mà kinh tâm động phách, cứ nắm chặt tay mẹ, lòng bàn tay ướt mồ hôi. Nàng đâu ngờ “đại ca ca” mà nàng thầm yêu trộm nhớ, lại có uyên nguyên sâu xa ngần ấy với gia đình nàng; càng không thể ngờ chàng bị cụt tay chính là do tỷ tỷ, mà thê tử Tiểu Long Nữ của chàng sở dĩ bỏ đi cũng chính là do bị trúng độc châm tỷ tỷ phóng nhầm. Nàng vốn nghĩ Dương Quá chỉ là một vị hiệp sĩ giải cấu tương phùng với nàng, vì chàng anh tuấn hào hiệp mới khiến cho nàng tương tư; không ngờ bên trong lại là chuyện ân oán kéo dài đã ba đời. Khi Hoàng Dung kể xong, Quách Tương trong lòng bấn loạn, như si như say.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Ban đầu ta còn tưởng lầm, nghĩ Dương Quá làm quen với con là nuôi ý xấu. Ôi, nói về việc chân thành biết người, thì ta thua hẳn cha con. Dương Quá đại ca của con hôm nay làm ba việc lớn, đừng nói là Dương Quá hoàn toàn không có tà ý, dẫu có chăng nữa, chúng ta cũng phải chịu ơn sâu nặng của Dương Quá.

Quách Tương lấy làm lạ, hỏi:

– Mẹ, Dương đại ca sao lại có tà ý? Tà ý thế nào?

Hoàng Dung nói:

– Ban đầu ta còn tưởng lầm, nghĩ Dương Quá căm hận Quách gia chúng ta, nên lấy thân xác con để trả thù.

Quách Tương lắc đầu, nói:

– Làm gì có chuyện đó? Nếu Dương đại ca muốn giết hài nhi cho hả giận, thì việc đó dễ như trở bàn tay; ở gần bến Phong Lăng, Dương đại ca chỉ cần búng ngón tay một cái là hài nhi chết liền, đâu phải tốn công nhọc sức?

Hoàng Dung nói:

– Con là tiểu hài tử, chưa hiểu đâu. Nếu Dương Quá muốn làm khổ con, muốn làm cho gia đình ta đau khổ thì sẽ có cách độc ác gấp mười lần việc giết con. Ôi, việc đó không nói nữa. Bây giờ ta cũng đã biết Dương Quá sẽ không làm thế. Nhưng ta vẫn còn lo một việc, trong lòng thấp thỏm không yên.

Quách Tương hỏi:

– Mẹ, mẹ lo chuyện gì vậy? Hài nhi thấy Dương đại ca không còn để bụng chuyện cũ nữa đâu. Dương đại ca cũng sắp được đoàn tụ với Dương đại tẩu, bấy giờ trong lòng sung sướng, sẽ quên hết chuyện cũ.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Ta thấp thỏm không yên chính là lo Dương Quá không gặp được Tiểu Long Nữ nữa.

Quách Tương giật mình, nói:

– Sao lại thế? Dương đại ca chính miệng bảo con rằng Dương đại tẩu bị trọng thương, được Nam Hải thần ni chữa trị, hẹn sẽ tái hợp sau mười sáu năm. Hai vợ chồng Dương đại ca tình thâm ái trọng, chờ nhau lâu chừng ấy, sao lại không tái hợp?

Hoàng Dung cau mày, ậm ừ. Quách Tương lại nói:

– Dương đại ca kể, Dương đại tẩu dùng kiếm khắc trên sườn Đoạn Trường nhai dòng chữ “Mười sáu năm sau tái hợp ở đây, phu thê thâm tình, xin đừng lỡ hẹn”. Nào là “vô cùng trân trọng, mong ngày đoàn tụ” chẳng lẽ dòng chữ ấy là giả hay sao?

Hoàng Dung nói:

– Dòng chữ ấy hoàn toàn là thật, không giả chút nào, nhưng ta chỉ lo Tiểu Long Nữ tương ái Dương Quá quá sâu, nên Dương Quá cuối cùng lại không gặp được nàng ta.

Quách Tương không rõ ngụ ý của mẫu thân, ngơ ngác nhìn mẹ, Hoàng Dung nói:

– Mười sáu năm trước, hai vợ chồng Dương đại ca của con đều bị trọng thương, Dương đại ca của con còn có thể chữa trị, Tiểu Long Nữ thì độc nhập cao hoang. Dương đại ca của con thấy ái thê không khỏi thì cũng không thiết sống nữa, dù có tiên đan diệu dược, Dương Quá cũng không chịu uống.

Hoàng Dung nói đến đây, giọng càng thêm nhu hòa:

– Ôi, có những việc con còn nhỏ, chưa thể hiểu được.

Quách Tương ngơ ngác xuất thần, lát sau ngẩng đầu nói:

– Mẹ, nếu hài nhi là Dương đại tẩu, hài nhi sẽ giả bộ khỏe lại, để cho chàng uống thuốc chữa bệnh.

Hoàng Dung ngẩn ra, không ngờ nữ nhi tuy còn ít tuổi, đã có ý nghĩ quên mình vì người khác như thế, nói:

– Đúng, ta chỉ lo hồi ấy Tiểu Long Nữ cũng vì nghĩ thế, mới bỏ Dương Quá mà đi. Nàng ta khắc chữ dặn lại, rằng “phu thê thâm tình, xin đừng lỡ hẹn”. Hồi ấy nhìn dòng chữ, ta đoán Tiểu Long Nữ tự dưng bỏ đi, là vì muốn Dương đại ca của con yên tâm chờ nàng ta mười sáu năm. Ôi, Tiểu Long Nữ tưởng rằng sau mười sáu năm trời đằng đẵng, tình cũ của Dương Quá có sâu đậm đến đâu cũng sẽ phai nhạt; dẫu có buồn một chút, cũng sẽ thương thân mà không tìm cách tự tận nữa.

Quách Tương nói:

– Thế còn Nam Hải thần ni?

Hoàng Dung nói:

– Chuyện Nam Hải thần ni là do ta bịa ra. Trên thế gian không hề có nhân vật đó.

Quách Tương cả kinh, run giọng, nói:

– Không… không hề có Nam Hải thần ni ư?

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Hôm ấy bên Đoạn Trường nhai ở Tuyệt Tình cốc ta thấy Dương Quá quá đau khổ, ta không nỡ, đành bịa ra chuyện Nam Hải thần ni để an ủi, giúp Dương Quá yên tâm chờ đợi mười sáu năm ấy. Ta bảo Nam Hải thần ni ở trên đảo Đại Trí, thực ra không hề có hòn đảo ấy. Ta bảo Nam Hải thần ni dạy chưởng pháp cho ngoại công của con, khiến Dương Quá càng tin thêm. Dương đại ca của con thông minh tuyệt đỉnh, nếu ta không bịa như thật, làm sao y chịu tin? Nếu y không tin, chẳng hóa ra một phen khổ tâm lo liệu của Tiểu Long Nữ uổng phí hay sao?

Quách Tương nói:

– Mẹ nghĩ Dương đại tẩu đã chết rồi ư? Lời hẹn mười sáu năm chỉ để đánh lừa Dương đại ca thôi ư?

Hoàng Dung vội nói:

– Không, không! Không chừng Tiểu Long Nữ vẫn còn sống; đến kỳ hẹn, nếu nàng đến gặp Dương Quá, thì tạ trời tạ đất. Tiểu Long Nữ là truyền nhân duy nhất của phái Cổ Mộ, tổ sư sáng phái phái Cổ Mộ là Lâm Triêu Anh học vấn uyên bác, nội công ngoại công đều đạt cảnh giới xuất thần nhập hóa, nếu có truyền lại công phu thần kỳ giúp cho Tiểu Long Nữ không bị chết, thì cũng là chuyện hợp lý.

Quách Tương bớt lo, nói:

– Đúng thế! Hài nhi cũng nghĩ thế, Dương đại tẩu là người quá tốt, Dương đại ca tương ái như vậy, nàng sẽ không chết đâu. Nếu đến kỳ hẹn mà Dương đại ca không gặp được Dương đại tẩu, liệu chàng có phát điên hay không?

Hoàng Dung nói:

– Hôm nay ngoại công của con đến, ta muốn nhờ ngoại công của con hoàn tất trọn vẹn câu chuyện hoang đường về Nam Hải thần ni giúp ta. Nhưng chưa kịp nói.

Quách Tương cũng lo lắng, nói:

– Hiện thời Dương đại ca chính đang đi cùng ngoại công của hài nhi, nhất định chàng sẽ hỏi về Nam Hải thần ni. Ngoại công không rõ tiền nhân hậu quả, chuyện sẽ vỡ lở, thì làm thế nào?

Hoàng Dung nói:

– Nếu Tiểu Long Nữ có thể đoàn tụ với Dương Quá, thì đó là điều đại cát, mọi việc đều tốt đẹp. Còn đến kỳ hẹn mà Dương Quá không thấy Tiểu Long Nữ, thì y sẽ phát cuồng, không biết sẽ đại náo ra sao đây? Dương Quá căm hận ta nói dối đánh lừa y, khiến y đợi chờ khổ sở suốt mười sáu năm trời.

Quách Tương nói:

– Mẹ đừng lo. Mẹ chỉ muốn tốt cho Dương đại ca. Mẹ có hảo tâm, đã cứu sống chàng.

Hoàng Dung nói:

– Không kể Quách Dương hai nhà ba đời tương giao, chỉ riêng Dương Quá đã mấy phen cứu sống cha con, mẹ con, chị con và con, hôm nay lại lập đại công với thành Tương Dương, tuy nói chúng ta có chút ân huệ với y, nhưng cũng chẳng thấm thía, không bằng một phần vạn công ơn của y đối với Quách gia ta. Quá nhi một đời cô khổ, ba mươi mấy tuổi đầu vẫn chẳng được hưởng vài ngày vui.

Quách Tương rầu rĩ cúi đầu, nghĩ: “Đại ca ca nếu không gặp lại Dương đại tẩu, chỉ sợ chàng sẽ phát điên thật mất”. Hoàng Dung lại nói:

– Dương đại ca của con là một người chí tính chí tình, chỉ vì từ nhỏ gặp nhiều bất hạnh, nên tính nết không tránh khỏi cô độc, hành sự thường thường ngoài dự liệu.

Quách Tương gượng cười, nói:

– Dương đại ca cũng như ngoại công và hài nhi, đều là tà phái.

Hoàng Dung nghiêm nghị nói:

– Đúng, Dương Quá là người tốt, nhưng có điểm tà khí. Nếu Tiểu Long Nữ không may đã qua đời, thì dù thế nào con cũng chớ có gặp lại y.

Quách Tương không ngờ mẫu thân cuối cùng lại dặn như thế, vội hỏi:

– Vì sao? Vì sao không nên gặp lại Dương đại ca?

Hoàng Dung nắm tay nàng, nói:

– Nếu Dương Quá cuối cùng đoàn tụ được với Tiểu Long Nữ, con muốn theo họ đi du ngoạn chân trời góc biển thì cứ đi, thích đến chơi ở nhà vợ chồng Dương đại ca thì cứ việc, ta không e ngại gì cả. Nhưng nếu y không gặp lại được Tiểu Long Nữ, thì Tương nhi, con chưa biết Dương đại ca của con là người thế nào đâu, y mà nổi điên lên thì việc gì cũng dám làm đó.

Quách Tương run run nói:

– Mẹ, nếu Dương đại ca không gặp được Dương đại tẩu, sẽ hết sức đau khổ, chúng ta phải cố mà khuyên chàng mới được.

Hoàng Dung chậm rãi lắc đầu, nói:

– Y không nghe lời khuyên đâu.

Quách Tương hỏi:

– Mẹ, nếu không gặp, liệu Dương đại ca đau khổ quá, có định tự tận nữa hay chăng?

Hoàng Dung ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Tâm tư của nhiều người, ta đều đoán trúng, riêng Dương đại ca của con thì từ khi y còn nhỏ, ta đã không đoán được, nên ta không cho phép con gặp lại y. Trừ phi y cùng đến với Tiểu Long Nữ, thì lại là chuyện khác.

Quách Tương ngẩn ngơ xuất thần, không nói gì.

Hoàng Dung nói tiếp:

– Tương nhi, ta chỉ mong tốt đẹp cho con, nếu con không vâng lời ta, sau này có hối cũng không kịp đó.

Thấy nữ nhi hơi cau mày, nước mắt lưng tròng, bèn dịu dàng nói:

– Tương nhi, để ta kể thêm chuyện này cho con nghe, chuyện về phụ thân Dương Khang của Dương đại ca con.

Liền thuật chuyện Dương Thiết Tâm nhận Mục Niệm Từ làm nghĩa nữ, bày cuộc tỷ võ kén chồng nên gặp Dương Khang, rồi Dương Khang tác ác đa đoan, Mục Niệm Từ vẫn thủy chung nặng tình với Dương Khang, sau khi sinh hạ Dương Quá, đã chết trong đau khổ thế nào. Cuối cùng nói:

– Mục Niệm Từ tỷ tỷ phẩm mạo song toàn, đúng là một hảo nữ nhân hiếm có, chỉ vì dành chân tình không đúng chỗ mà lâm vào tình cảnh như thế.

Quách Tương nói:

– Mẹ, Mục Niệm Từ a di không có cách nào khác. Mục Niệm Từ a di đã thích Dương thúc thúc, thì dù Dương thúc thúc có muôn lần sai, Mục Niệm Từ a di cũng cứ thích đến cùng.

Hoàng Dung chăm chú nhìn mặt nữ nhi, nghĩ: “Nó còn nhỏ, sao đã hiểu nhiều đến thế?” Thấy con mệt mỏi, hai mắt díp lại, bèn giúp con cởi áo ngoài, tụt hài vớ, kéo chăn đắp, nói:

– Nhắm mắt vào nào, mẹ chờ con ngủ rồi sẽ đi ra.

Quách Tương vâng lời, nhắm mắt, lát sau nghe hơi thở đều đều, đã đi vào giấc ngủ.

Hoàng Dung nhìn khuôn mặt nhỏ xinh xắn của nữ nhi, nghĩ: “Trong ba đứa con, mẹ lo cho con nhiều nhất. Trong ba chị em con, mẹ yêu đứa nào nhất, thật là khó nói”. Đoạn đi về phòng ngủ mình.

Đêm khuya thì huynh đệ họ Võ phi ngựa về bẩm báo, nói rằng kho lương thảo của đại quân Mông Cổ ở Nam Dương quả nhiên đã bị đốt sạch; kho hoả dược cháy nổ, giết chết không ít binh sĩ Mông Cổ, lửa cháy vẫn chưa tắt hẳn, tiền quân Mông Cổ thoái binh trăm dặm, hiện đang án binh bất động. Thành Tương Dương được tin này vô cùng vui mừng, bốn chữ “Thần điêu đại hiệp” không ngớt vang lên ở cửa miệng mọi người. Có người thêm mắm thêm muối, kể rằng Dương Quá ba đầu sáu tay, đã đánh tan hai cánh quân địch ở Tân Dã và Đặng Châu như thế nào, đốt kho lương thảo Nam Dương ra sao một cách vô cùng sinh động, tựa hồ chính mình chứng kiến không bằng.

Đêm ấy vợ chồng Quách Tĩnh được An phủ sứ Lã Văn Đức mời đến thương nghị quân tình, quá nửa đêm mới về. Sáng sớm hôm sau, Gia Luật Tề, Quách Phù, Quách Phá Lỗ như thường lệ tới hậu đường vấn an phụ mẫu, đợi hồi lâu không thấy Quách Tương đến. Hoàng Dung lo ngại, sai a hoàn tới phòng nhị tiểu thư xem sao. Lát sau a hoàn trở lại cùng với “Tiểu bổng đầu” của Quách Tương, bẩm rằng “Nhị tiểu thư đêm qua không ngủ ở trong buồng”.

Hoàng Dung kinh ngạc, vội hỏi:

– Tại sao đêm qua ngươi không tới bẩm báo?

“Tiểu bổng đầu” nói:

– Đêm qua phu nhân về quá khuya, tì nữ không dám đến bẩm báo, ngỡ nhị tiểu thư chẳng mấy chốc sẽ về buồng, ai dè đợi đến giờ vẫn chưa về.

Hoàng Dung ngẫm nghĩ, rồi đến buồng của nữ nhi quan sát, thấy quần áo và binh khí, tiền bạc Quách Tương đều không mang theo, đang lấy làm lạ, bỗng nhìn thấy dưới gối có chìa ra một mẩu giấy trắng. Hoàng Dung đoán có chuyện bất ổn, thầm kêu khổ cầm lên, mở ra xem, trong đó viết:

Gia gia má má tôn giám: nữ nhi đi khuyên Dương đại ca dù gì cũng không nên tự vẫn, khuyên được rồi, nữ nhi sẽ về ngay. Nữ Tương khấu thượng.

Hoàng Dung ngây người, không nói nên lời, nghĩ: “Con bé thật quá ngây thơ! Dương Quá là người thế nào kia chứ, ngoài Tiểu Long Nữ ra, hắn đâu chịu nghe lời khuyên của ai? Nếu đã chịu nghe lời khuyên, hắn đã không phải là Dương Quá”. Cũng định đi tìm Quách Tương, nhưng hai đạo quân nam bắc của Mông Cổ đang nhắm tấn công thành Tương Dương bất cứ lúc nào, hiện thời làm sao có thể dấn thân vào giang hồ lo chuyện riêng của nữ nhi? Sau khi bàn với Quách Tĩnh, liền viết thư khẩn thiết thông báo các nơi, sai tám đệ tử Cái Bang đắc lực mang đi bốn phía tìm kiếm Quách Tương, lệnh cho nàng phải về nhà ngay.

Hôm ấy sau khi nghe mẫu thân thuật chuyện cũ, Quách Tương tuy ngủ thiếp đi, nhưng liên tiếp thấy ác mộng, lúc thấy Dương Quá vung kiếm tự sát, lúc thấy chàng bị cụt nốt cánh tay còn lại, lúc lại thấy chàng nhảy từ trên sườn núi cao muôn trượng xuống vực, máu thịt be bét. Tỉnh giấc, mồ hôi lạnh vã ra đầy mình, nàng ngồi dậy, nghĩ: “Dương đại ca đưa cho mình ba cái kim châm, đáp ứng ba điều ước. Hiện thời còn một cái kim châm, ta muốn khuyên Dương đại ca dù gì cũng không nên tự vẫn. Chàng là người hào hiệp, đã nói tất giữ lời. Ta phải đi tìm chàng thôi”. Thế là nàng viết vài chữ để lại, rồi đi ra khỏi thành.

Nhưng Dương Quá và Hoàng Dược Sư dắt nhau đi đâu, thật không có manh mối gì. Quách Tương đi đã hơn ba chục dặm, bụng đói ngấu, muốn tìm một phạn điếm ăn lót dạ, nhưng trăm họ bên ngoài thành Tương Dương sợ quân địch đến, đã bỏ chạy hết cả, đừng nói phạn điếm, một ngôi nhà thông thường cùng chẳng còn ai ở lại. Quách Tương chưa từng một mình xa nhà, không ngờ ra đường lại khó khăn thế này, bèn ngồi xuống một tảng đá bên đường mà nghỉ, hai tay chống cằm.

Ngồi một lát, nàng nghĩ: “Không có phạn điếm, thì tìm vài thứ quả dại ăn cho đỡ đói”. Đưa mắt nhìn bốn phía, trong vòng vài dặm chẳng thấy có lấy một cây ăn trái. Đang chưa biết làm gì, bỗng nghe có tiếng vó ngựa, một con ngựa chạy từ phía đông sang phía tây, ngồi trên lưng ngựa là một lão tăng nhân cực cao cực gầy, thân mặc hoàng bào. Con ngựa phi nhanh, thoáng chốc đã vọt qua. Qua được mấy trượng, lão tăng bỗng quay đầu ngựa, trở lại trước mặt Quách Tương, hỏi:

– Tiểu cô nương là ai? Tại sao lại tha thẩn một mình ở đây?

Quách Tương thấy lão tăng mục quang như tia chớp thì giật mình, chợt nhớ đến Nhất Đăng đại sư mà nàng đã gặp tại đầm Hắc Long, nàng nghĩ: “Nhất Đăng đại sư hiền từ vô cùng, lão tăng này hẳn cũng là người tốt”. Bèn đáp:

– Tiểu nữ họ Quách, cần đi tìm một người.

Lão tăng hỏi:

– Cô nương tìm ai?

Quách Tương hơi nghiêng đầu mỉm cười, nói:

– Lão hòa thượng lo chuyện bao đồng, tiểu nữ không nói đâu.

Lão tăng nói:

– Người mà cô nương cần tìm hình dạng thế nào, không chừng lão phu đã gặp, có thể chỉ đường cho.

Quách Tương nghĩ đúng vậy, bèn nói:

– Tiểu nữ cần tìm một người rất dễ nhận dạng, ấy là một thanh niên cụt tay phải. Người đó hoặc đi cùng với một con chim điêu, hoặc đi một mình.

Lão tăng chính là Kim Luân pháp vương, nghe nàng nói đến người cần tìm chính là Dương Quá thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nói:

– Ồ, cô nương muốn tìm một người họ Dương tên Quá chứ gì?

Quách Tương cả mừng, nói:

– Vâng, lão hòa thượng quen biết chàng ư?

Pháp vương cười, nói:

– Sao bần tăng lại không biết? Dương Quá là tiểu bằng hữu của bần tăng. Bần tăng quen biết Dương Quá từ khi cô nương chưa ra đời kia.

Quách Tương hơi đỏ mặt, cười, hỏi:

– Đại hòa thượng, pháp danh của lão là gì?

Pháp vương nói:

– Bần tăng là Chô mô lung ma.

Chô mô lung ma là tên một đỉnh núi cao ở Tây Tạng, đỉnh núi này cao nhất thiên hạ, Pháp vương tiện miệng nói ra, ngụ ý lão có võ công cao siêu, không ai bằng.

Quách Tương cười, nói:

– Cái gì Chân mi mi xoa, pháp danh sao dài thế?

Pháp vương nói:

– Là Chô mô lung ma.

Quách Tương nói:

– Vâng, là Chô mô lung ma đại sư, đại sư có biết đại ca ca của tiểu nữ ở đâu hay không?

Pháp vương hỏi:

– Đại ca ca của cô nương ư?

Quách Tương nói:

– Là Dương Quá ấy.

Pháp vương nói:

– À, cô nương gọi Dương Quá là đại ca ca, cô nương bảo cô nương họ Quách thì phải?

Quách Tương lại hơi đỏ mặt, nói:

– Chúng tôi là chỗ thế giao, Dương đại ca hồi nhỏ sống ở gia đình tiểu nữ.

Pháp vương chợt nảy ra một ý, nói:

– Bần tăng có một người quen bên ngoại rất thân thiết. Người ấy võ nghệ cao cường, lừng danh thiên hạ, cũng họ Quách, đơn danh một chữ Tĩnh, không hiểu cô nương có biết người ấy hay không?

Quách Tương chột dạ, nghĩ: “Mình trốn nhà đi, lão ta đã là bằng hữu của gia gia, không khéo lại định bắt mình về nhà, vậy nói không là hơn”. Bèn nói:

– Đại sư nói Quách đại hiệp ấy à? Vị ấy là trưởng bối trong gia tộc tiểu nữ. Đại sư đến thăm Quách đại hiệp đấy à?

Pháp vương khôn ngoan lão luyện, thần sắc của Quách Tương chỉ hơi khác, lão đã nhận biết ngay.

Liền thở dài, nói:

– Bần tăng với Quách đại hiệp hơn hai chục năm nay chưa gặp lại, mấy hôm trước ở phương bắc nghe tin dữ, bảo Quách đại hiệp đã từ trần, bần tăng lòng đau như cắt, vội gấp rút đi cho kịp đến trước linh tiền bái biệt Quách đại hiệp. Ôi, đại anh hùng không may chết sớm, đúng là trời không có mắt!

Nói đến đây, hai hàng lệ chảy ròng ròng. Lão nội công thâm hậu, có thể điều khiển cơ nhục toàn thân theo ý muốn, nhỏ vài giọt nước mắt, đâu có gì khó.

Quách Tương thấy lão khóc lóc bi thiết, tuy thừa biết phụ thân không sao cả, nhưng cũng se lòng, nói:

– Đại sư khỏi cần bi thương, Quách đại hiệp chưa chết đâu.

Pháp vương lắc đầu, nói:

– Cô nương đừng nói dối, tiểu hài nhi làm sao biết chuyện người lớn kia chứ?

Quách Tương nói:

– Tiểu nữ vừa mới từ trong thành Tương Dương ra đây sao lại không biết? Vừa tối hôm qua tiểu nữ còn gặp Quách đại hiệp.

Pháp vương không còn nghi ngờ gì nữa, ngửa mặt cười to nói:

– Phải rồi, cô nương là tiểu thư của Quách đại hiệp.

Đột nhiên lão lại lắc đầu, nói:

– Không, không đúng. Tiểu thư của Quách đại hiệp là Quách Phù, bần tăng cũng quen. Quách Phù năm nay phải đến ba mươi lăm tuổi, đâu có bé như cô nương?

Quách Tương không nhịn được câu nói khích ấy, nói:

– Đấy là đại tỷ tỷ của tiểu nữ, tên là Quách Phù, còn tiểu nữ là Quách Tương.

Pháp vương cả mừng, nghĩ: “Hôm nay đúng là đại may mắn, món quà tự dâng đến tận tay”. Lão nói:

– Như vậy Quách đại hiệp quả thật chưa chết.

Quách Tương thấy lão tỏ vẻ vui mừng, lại tưởng lão ta mừng rỡ vì phụ thân nàng còn sống, nghĩ con người này thật tử tế, nên nói:

– Dĩ nhiên là chưa chết! Gia gia của tiểu nữ mà chết, thì tiểu nữ đã khóc sưng mắt lên rồi.

Pháp vương vui vẻ nói:

– Hay, hay lắm, bần tăng tin cô nương. Quách nhị cô nương, vậy thì bần tăng không đến thành Tương Dương nữa. Phiền cô nương thưa lại với lệnh tôn Quách đại hiệp và lệnh đường Hoàng bang chủ, rằng có người quen cũ là Chô mô lung ma gửi lời kính thăm.

Lão đoán chắc Quách Tương nhất định sẽ hỏi lão về Dương Quá, bèn dùng lối thoái để tiến, chắp hai tay chào, rồi định nhảy lên ngựa.

Quách Tương nói:

– Ồ lão hòa thượng, sao hòa thượng lại là người không biết điều như thế?

Pháp vương hỏi:

– Sao bần tăng lại là người không biết điều?

Quách Tương nói:

– Tiểu nữ nói cho hòa thượng biết tin của phụ thân, hòa thượng lại chẳng cho tiểu nữ biết tin tức gì của Dương đại ca, đã bỏ đi đâu vậy?

Pháp vương nói:

– Ồ, hôm qua tại một sơn cốc phía bắc Nam Dương, bần tăng có trò chuyện nửa ngày với tiểu hữu Dương Quá; chàng ta chín phần mười là đang luyện kiếm ở đó cô nương cứ đến đấy mà tìm.

Quách Tương hơi cau mày, nói:

– Ở đấy có nhiều sơn cốc, biết tìm đâu được, xin hòa thượng nói rõ hơn một chút.

Pháp vương ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Thôi được, bần tăng vốn cũng đi lên mạn bắc, để bần tăng dẫn cô nương đi vậy.

Quách Tương cả mừng, nói:

– Đa tạ hòa thượng.

Pháp vương dắt ngựa lại, nói:

– Tiểu cô nương hãy cưỡi ngựa, bần tăng đi bộ cho!

Quách Tương nói:

– Như thế sao tiện?

Pháp vương cười, nói:

– Con ngựa bốn chân này vị tất đã chạy nhanh bằng cặp giò của bần tăng.

Quách Tương đã định nhảy lên yên, bỗng nói:

– Ôi, đại hòa thượng, tiểu nữ đói bụng quá, đại hòa thượng có gì ăn tạm không?

Pháp vương lấy ra bao lương khô, Quách Tương ăn vài miếng rồi lên ngựa.

Pháp vương đi bên cạnh ngựa. Quách Tương chợt nhớ câu Pháp vương vừa nói “Con ngựa bốn chân này vị tất đã chạy nhanh bằng cặp giò của bần tăng”, bèn nói:

– Đại hòa thượng, tiểu nữ chờ hòa thượng ở đằng trước.

Lời chưa dứt, nàng đã phi ngựa đi.

Con ngựa này chạy rất khỏe. Quách Tương chỉ cảm thấy gió ù ù bên tai, cây cối vùn vụt lùi về phía sau, thoáng chốc đã vượt hơn một dặm. Nàng ngoảnh lại phía sau, cười gọi:

– Đại hòa thượng, có theo kịp hay không?

Nàng kinh ngạc không thấy Pháp vương ở sau lưng. Đột nhiên lại nghe tiếng lão ta từ bụi cây trước mặt vọng tới:

– Quách cô nương, con ngựa của bần tăng chạy chậm, cô nương hãy quất cho nó vài roi!

Quách Tương lấy làm lạ: “Tại sao lão hòa thượng lại ở phía trước?” Nàng phi ngựa lên, thấy Pháp vương rảo bước đằng trước mươi trượng, nàng vút roi, con ngựa phóng nhanh hơn, nhưng thủy chung lão ta vẫn ở đằng trước. Lúc này hai người đã đi trên con đường lớn phía bắc thành Tương Dương, trước mặt là bình dã, vó ngựa tung bụi màu hoàng thổ, còn khi nhìn Kim Luân pháp vương, thì trông lão cứ như cưỡi gió mà lướt đi. Quách Tương thán phục, nghĩ: “Lão hòa thượng không có võ công cao siêu như thế, đã chẳng kết giao với gia gia”. Liền gọi:

– Đại hòa thượng, hòa thượng là bề trên, hãy cưỡi ngựa đi, để tiểu nữ chạy theo cho.

Pháp vương ngoảnh lại, cười, nói:

– Chúng ta hà tất lãng phí thời gian đi đường? Sớm tìm được đại ca ca của cô nương có hơn không?

Lúc này con ngựa đã không thể phi nhanh bằng lúc trước, nên càng cách xa Pháp vương hơn.

Bỗng có tiếng vó ngựa từ mạn bắc, rồi có hai người phóng ngựa ngược chiều. Pháp vương nói:

– Chúng ta hãy cướp hai con ngựa kia, như thế sẽ đi nhanh hơn.

Thoáng chốc hai con ngựa kia đã chạy tới, Pháp vương dang hai tay, nói:

– Xuống ngựa mà đi!

Hai con ngựa sợ hãi, cùng cất tiếng hí dài, nhảy dựng hai vó trước. Hai người cưỡi ngựa rất thạo, vẫn bám chắc trên lưng ngựa, một người quát:

– Làm gì vậy, muốn chết hả?

Nói đoạn vụt roi ngựa xuống. Quách Tương kêu lên:

– Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ, đừng động thủ, là người mình đó!

Hai người cưỡi ngựa chính là Trường Tu Quỉ và Đại Đầu Quỉ trong Tây Sơn Nhất Khuất Quỉ.

Lúc này Kim Luân pháp vương tay trái đã chộp được cái roi ngựa của Đại Đầu Quỉ, không ngờ Đại Đầu Quỉ tuy lùn nhưng có thần lực, cái roi ngựa làm bằng da bò rất dai, lực giật roi của Pháp vương phải mạnh vài trăm cân, cái roi ngựa vẫn không đứt, cũng không bị tuột khỏi tay Đại Đầu Quỉ. Pháp vương nói:

– Hảo tiểu tử!

Rồi tăng lực giật mạnh, huỵch một cái, kéo luôn Đại Đầu Quỉ ngã ngựa.

Đại Đầu Quỉ cả giận, buông roi, định nhảy xuống liều chết với Pháp vương. Trường Tu Quỉ nói:

– Tam đệ hãy khoan! Quách nhị tiểu thư, tại sao tiểu thư lại đi cùng Kim Luân pháp vương?

Năm xưa, khi Kim Luân pháp vương cùng Dương Quá đến Tuyệt Tình cốc, Trường Tu Quỉ Phàn Nhất Ông đã gặp nên nhớ mặt lão ta.

Quách Tương cười, nói:

– Đại thúc nhận lầm người rồi, đây là Chô mô lung ma đại sư, là hảo bằng hữu của gia gia tiểu nữ. Kim Luân pháp vương là kẻ đối đầu với gia gia, không phải người này đâu.

Trường Tu Quỉ hỏi:

– Tiểu thư gặp lão hòa thượng này ở đâu?

Quách Tương nói:

– Tiểu nữ vừa mới gặp, vị hòa thượng này bảo gia gia tiểu nữ chết rồi, thế có tức cười không chứ? Chô mô lung ma đại sư muốn dẫn tiểu nữ đi gặp đại ca ca.

Đại Đầu Quỉ nói:

– Nhị tiểu thư mau lại đây, lão hòa thượng này không phải là người tử tế đâu.

Quách Tương bán tín bán nghi, nói:

– Lão ta đánh lừa tiểu nữ ư?

Đại Đầu Quỉ nói:

– Thần điêu đại hiệp đi xuống phía nam, sao lão ta lại dẫn tiểu thư lên phía bắc?

Kim Luân pháp vương cười cười, nói:

– Hai tên lùn này hồ thuyết bất đạo.

Rồi lão ta vọt ngay tới bên cạnh nhị Quỉ, song chưởng cùng vỗ xuống đỉnh đầu họ.

Hơn mười năm nay, Kim Luân pháp vương ở Mông Cổ khổ luyện “Long tượng bát nhã công”, là môn thần công hộ pháp tối cao trong Mật tông. “Long tượng bát nhã công” gồm có mười ba tầng. Tầng thứ nhất dễ hơn cả, dù là người ngu dốt, chỉ cần một, hai năm cũng luyện thành. Tầng thứ hai khó gấp đôi tầng thứ nhất, tốn ba, bốn năm luyện tập. Tầng thứ ba khó gấp đôi tầng thứ hai, tốn bảy, tám năm. Cứ thế càng về sau càng khó hơn, thường thường tốn ba chục năm khổ luyện. Mười ba tầng “Long tượng bát nhã công” chưa có ai luyện được đến tầng thứ mười. Môn công phu này tuần tự tiệm tiến, về lý vốn ai cũng có thể luyện xong. Nếu có người thọ vài trăm tuổi, thể nào cuối cùng cũng luyện thành. Có điều là tuổi thọ của người ta hữu hạn, các vị cao tăng trong Mật tông đến lúc sắp chết luyện được đến tầng thứ bảy, thứ tám thường nôn nóng, sa vào tình cảnh dục tốc bất đạt rất nguy hiểm. Thời Bắc Tống, ở Tây Tạng từng có một vị cao tăng luyện được đến tầng thứ chín, tiếp tục dũng mãnh tinh tiến, nhưng luyện đến tầng thứ mười thì tâm ma đột khởi, không chế ngự được, cuối cùng nhảy múa như điên bảy ngày bảy đêm, tự đứt kinh mạch mà chết.

Kim Luân pháp vương đúng là một bậc kỳ tài hiếm thấy nhiều đời. Lão khổ luyện, tiến cảnh cực nhanh, cuối cùng vượt qua được tầng thứ chín cam go, hiện đã đạt đến tầng thứ mười, thật là cổ kim chưa từng có, tuy không thể bảo sau không ai bằng, nhưng đúng là trước chưa có ai. Nghe nói mỗi đòn “Long tượng bát nhã công” đánh ra bằng đại lực của mười con voi mười con rồng. Pháp vương tự biết còn đủ thời gian luyện đến tầng thứ mười một, song hiện thời lão đã vô địch thiên hạ. Năm xưa lão bại dưới kiếm của Dương Quá và Tiểu Long Nữ, là bình sinh kỳ sỉ đại nhục; nay công lực của lão đã tăng tiến gấp bội, nhân dịp hoàng đế Mông Cổ ngự giá thân chinh, lão cũng đi theo, muốn dùng song chưởng đánh bại vợ chồng Dương, Long để rửa mối nhục năm nào.

Lúc này Pháp vương song chưởng cùng đánh ra. Đại Đầu Quỉ giơ tay đỡ, rắc một cái, cánh tay gãy liền, trán bị trúng chưởng, không kịp kêu một tiếng, lập tức bỏ mạng. Trường Tu Quỷ công lực thâm hậu hơn nhiều, thấy đòn của đối phương quá lợi hại, liền sử chiêu “Thác thiên thế”, đưa hai tay lên đỡ, cảm thấy một sức nặng ngàn cân đè xuống, hai mắt tối sầm, ngã sấp xuống.

Quách Tương cả kinh, kêu to:

– Hai người này là bằng hữu của tiểu nữ, sao lão lại đả thương họ như vậy?

Trường Tu Quỷ nhổ ra một ngụm máu tươi, chồm dậy, ôm chặt lấy hai chân Pháp vương, miệng kêu:

– Cô nương mau chạy đi!

Pháp vương tay trái chộp lưng Trường Tu Quỷ, định nhấc lên ném đi, nhưng Trường Tu Quỷ quyết bảo vệ Quách Tương, hai tay cứ như hai cái vòng sắt ghì chặt hai chân Pháp vương. Pháp vương tuy khỏe nhưng vẫn không bứt ra được. Quách Tương vừa kinh sợ vừa tức giận, lúc này đã biết Pháp vương là kẻ xấu, nhưng nàng không muốn Trường Tu Quỷ phải chết còn mình thì bỏ chạy, bèn nói:

– Ác hòa thượng, sao lão tàn bạo thế? Mau buông Trường Tu Quỷ ra, tiểu nữ đi theo lão là được chứ gì?

Trường Tu Quỷ kêu lên:

– Cô nương mau chạy đi, mặc lão phu…

Hai chữ “lão phu” vừa nói khỏi miệng liền tắt thở.

Pháp vương nhấc cái xác Trường Tu Quỷ ném sang một bên, cười nham nhở nói:

– Cô nương muốn bỏ chạy, sao không nhảy lên ngựa?

Quách Tương bình sinh chưa từng căm hận bất cứ ai, hôm Lỗ Hữu Cước bị giết, nàng không nhìn thấy Hoắc Đô hạ độc thủ; tuy đau khổ, song cũng không căm hận kẻ thù; vừa rồi thấy Pháp vương tàn bạo như thế, nàng rất căm hận, trừng mắt nhìn lão ta, không hề run sợ chút nào. Pháp vương nói:

– Tiểu cô nương, sao cô nương không sợ ta?

Quách Tương nói:

– Bổn cô nương cần gì phải sợ lão? Lão muốn giết bổn cô nương thì cứ việc ra tay!

Pháp vương giơ ngón tay cái, khen:

– Hảo, tướng môn hổ nữ, không thẹn làm cha.

Quách Tương căm tức nhìn Pháp vương, muốn chôn cất hai vị bằng hữu, song trong tay không có cuốc xẻng, nghĩ một lát, rồi đặt xác hai người vắt ngang lưng ngựa của họ, buộc vào bàn đạp, rồi vỗ vào mông ngựa, nói:

– Mã nhi, mã nhi, hãy đưa chủ nhân của ngươi về nhà đi.

Hai con ngựa phóng đi.

Đêm hôm ấy Dương Quá và Hoàng Dược Sư sánh vai nhau rời khỏi thành Tương Dương, thi triển khinh công lướt nhanh xuống phía nam, vượt mấy chục dặm, cuối giờ Mão đầu giờ Thìn đã tới Nghi Thành. Hai người ghé vào một tửu lâu dùng bữa. Hoàng Dược Sư kể rằng tỷ muội Trình Anh, Lục Vô Song mười mấy năm nay ẩn cư ở vùng quê Gia Hưng, làm bạn với Ngốc cô. Hoàng Dược Sư từng có ý định mang theo hai nàng hành tẩu giang hồ cho họ khuây khỏa, nhưng hai nàng không muốn. Dương Quá lẳng lặng thở dài, cảm thấy như chàng có lỗi.

Hai người uống vài chén, Dương Quá nói:

– Hoàng đảo chủ, hơn mười năm qua vãn bối đi khắp nơi tìm thăm lão tiền hối, để hỏi một chuyện, đến hôm nay mới được gặp.

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Ta thích ngao du đây đó, hành tung bất định, muốn tìm ta quả không dễ. Nhưng không biết lão đệ định hỏi chuyện gì?

Dương Quá đang định trả lời, bỗng nghe có tiếng chân người ở cầu thang, rồi ba người đi lên.

Hoàng Dược Sư và Dương Quá nghe tiếng chân, biết ba người kia võ công cao cường, lập tức chú ý. Dương Quá nhận ngay ra người thứ nhất là Tiêu Tương Tử, người thứ hai mặt mũi đen sì, chàng không quen, người thứ ba là Doãn Khắc Tây. Lúc này Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cũng đã nhìn thấy Dương Quá.

Hai kẻ đó kinh ngạc dừng bước, đưa mắt cho nhau, định lùi xuống lầu.

Dương Quá cười, nói:

– Cố nhân xa lâu, hôm nay hữu hạnh tương phùng, sao lại vội vã bỏ đi thế?

Doãn Khắc Tây ôm quyền, cười nịnh, nói:

– Dương đại hiệp vẫn khỏe chứ?

Tiêu Tương Tử vẫn căm hận cái nhục phải chặt tay ở núi Chung Nam, mười mấy năm nay tuy công lực đại tiến, song hắn tự biết không phải là địch thủ, nên không dám nhìn chàng, đi ra phía cầu thang.

Gã mặt đen cũng là một võ sĩ có tên tuổi dưới trướng Hốt Tất Liệt, lần này cùng Tiêu, Doãn hai người đến Nghi Thành do thám tin tức, thấy Tiêu Tương Tử có vẻ tức giận, liền nói to:

– Tiêu Tương huynh, hãy dừng bước, nếu đã có kẻ làm cho huynh mất hứng, thì cứ để tiểu đệ đuổi hắn đi.

Nói đoạn đưa bàn tay hộ pháp chộp vai Dương Quá, định ném chàng xuống lầu dưới.

Dương Quá thấy lòng bàn tay gã lờ mờ khí màu tím, biết người này luyện một môn trong độc sa chưởng, chợt nghĩ: “Tại sao mình không mượn ba tên này để thăm dò Hoàng lão tiền bối về Nam Hải thần ni?”. Thấy bàn tay gã kia sắp chạm vai mình, chàng phẩy tay một cái nghe “bốp”, gã kia đã bị một cái tát.

Hoàng Dược Sư kinh ngạc: “Đòn vừa rồi sao lại nhanh đến thế?” Chỉ qua một chưởng, lão nhìn ra Dương Quá đã sáng tạo môn võ công mới, nghiễm nhiên thành một đại gia. Lại nghe “bốp bốp”, hai má Tiêu Tương Tử cũng đều trúng chưởng. Dương Quá nghĩ Doãn Khắc Tây cử chỉ lễ độ, nên tha cho y.

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Dương lão đệ, lão đệ đã sáng tạo một môn chưởng pháp hết sức cao minh, lão phu muốn được mục kích cả pho cho đã con mắt.

Dương Quá nói:

– Vãn bối chính đang muốn thỉnh giáo lão tiền bối.

Liền thi triển pho “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”, tay áo phiêu động, tả chưởng đột nhiên sử chiêu “Đà nê đới thủy”, chiêu “Thần bất thủ xả”, bao vây ba gã Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây và hán tử mặt đen trong chưởng phong.

Ba người kia như rơi vào sóng lớn, phải chuyển động theo chưởng phong của Dương Quá, đừng nói chống đỡ, ngay đứng cho chắc cũng không nổi, thân hình hoàn toàn bị khống chế.

Hoàng Dược Sư nâng ly rượu uống cạn, nói:

– Cổ nhân vừa đọc Hán thư vừa nhâm nhi, lão phu hôm nay lấy chưởng pháp của tiểu huynh đệ làm món nhắm, thú vị chẳng kém cổ nhân.

Dương Quá nói:

– Xin lão tiền bối chỉ điểm cho một chiêu.

Chàng dùng chưởng lực hất Tiêu Tương Tử đến trước mặt Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư không dám coi thường, tả chưởng đẩy ra, hất Tiêu Tương Tử trở lại, thấy gã hán tử mặt đen xông tới gần, bèn cầm ly rượu lên nhấp một ngụm, rồi hồi chưởng hất gã ra. Dương Quá chăm chú nhìn chưởng pháp của lão, tuy võ công thâm hậu, song cũng không thấy có gì thần diệu lạ lùng, nghĩ: “Nếu mình không dốc toàn lực, e rằng Hoàng lão tiền bối không chịu sử dụng chưởng pháp học được của Nam Hải thần ni”. Bèn tụ khí ở đan điền, vận ra chưởng lực mà đẩy Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây và gã hắc diện hán tử ba người về phía Hoàng Dược Sư càng lúc càng nhanh.

Hoàng Dược Sư trả lại mấy chưởng, cảm thấy thế văng đến của ba người giống như thủy triều, lớp sóng thứ nhất vừa tràn qua, lớp sóng thứ hai cao hơn đã lại ập tới. Lão nghĩ: “Chưởng lực của gã thiếu niên này càng lúc càng mạnh, đúng là bậc kỳ tài trong võ lâm!”

Lúc ấy hắc diện hán tử bỗng phi thân, hai chân trước đầu sau, song cước lao tới trước mặt Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư đẩy chếch đi, ly rượu bên tay phải bị sóng sánh ra ngoài vài giọt; tiếp đó thấy Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cùng bay tới, một thẳng một chếch, lão bèn kêu lên:

– Hay lắm!

Rồi đặt ly rượu xuống, tay phải trả lại một chưởng.

Dương Quá và Hoàng Dược Sư cách nhau mấy trượng, người này một chưởng, người kia một chưởng, ba gã kia biến thành ba trái bóng da, bị chưởng lực của hai người đẩy bay qua bay lại. “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” đã thi triển được một nửa, “Lạc anh thần chưởng” của Hoàng Dược Sư đã bắt đầu núng thế, lão thấy Doãn Khắc Tây bay tới như một mũi tên, tự nghĩ chưởng lực của mình không đủ đối kháng, bèn giơ ngón tay búng một cái, một luồng kình lực bắn ra, hóa giải luôn chưởng lực đẩy tới của Dương Quá. Lão búng liên tiếp ba cái, nghe bịch bịch ba tiếng, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây và hán tử ngã sóng soài cả xuống sàn, ngất đi. Thần công “Đạn chỉ thần thông” đấu ngang ngửa với “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” của Dương Quá, không bên nào thua kém.

Hai người cười ha ha, trở lại bàn, rót rượu uống tiếp. Hoàng Dược Sư nói:

– Lộ chưởng pháp này của lão đệ, xét về hùng kình mà nói, chỉ có “Hàng long thập bát chưởng” của Quách Tĩnh con rể ta có thể sánh được. “Lạc anh thần kiếm chưởng” của ta thua kém một bậc.

Dương Quá cảm tạ, khiêm tốn nói:

– Vãn bối năm xưa được lão tiền bối truyền thụ cho “Đạn chỉ thần thông” và “Ngọc tiêu kiếm pháp” hai đại kỳ công, suốt đời được lợi. Vãn bối tự sáng tạo lộ chưởng pháp này chủ yếu dựa trên công phu tiền bối đã chỉ dẫn. Nghe nói lão tiền bối từng được Nam Hải thần ni chỉ điểm, học được một lộ chưởng pháp, không biết có thể làm cho vãn bối được sáng mắt ra chăng?

Hoàng Dược Sư lấy làm lạ, nói:

– Nam Hải thần ni ư? Là ai vậy? Ta chưa từng nghe tên người đó.

Dương Quá tái mặt, đứng dậy, giọng run run, nói:

– Không lẽ… chẳng lẽ trên thế gian hoàn toàn không có Nam Hải thần ni?

Hoàng Dược Sư thấy thần sắc của chàng lạ hẳn, cũng kinh ngạc, nói:

– Hay đấy là dị nhân mới xuất hiện trên giang hồ? Lão phu sở học nông cạn, chưa từng được nghe danh.

Dương Quá đứng bất động. Tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nghĩ thầm: “Quách bá mẫu nói rõ ràng, rằng Long nhi được Nam Hải thần ni cứu đi, hóa ra toàn là chuyện bịa đặt, nhằm đánh lừa ta, nhằm đánh lừa ta!”

Chàng ngửa mặt, hú một tiếng dài, chấn động mái lầu, hai hàng nước mắt rơi lã chã.

Hoàng Dược Sư nói:

– Tiểu huynh đệ có chuyện gì khó, cứ nói ra, không chừng lão phu có thể giúp một tay.

Dương Quá vái một cái sát đất, nghẹn ngào nói:

– Vãn bối tâm trí rối loạn, cử chỉ nói năng thất lễ, xin được lượng thứ.

Chàng phất tay áo, quay người đi xuống lầu, chỉ nghe liên tiếp nhiều tiếng răng rắc, các bậc cầu thang gỗ đều bị chàng giẫm gãy.

Hoàng Dược Sư ngơ ngác không hiểu, lẩm bẩm một mình: “Nam Hải thần ni, Nam Hải thần ni là ai kia chứ?”

Dương Quá cứ chạy như điên, mấy ngày không ăn không ngủ, tự nghĩ chỉ có mệt lả chẳng còn biết gì, thì mới không nghĩ đến Tiểu Long Nữ; rốt cuộc rồi đây có gặp được Tiểu Long Nữ hay không, chàng cũng chẳng dám nghĩ nữa. Mấy hôm sau chạy đến một bến sông lớn, chàng đã kiệt sức, không chịu thêm được nữa; thấy có một chiếc thuyền bên bờ bắt đầu giong buồm, chàng nhảy đại xuống, chìa cho nhà thuyền một đĩnh bạc, cũng không buồn hỏi thuyền đi đâu, chàng chui luôn vào khoang mà ngủ.

Dòng sông này chảy về phía đông, chiếc thuyền Dương Quá đang đi xuôi dòng, đến mỗi thị trấn buôn bán lại đậu mấy ngày để trao đổi hàng hóa, thì ra đây là một chiếc thuyền buôn chạy dọc Trường Giang.

Dương Quá đang không biết làm gì, thuyền đi nhanh hay chậm cũng thế, chàng chỉ ở dưới thuyền uống rượu, hờ hững nhìn cảnh đôi bờ, cũng chẳng biết đã qua bao nhiêu ngày. Chủ thuyền và khách thương thấy chàng trả nhiều bạc, nghĩ chàng là một cuồng nhân lưu lạc giang hồ, nên cũng chẳng để ý đến chàng.

Một hôm thuyền đậu lại, nghe một khách thương trên thuyền nói muốn đi Gia Hưng, Lâm An mua tơ.

Dương Quá nghe hai chữ “Gia Hưng” chợt nghĩ: “Cha ta năm xưa nghe nói bị Hoàng Dung giết hại ở miếu Vương Thiết Thương phủ Gia Hưng, làm mồi cho quạ rỉa, chẳng lẽ xương cốt cũng không còn? Ta không chôn cất nắm xương tàn của vong phụ, tức là kẻ bất hiếu.” Nghĩ vậy, chàng bỏ thuyền lên bộ.

Dạo này đang giữa mùa đông, Giang Nam tuy không lạnh giá như phương bắc, song cũng có gió tuyết. Dương Quá mình mặc áo mỏng, đầu đội mũ rộng vành, đạp tuyết đi xuống phía nam, ba ngày sau thì đến Gia Hưng.

Vào thành thì đã hoàng hôn, chàng tìm một tửu lâu ghé vào ăn uống, hỏi rõ đường đến miếu Vương Thiết Thương, rồi lại đội tuyết mà đi. Đến miếu Vương Thiết Thương thì đã sang canh hai, tuyết rơi dày, gió bấc thổi ù ù.

Trong ánh tuyết mông lung, thấy ngôi miếu đã nhiều năm không tu bổ, trông cũ nát, cổng miếu đẩy nhẹ đã đổ sang bên. Chàng bước vào bên trong, thấy tượng thần xiêu vẹo, chỗ nào cũng đầy màng nhện và bụi bặm, hoàn toàn không có người ở. Chàng đứng giữa điện, hình dung hơn ba chục năm trước cha mình bị người ta hạ độc thủ ở đây, khiến cha con không biết mặt nhau, kẻ đau khổ đến nơi đau lòng, càng thêm sầu khổ.

Chàng nhìn trước ngó sau trong miếu một hồi, nghĩ cha mình chết đã quá lâu, chẳng còn dấu tích gì, bèn ra phía sau miếu, thấy giữa hai cây đại thụ có một ngôi mộ, trên mộ cắm một cái bia đá, ngôi mộ và tấm bia đều phủ tuyết trắng. Dương Quá phẩy tay áo, tuyết bay lả tả, thấy trên bia có khắc chữ, đọc xong thì cả giận, thì ra trên bia là hàng chữ: “Mộ đệ tử xấu xa Dương Khang”. Bên cạnh có hàng chữ nhỏ hơn: “Người viết bia: sư phụ Khưu Xứ Cơ bất tài”.

Dương Quá cả giận, nghĩ bụng: “Lão đạo sĩ Khưu Xứ Cơ thật thiếu tình, phụ thân ta đã chết, hà tất còn lập bia nói đến tội lỗi? Phụ thân ta sao lại xấu xa? Hừ, lão đạo sĩ mũi trâu nhà ngươi thì tốt đẹp lắm chắc? Ta không đến chỗ phái Toàn Chân đại sát một phen, làm sao hả giận đây?”

Chàng giơ tay định hất tấm bia đi.

Đúng lúc ấy bỗng nghe từ phía tây bắc có tiếng chân đạp tuyết đi rất gấp. Âm thanh này rất kỳ quái, tựa hồ có vài hảo thủ võ lâm cùng đi bên nhau, hoặc giống như hai con dã thú bám sát nhau, tiếng bước chân bên trái nặng, bên phải nhẹ, khác hẳn thông thường. Dương Quá nổi tính hiếu kỳ, không giáng chưởng vào tấm bia nữa, lắng tai nghe. Tiếng bước chân chính là đang đi tới miếu Vương Thiết Thương. Chàng bèn trở vào chính điện, nấp vào sau một bức tượng thần, để xem có con quái vật gì.

Trong giây lát, tiếng bước chân đã đến trước miếu, dừng lại bất động, tựa hồ sợ trong miếu có kẻ mai phục, lát sau mới tiến vào điện. Dương Quá ngó ra, suýt nữa phì cười, nguyên có bốn người đi vào, cả bốn đều bị cụt chân trái, mỗi người cầm một cây quải trượng, cổ có một sợi xích sắt nối bốn người với nhau, nên khi bước đi cả bốn cây quải trượng cùng dộng xuống đất, bốn chân bên phải cùng bước.

Chỉ thấy người đi đầu hói trán, tay trái cụt đến khuỷu. Người thứ hai trán có ba cái bướu to, tay trái cũng cụt đến khuỷu, cả hai đều là kẻ tàn phế. Người thứ ba thấp nhỏ nhanh nhẹn. Người thứ tư là một hòa thượng cao lớn. Bốn người đều đã già. Dương Quá lấy làm lạ: “Bốn người này là ai? Tại sao phải dính vào nhau, vĩnh viễn không tách ra được như vậy?” Chỉ thấy lão hói lấy hỏa đao hỏa thạch ra đánh lửa, tìm một mẩu nến đốt lên. Dương Quá thấy rõ trừ lão hói ra, ba người còn lại đều mù lòa, chàng chợt hiểu: “Thì ra ba người kia phải nhờ lão hói dẫn đường”.

Lão hói giơ cao cây nến, soi ngó lục soát trong miếu. Bốn người cách nhau người nọ với người kia chưa đầy ba thước, Dương Quá đã nấp kỹ; đừng nói bốn người hành động bất tiện, lại chỉ có một người sáng mắt, dù cả bốn đều thính tai tinh mắt, hành động nhanh nhẹn, cũng chẳng thể phát hiện được chàng nấp sau bức tượng. Bốn người lục soát xong, trở lại chính điện. Lão hói nói:

– Kha lão đầu không hề tiết lộ hành tung của chúng ta. Nếu hắn nhờ trợ thủ, nhất định họ phải nấp trước ở đây.

Lão thứ ba nói:

– Đúng, hắn đáp ứng không tiết lộ nửa lời, người này tự phụ là hiệp sĩ, rất coi trọng hai chữ “tín nghĩa”.

Bốn người kề vai ngồi xuống. Người thứ hai bướu trán, nói:

– Sư ca, Kha lão đầu liệu có đến thật hay không?

Người thứ nhất đáp:

– Điều đó rất khó nói. Xét về lý, thì sẽ không đến, ai ngu gì tự dẫn xác đến chỗ chết?

Người thứ ba nói:

– Nhưng Kha lão đầu là thủ lĩnh Giang Nam thất quái. Năm xưa họ đã đánh cuộc với “Thập ác bất xá” Khưu lão đạo, đã lặn lội vạn dặm sang Mông Cổ dạy võ nghệ cho Quách Tĩnh, chuyện này lan truyền trong giang hồ, ai cũng bảo Giang Nam thất quái một lời nặng ngàn vàng, nói sao làm vậy. Chúng ta cũng vì nghĩ thế, nên mới để cho Kha lão đầu đi.

Dương Quá ở sau bức tượng nghe rõ, nghĩ bụng: “Thì ra bọn họ ở đây chờ Kha lão công công”. Lại nghe người thứ hai nói:

– Đệ cho rằng hắn nhất định sẽ không đến, Bành sư ca có muốn đánh cuộc với đệ, xem ai…

Lời chưa dứt, đã có tiếng bước chân đạp tuyết từ phía đông đi tới, cũng bước nặng bước nhẹ, có người chống quải trượng mà đến. Dương Quá hồi nhỏ từng sống trên đảo Đào Hoa với Kha Trấn Ác nên nhận ra lão ngay. Lão hói cười hô hô, nói:

– Hầu lão đệ, Kha lão đầu đến rồi đấy, còn định đánh cuộc nữa hay thôi?

Người bướu trán nói:

– Kha lão đầu quả không sợ chết, quái thật!

Chỉ nghe thình thịch mấy tiếng thiết trượng dộng xuống đất, “Phi thiên biển bức” Kha Trấn Ác bước vào chính điện, hiên ngang ngẩng đầu nói:

– Kha Trấn Ác y hẹn tới đây, có mười hai viên “Cửu hoa ngọc lộ hoàn” tặng các vị, mỗi người ba viên.

Rồi giơ tay phải, ném nhẹ cái lọ gốm nho nhỏ về phía lão hói. Lão hói mừng rỡ nói:

– Đa tạ!

Và đưa tay đón cái lọ. Kha Trấn Ác nói:

– Việc riêng của lão phu đã xong, xin đến chịu chết.

Chòm râu bạc rung rung, Kha Trấn Ác đứng đó với phong thái rất ung dung.

Lão bướu trán nói:

– Sư ca, “Cửu hoa ngọc lộ hoàn” hắn mang cho có thể chữa khỏi bệnh nội thương đau nhức của chúng ta, chúng ta với hắn cũng không có thâm cừu đại oán gì, nên tha cho hắn thì hơn.

Lão lùn cười khẩy, nói:

– Ồ, Hầu lão đầu, tục ngữ có câu “Dưỡng hổ di hoạ” (Nuôi hổ để họa về sau). Lão đệ nhân nghĩa theo lối đàn bà, chỉ sợ chúng ta chết không có chỗ chôn mất thôi. Hiện thời hắn chưa tiết lộ, nhưng ai dám bảo đảm sau này hắn kín miệng?

Đột nhiên lão lớn tiếng quát:

– Nhất tề động thủ!

Bốn người đứng bật dậy, vây quanh Kha Trấn Ác. Lão hói nói:

– Kha lão đầu, hơn ba chục năm trước, chúng ta cùng ở đây nhìn thấy Dương Khang thảm tử, không ngờ hôm nay lão cũng sa vào cảnh đó, đúng là báo ứng không sai.

Kha Trấn Ác dộng mạnh thiết trượng xuống đất, tức giận nói:

– Dương Khang nhận giặc làm cha, mãi quốc cầu vinh, là hạng tiểu nhân hèn hạ vô sỉ, Kha Trấn Ác ta đường đường là nam nhi không thẹn với trời đất, sao lão lại đi so sánh tên gian tặc ấy với “Phi thiên biển bức” Kha mỗ? Chẳng lẽ lão không biết Kha mỗ có thể bị giết, quyết không chịu nhục hay sao?

Lão lùn hừ một tiếng, nói:

– Chết đến nơi còn làm ra vẻ anh hùng hảo hán?

Ba người kia đồng thời xuất chưởng, đánh tới đỉnh đầu Kha Trấn Ác. Kha Trấn Ác tự biết không địch nổi bốn người, cứ đứng im không chống đỡ. Chỉ nghe một luồng kình phong ào qua, rồi “bình” một tiếng, đất bụi tung toé, bốn người cảm thấy chưởng mình đánh không phải trúng vào da thịt. Lão hói sáng mắt thấy rõ nhất, nhưng không hiểu Kha Trấn Ác đã biến đâu mất, thế vào chỗ Kha lão đầu vừa đứng là bức tượng Vương Nhan Chương trong miếu Vương Thiết Thương. Đầu của bức tượng này bị trúng chưởng của bốn người, lập tức vỡ nát, chỉ còn trơ cái khung gỗ bên trong.

Lão hói cả kinh, ngoảnh nhìn, thấy một nam tử trạc tam tuần, vẻ mặt giận dữ, đang túm gáy Kha Trấn Ác nhấc bổng lên, quát:

– Tại sao lão nhục mạ tiên phụ của ta?

Kha Trấn Ác hỏi:

– Ngươi là ai?

Dương Quá đáp:

– Ta là Dương Quá, Dương Khang là phụ thân ta. Hồi nhỏ, lão đối với ta tử tế, tại sao vừa rồi lại phỉ báng tiên phụ của ta?

Kha Trấn Ác lạnh lùng nói:

– Các nhân vật từ cổ chí kim, có người để tiếng thơm muôn đời, có kẻ lưu tiếng xấu vạn năm, há có thể bịt miệng người đời?

Dương Quá thấy lão bất khuất thì càng giận, quẳng mạnh lão xuống đất, hỏi:

– Vì sao lão bảo phụ thân ta hèn hạ vô sỉ?

Lão hói thấy Dương Quá có thần công như thế, trong chớp mắt có thể nhấc bổng người lên, đẩy bức tượng thế chỗ, mà lão không hề phát hiện được, tự biết không phải là đối thủ, bèn kéo nhẹ dây xích, lẳng lặng đi ra cửa miếu. Dương Quá lắc mình một cái đã chắn ngay cửa, nói:

– Hôm nay chưa nói rõ ràng, không một ai được bỏ đi.

Bốn người cùng quát lên, mỗi người một chưởng, hợp lực đẩy ra. Dương Quá nói:

– Càng hay!

Tả chưởng cũng đẩy ra, chưởng phong ào ào tràn tới. Bốn người đứng không vững, ngã ngửa ra sau, đè vào một bức tượng thần làm nó vỡ thành nhiều mảnh.

Lão thứ hai võ công yếu nhất, cái bướu ở trán đập vào ngực bức tượng, khiến lão lập tức ngất đi.

Dương Quá nói:

– Bốn người là ai? Tại sao lại dùng dây xích cổ nhau lại thế này? Tại sao lại ước hẹn với Kha Trấn Ác ở đây?

Lão hói bị tức ngực bởi chưởng lực của Dương Quá, lục phủ ngũ tạng tựa hồ đảo lộn, phải ngồi xuống vận khí vài lần, mới thong thả kể ra.

Nguyên lão hói là Sa Thông Thiên, người thứ hai có bướu ở trán là sư đệ Tam đầu giao Hầu Thông Hải, người thứ ba lùn và gầy là Thiên thủ nhân đồ Bành Liên Hổ, người cuối cùng, hòa thượng cao lớn là Đại thủ ấn Linh Trí thượng nhân. Hơn ba chục năm trước, Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông đã bắt bốn người này, nhốt trong cung Trùng Dương núi Chung Nam, giao cho Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất canh giữ, khi nào chịu hối cải, sẽ thả ra. Bốn người ác tính khó trừ, tìm thiên phương bách kế bỏ trốn, nhưng lần nào cũng bị bắt trở lại. Lần chạy trốn thứ ba, ba người là Hầu Thông Hải, Bành Liên Hổ và Linh Trí thượng nhân đã giết một số đệ tử phái Toàn Chân, các đạo sĩ phái Toàn Chân đã trừng phạt bằng cách đánh gãy chân cả bốn, chọc mù mắt ba người, riêng Sa Thông Thiên không giết người nên được giữ lại đôi mắt.

Mười sáu năm về trước, khi bọn Mông Cổ đốt phá cung Trùng Dương, bọn Sa Thông Thiên thừa dịp hỗn loạn đã bỏ chạy. Vì ba người bị mù, không thể thiếu Sa Thông Thiên dẫn đường, nên ba người kia sợ bị bỏ rơi, cứ giữ nguyên sợi dây xích mà phái Toàn Chân dùng để xích cổ họ liền với nhau một đám.

Dương Quá năm xưa học nghệ ở cung Trùng Dương không lâu, không được sư phụ và các sư huynh ưa thích, chưa hề bước tới gần chỗ nhốt bọn Sa Thông Thiên, nên chàng không biết mặt, càng không rõ lai lịch của họ.

Bọn Sa Thông Thiên sau khi trốn khỏi cung Trùng Dương, biết căn cứ địa của phái Toàn Chân tuy bị phá hủy, song vẫn là một giáo phái lớn mạnh trên giang hồ, bốn người họ thì đã tàn phế, không thể đối kháng, bèn lần xuống Giang Nam, ẩn cư ở chốn hương thôn hẻo lánh, sống yên ổn suốt mười sáu năm qua. Một hôm bốn người đang sưởi nắng ngoài thềm, thấy Kha Trấn Ác đi ngang qua thôn. Sa Thông Thiên sợ Kha Trấn Ác đến đây là để tìm kiếm bốn người, bèn chặn lại. Kha Trấn Ác võ công thua xa bốn người, vừa động thủ liền bị bắt, tra hỏi mới biết lão đang có việc cần kíp, hoàn toàn không liên quan đến oán cừu với bốn người, nhưng sợ lão tiết lộ tung tích của bốn người, nên cả bọn tính đánh chết lão.

Lúc ấy Kha Trấn Ác bèn nói rằng lão cần đến phủ Gia Hưng, xong việc lão sẽ tự trở lại nộp mình chịu chết. Bốn người nếu có thể để cho lão được sống thêm vài ngày, lão hứa sẽ lấy thuốc trị thương “Cửu hoa ngọc lộ hoàn” của đảo Đào Hoa tặng họ. Bốn người sau khi bị chặt chân, mỗi khi trở trời lại đau nhức khổ sở, nghe Kha Trấn Ác bảo có thể tặng linh dược, bèn bắt lão thề độc là không được tiết lộ tung tích của họ, cũng không được rủ người đến đánh giúp, rồi mới hẹn ngày gặp lại ở miếu Vương Thiết Thương.

Sa Thông Thiên thuật xong, nói:

– Dương đại hiệp, ngày xưa bốn chúng tôi từng là thượng khách trong phủ của lệnh tôn. Cho đến lúc lệnh tôn qua đời, chúng tôi không hề có điều gì không phải với người. Cúi mong đại hiệp nể tình năm xưa, tha cho chúng tôi đi.

Mấy chục năm trước bọn Sa Thông Thiên đều có tiếng tăm trên giang hồ, dù đao kiếm kề cổ, búa rìu trên đầu cũng chẳng run sợ; nhưng sau nhiều năm bị cầm tù, bị chặt chân, chọc mù mắt, bọn họ đã tiêu tan hào khí, cuối cùng phải van xin Dương Quá.

Dương Quá hừ một tiếng, quay sang hỏi Kha Trấn Ác:

– Vừa rồi lão đi gặp tỷ muội Trình Anh và Lục Vô Song, hay có việc gì khác?

Kha Trấn Ác ngửa mặt cười một tràng, nói:

– Dương Quá ơi là Dương Quá, ngươi chẳng hiểu gì hết!

Dương Quá nổi giận:

– Sao ta lại không hiểu gì hết?

Kha Trấn Ác cười, nói:

– Đã đến nước này, “Phi thiên biên bức” Kha mỗ đã không còn quan tâm đến cái mạng già này nữa; chứ hồi trai trẻ, Kha mỗ có bao giờ sợ ai? Ngươi võ công cao mấy, cũng chỉ có thể dọa nạt được bọn tham sinh úy tử, chứ không đời nào có thể bức cung nổi Giang Nam thất quái!

Dương Quá thấy lão chính khí đường hoàng, không khỏi kính nể, nói:

– Kha lão công công, là Dương Quá này không phải, xin lão công công bỏ qua cho. Chỉ tại lão công công dùng lời lẽ nhục mạ tiên phụ, nên điệt nhi mới đắc tội. Kha lão công công lừng danh bốn biển, Dương Quá từ nhỏ đã kính phục, từ nay không dám vô lễ nữa.

Kha Trấn Ác nói:

– Có thế chứ. Ta nghe nói ngươi là một người có phẩm cách, lại lập đại công cho thành Tương Dương, thế mới đúng là nhân vật số một. Còn nếu ngươi giống như phụ thân ngươi, thì nói câu gì với ngươi cũng chỉ làm ta bị ô nhục mà thôi.

Dương Quá lại bừng bừng nổi giận, xẵng giọng:

– Phụ thân ta rốt cuộc làm việc gì sai trái, lão nói ta nghe thử.

Nên biết những người giao du với Dương Quá, có không ít người biết rõ việc làm của Dương Khang, nhưng không một ai muốn nói thẳng ra, sợ xúc phạm chàng; Dương Quá có hỏi, họ cũng bảo là không biết.

Kha Trấn Ác thì xưa nay căm ghét cái ác, trực tính dị thường, chẳng ngại gì Dương Quá, liền đem kể hết mọi chuyện giữa Dương Khang với Quách Tĩnh, chuyện Dương Khang cùng Âu Dương Phong giết hại năm người trong Giang Nam thất quái, rồi ở miếu Vương Thiết Thương giáng chưởng đánh Hoàng Dung, tự chuốc lấy cái chết; cuối cùng lão nói:

– Sự việc tối hôm ấy thế nào bốn người kia đều chứng kiến. Sa Thông Thiên, Bành Liên Hổ, hai vị hãy nói đi, lời Kha mỗ vừa kể có chút gì dối trá hay không?

Sáu người ở trong miếu đánh vỡ tượng thần, lớn tiếng nói năng, làm cho mấy trăm con quạ trú trên tháp cao hoảng sợ bay nháo nhác, kêu quàng quạc.

Sa Thông Thiên thở dài, nói:

– Tối hôm ấy cũng có nhiều quạ như thế này… Sa mỗ bị Dương công tử chộp tay một cái, nếu không nhờ Bành huynh đệ nhanh mắt hành sự, chặt cánh tay của Sa mỗ đi, thì Sa mỗ đã bị trúng độc, đâu còn sống đến hôm nay?

Bành Liên Hổ nói:

– Lời Kha lão đầu kể đúng cả, nhưng lệnh tôn của Dương đại hiệp thời ấy chiêu hiền đãi sĩ, nhân phẩm mười phần… mười phần anh tuấn tiêu sái.

Dương Quá đau đớn ôm đầu, không ngờ phụ thân lại là kẻ gian ác như thế, mình dù lẫy lừng đến mấy, cũng chẳng rửa sạch được cái xấu của tiên phụ. Cả sáu người đều im lặng, chỉ nghe tiếng quạ kêu quàng quạc không dứt.

Lát sau, Kha Trấn Ác nói:

– Dương công tử, công tử đã lập đại công với thành Tương Dương, phụ thân công tử có làm trăm cái sai, cũng đều được công tử chuộc cả rồi, phụ thân công tử ở chốn cửu tuyền chắc cũng rất mừng cho công tử.

Dương Quá nghĩ lại mọi sự việc từ hồi quen biết vợ chồng Quách Tĩnh, nghĩ thầm sở dĩ Hoàng Dung trước sau cứ nghi ngại đề phòng chàng, bao nhiêu chuyện hiểu lầm, bao nhiêu điều phiền não, đều là do phụ thân chàng mà ra. Nhưng không có phụ thân: thì làm sao có mình? Bất giác chàng thở dài, hỏi Kha Trấn Ác:

– Kha lão công công, hai vị Trình, Lục đều mạnh khỏe chứ?

Kha Trấn Ác nói:

– Họ nghe nói công tử đốt kho lương thảo Nam Dương, tiêu diệt hai cánh quân tiên phong của Mông Cổ, thì mừng rỡ, cứ hỏi đủ chuyện về công tử, lại hỏi tin tức của Tiểu Long Nữ, hai người ấy muốn biết nhiều lắm, chỉ tiếc lão phu không nắm được nhiều điều.

Dương Quá buồn bã nói:

– Hai vị nghĩa muội ấy, Dương Quá mười sáu năm nay chưa gặp lại.

Đột nhiên chàng quay sang phía Sa Thông Thiên, nói:

– Kha lão công công đáp ứng trao tính mạng cho bốn người, lão công công nói sao làm vậy, không hề thất tín. Bốn người bây giờ cứ việc ra tay đi. Nếu bốn người ỷ đông, hợp lực giết lão công công, thì ta sẽ giết bốn người để trả thù cho lão công công.

Bọn Sa Thông Thiên ngẩn người. Bành Liên Hổ nói:

– Dương đại hiệp, bọn chúng tôi vô tri, đã mạo phạm hổ uy của Kha lão hiệp, kính mong hai vị đại nhân bỏ qua cho lỗi lầm của bọn tiểu nhân.

Dương Quá nói:

– Vậy bốn người hãy nhớ, đấy là bốn người không dám động thủ với Kha lão công công đó.

Bành Liên Hổ nói:

– Vâng, vâng! Kha lão hiệp đại tín đại nghĩa, chúng tôi lâu nay vẫn thập phần kính phục.

Dương Quá nói:

– Vậy thì các vị mau xéo đi cho! Lần sau đừng để cho Dương Quá này thấy mặt.

Bọn Sa Thông Thiên vội cúi mình thi lễ, rời khỏi miếu.

Vậy là Dương Quá vừa cứu mạng Kha Trấn Ác, lại vừa giữ thể diện cho lão, Kha Trấn Ác dĩ nhiên vô cùng cảm kích. Hai người gạt đất, phủi bụi, ngồi xuống.

Kha Trấn Ác nói:

– Lão phu đến phủ Gia Hưng là để tìm Quách nhị cô nương.

Dương Quá hơi ngạc nhiên, hỏi:

– Tiểu cô nương ấy sao rồi?

Kha Trấn Ác thở dài, mỉm cười, nói:

– Hai cô con gái rượu của Quách Tĩnh mỗi đứa một nết, thật khiến cho người ta phải nhức đầu. Chẳng hiểu sao cô bé Quách Tương tự dưng bỏ thành Tương Dương đi đâu không rõ, khiến phụ thân nó lo cuống quít, sai mấy người đi tìm các nơi mà chưa có tin gì. Có người về cả đảo Đào Hoa. Cái con bé hiếu động ấy đời nào chịu ở đảo Đào Hoa với lão mù này kia chứ? Lão phu nhớ nó quá, nên cũng đi tìm.

Dương Quá nói:

– Đã có tin gì chưa?

Kha Trấn Ác nói:

– Hôm qua ở bên ngoài thành Lâm An, lão phu nghe lén hai sứ thần Mông Cổ nói chuyện với nhau, rằng tiểu nữ nhi của Quách đại hiệp thành Tương Dương đã bị quân Mông Cổ bắt được…

Dương Quá kêu lên:

– Úi chao! Không biết là thật hay giả?

Kha Trấn Ác nói:

– Hai đạo quân nam bắc của Mông Cổ giáp công thành Tương Dương, đại thần của triều đình Lâm An vẫn còn vọng tưởng nghị hòa, hai viên sứ thần Mông Cổ kia được phái tới để đánh lừa vua quan Đại Tống ta, chức quan của hai tên đó không nhỏ. Chúng chẳng ngần ngại dùng tiếng Mông Cổ trò chuyện với nhau, tưởng người bên cạnh không hiểu gì. Không ngờ lão phu từng ở Mông Cổ mười mấy năm, mắt tuy lòa, song tai vẫn thính, nghe đâu ra đấy.

Dương Quá cau mày nói:

– Như thế là chuyện thật rồi.

Kha Trấn Ác nói:

– Phải, lão phu định cho hai tên đó nếm mùi vị vài trái tật lê độc, nhưng phải vội về thành Tương Dương cấp báo, không muốn rắc rối thêm, ai dè sau đó lại gặp bốn lão quỉ chặn đường. Lão phu chết lúc nào cũng xong, nhưng tin tức của Quách nhị cô nương thì phải báo về cho kịp, nên mới cầu xin họ hoãn cho vài ngày, lão phu liền tới phủ Gia Hưng báo cho hai cô nương Trình Anh và Lục Vô Song. Hai người ấy lập tức mang tin đến thành Tương Dương, lão phu thì y hẹn đến đây chịu chết. Không ngờ lão phu thủ tín, còn bốn tên quỉ cuối cùng lại không dám hạ thủ, ha ha, ha ha!

Dương Quá ngẫm nghĩ một lát, rồi hỏi:

– Kha lão công công có nghe hai sứ thần Mông Cổ nói Quách nhị cô nương bị bắt như thế nào hay chăng? Có nguy đến tính mạng hay chăng?

Kha Trấn Ác nói:

– Việc ấy hai sứ thần hoàn toàn không nói, xem ra chúng cũng không thật biết rõ.

Dương Quá nói:

– Việc này khẩn cấp, vãn bối phải đi cứu ngay, Kha lão công công cứ thong thả mà đi sau cũng được.

Kha Trấn Ác từng nghe đệ tử Cái Bang đến đảo Đào Hoa tìm Quách Tương kể chuyện về những gì Dương Quá đã làm cho thành Tương Dương, lão rất khâm phục tài năng của chàng, nên nói:

– Có công tử đi lo, lão phu yên tâm rồi.

Dương Quá nói:

– Kha lão công công, vãn bối nhờ lão công công một việc, hãy dựng trên mộ tiên phụ một tấm bia, đề “Tiên phụ Dương phủ quân Khang chi mộ, con trai bất hiếu Dương Quá cẩn lập”.

Kha Trấn Ác sững sờ, nhưng liền hiểu ý, nói:

– Đúng, đúng, công tử vốn bất hiếu với lệnh tôn. Sự bất hiếu của công tử còn hơn sự hiếu đễ của người khác. Lão phu sẽ làm việc công tử vừa nói.

Dương Quá trở về thành Gia Hưng, mua ba con ngựa, phi nhanh lên phía bắc, dọc đường liên tiếp thay ngựa, không dám chậm trễ một khắc, vài hôm sau đã tới gần quân doanh Mông Cổ.

Hoàng đế Mông Cổ nam chinh Tương Dương, bị đại bại một cách không thể hiểu nổi ở Tân Dã và Đặng Châu, rồi kho lương thảo và hỏa dược tích lũy mấy năm trời ở Nam Dương chỉ trong một đêm bị đốt sạch, tử thương thêm không ít quân sĩ, mất hết nhuệ khí, lại chưa rõ quân Tống hư thực thế nào, đành dựng doanh trại ở phía bắc Nam Dương, án binh bất động. Quân hai bên chưa đánh nhau. Tứ phía treo đầy tinh kỳ, đao thương lóa mắt, Dương Quá đưa mắt nhìn, chỉ thấy bạt ngàn doanh trướng.

Chàng chờ đêm tối, lén vào đại doanh do thám, chỉ thấy quân địch canh phòng nghiêm mật, hiệu lệnh chặt chẽ, xung quanh ngự doanh có nhiều tầng đao kiếm canh giữ, như thành đồng vách sắt. Dương Quá biết trong đại doanh có vô số dũng sĩ, mãnh hổ nan địch quần hồ, nên không dám để lộ hình tích. Lặn lội già nửa đêm, chỉ rà soát được đại doanh phía đông.

Đêm sau chàng rà soát đại doanh phía tây. Bốn đêm liền chàng rà soát đại doanh bốn phía, không lần ra chút manh mối gì về Quách Tương, chàng bắt trong đại doanh một tên tham mưu biết nói tiếng Hán, tra hỏi hắn, hắn nói chưa hề nghe chuyện bắt được nữ nhi của Quách đại hiệp thành Tương Dương.

Dương Quá yên tâm, lại dò la thêm vài hôm, biết đích xác Quách Tương không có ở trong quân Mông Cổ, nghĩ thầm: “Có lẽ Quách bá bá đã cứu nàng về, hoặc hai gã sứ thần Mông Cổ nghe tin đồn thất thiệt”. Tính ra sắp đến kỳ Tiểu Long Nữ ước hẹn mười sáu năm, chàng bèn phi ngựa lên phương bắc, đến Tuyệt Tình cốc.

Hồi 38: Sinh tử mịt mù

Hôm ấy Quách Tương thấy Kim Luân pháp vương hạ độc thủ đánh chết Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ hai người, thì nàng đau lòng tự biết khó thoát ma chưởng của lão, bèn hiên ngang nói:

– Lão không mau đánh chết bổn cô nương, còn chờ gì nữa?

Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Muốn đánh chết tên nhãi con như mi, nào có khó gì? Hôm nay ta giết hai người là đủ rồi. Vài hôm nữa ta sẽ chọn ngày đem mi ra khai đao, bây giờ thì hãy ngoan ngoãn đi theo ta.

Quách Tương biết rằng chống chọi lão ta lúc này chỉ tự chuốc nhục, đành đi theo, rồi tìm cách thoát thân sau, bèn lè lưỡi, lên ngựa đi.

Kim Luân pháp vương mừng rỡ, nghĩ: “Hoàng thượng và Tứ vương gia tìm thiên phương bách kế lấy mạng Quách Tĩnh, vẫn chưa như nguyện. Hôm nay ta bắt được ái nữ của Quách Tĩnh, dùng nó để kiềm chế, lo gì hắn không cúi đầu vâng mệnh. Thế này còn hơn một kiếm đâm chết hắn. Giả dụ Quách Tĩnh quật cường không chịu khuất phục, chúng ta đem con bé này đến dưới chân thành mà hành hạ, hắn sẽ đau đớn đứt từng khúc ruột, mất hết tinh thần, bấy giờ đại quân công thành, làm gì chẳng hạ được?”

Đi đến lúc trời tối, ghé đại vào một nhà ven đường nghỉ đêm. Người sống trong nhà mang đồ đạc tản cư đi hết, nhà chỉ trơ trọi bốn bức tường. Kim Luân pháp vương lấy lương khô ra chia cho Quách Tương cùng ăn, rồi bảo nàng sang chái nhà mà ngủ, còn lão ngồi dụng công ở gian giữa.

Quách Tương trằn trọc, làm sao ngủ nổi? Đến nửa đêm, nàng rón rén ngó sang gian giữa, thấy Pháp vương ngồi dựa vào vách, hơi thở đều đều, chắc là đang ngủ say. Nàng cả mừng, rón rén vượt song ra ngoài, lấy vải bọc bốn vó ngựa, rồi dắt ngựa đi rất nhẹ, từng bước một, đến khi cách nhà chừng nửa dặm, ngoảnh lại không thấy Pháp vương đuổi theo, mới lên ngựa phóng đi. Nàng nghĩ rằng khi Pháp vương tỉnh giấc, phát giác nàng bỏ chạy, sẽ đoán nàng chạy về thành Tương Dương, tất lão sẽ đuổi theo về phía nam, nên nàng bèn phóng ngựa về hướng tây bắc, phóng một mạch chừng nửa canh giờ, con ngựa đuối sức, mới đi chậm lại, dọc đường chốc chốc nàng ngó lại phía sau, thủy chung không thấy Pháp vương đuổi theo. Đến khi trời sáng hẳn, tính ra đã chạy được năm, sáu chục dặm, trong bụng mới đỡ lo.

Lúc này nàng tới một con đường nhỏ ven núi, đường lên càng lúc càng cao, qua một thung lũng, bỗng thấy có một người nằm chắn ngang đường, ngáy như kéo bễ, nhìn kỹ, nàng giật mình suýt ngã ngựa, vì người nằm kia đầu trọc, mặc hoàng bào, chính là Kim Luân pháp vương. Cũng không biết bằng cách nào lão ta lại ở phía trước mặt. Quách Tương vội quay đầu ngựa, phi xuống dốc, ngó lại, thấy lão ta vẫn nằm đó, không hề đuổi theo.

Lần này nàng không đi trên đường nữa, mà phóng ngựa thẳng về hướng đông nam, chạy một hồi rất lâu, thấy có một người treo móc hai chân lên cây đại thụ phía trước mặt, đầu chúi xuống đất, cười hi hi với nàng, chính là Kim Luân pháp vương. Quách Tương cả giận, quát:

– Lão muốn cản đường, thì cản cho ngay ngắn tử tế, sao lại đi giở trò đùa bỡn với bổn cô nương như thế?

Nàng phóng ngựa tới gần, quất một roi vào mặt lão ta.

Chỉ thấy Pháp vương không né tránh, roi ngựa vút tới mặt lão ta mà không nghe có âm thanh gì, đúng lúc ấy con ngựa phóng đi. Quách Tương tay phải định rút cây roi về, phát giác có một luồng lực truyền thụ sang tay mình, thân mình tự rời khỏi yên ngựa, bay lên cao. Thì ra Kim Luân pháp vương thấy roi ngựa vút tới, đã há miệng cắn lấy ngọn roi, thân hình đảo ngược lên cành cây, kéo Quách Tương lên theo.

Quách Tương lơ lửng trên không, không hề hoảng loạn, thấy Pháp vương cúi lưng co người định kéo nàng xuống, nàng liền buông cây roi, lợi dụng thế rơi thẳng xuống.

Pháp vương lại hoảng hốt, sợ nàng ngã xuống bị thương, vội ngửa người giơ tay đỡ, miệng kêu:

– Cẩn thận!

Quách Tương kêu “ối chao!” rơi xuống cách hai tay Pháp vương nửa thước, đột nhiên song chưởng cùng đánh ra, bình bình hai tiếng, trúng ngực lão ta. Nàng biến chiêu quá nhanh, Pháp vương tuy võ công cao cường, lại cơ trí, cũng không tránh kịp, chỉ thấy lão ta loạng quạng chân tay ngã xuống đất, nằm bất động.

Quách Tương không ngờ vừa ra đòn đã thành công, cả mừng, nhấc một hòn đá to dưới đất lên, định đập xuống cái đầu trọc lốc của Pháp vương. Nhưng trong đời nàng chưa giết ai bao giờ, tuy nàng rất căm hận người này đã giết hai vị bằng hữu của nàng, nhưng lúc cần ra tay, nàng lại không nỡ, cứ đứng ngây ra, cuối cùng nàng quăng hòn đá đi, giơ tay điểm các huyệt Thiên Đỉnh ở vai, Thân Trụ ở lưng, Thần Phong ở ngực, Thanh Lãnh Uyên ở cánh tay, Phong Thị ở chân, điểm liền một mạch mười ba đại huyệt trên người Pháp vương, vẫn chưa yên tâm, lại bê bốn hòn đá nặng vài chục cân đè lên người lão ta, nói:

– Ác nhân ơi là ác nhân, bổn cô nương hôm nay không giết lão, từ rày lão phải biết tốt xấu, không được hãm hại người ta nữa!

Đoạn nàng nhảy lên ngựa.

Kim Luân pháp vương mở to mắt nhìn nàng, cười nói:

– Tiểu cô nương có lòng tốt, lão hòa thượng rất mến cô nương.

Chỉ thấy bốn hòn đá đột nhiên bị hất ra khỏi người lão ta, lão ta bật ngay dậy, cũng chẳng hiểu làm cách nào lão ta đã giải hết mười ba huyệt đạo bị điểm. Quách Tương kinh ngạc, ngẩn ra không nói nên lời.

Nguyên Kim Luân pháp vương trúng song chưởng của nàng, nhưng hai chưởng ấy làm sao có thể đánh lão ta ngã khỏi cây? Dù có ngã cũng chẳng đến nỗi hết cựa quậy. Pháp vương giả vờ bị thương, thử xem Quách Tương động thủ thế nào, khi thấy nàng bưng tảng đá không đập xuống, lão thầm nghĩ: “Cô nương này thông minh lanh lợi, tâm địa lại tốt, có cái hay mà không có cái dở của hai đệ tử của ta”. Bất giác lão muốn thu nàng làm đệ tử.

Pháp vương bình sinh từng thu nhận ba đệ tử. Đại đệ tử văn võ song toàn, tư chất cực hay, Pháp vương vốn định truyền cho y bát, chẳng may y chết non. Nhị đệ tử Đạt Nhĩ Ba thật thà trung hậu, có thần lực, không thể lĩnh hội nội công cao thâm huyền diệu. Tam đệ tử Hoắc Đô vương tử bản tính khinh bạc, vô tình vô nghĩa, lúc nguy nan phản sư bỏ chạy. Pháp vương tự nghĩ tuổi lão đã cao, một thân tuyệt kỹ chưa biết truyền thụ cho ai, chẳng lẽ trăm năm sau không còn ai biết đến thứ võ công tuyệt thế của lão? Mỗi lần nghĩ thế, lão lại buồn buồn. Giờ thấy Quách Tương tư chất thông minh, bình sinh hiếm gặp, tuy nói là con gái kẻ địch, nhưng nàng còn nhỏ tuổi, dễ dàng cải biến, thiết tưởng chỉ cần truyền cho tuyệt kỹ, lâu dần nàng sẽ quên chuyện cũ. Huống hồ lão ta với cha mẹ nàng chỉ do hai nước tương tranh mà đối địch với nhau, chứ chẳng có thâm cừu đại oán riêng tư gì hết. Người trong võ lâm rất kính trọng việc thu đồ truyền pháp, nhà tu hành không có con cái, bản sự đầy mình toàn dựa vào đệ tử mà truyền tông tiếp đại, việc truyền y bát càng vô cùng hệ trọng. Pháp vương vừa nghĩ đến việc này, lập tức gác ngay chuyện đánh thành Tương Dương, gây áp lực với Quách Tĩnh sang một bên.

Quách Tương thấy cặp mắt Pháp vương láo liên, trầm ngâm không nói, bèn xuống ngựa, nói:

– Lão hòa thượng bản lĩnh thật cao cường, chỉ tiếc không chịu làm việc tốt.

Pháp vương cười, nói:

– Cô nương đã bái phục bản lĩnh của ta, chỉ cần bái ta làm sư phụ, ta sẽ truyền thụ mọi công phu cho cô nương.

Quách Tương xì một cái, nói:

– Bổn cô nương học công phu của lão hòa thượng có ích gì? Bổn cô nương lại không định làm ni cô.

Pháp vương cười, nói:

– Chẳng lẽ cứ học võ công của ta thì phải làm ni cô hay sao? Cô nương điểm huyệt ta, ta tự giải huyệt, cô nương đè đá lên người ta, ta hất đá ra khỏi người, cô nương phi ngựa, ta đi bộ lại đến trước nằm ngủ, các môn công phu ấy chẳng hay lắm sao?

Quách Tương nghĩ các môn công phu ấy quả rất hay, nhưng lão hòa thượng này là kẻ ác, làm sao có thể bái lão làm sư phụ, hơn nữa nàng cần tìm gấp Dương Quá, không nhiều thời gian dính dáng với lão ta, nên lắc đầu nói:

– Lão bản lĩnh cao mấy, bổn cô nương cũng không thể bái kẻ ác làm sư phụ.

Pháp vương nói:

– Sao cô nương biết ta là kẻ ác?

Quách Tương nói:

– Lão vừa xuất thủ đã đánh chết Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ hai người, họ không hề có oán cừu gì với lão, sao lão nỡ hạ độc thủ?

Pháp vương cười, nói:

– Ta chỉ giúp cô nương tìm ngựa khỏe, hai người ấy động thủ trước, cô nương không thấy hay sao? Nếu ta bản lĩnh kém cỏi, thì đã bị họ đập chết rồi. Làm hòa thượng phải từ bi, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, thì không đời nào giết người.

Quách Tương hừ một tiếng, không tin lời lão, nói:

– Rốt cuộc thì lão muốn gì? Nếu lão là người tử tế, tại sao không để cho bổn cô nương đi?

Pháp vương nói:

– Ta không cho cô nương đi hồi nào? Cô nương cưỡi ngựa muốn đi đâu thì đi, ta chỉ nằm ngủ trên đường, có giơ tay ra chắn đường hay không nào?

Quách Tương nói:

– Đã thế, lão hãy để cho bổn cô nương đi tìm Dương đại ca, đừng bám theo nữa.

Pháp vương lắc đầu, nói:

– Như thế không được. Cô nương phải bái ta làm sư phụ, học ta hai mươi năm võ nghệ đã, rồi muốn đi tìm ai thì cứ việc.

Quách Tương thất vọng, nói:

– Lão đúng là không biết lý lẽ, bổn cô nương không thèm bái sư, lão cứ cưỡng ép là sao?

Pháp vương nói:

– Cô nương không biết lý lẽ thì có, một minh sư như ta, khắp thiên hạ tìm đâu cho thấy kia chứ. Người khác lạy ta ba trăm cái, cầu xin chín, mười năm, ta cũng chưa thèm nhận làm đệ tử. Hôm nay cô nương gặp cơ hội ngàn năm có một, lại không thụ hưởng, thế có dại không?

Quách Tương bĩu môi, nói:

– Lão mà đòi làm minh sư cái thá gì? Chẳng qua lão thắng được một cô bé hơn mười tuổi như bổn cô nương, có gì là lạ. Lão có thắng nổi phụ mẫu của bổn cô nương hay không? Có thắng nổi ngoại công của bổn cô nương là Hoàng đảo chủ hay không? Đừng nói ba người ấy, ngay đại ca ca Dương Quá của bổn cô nương, lão cũng không thắng nổi.

Pháp vương bực tức nói:

– Ai bảo… ai bảo ta không thắng nổi tên tiểu tử Dương Quá?

Quách Tương nói:

– Anh hùng hảo hán thiên hạ đều nói thế. Mấy hôm trước, tại anh hùng đại yến trong thành Tương Dương, mọi người đều bảo dù có ba Kim Luân pháp vương nhất tề động thủ, mỗi Kim Luân pháp vương ba đầu sáu tay, cũng đánh không lại Thần điêu đại hiệp Dương Quá có một cánh tay.

Câu này Quách Tương tiện miệng bịa ra để khích Pháp vương, còn đại hội anh hùng chỉ thương nghị cách giữ thành Tương Dương, chống quân Mông Cổ, giả dụ có ai nhắc đến võ công mạnh yếu của Kim Luân pháp vương và Dương Quá, thì Quách Tương không tham dự, cũng chẳng thể biết. Ai ngờ người nói vô tâm, kẻ nghe hữu ý, câu này xoáy đúng vào chỗ đau của Kim Luân pháp vương. Mới mấy năm trước lão từng ba phen bại trận dưới tay Dương Quá, lão tưởng anh hùng thiên hạ nói thế thật, liền nổi giận quát:

– Tên tiểu tử Dương Quá nếu có mặt ở đây, ta sẽ cho hắn nếm mùi “Long tượng bát nhã công”, ôm đầu thảm bại, sẽ biết thời nay rốt cuộc là Dương Quá tài giỏi hay Kim Luân pháp vương ta cao minh.

Quách Tương chợt nảy một kế, nói:

– Lão thừa biết đại ca ca của bổn cô nương không có ở đây mới dám huênh hoang như thế. Lão có gan đi tìm chàng đấu thử một trận hay không? Cái môn “Xà trư bất nhã công” của lão…

Pháp vương vội nhắc:

– Là “Long tượng bát nhã công”!

Quách Tương nói:

– Lão phải thắng đại ca ca mới là rồng là voi, còn nếu chịu không nổi một đòn, thì đến con rắn con heo lão cũng chẳng bằng! Nếu lão thắng chàng, bổn cô nương tất nhiên sẽ bái lão làm sư phụ. Có điều là lão không dám đi tìm chàng nên mới khoác lác như vậy. Bổn cô nương cho rằng lão vừa nhìn thấy bóng Dương Quá, đã hoảng hồn chạy vắt chân lên cổ.

Pháp vương làm gì không biết kế khích tướng của Quách Tương, nhưng bình sinh lão hết sức tự phụ, vậy mà từng bại dưới tay Dương Quá, những năm qua lão đã luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, cốt đi tìm Dương Quá rửa vết nhục đại bại hồi trước, nên nói lớn:

– Ta bảo ta biết Dương Quá ở chỗ nào là nói dối cô nương, chỉ tiếc là tên tiểu tử ấy chui rúc nơi nào, ta không biết, nếu biết ta sẽ tìm đến đánh cho hắn một trận phải rập đầu xin tha.

Quách Tương cười ha ha, vỗ tay, nói:

– Lão hòa thượng huênh hoang, tự khoe vô địch thiên hạ, thấy Dương Quá ở phía đông, vội vàng lủi ngay sang phía tây.

Pháp vương hừ một tiếng, hầm hầm nhìn nàng.

Quách Tương nói:

– Bổn cô nương tuy không biết hiện thời Dương Quá ở đâu, nhưng lại biết hơn một tháng nữa, đại ca ca nhất định sẽ đến một chỗ.

Pháp vương hỏi:

– Hắn đến chỗ nào?

Quách Tương nói:

– Nói cho lão biết làm gì? Lão đã không dám đi gặp chàng, có nói ra lão càng thêm kinh sợ.

Pháp vương nghiến răng ken két, giục:

– Nói đi, cứ nói ta coi!

Quách Tương nói:

– Chàng sẽ đến trước Đoạn Trường nhai ở Tuyệt Tình cốc để gặp thê tử Tiểu Long Nữ. Một mình Dương Quá đã khiến lão hoảng sợ, thêm Tiểu Long Nữ nữa, thì lão có đến Đoạn Trường nhai sẽ chỉ để chịu chết mà thôi. Giả dụ vợ chồng họ đoàn tụ vui quá, không muốn giết người, thì lão đại bại cũng sẽ đau đớn đứt ruột mà chết.

Mười mấy năm nay, Pháp vương khổ luyện “Long tượng bát nhã công” là muốn đấu với Dương Quá và Tiểu Long Nữ khi hai người ấy liên thủ sử dụng “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”. Nếu lão chưa nắm chắc một mình đánh thắng cả hai người, thì lần này lão đã chưa dám trở lại Trung Nguyên. Bây giờ nghe Quách Tương nói thế, càng chạm đúng vào dự định của mình.

Pháp vương nói:

– Vậy thì hai ta cùng đi đến Tuyệt Tình cốc! Nếu ta đánh bại Dương Quá và Tiểu Long Nữ, thì sao nào?

Quách Tương nói:

– Giả dụ lão có võ công cao cường như thế thật, bổn cô nương còn mong gì nữa mà không vội bái lão làm sư phụ. Chỉ tiếc rằng Tuyệt Tình cốc là nơi u tịch, không dễ gì tìm ra nó ở đâu.

Pháp vương nói:

– Ta đã từng đến đó, cô nương khỏi lo. Hiện thời còn sớm, cô nương hãy theo ta tới quân doanh Mông Cổ, chờ ta liệu lý vài việc, rồi sẽ cùng đi Tuyệt Tình cốc.

Quách Tương thấy Pháp vương chịu đi Tuyệt Tình cốc tìm Dương Quá tỷ võ, thì yên tâm hẳn, nghĩ thầm: “Ta chỉ lo lão không chịu đi, giờ lão chịu rồi, thì còn sợ gì nữa? Lão ác tăng hoành hành ở đây thôi, chứ khi gặp đại ca ca thì sẽ biết tay chàng”. Nàng bèn đi theo Pháp vương tới quân doanh Mông Cổ.

Pháp vương nhất quyết muốn Quách Tương tiếp nhận y bát của lão, nghĩ bụng chỉ có làm cho nàng tâm phục, mai sau nàng mới có thể trở thành cao đồ, vì thế dọc đường lão đối với nàng rất tử tế, hiền hòa. Trong võ lâm minh sư cố nhiên khó cầu, song đệ tử thông minh mỹ chất cũng hiếm có y hệt, đệ tử tìm chọn sư phụ, mà sư phụ cũng tìm chọn đệ tử. Pháp vương và Quách Tương dọc đường cười cười nói nói, lão thấy nàng thông minh hơn người, ngộ tính cao lạ thường, thì không khỏi thầm hoan hỉ. Có lúc Quách Tương buồn bã trách cứ Pháp vương hạ độc thủ gây thảm tử cho Trường Tu Quỉ và Đại Đầu Quỉ, lão cũng không tức giận, còn cho rằng nàng không có cái tính khinh bạc như vương tử Hoắc Đô.

Pháp vương đưa Quách Tương đến quân doanh Mông Cổ, là đại doanh phía nam do hoàng đệ Hốt Tất Liệt thống lĩnh, trong khi Dương Quá lại đi tìm kiếm Quách Tương mấy ngày ở đại doanh phía bắc do đại hãn Mông Kha thống lĩnh, nên không thấy nàng.

Dương Quá lên đường đi Tuyệt Tình cốc không lâu thì Pháp vương và Quách Tương cũng khởi hành, ba người chỉ cách nhau hơn trăm dặm mà thôi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung sau khi ấu nữ bỏ đi, ngày đêm thương nhớ. Những đệ tử Cái Bang phái đi tứ xứ thăm dò lần lượt trở về bẩm báo, đều nói không biết tin tức gì. Hơn mười ngày sau, đột nhiên Trình Anh và Lục Vô Song đến thành Tương Dương, mang tin của Kha Trấn Ác, nói Quách Tương đã bị bắt vào quân doanh Mông Cổ. Quách Tĩnh, Hoàng Dung cả kinh. Ngay đêm hôm đó, Hoàng Dung và Trình Anh lẻn vào quân doanh Mông Cổ dò xét mọi chỗ, cũng như Dương Quá, không tìm ra manh mối gì. Đêm thứ ba, hai người phải đấu với các võ sĩ Mông Cổ một trận, hơn bốn chục võ sĩ vây chặt Hoàng Dung và Trình Anh, may mà võ công hai người cao cường, Hoàng Dung lại thi triển ngụy kế, mới vượt khỏi vòng vây chạy thoát về thành Tương Dương.

Hoàng Dung cho rằng nữ nhi hoàn toàn không có ở trong quân doanh Mông Cổ, nhưng vẫn không nhận được tin tức gì khác, là điềm không hay. Thấy đại quân Mông Cổ không có dấu hiệu gì chứng tỏ sắp đánh xuống phía nam, sau khi bàn với Quách Tĩnh, Hoàng Dung quyết định tự rời thành đi tìm. Hoàng Dung mang theo đôi chim điêu trắng, nếu có việc khẩn cấp, có thể cho chim chuyển tin tức về. Trình Anh và Lục Vô Song nằng nặc xin đi theo. Ba người vòng qua đại quân Mông Cổ, đi về hướng tây bắc. Hoàng Dung nghĩ: “Tương nhi đi chuyến này là để khuyên Dương Quá đừng tự sát. Lần trước nó đã gặp Dương Quá ở gần Đồng Quan, bến Phong Lăng, lần này chắc nó trở lại chốn cũ, mình phải tới bến Phong Lăng dò la tung tích”.

Ba người rời thành Tương Dương vào giữa mùa đông, vừa đi vừa hỏi dò tin tức dọc đường, đến bến Phong Lăng thì đã là hạ tuần tháng Hai, băng tuyết đang tan. Ba người hỏi dò tất cả những người lái đò, chủ quán, phu xe, khách bộ hành ở bến Phong Lăng, đều không một ai nhìn thấy tiểu cô nương nào như thế cả.

Trình Anh an ủi:

– Sư tỷ đừng lo. Tương nhi mới chào đời một ngày, đã bị hai đại ma đầu là Kim Luân pháp vương và Lý Mạc Sầu bắt đi. Tục ngữ có câu đại nạn không chết, tất có phúc lớn về sau. Hồi trước hung hiểm như thế còn chẳng việc gì, nữa là bây giờ?

Hoàng Dung thở dài, không nói gì. Ba người rời bến Phong Lăng, đi loanh quanh ra bên ngoài. Hôm nay trời nắng ấm, gió nồm thổi lồng lộng, hoa nở đầu cành, ý xuân phơi phới. Trình Anh chỉ một cây hoa đào, nói với Hoàng Dung:

– Sư tỷ, bắc quốc xuân đến chậm, ở đây hoa đào nở rộ, mấy cây đào trên đảo Đào Hoa chắc đã kết trái rồi!

Nàng vừa nói vừa bẻ một cành đào chơi, rồi khẽ ngâm:

Hỏi hoa, không nói một câu

Vì đâu hoa nở vì đâu hoa tàn

Ba phần xuân sắc hồng nhan

Nửa tan sóng biếc nửa tàn trần ai

Hoàng Dung thấy Trình Anh mày đen da trắng, vẫn xinh đẹp hệt như mười mấy năm trước, vậy mà khuê phòng lạnh giá, bất giác cũng đau lòng thay cho nàng. Bỗng nghe tiếng vo vo, một con ong mật bay tới, cứ lượn quanh cành đào Trình Anh đang cầm, rồi đậu trên đài hoa mà hút mật. Hoàng Dung thấy con ong này thân màu xám nhạt, to gấp đôi loài ong mật thông thường, chợt nhớ ra, nói:

– Hình như đây là giống ong ngọc phong mà Tiểu Long Nữ vẫn nuôi, tại sao nó lại xuất hiện ở đây?

Lục Vô Song nói:

– Đúng, chúng ta hãy đi theo con ong này, xem nó bay về chỗ nào?

Con ong hút nhụy một hồi, rời cành hoa, lượn vài vòng, rồi bay về hướng tây bắc. Ba người vội thi triển khinh công bám theo. Con ong gặp cây hoa thì dừng lại hút nhụy, hút xong lại bay tiếp, cứ bay rồi đậu, đậu rồi bay như thế, lát sau thêm hai con nữa nhập bọn. Ba người đuổi theo tới chiều thì đến một sơn cốc, chỉ thấy muôn hồng nghìn tía, cảnh sắc cẩm tú, dốc núi treo liền bảy, tám đõ ong bằng gỗ. Ba con ong kia bay vào trong đõ.

Bên kia dốc núi có ba gian nhà tranh, trước cửa có hai con cáo nhỏ, đưa cặp mắt long lanh nhìn ba người khách lạ. Bỗng két một tiếng, cánh cửa gỗ mở rộng, một người bước ra, chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông. Hoàng Dung cả mừng gọi:

– Lão Ngoan đồng, xem ai đến này!

Chu Bá Thông thấy Hoàng Dung thì cười ha hả, bước ra đón, nhưng được vài bước đột nhiên đỏ bừng cả mặt, quay người đi vào nhà, kẹt một tiếng, đã đóng cửa lại. Hoàng Dung lấy làm lạ, không hiểu Lão Ngoan đồng có dụng ý gì, gõ gõ cửa, gọi:

– Lão Ngoan đồng, Lão Ngoan đồng, sao thấy khách phương xa đến, lại trốn đi như vậy?

Chu Bá Thông ở bên trong nói:

– Không mở, không mở! Chết cũng không mở đâu!

Hoàng Dung cười, nói:

– Lão không mở, chúng tôi sẽ thiêu cái ổ chó của lão thành tro đấy.

Chợt nghe cánh cửa gian bên trái mở ra, một người nói:

– Hoang sơn quang lâm quí khách, lão hòa thượng cung nghênh.

Hoàng Dung ngó qua, thấy Nhất Đăng đại sư tươi cười đứng giữa cửa, chắp tay hành lễ. Hoàng Dung bước lên bái kiến, cười, nói:

– Thì ra đại sư là láng giềng của Lão Ngoan đồng, thật chẳng thể ngờ. Lão Ngoan đồng không hiểu vì cớ gì lại đóng cửa không tiếp khách?

Nhất Đăng đại sư cười ha ha, nói:

– Mặc kệ y! Mời ba vị vào nhà, lão tăng thết trà!

Ba người bước vào, Nhất Đăng đại sư bưng trà xanh ra, Hoàng Dung hỏi thăm cuộc sống nơi này. Nhất Đăng đại sư nói:

– Quách phu nhân thử đoán xem, gian bên phải có ai đang ở?

Hoàng Dung nghĩ vừa rồi Chu Bá Thông bỗng dưng đỏ mặt, chui vào nhà đóng cửa lại, đã biết vì sao, cười nói:

– Sóng xuân cỏ biếc ai cười, phòng sâu sáng rét giặt đôi áo hồng. Hay quá, hay quá!

Mấy câu này chính là đoạn cuối bài từ “Tứ trương ky” năm xưa Lưu quí phi Anh Cô đã sáng tác.

Nhất Đăng đại sư hiện thời tâm thanh tịnh, ngày ngày ngồi thiền, mọi dư hận si tình năm xưa đã mỉm cười cho qua từ lâu, liền vỗ tay cười:

– Quách phu nhân thần cơ diệu toán, chuyện gì cũng đoán trúng.

Lão bước ra cửa gọi:

– Anh Cô, Anh Cô, sang đây gặp tiểu hữu năm xưa chút nào.

Lát sau, Anh Cô bưng một cái khay gỗ đựng trái cây, bánh mật ong, hạt tùng rang sang mời khách. Bọn Hoàng Dung bái kiến, năm người cười nói thật vui.

Mối cừu hận, ân oán mấy chục năm khó cởi giữa Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông, Anh Cô, nhưng nay ba người đã già, tu vi lại tiến xa, cùng ẩn cư ở Vạn Hoa cốc, nuôi ong trồng rau, tỉa hoa tưới cây, không còn để bụng tình thế khó xử năm nào. Nhưng Chu Bá Thông bất ngờ gặp Hoàng Dung, cảm thấy ngượng ngùng, bèn đóng cửa tránh mặt. Tuy lão ở phòng bên, song vẫn dỏng tai nghe năm người trò chuyện, nghe Hoàng Dung kể cảnh náo nhiệt tại anh hùng đại yến trong thành Tương Dương, kể đến chỗ vạch trần bộ mặt thật của Hà Sư Ngã, thì Chu Bá Thông không nhịn thêm được nữa, bèn sang gian buồng của Nhất Đăng đại sư mà hỏi:

– Sau đó tên Hoắc Đô thế nào? Không lẽ hắn chạy thoát hay sao?

Đêm ấy bọn Hoàng Dung nghỉ đêm ở gian buồng của Anh Cô. Sáng hôm sau, Hoàng Dung dậy, ra ngoài sân, thấy Chu Bá Thông đang hoa chân múa tay, có một con ong đậu trên lòng bàn tay, vẻ vô cùng đắc ý.

Hoàng Dung cười, nói:

– Lão Ngoan đồng, có gì vui thế?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Tiểu Hoàng Dung, bản lĩnh của ta ngày càng cao siêu, tiểu muội có thán phục hay chưa?

Hoàng Dung biết Lão Ngoan đồng bình sinh có hai sở thích, một là chơi đùa, hai là võ học, mười mấy năm nay ẩn cư hoang cốc, chắc là lại sáng tạo ra môn võ công cao minh nào đó, đại loại như thuật “phân tâm nhị dụng, song thủ hỗ bác”, rất muốn biết, bèn nói:

– Võ công của Lão Ngoan đồng, tiểu muội phục sát đất từ hồi còn nhỏ, sao còn phải hỏi? Mấy năm rồi lại nghĩ ra công phu kỳ diệu gì phải không?

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Không, không phải thế. Môn võ công hay nhất gần đây là “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”, do tên tiểu tử Dương Quá sáng tạo, Lão Ngoan đồng tự thẹn không bằng. Thôi đừng nhắc đến võ học nữa!

Hoàng Dung lấy làm lạ: “Hài tử Dương Quá thật tài tình, trẻ như Quách Tương, già như Lão Ngoan đồng, ai cũng mê hắn, không biết “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” là môn gì?” Bèn hỏi:

– Thế bản lĩnh ngày càng cao cường của lão là gì vậy?

Chu Bá Thông giơ cao bàn tay có con ong kia lên, dương dương tự đắc nói:

– Đấy là bản lĩnh nuôi ong của ta.

Hoàng Dung bĩu môi, nói:

– Đàn ong ngọc phong này là của Tiểu Long Nữ tặng cho, có gì mà khoe?

Chu Bá Thông nói:

– Tiểu muội chưa hiểu tường tận. Ong ngọc phong mà Tiểu Long Nữ tặng ta cố nhiên là loại ong cực quí, nhưng Lão Ngoan đồng đã tạo ra được loài ong thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có, đúng là khéo hơn cả tạo hóa, phép lạ ấy Tiểu Iong Nữ bì sao kịp ta?

Hoàng Dung cười ha ha, nói:

– Lão Ngoan đồng càng già càng không biết ngượng, cái món mặt dày và huênh hoang một tấc đến trời thì đúng là thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có, khéo hơn cả tạo hóa.

Chu Bá Thông cũng không giận, cười hi hi, nói:

– Tiểu Hoàng Dung, ta hỏi tiểu muội, người là cái linh của vạn vật, thân mình có xăm hoa xăm chữ, hoặc xăm hình đầu rồng vuốt hổ, hoặc xăm chữ “Thiên hạ thái bình”. Nhưng trừ con người ra, trên thân thể cầm thú côn trùng có khắc chữ hay không?

Hoàng Dung nói:

– Hổ có vằn vàng, báo có gấm hoa, bướm và rắn trên thân có nhiều hoa văn gấp bội.

Chu Bá Thông nói:

– Nhưng tiểu muội đã thấy trên thân côn trùng có chữ bao giờ chưa?

Hoàng Dung nói:

– Nếu là trời sinh, thì tiểu muội chưa thấy bao giờ.

Chu Bá Thông nói:

– Được, vậy hôm nay ta cho tiểu muội được một phen đại khai nhãn giới.

Đoạn giơ bàn tay trái có con ong đến trước mắt Hoàng Dung. Chỉ thấy trên đôi cánh của con ong lớn này quả nhiên có chữ, Hoàng Dung nhìn kỹ, thấy trên cánh phải có ba chữ “đáy tình cốc”, trên cánh trái có ba chữ “ta ở dưới”, mỗi chữ nhỏ như hạt gạo, nhưng nét bút rõ ràng, chắc là dùng kim mà xăm. Hoàng Dung kinh ngạc, miệng lẩm bẩm:

– “Ta ở dưới đáy tình cốc”, “ta ở dưới đáy tình cốc”…

Nghĩ: “Sáu chữ này quyết không phải là trời sinh, mà có người cố ý xăm thành, tính nết của Lão Ngoan đồng, thì cái việc tỉ mẩn này không phải do lão làm”.

Bèn cười, nói:

– Thế thì có gì đáng gọi là thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có? Lão hành hạ Anh Cô, bắt Anh Cô dùng kim xăm sáu chữ ấy trên cánh ong, tưởng che mắt được tiểu muội chắc?

Chu Bá Thông vừa nghe đã đỏ mặt, nói:

– Tiểu muội cứ việc sang hỏi Anh Cô xem có phải Anh Cô dùng kim xăm hay không?

Hoàng Dung cười, nói:

– Anh Cô dĩ nhiên sẽ chối phắt cho hợp ý lão. Lão bảo mặt trời mọc ở phía tây, Anh Cô cũng sẽ bảo “Đúng thế, mặt trời mọc ở phía tây, chưa khi nào mọc ở phía đông”.

Chu Bá Thông càng đỏ mặt hơn, vừa là ngượng ngập, vừa là uất ức vì bị oan, lão thả con ong bay đi, rồi kéo tay Hoàng Dung, nói:

– Nào lại đây, ta cho tiểu muội chính mắt nhìn thấy.

Lão kéo Hoàng Dung tới bên một đõ ong ở bên dốc núi, cái đõ ong này treo riêng một chỗ, không cùng với các đõ ong khác. Chu Bá Thông giơ tay bắt hai con ong, nói:

– Nhìn đi!

Hoàng Dung nhìn kỹ, thấy trên hai cánh mỗi con ong đều có sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc” hệt như con ban nãy. Nghĩ thầm: “Tạo hóa tuy kỳ lạ, cũng nhất định không có lý gì tạo ra loài ong này. Bên trong hẳn có duyên cớ”, bèn nói:

– Lão Ngoan đồng, bắt vài con nữa xem nào.

Chu Bá Thông lại bắt bốn con ong nữa, thì hai con trong đó trên cánh không có chữ. Lão thấy Hoàng Dung cúi đầu trầm ngâm, tựa hồ đã chịu thua, không dám bảo là do Anh Cô xăm chữ, nên cười nói:

– Tiểu muội còn gì để nói nữa không? Hôm nay đã phục Lão Ngoan đồng hay chưa?

Hoàng Dung không đáp, cứ lẩm bẩm: “Ta ở dưới đáy tình cốc” mấy lần, chợt hiểu: “Là ai ở dưới đáy Tuyệt Tình cốc? Không lẽ là Tương nhi?” Trống ngực đập dồn, liền quay sang nói:

– Lão Ngoan đồng, đõ ong này không phải do lão nuôi, mà ong từ nơi khác bay đến.

Chu Bá Thông đỏ mặt, nói:

– Ôi, kỳ thật, làm sao tiểu muội biết?

Hoàng Dung nói:

– Làm sao tiểu muội biết ư? Thế lũ ong bay đến đây được mấy hôm rồi?

Chu Bá Thông nói:

– Lũ ong này bay đến được mấy năm rồi, ban đầu ta không để ý trên cánh có chữ, mãi mấy tháng trước đây ta mới phát giác.

Hoàng Dung hỏi:

– Có thật là mới vài năm thôi hay không?

Chu Bá Thông nói:

– Đúng thế, chẳng lẽ chuyện đó còn phải giấu tiểu muội?

Hoàng Dung trầm ngâm hồi lâu, trở về ngôi nhà tranh, bàn bạc cùng Nhất Đăng đại sư, Trình Anh và Lục Vô Song, ai cũng cảm thấy bên dưới Tuyệt Tình cốc tất có sự lạ. Hoàng Dung nghĩ đến con, sốt ruột muốn cùng tỷ muội Trình, Lục đi thăm dò một chuyến.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Ở đây hiện không có việc gì, lão tăng sẽ đi cùng. Lần trước lệnh ái tới đây, tiểu cô nương ấy hào hiệp khảng khái, lão tăng rất mến.

Hoàng Dung bái tạ, nhưng trong lòng rất lo: “Nhất Đăng đại sư chắc nghĩ Quách Tương gặp tai nạn, nếu không đã chẳng tội gì bỏ nơi u cốc tĩnh tu này mà đi cùng ta?” Chu Bá Thông thấy có nhiệt náo, đời nào chịu ở lại, nhất định đòi cho Anh Cô đi cùng. Hoàng Dung thấy có thêm ba vị đại cao thủ tương trợ, đỡ hẳn lo ngại, cho rằng đoàn mình sáu người thế này, bất kể đấu trí đấu lực, e rằng thời nay không có ai địch nổi, Quách Tương có rơi vào tay kẻ gian, cũng nhất định sẽ được cứu ra. Thế là sáu người cùng cặp chim điêu cùng đi về hướng Tây.

Dương Quá đến Tuyệt Tình cốc vào cuối tháng Hai đầu tháng Ba, còn sớm năm ngày so với ước hẹn của Tiểu Long Nữ mười sáu năm về trước. Hiện thời Tuyệt Tình cốc không một bóng người, tòa ngang dãy dọc mà vợ chồng Công Tôn Chỉ và các đệ tử áo xanh dựng nên đã đổ nát hoang tàn hết cả. Dương Quá sau khi rời Tuyệt Tình cốc mười sáu năm trước, cứ dăm năm chàng lại đến đây ở vài hôm, hi vọng rằng không chừng Nam Hải thần ni động lòng từ bi, đột nhiên cho phép Tiểu Long Nữ trở về sớm hơn hạn định. Tuy mỗi lần như thế chàng đều sầu khổ ra đi nhưng coi như cũng rút ngắn được kỳ hạn dăm năm.

Lần này trở lại vùng đất cũ, nhìn cỏ dại mọc đầy, núi rừng tịch mịch, vẫn không một dấu chân người, chàng bèn chạy đến trước Đoạn Trường nhai, vượt qua chiếc cầu đá, đưa tay miết dòng chữ mà Tiểu Long Nữ dùng mũi kiếm khắc vào đá, các nét chữ bị rêu xanh phủ lấp lập tức hiện ra hai hàng to nhỏ.

Dương Quá khe khẽ lẩm bẩm:

– Tiểu Long Nữ dặn “Phu quân Dương lang, vô cùng trân trọng, mong ngày đoàn tụ.”

Bất giác trống ngực chàng đập dồn.

Chàng cứ đứng ngây người nhìn hai dòng chữ. Đến tối thì mắc dây thừng lên hai cây mà ngủ. Hôm sau chàng đi tha thẩn trong cốc, thấy những bụi cây hoa Tình mà năm xưa chàng cùng Trình Anh, Lục Vô Song chặt phá đã không mọc nữa, thấy một bông hoa hồng rực rỡ mà chàng đặt tên là hoa Long Nữ mới nở, chàng bèn ngắt lấy, đem tới cắm bên dòng chữ ở Đoạn Trường nhai. Chờ đợi khổ sở năm ngày, đã đến ngày mồng bảy tháng Ba. Chàng đã hai ngày đêm liền không ngủ, hôm nay càng không rời Đoạn Trường nhai nửa bước. Từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, mỗi khi gió thổi cây rung, hoa rơi lá rụng, chàng lại giật mình, đứng bật dậy ngó quanh tứ phía, nào thấy bóng dáng Tiểu Long Nữ?

Từ khi hỏi Hoàng Dược Sư về Nam Hải thần ni ở đảo Đại Trí, biết đó là chuyện Hoàng Dung bịa đặt, nhưng hai dòng chữ kia là do Tiểu Long Nữ khắc thì không phải giả, những mong nàng nói lời thì giữ lấy lời, cuối cùng tới gặp. Nhìn vầng dương từ từ lặn xuống núi, lòng Dương Quá cũng lặng dần. Khi vầng dương bị núi che một nửa, chàng kêu to, chạy lên đỉnh núi. Đứng trên đó, thấy vầng dương tròn trặn như cũ, lòng chàng nhẹ đi, chỉ cần vầng dương còn kia, ngày mồng bảy tháng Ba vẫn chưa hết.

Nhưng mặc dù chàng đã đứng trên đỉnh cao nhất, mặt trời rốt cuộc cũng lặn xuống dưới đất. Chàng đứng lặng, nhìn bốn phía mịt mờ, cảm thấy khí lạnh thấm vào người.

Cứ đứng bất động hơn một canh giờ, rồi mảnh trăng bán nguyệt thong thả lên đến đỉnh trời. Không chỉ một ngày đã hết, mà một đêm cũng sắp trôi qua. Tiểu Long Nữ thủy chung không tới.

Dương Quá đứng ngây như tượng đá trên đỉnh núi một đêm, mãi đến lúc vầng dương mọc lên ở phía đông. Bốn phía tiếng chim ríu rít, hoa thơm thoang thoảng, ý xuân đang nồng, lòng chàng lại như băng giá, có tiếng nói văng vẳng bên tai:

– Đồ ngốc! Nàng chết từ đời nào rồi, nàng chết từ mười sáu năm trước rồi. Nàng tự biết trúng độc không khỏi, mi lại quyết không chịu sống một mình, nên đã tự tận, song lại lừa mi chờ đợi mười sáu năm. Đồ ngốc! Nàng đối với mi tình ý sâu nặng như thế, sao đến tận hôm nay mi vẫn chưa hiểu tâm ý của nàng?

Chàng như một cái xác không hồn, chạy xuống núi, một ngày một đêm không ăn không uống, cảm thấy môi khô họng rát, bèn tới bên dòng suối vục nước mà uống. Vừa cúi xuống, thấy bóng mình trong nước, hai bên tóc mai đã bạc trắng. Chàng năm nay ba mươi sáu tuổi, sức lực dồi dào, tóc không thể bạc, nhất là nội công thâm hậu, tuy một đời gian nan nguy hiểm, song chưa hề có sợi tóc bạc nào cả, đột nhiên bây giờ thấy hai bên tóc mai bạc trắng, mặt xám ngoét lấm bụi, cơ hồ không nhận ra diện mạo của mình nữa, chàng đưa tay giật ba sợi tóc ở mép trán mà xe, thấy hai sợi đã bạc.

Thời khắc ấy, chàng bỗng nhớ mấy câu trong bài từ của Tô Đông Pha viết để cho người vợ quá cố.

Mười năm sinh tử miên man

Lòng xuân khôn dứt muôn ngàn ái ân

Quan san vạn dặm cô phần

Thê lương tình ấy phân trần nơi đâu

Tương phùng chẳng nhận được nhau

Tóc xanh mặt ngọc đượm màu phong sương

Dương Quá một đời chuyên tâm luyện võ, đọc sách không nhiều, mấy năm trước tại một tửu điếm nhỏ ở Giang Nam, chàng đọc thấy bài từ này viết trên vách, thấy tình thâm ý chân, nhẩm vài lần đã thuộc, bây giờ tự dưng nhớ lại, đã quên tác giả là ai, nghĩ bụng: “Người ấy mười năm sống chết hai đường. Ta và Tiểu Long Nữ xa nhau đã mười sáu năm. Người ấy có một nấm mộ, biết hài cốt của ái thê ở đâu, còn ta thì ái thê chôn cất ở chỗ nào cũng không biết”. Rồi chàng nhớ tiếp nửa sau bài từ, trong đó nhà thơ một đêm nằm mộng thấy ái thê:

Đêm mơ về lại cố hương

Thấy em hiên vắng soi gương chải đầu

Nhìn nhau không nói một câu

Áo xanh ướt đẫm lệ sầu chứa chan

Biết khi trăng chiếu thông ngàn

Đoạn trường chốn ấy gặp nàng được chăng?

(Đây là bài từ Giang thành tử của Tô Đông Pha. Khi ông đang ở Sơn Đông, trùng vào ngày giỗ thứ mười của ái thê, đêm nằm mơ thấy nàng, nên từ Sơn Đông hoài vọng về Ba Thục, cảm khái viết nên bài từ này)

Bất giác lòng chàng đau đớn: “Còn ta, còn ta ba ngày ba đêm không thể chợp mắt, đến một giấc mộng cũng chẳng có!” Đột nhiên chàng nhảy bật lên, chạy đến trước Đoạn Trường nhai, nhìn trân trân hai dòng chữ Tiểu Long Nữ khắc trên đá, thét lớn:

– “Mười sáu năm sau tái hợp ở đây, phu thê thâm tình, xin đừng lỡ hẹn.” Tiểu Long Nữ ơi là Tiểu Long Nữ. Đây là những chữ chính nàng viết ra, tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

Tiếng thét của chàng phát ra từ đáy lòng, nghe vang rền cả sơn cốc, rừng núi bốn phía hưởng ứng, đông nam tây bắc, núi non xung quanh cùng dội lại:

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

– …Không giữ lời hẹn… Không giữ lời hẹn…

Tính chàng vốn quật cường mạnh mẽ, giờ thì không còn thiết gì nữa, nghĩ: “Long nhi đã qua đời từ mười sáu năm về trước, ta còn sống thêm mười sáu năm thật vô vị”.

Chàng nhìn xuống vực sâu trước Đoạn Trường nhai, chỉ thấy dưới đó đầy sương mù. Mỗi lần tới đây, chàng chưa bao giờ thấy đáy cốc vì nó luôn có mây mù che phủ. Bây giờ cũng vậy. Chàng ngửa mặt hú một tiếng dài, khiến mấy trăm đóa hoa Long Nữ đã héo trên Đoạn Trường nhai bay lả tả, nói nhỏ:

– Năm xưa nàng đột nhiên mất tích, không biết đi đâu, ta tìm nàng khắp núi non, không thấy nàng, ta đoán nàng đã nhảy xuống cái vực sâu vạn trượng này, mười sáu năm nay chăng lẽ nàng không sợ tịch mịch hay sao?

Lệ làm mờ mắt, trước mắt tựa hồ thấp thoáng bóng áo trắng của Tiểu Long Nữ, rồi dường như chàng nghe văng vẳng có tiếng gọi của nàng từ dưới đáy vực:

– Dương lang, Dương lang chàng ơi, đừng đau lòng, đừng đau lòng!

Dương Quá nhún hai chân một cái, thân hình bay lên, chàng nhảy xuống vực sâu.

Quách Tương theo Kim Luân pháp vương đến Tuyệt Tình cốc. Pháp vương có khi hiểm độc hơn cả rắn rết, nhưng lão đã có ý nhận Quách Tương làm truyền nhân y bát, cho nên dọc đường lão săn sóc nàng rất chu đáo, coi nàng y như ái nữ thân sinh của mình. Quách Tương hận lão đánh chết Trường Tu Quỉ và Đại Đầu Quỉ, nên thần sắc trước sau vẫn lạnh lùng. Pháp vương cả đời được người ta tôn sùng, ở Tây Tạng lão được tôn sùng như đế vương, ngay cả Tứ vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt đối với lão cũng một mực kính nể. Vậy mà suốt dọc đường cô bé Quách Tương cứ hết chê lão võ công không bằng Dương Quá, lại trách lão hồ loạn sát nhân, làm cho đệ nhất quốc sư Đại Mông Cổ phải dở khóc dở cười.

Lúc hai người đến Tuyệt Tình cốc, bỗng nghe có tiếng thét lớn:

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

Tiếng thét đầy bi thương, tuyệt vọng, khổ đau.

Quách Tương nghe tựa hồ mỗi quả núi đều hùa theo “Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?”

Nàng kinh ngạc nói:

– Là đại ca ca đấy, ta đi mau lên!

Nàng chạy gấp vào cốc. Kim Luân pháp vương thấy đại địch ở phía trước, phấn chấn hẳn lên, rút kim, ngân, đồng, thiết, diên ngũ luân từ trong túi đeo sau lưng ra cầm tay. Lão đã luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, nhưng nghĩ mười sáu năm qua Dương Quá và Tiểu Long Nữ quyết chẳng ngồi không, cũng vẫn luyện võ, nên lão không dám khinh suất.

Quách Tương chạy về phía phát ra tiếng thét, chẳng mấy chốc đã tới trước Đoạn Trường nhai, thấy Dương Quá đứng trên sườn núi, mấy chục bông hoa lớn màu hồng bay lả tả xung quanh. Nàng thấy vách núi nhô ra rất hung hiểm, mình công phu thấp kém, không dám phi thân sang, chỉ gọi:

– Dương đại ca, muội tới đây!

Nhưng Dương Quá thẫn thờ đau khổ, không nghe thấy.

Quách Tương từ xa thấy cứ chỉ của chàng khác lạ, bèn nói:

– Muội còn có một cái kim châm của đại ca ca đây, hãy nghe muội nói, dù thế nào cũng đừng tự tận…

Vừa nói, nàng vừa chạy qua cái cầu đá sang chỗ chàng. Nàng chạy được nửa chừng, thấy Dương Quá tung người nhảy xuống vực sâu vạn trượng bên dưới.

Quách Tương sợ đến hồn xiêu phách lạc, cũng không biết là để cứu Dương Quá, hay là do thâm tình muốn theo chàng lìa trần, nàng nhún hai chân, nhảy luôn theo chàng xuống vực. Kim Luân pháp vương đi sau bảy, tám trượng, thấy nàng nhảy thì bay người tới cứu. Lão vội thi triển khinh công, hệt như mũi tên rời khỏi cung, nhanh dị thường, nhưng đã chậm một bước, Quách Tương đã rơi xuống dưới. Pháp vương không kịp nghĩ ngợi, sử chiêu “Đảo quải kim câu”, cúi chộp cánh tay nàng. Chiêu này rất mạo hiểm, chỉ cần sơ sảy một chút, lão cũng sẽ bị kéo ngã xuống vực. Tay lão vừa chạm vào tay áo nàng, thì nghe soạt một tiếng, tay áo của Quách Tương đã bị xé rách, thấy thân hình nàng chui qua mây mù mấy chục trượng bên dưới, nàng rơi qua đó, mây mù liền khép lại, không còn thấy bóng dáng đâu nữa.

Pháp vương thở dài buồn bã, tay cầm mảnh áo rách, thẫn thờ nhìn xuống vực.

Một hồi lâu, bỗng nghe có tiếng gọi từ sườn núi đối diện:

– Gã hòa thượng kia, ở đấy làm gì vậy?

Pháp vương nhìn sang, thấy bên đó có sáu người, đi đầu chính là Chu Bá Thông. Cạnh Chu Bá Thông có ba nữ tử, Pháp vương nhận ra Hoàng Dung, Trình Anh và Lục Vô Song, tiếp đến một lão tăng râu tóc bạc như cước, rồi đến một hắc y lão bà, Pháp vương chưa biết đó là Nhất Đăng đại sư và Anh Cô. Pháp vương đã mấy lần mục kích công phu của Chu Bá Thông, biết lão đầu nhi này võ công xuất quỉ nhập thần, trong bụng có ba phần ngán ngại, còn Hoàng Dung thì kiêm sở trường của hai nhà Đông Tà, Bắc Cái cơ biến lạ lùng, là một nhân vật cực kỳ lợi hại.

Pháp vương đã luyện thành thần công, vốn có thể giao đấu với hai đệ nhất cao thủ võ học, nhưng lúc này lão ta còn đang thương tiếc Quách Tương chết thảm, nên buồn rầu nói:

– Quách Tương cô nương ngã xuống thâm cốc rồi. Than ôi!

Nói xong thở dài.

Mọi người nghe thấy đều cả kinh. Hoàng Dung càng chấn động, run giọng hỏi:

– Thật vậy ư?

Pháp vương nói:

– Ta nói dối phu nhân làm gì? Chẳng phải mảnh áo của Quách cô nương đây sao?

Đoạn lão ta giơ mảnh áo lên. Hoàng Dung nhìn, đúng là mảnh rách từ áo của nữ nhi, thì toàn thân run rẩy như sa xuống hố băng, không nói nên lời.

Chu Bá Thông tức giận nói:

– Hòa thượng thối tha, sao ngươi lại đi giết hại một tiểu cô nương? Người gì mà tàn ác thế?

Pháp vương lắc đầu, nói:

– Không phải ta giết hại đâu.

Chu Bá Thông nói:

– Đang yên đang lành tại sao tiểu cô nương lại đi nhảy xuống vực? Ngươi không đẩy, thì cũng là ngươi bức tiểu cô nương phải nhảy xuống.

Pháp vương thở dài, nói:

– Đều không phải. Ta có ý thu nhận Quách cô nương làm đồ đệ, truyền cho y bát, sao lại đi giết hại làm gì?

Chu Bá Thông nhổ sang một bãi nước miếng, gằn giọng:

– Thối lắm, khó ngửi lắm! Ngoại công của Tương nhi là Hoàng lão tà, phụ thân là Quách Tĩnh, mẫu thân là Hoàng Dung, mỗi một người ấy không mạnh hơn hòa thượng thối tha nhà ngươi chắc? Ngươi lại đòi Tương nhi bái ngươi làm sư phụ, nhận y bát thối tha của ngươi. Lão Ngoan đồng ta chỉ cần dạy cho Tương nhi vài môn võ mèo quào, cũng đủ đánh bại mấy cái vòng tròn sắt gỉ đồng hoen kia của ngươi!

Chu Bá Thông và Pháp vương cách nhau rất xa, bãi nước miếng kia như một viên đạn bắn thẳng tới mặt, Pháp vương nghiêng đầu né tránh, thầm thán phục. Chu Bá Thông thấy mình vặn cho Pháp vương á khẩu vô ngôn, thì dương dương tự đắc, lại quát:

– Chắc là Quách Tương không chịu bái ngươi làm sư phụ, phải vậy không? Còn ngươi cứ một mực muốn nhận Quách Tương làm đồ đệ, phải vậy không?

Pháp vương gật gật đầu. Chu Bá Thông lại nói:

– Như thế tức là ngươi đã đẩy Quách Tương xuống vực.

Pháp vương trong lòng phiền muộn, thở dài, nói:

– Ta không đẩy. Quách cô nương tại sao tự tận, thì ta quả thật không hiểu.

Hoàng Dung tâm thần hơi trấn tĩnh, nghiến răng, giơ cây trúc bổng, xông tới chỗ Kim Luân pháp vương. Hoàng Dung sử tự quyết chữ “Phong”, bổng ảnh loang loáng, lập tức phong bế khoảng vài thước trước mặt Pháp vương. Trên chiếc cầu đá rộng chưa đầy một thước, Hoàng Dung đau đớn về cái chết của nữ nhi, chiêu nào cũng đều là sát thủ.

Pháp vương võ công tuy cao hơn Hoàng Dung, cũng không dám đối địch trực diện, thấy bổng pháp tinh kỳ, nếu tiếp chiêu của Hoàng Dung, Chu Bá Thông xông vào trợ chiến, chỗ này địa thế quá hiểm, sẽ rất khó đối phó, bèn nhún chân trái một cái, nhảy lùi ba thước, hú một tiếng dài, đột nhiên nhảy vọt qua đầu Hoàng Dung. Hoàng Dung chọc cây bổng lên, Pháp vương dùng ngân luân gạt đi. Hoàng Dung hít một hơi, quay mình lại. Chỉ thấy Chu Bá Thông đã đấu với Pháp vương. Pháp vương coi trọng thân phận một đại tông sư, thấy đối phương dùng tay không, lão ta bèn giắt ngũ luân vào thắt lưng, dùng tay không đánh trả. Hoàng Dung chạy qua cầu đá trở lại, cây bổng điểm tới sau lưng Pháp vương.

Pháp vương sau khi luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, hôm nay mới gặp cao thủ, đang rất muốn thử, thấy Chu Bá Thông vung quyền đánh tới, liền dùng quyền đối quyền, quyền của đôi bên chưa đụng nhau, đã phát ra tiếng nổ lép bép. Chu Bá Thông kinh ngạc, đoán quyền lực của đối phương bất thường, không dám đụng thẳng, cùi chỏ hơi trầm xuống, sử dụng Không minh quyền. Một quyền này của Pháp vương đánh ra, lực đạo gần ngàn cân, tuy không thể nói có đại lực của rồng của voi, song thân phàm xác trần quyết không thể chịu nổi. Nhưng khi chạm với quyền lực của Chu Bá Thông, chỉ cảm thấy nhẹ bẫng, không có chỗ nào để sử lực, lòng thầm kinh dị, tả chưởng liền vỗ ra.

Chu Bá Thông đã cảm thấy kình lực của đối phương khác hẳn thông thường, thật là chưa từng gặp. Lão tính hiếu võ, hễ biết ai có tuyệt kỹ là bám lấy để giao đấu cho bằng được, một đời trải qua không biết bao nhiêu trận lớn nhỏ, đấu với vô số hảo thủ giang hồ, nhưng luồng kình lực như Pháp vương phát ra thế này thì chưa từng nghe, chưa từng thấy, nhất thời chưa biết là môn gì, liền sử dụng bảy mươi hai lộ Không minh quyền, lấy hư ứng thực, vận không đương cường. Như thế, tuy làm cho lực đạo khủng khiếp của Pháp vương không có đất dụng võ, song bản thân cũng không thể đả thương đối thủ.

Pháp vương sử mấy chiêu, lại chỉ như gãi ngứa đối phương. Lão ta vùi đầu khổ luyện mười mấy năm, xuất thủ lại vô hiệu, tất hết sức nôn nóng, chợt nghe tiếng gió rít sau lưng, cây gậy trúc của Hoàng Dung chọc tới huyệt Linh Đài Xích, bèn gạt tay ra phía sau một cái, rắc một tiếng, cây trúc bổng lập tức gãy đôi, dư lực còn làm cho cát đá bay mù mịt.

Hoàng Dung kinh hãi nhảy ra, nghĩ thầm lão ác tăng năm xưa lợi hại, hiện thời còn lợi hại gấp mấy hồi xưa, chưởng lực của lão ta ghê gớm như thế là môn công phu gì vậy?

Trình Anh và Lục Vô Song thấy Hoàng Dung bất lợi, một dùng ngọc địch, một dùng trường kiếm, từ hai phía tả hữu tấn công Pháp vương. Hoàng Dung kêu lên:

– Hai vị hãy cẩn thận!

Lời chưa dứt, rắc rắc hai tiếng, ngọc địch và trường kiếm đã gãy cả. Vì Quách Tương đã thảm tử, Pháp vương hôm nay không muốn đả thương mạng người, chỉ quát:

– Xéo cả ra!

Chứ lão ta không đuổi theo Trình, Lục hai nàng.

Bỗng thấy một bóng đen nhào tới, Anh Cô đã đánh bên mình. Pháp vương hất chưởng đánh vào eo lưng Anh Cô. Võ công của Anh Cô vốn thấp hơn Hoàng Dung, nhưng Anh Cô luyện môn “Nê thu công”, né tránh cực kỳ tài tình; lúc cảm thấy có luồng cự kình ập đến, lão bà uốn người hai ba cái đã luồn lách tránh được. Pháp vương không biết rằng võ công của Anh Cô kỳ thực chưa tới cảnh giới đệ nhất cao thủ, lão đánh liền hai quyền đều bị lão bà dùng thân pháp cổ quái tránh được, thì không khỏi kinh ngạc. Lão cứ tưởng thần công của mình đủ để tung hoành thiên hạ, ai dè có hai lão nhân còn chưa làm gì nổi họ, thì không khỏi thất vọng, không ham đánh nữa, nhảy tránh sang một bên.

Anh Cô cố gắng hết sức mới tránh thoát hai chiêu của Pháp vương, thấy lão ta nhảy lui thì không mong gì hơn, đâu còn dám xông tới. Chu Bá Thông quát:

– Đừng hòng bỏ chạy!

Lão vọt đuổi theo.

Pháp vương đang định đánh lại một chưởng, bỗng nghe ào ào một luồng khí nhu hòa ập tới trước mặt, chính là Nhất Đăng đại sư sử dụng công phu “Nhất dương chỉ”. Pháp vương từ đầu vốn không để ý đến bạch mi lão tăng, không ngờ công phu “Nhất dương chỉ” của đại sư lại thâm hậu đến thế.

Công phu “Nhất dương chỉ” của Nhất Đăng đại sư thật đã đạt tới cảnh giới đăng phong tạo cực, lô hỏa thuần thanh. Luồng canh khí do chỉ phát ra tưởng như ấm áp bình hòa, song ào ạt thâm hậu, không thể chống đỡ. Pháp vương kinh sợ nghiêng mình né tránh, rồi mới đánh trả một chưởng. Nhất Đăng đại sư thấy chưởng lực của Pháp vương quá cương mãnh, không dám tương tiếp, nhẹ nhàng thoái lui vài bước. Một vị cao tăng Nam Triệu, một vị dị sĩ Tây Vực, đôi bên trao đổi một chiêu, không ai dám coi thường đối phương. Chu Bá Thông giữ thể diện, không xông vào giáp kích, đứng một bên quan chiến.

Khoảng cách giữa Nhất Đăng đại sư và Pháp vương bất quá chỉ vài thước, nhưng bên này phát chưởng, bên kia phát chỉ, càng lúc càng xa, dần dần cách nhau hơn một trượng, mỗi bên dùng công lực bình sinh mà đánh từ xa. Hoàng Dung đứng ngoài xem, thấy trên đỉnh đầu Nhất Đăng đại sư có một luồng bạch khí bốc lên, càng lúc càng dày, như hơi nước sôi, rõ ràng đại sư đang vận chuyển nội kình, chỉ sợ đại sư tuổi cao lực suy, không địch nổi Pháp vương, trong lòng lại thương nữ nhi thảm tử, rất muốn xông tới liều chết một phen với kẻ thù, nhưng thấy hai bên đang chưởng lai chỉ vãng, chân lực đấu nhau dữ dội, quả thật không thể xen vào, đang chưa biết tính sao, bỗng nghe có tiếng chim điêu trên cao, bèn huýt sáo ra hiệu, tay chỉ Pháp vương.

Một đôi chim điêu màu trắng vừa kêu vừa lao bổ từ trên không trung xuống đầu Pháp vương.

Nếu là Thần điêu của Dương Quá, chắc Pháp vương ngán ngại, còn đôi chim điêu này tuy to xác, song cũng chỉ là loài chim, làm gì nổi lão ta? Nhưng lúc này Pháp vương đang dốc toàn lực đấu với Nhất Đăng đại sư, không thể lơi lỏng chút nào, đôi chim điêu đột nhiên lao xuống, Pháp vương đành đẩy tả chưởng lên hai cái, hai luồng chưởng lực phân kích đôi chim điêu.

Đôi chim điêu không chịu nổi, bay vọt lên cao. Nhưng như thế đã giúp Nhất Đăng đại sư lập tức chiếm thượng phong. Pháp vương phải vội vận lực vào tả chưởng mới tái lập được cục diện ngang ngửa.

Đôi chim điêu nghe Hoàng Dung huýt sáo thúc giục, song chưởng lực của kẻ địch quá mạnh, bèn hư trương thanh thế, đột nhiên kêu to, lao nhanh xuống, nhưng còn cách đầu Pháp vương hơn một trượng, không đợi lão ta phát chưởng, đôi chim điêu đã bay lên.

Song điêu cứ thay phiên nhau lao xuống như thế, tuy không đả thương, nhưng cũng làm rối loạn tâm trí Pháp vương. Cao thủ đối địch, phải tập trung ý chí, đầu óc tỉnh táo, nội lực mới có thể phát huy tối đa, chưởng lực của Pháp vương tuy hơn hẳn Nhất Đăng đại sư, nhưng tu tâm dưỡng tính thì thua xa Nhất Đăng, vừa rồi Quách Tương thảm tử, tâm thần Pháp vương đã bất định, giờ thêm đôi chim điêu quấy nhiễu, lão ta càng thêm rối trí. Tâm ý hơi loạn, chưởng lực của lão ta lập tức cảm ứng. Nhất Đăng mỉm cười, tiến lên nửa bước. Hoàng Dung thấy Nhất Đăng tiến bước, liền nói to:

– Quách Tĩnh, Dương Quá, hai người cùng tiến vào, hợp lực bắt lấy hắn!

Kỳ thực Quách Tĩnh là trượng phu, Hoàng Dung quyết không gọi tên trống không như vậy, song tiếng gọi vừa rồi cốt làm cho Pháp vương giật mình, chứ nếu gọi “Tĩnh ca ca”, Pháp vương sẽ không biết “Tĩnh ca ca” là ai cả, hiệu lực giật mình sẽ giảm hẳn. Quả nhiên Pháp vương vừa nghe hai cái tên “Quách Tĩnh, Dương Quá” đã giật mình kinh hãi: “Hai hảo thủ nữa đến, ta nguy mất thôi!”

Lúc này Nhất Đăng lại tiến thêm nửa bước. Đôi chim điêu trên trời cũng đã nhận ra cơ hội, con chim cái kêu to, lao thẳng xuống mặt Pháp vương, dùng vuốt nhọn định móc mắt lão ta. Pháp vương chửi:

– Nghiệt súc!

Tả chưởng đánh lên.

Không ngờ động tác của con chim điêu mái chỉ là hư chiêu, cách mặt Pháp vương hơn một trượng nó đã bay vọt lên, trong khi con chim điêu trống lẳng lặng từ bên cạnh lao xuống đánh lén, chờ khi Pháp vương phát giác, thì móng vuốt của nó đã chạm đầu lão ta.

Pháp vương vừa kinh ngạc vừa tức giận, phẩy tay một cái, trúng bụng chim. Con điêu chộp cái mũ vàng trên đầu Pháp vương mà bay lên. Nhưng cái phẩy tay của Pháp vương rất mạnh, con điêu trống đã bị trọng thương, nó bay lên một đoạn thì hết chịu nổi, đột nhiên lộn nhào, rơi thẳng xuống vực sâu vạn trượng.

Hoàng Dung, Trình Anh, Lục Vô Song, Anh Cô không nhịn được cùng kêu lên. Chu Bá Thông cả giận, quát:

– Hòa thượng thối tha, Lão Ngoan đồng không câu nệ quy củ giang hồ gì nữa, hai người đánh một cũng được.

Đoạn vung quyền đánh tới sau lưng Pháp vương.

Con chim điêu mái thấy con trống rơi xuống vực, thì kêu lên thảm thiết lao qua đám mây mù xuống theo, hồi lâu không thấy nó bay lên.

Kim Luân pháp vương trước sau đều bị tấn công, bắt đầu sợ hãi. Lão ta võ công tuy cao, nhưng làm sao địch nổi hai đại cao thủ giáp công? Lão ta không dám ham đấu, vội tung kim luân và ngân luân, phía trước ngăn chặn Nhất dương chỉ, phía sau chống đỡ Không minh quyền, trong tình thế bị hai luồng nội lực giáp công, Pháp vương chạy chếch sang bên trái, lắc người một cái đã vọt sang lũng núi. Chu Bá Thông quát to, đuổi theo sau.

Pháp vương may mắn thoát thân, đề khí chạy gấp, nghĩ nếu để Chu Bá Thông đuổi kịp, phải đấu vài trăm chiêu cũng khó phân thắng bại, khi đó bạch mi lão tăng sẽ thừa cơ hạ độc thủ, lão ta sẽ phải bỏ cái mạng già ở Tuyệt Tình cốc này. Thấy phía trước có một cánh rừng dày, Pháp vương vội chạy về phía đó, bỗng nghe “chíu” một tiếng, một viên sỏi từ trong cánh rừng bắn ra.

Cánh rừng cách lão ta hơn trăm bước, viên sỏi kia không biết do kình lực thần kỳ nào phóng đi, mà hình thể tuy nhỏ, tiếng rít phá không khí lại mạnh dị thường, bay thẳng đến trước mặt như thế. Pháp vương giơ ngân luân gạt đi, “cạch” một tiếng, viên sỏi vỡ nát, mảnh vụn bay tứ tung, có hai mảnh văng vào mặt rát bỏng. Pháp vương kinh hãi: “Viên sỏi từ rất xa bắn tới mà làm chấn động ngân luân của ta, công lực của người bắn thật không thua gì Lão Ngoan đồng và bạch mi lão tăng, sao thiên hạ có nhiều đại cao thủ đến thế?”

Pháp vương đang bối rối, thì thấy từ trong cánh rừng thong thả bước ra một lão nhân mặc áo bào xanh, tay áo rộng thùng thình, phong thái tiêu sái xuất trần. Chu Bá Thông cả mừng, gọi:

– Hoàng lão tà, gã hòa thượng thối tha ấy hại chết ngoại tôn nữ nhi của huynh, hãy mau hợp lực bắt lấy hắn!

Người trong rừng đi ra chính là Hoàng Dược Sư.

Sau khi chia tay với Dương Quá, Hoàng Dược Sư đi lên phía bắc, một hôm đang ngồi uống rượu trong một tửu điếm nhỏ ở hương thôn, lão nhìn thấy có đôi chim điêu trắng bay trên trời, biết không phải nữ nhi, thì cũng là hai ngoại tôn nữ nhi đang ở gần đâu đây, bèn lẳng lặng bám theo, đến Tuyệt Tình cốc. Lão chưa muốn để Hoàng Dung nhìn thấy, chỉ đứng quan sát từ xa, mãi đến khi thấy Nhất Đăng và Chu Bá Thông động thủ không thắng nổi Pháp vương, nghĩ lão Tạng tăng này quả là hảo thủ bình sinh khó gặp, thì lão liền xuất thủ. Pháp vương gõ hai chiếc luân vào nhau keng một tiếng, nói:

– Các hạ có phải là Đông Tà Hoàng Dược Sư?

Hoàng Dược Sư gật gật đầu, nói:

– Không sai. Đại sư có gì chỉ giáo?

Pháp vương nói:

– Khi tại hạ ở Tây Tạng, nghe đồn Trung Nguyên chỉ có năm người tài giỏi là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, hôm nay được kiến diện, quả nhiên danh bất hư truyền. Còn bốn vị kia đâu?

Hoàng Dược Sư nói:

– Tây Độc, Bắc Cái, Trung Thần Thông tạ thế từ lâu, vị cao tăng kia là Nam Đế, còn vị Chu huynh đây là sư đệ của Trung Thần Thông.

Chu Bá Thông nói:

– Sư huynh của ta mà còn sống thì nhà ngươi không tiếp nổi mười chiêu.

Lúc này ba người đứng thành hình chữ Đinh, vây Pháp vương vào giữa. Pháp vương nhìn Nhất Đăng, nhìn Chu Bá Thông, lại nhìn Hoàng Dược Sư, thở dài, ném ngũ luân xuống đất, nói:

– Nếu đơn đả độc đấu, lão phu chẳng sợ ai hết.

Chu Bá Thông nói:

– Đúng. Nhưng hôm nay không phải là buổi luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn để tranh danh hiệu võ công đệ nhất thiên hạ, ai thèm đi đơn đả độc đấu với nhà ngươi làm gì? Hòa thượng thối tha tác ác đa đoan, hôm nay coi như hết thời.

Pháp vương thở dài, nói:

– Năm đại cao nhân Trung Nguyên, hôm nay được gặp hai vị, lão phu có chết dưới tay các vị, cũng không uổng. Chỉ tiếc “Long tượng bát nhã công” đến lão phu thì chấm hết, trên đời không có truyền nhân.

Nói đoạn giơ hữu chưởng đánh xuống Thiên linh cái của mình.

Chu Bá Thông nghe năm chữ “Long tượng bát nhã công” liền đưa tay gạt hữu chưởng của Pháp vương, nói:

– Khoan đã!

Pháp vương ngạc nhiên, hỏi:

– Lão phu có thể bị giết, không chịu nhục, các hạ còn muốn gì nữa?

Chu Bá Thông nói:

– “Long tượng bát nhã công” của lão quả rất lợi hại, nếu không có truyền nhân, đừng nói lão tiếc, mà Chu mỗ cũng tiếc. Tại sao lão không truyền thụ cho Chu mỗ, rồi hãy tính chuyện tự sát cũng chưa muộn?

Lời nói của Chu Bá Thông hoàn toàn thành thật.

Pháp vương chưa kịp đáp, chợt có tiếng vỗ cánh, con chim điêu mái cõng con chim điêu trống từ dưới vực bay lên, cả hai con đều ướt sũng, xem ra đáy thâm cốc là đầm nước. Con chim điêu trống lông vũ tả tơi, chỉ còn thở thoi thóp, móng vuốt chân bên phải vẫn nắm chắc cái mũ của Pháp vương. Con chim điêu mái đặt con trống xuống đất, rồi lại bay xuống vực lần nữa, lúc bay lên cõng theo một người, chính là Quách Tương.

Hoàng Dung vừa kinh ngạc vừa vui mừng, gọi to:

– Tương nhi! Tương nhi!

Rồi chạy lại đỡ con chim điêu.

Pháp vương thấy Quách Tương không hề hấn gì, cũng ngẩn ra. Chu Bá Thông chộp cánh tay Pháp vương, mắt phải nháy với Nhất Đăng, mắt trái nháy với Hoàng Dược Sư. Đông Tà, Nam Đế cùng xuất thủ, Pháp vương bị trúng chỉ ở cả hai bên sườn. Nếu là người khác, dù có điểm trúng bộ vị yếu hại, cũng chưa thể phong bế huyệt đạo của Pháp vương, nhưng hai ngón tay của Đông Tà, Nam Đế thì thời nay không có người thứ ba sánh kịp, một người sử dụng “Đạn chỉ thần thông” tinh vi ảo diệu, một người sử dụng “Nhất dương chỉ”, Pháp vương làm sao chịu nổi? Lão ta lảo đảo; Chu Bá Thông bồi thêm một quyền vào huyệt Chí Dương ở sau lưng Pháp vương, cười nói:

– Nằm xuống!

Hai gối Pháp vương mềm nhũn, lão ta từ từ khuỵu xuống. Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông nhìn nhau, đều kinh ngạc: “Lão Tạng tăng này quả lợi hại, bị trúng đòn nặng của cả ba người mà vẫn không ngã vật ra”.

Ba người chạy lại bên Quách Tương thăm hỏi, chỉ nghe nàng gọi:

– Mẹ, chàng ở dưới ấy, ở dưới ấy, mau, mau xuống… cứu chàng…

Chỉ nói được thế rồi mệt quá ngất xỉu. Nhất Đăng xem mạch cổ tay nàng, nói:

– Không sao, chỉ bị hoảng sợ đó thôi.

Đại sư xoa xoa sau lưng mấy cái. Lát sau Quách Tương hồi tỉnh, nói:

– Đại ca ca đã lên chưa?

Hoàng Dung hỏi:

– Dương Quá cũng ở dưới ấy ư?

Quách Tương gật đầu, nói khẽ:

– Đương nhiên.

Nàng tự nhủ thầm: “Nếu chàng không ở dưới ấy, con nhảy xuống đó làm gì?” Hoàng Dung thấy nữ nhi toàn thân ướt sũng, bèn hỏi:

– Bên dưới là đầm nước à?

Quách Tương gật đầu, nhắm mắt, không còn sức nói chuyện nữa, tay chỉ xuống vực.

Hoàng Dung nói:

– Dương Quá đã ở bên dưới, chỉ có cách sai điêu nhi xuống cõng lên.

Đoạn huýt sáo gọi chim. Gọi liền mấy tiếng, không thấy đôi chim điêu bay tới. Hoàng Dung lấy làm lạ, mấy chục năm qua đôi chim điêu hễ nghe tiếng sáo là tới, chưa hề trái lệnh, tại sao hôm nay chúng lại làm như không nghe thấy hiệu lệnh của chủ? Hoàng Dung lại huýt một tiếng sáo dài, thì thấy con chim điêu mái vỗ cánh bay lên trời cao, lượn vài vòng, kêu vài tiếng oắc oắc bi thương, rồi lao thẳng xuống núi. Hoàng Dung nghĩ: “Hỏng rồi” vội gọi to:

– Điêu nhi!

Chỉ thấy con chim điêu mái lao xuống tảng đá, vỡ đầu gãy cánh mà chết tức thì. Mọi người ngạc nhiên chạy lại xem, thì ra con chim điêu trống đã chết từ lâu. Mọi người thấy con chim điêu mái thâm tình trọng nghĩa như thế, ai cũng cảm khái. Hoàng Dung có đôi chim điêu bầu bạn từ nhỏ, càng đau đớn đến chảy nước mắt.

Đột nhiên Lục Vô Song tựa hồ nghe văng vẳng bên tai tiếng hát trong trẻo của sư phụ Lý Mạc Sầu: Tình là chi hỡi thế gian, câu thề sinh tử đa mang một đời…Trời nam đất bắc đôi nơi…

Nàng từ nhỏ theo Lý Mạc Sầu học nghệ, những lúc vắng vẻ thường nghe sư phụ hát khúc ca ấy, bấy giờ nàng chưa trải thế tình, chưa hiểu thâm ý của khúc ca, lúc này nhìn thấy sau khi con chim điêu trống chết, con chim điêu mái tuẫn tình, nghĩ thầm: “Con chim điêu mái giả dụ không chết, rồi đây một mình nó bơ vơ trên mây hoặc giữa núi tuyết, thử hỏi chịu sao cho thấu?” Nghĩ thế mà nước mắt rưng rưng.

Trình Anh nói:

– Sư phụ, sư tỷ, Dương đại ca đã ở dưới vực, chúng ta phải nghĩ cách cứu chàng lên mới được.

Hoàng Dung lau nước mắt, hỏi Quách Tương:

– Quang cảnh dưới đó thế nào?

Quách Tương đã phần nào trấn tĩnh tinh thần, nói:

– Hài nhi nhảy xuống, rơi ngay xuống đáy nước, hoảng hốt uống mấy ngụm nước. Sau không biết sao tự dưng nổi lên mặt nước, Dương đại ca kéo tóc hài nhi, nâng lên…

Hoàng Dung hơi yên tâm, hỏi:

– Xung quanh đầm nước có nham thạch, có hang đá làm chỗ dung thân phải không?

Quách Tương nói:

– Xung quanh đầm nước toàn là đại thụ.

Hoàng Dung hỏi:

– Tại sao con lại nhảy xuống đó?

Quách Tương nói:

– Dương đại ca kéo hài nhi lên, câu đầu tiên cũng hỏi như thế. Hài nhi bèn lấy cái kim châm đưa cho chàng, nói: “Tiểu muội nhảy xuống bảo Dương đại ca bảo trọng thân thể, không nên tự vẫn”. Chàng cứ chăm chú nhìn hài nhi, không nói gì. Lát sau thấy con chim điêu trống rơi xuống, con chim điêu mái bay xuống cõng lên, rồi nó lại bay xuống để đưa hài nhi lên. Hài nhi bảo Dương đại ca lên trước, chàng không nói một lời, nhấc hài nhi đặt lên lưng con chim điêu. Mẹ ơi, hãy sai con chim điêu xuống lần nữa đón Dương đại ca lên đi.

Hoàng Dung tạm thời chưa nói cho Quách Tương biết cặp chim điêu đã chết, cởi áo ngoài khoác lên mình Quách Tương, quay lại nói:

– Xem ra Dương Quá nhất thời chưa bị nguy hiểm, chúng ta mau tết một sợi dây dài, thả xuống kéo Quá nhi lên.

Mọi người khen phải, tản ra bóc vỏ cây. Thoáng chốc đã bóc được không ít vỏ cây.

Trình Anh, Lục Vô Song và Anh Cô tết thành một sợi dây dài. Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Hoàng Dung bốn người tiếp tục dùng dao bóc vỏ cây. Bốn người tuy là đại cao thủ võ lâm thời nay, nhưng làm những việc thô thiển thế này vẫn thua người thợ thạo nghề, mãi đến lúc trời tối, mới tết được một sợi dây dài hơn trăm trượng, xem ra còn lâu mới đủ dài. Trình Anh buộc một hòn đá vào đầu sợi dây, đầu kia vắt qua cành một cây đại thụ, rồi tết dài dây mà thả dần hòn đá qua lớp sương mù xuống vực.

Bảy người ai nấy nội lực sung mãn, làm việc cả buổi tối không nghỉ. Đến sáng hôm sau, Quách Tương cũng giúp sức. Hoàng Dung mới hỏi mấy câu sơ qua về chuyện nàng bị Pháp vương bắt đi như thế nào.

Sợi dây đã dài lắm, mà Dương Quá ở bên dưới vẫn không phát tín hiệu gì. Hoàng Dược Sư rút cây ngọc tiêu vận khí thổi mạnh, tiếng tiêu vọng xuống vực. Xét về lý Dương Quá nghe thấy tiếng tiêu, tất phải hú thật dài đáp lời, nhưng Hoàng Dược Sư thổi một hồi lâu, dưới vực vẫn tĩnh mịch vô thanh.

Hoàng Dung trầm ngâm, lấy kiếm chặt một cành cây dùng mũi kiếm khắc lên gỗ dòng chữ: “Bình an không, hãy trả lời”, rồi ném khúc gỗ xuống. Rất lâu sau vẫn không có tiếng hồi đáp. Mọi người nhìn nhau không khỏi lo âu.

Trình Anh nói:

– Sơn cốc tuy sâu, nhưng sợi dây cũng dài đến đáy, để tiểu muội xuống xem sao.

Chu Bá Thông nói:

– Để lão phu xuống trước!

Cũng không đợi người bên cạnh trả lời, lão chạy tới mép vực, nắm lấy sợi dây tuột luôn xuống, trong giây lát đã mất hút trong sương mù, không tới nửa canh giờ thấy lão leo lên nhanh nhẹn như một con vượn, đầu tóc dính đầy rêu xanh, lão cứ lắc đầu lia lịa, nói:

– Không thấy Dương Quá Dương Vừa đâu cả!

Mọi người nhìn Quách Tương nghi ngờ. Quách Tương ức phát khóc lên được, nói:

– Dương đại ca rõ ràng ở dưới đó, sao lại không thấy? Chàng ngồi trên một cây đại thụ trên bờ đầm ấy.

Trình Anh lẳng lặng nắm lấy sợi dây tuột luôn xuống vực, Lục Vô Song theo sau. Tiếp đó Anh Cô, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đều nắm lấy sợi dây tuột xuống.

Hoàng Dung nói:

– Tương nhi, con còn mệt, không thể xuống, đừng để ta lo thêm. Dương đại ca của con nếu ở dưới đó, chúng ta nhiều người thế này nhất định sẽ cứu được lên, hiểu chưa?

Quách Tương nóng ruột, nuốt nước mắt vâng lời. Hoàng Dung nhìn Kim Luân pháp vương đang ngồi một chỗ, nghĩ lão ta bị điểm huyệt, sắp qua mười hai canh giờ, người này võ công cao siêu, không thể để lão ta dùng chân khí xung khai huyệt đạo, bèn bước tới điểm các huyệt Linh Đài ở lưng, Cự Quyết ở ngực, Thanh Lãnh Uyên ở hai cánh tay lão ta, rồi mới nắm lấy sợi dây tuột xuống vực.

Tay nắm hơi lỏng, thân hình rơi xuống càng lúc càng nhanh, giữa chừng lại nắm chặt để rơi chậm lại, rồi lại nới lỏng, cứ thế mấy lần thì xuống tới đáy cốc. Thấy đáy cốc quả nhiên là đầm nước trong xanh, những người xuống trước đang đứng trên bờ đầm quan sát, chưa hề thấy tung tích Dương Quá. Lại thấy trên mấy cây lớn ở bên trái đầm treo ba chục cái đõ ong lớn, cái thấp cái cao, bay quanh các đõ ong toàn là ong ngọc phong. Hoàng Dung chợt hiểu, nói:

– Chu đại ca, hãy bắt thử một con ong, xem cánh nó có xăm chữ hay không?

Chu Bá Thông bắt một con ong, xem kỹ, nói:

– Không có chữ.

Hoàng Dung quan sát hình thế xung quanh sơn cốc, thấy bốn phía đều là vách đá cao trăm trượng, không có lối đi, các cây đại thụ bên đầm nước đều kỳ hình quái trạng, không biết cây gì, ngẩng đầu, sương mù che kín, khó thấy mặt trời, đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe Chu Bá Thông reo:

– Con này có chữ, con này có chữ!

Hoàng Dung bước lại thấy trên đôi cánh con ong ấy quả nhiên có sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc”, đoán rằng mấu chốt là ở trong đầm nước. Trong bảy người ở đây, chỉ một mình Hoàng Dung giỏi bơi lặn. Bèn ngậm vào miệng một viên “Cửu hoa ngọc lộ hoàn”, đề phòng trong nước có rắn rết gì chăng, rồi nhảy xuống đầm.

Đầm nước khá sâu, Hoàng Dung lặn nhanh, càng xuống càng lạnh, sau đó lạnh thấu xương, mở mắt ra, thấy xung quanh một màu xanh lam, tựa hồ toàn băng là băng. Hoàng Dung kinh ngạc, nhưng chưa chịu, ngoi lên mặt nước hít vài hơi, lại lặn xuống. Nhưng đến chỗ cực sâu có lực đẩy lên, càng xuống sâu lực đẩy lên càng mạnh. Hoàng Dung cố gắng hết mức cũng không thể xuống tới đáy đầm, đồng thời lại quá lạnh, xung quanh không có chỗ tựa, đành ngoi lên.

Mọi người thấy Hoàng Dung môi tím ngắt, tóc bám đầy một lớp tuyết mỏng, thì kinh hãi. Trình Anh và Lục Vô Song vội bẻ cành khô, đốt một đống lửa cho Hoàng Dung sưởi.

Quách Tương thấy mẫu thân cùng mọi người tuột cả xuống đầm, thì nghĩ: “Dương đại ca không chịu lên, ngoại công và mẹ cũng sẽ khiêng chàng lên. Rốt cuộc tại sao chàng lại muốn tự tận? Chẳng lẽ Dương đại tẩu chết rồi ư? Vĩnh viễn không gặp lại chàng nữa ư?”

Đang ngây người xuất thần, bỗng nghe Kim Luân pháp vương kêu to “Ối!”. Quách Tương ngoảnh nhìn, thấy Pháp vương mặt mũi nhăn nhó, rõ ràng đang phải chịu đựng đau đớn. Nàng hừ một tiếng, nói:

– Lão tự làm tự chịu, ai bảo động một tí lại ra tay giết người?

Pháp vương kêu to hơn:

– Ối đau quá!

Ánh mắt lộ rõ vẻ cầu khẩn.

Quách Tương không nhịn được, hỏi:

– Sao, đau lắm à?

Pháp vương nói:

– Mẹ cô nương điểm huyệt Linh Đài ở lưng, huyệt Cự Quyết ở ngực, toàn thân lão phu như bị hàng ngàn con kiến đốt, đau nhức không sao chịu nổi. Tại sao Hoàng phu nhân không điểm thêm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm kia chứ?

Quách Tương sững người, nàng từng được mẫu thân dạy phép điểm huyệt, biết Đàn Trung và Ngọc Chẩm là hai đại yếu huyệt trên thân người, chỉ cần hơi bị tổn thương, có thể lập tức mất mạng, bèn nói:

– Mẫu thân bổn cô nương tạm tha chưa lấy mạng lão, lão không cảm kích, còn kêu ca nỗi gì?

Pháp vương ngang nhiên nói:

– Nếu điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm, lưng và ngực lão phu sẽ tê dại, đỡ đau nhức rất nhiều. Lão phu tu vi thâm hậu, không lẽ lại đi coi thường mạng sống của mình?

Quách Tương không tin, nói:

– Lão đừng nói dóc. Mẫu thân bổn cô nương bảo rằng đụng vào hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm là mất mạng, lão bị đau nhức thì cố mà chịu, mọi người sắp trở lên rồi đó.

Pháp vương nói:

– Quách cô nương, suốt dọc đường lão phu đối xử với cô nương thế nào?

Quách Tương nói:

– Cũng không đến nỗi. Nhưng lão đã giết Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ, lại làm chết đôi chim điêu của gia đình bổn cô nương, lão có đối xử tử tế mấy với bổn cô nương cũng không chuộc lại được.

Pháp vương nói:

– Thôi được, giết người đền mạng, cô nương giết lão phu để trả thù cho bằng hữu của cô nương cũng được. Nhưng còn suốt dọc đường lão phu đối xử tử tế với cô nương, cô nương sẽ báo đáp sao đây?

Quách Tương hỏi:

– Lão muốn báo đáp như thế nào?

Pháp vương nói:

– Cô nương hãy điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm cho lão phu đỡ khổ sở một chút, coi như đã trả ơn lão phu.

Quách Tương lắc đầu, nói:

– Lão muốn bổn cô nương giết lão, nhưng bổn cô nương không làm thế đâu.

Pháp vương vội nói:

– Đại trượng phu một lời như dao chém đá, cô nương điểm hai huyệt ấy, lão phu nhất định không chết đâu. Lão phu còn chờ mẫu thân cô nương trở lên để cầu xin tha mạng, ai lại chết đi là sao?

Quách Tương thấy lão ta nói năng thành thật, nghĩ: “Mình hãy điểm huyệt thật nhẹ thôi xem sao”. Bèn đưa tay điểm nhẹ huyệt Đàn Trung ở ngực lão ta.

Pháp vương thở phào, nói:

– Quả nhiên dễ chịu lắm, cô nương hãy ấn mạnh chút nữa.

Quách Tương ấn mạnh thêm, chỉ thấy Pháp vương tươi cười, không có dấu hiệu gì chứng tỏ tổn thương, sắc mặt chuyển từ màu hồng sang màu trắng, rồi lại chuyển từ màu trắng sang màu hồng.

Pháp vương nói:

– Mạnh chút nữa!

Quách Tương theo phép điểm huyệt phụ mẫu đã dạy, ấn một cái vào huyệt Đàn Trung của Pháp vương.

Pháp vương nói:

– Dễ chịu quá! Ngực lão phu hết đau rồi, cô nương thấy đó, lão phu không chết được, đúng chưa?

Quách Tương lấy làm lạ, nói:

– Bổn cô nương sẽ điểm huyệt Ngọc Chẩm này!

Nàng ban đầu ấn nhẹ thử, rồi mới ấn mạnh một cái.

Pháp vương nói:

– Đa tạ, đa tạ.

Lão nhắm mắt vận khí, đột nhiên đứng bật dậy, nói:

– Đi nào!

Quách Tương kinh hãi, kêu lên:

– Lão… lão…

Pháp vương chộp ngay lấy cổ tay nàng, nói:

– Đi mau! Kim Luân pháp vương ta võ công độc bộ thiên hạ, chẳng lẽ cái công phu thô thiển “Thôi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt” lại không biết hay sao?

Nói đoạn kéo Quách Tương chạy đi.

Quách Tương kêu to:

– Quân lừa đảo, quân lừa đảo.

Nàng thầm hối hận: “Mình thật kém hiểu biết, ngay cái công phu thô thiển ấy cũng không biết”.

Nàng đâu biết rằng kỳ công “Thôi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt” chẳng thô thiển chút nào. Thực ra đó là nội công cực kỳ thâm ảo khó luyện của Mật tông Tây Tạng, tuy không bằng phép nghịch chuyển kinh mạch toàn thân của Âu Dương Phong, nhưng cũng là một môn thần công hiếm có. Khi Quách Tương điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm, Pháp vương ngầm đổi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt, đem hai huyệt khác chuyển đến chỗ này. Quách Tương lúc ấn huyệt còn sợ làm cho lão ta mất mạng, kỳ thực nàng đang giải huyệt cho lão ta.

Pháp vương kéo Quách Tương chạy được vài trượng, đột nhiên nảy sinh độc kế, thấy sợi dây dài vắt qua cành cây, chỉ cần dứt đứt nó, thì cả bọn Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng, Hoàng Dung sẽ bỏ mạng dưới đáy cốc, lão bèn chạy tới chộp sợi dây mà vận lực dứt đứt.

Quách Tương cả kinh, thúc mạnh cùi chỏ vào mạng sườn Pháp vương. Cũng tại Pháp vương coi thường, không đề phòng gì, nên lão bị cùi chỏ thúc trúng vào huyệt Uyên Dịch, nửa thân trên lập tức tê dại, trong giây lát toàn thân vô lực. Quách Tương giật mạnh một cái, cổ tay thoát khỏi bị nắm, song chưởng đặt vào lưng lão, nói:

– Bổn cô nương đẩy lão ác tăng ngã xuống vực cho chết này!

Pháp vương cả kinh, ngầm vận nội lực xung huyệt, cười ha ha, nói:

– Công phu non kém như cô nương, đẩy ngã ta sao nổi kia chứ?

Quách Tương không biết thời cơ trôi qua nhanh chóng, lúc này Pháp vương huyệt đạo chưa được giải, nàng chỉ cần đẩy mạnh một cái, lão ta sẽ ngã xuống vực hoặc phải nhanh tay lập tức điểm các huyệt đạo trên người lão ta, thì lão ta cũng chẳng tài gì kịp hoán chuyển huyệt đạo.

Nhưng nàng từng thấy ban nãy mình điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm mà lão ta chẳng việc gì, lại còn giúp lão giải huyệt, có điểm huyệt nữa cũng vô dụng, bèn tung mình nhảy đi, chạy tới bên vách núi, nói:

– Bổn cô nương sẽ chết theo mẫu thân!

Rồi nàng định bụng có gì sẽ nhảy xuống vực. Pháp vương cả kinh, hít một hơi dài, xung phá huyệt Uyên Dịch vừa bị Quách Tương điểm, không kịp dứt đứt sợi dây, vội đuổi theo nàng. Quách Tương chạy len lỏi giữa các mô đá và thân cây. Nếu ở chỗ đất bằng, Pháp vương chỉ cần nhảy vài bước cũng đủ đuổi kịp nàng, nhưng trước Đoạn Trường nhai toàn những cổ mộc quái thạch, nàng cứ len chỗ này lách chỗ kia thoăn thoắt, Pháp vương chạy loanh quanh một hồi, cuối cùng sử chiêu “Nhạn lạc bình sa” từ trên cao chụp xuống, mới chộp được cánh tay nàng.

Quách Tương kêu to:

– Mẹ ơi!

Pháp vương vội lấy tay bịt miệng nàng. Đúng lúc ấy từ xa vẳng lại tiếng gọi của Lục Vô Song:

– Tiểu Quách Tương đâu rồi?

Pháp vương giật mình, nghĩ thầm: “Tiếc quá, thế là mất cơ hội rồi!” Lão đưa tay điểm á huyệt của Quách Tương rồi kéo nàng chạy đi. Thực ra lúc ấy cơ hội vẫn còn, mới chỉ có một mình Lục Vô Song leo lên, nếu Pháp vương chạy đến dứt đứt sợi dây, Lục Vô Song làm sao cản nổi? Chỉ vì lão ta đã nếm đòn của Chu Bá Thông, Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư, may giữ được tính mạng, nên bỗng nhiên nghe có tiếng người liền tưởng cả đám người kia đã leo lên, đâu dám sinh sự.

Bọn Hoàng Dung ở dưới đáy cốc tìm kiếm một hồi, không thấy tung tích gì, bốn phía cũng không có vệt máu, xem ra Dương Quá không bị sao cả, mọi người bàn nhau, đành leo lên trước rồi định liệu sau. Người đầu tiên bám dây leo lên là Lục Vô Song, tiếp đến Trình Anh, Anh Cô.

Khi Hoàng Dung lên đến nơi, nghe bọn Trình Anh, Lục Vô Song và Anh Cô gọi to: “Tiểu Quách Tương đâu rồi?” thấy nữ nhi và Pháp vương biến mất, thì lo cuống cuồng, vội leo lên cây cao quan sát. Đợi Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông lên đủ, bảy người tìm khắp Tuyệt Tình cốc một lượt cũng chẳng thấy tung tích hai người.

Ra đến cốc khẩu, thấy có một chiếc hài của Quách Tương rơi dưới đất, Trình Anh nói:

– Sư tỷ đừng lo, Pháp vương đem Tương nhi đi xuống phía nam đây. Tương nhi để lại chiếc hài, để chúng ta cùng biết. Hài tử này thông minh cơ trí, thật chẳng thua mẹ nó.

Hoàng Dung nhớ lại câu nói của nữ nhi, rằng Pháp vương chỉ bức nó bái lão ta làm sư phụ, muốn truyền y bát cho nó, nghĩ nhất thời không có gì nguy hiểm, mới bớt lo.

Hồi 39: Đại chiến Tương Dương

Cả đoàn người đi xuống phía nam, dọc đường hỏi dò tin tức về Kim Luân pháp vương và Quách Tương. Đi được mấy hôm, dọc đường nghe tin dồn dập, nói hai đạo quân Nam Bắc của đại quân Mông Cổ giáp công thành Tương Dương, đã giao chiến mấy trận với quân Tống dưới chân thành, có thắng có bại, tình hình Tương Dương thập phần nguy cấp. Hoàng Dung lo lắng nói:

– Bọn Thát tử mãnh công thành Tương Dương, chúng ta phải cấp tốc về đó, sự an nguy của Quách Tương đành tạm lo sau.

Mọi người đồng thanh khen phải.

Mấy người như Nhất Đăng, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư vốn là các bậc cao sĩ siêu nhiên vật ngoại, không quan tâm thế sự, nhưng sự tồn vong của thành Tương Dương quá hệ trọng, hoặc Hán hoặc Lỗ, đều ở trận này, nên họ không thể khoanh tay làm ngơ.

Thế là không chút chậm trễ, cả bọn đi gấp, mấy hôm sau đã đến vùng ngoại vi thành Tương Dương. Chỉ nghe tiếng tù và nổi lên đây đó, nhìn xa xa tinh kỳ phấp phới, gươm giáo như rừng, ngựa phóng vùn vụt qua lại, bụi tung mù mịt, thành Tương Dương nằm trong vòng vây dày đặc của đại quân Mông Cổ. Mọi người nhìn thanh thế quân địch, không khỏi kinh hãi. Hoàng Dung nói:

– Quân địch dày đặc thế kia, phải chờ đêm tối mới có thể vào thành.

Bảy người bèn nấp trong một cánh rừng, trừ Chu Bá Thông cười hi hi như thường, sáu người còn lại đều ủ dột.

Chờ đến canh hai, Hoàng Dung là người đầu tiên xông vào doanh trại quân địch. Bảy người khinh công tuy cao, nhưng quân doanh Mông Cổ trùng trùng điệp điệp, vượt qua lớp này lại đụng lớp khác, cuối cùng họ bị một đội quân tuần tra phát giác. Tiếng trống, tiếng thanh la trong quân nổi lên, lập tức có ba đội bách phu vây họ lại. Các quân doanh khác hoàn toàn im lặng, không hề kinh động.

Chu Bá Thông đoạt hai ngọn giáo dài, đi trước mở đường. Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng mỗi người cầm một cái thuẫn đi sau ngăn chặn truy binh, bốn nữ nhân đi giữa, cùng tiến nhanh về phía trước. May mà trong quân doanh Mông Cổ, quân địch sợ đả thương người ngựa của chúng, không dám bắn tên, bớt được một loại binh khí hết sức lợi hại, nếu không ở chỗ trống trải thế này, vạn mũi tên cùng bắn, bọn Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông dẫu ba đầu sáu tay cũng chẳng thể chống đỡ. Bảy người vừa đánh vừa tiến, quân địch càng lúc càng bu lại, mấy chục ngọn giáo dài xung quanh cùng đâm về phía bảy người. Chưởng phong của Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đánh tới đâu, gươm giáo của quân địch gãy đến đó. Quân địch tử thương không ít, nhưng chúng cậy đông, vẫn hăng hái lăn xả vào tấn công.

Chu Bá Thông cười nói:

– Hoàng lão tà, ba cái mạng già hôm nay khéo phải bỏ lại đây mất, nhưng lão phải nghĩ cách cứu bốn con nhóc kia mới được.

Anh Cô nguýt lão một cái, nói:

– Nói năng chẳng suy nghĩ gì hết. Lão thái bà đây mà cũng là một con nhóc hay sao? Đã bỏ mạng thì cùng bỏ, chỉ cần cứu ba con nhóc kia là được.

Hoàng Dung thầm kinh hãi: “Lão Ngoan đồng vốn không sợ trời sợ đất, chưa từng nói một câu nhụt chí. Hôm nay sa vào trùng vây, lại bảo phải bỏ cái mạng già, xem chừng nguy thật!” Nhìn bốn phía quân địch đông như kiến có, trừ liều chết khổ chiến, cũng chưa nghĩ ra kế gì khác.

Lại vượt qua mấy lớp quân doanh, Hoàng Dung thấy mé trái có hai doanh trướng lớn màu đen, năm xưa từng theo Thành Cát Tư Hãn tây chinh, biết đấy là chỗ cất giữ lương thực, chợt nảy ra một kế, xông tới cướp một cây đuốc từ tay quân địch, lao thẳng tới kho lương. Quân địch la hét đuổi theo. Hoàng Dung chạy nhanh như một tia chớp, cúi thấp đầu một cái đã chui tọt vào trong doanh trướng, châm lửa vào các xe lương trong đó, giây lát lửa đã bùng lên bảy, tám chỗ. Hoàng Dung mới chạy trở ra hội họp với cả đoàn.

Các xe lương có nhiều vật dễ cháy, gặp lửa liền bùng cháy đùng đùng. Chu Bá Thông thích thú nhìn lửa cháy, cướp luôn hai cây đuốc từ tay quân địch, lao đi đốt các nơi, vô ý đốt một chuồng ngựa, bầy chiến mã tức thời hý lên inh ỏi, bỏ chạy tán loạn, đại doanh quân Mông Cổ nhốn nháo cả lên.

Quách Tĩnh ở trong thành nghe bên ngoài cửa Bắc quân địch huyên náo, bèn chạy ra mặt thành, thấy có mấy đám cháy ngút trời trong quân doanh Mông Cổ, biết có người quấy rối quân địch, bèn điểm hai ngàn binh mã, lệnh cho huynh đệ Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn xuất thành tiếp ứng.

Nhị Võ tiến ra hơn một dặm, trong ánh lửa thấy Hoàng Dược Sư dìu Lục Vô Song, Nhất Đăng dìu Chu Bá Thông, bảy người cưỡi năm con ngựa phi gấp tới. Nhị Võ không xông lên, mà triển khai trận thế, ngăn chặn quân địch đuổi theo, rồi hạ lệnh hậu đội biến thành tiền đội, yểm hộ cho bảy người ung dung rút về thành.

Quách Tĩnh đứng bên bờ thành chờ đón, thấy nhạc phụ, ái thê, Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông… tới thành thì cả mừng, vội cho mở cổng thành. Thấy Lục Vô Song bị trúng giáo vào lưng, Chu Bá Thông bị trúng ba mũi tên vào lưng, râu tóc cháy xém, hai người bị thương không nhẹ. Trình Anh, Hoàng Dung, Anh Cô cũng đều bị trúng tên, nhưng không vào chỗ yếu hại. Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư tinh thông y đạo, sau khi xem kỹ vết thương cho Chu Bá Thông và Lục Vô Song, đều cau mày, không nói gì.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Đoàn Hoàng gia, Hoàng lão tà, hai vị đừng buồn. Lão Ngoan đồng còn hăng hái lắm, biết chưa chết được đâu. Hai vị hãy dồn sức chữa cho con nhóc Lục Vô Song kia là được.

Lão vẫn cười đùa với Hoàng Dược Sư, còn đối với Nhất Đăng thì không chỉ kính nể, mà còn hơi sợ. Nhất Đăng xuất gia đã lâu, Chu Bá Thông vẫn cứ gọi là Đoàn hoàng gia. Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng thấy Lão Ngoan đồng cố nén đau, cười đùa như thường thì cũng yên tâm hơn. Nhưng Lục Vô Song thì vẫn hôn mê chưa tỉnh.

Hôm sau trời vừa sáng, đã nghe ngoài thành tiếng trống, tiếng tù và inh ỏi. Đại quân Mông Cổ tiến công. An phủ sứ thành Tương Dương Lã Văn Đức, đại tướng giữ thành Vương Kiên đốc suất binh mã giữ bốn cổng thành. Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên mặt thành nhìn xuống, thấy quân Mông Cổ hằng hà sa số, không thấy tận cùng. Đại quân Mông Cổ từng mấy phen vây công thành Tương Dương, chưa lần nào binh cường thế mạnh như lần này. May mà Quách Tĩnh ở lâu trong quân đội Mông Cổ, thông thạo rành rẽ các phương lược công thành của chúng, có chuẩn bị sớm, bất kể quân địch sử dụng cung tên, hoả khí, luỹ thạch, thang gỗ tấn công, quân Tống thủ thành từ trên cao đều phá giải tất cả. Đánh nhau đến lúc mặt trời lặn, quân Mông Cổ đã mất hai ngàn binh mã nhưng vẫn cứ dũng cảm xông lên.

Trong thành Tương Dương ngoài mấy vạn tinh binh, còn có vài chục vạn dân, ai ai cũng hiểu, thành này bị hạ sẽ không còn người nào sống sót, cho nên các tráng đinh cầm vũ khí giữ thành đã đành, ngay cả phụ nữ, cụ già, em nhỏ cũng gánh đất khiêng đá, góp sức chống giặc. Nhất thời trong thành ngoài thành tiếng hò hét chấn động đất trời, tên bay trên không như châu chấu.

Quách Tĩnh tay cầm trường kiếm, đứng trên mặt thành đốc chiến. Hoàng Dung đứng bên cạnh chồng, nhìn nửa bầu trời đỏ hồng, cảnh sắc đẹp mê hồn, dưới chân thành, kỵ binh địch phóng qua như gió, có thể nhìn thấy diện mạo hung dữ của một số tên lính, nhìn lại Quách Tĩnh, thấy chồng đứng sừng sững, oai phong lẫm liệt, thì trong lòng dâng lên một niềm ái mộ khó tả. Hai vợ chồng tương kính tương ái, bao năm vẫn như thuở ban đầu, nay cường địch áp cảnh, liệu có thể một lần nữa đánh lui chúng hay chăng, không ai dám đoán trước. Hoàng Dung nghĩ: “Cuộc sống vợ chồng của mình và Tĩnh ca ca ba mươi năm nay phần lớn tâm huyết dành cho thành Tương Dương. Phen này chung sức chống địch, dẫu cả hai vợ chồng mình có phải đổ máu trên mặt thành, cuộc đời coi như cũng không uổng chút nào”. Liếc nhìn chồng, thấy tóc mai bên trái điểm vài sợi bạc, bất giác thương mến, nghĩ: “Mỗi lần quân địch tiến đánh, Tĩnh ca ca lại bạc thêm vài chục sợi tóc”.

Bỗng nghe dưới chân thành quân Mông Cổ cùng hô:

– Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!

Tiếng hô từ xa tới gần, ầm ầm như sóng thuỷ triều, cuối cùng hơn mười vạn người cùng đồng thanh hô lớn, thật đúng như trời đất rung chuyển. Chỉ thấy một lá cờ soái được giơ cao, quân thiết kỵ hộ vệ một cái kiệu xanh có che lọng vàng tiến đến gần, chính là đại hãn Mông Kha lâm trận đốc chiến.

Quan binh Mông Cổ thấy đại hãn thân chinh ra trận, thì sĩ khí tăng mạnh hẳn lên. Chỉ thấy hồng kỳ phất ngang phất dọc, đội ngũ dưới chân thành chia ra hai phía tả hữu, hai vạn nhân đội tiến công gấp cổng Bắc. Đây là thân binh của đại hãn, là đội quân tinh nhuệ nhất, lại chưa hề bị tổn thương, ai ai cũng muốn lập công trước mặt đại hãn, mấy trăm chiếc thang được tấp vào tường thành, binh tướng Mông Cổ như kiến leo lên bờ thành.

Quách Tĩnh thét lớn:

– Hỡi các huynh đệ, hôm nay chúng ta làm cho đại hãn Thát tử chính mắt chứng kiến thân thủ của hảo nam nhi đại Tống.

Tiếng thét của Quách Tĩnh trung khí sung mãn, giữa tiếng huyên náo của hàng vạn người mà ai cũng nghe rõ. Quân Tống trên mặt thành đã đánh suốt một ngày mệt mỏi, nhưng nghe tiếng kêu gọi của Quách Tĩnh, lập tức trở nên hăng hái, đều nghĩ: “Bọn Thát tử khi vũ chúng ta lâu nay, giờ phải làm cho đại hãn của chúng thấy rõ sự lợi hại của quân ta”. Thế là ai nấy ra sức tử chiến.

Thi thể quân địch dần dần chất cao dưới chân thành, đội ngũ phía sau lại trào lên như sóng, đạp lên xác kẻ đã ngã mà tấn công. Các quan tả hữu phi ngựa đi truyền lệnh của đại hãn điều binh khiển tướng. Trong thành ngoài thành hàng vạn bó đuốc đã được đốt lên, chiếu sáng như ban ngày.

An phủ sứ Lã Văn Đức thấy tình thế nguy ngập, cho rằng không giữ nổi thành, khiếp sợ, mặt tái mét, chạy đến chỗ Quách Tĩnh, gọi:

– Quách… Quách đại hiệp, giữ không nổi đâu, chúng… chúng ta rút khỏi thành, chạy về phía nam thôi!

Quách Tĩnh gằn giọng:

– An phủ sứ gì mà nói năng như thế? Thành Tương Dương còn, chúng ta còn. Thành Tương Dương mất, tất cả sẽ chết!

Hoàng Dung nghĩ Lã Văn Đức chỉ cần ra lệnh lui binh, lòng quân sẽ dao động, thành Tương Dương lập tức sẽ thất thủ, bèn chĩa kiếm, quát:

– Ngài chỉ cần nói thêm một lời về việc bỏ thành lui binh, ta sẽ đâm chết ngài tức thời!

Bốn thân binh tả hữu của Lã Văn Đức xông tới ngăn chặn, đều bị Hoàng Dung gạt chân đánh ngã.

Quách Tĩnh quát:

– Mọi người hãy cùng lên mặt thành chống đich, không tử chiến thì còn gì là nam tử hán.

Các thân binh vốn kính phục Quách Tĩnh, nghe tiếng quát oai nghiêm ấy đều đồng thanh khen phải, xông tới bờ thành chống giặc. Đại tướng Vương Kiên nói to:

– Chúng ta liều chết tử thủ, bọn Thát tử sẽ không chịu nổi đâu!

Bỗng nghe viên quan Mông Cổ truyền lệnh nói:

– Chúng quan binh nghe đây! Đại hãn có chỉ dụ, người nào leo lên mặt thành đầu tiên sẽ được làm chúa thành này.

Quân Mông Cổ hò reo hưởng ứng, tướng sĩ ai nấy cũng liều chết xông lên. Viên quan truyền lệnh tay cầm hồng kỳ, qua lại truyền chỉ của đại hãn. Quách Tĩnh giương cung, phóng đi một mũi lang nha tiễn, trúng ngực viên quan truyền lệnh, hắn ngã ngựa liền. Sĩ khí quân địch giảm đi. Không lâu sau, lại có một vạn nhân đội mới áp tới chân thành.

Gia Luật Tề tay cầm giáo dài, chạy tới trước mặt Quách Tĩnh, nói:

– Nhạc phụ, nhạc mẫu! Bọn Thát tử mãnh công không thoái. Con xin xông ra ngoài thành chém giết một trận.

Quách Tĩnh nói:

– Được lắm! Ngươi dẫn bốn ngàn người xông ra, nhưng phải cẩn thận.

Gia Luật Tề lui xuống, lát sau trống trận rền vang, cổng thành mở ra, Gia Luật Tề suất lĩnh một ngàn đệ tử Cái Bang, ba ngàn quan binh chĩa giáo xông ra.

Quân Mông Cổ đang hung hăng đánh thành ở cửa Bắc, thấy quân Tống tràn ra chém giết, bèn rút chạy. Gia Luật Tề dẫn quân đuổi theo. Đột nhiên trong quân Mông Cổ có ba tiếng pháo lệnh, hai vạn nhân đội từ hai phía tả hữu bao vây đội quân bốn ngàn người của Gia Luật Tề vào giữa.

Ba ngàn quan binh được huấn luyện bài bản, võ nghệ thành thạo, lại có một ngàn đệ tử Cái Bang làm cốt cán, tuy bị vây nhưng không hề run sợ. Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Lã Văn Đức, Vương Kiên bốn người ở trên mặt thành nhìn xuống, thấy quân Tống trận thế không loạn, lấy một địch mười, hăng hái chống trả, đao quang loang loáng dưới ánh đuốc như hàng vạn con ngân xà chuyển động, thật là một trận đại chiến!

Quân Mông Cổ cậy đông, hai vạn nhân đội vây chặt bốn ngàn tinh binh của Gia Luật Tề, một vạn nhân đội khác lại leo thang công thành.

Quách Tĩnh thấy đội quân của Gia Luật Tề chặn ở bên ngoài, viện binh Mông Cổ điều động bất tiện, bèn hạ lệnh cho huynh đệ họ Võ lui binh một quãng, nhường cho quân Mông Cổ leo lên bờ thành. Nhị Võ vâng lệnh, dẫn binh tạm lui. Lập tức hàng trăm hàng ngàn tên lính Mông Cổ leo lên mặt thành. Ngàn vạn binh lính Mông Cổ bên dưới ngỡ thành đã bị phá, liền hò reo “Vạn tuế! Vạn tuế!”

Lã Văn Đức mặt như chàm đổ, toàn thân run rẩy, nói:

– Quách đại hiệp… giờ.. giờ phải làm sao? Chúng… ta… làm thế….

Quách Tĩnh không nói, chờ chừng năm ngàn quân Mông Cổ leo lên mặt thành, bèn phất lá cờ đen một cái, trống trận bỗng rền vang. Chu Tử Liễu và Võ Tam Thông mỗi người suất lĩnh một đội tinh binh từ chỗ mai phục xông ra, không để cho quân Mông Cổ leo lên mặt thành nữa. Năm ngàn quân Mông Cổ đã leo lên mặt thành liền bị vây chặt lại.

Lúc này quân Tống ở ngoài thành bị vây, quân Mông Cổ ở trong thành bị vây. Ba cửa Đông, Tây, Nam đều diễn ra ác chiến, tiếng hò hét chém giết dậy đất.

Đại hãn Mông Cổ cưỡi ngựa đứng trên một cái gò nhỏ, thân chinh đốc chiến. Hơn hai trăm chiếc trống lớn mặt da gõ ầm ầm điếc tai, át hết mọi tiếng nói chuyện. Chỉ thấy nào thiên phu trưởng, bách phu trưởng, kẻ chết, kẻ bị thương, áo giáp loang máu, được cáng từ trận tiền về. Đại hãn Mông Kha từng trải trăm trận, từng tây chinh, tiêu diệt liên quân các nước châu Âu, tiến đến tận sông Đa-nuýp, tận thành Viên, lúc này nhìn cảnh ác chiến cũng không khỏi kinh hãi: “Người ta cứ bảo bọn Nam man khiếp hãi vô dụng, kỳ thực họ chẳng thua gì tinh binh Mông Cổ ta!”

Lúc này đã là nửa đêm, trăng sao đều sáng, mây mỏng gió nhẹ, trên trời hiền hoà, nhưng dưới đất thì mười mấy vạn người đang liều mình ác chiến.

Trận chiến kéo dài từ sáng sớm đến nửa đêm, song phương đều tử thương nặng nề, bất phân thắng bại. Quân Tống chiếm địa lợi, quân Mông Cổ có ưu thế số đông.

Lại đánh hồi lâu. Bỗng nghe tiền quân có tiếng huyên náo, một đội quân Tống xông thẳng tới chiếc gò nhỏ. Thân binh hộ tống đại hãn vội bắn tên rào rào ngăn chặn. Mông Kha từ trên gò cao nhìn xuống, thấy một viên tướng hai tay cầm hai ngọn giáo, cưỡi một con ngựa cao lớn, tả xung hữu đột giữa chiến trận, tên bắn như mưa về phía viên tướng đó đều bị y gạt hết. Mông Kha giơ tay trái lên, tiếng trống liền ngưng, Mông Kha quay sang hỏi tả hữu:

– Người kia dũng mãnh thế, không biết là ai?

Một vị tướng bạc đầu ở bên trái nói:

– Khải bẩm bệ hạ. Người ấy là Quách Tĩnh. Năm xưa Thành Cát Tư Hãn phong y làm Kim đao phò mã, viễn chinh Tây Vực, lập nhiều chiến công.

Mông Kha lạc giọng nói:

– À, thì ra là y! Tướng quan thần dũng, quả nhiên danh bất hư truyền!!

Các tướng tả hữu nghe Mông Kha khen tướng địch, đều không bằng lòng. Bốn danh tướng liền cùng hô to, tế ngựa xông ra.

Quách Tĩnh thấy có bốn người thân cao ngựa lớn, hai đội mũ trắng của vạn phu trưởng, hai đội mũ hồng của thiên phu trưởng, thét vang như sấm, phi ngựa tới gần mình, keng một tiếng, làm gãy cán đại đao của một tên thiên phu trưởng, rồi đâm giáo xuyên qua ngực hắn. Hai vạn phu trưởng cùng xông tới, hai cây thiết thương ép mũi giáo của Quách Tĩnh lại, xà mâu của một tên thiên phu trưởng thì đánh tới bụng dưới của Quách Tĩnh. Cả bốn người đều sử dụng binh khí dài, không tiện chuyển gấp, Quách Tĩnh buông ngọn giáo dài, lách người sang bên phải tránh mũi xà mâu của tên thiên phu trưởng, đồng thời lật hai cổ tay chụp lấy mũi thương của hai vạn phu trưởng, quát to một tiếng như tiếng sấm nổ giữa trời xanh, giật mạnh hai mũi thương. Hai tên vạn phu trưởng tuy là dũng sĩ có tiếng trong quân Mông Cổ, nhưng chịu sao nổi thần lực của Quách Tĩnh? Lập tức cánh tay tê dại, thiết thương rời tay. Quách Tĩnh không kịp đảo mũi thương, tiện thể thúc ra, hự hự hai tiếng, hai cán thiết thương thúc vào ngực hai tên vạn phu trưởng, may mà chúng mặc áo giáp nên không bị thủng ngực, song cũng hộc máu, ngã lăn xuống ngựa.

Tên thiên phu trưởng rất quả cảm, tuy thấy ba người kia đều bỏ mạng, vẫn đâm xà mâu tới. Quách Tĩnh dùng thiết thương bên tay trái gạt xà mâu của hắn, thiết thương bên tay phải thì đánh xuống đỉnh đầu hắn, bộp một cái, hắn vỡ sọ liền.

Bọn thân binh thấy Quách Tĩnh trong giây lát đánh chết bốn viên dũng tướng, thảy đều kinh hãi, tuy ở bên cạnh đại hãn, cũng không ai dám xông ra trổ tài, chỉ không ngớt bắn tên. Quách Tĩnh định phi ngựa xông lên gò, nhưng mấy trăm mũi thương dài chĩa ra tua tủa nhiều lớp bảo vệ đại hãn, khiến Quách Tĩnh không thể tiến đến gần. Đột nhiên con ngựa hí một tiếng thảm thiết, khuỵa hai vó trước, nó đã bị trúng hai mũi tên vào ngực. Quân Mông Cổ hò reo xông tới.

Chỉ thấy Quách Tĩnh bật dậy, chĩa thương đâm chết một tên bách phu trưởng, nhảy lên ngựa của hắn, thoáng chốc đã giết thêm mười mấy quan binh Mông Cổ.

Mông Kha thấy Quách Tĩnh xung sát giữa ba quân như ở chỗ không người, quan binh Mông Cổ tuy đông nhưng không làm gì nổi, thì cau mày, hạ lệnh:

– Ai giết được Quách Tĩnh, lập tức thưởng hoàng kim vạn lượng, quan thăng ba cấp!

Phần thưởng khích lệ quan binh tràn lên như nước lũ.

Quách Tĩnh thấy tình thế nguy cấp, lại không thể tiến đến chỗ đại hãn, bèn vung giáo đánh dạt mấy tên lính Mông Cổ ở gần, lắp tên giương cung bắn về phía Mông Kha. Mũi tên xé gió lao đi nhanh như tia chớp, thẳng tới chỗ đại hãn. Thân binh hộ giá cả kinh, hai bách phu trưởng vội lấy thân mình che trước mặt đại hãn, mũi tên dài xuyên qua tên thứ nhất, vẫn còn đà, lại xuyên tiếp qua ngực tên thứ hai, thành một chuỗi ngay trước mặt Mông Kha.

Mông Kha thấy vậy không khỏi biến sắc, bọn thân binh vội hộ giá đại hãn rút khỏi chiếc gò.

Đúng lúc ấy trong quân Mông Cổ có tiếng kêu la, một cánh quân Tống xông tới, dẫn đầu là một người múa hai cái mái chèo bằng sắt, chính là Tứ Thuỷ Ngư Ẩn. Nguyên Hoàng Dung thấy Quách Tĩnh hãm trận, không yên tâm, lệnh cho Tứ Thuỷ Ngư Ẩn dẫn hai ngàn quân xông ra tiếp ứng. Quân Mông Cổ thấy đại hãn rút lui, trận thế hơi rối loạn.

Hoàng Dung trên mặt thành thấy rõ, hạ lệnh:

– Mọi người cùng kêu to lên, rằng đại hãn Mông Cổ chết rồi!

Binh sĩ liền hô lớn:

– Đại hãn Mông Cổ chết rồi! Đại hãn Mông Cổ chết rồi!

Binh sĩ thành Tương Dương nhiều năm đánh nhau với quân Mông Cổ, những người thông minh đều học nói vài câu tiếng Mông Cổ, lúc này có người hô to bằng tiếng Mông Cổ.

Quan binh Mông Cổ nghe tiếng hô, đều nghển cổ ngó lại phía sau, thấy đại hãn quả nhiên đã rút, cờ suý phía đó tản dần, nào biết thật giả, cứ tưởng đại hãn đã chết thật, lòng quân lập tức rối loạn, mất chí chiến đấu, lũ lượt tháo lui.

Hoàng Dung hạ lệnh truy sát, mở toang cổng thành. Ba vạn tinh binh ùa ra. Bốn ngàn quân do Gia Luật Tề suất lĩnh đã tổn thất một nửa, nửa còn lại thừa thế truy kích. Quan binh Mông Cổ từng trải chiến trận, tuy bại không loạn, tinh binh đoạn hậu, chậm rãi rút về phía bắc, quân Tống khó lòng lại gần. Riêng năm ngàn quân Mông Cổ tinh nhuệ leo được vào trong thành Tương Dương thì không một ai sống sót.

Khi quân Mông Cổ rút hết khỏi cả bốn cửa thành, thì trời đã sáng rõ. Trận đại chiến này kéo dài đủ mười hai canh giờ, máu chảy đầy đồng, thây chất thành núi. Ngựa chết, giáo gãy, cờ rách la liệt trong vòng mười dặm.

Trận này quân Mông Cổ tử thương hơn bốn vạn, quân Tống thủ thành cũng tử thương hai vạn ba ngàn người, từ khi Mông Cổ hưng binh xâm lăng phương nam đến nay, chưa bao giờ thảm liệt như trận này.

Quân Tống giữ thành Tương Dương tuy đánh lui quân địch, nhưng khắp nơi trong thành đều có tiếng khóc, mẹ khóc con, vợ khóc chồng.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung không kịp cởi áo giáp nghỉ ngơi, phải đi tuần thị bốn cổng thành, thăm hỏi tướng sĩ. Khi ghé thăm Chu Bá Thông và Lục Vô Song, thấy hai người đã đỡ. Chu Bá Thông không chịu nằm bệt một chỗ, cứ đi đi lại lại trong hoa viên. Quách Tĩnh, Hoàng Dung nhìn nhau mỉm cười, mới trở về phủ nghỉ ngơi.

Sáng sớm hôm sau, Quách Tĩnh đang ở trong dinh An phủ sứ thương nghị quân tình với Lã Văn Đức và đại tướng Vương Kiên, thì có tin báo rằng có một vạn quân Mông Cổ đang tiến đến cửa Bắc. Lã Văn Đức kinh ngạc nói:

– Tại sao… vừa rút đi đã lại kéo đến? Thật là khó hiểu!

Quách Tĩnh đập bàn đứng dậy, lên mặt thành quan sát, thấy vạn nhân đội của địch bày trận cách thành mấy dặm, chứ không tấn công. Lát sau, hơn một ngàn thợ mộc gánh đá đóng cọc, khuân gỗ, dựng lên một cái đài cao hơn mười trượng.

Lúc này Hoàng Dược Sư, Hoàng Dung, Nhất Đăng, Chu Tử Liễu đều đã ra mặt thành quan sát, thấy quân Mông Cổ dựng cái đài cao, đều không hiểu. Chu Tử Liễu nói:

– Bọn Thát tử dựng cái đài cao, nếu để nhìn trộm quân tình trong thành, thì không làm cách xa như thế. Hơn nữa quân ta chỉ cần bắn hoả tiễn, sẽ lập tức thiêu huỷ. Cái đài cao ấy thật vô dụng.

Hoàng Dung trầm ngâm, nhất thời cũng chưa biết dụng ý của quân địch.

Cái đài cao dựng xong, thấy mấy trăm quân Mông Cổ đánh ngựa chở củi cỏ đến chất xung quanh đài, như thể chuẩn bị đốt cháy nó đi. Mọi người càng lấy làm lạ. Chu Tử Liễu nói:

– Chẳng lẽ quân địch công thành không nổi, đi dựng đàn cầu trời, hoặc giả bày trò yêu pháp gì đây?

Quách Tĩnh nói:

– Tiểu đệ ở lâu trong quân Mông Cổ, chưa hề thấy họ giở trò lạ lùng thế này bao giờ.

Vừa nói vừa nhìn, thấy cả ngàn binh sĩ Mông Cổ dùng cuốc xẻng đào xung quanh cái đài cao một cái hào vừa sâu vừa rộng, đất đào lên thì đắp thành bờ phía ngoài hào như một bức tường đất. Hoàng Dược Sư tức giận nói:

– Thành Tương Dương là quê của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, bọn Thát tử vô lễ, giở trò múa rìu qua mắt vị đại hiền, chẳng hoá ra coi khinh người Tống lắm sao?

Chỉ nghe tiếng tù và, tiếng trống vang lên, một vạn nhân đội tiến đến dàn trận bên trái cái đài cao, một vạn nhân đội khác dàn trận bên phải cái đài. Trận thế dàn xong, lại thêm một vạn nhân đội dàn ra phía trước đài, cùng ba vạn nhân đội kia, tổng cộng thành bốn vạn nhân đội xung quanh cái đài cao. Đại trận trải dài mấy dặm, gươm giáo, cung thủ, trường mâu thủ, trảm mã thủ, thiết xung thủ tầng tầng lớp lớp vây quanh cái đài cao.

Bỗng nghe pháo hiệu, tiếng trống ngừng bặt, mấy vạn người im phăng phắc, từ xa có hai người phi ngựa đến chân đài. Hai người xuống ngựa, dắt tay nhau đi lên cái đài cao, chỉ vì quá xa nên không nhìn rõ diện mạo hai người ấy, chỉ lờ mờ đoán là một nam một nữ.

Mọi người đang kinh ngạc, Hoàng Dung đột nhiên kêu lên một tiếng, ngã ngửa ra sau, ngất đi. Mọi người vội cứu tỉnh, cùng hỏi:

– Sao? Chuyện gì vậy?

Hoàng Dung mặt tái nhợt, run giọng, nói:

– Là Tương nhi, là Tương nhi!

Mọi người kinh hãi nhìn nhau. Chu Tử Liễu nói:

– Quách phu nhân, phu nhân nhìn rõ chứ?

Hoàng Dung nói:

– Muội nhìn không rõ mặt mũi, nhưng xét về lý, thì nhất định là Quách Tương. Bọn Thát tử đánh thành không được, cuối cùng thực thi gian kế. Thật là… thật là quá đê hèn.

Hoàng Dược Sư và Chu Tử Liễu nghe Hoàng Dung nói, đã hiểu ra, tỏ vẻ tức giận. Quách Tĩnh thì chưa hiểu, hỏi:

– Tương nhi sao lại ở trên cái đài kia? Bọn Thát tử thực thi gian kế gì?

Hoàng Dung đứng thẳng người, hiên ngang nói:

– Tĩnh ca ca! Tương nhi không may sa vào tay bọn Thát tử. Bọn địch dựng cái đài cao kia, chất củi cỏ bên dưới, là định thiêu sống Tương nhi để ép Tĩnh ca ca đầu hàng. Nếu ca ca không đầu hàng, chúng sẽ phóng hoả để vợ chồng ta đau đứt ruột, thần trí rối loạn, không thể chuyên tâm giữ thành.

Quách Tĩnh vừa kinh ngạc vừa tức giận, hỏi:

– Tương nhi tại sao lại sa vào tay bọn Thát tử?

Hoàng Dung nói:

– Mấy ngày qua quân vụ khẩn cấp, thiếp sợ tướng công phân tâm, nên chưa kể.

Rồi thuật lại việc Quách Tương ở Tuyệt Tình cốc bị Kim Luân pháp vương bắt đi như thế nào. Quách Tĩnh nghe Dương Quá mất tích ở dưới đáy sơn cốc, thì hỏi tỉ mỉ. Sau khi Hoàng Dung kể xong, liền chau mày nói:

– Dung nhi! Nàng làm thế là sai. Dương Quá sống chết chưa rõ, sao nàng lại bỏ đấy mà đi?

Quách Tĩnh xưa nay nhất mực kính trọng ái thê, trước mặt người khác chưa bao giờ thất lễ với vợ. Lời trách cứ vừa rồi là rất nặng. Hoàng Dung ngượng đỏ cả mặt.

Nhất Đăng nói:

– Quách phu nhân đã lặn xuống đầm nước băng giá, suýt bị đông cứng, để tìm Dương Quá dưới đáy cốc. Huống hồ tiểu cô nương nằm trong tay gian tặc, mọi người đều chủ trương đuổi theo hắn trước, không nên trách Quách phu nhân.

Nhất Đăng nói thế, Quách Tĩnh không dám trách thêm, chỉ bực bội nói:

– Con nhãi Quách Tương gây lắm chuyện rắc rối. Nếu Dương Quá có mệnh hệ gì, chúng ta làm sao có thể an tâm? Cứ để cho bọn Thát tử thiêu sống con nhãi đi.

Hoàng Dung không nói gì, quay mình rời khỏi mặt thành. Mọi người đang bàn cách làm thế nào cứu Quách Tương, bỗng thấy cổng thành mở, một người cưỡi ngựa phóng ra phía bắc, chính là Hoàng Dung. Ai cũng kinh ngạc. Quách Tĩnh, Hoàng Dược Dư, Nhất Đăng, Chu Tử Liễu vội lên ngựa đuổi theo.

Đoàn người phi ngựa về phía cái đài cao, dừng lại ở chỗ cũng tên của quân địch bắn không tới. Chỉ thấy trên đài cao có hai người, một mặc áo hoàng bào, chính là Kim Luân pháp vương, người kia bị trói vào một cây cột, chính là Quách Tương.

Quách Tĩnh tuy giận con thường gây lắm chuyện rắc rối, nhưng vẫn là tình cha con, làm sao không lo, bèn cao giọng gọi:

– Tương nhi! Đừng sợ! Có cha mẹ đến cứu con đây!

Quách Tĩnh nội lực dồi dào, tiếng nói vang rành rọt lên cái đài cao. Tương nhi bị ánh nắng hun nóng đang như người say nắng, bỗng nghe tiếng gọi của phụ thân, liền mừng rỡ đáp lại:

– Gia gia, má má!

Kim Luân pháp vương cười ha ha, dõng dạc nói:

– Quách đại hiệp! Đại hiệp muốn ta phóng thích lệnh ái thì không khó chút nào. Chỉ sợ đại hiệp không có can đảm mà thôi.

Quách Tĩnh vốn trầm ổn hậu trọng, càng nguy cấp càng trầm tĩnh, nghe Kim Luân pháp vương nói thế vẫn không giận, nói:

– Pháp vương có việc gì khó, xin cứ cho biết.

Pháp vương nói:

– Nếu đại hiệp có lòng từ tâm của người làm cha, thì hãy lên đài chịu trói đổi người. Lão phu sẽ lập tức thả lệnh ái ra.

Pháp vương thừa biết Quách Tĩnh hiểu rõ đại nghĩa, không đời nào chịu vì nhi nữ mà thí bỏ trăm họ trong thành Tương Dương, nên mới nói khích để Quách Tĩnh bày tỏ sự can đảm mà mắc mưu lão ta. Nhưng Quách Tĩnh đâu dễ mắc lừa, nói:

– Thát tử nếu không sợ Quách mỗ, hà tất phải gây khó dễ đối với một tiểu nữ nhi? Thát tử đã sợ Quách mỗ, thì tấm thân này sao lại dễ dàng chịu chết?

Pháp vương cười khẩy, nói:

– Người ta bảo Quách đại hiệp võ công trác tuyệt kiêu dũng vô luân, kỳ thực chỉ là một kẻ tham sinh uý tử.

Cái kế khích tướng của Pháp vương nếu đem dùng với người khác thì có thể thu kết quả, nhưng Quách Tĩnh liên quan đến sự an nguy của cả thành Tương Dương, nên chỉ cười nhạt, không thèm lý đến.

Mấy câu nói của Pháp vương làm cho Võ Tam Thông và Tứ Thuỷ Ngư Ẩn tức giận. Hai người một vung thiết chuỳ, một vung cặp mái chèo, phi ngựa lên phía trước. Mấy ngàn xạ thủ Mông Cổ giương cung lắp tên, chờ hai người tới gần sẽ bắn, biến họ thành hai con nhím. Nhất Đăng thấy vậy liền phi thân xuống ngựa, nhảy ba bước đã tới chặn trước đầu ngựa hai đệ tử, quát:

– Quay trở lại!

Võ Tam Thông và Tứ Thuỷ Ngư Ẩn thừa biết xông lên chỉ có chết, thấy sư phụ ngăn cản, bèn quay ngựa chạy trở lại. Quan binh Mông Cổ thấy vị hoà thượng cao niên đuổi vượt cả ngựa phi, thì hoan hô rầm trời.

Kim Luân pháp vương nói:

– Quách đại hiệp! Lệnh ái thông minh lanh lợi, lão phu rất mến nó, có ý nhận nó làm đệ tử, truyền cho y bát. Nhưng đại hãn có chỉ, nếu Quách đại hiệp không quy hàng, sẽ thiêu sống nó trên đài cao. Chẳng riêng Quách đại hiệp đau đớn cho ái nữ, lão phu cũng lấy làm tiếc lắm, mong đại hiệp nghĩ cho kỹ.

Quách Tĩnh hừ một tiếng, nhìn bốn chục tên cầm đuốc đứng cạnh đống củi cỏ dưới chân đài cao, chỉ cần Kim Luân pháp vương phát lệnh sẽ châm lửa. Bốn vạn nhân đội vây kín cái đài cao, thân xác trần tục không tài gì vượt qua đó, huống hồ có xông đến gần, địch phóng hoả thì làm sao cứu được nữ nhi xuống?

Quách Tĩnh ở lâu trong quân Mông Cổ, biết quân Mông Cổ dụng binh tàn bạo, cướp đất hạ thành, trong một ngày có khi thảm sát hàng vạn phụ nữ trẻ thơ, nếu chúng thiêu sống Quách Tương thì cũng giống như chúng xéo lên một con kiến, mới ngẩng đầu lên, thấy sắc diện tiều tuỵ của nữ nhi, tự dưng lòng đau như cắt, bèn gọi to:

-Tương nhi! Con là hảo nữ nhi của Đại Tống, khẳng khái tựu nghĩa, chớ run sợ. Cha mẹ hôm nay không thể cứu con, mai sau nhất định sẽ giết tên ác tăng này trả thù cho con. Con hiểu chứ?

Quách Tương nuột lệ gật đầu, đáp to:

– Gia gia má ma! Hài nhi không sợ đâu!

Quách Tĩnh nói:

– Thế mới là hảo nữ nhi của ta!

Đoạn giương cung, bắn liền ba mũi tên dài, ba tên lính Mông Cổ cầm đuốc đứng dưới chân đài cao ngã vật xuống vì bị tên xuyên qua ngực. Quách Tĩnh học xạ thuật từ đại tướng Mông Cổ “Thần tiễn” Triết Biệt, cộng với mấy chục năm tu vi, chỗ Quách Tĩnh đứng tên của địch không thể bắn tới, song Quách Tĩnh vẫn có thể bắn tới kẻ địch. Quân Mông Cổ cùng kêu lên kinh hãi, giơ mộc hộ thân. Quách Tĩnh nói:

– Đi thôi!

Rồi quay đầu cùng Hoàng Dung quay về thành.

Mọi người về đứng trên mặt thành. Hoàng Dung thẫn thờ nhìn cái đài cao, tâm trí rối bời.

Nhất Đăng nói:

– Thát tử trị quân nghiêm chỉnh, muốn cứu Quách Tương, phải tìm cách trước tiên làm rối loạn bốn vạn nhân đội ở xung quanh cái đài cao.

Hoàng Dược Sư nói:

– Đúng thế!

Lão ngẫm nghĩ, rồi nói:

– Dung nhi, chúng ta sử dụng đại trận Nhị thập bát tú, đấu với Thát tử một phen.

Hoàng Dung cúi đầu, nói:

– Dù có thắng địch, Thát tử phóng hỏa đốt cái đài cao thì biết làm sao?

Quách Tĩnh hiên ngang nói:

– Chúng ta tận lực giết địch, Tương nhi sống hay chết còn tùy ý trời. Nhạc phụ, xin hỏi cách bày trận Nhị thập bát tú thế nào?

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Trận pháp này biến hóa rắc rối, năm xưa sau khi quan sát Thiên Cang Bắc Đẩu trận của phái Toàn Chân, ta ngẫm nghĩ mãi, tìm học trận pháp của cổ nhân, sáng tạo ra trận Nhị thập bát tú, định tranh cao thấp với các đạo sĩ phái Toàn Chân.

Nhất Đăng nói:

– Thuật Ngũ hành kỳ môn của Hoàng lão tà độc bộ thiên hạ, đại trận Nhị thập bát tú hẳn là huyền diệu.

Hoàng Dược Sư nói:

– Trận pháp Nhị thập bát tú vốn chỉ để đấu với vài chục người trong võ lâm, chứ không nghĩ đánh với thiên quân vạn mã. Nhưng nếu biến hóa, có khi cũng hữu dụng, chỉ tiếc thiếu mất đôi chim điêu.

Nhất Đăng nói:

– Xin được biết rõ hơn.

Hoàng Dược Sư nói:

– Đôi chim điêu giá không bị gã gian tăng giết hại, khi trận pháp phát động, đôi chim điêu sẽ có thể bay tới cái đài cao cứu Quách Tương, giờ thì chưa có cách nào hay hơn. Đại trận Nhị thập bát tú là dựa trên sự biến hóa ngũ hành sinh khắc, do năm vị cao thủ chủ trì. Chúng ta bốn phương vị Đông, Nam, Bắc, Trung đều có người, nhưng Lão Ngoan đồng bị trọng thương, thiếu một một người ở mé Tây. Nếu Dương Quá ở đây, võ công của y không thua gì Âu Dương Phong thời trước, bây giờ biết tìm đâu ra y? Chủ tướng mé Tây thiếu không được.

Quách Tĩnh nhìn lướt qua cái đài cao, nhìn xa tít về trời mây phương bắc, nghĩ đến Tuyệt Tình cốc, miệng lẩm bẩm:

– Quá nhi sống chết sao đây, thật khiến người ta lo quá!

Hôm Dương Quá đứng trước Đoạn Trường nhai, biết không thể gặp lại Tiểu Long Nữ, đau đớn nhảy xuống vực sâu, nghĩ rằng sẽ thịt nát xương tan, không ngờ rơi xuống hồi lâu, đột nhiên “ùm” một cái, lại rơi xuống một cái đầm nước. Chàng rơi từ trên cao hàng trăm trượng, xung lực cực mạnh, cứ thế chìm thẳng xuống, cũng không biết chìm sâu bao nhiêu thước nước, đột nhiên trước mắt sáng bừng, tựa hồ nhìn thấy một cái thủy động, đang ngưng thần nhìn kỹ, thì ở dưới sâu lực đẩy lên rất mạnh, người chàng tự nổi lên, đúng lúc ấy thấy Quách Tương rơi xuống đầm.

Lúc này chuyện lạ cứ thế nối tiếp, Dương Quá chưa kịp nghĩ kỹ, chờ Quách Tương nổi lên mặt nước, chàng giơ tay kéo nàng lên bờ đầm, hỏi:

– Tiểu muội tử, tại sao lại ngã xuống đây?

Quách Tương nói:

– Muội thấy đại ca ca nhảy xuống, thì muội cũng nhảy theo.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Loạn quá, loạn quá! Tiểu muội tử chẳng lẽ không sợ chết?

Quách Tương mỉm cười, nói:

– Đại ca ca không sợ chết, thì tiểu muội cũng chả sợ.

Dương Quá chợt nghĩ: “Chẳng lẽ tiểu cô nương này cũng có thâm tình với ta như vậy?” Nghĩ vậy, bất giác tay run run.

Quách Tương rút trong bọc ra cây kim châm cuối cùng, nói:

– Đại ca ca, lần ấy đại ca ca đưa cho tiểu muội ba cây kim châm, bảo cho tiểu muội ba điều ước, đại ca ca đều sẽ đáp ứng. Hôm nay tiểu muội cầu xin đại ca ca, bất kể Dương đại tẩu có thể tái hợp với đại ca ca hay không, đại ca ca cũng đừng tự vẫn.

Đoạn đưa cây kim châm cho chàng.

Dương Quá nhìn cây kim châm trong tay, run giọng hỏi:

– Tiểu muội tử từ thành Tương Dương đến đây, chỉ để cầu xin một việc ấy thôi ư?

Quách Tương vui vẻ nói:

– Đúng vậy, đại trượng phu nói sao làm vậy, đại ca ca đã hứa đáp ứng tiểu muội rồi đấy.

Dương Quá thở dài, một người vừa trải qua một phen từ sống đến chết, lại từ cõi chết sống lại, hẳn sẽ không muốn chết một lần nữa. Chàng nhìn Quách Tương từ đầu xuống chân, thấy nàng ướt sũng cả người, răng đánh cầm cập, nhưng sắc diện vui vẻ, bèn nhặt củi khô định đốt lửa, nhưng đồ đánh lửa hai người mang theo đều bị ướt, không sử dụng được, chàng đành nói:

– Tiểu muội tử, hãy vận nội công để hàn khí khỏi ngấm vào người dễ sinh bệnh.

Quách Tương vẫn chưa yên tâm, hỏi:

– Đại ca ca có đáp ứng tiểu muội sẽ không tự vẫn nữa chứ?

Dương Quá đáp:

– Có!

Quách Tương mừng rỡ nói:

– Vậy hai chúng ta cùng vận công.

Hai người ngồi kề bên nhau, vận khí điều tức.

Dương Quá từ nhỏ đã luyện nội công trên chiếc giường hàn ngọc, chút khí lạnh này chẳng đáng gì, chàng đưa tay xoa xoa huyệt Thần Đường ở sống lưng Quách Tương, một luồng khí dương hòa ấm áp truyền sang cơ thể nàng. Lát sau Quách Tương cảm thấy huyết mạch toàn thân thông suốt dễ chịu.

Đợi khi Quách Tương dễ chịu hoàn toàn, Dương Quá mới hỏi tại sao nàng đến Tuyệt Tình cốc. Quách Tương kể lại. Dương Quá tức giận nói:

– Kim Luân pháp vương thật đáng ghét, chờ khi nào chúng ta tìm được lối leo lên, đại ca ca của tiểu muội tử sẽ đánh cho lão ta một trận thừa sống thiếu chết.

Lời chưa dứt, bỗng có một con chim điêu rơi xuống đầm, chìm xuống rồi nổi lên, nó bị thương rất nặng.

Quách Tương kêu lên:

– Là con chim điêu của nhà tiểu muội.

Lại thấy con chim điêu mái bay xuống, cõng con chim điêu trống đưa lên. Lần thứ hai con chim điêu mái bay xuống, Dương Quá đặt Quách Tương lên lưng con chim điêu, đoán rằng nó sẽ trở xuống đưa chàng lên, ai ngờ chờ mãi vẫn không thấy, chàng đâu biết con chim điêu mái đã tuẫn tình mà chết.

Chờ chim điêu không thấy, Dương Quá bèn quan sát cảnh vật bên đầm nước. Thấy trên cây lớn có treo mấy chục cái đõ ong. Đõ ong ở đây to hơn loại đõ ong thông thường, và bay lượn quanh đõ ong chính là loài ong ngọc phong Tiểu Long Nữ từng nuôi ở tòa cổ mộ.

Dương Quá vừa nhìn thấy liền kêu lên kinh ngạc, sững người một lát, mới lại bên quan sát các đõ ong, biết đó là do tay người làm ra, không chừng có dấu tích của Tiểu Long Nữ.

Chàng định thần, nghĩ: “Không lẽ năm xưa Tiểu Long Nữ nhảy xuống đây, hiện vẫn còn sống?” Chàng đi quanh đầm nước lạnh quan sát một lượt, thấy bốn phía đều là vách đá dựng đứng, giống như mình đang ở dưới đáy một cái giếng khổng lồ, có câu “ếch ngồi đáy giếng nhìn trời”, nhưng từ đây nhìn lên chỉ thấy sương mù, nào thấy ánh nắng?

Dương Quá bẻ mấy thân cây, gõ mạnh vào vách núi bốn phía, không thấy dị trạng, nhưng nhìn kỹ, phát hiện một số cây bị người ta bóc vỏ, một số hòn đá được kê ngay ngắn cạnh cây hoa, không phải là tự nhiên, mà có bàn tay con người sắp đặt, thì chàng hồi hộp, trống ngực đập mạnh, lúc này chàng đoán chắc Tiểu Long Nữ ở đây, chỉ không biết đằng đẵng mười sáu năm rồi, người ngọc giờ đây thế nào? Dương Quá vốn không tin quỉ thần, nhưng lúc này hồi hộp quá, chàng quì xuống mà khấn:

– Lạy trời phù hộ cho con gặp lại Long nhi!

Khấn cầu mấy lần, tìm kiếm một hồi, vẫn không thêm dấu tích gì. Dương Quá ngồi dưới một gốc cây ngẫm nghĩ: “Nếu Long nhi đã chết, cũng phải còn hài cốt chứ, trừ phi hài cốt ở dưới đáy đầm”. Nhớ lúc chìm xuống đầm từng thấy có một vầng sáng rộng, thật khó hiểu, chắc phải có gì dưới đó, chàng liền đứng dậy.

Chàng nói to:

– Lành dữ gì cũng phải tìm cho ra chân tướng, tìm bao giờ thấy hài cốt của nàng mới thôi.

Chàng liền nhảy xuống đầm, lặn hẳn xuống chỗ sâu. Càng xuống sâu càng lạnh buốt, lặn một hồi, thấy bốn phía toàn là băng màu xanh sẫm. Dương Quá tuy không sợ lạnh, nhưng ở chỗ sâu lực đẩy lên rất mạnh, chàng cố gắng mấy lần cũng chỉ lặn sâu thêm vài trượng, vẫn chưa tới đáy, đã tức thở, phải ngoi lên mặt nước.

Chàng lên bờ bưng một hòn đá lớn, rồi lại nhảy xuống. Lần này chàng chìm rất nhanh, chợt thấy trước mắt sáng bừng, vội bơi tới chỗ quầng sáng, chỉ thấy một dòng nước chảy mạnh cuốn chàng đi, hóa ra quầng sáng quả nhiên là một cái động. Chàng quẳng hòn đá đi, tay chân cùng bơi trong động, đây là một cái hố băng chênh chếch lên cao. Chàng thuận thế bơi lên, không lâu thì lên tới mặt nước, cảm thấy ánh nắng lóa mắt, mùi hoa thơm nức, như lạc vào một thế giới khác. Chàng chưa vội bò lên bờ, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy cỏ xanh và vô vàn hoa lá, như thể trong một hoa viên cực lớn, nhưng im ắng không một bóng người. Chàng vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vọt lên bờ, thấy cách hơn mười trượng có một ngôi nhà tranh.

Chàng chạy nhanh về phía đó, nhưng được ba, bốn trượng, thì dừng lại bước thong thả, nghĩ: “Nếu trong nhà không có dấu vết gì về Long nhi thì sao?” Càng đến gần ngôi nhà, chàng càng bước chậm hơn, trong thâm tâm chỉ sợ tất cả chỉ là ảo ảnh, còn cách một trượng cuối cùng, chàng dỏng tai nghe ngóng, bốn phía vẫn im ắng, không tiếng chim tiếng người, chỉ có tiếng ong vo ve.

Chàng chờ một lát, cuối cùng đánh bạo nói, giọng run run:

– Dương mỗ mạo muội bái yết, xin cho gặp mặt.

Trong nhà không có tiếng trả lời, chàng giơ tay đẩy nhẹ, cửa mở ra nghe két một cái.

Dương Quá bước vào, vừa nhìn lướt qua đã chấn động toàn thân, thấy bên trong bầy biện đơn giản, nhưng vô cùng sạch sẽ, gian ngoài chỉ có một cái bàn một cái ghế, không còn vật gì khác, vị trí kê bàn ghế cũng vô cùng quen thuộc, chẳng khác gì ở trong tòa cổ mộ. Không cần suy nghĩ, chàng tự dưng đi sang bên trái, quả nhiên thấy một gian buồng nhỏ, qua gian này tới một gian rộng hơn, giường ghế ở đây kê y hệt ở trong phòng ngủ của tòa cổ mộ, chỉ khác là ở đây dụng cụ toàn làm bằng cành cây ghép lại.

Gian bên phải có một cái giường, kiểu như cái giường hàn ngọc chàng luyện công hồi nhỏ, cạnh đó chăng ngang một sợi dây, để chàng nằm luyện khinh công, một ô cửa sổ nhỏ, nơi chàng đọc sách, viết chữ. Từ lúc bước vào đây sờ giường sờ ghế, Dương Quá đã rưng rưng nước mắt, lúc này chàng không nhịn được nữa, lệ chảy ròng ròng.

Bỗng cảm thấy có một bàn tay mềm mại vuốt nhẹ tóc chàng, một giọng nói dịu dàng:

– Quá nhi, sao chàng không vui mừng?

Giọng nói này, cái vuốt tóc này hệt như xưa, mỗi lần Tiểu Long Nữ an ủi chàng. Dương Quá quay phắt lại, thấy trước mặt một bạch y nữ tử, da trắng như tuyết, diện mạo như xưa, chính là Tiểu Long Nữ chàng vẫn đêm ngày tương tư mười sáu năm qua.

Hai người đứng ngây hồi lâu, cùng kêu khẽ một tiếng “a”, rồi ôm chầm lấy nhau, ngỡ ngỡ ngàng ngàng, chưa biết là thật hay ảo?

Lát sau, Dương Quá mới nói:

– Long nhi, diện mạo của nàng chẳng thay đổi gì, còn ta thì đã già.

Tiểu Long Nữ chăm chú nhìn, nói:

– Không phải già, mà là Quá nhi của thiếp đã trưởng thành.

Tiểu Long Nữ hơn Dương Quá vài tuổi, nhưng nàng từ bé sống trong cổ mộ, theo sư phụ tu tập nội công, rũ bỏ mọi tư lự dục niệm. Dương Quá thì lo nghĩ đủ thứ, đại bi đại lạc, cho nên đến khi hai người thành hôn, trông hai người như cùng tuổi với nhau.

Phép tu luyện dưỡng sinh của “Ngọc nữ công” phái Cổ Mộ có mười hai yếu quyết chữ “Thiểu” là “Thiểu tư, Thiểu niệm, Thiểu dục, Thiểu sự, Thiểu ngữ, Thiểu tiếu, Thiểu sầu, Thiểu lạc, Thiểu hỉ, Thiểu nộ, Thiểu hiếu, Thiểu ố (Ít: suy, nghĩ, ham muốn, làm việc, nói, cười, buồn, sướng, vui, giận, ưa thích, ghét bỏ). Bởi lẽ suy nhiều ắt mệt mỏi tinh thần, nghĩ nhiều ắt tinh tán, muốn nhiều ắt trí tổn, làm nhiều ắt mệt mỏi, nói nhiều ắt hụt hơi, cười nhiều ắt hại gan, buồn nhiều ắt mệt tim, sướng nhiều ắt ý lạm, vui nhiều ắt hại trí nhớ, giận nhiều ắt huyết mạch bất định, ưa thích nhiều ắt mê muội bất trị, ghét bỏ nhiều ắt nôn nóng bất an. Không trừ bỏ mười hai cái “nhiều” ấy, chính là gốc của việc mất mạng vậy. Tiểu Long Nữ tu vi từ nhỏ, không vui không buồn, vô tư vô lự, công lực tinh thuần có điểm còn hơn cả sư tổ Lâm Triêu Anh. Nhưng sau đó Dương Quá đến tòa cổ mộ, hai người sống với nhau nhiều năm, tình ý nảy sinh, những điều “Thiểu sự, Thiểu ngữ, Thiểu lạc, Thiểu hỉ” dần dần không theo được nữa. Thành hôn xong lại biệt ly mười sáu năm, Dương Quá phiêu bạt giang hồ, tóc mai nhuốm bạc, Tiểu Long Nữ thì ở dưới u cốc, tuy không tránh khỏi nỗi khổ tương tư, song công phu tu luyện hai mươi năm không nhỏ, mấy năm sau tái tu luyện mười hai yếu quyết chữ “Thiểu”, dần dần “Thiểu tư, Thiểu niệm, Thiểu dục, Thiểu sự”, độc cư dưới đáy sơn cốc, nên khi hai người gặp lại nhau thì trông Dương Quá rõ ràng lại già hơn Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ mười sáu năm không nói, ban đầu nói năng khó khăn. Hai người nói ít, chỉ nhìn nhau mỉm cười. Sau đó Dương Quá nhiệt huyết trào dâng, chàng cầm tay Tiểu Long Nữ chạy ra bên ngoài, nói:

– Long nhi, ta sung sướng quá!

Rồi chàng tung mình nhảy lên, cao đến ngang ngọn một cây đại thụ, lộn người bảy, tám vòng.

Cái trò lộn người mấy vòng vì quá vui này có từ hồi Dương Quá chung sống với Tiểu Long Nữ ở chân núi Chung Nam. Ngót hai chục năm nay Dương Quá đã quên hẳn, không ngờ hôm nay sắp bước sang tuổi trung niên, đột nhiên chàng lại lộn người. Chỉ khác là bây giờ võ công cao siêu, nên lúc thân hình ở trên không trung chàng tự nhiên hiển lộ ra khinh công thượng thừa. Tiểu Long Nữ cười phá lên, những qui tắc “Thiểu ngữ, Thiểu tiếu, Thiểu lạc, Thiểu hỉ” đều quẳng cả xuống đầm.

Tiểu Long Nữ rút ra chiếc khăn tay, hồi còn ở chân núi Chung Nam, mỗi lần Dương Quá lộn người, rồi cười hi hi bước đến bên nàng, nàng lại rút khăn lau mồ hôi trán cho chàng, lúc này nhìn chàng lại gần, mặt không đỏ, hơi thở không dồn dập, làm gì có mồ hôi trán? Nhưng nàng vẫn dùng khăn chấm chấm vài cái trên trán chàng.

Dương Quá cầm chiếc khăn xem, thấy nó được đan bằng các gân sợi vỏ cây rất thô, hình dung nỗi khổ sở bao năm nay của nàng dưới đáy sơn cốc, bất giác quặn lòng, nhè nhẹ vuốt tóc nàng, nói:

– Long nhi, nàng phải chịu đựng mười sáu năm ở đây thật là khổ!

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Nếu thiếp không trưởng thành từ nhỏ ở trong tòa cổ mộ, chắc là không chịu đựng nổi mười sáu năm vừa rồi.

Hai người ngồi kể cho nhau nghe mọi chuyện.

Dương Quá luôn miệng hỏi hết câu này câu kia. Tiểu Long Nữ nói một hồi, bớt dần ngượng nghịu, mới thong thả thuật lại các biến cố mười sáu năm qua.

Hôm Dương Quá ném nửa viên Tuyệt Tình đơn xuống vực, Tiểu Long Nữ biết chàng nghĩ nàng trúng độc khó trị, không muốn sống một mình trên đời. Đêm ấy nàng suy đi tính lại, chỉ có cách nàng phải chết trước mới có hi vọng chàng chịu giải độc hoa Tình. Nhưng nếu nàng hé lộ ý định tự tận sẽ chỉ đẩy chàng chọn cái chết mau hơn, nên nghĩ đến nửa đêm, nàng bèn lên Đoạn Trường nhai, dùng kiếm khắc hai dòng chữ, cố ý ước hẹn mười sáu năm tái hợp, rồi mới nhảy xuống thâm cốc. Bấy giờ nếu nàng nghĩ Dương Quá may mắn thoát chết, cách mười sáu năm chàng vẫn không nguôi thương nhớ nàng, thì nàng đã chẳng tự tận.

Nàng kể đến đây, Dương Quá thở dài, nói:

– Tại sao nàng lại hẹn những mười sáu năm? Nếu hẹn tám năm thôi, chẳng phải chúng mình đã đoàn tụ sớm tám năm rồi không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp biết thâm tình của chàng đối với thiếp, chỉ tám năm thì quyết chưa phai nhạt. Ôi, mười sáu năm sau mà chàng còn nhảy xuống vực tuẫn tình.

Dương Quá cười nói:

– Thế mới biết một người càng có thâm tình càng tốt. Giả dụ lòng ta sớm phai nhạt, chỉ đứng bên Đoạn Trường nhai khóc một hồi rồi bỏ đi, thì suốt đời chúng mình không còn được gặp lại nhau

Tiểu Long Nữ nói:

– Mọi việc đều do ý trời!

Hai người vào sinh ra tử, sau bao biến cố, cuối cùng lại được đoàn tụ, giờ đây ngồi tựa bên nhau, trong thâm tâm đều cảm tạ ông trời.

Hai người im lặng hồi lâu. Dương Quá hỏi:

– Lúc nàng nhảy xuống vực, sự việc thế nào?

Tiểu Long Nữ nói:

-Thiếp nửa tỉnh nửa mê rơi xuống đầm nước, lúc đang nổi lên thì bị dòng nước đẩy vào một hố băng, thông lên đây, thế là sống ở nơi này. Chỗ này không có cầm điểu dã thú, nhưng trong đầm có nhiều thuỷ sản, hoa quả dưới đáy cốc ăn không hết, chỉ không có vải, phải bóc vỏ cây may quần áo mà thôi.

Dương Quá nói:

– Bấy giờ nàng trúng “Băng phách ngân châm”, chất cực độc đã ngấm vào kinh mạch, không thứ thuốc nào trên thế gian chữa đuợc, làm sao ở đây lại vẫn khoẻ?

Chàng nhìn kỹ Tiểu Long Nữ, thấy dung mạo nàng trắng trẻo, không hồng hào, nhưng hắc khí ẩn hiện ở hai đầu lông mày sau khi trúng độc đã biến mất.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp xuống đây mấy ngày sau thì độc tính phát tác, người sốt nóng như lửa, đầu nhức như muốn nổ tung, thật không chịu nổi. Thiếp nhớ lại đêm động phòng hoa chúc trong toà cổ mộ, chàng dạy thiếp ngồi trên giường hàn ngọc nghịch vận kinh mạch, tuy không thể trừ độc nhưng cũng đỡ khổ sở đau đớn. Thế là thiếp lặn xuống chỗ hố băng, tựa đầu vào đó một hồi, thấy hiệu nghiệm. Sau đó thiếp thường quay lại bờ đầm, nơi mình rơi xuống, ngẩng lên xem có tin tức gì của chàng hay không. Một hôm bỗng thấy có mấy con ong ngọc phong xuyên qua lớp sương mù bay xuống, hẳn là bầy ong mà Lão Ngoan đồng mang đến Tuyệt Tình cốc. Thiếp như gặp hảo hữu, bèn làm các tổ ong cho ong ở lại. Sau ong kéo đến ngày càng nhiều. Thiếp ăn mật ong, lại bắt bạch ngư dưới đầm mà ăn, cảm thấy bệnh đỡ dần, không ngờ mật ong và bạch ngư dưới hàn đầm lại là thứ giải độc rất công hiệu. Số lần độc tính phát tác trong cơ thể ít dần và cách quãng xa dần. Thoạt đầu phát tác ngày một lần, sau vài ngày một lần, rồi một tháng một lần, cuối cùng năm sáu năm nay không phát tác lần nào nữa, chắc đã khỏi hẳn.

Dương Quá cả mừng nói:

– Đủ thấy người hảo tâm tất được báo đáp. Năm xưa nếu nàng không tặng đàn ong ngọc phong cho Lão Ngoan đồng, thì lão không thể mang ong đến Tuyệt Tình cốc này, bệnh của nàng khó bề chữa trị.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sau khi khỏe lên, thiếp rất nhớ chàng, nhưng thâm cốc sâu hàng trăm trượng, bốn phía toàn vách đá dựng đứng, không thể leo lên. Thế là thiếp dùng gai nhọn xăm lên cánh ong sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc”, chỉ mong ong bay lên, có người phát hiện ra mình. Mấy năm qua, thiếp đã xăm chữ lên cánh mấy ngàn con ong, song chẳng có một chút hồi âm. Mỗi năm thiếp lại thêm nản lòng, xem chừng kiếp này không còn được gặp chàng nữa.

Dương Quá vỗ đùi ân hận, nói:

– Ta cũng ngốc thật, mỗi lần trở lại Tuyệt Tình cốc đều gặp ong ngọc phong, mà không bắt một vài con xem sao, có phải đã bớt được vài năm khổ sở cho nàng rồi không…

Tiểu Long Nữ nói:

– Cái đó chỉ là hạ sách khi thiếp không biết cách gì khác, chứ ai lại nghĩ trên cánh con ong bé nhỏ có xăm chữ bao giờ? Chữ xăm quá nhỏ, dẫu có hàng trăm con ong bay qua trước mắt, chàng cũng chẳng đọc được hàng chữ xăm trên cánh ong. Thiếp chỉ mong một lúc nào đó, một con ong sa vào màng nhện, trời rủ lòng để cho chàng nhận thấy, chàng nhớ đến tình nghĩa đôi ta, thò tay cứu con ong ra, chàng sẽ phát hiện cánh nó có xăm chữ.

Tiểu Long Nữ không ngờ rằng người phát hiện cánh ong có xăm chữ là Chu Bá Thông, và Hoàng Dung đã đoán ra hàm ý của sáu chữ xăm.

Hai người trò chuyện rất lâu, Tiểu Long Nữ vào nhà nướng một xâu cá, ăn kèm với trái cây, mật ong. Nước đầm lạnh giá, giống bạch ngư trong đầm tuy thân nhỏ nhưng thịt béo ngậy. Dương Quá ăn một bữa no nê, cảm thấy trong bụng rất ấm áp dễ chịu, bây giờ chàng mới kể những gì mình trải qua trong mười sáu năm. Chàng tung hoành giang hồ, uy danh chấn động quần hào, gặp phiền toái nguy hiểm gấp trăm lần so với Tiểu Long Nữ độc cư dưới thâm cốc này.

Nhưng Tiểu Long Nữ vốn không quan tâm đến sự đời, chỉ cần gặp được Dương Quá là đủ, cho nên nghe những chuyện kinh tâm động phách, nàng chỉ cười nhạt, nghe như thoảng qua tai, chẳng chú tâm. Còn Dương Quá thì cứ hỏi nàng cặn kẽ việc bắt cá hái quả, làm nhà may áo, việc nhỏ nhất cũng hỏi tỉ mỉ từ đầu chí cuối, làm như chốn đáy cốc nhỏ hẹp này là ngũ hồ tứ hải không bằng.

Hai người trò chuyện một đêm, gần sáng mệt quá mới ngủ thiếp đi. Tỉnh giấc thì đã ngả chiều, Dương Quá nói:

– Long nhi, chúng mình sống ở đây đến già, hay tìm cách trở lại chốn thế gian phồn hoa?

Cứ theo tâm ý của Tiểu Long Nữ, thà ở dưới đáy cốc thái bình yên ổn còn hơn, nhưng nghĩ Dương Quá thích náo nhiệt, tuy tình nghĩa sâu nặng với nàng, nhưng chàng không quen cảnh u tịch thế này, bèn nói:

– Chúng mình nghĩ cách leo lên trên kia, nếu ở trên đó không tốt, thì lại xuống đây. Có điều… có điều là muốn leo lên cũng không dễ chút nào.

Hai người lặn xuống hố băng, sang bờ đầm bên kia, thấy có một sợi dây dài bằng vỏ cây thòng từ trên xuống, ven đầm có rất nhiều vết chân, một đống lửa còn chưa nguội tro. Xem xét một hồi, thấy trên một thân cây có người dùng mũi kiếm khắc hai hàng chữ: “Nhất Đăng, Bá Thông, Anh Cô, Hoàng Dung, Trình Anh, Vô Song xuống đây tìm Dương Quá không gặp rất buồn leo trở lên”.

Dương Quá thầm cảm kích, nói:

– Họ rốt cuộc không hề quên ta.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không ai quên được chàng đâu.

Dương Quá nói:

– Họ tuy lặn xuống đầm, nhưng vì họ không ngã từ trên cao trăm trượng, nên lực chìm không mạnh, không đủ chìm tới hố băng. Nếu ta cũng dùng dây leo xuống, cũng sẽ không tìm được nàng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp đã bảo từ sớm, rằng vạn sự tiền định, ông trời đã an bài tất cả.

Dương Quá lắc đầu cười, nói:

– Cái đó gọi là thành tâm hết mực, gỗ đá cũng động lòng.

Chàng đưa tay kéo sợi dây, thử xem bên trên có được buộc chắc hay không, rồi nói:

– Ta lên trước, xem Kim Luân pháp vương còn ở đó hay không.

Nhưng nghĩ Nhất Đăng đại sư, Hoàng đảo chủ, Lão Ngoan đồng… đã tới đây, chắc Kim Luân pháp vương đã bỏ chạy rồi, lại nói:

– Võ công của nàng thế nào? Nếu không leo được, để ta cõng nàng.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Mười sáu năm qua tuy không tăng tiến, nhưng công phu sở học quá nửa vẫn còn.

Dương Quá ngoảnh đầu cười, tay trái nắm lấy sợi dây, hơi vận kình, thân mình đã bật lên hơn một trượng. Tiểu Long Nữ cũng bám dây leo lên. Không lâu sau, hai người lên khỏi thâm cốc.

Họ kề vai đứng trước Đoạn Trường nhai, nhìn hai hàng chữ năm xưa Tiểu Long Nữ khắc trên vách đá, tưởng như sang kiếp khác, họ nhìn nhau cười. Lúc này họ vô cùng vui sướng, bao nỗi thống khổ trong mười sáu năm hóa thành mây khói.

Dương Quá hái một bông hoa Long Nữ cài lên mái tóc Tiểu Long Nữ, nhất thời không biết hoa làm đẹp người hay người làm cho bông hoa thêm kiều diễm?

Hoàng Dược Sư đứng trên mặt thành nói muốn bày trận thế “Nhị thập bát tú”, đấu một trận lớn với Kim Luân pháp vương. Quách Tĩnh bẩm minh với An phủ sứ Lã Văn Đức, xin hạ tướng lệnh để Hoàng Dược Sư tại hiệu trường điều binh khiển tướng. Hiện thời các lộ anh hùng hào kiệt tham gia đại hội anh hùng tuy đã ra về quá nửa, song cũng còn rất nhiều anh tài ở lại thành Tương Dương, ai nấy tề tựu tại hiệu trường nghe lệnh.

Hoàng Dược Sư nói:

– Bọn Thát tử sử dụng bốn vạn nhân đội vây quanh cái đài cao, chúng ta nếu điều động binh mã nhiều hơn, dù có đánh bại chúng cũng không phải giỏi giang gì. Cho nên chúng ta cũng chỉ sử dụng bốn vạn người. Binh pháp Tôn Tử có nói, đông gấp mười lần thì vây địch, nhưng người giỏi dùng binh chỉ lấy một vây một, đâu có gì khó? Trận thế “Nhị thập bát tú” của chúng ta chia ra năm phương vị.

Các tướng lĩnh được triệu tập để nghe giải thích tỉ mỉ, Hoàng Dược Sư nói:

– Trận thế biến hóa phức tạp, nhất thời không thể quán thông, cho nên trận đánh hôm nay, muốn mời năm vị cao thủ võ học tinh thông thuật biến hóa ngũ hành chỉ huy, các vị tướng lĩnh cầm quân phải tuân theo hiệu lệnh của năm vị cao thủ đó.

Chúng tướng cúi mình nghe lệnh.

Hoàng Dược Sư nói:

– Hoàng lăng ngũ khí trung ương, thuộc Thổ, do Quách Tĩnh thống lĩnh tám ngàn quân, đạo quân này tiến thẳng vào giữa, chỉ lo cứu Quách Tương, không lo diệt địch. Mỗi người gánh đất đến chân cái đài cao, lập tức dùng đất dập lửa lấp củi cỏ, dỡ đài cao cứu người.

Quách Tĩnh nhận lệnh, đứng sang một bên.

Hoàng Dược Sư nói tiếp:

– Chu lăng tam khí phương nam, thuộc Hỏa, phiền Nhất Đăng đại sư thống lĩnh, gồm tám ngàn quân. Đạo quân này, một ngàn người hộ vệ chủ tướng, bảy ngàn người còn lại chia thành bảy đội, do bảy vị là Chu Tử Liễu, Võ Tam Thông, Tứ Thuỷ Ngư Ẩn, Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn, phu nhân Võ Đôn Nhu Gia Luật Yến, phu nhân Võ Tu Văn Hoàn Nhan Bình thống lĩnh, ứng với bảy sao Chu Tước, là Tỉnh mộc ngạn, Quỉ kim dương, Liễu thổ chương, Tinh nhật mã, Trương nguyệt lộc, Dực thủy xà, Sâm hỏa dẫn.

Nhất Đăng đại sư nhận lệnh.

Hoàng Dược Sư nói tiếp:

– Huyền lăng thất khí phương bắc, thuộc Thủy, do Hoàng Dung thống lĩnh, gồm tám ngàn quân. Đạo quân này, một ngàn người hộ vệ chủ tướng, bảy ngàn người còn lại chia thành bảy đội, do bảy vị là Gia Luật Tề, Lương trưởng lão, Quách Phù, các vị trưởng lão Cái Bang thống lĩnh ứng với bảy sao Huyền Vũ là Đẩu mộc ngạn, Ngưu kim dương, Nữ thổ bức, Hư nhật thử, Nguy nguyệt yến, Thất hỏa trư, Bích thủy chương.

Hoàng Dung nhận lệnh. Đạo quân này lấy đệ tử Cái Bang làm chủ lực, có nhiều nhân tài.

Hoàng Dược Sư điểm xong ba đạo binh, nói:

– Thanh lăng cửu khí phương đông, thuộc Mộc, đạo binh này do Đông Tà Hoàng Dược Sư ta thống lĩnh, cũng gồm tám ngàn quân. Các đệ tử của ta đã chết sạch, Ngốc cô không ở bên ta, ở đây chỉ còn mỗi một người là Trình Anh.

Đoạn Hoàng Dược Sư chọn sáu người trong số hào kiệt từng dự đại hội anh hùng, nói:

– Đạo binh này cũng chia thành tám đội, một đội hộ vệ chủ tướng, bảy đội còn lại ứng với bảy sao Thanh Long là Giốc mộc giao, Cang kim long, Đê thổ hạc, Phòng nguyệt hồ, Tâm nhật thố, Vĩ hỏa hổ, Ki thủy báo.

Điểm binh đến đạo quân tây lộ, Hoàng Dược Sư nói:

– Lộ này do giáo chủ giáo phái Toàn Chân Lý Chí Thường thống lĩnh..

Mọi người nghe đến đây, đều cảm thấy luận về danh vọng và võ công, chủ tướng cánh quân này thua xa bốn lộ quân trước. Bỗng nghe bên dưới có người nói lớn:

– Này Hoàng lão tà, lão không thèm đếm xỉa đến tiểu đệ ư?

Mọi người ngoảnh nhìn, người vừa lên tiếng chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông. Hoàng Dược Sư nói:

– Chu huynh, huynh bị thương ở lưng chưa khỏi, không thể xung trận, chứ nếu mời được Chu huynh làm chủ tướng tây lộ thì còn gì bằng…

Chu Bá Thông cướp lời:

– Vết thương nhỏ đâu có gì đáng kể? Cứ để tiểu đệ làm chủ tướng tây lộ. Này Chí Thường, ngươi có dám tranh chức chủ tướng với ta hay không đấy?

Lý Chí Thường cúi mình đáp:

– Đệ tử không dám.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Tốt, ta cũng biết nhà ngươi không dám.

Nói đoạn cầm lấy lệnh tiễn từ tay Lý Chí Thường.

Hoàng Dược Sư không thể làm gì khác, đành nói:

– Thế thì mong Chu huynh cẩn thận cho. Chu huynh thống lĩnh tám ngàn quân, trong đó một ngàn do Anh Cô chỉ huy, bảy ngàn còn lại giao cho các đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân như Lý Chí Thường chỉ huy, ứng với bẩy sao Bạch Hổ, là Khuê mộc lang, Lâu kim cẩu, Vị thổ trĩ, Ngang nhật kê, Tất nguyệt điểu, Chuỷ hỏa hầu, Thương thủy viên.

Điểm binh xong, lệnh cho các lộ quân sĩ đến kho quân khí nhận đủ vật dụng cần thiết, rồi phất cờ lệnh, bốn vạn binh mã chia ra năm phương đông, nam, tây, bắc, chính giữa, Hoàng Dược Sư dõng dạc nói:

– Năm xưa hai mươi tám viên tướng ứng với điềm trời, phò tá Hán Quang Vũ trung hưng, nay trận thế “Nhị thập bát tú” của chúng ta tuy không sánh nổi thanh thế của Hán Quang Vũ, nhưng chống giặc giữ nước, cũng đường đường chính chính là một kỳ soái oai hùng. Chư quân hãy nghe hiệu lệnh của chủ tướng, hôm nay quyết một trận tử chiến với bọn Thát tử Mông Cổ.

Tướng sĩ đồng thanh đáp ứng vang vang như tiếng sấm. Sau ba phát pháo hiệu, bốn cổng thành mở rộng, năm lộ binh mã hùng dũng tiến ra.

Tây lộ quân lấy phái Toàn Chân làm chủ lực, các đạo sĩ vốn thành thạo “Thiên Cang Bắc Đẩu trận”, chỉ thấy trường kiếm sáng loáng, bảy người một nhóm, bốn mươi chín người một đội, chuyển dịch như sao sa, tướng sĩ Mông Cổ nhìn hoa cả mắt, chỉ biết bắn tên ngăn chặn.

Chỉ nghe ở mạn bắc quân địch rú lên thất thanh, Hoàng Dung chỉ huy đệ tử Cái Bang dùng vòi dài phun nước độc dơ về phía quân địch. Thứ nước ấy dính vào người lập tức ngứa ngáy như điên, lát sau đã làm thối rữa cả da thịt, quân địch không chịu nổi, phải rút chạy.

Ở Nam lộ quân khói bốc ngút trời, là Nhất Đăng suất lĩnh tám ngàn quân thi triển hỏa công, dùng ống đồng phun lửa lưu huỳnh. Quân Mông Cổ thấy tình hình nguy hiểm, vội dồn vào giữa.

Quách Tĩnh suất lĩnh tám ngàn quân từ phía sau từ từ tiến lên, thấy quân địch bắt đầu rối loạn, liền xông thẳng tới chỗ đài cao.

Bỗng nghe bên cạnh đài cao nổi lên tiếng tù và vang vọng, từ dưới đất có mấy vạn quân địch đội đất chui lên. Thì ra chủ soái Mông Cổ cũng giỏi dùng binh, ngoài bốn vạn nhân đội bố trí xung quanh cái đài cao, còn đào hầm mai phục mấy vạn quân nữa. Thành thử cục diện đang bại của quân Mông Cổ lập tức thay đổi, trận thế “Nhị thập bát tú” tung hoành, tuy có làm rối loạn quân địch, song không thể tiêu diệt chúng.

Trống trận vang rền, quân Tống hò hét xông vào ác chiến với quân địch. Đội cung nỏ từ chân đài cao bắn tên ra như mưa, Trung lộ quân do Quách Tĩnh chỉ huy mấy phen xông vào đều bị mưa tên hất trở ra. Đôi bên ác chiến đã nửa canh giờ vẫn chưa phân thắng bại. Hoàng Dược Sư phất lá cờ xanh, đột nhiên Đông lộ quân đánh về phía nam, Tây lộ quân đánh lên phía bắc, trận pháp biến động.

Trận thế “Nhị thập bát tú” ngầm chứa cái lý ngũ hành sinh khắc. Hồng kỳ quân Nam lộ của Nhất Đăng đại sư đánh vào chính giữa, Hoàng kỳ quân của Quách Tĩnh đánh sang phía tây, Bạch kỳ quân của Chu Bá Thông xông về phía bắc, Hắc kỳ quân của Hoàng Dung thì xông sang phía đông, còn Thanh kỳ quân của Hoàng Dược Sư chuyển xuống phía nam. Sự luân chuyển ngũ hành này là hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa.

Quân Tống tuy chỉ có bốn vạn người, nhưng trận pháp tinh diệu, chỉ huy đều là cao thủ võ lâm, quân binh người người đều biết ơn vợ chồng Quách Tĩnh, quyết ý liều mình cứu ái nữ của vợ chồng họ, cho nên tuy quân địch đông gấp đôi, cũng không ngăn được.

Ác chiến hồi lâu, Hoàng Dược Sư hú một tiếng dài, Thanh kỳ quân lui vào chính giữa, Hoàng kỳ quân đánh lên phía bắc, Hắc kỳ quân vu hồi xuống phía nam, Hồng kỳ quân tiến sang phía tây, Bạch kỳ quân tấn công phía đông. Lần biến đổi trận pháp này là nghịch chuyển ngũ hành, là mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc.

Sự biến hóa ngũ hành sinh khắc nói ra nghe huyền diệu, thật ra là do cổ nhân Trung Quốc tinh nghiên. Sự biến đổi vật tính mà ngộ được cái lý, hiểu cái đạo âm dương, cái thuyết phản hồn thần. Nền y học, lịch số của Trung Quốc đều dựa vào đây, cái gọi là “ngũ vận cánh thủy, trên ứng thiên kỳ, âm dương vãng phục, hàn thử nghênh tùy, chân tà tương bác, nội ngoại phân li, lục kinh ba đang, ngũ khí khuynh di” có thể nói là cử thế vô song đương thời. Quân Mông Cổ tinh nhuệ, võ công cao cường, nhưng văn trí nông cạn, làm sao địch nổi đệ nhất đại gia thời nay là Hoàng Dược Sư? Thấy trận thế biến hóa mấy lần, tướng lĩnh quân địch trấn giữ cái đài cao cứ chóng mặt hoa mắt, thấy quân Tống cánh này đến, cánh kia đi, đề phòng chỗ này thì bỏ chỗ kia, thật không biết đường nào mà lần.

Kim Luân pháp vương đứng trên đài cao, quan sát cuộc đại chiến bên dưới, cũng thầm kinh hãi. Năm nào Hoàng Dung chỉ dùng tiểu thạch trận, lão ta đã không hiểu gì, huống hồ Hoàng Dược Sư tinh thông Dịch học gấp mười lần con gái mình. Trận thế “Nhị thập bát tú” dưới sự chủ trì của năm vị đại cao thủ đương đại triển khai ra, Kim Luân pháp vương không thể không thán phục, thấy quân Mông Cổ tử thương mỗi lúc một nhiều, Hoàng kỳ quân áp sát dần tới cái đài cao. Kim Luân pháp vương tuy dùng Quách Tương để uy hiếp, song lão ta cũng không nỡ thiêu sống nàng, lão ta quay nhìn nàng, thấy nàng tuy bị trói hai tay, song vẫn ngẩng cao đầu không chút run sợ. Kim Luân pháp vương nói:

– Tiểu Quách Tương, mau gọi phụ thân ngươi đầu hàng đi, ta đếm từ một đến mười, phụ thân ngươi không hàng, ta sẽ hạ lệnh phóng hỏa.

Quách Tương nói:

– Lão thích đếm thì cứ việc đếm, đừng nói là đếm từ một đến mười, lão có đếm đến một ngàn, một vạn cũng mặc lão.

Pháp vương tức giận nói:

– Ngươi tưởng ta không dám thiêu sống ngươi chắc?

Quách Tương lạnh lùng nói:

– Bổn cô nương chỉ cảm thấy lão thật đáng thương mà thôi.

Pháp vương hỏi:

– Tại sao ta lại đáng thương?

Quách Tương nói:

– Lão đánh không nổi gia gia má má của bổn cô nương, đánh không nổi ngoại công Hoàng đảo chủ, đánh không nổi Nhất Đăng đại sư, đánh không nổi Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông, đánh không nổi đại ca ca Dương Quá của bổn cô nương, lão chỉ bắt trói được bổn cô nương ở đây mà thôi. Trong thành Tương Dương của bổn cô nương, dù một gã tiểu tốt cũng không hèn mạt vô sỉ như lão. Này Pháp vương, bổn cô nương muốn khuyên lão một câu.

Pháp vương nghiến răng hỏi:

– Ngươi muốn khuyên ta điều gì?

Quách Tương nói:

– Làm một kẻ như lão thì còn có ý vị gì trên đời nữa? Chi bằng đâm đầu xuống dưới đài mà chết cho rồi!

Quách Tương lúc này đã không còn quan tâm đến sự sống chết của mình, nàng từ bé miệng lưỡi đã đáo để, nói năng không chịu thua ai, mấy câu kia làm cho Pháp vương tức muốn vỡ ngực ra. Lão quát to:

– Quách Tĩnh nghe đây, ta đếm từ một đến mười, nếu ngươi không đầu hàng, ta sẽ hạ lệnh phóng hỏa đốt đài.

Quách Tĩnh nói:

– Lão nghĩ Quách mỗ là kẻ chịu đầu hàng hay sao?

Hoàng Dược Sư dùng tiếng Mông Cổ nói lớn:

– Kim Luân pháp vương, ngươi không hiểu rõ đối phương, là kẻ bất trí, khi vũ nhược nữ, là kẻ bất nhân, không dám quyết thắng bằng đao thương thật sự với bọn ta, là kẻ bất dũng. Một kẻ bất trí, bất nhân, bất dũng như thế có còn là anh hùng hảo hán nữa chăng? Ở Tuyệt Tình cốc ngươi bị ta bắt, ngươi phải cầu xin, lạy tiểu cô nương Quách Tương mười tám cái mới được Quách Tương tha cho ngươi. Ngươi lại vong ân bội nghĩa, tham sinh úy tử, còn mặt mũi nào chiếm địa vị đệ nhất quốc sư Mông Cổ kia chứ.

Thực ra hoàn toàn không có chuyện Pháp vương lạy Quách Tương mười tám cái, nhưng Hoàng Dược Sư thâm mưu viễn lự, trước khi phát binh đã nhờ Hoàng Dung dịch mấy câu chỉ trích Pháp vương sang tiếng Mông Cổ, lão học thuộc lòng, bây giờ dùng khí đan điền nói ra trước muôn vạn người, tuy họ đang mải ác chiến, song ai cũng nghe rõ, Pháp vương dù có lên tiếng cải chính hay không cũng vô ích. Người Mông Cổ xưa nay rất tôn kính dũng sĩ, họ hết sức khinh bỉ kẻ nhu nhược hèn hạ. Binh sĩ Mông Cổ nghe câu nói của Hoàng Dược Sư bất giác đều ngẩng nhìn lên đài cao, ánh mắt lộ vẻ khó chịu. Lưỡng quân giao chiến, khí thế bên nào hăng hái sẽ thắng, quân Mông Cổ nghe bảo chủ tướng của mình hèn hạ vô sỉ như vậy, khí thế giảm hẳn đi, trong khi quân Tống người người lăn xả vào quyết thắng.

Pháp vương thấy tình hình không ổn, bèn nói to:

– Quách Tĩnh nghe đây, ta đếm từ một đến mười, đến chữ “mười” thì ái nữ của nhà ngươi sẽ hóa thành than đó. Một… hai… ba… bốn…

Pháp vương đếm xong mỗi số đều dừng lại một lát, chỉ mong Quách Tĩnh cuối cùng không chịu đựng nổi, dù không đầu hàng thì cũng rối loạn tâm trí.

Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng, Hoàng Dung, Chu Bá Thông năm lộ binh mã nghe Pháp vương trên đài cao đếm số, nhìn mấy trăm tên lính cầm đuốc đứng dưới chân đài, chỉ đợi Pháp vương hạ lệnh sẽ châm lửa vào củi cỏ, thì ai cũng tức giận và lo lắng, gắng sức xung sát, tiến đến chỗ đài cao cứu Quách Tương. Nhưng quân Mông Cổ tiễn pháp tinh diệu, mấy trăm tinh binh phóng tên, dưới làn mưa tên, Tứ Thủy Ngư Ẩn, Lương trưởng lão, Võ Tu Văn đều đã trúng tên bị thương, bốn đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, hơn chục hảo thủ Cái Bang cũng đã trúng tên bỏ mạng, tướng sĩ quân Tống bị tử thương vô số.

Hoàng Dung lúc đầu từng sai Quách Phù đưa áo giáp lông nhím cho ngoại công mặc để đỡ phần hung hiểm, kẻo lỡ vì cứu nữ nhi mà phụ thân bị thương thì suốt đời Hoàng Dung ân hận. Hoàng Dược Sư nghĩ đó là cử chỉ hiếu lễ của nữ nhi, không tiện từ chối, nhưng sau đó lão lại cởi ra, lừa mặc vào người Chu Bá Thông, cho nên Chu Bá Thông lao qua lao lại giữa làn mưa tên mà không hề hấn gì. Lão thấy tên bắn vào thân mình đều rơi rụng lả tả, thì khoái trá xông thẳng tới phía trước, chưởng phong phát đến đâu, các xạ thủ Mông Cổ giạt ra tới đó.

Chỉ nghe Kim Luân pháp vương trên đài cao đêm to:

– Tám… chín… mười! Được lắm, phóng hỏa!

Tức thì các đống củi cỏ đặt dưới chân đài được châm lửa, khói bốc lên. Tám ngàn quân Hoàng kỳ đo Quách Tĩnh thống lĩnh tuy vác bao đất trên lưng, song không thể tới được cách chân đài hai trăm bước, đành chỉ đứng nhìn.

Hoàng Dung thấy khói lửa bốc lên, thì mặt tái nhợt đi, lảo đảo chực ngã. Gia Luật Tề đưa tay đỡ, nói:

– Nhạc mẫu, hãy lùi về phía sau nghỉ ngơi, con dù mất mạng, cũng phải cứu Tương muội ra.

Đúng lúc đó, bỗng nghe đằng xa có tiếng hò reo như sấm, mấy vạn quân thiết giáp Mông Cổ từ hai cánh tiến thẳng tới tấn công thành Tương Dương. Tiếng hô “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!” chấn động đất trời. Lá cờ lớn của đại hãn Mông Cổ Mông Kha giương cao, tiến nhanh đến chân thành, tinh binh hãn tướng đông như kiến, do đại hãn thân chinh chỉ huy ào ạt công thành.

Quách Tĩnh tay trái cầm khiên, tay phải cầm mâu, vốn đã đến cách cái đài cao không đầy trăm bước, các xạ thủ Mông Cổ bắn tên như mưa, thủy chung vẫn không đả thương nổi, thấy sắp có thể xông lên trên đài cao, bỗng nghe phía sau lưng có biến, không khỏi giật mình, nghĩ: “Nguy quá, trúng kế điệu hổ ly sơn của Thát tử mất rồi. An phủ sứ nhu nhược sợ địch, trong thành binh mã tuy đông, nhưng thiếu người thống lĩnh, chỉ sợ đại sự nguy to”.

Quách Tĩnh và Hoàng Dược Sư lúc phát binh, việc phòng bị trong thành đã được gia tăng, đề phòng quân địch thừa cơ tập kích, không ngờ quân địch quanh cái đài cao kháng cự dũng mãnh, còn đại hãn Mông Cổ thì bỏ mặc mấy vạn binh mã quanh đài cao đang lâm nguy, thân chinh mạo hiểm công thành. Quách Tĩnh nghĩ: “Việc cứu con là chuyện nhỏ, giữ thành là chuyện lớn!” Bèn gọi to:

– Nhạc phụ, chúng ta đừng lo cho Tương nhi nữa, phải cấp tốc quay lại đánh quân địch ở phía sau.

Hoàng Dược Sư ngoảnh đầu nhìn lại, thấy lửa bén dần lên cao, Pháp vương chính đang thong thả theo cái thang gỗ đi xuống, trên đài cao chỉ còn một mình Quách Tương, lão đảo chủ há không hiểu khinh trọng hoãn cấp, một mình Quách Tương làm sao có thể so với sự an nguy của cả thành Tương Dương? Lão đành thở dài, nói “Thôi!” rồi lệnh cho người cầm cờ xanh phất cờ điều binh quay về phía nam.

Quách Tương bị trói trên đài cao, thấy phụ mẫu, ngoại công đều không cách gì đến cứu nàng, khói dày lửa mạnh ùn ùn dưới chân đài cao, tự biết mình sắp bị thiêu sống. Ban đầu nàng rất hoảng sợ, nhưng lúc sự việc xảy ra, nàng lại trở nên bình thản, ngẩng đầu nhìn xa tít về phương bắc, thấy bình nguyên trải dài xanh tươi, giang sơn như tranh vẽ, nghĩ thầm: “Thế giới đẹp nhường kia, mình lại sắp phải chết. Không biết đại ca ca lúc này ở đâu, đã lên khỏi đáy sơn cốc hay chưa?”

Hồi tưởng mấy lần gặp gỡ với Dương Quá, tuy từ nay không còn được gặp lại chàng, nhưng chỉ ba lần giải cấu tương phùng ấy cũng đủ cho cả đời. Lúc này thân lâm cực hiểm, trong tâm tại vô cùng thanh thản, đối với cuộc ác chiến dưới chân đài cao, nàng không quan tâm nữa. Chính đang thả hồn tới thâm cốc, hồi tưởng hôm nào, bỗng nghe có tiếng hú từ xa vọng tới, tiếng hú ấy tựa hồ át hết tiếng hò hét xung sát của thiên binh vạn mã nơi này.

Quách Tương giật mình, tiếng hú kinh tâm động phách ấy chính là tiếng hú của Dương Quá hôm chàng trấn áp bầy dã thú, nàng bèn ngoảnh về phía tiếng hú vọng tới, thì thấy ở mạn tây bắc quân Mông Cổ đang liên tiếp dạt cả ra hai bên, có hai người đang xông thẳng qua một rừng đao kiếm, như con thuyền lướt trên sóng dữ. Đi trước hai người là một con chim khổng lồ, hai cánh không ngừng vẫy đập, tạo nên hai luồng cuồng phong, đánh rơi lả tả những mũi tên bắn tới. Con chim vô cùng lợi hại ấy chính là Thần điêu của Dương Quá.

Quách Tương cả mừng, chăm chú nhìn kỹ hai người kia, thấy người đi bên trái mũ xanh áo vàng, đúng là Dương Quá, người đi bên phải áo trắng bay bay là một mỹ mạo nữ nhân. Hai người tay cầm trường kiếm, múa thành một đạo bạch quang, theo sau Thần điêu, xông thẳng tới chỗ đài cao. Quách Tương gọi lạc cả giọng:

– Đại ca ca, người kia là Tiểu Long Nữ phải không?

Nữ nhân bên cạnh Dương Quá chính là Tiểu Long Nữ, họ đang ở xa, không thể nghe thấy tiếng gọi của Quách Tương. Thần điêu đi trước mở đường, hai cánh vỗ đập đẩy rơi đẩy chệch các mũi tên bắn tới, dù tên có trúng người cũng không còn đà bay nữa, nếu không, Thần điêu dù là linh cầm, cánh cứng như sắt, rốt cuộc cũng vẫn là huyết nhục, chịu sao nổi mũi tên nhọn?

Tướng sĩ Mông Cổ thấy Thần điêu tiến đến hung mãnh như thế, bèn nhảy lên ngựa dùng giáo dài mà đâm, đều bị Dương Quá và Tiểu Long Nữ đánh cho ngã ngựa. Hai người một chim điêu yểm hộ cho nhau, thoáng chốc đã xông tới trước đài cao.

Dương Quá gọi:

– Tiểu muội tử đừng lo, ta đến cứu muội đây!

Chàng thấy nửa dưới của cái đài cao đã chìm trong lửa, chàng tung người nhảy vọt lên cái thang gỗ, leo lên mấy trượng, bỗng cảm thấy một luồng chưởng phong áp xuống đỉnh đầu, chính là Kim Luân pháp vương phát chưởng tập kích. Dương Quá tung chưởng nghênh tiếp, bùng một tiếng, hai luồng kình lực đụng nhau, hai người cùng loạng choạng, cái thang gỗ rung chuyển mấy cái tựa hồ sắp gãy. Hai người cùng kinh ngạc, thầm thán phục đối thủ lợi hại: “Mười sáu năm không gặp, công lực của y tinh tiến ghê gớm như thế!”

Dương Quá thấy tình thế nguy cấp, không thể đấu chưởng lực trên cái thang gỗ, bèn dùng trường kiếm đâm nhanh lên bắp chân hoặc bàn chân của Pháp vương. Pháp vương ở bên trên, nếu dùng kim luân đối phó, thứ binh khí ấy ngắn, phải cúi gập người rất bất tiện, lão ta đành nhảy vọt lên đài cao. Dương Quá đâm theo sau lưng Pháp vương liên tiếp vài nhát, chiêu nào cũng như cuồng phong bạo vũ, song Pháp vương không hề ngoảnh đầu lại, chỉ nghe tiếng gió mà dùng luân gạt đỡ, như thể lão ta có con mắt thứ ba ở sau lưng. Dương Quá quát:

– Lão giặc trọc, khá khen!

Pháp vương vừa lên tới mặt đài cao, liền đánh trả một luân. Dương Quá nghiêng đầu tránh, thân theo kiếm nhảy vọt lên. Pháp vương dùng kim luân và cả ngân luân gạt mạnh thanh kiếm của chàng.

Ban nãy ở cái thang gỗ hai người đã đấu một chưởng, Dương Quá cảm thấy chưởng lực của Pháp vương quá trầm hùng, chàng chưa từng gặp đối thủ nào như thế, bất giác lấy làm lạ, nghĩ bụng mình từng luyện công trong hải triều, đủ sức chống chọi với sóng dữ, mười sáu năm trước Pháp vương đã không địch nổi chàng, tại sao hôm nay một chưởng vừa rồi của lão ta, chàng lại chút nữa không đỡ nổi? Thấy song luân của Pháp vương đánh tới, chàng không tránh, mà dùng trường kiếm chống trả, muốn thử xem chân lực của Pháp vương tới mức nào. Kiếm luân đập vào nhau, choang một cái, hai luồng kình lực lại tương kháng, kiếm của Dương Quá bị gãy làm mấy đoạn, song luân của Pháp vương cũng tuột khỏi tay, bay xuống dưới đài, làm chết ba xạ thủ Mông Cổ. Dương Quá thầm kinh hãi: “Mười sáu năm nay mình không dùng đến thanh Huyền thiết trọng kiếm, hôm nay đúng là quá xem thường đối phương”.

Sau chiêu này, hai người đều tự nhảy lùi, đều cảm thấy cánh tay hơi tê dại, Pháp vương thò tay vào bọc rút ngay ra đồng luân và thiết luân mà đánh tới.

Dương Quá không còn binh khí, chàng phất ống tay áo rỗng một cái, tay trái phát chưởng chống trả.

Quách Tương kêu lên:

– Lão ác tăng kia, bổn cô nương đã bảo lão đánh không nổi đại ca ca có phải không nào? Lão khoe võ công cao siêu, tại sao lại phải dùng hai món binh khí đấu với người tay không? Thật không biết giữ thể diện!

Pháp vương hừ một tiếng, không trả lời, chiêu số của song luân trong tay càng dồn dập thêm.

Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung đang tự dẫn quân về cứu thành Tương Dương, đột nhiên thấy Dương Quá, Tiểu Long Nữ và Thần điêu vượt qua hàng ngũ quân địch, xông tới chỗ cái đài cao, thì tinh thần vô cùng phấn chấn. Hoàng Dược Sư phất cờ lệnh, điều động từ năm lộ binh mã Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung mỗi lộ bốn ngàn người, hợp thành hai vạn binh mã, đánh vào sau lưng đội quân Mông Cổ đang công thành, hai vạn binh mã còn lại thì ở quanh đài cao thanh viện Dương Quá. Quân Tống nhân số bị giảm đi một nửa, nhưng thấy Dương Quá vọt lên đài cao, thì ai nấy gắng sức tử chiến, một có thể địch mười. Song bọn xạ thủ Mông Cổ vẫn bắn tên như mưa, không nhường một tấc. Quân Tống mấy phen tràn lên, đều bị đánh bật trở lại.

Dưới chân thành Tương Dương, cuộc công thành cũng diễn ra ác liệt. An phủ sứ Lã Văn Đức không dám ra mặt thành, y mặc áo giáp sắt, mang theo hai ái thiếp, chui vào bên trong tiểu lũy mà run rẩy, miệng cứ lẩm bẩm khấn:

– Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm bồ tát… xin hãy phù hộ… phù hộ cho cả gia đình chúng ta con già trẻ gái trai bình yên… Cứu khổ cứu nạn…

Hai ái thiếp thì kẻ xoa ngực, kẻ lau bọt mép cho y.

Quân thám báo chốc chốc chạy vào bẩm,

– Ở cửa Đông quân địch lại tăng viện thêm một vạn nhân đội…

– Ở cửa Bắc quân địch đã dựng thang leo lên…

Lã Văn Đức chỉ trợn mắt hỏi:

– Quách đại hiệp đã về thành chưa? Bọn Thát tử vẫn chưa lui binh hay sao?

Lúc này Dương Quá tay không đã đấu với đồng luân và thiết luân của Pháp vương hơn hai trăm chiêu. Hai người võ công gia số khác hẳn nhau, nhưng đều càng đấu càng hăng, luân ảnh chưởng phong bao trùm cả mặt đài cao, khói đen từ dưới bốc lên làm cho ba người cay cả mắt. Dương Quá tuy không có binh khí, nhưng không hề bị núng thế.

Pháp vương đang ác đấu, cảm thấy cái đài cao hơi lung lay, thầm nghĩ chân đài cao bị cháy, cái đài cao sắp đổ sập, khi đó lão ta sẽ cùng bỏ mạng với Dương Quá và Quách Tương. Lại thấy chưởng pháp của Dương Quá càng lúc càng biến ảo, đấu thêm trăm hiệp nữa, lão ta ắt bị chàng chế ngự, trong cơn nguy cấp, liền nảy độc kế, lão đánh mạnh thiết luân tới vai phải của Dương Quá, thừa lúc chàng trầm vai tránh né, đồng luân trong tay phải đột nhiên văng mạnh tới trước mặt Quách Tương. Nàng bị trói vào cây cột, toàn thân không thể cử động, làm sao tránh nổi?

Dương Quá cả kinh, vội nhảy lên cao, vung ống tay áo phải đánh rơi đồng luân. Nhưng hai đại cao thủ giao đấu, quả thực không thể sai sót dù nhỏ, Dương Quá chỉ cốt cứu Quách Tương, nên môn hộ toàn thân lộ liễu, Pháp vương nhoài người giơ tay, cái cạnh sắc của thiết luân chém vào bắp chân trái của Dương Quá. Dương Quá đang lơ lửng trên không, vội dùng chân phải đạp vào cổ tay đối phương. Thiết luân của Pháp vương lật chếch đi, lần này thì Dương Quá không thể né tránh, phập một cái bắp chân phải của chàng trúng luân, máu chảy xối xả, chàng bị thương không nhẹ. Quách Tương thảng thốt kêu “Ối!” Pháp vương đã rút diên luân, vẫn song luân trong tay, tiếp tục tấn công Quách Tương. Lão ta biết Dương Quá tuy bị thương, nhưng lão ta chưa thể ngay lập tức chế ngự được chàng, chỉ có cách tập kích Quách Tương, buộc chàng phải dốc sức cấp cứu, luống cuống chân tay, mới xoay chuyển được cục diện.

Quách Tương kêu lên:

– Dương đại ca, đừng chú ý đến tiểu muội, đại ca ca hãy giết lão ác tăng ấy trả thù cho tiểu muội.

Chỉ nghe Dương Quá rên một tiếng, vai trái của chàng đã trúng luân.

Tiểu Long Nữ và Thần điêu đứng dưới chân đài cao, cùng Chu Bá Thông hợp lực đánh đuổi bọn xạ thủ Mông Cổ, không để chúng có thể nhắm Quách Tương mà bắn tên. Nhưng toàn bộ tâm trí của Tiểu Long Nữ đều dồn cho Dương Quá, trong lúc vung kiếm giết địch, chốc chốc nàng lại nhìn lên đài cao, đột nhiên thấy Dương Quá máu me đầm đìa thì giật mình, suýt ngất đi. Lúc này cái thang gỗ đã cháy, gãy rời, không cách gì leo lên trên kia trợ chiến. Đầu óc nàng mơ hồ, tay vung kiếm giết địch mà không biết mình đang ở đâu và đang làm gì.

Dương Quá lâm vào hiểm cảnh cực độ, mấy lần định sử dụng “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” để đánh bại cường địch, nhưng theo lộ chưởng pháp này, thân phải hợp với tâm, sau khi chàng đoàn tụ với Tiểu Long Nữ, lòng quá sung sướng, làm gì còn chỗ cho tâm trạng “Ám nhiên tiêu hồn”? Tuy gặp nguy cấp, nhưng không có nỗi khổ tương tư ngày trước, nên chiêu thức sử dụng kém hẳn uy lực.

Tình cảnh Dương Quá trên đài cao tay không chống chọi, vai và chân bị thương chảy máu, nhóm Quách Tĩnh ở bên dưới nhìn thấy cả, nhưng khoảng cách quá cao xa, không tài gì bay lên cứu trợ. Hoàng Dung chợt nghĩ ra một cách, chạy tới cầm lấy thanh kiếm trong tay Gia Luật Tề, tung cho Quách Tĩnh, nói:

– Hãy bắn lên cho Quá nhi!

Quách Tĩnh nhận thanh kiếm, lấy hai cái cung cứng chập vào nhau, đặt cán kiếm vào dây cung, tay trái giữ chắc hai thân cung, tay phải kéo căng hai dây cung, rồi buông tay, thanh kiếm bay vút lên, bạch quang loang loáng.

Thanh kiếm bay vo vo tới phía sau Dương Quá, chàng phất ống tay áo rỗng cuốn lấy nó, rồi tay trái chộp được thân kiếm. Vừa lúc ấy cái diên luân của Pháp vương đánh tới. Dương Quá đâm một kiếm vào giữa song luân. Nhưng vai trái của chàng đã bị thương, kình lực giảm hẳn. Song luân của Pháp vương dập lại cạch một cái, lại đánh gãy trường kiếm. Mọi người ở dưới đài cao nhìn rõ mồn một, thảy đều thất sắc.

Dương Quá thầm biết hôm nay thế là hết, chẳng những không cứu được Quách Tương, mà chính mình cũng bỏ mạng trên đài cao này, chàng buồn rầu nhìn Tiểu Long Nữ ở bên dưới một cái, gọi:

– Long nhi, vĩnh biệt, vĩnh biệt, nàng hãy bảo trọng!

Đúng lúc ấy thiết luân của Pháp vương đánh tới đầu chàng. Dương Quá trong lòng không còn thiết gì nữa, tuyệt vọng phất ống tay áo, đánh ra một chưởng, chỉ nghe “hự” một tiếng, chưởng đó đã trúng vai Pháp vương. Bỗng nghe Chu Bá Thông ở bên dưới reo to:

– Chiêu “Đà nê đới thủy” tuyệt quá!

Dương Quá sững sờ, chợt tỉnh ngộ, thì ra chàng biết mình sắp chết, thất hồn lạc phách, đánh đại một chiêu, không ngờ lại là chiêu “Đà nê đới thủy” trong “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”. Theo bộ chưởng pháp này, tâm điều khiển cánh tay, cánh tay điều khiển bàn tay, tâm ý hoàn toàn làm chủ. Ngày nọ tại Vạn Hoa cốc, Chu Bá Thông tuy tinh thông võ học, song không có tâm trạng như Dương Quá nên chưa hiểu được cái kỳ diệu của “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”. Nay Dương Quá và Tiểu Long Nữ trùng phùng, lộ chưởng pháp này mất đi thần hiệu, mãi đến thời khắc sinh tử hệ trọng này, lòng chàng nghĩ tới cảnh phải vĩnh biệt Tiểu Long Nữ, vô cùng đau đớn tuyệt vọng, thì “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” mới tự nhiên lại phát sinh đại uy lực.

Pháp vương vốn đang nắm chắc phần thắng, đột nhiên vai bị trúng chưởng, thân hình lảo đảo, vừa kinh hãi vừa tức giận, liền nhào cả người tới. Dương Quá lùi bước né tránh, sử liên tiếp ba chiêu “Hồn bất thủ xả”, “Đảo hành nghịch thi”, “Nhược hữu sở thất”. Tiếp đó đá một cước, sử chiêu “Hành thi tẩu nhục”. Cước này tung ra nửa hư nửa thực, Pháp vương không biết đường nào mà tránh. Hự một cái, trúng ngay giữa ngực lão ta. Pháp vương rú lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi ngã lộn khỏi cái đài cao rơi xuống đất.

Quân Tống và quân Mông Cổ không hẹn cùng kêu to, quân Tống là tiếng reo hò, còn quân Mông Cổ là tiếng kinh sợ.

Lúc này cái đài cao chao đảo, nhiều tiếng răng rắc, Dương Quá biết tình thế gấp rút, không kịp cởi dây trói cho Quách Tương, chàng vung chưởng đánh gãy cái cột, ôm nàng cùng khúc cột gãy, nhắm chuẩn lưng Thần điêu mà nhảy xuống. Thần điêu liền dang rộng hai cánh, nhảy lên cao hơn một trượng, nó thân thể quá to nặng, không bay được, nhưng cái nhảy này khá cao, Dương Quá ôm Quách Tương đáp xuống lưng Thần điêu, sau đó từ từ tiếp đất. Đúng lúc đó, khói lửa bốc cao trong tiếng nổ lốp bốp, cái đài đổ ụp xuống.

Pháp vương bị Dương Quá đạp văng khỏi cái đài cao, tuy bị trọng thương, song vẫn muốn thoát chết, lão rơi xuống đất rồi vội lăn một vòng định bật dậy, bỗng nghe có tiếng cười hô hô sau lưng, rồi một người ôm lấy lão ta mà đè nghiến xuống đất, tiếp đó lão cảm thấy có hàng ngàn mũi gai nhọn đâm ngập vào da thịt lão. Thì ra người đè Pháp vương chính là Chu Bá Thông. Chu Bá Thông mặc chiếc áo giáp lông nhím của đảo Đào Hoa, cái áo quí này đao kiếm đâm không thủng, song lại đầy gai nhọn tua tủa, Pháp vương đã bị thương nặng, còn bị Lão Ngoan đồng ôm chặt và đè nghiến xuống, làm sao còn cựa quậy? Khi cái đài cao đổ sập, Lão Ngoan đồng nhảy ra xa, Pháp vương nằm lại bị vùi trong biển lửa.

Hoàng Dung thấy ái nữ cuối cùng thoát chết thì sung sướng chảy nước mắt, lòng cảm kích đối với Dương Quá thật không bút nào tả xiết, nếu cần chết vì Dương Quá cũng cam lòng, vội chạy tới bên nữ nhi, cắt dây trói cho nàng. Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư, Gia Luật Tề cũng vô cùng phấn chấn tinh thần.

Quân Mông Cổ bên cái đài cao thấy chủ tướng bỏ mạng, lập tức rối loạn, lại bị năm lộ quân Tống đánh ập trở lại, thì nhanh chóng tan rã. Quách Tĩnh giơ tay hô to:

– Về cứu thành Tương Dương, đi giết đại hãn Thát tử!

Quân Tống reo hò hưởng ứng, hăm hở tiến về phía quân Mông Cổ đang công thành.

Tiểu Long Nữ xé vạt áo băng vết thương cho Dương Quá, hai tay run run, không nói nên lời. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Nàng ở dưới đài cao lo sợ cho ta, còn khổ hơn ta ác chiến trên đó.

Chỉ nghe tiếng quân Tống hò reo dậy đất, cờ chia ra ngũ sắc, đang xung phong về phía quân Mông Cổ. Dương Quá chăm chú nhìn ra xa, thấy quân địch đội ngũ chỉnh tề, quân số đông gấp mấy lần quân Tống, quân Tống mấy phen tràn lên như nước thủy triều, nhưng chẳng làm gì nổi quân địch.

Dương Quá nói:

– Tên đại tặc đã chết, song quân địch chưa bại, chúng ta hãy tái chiến. Long nhi có mệt không?

Ba câu đầu hiên ngang khảng khái, câu thứ tư chuyển thành giọng dịu dàng, Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Chàng bảo đánh thì đánh!

Bỗng có một giọng nói trẻ trung vang lên ngay bên cạnh:

– Dương đại tẩu, đại tẩu đẹp quá!

Người vừa nói là Quách Tương. Tiểu Long Nữ quay đầu mỉm cười, nói:

– Tiểu muội tử, đa tạ tiểu muội cầu chúc cho vợ chồng ta đoàn tụ. Đại ca ca của tiểu muội cứ khen tiểu muội hết lời, nhất định đòi dẫn ta đến thành Tương Dương gặp tiểu muội.

Quách Tương thở dài, nói:

– Đúng là chỉ có đại tẩu mới xứng với đại ca ca thôi.

Tiểu Long Nữ nắm tay Quách Tương hết sức thân mật. Tiểu Long Nữ đối với ai vốn cũng đều lạnh nhạt, hờ hững, nhưng nghe Dương Quá khen ngợi Quách Tương, bảo Quách Tương đã cầu trời phù hộ cho vợ chồng mình đoàn tụ, lại bất chấp tính mệnh nhảy theo xuống vực để khuyên chàng đừng tự tận, nên đối với Quách Tương khác hẳn.

Dương Quá kéo mấy con ngựa chiến vô chủ đang chạy lung tung lại, nói:

– Ta sẽ mở đường, mọi người hãy cùng xông lên!

Chàng nhảy lên yên, phóng đi trước. Tiểu Long Nữ và Quách Tương mỗi người cưỡi một con ngựa theo sau. Ba người phi về hướng nam, thấy có mấy trăm cái thang áp vào tường thành Tương Dương, quân Mông Cổ đông như kiến đang leo thang lên.

Ba người lên một cái gò cao nhìn tứ phía, bỗng thấy ở mé tây có hơn một ngàn quân Mông Cổ đang vây đội quân chừng ba trăm người do Gia Luật Tề suất lĩnh. Quân địch toàn dùng loan đao kéo bộ thuộc của Gia Luật Tề ngã ngựa. Quách Phù dẫn một tốp binh mã xông đến cứu, nhưng bị hai thiên nhân đội Mông Cổ ngăn chặn, hai vợ chồng nhìn thấy nhau từ xa, mà không thể xáp lại gần. Quách Phù thấy sĩ tốt bên cạnh chồng ít dần thì lo lắng, thầm biết trong chiến trận, nếu một mình bị vây hãm giữa thiên binh vạn mã, thì võ công cao mấy cũng sẽ tử trận.

Dương Quá gọi to:

– Quách đại cô nương, cô nương lạy ta ba cái, ta sẽ đi cứu phu quân của cô nương.

Với cái tính kiêu ngạo cố hữu của mình, đừng nói lạy ba cái, dù phải chết, Quách Phù cũng chẳng chịu thua Dương Quá, nhưng lúc này thấy chồng nguy ngập quá, Quách Phù liền phi ngựa lên gò, nhảy xuống đất mà quì lạy.

Dương Quá kinh ngạc, vội đỡ dậy, hối hận là mình nói năng khinh bạc, nói:

– Là ta sai, ta nói năng nhảm nhí, muội đừng cho là thật. Gia Luật huynh với ta vốn là bằng hữu, lẽ nào thấy nguy không cứu?

Chàng chạy xuống khỏi gò, thấy con ngựa chiến nào chạy qua đều bắt lấy, tổng cộng tám con, cho bốn con trước, bốn con sau, xếp thành hai hàng, đoạn chàng nhảy phốc lên lưng ngựa, một tay cầm tám dây cương, quát to, cho bầy ngựa xông thẳng vào trận.

Trong chiến trận thời Tống, vốn có kiểu giáp mã liên hoàn, bấy giờ Song Tiên Hô Diên Chước đánh lên Lương Sơn Bạc, từng dùng trận pháp giáp mã liên hoàn mà thủ thắng. Dương Quá đem tám con ngựa xếp thành hai hàng, giống như một giáp mã liên hoàn trận nhỏ. Có điều tám con ngựa ghép đại vào nhau, chưa qua huấn luyện, lúc tiến lên con chạy đông con chạy tây, không ăn ý, Dương Quá phải dùng thần lực ghì cương mới điều khiển được chúng, tám con ngựa xông tới, vó tung đất bụi. Dương Quá thi triển khinh công, cứ nhảy từ lưng con ngựa này sang lưng con ngựa khác. Quân địch chưa từng thấy thuật cưỡi ngựa kỳ dị thế này, còn đang kinh ngạc, thì bầy ngựa đã xông tới. Dương Quá cướp một lá cờ to, cắm trên yên ngựa.

Tướng sĩ Mông Cổ hò hét ngăn chặn, Dương Quá cầm lá cờ quét ngang, làm cho ba quan binh ngã ngựa, thấy chỉ còn cách Gia Luật Tề chưa đầy hai trượng, bèn gọi:

– Gia Luật huynh, mau nhảy lại đây!

Gia Luật Tề nhún người nhảy tới, Dương Quá vung lá cờ cuốn ngay lấy thân mình Gia Luật Tề. Hai người tám ngựa, thoát ra khỏi vòng vây của quân địch.

Gia Luật Tề thở phào nhẹ nhõm, nói:

– Dương huynh đệ, đa tạ ơn cứu mạng, nhưng thuộc hạ của đệ còn ở trong vòng vây, đệ không thể một mình sống sót, đệ phải chết cùng với họ.

Dương Quá chợt nảy một kế, nói:

– Huynh hãy cướp một lá cờ lớn lại đây!

Rồi chàng đánh lửa, châm vào lá cờ. Gia Luật Tề nói:

– Diệu kế!

Chàng phi ngựa lên cướp một lá cờ to, châm lửa. Hai chàng quát to, vung lá cờ cháy, lại xông vào trận địch.

Hai lá cờ quạt lửa từng chập, thanh thế kinh hồn, quân Mông Cổ đứa cháy tóc, kẻ sém mày, hung hãn mấy cũng đành phải lùi ra. Thuộc hạ của Gia Luật Tề còn bảy, tám chục người nhờ đó chạy thoát ra khỏi vòng vây. Gia Luật Tề thu thập tàn binh, ngồi nghỉ trên một cái gò.

Quách Phù đến trước mặt Dương Quá, vái thật dài, nói:

– Dương đại ca, cả một đời muội đối xử không tốt với đại ca, nhưng đại ca đại nhân đại nghĩa, lấy đức báo oán, đã cứu sống…

Nói đến đây, giọng nàng nghẹn ngào. Kỳ thực trước đây Dương Quá từng mấy đận cứu mạng nàng, song Quách Phù vẫn cứ căm tức chàng, thừa biết chàng có ơn lớn đối với nàng, song nàng không sao rũ bỏ được sự căm hận, thường nghĩ chàng cậy võ công cao hơn, cố ý ban ơn, chứ vị tất có hảo ý gì với nàng. Đến khi Dương Quá cứu chồng nàng, Quách Phù mới thật sự cảm kích, nhận ra sai lầm của mình ngày trước.

Dương Quá vội đáp lễ, nói:

– Phù muội, hai ta sống một nhà từ nhỏ, tuy thường gây sự, thực ra tình như huynh muội. Chỉ cần từ nay muội không căm hận huynh, thì huynh đã thỏa mãn lắm rồi.

Quách Phù ngẩn người, bao nhiêu chuyện cũ dồn dập tái hiện trong óc: “Không lẽ mình căm hận chàng thật ư? Huynh đệ họ Võ một mực liều chết lấy lòng mình, còn chàng thì chẳng thèm ngó ngàng đến mình. Chỉ cần chàng để mắt đến mình một chút thôi, dù có phải chết vì chàng, mình cũng cam lòng. Tại sao mình lại cứ căm hận chàng một cách vô cớ? Chỉ là vì mình cứ thầm yêu trộm nhớ chàng, mà chàng thì chẳng thèm để mắt đến mình chăng?”

Hai mươi năm nay nàng không hiểu rõ tâm sự của mình, mỗi khi nghĩ đến Dương Quá, lại coi chàng là kẻ đối đầu, trong khi thật ra từ đáy lòng nàng luôn nghĩ đến chàng với một tình cảm khó nói, tiếc rằng Dương Quá không hiểu rõ tâm sự của nàng đã đành, chính nàng cũng không hiểu rõ tâm sự của mình.

Lúc này khi đã rũ bỏ ý nghĩ căm hận, nàng mới đột nhiên hiểu, thì ra tình cảm của nàng đối với chàng lại sâu xa như vậy. “Lúc chàng xông vào trận giặc cứu Tề ca, mình rốt cuộc lo cho ai nhiều hơn nhỉ? Chính mình cũng không biết nữa”. Giữa chiến trường thiên quân vạn mã, Quách Phù đột nhiên hiểu rõ tâm sự của mình: “Hôm sinh nhật Quách Tương chàng tặng nó ba món quà lớn, vì sao mình lại căm hận tận xương? Khi chàng vạch trần âm mưu của Hoắc Đô, giúp Tề ca đắc nhiệm bang chủ Cái Bang, vì sao mình lại thầm tức giận? Quách Phù ơi là Quách Phù, thì ra mi đi ghen với muội tử của mi. Chàng dịu dàng âu yếm với Tương muội, song chẳng dành cho mi một phần nhỏ chút tình”.

Nghĩ đến đây, bất giác nàng lại bực tức nhìn Dương Quá và Quách Tương một cái, nhưng lại nghĩ: “Mi còn đứng đây làm gì? Mi là một phụ nữ có chồng, Tề ca đối với mi yêu thương như thế còn gì nữa”. Nàng thở dài lúc nào không biết. Tuy cuộc đời nàng không thiếu thứ gì, nhưng trong đáy lòng đúng là có một điều ân hận khó nói. Từ nhỏ nàng vốn muốn gì được nấy, nhưng ước muốn mãnh liệt nhất, thì không tài gì đạt được. Do đó trong đời nàng, thường thường nàng không hiểu rõ chính mình: “Tại sao mi nóng nảy khó chịu? Vì sao trong khi mọi người đều vui vẻ, thì mi lại bực tức vô cớ?”

Quách Phù mặt cứ lúc đỏ lúc tái, nghĩ về tâm sự kỳ dị của mình. Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Gia Luật Tề, Quách Tương… đều chăm chú nhìn về phía cuộc ác chiến ở tường thành Tương Dương. Quân Mông Cổ leo lên mặt thành đông như kiến, binh mã do Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư thống lĩnh tuy tấn công địch từ phía sau, nhưng quân số quá ít ỏi, không thể làm dao động đội ngũ công thành của đại quân địch. Lá cờ cửu tộc lớn của đại hãn Mông Cổ đã áp sát thành, lòng quân trong thành dường như đã loạn, không còn sức chống trả quân địch đang leo thang lên mặt thành.

Quách Tương kêu lên:

– Đại ca ca, làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ?

Dương Quá nghĩ: “Kiếp này được gặp lại Tiểu Long Nữ, ông trời đãi ta quá hậu rồi, hôm nay dẫu có chết cũng không ân hận. Nam tử hán đại trượng phu vì nước tử trận chốn sa trường, chính là cái chết hay nhất”. Nghĩ đến đây, tinh thần phấn chấn, nói:

– Gia Luật huynh, chúng ta hãy xông lên xung sát một trận!

Gia Luật Tề nói:

– Thế mới hay đó!

Tiểu Long Nữ và Quách Tương cùng nói:

– Mọi người nhất tề xông lên!

Dương Quá nói:

– Hay lắm! Ta đi tiên phong, các vị hãy mang thật nhiều trường mâu theo sau ta!

Gia Luật Tề bèn truyền lệnh cho thuộc hạ thu nhặt trường mâu trên chiến trường, mỗi người ôm theo dăm ba chiếc.

Dương Quá cầm một ngọn trường mâu, cưỡi ngựa xông lên trước. Thần điêu hùng dũng sải bước bên cạnh ngựa, vẫy cánh gạt cung tên bắn tới. Tiểu Long Nữ, Gia Luật Tề, Quách Phù, Quách Tương bốn người bám sát theo sau. Dương Quá nhắm chỗ có lá cờ cửu tộc lớn của đại hãn mà phi tới. Gia Luật Tề kinh ngạc, nghĩ đại hãn Mông Cổ thân chinh ra trận, quanh đại hãn phòng vệ cực nghiêm, toàn là tinh binh mãnh tướng, mình chỉ có hơn trăm người xông tới, chẳng hóa tự nộp mạng hay sao? Nhưng nghĩ mạng sống của mình là do Dương Quá ứng cứu, Dương Quá bảo xông vào lửa, mình cũng theo vào, hà tất nhiều lời?

Tốp người tiến rất nhanh, thoáng chốc đã vượt mấy dặm, đến chân thành Tương Dương. Thân binh của đại hãn Mông Kha thấy Dương Quá hung hăng xông tới, đã có ngay hai bách nhân đội tới ngăn chặn. Dương Quá vung tay trái, một ngọn trường mâu bay đi xuyên qua áo giáp gã bách phu trưởng ra sau lưng. Chàng thuận tay nhận tiếp ngọn trường mâu từ tay Gia Luật Tề, ném xuyên qua ngực gã bách phu trưởng thứ hai. Bọn thân binh cả kinh, rối loạn, Dương Quá đã vọt qua trận, bọn thân binh ùn ùn nhào tới, dùng đao, kích ngăn chặn. Dương Quá cứ phóng trường mâu, mỗi ngọn mâu hạ một tên. Cánh tay của chàng đã tôi luyện trong suối lũ, hải triều, trường mâu phóng đi dù là nham thạch cũng xuyên qua, huống hồ thân xác kẻ địch? Chàng cứ nhắm bọn tướng quân mà phóng trường mâu, thoáng chốc đã phóng đi mười bảy ngọn trường mâu, giết chết mười bảy mãnh tướng Mông Cổ.

Cuộc đột kích này thật như sấm sét ngang tai, đại quân Mông Cổ đông tới hơn chục vạn dưới chân thành song Dương Quá phi ngựa cứ xông thẳng qua một mạch đến trước ngựa đại hãn.

Thân binh của đại hãn Mông Kha liều chết ngăn chặn. Các giáp sĩ dàn kín phía trước đại hãn. Dương Quá giơ tay về phía sau nhận trường mâu thì không thấy gì, hóa ra nhóm Gia Luật Tề đi sau đã bị bọn thân binh chặn lại. Dương Quá thấy sắc diện đại hãn có vẻ kinh hoàng, đang kéo cương ngựa bỏ chạy, Dương Quá bèn hú một tiếng dài, hai chân đứng trên yên ngựa, rồi chàng nhún mình nhảy vọt lên phía trước. Hơn mười thân binh vội chĩa giáo mà đâm. Dương Quá đang lơ lửng trên không, lộn người một vòng, vọt qua cả chục mũi giáo.

Đại hãn thấy tình thế xấu, liền kéo cương phi ngựa bỏ chạy. Con ngựa đại hãn cưỡi là giống ngựa quí được chọn ra từ hàng vạn con ngựa ở Mông Cổ, lưng rồng cổ chim, xương thịt dẻo dai rắn chắc, hí to như sấm, phi nhanh như gió, gọi là giống ngựa “Phi vân truy”, không thua gì con ngựa quí “hãn huyết” của Quách Tĩnh ngày trước. Lúc này con “Phi vân truy” cõng đại hãn trên lưng, tung vó phóng ra giữa đồng trống. Dương Quá thi triển khinh công đuổi theo sau. Mấy trăm kỵ binh Mông Cổ phi ngựa đuổi theo phía sau Dương Quá.

Dương Quá thấy đại hãn cưỡi ngựa bỏ chạy một mình thì mừng thầm, nghĩ ngựa phóng nhanh mấy, chàng cũng sẽ đuổi kịp, nào ngờ con “Phi vân truy” quả không phải tầm thường, hai vó sau chỉ chạm đất một cái đã vọt đi vài trượng. Dương Quá đề khí đuổi gấp, song càng lúc càng cách xa đại hãn. Chàng cúi nhặt một ngọn trường mâu dưới đất, phóng mạnh tới lưng Mông Kha.

Quân sĩ đôi bên nhìn ngọn trường mâu bay vút như lưu tinh, ai nấy trố mắt há miệng, nín thở. Chỉ thấy con “Phi vân truy” dướn thân một cái, mũi trường mâu còn cách lưng đại hãn chừng một thước thì hết đà rơi xuống. Quân Tống kêu to:

– Tiếc quá!

Quân Mông Cổ hô to:

– Vạn tuế!

Lúc này Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Nhất Đăng… đều ở xa, chỉ đứng nhìn chứ không thể giúp gì cho Dương Quá. Quân Mông Cổ cả vạn người cũng chỉ biết đứng hô hoán trợ uy, dù kẻ tận tâm trung thành mấy cũng không thể đuổi kịp con “Phi vân truy”.

Mông Kha ngoảnh đầu lại, thấy đã bỏ khá xa Dương Quá, thì đỡ lo, cho ngựa phi về phía tây, nơi có một vạn nhân đội. Quân sĩ vạn nhân đội kia đồng thanh tung hô, ào lại nghênh đón. Chỉ cần đại hãn phóng ngựa tới đó, Dương Quá bản lĩnh cao mấy, cũng chẳng làm gì được nữa.

Dương Quá thấy đại sự sắp thành lại hỏng, tiếc đứt ruột nhưng chợt nghĩ: “Trường mâu quá nặng, khó phóng đến nơi, sao không dùng cục đá?” Bèn nhặt hai cục đá, vận kình ném đi. Chỉ nghe “chíu chíu”, hai cục đá cùng trúng mông con “Phi vân truy”. Con ngựa đau quá, hí một tiếng dài, dựng đứng hai vó trước lên.

Mông Kha tuy tiếng là đại hãn của một đại đế quốc lớn nhất trong lịch sử, nhưng từ nhỏ đã học cưỡi ngựa bắn cung, từng theo tổ phụ Thành Cát Tư Hãn, phụ thân Đà Lôi mấy phen xuất chinh, sang cả châu Âu, từng lập nhiều chiến công, một đời ngồi trên lưng ngựa, dạn dày chiến trận, lúc này gặp biến cố phi thường, vẫn không hề hoảng loạn, còn lắp tên, giương cung, hai chân kẹp chặt bụng ngựa, xoay người phóng một mũi tên về phía Dương Quá.

Dương Quá cúi đầu tránh được, nhảy vọt tới, tay trái đã thủ sẵn một cục đá to bằng nắm tay, vù một cái, chàng ném cục đá trúng lưng Mông Kha. Lực ném của chàng cực mạnh, Mông Kha gãy sống lưng, ngã ngựa, chết ngay tức khắc. Tướng sĩ Mông Cổ thấy đại hãn ngã ngựa, thảy đều kinh hoàng, từ bốn phía ùa tới. Quách Tĩnh lớn tiếng hạ lệnh, thừa thế xung sát. Quách Tĩnh, Hoàng Dược Sư, Hoàng Dung… phát động trận thế “Nhị thập bát tú” xung kích qua lại. Lòng quân Mông Cổ đã loạn, chúng tự tàn sát lẫn nhau, tử thương không biết bao nhiêu mà kể, cờ rách giáo gãy, hàng ngũ đại loạn, kéo nhau chạy về hướng bắc.

Quách Tĩnh đang truy kích, bỗng thấy có một cánh quân địch ở phía tây triển khai, hàng ngũ chỉnh tề, giương cao cờ hiệu của Tứ vương tử Hốt Tất Liệt. Quân Mông Cổ bại trận như núi lở, nhất thời chưa thể thu thập. Hốt Tất Liệt trị quân tuy nghiêm, nhưng bị bại binh tràn qua như nước thủy triều, thuộc hạ cũng lập tức rối loạn. Hốt Tất Liệt thấy tình thế xấu, bèn suất lĩnh một đội thân binh đoạn hậu, từ từ rút về phía bắc. Quách Tĩnh đuổi theo hơn ba chục dặm, thấy quân Mông Cổ vẫn không ngừng thoái lui, trong khi Lã Văn Đức liên tiếp truyền lệnh triệu Quách Tĩnh kéo quân về giữ thành, quân Tống mới chịu quay về.

Kể từ khi quân Mông Cổ và quân Tống giao tranh đến nay, chưa bao giờ quân Mông Cổ đại bại như lần này, vị chúa của một nước lại chết ngay dưới chân thành, khiến lòng quân càng loạn. Chức vị đại hãn Mông Cổ hoàn toàn không phải cha truyền con nối, mà do hội nghị vương công hoàng tộc, trọng thần đại tướng lập nên. Mông Kha chết đi, em trai y là Thất vương tử A Lý Bất Kha ở miền bắc Mông Cổ được các vương công đưa lên ngôi đại hãn. Hốt Tất Liệt được tin lập tức dẫn quân về nước, tranh ngôi với A Lý Bất Kha. Huynh đệ mỗi người thống lĩnh tinh binh đánh nhau. Cuối cùng Hốt Tất Liệt đắc thắng, nhưng nguyên khí của quân Mông Cổ đã bị đại tổn thương, không còn lực đánh xuống phương nam, thành Tương Dương được hưởng thái bình. Mãi mười ba năm sau, vào năm Tống Độ Tông Hàm Thuần thứ chín, quân Mông Cổ mới lại kéo xuống đánh thành Tương Dương.

Khi Quách Tĩnh kéo quân về gần đến thành Tương Dương, An phủ sứ Lã Văn Đức đã suất lĩnh thân binh tướng hiệu, xếp hàng nghênh đón long trọng từ bên ngoài thành. Trăm họ cũng nô nức đổ ra ngoài thành, bày rượu, trái cây đón mừng úy lạo.

Quách Tĩnh nắm tay Dương Quá, nhận ly mỹ tửu trăm họ dâng lên, kính cẩn trao cho Dương Quá, nói:

– Quá nhi, hôm nay Quá nhi lập đại công, dương danh thiên hạ, quân dân toàn thành trọng cảm ân đức của Quá nhi.

Dương Quá xúc động, có một câu giấu trong lòng hơn hai chục năm chưa nói ra, bây không nhịn được nữa, sang sảng đáp:

– Quách bá bá, tiểu điệt từ nhỏ nếu không nhờ có Quách bá bá nuôi dưỡng dạy dỗ, thì làm sao có được ngày hôm nay?

Hai người bao lâu nay vạn sự tâm chiếu, không quen nói lời ghi ân cảm đức, lúc này đối ẩm ba ly, hai vị đại hiệp mới thổ lộ tâm sự, đều cảm thấy đời người được đến thế này thì còn mong gì hơn?

Hai người cầm tay nhau đi vào thành, nghe quân dân đứng hai bên đường hoan hô như sấm dậy. Dương Quá chợt nghĩ: “Hơn hai chục năm trước, Quách bá bá cũng cầm tay dắt mình đến núi Chung Nam, lên cung Trùng Dương tìm thầy học nghệ. Tấm lòng chân thành của Quách bá bá không một chút sai dị. Nhưng mình lại cuồng vọng hồ náo, phản sư bội giáo, gây ra bao nhiêu tai họa! Nếu mình cứ dấn sâu vào con đường lầm lạc, làm sao có cảnh được Quách bá bá cầm tay dắt vào thành như hôm nay?” Nghĩ đến đây, chàng không khỏi bồi hồi ứa nước mắt.

Trong thành Tương Dương nhà nhà treo đèn kết hoa, tuy có người thân tử trận, song quân thắng thành còn, nỗi bi thương cũng vơi non nửa.

Tối hôm ấy An phủ sứ mở đại yến mừng chiến thắng, Lã Văn Đức muốn mời Dương Quá ngồi chỗ cao nhất. Dương Quá nói thế nào cũng không chịu. Mọi người nhường nhịn hồi lâu, cuối cùng mời Nhất Đăng đại sư lên thủ tịch, tiếp đến Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung, rồi mới đến Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Gia Luật Tề. Lã Văn Đức trong bụng không vui, nghĩ thầm: “Hoàng đảo chủ là nhạc phụ của Quách đại hiệp, cũng được đi. Nhưng còn Nhất Đăng đại sư diện mạo bình thường, Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông điên điên khùng khùng làm sao lại ngồi chiếu trên?” Quần hùng sôi nổi hứng thú kể lại tình huống chiến trận ban ngày, Lã Văn Đức đâu có gì để nói?

Rượu qua mấy tuần, quan viên, tướng lĩnh, sĩ tốt trong thành lũ lượt bưng chén tới chúc mừng Quách Tĩnh, Dương Quá… hết lời ca ngợi quần hiệp công lược phong vĩ, võ nghệ hơn người. Quách Tĩnh nghĩ đến công ơn của sư môn, nói:

– Năm xưa nếu không có Khưu đạo trưởng phái Toàn Chân trượng nghĩa, bảy vị ân sư lặn lội sang Mông Cổ, lại thêm Hồng lão ân sư dạy bảo, Quách Tĩnh này há có thể lập được một chút công lao? Hôm nay chúng ta sung sướng ăn mừng ở đây, các vị ân sư trừ Kha lão ân sư ra, đều đã tạ thế, nhớ đến thật đau lòng.

Nhất Đăng đại sư và mấy vị đều cúi đầu buồn rầu.

Quách Tĩnh lại nói:

– Bây giờ đại sự đã hoàn tất, ngày mai Quách Tĩnh ta muốn khởi hành đi Hoa Sơn tảo mộ ân sư.

Dương Quá nói:

– Quách bá bá, điệt nhi cũng định nói câu đó, mọi người cùng đi có được chăng?

Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư đều nhớ đến các vị lão hữu đã khuất, đồng thanh tán thường. Quần hùng uống rượu đến tận đêm khuya, thật say mới giải tán.

———-

CHÚ GIẢI:

“Nguyên sử” bản kỷ quyển 3 chép: “Hiến Tông húy Mông Kha, Duệ Tông là con trưởng của Đà Lôi vậy. Tháng hai (năm) Bính Tí thống suất chư binh… (Năm) Đinh Sửu, đốc chư quân đánh thành… tấn công cửa Tây, tấn công cửa Tân môn ở mé Đông, cửa Kỳ Thắng.. tấn công cửa Hộ Quốc… giết rất nhiều quân Tống… Mấy lần tấn công không hạ được… (Năm)Quý Hợi, (hoàng) đế băng hà. (Hoàng) đế sáng suốt, cương nghị, quả cảm, quyết đoán mà ít nói… đối với quần thần cực nghiêm.

“Tục thông giám” viết: “Chúa Mông Cổ mấy lần đốc quân tấn công, không hạ được… Chúa Mông Cổ tử trận. Sử Thiên Trạch cùng quần thần cử tang về bắc, thế là Hợp Châu được giải vây”. “Tục thông giám khảo dị” viết: “Nguyên Hiến Tông từ khi đánh mãi không thắng, mắc bệnh mà qua đời. “Trùng Khánh chí” viết là bị đá ném trúng… không biết thế nào.

Theo sử sách ghi chép, Hiến Tông vì đánh Trùng Khánh Tứ Xuyên không thắng mà chết, có phải là bị đá ném trúng hay không, sử chép khác nhau. Nhưng quân Mông Cổ và quân Tống đánh nhau lâu nhất, ác liệt nhất là ở thành Tương Dương, quân Mông Cổ trước sau mấy chục năm đánh thành mà không hạ được. Để tăng sự hấp dẫn cho bộ tiểu thuyết, tác giả cho Hiến Tông đánh thành Tương Dương không hạ nổi, bị đá ném trúng mà chết, thành Tương Dương nhờ đó được giải vây.