Nói xong, hắn quay người loạng choạng xuống núi. Nhạc Bất Quần đợi Điền Bá Quang đi xa rồi mới nói:
– Xung nhi, ngươi đối với tên ác tặc này cũng có nghĩa khí lắm nhỉ? Thà tự đâm mình một kiếm chứ không chịu giết hắn.
Lệnh Hồ Xung xấu hổ, biết cái nhìn của sư phụ rất sắc bén, vừa rồi động tác giả của hắn không qua được mắt lão, đành cúi đầu nói:
– Sư phụ, tuy hành động của hắn không đoan chính nhưng một là hắn đã hứa cải ác tòng thiện, hai là hắn đã mấy lần chế ngự được đệ tử nhưng lại nương tình không giết.
Nhạc Bất Quần cười nhạt nói:
– Cái thứ tặc tử lòng lang dạ sói đó mà còn đối xử theo đạo nghĩa thì đời ngươi còn gặp nhiều chuyện phiền não nữa.
Xưa nay Nhạc Bất Quần rất yêu thương đại đệ tử, thấy hắn bị trọng thương mà không chết thì lòng rất vui mừng. Vừa rồi, hắn giả bộ té ngã tự đâm kiếm vào đùi mình rõ ràng lão biết hết. Từ nhỏ, hắn đã rất tinh ranh, Nhạc Bất Quần đã biết như vậy nên cũng không tra cứu nữa, vả lại vừa rồi Lệnh Hồ Xung ứng đối với Bất Giới hòa thượng những lời rất vừa ý lão nên vụ Điền Bá Quang lão cũng tạm gác lại. Lão đưa tay ra nói:
– Sách đâu?
Lệnh Hồ Xung thấy sư phụ và sư nương đi rồi trở về thì biết ngay chuyện sư muội ăn cắp sách đã bị phát giác nên sư phụ quay về núi truy tìm. Đây là chuyện mà hắn mong muốn nên nói:
– Sách ở chỗ Lục sư đệ. Tiểu sư muội vì nóng lòng muốn cứu tính mạng của đệ tử, xin sư phụ lượng thứ cho. Vì chưa có lệnh của sư phụ nên đệ tử có gan bằng trời cũng không dám đưa tay đụng đến bí cấp đó; thần công ghi chép trên bí cấp một chữ cũng không dám nhìn.
– Thì ra là vậy. Đâu phải ta không muốn truyền cho ngươi, nhưng vì bổn môn đang gặp nhiều chuyện rắc rối, cần giải quyết gấp không thư thả để chỉ điểm cho ngươi, còn cứ để mặc ngươi tự luyện chỉ sợ ngươi đi vào đường tà, sẽ gặp nhiều bất trắc hậu hoạn khôn lường.
Lão ngừng một lúc rồi nói tiếp:
– Lão Bất Giới hòa thượng điên khùng mà nội công lại rất cao thâm. Lão đã hóa giải sáu luồng tà khí trong người của ngươi rồi phải không? Bây giờ ngươi cảm thấy thế nào?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Những khó chịu bứt rứt trong người đệ tử đã hết, bao nhiêu cái khổ vì chợt nóng chợt lạnh đều đã tiêu trừ, nhưng người thì không còn chút sức lực nào.
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi bị trọng thương mới khỏi, tất nhiên vẫn còn kiệt sức. Cái ơn cứu mạng của Bất Giới đại sư chúng ta phải báo đáp mới được.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ!
Nhạc Bất Quần quay về Hoa Sơn vẫn lo gặp phải bọn Đào Cốc lục tiên, bây giờ không thấy tung tích bọn họ đâu, lão mới yên tâm một chút. Nhưng lão cũng không muốn ở lại đây lâu, bèn nói:
– Chúng ta đến chỗ Đại Hữu rồi cùng đi lên Tung Sơn. Xung nhi, ngươi có thể lặn lội đường xa được không?
Lệnh Hồ Xung vui mừng đáp:
– Dạ được, dạ được, dạ được!
Ba người đến tiểu xá bên cạnh Chính khí đường. Nhạc Linh San chạy đến trước, đẩy cửa đi vào, bỗng la lên một tiếng thất thanh, tiếng la đầy vẻ kinh hoàng.
Nhạc Bất Quần và Lệnh Hồ Xung cùng chạy đến, trông thấy Lục Đại Hữu vẫn nằm bất động ở dưới đất. Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Sư muội đừng sợ, đó là do ta điểm huyệt hắn.
Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca làm tiểu muội hết hồn. Sao phải điểm huyệt Lục hầu nhi?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hắn có hảo ý, thấy ta không chịu xem bí cấp, thì đọc kinh văn trên bí cấp cho ta nghe. Ta cản không được, đành phải điểm huyệt hắn.
Bỗng nhiên, Nhạc Bất Quần ủa một tiếng, cúi người sờ lên mũi Lục Đại Hữu, rồi bắt mạch hắn.
Lão kinh hãi la lên:
– Sao hắn… chết rồi? Lệnh Hồ Xung, ngươi điểm huyệt đạo nào của hắn?
Lệnh Hồ Xung nghe nói Lục Đại Hữu đã chết rồi, hắn sợ đến nỗi hồn xiêu phách tán, thân người loạng choạng suýt chút nữa ngất đi, run run nói:
– Đệ tử… đệ tử…
Lệnh Hồ Xung đưa tay sờ lên má Lục Đại Hữu thấy lạnh như băng. Hắn đã chết tự bao giờ. Lệnh Hồ Xung không kìm được, bật khóc gọi:
– Lục… Lục sư đệ, Lục sư đệ chết rồi ư?
Nhạc Bất Quần hỏi:
– Cuốn sách đâu?
Nước mắt đầm đìa, Lệnh Hồ Xung không thấy bộ Tử hà bí cấp đâu, cũng tự hỏi:
– Sách đâu?
Lệnh Hồ Xung vội đưa tay mò vào túi trên người Lục Đại Hữu, cũng không thấy sách, hắn nói:
– Lúc đệ tử điểm huyệt hắn, đệ tử nhớ cuốn bí cấp đó còn mở ra đặt trên bàn. Sao bây giờ không thấy đâu?
Nhạc Linh San tìm kiếm khắp bàn, góc cửa, dưới ghế, trên giường cũng không thấy Tử hà bí cấp đâu cả.
Cuốn Tử hà bí cấp là điển tịch vô thượng nội công của phái Hoa Sơn bỗng nhiên biến mất, Nhạc Bất Quần không lo lắng sao được? Lão xem xét tỉ mỉ thi thể của Lục Đại Hữu không thấy một vết thương nào, bèn đi quan sát một lượt từ phía trước ra phía sau tiểu xá cũng không thấy một chút dấu vết chứng tỏ có người ngoài đến. Lão thầm nghĩ:
– Đã không có người ngoài đến thì chắc không phải là Đào Cốc lục tiên hay Bất Giới hòa thượng lấy đi.
Lão gằn giọng hỏi:
– Xung nhi, ngươi đã điểm huyệt nào?
Lệnh Hồ Xung quỳ sụp hai gối trước mặt sư phụ nói:
– Đệ tử nghĩ mình đang bị trọng thương, tay không một chút khí lực nên đã điểm yếu huyệt Đản trung, không ngờ… không ngờ lại lỡ tay hại chết Lục sư đệ.
Lệnh Hồ Xung xoay tay rút trường kiếm ở lưng Lục Đại Hữu, toan đâm vào cổ mình. Nhạc Bất Quần giơ tay búng một cái, trường kiếm văng ra xa, lão nói:
– Muốn chết thì phải tìm cho được Tử hà bí cấp đã. Ngươi giấu bí cấp ở đâu?
Lệnh Hồ Xung tê tái, thầm nghĩ: Sư phụ đem lòng nghi ngờ mình cất giấu Tử hà bí cấp. Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, nói:
– Sư phụ, cuốn bí cấp nhất định bị người ta ăn cắp rồi, nói gì đi nữa đệ tử cũng phải truy tìm cho bằng được không thiếu một trang để trả lại cho sư phụ.
Nhạc Bất Quần lòng dạ rối bời, lão nói:
– Nếu bị ai sao chép hay học thuộc lòng thì dù có lấy sách về được không thiếu một trang, võ công thượng thừa của bổn môn từ nay cũng không còn là bí cấp độc tôn nữa.
Nhạc Bất Quần lặng yên một lúc rồi ôn hòa nói:
– Xung nhi, nếu ngươi lỡ tay thì đưa ra đây, sư phụ không trách phạt ngươi đâu.
Lệnh Hồ Xung ngây người nhìn gương mặt Lục Đại Hữu rồi lớn tiếng nói:
– Sư phụ, hôm nay đệ tử lập lời trọng thệ: trên đời này nếu có người xem trộm Tử hà bí cấp của sư phụ, có mười tên thì đệ tử giết mười tên, có một trăm tên thì đệ tử giết một trăm tên. Nếu sư phụ vẫn còn đem lòng nghi ngờ đệ tử đã ăn cắp thì xin sư phụ cứ vung chưởng đánh chết đệ tử đi.
Nhạc Bất Quần lắc đầu nói:
– Ngươi đứng lên đi! Ngươi đã nói không lấy tức là không lấy rồi. Ngươi và Đại Hữu xưa nay chơi thân với nhau, đương nhiên là ngươi không phải cố ý giết hắn. Vậy bộ bí cấp này bị ai lấy cắp?
Nhạc Bất Quần nhìn ra ngoài cửa sổ, ngơ ngẩn xuất thần. Nhạc Linh San rơi lệ nói:
– Gia gia, mọi điều chỉ tại hài nhi. Hài nhi… tự cho mình thông minh, ăn trộm bí cấp của gia gia, nào ngờ đại sư ca quyết ý không chịu xem, mà lại hại chết Lục sư ca. Hài nhi… hài nhi nói sao đi nữa cũng phải đi tìm cho được bí cấp về.
Nhạc Bất Quần nói:
– Chúng ta thử tìm lại bốn phía lần nữa xem.
Lần này cả ba người tìm kiếm rất kỹ trong ngoài tiểu xá, vẫn không thấy bí cấp đâu, cũng không phát hiện ra dấu vết gì khả nghi. Nhạc Bất Quần nói với con gái:
– Chuyện này không để tiết lộ ra ngoài, ta sẽ nói rõ cho mẫu thân ngươi nghe, còn với ai cũng không thể đề cập. Chúng ta chôn cất Đại Hữu rồi xuống núi.
Lệnh Hồ Xung nhìn gương mặt Lục Đại Hữu thương xót. Hắn nghĩ:
– Trong các sư đệ đồng môn, Lục sư đệ đối với ta tình nghĩa sâu nặng hơn cả, nào ngờ ta lỡ tay điểm huyệt làm cho Lục sư đệ chết. Chuyện này thực sự vạn lần không ngờ được, dù ta không bị thương thì cái điểm huyệt như vậy cũng quyết không thể làm cho hắn chết được. Chẳng lẽ vì trong người của ta có sáu luồng chân khí tà môn của Đào Cốc lục tiên nên điểm huyệt có kình lực khác thường? Tại sao Tử hà bí cấp lại không cánh mà bay? Trong chuyện này có điều kỳ quặc, thật không sao hiểu nổi. Sư phụ nghi ngờ ta, ta có biện minh cũng vô ích thôi. Nói gì, ta cũng phải điều tra chuyện này cho rõ ràng, rồi sau đó sẽ tự tử để tạ tội với Lục sư đệ.
Lệnh Hồ Xung lau nước mắt, đi tìm cây cuốc, đào huyệt chôn thi thể Lục Đại Hữu. Cả người hắn ướt đẫm mồ hôi, thở hồng hộc, phải nhờ Nhạc Linh San giúp đỡ mới an táng xong.
Ba thầy trò đi đến miếu Bạch Mã. Nhạc phu nhân thấy tính mạng của Lệnh Hồ Xung không còn đáng ngại nữa, bà vui mừng khôn xiết. Nhạc Bất Quần nói nhỏ với bà biết tin Lục Đại Hữu chết và Tử hà bí cấp bị mất, Nhạc phu nhân buồn rầu sa lệ. Tuy Tử hà bí cấp mất là chuyện lớn nhưng bà nghĩ trượng phu đã luyện thành thục thì có giữ hay không giữ bí cấp cũng không quan trọng lắm. Nhưng Lục Đại Hữu là môn hạ phái Hoa Sơn đã lâu, ngoan ngoãn hòa nhã, bị chết thảm khiến bà thương xót vô cùng. Bọn đệ tử không biết chuyện gì; chỉ thấy sư phụ, sư nương, đại sư ca và tiểu sư muội, cả bốn người ai cũng đau khổ nên không tên nào dám lớn tiếng cười nói.
Nhạc Bất Quần sai Lao Đức Nặc thuê hai cỗ xe lớn, một cỗ cho Nhạc phu nhân và Nhạc Linh San ngồi và một cỗ cho Lệnh Hồ Xung nằm dưỡng thương. Tất cả lên đường tiến về hướng Đông, lên núi Tung Sơn.
Một hôm, khi đi đến trấn Vi Lâm thì trời đã gần tối, trong trấn chỉ có một khách điếm đã chật khách, cả đoàn phái Hoa Sơn có phụ nữ nên thuê trọ không tiện. Nhạc Bất Quần nói:
– Chúng ta đi một đoạn nữa, tìm một trấn khác rồi hãy tính.
Nào ngờ đi không được ba dặm đường thì xe của Nhạc phu nhân bị sút trục, không cách nào đi được nữa. Nhạc phu nhân và Nhạc Linh San đành phải xuống xe đi bộ. Thi Đới Tử chỉ về hướng Đông Bắc nói:
– Sư phụ, trong khu rừng bên kia có một ngôi miếu cũ, chúng ta qua bên đó tá túc có được không?
Nhạc phu nhân nói:
– Xem ra có phụ nữ không tiện.
Nhạc Bất Quần nói:
– Đới Tử, ngươi qua hỏi xem, nếu hòa thượng trong miếu không chịu thì thôi, không cần phải cầu xin.
Thi Đới Tử đáp dạ rồi ra đi. Không bao lâu hắn trở lại, từ xa xa đã kêu lên:
– Sư phụ, đó là ngôi miếu hoang, không có hòa thượng.
Mọi người mừng rỡ. Bọn đệ tử trẻ tuổi như Đào Điếu, Anh Bạch La, Dư Kỳ đều tranh nhau chạy trước.
Lúc bọn Nhạc Bất Quần, Nhạc phu nhân đến ngoài miếu, thì ở phía Đông, mây đen ùn ùn kéo đến, trong phút chốc trời đã tối sầm lại. Nhạc phu nhân nói:
– May mà ở đây có một ngôi miếu, nếu không thì phải chịu trận mưa lớn này rồi.
Nhạc phu nhân đi vào đại điện, thấy trên điện có một pho tượng thần sơn xanh, mình khoác lá cây, tay cầm cỏ khô. Đây là Dược vương Bồ Tát Thần Nông đang nếm bách thảo.
Nhạc Bất Quần dẫn bọn đệ tử đến trước tượng thần hành lễ, mọi người chưa bỏ nón ra, thì bốn bề sấm sét ầm ầm, tiếp theo những hạt mưa to như hạt đậu đổ xuống mái ngói tạo nên những âm thanh rào rào liên tục.
Ngôi miếu bị dột khắp nơi, mọi người không giở nón ra, tự đi tìm chỗ khô ráo để ngồi. Cao Căn Minh, Lương Phát và ba tên nữ đệ tử đi nấu cơm. Nhạc phu nhân nói:
– Đầu năm mưa sớm như vậy, e rằng năm nay không tốt.
Lệnh Hồ Xung ngồi tựa vào cái giá chuông trên ghế trong góc điện, nhìn ra ngoài thềm thấy nước mưa đổ xuống như trút. Chàng nghĩ: Nếu Lục sư đệ có ở đây cùng mọi người nói cười thì vui biết mấy.
Trên đường đi, Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San ít chuyện trò với nhau, có lúc thấy cô ta đi cạnh Lâm Bình Chi thì chàng càng tránh xa ra, lòng thường nghĩ: Tiểu sư muội liều thân chịu để sư phụ trách mắng, ăn cắp Tử hà bí cấp đem đến để trị thương cho ta, đủ thấy tình nghĩa cô ta đối với ta rất thắm thiết. Ta chỉ mong cho cô ta suốt đời hạnh phúc. Sau khi ta tìm được bí cấp thì sẽ tự tử để tạ lỗi với Lục sư đệ, còn quyến luyến cô ta làm gì nữa? Cô ta và Lâm sư đệ đúng là một đôi người ngọc, ta chỉ mong cô ta quên luôn ta đi, sau khi ta chết cô ta đừng vì ta mà rơi lệ.
Tuy lòng Lệnh Hồ Xung nghĩ như vậy nhưng mỗi khi thấy cô ta và Lâm Bình Chi sánh vai đồng hành, cười nói chuyện trò với nhau thì lòng chàng đau xót vô ngần.
Lúc này ngoài miếu Dược vương mưa như trút nước; Nhạc Linh San đi tới đi lui trên điện, giúp nấu cơm nấu nước. Ánh mắt của cô mỗi lần chạm phải ánh mắt Lâm Bình Chi thì cả hai đều lộ vẻ hân hoan. Hai người đều cho rằng không ai chú ý đến họ, nhưng mỗi lần họ mỉm cười thì không lọt qua ánh mắt của Lệnh Hồ Xung. Hai người cứ cười tình với nhau thì lòng Lệnh Hồ Xung lại nhói đau. Chàng muốn quay mặt đi không nhìn nữa, nhưng mỗi lần Nhạc Linh San đi qua, không kìm được tình cảm, phải liếc nhìn cô ta một cái.
Ăn cơm tối xong, mỗi người tự đi tìm chỗ nằm. Mưa vẫn xối xả lúc lớn lúc nhỏ không tạnh. Lệnh Hồ Xung buồn bã, nhất thời không ngủ được, nghe trên đại điện những tiếng ngáy o o vang lên; mọi người đều đã ngủ say.
Không bao lâu mười mấy kỵ mã đã chạy đến ngoài miếu. Lúc này mọi người phái Hoa Sơn đều tỉnh dậy, mỗi người đều cầm kiếm trong tay phòng địch. Lại nghe tiếng vó ngựa vượt qua khỏi miếu, từ từ xa dần, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Họ toan nằm xuống thì tiếng vó ngựa trở lại.
Hơn mười mấy kỵ mã chạy đến ngoài miếu, cùng dừng lại.
Nghe tiếng một người gọi oang oang:
– Nhạc tiên sinh phái Hoa Sơn có ở trong miếu không? Chúng ta có chuyện xin thỉnh giáo.
Lệnh Hồ Xung là đại đệ tử của bổn môn, xưa nay thường ra mặt ứng phó với người ngoài. Chàng liền đi rút then gài cửa, mở cửa ra nói:
– Đang đêm khuya khoắt mà các bằng hữu đến thăm ư?
Lệnh Hồ Xung nhìn ra thấy mười lăm kỵ mã xếp thành hàng ngang đứng ngoài miếu, có sáu bảy người cầm đèn bão cùng chiếu vào mặt Lệnh Hồ Xung.
Trong bóng đêm, sáu bảy ngọn đèn cùng chiếu vào mặt khiến Lệnh Hồ Xung không khỏi bị lóa mắt. Hành động này thật vô lễ, cái kiểu chiếu đèn như vậy chứng tỏ người đến không thân thiện gì. Lệnh Hồ Xung giương mắt lên nhìn, thấy trên đầu người nào cũng quấn vải đen, chỉ để lộ hai mắt. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Những người này nếu không phải quen biết với chúng ta thì cũng sợ bị chúng ta nhớ mặt.
Người bên trái nói:
– Mời Nhạc tiên sinh ra đây.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Các hạ là ai? Xin cho biết cao danh quý tính để tiện bẩm báo với sư trưởng tệ phái.
Người đó nói:
– Bọn ta là ai ư? Ngươi không cần hỏi nhiều. Đi nói với sư phụ ngươi chúng ta nghe nói phái Hoa Sơn đã kiếm được Tịch tà kiếm phổ của Phước Oai tiêu cục, chúng ta muốn mượn xem chơi.
Lệnh Hồ Xung tức giận xông lên phía trước nói:
– Phái Hoa Sơn tự có võ công của bổn môn, lấy Tịch tà kiếm phổ của người khác làm gì? Đừng nói bọn ta không có kiếm phổ, dù có lấy được đi nữa mà các hạ ăn nói vô lễ ngang ngạnh như vậy thì trong mắt các hạ còn có phái Hoa Sơn không?
Người đó cười ha hả, mười bốn người còn lại cũng cười hùa theo, tiếng cười trong đêm khuya vang rất xa, giọng cười vang dội, hiển nhiên nội công của người nào cũng cao cường. Lệnh Hồ Xung ngấm ngầm kinh hãi: Đêm nay gặp phải kình địch, xem ra mười lăm tên này ai ai cũng là cao thủ, nhưng không biết lai lịch của chúng thế nào?
Bọn chúng chưa dứt tràng cười, một người lớn tiếng nói:
– Nghe nói tiểu tử họ Lâm của Phước Oai tiêu cục đã đầu nhập làm môn hạ phái Hoa Sơn. Bọn ta vốn biết Quân tử kiếm Nhạc tiên sinh phái Hoa Sơn kiếm thuật thần thông, độc bộ võ lâm, đối với Tịch tà kiếm phổ chắc không cần để mắt đến. Bọn ta là hạng vô danh tiểu tốt trên giang hồ, cả gan xin Nhạc tiên sinh cho mượn kiếm phổ xem một chút.
Tiếng cười của mười bốn tên kia vẫn ha hả liên tục nhưng lời nói của gã này vẫn lấn át, nghe rất rõ, không hề bị ảnh hưởng tạp âm, đủ thấy nội công của gã cao thâm hơn người.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Rốt cuộc các hạ là ai? Các hạ…
Lệnh Hồ Xung nói được mấy tiếng mà ngay cả chính mình cũng không cách nào nghe được. Chàng sợ hãi, tự hỏi: Chẳng lẽ mình luyện nội công mười mấy năm nay lại không còn một chút nào ư?
Sau khi xuống núi Hoa Sơn, Lệnh Hồ Xung đã mấy lần cố luyện tâm pháp nội công của bổn môn, nhưng vừa vận khí thì bao nhiêu luồng nội lực phức tạp cuồn cuộn dâng lên không cách nào chế ngự được. Hắn càng muốn kiềm chế thì càng bực bội khó chịu, nếu không lập tức dừng vận nội lực thì bị ngất ngay. Lệnh Hồ Xung thử mấy lần, lần nào cũng bị như vậy, liền thỉnh giáo sư phụ nhưng Nhạc Bất Quần chỉ liếc nhìn hắn bằng ánh mắt lạnh lùng, không trả lời.
Lúc đó Lệnh Hồ Xung nghĩ: Nhất định sư phụ nghi mình “nuốt” trọn Tử hà bí cấp làm của riêng để tự luyện, thôi cũng chẳng cần biện minh. Dù sao tính mạng của mình không còn bao lâu nữa, đi luyện nội công này làm cóc gì?
Từ đó về sau Lệnh Hồ Xung không thèm luyện nữa, không ngờ bây giờ hắn đề khí để nói chuyện thì bị tiếng cười của đối phương lấn át hết, một chút âm giọng cũng không truyền ra được.
Lại nghe tiếng oang oang của Nhạc Bất Quần từ trong miếu vọng ra:
– Các vị đều là nhân vật thành danh trong võ lâm, sao lại tự khiêm cho mình là hạng vô danh tiểu tốt? Nhạc mỗ xưa nay không bịp người, Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm không có ở chỗ chúng ta.
Lúc nói mấy câu này, lão đã vận Tử hà thần công để lấn át tiếng cười to của bọn người ngoài miếu, trong ngoài miếu ai cũng nghe rõ. Lão nói rất nhẹ nhàng chẳng khác gì nói bình thường nhưng so với bọn người kia vận khí lớn tiếng nói thì rõ ràng là lão hơn nhiều.
Tiếng một người khác ồm ồm nói:
– Tiên sinh nói Tịch tà kiếm phổ không có ở đây, vậy thì nó ở đâu?
Nhạc Bất Quần đáp:
– Các hạ lấy quyền gì mà hỏi câu này?
Người kia nói:
– Chuyện thiên hạ thì người thiên hạ đều có quyền quan tâm đến.
Nhạc Bất Quần cười khẩy không trả lời. Người đó lớn tiếng nói:
– Họ Nhạc kia, rốt cuộc ngươi có chịu giao ra hay không? Rượu mời không uống mà muốn uống rượu phạt, ngươi không giao ra, bọn ta đành phải động thủ, xông vào lục soát.
Nhạc phu nhân nói khẽ:
– Các nữ đệ tử đứng tựa vào nhau một chỗ, các nam đệ tử rút kiếm ra!
Soạt soạt, mọi người đều rút trường kiếm ra.
Lệnh Hồ Xung đứng trước cửa, tay nắm chuôi kiếm, chưa rút kiếm ra, đã có hai người nhảy xuống ngựa xông đến. Lệnh Hồ Xung né người, toan rút kiếm ra, chỉ nghe một người quát:
– Tránh ra!
Hắn giơ chân đá Lệnh Hồ Xung lộn nhào lăn ra xa.
Lệnh Hồ Xung bị đá văng ra ngoài mấy trượng, rớt xuống một bụi rậm. Đầu óc chàng hỗn loạn, thầm nghĩ: Cái đá của tên này cũng không lợi hại mấy, tại sao hạ bàn của ta lại không còn một chút khí lực nào?
Chàng gắng gượng ngồi dậy, bỗng trước ngực máu nóng trào lên, bảy tám luồng chân khí xung đột, đấu tranh nhau trong người, khiến chàng muốn nhúc nhích một ngón tay cũng không được.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi, mở miệng kêu lại không phát ra được thanh âm nào. Tình cảnh này chẳng khác nào người nằm mộng thấy mộng đè, đầu óc rất tỉnh táo nhưng không nhúc nhích được. Tai hắn nghe tiếng binh khí giao nhau choang choảng không dứt; sư phụ, sư nương và bọn sư đệ đã xông ra ngoài miếu đấu với bảy tám người bịt mặt. Còn mấy tên bịt mặt khác thì xông vào trong miếu, tiếng quát tháo ỏm tỏi từ trong miếu truyền ra, hòa lẫn với tiếng hô hoán của bọn nữ đệ tử.
Lúc này, mưa lại càng to hơn, mấy cái đèn bão bị ném dưới đất phát ra những tia sáng nhợt nhạt khiến cho kiếm quang lấp loáng, bóng người lay động.
Không bao lâu, từ trong miếu truyền ra tiếng kêu la thê thảm của bọn nữ đệ tử, Lệnh Hồ Xung càng sốt ruột. Địch nhân đều là nam tử, tiếng nữ đệ tử kêu la thê thảm dĩ nhiên là bọn sư muội đã bị thương. Hắn thấy sư phụ đang múa trường kiếm, một mình lão địch với bốn tên; còn sư nương bị hai tên địch vây bám. Hắn biết sư phụ và sư nương kiếm thuật cao thâm, tuy lấy ít địch nhiều, nhưng cũng không dễ bị thất bại. Nhị sư đệ Lao Đức Nặc la lối om sòm, cũng lấy một chống lại hai, hai tên địch đều sử đơn đao, nghe qua tiếng đao kiếm giao nhau, cũng biết sức lực của hai tên đó rất mạnh. Nếu đấu thêm một lúc nữa, thì Lao Đức Nặc khó mà chống đỡ được.
Trước mắt, chàng thấy ba người bên phái mình phải chống chọi với tám tên địch, tình thế rất nguy hiểm, tình cảnh trong miếu e rằng càng nguy hiểm hơn. Tuy sư đệ sư muội đông nhưng lại không có một cao thủ, nghe tiếng kêu la thê thảm liên tục chắc đã có mấy người bị hạ thủ rồi. Lệnh Hồ Xung càng nóng ruột càng không vận được một chút khí lực. Hắn không ngừng cầu khẩn:
– Xin trời đất phù hộ, giúp cho đệ tử có được nửa canh giờ hồi phục khí lực. Lệnh Hồ Xung này chỉ mong vào trong miếu để bảo vệ cho tiểu sư muội được chu toàn, thì dù đệ tử bị địch nhân chém thành muôn đoạn, thân chịu cực hình thảm khốc cũng cam tâm.
Lệnh Hồ Xung gắng gượng cử động, lại vận nội tức, bỗng nhiên sáu luồng chân khí cùng xông lên ngực, tiếp theo có hai luồng chân khí từ trên đè sáu luồng chân khí này xuống. Toàn thân hắn nhẹ bỗng dường như lục phủ ngũ tạng đều biến mất hết, cả da thịt huyết mạch cũng đều tiêu tan không còn cảm giác gì. Lòng chàng lạnh như băng, la thầm: Thôi rồi, thôi rồi, thì ra là như vậy!
Bây giờ Lệnh Hồ Xung mới biết chân khí mà Đào Cốc lục tiên dùng trị thương cho mình là sáu luồng chân khí truyền từ các kinh mạch khác nhau vào, cố nhiên nội thương chưa trị khỏi mà sáu luồng chân khí vẫn tồn tại, tích tụ lại. Chàng lại gặp phải Bất Giới hòa thượng có nội công cao thâm nhưng tính tình lại nóng nảy thúc đẩy hai luồng chân khí để đè bẹp sáu luồng chân khí của Đào Cốc lục tiên. Trong lúc đó, nhất thời chàng thấy dường như nội thương đã khỏi nhưng thực ra thì có thêm hai luồng chân khí lạ nữa đưa vào cơ thể; tám luồng chân khí này xung khắc nhau khiến cho nội công tu luyện bấy lâu chẳng còn giữ lại được chút nào, chàng đã trở thành phế nhân. Lòng chàng đau đớn, thầm nghĩ: Ta gặp phải chuyện bất trắc này thì chẳng khác gì bị phế truất toàn bộ võ công; hôm nay sư môn gặp nạn, ta lại không xuất được một chút khí lực. Lệnh Hồ Xung thân làm đại đệ tử phái Hoa Sơn mà lại nằm phệt dưới đất giương mắt, lắng tai nghe sư phụ và sư nương bị người ta sỉ nhục, sư muội sư đệ bị người ta hãm hại, thật chẳng đáng làm người. Được, ta sẽ đi vào miếu cùng chết với tiểu sư muội một chỗ.
Lệnh Hồ Xung biết chỉ cần vận khí một chút thì tám luồng chân khí trong cơ thể dấy động lên, toàn thân không thể nào cử động được. Chàng liền nạp khí xuống huyệt Đan điền, không vận một chút nội tức nào, thì quả nhiên có thể cử động được tứ chi. Lệnh Hồ Xung liền từ từ đứng dậy, rút trường kiếm ra, từng bước chậm chạp đi vào trong miếu.
Lệnh Hồ Xung vừa bước đến cửa miếu thì ngửi thấy mùi máu tanh xông lên mũi, trên bàn thờ có hai ngọn đèn bão chiếu sáng, thấy bọn Lương Phát, Thi Đới Tử, Cao Căn Minh mình đầy máu tươi đang khổ chiến với địch và mấy tên sư đệ sư muội nằm dưới đất, không biết đã chết hay còn sống. Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi đang cùng đấu với một tên địch nhân bịt mặt.
Đầu tóc Nhạc Linh San bung xõa ra, Lâm Bình Chi cầm kiếm tay trái, hiển nhiên là tay phải đã bị đơn đao đả thương. Gã bịt mặt cầm một cây đoản thương, thương pháp mạnh mẽ linh hoạt, Lâm Bình Chi liên tiếp sử ba chiêu Thương tùng nghênh khách mới đỡ nổi thế tấn công của gã. Khổ nỗi kiếm pháp của Lâm Bình Chi học được chỉ có hạn, chỉ thấy đoản thương của địch nhân vung lên, những tua đỏ trên thương phất phơ liên tục khiến Lâm Bình Chi hoa cả mắt. Soạt một tiếng, vai phải Lâm Bình Chi đã bị trúng thương. Nhạc Linh San vội phóng hai kiếm, bức bách địch nhân thối lui một bước, cô la lên:
– Tiểu Lâm tử, mau vào trong dưỡng thương.
Lâm Bình Chi nói:
– Không cần đâu.
Lâm Bình Chi phóng ra một kiếm, chân đã bước loạng choạng. Tên địch nhân bịt mặt cười dài, xoay ngang cây thương, bốp một tiếng, gã đánh vào lưng Nhạc Linh San. Tay phải của Nhạc Linh San bị rớt kiếm, cô đau quá sụm người xuống.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi, lập tức cầm kiếm xông đến, đề khí phóng kiếm đâm tới. Mũi kiếm chỉ phóng ra một thước thì nội tức của hắn xông lên, cánh tay phải nhũn ra rũ xuống. Gã bịt mặt thấy kiếm phóng tới định né người tránh, sau đó đâm thương trả, nào ngờ kiếm của hắn phóng không được một thước, thì cánh tay đã rũ xuống. Gã bịt mặt cảm thấy kỳ dị, không cần nghĩ ngợi gì nữa, chân trái quét ngang một cái, đá Lệnh Hồ Xung từ cửa miếu bay ra ngoài.
Bịch một tiếng, Lệnh Hồ Xung rơi vào một vũng nước ở ngoài miếu. Mưa vẫn tầm tã; miệng, mắt, mũi, tai của Lệnh Hồ Xung dính đầy bùn đất, nhất thời không cách gì cử động được. Chàng thấy Lao Đức Nặc đã bị đánh ngã, hai tên địch đối chiến với Lao Đức Nặc đã chia ra vây hai bên tấn công vợ chồng Nhạc Bất Quần. Một lúc sau, lại có hai địch nhân từ trong miếu vọt ra tham gia nên cục diện thay đổi, một mình Nhạc Bất Quần phải đấu với bảy tên, Nhạc phu nhân chống cự với ba tên.
Bỗng nghe Nhạc phu nhân và một địch nhân cùng la hoảng lên, đùi của cả hai người cùng bị thương. Gã địch nhân phải lùi lại, Nhạc phu nhân tuy chém được một tên địch nhưng đùi bà bị chém một đao khá nặng. Bà chiết thêm được vài chiêu nữa thì đầu vai lại bị địch nhân chém trúng một sống đao, bà ngồi phịch xuống đất. Hai tên địch nhân bịt mặt cười ha hả, điểm mấy huyệt đạo sau lưng bà.
Bọn đệ tử Hoa Sơn trong miếu liên tục bị thương, từng tên bị chế phục. Bọn địch đến tấn công rõ ràng là có mưu đồ nên chỉ đánh cho bọn đệ tử phái Hoa Sơn bị thương hoặc điểm huyệt chứ không giết người nào.
Mười lăm tên địch vây vòng tròn quanh Nhạc Bất Quần, tám tên cao thủ đứng ở tám hướng đối chiến, bảy tên còn lại mỗi tên cầm đèn bão chiếu vào mặt lão. Tuy nội công chưởng môn phái Hoa Sơn thâm hậu, kiếm thuật cao thâm nhưng phải đối chiến với tám địch nhân đều là cao thủ và bị bảy luồng ánh sáng đèn chiếu thẳng vào mặt nên lão bị lóa mắt. Nhạc Bất Quần biết hôm nay phái Hoa Sơn đã thất bại thảm hại, mọi người trong miếu Dược vương đều bị trọng thương, nhưng lão vẫn vung kiếm bảo vệ môn hộ; khí lực vẫn sung mãn, kiếm pháp tinh nghiêm, lúc bị ánh đèn chiếu vào, lão liền rủ mắt xuống, tám tên địch nhân nhất thời chưa làm gì được lão.
Một tên bịt mặt lớn tiếng quát:
– Nhạc Bất Quần, ngươi có đầu hàng hay không?
Nhạc Bất Quần lớn tiếng nói:
– Nhạc mỗ thà chết chứ không chịu nhục, muốn giết thì cứ giết đi.
Gã đó nói:
– Ngươi không chịu đầu hàng thì ta chém vào vai phải của vợ ngươi trước.
Gã nói vậy rồi giơ thanh quỷ đầu đao sống dày lưỡi mỏng, dưới ánh đèn chiếu xuống, lưỡi đao phát ra những tia sáng lấp lánh, lăm le toan chém xuống vai Nhạc phu nhân.
Nhạc Bất Quần hơi do dự, lão nghĩ: Chẳng lẽ để mặc chúng chém vào vai sư muội? Nhưng lão lại nghĩ: Nếu mình bỏ kiếm đầu hàng, sẽ bị bọn chúng hiếp đáp sỉ nhục, khiến cho thanh danh mấy trăm năm của phái Hoa Sơn bị mất trong tay mình ư?
Bỗng nhiên lão hít một hơi, mặt nổi sắc tía, vung kiếm đâm về hướng tên bịt mặt bên trái. Tên bịt mặt đó vung đao đỡ, đâu ngờ chiêu kiếm này của Nhạc Bất Quần đã vận Tử hà thần công, luồng kình lực cực mạnh, thanh đao lại bị trường kiếm bức ngược trở lại, một đao một kiếm đồng thời chém lên cánh tay phải của gã. Cánh tay phải của gã bị chém đứt hai đoạn, máu tươi rướm ra bốn phía. Gã thét lên rồi ngã lăn ra đất.
Nhạc Bất Quần ra một chiêu đắc thủ, soạt một tiếng kiếm lại đâm vào đùi trái một tên địch thủ, tên này ngoác miệng chửi rồi lùi lại phía sau. Thế là lão đã loại bớt được hai tên nhưng tình thế cũng không dễ dàng hơn cho lão chút nào. Bỗng hự một tiếng, lưng lão bị trúng một chùy, lão liên tiếp tấn công ba kiếm, mới đánh lui được bọn địch. Lão kìm không nổi, miệng phun ra một ngụm máu tươi. Bọn địch cùng hoan hô:
– Nhạc lão nhi bị thương rồi, mệt bở hơi tai vì lão!
Sáu tên đối chiến với lão thấy nắm chắc phần thắng nên nới rộng vòng vây ra, lúc này Nhạc Bất Quần khó tìm được cơ hội để đả thương chúng.
Địch nhân bịt mặt có cả thảy mười lăm tên, ba tên trong bọn chúng bị vợ chồng Nhạc Bất Quần đả thương, chỉ có một tên bị chém cánh tay, thương thế rất nặng còn hai tên kia bị thương ở đùi, không có gì đáng ngại. Bọn chúng tay cầm đèn, miệng không ngừng thóa mạ Nhạc Bất Quần.
Nhạc Bất Quần nghe khẩu âm của chúng đều có lẫn phương Nam phương Bắc, võ công phức tạp, rõ ràng là chúng không cùng một môn phái, nhưng đường lối tiến thoái rất ăn ý, chứ không phải nhất thời tụ họp lại. Lai lịch bọn chúng thế nào thực khó đoán được. Điều kỳ lạ là cả mười lăm tên này không có tên nào yếu kém, dựa vào sự hiểu biết rộng lớn của lão trên giang hồ thì không thể có phe phái nào có đến mười lăm tên cao thủ mà ngay chỉ một tên lão cũng không nhận ra. Lão chỉ biết những người này chưa bao giờ giao thủ với lão, lão tuyệt đối không có thù oán gì với chúng, chẳng lẽ đúng là vì Tịch tà kiếm phổ mới kéo nhau đến đây sinh chuyện với phái Hoa Sơn? Nhạc Bất Quần nghĩ thầm trong lòng nhưng tay kiếm vẫn không để chút sơ hở. Lão vận Tử hà thần công thi triển, mũi kiếm ẩn hiện phát ra tia sáng chói lọi. Sau mười mấy chiêu kiếm, lại thêm một tên bị trúng kiếm của lão ở vai, cương đao trong tay rơi xuống đất. Một tên che mặt khác ở vòng ngoài nhảy vào thay thế cho gã đó. Gã này tay cầm thanh loan đao, là thứ binh khí rất nặng, mũi đao không ngừng móc lấy trường kiếm trong tay Nhạc Bất Quần. Nội lực của Nhạc Bất Quần vẫn sung mãn, tinh thần càng đánh càng hăng. Đột nhiên lão xoay tay trái phóng chưởng, đánh trúng ngực một tên. Rắc một tiếng, lão đã đánh gãy hai xương sườn, hai tay gã cầm cây tân thiết và hoài trượng liền bị chấn động rơi xuống đất.
Không ngờ gã này dũng mãnh phi thường, gã bị gãy xương sườn đau thấu tim gan mà vẫn hung dữ. Gã lăn tới dang hai tay ôm chặt lấy chân trái của Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần giật mình kinh hãi, lão vung kiếm chém xuống lưng gã, đồng thời gạt hai thanh đơn đao đang phóng tới. Trường kiếm của Nhạc Bất Quần chưa chém xuống được thì chân phải của lão đã đá vào đầu gã. Gã này là một tên cao thủ về môn cầm nã, tay trái gã dang ra ôm luôn chân phải của Nhạc Bất Quần rồi lăn đi. Võ công của Nhạc Bất Quần dù có cao thâm đến đâu cũng không cách nào đứng vững được, liền ngã xuống.
Trong khoảnh khắc, đơn đao, đoản thương, liễn tử chùy, trường kiếm cùng đồng thời phóng đến đầu, mặt, yết hầu, ngực và các chỗ hiểm yếu của Nhạc Bất Quần.
Nhạc Bất Quần thở dài, ném trường kiếm xuống nhắm mắt chờ chết. Lão cảm thấy các huyệt đạo trên lưng, dưới sườn, cổ họng, vú bên trái đều bị chúng điểm, tiếp theo hai tên bịt mặt kéo lão đứng dậy.
Một tên già nua nói:
– Quân tử kiếm Nhạc tiên sinh võ công trác tuyệt, quả nhiên danh bất hư truyền. Bọn ta hợp lực đến mười lăm người để đối phó một mình lão mà còn bị thương hết bốn năm người mới bắt được lão. Hì hì, khâm phục, khâm phục! Già này mà đơn đả độc đấu với lão thì đấu không lại rồi. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, bọn ta có mười lăm người còn bọn các ngươi có hơn hai mươi tên, so ra thì phái Hoa Sơn các ngươi người đông thế mạnh, tối nay bọn ta lấy ít địch nhiều mà vẫn đánh bại phái Hoa Sơn, cái thắng này cũng không dễ có được. Đúng không?
Mấy tên bịt mặt cùng nói:
– Đúng vậy, thắng thật không dễ.
Lão già nói tiếp:
– Nhạc tiên sinh, bọn ta với tiên sinh không thù không oán, tối nay bọn ta mạo muội đến đắc tội với quý phái chẳng qua là chỉ muốn mượn Tịch tà kiếm phổ xem thử. Kiếm phổ này vốn không phải là của phái Hoa Sơn, tiên sinh đã dùng trăm phương ngàn kế để thu nạp gã thiếu niên họ Lâm của Phước Oai tiêu cục làm môn hạ, dĩ nhiên là có mưu đồ chiếm đoạt bộ kiếm phổ này. Chuyện không quang minh chính đại chút nào, đồng đạo võ lâm nghe tin ai cũng vô cùng căm phẫn. Già này đã nói lời khuyên nhủ, tiên sinh nên đưa ra thôi.
Nhạc Bất Quần tức giận nói:
– Nhạc mỗ đã rơi vào tay các ngươi, muốn giết thì cứ giết, lắm lời làm gì? Nhạc Bất Quần này là người như thế nào thì mọi người trên giang hồ đều nghe biết, các ngươi muốn giết Nhạc mỗ thì dễ còn muốn làm bại hoại danh dự của Nhạc mỗ thì có nằm mơ cũng không được đâu.
Một tên bịt mặt cười ha hả rồi lớn tiếng nói:
– Làm bại hoại danh dự của ngươi thật không dễ ư? Phu nhân, con gái và mấy tên nữ đệ tử của ngươi đều có dung mạo cũng khá đấy; nếu bọn ta chia ra mỗi người lấy một cô làm vợ nhỏ, ha ha, vậy thì Nhạc tiên sinh trong võ lâm oai danh lừng lẫy lắm.
Gã vừa nói dứt lời thì cả bọn cùng cười rộ lên, tiếng cười đầy ý dâm đãng. Nhạc Bất Quần tức quá, cả người phát run. Mấy tên che mặt thúc đẩy các nam, nữ đệ tử từ trong miếu đi ra. Bọn đệ tử đều bị điểm trúng huyệt đạo, có tên mặt đầy máu, có tên vừa ra ngoài miếu thì té ngã, rõ ràng là chân, đùi đã bị thương.
Lão già che mặt nói:
– Nhạc tiên sinh, có lẽ tiên sinh đã đoán được lai lịch của bọn ta ba phần. Bọn ta không phải là anh hùng hảo hán phe bạch đạo trong võ lâm, không có chuyện gì mà không làm được. Huynh đệ ta có người có thói hiếu sắc, nếu đắc tội với tôn phu nhân và lệnh ái thì tiên sinh còn mặt mũi nào mà vênh vang nữa.
Nhạc Bất Quần la lên:
– Thôi, thôi, các hạ đã không tin thì cứ lục soát trên người Nhạc mỗ xem có Tịch tà kiếm phổ gì không?
Một tên bịt mặt cười nói:
– Ta khuyên ngươi nên tự đưa ra là hơn. Lục soát từng người thì phải lục soát đến phu nhân và các cô khuê nữ, khó coi lắm.
Lâm Bình Chi lớn tiếng nói:
– Tất cả tai họa này đều do Lâm Bình Chi mà ra. Ta nói cho các vị biết, Lâm gia ở Phúc Kiến xưa nay không có Tịch tà kiếm phổ gì hết, tin hay không là tùy ở các vị.
Lâm Bình Chi nói vậy rồi lượm cây hoài trượng dưới đất, dùng lực đập mạnh vào trán mình. Nhưng hai cánh tay hắn đã bị điểm huyệt đạo, nên ra tay không có chút khí lực nào, bốp một tiếng, hoài trượng đập lên đầu chỉ trầy da chứ không chảy máu.
Nhưng người nào cũng hiểu được dụng ý hành động này của Lâm Bình Chi. Lâm Bình Chi muốn hy sinh tính mạng để chứng minh không có kiếm phổ gì đó lọt vào tay phái Hoa Sơn.
Lão gia che mặt cười nói:
– Lâm công tử, ngươi rất có nghĩa khí. Bọn ta cùng với gia gia của ngươi có mối giao tình, Nhạc Bất Quần đã hại gia gia, nuốt mất bộ Tịch tà kiếm phổ gia truyền của ngươi nên hôm nay bọn ta ôm mối bất bình mà đến đây. Sư phụ của ngươi chỉ có hư danh quân tử chứ không phải là quân tử thật đâu. Chi bằng ngươi quay lại làm môn hạ của ta, ta bảo đảm dạy ngươi thành một người đầy đủ công phu ngang dọc giang hồ.
Lâm Bình Chi nói lớn:
– Gia gia và má má của ta bị Dư Thương Hải và Mộc Cao Phong ám hại, nào có liên can gì đến sư phụ ta? Ta đường đường là môn đồ của phái Hoa Sơn, sao lại có thể gặp lúc nguy nan mà tham sống sợ chết?
Lương Phát reo lên:
– Nói hay lắm! Phái Hoa Sơn ta…
Lương Phát nói chưa dứt lời thì một tên bịt mặt quát:
– Phái Hoa Sơn ngươi thế nào?
Gã vừa nói vừa vung đao lên chém một đao vào đầu Lương Phát, máu tươi phun ra, tám chín đệ tử phái Hoa Sơn cùng kinh hãi la hoảng lên.
Trong đầu Nhạc Bất Quần nổi lên hàng loạt ý nghĩ nhưng lão vẫn nghĩ không ra lai lịch của những tên này. Nghe lời lão già nói, có lẽ chúng là cường nhân trong hắc đạo, hoặc là những tên giặc tụ họp thành bang hội. Các nhân vật nổi danh trong hắc đạo và bạch đạo ở bốn châu Tần, Tấn, Xuyên, Dự, dù không quen biết hết, nhưng lão cũng có nghe biết, tuyệt không có một bang hội hay sơn trại nào có nhiều cao thủ đến như vậy. Tên sử đao chém đầu Lương Phát hạ thủ tàn độc thật hiếm thấy trong võ lâm. Trên giang hồ việc động võ giết người là chuyện bình thường, nhưng đối phương đã bị bắt, rất hiếm khi bị vung đao chém đầu.
Gã đó chém Lương Phát xong thì cười lên một tràng man rợ, đi đến trước mặt Nhạc phu nhân. Gã giơ cây đao đầy máu chém dứ vài cái vào không khí, hướng vào đầu Nhạc phu nhân không đầy nửa thước. Nhạc Linh San thét lên:
– Đừng… đừng giết má má ta!
Cô nói xong liền ngất xỉu. Nhạc phu nhân là một trang hào kiệt trong giới nữ, không một chút sợ hãi, bà nghĩ bị gã chém một đao để khỏi bị sỉ nhục chính là điều bà mong mỏi. Bà ngẩng đầu mắng:
– Tên giặc chó má kia, có giỏi thì giết ta đi.
Giữa lúc đó, bỗng nghe tiếng vó ngựa ở phía Đông Bắc vọng lại, mấy chục kỵ mã phóng nhanh đến. Lão già bịt mặt la lên:
– Người nào vậy? Đi xem coi!
Hai tên bịt mặt cùng “dạ” rồi nhảy phóc lên ngựa vọt đi. Tiếng vó ngựa càng lúc càng lại gần, tiếp theo là tiếng binh khí va chạm loảng choảng, có người la:
– Úi chao!
Hiển nhiên bọn người đến và hai tên bịt mặt đã giao thủ với nhau, có người bị thương.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần và bọn đệ tử phái Hoa Sơn biết là có cứu tinh đến, ai cũng vui mừng.
Chỉ thấy dưới ánh đèn mờ mờ, ba bốn chục kỵ mã chạy trên đường lớn, nước bắn lên tung tóe, trong khoảnh khắc đã dừng cương ngựa đứng thành một vòng ngoài miếu. Một người ngồi trên lưng ngựa nói lớn:
– Các vị là bằng hữu phái Hoa Sơn. Ủa! Đây không phải là Nhạc huynh sao?
Nhạc Bất Quần nhìn lên mặt người nói đó, bất giác lão rất lúng túng. Thì ra người này là đệ tam thái bảo Tiên hạc thủ Lục Bách phái Tung Sơn, mấy ngày trước đây đã từng cầm cờ lệnh Ngũ Nhạc kiếm phái lên đỉnh Hoa Sơn. Bên phải lão là một người cao to vạm vỡ, là đệ nhị thái bảo Đinh Miễn phái Tung Sơn. Đứng sừng sững bên trái lão là Phong Bất Bình phe Kiếm tông, phản tông phản đồ của phái Hoa Sơn. Ngoài ra, các cao thủ các phái Thái Sơn, Hành Sơn ngày hôm đó đã đến Hoa Sơn đều ở trong đám người này, có điều nhiều hơn lần lên núi hôm trước. Dưới ánh đèn bão mờ ảo, nhất thời lão không nhận ra được mọi người. Lục Bách nói:
– Nhạc huynh, hôm trước Nhạc huynh không tiếp cờ lệnh của Tả minh chủ, Tả minh chủ rất lấy làm khó chịu, nay phái Đinh sư ca và Dương sư đệ của tại hạ phụng cờ lệnh lên Hoa Sơn hỏi lại. Không ngờ trong đêm khuya lại gặp nhau ở đây. Thật là không ngờ được.
Nhạc Bất Quần im lặng không đáp. Lão già đứng đầu bọn bịt mặt reo lên:
– Thì ra là ba vị Đinh nhị hiệp, Lục tam hiệp, Dương thất hiệp của phái Tung Sơn đến đây. Thật là hân hạnh, hân hạnh!
Đệ thất thái bảo Dương Anh Ngạc nói:
– Không dám, cao danh quý tính các hạ là gì? Vì sao không để bộ mặt thật tương kiến?
Lão già bịt mặt đáp:
– Bọn sư huynh sư đệ chúng ta đều là hạng vô danh tiểu tốt trong hắc đạo, phỉ hiệu rất khó nghe, nếu đem nói ra e làm dơ tai các vị cao nhân võ lâm. Bọn tại hạ đối với Nhạc phu nhân và Nhạc tiểu thư không dám vô lễ, nhưng có một chuyện, tại hạ muốn xin các vị chủ trì công đạo võ lâm cho.
Dương Anh Ngạc nói:
– Chuyện gì xin cứ mạnh dạn nói ra cho mọi người nghe.
Lão già bịt mặt nói:
– Nhạc Bất Quần tiên sinh đây có ngoại hiệu gọi là Quân tử kiếm, nghe nói trước đây lúc nào tiên sinh cũng nói chuyện đạo đức nhân nghĩa, giảng giải quy củ võ lâm, nhưng gần đây lại có một chuyện. Phước Oai tiêu cục ở Phúc Châu bị người cướp phá, vợ chồng Lâm Chấn Nam bị hại, các vị chắc đã sớm biết rồi?
Dương Anh Ngạc nói:
– Đúng vậy, nghe nói vụ đó do phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên gây ra.
Lão già liên tục lắc đầu nói:
– Giang hồ đồn đại như vậy nhưng tình thật thì chưa chắc đã là như vậy đâu. Bọn ta xin nói toạc ra cho mọi người đều biết nhà họ Lâm ở Phước Oai tiêu cục có bộ Tịch tà kiếm phổ tổ truyền, trong kiếm phổ ghi chép kiếm pháp tinh vi ảo diệu, sau khi luyện thành công, có thể trở thành thiên hạ vô địch. Sở dĩ vợ chồng Lâm Chấn Nam bị hại là vì có người cố ý dòm ngó bộ Tịch tà kiếm phổ này.
Dương Anh Ngạc hỏi:
– Vậy thì sao nữa?
Lão già nói tiếp:
– Vợ chồng Lâm Chấn Nam rốt cuộc bị ai hãm hại, người ngoài không biết rõ sự tình. Chúng ta chỉ nghe nói, vị Quân tử kiếm này ngấm ngầm sử dụng ngụy kế, gạt con trai của Lâm Chấn Nam đầu nhập làm môn hạ phái Hoa Sơn, bộ kiếm phổ đó dĩ nhiên lọt vào tay phái Hoa Sơn. Vì vậy mọi người cân nhắc suy đoán đều nói mưu kế của Nhạc Bất Quần cưỡng đoạt không thành thì dùng xảo kế để lấy cho bằng được. Thử nghĩ lại tiểu tử họ Lâm được bao nhiêu tuổi, có được bao nhiêu hiểu biết? Sau khi đầu nhập phái Hoa Sơn, có khác gì một món đồ chơi để cho con cáo già này lung lạc, ngoan ngoãn hai tay đem Tịch tà kiếm phổ dâng lên cho lão rồi.
Dương Anh Ngạc nói:
– Ta e rằng cũng chưa chắc vậy đâu. Kiếm pháp phái Hoa Sơn tinh diệu, Tử hà thần công của Nhạc tiên sinh độc bộ võ lâm, là môn nội công thần kỳ nhất, sao lại còn tham lam mưu đồ kiếm pháp của phái khác nữa?
Lão già ngẩng mặt lên trời cười ha hả rồi nói:
– Dương lão anh hùng lấy cái tâm của người quân tử để đo cái bụng kẻ tiểu nhân rồi. Nhạc Bất Quần có kiếm pháp tinh diệu gì đâu? Sau khi phái Hoa Sơn của lão phân ra làm hai phe Khí tông và Kiếm tông, phe Khí tông chiếm cứ Hoa Sơn, chỉ nghiên cứu luyện khí, còn kiếm pháp thì tầm thường, thậm chí còn cực kỳ ấu trĩ. Ba chữ “phái Hoa Sơn” chấn động giang hồ chỉ là hư danh, có người còn cho rằng họ có bản lĩnh thật sự, nhưng kỳ thực thì… hà hà, hà hà…
Lão cười nhạt vài tiếng rồi nói tiếp:
– Theo lý mà nói, Nhạc Bất Quần là chưởng môn phái Hoa Sơn, kiếm thuật rất cao thâm, nhưng các vị thấy tận mắt đấy, lão vừa bị mấy tên vô danh tiểu tốt bọn tại hạ bắt được. Bọn tại hạ một là không sử dụng độc dược, hai là không sử dụng ám khí, ba là không ỷ nhiều thắng ít, chỉ đem bản lĩnh thật sự đấu với nhau đã hạ được bọn sư đồ phái Hoa Sơn. Võ công phe Khí tông phái Hoa Sơn ra sao không cần suy nghĩ cũng rõ rồi, cho nên ta có thể hiểu Nhạc Bất Quần tự biết mình thế nào nên lão muốn cấp tốc luyện cho được Tịch tà kiếm pháp thật tinh thâm để khỏi mang tiếng là kẻ chỉ có hư danh. Không ngờ vừa đến bước quan trọng thì bị lộ tẩy.
Dương Anh Ngạc gật đầu nói:
– Những lời này cũng có lý.
Lão già lại nói:
– Bọn tại hạ là hạng vô danh tiểu tốt trong hắc đạo, nói đến công phu, dưới mắt của các vị danh gia thì chẳng ra gì, đối với Tịch tà kiếm phổ đó cũng không khởi tâm tham lam làm gì. Chẳng qua mười mấy năm về trước, bọn chúng ta từng được Lâm tổng tiêu đầu ở Phước Oai tiêu cục có lòng trọng vọng, mỗi năm đều tặng hậu lễ, tiêu xa của lão đi qua núi bọn tại hạ thì các huynh đệ đều nể mặt không đụng đến. Lần này nghe nói Lâm tổng tiêu đầu vì bộ kiếm phổ này mà bị nạn nhà tan cửa nát, huynh đệ chúng ta không khỏi động lòng căm phẫn nên đến đây tính sổ với Nhạc Bất Quần.
Lão nói đến đây, ngừng một lúc, nhìn quanh mọi người trên ngựa rồi nói tiếp:
– Đêm nay các vị đều là anh hùng hảo hán lừng danh trong võ lâm đã giá đáo đến đây, còn có cả cao thủ Ngũ Nhạc kiếm phái kết minh với phái Hoa Sơn, vụ này rốt cuộc nên xử trí cách nào, xin các vị chỉ đạo cho, bọn tại hạ nhất nhất tuân theo.
Dương Anh Ngạc nói:
– Vị huynh đài này là bằng hữu tốt, chúng ta lĩnh hội mối giao tình này. Đinh sư ca, Lục sư ca, hai sư ca xem chuyện này nên xử trí thế nào?
Đinh Miễn nói:
– Ngôi vị chưởng môn nhân của phái Hoa Sơn, theo Tả minh chủ nói, nên để Phong tiên sinh chấp chưởng. Hôm nay, Nhạc Bất Quần lại làm chuyện đê hèn vô liêm sỉ này thì để Phong tiên sinh tự thanh lý môn hộ thôi.
Mọi người trên ngựa đồng thanh nói:
– Đinh nhị hiệp nói phải lắm. Chuyện của phái Hoa Sơn nên để chưởng môn nhân phái Hoa Sơn tự xử lý, bằng hữu trên giang hồ khỏi nói chúng ta đa quản nhàn sự.
Phong Bất Bình nhảy xuống ngựa cung tay vái dài mọi người một vòng, nói:
– Các vị làm cho tại hạ hãnh diện, thật cảm kích vô cùng. Tệ phái bị Nhạc Bất Quần tranh đoạt chức chưởng môn, khiến cho trời người đều oán giận, mà thanh danh của bổn phái trên giang hồ cũng mất hết, hôm nay lại bày ra chuyện giết phụ thân của người ta để đoạt kiếm phổ, cưỡng bức thu đồ đệ, thật là những hành động vô pháp vô thiên. Tại hạ vô đức vô tài, không xứng đáng làm chưởng môn phái Hoa Sơn, chỉ vì nghĩ đến liệt tổ liệt tông của tệ phái đã gian khổ gầy dựng sự nghiệp nên không nỡ để phái Hoa Sơn bị tàn hủy theo mây khói về tay môn đồ hư hỏng Nhạc Bất Quần. Tại hạ đành phải cố gắng gánh vác khó nhọc này, mong các vị bằng hữu ngày sau luôn luôn chỉ điểm đôn đốc cho.
Lão nói xong lại cung tay vái dài bốn phía. Lúc này trên ngựa đã có bảy tám người đốt đuốc lên.
Mưa vẫn còn lâm râm. Ánh sáng đuốc chiếu lên mặt Phong Bất Bình, lão lộ vẻ vô cùng đắc ý. Lão nói tiếp:
– Nhạc Bất Quần tội ác tày trời không thể khoan dung, nên phải chấp hành môn quy, lập tức xử tử. Tùng sư đệ, sư đệ hãy vì bổn phái mà thanh lý môn hộ, đem vợ chồng phản đồ Nhạc Bất Quần ra giết đi.
Một hán tử khoảng năm mươi tuổi đáp dạ rồi rút trường kiếm đi đến trước mặt Nhạc Bất Quần, cười một tràng man rợ, nói:
– Họ Nhạc kia, ngươi làm bại hoại bổn phái, hôm nay phải chịu lấy quả báo.
Nhạc Bất Quần thở dài nói:
– Được, được, phe Kiếm tông các ngươi vì muốn tranh đoạt ngôi vị chưởng môn mà bày ra độc kế này. Tùng Bất Diệp, hôm nay ngươi giết ta thì sau này ở dưới âm thế còn mặt mũi nào mà nhìn liệt tổ liệt tông phái Hoa Sơn nữa?
Tùng Bất Diệp cười ha hả nói:
– Làm nhiều điều bất nghĩa tất nhiên phải chết. Chính ngươi đã gây ra nhiều tội nghiệt, nếu ta không giết ngươi để ngươi phải chết do tay người ngoài thì không hay ho gì cả.
Phong Bất Bình quát:
– Tùng sư đệ, nói nhiều vô ích, hành hình đi!
Tùng Bất Diệp đáp dạ, lão cầm trường kiếm lên, khuỷu tay co lại, ánh lửa chiếu vào lưỡi kiếm bỗng đỏ bỗng xanh lấp loáng. Nhạc phu nhân la lên:
– Khoan đã! Tịch tà kiếm phổ đó rốt cuộc là ở đâu? Bắt trộm thì phải nắm đủ tang chứng, các ngươi ngậm máu phun người như vậy làm sao có thể khiến người khác khâm phục?
Tùng Bất Diệp nói:
– Hay lắm! Bắt trộm phải nắm đủ tang chứng.
Lão nói xong liền đi lại phía Nhạc phu nhân hai bước, cười hì hì rồi nói:
– Vậy thì bộ Tịch tà kiếm phổ chắc là giấu trong người của ngươi, ta phải lục soát người ngươi lấy ra để ngươi khỏi phải nói chúng ta ngậm máu phun người.
Lão nói rồi đưa tay trái toan mò vào túi trước của Nhạc phu nhân. Đùi Nhạc phu nhân bị thương, lại bị điểm trúng hai huyệt đạo, trước mắt thấy bàn tay thô kệch xương xẩu của Tùng Bất Diệp đưa lên người mình mà lục soát, thật nhục nhã. Bà lớn tiếng gọi:
– Đinh sư huynh phái Tung Sơn!
Đinh Miễn không ngờ Nhạc phu nhân bỗng nhiên gọi tên mình, bèn hỏi:
– Sao?
Nhạc phu nhân nói:
– Lệnh sư huynh Tả minh chủ là minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái, làm mẫu mực trong võ lâm, phái Hoa Sơn cũng nương dựa dưới cờ của Tả minh chủ. Vậy mà sư huynh lại để mặc cho bọn tiểu nhân vô liêm sỉ đến làm ô nhục phụ nữ người ta, còn ra quy củ gì nữa?
Đinh Miễn đáp:
– Cái đó…
Nói xong, lão trầm ngâm không nói.
Nhạc phu nhân lại nói:
– Tên ác tặc này toàn ăn nói hồ đồ, nói cái gì là không ỷ đông thắng ít. Hai tên phản đồ phái Hoa Sơn này nếu đơn đả độc đấu thắng trượng phu ta thì chúng ta sẽ đem chức chưởng môn hai tay nhường lại, có chết cũng không oán hận, nếu không thì khó bịt miệng được ngàn vạn anh hùng hảo hán trong võ lâm lắm.
Bà nói đến đây, bỗng nhiên phẹt một tiếng, bà nhổ một ngụm nước miếng vào mặt Tùng Bất Diệp. Cự ly giữa Tùng Bất Diệp và bà rất gần, hành động lại xảy ra bất thình lình nên lão không kịp né tránh, bị nhổ trúng sống mũi giữa hai mắt. Lão lớn tiếng chửi:
– Tổ mẹ nó!
Nhạc phu nhân tức giận nói:
– Ngươi là thứ phản đồ phe Kiếm tông, võ công thấp kém, không cần trượng phu ta ra tay. Hạng nữ lưu như ta nếu không bị người ám toán điểm huyệt đạo, muốn giết ngươi cũng dễ như trở bàn tay.
Đinh Miễn nói:
– Được lắm!
Hai đùi hắn thúc vào hông ngựa, con hắc mã xông về phía trước rồi vòng qua sau lưng Nhạc phu nhân. Hắn chuyển dây cương ngựa phục người xuống phía trước quất ra một cái. Mũi dây cương điểm trúng ba huyệt đạo trên lưng Nhạc phu nhân. Bà cảm thấy toàn thân chấn động, huyệt đạo liền được giải khai, tứ chi được tự do. Bà biết Đinh Miễn muốn bà tỉ võ với Tùng Bất Diệp. Cuộc chiến này không những có liên quan đến sự sinh tử của cả nhà ba người mà còn quyết định sự thịnh suy hưng vong của phái Hoa Sơn. Nếu như bà có thể đánh bại được Tùng Bất Diệp, tuy cũng chưa chắc biến nguy hiểm thành bình yên, nhưng ít nhất cũng có cơ hội xoay chuyển cục diện; còn nếu bà thất bại thì khỏi phải nói. Bà liền lượm thanh trường kiếm đã bị đánh rơi lúc nãy lên, nâng kiếm ngang ngực, tạo thế đứng. Ngay lúc này, chân trái của bà nhũn ra suýt chút nữa quỵ ngã. Trên đùi bà vết thương cũng không nhẹ, chỉ dùng một chút nội lực thì khó đứng vững.
Tùng Bất Diệp cười ha hả nói:
– Ngươi vừa là phụ nữ, vừa giả bộ bị thương ở chân thì còn tỉ kiếm cái gì nữa? Dù có thắng ngươi cũng chẳng hay ho gì.
Nhạc phu nhân không muốn nói nhiều với hắn, bà thét “Xem kiếm đây!” rồi choang choang, ba kiếm phóng nhanh ra, nội lực trên lưỡi kiếm nghe vù vù. Bà xuất chiêu kiếm này rất nhanh, toàn đánh vào chỗ yếu hại của đối phương. Tùng Bất Diệp thối lui hai bước, kêu lên “Hay lắm!”. Nhạc phu nhân có thể thừa thế bức bách tiến tới nhưng bà không dám di động chân, chỉ đứng yên một chỗ. Tùng Bất Diệp lại giơ kiếm lên, đánh ngược lại, choảng choảng ba tiếng tóe lửa, ba chiêu kiếm này tấn công rất dữ tợn. Trường kiếm Nhạc phu nhân gạt ra, đến chiêu kiếm thứ ba bà liền chuyển thế thủ thành thế tấn công, phóng kiếm cực nhanh đâm vào bụng dưới của địch nhân.
Nhạc Bất Quần đứng một bên thấy thê tử bị thương nặng ở đùi , dùng lực chống lại cường địch, chiêu kiếm của Tùng Bất Diệp lại tinh diệu, linh động biến hóa, rõ ràng là cao hơn thê tử lão. Sau khi hai người chiết được hơn hai mươi chiêu thì Nhạc phu nhân khó bề di chuyển hạ bàn. Phe Khí tông phái Hoa Sơn chuyên dùng nội lực để khắc chế địch, nhưng bà đang bị thương, nội tức không đều, kiếm pháp dần dần bị Tùng Bất Diệp khắc chế.
Nhạc Bất Quần nôn nóng, thấy các chiêu kiếm của thê tử càng sử càng nhanh thì lão càng lo âu: Sở trường phe Kiếm tông là ở kiếm pháp mà sư muội lại dùng chiêu kiếm tương chiến với hắn, tức là lấy sở đoản của mình mà chống lại sở trường của địch, tất phải thua.
Vấn đề mấu chốt này sao Nhạc phu nhân lại không biết, nhưng vì thương thế ở đùi của bà khá nặng, vả lại sau khi bà trúng đao lại bị điểm huyệt đạo, nên không thể trị thương, bây giờ vết thương còn chảy máu chưa cầm, làm sao có thể vận khí khắc chế địch được? Lúc này bà hoàn toàn dựa vào tinh thần để chống chọi, tuy chiêu kiếm không một chút sơ hở, nhưng kình lực giảm sút rất nhanh. Đấu hơn mười chiêu nữa, Tùng Bất Diệp đã quan sát thấy được chỗ yếu của đối phương, lòng lão vui mừng. Lão không cầu thắng vội, chỉ nghiêm mật phòng thủ môn hộ.
Lệnh Hồ Xung giương mắt nhìn hai người tỷ đấu, nhưng thấy đường kiếm tung hoành của Tùng Bất Diệp liền nhận ra lão chỉ sử chiêu thức chứ không dùng nội lực, hoàn toàn khác với cách truyền thụ của sư phụ.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thảo nào bổn phái phân ra làm hai phe Kiếm tông và Khí tông. Cái tối thượng về võ công của hai phe quả nhiên hoàn toàn tương phản.
Lệnh Hồ Xung đưa tay lượm thanh trường kiếm ở dưới đất từ từ chống đứng dậy, lòng nghĩ: Phái ta hôm nay bị thất bại thảm hại nhưng thanh danh của sư nương và sư muội trong sạch, quyết không thể để cho kẻ gian làm hoen ố. Xem ra sư nương không phải là địch thủ của người này, thôi thì ta giết sư nương và sư muội trước sau đó ta tự tử theo để bảo toàn thanh danh của phái Hoa Sơn.
Chợt thấy kiếm pháp của Nhạc phu nhân dần dần rối loạn. Thanh trường kiếm của bà xoay rất lẹ, phóng vù một tiếng, chính là chiêu Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm. Lực đạo của chiêu kiếm này rất lợi hại, tuy bà đang bị trọng thương nhưng thế phóng ra của bà vẫn có oai lực phi thường.
Tùng Bất Diệp giật mình kinh hãi, vội nhảy về phía sau, may mà tránh được. Nếu chân Nhạc phu nhân không bị thương, thừa thế truy kích thì gã tất khó mà thoát được. Mặt bà không còn giọt máu, chống kiếm xuống đất, thở hồng hộc.
Tùng Bất Diệp cười nói:
– Thế nào! Nhạc phu nhân, khí lực của phu nhân đã kiệt rồi, có chịu để cho ta lục soát chưa?
Lão nói vậy rồi xòe bàn tay trái ra, từng bước tiến đến gần. Nhạc phu nhân muốn nhấc kiếm lên đâm nhưng tay phải của bà như nặng ngàn cân, không nhấc lên được.
Lệnh Hồ Xung toan rút kiếm đâm chết bà để bảo vệ sự thanh bạch cho bà. Ánh mắt Nhạc phu nhân lộ vẻ vui mừng, bà gật đầu nói:
– Hảo hài tử!
Nói rồi, bà đứng không vững nữa, đành ngồi phệt xuống vũng nước bùn. Tùng Bất Diệp quát:
– Cút đi!
Lão vung kiếm nhằm đâm vào yết hầu của Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung thấy kiếm đâm tới, tự biết mình không còn chút khí lực nào, nếu đưa kiếm ra gạt đỡ thì lập tức bị trường kiếm của lão đánh bay đi. Không còn suy nghĩ nữa, hắn nhấc kiếm lên nhằm đâm vào yết hầu của lão, đó là cách đánh “Đồng quy ư tận” (cùng chết với nhau). Chiêu kiếm này xuất ra không mau lẹ gì nhưng bộ vị lại tuyệt diệu tột đỉnh, đây chính là chiêu Phá kiếm thức trong Độc Cô cửu kiếm.
Tùng Bất Diệp giật mình kinh hãi, vạn lần không ngờ gã thiếu niên mình dính đầy bùn lầy lại bỗng nhiên sử ra chiêu này. Tình thế cấp bách, lão phải nằm xuống dưới đất lăn xa hơn một trượng mới tránh khỏi nhưng đã hết hồn hết vía.
Chúng nhân bàng quan thấy lão rất lúng túng, lúc nhảy người lên, đầu tóc, mặt mũi, chân tay mình mẩy toàn là nước bùn ướt sũng, có người không nhịn được bật cười, nhưng suy cho cùng, đều cảm thấy ngoài cách nằm lăn ra thì quả thật không còn diệu pháp nào có thể chiết giải chiêu này của Lệnh Hồ Xung.
Tùng Bất Diệp nghe có tiếng người cười thì lão càng xấu hổ, giận run cả người. Lão đưa kiếm nhảy xổ vào Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung đã đoán được, tự dặn mình: Ta không thể vận nội lực được, chỉ còn cách lấy kiếm pháp của thái sư thúc tổ đã truyền thụ để chiết chiêu với lão.
Độc Cô cửu kiếm Lệnh Hồ Xung luyện chưa thuần thục nên không dám mạo hiểm kháng cự cường địch, nhưng bây giờ chuyện sinh tử như sợi chỉ mành, nên trong đầu Lệnh Hồ Xung bỗng nhiên nhớ rõ dị thường. Bao nhiêu cách chiết giải phức tạp thần kỳ trong Phá kiếm thức trong khoảnh khắc đều hiện lên rất rõ.
Trước mắt Tùng Bất Diệp như con hổ điên liều mạng xông đến; Lệnh Hồ Xung nhìn thấy được chỗ sơ hở trong chiêu thức, mũi kiếm chênh chếch chỉ vào bụng dưới của lão. Tùng Bất Diệp yên trí mình đánh như vậy, nếu đối phương không né tránh thì phải dùng binh khí gạt đỡ, nên bụng dưới của Tùng Bất Diệp trống không, đâu cần phải phòng thủ. Nào ngờ Lệnh Hồ Xung không né tránh cũng không gạt đỡ, chỉ đưa mũi kiếm nghiêng chênh chếch, đợi bụng dưới của đối phương đâm vào kiếm. Tùng Bất Diệp nhảy lên, hai chân còn chưa đụng mặt đất, thấy được mình đang rơi vào tình cảnh nguy hiểm, lão vội vung kiếm nhằm chém lên trường kiếm của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung đã liệu đoán trước được chuyện này nên tay phải nhấc nhẹ lên, trường kiếm nhấc lên hai thước, mũi kiếm chỉ vào trước ngực Tùng Bất Diệp.
Tùng Bất Diệp chém kiếm ra, lão vốn muốn đụng vào trường kiếm của Lệnh Hồ Xung để có thể mượn thế nhảy vọt ra, nào ngờ đối phương trong lúc nghiêm trọng này chỉ kiếm thẳng lên nên chiêu kiếm của lão chém vào khoảng không. Trên không trung, thân người lão không còn cách nào xoay xở, miệng lão thét lên be be thì thân lão đã rơi thẳng xuống mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung. Phong Bất Bình vội vọt người lên đưa tay chụp lấy lưng Tùng Bất Diệp, nhưng đã chậm một bước, nghe phập một tiếng, mũi kiếm xuyên qua bả vai của Tùng Bất Diệp rồi.
Phong Bất Bình chụp lại nhưng không trúng, lão liền rút kiếm chém vào sau cổ Lệnh Hồ Xung. Dựa theo kiếm lý thì Lệnh Hồ Xung phải vội nhảy lùi về phía sau rồi mới thừa cơ hội trả chiêu, nhưng chân khí trong cơ thể Lệnh Hồ Xung nhộn nhạo, nội tức rối loạn, một chút nội kình cũng không vận ra được, nói gì đến việc nhảy lùi ra sau né tránh. Trong lúc cấp bách, chàng rút kiếm từ vai Tùng Bất Diệp ra, sử ngay chiêu thức trong Độc Cô cửu kiếm, xoay kiếm đâm vào rốn của Phong Bất Bình. Dường như chiêu này lại là cách đánh liều mạng “Đồng quy ư tận”, nhưng cách xoay tay kiếm của Lệnh Hồ Xung có bộ vị đặc biệt, chiêu kiếm này đâm vào rốn của địch nhân trước rồi binh khí của địch nhân mới đâm đến người, diễn biến này tuy cách nhau không đầy một cái nháy mắt nhưng trong khoảng thời gian cực ngắn đó lại có sai biệt trước sau.
Trước mắt Phong Bất Bình thấy chiêu kiếm này của đối phương khó mà gạt đỡ, ngờ đâu thiếu niên này lại xoay phản kiếm, lại nhắm đâm vào bụng dưới của lão, thật hiểm ác vô cùng. Lão lập tức thối lui, hít một hơi thở, phóng ra bảy chiêu kiếm theo thế liên hoàn, từng kiếm phóng ra như gió như chớp tấn công ngay.
Lệnh Hồ Xung đã sớm coi nhẹ sự sinh tử, những suy nghĩ trong lòng hoàn toàn là những chiêu kiếm pháp mà Phong Thanh Dương đã chỉ điểm cho. Thỉnh thoảng trong đầu lại lóe lên, nghĩ đến những chiêu kiếm trên vách đá ở hậu động, liền sử ra. Chàng vung kiếm theo ý mình để đối phó với Phong Bất Bình, trong khoảnh khắc đã chiết hơn bảy mươi chiêu. Trường kiếm của hai người vẫn chưa đụng vào nhau, thế đánh và phòng thủ toàn là những thế kiếm cực kỳ tinh vi ảo diệu.
Chúng nhân bàng quan xem đến hoa cả mắt, không ai không ngấm ngầm thán phục. Mọi người đều nghe được hơi thở của Lệnh Hồ Xung rất nặng, rõ ràng khí lực khó mà chống nổi, nhưng những chiêu số thần diệu trên kiếm của chàng vẫn xuất ra bất tận, biến ảo vô phương. Mỗi chiêu kiếm Lệnh Hồ Xung phóng ra, Phong Bất Bình không có cách gì chống đỡ nổi, nên lão dùng trường kiếm chém loạn xạ, lão biết đối phương sẽ không dám đấu lực với lão mà dùng kiếm đỡ kiếm, có như vậy mới giải thoát được cảnh ngặt nghèo.
Mọi người bàng quan thấy cách đánh của Phong Bất Bình, có người không kìm được sự bất mãn.
Một đạo sĩ phái Thái Sơn nói:
– Kiếm pháp của đồ nhi phe Khí tông thì cao cường còn nội công của sư thúc Kiếm tông lại mạnh mẽ. Sao lại có cảnh đảo điên này? Phe Khí tông và phe Kiếm tông của phái Hoa Sơn chẳng phải là đang chơi trò đảo ngược rồi hay sao?
Phong Bất Bình thẹn đỏ mặt, trường kiếm của lão càng sử ra như bão táp mưa sa. Lão là đệ nhất cao thủ phe Kiếm tông của phái Hoa Sơn, kiếm thuật của lão quả là phi thường. Lệnh Hồ Xung lại không còn sức lực để di chuyển thân mình, phải cố gắng chống đỡ mới có thể đứng vững nên mất rất nhiều cơ hội tốt để có thể thủ thắng. Lần đầu tiên Lệnh Hồ Xung sử Độc Cô cửu kiếm thì đụng ngay đại địch, nên lòng không khỏi khiếp sợ, cả hai người đấu ác liệt hồi lâu vẫn khó phân thắng bại.
Sau khi chiết hơn ba chục chiêu, Lệnh Hồ Xung phát giác nếu mình sử một chiêu kiếm loạn xạ thì đối phương khó mà chống đỡ, chân tay sẽ luống cuống, nhưng nếu dùng kiếm pháp phái Hoa Sơn của bổn môn hay dùng kiếm pháp của các phái Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn khắc trên vách đá trong hậu động thì Phong Bất Bình sẽ thừa thế phản kích, phá giải các chiêu kiếm của mình. Có một lần trường kiếm của Phong Bất Bình liên tiếp vạch ba đường hình vòng cung, suýt chút nữa chém đứt vai và tay phải của Lệnh Hồ Xung, thật nguy hiểm vô cùng. Trong lúc nguy cấp, bỗng nhiên câu nói của Phong Thanh Dương lại văng vẳng bên tai:
– Kiếm pháp của ngươi không có chiêu thức thì địch nhân không có cách nào phá giải được, vô chiêu thắng hữu chiêu là tuyệt chỉ của kiếm pháp vậy.
Lúc này Lệnh Hồ Xung đã đấu với Phong Bất Bình hơn hai trăm chiêu, đối với chiêu thức tinh diệu trong Độc Cô cửu kiếm chàng lĩnh ngộ càng lúc càng nhiều. Bất luận kiếm pháp của Phong Bất Bình tấn công lợi hại tàn độc đến đâu, nhưng hễ chàng liếc nhìn thì thấy được ngay cách phá giải trong chiêu thức của lão rồi thuận tay xuất kiếm, bức bách lão phải hồi kiếm về phòng thủ. Lại đấu thêm một lúc nữa, Lệnh Hồ Xung càng tăng thêm lòng tự tin, bỗng nhớ đến yếu quyết mà Phong Thanh Dương đã nói: “Lấy vô chiêu thắng hữu chiêu”. Lệnh Hồ Xung thở phào, liền phóng kiếm đâm chênh chếch, chiêu kiếm này không thuộc bất kỳ chiêu thức nào, thậm chí cũng không phải là chiêu thức kiếm pháp Độc Cô cửu kiếm. Chàng xuất chiêu hoàn toàn vô lực, mũi kiếm đâm ra chênh chếch mà ngay cả chính mình cũng không biết chỉ về hướng nào.
Phong Bất Bình ngẩn người ra rồi thầm nghĩ:
– Đây là chiêu thức gì mà kỳ cục vậy?
Nhất thời lão không biết phải chiết giải thế nào, đành phải múa kiếm để hộ vệ thượng bàn. Lệnh Hồ Xung xuất chiêu kiếm vốn không cố định phương pháp, thấy đối phương hộ vệ thượng bàn, mũi kiếm nhẹ run, chàng liền nhắm vào hông của lão. Phong Bất Bình không đoán được Lệnh Hồ Xung biến chiêu kiếm đặc biệt kỳ lạ như vậy, lão kinh hãi nhảy lùi về sau ba bước. Lệnh Hồ Xung không còn nội lực để nhảy theo lão; vừa rồi đấu đã lâu, tuy không dùng đến một chút chân khí nội lực nhưng việc nhấc kiếm đâm chém cũng hao tổn nhiều khí lực, bất giác chàng đưa tay trái vuốt ngực thở hồng hộc.
Phong Bất Bình thấy Lệnh Hồ Xung không truy kích, sao lão chịu dừng tay? Lão liền đánh veo veo bốn kiếm nhắm vào ngực, bụng, lưng, vai của Lệnh Hồ Xung. Cổ tay của Lệnh Hồ Xung rung lên, chàng giơ kiếm nhằm mắt trái của lão đâm tới. Phong Bất Bình kinh hãi, lão thét lên một tiếng rồi nhảy lùi về sau ba bước.
Đạo nhân phái Thái Sơn lại nói:
– Lạ thật, lạ thật! Kiếm pháp của người này thật khiến cho người ta khâm phục.
Mọi người bàng quan đều có cảm nghĩ giống như vậy, họ đều biết lão nói khâm phục “kiếm pháp của người này” không phải là khen kiếm pháp của Phong Bất Bình mà là kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung.
Phong Bất Bình nghe vậy liền nghĩ: Mình là trưởng bối phe Kiếm tông, mưu đồ làm chưởng môn phái Hoa Sơn, nếu kiếm pháp lại thua một tên đồ nhi phe Khí tông thì ý đồ lớn lao làm chưởng môn phái Hoa Sơn cố nhiên từ nay không hy vọng nữa, cũng không còn mặt mũi nào đi lại trên giang hồ, đành phải vào núi ẩn cư. Lão nghĩ đến đây thì ngấm ngầm than thầm: Đến nước này mình còn ẩn giấu làm gì nữa?
Lão ngẩng mặt lên trời hú một tiếng, lao người chênh chếch về phía trước, trường kiếm đâm ngang chém thẳng, thần tốc vô bờ, chưa phóng đến năm sáu chiêu mà trong thế kiếm đã phát ra tiếng gió rít vù vù. Lão xuất chiêu càng lúc càng nhanh, tiếng gió rít càng mạnh. Bộ Cuồng phong khoái kiếm này là bộ kiếm lão sáng tác ra trong thời kỳ ẩn cư trong núi, chiêu kiếm nào cũng nhanh, tiếng gió phát ra càng lúc càng mạnh. Phong Bất Bình hoài bão chí lớn, không những lão muốn chấp chưởng phái Hoa Sơn mà còn muốn sau khi làm chưởng môn nhân phái này thì tiến lên làm minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái, nên đã sáng tác bộ Cuồng phong khoái kiếm này với một trăm lẻ tám thức. Bản lĩnh này lão vốn không muốn mạo nhiên để lộ cho người khác thấy, hễ sử thì bị lộ ra hết, sau này nếu tỉ đấu với hạng nhất lưu cao thủ thì đối phương đã có phòng bị trước, lão khó thu được hiệu quả thủ thắng bất ngờ. Nhưng bây giờ đang ở thế cưỡi hổ, nếu lão không đánh bại được Lệnh Hồ Xung thì còn mặt mũi nào tồn tại nữa. Tóm lại là lão bị bức bách đến đường cùng đành phải thi triển ra.
Bộ Cuồng phong khoái kiếm này quả nhiên có uy lực kỳ lạ vô cùng, mũi kiếm của lão phát ra một luồng kình khí dần dần tỏa rộng, chúng nhân bàng quan cảm thấy khí lạnh tạt vào người; gió thổi tới đến nỗi rát cả da mặt. Bất giác ai cũng chủ động thối lui về phía sau nên vòng vây xung quanh hai người đang tỉ đấu dần dần giãn rộng ra đến bốn năm trượng.
Cao thủ của các phái Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn và vợ chồng Nhạc Bất Quần không dám khinh thường Phong Bất Bình nữa. Bọn họ đều cảm thấy kiếm pháp của lão không những có những chiêu số tinh kỳ ảo diệu mà khí thế của chiêu kiếm rất lợi hại, không phải chỉ dùng chiêu kiếm để thủ thắng. Trên giang hồ lão không có tiếng tăm gì mà không ngờ kiếm pháp lại tuyệt diệu như vậy.
Những người trên ngựa đang cầm đuốc bị kiếm khí thổi tạt ra phía ngoài, tiếng gió trên thanh kiếm phát ra càng lúc càng mạnh dần.
Trong mắt của mọi người bàng quan thì Lệnh Hồ Xung giống như một chiếc thuyền nhỏ trong sóng gió trăm trượng. Cuồng phong bão táp, sóng dữ cao như núi từng cơn ngất trời dập vào chiếc thuyền nhỏ; thuyền nhỏ theo cơn sóng lên xuống nhưng vẫn không bị sóng gió nhận chìm.
Phong Bất Bình tấn công càng mãnh liệt hơn, Lệnh Hồ Xung càng lĩnh hội được ý nghĩa tinh vi của kiếm học mà Phong Thanh Dương đã chỉ điểm. Mỗi khi thi đấu được một khắc thì lĩnh hội thêm được mấy phần. Kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung có vô số chiêu số, rõ ràng càng thấu đáo thì lòng tự tin càng cao, nên bây giờ Lệnh Hồ Xung không vội cầu thắng. Chàng chỉ ngưng thần quan sát vô số biến hóa trong chiêu kiếm của Phong Bất Bình.
Cuồng phong khoái kiếm thật sự cực kỳ nhanh, chỉ trong khoảnh khắc một trăm lẻ tám chiêu đã được lão sử xong, thấy vẫn chưa làm gì được Lệnh Hồ Xung thì lòng lão nóng như lửa đốt. Lão liên tục quát mắng, trường kiếm đâm xéo chém dọc tấn công rất mãnh liệt để mong Lệnh Hồ Xung xuất kiếm gạt đỡ. Lệnh Hồ Xung thấy thế kiếm của lão đánh theo kiểu liều mạng nên cũng hơi e dè, không dám kéo dài trận đấu nữa. Trường kiếm của chàng rung động, bốn kiếm choang choang rất nhẹ, tay trái, tay phải, chân trái, chân phải của Phong Bất Bình đều bị trúng kiếm. Choảng một tiếng, trường kiếm của lão rơi xuống đất. Tay của Lệnh Hồ Xung không còn lực nên hắn phóng bốn chiêu kiếm này rất nhẹ.
Trong khoảnh khắc sắc mặt Phong Bất Bình tái xanh. Lão nói:
– Thôi rồi! Thôi rồi!
Lão quay người cung tay nói với Đinh Miễn, Lục Bách, Dương Anh Ngạc:
– Ba vị sư huynh phái Tung Sơn, xin các vị bẩm lên Tả minh chủ, nói là tại hạ vô cùng cảm kích thành ý của Tả minh chủ lão nhân gia, nhưng vì… nhưng vì tài nghệ không bằng người, không còn mặt… không còn mặt…
Lão lại cung tay rồi nhảy phóc lên ngựa chạy nhanh đi. Chạy được hơn hai mươi trượng, bỗng lão dừng lại nói lớn:
– Chàng thiếu niên kia, kiếm pháp của các hạ thật là tuyệt diệu, tại hạ phải khâm phục. Nhưng kiếm pháp này xem ra Nhạc Bất Quần cũng chưa bằng các hạ, vậy xin thỉnh giáo tôn tính đại danh của các hạ? Vị cao nhân nào đã truyền thụ kiếm pháp này cho các hạ khiến cho Phong Bất Bình này thua mà phải tâm phục?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tại hạ là Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử môn hạ của ân sư Nhạc tiên sinh, được tiền bối tương nhượng may mà thắng được nửa chiêu, đâu có gì đáng kể.
Phong Bất Bình thở dài, tiếng thở đầy vẻ thê lương ảo não. Rồi lão biến nhanh vào bóng đêm.
Đinh Miễn, Lục Bách, Dương Anh Ngạc, cả ba liếc nhìn nhau, đều nghĩ: Lấy kiếm pháp mà luận, chắc mình cũng không bằng Phong Bất Bình, đương nhiên cũng không phải là địch thủ của Lệnh Hồ Xung, nếu cùng xông vào loạn kiếm phân thây, dĩ nhiên có thể giết hắn chết trong tức khắc. Nhưng bây giờ có các cao thủ các phái ở đây, không thể làm như vậy được. Cả ba người tâm ý giống nhau nên đều gật đầu, Đinh Miễn lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ hiền điệt, kiếm pháp của các hạ thật cao minh khiến cho mọi người được mở rộng tầm mắt. Sau này chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.
Dương Anh Ngạc nói:
– Chúng ta đi thôi.
Tay trái vẫy một cái, gã nắm dây cương quay đầu ngựa, hai đùi thúc vào hông ngựa, phóng ngựa chạy thẳng, những người còn lại cũng phi ngựa chạy theo sau. Trong khoảnh khắc tất cả đều mất hút, tiếng vó ngựa nghe xa dần.
Ngoài miếu Dược vương chỉ còn lại người của phái Hoa Sơn và những tên bịt mặt. Lão già bịt mặt cười hai tiếng khô khan rồi nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp, kiếm thuật của thiếu hiệp thật cao minh, mọi người đều khâm phục. Công phu của Nhạc Bất Quần còn kém thua thiếu hiệp nhiều, theo lý mà nói thì chức chưởng môn nhân phái Hoa Sơn phải do thiếu hiệp chấp chưởng từ lâu mới phải.
Lão ngừng một lúc rồi nói tiếp:
– Đêm nay được chứng kiến kiếm pháp tinh diệu của các hạ, vốn biết khó mà rút lui. Chỉ vì bọn ta đã đắc tội với tệ phái, sau này họa hoạn vô cùng, nên đành phải diệt cỏ tận gốc, mang tiếng ức hiếp thiếu hiệp thân đang bị thương, đành phải lấy số đông mà thủ thắng vậy.
Lão nói xong liền huýt một tiếng, mười bốn tên bịt mặt vây vòng quanh Lệnh Hồ Xung.
Lúc bọn Đinh Miễn bỏ đi, chúng ném đuốc xuống đất, nhất thời đuốc chưa tắt nhưng ánh đuốc chỉ soi sáng hạ bàn của mọi người còn từ thắt lưng trở lên thì nhìn không rõ. Binh khí của mười lăm tên bịt mặt lấp loáng, từng bước từng bước áp sát Lệnh Hồ Xung.
Vừa rồi Lệnh Hồ Xung đấu ác liệt với Phong Bất Bình, tuy chưa bị giảm sút nội lực lắm nhưng khắp người ướt đẫm mồ hôi. Sở dĩ Lệnh Hồ Xung có thể thắng được cao thủ phe Kiếm tông phái Hoa Sơn là hoàn toàn dựa vào việc đã học qua Độc Cô cửu kiếm, chiêu số chiếm được trên cơ. Nhưng mười lăm tên bịt mặt sử dụng binh khí khác nhau, chiêu số không giống nhau lại đồng thời cùng một lúc tấn công đến thì làm sao có thể chiết giải với từng người một được? Nội lực của Lệnh Hồ Xung hoàn toàn không có, nên có muốn xông lên trước ba bước, nhảy ngang nửa trượng cũng không được, làm sao có thể phá vòng vây mười lăm tên cao thủ hợp kích?
Lệnh Hồ Xung thở dài, đưa mắt nhìn Nhạc Linh San, chàng biết đây là lúc sắp chết nên nhìn cô lần cuối. Chàng chỉ mong thấy thần sắc của Nhạc Linh San lộ vẻ tha thiết để lòng được an ủi một chút. Quả nhiên Lệnh Hồ Xung thấy cặp mắt sáng ngời của cô ta đang chăm chú nhìn mình, trong ánh mắt vô cùng lo lắng, chứa đựng tình cảm thiết tha. Lệnh Hồ Xung đang vui mừng thì dưới ánh lửa lại thấy bàn tay nhỏ bé nõn nà của cô buông xuống nắm lấy bàn tay của một chàng trai, đó chính là Lâm Bình Chi. Lệnh Hồ Xung nghe ngực đau nhói chua xót, không còn chí chiến đấu nữa, chỉ muốn ném trường kiếm xuống mặc cho bọn chúng đâm chém.
Uy thế ác đấu với Phong Bất Bình vừa rồi của chàng khiến mười lăm tên bịt mặt có vẻ hơi sợ. Tên nào cũng không dám phát chiêu trước, chúng cứ từng bước từng bước tiến gần lại.
Lệnh Hồ Xung từ từ xoay người, thấy mười lăm tên với ba chục con mắt, ánh mắt sáng loáng giống như những đôi mắt của mãnh thú đầy ý hung ác tàn nhẫn. Bỗng nhiên trong đầu Lệnh Hồ Xung lóe lên một ý niệm: Phá tiễn thức của Độc Cô cửu kiếm chuyên phá ám khí. Bất cứ địch nhân bắn hàng ngàn hàng vạn mũi tên hoặc mấy chục người dùng các loại ám khí đồng thời phóng tới, chỉ cần sử ra chiêu này thì có thể làm cho cả trăm ngàn ám khí bị đánh rớt xuống.
Lão già bịt mặt quát:
– Tất cả xông vào, loạn đao phân thây!
Lệnh Hồ Xung càng không còn rảnh để suy nghĩ nữa, chàng vung nhanh trường kiếm, sử ra chiêu Phá tiễn thức trong Độc Cô cửu kiếm, mũi kiếm rung động nhắm điểm vào mắt của mười lăm tên.
Chỉ nghe những tiếng la đau đớn không ngớt kêu lên thảm thiết, tiếp theo là những tiếng loang choang, lẻng kẻng của các binh khí rơi xuống đất. Ba mươi con mắt của mười lăm tên bịt mặt, trong chớp mắt đã bị thủ pháp thần tốc của Lệnh Hồ Xung đâm trúng hết.
Phá tiễn thức trong Độc Cô cửu kiếm chỉ một chiêu có thể đánh trăm ngàn ám khí, ngàn vạn điểm. Nó vốn có trước có sau khác nhau nhưng thực tế xuất kiếm quá nhanh nên như cùng phát ra một lúc vậy. Chiêu kiếm này mỗi khi phóng ra đều phải trúng, chỉ cần phóng hụt một kiếm thì ám khí của địch nhân sẽ bắn trúng chính mình. Chiêu thức này của Lệnh Hồ Xung vốn chưa luyện thuần thục, nhưng đâm vào mắt của những người đến gần thì dễ hơn phá ám khí từ xa tới tấp phóng tới. Chàng phóng ra ba mươi kiếm đều trúng ba mươi con mắt.
Lệnh Hồ Xung phóng xong chiêu cuối cùng, liền từ trong đám người nhảy ra, tay trái chống vào khung cửa, sắc mặt nhợt nhạt, thân người loạng choạng, choảng một tiếng, trường kiếm trong tay hắn rơi xuống đất.
Mười lăm tên bịt mặt, tên nào cũng đưa hai tay bụm mắt lại, máu từ trong kẽ tay không ngừng rỉ ra. Có tên ngồi phệt xuống đất, có tên kêu gào, lại có tên lăn lộn trong vũng nước bùn.
Trước mắt mười lăm tên bịt mặt bỗng nhiên tối sầm lại, chúng cảm thấy đau buốt không chịu nổi, kinh hãi vô cùng, chỉ biết bụm mắt lại. Nếu chúng bình tĩnh hơn một chút, hợp nhau lại tiếp tục tấn công thì Lệnh Hồ Xung tất bị binh khí của mười lăm tên bằm nát như tương. Nhưng dù cho võ công của chúng có cao thâm đến đâu mà bỗng nhiên hai mắt bị người đâm mù thì làm sao mà trấn tĩnh được? Làm sao có thể tiếp tục tấn công đối phương? Mười lăm tên này chẳng khác nào như rắn mất đầu, loạn sấm loạn tẩu, không biết làm thế nào.
Lệnh Hồ Xung gặp lúc nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc, lại đánh được một chiêu thành công, lòng vui mừng vô hạn, nhưng thấy thảm trạng của mười lăm người này thì không cầm được, vừa sợ hãi vừa sinh lòng thương xót.
Nhạc Bất Quần vừa kinh hãi vừa vui mừng lẫn lộn. Lão lớn tiếng quát:
– Xung nhi! Ngươi chặt đứt gân chân chúng đi rồi từ từ tra hỏi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ… dạ…
Lệnh Hồ Xung cúi người lượm trường kiếm lên, nào ngờ vừa rồi lúc sử chiêu này, động tác liên tục khiến mất hết nội lực, toàn thân phát run, không cách nào nắm trường kiếm được. Hai chân mềm nhũn ra, chàng ngồi phệt xuống đất.
Lão già bịt mặt nói:
– Mọi người tay phải cầm binh khí, tay trái nắm dây lưng nhau đi theo ta.
Mười bốn tên bịt mặt đang lúc luống cuống, vừa nghe lão già hô hoán liền cùng nhau sờ soạng dưới đất, bất luận đụng phải binh khí gì cứ tiện tay lượm lên; có tên mò được hai cái và cũng có tên không mò được cái nào. Mỗi tên đưa tay trái nắm chặt thắt lưng đồng bọn, dắt díu nhau thành một chuỗi đi theo lão già, bước cao bước thấp, dẫm vào các vũng nước bùn trong cơn mưa to mà đi.
Ngoài Nhạc phu nhân và Lệnh Hồ Xung ra, mọi người phái Hoa Sơn ai cũng bị điểm huyệt đạo, không cử động được. Hai chân Nhạc phu nhân lại bị thương khó mà bước đi, còn toàn thân Lệnh Hồ Xung thì không còn chút khí lực. Hắn ngồi phệt xuống đất giương mắt nhìn mười lăm tên bịt mặt, hoàn toàn không còn một tí khí lực nên không còn cách nào giữ chúng lại được.
Trong đêm tịch mịch, chỉ nghe hơi thở của bọn nam nữ đệ tử. Bỗng nhiên Nhạc Bất Quần lạnh lùng nói:
– Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ Xung đại hiệp! Đại hiệp còn chần chừ gì nữa mà chưa giải khai huyệt đạo cho ta, chẳng lẽ muốn mọi người mở miệng van xin đại hiệp hay sao?
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, run run đáp:
– Sư phụ, sư phụ… sao sư phụ gọi đệ tử như vậy? Đệ tử… đệ tử lập tức giải huyệt cho sư phụ.
Lệnh Hồ Xung gắng gượng đứng dậy, loạng choạng đi đến trước mặt Nhạc Bất Quần hỏi:
– Sư… sư phụ, giải huyệt đạo nào?
Nhạc Bất Quần tức giận vô cùng. Lão nghĩ lại trước đây ở trên núi Hoa Sơn, Lệnh Hồ Xung đã giả bộ tự đâm mình một kiếm, nói sao cũng không chịu giết Điền Bá Quang. Bây giờ, hắn đang diễn lại màn cũ, đã thả cho mười lăm tên bịt mặt đi, lại còn cố ý dây dưa không chịu giải khai huyệt đạo cho mình, sợ mình truy sát những tên ác đồ bịt mặt đó. Lão tức giận nói:
– Không cần ngươi bận tâm nữa.
Lão tiếp tục ngấm ngầm vận Tử hà thần công để tự phá giải các huyệt đạo bị phong tỏa. Từ lúc bị địch nhân điểm huyệt, lão vẫn dùng nội kình xung kích không ngừng, nhưng kình lực người điểm huyệt thật lợi hại, mà lão lại bị điểm các huyệt quan trọng như Ngọc chẩm, Đản trung, Cự truy, Kiên trinh, Chí đường. Kinh mạch vận hành trong các huyệt quan trọng này bị cản lại nên uy lực của Tử hà thần công giảm nhiều, nhất thời không phá giải được.
Lệnh Hồ Xung muốn giải huyệt cho sư phụ thật nhanh, nhưng một chút lực đạo cũng không vận được. Đã mấy lần chàng gắng sức muốn nhấc tay lên nhưng lần nào cũng bị hoa cả mắt, tai ù, suýt chút nữa bị ngất đi, đành phải nằm bên cạnh Nhạc Bất Quần, yên lặng đợi huyệt đạo của lão tự giải.
Nhạc phu nhân nằm phục dưới đất. Trong lúc tức giận vừa rồi chân khí của bà bị phân rẽ, toàn thân mất hết sức lực, bà cũng không thể nhấc tay lên để bịt vết thương trên đùi mình.
Trời đã dần dần sáng, mưa cũng tạnh, mặt mũi mọi người dần dần thấy mờ mờ rồi thấy rõ. Đầu Nhạc Bất Quần trắng xóa, nét mặt hầm hầm sát khí. Bỗng nhiên lão hú lên một tiếng dài, huyệt đạo khắp người đã giải khai hết. Lão nhảy lên, hai tay hoặc vỗ hoặc đánh, hoặc điểm hoặc nắm, trong khoảnh khắc đã giải khai huyệt đạo cho mọi người. Sau đó lão dùng nội lực truyền vào người Nhạc phu nhân, giúp bà đả thông khí lực. Nhạc Linh San vội băng bó vết thương cho mẫu thân.
Bọn đệ tử hồi tưởng lại tình cảnh thoát chết đêm qua, thật là chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Bọn Cao Căn Minh, Thi Đới Tử thấy Lương Phát đầu một nơi mình một ngả đều rơi lệ, mấy tên nữ đệ tử càng khóc to hơn. Mọi người đều nói:
– May mà đại sư ca đánh bại bọn ác đồ xấu xa này, nếu không thì hậu quả không thể tưởng tượng nổi.
Cao Căn Minh thấy Lệnh Hồ Xung vẫn nằm trong vũng nước bùn, liền đến đỡ hắn dậy.
Nhạc Bất Quần lạnh lùng nói:
– Xung nhi, lai lịch mười lăm tên bịt mặt đó thế nào?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử… đệ tử không biết.
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi biết bọn chúng không? Giao tình thế nào?
Lệnh Hồ Xung sợ hãi đáp:
– Trước nay đệ tử chưa bao giờ gặp bất cứ tên nào trong bọn này.
Nhạc Bất Quần hỏi:
– Nếu như vậy, thì tại sao ta bảo ngươi giữ chúng lại để tra hỏi kỹ càng, ngươi lại không nghe, để mặc cho bọn chúng ra đi?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử… đệ tử… thật sự không còn sức lực, một chút khí lực cũng không có. Bây giờ… bây giờ…
Lệnh Hồ Xung nói xong, thân người loạng choạng, hiển nhiên là hắn đứng không vững. Nhạc Bất Quần hừ một tiếng rồi nói:
– Ngươi đóng kịch khá ghê!
Lệnh Hồ Xung toát mồ hôi trán, hai chân quỳ xuống đất nói:
– Đệ tử mồ côi khổ sở từ nhỏ, được đại ân đại đức của sư phụ sư nương thu về nuôi dưỡng, xem đệ tử như con ruột. Dù đệ tử hư hỏng cũng quyết không dám trái ý chỉ của sư phụ, có ý lừa gạt sư phụ và sư nương.
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi không dám gạt ta và sư nương của ngươi ư? Vậy kiếm pháp này của ngươi học ở đâu ra? Chẳng lẽ là thần nhân trong giấc mộng truyền thụ cho ngươi, hay bỗng nhiên từ trên trời rớt xuống?
Lệnh Hồ Xung khấu đầu đáp:
– Xin sư phụ thứ tội. Vị tiền bối truyền thụ kiếm pháp bắt buộc đệ tử phải hứa bất luận thế nào cũng không được phép thổ lộ lai lịch kiếm pháp cho ai biết, với sư phụ và sư nương cũng không được bẩm cáo.
Nhạc Bất Quần cười nhạt nói:
– Dĩ nhiên rồi, võ công của ngươi đã đạt đến trình độ này, còn coi sư phụ và sư nương vào đâu nữa? Công phu nhỏ nhoi của phái Hoa Sơn bọn ta làm sao có thể chống lại một chiêu thần kiếm của ngươi? Lão già bịt mặt không phải là đã nói rồi sao? Chức chưởng môn phái Hoa Sơn do ngươi chấp chưởng từ lâu mới phải.
Lệnh Hồ Xung không dám trả lời, chỉ khấu đầu, suy nghĩ: Nếu mình không tiết lộ kiếm pháp mà Phong thái sư thúc tổ đã truyền cho thì sư phụ và sư nương quyết không lượng thứ. Nhưng bậc nam nhi hảo hán thì phải giữ chữ tín. Điền Bá Quang là một tên thái hoa dâm tặc bị Đào Cốc lục tiên hành hạ khổ sở mà vẫn quyết không tiết lộ hành tung của Phong thái sư thúc tổ. Lệnh Hồ Xung đã chịu đại ân, quyết không thể phụ lòng Phong thái sư thúc tổ được. Lòng ta đối với sư phụ sư nương có hoàng thiên chứng giám, nhất thời chịu oan ức có sao đâu?
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nói:
– Sư phụ, sư nương, không phải đệ tử cả gan dám trái sư mệnh, thật sự là có điều khổ tâm khó nói. Sau này, đệ tử sẽ đi cầu khẩn vị tiền bối ấy, xin tiền bối cho phép đệ tử bẩm rõ lại cho sư phụ sư nương. Lúc đó, đệ tử sẽ không dám giấu giếm chút nào.
Nhạc Bất Quần nói:
– Thôi được, ngươi đứng dậy đi!
Lệnh Hồ Xung lại khấu đầu lạy hai cái, toan đứng dậy nhưng hai đầu gối hắn mềm nhũn ra ngã quỵ xuống đất. Lâm Bình Chi đang đứng bên cạnh đưa tay ra đỡ Lệnh Hồ Xung dậy.
Nhạc Bất Quần cười nhạt nói:
– Kiếm pháp của ngươi đã cao minh mà khả năng đóng kịch càng cao minh hơn.
Lệnh Hồ Xung không dám trả lời, thầm nghĩ: Sư phụ đối đãi với ta ân trọng như núi, hôm nay hiểu lầm trách ta, sau này mọi chuyện sẽ rõ. Chuyện này quá kỳ quặc, cũng không trách sư phụ lão nhân gia sinh lòng nghi ngờ ta.
Tuy Lệnh Hồ Xung chịu oan ức mà lòng vẫn không chút oán giận. Nhạc phu nhân ôn tồn nói:
– Nếu đêm qua không phải nhờ kiếm pháp thần diệu của Xung nhi thì toàn bộ phái Hoa Sơn đã bị tiêu diệt, hai mẹ con ta e khó tránh khỏi thảm cảnh bị lăng nhục. Dù vị tiền bối nào truyền thụ kiếm pháp cho Xung nhi, chúng ta cũng phải chịu ân đức không nhỏ đâu. Còn về lai lịch của mười lăm tên bịt mặt đó thì sau này có thể hỏi ra, sao Xung nhi có giao tình với bọn chúng được? Chẳng phải bọn chúng muốn loạn đao phân thây Xung nhi sao? Xung nhi đã đâm vào mắt bọn chúng mà.
Nhạc Bất Quần ngẩng đầu xuất thần, những lời nói của Nhạc phu nhân dường như không lọt vào tai lão.
Bọn đệ tử người nhóm lửa nấu cơm, người đào huyệt chôn cất thi thể Lương Phát. Sau khi ăn cơm sáng xong, mọi người lấy quần áo khô từ trong hành lý để thay, chờ Nhạc Bất Quần ra lệnh. Tất cả đều nghĩ: Có nên lên núi Tung Sơn để lý luận phải trái với Tả minh chủ nữa hay không? Phong Bất Bình đã bại dưới kiếm của đại sư ca thì còn mặt mũi nào mà tranh giành ngôi vị chưởng môn nhân phái Hoa Sơn nữa?
Nhạc Bất Quần nói với Nhạc phu nhân:
– Sư muội, sư muội nói xem chúng ta nên đi đâu đây?
Nhạc phu nhân nói:
– Tung Sơn thì không cần phải đi nữa, mà đã đi ra rồi thì chúng ta cũng không cần phải về Hoa Sơn vội.
Bà sợ Đào Cốc lục tiên nên không dám quay về. Nhạc Bất Quần nói:
– Bây giờ không có chuyện gì, đi Tứ Hạ chơi. Ở đó cũng đẹp lắm, nên cho các đệ tử tăng thêm sự hiểu biết một chút.
Nhạc Linh San vui mừng vỗ tay nói:
– Hay quá, gia gia…
Nhưng cô liền nghĩ đến Lương Phát vừa mới chết thảm, bây giờ cô vui mừng như vậy thực là không phải nên cô chỉ vỗ tay một cái liền dừng lại. Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:
– Nhắc đến du sơn ngoạn thủy thì ngươi cao hứng nhất, vậy gia gia chiều theo ngươi. San nhi, ngươi nói chúng ta đến đâu chơi thì hay hơn nào?
Lão vừa nói vừa nhìn Lâm Bình Chi. Nhạc Linh San nói:
– Gia gia, đã nói du ngoạn thì phải chơi cho thật vui, đi càng xa càng hay, đừng đi ra mấy trăm dặm đường rồi lại quay về nhà. Chúng ta đến nhà Tiểu Lâm tử chơi đi. Hài nhi và nhị sư ca đã đi qua Phúc Châu nhưng đáng tiếc lần đó phải cải trang thành một tên a đầu xấu xí, không được đi ra ngoài nhiều nên cái gì cũng không thấy được. Long nhãn ở Phúc Kiến vừa to vừa ngọt, Phúc Kiến lại có quýt, hoa thủy tiên…
Nhạc phu nhân lắc đầu nói:
– Từ đây đến Phúc Kiến đường xa vạn dặm, chúng ta nào có nhiều tiền lộ phí? Chẳng lẽ phái Hoa Sơn biến thành Cái bang, trên đường vừa đi vừa xin ăn ư?
Lâm Bình Chi nói:
– Sư phụ, sư nương, chúng ta đi không đầy mấy ngày nữa thì đã vào địa phận Hồ Nam. Nhà ông ngoại của đệ tử ở Lạc Dương.
Nhạc phu nhân nói:
– Ồ, ông ngoại của ngươi Kim đao vô địch Vương Nguyên Bá là người Lạc Dương.
Lâm Bình Chi đáp:
– Song thân của đệ tử mất rồi, đệ tử rất muốn đi thăm ông bà ngoại để thưa rõ lại sự tình. Sư phụ, sư nương và các vị sư ca sư tỷ nếu chịu vui lòng đến nhà ông ngoại của đệ tử ở nán lại vài ngày thì ông bà ngoại của đệ tử nhất định rất vinh hạnh. Sau đó chúng ta hãy từ từ đi du ngoạn sơn thủy đến tệ xá ở Phúc Kiến. Phân cục ở Trường Sa của đệ tử đã bị phái Thanh Thành ra tay cướp đoạt không ít kim ngân châu báu, nhưng vấn đề lộ phí thì… thì không cần phải lo lắng.
Nhạc phu nhân từ lúc đâm Đào Thực Tiên một kiếm, ngày nào bà cũng nơm nớp lo sợ bị Đào Cốc lục tiên nắm chặt tứ chi, toàn thân tê liệt, không cách nào nhúc nhích được. Càng nghĩ đến thảm trạng Thành Bất Ưu bị xé thành bốn mảnh, phủ tạng rơi đầy đất, không biết bà đã trải qua bao nhiêu cơn ác mộng. Tuy bà xuống núi lần này mang danh nghĩa là để lên Tung Sơn bình lý nội bộ nhưng thực ra bà muốn trốn tránh cái tai họa hiểm nghèo này. Sau khi bà thấy trượng phu chăm chú nhìn Lâm Bình Chi thì Lâm Bình Chi thỉnh mời mọi người đến tỉnh Mân (Phúc Kiến), dĩ nhiên lòng bà muốn chạy trốn càng xa càng tốt. Bình sinh, bà và trượng phu cũng chưa từng đi xuống phương Nam, đến Phúc Kiến một chuyến cũng rất hay. Bà liền cười nói:
– Sư ca, Tiểu Lâm tử bao ăn bao ở, chúng ta đi hay không đi ăn cơm trắng của hắn?
Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:
– Ông ngoại của Lâm Bình Chi là Kim đao vô địch, oai trấn Trung Nguyên, ta có lòng cung kính đã lâu nhưng chưa có duyên gặp mặt. Miền Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến là nơi phát tích của phái Nam Thiếu Lâm, ở đó có nhiều cao thủ võ lâm. Chúng ta đi Lạc Dương rồi đến Phúc Kiến một chuyến, nếu có thể kết giao được vài vị bằng hữu, kể ra cũng không uổng công.
Bọn đệ tử nghe sư phụ đồng ý đi Phúc Kiến dã ngoại, ai cũng vui mừng khôn xiết. Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San nhìn nhau cười, cả hai như mở cờ trong bụng.
Chỉ có một mình Lệnh Hồ Xung vẻ mặt buồn thiu, thầm nghĩ: Sao sư phụ sư nương không đi nơi khác mà cứ phải đi Lạc Dương hội kiến với ông ngoại của Lâm sư đệ, rồi lại vượt ngàn dặm đi Phúc Kiến làm khách? Họ không một lời do dự, vậy chắc là muốn hứa gả tiểu sư muội cho Lâm sư đệ rồi. Đến Lạc Dương là đi thăm nhà trưởng bối của gã, nhất định là để nói chuyện hôn nhân; còn đến Phúc Kiến thì chắc là để hoàn thành cuộc hôn nhân ở nhà họ Lâm. Ta là cô nhi không cha không mẹ không thân không thích, sao có thể so với Phước Oai tiêu cục có phân cục khắp thiên hạ của Lâm sư đệ được? Lâm sư đệ đi Lạc Dương khấu kiến ông bà ngoại, ta đi theo làm cóc gì?
Lệnh Hồ Xung thấy bọn sư đệ sư muội hớn hở tươi cười, quên hẳn chuyện thảm tử của Lương Phát thì càng không vui, thầm nghĩ: Đêm nay chờ mọi người vào nhà trọ rồi, ta lén bỏ đi. Chẳng lẽ lại có thể đi theo mọi người để ăn cơm, xài tiền của Lâm sư đệ, miễn cưỡng vui cười chúc mừng Lâm sư đệ và tiểu sư muội nâng án ngang mày, bách niên giai lão ư?
Sau khi mọi người khởi hành, Lệnh Hồ Xung mới lững thững đi theo, tinh thần hắn mỏi mệt, càng đi càng chậm, cách mọi người càng lúc càng xa. Đi đến giữa giờ Ngọ, Lệnh Hồ Xung ngồi lại trên tảng đá bên đường thở hổn hển, bỗng thấy Lao Đức Nặc chạy nhanh lại, nói:
– Đại sư ca, đại sư ca thấy trong người thế nào? Tiểu đệ chờ đại sư ca.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Được, làm phiền sư đệ quá.
Lao Đức Nặc nói:
– Sư nương đã thuê một cỗ xe lớn ở trấn phía trước, nên tiểu đệ đến đón đại sư ca đây.
Lệnh Hồ Xung cảm động vô cùng, nghĩ:
– Tuy sư phụ hoài nghi ta, nhưng sư nương vẫn đối đãi tốt với ta.
Một lát sau, một cỗ xe lớn có con lừa kéo đến. Lệnh Hồ Xung lên xe, Lao Đức Nặc ngồi bên cạnh bầu bạn.
Tối đến mọi người vào nghỉ ở một quán trọ, Lao Đức Nặc ngủ cùng phòng với Lệnh Hồ Xung. Liên tiếp hai ngày như vậy, Lao Đức Nặc không rời Lệnh Hồ Xung một bước. Lệnh Hồ Xung thấy lão nghĩ đến nghĩa khí đồng môn, chăm sóc mình trong lúc bệnh hoạn thì rất cảm kích, thầm nghĩ:
– Lao sư đệ là người có võ nghệ mới đầu vào sư môn, tuổi tác cũng lớn hơn ta nhiều, bình thường nói chuyện với ta cũng không được mấy câu. Không ngờ bây giờ ta gặp khó khăn, Lao sư đệ lại tận tâm chăm sóc như vậy, thật là đường xa mới biết sức ngựa, ở lâu mới thấy lòng người. Bọn sư đệ khác thấy sư phụ có vẻ không vui với ta thì không ai dám chuyện trò nhiều với ta nữa.
Đêm thứ ba, Lệnh Hồ Xung nằm trên giường nhắm mắt dưỡng thần, bỗng nghe tiếng của tiểu sư đệ Dư Kỳ gọi khẽ ngoài cửa phòng:
– Nhị sư ca, sư phụ hỏi hôm nay đại sư ca có hành động gì khác lạ không?
Lao Đức Nặc để ngón trỏ lên miệng xùy một tiếng rồi nói khẽ:
– Đừng lên tiếng, đi đi!
Chỉ nghe hai câu này, lòng Lệnh Hồ Xung cảm thấy tê tái, mới biết sư phụ nghi kỵ mình vô cùng, lại phái Lao Đức Nặc ngấm ngầm giám thị mình.
Chàng nghe tiếng bước chân của Dư Kỳ rón ra rón rén đi xa dần. Lao Đức Nặc nhè nhẹ đến trước giường, quan sát xem Lệnh Hồ Xung ngủ thật chưa. Lệnh Hồ Xung tức giận vô cùng, muốn đứng phắt dậy trách mắng Lao Đức Nặc, nhưng lại chuyển đổi ý nghĩ: Chuyện này đâu có liên quan gì đến nhị sư đệ? Hắn phải phụng mệnh sư phụ, làm sao có thể dám trái lời?
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nén giận, giả bộ ngủ say. Lao Đức Nặc nhẹ bước ra khỏi phòng.
Lệnh Hồ Xung biết hắn nhất định đi bẩm báo động tĩnh của mình với sư phụ, cười thầm trong bụng: Ta không làm chuyện gì trái với lương tâm, thì các ngươi có mười tên, một trăm tên ngày đêm giám thị ta, Lệnh Hồ Xung này quang minh lỗi lạc có cóc gì phải sợ?
Lệnh Hồ Xung tức giận làm động đến nội tức, cảm thấy khí huyết đảo lộn rất khó chịu. Chàng nằm phục xuống thở hồng hộc, một lúc lâu sau mới dần dần tỉnh lại. Chàng ngồi dậy, mang giày, thầm nghĩ: Sư phụ đã không còn coi ta là đệ tử, đề phòng ta như đề phòng kẻ trộm, ta ở lại phái Hoa Sơn này còn có ý nghĩa gì nữa, chi bằng bỏ ra đi. Sau này sư phụ hiểu ta cũng được, không hiểu ta cũng được.
Ngay lúc này, có người nói khẽ ngoài cửa sổ:
– Phục xuống đừng nhúc nhích.
Một người nói:
– Dường như đại sư ca đứng xuống đất.
Thanh âm của hai người rất nhỏ nhưng đêm khuya thanh vắng, Lệnh Hồ Xung lại thính tai nên nghe rất rõ. Chàng nhận ra tiếng hai tên sư đệ nhỏ tuổi, rõ ràng chúng đang núp ở trong vườn để phòng bị mình chạy trốn. Lệnh Hồ Xung nắm chặt hai tay đến nỗi xương cốt kêu lên răng rắc, thầm nghĩ: Nếu bây giờ bỏ đi thì rõ ràng ta là kẻ có tật giật mình. Được, ta cứ ở đây xem các ngươi giở trò gì?
Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung gọi:
– Điếm tiểu nhị, điếm tiểu nhị, đem rượu đến đây.
Lệnh Hồ Xung kêu một lúc, điếm tiểu nhị mới đáp rồi đem rượu đến. Lệnh Hồ Xung uống say túy lúy không còn biết trời trăng gì hết.
Sáng sớm hôm sau, Lao Đức Nặc dìu Lệnh Hồ Xung lên xe. Miệng hắn vẫn còn lẩm bẩm:
– Đem rượu đến, ta muốn uống nữa!
Mấy ngày sau, mọi người phái Hoa Sơn đến Lạc Dương, ở trọ trong một khách điếm lớn. Một mình Lâm Bình Chi đến nhà ông ngoại. Nhạc Bất Quần và mọi người đều thay quần áo, ăn mặc đẹp đẽ.
Từ hôm còn ở trong miếu Dược vương, Lệnh Hồ Xung vẫn mặc chiếc trường bào dính đầy bùn đất mà chưa thay, hôm nay vẫn dơ bẩn khắp người, mắt đờ đẫn vì chưa tỉnh rượu. Nhạc Linh San cầm một bộ trường bào đi đến trước Lệnh Hồ Xung nói:
– Đại sư ca, đại sư ca thay áo được không?
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Áo của sư phụ, sao lấy cho ta mặc?
Nhạc Linh San đáp:
– Chút nữa Tiểu Lâm tử mời chúng ta đến nhà ông ngoại hắn, đại sư ca nên thay áo bào của gia gia đi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đến nhà ông ngoại của hắn thì cần gì phải mặc áo đẹp mới được?
Lệnh Hồ Xung nói vậy rồi ngắm nhìn cô từ trên xuống dưới, thấy cô mặc áo lụa bông mỏng màu xanh, quần lụa xanh nhạt, mặt thoa lớp phấn mỏng, mái tóc đen óng mượt cài một đóa hoa châu. Lệnh Hồ Xung nhớ trước đây, chỉ có ngày tết cô mới ăn mặc trang điểm như bây giờ. Lòng chàng chua xót, muốn nói vài câu hậm hực nhưng nghĩ lại: Mình là nam tử hán đại trượng phu, tại sao có thể ích kỷ nhỏ nhen như vậy!
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy bèn kìm lại không nói. Nhạc Linh San thấy cặp mắt sắc bén của Lệnh Hồ Xung nhìn mình, thẹn thùng nói:
– Đại sư ca không thích, thôi thì không cần thay áo.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta không quen mặc đồ mới, khỏi thay vậy.
Nhạc Linh San không nói với Lệnh Hồ Xung nữa, cô cầm trường bào đi ra khỏi phòng. Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng người nói oang oang:
– Nhạc đại chưởng môn đường xa đến đây, tại hạ không biết để nghênh đón, thật thất lễ.
Nhạc Bất Quần biết là Kim đao vô địch Vương Nguyên Bá thân hành đến khách điếm tương hội, lão rất vui mừng, liếc nhìn Nhạc phu nhân mỉm cười, cả hai song song đi ra nghênh đón.
Vương Nguyên Bá tuổi đã khoảng bảy mươi mà sắc mặt vẫn hồng hào, dưới cằm chòm râu bạc dài tới ngực, dung mạo quắc thước, tay trái cầm hai chiếc nhạc lớn bằng trứng ngỗng lắc lắc kêu leng keng. Người trong võ lâm chơi nhạc là chuyện bình thường, nhưng đều là nhạc bằng sắt hoặc gang đúc thành. Trong tay Vương Nguyên Bá cầm hai chiếc nhạc ánh vàng lấp lánh, nặng gấp bội chiếc nhạc khác, rõ ràng là đồ chơi của nhà sang trọng. Lão vừa thấy Nhạc Bất Quần liền cười ha hả nói:
– Hân hạnh, hân hạnh! Nhạc đại chưởng môn thanh danh lừng lẫy võ lâm, hai mươi năm nay tiểu lão không ngày nào không nghĩ tới Nhạc đại chưởng môn. Hôm nay Nhạc đại chưởng môn đại giá đến Lạc Dương thật là một đại hỷ sự cho võ lâm ở Trung Châu.
Lão nói vậy rồi nắm chặt tay phải Nhạc Bất Quần mà lắc để tỏ tình thân thiện, có vẻ rất vui mừng và chân thành.
Nhạc Bất Quần cười nói:
– Vợ chồng tại hạ dẫn bọn đồ nhi ra ngoài chu du thăm bằng hữu để tăng thêm kiến thức, người đầu tiên phải đến thăm là Trung Nguyên đại hiệp Kim đao vô địch Vương lão gia tử. Mấy chục người bọn tại hạ là khách không mời mà đến, thật là lỗ mãng.
Vương Nguyên Bá nói:
– Bốn chữ “Kim đao vô địch” ở trước mặt Nhạc đại chưởng môn không được phép nhắc tới. Ai muốn nhắc đến không phải khen tiểu lão mà là chế nhạo Vương Nguyên Bá này. Nhạc tiên sinh, Nhạc tiên sinh đã thu nạp cháu ngoại của tiểu lão, ân đồng tái tạo, phái Hoa Sơn và Kim Đao môn từ nay là người một nhà, huynh đệ hai bên không phân biệt chuyện riêng tây. Nào nào, mời tất cả đến nhà tiểu lão, không ở lại chơi một năm hay nửa năm thì không ai được rời khỏi Lạc Dương một bước. Nhạc đại tiên sinh, để tiểu lão tự mang hành lý cho Nhạc đại chưởng môn.
Nhạc Bất Quần vội nói:
– Chuyện này thật không dám.
Vương Nguyên Bá quay lại nói với hai người con ở phía sau:
– Bá Phấn, Trọng Cường, mau đến bái kiến Nhạc sư thúc, Nhạc sư mẫu đi.
Vương Bá Phấn và Vương Trọng Cường cùng đáp dạ rồi quỳ gối bái xuống. Hai vợ chồng Nhạc Bất Quần vội quỳ xuống đáp lễ, nói:
– Chúng ta ngang hàng với nhau, hai chữ “sư thúc” thật không dám nhận. Từ Bình Chi mà tính thì chúng ta ngang hàng nhau.
Vương Bá Phấn, Vương Trọng Cường đều là những nhân vật rất có tiếng tăm trong võ lâm ở vùng Dự Ngạc, đối với Nhạc Bất Quần tuy họ có khâm phục nhưng khấu đầu trước lão là việc họ không muốn, nhưng vì không dám trái lời của phụ thân nên phải miễn cưỡng quỳ xuống. Họ thấy vợ chồng Nhạc Bất Quần cũng khấu đầu đáp lễ thì trong lòng rất vui. Bốn người giao bái xong cùng đứng dậy.
Nhạc Bất Quần thấy huynh đệ họ Vương tướng tá cao to, nhưng Vương Trọng Cường mập hơn Vương Bá Phấn nhiều; huyệt Thái dương của cả hai nhô lên cao, trên tay nổi gân cốt, hiển nhiên trình độ nội công và ngoại công của họ đều rất cao. Nhạc Bất Quần quay sang bọn đệ tử nói:
– Tất cả đến bái kiến Vương lão gia tử và hai vị sư thúc. Võ công Kim Đao môn uy chấn Trung Nguyên, tổ sư đời trước của phái Hoa Sơn chúng ta rất tôn sùng Kim Đao môn. Từ nay về sau mọi người được Vương lão gia tử và nhị vị sư thúc chỉ điểm, nhất định sẽ tiến bộ nhiều.
Bọn đệ tử đồng thanh đáp dạ rồi lập tức quỳ xuống khắp đại đường của khách điếm.
Vương Nguyên Bá cười nói:
– Không dám nhận, không dám nhận.
Vương Bá Phấn và Vương Trọng Cường lại đáp lễ.
Lâm Bình Chi đứng bên cạnh, giới thiệu từng tên của các đệ tử phái Hoa Sơn. Vương Nguyên Bá hào phóng, đã sớm chuẩn bị cho mỗi người một món quà ra mắt là bốn mươi lượng bạc đưa cho các huynh đệ họ Vương phân phát.
Lúc Lâm Bình Chi giới thiệu đến Nhạc Linh San, Vương Nguyên Bá nhìn Nhạc Bất Quần cười hì hì rồi nói:
– Nhạc lão đệ, vị lệnh ái này của Nhạc lão đệ thật là một nhân tài, không biết đã có nơi nào chưa?
Nhạc Bất Quần cười nói:
– Tiện nữ tuổi còn nhỏ, lại là người học võ công chỉ suốt ngày vung đao múa kiếm, các việc tỉ mỉ của khuê nữ hiền thục không biết, nên đâu có ai muốn cưới thứ dã nha đầu như nó đâu?
Vương Nguyên Bá cười nói:
– Lão đệ khiêm tốn quá. Hổ nữ nhà tướng thì bọn đệ tử con nhà tầm thường tất nhiên không dám với cao. Nhưng đã là phận gái cũng nên học một ít việc khuê môn thì càng tốt.
Lão nói đến đây giọng càng nhỏ dần, có vẻ buồn bã. Nhạc Bất Quần biết lão đang nhớ đến con gái đã tạ thế ở Hồ Nam, lão liền không dám tỏ ra vui vẻ nữa, đáp dạ.
Vương Nguyên Bá là người cởi mở, nỗi đau mất con liền thoáng qua, lão cười ha hả nói:
– Lệnh ái tài sắc vẹn toàn như vậy, tìm một thiếu niên anh hùng để tác hợp, thật không dễ đâu.
Lao Đức Nặc vào phòng dìu Lệnh Hồ Xung ra. Lệnh Hồ Xung bước thấp bước cao, thấy Vương Nguyên Bá với các huynh đệ họ Vương thì không thèm khấu đầu, chỉ bái sâu xuống rồi nói:
– Đệ tử Lệnh Hồ Xung xin bái kiến Vương lão gia tử và hai vị sư thúc.
Nhạc Bất Quần chau mày nói:
– Sao không khấu đầu?
Vương Nguyên Bá đã nghe cháu ngoại bẩm báo, biết Lệnh Hồ Xung đang bị thương nên cười nói:
– Lệnh Hồ hiền điệt không được khỏe, không cần đa lễ. Nhạc lão đệ, nội công phái Hoa Sơn của Nhạc lão đệ thuộc hàng đệ nhất trong Ngũ Nhạc kiếm phái, tửu lượng nhất định đáng nể. Ta và Nhạc lão đệ cùng uống mười bát lớn đi.
Lão nói xong liền nắm tay Nhạc Bất Quần đi ra khỏi khách điếm.
Nhạc phu nhân, Vương Bá Phấn, Vương Trọng Cường và bọn đệ tử Hoa Sơn lũ lượt đi sau.
Vừa ra khỏi cửa điếm, cả bọn đã thấy bên ngoài có xe, ngựa sớm chuẩn bị sẵn. Nữ quyến thì ngồi xe, nam khách thì cưỡi ngựa, con ngựa nào cũng có yên, dây cương lấp lánh. Từ lúc Lâm Bình Chi đi báo tin cho đến lúc Vương Nguyên Bá đến khách điếm đón khách không đầy một canh giờ, trong lúc vội vàng mà ngựa xe đã chuẩn bị chỉnh tề như vậy, chỉ riêng chuyện này cũng đủ biết thanh thế của Kim đao Vương gia ở Lạc Dương.
Đến Vương gia, thấy tòa nhà cao lớn, cổng lớn sơn màu đỏ , trên cổng có treo hai chiếc vòng bằng đồng lớn sáng bóng, tám tên hán tử cao to đứng thõng tay ngoài cổng lớn đón khách. Vừa vào cổng lớn, thấy một tấm biển lớn sơn đen treo trên ngạch cửa đề bốn chữ vàng “Kiến nghĩa dũng vi”, phía dưới tấm biển đề tên người tặng là tuần phủ tỉnh Hà Nam.
Tối hôm đó, Vương Nguyên Bá bày đại tiệc thết đãi thầy trò Nhạc Bất Quần. Lão mời thêm các tráng sĩ nổi danh võ lâm ở Lạc Dương; tân khách còn có không ít các thân sĩ danh lưu, các phú thương đại gia.
Lệnh Hồ Xung là đại đệ tử phái Hoa Sơn, trong hàng tân khách, ngoài Nhạc Bất Quần ra, chàng là người đứng đầu. Mọi người thấy quần áo của chàng bê bết, vẻ mặt ủ rũ, ai cũng ngấm ngầm ái ngại. Nhưng võ lâm có rất nhiều kẻ sĩ có những hành vi đặc biệt cổ quái, như các cao thủ hiệp sĩ trong Cái bang ai ai cũng ăn mặc rách rưới. Chúng tân khách đều nghĩ người này đã là đại đệ tử của phái Hoa Sơn, dĩ nhiên không phải tầm thường nên không ai dám xem thường Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung ngồi ở bàn tiệc thứ hai, do Vương Bá Phấn làm chủ bồi tiếp. Qua ba tuần rượu, Vương Bá Phấn thấy vẻ mặt Lệnh Hồ Xung lạnh lùng, hỏi ba câu hắn chỉ trả lời một câu, rõ ràng trong mắt hắn chẳng coi mình ra gì. Gã lại nghĩ đến lúc trong khách điếm, người này đối với cha con mình ngay cả một cái khấu đầu cũng không, thấy món quà diện kiến bốn mươi lượng bạc hắn nhận một cách không khách khí nên gã ngấm ngầm tức giận. Bây giờ gã nói đến chuyện võ công, đem mấy vấn đề còn thắc mắc để thỉnh giáo, cạnh khóe cho bõ ghét.
Lệnh Hồ Xung chỉ ậm ừ không trả lời thẳng vấn đề. Lệnh Hồ Xung thực sự không phải có ác cảm gì với Vương Bá Phấn, chỉ vì thấy Vương gia hào phóng như vậy với một tên lãng tử bần hàn như mình, như là một trời một vực. Lâm Bình Chi vừa đến nhà ông ngoại liền thay trường bào bằng gấm đất Thục; tướng mạo Lâm Bình Chi vốn đã rất tuấn mỹ, mặc thêm trường bào này thì mười phần phú quý tao nhã, trông đẹp như ngọc. Lệnh Hồ Xung vừa trông thấy, bất giác tự hổ thẹn cho thân mình, nghĩ bụng: Đừng nói lúc tiểu sư muội ở trên núi đã thích hắn rồi, dù cô ta đối với mình vẫn như xưa mà cùng với mình nghèo nàn như vậy thì hay ho gì đâu?
Lệnh Hồ Xung nghĩ lui nghĩ tới, ý nghĩ cứ loanh quanh về Nhạc Linh San, nên Vương Bá Phấn nói cái gì với hắn, hắn chẳng nghe được gì ráo.
Trong võ lâm ở Trung Châu, Vương Bá Phấn được người người nể sợ kính phục. Đêm nay, gã lại đụng phải Lệnh Hồ Xung, người thanh niên này như cây đinh đâm vào mắt gã. Theo tâm tính bình thường của gã thì gã đã nổi xung từ lâu, nhưng vì một là nghĩ tới việc tỷ tỷ mới chết, hai là thấy phụ thân đối với phái Hoa Sơn rất tôn trọng nên gã dằn cơn tức giận, liên tục mời rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thấy rượu đưa đến thì uống cạn, không biết đã uống hết mấy mươi bát rồi. Tửu lượng Lệnh Hồ Xung vốn rất cao, một trăm bát trở lên cũng không say, nhưng bây giờ nội lực đã mất, tửu lượng giảm rất nhiều, rượu vào do sầu, bồi tiếp nữa dễ say, lúc uống được hơn bốn chục bát thì đã say nhè. Vương Bá Phấn nghĩ thầm: Thằng nhỏ này không hiểu nhân tình thế sự, cháu của ta là sư đệ của ngươi, đáng lẽ ngươi phải gọi ta một tiếng sư thúc hoặc là thế thúc mới phải. Vậy mà một tiếng ngươi cũng không gọi, thôi thì cũng được, lại chẳng thèm đếm xỉa gì tới ta. Được, hôm nay ta sẽ phục rượu cho ngươi say để ngươi làm trò xấu trước mặt mọi người.
Gã thấy Lệnh Hồ Xung mắt nhắm mắt mở, đã say hết tám phần rồi. Vương Bá Phấn cười nói:
– Lệnh Hồ lão đệ là đại đệ tử phái Hoa Sơn, quả nhiên là thiếu niên anh hùng, võ công cao cường, tửu lượng cũng cao. Người đâu, đổi bát lớn, rót rượu cho Lệnh Hồ thiếu gia đi.
Gia nhân của Vương gia dạ vâng, đến rót rượu. Trong đời Lệnh Hồ Xung được người ta rót rượu chưa bao giờ từ chối, rượu đến thì uống cạn bát. Lại uống thêm năm sáu bát lớn nữa, hơi rượu xông lên, chàng đẩy hết bát đũa trước mặt xuống dưới đất.
Một người cùng bàn nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp say rồi, uống một bát trà nóng giã rượu đi.
Vương Bá Phấn cười nói:
– Người ta là đại đệ tử chưởng môn phái Hoa Sơn, đâu có dễ say như vậy? Lệnh Hồ lão đệ, cạn!
Gã lại rót rượu đầy bát.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đâu… đâu có say đâu? Cạn!
Lệnh Hồ Xung bưng bát rượu lên uống ừng ực, đổ cả nửa bát rượu lên áo. Đột nhiên người hắn loạng choạng, há miệng nôn hết rượu và thức ăn ra đầy bàn. Người cùng bàn kinh hãi né tránh.
Vương Bá Phấn cười nhạt. Lệnh Hồ Xung nôn ói như vậy khiến mấy trăm cặp mắt trên đại sảnh đều nhìn vào hắn.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần chau mày, nghĩ: Thằng nhỏ này thật tệ, làm trò xấu trước mặt bao nhiêu quý nhân tân khách ở đây.
Lao Đức Nặc và Lâm Bình Chi cùng chạy đến dìu Lệnh Hồ Xung. Lâm Bình Chi nói:
– Đại sư ca, để tiểu đệ đỡ đại sư ca đi nghỉ.
Lệnh Hồ Xung lè nhè:
– Ta… ta đâu có say. Ta còn muốn uống nữa, đem rượu lại đây.
Lâm Bình Chi nói:
– Dạ, dạ, mau đem rượu lại.
Lệnh Hồ Xung say mèm, mắt nhắm mắt mở nói móc:
– Ngươi… ngươi… Tiểu Lâm tử, sao ngươi không đi bầu bạn với tiểu sư muội? Kéo tay ta làm gì?
Lao Đức Nặc nói khẽ:
– Đại sư ca, chúng ta đi nghỉ đi, ở đây đông người, đừng nói bậy bạ.
Lệnh Hồ Xung tức giận nói:
– Ta nói bậy bạ cái gì? Sư phụ sai ngươi giám thị ta, ngươi… ngươi tìm được bằng chứng gì không?
Lao Đức Nặc sợ Lệnh Hồ Xung say, càng nói càng không giữ mồm miệng, lão liền cùng với Lâm Bình Chi dìu hai bên, kéo Lệnh Hồ Xung vào trong sương phòng.
Nhạc Bất Quần nghe Lệnh Hồ Xung nói câu: “Sư phụ sai ngươi giám thị ta, ngươi tìm được bằng chứng gì không?”, tuy lão đã tu dưỡng rất cao thâm cũng không kìm được vẻ biến sắc. Vương Nguyên Bá cười nói:
– Nhạc lão đệ, bọn hậu sinh uống say nói bậy, để ý hắn làm gì? Nào nào, cạn!
Nhạc Bất Quần cười gượng nói:
– Thằng nhỏ quê mùa không biết thế sự, xin Vương lão gia miễn thứ.
Buổi tiệc tan, Nhạc Bất Quần dặn Lao Đức Nặc từ nay về sau đừng đi theo Lệnh Hồ Xung nữa, chỉ ngấm ngầm để ý thôi.
Lần này Lệnh Hồ Xung say đến trưa ngày hôm sau mới tỉnh. Hôm qua, chàng đã nói gì, một câu cũng không nhớ được, chỉ thấy đầu đau buốt muốn vỡ ra. Chàng thấy mình ngủ trong phòng, chăn màn giường chiếu sạch sẽ. Lệnh Hồ Xung bước ra khỏi phòng, không thấy một tên sư đệ nào, hỏi người nhà mới biết tất cả đã lên giảng võ sảnh ở phía sau cùng với tử điệt, đệ tử của Kim Đao môn Vương gia nghiên cứu thảo luận võ nghệ. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Mình theo bọn chúng làm cái chó gì? Chi bằng ra ngoài đi vòng vòng còn hay hơn.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền đi thẳng ra khỏi cổng.
Lạc Dương là kinh đô của các triều đại hoàng đế, dinh thự hùng vĩ, cửa hiệu sầm uất. Lệnh Hồ Xung ít học, kiến thức về lịch sử cổ đại có hạn, thấy nội thành Lạc Dương có vô số danh thắng cổ tích mà chàng chẳng biết rõ lai lịch nên xem cũng không thú vị gì. Lệnh Hồ Xung đi vào một con hẻm nhỏ, thấy bảy tám tên vô lại đang đánh bạc ở trong một tửu điếm. Chàng chen vào, móc ra cái túi quà diện kiến mà Vương Nguyên Bá tặng hôm qua rồi lấy bạc ra, cùng kêu nhất gọi lục với bọn chúng. Đến chiều tối, chàng uống rượu trong tửu điếm đến say khướt mới về.
Mấy ngày liền, Lệnh Hồ Xung và bọn vô lại cùng đánh bạc uống rượu. Những ngày đầu còn hên, ăn được vài lạng, đến ngày thứ tư thì bị thua thảm hại, bốn mươi mấy lạng bạc đã sạch sành sanh. Mấy tên vô lại không cho đánh bạc nữa. Lệnh Hồ Xung vô cùng tức giận, cứ kêu rượu uống. Uống hết mấy hũ thì điếm tiểu nhị nói:
– Tiểu hỏa tử, tiểu hỏa tử đã thua sạch tiền rồi, tiền rượu tính sao đây?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lần này thiếu, ngày mai sẽ trả.
Điếm tiểu nhị lắc đầu nói:
– Tiểu điếm vốn ít lời ít, ngay cả bằng hữu cũng không uống chịu.
Lệnh Hồ Xung tức giận, quát:
– Ngươi khinh tiểu gia không có tiền ư?
Điếm tiểu nhị cười nói:
– Dù ngươi là tiểu gia hay đại lão gia, có tiền thì bán, không tiền thì không bán chịu.
Lệnh Hồ Xung xem lại mình, quần áo bê bết, không còn đồng tiền nào, ngoài thanh trường kiếm trên lưng ra thì chẳng có vật gì khác. Chàng cởi kiếm ra, ném lên bàn rồi nói:
– Ngươi đem đến tiệm cầm giùm cho ta.
Một tên vô lại muốn ăn tiền của Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Được, để ta đi cầm cho ngươi.
Nói rồi gã cầm thanh kiếm đi. Điếm tiểu nhị đem hai hũ rượu lên. Lệnh Hồ Xung uống cạn một hũ, tên vô lại đã cầm mấy lạng bạc về, nói:
– Tất cả cầm được ba lạng bốn đồng cân tiền.
Gã đem bạc và biên lai cầm đồ đưa hết cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung cầm tiền cân nhắc nặng nhẹ, ngay cả ba lạng cũng không đủ; chàng cũng không nói gì, lại cùng với bọn vô lại đánh bạc. Đánh đến chiều tối, ngay cả tiền rượu, tiền cầm đồ cũng hết sạch.
Lệnh Hồ Xung quay sang tên vô lại Trần Oai Chủy đang đứng bên cạnh, nói:
– Cho ta mượn ba lạng, nếu thắng ta trả ngươi gấp bội.
Trần Oai Chủy cười nói:
– Lỡ thua thì sao?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thua ư? Thì ngày mai ta sẽ trả cho ngươi.
Trần Oai Chủy nói:
– Xem ra trong mình của ngươi cũng chẳng có đồng nào, bị thua thì lấy cái gì mà trả? Bán vợ ư? Bán em gái ư?
Lệnh Hồ Xung tức giận, xoay tay tát cho gã một cái nảy lửa. Chàng đã say hết tám chín phần, liền thuận tay giật luôn mấy lạng bạc của gã. Trần Oai Chủy la lên:
– Trời ơi, trời ơi! Quân ăn cướp!
Bọn vô lại vốn một bè, chúng cùng xông vào, bảy tám tên đấm đá lên đầu lên người Lệnh Hồ Xung.
Trong tay Lệnh Hồ Xung không kiếm, khí lực lại mất hết, nên bị mấy tên vô lại đè xuống đất, tay đánh chân đá, trong khoảnh khắc hắn bị đánh sưng mặt sưng mày. Bỗng nghe tiếng vó ngựa, có mấy người cưỡi ngựa chạy qua, một người ngồi trên ngựa quát:
– Tránh ra, tránh ra!
Người đó vung dây cương quất bọn vô lại chạy tán loạn. Lệnh Hồ Xung nằm úp dưới đất, không bò dậy nổi.
Bỗng tiếng một người con gái la lên:
– Trời, hóa ra đây là đại sư ca sao?
Người đó chính là Nhạc Linh San. Người kia nói:
– Để tiểu đệ đi xem!
Gã chính là Lâm Bình Chi. Gã nhảy xuống ngựa, chạy ngược lại bên cạnh Lệnh Hồ Xung, kinh hãi nói:
– Đại sư ca, đại sư ca làm sao vậy?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu, cười đau khổ nói:
– Uống rượu say! Đánh bạc thua!
Lâm Bình Chi vội đỡ Lệnh Hồ Xung dậy, đặt lên lưng ngựa.
Ngoài Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San ra còn có bốn kỵ mã là hai cô con gái của Vương Bá Phấn và hai người con trai của Vương Trọng Cường, biểu huynh, biểu muội của Lâm Bình Chi. Sáu người đi du ngoạn các chùa miếu trong thành Lạc Dương cho đến bây giờ mới quay về, không ngờ vào trong ngõ hẻm này lại thấy Lệnh Hồ Xung bị người ta đánh thê thảm như vậy. Bốn người đều rất ngạc nhiên, nghĩ: Phái Hoa Sơn được liệt vào Ngũ Nhạc kiếm phái, bình thường tổ phụ nhắc đến hết lời tán dương; trước đây mấy bữa đã cùng với bọn đệ tử họ mài giũa võ công, đúng là mỗi người đều có võ công phi phàm. Lệnh Hồ Xung là đại đệ tử phái Hoa Sơn, tại sao ngay cả mấy tên lưu manh vô lại cũng không đánh lại? Trước mắt thấy hắn bị đánh đến chảy máu mũi thì không phải là giả, thật là kỳ lạ?
Lệnh Hồ Xung về đến phủ Vương Nguyên Bá, an dưỡng mấy ngày mới dần dần hồi phục sức khỏe. Hai vợ chồng Nhạc Bất Quần nghe nói Lệnh Hồ Xung đánh bạc với mấy tên vô lại bị thua sạch tiền rồi đánh lộn nên rất tức giận, không muốn đến thăm hắn.
Đến sáng ngày thứ năm, con trai của Vương Trọng Cường là Vương Gia Câu xông vào phòng hắn nói:
– Lệnh Hồ đại ca, hôm nay tiểu đệ đã rửa nhục cho đại ca rồi. Hôm đó bảy tám tên vô lại đánh đại ca, tiểu đệ đã tìm ra hết, đánh chúng một trận nhừ tử.
Thật ra đối với chuyện này, Lệnh Hồ Xung không hề để bụng, lạnh lùng nói:
– Đâu cần phải vậy. Hôm đó ta uống rượu say, chính ta mới sai.
Vương Gia Câu nói:
– Nói vậy sao được. Đại ca là khách của nhà tiểu đệ, không thấy mặt tăng cũng phải nể Phật. Khách nhân của Kim đao Vương gia tiểu đệ sao có thể để cho người ta đánh ở trong thành Lạc Dương này được? Nếu mối hận này không trả thì người ta còn coi Vương gia này ra cái giống gì?
Tận đáy lòng Lệnh Hồ Xung đối với Kim đao Vương gia đã không có cảm tình, lại nghe gã nói một tiếng Kim đao Vương gia, hai tiếng cũng Kim đao Vương gia làm như Kim đao Vương gia là đại hào môn quyền thế ngất trời. Lệnh Hồ Xung nhịn không được nói:
– Đối phó với mấy tên lưu manh vô lại đó, cần chi phải dùng đến Kim đao Vương gia.
Lệnh Hồ Xung nói ra câu này liền hối hận ngay. Hắn đang định xin lỗi thì sắc mặt của Vương Gia Câu trầm xuống. Gã nói:
– Lệnh Hồ huynh, Lệnh Hồ huynh nói cái gì vậy? Hôm đó nếu không phải tiểu đệ và ca ca đánh tan mấy tên lưu manh vô lại thì hôm nay tính mạng của Lệnh Hồ huynh có còn không?
Lệnh Hồ Xung cười nhạt nói:
– Tại hạ xin đa tạ ơn cứu mạng của hai vị.
Vương Gia Câu nghe giọng điệu của Lệnh Hồ Xung, biết hắn có ý mai mỉa thì gã càng tức giận, lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ huynh là đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn mà ngay cả mấy tên lưu manh vô lại trong thành Lạc Dương cũng không đối phó nổi. Hà hà, người ngoài biết được há không phải là Lệnh Hồ huynh chỉ có hư danh thôi ư?
Lệnh Hồ Xung đã quá chán ngán, chuyện gì cũng không bận tâm, bèn nói:
– Ta vốn ngay cả hư danh cũng không có, bốn chữ “chỉ có hư danh” cũng không đáng nói.
Bỗng nghe ngoài cửa có người nói:
– Hiền đệ, hiền đệ đang nói gì với Lệnh Hồ huynh vậy?
Tấm rèm vén lên một người đi vào. Đó là Vương Gia Thuần, con trưởng của Vương Trọng Cường.
Vương Gia Câu đùng đùng nổi giận, nói:
– Ca ca có ý tốt rửa nhục thay cho Lệnh Hồ huynh, bắt mấy tên vô lại đánh cho mỗi tên một trận bằng dây cương. Không ngờ vị Lệnh Hồ đại hiệp này lại cho tiểu đệ lắm chuyện.
Vương Gia Thuần nói:
– Hiền đệ, ngươi không biết đâu. Ta vừa nghe Nhạc sư muội nói vị Lệnh Hồ huynh này là một nhân vật phi thường. Hôm trước ở miếu Dược vương tại Thiểm Tây, với thanh trường kiếm, chỉ một chiêu đã đâm đui mắt mười lăm cao thủ hạng nhất, kiếm thuật như thần, thiên hạ hiếm có. Ha ha!
Tiếng cười của gã đầy vẻ mỉa mai, rõ ràng gã không tin lời nói của Nhạc Linh San. Vương Gia Câu cười ha ha theo, nói:
– Xem ra mười lăm vị cao thủ hạng nhất so với bọn lưu manh trong thành Lạc Dương, võ công hãy còn kém xa một trời một vực. Ha ha!
Lệnh Hồ Xung cũng không tức giận, cười theo. Chàng ngồi trên ghế ôm đầu gối phải lắc lư qua lại.
Vương Gia Thuần vốn phụng mệnh của bá phụ và phụ thân đến thăm Lệnh Hồ Xung. Anh em Vương Bá Phấn, Vương Trọng Cường bảo gã phải lựa lời hỏi thăm, không được đắc tội với khách.
Nhưng gã thấy Lệnh Hồ Xung có vẻ ngạo mạn, hoàn toàn không coi anh em gã ra gì, gã tức giận nói:
– Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ có chuyện muốn thỉnh giáo. Giọng nói của gã rất hậm hực.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không dám.
Vương Gia Thuần nói:
– Nghe Bình Chi biểu đệ nói lúc cô và dượng của tiểu đệ sắp chết chỉ có một mình Lệnh Hồ huynh ở bên cạnh hai vị, có phải không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy!
Vương Gia Thuần nói:
– Di ngôn của cô và dượng của tiểu đệ nhờ Lệnh Hồ huynh dặn lại cho Bình Chi biểu đệ phải không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Cũng đúng.
Vương Gia Thuần nói:
– Vậy bộ Tịch tà kiếm phổ của dượng tiểu đệ ở đâu?
Lệnh Hồ Xung vừa nghe liền nhảy vội xuống đất lớn tiếng hỏi:
– Ngươi nói cái gì?
Vương Gia Thuần đã đề phòng hắn động thủ, lùi lại một bước nói:
– Dượng của tiểu đệ có bộ Tịch tà kiếm phổ đã ủy thác cho Lệnh Hồ huynh đưa lại Bình Chi biểu đệ. Sao đến hôm nay, Lệnh Hồ huynh vẫn chưa chịu đưa ra?
Lệnh Hồ Xung nghe gã vu cáo mình, tức giận đến toàn thân phát run, nói:
– Ai… ai nói có một bộ Tịch… Tịch tà kiếm phổ ủy thác… ủy thác ta đưa cho Lâm sư đệ?
Vương Gia Thuần cười nói:
– Nếu không có chuyện đó, Lệnh Hồ huynh hà tất phải giật mình, nói năng ra vẻ lúng túng sợ sệt.
Lệnh Hồ Xung dằn cơn tức giận nói:
– Hai vị Vương huynh, Lệnh Hồ Xung là khách ở tôn phủ, huynh nói như vậy phải chăng là ý của lệnh tổ, lệnh tôn?
Vương Gia Thuần nói:
– Tiểu đệ thuận miệng nói vậy thôi, chuyện đâu có gì lớn lao? Nó chẳng liên can gì đến tổ phụ và gia gia của tiểu đệ. Nhưng Tịch tà kiếm phổ của Lâm gia ở Phúc Châu oai trấn thiên hạ, võ lâm ai cũng biết. Đột nhiên Lâm công tạ thế, Tịch tà kiếm phổ là vật báu tùy thân của dượng không biết đi đâu. Chúng ta là chỗ thân tình nên muốn hỏi cho rõ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu Lâm tử bảo ngươi hỏi phải không? Tại sao hắn không đích thân đến hỏi ta?
Vương Gia Câu cười hì hì ba tiếng rồi nói:
– Bình Chi biểu đệ là sư đệ của Lệnh Hồ huynh, làm sao dám mở miệng hỏi Lệnh Hồ huynh được?
Lệnh Hồ Xung cười nhạt, nói:
– Đã có Kim đao Vương gia ở Lạc Dương hậu thuẫn nên bây giờ các ngươi mới đến mà tra vấn ta. Vậy đi gọi Lâm Bình Chi lại đây.
Vương Gia Thuần nói:
– Các hạ là khách của Vương gia, hai chữ “tra vấn” thật không dám lớn gan nói ra. Anh em ta chỉ có tính hiếu kỳ nên hỏi một câu như vậy, Lệnh Hồ huynh chịu trả lời cũng tốt mà không trả lời thì bọn tiểu đệ cũng không dám làm gì đâu.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Ta không chịu nói, các ngươi cũng không làm gì vậy thì huề.
Anh em họ Vương nhìn nhau, không ngờ Lệnh Hồ Xung đã chặn miệng họ lại.
Vương Gia Thuần giả bộ ho một tiếng, tìm cách khác để gợi chuyện:
– Lệnh Hồ huynh, một chiêu kiếm của Lệnh Hồ huynh đâm đui mắt của mười lăm cao thủ. Có lẽ chiêu kiếm thần kỳ này là học từ trong Tịch tà kiếm phổ phải không?
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, toàn thân toát mồ hôi lạnh, hai tay không tự chủ được phát run.
Chàng tê tái nghĩ thầm: Sư phụ, sư nương và bọn sư đệ, sư muội không cảm kích ta cái ơn cứu mạng họ mà trái lại ai cũng có ý nghi kỵ ta, trước nay ta không rõ là do nguyên nhân gì? Thì ra là như vậy, thì ra là như vậy! Bọn họ đều cho rằng ta nuốt mất bộ Tịch tà kiếm phổ của Lâm Chấn Nam. Họ chưa bao giờ thấy qua Độc Cô cửu kiếm, ta lại không chịu tiết lộ việc Phong thái sư thúc tổ bí mật dạy kiếm. Họ thấy ta ở trên đỉnh núi sám hối mấy tháng bỗng nhiên kiếm thuật tiến bộ nhanh chóng, ngay cả cao thủ phe Kiếm tông Phong Bất Bình cũng địch không lại ta. Nếu không phải học được các cao chiêu trong Tịch tà kiếm phổ, thì thứ kiếm pháp này từ đâu mà ra? Chuyện Phong thái sư thúc tổ dạy kiếm quá đột ngột không ai có thể đoán ra được, mà lúc vợ chồng Lâm Chấn Nam tạ thế thì chỉ có một mình ta ở bên cạnh cho nên ai cũng đoán rằng bộ Tịch tà kiếm phổ mà các đại cao thủ võ lâm đều dòm ngó nhất định đã rơi vào tay ta. Người ngoài đoán như vậy cũng không có gì lấy làm lạ, nhưng sư phụ, sư nương nuôi dưỡng ta lớn khôn; sư muội mà ta coi như là ruột thịt vẫn không tin ta thì Lệnh Hồ Xung này là hạng người như thế nào? Ha ha, đôi mắt nhìn người thật nhỏ nhen.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây nét mặt lộ ra vẻ phẫn nộ, bất bình.
Vương Gia Câu rất đắc ý mỉm cười nói:
– Câu này tiểu đệ đoán đúng rồi phải không? Vậy Tịch tà kiếm phổ ở đâu? Bọn tiểu đệ không muốn xem đồ vật của Lệnh Hồ huynh, nhưng vật phải trở về chủ, Lệnh Hồ huynh đem kiếm phổ trả lại cho biểu đệ được rồi.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Ta chưa từng thấy qua Tịch tà kiếm phổ. Vợ chồng Lâm tổng tiêu đầu đã bị phái Thanh Thành và Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong bắt giữ, nếu trên người Tổng tiêu đầu có kiếm phổ thì đã bị bọn họ lục soát lấy rồi.
Vương Gia Thuần nói:
– Nếu nói như vậy thì Tịch tà kiếm phổ rất quý báu, cô dượng của tiểu đệ mang theo bên mình làm chi? Họ phải cất ở một nơi vô cùng bí mật, lúc sắp chết mới nhờ Lệnh Hồ huynh chuyển lời cho Bình Chi biểu đệ. Nào ngờ… nào ngờ… hì hì.
Lệnh Hồ Xung càng nghe càng tức giận. Vốn không muốn biện luận nhiều nhưng chuyện đã liên quan đến chàng quá sâu, có thể bị ô danh. Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu Lâm tổng tiêu đầu có bộ kiếm phổ thần diệu như vậy thì chính lão là người vô địch thiên hạ mới phải. Tại sao lão địch không lại mấy tên đệ tử phái Thanh Thành để bị bọn chúng giam cầm?
Vương Gia Câu nói:
– Chuyện này… chuyện này…
Gã nhất thời bị líu lưỡi không nói được lời nào. Vương Gia Thuần bào chữa cho em nói:
– Trong thiên hạ, việc gì cũng có thể xảy ra. Lệnh Hồ huynh đã học được Tịch tà kiếm pháp nên kiếm thuật tinh thông nhưng ngay cả đến mấy tên lưu manh vô lại cũng địch không lại, bị bọn chúng đánh te tua, vậy là sao? Ha ha, thế này gọi là chân nhân bất lộ tướng, thật đáng tiếc. Lệnh Hồ huynh, Lệnh Hồ huynh đã làm chuyện sai nát rồi, đường đường là đại đệ tử chưởng môn phái Hoa Sơn lại để cho mấy tên lưu manh thành Lạc Dương đánh đến nỗi bò lăn bò lóc. Chuyện như vậy ai mà tin được. Mà đã là không tin được thì trong đó phải có điều giả dối. Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ khuyên huynh thú thật đi thôi.
Theo tính cách bình thường của Lệnh Hồ Xung thì chàng đã sớm cãi lời rồi, nhưng chuyện này quá bất ngờ, chàng lại đang rơi vào thế bị hiềm nghi. Kim đao Vương gia hay anh em họ Vương thì không cần để tâm nhưng chàng không thể để cho sư phụ, sư nương, sư muội đem lòng nghi kỵ. Lệnh Hồ Xung nghiêm giọng nói:
– Bình sinh, Lệnh Hồ Xung chưa bao giờ thấy qua Tịch tà kiếm phổ. Di ngôn của Lâm tổng tiêu đầu ở Phúc Châu ta đã nói lại cho Lâm sư đệ biết không sót một chữ. Nếu Lệnh Hồ Xung có chuyện lừa dối thì trời đất không dung, tội đáng muôn thác.
Lệnh Hồ Xung nói xong dang tay mà đứng, vẻ mặt lẫm liệt.
Vương Gia Thuần mỉm cười nói:
– Đại sự liên quan đến bí cấp võ lâm cứ thuận miệng nói ra một lời thề mà có thể khỏa lấp được, chẳng lẽ Lệnh Hồ huynh xem người trong thiên hạ đều ngu dốt hết sao?
Lệnh Hồ Xung dằn cơn tức giận, nói:
– Theo ngươi thì nên làm thế nào?
Vương Gia Câu nói:
– Anh em tiểu đệ cả gan muốn lục soát người của Lệnh Hồ huynh.
Gã ngừng một lúc, cười hì hì rồi nói:
– Ngày này hôm kia, Lệnh Hồ huynh đã bị mấy tên lưu manh khống chế không nhúc nhích được, chúng cũng đã lục soát người của Lệnh Hồ huynh một trận rồi.
Lệnh Hồ Xung cười nhạt, nói:
– Các ngươi muốn lục soát người của ta, coi Lệnh Hồ Xung là tiểu tặc ư?
Vương Gia Thuần nói:
– Không dám! Lệnh Hồ huynh đã nói là chưa thấy Tịch tà kiếm phổ thì hà tất phải sợ bị lục soát. Nếu lục soát trên người không có kiếm phổ thì rửa sạch được mối hiềm nghi, chẳng phải là điều tốt sao?
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Được, ngươi đi kêu Lâm sư đệ và Nhạc sư muội đến đây để hai người làm chứng.
Vương Gia Thuần sợ mình đi rồi, hiền đệ ở lại một mình sẽ bị Lệnh Hồ Xung thừa cơ khống chế, còn hai người cùng đi thì hắn sẽ giấu mất Tịch tà kiếm phổ, có lục soát cũng không có. Gã bèn nói:
– Muốn lục soát thì lục soát, nếu Lệnh Hồ huynh không gian dối phải kiếm cớ thoái thác làm chi?
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Ta muốn để cho bọn chúng lục soát là mong có mặt sư phụ, sư nương, sư muội để chứng minh mình trong sạch. Hai tên này có tin hay không cũng mặc, ta đâu cãi lý với chúng làm gì? Tiểu sư muội không có ở đây, há để cho bàn tay chó má của chúng sờ soạng vào người của ta sao? Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy lắc đầu nói:
– Tư cách của hai vị e rằng chưa xứng để lục soát người của ta.
Anh em họ Vương thấy Lệnh Hồ Xung không để cho chúng lục soát thì càng tin chắc hắn đang giấu Tịch tà kiếm phổ trong người. Một là chúng muốn khoe công trước phụ thân và bá phụ , hai là chúng đã nghe tiếng Tịch tà kiếm phổ rất lợi hại, kiếm phổ này đã do chúng tìm được thì Lâm Bình Chi không thể không cho mượn. Hôm trước, Vương Gia Câu đã thấy Lệnh Hồ Xung bị mấy tên vô lại đè xuống đất đánh đấm, không có sức kháng cự, gã cho rằng kiếm pháp của hắn dù hay nhưng công phu quyền cước thì rất tầm thường. Bây giờ trong tay hắn không còn kiếm, đó là cơ hội tốt để động thủ. Gã liền nháy mắt ra hiệu cho em trai rồi nói:
– Lệnh Hồ huynh, rượu mời không uống mà muốn uống rượu phạt, để bị mất mặt thì chẳng hay ho gì đâu.
Hai anh em gã áp sát vào Lệnh Hồ Xung. Vương Gia Câu ưỡn ngực xông thẳng đến. Lệnh Hồ Xung giơ tay gạt ra, Vương Gia Câu lớn tiếng quát:
– Úi chao! Lệnh Hồ huynh đánh người ư?
Gã liền chụp lấy cổ tay của Lệnh Hồ Xung đẩy xuống. Gã nghĩ Lệnh Hồ Xung là đại đệ tử phái Hoa Sơn nên phải cẩn thận, cái chụp đẩy này đã sử đến thủ pháp cầm nã gia truyền, vận đủ mười thành công lực.
Lệnh Hồ Xung có nhiều kinh nghiệm ứng biến lúc lâm địch, thấy gã ưỡn ngực đi đến thì biết gã chẳng có ý tốt, liền đưa tay phải ra. Chiêu này vốn ẩn chứa nhiều chiêu số tiếp theo. Chàng để cho đối phương nắm chặt cổ tay rồi sẽ xoay cánh tay chuyển thế thủ thành thế tấn công. Nào ngờ nội lực mất hết, tuy sử đúng chiêu thức xoay cánh tay nhưng cũng không phát huy được chút khí lực nào. Rắc rắc mấy tiếng, những đốt xương tay phải của chàng tê buốt, đã bị bẻ trật khớp, đau thấu tâm can. Vương Gia Câu hạ thủ rất tàn độc. Gã vặn trật khớp xương tay phải của Lệnh Hồ Xung rồi đánh thêm một đòn khiến cho khớp xương cánh tay trái của hắn bị trật luôn. Gã nói:
– Ca ca lục soát đi.
Vương Gia Thuần đưa chân ra cản trước hai chân Lệnh Hồ Xung đề phòng hắn đá. Gã thò tay vào lục trước người Lệnh Hồ Xung lấy ra được các thứ linh tinh. Bỗng gã mò được một cuốn sách mỏng mỏng liền lấy ra. Cả hai cùng vui mừng reo lên:
Huynh đệ họ Vương vội vàng mở cuốn sách ra, thấy trang đầu tiên viết sáu chữ triện “Tiếu ngạo giang hồ chi khúc”. Huynh đệ họ Vương chỉ võ vẽ nghề văn, nếu sáu chữ này viết theo kiểu chữ khải thì có thể đọc được, nhưng lại theo thể triện thì một chữ cũng không biết. Chúng lại mở thêm một vài trang nữa, nhưng thấy chữ nào chữ nấy đều là kỳ văn quái tự. Hai người không biết đây là cầm tiêu khúc phổ. Chúng không còn nghi ngờ gì nữa, đồng thanh nói lớn:
– Tịch tà kiếm phổ, Tịch tà kiếm phổ!
Vương Gia Thuần nói:
– Đưa cho gia gia xem đi.
Gã cầm bộ tiêu khúc phổ đó chạy ra khỏi phòng. Vương Gia Câu đá một cước mạnh vào lưng Lệnh Hồ Xung rồi chửi:
– Đồ tiểu tặc mặt dày!
Gã lại nhổ một bãi nước bọt lên mặt Lệnh Hồ Xung. Lúc đầu, Lệnh Hồ Xung tức đến nỗi muốn bể ngực nhưng chàng chuyển đổi ý nghĩ: Hai tên tiểu tử này ngu dốt, tổ phụ và phụ thân hắn chắc không đến nỗi bỉ ổi như vậy, đợi khi họ biết đây là cầm phổ tiêu phổ thì phải đến bồi tội với mình mới được.
Nhưng hai cánh tay bị trật khớp khiến chàng đau buốt khôn xiết, lại nghĩ: Nội công của mình đã hoàn toàn mất hết, lại gặp phải bọn lưu manh vô lại đầu đường xó chợ không có một chút khí lực để chống lại, đã thành một phế nhân thì sống ở trên đời này để làm gì nữa?
Lệnh Hồ Xung nằm trên giường, trán toát mồ hôi hột, lòng đau như cắt. Chàng kìm không được, nước mắt từ từ chảy dài. Nhưng nghĩ huynh đệ họ Vương nhất định sẽ quay trở lại ngay, mình không thể lộ vẻ yếu nhược, chàng liền lau khô nước mắt.
Một lúc lâu, nghe tiếng bước chân, huynh đệ họ Vương bước nhanh đến. Vương Gia Thuần cười nhạt nói:
– Đi gặp tổ phụ của ta.
Lệnh Hồ Xung tức giận nói:
– Không đi, tổ phụ ngươi không đến bồi tội với ta, ta đi gặp lão làm cái mẹ gì?
Huynh đệ họ Vương cười ha hả, Vương Gia Câu nói:
– Tổ phụ ta mà đến bồi tội tiểu tặc ngươi ư? Đừng có mà nằm mơ! Đi!
Hai gã nắm lấy vạt áo của Lệnh Hồ Xung kéo dậy, lôi ra khỏi phòng.
Lệnh Hồ Xung chửi:
– Kim đao Vương gia tự cho mình là con người hiệp nghĩa, lại cuồng vọng khinh người, thật là đê tiện bỉ ổi.
Vương Gia Thuần xoay tay đánh một chưởng, Lệnh Hồ Xung chảy máu miệng.
Lệnh Hồ Xung vẫn không ngừng chửi, bị huynh đệ họ Vương lôi đến hoa sảnh ở phía sau.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần và Vương Nguyên Bá phân chủ khách ngồi đó; Vương Bá Phấn, Vương Trọng Cường ngồi ở mé dưới Vương Nguyên Bá. Lệnh Hồ Xung vẫn lớn tiếng chửi:
– Kim đao Vương gia là thứ đê tiện vô liêm sỉ, trong võ lâm chưa bao giờ thấy ai bẩn thỉu như vậy.
Nhạc Bất Quần sa sầm nét mặt quát:
– Xung nhi, im đi!
Lệnh Hồ Xung nghe sư phụ quát mắng mới chịu im tiếng không chửi nữa nhưng vẫn tức giận trừng mắt nhìn Vương Nguyên Bá.
Vương Nguyên Bá cầm trong tay bộ cầm tiêu khúc phổ, lạnh lùng hỏi:
– Lệnh Hồ hiền điệt, bộ Tịch tà kiếm phổ nầy là từ đâu mà có?
Lệnh Hồ Xung ngẩng mặt lên trời cười lớn một tràng dài. Nhạc Bất Quần liền mắng:
– Xung nhi, tôn trưởng hỏi ngươi, ngươi cứ thành thực bẩm cáo, sao dám to gan vô lễ như vậy? Còn ra thể thống gì nữa?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sư phụ, sau khi đệ tử bị trọng thương, toàn thân bất lực, sư phụ nhìn hai tên tiểu tử này đối xử với đệ tử thế nào. Hừm, đây là phép đãi khách trên giang hồ sao?
Vương Trọng Cường nói:
– Nếu là khách đàng hoàng thì Vương gia chúng ta không dám đắc tội. Nhưng ngươi đã phụ sự ủy thác của người, chiếm Tịch tà kiếm phổ này làm của riêng. Đây là hành vi của đạo tặc, Kim đao Vương gia ta ở Lạc Dương là người thanh bạch, sao có thể xem ngươi là bằng hữu được.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tổ tôn ba đời của ngươi luôn miệng nói đây là Tịch tà kiếm phổ. Vậy các ngươi đã thấy qua Tịch tà kiếm phổ chưa? Sao biết đây là Tịch tà kiếm phổ?
Vương Trọng Cường chưng hửng nói:
– Bộ sách này lục soát được trên người của ngươi, Nhạc sư huynh lại nói đây không phải là thư phổ võ công của phái Hoa Sơn, nếu không phải Tịch tà kiếm phổ thì là cái gì?
Lệnh Hồ Xung tức đến phát cười nói:
– Ngươi đã nói là Tịch tà kiếm phổ thì coi như nó là Tịch tà kiếm phổ cũng được. Nhưng mong rằng Kim đao Vương gia dựa theo chiêu thức này để luyện thành kiếm pháp thiên hạ vô địch, để Vương gia ở Lạc Dương xưng là: “Đao kiếm song tuyệt” trong võ lâm. Ha ha!
Vương Nguyên Bá nói:
– Lệnh Hồ hiền điệt, tiểu tôn nhất thời đắc tội, hiền điệt hà tất để bụng làm gì. Người ta ai mà chẳng có sai lầm, biết lỗi mà có thể sửa đổi thì rất hay. Hiền điệt đã đưa kiếm phổ ra trả lại trước mặt sư phụ của hiền điệt, chúng ta còn truy cứu làm gì nữa? Mọi người từ nay về sau đừng ai nhắc đến chuyện này. Để ta sửa xương cánh tay cho hiền điệt rồi hãy nói chuyện.
Lão nói xong, bước xuống ghế đi lại hướng Lệnh Hồ Xung, đưa tay ra nắm tay phải hắn.
Lệnh Hồ Xung lùi về sau hai bước, gằn giọng nói:
– Khoan đã! Lệnh Hồ Xung ta không chịu để lão mua chuộc đâu.
Vương Nguyên Bá ngạc nhiên hỏi:
– Ta mua chuộc hiền điệt cái gì?
Lệnh Hồ Xung tức giận nói:
– Lệnh Hồ Xung ta đâu phải là người gỗ, tay của ta các ngươi muốn bẻ thì bẻ, muốn sửa thì sửa!
Hắn đi đến trước mặt Nhạc phu nhân gọi:
– Sư nương!
Nhạc phu nhân thở dài, đưa tay nắn lại những khớp xương bị trật trên hai cánh tay hắn.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sư nương, đây rõ ràng là cuốn cầm phổ thất huyền cầm và tiêu phổ động tiêu, vậy mà nhà họ Vương nhìn không ra, cứ một mực nói là Tịch tà kiếm phổ. Thiên hạ sao lại có chuyện nực cười đến vậy?
Nhạc phu nhân nói:
– Vương lão gia tử, tiểu phụ xem thử cuốn phổ này có được không?
Vương Nguyên Bá nói:
– Mời Nhạc phu nhân xem.
Lão đưa khúc phổ qua. Nhạc phu nhân mở ra vài trang cũng không hiểu gì cả, liền nói:
– Cầm phổ tiêu phổ thì tiểu phụ không hiểu nhưng kiếm phổ thì đã từng thấy qua. Bộ sách này lại không giống kiếm phổ. Vương lão gia tử, trong phủ có ai biết đánh đàn thổi tiêu không? Có thể mời người đó đến xem thử thì biết ngay thôi.
Vương Nguyên Bá do dự, chỉ sợ đây đúng là cầm phổ tiêu phổ thì nhà mình bị bẽ mặt, lão trầm ngâm không đáp. Vương Gia Câu là người mít đặc, gã lớn tiếng nói:
– Gia gia, Dịch sư gia ở phòng quản gia chúng ta biết thổi tiêu, đi gọi lão đến xem thử. Đây rõ ràng là Tịch tà kiếm phổ, sao có thể gọi là tiêu phổ được?
Vương Nguyên Bá nói:
– Rất nhiều loại bí cấp võ học có người vì muốn giữ riêng sợ người khác dòm lén nên cố ý đem võ công đồ phổ viết theo dạng khúc phổ. Chuyện này cũng có thể có, chẳng có gì kỳ lạ.
Nhạc phu nhân nói:
– Trong phủ đã có một vị sư gia biết thổi tiêu, vậy thì cuốn phổ này là kiếm phổ hay tiêu phổ, mời lão đến xem sẽ biết thôi.
Vương Nguyên Bá bất đắc dĩ đành phải ra lệnh cho Vương Gia Câu đi mời Dịch sư gia đến.
Dịch sư gia là một người nhỏ con gầy ốm khoảng năm mươi tuổi, dưới cằm lơ thơ một túm râu, ăn mặc rất chỉnh tề. Vương Nguyên Bá nói:
– Dịch sư gia, mời sư gia xem dùm đây có phải là cầm phổ tiêu phổ bình thường không?
Dịch sư gia mở cầm phổ ra, xem vài trang rồi lắc đầu nói:
– Cái này… vãn sinh không hiểu gì hết.
Lúc lão xem đến tiêu phổ, đôi mắt bỗng sáng lên, miệng cất giọng khe khẽ, hai ngón tay của bàn tay trái không ngừng nhịp nhẹ lên bàn theo tiết tấu. Lão khe khẽ ngâm một lúc, lại lắc đầu nói:
– Không đúng, không đúng!
Lão ngâm thêm một lúc nữa; bỗng giọng chuyển cao lên rồi đột nhiên im bặt. Lão chau mày nói:
– Trên đời này quyết không thể có chuyện như vậy. Cái này… cái này… vãn sinh thực không hiểu nổi.
Vương Nguyên Bá vui mừng hỏi:
– Bộ sách này có chỗ khả nghi phải không? Nó khác hẳn với các khúc phổ bình thường khác phải không?
Dịch sư gia chỉ tiêu phổ nói:
– Cung điệu chỗ này bỗng chuyển sang âm Chủy, hoàn toàn trái với nhạc lý, ống tiêu không thổi được. Chỗ này lại chuyển qua Dốc điệu, rồi chuyển qua Vũ điệu, từ trước đến nay chưa có khúc phổ nào như vậy cả. Ống tiêu nào cũng không thể tấu được khúc nhạc như vậy.
Lệnh Hồ Xung cười nhạt nói:
– Lão không thổi được thì làm sao biết người khác cũng không thổi được.
Dịch sư gia gật đầu, nói:
– Ngươi nói phải lắm. Nếu trên đời này quả thật có người tấu được khúc điệu này thì vãn sinh khâm phục sát đất. Trừ khi… trừ khi… ở Đông thành…
Vương Nguyên Bá cắt đứt lời nói của lão hỏi:
– Ngươi nói đây không phải là tiêu phổ bình thường ư? Trong đó có mấy chỗ mà ống tiêu không cách nào thổi lên được ư?
Dịch sư gia gật đầu đáp:
– Đúng vậy, rất khác thường. Vãn sinh không thể thổi được. Trừ khi ở Đông thành…
Nhạc phu nhân hỏi:
– Đông thành có vị cao thủ danh sư có thể thổi được khúc phổ này ư?
Dịch sư gia nói:
– Cái này… vãn sinh cũng không dám bảo đảm. Nhưng Lục Trúc Ông ở Đông thành đã biết chơi huyền cầm lại biết thổi tiêu, không chừng lão có thể thổi được. Lão thổi tiêu cao minh hơn vãn sinh nhiều, có thể nói là cao minh không thể diễn tả được.
Vương Nguyên Bá nói:
– Đã không phải là tiêu phổ bình thường thì trong đó ẩn chứa điều gì đó.
Vương Bá Phấn nãy giờ yên lặng ngồi một bên bỗng nhiên nói xen vào:
– Gia gia, bộ Tứ môn lục hợp đao pháp của Bát quái đao ở Trịnh Châu không phải đã được ghi trong một bộ khúc phổ sao?
Vương Nguyên Bá ngẩn người, hiểu ra ý của con, biết con muốn đặt điều để nói trớ. Chưởng môn Bát quái đao ở Trịnh Châu là Mạc Tinh đã mấy đời kết thân với Kim đao Vương gia ở Lạc Dương. Trong Bát quái đao môn, không có Tứ môn lục hợp đao pháp gì gì cả, nhưng lão liệu đoán rằng phái Hoa Sơn chỉ chuyên sử kiếm nên không thể hiểu trong các phái khác không có một thứ đao pháp nào như vậy. Dù cho Nhạc Bất Quần hiểu biết rộng rãi cũng chưa chắc là biết hết. Lão gật đầu nói:
– Đúng vậy, mấy năm trước Mạc thân gia đã nhắc đến chuyện này. Trong khúc phổ có ghi đao pháp, kiếm pháp là chuyện bình thường, chẳng có gì lạ.
Lệnh Hồ Xung cười nhạt hỏi:
– Đã chẳng có gì lạ vậy thỉnh giáo Vương lão gia tử kiếm pháp ghi trong hai bộ khúc phổ này là kiếm pháp gì?
Vương Nguyên Bá thở dài nói:
– Cái đó… con rể của ta đã tạ thế rồi, những bí ẩn trong khúc phổ ngoài một mình lão đệ ra thì trên đời này chẳng có người thứ hai hiểu được.
Nếu Lệnh Hồ Xung muốn biện bạch thì đã nói ra lai lịch của khúc “Tiếu ngạo giang hồ”, nhưng nếu nói ra thì dính líu đến nhiều chuyện lớn, không thể không kể lại chuyện Mạc Đại tiên sinh phái Hành Sơn giết Đại tung dương thủ Phí Bân ra sao. Sư phụ mà biết khúc phổ này có liên quan đến Ma giáo trưởng lão Khúc Dương thì chắc sẽ hủy đi. Vậy chàng đã nhận lời ủy thác của người mà không thực hiện được. Lệnh Hồ Xung dằn cơn tức giận, nói:
– Dịch sư gia nói ở Đông thành có Lục Trúc Ông tinh thông âm luật, sao không đem khúc phổ này đi nhờ lão bình phẩm?
Vương Nguyên Bá lắc đầu nói:
– Lục Trúc Ông là người rất cổ quái, dở điên dở khùng, làm sao có thể tin lời lão nói được.
Nhạc phu nhân nói:
– Chuyện này cần phải làm cho rõ ngọn ngành, Xung nhi là đệ tử của tệ phái mà Bình Chi cũng là đệ tử của tệ phái; bọn tại hạ không thể thiên vị được. Ai đúng ai sai, cứ đi mời Lục Trúc Ông nhận xét cho rõ.
Bà không tiện nói Lệnh Hồ Xung tranh chấp với Kim đao Vương gia mà đổi thành sự tranh chấp giữa Lệnh Hồ Xung và Lâm Bình Chi. Bà nói tiếp:
– Dịch sư gia, cảm phiền sư gia cho người đem kiệu đi rước Lục Trúc Ông đến được chăng?
Dịch sư gia nói:
– Lão nhân gia tính tình rất cổ quái, người khác có chuyện cầu xin lão nếu lão không muốn dính đến thì dù có đến cửa quỳ lạy lão cũng chẳng thèm ngó tới. Nhưng khi lão muốn nhúng tay vào chuyện gì thì dù có đẩy ra cũng không được.
Nhạc phu nhân gật đầu nói:
– Nếu vậy, lão cũng là người trong bọn ta rồi, có thể Lục Trúc Ông là bậc tiền bối võ lâm. Sư ca, chúng ta quả là người cô lậu quả văn.
Vương Nguyên Bá cười nói:
– Lục Trúc Ông là người thợ đan lát, lão chỉ biết đan giỏ, dệt chiếu, đâu phải là người trong võ lâm? Có điều lão đánh đàn rất giỏi, thổi tiêu rất hay, lại biết hội họa. Nhiều người bỏ tiền mua các bức họa của lão nên có thể coi lão như một nghệ nhân phong nhã. Cho nên lão được địa phương rất quý trọng.
Nhạc phu nhân nói:
– Lạc Dương có nhân vật như vậy, bọn tại hạ đã đến Lạc Dương thì không thể không ra mắt. Vương lão gia tử, xin cảm phiền đại giá cùng đi với bọn tại hạ đến thăm vị nghệ nhân đó được không?
Thấy ý của Nhạc phu nhân rất kiên quyết, Vương Nguyên Bá không thể từ chối được, đành phải dẫn con cháu và vợ chồng Nhạc Bất Quần, Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San cùng đi đến Đông thành.
Dịch sư gia đi trước dẫn đường. Qua mấy con đường, lão đến một con hẻm nhỏ, đầu ngõ hẻm có một hàng trúc phất phơ trong gió. Phong cảnh thiên nhiên thật phong nhã. Mọi người vừa đi vào ngõ hẻm đã nghe tiếng tình tang của huyền cầm. Con hẻm là nơi mát mẻ, yên tĩnh so với ngoài thành Lạc Dương thành ra hai thế giới khác biệt. Nhạc phu nhân nói khẽ:
– Vị Lục Trúc Ông này thật biết cách hưởng thú thanh nhàn.
Giữa lúc ấy bục một tiếng, một sợi dây đàn bỗng bị đứt, tiếng đàn cũng im bặt. Tiếng của một lão già nói vọng ra:
– Quý khách uổng công đến chỗ hang cùng ngõ hẻm này không biết có điều chi chỉ giáo?
Dịch sư gia nói:
– Trúc Ông, có một cuốn cầm phổ tiêu phổ rất kỳ quái, muốn đến nhờ pháp nhãn của Trúc Ông lão nhân gia giám định.
Lục Trúc Ông nói:
– Có cầm phổ tiêu phổ muốn nhờ ta giám định ư? Hì hì. Các vị coi trọng gã đan lát này quá rồi.
Dịch sư gia chưa kịp đáp thì Vương Gia Câu đã cướp lời, lớn tiếng nói:
– Có Kim đao Vương gia lão gia tử đến thăm.
Gã giơ chiêu bài của tổ phụ lên, cho rằng tiếng tăm lừng lẫy của tổ phụ ở thành Lạc Dương đủ để một lão già đan lát phải lập tức chạy ra nghênh tiếp. Nào ngờ Lục Trúc Ông cười nhạt nói:
– Hừ, Kim đao hay ngân đao cũng không bằng con dao chẻ lạt của ta. Lão đan lát này không đi thăm Vương lão gia thì Vương lão gia đi thăm lão đan lát này làm cóc gì.
Vương Gia Câu tức giận lớn tiếng nói:
– Thưa tổ phụ, lão đan lát này là hạng người không biết lễ phép, gặp lão làm gì? Chúng ta về thôi.
Nhạc phu nhân nói:
– Đã đến đây, ta nhờ Lục Trúc Ông xem dùm bộ cầm phổ tiêu phổ này cũng chẳng hề gì.
Vương Nguyên Bá hừ một tiếng, đưa khúc phổ cho Dịch sư gia. Dịch sư gia nhận lấy rồi đi vào bụi trúc. Chỉ nghe Lục Trúc Ông nói:
– Được, ngươi để xuống đi.
Dịch sư gia nói:
– Xin hỏi Trúc Ông, đây là khúc phổ hay là bí quyết võ công cố ý viết theo kiểu khúc phổ?
Lục Trúc Ông nói:
– Bí quyết võ công ư? Ngươi chế ra thì có. Đây đúng là cầm phổ rồi.
Tiếp theo, tiếng đàn vang lên rất u nhã.
Lệnh Hồ Xung nghe một lúc, nhớ được đây chính là khúc nhạc mà đêm hôm đó Lưu Chính Phong đã tấu. Người chết đi để lại khúc nhạc khiến lòng người nghe không cầm được sự buồn bã.
Tiếng đàn đang du dương bỗng cao vút lên rồi càng lúc càng cao mãi, âm thanh rất chát chúa.
Bục một tiếng, dây đàn bị đứt, tiếng đàn lại vút cao thêm. Lại bục một tiếng nữa, dây đàn lại đứt thêm một sợi. Lục Trúc Ông hứ một tiếng, nói:
– Cầm phổ này rất cổ quái khiến người ta không hiểu được.
Năm ông cháu Vương Nguyên Bá đưa mắt nhìn nhau, mặt lộ vẻ đắc ý, Lục Trúc Ông nói:
– Để ta thử tiêu phổ xem sao.
Tiếp theo, tiếng tiêu từ trong bụi trúc vọng ra, ban đầu nghe du dương não ruột, tình ý triền miên rồi về sau bỗng chuyển dần xuống thấp cơ hồ nghe không rõ nữa. Lại thổi được vài tiếng thì tiếng tiêu bỗng im bặt. Lục Trúc Ông thở dài nói:
– Dịch lão đệ, ngươi biết thổi tiêu mà thanh trầm như vậy thì làm sao có thể thổi được. Cầm phổ tiêu phổ này không phải là của giả nhưng người soạn ra nó lại cố ý làm ra vẻ hoang đường để ghẹo người chơi nhạc. Ngươi hãy về đi, để ta nghiên cứu tỉ mỉ lại đã.
Dịch sư gia dạ rồi đi ra khỏi bụi trúc.
Vương Trọng Cường hỏi:
– Kiếm phổ đâu rồi?
Dịch sư gia đáp:
– Kiếm phổ ư? Lục Trúc Ông muốn giữ lại nói là để nghiên cứu tỉ mỉ hơn.
Vương Trọng Cường sốt ruột nói:
– Mau lấy lại đi! Đây là kiếm phổ quý báu vô cùng, võ lâm không biết bao nhiêu người muốn tranh đoạt, sao có thể để lại cho một người không có liên quan gì đến mình giữ lại.
Dịch sư gia dạ một tiếng toan quay người đi vào bụi trúc bỗng nghe Lục Trúc Ông nói:
– Cô cô, cô cô ra đây làm gì?
Vương Nguyên Bá hỏi khẽ:
– Lục Trúc Ông bao nhiêu tuổi?
Dịch sư gia đáp:
– Khoảng trên bảy mươi tuổi, gần tám mươi tuổi rồi.
Mọi người đều nghĩ:
– Một lão già tám mươi tuổi lại còn có cô cô, vậy bà già này chắc ngoài trăm tuổi.
Nghe tiếng một phụ nữ đáp khẽ. Lục Trúc Ông nói:
– Mời cô cô xem bộ khúc phổ này có chỗ rất cổ quái.
Người phụ nữ lại ừ một tiếng, tiếng đàn vọng lên rồi bỗng dừng lại một lúc dường như là để thay sợi dây vừa bị đứt; rồi lại tình tang dạo mấy tiếng so dây mới tấu lên khúc điệu. Ban đầu, tiếng đàn tấu giống Lục Trúc Ông, về sau càng lúc càng cao, đến chỗ khó khăn vẫn đi qua dễ dàng, tay phím nhẹ nhàng không tốn một chút sức mà vẫn chuyển lên cao vút.
Lệnh Hồ Xung vừa ngạc nhiên vừa vui mừng nhớ lại đêm hôm ấy đã được nghe tiếng huyền cầm mà Khúc Dương đã tấu lên. Bây giờ, tiếng đàn khẳng khái vút cao, có lúc ôn hòa nhã chí, tuy Lệnh Hồ Xung không rõ nhạc lý nhưng cảm thấy vị bà bà này diễn tấu khúc điệu tuy giống như Khúc Dương đã tấu nhưng phong cách lại rất khác biệt. Cung đàn của vị bà bà này hòa bình trung chính khiến người nghe cảm thụ được cái hay của âm nhạc chứ không giống như sở tấu của Khúc Dương nghe sục sôi, phấn khích như bầu máu nóng. Bà bà tấu một lúc lâu, tiếng đàn dần thong thả lại tựa hồ như đi xa mãi không ngừng giống như người ôm cây đàn đi mấy chục trượng rồi đi ngoài mấy dặm. Tiếng đàn nhỏ dần đi như một sợi tơ cơ hồ không còn nghe được nữa.
Khi tiếng đàn dường như sắp dừng lại, chợt nghe có một hai tiếng tiêu rất nhỏ nổi lên. Tiếng tiêu lượn quanh uyển chuyển dường như người thổi tiêu vừa thổi vừa đi đến gần. Rồi tiếng tiêu thanh thoát chợt bỗng chợt trầm, lúc nhẹ nhàng lúc vang dội cho đến khi thanh điệu vút lên đến chỗ cao nhất. Sau khi lượn quanh uyển chuyển mấy vòng, tiếng tiêu lại hạ xuống cung bậc trầm, tuy rất nhỏ nhưng mỗi âm tiết vẫn rõ ràng có thể nghe được. Dần dần, trong trầm âm có thể reo của châu ngọc trong trẻo dồn dập, cái thấp xuố ng cái trỗi dậy, phồn âm tăng giảm giống như tiếng suối chảy nước bắn tung tóe, như trăm hoa đua nở lộng lẫy mê hồn, như chim hót líu lo một xướng một họa. Dần dần, bách điểu ly tan, xuân tàn hoa rụng, mưa gió hắt hiu, cảnh vật tiêu điều, hạt mưa thánh thót như có như không. Cuối cùng mọi âm thanh đều lắng lại…
Tiếng tiêu dừng lại một hồi lâu, mọi người như vừa trong mộng mới tỉnh dậy. Tuy bọn Vương Nguyên Bá, Nhạc Bất Quần đều không hiểu âm luật cũng không kìm được lòng đắm đuối say mê.
– Thật đáng khâm phục! Xung nhi, đây là khúc nhạc gì vậy?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Khúc này gọi là “Tiếu ngạo giang hồ” chi khúc. Vị bà bà này thật là thần kỳ, khó có ai tinh thông được cả cầm phổ và tiêu phổ như vậy.
Nhạc phu nhân nói:
– Khúc phổ này quả nhiên kỳ diệu, chỉ có vị bà bà cầm tiêu tuyệt kỹ mới có thể diễn tấu được. Loại âm nhạc mỹ diệu này chắc ngươi mới nghe được lần đầu.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không phải, ngày trước đệ tử đã được nghe qua rồi. Lần đó so với hôm nay càng đặc sắc hơn.
Nhạc phu nhân lấy làm lạ hỏi:
– Thật vậy sao? Chẳng lẽ trên thế gian này còn có người đánh đàn thổi tiêu tuyệt vời hơn vị bà bà này ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Có tuyệt vời hơn vị bà bà này không thì đệ tử không rõ. Nhưng đệ tử đã từng nghe hai người hợp tấu, một người đánh đàn, một người thổi tiêu tấu lên “Tiếu ngạo giang hồ” chi khúc…
Lệnh Hồ Xung chưa nói dứt câu, từ trong bụi trúc lại vọng ra mấy tiếng tình tang rồi tiếng nói của vị bà bà nghe rất nhỏ. Bà nói:
– Cầm tiêu hợp tấu, trên đời này biết tìm người đó ở đâu?
Lục Trúc Ông lớn tiếng nói:
– Dịch sư gia, đây chính là cầm phổ tiêu phổ, cô cô của ta vừa mới tấu xong, ngươi cầm về đi thôi!
Dịch sư gia dạ một tiếng rồi đi vào bụi trúc, cầm khúc phổ đi ra. Lục Trúc Ông dặn dò:
– Trong khúc phổ này có chỗ nét nhạc rất kỳ diệu, thế gian hiếm có. Đây là vật thần kỳ, không thể để rơi vào bọn phàm phu tục tử. Ngươi không biết tấu thì vạn lần không nên cuồng tâm vọng tưởng mà cố học, nếu không chẳng có ích gì cho ngươi mà còn có hại nữa đó.
Dịch sư gia đáp:
– Dạ dạ, vạn lần không dám!
Lão trao khúc phổ lại cho Vương Nguyên Bá.
Vương Nguyên Bá đã nghe rõ tiếng đàn tiếng tiêu, biết rõ đây là khúc phổ liền đưa khúc phổ lại cho Lệnh Hồ Xung, sượng sùng nói:
– Lệnh Hồ hiền điệt, ta xin lỗi vậy!
Lệnh Hồ Xung cười nhạt định nói vài câu mai mỉa nhưng thấy Nhạc phu nhân nhìn mình lắc đầu, đành nhẫn nhịn không nói nữa.
Năm người tổ tôn nhà Vương Nguyên Bá bị bẽ mặt, cúi đầu đi trước, bọn Nhạc Bất Quần cũng đi theo.
Mọi người đi rồi, con hẻm nhỏ trở lại yên tĩnh không một tiếng động; gió thổi lay cành trúc phát ra những âm thanh xào xạc. Lệnh Hồ Xung nhìn khúc phổ trong tay, nhớ lại đêm hôm đó Lưu Chính Phong và Khúc Dương cùng hợp tấu cầm tiêu. Hai người là bạn tri âm mới cùng nhau sáng tác ra bộ khúc phổ thần diệu này. Tuy vị bà bà ở trong bụi trúc gảy đàn thổi tiêu cũng rất tuyệt diệu nhưng đáng tiếc là bà ta chỉ có thể diễn tấu một mình; Lục Trúc Ông thì không thể cùng bà bà hợp tấu được. Lệnh Hồ Xung e rằng khúc cầm tiêu hợp tấu “Tiếu ngạo giang hồ” này từ nay bặt tiếng không còn nghe được lần thứ hai nữa.
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Lưu Chính Phong sư thúc và Khúc Dương trưởng lão, một người là cao thủ chính phái, một người là Ma giáo trưởng lão, một chính một tà thế như nước lửa, nhưng luận bàn đến âm vận thì tâm ý tương thông nên kết thành tri giao mới cùng sáng tác ra khúc “Tiếu ngạo giang hồ” thần diệu tuyệt luân. Lúc hai người nắm tay nhau cùng qua đời lòng họ không còn gì luyến tiếc, còn hơn ta cô độc trên thế gian này, bị sư phụ hoài nghi, sư muội ruồng rẫy, còn một người sư đệ rất kính yêu ta thì lại bị giết do chính tay ta.
Bất giác lòng chàng đau xót, nước mắt rơi lã chã lên khúc phổ rồi không nén được, chàng òa khóc nức nở.
Lục Trúc Ông từ trong bụi trúc nói vọng ra:
– Vì sao bằng hữu lại khóc?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối tự thương thân thế, lại nhớ đến cái chết của hai vị tiền bối đã sáng tác ra khúc phổ này nên không nén được cảm xúc, gây phiền hà cho lão tiên sinh.
Lệnh Hồ Xung nói xong quay người toan đi. Lục Trúc Ông nói:
– Tiểu bằng hữu, ta có mấy lời muốn thỉnh giáo, mời tiểu bằng hữu vào đây nói chuyện được không?
Vừa rồi, Lệnh Hồ Xung nghe lão nói với Vương Nguyên Bá đầy vẻ ngạo mạn, không ngờ đối với mình, một kẻ vô danh tiểu tốt, lại rất kính trọng, vượt ra ngoài sự tưởng tượng. Chàng nói:
– Không dám, tiền bối có điều gì muốn hỏi, vãn bối sẽ phụng cáo.
Lệnh Hồ Xung bước chầm chậm vào rừng trúc.
Trước mặt có năm gian tiểu xá, bên trái hai gian, bên phải ba gian, làm toàn bằng trúc. Một lão già từ trong ngôi nhà nhỏ bước ra, cười nói:
– Tiểu bằng hữu, mời vào uống nước.
Lệnh Hồ Xung thấy Lục Trúc Ông đã già lụ khụ đầu còn lơ thơ mấy sợi tóc nhưng tay chân to lớn, tinh thần quắc thước. Chàng cúi người hành lễ, nói:
– Vãn bối Lệnh Hồ Xung xin bái kiến tiền bối.
Lục Trúc Ông cười ha hả nói:
– Lão hủ bất quá già hơn ít tuổi, không cần đa lễ, xin mời vào!
Lệnh Hồ Xung theo lão đi vào trong nhà, thấy bàn ghế giường tủ làm toàn bằng trúc, trên tường treo một bức tranh thủy mặc vẽ rừng trúc, thế bút tung hoành, mặc tức lâm ly, trông rất hoành tráng. Trên bàn đặt một cây dao cầm và một ống tiêu.
Lục Trúc Ông hớn hở bưng bình trà ra, rót một bát trà xanh biếc rồi nói:
– Xin mời dùng trà.
Lệnh Hồ Xung hai tay đón lấy, cúi người tạ ơn. Lục Trúc Ông nói:
– Tiểu bằng hữu, không biết tiểu bằng hữu từ đâu mà có được bộ khúc phổ này? Có thể nói cho ta biết không?
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, nghĩ lai lịch của bộ khúc phổ này ẩn chứa rất nhiều bí mật, ngay đến sư phụ, sư nương chàng cũng không dám bẩm báo. Nhưng ngày đó Lưu Chính Phong và Khúc Dương đã giao khúc phổ này cho mình để truyền lại cho hậu thế, khỏi bị mai một. Lục Trúc Ông và cô cô của lão tinh thông âm luật đến chỗ thần diệu; cô cô của lão tấu được khúc nhạc đến chỗ lâm ly, tuy tuổi hai người đã cao nhưng ngoài họ ra, trên đời này tìm đâu cho được người thứ ba để truyền lại khúc phổ? Mà dù trên đời này còn có người khác tinh thông âm luật đi nữa, thì tính mạng mình cũng chẳng còn bao lâu, chưa chắc có cơ duyên gặp được. Chàng trầm ngâm một lúc rồi nói:
– Hai vị tiền bối, một vị chuyên chơi huyền cầm, một vị chuyên thổi tiêu, kết thành tri giao mới cùng nhau sáng tác ra khúc phổ này, đáng tiếc đã gặp đại nạn nên cả hai cùng tạ thế. Lúc hai vị tiền bối lâm tử đã giao khúc phổ này lại cho đệ tử, nhờ đệ tử tìm truyền nhân để khúc phổ này không bị mai một.
Lệnh Hồ Xung ngừng một lát lại nói tiếp:
– Vừa rồi đệ tử được nghe vị cô cô của tiền bối gảy đàn thổi tiêu thật tuyệt diệu thì mừng thầm cho khúc phổ này đã tìm được chủ. Vậy xin tiền bối thu lấy khúc phổ này phụng giao cho bà bà, như vậy thì đệ tử đã không phụ sự ủy thác của người đã sáng tác ra khúc phổ mà đệ tử cũng rất mãn nguyện.
– Để ta thỉnh ý cô cô trước đã, xem người có chịu không đã.
Bỗng nghe tiếng của vị bà bà từ trong ngôi nhà nhỏ bên mé trái vọng ra:
– Lệnh Hồ tiên sinh cao nghĩa, khẳng khái tặng khúc phổ thần diệu, chúng ta nếu từ chối thì không được còn nhận thì thật hổ thẹn. Đại danh của hai vị tiền bối đã sáng tác ra khúc phổ này là gì, tiên sinh có thể cho chúng ta biết được không?
Âm sắc của vị bà bà này không giống như giọng nói người già. Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiền bối có lòng hỏi tới, vãn bối tất phải bẩm cáo. Hai vị tiền bối sáng tác ra khúc phổ này một là Lưu Chính Phong sư thúc, một là Khúc Dương trưởng lão.
Bà bà ồ lên một tiếng ra chiều rất kinh ngạc, nói:
– Thì ra là hai người đó.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Tiền bối có biết hai vị Lưu, Khúc này ư?
Bà bà không đáp, trầm ngâm một lúc rồi nói:
– Lưu Chính Phong là cao thủ của phái Hành Sơn, còn Khúc Dương lại là trưởng lão của Ma giáo, hai bên có mối thù truyền kiếp, sao lại cùng nhau sáng tác ra khúc phổ này? Chuyện này thật khiến cho người ta không hiểu nổi.
Tuy Lệnh Hồ Xung chưa thấy qua khuôn mặt của bà bà, nhưng sau khi nghe bà gảy đàn thổi tiêu, chàng cảm thấy bà là một cao nhân tiền bối thanh nhã hiền hòa, quyết không lừa gạt để bán rẻ mình. Nghe bà bà nói về lai lịch của Lưu, Khúc thì rõ ràng là người võ lâm đồng đạo. Lệnh Hồ Xung liền kể lại việc Lưu Chính Phong rửa tay gác kiếm ra sao, Tả minh chủ phái Tung Sơn hạ cờ lệnh ngăn cản thế nào, Lưu Khúc bị trúng chưởng của cao thủ phái Tung Sơn thế nào, cả hai hợp tấu ngoài núi hoang, lúc lâm tử đã chân tình ủy thác cho mình tìm người hiểu biết âm luật để truyền lại khúc phổ này ra sao… Chàng lần lượt kể ra hết, chỉ lược bỏ vụ Mạc Đại tiên sinh đã giết chết Phí Bân. Bà bà lẳng lặng nghe không nói một lời.
Lúc chàng kể xong bà bà mới hỏi:
– Đây rõ ràng là khúc phổ, tại sao Kim đao Vương Nguyên Bá lại cho rằng là bí cấp võ công?
Lệnh Hồ Xung liền đem việc vợ chồng Lâm Chấn Nam bị phái Thanh Thành và Mộc Cao Phong gia hại cùng lời di ngôn nhờ mình truyền lại cho Lâm Bình Chi ra sao, anh em họ Vương đã nghi ngờ thế nào… Chàng chân tình kể ra hết.
Bà bà nói:
– Thì ra là vậy.
Bà dừng một lúc rồi nói tiếp:
– Sao ngươi không kể rõ đầu đuôi cho sư phụ và sư nương ngươi biết để bớt đi điều nghi kỵ? Ta là người xa lạ chưa từng quen biết, sao ngươi lại kể rõ với ta không giấu giếm điều gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đệ tử không hiểu rõ tại sao. Có lẽ sau khi nghe tiền bối nhã tấu, đệ tử ngưỡng mộ phong cách của tiền bối nên không có chút nghi ngờ.
Bà bà nói:
– Vậy tại sao đối với sư phụ sư nương, ngươi lại có ý nghi ngờ?
Lệnh Hồ Xung giật mình đáp:
– Đệ tử vạn lần không dám. Nhưng… ân sư lại đem lòng nghi ngờ đệ tử, chuyện này cũng không trách ân sư được.
Bà bà nói:
– Ta nghe ngươi nói ngữ khí rất yếu ớt. Đang tuổi thanh xuân không ai như vậy cả. Nguyên cớ vì sao? Ngươi bị bệnh hay bị trọng thương?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử bị nội thương rất nặng.
Bà bà nói:
– Trúc hiền điệt, ngươi dẫn vị thiếu quân này đến bên cửa sổ phòng ta để ta chẩn mạch thử coi.
Lục Trúc Ông dẫn Lệnh Hồ Xung đến bên cửa sổ tiểu xá mé trái, bảo hắn đưa tay trái vào bên trong rèm trúc. Phía trong rèm trúc lại có một tấm màn bằng vải sa mỏng. Lệnh Hồ Xung chỉ thấy thấp thoáng có bóng người, còn tướng mạo mặt mũi ra sao thì không thấy được. Chàng nghe ba đầu ngón tay mát rượi đặt lên cổ tay mình.
Bà bà chẩn mạch trong giây lát, kinh hãi ồ lên một tiếng, nói:
– Thật là cổ quái!
Một lúc sau bà nói tiếp:
– Đưa tay phải vào cho ta.
Sau khi chẩn mạch đủ hai tay cho Lệnh Hồ Xung, bà bà trầm ngâm không nói.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Tiền bối không nên lo âu cho sự sống chết của đệ tử. Đệ tử tự biết mình sống chẳng bao lâu nữa nên đã sớm không quan tâm đến tính mạng rồi.
Bà bà hỏi:
– Sao ngươi lại tự biết tính mạng mình không còn lâu dài?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử đã ngộ sát sư đệ, làm mất Tử hà bí cấp của sư môn. Đệ tử chỉ mong tìm được bí cấp trả lại cho sư phụ rồi tự sát để tạ tội với sư đệ.
Bà bà nói:
– Tử hà bí cấp ư? Đó đâu phải là vật phi thường? Vì sao ngươi lại ngộ sát sư đệ?
Lệnh Hồ Xung liền đem chuyện Đào Cốc lục tiên đã trị thương thế nào, sáu luồng chân khí giao chiến trong cơ thể ra sao, sư muội đã ăn cắp bí cấp đem đến để cho chàng tự trị thương nhưng bị cự tuyệt ra sao, sư đệ Lục Đại Hữu tự đọc bí cấp bị chàng xuống tay điểm huyệt quá nặng dẫn đến cái chết thế nào… Lệnh Hồ Xung thực tình kể ra hết.
Bà bà nghe xong bèn nói:
– Không phải ngươi giết sư đệ của ngươi đâu.
Lệnh Hồ Xung giật mình hỏi:
– Không phải đệ tử giết ư?
Bà bà đáp:
– Chân khí của ngươi yếu ớt dù điểm vào huyệt Đản trung của gã thì cũng không thể giết được gã. Sư đệ của ngươi bị người khác giết đó.
Lệnh Hồ Xung lẩm bẩm:
– Vậy ai đã giết Lục sư đệ?
Bà bà nói:
– Người ăn cắp bí cấp chưa chắc đã là người giết sư đệ của ngươi, nhưng hai người này tất có liên quan với nhau.
Lệnh Hồ Xung thở một hơi dài như vừa cất được tảng đá ngàn cân đè lên tâm tư. Chàng cũng đã từng nghĩ tới chuyện chàng điểm huyệt Lục Đại Hữu rất nhẹ làm sao có thể khiến gã chết được. Chỉ vì thâm tâm chàng luôn tiềm ẩn cảm giác Lục Đại Hữu dù phải hay không phải do chàng điểm chết thì cũng vì chàng mà chết. Bậc nam tử hán đại trượng phu há có thể trốn tránh tội lỗi, tìm cớ này cớ nọ để gỡ tội cho mình. Mấy ngày qua Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi thân mật khác thường, chàng đau lòng vì thất tình nên không muốn sống nữa, chỉ nghĩ tới chữ “chết”. Lúc này nghe bà bà giải thích lòng chàng lập tức nảy lên sự phấn khích. Chàng tự nhủ: Báo thù! Báo thù! Phải sống để báo thù cho Lục sư đệ.
Bà bà nói:
– Ngươi bảo trong nội thể ngươi có sáu luồng chân khí giao nghịch nhưng ta lại thấy trong kinh mạch ngươi có đến tám luồng. Tại sao như vậy?
Lệnh Hồ Xung cười ha hả kể lại chuyện Bất Giới hòa thượng đã trị thương cho mình ra sao.
Bà bà tủm tỉm cười rồi nói:
– Tư chất các hạ thông minh, tuy mạch tức hỗn loạn nhưng không giống người bị suy kiệt. Để ta tấu một khúc đàn cho các hạ bình phẩm được chăng?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiền bối đã chiếu cố, đệ tử xin thọ lãnh.
Bà bà ừ một tiếng, tiếng đàn lại ngân lên. Khúc điệu rất nhu hòa tựa như lời nhắn nhủ, lại giống như hạt sương mai thấm nhuần vào cánh hoa, nhẹ nhàng phất phơ như gió thoảng.
Lệnh Hồ Xung nghe được một lúc thì mí mắt trĩu xuống, lòng thầm nhủ: Không thể ngủ được! Ta đang nghe tiền bối gảy đàn, nếu ngủ thì chẳng phải là rất bất kính sao?
Tuy Lệnh Hồ Xung cố sức để giữ tỉnh táo nhưng cuối cùng cũng không kháng cự lại được con ma ngủ. Không bao lâu mi mắt chàng nhắm lại không mở lên được nữa, người mềm ra, nằm xuống đất ngủ ngon lành. Trong giấc ngủ, chàng vẫn nghe văng vẳng tiếng đàn nhu hòa tựa hồ như một bàn tay mềm mại đang vuốt tóc mình, khiến chàng hồi tưởng lại thời ấu thơ được sư nương ôm ấp trong lòng, cảm thụ được sự trìu mến yêu thương của bà.
Qua một hồi lâu, tiếng đàn dừng lại. Lệnh Hồ Xung giật mình tỉnh giấc, vội vàng đứng dậy không giấu được vẻ xấu hổ nói:
– Đệ tử thật đáng chết, không chuyên tâm nghe khúc nhã tấu của tiền bối mà lại ngủ mất tiêu, lòng rất hoảng sợ.
Bà bà nói:
– Ngươi không cần phải tự trách. Ta tấu khúc nhạc vừa rồi là có ý thôi miên, muốn giúp điều hòa các luồng chân khí xung đột trong nội thể của ngươi. Ngươi vận nội tức xem có giảm bớt được khó chịu chút nào không.
Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:
– Đa tạ tiền bối.
Lệnh Hồ Xung liền ngồi xếp bằng xuống đất, từ từ vận nội tức, cảm thấy tám luồng chân khí vẫn xung kích nhau, chỉ khác ở chỗ trước kia máu nóng trong ngực lập tức trào lên khiến muốn nôn ra còn bây giờ thì tình trạng này đã giảm bớt nhiều. Nhưng chàng chỉ vận khí được chốc lát thì đầu nhức mắt hoa, lại ngã lăn ra đất.
Lục Trúc Ông vội chạy lại đỡ dậy rồi đưa chàng vào phòng.
Bà bà nói:
– Công lực của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng rất thâm hậu, họ đã truyền chân khí vào người các hạ. Tiếng đàn mỏng manh của ta chẳng những không điều hòa được mà còn khiến cho các hạ phải chịu thêm đau khổ, ta thật áy náy.
Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Sao tiền bối lại nói vậy? Được nghe khúc nhạc này đệ tử thấy rất có ích cho mình.
Lục Trúc Ông cầm bút nhúng vào nghiên mực viết lên giấy:
– Sao không xin truyền thụ khúc này để có ích suốt đời.
Lệnh Hồ Xung hiểu ra, vội nói:
– Đệ tử bạo gan xin tiền bối truyền thụ cho khúc này để đệ tử tự điều trị thương thế.
Lục Trúc Ông hớn hở, gật đầu lia lịa.
Bà bà không đáp ngay, một lúc sau mới nói:
– Ngươi đánh đàn ra sao? Sao không tấu thử một khúc?
Lệnh Hồ Xung thẹn đỏ mặt, nói:
– Đệ tử chưa bao giờ được học đàn nên chẳng biết chút gì, vậy mà muốn học theo ngón đàn cao thâm của tiền bối thì thật quá mạo muội. Xin tiền bối tha thứ cho cái tội ngông cuồng của đệ tử.
Lệnh Hồ Xung quay sang Lục Trúc Ông xá dài rồi nói:
– Đệ tử xin cáo từ.
Bà bà nói:
– Các hạ hãy khoan đi. Ta được các hạ khẳng khái tặng cho khúc phổ tuyệt diệu, hổ thẹn vì không có gì báo đáp. Các hạ bị trọng thương khó chữa cũng khiến cho ta cảm thấy áy náy. Trúc điệt, ngày mai ngươi hãy truyền thụ cách tấu dao cầm cho Lệnh Hồ thiếu quân. Nếu Lệnh Hồ thiếu quân nhẫn nại có thể ở lại Lạc Dương lâu thì… thì đem khúc “Thanh tâm phổ thiện chú” của ta truyền lại cho Lệnh Hồ thiếu quân cũng được.
Bà nói câu sau cùng rất nhỏ, cơ hồ như không nghe được.
Sáng hôm sau, Lệnh Hồ Xung đến học đàn ở trúc xá trong ngõ hẻm. Lục Trúc Ông lấy ra một cây dao cầm dạy âm luật cho chàng. Lão giảng:
– Nhạc luật có mười hai luật là Hoàng chung, Đại lữ, Thái thốc, Giác chung, Cô tẩy, Trung lữ, Nhung tân, Lâm chung, Di tắc, Nam lữ, Vô xạ, Ứng chung. Những luật này có từ đời xưa. Tương truyền rằng Hoàng Đế ra lệnh cho Thái Luân làm ra nhạc luật, nghe tiếng kêu của loài chim phượng hoàng mà định ra mười hai luật đó. Dao cầm bảy dây có đủ năm âm là Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ; nhất huyền làm Hoàng chung, tam huyền làm Cung điệu, nhạc có năm điệu là Man giác, Thanh thương, Cung điệu, Man cung và Nhung tân.
Lão giải thích rất tường tận. Tuy về âm luật, Lệnh Hồ Xung không biết tí gì nhưng tư chất hắn thông minh, nghe qua thì hiểu ngay. Lục Trúc Ông rất vui liền truyền thụ chỉ pháp, dạy Lệnh Hồ Xung thử tấu một tiểu khúc là “Bích tiêu ngâm”. Lệnh Hồ Xung học vài lần thì tấu được, tuy vài âm chưa chuẩn, ngón tay còn vụng về nhưng chàng tấu lên mênh mang khoáng đạt như vòm trời quang đãng xanh biếc vạn dặm không gợn một chút mây.
Lệnh Hồ Xung tấu xong tiểu khúc, bà bà ở phòng bên tấm tắc khen:
– Lệnh Hồ thiếu quân, thiếu quân học đàn thông minh như vậy thì chẳng bao lâu có thể học được khúc “Thanh tâm phổ thiện chú” rồi.
Lục Trúc Ông nói:
– Cô cô, Lệnh Hồ huynh đệ mới học nhưng đã tấu được khúc “Bích tiêu ngâm”, tình ý trong tiếng đàn còn cao hơn cả điệt nhi nữa. Tiếng đàn đúng là tiếng lòng của Lệnh Hồ huynh đệ thể hiện tính tình phóng khoáng, có nhiều hoài bão.
Lệnh Hồ Xung khiêm tốn nói:
– Tiền bối quá khen, không biết đến bao giờ đệ tử mới có thể tấu được khúc “Tiếu ngạo giang hồ” như tiền bối.
– Hôm qua, đệ tử nghe tiền bối nhã tấu cầm tiêu, lòng rất ngưỡng mộ nên sinh ra si tâm vọng tưởng. Ngay cả Lục Trúc tiền bối cũng không thể tấu được thì nói chi đến đệ tử.
Bà bà không đáp, một lúc sau mới khẽ nói:
– Nếu ngươi có thể đàn được thì hay lắm.
Bà nói rất khẽ rồi buông tiếng thở dài.
Liên tục mười hai ngày, sáng nào Lệnh Hồ Xung cũng tìm đến hẻm nhỏ học đàn trong trúc xá cho đến tối mịt mới về. Chàng ăn cơm trưa với Trúc Ông, tuy chỉ có rau dưa nhưng cảm thấy ngon hơn cá thịt ở nhà Vương Nguyên Bá, tuyệt hơn nữa là mỗi bữa ăn đều được uống rượu ngon. Tửu lượng của Lục Trúc Ông không cao nhưng rượu trữ lại toàn là mỹ tửu. Lão biết rất rộng về rượu, biết rõ lai lịch của các thứ rượu ngon trong thiên hạ, mới nếm qua đã phân biệt được năm chưng cất. Lệnh Hồ Xung nghe được những điều mà mình chưa từng biết, lòng mừng rỡ vô hạn.
Có mấy hôm Lục Trúc Ông đi bán những thứ đan lát được, chàng được bà bà ở phòng bên cạnh chỉ dạy qua bức rèm trúc. Dần dần những thắc mắc trong âm nhạc mà Lệnh Hồ Xung đưa ra thỉnh giáo Lục Trúc Ông khiến lão không giải đáp được, bây giờ Lệnh Hồ Xung được học với bà bà nên hiểu ra ngay.
Nhưng Lệnh Hồ Xung vẫn chưa thấy được khuôn mặt bà bà. Nghe giọng nói dịu dàng của bà, dường như là giọng của một vị thiên kim tiểu thư của một đại gia chứ không giống một bà già ẩn cư trong hang cùng ngõ hẻm. Chàng cho rằng bà bà thấm nhuần âm luật từ thuở ấu thơ nên ngay cả giọng nói cũng rất hay, về già vẫn không thay đổi. Hôm ấy bà bà dạy cho chàng khúc “Hữu sở tư”, một cổ khúc đời Hán, tiết tấu uyển chuyển. Lệnh Hồ Xung nghe mấy lần theo đó mà luyện tập. Không hiểu sao chàng nghĩ lại ngày trước khi chàng và Nhạc Linh San còn là hai đứa trẻ vô tư cùng vui chơi bên nhau, nghĩ đến chuyện cả hai luyện kiếm ở thác nước, chuyện cô đưa cơm lên ngọn núi sám hối. Tình cảm của tiểu sư muội đối với mình rất thắm thiết bỗng dưng xuất hiện gã Lâm Bình Chi thì càng ngày càng lạnh nhạt. Lòng Lệnh Hồ Xung chợt đau xót thê lương, tiếng đàn bỗng biến đổi, xuất hiện mấy âm sơn ca Phúc Kiến, bài hát mà Nhạc Linh San đã hát lúc xuống núi. Lệnh Hồ Xung giật mình, dừng tay không đàn nữa. Bà bà ôn tồn nói:
– Đây là khúc “Hữu sở tư”, ngươi tấu khá lắm, tình ý hòa hợp nhập vào khúc điệu, chắc lòng ngươi đang nghĩ đến chuyện cũ. Nhưng tại sao bỗng nhiên xuất hiện mấy âm điệu Phúc Kiến, nghe ra giống như ly ca thật là khó hiểu? Ấy là vì nguyên cớ gì?
Tính tình Lệnh Hồ Xung vốn phóng khoáng, tâm sự này chất chứa trong lòng đã lâu, mười hai ngày qua bà bà lại đối xử rất tốt. Chàng không nén được nữa bèn kể hết chuyện Nhạc Linh San thay lòng đổi dạ với mình. Lệnh Hồ Xung chân tình kể rõ ngọn ngành, xem bà bà như tổ mẫu, mẫu thân hoặc là tỉ tỉ, muội muội thân thích. Chàng kể xong, cảm thấy rất hổ thẹn bèn nói:
– Thưa bà bà, tâm sự vớ vẩn của đệ tử mà đem kể ra huyên thuyên cả nửa ngày thì thật là… thật là…
Bà bà dịu dàng nói:
– Chuyện nhân duyên không thể cưỡng cầu mà được. Cổ nhân nói rất đúng: “Có mối nhân duyên chẳng chọn người”. Lệnh Hồ thiếu quân, ngày nay Lệnh Hồ thiếu quân thất vọng nhưng biết đâu ngày sau sẽ gặp được giai ngẫu khác.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử cũng không biết có thể sống được bao lâu nữa nên chuyện gia thất chắc không bao giờ có đâu.
Vị bà bà im lặng, tiếng đàn nhẹ vang lên, lại là khúc “Thanh tâm phổ thiện chú”. Lệnh Hồ Xung nghe một lúc đã cảm thấy buồn ngủ. Bà bà dừng đàn, nói:
– Bây giờ ta bắt đầu truyền thụ khúc này cho ngươi, đại khái trong vòng mười ngày thì có thể học xong. Từ nay về sau, mỗi ngày nên học tấu thì công lực không thể phục hồi lại đầy đủ nhưng ít nhiều cũng có lợi.
Lệnh Hồ Xung đáp dạ.
Vị bà bà liền truyền chỉ pháp khúc phổ, Lệnh Hồ Xung dụng tâm ghi nhớ.
Cứ như vậy học được bốn ngày, đến ngày thứ năm, Lệnh Hồ Xung toan đến hẻm nhỏ học đàn thì Lao Đức Nặc vội vàng chạy đến nói:
– Đại sư ca, sư phụ dặn chúng ta ngày mai lên đường.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt nói:
– Mai đi rồi sao? Ta… ta…
Lệnh Hồ Xung định nói cầm khúc ta chưa học xong nhưng lại thôi. Lao Đức Nặc nói:
– Sư nương bảo đại sư ca thu xếp để sáng sớm mai lên đường.
Lệnh Hồ Xung gật đầu, liền đi nhanh đến tiểu xá Lục Trúc, nói với bà bà:
– Ngày mai đệ tử phải cáo từ.
Vị bà bà sửng sốt, một lúc lâu không nói. Phải một lúc lâu nữa, mới cất giọng nhẹ nhàng:
– Phải đi vội vậy ư? Ngươi… khúc này ngươi chưa học xong mà.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đệ tử cũng nghĩ như vậy nhưng khó làm trái mệnh sư phụ. Vả lại, bọn đệ tử là khách cũng không thể ở lâu trong nhà người ta.
Vị bà bà nói:
– Ngươi nói cũng phải.
Bà bà liền truyền thụ chỉ pháp của khúc điệu như mấy bữa trước cho Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung và bà bà gần nhau nhiều ngày, tuy chưa bao giờ thấy mặt bà, nhưng từ trong tiếng đàn và giọng nói chàng biết bà bà rất quan tâm đến mình, chẳng khác gì một người thân. Chỉ vì tính bà lạnh lùng, ngẫu nhiên nói ra một lời thân mật liền lập tức nói sang chuyện khác, hiển nhiên là bà không muốn để mình biết rõ tâm ý bà. Trên đời này có bốn người quan tâm đến Lệnh Hồ Xung nhất là vợ chồng Nhạc Bất Quần, Nhạc Linh San và Lục Đại Hữu. Bây giờ Lục Đại Hữu đã chết, Nhạc Linh San thì đặt cả tấm lòng vào Lâm Bình Chi, còn sư phụ, sư mẫu thì có ý nghi kỵ mình. Chàng cảm thấy người thân thực sự chỉ có hai người là Lục Trúc Ông và vị bà bà này. Trong mấy ngày qua, Lệnh Hồ Xung đã mấy lần muốn thưa rõ với Lục Trúc Ông nguyện vọng muốn ở lại trong hẻm nhỏ này để học cầm tiêu và học nghề đan lát, không muốn quay về phái Hoa Sơn nữa. Nhưng hễ nghĩ đến hình ảnh của Nhạc Linh San thì lại không đành. Chàng thầm nghĩ: Dù tiểu sư muội bỏ mặc, không quan tâm đến ta, nhưng mỗi ngày ta gặp cô ta được một lần, dù chỉ thấy bóng sau lưng, nghe được giọng nói của cô ta dù chỉ một câu là đủ. Huống chi chưa chắc cô ta không quan tâm đến mình?
Trời đã xế chiều, dù rất lưu luyến Lục Trúc Ông và bà bà, Lệnh Hồ Xung đi đến dưới cửa sổ, quỳ xuống lạy mấy cái, thấy mờ mờ trong màn trúc, vị bà bà cũng quỳ xuống đáp lễ. Lại nghe bà nói:
– Tuy ta truyền cầm pháp cho thiếu quân nhưng đó là để báo đáp cái ơn mà thiếu quân đã tặng cho khúc phổ. Lệnh Hồ thiếu quân sao lại hành lễ như vậy?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Hôm nay từ biệt, không biết đến ngày nào đệ tử mới nghe lại nhã tấu của tiền bối. Nếu Lệnh Hồ Xung còn sống thì nhất định sẽ đến Lạc Dương để thăm viếng bà bà và Trúc Ông.
Lòng chàng bỗng nghĩ: Hai người này tuổi đã cao, không biết còn sống được mấy năm, lần sau mình có đến Lạc Dương cũng chưa chắc gặp lại được họ. Lệnh Hồ Xung nghĩ đời người như sương như mộng, bất giác giọng trở nên nghẹn ngào.
Vị bà bà nói:
– Lệnh Hồ thiếu quân, lúc lâm biệt, ta xin có một lời khuyên nhủ.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ, tiền bối có lời giáo hối, Lệnh Hồ Xung không bao giờ dám quên.
Bà bà không nói vội. Trải qua một lúc lâu, bà mới nhẹ nhàng nói:
– Chốn giang hồ phong ba hiểm ác, thiếu quân hãy đề phòng.
Lệnh Hồ Xung dạ, lòng đầy chua xót, chàng cúi người hướng về Lục Trúc Ông cáo biệt. Lại nghe tiếng đàn vang lên trong tiểu xá mé trái, đó chính là khúc “Hữu sở tư”.
Ngày hôm sau, bọn Nhạc Bất Quần cùng cáo biệt cha con Vương Nguyên Bá, ngồi thuyền men theo dòng nước lên hướng Bắc. Năm ông cháu Vương Nguyên Bá tiễn họ lên thuyền, tặng rượu và thức ăn dùng đi đường rất nhiều.
Từ ngày huynh đệ Vương Gia Thuần, Vương Gia Câu bẻ trật cánh tay của mình, Lệnh Hồ Xung và tổ tôn ba đời của Vương gia không nói với nhau lời nào. Đến lúc sắp chia tay, Lệnh Hồ Xung vẫn trợn mắt thờ ơ nhìn năm người họ, dường như trước mắt chàng không hề có Kim đao Vương gia. Đối với tên đại đệ tử này, Nhạc Bất Quần rất đau đầu, biết rõ tính hắn bướng bỉnh, nếu bắt buộc hắn làm lễ cáo biệt Vương Nguyên Bá thì hắn không dám trái sư mệnh sẽ miễn cưỡng nghe theo nhưng sau chuyện này, chắc có lẽ hắn sẽ đi tìm người của Vương gia gây sự , có thể phát sinh thêm lắm điều rắc rối. Vì vậy lão từ tạ Vương Nguyên Bá thêm một lần nữa, giả bộ như không thấy thái độ vô lễ của Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung lạnh lùng nhìn mớ rương lớn rương nhỏ, bao lớn bao nhỏ của Vương gia và những lễ vật mà Vương gia cho Nhạc Linh San. Một tên đầy tớ nữ đi đến thuyền trình lên lễ vật, nói là lão thái thái tặng cho Nhạc cô nương làm lộ phí đi đường, còn nói là đại bà bà tặng cho cô nương mặc đi đường, nhị bà bà tặng cho cô nương đồ đạc để trong thuyền. Họ thật đã coi Nhạc Linh San như là người thân thích. Nhạc Linh San niềm nở tạ ơn, cô nói:
– Chao ôi, tiểu nữ mặc đâu nhiều như vậy, ăn đâu nhiều như vậy!
Đang lúc náo nhiệt, bỗng một lão già quần áo rách rưới chạy đến bên thuyền gọi:
– Lệnh Hồ thiếu quân!
Lệnh Hồ Xung thấy Lục Trúc Ông bất giác sửng sốt. Chàng vội lên bờ cúi người hành lễ. Lục Trúc Ông nói:
– Cô cô bảo ta đem món quà này tặng cho Lệnh Hồ thiếu quân.
Lão nói xong, hai tay dâng một túi dài dài bằng vải thô màu lam hoa trắng có cái đai cũng bằng vải. Lệnh Hồ Xung khom lưng nhận rồi nói:
– Tiền bối có lòng hậu tứ, đệ tử xin nhận lãnh.
Lệnh Hồ Xung vái liên tiếp mấy cái.
Vương Gia Thuần, Vương Gia Câu thấy Lệnh Hồ Xung cung kính đối với một lão quần áo tả tơi mà đối với tổ phụ mình là Kim đao vô địch Vương gia lừng danh trên giang hồ lại trợn mắt không thèm liếc một cái thì trong lòng vô cùng tức giận. Nếu không nể mặt vợ chồng Nhạc Bất Quần và chúng sư huynh đệ, tỷ muội phái Hoa Sơn thì hai gã đã kéo Lệnh Hồ Xung ra đập cho một trận nhừ tử mới hả giận.
Sau khi Lục Trúc Ông đưa cái túi xong, lão bước lên cầu ván để trở lên bờ. Hai anh em họ Vương đưa mắt ra hiệu, chia ra trái phải chặn Lục Trúc Ông lại. Gã vai trái, gã vai phải, cả hai đụng nhẹ vào người Lục Trúc Ông thì lão già rách rưới này không bị rơi tõm xuống nước sao được? Tuy gần bờ nước cạn không làm chết lão nhưng cũng làm cho Lệnh Hồ Xung bẽ mặt. Lệnh Hồ Xung vừa thấy liền la lên:
– Cẩn thận đó!
Lệnh Hồ Xung toan chụp lấy hai gã, bỗng nghĩ lại công lực của mình đã mất hết, đừng nói chụp không được anh em họ Vương mà dù có chụp được đi nữa thì cũng chẳng có tác dụng gì. Lệnh Hồ Xung chỉ ngẩn người ra nhìn anh em họ Vương huých vào người Lục Trúc Ông.
Vương Nguyên Bá quát:
– Không được!
Ở Lạc Dương lão là người có gia có nghiệp, so với hạng người võ công tầm thường thì khác xa. Hai người cháu của lão là thanh niên trai tráng, nếu chúng đụng chết một ông già ốm yếu, phủ nha tra cứu ra thì thật lắm chuyện phiền phức. Nhưng vì lão đang ngồi trong khoang thuyền nói chuyện với Nhạc Bất Quần nên không kịp ra tay ngăn cản. Chỉ nghe bịch một tiếng, đầu vai của hai anh em họ Vương đã huých vào người Lục Trúc Ông. Bỗng hai bóng người bay vọt lên, ùm ùm hai tiếng, anh em họ Vương từ hai bên trái phải đã rơi tõm xuống nước. Lão già như một trái banh da căng tròn, anh em họ Vương vừa huých vào lập tức bị văng ra; còn bản thân lão vẫn bình an vô sự. Lão run run bước từng bước trên tấm ván lên bờ.
Anh em họ Vương bị rớt xuống nước, người trên thuyền nhốn nháo cả lên, mấy thủy thủ nhảy ngay xuống nước cứu hai gã. Bây giờ đang tiết xuân, sông Lạc Thủy tuy đã tan tuyết nhưng nước rất lạnh. Anh em họ Vương không biết bơi nên đã uống mấy ngụm nước sông; chúng lạnh đến nỗi răng đánh bò cạp trông rất thảm hại. Vương Nguyên Bá kinh hãi, khi lão xem lại thì càng kinh hãi hơn bởi vì hai cánh tay của hai gã đều bị trật khớp ở khuỷu tay và bả vai giống như hôm đó hai gã đã bẻ trật khớp cánh tay của Lệnh Hồ Xung. Hai gã luôn mồm chửi rủa, bốn cánh tay xuội đơ.
Vương Trọng Cường thấy hai con bị làm nhục, lão liền vọt người lên bờ, chặn trước mặt Lục Trúc Ông. Lục Trúc Ông vẫn khom lưng cúi đầu từ từ đi về phía trước. Vương Trọng Cường quát:
– Lão là cao nhân phương nào mà đến Lạc Dương Vương gia hý lộng trò ma?
Lục Trúc Ông vờ như không nghe, tiếp tục bước về phía trước, từ từ đến trước mặt Vương Trọng Cường. Ánh mắt mọi người trên thuyền đều hướng về hai người.
Lục Trúc Ông từng bước đi về phía trước, Vương Trọng Cường dang hai tay cản giữa đường. Dần dần khoảng cách giữa hai người càng thu ngắn lại, từ một trượng còn năm thước rồi từ năm thước còn ba thước. Lục Trúc Ông vẫn bước về phía trước. Vương Trọng Cường quát:
– Đi đi!
Hai tay lão vung ra, chụp xuống lưng Lục Trúc Ông. Khi những ngón tay của lão vừa đụng đến sống lưng của Lục Trúc Ông thì đột nhiên thân hình cao to của Vương Trọng Cường bị hất lên không văng ra xa mấy trượng. Trong tiếng hô hoán kinh hãi của mọi người, lão lộn nhào nửa vòng trên không rồi nhẹ nhàng rơi xuống đất. Nếu hai người từ xa lao đến đụng phải nhau, có người văng ra như vậy thì không có gì là lạ. Kỳ lạ là ở chỗ Vương Trọng Cường vẫn đứng bất động mà Lục Trúc Ông lại đi đến gần vẫn hất lão bay lên. Ngay cả bọn cao thủ Vương Nguyên Bá, Nhạc Bất Quần cũng nhìn không rõ lão già này đã sử thủ pháp gì mà hất Vương Trọng Cường văng ra xa mấy trượng như vậy. Lúc Vương Trọng Cường rơi xuống đất, thân người vẫn bình yên, tuyệt không có chút gì lúng túng, người không biết võ công còn cho là lão tự phóng lên để phô diễn khinh công. Bọn gia đinh, kiệu phu vỗ tay hoan hô, khen ngợi nhị lão gia võ công tuyệt vời.
Lúc đầu, Vương Nguyên Bá thấy Lục Trúc Ông vẻ mặt thản nhiên mà hất tung hai đứa cháu và bẻ bốn cánh tay của chúng trật khớp thì lòng đã vô cùng kinh ngạc. Lão tự phụ bản lĩnh của mình cũng có, nhưng lúc sử ra thì uy mãnh bá đạo, quyết không thể nhẹ nhàng tự nhiên và không thể thần tốc như lão già này được. Khi lão già hất tung con của mình lên thì lòng lão lại kinh dị lẫn sợ hãi. Lão biết con thứ của lão đã học được hết chân truyền võ công của mình, đơn đao sử rất vững vàng mãnh liệt mà công phu quyền cước và võ công tu luyện của hắn cũng không kém gì lão lúc còn trai tráng. Nhưng hai người chưa giao thủ chiêu nào mà hắn đã bị đối phương hất tung là chuyện bình sinh lão chưa bao giờ thấy. Thấy con mình bị làm nhục, lão muốn chạy đến động thủ, vội la lên:
– Trọng Cường, lại đây!
Vương Trọng Cường quay người nhảy lên thuyền, nhổ toẹt một ngụm nước miếng, tức tối chửi:
– Lão già thúi tha này chắc sử dụng yêu pháp!
Vương Nguyên Bá hỏi khẽ:
– Ngươi cảm thấy thế nào? Không bị thương chứ?
Vương Trọng Cường lắc đầu. Vương Nguyên Bá nghĩ bụng bản lĩnh của mình chưa chắc đã đối phó được với lão già này, còn nếu nhờ Nhạc Bất Quần ra tay tương trợ thì có thắng cũng không vẻ vang gì. Thôi thì không tính đến chuyện ăn thua nữa, bỏ qua cho xong. Dù sao lão già đã hạ thủ lưu tình, không làm chấn thương hài nhi thì đã giữ thể diện cho mình rồi. Thấy Lục Trúc Ông đi xa dần, trong đầu lão nghĩ ngợi lung tung không nói ra được.
Lão thầm nghĩ: Lão già này là bằng hữu của Lệnh Hồ Xung, chỉ vì hai cháu của ta bẻ trật hai tay của Lệnh Hồ Xung nên lão đến tính sổ cũng làm trật khớp tay của hai đứa cháu. Ta ở Lạc Dương xưng hùng xưng bá lẽ nào để lão già này làm đảo lộn tất cả sao?
Vương Bá Phấn đã sửa lại các khớp xương bị trật của hai đứa cháu rồi cho hai gã thiếu niên ướt như chuột lên kiệu về phủ.
Vương Nguyên Bá đưa mắt nhìn Nhạc Bất Quần nói:
– Nhạc tiên sinh, người này lai lịch thế nào? Lão phu già rồi kém mắt, không nhận ra được vị cao nhân này.
Nhạc Bất Quần nói:
– Xung nhi, lão là ai?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Lão chính là Lục Trúc Ông.
Vương Nguyên Bá và Nhạc Bất Quần cùng ồ lên một tiếng. Tuy hôm đó hai lão đã đến con hẻm nhỏ, nhưng chưa thấy mặt Lục Trúc Ông, chỉ có một mình Dịch sư gia mới biết được Lục Trúc Ông. Dịch sư gia đưa bọn lão đến ngõ Lục Trúc mà không đưa đến tiểu xá nên không ai nhận ra người này.
Nhạc Bất Quần chỉ túi vải lam hỏi:
– Lão đưa tặng cho ngươi cái gì vậy?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử không biết.
Lệnh Hồ Xung mở túi ra, thấy ló ra một cây đoản cầm. Cây đàn đã cũ, rõ ràng là một cổ vật, đuôi đàn khắc hai chữ triện “Yên ngữ”, lại còn ló một cuốn sách, trên bìa sách viết năm chữ “Thanh tâm phổ thiện chú”. Ngực Lệnh Hồ Xung nóng ran, chàng la ồ lên một tiếng.
Nhạc Bất Quần chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung rồi hỏi:
– Sao vậy?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vị tiền bối này không những cho đệ tử một cây dao cầm mà còn sao chép cả cầm phổ cho đệ tử nữa.
Lệnh Hồ Xung giở cầm phổ ra, thấy mỗi trang đều viết đầy những chữ khải nhỏ như rắc hoa, ngoài khúc điệu còn ghi rõ chỉ pháp, huyền pháp và nhiều yếu quyết gảy đàn, nét mực trên giấy còn mới, rõ ràng là vị bà bà mới viết.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến vị tiền bối này đối với mình như người thân thì lòng rất cảm động, khóe mắt ngấn lệ, suýt chút nữa đã rơi nước mắt.
Vương Nguyên Bá và Nhạc Bất Quần thấy cuốn sách ghi chép cách gảy đàn, trong đó có một vài quái tự giống như những quái tự trong khúc “Tiếu ngạo giang hồ”, tuy trong lòng có mối hoài nghi nhưng không biết nói thế nào.
Nhạc Bất Quần nói:
– Vị Lục Trúc Ông này là chân nhân bất lộ tướng, thì ra là một cao thủ trong võ lâm. Xung nhi, ngươi có biết lão là người thuộc môn phái nào không?
Lão đoán rằng Lệnh Hồ Xung dù biết cũng sẽ không trả lời thật, chỉ vì võ công người này quá cao, nếu không hỏi rõ ngọn ngành, thì trong lòng vẫn bất an. Quả nhiên Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử chỉ theo vị tiền bối này học đàn, thật không biết lão giỏi võ công.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần hướng về Vương Nguyên Bá và huynh đệ Vương Bá Phấn, Vương Trọng Cường cung tay từ biệt, rồi nhổ sào kéo dây cho thuyền đi về hướng Bắc.
Thuyền đi được hơn mười trượng, bọn đệ tử bàn luận xôn xao. Có người nói Lục Trúc Ông võ công cao thâm khôn lường; có người lại nói lão ta chưa chắc có bản lĩnh gì, tại huynh đệ họ Vương không cẩn thận mới bị ngã xuống nước, Vương Trọng Cường không muốn hại lão già nghèo nên mới nhảy lên tránh đi.
Lệnh Hồ Xung ngồi ở sau khoang lái không thèm nghe bọn sư đệ sư muội bàn luận, tự mở cầm phổ ra xem, dựa theo lời chỉ dẫn trong sách, dùng ngón tay nhấn dây huyền cầm, sợ làm kinh động đến sư phụ và sư nương nên chỉ làm động tác chứ không dám tấu lên thành tiếng.
Nhạc phu nhân thấy con thuyền thuận buồm xuôi gió đi rất nhanh, nghĩ đến tướng mạo kỳ quặc của Lục Trúc Ông, lòng bà như thủy triều lên xuống. Bà đi đến đầu thuyền thưởng ngoạn phong cảnh. Nhìn một lúc, bỗng nghe tiếng trượng phu nói nhỏ bên tai:
– Sư muội cho Lục Trúc Ông là người thuộc môn phái nào?
Đây chính là câu mà bà muốn hỏi trượng phu, tuy lão hỏi trước nhưng Nhạc phu nhân vẫn hỏi lại:
– Sư ca thấy lão là người thuộc môn phái nào?
Nhạc Bất Quần nói:
– Lão già này hành động kỳ quặc, tay bất động, chân không nhấc mà đã làm chấn động ba cha con Vương gia khiến họ bị văng ra xa mấy trượng. Có lẽ đó không phải là công phu chính phái.
Nhạc phu nhân nói:
– Nhưng lão đối với Xung nhi dường như rất tốt, cũng không muốn sinh sự với Kim đao Vương gia.
Nhạc Bất Quần thở dài nói:
– Chỉ mong chuyện này kết thúc êm đẹp, nếu không thì một đời anh danh của Vương lão gia tử chỉ e chưa chắc đã kết quả tốt đẹp.
Lão ngừng một lúc rồi nói:
– Tuy chúng ta đi đường thủy nhưng mọi người cũng nên cẩn thận là hơn.
Nhạc phu nhân nói:
– Sư ca nói sẽ có người lên thuyền sinh sự à?
Nhạc Bất Quần lắc đầu nói:
– Chúng ta vẫn còn mịt mờ, mười lăm tên bịt mặt tối hôm đó thuộc môn phái nào vẫn chưa hiểu ra. Chúng ta ở ngoài sáng mà địch nhân ở trong bóng tối, tiền đồ chưa chắc được bình an vô sự đâu.
Từ lúc lão chấp chưởng phái Hoa Sơn, chưa bao giờ lão gặp qua trắc trở trọng đại nào. Gần một tháng nay, lão cảm thấy tiền đồ lắm nỗi gian nan nhưng địch nhân là ai, có mưu đồ gì, một chút lão cũng không biết. Chính vì lão càng không biết rõ đối phương nên trong lòng càng nặng trĩu lo âu.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần căn dặn bọn đệ tử ngày đêm nghiêm mật đề phòng, nhưng vẫn không có điều gì xảy ra ngoài ý muốn. Thuyền càng rời xa Lạc Dương, mọi người càng an tâm nên việc đề phòng cũng dần dần lơ là đi.
Một hôm sắp đến phủ Khai Phong, vợ chồng Nhạc Bất Quần và bọn đệ tử bàn về nhân vật võ lâm ở đây. Nhạc Bất Quần nói:
– Phủ Khai Phong tuy là đô thị lớn nhưng võ nghệ không thịnh, các nhân vật như Hoa lão tiêu đầu, Hải lão quyền sư, Dự trung tam anh, những người này võ công và danh vọng đều không cao lắm. Chúng ta ở Khai Phong thưởng ngoạn danh lam thắng cảnh, khỏi viếng thăm bằng hữu để khỏi làm kinh động người ta.
Nhạc phu nhân mỉm cười nói:
– Phủ Khai Phong có một nhân vật rất nổi tiếng, sư ca quên rồi sao?
Nhạc Bất Quần nói:
– Nhân vật rất nổi tiếng ư? Sư muội định nói là… là ai vậy?
Nhạc phu nhân cười nói:
– Cứu một người thì giết một người, giết một người thì cứu một người. Cứu người giết người phải bằng nhau, hễ lỗ vốn thì không làm. Sư ca nói đó là ai?
Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:
– Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ đúng là một nhân vật có tiếng tăm lớn. Nhưng tính tình lão rất kỳ cục, nếu chúng ta đi thăm, chưa chắc lão cho gặp mặt.
Nhạc phu nhân nói:
– Đúng vậy, vì nội thương của Xung nhi rất khó chữa, chúng ta vừa đến Khai Phong phải đi cầu xin vị Sát nhân danh y này mới phải.
Nhạc Linh San lấy làm lạ hỏi:
– Má má, vì sao gọi là Sát nhân danh y? Đã giết người sao còn được gọi là danh y?
Nhạc phu nhân mỉm cười nói:
– Bình lão tiên sinh là một quái… là một kỳ nhân trong võ lâm, y thuật cao minh, nổi tiếng là thầy thuốc giỏi, bất luận thương thế bệnh tật nặng cỡ nào chỉ cần lão đồng ý trị liệu thì trị khỏi. Nhưng tính nết lão rất cổ quái. Lão nói trên đời này nhiều người hay ít người, Ngọc hoàng và Diêm vương đã tính toán với nhau cả rồi. Nếu lão trị khỏi nhiều người, thì số người chết ít đi, người sống nhiều mà người chết ít thì sẽ có lỗi với Diêm vương. Sau này nếu lão chết đi, dù Diêm vương không hỏi tới thì phán quan, tiểu quỷ nhất định sẽ làm khó dễ lão, e rằng những ngày sống ở âm cung rất khó chịu.
Bọn đệ tử nghe nói đều cười rộ. Nhạc phu nhân nói tiếp:
– Vì vậy lão lập lời thề hễ cứu sống một người thì phải giết một người để bù vào. Còn nếu lão giết một người thì nhất định phải cứu sống một người để trả lại. Nghe nói trong nhà lão có treo một tấm biển ở gian đại sảnh, viết rõ: “Trị một người, giết một người. Giết một người, cứu một người. Cứu người giết người bằng nhau, lỗ vốn quyết không làm”. Lão nói làm như vậy thì Ngọc hoàng sẽ không trách lão sát thương nhân mạng mà Diêm vương cũng không oán lão đã cướp sức sống của âm phủ.
Bọn đệ tử nghe Nhạc phu nhân kể chuyện đều cười rộ lên. Nhạc Linh San nói:
– Bình Nhất Chỉ đại phu lý luận hay tuyệt. Nhưng sao lão lại lấy cái tên kỳ cục như vậy? Có lẽ nào lão chỉ có một ngón tay?
Nhạc phu nhân nói:
– Hình như không phải lão chỉ có một ngón tay. Sư ca, sư ca có biết tại sao lão lấy tên như vậy không?
Nhạc Bất Quần nói:
– Bình đại phu có đủ mười ngón tay nhưng lão tự xưng “nhất chỉ” có nghĩa là muốn nói giết người hay cứu người chỉ dùng một ngón tay là đủ. Muốn giết người thì điểm huyệt người bằng một ngón tay cho người đó chết, muốn cứu người cũng chỉ dùng một ngón tay để chẩn mạch.
Nhạc phu nhân nói:
– Thì ra là như vậy. Công phu điểm huyệt của lão nhất định rất lợi hại.
Nhạc Bất Quần nói:
– Ta cũng không rõ lắm, thật ra động thủ với Bình Nhất Chỉ đại phu này chỉ e không có được mấy người. Cao thủ võ lâm đều biết lão rất cao minh về y thuật; người sống trên thế gian mấy ai bảo đảm mình không có mệnh hệ nào, không chừng có ngày sẽ đến cầu xin lão, cho nên ai cũng không dám đắc tội với lão. Nhưng nếu không phải là bất đắc dĩ thì cũng không dám ngang nhiên xin lão trị bệnh.
Nhạc Linh San hỏi:
– Tại sao vậy?
Nhạc Bất Quần đáp:
– Người trong võ lâm xin lão trị bệnh hoặc trị thương đều bị lão buộc phải lập lời trọng thệ trước, sau khi khỏi bệnh hay vết thương lành thì phải nghe lời lão đi giết một người mà lão chỉ định. Đó gọi là lấy mạng đổi mạng. Nếu người lão muốn giết không có liên can gì thì không sao, còn nếu người chỉ định phải giết lại là người chí thân hoặc bằng hữu của người cần trị bệnh, thậm chí là phụ thân, huynh đệ, thê tử, hài nhi, há không phải là khó xử sao?
Bọn đệ tử đều nói:
– Bình đại phu đúng là con người tà môn.
Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca, nếu nói như vậy thì đại sư ca không thể đi cầu xin lão trị thương thế cho rồi.
Lệnh Hồ Xung vẫn ngồi bên cửa khoang thuyền phía sau, nghe sư phụ và sư nương thuật lại thói quen kỳ quặc của Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ, nghe tiểu sư muội nói như vậy, chàng cười nhạt đáp:
– Đúng vậy, chỉ sợ sau khi lão trị lành thương thế cho ta thì bảo ta đến giết tiểu sư muội.
Bọn đệ tử phái Hoa Sơn đều cười ồ.
Nhạc Linh San nói:
– Bình đại phu không thù không oán với tiểu muội, tại sao buộc đại sư ca giết tiểu muội?
Cô quay lại hỏi phụ thân:
– Gia gia, Bình đại phu là người tốt hay là người xấu?
Nhạc Bất Quần nói:
– Nghe đồn lão hành sự hỉ nộ thất thường, khi chính khi tà, không thể nói là người tốt cũng không thể coi là người xấu. Hễ tốt một chút thì là kỳ nhân, hễ xấu một chút thì là quái nhân.
Nhạc Linh San nói:
– Chỉ e rằng lời đồn trên giang hồ hơi quá sự thật. Đến phủ Khai Phong, hài nhi muốn xin bái kiến vị Bình đại phu này.
Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân cùng quát:
– Ngươi không được làm rộn!
Nhạc Linh San thấy sắc mặt của phụ thân và mẫu thân đều vô cùng nghiêm trọng, sợ hãi hỏi:
– Tại sao vậy?
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi muốn rước họa vào thân ư? Loại người này dễ gặp lắm sao?
Nhạc Linh San đáp:
– Gặp một lần mà cũng rước họa vào thân ư? Hài nhi không đi cầu xin lão trị bệnh thì sợ cái gì?
Nhạc Bất Quần nghiêm nét mặt nói:
– Chúng ta đi là để du sơn ngoạn thủy chứ không phải để sinh chuyện thị phi.
Nhạc Linh San thấy phụ thân nổi nóng, không dám nói nữa nhưng đối với Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ lại đầy tính hiếu kỳ.
Giờ Thìn ngày hôm sau, thuyền đến phủ Khai Phong, nhưng vào phủ thành còn một quãng đường nữa. Nhạc Bất Quần cười nói:
– Cách đây không xa, có một nơi mà họ Nhạc chúng ta ngày trước lừng lẫy tiếng tăm, không thể không đến đó.
Nhạc Linh San vỗ tay cười:
– Hay quá, hài nhi biết rồi. Đó là Chu Tiên trấn, nơi Nhạc Bằng Cử, Nhạc gia gia đại phá quân Kim Ngột Truật.
Phàm là người học võ, ai cũng vô cùng kính ngưỡng Nhạc Phi chống giặc Kim bảo vệ tổ quốc. Chu Tiên trấn là nơi ngày xưa Nhạc Phi đại phá giặc Kim, dĩ nhiên ai cũng muốn đi xem. Nhạc Linh San là người đầu tiên nhảy lên bờ. Cô reo lên:
– Chúng ta mau đi Chu Tiên trấn trước rồi mới vào thành Khai Phong ăn cơm sau.
Mọi người từ từ lên bờ, chỉ còn Lệnh Hồ Xung ngồi ở phía sau thuyền. Nhạc Linh San gọi:
– Đại sư ca không đi ư?
Từ khi mất nội lực, Lệnh Hồ Xung mệt mỏi, làm biếng đi lại, lòng nghĩ đợi mọi người lên bờ đi hết mình mới có cơ hội học khúc “Thanh tâm phổ thiện chú”. Chàng nhìn thấy Lâm Bình Chi đứng cạnh Nhạc Linh San ra chiều thân mật thì càng tê tái. Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta không còn nội lực, đi không nhanh.
Nhạc Linh San nói:
– Được rồi, đại sư ca ở lại thuyền nghỉ ngơi, tiểu muội vào phủ Khai Phong mua về cho mấy cân rượu ngon.
Lệnh Hồ Xung thấy cô ta và Lâm Bình Chi sánh vai nhau đi cho kịp mọi người phía trước, lòng bỗng quặn đau. Chàng cảm thấy học xong khúc “Thanh tâm phổ thiện chú” thì có thể trị khỏi được nội thương, nhưng trị được nội thương để làm gì? Học đàn để làm gì? Chàng nhìn sông Hoàng Hà cuồn cuộn ch ảy về phương Đông, chợt thấy kiếp người đau khổ cũng giống như dòng nước chảy dài vô tận. Ý nghĩ tác động đến nội lực, chàng bỗng nghe huyệt Đan điền đau buốt.
Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi đi song song bên nhau ngắm nhìn cảnh vật chuyện trò to nhỏ, chẳng khác nào đôi bạn tâm tình. Nhạc phu nhân kéo tay áo Nhạc Bất Quần, khẽ nói:
– San nhi và Bình nhi còn trẻ, nam nữ đi chung nơi sơn dã thì không sao nhưng đến thành thị lớn thì không được. Hai chúng ta phải đi với chúng mới được.
Nhạc Bất Quần cười nói:
– Sư muội và ta tuổi không còn trẻ nữa, vả lại nam nữ đồng hành thì có sao đâu.
Nhạc phu nhân cười khanh khách rồi bước nhanh lên đi cạnh con gái. Bốn người hỏi thăm khách đi đường rồi đi thẳng về hướng Chu Tiên trấn.
Gần đến thị trấn thấy bên đường có tòa miếu lớn, trên tấm biển viết bốn chữ vàng “Dương tướng quân miếu”.
Nhạc Linh San nói:
– Gia gia, hài nhi biết rồi. Đây là miếu của Dương Tái Hưng. Dương tướng quân chạy nhầm vào sông Tiểu Thương mới bị quân Kim bắn chết.
Nhạc Bất Quần gật đầu nói:
– Đúng vậy. Dương tướng quân vì nước quên mình khiến người đời đem lòng kính ngưỡng. Chúng ta hãy vào miếu chiêm ngưỡng di dung, quỳ lạy anh linh đi.
Bọn đệ tử còn ở đằng xa, bốn người không đợi nữa bèn đi vào miếu trước. Nhìn thần tượng Dương Tái Hưng mặt phấn, áo giáp bạc oai phong lẫm liệt, Nhạc Linh San thầm nghĩ: Dương tướng quân thật là anh tuấn. Rồi cô xoay lại liếc Lâm Bình Chi có ý ngấm ngầm so sánh.
Bỗng nghe ngoài miếu có tiếng người nói:
– Ta nói miếu Dương tướng quân nhất định để thờ Dương Tái Hưng.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần vừa nghe tiếng đều biến sắc, đặt tay vào chuôi kiếm. Lại nghe một người khác nói:
– Trong thiên hạ, tướng quân mang họ Dương rất nhiều, vì sao cứ phải là Dương Tái Hưng? Không chừng là Hậu Sơn kim đao Dương lão linh công, lại có thể là Dương lục lang, Dương thất lang thì sao?
Người khác nói:
– Tại sao không phải là Dương tứ lang?
Người trước nói:
– Dương tứ lang đầu hàng Phiên bang, không ai lập miếu thờ cả.
Người khác nói:
– Ta đứng vào hàng thứ tư, ngươi muốn châm biếm ta đầu hàng Phiên bang phải không?
Người trước nói:
– Ngươi đứng hàng thứ tư thì kệ ngươi, có liên can gì với Dương tứ lang đâu?
Người khác nói:
– Còn ngươi đứng vào hàng thứ năm mà Dương ngũ lang cạo đầu đi tu ở Ngũ Đài Sơn, tại sao ngươi không đi làm hòa thượng luôn cho rồi?
Người trước nói:
– Nếu ta đi làm hòa thượng thì ngươi đầu hàng Phiên bang.
Hai vợ chồng Nhạc Bất Quần nghe giọng nói đầu tiên thì biết là bọn Đào Cốc quái nhân tới, liền vẫy tay ra hiệu cho con gái và Lâm Bình Chi nấp vào sau tượng thần. Vợ chồng Nhạc Bất Quần nấp ở bên trái, Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi nấp bên phải.
Bọn Đào Cốc lục tiên vẫn đứng ngoài miếu cãi nhau om sòm chứ không chịu vào bên trong xem cho rõ. Nhạc Linh San cười thầm: Có gì đâu mà cãi chày cãi cối, Dương Tái Hưng hay là Dương tứ lang thì vào trong mà xem không rõ hơn sao?
Nhạc phu nhân lắng tai nghe cuộc cãi vã bên ngoài nhận ra chỉ có tiếng năm người, còn một người kia quả nhiên đã bị bà đâm chết rồi. Chính bà và trượng phu rời xa Hoa Sơn là để tránh mặt bọn ngũ quái này đề phòng chúng lên núi báo thù. Không ngờ oan gia đối đầu trong đường hẻm, bà lại đụng họ ở đây, bây giờ tuy chưa gặp nhưng một lát nữa bọn đệ tử kéo đến thì làm sao có thể lẩn trốn được. Lòng bà rất lo âu.
Bọn ngũ quái càng tranh cãi càng quyết liệt, cuối cùng một người nói:
– Chúng ta vào coi xem rốt cuộc miếu này thờ cái thứ Bồ Tát thúi tha nào.
Năm lão ùa vào miếu. Một lão lớn tiếng reo lên:
– A ha, các ngươi nhìn đi, đây viết rõ là “Dương công Tái Hưng chi thần” đương nhiên là thờ Dương Tái Hưng rồi.
Người vừa nói là Đào Chi Tiên. Đào Căn Tiên vò đầu nói:
– Ở đây viết là Dương Công Tái chứ đâu phải là Dương Tái Hưng. Thì ra Dương tướng quân họ Dương tên gọi là Công Tái. Ồ, Dương Công Tái, Dương Công Tái, tên nghe thật hay!
Đào Chi Tiên tức giận lớn tiếng nói:
– Ở đây rõ ràng là Dương Tái Hưng, sao ngươi dám nói bậy là Dương Công Tái?
Đào Căn Tiên nói:
– Ở đây viết rõ là Dương Công Tái chứ không phải là Dương Tái Hưng.
Đào Cán Tiên nói:
– Vậy ba chữ “Hưng chi thần” nghĩa là gì?
Đào Diệp Tiên nói:
– Chữ Hưng ở đây đọc là Hứng. Hứng là cao hứng, “Hứng chi thần” nghĩa là tinh thần rất cao hứng. Dương Công Tái là gã họ Dương, chết rồi được người thờ cúng nên tinh thần gã rất cao hứng.
Đào Cán Tiên nói:
– Đúng quá! Đúng quá!
Đào Hoa Tiên nói:
– Ta bảo ở đây thờ Dương thất lang, quả nhiên không sai. Đào Hoa Tiên ta thật là sáng suốt.
Đào Chi Tiên tức giận nói:
– Dương Tái Hưng sao gọi là Dương thất lang được?
Đào Cán Tiên cũng tức giận nói:
– Dương Công Tái sao gọi là Dương thất lang được?
Đào Hoa Tiên nói:
– Tam ca, Dương Tái Hưng đứng hàng thứ mấy?
Đào Chi Tiên lắc đầu đáp:
– Ta không biết.
Đào Hoa Tiên nói:
– Dương Tái Hưng đứng vào hàng thứ bảy nên gọi là Dương thất lang. Nhị ca, Dương Công Tái đứng vào hàng thứ mấy?
Đào Cán Tiên nói:
– Trước kia ta biết, bây giờ quên rồi.
Đào Hoa Tiên nói:
– Tiểu đệ vẫn nhớ lão cũng đứng vào hàng thứ bảy nên gọi là Dương thất lang.
Đào Căn Tiên nói:
– Nếu tượng thần này là Dương Tái Hưng thì không phải là Dương Công Tái, nếu là Dương Công Tái thì không phải là Dương Tái Hưng. Làm sao lại vừa là Dương Tái Hưng vừa là Dương Công Tái được?
Đào Diệp Tiên nói:
– Có chỗ đại ca chưa biết. Chữ “tái” nghĩa là làm sao? Tái có nghĩa là lặp lại một người nữa cho nên hóa thành hai người chứ không phải là chỉ một người. Vì vậy nên Dương Công Tái cũng là Dương Tái Hưng.
Đào Cốc tứ tiên cùng nói:
– Nói có lý lắm!
Bỗng nhiên Đào Chi Tiên nói:
– Ngươi trong tên có chữ Tái nghĩa là thêm một người nữa, vậy Dương thất lang có đến bảy người con, mọi người đều biết chuyện này.
Đào Căn Tiên nói:
– Vậy nếu trong tên có chữ Thiên thì sinh một ngàn người con, có chữ Vạn thì sinh một vạn người con à?
Đào Cốc ngũ tiên càng cãi càng đi xa vấn đề. Nhạc Linh San mấy lần muốn bật cười thành tiếng nhưng cố nén lại được. Bọn ngũ quái tranh cãi một lúc, Đào Cán Tiên bỗng nói:
– Dương thất lang ơi Dương thất lang, chỉ cần ngài phù hộ cho lục đệ chúng ta không chết thì lão tử khấu đầu lạy ngài mấy cái cũng không ngại gì. Ta lạy trước đây.
Lão liền quỳ xuống lạy.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần đưa mắt nhìn nhau, lộ vẻ vui mừng, thầm nghĩ: Lão nói vậy thì quái nhân kia tuy bị kiếm đâm nhưng vẫn còn sống.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần không hiểu lai lịch bọn Đào Cốc lục tiên ra sao cho nên cũng không muốn kết mối oan gia với họ.
Đào Chi Tiên nói:
– Nếu lục đệ chết thì sao?
Đào Cán Tiên đáp:
– Thì ta sẽ đập nát tượng thần rồi đi tiểu lên.
Đào Hoa Tiên nói:
– Dù ngươi có đập nát tượng thần Dương thất lang lại đi tiểu vào thì có nhằm nhò gì đâu? Lục đệ thì chết rồi, ngươi quỳ lạy trước là bị thiệt thòi.
Đào Chi Tiên nói:
– Nói đúng lắm. Ta hãy khoan quỳ lạy, đi hỏi cho rõ vết thương của lục đệ trị khỏi hay không khỏi. Nếu trị khỏi thì đến đây quỳ lạy, còn trị không khỏi thì đến đây đi tiểu vào.
Đào Căn Tiên nói:
– Nếu trị khỏi thì không cần quỳ lạy cũng trị khỏi. Nếu trị không khỏi thì có đi tiểu lên cũng trị không khỏi nên cũng không cần đi tiểu nữa.
Đào Diệp Tiên nói:
– Nếu lục đệ trị không khỏi thì mọi người không đi tiểu ư? Không đi tiểu thì chịu trướng bụng lên mà chết ư?
Đào Cán Tiên òa lên khóc nói:
– Nếu lục đệ không sống nữa thì mọi người không đi tiểu thì không tiểu, trướng bụng chết thì trướng bụng chết.
Bọn tứ tiên đều khóc òa cả lên. Bỗng nhiên, Đào Chi Tiên cười ha hả nói:
– Nếu lục đệ không chết chúng ta bỏ công khóc một trận không phải thiệt thòi lắm sao? Đi, hãy hỏi cho rõ ràng rồi khóc cũng chưa muộn.
Đào Hoa Tiên nói:
– Câu nói này lỗi nặng về cách dùng từ. Nếu lục đệ không chết, bốn chữ “khóc cũng chưa muộn” dùng không đúng rồi.
Đào Cốc ngũ tiên vừa tranh luận vừa bước nhanh ra khỏi miếu.
Nhạc Bất Quần nói:
– Người đó sống chết thế nào là việc rất quan trọng, ta đi thám thính xem sao. Sư muội, sư muội và San nhi bảo bọn đồ đệ ở đây chờ ta về.
Nhạc phu nhân nói:
– Sư ca đi một mình rất nguy hiểm, không có người cứu ứng. Để tiểu muội cùng đi với sư ca.
Bà nói rồi bước ra khỏi miếu. Xưa nay, Nhạc Bất Quần mỗi lần gặp đại sự thì hai vợ chồng liên thủ. Bây giờ nghe vợ nói vậy lão biết là ngăn cản cũng không được, nên không nhiều lời với bà nữa.
Hai người đi ra khỏi miếu, thấy bọn ngũ quái từ con đường nhỏ quẹo vào một thung lũng. Cả hai không dám đến gần, chỉ bám theo xa xa, may sao ngũ quái tranh cãi rất lớn nên nghe rất rõ, biết họ đi về hướng nào. Men theo con đường núi đi qua mười mấy cây liễu lớn, hai người thấy bên con suối có mấy gian nhà ngói. Tiếng tranh cãi của ngũ quái phát ra từ trong nhà. Nhạc Bất Quần nói khẽ:
– Đi vòng ra sau nhà.
Hai vợ chồng triển khai khinh công, chạy qua mé phải hơn một dặm mới vào lại. Phía sau nhà ngói là một hàng liễu, hai người nấp vào sau gốc liễu.
Bỗng nghe tiếng ngũ quái tức giận quát lớn:
– Ngươi giết lục đệ ta rồi!
– Sao ngươi dám mổ ngực lục đệ ta ra?
– Phải bắt quân cẩu tặc này đền mạng.
– Phải mổ ngực lão ra.
– Lục đệ ơi, đệ chết thảm như vậy bọn ta vĩnh viễn không đi tiểu nữa để trướng bụng mà chết theo lục đệ.
Hai vợ chồng Nhạc Bất Quần kinh hãi thầm nghĩ: Tại sao có người mổ ngực lục đệ của chúng? Hai người khom lưng đi đến bên cửa sổ, từ kẽ hở nhìn vào bên trong.
Trong nhà đốt bảy ngọn đèn sáng choang, có kê một cái giường lớn. Trên giường, một người đàn ông trần truồng nằm ngửa, ngực bị mổ ra, máu vẫn chảy, hai mắt nhắm nghiền dường như đã chết từ lâu. Nhìn nét mặt của lão thì đúng là Đào Thực Tiên mà hôm trước đã bị Nhạc phu nhân đâm một kiếm. Đào Cốc ngũ quái đứng quanh giường, chỉ vào một người lùn mập la lối om sòm. Lão lùn mập này đầu thật to, râu như râu chuột, đầu cổ lắc lia lịa, điệu bộ thật buồn cười. Hai bàn tay của lão đầy máu, tay phải cầm một con dao nhỏ sáng choang, lưỡi dao dính đầy máu tươi. Lão nhìn trừng trừng Đào Cốc ngũ quái, một hồi mới trầm giọng nói:
– Các ngươi nói thúi quá, nói hết chưa?
Đào Cốc ngũ quái cùng nói:
– Nói hết rồi, ngươi có lời gì thúi tha thì nói ra đi.
Lão mập lùn nói:
– Tên này dở sống dở chết, ngực bị kiếm đâm, các ngươi rịt thuốc rồi khiêng đến cầu xin ta cứu mạng. Nhưng các ngươi đi quá chậm, miệng vết thương đã bít lại, kinh mạch đều chạy sai đường. Muốn cứu tính mạng của hắn thì được ngay nhưng kinh mạch rối loạn, sau khi sống lại mất hết võ công, nửa thân người bị tàn phế, không cách gì hành động được. Trị một người tàn phế như vậy thì có ích gì?
Đào Căn Tiên nói:
– Dù phế nhân cũng còn hơn người chết.
Lão lùn mập tức giận nói:
– Ta không trị nữa, nếu trị thì phải khỏi hẳn. Trị thành một phế nhân thì lão tử còn mặt mũi nào nữa? Không trị nữa! Các ngươi khiêng xác chết này đi đi, lão tử không thèm trị nữa. Tức chết đi được, tức chết đi được!
– Ta đã bị ngươi làm cho tức chết đi được, sao ngươi biết ta chưa chết?
Đào Cán Tiên nói:
– Bản lĩnh của ngươi đã không trị khỏi lục đệ của ta, sao lại mổ ngực lục đệ ta ra?
Lão mập lùn lạnh lùng nói:
– Ngoại hiệu của ta là gì?
Đào Cán Tiên nói:
– Ngoại hiệu chó ỉa của ngươi là Sát nhân danh y.
Hai vợ chồng Nhạc Bất Quần đều lạnh xương sống, đưa mắt nhìn nhau thầm nghĩ: Thì ra lão lùn mập tướng mạo cổ quái này là Sát nhân danh y tiếng tăm lừng lẫy, tinh thông y thuật, trên giang hồ đều nói hạng nhất là lão Bình Nhất Chỉ này, vậy quái nhân bị trọng thương được bọn chúng khiêng đến xin lão chữa trị là đúng rồi.
Bình Nhất Chỉ lạnh lùng nói:
– Ngoại hiệu của ta là Sát nhân danh y, giết thêm một người thì đâu có gì lạ?
Đào Hoa Tiên nói:
– Giết người có khó gì? Chẳng lẽ ta không biết? Nhưng ngươi chỉ biết giết người chứ không biết chữa trị cho người thì không xứng hai chữ danh y.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Ai nói ta không biết cứu người? Ta mổ ngực tên dở sống dở chết này, nối lại kinh mạch, sau khi trị khỏi thì ngoại công nội công vẫn mạnh như lúc chưa bị thương mới là thủ đoạn của Sát nhân danh y.
Bọn ngũ quái cả mừng đồng thanh nói:
– Thì ra tiên sinh có thể cứu sống lục đệ của chúng ta, bọn ta trách oan tiên sinh rồi.
Đào Căn Tiên nói:
– Sao… sao tiên sinh chưa ra tay chữa trị? Ngực của lục đệ bị tiên sinh mổ ra rồi, máu chảy không ngớt, không chữa trị ngay thì không kịp đâu.
Bình Nhất Chỉ hỏi:
– Sát nhân danh y là ngươi hay là ta?
Đào Căn Tiên nói:
– Dĩ nhiên là tiên sinh rồi.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Đã là ta sao ngươi biết kịp hay không kịp? Vả lại sau khi ta mổ ngực hắn đã tính cách trị rồi, năm con quỷ đáng ghét các ngươi vào la lối om sòm làm sao ta trị được? Ta đã bảo các ngươi đi miếu Dương tướng quân chơi nửa ngày rồi sang miếu Ngưu tướng quân chơi nửa ngày, sao các ngươi về nhanh quá vậy?
Đào Cán Tiên nói:
– Mau ra tay trị thương đi. Chính tiên sinh nói nhiều hay bọn ta nói nhiều đây?
Bình Nhất Chỉ trừng mắt nhìn chăm chăm Đào Cán Tiên rồi lớn tiếng quát:
– Đem kim chỉ ra!
Tiếng quát của lão làm bọn Đào Cốc ngũ tiên và vợ chồng Nhạc Bất Quần giật mình kinh hãi. Một phụ nữ ốm nhách, cao nghệu đi vào phòng, tay bưng cái khay bằng gỗ đặt lên bàn, không nói một lời. Mụ này khoảng bốn chục tuổi, mặt vuông tai to, mắt sâu thâm quầng, da dẻ không còn một chút huyết sắc.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Các ngươi yêu cầu ta cứu sống tên này, quy luật của ta các ngươi đã biết rồi chứ?
Đào Căn Tiên nói:
– Đúng vậy, bọn ta đã đồng ý và đã phát lời thề rồi. Tiên sinh muốn giết người nào thì cứ nói một tiếng, sáu huynh đệ tại hạ tuân lệnh ngay.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Vậy thì được rồi, bây giờ ta chưa nghĩ ra phải giết người nào, đợi ta nghĩ ra hãy nói với các ngươi sau. Các ngươi đứng hết sang một bên cho ta, không ai được nói một câu, chỉ cần phát ra nửa tiếng thì ta lập tức dừng tay. Tên này chết hay sống ta không thèm đếm xỉa đến nữa.
Bọn Đào Cốc lục tiên từ nhỏ ngủ cùng phòng, ăn cùng mâm, chưa bao giờ ngừng miệng một khắc, nằm ngủ mơ cũng tranh luận không thôi. Bây giờ, lão này nhìn lão kia, lão nào cũng đầy lời trong bụng muốn nói ra nhưng nghĩ đến chuyện chỉ cần nói ra một tiếng thì lục đệ mất mạng nên cố gắng nín nhịn, ngay cả thở mạnh cũng không dám thở, lại sợ lỡ không cẩn thận phát ra tiếng đánh rắm thì khổ.
Bình Nhất Chỉ lấy một cây kim lớn xỏ một sợi chỉ thô khâu lại đường mổ trước ngực của Đào Thực Tiên. Mười ngón tay của lão vừa thô vừa ngắn giống như mười củ cải nhưng động tác lại cực kỳ tinh xảo, vung kim như bay, trong khoảnh khắc đã khâu xong vết thương dài chín tấc. Lão lấy ra trong bình sứ các loại thuốc bột, thuốc nước thoa lên vết thương, lại cạy răng Đào Thực Tiên đổ mấy thứ thuốc nước vào miệng. Sau đó lão lấy vải ướt lau vết máu trên người Đào Thực Tiên. Mụ phụ nữ cao ốm đứng một bên giúp đỡ lão đưa kim thay thuốc, động tác cũng rất thuần thục.
Bình Nhất Chỉ liếc nhìn bọn ngũ tiên thấy năm lão máy môi động lưỡi ai ai cũng sốt ruột muốn nói. Lão nói:
– Tên này chưa sống, đợi hắn sống lại các ngươi mới được nói.
Năm lão cứng miệng đơ lưỡi, lúng túng trông rất hoạt kê. Bình Nhất Chỉ hừ một tiếng rồi ngồi xuống một bên. Người phụ nữ đem các thứ kim chỉ dao kéo ra ngoài.
Hai vợ chồng Nhạc Bất Quần núp ngoài cửa sổ, nín hơi ngưng thở. Trong nhà yên lặng không một tiếng động, chỉ cần ngoài cửa sổ có chút động tĩnh thì mọi người trong nhà sẽ phát giác ngay.
Qua một hồi lâu, Bình Nhất Chỉ đứng dậy đi đến cạnh Đào Thực Tiên, đưa tay đánh mạnh lên huyệt Bách hội trên đầu lão. Sáu lão cùng la hoảng lên. Trong sáu lão thì năm người là Đào Cốc ngũ tiên còn một người là Đào Thực Tiên vẫn còn nằm dài trên giường.
Đào Thực Tiên la lên một tiếng rồi ngồi dậy thóa mạ:
– Tổ mẹ nó, sao ngươi đánh vào đầu ta?
Bình Nhất Chỉ mắng:
– Tổ mẹ quân chó đẻ, lão tử không dùng chân khí đả thông huyệt Bách hội cho ngươi, ngươi có thể khỏi nhanh như vậy sao?
Đào Thực Tiên nói:
– Tổ mẹ ngươi, lão tử khỏi mau hay chậm có liên can gì đến ngươi?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Mẹ kiếp, ngươi khỏi chậm há không phải là thủ đoạn của Sát nhân danh y không đủ cao minh ư? Ngươi cứ nằm ỳ trong nhà của ta há không đáng ghét lắm sao?
Đào Thực Tiên nói:
– Tổ mẹ nó, ngươi ghét ta thì ta đi đây, có khó gì?
Lão lồm cồm đứng dậy bước đi. Đào Cốc ngũ tiên thấy lão nói đi thì đi ngay, khỏi bệnh thần tốc như vậy nên vừa kinh hãi vừa vui mừng liền đi theo lão ra khỏi cửa.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần ngạc nhiên thầm nghĩ:
– Y thuật của Bình Nhất Chỉ quả nhiên đáng sợ mà nội lực của lão cũng thật phi thường. Lão vừa đánh vào huyệt Bách hội trên đầu Đào Thực Tiên, nhất định là vận nội lực thâm hậu truyền vào người Đào Thực Tiên mới có thể khiến cho tên này lập tức tỉnh lại.
Còn đang suy nghĩ, hai người thấy bọn Đào Cốc lục tiên đã đi xa rồi, Bình Nhất Chỉ đứng dậy đi qua một gian nhà khác.
Nhạc Bất Quần ra hiệu cho Nhạc phu nhân nhẹ bước đi ra, cách nhà hơn mười trượng mới nhanh bước vọt đi.
Nhạc phu nhân nói:
– Nội công của Sát nhân danh y thật tuyệt diệu nhưng cách hành sự của lão quả thật rất tà môn.
Nhạc Bất Quần nói:
– Bọn Đào Cốc lục quái đang ở đây thì phủ Khai Phong này nhất định có lắm chuyện. Chúng ta mau rời khỏi đây thôi, để khỏi gây ra phiền hà vô lý với bọn chúng.
Nhạc phu nhân hừ một tiếng. Trong đời bà, mấy tháng gần đây đã chịu nhiều ấm ức, trượng phu là chưởng môn một phái trong Ngũ Nhạc kiếm phái lại phải trốn đến nơi này nơi nọ, trời đất bao la mà dường như không có chỗ dung thân.
Hai vợ chồng không nói thêm lời nào nữa nhưng vừa thấy bọn lục quái cả hai đã muốn tránh đi. Nghĩ đến chuyện Đào Thực Tiên cuối cùng không chết, lòng họ nhẹ nhõm như vừa buông được một tảng đá nặng ngàn cân.
Hai người về đến miếu Dương tướng quân, thấy Nhạc Linh San, Lâm Bình Chi và bọn đệ tử đang đợi ở hậu điện. Nhạc Bất Quần nói:
– Về thuyền đi thôi!
Mọi người đều biết bọn Đào Cốc lục tiên đang ở đây, không dám hỏi han nữa liền lật đật về thuyền. Nhạc Bất Quần đang dặn bảo người lái thuyền bỗng nghe tiếng Đào Cốc ngũ tiên cùng la lớn:
– Lệnh Hồ Xung! Lệnh Hồ Xung, ngươi ở đâu?
Vợ chồng Nhạc Bất Quần và bọn đệ tử phái Hoa Sơn đều tái mặt, thấy sáu người vội vã chạy đến thuyền, ngoài ngũ tiên ra còn một người là Bình Nhất Chỉ.
Đào Cốc ngũ tiên nhận ra được vợ chồng Nhạc Bất Quần liền lớn tiếng hoan hô. Năm lão vọt tới định nhảy lên thuyền. Nhạc phu nhân rút trường kiếm, vận kình lực định đâm vào ngực Đào Căn Tiên. Nhạc Bất Quần cũng rút trường kiếm ra, choang một tiếng, lão đè lưỡi kiếm của vợ xuống, nói nhỏ:
– Không nên lỗ mãng!
Mũi thuyền hơi trầm xuống, bọn ngũ tiên đã nhảy lên thuyền.
Đào Căn Tiên lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ Xung, ngươi trốn ở đâu? Sao không chường mặt ra?
Lệnh Hồ Xung tức giận lớn tiếng đáp:
– Ta sợ các ngươi sao? Tại sao ta phải trốn?
Thuyền hơi lắc lư, mũi thuyền có thêm một người nữa nhảy xuống. Đó chính là Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ. Nhạc Bất Quần ngấm ngầm kinh hãi: Ta và sư muội vừa về đến thuyền thì lão lùn mập này cũng đến. Phải chăng lão đã hiểu ra chuyện hai vợ chồng ta nghe lén ngoài cửa sổ? Bọn Đào Cốc ngũ quái đã khó lòng đối phó nổi, bây giờ lại thêm một nhân vật lợi hại, e rằng tính mạng vợ chồng Nhạc Bất Quần này phải bỏ lại phủ Khai Phong rồi.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Xin hỏi vị nào là Lệnh Hồ huynh đệ?
Lời nói của lão rất khách khí. Lệnh Hồ Xung chầm chậm bước đến đầu thuyền nói:
– Tại hạ là Lệnh Hồ Xung, không biết các hạ tôn tính đại danh là gì, có điều chi dạy bảo?
Bình Nhất Chỉ nhìn Lệnh Hồ Xung từ đầu xuống chân nói:
– Có người nhờ ta đến trị thương cho huynh đệ.
Lão đưa tay đặt lên cổ tay của Lệnh Hồ Xung, ngón trỏ đặt lên đúng mạch. Bỗng cặp lông mày của lão nhướng lên, phì một tiếng rồi cặp lông mày từ từ nhăn lại. Lão lại ồ lên một tiếng, ngẩng mặt nhìn trời, tay trái vò đầu không ngớt, miệng lẩm bẩm:
– Quái lạ, thật là quái lạ!
Một lúc lâu, lão đưa tay chẩn mạch tay kia của Lệnh Hồ Xung, hắt hơi một cái rồi nói:
– Thật kỳ lạ, bình sinh lão phu chưa hề gặp qua.
Đào Căn Tiên nhịn không được, nói:
– Có gì đâu mà quái lạ? Tâm kinh của hắn bị thương, ta đã dùng chân khí nội công trị thương cho hắn từ lâu rồi.
Đào Cán Tiên nói:
– Ngươi còn bày đặt nói Tâm kinh của hắn bị thương, rõ ràng là Phế kinh của hắn không ổn, nếu không được ta dùng chân khí đả thông các huyệt ở Phế kinh thì làm sao hắn sống được cho đến ngày nay?
Đào Chi Tiên, Đào Diệp Tiên, Đào Hoa Tiên mỗi người cũng nhao nhao lên, lão nào cũng tự khoe mình có công lớn.
Bình Nhất Chỉ đột nhiên quát lớn:
– Thúi lắm, thúi lắm!
Đào Căn Tiên tức giận nói:
– Ngươi thúi hay là năm huynh đệ ta thúi?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Dĩ nhiên là các huynh đệ ngươi thúi. Trong cơ thể của Lệnh Hồ huynh đệ có hai luồng chân khí tương đối mạnh dường như là của Bất Giới hòa thượng đã truyền vào, còn sáu luồng chân khí yếu ớt chắc là của sáu tên đại ngu ngốc các ngươi.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần nhìn nhau thầm nghĩ Bình Nhất Chỉ quả là một thần y. Lão vừa chẩn mạch thì đã hiểu ra trong người Xung nhi có tám luồng chân khí khác nhau cũng chưa lấy làm lạ, lạ ở chỗ lão lại nói đúng được lai lịch của các luồng chân khí, biết được trong đó có hai luồng của Bất Giới hòa thượng.
Đào Cán Tiên tức giận nói:
– Tại sao chân khí của sáu người bọn ta yếu ớt còn của Bất Giới hòa thượng đầu trọc thì mạnh hơn? Rõ ràng bọn ta mạnh hơn còn lão trọc yếu hơn.
Bình Nhất Chỉ cười nhạt, nói:
– Ngươi nói mà không biết thẹn. Hai luồng chân khí của lão đã đè bẹp sáu luồng chân khí của các ngươi, chẳng lẽ các ngươi dám xưng là mạnh hơn? Tên Bất Giới hòa thượng ngu ngốc ỷ có võ công cao cường nhưng lại không có chút kiến thức nào. Mẹ kiếp, đồ ngu ngốc!
Đào Hoa Tiên đưa ngón tay ra, giả bộ chẩn mạch tay phải của Lệnh Hồ Xung, nói:
– Theo ta biết, chân khí của Đào Cốc lục tiên chúng ta đã trấn áp chân khí của Bất Giới hòa thượng khiến lão không có cách nào nhúc…
Bỗng lão thét lên một tiếng, ngón tay của lão giống như bị cắn một cái, vội rụt về la:
– Úi cha, mẹ kiếp!
Bình Nhất Chỉ cười ha hả, vô cùng đắc ý. Mọi người đều biết lão đã dùng nội công thượng thừa, mượn thân thể của Lệnh Hồ Xung truyền nội lực vào mãnh liệt làm chấn động ngón tay Đào Hoa Tiên.
Bình Nhất Chỉ cười rồi nghiêm sắc mặt nói:
– Các ngươi ngồi trong khoang thuyền đợi ta, không được lên tiếng.
Đào Diệp Tiên nói:
– Ta là ta, ngươi là ngươi, tại sao bọn ta phải nghe lời ngươi?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Các ngươi đã lập lời thề rồi, phải giết một người cho ta, có đúng không?
Đào Chi Tiên nói:
– Đúng vậy, bọn ta chỉ hứa ngươi đi giết một người chứ không có nói phải nghe lời ngươi.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Nghe hay không là tùy các ngươi nhưng nếu ta bảo các ngươi đi giết tên Đào Thực Tiên trong bọn Đào Cốc lục tiên thì các ngươi tính sao?
Đào Cốc ngũ tiên cùng la lớn:
– Có lý nào như vậy? Ngươi vừa mới cứu sống hắn, sao lại bảo bọn ta giết hắn?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Năm người các ngươi đã thề với ta thế nào?
Đào Căn Tiên nói:
– Bọn ta sẽ làm đúng yêu cầu của ngươi, nếu ngươi cứu sống được lục đệ của bọn ta, thì ngươi bảo bọn ta đi giết một người, bất luận người đó là ai bọn ta cũng không được từ chối.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Đúng vậy, ta cứu sống lục đệ của các ngươi chưa?
Đào Hoa Tiên đáp:
– Cứu sống rồi.
Bình Nhất Chỉ hỏi:
– Đào Thực Tiên có phải là người không?
Đào Diệp Tiên nói:
– Đương nhiên là người, chẳng lẽ là quỷ hay sao?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Hay lắm. Ta bảo các ngươi đi giết một người, người đó tên là Đào Thực Tiên.
Đào Cốc ngũ tiên ngơ ngác nhìn nhau, cảm thấy chuyện này ngoài sức tưởng tượng nhưng cũng khó mà chối từ được.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Nếu các ngươi không muốn đi giết Đào Thực Tiên thì ta cũng châm chước cho. Nhưng các ngươi có biết nghe lời ta không? Ta bảo các ngươi vào khoang thuyền ngồi ngoan ngoãn, không ai được náo động.
Bọn Đào Cốc ngũ tiên đều tịt ngòi, lần lượt vào khoang thuyền ngồi nghiêm trang, hai tay để lên gối, không dám nói năng cũng không dám nhúc nhích trông rất hoạt kê.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bình tiền bối, vãn bối nghe tiền bối trị bệnh cứu mạng cho ai đều phải y theo quy tắc, sau khi cứu xong thì người đó phải đi giết một người để bù vào cho tiền bối?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Đúng là có quy tắc này.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vãn bối không muốn giết người cho nên tiền bối cũng đừng trị thương cho vãn bối nữa.
Bình Nhất Chỉ nghe hắn nói vậy, ồ lên một tiếng lại chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung từ đầu đến chân một lượt giống như lão đang quan sát một vật gì cổ quái. Một lúc lâu, lão mới nói:
– Một là bệnh của huynh đệ rất nặng, ta trị không khỏi; hai là dù có trị khỏi thì sẽ có người đồng ý giết, không cần huynh đệ phải ra tay.
Từ lúc thấy Nhạc Linh San thay lòng đổi dạ, Lệnh Hồ Xung cảm thấy không còn hứng thú sống nữa, nhưng khi gặp vị danh y có thể cải tử hoàn sinh này quyết đoán bệnh của mình không có cách nào chữa trị khỏi, chàng bất giác chạnh lòng.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ: Người nào mà oai phong mời được Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ đến tận nơi chẩn mạch cho bệnh nhân? Người này có giao tình gì với Xung nhi?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ, trong cơ thể của huynh đệ có tám luồng chân khí dị chủng, trục không ra mà hóa cũng không được, giáng xuống cũng không mà đè cũng không xong, thật là nan giải. Ta nhận lời ủy thác của người trị bệnh cho huynh đệ, không phải ta không tận lực mà vì bệnh của huynh đệ thực sự có liên quan đến chân khí, không thể dùng kim châm cứu, dùng thuốc men để tạo công hiệu. Ta làm nghề y xưa nay chưa bao giờ gặp qua bệnh trạng thế này. Ta không làm gì được, thật vô cùng hổ thẹn.
Lão lấy từ trong túi ra một cái lọ sứ, đổ ra mười viên thuốc màu đỏ rồi nói:
– Mười viên Trấn tâm lý khí hoàn này bao gồm nhiều dược liệu quý giá, chế luyện không phải dễ. Cứ mười ngày, huynh đệ uống một viên thì có thể kéo dài mạng sống thêm được một trăm ngày.
Lệnh Hồ Xung đưa hai tay nhận lấy, nói:
– Đa tạ tiền bối.
Bình Nhất Chỉ quay người định lên bờ, bỗng lão lại nói:
– Trong lọ còn hai viên, ta tặng luôn cho huynh đệ.
Lệnh Hồ Xung không nhận, nói:
– Những viên thuốc này có công hiệu kỳ diệu, tiền bối hãy giữ lại để cứu người. Vãn bối sống thêm mươi ngày nữa cũng chẳng ích lợi gì cho ai cả.
Bình Nhất Chỉ ngoẹo đầu nhìn Lệnh Hồ Xung rồi nói:
– Chẳng quan tâm đến sự sinh tử là tính cách của bậc đại trượng phu. Chẳng trách… ôi đáng tiếc! Hổ thẹn!
Lão lắc đầu mấy cái rồi vọt lên bờ, bước nhanh.
Lão đến thì đến, đi thì đi, coi chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần chẳng ra gì. Nhạc Bất Quần rất tức giận, chỉ vì ngại trong khoang thuyền còn có năm tên ôn thần chết toi đang ngồi, nếu lão động thủ thì sẽ gặp những chướng ngại.
Bọn ngũ tiên ngồi không nhúc nhích, mắt nhìn xuống mũi, mũi cúi xuống ngực giống như những vị lão tăng nhập định. Nếu lão bảo lái thuyền khởi hành thì phải đem năm tên ôn thần này cùng đi, còn nếu không khởi hành thì không biết năm tên này ngồi lỳ đến bao giờ, cũng không biết chúng có sinh sự để báo thù Nhạc phu nhân đã đâm một kiếm làm bị thương Đào Thực Tiên hay không.
Bọn Lao Đức Nặc, Nhạc Linh San đều tận mắt thấy cảnh bọn chúng xé xác Thành Bất Ưu, nghĩ lại vẫn chưa hết sợ. Mọi người nhìn nhau, không ai dám liếc bọn ngũ tiên.
Lệnh Hồ Xung đi vào khoang thuyền hỏi:
– Trời ơi, các ngươi còn ở đây làm gì?
Đào Căn Tiên nói:
– Bọn ta ngoan ngoãn ngồi đây, chẳng làm gì hết.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bọn ta sắp khởi hành, mời các vị lên bờ cho.
Đào Cán Tiên nói:
– Bình Nhất Chỉ bảo bọn ta phải ngoan ngoãn ngồi trong thuyền không được nói năng cử động, nếu không lão sẽ bắt bọn ta đi giết lục đệ. Vì vậy bọn ta phải ngoan ngoãn ngồi đây, không nói năng lộn xộn.
Lệnh Hồ Xung không nhịn được, cười nói:
– Bình đại phu đã lên bờ lâu rồi, các vị có thể nói năng hành động lộn xộn được rồi.
Đào Hoa Tiên lắc đầu nói:
– Không được! Lỡ lão nhìn thấy bọn ta nói năng hành động lộn xộn thì đại sự hư ráo.
Bỗng nghe trên bờ có tiếng người oang oang la lên:
– Năm tên người không giống người, quỷ không ra quỷ đang ở đâu?
Đào Căn Tiên nói:
– Hình như ai đang gọi bọn ta.
Đào Cán Tiên nói:
– Đâu phải gọi bọn ta. Vì sao bọn ta là người không giống người, quỷ không ra quỷ?
Người trên bờ lại gọi:
– Ở đây còn có một tên người không giống người, quỷ không ra quỷ vừa được Bình đại phu trị thương cho, các ngươi có cần hắn không? Nếu các ngươi không cần thì ta ném hắn xuống sông Hoàng Hà làm mồi cho tôm cá.
Đào Cốc ngũ tiên vừa nghe xong, hô lên một tiếng cả năm lão từ trong khoang thuyền nhảy vọt lên bờ. Chỉ thấy mụ phụ nữ trung niên đã giúp Bình Nhất Chỉ khâu vết thương đứng đó, tay trái đưa ngang ra cầm một cái cáng. Đào Thực Tiên đang nằm trên cáng. Gương mặt mụ nhợt nhạt nhưng khí lực rất mạnh mẽ, một tay cầm cái cáng cộng với Đào Thực Tiên nặng khoảng trăm cân mà thấy vẫn bình thường.
Đào Căn Tiên nói:
– Đương nhiên là cần, sao lại không cần được?
Đào Cán Tiên nói:
– Tại sao mụ dám bảo bọn ta là người không giống người, quỷ không ra quỷ?
Đào Thực Tiên nằm trên cáng cũng há miệng nói:
– Nhìn tướng mạo của ngươi thì mới đúng là người không ra người, quỷ không ra quỷ.
Thì ra Đào Thực Tiên đã được Bình Nhất Chỉ khâu lại vết mổ, uống linh đan diệu dược rồi đập một cái mạnh lên huyệt Bách hội truyền chân khí vào. Lão lập tức đứng dậy ra đi. Nhưng vì mất máu quá nhiều, đi không được bao xa thì lại ngất xỉu. Mụ phụ nữ trung niên này phải khiêng lão đi. Tuy lão bị trọng thương nhưng cái miệng vẫn không nhịn được bèn tranh cãi với người phụ nữ vài câu. Mụ phụ nữ lạnh lùng nói:
– Các ngươi có biết bình sinh Bình đại phu sợ nhất cái gì không?
Đào Cốc lục tiên cùng nói:
– Không biết. Lão sợ cái gì?
Mụ phụ nữ nói:
– Lão sợ vợ nhất!
Đào Cốc lục tiên cười ha hả cùng nói:
– Vậy lão là người chẳng sợ trời chẳng sợ đất mà lại sợ vợ. Ha ha, thật đáng buồn cười.
Mụ phụ nữ lạnh lùng nói:
– Có gì mà buồn cười? Ta chính là vợ của lão.
Đào Cốc lục tiên lập tức im bặt. Mụ phụ nữ nói:
– Ta dặn bảo điều gì, lão không dám trái lời. Ta muốn giết người nào thì lão phải sai các ngươi đi giết.
Đào Cốc lục tiên cùng đáp:
– Dạ dạ! Không biết phu nhân muốn giết ai?
Mụ phụ nữ đưa mắt nhìn vào khoang thuyền, nhìn từ Nhạc Bất Quần tới Nhạc phu nhân rồi từ Nhạc phu nhân đến Nhạc Linh San. Lần lượt liếc qua từng tên đệ tử phái Hoa Sơn. Mỗi người bị mụ nhìn đều sợ đến rợn tóc gáy; người nào cũng biết chỉ cần con mụ xấu xí này chỉ vào ai thì bọn ngũ tiên lập tức xé xác người đó. Dù là cao thủ như Nhạc Bất Quần cũng khó tránh khỏi thủ đoạn của ngũ quái.
Ánh mắt của mụ chuyển qua nhìn lên mặt bọn Đào Cốc lục tiên. Trống ngực của sáu lão đập loạn xạ. Mụ hô lên một tiếng, Đào Cốc lục tiên cùng đáp:
– Dạ dạ!
Mụ lại hừ lên một tiếng, Đào Cốc lục tiên lại cùng đáp:
– Dạ dạ!
Mụ nói:
– Ta chưa nghĩ ra người cần phải giết. Nhưng Bình đại phu nói trong thuyền này có vị Lệnh Hồ công tử mà đại phu vô cùng kính trọng. Các ngươi phải hầu hạ công tử thật đàng hoàng cho đến ngày công tử qua đời mới thôi. Công tử sai bảo điều gì các ngươi phải nghe theo cái đó, không được trái lời.
Đào Cốc lục tiên chau mày hỏi:
– Hầu hạ hắn cho đến chết mới thôi ư?
Bình phu nhân nói:
– Đúng vậy. Phải hầu hạ cho đến chết mới thôi, nhưng tính mạng của công tử không còn quá một trăm ngày, trong một trăm ngày này, các ngươi phải nghe theo lời công tử sai bảo.
Đào Cốc lục tiên nghe nói Lệnh Hồ Xung sống không quá một trăm ngày nữa thì mừng rỡ nói:
– Hầu hạ hắn một trăm ngày thì đâu có khó gì.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bình tiền bối có hảo ý, vãn bối cảm kích vô cùng. Nhưng vãn bối không dám phiền lục vị Đào huynh phải chiếu cố, xin các vị lên bờ, vãn bối cáo từ đây.
Vẻ mặt Bình phu nhân vẫn lạnh lùng, không hề biểu hiện một chút mừng giận nào. Mụ nói:
– Bình đại phu nói nội thương của Lệnh Hồ công tử là do sáu tên ngu ngốc này gây ra, không những làm cho công tử mất mạng mà còn khiến cho Bình đại phu không có cách gì chữa trị được, làm đại phu mất mặt vì không làm tròn lời ủy thác của người ta. Phải phạt tội thật nặng sáu tên ngu ngốc này mới được. Bình đại phu muốn chúng thực hiện đúng lời thề giết một tên trong bọn chúng nhưng bây giờ lại giảm tội, bảo chúng phải đi hầu hạ Lệnh Hồ công tử.
Mụ ngừng một lúc rồi nói tiếp:
– Nếu sáu tên ngu ngốc này không nghe lời Lệnh Hồ công tử mà để cho Bình đại phu biết được, đại phu sẽ lấy mạng liền một tên trong bọn chúng.
Đào Hoa Tiên nói:
– Thương thế của Lệnh Hồ Xung là do bọn ta gây ra. Bọn ta hầu hạ Lệnh Hồ Xung thì cũng rất hợp lẽ. Cái đó gọi là đại trượng phu ân oán phân minh.
Đào Chi Tiên nói:
– Là bậc nam tử hán thì vì bằng hữu mà bị chết đâm chết chém cũng không từ, huống chi chỉ chăm sóc thương thế của Lệnh Hồ huynh đệ.
Đào Thực Tiên nói:
– Thương thế của ta cũng cần người chăm sóc, ta chăm sóc Lệnh Hồ huynh đệ, Lệnh Hồ huynh đệ chăm sóc cho ta, như vậy là huề.
Đào Cán Tiên nói:
– Huống chi chỉ hầu hạ có một trăm ngày, thời gian ngắn ngủn.
Đào Căn Tiên vỗ đùi nói:
– Cổ nhân nghe bằng hữu gặp hoạn nạn, vì nghĩa vượt ngàn dặm mà đến; bọn ta trên đường gặp chuyện bất bình thì rút đao tương trợ…
Bình phu nhân nguýt lão một cái rồi bỏ đi.
Đào Chi Tiên và Đào Cán Tiên khiêng cáng nhảy xuống thuyền. Bọn Đào Căn Tiên nhảy theo, gọi:
– Nhổ sào, nhổ sào!
Lệnh Hồ Xung thấy tình thế này phải để cả sáu lão cùng đi, bèn nói:
– Lục vị Đào huynh, các vị muốn đồng hành với ta thì cũng không sao, nhưng ta dặn các vị đối với sư phụ và sư mẫu ta phải cung kính lễ phép. Nếu các vị không nghe thì ta không cho các vị theo hầu hạ nữa.
Đào Diệp Tiên nói:
– Đào Cốc lục tiên vốn là những người quân tử văn nhã, thiên hạ đều biết. Đừng nói là sư phụ, sư mẫu của Lệnh Hồ huynh mà đến đồ tử đồ tôn của Lệnh Hồ huynh thì bọn ta cũng lễ phép kính trọng.
Lệnh Hồ Xung nghe lão tự xưng là “quân tử văn nhã” thì không nhịn được cười, nói với Nhạc Bất Quần:
– Sư phụ, sáu vị Đào huynh muốn cùng ngồi thuyền theo chúng ta về hướng Đông, ý sư phụ thế nào?
Nhạc Bất Quần nghĩ: Sáu lão này đã không làm khó dễ phái Hoa Sơn, tuy để chúng đi cùng thuyền thì không khỏi canh cánh trong lòng nhưng cũng không đuổi chúng lên bờ được. May mà võ công của chúng tuy cao cường nhưng tâm ý lại điên điên khùng khùng, nếu dùng trí thì không hẳn là không đối phó được. Lão gật đầu nói:
– Được, bọn chúng muốn ngồi thuyền thì cũng không sao. Nhưng tính ta thích yên tĩnh, không muốn nghe bọn chúng cãi lộn huyên thuyên.
Đào Cán Tiên nói:
– Nhạc tiên sinh nói vậy là sai rồi. Người ta sinh ra ở đời có cái miệng để làm gì? Ngoài việc ăn cơm ra, cái miệng là để nói chuyện. Tại sao có đến hai cái tai? Tất nhiên là để nghe người ta nói. Tiên sinh thích yên lặng tức là đã cô phụ hảo ý của ông trời tạo cho tiên sinh một cái miệng hai cái tai rồi.
Nhạc Bất Quần biết chỉ cần nói với lão một tiếng thì năm cái miệng của năm anh em lão sẽ tham chiến ngay, không biết phải nói đến khi nào mới thôi. Đánh lộn thì đánh không lại bọn chúng mà cãi lộn cũng không thắng được bọn chúng. Lão mỉm cười nói:
– Thuyền gia, khởi hành!
Đào Diệp Tiên nói:
– Nhạc tiên sinh, tiên sinh muốn nhà thuyền nhổ sào phải mở miệng lên tiếng, nếu tính tiên sinh thật sự muốn yên tĩnh thì chỉ nên dùng tay ra hiệu cho nhà thuyền mới phải.
Đào Cán Tiên nói:
– Nhà thuyền ở phía sau đuôi thuyền, Nhạc tiên sinh đứng trong khoang thuyền dẫu có ra hiệu thì nhà thuyền cũng không thấy, chỉ uổng công mà thôi.
Đào Căn Tiên nói:
– Chẳng lẽ tiên sinh không thể bước ra sau thuyền ra hiệu được ư?
Đào Hoa Tiên nói:
– Nếu nhà thuyền không hiểu cái ra hiệu nhổ sào của tiên sinh, hiểu lầm thành ra lật thuyền thì thiệt là hỏng bét.
Trong lúc Đào Cốc lục tiên tranh luận thì nhà thuyền đã nhổ sào khởi hành.
Vợ chồng Nhạc Bất Quần không hẹn mà cùng liếc nhìn Lệnh Hồ Xung rồi liếc nhìn Đào Cốc lục tiên. Cả hai cùng nghĩ đến một chuyện: Bình Nhất Chỉ nói đã nhận lời ủy thác của người ta đến trị bệnh cho Xung nhi. Qua lời nói của lão thì người ủy thác này có địa vị rất cao trong võ lâm đến nỗi tuy lão coi chưởng môn phái Hoa Sơn không ra gì nhưng đối với đồ đệ của phái Hoa Sơn thì lão lại rất kính trọng lễ phép. Ai đã ủy thác lão trị bệnh cho Xung nhi? Lão đã chửi Bất Giới hòa thượng là “Tổ mẹ lão già ngu” thì người ủy thác không phải là Bất Giới hòa thượng rồi.
Nếu trước đây, vợ chồng Nhạc Bất Quần đã gọi Lệnh Hồ Xung đến hỏi cho tường tận thì bây giờ giữa sư đồ đã phát sinh nhiều ngăn cách, hai người đều biết đây không phải là lúc hỏi Lệnh Hồ Xung.
Nhạc phu nhân nghĩ đến Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ cũng không trị được thương thế cho Lệnh Hồ Xung, nói hắn chỉ còn sống khoảng một trăm ngày, lòng bà đau xót bất giác rơi lệ.
Thuận buồm xuôi gió, con thuyền đi rất nhanh, chiều hôm ấy đã đậu lại không xa phủ Khai Phong bao nhiêu. Nhà thuyền làm cơm, mọi người định ăn, bỗng nghe trên bờ có tiếng hỏi:
– Chư vị anh hùng phái Hoa Sơn có đi trên thuyền này không?
Nhạc Bất Quần chưa kịp đáp thì Đào Chi Tiên đã lẹ miệng chen vào nói:
– Đào Cốc lục tiên và chư vị anh hùng phái Hoa Sơn đều ở trên thuyền. Có chuyện gì vậy?
Người đó vui mừng reo lên:
– Hay quá, bọn tại hạ đã chờ ở đây một ngày một đêm. Nào, đưa cả ra đây.
Mười mấy tên đại hán phân thành hai hàng từ trong rạp tranh bên bờ đi ra, mỗi người đều bưng một cái hộp gỗ sơn đỏ. Một hán tử tay không, mình mặc áo lam đi đến trước thuyền khom người nói:
– Tệ chủ nhân được tin Lệnh Hồ thiếu hiệp thân thể khiếm an nên rất lo lắng. Đáng lẽ người thân hành đến thăm nhưng vì về không kịp nên nhờ bồ câu truyền thư ra lệnh bọn tiểu nhân đến kính dâng một ít lễ mọn. Xin Lệnh Hồ thiếu hiệp nhận cho.
Bọn đại hán đi đến đầu thuyền, đặt xuống hơn mười cái hộp. Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:
– Quý chủ nhân không biết là vị nào? Ban cho nhiều như vậy, Lệnh Hồ Xung này hổ thẹn không dám nhận.
Hán tử nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp phúc trạch thâm hậu, nhất định có ngày hồi phục sức khỏe, xin thiếu hiệp bảo trọng.
Hắn nói xong, cúi người hành lễ rồi dẫn bọn đại hán ra đi. Lệnh Hồ Xung nói:
– Không biết ai đã tặng quà cho ta, thật lạ lùng.
Đào Cốc lục tiên nhịn không nổi nữa, cùng nói:
– Mở ra xem đã.
Cả năm lão tranh nhau mở nắp, thấy trong hộp đựng toàn thức ăn điểm tâm, có gà xé thơm phức làm mồi nhậu, lại có cả nhân sâm, lộc nhung, yến sào và đủ loại dược liệu quý giá để tẩm bổ . Hộp sau cùng đựng đầy những thỏi vàng, rõ ràng là để cho Lệnh Hồ Xung tiêu xài trên đường đi. Nói là “lễ mọn” nhưng giá trị số quà thực sự không nhỏ.
Đào Cốc ngũ tiên thấy kẹo mứt, trái cây liền bốc ngay cho vào miệng khen:
– Ngon lắm, ngon lắm!
Lệnh Hồ Xung xem một lượt mười mấy cái hộp, không có thư từ hay tên tuổi, cũng không có dấu hiệu riêng, nên không hiểu được người tặng lễ vật là ai. Hắn quay sang Nhạc Bất Quần nói:
– Sư phụ, đệ tử nghĩ không ra chuyện này. Người tặng lễ vật không có ác ý, cũng không phải là để đùa giỡn.
Lệnh Hồ Xung nói xong bưng hộp điểm tâm mời sư phụ sư nương trước, rồi phân phát cho các sư đệ sư muội.
Nhạc Bất Quần thấy Đào Cốc lục tiên ăn bánh trái không có chút gì khác thường, lão biết là không có độc dược. Lão hỏi Lệnh Hồ Xung:
– Bằng hữu giang hồ của ngươi có ai ở đây?
Lệnh Hồ Xung trầm ngâm một lúc, lắc đầu nói:
– Không có.
Bỗng nghe có tiếng vó ngựa chạy lại, tám kỵ mã chạy theo bờ sông rồi tiếng người gọi:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp phái Hoa Sơn có ở đây không?
Đào Cốc lục tiên vui mừng lớn tiếng đáp:
– Có đây, có đây! Có thứ gì ngon đem tặng hả?
Người đó nói lớn:
– Bang chủ tệ bang hay tin Lệnh Hồ thiếu hiệp đến Khai Phong, lại nghe nói thiếu hiệp rất thích uống rượu nên sai bọn tiểu nhân đem mười sáu hũ rượu ngon cất đã lâu năm vượt ngàn dặm tới đây. Xin Lệnh Hồ thiếu hiệp nhận cho.
Tám kỵ mã chạy đến gần quả nhiên bên yên mỗi con ngựa đều có hai hũ rượu, trên các hũ rượu có chữ đề “Cực phẩm cống tửu”, “Tam oa Lương Phần”, “Thiệu Hưng trạng nguyên hồng”… Mười sáu hũ rượu dường như không giống nhau.
Lệnh Hồ Xung thấy nhiều rượu ngon mừng hơn được tặng các thứ khác, vội chạy tới đầu thuyền cung tay nói:
– Xin tha thứ cho tại hạ mắt kém, không biết quý bang là bang nào, huynh đài tôn tính đại danh là gì?
Hán tử cười nói:
– Bang chủ tệ bang dặn đi dặn lại không được đề cập đến tên tệ bang trước Lệnh Hồ thiếu hiệp. Bang chủ lão nhân gia nói: Một chút lễ mọn này thật quá nhỏ mà xưng tên tệ bang ra thì chẳng hay ho gì.
Gã vẫy tay, các kỵ mã xuống ngựa bưng mười sáu vò rượu đặt lên đầu thuyền.
Nhạc Bất Quần ngồi trong khoang thuyền chăm chú nhìn tám tên hán tử, thấy tên nào thân thủ cũng rất mau lẹ, mỗi tay xách một hũ rượu nhẹ nhàng nhảy lên đầu thuyền như không. Tám hán tử võ công không tuyệt luân, hiển nhiên không cùng một môn phái nhưng cùng một bang hội thì đúng rồi. Tám gã đặt mười sáu hũ rượu lên đầu thuyền xong, khom lưng trước Lệnh Hồ Xung hành lễ rồi lên ngựa đi ngay.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Sư phụ, chuyện này thật là kỳ quái, không biết ai giỡn chơi với đệ tử đem tặng nhiều rượu thế này.
Nhạc Bất Quần nói:
– Chẳng lẽ là Điền Bá Quang? Hay là Bất Giới hòa thượng?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy, hai người này hành sự cổ quái, có lẽ là họ cũng nên. Này, Đào Cốc lục tiên, các vị có uống rượu ngon không?