Hồi 04: Không Tâm Thái

Đinh Điển liếc nhìn ba người kia, hỏi:

– Huynh đệ, bốn chữ số huynh mới đọc, đệ nhớ kỹ chưa?

Địch Vân thấy ba kẻ địch nhân đã đến gần, vây thành một hình vòng cung, trong đó một người cầm đao, một người cầm kiếm, còn một người tuy là tay không nhưng vẻ mặt u ám, thần sắc trông rất dễ sợ. Địch Vân chăm chú nhìn, chưa đáp câu hỏi của Đinh Điển.

Đinh Điển lớn tiếng:

– Đệ nhớ kỹ chưa?

Địch Vân lặng người, nói:

– Chữ thứ nhất là…

Cậu ta vốn nói ra chữ “bốn” nhưng nghĩ ngay: “Nếu mình nói ra, há chẳng để kẻ địch nghe được sao?” Bèn đặt tay trái ra sau lưng, xòe bốn ngón tay chỉ xuống. Đinh Điển nói:

– Tốt!

Tên sử đao cười nhạt, nói:

– Họ Đinh kia, ngươi tự coi là nam tử hán, sao lại đến nỗi này? Lại còn rên rỉ như đàn bà con nít. Mau ngoan ngoãn về với anh em ta, khỏi thương tổn hòa khí.

Tên sử kiếm lại nói:

– Địch đại ca, đã lâu không gặp, huynh khỏe chứ? Ở trong tù chắc là thoải mái lắm nhỉ?

Địch Vân thoáng ngơ ngác, nghe giọng nói quen quen, chú ý nhìn, lập tức nhớ ra, người này là Chu Kỳ, đệ tử thứ hai của Vạn Chấn Sơn, cách biệt lâu năm, nay y đã lún phún ria mép, lại thêm áo quần sang trọng nên nhất thời không nhận ra. Địch Vân mấy năm qua bị hãm hại thê thảm, những nỗi bi phẫn tích tụ bấy lâu nay sôi lên trong tim, mặt đỏ bừng, thét:

– Tưởng là ai, hóa ra là Chu… Chu nhị ca!

Địch Vân vốn định gọi thẳng tên y nhưng rốt cuộc, sau chữ “Chu” lại thêm hai chữ “nhị ca”.

Đinh Điển đoán được ý nghĩ ấy, hét lên:

– Được!

Trong khoảnh khấc quyết đấu sinh tử, Địch Vân có thể ức chế được cơn phẫn nộ, gọi một lời “Chu nhị ca”, cậu ta đã không còn là một kẻ bộp chộp nữa. Đinh Điển nói:

– Vị Chu nhị lang này hẳn là cao đồ của Vạn lão gia. Được lắm, được lắm, ngươi đến làm thuộc hạ của Lăng tri phủ từ lúc nào vậy? Địch huynh đệ, huynh giới thiệu cho đệ một chút. Vị này là Mã Đại Minh trong “Vạn thắng đao môn”. Còn vị kia là hảo thủ ngoại gia của Thái Hàng môn ở Sơn Tây, gọi là “Song đao” Cảnh Thiên Bá. Nghe nói đôi bàn tay sắt của ông ta sắc bén như dao, vì thế mà ngoại hiệu là “Song đao”, kỳ thực ông ta không cần dùng binh khí.

Địch Vân hỏi:

– Võ công của hai vị này thế nào?

Đinh Điển nói:

– Hảo thủ hạng ba, nếu muốn vươn lên hạng hai thì suốt đời cũng không hi vọng.

Địch Vân hỏi:

– Vì sao?

Đinh Điển nói:

– Không hạp, tư chất đã kém, lại không có danh sư truyền thụ.

Hai người một hỏi một đáp, như bên cạnh chẳng có ai. Cảnh Thiên Bá không nhịn được, hét:

– Mẹ kiếp, chết đến nơi còn khua môi múa mép, nếm một đao của ta!

Một đao mà y nói kỳ thực là một chưởng, tiếng thét chưa dứt, chưởng phải đã chém tới.

Đinh Điển sau khi trúng độc, khó lòng vận khí sử kình, không dám đối chưởng, nghiêng mình tránh. Chưởng phải của Cảnh Thiên Bá rơi vào khoảng không, chưởng trái ập tới. Đinh Điển biết đây là “biến thế chưởng” vội lật bàn tay hóa giải. Nhưng một chưởng sắp phóng ra, kình lực hoàn toàn không có, “phách” một tiếng, dưới nách đã bị chưởng phải của Cảnh Thiên Bá đánh trúng. Đinh Điển loạng choạng, “ọe” một tiếng, thổ ra một búng máu tươi. Cảnh Thiên Bá cười:

– Thế nào? Ta hạng ba, ngươi hạng mấy?

Đinh Điển hít một hơi, bỗng cảm thấy nội tức lưu thông. Thì ra chất độc “kim ba tuần hoa” thấm vào huyết quản khiến máu dần dần đông lại, càng lúc càng chảy chậm lại. Chàng vừa thổ ra một búng máu, nội thương tuy không nhẹ bớt, nhưng độc tính tạm thời giảm đi một chút. Chàng thoáng mừng, lập tức bước lên nhằm Cảnh Thiên Bá phóng ra một chưởng. Cảnh Thiên Bá giơ chưởng ngăn lại. Tay trái Đinh Điển quay một vòng tròn, “phách” một tiếng vả mạnh vào miệng y, tiếp đó tay phải lại khoanh một vòng tròn, lật chưởng đánh vào đỉnh đầu Cảnh Thiên Bá. Cảnh Thiên Bá kêu lên một tiếng:

– Ái chà!

Vội nhảy lui phía sau. Chưởng phải của Đinh Điển vung ra, đánh trúng ngực y. Cảnh Thiên Bá lại: “Ái chà!”, lùi thêm hai bước.

Ba chưởng này của Đinh Điển nhờ sự trợ giúp của “Thần chiếu công”, chưởng nào cũng có thể làm mất mạng cao thủ hạng nhất. Cảnh Thiên Bá chỉ có ngoại công là lợi hại, nội công thì tầm thường. Cảnh Thiên Bá bị liền ba chưởng mà vẫn chưa ngã gục. Đinh Điển tự biết cái chết đã đến gần, tuy tính chàng vốn khoáng đạt, lại đã quyết tuẫn tình, nhưng khoảnh khắc này nỗi thống khổ của người anh hùng mạt lộ khiến chàng cảm thấy bi thương.

Cảnh Thiên Bá trúng liền ba chưởng, cả sợ thất sắc, cảm thấy trên mặt, đỉnh đầu và ngực đau ê ẩm, nghĩ bụng ba nơi đều là chỗ chí mạng, không biết thương thế ra sao, không nén được sợ hãi.

Mã Đại Minh liếc mắt nhìn Chu Kỳ, nói:

– Chu huynh đệ, sánh vai tiến lên!

Chu Kỳ nói:

– Phải!

Y tự biết không phải là đối thủ của Địch Vân, nhưng nghĩ trong tay mình có kiếm, mà đối phương thì xích thủ không quyền, lại thêm mấy ngón bàn tay phải đã bị chặt đứt, xương bả vai đã bị xuyên thủng dù võ công có cao cũng không sử dụng được. Thế là y hươi kiếm nhằm Địch Vân mà đâm tới.

Đinh Điển biết Địch Vân chưa luyện xong “Thần chiếu công”, lúc này võ công kém xa trước khi vào tù, nếu tay không đối phó với Chu Kỳ thì chỉ chết uổng mạng. Chàng bèn chao mình một cái, tay trái đoạt lấy trường kiếm của Chu Kỳ. Chiêu này thế đến rất nhanh, chiêu thức đặc biệt lạ, Chu Kỳ chưa kịp nhận ra, ba ngón tay trái của Đinh Điển đã nắm lấy mạch môn trên tay phải Chu Kỳ. Chu Kỳ giật mình, nghĩ rằng chắc phải mất kiếm, tính mạng đi đứt. Nào ngờ, huyệt đạo trên mạch môn vẫn không bị khống chế, liền giằng tay một cái, trường kiếm xoay lại, đâm nhanh vào bên trái ngực Đinh Điển. Đinh Điển nghiêng mình tránh, thở dài một tiếng.

Mã Đại Minh thấy Đinh Điển đánh Cảnh Thiên Bá và Chu Kỳ, hai lần đều sắp chiếm thượng phong nhưng cả hai lần đều không thảng, suy nghĩ một chút chợt hiểu ra lý do: “Lăng tri phủ bảo là Đinh Điển đã bị trúng chất kịch độc, hẳn là độc tính phát tác, công lực đã giảm sút.” Cảnh Thiên Bá thấy Đinh Điển đoạt kiếm không được cũng biết là nội công của Đinh Điển không còn, nghĩ bụng: “Tay họ Đinh này chiêu số lợi hại, nhưng cọp xuống đồng bằng… phì, mẹ nó, cọp xuống đồng bàng bị chó khinh, mình ví thằng tù này với cọp, chẳng phải mình là chó sao?” Hai tên cùng một ý nghĩ, đồng thời nhằm Đinh Điển xông tới.

Địch Vân vọt lên, chặn lại. Đinh Điển nắm vai Địch Vân đẩy ra, hét lên:

– Địch huynh đệ, lui ra.

Tay trái Đinh Điển vươn ra, đã chộp trúng yết hầu Mã Đại Minh. Cú chộp này chỉ cần có nội công tầm thường, ngón tay đã chụp được bộ vị quan trọng như thế tất phải lấy mạng đối phương. Mã Đại Minh sợ hết hồn, bèn lăn ra, tránh thoát.

Đinh Điển than thầm, nội lực càng lúc càng yếu, chỉ nhờ vào chiêu số cao hơn kẻ địch nhiều nên còn có thể cầm cự được chốc lát, nếu không kịp đọc “Liên thành quyết” cho Địch Vân thì bí mật trọng đại này từ đây thất truyền, thật đáng tiếc. Chàng nói:

– Địch huynh đệ, nghe lời huynh. Đệ hãy nấp sau huynh, không cần để ý đến bọn này, chỉ cần nhớ khẩu quyết của huynh. Việc này rất quan trọng, chúng ta thế nào cũng phải thực hiện. Đinh đại ca của đệ bị rơi vào cảnh ngộ hôm nay cũng là vì vậy.

Địch Vân nói:

– Vâng!

Rồi nấp vào sau Đinh Điển. Đinh Điển nói:

– Chữ thứ năm là “mười tám”.

Mã Đại Minh biết Lăng tri phủ hạ lệnh lùng sục đuổi bắt Đinh Điển chủ yếu là để truy tìm bằng được một bí mật võ công, còn Chu Kỳ đến làm thuộc hạ tay sai cho Lăng Thoái Tư chẳng phải vì danh cũng chẳng phải vì lợi mà là theo lệnh của sư phụ ngầm thăm dò “Liên thành quyết.” Lúc này hai người nghe Đinh Điển nói ra chữ thứ năm là “mười tám” trong bụng đều giật thót, chú ý nhớ kỹ. Chỉ nghe Đinh Điển lại nói:

– Chữ thứ sáu là “bảy”.

Ba người Mã Đại Minh, Chu Kỳ và Địch Vân lại cùng thầm chú ý ghi nhớ.

Cảnh Thiên Bá lại chỉ nhận lệnh đi bắt trọng phạm, không biết gì khác, chỉ thấy Đinh Điển niệm niệm mấy từ, “mười bảy”, “mười tám” gì đó, Mã Đại Minh và Chu Kỳ liền lẩm nhẩm đọc theo “mười bảy”, “mười tám”, y cho rằng Đinh Điển đang niệm chú mê hoặc người ta, bèn hét lên:

– Ấy, đừng nghe hắn nói!

Rồi vung chưởng đánh vào Đinh Điển. Nhưng vì sợ đối thủ lợi hại nên đánh xong một chưởng không dám tiến thêm, lập tức lùi lại.

Đinh Điển đứng không vững, ngã sấp xuống. Mã Đại Minh thừa cơ vung đao chém vào vai trái Đinh Điển. Đinh Điển cảm thấy trước mắt tối đen, không biết đường né tránh. Địch Vân cả sợ, không biết giải cứu thế nào bèn vọt lên, húc đầu vào bụng Mã Đại Minh.

Cơn choáng qua đi, Đinh Điển mở mắt ra, thấy Địch Vân và Mã Đại Minh xoắn chặt lấy nhau, Chu Kỳ vung kiếm đang định đâm vào lưng Địch Vân, chàng bèn vung tay trái, hai ngón tay nhằm vào hai mắt Chu Kỳ. Đinh Điển biết khí lực mình đã sắp hết, chỉ nhảm vào chỗ thật mềm yếu như thế thì mới có thể đẩy lui được kẻ địch.

Chu Kỳ không rảnh tay để đâm Địch Vân, vội né sang trái, chính lúc ấy Mã Đại Minh đã nện một cán đao lên đầu Địch Vân, Địch Vân ngã lăn ra đất. Đinh Điển kêu lên:

– Địch huynh đệ, nhớ lấy chữ thứ bảy là…

Bỗng thấy trong ngực trống rỗng, một chưởng của Cảnh Thiên Bá lại đánh tới.

Đinh Điển lắc lắc đầu, bạch quang loang loáng trước mắt, Mã Đại Minh và Chu Kỳ cùng tấn công, Đinh Điển chao mình một cái, đón lấy một đao một kiếm đang đâm tới, “phách phách” hai tiếng, đao kiếm đồng thời đâm trúng người chàng.

Địch Vân kêu to một tiếng, nhảy tới cứu viện. Đinh Điển thừa lúc máu tươi phun ra, độc tính giảm đi một chút vận kình vào hai bàn tay, một chưởng đánh vào thái dương bên phải Mã Đại Minh, một chưởng đánh vào Chu Kỳ.

Chưởng này vốn chắc chắn phải đánh trúng Chu Kỳ, không ngờ Cảnh Thiên Bá lại nhảy vào, thế lao cực mạnh, “cách” một tiếng ngực y hứng trọn phát chưởng của Đinh Điển, xương sườn gãy hết, ngất ngay lập tức.

Hai phát chưởng của Đinh Điển đã dùng hết tinh lực còn lại. Mã Đại Minh chết ngay tại chỗ. Cảnh Thiên Bá thoi thóp, mạng cũng chỉ còn trong khoảnh khắc. Chỉ có Chu Kỳ không bị thương, tay phải nắm vững chuôi kiếm, định rút trường kiếm đang cắm trên người Đinh Điển ra để đâm Địch Vân. Đinh Điển vươn người lên, hai tay ôm chặt ngang lưng Chu Kỳ, kêu to:

– Địch huynh đệ, chạy mau, chạy mau!

Đinh Điển vươn mình lên khiến lưỡi kiếm cắm sâu thêm vào người mấy tấc.

Địch Vân đời nào chịu chạy trốn, nhảy phóc lên lưng Chu Kỳ, bóp chặt yết hầu y, thét lớn:

– Buông Đinh đại ca ra!

Địch Vân không biết thực ra là Đinh Điển túm chặt lấy đối thủ chứ không phải là Chu Kỳ không buông Đinh đại ca của mình ra.

Đinh Điển tự cảm thấy khí lực của mình dần dần suy kiệt, sắp buông lỏng kẻ địch, nếu để Chu Kỳ rút được trường kiếm ra, thoát khỏi mình, Địch Vân sẽ mất mạng, bèn hét lớn:

– Địch huynh đệ, chạy mau! Đừng quan tâm đến ta, ta không sống được nữa rồi!

Địch Vân kêu lên:

– Nếu chết thì cùng chết!

Bèn ráng hết sức bóp chặt cổ họng Chu Kỳ, nhưng sau khi bị xuyên thủng xương bả vai thì gân xương trên tay Địch Vân đều bị tổn thương quá nặng không còn sức mạnh nữa, không thể bóp chết kẻ địch được.

Đinh Điển run giọng nói:

– Hảo huynh đệ, đệ nghĩa khí sâu nặng… không uổng cho ta đã kết giao bằng hữu… với đệ… Kiếm quyết… đáng tiếc không nói hết được. Huynh… huynh rất sung sướng… xuân thủy bích ba… bồn hoa cúc màu lục… ôi! Nàng đặt bên cửa sổ, đệ xem… đẹp biết bao… hoa cúc.

Giọng nối nhỏ dần, mặt ngời sáng, hai tay giữ Chu Kỳ dần dần buông ra.

Chu Kỳ gắng sức, rút trường kiếm ra khỏi người Đinh Điển, lưỡi kiếm toàn máu tươi. Chu Kỳ vội vàng quay mình, mặt đối mặt với Địch Vân, khoảng cách rất gần, y cười nanh ác, vận kình đâm mạnh mũi kiếm vào ngực Địch Vân.

Địch Vân kêu lớn:

– Đinh đại ca, Đinh đại ca!

Bỗng trước ngực cảm thấy đau nhói, liếc nhìn xuống, thấy trường kiếm của Chu Kỳ đã đâm vào ngực mình, bên tai chỉ nghe thấy tiếng cười nanh ác của Chu Kỳ “Ha ha, ha ha!”

Trong chớp mắt, trong óc Địch Vân vùn vụt hiện lên vô số việc thời dĩ vãng – học võ trong nhà sư phụ, cùng Thích sư muội thân thiết không rời, chịu oan khuất trong nhà Vạn Chấn Sơn, năm năm khổ sở trong tù… ôi, bao nhiêu là chuyện cùng cuộn lên trong lòng, bi phẫn tắc nghẹn cả lồng ngực. Địch Vân kêu lớn:

– Ta… ta… và ngươi đồng quy ư tận.

Rồi vươn tay ôm chặt lấy Chu Kỳ.

Địch Vân luyện “Thần chiếu kinh” tuy chưa thành công nhưng cũng đã có hai năm căn cơ, lúc này biết mình sấp chết, khí lực toàn thân đều ngưng tụ ở hai tay, ôm chặt kẻ địch như một cái cùm sắt. Chu Kỳ cảm thấy nghẹt thở, gắng sức giãy giụa, nhưng không cách gì thoát thân.

Địch Vân cảm thấy trước ngực mỗi lúc một đau, cũng không còn rảnh để suy nghĩ, hai tay chỉ gắng hết sức xiết chặt lấy Chu Kỳ. Phải chăng cậu muốn xiết chặt cho chết kẻ địch, cũng không biết nữa, chỉ không thể nào buông tay. Nhưng trường kiếm không đâm sâu vào thêm nữa, tựa như gặp phải một lực cản không thể nào xuyên qua, thân kiếm dần dần cong thành vòng cung, cong dần, cong dần. Chu Kỳ vừa sợ hãi vừa ngạc nhiên, tay phải càng gắng sức đâm mạnh, muốn dùng trường kiếm xâu qua người Địch Vân nhưng không thể đâm vào được nữa.

Địch Vân đỏ ngầu hai mắt, chiếu tia mắt vào mặt Chu Kỳ, mới đầu thấy nét mặt y toàn vẻ đắc ý và tàn nhẫn nhưng dần biến thành ngạc nhiên và kinh hãi, lại qua một lúc, sự sợ hãi càng ngày càng tăng. Trường kiếm của Chu Kỳ rõ ràng đã đâm trúng Địch Vân nhưng chỉ khiến da thịt lõm vào một chút, không thể đâm sâu thêm nữa. Y ba lần vận nội kình vào tay phải vẫn không thể đẩy mũi kiếm sâu thêm, hoảng sợ, y không nghĩ đến chuyện sát thương Địch Vân nữa chỉ muốn thoát chân chạy trốn, nhưng bị Địch Vân ôm chặt cứng, không sao giãy ra được. Chu Kỳ cảm thấy tay phải của mình dần dần bị ép, chuôi kiếm sát tới ngực mình mũi kiếm cũng bị oằn, thân kiếm cong lại thành hình vòng cung. Trong hoảng hốt, chỉ nghe “cách” một tiếng, thân kiếm gãy đôi. Chu Kỳ kêu to một tiếng, ngã ngửa ra phía sau, hai nửa kiếm gãy sắc bén cùng đâm vào bụng y.

Chu Kỳ ngả xuống, Địch Vân cũng ngã nhào theo, đè lên người y, hai tay vẫn ôm chặt không rời. Địch Vân nghe thấy mùi máu tanh nồng nặc, thấy nước mắt chảy ra từ hai mắt Chu Kỳ hòa với máu từ trong miệng ộc ra, đầu ngoẹo sang một bên, không hề động đậy.

Địch Vân lấy làm lạ, còn sợ y giả chết, không dám buông hai tay ra, rồi cảm thấy trước ngực mình hết đau, lại thấy miệng Chu Kỳ ộc máu ra không ngừng. Địch Vân bàng hoàng buông tay, đứng dậy, chỉ thấy hai nửa kiếm gãy đâm vào trong bụng Chu Kỳ chỉ còn chuôi kiếm và mũi kiếm lộ ra ngoài. Khi cúi đầu nhìn xuống trước ngực mình, thấy áo ngoài bị rách một đường khoảng hơn một tấc, bỗng tỉnh ngộ – thì ra tấm “áo tằm đen” mặc sát người đã cứu mạng mình và nhân đó mà giết cả kẻ thù.

Địch Vân vừa định thần, lập tức quay mình lao đến bên Đinh Điển, kêu lớn:

– Đinh đại ca, Đinh đại ca. Huynh… huynh… sao rồi?

Đinh Điển từ từ mở mắt nhìn Địch Vân. Mắt anh không còn thần khí nữa, như nhìn mà không thấy hoặc không nhận ra là ai. Địch Vân kêu lên:

– Địch đại ca, đệ… đệ thế nào cũng phải cứu huynh.

Đinh Điển thều thào nói:

– Đáng tiếc… đáng tiếc kiếm quyết, từ nay… từ nay thất truyền rồi, hợp táng… Sương Hoa…

Địch Vân lớn tiếng, nói:

– Huynh yên lòng, đệ nhớ… nhất định hợp táng cho huynh và Lăng tiểu thư, thực hiện tâm nguyện của hai người.

Mi mắt Đinh Điển dần dần khép lại, hơi thở yếu ớt, nhưng đôi môi vẫn mấp máy như muốn nói. Địch Vân ghé tai đến bên môi, mơ hồ nghe thấy: “Chữ thứ mười một…” nhưng rồi không nghe thấy gì nữa. Địch Vân cảm thấy không còn hơi thở nữa, đưa tay sờ lên ngực, trái tim chàng đã ngừng đập.

Địch Vân đã sớm biết Đinh Điển không thể sống nổi, nhưng khoảnh khắc này mới thực sự nhận thấy người anh mấy năm nay thân như ruột thịt đã bỏ mình mà đi. Địch Vân quỳ bên Đinh Điển, gắng sức hà hơi vào miệng chàng, lòng không ngừng cầu nguyện: “Ông trời ơi, ông trời ơi, hãy cho Đinh đại ca sống lại, tôi thà trở lại trong tù, mãi mãi không ra nữa. Tôi thà không báo thù, thà suốt đời này chịu sự hành hạ ức hiếp của bọn đệ tử Vạn môn, ông trời ơi, ngàn vạn lần xin hãy cho Đinh đại ca sống lại…”

Hai tay Địch Vân ôm chặt Đinh Điển nhưng cảm thấy da thịt Đinh Điển càng lúc càng cứng đờ, càng lúc càng lạnh giá, biết rằng những lời cầu nguyện của mình đều rơi vào khoảng trống. Trong khoảnh khắc cảm thấy vô cùng hiu quạnh, vô cùng cô đơn, cảm thấy thế giới tự do tự tại bên ngoài so với phòng giam chật chội càng đáng sợ hơn nhiều, từ nay về sau càng buồn thảm, thà cùng Đinh Điển trở lại nhà tù.

Địch Vân ôm ngang thi thể của Đinh Điển, đứng dậy, bỗng những nỗi thống khổ bi thương vô hạn vô cùng cùng ập đến trái tim.

Địch Vân cất tiếng khóc vang, gào khóc vang không còn sợ bất kỳ điều gì nữa. Cậu hoàn toàn không nghĩ rằng tiếng khóc sẽ khiến bọn săn lùng tìm đến, cũng không nghĩ rằng nam nhi mà còn khóc lóc là đáng xấu hổ. Nỗi bi thương trong lòng không sao kiềm chế nổi.

Khi nước mắt dần cạn, tiếng kêu khóc chỉ còn nghẹn ngào thổn thức, nỗi bi thương không sao nén nổi trong lòng vẫn là nỗi bi thương không sao nén nổi, nhưng khi đầu óc tỉnh táo ra một chút, Địch Vân mới bất đầu suy nghĩ: “Thi thể của Đinh đại ca phải làm sao đây? Mình làm sao để đem Đinh đại ca đến chôn chung một mồ với Lăng cô nương?” Lúc này không có một ý nghĩ nào khác, đây là đại sự duy nhất trên đời.

Bỗng, có tiếng vó ngựa từ xa vọng đến, mỗi lúc một gần, có đến hơn mười kỵ binh. Nghe có tiếng người hô lớn:

– Mã đại gia, Cảnh đại gia, Chu nhị gia, có thấy tù trốn không?

Mười kỵ binh đã đến ngoài phế viên, cùng dừng lại. Có người kêu lên:

– Vào đây xem xem!

Lại có người nói:

– Chúng không nấp ở đây đâu.

Một người hỏi:

– Sao biết được?

“Bốp” một tiếng, người kia đã nhảy phắt xuống ngựa.

Địch Vân không suy nghĩ gì nữa, ôm thi thể Đinh Điển, theo cửa bên vườn chạy ra, vừa mới ra khỏi cửa, đã nghe mấy người kêu lên kinh hãi, phát hiện ra thi thể của ba tên Mã Đại Minh, Cảnh Thiên Bá và Chu Kỳ.

* * *

Địch Vân chạy cuống cuồng trong thành Giang Lăng. Biết rằng cứ ôm thi thể của Đinh Điển thế này thì vừa không thể chạy nhanh vừa dễ bị người ta phát hiện bất cứ lúc nào. Nhưng thà bị bắt lại, tống giam, thà bị cực hình, chứ quyết không bỏ Đinh đại ca.

Chạy được mấy chục trượng, thấy có một cánh cửa nhỏ khép hờ bèn xông vào, trở chân đá cánh cửa khép lại. Chỉ thấy bên trong là một vườn rau lớn trồng đủ các thứ – củ cải, rau cải, cà, đậu đũa, khoai lang… Địch Vân từ nhỏ đã quen với nghề nông, năm năm xa cách các thứ rau này, bây giờ chợt gặp lại, trong lòng cảm thấy ấm áp và thân thiết. Nhìn bốn phía thấy ở góc đông bắc là một kho củi, qua cửa hông thấy chất đầy những bó củi, và rơm cỏ khô. Địch Vân cúi mình vẹt mấy cây sả, ôm thi thể Đinh Điển đi vào kho củi.

Nghiêng tai nghe ngóng, bốn phía không có tiếng người, bèn khuân mấy bó củi, rơm cỏ trải ra đặt Đinh đại ca lên, rồi nhẹ nhàng dùng rơm cỏ phủ lên. Trong lòng vẫn còn hi vọng: “Biết đâu Đinh đại ca bỗng tỉnh lại.”

Tước vội vỏ củ cải, cắn một miếng lớn, nước củ cải sống ngọt ngọt cay cay chảy vào cổ họng. Hơn năm năm chưa được nếm, nhớ lại ngày ở làng quê Hồ Nam không biết bao nhiêu lần cùng sư muội Thích Phương nhổ củ cải, đi thong thả trên đồng, tước củ cải nhai rau ráu…

Địch Vân ăn hết củ này sang củ khác, mắt rưng rưng, bỗng mơ hồ nghe thấy tiếng gọi. Địch Vân chấn động toàn thân, nửa củ cải trong tay rơi xuống đất. Trên củ cải trắng ngần dính đầy đất cát, cỏ và rơm vụn.

Địch Vân nghe thấy thanh âm trong trẻo dịu dàng kêu gọi:

– Không Tâm Thái, Không Tâm Thái, ở đâu rồi?

Lập tức muốn lớn tiếng trả lời “Huynh ở đây!”

Nhưng tiếng “huynh” mới dâng lên nửa chừng đã tắc nghẹn, đưa tay lên bịt miệng, toàn thân run rẩy.

Bởi vì “Không Tâm Thái” là ngoại hiệu của Địch Vân, trên đời này chỉ có hai người là Địch Vân và sư muội Thích Phương biết ngoại hiệu này, đến cả sư phụ cũng không biết. Thích Phương bảo Địch Vân không có đầu óc, thật thà đến nỗi chẳng có một chút tâm sự gì, ngoài luyện võ ra chẳng hiểu việc gì cả, bảo rằng bụng dạ của sư ca giống như rau muống (không tâm thái) hoàn toàn trống không.

Địch Vân chỉ cười, không biện bạch, rất thích sư muội gọi mình là “Không Tâm Thái, Không Tâm Thái”. Mỗi lần nghe cái tên “Không Tâm Thái” trong lòng lại cảm thấy ngọt ngào êm dịu không sao nói được thành lời. Bởi vì khi có người thứ ba, sư muội không bao giờ gọi như vậy. Nếu gọi “Không Tâm Thái” tức là chỉ có hai người với nhau.

Khi chỉ có hai người với nhau, cô ấy vui vẻ cũng được, tức giận cũng được, Địch Vân chỉ cảm thấy sung sướng không sao tả xiết.

Địch Vân là một chàng ngốc không biết đường ăn nói, có khi làm cho Thích Phương tức giận, nhưng mấy tiếng “Không Tâm Thái, Không Tâm Thái” vang lên là khiến cho cả hai đều bật cười.

Nhớ lại lần Bốc Viên đến nhà, sư muội làm thức ăn đãi khách, có gà có cá, có củ cải đậu phụ, có cả một đĩa rau muống lớn. Tối ấy Bốc Viên và sư phụ uống rượu, đàm luận chuyện võ lâm Lưỡng Hồ, Địch Vân ngẩn ra nghe, tình cờ bắt gặp ánh mắt của Thích Phương, chỉ thấy cô ấy gắp một đũa rau muống đưa lên môi mà không đưa vào miệng. Đôi môi mềm mại hồng hồng của cô ấy nhè nhẹ chạm vào mấy cọng rau muống, ánh mất đầy nét cười. Không phải cô ấy ăn rau mà là đang hôn những ngọn rau muống. Lúc ấy, Địch Vân chỉ biết rằng: “Sư muội cười mình là “Không Tâm Thái (rau rỗng ruột).”

Giờ đây trong kho củi, linh quang lóe lên trong óc, bỗng nhận ra hàm ý hôn những ngọn rau muống của sư muội lúc ấy.

Tiếng gọi “Không Tâm Thái” lúc này rõ ràng là giọng của sư muội Thích Phương, không thể nhầm lẫn được.

– Không Tâm Thái, Không Tâm Thái đâu rồi?

Tiếng gọi ấy dịu dàng biết bao, ngọt ngào êm ái biết bao. Không, không phải chỉ như thế, ngày còn ở làng quê với sư muội, trong tiếng gọi của sư muội có tình thân mến, có tình thiết tha nhưng cũng có ý mặc kệ, có ý giận hờn trách móc, còn trong mấy tiếng “Không Tâm Thái” hôm nay chỉ có tình thương yêu thảm thiết.

“Cô ấy biết nỗi oan uổng khổ sở của mình mấy năm nay, càng thương mình hơn, phải thế không nhỉ?”

Địch Vân không dám tin ở tai mình. “Mình đang mơ. Sư muội làm sao biết mà đến đây? Cô ấy đã lấy Vạn Khuê, còn tìm mình làm gì?”

Nhưng, âm thanh ấy lại vang lên, lần này lại gần hơn một chút:

– Không Tâm Thái, Không Tâm Thái nấp ở đâu vậy?

Tiếng gọi vui vẻ và thương yêu biết bao.

Địch Vân cảm thấy từng mạch máu đều căng phồng lên, không nén được thở gấp, hai lòng bàn tay đầy mồ hôi, lặng lẽ đứng lên, nấp sau đống rơm cỏ, nhìn qua khe cửa sổ chỉ thấy bóng lưng một người phụ nữ đang quay về phía mình, dáng đang tìm kiếm. Đúng rồi, đôi vai gầy, tấm lưng thon, dáng người mảnh mai, chính là sư muội.

Chỉ nghe thấy cô ấy cười gọi:

– Không Tâm Thái, Không Tâm Thái còn chưa ra à?

Đột nhiên, cô quay người lại.

Địch Vân hoa mắt, đầu cảm thấy choáng váng, trước mặt chính là Thích Phương. Đôi mắt đen thăm thảm, đôi cánh mũi nhỏ nhắn hơi hếch, mặt có trắng hơn một chút, không hồng hào như dạo ở Hồ Nam, nhưng rõ ràng là sư muội, rõ ràng là sư muội muôn vạn lần nhung nhớ, muôn vạn lần thương yêu, muôn vạn lần thầm nhắc trong những tháng năm tù tội.

Nét mặt cô ấy vẫn cười cười, gọi:

– Không Tâm Thái, Không Tâm Thái còn chưa ra à?

Nghe tiếng gọi ân cần thắm thiết gọi mình, mừng đến phát điên, Địch Vân muốn bước ra gặp sư muội muôn vàn mong nhớ, nhưng vừa bước được một bước chợt giật mình nghĩ ra: “Đinh đại ca thường bảo mình quá thật thà trung hậu, rất dễ tin người. Sư muội đã lấy con trai nhà họ Vạn, hôm nay Chu Kỳ chết dưới tay mình, biết đâu cô ấy không cố ý lừa mình bước ra?” Nghĩ đến đó, lập tức dừng bước.

Nghe thấy Thích Phương lại gọi mấy tiếng “Không Tâm Thái, Không Tâm Thái”, tâm hồn Địch Vân lại dao động, nghĩ ngơi: “Cô ấy gọi mình như thế, tình ý chân thành sâu nặng, quyết không phải là giả. Hơn nữa, nếu cô ấy muốn lấy mạng mình thì mình chết dưới tay cô ấy cũng được.” Trong lòng chua xót, bỗng ý nghĩ tự ti, tự coi rẻ mình lại dấy lên, lại một lần nữa dợm bước ra.

Bỗng nghe thấy tiếng cười của một đứa con gái nhỏ trong trẻo vang lên, rồi tiếp theo là tiếng nói:

– Mẹ, mẹ, con ở đây!

Địch Vân giật nẩy người, lại qua khe cửa sổ nhìn ra ngoài, thấy một đứa bé gái mặc áo đỏ từ mé bên đông lẫm chẫm chạy ra. Nó còn rất nhỏ, chạy còn chưa vững. Chỉ nghe thấy tiếng nói mang giọng cười dịu dàng của Thích Phương:

– Không Tâm Thái, con trốn ở đâu? Mẹ tìm mãi không thấy.

Con bé đắc ý nói:

– Không Tâm Thái ở vườn hoa! Không Tâm Thái xem kiến!

Tai Địch Vân ù lên, trái tim như bị ai đấm mạnh. Lẽ nào sư muội đã sinh con gái? Lẽ nào con gái của cô ấy cũng tên là “Không Tâm Thái”? Cô ấy gọi “Không Tâm Thái” là gọi con gái chứ không phải gọi mình? Lẽ nào mình đã nhầm bước vào nhà Vạn Chấn Sơn?

Mấy năm nay trong đáy lòng Địch Vân vẫn thầm hy vọng có một ngày nào đó chợt phát hiện thật ra sư muội không lấy Vạn Khuê, lời Thẩm Thành nói hôm ấy chỉ là nói láo. Nhưng lúc này, rốt cuộc đã thấy tận mắt, nghe tận tai có một bé gái gọi cô ấy là mẹ.

Nước mắt trào ra, mơ hồ nhìn qua khe cửa chỉ thấy Thích Phương ngồi xuống, dang hai tay, bé gái vừa cười vừa nhào vào lòng mẹ. Thích Phương hôn liền mấy cái lên má con gái, dịu dàng cười nói:

– Không Tâm Thái biết chơi một mình rồi, ngoan quá!

Địch Vân chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của Thích Phương, nhìn thấy nét mày dài thanh tú, khóe miệng cong cong, khuôn mặt đầy đặn hơn mấy năm trước, càng nõn nà diễm lệ. Trái tim lại xót xa: “Mấy năm nay làm thiếu phu nhân ở nhà họ Vạn, không phải làm ruộng, không phải dầm mưa dãi nắng, người đẹp hẳn ra.”

Nghe thấy Thích Phương nói:

– Không Tâm Thái đừng chơi ở đây, vào nhà với mẹ.

Bé gái nói:

– Ở đây chơi thích lắm, Không Tâm Thái muốn xem kiến.

Thích Phương nói:

– Hôm nay ở bên ngoài có người xấu, muốn bắt trẻ con. Không Tâm Thái vào nhà đi.

Bé gái nói:

– Người xấu là gì? Bắt trẻ con làm gì?

Thích Phương đứng lên, dắt tay con gái, nói:

– Trong nhà tù có hai người xấu rất hung ác bỏ trốn. Cha đi bắt người xấu rồi. Người xấu đến đây sẽ bắt Không Tâm Thái. Không Tâm Thái nghe lời mẹ, vào nhà chơi, mẹ làm cho con búp bê vải, được không?

Đứa bé bướng bỉnh đáp:

– Không cần búp bê vải, Không Tâm Thái giúp cha bắt người xấu.

Địch Vân nghe Thích Phương nói đi nói lại là mình là “người xấu”, trái tim chìm hẳn xuống.

Chính lúc ấy, bên ngoài vườn rau tiếng vó ngựa lộp cộp, có mấy kỵ mã chạy đến. Thích Phương rút trường kiếm bên hông, chạy ra phía sau vườn.

Địch Vân đứng bên cửa sổ không dám nhúc nhích, sợ phát ra tiếng động. Dẫu sao cũng không muốn gặp sư muội, nỗi bi phẫn ngập tràn lồng ngực không sao nén nổi, cô ấy lại bảo mình là “người xấu”.

Địch Vân thấy bé gái chạy gần đến kho củi, chỉ mong nó đừng vào, nhưng con bé không biết còn nghĩ gì vẫn cứ xăm xăm bước vào. Địch Vân nấp vào sau đống cỏ, nói thầm:

– Ra đi, ra đi!

Chợt con bé nhìn thấy Địch Vân, nhìn thấy bộ dạng đáng sợ đầu tốc râu ria bờm xờm, nó sợ hãi đứng ngẩn ra, tròn mắt, muốn khóc mà không dám.

Địch Vân biết là hỏng rồi, chỉ cần bé gái khóc lên tung tích của mình sẽ bị Thích Phương phát hiện, bèn bước lên, tay trái ôm lấy nó, tay trái bịt lấy miệng. Những đã muộn mất một chút, đứa trẻ đã “a” lên một tiếng. Chỉ một tiếng rồi im bặt vì bàn tay Địch Vân đã bịt miệng.

Thích Phương mắt nhìn ra ngoài vườn, tâm trí lại đang để vào con gái, bỗng nghe thấy tiếng kêu khác lạ của nó, quay đầu lại đã không thấy bóng nó đâu, theo phía tiếng kêu của nó sau đống rơm cỏ trong kho củi, vội lao vào như mũi tên. Đến cửa kho củi chỉ thấy một người đàn ông râu tóc xồm xoàm, toàn thân bê bết máu đang ôm chặt con gái, một tay bịt miệng nó. Thích Phương rụng rời hết vía, vung trường kiếm đâm thẳng vào mặt Địch Vân, hét:

– Mau buông đứa trẻ ra!

Địch Vân xót xa trong lòng, ý nghĩ tự ti lại dậy lên: “Cô muốn giết tôi, thì giết đi!” Thích Phương ngẩn người, sợ con gái bị thương, vội thu kiếm, lại thét lên:

– Buông con ta ra!

Địch Vân nghe thấy cô ta chỉ toàn bảo buông con gái ra, không có một chút tình cố cựu nào, nổi giận bừng bừng, không buông con cô nữa, thuận tay rút luôn một thanh củi, gạt thanh trường kiếm, lùi lại một bước.

Thích Phương thấy người đàn ông hung ác này vẫn ôm chặt con gái không buông, càng sợ hãi, hai đầu gối nhũn ra, hít vào một hơi, đâm nhanh vào vai phải Địch Vân. Địch Vân nghiêng mình tránh, dùng thanh củi thay kiếm, từ bên trái đánh xéo sang rồi đâm vào phía sau. Thích Phương kêu lên một tiếng cảm thấy kiếm pháp rất quen thuộc, chính là chiêu “Ca ông hám thượng lai” mà cha cô đã dạy, bèn không kịp suy nghĩ, cúi đầu tránh, trường kiếm trong tay lại xuất hai chiêu “Hổ thế bôn kinh phong, Liên sơn nhược bố đào”.

Kho củi này vốn rất chật chội, chất đầy rơm, củi, chỗ trống chỉ đủ cho hai người đứng, bây giờ chiết chiêu, chân tay đều vướng víu.

Địch Vân và Thích Phương từ nhỏ cùng học một thầy, không có ngày nào không chiết chiêu luyện kiếm, thuộc lòng kiếm chiêu của nhau, thấy cô sử hai chiêu này, tự nhiên cũng dùng kiếm chiêu của sư phụ đã dạy để đối phó, xuất hai chiêu “Lão nê chiêu đại thư, mã mệnh phong tiểu tiểu”, thanh củi trong tay khua một vòng tròn, miệng hú dài, chặn đứng hai chiêu kiếm của Thích Phương.

Năm ấy sư huynh sư muội luyện kiếm đến chiêu này Thích Phương đã chống đỡ không nổi. Nhưng bây giờ nhát thứ ba chém thanh củi xuống bỗng cổ tay tê dại, “cách” một tiếng, thanh củi đã rơi xuống đất. Địch Vân giật mình, liền tỉnh ngộ: “Ngón tay phải của mình đã bị chặt đứt, suốt đời không thể sử kiếm, mình lại quên mất.”

Ngẩng đầu lên thấy mũi kiếm của Thích Phương đã cách ngực mình không đầy một tấc, thân kiếm run rẩy, vẻ ngạc nhiên trên mặt cô thật khó hình dung nổi.

Hai người đứng ngẩn ra nhìn nhau, không ai thốt nên lời. Mãi một lúc sau Thích Phương mới nói:

– Là… là huynh ư?

Giọng khản đặc, ú ớ không thành tiếng.

Địch Vân gật gật đầu, tay trái đang ôm đứa bé trao qua. Thích Phương ném trường kiếm, đón lấy con gái, không biết nói thế nào. Đứa nhỏ sợ đến nỗi khóc không ra tiếng. Thích Phương nói:

– Muội… muội không biết là huynh. Mấy năm nay…

Bỗng bên ngoài có tiếng gọi của một người đàn ông:

– Phương muội, Phương muội! Muội đang ở đâu?

Chính là Vạn Khuê. Tiếng gọi mỗi lúc một gần, đang nhảm phía vườn rau đi tới. Thích Phương tái mặt, nói nhỏ vào tai con gái:

– Không Tâm Thái, bác này không phải là người xấu, con đừng nói với cha, biết chưa?

Con bé ngẩng đầu lên, nhìn Địch Vân một cái, thấy vẻ đáng sợ bỗng “òa” một tiếng khóc ré lên.

Người đàn ông phía ngoài nghe tiếng khóc của con gái, theo tiếng mà đến, gọi:

– Không Tâm Thái, đừng khóc, cha đây!

Thích Phương nhìn Địch Vân một cái, quay mình bước ra, khép cửa kho củi lại, ôm con đi về phía chồng.

Địch Vân đứng sững, tựa hồ có thanh âm vang lên bên tai: “Mình chết cho xong, mình chết cho xong.”

Chỉ nghe thấy người đàn ông kia cười, hỏi:

– Không Tâm Thái, vì sao lại khóc?

Địch Vân rất muốn đến bên cửa sổ xem xem Vạn Khuê bây giờ ra sao, nhưng đôi chân như bị đóng đinh xuống đất.

Nghe thấy Thích Phương cười nói:

– Muội chơi với Không Tâm Thái ở sau vườn, có hai kỵ mã chạy qua, người trên ngựa cầm vũ khí, trông rất hung dữ, Không Tâm Thái bảo là người xấu muốn bắt nó, sợ quá khóc thét lên.

Vạn Khuê cười nói:

– Đó là người của nha môn đuổi bắt tù trốn, cha bồng Không Tâm Thái. Cha đánh chết người xấu. Không Tâm Thái không sợ người xấu, cha đánh chết hết bọn xấu.

Địch Vân ớn lạnh trong lòng: “Bản lĩnh nói dối của đàn bà thật ghê gớm. Nói vậy, con bé có mách là thấy người xấu, chồng cô ta cũng không nghi ngờ gì. Hừ, ta cần gì cô che giấu? Các người chỉ muốn bắt ta, đánh chết ta.”

Bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, chỉ thấy Vạn Khuê ăn vận sang trọng, đang bồng con gái đi vào nhà, Thích Phương líu ríu đi bên cạnh, sánh vai cùng bước, có vẻ rất thân mật.

Sư muội đã lấy Vạn Khuê, điều này trước đây Địch Vân đã nghìn vạn lần nghĩ đến nhưng vẫn mong không phải là sự thật, bây giờ điều ấy rõ mồn một trước mắt. Địch Vân há miệng thét lên:

– Ta…

Cúi mình định nhặt thanh trường kiếm của Thích Phương ném ở dưới đất, xông ra liều mạng với Vạn Khuê. Thân bị tù tội, chịu biết bao khổ sở đều là do sự hãm hại của kẻ đang trước mặt kia, cả người bạn tình mà mình yêu hơn cả tính mạng lại trở thành vợ của y. Lúc này trong tim không còn ý nghĩ nào khác ngoài ý nghĩ nếu không giết chết người này thì chết dưới tay y.

Nhưng vừa cúi xuống, nhìn thấy thi thể của Đinh Điển trong đống cỏ, nhìn thấy đôi mắt nhắm nghiền sắc mặt thanh thản của anh chợt nghĩ: “Đinh đại ca lúc lâm chung nhờ cậy một điều duy nhất là hợp táng huynh ấy với Lăng tiểu thư, lúc này mình xông ra quyết đấu với thằng giặc Vạn Khuê, mình mất mạng thì không quan trọng lầm nhưng tâm nguyện của Đinh đại ca không thực hiện được.” Rồi lại nghĩ: “Mình nhờ sư muội thực hiện việc này, e rằng cũng có thể được… Hừ, hừ! Tên tiểu tử Địch Vân này, việc mà ngươi không chịu đảm nhận sao lại trút sang cho người khác? Ngươi chết xuống đất còn mặt mũi nào mà gặp Đinh đại ca? Sư muội vô lương tâm như thế, há chịu vì ngươi mà làm việc lớn này sao?” Nghĩ thế rồi dần dần kìm nén cơn phẫn nộ.

Nhưng một tiếng “ta…” của Địch Vân đã kinh động Vạn Khuê. Chỉ nghe thấy y nói:

– Giống như trong kho củi có người.

Thích Phương cười nói:

– Thật không? Muội vừa thấy lão Vương vào vác củi. Khuê ca, muội đã chưng yến sào cho huynh rồi, mau vào ăn đi. Không Tâm Thái cứ khóc hoài, để cho nó ngủ yên một chút.

Vạn Khuê “ừ” một tiếng, nói:

– Lão bếp họ Vương trong kho củi à?

Rồi ôm con gái, hai vợ chồng sánh vai đi xa.

Đầu óc Địch Vân trống rỗng, không nghĩ được cách nào, một lúc sau, tự đấm vào đầu mình suy nghĩ: “Kho củi này không thể ẩn thân lâu được, lão bếp họ Vương thế nào cũng vào lấy củi nấu cơm, làm sao đây? Hay là mình đem Đinh đại ca giấu kín, một mình trốn ra, đến tối lại trở lại mang thi thể của Đinh đại ca đi. Ừ, thôi thì làm thế cũng được.”

Nhưng, mới bước được một bước, trong lòng lại có một thanh âm níu lại: “Sư muội nhất định sẽ trở lại thăm mình. Mình đi sẽ chẳng bao giờ gặp lại cô ấy nữa.” “Nhìn lại cô ấy một chút thì có gì là hay? Cô ấy có chồng, có con gái, một nhà vui vẻ, làm gì có kẻ giết người vượt ngục trong lòng?” “Mình ở trong tù chờ đợi bao năm, ngày mong đêm nhớ, chỉ mong được gặp lại cô ấy dù chỉ một lần, hôm nay há lại để mất dịp tốt sao? Lẽ nào mình còn có hy vọng nào khác? Chỉ gặp một chút để hỏi tin tức của sư phụ. Mình phải hỏi cô ấy vì sao có mới nới cũ, mình vừa mới gặp tai họa cô ấy đã lập tức không quan tâm gì đến mình?” “Hỏi những điều ấy thì có nghĩa lý gì? Cô ấy không nói dối, cứ sự thực mà trả lời, còn nói dối thì có gì đáng nghe? Nếu cô ấy nói thực thì mình chỉ càng đau lòng mà thôi.”

Cứ nghĩ tới nghĩ lui như thế, chốc lát quyết tâm đã nguội, không có chủ ý rõ ràng. Địch Vân bản tính vô tư, không phải là người hay do dự đắn đo, nhưng hôm nay đứng trước vấn đề trọng đại nhất đời lại không biết nên làm thế nào. Ở lại, rõ ràng là không ổn, nhưng đi thì lại không đành.

Chính trong lúc sóng lòng cuồn cuộn, day dứt bất an, bỗng nghe thấy trong vườn rau có bước chân người nhè nhẹ, một người đang rón rén đi tới. Người ấy đi được mấy bước lại dừng lại, lại bước mấy bước, rõ ràng là cố ý đề phòng, sợ có người biết.

Người kia mỗi lúc một gần, trái tim Địch Vân đập thình thịch: “Rốt cuộc sư muội cũng đến tìm mình. Cô ấy muốn nói gì với mình? Có phải là xin mình tha thứ? Cô ấy có còn nghĩ đến tình xưa không?” Lại nghĩ: “Mình còn gì để nói với cô ấy nữa? Ôi, phải rồi, phải rồi! Cô ấy có người chồng tốt, có đứa con gái ngoan, sống những ngày vui vẻ, mình vĩnh viễn không nên gặp lại cô ấy.

Ý muốn trả thù đang bốc lên hừng hực bỗng dưng nguội lạnh: “Mình vốn chỉ là một thằng bé nhà quê nghèo khổ, giả dụ không gặp phải nỗi oan khuất này, sư muội và mình thành vợ chồng, tất nhiên mình sẽ rất vui sướng, nhưng sư muội thì phải vất vả suốt đời, như vậy có gì là hay cho cô ấy? Mình muốn báo thù, giết Vạn Khuê đi ư? Sư muội sẽ thành góa bụa, lẽ nào còn có thể lấy mình, lấy kẻ thù giết chồng? Trong lòng cô ấy sớm đã không có mình, trước kia mình đã không bằng được Vạn Khuê, bây giờ so với hắn mình càng cách xa trời vực. Nỗi oan cừu này, thôi đành cho qua, để vợ chồng mẹ con cô ấy sống những ngày hạnh phúc.”

Nghĩ đến đó, quyết ý không nói gì với Thích Phương nữa, cúi mình bước tới ôm lấy thi thể Đinh Điển trong đống cỏ, đột ngột nghe “bình” một tiếng, cửa kho củi bị chân người đạp mở toang. Địch Vân giật nẩy mình, quay lại, thấy một người đàn ông cao gầy tay cầm trường kiếm sáng loáng đứng ngay cửa, chính là Vạn Khuê. Địch Vân kêu khẽ một tiếng, không kịp suy nghĩ, cúi nhặt thanh trường kiếm Thích Phương bỏ quên.

Vạn Khuê mặt đầy sát khí. Y sớm đã biết tin Địch Vân vượt ngục, suốt ngày tâm thần bất định, lúc này nhìn thấy trong tay Địch Vân là thanh kiếm của Thích Phương, càng vừa ghen vừa hận, lạnh lùng nói:

– Được đấy, gặp nhau trong kho củi, đến cả vũ khí của mình cô ấy cũng giao cho ngươi, định mưu giết chồng à? E rằng không dễ thế đâu!

Đầu óc Địch Vân rối loạn, nhất thời không hiểu Vạn Khuê nói gì, chỉ nghĩ bụng: “Tại sao y lại đến? Làm sao biết mình ở đây? Tất nhiên là sư muội nói, rồi bảo chồng đến đây bắt mình lĩnh thưởng. Sao cô ấy có thể vô tình vô nghĩa như thế?”

Vạn Khuê thấy Địch Vân không trả lời, tưởng rằng Địch Vân sợ, bèn vung kiếm đâm tới trước ngực, Địch Vân giơ kiếm chặn lại, tự nhiên ra chiêu “thích hầu thức” mà lão ăn mày đã dạy hơn năm năm trước, trường kiếm phạt xiên đã chĩa vào yết hầu Vạn Khuê. Chiêu kiếm này cực kỳ quái dị, Vạn Khuê năm ấy đỡ không nổi, năm năm rồi, tuy võ công của y đã tiến xa nhưng vẫn không sao đỡ nổi.

Vạn Khuê kinh hãi, không biết sử thanh trường kiếm trong tay như thế nào, thu kiếm để chặn dĩ nhiên là không kịp, phát kiếm tấn công cũng đã muộn mất rồi, tính mạng đã hoàn toàn ở trong tay đối phương, y tức đến nổ ruột nhưng không dám nhúc nhích, nhìn khuôn mặt râu ria xồm xoàm của Địch Vân, lòng phẫn nộ biến thành sợ sệt.

Nhát kiếm của Địch Vân lại không đâm tới, phân vân: “Mình giết y hay không?”

Trong lúc vạn phần nguy hiểm, Vạn Khuê bỗng thấy trong mắt đối phương có ý băn khoăn, cổ tay cầm kiếm hơi rung, linh cơ lóe lên, y kêu to:

– Thích Phương, muội đến xem!

Địch Vân nghe y gọi “Thích Phương”, giật mình, hơi ngoái đầu nhìn. Không ngờ đó là Vạn Khuê dùng mẹo lừa, thừa lúc Địch Vân quay đầu, lập tức trường kiếm vung lên gạt. Các ngón tay phải của Địch Vân đã bị chặt đứt, cầm kiếm không vững, trường kiếm tuột khỏi tay. Vạn Khuê cả mừng, lập tức đâm tới.

Địch Vân né tránh, nấp sau đống củi, thuận tay rút một thanh củi, dùng củi làm kiếm, ra sức đánh tới. Chém hai nhát vun vút, Vạn Khuê đã chém đứt thanh củi, Địch Vân dùng sức ném mạnh đoạn củi còn lại ra, đợi y né tránh lại rút một thanh củi khác tiếp tục tấn công.

Vạn Khuê thấy Địch Vân rơi kiếm, nghĩ mình cầm chắc phần thảng, y định thần triển khai kiếm pháp từ từ tấn công. Sau mấy chiêu, Địch Vân gầm lên một tiếng, cổ tay phải trúng kiếm, máu chảy ra như suối, ngón tay bủn rủn, rơi mất thanh củi. Vạn Khuê đâm tiếp, một kiếm trúng đùi Địch Vân, co chân trái đá tới, Địch Vân ngã xuống đất. Địch Vân giãy giụa định bò dậy, Vạn Khuê lại đá, tiếp một cú vào gò má, Địch Vân lập tức ngất đi.

Vạn Khuê mảng:

– Giả chết à?

Lại chém một nhát lên vai Địch Vân, thấy không động đậy mới biết là ngất đi thật, nghĩ bụng:“Lăng tri phủ hứa trọng thưởng năm ngàn lạng bạc, trốc nã hai tên tù này, tất nhiên là bắt sống mới tốt. Lần này giải lên quan y ắt bị tử hình, mình hà tất phải ra tay giết y.” Chợt thấy trong đống cỏ lộ ra một cái chân, Vạn Khuê vừa sợ vừa mừng: “Đây lại một tên nữa!” Y không biết Đinh Điển đã chết, vội vàng vung kiếm chém vào chân xác chết.

Địch Vân tuy bị ngất trong đầu óc vẫn vang lên những âm thanh gào thét: “Mình không được chết, mình không thể chết! Mình đã nhận lời với Đinh đại ca phải hợp táng cho đại ca và Lăng tiểu thư.” Ý nghĩ ấy cực kỳ mạnh mẽ, lay tỉnh Địch Vân, mơ hồ nghĩ: “Một buổi tối năm xưa, mình cũng bị y đá ngã, cũng bị y đạp lên đầu”… Địch Vân từ từ mở mắt, thấy Vạn Khuê đang vung kiếm chém thi thể Đinh Điển. Mới đầu Địch Vân còn chưa tỉnh hẳn, không biết trước mắt đang xảy ra việc gì, nhưng tiếp đố thấy Vạn Khuê kéo thi thể của Đinh Điển từ trong đống cỏ ra, Địch Vân gào lớn:

– Đinh đại ca!

Đột nhiên tinh lực tràn ngập toàn thân, Địch Vân vội chồm dậy, nhào lên lưng Vạn Khuê, tay phải đã bóp chặt cổ họng Vạn Khuê.

Vạn Khuê cả sợ, muốn lật kiếm để đâm nhưng cánh tay không cách gì vòng lại phía sau, đâm với liền mấy nhát đều vướng phải đống củi, mà tay Địch Vân bóp yết hầu y thì càng ngày càng chặt.

Địch Vân thấy Vạn Khuê chém vào thi thể của Đinh Điển, tức giận như điên. Người này hãm hại mình, đoạt mất Thích Phương, oán cừu ấy còn có thể cho qua nhưng hành hạ thi thể Đinh đại ca thì muôn vạn lần không thể tha thứ, bấy giờ trong lòng không có một ý nghĩ nào khác, chỉ mong tức khắc bóp chết kẻ thù. Chỉ cảm thấy Vạn Khuê giãy giụa một hồi, sức chống cự dần dần yếu ớt, nhưng Địch Vân bị thương mấy chỗ, máu chảy không ngừng, khí lực nơi tay cũng giảm sút, nghĩ bụng: “Mình phải ra sức giữ vững một lúc thì có thể bóp chết hắn.” Một lúc sau, muôn sao nhảy múa trước mắt, đầu óc quánh lại rồi cũng không biết gì nữa.

Tuy đã ngất đi nhưng cánh tay chặn họng Vạn Khuê vẫn không buông lỏng. Vạn Khuê bị bóp cổ khó lòng thở được, đến khi Địch Vân ngất đi thì y cũng mất hết tri giác.

Trong đống củi khô rơm cỏ một đôi oan gia cùng nằm bất tỉnh. Hai người hầu như đều đã chết, nhưng ngực còn phập phồng, mũi và miệng vẫn còn hơi thở.

Không biết trong cõi u minh kia sắp xếp thế nào? Nếu Địch Vân tỉnh lại trước một chút, nhặt thanh trường kiếm dưới đất lên, một nhát giết chết Vạn Khuê. Nếu Vạn Khuê tỉnh lại trước, y cũng không còn định bắt sống Địch Vân nữa, như thế nguy hiểm quá, thế tất sẽ giáng một nhát kiếm vào đầu lấy mạng Địch Vân tức khắc.

Trên thế giới này chuyện gì cũng có thể xảy ra. Chưa chắc người tốt đã gặp may, kẻ xấu phải gặp đen đủi. Ngược lại cũng vậy, chưa chắc kẻ xấu đã gặp may, người tốt phải chịu rủi ro. Người ta ai cũng chết, người chết muộn cũng chưa chắc là may mắn.

Nhưng đối với người sống, đối với Thích Phương và con gái của cô, Địch Vân chết trước hay là Vạn Khuê chết trước khác nhau rất xa. Nếu lúc này yêu cầu Thích Phương lựa chọn, chọn để một người tỉnh lại trước, không biết cô sẽ chọn ai?

Trong kho củi hai người vẫn hôn mê bất tỉnh, có tiếng bước chân của một người, từ từ bước đến gần kho củi.

* * *

Tai Địch Vân nghe thấy tiếng nước tí tách, trên mặt có cái gì lạnh ngắt đang nhỏ xuống, đau đau, rồi cảm thấy lạnh, không có một chút sức lực nào. Địch Vân vừa tỉnh lại, lập tức tay phải vận kình, nói:

– Ta bóp chết ngươi, ta bóp chết ngươi!

Nhưng trong tay trống rỗng không có gì, rồi lại phát hiện ra thân hình mình cứ lắc lư, không ngừng di động. Trong kinh hoàng, Địch Vân mở mắt, tối om, chỉ cảm thấy từng giọt từng giọt nước rơi lên mặt, lên tay, lên thân thể, thì ra trời đang mưa.

Thân hình vẫn không ngừng lắc lư, ngực nóng bỏng, chỉ muốn nôn. Bỗng bên mình có một chiếc thuyền lướt qua, trên thuyền có buồm, rõ ràng là một chiếc thuyền. Lạ thật, sao bên mình lại có một chiếc thuyền?

Muốn ngồi dậy xem sao, nhưng toàn thân bủn rủn, đến một ngón tay cũng không nhúc nhích được, chỉ có thể nằm ngửa mắt nhìn những tảng mây đen đang vần vũ, thì ra không phải ở trong kho củi. Bỗng nghĩ: “Đinh đại ca đâu?” Vừa nghĩ tới Đinh Điển, trong người bỗng xuất hiện một luồng sức mạnh, chống hai tay xuống liền ngồi dậy được, người lại lắc lư mấy cái.

Địch Vân đang ở trong một chiếc thuyền nhỏ. Chiếc thuyền nhỏ đang trôi xuôi theo dòng sông cuồn cuộn. Đang đêm, trời đầy mây đen, mưa lớn. Địch Vân nhìn lên bờ hai bên thuyền, hai bên đều tối mịt mù, không nhìn thấy gì cả. Trong lòng lo lắng, Địch Vân gọi lớn:

– Đinh đại ca, Đinh đại ca!

Dẫu biết rằng Đinh Điển đã chết, nhưng muôn vạn lần không thể để mất thi thể huynh ấy. Bỗng chân trái đụng phải một cái gì mềm mềm, cúi đầu xem, không nén nổi vui mừng, kêu lên:

– Đinh đại ca, huynh đây rồi!

Địch Vân giang hai tay ôm chầm lấy thi hài Đinh Điển.

Yếu đến nỗi thở không ra hơi, cũng không cố sức suy nghĩ. Chỉ cảm thấy họng khô lưỡi ráo, liền há miệng để mưa rơi vào đẫm môi, miệng, lưỡi. Mơ mơ hồ hồ như thức như ngủ, hai tay vẫn ôm thi thể Đinh Điển, cho đến khi trời tang tảng sáng, mưa vẫn không ngừng rơi.

Trong ánh trời rạng sáng, Địch Vân bỗng nhận thấy trên đùi mình có một băng vải trắng quấn vào, định thần nhìn kỹ, phát hiện ra băng vải này rịt vào vết thương, rồi lại phát hiện thấy hai băng vải trắng nữa rịt vết thương trên cánh tay và trên vai, mũi phảng phất ngửi thấy mùi thuốc kim sang. Suốt đêm mưa mấy băng vải đều ướt sũng, nhưng vết thương đã cầm máu.

“Ai băng bó vết thương cho mình? Nếu vết thương không được băng bó, chẳng cần phải có ai đến giết mình, chỉ chảy máu cũng đủ mất mạng rồi.” Bỗng Địch Vân cảm thấy một nỗi quạnh quẽ thê lương không sao chịu đựng nổi: “Trên đời này còn có ai quan tâm đến mình, giúp đỡ mình? Đinh đại ca đã mất, còn có ai mong cho mình sống nữa? Có ai chịu mất công băng vết thương cho mình?” Xem kỹ mấy băng vải, băng bó rất không ngay ngắn chỉnh tề, hình như người này băng trong lúc lo lắng hoang mang. Nhưng không phải là vải thô mà là lụa thượng phẩm, biên lụa rất tinh xảo, có viền hoa, còn một bên thì có khuy áo rõ ràng là xé từ áo ra, mà lại là áo phụ nữ.

Sư muội chăng? Tim Địch Vân đập rộn ràng, ngực nóng ran, khóe miệng hiện ra một nụ cười đau khổ: “Cô ấy bảo chồng đến giết mình có lý nào lại băng bó vết thương cho mình? Nếu như cô ấy không báo tin, mình nấp trong kho củi, Vạn Khuê làm sao mà biết được?”.

“Nhưng mình lại đang ở trong một chiếc thuyền nhỏ, thuyền đang trôi trên sông. Không biết nơi này cách Giang Lăng bao xa? Dù sao cũng tạm thời thoát nạn, không bị Lăng tri phủ truy nã nữa.”

“Ai băng bó vết thương cho mình? Ai đặt mình vào con thuyền nhỏ này? Cả Đinh đại ca cũng được đặt vào đây với mình?” Đối với sự sống cái chết của mình, Địch Vân không mấy quan tâm, nhưng thi hài Đinh Điển cũng vẫn ở bên mình, điều này khiến Địch Vân vô cùng cảm kích.

Suy nghĩ đến đau cả đầu, rốt cuộc vẫn không tìm ra manh mối. Địch Vân nhớ lại việc xảy ra trong một ngày vừa qua, nghĩ đến nhát kiếm Vạn Khuê chém vào thi thể Đinh Điển, nhớ lại việc mình ráng sức bóp chặt cổ họng Vạn Khuê, rồi không nghĩ gì thêm được nữa. Sự tình xảy ra sau đó trong óc không ghi nhận được điều gì.

Nghiêng đầu một cái, góc trán đụng phải một bao gì cứng cứng, ra là một cái túi lụa nhỏ, Địch Vân mừng rỡ, chắc rằng trong bao này có đầu mối, hai tay run rẩy mở ra, chỉ thấy trong bao có năm sáu đĩnh bạc vụn, còn có bốn thứ nữ trang: một bông hoa bằng ngọc, một đôi hoa tai, một cái xuyến vàng, một chiếc nhẫn đá quý. Ngoài ra còn có một chiếc khóa vàng trẻ con thường đeo ở cổ, trên chiếc khóa còn một mảnh vải áo trẻ em, hẳn là do vội vàng dứt ra nên còn mác lại. Trên chiếc khóa vàng khắc bốn chữ: “đức dung song mậu”[1]. Địch Vân học hành chữ nghĩa chẳng được bao nhiêu, tuy biết chữ nhưng không rõ bốn chữ này có ý nghĩa gì, nghĩ bụng: “Chắc là tên của đứa trẻ.”

Địch Vân mân mê mấy món nữ trang, so với lúc chưa thấy chiếc túi vải, trong lòng lại càng băn khoăn: “Bạc và nữ trang tất nhiên là của người cứu mình cho, để khi thuyền cập vào bờ mình có thể mua cái ăn. Nhưng, rốt cuộc là ai cho? Nữ trang không phải là của sư muội, trước nay mình chưa thấy cô ấy đeo bao giờ.”

Dòng sông cuồn cuộn, đưa con thuyền nhỏ xuôi dòng. Suốt ngày hôm ấy, Địch Vân cứ day dứt băn khoăn: “Ai băng bó vết thương cho mình? Ai cho mình bạc và nữ trang.”

——————————————————

[1] Đức dung song mậu: đạo đức và dung nhan đều tốt đẹp – lời cầu chúc cho bé gái

Hồi 05: Canh chuột

Từ Giang Lăng về xuôi, địa thế bằng phẳng, Trường Giang chảy quanh co giữa vùng Tương – Ngạc (Hồ Nam – Hồ Bắc) cuồn cuộn về đông, con thuyền nhỏ theo dòng sông bập bềnh trôi xuôi. Hai bờ Trường Giang, các thị trấn làng mạc lướt qua hai bên thuyền. Những chiếc thuyền giương buồm từ thương du xuôi về, từng chiếc từng chiếc vượt qua con thuyền nhỏ của Địch Vân. Khi lướt qua con thuyền nhỏ, người trên các chiếc thuyền lớn kia đều lộ vẻ tò mò nhìn Địch Vân râu tóc xồm xoàm, mặt đầy máu me.

Khi trời gần tối, Địch Vân hơi lại sức, đồng thời nghe bụng kêu óc ách không ngừng, cảm thấy đói ghê gớm; bèn ngồi dậy cầm một tấm ván, khoát khoát cho thuyền từ từ cập bờ bấc, định đến một quán cơm nhỏ mua cơm ăn. Dải đất ven bờ sông rất hoang vu, không thấy nhà cửa. Con thuyền nhỏ thuận dòng vòng đến một mom sông, chỉ thấy dưới bóng liễu có buộc ba chiếc thuyền chài, có khói bốc lên. Khi con thuyền nhỏ trôi gần đến mấy chiếc thuyền chài, nghe thấy tiếng rán cá xèo xèo trong khoang thuyền, mùi thơm phưng phức.

Địch Vân ghé thuyền đến gần, nói với ông lão thuyền chài:

– Bác chài ơi, bán cho một con cá, được không?

Ông chài thấy Địch Vân bộ dạng dễ sợ, trong bụng hãi không muốn bán nhưng lại không dám từ chối, liền nói:

– Vâng, vâng!

Rồi đặt một con cá đã rán vàng lên đĩa, đưa cho Địch Vân. Địch Vân nói:

– Nếu có cơm, bác bán cho một bát.

Ông chài nói:

– Vâng, vâng!

Rồi đưa cho một tô cơm tấm, độn quá nửa khoai lang và cao lương.

Địch Vân và vài đũa đã hết nhẵn tô cơm, đang định hỏi thêm, bỗng nghe trên bờ có giọng ồm ồm:

– Lão chài! Có cá lớn đem đây mấy con.

Địch Vân ngoảnh đầu nhìn, thấy một hòa thượng gầy đét, cao lênh khênh, hai mắt ốc nhồi lấp lánh.

Địch Vân giật thót người, nhận ra chính là một trong năm nhà sư đã đến gây sự với Đinh Điển trong tù, nghĩ một chút, nhớ lại cái tên Bảo Tượng mà Đinh đại ca đã nói. Tối hôm ấy Đinh Điển đánh chết hai tên, hai tên nữa bị trọng thương, còn Bảo Tượng thừa cơ chạy trốn.

Địch Vân không dám nhìn y thêm một lần nữa. Đinh đại ca nói hòa thượng này võ công rất cao và dặn sau này nếu gặp thì cần phải cẩn thận. Nếu để Bảo Tượng nhận ra thi thể của Đinh Điển thì hỏng hết. Hai tay bưng bát cơm, dù không phải là nhát gan sợ chết nhưng Địch Vân vẫn thấy tim đập thình thình, tay hơi run run, lòng thầm kêu lên:

– Đừng run, đừng run, kẻo lộ mất!

Nhưng càng muốn trấn tĩnh thì càng hoảng.

Chỉ nghe thấy ông chài nói:

– Cá đánh được hôm nay đều bán hết cả rồi, không có đâu!

Bảo Tượng tức giận nói:

– Ai bảo không có cá? Ta đói meo rồi, mau đưa mấy con đây! Không có cá lớn, cá nhỏ cũng được.

Ông chài nói:

– Hết thật rồi! Tôi có cá, ông có tiền sao lại không bán?

Vừa nói vừa đưa giỏ cá lên, lật úp lại, quả nhiên không có cá.

Bảo tượng đã đói cồn cào, thấy bên cạnh Địch Vân có một con cá rán to tướng mới ăn chưa hết một nửa, liền réo:

– Thằng chết giẫm kia, sao mày dám bảo không có cá?

Địch Vân trong lòng hoảng loạn, thấy y nói với mình, nghĩ rẳng y đã nhận ra, bèn nín thinh không đáp, đưa tấm ván thuyền chống vào gốc liễu gắng sức đẩy mạnh, con thuyền nhỏ trôi ra giữa sông.

Bảo Tượng tức giận nói:

– Thằng giặc kia, ta hỏi ngươi có cá không, mắc gì mà bỏ chạy.

Địch Vân nghe y chửi, càng sợ hãi, gắng sức dùng tấm ván vợi con thuyền nhỏ ra xa bờ. Bảo Tượng nhặt một hòn đá bên bờ sông, ra sức ném về phía Địch Vân. Địch Vân thấy hòn đá bay tới bèn cúi mình tránh nhưng nghe tiếng gió rít rất mạnh, hòn đá bay vèo qua đỉnh đầu, “bũm” một tiếng, rơi xuống nước vọt lên tung tóe.

Bảo Tượng thấy Địch Vân né tránh, thân pháp nhanh nhẹn xem ra có học võ chứ không phải là dân chài lưới tầm thường, sinh nghi, hét:

– Mẹ kiếp, mau quay lại, nếu không tao lấy luôn cái mạng chó của mày!

Địch Vân đời nào nghe lời y, liều mạng vợi thuyền ra xa. Bảo Tượng lại khom mình, tay phải nhặt một hòn đá lớn ném ngay, tiếp đó tay trái lại ném. Địch Vân tay thì bát thuyền, hai mắt thì chăm chú nhìn đường bay của các tảng đá. Vừa mới nghiêng mình tránh tảng thứ nhất, tảng thứ hai đã bay đến, rất thấp, trúng vào mạn thuyền, Địch Vân ngã sõng soài xuống đáy thuyền. Chỉ cách khoảng một tấc, trước mắt thấy đen ngòm, một cái gì bay vụt qua, gió quét rát cả mặt. Địch Vân vừa mới ngồi dậy, tảng đá thứ ba lại bay đến, “chát” một tiếng trúng ngay mũi thuyền, thủng một lỗ lớn.

Bảo tượng thấy Địch Vân né tránh linh hoạt, con thuyền nhỏ xuôi dòng trôi nhanh mỗi lúc một xa, vội vàng gắng sức ném luôn hai tảng đá. Nếu mà trúng cả thì chiếc thuyền gỗ bé nhỏ sẽ bị thủng chìm ngay. Nhưng lúc này khoảng cách đã xa…

Bảo Tượng thấy không hiệu quả, cả giận chửi mắng ỏm tỏi, xa xa thấy gió thổi lộng, râu tóc bờm xờm của Địch Vân xừng lên trong gió, y chợt nghĩ: “Bộ dạng thẳng này giống như tù vượt ngục. Đinh Điển vượt ngục Kinh Châu bỏ trốn, giang hồ đồn đại ầm ĩ, tóm được thằng tù này biết đâu dò được tung tích Đinh Điển.” Nghĩ đến đó, lòng tham bốc lên, lửa giận bừng bừng, y hét lên:

– Nhà chài, nhà chài, mau chở ta đuổi theo hắn.

Nhưng những người đánh cá trên ba chiếc thuyền dưới gốc liễu thấy y ném đá giết người rất căm ghét, đã lẳng lặng mở thuyền xuôi theo dòng sông. Bảo Tượng gọi liền mấy tiếng nhưng ai chịu quay thuyền lại chở y? Bảo Tượng lại “vù vù vù” ném luôn mấy tảng đá, có một tảng đá trúng đầu một ngư dân, người đánh cá ấy vỡ nát óc, rơi xuống sông. Những người đánh cá khác hồn xiêu phách lạc, càng chèo thuyền nhanh hơn.

Bảo Tượng men sông đuổi rất nhanh, còn nhanh hơn con thuyền nhỏ của Địch Vân. Bảo Tượng chạy men theo bờ bắc, Địch Vân gắng đưa thuyền sang bờ nam, càng ngày càng cách xa Bảo Tượng. Địch Vân nghĩ bụng: “Nếu y tìm được thuyền, bắt người ta chèo thuyền đuổi theo mình thì mình khó lòng thoát khỏi độc thủ của y.” Trong lúc hoảng hốt chỉ lầm rầm cầu nguyện: “Đinh đại ca, Đinh đại ca, huynh có linh thiêng thì hãy khiến tên ác tăng kia không tìm được thuyền.”

Trên sông Trường Giang thuyền rất nhiều may mà suốt mấy dặm bờ bắc không đâu một con thuyền nào. Địch Vân gắng hết sức bình sinh đưa thuyền sang bờ Nam, đoạn này lòng sông tuy không rộng nhưng cây cối um tùm, Bảo Tượng không thể nhìn thấy. Thế là Địch Vân nhét cái bao nhỏ vào lòng, ôm thi thể Đinh Điển, leo lên bờ. Bỗng nghĩ ra, quay lại đẩy chiếc thuyền ra giữa sông, hy vọng là Bảo Tượng nhìn từ xa tưởng mình vẫn ở trên thuyền, xuôi dòng đuổi theo.

Hoảng chẳng chọn đường, Địch Vân cứ nhằm hướng nam mà chạy, chỉ mong càng xa bờ sông càng tốt. Chạy được hơn một dặm, lại không ghìm được tiếng kêu khổ, chỉ thấy nước mênh mông trắng lóa, sông lớn ngay trước mặt, thì ra Trường Giang chảy đến đoạn này lại ngoặt xuống phía nam.

Địch Vân vội vàng quay mình, thấy bên phải có một ngôi miếu nhỏ bỏ hoang liền ôm thi thể Đinh Điển đến trước miếu, định đẩy cửa bước vào, bỗng đầu gối nhũn ra, ngã ngồi xuống đất, rồi không đứng lên được nữa. Địch Vân sau khi bị thương máu chảy rất nhiều, đã rất yếu, chống thuyền, lại còn ôm Đinh Điển mà chạy, quả thực đã kiệt sức. Cố gắng mấy cũng không thể đứng lên được, chỉ biết nằm trên mặt đất thở không ra hơi. Nhưng thấy trời dần tối cũng hơi yên tâm, nghĩ bụng: “Chỉ cần trời tối, tên Bảo Tượng ác tăng kia không thể tìm thấy chúng ta nữa.” Lúc này tuy Đinh Điển đã chết, nhưng trong lòng Địch Vân vẫn xem chàng như người bạn thân thiết.

Nằm ngoài miếu được hơn nửa canh giờ, hơi lại sức, mới cố gắng bò dậy, ôm xác Đinh Điển đẩy cửa bước vào miếu. Thì ra đây là một ngôi miếu thổ địa. Tượng thổ địa bằng đất sét thấp nhỏ hình dáng tướng mạo trông rất khôi hài. Địch Vân đang thiểu não, thấy pho tượng bé nhỏ bỗng cảm thấy kính sợ, cung cung kính kính quỳ xuống hướng về tượng thần rập đầu mấy cái, cảm thấy hơi vững tâm một chút.

* * *

Địch Vân nằm bên thi thể của Đinh Điển giống như mấy năm qua ở trong phòng giam chật chội.

Chưa đến nửa đêm, bỗng trời mưa sầm sập sình sịch, một trận lớn lại một trận nhỏ. Địch Vân cảm thấy lạnh, nằm co quắp bên Đinh Điển, chạm phải da thịt lạnh ngắt, nghĩ đến Đinh đại ca đã chết không thể cùng mình trò chuyện, hai hàng nước mắt lại lăn dài trên má.

Bỗng trong tiếng mưa vọng đến tiếng bước chân chạy về miếu thổ địa. Người đó giẫm lên bùn lầy, nhưng vẫn chạy cực nhanh. Địch Vân giật nảy mình, tai nghe người đó mỗi lúc một gần, vội vàng giấu thi thể Đinh Điển dưới bệ thờ còn mình thì nằm co quắp sau khám thờ.

Tiếng bước chân càng gần, Địch Vân tim đập dập dồn, chỉ nghe sầm một tiếng, cửa miếu đã bị đẩy mở toang, rồi một người chửi váng lên:

– Con mẹ nó chứ, thằng giặc già ấy không biết trốn đâu rồi, lại mưa to thế này, ướt hết cả bố mày rồi.

Chính là tiếng của Bảo Tượng. Người xuất gia mà chửi “con mẹ nó” đã là không nên, tự xưng là “bố mày” thì càng bậy bạ. Địch Vân tuy chưa từng trải việc đời, nhưng mấy năm nay ở trong tù nghe Đinh Điển kể về những chuyện trên chốn giang hồ nên đã không còn là chú nhà quê ngây ngô như mấy năm trước, nghĩ bụng: “Tên Bảo Tượng này đội lốt nhà sư nhưng lại ăn mặn giết người, không kiêng dè gì cả, lốt hòa thượng mà thực chất lại là kẻ cướp.”

Chỉ nghe thấy Bảo Tượng văng ra đủ mọi tiếng tục tằn bẩn thỉu, chửi một trận lại lầu bầu mấy tiếng, rồi ngã ngồi xuống trước bàn thờ, tiếp đó lại có tiếng sột soạt như là y đang cởi hết quần áo ướt đem đến góc miếu treo cho khô rồi đến nằm bên bàn thờ, chốc lát nghe tiếng ngáy khò khò, y đã ngủ say.

Địch Vân nghĩ bụng: “Lão ác tăng này cởi hết áo quần ngủ trước bàn thờ há chẳng mắc tội sao?”

Lại nghĩ: “Mình nhân cơ hội này vác một tảng đá lớn đập chết hẳn để tránh đại họa.” Nhưng Địch Vân không muốn tùy tiện giết người, lại biết võ công của Bảo Tượng gấp mười mình, nếu không đập một cú chết tươi, nếu hắn còn một chút sức đánh trả thì mình khó giữ được tính mạng.

Lúc này nếu Địch Vân rón rén ra phía sân sau chạy trốn thì chắc chắn là Bảo Tượng không biết. Nhưng thi thể của Đinh Điển ở dưới bàn thờ, không thể ôm đi được, nếu kéo ra thì sẽ kinh động tên ác tăng. Nghe tiếng mưa rơi tí tách bên ngoài, lòng bàng hoàng không nghĩ ra được cách gì, chỉ mong sớm mai trời tạnh, Bảo Tượng bỏ đi, nhưng nghe ra cơn mưa không tạnh nổi. Đến mai nếu Bảo Tượng không chịu đội mưa ra khỏi miếu, sục sạo trong miếu thế nào cũng thấy thi thể Đinh Điển. Tuy thế trong lòng vẫn cầu may: “Biết đâu đến sáng trời tạnh, tên ác tăng này muốn đuổi tìm mình, vội vàng ra khỏi miếu.”

Bỗng lại nghĩ đến một điều: “Khi hắn mới đến mở miệng chửi, bảo là không biết thằng “giặc già” trốn đâu rồi. Mình mới hơn hai mươi tuổi, sao lại gọi mình là “giặc già”? Hay là hắn còn đuổi theo một người già nào nữa?” Suy nghĩ một hồi chợt vỡ nhẽ: “À, phải rồi, mình đầu tóc dài rối bời, mặt đầy râu ria xồm xoàm mấy năm không cạo, người ta nhìn thấy tưởng là ông già. Hắn chửi mình là “giặc già”, hi hi, chửi mình là “giặc già”!” Nghĩ đến đó Địch Vân đưa tay sờ râu ria bờm xờm trên mặt.

Bỗng nghe thấy “cộp” một tiếng, Bảo Tượng trở mình, trong giấc ngủ hắn đạp vào dưới bàn thờ lại đụng vào thi thể Đinh Điển. Cảm thấy khác lạ hắn lập tức tỉnh dậy, tưởng là có người mai phục dưới bàn thờ, tối tăm quá không biết trong miếu có bao nhiêu người mai phục, hắn vớ thanh đơn đao bên cạnh, chém luôn sáu nhát trước sau trái phải để kẻ địch không dám tới gần, hét tướng lên:

– Ai? Con mẹ nó, đồ khốn!

Chửi liền mấy tiếng, không nghe thấy tiếng trả lời, bèn im lặng nghe ngóng, cũng không nghe thấy tiếng người.

Bảo Tượng lại chém mò mười mấy nhát xung quanh, chính là “dạ chiến bát phương thức”, giơ chân đá “bình” một tiếng, đá đổ cả bàn thờ, vung đao chém xuống, nghe một tiếng “rắc” nhẹ, như là tiếng xương gãy, hắn đã chém trúng thi thể Đinh Điển.

Địch Vân nghe rõ ràng Bảo Tượng dùng đao chém Đinh đại ca. Tuy Đinh Điển đã chết, đã vô tri vô giác, nhưng trong lòng Địch Vân, anh vẫn là người nghĩa huynh rất kính yêu, nhát đao này như chém vào thân thể mình, liền muốn xông ra liều mạng với hắn, nhưng sự đày đọa năm năm trong ngục đã khiến cậu thiếu niên chất phác lỗ mãng đã trở thành một thanh niên biết suy nghĩ. Vừa mới định xông ra liền nghĩ: “Mình xông ra liều mạng với hắn thì chỉ có chết, tâm nguyện của Đinh đại ca và Lăng tiểu thư làm sao thực hiện được? Sao cho khỏi phụ lời ủy thác của đại ca?”

Bảo Tượng chém một đao trúng thi thể Đinh Điển, không nghe thấy động tĩnh gì nữa, trong tối tăm cũng chẳng thấy gì. Dụng cụ đánh lửa mang theo đã bị mưa ướt, không cách gì thắp lửa lên để nhìn cho rõ, hắn từng bước từng bước lùi lại, lưng tựa vào tường để phòng kẻ địch đánh lén từ đằng sau, rồi lại chăm chú lắng nghe.

Lúc này hai người chỉ cách nhau một bức tường, ngoài tiếng mưa rơi tí tách, không còn một thanh âm nào nữa.

Địch Vân biết mình chỉ cần thở mạnh một chút lập tức sẽ mất mạng, chỉ còn cách nhè nhẹ hít vào lại nhè nhẹ thở ra, trong đầu loang loáng những ý nghĩ: “Hơn một canh giờ nữa trời sẽ sáng, tên ác tăng này thấy thi thể của Đinh đại ca nhất định sẽ hành hạ, phải làm sao đây?”

Đầu óc Địch Vân vốn không linh hoạt mà việc bảo vệ thi thể của Đinh Điển thoát khỏi bàn tay tàn ác của Bảo Tượng lại là một việc cực khó, nghĩ mãi muốn vỡ cả đầu cũng nghĩ không ra cách gì, vô cùng sốt ruột, tự trách mình ngu: “Địch Vân ơi Địch Vân, ngươi là một thằng ngu thì tất nhiên là chẳng nghĩ được cách gì. Nếu Đinh đại ca còn sống, chắc là huynh ấy sẽ có cách.” Trong lúc hốt hoảng sốt ruột, đưa tay lên bứt tóc, nhổ đứt sáu bảy sợi.

Đột nhiên trong óc lóe lên một ý nghĩ: “Tên ác tăng này gọi mình là “lão tặc” (giặc già). Hắn thấy mình râu ria xồm xoàm cứ tưởng mình là một ông già. Nếu mình cạo sạch râu, hắn há lại nhận ra mình được sao? Chỉ tiếc là không có dao cạo, làm sao cạo hết râu trên mặt đây? Hừm, mình chết cũng không sợ, lẽ nào lại sợ đau? Lấy tay nhổ từng sợi cũng được.”

Nghĩ là làm. Địch Vân mò từng sợi râu, nhè nhẹ nhổ từng sợi, từng sợi, chỉ sợ phát ra tiếng động, lại nghĩ bụng: “Cứ cho là tên ác tăng này không nhận ra mình thì bất quá cũng không giết mình mà thôi, mình phải có cách nào để bảo vệ chu đáo cho Đinh đại ca? Ầy, tới đâu hay đó, mình chỉ tạm giữ được tính mạng, làm sao đến gần được tên ác tăng này, thừa lúc hắn không đề phòng, nghĩ cách giết hắn đi mới được.”

Nhổ được hơn một nửa bộ râu, chợt nghĩ ra: “Cứ cho là không còn râu nữa, nhưng đầu tốc dài chơm bơm này vẫn để lộ chân tướng của mình. Tên ác tăng này đuổi mình trên sông Trường Giang chắc đã thấy rõ bờm tóc rối tung của mình.” Đã làm thì làm cho trót, bèn đưa tay nắm lấy mấy sợi tóc, nhè nhẹ nhổ ra.

Nhổ râu còn không đau mấy, chứ cứ từng sợi từng sợi mà nhổ trọc đầu tóc thì thật là đau ghê gớm. Địch Vân vừa nhổ vừa nghĩ bụng: “Đừng nói cái việc nhỏ mọn là nhổ sạch đầu tóc, vì Đinh đại ca mà phải chặt chân tay mình cũng không một chút chau mày.” Lại nghĩ: “Cái cách này của mình thật vụng, hồn của Đinh đại ca chắc sẽ cười mình, nhưng… nhưng… huynh ấy lại không thể bày cho mình cách nào hay hơn.”

Nghe thấy tiếng ngáy đều đều của Bảo tượng chắc hắn lại ngủ, chỉ sợ tên ác tăng kia nghe thấy, thế là cứ nhổ được một ít râu, tóc lại lùi xa thêm một bước, mất cả nửa canh giờ mới lùi ra đến chỗ thiên tỉnh, lại một lúc nữa mới ra khỏi cửa sau miếu thổ địa. Mưa lớn dội ào ào lên mặt bấy giờ mới thở phào.

Ở ngoài miếu không còn phải lo Bảo Tượng nghe thấy, nhổ tóc được nhanh hơn nhiều, cuối cùng cả đầu tóc dài chơm bơm, cả bộ râu xồm xoàm đều nhổ sạch nhẵn. Địch Vân đem tất cả râu tóc

mới nhổ ra chôn hết xuống bùn để phòng Bảo Tượng phát hiện sẽ sinh nghi. Xoa xoa cái đầu trọc lốc, cái cẳm nhẵn thín, chẳng những đã không còn là “giặc già” mà đã thành “giặc trọc”, trong bi phẫn Địch Vân không khỏi bật cười, nghĩ: “Mình nhổ một hồi, đầu và cằm chắc có nhiều vết máu, phải rửa sạch kẻo lộ dấu vết.” Thế là bèn ngẩng đầu lên để nước mưa dội sạch.

Lại nghĩ: “Mặt mày của mình như thế là ổn rồi, còn áo quần này khéo tên ác tăng kia vẫn nhận ra thì cũng hỏng. Chà, không có áo để thay, mình học cách của ác tăng kia, cởi bỏ quách thì đã sao?” Thế là cởi hết cả áo quần ra, chiếc áo tơ tẳm đen thì không thể cởi, thế là chỉ có áo trong, không có quần bèn lấy áo ngoài quấn vào ngang hông, lại sợ Bảo Tượng nhận ra lai lịch của chiếc áo tơ tảm đen, bèn lăn mấy vòng trong bùn, toàn thân bê bết bùn.

Lúc này giá mà Đinh đại ca sống lại cũng chẳng nhận ra. Địch Vân mò mẫm đến dưới một gốc cây lớn đào một cái hố, chôn cái bao nhỏ vào trong, thầm nghĩ: “Nếu thoát được bàn tay tàn bạo của tên ác tăng này, bảo vệ được Đinh đại ca bình an, sau này tất phải báo đáp đại ân đại đức của người đã chữa vết thương cho mình và tặng mình tiền bạc, nữ trang. Nhưng rốt cuộc người ấy là ai?”

Bận rộn đến lúc ấy, trời cũng đã tang tảng sáng. Địch Vân lặng lẽ đi về phía nam, ngoặt sang hướng tây, đi được hơn một dặm, trời đã sáng rõ, thấy mưa vẫn chưa tạnh, đoán là Bảo Tượng vẫn chưa rời miếu, muốn tìm một thứ vũ khí nhưng biết tìm đâu giữa nơi hoang dã này?

Đành nhặt lấy một phiến đá có đầu nhọn, giấu bên hông, nghĩ bụng nếu có thể đập trúng vào chỗ hiểm của ác tăng kia thì biết đâu có thể giết được hắn. Nhưng tốt nhất là tên ác tăng kia đã rời miếu đi chỗ khác, thế là may mắn nhất.

Soi mình vào trong vũng nước, thấy bộ dạng cổ quái của mình, nhịn không được bật cười, nhưng liền cảm thấy một nỗi thống khổ không nói được thành lời.

* * *

Trong lòng vẫn nhớ Đinh Điển, tìm chẳng được vũ khí thích hợp bèn ngoặt lại hướng đông, trở về miếu thổ địa, nghĩ bụng: “Mình phải điên điên khùng khùng, giả làm một đứa vô lại bản địa.” Khi gần đến miếu thổ địa, bèn lấy giọng hát một bài sơn ca:

“Ơi em gái ở bên kia núi,

Nghe lời anh hát đây

Em lấy chồng chớ lấy chàng phú quý

Công từ nhà giàu chẳng có lương tâm

Lấy quách anh – chàng sài đẹn A Tam!”

Dạo còn ở làng quê Hồ Nam, Địch Vân vốn hay hát sơn ca. Trong những đám mộng bên hồ, trước khe sau núi, Địch Vân cùng Thích Phương đã hát không biết mấy ngàn mấy vạn bài sơn ca. Phong tục ở làng quê Hồ Nam, sơn ca đều là ứng khẩu hát lên, vần điệu thô thiển, không khác với lời ăn tiếng nói hàng ngày bao nhiêu. Lời ca vừa cất lên, lòng lại thấy chua xót, từ ngày cùng Thích Phương cầm tay dạo bước, hát trên đồng, đến nay đã hơn năm năm rồi lời ca chưa từng được thốt ra, lúc này hát bài ca xưa, tình cảnh trước mắt lại cực kỳ quái gở. Người nghe ca bây giờ không còn là cô sư muội xinh đẹp mà là một tên ác tăng trần như nhộng.

Địch Vân từ từ đi đến miếu thổ địa, uốn lưỡi bắt chước giọng con gái lại hát:

“Anh sài đẹn A Tam có mùi mẽ chi?

Mà đòi lấy em như hoa như ngọc tiểu kiều nhi?

Ham anh trọc tếu không cần lược?

Ham anh…”

Câu cuối mới hát được hai tiếng “ham anh”, Bảo Tượng đã từ trong miếu thổ địa bước ra. Hắn dùng áo quấn ngang hông, ngó ra ngoài xem ai đến, chỉ thấy Địch Vân miệng nghêu ngao hát sơn ca đang đi đến, đầu trọc lóc, lại tưởng Địch Vân đúng là một thằng bé chốc đầu, trong bài sơn ca toàn là lời tự trào nghe thật tức cười, bèn gọi:

– Ê, thằng trọc, ngươi lại đây.

Địch Vân hát:

– “Đại sư phụ kêu tui có việc chi? Muốn cho tui bạc vàng và châu báu? Sài đẹn A Tam số đỏ ghê, Đại sư phụ muốn mời tui ăn lợn béo.”

Địch Vân vừa hát vừa bước đến trước Bảo Tượng, tuy giả vờ thản nhiên nhưng không giữ được trái tim khỏi đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, mặt biến sắc. Nhưng Bảo Tượng không để ý, cười hì hì nói:

– Thằng sài đẹn A Tam kia, ngươi đi kiếm cho ta cái gì ăn, đại sư phụ sẽ trọng thưởng, có lợn béo không?

Địch Vân lắc đầu quầy quậy, hát:

“Núi hoang rừng vắng không lợn béo…”

Bảo Tượng thét:

– Nói nhăng nói cuội, hát với chả hỏng.

Địch Vân le lưỡi, gắng hết sức giả vờ lấy giọng trơn tru, nói:

– Sài đẹn A Tam quen hát sơn ca, không quen nói chuyện kiểu bình thường, đại sư phụ, nơi này trước không thôn xóm, sau chẳng cửa hàng, trong vòng mười dặm chẳng có khói lên, đừng nói chuyện muốn ăn lợn béo, cơm trắng rau xanh cũng khó tìm, cách đây mười lăm dặm trường, có thị trấn nhiều rượu lắm thịt, có gà, có cá béo quay, đại sư phụ muốn ăn gì cũng có, cứ đi là đến ngay.

Địch Vân tự biết mình không đủ sức giết Bảo Tượng để báo thù cho Đinh Điển chỉ mong hẳn tin lời mình, rời miếu đi về phía tây tìm cái ăn, mình sẽ ôm thi thể Đinh Điển mà chạy trốn.

Nhưng mưa vẫn cứ không tạnh, dội xối xả lên hai người.

Bảo Tượng nói:

– Ngươi đi tìm cái gì ăn được lại đây, có rượu có thịt là tốt nhất, nếu không thì con gà con vịt gì cũng được.

Địch Vân chỉ lo cho Đinh Điển, miệng cứ ậm ừ nhận lời, bước vào trong miếu, chỉ thấy thi thể Đinh Điển đã bị lôi ra khỏi gầm bệ thờ, áo quần rách nát, rõ ràng là đã bị Bảo Tượng lục soát. Địch Vân trong lòng vừa buồn vừa hận, không thể che giấu được nữa, nói:

– Ở… ở đây có người chết… là… là do ông đánh chết phải không?

Sắc mặt Địch Vân tái nhợt, Bảo Tượng lại cho rằng vì thấy xác chết mà sợ hãi, hắn cười nanh ác, nói:

– Không phải ta đánh chết. Ngươi tới nhận xem, người này là ai, ngươi nhận ra không?

Địch Vân giật mình, cứ tưởng là hắn đã nhận ra mình, nếu không quyết tâm bảo vệ Đinh Điển thì đã co giò chạy trốn, bèn cố gắng trấn tĩnh, nói:

– Người này tướng mạo rất cổ quái, không phải ở trong thôn này. B

ảo Tượng cười nói:

– Hắn tất nhiên không phải là người trong thôn ngươi.

Đột nhiên nghiêm giọng nói:

– Ê, đi tìm cái gì ăn được tới đây. Ngươi không nghe lời, xem phật gia ta đây có lấy cái mạng chó của ngươi không.

Địch Vân nhận thấy thi thể Đinh Điển tạm thời không việc gì, hơi yên tâm, đáp:

– Vâng, vâng!

Rồi quay người đi ra khỏi miếu, nghĩ bụng:

– Mình hãy tạm tránh hắn cái đã, chỉ cần nửa ngày không quay lại, hắn chịu đói không nổi, tự khắc sẽ đi tìm cái ăn. Y chẳng tội gì mang Đinh đại ca đi. Hắn đã khám xét thi thể đại ca, tìm chẳng được gì, chắc cũng ngán ngẩm rồi.

Không ngờ chỉ mới bước được hai bước, Bảo Tượng đã lấy giọng dữ tợn, quát:

– Đứng lại! Ngươi định chuồn đi đâu?

Địch Vân nói:

– Tôi đi tìm cái ăn cho ông.

Bảo Tượng nói:

– Ầ y, tốt lắm, tốt lắm! Ngươi đi bao lâu thì về?

Địch Vân nói:

– Nhanh lắm, một lúc là quay lại thôi.

Bảo Tượng nói:

– Đi đi!

Địch Vân quay đầu nhìn thi thể Đinh Điển, đi ra ngoài miếu. Đột nhiên, có tiếng gió rít đảng sau lưng, hai tiếng “bốp, bốp” vang lên, hai má Địch Vân ăn luôn hai bạt tai. May mà Bảo Tượng cho rằng đây chỉ là một thằng bé nhà quê không có võ công cho nên ra tay không nặng, lại cũng may là Bảo Tượng thân pháp cực nhanh, mới ra tay đã đánh trúng, Địch Vân không kịp phản ứng gì, không hề né tránh, nếu không thì uổng công giả vờ.

Địch Vân giật mình nói:

– Ông… ông…

Nghĩ bụng: “Hắn đã nhận ra mình rồi, chỉ còn cách liều mạng.” Chỉ nghe Bảo Tượng nói:

– Trên người mày có bao nhiêu tiền, lôi ra ta xem!

Địch Vân nói:

– Tui… tui…

Bảo Tượng tức giận nói:

– Mày không có nổi một đồng xu, bằng vào cái bản mặt của mày thì… hừm, mày bảo đi mua cái ăn cho ta, không phải là có ý chạy trốn đấy chứ?

Hắn lại nói:

– Mày bảo trong vòng mười dặm không có một tia khói nào thì làm sao có thể đi mua cái ăn được, ngươi định trốn à?

Địch Vân nghe hắn nói vậy lại hơi yên tâm: “Thì ra hắn chỉ nhận ra mình giả vờ đi mua thức ăn, thế thì không sao.” Bảo Tượng lại nói:

– Cái thằng trọc này, mày bảo trong khoảng mười dặm không có khói lên, vậy thì làm sao đi mua thức ăn về ngay được? Chẳng phải rõ ràng là lừa ta sao? Hừm, mày nói thực đi, rốt cục mày muốn gì?

Địch Vân lắp bắp nói:

– Tui… tui… tui thấy đại sư phụ dễ sợ, muốn trốn về nhà.

Bảo Tượng ha ha cười lớn, vỗ vỗ lên bộ ngực đầy lông đen, nói:

– Sợ cái gì? Sợ ta ăn thịt mày hả?

Nói đến chữ “ăn”, lập tức bụng sôi lên òng ọc, càng đói ghê gớm. Sau khi trời sáng, hắn đã sục sạo khắp trong miếu, không có một chút gì có thể ăn được. Hắn lèm bèm mấy câu:

– Sợ ta ăn thịt ngươi hả? Sợ ta ăn thịt ngươi hả?

Vừa nói mắt hắn vừa lóe hung quang, nhìn Địch Vân từ đầu đến chân.

Địch Vân bị cái nhìn hung ác kia làm nổi da gà, đã đoán được tên ác tăng này có ý gì. Quả nhiên Bảo Tượng đang nghĩ: “Mùi vị thịt người cũng tuyệt lấm, tim người gan người càng ngon, trước mắt có một con heo, sao không mổ mà chén?”

Địch Vân thầm kêu khổ: “Mình bị hắn giết, cũng chẳng sao, xem bộ dạng tên ác tăng này, rõ ràng là muốn nấu mình mà ăn, thật oan uổng quá, ta phải liều với ngươi.” Nhưng, liều mạng chắc chắn là bị giết, sau khi giết vẫn bị hắn ăn vào bụng, như thế thì có khác gì đâu? Chỉ thấy hai mắt Bảo Tượng hung quang rực rực, hi hi cười nanh ác, sải bước tiến tới.

Địch Vân thấy hắn từng bước lại gần, bộ mặt xấu xí càng dữ tợn đáng sợ thì cũng từng bước lùi dần. Bảo Tượng cười nói:

– Hi hi, con quỷ còm, ăn thịt mày mùi vị cũng chả ra gì, xác chết kia còn béo hơn mày đấy, đáng tiếc là xác chết có độc, không ăn được, không có lợn béo, lợn gầy cũng xài tạm vậy.

Hắn vươn tay, chộp ngay cánh tay trái của Địch Vân.

Địch Vân ra sức giãy giụa nhưng làm sao mà thoát được? Trong lòng hết sức lo sợ, lo sợ không tưởng tượng nổi. Trải qua mấy năm đày đọa đã không còn sợ chết là gì, nhưng nghĩ đến việc bị tên ác tăng kia ăn vào bụng, thật là không rét mà run.

Bảo Tượng thấy Địch Vân không cách gì thoát được nghĩ bụng chi bằng bắt nó nấu nước sôi cái đã, sau đó ra tay mổ nó cũng được. Chỉ tiếc là người này không biết tự mổ thịt mình rồi lại tự nấu chín cung kính dâng lên cho “đại sư phụ”, bèn nói:

– Ta giết ngươi để chén, có hai cách, một là cắt thịt trên tay chân ngươi, vừa cắt vừa nướng thế thì ngươi phải chịu đau một chút, cách thứ hai là một đao giết chết ngươi, nấu lên mà chén. Ngươi bảo cách nào hay hơn?

Địch Vân nghiến răng nói:

– Ông… ông muốn giết tui, ông… ông là hòa thượng độc ác.

Địch Vân cất tiếng chửi nhưng sợ hắn nổi giận lại bắt mình chịu nỗi khổ tùng xẻo, tiếng chửi sắp vọt ra, phải kìm nén lại.

Bảo Tượng cười nói:

– Phải đấy, ngươi biết vậy là tốt, càng biết nghe lời càng được chết một cách sảng khoái. Ngươi mà quật cường giãy giụa, thì càng khổ hơn. Hừ, thằng chốc đầu A Tam, nghe ta bảo đây, ngươi xuống nhà bếp đem cái nồi gang lên đây, nấu một nồi nước đầy.

Địch Vân biết hắn định nấu mình để ăn, nhưng vẫn hỏi:

– Để làm gì?

Bảo Tượng cười nói:

– Không phải hỏi nhiều, đi mau đi!

Địch Vân nói:

– Muốn nấu nước, thì nấu ở dưới nhà bếp là được rồi, đem nồi lên đây không tiện.

Bảo Tượng nói:

– Trong bếp toàn là tro bụi, mạng nhện, lão phật ta đây mới vào đã hắt hơi, ta không nhìn thấy ngươi, cái thằng sài đẹn nhà ngươi nhất định là đào tẩu.

Địch Vân nói:

– Tui không chạy trốn là được.

Bảo Tượng tức giận nói:

– Ta bảo thế nào là phải thế ấy, ngươi dám không nghe lời à?

Nói rồi vung chưởng tát vào má bên phải Địch Vân rồi lại đá một cú, Địch Vân lăn tròn mấy vòng trên mặt đất. Địch Vân bỗng nghĩ ra: “Hắn bảo mình nấu nước sôi, thì đây lại là một cơ hội, đợi nồi nước to tướng này sôi lên, mình sẽ hất hết vào người hắn, hắn ở trần thế này há không chết bỏng sao?” Đã có chủ ý ấy rồi, Địch Vân không sợ nữa, bèn xuống bếp bưng một cái nồi mẻ lên. Thấy cái nồi gang đã mẻ một nửa, chỉ có thể đựng được nửa nồi nước, nửa nồi nước sôi e rằng không luộc chết được tên ác tăng, nhưng dù không chết thì sống dở chết dở cũng được rồi.

Địch Vân bưng chiếc nồi gang ra thiên tỉnh trong miếu, hứng nước mưa bên thềm rửa sạch, rồi lại hứng được nửa nồi nước, đến ngang chỗ mẻ.

Bảo Tượng khen:

– Hay lắm, hay lắm! A Tam sài đẹn, ta cứ phải ăn thịt ngươi. Ngươi làm việc sạch sẽ nhanh nhẹn, được đấy!

Địch Vân cười khổ:

– Đa tạ đại sư phụ khen ngợi.

Rồi nhặt mấy viên gạch, bắc làm ông táo, đặt nồi gang lên. Trong cái miếu hoang này có nhiều bàn mục ghế gãy, Địch Vân đang sốt ruột muốn một phen sống chết với Bảo Tượng nên nhanh tay nhặt nhạnh gỗ củi, chất vào dưới nồi. Nhưng muốn tìm dụng cụ đánh lửa thì không có. Địch Vân giang hai tay tỏ ý không biết làm sao.

Bảo Tượng nói:

– Sao? Không có đá đánh lửa à? Ta nhớ là ở trên người nó có đấy. Nói rồi chỉ vào xác Đinh Điển.

Địch Vân thấy chân Đinh Điển bị Bảo tượng chém máu thịt nhầy nhụa, nỗi bi phẫn ứ đầy lồng ngực, ngoái lại trừng mắt nhìn Bảo Tượng, hận không thể giết được hắn. Bảo tượng thì lại như con mèo đã bắt được chuột, muốn giỡn chơi một lúc đã rồi hãy ăn nên không thèm để ý đến sự phẫn nộ của Địch Vân, cười khùng khục nói:

– Ngươi tìm đi, nếu không có, nếu không có lửa, đại hòa thượng ta ăn thịt sống cũng được.

Địch Vân cúi xuống mò trong túi áo Đinh Điển quả nhiên sờ thấy hai vật cứng chính là một cây đao đánh lửa và một hòn đá đánh lửa, nghĩ thầm: “Khi cùng ở trong nhà tù, Đinh đại ca không có hai vật này, huynh ấy lấy được ở đâu nhỉ?” Lật cái hỏa đao lên, thấy trên thân đao có đúc một hàng chữ nổi: “Kinh Châu Lão Hợp Hưng Ký”. Địch Vân đã từng cùng Đinh Điển vào một lò rèn nhờ thợ rèn chặt xiềng xích trên thân mình, đây hẳn là tên của hàng rèn ấy. Địch Vân cầm dao và đá, nghĩ bụng: “Đinh đại ca lo liệu thật chu đáo, đã lấy dao và đá đánh lửa này trong lò rèn định để dùng khi cùng với mình bước chân vào chốn giang hồ. Không ngờ chưa dùng lần nào đã thác về cõi âm.” Ngẩn ngơ nhìn vật đánh lửa, không ngăn được nước mắt trào ra.

Bảo tượng thì cho rằng Địch Vân thấy dụng cụ đánh lửa biết mình sắp mất mạng mà khóc, hắn ha ha cười nói:

– Đại hòa thượng ta thân quý ngàn vàng, ngươi kiếp trước khéo tu nên kiếp này được dùng ruột hòa thương ta làm quan tài, lấy bụng ta làm phần mộ, phước duyên thật là thâm hậu, số thật là hên! Nổi lửa lên mau!

Địch Vân chẳng nhiều lời, tìm trong miếu một tờ giấy xăm màu vàng cũ nát, đặt xuống bên cạnh dao và đá đánh lửa, bắt đầu đánh lửa. Ngọn lửa cháy sang tờ giấy xăm màu vàng, những vết chữ lộ ra, chỉ thấy trên tờ xăm lờ mờ mấy chữ: “hạ hạ”, “cầu quan bất thành”, “hôn nhân nan hài”, “xuất hành bất lợi”, “tật bệnh nan dũ” (số hạng bét, cầu quan không được, hôn nhân chẳng thành, xuất hành bất lợi, bệnh tật khó lành – đây là lời sấm trên tờ xăm bói toán trong các đền miếu xưa). Chốc lát, lưỡi lửa đã đốt cháy nửa tờ xăm. Địch Vân nghĩ bụng: “Mình suốt đời bất hạnh, không cần xin xăm cũng biết rồi.” Bèn nhét tờ xăm bốc cháy vào củi, củi khô dưới đáy nồi bén lửa cháy rừng rực.

Nước trong nồi gang dần dần sủi bọt mắt cua, Địch Vân biết là nước trong này chỉ cần cháy nửa tuần nhang là sôi, cảm thấy căng thẳng hồi hộp, nhìn vào nồi nước lại nhìn vào cái bụng để trần của Bảo Tượng, nghĩ đến việc sống chết mất còn chỉ trong một cử động này, đôi tay hơi run. Cuối cùng khói trắng bốc lên, nước trong nồi sôi sùng sục. Địch Vân đứng thẳng người lên bưng nồi, hai tay giơ lên định dội vào đầu Bảo Tượng.

Nào ngờ thân hình mới hơi động đậy, Bảo Tượng đã cảnh giác, mười ngón tay xòe ra rồi nắm chặt lấy cổ tay Địch Vân, giật giọng quát:

– Làm gì thế?

Địch Vân không biết nói dối, dùng sức định tạt cả nồi nước sôi vào Bảo Tượng, nhưng cổ tay đã bị nắm chặt như bị hai cái cùm sắt xiết vào, không nhúc nhích được.

Bảo Tượng nếu muốn hắt cả nửa nồi nước sôi vào Địch Vân thì cực dễ nhưng lại tiếc – cái thằng nhóc chốc đầu này mà chết ngay thì mình lại phải đun nồi khác cũng nhọc. Hắn bèn hơi vận kình, đặt nồi nước vào chỗ cũ, hét:

– Buông tay ra!

Địch Vân đời nào chịu buông, hai tay cũng vận kình giằng lại. Bảo Tượng đá chân phải ra, “bịch” một tiếng, đá Địch Vân văng ra, ngã xuống dưới bàn thờ. Bảo Tượng nghĩ bụng:

– Cái thằng sài đẹn này sức cũng không kém.

Nhưng lúc đó cũng không nghĩ kỹ, hét:

– Bố cần mổ mày, hãy ngoan ngoãn cởi quần áo ra, để ta khỏi mất công.

Địch Vân mò phiến đá dắt bên hông, định xông ra liều mạng với tên ác tăng, bỗng thấy dưới chân bàn thờ có hai con chuột ngửa bụng lên trời, thân còn giãy giãy, sắp chết mà chưa chết, lúc ấy trong tối tăm bỗng hé ra một tia hy vọng, kêu lên:

– Tui bắt được hai con chuột, ông xơi tạm đỡ đói, được không? Mùi vị của chuột cũng ngon lắm, còn thơm hơn cả thịt chó.

Bảo Tượng nói:

– Cái gì? Chuột à? Chết hay sống đấy?

Địch Vân sợ hắn không chịu ăn chuột chết, vội nói:

– Tất nhiên là sống, còn ngoe nguẩy đây nhưng bị tui bóp cho gần chết. Rồi cầm hai con chuột từ dưới bàn thờ đưa lên cho hắn xem.

Bảo Tượng đã từng ăn thịt chuột, biết rằng mùi vị thịt chuột còn hơn heo ốm, thấy hai con chuột không được mập, nghĩ là trong miếu hoang này không có mấy thức ăn, trầm ngâm chưa quyết định.

Địch Vân nói:

– Đại sư phụ, tui lột da chuột nấu tô canh lớn cho ông, bảo đảm vừa nhanh vừa ngon.

Bảo Tượng vốn đại lãn, nếu phải ra tay mổ Địch Vân, cắt thái nấu nướng thì chỉ mới nghĩ tới đã thấy mệt, nghe Địch Vân nói sẽ nấu canh chuột cho mình, thì cũng khỏe xác, đúng ý hắn, bèn nói:

– Hai con chuột không đủ, ngươi bắt thêm mấy con nữa.

Địch Vân nghĩ bụng: “Mình bây giờ võ công đã mất, tay chân không còn nhanh nhẹn nữa, bắt chuột ở đâu cho được?” Nhưng có một cơ hội để sống sót, quyết không thể bỏ qua, vội nói:

– Đại sư phụ, để tui nấu hai con chuột này cho ông điểm tâm cái đã, rồi sẽ lập tức bắt nữa!

Bảo Tượng gật đầu nói:

– Thế cũng được, nếu ta ăn no rồi thì tha mạng ngươi cũng chẳng hề gì.

Địch Vân từ dưới bàn thờ chui ra, nói:

– Cho tui mượn con dao của ông dùng một chút, để cắt đầu con chuột.

Bảo Tượng chả coi thằng trọc nhà quê này ra gì, nên chỉ vào cây đơn đao, nói:

– Kia, ngươi dùng đi!

Rồi nói thêm:

– Ngươi có gan thì chém bố ngươi mấy nhát thử xem!

Địch Vân vốn là có ý cầm lấy đơn đao, quay người chém cho hắn mấy nhát nhưng đã bị hân nói toạc ra nên không dám manh động, bèn hai nhát chặt phứt đầu hai con chuột, mổ bụng, lột da chuột, rửa sạch cả bộ lòng, rồi cho vào trong nồi.

Bảo Tượng gật đầu nói:

– Khá lắm, khá lắm. Thằng chốc đầu này, nấu canh chuột khéo đấy, mau đi bắt thêm mấy con nữa.

Địch Vân nói:

– Dạ, tui đi bắt đây.

Rồi quay mình đi ra phía sau miếu. Bảo Tượng nói:

– Nếu ngươi định chạy trốn thì ta sẽ xẻo từng miếng thịt của ngươi ăn sống.

Địch Vân nói:

– Bắt không được chuột thì bắt ếch, sông còn có cá có tôm, đều có thể ăn được. Tui hầu hạ đại sư phụ, ăn kỳ no, tha hồ thoải mái, hà tất phải ăn thịt tui. A Tam tui sài đẹn ghẻ lở, đại sư phụ ăn vô e bị đau bụng mất.

Bảo Tượng nói:

– Hừm, đừng để ta phải đợi. Ê, ngươi không được chạy ra khỏi miếu, biết chưa?

Địch Vân lớn tiếng “dạ”, bò lồm cồm trên mặt đất giả cách bắt chuột, từ từ bò ra sau miếu mới đứng thẳng lên. Địch Vân nhìn quanh quất, muốn tìm chỗ trốn, từ sau miếu nhìn ra thấy mé bên trái có một cái ao nhỏ, thế là chẳng kể ba bảy hăm mốt gì, chạy nhanh tới, rón rén lội xuống ao, chi chừa lỗ mũi trồi lên thở, lại vớ mấy túm bèo, rong che lên.

Địch Vân từ nhỏ sống ở ven sông, bơi lội rất giỏi, chỉ tiếc là chỗ này xa sông quá, nếu không thì nhảy xuống sông, bơi xuôi một chặp, Bảo Tượng không cách chi đuổi theo được.

Được một lúc, nghe tiếng Bảo Tượng kêu:

– Canh ngon, canh chuột thật tuyệt! Tiếc là chuột ít quá. Thằng trọc A Tam đâu rồi? Bắt được chuột nữa không?

Kêu liền mấy tiếng, rồi lại lớn tiếng chửi bới ầm ĩ. Địch Vân chìa tai bên phải lên khỏi mặt nước nghe động tĩnh của hắn. Chỉ nghe thấy hắn toàn văng ra những lời bẩn thỉu tục tản, rồi đạp bừa phứa lên bùn lầy chạy ra. Chỉ sải mấy bước là đến bên bờ ao. Địch Vân đâu dám nhô đầu lên, bịt chặt mũi lặn xuống đáy ao. Cũng may là ao này đầy rong, bèo, Địch Vân lặn xuống dưới, ở trên không nhìn thấy được.

Nhưng mà ngạt thở quá, Địch Vân không thể nhịn thở mãi được, rốt cuộc cũng phải từ từ nhô đầu lên, định nhè nhẹ thở một hơi, nhưng vừa hít được nửa hơi, bỗng nghe “chõm” một tiếng, một bàn tay to tướng đã chụp xuống, tóm chặt lấy gáy, Bảo Tượng lớn tiếng mắng:

– Không thái thẳng trọc này thành trăm mảnh thì bố mày không phải là người. Ngươi dám đào tẩu hả?

Địch Vân quờ tay túm chặt lấy cánh tay hắn, gắng hết sức lôi hắn xuống. Bảo Tượng không ngờ Địch Vân dám phản kháng, bên bờ ao lầy lội, trượt chân một cái, “ùm” một tiếng, rớt luôn xuống ao.

Địch Vân cả mừng, sử kình đè lên sống lưng hắn, định dìm hắn xuống nước. Đáng tiếc là nước ao lại cạn, Bảo Tượng cao lớn nước ao chưa đến cổ hắn, hắn trở tay tóm lấy cổ tay Địch Vân, tiếp đó trái lại nhận đầu Địch Vân xuống nước. Địch Vân đã không còn kể gì đến tính mạng nữa, bị dìm xuống nước vẫn ôm chặt lấy Bảo Tượng, không chịu buông. Bảo Tượng bị ôm chặt không thi triển được võ công, mở miệng chửi, không cẩn thận uống luôn mấy ngụm nước bẩn, càng tức giận bừng bừng, giơ nấm đấm lên thoi vào lưng Địch Vân.

Địch Vân cảm thấy quyền của tên ác tăng đánh tới, tuy có bị nước cản bớt lực nhưng cũng đau đớn không chịu nổi, chỉ cần thêm mấy quyền nữa thì e mất mạng. Địch Vân không còn sức đánh trả, chỉ còn cách dùng đầu húc vào ngực Bảo Tượng.

Đang lúc vướng mắc không thể xuất chiêu, bỗng Bảo Tượng kêu to một tiếng:

– Ôi chao!

Bàn tay túm chặt Địch Vân từ từ buông lỏng, nắm đấm vung lên nửa chừng cũng không giáng xuống, từ từ rũ xuống rồi thân hình giãy mấy cái, chìm xuống đáy ao.

Địch Vân rất lấy làm lạ, vội vàng vẫy, chỉ thấy Bảo Tượng không hề động đậy, có vẻ đã chết. Địch Vân chưa lại hồn, không dám chạm vào thân thể hắn, đứng ở một góc xa xa nhìn. Chỉ thấy Bảo Tượng nằm ngay đơ dưới đáy ao, không hề nhúc nhích, một lúc lâu sau, xem ra đã chết thật. Địch Vân vẫn chưa yên tâm, bê một tảng đá ném lên thân hình hắn, thấy vẫn không động đậy mới biết là không phải giả chết.

Địch Vân bò lên bờ, đoán không ra rốt cuộc vì sao mà tên ác tăng này đột tử, trong óc bỗng thoáng qua một ý nghĩ: “Lẽ nào “Thần chiếu công” của mình đã có uy lực lớn đến thế mà tự mình còn chưa biết? Húc mấy cái vào ngực hắn đã khiến hắn mất mạng?” Bèn thử vận khí, chỉ cảm thấy luồng khí “thiếu dương đảm kinh” hành đến “huyệt ngũ lý” trên đài thì không vận hành nữa, còn mạch “thủ thiếu dương tam tiêu kinh” luồng khí đi đến “thanh lãnh uyên” trên cánh tay thì cũng dừng lại. Như vậy so với lúc còn ở trong tù thì còn kém hơn, nghĩ là mấy ngày nay tâm thần bất định nên công phu bị suy giảm. Rõ ràng là muốn luyện thành “Thần chiếu công” thì hỏa hầu còn lâu mới đạt.

Địch Vân ngơ ngác đứng bên bờ ao, không dám tin tình cảnh trước mất là sự thật. Chỉ thấy mưa vẫn rơi trên mặt nước, gợn lên những vòng sóng lăn tăn. Thi thể Bảo Tượng vẫn nằm dưới đáy ao, không một chút sinh khí.

Ngơ ngác một hồi mới quay vào trong miếu, thấy củi dưới nồi đã tắt hết, bên nồi còn có hai con chuột chết ngửa bụng, tai và chân sau còn ngo ngoe. Địch Vân nghĩ bụng: “Ầy, thì ra Bảo Tượng tự bắt được hai con chuột, không có phúc hưởng thụ, đã bị mình đánh chết.” Thấy trong nồi còn chút canh do Bảo Tượng ăn thừa, bụng đang đói, Địch Vân bưng nồi lên định húp canh chuột. Bỗng mũi ngửi thấy một mùi hương kỳ lạ.

Địch Vân ngẩn ra một chút, hai tay giữ lấy cái nồi, mím miệng lại không húp, nghĩ thầm: “Mùi hương gì đây? Mình đã từng ngửi thấy, chắc không hay ho gì.” Lại ngửi ngửi mùi hương lạ của canh chuột, chợt tỉnh ngộ, kêu to một tiếng:

– May quá!

Hai tay giơ lên, ném cái nồi ra ngoài thiên tỉnh, quay mình lại, nhìn thi thể Đinh Điển rưng rưng nước mắt, nói:

– Đinh đại ca, huynh tuy đã chết vẫn còn cứu mạng tiểu đệ.

Trong chớp mắt ngàn cân treo sợi tóc, Địch Vân đã rõ nguyên nhân cái chết của Bảo Tượng.

Đinh Điển trúng chất kịch độc “Kim ba tuần hoa”, máu thịt toàn thân đều cực độc. Bảo Tượng chém thi thể Đinh Điển, chuột ăn máu thịt nơi vết thương. Chuột ăn xong trúng độc mà chết. Hai con chuột chết bên cạnh nồi cũng là vì ăn canh độc mà chết.

Địch Vân nghĩ bụng: “Nếu “Kim ba tuần hoa” không có mùi hương đặc biệt như thế, nếu mình nghĩ ra chậm đi một chút thì canh độc này đã vào bụng rồi.”

Lại nghĩ: “Mình ngửi thấy mùi hương này lần đầu là ở trong linh đường Lăng tiểu thư, Lăng tri phủ đã bôi chất độc lên quan tài con gái y. Đinh đại ca trước đây đã từng ngửi thấy, đã từng trúng chất độc này, lần sau sao lại không biết? Phải rồi, lúc ấy Đinh đại ca thấy quan tài của Lăng tiểu thư, tâm thần rối loạn, không biết gì nữa.”

Địch Vân đã từng mấy phen tuyệt vọng tự bỏ rơi mình, không muốn sống trên đời này nữa, nhưng khoảnh khắc này, tìm thấy sự sống trong cái chết lại cảm thấy vui mừng vô cùng. Bầu trời vẫn đầy mây đen, mưa vẫn như trút, nhưng trong lòng lại cảm thấy một vầng ánh sáng, cảm thấy còn được sống là vô cùng hoan lạc, vô cùng may mắn.

* * *

Địch Vân định thần, trước hết đem thi thể Đinh Điển đặt ngay ngắn ở một góc điện, rồi ra ngoài kéo thi thể của Bảo Tượng từ dưới ao lên, đào huyệt chôn. Quay vào trong điện, thấy y phục của Bảo Tượng vắt ở trên bệ thờ, trên bệ đặt một cái bao nhỏ bằng vải dầu, ngoài ra còn có khoảng mười lạng bạc vụn.

Tính hiếu kỳ nổi lên, Địch Vân cầm lấy cái bao bằng vải dầu, mở ra thấy bên trong lại có một lớp giấy dầu, mở lớp giấy dầu ra thấy một cuốn sách nhỏ bằng giấy màu vàng, ngoài bìa có những chữ viết cong queo không giống chữ, hình vẽ lại không giống hình vẽ, cũng không biết là cái gì.

Lật sách ra thấy ở trang thứ nhất vẽ một người đàn ông khỏa thân gầy đét khô khan, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, mặt mũi trông rất quái dị, bên cạnh chú bằng thứ chữ kỳ quái năm sáu màu khác nhau, hình giống con nòng nọc, xanh xanh đỏ đỏ. Địch Vân nhìn người đàn ông trong hình vẽ, thấy mũi khoằm, mặt sâu, gò má cao, tóc xoăn không giống người Trung Quốc, vẻ mặt rất cổ quái nhưng bên trong vẻ cổ quái ấy lại hàm ẩn một sức hấp dẫn, khiến người ta bất giác rúng động tâm can. Địch Vân nhìn một lúc rồi không dám nhìn nữa.

Lật sang trang thứ hai, thấy phía trên vẫn vẽ người đàn ông khỏa thân ấy, chỉ có tư thế khác, chân trái “Kim kê độc lập”, chân phải giơ ngang, hai tay lại quặt ra đằng sau, tay trái cầm lấy tai phải, tay phải cầm lấy tai trái. Cứ giở tiếp, chỉ thấy tư thế của người đàn ông khỏa thân mỗi lúc một kỳ quái, hình dạng biến ảo vô cùng, có lúc hai tay chống đất, có lúc nhảy lên, lại có lúc trồng cây chuối, nửa dưới thân lại sinh ra sáu cái chân. Đến nửa cuốn sách, trong tay người ấy lại cầm một chiếc loan đao (dao cong).

Địch Vân giở lại trang đầu, nhìn kỹ nét mặt của người trong hình vẽ, thấy đầu lưỡi hơi thè ra phía khóe miệng bên trái, đồng thời mắt phải mở to còn mắt trái khép hờ, vẻ mặt cổ quái từ đó mà hiện ra. Địch Vân càng tò mò bèn bắt chước hình vẽ người ấy, cũng hơi thè lưỡi, mắt phải mở mắt trái nhắm, mới làm theo tư thế này đã cảm thấy rất thoải mái, khi xem kỹ lại thì thấy lờ mờ trên thân thể người đàn ông ấy có mấy đường nét nhỏ màu tro rất nhạt, vẽ kinh mạch. Địch Vân nghĩ bụng: “Phải rồi, thì ra trên thân thể người này không vẽ áo quần là để thấy được kinh mạch.”

Khi Đinh Điển dạy “Thần chiếu công” cho Địch Vân ở trong tù từng giải thích rất kỹ về vị trí và vận hành của các đường kinh mạch trên thân thể người ta. Luyện thứ nội công thưọng thừa này, điều then chốt cơ bản là ở đó. Địch Vân đã sớm thuộc lòng, lúc này nhìn những đường kinh mạch trên thân người trong hình vẽ bất giác cũng điều vận nội tức, cảm thấy có một luồng chân khí vận hành trong cơ thể mình.

Địch Vân thầm nghĩ: “Phương vị vận hành của kinh mạch ở đây tương phản với những điều Đinh đại ca truyền thụ, chỉ sợ không đúng.” Nhưng rồi lại nghĩ: “Mình cứ thử một chút thì cũng có sao?” bèn điều chuyển nội tức theo hình vẽ, chỉ trong khoảnh khắc cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng thoải mái không thể tả được. Khi luyện “Thần chiếu công” phải tập trung toàn bộ tinh thần, mà nội tức di chuyển được một vài tấc cũng là chuyện khó khăn, nhưng lúc này vận hành hơi thở theo hình vẽ, chỉ trong một thời gian ngắn đã cuồn cuộn như sông và cũng không cần phải gắng sức, nội tức tự nhiên vận hành. Trong lòng vừa sợ vừa mừng, nghĩ: “Tại sao trong người mình lại có kinh mạch như thế? Phải chăng đến cả Đinh đại ca cũng không biết?” Rồi lại nghĩ: “Quyển sách này là của tên ác tăng kia, mà văn tự và hình vẽ đều đầy tà khí, không phải là chính kinh, hay là đừng học nữa thì hơn.”

Nhưng lúc này nội lực của Địch Vân đang vận hành rất thông suốt nên chưa muốn dừng, trong lòng chỉ nghĩ: “Được, chỉ thử chơi một lần, sau này không chơi nữa.” Dần dần cảm thấy tinh thần thoải mái, máu huyết toàn thân đều ấm lên. Lại qua một lúc nữa, thân thể nhẹ lâng lâng, giống như uống rượu mạnh, không nén được tay múa chân nhảy, trong miệng phát ra những tiếng u u, đầu óc choáng váng, ngã vật xuống đất rồi không biết gì nữa.

* * *

Rất lâu, rất lâu sau tri giác mới dần dần hồi phục, từ từ mở mắt ra, thấy mặt trời chói lọi, thì ra mưa đã tạnh, mặt trời chiếu vào trong điện. Địch Vân nhảy bật dậy, cảm thấy tinh thần hăng hái toàn thân tràn đầy sức lực, nghĩ bụng: “Lẽ nào công phu trong quyển sách này lại có chỗ hay đến thế? Không, không! Mình cứ tập luyện theo công phu mà Đinh đại ca đã truyền thụ, thứ tà ma ngoại đạo này một khi đã vướng vào thân e rằng hậu hoạn vô cùng.” Rồi cầm lấy cuốn sách, định xé đi, nhưng suy nghĩ một chút lại cảm thấy bên trong đầy bí ẩn, không nỡ hủy đi.

Địch Vân chỉnh đốn lại y phục nhưng thấy nó cực kỳ rách nát, thật là không đủ che thân, thấy áo nhà sư của Bảo tượng vắt trên bàn thờ lại còn rất tốt, thế là lấy mặc vào. Tuy mặc tăng bào của tên hòa thương độc ác trong lòng cảm thấy khó chịu, nhưng cũng còn hơn bộ quần áo rách nát, thủng lỗ chỗ. Địch Vân nhét cả quyển sách và mười lạng bạc vào người, đến chỗ bùn đất dưới gốc cây đào bao bạc và nữ trang lên, ôm thi thể của Đinh Điển đi ra khỏi miếu.

Đi được khoảng hơn trăm trượng, phía trước có một người nông phu đi tới thấy Địch Vân ôm ngang một xác chết sợ hãi giật mình, trượt chân ngã ngay xuống ruộng, giãy giụa đứng dậy từ đống bùn, bước thấp bước cao vội vàng chạy trốn.

Địch Vân biết cứ đi như thế này nhất định sẽ sinh chuyện nhưng nhất thời không nghĩ ra được cách nào. May mà vùng này rất vẳng vẻ, đi mãi cũng không gặp người nữa. Địch Vân ôm ngang xác Đinh Điển, nghĩ bụng: “Đinh đại ca, Đinh đại ca, đệ không nỡ chia tay huynh, đệ không nỡ chia tay huynh.”

Bỗng nghe thấy có tiếng sơn ca, xa xa có bảy tám người nông phu vác cuốc đi tới, Địch Vân vội vàng lao như tên bắn, nấp vào trong đám cỏ rậm rạp, đợi họ đi qua, nghĩ bụng: “Nếu không thiêu di thể của Đinh đại ca thì rốt cuộc không thể hoàn thành tâm nguyện hợp táng của đại ca và Lăng tiểu thư.” Đến một hóc núi, Địch Vân nhặt nhạnh củi khô, cắn răng, đốt lửa bên cạnh thi thể Đinh Điển.

Lưỡi lửa nuốt hết râu tóc, y phục của Đinh Điển, Địch Vân cảm thấy ngọn lửa kia đang đốt cháy da thịt mình, ngã gục xuống đất, cắn lấy cỏ xanh đất bùn, nước mắt chảy đầm đìa xuống cỏ, xuống đất bùn…

* * *

Địch Vân cẩn thận thu nhặt tro hài cốt Đinh Điển, trịnh trọng bọc vào trong giấy dầu, bên ngoài lại bao bằng vải dầu. Giấu dầu và vải dầu vốn là Bảo Tượng dùng để gói cuốn sách giấy màu vàng kia. Bên ngoài bao lại, lấy dây vải buộc chặt lại, rồi mới buộc sát vào hông. Lại dùng tay đào một cái hố, chôn những tro than xuống, lạy mấy lạy.

Đứng thẳng người lên, lòng băn khoăn: “Mình đi đâu bây giờ?” Người thân trên đời này chỉ có một mình sư phụ, đương nhiên nghĩ: “Mình hãy trở lại Nguyên Tương tìm sư phụ. Sư phụ đâm bị thương Vạn Chấn Sơn rồi trốn đi, có lẽ không trở lại chùa cũ ở Nguyên Lăng, chắc là đang mai danh ẩn tích, cao chạy xa bay.” Nhưng lúc này ngoài đi Nguyên Lăng thử xem thì cũng không nghĩ ra nơi nào có thể đến.

Thế là chuyển sang đường lớn, hỏi người dân địa phương thì ra nơi này gọi là Trình Gia Tập phía Bắc huyện Lâm Lợi tỉnh Hồ Bắc, muốn đến Hồ Nam thì phải qua sông Trường Giang.

Địch Vân đến chợ, lấy bạc vụn ra mua mì ăn, lại đến bến đò, đi thuyền qua sông, nhớ lại hôm qua chạy trốn Bảo Tượng, kinh hoàng biết bao, hôm nay lại đàng hoàng thoải mái qua sông, mới cách đó một ngày mà tình cảnh hoàn toàn khác.

Thuyền cập bờ nam, Địch Vân lên bờ, nghe thấy tiếng ồn ào, đầu người nhấp nhô, xúm xít, nghe thấy tiếng “bùng bình” vang lên, như là tiếng người đang đánh nhau. Địch Vân tò mò, liền chạy đến gần để xem.

Chỉ thấy trong đám người, có bảy tám đại hán đang vây chặt một ông già mà đánh đập túi bụi. Ông già ấy áo xanh khăn lụa, ăn vận kiểu gia nhân. Bảy tám người kia chân đất áo ngần gần đó có nhiều giỏ cá, hẳn là những người buôn cá.

Địch Vân nghĩ đây chỉ là đám đánh nhau tầm thường, chẳng có gì đáng xem, đang muốn lui ra, chỉ thấy ông già kia co chân đá một tay lái cá lực lưỡng, thì ra ông ta có võ.

Thế là Địch Vân muốn xem rốt cuộc ra sao. Chỉ thấy ông già lấy ít địch nhiều, trong chốc lát lại đánh ngã ba người lái cá. Những người lái cá khác tuy đông, nhất thời cũng không ai dám xông lên, đều kêu:

– Ông trùm đến rồi, ông trùm đến rồi!

Thấy ven sông có hai người lái cá chạy tới, ba người khác theo sau. Bước chân của ba người này trầm ổn, Địch Vân nhìn qua biết ngay ba người này đều có võ công.

Ba người kia đến gần, đi đầu là một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi, da mặt vàng như sáp, tóc mai nhọn như đuôi chuột, nhìn mấy người lái cá bị đánh ngã một cái, nói:

– Các hạ là ai, ỷ thế ai mà đến huyện Hoa Dung này bắt nạt người ta?

Mấy câu này là hỏi lão gia nhân già, nhưng mắt chẳng thèm nhìn ông ta một cái. Thì ra qua bờ nam này đã là huyện Hoa Dung của tỉnh Hồ Nam.

Lão gia nhân kia nói:

– Tôi chỉ cầm bạc đi mua cá, có gì bắt nạt với chả bắt nạt ai?

Lão trùm hỏi người lái cá đứng bên cạnh:

– Sao lại đánh nhau?

Người đó nói:

– Lão già này cứ đòi mua một đôi cá chép vàng. Chúng tôi nói là cá chép vàng khó bắt được, là ông trùm giữ lại để làm thuốc. Lão già ngang ngược, lại nói không mua không được. Chúng tôi không bán, lão liền ra tay đánh.

Lão trùm quay lại, nhìn lão gia nhân dò xét, nói:

– Bằng hữu của các hạ bị trúng lam sa chưởng à?

Lão gia nhân nghe nói mặt biến sắc, nói:

– Chúng tôi chẳng biết hồng sa chưởng, lam sa chưởng gì cả. Ông chủ muốn mua cá chép vàng về nhậu, bảo tôi cầm bạc đi mua cá. Thiên hạ chả có cá nào là không thể bán.

Lão trùm cười nhạt, nói:

– Trước mặt chân nhân mà dám nói láo à? Các hạ tôn tính đại danh là gì? Nếu là bạn tốt, đừng nói có thể tặng một đôi cá chép vàng lớn, mà tại hạ còn có thể tặng một viên “ngọc cơ hoàn”, chuyên trị lam sa chưởng.

Vẻ mặt lão gia nhân càng hoảng hốt, một lúc sau mới nói:

– Các hạ là ai? Sao lại biết lam sa chưởng? Làm sao lại có “ngọc cơ hoàn”? Lẽ nào, lẽ nào…

Lão trùm nói:

– Không sai, tại hạ và người sử Lam sa chưởng có chút ít dây mơ rê má.

Lão gia nhân chẳng nói chẳng rằng, vừa động thân một cái, đã chộp lấy một cái sọt cá, hành động cực nhanh. Lão trùm lái cá cười nhạt nói:

– Đâu có dễ thế!

Vù một chưởng, đánh vào lưng lão gia nhân. Lão gia nhân vung chưởng ra đỡ, mượn đà nhảy ra ngoài mấy trượng, cầm sọt cá chạy nhanh. Lão trùm không ngờ ông ta lại ra tay như thế, thấy đuổi không kịp bèn giơ tay, một mũi ám khí bay vèo đến bắn nhanh về phía ông ta.

Lão gia nhân kia cướp được cá chép, rất vui mừng, ra sức chạy nhanh, không ngờ có ám khí phóng tới. Mũi ám khí của tay trùm lái cá là một mảnh “lăng cương tiêu”, bay rất nhanh. Địch Vân thấy lão gia nhân không biết để tránh, trong lòng bất nhẫn, liền thuận tay nhặt lấy một giỏ cá dưới đất, ném xiên về phía chiếc cương tiêu.

Võ công của Địch Vân đã mất, tay không có mấy sức lực, chỉ là chỗ đứng thuận tiện, nghe “bóc” một tiếng, cương tiêu cấm vào giỏ cá, chiếc giỏ cá bay thêm mấy thước nữa rồi mới rơi xuống đất.

Lão gia nhân kia nghe phía sau có tiếng động, ngoái đầu nhìn, thấy lão trùm chỉ tay vào Địch Vân, mắng:

– Thằng giặc trọc kia, người là hòa thượng chùa nào, lại dám dính vào việc của “Thiết Võng bang” trên Trường Giang này?

Địch Vân ngơ ngác: “Sao y lại mắng mình là “thằng giặc trọc” nhỉ?” Thấy lão trùm hùng hổ, lại nói đến “thiết võng bang”, nghe Đinh đại ca thường nói, trên giang hồ, các bang hội có rất nhiều thứ cấm kỵ, nếu không cẩn thận, thường bị liên lụy. Địch Vân không muốn vô cớ gây sự bèn chắp tay nói:

– Là tiểu đệ có lỗi, xin lão huynh tha thứ.

Lão trùm tức giận nói:

– Ngươi là cái thá gì, ai thèm anh em với ngươi?

Rồi giơ tay trái lên, nói với một tay lái cá:

– Bắt hai tên này lại.

Lúc ấy bỗng nghe thấy tiếng lục lạc vang lên “đinh đang đinh đang, đinh linh linh, đinh đang đinh đang, đinh linh linh”, loong coong lang canh, hai kỵ mã từ phía tây men sông chạy tới. Lão gia nhân lộ vẻ mừng rỡ, nói:

– Chủ nhân nhà tôi đến rồi, ông nói chuyện với họ.

Lão trùm tái mặt, nói:

– Là “Linh kiếm song hiệp” à?

Nhưng rồi lại lấy vẻ cao ngạo, nói:

– Là “Linh kiếm song hiệp” thì đã sao? Chúng lại dám đến Trường Giang này diệu võ dương oai à?

Nói chưa dứt lời, hai con ngựa đã đến trước mặt. Địch Vân cảm thấy trước mắt sáng rực, thấy hai con ngựa một vàng một trắng, đều là thần tuấn cao lớn, yên cương sáng chói. Trên con ngựa vàng là một thanh niên khoảng hăm lăm hăm sáu, mặc áo vàng, thân hình cao gầy. Trên lưng ngựa trắng là một thiếu nữ, khoảng hai mươi tuổi, áo trắng phất phơ, trên vai trái đeo một đóa hoa lụa hồng, da ngăm ngăm, vẻ mặt cực kỳ xinh đẹp. Hai người hông đeo trường kiếm, trong tay đều cầm roi ngựa, hai con ngựa đều cao lớn, con vàng vàng tuyền, con trắng trắng tuyền, thật hiếm có. Dưới cổ ngựa vàng treo một vòng lục lạc vàng, dưới cổ ngựa trắng đeo vòng lục lạc bàng bạc, đầu ngựa khẽ lay động lục lạc vàng kêu “đinh đang đinh đang”, tiếng lục lạc bạc lại kêu “đinh linh linh, đinh linh linh” nghe rất hay. Đúng là người đẹp ngựa khỏe. Cả đời Địch Vân chưa hề thấy những nhân vật đẹp đến thế, trong lòng thầm reo lên: “Đẹp quá!”

Chàng thanh niên nói với ông già:

– Thủy Phúc, có tìm được cá chép không? Ở đây làm gì?

Lão gia nhân nói:

– Uông thiếu gia, cá chép vàng kiếm được một đôi, nhưng… nhưng họ cứ không chịu bán, lại còn ra tay đánh người.

Thanh niên kia liếc mắt thấy mảnh cương tiêu trên giỏ cá, nói:

– Ầy, ai dùng loại ám khí độc địa này thế?

Roi ngựa quất xuống, đã cuốn lấy đuôi chiếc cương tiêu, kéo lên, nói với thiếu nữ kia:

– Linh muội, muội xem, đây là loại “yết vĩ tiêu” kiến huyết phong hầu! (tiêu đuôi rết, chạm vào là tắt thở).

Thiếu nữ kia hỏi:

– Ai dùng tiêu này vậy?

Tiếng nói thật là trong trẻo.

Tay trùm lái cá cười nửa miệng, tay trái nấm chặt chuôi cây đơn đao bên hông, nói:

– “Linh kiếm song hiệp” mấy năm nay nức tiếng, “Ngư Võng bang” không phải là không biết. Nhưng các người muốn bắt nạt bọn ta cũng không dễ đâu.

Giọng điệu của y ngoài cứng trong mềm chắc là không muốn sinh chuyện với “Linh kiếm song hiệp”.

Thiếu nữ kia nói:

– Yết vĩ tiêu này nát tim mủn xương quá độc ác, cha ta đã nói là không ai được dùng nữa, lẽ nào ông không biết? May mà ông không dùng để giết người, chỉ ném vào giỏ cá để luyện tập thì không sao.

Thủy Phúc nói:

– Tiểu thư, không phải đâu. Người này phóng độc tiêu vào tôi, may nhờ có vị tiểu sư phụ kia tung cái giỏ cá ra mới chặn lại được, nếu không thì tiểu nhân đã mất mạng rồi.

Ông ta vừa nói vừa chỉ vào Địch Vân.

Địch Vân thầm buồn phiền: “Sao người thì gọi mình là “tiểu sư phụ” kẻ thì mắng mình là “thằng giặc trọc”, mình có làm hòa thượng bao giờ đâu?”

Thiếu nữ kia nhìn Địch Vân gật gật đầu, mỉm cười, tỏ ý cảm ơn. Địch Vân thấy nàng cười nét mặt như hoa, càng kiều diễm, mặt bỗng ửng đỏ, rất xấu hổ.

Thanh niên kia nghe Thủy Phúc nói vậy, trên mặt như có một màn sương phủ, nói với tay trùm lái cá:

– Lời ấy đúng không?

Không đợi đối phương trả lời, chiếc roi ngựa đã vung ra, mũi cương tiêu bị cuốn trên đầu ngọn roi phóng vút ra, “phách” một tiếng, cắm phập vào gốc một cây liễu cách đó mười mấy trượng, sức mạnh cánh tay thật là kinh người.

Tay trùm lái cá còn già mồm nói:

– Đừng có làm le!

Thanh niên công tử kia quát:

– Muốn thấy oai hả?

Rồi vung roi ngựa đánh vào tay trùm, y giơ đao chặn lại. Không ngờ roi ngựa của thanh niên kia vụt xiên qua, chiêu số biến ảo, đánh thẳng vào hạ bàn đối phương. Trùm lái cá vội vàng nhảy tránh, ngọn roi ngựa như một con vật sống, co ngay lại đã quấn lấy chân phải của y. Công tử kia điểm nhẹ mũi chân vào bụng ngựa, con ngựa vàng xông ngay về phía trước. Công phu hạ bàn của tay lái cá vốn rất khá, thanh niên công tử muốn dùng roi ngựa cuốn lấy y chưa chắc đã kéo ngã. Nhưng công tử kia dử cho y nhảy lên khiến y mất chân trụ rồi mới vung roi quấn lấy chân. Con ngựa vàng chồm lên với sức mạnh ngàn cân, lão trùm lái cá dù rất khỏe cũng không chịu nổi, thân hình bị chú ngựa vàng kéo đi bay bổng lên. Bọn lái cá lớn tiếng kêu gào, bảy tám người đuổi theo định cứu.

Con ngựa vàng lao đi mấy trượng, kéo cây roi căng như sợi dây cung, thanh niên công tử mượn đà, giật cánh tay một cái, thân hình lão trùm bay vọt lên. Uổng cho y một thân võ công mà không sử dụng được, thân hình bị bắn xuống sông. Đám đông trên bờ kinh hoảng kêu ầm lên. Chi nghe thấy “ùm” một tiếng, nước bắn lên tung tóe, lão trùm đã rớt xuống sông, chìm luôn xuống nước, không thấy tăm dạng.

Thiếu nữ kia vỗ tay cười, vung roi xông vào trong đám lái cá, vụt bên đông một roi, đánh bên tây một chiêu, làm cho đám lái cá ngã xiêu ngã vẹo, chạy tứ tán. Giỏ cá lưới cá vứt ngổn ngang đầy mặt đất, cá sống tôm tươi giãy đành đạch, nhảy lách tách.

Tay trùm lái cá suốt đời sống ở bên sông, rất thạo thủy tính, nhoi đầu lên giữa sông, chửi mắng bằng đủ mọi tiếng tục tằn bẩn thỉu, nhưng cũng không dám lên bờ nữa.

Thủy Phúc xách giỏ cá chép vàng, mở nấp ra, vui vẻ nói:

– Mời công tử xem này, mép đỏ vảy vàng lại to mập thế này thật hiếm.

Thanh niên kia nói:

– Ngươi mau đưa về khách điếm mời Hoa đại gia dùng để cứu người.

Thủy Phúc đáp:

-Vâng!

Rồi chạy đến trước Địch Vân, cúi mình nói:

– Đa tạ ơn cứu mạng của tiểu sư phụ, không biết pháp danh của tiểu sư phụ là gì?

Địch Vân nghe lão luôn mồm gọi “tiểu sư phụ”, không biết đáp làm sao. Thanh niên kia nói:

– Đi mau! Đi mau! Đừng để lỡ việc.

Thủy Phúc nói:

– Vâng.

Không đợi Địch Vân trả lời, vội bước đi.

Địch Vân thấy đôi thanh niên nam nữ kia nhân phẩm tuấn nhã, võ nghệ cao cường, trong lòng thầm hâm mộ, có ý muốn kết bạn, nhưng họ lại không xuống ngựa, muốn hỏi họ tên lại thấy bất tiện. Đang do dự thì công tử kia móc ra một đĩnh vàng, nói:

– Tiểu sư phụ, đa tạ tiểu sư phụ đã cứu mạng lão gia nhân. Đĩnh vàng này để tiểu sư phụ mua hương đèn cúng bồ tát.

Rồi nhẹ nhàng ném đĩnh vàng về phía Địch Vân. Địch Vân đưa tay trái ra, tiện tay cầm lấy, rồi lại ném trở lại, nói:

– Không cần đâu, xin hỏi tôn tính đại danh của hai vị.

Thanh niên kia thấy cách đưa tay đón và ném trả đĩnh vàng rõ ràng là có võ công, không đợi thỏi vàng đến gần đã vung roi ngựa ra, cuốn lấy thỏi vàng ấy, nói:

– Sư phụ đã là người trong võ lâm, hẳn là đã biết tên của “Linh kiếm song hiệp”.

Địch Vân thấy chàng ta xoay tít ngọn roi ngựa, đĩnh vàng như dính chặt vào đầu roi bay lên bay xuống, cử chỉ và thần thái có vẻ hợm hĩnh, liền nói:

– Tôi vừa nghe lão trùm gọi hai vị là “Linh kiếm song hiệp”, nhưng không biết tôn tính đại danh của các hạ.

Thanh niên kia có vẻ không hài lòng, nghĩ bụng: “Ngươi đã biết chúng ta là “Linh kiếm song hiệp”, sao không biết họ tên ta.” Trong miệng chỉ “hừm”, một tiếng, cũng không trả lời.

Chính lúc ấy, một ngọn gió từ phía đông thổi tới, một góc tăng bào Địch Vân đang mặc bị cuốn lên.

Thiếu nữ kia kêu lên một tiếng, nói:

– Hắn… hắn là… là ác tăng của “Huyết đao môn” xứ Tây Tạng.

Thanh niên kia sắc mặt đầy vẻ giận, nói:

– Không sai, hừm, cút đi!

Địch Vân rất lấy làm lạ, nói:

– Tôi… tôi…

Rồi bước một bước đến bên thiếu nữ kia, hỏi:

– Cô nương nói gì?

Thiếu nữ kia vẻ mặt vừa sợ vừa giận, nói:

– Ngươi… ngươi… ngươi đừng đến gần ta, cút đi.

Địch Vân băn khoăn hỏi:

– Cái gì?

Lại bước gần thêm một bước nữa.

Thiếu nữ kia giơ cây roi lên, “vút” một tiếng, đánh mạnh xuống. Địch Vân không ngờ cô ta nói đánh là đánh, quay đầu định tránh nhưng không kịp, ngọn roi trúng ngay trên mặt, từ trán bên trái, qua sống mũi sang má bên phải một lằn roi mạnh quất qua. Địch Vân vừa sợ vừa giận, nói:

– Cô, cô vì sao lại đánh người?

Thấy thiếu nữ kia vừa múa cây roi đánh tới liền giơ tay định chụp lấy đầu roi, không ngờ tiên pháp của thiếu nữ biến ảo, tay phải của Địch Vân mới đưa ra đã bị ngọn roi quấn lấy cổ.

Tiếp đó cảm thấy sau lưng đau nhói, đã bị thanh niên kia từ trên lưng ngựa phóng chân đá cho một đá, Địch Vân đứng không vững ngã sấp xuống. Công tử kia thúc ngựa phóng qua, cho vó ngựa đạp xuống người. Địch Vân vội vàng lăn một vòng, trong mê hoảng chỉ nghe tiếng lục lạc vang lên “đinh linh linh”, một cái chân ngựa màu trắng đạp lên ngực mình. Không kịp suy nghĩ, biết rằng vó ngựa này mà giẫm lên người thì chỉ có mất mạng, Địch Vân bèn co người lại, chỉ nghe một tiếng “ra…ắc”, không biết cái gì gãy, mắt nổ đom đóm, rồi không biết gì nữa.

* * *

Thần trí dần hồi phục, tỉnh lại, không biết đã bao lâu rồi. Trong mơ hồ, chống tay muốn đứng dậy bỗng hông bên trái đau dữ dội, suýt ngất đi lần nữa, rồi “ọe” một tiếng, thổ ra một búng máu tươi. Địch Vân từ từ ngoảnh đầu, thấy ống quần bên phải toàn là máu tươi, một khúc chân chõi ra ngoài. Địch Vân lấy làm lạ: “Cái chân sao lại ra hình thù này?” một lúc sau mới rõ: “Cô nương kia đã thúc ngựa đạp gãy chân mình rồi.”

Toàn thân yếu ớt không chút sức lực, chân và lưng đau không chịu nổi, ý nghĩ tự khinh rẻ mình lại nổi lên: “Mình không nên sống nữa, cứ nằm thế này mà chết quách cho rồi.” Địch Vân cũng không hề rên rỉ, chỉ mong chết cho mau. Nhưng muốn chết cũng không dễ, thậm chí muốn hôn mê một lúc cũng không thể, trong lòng chỉ nghĩ: “Sao mình lại chưa chết? Sao còn chưa chết?”.

Rất lâu, rất lâu sau mới nghĩ: “Mình với hai người họ không oán không thù, mình không hề đắc tội với họ, đang muốn kết giao bằng hữu, cớ sao họ bỗng hạ độc thủ với mình như thế?” Nghĩ mãi nghĩ mãi, trong lòng hoang mang, không tìm ra đầu mối, tự nhủ: “Mình thật là ngu xuẩn, nếu Đinh đại ca còn sống, nếu không giúp được mình thì cũng giải thích cho mình rõ nguyên nhân.”

Vừa nghĩ đến Đinh Điển, lập tức ý nghĩ xoay chuyển: “Mình đã nhận lời với Đinh đại ca là sẽ hợp táng cho huynh ấy và Lăng tiểu thư. Tâm nguyện ấy chưa thực hiện được, dù thế nào mình cũng không được chết.” Đưa tay sờ bên hông, phát hiện ra gói tro thi hài Đinh Điển vẫn chưa bị đạp rách, lòng hơi được an ủi, gắng sức ngồi dậy, cổ họng bỗng thấy ngọt, máu tươi lại trào lên. Địch Vân biết thổ nhiều máu thân thể sẽ càng suy nhược nên gắng vận khí muốn ép vào nhưng lại cảm thấy trong miệng mân mặn, máu lại ồng ộc chảy ra.

Đau đớn nhất là ở chỗ chân gãy, giống như hàng trăm lưỡi dao chém vào. Cố gắng mãi mới lết đến được dưới bóng một cây liễu, nghĩ bụng: “Mình không thể chết, dù thế nào cũng phải sống, muốn sống thì phải ăn một cái gì đó.” Thấy tôm cá trên mặt đất đã không còn động đậy, chết đã lâu liền nhặt mấy con tôm nhét vào miệng, nhai trệu trạo, nghĩ: “Trước hết phải nối chỗ chân gãy, rồi phải nghĩ cách rời xa chốn này.”

Đưa mắt nhìn bốn phía, thấy các thứ bọn người lái cá vứt lại tứ tung, bèn lê đến nhặt lấy một mái chèo ngân và một tấm lưới cá, trước hết xé tấm lưới ra sau đó đặt ngay ngắn đoạn chân gãy, dùng mái chèo đặt một bên chân, dùng lưới cá quấn chân gãy lại. Quấn một lúc lại nghỉ một lúc, mỗi khi đau quá xây xẩm cả mày mặt thì nhắm mắt thở đợi khí lực trở lại, lại tiếp tục quấn.

Băng bó mãi mới xong, nghĩ bụng: “Muốn chữa cho cái chân này lành, ít nhất cũng phải mất hai tháng, biết đến chỗ nào tĩnh dưỡng đây?” Nhìn lên bờ sông có một dãy thuyền câu, chợt nghĩ ra: “Mình trú tạm trong thuyền, không đi lại.” Địch Vân sợ bọn lái cá quay trở lại thì lại gặp tai nạn, nên tuy đã kiệt sức nhưng vẫn không dám nghỉ, bò tới bên bờ sông, bò lên một chiếc thuyền cá, mở dây buộc thuyền, khoát mái chèo, từ từ chèo ra giữa dòng.

Vừa cúi đầu xuống, thấy một góc tăng bào cuốn lên để lộ ra một thanh đoản đao màu đỏ bầm như máu, là do dùng chỉ đỏ thêu vào áo, trên mũi đao có ba giọt máu tươi đang nhỏ xuống cũng thêu bằng chỉ đỏ, dáng vẻ sinh động hết sức đáng sợ. Địch Vân chợt tỉnh ngộ: “A phải rồi, đây là áo của tên ác tăng Bảo Tượng, hai người kia cho mình là một bọn với tên ác tăng”, đưa tay lên lại sờ phải cái đầu trọc lóc của mình.

Lúc này Địch Vân mới chợt phát hiện ra vì sao lão gia nhân cứ luôn miệng gọi mình là “tiểu sư phụ”, còn lão trùm lái cá của “thiết võng bang” lại mắng mình là “thằng giặc trọc”, thì ra đầu óc tóc tai y phục của mình giống hệt một hòa thượng mà tự mình lại không biết. Lại nghĩ: “Vạt áo mình bay lên, cô nương kia bảo mình là ác tăng huyết đao môn gì đó ở Tây Tạng, hình dáng huyết đao trông dễ sợ thế này, hòa thượng của phái này chắc chắn là rất tàn ác, chỉ xem Bảo Tượng là có thể biết được.”

Địch Vân vô cớ bị đạp gãy chân vốn rất tức giận căm phẫn, khi chợt phát hiện ra nguyên nhân liền giảm bớt thù hận đối với “Linh kiếm song hiệp”, lại cảm thấy đôi thanh niên nam nữ này ghét kẻ ác như kẻ thù, thật đúng là người tốt, có điều hai người này võ công cao cường, nhân phẩm tuấn nhã, mình có giải thích rõ cho họ khỏi hiểu nhầm thì cũng không nên kết giao bằng hữu với họ.

Chèo thuyền cá đi được hơn mười dặm, thấy bên bờ có một thị trấn nhỏ, xa xa nhìn vào thấy người đi kẻ lại tấp nập, nghĩ bụng: “Mặc bộ tăng y này trên mình thật là tai họa, cần phải thay đi mới được.” Bèn chèo thuyền đến gần bờ, lấy mái chèo làm gậy chống, đi cà nhắc lên bờ. Người qua lại trên phố thấy một hòa thượng trẻ đi cà nhắc một chân, người bê bết máu đều lộ vẻ e dè sợ sệt.

Đối với vẻ nghi kỵ lạnh nhạt như thế mấy năm nay Địch Vân đã chịu đựng quá nhiều nên cũng không để ý. Chầm chậm đi trên đường phố, thấy một tiệm bán quần áo cũ mua một chiếc trường bào vải xanh, một cái quần. Lúc ấy bèn thay y phục, ngại cởi quần áo, bèn mặc áo xanh ra ngoài tăng bào, lại mua một cái mũ lông đội lên cái đầu trọc, sau đó đến một hàng cơm mua ăn. Khi ngồi được vào một cái ghế đặt trong hàng cơm thì mệt muốn xỉu, lại thổ ra hai búng máu.

Người bồi bàn đưa cơm và thức ăn đến, gồm một đĩa đậu phụ rán, một bát thịt, một đĩa cá. Địch Vân ngửi thấy mùi cơm của cá thịt và cơm gạo trắng, tinh thần phấn chấn lên, cầm lấy đũa và hai miếng, gắp một miếng thịt đưa vào miệng, mới nhai được vài miếng bỗng nghe thấy tiếng “đinh đang đinh đang, “đinh linh linh” “đinh đang đinh đang”, “đinh linh linh”… vang lên.

Miếng thịt nuốt chưa khỏi cuống họng nghĩ bụng: “Linh kiếm song hiệp đến rồi. Có nên gặp họ để giải thích sự hiểu nhầm không đây? Mình vô cớ bị họ làm trọng thương thế này, nếu không nói rõ, há chẳng oan uổng lảm sao?”

Nhưng những ngày này Địch Vân chịu khổ quá nhiều, bị người ta ức hiếp quen rồi, nên lại nghĩ: “Những oan uổng mình chịu đựng suốt đời lẽ nào còn ít? Để họ hiểu nhầm thêm một lần nữa cũng có sao đâu?” Nghe tiếng lục lạc mỗi lúc một gần, Địch Vân quay người lại không muốn gặp họ nữa.

Đúng vào lúc ấy bỗng có người vỗ vào vai một cái, cười nói:

– Tiểu sư phụ, làm chuyện hay đấy, ông lớn của chúng tôi mời tiểu sư phụ đến uống rượu.

Địch Vân giật nảy mình, quay người lại, thấy bốn người công sai, hai người cầm thước sắt còng sắt, hai người phía sau tay cầm đơn đao, mặt có vẻ đề phòng. Địch Vân kêu lên:

– Ái chà!

Đứng lên, thuận tay nấm lấy bát thịt trên bàn, ném vào tay công sai đứng bên trái, tiếp đó cùi chỏ huých sang, bắn hết đậu phụ, cơm, canh rau lên người tên công sai thứ hai, lòng thầm kêu lên: “Bọn công sai của phủ Kinh Châu đến rồi. Nếu mình lại rơi vào tay Lăng Thoái Tư thì đâu còn tính mạng?”

Hai tên công sai bị cơm canh nóng tạt vào vội lùi lại, Địch Vân đã rẽ đường chạy ra. Nhưng chỉ bước được một bước, chân đã khuỵu xuống, suýt ngã. Trong lúc hốt hoảng Địch Vân quên mất cái chân gãy. Tên công sai thứ ba thấy lợi thế, giơ đao chém tới. Địch Vân tuy mất hết võ công vẫn còn dư sức đối phó với mấy tên công sai này, chộp lấy cổ tay một tên đã đoạt được đơn đao.

Bốn tên công sai thấy Địch Vân đã có binh khí, đâu còn dám đến gần, chỉ hét lớn:

– Thái hoa dâm tăng, dám chống cự người của công phủ sao?

– Ác tăng huyết đao môn lại gây án!

– Tên dâm tăng cưỡng hiếp, giết tiểu thư nhà quan ở đây!

Tiếng kêu huyên náo vừa nổi lên, đám đông dân thị trấn xúm xít ngay lại thấy vẻ đáng sợ, mặt đầy vết máu của Địch Vân, đều đứng xa xa nhìn, không dám đến gần.

Địch Vân nghe mấy tên công sai hô hoán, nghĩ bụng: “Lẽ nào không phải là phủ Kinh Châu phái người đến đây bắt mình”, lớn tiếng quát:

– Các người nói lung tung gì vậy? Ai là thái hoa dâm tăng?

“Đinh đang đinh đang”, “đinh linh linh” mấy tiếng vang lên, một con ngựa vàng, một con ngựa trắng cùng song song chạy đến. Linh kiếm song hiệp ngồi trên mình ngựa, trên cao ngó xuống, thấy rõ tất cả. Hai người vừa thấy Địch Vân, ngẩn ra một chút, cảm thấy nét mặt quen quen, lập tức nhận ra người này là huyết đao ác tăng, nhưng đã cải trang, muốn che giấu bộ mặt thật.

Một tên công sai nói:

– Ầy, đại sư phụ, ngươi phong lưu sung sướng đã đành, sao xong việc rồi còn một đao giết chết con gái người ta? Hảo hán dám làm dám chịu, mau theo chúng ta về huyện.

Một tên khác nói:

– Ngươi mua áo, mua mũ cải trang, không thoát khỏi mất chúng ta đâu. Hôm nay ngươi chạy đâu cho thoát, ngoan ngoãn chịu trói cho rồi.

Địch Vân tức giận nói:

– Các người ăn nói bậy bạ, oan uổng cho người tốt.

Một tên công sai nói:

– Oan uổng nỗi gì. Tối hôm kia, ngươi xông vào phủ Lý cử nhân, cưỡng gian rồi giết hai cô tiểu thư nhà Lý cử nhân, ta đã nhìn thấy rõ ràng. Mắt ấy, mày ấy, mũi miệng ấy, không khác một chút nào, đích xác là ngươi.

* * *

“Linh kiếm song hiệp” gò cương đứng bên xem.

– Biểu ca, võ công của hòa thượng này chẳng có gì ghê gớm. Vừa rồi nếu không vì y đã cứu Thủy Phúc thì giết y cho rồi. Thì ra y… y lại xấu xa đến thế.

– Huynh cũng cảm thấy lạ, tuy bảo là tên ác tăng này gây những vụ án tày trời hai bên sông Trường Giang, giết chết mười mấy người, người của nha môn không làm gì được, nhưng hào kiệt vùng Lưỡng Hồ cũng phải kinh sợ đến như vậy. Xem võ công của tiểu hòa thượng này thì bọn sư phụ sư huynh của hắn võ công chắc cũng chẳng có gì là cao minh.

– Chắc rằng trong bọn ấy có cao thủ, nếu không hào kiệt Lưỡng Hồ cần gì phải đến nhờ phụ thân của muội phải ra tay? Lại còn đi cầu cả Lạc bá bá, Hoa bá bá và Lưu bá bá?

– Hừm, Lưỡng Hồ hào kiệt kể cũng lạ thật, thiên hạ lại có cao nhân đến mức phải cầu đến cả bốn đại hiệp “Lạc Hoa Lưu Thủy” cùng ra tay mới đối phó được sao?

– Hi hi, làm kinh động đến cả “Linh kiếm song hiệp” chúng ta nữa chứ.

– Biểu muội, muội lên phía trước đợi huynh, để một mình huynh đối phó với thằng giặc trọc này.

– Muội đứng đây xem.

– Không, muội đừng đứng ở đây. Người trong võ lâm sau này lại đồn đại chỉ nói là một mình Uông Khiếu Phong này một mình ra tay, giết huyết đao ác tăng, khỏi phải lôi nữ hiệp Thủy Sinh vào. Muội biết đấy, mồm miệng của bọn người trên giang hồ ghê gớm lắm.

– Vâng, đúng đấy, huynh nghĩ thật chu đáo, muội chẳng cẩn thận được như vậy.

——————————————————

Hồi 06: Huyết đao lão tổ

Địch Vân thấy người vây quanh mỗi lúc một đông, càng khó thoát thân, giương đao lên thét:

– Mau lui ra cho ta!

Nách bên trái cắp chiếc mái chèo, xông ra góc phía Đông. Đám người vây quanh hét lên chạy tứ tán. Bốn tên công sai kêu lên:

– Thái hoa dâm tăng, chạy đi đâu?

Rồi tức tốc đuổi theo.

Địch Vân phạt xiên đơn đao, đã chém bị thương một tên công sai. Tên này kêu lên:

– Chống người nha môn, giết người rồi.

Thủy Sinh thúc ngựa chạy tới, Uông Khiếu Phong giục ngựa chạy lên, roi ngựa vung ra, “vút” một tiếng, cuốn ngay lấy cây đơn đao trong tay Địch Vân. Địch Vân hai tay không chút sức, đơn đao tuột khỏi tay bay đi. Uông Khiếu Phong vươn tay trái ra, chộp được sau cổ áo Địch Vân, nhấc cả người Địch Vân lên, quát:

– Dâm tăng. Ngươi gây ra bao nhiêu vụ án ở vùng Lưỡng Hồ, còn muốn sống sao?

Tay phải đặt lên chuôi kiếm, ánh thép xanh lóe lên, trường kiếm đã ra khỏi vỏ, định chém rơi đầu Địch Vân.

Những người đứng xem cùng hò reo:

– Hay lắm, hay lắm!

– Giết tên dâm tăng này đi.

– Để bọn ta cắn y một miếng bõ tức.

Địch Vân thân đang lơ lửng trên không, không có một chút sức kháng cự, thầm than thở: “Số mình nhất định toàn chịu oan uổng, cũng chả còn cách nào.”

Mắt thấy trường kiếm trong tay Uông Khiếu Phong đã vung lên giữa chừng, Địch Vân cười đau khổ, thầm nói: “Đinh đại ca, không phải tiểu đệ không cố gắng hết sức, mà thật là số của tiểu đệ đen đủi quá.”

Bỗng nghe từ xa vọng lại một tiếng nói già nua khô khốc:

– Để người lại, không được hại tính mạng y.

Uông Khiếu Phong ngoảnh đầu lại, thấy một hòa thượng mặc áo vàng. Hòa thượng này rất già, đầu nhọn tai choắt, mặt đầy nếp nhăn, màu sắc và chất vải trên tăng bào của lão giống hệt tăng bào trên người Địch Vân. Uông Khiếu Phong tái mặt, biết là hòa thượng huyết đao môn ở Tây Tạng, bèn giơ kiếm lên định chém vào cổ Địch Vân, giết tên tiểu dâm tăng này trước rồi hãy giết lão dâm tăng. Mũi kiếm đã kề cổ Địch Vân, bỗng cảm thấy khuỷu tay phải tê dại, đã bị ám khí đánh trúng huyệt. Thanh trường kiếm trong tay Uông Khiếu Phong từ từ rũ xuống, tuy không còn sức nữa nhưng vì lưỡi kiếm rất sắc nên vẫn vạch lên má trái Địch Vân một đường máu.

Lão tăng thân hình như gió, ào tới, một chưởng đẩy Uông Khiếu Phong ngã ngựa, tay trái chộp lấy Địch Vân, chân phải nhấc lên một cái, đã ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa vàng. Người ta lên ngựa tất trước hết chân trái đạp lên bàn đạp bên trái, rồi sau đó chân phải mới tung lên mình ngựa, nhưng lão sư già này không cần nhảy lên, cũng không cần bàn đạp, chỉ nhấc chân phải là đã ở trên yên, giục ngựa chạy về phía Thủy Sinh.

Thủy Sinh nghe tiếng Uông Khiếu Phong la hoảng, đang định thúc ngựa tới. Uông Khiếu Phong kêu lên:

– Biểu muội, chạy mau!

Thủy Sinh chần chừ một lúc, quay đầu ngựa, lão tăng kia đã cưỡi ngựa vàng đuổi tới. Lão ném Địch Vân lên yên ngựa bạch, phía sau Thủy Sinh, đang định thuận tay đẩy cô ta xuống ngựa, Thủy Sinh đã rút trường kiếm chém vào đầu lão. Lão tăng thấy cô dung mạo tuyệt đẹp, ngẩn ra một chút, nói:

– Đẹp quá!

Cánh tay liền vươn ra điểm trúng huyệt đạo trên hông Thủy Sinh.

Nhát kiếm của Thủy Sinh mới chém xuống nửa chừng, bỗng toàn thân không còn chút sức, ltrường kiếm leng keng rớt xuống đất, trong lòng rất sợ hãi, vội định nhảy xuống ngựa, bỗng cảm thấy sau lưng lại tê dại, hai chân đã mất cảm giác.

Lão tăng tay trái cầm dây cương ngựa bạch, hai chân kẹp chặt, ngựa vàng ngựa trắng liền “đinh đang đinh đang”, “đinh linh linh” “đinh đang đinh đang”, “đinh linh linh” cùng phi.

Uông Khiếu Phong nằm trên mặt đất, gào to:

– Biểu muội, biểu muội!

Mắt trừng trừng nhìn biểu muội bị hai tên dâm tăng bắt đi, hậu quả thật là không thể tưởng tượng được, nhưng anh ta toàn thân mềm nhũn, ráng hết sức bình sinh cũng không nhúc nhích được.

Chỉ nghe mấy tên công sai gào lớn:

– Tróc nã dâm tăng!

– Huyết đao ác tăng đào tẩu rồi!

* * *

Địch Vân ở trên lưng ngựa, lắc lư muốn rơi, tự nhiên giơ tay bíu lấy, chạm tay vào chỉ cảm thấy mềm như bông, cúi đầu nhìn, thấy chỗ bíu tay vào là eo Thủy Sinh. Thủy Sinh cả sợ, kêu lên:

– Ác hòa thương, mau buông tay ra!

Địch Vân cũng giật mình, vội vàng buông tay, bíu chặt lấy yên ngựa. Nhưng vì ngồi sau Thủy Sinh, hai người không cách gì không chạm vào nhau. Thủy Sinh lại kêu:

– Buông ta ra, buông ta ra!

Lão tăng kia nghe thấy phát bực, đưa tay điểm vào á huyệt của cô, thế là Thủy Sinh đến nói cũng không nói được.

Lão tăng cưỡi trên lưng ngựa vàng, cứ ngắm nghía thân hình diện mạo Thủy Sinh, tán tụng:

– Đẹp lắm, thật tuyệt! Lão hòa thương ta diễm phúc tề thiên.

Thủy Sinh tuy miệng không nói được nhưng tai không bị điếc, sợ đến nỗi hồn xiêu phách lạc, suýt ngất đi.

Lão tăng phóng ngựa về phía Tây, toàn chọn lối thật hoang vu mà chạy. Chạy được một thôi đường, cảm thấy lục lạc trên cổ ngựa nghe thật chói tai, “đinh đang đinh đang”, “đinh linh linh”, “đinh đang đinh đang”, “đinh linh linh”… rõ ràng là dẫn người ta đuổi theo, bèn với tay ra giật phắt hai vòng lục lạc, tiện tay bóp dẹp cả hai, nhét vào người.

Lão tăng không cho ngựa nghỉ, chạy đến gần tối, đến bên một bờ vực, bên thì núi bên thì sông. Thấy địa thế vắng vẻ, bốn phía không người, cũng không có nhà cửa, bèn ôm Địch Vân từ trên lưng ngựa xuống, đặt trên mặt đất, lại ôm Thủy Sinh xuống, dắt hai con ngựa đến dưới một gốc cây lớn, buộc vào. Lão ngắm nghía Thủy Sinh một lúc, cười hi hi nói:

– Hay lắm! Lão hòa thượng diễm phúc không nhỏ!

Rồi mới co đầu gối kiểu kiết già, quay mặt ra sông nhắm mát vận công.

Địch Vân ngồi đối diện với lão, ý nghĩ cứ dập dềnh: “Cảnh ngộ hôm nay thật là kỳ lạ, hai người tốt muốn giết mình, lão tăng này lại cứu mình. Hòa thượng này rõ ràng là cùng một bọn với Bảo Tượng, quyết không phải là người tốt. Nếu lão xâm phạm cô ta thì mình phải làm sao?”

Trời tối dần, tai nghe tiếng gió trong rừng tùng như sóng, chim đêm kêu khắc khoải, tình cờ ngẩng đầu lên lại thấy bộ mặt như người chết của lão tăng, tim lại đập thình thịch, nghiêng đầu nhìn qua thấy một dải áo lộ ra trong đám cỏ, chính là Thủy Sinh đã ngã vào trong đó. Địch Vân mấy lần muốn mở miệng hỏi lão tăng nhưng thấy lão thần sắc lạnh lùng, đang chăm chú vận công nên lại không dám làm phiền.

Một lúc lâu sau, lão tăng bỗng từ từ đứng dậy, giơ chân trái lên, lòng bàn chân hướng lên trời, chân phải đứng trên mặt đất, hai tay giang ra hướng về phía vầng trăng mới mọc. Địch Vân nghĩ bụng: “Tư thế này mình đã nhìn thấy ở đâu rồi nhỉ? Phải rồi, trong quyển sách của Bảo Tượng có vẽ cái hình cổ quái này.” Nhưng thấy lão tăng đứng như vậy lại như một bức tượng đá, không hề nhúc nhích. Một lúc sau nghe một tiếng thở “phù”, thấy lão tăng nhảy vọt dậy, rồi đảo ngược người, đầu chúc xuống đất, hai tay chống đất, đầu cũng chạm đất, rồi hai tay duỗi thẳng ra hai bên, hai chân duỗi lên trời thẳng tắp, lão đứng bằng đầu không hề rung rinh.

Địch Vân cảm thấy thú vị, lôi quyển sách ra giở đến một hình vẽ, dưới ánh trăng thấy quả nhiên tư thế người trong sách giống hệt lão tăng lúc này, liền vỡ nhẽ: “Lão tăng tuy cứu mạng mình nhưng rõ ràng là một kẻ dâm tà, lão bắt cô gái chắc chắn không có ý tốt. Nhân lúc lão đang luyện công nhập định, mình phải cứu cô ta, cùng cưỡi ngựa chạy trốn.”

Địch Vân biết làm việc này là cực kỳ nguy hiểm, nhưng không muốn một cô gái xinh đẹp tốt lành như Thủy Sinh bị lão tăng này làm nhục, bèn lặng lẽ xoay mình, rốn rén bò đến chỗ lùm cỏ. Ở trong tù khi cùng luyện công với Đinh Điển, Địch Vân biết rằng lúc ấy trong từng hơi thở, tai không nghe mắt không thấy gì, ngũ quan đều không có cảm giác. Chỉ cần lão tăng tập trung luyện công, mình cứu cô ta lão cũng chưa chắc đã biết.

Địch Vân hơi động đậy, chỗ chân gãy đau không chịu nổi, bèn đặt trọng lượng toàn thân lên một chân còn lành, từ từ bò về phía lùm cỏ, may mà lão tăng kia quả nhiên không biết gì. Ánh trăng chiếu lên khuôn mặt Thủy Sinh, cô trừng trừng mở tròn đôi mắt nét mặt lộ vẻ sợ hãi. Địch Vân sợ kinh động đến lão tăng nên không dám nói, chỉ đưa tay ra hiệu cho cô rằng mình muốn cứu cô.

Thủy Sinh tự khi bị lão tăng bắt đến đây, nghĩ rằng mình đã lọt vào bàn tay ma của hai hòa thượng dâm ác, chỉ sợ muốn sống không được, muốn chết không xong, nỗi nhục nhã không biết sẽ thảm khốc đến mức nào, khổ là bị điểm huyệt, đừng nói là không thể nhúc nhích ngay cả một tiếng cũng không nói được. Cô bị lão tăng đặt trong lùm cỏ, kiến, mối bò lung tung trên mặt trên cổ đã hết sức khó chịu, lúc này bỗng thấy Địch Vân lén lén lút lút bò tới nghĩ rằng thằng này nhất định có ý xấu, cực kỳ sợ hãi. Địch Vân luôn lấy tay ra hiệu, tỏ ý cứu cô, nhưng Thủy Sinh trong lúc kinh hãi lại hiểu sai ý của Địch Vân nên càng sợ.

Địch Vân đưa tay kéo cô ngồi dậy, tay chỉ con ngựa dưới gốc cây, ý muốn nói cùng cô chạy trốn. Thủy Sinh toàn thân bủn rủn. Địch Vân nếu hai chân còn lành lặn thì có thể ôm cô ta chạy xuống dốc, nhưng chân bị gãy rồi, tự đi lại đã khó khăn, làm sao mà có thể bồng một người chạy được, chỉ còn cách giải huyệt để cô ta tự đi. Nhưng Địch Vân lại không rành cách điểm huyệt và giải huyệt, chỉ cố ra hiệu cho Thủy Sinh, chỉ vào các bộ vị trên người cô, mong cô ra dấu cho mình biết có thể giải huyệt ở vị trí nào.

Thủy Sinh thấy Địch Vân đưa tay về phía mình chỉ chỉ chỏ chỏ chỗ này chỗ kia, thì vừa xấu hổ vừa tức giận cực điểm: “Thằng tiểu ác tăng này không biết muốn giở trò quỷ quái gì đây, chắc là y muốn làm nhục mình, chỉ cần mình nhúc nhích được thì sẽ lập tức lao đầu vào vách đá để khỏi phải chịu đựng nỗi nhục nhã.”

Địch Vân thấy thần sắc kỳ lạ của cô, nghĩ bụng: “Có lẽ cô ấy không hiểu.” Lúc này ngoài cách giải huyệt cho cô, không còn một cách nào khác để cứu cô ta cả, nhưng lại không dám mở miệng lên tiếng, sợ lão tăng kia nghe thấy. Địch Vân thầm nói: “Cô nương, tôi một lòng muốn giúp cô thoát nạn, có đắc tội xin cô đừng trách.” Bèn giơ tay ra, khẽ khẽ đẩy vào lưng cô ta mấy cái.

Mấy cái đẩy nhẹ ấy chẳng có công hiệu gì nhưng lại làm Thủy Sinh càng kinh hãi bội phần. Biểu ca Uông Khiếu Phong của cô là bạn thanh mai trúc mã, tình cảm sâu đậm, phụ thân cũng đã từng hứa gả cô cho biểu ca. Hai người tuy thường cùng sánh vai hành hiệp giang hồ nhưng vẫn luôn giữ lễ, chưa từng chạm tay vào nhau. Địch Vân đẩy vào lưng cô mấy cái như vậy khiến nước mắt cô trào ra như suối.

Địch Vân cảm thấy sợ hãi, nghĩ bụng: “Sao cô ấy lại khóc nhỉ, à, chắc là sau khi bị điểm huyệt, nay đụng vào huyệt đạo sau lưng thế này cô ấy đau không chịu nổi. Mình thử giải huyệt ở hông cô ấy xem.”

Bèn đưa tay vào sau hông, ấn nhẹ mấy cái. Mới ấn vào, nước mắt Thủy Sinh trào ra. Địch Vân rất hoang mang: “Thì ra huyệt đạo ở bên hông cũng đau, vậy thì phải làm sao?” Địch Vân biết sự tôn nghiêm trên thân thể người con gái là ở những chỗ như ngực, bụng… đến nhìn cũng chả dám nhìn chứ nói gì đến chuyện đụng chạm, thầm nghĩ: “Tôi không có cách gì giải huyệt cho cô, nếu cứ thử lung tung thì không được. Chỉ có cách cõng cô xuống dốc núi, mạo hiểm chạy trốn.” Thế là bèn cầm lấy hai tay cô ta, định kéo cô ta lên lưng mình.

Thủy Sinh tức giận cực điểm, mấy lần suýt ngất đi. Thấy Địch Vân cầm lấy hai tay mình rõ ràng là định cởi áo, hơi bị nén ở trong ngực không thể kêu lên được. Địch Vân nhấc hai tay cô đang có kéo cô lên lưng mình, một luồng khí từ trong ngực Thủy Sinh chợt xông lên, á huyệt đột nhiên được giải liền hô hoán lên:

– Ác tặc, buông ta ra! Đừng đụng đến ta, buông ta ra!

Tiếng kêu đột ngột bật ra, Địch Vân giật nảy mình, hai tay buông ra, thả phịch cô ta xuống đất, tự mình cũng đứng không vững, ngã dúi lên người cô.

Nghe một tiếng kêu của Thủy Sinh, lão tăng lập tức tỉnh ra, trừng mắt nhìn, thấy hai người dính vào một cục, lại nghe Thủy Sinh kêu to:

– Ác tăng, ngươi mau chém ta một đao chết cho xong. Buông ta ra!

Lão tăng ha ha cười lớn, nói:

– Thằng nhóc này, ngươi nóng vội gì thê? Ngươi muốn ăn vụng trước sư tổ ư?

Rồi bước tới chộp lấy lưng Địch Vân, nhấc lên, đi mấy bước, mới lẳng xuống, cười nói:

– Giỏi lắm! Giỏi lắm! Ta thích thằng nhóc to gan hám gái như ngươi. Ngươi đã gãy một chân mà vẫn không sợ đau, còn muốn gái, hay lảm, hay lảm, rất hợp ý ta.

Địch Vân bị cả hai người hiểu nhầm thật đúng là khóc dở mếu dở, nghĩ bụng: “Nếu mình nói rõ sự thật, lão ác tăng này chỉ một chưởng là mình mất mạng, thôi đành chịu, rồi sẽ nghĩ cách thoát thân, đồng thời cứu cô ta luôn.”

Lão tăng nói:

– Ngươi là đệ tử mới được Bảo Tượng thu nhận, phải không?

Không đợi Địch Vân trả lời, lão toét miệng cười, nói tiếp:

– Bảo Tượng chắc là rất thích ngươi, cả đến tăng y của huyết đao môn cũng tặng cho ngươi. Bộ “huyết đao bí cấp” của y, y có truyền cho ngươi không?

Địch Vân nghĩ bụng: “Huyết đao bí cấp” không biết là cái gì?”, run rẩy thò tay vào bụng, rút quyển sách giấy vàng ra.

Lão tăng cầm lấy, mở mấy trang xem qua, lại trả lại, vỗ nhẹ lên đầu Địch Vân, nói:

– Được lắm, được lắm! Tên ngươi là gì?

Địch Vân trả lời:

– Tôi tên là Địch Vân.

Lão tăng nói:

– Được lắm, được lấm! Sư phụ ngươi đã truyền pháp môn luyện công cho ngươi chưa?

Địch Vân nói:

– Chưa.

Lão tăng nói:

– Ầy, không sao. Sư phụ ngươi đi đâu rồi?

Địch Vân đâu dám nói Bảo Tượng không phải là sư phụ của mình, càng không dám nói Bảo

Tượng đã chết, chỉ buột miệng nói:

– Ông ấy… ông ấy đi thuyền qua sông…

Lão tăng lại hỏi:

– Sư phụ ngươi đã nói cho ngươi biết pháp danh của sư tổ chưa?

Địch Vân nói:

– Chưa.

Lão tăng lại nói:

– Pháp danh của ta là “Huyết đao lão tổ”. Thằng lỏi nhà ngươi biết làm ta vui vẻ. Ngươi theo sư tổ bảo đảm được hưởng phúc vô cùng. Giai nhân trong thiên hạ, muốn người nào thì lấy ngay người ấy.

Địch Vân nghĩ bụng: “Thì ra lão này là sư phụ của Bảo Tượng”, bèn hỏi:

– Họ chửi ông… chửi chúng ta là “huyết đao ác tăng”, sư… sư tổ là chưởng giáo của phái à?

Huyết đao lão tổ cười nói:

– Hi hi, thằng khốn Bảo Tượng kín miệng ghê, lai lịch của gia môn mà đến cả đồ nhi thân thiết của mình cũng không nói cho biết. Phái của chúng ta là một chi trong Thanh giáo Tây Tạng gọi là “Huyết đao môn”. Tổ sư của ngươi là chưởng giáo đời thứ tư. Ngươi gắng học công phu bản môn, chưởng giáo đời thứ sáu biết đâu chẳng vào tay ngươi. À, cái chân gãy của ngươi, chẳng việc gì, chuyện nhỏ, ta sẽ chữa cho.

Lão mở vết thương chỗ xương gãy của Địch Vân ra, nắn lại xương cho chuẩn rồi lấy từ trong người ra một cái bình sứ, đổ ra một ít bột thuốc, bôi lên vết thương, nói:

– Đây là thuốc liền xương bí chế của bản môn, linh nghiệm vô cùng, không đến một tháng chân gãy sẽ bình phục như thường. Ngày mai chúng ta tới phủ Kinh Châu, sư phụ của ngươi cũng sẽ đến gặp mặt.

Địch Vân thầm hốt hoảng: “Mình không thể đến Kinh Châu.”

Huyết đao lão tổ băng xong vết thương cho Địch Vân, quay đầu nhìn Thủy Sinh, cười nói:

– Thằng lỏi con, con bé này đẹp quá. Nó tự xưng “Linh kiếm song hiệp” gì gì đó. Bố nó là Thủy Đại tự coi là danh môn chính phái, là nhân vật hàng đầu võ lâm Trung nguyên, không biết tự lương sức mình, muốn làm khó dễ “huyết đao môn” chúng ta, hôm qua lại giết mất một vị sư thúc của ngươi, mẹ nó chứ, không ngờ khuê nữ của hắn lại bị ta bắt. Hi hi hi, hai ông cháu ta phải làm cho bố nó mất mặt, lột hết y phục của con bé này, trói trên lưng ngựa diễu khắp đại thành tiểu trấn để cho muôn vạn người đều thấy rõ khuê nữ của Thủy đại hiệp đẹp mặt đến mức nào.

Trái tim của Thủy Sinh đập loạn nhịp, kinh tởm buồn nôn, ý nghĩ quay cuồng: “Tên tiểu ác tăng kia đã ác, lão già này lại càng hung bạo, mình làm sao mà tự tử được, giữ được sự thanh bạch của mình và thể diện của cha?”

* * *

Bỗng nghe thấy Huyết đao lão tổ cười nói:

– Nhắc đến Tào Tháo thì Tào Tháo đến [1], người cứu nó đến rồi đấy.

Địch Vân mừng thầm, vội hỏi:

– Ở đâu?

Huyết đao lão tổ nói:

– Cách đây hơn năm dặm, hi hi, có cả thảy mười bảy kỵ sĩ.

Địch Vân nghiêng tai nghe ngóng, loáng thoáng nghe trên đường núi phía đông nam có tiếng vó ngựa nhưng cách rất xa, như có như không khó mà biết được nhiều ít thế nào, lão ác tăng này mới nghe đã biết số người ngựa, thính lực của lão thật đáng sợ.

Huyết đao lão tổ nói:

– Cái chân gãy của ngươi mới đắp thuốc, trong ba canh giờ không được động đậy, nếu không sau này sẽ bị thọt. Trong vòng vài trăm dặm quanh đây không có nhân vật nào có bản lĩnh cao cường cả, mười bảy tên kỵ sĩ đuổi theo này, để ta giết hết cho.

Địch Vân không muốn lão giết nhiều người trong võ lâm Trung nguyên, vội nói:

– Chúng ta nấp ở đây không lên tiếng, họ chưa chắc đã tìm được. Địch đông ta ít, sư… sư tổ phải cẩn thận mới được.

Huyết đao lão tổ rất vui vẻ, nói:

– Thằng lỏi này có lương tâm, khó có, khó có, sư tổ gia gia rất thích ngươi.

Lão đưa tay vào bên hông, rút một cái, trong tay đã có một lưỡi đao mềm. Lưỡi đao không ngừng rung động, linh hoạt như một con rắn sống. Dưới ánh trăng thấy lưỡi đao một màu đỏ sậm, như màu máu, cực kỳ đáng sợ. Địch Vân ớn lạnh, hỏi:

– Đây… đây là huyết đao à?

Huyết đao lão tổ nói:

– Thanh bảo đao này gặp mỗi đêm trăng rẳm đều phải cắt đầu người để tế, nếu không thì giảm phần sắc bén, bất lợi cho chủ đao. Ngươi xem, vầng trăng tròn vành vạnh, khó mà có được đến mười bảy người kéo tới cho ta tế đao. Bảo đao ơi bảo đao, tối nay ngươi có thể no máu.

Thủy Sinh nghe tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, trong bụng mừng thầm, nhưng nghe Huyết đao lão tổ nói với vẻ rất tự phụ, tựa hồ như người đến ắt chết, tuy không hoàn toàn tin lời lão nhưng cũng thầm lo, nghĩ bụng: “Cha có đến không? Biểu ca có đến không?”

Một lát sau, dưới ánh trăng thấy một hàng ngựa chạy đến, Địch Vân thử đếm, quả nhiên không nhiều, không ít, đúng số mười bảy. Chỉ thấy mười bảy kỵ sĩ nối đuôi nhau lao đến, nhanh chóng vượt qua dốc núi.

Thủy Sinh cất cao giọng, kêu:

– Tôi ở đây, tôi ở đây!

Mười bảy người cưỡi ngựa nghe thấy tiếng kêu, lập tức thúc ngựa xốc tới. Một chàng trai kêu lớn:

– Biểu muội, biểu muội!

Chính là tiếng Uông Khiếu Phong.

Thủy Sinh muốn kêu nữa, Huyết đao lão tổ búng ngón tay một cái, một viên sỏi bay tới trúng ngay vào á huyệt (huyệt câm) của cô.

Mười bảy người hối hả xuống ngựa, tụ tập lại hạ giọng bàn bạc. Huyết đao lão tổ bỗng đưa tay xốc nách Địch Vân, xách lên, cất cao giọng nói:

– Tây Tạng thanh giáo huyết đao môn, chưởng môn đời thứ tư là Huyết đao lão tổ, đệ tử đời thứ sáu là Địch Vân ở đây!

Rồi lão cúi xuống, tay trái chụp lấy sau cổ áo Thủy Sinh, nhấc bổng cô ta lên, lại kêu:

– Khuê nữ của Thủy Đại đã làm tiểu thiếp thứ mười tám của Địch Vân, đồ tôn của ta, ai muốn đến uống rượu mừng thì hãy tới đây. Ha ha, ha ha!

Lão cố ý biểu diễn nội công thâm hậu, tiếng cười chấn động cả vách núi, vang đi thật xa… Mười bảy người kia nhìn mà kinh hãi thất sắc.

Uông Khiếu Phong thấy biểu muội bị ác tăng kia cầm trong tay, hoàn toàn không có sức kháng cự, lại nghe lão nói là đã làm “vợ lẽ thứ mười tám của đồ tôn Địch Vân”, chỉ sợ cô đã bị ô nhục, tức giận muốn nổ tung cả người, gầm lên một tiếng, vung trường kiếm xông lên dốc núi. Mười sáu người khác cùng nhao nhao kêu lên:

– Giết huyết đao ác tăng!

– Vì giang hồ trừ hại!

– Loại dâm tăng hung ác này không thể dung tha!

Địch Vân thấy thế trận như vậy trong lòng rất bối rối, nghĩ thầm: “Những người này đều cho mình là ác tăng của huyết đao môn, mình có một trăm cái miệng cũng không thể biện bạch được. Tốt nhất là họ giết chết lão hòa thượng, cứu Thủy cô nương đi… Nhưng… nhưng lão hòa thượng này mà chết thì mình cũng khó mà sống sót.” Khi thì mong quần hiệp Trung nguyên thắng, khi thì lại hy vọng Huyết đao lão tổ đánh lui truy binh, còn mình thì không biết nên giúp bên nào.

Nhìn sang Huyết đao lão tổ, chỉ thấy lão nhếch mép cười nhạt, có vẻ chả sợ gì đối phương người đông thế mạnh, mỗi tay nâng một người đưa lên, thanh huyết đao thì ngậm ngang miệng, trông càng dữ tợn hung ác. Đợi quần hào đến gần khoảng hai mươi trượng, lão từ từ đặt Địch Vân xuống, cẩn thận để không động đến cái chân bị thương, đợi quần hào đến cách khoảng mười trượng, lão lại đặt Thủy Sinh bên cạnh Địch Vân, một thanh đao vẫn cấn ngang miệng, hai tay chống nạnh, gió đêm phần phật thổi phồng tay áo tăng bào.

Uông Khiếu Phong kêu lên:

– Biểu muội, muội có bình yên không?

Thủy Sinh chỉ muốn kêu to: “Biểu ca, biểu ca!” nhưng làm sao kêu được. Thấy biểu ca càng xông tới gần lòng cô lẫn lộn niềm vui vô cùng, lo lắng vô cùng, thương yêu và cảm kích vô cùng, chỉ muốn nhào vào lòng biểu ca mà khóc một trận, nói lên bao nỗi khổ nạn nhục nhã mình gặp phải trong mấy canh giờ vừa qua.

Uông Khiếu Phong toàn tâm toàn ý tìm kiếm biểu muội, nhìn đông ngó tây, chạy chậm đi mấy bước, đã có bảy tám người vượt lên trước anh ta. Dưới ánh trăng thấy ở nơi cao nhất trên dốc núi

Huyết đao lão tổ ngậm đao đứng đó, sừng sững oai phong, khi quần hào xông đến cách lão năm sáu trượng, không hẹn mà cùng dừng bước đứng lại.

Hai bên đối diện trong khoảnh khắc, chợt nghe một tiếng thét vang, hai hán tử sánh vai xông lên, một người sử roi vàng, một người sử song đao.

Hai người xông lên mấy trượng, người sử song đao bước rất nhanh, đã vòng ra sau Huyết đao lão tổ, hai người một trước một sau, lớn tiếng thét, cùng đánh tới. Huyết đao lão tổ nghiêng mình một cái, tránh song đao, thân hình lắc lư, chiếc loan đao vẫn ngậm nơi miệng, đột nhiên tay trái chụp lấy cán đao, thuận tay vung một nhát, đã chém vạt nửa đầu người sử roi vàng. Sau khi giết một người, lão lập tức lại ngậm đao vào miệng. Người sử song đao vừa sợ vừa buồn, múa song đao như tuyết bay lăn xả tới. Huyết đao lão tổ tay không xuyên qua vòng đao, tay phải lại cầm lấy đao, vẫy một cái, lưỡi đao xẻ người xông tới từ đỉnh đầu đến ngang hông.

Quần hào cùng kêu lên kinh hoảng, lùi lại mấy bước, chỉ thấy từ lưỡi đao lão ngậm ngang miệng máu nhỏ xuống từng giọt từng giọt, khóe miệng cũng vấy máu tươi.

Quần hào tuy kinh hãi nhưng cùng chung mối hận thù, trong tiếng gào thét, bốn người cùng xông lên giáp công hai bên. Huyết đao lão tổ chạy sang mé tây, bốn người lớn tiếng chửi mắng, đuổi theo, những người khác cũng ào lên như ong. Mới đuổi được mấy trượng bốn người đã rõ nhanh chậm, hai người trước, hai người sau. Huyết đao lão tổ bỗng dừng bước, quay mình nhảy vọt tới, hồng quang lóe lên, hai người chạy trước đã mất mạng dưới huyết đao. Hai người chạy sau chần chừ một chút, huyết đao đã lia ngang cổ, thân và đầu hai nơi.

Địch Vân nầm trong bụi cỏ, thấy lão trong khoảnh khắc giết liền sáu người, võ công quái dị, ra tay tàn nhẫn thực là không thể tưởng tượng được, nghĩ bụng: “Cách đánh này, mười một người còn lại e cũng bị lão giết sạch trong phút chốc. Phải làm sao đây?”

Bỗng nghe thấy một người kêu lên:

– Biểu muội, biểu muội, muội ở đâu?

Chính là Uông Khiếu Phong trong “Linh kiếm song hiệp”.

Thủy Sinh nằm bên cạnh Địch Vân, nhưng đã bị Huyết đao lão tổ điểm vào á huyệt, không kêu lên được, trong lòng thầm kêu lớn: “Biểu ca, muội ở đây.”

Uông Khiếu Phong cúi mình chạy nhanh, tay trái không ngừng vạch cỏ tìm kiếm. Bỗng một trận gió thổi qua, cuốn một góc vạt áo của Thủy Sinh lên, Uông Khiếu Phong kêu lên:

– Đây rồi!

Nhảy phóc tới, ôm chầm lấy cô.

Thủy Sinh vui mừng rơi nước mất, toàn thân run rẩy. Uông Khiếu Phong kêu lên:

– Biểu muội, biểu muội! Muội đây rồi!

Ôm chặt lấy cô. Hai người gặp nhau sau cơn hoạn nạn, bao nhiêu lễ nghi quy củ đều vứt quách ngoài chín tầng mây.

Uông Khiếu Phong lại hỏi:

– Biểu muội, muội khỏe không?

Thấy Thủy Sinh không đáp, sinh nghi, đặt cô xuống đất. Thủy Sinh chân mới chạm đất đã ngã vật ra. Uông Khiếu Phong có học qua kỹ pháp điểm huyệt, tuy chưa tinh thông nhưng cũng nắm được thủ pháp cơ bản, vội đưa tay giải huyệt ở hông và lưng cho cô. Thủy Sinh kêu được thành tiếng:

– Biểu ca, biểu ca.

Khi Uông Khiếu Phong chạy đến gần, Địch Vân đã biết thế nguy, nhân lúc anh ta đang giải huyệt cho Thủy Sinh, lặng lẽ bò đi.

Thủy Sinh nghe trong bụi cỏ có tiếng sột soạt, nghĩ đến tên ác tăng này đã từng vô lễ với mình bèn chỉ vào Địch Vân, nói với Uông Khiếu Phong:

– Mau, mau giết tên ác tăng kia.

Lúc ấy trường kiếm của Uông Khiếu Phong còn ở trong bao, nghe tiếng Thủy Sinh, soạt một tiếng rút kiếm ra, thế kiếm như gió, đâm nhanh tới Địch Vân. Địch Vân nghe tiếng Thủy Sinh hô hoán, biết là không hay rồi, không đợi trường kiếm đâm tới đã vội vàng lăn ra ngoài, may mà thân mình đang nằm trên dốc, theo đà lăn lông lốc xuống.

Uông Khiếu Phong lại đâm tiếp, thấy sắp đâm trúng, bỗng “choeng” một tiếng, hổ khẩu chấn động, trước mắt hồng quang loáng qua. Trong vội vã không kịp suy nghĩ, thuận tay sử luôn chiêu “Khổng tước khai bình” trong “cửu thức liên hoàn”, múa thành một bình phong kiếm quang che trước thân mình. Chỉ nghe thấy “đinh đinh đang đang” tiếng đao kiếm chạm nhau như liên châu, chỉ một chớp mắt đã hơn ba chục tiếng. Kiếm pháp của Uông Khiếu Phong được chân truyền của cậu là Thủy Đại, bộ kiếm pháp “Khổng tước khai bình” này trở qua trở lại gồm có chín thức, lúc thường luyện được thuần thục, khoảnh khắc này sống chết trong hơi thở, đao chiêu của kẻ địch quá nhanh nói gì đến chuyện thấy chiêu chiết chiêu? Chỉ theo phản xạ mà sử luôn chiêu đã nằm lòng. Huyết đao lão tổ tấn công liên tiếp ba mươi sáu đao đều bị Uông Khiếu Phong đẩy ra.

Quần hào nhìn hoa cả mắt. Lúc này lại có thêm ba người nữa bị Huyết đao lão tổ giết, nếu kể cả Thủy Sinh nữa thì chỉ còn lại chín người. Mọi người cảm thấy ớn lạnh, đều nghĩ: “Linh kiếm song hiệp danh bất hư truyền, chỉ có anh ta mới chống đỡ nổi Huyết đao ác tăng.”

Kỳ thực, Huyết đao lão tổ chỉ cần ra chiêu chậm đi một chút, buộc phải chiết chiêu thì Uông Khiếu Phong không thể không mất mạng dưới huyết đao, may mà Huyết đao lão tổ nhất thời chưa nghĩ ra, kiếm chiêu chuyên phòng thủ này của đối phương chẳng qua chỉ là thuộc lòng một lộ kiếm pháp mà thôi. Lão nghĩ bụng: “Tiểu tử này giỏi đây, cứ đấu tiếp xem ngươi nhanh hay ta nhanh?” và cứ tiếp tục gia tăng tốc độ.

Quần hào đều muốn xông vào một loạt, dùng loạn đao phân thây ác tăng nhưng hai người đấu nhanh quá không xen vào được.

Thủy Sinh quan tâm đến an nguy của biểu ca, tuy tay tê chân nhũn cũng không dám chờ đợi nữa, cúi mình nhặt một thanh trường kiếm từ một xác chết, xông lên giáp công. Cô ta thường cùng biểu ca liên thủ tấn công kẻ địch, phối hợp thuần thục, Uông Khiếu Phong đón đỡ thế công của Huyết đao lão tổ, Thủy Sinh liền đâm vào chỗ yếu hại của lão.

Huyết đao lão tổ mấy chục chiêu chưa hạ được Uông Khiếu Phong, trong lòng nôn nóng, gầm lên một tiếng, tay phải vẫn múa huyết đao, tay trái giơ lên chụp lấy trường kiếm của Uông Khiếu Phong. Uông Khiếu Phong giật nảy mình, múa kiếm càng nhanh định chặt đứt mấy ngón tay của lão, không ngờ tay trái của lão hình như không sợ lưỡi kiếm, hoặc búng hoặc ép, hóa giải hầu hết kiếm chiêu của Khiếu Phong, thế là Uông Khiếu Phong và Thủy Sinh rơi vào hiểm cảnh.

Một ông già trong quần hào thấy tình thế bất lợi, biết rằng đêm nay nếu “Linh kiếm song hiệp” lại mất mạng nữa thì những người còn lại chẳng còn ai sống sót để rời khỏi chốn này. Ông ta bèn kêu lên:

– Mọi người sánh vai xốc tới liều mạng với ác tăng.

Chính vào lúc ấy, bỗng nghe từ phía tây bắc có tiếng hú dài:

– Lạc… Hoa Lưu Thủy!

Tiếp đó từ phía tây lại có người ứng tiếng:

– Lạc Hoa… Lưu Thủy.

Hai tiếng Lưu Thủy chưa dứt từ phía tây nam lại có người kêu lên:

– Lạc Hoa Lưu… Thủy.

Ba người ở ba phía, cao giọng hô vang, âm điệu hoặc hào phóng hoặc du dương nhưng đều có trung khí sung mãn, nội lực rất cao.

Huyết đao lão tổ giật mình: “Ở đâu ra ba cao thủ nữa đây? Từ âm thanh nghe ra võ công của mỗi người đều không kém mình, ba thằng cha này liên thủ giáp công thì khó đối phó đây.” Lão nghĩ cách ứng phó, đao chiêu vẫn không hề nao núng.

Bỗng lại nghe từ phía nam có tiếng kêu:

– Lạc Hoa Lưu Thủy…

Tiếng “Thủy” đặc biệt kéo dài, thanh âm cuồn cuộn truyền đến như trường giang dào dạt. Tiếng hô này gần hơn ba tiếng hô kia nhiều.

Thủy Sinh cả mừng kêu lên:

– Cha, cha, tới đây mau!

Trong quần hào có người vui mừng nói:

– “Giang Nam tứ lão” đến rồi, Lạc Hoa Lưu Thủy! Ha…

Tiếng cười ha ha của người ấy chỉ mới phát ra được một tiếng “ha”, ngực đã vọt máu tươi, bị huyết đao chém trúng.

Huyết đao lão tổ nghe, biết có thêm một người đến nữa, mà người này lại là thân phụ của Thủy Sinh, nghĩ ngay: “Từng nghe đồ đệ của mình là Thiện Dũng nói rằng trong võ lâm Trung nguyên, võ công cao cường nhất ngoài Đinh Điển ra thì có “Nam tứ kỳ”, “Bắc tứ quái”. “Bắc tứ quái” là “Phong Hổ Vân Long”, “Nam tứ kỳ” là “Lạc Hoa Lưu Thủy”. Lúc ấy mình nghe vậy đã bảo “Cút mẹ nó đi, ngoại hiệu gọi là Lạc Hoa Lưu Thủy (hoa rơi nước chảy) thì còn nước mẹ gì?” Nhưng nghe âm thanh ứng họa của bốn thằng cha này thì quả là cũng có chút bản lĩnh.”

Ý nghĩ chưa định, đã nghe thấy bốn người đồng thanh hô: – Lạc Hoa Lưu Thủy.

Từ bốn phía âm thanh truyền đến vang động cả vách núi. Huyết đao lão tổ nghe âm thanh biết bốn người còn khá xa, gần nhất cũng còn hơn năm dặm, nhưng giết cho hết cả mấy người còn lại, khi bốn người kia đến cùng bao vây thì cũng khó mà thoát thân. Lão chúm môi hú dài:

– Lạc Hoa Lưu Thủy, ta đánh cho các ngươi hoa trôi nước chảy (lạc hoa lưu thủy)!

Búng ngón tay ra một cái, “keng” một tiếng trúng ngay vào trường kiếm trong tay Thủy Sinh, trường kiếm bay mất.

Huyết đao lão tổ kêu lên:

– Địch Vân, chuẩn bị lên ngựa, chúng ta tạm rút.

Địch Vân không biết đáp ứng thế nào, cảm thấy khó nghĩ, nếu cùng chạy trốn với lão thì càng lún càng sâu, sau này khó lòng cứu vãn. Nhưng nếu ở lại đây thì sẽ lập tức bị mọi người chém thành muôn vạn mảnh, làm gì mà kịp biện bạch nửa câu. Nghe thấy Huyết đao lão tổ lại gọi:

– Đồ tôn, mau dắt ngựa lại đây.

Địch Vân suy nghĩ đã định: “Trước mắt cần phải chạy trốn cái đã. Mình suốt đời bị oan uổng, còn thiếu gì oan uổng nữa? Người ta nghĩ về mình thế nào mình làm sao mà thay đổi được?” Đợi Huyết đao lão tổ gọi đến lần thứ ba bèn đáp ứng, nhặt lấy một cây thương trên mặt đất dùng làm gậy chống, đi đến bên gốc cây dắt hai con ngựa tới.

Một người béo mập, sử côn kêu lên:

– Không xong rồi, ác tăng định chạy trốn, tôi đi chặn nó lại.

Rồi múa cây côn đuổi theo Địch Vân. Huyết đao lão tổ nói:

– Ê, ngươi đi chặn nó, ta đến chặn ngươi.

Nơi huyết đao chém tới, người mập ấy cả người lẫn côn đứt làm bốn khúc. Những người khác thấy người kia chết thảm như vậy, không nén được kinh hãi kêu lên. Huyết đao lão tổ vốn là định dọa cho mọi người lùi lại, lão bèn quặt tay lại túm lấy Thủy Sinh, chạy về phía con ngựa Địch Vân dắt tới.

Thủy Sinh vội kêu lên:

– Ác tăng, buông ta ra, buông ta ra!

Rồi vung quyền thoi vào lưng lão. Cô ta kiếm pháp khá tinh thông nhưng sử quyền thì kém cỏi, Huyết đao lão tổ da dày xương cứng, bị Thủy Sinh đấm mấy quả cũng như không, sải một bước đến nửa trượng, chỉ chạy mấy bước đã đến bên cạnh Địch Vân.

Uông Khiếu Phong đang múa kiếm theo bài “khổng tước khai bình” một cách mê mải, nhất thời chưa kịp thu chiêu, vẫn cứ tiếp tục “đông triển cẩm vũ”, “tây tích thúy linh”, “nam nghênh diễm dương”, “bắc hồi trường phong”… từng thức một múa đủ số. Anh ta thấy Thủy Sinh lại bị bắt, vội chạy như điên đuổi theo, trường kiếm trong tay tuy vẫn múa không ngừng nhưng đã không còn bài bản nữa.

Huyết đao lão tổ nhấc Địch Vân đặt lên con ngựa vàng, lại đặt Thủy Sinh lên trước Địch Vân, hạ giọng nói:

– Bốn thằng quỷ kia đều là kình địch, không thể coi thường, con bé này là con tin, đừng để nó chạy trốn.

Nói rồi phóc lên ngựa trắng, chạy về hướng đông.

Tiếng kêu “Lạc Hoa Lưu Thủy, Lạc Hoa Lưu Thủy” dần dần đến gần, có lúc một người hô, có lúc lại hai người, ba người, bốn người cùng hô.

Thủy Sinh kêu to:

– Biểu ca, biểu ca! Gia gia, gia gia! Mau đến cứu con.

Nhưng thấy biểu ca mỗi lúc một xa phía sau ngựa vàng.

Ngựa vàng và ngựa trắng của “Linh kiếm song hiệp” là loại tuấn mã Đại Uyển lựa chọn từ trong ngàn vạn con. Lúc bình thường hai người vẫn rất tự hào vì hai chú ngựa này, thường nói rằng hai con ngựa này chạy nhanh, dai sức, trên đời chẳng có con ngựa thứ ba nào sánh kịp, nhưng lúc này lại bị kẻ địch sử dụng, súc sinh vô tri vẫn cứ chạy nhanh như thế, ngựa chạy càng nhanh càng xa Uông Khiếu Phong.

Uông Khiếu Phong thấy đuổi không kịp, chỉ biết không ngớt kêu gọi:

– Biểu muội, biểu muội!

Một người kêu “biểu ca”, một người kêu “biểu muội”, tiếng kêu buồn bã, Địch Vân nghe cảm thấy bất nhẫn, chỉ muốn đẩy Thủy Sinh xuống ngựa, nhưng nghĩ đến lời Huyết đao lão tổ: “Mấy người mới đến đều là kình địch không thể coi thường, con bé này là con tin chớ để nó chạy trốn”, thả Thủy Sinh đi nhất định Huyết đao lão tổ sẽ tức giận. Lão này vô cùng tàn nhẫn giết mình cũng như giết gà giết chó, lại nghĩ nếu bị bốn vị cao thủ kia đuổi kịp, thì mình khó thoát khỏi cái chết oan uổng. Nhất thời do dự không biết quyết định thế nào, nghe tiếng Thủy Sinh kêu “biểu ca” đã khản đặc, trong lòng lại cảm thấy chua xót: “Hai người họ tình yêu sâu nặng, bị người ta chia rẽ. Mình và sư muội… ôi, mình và sư muội há lại không như thế sao? Nhưng, nhưng cô ấy đối với mình bao giờ mới được như Thủy cô nương đối với Uông Khiếu Phong?”

Nghĩ đến đó, không khỏi đau lòng, thầm nói:

– Cô đi đi.

Rồi đưa tay đẩy Thủy Sinh xuống ngựa.

Huyết đao lão tổ tuy chạy trước dẫn đường nhưng vẫn luôn chú ý động tĩnh ở phía sau, bỗng nghe thấy tiếng kêu của Thủy Sinh ngừng bặt, tiếp đó là tiếng kêu “ái chà” ngã xuống đất, còn tưởng Địch Vân bị gãy chân không khống chế được cô ta, lão lập tức quay đầu ngựa.

Thủy Sinh rơi xuống đất, nhẹ nhàng nhảy lên, đã đứng thẳng dậy, lập tức co chân chạy về phía Uông Khiếu Phong. Hai người lúc này chỉ cách nhau hơn năm mươi trượng, một người chạy từ tây về đông một người từ đông chạy về tây, càng chạy càng gần. Một người kêu “biểu ca”, một người kêu “biểu muội” đều vô cùng vui mừng.

Huyết đao lão tổ mỉm cười gò ngựa, không thèm để ý, đợi một chút, thấy Uông Khiếu Phong và Thủy Sinh chỉ còn cách nhau khoảng hai mươi trượng lúc ấy mới kẹp mạnh hai chân, kêu lên một tiếng, đuổi theo Thủy Sinh.

Địch Vân cả sợ, trong lòng thầm kêu: “Chạy nhanh lên, chạy nhanh lên!” Mấy người may mắn sống sót thấy Huyết đao lão tổ miệng ngậm huyết đao, phi ngựa xông đến cũng đồng thanh kêu lên: “Chạy nhanh lên, chạy nhanh lên!”

Thủy Sinh nghe tiếng vó ngựa phía sau mỗi lúc một gần, nhưng hai người ra sức chạy nhanh nên khoảng cách với Uông Khiếu Phong cũng mỗi lúc một gần. Cô chạy đến nỗi ngực như muốn nổ tung, đầu gối rã rời nhiều phen suýt ngã nhưng vẫn cố gắng chạy tiếp.

Đột nhiên cảm thấy bạch mã thở trên lưng, nghe thấy Huyết đao lão tổ cười nói:

– Chạy có đã không?

Thủy Sinh vươn hai tay ra, Uông Khiếu Phong còn cách hơn hai trượng, tay trái của Huyết đao lão tổ đã chụp lấy vai cô.

Cô kêu thất thanh, đang sắp khóc lên, bỗng nghe thấy một tiếng gọi thân thuộc và từ ái:

– Sinh nhi, con đừng sợ, cha đến cứu con đây.

* * *

Thủy Sinh nghe thấy, biết là phụ thân đã đến, trong lòng mừng rỡ, tinh thần phấn chấn một luồng sức mạnh không biết từ đâu cuộn đến, nhảy vọt tới hơn một trượng, bàn tay của Huyết đao lão tổ vốn đã chụp được vai cô lại bị cô vùng thoát khỏi. Uông Khiếu Phong nhảy phắt tới, hai người tay trái đã cầm được tay trái. Tay phải của Uông Khiếu Phong múa lên một vòng kiếm quang, trong lòng thầm nói: “Nhờ trời thương, sư phụ đã kịp thời đuổi tới không sợ lão ác tăng kia nữa.”

Huyết đao lão tổ hi hi cười lạnh, vung huyết đao. Uông Khiếu Phong vội múa trường kiếm đón đỡ. Bỗng thấy bóng huyết đao lóe lên, đón gió chuyển vòng như một dải lụa mềm quấn lấy lưỡi kiếm, thuận đà róc xuống ngón tay Uông Khiếu Phong. Nếu Uông Khiếu Phong không buông kiếm thì năm ngón tay đã bị đứt lìa. Trong lúc vội vã Khiếu Phong biến chiêu cực nhanh, nhả kình lực từ lòng bàn tay ra, trường kiếm bay về phía kẻ địch.

Huyết đao lão tổ búng ngón tay trái, trường kiếm chuyển hướng quay về phía tây trúng vào một người già. Cây huyết đao trong tay phải lại chĩa ra phía trước, chém thẳng vào mặt Uông Khiếu Phong. Uông Khiếu Phong nghiêng mình tránh, không thể không buông tay Thủy Sinh ra. Tay trái của Huyết đao lão tổ ngoặt lại, đã ôm lấy Thủy Sinh, đặt ngang trên yên ngựa. Lão cũng không thèm quay đầu ngựa cứ cho ngựa lao về phía trước, xông vào quần hào Trung nguyên.

Mấy hán tử chặn đường thấy ngựa của lão xông tới cùng kêu gào dạt ra hai bên. Huyết đao lão tổ miệng phát ra tiếng “kha kha” kỳ quái, chém ngã một hán tử, cho ngựa xoay một vòng, chạy về phía Địch Vân.

Bỗng thấy một bóng xám loáng qua ở phía bên trái, ánh trăng chiếu lên trường kiếm lấp lánh, một luồng kiếm quang lạnh lẽo điểm về ngực lão. Huyết đao lão tổ quay đao lại đỡ, “keng” một tiếng, đao kiếm chạm nhau, hổ khẩu tê dại, nghĩ bụng: “Nội lực mạnh thật.” Cùng lúc đó, từ mé bên phải lại có một thanh trường kiếm xả tới, thế kiếm rất lạ, mũi kiếm vẽ thành những vòng tròn nhỏ, không biết kiếm chiêu chỉ về hướng nào. Huyết đao lão tổ lại giật mình: “Danh gia thái cực kiếm đến rồi.”

Lão vận kình tay phải, huyết đao vung thành vòng tròn, vòng đao và vòng kiếm chạm nhau, vang lên mấy tiếng “choang choang choang” hoa lửa bắn tung tóe. Đối phương kêu lên:

– Đao pháp hay lắm!

Rồi bay tới bên phải, lại là một đạo sĩ mặc đạo bào màu hạnh hoàng. Huyết đao lão tổ kêu lên:

– Kiếm pháp của ngươi cũng hay lấm!

Ngươi bên trái quát:

– Buông con gái ta ra!

Trong kiếm có chưởng lực, trong chưởng có thế kiếm, hai luồng kình lực cùng ập đến.

Địch Vân đứng xa xa nhìn, thấy Huyết đao lão tổ lại bắt được Thủy Sinh, rồi lại bị hai người giáp công từ hai bên trái phải. Người bên trái mái tóc trắng như bạc, tướng mạo tuấn nhã luôn miệng quát: “Buông con gái ta ra”, đúng là phụ thân của Thủy Sinh. Chỉ thấy Huyết đao lão tổ tiếp của ông ta một kiếm thân hình lại lảo đảo, có vẻ như nội lực không bẳng, lại thấy trên đường núi phía Tây có một người xông tới, thân hình nhanh như gió, rõ ràng cũng là một cao thủ. Địch Vân nghĩ bụng: “Hai người nữa đuổi tới, bốn người vây đánh, Huyết đao lão tổ chắc chắn không địch nổi, không chết cũng bị thương, mình vẫn còn kịp chạy trốn!” Nhưng ý nghĩ lại xoay chuyển: “Nếu không có lão ra tay cứu giúp thì mình đã sớm chết dưới kiếm của Uông Khiếu Phong. Vong ân phụ nghĩa chỉ biết lấy mình, thì quá đê tiện vô sỉ.” Bèn gò ngựa đứng chờ.

Bỗng nghe thấy Huyết đao lão tổ kêu lên:

– Trả con gái của ngươi cho ngươi đấy!

Lão vung tay ném Thủy Sinh vút qua trên đầu Thủy Đại bay về phía Địch Vân.

Tất cả đều ngoài ý nghĩ của mọi người, Thủy Sinh thân thể bay trên không, kêu thất thanh, mọi người không hẹn mà cùng bật tiếng kêu kinh hãi.

Địch Vân thấy Thủy Sinh bay về phía mình thế mạnh và gấp, nếu không đón lấy tất rơi xuống đất bị thương vội giang hai tay ôm lấy. Cú ném này rất mạnh, may mà Địch Vân ngồi trên mình ngựa, phần nhiều sức nặng đặt lên ngựa. Khi ném Thủy Sinh, Huyết đao lão tổ đã điểm huyệt cô nên cô không còn sức phản kháng, chỉ có thể kêu lên:

– Tiểu hòa thượng, buông ta ra!

Huyết đao lão tổ chém gấp hai đao về phía Thủy Đại rồi lại chém mạnh hai đao về phía ông già kia, chỉ công không thủ, chiêu số cực kỳ lợi hại. Lão kêu lên:

– Địch Vân cháu ngoan, trốn mau, chạy trốn mau, đừng đợi ta.

Địch Vân hoang mang, không biết đặt chân tay vào đâu, không biết phải làm sao, thấy Uông Khiếu Phong và mấy người nữa lăm lăm binh khí hô to:

– Giết tiểu dâm tăng.

Và nhanh chân chạy tới, mà Huyết đao lão tổ lại luôn miệng thúc giục: “Trốn đi mau! trốn đi mau!” Bèn giật giây cương, thúc ngựa chạy. Địch Vân và Huyết đao lão tổ vốn chạy về hướng đông, lúc này vội vội vàng vàng lại chạy về hướng tây.

Huyết đao lão tổ sử thanh huyết đao càng lúc càng nhanh, từng luồng từng luồng bóng đỏ che lấy toàn thân, cười nói:

– Ta phải theo bầu bạn với con gái xinh đẹp của ngươi, không bầu bạn với lão già như ngươi đâu.

Hai chân thúc vào hông ngựa, con ngựa lao đi.

Thủy Đại vội cứu con gái, không muốn dây dưa với lão, thi triển khinh công “đăng bình độ thủy” (đạp bèo qua sông), thân hình như bay trên mặt nước, đuổi nhanh về phía Địch Vân. Nhưng con ngựa mà Địch Vân cưỡi lại chính là ngựa tốt xứ Đại Uyển mà Thủy Đại đã phải mua đến năm trăm lạng bạc, chạy cực nhanh, ngoài con bạch mã mà Huyết đao lão tổ đang cưỡi ra, trên đời hiếm ngựa nào sánh nổi. Con hoàng mã tuy lưng cõng hai người nhưng Thủy Đại vẫn không thể đuổi kịp. Thủy Đại gọi lớn:

– Dừng lại, dừng lại!

Con ngựa quen nghe tiếng của ông nhưng Địch Vân đang kéo mạnh dây cương nên không thể dừng lại được. Thủy Đại kêu:

– Tiểu ác tăng, ngươi còn không dừng ngựa, ta chém ngươi thành mười tám khúc!

Thủy Sinh kêu gào:

– Gia gia, gia gia!

Thủy Đại lòng đau như dao cắt kêu gọi:

– Con đừng sợ.

Chốc lát, một người đuổi theo một ngựa đã hơn một dặm, Thủy Đại tuy rất giỏi khinh công nhưng sau một lúc, tuổi lại đã già, không còn dai sức nữa nên khoảng cách với ngựa vàng càng lúc càng xa. Bỗng nghe “vù” một tiếng, huyết đao đến sau lưng như gió. Ông quay kiếm lại chặn nhát đao của Huyết đao lão tổ, một trận gió vút qua bên mình, Huyết đao lão tổ ha ha cười lớn, phóng bạch mã đuổi theo Địch Vân.

* * *

Huyết đao lão tổ và Địch Vân lao nhanh, bỏ đám người đuổi theo lại sau xa. Thấy không còn ai đuổi kịp nữa, Huyết đao lão tổ sợ ngựa chạy mãi kiệt sức, mới gọi Địch Vân gò cương đi chậm lại. Huyết đao lão tổ luôn miệng khen Địch Vân có lương tâm, tuy thấy tình thế cực kỳ nguy cấp nhưng vẫn không bỏ trốn trước.

Địch Vân chỉ cười khổ sở, khi liếc nhìn Thủy Sinh thấy nét mặt cô trong vẻ sợ sệt vẫn có vẻ khinh bỉ, biết là cô căm hận mình cực độ, điều này đúng là không sao biện bạch nổi, lòng thầm nói: “Cô thích nghĩ sao thì cứ nghĩ vậy, muốn chửi tôi là dâm tăng ác tặc thì cứ chửi đi.”

Huyết đao lão tổ nói:

– Ê, con bé kia, võ công của cha ngươi rất khá, hi hi, nhưng tổ sư gia của ngươi lại hơn cha ngươi một bậc, y dùng hết sức từ khi còn bú mẹ, vẫn không ngăn cản được ta.

Thủy Sinh trừng mắt căm thù nhìn lão một cái, không nói một lời.

Huyết đao lão tổ lại hỏi:

– Lão đạo sử kiếm kia là ai? Là một người trong “Lạc Hoa Lưu Thủy” à?

Thủy Sinh đã có chủ ý, dù lão có hỏi gì cô cũng không thèm trả lời. Huyết đao lão tổ cười:

– Đồ tôn nhi, cái mà bọn con gái quý nhất là gì?

Địch Vân sợ nảy người, nghĩ bụng: “Ái chà, không xong rồi! Lão ác tăng này muốn xúc phạm sự thanh bạch của Thủy cô nương ư? Mình phải làm sao mới cứu được cô ấy?” Chỉ còn cách trả lời:

– Tôi không biết.

Huyết đao lão tổ nói:

– Bọn con gái quý nhất là bộ mặt. Con bé này không trả lời ta, ta lấy đao vạch trên mặt nó bảy nhát ngang, tám nhát dọc, chiêu này có tên là “hoành thất sổ bát”, ngươi bảo có đẹp không?

Nói rồi “soạt” một tiếng, rút thanh huyết đao bên hông ra cầm trên tay.

Thủy Sinh sớm đã liều chết, không có ý cầu may sống sót, nhưng nghĩ đến khuôn mặt xinh đẹp của mình phải bị lão ác tăng này xẻ bảy nhát ngang tám nhát dọc thì cũng không khỏi rợn gáy, lại nghĩ “nếu lão hủy hoại dung mạo của mình, biết đâu mình có thể giữ được thân thể thanh bạch mà chết, như thế cũng là có cái may trong cái rủi.”

Huyết đao lão tổ cầm huyết đao đưa qua đưa lại trên mặt cô, hách dịch nói:

– Ta hỏi ngươi lão đạo kia là ai, ngươi lại không trả lời, ta vạch một đao đây, ngươi có trả lời không?

Thủy Sinh tức giận nói:

– Phì! Ngươi mau giết cô nương đi!

Huyết đao lão tổ lướt tay phải xuống một nhát, bóng hồng vút qua, cắt xuống mặt cô một nhát.

Địch Vân khẽ “á” lên một tiếng, ngoảnh mặt đi không dám nhìn. Thủy Sinh đã ngất đi. Huyết đao lão tổ cười ha ha, thúc ngựa đi lên phía trước. Địch Vân không nhìn được quay đầu nhìn Thủy Sinh, thấy gương mặt mịn màng của cô không hề gì, bất giác trong lòng mừng rỡ, mới biết Huyết đao lão tổ đao pháp tinh xảo đã đạt đến độ “tùy tâm sở dục”, không sai một ly một lai nào. Nhát đao đưa qua, lưỡi đao lướt qua bên má Thủy Sinh chỉ hớt đi mấy sợi tóc mai, da dẻ hoàn toàn không bị tổn thương.

Thủy Sinh lơ mơ tỉnh lại, nước mắt trào ra, thấy nét cười của Địch Vân, càng tức giận, mảng:

– Ngươi… ngươi… ngươi, cái tên xấu xa hạnh tai lạc họa[2] này…

Cô vốn muốn dùng một câu ghê gớm nhất để mắng Địch Vân nhưng xưa nay chưa bao giờ nói lời thô tục nên nhất thời không nghĩ ra được một câu nào ác độc.

Huyết đao lão tổ lại vung huyết đao lên, quát:

– Ngươi không trả lời, nếm nhát thứ hai đây.

Thủy Sinh nghĩ đã một nhát rồi, bao nhiêu nhát nữa cũng vậy thôi, kêu lên:

– Ngươi mau giết ta đi, mau giết ta đi!

Huyết đao lão tổ cười nanh ác:

– Đâu có dễ dàng thế?

Một tiếng “xiu” khẽ vang lên, lưỡi đao lại lướt qua bên má Thủy Sinh.

Lần này Thủy Sinh không mất tri giác, chỉ cảm thấy bên má lạnh buốt, nhưng không cảm thấy đau, cũng không có máu, mới biết là lão ác tăng chỉ dọa, má mình vẫn không bị tổn thương, hơi mừng, thở phào một tiếng.

Huyết đao lão tổ nói với Địch Vân:

– Đồ tôn ngoan, hai nhát đao này của sư tổ thế nào?

Địch Vân nói:

– Đao pháp cực cao, thật tuyệt!

Hai câu này rõ ràng là nói rất thật lòng.

Huyết đao lão tổ nói:

– Ngươi có muốn học không?

Địch Vân động lòng: “Mình đang chưa nghĩ ra cách nào để bảo vệ sự thanh bạch của Thủy cô nương, nếu mình cứ quấn lấy lão hòa thượng đòi học võ, chỉ cần lão dụng tâm dạy mình, không còn thì giờ để nghĩ việc làm ác, mình sẽ nghĩ cách cứu cô ấy. Nhưng không làm lão vui lòng thì không được.” Bèn nói:

– Công phu này đồ tôn hâm mộ vô cùng. Ông dạy đồ tôn mấy chiêu, sau này gặp bọn tiểu bối như biểu ca của cô này thì không bị bọn nó bắt nạt nữa, cũng khỏi làm giảm uy phong của sư tổ.

Địch Vân vốn không biết nói dối, lúc này vì muốn cứu người, mấy tiếng “sư tổ gia gia” buột ra khỏi miệng, tự mình cũng thấy xấu hổ, mặt đỏ bừng.

Thủy Sinh “phì” một tiếng, mắng:

– Đồ mặt dày, không biết xấu hổ!

Huyết đao lão tổ rất vui mừng, cười nói:

– Công phu huyết đao này của ta, không phải một sớm một chiều mà học được. Được rồi, ta sẽ truyền cho ngươi chiêu “phê chỉ tước hủ” trước. Khi ngươi tập luyện, trước hết dùng một trăm trang giấy mỏng, dán thành một tập, đặt trên bàn, một nhát đao lia ngang qua lóc gọn một trang thứ nhất nhưng không được làm xây xát trang thứ hai, sau đó nhát thứ hai lại bóc gọn trang thứ hai mà không được đụng đến trang thứ ba, nhát thứ ba bóc gọn trang thứ ba… cứ thế cho đến hết một trăm trang.

Thủy Sinh dẫu sao vẫn còn tính trẻ con, không nhịn được nói xen vào:

– Khoác lác!

Huyết đao lão tổ cười nói:

– Ngươi bảo khoác lác, chúng ta thử xem.

Lão thò tay ra nhổ một sợi tốc trên đầu cô. Thủy Sinh thấy hơi đau, kêu lên:

– Lão làm gì thế?

Huyết đao lão tổ không thèm để ý, đặt sợi tóc trên đầu mũi cô ta, giật ngựa lao nhanh. Lúc ấy Thủy Sinh đang nằm co quắp trên mình ngựa, phía trước Địch Vân, thấy Huyết đao lão tổ đặt sợi tóc trên mũi mình cảm thấy nhột nhột, không biết lão làm trò quỷ quái gì, đang định thở hắt ra cho bay sợi tóc. Chỉ nghe Huyết đao lão tổ kêu:

– Không được nhúc nhích! Nhìn đây!

Lão giật ngựa quay đầu lao trở lại, hai ngựa giao nhau, vút ngang qua.

Thủy Sinh chỉ thấy hồng quang vụt qua trước mắt, đầu mũi hơi lạnh, rồi cảm thấy sợi tóc đặt trên đầu mũi đã không còn nữa. Nghe thấy Địch Vân kêu lên:

– Hay lắm, hay lắm!

Huyết đao lão tổ chìa huyết đao ra đã thấy sợi tóc nằm gọn gàng trên mũi đao. Huyết đao lão tổ và Địch Vân đều trọc đầu, sợi tốc dài mềm mại này tất nhiên là của Thủy Sinh, không thể giả mạo được.

Thủy Sinh vừa sợ vừa phục, nghĩ bụng:“Lão hòa thượng này võ công thật là cao cường, nhát đao mới rồi của lão nếu cao lên một chút thì sợi tóc không thể nằm gọn trên mũi đao, nếu thấp đi một chút thì cái đầu mũi của mình bị lão hớt đi rồi, lão tế ngựa vung đao cũng chưa khó bằng một phần trăm hớt gọn sợi tóc.”

Địch Vân muốn làm lão tổ vui lòng, tuôn ra những lời tán tụng, nhưng miệng lưỡi vốn vụng về, trở đi trở lại cũng chỉ được mấy câu kiểu “Đao pháp giỏi quá!”, “Đồ tôn xưa nay chưa từng thấy.” Thủy Sinh tận mắt thấy thần kỹ ấy lại nghe lời tán tụng của Địch Vân cũng cảm thấy không đến nỗi quá đáng, chỉ cảm thấy tên này lấy lòng sư tổ đến mức ấy thì nhân cách quá chừng ti bỉ.

Huyết đao lão tổ giong cương, sánh vai phi ngựa với Địch Vân, nói:

– Còn “tước hủ” ấy à, là đặt một miếng đậu phụ trên một tấm ván, cứ từng đao từng đao lia ngang, thái mỏng nó ra, chia miếng đậu phụ thành hai mươi lát, mỗi lát chỉ dày hai thốn, mà cả miếng đậu phụ không hề bị sứt mẻ. Chiêu “phê chỉ tước hủ” này chỉ mới là sơ bộ thôi.

Địch Vân nói:

– Thế mà chỉ mới là sơ bộ à?

Huyết đao lão tổ nói:

– Đương nhiên! Ngươi cứ nghĩ xem, đứng yên mà thái đậu phụ khó hay là phóng ngựa vút qua hớt lấy sợi tóc trên mũi con nhãi này khó? Ha ha, ha ha!

Địch Vân lại cung kính nói:

– Sư tổ có bản lĩnh trời cho, người thường không thể theo kịp, đồ tôn chỉ cần luyện được một phần mười cũng đã mãn nguyện lắm rồi!

Huyết đao lão tổ lại ha ha cười lớn.

Thủy Sinh thì mắng:

– Đồ rác rưởi đê tiện!

Một người thật thà như Địch Vân nói những lời trơn tru giảo hoạt quả là chẳng dễ dàng gì, nhưng khi đã nói được một câu nịnh bợ đầu tiên rồi thì có nói nhiều nữa cũng cứ thế mà tuôn ra. Được cái là Huyết đao lão tổ quả thực võ công hơn người, nên những lời tán dương của Địch Vân cũng không đến nỗi láo toét, chỉ có điều cứ theo bản tính của Địch Vân thì quyết không thể nói những lời như thế.

Huyết đao lão tổ nói:

– Ngươi tư chất cũng không đến nỗi kém, chỉ cần chịu khổ công thì cũng học được công phu này. Được, ngươi thử một chút xem!

Nói rồi giơ tay nhổ một sợi tóc nữa của Thủy Sinh, đặt trên đầu mũi cô. Thủy Sinh sợ hãi, thổi sợi tóc bay đi, kêu lên:

– Tiểu hòa thượng này không xong đâu, sao lại để hắn thử lung tung?

Huyết đao lão tổ nói:

– Công phu không luyện thì không thành được, một lần chưa thành thì làm lần nữa, hai lần chưa thành thì luyện mười lần!

Nói rồi lại nhổ một sợi tóc nữa đặt lên đầu mũi cô, trao huyết đao cho Địch Vân cười nói:

– Ngươi thử thử xem!

Địch Vân nhận lấy huyết đao, nhìn Thủy Sinh đang nầm ngang trước mặt mình một cái, thấy mặt cô đầy vẻ căm hờn phẫn nộ nhưng trong ánh mắt lại lộ vẻ sợ hãi khủng khiếp.

Cô ta biết Địch Vân chưa hề luyện môn đao pháp này, nếu làm theo cách của Huyết đao lão tổ, hoa lưỡi đao sắc bén này trên đầu mũi của mình, đừng nói mũi bị gọt mất mà cả cái đầu e cũng bị bửa làm đôi. Trong lòng cô tự an ủi: “Như thế cũng tốt, chết dưới lưỡi đao của tên tiểu ác tăng này còn hơn bị hai tên này làm nhục.” Tuy vậy, nghĩ đến việc phải chết thật cũng không khỏi sợ hãi.

Địch Vân tất nhiên không dám mạo hiểm, hỏi:

– Sư tổ gia gia, nhát đao này chém ra sức tay cần phải như thế nào?

Huyết đao lão tổ nói:

– Sức từ bên hông vận lên vai, vai thông với cánh tay, cánh tay không cần ra sức, cổ tay phải nhẹ nhàng.

Tiếp đó, lão giải thích kỹ cho Địch Vân phương pháp vận kình sử lực, thế nào là “vô kình thắng hữu kinh”, “vô lực tức hữu lực”. Thủy Sinh nghe lão giải thích những đạo lý võ học cao thâm, bất giác cũng thầm gật đầu.

Địch Vân nghe cứ gật đầu lia lịa, rồi buồn bã nói:

– Chỉ đáng tiếc là đồ tôn bị người ta hãm hại, xuyên thủng xương bả vai, cắt gân tay không thể sử lực được nữa.

Huyết đao lão tổ hỏi:

– Vì sao mà bị xuyên xương bả vai? Cắt gân tay?

Địch Vân nói:

– Đồ tôn bị người ta bắt giam, chịu quá nhiều đau khổ.

Huyết đao lão tổ cười khà khà, sóng ngựa đi với Địch Vân, bảo cởi áo để lộ phần vai thấy quả là xương vai Địch Vân bị hõm xuống hai bên xương bả vai đều có lỗ hổng do dây sắt xâu qua, vết sẹo còn chưa liền, còn ngón ở bàn tay phải thì bị chặt cụt, gân tay bị cắt, về võ học mà nói có thể coi là một phế nhân, còn như việc Địch Vân bị “Linh kiếm song hiệp” cho ngựa đạp gãy chân thì chưa kể. Huyết đao lão tổ chỉ nhìn mà cười. Địch Vân nghĩ bụng: “Ta bị tổn thương thê thảm như thế mà lão lại cười.”

Huyết đao lão tổ cười nói:

– Ngươi làm hại bao nhiêu khuê nữ nhà người ta? Hi hi, thằng lỏi này chỉ hiếu sắc tham hoa, không kể đến hình hài, nên mới sa cơ thất thế như vậy, phải không?

Địch Vân nói:

– Không phải.

Huyết đao lão tổ vẫn cười, nói:

– Khai thực ra đi! Ngươi bị người ta bắt, tống giam, có phải là bị lụy vì đàn bà?

Địch Vân ngơ ngác, nghĩ bụng: “Mình bị tiểu thiếp của Vạn Chấn Sơn hãm hại, vu mình trộm cắp, quả nhiên là bị lụy vì đàn bà”, nghiến răng hậm hực nói:

– Không sai, tiện nhân ấy hại đồ tôn đến khổ, thế nào cũng có ngày phải báo thù.

Thủy Sinh không nhịn được, mắng xen vào:

– Ngươi làm nhiều việc xấu, còn bảo người ta làm lụy ngươi. Bọn người vô sỉ trên đời này, tiểu… tiểu hòa… thượng ngươi là đứng đầu.

Huyết đao lão tổ cười, nói:

– Ngươi muốn mảng nó là “tiểu dâm tăng” nhưng có điều chữ “dâm” không tiện nói ra, phải không? Con bé này thật to gan lớn mật, hài nhi, hãy lột sạch y phục của nó, cho trần như nhộng ấy, chúng ta sẽ “dâm” cho nó xem xem, xem nó có dám mắng chửi người ta nữa hay không?

Địch Vân chỉ ậm ừ.

Thủy Sinh nổi giận, mắng:

– Tiểu tặc, ngươi dám?

Lúc này cô ta không thể nhúc nhích được, Địch Vân nếu là hạng người khinh bạc, làm theo lời Huyết đao lão tổ thì cô cũng chẳng biết làm sao. Hai tiếng “ngươi dám?” chỉ là tiếng kêu vô nghĩa khi không biết làm sao được mà thôi.

Địch Vân thấy Huyết đao lão tổ láo liên con mắt cười dâm đãng, ánh mất cứ dán vào người Thủy Sinh, rõ ràng là có ý đồ xấu xa, thầm toan tính: “Làm thế nào mới di chuyển được ý nghĩ của lão để lão khỏi thực hiện ý đồ xâm phạm Thủy cô nương?” Bèn hỏi:

– Sư tổ gia gia, tàn phế như đồ tôn còn có thể luyện võ công được không?

Huyết đao lão tổ nói:

– Có gì là không được? Dù hai chân hai tay có bị chặt đứt cũng có thể luyện được công phu “huyết đao môn” của ta.

Địch Vân kêu lên:

– Nếu thế thì hay lắm!

Tiếng kêu này thực sự là niềm vui chân thành.

* * *

Hai người vừa nói chuyện vừa giong cương đi nước kiệu, không lâu sau đã gặp một con đường lớn.

Bỗng nghe thấy tiếng thanh la “phèng phèng” hòa với tiếng tơ trúc cùng tấu nhạc, có một đám người rước dâu đang đi tới, khoảng bốn năm chục người, bao quanh một cái kiệu hoa. Sau kiệu là một người mặc áo đỏ, màu sắc tươi sáng, cưỡi một con ngựa trắng, đó là chú rể.

Địch Vân vỗ vào đầu ngựa, né sang một bên nhường đường, trong lòng lo lẳng, sợ những người này nhìn ra chân tướng của mình. Huyết đao lão tổ thì lại phóng ngựa xông tới. Đám người kia lớn tiếng quát tháo:

– Ê, ê, lui ra, làm cái gì thế?

– Hòa thượng thối tha này, người ta đang làm đám cưới, ngươi còn không tránh ra à?

Huyết đao lão tổ xông vào đám rước dâu, còn cách hai trượng thì dừng ngựa, hai tay chống nạnh cười nói:

– Ê, cô dâu thế nào, có đẹp không?

Trong đám rước dâu có một đại hán rút từ trong kiệu hoa ra một đòn khiêng kiệu rẽ cả đám ra, vượt lên, hùng hổ quát:

– Con chó trọc, ngươi dám gây rối à?

Cây đòn khiêng kiệu này to hơn bắp tay, dài khoảng một trượng, hai tay anh ta cầm ngang, trông rất uy phong.

Huyết đao lão tổ cười, nói với Địch Vân:

– Ngươi xem cho rõ nhé, đây lại là một lộ công phu nữa.

Thân người lão vươn về phía trước, huyết đao rung rung, lưỡi đao như một con rắn đỏ, nhanh chóng chĩa vào cây đòn khiêng kiệu, rồi lão lại tra đao vào vỏ, cười ha hả.

Trong đám rước dâu có người quát mắng:

– Lão giặc trọc, ngươi mù à? Muốn hóa duyên cũng không biết chọn giờ.

Tiếng mắng chưa dứt, đại hán cầm đòn khiêng đã “ái dà” một tiếng, kêu thất thanh. Chỉ nghe thấy tiếng “phách, phách, phách, phách” liên tiếp từng khối từng khối gỗ dài hai tấc rơi xuống đất, trên tay người ấy cũng chỉ còn hai khối gỗ mỗi khối vài tấc. Thì ra chỉ trong chớp mất chiếc đòn khiêng dài hơn một trượng đã bị huyết đao chặt thành mấy chục đoạn.

Huyết đao lão tổ ha ha cười lớn, huyết đao đã ra khỏi vỏ, chém thẳng một nhát lia ngang một nhát, đại hán kia bị cắt làm bốn mảnh. Lão quát:

– Ta muốn xem mặt cô dâu, cho các ngươi biết mặt, có gì mà phải kinh ngạc.

Mọi người thấy lão ngang nhiên hành hung trên đường lớn ngay giữa thanh thiên bạch nhật, ai cũng sợ đến hồn xiêu phách lạc. Người to gan hơn một chút thì lên tiếng kêu gào chạy tứ tán, quá nửa thì chân tay bủn rủn, có người vãi cả ra quần không dám nhúc nhích.

Lão lia một nhát huyết đao đã cắt luôn tấm rèm che kiệu hoa, tay trái chộp lấy ngực cô dâu lôi ra. Cô dâu kia kêu lên the thé, ra sức vùng vẫy. Huyết đao lão tổ hoa đao một cái hớt gọn tấm khăn che mặt cô dâu, lộ ra khuôn mặt kinh hoàng thất sắc của một cô bé mới mười sáu mười bảy tuổi. Huyết đao tăng “phì” một tiếng, nhổ một bãi đờm lên người cô ta, nối:

– Con gái xấu như ma làm thế này mà làm cô dâu cái nỗi gì!

Huyết đao lia nhẹ, cắt luôn cái mũi của cô dâu.

Chú rể ngồi chết cứng trên ngựa run cầm cập. Huyết đao lão tổ kêu lên:

– Hài nhi, lại xem một lộ công phu của ta, cái này gọi là “ẩn tâm lịch huyết!”

Nói rồi vung tay một cái huyết đao bay khỏi tay một đạo hồng quang phóng vút đi trúng ngay vào chú rể đang ngồi trên ngựa. Huyết đao vừa rời tay lão đã phóng ngựa vút đi, ngựa chạy nhanh vòng qua chú rể, lão phi thân nhảy tới, cánh tay dài đưa ra, đã cầm lại huyết đao trong tay, lại ngồi vững trên yên ngựa, ngực của chú rể bị thủng một lỗ, máu phun ra như suối, thân hình lảo đảo rủ xuống, ngã ngựa. Thì ra lưỡi đao đã bay xuyên qua thân hình chú rể và Huyết đao tăng đã đón lấy đao trong tay.

Địch Vân thấy hết trò biểu diễn của Huyết đao tăng trên đường, một là trong lòng sợ hãi, hai là lão đã cứu mạng, có ơn với mình nên không khỏi cảm kích nhưng đến lúc này thấy lão cắt mũi cô dâu lại giết liền hai người, ba người này lão không hề quen biết mà lão lại ra tay độc ác như thế, Địch Vân bừng bừng nổi giận, lớn tiếng kêu lên:

– Sao… sao… sao lại giết người vô tội như thế? Những người này có làm gì lão đâu!

Huyết đao lão tổ hơi ngớ ra, rồi cười nói:

– Ta bình sinh thích giết người vô tội. Nếu có tội mới giết thì trên đời đâu nhiều kẻ có tội đến thê?

Nói đến đó lại vung đao lên, lại chém đứt đầu một người trong đội rước dâu. Địch Vân cả giận vỗ ngực xông lên, thét lớn:

– Không được giết người nữa!

Huyết đao lão tổ cười nói:

– Thằng lỏi này, thấy máu chảy thì sợ, phải không? Thế thì ngươi được cái đếch gì?

Đúng lúc ấy bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa, mười mấy người từ xa đuổi tới. Có người dài giọng kêu:

– Huyết đao tăng, ngươi buông con gái ta ra, chúng ta xí xóa, nếu không ngươi chạy đến chân trời ta cũng đuổi đến tận chân trời.

Nghe ra tiếng vó ngựa còn xa nhưng tiến kêu gọi của Thủy Đại nghe rõ từng chữ. Thủy Sinh vui mừng nói:

– Cha đến rồi!

Lại nghe thấy tiếng của cả bốn người cùng kêu gọi:

– Lạc Hoa Lưu Thủy hề – Lưu Thủy Lạc Hoa! Lạc Hoa Lưu Thủy hề – Thủy Lưu Hoa Lạc.

Giọng của bốn người đều có vẻ riêng, hoặc già lão, hoặc hùng tráng, hoặc du dương, hoặc cao vọi nhưng đều có nội lực thâm hậu sung mãn.

Huyết đao tăng cau mày, chửi:

– Lũ cẩu tặc Trung Nguyên, con nào cũng thối!

Nghe Thủy Đại lại nói:

– Võ công ngươi có cao cường đến mấy cũng khó địch nổi “Nam tứ kỳ” Lạc Hoa Lưu Thủy chúng ta liên thủ tấn công. Người thả con gái ta ra, đại trượng phu lời nói ra nặng như núi, không đuổi ngươi nữa.

Huyết đao tăng trầm tư suy nghĩ: “Mình mới biết công phu của Thủy Đại và lão đạo sĩ, một chọi một mình chẳng sợ gì. Hai người liên thủ thì mình khả năng thua nhiều thắng ít, không trốn không xong. Ba người họ liên thủ thì mình đại bại, chỉ e không kịp bỏ chạy. Bốn người liên thủ đánh mình, Huyết đao lão tổ này chết không có đất chôn. Hi hi, bọn người trong chốn giang hồ Trung Nguyên, lời nói có đáng tin cái rắm chó gì? Bắt con bé này làm con tin còn có chỗ trên tay, chứ thả nó đi thì chúng nó chiếm hết thượng phong!” Thế là lão rung voi đánh vút một tiếng, quất con ngựa Địch Vân đang cưỡi, giật cương con ngựa bạch, phóng về hướng tây, vừa ra sức phóng ngựa lão vừa quay đầu lại dài giọng kêu:

– Bố già họ Thủy, hai hòa thượng của “huyết đao môn” đều đã làm con rể của ông rồi. Chưởng môn đời thứ tư là con rể của ông, đệ tử đời thứ sáu cũng là con rể của ông. Bố vợ đuổi con rể, nước dãi chảy ròng ròng, hay quá, tuyệt quá!

Thủy Đại nghe nói vậy, tức giận muốn nổ tung lồng ngực. Ông vốn biết bọn ác tăng “huyết đao môn” là những kẻ gian dâm, giết người đốt nhà, không việc ác nào là không làm, hai thầy trò cùng làm nhục con gái mình, ở huyết đao môn đây là việc rất bình thường. Đừng nói là thật có việc ấy, chỉ cần mấy câu của Huyết đao tăng cũng đủ khiến cho người trên giang hồ đồn đại bằng những lời ô uế. Một lão anh hùng xưng bá Trung Nguyên mấy chục năm, ngày nay lại bị sỉ nhục đến thế, nếu không bắt thầy trò huyết đao môn chém thành vạn mảnh thì sao có thể làm người được nữa? Thủy Đại giục ngựa ra sức đuổi.

* * *

Lúc này cùng Thủy Đại truy đuổi ác tăng, ngoài ba người họ Lục, họ Hoa, họ Lưu trong nhóm “Nam tứ kỳ” ra, còn có hơn ba mươi hảo thủ Trung Nguyên, người thì làm bổ đầu tiêu khách, người thì võ sư nổi danh, hoặc là ẩn sĩ võ lâm, người thì thủ lĩnh bang hội. Bọn ác tăng của huyết đao môn gần đây đã gây nhiều vụ án tày trời ở vùng Hồ – Quảng, đắc tội với tất cả các nhân vật bạch đạo và hắc đạo. Quần hào võ lâm đều công phẫn, sau khi nghe tin, họ đều gia nhập đội ngũ truy đuổi, đều cảm thấy đây không chỉ là giúp Thủy Đại giành lại con gái mà thôi. Nếu không giết được hai tên ác tăng này của “huyết đao môn” thì võ lâm Trung Nguyên đều mất mặt.

Trên đường truy đuổi, quần hào đến châu huyện chợ búa nào cũng đều đổi ngựa. Chỉ đổi ngựa không đổi người, trên lưng ngựa ăn lương khô, uống nước lã, cứ liên tục đuổi gấp.

Huyết đao lão tổ tuy ra vẻ nhàn hạ, ỷ vào tuấn mã, gặp quán trà tiệm cơm thường vẫn nghỉ ngơi nhưng không dám nghỉ lại qua đêm. Cũng vì quần hào đuổi quá gấp nên trong suốt mấy ngày bị bắt Thủy Sinh vẫn giữ được sự thanh bạch.

Cứ như thế mấy ngày lại trôi qua, đã từ Hồ Bắc đuổi tới địa giới Tứ Xuyên. Quần hào Lưỡng Hồ và các nhân vật giang hồ vùng Ba Thục xưa nay thanh khí tương thông. Võ lâm vùng Xuyên Đông vừa nhận được tin đã hăng hái gia nhập đoàn quân truy đuổi. Đến vùng Du Châu, hào kiệt Xuyên Trung cũng không chịu kém, đều tham dự việc chung. Họ không có quan hệ thiết thân gì với việc này nhưng thấy đây là trận chỉ thắng không bại lại rất đông đảo, có dịp kết giao bằng hữu cũng là dịp để tỏ rõ tinh thần trọng nghĩa, nên ai nấy đều hăng hái tham gia. Quá Du Châu, đội ngũ truy đuổi đã đến hai ba trăm người. Võ lâm Tứ Xuyên nhiều người giàu có, dắt nhiều ngựa đi theo chuyên chở chăn áo lương thực. Có điều khi những người này nhận được tin tức thì Huyết đao lão tổ và Địch Vân, Thủy Sinh đã đi về phía Tây, chỉ có thể đuổi theo sau mà không kịp chặn đường.

Võ lâm Tây Thục sau khi hỏi han đều nói:

– Ầy, nếu sớm biết thì chúng tôi chặn đường không thể để cho hai tên dâm tăng đó chạy qua, chỉ cần cứu được Thủy tiểu thư thoát nạn.

Thủy Đại ngoài miệng cảm tạ nhưng trong lòng phẫn nộ: “Nói những lời thừa ấy thì có ích gì? Loại bị thịt các người mà có thể chặn được hai tên ác tăng đó sao?”

Kẻ trước người sau truy đuổi đã hai mươi ngày, Huyết đao lão tổ mấy phen chuyển đường đi vào các thung lũng để đánh lạc hướng. Nhưng trong quần hào truy đuổi có một người là tay trộm ngựa ở Quan Đông sành về cách theo dấu, dù Huyết đao lão tổ đi lòng vòng thế nào anh ta cũng có thể tìm ra dấu vết. Đoàn người càng đi, địa hình càng hoang vu, đã vào sâu vùng núi cao rừng thẳm ở Xuyên Tây. Quần hào đều biết Huyết đao tăng muốn chạy về sào huyệt ở Tây Tạng, về được hang ổ ấy, tăng chúng của “huyết đao môn” tất nhiên rất đông, lại thêm nhiều vây cánh, thế lực hùng hậu, lúc ấy có đánh với quần hào Trung Nguyên, có câu “rồng mạnh không đấu với rắn trong hang”, thắng bại thế nào khó mà nói được.

Lại qua hai ngày bỗng trời giáng một trận tuyết. Lúc này đã tới biên giới Tây Xuyên, đi tiếp về tây sẽ là vùng biên cương Tây Tạng. Vùng ấy nằm trong dãy núi Đại Tuyết Sơn (Himalaya), địa thế cao vút, hiểm trở, khấp nơi băng tuyết, vó ngựa trơn trượt, gió rét thấu xương, thôi thì khỏi phải nói. Khó chịu nhất là mọi người tim đập loạn khó thở, ngoài mấy người nội công đặc biệt cao còn những người khác đều cảm thấy mệt mỏi, chỉ muốn nằm ra mà nghỉ vài canh giờ.

Nhưng những người tham gia cuộc săn đuổi người nào cũng có danh vọng, không ai chịu tỏ ra yếu kém để khỏi mất danh tiếng một đời. Trong mấy ngày đó đại đa số đã thoái chí, nếu có người xướng lên rằng không săn đuổi nữa thì có lẽ quá nửa sẽ quay về, nhất là đám hào kiệt Xuyên Đông, Xuyên Tây phần nhiều là gia đình giàu có quen sống sung sướng, võ công tuy không kém nhưng không quen chịu khổ. Có người thấy địa thế hiếm ác, trong lòng khiếp sợ dần tụt lại phía sau, cũng có người nhân lúc không ai thấy lặng lẽ rút lui.

Một buổi trưa, quần hào đuổi đến một sườn núi bỗng thấy một con ngựa vàng nẳm chết trong đống tuyết bên đường, chính là con ngựa của Uông Khiếu Phong. Thủy Đại và Uông Khiếu Phong cả mừng, cùng kêu lên:

– Ác tặc đã bị mất một con ngựa, chúng ta đuổi mau, dâm tăng chạy đâu cho thoát!

Quần hào phấn chấn tinh thần đều hoan hô.

Trong tiếng hoan hô, bỗng thấy trên đỉnh cao của dãy núi phía tây một mảng tuyết trắng rất lớn từ từ lăn xuống.

Một ông già người Xuyên Tây kêu lên:

– Không xong rồi, núi tuyết lở, mọi người lùi lại mau!

Lời chưa dứt, nghe nghe tiếng ầm ì như sấm, khối tuyết lớn lăn xuống mỗi lúc một nhanh. Quần hào nhất thời không rõ vì sao, mồm năm miệng mười bàn tán:

– Cái gì kia?

– Tuyết lở có quan trọng gì? Mọi người hãy đuổi mau.

– Mau mau! Qua ngọn núi này rồi hãy nói.

Chỉ chốc lát sau, tiếng sấm ì ầm đã biến thành tiếng ầm ầm như trời long đất lở điếc cả tai. Mọi người lúc đó mới cảm thấy sợ. Đống tuyết kia ban đầu rất xa, nhưng từ trên núi cao lăn xuống, cuốn theo nhiều đống tuyết trên đường lăn, lại thêm rất nhiều tảng đá lớn cũng bị lăn theo, thanh thế càng ngày càng lớn, đến lưng chừng núi thì giống như tất cả các ngọn núi đều vỡ, sầm sập đổ xuống, thật là đáng sợ đáng khủng khiếp không sao tả xiết. Trong đám quần hào đó có một số người quay đầu ngựa chạy lui, những người khác nghe tiếng ầm ầm của núi lở đất rung cảm thấy như trời sập xuống trên đầu, đều ùa cả xuống, sợ vỡ tim vỡ mật, đều quay ngựa chạy. Có mấy con ngựa sợ quá, đứng đực ra, không chạy được, người ngồi trên ngựa thấy tình thế nguy ngập đành nhảy xuống, thi triển khinh công chạy thật nhanh.

Nhưng tuyết lở băng xuống nhanh hơn người chạy ngựa phi, khoảnh khắc đã lăn đến dưới núi, những người chậm chân một chút lập tức bị vùi lấp trong khối tuyết lớn như núi như biển, tiếng kêu cũng bị tuyết chôn vùi, dẫu võ công có cao đến đâu cũng chẳng thi triển được chút nào.

Quần hào chạy mãi đến một dốc núi, thấy khối tuyết đã bị dốc núi chặn lại, không cuồn cuộn tới nữa, mỗi người còn chạy thêm mấy chục trượng nữa mới lần lượt dừng bước. Chỉ thấy tuyết trắng như những quả núi lớn ầm ầm lăn xuống, như đê đột ngột vỡ toang, nhào xuống cuồn cuộn không dứt, trong chớp mắt đã nhấn chìm đường núi hang hốc, tất cả đều bị lấp kín dưới tuyết, cao đến mấy chục trượng, đất bằng bỗng nhô lên núi tuyết.

Mọi người ngơ ngác rất lâu mới nhao nhao bàn tán, đều cho rằng hai thầy trò Huyết đao tăng tội ác ngập trời, chôn thây dưới núi tuyết thật là đáng đời, ai nấy đều vui mừng, nhưng hai tên chết quá dễ dàng, cũng là quá may mắn cho chúng. Chỉ tiếc là liên lụy cả đến Thủy Sinh đẹp như hoa như ngọc, phải chết chung với hai tên ác tăng đó. Cũng có người thương tiếc bạn bè chết bất đắc kỳ tử. Nhưng thoát chết sau đại nạn ai cũng mừng, niềm vui vì may mắn của mình lớn hơn nỗi thương tiếc bạn bè đã mất.

Khi hơi trấn tĩnh lại, kiểm điểm nhân số thiếu mất mười hai người, trong đó có Uông Khiếu Phong, và bốn người “Nam tứ kỳ – Lạc Hoa Lưu Thủy”. Thủy Đại quan tâm đến con gái yêu quý, Uông Khiếu Phong gắn bó với bạn tình nên hăng hái không quản thân mình, tiến lên hàng đầu, còn “tam kỳ” vì có tình bạn đặc biệt với Thủy Đại, cũng không chịu lùi lại sau. Không ngờ trong đại nạn này, bốn vị “nam tứ kỳ” võ công tuyệt luân lừng danh thiên hạ lại cùng vùi thân trong núi tuyết nơi giao giới Xuyên – Tạng.

Mọi người than thở một hồi, rồi tìm đường xuống núi. Ai cũng nói, chưa đến mùa hạ sang năm, tuyết dày trăm trượng trên núi chưa tan, thân nhân của những người chết muốn đến thu nhặt hài cốt cũng phải đợi đến hơn nửa năm nữa mới đến được.

Có người trong lòng lại nghĩ, nhưng không tiện nói ra: “Nam tứ kỳ” và “Linh kiếm song hiệp” bao năm nay danh tiếng lẫy lừng, diệu võ dương uy, không coi ai ra gì, nay chết đi cũng được, chết đi càng hay.”

* * *

Huyết đao lão tổ dẫn Địch Vân và Thủy Sinh chạy mãi về phía tây, kẻ địch tuy càng ngày càng đông, nhưng lão càng ngày càng gần sào huyệt ở Tây Tạng. Có điều chạy ròng rã, lại thêm gió tuyết ngập trời, đường núi gập ghềnh, hai con tuấn mã tuy mạnh, cũng đã không chịu đựng nổi. Một hôm con ngựa vàng đã chết nằm lại bên đường, ngựa trắng cũng kiệt sức, xem ra sắp đi theo ngựa vàng.

Huyết đao lão tổ lông mày nhăn tít, nghĩ bụng: “Một mình mình muốn chạy thoát thân thì cực dễ, có điều đồ tôn thì què chân, đi không được, lại để con bé xinh đẹp này bị người ta đoạt lại mất thì cũng tiếc.” Lão nghĩ đến đó đột nhiên tính hung ác nổi lên, quay người lại, ôm chặt lấy Thủy Sinh, định xé áo của cô.

Thủy Sinh hốt hoảng kêu lớn:

– Ngươi… ngươi làm gì thế?

Huyết đao lão tổ quát:

– Bố mày không mang mày theo nữa, mày còn không rõ sao?

Địch Vân kêu lên:

– Sư tổ, kẻ địch đuổi đến rồi!

Huyết đao lão tổ tức giận nói:

– Ngươi la lối cái gì?

Đang lúc nôn nóng như thế, bỗng nghe trên đầu tiếng “ùng ục, răng rắc” những âm thanh lạ, ngẩng đầu nhìn, tuyết đọng trên đỉnh núi đang âm ầm lăn xuống.

Huyết đao tăng sống nhiều năm ở Tạng biên, nhiều lần thấy đại nạn tuyết lở, dẫu lão có hung bạo cuồng dâm gấp mười cũng không dám đối địch với thiên tai khủng khiếp này, bèn hô liền mấy tiếng:

– Chạy mau, chạy mau!

Đưa mắt nhìn, chỉ có một hang núi ở mé nam, cách một ngọn núi, may ra có thể không nằm trên đường tuyết lở lăn xuống. Thế là, trong tình thế nguy cấp, không kịp suy nghĩ, một tay kéo ngựa trắng, co giò chạy về cái hang ở phía nam. Dẫu lão vô pháp vô thiên thì lúc này mặt cũng tái ngoét. Trên đỉnh núi cạnh sơn cốc cũng có tuyết đọng dày. Tuyết trên cao không chịu nổi những tiếng động lớn, thường thường có một chỗ tuyết lở kéo theo tuyết đọng ở những đỉnh núi xung quanh cũng băng lở.

Huyết đao lão tổ triển khai khinh công chạy nhanh. Bạch mã cõng Địch Vân và Thủy Sinh cũng khập khiễng chạy đến sơn cốc. Lúc ấy tiếng tuyết lở ầm ầm, Huyết đao lão tổ nhìn đỉnh núi gần đó lộ vẻ lo lắng, chỉ còn biết nghe trời theo mệnh, không còn biết làm sao nữa. Chỉ cần tuyết đọng trên đỉnh núi gần đó cũng băng lở ập xuống thì mọi sự đều thôi.

Tuyết lở, từ khi bắt đầu đến khi hoàn toàn kết thúc cũng chỉ bằng thời gian uống cạn một chén trà, nhưng trong thời gian ngắn ngủi ấy, ba người Huyết đao tăng, Địch Vân và Thủy Sinh mặt đều tái nhợt, nhìn nhau, ánh mắt lộ vẻ cực kỳ sợ hãi. Thủy Sinh quên rằng một khoảnh khắc trước chỉ mong chết ngay lập tức để khỏi phải bị ô nhục bởi hai tên ác tăng, nhưng trong lúc trời nghiêng đất lở này bỗng cảm thấy hai kẻ kia lại là nơi nương tựa, chỉ mong hai người đàn ông ấy có cách gì giúp mình thoát khỏi tai nạn.

Bỗng, trên đỉnh núi có một khối đá ầm ầm lăn xuống. Thủy Sinh sợ đến nhảy lên, kêu thất thanh.

Huyết đao tăng đưa tay trái ra bịt lấy miệng cô, tay phải tát cô hai bạt tai “bốp bốp”, hai má Thủy Sinh lập tức đỏ tấy lên.

May mà ngọn núi này quay về phía nam được ánh mặt trời, tuyết đọng không dày lắm, sau khi tảng đá nhào xuống không có vật gì lăn theo. Chốc lát, tiếng tuyết lở ầm ầm dần tắt. Huyết đao tăng buông bàn tay bịt miệng Thủy Sinh ra, cùng Địch Vân thở phào một hơi. Thủy Sinh hai tay bưng mặt, vừa buồn đau tức giận vừa sợ hãi.

Huyết đao tăng bước tới cửa hang, nhìn quanh một hồi, mặt đầy vẻ u uất tức giận, ngồi trên một phiến đá lặng lẽ. Địch Vân hỏi:

– Sư tổ gia gia, bên ngoài thế nào?

Huyết đao tăng tức giận nói:

– Thế nào? Đều là do tên tiểu tử nhà ngươi làm lụy đến người ta!

Địch Vân không dám hỏi nữa, biết tình thế thật khó khăn. Một lúc sau không nhịn được lại nói:

– Kẻ địch chặn mất cửa hang à? Sư tổ gia gia, ông đừng quan tâm đến đồ tôn, ông cứ một mình chạy đi.

Huyết đao tăng suốt đời ở với bọn người hung ác gian hiểm, không những bạn bè chẳng có ai đối xử thật lòng mà ngay đến cả bọn đệ tử ruột như Bảo Tượng, Thiện Dũng, Thắng Đế, ngoài mặt tỏ vẻ rất kính sợ sư phụ nhưng trong lòng lại luôn nuôi ý phản trắc chỉ tìm cách lợi mình hại người, lúc này nghe Địch Vân bảo lão chạy trốn một mình, bỗng cảm thấy trong lòng ấm áp, mặt thoáng nét cười, khen:

– Hài nhi ngoan, lương tâm của ngươi còn tốt! Không phải là kẻ địch chặn mất cửa hang mà là tuyết bịt kín, tuyết cao mấy chục trượng, rộng mấy ngàn trượng, chưa đến mùa xuân tuyết tan thì chúng ta không thể ra được. Trong cái hang trống trải này có cái gì để ăn đây? Chúng ta làm sao chịu đựng được đến mùa xuân sang năm?

Địch Vân nghe nói vậy cũng thấy tình thế hung hiểm, nhưng trước mắt điều quan trọng nhất là nguy cơ đã qua, lòng cảm thấy nhẹ nhàng hơn, nói:

– Ông cứ yên tâm, thuyền đến sẽ có cầu, dù có chết đói cũng còn hơn là chịu sự hành hạ trong tay những người kia mà chết.

Huyết đao tăng toét miệng cười, nói:

– Thằng cháu ngoan nói đúng lắm!

Lại đùa nghịch rút huyết đao ra, đứng dậy đi về phía bạch mã.

Thủy Sinh kinh hãi kêu lên:

– Ối, lão làm gì thế?

Huyết đao lão tổ cười nói:

– Ngươi thử đoán xem.

Kỳ thực Thủy Sinh đã biết, lão muốn giết ngựa trắng để ăn. Con ngựa trắng này và cô cùng lớn lên, từ trước đến nay như một người bạn thân thiết, vội kêu:

– Không, không! Đây là con ngựa của tôi, lão không được giết.

Huyết đao tăng nói:

– Ăn hết thịt ngựa, thì sẽ ăn thịt ngươi. Ta ăn cả thịt người, vì sao lại không ăn được thịt ngựa?

Thủy Sinh van xin:

– Xin ông, đừng hại con ngựa của tôi.

Chẳng biết làm sao được, lại quay đầu sang nói với Địch Vân:

– Nhờ ngươi xin với ông ấy, đừng giết con ngựa của ta.

Địch Vân nhìn dáng vẻ đáng thương của cô, trong lòng bất nhẫn, những nghĩ tình thế đã đến nỗi này chẳng lẽ lại không giết ngựa để ăn. Ăn hết thịt ngựa, e đến cả yên ngựa cũng phải hầm lên mà ăn. Địch Vân không muốn thấy nỗi đau lòng của Thủy Sinh, đành quay đầu đi.

Thủy Sinh lại nói:

– Xin ông, đừng giết ngựa của tôi.

Huyết đao tăng cười nói:

– Được, ta không giết ngựa của ngươi!

Thủy Sinh cả mừng nói:

– Cảm ơn ông, cảm ơn ông!

Bỗng nghe “soạt” một tiếng, trong tiếng cười điên cuồng của Huyết đao tăng, đầu ngựa đã rụng xuống, vòi máu tươi tuôn ra.

Thủy Sinh bao ngày ròng mệt mỏi, lúc này quá sợ hãi đau đớn, ngất xỉu luôn.

Đến khi mơ màng tỉnh dậy, ngửi thấy mùi thịt thơm, cô đói đã lâu, ngửi thấy mùi thịt cảm thấy mừng, nhưng thần trí dần dần hồi tỉnh lập tức biết con ngựa yêu quý của mình đã bị nướng. Mở mắt ra thấy Huyết đao tăng và Địch Vân ngồi trên tảng đá, trong tay mỗi người đều bưng một tảng thịt nướng vàng rộm, đang nhai ngồm ngoàm, bên tảng đá là một đống lửa, trên một thanh củi lớn còn treo một cái chân ngựa đang nướng dở. Thủy Sinh đau đớn khóc thất thanh.

Huyết đao lão tổ cười nói:

– Ngươi có ăn không?

Thủy Sinh khóc nói:

– Hai kẻ hung ác các ngươi, hại con ngựa của ta, ta… ta nhất định phải báo thù!

Địch Vân cảm thấy ái ngại, an ủi:

– Thủy cô nương, trong hang tuyết này không có cái gì ăn được, chúng ta không thể chết đói, muốn có ngựa tốt phải đợi sau này chúng ta được khỏi hang sẽ có cách kiếm được.

Thủy Sinh khóc nói:

– Tiểu ác tăng nhà ngươi cứ giả vờ làm người tử tế, so với lão ác tăng còn xấu xa hơn. Ta căm thù ngươi, ta căm thù ngươi đến chết.

Địch Vân không biết trả lời sao, nếu không ăn thịt ngựa thì thực sự là đói không chịu nổi, nghĩ bụng: “Cô có hận chết tôi, tôi cũng không thể không ăn.” Nghĩ thế rồi vẫn tiếp tục ăn thịt ngựa.

Huyết đao tăng miệng đầy thịt ngựa, liếc xéo sang Thủy Sinh, nhồm nhoàm nói:

– Mùi vị ngon đáo để, ngon ra phết. Ồi, mấy ngày nữa lại nướng con bé này mà ăn, chưa chắc đã thơm bằng thịt ngựa.

Lão lại nghĩ: “Chén hết con nhãi này, đành nướng thằng đồ tôn ngoan ngoãn này mà ăn thôi. Thằng nhóc này rất tốt, ăn đi cũng đáng tiếc. Ôi chào, để dành ăn nó cuối cùng cũng là may cho nó lắm rồi.”

Hai người ăn no thịt ngựa, lại bỏ thêm một ít cành khô vào đống lửa, rồi tựa vào tảng đá mà ngủ.

Trong mơ màng, Địch Vân nghe thấy tiếng khóc nghẹn ngào thút thít của Thủy Sinh, bỗng thấy tủi thân: “Cô ấy chết mất con ngựa mà cứ khóc hoài. Mình sống trên đời chẳng được một người nào quan tâm. Nếu mình chết, xem ra cũng chẳng bằng con ngựa này. Không biết có ai vì mình mà rơi một giọt nước mắt không?”

——————————————————

[1]       Thành ngữ. Ý nghĩa là: nhắc đến ai thì người ấy đến

[2]       Hạnh tai lạc họa: thành ngữ; có nghĩa là: vui sướng khỉ thấy người khác gặp tai họa

Hồi 07: Lạc Hoa Lưu Thủy

Ngủ đến nửa đêm, Địch Vân bỗng cảm thấy bị ai đó lay vai mình, liền tỉnh dậy, nghe Huyết đao tăng nói khẽ:

– Có người đến!

Địch Vân giật mình, nhưng liền vui mừng, nghĩ bụng: “Đã có người đến được đây thì chúng ta cũng có thể đi ra.” Rồi cũng hạ giọng hỏi:

– Ở đâu vậy?

Huyết đao tăng chỉ về mé tây, nói:

– Ngươi nằm im, kẻ địch công phu rất cao cường.

Địch Vân nghiêng tai nghe ngóng nhưng chẳng nghe thấy tiếng động nào.

Huyết đao tăng cầm đao trên tay, rùn người xuống, bỗng lao đi như mũi tên, lặng lẽ đi ra, bóng lão di động trên dốc núi rồi không thấy đâu nữa. Địch Vân cảm thấy khâm phục: “Võ công của lão này thật ghê gớm. Đinh đại ca nếu còn sống trên đời, tỉ đấu với lão, không biết ai cao ai thấp?” Nhớ đến Đinh Điển, lại đưa tay sờ trong bụng, gói tro hài cốt Đinh Điển vẫn nằm ngay ngắn ở đó.

Trong đêm yên tĩnh bỗng nghe thấy hai tiếng “choeng choeng” của binh khí đập vào nhau. Hai tiếng vang lên rồi lại im ắng.

Một lúc sau lại “choeng choeng” hai tiếng. Địch Vân đoán là Huyết đao tăng đánh lén không được, phải giao đấu với địch. Nghe tiếng binh khí, võ công kẻ địch có vẻ không kém gì lão.

Tiếp theo đó lại bốn tiếng “choeng choeng choeng choeng”, Thủy Sinh cũng đã tỉnh lại. Trong hang chỉ toàn tuyết trắng, ánh trăng như bạc chiếu trên tuyết trắng nên tuy giữa đêm khuya mà như đã bình minh. Thủy Sinh nhìn Địch Vân một cái, mấp máy môi muốn hỏi nhưng trong lòng vốn căm ghét, lại nghĩ e tên tiểu tặc này chưa chắc đã chịu trả lời, câu hỏi đã suýt buột ra miệng lại thôi.

Bỗng tiếng “choeng choeng” mỗi lúc một vang lên dồn dập. Địch Vân và Thủy Sinh cùng ngẩng đầu lên nhìn về phía tiếng động, dưới ánh trăng chỉ thấy hai bóng người đang xoắn lấy nhau.

Tiếng đao kiếm chạm nhau vang tới tận đông bắc. Đó là một vách đá cao vút, đang đầy tuyết rất khó leo lên. Nhưng hai người tay thì chiết chiêu, chân thì không hề dừng, ánh đao kiếm lấp loáng, hai người đã lên tới đỉnh vách đá.

Địch Vân chăm chú nhìn, thấy người đấu với Huyết đao tăng mình mặc đạo bào, tay cầm trường kiếm, chính là một trong bốn cao thủ “Lạc Hoa Lưu Thủy” không biết ông ta sau khi tuyết lở lấp hết đường núi làm cách nào mà xông vào được đây. Thủy Sinh cũng đã nhìn thấy đạo nhân kia, vui mừng buột miệng reo lên:

– Là Lưu bá bá, bác Lưu Thừa Phong đến rồi! Gia gia, gia gia! Con ở đây!

Địch Vân giật mình nghĩ: “Huyết đao lão tổ đấu với lão đạo kia xem ra nhất thời khó phân thắng bại. Cha của cô ấy nếu nghe tiếng đuổi tới, há chẳng lập tức giết mình sao?” Vội nói:

– Ấy, cô đừng kêu lớn thế, tuyết lại lở thì mọi người cùng mất mạng.

Thủy Sinh giận dữ nói:

– Ta muốn cùng chết với ác hòa thượng nhà ngươi.

Rồi lại lớn tiếng kêu gọi:

– Gia gia, gia gia, con ở đây!

Địch Vân quát:

– Tuyết lớn mà sập xuống thì cả cha cô cũng bị vùi luôn. Cô muốn hại chết cha cô à?

Thủy Sinh nghĩ hắn nói không sai lập tức im lặng, nhưng lập tức lại nghĩ:

– Gia gia ta bản lĩnh tới mức nào, tuyết vừa mới lở, người khác đều chạy trốn thoái lui. Bác Lưu Thừa Phong đã xông tới. Bác ấy đã đến được cha ta tất nhiên cũng đến được. Dù cho tuyết có lở nữa cùng lắm là đè chết ta, gia gia vẫn chẳng sao cả. Lão ác tăng kia ghê gớm như thế, nếu lão giết Lưu bá bá, ta muốn xin chết cũng không được.

Rồi lại kêu lớn:

– Gia gia, gia gia, con ở đây.

Địch Vân biết làm thế nào để ngăn cô ta lại, ngẩng đầu nhìn Huyết đao tăng, cuộc đấu giữa lão với Lưu Thừa Phong đang căng thẳng, Huyết đao tỏa ra một luồng bạch quang màu ánh đỏ, bay lượn trong tuyết trắng. Lưu Thừa Phong xuất kiếm chậm rãi, thế thủ rất chặt chẽ. Hai đại cao thủ giao tranh, rốt cuộc ai chiếm thượng phong, Địch Vân không thể nhận ra. Chỉ nghe tiếng Thủy Sinh không ngừng kêu gọi:

– Gia gia.

Kêu được mấy tiếng, lại đổi sang kêu:

– Biểu ca, biểu ca!

Địch Vân lòng phiền ý loạn, quát:

– Tiểu a đầu này, ngươi không im miệng đi, ta cắt lưỡi đấy!

Thủy Sinh nói:

– Ta cứ muốn gọi! Ta cứ muốn gọi!

Rồi lại lớn tiếng gọi:

– Gia gia, gia gia, con ở đây!

Nhưng sợ Địch Vân ra tay thật, đứng dậy, nhặt một hòn đá lớn phòng thân. Một lúc sau, thấy Địch Vân nằm trên đất không nhúc nhích, Thủy Sinh lại nghĩ: “Tên ác hòa thượng này đã bị mình và biểu ca cho ngựa đạp gãy chân, nếu không có lão hòa thượng kia ra tay cứu thì đã bị biểu ca cho một nhát kiếm xong đời. Hắn đi lại không được ta việc gì phải sợ hắn.” Rồi lại nghĩ:

– Mình thật là xuẩn! Lão tăng kia phân thân chẳng được, sao mình không giết quách tên tiểu ác tăng này?

Bèn vung hòn đá lên, chạy tới mấy bước, ra sức ném vào đầu Địch Vân.

Địch Vân không có cách gì chống đỡ, đành lăn một vòng, “bình” một tiếng, hòn đá sượt qua bên mặt, đánh vào đống tuyết. Thủy Sinh ném một lần không trúng lại cúi nhặt một viên đá khác ném vào Địch Vân, lần này lại ném vào bụng. Địch Vân co người, nhưng chân gãy co duỗi không linh hoạt “cách” một tiếng, ném trúng giò, đau đớn kêu lên thảm thiết.

Thủy Sinh cả mừng, nhặt viên đá khác lại định ném. Địch Vân thấy mình đã thành miếng thịt trên thớt mặc cho người ta giết mổ, bị cô ta ném liên tiếp bảy tám viên đá thì mạng đâu còn. Bèn cũng nhặt một viên đá, thét lên:

– Ngươi còn ném nữa thì ta ném ngươi chết trước.

Thấy cô ta lại ném một viên đá tới, bèn lăn mình tránh, gắng sức ném hòn đá vào đầu cô ta.

Thủy Sinh nhảy sang bên trái tránh, hòn đá sượt qua bên tai, làm rách da tai, sợ hãi nhảy lên. Cô không dám ném đá nữa, quay mình nhặt một cành cây, sử một chiêu “thuận thủy thôi chu” nhằm vào vai Địch Vân đâm tới. Kiếm pháp của cô có gia học uyên nguyên, rất cao minh, trong tay tuy chỉ là một cành cây, nhưng một nhát đâm tới khí thế rất linh động. Địch Vân dù có còn lành lặn thì về kiếm pháp cũng không phải là đối thủ của cô ta, thấy cành cây đâm tới bèn nghiêng vai tránh, đường kiếm của Thủy Sinh đã đối hướng “chát” một tiếng đánh mạnh vào trán Địch Vân.

Với nhát này, nếu trong tay là kiếm thật, thì đã lấy mạng Địch Vân ngay. Nhưng dù chỉ là một cành cây Địch Vân cũng đau nảy đom đóm mắt. Thủy Sinh mắng:

– Hòa thượng ác tăng nhà ngươi trên đường đi hành hạ cô nương, còn đòi cắt lưỡi ta nữa, ngươi cắt xem nào!

Lại vung cành cây, cứ từng nhát từng nhát đánh vào đầu, vào vai, vào lưng, kêu lên:

– Ngươi gọi sư tổ gia gia của ngươi lại cứu đi! Ta đánh chết tên hòa thượng độc ác này! Miệng cứ chửi, tay đánh càng mạnh thêm.

Địch Vân không cách gì chống đỡ, chỉ đưa tay che mặt, trong khoảnh khắc đã bị cành cây đánh cho toạc da rách thịt, máu chảy ròng ròng.

Địch Vân vừa đau vừa sợ, đột nhiên lấy sức chụp một cái, túm lấy cành cây, thuận tay quét một nhát. Thủy Sinh giật mình, lùi lại mấy bước nhặt một cành cây khác, lại muốn bước tới đánh tiếp.

Địch Vân trong nguy cấp bỗng nảy ra một kế, nghĩ tới một cách chơi vô lại của bọn trẻ con nhà quê dùng khi bị thua trận, kêu lên:

– Mau đứng im cho ta! Ngươi bước lên một bước ta sẽ cởi quần ra liền!

Miệng la lối, hai tay cầm cạp quần làm như sắp cởi thật.

Thủy Sinh sợ quá nhảy lui, vội vàng ngoảnh mặt đi, hai má đỏ bừng, nghĩ bụng:

– Tên hòa thượng này không có việc ác nào không dám làm, chỉ sợ hắn giở cái trò xấu xa ấy ra.

Đich Vân lại kêu:

– Bước về phía trước năm bước, càng xa ta càng tốt.

Thủy Sinh tim đập thình thịch, quả nhiên theo lời bước ra xa thêm năm bước. Địch Vân cả mừng, lớn tiếng nói:

– Quần ta đã cởi rồi, ngươi muốn đánh ta thì tới mà đánh!

Thủy Sinh giật mình, nhảy ra xa hơn một trượng, hốt hoảng trượt chân ngã nhào, vội bò dậy bỏ chạy, nào dám ngoảnh đầu lại, tránh xa mãi sau dốc núi.

Thực ra Địch Vân chưa cởi quần, nghĩ thấy buồn cười, lại vừa than thở, vừa mới bị no đòn, ít ra cũng phải ăn ba bốn chục gậy, giò trúng đá bị thương càng đau ghê gớm, thầm nghĩ: “Nếu không chơi cái trò vô lại hạ lưu này thì phen này chắc bị đánh đứt hơi. Địch Vân ta đường đường nam nhi, hôm nay lại phải làm cái trò ti bỉ này, ôi, thật là số khổ!”

Chăm chú nhìn vào vách đá, thấy Huyết đao lão tổ và Lưu Thừa Phong đấu nhau, dần dần đã đến bên bờ vực. Một tảng đá lớn nhô ra bên vách đá, bên dưới là vực thẳm, có đến bảy tám chục trượng, xa nhìn thấy băng tuyết bay tơi bời, từ mỏm đá rơi xuống vực, đủ biết hai người giao đấu kịch liệt, ai lỡ chân rơi xuống thì dù võ công cao cường đến đâu thì cũng tan xương nát thịt. Địch Vân ngẩng đầu nhìn thấy thân hình hai người rất nhỏ. Hai người áo bay phấp phới, như hai vị thần tiên bay trong mây mù.

Trên bầu trời hai con ó đang bay lượn vòng, so ra hai người đấu nhau bên dưới thân pháp còn nhanh hơn nhiều.

Thủy Sinh ở sau dốc núi lại lớn tiếng kêu lên:

– Cha, cha! Tới đây mau!

Cô ta gọi mấy tiếng, đột nhiên ở góc đông nam có một giọng già nua hỏi:

– Cháu Thủy đó phải không? Cha cháu bị thương nhẹ, sắp đến đấy!

Thủy Sinh nghe thấy giọng của Hoa Thiết Cán người ở vị trí thứ hai trong “Nam tứ kỳ – Lạc Hoa Lưu Thủy”, trong lòng mừng rỡ vội gọi:

– Hoa bá bá, cha cháu ở đâu? Cha cháu bị thương như thế nào?

Loáng một cái, Hoa Thiết Cán đã chạy đến bên cạnh Thủy Sinh, nói:

– Khi tuyết lở, một tảng đá trên núi rơi xuống, trúng vào đầu Lục bá bá, cha cháu vì cứu Lục bá bá, phát chưởng đánh vào tảng đá. Tảng đá ấy nặng quá, tay cha cháu bị thương nhẹ, không ngại lắm đâu.

Thủy Sinh nói:

– Có một tên ác tăng ở bên kia… hắn cởi… Hoa bá bá, bác mau đến giết hắn đi.

Hoa Thiết Cán nói:

– Được, hắn ở đâu?

Thủy Sinh chỉ về phía Địch Vân đang nằm, nhưng sợ không cẩn thận đê thấy hắn khỏa thân nên chỉ một cái lại quay đầu bước xa thêm mấy bước.

Hoa Thiết Cán đang muốn đi giết Địch Vân, bỗng nghe thấy “choeng choeng choeng choang” bốn tiếng, binh khí chạm nhau nơi vách đá vọng đến, ngang đầu nhìn, chỉ thấy Lưu Thừa Phong đang đấu nội lực với nhau, hai người không động đậy, như đột nhiên bị đông cứng lại. Biết hai người đấu đến lúc say đã buộc phải đấu nội lực, lão nghĩ: “Tên ác tăng kia hung mãnh như thế, Lưu hiền đệ chưa chắc đã chiếm thượng phong, ta không tiến lên giáp kích còn đợi đến bao giờ? Tuy vậy, với thanh danh địa vị của ta trong võ lâm thực là không muốn mang tiếng hai đánh một. Nhưng quần hào Trung Nguyên đã truy đuổi hai ác tăng đã ầm ĩ hết cả lên, thiên hạ đều biết, nếu mình tự tay giết được Huyết đao tăng, thanh danh sẽ càng lừng lẫy có thể xí xóa cái việc hai đấu một.” Bèn xoay mình lao về phía vách đá bên vực thẳm.

Thủy Sinh lấy làm lạ, kêu gọi:

– Hoa bá bá, bác làm gì vậy?

Vừa buột miệng kêu lên đã biết ngay đáp án, chỉ thấy Hoa Thiết Cán lặng lẽ men theo vách đá, tay phải ông ta cầm một ngọn đoản thương thép, mũi thương cắm vào vách đá một cái, thân hình lại vọt đi hơn một trượng, khi rơi xuống, mũi thương lại cắm vào vách, còn nhanh hơn khi Huyết đao tăng và Lưu Thừa Phong chạy đến đây.

Địch Vân khi nghe thấy bước chân của Hoa Thiết Cán chạy xa dần trong lòng đã cảm thấy nhẹ nhõm, tiếp đó lại thấy ông ta nhảy như con choi choi lên vách đá, không nén được, kêu thất thanh:

– Ối chà chà!

Lúc ấy chỉ mong Huyết đao lão tổ giết Lưu Thừa Phong trước khi Hoa Thiết Cán nhảy được lên vách đá để còn kịp quay lại đấu với Hoa Thiết Cán, nếu không, một chọi hai thì bại là cái chắc. Nhưng rồi lại nghĩ: “Ông Lưu Thừa Phong này và người họ Hoa đều là anh hùng hiệp nghĩa, Huyết đao lão tổ là kẻ xấu cùng hung cực ác, mình lại mong kẻ xấu giết người tốt, ôi… thế này… thế này thật là quá tầm bậy.” Thế là vừa tự trách mình vừa lo lắng, lòng cực kỳ bối rối.

Chính vào lúc ấy Hoa Thiết Cán đã nhảy lên vách đá bên vực thẳm.

Huyết đao tăng vận kình đấu với Lưu Thừa Phong, nội lực cứ từng bước từng bước gia tăng, như sóng biển từng đợt từng đợt ập tới. Lưu Thừa Phong là danh gia thái cực kiếm, suốt đời nghiên cứu tu tập đạo lấy nhu khắc cương, nội lực của Huyết đao tăng ào ào ập tới, ông chỉ dùng nội lực vận thành những vòng tròn, hóa giải hết thế công miên miên bất tuyệt của đối phương. Ông trước hết đặt mình vào vị trí không thể thất bại rồi mới tấn công để giành thắng lợi. Kình lực của Huyết đao lão tổ tuy mạnh, phương vị tấn công lại biến ảo khôn lường nhưng đối địch đã lâu vẫn không làm gì được Lưu Thừa Phong. Hai người tập trung tinh thần tất cả những thứ ở bên ngoài không nhìn thấy nghe thấy gì. Hoa Thiết Cán leo lên vách đá, nhảy đến bên bờ vực một cách lặng lẽ, hai người đều không biết.

Hoa Thiết Cán thấy hai người đỉnh đầu bốc khói, nội lực đã phát huy đến cực điểm, lão len lén đến sau lưng Huyết đao tăng vung cây thương thép lên, dồn hết sức vào hai tay, hàn quang lóe sáng trên đầu mũi thương nhằm vào lưng Huyết đao tăng đâm mạnh.

Hàn quang trên đầu mũi thương ánh lên trên mặt băng tuyết như một tấm gương trên vách đá, ánh sáng loáng lên. Huyết đao tăng chợt tỉnh, cảm thấy một luồng kình phong cực mạnh ập tới sau lưng mình, lúc ấy huyết đao trên tay lão đang kình nhau với trường kiếm của Lưu Thừa Phong, muốn nhích lên một thốn cũng cực khó, nói gì đến chuyện biến chiêu để chặn đường thương phía sau. Ý nghĩ của lão xoay chuyển rất nhanh: “Đằng nào cũng chỉ có chết, thà tự mình ngã chết chứ không thể chết trong tay kẻ địch.” Lão co hai đầu gối, nghiêng mình nhảy ra ngoài, rơi xuống vực.

Nhát thương của Hoa Thiết Cán quyết đưa Huyết đao tăng vào chỗ chết, một chiêu “trung bình thương” “tứ di tâm phục”, kình lực cực kỳ uy mãnh, nào ngờ Huyết đao tăng trong khoảnh khắc nghìn cân treo sợi tóc đã rơi xuống vực. Chỉ nghe một tiếng “phập” nhè nhẹ, mũi thương đã đâm vào giữa ngực Lưu Thừa Phong, từ trước ngực xuyên suốt qua sau lưng. Hoa Thiết Cán cố thu chiêu nhưng không kịp, Lưu Thừa Phong cũng hoàn toàn không biết có việc gì xảy ra.

Huyết đao tăng rơi xuống nửa chừng, lao nhanh xuống đáy vực, lão thét to một tiếng, chém ra một đao, vừa khéo chém trúng một tảng đá lớn. “Choang” một tiếng, huyết đao hơi cong đi nhưng không gãy, lão mượn thế của nhát đao thân hình vọt nhanh lên, tay trái vung chưởng đánh xuống đất, một tiếng “bùng” vang lên, băng tuyết bay tung tóe, cứ một chém lại một chưởng mười tám lần như thế đã giải bớt lực rơi, trong tiếng cười ha hả, lão đã đứng vững trên mặt băng dưới đáy vực.

Bỗng phía sau có tiếng người quát:

– Xem đao!

Huyết đao tăng nghe tiếng để nhận ra binh khí, thân hình không chuyển động, trở đao chém ngược, “choeng” một tiếng, hai đao chạm nhau, cảm thấy ngực chấn động, huyết đao suýt rơi khỏi tay, rất kinh sợ: “Thằng cha này nội lực mạnh thật!” Ngoảnh đầu lại, thấy người kia là một ông già thân hình cao lớn, tóc trắng bay bay, tướng mạo uy mãnh trong tay cầm một thanh quỷ đầu đao sống dày đầu vuông. Huyết đao tăng trong lòng khiếp hãi vội vàng nhảy lui, trong hoảng hốt không nhớ rằng mình vừa mới đấu với Lưu Thừa Phong, nội lực đã bị tiêu hao quá nửa, lại từ trên cao rớt xuống, đao chém vào nham thạch, toàn nhờ vào sức cánh tay mà làm giảm nhẹ thế rơi. Lão ngầm vận một hơi chân khí cảm thấy đan điền đau ê ẩm, không vận được nội lực nữa.

Ở phía bên trái, một người kêu:

– Lục đại ca, lão dâm tăng này vừa hại… hại chết Lưu hiền đệ. Chúng ta… chúng ta…

Người nói chính là Hoa Thiết Cán. Lão lỡ tay giết chết Lưu Thừa Phong, cực kỳ bi phẫn, chạy nhanh xuống vực, quyết liều chết với Huyết đao tăng.

Huyết đao tăng thấy Hoa Thiết Cán vung thương xông đến, ngay một mình Lục Thiên Trữ mình cũng chưa địch nổi, huống nữa lại thêm một cao thủ. Chỉ còn cách dùng Thủy Sinh làm con tin, khiến họ lo ngại không dám đánh gấp, rồi sẽ liệu kế khác.

Ý nghĩ ấy vừa lóe lên, quỷ đầu đao của Lục Thiên Trữ múa tít, lại chém xuống, Huyết đao tăng rùn người xuống, chém ra hai nhát. Lục Thiên Trữ thân hình cao lớn, hạ bàn vững chãi, nhảy nhót không phải là sở trường bèn vung đao đón đỡ. Hai đao này của Huyết đao tăng chỉ là hư chiêu, nhưng trong hư có thực, chiêu đón đỡ của Lục Thiên Trữ có chút sơ hở, hư chuyển thành thực, tạo thành một đòn chí mạng, Lục Thiên Trữ lùi lại tránh. Huyết đao tăng dương đông kích tây như thế, tránh được vòng quỷ đầu đao đang chụp xuống.

Lão nhô lên hụp xuống mấy cái, đã chạy đến bên Địch Vân nhưng không thấy Thủy Sinh, vội hỏi:

– Con bé kia đâu?

Địch Vân nói:

– Bên kia.

Rồi giơ tay chỉ. Huyết đao tăng tức giận:

– Sao lại để cho nó trốn đi?

Địch Vân nói:

– Tôi… tôi giữ không được.

Huyết đao tăng giận đến cực điểm, lão vốn rất dã man, ở ranh giới sống chết này, hung tính phát tác càng dữ, phóng chân phải ra đá vào hông Địch Vân. Địch Vân “hự” một tiếng, thân hình bay đi, rơi thẳng xuống. Chỗ này vốn là một cái hang sâu dưới những ngọn núi bao quanh, thế nhưng trong hang lại có hang, cú ngã này của Địch Vân lại rơi thẳng xuống cái hang ở trong hang ấy.

Thủy Sinh nghe thấy tiếng, ngoảnh đầu lại, thấy Địch Vân rơi xuống hang rất sợ hãi, chỉ thấy Huyết đao tăng nhảy tới phía mình. Chính lúc ấy bỗng nghe thấy phía bên phải có người gọi:

– Sinh nhi, Sinh nhi!

Chính là phụ thân đã đến. Thủy Sinh cả mừng, kêu lên:

– Gia gia!

Lúc ấy cô cách phụ thân còn xa, mà Huyết đao tăng thì đã nhảy tới gần nhưng xa gần cũng không nhiều lắm, nếu cô không lên tiếng, thấy cha lập tức nhảy tới, thì sẽ gần cha mà xa Huyết đao tăng. Nhưng Thủy Sinh chưa có kinh nghiệm lâm địch, trong vui mừng đã kêu lên “gia gia” mà quên mất Huyết đao tăng đang phóc tới gần.

Thủy Đại kêu lớn:

– Sinh nhi, lại đây mau!

Thủy Sinh lúc đó mới tỉnh ra, nhún chân lao qua, Thủy Đại chạy đến đón.

Huyết đao tăng thầm kêu: “Không xong rồi.” Liền ngậm huyết đao ngang miệng, cúi mình xuống, mỗi tay bốc một nắm tuyết, vận kình bóp chặt lại, tay phải ném nắm tuyết vào Thủy Đại, rồi ném nắm thứ hai vào Thủy Sinh, đồng thời thân hình lại phóc tới phía trước.

Thủy Đại vung kiếm gạt nắm tuyết, bước chân hơi chậm lại. Nắm tuyết thứ hai đánh trúng “huyệt linh đài” trên lưng Thủy Sinh, cô lập tức ngã dúi. Huyết đao tăng phi thân đến gần, chộp lấy Thủy Sinh trong tay, thuận tay điểm huyệt cô, chợt nghe tiếng gió vù vù, một ngọn thương đâm xéo qua, chính là Hoa Thiết Cán đã đến.

Hoa Thiết Cán lỡ tay giết chết người em kết nghĩa là Lưu Thừa Phong, trong lòng đau khổ hối hận đã lên đến cực điểm, lúc này cũng không kể đến tính mạng của Thủy Sinh, dồn lực vào hai tay, ngọn thương ra như gió. Huyết đao tăng vung đao chém nhanh, “choang” một tiếng, huyết đao dội trở lại, cây thương này của Hoa Thiết Cán ngay cả cái cán cũng là thép luyện trăm lần, bảo đao bảo kiếm không thể chặt đứt.

Huyết đao tăng chửi:

– Con mẹ mày!

Chộp lấy Thủy Sinh, bước lui một bước, thấy quỷ đầu đao của Lục Thiên Trữ chém ngang qua, lão không còn đường chạy, cường địch vây cả trước và sau, lão đảo mắt tìm đường, thấy Địch Vân ngồi dưới đáy hang, liền nghĩ: “Phía dưới tuyết đọng rất dày, tiểu tử này ngã xuống mà không chết!” Bèn ôm Thủy Sinh vào ngang hông, nhảy đại xuống.

Thủy Sinh kêu thất thanh, hai người rơi xuống hang sâu. Ở đáy hang tuyết dày mấy chục trượng phía dưới đã đóng băng rất cứng, phía trên tuyết lại mềm, giống như một tấm nệm, hai người không hề bị xây xát. Huyết đao tăng quan sát địa hình, đứng trên một tảng đá lớn trước cửa hang, cầm ngang huyết đao, ha ha cười lớn, nói:

– Có gan thì nhảy xuống đây một phen tử chiến!

Tảng đá lớn này lại ở vào chỗ xung yếu của cửa hang, bọn Thủy Đại nếu nhảy xuống nhất định sẽ rơi vào cạnh tảng đá, Huyết đao tăng hoành đao chỉ cần vung nhẹ một nhát là có thể xả người rơi xuống làm hai đoạn. Người đang rơi xuống lơ lửng nửa chừng, võ công có gấp mười lão cũng không thể bay lượn như chim được để đấu với lão.

Lục Thiên Trữ, Hoa Thiết Cán và Thủy Đại truy đuổi Huyết đao tăng lại để y sổng mất đều tức giận nghiến răng ken két. Thủy Đại thấy con gái vẫn bị dâm tăng cắp đi, Hoa Thiết Cán lỡ tay giết nghĩa đệ càng đau khổ tức giận. Ba người tụ lại, hạ giọng bàn bạc.

Lục Thiên Trữ ngoại hiệu là “Nhân nghĩa Lục đại đao”, Hoa Thiết Cán được người ta gọi là “Trung bình vô địch”, nổi tiếng võ lâm bởi thương pháp “trung bình thương”. Thủy Đại có ngoại hiệu là “Lãnh nguyệt kiếm”, lại thêm “Nhu vân kiếm”, cùng Lưu Thừa Phong gọi chung là “Lạc Hoa Lưu Thủy” (hoa rơi nước chảy). Gọi là “Lạc Hoa Lưu Thủy” kỳ thực là “Lục Hoa Lưu Thủy”.

Nói về võ công chưa chắc Lục Thiên Trữ đã là đệ nhất, nhưng ông một là lớn tuổi nhất hai là rất có uy tín trên chốn giang hồ, vì thế đứng đầu “Nam tứ kỳ”. Tính ông nóng như lửa, đối với những hành vi ti bỉ thương phong bại tục, ông hết sức căm ghét. Mắt nhìn thấy Huyết đao tăng đứng diệu võ dương oai trên tảng đá, Thủy Sinh lại ẻo lả tựa người vào Địch Vân, ông không biết Thủy Sinh đã bị điểm huyệt, ông cho rằng con bé này lẳng lơ, rơi vào tay dâm tăng mà không hề phản kháng, ông nổi giận bừng bừng, nhặt mấy viên đá ném xuống.

Tay ông vốn mạnh, bây giờ ở trên cao ném xuống thế những hòn đá rơi cực kỳ mạnh. Chỉ nghe thấy những tiếng “bình bùng bình bùng”, hang núi bốn bề đều truyền lại hồi âm, đáy hang tuyết bay tung tóe.

Huyết đao tăng đẩy Thủy Sinh và Địch Vân vào sau tảng đá. Lúc này đã thoát hiểm, lão đã nguôi giận Địch Vân. Lão đứng trên tảng đá, chỉ ba người Lục, Hoa, Lưu lớn tiếng chửi, đá ném xuống thì né mình tránh, làm sao bị thương được. Lúc này lão mới nhìn thấy trên vách đá bên vực thẳm, Lưu Thừa Phong đứng im bất động, hồi tưởng lại tình cảnh vừa qua, nhớ lúc Hoa Thiết Cán đánh lén, lỡ tay sát thương đồng bạn, lão thầm mừng cho may mắn của mình.

Địch Vân thấy đằng sau tảng đá, vách núi lõm vào thành một hang động lớn. Có tảng đá lớn chặn ở ngoài như cái bình phong, tuyết ở trong hang rất mỏng, là một chỗ có thể ẩn thân. Cảm thấy từ trên cao đá cứ ném xuống không ngừng, sợ đả thương Thủy Sinh, bèn ôm ngang cô ta vào, đặt nằm trong hang. Thủy Sinh cả sợ kêu lên:

– Đừng đụng vào ta, đừng đụng vào ta!

Huyết đao tăng cười lớn:

– Hảo đồ tôn, sư tổ gia gia ở bên ngoài chống cự kẻ địch, ngươi lại hưởng phúc trước đấy à!

Thủy Đại và hai người họ Lục họ Hoa ở bên trên nghe thấy thật rõ, tức giận muốn nổ tung lồng ngực.

Thủy Sinh cho rằng Địch Vân có ý đồ xấu, hết sức kinh hoảng, đến khi thấy Địch Vân áo quần tuy không thật tề chỉnh nhưng vẫn mặc trên mình, nhớ tới hồi nãy y bảo đã cởi hết, khiến cô sợ hãi bỏ chạy, thì ra chỉ là đánh lừa. Nghĩ đến đó, lại đỏ mặt lên, mắng:

– Hòa thượng ác lừa người, cút đi!

Địch Vân đặt cô vào trong hang, đá ném không trúng cô được nữa, bèn bước ra. Đùi đã gãy, giờ lại bị Thủy Sinh đánh bị thương làm gì mà “đi” được, chỉ là cố gắng bò ra mà thôi.

Ba người trên núi, một người dưới hang, cầm cự suốt đêm, trời dần sáng. Huyết đao tăng vận công điều tức, khí lực dần hồi phục, không ngớt tính toán: “Làm thế nào để thoát thân? Ba người này võ công đều xấp xỉ với mình, mình chỉ cần rời khỏi tảng đá này mất lợi thế về địa hình sẽ khó tránh khỏi sự hợp kích của ba người kia”. Lão không nghĩ ra được cách gì, đành vung quyền co chân, nhảy nhót trên tảng đá một cách quỷ quái, chế giễu kẻ địch để tự khuây khỏa.

Lục Thiên Trữ càng nhìn càng giận, chỉ biết lớn tiếng mắng nhiếc. Hoa Thiết Cán bỗng nghĩ ra một kế, hạ giọng nói:

– Thủy hiền đệ, đệ hãy đến bên mé đông kia, giả cách trượt tuyết xuống hang, ta ở phía bên tây giả đánh xuống, dụ cho tên ác tăng này rời khỏi nơi trú ẩn, Lục đại ca có thể thừa cơ nhảy xuống.

Lục Thiên Trữ nói:

– Kế này rất hay.

Thủy Đại nói:

– Nếu hắn không ra ngăn chặn chúng ta cũng trượt tuyết xuống.

Ông và Hoa Thiết Cán chia làm hai ngả trái phải chạy xuống.

Trong khoảng hơn trăm trượng đều là vách núi, nếu muốn trượt tuyết xuống hang, thì phải lượn một vòng rất rộng, từ xa tiến tới. Huyết đao tăng thấy hai người chia làm hai hướng tả hữu rõ ràng là muốn trượt đường vòng xuống hang, làm thế nào để chặn lại, nhất thời chưa có chủ ý. Lão nghĩ: “Hỏng, hỏng! Chúng trượt theo đường vòng xuống đây, tuy đường có xa một chút, nhưng một chốc sau cũng đến. Lúc này không chạy còn đợi đến bao giờ? Chúng trượt đường vòng đến đây thì mình cũng trượt đường vòng mà đào tẩu.” Bèn báo cho Địch Vân, lặng lẽ rời khỏi tảng đá.

Lục Thiên Trữ đưa mắt nhìn theo hai người trượt đi, cúi đầu nhìn đã không thấy bóng dáng Huyết đao tăng đâu nữa, chỉ thấy một đường dấu chân trên tuyết chạy theo hướng tây bắc, bèn kêu lớn:

– Hoa hiền đệ, Thủy hiền đệ, ác tăng chạy trốn rồi, mau quay lại!

Hai người nghe thấy tiếng kêu đều quay nhìn.

Lục Thiên Trữ vội đuổi ác tăng, bèn tung mình nhảy xuống. Khi nhảy xuống ông đã nín thở, chân vừa chạm đất liền sử kình nẩy người lên để giảm lực rơi.

Vừa trồi lên khỏi đống tuyết bỗng cảm thấy ngực đau nhói, đã bị kẻ địch ám toán, vừa kinh sợ vừa tức giận, đại đao lập tức vung ra cực nhanh, dựa vào cảm giác nơi tay, biết là đã chém trúng địch nhân. Nhưng hẳn là kẻ địch bị thương không nặng, lại chém một nhát nữa.

Thì ra Huyết đao tăng nghe tiếng kêu của Lục Thiên Trữ, biết rằng ông sẽ nhảy xuống hang, bèn quay lại, nấp vào trong đám tuyết gần tảng đá. Lục Thiên Trữ võ công cao cường lại rất từng trải, muốn đánh trộm ông là rất khó, nhưng lúc này ông từ trên cao hàng chục trượng nhảy xuống đống tuyết, điều này cả đời ông chưa từng trải qua cho nên chỉ tập trung tinh thần vận khí đề kình cho khỏi bị thương. Ông thấy rõ Huyết đao tăng đã chạy trốn, đâu có ngờ trong tuyết lại có kẻ địch mai phục, thật là đã bất ngờ lại bất ngờ thêm.

Nhưng ông là nhân vật hàng đầu trong võ lâm Trung Nguyên, ngực tuy bị thương, vẫn đánh kẻ địch bị thương, ba đao liên tiếp “soạt, soạt, soạt” chém nhanh vào trong tuyết. Ông biết Huyết đao tăng hành động như ma quỷ, đấu với lão không thể có một chút sơ hở, ba nhát đao chém mò kình lực vẫn rất dữ dội. Huyết đao tăng bị thương vẫn gắng gượng chống đỡ, lùi lại một bước, không ngờ giẫm phải một đám tuyết bên dưới chưa đóng băng, gót chân đạp vào khoảng không, lập tức rơi tọt xuống.

Lục Thiên Trữ chém liền ba đao, không để cho địch nhân kịp thở, rồi lại chém tiếp ba nhát nữa, ông biết thế nào kẻ địch cũng phải lùi bước, bèn tiếp tục tấn công mạnh, chợt cảm thấy dưới chân trống không, thân hình cũng rơi thẳng xuống.

Hai người ở trong khốn cảnh cực kỳ nguy hiểm, đều không nhìn thấy gì, cũng không cách gì nghe tiếng gió rít để đoán binh khí, đến cả kinh nghiệm đánh trong bóng tối cũng không dùng được. Mũi chân hai người vừa chạm đất, đều lập tức sử lộ đao pháp ruột của mình. Lúc này trên đầu là hơn mười trượng tuyết phủ, ngoài cách giết chết kẻ địch ra, không ai dám một mình nhoi lên trước. Chỉ cần ai sợ hãi trước, kẻ đó nhất định sẽ bị đối phương chém chết.

Địch Vân nghe ngoài hang có tiếng la lối, rồi hoàn toàn im lặng, thò đầu ra xem, đã không thấy Huyết đao lão tổ nhưng lại thấy đống tuyết bên tảng đá có vẻ nhúc nhích nhấp nhô, lấy làm lạ, nhìn một lúc mới rõ là dưới tuyết có người đang quyết đấu.

Thủy Sinh cũng thò đầu ra quan sát, thấy phụ thân đang trượt tuyết ngoài xa, nhất thời không dám kêu gọi.

Hoa Thiết Cán và Thủy Đại muốn ra tay giúp đỡ Lục Thiên Trữ nhưng không biết phải làm sao, Thủy Đại nói:

– Hoa nhị ca, đệ nhảy xuống đây.

Hoa Thiết Cán vội nói:

– Không được, không được! Đệ cũng nhảy xuống đống tuyết thì đánh cách nào? Ở dưới ấy chẳng thấy gì, khéo lại… khéo lại… lỡ tay làm bị thương Lục đại ca.

Lão vừa mới một thương đâm chết Lưu Thừa Phong, người em kết nghĩa thân như ruột thịt, trong lòng vô cùng đau đớn. Điều này tất nhiên Thủy Đại hoàn toàn không biết, mình nhảy xuống dưới đống tuyết, ngoài cách vung kiếm đâm mò, thì còn cách nào phân biệt được địch ta? Khả năng chém chết Huyết đao tăng hay Lục Thiên Trữ cũng bằng nhau, mà khả năng bị Huyết đao tăng hay Lục Thiên Trữ chém chết cũng không có gì phân biệt. Nhưng bên ta có hai cao thủ đang ở cạnh mà để một mình Lục đại ca liều mạng với Huyết đao tăng trong vũng tuyết, Lục đại ca lại vì cứu con gái mình nên mới đến đây, lúc này đại ca đang lâm nguy mình lại khoanh tay đứng nhìn… Nghĩ đến đó lòng như lửa đốt, vặn tay giẫm chân chẳng biết làm sao. Nếu nhảy xuống tất sẽ vào cuộc chiến, nhưng thấy tuyết cứ nhấp nhô như thế, nhảy xuống biết đâu lại đè ngay lên đầu Lục đại ca.

Tuyết dưới hang cứ nhấp nhô một hồi rồi dần dần yên lặng. Ở bên trên, Thủy Đại, Hoa Thiết Cán, Địch Vân, Thủy Sinh đều sốt ruột, không biết cuộc ác chiến dưới đáy tuyết rốt cuộc ai thắng ai bại. Bốn người đều nín thở, chăm chú nhìn.

Một lúc sau, ở một chỗ tuyết trắng từ từ nhô lên, một người thò đầu lên, đầu đầy tuyết trắng nhất thời không phân biệt được người thường hay hòa thượng, người này càng lúc càng lên cao, đã thấy rõ đầu tóc trắng. Đó là Lục Thiên Trữ!

Thủy Sinh cả mừng reo lên khe khẽ. Địch Vân tức giận nói:

– Có cái gì đáng kêu?

Thủy Sinh nói:

– Sư tổ gia gia của ngươi chết rồi, tiểu hòa thượng ngươi cũng phải đợi lâu đâu.

Cô ta có nói câu này ra hay không Địch Vân há lại không biết vậy? Trong những ngày qua, sống chung với Huyết đao tăng ít nhiều cũng bị lây cái tính hung bạo. Huống nữa thấy Lục Thiên Trữ đắc thắng, mình tất rơi vào tay ba người kia, làm gì có cơ hội biện bạch. Lòng cực kỳ đau đớn, Địch Vân quát lên:

– Ngươi còn la lối, ta giết ngươi trước.

Thủy Sinh lạnh người, không dám nói nữa. Cô bị Huyết đao tăng điểm huyệt, không nhúc nhích được, Địch Vân tuy bị gãy chân, nhưng nếu sát hại cô cũng quá dễ dàng.

Cái đầu của Lục Thiên Trữ nhô lên khỏi mặt tuyết, thở dốc, ra sức vùng vẫy như muốn bò lên.

Thủy Đại và Hoa Thiết Cán cùng kêu lên:

– Lục đại ca, đệ đến rồi!

Hai người nhảy tới bên tảng đá.

Cũng vào lúc ấy, lại thấy cái đầu của Lục Thiên Trữ chìm vào trong tuyết, tựa như bị người túm chân kéo xuống. Ông bị chìm xuống, rồi không nhô đầu lên nữa, nhưng cũng không thấy bóng dáng của Huyết đao tăng. Thủy Đại và Hoa Thiết Cán nhìn nhau lo lắng, thấy Lục Thiên Trữ mới sụt vào trong tuyết, tình thế nguy cấp, có vẻ như không tự chủ được chắc là bị kẻ địch ám toán.

Bỗng nghe “phách” một tiếng, một cái đầu lâu từ trong tuyết nhô lên. Lần này lại là cái đầu trọc của Huyết đao tăng. Lão cười ha hả, cái đầu lâu lại sụt vào trong tuyết. Thủy Đại mắng:

– Thằng giặc trọc!

Rồi vung kiếm nhảy tới.

Bỗng từ trong tuyết một cái đầu lâu bay lên.

Chỉ là một cái đầu lâu, đã lìa khỏi thân mình, tóc trắng bạc phơ, chính là thủ cấp của Lục Thiên Trữ. Cái đầu lâu này bay lên không trung mấy trượng, rồi “bốp” một tiếng, rơi xuống chìm vào trong tuyết, không còn tung tích.

Thủy Sinh thấy cảnh tượng quái dị đáng sợ như vậy kêu không ra tiếng.

Thủy Đại không chịu nổi, đau đớn kêu lên:

– Lục đại ca, huynh vì đệ mà chết, anh linh không xa, đệ phải báo thù cho huynh.

Bèn tung mình nhảy ra, Hoa Thiết Cán vội vàng giữ chặt lấy cánh tay trái, nói:

– Hãy khoan! Ác tăng nấp dưới đống tuyết này. Hắn ở trong chỗ tối, chúng ta ở chỗ sáng, nhảy bừa xuống dễ bị hắn ám toán.

Thủy Đại biết là đúng thế, nghẹn ngào nói:

– Vậy… vậy thì làm sao?

Hoa Thiết Cán nói:

– Hắn ở dưới đống tuyết chẳng được bao lâu, thế nào rồi cũng phải trồi lên, lúc ấy hai chúng ta liên thủ tấn công, sớm muộn cũng sẽ mổ bụng moi tim hắn, tế linh hồn của hai người anh em.

Thủy Đại nước mắt ròng ròng, trong lòng thầm nói: “Phải bình tĩnh, định thần lại, lúc này không được thương tâm! Đại địch trước mắt, không được sơ suất!” Nhưng hai người anh kết nghĩa mấy chục năm nay tình như ruột thịt, nay một lúc mất mạng dưới tay ác tăng, bảo ông làm sao nén nổi đau đớn?

Hai người nhìn vào chỗ Huyết đao tăng sắp trồi lên, sánh vai tiến tới, đến gần chỗ hang tuyết mà Thủy Sinh và Địch Vân đang ẩn nấp.

Thủy Sinh nhìn trộm Địch Vân, suy tính: “Đợi phụ thân gần thêm mấy trượng nữa mới lên tiếng kêu gọi, để phụ thân kịp thời đến cứu, nếu kêu lên sớm, tiểu ác tăng này sẽ ra tay giết mình trước.” Địch Vân thấy thần sắc của cô ta bất định, tròng mắt chuyển động đã đoán được dụng ý, giả vờ nhắm mắt dưỡng thần. Thủy Sinh không đế ý đến Địch Vân, chỉ chăm chú nhìn phụ thân. Bỗng Địch Vân hai tay chống xuống đất, nhảy phốc lên lưng Thủy Sinh, tay phải co lại, kẹp cứng cổ họng cô ta.

Thủy Sinh giật mình, muốn kêu lên nhưng làm sao mà kêu ra tiếng? Chỉ cảm thấy cánh tay Địch Vân kẹp chặt cổ mình đến nghẹt thở, bỗng nghe Địch Vân nói nhỏ bên tai mình:

– Cô không kêu lên, thì tôi không kẹp chết cô!

Nói xong cánh tay nới lỏng ra để cô hít vào một hơi nhưng cánh tay thô và gầy guộc ấy vẫn không rời cái cổ họng mềm mại của cô. Thủy Sinh căm hận cực điểm, chửi thầm, nhưng chẳng biết làm sao.

Thủy Đại và Hoa Thiết Cán nhảy lên một khối nham thạch lớn, thấy trong hang tuyết không có động tĩnh gì, đều lấy làm lạ, không biết Huyết đao tăng lại chơi trò quỷ quái gì đây, sao lại có thể ở mãi dưới đống tuyết.

Trong nỗi bi thống, họ không nghĩ đến rằng Huyết đao tăng sinh trưởng ở vùng Tạng biên đất trời đầy băng tuyết, rất hiểu tính chất của băng tuyết. Mới đầu, sau khi nhảy xuống đống tuyết lão đã lập tức lấy huyết đao đào một cái hốc tuyết, lấy tay nện chặt, trong cái hốc tuyết ấy có không khí có thể thở được, mỗi khi tim đập mạnh, khó thở lại thò đầu vào trong hốc tuyết đó thở một hơi. Lục Thiên Trữ làm sao mà biết được điều này, chỉ biết nín thở, đánh đấm liều mạng. Ông nội lực tuy dồi dào nhưng làm sao bằng được Huyết đao tăng luôn được thay đổi không khí. Giống như hai người đấu sức dưới đáy nước, một người có thể thỉnh thoảng nhô đầu lên thở còn một người thì cứ chìm mãi dưới đáy nước không hề nhô được đầu lên, thắng bại ra sao cũng có thể biết được. Lục Thiên Trữ rốt cuộc nghẹt thở bèn liều thò đầu lên thở, phần dưới thân thể bị Huyết đao tăng chém ba nhát, chết dưới đống tuyết.

Thủy Đại và Hoa Thiết Cán càng chờ càng sốt ruột, qua khoảng thời gian tàn một nén nhang vẫn không thấy tung tích Huyết đao tăng. Thủy Đại nói:

– Ác tăng này chắc là bị trọng thương, chết dưới đáy tuyết rồi.

Hoa Thiết Cán nói:

– Huynh cũng nghĩ có lẽ là như thế. Lẽ nào Lục đại ca bị ác tăng giết mà không chém trả hẳn được mấy đao? Huống nữa tên ác tăng này đấu với Lưu hiền đệ đã lâu, đã không còn là đối thủ của Lục đại ca.

Thủy Đại nói:

– Chắc chắn là hắn dùng độc kế, ám toán Lục đại ca.

Nói đến đó, không nén được đau thương, kêu lên:

– Đệ xuống xem sao.

Hoa Thiết Cán nói:

– Được, nhưng phải cẩn thận, huynh ở đây tiếp ứng.

Thủy Đại vung trường kiếm, hít vào một hơi, triển khai khinh công, trượt trên mặt tuyết, chỉ trượt mấy trượng, phát hiện ra tuyết dưới chân rất mềm, càng trượt nhanh hơn. Tuyết cốc này bốn phía vách đá rất cao, vạn năm không có ánh mặt trời, đáy cốc tuy là tuyết nhưng có lẫn cả băng, như bùn lỏng, từ trên cao xuống lập tức chìm nghỉm, có khinh công mà trượt trên mặt thì không đến nỗi chìm, Thủy Đại khinh công rất cao, trượt trên mặt tuyết mỗi lúc một nhanh. Chỉ nghe thấy Hoa Thiết Cán kêu:

– Hảo khinh công! Thủy hiền đệ, ác tăng kia ở phía bên trái, cẩn thận đấy.

Tiếng kêu chưa dứt, “cách” một tiếng trước mặt Thủy Đại hơn một trượng bỗng một người nhô lên, quả nhiên là Huyết đao tăng. Chỉ thấy lão hai tay không, không có binh khí, lão kêu lên:

– Ái chà!

Không dám tiếp chiến với Thủy Đại, trượt qua phía tây mấy trượng, hốt hoảng kêu lên:

– Đại trượng phu tỉ đấu phải công bằng, trong tay ngươi có kiếm, ta lại hai tay không, đánh nhau bằng cách nào?

Thủy Đại chưa trả lời, Hoa Thiết Cán từ xa đã kêu lên:

– Giết ác tăng như ngươi, còn nói gì đến công bằng với không công bằng?

Khinh công của Hoa Thiết Cán không bằng Thủy Đại, không dám giẫm lên tuyết mềm, ven theo nham thạch chạy tới, giáp kích.

Thủy Đại cho rằng thanh huyết đao của ác tăng này đã bị rơi mất khi quyết đấu với Lục Thiên Trữ, tuyết dày mấy chục trượng làm sao tìm lại được huyết đao. Thấy kẻ địch không có binh khí, càng yên tâm, nắm chắc phần thắng trong tay, chỉ cần đừng để hắn chạy trốn hoặc lại lăn xuống trong tuyết. Thủy Đại kêu lên:

– Tên ác tăng kia, con gái ta đâu? Ngươi nói ra thì ta cho một đao chết ngay khỏi phải bị ta băm thành ngàn vạn mảnh.

Huyết đao tăng nói:

– Chỗ con bé ấy nấp, ngươi có tìm mươi ngày nửa tháng chưa chắc đã tìm ra. Nếu để cho ta một con đường sống ta sẽ nói cho ngươi.

Miệng nói, chân lão vẫn không ngừng trượt trên mặt tuyết.

Thủy Đại nghĩ bụng: “Tạm lừa y một phen để y nói ra trước.” Bèn nói:

– Chốn này bốn bề đều là vách đá, chắp cánh cũng không bay được, thả ngươi, ngươi chạy đi đâu?

Huyết đao tăng nói:

– Địa thế ở đây cực kỳ cổ quái, ta đã ở gần đây mấy năm, thuộc như lòng bàn tay. Nếu ngươi giết ta thì khó lòng ra khỏi cốc. Chi bằng tha cho ta, biến thù thành bạn, ta lại làm con rể của ngươi, dẫn ngươi ra khỏi cốc, thế nào?

Hoa Thiết Cán tức giận nói:

– Lời của ác tăng có tín nghĩa gì? Ngươi mau quỳ xuống đầu hàng, xử ngươi thế nào, chúng ta tự có cách, cần gì ngươi phải chõ mõm vào?

Vừa nói vừa đuổi đến gần. Huyết đao tăng cười nói:

– Đã thế, bố mày xin vô phép!

Lão tăng tốc độ, trượt về hướng đông bắc.

Thủy Đại quát:

– Ngươi chạy đâu?

Huyết đao tăng vội vàng chạy trốn thật nhanh, sau khi cách được mấy chục trượng, trước mặt là vách đá dựng đứng, không còn đường thoát. Lão lắc mình một cái, quay đầu thật nhanh, lướt qua bên cạnh Thủy Đại. Thủy Đại vung kiếm chém ngang còn cách hơn một tấc. Huyết đao tăng lại chạy về hướng tây bắc. Thủy Đại thấy lão chạy về lối cũ, nghĩ bụng: “Chạy đi chạy lại trong cái cốc này còn trốn đi đâu được? Thằng cha này khinh công cũng khá, khó mà giết được hắn. Sinh nhi lại không biết đang ở đâu.” Ông sốt ruột, thở vào một hơi, càng trượt nhanh hơn, tới gần kẻ địch hơn. Bỗng nghe Huyết đao tăng “a” lên một tiếng, ngã sấp xuống phía trước, hai tay chới với trên mặt tuyết, rõ ràng là nội lực đã kiệt, ngã xuống không thể đứng dậy được nữa.

Ở trong hang đá, Địch Vân và Thủy Sinh đều thấy rõ, một người thì kinh hoảng, một người thì vui mừng. Địch Vân liếc nhìn, thấy Thủy Sinh mặt mày hớn hở, trong lòng buồn giận, bất giác cánh tay lại co lại, kẹp chặt cổ cô ta.

Mắt thấy Huyết đao tăng không cách gì bò dậy được, Thủy Đại không bỏ lỡ thời cơ, nhảy tới mấy bước, chém vào lưng y, lúc ấy không muốn chém lão một nhát chết tươi, chỉ làm cho lão bị thương không thể chạy trốn được, để còn khảo vấn chỗ giấu Thủy Sinh. Trường kiếm chỉ còn cách hai tấc, bỗng chân trái đạp vào khoảng không, toàn thân rơi xuống một hố sâu.

Đột biến này như có tà thuật. Ba người Hoa Thiết Cán, Địch Vân và Thủy Sinh thấy Thủy Đại sắp đắc thủ lại biến mất trong chóp mất, không biết mất đi đâu. Tiếp đó một tiếng kêu thảm thiết từ dưới tuyết vang lên, chính là tiếng của Thủy Đại, rõ ràng là từ bên dưới ông gặp phải một điều gì cực kỳ đáng sợ.

Huyết đao tăng nhảy lên, thân thủ nhanh chóng lạ thường, rõ ràng là sự giãy giụa vừa rồi của lão là giả vờ, chỉ thấy lão nhảy vọt tới, giẫm mạnh hai chân, lặn vào trong tuyết, rồi lại nhô lên, túm lấy một người, ném trên mặt tuyết. Người này đầm đìa máu tươi, chính là Thủy Đại, chỉ thấy ông hai chân đã bị tiện đứt đến tận đầu gối, không biết là sống hay chết.

Thủy Sinh thấy thảm trạng của phụ thân, lớn tiếng gào khóc:

– Gia gia, gia gia!

Địch Vân trong lòng bất nhẫn và kinh hãi, cũng quên luôn việc phải kẹp cổ họng cô, lại còn nới lỏng cánh tay, an ủi:

– Thủy cô nương, phụ thân của cô chưa chết, ông ấy… ông ấy còn cử động.

Tay trái Huyết đao tăng vung tay trái, một đạo hồng quang bay lượn thành vòng tròn trên đầu, rồi huyết đao lại nằm gọn trong tay lão. Thì ra vừa rồi lão tiềm phục trong tuyết, rất lâu không ra, là bí mật đào một cái giếng tuyết, một cái bẫy, đặt huyết đao ngang trong lưng chừng giếng, lưỡi hướng lên trên, sau đó lão trồi lên, giả vờ mất đao khiến địch nhân không ngại gì nữa, yên tâm truy đuổi, rốt cuộc sẩy chân rơi vào bẫy. Thủy Đại mấy chục năm tung hoành trong võ lâm, từng trải rất nhiều, thông hiểu hết những cách đánh trên cạn dưới nước, nhưng lối đánh trong băng tuyết thì ông lại thiếu kinh nghiệm. Ông rơi xuống giếng tuyết, thanh huyết đao chém sắt như bùn kia lập tức tiện ngọt hai chân ông.

Huyết đao tăng giơ cao huyết đao, kêu lớn với Hoa Thiết Cán:

– Có gan không? Lại đây đấu với ta ba trăm hiệp.

Hoa Thiết Cán thấy thảm trạng của Thủy Đại đau đớn đến mức lăn lộn trong tuyết, sợ đến vỡ tim vỡ mật, nào dám tiến lên đấu, chỉ múa đoản thương phòng thủ, lùi dần từng bước, cái ngù đỏ trên đầu thương run bần bật, rõ ràng là trong lòng sợ hãi cực điểm. Huyết đao tăng quát lớn, xông lên hai bước. Hoa Thiết Cán vội lùi hai bước, cánh tay run run, đoản thương rơi xuống đất, vội vàng nhặt lên, lại lùi hai bước.

Huyết đao tăng đấu liền với ba vị cao thủ, ba lần tìm sự sống trong cái chết thật sự là đã mệt mỏi rã rời kiệt sức, nếu lại đấu với Hoa Thiết Cán, e rằng không đỡ nổi một chiêu. Võ công của Hoa Thiết Cán vốn không kém Huyết đao tăng, lúc này xông lên quyết đấu, Huyết đao tăng tất phải chết dưới thương. Nhưng sau khi lỡ tay đâm chết Lưu Thừa Phong tinh thần lão suy sụp, lại thấy Lục Thiên Trữ đứt đầu, Thủy Đại cụt chân, lão sợ vỡ mật, không còn một chút chí khí chiến đấu.

Huyết đao tăng thấy bộ dạng sợ hãi của lão như vậy, vô cùng đắc ý, kêu lên:

– Hi hi, ta có bảy mươi hai kế, hôm nay mới dùng ba, đã giết chết ba thằng Giang Nam, còn sáu mươi chín kế nữa đều dành cho ngươi.

Hoa Thiết Cán đã từng trải bao phen sóng gió giang hồ, mấy lời khoác lác này của Huyết đao tăng vốn khó lòng lừa được lão, nhưng lúc này lão đã là “chim sợ cành cong”, chỉ cảm thấy mỗi lời nói mỗi cử động của địch nhân đều rất dữ tợn đáng sợ, nghe Huyết đao tăng còn sáu mươi chín độc kế nhất nhất đều dành cho mình, lão lẩm bẩm:

– Sáu mươi chín kế, sáu mươi chín kế!

Hai tay càng run bần bật.

Huyết đao lão tổ lúc này tâm lực đều kiệt quệ, gắng gượng một cách khó khăn, chỉ muốn nằm lăn ra đất, ngủ suốt một ngày một đêm. Nhưng lão biết rằng thời khắc này đang đối diện với một trường ác đấu sinh tử không hề kém cuộc kịch chiến với Lưu Thừa Phong, Lục Thiên Trữ. Chỉ cần lão lộ vẻ mệt mỏi để cho đối phương nhìn thấy, ra tay một cái thì đoản thương kia sẽ xuyên suốt qua mình lão. Vì vậy lão cố gắng lấy hết tinh thần, múa may huyết đao trong tay, ra vẻ còn thừa sức mạnh. Thấy Hoa Thiết Cán muốn trốn mà không dám trốn, lão không ngừng khiêu khích:

– Ê cái thằng nhát gan, chuồn mau đi, chuồn mau đi!

Đâu ngờ rằng Hoa Thiết Cán lúc này đến bỏ chạy cũng không có gan bỏ chạy.

Thủy Đại hai chân đã bị cụt tận đầu gối nằm trên mặt tuyết, thấy bộ dạng sợ hãi của Hoa Thiết Cán, càng thêm bi phẫn. Ông tuy bị trọng thương nhưng thấy rõ Huyết đao tăng đã kiệt sức, ông bèn lấy sức kêu lên:

– Hoa nhị ca, đấu với lão đi. Ác tăng chân khí đã suy kiệt, huynh giết lão dễ như trở bàn tay, dễ…

Huyết đao tăng giật mình: “Lão già này nhận ra chỗ sơ hở của mình rồi, thật không ổn.”

Lão lại cố gắng định thần, bước tới hai bước nói với Hoa Thiết Cán:

– Không sai, không sai, nội lực của ta đã kiệt, chúng ta đến bờ vực kia đấu ba trăm hiệp! Kẻ nào không dám đến là con rùa đen!

Bỗng nghe trong hang vọng ra tiếng khóc của Thủy Sinh:

– Gia gia, gia gia!

Huyết đao tăng nảy ra một kế: “Lúc này nếu giết Thủy Đại, thì rõ là mình yếu. Mình phải tóm lấy con bé này, ép Thủy Đại đầu hàng. Lão họ Hoa kia càng nhụt chí.” Lão cười nanh ác, nói với Hoa Thiết Cán:

– Có ra đấu không? Đấu năm trăm hiệp cũng được.

Hoa Thiết Cán lắc lắc đầu, lại lùi thêm một bước. Thủy Đại kêu lên:

– Đánh lão đi, đánh hắn đi! Huynh không báo thù cho Lục đại ca, Lưu tam ca ư?

Huyết đao tăng ha ha cười lớn, kêu lên:

– Đánh nào, đánh nào! Ta còn sáu mươi chín độc kế ghê gớm không sao tả xiết, dành hết cả cho ngươi đấy!

Vừa nói lão vừa quay mình bước vào trong hang, túm lấy đầu tóc Thủy Sinh, kéo cô ra, lúc kéo lão đã thở hổn hển không sao che giấu nổi.

Lão biết Hoa Thiết Cán võ công lợi hại, chỉ có cách dùng các thủ đoạn tàn khốc tra tấn cha con họ Thủy thì mới có thể dọa cho họ Hoa không dám ra tay, bèn kéo Thủy Sinh đến trước mặt Thủy Đại, quát:

– Ngươi nói ta chân khí đã kiệt, được, để ta cho ngươi xem, chân khí đã kiệt hay chưa.

Vừa nói lão vừa liếc cây đao một cái, “soạt” một tiếng, cắt ngay một tay áo bên phải của Thủy Sinh, lộ ra làn da trắng nõn như tuyết. Thủy Sinh kêu lên một tiếng kinh hãi, nhưng vì huyệt đạo đã bị điểm không có một chút sức kháng cự.

Địch Vân bò từ trong hang ra, mắt nhìn tấn thảm kịch ấy, rất lấy làm bất nhẫn, kêu lên:

– Ông… ông đừng hành hạ Thủy cô nương!

Huyết đao lão tổ cười nói:

– Ha ha, đồ nhi ngoan, đừng lo, sư tổ gia gia không làm mất mạng nó đâu.

Lão xoay mình lại, đưa đao lên, xẻo một miếng thịt trên vai trái Thủy Đại, hỏi:

– Chân khí của ngươi đã hao kiệt chưa?

Máu tươi trên vai Thủy Đại lập tức túa ra. Hoa Thiết Cán và Thủy Sinh cùng kêu lên kinh hãi.

Huyết đao tăng lại huơ đao một cái, lại cắt một nhát trên vạt áo Thủy Sinh, nói với Thủy Đại:

– Ngươi gọi ta ba tiếng “hảo gia gia”, gọi không?

Thủy Đại “phì” một tiếng, nhổ vào lão một bãi nước miếng. Huyết đao tăng nghiêng mình tránh, đứng đã không vững, chân hơi loạng choạng, cảm thấy đầu óc choáng váng, cơ hồ sắp ngã. Thủy Đại nhìn thấy rõ ràng, kêu lên:

– Hoa nhị ca, mau ra tay đi, mau ra tay!

Hoa Thiết Cán cũng thấy Huyết đao tăng bước chân không vững, nhưng lại nghĩ: “Chỉ sợ lão cố ý giả vờ suy nhược, dụ mình ra tay. Ác tăng này quỷ kế đa đoan, không thể không phòng bị.”

Huyết đao tăng lại hoành đao, cắt một vết sâu trên vai phải Thủy Đại, quát:

– Ngươi có gọi “hảo gia gia” không?

Thủy Đại đau suýt ngất đi, lớn tiếng quát:

– Họ Thủy ta thà chết không khuất phục! Mau giết ta đi!

Huyết đao tăng nói:

– Ta lại không muốn cho ngươi chết nhanh, ta muốn cắt tay ngươi từng thốn từng thốn một, cắt thịt trên người ngươi từng nhát từng nhát một. Ngươi gọi ta ba tiếng “hảo gia gia”, xin ta tha cho, ta sẽ không giết ngươi!

Thủy Đại mắng:

– Đừng có nằm mơ!

Huyết đao tăng thấy ông rất quật cường, nghĩ rằng có tùng xẻo ông muôn ngàn nhát cũng không thể khuất phục nổi, bèn nói:

– Được, ta lại bào chế con gái ngươi, để xem ngươi có gọi ta là “hảo gia gia” không?

Nói rồi lại lật tay một cái, cắt một vạt quần Thủy Sinh.

Thủy Đại tức giận đến cực điểm, mắt mờ đi, lại suýt ngất xỉu, nhưng nghĩ: “Hoa nhị ca sợ đến mức không còn đấu chí, ta không thể chết. Dù tên ác tăng này có hành hạ Thủy Sinh đến đâu, ta cũng phải cố nén, để chu toàn cho huynh ấy đến cùng.”

Huyết đao tăng cười dữ dằn, nói:

– Lão họ Hoa kia, quỳ xuống xin ta tha tội, ta sẽ tha cho tính mạng lão, để lão đi khắp giang hồ rêu rao rằng ta đã bóc hết y phục của Thủy cô nương như thế nào. Ha ha, thật là tuyệt, hay lắm! Hoa Thiết Cán, ngươi muốn đầu hàng hả! Được, được, ta có thể tha mạng cho ngươi. Huyết đao lão tổ xưa nay không giết kẻ đã đầu hàng.

Hoa Thiết Cán nghe mấy câu đó ý chí càng tiêu tan, lão chỉ một lòng một dạ mong thoát chết, quỳ xuống xin tha tuy là nhục nhã, nhưng so với việc bị cắt từng đao từng đao cho đến chết thì vẫn còn tốt hơn. Lão hoàn toàn không nghĩ rằng, nếu tiến lên đánh thì lập tức có thể giết chết Huyết đao tăng, mà chỉ cảm thấy Huyết đao tăng thật đáng kinh đáng sợ. Chỉ nghe thấy Huyết đao tăng nói:

– Ngươi yên tâm, đừng sợ, ngươi nhận thua đầu hàng, ta sẽ tha mạng cho ngươi, quyết không xẻo ngươi từng nhát.

Mấy câu an ủi này lọt vào tay Hoa Thiết Cán khiến lão cảm thấy rất nhẹ nhàng thoải mái.

Huyết đao tăng thấy mặt lão lộ vẻ vui mừng, không để mất cơ hội, bèn buông Thủy Sinh ra, cầm đao đến bên lão, nói:

– Đại trượng phu có thể co có thể duỗi, được lắm, nếu ngươi đầu hàng thì trước hết hãy vứt đoản thương đi, được lắm, tốt lắm, ta sẽ không giết ngươi, ta sẽ coi ngươi là bạn tốt. Vứt đoản thương đi, vứt đoản thương đi!

Giọng nói thật là dịu dàng.

Mấy câu nói đó của lão như có một sức mạnh không thể kháng cự, Hoa Thiết Cán buông lỏng tay, cây thương rơi xuống trên mặt tuyết. Vứt vũ khí rồi, thế là toàn tâm toàn ý đầu hàng.

Huyết đao tăng lộ ra vẻ cười, nói:

– Tốt lắm, tốt lắm! Ngươi là người tốt, cây đoản thương này của ngươi không xoàng, để ta xem xem! Ngươi bước lui ba bước, được, ngươi rất biết nghe lời, ta nhất định sẽ tha ngươi, ngươi yên một trăm hai mươi cái tâm đi. Bước lùi thêm ba bước nữa.

Hoa Thiết Cán theo lời, bước lui. Huyết đao tăng từ từ cúi mình, cầm đoản thương trong tay, khi ngón tay chạm đến cán thương lão cảm thấy khí lực toàn thân cứ từng giọt từng giọt mất đi, liên tiếp đề khí nhưng không được, thầm sợ hãi: “Mình vừa đấu liên tiếp với ba cao thủ, hao tổn sức lực ghê gớm, e phải mất mười ngày nửa tháng mới khôi phục được nguyên khí.” Tuy đã nắm được cây đoản thương bằng thép ròng trong tay, nhưng vẫn lo ngay ngáy, nếu Hoa Thiết Cán đột nhiên lấy lại can đảm mà ra tay tấn công thì dù chỉ là tay không cũng chỉ cần đụng một cái là lão ngã ngay.

Thủy Đại thấy Hoa Thiết Cán ném thương hàng phục, đã hết hy vọng, hạ giọng nói:

– Sinh nhi, mau giết cha đi!

Thủy Sinh khóc nói:

– Gia gia, con… con không nhúc nhích được.

Thủy Đại nói với Địch Vân:

– Tiểu sư phụ, hãy làm một việc tốt, mau giết ta đi!

Địch Vân hiểu rõ tâm ý của ông, quả là không thể nào sống được, để bị Huyết đao tăng xẻo từng miếng thịt cho đến chết, chịu mọi sự hành hạ thì thà rằng chết càng nhanh càng tốt. Địch Vân trong lòng bất nhẫn, rất muốn giúp ông ta, nhưng nếu mình ra tay thì sẽ chọc giận Huyết đao tăng, mắt thấy lão quá hung ác tàn bạo, không dám đắc tội với lão.

Thủy Đại lại nói:

– Sinh nhi, con hãy cầu vị tiểu sư phụ này, mau giết cha đi, để chậm e không kịp.

Thủy Sinh hoảng loạn, nói:

– Gia gia, cha không thể chết, cha không thể chết.

Thủy Đại tức giận nói:

– Lúc này cha sống không bằng chết, lẽ nào con không thấy?

Thủy Sinh kinh hoàng, nói:

– Vâng, phải! Cha, con chết với cha!

Thủy Đại lại cầu xin Địch Vân:

– Tiểu sư phụ, đại từ đại bi, mau giết tôi đi. Nếu tôi xin lão ác tăng kia tha mạng, Thủy Đại này làm sao có thể mở miệng? Tôi làm sao có thể nhìn hắn làm nhục con gái tôi?

Địch Vân nhìn thấy khí khái anh hùng của Thủy Đại, rất khâm phục, dấy lên lòng nghĩa phẫn, hạ giọng nói:

– Được, tôi sẽ giết ông. Lão hòa thượng có trách mắng cũng mặc kệ!

Thủy Đại cảm thấy mừng lòng, ông tuy bị trọng thương nhưng tâm trí không loạn, nói khẽ:

– Tôi lớn tiếng chửi, tiểu sư phụ một côn đánh chết tôi, ác tăng kia sẽ không trách.

Không đợi Địch Vân trả lời, liền lớn tiếng quát mắng:

– Tiểu dâm tăng kia, nếu ngươi không quay đầu hối cải, vẫn cứ học theo thói lão dâm tăng kia, tương lai sẽ chết bất đắc kỳ tử, nếu ngươi chưa mất thiên lương thì mau từ bỏ huyết đao môn mới phải! Tiểu ác tăng, đồ chó chết, đồ rùa đen! Ngươi mau cải tà quy chính, từ nay về sau hãy làm người tốt!

Địch Vân nghe trong lời quát mắng của ông hàm cả ý khuyên răn, lòng thầm cảm kích, múa cành cây to mấy vòng mà không sao đánh xuống được.

Thủy Đại sốt ruột, tiếng quát mắng càng hung dữ, liếc mắt thấy Hoa Thiết Cán hai đầu gối đã nhũn ra, quỳ trên mặt đất đầy tuyết, rập đầu trước Huyết đao tăng.

Huyết đao tăng gắng dồn chút ít nội lực còn sót lại vào ngón tay trỏ bên phải nhằm “huyệt linh đài” trên lưng Hoa Thiết Cán điểm xuống, một chỉ này quả là dồn hết sức, điểm xong lão không còn khí lực nữa. Hoa Thiết Cán bị điểm huyệt ngã nhào, hai đầu gối của Huyết đao tăng cũng từ từ cong lại.

Thủy Đại thấy Hoa Thiết Cán gục ngã, trong lòng chua xót, mình chết sẽ không còn ai bảo vệ Thủy Sinh, thầm kêu: “Sinh nhi khốn khổ của cha”, lại quát lên:

– Đồ khốn, ngươi còn không đánh ta à?

Địch Vân cũng đã thấy Hoa Thiết Cán ngã gục nghĩ là Huyết đao tăng sẽ lập tức quay lại, bèn cắn răng ra sức múa cành cây quét tới, đánh lên thiên linh cái của Thủy Đại. Đầu Thủy Đại vỡ nát, vị đại hiệp một đời đã chết thê thảm.

Thủy Sinh kêu khóc:

– Gia gia!

Lập tức ngất đi.

Huyết đao tăng nghe tiếng quát mắng của Thủy Đại cho rằng Địch Vân không nhịn được đã ra tay đánh chết, lúc này Hoa Thiết Cán cũng đã bị lão chế phục, Thủy Đại sống hay chết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến cục diện, thế là lão cực kỳ đắc ý, buông tiếng cười dài.

Nhưng lại tự thấy tiếng cười của mình không còn ra tiếng cười nữa, chỉ ngắc ngứ mấy tiếng “a, a, a”. Lão cảm thấy đầu gối rũ ra, loạng choạng đi được mấy bước rồi ngã khuỵu xuống mặt tuyết.

* * *

Hoa Thiết Cán thấy tình cảnh ấy, trong lòng rất hối hận: “Thủy huynh đệ nói không sai, ác tăng này quả nhiên chân khí đã suy kiệt, sớm biết như thế mình chỉ cần ra tay là kết liễu tính mạng của hắn, hà tất phải sợ hãi đến nỗi này. Càng hà tất phải rập đầu xin hắn tha mạng. Mình vốn là một đại hiệp Trung Nguyên đã thành danh mấy chục năm, vậy mà lại quỳ gối khẩn cầu tên ác tăng, thói tham sống sợ chết, đê tiện vô sỉ như thế nghĩ đến lại thấy chẳng còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất nữa. Nhưng lúc này yếu huyệt “linh đài” đã bị điểm, phải mất mười hai canh giờ mới giải được. Huyết đao tăng nếu không để lộ nhược điểm chân khí bị suy kiệt thì còn có hy vọng sống, nay thì thế nào lão cũng không thể dung tha cho mình được. Bởi nếu tha mình thì khi huyệt linh đài đã tự giải khai, lẽ nào mình không ra tay?

Quả nhiên nghe Huyết đao tăng nói:

– Đồ nhi, mau giết người này đi. Người này cực kỳ gian ác, không để hắn sống được.

Hoa Thiết Cán kêu lên:

– Lão đã nhận lời tha mạng cho ta. Lão đã nói là không giết kẻ đầu hàng, làm sao lại có thể không giữ tín nghĩa?

Lão biết rõ là biện bạch cũng chẳng ích gì, nhưng nay đại nạn lâm đầu, chỉ còn cách ra sức tìm đường sống sót.

Huyết đao tăng cười gằn, nói:

– Cao tăng huyết đao môn chúng ta coi hai chữ “tín nghĩa” như cục cứt chó. Ngươi đã cúi đầu xin ta tha mạng, tức là tự ngươi đã suy tôn ta, ha ha ha ha! Đồ nhi ngoan, mau giáng một gậy giết chết hắn đi! Để người này sống thì cực kỳ nguy hiểm.

Lão thực sự rất sợ Hoa Thiết Cán, biết là cú điểm huyệt vừa rồi, nội lực không được mạnh như lúc bình thường, lực đạo không thể thấu vào kinh mạch, người này võ công rất cao, e rằng qua mấy canh giờ sẽ tự giải khai huyệt đạo, lúc ấy tình thế sẽ thay đổi, mình sẽ thành miếng thịt trên thớt.

Địch Vân không biết Huyết đao tăng nội lực đã hao kiệt, chỉ nghĩ: “Vừa rồi mình giết Thủy đại hiệp là để giúp ông ta đỡ đau khổ. Vị Hoa đại hiệp này còn lành lặn, hà tất phải giết ông ta.” Bèn nói:

– Ông ấy đã bị sư tổ gia chế phục, tôi thấy nên tha cho ông ta!

Hoa Thiết Cán vội nói:

– Đúng thế, đúng thế! Vị tiểu sư phụ này nói rất đúng. Tôi đã bị các vị chế phục, không hề có ý phản kháng, cần gì phải giết tôi?

Thủy Sinh từ trong hôn mê dần dần tỉnh lại, gào khóc:

– Gia gia, gia gia!

Nghe thấy Hoa Thiết Cán xin tha một cách vô sỉ như thế, mắng:

– Hoa bá bá, bác cũng là một nhân vật danh tiếng trong võ lâm, sao lại để mất mặt đến thế? Mắt thấy cha tôi chịu khổ hình thê thảm… cha tôi… cha tôi… cha…

Nói đến đây, cô khóc không thành tiếng.

Hoa Thiết Cán nói:

– Hai vị sư phụ này võ công cao cường, chúng ta không địch nổi, chi bằng quy thuận, nghe theo họ mới phải!

Thủy Sinh khinh bỉ:

– Phì, phì! Đồ mặt dày!

Huyết đao tăng nghĩ cứ thêm một khắc lại thêm một phần nguy hiểm, nhưng lúc này bản thân không có một chút khí lực, muốn đứng dậy đi vài bước cũng không được. Lão nói:

– Hảo hài nhi, nghe lời sư tổ gia gia đi, mau giết thằng cha này đi!

Thủy Sinh ngoảnh đầu lại, thấy đầu phụ thân là một đống nát bét, cực kỳ thê thảm. Nghĩ đến sự hiền từ dịu dàng của cha đối với mình, cốt nhục tình thâm, cơ hồ lại ngất đi. Thủy Đại yêu cầu Địch Vân đánh chết mình, Thủy Sinh vốn đã tận tai nghe thấy nhưng lúc này quá đau đớn lại quên mất, chỉ biết rằng Địch Vân đã đánh vỡ óc cha mình, trong lòng bi phẫn không thể nén nổi, bỗng cảm thấy một luồng khí nóng từ đan điền dâng lên. Người đã luyện nội công đến mức cao thâm thì chân khí có thể tự giải khai huyệt đạo. Nhưng luyện đến cảnh giới ấy đâu phải là chuyện nhỏ, Hoa Thiết Cán còn chưa đạt đến mức ấy, huống gì Thủy Sinh. Nhưng mỗi khi đại nạn giáng xuống, trong một biến cố đặc thù, tiềm năng trong cơ thể đột ngột sinh ra, khiến người ta làm được những việc mà lúc thường không thể làm được. Lúc này Thủy Sinh bi phẫn đến cực độ, khí lực trong người cuộn lên, những huyệt đạo bị phong bế đã tự giải khai. Cũng không rõ từ đâu bỗng sinh ra một luồng lực khí, cô nhảy vọt lên, nhặt lấy cành cây bên cạnh phụ thân, đánh túi bụi vào đầu Địch Vân.

Địch Vân né bên trái tránh bên phải, tuy tránh được không bị trúng vào mặt nhưng trên trán, trên đầu, trên tai, trên vai… liên tiếp bị cô ta đánh trúng mười mấy gậy. Địch Vân giơ tay đỡ, kêu lên:

– Sao cô lại đánh tôi? Là cha cô yêu cầu tôi đánh chết ông ấy đấy chứ.

Thủy Sinh tỉnh ra, nghĩ lời ấy không sai, ngẩn ra một lúc rồi thở hắt ra, ngã ngồi xuống, khóc vang.

Huyết đao tăng nghe Địch Vân nói “là cha cô xin tôi giết ông ấy”, ý nghĩ xoay chuyển, đã rõ nguyên ủy, không nén được tức giận: “Thằng tiểu tử này lại đi giúp kẻ địch, thật là đại nghịch bất đạo.”

Lập tức muốn vung đao giết Địch Vân, nhưng cánh tay không cử động được, mới nhận ra từ vai đến tay mình đều tê dại, bèn không để lộ sự bất lực, mỉm cười nói:

– Đồ nhi ngoan, ngươi hãy ngắm nghía con bé này, đừng để nó phát khùng. Nó đã là người của ngươi, ngươi muốn xử lý nó thế nào, sư tổ gia gia cũng để ngươi tự nhiên.

Hoa Thiết Cán đã nhìn ra ngành ngọn, kêu lên:

– Cháu Thủy, cháu lại đấy, ta có chuyện nói với cháu.

Lão biết Huyết đao tăng không còn một chút khí lực, đã không có gì đáng ngại, Địch Vân đã gãy chân, lúc này trong bốn người Thủy Sinh lại là mạnh nhất, phải bảo cô ta diệt trừ hai tên ác tăng.

Nào ngờ Thủy Sinh cực kỳ căm hận thái độ ti bỉ đê tiện của lão, cô nghĩ: “Nếu ngươi không ném thương đầu hàng, cha ta cũng không đến nỗi mất mạng.” Nghe Hoa Thiết Cán kêu gọi cô cũng không thèm để ý.

Hoa Thiết Cán lại nói:

– Cháu Thủy, cháu muốn thoát khỏi khốn cảnh, trước mắt chỉ có một cơ hội tốt. Cháu lại đây, ta sẽ nói với cháu.

Huyết đao tăng tức giận nói:

– Ngươi lu loa cái gì, còn không câm mõm đi, ta sẽ một đao giết chết ngươi.

Hoa Thiết Cán vẫn không dám chống lại ác tăng, chỉ không ngừng lấm lét đưa mắt ra hiệu cho Thủy Sinh. Thủy Sinh tức giận nói:

– Có chuyện gì thì nói đi, nhấm nháy cái quỷ quái gì thế?

Hoa Thiết Cán nghĩ bụng: “Lão ác tăng này đang vận khí khôi phục nội lực. Lão chỉ cần khôi phục được một phần, cầm được đao lên, nhất định là sẽ giết mình trước. Thời cơ quá ngắn ngủi cấp bách, ta nói ra càng nhanh càng tốt”, bèn nói:

– Cháu Thủy, cháu xem vị lão hòa thượng này, sau mấy cuộc kịch đấu, nội lực của lão cạn kiệt, ngồi trên mặt tuyết, đứng lên không nổi.

Lão biết rõ lúc này Huyết đao tăng không đủ sức gia hại mình nhưng cũng không dám thất kính với lão, vẫn gọi là “vị lão hòa thượng.”

Thủy Sinh nhìn Huyết đao tăng, thấy quả thực lão nằm nghiêng trên tuyết, tình trạng cực kỳ thảm hại, nghĩ đến mối thù giết cha, cũng không quan đến lời Hoa Thiết Cán là thật hay giả, vung cành cây trong tay nhằm đầu Huyết đao tăng chém xuống.

Huyết đao tăng nghe Hoa Thiết Cán cứ kêu gọi Thủy Sinh cũng biết được ý định của lão, trong lòng thầm lo lắng, ý nghĩ xoay chuyển rất nhanh: “Con bé này nếu đến hại ta, thì phải làm sao đây?” Lão lại đề khí, chỉ cảm thấy đan điền trống rỗng, toàn thân càng yếu ớt, bàng hoàng vô kế khả thi, cành cây trong tay Thủy Sinh lại đang đánh xuống.

Thủy Sinh vốn sành sử dụng trường kiếm, không quen sử côn, lại thêm nôn nóng báo thù cho cha, một gậy đánh ra chẳng có bài bản gì cả, dưới nách lại lộ ra chỗ sơ hở. Huyết đao tăng nghiêng mình, muốn dùng cây đoản thương gạt ngang qua, nhưng vì quá suy nhược nên chỉ chuyển động một chút đầu mũi thương, lực bất tòng tâm, đành gắng sức hướng cán thương vào huyệt “đại bao” dưới nách Thủy Sinh. Thủy Sinh quá bi phẫn, không phòng bị quỷ kế của lão, cành cây nện xuống trúng vào mặt Huyết đao tăng làm lão toạc da rách thịt, nhưng cũng đúng lúc ấy, huyệt đạo dưới nách tê dại, chân tay bủn rủn, ngã nhào xuống.

Huyết đao tăng bị một gậy của Thủy Sinh nện cho đầu váng mắt hoa nhưng mưu kế cũng đã có hiệu quả, Thủy Sinh đã để cho cán thương chọc đúng huyệt “đại bao” của mình. Huyết đao tăng đắc ý, ha ha cười lớn, nói:

– Lão tặc họ Hoa kia, ngươi bảo ta khí lực suy kiệt, sao ta lại chế phục được con nhãi kia?

Lão dùng cán thương nhằm đúng huyệt “đại bao” của Thủy Sinh, để cho cô vô ý “tự điểm huyệt mình”, nhưng thân lão lại che khuất, cả Địch Vân và Hoa Thiết Cán đều không nhìn thấy, đều cho rằng lão đã ra tay điểm huyệt Thủy Sinh.

Hoa Thiết Cán kinh hoảng, lắp bắp nói:

– Lão tiền bối thần công phi thường, tại hạ là phàm phu tục tử, ếch ngồi đáy giếng, thật là không tưởng tượng nổi. Nội công của lão tiền bối thâm hậu đến thế, đừng nói là thiên hạ vô song mà còn có thể nói là “không tiền tuyệt hậu”.

Hoa Thiết Cán hết lời tâng bốc Huyết đao tăng, mà giọng nói run run, trong lòng vô cùng sợ hãi.

Huyết đao tăng thầm kêu: “Xấu hổ!” Lão tự biết tuy tạm thời thoát chết, nhưng huyệt đạo Thủy Sinh chỉ bị điểm nhẹ bởi ngoại lực chứ không phải do sức ngón tay mình, không bao lâu huyệt đạo sẽ tự giải. May mắn ấy chỉ được một lần chứ không thể có lần thứ hai. Nếu con bé kia nhặt lấy huyết đao mà giết mình thì không thê dùng cán thương điểm huyệt được nữa, cái đầu lâu của mình có thế bay lên lung trời. Bây giờ điều quan trọng nhất là phải khôi phục được nội lực trước khi huyệt đạo của Thủy Sinh tự giải để ra tay giết con bé ấy trước. Nhưng thực trạng nội lực của lão lúc này nếu hơi cố gắng một chút thì sẽ xảy ra đại họa. Lão bèn không nói một tiếng, nằm xuống, chầm chậm thở lấy hơi. Lúc này lão có muốn xếp bằng tròn ngồi kiết già cũng không thể được, chỉ có thể nằm thở, cũng không dám nhắm mắt, sợ ba người kia có động tĩnh gì bất lợi cho lão.

Địch Vân trên đầu, trên vai, trên tay, trên chân chỗ nào cũng đau đớn không chịu nổi, chỉ cắn răng không rên rỉ, trong lòng rối bời, không suy nghĩ được điều gì.

Thủy Sinh nằm cách Huyết đao tăng không đầy ba thước, mới đầu hết sức hoảng sợ, không biết lão ác tăng kia sẽ tiếp tục đối phó với mình như thế nào, sau một lúc lâu, thấy lão không hề nhúc nhích mới hơi yên tâm. Lòng cô đau thương cực điểm, thể lực không chịu đựng nổi, nằm được một lúc thì thiêm thiếp ngủ.

Huyết đao tăng mừng thầm: “Tốt nhất là ngươi cứ ngủ mấy canh giờ, thế là được rồi.”

Lúc này Hoa Thiết Cán quan sát, không biết Địch Vân vì mềm lòng hay vì hồ đồ mà không có ý giết mình, sự sống chết của mình toàn phụ thuộc vào Thủy Sinh có thể ra tay hành động trước Huyết đao tăng hay không, thấy cô thiêm thiếp ngủ, lão vội gọi:

– Thủy điệt nữ, cháu Thủy, muôn vạn lần không thể ngủ được, hai tên dâm tăng này sẽ ra tay với cháu đấy!

Nhưng Thủy Sinh quá chừng mệt mỏi, trong mơ nàng chỉ ú ớ được vài tiếng, làm sao đánh thức được cô. Hoa Thiết Cán kêu lớn:

– Không xong rồi, không xong rồi! Mau tỉnh lại, ác tăng đang muốn hại cháu!

Huyết đao tăng cả giận, nghĩ bụng: “Cứ la lối thế này, nguy hiểm quá.” Lão bèn nói với Địch Vân:

– Đồ nhi ngoan, ngươi bước tới cho lão kia một nhát đao xong đời.

Địch Vân nói:

– Người này đã đầu hàng, không nên giết lão nữa.

Huyết đao tăng nói:

– Hắn có đầu hàng đâu? Ngươi không nghe thấy hắn cứ kêu to gọi nhỏ, toàn là muốn hại ông cháu ta.

Hoa Thiết Cán nói:

– Tiểu sư phụ, sư tổ của ngươi hung bạo độc ác, lúc này chân khí của lão mất hết, hành động không được, nên mới bảo ngươi đến giết ta. Đợi đến khi nội lực của lão khôi phục, trách ngươi không theo lệnh thầy, sẽ giết ngươi. Chi bằng hãy ra tay trước, giết lão đi.

Địch Vân lắc đầu nói:

– Ông ấy không phải là sư tổ của tôi, nhưng có ơn cứu mạng tôi, làm sao tôi có thể giết ông ấy?

Hoa Thiết Cán nói:

– Lão không phải là sư tổ của ngươi à? Thế thì hãy ra tay mau lên, không thể chần chừ được đâu. Hòa thượng huyết đao môn hung ác tàn nhẫn, không có tình nghĩa gì đâu. Ngươi có muốn sống không?

Trong lúc nôn nóng, lời lẽ của lão không còn một chút kính trọng nào đối với Huyết đao tăng.

Địch Vân vẫn do dự, biết rõ lời Hoa Thiết Cán là có lý, nhưng bảo giết Huyết đao tăng thì dù thế nào cũng không nỡ ra tay. Nhưng nghe Hoa Thiết Cán không ngớt miệng khuyên nhủ thúc giục, sốt cả ruột, quát lên:

– Ngươi còn nheo nhéo nữa, ta giết ngươi trước.

Hoa Thiết Cán thấy tình thế bất lợi, không dám nói nữa, chỉ mong Thủy Sinh mau tỉnh lại, một lúc sau lại lớn tiếng kêu:

– Thủy Sinh, Thủy Sinh, cha cháu sống lại rồi kìa, cha cháu sống lại rồi kìa!

Đang mơ màng trong giấc mộng, nghe có người kêu: “Cha cháu sống lại rồi”, Thủy Sinh trong lòng mừng vui lập tức tỉnh lại, kêu lên:

– Gia gia, gia gia!

Hoa Thiết Cán nói:

– Cháu Thủy, cháu bị ác tăng kia điểm huyệt ở chỗ nào? Lão chẳng còn mấy khí lực, có điểm trúng cũng không nguy hiểm lắm, bác sẽ dạy cháu pháp môn vận khí giải huyệt.

Thủy Sinh nói:

– Xương sườn ở nách bên trái của cháu bị tê dại, không cử động được.

Hoa Thiết Cán nói:

– Đó là huyệt “đại bao”, dễ lắm, cháu hít vào một hơi, giữ khí ở đan điền, sau đó từ từ dẫn luồng khí ấy, đánh thông huyệt “đại bao”, sau khi giải được huyệt, thì có thể báo thù được cho cha cháu.

Thủy Sinh gật gật đầu, nói:

– Được!

Cô tuy vẫn còn rất giận Hoa Thiết Cán, nhưng nghĩ cho cùng lão vẫn là bạn chứ không phải là thù, mà lời lão chỉ bảo quả thực là có ích cho mình, bèn theo lời, hít vào một hơi, vận khí vào đan điền.

Huyết đao tăng đảo mắt một vòng, chăm chú nhìn động tĩnh của Thủy Sinh, thấy cô nghe lời Hoa Thiết Cán rồi gật gật đầu, không nén được thầm kêu khổ, nghĩ bụng: “Con nhãi này đã gật đầu được, cũng chả cần ý thủ đan điền để giải khai huyệt đạo, e rằng không đợi tàn một que hương nữa, nó đã có thể cử động được.” Lão bèn mắt chăm chú vào đầu mũi, mũi quán tâm, quan sát xem Thủy Sinh đã có thế hành động được chưa.

Công phu dẫn khí giải huyệt rất thâm ảo, đến Hoa Thiết Cán cũng chưa làm nôi, Thủy Sinh chỉ dựa theo mấy lời chỉ của lão, làm sao có thể thực thi có hiệu quả? Nhưng theo sự lưu chuyển huyết mạch, huyệt đạo bị phong bế của cô đã dần dần được giải một cách tự nhiên chứ chẳng phải là do tác dụng của điều vận chân khí. Chẳng bao lâu cô đã cử động được.

Hoa Thiết Cán vui mừng nói:

– Thủy diệt nữ, được rồi, cháu cứ tiếp tục dùng cách này đế giải khai huyệt đạo, sẽ đứng dậy được ngay.

Thủy Sinh lại gật gật đầu, cảm thấy chân tay không còn tê dại nữa, thở phào một hơi, dần dần gắng ngồi dậy.

Hoa Thiết Cán lại bảo:

– Hay lắm, cháu Thủy, cháu nhất cử nhất động đều làm theo lời bác chỉ dẫn, không được rối trật tự, điều này rất quan trọng, nếu không khó lòng báo được đại thù. Nào, bước thứ nhất, nhặt lấy cây loan đao dưới đất.

Thủy Sinh từ từ đưa tay đến bên Huyết đao tăng, nhặt cây huyết đao lên.

Địch Vân nhìn hành động của cô, biết rằng bước tiếp theo là sẽ vung đao chém, dùng huyết đao cắt đầu. Chỉ thấy đôi mắt của Huyết đao tăng như mở lại như nhắm, như không đế ý gì đến nguy hiểm trước mắt.

Lúc này, Huyết đao tăng cảm thấy chân tay mình đã hơi có khí lực, chỉ cần độ nửa canh giờ nữa, tuy kình lực chưa mạnh nhưng đã có thể hành động được, không ngờ Thủy Sinh đã cầm được huyết đao, biết là đại nạn lâm đầu, bèn tập trung toàn bộ khí lực yếu ớt vào tay phải.

Lại nghe Hoa Thiết Cán bảo tiếp:

– Bước thứ hai, trước hết hãy đến giết tiểu hòa thượng. Mau, mau! Giết tiểu hòa thượng trước!

Tiếng kêu ấy đều ngoài dự kiến của Thủy Sinh, Huyết đao tăng và Địch Vân. Hoa Thiết Cán nói:

– Lão hòa thượng còn chưa cử động được, cần giết tiểu hòa thượng trước. Nếu cháu giết lão ác tăng trước thì tên tiểu ác tăng kia sẽ liều mạng với cháu đấy!

Thủy Sinh nghĩ lão nói không sai, liền giơ đao bước tới trước Địch Vân, trong lòng hơi do dự: “Y từng giúp cha mình, để cha khỏi bị lão ác tăng kia hành hạ. Mình có nên giết y không?” Do dự chỉ trong khoảnh khắc rồi quyết định ngay: “Đương nhiên phải giết!”

Cô vung huyết đao nhằm cổ Địch Vân chém!

Địch Vân vội vàng lăn một vòng né tránh. Đao thứ hai của Thủy Sinh lại giáng xuống, Địch Vân lại lăn một vòng, chụp lấy một cành cây dưới đất, ngăn nhát đao của cô. Thủy Sinh chém liền ba nhát, cành cây bị đứt làm ba đoạn, lại vung đao chém xuống. Bỗng cổ tay tê dại, huyết đao bị một bàn tay từ phía sau đoạt mất.

Tước binh khí của cô chính là Huyết đao tăng. Khí lực của ác tăng có hạn, không được phí sức, lão nhìn cực chuẩn xác, ra tay một cái lập tức hữu hiệu, đoạt được huyết đao, chẳng cần suy nghĩ đôi hồi, thuận tay nhằm cổ Thủy Sinh chém xuống. Thủy Sinh không kịp né tránh, rợn gáy.

Địch Vân hét lên:

– Đừng giết người nữa!

Rồi chồm dậy vung đoạn cành cây đánh vào cổ tay Huyết đao tăng. Nếu lúc bình thường, Huyết đao tăng đời nào để Địch Vân đánh trúng? Nhưng lúc này lão quá suy nhược, chỉ có chút xíu công lực, ngón tay hơi lỏng, huyết đao tụt mất. Hai người đồng thời cúi xuống nhặt đao. Tay Địch Vân ở phía dưới, chạm đến cán đao trước. Huyết đao tăng giơ cả hai tay, chẹt cứng lấy cổ Địch Vân.

Địch Vân nghẹt thở, buông huyết đao, hai tay chới với. Huyết đao tăng biết khí lực mình yếu ớt, lúc này nếu không bóp chết Địch Vân thì mình sẽ chết dưới tay thằng oắt này. Lão không biết rằng Địch Vân không hề có ý hại lão, chỉ là không nỡ để lão giết Thủy Sinh nên bất giác đã ra tay cứu. Cổ họng Địch Vân bị Huyết đao tăng bóp chặt, mỗi lúc một thêm ngạt thở, ngực như muốn vỡ. Hai tay Địch Vân quờ quạng muốn đẩy Huyết đao tăng ra. Huyết đao tăng cho rằng tiểu hòa thượng có ý phản nghịch, theo quy củ của “huyết đao môn”, phải trừ kẻ phản đồ trước khi giết kẻ địch. Lão cho rằng Hoa Thiết Cán trong một canh giờ nữa vẫn chưa hành động được, còn Thủy Sinh là con gái dễ đối phó, bèn toàn sức lực vận vào hai tay bóp cổ Địch Vân.

Địch Vân không thở được, mặt tím bầm, hai tay không còn sức phản kích, dần dần thõng xuống, trong đầu chỉ còn một ý nghĩ: “Mình sắp chết rồi, mình sắp chết rồi!”

Thủy Sinh mới đầu thấy hai người lăn lộn trong tuyết, thấy Địch Vân vì muốn cứu mình mà chồm dậy, nhưng rồi lại nghĩ đây là hai tên ác tăng tàn sát lẫn nhau, tốt nhất là để cho hai tên “lưỡng bại câu thương”, cả hai cùng chết. Nhưng nhìn một lúc chỉ thấy hai tay Địch Vân mềm oặt thõng xuống, đã không còn sức phản kích thì lại kinh hoảng nghĩ bụng: “Lão ác tăng kia giết tiểu ác tăng rồi, nhất định sẽ giết mình, vậy thì phải làm sao đây?”

Hoa Thiết Cán lại bảo:

– Thủy diệt nữ, đây là dịp tốt để hạ thủ, mau mau cầm lấy loan đao.

Thủy Sinh y lời nhặt huyết đao lên. Hoa Thiết Cán lại bảo:

– Bước tới giết hai tên ác tăng đi.

Thủy Sinh giơ huyết đao bước tới mấy bước, quyết giết chết Huyết đao tăng, nhưng thấy lão với Địch Vân cứ xoắn lấy nhau, lưỡi huyết đao này chém sắt như bùn, một đao chém xuống thế tất sẽ đồng thời giết chết cả hai, nghĩ rằng Địch Vân mới cứu mạng mình, tiểu hòa thượng này tuy tà ác nhưng vẫn là ân nhân cứu mạng, lẽ nào lấy oán báo ân? Cô muốn đợi có kẽ hở để chỉ giết Huyết đao tăng, nhưng tay tê chân nhũn, chẳng biết làm sao.

Đang lúc chần chừ, Hoa Thiết Cán lại hối thúc:

– Hạ thủ nhanh lên, một chút xíu nữa là mất thời cơ, báo thù cho cha cháu chính là lúc này.

Thủy Sinh nói:

– Hai hòa thượng xoắn lấy nhau, không tách ra được.

Hoa Thiết Cán tức giận nói:

– Cháu thật là hồ đồ, bác bảo cháu giết luôn cả hai tên!

Lão là anh hùng đã nổi tiếng trong võ lâm, là chưởng môn của “Giang Tây ưng trảo thiết thương môn”, mỗi lời nói ra đều là mệnh lệnh. Nhưng lão quên mất lúc này lão không thể nhúc nhích được, Thủy Sinh thì đã khinh ghét lão cực điểm. Nghe những lời ngông cuồng ấy, cô nổi giận, lùi lại ba bước, nói:

– Hừ! Bác là anh hùng hào kiệt, sao vừa rồi không quyết một phen tử chiến với ác tăng kia? Bác có bản lĩnh thì tới mà giết đi.

Hoa Thiết Cán thấy tình hình bất lợi, vội cười nịnh nọt:

– Cháu gái ngoan, là Hoa bá bá này lú lẫn, cháu đừng giận. Cháu giết luôn cả hai tên ác tăng này để báo thù cho cha cháu. Tên đại ác Huyết đao lão tổ chết dưới tay cháu, tin này truyền khắp giang hồ, người trong võ lâm ai chẳng khâm phục Thủy nữ hiệp hiếu nghĩa vô song, anh hùng quán thế?

Lão càng nịnh nọt Thủy Sinh càng tức giận, quắc mắt nhìn lão, lại bước tới, nhắm vào xương sống Huyết đao tăng, định cắt hai nhát để lão chảy máu không cầm được mà không làm Địch Vân bị thương.

Hai tay Huyết đao tăng bóp cổ Địch Vân vẫn không hề nới lỏng, nhưng lão vẫn ngoái đầu quan sát động tĩnh của Thủy Sinh, thấy cô giơ đao bước tới đoán được ý nghĩ của cô, bèn trầm giọng nói:

– Ngươi cứ cứa nhẹ trên lưng ta hai nhát, cẩn thận đừng làm tiểu hòa thượng bị thương.

Thủy Sinh giật mình, cô rất úy kỵ Huyết đao tăng, thấy lão bảo mình cứa hai nhát dao lên xương sống lão ngờ rằng lão nhất định có ý đồ xảo quyệt gì đây, quyết không thể nghe lời lão được. Nào ngờ Huyết đao tăng đang liều chơi cái bài đánh đòn tâm lý trong hư có thực trong thực có hư, cô ngẩn ra một chút, lưỡi đao lại không cắt xuống.

Địch Vân bị Huyết đao lão tổ bóp chặt cổ họng, luồng trọc khí trong phổi đã mấy phen cuộn lên muốn tìm lối thoát ra nhưng yết hầu đã bị bóp chặt, luồng khí ấy dâng lên đến họng lại dội ngược xuống. Một luồng trọc khí tả xung hữu đột quay cuồng trong cơ thể, không tìm được lối thoát ra. Nếu là người thường ắt sẽ dần dần hôn mê rồi mất mạng. Nhưng Địch Vân lại không cách gì hôn mê được, chỉ cảm thấy toàn thân bức bối không sao chịu nổi, bức bối đến cực điểm, thầm kêu: “Mình sắp chết rồi, mình sắp chết rồi!”

Đột nhiên Địch Vân cảm thấy ngực và bụng đau chói lên, luồng khí trong người mỗi lúc một phồng lên, mỗi lúc một nóng rực, như một nồi hơi nước không có chỗ xì ra, ép đến mức muốn nổ tung cả ngực và bụng. Rồi ở huyệt “hội âm” tuồng như bị hơi nóng xuyên thủng một lỗ, lập tức cảm thấy từng sợi từng sợi nhiệt khí từ huyệt “hội âm” đi xuyên qua huyệt “trường cường” ở cuối xương cùng. Hai huyệt “hội âm” và “trường cường” chỉ cách nhau vài thốn, nhưng “hội âm” thuộc mạch nhâm, “trường cường” lại thuộc mạch đốc, nội tức (khí bên trong) của hai mạch vốn không tương thông. Nội tức trong cơ thể Địch Vân lúc này lại cộng thêm một luồng trọc khí mãnh liệt không có đường phun ra xung đột cực mạnh, trong nguy cấp bỗng đột phá, khai thông mạch nhâm và mạch đốc.

Luồng nội tức này vừa tràn qua huyệt “trường cường”, lập tức từ các huyệt “yêu du”, “dương quan”, “mệnh môn”, “huyền xu” men theo xương sống mà xông lên, khai thông các yếu huyệt của mạch nhâm và mạch đốc trên lưng, rồi tiếp tục mở các huyệt “tích trung”, “trung xu”, “cân túc”, “chí dương”, “linh đài”, “thần đạo”, “thân trụ”, “đào đạo”, “đại chùy”, “phong phủ”, “não hộ”, “cường gian”, “hậu đỉnh”, mà lên tận huyệt “bách hội” giữa đỉnh đầu. Địch Vân ở trong tù được Đinh Điển truyền thụ tâm pháp “Thần chiếu kinh”, môn nội công này cực kỳ tinh thâm khó luyện, tư chất Địch Vân không sáng láng cho lắm, về sau lại không được Đinh Điển chỉ dẫn, e rằng thêm hai ba chục năm nữa cũng chưa chắc luyện thành. Không ngờ trong khoảnh khắc sống chết cách nhau một sợi tóc này lại khai thông được mạch nhâm với mạch đốc. Đó là vì yết hầu bị bóp chặt, luồng trọc khí trong người không có chỗ phát tiết, không tìm lối thoát không được. Lại nữa, Địch Vân từng luyện qua nội công tà phái “huyết đao kinh”, con đường vận hành của nội tức tuy rất khác nội công “Thần chiếu kinh” nhưng cũng có công hiệu đột phá cửa ải.

Luồng nội tức này xông lên tới huyệt “bách hội”, Địch Vân cảm thấy mặt mũi mát rượi, một luồng khí mát lành chảy qua trán xuống sống mũi, môi, thông đến huyệt “thừa tương” ở môi dưới.

Huyệt “thừa tương” này đã thuộc mạch nhâm, thế là từ mạch đốc lại trở về mạch nhâm. Các huyệt thuộc mạch nhâm đều ở phía trước thân thể người ta, luồng nội tức mát lành này cứ thẳng đường đi xuống, từ các huyệt “liêm tuyền”, “thiên đột” mà đến “toàn cơ”, “hoa cái”, “ngọc đường”, “đản trung”, “trung đình”, “cưu vĩ”, “cự khuyết”, đến tận các huyệt “thủy phần”, “thần khuyết”, “khí hải”, “thạch môn”, “quan nguyên”, “trung xu”, “khúc cốt” rồi trở về huyệt “hội âm”.

Vận hành được một vòng tuần hoàn như thế, bao nhiêu khí uất đã được giải tỏa, Địch Vân cảm thấy vô cùng sảng khoái. Nội tức vận hành lưu thông được một lần thứ nhất là cực khó, nhưng khi hai mạch nhâm và đốc đã được khai thông, đường lối đã thông thuộc thì cứ thế mà lưu chuyển nhanh chóng, lần thứ hai, thứ ba một cách tự nhiên thoải mái, trong khoảnh khắc đã lưu chuyển mười tám vòng.

* * *

Nội công “Thần chiếu kinh” là kỳ công đệ nhất của võ học, Địch Vân đã bắt đầu tu tập ở trong tù, luyện đã lâu, trong thời khắc này thoát nhiên đạt, nội lực vận hành một vòng, kình lực lại tăng thêm một phần, cảm thấy tứ chi bách tiết đâu đâu cũng tràn đầy tinh thần khí lực, cuồn cuộn dồi dào, thậm chí đến từng sợi tóc cũng như tràn đầy sinh lực.

Huyết đao tăng đâu có ngờ trong cơ thể con người đang ngắc ngoải dưới mười ngón tay của lão đã xảy ra một sự biến hóa to lớn như vậy, lão càng ra sức bóp chặt yết hầu Địch Vân đồng thời chăm chú để phòng huyết đao trong tay Thủy Sinh.

Kình lực trong cơ thể Địch Vân mỗi lúc một mạnh, trong lòng vẫn hết sức sợ hãi, chỉ mong giãy giụa thoát thân, hai tay vung vẩy quờ quạng loạn xạ vẫn không chạm được vào thân thể Huyết đao tăng, chân trái đạp hú họa mấy cái về phía sau, bỗng một cú đạp trúng vào bụng dưới Huyết đao tăng. Lực đạo của cú đạp này cực mạnh, Huyết đao tăng vốn đã nội lực hao kiệt, làm sao có được chút sức chống đỡ nào? Thân hình lão bỗng bay lên không trung như đằng vân giá vũ.

Thủy Sinh và Hoa Thiết Cán cùng kinh hãi, kêu lên, không biết đã xảy ra biến cố gì, chỉ thấy Huyết đao tăng bỗng vọt cao lên, xoay một vòng giữa không trung, rồi đầu dưới chân trên, như cây bút rơi thẳng xuống, “phập” một tiếng, thân hình cắm vào trong đống tuyết, sâu mấy thước, trên mặt tuyết chỉ lộ ra đôi chân, hoàn toàn bất động.

Hồi 08: Tấm áo lông vũ

Thủy Sinh và Hoa Thiết Cán đều ngẩn người, không biết Huyết đao tăng lại thi triển môn võ công thần kỳ nào đây.

Cổ họng Địch Vân thoát khỏi mười ngón tay xiết chặt, thở gấp mấy hơi, chỉ mong thoát chết, thử nhảy lên, thân hình đã đứng thẳng, nhưng chân phải bị gãy “ái chà” một tiếng, ngã sấp ngay xuống, vội chống tay phải xuống đất, đứng lò cò bằng chân trái, thấy hai chân của Huyết đao lão tổ chổng lên trời, cắm ngược người trong tuyết. Địch Vân ngơ ngác không hiểu, dụi dụi hai mắt, thấy rõ Huyết đao lão tổ thật sự cắm đầu trong tuyết không hề cựa quậy.

Khi Địch Vân nhổm dậy, Thủy Sinh chỉ sợ tiểu hòa thượng này gia hại mình, hoành đao ngang ngực, lùi lại mấy bước, chăm chăm ngó vào Địch Vân. Chỉ thấy tiểu hòa thượng đưa tay gãi đầu, mặt đầy vẻ hoang mang ngơ ngác.

Bỗng nghe Hoa Thiết Cán tán dương:

– Tiểu sư phụ thần công cái thế, thật là tuyệt thế vô song, cú đá chết tươi lão dâm tăng này kình lực có hơn ngàn cân! Hành vi hiệp nghĩa này khiến người ta phải hết lòng khâm phục.

Thủy Sinh nghe lão nói vậy, không nhịn được quát lên:

– Lão đừng có nói nhăng nói cuội, không sợ người ta lợm mửa à?

Hoa Thiết Cán lại nhăn nhở:

– Huyết đao tăng đại gian cực ác, ai ai cũng có quyền giết hắn. Tiểu sư phụ đây đại nghĩa diệt thân, khí tiết lẫm liệt, thật là hiếm có, hiếm có, đáng mừng, đáng mừng.

Lão tận mắt thấy Huyết đao tăng hai chân chổng ngược, rõ ràng là đã chết bèn giở giọng tâng bốc Địch Vân. Kỳ thực lão tuy thâm hiểm nhưng đã từng một đời hành hiệp, chưa từng làm điều gì gian ác, nếu không thì sao có thể kết giao với ba hiệp khách Lục, Lưu, Thủy mấy chục năm trời, tình như huynh đệ? Chỉ vì hôm nay lỡ một thương giết chết người em kết nghĩa Lưu Thừa Phong, tâm thần lão thống khổ hoảng loạn, hào khí một đời bỗng dưng mất hết, lại thêm sau khi bị Huyết đao tăng sỉ nhục, những ý nghĩ ti bỉ đê tiện bấy lâu bị nén chặt tận đáy lòng bỗng lộ cả ra, chỉ trong mấy canh giờ mà như đã biến thành một con người khác.

Địch Vân ngơ ngác hỏi:

– Ông nói tôi… nói tôi đã đạp chết lão tăng ư?

Hoa Thiết Cán nói:

– Còn nghi ngờ gì nữa. Tiểu sư phụ nếu không tin thì cứ lấy huyết đao chém vào hai chân lão, lại lôi lão lên mà xem.

Lúc này mọi mưu kế của Hoa Thiết Cán đều thâm hiểm độc ác.

Địch Vân nhìn Thủy Sinh một cái. Thủy Sinh cho rằng tiểu hòa thượng này muốn đoạt cây huyết đao trong tay mình, sợ hãi lùi lại một bước. Địch Vân lắc lắc đầu, nói:

– Cô không phải sợ, tôi không hại cô đâu, mới rồi cô không chém tôi chết chung với lão hòa thượng, đa tạ cô.

Thủy Sinh “hừm” một tiếng, không đáp.

Hoa Thiết Cán nói:

– Thủy điệt nữ, thế là cháu không phải rồi. Tiểu sư phụ thành tâm cảm ơn cháu, cháu đáp tạ mới phải. Lúc nãy lão ác tăng chém cháu, nếu không có tiểu sư phụ thương hoa tiếc ngọc cứu cháu thì mạng cháu có còn không?

Thủy Sinh và Địch Vân nghe lão nói đến bốn chữ “thương hoa tiếc ngọc” đều quắc mắt nhìn lão.

Thủy Sinh tuy là một thiếu nữ xinh đẹp nhưng Địch Vân cứu cô chỉ xuất từ một ý nghĩ: “Không được giết người tốt.” Hoa Thiết Cán nói vậy lại hóa ra lúc ấy Địch Vân có ý đồ bất lương. Thủy Sinh vốn rất nghi kỵ Địch Vân, mấy câu của Hoa Thiết Cán càng làm cô thêm căm ghét “tiểu hòa thượng”, nhất thời không biết được mình ghét Hoa Thiết Cán hơn hay ghét Địch Vân hơn, cảm thấy hai người đều hết sức gian ác, nhìn thấy thi thể của phụ thân không nén được nỗi bi thương, lao đến phục lên thi thể khóc vang lên.

Hoa Thiết Cán cười nói:

– Tiểu sư phụ, xin được hỏi pháp danh của tiểu sư phụ gọi thế nào?

Địch Vân nói:

– Tôi không phải là hòa thượng, đừng gọi tôi là sư phụ với chẳng sư phụ nữa. Tôi mặc tăng bào là vì tị nạn cải trang, chỉ là bất đắc dĩ.

Hoa Thiết Cán vui vẻ nói:

– Thế thì hay lắm, thì ra tiểu sư phụ… không… không phải! Tôi thật đáng chết, đáng chết! Xin hỏi tôn tính đại danh của đại hiệp.

Thủy Sinh tuy đang khóc lóc đau đớn nhưng những lời đối đáp của hai người cũng loáng thoáng nghe được, nghe Địch Vân nói không phải là hòa thượng thì nửa tin nửa ngờ. Lại nghe Địch Vân nói:

– Tôi họ Địch, chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, một phế nhân sống sót từ trong cái chết, cũng chẳng phải là đại hiệp gì cả.

Hoa Thiết Cán cười nói:

– Hay lắm, tuyệt diệu! Thì ra Địch đại hiệp vốn không phải là người xuất gia, chỉ cần đợi đầu tóc dài ra, thay bộ áo khác, thì chẳng còn chỗ sơ hở nào. Địch đại hiệp thần dũng như vậy với Thủy diệt nữ của tôi trai tài gái sắc, rất đẹp đôi.

Lão cho rằng Địch Vân là hòa thượng huyết đao môn, chỉ vì tham sắc đẹp của Thủy Sinh nên cố ý không nhận.

Địch Vân lắc đầu, buồn bã nói:

– Cái miệng lão sạch sẽ một chút được không, đừng nói bậy bạ. Nếu chúng ta ra khỏi được cái hang này, tôi vĩnh viễn không nhìn mặt lão, cũng vĩnh viễn không nhìn Thủy cô nương nữa.

Hoa Thiết Cán hơi ngẩn ra một chút nhất thời không rõ dụng ý của Địch Vân, nhưng liền tỉnh ngộ, cười nói:

– A, tôi hiểu rồi, tôi hiểu rồi!

Địch Vân trừng mắt nhìn lão một cái, hỏi:

– Lão hiểu cái gì?

Hoa Thiết Cán hạ giọng:

– Ở trong tự viện, Địch đại hiệp còn có người đẹp hồng nhan tri kỷ, không thể đem Thủy cô nương đây về làm chồng vợ dài lâu. Hi hi, vậy thì làm vợ chồng mấy ngày thôi cũng được, có ngại gì?

Mấy câu này lọt vào tay Thủy Sinh, cô không kìm được phẫn nộ, lao đến tát cho lão bốn bạt tai “bốp bốp bốp bốp”.

Địch Vân ngơ ngác nhìn, chẳng nói năng gì, cảm thấy tất cả đều chẳng liên quan gì đến mình.

* * *

Rất lâu sau, Huyết đao lão tổ vẫn không nhúc nhích.

Thủy Sinh mấy lần muốn cầm đao tới chém vào hai chân lão, nhưng vẫn không dám. Thấy phụ thân nằm bất động trên tuyết, từ rày không còn ai thương yêu mình nữa, cô khe khẽ gọi:

– Gia gia! Gia gia!

Thủy Đại tất nhiên không thể trả lời cô được nữa. Nước mắt Thủy Sinh từng giọt từng giọt rơi xuống trên tuyết, làm tuyết tan ra, rồi lại dần dần cùng với nước tuyết đóng thành băng.

Hoa Thiết Cán huyệt đạo vẫn chưa giải khai, chỉ còn cách ra sức tâng bốc lấy lòng Địch Vân, càng nói càng trơ trẽn. Địch Vân không thèm để ý đến lão, tự đến nằm trên mặt tuyết nhắm mắt dưỡng thần.

Địch Vân mới thông mạch nhâm mạch đốc, cảm thấy tinh thần phấn chấn, luồng khí ấm áp trong cơ thể từ trước ngực chảy ra sau lưng, lại từ sau lưng chảy về trước ngực, cứ không ngừng lưu chuyến từng vòng từng vòng như thế. Mỗi vòng lưu chuyển lại cảm thấy khắp cơ thể đều sinh ra khí lực, tuy cái chân gãy và những chỗ bị Thủy Sinh đánh vẫn rất đau đớn nhưng nội lực đã tăng lên cũng chịu đựng được một cách dễ dàng. Địch Vân sợ rằng trạng thái kỳ diệu này đột nhiên mà đến thì cũng đột nhiên mà đi, bèn nằm im không dám động đậy, để cho luồng nội tức không ngừng vận hành giữa hai mạch nhâm và đốc.

Thủy Sinh đứng lên, từng bước từng bước đi đến cạnh Huyết đao tăng, chỉ thấy lão vẫn không hề nhúc nhích, bèn lấy hết can đảm, vung đao chém vào chân trái lão, một tiếng “sột” khe khẽ vang lên, chém đứt ngay một cái chân. Kể cũng kỳ quái, vẫn không hề chảy máu. Thủy Sinh nhìn kỹ thấy huyết dịch đã đóng băng, thì ra cái tên Huyết đao lão tổ cùng hung cực ác kia quả nhiên chết đã lâu rồi.

Thủy Sinh vừa vui mừng vừa bi thương, vung đao chém loạn xạ vào chân Huyết đao tăng, nghĩ bụng: “Cha mất rồi, mình cũng không muốn sống nữa! Tiểu ác tăng kia không biết sẽ dày vò mình như thế nào? Chỉ cần hắn hơi có ý đồ bậy bạ mình lập tức hoành đao tự vẫn.”

Hoa Thiết Cán thấy tất cả, lão mừng thầm: “Tiểu ác tăng này tuy hung ác nhưng hiện thời chưa có ý giết mình, đợi huyệt đạo giải khai, mình chỉ giơ tay một cái là lấy mạng hắn.”

Lại qua hơn nửa canh giờ, Địch Vân cảm thấy nội tức lưu chuyển không ngừng bèn vận khí điều tức theo lời Đinh Điển đã truyền thụ. Luồng nội tức đã hoàn toàn vận hành theo ý muốn. Địch Vân cảm thấy vừa kỳ lạ vừa mừng vui.

Điều tức được một lúc, ngồi dậy, vớ lấy một cành cây chống vào dưới nách phải, đi đến bên thi thể Huyết đao tăng. Thấy thi thể lão cắm sâu vào trong tuyết, hai chân đã bị Thủy Sinh chém nát, máu thịt bầy nhầy, rõ ràng đã chết thật rồi, nghĩ bụng: “Người này làm nhiều việc ác, bị quả báo là đáng đời, nhưng đối với mình lão thực sự có ơn”, lòng không khỏi chạnh buồn, bèn kéo thi thể của lão lên, đặt nằm ngay ngắn, bốc tuyết đắp lại, tuy sơ sài nhưng cũng có thể gọi là an táng cho lão. Còn như lão vì sao đột nhiên mà chết Địch Vân vẫn không hiểu nổi, người này công lực thông thần, mình không thể nào một cú đạp chết lão được.

Thủy Sinh thấy Địch Vân làm vậy, cũng nảy ra ý bắt chước, lại thấy mấy con quạ cứ bay lượn trên không như muốn nhào xuống mổ thi thể của phụ thân, cô vội an táng phụ thân như cách của Địch Vân. Cô vốn muốn an táng cho cả hai vị bá phụ Lục Thiên Trữ và Lưu Thừa Phong, nhưng một người chết trên vách đá cao ngất, một người chết dưới đáy tuyết sâu, không thể nào tìm được, đành thôi.

Hoa Thiết Cán nói:

– Tiểu sư phụ, ba chúng ta mệt mỏi đã lâu, đều đói lắm rồi, tôi thấy trên kia có thịt ngựa nướng, phiền sư phụ lấy xuống, ăn no cái đã, chuyện gì bàn sau, tính cách ra khỏi hang.

Địch Vân khinh bỉ lão, không thèm ừ hử.

Hoa Thiết Cán cứ nài nỉ. Thủy Sinh bỗng nói:

– Là thịt ngựa của ta, không thề cho đồ vô sỉ này ăn được.

Địch Vân gật gật đầu, trừng mắt nhìn Hoa Thiết Cán.

Hoa Thiết Cán lại nói:

– Tiểu sư phụ…

Địch Vân nói:

– Ta đã bảo ta không phải là hòa thượng, chớ nói bậy.

Hoa Thiết Cán vội nói:

– Vâng, vâng, vâng, Địch đại hiệp. Địch đại hiệp phen này một đá chết tươi Huyết đao tăng, nhất định lừng danh thiên hạ. Tôi ra khỏi hang được việc đầu tiên là phải tuyên dương sự tích hôm nay của Địch đại hiệp. Địch đại hiệp xả thân cứu Thủy cô nương, đá chết Huyết đao tăng, thật là một đại sự trong võ lâm.

Địch Vân nói:

– Ta chỉ là một tù phạm, có ai tin những lời quỷ quái của lão. Lão im mồm đi.

Hoa Thiết Cán vẫn lải nhải:

– Với một chút thanh danh của Hoa mỗ trên chốn giang hồ, nói ra, mọi người không thê không tin. Địch đại hiệp, xin đại hiệp lên lấy thịt ngựa, cho tôi một miếng.

Địch Vân bực bội quát:

– Mắc chi lấy thịt ngựa cho lão ăn? Tương lai lão nói Địch Vân này không đáng một đồng xu. Ta là cái thá gì mà để cho người ta nhắc đến.

Nghĩ đến mấy năm qua chịu biết bao điều oan khuất, đày đọa khổ sở, oán hận bỗng trào lên không sao nén nổi.

Hoa Thiết Cán kỳ thực không phải muốn ăn thịt ngựa. Lão tuy đói, nhưng đói một đôi ngày thì đáng kể gì? Lão chỉ sợ tên tiểu ác tăng này bỗng nổi khùng giết lão, xin thịt ngựa chỉ là kế sách tiến để mà thoái, lấy công mà thủ. Lão nghĩ Địch Vân đã không chịu đi lấy thịt ngựa, trong lòng tất khinh lão, tất nhiên cũng không còn ý định giết lão.

Địch Vân thấy trời sắp tối, gió tây bắc ào ào thổi vào hang, nói với Thủy Sinh:

– Thủy cô nương, cô vào trong hang đá mà nghỉ.

Thủy Sinh giật mình cho rằng tên này lại nổi ý bậy bạ, lùi hai bước, tay nắm chặt huyết đao, hoành ngang trước người, quát lên:

– Tiểu ác tăng nhà ngươi, chỉ cần ngươi bước gần đến một bước, cô nương lập tức vung đao tự vẫn.

Địch Vân ngẩn ra một chút, rồi nói:

– Cô nương đừng hiểu nhầm, Địch mỗ há lại có ý đồ xấu xa sao?

Thủy Sinh mắng:

– Tiểu hòa thượng ngươi mặt người dạ thú, còn gian ác hơn cả lão hòa thượng, làm sao lừa được ta.

Địch Vân không muốn biện bạch, thầm nghĩ: “Sớm mai mình phải tìm đường ra khỏi hang, những là Thủy cô nương Hoa đại hiệp gì gì đi nữa mình cũng suốt đời suốt kiếp không muốn nhìn mặt nữa.”

Bèn đi đến một chỗ xa xa, tìm một tảng đá lớn, phủi hết tuyết đọng, nằm nghỉ.

Thủy Sinh nghĩ bụng: “Ngươi đi càng xa càng âm hiềm độc ác, chắc là nửa đêm sẽ đến xâm phạm.” Cô không dám đi vào trong hang, sợ tiểu ác tăng này đến mình sẽ không có đường thoát, bèn tựa người vào bên vách đá, tay phải nắm chặt huyết đao, mi mắt nặng trĩu, luôn tự nhắc nhở: “Muôn vạn lần không được ngủ, muôn vạn lần không được ngủ, tên tiểu ác tăng này rất xấu xa.”

Nhưng mấy ngày rồi quá chừng mệt mỏi, suy nghĩ là muôn vạn lần không được ngủ nhưng được một lúc, cô mơ màng ngủ thiếp đi.

Cô ngủ một giấc đến sáng hôm sau, khi ánh sáng chiếu vào mắt mới giật mình tỉnh dậy, nhảy phắt lên, phát hiện ra huyết đao đã không còn trong tay càng hoảng hốt, chốc lát lại thấy cây huyết đao rơi xuống nằm ngay bên chân mình.

Thủy Sinh vội nhặt huyết đao lên, ngang đầu nhìn, thấy bóng lưng Địch Vân đang di động xa xa, chống cành cây, cà nhắc đi ra ngoài hang. Thủy Sinh cả mừng thầm nghĩ tên tiểu ác tăng này có ý bỏ đi, thật là tạ ơn trời đất.

Địch Vân quả là muốn tìm đường ra khỏi hang nhưng tìm mãi mấy nơi ở phía đông và góc đông bắc đều không có đường, ba phía tây, bắc, nam thì núi chặn sừng sững, nhìn ra chẳng thấy đường, cũng không thử đi làm gì. Phía đông nam xem ra có vẻ có thể có lối nhưng tuyết dày mấy chục trượng, chưa đến khi trời ấm, tuyết tan, một thằng què làm sao đi được. Địch Vân mệt mỏi cả nửa ngày đành bỏ ý định mà quay vào, ngẩn ngơ nhìn vách núi cao ngất, lòng buồn rười rượi.

Hoa Thiết Cán nói:

– Địch đại hiệp, sao rồi?

Địch Vân lắc đầu nói:

– Không có lối ra.

Hoa Thiết Cán nghĩ thầm: “Ngươi không thể ra, Hoa Thiết Cán ta há chẳng hơn ngươi sao? Đến chiều, huyệt đạo của ta được giải khai rồi, ngươi sẽ biết tay ta.” Nhưng lão không lộ ra nét mặt, lại nói:

– Khỏi phải lo, đợi huyệt đạo giải khai, Hoa mỗ sẽ dẫn hai vị thoát nơi nguy hiểm này.

Thủy Sinh thấy Địch Vân không đến xúc phạm mình, nỗi sợ hãi giảm dần, nhưng vẫn dè chừng, tránh xa, không nói một lời. Địch Vân tuy không cần cô ta hiểu mình nhưng thấy sắc mặt và cử chỉ trong lòng không nén nổi tức giận, chỉ mong sớm bỏ đi được, nhưng tuyết dày bịt núi, không cách chi ra được, bất giác buồn khôn tả.

Đến khoảng giờ mùi, Hoa Thiết Cán bỗng nổi lên cười ha hả, lão nói:

– Thủy diệt nữ, Hoa bá bá muốn vay mấy cân thịt ngựa của cháu, sau khi ra khỏi hang sẽ trả đủ cho cháu.

Lão nhảy vọt lên, theo đường vòng leo lên chỗ thịt ngựa nướng, cầm lấy một miếng nhai nhồm nhoàm. Thì ra thời gian phong bế huyệt đạo của lão đã hết, bèn tự giải khai.

Huyệt đạo đã giải, thần thái Hoa Thiết Cán lập tức trở nên kiêu hoạnh. Lão nghĩ Huyết đao tăng đã chết, Địch Vân và Thủy Sinh dù có liên thủ cũng hoàn toàn không phải là đối thủ của lão, ở mãi trong hang này cũng chẳng được tích sự gì, phải tìm đường ra càng sớm càng tốt. Tìm được đường ra thì trước hết phải giết hai đứa này diệt khấu, những việc mình làm hôm qua, há lại để hai đứa chúng nó tiết lộ ra ngoài?

Lão thi triến khinh công, đi tra sát vòng quanh hang tuyết, phát hiện ra băng tuyết đã bịt kín mọi lối, nếu bốn người “Lạc Hoa Lưu Thủy” không đi vào đây trước khi tuyết lở thì nhất định cũng ở lại ngoài kia, không lọt vào đây được. Lúc này con đường duy nhất có thể ra khỏi hang, tuyết đã đọng dày mấy chục trượng rộng đến mấy dặm. Đi trên tuyết mấy trượng thì có thể được nhưng làm sao có thể đi qua mấy dặm tuyết xa như vậy? Huống nữa cũng chẳng nhận ra phương hướng. Bây giờ mới đầu tháng mười một, đợi đến đầu mùa hạ sang năm tuyết tan vừa tròn nửa năm. Trong hang chỉ có tuyết, năm sáu tháng ròng ăn gì mà sống?

Hoa Thiết Cán quay lại trước cửa hang sắc mặt nặng chình chịch, ngồi thừ ra hồi lâu, lôi thịt ngựa trong bọc ra ăn, nhai chầm chậm, ăn hết nhẵn miếng thịt, mới trầm giọng nói:

– Đến đoan ngọ sang năm mới ra được.

Địch Vân và Thủy Sinh người ở mé trái người ở mé phải, đều cách lão khoảng ba trượng, lão tuy nói nhỏ nhưng trong tai hai người nghe như sấm động. Hai người không hẹn mà đều ngó quanh, bốn xung quanh đều toàn tuyết trắng, muốn tìm vỏ cây rễ cỏ cũng khó, đều nghĩ bụng: “Làm sao chịu được đến đoan ngọ sang năm?”

Chỉ nghe thấy giữa không trung tiếng kêu của mấy con chim ưng, ba người cùng ngẩng đầu nhìn bảy tám con chim ưng bay liệng, đều nghĩ: “Trừ phi bay được, như mấy con chim ưng kia, mới bay ra khỏi hang được.”

Con ngựa trắng của Thủy Sinh tuy rất lớn nhưng ba người ngày nào cũng ăn, không đến một tháng đã hết. Lại qua bảy tám ngày nữa, cả đầu ngựa, rồi bộ lòng cũng ăn hết nhẵn.

Ba người Hoa Thiết Cán, Thủy Sinh và Địch Vân trong những ngày này không nói với nhau một lời, nếu tình cờ ánh mắt gặp nhau thì cũng lập tức lảng đi. Hoa Thiết Cán mấy phen định giết Địch Vân và Thủy Sinh, nhưng lại cảm thấy sau khi giết hai người rồi chỉ còn lại lẻ loi một mình trong hang tuyết này thì cũng thật là khó chịu đựng nổi, huống nữa tính mạng hai đứa này đã ở trong tay mình thì cũng chẳng vội ra tay.

Qua những ngày ấy, sự nghi kị của Thủy Sinh đối với Địch Vân cũng giảm đi nhiều, cuối cùng đã dám vào ngủ trong hang.

Đến tháng chạp, trong hang tuyết càng lạnh, về đêm gió bấc gào réo càng lạnh thấu xương. Địch Vân đã luyện thành “Thần chiếu công”, tiếp tục tu tập, nội lực mỗi ngày một tăng tiến, nhưng áo quần mỏng manh, ở nơi trời băng đất tuyết này thật là khó chịu. Thủy Sinh có lúc từ trong hang nhìn ra, thấy Địch Vân run cầm cập nhưng vẫn không hề vào trong hang tránh rét, cô cũng yên tâm, cảm thấy tên tiểu ác tăng này tuy “ác” nhưng cũng còn “lễ độ”.

Những vết thương trên người Địch Vân đã lành hẳn, chỗ chân gãy cũng đã liền xương, đi lại bình thường, có lúc nghĩ đến cái chân gãy này đã nhờ Huyết đao lão tổ băng bó cho lòng không khỏi chạnh buồn.

Ăn hết thịt ngựa rồi, cái ăn trở thành vấn đề nan giải. Mấy ngày cuối cùng, Địch Vân đã cố gắng ăn thật ít, thật ít, chỉ một miếng nhỏ, nhưng nhịn như thế chỉ để cho Hoa Thiết Cán “thật thà” ních hết. Thủy Sinh nghĩ bụng: “Một vị đại hiệp đã thành danh, đến cửa ải nguy nan, lại không bằng một tên tiểu ác tăng của huyết đao môn!”

Một hôm, vào lúc nửa đêm, Thủy Sinh đang lúc mơ màng bỗng giật mình thức dậy vì tiếng cãi cọ, nghe thấy Địch Vân lớn tiếng quát:

– Thân thể của Thủy đại hiệp, lão không được động vào!

Hoa Thiết Cán lạnh lùng nói:

– Mấy hôm nữa, đến người sống cũng ăn! Ta ăn người chết trước là để ngươi sống thêm được mấy ngày đấy!

Địch Vân nói:

– Chúng ta thà ăn vỏ cây rễ cỏ, quyết không ăn thịt người!

Hoa Thiết Cán quát lên:

– Cút đi! La lối cái gì? Chọc tức ta, ta giết ngay.

Thủy Sinh vội chạy ra, thấy Địch Vân và Hoa Thiết Cán đứng bên mộ phụ thân. Thủy Sinh hét lên:

– Đừng động đến phụ thân ta!

Rồi cô lao tới thấy tuyết trắng đắp trên mộ phụ thân đã bị gạt đi, Hoa Thiết Cán tay trái đang chộp lên ngực thi thể Thủy Đại.

Địch Vân quát:

– Mau buông ra!

Thủy Sinh vội nói:

– Ngươi… ngươi…

Bỗng thấy hàn quang lóe lên, trong tay áo Hoa Thiết Cán lộ ra một cây đoản thương, lão nghiêng mình rút thương đâm nhanh vào giữa ngực Địch Vân. Cú đâm này cực nhanh, Địch Vân nội công tuy đã đại tiến nhưng chiêu thức ngoại công vẫn tầm thường, chẳng qua cũng chỉ là mấy chiêu thức quyền cước kiếm thuật mà Thích Trường Phát đã dạy trước kia, bị một đại gia như Hoa Thiết Cán bất ngờ ám toán, làm sao đối phó được? Đang ngơ ngác, mũi thương đã đâm vào ngực. Thủy Sinh kinh hãi kêu lên, không biết phải làm sao.

Hoa Thiết Cán định đâm một nhát xuyên từ trước ngực ra sau lưng Địch Vân, thành một lỗ thủng, nào ngờ mũi thương đâm tới ngực Địch Vân thì không vào được, bị cản ngay lại.

Sức mũi thương đi cực mạnh, Địch Vân ngã ngồi xuống, tay trái lật qua, đánh mạnh vào cán thương. “Cách” một tiếng, hổ khẩu của Hoa Thiết Cán rách toác, đoản thương tuột khỏi tay, bay thẳng lên trời. Thế chưởng vẫn còn ập tới, đẩy Hoa Thiết Cán loạng choạng, ngã ngửa ra. Đoản thương rơi xuống hang sâu đầy tuyết, mất tiêu.

Hoa Thiết Cán cả sợ thầm nghĩ: “Tên tiểu hòa thượng này võ công thần kỳ đến thế, không kém gì lão hòa thượng.” Lão lăn về sau mấy vòng, nhảy lên, chạy trốn ra xa.

Hoa Thiết Cán không biết nhát thương ấy bị “áo tằm đen” cản trở, không đâm được vào người Địch Vân nhưng lực đạo rất lớn khiến Địch Vân nghẹt thở, ngã ngất trên mặt đất. Nếu không phải là “thần chiếu công” đã được luyện thành, Địch Vân đã mất mạng bởi nhát thương này. Võ công của Hoa Thiết Cán so với Chu Kỳ ở thành Kinh Châu độ trước, tuy là đều đâm vào “áo tằm đen” nhưng kình lực thì bội phần mạnh hơn.

Vầng trăng vằng vặc giữa trời, hai con ưng xám thấy Địch Vân nằm trên tuyết, cứ bay lượn mấy vòng trên không trung.

Thủy Sinh thấy Địch Vân ngã không dậy được, tuồng như đã bị Hoa Thiết Cán đâm chết, chợt mừng rỡ: “Tiểu ác tăng đã chết rồi, từ nay không sợ có kẻ xúc phạm nữa.” Nhưng rồi lại nghĩ: “Hoa Thiết Cán muốn ăn di thể của phụ thân, tiểu ác tăng ra sức ngăn cản, đến nỗi bị giết. Tiểu ác tăng không có ý tốt, muốn lừa mình… lừa mình… hừ, ta không mắc lừa đâu. Nhưng y chết rồi, lão Hoa Thiết Cán độc ác kia lại phạm vào di thể của phụ thân thì mình làm sao được? Tốt nhất là tiểu ác tăng đừng chết.”

Tay cầm huyết đao, cô từ từ đi đến bên Địch Vân, thấy Địch Vân nằm ngửa bất động trên mặt tuyết, cơ trên mặt hơi nhăn nhó, hẳn là chưa chết. Thủy Sinh lại chợt mừng, cúi mình xuống, đưa tay sờ lên mũi thăm dò hơi thở, bỗng cảm thấy có hai luồng hơi nóng phả vào ngón tay.

Thủy Sinh sợ hãi nhảy lên, vội vàng rút tay lại, cô vốn nghĩ Địch Vân tuy chưa chết nhưng chắc hơi thở cũng yếu ớt, nào ngờ hơi thở ra lại nóng đến thế. Cô không biết lúc này nội công của Địch Vân đã rất thâm hậu, tri giác tuy mất, nhưng hơi thở vẫn mạnh, có điều nội công thượng thừa mới luyện được chưa bao lâu, hùng kiện thì có thừa mà trầm ổn thì chưa đủ, chưa đạt tới cảnh giới tự nhiên dung hòa.

Thủy Sinh nghĩ bụng: “Tiểu ác tăng đã ngất đi, đến khi tỉnh lại thấy mình đứng bên cạnh, thật là không ổn.” Vừa mới quay đầu đã thấy Hoa Thiết Cán đứng cách đó không xa, chăm chú nhìn.

Hoa Thiết Cán đâm một nhát thương không giết chết được Địch Vân, lại bị phản chưởng đánh ngã trong lòng sợ hãi lạ thường, nhưng rồi thấy tiểu ác tăng kia ngã xuống đất không dậy nổi, sốt ruột muốn biết y sống chết ra sao, một lúc sau, thấy Địch Vân không hề nhúc nhích, bèn từng bước từng bước đi tới. Lúc này tay phải của lão vẫn còn ê ẩm, chỉ chực Địch Vân nhỏm dậy là lão lập tức quay mình, bỏ chạy.

Thủy Sinh cả sợ thét lên:

– Đừng tới đây!

Hoa Thiết Cán cười nanh ác:

– Sao lại không đến? Thịt người sống ngon hơn thịt người chết nhiều, chúng ta mổ hắn mà chén, cũng hay đấy chứ.

Vừa nói lão vừa bước gần thêm một bước. Thủy Sinh không biết làm sao, đánh bạo lay Địch Vân, kêu lên:

– Lão đến rồi kìa, lão đến rồi kìa.

Hoa Thiết Cán thấy Địch Vân hôn mê bất tỉnh, cả mừng, lập tức nhảy tới, vung hữu chưởng đánh xuống. Thủy Sinh vung huyết đao, một chiêu “kim châm độ kiếp” đâm vào Hoa Thiết Cán.

Cô sử theo kiếm pháp, nhưng huyết đao sắc bén lạ thường và đầy uy lực. Hoa Thiết Cán đã mất đoản thương, xích thủ không quyền, sợ cây huyết đao chém sắt như bùn này nên cũng không dám khinh địch bèn thi triển công phu “không thủ nhập bạch nhận”, phải đoạt được huyết đao cái đã, chuyện chi nói sau.

Trong hôn mê, Địch Vân loáng thoáng nghe Thủy Sinh kêu “lão đến rồi kìa”, mơ mơ hồ hồ không biết là ý gì rồi lại nghe thấy tiếng la hét liền mở bừng mắt ra, thấy Thủy Sinh tay múa huyết đao đang mải đấu với Hoa Thiết Cán.

Thủy Sinh tuy trong tay có lợi khí, nhưng một là không biết sử đao hai là võ công kém xa, tả che hữu tránh liên tiếp bước lui, về sau chỉ còn mong vũ khí trong tay không bị kẻ địch đoạt mất, nào có nghĩ đến việc sát thương địch thủ. Cô luôn miệng hô:

– Ê, ê, mau tỉnh lại, lão muốn giết ngươi đấy.

Địch Vân thoạt nghe, thấy ớn lạnh trong lòng: “Nguy hiểm thật! Cô ấy đã cứu mạng mình, nếu không có cô ấy ra sức ngăn chặn Hoa Thiết Cán đã đánh chết mình rồi. Tuy ngực và bụng mình có áo tằm đen bảo hộ, nhưng lão chỉ cần đá vào đầu một cái thì mình cũng mất mạng.” Bèn đứng vụt dậy nhảy tới vung chưởng đánh vào Hoa Thiết Cán.

Hoa Thiết Cán đưa chưởng ra đỡ, “bùng” một tiếng, hai người đều ngã ngồi xuống đất. Địch Vân nội lực thâm hậu, Hoa Thiết Cán chưởng pháp cao minh, hai chưởng gặp nhau không phân cao thấp.

Hoa Thiết Cán võ công cao, ứng biến nhanh, bị Địch Vân một chưởng hất ngã liền nhảy lên, chưởng thứ hai lại đánh tới. Địch Vân không kịp đứng dậy, đành ngồi mà đánh trả một chưởng. Tuy ngồi nhưng chưởng lực không hề yếu đi, lại nghe “bùng” một tiếng, Địch Vân bị chấn động lăn hai vòng, Hoa Thiết Cán cũng phải lùi lại ba bước, khí huyết nhộn nhạo, thầm sợ hãi: “Tên tiểu ác tăng này nội lực thật là thâm hậu!”

Địch Vân ngồi mà vung chưởng trả đòn, không ngờ chưởng pháp của Hoa Thiết Cán uyển chuyển linh hoạt vượt qua mặt Địch Vân, Địch Vân đánh một chưởng không trúng, nghe “phách” một tiếng ngực lại dính một chưởng, may mà có ô tàm y hộ thân, không đến nỗi bị thương nhưng cũng không chịu nổi, mới định đứng dậy đã ngồi phịch xuống. Hoa Thiết Cán đánh trúng một chưởng, chưởng thứ hai lại tới liền. Lão tuy nổi tiếng võ lâm bởi “trung bình thương”, hiệu là “trung bình vô địch” nhưng công phu quyền cước cũng rất giỏi, lúc này sử một lộ “Nhạc gia tán thủ”, bóng chưởng chập chờn, tả một chưởng hữu một chưởng, trong mười chưởng có bốn năm chưởng đánh trúng Địch Vân. Địch Vân đánh trả lão đều khéo léo tránh được. Võ công hai người cách nhau quá xa, nội lực Địch Vân dẫu có mạnh cũng không có dịp thi triển.

Về sau Địch Vân đành chỉ hai tay che kín đầu mặt, thân hình đành để lão đánh ngầu vừa đứng lên lại bị đánh ngã quay xuống. Hoa Thiết Cán muốn thanh toán Địch Vân ngay, khỏi sinh hậu hoạn nên chưởng nào cũng vô cùng hiểm ác. Địch Vân thổ liền ba búng máu thân pháp đã trở nên chậm chạp.

Thủy Sinh lúc đầu thấy hai người đấu kịch liệt không thể xen vào tương trợ được, đến khi thấy Địch Vân lâm nguy vội vung đao chém vào lưng Hoa Thiết Cán. Hoa Thiết Cán nghiêng mình né tránh, trở tay chộp lại, muốn đoạt huyết đao. Địch Vân vận kình vào chưởng bên phải vỗ ra, một luồng chưởng phong mãnh liệt chụp lấy toàn thân Hoa Thiết Cán. Hoa Thiết Cán không kịp né tránh đành đưa chưởng ra đỡ. Nói về nội lực thì Hoa Thiết Cán lại không phải là đối thủ của Địch Vân, bỗng cảm thấy mắt nảy đom đóm, nửa người tê dại, loạng choạng đứng không vững.

Thủy Sinh kêu lên:

– Chạy mau, chạy mau!

Rồi kéo Địch Vân chạy ngay vào hang. Hai người vội vội vàng vàng khuân mấy tảng đá lớn chặn trước cửa hang.

Thủy Sinh tay cầm huyết đao, thủ ở bên phải, chỉ cần lão ra tay khiêng đá Thủy Sinh sẽ vung đao chém hai tay lão.

Một lúc sau, bên ngoài không có động tĩnh gì. Thủy Sinh nói:

– Tiểu ác… tiểu…

Cô vẫn quen gọi “tiểu ác tăng”, lúc này cùng liên thủ đánh họ Hoa nếu gọi “tiểu ác tăng” thì thật không nên, bèn đổi giọng hỏi:

– Thương thế của ngươi ra sao?

Địch Vân đáp:

– Không sao…

Bỗng nghe Hoa Thiết Cán ở ngoài hang cười ha hả, kêu to:

– Hai con chó hoang này nấp trong hang làm trò ma gì đấy.

Thủy Sinh nóng mặt trong lòng cũng có chút sợ hãi, cô cho rằng Địch Vân là một tên “dâm tăng”, hành vi không đứng đắn, ở chung với hắn trong hang này thật là nguy hiểm, bất giác lùi ra mấy bước, tránh được hắn càng xa càng tốt.

Hoa Thiết Cán lại réo:

– Đôi trai gái chó má kia nấp mãi không ra, bố chúng mày lại muốn nướng thịt ăn đây, ha ha, ha ha!

Thủy Sinh cả sợ, nói:

– Lão muốn ăn thịt phụ thân ta, làm sao bây giờ!

Địch Vân mấy năm nay bị vu oan giá họa bao điều, lúc này lại nghe Hoa Thiết Cán ngậm máu phun người như thế, làm sao chịu được? Đột ngột đẩy tảng đá ra, nhảy chồm ra như một con cọp điên, vung quyền vung chưởng đánh loạn xạ.

Hoa Thiết Cán tránh được hai quyền, chưởng trái vạch một vòng cung, chưởng phải từ phía sau vỗ tới, “bình” một tiếng, đánh trúng lưng Địch Vân. Địch Vân thổ ra một ngụm máu tươi, đầu óc choáng váng, Hoa Thiết Cán tựa hồ đã biến thành Vạn Chấn Sơn, Vạn Khuê, tri huyện Giang Lăng, ngục tốt, Lăng Thoái Tư, Bảo Tượng… những kẻ ác đã lăng nhục ngược đãi Địch Vân hiện ra chập chờn từ bóng hình Hoa Thiết Cán. Địch Vân giang rộng hai tay, chồm tới ôm chặt lấy Hoa Thiết Cán.

Hoa Thiết Cán dộng một quyền vào sống mũi Địch Vân, máu tươi lập tức chảy ròng ròng. Nhưng Địch Vân đã không còn cảm thấy đau đớn, hai tay ôm ngang lưng Hoa Thiết Cán càng xiết chặt. Hoa Thiết Cán cảm thấy ngạt thở, thoáng kinh hãi, lại thấy Thủy Sinh tay cầm huyết đao, chạy gần đến bên mình. Lão cả sợ, hai nắm đấm đấm mạnh vào hai bên sườn Địch Vân. Địch Vân ngấm đòn, hai tay mềm ra. Hoa Thiết Cán gắng sức quẫy mạnh, thoát khỏi vòng tay Địch Vân, không dám đấu với thằng điên này nữa, nhảy liên tiếp về phía sau, hơn mười trượng mới dám đứng lại.

Thủy Sinh thấy Địch Vân lảo đảo đứng không vững, mặt đầy máu tươi, muốn đưa tay ra đỡ nhưng lại sợ, run rẩy chạy tới. Địch Vân quát:

– Ta là ác hòa thượng, là tiểu dâm tăng, đừng tới đây kẻo ô uế mất thanh danh tiểu thư của Thủy đại hiệp, cút đi, cút đi!

Thủy Sinh thấy thần thái dữ tợn của Địch Vân, mắt lộ hung quang, sợ quá lùi lại mấy bước.

Địch Vân thở hồng hộc, lảo đảo đi về phía Hoa Thiết Cán, thét lên:

– Lũ ác nhân các ngươi, Vạn Chấn Sơn, Vạn Khuê, các ngươi không hại chết được ta, đánh không chết ta. Lại đây, lại đây, tri huyện đại nhân, tri phủ đại nhân, các ngươi quen thói chà đạp người lương thiện, có gan thì lại đây, lại đây cùng ta một phen sống chết…

Hoa Thiết Cán nghĩ bụng: “Thằng này phát điên rồi, rõ là thằng điên!”. Lão lại nhảy lùi xa thêm nữa.

Địch Vân ngửa mặt lên trời gào thét:

– Lũ ác nhân các ngươi, ác nhân trong thiên hạ đến cả đây, Địch Vân ta không sợ các ngươi. Các ngươi giam ta vào ngục, xuyên thủng xương tì bà của ta, chặt đứt ngón tay ta, cướp sư muội của ta, đạp gãy chân ta, ta đều không sợ, băm vằm ta nát như tương ta cũng không sợ!

Thủy Sinh nghe Địch Vân lớn tiếng gào thét, tiếng gào thét như tiếng khóc, trong nỗi sợ hãi cô lại cảm thấy xót thương, nghe tiếng kêu “xuyên xương tì bà của ta, chặt đứt ngón tay của ta, cướp sư muội của ta, đạp gãy chân ta” trong lòng rúng động: “Thì ra tên tiểu ác tăng này trong lòng có bao nỗi khổ đau chất chứa, chịu đựng nhiều khổ sở, chân của y lại do mình cho ngựa xéo gãy.”

Địch Vân gào thét đến khản đặc cả tiếng, thân hình cứ lảo đảo rồi ngã vật trên mặt tuyết.  Hoa Thiết Cán không dám lại gần, Thủy Sinh cũng không dám lại gần. Trên trời có hai con ưng xám cứ bay lượn vòng. Địch Vân nằm trên tuyết không hề động đậy.

Bỗng một con ưng xám lao xuống mổ lên trán. Địch Vân đang chập chờn nửa tỉnh nửa mê, bị ưng xám mổ một nhát, lập tức tỉnh lại. Con ưng xám thấy người động đậy, vội vỗ cánh bay lên. Địch Vân thét lên:

– Đến cả đồ súc sinh cũng ăn hiếp ta!

Chưởng phải dồn sức đánh lên. Con ưng xám chỉ cách mấy thước, bị chưởng lực chấn động, lập tức lông cánh rụng lả tả, rơi xuống. Địch Vân chụp ngay lấy, ha ha cười lớn, cắn một miếng vào cổ, con ưng hai cánh vỗ loạn xạ, gắng sức giãy giụa. Địch Vân cảm thấy một dòng máu nóng mằn mặn chảy vào trong miệng, như từng giọt từng giọt sinh lực chảy vào cơ thể, không kìm được hoa tay múa chân, kêu lên:

– Ngươi muốn ăn thịt ta? Ta ăn thịt ngươi trước, ăn thịt ngươi trước.

Hoa Thiết Cán, Thủy Sinh thấy Địch Vân ăn sống con ưng xám như một kẻ điên, đều kinh hãi tái mặt.

Hoa Thiết Cán sợ thằng điên này nổi khùng lên xông tới liều mạng với mình, nếu bị y ôm chặt như lúc nãy thì hỏng bét, thôi cứ tránh xa đi là hơn.

Khi chạy vòng về phía đông hang tuyết lão nghĩ cách bắt chim ưng của thằng điên kia cũng hay, bèn nằm ngửa trên mặt tuyết, định bắt chước Địch Vân, giả chết bắt ưng.

Nào ngờ lũ ưng xám tuy bị mắc lừa, nhào xuống mổ nhưng khi lão vung chưởng đánh lên lại không thể làm nó rơi xuống. Nội lực của lão kém xa Địch Vân, chưởng pháp tuy xảo diệu nhưng chim ưng né tránh nhanh hơn đường chưởng của lão.

Địch Vân uống mấy ngụm máu ưng xám, trong ngực trong bụng khí huyết nhộn nhạo, lại ngất đi. Đến khi tỉnh lại, trời đã sáng, bụng đói cồn cào, quờ tay cầm lấy con ưng chết bên mình, cắn một miếng, bỗng cảm thấy hương vị thơm ngon kỳ lạ, chăm chú nhìn bỗng ngơ ngác. Con chim đã bị vặt lông nhẵn nhụi, lại đã được nướng chín. Địch Vân nhớ rõ là chỉ mới uống mấy ngụm máu con ưng xám đã ngủ thiếp đi, vậy thì ai đã nướng? Nếu không phải là Thủy Sinh, lẽ nào lại là lão Hoa Thiết Cán bỉ ổi kia?

Đêm qua Địch Vân kêu gào một lúc, bao nhiêu uất khí kết đọng trong ngực đã phát tiết đi nhiều, bây giờ tỉnh lại cảm thấy thoải mái. Thấy tuyết trên mộ Thủy Đại đã được đắp lại ngay ngắn, nhìn vào cửa hang thấy Thủy Sinh đang phục trên tảng đá ngủ say sưa. Địch Vân nghĩ bụng: “Cô ấy cũng đói mấy ngày rồi, nướng con ưng xám này lại để hết cho mình, bản thân cô ấy thì không hề đụng đến dù chỉ là một cái chân cũng không ăn, thật khó có người như thế. Hừm, cô ấy tự cho mình là thiên kim tiểu thư của đại hiệp, chẳng coi mình ra gì. Cô không coi tôi ra gì thì tôi cũng chẳng coi cô ra gì, có chi là lạ.”

Nhưng một lúc sau, lại nghĩ: “Cô ấy nướng ưng cho mình, sao lại bảo là không coi mình ra gì, cô ấy mà chết đói thì cũng không hay.”

Thế là Địch Vân lại nằm im, không nhúc nhích, nhắm mắt giả chết, trong khoảng nửa canh giờ đã dùng chưởng lực đánh chết bốn con ưng xám, ném hai con cho Thủy Sinh. Thủy Sinh đi tới, cầm luôn cả hai con kia đi, vặt lông rửa sạch, nướng chín hết cả bốn, lặng lẽ đem hai con đến đặt bên cạnh Địch Vân.

Trong hang tuyết ưng xám khá nhiều, lại rất dại dột, thấy đồng bạn chết dưới chưởng của Địch Vân nhưng vẫn cứ đến nộp mạng. Nội lực của Địch Vân càng ngày càng tăng, chưởng lực ngày càng mạnh, về sau không cần phải nằm im giả chết nữa, chỉ cần thấy có chú nào đậu ở cành thấp hoặc bay qua gần bên thì đều có thể phóng chưởng đánh rơi. Trong tuyết cốc thỉnh thoảng lại có tuyết nhạn, chúng có thể mổ sâu trong băng mà ăn, tuyết nhạn rất mập trở thành món ăn ngon của hai người.

Bấm đốt ngón tay tháng chạp đã sắp hết, trong tuyết cốc cứ tám hoặc mười ngày lại có một trận tuyết lớn, suốt ngày đêm gió rét cắt da thấu xương.

Thủy Sinh ngoài việc nhặt nhạnh củi khô, nướng thịt chim thì đều ở trong hang. Địch Vân không hề nói với cô một lời, cũng không hề bước vào hang.

Một hôm tuyết lớn rơi suốt đêm, sớm hôm sau Địch Vân tỉnh dậy, cảm thấy thân mình rất ấm áp, mở choàng mắt ra thấy có vật gì đen đen phủ trên người mình. Địch Vân giật mình, đưa tay cầm lên, thì ra là một tấm áo rất cổ quái. Tấm áo này được kết lại từ muôn vạn chiếc lông vũ của ưng xám, đen là lông ưng xám, trắng là lông nhạn. Áo dài tới đầu gối mà rất nhẹ.

Địch Vân nâng tâm áo lông vũ lên, bỗng đỏ bừng cả mặt, biết đây là áo do chính Thủy Sinh may. Cô đã phải tỉ mẩn xâu kết không biết mấy ngàn mấy vạn chiếc lông vũ lại thành tấm áo này, thật là vất vả. Huống nữa trong tuyết cốc này lại không có dao kéo kim chỉ, không biết làm sao mà kết thành được. Địch Vân nâng trên tay ngắm nghía thật kỹ, thấy ở chân mỗi chiếc lông vũ đều có một lỗ nhỏ, nghĩ chắc là cô dùng chiếc trâm cài đầu để xâu qua. Những chiếc lông vũ được xâu liền lại bằng sợi chỉ vàng nhạt, hẳn những sợi chỉ này được rút ra từ tấm áo đoạn của Thủy Sinh. “Hi hi, con gái thật là kỳ quái, thế này thì mệt thật, chẳng phải là phiền toái lắm sao?”

Bỗng Địch Vân nhớ lại chuyện xảy ra ở nhà Vạn Chấn Sơn trong thành Kinh Châu. Tối hôm ấy Địch Vân bị tám đệ tử Vạn môn vây đánh đến nỗi mắt tím má sung, tấm áo mới toanh cũng bị xé rách nhiều chỗ. Địch Vân tiếc hùi hụi, sư muội Thích Phương đã lấy kim chỉ vá và đơm nút lại cho.

Cảnh tượng ngày ấy hiện lên rõ mồn một trong tâm trí: Thích Phương đứng kề bên vá áo, tóc cô chạm vào cằm, Địch Vân cảm thấy ngứa ngứa nhột nhột mũi cảm thấy thoảng mùi hương thiếu nữ, bất giác lâng lâng, Địch Vân khẽ gọi: “Sư muội”, Thích Phương nói: “Không Tâm Thái, đừng nói chuyện kẻo người ta vu oan cho huynh trộm cắp.”

Nghĩ đến đó, cổ họng tắc nghẹn, nước mắt trào ra, mọi thứ đều nhòe đi, nghĩ bụng: “Quả nhiên người ta vu oan cho mình trộm cắp, lẽ nào là do khi sư muội vá áo cho mình, mình lại nói chuyện?” Nhưng mấy năm qua phải chịu đựng bao phen phong ba hiểm ác, Địch Vân đã không còn tin cái điều nhảm nhí ấy nữa. “Hi hi, người ta rắp tâm hại mình, trời sinh ra mình là một thằng ngố, người ta khinh rẻ hà hiếp là phải. Sư muội dạo ấy đối với mình rất chân thành, nhưng gã họ Vạn kia giàu có, thằng tiểu tử Vạn Khuê đẹp trai hơn mình nhiều, thế thì còn nói gì được nữa. Tệ nhất là ngày ấy mình bị trọng thương, nấp trong kho củi nhà cô ấy, cô ấy lại nói cho chồng biết, bảo y bắt mình lĩnh thưởng, ha ha, ha ha!”

Đột nhiên Địch Vân sằng sặc cười điên dại, cầm tấm vũ y, đi vào trong hang ném xuống, đạp mấy đạp lên tấm áo, lớn tiếng nói:

– Ta là hòa thượng ác, sao xứng được mặc tấm áo do tiểu thư may?

Lại phóng chân đá tấm áo vào trong hang, quay mình cười điên dại, mạnh bước sải chân đi ra.

Thủy Sinh phải mất cả hơn một tháng mới kết thành được tấm áo lông vũ này, lòng thầm nghĩ: “Tên tiểu ác tăng này bảo vệ di thể của phụ thân, không hề xúc phạm đến mình, những ngày này mình toàn nhờ ăn thịt ưng thịt nhạn do y bắt mà sống. Y ở ngoài hang chịu đựng giá rét lòng cảm thấy bất nhẫn, mong là tấm áo lông vũ này sẽ giúp y chống rét. Nào ngờ lòng tốt không được báo đáp, lại bị y đá tấm áo vào hang, y vô lễ khinh khi mình quá lắm.” Cô vừa thẹn vừa tức tối, đưa tay cầm lấy tấm áo dứt xé, không ngăn nổi từng giọt từng giọt rơi xuống trên tấm áo.

Cô hoàn toàn không ngờ, khi Địch Vân quay mặt đi sằng sặc cười điên dại, ngực áo cũng đầm đìa nước mắt. Có điều Địch Vân rơi lệ lại là vì thương mình số khổ, vì sư muội vô tình vô nghĩa.

Đến trưa, Địch Vân bắt được bốn cả ưng lẫn nhạn, vẫn đặt trước cửa hang. Thủy Sinh nướng chín rồi, vẫn chia làm hai cho hai người. Hai người không nói với nhau một lời nào, thậm chí không dám nhìn nhau.

* * *

Địch Vân và Thủy Sinh ngồi cách xa nhau, lặng lẽ ăn thịt nướng, bỗng nghe thấy có tiếng bước chân đạp tuyết từ góc đông bắc vọng tới. Hai người cùng ngẩng đầu lên, nhìn về phía tiếng động, thấy Hoa Thiết Cán tay phải cầm quỷ đầu đao, tay trái cầm trường kiếm, cười hì hì bước tới. Địch Vân và Thủy Sinh cùng đứng dậy. Thủy Sinh quay mình bước vào trong hang, cầm lấy cây huyết đao, do dự một chút, rồi ném cho Địch Vân, bảo:

– Cầm lấy!

Địch Vân đưa tay đón lấy đao, hơi ngơ ngác: “Sao cô ta lại tin cậy mình như thế, đưa cây bảo đao quý như tính mạng này cho mình? À, cô ta muốn mình liều thân ngăn chặn Hoa Thiết Cán giúp cô ta đây. Hừ, Địch Vân này không phải là nô tài của cô!”

Lúc ấy Hoa Thiết Cán đã tới gần, cười ha hả, nói:

– Chúc mừng, chúc mừng!

Địch Vân trừng mắt:

– Chúc mừng cái gì?

Hoa Thiết Cán nói:

– Chúc mừng ngươi và Thủy cô nương hảo hợp. Đến cây bảo đao phòng thân người ta cũng giao cho ngươi, cái khác chẳng cũng giao cho ngươi sao? Ha ha, ha ha!

Địch Vân tức giận nói:

– Uổng cho lão mang danh đại hiệp Trung Nguyên, lại là kẻ tiểu nhân đê tiện như thế!

Hoa Thiết Cán cười hi hi nói:

– Nói đến sự đê tiện vô sỉ, nhân vật trong huyết đao môn nhà ngươi vị tất đã kém cạnh gì.

Lão vừa nói vừa chầm chậm bước tới gần, hít hít mấy hơi, nói:

– Ầy, thơm quá, thơm quá! Tặng cho ta một con ưng xám chén thử, được không?

Nếu lão xin một cách tử tế, Địch Vân chắc sẽ bằng lòng cho, nhưng lúc này thấy bộ dạng khinh bạc đáng ghét của lão, trong lòng bực bội nói:

– Võ công lão cao hơn ta nhiều, sao không săn bắt lấy?

Hoa Thiết Cán cười nói:

-Ta lười bắt lắm.

Trong lúc hai người nói chuyện, Thủy Sinh đã đi đến sau lưng Địch Vân, bỗng lớn tiếng kêu lên:

– Lưu bá bá, Lục bá bá!

Cô nhìn thấy Hoa Thiết Cán hai tay cầm trường kiếm của Lưu Thừa Phong và quỷ đầu đao của Lục Thiên Trữ, gió bấc thổi mạnh, thổi bay áo ngoài, lộ ra đạo bào của Lưu Thừa Phong và trường bào màu tía của Lục Thiên Trữ.

Hoa Thiết Cán nặng mặt nói:

– Thế nào?

Thủy Sinh nói:

– Lão… lão… lão ăn thịt hai bác ấy rồi sao?

Thủy Sinh nghĩ là Hoa Thiết Cán đã tìm được thi thể của hai người, chắc là đã ăn thịt họ. Hoa Thiết Cán tức tối nói:

– Việc gì đến ngươi?

Thủy Sinh kinh hoàng, run giọng nói:

– Lục bá bá, Lưu bá bá, hai… hai bác ấy… là anh em kết nghĩa của lão…

Hoa Thiết Cán nêu chịu khó săn bắt các loại chim, tất nhiên cũng không đến nỗi lấy thi thể của anh em kết nghĩa làm thức ăn, nhưng lão trăm phương ngàn kế săn bắt điểu tước, mới đầu cũng bắt được một vài con, được mấy hôm, chim chóc không mắc lừa nữa. Lão lại không có “Thần chiếu công” để có thể dùng chưởng lực đánh rơi ưng xám. Ngày hôm ấy, sau khi ăn hết thi thể của Lục Thiên Trữ và Lưu Thừa Phong, tay cầm đao kiếm quyết ý đến giết Địch Vân và Thủy Sinh, lại moi lấy thi thể của Thủy Đại và Huyết đao lão tổ trong băng tuyết mà ăn để có thể sống được đến đầu mùa hạ tuyết tan tìm đường ra khỏi cốc.

Lúc này nghe Thủy Sinh nói vậy, không nén được mặt bừng đỏ, lại ngửi thấy mùi thịt nướng thơm lừng, thèm nhỏ dãi. Bỗng dưng lão vung quỷ đầu đao hét lớn nhảy xổ tới chém vào Địch Vân, trái một nhát, phải một nhát. Địch Vân đưa huyết đao ra đỡ, “choang” một tiếng, quỷ đầu đao bật văng trở lại. Cây quỷ đầu đao này cũng là bảo đao, tuy không sắc bén tuyệt luân như huyết đao, nhưng thân đao dày và nặng, huyết đao không thể chặt đứt được nó. Ngày trước Lục Thiên Trữ giao chiến với Huyết đao tăng, quỷ đầu đao đã từng bị huyết đao chém mẻ ba miếng, nay hai đao lại gặp nhau, trên quỷ đầu đao cũng chỉ thêm một chỗ mẻ mới mà thôi.

Hoa Thiết Cán tuy không quen dùng đao, nhưng võ công cao cường, quỷ đầu đao xuất chiêu Địch Vân làm sao đối địch nổi. Sau mấy chiêu Địch Vân cứ phải bước lùi. Hoa Thiết Cán cũng không truy kích, lão cúi mình xuống, nhặt lấy nửa con ưng nướng Địch Vân ăn dở, ngoạm một miếng tướng, khen lia lịa:

– Ngon quá, ngon quá, mùi vị thật tuyệt, tuyệt thật!

Địch Vân quay đầu nhìn Thủy Sinh, cả hai đều lạnh người. Hoa Thiết Cán lần này cầm vũ khí đến khiêu chiến, tình thế khác lần trước. Đánh nhau tay không, Địch Vân bị lão tay đấm chân đá chẳng qua chỉ bị thương thổ huyết, không dễ gì bị đấm chết. Lúc này trong tay lão đã có đao kiếm, chỉ sơ hở một chút là mất mạng ngay. Lần giao chiến trước sở dĩ gắng cầm cự được là nhờ trong tay Thủy Sinh có thanh huyết đao mà Hoa Thiết Cán tay không, còn bây giờ lão có cả đao lẫn kiếm, lão hoàn toàn chiếm thượng phong.

Hoa Thiết Cán ăn xong nửa con ưng nướng, vẫn còn thòm thèm, thấy trong hang còn một con nữa, lại đến cầm lên chén. Lão quẹt mép nói:

– Ngon lắm, kỹ thuật nấu nướng hạng nhất.

Lão có vẻ lười nhác quay mình, bỗng nhảy vọt tới, “vù” một đao, nhằm Địch Vân chém mạnh. Nhát đao này vút tới rất nhanh, Địch Vân thảng thốt không kịp đề phòng, suýt bị chém vạt mất nửa đầu, vội vàng đưa huyết đao ra đỡ. Hoa Thiết Cán sợ Địch Vân nội công hùng hậu, nếu hai đao chạm nhau e rằng cánh tay tê dại, lão bèn đưa chếch lưỡi đao. Trong ba chiêu, Địch Vân đã luống cuống chân tay, cánh tay trái bị quỷ đầu đao xẻ một đường dài.

Thủy Sinh kêu lên:

– Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa. Hoa bá bá, tôi chia thịt chim ưng cho bác nữa đây.

Hoa Thiết Cán thấy đao pháp của Địch Vân quá đỗi tầm thường, chưa bằng loại ba trong võ lâm, nghĩ bụng hãy giết ngay tên tiểu tử này đã, việc chi nói sau, khỏi lưu hậu họa, bèn dồn sức vào cánh tay, miệng còn lải nhải:

– Cháu Thủy, cháu thương yêu tiểu tử này lắm hả, phải không? Sao không nhớ Uông biểu ca của cháu?

“Soạt soạt soạt” ba nhát lại chém trúng một nhát vào vai phải Địch Vân, may mà chỗ đao chém lại đúng vào vị trí có “áo tằm đen” bảo hộ, nếu không cánh tay trái của Địch Vân đã bị phế.

Thủy Sinh gào to:

– Hoa bá bá, đừng đánh nữa!

Địch Vân tức giận nói:

– Cô kêu cái gì? Ta đánh không lại, bị y giết là cùng.

Địch Vân điên tiết, vung đao chém phứa, bỗng tay phải chuyển đao sang tay trái, lật bàn tay đánh mạnh ra.

Hoa Thiết Cán đâu ngờ tên “tiểu hòa thượng” võ công kém cỏi kia lại có thề ra một kỳ chiêu như thế, vội vàng quay tránh, “bốp” một tiếng, một chưởng đập mạnh vào cổ họ Hoa khiến lão tê dại nửa người. Địch Vân ngơ ngác nghĩ bụng: “Đây là “nhĩ quang thức” mà bác ăn mày đã dạy.” Với một chiêu đắc thủ, Địch Vân lại ra tiếp hai chiêu “thích kiên thức” và “khử kiếm thức”. Hoa Thiết Cán kêu lên:

– Liên thành kiếm pháp, Liên thành kiếm pháp!

Địch Vân lại ngớ người, ngày ấy ở Kinh Châu tỉ kiếm với tám đệ tử Vạn môn, khi sử ba chiêu này, Vạn Chấn Sơn cũng nói là “Liên thành kiếm pháp”, lúc ấy Địch Vân cho rằng Vạn Chấn Sơn nói láo, nhưng Hoa Thiết Cán là đại hiệp Trung Nguyên, hiểu nhiều biết rộng, vẫn nói đây là “Liên thành kiếm pháp”, lẽ nào ba chiêu kiếm mà lão khất cái (ăn mày) dạy thật sự là “Liên thành kiếm pháp”?

Địch Vân lấy đao làm kiếm, liên tiếp sử ba chiêu này mấy lần nhưng võ công của Hoa Thiết Cán đâu phải tầm thường như đám Lỗ Khôn, Chu Kỳ, Vạn Khuê, trừ chiêu đầu tiên Địch Vân đắc thủ vì bất ngờ ra, ba chiêu này về sau đem dùng với Hoa Thiết Cán đã chẳng còn một chút hiệu quả nào nữa. Đến khi Địch Vân sử “khử kiếm thức” lần thứ tư, lấy huyết đao hất quỷ đầu đao đi, Hoa Thiết Cán đã có phòng bị, phóng chân trái lên, đá trúng cố tay. Huyết đao trong tay Địch Vân rơi mất, Hoa Thiết Cán ra một chiêu “Thuận thủy thôi chu”, hai tay đao kiếm cùng đâm vào ngực Địch Vân.

“Cách cách” hai tiếng, một đao một kiếm đều đâm trúng ngực, mũi đao mũi kiếm đều bị “ô tàm y” ngăn lại, không xuyên qua được. Thủy Sinh cầm một cục đá phòng thủ bên cạnh, thấy Địch Vân lâm nguy, bèn vung tay ném vào sau ót Hoa Thiết Cán. Hoa Thiết Cán lần trước đâm đoản thương vào ngực Địch Vân đã cảm thấy kỳ quái, nghĩ mãi không ra Địch Vân có để hộp sắt hay bài đồng gì đó trước ngực, mũi thương lại tình cờ đâm trúng vật cứng ấy nên không xuyên qua được, nhưng lần này đao kiếm cùng đâm, quyết không thể ngẫu nhiên như thế được. Lão ngẩn người ra, Địch Vân ráng sức vung chưởng đánh ra, Thủy Sinh lại ở đằng sau tập kích.

Hoa Thiết Cán ré lên:

– Có ma, có ma!

Trong lòng run sợ: “Phải chăng là Lục đại ca, Lưu tam đệ trách mình ăn thịt thi thể họ, hồn ma hiện về bắt mình?” Toàn thân lão toát mồ hôi lạnh, nhảy lùi mấy bước.

Địch Vân và Thủy Sinh nhân cơ hội đó, vội vàng chạy trốn vào trong hang, vần mấy tảng đá lớn chặn cửa hang. Hai người ban đầu đã chỉ đế một lối rất hẹp bây giờ vần thêm mấy tảng đá bịt kín.

Hai người thoát chết, tim đập thình thịch. Chỉ nghe Hoa Thiết Cán réo gọi:

– Ra đi, hai con rùa kia, định nấp trong hang suốt đời à? Các ngươi bắt ưng trong hang mà ăn à? Ha ha, ha ha!

Lão tuy cười vang nhưng trong lòng run sợ, không dám tới quật thi thể Thủy Đại lên để ăn nữa.

Địch Vân và Thủy Sinh nhìn nhau, đều nghĩ: “Lời của lão cũng không sai. Mình ở trong hang ăn gì? Nhưng nếu ra thì bị lão giết ngay, phải làm sao bây giờ?”

Hoa Thiết Cán nếu muốn, có thể khuân hết đá để vào hang, hai người đã mất huyết đao, cũng khó mà tự vệ, nhưng Hoa Thiết Cán hai lần đâm vào ngực Địch Vân không thủng, tưởng rằng hồn ma của hai người anh em kết nghĩa quở phạt, lão nổi hết da gà, toàn thân run lẩy bẩy.

* * *

Địch Vân và Thủy Sinh cố thủ trong hang một hồi lâu, thấy Hoa Thiết Cán không tới đánh nữa, hơi vững tâm. Địch Vân xem vết thương nơi cánh tay trái thấy vẫn còn chảy máu. Thủy Sinh xé vạt áo băng bó lại. Địch Vân đã kéo vạt tăng bào đã rách lên che trước ngực để Thủy Sinh khỏi thấy. Tay kéo vạt áo bỗng lộ ra một cuốn sách nhỏ, chính là cuốn “huyết đao kinh” lấy được từ Bảo Tượng.

Địch Vân vừa ác đấu với Hoa Thiết Cán, thời gian tuy ngắn, dùng sức chưa nhiều, tinh thần lại rất căng thẳng, lúc này nghỉ được một chút cảm thấy mệt mỏi không sao chịu nổi. Nhớ lại ngày ấy ở trong cái miếu đổ nát, lần đầu thấy “huyết đao kinh” đã từng học theo những tư thế của người đàn ông khỏa thân trong sách mà tập luyện tinh thần lập tức phấn chấn, nghĩ rằng Hoa Thiết Cán chắc chắn là không chịu buông, chẳng bao lâu nữa lại phải ác đấu với lão, dẫu lão có giết mình, mình cũng phải đánh cho lão mấy chưởng, nếu để thần suy lực kiệt thế này làm sao có thề kháng địch? Địch Vân bèn thuận tay giở một trang, thấy người trong hình vẽ đầu dưới chân trên, chống đầu xuống đất, tư thế của hai cánh tay càng kỳ lạ. Địch Vân bèn theo thế mà làm, cũng trồng chuối, đầu dưới chân trên.

Thủy Sinh thấy Địch Vân bỗng làm những động tác kỳ lạ, cho rằng y lại phát điên, nghĩ rằng ngoài thì có cường địch, trong thì có người điên, không biết phải làm sao, lòng rối như tơ vò không nhịn được khóc thút thít.

Địch Vân luyện chưa đến nửa canh giờ, đã cảm thấy toàn thân nóng ran như sưởi bên bếp lửa, thoải mái vô cùng. Lại giở một trang nữa, thấy người đàn ông trong hình vẽ tay trái chống xuống đất, thân hình song song với mặt đất, hai chân lại quặp lấy cổ. Tư thế này vốn cực khó, nhưng Địch Vân từ sau khi luyện thành “Thần chiếu công”, điều khiển tứ chi bách tiết một cách dễ dàng như ý, bèn cứ theo đồ hình mà luyện, nội tức cũng vận hành theo những đường nét xanh đỏ trong hình vẽ, các kinh mạch, huyệt đạo trong thân thể thảy đều quán thông.

Bộ “huyết đao kinh” này là tổng hợp yếu quyết cả nội công và ngoại công của “huyết đao môn”, đồ phổ trong mỗi trang đều phải luyện sáu tháng một năm mới thành thục. Nhưng mạch nhâm và mạch đốc của Địch Vân đã liên thông, có nội lực hùng hậu vô cùng của “Thần chiếu công” làm cơ sở, võ công dù khó mấy cũng đã luyện là thành. Địch Vân luyện hết thức này đến thức khác, càng luyện càng hứng thú.

Thủy Sinh thấy Thủy Sinh mở sách luyện công mới hơi yên tâm. Xem một lúc, thấy tư thức của y hi kỳ cổ quái không sao tưởng tượng nổi, cảm thấy vừa buồn cười vừa ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Thiên hạ lẽ nào lại có thứ võ công như thế này?” Bèn bước tới hai bước, cúi xuống giở mấy trang “huyết đao kinh” ra xem, mới nhìn một cái, thấy người đàn ông khỏa thân trong hình vẽ bỗng đỏ bừng cả mặt, tim đập thình thịch: “Tên tiểu ác tăng này luyện đến cuối không biết có bóc hết áo quần đi không?”

May sao cái điều đáng sợ ấy không hề xảy ra.

Địch Vân luyện nội công một hồi, giở đến một trang khác, thấy người trong hình vẽ tay cầm một cây loan đao, vung tay chém xiên. Địch Vân mừng rỡ, buột mồm thốt lên:

– Huyết đao đao pháp.

Bèn nhặt một cành cây, tập sử theo hình vẽ.

Huyết đao đao pháp quả là cực kỳ quái dị, chiêu nào cũng chém vào những phương vị vốn không thể nào chém được, khiến đối phương không thể nào đoán được đường đao. Địch Vân chỉ luyện được ba chiêu thì đã lĩnh hội được yếu quyết – thì ra mỗi chiêu đao pháp đều từ những tư thức cổ quái phía trước diễn hóa mà thành. Trong đồ phổ phía trước có đảo vị, hoành thân, chân quặp cổ, chéo tay cầm tai… tất cả những tư thức quái dị ấy đều cần phải luyện thành thục mới có thể học được “huyết đao đao pháp”. Trong huyết đao đao pháp, các chiêu số cũng quái dị, khiến người ta khó lòng tưởng tượng nổi. Địch Vân bèn chọn lấy bốn chiêu đao pháp luyện tập thuần thục, lòng thầm nghĩ: “Mình phải nhanh chóng luyện được hai ba chục chiêu, sau bốn năm ngày lại ra tử chiến với lão họ Hoa. Ôi, đáng tiếc là không luyện đao pháp này sớm hơn.”

Nào ngờ Hoa Thiết Cán không để cho Địch Vân thong thả được nửa ngày. Địch Vân chuyên tâm luyện tập đao pháp, Hoa Thiết Cán ở ngoài hang réo om sòm:

– Tiểu hòa thượng, ngươi có ăn tim gan nhạc phụ đại nhân của ngươi không? Mùi vị tuyệt vời.

Thủy Sinh giật mình, đẩy tảng đá, nhảy vọt ra. Cô thấy Hoa Thiết Cán cầm quỷ đầu đao đang đào phần mộ của Thủy Đại, tuy chưa đào đến thi thể nhưng chẳng chóng thì chầy rồi cũng đến. Thủy Sinh la to:

– Hoa bá bá, Hoa bá bá, ông… ông… không nghĩ gì đến tình anh em kết nghĩa sao?

Vừa kêu la, cô vừa chạy tới.

Hoa Thiết Cán chính đang muốn lừa cô ra khỏi hang, đánh ngã cô trước rồi mới tính đến Địch Vân, nếu không hai người liên thủ chỉ tổ vướng tay vướng chân.

Lão thấy Thủy Sinh lao đến, làm như không thấy, vẫn cắm cổ đào. Thủy Sinh chạy đến sau lão, chưởng phải đánh mạnh vào lưng lão. Hoa Thiết Cán lật tay trái nhanh như chớp, đã nắm lấy cổ tay cô. Thủy Sinh hét lên:

– Ái chà!

Tay trái đánh ra. Hoa Thiết Cán nghiêng mình tránh, trở tay điểm ra, hông Thủy Sinh bị ngón tay lão điểm trúng, kêu khẽ một tiếng, ngã quay ra đất.

Lúc này Địch Vân tay cầm cành cây cũng đã chạy tới. Hoa Thiết Cán cười ha hả:

– Tiểu hòa thượng không muốn sống nữa rồi, dùng một cành cây để đấu với bố mày. Được, ngươi là ác tăng huyết đao môn, ta cũng dùng huyết đao bản môn cho ngươi chầu trời.

Lão rút huyết đao bên hông ra, vứt quỷ đầu đao xuống đất, trong khoảnh khắc đã chém Địch Vân ba nhát. Cây huyết đao này lưỡi mỏng như giấy, khi chém ra tiếng rít lên như gió, Hoa Thiết Cán thầm khen: “Bảo đao tuyệt vời!”

Địch Vân thấy bảo đao chém tới cực nhanh, lạnh toát sống lưng, chân tay luống cuống, cắn răng thầm nghĩ: “Ta cũng liều đồng quy u tận!” Tay phải vung cành cây, từ đằng sau lưng phản kích, “bốp” một tiếng, cành cây nện ngang vào sau gáy Hoa Thiết Cán. Chiêu này cực kỳ cổ quái, nếu trong tay Địch Vân không phải là cành cây mà là đao sắc thì tất nhiên Hoa Thiết Cán đã rụng đầu.

Kỳ thực võ công của Hoa Thiết Cán và Huyết đao lão tổ không hơn kém nhau bao nhiêu, dẫu cho Huyết đao lão tổ luyện thành thục huyết đao đao pháp cũng không thể giết Hoa Thiết Cán trong một chiêu được, huống hồ là Địch Vân. Có điều Hoa Thiết Cán mười phần khinh địch, không coi thằng nhãi võ công kém cỏi này vào đâu nên mới bất ngờ bị dính đòn như thế. Lão ngơ ngác vung đao muốn chặt, cành cây trong tay Địch Vân như mưa sa gió quét, chặt bừa chém phứa, thỉnh thoảng lại lồng vào một chiêu “huyết đao đao pháp”, “bốp” một tiếng lại đánh trúng xương sọ của lão. Hoa Thiết Cán loạng choạng, rú lên:

– Có ma, có ma!

Ngoái nhìn một cái, sợ đến nỗi chân tay bủn rủn, buông tay ra, huyết đao rơi xuống đất, lão quay mình co giò chạy trốn thật xa.

Từ sau khi ăn xác của nghĩa huynh nghĩa đệ, trong lòng hổ thẹn bứt rứt, cứ sợ hồn ma của Lục Thiên Trữ và Lưu Thừa Phong tìm lão thanh toán. Vừa rồi đao kiếm đâm không vào thân thể Địch Vân lão đã cho là có hồn ma ngầm giúp kẻ địch, lúc này Địch Vân chỉ cầm một cành cây đấu với lão, rõ ràng là đứng đối diện, Thủy Sinh thì bị điểm huyệt đang nằm dưới đất nhưng sau ót và sau xương chẩm của lão lại liên tiếp bị vật cứng nện vào. Trong cốc, ngoài lão và Địch Vân ra còn có ai nữa đây? Ám toán lão từ sau lưng một cách thần xuất quỷ một như thế, chẳng phải ma quỷ thì là cái gì? Lão ngoái đầu trông, bất luận là trông thấy cái gì cũng không sợ hãi đến thế. Nhưng lại chẳng thấy gì cả, lão bất giác hồn xiêu phách lạc, đâu còn dám trụ lại.

* * *

Địch Vân tay đánh trúng Hoa Thiết Cán hai nhát, nhưng rõ ràng lão không bị thương, thế mà lại chạy bán sống bán chết, thật là một điều không ngờ.

Địch Vân nhặt huyết đao lên, thấy Thủy Sinh nằm trên mặt đất không cựa quậy được, bèn hỏi:

– Cô bị lão điểm huyệt à?

Thủy Sinh nói:

– Phải.

Địch Vân lại nói:

– Tôi không biết giải huyệt, không cứu được cô.

Thủy Sinh nói:

– Chỉ cần ấn vào hông và phía trên chân…

Cô vốn định nói cho Địch Vân biết bộ vị của huyệt đạo, nhờ giải huyệt, nhưng mới nói đến “phía trên chân” lại nghĩ đến tên “tiểu dâm tăng” này tuy gần đây không vô lễ với mình nhưng trước kia phẩm hạnh rất không tử tế, nếu y thừa dịp mình không cử động được…

Địch Vân thấy ánh mắt cô lộ vẻ sợ sệt thầm nghĩ: “Hoa Thiết Cán đã bỏ chạy rồi, cô còn sợ cái gì?”, nghĩ một chút chợt hiểu ra: cô ta sợ mình. Nỗi tức giận trào lên đầy ngực, Địch Vân quát lên:

– Cô sợ tôi xâm phạm cô hả, sợ tôi đối với… đối với cô… Hừ, hừ! Từ nay về sau tôi không nhìn cô nữa.

Địch Vân tức giận đến nỗi hai chân giẫm loạn lên, đá tuyết bay tung tóe.

Thủy Sinh trong lòng hổ thẹn, thầm nghĩ: “Lẽ nào mình nghi ngờ một cách mù quáng, trách nhầm anh ta?”

Cô nằm trên mặt đất, bất động, sau hơn một canh giờ, một con ưng xám từ trên trời nhào xuống mặt cô, Thủy Sinh kêu thất thanh, bỗng một đạo hồng quang lóe lên, cây huyết đao bay chếch qua xả con ưng xám làm đôi, rơi xuống bên cạnh Thủy Sinh.

Thì ra, Địch Vân tuy tức giận cô ta nghi ngờ mình nhưng vẫn lo Hoa Thiết Cán quay lại gia hại cô, do vậy vẫn thủ vệ cách đó không xa, tiếp tục luyện huyết đao đao pháp. Địch Vân ném cây huyết đao lên xẻ đôi con ưng xám. Huyết đao bay hơn mười trượng nữa mới rơi xuống đất. Vậy là Địch Vân lại đã luyện được chiêu “lưu tình kinh thiên” trong “huyết đao đao pháp”.

Thủy Sinh nói:

– Địch đại ca, Địch đại ca, là muội sai rồi, trăm lần xin lỗi đại ca.

Địch Vân làm như không nghe thấy, không thèm đê ý. Thủy Sinh lại nói:

– Địch đại ca, huynh tha thứ cho muội, muội mất cha, côi cút một mình, suy nghĩ không chín chắn, đừng giận nữa, được không?

Địch Vân vẫn không thèm trả lời, nhưng nỗi tức giận trong lòng cũng dần dần tiêu tan.

Thủy Sinh nằm trên mặt đất, mãi đến hôm sau huyệt đạo mới tự giải khai. Cô biết Địch Vân tuy không nói một lời nhưng suốt đêm đã canh cho cô không hề chợp mắt, trong lòng thấy cảm kích. Cô vừa mới nhúc nhắc được đã tức khắc đem con ưng xám đi nướng, chia làm hai, đặt trước Địch Vân. Khi cô đến gần, Địch Vân nhắm mắt lại, tuân thủ lời mình đã nói: “Từ nay về sau tôi không cần nhìn cô nữa.”

Thủy Sinh đặt con ưng xám đã nướng chín xuống liền bỏ đi ngay. Địch Vân đợi cô ta đi đã xa mới mở mắt ra. Bỗng nghe thấy cô ta “a” lên một tiếng kêu sợ hãi, tiếp đó lại một tiếng “ái chà”, ngã xoài trên đất. Địch Vân nhảy lên, chạy gấp đến bên cô. Thủy Sinh mỉm cười, đứng lên, nói:

– Muội lừa huynh một chút. Huynh bảo từ nay không cần nhìn muội, thế này không phải là nhìn muội sao? Câu nói kia coi như không được tính nữa.

Địch Vân bực bội trừng mắt nhìn cô một cái, nghĩ bụng: “Bọn con gái trong thiên hạ đều tinh quái. Ngoài Lăng cô nương của Đinh đại ca ra, ai cũng biết lừa người ta cả. Từ nay về sau, từ nay về sau tôi sẽ không để cô đánh lừa nữa.”

Thủy Sinh lại cười khanh khách nói:

– Địch đại ca, huynh vội vàng đến cứu muội, cảm ơn huynh!

Địch Vân lườm cô ta một cái, quay mình sải bước.

** *

Hoa Thiết Cán sợ hồn ma tác quái, không dám đến quấy nhiễu nữa, đành bóc vỏ cây, bới rễ cỏ, khổ sở qua ngày. Có lúc lão dùng thủ pháp phóng ám khí để ném đá cũng bắt được một vài con tuyết nhạn. Địch Vân mỗi ngày luyện một vài chiêu “huyết đao đao pháp”, nội lực ngoại công đều tiến bộ rất nhiều.

Đông qua xuân tới, trời ấm dần, tuyết đọng trong sơn cốc không còn dày nữa, rồi tuyết bắt đầu tan.

Trong những ngày ấy, Địch Vân đã luyện thuần thục toàn bộ “huyết đao công” và “huyết đao đao pháp”. Lúc này Địch Vân đã kết hợp được sở trường võ công thượng thừa của hai phái chính tà, tuy kinh nghiệm từng trải còn rất khiếm khuyết và tinh hoa võ công của hai môn phái cũng chưa thật quán thông nhưng nếu chỉ luận về võ công thì đừng nói là vượt xa Hoa Thiết Cán và Huyết đao lão tổ, ngay cả so với Đinh Điển dạo ấy cũng chưa chắc đã thua kém, đó đều là nhờ luyện thành “Thần chiếu công” và liên thông hai mạch “nhâm-đốc”.

Thủy Sinh nói chuyện, Địch Vân sợ mắc lừa nên cứ làm như câm, không đáp một lời, trừ những bữa ăn, Địch Vân cứ ở thật xa cô ta, một mình luyện công. Ý nghĩ trong lòng Địch Vân chỉ có ba điều: Sau khi ra khỏi tuyết cốc, việc thứ nhất là về quê cũ Tương Tây tìm sư phụ; việc thứ hai là đến Kinh Châu hợp táng cho Đinh đại ca và Lăng cô nương; việc thứ ba – báo thù!

Thấy tuyết đã róc rách chảy thành khe, chảy mãi ra ngoài sơn cốc, tuyết đọng trên đường núi ngày càng mỏng. Địch Vân không biết còn cách tiết đoan ngọ mấy ngày nhưng biết là ngày ra khỏi sơn cốc không còn xa nữa.

Một hôm, sau buổi trưa, Địch Vân nhận từ tay Thủy Sinh con ưng xám đã nướng chín, đang định quay đi, Thủy Sinh bỗng nói:

– Địch đại ca, mấy ngày nữa chúng ta đã có thể ra khỏi sơn cốc được rồi đấy nhỉ?

Địch Vân “ừ” một tiếng.

Thủy Sinh khẽ nói:

– Đa tạ huynh trong những ngày này đã giúp muội rất nhiều. Nếu không có huynh muội đã chết bởi tay lão ác nhân Hoa Thiết Cán rồi.

Địch Vân lắc đầu nói:

– Không có gì.

Rồi quay người bước đi.

Bỗng nghe phía sau có tiếng khóc thút thít, bèn quay đầu lại, thấy Thủy Sinh nằm phủ phục trên một tảng đá, hai vai run rẩy. Địch Vân trong lòng cảm thấy kỳ lạ: “Có thể tìm đường ra khỏi sơn cốc, đáng ra phải vui mừng mới phải, có gì đáng phải khóc? Tâm trạng của bọn con gái thật quái lạ, mình mãi mãi không thể nào hiểu được.”

Kỳ thực, Thủy Sinh vì sao mà khóc, chính cô cũng không hiểu rõ, chỉ cảm thấy thương tâm, không nén được mà khóc, vậy thôi.

* * *

Một đêm, sau khi luyện công một hồi, Địch Vân nằm trên tảng đá lớn vẫn quen thuộc, ngủ thiếp đi. Tảng đá này cách cửa hang không xa lắm, để phòng Hoa Thiết Cán đến trộm thi thể hoặc ám hại Thủy Sinh. Nhưng trong những ngày này Hoa Thiết Cán không hề trở lại, nghĩ rằng chắc không có gì bất trắc nên yên tâm ngủ say.

Trong giấc ngủ, bỗng mơ màng nghe thấy tiếng chân bước. Lúc này, nội công của Địch Vân đã rất thâm hậu, mắt tinh tai thính khác xa ngày trước. Tiếng chân bước tuy còn xa lắm nhưng đã khiến Địch Vân tỉnh thức, liền trở mình ngồi dậy, lắng tai nghe ngóng, phát giác người đến khá đông, ít ra cũng đến năm sáu chục người, đang đi đến sơn cốc.

* * *

Địch Vân giật mình: “Sao lại có người đến tuyết cốc nhỉ?” Địch Vân không biết rằng ở chỗ này do các ngọn núi che khuất mặt trời nên rất lạnh, bên ngoài tuyết đã tan sớm hơn trong sơn cốc này cả tháng. Địch Vân thầm nhủ: “Những người này chắc chắn là quần hào Trung Nguyên đuổi đến. Nay Huyết đao lão tổ đã chết, bao nhiêu thù oán đều trút lên đầu mình. Ừ, biểu ca của Thủy cô nương nhất định cũng đến rồi, anh ta đón cô ta đi, thế thì tốt quá. Họ cho rằng mình là dâm tăng huyết đao môn, không thể nào biện bạch cho rõ được, có lẽ mình đừng gặp họ lại hay hơn. Để họ đón Thủy cô nương đi, mình sẽ từ từ ra sau cũng không muộn.”

Địch Vân đi vòng sang mé bên hang núi, nấp sau một tảng nham thạch lớn. Nghe tiếng bước chân mỗi lúc một gần. Bỗng phía trước ánh sáng chói lòa, một đám đông đi vào hẻm núi, tay họ đều giơ cao bó đuốc. Đám đông khoảng hơn năm mươi người, người nào cũng một tay cầm đuốc, một tay cầm binh khí. Người đi đầu tóc bọc phất phơ, tay không cầm đuốc, một tay đao một tay kiếm – lại chính là Hoa Thiết Cán.

Địch Vân thấy lão và những người mới đến xúm lại một chỗ, hơi lấy làm lạ, nhưng liền tỉnh ngộ: “Những người này từ Hồ Bắc, Tứ Xuyên đuổi đến, Hoa Thiết Cán là một trong những thủ lĩnh của họ, đương nhiên mới gặp đã nhập bọn. Chẳng biết lão đã nói gì?” Thấy một đoàn người tiến vào hang, Địch Vân bèn khom mình, đi mấy trượng, nấp trong một đám cỏ rậm. Lúc này Địch Vân cách đám người kia còn khá xa, nhưng vì nội công trong mấy tháng qua đã vượt xa trước kia nên đã có thể nghe rõ tiếng những người kia nói chuyện.

Một giọng thô trọc cất lên:

– Thì ra Hoa huynh đã giết chết ác tăng, thật là đáng kính đáng mừng. Hoa huynh lập đại công này, từ nay tất nhiên là thủ lĩnh của quần hiệp Trung Nguyên, mọi người đều tuân phục, nghe lệnh.

Một người khác nói:

– Đáng tiếc là ba vị Lục đại hiệp, Lưu đại hiệp và Thủy đại hiệp đã chết thảm, khiến mọi người xót thương.

Lại một người nói:

– Lão ác tăng tuy chết nhưng tiểu ác tăng còn chưa bị tru diệt, chúng ta cần phải tầm nã ngay, trảm thảo trừ căn, khởi sinh hậu họa. Hoa đại hiệp, ngài bảo thế nào?

Hoa Thiết Cán nói:

– Không sai. Lời Trương huynh rất đúng. Tên tiểu ác tăng này, đầy mình võ công tà phái, không hề thua kém lão ác tăng, có khi còn hơn nữa. Lúc này không biết hắn nấp đâu rồi. Hắn thấy nhiều người đến chắc là đã vội vàng chạy trốn. Các anh em, chúng ta đừng ngại gian khổ, cần phải giết tên tiểu ác tăng ấy, mới gọi là đại công cáo thành.

Địch Vân thầm kinh hãi:

– Lão họ Hoa kia ăn nói bậy bạ cực kỳ hiểm độc, may mà mình không lỗ mãng xông ra, nếu không họ xúm đến giết mình, mình làm sao chống cự nổi?

Bỗng một âm thanh thiếu nữ vang lên:

– Huynh… huynh ấy không phải là tiểu ác tăng, mà là một vị chính nhân quân tử! Hoa Thiết Cán mới là một kẻ xấu xa bại hoại!

Chính là tiếng nói của Thủy Sinh.

Địch Vân nghe mấy lời ấy, trong lòng cảm thấy ấm áp. Lần đầu tiên nghe thấy chính miệng cô ấy nói ra: “Huynh ấy không phải là tiểu ác tăng, mà là một vị chính nhân quân tử!” Trong những ngày gần đây, Thủy Sinh rõ ràng là không còn căm hận nữa nhưng có thể thẳng thắn nói trước mọi người rằng Địch Vân là một chính nhân quân tử, thì điều ấy quả là ngoài tưởng tượng của Địch Vân.

Địch Vân bỗng trào nước mắt, lòng thầm nhắc: “Cô ấy nói mình là chính nhân quân tử, cô ấy nói mình là chính nhân quân tử!”

Thủy Sinh nói hai câu này, mọi người trong hang đều đưa mắt nhìn nhau, không ai nói gì. Dưới ánh đuốc, Địch Vân ở xa nhìn cũng thấy trên mặt những người kia đều lộ vẻ khinh bỉ, miệt thị, có người cười tủm tỉm mỉa mai, có người lại lộ vẻ “hạnh tai lạc họa”.

Một lúc sau, có một giọng già lão cất lên:

– Cháu Thủy, ta là bạn già lâu năm của cha cháu, không thể không nói với cháu mấy lời. Tên tiểu ác tăng kia đã hại chết cha cháu…

– Không, không…

– Cha cháu không phải là do tên tiểu hòa thượng kia giết à? Vậy thì lệnh tôn chết dưới tay kẻ nào?

Thủy Sinh nói:

– Y… y…

Cô nhất thời không nói tiếp được. Ông già kia lại nói tiếp:

– Hoa đại hiệp nói, ngày ấy kịch đấu ở trong hang, lệnh tôn kiệt sức bị khống chế, tên tiểu hòa thượng kia đã dùng cành cây đập nát thiên linh cái của ông ấy, có phải vậy không?

Thủy Sinh nói:

– Không sai. Nhưng… nhưng…

Lão nhân hỏi tiếp:

– Nhưng thế nào?

Thủy Sinh nói:

– Là cha cháu tự mình… tự mình cầu xin y đánh chết!

Lời cô vừa thốt ra, trong hang bỗng bùng vỡ một trận cười vang động. Tiếng cười chấn động khiến cho băng tuyết sắp tan trên các cành cây quanh hang rào rào trút xuống.

Trong tiếng cười xen lẫn vô số lời chế giễu:

– Tự mình cầu xin y đánh chết, ha ha ha! Láo toét đến mức quá tức cười.

– Thì ra Thủy đại hiệp chán sống, giơ đầu ra, mời ông con rể tương lai đánh một cú cho óc nở hoa!

– Ai bảo là con rể “tương lai”? Trước khi Thủy đại hiệp qua đời, e rằng tiểu hòa thượng đã sớm bồng ẵm cô nương kia rồi, ha ha ha!

Lại có mấy người nghiêm giọng chỉ trích:

– Thế gian lại có đứa con gái vô sỉ đến thế, vì một thằng đàn ông hoang dã đến cả cha đẻ của mình cũng không cần!

Cũng có người lạnh lùng giễu cợt:

– Cần trai hoang không cần cha đẻ, trên đời này cũng nhiều lắm, nhưng lại xui gian phu giết cha đẻ của mình thì quả thực khiến người ta kinh hãi.

Lại có một người nói:

– Tôi đã từng nghe nói “Mê trai cuồng nhiệt, mưu giết chồng ruột”. Nay thế đạo khác xa rồi, lại có cả “Mê trai cuồng nhiệt, mưu giết cha ruột”. Ha ha ha!

Mọi người nghe lời Hoa Thiết Cán, cho rằng Thủy Sinh và Địch Vân đã sớm làm những việc không thể nói ra… tức giận cô bênh vực “gian phu” vì vậy lời nói của họ mỗi lúc một khó nghe. Đây là những kẻ thô lỗ trên chốn giang hồ, còn có lời bẩn thỉu nào mà chẳng dám nói ra?

Thủy Sinh đỏ bừng cả mặt, lớn tiếng:

– Các người nói… nói cái gì? Thật là không biết xấu hổ.

Họ lại cười rần lên. Có người nói:

– Té ra chúng tôi không biết xấu hổ, thật là đại hài hước.

– Được, được! Thủy cô nương, chúng tôi không biết xấu hố. Cô và gã tiểu hòa thượng kia khanh khanh ngã ngã trong hang này, vứt bỏ mối đại thù của cha thì là biết liêm sỉ đấy nhỉ?

– Mẹ nó chứ, bố mày từ Hồ Bắc vội vội vàng vàng đuổi tới đây, ngựa không dừng vó, chỉ vì muốn cứu con nhãi ranh nhà ngươi. Con bé đê tiện này vô sỉ đến thế, bố mày một đao chém mày trước.

Có người bên cạnh khuyên can:

– Đừng làm thế, đừng làm thế, Triệu huynh không được lỗ mãng!

Thanh âm già lão kia lại nói:

– Các vị hãy bớt giận. Thủy cô nương còn quá trẻ, chưa hiểu biết. Thủy đại hiệp bất hạnh qua đời, cô ấy côi cút không có người chăm sóc, mọi người đừng làm khó cô ấy nữa. Từ nay về sau Hoa đại hiệp sẽ nuôi dưỡng cô ấy, dạy dỗ tử tế, sẽ trở lại nẻo chính. Mọi người hãy tích khẩu đức một chút, những chuyện ở trong tuyết cốc này, đừng để đồn đại trên chốn giang hồ. Thủy đại hiệp khi còn sống đối xử nhân nghĩa với người, nếu không sao mọi người lại chẳng nề gian khổ, đuổi đến tận đây đế cứu con gái ông ấy? Chúng ta cần phải giữ thể diện cho Thủy đại hiệp, không nhắc tới chuyện này nữa. Theo tôi, chúng ta nên tìm bắt tên tiểu hòa thượng kia trị tội, mổ nó để tế anh linh của Thủy đại hiệp.

Ông già vừa nói là một người đức cao vọng trọng, rất được mọi người tôn kính, ông ta vừa nói một hồi trong đám người có nhiều tiếng phụ họa:

– Vâng, vâng, lời của Trương lão anh hùng rất có lý, chúng ta tìm tên tiểu hòa thượng kia, băm thây vạn mảnh.

Trong tiếng ầm ĩ huyên náo của mọi người, Thủy Sinh “òa” lên một tiếng, khóc vang.

Bỗng nghe thấy xa xa có người kêu gọi:

– Biểu muội, biểu muội! Muội ở đâu?

Thủy Sinh nghe thấy tiếng kêu ấy, biết là biểu ca Uông Khiếu Phong đã đến, mình bị oan uổng, chịu sỉ nhục, bỗng nghe tiếng nói của người thân, mừng rỡ biết bao. Bèn nín khóc lao ra ngoài cửa hang.

Có người nói:

– Chàng si tình Uông Khiếu Phong kia biết được sự thật e phát điên mất!

Ồng già họ Trương lại nói:

– Mọi người đừng ồn, nghe tôi nói một câu. Vị thiếu hiệp họ Uông này dành cho Thủy cô nương một tấm chân tình, tuyết còn chưa tan hết anh ta đã xông vào cốc từ hai ngày trước, chắc là lạc đường, dục tốc bất đạt lại đến chậm sau chúng ta. Các vị, người này cũng thật không may, mọi người hãy kín miệng một chút, tích âm đức, những việc xấu xa của Thủy cô nương với tiểu hòa thượng kia, đừng nói với anh ta.

Trong quần hào cũng có những người trung hậu, thì nói:

– Đúng là nên như thế! Thủy cô nương nhất thời sa ngã, cần để cho cô ấy một con đường mới. Huống nữa đây cũng là tình thế bắt buộc, không biết làm sao được. Nếu không, một khuê nữ danh môn đoan chính như thế đời nào lại theo tên hòa thượng tà phái kia.

Lại có người nói:

– Uông Khiếu Phong là một chàng đẹp trai thế kia mà khi không lại phải đội mũ xanh, bị cắm sừng thì đáng tiếc cho anh ta quá, ha ha!

– Như thế gọi là có chơi có chịu. Tiền huynh, huynh đi lâu như thế, tẩu tẩu ở nhà đơn chiếc quạnh hiu, biết đâu đầu huynh cũng đội mũ xanh rồi?

– Mẹ kiếp, vợ của ngươi mới cô đơn quạnh quẽ!

– Đúng thế, không sai, vợ tớ cô đơn quạnh quẽ, còn tôn phu nhân của đằng ấy có người bầu bạn, phong lưu khoái hoạt, chẳng hề quạnh quẽ cô đơn…

Câu nói chưa xong, “bình” một tiếng vai đã bị một đấm. Mọi người cười rộ.

***

Nghe tiếng Uông Khiếu Phong gọi lớn:

– Biểu muội, biểu muội.

Tiếng gọi dần xa, chắc là không biết mọi người đang ở đây. Thủy Sinh lao ra ngoài cửa hang, gọi:

– Biểu ca, biểu ca! Muội ở đây, muội ở đây!

Uông Khiếu Phong lại gọi:

– Biểu muội, biểu muội, muội ở đâu?

Thủy Sinh gọi vang:

– Muội ở đây!

Từ góc đông bắc, một bóng người phóng tới, vừa chạy vừa gọi lớn:

– Biểu muội!

Bỗng trượt chân một cái, ngã quay xuống đất.

Thủy Sinh “a” lên một tiếng, hết sức quan tâm, đỡ chàng ta dậy. Thì ra Uông Khiếu Phong nghe giọng Thủy Sinh, vui mừng quá, không để ý đến rãnh nước trong hang, một chân đạp phải chỗ hõm, ngã một keo, liền nhảy ra, lao tới. Thủy Sinh cũng lao về phía chàng ta.

Hai người lao đến, cùng reo lên vui mừng, ôm lấy nhau.

Địch Vân thấy cảnh hai người gặp nhau vui mừng nồng nhiệt, không hiểu vì sao trong lòng hơi chua xót. Địch Vân không thể quên mối tình với sư muội Thích Phương, tuy ở cùng Thủy Sinh trong tuyết cốc nửa năm, nhưng trong lòng không hề có một chút tình nam nữ. Có điều ở với nhau lâu ngày, nay chia tay, không khỏi có chút ngậm ngùi, nghĩ bụng: “Cô ấy đi theo biểu ca, thế là tốt quá rồi, chỉ mong từ nay về sau không gặp tai nạn nữa, lấy biểu ca, suốt đời bình an hạnh phúc.”

Bỗng nghe Uông Khiếu Phong khóc vang, chắc là Thủy Sinh nói với chàng ta tin Thủy Đại đã qua đời. Một lúc sau, thấy Uông Khiếu Phong cầm tay Thủy Sinh sánh vai bước đi.

Uông Khiếu Phong nghẹn ngào nói:

– Cậu không may gặp nạn, huynh… huynh… huynh từ nhỏ được cậu nuôi dưỡng lớn lên, cậu coi huynh như con ruột.

Thủy Sinh nghe nhắc đến phụ thân, không cầm được nước mắt. Uông Khiếu Phong nói nhỏ:

– Biểu muội, từ nay về sau, huynh muội ta không xa nhau nữa, muội đừng buồn, huynh suốt đời đối tốt với muội.

Thủy Sinh từ nhỏ đã rất gắn bó với biểu ca, lần xa cách này lòng thương nhớ khôn nguôi, nghe nói vậy mặt ửng hồng, lòng cảm thấy ngọt ngào ấm áp.

Hai người dần dần đi tới gần hang núi. Thủy Sinh bỗng dừng lại, nói:

– Biểu ca, huynh và muội phải đi ngay, muội không muốn gặp những người kia đâu.

Uông Khiếu Phong lấy làm lạ hỏi:

– Vì sao? Các vị bá bá, thúc thúc và bằng hữu, mọi người không nề nguy hiểm đến đây cứu muội, đã chờ đợi ngoài tuyết cốc này hơn nửa năm, có thể nói là nghĩa khí sâu nặng, chúng ta sao lại có thể không cảm ơn họ.

Thủy Sinh cúi đầu, nói:

– Muội đã cảm ơn họ rồi.

Uông Khiếu Phong nói:

– Mọi người từ Hồ Bắc ngàn dặm xa xôi đuổi đến tận đây, cùng đến cùng về, há chẳng tốt hơn sao? Huống nữa cần phải đưa di thể của cậu về quê hay là táng ở đây cũng phải thưa với các vị trưởng bối. Lục bá bá, Hoa bá bá, Lưu đạo trưởng ba vị ấy thế nào rồi?

Thủy Sinh nói:

– Huynh và muội cứ đi trước, dần dần muội sẽ kể huynh nghe. Hoa bá bá là con người rất xấu xa, huynh đừng nghe ông ta nói bậy!

Uông Khiếu Phong xưa nay chưa bao giờ trái ý với Thủy Sinh, lúc này trong bóng tối tuy không thấy phong tư, mới nghe giọng nói dịu dàng ngọt ngào, lòng đã như say, liền định chiều theo, đi khỏi sơn cốc trước.

Bỗng nghe ở cửa hang có người nói:

– Uông hiền diệt, cháu lại đây!

Chính là giọng Hoa Thiết Cán. Uông Khiếu Phong nói:

– Vâng, Hoa bá bá!

Thủy Sinh sốt ruột, giẫm chân:

– Huynh không nghe lời muội sao?

Uông Khiếu Phong nghĩ: “Hoa bá bá là nghĩa huynh của cậu, lệnh của người lớn sao lại dám trái? Ở đây có nhiều bằng hữu vì cứu biểu muội mà không nề gian lao vất vả, nay đại công cáo thành lại bỏ họ mà đi, dù sao cũng quá tệ. Cư xử như thế thì còn gì là thanh danh, làm sao có thể đứng trên giang hồ được nữa? Biểu muội tính khí còn trẻ con, rồi mình sẽ xin lỗi cô ấy sau cũng được.” Bèn cầm tay Thủy Sinh, bước đến cửa hang.

Thủy Sinh biết chắc điều Hoa Thiết Cán định nói quyết không phải là tốt đẹp gì, nhưng nghĩ rằng “Mình thanh bạch, lòng không có gì phải hổ thẹn, mặc cho lão vu cáo xấu xa cũng chẳng tổn hại gì được.” Bèn đi theo Uông Khiếu Phong, mặt không còn giọt máu.

Hai người đi đến cửa hang. Hoa Thiết Cán nói:

– Uông hiền điệt, cháu đến đây là rất tốt. Huyết đao tăng đã bị bác giết rồi, nhưng còn một tên tiểu hòa thượng lọt lưới, chúng ta phải bắt giết hắn ngay. Tên tiểu hòa thượng này là hung thủ giết cậu cháu.

Uông Khiếu Phong thét lớn, rút kiếm ra khỏi vỏ, rồi quay đầu nhìn Thủy Sinh, muốn nhìn xem biểu muội từ khi xa cách đến nay như thế nào.

Dưới ánh lửa, thấy cô dung nhan tiều tụy, nước mắt lưng tròng. Uông Khiếu Phong trong lòng thương xót, lại thấy cô khe khẽ lắc đầu, bèn hỏi:

– Thế nào?

Thủy Sinh nói:

– Gia gia của muội không phải là do người… người kia hại chết.

Cả đám người nghe cô nói như vậy, đều phẫn nộ, cùng nghĩ: “Chúng ta muốn ngươi từ nay về sau làm người tử tế, lại nể mặt Thủy đại hiệp, nên mới không tiết lộ những chuyện xấu xa của ngươi với tên tiểu dâm tăng kia, bây giờ ngươi lại ngang nhiên bênh vực hắn, thật là tội không thể dung thứ. Ngay cả ba chữ “tiểu hòa thượng” ngươi cũng không chịu nói, mà lại nói là “người kia, người kia”, thật là cực kỳ vô sỉ!”

Uông Khiếu Phong thấy mọi người đều đầy vẻ giận, rất lấy làm lạ, thầm nghĩ biểu muội không chịu gặp mọi người, mà mọi người lại có ý thù địch với cô ấy, hẳn có ấn tình gì đây, bèn nói:

– Biểu muội, chúng ta nghe lời dặn của Hoa bá bá, hãy bắt giết tên tiểu hòa thượng kia trước, băm thây vạn mảnh để tế anh hồn của cậu, còn những chuyện khác, từ từ hãy nói cũng chưa muộn.

Thủy Sinh nói:

– Y… y cũng không phải là tiểu hòa thượng.

Uông Khiếu Phong ngẩn ra, thấy những người ở bên cạnh đều đầy vẻ khinh miệt, bỗng thấy ớn lạnh trong lòng, mơ hồ cảm thấy có cái gì đó không hay. Chàng ta không muốn hỏi rõ chuyện này ngay, tra kiếm vào bao, cao giọng nói:

– Thưa các bác các chú, các vị bằng hữu, xin mọi người hãy chịu vất vả một phen để kết thúc chuyện này, Uông Khiếu Phong này xin lạy một lạy này, bái tạ đại ân đại đức của các vị.

Vừa nói vừa lạy sát đất.

Mọi người đều nói:

– Đúng thế, mau tróc nã tên tiểu ác tăng, đừng để hắn chạy ra khỏi sơn cốc!

Vừa nói họ vừa nhao nhao xông ra khỏi hang.

* * *

Không biết ai đánh rơi bó đuốc ở cửa hang ánh lửa bập bùng trong gió, chiếu lên gương mặt “Linh kiếm song hiệp” chập chờn. Hai người cầm tay đối diện, trong lòng đều có muôn vạn lời muốn nói, mà không biết nói lời nào.

Địch Vân nghĩ thầm: “Hai anh em họ chắc có rất nhiều điều muốn nói cùng nhau, mình đi thôi.” Đang muốn lặng lẽ lánh đi, lại nghe có hai người nhanh chân đi tới, một người nói:

– Huynh từ bên này sục tới, tôi từ bên kia lùng sang, trọn một vòng, rồi sẽ gặp nhau lại ở đây.

Một người nói:

– Được! Một dải đầy tuyết này, dấu chân loạn cả lên, e rằng tiểu dâm tăng nấp ở mé bên trái.

Người kia hạ giọng, cười nói:

– Ê, lão Tống, Thủy cô nương như một bông hoa, tiểu dâm tăng nửa năm nay diễm phúc quá ha.

– Ha ha, phải rồi, thảo nào anh chàng họ Uông kia cam tâm đội chiếc mũ xanh.

Hai người hi hi ha ha mấy câu, rồi chia làm hai phía đi lùng sục Địch Vân.

Địch Vân ở bên cạnh nghe thấy, rất buồn cho huynh muội Thủy Sinh, thầm nghĩ: “Lão Hoa Thiết Cán thật là tệ hại, đơm đặt những điều vô sỉ, làm tổn thương thanh danh của Thủy cô nương, như vậy thì hay ho gì cho lão?” Địch Vân không biết Hoa Thiết Cán sợ Thủy Sinh vạch trần những hành vi gian ác đê tiện của lão nên phải ra tay trước, làm bại hoại thanh danh của cô để mọi người không tin lời cô nữa. Địch Vân ngẩng đầu nhìn vào trong hang, thấy Thủy Sinh lùi lại hai bước, sắc mặt nhợt nhạt, toàn thân run rẩy, nói với Uông Khiếu Phong:

– Biểu ca, huynh đừng tin những lời bậy bạ đó.

Uông Khiếu Phong không đáp, những thớ thịt trên mặt giật giật. Rõ ràng là lời của hai người kia đã như con rắn độc cắn vào trái tim chàng ta. Nửa năm qua Uông Khiếu Phong ở ngoài tuyết cốc, ngày đêm chỉ nghĩ: “Biểu muội rơi vào tay hai tên dâm tăng đó, làm sao có thể giữ được sự thanh bạch? Chỉ cần cô ấy còn sống là đã tạ ơn trời đất rồi.” Nhưng khổ một nỗi lòng người không biết “tri túc”, lúc này gặp lại Thủy Sinh, lại mong cô giữ mình như ngọc, nghe hai người kia nói vậy, thầm nghĩ: “Trên chốn giang hồ, ai ai cũng biết chuyện này, Uông Khiếu Phong đường đường một đấng trượng phu, há có thể chịu nổi sỉ nhục này?” Nhưng thấy vẻ khổ sở của Thủy Sinh như thế, lòng lại mềm đi, thở dài lắc đầu nói:

– Biểu muội, chúng ta đi đi.

Thủy Sinh hỏi:

– Huynh tin lời mấy người kia không?

Uông Khiếu Phong cúi đầu buồn bã, lúc lâu sau mới nói:

– Lời chào xáo của người ngoài, để ý làm gì.

Thủy Sinh cắn môi, nói:

– Thế thì, huynh tin ư?

Uông Khiếu Phong lại cúi đầu, ngậm ngùi nói:

– Được rồi, huynh không tin là xong.

Thủy Sinh nói:

– Trong lòng huynh đã sớm tin những lời ngậm máu phun người kia rồi.

Lặng đi một lúc, lại nghẹn ngào nói:

– Từ nay về sau huynh đừng gặp muội nữa, coi như muội đã chết trong tuyết cốc này rồi.

Uông Khiếu Phong nói:

– Cũng chả cần phải thế.

Thủy Sinh trong lòng đau đớn, nước mắt trào ra, thầm nghĩ “người khác hiểu nhầm mình, nghi oan mình, vu miệt mình sao cũng được, nhưng ngay cả biểu ca cũng coi mình đê tiện như thế, chịu sao thấu?” Cô chỉ muốn bỏ đi ngay, rời xa bao nhiêu kẻ kia, trốn đến một nơi không ai biết cô cả, mãi mãi không gặp họ nữa.

Cô vụt lao ra ngoài, khi gần đến cửa hang, không kìm được lại ngoái đầu nhìn vào góc hang một cái. Nửa năm qua, cô ngày đêm trốn nấp ở góc hang này. Tính cô thích sạch sẽ, lại khéo tay, đã dùng vỏ cây, lông vũ bện thành mấy tấm chăn, nệm, áo lông vũ, nay sắp ra đi không khỏi ngậm ngùi lưu luyến những thứ đã gắn bó với mình suốt nửa năm qua. Chợt nhìn thấy tấm áo lông vũ mình đã may cho Địch Vân, ngày ấy Địch Vân tức giận không cần, đá trả cho cô, đêm đêm cô thường dùng làm chăn đắp để chống rét, lúc này trong lòng chợt xao động: “Những người kia cứ mồm năm miệng mười nói huynh ấy là dâm tăng, muốn hại huynh ấy, nếu họ bắt được, quả bất địch chúng, vậy thì biết làm sao?” Bèn dừng chân, đăm đăm nhìn tấm vũ y bàng hoàng bối rối.

Uông Khiếu Phong thấy tấm áo lông vũ trên tấm chăn của Thủy Sinh, áo rộng và dài, kiểu dáng rõ ràng là áo đàn ông, trong bụng nghi ngờ, hỏi:

– Đây… đây là cái gì?

Thủy Sinh nói:

– Là của muội làm đó.

Uông Khiếu Phong có vẻ thắc mắc:

– Là của muội à?

Thủy Sinh buột mồm định trả lời: “Không phải của muội”, nhưng lại cảm thấy không ổn, ngập ngừng không đáp. Uông Khiếu Phong lại hỏi:

– Là áo của đàn ông à?

Giọng nói khản đặc. Thủy Sinh gật gật đầu. Uông Khiếu Phong lại hỏi:

– Là muội may cho hắn à?

Thủy Sinh lại gật gật đầu.

Uông Khiếu Phong cầm tấm vũ y lên, xem tỉ mỉ một lúc, giọng lạnh lùng:

– May khéo lắm.

Thủy Sinh nói:

– Biểu ca đừng đoán lung tung, anh ta và muội…

Nhưng thấy ánh mắt đầy phẫn nộ căm hờn của Uông Khiếu Phong cô lại ngập ngừng không nói được nữa. Uông Khiếu Phong ném tấm áo lông vũ lên tấm chăn đắp, nói:

– Áo của hắn, lại ở trên chăn của muội…

Thủy Sinh lạnh buốt trong lòng, thầm nghĩ: “Huynh đã nghi ngờ muội, nghi oan cho muội, thì cứ đổ oan cho muội hoài hoài đi.”

* * *

Địch Vân nấp trong đám cỏ rậm ngoài cửa hang, thấy cô bị nghi ngờ một cách oan uổng, nét mặt quá đỗi thê lương, lòng buồn cực điểm: “Mình là một kẻ quê mùa thấp kém, đã quen chịu oan khuất, chẳng kể làm gì. Cô ấy là một cô nương tôn quý, làm sao có thê chịu được nỗi oan nhường này?” Nghĩ đến đó, nghĩa khí bừng lên, tuy biết trong hang ngoài hang đang có mấy chục cao thủ lùng sục mình, ai ai cũng muốn giết mình, nhưng cũng không thèm để ý nữa, liền lao vọt vào trong hang nói:

– Uông thiếu hiệp, huynh đừng hiểu nhầm như thế.

Uông Khiếu Phong và Thủy Sinh thấy Địch Vân nhảy vọt vào như thế đều giật nảy mình. Địch Vân lúc này đầu tóc đã hơi dài, không còn giống tiểu hòa thượng như dạo mới nhổ trọc đầu nữa. Uông Khiếu Phong phải định thần mới nhận ra, bèn tuốt kiếm, tay trái đẩy Thủy Sinh sang một bên, hoành kiếm trước ngực, mắt tóe lửa, trường kiếm không ngừng rung động, hận không thể lập tức băm vằm kẻ kia muôn vạn nhát.

Địch Vân nói:

– Tôi không đánh nhau với huynh, tôi chỉ nói với huynh biết rằng: Thủy cô nương băng thanh ngọc khiết, trong sạch như băng như ngọc. Huynh lấy cô ấy làm vợ, thật là phúc lớn trời ban, đừng nghĩ lung tung, tin lời đơm đặt của bọn người xấu.

Thủy Sinh hoàn toàn không ngờ Địch Vân lại xuất hiện đúng vào lúc này, huynh ấy đã không sợ nguy hiểm bước ra chỉ để chứng minh cho sự thanh bạch của cô. Cô vừa cảm kích vừa lo lắng, vội nói:

– Huynh… huynh chạy mau đi, rất nhiều người muốn giết huynh, ở đây thật quá nguy hiểm.

Địch Vân nói:

– Tôi biết chứ. Nhưng tôi không thể không nói cho Uông thiếu hiệp rõ điều này, để cho cô khỏi bị nghi ngờ oan uổng. Uông thiếu hiệp, Thủy cô nương là một cô nương tốt. Huynh… huynh muôn vạn lần không được hiểu nhầm cô ấy.

Địch Vân vốn vụng đường ăn nói, một việc bình thường cũng khó nói cho rõ, huống nữa lại là câu chuyện tế nhị đến thế, cứ nói ấp a ấp úng bảy tám câu, chỉ càng khiến cho Uông Khiếu Phong thêm nghi ngờ.

Thủy Sinh vội nói:

– Huynh… huynh chạy mau đi! Đa tạ hảo ý của huynh, kiếp sau muội xin báo đáp. Huynh chạy mau đi! Họ nhiều người lắm, mọi người đều muốn giết huynh…

Uông Khiếu Phong thấy Thủy Sinh từ vẻ mặt đến giọng nói đều quan tâm tha thiết đến Địch Vân như thế, lòng ghen tức sôi lên, quát lớn:

– Ta liều mạng với ngươi!

“Soạt” một kiếm, đâm mạnh vào ngực Địch Vân.

Nhát kiếm này thế đi rất ghê gớm, nhưng Địch Vân bây giờ đã tuyệt luân, kết hợp được sở trường tuyệt đỉnh võ học của cả hai phái chính-tà là “Thần chiếu” và “huyết đao”, thấy kiếm của Uông Khiếu Phong đến, chỉ hơi nghiêng mình một chút đã tránh được, nói với Uông Khiếu Phong:

– Tôi không đánh nhau với huynh. Tôi chỉ muốn nói với huynh rằng hãy cưới Thủy cô nương, đừng có một chút nghi ngờ nào đối với cô ấy. Cô ấy… cô ấy là một cô nương tốt.

Trong khi Địch Vân nói, Uông Khiếu Phong đã tả hai nhát, hữu ba nhát, liên tiếp đâm mạnh năm nhát kiếm vào người Địch Vân. Địch Vân chỉ hơi nghiêng mình né tránh, coi như không có những nhát kiếm hiểm ác ấy, trong lòng lấy làm lạ: “Người này trước kia võ công rất giỏi, sao nửa năm không gặp, kiếm pháp của anh ta lại trở nên vụng về như thế?”

Uông Khiếu Phong đâm mạnh, chém gấp, mỗi nhát kiếm đều bị Địch Vân coi như không có, càng giận phát điên lên, kiếm chiêu càng nhanh.

Địch Vân nói:

– Uông thiếu hiệp, huynh hãy nhận lời với tôi, không nghi ngờ sự thanh bạch của Thủy cô nương nữa, tôi sẽ đi ngay, bằng hữu của huynh đều muốn giết tôi, tôi không thể chần chừ được nữa.

Uông Khiếu Phong xuất kiếm càng nhanh, Địch Vân chỉ nhờ vào nội lực tinh thâm, khinh công thì lại xoàng, tuy nội công là gốc, khinh công là ngọn, nhưng về khinh công chẳng được ai chỉ dẫn, nên khi đối phương xuất kiếm nhanh thì cũng cảm thấy khó lòng ứng phó, bèn đưa tay búng một cái, “tách” một tiếng, ngón tay giữa đã búng vào lưỡi kiếm.

Uông Khiếu Phong cảm thấy hổ khẩu đau chói lên, trường kiếm tuột khỏi tay, rơi xuống đất, vội cúi mình lượm. Địch Vân đưa bàn tay đẩy vào vai chàng ta một cái, chưởng này không có mấy sức lực, không ngờ Uông Khiếu Phong chịu không nổi, ngã bổ chửng ra phía sau, “bình” một tiếng, lưng dộng vào vách đá.

Thủy Sinh thấy chàng ta ngã rất thảm hại, vội chạy đến đỡ.

Địch Vân ngẩn ra, hoàn toàn không ngờ Uông Khiếu Phong lại bị đẩy ngã, chẳng qua Địch Vân chỉ muốn ngăn anh ta lượm kiếm đánh nữa mà thôi, đâu có ngờ Uông Khiếu Phong bị ngã nặng như thế. Địch Vân nhảy tới hai bước, cũng muốn đưa tay ra đỡ, nói:

– Xin lỗi, tôi thật… tôi không cố ý.

Thủy Sinh kéo tay phải Uông Khiếu Phong, nói:

– Biểu ca, có sao không?

Uông Khiếu Phong vừa ghen vừa tức, không thề kiềm chế được, cho rằng Thủy Sinh bênh Địch Vân, hai người sau khi liên thủ đánh mình, lại còn chế giễu, anh ta liền giơ tay trái lên, “bốp” một tiếng, giáng cho Thủy Sinh một cái tát rất mạnh, quát:

– Cút!

Thủy Sinh giật nảy mình, “biểu ca lại ra tay đánh mình”, đó là việc không sao tưởng tượng nổi, bèn đưa tay vuốt mặt, ngẩn người ra. Uông Khiếu Phong lại giang tay, tát vào má bên trái cô. Thủy Sinh kinh hãi gục lên vai Địch Vân, cảm thấy lúc này chỉ Địch Vân mới có thể bảo vệ mình.

Địch Vân nghiêng mình, ngăn phía trước Uông Khiếu Phong, giận dữ nói:

– Huynh… huynh sao lại đánh người?

Nghe thấy tiếng bước chân rầm rập ngoài cửa hang, có mấy người kêu lên:

– Trong hang có tiếng cãi cọ, mau vào xem xem, có phải tiểu dâm tăng trốn ở trong ấy không?

Thủy Sinh lùi lại hai bước, nói với Địch Vân:

– Huynh chạy nhanh đi… Muội… muội đa tạ hảo ý của huynh.

Địch Vân nhìn Uông Khiếu Phong, lại nhìn Thủy Sinh, nói:

– Tôi đi đây!

Rồi quay người đi ra cửa hang.

Uông Khiếu Phong kêu to:

– Tiểu dâm tăng ở đây, mau chặn cửa hang lại, đừng để hắn đào tẩu!

Thủy Sinh vội nói:

– Biểu ca, huynh như vậy chẳng phải là hại người sao?

Uông Khiếu Phong vẫn kêu to:

– Mau chặn cửa hang lại, mau chặn cửa hang lại!

Ngoài hang, bảy tám hán tử nghe tiếng kêu của Uông Khiếu Phong bèn chặn ngay cửa hang. Địch Vân bước nhanh ra, một người quát lên:

– Trốn đi đâu?

Rồi vung đao chém xuống đầu Địch Vân. Địch Vân giơ tay đẩy vào ngực, người kia ngã quay ra, đụng phải ba người bên cạnh, thế là cả bốn người ngã lổng chổng. Trong tiếng kêu gào mắng chửi của mọi người, Địch Vân chạy nhanh ra khỏi hang.

Quần hào nghe tiếng, từ bốn phương tám hướng đuổi đến, Địch Vân đã đi xa rồi. Có hơn mười người co chân đuối theo, Địch Vân trong lòng sợ hãi, nấp trong một đám cỏ rậm, trong đêm tối, không ai tìm được. Quần hào cho rằng Địch Vân đã chạy ra khỏi sơn cốc, kêu gào réo gọi, rầm rập đuổi, ra khỏi sơn cốc.

Một lúc lâu sau, Địch Vân thấy Uông Khiếu Phong và Thủy Sinh cũng đi, Uông Khiếu Phong đi trước, Thủy Sinh đi theo sau, hai người cách nhau hơn một trượng. Họ càng đi càng xa, rồi khuất bóng sau dốc núi.

Khoảnh khắc trước còn là tuyết cốc huyên náo ầm ĩ, giờ đây lặng lẽ im lìm.

Quần hào Trung Nguyên đi rồi, Hoa Thiết Cán đi rồi, Thủy Sinh đi rồi. Chỉ còn trơ trọi một mình Địch Vân.

Chàng ngẩng đầu lên, đến những con ưng xám thường ngày vẫn bay lượn trên trời giờ cũng không thấy đâu.

* * *

Thật là quạnh vắng, thật là cô đơn.

Chỉ có tuyết tan, lặng lẽ chảy ra ngoài sơn cốc.

——————————————————

Hồi 09: Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài

Địch Vân ở lại trong sơn cốc nửa tháng nữa, luyện đao pháp và nội công “huyết đao kinh” đến mức hết sức thuần thục, không thể nào quên được nữa, rồi đem “huyết đao kinh” đốt thành tro, rắc trên phần mộ Huyết đao lão tổ.

Trong nửa tháng ấy, Địch Vân vẫn ngủ trên tảng đá lớn ngoài cửa hang. Thủy Sinh tuy đã đi rồi nhưng chàng vẫn không dám vào ngủ trong hang, càng không dám dùng những chăn, nệm mà cô để lại.

Địch Vân nghĩ: “Mình phải đi! Tấm áo lông vũ này bất tất phải đem theo, đợi làm xong những việc cần làm rồi, sẽ trở lại sống ở tuyết cốc này. Người ở ngoài đời kia khôn ngoan quá, mình không rõ trong lòng họ nghĩ gì. Nơi này không ai đến cả, sống ở đây có lẽ cũng tốt.”

Thế là Địch Vân ra khỏi tuyết cốc, đi về phía Đông. Việc trước hết là trở về nhà cũ ở Ma Khê Phố thuộc Tương Tây xem xem sư phụ như thế nào. Mình từ nhỏ được sư phụ nuôi lớn, sư phụ là người thân duy nhất trên đời.

Từ Tạng Biên về Tương Tây phải đi qua Tứ Xuyên. Địch Vân nghĩ nếu gặp quần hào Trung Nguyên thì khó tránh khỏi xung đột, mình và họ không oán không thù, mọi chuyện đều do mình nhổ trọc tóc, mặc áo tăng bào của Bảo Tượng mà ra. Lúc này võ công của Địch Vân tuy đã cực cao nhưng hoàn toàn không tự tin, nghĩ rằng chỉ cần một vài vị cao thủ Trung Nguyên tất sẽ bị họ giết chết. Thế là bèn mua một bộ quần áo xanh kiểu nhà quê để thay, đốt bộ tăng bào của Bảo Tượng, rồi lại lấy nhọ nồi bôi đen mặt mũi. Nông dân vùng Tứ Xuyên, Tương Tây thích quấn khăn trắng trên đầu, nghe nói là di phong của việc để tang cho Gia Cát Lượng. Địch Vân cũng kiếm một tấm vải trắng bẩn thỉu quấn lên đầu. Dọc đường đi về phía đông, tình cờ gặp nhân vật giang hồ nhưng không ai nhận ra cả.

Địch Vân ngại nhất là gặp Thủy Sinh và Uông Khiếu Phong hay Hoa Thiết Cán, may mà không hề gặp.

Đi hơn ba mươi ngày mới đến nhà cũ ở Ma Khê Phố. Lúc này trời đã ấm, mạ đã cao được gần bốn tấc. Càng gần cố cư càng hồi hộp, mặt nóng bừng, tim đập rộn lên.

Men theo con đường núi thuở nhỏ quen đi, Địch Vân đến trước ngõ vào nhà cũ, bất giác giật mình, cơ hồ không tin ở mắt mình nữa. Thì ra ngôi nhà nhỏ bên rặng liễu cạnh dòng suối nhỏ đã biến thành một tòa nhà lớn tường trắng ngói xanh. Tòa nhà này ít ra cũng lớn gấp ba ngôi nhà cũ, mới nhìn thấy tuy làm có vẻ sơ sài nhưng khí phái hùng vĩ.

Địch Vân vừa sợ vừa mừng, nhìn kỹ cảnh vật xung quanh, đúng là nơi ở cũ của sư phụ, nghĩ bụng: “Sư phụ phát tài trở về rồi, hay quá.”

Địch Vân vui mừng cao giọng kêu:

– Sư phụ!

Nhưng chỉ kêu được một tiếng, liền im bặt, lại nghĩ: “Không biết trong nhà có ai khác không, mình bộ dạng như đứa ăn mày thế này, đừng làm sư phụ mất mặt, xem cho rõ đã hẵng hay.” Cũng là nhờ mấy năm nay trải qua nhiều gian nan khổ sở, nên mới cấn thận như thế. Đang đắn đo thì trong nhà có một người đi ra liếc nhìn dò xét, mặt đầy vẻ khinh khi, hỏi:

– Làm gì đấy?

Địch Vân thấy người ấy đội mũ lệch, mặt đầy đất bụi, thật chẳng tương xứng với tòa nhà đẹp đẽ kia chút nào, hình như là thợ nề thợ mộc gì đó, bèn hỏi:

– Xin hỏi, Thích sư phụ có ở nhà không?

Người kia “hừ” một tiếng, nói:

– Thất sư phụ, bát sư phụ cái gì? ở đây không có.

Địch Vân ngơ ngác, lại hỏi:

– Chủ nhân ở đây không phải là họ Thích à?

Người kia hỏi lại:

– Hỏi làm gì? Muốn xin cơm xin gạo, cũng không cần phải làm thân với chủ nhà, không có là không có, tên ăn mày kia, đi, đi mau!

Địch Vân nhớ sư phụ, ngàn dặm xa xôi trở về đây, đời nào chỉ nghe một câu của người kia mà chịu đi ngay, nói:

– Tôi không xin cơm, cho hỏi thêm một chút, người họ Thích trước kia ở đây, không biết có còn ở đây nữa không?

Người kia cười nhạt nói:

– Cái thằng ăn mày này, la lối cái gì, chủ nhân ở đây không phải họ Thích, cũng không phải họ bát họ cửu họ thập gì cả.

Đang nói chuyện thì trong nhà lại có người đi ra. Người này đầu đội mũ vỏ dưa, y phục sạch sẽ, bộ dạng như là quản gia của nhà tài chủ, ông ta hỏi:

– Lão Bình, lớn tiếng ồn ào gì thế, lại cãi nhau với ai rồi?

Người kia cười nói:

– Bác xem, thằng ăn mày này cứ la lối hoài. Xin cơm thì được rồi, lại còn dò xét chủ nhà họ gì.

Quản gia nghe nói vậy, nét mặt hơi thay đổi, dò xét Địch Vân một chặp rồi nói:

– Anh bạn, hỏi tên họ chủ nhân làm gì?

Nếu là Địch Vân năm sáu năm trước, ắt là sẽ nói thẳng sự việc ra, nhưng lúc này Địch Vân đã từng trải nhiều, biết lòng người hiểm ác, thấy ánh mắt tay quản gia kia có vẻ nghi kỵ, nghĩ thầm:“Mình khoan nói thẳng, từ từ nghe ngóng cũng không muộn, có khi bên trong còn có điều kỳ lạ gì đây.” Bèn nói:

– Tôi muốn hỏi chủ nhân họ gì là muốn chào ông ta một tiếng, xin ông ta thí cho ít cơm gạo, bác… bác là ông chủ à?

Địch Vân cố ý làm như một thằng khờ, đối phương khỏi sinh nghi.

Tay quản gia kia ha ha cười lớn, tuy cảm thấy người này rất ngốc nhưng hắn lại nhận lầm mình là ông chủ trong lòng cũng thấy vui thích, cười nói:

– Ta không phải là lão gia, ê, thằng ngố kia, vì sao ngươi lại cho ta là lão gia?

Địch Vân nói:

– Ồng… bộ dạng ông… rất đẹp, rất oai phong, ông… ông có tướng tài chủ.

Tay quản gia kia càng vui vẻ, cười nói:

– Thằng ngố, lão Cao ta đang phát tài, nhất định là có cái cho ngươi. Ê, thằng ngố kia, ta thấy ngươi khỏe mạnh, sao không chịu làm việc mà lại đi ăn mày?

Địch Vân nói:

– Không ai kêu tôi làm việc cả, ông chủ, ông thưởng cho tôi bát cơm, được không?

Quản gia vỗ mạnh vào vai người họ Bình, cười nói:

– Nghe đấy, y cứ luôn mồm gọi ta là ông chủ, không thưởng cơm cho hắn không được. Lão Bình, bảo y cũng đi gánh đất, cho y một phần tiền công.

Người họ Bình nói:

– Vâng ạ, xin theo lời ông.

Địch Vân nghe giọng hai người, họ Bình kia là người bản địa Tương Tây, còn quản gia họ Cao lại là người phương bắc, bèn không lộ vẻ gì, cung kính nói:

– Ông chủ, cậu chủ, đa tạ hai vị.

Người làm công họ Bình cười mắng:

– Mẹ kiếp, nói bậy nói bạ!

Quản gia kia cười rộ, nói:

– Ta là ông chủ, chú là cậu chủ, như thế… như thế chẳng phải là làm bố chú mày sao?

Người làm công béo tai Địch Vân, cười nói:

– Vào đi, vào đi! Ăn một bụng no cái đã, đến tối thì bắt đầu làm việc.

Địch Vân không hề cự nự, theo lão đi vào, nghĩ bụng: “Sao đến tối mới làm?”

Vào trong nhà lớn, đi qua hành lang, bất giác giật mình, thấy thật là kỳ quái. Giữa lòng nhà đào một cái hố sâu rất lớn, miệng hố gần như sát với bốn bức tường xung quanh, chỉ để lại một lối đi rất hẹp. Trong hố ngổn ngang các thứ dụng cụ, nào cuốc, nào xẻng, quang, sọt, đòn gánh… rõ ràng đang đào đất. Nhìn dáng vẻ hùng vĩ đường đường bên ngoài tòa nhà lớn này, ai mà ngờ được bên trong lại đào một cái hố to như thế.

Người làm công kia nói:

– Việc ở đây không được bép xép nói ra ngoài, biết chưa?

Địch Vân nói:

– Vâng vâng, tôi biết rồi, ở đây phong thủy tốt chủ nhà muốn đặt mộ, không thể để người ngoài biết được.

Người làm công cười hì hì, nói:

– Không sai, thằng ngố này cũng thông minh đấy chứ, theo ta vào ăn cơm.

Địch Vân ăn một bụng no trong nhà bếp, người làm công bảo đứng đợi ở hành lang, không được đi lung tung. Địch Vân vâng dạ, trong lòng càng ngờ vực. Thấy trong nhà bày biện rất quê mùa đơn giản, trong nhà bếp cũng không đắp lò tử tế, chỉ bắc một ông táo, đặt một cái chảo bên trên, bàn ghế cũng là vật dụng tầm thường của nhà nghèo, thật không tương xứng với tòa nhà đồ sộ.

Đến chiều tối, người đến nhà đông dần, đều là những thanh niên nhà quê quanh vùng, mọi người ăn uống ồn ào, Địch Vân cũng ăn với mọi người, chàng nói tiếng vùng này, rất đúng giọng. Tay quản gia và người làm công nghe giọng nói, không hề nghi ngờ gì cả, đều cho rằng chàng là một thanh niên vô công rồi nghề ở vùng này.

Mọi người ăn uống xong, người ở họ Bình dẫn cả bọn vào đại sảnh, nói:

– Các anh em cố mà đào đất, mong là tối nay gặp may, nếu đào được vật hữu dụng thì sẽ trọng thưởng.

Mọi người vâng lời, tiếng cuốc xẻng rào rào rậm rịch vang lên. Một người nhà quê đứng tuổi nói nhỏ:

– Đào hai tháng rồi, cái rắm gì cũng không có, cho dù có bảo bối đi chăng nữa, cũng phải xem có phúc khí đến tay không chứ.

Địch Vân nghĩ: “Họ muốn đào tìm bảo bối à? Ở đây làm quái gì có bảo bối?” Chàng đợi người kia quay lưng lại, chầm chậm đi đến bên người đứng tuổi nọ, hạ giọng hỏi:

– Đại thúc, họ muốn đào tìm bảo bối gì vậy?

Người ấy cũng hạ giọng nói:

– Bảo bối này nghe nói quý lắm, chủ nhân ở đây rất oách. Ồng ta không phải là người vùng này, từ xa nhìn thấy ở đây có bảo quang xông lên, biết ở dưới đất có bảo bối, thế là đến mua miếng đất này, sợ lộ phong thanh nên làm một tòa nhà lớn trước, bảo chúng tôi ban ngày ngủ, đến đêm mới đào tìm bảo bối.

Địch Vân gật đầu nói:

– À ra thế, đại thúc có biết bảo bối gì không?

Người kia nói:

– Người làm công trong nhà này nói đó là một chiếc “tụ bảo bồn”, đặt một đồng tiền vào trong bồn, qua một đêm, hôm sau biến thành một chậu tiền, đặt một lạng vàng vào trong bồn, sáng hôm sau cũng biến thành một bồn (chậu) vàng. Cậu thấy có phải là bảo bối không?

Địch Vân gật đầu lia lịa, nói:

– Đúng là bảo bối, đúng là bảo bối!

Người kia lại nói:

– Người làm công đặc biệt dặn là cuốc phải nhẹ tay, làm vỡ tụ bảo bồn thì chẳng phải chuyện chơi đâu. Anh ta còn nói là đào được tụ bảo bồn rồi có thể cho chúng ta mỗi người mượn một đêm, muốn đặt cái gì vào cũng được, chàng ngố này, cậu thử tính xem, nên đặt cái gì vào nào?

Địch Vân suy nghĩ một chút rồi nói:

– Tôi hay đói bụng, đặt một hạt gạo vào, ngày mai đầy một bồn gạo, chẳng phải là hay sao?

Người kia cười ha hả, nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Người ở nghe tiếng cười, bước tới la:

– Nói chuyện mãi thế, đào mau, mau đào đi!

Địch Vân nghĩ bụng: “Trên đời há lại có “tụ bảo bồn” sao? Ông chủ này quyết không phải là đồ ngốc, nhất định là có mưu kế gì đây, chỉ bịa ra chuyện “tụ bảo bồn” để lừa người ta.” Lại hỏi nhỏ:

– Ông chủ này họ gì? Đại thúc bảo ông ta có phải là người bản địa không?

Người kia nói:

– Cậu xem, chẳng phải ông chủ đến rồi là gì?

Địch Vân nhìn theo ánh mắt của anh ta, thấy một người từ hậu đường đi ra, thân hình gầy gò, ánh mắt sáng rực, phục sức cực kỳ sang trọng hoa mỹ, khoảng năm mươi tuổi. Địch Vân chỉ nhìn ông ta một cái tim đã đập thình thịch, vội quay đầu lại, không dám nhìn thăng vào ông ta nữa, trong lòng cứ thắc mắc: “Mình đã gặp người này rồi, mình đã gặp người này rồi, ông ta là ai nhỉ?” Cảm thấy tướng mạo người này rất quen thuộc, nhất thời không nhớ ra đã gặp ông ta ở đâu.

Nghe người kia nói:

– Tối nay mọi người đào ở phía Tây này sâu thêm ba thước nữa, bất kỳ mảnh giấy vụn, que gỗ, miếng ngói nào cũng không được bỏ sót, cứ đưa lại cho tôi.

Địch Vân nghe giọng nói của ông ta, lặng người đi, chợt tỉnh ngộ: “Phải rồi, thì ra là ông ấy”, bèn cúi đầu xuống, liếc nhìn ông ta một cái, nghĩ bụng: “Không sai, chính là ông ấy.”

Chủ nhân của tòa nhà lớn này, chính là lão ăn mày đã dạy chàng ba chiêu kiếm pháp ở trong nhà họ Vạn tại Kinh Châu.

Dạo đó ông ta áo quần rách rưới, tóc rối đầu bù, toàn thân bân thỉu, hôm nay lại là một đại tài chủ y phục sang trọng, dáng vẻ hoàn toàn thay đổi, vì thế mà mãi đến khi nghe giọng nói mới nhận ra.

Địch Vân những muốn nhảy lên khỏi hố để gặp, nhưng bao khổ nạn những năm qua phải chịu đựng đã dạy cho chàng rằng mọi sự đều phải thận trọng, không được nôn nóng lỗ mãng, trầm tư: “Vị lão khất cái bá bá này đối với mình rất tốt. Năm ấy mình đấu với đại đạo Lữ Thông đã thua đến nơi may nhờ bác ấy ra tay cứu. Sau đó bác ấy lại dạy mình ba chiêu kiếm pháp tinh diệu mình mới thắng đám đệ tử Vạn môn. Nay nghĩ lại, ba chiêu kiếm ấy tuy tầm thường, cũng chả có gì xuất sắc nhưng lúc ấy lại giúp mình khỏi chịu nhục.”

Lại nghĩ: “Hôm nay gặp lại, nên cảm ơn bác ấy mới phải. Nhưng đây là nhà cũ của sư phụ, bác ấy lại đào bới cái gì ở đây? Vì sao bác ấy lại phải xây một tòa nhà lớn để che đậy tai mắt người ta? Trước kia bác ấy là một lão ăn mày, sao nay lại phát tài đến thế?” Trong lòng cứ thầm thắc mắc: “Thôi thì để quan sát cho rõ ràng đã, chuyện gì nói sau. Bác ấy tuy là ân nhân của mình nhưng muốn bái tạ cũng bất tất phải vội vàng. Sao bác ấy không sợ sư phụ mình trở về? Lẽ nào… lẽ nào… sư phụ chết rồi ư?”

Chàng từ nhỏ được sư phụ dưỡng dục lớn lên, xưa nay vẫn coi sư phụ như cha, nghĩ đến việc e rằng sư phụ đã qua đời bất giác khóe mắt đỏ lên.

Bỗng ở góc đông nam có một tiếng “cách” nho nhỏ, lưỡi cuốc của một người nhà quê đụng phải một vật gì. Ông chủ nhảy ngay xuống hố, cúi mình nhặt lên một vật gì đó. Mọi người ở trong hố đều ngừng tay đào bới, nhìn ông ta. Chỉ thấy tay ông ta cầm một cái đinh sắt đã rỉ, lật qua lật lại xem một lúc, mới vứt sang một bên, nói:

– Tiếp tục đi, đào mau lên, đào mau lên!

Địch Vân và đám dân quê vất vả suốt đêm, ông chủ kia luôn chú ý theo dõi, quan sát, mãi đến sáng mới nghỉ. Đa số dân quê đều tản về nhà, có bảy tám người ở xa thì nằm ngủ ở hành lang phía đông tòa nhà. Địch Vân cũng đến đó nằm ngủ. Ngủ đến chiều, mọi người mới dậy ăn cơm. Địch Vân cả người bẩn thỉu, người ta không muốn đến gần, khi ăn khi ngủ đều cách họ xa xa. Chính chàng cũng đang muốn như thế. Tuy đã cố gắng thận trọng, không dám nhẹ dạ tin người, nhưng chàng vốn thật thà, học cách giả vờ rất khó, e rằng lâu lâu rồi sẽ lộ tung tích, người ta không gần gũi thì càng tốt.

Sau khi cơm nước xong, Địch Vân đi đến một xóm nhỏ cách đó chừng ba dặm, muốn tìm người đế hỏi thăm xem sư phụ có từng trở về không. Xa xa thấy mấy người bạn vẫn thường chơi đùa hồi nhỏ, lúc này đều đã thành người lớn, cao to lực lưỡng, làm việc đồng áng vất vả. Chàng không muốn để lộ mình nên không đến chào hỏi họ, tìm đến một thiếu niên khoảng mười ba mười bốn tuổi hỏi tình hình tòa nhà lớn kia.

Cậu bé nói tòa nhà lớn kia được xây từ mùa thu năm ngoái, chủ nhà rất giàu, đến đào tụ bảo bồn, nhưng đào mãi đến nay vẫn chưa thấy. Cậu bé vừa nói vừa cười, có thể thấy việc đào “tụ bảo bồn” đã trở thành chuyện cười của cả vùng quanh đây. “Còn ngôi nhà nhỏ trước đây ấy à? Ầy, lâu rồi không có người ở nữa, không thấy ai trở lại. Khi xây tòa nhà lớn, tất nhiên là phải phá ngôi nhà nhỏ kia đi.”

Địch Vân từ biệt cậu bé, trong lòng buồn bã và đầy ngờ vực, không hiểu lão khất cái làm cái việc quỷ quái kia với dụng ý gì. Chàng thả bộ trên cánh đồng, đi qua mấy mảnh đất trồng rau, chỉ thấy một màu xanh trồng đầy rau muống.

“Không tâm thái, Không tâm thái!”

Bỗng dưng trong lòng chàng vang lên những thanh âm trong trẻo và tinh nghịch. “Không tâm thái” (rau muống) là thứ rau tầm thường nhất ở vùng Tương Tây. Nó dễ trồng dễ mọc, bên trong cọng rau trống rỗng. Sư muội Thích Phương đặt cho chàng trác hiệu này, chế giễu chàng thẳng ruột ngựa, không có một chút tâm sự nào. Từ dạo xa Tương Tây cho đến tận hôm nay chàng mới lại nhìn thấy rau muống. Chàng ngẩn người chốc lát, cúi xuống hái một cọng rau, ngửi ngửi mùi rau xanh, chầm chậm đi về phía tây.

Ở phía tây toàn là núi hoang, đá nhấp nhô, ở đây ngay cả cây ngô đồng, cây dầu sợ cũng không trồng được. Trong hoang sơn ấy có một cái hang không ai biết đến nhưng lại là nơi mà chàng và sư muội Thích Phương trước kia thường đến chơi đùa. Chàng nhớ lại ngày xưa, thuận chân đi đến hang núi. Vượt qua hai con dốc lại vượt qua một cái hang lớn mới đến cái hang nhỏ bí mật quạnh quẽ.

Chỉ thấy những lùm cỏ cao bằng vai che kín miệng hang. Chàng lại thấy buồn, đi vào hang, thấy trong hang mọi vật vẫn như hồi chàng và Thích Phương chưa rời khỏi Ma Khê, không hề thay đổi, có điều phủ đầy bụi bặm. Những hình người Thích Phương nặn bằng đất sét, cây cung chàng bắn chim, cái bẫy bắt thỏ, cây sáo Thích Phương thổi khi chăn bò… vẫn đặt trên tảng đá trong hang. Kia là cái làn kim chỉ của Thích Phương. Cây kéo ở trong làn đã rỉ hết.

Vào những ngày nông nhàn mùa đông thuở ấy chàng thường ngồi bện giày cỏ hoặc đan giỏ tre, Thích Phương thì ngồi bên cạnh khâu giày. Cô lấy những mảnh vải vụn, xấp thành đế giày rồi may lại. Giày của sư phụ và của chàng đều bằng vải xanh. Giày của Thích Phương khi thì thêu một bông hoa, khi thì thêu một con chim, đó là để dùng đi vào dịp tết, ngày thường cũng chỉ đi giày vải xanh. Còn khi làm ruộng thì đi chân đất.

Địch Vân thuận tay cầm một cuốn sách cũ từ trong làn ra, trên bìa cuốn sách viết bốn chữ “Đường thi tuyển tập”. Chàng và Thích Phương đều biết chữ không nhiều, cũng không đọc thơ Đường làm gì. Đó là Thích Phương dùng để cất mẫu đế giày, mẫu thêu hoa. Chàng tiện tay mở sách ra, cầm lấy hai tấm mẫu. Đây là một đôi bướm Thích Phương cắt để làm mẫu thêu. Trong lòng chàng hiện lên rõ mồn một cảnh tình ngày ấy.

Một đôi bướm lớn cánh vàng đốm đen bay vào cửa hang, khi thì bay sang bên đông khi thì lượn sang bên tây nhưng hai con bướm không hề rời xa nhau. Thích Phương kêu lên: “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài! Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài!” Người vùng Tương Tây quen gọi loại bướm lớn cánh vàng luôn bay thành đôi này là “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài”. Loại bướm này cứ bay từng đôi, cùng đậu cùng bay không rời xa nhau.

Địch Vân đang bện giày cỏ, đôi bướm bay đến bên cạnh, chàng giơ chiếc giày đang bện dở lên, “phách” một nhát, đánh một con rơi xuống. Thích Phương “a” lên một tiếng, giận dữ nói: “Huynh… huynh làm gì thế?” Địch Vân thấy cô bỗng nổi giận, bất giác chân tay bối rối, ấp úng nói: “Muội thích… thích bươm bướm, huynh… huynh đánh để cho muội.”

Con bướm chết rơi trên mặt đất, con kia cứ lượn quanh, lượn quanh mãi.

Thích Phương nói: “Huynh xem, làm chuyện ác nghiệt thế, một đôi vợ chồng người ta, huynh lại làm họ phân ly.” Địch Vân thấy vẻ rầu rĩ, nghe giọng nói buồn bã của cô, trong lòng cảm thấy áy náy, nói: “Ờ, là huynh có lỗi.”

Về sau Thích Phương theo hình con bướm ấy, cắt thành mẫu thêu, thêu trên giày của mình. Đến Tết lại thêu cho Địch Vân một cái túi, cũng là đôi bướm ấy. Cái túi vải ấy chàng luôn mang bên người, nhưng khi bị bắt giam ở nhà tù Kinh Châu, tên ngục tốt đã lấy mất.

Địch Vân cầm đôi bướm bằng giấy được cắt làm mẫu thêu, bên tai như văng vẳng nghe thấy giọng nói của Thích Phương: “Huynh xem, làm việc ác nghiệt thế, một đôi vợ chồng người ta, huynh lại làm họ phân ly.”

Chàng ngơ ngẩn một hồi, lại đặt đôi bướm giấy vào trong sách, thuận tay lật lật, thấy trong các trang sách còn có nhiều mẫu bằng giấy đỏ, có mẫu cá chép, có mẫu là ba con sơn dương, đó là những mẫu để dán lên cửa sổ nhân ngày tết, tất cả đều do Thích Phương cắt.

Chàng đang cầm từng trang xem kỹ, bỗng nghe tiếng “cách cách” va vào đá ở bên ngoài mấy chục trượng, có người đang đi đến. Chàng nghĩ bụng: “Ở đây xưa nay không có người đến, hay là dã thú?” Chàng bèn thuận tay nhét quyển sách ép mẫu thêu vào trong ngực áo.

Nghe có người nói:

– Vùng này thật hoang vu.

Lại có một giọng người già nói:

– Ấy, càng hoang vu càng dễ có người tới giấu bảo vật. Chúng ta hãy tìm kỹ ở đây.

Địch Vân tự hỏi: “Sao lại đến đây tìm bảo vật?”

Bèn lao ra khỏi hang, nấp sau một cây đại thụ.

Chốc sau, thấy có người đi tới, nghe tiếng bước chân, khoảng bảy tám người. Chàng từ sau thân cây nhìn ra, thấy đi đầu là một người y phục diêm dúa, đầu tóc láng bóng, da mặt hồng hào, tướng mạo rất quen, theo sau lại có một người tay cầm xẻng. Người này cao cao, khí vũ hiên ngang. Địch Vân mới thấy đã bừng bừng nộ khí, muốn nhảy ngay ra đập chết y ngay.

Y chính là Vạn Khuê, kẻ đã cướp sư muội của chàng, tống chàng vào tù, đẩy chàng vào muôn vàn đau khổ.

Sao y lại đến đây?

Người trẻ tuổi đi bên cạnh là Thẩm Thành.

Hai người vừa đi qua, những người tiếp theo sau đều là đệ tử Vạn môn: Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Viên, Ngô Khảm, Phùng Thản, tất cả cùng đến.

Vạn môn vốn có tám đệ tử, đệ tử thứ hai là Chu Kỳ đã bị Địch Vân giết trong khu vườn hoang ở Kinh Châu, nay còn lại bảy. Địch Vân lấy làm lạ: “Bọn người này đến đây tìm bảo bối gì? Lẽ nào cũng tìm “tụ bảo bồn”?”

Nghe Thẩm Thành gọi:

– Sư phụ, sư phụ, ở đây có một cái hang.

Giọng của ông già kia nói:

– Thế à?

Trong giọng nói không giấu được nỗi vui mừng. Rồi một người cao lớn đi đến. Chính là “Ngũ vân thủ” Vạn Chấn Sơn. Lâu rồi không gặp, thấy lão vẫn tráng kiện, bước chân trầm ổn, không hề có vẻ già nua.

Vạn Chấn Sơn tiến vào hang trước, bọn đệ tử vào theo. Trong hang vọng ra tiếng người:

– Ở đây có người ở!

– Bụi bặm đóng dày thế này, đã lâu không có người đến.

– Không, không! Xem này, ở đây có dấu chân mới.

– A, ở đây có dấu tay mới, có người vừa mới đến.

– Nhất định là Ngôn sư thúc, ông ấy… ông ấy trộm “Liên thành kiếm phổ” mất rồi.

Địch Vân vừa giật mình, vừa buồn cười: “Họ muốn tìm kiếm phổ của “Liên thành kiếm pháp” à? Sao mà tìm lâu thế vẫn chưa thấy? Ngôn sư thúc nào nhỉ? Sư phụ bảo nhị sư huynh của sư phụ là Ngôn Đạt Bình mất tích đã lâu, không có tin tức gì, e rằng đã không còn trên đời này nữa sao lại tìm đến đây trộm “Liên thành kiếm phổ”? Kia rõ ràng là dấu tay dấu chân của mình, chúng đoán mò mà ra được thì thật là quỷ sống.

Nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Các ngươi chớ vội vàng làm rộn, tìm kỹ bốn xung quanh xem.

Có người nói:

– Ngôn sư thúc đã đến đây rồi, đời nào lại không lấy đi mất?

Có người nói:

– Lão Thích Trường Phát thật là xảo quyệt, đem kiếm phổ giấu ở đây, người khác quả là không dễ gì tìm được.

Lại có người nói:

– Lão ấy đương nhiên là xảo quyệt, không thế sao gọi là “Thiết tỏa hoành giang”?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Mới rồi chúng ta đi theo một người nhà quê ở phía trước xa xa, người ấy đi nhanh quá, chốc lát đã không thấy. Người ấy e rằng cũng có chút tà môn.

Vạn Khuê nói:

– Dân quê ở đây thuộc đường, chắc là đã rẽ vào lối nhỏ. Nếu không có y, chắc là ta phải mất sáu tháng một năm cũng không tìm được đến đây.

Địch Vân nghĩ: “Thì ra họ đi theo mình, nếu không thì hang núi kín đáo thế này làm sao mà họ tìm đến được.”

Chỉ nghe thấy những người kia lùng sục khắp nơi loạn lên một hồi. Trong hang vốn chẳng có gì, họ bới tung lên, chẳng qua cũng chỉ đem mấy thứ rách nát kia vứt lung tung, ném qua bên đông lại quẳng qua bên tây mà thôi. Tiếp đó lại có tiếng cuốc xẻng đào đất nhưng đáy hang chỉ toàn đá, đào sao được. Vạn Chấn Sơn nói:

– Chẳng có gì để lại, các ngươi đi ra đi, ra ngoài kia hãy tính.

Chỉ thấy đám đệ tử theo Vạn Chấn Sơn đi ra, đến bên khe núi, ngồi lên mấy tảng đá. Địch Vân không muốn để họ phát hiện ra nên không dám đến gần. Tiếng nói chuyện của tám người kia rất nhỏ, nghe không rõ họ nói gì.

Địch Vân nghĩ bụng: “Họ đến tìm “Liên thành kiếm phổ” lại nghi nhị sư bá Ngôn Đạt Bình trộm mất, nhà của sư phụ mình lại bị đổi thành một tòa nhà lớn, lão ăn mày kia nói là muốn tìm “tụ bảo bồn” gì đó… A, phải rồi, phải rồi!”

Đột nhiên, một đạo linh quang lóe sáng trong đầu, Địch Vân chợt ngộ ra: “Lão khất cái kia đâu có phải là tìm “tụ bảo bồn”, lão cũng tìm “Liên thành kiếm phổ”. Lão cho rằng kiếm phổ ấy rơi vào tay sư phụ mình, thế là đến tìm, để che mắt người ta nên xây một tòa nhà lớn trước, sau đó mới lại đào nền nhà cũ lên để tìm kiếm. Sợ người ta nghi ngờ lão lại tung ra chuyện tìm “tụ bảo bồn”, đó chẳng qua chỉ là chuyện bịa để lừa dân quê.”

Rồi lại nghĩ tiếp: “Dạo ấy Vạn sư bá làm lễ mừng thọ, lão khất cái này cứ suốt ngày suốt đêm quanh quẩn đi đi lại lại, rõ ràng là có ý đồ gì đó. Ái chà, bọn Vạn Chân Sơn tìm không được kiếm phổ có lý nào lại không đến tòa nhà lớn kia tra soát? Chắc là đến đó điều tra rồi. Việc này còn chưa kết thúc, mình phải trở lại tòa nhà lớn kia chờ xem nhiệt náo. Ở đây có điều kỳ lạ nghĩ muốn vỡ cả đầu!”

“Nhưng, sư phụ của mình đâu rồi? Sư phụ đi đâu? Nhà bị người ta đào bới như thế sư phụ có biết không?”

“Còn sư muội nữa? Cô ấy ở lại thành Kinh Châu, làm thiếu phu nhân. Người nhà họ Vạn đến sưu tra nhà phụ thân cô ấy chắc là không để cho cô ấy biết. Lúc này sư muội đang làm gì nhỉ?”

* * *

Tối đến, trong ngôi nhà lớn lại đèn đuốc sáng choang. Mười mấy người nhà quê cầm cuốc xẻng đào đất. Địch Vân cũng đào đất với họ, không đặc biệt gắng sức, cũng không lười biếng đế người xung quanh càng ít đế ý càng tốt. Đầu tóc chàng rối bù, râu không cạo, râu tóc che kín hơn nửa mặt lại dính bùn đất, thật là mặt mũi hoàn toàn khác. Nhớ lại hồi chiều mấy người nhà họ Vạn đi theo mình, đừng để họ nhận ra, bèn đổi tấm vải trắng xuống quấn ngang lưng, lấy tấm vải xanh vốn quấn ngang lưng quấn lên đầu. Tối hôm ấy lại đào ở góc phía bắc. Lão khất cái chắp tay sau lưng đi đi lại lại quanh hố. Đương nhiên bây giờ ông ta không còn bộ dạng ăn mày nữa, áo quần sang trọng, tay trái đeo chiếc nhẫn ngọc bích, đeo một miếng hán ngọc rất to.

Đột nhiên, Địch Vân nghe thấy có tiếng người đang đi về phía tòa nhà, bốn phía đông tây nam bắc đều có người. Những người này cách còn xa, lão khất cái rõ ràng là chưa hay biết gì. Địch Vân nghiêng người liếc nhìn lão, chỉ nghe tiếng bước chân từ từ đến gần, năm người, sáu người… bảy người… tám người, đúng rồi, là Vạn Chấn Sơn cùng bảy đệ tử của lão. Nhưng lão ăn mày kia vẫn chưa phát hiện ra. Địch Vân đã sớm nghe được rõ ràng, tám người kia đã đến gần nhưng lão cái lại như bị điếc tai.

Hơn năm năm trước, Địch Vân tôn kính lão khất cái này như thần minh. Chàng chỉ học lão cái ba chiêu kiếm pháp đã đánh cho tám đệ tử nhà họ Vạn đại bại không cách gì chống đỡ nổi. “Vậy mà sao võ công của bác ta bây giờ lại kém đi như thế, lẽ nào không phải là bác ta? Mình nhận lầm rồi chăng? Không, quyết không phải là nhận lầm.” Địch Vân không ngờ rằng võ công của mình bây giờ đã tiến tới cảnh giới cực cao nên có thể nghe rõ thanh âm từ rất xa mà người khác thì chẳng hề nghe thấy gì cả.

Tám người kia mỗi lúc một gần. Địch Vân rất lấy làm lạ: “Tám người này thật buồn cười, ai chẳng nghe thấy các người đang lén lút tới gần vậy mà còn rón rón rén rén cái quái gì nữa?” Tám người kia lại áp gần hơn mười trượng nữa, đột nhiên thân hình lão cái hơi run, nghiêng tai nghe ngóng động tĩnh. Địch Vân nghĩ bụng: “Bác ấy nghe thấy chưa? Bác ấy điếc à?” Kỳ thực, tám người ấy còn cách khá xa, nếu là nửa năm trước thì Địch Vân cũng không thể nghe thấy tiếng bước chân xa như thế, dẫu có gần hơn nữa cũng chưa nghe thấy được.

Tám người kia đến càng gần, bước mấy bước, lại dừng, rõ ràng là đề phòng bị phát giác. Nhưng lão cái đã phát giác được rồi. Lão quay người lại, cầm lấy cây gậy chống tựa bên góc tường. Đó là một cây gậy chống bằng gỗ to và thô, có chạm đầu rồng.

Đột nhiên cả tám người kia cùng xông vào, bao vây bốn phía. “Bình” một tiếng, đá vào cửa lớn mở toang, Vạn Khuê nhảy vào trước tiên, tiếp theo là Thẩm Thành, Bốc Viên. Bảy người đều lăm lăm trường kiếm vây chặt lão khất cái.

Lão cái ha ha cười lớn, nói:

– Hay lắm, các cháu đều đến cả rồi! Vạn sư ca, sao còn chưa vào đây?

Từ ngoài cửa, một người cất tiếng cười vang, thong thả bước vào, chính là “Ngũ vân thủ” Vạn Chấn Sơn. Lão và lão ăn mày đứng cách nhau cái hố, hai người dò xét lẫn nhau bằng ánh mắt.

Chốc lát, Vạn Chấn Sơn cười, nói:

– Ngôn sư đệ, mấy năm không gặp, đệ đã phát tài lớn rồi.

Ba câu này lọt vào tai Địch Vân, đầu óc chàng lập tức hỗn loạn: “Cái gì? Lão ăn mày này chính là… chính là nhị sư bá… nhị sư bá… Ngôn Đạt Bình ư?”

Chỉ nghe thấy lão ăn mày nói:

– Sư ca, đệ cũng có phát tài chút đỉnh. Sư ca mấy năm nay buôn bán hời lắm hả?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Cũng là gặp may thôi! Ê, các con, sao không khấu đầu chào sư thúc?

Bọn Lỗ Khôn cùng quỳ xuống, đồng thanh nói:

– Đệ tử khấu kiến Ngôn sư thúc.

Lão ăn mày nói:

– Thôi, được rồi! Trong tay cầm đao kiếm, rập đầu thật bất tiện, miễn đi thôi.

Địch Vân nghĩ bụng: “Người này quả nhiên là Ngôn sư bá. Ông ấy… Ông ấy?” Vạn Chấn Sơn nói:

– Sư đệ, đệ khai mỏ ở đây à? Sao lại đào một cái hố lớn vậy?

Ngôn Đạt Bình cười hi hi, nói:

– Sư huynh đoán nhầm rồi. Tiểu đệ kẻ thù đông lắm, tị nạn ở đây, đào cái hố sâu này một công đôi việc. Kẻ thù bị tiểu đệ giết thì tiện tay chôn luôn, khỏi phải đào huyệt. Nếu tiểu đệ bị người ta giết thì cái hố này lại là nơi chôn tiểu đệ.

Vạn Chấn Sơn cười nói:

– Hay lắm, diệu cực, sư đệ suy tính thật chu đáo. Sư đệ không mấy to béo, huynh thấy cái hố này cũng đủ sâu rồi, không cần phải đào thêm nữa.

Ngôn Đạt Bình mỉm cười:

– Chôn một người thì thừa thãi, chôn tám người thì e rằng chưa đủ.

Địch Vân nghe hai người mới gặp nhau đã môi đao lưỡi kiếm, chĩa mũi nhọn vào nhau, bất giác nhớ tới lời Đinh Điển, trầm tư: “Huynh đệ họ hợp lực giết sư phụ. Ân sư mà còn giết, thì đối với nhau còn tình nghĩa gì? Nghe Đinh đại ca nói huynh đệ họ đã đoạt được “Liên thành kiếm phổ” nhưng chưa có kiếm quyết. Kiếm quyết ấy toàn là những con số. Số thứ nhất là “bốn”, số thứ hai là “năm mươi”, số thứ ba là “ba mươi ba”, số thứ tư là “năm mươi ba”, Đinh đại ca cho đến chết vẫn chưa kịp nói xong. Kiếm phổ chẳng phải là đã ở trong tay họ rồi sao? Sao lại còn đến đây tìm kiếm?”

Vạn Chấn Sơn nói:

– Hảo sư đệ, hai chúng ta là sư huynh đệ đồng môn lâu năm, tâm tư của huynh đệ hiểu rõ hết, lòng dạ của đệ huynh cũng đã đi guốc vào rồi, còn phải vòng vo gì nữa? Đưa đây!

Nói đến hai tiếng “đưa đây”, lão liền chìa tay phải ra.

Ngôn Đạt Bình lắc lắc đầu, nói:

– Còn chưa tìm thấy, tâm cơ của Thích lão tam, hai anh em ta đều không phải là đối thủ. Đệ đoán mãi không ra y giấu kiếm phổ ở đâu.

Địch Vân lại lặng người: “Lẽ nào ba anh em họ hợp lực đoạt được kiếm phổ, lại bị sư phụ mình lấy mất? Nhưng bao nhiêu năm nay sao không hề có động tĩnh gì? À, phải rồi, sư phụ mình hạ thủ cực kỳ xảo diệu, họ mãi không điều tra ra. Sư phụ đã không ở đây nữa, kiếm phổ chắc phải mang theo bên mình, chứ sao lại chôn giấu trong nhà? Họ liều mạng đến đây tìm tòi, chẳng phải là quá ngốc sao?” Nhưng chàng biết Vạn Chấn Sơn và Ngôn Đạt Bình quyết không phải là đồ ngốc, họ thông minh hơn mình không biết bao nhiêu mà kể. Vậy thì còn âm mưu, cạm bẫy gì nữa đây?

Vạn Chấn Sơn cười ha hả, nói:

– Sư đệ, đệ còn giả vờ gì nữa? Người ta bảo tam sư đệ “Thiết tỏa hoành giang” thủ đoạn lợi hại. Huynh thì lại cho rằng nhị sư đệ lợi hại. Đưa đây!

Nói rồi, tay phải lại chìa ra.

Ngôn Đạt Bình vỗ vỗ túi áo, nói:

– Hai anh em ta là huynh đệ lâu năm, còn phân biệt đó đây gì nữa? Sư ca, giả sử đệ có được thì một mình đệ cũng đối phó không nổi, không thể không nhờ huynh đến chủ trì đại sự, đệ chỉ có thề giúp một tay, chấm mút được chút đỉnh. Nhưng nếu sư huynh chiếm được ấy à, hi hi, đệ tử của sư huynh tuy đông, công phu đều còn non kém lắm, e rằng cũng phải nhờ đệ hợp lực, giúp một tay.

Vạn Chấn Sơn chau mày nói:

– Đệ lấy được gì trong hang núi kia?

Ngôn Đạt Bình lấy làm lạ, hỏi:

– Hang núi nào? Gần đây có hang núi à?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Sư đệ, ta và đệ đều đã lớn tuổi rồi, hà tất làm tổn thương hòa khí. Đệ đưa ra đây, mọi người cùng xem cho rõ. Từ nay về sau có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, thế nào, được chứ?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Lạ quá, sao huynh cứ một mực quả quyết là đệ lấy được? Nếu đệ đã lấy được thì còn ở đây đào đào bới bới làm gì?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Đệ quỷ kế đa đoan, ai biết đệ làm gì?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Cái gì của tam sư đệ, đâu có dễ dàng tìm được. Đệ xem thử, cũng không tìm trong nhà này nữa. Đào thêm ba ngày, nếu vẫn không có kết quả gì thì đệ cũng bỏ thôi.

Vạn Chấn Sơn cười nhạt:

– Hừ! Huynh xem ra đệ còn đào mươi bữa nửa tháng nữa ấy chứ. Giả vờ khéo lắm.

Ngôn Đạt Bình bỗng biến sắc, định trở mặt, nhưng nghĩ lại, cố nén giận, nói:

– Thế nào huynh mới tin?

Lão buông chiếc gậy, mở cúc áo, cởi trường bào, cầm cái áo rũ rũ, lật ngược lên lại rũ, mấy lạng bạc vụn và cái tẩu thuốc rơi xuống leng keng.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Đệ có ngu xuẩn gì mà lấy được rồi lại còn giấu trong người? Dù có giấu trong người đi nữa cũng giấu sát tận da chứ đời nào lại bỏ trong túi áo ngoài.

Ngôn Đạt Bình thở dài nói:

– Sư huynh đã không tin thì lại mà soát.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Thế thì phải đắc tội rồi.

Lão đưa mắt nháy Vạn Khuê và Thẩm Thành. Hai người gật gật đầu, tra kiếm vào vỏ, một trái một phải bước tới bên Ngôn Đạt Bình. Vạn Chấn Sơn lại liếc sang Bốc Viên và Lỗ Khôn, hai người từ từ vòng ra phía sau lưng Ngôn Đạt Bình, tay nắm chặt chuôi kiếm.

Ngôn Đạt Bình vỗ vỗ vào túi áo trong, nói:

– Mời soát!

Vạn Khuê nói:

– Sư thúc, xin đắc tội!

Hắn thò tay vào mò trong túi áo lão. Bỗng Vạn Khuê “á” lên một tiếng chói tai, vội vàng rụt tay lại, dưới ánh lửa thấy một con rết lớn dài chừng ba tấc đang bò trên mu bàn tay hắn. Hắn trở tay đánh mạnh xuống hố, “bốp” một tiếng, con rết nát bét, nhưng mu bàn tay đã trúng kịch độc, lập tức sưng vù lên. Hắn muốn tỏ vẻ anh hùng, không chịu rên rỉ, mồ hôi trên trán túa ra từng giọt từng giọt to như hạt đậu.

Ngôn Đạt Bình thất kinh nói:

– Ái chà, Vạn hiền diệt, cháu kiếm đâu được con rết độc thế? Đây là “hoa ban độc yết” hết sức ghê gớm. Thứ này không chơi được đâu. Sư ca, mau lên, mau lên, huynh có thuốc giải không? Chỉ cần chậm một chút là không xong đâu, không xong đâu.

Chỉ thấy mu bàn tay Vạn Khuê từ màu đỏ chuyển sang màu tím, từ tím biến thành đen, một sợi chỉ đỏ từ từ chạy lên cánh tay. Vạn Chấn Sơn biết là đã mắc bẫy Ngôn Đạt Bình, không nói gì được, đành nén giận, nói:

– Sư đệ, huynh phục đệ rồi. Huynh chịu thua, đệ đưa giải dược ra, bọn ta sẽ đi thôi, không làm phiền đệ nữa.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Thuốc giải à, trước đây đệ cũng có, nhưng lâu rồi, không biết mất đâu, mấy ngày nữa đệ sẽ từ từ tìm cho huynh, có lẽ là tìm được. Nếu không có, đệ sẽ đi đến phủ Đại Danh (Bắc Kinh) tìm dược liệu rồi sẽ chế thuốc khác cho huynh cũng được. Huynh đệ ta vốn tình sâu nghĩa nặng mà.

Vạn Chấn Sơn nghe nói vậy tức tối muốn nổ tung lồng ngực. Loại rết độc này đã cắn thì chỉ sau hai canh giờ là mất mạng. Chỉ cần sợi chỉ đỏ kia chạy vào tới ngực là tắt thở, nói gì đến chuyện “chờ mấy ngày từ từ tìm thuốc giải.” Từ đây đến phủ Đại Danh ở Hà Bắc xa ngàn dặm, lại còn tìm dược liệu chế thuốc. Cái thằng mặt dày vô sỉ này lại còn nói “huynh đệ ta vốn tình sâu nghĩa nặng.” Nhưng thấy đứa con cưng tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, lão đành nén giận, nghĩ bụng “Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn”, bèn nói:

– Sư đệ, chiêu này của sư đệ, huynh chịu thua rồi. Bây giờ đệ định thế nào, cứ ra điều kiện đi.

Ngôn Đạt Bình thong thả mặc trường bào vào, gài cúc cẩn thận, nói:

– Sư ca, đệ có điều kiện gì đâu? Huynh thích thế nào thì cứ thế.

Vạn Chấn Sơn nghĩ bụng: “Hôm nay tạm nhường ngươi, rồi ngươi sẽ biết tay ta.” Lão nói:

– Được rồi, họ Vạn ta từ nay trở đi không gặp ngươi nữa. Nếu còn làm phiền ngươi thì họ Vạn ta không phải là người.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Không dám, anh em với nhau, chỉ mong sư ca nói cho một câu: “Liên thành kiếm phổ” xứng đáng là sở hữu của Ngôn Đạt Bình. Nếu đệ may mắn tìm được thì chẳng còn gì phải nói nữa. Nếu có rơi vào tay sư ca thì cũng phải nhường cho đệ.

Vạn Khuê bị nọc độc chạy dần vào cơ thể, cảm thấy mê hoảng, người loạng choạng, Lỗ Khôn kêu lên:

– Sư đệ, sư đệ!

Rồi đưa tay ra đỡ, xé tay áo hắn, thấy sợi chỉ đỏ đã tới nách. Y quay đầu kêu lên với Vạn Chấn Sơn:

– Sư phụ, bây giờ điều kiện gì cũng phải nhận!

Vạn Chấn Sơn nói:

– Được “Liên thành kiếm phổ” là của đệ. Chúc mừng! Chúc mừng! Lão nghiến răng rít lên hai tiếng “chúc mừng!” lòng đầy oán hận.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Đã thế, để đệ vào nhà tìm, biết đâu có thể tìm được thuốc giải gì đó, cũng còn phải xem Vạn hiền điệt có gặp may không nữa.

Nói rồi lão thong thả quay mình đi vào nhà trong. Vạn Chấn Sơn đưa mắt, Lỗ Khôn và Bốc Viên liền bám theo.

Sau một lúc lâu, ba người vẫn chưa trở ra, cũng không nghe thấy động tĩnh gì, chỉ thấy Vạn Khuê thần khí hôn mê, được Thẩm Thành đỡ, hắn đã không nhúc nhích được. Vạn Chấn Sơn sốt ruột bảo Phùng Thản:

– Ngươi vào xem xem.

Phùng Thản thưa:

– Vâng!

Đang định đi vào thì thấy Ngôn Đạt Bình bước ra, nét mặt vui vẻ nói:

– Còn may, còn may! Chẳng phải là đã tìm được rồi ư?

Lão giơ cao một cái bình sứ nhỏ, nói:

– Đây là giải dược, được, trị rết độc còn tốt. Vạn hiền diệt, mạng của cháu thật lớn đấy. Sau này đừng chơi vào loại độc trùng này nữa nhé.

Nói rồi lão bước đến bên Vạn Khuê, mở nắp bình sứ, rắc một ít bột thuốc màu đen lên vết thương trên mu bàn tay Vạn Khuê.

Giải dược này thật linh nghiệm, chốc lát, thấy vết thương dần dần ứa máu đen, rồi từng giọt từng giọt rơi xuống đất. Máu đen chảy ra càng nhiều, sợi chỉ đỏ trên cánh tay Vạn Khuê càng chạy xuống thấp, đến khuỷu tay, rồi đến cổ tay.

Vạn Chấn Sơn thở phào một hơi, lòng vừa nhẹ nhõm vừa uất hận. Tính mạng của con đã được bảo toàn, nhưng cuộc chiến chưa kịp ra tay đã bị người khống chế. Lại qua một lúc, Vạn Khuê mở mắt ra, kêu lên một tiếng:

– Cha!

Ngôn Đạt Bình đậy nắp bình sứ lại, nhét vào trong ngực áo, cầm lấy cây gậy, gõ nhẹ xuống đất, cười nói:

– Thế là được rồi, Vạn hiền điệt, từ nay về sau cháu phải nhớ, thò tay vào túi áo người khác khua khoắng cái gì thì phải cẩn thận mới được.

Vạn Chấn Sơn nói với Thẩm Thành:

– Gọi chúng nó ra.

Thẩm Thành thưa:

– Vâng!

Rồi ra sau sảnh, gọi lớn:

– Lỗ sư ca, Bốc sư ca, mau quay ra, chúng ta đi thôi.

Chỉ nghe hai người kêu lên “a, a, a” mấy tiếng mà không đi ra. Tôn Quân và Thẩm Thành không đợi sư phụ sai bảo đã tự xông vào rồi hai người dìu Lỗ Khôn và Bốc Viên ra. Chỉ thấy hai người kia mặt không giọt máu, một người gãy chân trái, một người gãy chân phải, hẳn là vừa gặp phải độc thủ của Ngôn Đạt Bình.

Vạn Chấn Sơn bừng bừng nổi giận. Lão vốn có ý lấy mạng Ngôn Đạt Bình ngay, lúc này càng có cớ, mối hận này làm sao có thể chờ ngày sau mới trả? “Soạt” một tiếng, trường kiếm đã ra khỏi vỏ, lưỡi kiếm xanh lè, đâm mạnh vào yết hầu Ngôn Đạt Bình.

Địch Vân chưa hề thấy Vạn Chấn Sơn hiển lộ võ công, lúc này thấy lão xuất một chiêu kiếm, mạnh mẽ và độc địa, trong lòng thầm nghĩ: “Nhát kiếm này tuồng như không sơ hở.” Địch Vân lúc này võ học đã rất tinh thâm, tuy không có người truyền thụ, nhưng khi người khác xuất chiêu, tự nhiên việc đầu tiên là xem có sơ hở gì trong chiêu số của đối phương.

Ngôn Đạt Bình nghiêng mình tránh, tay trái nắm chắc phần dưới của cây gậy, tay phải nắm chắc cái đầu rồng của gậy, hai tay tách ra, một tiếng “soạt” khẽ vang lên, bạch quang lóa mắt, trong tay đã có một thanh trường kiếm. Thì ra đầu rồng là chuôi kiếm, lưỡi kiếm giấu trong thân gậy, phần cuối cây gậy là vỏ kiếm. Một kiếm trong tay, lão lập tức trả chiêu. Chỉ nghe thấy tiếng “choang choang choang choang” vang lên không ngớt, huynh đệ hai người đấu kiếm trên miệng hố. Đấu được mấy chiêu, cảm thấy miệng hố địa hình chật hẹp, khó thi triển, cùng hét lên một tiếng, nhất tề nhảy xuống lòng hố.

Đám dân quê thấy hai người cãi nhau đã hoang mang, đến khi thấy họ ác đấu, càng sợ đến nỗi co vào một góc, không ai dám ho he. Địch Vân cũng giả vờ sợ hãi co rúm lại, chăm chú nhìn hai vị sư bá, thấy đã được bảy tám chiêu, nghĩ bụng: “Hai vị sư bá nội lực không đủ, chiêu pháp lại linh hoạt, dẫu có tìm được “Liên thành kiếm phổ” gì đó, e rằng cũng chẳng có tác dụng gì, trừ phi đó là một bộ võ kinh dạy luyện nội công. Nhưng đã là “kiếm phổ” thì chắc là sách dạy kiếm pháp.”

Chàng lại xem mấy chiêu, càng cảm thấy kỳ lạ: “Võ công của bốn hiệp sĩ “Lạc Hoa Lưu Thủy” như Lưu Thừa Phong, Hoa Thiết Cán… so với hai vị sư bá này còn cao hơn nhiều. Hai vị sư bá chỉ chú ý biến hóa chiêu số, hoàn toàn không để ý đến việc phối hợp nội lực. Đó là cái lý gì? Ngày trước sư phụ dạy mình kiếm thuật, cũng dạy thế này. Xem ra ba vị huynh đệ Vạn, Ngôn, Thích đều chỉ học kiếm kiểu này thôi. Võ công kiểu này gặp đối thủ yếu hơn tất nhiên là sẽ chiếm hết thượng phong, nhưng chỉ cần đối phương có nội lực hơi mạnh một chút thì những kiếm chiêu biến ảo vô cùng này của họ chẳng có một chút hiệu quả nào. Vì sao lại học kiếm như thế, vì sao lại học kiếm như thế?”

Ba người Tôn Quân, Phùng Thản, Ngô Khảm đều tuốt kiếm tiến vào trợ chiến, thành cái thế bốn người vây đánh Ngôn Đạt Bình.

Ngôn Đạt Bình ha ha cười lớn, nói:

– Được, được! Đại sư ca, sư ca càng ngày càng tiến xa đấy, chiêu tập một lũ tiểu lâu la cùng đến đánh sư đệ của mình.

Lão tuy ra vẻ vô sự nhưng đường kiếm đã chậm lại.

Địch Vân nghĩ bụng: “Kiếm chiêu của hai vị sư bá, mỗi người có sở trường riêng. Ngôn sư bá ngày ấy dạy mình ba chiêu “đâm vai”, “bạt tai”, “đánh văng kiếm”, dùng để đối phó với tám đệ tử Vạn môn, lúc ấy rất có hiệu quả, nay dùng để đối phó với Vạn sư bá lại chẳng có một chút tác dụng nào. Ồ, bọn họ đều không hiểu, chỉ học biến hóa kiếm chiêu, nếu không có nội công phụ trợ thì có tác dụng gì? Một chút tác dụng cũng không có. Thật là kỳ quái. Một đạo lý thô thiển như vậy đến một đứa ngốc nghếch như mình cũng hiểu, bọn họ người nào cũng hết sức thông minh sao không ai hiếu được? Hay là mình hồ đồ?”

Bỗng, tựa hồ như có một đạo linh quang lóe sáng trong lòng: “Đinh đại ca đã nói với mình về lai lịch của “Thần chiếu kinh”. Sư tổ Mai Niệm Sinh cho đại ca bộ “Thần chiếu kinh” ấy, sư tổ hẳn là rất am tường đạo lý này, vậy mà sao lại không nói cho ba đệ tử biết? Lẽ nào… lẽ nào… lẽ nào….”

Trong lòng Địch Vân liên tiếp kêu khẽ ba lần “lẽ nào”, lập tức lưng toát mồ hôi lạnh, bất giác cảm thấy ớn rét, thân mình run rẩy.

Một ông già nhà quê bên cạnh luôn miệng niệm phật: “A di đà Phật, A di đà Phật, chớ xảy ra án mạng. Tiểu huynh đệ, đừng sợ, đừng sợ.” Ông ta thấy Địch Vân run rẩy tưởng chàng vì thấy hai người kia ác đấu mà sợ hãi, tuy lên tiếng an ủi chàng nhưng tự mình cũng sợ hết vía.

Địch Vân đã rõ chân tướng, nhưng điều ấy lại quá âm hiểm ác độc, chàng không muốn nghĩ thêm nữa, càng không muốn nghĩ đến cái chân tướng mới phát hiện ra đó quy kết thành một lẽ rõ ràng, có điều đã khám phá được điều then chốt rồi thì tất cả mọi điều đều được xâu chuỗi lại…

Mấy người Vạn Chấn Sơn, Ngôn Đạt Bình, Tôn Quân, Phùng Thản, mỗi người ra chiêu đều ấn chứng cho cách nghĩ của chàng. “Đúng rồi, đúng rồi, nhất định là như thế. Nhưng phải chăng là như thế? Làm sư phụ sao lại ác độc như thế? Không phải… không phải, nếu không phải thế thì là thế nào? Thật là quá kỳ lạ.”

Một bức tranh rõ mồn một hiện lên trong trí não chàng: “Nhiều năm trước, ở bên ngoài ngôi nhà này, mình và sư muội luyện kiếm, sư phụ đứng bên chỉ bảo. Sư phụ dạy mình một chiêu, rất là xảo diệu. Mình dụng tâm luyện, lần thứ hai sư phụ lại dạy khác đi, kiếm pháp vẫn rất xảo diệu nhưng lại không giống với lần trước. Lúc ấy, mình chỉ cho là kiếm pháp của sư phụ biến ảo khôn lường. Bây giờ nghĩ lại, kiếm chiêu sao lại hai lần dạy khác nhau, không hiểu lý do vì sao.”

Bỗng cảm thấy đau nhói trong lòng: “Sư phụ cố ý dạy sai đường, cố ý dạy mình loại kiếm pháp hạng xoàng. Tài năng của sư phụ rất cao, nhưng lại cố ý dạy mình thứ kiếm chiêu không dùng được. Ông ấy… ông ấy… Võ công của Ngôn sư bá và sư phụ cũng xấp xỉ nhau nhưng ba chiêu kiếm pháp mà bác ấy dạy mình lại cao minh hơn sư phụ rất nhiều….”

“Còn Ngôn sư bá vì sao lại dạy mình ba chiêu kiếm pháp ấy? Bác ấy không có ý tốt. Phải rồi, bác ấy muốn làm cho Vạn sư bá nghi ngờ, muốn Vạn sư bá và sư phụ mình xung đột với nhau….”

“Vạn sư bá cũng vậy, bản lĩnh của ông ta hoàn toàn khác với tám đệ tử… Nhưng vì sao ngay cả đối với con mình cũng lừa dối? Ầy, ông ta không thề chỉ dạy riêng cho con mình mà không dạy các đệ tử khác, nếu làm thế thì lập tức lộ tẩy.”

Ngôn Đạt Bình rung động cổ tay phải, mũi kiếm xoay chuyển bảy vòng tròn, đâm nhanh vào ngực Vạn Chấn Sơn. Vạn Chấn Sơn hoành thân kiếm, dùng đường ngang để phá vòng tròn, lia liền mấy nhát ngang, phá giải hết bảy vòng kiếm của Ngôn Đạt Bình.

Địch Vân ở bên ngoài xem, lại nghĩ: “Bảy vòng tròn này toàn là thừa, cứ đâm một nhát vào bên ngực trái của Vạn sư bá, sao không mau đâm thẳng? Há chẳng phải là vừa nhanh vừa hiểm hơn không? Vạn sư bá lia bảy nhát ngang phá giải bảy vòng kiếm của Ngôn sư bá tuồng như xảo diệu, kỳ thực cũng vụng về hết chỗ nói, nếu mà cứ đâm ngược vào bụng Ngôn sư bá thì đã sớm đắc thắng rồi.”

Chợt trong đầu óc lại hiện lên cảnh tượng ngày trước:

Chàng và sư muội Thích Phương luyện kiếm, kiếm chiêu của Thích Phương nhiều hoa thức đẹp mắt, chàng không nhớ rõ chiêu số sư phụ đã dạy bị ép đến nỗi chân tay bối rối, lùi liên tiếp. Thích Phương liên tiếp tấn công ba chiêu, chàng đầu váng, mắt hoa, chàng luống cuống, thấy đối địch không nổi, đã không nhớ nổi kiếm chiêu sư phụ dạy, bèn thuận tay đỡ bừa rồi đâm ngược trở lại…

Thích Phương sử một chiêu “Phủ thích văn kinh phong, liên sơn thạch bố đào”, nhưng chiêu kiếm của chàng hoàn toàn tự phát không theo quy cách sư phụ đã dạy, kiếm pháp hoa mỹ của Thích Phương lại không đỡ nổi. Chàng đâm tới một nhát, chỉ thẳng vào vai sư muội. Trong khi chưa kịp thu chiêu, sư phụ Thích Trường Phát đã nhảy ra, tay cầm một que củi, “phách” một tiếng, đánh rơi cây trường kiếm trong tay chàng. Chàng và Thích Phương đều sợ hãi tái mặt. Thích Trường Phát tức giận mắng Địch Vân một trận, bảo chàng đâm bừa chém ẩu không sử kiếm theo phương pháp sư phụ đã dạy, thật chẳng ra làm sao.

Lúc ấy chàng cũng đã từng nghĩ: “Mình sử kiếm không theo quy củ, sao lại có thể thắng được?”

Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua rồi biến mất, rồi lập tức hiểu rõ: “Tất nhiên là vì kiếm thuật của sư muội chưa thuần thục. Nếu là gặp phải hảo thủ thực sự, mình cứ đâm bừa chém ẩu như thế đương nhiên là chỉ có thua.” Lúc ấy chàng đâu có ngờ: kiếm chiêu mà mình tiện tay đâm ra kỳ thực có hiệu quả hơn nhiều so với kiếm pháp ly kỳ cổ quái và hoa mỹ của sư phụ.

Giờ đây nghĩ lại, thấy khác hẳn. Với võ công của chàng lúc này thì có thể thấy một cách rõ ràng: trong kiếm thuật của Vạn Chấn Sơn và Ngôn Đạt Bình có rất nhiều hoa chiêu hoàn toàn vô dụng, còn kiếm pháp mà Vạn Chấn Sơn dạy đồ đệ, Thích Trường Phát dạy chàng và Thích Phương hoa chiêu vô dụng lại càng nhiều. Khỏi phải nói, sư tổ Mai Niệm Sinh đã sớm nhận ra ba đồ đệ lòng dạ bất chính nên trong lúc truyền thụ đã cố ý dẫn họ đi lạc đường. Vạn Chấn Sơn và Thích Trường Phát khi dạy đồ nhi hoặc cố ý hoặc vô ý lại dẫn họ lạc đường xa hơn nữa.

Khi lâm địch sử một chiêu kiếm không kể đến hiệu quả, không chỉ “vô dụng” mà còn làm mất thời cơ, để cho địch nhân chiếm thượng phong, thế là trao tính mạng mình vào tay kẻ địch. Vì sao sư tổ, sư phụ, sư bá đều hiểm độc như thế?

“Họ có thù hận gì với con trai con gái mình chăng? Chắc chắn là không. Hẳn là có một nguyên nhân quan trọng nào đó, nhất định là có mưu đồ ghê gớm gì đây. Lẽ nào lại vì bộ “Liên thành kiếm phổ” kia?”

“Có phải vậy không? Vạn sư bá và Ngôn sư bá vì kiếm phổ này mà có thể giết chết sư phụ của mình, nay lại đang gắng sức giết nhau.”

Không sai. Họ đang liều mạng muốn giết chết đối phương. Cuộc ác đấu trong hố đất mỗi lúc một quyết liệt. Kiếm pháp của Vạn Chấn Sơn và Ngôn Đạt Bình khó phân cao thấp, nhưng các đệ tử Vạn môn đã xông vào trợ chiến rốt cuộc đã khiến Ngôn Đạt Bình phải phân tâm. Tôn Quân một kiếm đâm trúng lưng Ngôn Đạt Bình. Ngôn Đạt Bình trở kiếm đỡ, mũi kiếm theo đà róc xuống. Tôn Quân kêu lên một tiếng “ái”, hổ khẩu đã bị thương, rồi “keng” một tiếng, kiếm đã rơi xuống đất. Vừa lúc ấy Vạn Chấn Sơn đã nhằm kẽ hở chém một nhát, vạch một vết thương dài trên cánh tay phải Ngôn Đạt Bình.

Ngôn Đạt Bình nhịn đau, vội chuyển kiếm sang tay trái, nhưng tay trái lại không quen sử kiếm, vết thương trên tay phải không nhẹ, máu tươi nhuộm đỏ nửa người lão. Chiết được bảy tám chiêu nữa, vai bên trái lại trúng một nhát kiếm.

Mấy người dân quê thấy cảnh ấy đều sợ hãi tái mặt, thì thào bàn tán, chỉ muốn chạy trốn, nhưng không ai dám nhúc nhích.

Vạn Chấn Sơn quyết ý hôm nay phải giết cho bằng được sư đệ, từng nhát kiếm đều lang độc.

“Sột” một tiếng, ngực bên phải của Ngôn Đạt Bình lại trúng một nhát kiếm.

Chỉ mấy chiêu nữa, Ngôn Đạt Bình ắt chết dưới lưỡi kiếm của sư huynh. Lão nghiến răng tắm máu khổ đấu, không thốt nửa lời xin tha. Lão cùng vị sư huynh này đồng môn hơn mười năm, lại hơn mười năm minh tranh ám đấu, hiểu nhau quá rõ, cầu xin chỉ thêm nhục chứ chẳng được ích gì.

Địch Vân nghĩ bụng: “Năm ấy ở Kinh Châu, Ngôn sư bá dùng một cái bát mẻ giúp mình đánh lui đại đạo Lữ Thông, lại dạy mình ba chiêu kiếm pháp, khiến mình không phải chịu nhục trước đám đệ tử họ Vạn, tuy bác ấy có dụng ý riêng nhưng mình vẫn mang ơn bác ấy, quyết không thể để bác ấy chết bất đắc kỳ tử.” Bèn làm bộ run lẩy bẩy, xúc đầy một xẻng đất bùn.

Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn vung kiếm nhằm vào bụng Ngôn Đạt Bình đâm tới, Ngôn Đạt Bình thân hình lảo đảo không thể né tránh được. Chiếc xẻng trong tay Địch Vân hất nhẹ một cái, một xẻng đất vàng bay thẳng đến Vạn Chấn Sơn. Nội kình trong xẻng đất ấy không nhỏ. Vạn Chấn Sơn bị luồng kình lực ấy va mạnh vào, chân đứng không vững, ngã ngửa ra đằng sau.

Mọi người xuất kỳ bất ý, không ai biết bùn đất từ đâu bay tới. Địch Vân lại hắt liền mấy xẻng đất, đèn đuốc tắt hết, trong đại sảnh lập tức tối như mực. Mọi người đều kinh hãi kêu lên. Địch Vân nhảy phắt tới, ôm lấy Ngôn Đạt Bình xông ra.

Ra đến ngoài nhà, Địch Vân cõng Ngôn Đạt Bình lên lưng, chạy nhanh ra phía sau núi.

Chàng rất quen thuộc địa thế vùng này, đã leo lên đến những ngọn núi cao hoang tịch. Ngôn Đạt Bình phục trên lưng chàng, cảm thấy gió rít bên tai, như đằng vân giá vụ, mơ màng như trong giấc mộng, không tin được rằng trên đời lại có người võ công cao cường đến thế.

Địch Vân cõng Ngôn Đạt Bình, leo lên ngọn núi cao nhất. Đỉnh núi thật hiểm trở, từ trước tới nay Địch Vân cũng chưa hề đến. Chàng đã từng cùng Thích Phương ngẩng nhìn đỉnh núi mây trùm lớp lớp này, đố nhau có yêu quái thần tiên trên núi hay không. Thích Phương nói: “Một ngày nào đó nếu huynh đối với muội không tốt, muội sẽ trèo lên núi, vĩnh viễn không xuống nữa.” Địch Vân nói: “Được, huynh cũng vĩnh viễn không xuống.” Thích Phương cười nói: “Không Tâm Thái! Nếu huynh chịu vĩnh viễn bầu bạn với muội không xuống núi thì muội cũng không cần phải leo lên nữa!”

Lúc ây Địch Vân chỉ hi hi cười ngờ nghệch, bây giờ lại nghĩ: “Huynh mãi mãi muốn bầu bạn với muội, muội lại không muốn huynh bầu bạn.”

Chàng đặt Ngôn Đạt Bình xuống đất, hỏi:

– Ồng có thuốc kim sang không?

Ngôn Đạt Bình khom người lạy, nói:

– Ân công tôn tính đại danh là gì? Ngôn Đạt Bình hôm nay được cứu mạng, đại ân này không biết báo đáp như thế nào mới được.

Địch Vân không thể nhận lễ của sư bá, vội quỳ xuống lạy hoàn lễ, nói:

– Tiền bối bất tất đa lễ, tiểu nhân tổn thọ mất. Tiểu nhân là kẻ vô danh, chuyện nhỏ này, nói gì đến báo đáp.

Ngôn Đạt Bình vẫn muốn thỉnh giáo, Địch Vân không biết cách bịa ra tên họ giả, chỉ im lặng.

Ngôn Đạt Bình thấy chàng không chịu nói, đành phải thôi, rút kim sang dược trong túi ra bôi lên vết thương, đụng đến ba vết thương lão thầm kinh hãi: “Nếu người này ra tay muộn một chút bây giờ mình đã không còn trên đời này nữa.”

Địch Vân nói:

– Tại hạ trong lòng có mấy điều nghi nan, muốn được hỏi tiền bối.

Ngôn Đạt Bình vội nói:

– Xin ân công đừng nói hai chữ “tiền bối” nữa. Có điều gì cần hỏi, Ngôn Đạt Bình này xin thành thật trình bày, không dám giấu chút gì.

Địch Vân hỏi:

– Thế thì hay quá. Xin hỏi tiền bối, tòa nhà lớn này là tiền bối làm à?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Vâng.

Địch Vân lại hỏi:

– Tiền bối thuê người đào bới, đương nhiên là tìm “Liên thành kiếm phổ”. Không biết có tìm được không?

Ngôn Đạt Bình lặng người: “Mình không hiểu vì sao hắn tốt bụng cứu mình, hóa ra lại cũng vì bộ Liên thành kiếm phổ.” Lão nói:

– Tôi mất biết bao tâm huyết, đến nay vẫn chưa được chút đầu mối nào. Ân công minh giám, tiểu nhân thực sự không dám giấu giếm. Nếu Ngôn Đạt Bình này đã tìm được, lập tức hai tay dâng lên. Tính mạng của họ Ngôn này là do ân công cứu, há dám tiếc vật ngoại thân ấy?

Địch Vân lắc đầu lia lịa, nói:

– Tôi không phải là cần kiếm phổ, tại hạ võ công tuy cũng chỉ bình thường nhưng tin rằng bộ “Liên thành kiếm phổ” kia chưa chắc đã ích gì cho công phu của tại hạ.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Phải, phải! Ân công võ công xuất thần nhập hóa, đã là vô địch trên đời này, bộ “Liên thành kiếm phổ” chẳng qua cũng chỉ là một bộ đồ phổ kiếm pháp. Bọn chúng tôi cũng chỉ vì đó là công phu của bản môn nên mới hết sức coi trọng, người ngoài xem ra thì cũng chẳng bõ nực cười.

Địch Vân nghe lão nói không thật nhưng lúc này cũng không muốn vạch ra, lại hỏi:

– Nghe nói chỗ tòa nhà lớn kia vốn là chỗ ở của Thích lão tiền bối. Vị Thích tiền bối này ngoại hiệu gọi là “Thiết tỏa hoành giang”, ngoại hiệu đó ý nghĩa là gì?

Chàng từ nhỏ theo sư phụ mà lớn lên, thấy sư phụ là một người dân quê thật thà trung hậu, nhưng Đinh Điển lại nói sư phụ đầy mưu kế, cho nên phải hỏi cho rõ, rốt cuộc lời Đinh Điển có đúng không hay chỉ là do đồn đại.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Sư đệ Thích Trường Phát ngoại hiệu là “Thiết tỏa hoành giang”, đó là người ta bảo y mưu kế đa đoan, đối phó với người khác rất cay độc, giống như một cái khóa sắt to tướng khóa kín dòng sông, khiến cho thuyền bè trên sông muốn lên không lên được, muốn xuống cũng không xuống được.

Địch Vân buồn bã nghĩ thầm: “Lời Đinh đại ca không sai, sư phụ mình hóa ra lại là một nhân vật như thế, mình từ nhỏ bị ông ấy lừa, ông ấy không hề để mình thấy bộ mặt thật. Nhưng, nhưng ông ấy luôn đối với mình rất tốt, có lừa mình cũng chẳng sao”, trong lòng vẫn còn một tia hy vọng, lại hỏi:

– Thứ ngoại hiệu như thế trên chốn giang hồ, cũng chưa chắc đã đáng tin, có lẽ là kẻ thù đặt cho ông ấy như vậy. Ông và sư đệ đồng môn học võ, tất nhiên biết rõ tính cách ông ấy. Rốt cuộc tính cách của ông ấy như thế nào?

Ngôn Đạt Bình thở dài nói:

– Chẳng phải tôi thích nói xấu đồng môn, ân công đã hỏi, tại hạ không dám giấu giếm. Thích sư đệ của tôi bên ngoài có vẻ ngốc nghếch như trâu gỗ ngựa đất nhưng lòng dạ lại linh xảo vô cùng, nếu không bộ “Liên thành kiếm phổ” kia y làm sao mà lấy được?

Địch Vân gật gật đầu, cách một hồi sau mới hỏi:

– Ồng làm sao mà biết được “Liên thành kiếm phổ” ở trong tay ông ấy? Ông tận mắt nhìn thấy à?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Tuy không tận mắt nhìn thấy, nhưng tiểu nhân đã suy ngẫm kỹ, nhất định là y lấy.

Địch Vân nói:

– Nghe nói ông thích giả làm ăn mày, phải không?

Ngôn Đạt Bình lại giật mình: “Người này thật lợi hại, đến cả việc ấy cũng biết.” Bèn nói:

– Ân công tin tức thật là tinh thông, những việc làm của tại hạ việc gì cũng không thể che giấu được ân công. Mới đầu tại hạ cho rằng bộ “Liên thành kiếm phổ” kia không ở trong tay Vạn sư ca thì ở trong tay Thích sư đệ, vì vậy thường cải trang, thay hình đổi dạng, làm ăn mày đi khắp Tương Tây, Ngạc Tây nghe ngóng động tĩnh.

Địch Vân hỏi:

– Vì sao ông lại cho rằng ở trong tay hai người ấy?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Ân sư của tôi lúc sắp chết, giao quyển kiếm phổ này cho ba sư huynh đệ chúng tôi…

Địch Vân nhớ tới lời Đinh Điển đã nói về câu chuyện một đêm trăng bên bờ sông Trường Giang, ba người Vạn, Ngôn, Thích hợp lực mưu giết sư phụ Mai Niệm Sinh, hừm một tiếng, nói:

– Là tiên sinh tự tay trao cho các ông à? E rằng… e rằng… không phải thế. Tiên sinh chết một cách yên lành chứ?

Ngôn Đạt Bình nhảy dựng lên, chỉ vào chàng, nói:

– Ông… ông là… Đinh… Đinh Điển… Đinh đại gia?

Tin Đinh Điển an táng Mai Niệm Sinh về sau bị tiết lộ, cho nên Ngôn Đạt Bình nghe chàng vạch trần tội ác giết thầy của mình liền đoán chàng là Đinh Điển.

Địch Vân lạnh nhạt nói:

– Tôi không phải là Đinh Điển. Đinh đại ca ghét ác như thù. Huynh ấy… huynh ấy tận mắt nhìn thấy ba sư huynh đệ các người hợp lực giết sư phụ, nếu tôi là Đinh đại ca thì hôm nay không cứu ông đâu, để ông chết dưới kiếm của Vạn… Vạn Chấn Sơn.

Ngôn Đạt Bình hoang mang, hỏi:

– Vậy thì ông là ai?

Địch Vân nói:

– Ồng không cần biết tôi là ai. Muốn người ta không biết, trừ phi mình đừng làm (nhược yếu nhân bất tri, trừ phi kỷ mạc vi). Các người hợp lực giết sư phụ, cướp được “Liên thành kiếm phổ” rồi, về sau ra sao?

Ngôn Đạt Bình run giọng, nói:

– Việc gì ông cũng biết rồi, hà tất phải hỏi tôi.

Địch Vân nói:

– Có điều tôi biết, cũng có một số điều tôi chưa biết. Ông hãy nói thật đi, nếu có điều giả dối, tôi vẫn có thể điều tra ra.

Ngôn Đạt Bình lại giật mình kinh hãi, nói:

– Tôi làm sao dám lừa ân công? Ba sư huynh đệ chúng tôi sau khi lấy được “Liên thành kiếm phổ”, tra cứu ngay, mới phát hiện là chỉ có kiếm phổ, không có kiếm quyết, vẫn là vô dụng, bèn tiếp tục truy tìm kiếm quyết…

Địch Vân nghĩ bụng: “Đinh đại ca nói rằng kiếm quyết này có liên quan đến một kho báu lớn. Nay Mai Niệm Sinh, Lăng tiểu thư, Đinh đại ca đều đã qua đời, trên đời này không còn ai biết kiếm quyết nữa, các người có mà nằm mơ.”

Chỉ nghe thấy Ngôn Đạt Bình tiếp tục nói:

– Ba người chúng tôi nghi ngờ lẫn nhau, tối nào cũng ngủ chung một phòng, bộ kiếm phổ ấy thì khóa trong một cái hộp sắt. Chúng tôi ném chìa khóa chiếc hộp ấy xuống Trường Giang. Chiếc hộp đặt trên một cái bàn trong một gian phòng khóa kín, chiếc hộp còn bị ràng thêm ba sợi dây sắt, đầu mỗi sợi dây lại buộc vào tay mỗi người, chỉ cần một người động đậy thì hai người kia đều tỉnh giấc.

Địch Vân thở dài nói:

– Phòng bị thật là chắc chắn.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Nào ngờ vẫn sinh chuyện.

Địch Vân hỏi:

– Lại xảy ra chuyện gì nữa?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Một đêm ba người chúng tôi ngủ trong phòng, buổi sớm hôm sau, Vạn Chấn Sơn bỗng la lên: “Kiếm phổ đâu? Kiếm phổ đâu?”. Tôi giật mình nhảy lên, chỉ thấy cái hộp bị mở, kiếm phổ trong hộp đã không cánh mà bay. Ba người chúng tôi kinh hoàng, ra sức truy tìm nhưng làm sao mà tìm được? Việc này thật là kỳ quái, cửa phòng bên trong vẫn khóa không suy suyển gì, vì thế kiếm phổ chắc chắn không phải do người ngoài lấy trộm, không phải là Vạn sư ca thì Thích sư đệ đã hạ thủ.

Địch Vân nói:

– Nếu là như thế, sao không mở cửa sổ, giả làm như người ngoài đến lấy trộm?

Ngôn Đạt Bình thở dài nói:

– Tay chúng tôi đều buộc chặt vào sợi dây sắt, lặng lẽ ngồi dậy tháo dây sắt, mở hộp, thì còn có thể được. Muốn bước xa một chút đề mở cửa sổ thì sợi dây sắt đâu có đủ dài.

Địch Vân nói:

– À ra thế. Vậy các ông làm thế nào?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Có được kiếm phổ đâu phải dễ, chúng tôi đương nhiên không chịu thôi. Ba người trách lẫn nhau, cãi cọ một trận, nhưng ai cũng không đưa ra được chứng cứ gì, đành chia tay đi tìm…

Địch Vân nói:

– Có một việc tôi nghĩ không ra, muốn thỉnh giáo. Sư phụ của các ông đã có bộ kiếm phổ ấy, sớm muộn gì cũng truyền cho các ông, lẽ nào ông ta định mang nó vào quan tài? Cớ gì lại phải hạ độc thủ như thế? Cớ sao phải giết sư phụ để đoạt kiếm phổ?

Ngôn Đạt Bình hậm hực nói:

– Sư phụ tôi, sư phụ tôi, ôi, ông ấy, ông ấy… ông ấy thật là hồ đồ. Ồng ấy cho rằng ba sư huynh đệ chúng tôi tâm thuật bất chính, thủy chung không truyền cho chúng tôi kiếm pháp của kiếm phổ ấy, xem ra ông ấy định tìm truyền nhân khác, thậm chí muốn truyền võ công bản môn cho người ngoài, ba người chúng tôi không thể nhịn được, chẳng biết làm sao, nên mới… nên mới ra tay.

Địch Vân nói:

– Thì ra như thế. Xem ra sư phụ của các ông nhận định cũng không sai. Vì sao về sau ông lại đoán là kiếm phổ ở trong tay Thích sư đệ?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Tôi vốn nghi Vạn Chấn Sơn lấy trộm, y là người đầu tiên mở miệng kêu lên, vừa ăn cướp vừa la làng mà, rất đáng ngờ. Tôi ngầm theo dõi y, không lâu sau, thì biết là không phải. Bởi vì y lại theo dõi Thích sư đệ. Kiếm phổ nếu ở trong tay Vạn Chấn Sơn thì y cần gì phải theo dõi người khác, chắc là trốn đến nơi thôn cùng xóm vắng hoặc là thâm sơn cùng cốc nào đó để luyện. Nhưng mỗi lần tôi ngầm thấy y chỉ thấy y nghiến răng nghiến lợi, vẻ mặt hết sức nóng nảy tức giận, thế là tôi chuyển sang theo dõi Thích Trường Phát.

Địch Vân hỏi:

– Đã tìm ra manh mối gì chưa?

Ngôn Đạt Bình lắc đầu:

– Lão Thích Trường Phát này lòng dạ sâu độc lắm, không hề để lộ một chút dấu vết nào. Tôi đã từng nhìn trộm y dạy đồ đệ và con gái luyện kiếm, y cố ý giả ngốc, lại còn đem “Đường thi kiếm pháp” gọi trại ra cái rắm chó gì đó, thật khiến người ta phải tức cười. Nhưng y càng giả bộ, tôi càng biết chắc là y hoàn toàn không để lộ chút sơ hở nào. Khi y đi ra ngoài, tôi đã từng mấy lần lẻn vào nhà y lục lọi, nhưng đừng nói là “Liên thành kiếm phổ”, ngay đến một cuốn sách tầm thường nhất cũng không có. Hi hi! Vị sư đệ này tâm cơ thật là sâu sắc, bản lĩnh thật kinh người!

Địch Vân lại hỏi:

– Về sau thế nào?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Về sau à, Vạn Chấn Sơn bỗng tổ chức lễ mừng thọ, sai một đứa đệ tử đến mời Thích Trường Phát đến Kinh Châu uống rượu mừng. Mừng thọ đương nhiên là giả, điều tra hư thực của sư đệ, mới là thật. Thích Trường Phát dẫn con gái, lại còn có thêm một đứa đệ tử khờ khạo tên là Địch Vân gì gì đó đến Kinh Châu. Trong tiệc rượu, Địch Vân đánh nhau với tám tên đệ tử nhà họ Vạn, để lộ ra ba chiêu kiếm thuật tinh diệu làm Vạn Chấn Sơn nghi ngờ… Ân công, ông bảo sao?

Địch Vân rầu rĩ lắc đầu. Ngôn Đạt Bình nói tiếp:

– Thế là Vạn Chấn Sơn mời Thích Trường Phát vào thư phòng đàm luận, hai người trở mặt cãi nhau. Thích Trường Phát ra tay đâm Vạn Chấn Sơn bị thương, từ đó không biết tung tích y nữa. Kỳ lạ, thật kỳ lạ, kỳ lạ quá đi.

Địch Vân hỏi:

– Kỳ lạ cái gì?

Ngôn Đạt Bình nói:

– Thích Trường Phát từ đó mất tăm mất tích, không biết nấp náu ở đâu. Khi Thích Trường Phát đi Kinh Châu, chắc chắn không đem theo bộ kiếm phổ trộm được bên mình. Nhất định là chôn ở một nơi kín đáo nào đó trong nhà. Tôi vốn đoán y sau khi đâm bị thương Vạn Chấn Sơn nhất định là luôn đêm chạy về đây, lấy kiếm phổ rồi xa chạy cao bay, cho nên sau khi xảy ra sự cố tôi lập tức kiếm ngựa, tốc thẳng tới đây chờ, xem y giấu kiếm phổ ở đâu để tiện thừa cơ hạ thủ, nhưng đông chờ tây đợi y vẫn không xuất hiện. Mấy năm trôi qua, xem ra y vĩnh viễn không trở về nữa. Tôi bèn không khách sáo nữa, ra tay một trận, đào bới nhà cũ của y để tìm kiếm phổ. Nhưng mất bao tâm huyết mà chẳng có kết quả gì. Nếu không được ân công ra tay cứu giúp thì hôm nay đến cả cái mạng của họ Ngôn này cũng tiêu luôn. Hi hi, Vạn sư ca của tôi ra tay cũng cay thật.

Địch Vân trầm ngâm một lúc rồi lại hỏi:

– Vậy theo ông, Thích sư đệ của ông bây giờ đang ở đâu?

Ngôn Đạt Bình lắc đầu nói:

– Điều ấy thì tôi đoán không ra, có lẽ “lưới trời lồng lộng thưa mà không lọt”, bị bệnh chết ở đâu đó rồi chăng, hay là gặp chuyện bất trắc bị sài lang hổ báo ăn thịt mất rồi cũng chưa biết chừng…

Địch Vân thấy nét mặt lão đầy vẻ “hạnh tai lạc họa” (vui sướng trước tai họa của người khác), trong lòng càng ghét, nhưng lại nghĩ: “Sư phụ hoàn toàn không có tin tức gì, e đã gặp bất hạnh.” Bèn đứng dậy nói:

– Đa tạ ông đã không giấu giếm, tại hạ xin cáo biệt.

Ngôn Đạt Bình cung cung kính kính vái ba vái, nói:

– Đại ân đại dức của ân công, Ngôn Đạt Bình này mãi mãi không dám quên.

Địch Vân nói:

– Việc nhỏ, bất tất lưu tâm. Huống nữa… huống nữa trước kia ông đã… ông ở đây dưỡng thương, lão Vạn Chấn Sơn kia chắc chắn không tìm được ông đâu, cứ yên tâm đi.

Ngôn Đạt Bình cười nói:

– Lúc này chắc lão đang lo sốt vó như kiến bò trên chảo nóng, chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến việc tìm tôi.

Địch Vân lấy làm lạ hỏi:

– Vì sao?

Ngôn Đạt Bình mỉm cười:

– Con rết độc của tôi đã cắn vào tay con trai lão, tất phải liên tục bôi thuốc mười lần mới có thể trừ hết độc tính. Chỉ bôi một lần, ăn thua gì?

Địch Vân hơi rùng mình, nói:

– Vậy thì tính mạng của Vạn Khuê không giữ được sao?

Ngôn Đạt Bình đắc ý:

– Loại rết độc đốm hoa này thật là ghê gớm, là loại đặc biệt từ Hồi Cương Tây Vực truyền vào, cái hay là ở chỗ Vạn Khuê không chết ngay tức khắc, mà hắn phải kêu gào rên rỉ ròng rã một tháng rồi mới đi đời. Ha ha, hay lắm, diệu cực!

Địch Vân nói:

– Phải một tháng mới chết, điều ấy không hề gì, hắn đi mời lương y thì vẫn có cách giải độc.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Ân công không biết đâu. Loại rết độc là tự tôi nuôi lớn lên, từ khi nó còn nhở tôi đã cho ăn các loại thuốc giải, rết đã quen với dược tính của thuốc giải, dùng thuốc giải bình thường hoàn toàn không có hiệu quả, dù cho thầy thuốc có y đạo cao minh đến đâu cũng chỉ dùng những thuốc giải độc bình thường, hỏi có tác dụng gì cơ chứ. Chỉ có một loại giải dược độc môn mà rết này chưa từng ăn qua thì mới có tác dụng. Trên đời này ngoài tôi ra không có người thứ hai nào biết phối chế thứ giải dược này. Ha ha, ha ha!

Địch Vân liếc nhìn lão, nghĩ bụng: “Con người này lòng dạ độc ác như thế, thật là đáng sợ! Lần sau e mình lại bị rết độc này can mất. Đinh đại ca thường nói: “Đi lại trên chốn giang hồ, lòng hại người không nên có, ý đề phòng người không nên không có.” Hay là hỏi lão một ít giải dược mang sẵn bên mình, như thế gọi là có đề phòng thì không mắc họa.” Chàng bèn nói với Ngôn Đạt Bình:

– Bình giải dược ấy của ông, cho tôi đi!

Ngôn Đạt Bình nói:

– Vâng, vâng!

Nhưng lại không lấy ra ngay, còn hỏi:

– Ân công cần thuốc giải, không biết dùng đề làm gì?

Địch Vân nói:

– Rết độc của ông hết sức lợi hại, biết đâu có lúc tôi không cẩn thận mà gặp phải, có một bình thuốc giải bên mình thì yên tâm hơn.

Nét mặt Ngôn Đạt Bình có vẻ bối rối, cười nhăn nhở lấy lòng:

– Ân công có ơn cứu mạng, tiểu nhân đâu dám gia hại? Ân công đa nghi rồi.

Địch Vân đưa tay ra, nói:

– Có phòng bị mà không dùng, mang theo bên mình cũng có hại gì đâu.

Ngôn Đạt Bình nói:

– Vâng, vâng!

Đành lấy bình thuốc giải ra, đưa cho Địch Vân.

* * *

Địch Vân xuống núi, lại về tòa nhà lớn quan sát, chỉ thấy trong nhà đám dân quê đã đi hết, quản gia và gia nhân cũng không rõ đã đi đâu, hoàn toàn vắng vẻ, không một bóng người.

Địch Vân nghĩ: “Sư phụ đã chết, sư muội đã lấy chồng, mình không bao giờ trở lại nơi này nữa.”

Ra khỏi ngôi nhà lớn, men theo bờ khe đi về hướng tây bắc. Đi được mấy chục trượng, quay đầu nhìn lại, lúc này phương đông mặt trời mới mọc, ánh dương quang chiếu lên cây dương, cây hòe trước sân, lòng khe lấp lánh, tình cảnh ấy chàng từ nhỏ đã từng quen thuộc, bất giác lại nghĩ: “Từ nay về sau, mình không bao giờ trở lại nơi này nữa.”

Chàng sửa lại cái bao trên lưng, thầm nghĩ: “Trước mắt còn có một việc bận lòng. Phải đem tro thi hài của Đinh đại ca đến hợp táng với di thể của Lăng tiểu thư. Như thế phải đi Kinh Châu một phen. Tiểu tử Vạn Khuê hại mình đến khổ, cũng là kẻ ác lại gặp kẻ ác hơn, mình cũng chẳng cần tự tay báo thù. Ngôn Đạt Bình nói hắn phải kêu la rên rỉ một tháng ròng mới chết, chẳng biết có thật không. Nếu hắn mạng to, thầy thuốc chữa được mình sẽ cho hắn một nhát kiếm, lấy cái mạng chó của hắn.”

Kể từ đêm qua nhìn Vạn Chấn Sơn và Ngôn Đạt Bình đấu kiếm, chàng mới tin vào võ công của mình.

——————————————————

Hồi 10: Đường thi tuyển tập

Tương Tây và Kinh Châu cách nhau không xa, mấy ngày sau đã đến Kinh Châu. Con đường này năm ấy chàng đã cùng sư muội theo sư phụ đi qua. Núi sông vẫn thế, con đường vẫn thế. Năm ấy trong khi đi, trên đường đầy tiếng cười của Thích Phương. Lần này, từ Ma Khê Phố đến Kinh Châu, chàng không còn nghe thấy tiếng cười. Đương nhiên có người cười nhưng chàng không nghe thấy.

Ở ngoài thành nghe ngóng, biết Lăng Thoái Tư vẫn làm tri phủ. Địch Vân mặt vẫn lấm lem bùn đất, giấu kín bộ mặt cũ, lặng lẽ vào thành.

Ý nghĩ đầu tiên là: “Mình phải tận mắt xem xem Vạn Khuê chịu khổ ra sao. Chẳng biết y đã về chưa, biết đâu còn ở Hồ Nam trị thương.”

Đến trước cửa nhà họ Vạn, xa xa thấy Thẩm Thành vội vàng từ cổng đi ra, vẻ mặt lo lắng. Địch Vân nghĩ bụng: “Thẩm Thành đã ở đây, Vạn Khuê có lẽ cũng đã về. Đến tối mình sẽ tới xem xem.” Bèn đi về phía khu vườn hoang kia.

Khu vườn hoang này cách nhà họ Vạn không xa, ngày Đinh Điển qua đời, giết Chu Kỳ, giết Cảnh Thiên Bá, giết Mã Đại Minh đều ở trong vườn này.

Lần này trở lại chốn cũ, chỉ thấy khắp nơi cỏ dại như cũ, khắp nơi gạch ngói vỡ ngổn ngang như cũ. Chàng đi đến bên gốc lão mai, vuốt ve thân cây sù sì, nghĩ bụng: “Ngày ấy Đinh đại ca qua đời dưới gốc mai già này, gốc mai vẫn như thế, không thay đổi chút nào. Mà Đinh đại ca thì xương đã thành tro.”

Chàng bèn ngồi dưới gốc mai nhắm mắt ngủ.

Ngủ đến canh hai, lấy lương khô trong túi ra ăn, rồi ra khỏi khu vườn hoang, đi về phía nhà họ Vạn, vượt tường mà vào, đến vườn hoa phía sau, bất giác trong lòng chua xót: “Ngày ấy mình bị trọng thương, nấp trong kho củi, sư muội không giúp mình, không cứu giúp mình.” Đang định bước tới bỗng thấy bên một tảng đá có ba đốm lửa leo lét.

Chàng lập tức nấp vào sau một gốc cây nhìn về phía ánh lửa. Chăm chú nhìn thì thấy ba đốm lửa ấy là ở đầu ba que hương, lư hương đặt trên một chiếc ghế nhỏ, trước ghế có hai người đang quỳ, chốc lát thì đứng dậy. Địch Vân nhìn rõ, một người là Thích Phương, còn một người nữa là một bé gái, con gái của cô, cũng tên là “Không Tâm Thái”.

Nghe thấy Thích Phương khe khẽ cầu khấn:

– Cây hương thứ nhất, cầu trời che chở cho phu quân con thoát khỏi khô nạn, giải được chất độc, đừng bị đau đớn vì độc rết. Không Tâm Thái, con nói đi, nói cầu Bồ Tát che chở cho gia gia lành bệnh.

Bé gái nói:

– Vâng, mẹ, cầu Bồ Tát che chở cho gia gia khỏi đau, không kêu la nữa.

Địch Vân đứng cách khá xa nhưng cũng nghe rõ lời mẹ con cô ta cầu khấn, biết Vạn Khuê sau khi trúng độc quả nhiên vẫn còn chịu khổ, trong lòng vừa cảm thấy một chút vui mừng, vừa giận Thích Phương đối với chồng tình nghĩa sâu nặng thế.

Lại nghe Thích Phương nói:

– Cây hương thứ hai, cầu trời che chở cho cha con được bình an, vô tai vô nạn, sớm quay về. Không Tâm Thái, con nói cầu Bồ Tát che chở cho ông ngoại sống lâu trăm tuổi.

Bé gái nói:

– Vâng, ông ngoại, ông mau mau trở về, sao ông không trở về?

Thích Phương nói:

– Cầu Bồ Tát che chở.

Bé gái nói:

– Bồ Tát che chở cho ông ngoại, che chở cả cho cha và ông nội.

Con bé chưa hề gặp Thích Trường Phát, mẹ bảo nó cầu, trong lòng nó lại chỉ nhớ ông nội và cha của mình.

Thích Phương im lặng một chút, hạ giọng nói:

– Cây hương thứ ba này, cầu trời che chở cho huynh ấy được bình an, cho huynh ấy được mọi điều như ý, cho huynh ấy sớm lấy được vợ, sớm sinh quý tử…

Nói đến đây, giọng nói bỗng nghẹn ngào, lấy tay áo lau nước mắt. Bé gái nói:

– Mẹ, mẹ lại nhớ cậu rồi.

Thích Phương nói:

– Con nói đi, cầu trời che chở cho cậu Không Tâm Thái bình an…

Khi Địch Vân nghe cô ta cầu với cây hương thứ ba đang tự lấy làm lạ: “Cô ấy đang cầu chúc cho ai?” Bỗng nghe cô nói đến bốn chữ “Cậu Không Tâm Thái”, trong tai bất giác bỗng “òa” lên một tiếng, trong lòng thầm nói: “Cô ấy đang nói về mình? Cô ấy đang nói về mình ư?”

Bé gái lại nói:

– Mẹ nhớ cậu Không Tâm Thái, cầu Bồ Tát che chở cho cậu phát tài, mua một con búp bê to cho con. Cậu là Không Tâm Thái, con cũng là Không Tâm Thái. Mẹ ơi, cậu Không Tâm Thái đi đâu thế? Sao cậu cũng không trở về?

Thích Phương nói:

– Cậu Không Tâm Thái đi đến một nơi rất xa, rất xa, cậu bỏ mẹ không hề để ý, mẹ thì lại ngày ngày nhớ cậu….

Nói đến đây, cô ôm lấy con gái, giấu mặt vào ngực con, bước nhanh vào.

Địch Vân bước đến bên lư hương, nhìn ba đốm lửa, bất giác ngẩn người.

Chàng cứ đứng ngơ ngẩn như thê, ba que hương đã cháy thành tro, chàng vẫn đứng im bất động.

* * *

Sáng sớm hôm sau, Địch Vân từ vườn sau nhà họ Vạn đi ra, đi lang thang trong thành Kinh Châu, bỗng nghe thấy tiếng “leng reng leng reng”, thì ra là một thầy thuốc rong đang đi bán thuốc. Địch Vân bỗng nảy ra một ý. Chàng muốn tận mắt nhìn thấy thảm trạng Vạn Khuê kêu la rên rỉ, thế là lấy ra mười lạng bạc, mua hết y phục, hòm thuốc của ông ta. Ông thầy thuốc lấy làm lạ, tất cả những thứ ấy đâu có quý giá gì, tối đa cũng chỉ ba bốn lạng, bèn vui vẻ bán cho chàng.

Địch Vân vào vườn hoang, thay bộ y phục thầy thuốc vào, lấy thảo dược giã ra, bôi nước thuốc lên mặt, lại bôi một đám cao lên dưới mắt trái, làm cho mặt mũi khác hẳn, rồi lắc lắc cái chuông, đi đến trước nhà họ Vạn.

Sắp đến trước cổng, chàng liền lắc cái chuông “leng reng leng reng” kêu vang lên, khi đến gần lại lên giọng ê a rao:

– Chuyên chữa các chứng nan y đê… ây, nhọt độc không tên, vết thương do trùng độc rắn độc cắn, tức khắc công hiệu đây!

Đi đi lại lại như thế ba lần, đã thấy một người vội vội vàng vàng chạy ra, vẫy tay nói:

– Ê, thầy lang, ông tới đây, tới đây.

Địch Vân nhận ra y là đệ tử Vạn môn, chính là Ngô Khảm, kẻ năm ấy đã chém đứt năm ngón tay của chàng. Nhưng Địch Vân lúc này đã cải trang, diện mạo hoàn toàn khác, Ngô Khảm tất nhiên không thể nhận ra chàng. Địch Vân sợ y nhận ra giọng nói của mình, càng làm khàn giọng đi, nói:

– Cậu chủ bảo sao? Nhưng trên người có chứng trạng gì nan y, bị ung nhọt lạ phải không?

Ngô Khảm “phì” một tiếng, nói:

– Ông nhìn tôi có vẻ bị ung nhọt gì không? Ê, tôi hỏi ông, bị rết cắn, ông có chữa được không?

Địch Vân nói:

– Thanh trúc xà, xích luyện xà, kim tước đới, thiết sản đầu… người bị những loại rắn độc trong thiên hạ cắn tại hạ đều chữa được, thuốc đến là lành ngay. Rết cắn à? Hi hi, có đáng kể gì.

Ngô Khảm nói:

– Ông chớ khoe khoang, loại rết này chẳng phải tầm thường. Các danh y trong thành Kinh Châu trông thấy đều lắc đầu, ông lại có thể chữa được à?

Địch Vân chau mày nói:

– Ghê gớm thế cơ à? Rết trong thiên hạ chẳng qua cũng chỉ có mấy chục loại như rết lông xám, rết đen trắng, rết kim tiền, rết ma đầu, rết đuôi đỏ, rết rơi xuống đất cắn, rết chân trắng…

Chàng cứ thuận miệng nói bừa, nói liền hơn hai mươi loại rết, rồi mới nói:

– Mỗi loại rết độc tính mỗi khác, mỗi loại đều có cách trị riêng, mới gọi là danh y. Nếu không có bản lĩnh thực sự thì chưa chắc hiểu được thấu đáo.

Ngô Khảm thấy thầy lang xấu xí, áo quần lam lũ, tuy kể tên nhiều loại rết nhưng lắp ba lắp bắp, giọng nói không rõ đoán là cũng chả có bản lĩnh gì, bèn nói:

– Đã thế, ông cứ vào xem xem.

Địch Vân gật gật đầu, theo y vào phủ họ Vạn.

Chàng mới bước vào cửa lập tức nhớ lại cảnh năm xưa cùng sư phụ và sư muội đến chúc thọ, lúc ấy là anh chàng nhà quê ra tỉnh, thấy cái gì cũng mới lạ, cùng với sư muội cứ ngó đông trông tây, chỉ chỉ chỏ chỏ, hôm nay trở lại, cửa nhà như cũ nhưng trong lòng chỉ cảm thấy chua xót. Chàng theo Ngô Khảm đi qua hai khu vực thiên tỉnh, đến trước lầu phía đông.

Ngô Khảm ngẩng đầu, lớn tiếng gọi:

– Tam sư tẩu, có một vị lang trung ông ấy bảo trị được rết độc, có cần ông ấy đến xem cho sư ca không?

“Két” một tiếng, cửa sổ trên lầu mở ra, Thích Phương thò đầu ra ngoài cửa sổ, nói:

– Được, đa tạ Ngô sư đệ, sư ca của đệ hôm nay đau ghê gớm, mời tiên sinh lên lầu.

Ngô Khảm nói với Địch Vân:

– Ông lên đi.

Còn mình thì không lên theo.

Thích Phương nói:

– Ngô sư đệ, mời đệ cũng lên đi, giúp thầy thuốc xem bệnh.

Ngô Khảm đáp:

– Vâng!

Rồi mới theo bước lên lầu.

Địch Vân lên lầu, thấy một chiếc án thư lớn đặt ở giữa phòng, trên bàn có giấy, bút, nghiên mực và khoảng mươi quyển sách, lại còn một chiếc áo trẻ con đang may dở. Thích Phương từ phòng trong bước ra đón, mặt không son phấn, dung nhan tiều tụy. Địch Vân chỉ nhìn cô một cái, sợ cô nhận ra mình nên không dám nhìn lâu, liền bước vào phòng. Thấy một người đang ngủ trên một chiếc giường lớn, không ngừng rên rỉ, chính là Vạn Khuê. Con gái của y ngồi trên một chiếc ghế nhỏ trước giường, đang nhè nhẹ đấm chân cho cha. Nó thấy vẻ mặt cổ quái bẩn thỉu của Địch Vân, sợ hãi hét lên một tiếng, vội nấp vào sau mẹ.

Ngô Khảm nói:

– Sư ca của tôi bị rết độc cắn, chất độc không tiêu.

Địch Vân nói:

– Ờ, thế à?

Khi ở bên ngoài chàng nói chuyện với Ngô Khảm một cách thoải mái tự nhiên, lúc này gặp Thích Phương, trái tim cứ đập loạn lên, cảm thấy hai má nóng ran, môi khô lưỡi đắng, không nói được gì nữa. Chàng bước đến trước giường, vỗ vỗ lên vai Vạn Khuê.

Vạn Khuê chầm chậm trở mình, mở mắt ra nhìn Địch Vân, bỗng cảm thấy hơi sờ sợ. Thích Phương nói:

– Tam ca, vị này là thầy thuốc do Ngô sư đệ mời đến. Ông ta… ông ta có lẽ… có lẽ có linh dược trị được vết thương của huynh.

Trong giọng nói của cô có vẻ không tin tưởng chút nào.

Địch Vân không nói một lời, xem đi xem lại bàn tay sưng vù của Vạn Khuê, thấy mu bàn tay đen sậm, trông rất dễ sợ, bèn lấy giọng khàn khàn nói:

– Đây là loại rết độc đốm hoa ở vùng Nguyên Lăng Tương Tây cắn đây, ở Hồ Bắc ta không có loại rết này.

Thích Phương và Ngô Khảm cùng nói:

– Phải, phải, chính là bị cắn ở Nguyên Lăng Tương Tây.

Thích Phương lại nói:

– Tiên sinh đã nhận ra lai lịch của loại rết này, chắc là có thể chữa được chứ? Giọng nói đầy hy vọng.

Địch Vân bấm đốt ngón tay tính ngày, nói:

– Đây là bị cắn vào buổi tối, đến nay… ầy, đã bảy ngày bảy đêm rồi.

Thích Phương nhìn Ngô Khảm một cái, nói:

– Tiên sinh quả là liệu việc như thần, đúng là bị cắn vào buổi tối, đến nay đã bảy ngày bảy đêm.

Địch Vân lại nói:

– Ông chủ trẻ này có phải là đã trở tay đánh chết con rết không? Nếu không như thế thì còn có thể cứu được. Nay đã đánh chết con rết trên mu bàn tay, chất độc ngấm hết cả vào tay, muốn giải cứu thì thật là… vô cùng khó.

Thích Phương nghe thấy đến cả thời gian cũng tính cực chuẩn cho rằng chắc chắn trị được mặt đã có vẻ mừng, đến khi nghe nói vậy lại lo lắng, nói:

– Tiên sinh đã hiểu rõ như thế, vô luận thế nào, cũng xin tiên sinh cứu cho tính mạng của huynh ấy.

Địch Vân chuyến này đóng vai lương y đến nhà họ Vạn vốn là muốn tận mắt nhìn thấy tình cảnh thống khổ thê thảm rên rỉ cho đến chết của Vạn Khuê, cho hả nỗi oán hận bấy lâu, còn như cái ý cứu y tất nhiên là không hề có. Nhưng chàng từ nhỏ luôn chiều ý Thích Phương, chưa từng làm cô phật lòng, nay thấy cô lo sợ khẩn cầu như thế, lòng bỗng mềm đi, đã muốn mở hòm thuốc lấy bình thuốc giải của Ngôn Đạt Bình, nhưng lại thay đổi ý nghĩ: “Thằng Vạn Khuê này hại mình đến khốn khổ, lại cướp sư muội của mình, mình không tự tay giết hắn đã là khách khí lắm rồi, sao lại còn cứu mạng hắn?” Bèn lắc đầu nói:

– Không phải là tôi không chịu cứu, thực sự là cậu chủ trúng độc quá sâu, lại đề lâu ngày, chất độc vào não, không cứu được nữa rồi.

Thích Phương rơi nước mắt, kéo tay con gái, nói:

– Không Tâm Thái, Bảo Bảo, con khấu đầu lạy vị bá bá này, xin bá bá cứu mạng cha đi.

Địch Vân vội vàng xua tay:

– Không, đừng lạy…

Nhưng con bé rất ngoan, luôn nghe lời mẹ, lại biết phụ thân bị trọng thương, trong lòng cũng rất lo lắng, liền quỳ xuống đất, rập đầu lạy chàng. Địch Vân đã mất năm ngón tay phải, cứ giấu ở trong tay áo, liền đưa tay trái ra, đỡ con bé dậy. Khi con bé đứng dậy, chàng bỗng thấy từ trên cổ nó thòng xuống một cái khóa vàng, trên mặt khóa đúc bốn chữ “Đức dung song mậu”.

Địch Vân nhìn thấy, ngẩn người, nhớ lại ngày ấy mình bị ngất đi trong kho chứa củi nhà họ Vạn, khi tỉnh dậy đã thấy mình nằm trong một con thuyền nhỏ trôi trên sông Trường Giang, bên mình có một gói vàng bạc và nữ trang, trong đó có một chiếc khóa vàng của trẻ con, trên mặt cũng đúc bốn chữ này, có phải là… có phải là…

Chàng chỉ nhìn một cái, không dám nhìn thêm lần nữa, trong óc rối bời, rốt cuộc đã hiểu rõ: “Mình bị ngất đi trong kho củi nhà họ Vạn, nếu không phải là sư muội cứu, thì còn có ai vào đó nữa? Trước kia mình cứ nghi cô ấy có ý hại mình, nhưng đêm qua… đêm qua cô ấy cầu trời, thổ lộ tâm sự, cô ấy đối với mình tình sâu như thế, thì ngày ấy chắc chắn là không hại mình. Lẽ nào, lẽ nào ông trời có mắt, mình với sư muội trải qua bao phen khổ nạn lại có thể đoàn tụ?”

Chàng nghĩ đến đó, trái tim lại đập rộn lên, nghiêng đầu nhìn Thích Phương, thấy vẻ mặt cô đầy vẻ lo âu tha thiết, mắt đăm đăm nhìn vào Vạn Khuê, ánh mắt đầy thương yêu.

Địch Vân thấy ánh mắt của cô, trái tim lập tức lặng đi, sống lưng ớn lạnh. Chàng nhớ rất rõ, ngày ấy chàng đấu với tám đệ tử nhà họ Vạn, bị tám tên kia liên thủ đánh cho mặt mũi sưng vù, sư muội đã vá áo cho chàng, trong ánh mắt cũng đầy tình thương yêu như thế. Còn bây giờ sóng mắt cô đã dành cho chồng chứ không còn dành cho chàng nữa.

“Nếu như mình không cho thuốc giải thì cũng không ai trách mình được. Đợi Vạn Khuê chết rồi, một đêm nào đó mình lặng lẽ đến đưa sư muội đi, ai có thể ngăn cản được mình? Mình sẽ không nhắc đến chuyện cũ, cùng với cô ấy… lại làm vợ chồng. Còn đứa con gái, mình đưa đi luôn với cô ấy. Ôi, không được, không được! Sư muội mấy năm nay ở nhà họ Vạn làm thiếu phu nhân, thoải mái sung sướng quen rồi, làm sao lại có thể theo mình cày ruộng chăn bò? Huống nữa mình tướng mạo xấu xí, biết được vài trăm chữ, tay lại tàn phế, làm sao xứng với cô ấy? Cô ấy làm sao chịu đi theo mình?” Thế là chàng lại tự coi rẻ mình, thấy xấu hổ, cúi đầu xuống.

Thích Phương nào có biết trong lòng ông lang đang quay cuồng bao nhiêu ý nghĩ, chỉ ngơ ngác nhìn chàng, chỉ mong chàng thốt ra hai chữ “Cứu được!”

Vạn Khuê tiếng dài tiếng ngắn rên rỉ, lúc này độc rết đã vào đến khớp hố nách, cả cánh tay và bàn tay đều sưng vù lên, đau đớn không chịu nối.

Thích Phương đợi một hồi lâu, không nghe Địch Vân nói năng gì, lại cầu xin:

– Tiên sinh, xin tiên sinh thử một chút, chỉ cần… chỉ cần giảm nhẹ một chút… đau đớn, cũng không thể… không thể trách được tiên sinh.

Ý cô muốn nói dẫu không giữ được tính mạng của Vạn Khuê thì cũng xin tiên sinh cho chút thuốc giảm đau, dẫu không thoát chết cũng đỡ khổ sở đến thế!

Địch Vân “ủa” một tiếng, từ trong trầm tư chợt tỉnh, trong lòng trống rỗng, tắt ngấm mọi hy vọng, hận không thể chết ngay tức khắc. Chàng hết lòng yêu sư muội, nhưng cô đã lấy kẻ đại thù của chàng, lại còn khổ sở khẩn cầu chàng cứu kẻ thù. “Mình thà như thằng Vạn Khuê này, phải chịu đau đớn khổ sở mà được su muội thương yêu, dù chỉ được sống mấy ngày nữa cũng có hề gì.” Chàng khẽ thở dài một tiếng, mở hòm thuốc, lấy bình thuốc giải của Ngôn Đạt Bình, đổ ra một ít thuốc bột đen, rắc lên mu bàn tay Vạn Khuê.

Ngô Khảm kêu lên:

– Ái chà… chính… chính là thứ thuốc giải này, thế… thế là có thể cứu được rồi.

Địch Vân nghe thấy giọng y có vẻ khác lạ, đáng ra khi nói năm chữ “có thể cứu được rồi” y vui mừng mới phải, nhưng giọng y lại có vẻ thất vọng dị thường, lại còn có vẻ buồn phiền tức giận.

Địch Vân rất lấy làm lạ, nghiêng đầu nhìn y một cái, chỉ thấy trong mắt y lóe hung quang ác độc.

Địch Vân càng cảm thấy kỳ lạ, chỉ nghĩ rằng trong tám đệ tử Vạn môn không được một người tốt.

Vạn Chấn Sơn, Ngôn Đạt Bình đồng môn mà tàn sát lẫn nhau, giao tình giữa Vạn Khuê và Ngô Khảm cũng chắc gì đã tốt hơn, nhưng không hiểu vì sao y lại đi mời thầy thuốc đến xem bệnh cho Vạn Khuê.

Mu bàn tay của Vạn Khuê vừa được bôi thuốc, trong vết thương đã chảy ra máu đen, nỗi đau đớn giảm dần, y nói:

– Đa tạ tiên sinh, thuốc giải này tốt quá.

Thích Phương mừng rỡ, lấy một cái chậu đồng hứng máu, chỉ thấy “tách, tách, tách” từng giọt từng giọt máu chảy vào chậu. Thích Phương luôn miệng cảm tạ.

Ngô Khảm nói:

– Tam sư tẩu, tiểu đệ có công rồi nhé.

Thích Phương nói:

– Phải, phải đa tạ Ngô sư đệ mới được.

Ngô Khảm cười, nói:

– Nói suông mấy tiếng cảm ơn đâu có được!

Thích Phương không để ý đến y nữa, nói với Địch Vân:

– Xin hỏi quý tính của tiên sinh? Chúng tôi xin được hậu tạ.

Địch Vân lắc đầu nói:

– Không cần phải tạ ơn, loại rết độc này cần phải bôi thuốc mười lần mới giải trừ hết.

Trong lòng cảm thấy chua xót, chỉ cảm thấy mọi sự trên đời đều là khổ, nói:

– Tặng hết cho các vị.

Rồi giao cả bình thuốc giải.

Thích Phương không ngờ lại dễ dàng đến thế, nhất thời không dám nhận, nói:

– Chúng tôi xin mua, không biết bao nhiêu tiền!

Địch Vân lắc đầu:

– Tặng các vị, không cần tiền.

Thích Phương cả mừng, hai tay nhận lấy, cúi mình chúc lời vạn phúc, vô cùng biết ơn, nói:

– Tiên sinh trượng nghĩa như thế, thật không biết phải tạ ơn thế nào cho được. Ngô sư đệ, đệ hãy mời tiên sinh xuống lầu ngồi lại một chút.

Địch Vân nói:

– Không ngồi đâu, xin cáo từ.

Thích Phương nói:

– Không, không, đại ân cứu mạng của tiên sinh, chúng tôi không biết báo đáp bằng cách nào, một chén rượu nhạt, dù sao cũng phải kính mời tiên sinh. Tiên sinh đừng đi!

“Tiên sinh đừng đi!” Bốn tiếng ấy lọt vào tai Địch Vân, trái tim chàng lập tức mềm đi, nghĩ ngợi: “Mối thù này mình không báo được rồi. Sau khi an táng Đinh đại ca, mình sẽ không trở lại thành Kinh Châu nữa. Kiếp này, thế là không gặp lại sư muội nữa. Cô ấy muốn mời mình một chén rượu, ôi, được nhìn cô ấy thêm lần nữa cũng tốt rồi.” Bèn gật đầu.

* * *

Tiệc rượu được bày biện trong phòng khách nhỏ dưới lầu. Địch Vân ngồi giữa, Ngô Khảm bồi tiếp. Thích Phương vô cùng cảm kích ân đức của vị thầy thuốc này, thân tự tiếp thức ăn. Trong Vạn phủ, Vạn Chấn Sơn không ở nhà, mấy tên đệ tử khác cũng không đến dự tiệc.

Thích Phương cung cung kính kính mời ba chén rượu. Địch Vân nhận lấy, đều uống cạn, lòng xót xa, nước mắt ngập tròng, biết rằng không thể nào chịu đựng được nữa, nếu ngồi thêm một lúc, e sẽ lộ tung tích, bèn đứng dậy, nói:

– Rượu đủ rồi, tôi phải đi đây! Từ nay về sau không trở lại nữa!

Thích Phương nghe nói năng lộn xộn, nhưng vị lang trung này hết sức cổ quái nên cô cũng không lấy làm điều, nói:

– Tiên sinh, đại ân đại đức, chúng tôi không có cách nào báo đáp được, đây là một trăm lạng bạc để tiên sinh uống rượu.

Nói rồi hai tay bưng đến một bao bạc.

Địch Vân quay đầu, ngẩng mặt lên trời ha ha cười lớn:

– Là ta cứu sống y, là ta cứu sống y, ha ha, ha ha! Thật tức cười! Thiên hạ còn có kẻ nào ngốc như ta nữa không?

Chàng cất tiếng cười vang, trên hai má ròng ròng hai dòng nước mắt.

Thích Phương và Ngô Khảm thấy chàng như cuồng như điên, bất giác nhìn nhau ngạc nhiên.

Không Tâm Thái lại nói:

– Bá bá khóc rồi, bác ấy khóc rồi!

Địch Vân giật mình, sợ lộ, không dám nói chuyện với Thích Phương nữa, nghĩ bụng: “Từ nay về sau, huynh không còn gặp muội nữa.” Bèn thò tay vào trong lòng, rút tập thơ kẹp mẫu đế giày mà mình đã lấy trong hang đá ở Nguyên Lăng ra, kẹp trong tay áo, rồi từ trong tay áo nhè nhẹ cho “trôi” xuống chiếc ghế, không dám nhìn Thích Phương cũng không dám ngoái đầu lại, bước ra.

Thích Phương nói:

– Ngô sư đệ, đệ tiễn tiên sinh giùm tôi.

Ngô Khảm nói:

– Được!

Rồi bước ra theo.

Thích Phương trong tay vẫn bưng gói bạc, tim đập thình thịch: “Vị tiên sinh này rốt cuộc là người nào? Tiếng cười của ông ta sao lại giống người ấy? Ôi, mình sao thế này? Mấy ngày nay, vết thương của tam ca nặng thế, lòng mình lại cứ ngơ ngẩn nhớ tới huynh ấy… huynh ấy… huynh ấy…” Rồi thuận tay đặt gói bạc lên bàn, chống tay ngồi xuống ghế.

Cái ghế này Địch Vân vừa ngồi, Thích Phương cảm thấy mặt ghế có vật gì, vội đứng dậy, thấy có một cuốn sách cũ màu vàng vàng, ngoài bìa đề bốn chữ “Đường thi tuyển tập.”

Cô khẽ kêu lên một tiếng, đưa tay cầm lấy, tiện tay giở ra, từ trong sách rơi ra một tờ mẫu đế giày, chính là do mình cắt ở nhà cũ tại Tương Tây dạo trước. Cô há miệng ra, hai tay run bần bật, lại giở mấy trang nữa, thấy một đôi bướm giấy làm mẫu thêu. Ngày ấy cùng Địch Vân sánh vai ngồi trong hang núi, cắt đôi bướm này… cảnh thấy vụt qua trong đầu. Cô không nén được, buột miệng “a” lên một tiếng, trong lòng thầm hỏi: “Quyển… quyển sách này từ… từ đâu đến? Là… là ai đem đến? Lẽ nào lại là vị thầy lang kia?”

Bé gái thấy vẻ mặt mẹ khác lạ, kinh hoảng kêu lên:

– Mẹ, mẹ… làm sao thế?

Thích Phương ngẩn ra một lúc, cầm lấy cuốn sách nhét vào trong áo, chạy như bay xuống, lao thẳng ra ngoài cửa. Từ khi cô làm dâu nhà họ Vạn đến nay luôn giữ gìn ý tứ, chưa từng có chuyện chạy xồng xộc như thế này. Đám đầy tớ nhà họ Vạn bỗng thấy mợ chủ triển khai khinh công lao ra, thảy đều kinh ngạc.

Thích Phương chạy đến tiền sảnh, gặp Ngô Khảm từ ngoài cửa đi vào, vội hỏi:

– Vị lang trung kia đâu rồi?

Ngô Khảm nói:

– Người này thật là cổ quái, không nói một lời nào mà đi. Tam sư tẩu, sư tẩu tìm ông ta làm gì? vết thương của sư ca lại tấy lên à?

Thích Phương nói:

– Không, không!

Vội bước ra cổng, trông bốn phía, đã không thấy tung tích vị thầy thuốc đâu nữa.

Cô đứng ngẩn ngơ trước công một lúc, thò tay lấy cuốn sách cũ ra, giở giở, mỗi khi nhìn thấy tờ mẫu giày, tờ mẫu thêu, những hình ảnh hoan lạc thời niên thiếu lại xao động như sóng trong lòng, nước mắt trào ra.

Cô bỗng nghĩ lại: “Sao mình ngốc thế, công công[1] và tam sư ca gần đây đến Tương Tây gặp Ngôn sư thúc, biết đâu chẳng tình cờ vào trong hang núi, tiện tay nhặt lấy quyển sách này về. Vị lang trung kia thì có quan hệ gì với cuốn sách này?” Nhưng rồi lại nghĩ: “Không, không! Làm gì có chuyện tình cờ như thế, cái hang núi ấy cực kỳ kín đáo, đến gia gia cũng không biết, trên đời này ngoài mình ra, thì chỉ có sư ca… sư ca biết nữa mà thôi, công công và tam ca làm sao mà tìm được? Họ đi tìm Ngôn sư thúc, vào trong hang núi làm gì? Mới rồi, mình bày tiệc rượu, rõ ràng là đã lau cái ghế, đâu có quyển sách nào? Quyển sách này nếu không do vị lang trung kia đem đến thì từ đâu ra?”

Lòng đầy nghi hoặc, cô chầm chậm bước vào phòng, thấy Vạn Khuê sau khi bôi thuốc, tinh thần đã khá hơn nhiều. Cô cầm quyển sách trong tay, định hỏi chồng nhưng lại đổi ý: “Hãy khoan lỗ mãng, nếu vị lang trung kia… vị lang trung kia…”

Vạn Khuê nói:

– Phương muội, vị lang trung ấy thật là ân nhân cứu mạng của huynh, phải hậu tạ ông ấy mới được.

Thích Phương nói:

– Vâng ạ, muội biếu ông ta một trăm lạng bạc, ông ta lại không chịu nhận, thật là một dị nhân giang hồ. Bình thuốc ấy… ôi, bình thuốc đâu rồi? Huynh cất đi rồi à?

Sau khi vị lang trung đưa bình thuốc giải cho cô, cô đã để trên chiếc bàn trước giường Vạn Khuê, bây giờ lại không thấy.

Vạn Khuê nói:

– Không, không có ở trên ghế à?

Thích Phương tìm khắp nơi – trên bàn, bên giường, bàn trang điểm, ghế, tủ, gầm giường, gầm bàn… vẫn chẳng thấy bình thuốc giải đâu. Cô hết sức lo lắng: “Lẽ nào mình vừa rồi thần trí bất định, khi chạy ra đã để rơi mất rồi? Không, mình nhớ rõ ràng là đã đặt bên cạnh bát thuốc trên bàn mà.” Vạn Khuê cũng rất lo lắng nói:

– Muội mau tìm lại xem, sao lại không thấy? Huynh vừa chợp mắt, khi sắp ngủ, nhớ là còn thấy cái bình sứ trên bàn.

Y nói vậy, Thích Phương càng thêm lo lắng, quay ra ngoài phòng, kéo con gái lại hỏi:

– Vừa rồi khi mẹ đi ra, có ai vào đây không?

Con bé nói:

– Ngô thúc thúc có lên, chú ấy thấy cha đang ngủ bèn xuống ngay.

Thích Phương buông một tiếng thở dài, biết sự tình rắc rối rồi đây, nhưng tam ca đang đau, không nên để huynh ấy lo thêm, bèn nói:

– Không Tâm Thái, con ở đây với cha, nói là mẹ đi tìm vị lang trung mua một bình thuốc để chữa vết thương cho cha.

Con bé gật gật đầu, nói:

– Mẹ, mẹ về mau lên nhé.

Thích Phương định thần, rút ngăn kéo bàn, lấy ra một thanh chủy thủ, giấu vào bên mình, thong thả bước xuống lầu, ngẫm nghĩ: “Cái thằng Ngô Khảm gặp mình ở chỗ vắng người cứ có ý đồ bậy bạ gì đó. Vị lang trung kia là do y mời đến, biết đâu y với vị lang trung kia cấu kết với nhau, sắp đặt âm mưu quỷ kế gì? Nếu không sao lang trung kia không cần tiền, thuốc giải lại không thấy nữa?”

Cô vừa nghĩ vừa bước ra vườn rau, chỉ thấy Ngô Khảm đang đứng tựa lan can đang ngắm cá vàng. Thích Phương nói:

– Ngô sư đệ, chú đứng đây một mình à?

Ngô Khảm quay đầu lại, vẻ mặt tươi cười, nói:

– Đệ tưởng là ai, hóa ra là tam sư tẩu. Sao không ở trên lầu chăm sóc tam sư ca, mà ngẫu hứng xuống đây?

Thích Phương thở dài nói:

– Ầ y, tôi buồn quá. Suốt ngày chăm sóc bệnh nhân, sư ca của đệ đau quá, tính khí càng khó chịu, không ra xả hơi một chút, tìm người nói chuyện cho khuây thì buồn chết đi được.

Ngô Khảm nghe nói vậy, thật là mừng quá mức mong đợi, cười nói:

– Tam sư ca quả là không biết thế nào mới đủ, có mỹ nhân như hoa tựa ngọc bầu bạn còn tức giận nỗi gì?

Thích Phương bước đến bên cạnh hắn, cũng tựa lan can, ngắm cá vàng trong ao, cười nói:

– Sư tẩu thành bà già rồi, còn nói “như hoa tựa ngọc” gì nữa, không sợ người ta cười méo miệng đi à?

Ngô Khảm vội nói:

– Đâu có? Đâu có? Sư tẩu khi còn khuê nữ có vẻ xinh tươi của khuê nữ, khi làm mợ chủ lại có vẻ mặn mà của mợ chủ. Mọi người đều nói:

“Trong thành Kinh Châu một đóa hoa,

Trăm xinh ngàn đẹp ở Vạn gia.”

Thích Phương “hừ” một tiếng, đưa tay ra, nói:

– Đưa đây!

Ngô Khảm cười hỏi:

– Đưa cái gì?

– Thuốc giải!

Ngô Khảm lắc đầu:

– Thuốc giải nào? Để chữa cho Vạn sư ca ấy à?

Thích Phương nói:

– Đúng thế. Rõ ràng là đệ lấy.

Ngô Khảm mỉm cười giảo hoạt:

– Lang trung là do đệ mời đến, thuốc giải là do đệ tìm ra, Vạn sư ca đã bôi một lần, ít nhất cũng bớt đau đớn được mấy ngày.

Thích Phương nói:

– Lang trung tiên sinh nói cần phải bôi mười lần.

Ngô Khảm lắc đầu, nói:

– Đệ hối hận quá đi, hối hận quá đi.

Thích Phương hỏi:

– Hối hận cái gì?

Ngô Khảm nói:

– Đệ thấy tay thầy thuốc ấy bẩn thỉu, đầu bù tóc rối như đứa ăn mày, tưởng là chẳng được tích sự gì, mới dẫn hắn lên lầu, chẳng qua là kiếm cớ đề gặp sư tẩu một lần, đâu có ngờ cái thằng chó chết ấy lại làm hỏng việc, có thuốc giải hiệu nghiệm, thế là làm hỏng cả ý định của đệ.

Lửa giận trong lòng Thích Phương bốc lên, nhưng thuốc giải lại đang ở trong tay hắn, phải lừa hắn lấy được thuốc giải đã, rồi mới tính chuyện trị hắn, bèn cố nén giận, cười nói:

– Theo ý đệ, sư ca phải cảm tạ đệ như thế nào thì đệ mới giao lại thuốc giải?

Ngô Khảm thở dài:

– Tam sư ca đã hưởng diễm phúc bao nhiêu năm nay, chết cũng được rồi.

Thích Phương biến sắc, cắn môi không nói.

Ngô Khảm tiếp tục:

– Năm ấy, chị mới đến Kinh Châu, tám sư huynh đệ bọn này, có đứa nào không thần hồn điên đảo vì chị? Cái thằng tiểu tử ngốc Địch Vân kia cứ suốt ngày ở bên chị, bọn này nhìn mà cứ tức lộn ruột, cả bọn cùng bày mưu, trước hết phải đánh y sứt đầu mẻ trán cái đã…

Thích Phương nói:

– Thì ra các người đánh sư ca của ta lại là vì ta.

Ngô Khảm cười nói:

– Mọi người phải mượn cớ khác chứ, bảo là y ngạo mạn nhảy ra đánh lui đại đạo Lữ Thông, làm mất mặt đệ tử Vạn môn. Kỳ thực trong lòng mỗi người đều là vì sư tẩu cả đấy! Sư tẩu vá áo cho y, ân cần tha thiết, bọn này nhìn mà tức nổ con ngươi. Tám sư huynh đệ bọn này kẻ nào là không ghen tức, nghiến muốn gãy cả ba mươi sáu cái răng.

Thích Phương thầm kinh hãi: “Lẽ nào vì mình mà sinh tai họa? Tam ca, tam ca, sao xưa nay huynh không hề nói với muội?” Nhưng cô vẫn làm như không biết gì, cười nói:

– Ngô sư đệ, đệ cứ nói đùa, lúc ấy tôi là một cô bé nhà quê, dáng vẻ ngờ nghệch, có gì là đẹp?

Ngô Khảm nói:

– Không, không! Thực sự mỹ nhân thì cần gì trang điểm, nếu chị không khiến cho người ta thất điên bát đảo thì…

Nói đến đó, y bỗng im bặt.

Thích Phương hỏi:

– Thì… thế nào?

Ngô Khảm nói:

– Để giữ được chị ở lại nhà họ Vạn, họ Ngô này cũng góp sức nhiều đấy. Nhưng, sư tẩu, sư tẩu gặp đệ chưa bao giờ thèm cười một tiếng, như thế chẳng khiến người ta tức giận lắm sao?

Thích Phương “hứ” một tiếng, nói:

– Tôi ở lại nhà họ Vạn, lấy Vạn sư ca của đệ là do tôi cam lòng như thế, đệ góp sức gì vào đó? Có lúc nào đệ khuyên tôi một lời đâu, thật là nói cuội nói nhăng!

Ngô Khảm lắc đầu cười, nói:

– Đệ… đệ sao lại không góp sức? Tẩu chẳng biết gì cả.

Thích Phương càng kinh hãi, dịu giọng nói:

– Ngô sư đệ, chú nói cho tôi biết, chú đã góp sức gì nào, sư tẩu quyết không quên ý tốt của chú.

Ngô Khảm lắc đầu:

– Chuyện xưa tích cũ, còn nhắc đến làm gì? Chị biết cũng chẳng ích gì, chúng ta chỉ nên nói chuyện mới thôi.

Thích Phương nói:

– Được, chú không chịu nói thì thôi. Mau đưa thuốc giải đây, nếu không, có người thấy hai chúng ta ở đây thì thật không ổn.

Ngô Khảm lại cười:

– Ban ngày thì có người thấy, còn ban đêm thì ở đây chả có ai đâu.

Thích Phương bước lui một bước, mặt lạnh như băng, nghiêm giọng nói:

– Chú nói gì?

Ngô Khảm cười:

– Chị muốn chữa vết thương cho Vạn sư ca cũng không khó. Canh ba đêm nay, đệ chờ chị ở trong kho chứa củi, nếu chị chiều ý đệ, đệ sẽ cho chị một liều thuốc để bôi cho sư ca một lần nữa.

Thích Phương nghiến răng mắng:

– Đồ chó má, ngươi dám nói chuyện ấy à, to gan thật!

Ngô Khảm trầm giọng nói:

– Đệ đã sớm quên mất cái mạng này rồi, như thế gọi là “dám cưỡi cổ hoàng đế”. Tiểu tử Vạn Khuê có cái gì hơn họ Ngô này nào? Chẳng qua y là con đẻ của sư phụ, khéo chọn được chỗ đầu thai. Mọi người đều góp sức, vì sao lại để cho tên tiểu tử thối tha ấy một mình hưởng diễm phúc?

Thích Phương nghe y liên tiếp mấy lần nói đến hai chừ “góp sức”, trong bụng sinh nghi, chỉ vì lời lẽ của y bẩn thỉu, thật khó nghe nên không tiện nhắc lại, bèn nói:

– Đợi công công về, tôi cứ bẩm lại sự thực, xem ông ấy có lột da chú ra không?

Ngô Khảm nói:

– Tôi cứ đợi ở đây. Sư phụ về gọi tôi một tiếng, tôi sẽ ném bình thuốc giải này xuống ao sen nuôi cá vàng. Chị hỏi ông lang trung kia, ông ta nói thuốc giải chỉ có một bình này, nếu cần bào chế phải mất sáu tháng nửa năm cũng chưa chắc đã được.

Y vừa nói vừa rút bình thuốc giải trong áo ra, mở nắp, đưa ra trên mặt ao, chỉ cần bàn tay hơi nghiêng một chút, thuốc giải sẽ rơi hết vào trong ao, mạng Vạn Khuê sẽ đi tong.

Thích Phương vội nói:

– Ê, ê, giữ lấy thuốc giải, chúng ta hãy từ từ thương lượng cũng không muộn mà.

Ngô Khảm cười nói:

– Còn gì phải thương lượng nữa, chị muốn cứu mạng chồng thì phải nghe lời đệ.

Thích Phương nói:

– Nếu trước kia đệ thực có lòng với tôi, đã từng góp sức, vậy thì… cứ nói thực ra, tôi mới…

Ngô Khảm cả mừng, đậy nắp bình lại, nói:

– Sư tẩu, nếu như đệ nói thực, đêm nay tẩu sẽ đến… với đệ, phải không?

Thích Phương nói:

– Để xem đệ nói có thật không đã, lừa người ta thì được ích gì?

Ngô Khảm nói:

– Vạn phần chuẩn xác, sao lại có chút giả nào? Đó là mưu kế của sư đệ Thẩm Thành. Chu sư ca và Bốc sư ca thì giả đóng vai thái hoa tặc để dẫn dụ thằng tiểu tử ngốc Địch Vân đến phòng của Đào Hồng cứu người. Còn những đồ vàng bạc dưới gầm giường thằng ngốc đó thì do Ngô Khảm này tự tay đặt vào. Sư tẩu, nếu cánh tôi không thực thi xảo kế ấy thì sao có thể giữ được sư tẩu ở lại Vạn phủ?

Thích Phương cảm thấy đầu óc quay cuồng hoảng loạn, trước mắt tối sầm, lời của Ngô Khảm như từng lưỡi đao đâm vào tim cô, cô bất giác khẽ kêu lên:

– Muội… muội đã trách nhầm huynh, nghi oan cho huynh!

Thân hình cô lảo đảo chực ngã, giơ tay bíu chặt lấy lan can, nói:

– Tôi không tin, sao lại có chuyện đó được? Chú bịa ra đề lừa tôi.

Giọng nói của cô thật là khổ não.

Ngô Khảm vội nói:

– Chị không tin à? Được, người khác thì không thể hỏi, chị cứ đi hỏi Đào Hồng là xong, mụ ấy ở trong cái từ đường hư nát sau kia. Sau khi hỏi, chị đừng nói lại với ai. Mấy sư huynh đệ chúng tôi đã thề độc không được tiết lộ bí mật này. Nếu không vì canh ba đêm nay, vì sư tẩu, Ngô Khảm tôi cũng không nói ra đâu!

Thích Phương kêu lên một tiếng kinh hoàng, chạy ào ra, xô cửa sau vườn hoa, vội lao ra ngoài.

* * *

Lòng dạ rối bời, cô chạy ra ngoài cửa sau, qua vườn rau, định thần, tìm đến cái từ đường đổ nát ở góc tây bắc, thấy cửa khép hờ, liền xô cửa chạy vào.

Thấy dưới đất đầy tro bụi, bàn ghế đều mục nát, cô nghĩ bụng: “Thị thiếp Đào Hồng của công công, sao lại ở một nơi như thế này? Hay là thằng giặc Ngô Khảm đánh lừa. Phải chăng hắn lừa mình đến đây với ý đồ xấu? Hay là mình mau quay về.”

Bỗng nghe thấy bước chân thậm thịch từ từ đi lại, một người đàn bà từ sau nội đường đi ra. Đó là một mụ ăn mày trạc tuổi trung niên, cúi đầu khom lưng, đầu bù tóc rối, áo quần bẩn thỉu rách nát.

Mụ ăn mày thấy có người, giật mình, lập tức quay người. Mụ sắp bước vào nội đường lại ngoái đầu nhìn một cái, lần này nhìn rõ mặt Thích Phương, bất giác kinh hoảng “a” lên một tiếng. Mụ bước lùi hai bước, đột nhiên quỳ xuống nói:

– Mợ chủ, mợ… mợ đừng nói… đừng nói tôi ở đây.

Thích Phương lấy làm lạ, hỏi:

– Ngươi là ai? ở đây làm gì?

Mụ ăn mày nói:

– Không… không… làm gì! Tôi… tôi… Nói rồi lập tức đứng dậy đi vào.

Nghe tiếng bước chân gấp gáp, mụ ăn mày kia từ cửa sau vội vã chạy ra. Thích Phương nghĩ:

– Mụ đàn bà này không hiểu vì sao thấy mình lại sợ hãi như thế… ái dà, nhớ ra rồi, mụ ta… mụ ta chính là Đào Hồng!

Vừa mới nhớ ra, Thích Phương ba chân bốn cẳng chạy ra, giẫm bừa lên gạch ngói, chạy ra phía cửa sau, thò tay rút thanh chủy thủ bên hông ra, quát:

– Đào Hồng, ngươi làm trò ma quỷ gì thế, làm gì ở đây?

Mụ ăn mày chính là Đào Hồng, nghe Thích Phương gọi tên mình đã hoảng hốt, đến khi thấy thanh chủy thủ lấp loáng trong tay cô, càng sợ hãi, hai đầu gối run lẩy bẩy, quỳ xuống, run run nói:

– Thiếu phu nhân… mợ chủ… mợ tha cho tôi.

Ở trong nhà họ Vạn, Thích Phương chỉ nhìn thấy Đào Hồng có mấy lần, không bao lâu sau thì không thấy mụ ta nữa, mỗi khi nghĩ đến việc Địch Vân định rủ người đàn bà này trốn đi lòng lại như đao cắt cho nên mụ ta đi đâu cô không hề hỏi. Dù có ai nhắc đến cô cũng không thèm nghe, bởi đó là vết thương đau đớn nhất trong lòng cô. Nào ngờ mụ ta lại trốn ở đây. Từ đường này cách nhà họ Vạn không xa, nhưng từ khi làm thiếu phu nhân Thích Phương việc gì cũng cẩn thận, hoàn toàn khác với thời thiếu nữ ở Tương Tây. Cô không đi lung tung ra ngoài bao giờ, tuy nhiều lần nhìn thấy cửa ngôi từ đường hư nát này nhưng chưa hề đặt chân tới.

Đào Hồng lúc này đầu bù mặt bẩn, nét mặt tiều tụy phờ phạc, mấy năm không gặp mà giống như đã già đi hai chục tuổi. Ngô Khảm bảo Thích Phương đến từ đường này tìm Đào Hồng mà hỏi sự thật. Tuy cô đã thấy rõ mặt nhưng nếu Đào Hồng cứ từ từ bước ra như không có việc gì thì chắc là cô cũng không thê nhận ra.

Cô giơ cây chủy thủ trong tay lên, dọa:

– Ngươi nấp ở đây làm gì? Mau nói ra.

Đào Hồng nói:

– Tôi, tôi chẳng làm gì cả. Mợ chủ, lão gia đuổi tôi ra. Ông ấy bảo nếu thấy tôi ở Kinh Châu thì sẽ giết tôi. Nhưng… nhưng… tôi lại không biết đi đâu, đành trốn ở đây ăn mày. Mợ chủ, ngoài thành Kinh Châu ra, tôi không biết chỗ nào cả, bảo tôi đi đâu được? Mợ… mợ làm ơn, xin đừng nói với lão gia.

Thích Phương nghe mụ ta nói đáng thương, hạ cây chủy thủ xuống, nói:

– Vì sao lão gia lại đuổi ngươi đi? Sao ta không biết điều ấy?

Đào Hồng rơi nước mắt nói:

– Tôi cũng không biết vì sao lão gia bỗng không thích tôi nữa. Cái thằng Hồ Nam kia… việc cái thằng họ Địch kia… không phải là tôi sai. Ái dà… tôi, tôi… tôi không nên nói chuyện này.

Thích Phương gằn giọng:

– Được, ngươi không nói, thì ngươi theo ta đi gặp lão gia.

Cô đưa tay trái ra, túm chặt lấy cổ áo mụ. Thích Phương vốn thích sạch sẽ, áo Đào Hồng bẩn thỉu, mới nắm lấy, lòng bàn tay cảm thấy nhầy nhụa rất khó chịu. Nhưng cô đang nôn nóng muốn tra rõ sự thật oan uổng của Địch Vân nên dù có bẩn hơn thế nữa cô cũng chẳng để ý.

Đào Hồng run bần bật, vội nói:

– Tôi nói, tôi nói, mợ chủ, mợ cần tôi nói cái gì?

Thích Phương nói:

– Địch… Địch… Việc của người họ Địch ấy, rốt cuộc là thế nào? Vì sao mụ lại muốn trốn theo người ấy?

Đào Hồng kinh hoảng, giương mắt lên, nhất thời không nói được.

Thích Phương chăm chú nhìn mụ, trong lòng lại cảm thấy sợ, có lẽ còn sợ hơn cả Đào Hồng. Cô quả thực không dám nghe chính miệng Đào Hồng nói chuyện ấy ra. Nếu như mụ ta nói: quả thực lúc ấy Địch Vân có rủ mụ ta trốn đi, quả thực làm nhục mụ ta… Thế thì sao đây? Đào Hồng nhất thời không nói nên lời, mặt Thích Phương trắng bệch, trái tim cơ hồ ngừng đập.

Cuối cùng, Đào Hồng đã nói được:

– Việc ấy… việc ấy, không thể trách tôi được, cậu chủ ép tôi làm, bảo tôi phải ôm chặt lấy cái thằng nhà quê Hồ Nam họ Địch kia, vu oan cho hắn là đến để cưỡng hiếp tôi, định dẫn tôi trốn đi. Tôi đã nói điều này với lão gia, lão gia không phải là không tin, chỉ dặn tôi không được nói ra, còn cho tôi áo quần và tiền bạc. Nhưng… nhưng… tôi không nói mà lão gia vẫn đuổi tôi.

Thích Phương vừa cảm kích vừa đau lòng, vừa cảm thấy uất ức, vừa thương xót, trong lòng thầm kêu lên: “Sư ca, là muội hiểu nhầm huynh rồi, đáng ra muội phải biết huynh dành cho muội một tấm chân tình, thật là khổ cho huynh, thật là khổ cho huynh!” Lúc ấy cô hoàn toàn không căm giận Đào Hồng, ngược lại còn cảm ơn mụ ta, may mà mụ ta đã giải cho cô mối nghi ngờ uất kết trong lòng. Thậm chí đối với Ngô Khảm cũng có chút cảm kích vì chính hắn đã nói ra sự thật, chính hắn đã chỉ cho cô đến cái từ đường này tìm hỏi Đào Hồng.

Trong đau lòng và buồn thảm, cô bỗng cảm thấy một vị ngọt ngào. Tuy đã lấy Vạn Khuê nhưng trong sâu thẳm lòng cô, người mà cô tha thiết thương yêu vẫn chỉ là Địch sư ca, dù huynh ấy có thay lòng đổi dạ lúc lâm nguy, dù huynh ấy vô sỉ, dù huynh ấy ngàn điều sai lầm, vạn lần bạc bẽo, nhưng chỉ có huynh ấy, vẫn chỉ là huynh ấy, mới là người Thích Phương luôn tưởng nhớ mỗi lúc thở than hay ngậm ngùi rơi lệ.

Bỗng, bao nhiêu nỗi buồn khổ và căm giận đều biến thành nỗi ân hận day dứt: “Nếu mình sớm biết thì dù có phải chịu muôn đao ngàn kiếm mình cũng đến nhà lao cứu huynh ấy ra. Huynh đã phải chịu bao nhiêu đau khổ. Trong lòng huynh… trong lòng huynh nghĩ sao?”

Đào Hồng nhìn trộm nét mặt Thích Phương, run giọng nói:

– Mợ chủ, cảm ơn mợ, xin mợ thả cho tôi đi, tôi sẽ đi khỏi thành Kinh Châu, vĩnh viễn không trở lại.

Thích Phương thở dài nói:

– Lão gia vì sao lại đuổi ngươi đi? Hay là sợ ngươi biết chuyện ấy? Ôi, mãi đến hôm nay ta mới hỏi rõ được.

Nói rồi, cô buông áo mụ ta ra, muốn cho mụ ta một ít bạc nhưng vì vội vàng chạy ra nên không mang theo.

Đào Hồng thấy Thích Phương buông mình ra, sợ cô đổi ý, vội vàng bỏ đi, lẩm bẩm nói:

– Lão gia cứ tối đến lại gặp ma, cần phải xây tường, sao lại trách tôi? Lại… lại không phải là tôi nói quàng.

Thích Phương đuổi theo hỏi:

– Thế nào là gặp ma? Xây tường?

Đào Hồng biết đã lỡ mồm, vội nói:

– Không có gì, không có gì. À, lão gia ban đêm thường gặp ma, nửa đêm lại dậy xây tường.

Thích Phương thấy mụ ta nói điên điên khùng khùng nghĩ mụ ta bị công công đuổi, sống quá khổ sở, đầu óc mụ mẫm đi. Công công sao lại nửa đêm dậy xây tường? Trong nhà xưa nay chưa hề thấy công công xây tường.

Đào Hồng sợ cô không tin, lại nói:

– Là giả xây tường thôi. Lão gia… lão gia, giờ tí canh ba thích làm thợ nề. Tôi nói với ông ấy mấy câu, lão gia liền đùng đùng nổi giận, đánh tôi chết đi sống lại, lại đuổi tôi, nói là nếu gặp tôi nữa thì sẽ đánh chết tôi…

Mụ cứ làm ràm không ngớt, khòm lưng bước đi.

Thích Phương nhìn theo bóng mụ, nghĩ: “Mụ ta nhiều lắm cũng chỉ hơn mình mười tuổi thế mà ra nông nỗi ấy. Công công không biết vì sao lại đuổi mụ ta ra khỏi cửa? Sao lại gặp ma, xây tường, e mụ này chỉ nói điên điên khùng khùng. Ôi, vì một mụ đàn bà ngu ngốc như thế mà sư ca phải khổ suốt một đời.”

Nghĩ đến đó không ngăn được nước mắt rơi, rồi cất tiếng khóc vang.

* * *

Cô tựa vào cây ngô đồng, khóc một hồi, lòng nhẹ đi một chút, chầm chậm bước về nhà, cô tránh cửa sau, đi vòng ra cửa phía đông mà vào, lại lên lầu.

Vạn Khuê nghe thấy tiếng chân cô bước lên lầu liền vội hỏi:

– Phương muội, có tìm được thuốc giải không?

Thích Phương bước vào phòng, thấy Vạn Khuê đã ngồi dậy, vẻ rất sốt ruột, cánh tay bị thương gác bên giường, máu đen vẫn ứa ra, một lúc sau mới kêu “tách” một tiếng, rơi vào chậu đồng. Con bé phục bên chân cha, ngủ say.

Thích Phương nghe lời Ngô Khảm và Đào Hồng, vốn hết sức tức giận Vạn Khuê, hận y dùng thủ đoạn ti bỉ hãm hại Địch Vân. Lúc này thấy khuôn mặt tiều tụy mà thanh tú của y, ân ái mấy năm qua lại khiến cô mềm lòng: “Rốt cuộc, tam ca vì yêu mình nên mới hãm hại sư ca, thủ đoạn của y cố nhiên là âm hiểm độc ác, khiến sư ca phải chịu bao đau khổ, nhưng rốt cuộc lại là vì yêu mình.”

Vạn Khuê lại hỏi:

– Có mua được thuốc giải không?

Thích Phương nhất thời không biết có nên kể lại với chồng những lời vô sỉ của Ngô Khảm không, thuận miệng nói:

– Tìm được lang trung, giao bạc cho ông ta, nhờ ông ta mua dược liệu bào chế thuốc ngay.

Vạn Khuê thở phào, trong lòng cảm thấy nhẹ đi, mỉm cười nói:

– Phương muội, tính mạng của huynh là nhờ muội cứu.

Thích Phương gượng cười, cảm thấy mùi máu độc trong chậu rất nồng nặc, bèn bưng một cái chậu sứ đến hứng máu, bê cái chậu đồng đi, chỉ mới đi được hai bước, mùi máu độc xông lên, đầu óc choáng váng, nhủ thầm: “Loại rết độc này thật là ghê gớm.” Bèn bước nhanh ra khỏi phòng, đặt cái chậu xuống bên chân ghế, quay mình rút khăn tay ra định che kín mũi rồi mới đi đổ chậu máu.

Tay cô chạm phải cuốn Đường thi, ngẩn người ra, tim đập thình thịch, rút cuốn sách cũ ra, ngồi xuống bên bàn, mở từng trang ra. Cô nhớ rõ, ngày ấy mở rương ra tìm áo cũ đã thấy cuốn sách cũ này dưới đáy rương, cha thì chữ to như quả bí cũng biết chưa đầy một gánh, không biết nhặt cuốn sách này từ đâu về. Vừa khéo cô mới cắt xong hai tấm mẫu thêu, thuận tay bèn kẹp vào trong trang sách. Một buổi chiều cô cùng Địch sư ca đến hang núi, bèn đem cuốn sách này theo, về sau cứ để ở đó. Tại sao bây giờ nó lại đến đây? Là Địch sư ca bảo ông lang trung kia đưa tới ư?

“Vị lang trung ấy… phải chăng là… huynh ấy… năm ngón tay của huynh ấy đều bị Ngô Khảm chặt đứt rồi. Vị lang… lang trung ấy… Vì sao? Vì sao tay phải… tay phải của người ấy không hề đưa ra?” Đột nhiên, cô nhớ ra điều này. Cô chăm chú nhớ lại vị lang trung kia đỡ con gái, hồi tưởng lại ông ta mở hòm thuốc, lấy bình thuốc, mở nắp bình… đổ thuốc ra, hồi tưởng lại khi ông ta nhận cốc rượu mà mình mời, đưa cốc rượu lên môi uống cạn… tất cả bao nhiêu việc ấy hình như toàn dùng tay trái, nhưng lúc bấy giờ cô không để ý, bây giờ nhớ lại rõ mồn một.

“Lẽ nào, lẽ nào người ấy chính là sư ca? Tại sao tướng mạo lại không giống một chút nào?” Đầu óc cô quay cuồng rối loạn, không nén được nỗi đau buồn, nước mắt từng giọt từng giọt roi xuống cuốn sách cầm trên tay.

Nước mắt rơi lên trang sách, rơi lên hai con bướm được cắt bằng giấy hoa, đó là “Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài”, họ phải chết rồi mới được đoàn viên…

Vạn Khuê ở phòng trong nói với ra:

– Phương muội, huynh buồn quá thể, muốn dậy đi lại một chút.

Nhưng Thích Phương đang đắm chìm trong hồi ức, không nghe thấy. Cô nghĩ: “Ngày nọ, huynh ấy đánh chết một con bướm, chia lìa đôi bạn tình. Phải chăng vì thế mà ông trời trừng phạt huynh ấy phải chịu khổ chịu nạn…?”

Bỗng, sau lưng có một thanh âm giật giọng kêu lên:

– Đây… đây là… “Liên… liên thành kiếm phổ”!

Thích Phương giật mình, ngoái đầu lại, thấy Vạn Khuê vẻ mặt mừng rỡ, sung sướng nói:

– Phương muội, Phương muội, muội được cuốn sách này từ đâu vậy? Muội xem, a thì ra là thế này, phải rồi, là thế này đây!

Hai tay Vạn Khuê đè lên cuốn “Đường thi tuyển tập”, thấy bên cạnh bài thơ có mục là “Thánh quả tự” hiện lên ba chữ màu vàng nhạt “ba mươi ba”, trên mấy hàng chữ này thấm đầy nước mắt của Thích Phương.

Vạn Khuê vui sướng vạn phần, quên cả kiềm chế, kêu lên:

– Bí mật ở đây rồi, thì ra cần phải làm ướt đi, dấu chữ mới hiện ra! Hay quá, diệu cực! Nhất định là quyến sách này. Không Tâm Thái! Không Tâm Thái!

Hắn lớn tiếng kêu gọi, đánh thức con gái, nói:

– Không Tâm Thái, mau đi mời ông nội lên đây, nói là việc khẩn.

Con gái nhỏ vâng lời đi.

Vạn Khuê giữ chặt tập thơ, quên cả đau đớn trên tay, nhắc đi nhắc lại:

– Nhất định đúng rồi, không sai, cha bảo là kiếm phổ này ở trong “Đường thi tuyển tập”, chẳng phải đây sao? Họ đã không tìm ra bí mật này. Thì ra cần phải làm ướt trang sách, bí mật mới hiện ra.

Hắn vừa mừng vừa kêu toáng lên, Thích Phương cũng đã rõ quá nửa, nghĩ bụng: “Đây là bộ “Liên thành kiếm phổ” gì đó mà cha và công công tranh nhau à? Nói đúng ra, chính gia gia đã có được, mình lại chẳng biết hay dở gì cả, lấy để kẹp mẫu giày mẫu thêu. Gia gia không thấy quyển sách này, sao không tìm? Ồi, có lẽ cha cũng có tìm, tìm đi tìm lại tìm không được, lại cho là sư bá lấy trộm, sao cha không hỏi mình? Thật kỳ lạ!”

Nếu là Địch Vân thì lúc này chàng sẽ chẳng hề lấy làm lạ chút nào. Chàng đã biết chỉ vì Thích Trường Phát là con người lắm mưu nhiều kế, dù là trước con gái cũng chẳng hề để lộ một chút bí mật. Không thấy sách, lão gắng sức tìm, tìm không thấy liền giả vờ như không có chuyện gì, âm thầm theo dõi, dùng đủ mọi cách điều tra thám thính, xem có phải là thằng tiểu tử Địch Vân lấy trộm không? Có phải là con gái lấy trộm không? Chỉ vì Thích Phương không phải là “kẻ trộm”, không có sự hốt hoảng của “kẻ trộm” nên Thích Trường Phát không thể nào điều tra ra.

Vạn Chấn Sơn từ ngoài phố trở về, đang ngồi ăn điểm tâm ở trước sảnh, nghe thấy cháu gái kêu gọi, cho là vết thương của con trai nguy cấp, đang ăn dở vội buông đũa, ôm lấy cháu gái, đi nhanh lên lầu của con trai, vừa mới đến cầu thang đã nghe thấy giọng nói vui mừng của Vạn Khuê:

– Trong thiên hạ sao lại có chuyện tình cờ đến thế? Phương muội, sao muội lại làm ướt trang sách này? Thật là ý trời, ý trời!

Vạn Chấn Sơn nghe thấy giọng của con trai, liền yên tâm, đạp cửa bước vào phòng.

Vạn Khuê cầm cuốn “Đường thi tuyển tập”, vui mừng nói:

– Cha, cha, cha xem, đây là cái gì?

Vạn Chấn Sơn vừa nhìn thấy cuốn sách màu vàng mỏng mảnh lòng đã chấn động, vội đặt cháu xuống, cầm lấy cuốn sách từ trong tay con trai, tim đập rộn ràng, bộ “Liên thành kiếm phổ” mười mấy năm nay tốn bao tâm huyết kiếm tìm, cuối cùng lại xuất hiện ngay trước mắt.

Không sai, chính là cuốn sách ấy! Lão và Ngôn Đạt Bình, Thích Trường Phát liên thủ hợp lực, mưu hại sư phụ mà cướp được, chính là cuốn sách này đây. Ba người ở trong khách sạn, giở đi giở lại cùng xem bộ kiếm phổ này. Nhưng chỉ là một bộ Đường thi bình thường chẳng có gì lạ, hoàn toàn giống những bộ “Đường thi tuyển tập” bày bán trong các hiệu sách. Sư phụ của họ dạy họ một bộ “Đường thi kiếm pháp”, lấy những câu thơ trong thơ Đường đặt tên cho những chiêu kiếm, những câu thơ ấy đều có trong cuốn sách này. Nhưng nào có liên quan gì với “Liên thành kiếm phổ” trong truyền thuyết đâu?

Ba người sư huynh sư đệ từng đem cuốn sách này ra soi từng trang dưới ánh mặt trời muốn phát hiện ra điều ẩn bí giấu trong sách, họ cũng đã từng đọc đi đọc lại mấy chục bài thơ, đọc xuôi, đọc ngược, đọc ngang, đọc chéo, đọc từng chữ, đọc từng hai chữ một… muốn phát hiện điều ẩn bí giấu giữa các hàng chữ, nhưng tất cả tâm huyết đều uổng phí. Ba người nghi ngờ lẫn nhau, đều sợ người khác phát hiện ra điều bí mật mà mình không biết. Ba người đêm ngủ lại đem quyển sách đặt vào trong một chiếc hộp sắt khóa lại, lại dùng ba sợi dây sắt chằng cái hộp lại, ba đầu dây buộc vào cổ tay ba người. Nhưng một sớm mai thức dậy, cuốn sách đã không cánh mà bay, từ đó không còn tung tích.

Thế là mười mấy năm qua tranh giành dò xét không ngừng không nghỉ. Đột nhiên, cuốn sách ấy xuất hiện ngay trước mắt.

Vạn Chấn Sơn giở đến trang bốn, không sai, góc trên bên trái của cuốn sách bị xé đi một góc nhỏ, đó là năm ấy lão ngầm đánh dấu, sợ sư đệ Ngôn Đạt Bình hoặc Thích Trường Phát đánh tráo bằng một cuốn “Đường thi tuyển tập” khác.

Vạn Chấn Sơn lại giở đến trang mười sáu, không sai, cái dấu móng tay mà mình vạch vào để đánh dấu từ năm ấy vẫn còn đây. Đây là chân bản! Lão gật gật đầu, cố nén niềm vui trong lòng, nói với con trai:

– Chính là cuốn sách này, con được nó từ đâu vậy?

Ánh mắt Vạn Khuê chuyển sang Thích Phương, hắn hỏi:

– Phương muội, cuốn sách này từ đâu đến?

Thích Phương từ khi thấy thần thái của Vạn Khuê, lòng chỉ nghĩ đến cha: “Không biết bây giờ cha đang ở đâu? Mình là đứa con bất hiếu, đem quyển sách của cha vào trong hang núi, chắc là cha phải tìm kiếm khổ sở lắm. Trong lòng cha chắc chắn cuốn sách này là vô cùng quý giá. Không biết cuốn sách cũ này thì có tác dụng gì? Thế nhưng đây là cuốn sách mà mình lấy của cha, là cuốn sách của cha, quyết không thể để cho công công chiếm.”

Nếu như ngày hôm qua, còn chưa biết sự thực về việc Địch Vân bị hãm hại thê thảm, lòng còn đầy tình thương yêu đối với chồng thì trong lòng cô chồng chưa chắc đã không bằng cha, huống nữa không biết bây giờ cha đang ở đâu, không biết cha có trở về không. Nhưng bây giờ thì đã khác rồi. “Quyết không để cuốn sách này của cha rơi vào tay họ. Địch sư ca đã lấy cuốn sách này trao vào tay mình để mình bảo quản cho cha, đương nhiên không thể để cho họ cướp mất. Không những là vì gia gia mà còn vì Địch sư ca!”

Khi Vạn Khuê hỏi cô “cuốn sách này ở đâu đến”, cô chỉ nghĩ: “Làm thế nào để đoạt lại cuốn sách.” Sách đang ở trong tay bố chồng (công công). Vạn Chấn Sơn võ công trác tuyệt, huống nữa chồng lại đang ở bên cạnh, ra tay cướp đoạt thì không được. Những ý nghĩ loáng lướt qua trong đầu cô, tròng mắt chuyền động.

Cô nhìn thây cái chậu đồng ở bên bàn, nửa chậu là máu đen bầm, đó là nước Vạn Khuê đã rửa mặt, trong đó có rất nhiều máu độc chảy ra từ vết thương rết cắn, nước trong chậu một màu bầm đen… nếu như lén bỏ cuốn sách vào trong chậu máu này, họ sẽ không thể tìm ra được. Nhưng, chỉ sợ cuốn sách sẽ bị nước làm hư nát. Nhưng nếu không nhân lúc này mà ra tay thì không còn thời cơ nào nữa, thà hủy cuốn sách đi chứ không thể để cho họ thỏa lòng như ý…

Cha con họ Vạn chăm chú nhìn Thích Phương. Vạn Khuê lại hỏi:

– Phương muội, cuốn sách này từ đâu đến?

Thích Phương lặng người, nói:

– Muội cũng không biết, muội vừa mới từ trong phòng ra thì thấy cuốn sách này ở trên bàn. Đây không phải là của huynh à?

Vạn Khuê nhất thời nghĩ không ra, tạm thời không truy cứu nữa, chỉ một lòng đem điều mới phát hiện được nói cho phụ thân biết:

– Cha, cha xem, trang sách này bị thấm nước, liền có chữ hiện lên.

Hắn đưa ngón tay trỏ ra, chỉ vào ba chữ “ba mươi ba” màu vàng nhạt bên cạnh bài thơ “Thánh quả tự”.

(Nếu như hắn biết đây là nước mắt của vợ, những giọt nước mắt trào ra vì thương nhớ Địch Vân, lòng hắn sẽ nghĩ sao?)

Vạn Chấn Sơn đưa ngón tay chỉ vào bài thơ ấy, đếm từng chữ từng chữ một:

“Lộ tự trung phong thượng,

Bàn hồi sơn bích la.

Đáo giang Ngô địa tận,

Cách ngạn Việt sơn đa.

Cổ mộc tùng thanh ái,

Dao thiên tẩm bạch ba.

Hạ phương thành…”

chữ thứ ba mươi ba, đó là chữ thành!

Vạn Chấn Sơn vỗ đùi đánh đét, la lên:

– Đúng rồi, chính là cách này! Thì ra bí mật là đây. Khuê nhi, con thật thông minh, con đã nghĩ ra được cách này! Phải dùng nước, không sai, chúng ta năm ấy không nghĩ đến việc phải dùng nước!

(Nếu như lão biết đây là nước mắt của con dâu, là những giọt nước mắt trào ra vì một người đàn ông khác, không hiểu lòng lão sẽ nghĩ sao?)

Thích Phương thấy cha con họ vui sướng như điên, chụm đầu vào tìm hiểu bí mật trong sách, bèn kéo tay con gái vào phòng trong, ôm nó vào lòng, khẽ nói:

– Không Tâm Thái, cái chậu kia, con thấy không?

Con bé gật gật:

– Con thấy rồi.

Thích Phương nói:

– Lát nữa ông nội, cha và mẹ cùng chạy ra ngoài, mẹ đem quyển sách trong tay ông nội đặt vào ngạch cửa, con đến cầm quyển sách lén thả vào trong chậu cho nước ngấm vào, đừng cho ông nội và cha nhìn thấy, để họ tìm không ra.

Con bé cả mừng, cho rằng mẹ lại bày một trò chơi thật vui, nó vỗ tay cười nói:

– Hay, hay!

Thích Phương lại dặn:

– Nhưng đừng để cho ông nội và cha biết, cũng đừng nói với họ!

Con bé nói:

– Không Tâm Thái không nói, Không Tâm Thái không nói!

Thích Phương bước ra phòng ngoài, nói:

– Công công, con thấy cuốn sách này có chút cổ quái.

Vạn Chấn Sơn quay lại hỏi:

– Có gì lạ?

Trong lòng lão đã sớm mơ hồ cảm thấy cuốn sách này đột nhiên xuất hiện, có được một cách quá dễ dàng, e không phải là điềm lành, con dâu nói vậy càng khiến lão thêm nghi ngờ. Thích Phương nói:

– Ở đây!

Nói rồi đưa tay ra.

Vạn Chấn Sơn trao cuốn sách cho cô.

Thích Phương giở trang sách, lấy hai con bướm bằng giấy ra, nói:

– Công công, trong cuốn sách này vốn có hai con bướm này không?

Vạn Chấn Sơn cầm lấy hai con bướm, xem xét kỹ lưỡng, nói:

– Không có!

Thích Phương nói:

– Thế là ý nghĩa gì? Trong võ lâm có người nào ngoại hiệu là “Hoa hồ điệp” gì đó không? Trên giang hồ có “Hồ điệp bang” không? Họ để hai com bướm giấy này vào trong sách, chắc là không có ý tốt.

Nhân vật giang hồ để lại ký hiệu để cảnh cáo kẻ thù vốn là việc rất bình thường, Vạn Chấn Sơn bình sinh làm nhiều việc xấu, kẻ thù rất nhiều, nghe Thích Phương nói, lại thấy hai con bướm giấy được cắt rất tinh xảo, không khỏi cảm thấy sờ sợ, trầm ngâm suy nghĩ: “Mình có kẻ thù nào ngoại hiệu là “Hoa hồ điệp” không nhỉ? Có “Hồ điệp bang” không nhỉ?”

Lão đang trầm ngâm bỗng nghe Thích Phương quát:

– Ai đấy, ma ma quỷ quỷ, lén lén lút lút làm gì vậy?

Rồi đưa tay chỉ lên nóc nhà ngoài cửa sổ. Cha con họ Vạn cùng nhìn ra ngoài cửa sổ. Thích Phương xoay người gỡ hai thanh trường kiếm treo trên tường xuống, ném một thanh cho Vạn Chấn Sơn, một thanh cho Vạn Khuê, kêu lên:

– Trên nóc nhà có người!

Cha con họ Vạn cầm chắc binh khí, Thích Phương kéo cái ngạch cửa, nhét cuốn Đường thi vào đó, nói khẽ:

– Chớ để kẻ địch cướp mất!

Cha con họ Vạn gật gật đầu. Ba người vọt qua cửa sổ, nhảy lên mái ngói, nhìn khắp bốn xung quanh không thấy một bóng người. Vạn Chấn Sơn nói:

– Ra đằng sau xem xem!

Ba người chạy thẳng ra phía sân sau, chỉ thấy ở góc tường thoáng một bóng người, Vạn Chấn Sơn quát:

– Ai?

Rồi nhảy vọt tới, thấy người kia là đệ tử thứ sáu Ngô Khảm, lão hỏi:

– Có thấy kẻ địch không?

Ngô Khảm thấy sư phụ, tam sư huynh, tam sư tẩu đều cầm kiếm chạy tới, cho rằng đã xảy ra sự cố, sợ tái mặt, đến khi nghe sư phụ hỏi, mới nhẹ người, vội nói:

– Có người bên này chạy qua, đệ tử đuổi theo tra hỏi xem.

Y vốn là che giấu cho mình, vừa khéo lại hợp với lời Thích Phương bịa đặt.

Bốn người đuổi ra ngoài cửa sau, Ngô Khảm hò hét luôn mồm, gọi bọn Lỗ Khôn, Bốc Viên chạy ra, nhưng đều chẳng tìm thấy tung tích “địch nhân” đâu cả.

Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê nhớ đến “Liên thành kiếm phổ”, ra lệnh cho bọn Lỗ Khôn tiếp tục tìm tung tích địch nhân, gọi Thích Phương, trở lại lầu. Vạn Chấn Sơn kéo cái ngạch cửa ra, thò tay vào lấy…

Trong cái ngạch cửa đâu có quyển sách nào?

Cha con họ Vạn giật mình, kinh hãi vô cùng, tìm kiếm khắp nơi trong thư phòng, cũng làm sao tìm thấy. Hỏi con gái:

– Có người vào đây không?

Con bé đáp:

– Không có đâu ạ.

Nó quay đầu về phía mẹ nháy nháy mắt, hết sức đắc ý.

Cha con họ Vạn thấy rõ ràng Thích Phương đã đặt vào trong ngạch cửa, khi đuổi theo kẻ địch, không hề rời xa cô ta, đương nhiên là không phải là cô ta ra tay lấy mất. Nhất định là kẻ địch đã dùng kế “điệu hổ ly sơn”, lấy trộm mất kiếm phổ!

Cha con họ Vạn nhìn nhau vô cùng buồn bã.

Mẹ con Thích Phương nhấm nháy với nhau rất đỗi vui mừng.

————————————–

[1] Công công: con dâu gọi bố chồng là công công

Hồi 11: Xây tường

Đệ tử Vạn môn táo tác một trận, đâu có truy tìm được địch nhân nào?

Vạn Chấn Sơn dặn Thích Phương, muôn vạn lần không được đem chuyện kiếm phổ được rồi lại mất nói với các sư huynh đệ. Thích Phương vâng dạ ngay. Mấy năm nay cô càng ngày càng nhận ra giữa sư phụ và đồ đệ, giữa sư huynh đệ của Vạn môn, mỗi người đều có tính toán riêng, đề phòng lẫn nhau. Vạn Chấn Sơn vừa kinh hãi vừa tức giận, về đến phòng mình cứ nghĩ mãi về cái ký hiệu “hoa hồ điệp”. Kẻ thù là ai? Vì sao lại đưa kiếm phổ tới? Rồi sao lại cướp đi? Hay là cái người đã cứu Ngôn Đạt Bình?

Vạn Khuê khi truy đuổi địch nhân, chạy nhảy một hồi, máu chảy nhanh, vết thương trên mu bàn tay lại đau đớn, nằm trên giường nghỉ, một lúc sau thì thiêm thiếp ngủ.

Thích Phương trầm ngâm suy nghĩ: “Cuốn sách này là có ích đối với cha, bị ngâm trong nước lâu rồi, e bị hư nát mất!” Bèn vào phòng trong kêu hai tiếng:

– Tam ca.

Thấy Vạn Khuê đang ngủ say, liền quay ra bưng cái chậu đồng, xuống lầu đổ nước máu đi, quyển sách lộ ra. Cô nghĩ “Không Tâm Thái thật ngoan!” Mặt thoáng nét cười.

Cuốn sách ướt đẫm nước máu, tanh hôi quá thể, Thích Phương không muốn dùng tay cầm, nghĩ:“Giấu nó vào chỗ nào đây?” Nghĩ đến cái nhà ở vườn sau để đầy những thứ cuốc, cối đá, quạt gió… lúc này chắc không có người qua lại, bèn hái mấy cái lá hoa cúc trong sân, che kín quyển sách, rồi làm như bê một chậu lá hoa cúc, đi ra phía vườn sau. Cô đi về cái nhà nhỏ ở phía tây, lấy quyển sách đặt vào trong bụng cái quạt quạt thóc, thầm nghĩ: “Cái quạt thóc này đến khi thu tô mới dùng đến, giấu ở đây chẳng ai tìm thấy được.”

Cô bưng cái chậu, miệng khe khẽ hát, giả vờ như không có chuyện gì, khi đi qua hành lang bỗng có một người nhảy ra, hạ giọng nói khẽ:

– Canh ba hôm nay, đệ ở kho chứa củi đợi sư tẩu, đừng quên nhé!

Chính là Ngô Khảm.

Thích Phương trong lòng đang lo sợ, đột nhiên nghe hắn nói mấy câu đó, trái tim càng đập dữ dội, thảng thốt nói:

– Đồ chết giẫm, con chó này thật to gan, không tiếc mạng à?

Ngô Khảm nhăn nhở nói:

– Đệ vì tẩu mà chết, thật là mãn nguyện, sư tẩu có cần thuốc giải không?

Thích Phương cắn răng, tay trái thò vào trong áo, nắm chắc cán chủy thủ, định xuất kỳ bất ý rút chủy thủ ra cho hắn một nhát, đoạt lấy thuốc giải.

Ngô Khảm cười hi hi, nói nhỏ:

– Nếu sư tẩu dùng một chiêu “Sơn tòng nhân diện khởi”, rút đao đâm tới, đệ sẽ dùng chiêu “Vân bạng mã đầu sinh” tránh ngay, rồi tiện tay giơ lên đổ bình thuốc giải này vào trong ang nước.

Nói rồi hắn chìa tay ra, trong lòng bàn tay là bình thuốc giải. Hắn sợ Thích Phương đoạt mất, bèn lùi lại hai bước.

Thích Phương biết là dùng sức không thể đoạt được bèn nghiêng người đi qua một bên hắn.

Ngô Khảm khẽ nói:

– Đệ chỉ đợi sư tẩu đến canh ba, sang canh bốn đệ sẽ mang thuốc giải bỏ đi, cao bay xa chạy, không trở về Kinh Châu nữa. Họ Ngô này có chết, cũng không thể chết dưới tay cha con họ Vạn.

* * *

Thích Phương về đến phòng, thấy Vạn Khuê không ngừng rên rỉ, chắc là độc rết lại phát tác. Cô ngồi bên giường, trầm ngâm suy nghĩ: “Y hãm hại Địch sư ca, thủ đoạn cực kỳ ti bỉ, nhưng ván đã đóng thuyền, còn có cách nào đây? Đó là sư ca số khổ, mình cũng số khổ. Mấy năm nay y đối với mình rất tốt, mình thì đành “lấy gà theo gà lấy chó theo chó”[1], một đời này đành phải theo y làm vợ chồng. Cái thằng chó chết Ngô Khảm thật là đáng ghét, làm sao đoạt được thuốc giải đây?”

Thấy vẻ mặt Vạn Khuê tiều tụy, hai mắt hõm vào, cô lại nghĩ: “Tam ca bị thương rất nặng, nếu nói với huynh ấy, huynh ấy lại nổi giận liều mình với Ngô Khảm thì hỏng việc.”

Trời dần tối, Thích Phương ăn đại mấy miếng cơm tối, ru con ngủ yên, nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có cách đi nói với công công, lão là người tính toán sâu xa, tất có cách hay. Việc này không thể để cho chồng biết được, phải đợi cho huynh ấy ngủ thật say rồi mới đến báo với công công. Thích Phương để nguyên quần áo, nằm xuống bên chân Vạn Khuê. Mấy ngày hôm nay chăm sóc chồng, cô không hề chợp mắt. Mãi đến khi Vạn Khuê ngủ thật say, cô mới lặng lẽ ngồi dậy, xuống lầu, đi đến ngoài nhà Vạn Chấn Sơn.

Trong nhà đèn đã tắt, nhưng lại vọng ra những thanh âm kỳ lạ “Phì, phì, phì” tựa hồ như có người đang gắng hết sức làm việc gì đó. Thích Phương rất lấy làm lạ, vốn đã định đến bên cửa gọi “công công” nhưng lại ngừng, nhìn qua khe cửa sổ vào trong phòng. Lúc ấy mặt trăng chiếu nghiêng, lọt qua cửa sổ, chiếu vào trong phòng. Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn nằm ngửa trên giường, hai tay chầm chậm đẩy mạnh lên khoảng không, hai mắt vẫn nhắm nghiền.

Thích Phương nghĩ bụng: “Thì ra công công đang luyện nội công cao thâm. Khi luyện nội công kỵ nhất là bị ngoại giới quấy nhiễu, như thế rất dễ bị tẩu hỏa nhập ma. Lúc này không thể gọi ông ấy, để ông ấy luyện xong rồi hãy nói.”

Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn đẩy hai tay lên không một hồi, rồi từ từ ngồi dậy, bỏ chân xuống giường, đi mấy bước, khom người xuống, nhấc một vật gì đó lên. Thích Phương nghĩ bụng: “Chắc công công đang luyện cầm nã thủ pháp”, lại xem một lúc nữa, chỉ thấy thế tay của Vạn Chấn Sơn mỗi lúc một kỳ lạ, hai tay không ngừng chụp lấy vật gì đó trong không trung, rồi lại xếp đặt rất chỉnh tề, giống như là đang xếp rất nhiều viên gạch lại, nhưng dưới ánh trăng thấy thật rõ – trên mặt đất không hề có vật gì cả.

Chỉ thấy lão chụp chụp trong không trung một hồi, hai tay đo đo, tựa hồ như nhận thấy đã đủ lớn rồi. Thế là hai tay lại làm như đang nâng một vật gì rất lớn, nhét về phía trước. Thích Phương nhìn ngơ ngác, thấy hai mắt Vạn Chấn Sơn nhắm nghiền, nhất cử nhất động đều không giống luyện công mà giống như đang diễn kịch câm.

Bỗng cô nhớ tới câu nói của Đào Hồng ở ngôi từ đường đố nát: “Lão gia nửa đêm giờ tí lại dậy xây tường!”

Nhưng cử động của Vạn Chấn Sơn quyết không phải là xây tường, nếu như có liên quan gì với tường thì đây có lẽ là động tác khoét tường, đục tường.

Thích Phương cảm thấy khủng khiếp: “Phải rồi! Công công bị bệnh mộng du. Nghe nói bị bệnh này, trong lúc ngủ có thể dậy đi lại, làm việc. Có người không mặc quần áo, đi trên nóc nhà, có người thậm chí còn giết người đốt nhà, sau khi tỉnh lại hoàn toàn chẳng biết gì hết.”

Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn sau khi nâng một vật nặng hoàn toàn không có, nhét vào một cái hốc tường hoàn toàn không có, thì gắng sức đẩy vào khoảng không mấy cái, sau đó lại nhặt những viên gạch hoàn toàn không có trên mặt đất xây áp vào “bức tường” hoàn toàn không có.

Đúng rồi, ông ấy quả thực là đang xây tường! Miệng mỉm cười, xây tường một cách dương dương đắc ý!

Thích Phương khi mới thấy vẻ âm sâm của lão, bao nhiêu tóc trên đầu dựng hết cả lên, đến khi thấy lão rõ ràng đang làm động tác xây tường, thì có vẻ như đã đoán được bèn không sợ nữa, nghĩ bụng: “Theo lời Đào Hồng thì công công mắc bệnh mộng du này đã lâu rồi. Người mắc bệnh này đều không muốn để cho người khác biết. Đào Hồng ở chung một phòng với ông ấy, biết được điều này, công công tất nhiên không vui.” Thế là cô đã giải được điều nghi vấn trong lòng, biết rõ vì sao mà Đào Hồng bị đuổi. Lại nghĩ: “Không biết ông ấy còn xây tường bao lâu nữa, nếu quá canh ba, Ngô Khảm hủy giải dược rồi bỏ trốn thì hỏng bét.”

Lại thấy Vạn Chấn Sơn đem tất cả những “viên gạch” nhét vào “hốc tường” rồi tô “vữa” lên, mãi đến khi “công việc” đâu vào đấy rồi khuôn mặt mới mỉm cười, lên giường ngủ yên.

Thích Phương nghĩ bụng: “Công công vất vả hồi lâu, tinh thần còn chưa thoải mái, hãy để ông ấy nghỉ một lúc đã mình hãy gọi.”

Chính vào lúc ấy, lại nghe thấy có người khe khẽ gõ cửa phòng mấy cái, tiếp đó có người khe khẽ gọi:

– Gia gia, gia gia!

Chính là giọng của Vạn Khuê.

Thích Phương hơi sợ: “Sao tam ca cũng đến? Huynh ấy đến làm gì?”

Vạn Chấn Sơn lập tức ngồi dậy, định thần, hỏi:

– Khuê nhi đấy à?

Vạn Khuê nói:

– Là con đây!

Vạn Chấn Sơn nhảy phắt xuống giường, rút then mở cửa cho Vạn Khuê vào, hỏi ngay:

– Có tin được kiếm phổ rồi à?

Vạn Khuê kêu lên một tiếng:

– Cha!

Rồi đưa tay trái ra bíu chặt lấy mặt bàn. Ánh trăng từ song cửa chiếu vào phòng, chập chờn chiếu lên thân hình y đang lảo đảo.

Thích Phương sợ bóng mình ngả vào phòng, co mình lại dưới cửa số, nghiêng tai nghe ngóng, không dám nhìn động tĩnh của hai người nữa.

Vạn Khuê kêu lên một tiếng “cha” nữa, rồi nói:

– Con dâu của cha… con dâu của cha… hóa ra không phải là người tốt.

Thích Phương giật mình: “Sao huynh ấy lại nói thế?”

Chỉ nghe thấy Vạn Chấn Sơn cũng hỏi:

– Sao rồi? Vợ chồng trẻ cãi nhau hả?

Vạn Khuê nói:

– Kiếm phổ tìm được rồi, là do con dâu của cha lấy đi.

Vạn Chấn Sơn vui mừng nói:

– Tìm được rồi thì tốt! Đâu rồi?

Thích Phương hết sức lấy làm lạ: “Sao y lại biết? Ôi, chắc là con bé Không Tâm Thái không giữ miệng, nói ra rồi.” Nhưng Vạn Khuê nói tiếp khiến cô biết là mình đã đoán sai. Vạn Khuê nói với cha: y thấy Thích Phương và con gái nhấm nháy với nhau, thần tình có vẻ lạ, cho rằng chắc có điều cổ quái, bèn giả vò ngủ, nhưng nhìn qua khe cửa quan sát động tĩnh của Thích Phương, thấy cô ta bưng cái chậu đồng đi về phía vườn sau, y bèn lặng lẽ bám theo, thấy cô ta đem kiếm phổ giấu vào trong cái quạt thóc ở ngôi nhà phía tây vườn sau.

Thích Phương trong lòng than thở: “Cha thật là số khổ, cuốn sách ấy cuối cùng lại bị công công và tam ca lấy mất. Muốn lấy lại thật là muôn vạn lần khó khăn. Được, mình nhận thua, tam ca vốn lợi hại hơn mình nhiều.”

Chỉ nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Thế thì tốt lắm, chúng ta đi lấy nó về, con cứ giả vờ không biết gì hết, để xem nó ra sao. Nếu như nó không nhắc đến, con cũng bất tất phải nói ra, cha vẫn nghi, cuốn sách này rốt cuộc là từ đâu đến. Chỉ sợ… chỉ sợ… chỉ sợ…

Lão nói liên tiếp ba lần “chỉ sợ” nhưng lại không nói ra.

Vạn Khuê nói:

– Cha!

Giọng rất đau khổ.

Vạn Chấn Sơn la:

– Sao?

Vạn Khuê nói:

– Con dâu của cha… Con dâu của cha lấy trộm bộ kiếm phổ ấy của chúng ta, hóa ra là vì…

Nói đến đó, giọng bỗng run lên. Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Vì ai?

Vạn Khuê nói:

– Hóa ra là… là vì tên cẩu tặc Ngô Khảm!

Trái tim Thích Phương bị chấn động mãnh liệt, cơ hồ không tin vào tai mình nữa, thầm kêu lên:“Mình vì gia gia, sao lại nói vì Ngô Khảm? Sao lại vì tên cẩu tặc Ngô Khảm?”

Trong giọng nói của Vạn Chấn Sơn cũng đầy vẻ ngạc nhiên:

– Vì Ngô Khảm à?

Vạn Khuê nói:

– Vâng! Con thấy ở vườn sau, con tiện nhân ấy giấu xong kiếm phổ, bèn theo từ xa xa, nào ngờ nó… nó đi đến hành lang lại thậm thậm thụt thụt với Ngô Khảm, con dâm phụ này… thật là mặt dày!

Vạn Chấn Sơn trầm ngâm nói:

– Cha thấy nó thường ngày vẫn đàng hoàng đoan chính, không phải là hạng người như thế. Con có nhìn nhầm không? Hai đứa nó nói gì?

Vạn Khuê nói:

– Con sợ chúng biết, không dám đến gần, trong hành lang lại không có nơi ấn nấp, phải nấp ở sau góc tường. Đôi trai gái chó má ấy nói rất nhỏ, không nghe hết được, nhưng… cũng nghe được quá nửa.

Vạn Chấn Sơn “ừ” một tiếng, nói:

– Con trai, con đừng tức giận. Đại trượng phu lo gì không có vợ? Chúng ta lấy được kiếm phổ, lại tra rõ bí mật trong đó thì chớp mắt một cái là giàu nhất thiên hạ, con muốn mua một trăm vợ lẽ nàng hầu, cũng thật dễ dàng, con ngồi xuống, từ từ nói đi!

Nghe thấy giường kêu cót két, Vạn Khuê đã ngồi xuống, hằm hằm nói:

– Con dâm phụ đó giấu sách xong rồi, rất là đắc ý, miệng còn hát nữa. Thằng gian phu kia thấy nó, mặt hân hoan nói: “Canh ba đêm nay, đệ ở trong kho chứa củi đợi, đừng quên đấy!” Đích xác là là mấy câu đó, con nghe rất rõ.

Vạn Chấn Sơn tức giận nói:

– Con tiểu dâm phụ thì nói sao?

Vạn Khuê nói:

– Nó… nó nói: “Đồ chết giẫm, to gan nhỉ, đến cả cái mạng cũng không cần!”

Thích Phương ở ngoài cửa sổ nghe mà lòng dạ rối bời: “Hai… hai người họ cứ mồm năm miệng mười mắng mình là dâm phụ, sao… sao lại đổ oan cho người ta như thế! Tam ca, muội chỉ một lòng vì huynh, muốn đoạt lại bình thuốc giải, trị vết thương cho huynh. Huynh lại nhục mạ muội, có còn lương tâm nữa không?”

Nghe Vạn Khuê lại tiếp tục nói:

– Con… con nghe chúng nói vậy, lòng bừng bừng lửa giận, hận không thể tuốt kiếm cho hai đứa hai nhát. Chỉ vì con không mang theo kiếm, vả lại sau khi bị thương người yếu, không thể đàng hoàng đấu với chúng nó, bèn về phòng ngay kẻo con dâm phụ kia về phòng không thấy lại sinh nghi. Gian phu dâm phụ về sau còn nói gì nữa, con không nghe được.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Hừ, có cha ấy tất có con ấy, quả nhiên cả nhà đều là lũ vô sỉ. Chúng ta trước hết phải đi lấy kiếm phổ, rồi đứng chờ ở ngoài cửa kho củi. Bắt gian phải bắt cả đôi, để cho đôi trai gái chó má ấy chết mà không oán.

Vạn Khuê nói:

– Con dâm phụ ấy mê trai phát cuồng, chưa đến canh ba đã đi, lúc này… lúc này…

Vừa nói hắn vừa nghiến răng ken két.

Vạn Chân Sơn nói:

– Thế thì chúng ta đi ngay. Con cầm lấy kiếm, trước hết con đừng ra tay, để cha chém hết chân tay của cả hai đứa rồi con hãy tự tay lấy tính mạng của đôi trai gái chó má ấy.

Cửa phòng mở ra, Vạn Chấn Sơn tay trái dìu dưới nách Vạn Khuê, hai người xông ra vườn sau.

Thích Phương tựa vào tường, nước mắt ướt đầm vạt áo. Cô chỉ mong chữa lành vết thương cho chồng, y lại nghi ngờ tệ hại đến thế. Phụ thân đi mãi không về, Địch sư ca thì phải chịu oan uổng, bây giờ… bây giờ chồng lại đối đãi với mình như thế, làm sao sống nổi? Lòng cô tan nát, không muốn sống nữa, không muốn tìm chồng biện bạch, cũng không nghĩ tới việc gọi Ngô Khảm đến đối chất, toàn thân rã rời, cô tựa vào bức tường.

Một lúc sau, nghe thấy tiếng bước chân, cha con họ Vạn quay về sảnh, đứng lại hạ giọng bàn bạc.

Vạn Khuê nói:

– Cha, sao không vào kho củi giết Ngô Khảm?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Trong kho chứa củi chỉ có một mình gian phu. Con dâm phụ kia chắc là nghe được phong thanh đã bỏ chạy mất rồi. Đã không bắt được cả đôi, chúng ta là thế gia ở Kinh Châu sao lại có thể khinh suất giết người? Sau khi được kiếm phổ này rồi chúng ta còn bao nhiêu việc phải làm ở Kinh Châu này. Việc nhỏ không nhịn thì hỏng việc lớn, chớ nên nôn nóng!

Vạn Khuê nói:

– Lẽ nào lại cho qua? Nỗi tức giận này của con làm sao cho hả?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Muốn hả giận thì dễ ợt, chúng ta dùng cách cũ!

– Cách cũ?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Cái cách đã dùng để đối phó với Thích Trường Phát!

Vạn Chấn Sơn ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Con hãy về phòng đi, cha cho người gọi hết đệ tử đến, con cũng đi với chúng đến phòng cha. Đừng để cho người ta nghi ngờ.

Thích Phương trong lòng đã rối như tơ vò, không có một chút chủ ý nào, chỉ nghĩ: “Đã tới nước này rồi, mình không muốn sống nữa. Nhưng còn Không Tâm Thái thì biết làm sao? Ai chăm sóc nó?” Bỗng nghe Vạn Chấn Sơn nói phải dùng “cách đã dùng để đối phó với Thích Trường Phát” để đối phó với Ngô Khảm, trên đầu bỗng như có ai đặt lên một tảng băng, lập tức tỉnh ra: “Họ đã đối phó với cha như thế nào? Phải điều tra ra chân tướng của vụ này. Công công gọi bọn đệ tử đến ngoài phòng, không thể nấn ná ở đây được nữa, nhưng nấp ở đâu để nghe trộm đây?”

Vạn Khuê vâng lời trở về phòng, Vạn Chấn Sơn bước ra ngoài sảnh lớn tiếng gọi đầy tớ thắp đèn. Chốc lát trước sảnh sau sảnh đều rậm rịch tiếng người, đám đệ tử và đầy tớ đều kéo đến. Thích Phương biết chỉ còn chốc lát nữa sẽ có người đi qua cửa sổ, hơi do dự một chút rồi lách người bước vào phòng Vạn Chấn Sơn, vén tấm rèm che giường, rồi chui xuống gầm giường. Tấm rèm dài tận đất, nếu không có người cố ý vén lên thì quyết không có ai phát hiện được tung tích cô.

Cô nằm ngang dưới gầm giường, lát sau có ánh sáng lọt qua tấm rèm, có người thắp đèn đem vào đặt trong phòng. Cô thấy đôi chân của Vạn Chấn Sơn bước vào, đôi chân ấy đến bên cái ghế, ghế kêu lên nhè nhẹ, là Chấn Sơn đã ngồi xuống, lại nghe lão gọi người đầy tớ đóng cửa phòng.

Nghe tiếng đại sư huynh Lỗ Khôn nói từ ngoài phòng:

– Sư phụ, chúng con đều đã đến rồi, chờ sư phụ sai khiến.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Tốt lắm, con hãy vào đây trước!

Thích Phương thấy cửa phòng mở ra, đôi chân của Lỗ Khôn bước vào, cửa phòng lại đóng vào.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Có kẻ địch đến tìm chúng ta, con biết không?

Lỗ Khôn nói:

– Là ai vậy? Đệ tử không biết.

– Người này đóng vai một thầy lang bán thuốc, hôm nay đến nhà ta.

Thích Phương nghĩ bụng: “Lẽ nào ông ấy biết vị lang trung ấy là ai, người ấy rốt cuộc là ai?”

Lỗ Khôn nói:

– Đệ tử có nghe Ngô sư đệ nói. Sư phụ, kẻ địch ấy là ai?

– Người này cải trang, ta không tận mắt nhìn thấy, chưa đoán ra. Sớm mai con đến vùng phía bắc thành dò la cho kỹ. Bây giờ con ra trước đi, đợi ta còn có việc sai bảo.

Lỗ Khôn vâng lệnh đi ra.

Vạn Chấn Sơn lại gọi đệ tử thứ tư Tôn Quân, đệ tử thứ năm Bốc Viên vào, nói chuyện cũng giống như thế, bảo Tôn Quân đến phía nam thành điều tra, Bốc Viên đến phía đông thám thính. Khi dặn Bốc Viên lại thuận miệng thêm một câu:

– Để Ngô Khảm đi thám thính phía tây thành, Phùng Thản và Thẩm Thành tiếp ứng báo tin. Vạn sư ca của con vết thương chưa lành, không thể đi được.

Bốc Viên nói:

– Vâng, Vạn sư ca còn phải nghỉ ngơi nhiều.

Rồi Bốc Viên, Tôn Quân mở cửa bước ra.

Thích Phương biết rằng tất cả những lời ấy đều là cố ý nói cho Ngô Khảm nghe khiến hắn khỏi sinh nghi. Lại nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Ngô Khảm vào đây!

Giọng nói giống như khi gọi bọn Lỗ Khôn, không nghiêm khắc hơn, cũng không đặc biệt dịu dàng.

Thích Phương thấy cửa phòng lại mở, khi chân phải của Ngô Khảm bước tới thềm có chút ngần ngừ nhưng cuối cùng cũng bước vào. Đôi chân bước tới trước Vạn Chấn Sơn mấy bước rồi dừng lại, Thích Phương thấy trường bào của hắn rung rung biết hắn sợ hãi đang run rẩy.

Nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Có kẻ địch tìm đến chúng ta, con đã biết chưa?

Ngô Khảm nói:

– Đệ tử ở ngoài cửa nghe sư phụ nói là tên thầy lang bán thuốc. Người này là do đệ tử gọi đến khám bệnh cho Vạn sư ca, thật không ngờ lại là kẻ địch, xin sư phụ tha thứ.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Người ấy cải trang, con không nhận ra, cũng không trách con được. Sớm mai, con đến phía tây thành thám thính, nếu thấy hắn thì chú ý quan sát động tĩnh của hắn.

Ngô Khảm thưa:

– Vâng!

Đột nhiên hai chân Vạn Chấn Sơn động đậy, lão đứng phắt dậy. Thích Phương không kìm được, thò tay vén một góc rèm, nhìn ra ngoài. Mới nhìn một cái, cô sợ hãi thất sắc, suýt kêu thét lên.

Hai tay Vạn Chấn Sơn đã bóp chặt yết hầu Ngô Khảm, Ngô Khảm sử kình cố bóp chặt hai tay Vạn Chấn Sơn nhưng hoàn toàn vô hiệu. Đôi mắt Ngô Khảm lồi ra như mắt cá vàng, mỗi lúc một to.

Hai mu bàn tay của Vạn Chấn Sơn bị móng tay của Ngô Khảm cào xước thành mấy vệt máu, nhưng lão vẫn bóp chặt cổ họng Ngô Khảm, mỗi lúc một chặt. Ngô Khảm không kêu được một tiếng, thân hình hắn giãy giãy, lát sau hai tay từ từ buông xuống. Thích Phương thấy lưỡi hắn thè ra trông rất dễ sợ, cô cực kỳ kinh hãi. Ngô Khảm không hề nhúc nhích, Vạn Chấn Sơn buông tay, đặt hắn xuống ghế, cầm lấy hai miếng bông đã tẩm nước sẵn, đặt lên mũi và miệng y. Làm như thế hắn không thể thở được nữa cũng không cách gì tỉnh lại được.

Trái tim Thích Phương đập loạn lên, cô thầm nghĩ: “Công công đã nói nhà này là thế gia ở Kinh Châu, không thể tùy tiện giết người, phụ thân của Ngô Khảm nghe nói là thân sĩ ở xứ này, quyết không thể bỏ qua, thế này thì to chuyện rồi đây.”

Chính vào lúc ấy bỗng nghe Vạn Chấn Sơn lớn tiếng quát:

– Việc ngươi làm, mau tự thú nhận đi, lẽ nào còn để ta phải ra tay?

Thích Phương giật thót người: “Thì ra công công nhìn thấy mình rồi.” Nhưng trong lòng lại không cảm thấy sợ mà lại cảm thấy nhẹ đi: “Chết dưới tay lão cũng được, mình đang không muốn sống nữa!”

Đang định chui ra, bỗng nghe thấy Ngô Khảm nói:

– Sư phụ, sư phụ… bảo đệ tử thú nhận cái gì?

Thủy Sinh lại giật bắn mình, sao Ngô Khảm lại nói được? Lẽ nào hắn sống lại? Nhưng rõ ràng là không phải, hắn tựa nghiêng người trên ghế, không hề nhúc nhích. Từ dưới gầm giường nhìn lên thấy miệng Vạn Chấn Sơn đang mấp máy.

“Sao? Là công công nói, không phải là Ngô Khảm nói. Sao lại rõ ràng là giọng của Ngô Khảm?”

Lại nghe Vạn Chấn Sơn lớn tiếng quát:

– Thú nhận cái gì à? Hừ, Ngô Khảm, ngươi to gan thật, trong ứng ngoài hợp, cấu kết với phỉ đồ, muốn gây nên một vụ án lớn ở thành Kinh Châu này à?

– Sư phụ, đệ tử gây… gây án gì?

Lần này thì Thích Phương thấy rõ ràng, đúng là Vạn Chấn Sơn đang bắt chước giọng nói của Ngô Khảm, khó là ở chỗ lão bắt chước rất giống. “Công công có bản lĩnh bắt chước giọng của người khác tài thật, trước nay mình không biết, ông ấy học chước giọng Ngô Khảm nói lớn như thế với dụng ý gì?” Cô mơ hồ nghĩ đến một việc nhưng ý nghĩ còn mông lung chưa rõ, có điều trong lòng có một nỗi sợ hãi kỳ lạ.

Lại nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Hừ, ngươi tưởng là ta không biết phải không? Ngươi dẫn tên thầy lang bán thuốc đến thành Kinh Châu, người này kỳ thực là tên cướp biển, Ngô Khảm, ngươi và hắn cấu kết, muốn xông vào…

– Sư phụ,… xông vào đâu?

– Định xông vào công quán của Lăng tri phủ, trộm một số công văn bí mật, phải không? Ngô Khảm, ngươi… ngươi còn định chống chế?

– Sư phụ… sư phụ làm sao mà biết được? Sư phụ, xin sư phụ niệm tình đệ tử luôn hiếu thuận, tha cho con một lần, đệ tử không dám nữa!

– Một chuyện lớn như vậy, đâu có thể tùy tiện?

Thích Phương phát hiện ra, Vạn Chấn Sơn học chước giọng nói của Ngô Khảm thực ra không giống lắm, chỉ là đè cổ họng xuống, nói ra rất lúm úm, câu nào cũng gọi “sư phụ” đồng thời không ngừng tự xưng “đệ tử”, người ngoài nghe thấy tất sẽ cho là Ngô Khảm đang nói. Huống nữa mọi người đều thấy Ngô Khảm vào phòng, nghe thấy hắn và Vạn Chấn Sơn nói chuyện đến khi tiếp tục nói, giọng tuy không giống lắm nhưng ngoài Ngô Khảm ra thì còn ai vào đó nữa? Lại thêm trong lời của Vạn Chấn Sơn cứ liên tiếp gọi tên “Ngô Khảm”.

Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn nhẹ nhàng nhấc thi thể Ngô Khảm lên, chầm chậm gập lưng hắn lại, tay trái vén tấm rèm ra. Thích Phương sợ đến nỗi trái tim cơ hồ ngừng đập: “Công công chắc chắn là đã phát hiện ra mình rồi, lần này ông ta sẽ bóp chết mình!” Dưới ánh đèn chập chờn chỉ thấy một cái đầu chui vào gầm giường, mắt trợn ngược thật giống đầu cá vàng chết. Thích Phương liền nép mình vào nhường chỗ, nhưng thi thể Ngô Khảm không ngừng tiến sâu vào, đụng đến chân cô, lại đụng đến hông cô.

Lại nghe thấy tiếng Vạn Chấn Sơn ngồi lên ghế, nghiêm giọng quát:

– Ngô Khảm, ngươi còn không quỳ xuống? Ta trói ngươi dẫn đến gặp Lăng tri phủ. Tha hay không là việc của ông ấy, ta không thề quyết định được.

– Sư phụ, sư phụ thật không thể tha cho đệ tử ư?

– Dạy một tên đệ tử như ngươi, họ Vạn ta đã bị ngươi làm mất mặt rồi, ta… ta còn có thể tha ngươi được sao?

Thích Phương nhìn qua khe hở tấm rèm, thấy Vạn Chấn Sơn rút từ bên hông ra một thanh chủy thủ, nhè nhẹ cắm vào ngực mình. Ngực lão rõ ràng là có che một tấm gỗ mềm, bùn nhão, bánh mì hay gì đó sau áo, chủy thủ đâm vào thì cắm phập vào trong những thứ đó.

Thích Phương mới hơi hiểu ra thì lại nghe Vạn Chấn Sơn lớn tiếng:

– Ngô Khảm, sao ngươi còn chưa quỳ xuống?

Rồi lại nén hơi trong họng bắt chước giọng Ngô Khảm, nói:

– Sư phụ, đây là sư phụ ép con, không thể trách đệ tử được!

Vạn Chấn Sơn kêu to một tiếng:

– Ái, ối!

Phóng một cước, đá bật cửa sổ, kêu lên:

– Tiểu tặc, ngươi… ngươi dám hành hung!

Chỉ nghe “bình” một tiếng, có người đạp toang cửa phòng, Vạn Khuê xông vào trước hết. (Y biết lúc nào thì phải phá cửa xông vào). Mấy người Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Viên cũng vào theo. Vạn Chấn Sơn đè chặt ngực, máu chảy ròng ròng qua kẽ ngón tay. (Chắc trong tay lão cầm một bình nước đỏ). Lão lảo đảo, chỉ ra cửa sổ, kêu:

– Ngô Khảm… cái thằng giặc này đâm ta một đao, đào tẩu rồi! Mau… mau đuổi! Nói xong, thân người loạng choạng, ngã xuống giường.

Vạn Khuê kinh hãi kêu lên:

– Gia gia, gia gia, cha bị thương ra sao?

Năm người Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Viên, Phùng Thản, Thẩm Thành kẻ trước người sau nhảy qua cửa sổ, kêu réo inh ỏi, đuổi theo…

Trước phủ sau phủ đều có rất nhiều kêu gào ầm ĩ cả lên.

Thích Phương phục dưới gầm giường, cảm thấy thi thể Ngô Khảm mỗi lúc một lạnh. Cô cực kỳ kinh hãi nhưng không dám nhúc nhích – công công nằm trên giường, chồng đứng trước giường.

Nghe Vạn Chấn Sơn hỏi khẽ:

– Có ai nghi ngờ gì không?

Vạn Khuê đáp:

– Không, cha, cha giả vờ thật giống. Y như dạo giết Thích Trường Phát, không một chút sơ hở.

“Y như dạo giết Thích Trường Phát, không một chút sơ hở!” Câu nói ấy như một nhát chủy thủ đâm thẳng vào trái tim Thích Phương. Cô vốn đã mơ hồ nghĩ đến cái việc cực kỳ đáng sợ ấy, nhưng cô quyết không tin. “Công công luôn đối xử với mình rất hiền từ tử tế, chồng từ trước đến nay ân cần dịu dàng, sao lại giết cha mình?” Nhưng lần này cô tận mắt nhìn thấy, họ bố trí một cái bẫy thật xảo diệu để giết Ngô Khảm. Ngày ấy, cô đứng ngoài thư phòng nghe “phụ thân và Vạn Chấn Sơn tranh cãi”, thấy “Vạn Chấn Sơn bị phụ thân đâm một đao”, thấy “phụ thân vượt cửa sổ đào tẩu”, rõ ràng đó cũng là cái bẫy do Vạn Chấn Sơn bố trí, một kiểu một loại. Lúc ấy, phụ thân đã bị lão hại chết rồi, lão… lão bắt chước giọng của phụ thân, thảo nào tiếng nói của phụ thân lúc ấy cứ lúng búng, rất khác với lúc thường, nếu… không có lúc này ma quỷ đưa đây thê nào mà cô phải nấp dưới gầm giường tận mắt thấy tấn thảm kịch này thì làm sao có thê đoán ra được?

Lại nghe Vạn Khuê nói:

– Còn con tiện nhân ấy thì sao? Chúng ta làm sao có thể tha cho nó được?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Từ từ rồi mổ nó cũng được. Việc ấy cần phải làm sao cho người không biết quỷ không hay đề khỏi làm bại hoại môn phong nhà họ Vạn, bẩn mất thanh danh của cha con ta.

Vạn Khuê nói:

– Vâng, cha nghĩ thật là chu đáo. Ái dà…

Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Thế nào?

Vạn Khuê nói:

– Vết thương trên mu bàn tay con lại đau rồi.

Vạn Chấn Sơn “ầy” một tiếng. Lão tuy mưu kế đa đoan nhưng với việc này thì cũng đành bó tay.

Thích Phương chầm chậm thò tay mò vào trong túi Ngô Khảm, chiếc bình sứ nhỏ lạnh toát đang ở trong túi áo hắn. Cô lấy ra đặt vào túi mình, trong lòng đau khổ: “Tam ca, tam ca, huynh chỉ nghe được nửa câu chuyện mà hiểu nhầm muội với thằng giặc này có điều ám muội. Huynh không muốn nghe cho rõ vì thế cũng không nghe được rằng cái bình thuốc giải này ở trong tay hắn. Phụ thân của huynh đã giết hắn, chẳng cần khó khăn gì cũng lấy được bình thuốc giải, nhưng rốt cuộc là các người không biết được.

Bọn mấy người Lỗ Khôn đuổi bắt Ngô Khảm không được, lục tục quay về, đến trước giường Vạn Chấn Sơn thăm hỏi. Vạn Chấn Sơn để lộ ngực, những băng vải từ cổ vòng qua trước ngực, vòng ra sau lưng, lại vòng lên cổ. Lần này sư phụ “bị thương” không “nặng” như lần trước, võ công của Ngô Khảm không bằng sư thúc Thích Trường Phát. Nhát đao này đâm không sâu, không có gì đáng ngại. Các đệ tử đều yên tâm, người nào cũng chửi Ngô Khảm vong ân phụ nghĩa, đều nói ngày mai phải đến nhà phụ thân hắn thanh toán, xin sư phụ bảo trọng, rồi mọi người lui ra. Vạn Khuê ngồi trước giường chăm sóc cha.

Thích Phương chỉ muốn tìm cơ hội đào tẩu, cô phải ở bên xác chết của Ngô Khảm, chán ghét vô kể, lại sợ cha con họ Vạn phát hiện, có điều nghĩ không ra cách đào tẩu.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Chúng ta trước hết phải xử lý cái xác chết, đừng để lộ.

Vạn Khuê nói:

– Hay là lại làm như cách làm đối với Thích Trường Phát?

Vạn Chấn Sơn mỉm cười trầm ngâm, nói:

– Vẫn là cách cũ.

Thích Phương rơi nước mắt: “Họ đã đối phó với phụ thân mình như thế nào?”

Vạn Khuê nói:

– Lại xây vào trong tường à? Cha ngủ ở đây, e không tốt lắm.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Cha tạm chuyển đến ở với con. Chỉ sợ còn có chuyện phiền toái. Người ta sao lại dễ dàng đem kiếm phổ trao vào tay chúng ta? Hai cha con ta cần phải hợp lực đối phó. Tương lai phát đại tài, còn lo gì không có chỗ ở?

Thích Phương nghe đến chữ “xây” chợt như có một tia chớp lóe qua đầu, lập tức hiểu rõ: “Họ… họ đã đem thi thể cha xây vào trong tường, giấu xác chết xóa tung tích, thảo nào cha ra đi không bao giờ trở lại, không có tin tức gì cả. Thảo nào công công… không, không phải công công, thảo nào cái lão gian tặc Vạn Chấn Sơn cứ nửa đêm giờ tí lại dậy xây tường. Lão làm việc xấu xa, trong lòng bất an, bị bệnh mộng du trong giấc ngủ cũng dậy xây tường. Lão gian tặc này… lão gian tặc này mà cũng bất an trong lòng à? Điều này cũng lạ. Không, không phải là lòng lão cảm thấy bất an, lão hết sức đắc ý với cái việc xây tường ấy, ngay cả trong lúc ngủ cũng cứ phải lần này lượt khác… vừa nãy lão xây tường trong mộng chẳng phải là cứ luôn mỉm cười đó sao?”

* * *

Chỉ nghe thấy Vạn Khuê nói:

– Cha, rốt cuộc là kiếm phổ này có chỗ nào hay? Cha cứ bảo là chúng ta sắp phát đại tài, sắp giàu to, có thể giàu nhất thiên hạ à? Lẽ nào… lẽ nào đây không phải là bí quyết võ công, mà là vàng bạc của cải?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Đương nhiên không phải là bí quyết võ công, những điều viết trong kiếm phổ là chỉ nơi giấu một kho báu. Cái lão Mai Niệm Sinh ấy, mỡ heo bọc mất trái tim, định đem kiếm phổ này truyền cho người ngoài, hi hi, cái lão đáng chết. Khuê nhi, mau, mau lấy kiếm phổ ra.

Vạn Khuê hơi tần ngần, rút cuốn sách từ trong người ra. Thì ra sau khi Thích Phương giấu quyển sách vào trong bụng cái quạt thóc, Vạn Khuê đã lén theo lấy đi.

Vạn Chấn Sơn nhìn con trai một cái, cầm lấy cuốn sách, giở từng trang ra. Bộ Đường thi này những trang gần bìa đều bị ngấm nước máu chưa khô, còn những trang giữa thì chưa bị ướt.

Vạn Chấn Sơn hạ giọng nói:

– Cha con ta có giữ được kiếm phổ này không, thật khó nói. Trước hết chúng ta phải tra cho rõ những điều áo bí trong sách, lỡ có bị người ta cướp mất, cũng không sao. Con cầm cây bút tới đây, ghi lại cẩn thận. Chiêu thứ nhất của “Liên thành kiếm pháp” là ở trong bài thơ “Xuân quy” của Đỗ Phủ.

Lão thấm nước miếng vào ngón tay, làm ướt một bên bài thơ “Xuân quy” của Đỗ Phủ, khẽ kêu lên một tiếng vui mừng:

– Là chữ thứ tư! Đúng, “Đài kinh lâm giang trúc”, chữ thứ tư là chữ “giang”, con ghi đi. Chiêu thứ hai, vẫn là thơ Đỗ Phủ, ở bài “Trùng kinh Chiêu lăng”.

Lão lại thấm nước miếng vào ngón tay, làm ướt một bên trang sách:

– Ôi, là chữ thứ “năm mươi mốt”!

Lão cứ đếm từng chữ từng chữ:

– Năm, mười, mười lăm, hai mươi… “Lăng tẩm bàn không khúc, Hùng bi thủ thúy vi.” Chữ thứ năm mươi mốt là chữ “lăng”. “Giang lăng”, “Giang Lăng”, diệu cực, hay quá, thì ra quả nhiên là ở Kinh Châu.

Vạn Khuê nói:

– Cha, cha nói nhỏ một chút!

Vạn Chấn Sơn tủm tỉm cười, nói:

– Đúng rồi! Không thế đắc ý vong hình. Khuê nhi, tâm huyết một đời của cha, thế là không phí hoài, bí mật lớn này rốt cuộc đã được chúng ta khám phá ra!

Đột nhiên, lão gấp sách lại, vỗ đùi đánh đét, hạ giọng nói:

– Vì sao kẻ địch lại đưa kiếm phổ này vào tay cha, cha hiểu rõ rồi!

– Là vì duyên cớ gì? Con nghĩ mãi không ra.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Kẻ địch được kiếm phổ, không tìm ra được bí mật trong đó, thì có tác dụng cái rắm gì? “Liên thành kiếm pháp” của chúng ta, tên gọi mỗi chiêu đều là một câu thơ Đường, người của môn phái khác, dù võ công có như trời đi nữa thì cũng không thể nào biết được. Trên thế giới này chỉ có cha và Ngôn Đạt Bình mới biết chiêu thứ nhất là câu thơ nào, chiêu thứ hai lại là câu thơ nào. Vậy mới biết chữ thứ nhất phải tìm trong bài thơ “Xuân quy”, chữ thứ hai phải tìm trong bài thơ “Trùng kinh Chiêu lăng”.

Vạn Khuê nói:

– Tên gọi các chiêu của “Liên thành kiếm pháp” này chẳng phải là cha đã dạy chúng con rồi sao?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Tên thì đúng, nhưng thứ tự thì rối loạn cả.

Vạn Khuê buồn bã:

– Cha, đến con mà cha cũng không dạy kiếm pháp thật.

Vạn Chấn Sơn có vẻ bối rối, nói:

– Cha có tám đệ tử, mọi người hôm sớm đều ở chung, nếu chỉ dạy một mình con, họ nhất định cũng sẽ biết, như thế thì thật không hay.

Vạn Khuê “ầy” một tiếng, nói:

– Âm mưu của kẻ địch nhất định là thế này. Hắn biết dùng nước làm ướt trang giấy thì sẽ có dấu chữ hiện ra, vì thế cố ý đưa kiếm phổ vào tay chúng ta, lại cố ý thấm ướt khiến chúng ta tra ra bí mật nằm trong kiếm phổ, đế chúng ta đi tìm kho báu, hắn sẽ dùng cách “cường đạo gặp kẻ cướp” để cướp của chúng ta.

Vạn Chấn Sơn gật gù:

– Đúng thế! Chúng ta mỗi bước đều phải đề phòng, chớ để cho bao nhiêu công khó nhọc của chúng ta đổ ra mà không lấy được kho báu, đến cả tính mạng cũng mất nốt.

Lão lại thấm ướt ngón tay tìm chữ thứ ba, nói:

– Chiêu thứ ba là ở bài thơ “Thánh Quả tự” của Xử Mặc, ba mươi ba, chữ thứ ba mươi ba, “Hạ phương thành quách cận, Chung khánh tạp sinh ca.” A, là chữ “thành” trong bài thơ này, “Giang Lăng thành”, đúng rồi, đúng rồi! Còn nghi ngờ gì nữa? Ái chà, sao ngứa dữ thế này?

Lão đưa tay phải gãi gãi lên mu bàn tay trái, cảm thấy tay phải cũng ngứa, lại đưa tay trái lên gãi gãi tay phải, rồi lại xem kiếm phổ, nói:

– Chiêu thứ tư này, là chữ thứ hai mươi tám, ầy, năm, mười, mười lăm… chữ thứ hai mươi tám là chữ “nam”. “Giang Lăng thành nam”, ha ha, ối! Ngứa quá!

Lão cúi xuống nhìn bàn tay trái, thấy trên mu bàn tay có ba ngấn mực, cảm thấy sờ sợ: “Hôm nay mình không viết chữ, sao trên mu bàn tay lại có vết mực đen?” Rồi cảm thấy hai mu bàn tay mỗi lúc một ngứa, nhìn bàn tay phải cũng có mấy ngấn mực ngang ngang dọc dọc.

Vạn Khuê “a” lên một tiếng, nói:

– Cha, ở… ở đâu ra vậy? vết này giống như vết rết độc của Ngôn Đạt Bình cắn.

Vạn Chấn Sơn được lời Vạn Khuê nhắc, cảm thấy hai tay càng ngứa râm ran, nhịn không nối đưa cả hai tay ra gãi cuống cuồng.

Vạn Khuê kêu lên:

– Đừng gãi, là… là móng tay của cha bị dính chất độc đấy.

Vạn Chấn Sơn kêu tướng:

– Ái chà! Quả là thế thật!

Lão lập tức tỉnh ngộ:

– Con dâm phụ kia đem kiếm phổ ngâm vào trong nước máu, trong máu của con có độc rết… Cái thằng giặc Ngô Khảm kia không chịu chết cho yên lại còn cào trên tay ta bao nhiêu là vết xước chảy máu. Mẹ cha nó, độc rết ngấm vào vết xước, may mà không nhiều, xem ra cũng không ngại lắm. Á, sao mỗi lúc một đau, ái chà, ái chà.

Lão không nhịn được rên rỉ.

Vạn Khuê nói:

– Cha, cha trúng độc không nhiều, con đi lấy nước mưa cho cha rửa.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Phải rồi!

Rồi lão lớn tiếng gọi:

– Đào Hồng, Đào Hồng! Đem nước tới đây!

Vạn Khuê lông mày nhăn tít, nghĩ: “Cha sợ đến nỗi hoảng cả lên, Đào Hồng đã bị cha đuổi rồi, bây giờ còn gọi mụ ta.” Hắn cầm một cái chậu đồng rửa mặt, lấy một chậu nước mưa từ trong cái vại hứng ngoài thềm, bưng vào đặt lên bàn. Vạn Chấn Sơn vội đưa hai tay vào trong chậu nước lạnh, mát mẻ, bớt ngứa ngay.

Nào ngờ độc rết trên tay Vạn Khuê gặp phải thuốc giải, máu đen chảy ra cũng là một chất kịch độc, độc tính còn ghê gớm hơn cả nọc độc của con rết kia. Mu bàn tay của Vạn Chấn Sơn bị Ngô Khảm cào thấu thịt gặp phải chất kịch độc nên trúng độc còn sâu hơn cả Vạn Khuê.

Hai tay lão ngâm vào trong chậu nước trong một lúc, một chậu nước đã biến thành đen như mực.

Cha con họ Vạn nhìn nhau thất sắc. Vạn Chấn Sơn đưa hai bàn tay lên, không kìm được “a” lên một tiếng kêu thất thanh, thấy hai bàn tay sưng tấy lên như hai quả cầu. Vạn Khuê nói:

– Ái dà, e rằng không được ngâm nước!

Vạn Chấn Sơn đau đớn điên cuồng, mắng:

– Ngươi đã biết là không được ngâm nước sao còn múc nước đến, chẳng phải là có ý hại ta sao?

Vạn Khuê cũng đau nhảy dựng lên:

– Con vốn cũng không biết, chứ sao lại có ý hại cha?

Thích Phương ở dưới gầm giường nghe hai cha con cãi nhau, trong lòng cũng không biết là buồn bã hay vui mừng vì có cơ hội trả thù.

Nghe Vạn Chấn Sơn kêu:

– Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Vạn Khuê nói:

– Trên lầu con có một ít thuốc giảm đau, tuy không thề giải độc nhưng cũng có thể bớt đau đớn một lúc, cha có cần bôi một chút không?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Được, được, được! Mau đem lại đây!

Vạn Khuê nói:

– Có hiệu quả hay không con cũng không biết, e rằng càng bôi càng khó lành, rồi cha lại đá con.

Vạn Chấn Sơn chửi:

– Đồ khốn kiếp! Còn chưa chịu đi à? Cha mày đẻ ra mày, có đá mày một đá thì đã làm sao? Đi mau, mau đi lấy lại đây!

– Vâng!

Vạn Khuê quay mình bước đi.

Hai tay Vạn Chấn Sơn sưng vù lên, hai mu bàn tay đen sì, nhẵn bóng không có một nếp nhăn nào, như một cái bong bóng lợn thối căng, mỗi lúc một căng phồng, như sắp nổ ra, lão gào lên:

– Tao đi với mày! Không… không thể chậm trễ được.

Lão nhét kiếm phổ vào trong áo, lao ra khỏi phòng, vượt lên trước Vạn Khuê.

* * *

Thích Phương nghe tiếng hai người đã đi xa vội từ dưới gầm giường bò ra, tần ngần: “Đi đâu được bây giờ?” Ngơ ngẩn như người mất hồn không biết làm sao, chỉ cảm thấy trời đất mênh mang chống chếnh mà mình không một chỗ an thân: “Họ đã hại chết cha mình, thù này há không báo? Nhưng mối thù sâu tựa bể này biết báo cách nào đây? Nói về võ công, cơ trí mình kém công công và tam ca quá xa, huống nữa họ cho rằng mình có tư tình với Ngô Khảm, thấy mình là giết ngay, mình làm sao mà chống đỡ? Trước mắt chỉ có đi… đi tìm Địch sư ca, rồi sẽ tính. Nhưng lại không biết huynh ấy bây giờ đang ở đâu? Còn Không Tâm Thái? Mình làm sao bỏ rơi con được?” Vừa nghĩ đến con gái, cô lập tức co chân chạy về phía lầu, quyết bồng con gái chạy trốn, rồi sẽ nghĩ cách báo thù sau.

Trong lòng cô còn không hoàn toàn dám xác định cha con họ Vạn đã thật sự hại chết phụ thân cô. Vạn Chấn Sơn là kẻ lòng lang dạ sói, đó là điều chắc chắn. Nhưng còn Vạn Khuê? Tình yêu đối với chồng thật khó mà quyết tuyệt.

Cô chạy đến dưới lầu nghe thấy tiếng Vạn Chấn Sơn quát tháo, nghĩ bụng: “Kêu kiểu ấy thì Không Tâm Thái thức giấc mất.” Nghĩ đến con phải kinh hãi, cô không còn quan tâm đến nguy hiểm của bản thân mình nữa, rón rén bước lên lầu, cẩn thận không để cầu thang phát ra tiếng động. Phòng ngủ nhỏ của Không Tâm Thái ở ngay sau phòng của vợ chồng cô, chỉ cách một lớp ván mỏng.

Thích Phương rón rén đi vào phòng nhỏ, ánh sáng bên phòng kia chiếu qua, cô thấy con gái mở mắt tròn xoe, đã tỉnh dậy từ lâu, mặt đầy vẻ sợ hãi. Vừa trông thấy mẹ, cái miệng nhỏ méo xệch rồi khóc vang lên. Thích Phương vội vàng nhảy tới, ôm nó vào lòng ra hiệu bảo nó không được lên tiếng. Không Tâm Thái vừa rất thông minh vừa biết nghe lời lập tức im thin thít, hai mẹ con ôm nhau nằm trên giường.

Nghe Vạn Chấn Sơn kêu toáng lên:

– Không xong, không xong, thuốc giảm đau này càng bôi càng đau, cần phải tìm được thằng cha lang băm kia dùng thuốc giải của hắn mới được.

Vạn Khuê nói:

– Vâng ạ, chỉ có thuốc giải ấy mới trị được độc này. Đợi trời sáng bảo Lỗ đại ca và các anh em cùng đi tìm lang trung ấy, vết thương trên tay con cũng đau lăm.

Vạn Chấn Sơn tức giận:

– Làm sao mà chờ được đến sáng? Ái dà, ái dà! Chịu không nổi nữa, chịu không nổi nữa!

Bỗng chân lão bủn rủn, ngã phịch xuống, lăn lộn kêu gào:

– Mau, mau! cầm lấy kiếm, chặt đứt đôi tay cho ta! Mau chặt tay ta!

Nghe trong phòng tiếng đổ vỡ loảng xoảng đồ đạc bị đập phá tanh bành.

Không Tâm Thái sợ quá ôm chặt lấy mẹ mặt tái mét. Thích Phương đưa tay nhè nhẹ vuốt ve an ủi nhưng không dám lên tiếng.

Vạn Khuê cũng hết sức kinh hoảng, nói:

– Cha… cha, nhẫn nại một chút, tay của cha làm sao mà chém đi được? Chúng ta mau tìm thuốc giải mới phải.

Vạn Chấn Sơn đau đớn không chịu nổi, quát:

– Ngươi sao không chém đứt hai tay ta? A, biết rồi, ngươi… ngươi muốn ta chóng chết đế một mình nuốt chửng kiếm phổ, muốn một mình đi tìm kho báu…

Vạn Khuê nổi giận:

– Cha, cha đau đến mất trí rồi, mau lên giường ngủ một lát. Con không biết thứ tự các chiêu kiếm thì được kiếm phổ cũng có tác dụng gì?

Vạn Chấn Sơn không ngừng lăn lộn, nói:

– Ngươi bảo ta mất trí, ngươi cũng có lòng dạ bất lương. Ta đau muốn chết… muốn chết… xé quách đi, không ai được hết.

Bỗng, mắt lão đỏ nọc lên, rút kiếm phổ từ trong người ra, đưa tay xé nát từng trang, mười ngón tay của lão ngón nào cũng sưng phồng lên to như củ cà rốt, động tác không linh hoạt được nhưng vẫn xé được mấy trang.

Vạn Khuê cả sợ, kêu lên:

– Đừng xé, đừng xé!

Rồi giơ tay đoạt lấy. Hắn chụp được nửa quyển kiếm phổ, Vạn Chấn Sơn thì giữ chặt nửa kia, nắm chắc không buông. Kiếm phổ này đã bị ngâm trong nước máu chưa khô, mềm nhũn, hai người giành giật một lúc đã toạc làm đôi. Vạn Khuê ngẩn người ra, Vạn Chấn Sơn vẫn xé. Vạn Khuê không cam lòng để cho kho báu đã tới tay bỗng hóa thành mây khói, vội đưa tay ra đẩy phụ thân. Hai người lăn lộn trên nền nhà tranh cướp, lăn lăn lộn lộn khiến kiếm phổ càng rách tả tơi.

Bỗng nghe thấy tiếng Vạn Khuê rú dài:

– Ôi giời ơi… hỏng rồi… độc lại thấm vào vết thương của con, ái ái, đau quá!

Hai người lôi lôi kéo kéo, chất độc thấm vào vết thương trên tay Vạn Khuê. Khoảnh khắc mu bàn tay Vạn Khuê lại sưng vù lên đau đến tận tim. Hắn bị thương đã lâu, sức chịu đựng rất yếu, chất độc vừa thấm vào vết thương, theo máu đi lên, phát tác rất nhanh. Hai cha con lăn đi lăn lại quay cuồng trên sàn lầu, gào rú thê thảm.

Thích Phương nghe hồi lâu, rốt cuộc vợ chồng tình sâu, không thể không quan tâm, bèn đứng dậy, bước đến cửa, lạnh lùng nói:

– Sao thế? Hai người làm gì vậy?

Cha con họ Vạn thấy Thích Phương, trong cơn đau đớn không còn lòng dạ nào mà tức giận nữa.

Vạn Khuê kêu:

– Phương muội, mau đi tìm vị lang trung kia, nhờ ông ta chế thuốc giải, ái, ối giời, ối giời ơi… thật là… thật là đau chết mất, xin muội…

Thích Phương thấy hắn đau vã mồ hôi, lòng lại mềm đi, rút cái bình sứ ra, nói:

– Đây là thuốc giải!

Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê thấy cái bình sứ, cùng giãy giụa bò tới, cùng nói:

– Hay quá! Mau, mau bôi cho ta.

Thích Phương thấy ánh mắt Vạn Chấn Sơn hung dữ tham lam như dã thú, nghĩ nếu không nhân lúc ngặt nghèo này đế tra thì làm sao biết rõ được chân tướng, bèn nói:

– Khoan đã, ai động đậy một chút, tôi sẽ ném giải dược qua cửa sổ, rơi vào ao nước, mọi người đều chết!

Nói rồi đẩy cánh cửa sổ mở ra, lại mở nắp bình, treo bình thuốc ra ngoài cửa sổ, chỉ cần buông tay một cái, chiếc bình sứ sẽ rơi vào nước, không còn tác dụng nữa.

Cha con họ Vạn lập tức nằm im, nhìn nhau kinh sợ. Vạn Chấn Sơn bỗng nói:

– Con dâu hiền, con đưa thuốc giải cho ta, ta sẽ cho con đi theo Ngô Khảm, xa chạy cao bay, quyết không ngăn cản, ngoài ra còn cho con một ngàn lạng bạc, để hai người sống lâu dài… úi giời ơi, đau quá… Con đã có lòng dạ khác, Khuê nhi cũng không giữ con được nữa… con… con yên tâm mà đi.

Thích Phương nghĩ bụng: “Người này thật là ti bỉ vô sỉ, Ngô Khảm rõ ràng là đã bị lão tự tay bóp chết, lại còn lừa người.”

Vạn Khuê cũng nói:

– Phương muội, huynh tuy không thể bỏ được muội, nhưng chẳng còn cách nào, huynh hứa là không làm khó Ngô Khảm.

Thích Phương cười nhạt một tiếng nói:

– Hai người tệ hại quá thể, lại còn có ý nghĩ ti bỉ như vậy. Tôi chỉ hỏi một câu, các người trả lời cho thật, tôi lập tức cho thuốc giải.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Được, được, hỏi mau đi, ối ối, úi giời!

Một cơn gió từ ngoài cửa sổ thổi vào, khiến những mảnh giấy vụn bay lên như bươm bướm. Giấy vụn từ kiếm phổ bị xé, từng mảnh từng mảnh bay ra ngoài cửa sổ. Bỗng, một đôi bướm màu bay lên, chính là đôi bướm bằng giấy cô cắt năm nào, kẹp trong tập thơ. Hai con bướm giấy chao lượn trong phòng, rồi cũng bay qua cửa sổ. Thích Phương chua xót trong lòng nhớ lại cảnh cùng vui vẻ bện giày với Địch Vân trong hang núi. Thế giới lúc bấy giờ tốt đẹp biết bao, trong trời đất không hề có chuyện thương tâm.

Vạn Khuê giục giã:

– Mau hỏi đi! Việc gì? Huynh không có gì là không nói.

Thích Phương lặng người, hỏi:

– Cha tôi đâu? Các người đã làm gì cha tôi?

Vạn Chấn Sơn gượng cười:

– Con hỏi việc cha con, ta… ta cũng không biết. Ái giời ơi… Ta rất nhớ vị lão sư đệ… Ái, ái! Sư huynh đệ lại thành sui gia, ái giời ơi, thật là hay.

Thích Phương sa sầm mặt, nói:

– Lúc này mà còn nói những lời giả dối ấy thì được ích gì? Cha ta bị ngươi hại chết, phải không? Ngươi đã giết cha ta như giết Ngô Khảm, phải không? Ngươi đã đem thi thể cha ta xây vào tường, phải không?

Thích Phương hỏi liền ba tiếng “phải không”, cha con họ Vạn sợ hãi cùng cực, không ngờ cô không những biết phụ thân của mình bị hại, đến cả việc Ngô Khảm bị giết cũng biết rồi. Vạn Khuê lắp bắp hỏi:

– Sao… sao muội biết?

Hắn nói “sao muội biết”, tức là trực tiếp thừa nhận việc ấy. Thích Phương trong lòng đau đớn, lửa giận bốc lên, muốn buông tay cho thuốc giải rơi vào bảy cái chum nước dưới cửa sổ. Vạn Khuê thấy tình thế nguy cấp, lấy thế muốn vọt lên chụp lấy. Vạn Chấn Sơn quát:

– Khuê nhi, không được hấp tấp!

Lão biết trong tình thế này cướp đoạt thì hỏng việc.

Bỗng, cọt kẹt mấy tiếng, Không Tâm Thái chân trần từ phòng nhỏ chạy ra, kêu lên:

– Mẹ, mẹ!

Muốn nhào vào lòng Thích Phương.

Vạn Khuê nảy linh cơ, chìa tay trái ra, ngang giữa chừng ôm lấy con gái, tay phải móc cây chủy thủ ra, chĩa vào thiên linh cái (thóp) con bé, quát lên:

– Được, một nhà ta, lớn bé hôm nay đều chết cả, ta giết Không Tâm Thái trước rồi hãy nói chuyện sau!

Thích Phương hốt hoảng, vội kêu:

– Mau buông nó ra, liên can gì đến con?

Vạn Khuê nghiêm giọng nói:

– Cả nhà không thể sống được, ta phải giết Không Tâm Thái trước.

Mũi chủy thủ dứ dứ trên đầu Không Tâm Thái.

Thích Phương nói:

– Không, không!

Cô nhào tới cứu, chụp lấy cổ tay Vạn Khuê.

Vạn Chấn Sơn tuy đang đau thấu xương, nhưng rốt cuộc lão vẫn là người từng trải, thấy Thích Phương lao qua bèn lấy cùi chỏ huých lên, đánh mạnh vào hông cô, nhanh tay đoạt lấy cái bình sứ trong tay cô, vội vàng đố thuốc lên mu bàn tay. Vạn Khuê cũng đưa tay ra lấy thuốc giải. Thích Phương giành lại được con gái, ôm chặt vào lòng.

Vạn Chấn Sơn phóng chân đá cô ngã nhào, tiện tay cởi luôn dây lưng, trói chặt hai tay cô ra sau lưng, lại trói chặt cả hai chân. Không Tâm Thái gào lên:

– Mẹ, mẹ, mẹ!

Vạn Chấn Sơn trở tay tát cho nó một cái, con bé ngất xỉu, nhưng cái tát ấy làm tay lão bị động mạnh lại kêu toáng lên: “Ái dà!”

Thuốc giải thật linh nghiệm, hai người bôi thuốc, chỉ chốc lát nước máu đã chảy ra, đau đớn giảm dần, biến thành tê ngứa, lát sau tê ngứa cũng giảm. Hai cha con yên tâm, biết là đã lượm lại được cái mạng, thấy những mảnh giấy vẫn lất phất bay qua cửa sổ, hai người cùng kêu lên:

– Hỏng bét!

Nhào tới ngăn lại.

Nhưng những mảnh giấy rách đã bết lại, quá nửa đã rơi vào những chum nước bên dưới cửa sổ, một ít nữa thì đang bay lả tả ngoài cửa sổ. Vạn Chấn Sơn kêu:

– Mau, mau, mau chụp lấy!

Hai người lao xuống lầu, gắng hết sức chụp lấy những mảnh giấy vụn đang bay lả tả. Nhưng hàng ngàn mảnh giấy vụn mảnh thì phất phới bay ra ngoài tường bao, mảnh thì bị gió cuốn lên cao. Hai cha con lao đông nhào tây như điên như cuồng, nhưng làm sao có thể nhặt nhạnh được những mảnh vụn, làm sao có thể chắp được vô số mảnh vụn thành kiếm phổ?

Vạn Chấn Sơn tuy bớt đau nhưng nỗi đau trong lòng lại càng ghê gớm, khí giận hừng hực, lớn tiếng mắng nhiếc con trai:

– Toàn vì thằng tiểu tặc nhà mi, tranh đoạt với ta làm chi? Nếu mày không lôi kéo, kiếm phổ đâu có bị rách nát thế này?

Vạn Khuê thở dài, không lao đi nhặt giấy vụn nữa, ngao ngán nói:

– Nếu con không ngăn lại, cha còn xé kiếm phổ nát bét hơn kia.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Đánh rắm!

Lão biết con trai nói đúng nhưng vẫn cứ hò hét:

– Đánh rắm, đánh rắm, đánh rắm!

Vạn Khuê nói:

– May mà chúng ta đã biết chỗ ấy là ở phía nam thành Giang Lăng, thử tra lại trong bản kiếm phổ rách nát, chỉ cần dò ra một chút đầu mối nữa, thì cũng có thê tìm ra.

Vạn Chấn Sơn bỗng hung phấn lên, nói:

– Không sai, nơi ấy là ở “Giang Lăng thành nam”…

Bỗng nghe ở bên ngoài tường có tiếng người khe khẽ nhắc lại:

– “Giang Lăng thành nam”!

Cha con họ Vạn giật nảy mình, cùng nhảy ra đứng trên mặt tường, nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy bóng lưng hai người thấp thoáng chạy vào con hẻm nhỏ.

Vạn Khuê quát:

– Bốc Viên, Thẩm Thành, đứng lại!

Nhưng hai người không quay đầu cũng không đứng lại, chạy như bay. Vạn Chấn Sơn muốn nhảy xuống đuổi theo. Vạn Khuê nói:

– Cha, trên lầu còn có… còn có… con dâm phụ kia.

Vạn Chấn Sơn nghĩ lại, gật gật đầu.

* * *

Hai cha con lại lên lầu, thấy bé Không Tâm Thái đã tỉnh lại, ôm lấy mẹ khóc ròng. Thích Phương chân tay đã bị trói đang an ủi con gái. Không Tâm Thái thấy ông nội và cha quay lại, “òa” lên một tiếng, khóc vang.

Vạn Chấn Sơn đá vào mông con bé, mắng:

– Lại khóc, một nhát đao mổ bụng con ranh này.

Không Tâm Thái sợ tái mét mặt, im thin thít. Vạn Khuê hạ giọng nói:

– Cha, con dâm phụ này biết hết mọi chuyện rồi, không thể để nó sống được, xử trí nó thế nào đây?

Vạn Chấn Sơn hơi trầm ngâm, rồi nói:

– Hai đứa ngoài tường vừa nãy, con nhìn rõ là Bốc Viên và Thẩm Thành à?

Vạn Khuê nói:

– Đúng là hai đứa ấy, không sai được! Chỉ sợ bí mật đã bị tiết lộ, chúng biết là ở phía nam thành Giang Lăng.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Không nên chậm trễ, cần phải ra tay ngay. Con dâm phụ này, phải xử trí như cha nó.

Thích Phương đã sớm không quan tâm đến sự sống chết, chỉ còn không yên lòng về con gái. Cô nói:

– Tam… tam ca, muội và huynh đã là vợ chồng, huynh giết muội cũng không sao, sau khi muội chết, huynh hãy đối xử tốt với Không Tâm Thái!

Vạn Khuê nói:

– Được!

Vạn Chấn Sơn hầm hầm:

– Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ, há để lại họa thai? Con bé này ranh mãnh tinh quái, việc hôm nay nó đều nhìn thấy hết, lấy gì đảm bảo nó không nói ra?

Vạn Khuê chầm chậm gật gật đầu. Hắn rất yêu con gái, nhưng lời của phụ thân cũng rất đúng, nếu lưu lại họa thai, cái mầm tai họa này tương lai sẽ gây hậu họa cực lớn.

Thích Phương nước mắt ròng ròng, nghẹn ngào nói:

– Các… các người lòng lang dạ sói, đến… đến đứa con bé bỏng cũng không buông tha sao?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Chặn họng nó lại, đừng để nó kêu gào, làm cho cả thiên hạ đều biết!

Thích Phương nghĩ đến con gái khó toàn mạng, bỗng cất tiếng gào to:

– Cứu với, cứu tôi với!

Trong đêm tĩnh mịch hai tiếng kêu “cứu mạng” xé rách màn đêm vọng đi thật xa.

Vạn Khuê nhảy phóc đến, đưa tay bịt miệng cô, Thích Phương vẫn gào to:

– Cứu mạng, cứu mạng!

Nhưng miệng đã bị bịt, tiếng kêu tắc lại.

Vạn Chấn Sơn xé một mảnh trên vạt trường bào của con trai đưa cho Vạn Khuê, Vạn Khuê liền nhét búi giẻ vào miệng Thích Phương. Vạn Chấn Sơn nói:

– Đem nó chôn vào một chỗ với Thích Trường Phát, cha con cùng huyệt, tuyệt lắm.

Vạn Khuê gật đầu, ôm Thích Phương lên, mạnh chân chạy xuống lầu. Vạn Chấn Sơn ôm Không Tâm Thái. Bốn người đến thư phòng.

Thích Phương nhìn bức tường trắng ở phía tây thư phòng, nghĩ: “Cha mình bị lão tặc chôn vào trong bức tường kia à?”

Vạn Chấn Sơn nói:

– Ta tới đục tường, con đi kéo Ngô Khảm lại đây! Cẩn thận, đừng để người ta nhìn thấy.

Vạn Khuê đáp:

– Vâng!

Rồi chạy vào phòng Vạn Chấn Sơn.

Vạn Chấn Sơn rút ngăn kéo, trong đó đầy những kích, dùi, lưỡi xẻng… các thứ dụng cụ đều đầy đủ. Lão lấy ra đặt bên chân tường, nhìn bức tường trắng, hai tay đo đo, quay đầu nhìn Thích Phương một cái, mặt lộ vẻ đắc ý. Thích Phương lạnh buốt. Vạn Chấn Sơn cầm cái đột sắt và cái choòng, ngắm kỹ vị trí trên bức tường, nhằm vào kẽ giữa hai hàng gạch, xỉa cái choòng vào. Lão nạy một viên gạch, đưa tay lắc lắc mấy cái rồi rút ra, động tác rất là thuần thục… Sau khi lấy viên gạch ra, lão đưa lên mũi ngửi ngửi.

Thích Phương thấy động tác đục tường của lão, nhớ lại các động tác đục tường, đẩy thi thể, xây tường trong cơn mộng du của lão lúc nãy mà rợn tóc gáy, đến khi thấy lão ngửi ngửi mùi xác chết của phụ thân trong hốc tường thì vừa sợ, vừa đau lòng vừa phẫn nộ, cất tiếng mắng nhiếc:

– Đồ gian tặc nhà ngươi, lão gian tặc vô sỉ!

Nhưng miệng bị nhét đầy giẻ chỉ phát ra được những tiếng ú ớ.

Vạn Chấn Sơn lại đào khối gạch thứ hai, bỗng có tiếng bước chân gấp gáp, Vạn Khuê hộc tốc chạy đến, hổn hển nói:

– Cha, cha! Không xong rồi, Ngô Khảm… Ngô Khảm…

Hắn đụng phải cái bàn, tiếng loảng xoảng vang lên, cái đèn dầu rơi xuống đất, trong phòng tối đen chỉ thấy ánh trăng rọi qua lớp giấy bồi cửa sổ mờ mờ.

Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Ngô Khảm thế nào? Nhặng xị cả lên, không nén được tức giận à?

Vạn Khuê nói:

– Không thấy Ngô Khảm nữa!

Vạn Chấn Sơn chửi:

– Nói như rắm! Sao không thấy?

Nhưng giọng lão hơi run, rõ ràng lòng đầy sợ hãi, “bốp” một tiếng, viên gạch đang cầm trong tay rơi xuống đất.

Vạn Khuê nói:

– Con thò tay xuống dưới gầm giường của cha để kéo thi thể ra, nhưng mò không được, thắp đèn lên soi dưới gầm giường, cái xác đã không còn nữa. Con tìm khắp sau rèm, sau tủ, chỗ nào cũng tìm nhưng không thấy gì cả.

Vạn Chấn Sơn trầm ngâm, lát sau mới nói:

– Thật là… thật là quái gở. Ta đoán là bọn Bốc Viên, Thẩm Thành lại giở trò ma.

Vạn Khuê nói:

– Cha, phải chăng… hay là… cái thằng Ngô Khảm đó chưa chết, nín thở một lúc, lại sống lại?

Vạn Chấn Sơn nổi giận:

– Nói như rắm, bố mày ngoại hiệu là “Ngũ vân thủ”, công phu lợi hại lẽ nào bóp một thằng đồ đệ nhãi nhép mà bóp không chết?

Vạn Khuê nói:

– Vâng, lẽ ra Ngô Khảm phải bị gia gia bóp chết rồi, nhưng không biết sao lại không thấy thi thể nữa? Lẽ nào… lẽ nào…

– Lẽ nào làm sao?

– Lẽ nào thật có việc xác chết biết đi? Oan hồn của hắn…

Vạn Chấn Sơn thét:

– Đừng nói bậy! Chúng ta mau xử trí con dâm phụ và con quỷ con này, rồi hãy tìm xác Ngô Khảm. Khéo rồi chuyện vỡ lở, cha con ta không còn chỗ dung thân ở đất Kinh Châu này.

Nói rồi lão càng khẩn trương đục hết viên gạch này đến viên gạch khác. Lão đào gạch xây tường trong mộng đã quen, ra tay rất thành thạo, lúc này tuy không có đèn đuốc gì mà đào đục vẫn rất nhanh.

Vạn Khuê nghe lời cha, đáp:

– Vâng!

Rồi, đao trên tay, hắn đi đến trước Thích Phương, giọng run run:

– Phương muội, là muội có lỗi với huynh. Muội chết rồi, đừng oán huynh!

Thích Phương không cách gì nói được, né mình, dùng đầu vai huých mạnh vào y. “Cha con họ Vạn muốn giết mình thì đã đành, nhưng đến Không Tâm Thái họ cũng không tha, thật là lòng lang dạ sói trên đời hiếm có!” Vạn Khuê bị huých một cú, thân hình hơi loạng choạng lùi lại hai bước, vung đao, chửi:

– Con dâm phụ này, chết đến nơi còn ngông cuồng.

Đúng vào lúc ấy bỗng nghe mấy tiếng “cách cách cách” vang lên, cửa thư phòng từ từ mở ra. Vạn Khuê giật nảy mình, quay đầu lại, dưới ánh trăng thảm đạm chỉ thấy cửa phòng bị đẩy ra mà không thấy người.

Vạn Chấn Sơn quát hỏi:

– Ai?

Cửa phòng lại “cách cách, cách cách” mấy tiếng, vẫn không có người trả lời.

Dưới ánh sáng mờ mờ bỗng thấy từ trong cửa một người nhảy ra, người này cứ ngật ngưỡng đi tới, đầu gối không co duỗi. Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê đều kinh hãi lùi lại hai bước.

Chỉ thấy người kia hai mắt trợn ngược, lưỡi lè ra, mũi miệng đầy máu, chính là Ngô Khảm vừa bị Vạn Chấn Sơn bóp chết. Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê cùng rú lên “a… a…”

Thích Phương thấy cảnh tượng đáng sợ, trái tim như ngừng đập.

Ngô Khảm không nhúc nhích, hai tay từ từ giơ lên, chìa về phía Vạn Chấn Sơn.

Vạn Chấn Sơn quát:

– Tiểu tặc Ngô Khảm, bố mày sợ… sợ… cái xác biết đi… này… này sao?

Lão rút đao ra, nhằm đầu Ngô Khảm bổ xuống, bỗng cảm thấy cổ tay tê dại, đơn đao cầm không vững, “keng” một tiếng rớt xuống đất. Rồi bên hông cũng tê dại, toàn thân không nhúc nhích được.

Vạn Khuê sợ chết cứng, thấy xác của Ngô Khảm sau khi “trêu” phụ thân lại chìa thẳng hai tay từ từ chụp về phía mình, chỉ muốn kêu lên “Ngô sư đệ, Ngô sư đệ! Tha cho huynh!” Nhưng tiếng nói nghẹt cứng trong họng, không thốt ra được. Hắn lùi hai bước, chân bủn rủn, ngã phịch xuống đất. Chỉ thấy tay phải Ngô Khảm thõng xuống, sờ lên mặt y, ngón tay lạnh buốt. Vạn Khuê sợ đến hồn xiêu phách lạc, suýt ngất đi.

Bỗng thân hình Ngô Khảm ngã sấp xuống, đè lên người Vạn Khuê, không hề động đậy.

Đằng sau Ngô Khảm, sừng sững một người.

Người này bước đến bên cạnh Thích Phương, rút búi giẻ trong miệng cô ra, hai tay vuốt xuống mấy cái, dây trói Thích Phương đứt hết, rồi người ấy xoay mình, đá mạnh một cú vào bên hông Vạn Khuê, toàn thân y lập tức mềm nhũn.

Thích Phương trước hết ôm lấy Không Tâm Thái, run giọng hỏi:

– Ân công là ai mà cứu mạng tôi?

Hai tay người ấy chìa ra, dưới ánh trăng, thấy trong mỗi tay người ấy có một con bướm được cắt bằng giấy hoa, chính là hai con bướm giấy kẹp trong cuốn “Đường thi tuyển tập”, khi chúng bị gió thổi bay xuống lầu người ấy đã lượm được. Thích Phương dụi mắt, thấy bàn tay phải của người ấy năm ngón đều không có, kêu lên thất thanh:

– Địch sư ca!

Người ấy chính là Địch Vân, nghe tiếng gọi “Địch sư ca” trong ngực bỗng cảm thấy ấm áp, không cầm được nước mắt trào ra. Chàng kêu lên:

– Phương muội, trời thương đến, muội… muội và huynh hôm nay lại được gặp nhau!

Thích Phương lúc này như một lá thuyền bé nhỏ lênh đênh trên biển mênh mang trước gió to sóng dữ bỗng gặp một bờ vịnh sóng yên gió lặng, nhào vào lòng Địch Vân, thổn thức:

– Sư ca, đây… đây… đây không phải giấc mộng chứ?

Địch Vân nói:

– Không phải là mộng, Phương muội, hai đêm nay huynh đều ở đây quan sát. Những việc làm thương thiên hại lý của hai cha con họ Vạn huynh đều thấy hết. Thi thể của Ngô Khảm, hừm, là do huynh cầm đến để dọa chúng một mẻ!

Thích Phương kêu lên:

– Gia gia, gia gia!

Cô đặt Không Tâm Thái xuống, lao đến trước hốc tường, thò tay vào mò trong hốc tường, nhưng cảm thấy trống không. “A” lên một tiếng, cô run giọng nói:

– Không… không có.

Địch Vân thắp cây bùi nhùi soi vào trong hốc tường, chỉ thấy đầy gạch đá vôi vữa chứ nào có thi thể của Thích Trường Phát. Chàng nói:

– Ở đây không có, không có gì cả.

Thích Phương lấy một cây nến đầu giường Vạn Chấn Sơn, châm lửa, đưa vào trong góc tường soi rõ nhìn kỹ, đâu có thi thể của phụ thân, thi thể của ai cũng không có. Cô vừa sợ vừa mừng, trong lòng còn một tia hy vọng: “Hay là gia gia không bị họ hại chết?” Cô quay lại hỏi Vạn Khuê:

– Tam… tam ca, cha tôi rốt cuộc thế nào?

Vạn Khuê và Vạn Chấn Sơn lại không biết cô không phát hiện được thi thể trong hốc tường, chỉ cho rằng cô thấy thi thể của phụ thân rồi sẽ ra tay báo thù. Vạn Chấn Sơn ngang nhiên nói:

– Đại trượng phu dám làm dám chịu, Thích Trường Phát là do ta giết, ngươi xông tới mà báo thù đi.

Thích Phương nói:

– Cha ta thật bị ngươi giết à? Thế thì… thi thể của cha ta đâu?

Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Sao? Người chết trong hốc tường ấy lẽ nào lại không phải là hắn?

Thích Phương nói:

– Ở đây có người chết nào đâu?

Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê nhìn nhau, mặt mày tái mét, có vẻ không tin. Địch Vân kéo Vạn Chấn Sơn dậy cho lão thò đầu vào hốc tường mà nhìn.

Vạn Chấn Sơn run giọng:

– Trên đời quả… quả có xác chết biết đi à? Ta… rõ ràng… rõ ràng…

Bỗng lão đổi giọng:

– Con dâu ngoan… ta… ta lừa con đó, huynh đệ ta tuy bất hòa nhưng cũng không đến nỗi hạ độc thủ. Sao con lại tin là ta giết cha con thật? Ha ha, ha ha.

Bản lĩnh nói láo của lão vốn rất cao, nhưng lúc này lão đang hốt hoảng, miệng ngọng lưỡi cứng, lời nói láo thốt ra cứ lúng búng không ai tin được. Nếu như lão quật cường cứng cỏi thì Thích Phương và Địch Vân còn một chút hy vọng, chứ lão nói như thế hai người càng tin chắc lão đã hại chết Thích Trường Phát.

Địch Vân vỗ mạnh một chưởng vào vai lão, nói:

– Vạn sư bá, bác hại tôi rõ khổ, tất cả những việc ấy bất tất phải nhắc lại. Tôi chỉ hỏi sư bá: rốt cuộc có phải bác đã hại chết sư phụ tôi không?

Nói rồi chàng vận nội công “Thần chiếu kinh”, Vạn Chấn Sơn cảm thấy như toàn thân rơi vào một lò lửa, tựa hồ như máu cũng sôi lên, không chịu đựng nổi. Nghĩ đến thi thể Thích Trường Phát không biết đi đâu lão hoảng hốt, lòng dạ rối bời, không còn có ý kháng cự nữa, lão nói:

– Không… không sai. Thích Trường Phát là do ta giết.

Địch Vân lại hỏi:

– Thi thể của sư phụ tôi đâu? Bác đã đặt ở chỗ nào?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Rõ ràng là ta đã đem y xây vào hốc tường này, là xác biến… biến mất sao?

Địch Vân hằm hằm nhìn lão, nhớ lại mấy năm qua, mình đã phải trải qua vô cùng vô tận khổ nạn, toàn là do sự hãm hại của hai cha con nhà này, lúc này Vạn Chấn Sơn lại tự thú nhận đã giết chết sư phụ, chàng sao cho khỏi lửa giận bốc lên ngùn ngụt? Nếu không phải là đã được gặp lại Thích Phương trong lòng niềm vui lớn hơn nỗi buồn thì chàng đã một chưởng lấy mạng lão. Chàng nghiến răng, nhấc Vạn Chấn Sơn lên, “bình” một tiếng, ném lão vào trong chỗ hổng bức tường. Thân thể Vạn Chấn Sơn to lớn, làm rơi mấy viên gạch mới lọt vào trong.

Thích Phương “a” lên một tiếng, kêu khẽ. Địch Vân lại nhấc thân thể Vạn Khuê lên, lại ném vào trong hốc tường Vạn Chấn Sơn mới đục thêm, nói:

– Một trả một, cha con lão hãm hại sư phụ, chúng ta cũng đối phó với họ như vậy.

Chàng nhặt những viên gạch dưới đất, xây kín hốc tường, trong khoảnh khắc, đã xây xong.

Thích Phương giọng run run:

– Sư ca… sư ca, huynh đã báo mối đại thù cho cha. Nếu không có huynh đến… Sư ca, thi thể của người này phải làm sao?

Cô chỉ vào xác Ngô Khảm.

– Chúng ta đi thôi! Những chuyện ở đây đừng quan tâm nữa.

Thích Phương nói:

– Hai người đã xây vào trong tường, còn chưa chết, nếu có người đến cứu…

Địch Vân nói:

– Người ta làm sao biết được trong tường có người? Chúng ta dời xác Ngô Khảm đi, người ngoài càng không đến đây điều tra. Hai người này chẳng sống được bao lâu nữa.

Chàng nhấc thi thể Ngô Khảm đi đến thư phòng, vẫy tay gọi Thích Phương:

– Đi thôi!

Hai người nhảy qua tường nhà họ Vạn, Địch Vân ném xác Ngô Khảm, hỏi:

– Sư muội, chúng ta đi đâu bây giờ?

Thích Phương hỏi:

– Huynh nghĩ gia gia có thật là đã bị họ hại chết không?

Địch Vân nói:

– Chỉ mong sư phụ vẫn khỏe mạnh. Có điều nghe Vạn Chấn Sơn nói, thì e rằng… thì e rằng sư phụ đã gặp nạn, chúng ta phải điều tra cho rõ ràng.

Thích Phương nói:

– Muội phải về lấy một ít đồ đạc, huynh đợi muội ở cái từ đường đổ nát bên kia.

Địch Vân nói:

– Để huynh đi với muội tốt hơn.

– Không, không nên! Nếu bị người ta nhìn thấy thì thật bất tiện.

– Huynh đi với muội tốt hơn, họ Vạn còn có những đệ tử khác, chẳng có ai là người tốt cả.

Thích Phương nói:

– Không sao. Huynh bồng Không Tâm Thái, đợi muội ở bên kia.

Không Tâm Thái trải qua một phen khủng khiếp, không chịu nổi, đã ngủ vùi trong lòng mẹ.

* * *

Địch Vân từ trước đến nay luôn nghe lời Thích Phương, thấy cô có vẻ kiên quyết, không dám trái ý, đành bồng con bé, thấy Thích Phương đã nhảy tường vào nhà họ Vạn, liền đi về phía từ đường, đẩy cửa bước vào.

Qua thời gian khoảng nấu xong bữa cơm, vẫn không thấy Thích Phương quay lại, Địch Vân lo lắng, muốn vào nhà họ Vạn đón cô nhưng sợ cô không vui, bồng Không Tâm Thái đi đi lại lại trước từ đường. Nghĩ đến việc cuối cùng lại được gặp sư muội, nỗi vui mừng không sao tả xiết, nhưng từ trong đáy lòng lại mơ hồ sợ hãi, không biết sư muội có chịu để cho mình bầu bạn với cô ấy mãi mãi không. Chàng cứ khấn thầm: “Ông trời hãy che chở, tôi đã nếm trải bao nhiêu đau khổ, hãy cho tôi từ nay về sau được ở bên cô ấy, che chở, chăm sóc cho cô ấy. Tôi không dám mong được làm chồng cô ấy, chỉ cần ngày ngày ngày được nhìn thấy cô ấy, cô ấy ngày ngày gọi tôi hai tiếng “Sư ca”. Ông trời ơi, tôi suốt đời suốt kiếp không cầu xin ông điều gì nữa.”

Bỗng chàng nghe thấy từ trong từ đường có tiếng lách cách, hình như là có người. Địch Vân nghiêng người, đứng im dưới cửa sổ. Lát sau, có tiếng đấy cửa, có người bước ra.

Trong bóng tối, thấp thoáng thấy một mụ ăn mày đầu bù tóc rối, Địch Vân không đề ý, chỉ nghĩ:“Sao Phương muội còn chưa trở lại?”

Không Tâm Thái trong mơ bỗng “òa” lên một tiếng, sợ hãi khóc to, kêu:

– Mẹ, mẹ!

Mụ ăn mày giật mình, co rúm lại trong góc hành lang, ôm chặt lấy đầu. Địch Vân khẽ vỗ vỗ Không Tâm Thái, dịu dàng nói với con bé:

– Đừng khóc, đừng khóc! Mẹ sắp đến rồi, mẹ sắp đến rồi!

Mụ ăn mày nghe thấy tiếng trẻ con, Địch Vân lại không có ý làm hại mụ, đánh bạo đứng lên, từ từ bước đến gần giúp chàng ru Không Tâm Thái:

– Bảo Bảo ngoan, đừng khóc, mẹ sắp đến rồi!

Mụ hạ giọng thì thầm nói với Địch Vân:

– Một người khi ngủ lại thấy ma, có người nửa đêm dậy xây tường, không… không… đừng hỏi tôi…

Địch Vân hỏi:

– Mụ nói gỉ?

Mụ ăn mày nói:

– Không… không có gì. Lão gia đuổi tôi. Ông ấy không cần tôi nữa, trước đây, khi tôi còn trẻ, ông ấy rất thích tôi. Người ta nói: một ngày chồng vợ trăm ngày ái ân, trăm ngày chồng vợ nghĩa tình thâm… Sẽ có ngày lão gia gọi tôi trở lại, sê có ngày lão gia gọi tôi trở lại.

Địch Vân trong lòng chấn động: “Sư muội đối với chồng cô ấy, lẽ nào không nhớ tình xưa?” Bỗng cảm thấy ngực tắc nghẹn, đầu choáng váng, bồng Không Tâm Thái chạy ra khởi từ đường.

Chàng quyết không đoán ra, mụ ăn mày bẩn thỉu này chính là Đào Hồng, kẻ năm ấy đã hãm hại chàng.

———————-

[1]       Thành ngữ, ý nói: lấy chồng thì phải theo chồng, dù không ra gì cũng không bỏ được

Hồi 12: Kho báu

Địch Vân vượt tường vào, đến thư phòng của Vạn Chấn Sơn. Trời đã tờ mờ sáng, trong ánh sáng tờ mờ thấy một người nằm dưới đất, lại chính là Thích Phương. Địch Vân cả sợ, vội đánh lửa, thắp cây nến trên bàn, dưới ánh nến, thấy thân hình Thích Phương đầm đìa máu tươi, một cây chủy thủ cắm trên bụng.

Bên cạnh cô là cả một đống gạch ngổn ngang, tường đã bị thủng một lỗ hổng lớn, cha con họ Vạn đã không còn ở đó nữa.

Địch Vân cúi mình quỳ xuống bên cạnh Thích Phương, gọi:

– Sư muội, sư muội!

Chàng sợ hãi toàn thân run rẩy, giọng không thốt ra nổi, đưa tay sờ lên mặt Thích Phương, cảm thấy còn hơi ấm, mũi còn thở nhẹ. Chàng hơi định thần, lại gọi:

– Sư muội!

Thích Phương từ từ mở mắt, mặt thoáng một nét cười khổ, thều thào nói:

– Sư ca… muội… muội có lỗi với huynh.

Địch Vân khẽ nói:

– Muội đừng nói. Huynh… huynh đến cứu muội.

Chàng nhẹ nhẹ đặt Không Tâm Thái xuống một bên, tay phải ôm lấy thân thể Thích Phương, tay trái cầm lấy cây đoản đao muốn rút ra. Nhưng thấy lưỡi đao cắm sâu vào bụng cô, rút cây đao ra thì cô sẽ chết ngay lập tức, nên không dám rút, lo lắng không biết làm sao.

– Làm sao đây? Làm sao đây? Ai… ai đã hại muội?

Thích Phương cười khổ:

– Sư ca, người ta nói: một ngày chồng vợ… ôi, đừng nói nữa, muội… huynh đừng trách muội. Muội không nỡ nhẫn tâm, đến cứu chồng muội ra… y… y…

Địch Vân nghiến răng nói:

– Hắn… hắn… hắn lại đâm muội một đao, có phải không?

Thích Phương cười khổ, khẽ gật gật đầu.

Địch Vân lòng đau như dao cắt, mắt thấy Thích Phương tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, nhát đao của Vạn Khuê đâm cô ghê gớm đến thế, dẫu thế nào cũng không thể cứu được nữa. Trong lòng chàng lại có một con rắn độc của nỗi ghen tuông đang cắn rứt: “Muội… muội rốt cuộc vẫn yêu chồng, thà mình chết cũng phải cứu hắn.”

Thích Phương thều thào:

– Sư ca, huynh nhận lời với muội chăm sóc cho Không Tâm Thái, coi nó là… là con gái của huynh.

Địch Vân ngậm ngùi, không nói, gật gật đầu, nghiến chặt răng:

– Thằng giặc ấy… đi đâu rồi?

Ánh mắt Thích Phương dại đi, giọng nói mơ hồ như vọng về từ cõi xa xăm:

– Trong hang núi ấy… hai con bướm hoa bay vào, Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài… Sư ca, huynh nhìn, huynh nhìn kìa! Một con là huynh, một con là muội. Hai đứa mình… bay đi bay lại như thế, mãi mãi không phân ly, huynh bảo có tốt không?

Giọng cô nhỏ dần, hơi thở yếu dần.

Địch Vân một tay ôm Không Tâm Thái, một tay ôm Thích Phương nhảy qua bức tường nhà họ Vạn ra ngoài. Chàng vốn muốn cho một mồi lửa đốt rụi nhà họ Vạn, nhưng rồi lại nghĩ: “Nhà này mà bị cháy thì cha con họ Vạn không trở về nữa, muốn báo thù cho sư muội thì phải để ngôi nhà này lại.”

Địch Vân chạy đến mảnh vườn hoang nơi Đinh Điển qua đời, đào một cái huyệt dưới gốc mai chôn thi thể Thích Phương, cây đoản đao thì giữ bên mình. Chàng quyết tâm dùng cây đao này lấy mạng cha con họ Vạn.

Chàng đau lòng đến nỗi không khóc được, chỉ tự trách mình: “Sao không đánh chết hai tên ác tặc trước khi nhét chúng vào hốc tường? Vì sao lại sơ suất đến thế để sư muội bị chúng hại chết?”

Không Tâm Thái khóc hoài không nín, cứ kêu gào:

– Mẹ, mẹ!

Nó kêu đến nỗi Địch Vân tâm thần hoảng loạn. Thế là chàng tìm một nhà nông ở ngoài thành Giang Lăng, gửi mười lạng bạc nhờ một bà nông dân chăm sóc con bé.

Chàng ngày ngày đêm đêm rình quanh nhà họ Vạn, nửa tháng trôi qua, không hề thấy tung tích cha con họ Vạn. Điều quái lạ là mấy người bọn Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Viên, Phùng Thản, Thẩm Thành cũng “bốc hơi” đâu hết không hề đến nhà họ Vạn. Bọn đầy tớ thì hoảng loạn cuống cuồng như đám nhặng xanh, có đứa bắt đầu ăn trộm đồ đạc trốn đi, có đứa thì cãi lộn đánh mắng nhau.

Trong thành Giang Lăng lại có rất nhiều nhân vật võ lâm từ bốn phương tám hướng tụ về.

Một buổi tối, Địch Vân nghe cuộc trò chuyện của mấy nhân vật giang hồ hào khách:

– Bộ Liên thành kiếm quyết kia thì ra là giấu trong một bộ “Đường thi tuyển tập”, bốn chữ đầu là “Giang Lăng thành nam”.

– Đúng đấy, mấy ngày nay nhiều người nghe phong thanh mà tìm đến. Nhưng không biết sau bốn chữ kia còn những chữ gì.

– Cần gì biết những chữ sau nữa? Chúng ta chỉ cần phục ở phía nam thành Giang Lăng. Có người đào kho báu, cho họ lấy rồi mình chặn đường cướp.

– Không sai. Dù không cướp được thì ít nhất cũng được chia một phần. Người thấy là có phần, anh em ta không được chút gì sao?

– Hi hi! Các hiệu sách trong thành Giang Lăng mấy hôm nay người mua “Đường thi tuyển tập” rõ nhiều. Hôm nay tớ đến một hiệu sách, còn chưa mở miệng, người bán sách đã hỏi: “Đại gia ngài muốn mua “Đường thi tuyển tập” phải không? Bộ sách này chúng tôi mua từ Hán Khẩu về, muốn mua xin đến sớm, đến muộn e rằng bán hết rồi.” Tớ rất lấy làm lạ, bèn hỏi: “Sao ông biết tôi muốn mua “Đường thi tuyển tập”?” Đằng ấy đoán xem y nói sao?

– Chả biết! Y nói sao?

– Mẹ nó chứ. Y nói: Không giấu gì lão nhân gia, mấy hôm nay rất nhiều người ngực nở bụng lớn mang đao mang kiếm đến hiệu sách, mười người thì mười một người muốn mua “Đường thi tuyên tập”, năm lạng bạc một quyển, ngài chịu không?

– Tổ cha nó, đâu có sách nào đắt thế?

– Đằng ấy biết giá sách à? Đằng ấy đã mua chưa?

– Ha ha, bố già này cả đời có đến cửa hiệu sách bao giờ. Sách mấy chả vở, bố già này một đời chỉ thích đánh bạc, ăn là được, mua sách xưa nay chưa từng. Hi hi, hi hi!

Địch Vân nghĩ thầm: “Bí mật trong “Liên thành kiếm quyết” đã truyền ra rồi, ai truyền ra nhỉ? Phải rồi, lời của cha con họ Vạn đã bị đám Lỗ Khôn nghe lỏm được. Vạn Chấn Sơn muốn truy cho ra, mấy đứa đồ đệ đào tẩu hết. Thế là người biết càng ngày càng đông.”

Nhớ lại những ngày cùng ở trong tù với Đinh Điển, cũng có nhiều giang hồ hào sĩ nghe phong thanh mà tìm đến nhưng đều bị Đinh Điền đánh chết hết. “Ôi, đại sự của Đinh đại ca còn chưa làm. Việc của Đinh đại ca còn quan trọng hơn việc báo thù của mình.”

* * *

Thân phụ của Lăng tiểu thư là tri phủ phủ Giang Lăng. Địch Vân đến hiệu quan tài, hiệu bán bia mộ lớn nhất thành Giang Lăng để nghe ngóng, biết được phần mộ của Lăng tiểu thư táng ở trên một ngọn đồi nhỏ cách cửa đông thành Giang Lăng mười hai dặm.

Chàng mua cái cuốc chim, một cái xẻng, đi ra cửa đông, tìm đến phần mộ. Trên bia mộ đề: “Ái nữ Lăng Sương Hoa chi mộ”. Trước mộ không có hoa cũng không có cây. Lăng cô nương lúc sống rất yêu hoa tươi, phụ thân của nàng lại chẳng trồng cho nàng lấy một cây.

“Ái nữ, ái nữ, hi hi, ngươi thực yêu con gái ư?” Chàng cười nhạt, nghĩ đến Đinh Điển và Thích Phương, không cầm được nước mắt.

Vạt áo chàng đẫm ướt vì nước mắt nhớ thương Thích Phương, trước mộ Lăng Sương Hoa lại thấm thêm nước mắt.

Quanh quả đồi không có nhà cửa, lại ở rất xa đường lớn nên chẳng có người qua lại. Nhưng ban ngày cũng không thể đào mộ. Đợi mãi đến khi trời tối chàng mới bắt đầu đào, lại đào cả những phiến đá bao quanh, quan tài hiện ra.

Trải qua mấy năm gian nan khốn khổ, Địch Vân đã không còn dễ xúc động, không dễ dàng rơi lệ, nhưng dưới ánh trăng thê lương ảm đạm, thấy cỗ quan tài nhớ đến Đinh đại ca vì cỗ quan tài này mà chết lại không thể không đau lòng đau lòng rơi lệ. Lăng Thoái Tư đã bôi chất kịch độc “Kim ba tuần hoa” lên cỗ quan tài này, tuy ngày tháng đã lâu rồi, hơn nữa khi đem cỗ quan tài này đi chôn chắc cũng đã lau chất độc đi rồi nhưng chàng không dám đụng tay vào nắp quan tài. Chàng rút cây huyết đao, lách mũi đao vào kẽ hở nắp quan tài khẽ nạy lên. Cây huyết đao này chém sắt chặt đá như không, gặp gỗ chỉ như thái đậu phụ, chàng không cần dùng sức đã có thể nhanh chóng bóc được nắp quan tài.

Bỗng thấy trong quan tài hai cánh tay đã rữa nát vẫn còn giơ lên, nắp quan tài vừa bay ra, hai cánh tay liền rơi xuống như là đang cử động. Địch Vân giật mình, thầm nghĩ: “Tại sao khi nhập quan hai cánh tay Lăng tiểu thư lại giơ lên như thế? Thật lạ lùng.” Chỉ thấy trong quan tài không có áo liệm cũng không có chăn và vải liệm. Lăng tiểu thư chỉ mặc một bộ áo quần mỏng.

Địch Vân lầm rầm khấn:

– Đinh đại ca, Lăng tiểu thư, hai người khi sống không được thành vợ chồng, sau khi chết ý nguyện được chôn chung một mồ cuối cùng đã được đền bù. Huynh tẩu có thiêng cũng có thể ngậm cười nơi chín suối.

Chàng mở cái bao mang trên lưng, mở ra, dốc tro thi hài Đinh Điển lên thi thể Lăng Tiểu thư. Chàng quỳ dưới đất cung cung kính kính lạy bốn lạy, rồi đứng dậy, lấy cái túi đựng tro bao tay lại rồi nhắc cái nắp lên, định đậy quan tài lại.

Dưới ánh trăng nghiêng soi, thấy phía trong nắp quan tài có nét chữ mờ mờ. Địch Vân ghé lại gần xem, thấy mấy chữ ấy xiên xiên xẹo xẹo, viết rằng: “Đinh lang, Đinh lang, kiếp sau nguyện làm chồng vợ”.

Trong lòng Địch Vân lạnh buốt, ngồi ngay xuống đất, mấy chữ này rõ ràng là khắc bằng móng tay. Chàng trầm ngâm suy nghĩ một lúc bỗng hiểu ra: “Lăng tiểu thư bị phụ thân của nàng chôn sống. Khi bị bỏ vào quan tài nàng vẫn chưa chết. Mấy chữ này là do nàng dùng móng tay khắc lúc sắp chết. Vì thế mà đến khi chết hai tay nàng vẫn giơ lên. Thiên hạ lại có người cha lòng lang dạ sói như thế! Đinh đại ca thủy chung bất khuất, Lăng cô nương thủy chung không phụ Đinh đại ca.

Phụ thân nàng càng chờ càng hận, cuối cùng đã hạ độc thủ thế này đây.” Lại nghĩ: “Lăng tri phủ phát hiện Đinh đại ca vượt ngục, biết nhất định sẽ tìm đến thăm Lăng cô nương, nên đã bôi chất kịch độc “Kim ba tuần hoa” lên ngoài quan tài làm một cái bẫy. Lòng dạ của kẻ này còn độc gấp trăm lần chất độc Kim ba tuần hoa.”

Chàng ghé đến gần cái nắp áo quan, xem lại hai hàng chữ kia một lần nữa. Chỉ thấy dưới hai hàng chữ kia lại có ba hàng chữ, đều là những số: “Năm mươi mốt, ba mươi ba, hai mươi tám…”, Địch Vân hít vào một hơi, nghĩ thầm: “Đúng rồi, Lăng cô nương cho đến khi lâm chung vẫn nhớ tâm nguyện hợp táng với Đinh đại ca. Nàng đã đáp ứng lời Đinh đại ca, nếu có ai hợp táng nàng với Đinh đại ca thì sẽ báo với người đó bí mật của “Liên thành kiếm quyết”. Trong mảnh vườn hoang kia Đinh đại ca đã nói với mình một ít, nhưng chưa nói xong thì chất độc phát mà chết, bí mật trên bản kiếm phổ kia của sư phụ bị nước mắt của sư muội làm ướt mới hiện ra được mấy chữ thì lại bị cha con họ Vạn xé nát. Mình đã nghĩ rằng bí mật kia từ đó tan thành mây khói, nào ngờ Lăng cô nương lại viết ở đây.”

Chàng ngậm ngùi khấn: “Lăng cô nương, cô nương thật là người giữ chữ tín, đa tạ lòng tốt của cô nương, nhưng lòng tôi đã thành tro nguội, hận không thể đào một cái huyệt tự chôn mình, ở bên cạnh cô nương và Đinh đại ca. Chỉ vì đại thù chưa báo, còn phải giết cha con họ Vạn và phụ thân của cô nương. Vàng bạc châu báu trong mắt tôi chỉ như bùn đất.” Nói rồi chàng nhấc cái nắp quan tài, đang sắp đậy lại, chợt một ý nghĩ lóe lên: “A, đúng rồi! Cha con họ Vạn lúc này không biết đang trốn ở đâu, kiếp này chỉ sợ không tìm được chúng, nhưng nếu đem bí mật của kho báu viết lên một chỗ nào dễ thấy, cha con họ Vạn tất nhiên sẽ nghe tin mà đến xem. Không sai, bí mật này là miếng mồi lớn. Cha con họ Vạn dù có nghi ngờ, mười phần cẩn thận cũng không thể không đến xem bí mật này.”

Chàng đặt cái nắp quan tài xuống, xem rõ ràng các chữ số, dùng mũi huyết đao khắc từng chữ từng chữ lên lưỡi xẻng, sau khi khắc xong lại đối chiếu cho khỏi sai rồi mới đậy nắp quan tài, đặt các phiến đá vào xung quanh, cuối cùng đắp mộ lại tử tế.

“Tâm nguyện lớn này đã hoàn thành! Sau khi báo thù xong, phải trồng ở đây mấy trăm cây hoa cúc. Đinh đại ca và Lăng cô nương yêu hoa cúc nhất. Tốt nhất là tìm được loại lục cúc nổi tiếng xuân thủy bích ba.”

* * *

Sáng sớm hôm sau, trên bức tường bên cạnh cửa nam thành Giang Lăng xuất hiện rõ mồn một ba hàng chữ số viết bằng vôi. Mỗi chữ vuông lớn một thước, từ xa đã có thể nhìn thấy: “Bốn, năm mươi mốt, ba mươi ba, hai mươi tám…” Kỳ lạ nhất là mấy hàng chữ này cách mặt đất hơn hai trượng, trong thành Giang Lăng này e rằng không có cái thang nào dài đến thế để có thể trèo lên đến đó mà viết, trừ phi là dùng dây buộc vào mình, từ trên mặt thành thòng xuống treo mình lơ lửng mà viết.

Ở bên chân thành cách mấy hàng chữ kia hơn mười trượng, Địch Vân đóng giả làm ăn mày, cởi chiếc áo bông rách ngồi dưới ánh mặt trời bắt rận.

Người người đổ đến cửa nam, chỉ mấy canh giờ, trên đường phố, trong quán trà… khắp thành Giang Lăng đâu đâu cũng có người bàn tán, cũng có nhiều người đến cửa nam để nhìn tận mắt. Nhưng những chữ số này, ngoài vị trí viết đặc biệt ra thì chẳng có gì là đẹp, những người vô công rỗi nghề xem một lúc, đoán già đoán non một hồi rồi lại bỏ đi, chỉ có mấy kẻ giang hồ hào khách là ở lại.

Trong tay những người này đều cầm một bản “Đường thi tuyển tập”, sao những chữ số trên tường thành lại, nhăn mày nhăn mặt suy nghĩ.

Địch Vân thấy Tôn Quân đến, Thẩm Thành đến. Một lúc sau Lỗ Khôn cũng đến.

Nhưng bọn họ không biết thứ tự các chiêu trong “Liên thành kiếm pháp”, tuy trong tay mỗi người đều có một bản “Đường thi tuyển tập”, tuy những chữ số viết thật to trên tường thành, lại biết rằng những chữ số này nhất định là bí mật trong kiếm phổ, tuy có nghe lỏm được từ sư phụ và con trai lão cách tra tìm bí mật nhưng không biết mỗi chữ số là ở trong bài thơ nào để tra.

Trên đời này chỉ có ba người Vạn Chấn Sơn, Ngôn Đạt Bình, Thích Trường Phát là biết được.

Ba người bọn Lỗ Khôn xì xào bàn bạc. Cách quá xa, Địch Vân không nghe được lời của họ. Chỉ thấy ba người nói chuyện một lúc rồi bỏ đi.

Một lúc sau ba người đều hóa trang quay trở lại. Một người giả làm người bán trái cây gánh một gánh quýt, một người đóng vai bán rau, còn một người giả làm nông phu vác cuốc. Ba người ngồi dưới chân tường thành, chăm chú nhìn người qua lại.

Địch Vân đoán được tâm tư của chúng – chúng đang đợi Vạn Chấn Sơn tới. Chúng không giải được bí mật này, nhưng chỉ cần đi theo Vạn Chấn Sơn thì có thể tìm được kho báu, dù không đoạt được thì cũng hy vọng được chia một phần. Gặp lại sư phụ đương nhiên là nguy hiếm muôn phần, nhưng muốn phát đại tài thì sá gì nguy hiểm.

Bốn chữ số đầu của “Liên thành kiếm phổ” sớm đã được truyền ra – “bốn, năm mươi mốt, ba mươi ba, hai mươi tám”, đó là “Giang Lăng thành nam”. Sau bốn chữ số đó là một dãy chữ số nữa, dẫu có là người ngu xuẩn thì cũng nghĩ đó là những bí mật trong kiếm phổ.

Người đến ngồi dưới chân tường thành mỗi lúc một đông, có người hóa trang, có người thì xuất hiện với bản lai diện mục, Địch Vân đếm cả thảy bảy mươi tám người. Lại một lúc sau, Bốc Viên và Phùng Thản cũng đến, hai đứa không hiểu vì tranh chấp việc gì mà đỏ mặt tía tai, suýt đánh nhau, nhưng rồi cũng bình tĩnh lại, ngồi xuống bên hộ thành hà.

Đợi đến chiều, cha con họ Vạn vẫn không xuất hiện. Đợi đến gần tối, cha con họ Vạn vẫn không xuất hiện. Nhiều người đã mở miệng chửi. Tổ tông nhà họ Vạn bỗng danh tiếng vang lừng, đặc biệt là bà già của Vạn Chấn Sơn.

Trời sắp tối, một người dáng vẻ thầy đồ cầm tờ giấy, một hộp mực, một cây bút, nghiêng nghiêng ngó ngó sao lại mấy hàng chữ trên tường. Một đại hán đang bực bội mà không có chỗ xả hơi, túm lấy người kia, hỏi:

– Ngươi sao những chữ này làm gì?

Thầy đồ nói:

– Lão phu tự có chỗ dùng, tha nhân hà tất vấn dã.

Đại hán kia sừng sộ:

– Ngươi có nói không? Không nói, bố mày tẩn cho bây giờ.

Rồi y vung nắm đấm to như cái tô dứ dứ trên mũi “thầy đồ” nọ.

Thầy đồ run bắn, nói:

– Là người… người ta bảo tôi tới sao.

Đại hán lại quát hỏi:

– Ai bảo ngươi sao?

Thầy đồ đáp:

– Một vị lão tiên sinh. Không… không giấu gì ông, chính là lão tiên sinh Vạn Chấn Sơn đại danh lừng lẫy ở bản thành. Ngài… ngài có dám đắc tội với lão nhân gia không?

Ba tiếng “Vạn Chấn Sơn” vừa buột khỏi mồm y, mọi người vui mừng “ồ” lên. Địch Vân càng vui mừng, trong nỗi vui mừng ấy pha lẫn bao nỗi cừu hận và xót xa.

* * *

Thầy đồ run rẩy đi trước, bước thấp bước cao, chấm chấm phết phết đi về hướng đông, hơn trăm người đi theo từ xa xa. Vạn Chấn Sơn đã không đến thì đi tìm Vạn Chấn Sơn. Chỉ có lão mới am hiểu bí mật. Điều này đã quá rõ. Họ người đông thế mạnh quyết bức Vạn Chấn Sơn phải đi tìm kho báu. Nhiều người khen đại hán kia:

– May nhờ có ông anh thông minh, tại sao chúng ta lại không nghĩ đến việc Vạn Chấn Sơn sẽ phái người đến sao các chữ số nhỉ? Nếu không có ông anh tụi này cứ đợi bên chân tường thành ba ngày ba đêm, Vạn Chấn Sơn đã bệ mất kho báu rồi.

Đại hán kia rất đắc ý:

– Lão tú tài kiết xác này cứ ma ma quỷ quỷ, tôi đoán việc lão làm chẳng tốt lành gì.

Y nói cứ như việc y làm là tốt lành vậy.

Địch Vân trà trộn trong đám người, thoáng cảm thấy: “Vạn Chấn Sơn là tay cáo già quyết không thể để cho người ta tìm thấy được. Trong việc này chắc chắn có quỷ kế gì đây.”

Lúc đoàn người đã rời cửa nam mấy dặm, Địch Vân ngoảnh đầu lại nhìn về phía tường thành, thoáng thấy một bóng người từ phía tường thành chạy qua nhanh như bay, lao về hướng tây.

Địch Vân nghĩ: “Đám người này bám theo thầy đồ kia, không sợ y chạy mất. Nếu họ tìm được Vạn Chấn Sơn sớm cũng quyết không rời lão. Trong cái thành Giang Lăng to lớn này, muốn tìm cha con họ Vạn thì rất khó khăn nhưng muốn tìm một đám đông huyên náo thì dễ như trở bàn tay, mình hà tất phải đi cùng đám người này.”

Chàng lập tức vụt tới nấp sau một gốc cây, quay mình triển khai khinh công lao về cửa nam, rồi chạy về hướng tây. Địch Vân lao nhanh theo bóng người kia, uống chưa xong chén trà thì đã đuổi kịp. Người kia khinh công rất giỏi nhưng so với Địch Vân thì còn kém xa. Người ấy cũng không hề biết có người bám theo, vẫn cứ vùn vụt lao đi.

Địch Vân thấy người ấy chạy đến trước một căn nhà nhỏ, đẩy cửa bước vào. Địch Vân giữ ở ngoài cửa, đợi người ấy ra. Lát sau, lại thấy ánh đèn hắt ra từ cửa sổ ngôi nhà nhỏ.

Chàng phóng đến bên cửa sổ, qua khe cửa nhìn vào trong nhà, thấy một ông già đang ngồi xoay lưng ra phía cửa sổ, nhìn không thấy mặt.

Ông già kia mở ra một cuốn sách trên bàn, Địch Vân thấy liền biết ngay là “Đường thi tuyển tập”.

Cuốn sách này những ngày gần đây lưu hành rộng rãi trong thành Giang Lăng, ông già này có một bản cũng là chuyện dễ hiểu. Chỉ thấy ông ta lấy ra một cây bút cùn, viết ra trên giấy bốn chữ “Giang Lăng thành nam”, rồi ông ta lẩm nhẩm đếm:

– Năm, mười, mười lăm, mười sáu, chữ thứ mười sáu. Rồi viết lên giấy một chữ “thiên” (chếch về).

Địch Vân giật mình: “Người này có thể tra được chữ trong “Đường thi tuyển tập”, lẽ nào ông ta cũng biết “Liên thành kiếm pháp”?” Nhìn sau lưng thì biết ông ta không phải là Vạn Chấn Sơn. Ông già mặc một bộ áo màu tro cũ kỹ, nhìn không ra thân thế.

Chỉ thấy ông ta tra sách một hồi, bấm đốt ngón tay đếm rồi lại viết ra một chữ, cả thảy hai mươi sáu chữ, với cả bốn chữ đã biết kia nữa là ba mươi chữ:

Giang Lăng thành nam thiên tây

Thiên Ninh tự đại điện Phật tượng

Hướng chi kiền thành mô bái

Thông linh chúc cáo

Như Lai tứ phúc

Vãng sinh cực lạc.”

(Chếch về phía tây nam thành Giang Lăng

Tượng Phật ở đại điện chùa Thiên Ninh,

Thành kính vái lạy tượng Phật,

Cầu khấn thông linh

Như Lai ban phúc

(cho) Vãng sinh cực lạc)

* * *

Lão già nổi giận, nện cán bút xuống bàn, nói:

– “Thành kính vái lạy tượng Phật, cầu khấn thông linh” cái đếch gì, lại “Như Lai ban phúc vãng sinh cực lạc” cái đếch gì! Con mẹ nó chứ, “vãng sinh cực lạc”, thế chẳng phải là bảo người ta đi gặp Diêm Vương sao?

Địch Vân nghe giọng nói của người này quen quen, đang còn suy nghĩ, thì lão già bỗng nghiêng đầu quay mặt lại. Địch Vân vội rùn người nấp xuống dưới cửa sổ, thầm nói: “Là nhị sư bá, thảo nào ông ta biết kiếm chiêu. Đây mà là bí mật gì? Thì ra là đùa cợt người ta.” Nhịn không được tức cười: “Bao nhiêu người phí bao nhiêu tâm huyết, không tiếc tay giết thầy, hại đồng môn, hóa ra chỉ là một lời đùa bỡn người ta.”

Chàng chưa cười ra tiếng, nhưng trong nhà, Ngôn Đạt Bình lại cười lớn:

– Ha ha, bảo ta thành kính vái lạy Phật Như Lai, cầu khấn thông linh, cái lão Bồ Tát thối tha bằng đất sét này lại ban phúc cho ta, ha ha, con mẹ nó chứ, bảo bố mày “vãng sinh cực lạc”. Chúng ta hợp lực giết sư phụ, ba huynh đệ lại tranh đoạt nhau, hóa ra là mọi người tranh nhau “vãng sinh cực lạc”. Mấy trăm anh hùng hảo hán, lưu manh trộm cướp trong thành Giang Lăng tranh đi đoạt lại, đều chỉ vì muốn “vãng sinh cực lạc”, ha ha, ha ha!

Trong tiếng cười lại đầy vẻ thê lương. Lão vừa cười vừa xé tan nát quyến sách giấy vàng.

Bỗng lão đứng im, hai mắt ngơ ngác nhìn ra ngoài cửa sổ.

Địch Vân nghĩ: Sở dĩ mình gặp đại nạn, Thích Phương sở dĩ chết thảm, nguyên nhân đều tại bí mật “Liên thành kiếm quyết” này, không nhịn được cũng muốn cất tiếng cười dài.

Chính lúc ấy, chỉ thấy Ngôn Đạt Bình nhìn ra cửa sổ, tựa hồ như thấy cái gì. Lão lẩm bẩm:

– Đã đến nước này rồi, đi đến chùa Thiên Ninh xem xem, cũng chẳng hại gì. Ở phía nam thành Giang Lăng chếch về tây đúng là có một ngôi chùa cổ.

Lão vẫy tay một cái tắt ngọn đèn dầu, đẩy cửa bước ra, triển khai khinh công chạy về hướng tây.

Địch Vân hơi do dự: “Mình đi tìm Vạn Chấn Sơn chứ? Hay là đi theo Ngôn sư bá? Ầ y, một đám người đông thế kia thì tìm dễ ợt, hay là hãy đi theo Ngôn sư bá xem sao cái đã.” Bèn bám sát theo bóng Ngôn Đạt Bình.

Chưa tới nửa canh giờ, Ngôn Đạt Bình đã đến phía ngoài chùa Thiên Ninh. Trước hết lão ở ngoài chùa nghe ngóng một lúc, lại đi quanh chùa một vòng, nghe thấy trong chùa ngoài chùa đều im ắng, không một bóng người, lão mới đẩy cửa bước vào.

Chùa Thiên Ninh này ở nơi vắng vẻ, lâu năm không được tu sửa, trong chùa cũng không có hòa thượng. Ngôn Đạt Bình đến đại điện, đánh lửa định thắp cây nến trên bệ thờ, dưới ánh lửa thấy lệ nến hình như mới nhỏ ra, hơi giật mình, đưa tay miết miết, quả nhiên lệ nến còn mềm, hẳn là có người mới thắp nến. Lão sinh nghi, thổi tắt mồi lửa, đang định bước ra ngoài xem xét, bỗng cảm thấy sau lưng đau nhói, một lưỡi đao sắc đã cắm vào thân, lão rú lên một tiếng, mất mạng tức thì.

Địch Vân nấp ở sau lớp cửa thứ hai, chỉ thấy ánh lửa tắt, Ngôn Đạt Bình rú lên, biết là lão đã bị ám toán, sự việc xảy ra quá đột ngột, chàng không kịp cứu. Chàng lặng yên bất động, muốn nhìn xem người đã ám sát Ngôn Đạt Bình là ai. Trong tối tăm chỉ nghe thấy một người cười lạnh lẽo “Hi hi hi”. Âm thanh đập vào tai, Địch Vân nổi gai xương sống, tiếng cười thật âm sâm rùng rợn mà lại vô cùng quen thuộc.

Bỗng ánh sáng lóe lên, có người thắp nến, ánh nến chiếu lên thân hình người kia. Người kia chầm chậm quay mặt lại.

Địch Vân suýt buột mồm kêu lên: “Sư phụ!”

Người ấy chính là Thích Trường Phát.

Lão đá vào thi thể Ngôn Đạt Bình một cú, rút thanh trường kiếm sau lưng, lại đâm mấy nhát vào lưng.

Địch Vân thấy sư phụ giết sư huynh đồng môn, thủ đoạn lang độc tàn nhẫn đến thế, hai tiếng “sư phụ” mới đến cửa miệng đã nghẹn cứng lại.

Thích Trường Phát hi hi cười lạnh lẽo:

– Nhị sư ca, sư ca cũng đã tra được bí mật trong “Liên thành kiếm phổ” rồi, phải không? Hi hi! “Giang lăng thành nam thiên tây, Thiên Ninh tự đại điện Phật tượng, hướng chi kiền thành mô bái, thông linh chúc cáo”, ha ha, nhị sư ca, trong kiếm phổ nói “Như Lai tứ phúc vãng sinh cực lạc”, sư ca bây giờ chẳng phải là đã “vãng sinh cực lạc” rồi ư?

Lão quay đầu lại, nhìn pho tượng Phật Như Lai gương mặt hiền từ. Mặt Thích Trường Phát trông gớm ghiếc, hăm hăm nhìn pho tượng một lúc rồi cất tiếng:

– Con mẹ mày chứ, lão phật thối tha kia, giễu cợt bố mày suốt một đời, làm hại ta thật là đến khổ!

Lão vọt lên bệ thờ, vung trường kiếm, “choang choang choang choang” ba tiếng chém mạnh ba nhát vào bụng pho tượng Phật.

Tượng Phật bằng đất sét, nhưng ba nhát kiếm chém vào lại phát ra tiếng choang choang của kim thuộc. Thích Trường Phát ngớ người, lại chém hai nhát, cảm thấy chỗ kiếm chém vào cực kỳ cứng rắn. Lão cầm chiếc nến ghé đến gần xem thử, thấy vết kiếm hằn sâu, lóe ra ánh sáng vàng chói lọi, Thích Trường Phát ngẩn ra, đưa ngón tay lột đất sét ở nơi hai vết chém, thấy lấp lánh phát sáng, bên trong là vàng. Lão không nhịn được reo lên:

– Phật vàng, đều là vàng, đều là vàng!

Pho tượng Phật cao hơn ba trượng, to lớn béo mập, vượt xa những pho tượng bình thường, nếu toàn thân đều toàn bằng vàng đúc thành thì ít ra cũng đến năm sáu vạn cân, chẳng phải kho báu thì còn là gì nữa?

Lão vui sướng phát cuồng, nghĩ ngợi một chút rồi đi vòng ra sau lưng pho tượng, đưa kiếm lên nậy, bóc, thấy ngang eo lưng pho tượng hình như có một cánh cửa chìm nho nhỏ, lão tiếp tục bóc, đất sét rơi lả tả, trường kiếm bóc mấy chục lỗ mới bóc hết đất sét quanh cánh cửa chìm.

Cánh cửa chìm cũng đúc bằng vàng. Thích Trường Phát lách mũi kiếm vào khe hở cạy mấy nhát, mừng không kể xiết, tâm thần hoảng loạn cả lên, “phách” một tiếng, trường kiếm gãy lìa.

Lão đưa nửa thanh kiếm gãy, lại cạy ở phía khác cánh cửa chìm. Cạy mấy nhát nữa thì cánh cửa chìm từ từ rời ra. Thích Trường Phát vứt đoạn kiếm gãy, thò ngón tay nhẹ nhàng gỡ cánh cửa chìm ra, giơ cây nến rọi vào, chỉ thấy trong bụng pho tượng lấp lánh ánh sáng ngọc ngà châu báu xán lạn, không biết trong khoang bụng to lớn này cất giấu bao nhiêu trân châu bảo bối.

Thích Trường Phát nuốt nước miếng, đang muốn thò tay vào trong bụng Phật lôi châu báu ra xem, chợt cảm thấy bệ thờ hơi rung rinh, lão biết có chuyện khác lạ, nhảy phắt xuống, chân trái vừa chạm đất thì bụng dưới đau nhói, đã bị điểm huyệt, “bịch” một tiếng, lão ngã phịch xuống đất.

Dưới bệ thờ chui ra một người, ngoẹo đầu cười nhạt nói:

– Thích sư đệ, đệ tìm được đến đây, lão nhị tìm được đến đây, sao không nghĩ rằng đại sư ca cũng tìm được đến đây!

Người nói chính là Vạn Chấn Sơn.

Thích Trường Phát phát hiện ra kho báu là nhờ lão tinh tế hơn người, nhưng thấy bao nhiêu là châu báu rốt cuộc lão cũng không khỏi mừng rơn mà sơ suất. Lão hậm hực nhìn Vạn Chấn Sơn, hằn học nói:

– Lần thứ nhất ngươi giết ta không chết không ngờ cuối cùng ta lại chết dưới tay ngươi.

Vạn Chấn Sơn cực kỳ đắc ý:

– Ta đang lấy làm lạ, Thích sư đệ, ta bóp chết ngươi, chôn ngươi vào trong hốc tường, làm sao ngươi lại sống lại được?

Thích Trường Phát nhắm mắt không đáp.

Vạn Chấn Sơn nói tiếp:

– Ngươi không trả lời, lẽ nào ta không đoán ra. Lúc ấy ngươi địch không nổi ta bèn nín thở giả chết, sau khi bị chôn vào hốc tường, ngươi lại thoát ra. Giỏi lắm! Bản lĩnh thật cao cường! Lúc ấy ta thấy có một viên gạch nhô ra cảm thấy hơi lạ, nhưng không thể nào nghĩ ra rằng, nó bị ngươi trong khi vùng vẫy đã đạp lồi ra.

Vạn Chấn Sơn ngày ấy, sau khi chôn Thích Trường Phát vào trong hốc tường, hôm sau thấy có một viên gạch nhô ra, việc ấy khiến lão không yên tâm nên mới mắc bệnh mộng du, cứ trong mơ lại dậy xây tường. Lão luôn sợ xác chết của Thích Trường Phát từ trong hốc tường chui ra, vì thế trong lúc ngủ mơ cứ hết lần này đến lượt khác dậy xây cho thật kín bức tường. Lão lại cười nhạt nói:

– Hi hi, ngươi thật là lợi hại, giương mắt nhìn con gái làm con dâu của ta mà vẫn không xuất hiện. Ta hỏi ngươi, vì sao lại thế? Vì sao lại thế?

Thích Trường Phát nhổ một bãi đờm vào Vạn Chấn Sơn.

Vạn Chấn Sơn né người tránh, lại cười:

– Lão tam, đệ muốn chết một cách gọn ghẽ, hay thích huynh băm vằm ra?

Nét mặt Thích Trường Phát đầy vẻ sợ hãi. Lão nói:

– Được, ta nói cho ngươi biết. Con gái ta lấy trộm kiếm phổ của ta, giấu vào trong hang núi, ngươi bảo nó có phải là người tốt không? Ta vẫn ngầm theo dõi. Họ Vạn kia, ngươi cứ thoải mái giết ta đi!

Vạn Chấn Sơn cười nanh ác:

– Được, cho đệ được thoải mái. Theo lý mà nói, không cho đệ được hưởng cái thú phân thây vạn mảnh là vì sư ca của đệ không có thời gian; huynh còn phải mau mau lấy đất sét tô lại pho tượng. Hảo sư đệ, đệ ngoan ngoãn lên đường nhé!

Nói rồi lão vung trường kiếm, nhằm ngực Thích Trường Phát đâm tới.

Bỗng, một đạo hồng quang lóe sáng, cánh tay phải của Vạn Chấn Sơn bị tiện ngang cùi chỏ cùng với thanh kiếm rơi xuống đất, rồi thân hình lão bị đá một cú văng ra. Chính là Địch Vân đã dùng huyết đao cứu tính mạng Thích Trường Phát.

Chàng cúi mình giải khai huyệt đạo cho Thích Trường Phát, nói:

– Sư phụ, sư phụ bị kinh hãi rồi!

Biến cố quá nhanh, Thích Trường Phát ngớ người ra một lúc, rồi mới nhận ra:

– Vân… Vân nhi, là con đấy à?

Địch Vân và sư phụ xa nhau đã lâu, nay mới lại được nghe hai tiếng “Vân nhi”, không nén nổi xúc động buồn thương, chàng khẽ nói:

– Dạ, sư phụ, chính là Vân nhi đây.

Thích Trường Phát nói:

– Tất cả những việc này, con đều nhìn thấy hết rồi.

Địch Vân khẽ gật đầu, chàng nói:

– Sư muội, sư muội… muội… muội…

Vạn Chấn Sơn đứt một cánh tay, giãy giụa bò dậy, lao ra ngoài chùa. Thích Trường Phát chạy vọt tới, đâm một nhát kiếm từ sau lưng tới, thâu xuyên qua ngực. Vạn Chấn Sơn rú lên thảm thiết, chết ngay tại chỗ.

Thích Trường Phát nhìn thi thể hai vị sư huynh, chậm rãi nói:

– Vân nhi, may nhờ con đến kịp cứu tính mạng sư phụ. Ê, có ai đang tới kìa? Là Phương nhi à? Nói rồi lão đưa tay chỉ về phía góc điện thờ.

Địch Vân nghe hai tiếng “Phương nhi”, trái tim rúng động, quay đầu nhìn nhưng chẳng thấy ai, đang kinh ngạc bỗng cảm thấy lưng đau nhói. Chàng trở tay chụp lấy cổ tay của kẻ đánh lén, ngoảnh đầu lại, chỉ thấy tay người ấy cầm một cây chủy thủ sáng loáng, chính là sư phụ Thích Trường Phát. Địch Vân hoang mang ngỡ ngàng, lắp bắp:

– Sư… sư phụ… đệ tử phạm tội gì? Sư phụ muốn giết con à?

Lúc này chàng mới nghĩ ra, vừa rồi sư phụ đã đâm một nhát dao găm (chủy thủ) vào lưng mình, nhờ mình có áo tằm đen hộ thân mới thoát chết.

Thích Trường Phát bị chàng nắm chặt cổ tay, nửa người tê dại, không còn một chút khí lực, lão sợ hãi và giận dữ, gằn giọng:

– Được, ngươi học được một thân võ công cao minh không coi sư phụ ra gì. Ngươi giết ta đi, mau giết đi, giết mau đi, sao không giết?

Địch Vân nới lỏng tay nhưng vẫn không buông, chàng nói:

– Con làm sao dám giết hại sư phụ?

Thích Trường Phát la lên:

– Ngươi vờ vịt cái gì? Đây là một pho tượng đại phật đúc bằng vàng ròng, ngươi lẽ nào không muốn một mình nuốt chửng? Ta không giết ngươi thì ngươi giết ta, có gì là lạ? Đây là Phật vàng, trong bụng Phật đều là trân bảo giá trị liên thành[1], vì sao ngươi không giết ta? Vì sao ngươi không giết ta?

Lão lớn tiếng gào thét, trong tiếng kêu tràn đầy lòng tham lam, giận dữ, tiếc nuối… Tiếng ấy không phải là tiếng của con người mà như là tiếng gào rú của một con thú dữ bị thương tru lên nơi đồng hoang rừng thẳm.

Địch Vân lắc đầu, lùi lại mấy bước, nghĩ bụng: “Sư phụ muốn giết mình hóa ra là vì pho tượng Phật bằng vàng này ư?” Trong khoảnh khắc, chàng đã hiểu rõ tất cả: Thích Trường Phát vì tiền tài châu báu mà có thể giết sư phụ, sư huynh của mình, nghi ngờ cả con gái ruột thì vì sao lại không thể giết đồ đệ?” Trong lòng chàng lại vang lên lời Đinh Điển: “Ngoại hiệu của lão là “Thiết tỏa hoành giang”, việc gì mà chẳng dám làm?”

Chàng lại lùi thêm một bước, nói:

– Sư phụ, con không cần chia Phật vàng của sư phụ đâu. Sư phụ cứ một mình phát tài đi.

Chàng không sao hiểu nổi: một người mà không cần người thân, không cần sư phụ, sư huynh, đồ đệ, đến con gái ruột của mình cũng không quan tâm thì có cả một kho báu giá trị liên thành cũng có gì là sung sướng?

Thích Trường Phát không tin ở tai mình. Lão nghĩ bụng: “Trên đời sao lại có người thấy bao nhiêu vàng ngọc châu báu mà không động lòng tham? Cái thằng tiểu tử Địch Vân này nhất định là có quỷ kế gì khác.” Lão không dằn được tức giận, lớn tiếng:

– Ngươi làm trò ma gì thế? Đây là một pho tượng đại Phật bằng vàng ròng, trong bụng tượng toàn là châu báu, sao ngươi lại không cần? Ngươi muốn thực hiện quỷ kế gì?

Địch Vân lắc đầu, đang muốn đi ra khỏi chùa, bỗng nghe tiếng bước chân rầm rập, rất nhiều người kéo đến như ong. Chàng tung mình nhảy lên nóc nhà nhìn ra ngoài, hơn trăm người tay cầm đuốc, kêu gào ầm ĩ đi nhanh đến, chính là đám giang hồ hào khách kia. Nghe thấy có người quát:

– Vạn Khuê, mẹ nó chứ, đi mau, đi mau!

Địch Vân vốn đang định bỏ đi, nghe thấy hai tiếng Vạn Khuê liền dừng bước. Chàng còn chưa báo thù cho Thích Phương.

Đám người này ai cũng chạy vội vào chùa, chỉ sợ mình đến sau kẻ khác. Địch Vân nhìn thật rõ, Vạn Khuê bị mấy đại hán lôi đi, mắt tím mũi sưng, đã bị cho ăn no đòn, trên mình vẫn còn mặc bộ áo tú tài nghèo khổ. Thì ra hắn cải trang thành một thầy đồ, cố ý dẫn đám giang hồ hào sĩ dưới chân tường thành đi, để Vạn Chấn Sơn đến chùa Thiên Ninh tìm kho báu. Nhưng bị đám người kia tra khảo, cuối cùng đã lộ tẩy. Họ đe dọa tính mạng hắn, bức hắn phải dẫn đến chùa Thiên Ninh.

Thích Trường Phát nghe tiếng người, vội vàng nhảy lên bệ thờ muốn che giấu vàng lộ ra ở những vết chém tượng Phật. Nhưng đã chậm một bước, mọi người dã thấy lão đứng trên bệ thờ, hai tay cố đậy cái bụng to tướng của pho tượng Phật. Lúc này, dưới ánh sáng của mấy chục bó đuốc, trong chùa sáng như ban ngày. Mọi người thấy ánh vàng lấp lánh đều kêu gào, nhào tới tranh cướp. Họ ba chân bốn cẳng chạy đến, ra sức chém, bóc, lột đất sét bọc ngoài pho tượng. Họ đao chém kiếm lột, chẳng bao lâu, toàn thân tượng Phật tỏa ánh vàng chói lọi.

Tiếp đó, có người phát hiện ra cánh cửa chìm sau lưng tượng Phật, thò tay vào, quào ra cơ man là châu báu, người ở phía sau bèn ra sức chen bật y ra. Châu báu bị lôi ra từng vốc từng vốc. Hào sĩ có sức mạnh thì cướp đoạt từ trong tay người khác.

Đột nhiên từ bên ngoài có tiếng tù và thổi lên u u, cửa chùa mở rộng, mấy chục tên lính xông vào, cao giọng:

– Tri phủ đại nhân đến, tất cả đứng im.

Theo sau là một người mặc quan phục, ngạo nghễ bước vào, chính là tri phủ Lăng Thoái Tư. Tai mắt của lão ở trong thành ngoài thành rất nhiều, trong đám giang hồ hào khách kia cũng có nhiều thuộc hạ của lão trà trộn, hay tin lão lập tức dẫn quân lính hộc tốc chạy đến.

Nhưng đám giang hồ hào khách thấy bao nhiêu là châu báu, đâu thèm sợ gì quan phủ? Người nào cũng liều mạng cướp đoạt châu báu. Trân châu, đá quý, đồ bằng vàng, bạch ngọc, phỉ thúy, san hô, ngọc tổ mẫu, ngọc mắt mèo… lăn lóc đầy mặt đất.

Thuộc hạ của Lăng Thoái Tư chẳng lẽ lại không cướp? Bọn lính cúi nhặt trước, rồi tri phủ cũng xông vào cướp. Ai cũng không chịu “lạc hậu”. Thích Trường Phát cướp, Vạn Khuê cướp, đến đường đường tri phủ đại nhân Lăng Thoái Tư không nhịn được cũng bốc từng nắm châu báu nhét vào người.

Đã có tranh cướp khó tránh khỏi ẩu đả. Thế là có người thắng, có người đổ máu, có người chết.

Bọn người kia càng đấu càng ác liệt ghê gớm, có người vọt lên trên Phật vàng, ôm lấy tượng Phật mà cắn như điên, có người thì lấy đầu húc mạnh…

Địch Vân rất lấy làm lạ: “Vì sao lại thế? Dầu của cải có làm mờ mắt mờ tim, thì cũng không đến nỗi phải phát điên lên như thế.”

Không sai. Mọi người đều đã phát điên, mắt đỏ nọc điên cuồng cào cấu bấu xé. Địch Vân thấy Uông Khiếu Phong của đôi “Linh kiếm song hiệp” trong đám, thấy Hoa Thiết Cán thuộc bộ tứ “Lạc Hoa Lưu Thủy” cũng trong đám ấy. Họ đều đã biến thành dã thú, cắn xé loạn xị, tranh cướp loạn xị, bốc châu báu nhét đầy mồm.

Địch Vân chợt hiểu ra: “Trên châu báu này đều có chất độc ghê gớm. Năm xưa vị hoàng đế cất giấu kho tàng bảo vật, vì sợ quân nước Ngụy cướp đoạt nên đã tẩm chất kịch độc lên châu báu.”

Chàng muốn đến cứu sư phụ nhưng đã không kịp nữa rồi.

* * *

Địch Vân trồng mấy trăm cây hoa cúc dưới phần mộ của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa. Chàng không thuê người mà toàn tự mình trồng. Chàng là nông dân, cuốc đất, trồng cây là việc quen làm. Nhưng trước đây chàng rất ít trồng hoa, những thứ chàng trồng là ớt, cà, bí đỏ, bí đao, rau muống, rau cải…

Chàng rời thành Kinh Châu, bồng Không Tâm Thái, một ngựa ruổi đường trường. Chàng không muốn sống trên giang hồ. Chàng muốn tìm một nơi hoang vắng không có dấu chân người, nuôi dưỡng Không Tâm Thái lớn lên.

Chàng về đến tuyết cốc ở Tạng Biên. Những bông tuyết như lông ngỗng lại bắt đầu rơi lả tả dưới hang núi ngày xưa.

Bỗng, xa xa chàng nhìn thấy có một người thiếu nữ đứng trước cửa hang núi.

Chính là Thủy Sinh!

Gương mặt cô rạng rỡ nét cười, lao như bay về phía chàng, reo lên:

– Muội đợi huynh đã lâu rồi! Muội biết là huynh thế nào cũng trở về.

HẾT

——————————————-

[1]       Giá trị liên thành: điển cố. Thời Chiến Quốc (475-221 TCN) vua nước Triệu có viên ngọc “Hòa thị bích” rất quý. Vua Tần xin đem 15 thành liền nhau đổi lấy viên ngọc ấy không được. Sau, Tần diệt sáu nước, thống nhất Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng dùng viên ngọc ấy khắc thành ấn ngọc (ngọc tỉ) truyền quốc. “Giá trị liên thành” chỉ giá trị cực lớn. Tên sách “Liên thành quyết” do ý này mà ra.

Hậu ký

Kim Dung

Thời thơ ấu, trong nhà cũ của tôi ở Hải Ninh, Chiết Giang có một người ở tên là Hòa Sinh.

Ông là một người tàn tật, bị gù, nhưng chỉ gù nửa người bên phải, hình dáng rất cổ quái.

Tuy gọi là người ở nhưng không làm công việc nặng nhọc nào, chỉ quét nhà, lau bụi và đưa đón bọn trẻ chúng tôi đi học. Các bạn học của anh tôi thấy ông thì vỗ tay hát:

Hòa Sinh Hòa Sinh thanh tre cong

Gọi ông ba tiếng ông nổi giận

Gọi ông ba tiếng ông xoay mòng

Xoay mòng trông như cái rá rách.”

Lúc bấy giờ tôi thường kéo tay Hòa Sinh, bảo những người bạn học lớn hơn không nên hát như vậy, có lần còn vì thế mà khóc òa lên, cho nên Hòa Sinh luôn đối với tôi rất tốt. Những ngày mưa rơi, tuyết xuống, ông thường bồng tôi đi học, bởi vì ông bị gù một bên lưng không cõng được. Lúc ấy ông cũng đã rất già rồi, cha mẹ tôi bảo ông không nên bồng nữa kẻo cả hai đều ngã nhưng ông nhất định phải bồng.

Có một lần ông bị ốm nặng, tôi đến thăm ông ở căn phòng nhỏ, đưa thức điểm tâm đến cho ông.

Ông kể cho tôi nghe về cuộc đời của ông.

Ông là người huyện Đan Dương tỉnh Giang Tô, nhà mở một cửa hàng đậu phụ nhỏ, cha mẹ đã dạm hỏi cho một cô gái xinh đẹp con nhà láng giềng. Trong nhà dành dụm mấy năm để cưới vợ cho Hòa Sinh. Tháng chạp một năm nọ, một nhà tài chủ gọi ông đến xay bột gạo để làm bánh tết. Nhà tài chủ ấy là một nhà hàng lớn, trong nhà có một vườn hoa rộng. Xay đậu phụ và xay bột gạo công việc cũng không khác nhau mấy. Nhà tài chủ ăn tết cần xay mấy thạch gạo nếp, việc xay bột được làm ở nhà sau. Việc xay bột tôi cũng đã thấy nhiều lần, chỉ xay được mấy hôm thì quanh cối xay đầy những dấu chân do người đấy cối xay giẫm lên. Phong tục các nơi ở vùng Giang Nam cũng gần giống nhau, cho nên ông mới nói là tôi hiểu ngay.

Bởi vì sắp đến tết cho nên việc xay bột phải làm đến mười, mười một giờ đêm. Hôm ấy Hòa Sinh làm việc xong, đã rất muộn rồi, đang định ra về, bỗng trong nhà tài chủ có nhiều người hô hoán lên: “Có trộm!” Có người kêu ông đến vườn hoa để giúp bắt trộm. Ông mới chạy đến vườn hoa thì bị đánh mấy gậy ngã quay ra, bảo ông là tên trùm kẻ trộm. Mấy người dùng gậy đánh ông bị thương khắp mình mấy, gãy mất mấy cái xương sườn, người ông bị gù một bên là vì vậy. Đầu ông bị mấy gậy ngất đi. Khi tỉnh lại, bên mình có rất nhiều vàng bạc và đồ trang sức, người ta nói là lôi từ trong người ông ra, lại có người soát thấy trong thúng mủng của ông có vàng bạc và tiền đồng, thế là họ giải ông đến nha môn tri huyện. Ông bị vu cho tội danh kẻ trộm bị bắt quả tang với đầy đủ tang vật, ông không thể biện bạch được, bị đánh mấy chục trượng, bị giam tù.

Dù thật là kẻ trộm đi nữa thì cũng không phải là tội nặng đến thế, nhưng Hòa Sinh bị giam đến hơn hai mươi năm mới được thả ra. Trong thời kỳ ấy, cha mẹ của Hòa Sinh đều vì tức giận đau buồn mà ốm chết, người vợ chưa cưới cũng bị con trai nhà tài chủ kia lấy làm vợ kế.

Ra tù, ông mới biết tất cả đều là do con trai nhà tài chủ kia hãm hại. Có một hôm ông gặp hắn trên đường phố, ông rút cây đao nhọn vẫn luôn mang theo bên mình ra đâm mấy nhát vào con trai lão tài chủ. Ông không chạy trốn, đề cho sai dịch bắt. Con trai của nhà tài chủ kia chỉ bị thương nặng chứ không chết. Nhưng nhà tài chủ kia không ngừng hối lộ quan huyện, sư gia và ngục tốt, muốn hại chết ông ở trong tù, đế tránh việc ông ra tù lại tìm đến báo thù.

Ông nói:

– Thật là bồ tát phù hộ, chưa đến một năm, lão gia đến làm tri huyện Đan Dương, cụ đã cứu mạng tôi.

* * *

Lão gia mà Hòa Sinh nói là ông nội tôi.

Ông nội tôi tên là Tra Văn Thanh, tự là Thương San, các cụ phụ lão ở quê nhà gọi ông là “Thương San tiên sinh” (Ông vốn ở thế hệ có chữ “mỹ” nhưng khi đi học và đi thi đều dùng tên là “Văn Thanh”). Ông đỗ cử nhân năm Ấ t Dậu thời Quang Tự, năm Bính Tuất đỗ tiến sĩ liền được bổ nhiệm làm tri huyện huyện Đan Dương, sau vì có thành tích được thêm hàm Đồng tri. Không bao lâu sau thì xảy ra “vụ án giáo đường ở Đan Dương”.

Trong quyển 5 sách “Trung Hoa nhị thiên niên sử” (Lịch sử hai ngàn năm Trung Hoa” của Đặng Chi Thành có đề cập đến sự kiện này:

“Điều ước Thiên Tân cho phép người nước ngoài đến truyền giáo, thế là dấu chân của giáo đồ in khắp Trung Quốc. Dữu dân (= dậu dân: dân xấu) theo thiên chúa giáo, cậy thế người nước ngoài không chịu sự cai quản của quan lại. Nhân dân vừa căm ghét sự kiêu ngạo ngang ngược của giáo sĩ, vừa lạ với những hành động quỷ bí của họ, cứ đồn thổi nhiều chuyện, chống “dị đoan”. Giáo dân có người bị tử thương, giáo sĩ bèn mượn cớ đòi bồi thường, thậm chí quy tội cho quan lại, ép triều đình nhà Thanh trị tội nặng. Nội chính đã bị người can thiệp, nước đã không ra hồn nước. Giáo sĩ dùng trăm mưu ngàn kế để làm to chuyện… “Vụ án giáo đường ở Đan Dương” xảy ra vào tháng tám năm thứ mười bảy niên hiệu Quang Tự… Năm ấy, giáo đường (nhà thờ thiên chúa giáo) ở các huyện Đan Dương, Kim Quỹ, Vô Tích, Dương Hồ, Giang Âm, Như Cao thuộc tỉnh Giang Tô nối tiếp nhau bị thiêu hủy, phái viên đến điều tra, cho rằng khởi sự là Đan Dương, cần phải cách chức tri huyện Tra Văn Thanh…”

(Quang Tự – Đông Hoa lục quyển 105)

Ông nội tôi trước khi bị cách chức cũng có biết việc này. cấp trên ra lệnh cho ông chém đầu hai người khởi xướng việc đốt giáo đường để cấp trên dễ điều đình với giáo sĩ ngoại quốc. Nhưng ông nội tôi đồng tình với nhân dân, báo cho hai người cầm đầu chạy trốn, rồi báo lại với cấp trên rằng: việc này là do giáo sĩ ngoại quốc khinh rẻ áp bức lương dân khiến họ công phẫn, mấy trăm người cùng xông vào đốt nhà thờ chứ không có người cầm đầu. Tiếp đó, ông từ quan, triều đình xử tội: cách chức.

Từ đó về sau ông nội tôi về sống ở quê nhà, đọc sách làm thơ, đồng thời còn làm nhiều việc công ích. Ông đã biên soạn một bộ: “Hải Ninh Tra thị thi sao” (Tập thơ của họ Tra ở Hải Ninh), có đến mấy trăm quyển nhưng khắc bản (để in) chưa hoàn thành thì ông qua đời (những bản khắc này chất đầy hai gian nhà, về sau đều trở thành đồ chơi của anh em chúng tôi – đàn cháu nội của ông). Khi đưa ông đi an táng, huyện Đan Dương đã cử mười mấy vị thân sĩ đến phúng điếu. Hai người thủ lĩnh vụ đốt giáo đường khóc lạy suốt đường đi. Theo lời các bác và cha tôi, hai người này cứ đi một dặm đường lại rập đầu lạy, từ Đan Dương (ở tỉnh Giang Tô) đến quê tôi (huyện Hải Ninh, tỉnh Chiết Giang – cách Đan Dương mấy trăm dặm). Hai người này rất cảm kích ân nghĩa của ông tôi.

Cách đây ít lâu tôi đến Đài Loan, gặp biểu ca (anh họ bên ngoại) của tôi là Tưởng Phục Thông. Anh là viện trưởng viện bảo tàng Cố Cung, trước đây là bạn học cùng lớp với bác hai tôi ở Đại học Bắc Kinh. Anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện về ông nội tôi với những lời ca ngợi. Những điều này tôi vốn chưa hề biết.

* * *

Hòa Sinh nói, ông tội nôi sau khi đến làm tri huyện Đan Dương đã thẩm xét lại từng vụ án, biết được nỗi oan uổng của Hòa Sinh. Nhưng việc ông ấy hành hung người là có thật cho nên không thể tự tiện thả ngay được. Khi ông nội tôi từ quan trở về, bèn lặng lẽ đưa Hòa Sinh đi theo, và nuôi ở trong nhà tôi.

Hòa Sinh mãi đến thời kháng chiến (chống Nhật: 1937-1945) mới bị bệnh mất.

Câu chuyện của Hòa Sinh, cha mẹ tôi xưa nay không hề nói với ai. Hòa Sinh kể với tôi khi ông bị ốm nặng, nghĩ rằng mình không thể qua khỏi, ông cũng không hề dặn tôi không được kể lại.

Câu chuyện này tôi giấu mãi trong lòng. “Liên thành quyết” là phát triển từ câu chuyện có thật trên, viết ra đế kỷ niệm về một ông già rất thân thiết với tôi thời thơ ấu.

Hòa Sinh họ là gì tôi không hề biết, Hòa Sinh cũng không phải là tên thật của ông. Ông đương nhiên là không biết võ công. Tôi chỉ nhớ là ông thường vài ngày không nói một câu. Cha mẹ tôi đối với ông rất tử tế, không hề sai ông làm việc gì.

Bộ tiểu thuyết này viết vào năm 1963. Hồi ấy, “Minh báo” và “Nam Dương thương báo” ở Singapore ra chung một tờ phụ san “Đông Nam Á chu san”, bộ tiểu thuyết này là viết cho tờ phụ san đó, sách vốn mang tên là “Tố tâm kiếm”[1].

Tháng 4 năm 1977

———————————–

[1]       “Hòa Sinh” không phải là tên thật của ông già. Hẳn là Kim Dung muốn thể hiện ý: chỉ có tấm lòng trong trắng (tố tâm) mới thực sự là “Hòa thị bích”, viên ngọc có giá trị liên thành.