Ðạo Trời vô cùng. Lòng người bất trắc. Chỉ có Nhân và Nghĩa là thứ bảo vật bất biến vĩnh hằng. Nhân Nghĩa là bảo vật vì từ nghìn xưa cho tới nghìn sau, luôn luôn được ưa chuộng. Trái lại hung bạo bị căm thù. Ðược ưa thì thắng, bị ghét thì thua, cuộc đấu tranh trường diễn của lịch sử, lời tiên nho nói không sai: “Cương cường tất tử nhân nghĩa vương “.
Truyện Hán Sở tranh hùng là một minh họa có sức thuyết phục cho chân lý ấy. Tần Thủy Hoàng dùng sức mạnh tóm thâu lục quốc. Nhưng vì chỉ biết lấy bạo lực, không biết lấy nhân nghĩa thu phục lòng người mà lòng người rời bõ, rốt cuộc bị Hạng Vũ tiêu diệt. Nhưng thắng Tần rồi Hạng Vũ lại lầm đường đi vào vết xe đổ nên đã bị Lưu bang trừ khử. Lưu Bang tức Hán Cao Tổ đã thấy sức mạnh và độ bền của Nhân, Nghĩa, biết dùng Nhân Nghĩa làm keo sơn gắn bó lòng người nên đã củng cố Hán tộc được khá lâu dài. Ðọc Hán Sở tranh hùng là để soi tấm gương không mòn còn mãi: Tấm Gương Nhân nghĩa.
Từ nhà Châu suy yếu, các chư hầu nổi dậy thôn tính lẫn nhau, tạo trong thiên hạ một thời hỗn loạn.
Thời ấy gọi là thời Chiến Quốc kéo dài 873 năm.
Bấy giờ thiên hạ gồm vào bảy nước: Tần, Sở, Triệu, Tề, Hàn, Ngụy, Yên.
Trong bảy nước ấy, nước Tần mạnh nhất. Trong có Thừa tướng Lã Bất Vi chuyên quyền, ngoài có tướng giỏi như Vương Tiễn chinh phạt diệt nhà Châu, kiêm tính sáu nước, đem thiên hạ về một mối.
Tần Thủy Hoàng Vua Tần là Thủy Hoàng con Dị Nhân (Chiêu Tương Dương ) và Dương Hoa Chánh Hậu vốn là kẻ bạo ngược.
Sau khi thống nhất được sơn hà, cho mình là đấng anh hùng cái thế, cổ kim không ai sánh kịp, tự suy tôn hiệu Thủy Hoàng đế, đời thứ hai gọi là nhị thế, đời thứ ba gọi là tam thế, cho đến vạn thế, v.v…
Rồi chia thiên hạ ra làm 36 quận, vẽ một bức địa đồ thống nhất, bắt tất cả những mưu sĩ đem về an trí nơi Hàm Dương (Kinh đô nước Tần) đúc mười hai pho tượng để khoa trương nước nhà giàu mạnh, lập cung A Phòng ở vườn Thượng Lâm, tập họp tất cả những gái đẹp bốn phương về đó ước hơn nghìn người, ngày đêm tửu sắc vô độ.
Lã Bất Vi vì tư thông với Dương Hoa Thái Hậu, nên bị Tần Thủy Hoàng trừ đi lập Lý Tư lên thay thế.
Năm thứ 27, Thủy Hoàng hội quan thần, phán:
– Các vua thời xưa thường tuần du đây đó để quan sát dân tình. Nay trẫm muốn làm cái việc đó, các quan nghĩ sao?
Quần thần đều tâu:
– Nơi cửu trùng thăm thẳm, nếu không ngự giá tuần du làm sao rõ đặng lòng dân. Xưa nay những bậc anh quân đều lấy dân làm gốc, bệ hạ muốn như vậy thực hợp với cổ ý..
Thủy Hoàng hớn hở, truyền lệnh sửa sang xa giá, bắt đầu du hành từ phía Bắc đất Lũng Tây..
Trời không nắng lắm, xa xa cây cỏ một màu xanh, nhấp nhô bên các sườn núi miệt Kê Ðầu, trông khá đẹp mắt. Long xa sau trước, các quan cận thần và quân lính hầu hạ chật ních.
Bỗng trên đỉnh núi Kê Ðầu có một đám mây mờ, hiện ra năm vầng hào quang sáng chói.
Thủy Hoàng lấy làm lạ, đòi cận thần Tống Vô Kỵ đến hỏi.
Vô Kỵ tâu:
– Tâu Bệ hạ, hạ thần đã trông nhiều thứ mây như: tường vân, phù vân, thụy vân, tể vân, khánh vân, nhưng không có thứ mây nào giống thứ ám khí này. Ðây là một điềm ứng phi thường thật khó biết đặng.
Thủy Hoàng ngơ ngác hỏi:
– Thế thì phải làm sao để trừ được điềm lạ ấy?
Vô Kỵ tâu:
– Xin Bệ hạ quay thánh giá sang phía Ðông Nam, lấy bảo vật mà yếm thì mới có thế trừ đặng hung khí.
Thủy Hoàng theo lời, thuyền xa giá đi về hướng Châu Dịch, bày lễ tế phong ở núi Ðông Nhạc và Thái Sơn, rồi lấy thanh bảo kiếm của mình thường đeo, yếm dưới chân núi.
Ðoạn qua sông Giang, sông Hoài, đến Nam quận, hồi giá về Hàm Dương. Quần thần ra khỏi Kinh đô ba mươi dặm đón rước.
Từ đấy lúc nào Thủy Hoàng cũng nghĩ đến vừng vận khí ở phương Ðông Nam lòng không vui.
Một hôm có viên cận thần đến tâu:
– Mấy hôm nay khí trời mát mẻ, nơi ngự lâm viên trăm hoa đua nở, xin Bệ hạ mệnh giá qua chơi để giải trí.
Ðang lúc lòng buồn bực, Thủy Hoàng nhận lời, dẫn một bọn cung phi và mấy viên cận thần đến vườn Ngự lâm ngoạn cảnh.
Tiếng gió rì rào thổi phất phơ những cành hoa vừa hé nhụy, trong quang cảnh tưng bừng của bình minh.
Thủy Hoàng dạo gót khắp nơi. Mãi cho tới lúc ánh nắng bắt đầu gay gắt, Thủy Hoàng thấy mình rồng mỏi mệt, liền lên Hiển Thánh điện để nghỉ.
Giấc điệp mơ màng, Thủy Hoàng chợt nghe bên tai một tiếng nỗ long trời lở đất.
Rồi một vầng thái dương đỏ ửng từ trên trời rơi xuống.
Bỗng thấy một đứa bé áo xanh, mặt đen chạy đến ôm vầng thái dương toan chạy. Liền lúc đó, lại có một đứa bé khác, mặc áo đỏ, đôi mắt sáng quắc từ phương Nam chạy đến hét lớn:
– Tên áo xanh kia! Hãy để vầng thái dương đấy. Ta vâng lệnh Ngọc hoàng đến lấy vàng thái dương đây.
Ðứa bé áo xanh không chịu, cả hai ôm nhau vật lộn. Ðứa bé áo xanh vật ngã đứa bé áo đỏ bảy mươi hai lần. Nhưng bất thình lình đứa bé áo đỏ đá một đá thật mạnh, đứa bé áo xanh ngã lăn xuống đất chết tươi.
Thủy Hoàng thấy vậy kêu lên:
– Hỡi hài đồng kia! Ðừng vội đoạt vầng thái dương, hãy bảo cho ta biết chúng bay là ai?
Ðứa bé đáp:
– Ta là dòng dõi Thuấn Nghiêu, quê ở Phong Bài vì dân dấy nghĩa. Thượng đế đã cho ta hưởng lịch bốn trăm năm.
Nói xong, đứa bé áo đỏ ôm vầng thái dương chạy biến về phương Nam. Thủy Hoàng đưa mắt nhìn theo bóng đứa bé mờ dần rồi khuất sau vầng hào quang giống như vầng vân khí nơi núi Kê Ðầu.
Thủy Hoàng bừng mắt tỉnh dậy, mới biết đó là chiêm bao, lòng bâng khuâng tự nghĩ:
– Giấc mộng này lành ít dữ nhiều. Nhà Tần ta có lẽ vận mạng đã hết, thiên hạ ắt về tay kẻ khác….
Liền truyền xa giá trở về cung. Từ đó lòng buồn bã lo âu, không lúc nào vui.
Một hôm Thủy Hoàng cùng quần thần bàn tính, muốn tìm thuốc trường sanh bất tử để sống làm vua mãi, hưởng cảnh lạc thú hồng trần.
Cận thần Tống Vô Kỵ tâu:
– Ở miền Ðông Hải có ba đỉnh núi thần, phong cảnh tốt tươi, cỏ hoa muôn vẽ, khí hậu ấm áp, hạ thần chắc đó là nơi bồng lai, có thể tìm thuốc trường sinh được.
Thủy Hoàng mừng rỡ, phán:
– Khanh đã bao giờ đến đó chưa?
Vô Kỵ tâu:
– Hạ thần chưa đến, nhưng có một người bạn tên Từ Phúc, lúc trước từng qua chơi nơi Ðông Hải, gặp các tiên cỡi loan hạc, phong độ thoát phàm. Từ Phúc hiện nay còn ghé chơi nơi nhà hạ thần, nếu Bệ hạ tin dùng, hạ thần sẽ đưa vào yết kiến.
Thủy Hoàng liền sai Vô Kỵ cấp tốc đi triệu Từ Phúc.
Từ Phúc theo Vô Ky vào bệ kiến.
Thủy Hoàng phán hỏi cách tìm thuốc trường sinh, Từ Phúc tâu:
– Thuốc trường sinh là một món thuốc quý, từ xưa nay khó có ai tìm được. Nay Bệ hạ muốn có thuốc ấy tất phải chịu tổn phí, đóng thuyền và cấp hành trang cho hạ thần vượt bể thì mới tìm được.
Thủy Hoàng hỏi:
– Nhà ngươi cứ hết lòng giúp trẫm, nếu được, hai ta cùng uống và cùng sống mãi hưởng cảnh vàng son ; Còn gì hạnh phúc bằng. Chẳng hay nhà ngươi muốn đóng bao nhiêu thuyền, và hành trang như thế nào?
Từ Phúc tâu:
– Vượt bể Ðông chẳng phải chuyện dễ. Cần có mười chiếc thuyền lớn, trong thuyền phải đủ hạng thợ, và phải kén lấy năm trăm đồng nam, năm trăm đồng nữ, phòng khi dùng đến.
Thủy Hoàng liền hạ lệnh sắm đủ mọi thứ cho Từ Phúc ra đi.
Tháng ngày trôi qua như ngựa qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã hơn năm tháng trời, Thủy Hoàng ôm lòng chờ đợi mãi mà chẳng thấy Từ Phúc trở về.
Quá nóng lòng, Thủy Hoàng liền sai một người nho sĩ là Lư Sinh đi tìm Từ Phúc.
Ôi! Bốn phương mù mịt, Từ Phúc ra đi như bóng nhạn lưng trời, biết đâu mà tìm. Tuy nhiên, lệnh vua đã phán, ai dám trái lời, Lư Sinh đành vâng chỉ, một mình cất bước ra đi.
Ði mãi, đến bờ bể, vời trông chỉ thấy sóng gào gió thét trong khoảng nước xanh trời thẳm, bát ngát muôn trùng, chẳng biết đâu là bồng lai, đâu là tiên giới.
Lư Sinh ngước mặt lên trời thờ dài, nghĩ thầm:
– Thủy Hoàng là một bạo chúa, tham sống mà coi rẻ mạng người. Nếu ta không tìm được Từ Phúc trở về, tánh mạng ắt chẳng còn. Thôi thì cứ nhắm mắt đưa chân, rủi có chết thì cũng như Từ Phúc, một đi không về thế là xong.
Lư Sinh lần theo hướng Nam, đi vào miền núi Thái Nhạc, rồi đến núi Thái Hoa.
Suốt mấy tháng trường trong gian khổ, bỗng một hôm Lư Sinh gặp một người hình dung cổ quái, đầu bù tóc rối, mắt tròn như lục lạc, đang ngồi tựa một phiến đá, nhìn về hướng trời xa.
Lư Sinh nghĩ thầm:
– Nơi đây sơn lâm cùng cốc, người thường đâu dễ mấy ai mò đến, chắc là một dị nhân.
Liền bước đến vái chào. Dị nhân quay lại thấy Lư Sinh, liền hỏi:
– Người là ai. Có việc gì lại đến đây?
Lư Sinh đáp:
– Thưa tiên sinh, tôi vâng ìệnh Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử.
Dị nhân cười lớn nói:
– Con người sống chết đã do mệnh trời định sẳn, sao lại có ý ngông cuồng như vậy. Làm gì có thuốc trường sinh bất tử.
Lư Sinh nhìn tướng mạo dị nhân một lúc, biết không phải người phàm nên cố năn nỉ:
-Tôi là người phàm mắt thịt, trí não u ám, xin tiên sinh thương tình cứu tôi thoát nạn.
Dị nhân thấy Lư Sinh khẩn khoản ngồi im ra vẽ suy nghĩ. Một lúc dị nhân đứng dậy đưa tay đẩy tấm vách đá, bên trong lộ ra một cửa hang rất lớn.
Lư Sinh thất kinh lòng chưa hết ngạc nhiên thì dị nhân đã bước vào trong, cầm một quyển sách đem ra đưa cho Lư Sinh, và nói:
– Hãy đem sách này về cho vua Tần xem, trong đó có nói rõ về “sinh tử tồn vong”.
Lư Sinh tiếp lấy thấy trên bìa sách có đề bốn chữ “Thiên Lục Bí Quyết” toan hỏi lại nhưng Dị nhân đã bước lên ngồi bên phiến đá mắt nhắm nghiền như ngủ say.
Lư Sinh không dám hỏi nữa, cầm sách trở về dâng cho Thủy Hoàng thuật lại mọi việc.
Thủy Hoàng mở sách ra xem, bên trong chép theo lối cổ tự, chữ ngoằn ngoèo rất khó đọc, liền sai Lý Tư dịch ra.
Lý Tư đọc cho Thủy Hoàng nghe. Ðó là sách nói về việc thuyên chuyển của lịch đại. Lại có câu rằng “Vong Tần giả Hồ”.
Thủy Hoàng thất kinh nói:
– Cứ như trong sách thì rợ Hồ sẽ làm mất nhà Tần.
Liền sai Mông Ðiềm đem tám mươi vạn dân phu ra ngoài biên ải đắp trường thành để phòng rợ Hồ.
Ngoài ra con bắt thêm dân chúng khắp nơi, bất luận già trẻ đều phục dịch cho công tác ấy.
Dân chúng khổ cực trăm bề, quanh năm suốt tháng, áo chỉ còn bâu, người chỉ còn bộ xương, đói khát, con xa mẹ, vợ xa chồng, mồ hôi lộn nước mắt, thây vùi khắp chân trường thành, oán hận ngút trời.
Thủy Hoàng lại sợ đời sau chê cười, và có kẽ rõ được hành động mình nên truyền đốt sách chôn sống học trò ước hơn 460 người.
Lại ra nghiêm lệnh hễ ba người tụ họp nói chuyện xầm xì thì phạm vào tội chết chém.
Một lời phán gớm ghê của bạo chúa làm chấn động cả nhân gian.
Người con trưởng Thủy Hoàng là Phù Tô thấy cha tàn ác quá. vội can:
– Sách vở là văn học của một nước, học trò là tiêu biểu cho thế hệ đời sau. Phụ vương hủy hoại đi e thiên hạ oán vọng, ngôi nhà Tần khó giữ được.
Thủy Hoàng nổi giận, hét:
– Nghịch tử dám dùng lời vô lễ với trẫm sao?
Tức thì ra lệnh đày Phù Tô ra Bắc biên làm chức Giám Quân cùng với Mông Ðiềm coi việc đắp trường thành. Cấm không được về Kinh đô nữa.
Tuy nhiên Thủy Hoàng vẫn còn lo sợ vần vân khí ở miền Ðông Nam, e có kẽ ngầm mưu loạn, nên truyền xa giá tuần du về miền ấy để trấn áp sanh linh.
Thuở đó, nơi phía Nam, cách nước Hàn lối ba mươi dặm, có một quán rượu, thường ngày các bô lão trong vùng đến đó bắt chén giải buồn.
Một hôm có bốn cụ già ngồi khề khà nhìn mây, nhìn nước trao đổi tâm tình.
Trong số bốn cụ già ấy có một người tên Triệu Tam Công, nhân lúc cao hứng, nói:
– Các ngài ơi! Trăm năm về trước, thiên hạ thái bình, con người sống trong cảnh đáng sống, không một chút gì bận tâm nhọc trí cả. Ðời sống như thể chẳng khác gì chốn tiên bồng.
Một cụ già đặt chén xuống bàn, vuốt râu nhìn Triệu Tam Công hỏi:
– Thế thì ngài cho cõi đời này là trần tục sao?
Triệu Tam Công lắc đầu đáp:
– Không phải là trần tục mà chính là địa ngục trần gian.
Ba cụ già già đồng vỗ tay cười lớn. Một cụ hỏi:
– Theo ngài thì những cực hình ghê gớm nhất của chốn địa ngục dương trần này là gì?
Triệu Tam Công lè lưỡi, đáp:
– Chịu thôi. Bây giờ phép nước nghiêm lắm, tôi không dám bàn đến chuyện đó.
Một cụ đưa mắt nhìn xung quanh, rồi nói:
– Nơi đây hẻo lánh, chỉ có ta với ta, hà tất phải ngại!
Bỗng từ bên trong hàng rượu có một thiếu niên bước ra, vừa cười vừa nói:
– Thưa các cụ, nếu có kẻ nào sợ pháp luật không dám nói, tôi xin thay kẻ ấy nói giúp vậy.
Mọi người quay nhìn thiếu niên. Người ấy mặt tròn, mắt sáng, áo vải, giày vai, trông ra vẻ một thiếu niên anh tuấn.
Triệu Tam Công nói:
– Nếu tiểu tử đủ can đảm, xin thay ta, nói cho các vị bô lão này nghe thử.
Thiếu niên ung dung nói:
– Thưa các cụ, các cụ còn lạ gì chính sách của bạo chúa Tần Thủy Hoàng! Con trai không được yên phận cày cấy, con gái không được yên phận canh cửi, cha xa con, vợ lìa chồng, gia đình tan tác. Nào đắp trường thành, nào dựng A Phòng, đốt sách vở, chôn sống học trò, nghe lời đứa dua nịnh lập ra phép dữ, oán khí ngất trời. Nghĩ làm thân trong chế độ này chẳng khác nào một tội nhân sống trong hỏa ngục! Nhục nhã thay!
Người thiếu niên còn muốn nói nữa, nhưng Triệu Tam Công đã bỏ đứng dậy toan chạy.
Ba vị bô lão nói:
– Nơi đây xa cách kinh kỳ, việc gì ngài lại sợ hãi đến thế?
Triệu Tam Công thở dài, nói:
– Dầu trong hang cùng ngõ hẻm cũng có mặt kẻ do thám của triều đình. Tai vách mạch rừng, các ngài chớ khinh khi mà rơi đầu vô ích.
Người thiếu niên thấy vậy, than thầm:
– Ôi! Nhân tâm như thế thì nỗi niềm riêng của ta biết tỏ cùng ai!
Người thiếu niên này vốn dòng nho sĩ, quê ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng.
Tổ tiên Trương Lương năm đời làm danh sĩ nước Hàn. Từ khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hàn, Trương Lương đêm ngày ôm hờn vong quốc quyết chí báo thù bỏ ra nghìn nén vàng, đi khắp thiên hạ, liên kết với các dũng sĩ để bàn việc thích khách bạo chúa.
Trong lúc Trương lương đang ngẩn người, buồn thế sự thì đàng sau có một tráng sĩ chạy đến chào Trương Lương, và nói:
– Vừa rồi nghe ngài kể tội ác của Thủy Hoàng, lòng tôi bỗng dưng hậm hực. Nếu ngài muốn làm việc nghĩa cử, trừ hôn quân dâm bạo, tôi xin nguyện đem thân giúp sức.
Trương Lương thấy người ấy mình cao một trượng, tướng mạo đoan trang, biết là bậc phi thường, liền cầm tay, nói:
– Chỗ này không phải nơi thố lộ tâm tình, xin tráng sĩ về nhà tôi đàm đạo.
Tráng sĩ theo Trương Lương về nhà.
Trà nước xong, Trương Lương hỏi:
– Xin tráng sĩ cho biết quý danh?
Tráng sĩ đáp:
– Tôi họ Lê, quê ở Hải Biên nên người ta thường gọi là Thượng Hải Công. Vốn có sức mạnh, có thể cầm nổi cây chùy nặng trăm cân, tôi thường đi đây đó, vì lòng nhân trừ kẻ hống hách, bạo ngược. Nhân thấy ngài là kẻ khẳng khái đem lòng mến, chẳng hay quý hiệu là chi? Và có điều gì cần sai bảo tôi chăng?
Trương Lương nói:
– Tôi người nước Hàn, họ Trương tên Lương, năm đời nhà tôi làm khanh tướng, không may vừa rồi Thủy Hoàng diệt mất nước. Thù vong quốc chẳng lúc nào nguôi.
Nay Thủy Hoàng bạo ngược, trăm họ lầm than, tôi muốn trừ đi trước cứu thiên hạ, sau rửa quốc thù. Nếu tráng sĩ chịu giúp tôi làm việc đó, sẽ lưu tiếng lại thiên thu.
Hải Công hớn hở xua tay nói:
– Tôi nguyện tuân theo lời ngài.
Trương Lương mừng rỡ, lưu tráng sĩ Hải Công lại nhà mình rồi thám thính xem Thủy Hoàng chuyến này tuần du về lối nào.
Cách mấy hôm sau, Trương Lương được tin Thủy Hoàng qua huyện Vũ Dương, liền sai Thượng Hải Công nấp nơi một gò cao, đợi xe giá Thủy Hoàng đến, thích khách.
Tiếng trống rập rềnh từ xa vẳng đến, rồi long xa ló dạng.
Hải Công tay cầm chặt thanh chùy đứng chờ.
Tiếng bánh xe nghiến trên đường đất, qua cụm gò cao.
Nhanh như chớp, Hải Công nhảy ra, cầm chùy đánh vào long xa bể nát.
Nhưng xe nát mà Thủy Hoàng không chết!
Vì Thủy Hoàng tự biết mình có những hành động tàn bạo, sợ thiên hạ ám hại, nên đã đề phòng trước, sắm hai chiếc long xa, một chiếc để ngự lúc du hành, còn một chiếc để không, sai quân sĩ đẩy đi trước.
Thế là Trương Lương đã thất bại!
Ngự lâm quân áp lại, bắt Thượng Hải Công dẫn đến nạp cho Tần Thủy Hoàng.
Thủy Hoàng nghiến răng hét:
– Ai xui nhà ngươi làm cái việc phản nghịch đó?
Thượng Hải Công trừng mắt đáp:
– Mày là một vị hôn quân vô đạo, khắp thiên hạ đều oán hận muốn giết mày. Ta muốn vì dân trừ hại, sao mày hỏi ngu thế?
Thủy Hoàng nổi giận, truyền quân đem Hải Công ra tra tấn, quyết hỏi cho được kẻ chủ mưu.
– Trời ơi! Cái thù của nước Hàn ta biết bao giờ mới trả được. Hận quốc dân biết thuở nào nguôi. Trời nỡ dung tha một kẻ hôn quân, bạo chúa để cho muôn dân sống mãi trong lầm than sao?
Trương Lương bùi ngùi bỏ trốn sang Hạ Bì, đến trú nơi nhà Hạng Bá.
Hạng Bá là cháu Hạng Yên, trước kia từng làm tướng nước Sở, với Trương Lương là bạn thân, nên giấu Trương Lương trong nhà không để lộ tông tích.
Khối buồn đọng mãi không tan, thỉnh thoảng Trương Lương ra ngoài dạo cảnh.
Một hôm, bóng chiều vừa xế, khóm trúc bên cầu xào xạc trước ngọn gió lê thê, Trương Lương lểnh mểnh quanh chân suối, lòng ngổn ngang trăm mối u buồn, bỗng thấy một ông già đi ngang qua cầu, làm rơi chiếc giày xuống nước rồi kêu Trương Lương nói:
– Này tiểu tử, hăy lại đây lượm chiếc giày cho ta.
Trương Lương thấy ông lão có dáng tiên phong đạo cốt, biết không phải người thường liền bước đến, cúi lượm chiếc giày trao cho ông lão rất kính cẩn.
Ông lão xỏ chân vào giày rồi lại đánh rơi xuống nước. Trương Lương nhặt, cứ thế đến ba lần.
Trương Lương vẫn với cử chỉ kính cẩn không hề tỏ ý bất mãn.
Ông lão mỉm cười nhìn Trương Lương nói:
– Thằng bé này có thể dạy được đây!
Liền chỉ vào gốc cổ thụ gần đó nói:
– Năm ngày nữa, ngươi đến gốc cây này, ta sẽ cho một vật quý! Chớ sai hẹn!
Trương Lương cúi đầu vâng mệnh.
Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm, y ước đến chổ gốc cây thấy ông già đã ngồi chờ sẵn nơi đó.
Ông già nhìn Trương Lương mắng:
– Ðã hẹn với kẻ trượng phu cớ sao lại đến trễ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa, hôm đó phải đến cho sớm.
Năm hôm sau, đầu trống canh năm, Trương Lương thức dậy ra gốc cây, dè đâu ông lão lại cũng đã ngồi ở đó rồi.
Ông lão mắng:
– Sao ngươi biếng nhác như thế. Hôm nào cũng để ta phải chờ đợi? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa.
Lần này, Trương Lương không ngủ, suốt đêm ra gốc cây ngồi chờ.
Trống canh năm vừa điểm, ông lão lểnh mểnh đến.
Trương Lương sụp lạy, nói:
– Kính thưa tiên sinh có gì chỉ dạy, xin thương tình sai bảo.
Ông lão nói:
– Ta xem tiểu tử cốt cách thanh kỳ, nếu biết dùng tuổi xanh lo việc học tâp, sau này có thể đồ vương định bá được. Nay ta cho ngươi ba quyển bí thư, trong có đủ kỳ mưu, thần toán. Dù Tôn, Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp. Ngươi khá nhận lấy học tập, trước vì nước Hàn báo thù, sau vì thiên hạ giúp chân chúa đem lại thái bình, để khỏi phụ tình tri ngộ.
Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi:
– Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.
Ông lão nói:
– Ba năm nữa, nơi phía Ðông thành Ðại Cốc có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng hoàng thạch tức là ta đó.
Trương Lương nghe nói ngạc nhiên, ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.
Trương Lương trở về nhà Hạng Bá, mở sách ra xem thấy đó là bộ “Thái Công binh pháp” ngày đêm cố gắng học tập để đợi thời cơ.
Giữa lúc đó, Thủy Hoàng đi Ðông du, qua địa phận Từ Châu. Nơi đây hoa màu tươi tốt, cây cối khác thường.
Nhân dân trong hạt đem đến dâng cho Thủy Hoàng một cây lúa trổ ba bông.
Thủy Hoàng đắc ý, khen thưởng mọi người rồi truyền xa giá sang phía Ðông Nam, đi về huyện Bái.
Vừa đến nơi, Thủy Hoàng chợt thấy trên đỉnh núi cao, xuất hiện một vầng hào quang sáng chói.
Thủy Hoàng cau mày, gọi Lý Tư nói:
– Hào quang xuất hiện, nơi đây ắt có nhân tài. Cần phải tìm giết đi để khỏi di hại về sau.
Lý Tư tâu:
– Vân khí xuất hiện là chuyện thường, nay bệ hạ tuần du mà sai người dò thám, bắt bớ e lòng dân náo động chăng?
Thủy Hoàng nghe lời ấy, thôi không sai người dò thám bắt bớ nữa.
Một hôm, Thủy Hoàng ngự giá đến Cối Kê, dân chúng hai bên đường đều phục lạy tiếp đón.
Trong đám dân chúng ấy, bỗng có một chàng trai toan đứng dậy nhảy xổ đến đâm Thủy Hoàng.
Tuy nhiên, hành động chưa phát lộ, thì có một ông lão biết ý cản lại, kề tai nói nhỏ:
– Không nên! Ðại trượng phu phải lập nghiệp lớn, để tiếng thiên thu, lẽ nào bắt chước những tay thích khách tầm thường!
Chàng trai cho là phải, không hành động nữa.
Chàng trai ấy là Hạng Tịch, tên chữ là Vũ, quê ở Hạ Tượng, còn ông lão kia là Hạng Lương, chú của Hạng Vũ đó.
Từ thuở bé, Hạng Vũ theo nghiệp văn, nhưng văn dốt, Hạng Vũ sang nghề võ, nhưng kiếm thuật lại không lành.
Người chú là Hạng Lương thường mắng:
– Mày học hành chẳng ra sao, lớn lên chỉ là một tên côn đồ dốt nát.
Hạng Vũ nói:
– Thưa chú học chữ chẳng qua để biên chép mòn ngày, còn học kiếm chẳng qua cũng chỉ địch nổi một vài người mà thôi. Hai môn ấy không ích nên cháu không gắng.
Hạng Lương giận hỏi:
– Thế thì mày muốn học thứ gì để gọi là ích lợi?
Hạng Vũ thưa:
– Cháu muốn học nghề gì mà nhất địch vạn nhân, như thế ngày sau mới có thể đem thân ra tranh đấu với thiên hạ được.
Hạng Lương thấy cháu có ý lạ liền lấy các sách binh pháp ra dạy. Môn này Hạng Vũ thích học, song cũng chỉ học những cái đại cương mà thôi.
Hai chú cháu đang ôm mộng lập nghiệp thì hôm ấy Thủy Hoàng tuần du đến.
Từ đấy hai chú cháu chu du khắp thiên hạ, chiêu tập nhân tài để mưu đồ đại sự.
Lý Tư thấy Thủy Hoàng đi đến đâu cũng gặp chuyện chẳng lành, dân chúng khiếp sợ lẩn tránh liền tâu:
– Bệ ha. Bệ hạ tuần du đã lâu, trong thiên hạ đều biết rõ uy vũ. Xin Bệ hạ khá hồi loan sửa sang chính trị, giữ gìn biên cương để an dưỡng mình rồng, bớt điều khổ nhọc.
Thủy Hoàng suy nghĩ một lúc rồi truyền xa giá hồi loan.
Ði đến địa phận Duyện Châu trời tối, Thủy Hoàng nằm ngủ, bỗng mơ càng giấc điệp trông thấy một vị Long thần hiện đến cùng với Thủy Hoàng giao chiến, Thủy Hoàng cầm cự hồi lâu, nhắm sức không cự nổi, bỏ chạy.
Chạy đến một bờ biển. Nước xanh cuồn cuộn, sóng gió hãi hùng. Ðang cơn nguy cấp bỗng có một con Xích long từ trên trời sa xuống, há mồm ngoạm lấy Thủy Hoàng nuốt đi. Thủy Hoàng thất kinh, giật mình thức dậy, mồ hôi ướt cả long bào, tay chân rũ rượi.
Biết điềm mộng chẳng lành Thủy Hoàng lo lắng sinh bệnh.
Ði đến đất Sa Khâu, bệnh thế càng nặng, Thủy Hoàng liền gọi Lý Tư đến nói:
– Trẫm biết không còn sống để thụ hưởng cảnh vinh hoa nữa. Nếu vạn nhất Trẫm có băng hà, khanh nên đến Thượng Quận đón Thái tử Phù Tô về kế vị. Như vậy thiên hạ mới mong lạc nghiệp được.
Nói xong, lại viết tờ di chúc và giao ngọc tỷ cho Lý Tư.
Lý Tư sụp lạy nhận mệnh. Thủy Hoàng nói:
– Ngươi phò Trẫm đã lâu, các việc lớn nhỏ Trẫm đều phó thác cả. Vậy phải hết lòng vì nước chớ trái lời di chúc này. Thái tử Phù Tô là người nhân ái có thể dùng đức cải oán thiên hạ được. Ta tiếc rằng đời ta đã dùng bạo lực, phương thức không hay đối với chánh sách trị nước.
Nói đến đấy, Thủy Hoàng thở hơi cuối cùng.
Lý Tư liền tẩm liệm, rồi đưa thi thể về Hàm Dương, sai người đi triệu Phù Tô về phát tang.
Triệu Cao cản lại nói:
– Không nên! Thái tử Phù Tô lâu nay không tín nhiệm bọn ta. Nếu Thừa Tướng lập Phù Tô lên ngôi chẳng những chúng ta mất chức, mà còn nguy hiểm đến tính mệnh nữa.
Lý Tư nói:
– Nhưng mệnh vua, làm trái sao đành.
Triệu Cao cười nhạt, nói:
– Ðành vậy. Nhưng giữ lời di chúc mà thân phải lụy, thà phụ lời di chúc mà giữ được địa vị còn hơn. Thừa Tướng đối với Thái tử đâu bằng Mông Ðiềm.
Lý Tư thở dài hỏi:
– Theo ý ngài nên làm thế nào?
Triệu Cao nói:
– Hãy đổi tờ di chúc, lập Công tử Hồ Hợi lên nối ngôi.
Lý Tư trầm ngâm một lúc, quyền lợi bản thân thắng đạo đức, ngẩng nhìn Triệu Cao nói:
– Vâng, tôi xin theo lời ngài.
Triệu Cao mừng rỡ, đến tìm Công tử Hồ Hợi nói:
– Nghiệp đế vương ngày nay mất còn chỉ có Công tử, Thừa Tướng và tôi định đoạt. Tiên vương di chiếu lập Thái tử Phù Tô, chúng tôi xét thấy quyền hành công tử sau này sẽ mất hết. Chúng tôi xin vì công tử, lập công tử lên kế vị.
Hồ Hợi cau mày nói:
– Ôi chao! Sao các ngài có ý nghĩ như thế? Bỏ anh lập em là trái nghĩa, bỏ lời di chúc của Tiên vương là bất trung, con không theo lời cha là bất hiếu. Kẻ đã bất trung, bất hiếu, bất nghĩa thì ai còn phục. Tôi không thể nghe theo lời các ngài được!
Triệu Cao nói:
– Ðấng trượng phu không nên câu nệ những tiểu tiết mà bỏ đại sự. Cơ hội ngàn năm một thuở. Phú quý về tay mà không tiếp nhận, dẫu sau hối hận cũng chẳng ích gì.
Hồ Hợi nghe Triệu Cao nói bùi tai, gật đầu đáp:
– Ừ! thế thì các ngài hành động cách nào tùy ý.
Triệu Cao lập tức trở về thuật lại với Lý Tư rồi đổi tờ di chúc, sai Diêm Nhạc đem chiếu giả đến Thượng Quận, bắt Phù Tô phải tự tử. Ðoạn lập Hồ Hợi lên ngôi.
Diêm Nhạc đến Thượng Quận truyền lệnh cho Phù Tô ra tiếp chiếu.
Phù Tô vội vàng ra sụp lạy.
Diêm Nhạc mở chiếu đọc rằng:
“Nhà Ðại Tần ngày… tháng… năm thứ 37.
Thủy Hoàng đế hạ chiếu:
Ðời Tam Ðại lấy hiếu trị thiên hạ, gây mối cương thường. Con không nghe cha là bất hiếu, tôi không nghe vua là bất trung. Kẻ bất trung, bất hiếu không dáng làm chủ thiên hạ.
Nay trưởng tử Phù Tô cải mệnh cha, không trọn đạo làm con. Cứ lấy tình cha con thôi có thể dung thứ được, song theo phép tổ tiên không thể khoản miễn.
Vậy chiếu lập Hồ Hợi làm Thái Tử, truất Phù Tô xuống thứ dân, trao cho một chén độc dược và một thanh gươm để tự xử lấy thân.
Còn như tướng Mông Ðiềm cầm quân cõi ngoại, không ích lợi gì cho nước, chỉ làm hao tốn muôn dân, lẽ ra phải theo pháp gia hình, nhưng vì trường thành chưa xong, tạm để cho Mông Ðiềm ở đó đôn đốc công việc.
Chiếu chỉ đến nơi, phải lập tức tuân theo. Khâm Thử.”
Phù Tô nghe xong khóc lớn, nói:
– Ôi! Vua bảo chết. Tôi không thể không tuân, cha bảo chết con không thể cải mệnh. Nay Phù Tô này xin lãnh thanh gươm và độc dược cho trọn niềm trung hiếu.
Mông Ðiềm cản lại nói:
– Xin Ðiện hạ xét lại đã. Bệ hạ sai hạ thần đem ba mươi vạn quân đóng nơi biên cương, lại sai Ðiện hạ đến làm Giám Ðốc. Ðã giao trọng trách như thế lẽ nào còn bắt chết! Tôi e trong triều có điều gì gian trá xin Ðiên hạ về triều thĩnh tội để rõ ngay gian.
Phù Tô lắc đầu, nói:
– Bình nhật phụ vương tôi ghét bỏ tôi, nay bắt chết là do thánh ý, tôi không muốn cải lời.
Nói xong, sai quân đem thuốc độc đến, uống một hơi cạn chén.
Phù Tô chết, Mông Ðiềm thương tiếc vô cùng, ôm thây khóc mãi. Ba quân ngậm ngùi rơi lệ.
Diêm Nhạc thấy Phù Tô đã chết, trở về báo với Hồ Hợi.
Hồ Hợi liền làm lễ tức vị xưng hiệu là Nhị Thế hoàng đế.
Từ đó, quyền hành trong nước về tay Lý Tư và Triệu Cao chuyên chế.
Hai người lập ra hình pháp rất nghiêm khắc, cốt trấn áp lòng dân, mưu lợi riêng, không kể đến cái hại vong quốc sau này.
Các quan đại thần trông thấy đều chán ngán, không muốn tham dự việc nước.
Vua Nhị Thế thấy Mông Ðiềm thống lãnh hơn ba vạn quân ngoài biên ải, còn thân thuộc đều ở nơi kinh thành, sợ sinh biến liền truyền chỉ đem chém hết.
Quan Ðại thần Tử Anh can:
– Tâu bệ hạ, họ Mông vốn dòng dõi đại thần, nay bệ hạ mới trị nước mà trừ bỏ đại thần e lòng dân ly tán. Xin bệ hạ dùng đức khoan hồng thay cho uy vũ để trị dân.
Nhị Thế không nghe, truyền đem tộc thuộc Mông Ðiềm giết hết.
Mông Ðiềm hay tin ấy, ngước mặt lên trời than:
– Nhà ta ba đời có công lớn với nước Tần, nay vua Tần tin dùng kẻ gian nịnh hủy hại tôi hiền. Ta cầm trong tay ba chục vạn quân, đủ sức phản lại. Nhưng thà chịu chết chứ không để làm mất tiếng trung liệt của tổ tiên.
Ðêm ấy, Mông Ðiềm uống thuốc độc tự vận.
Vua Nhị Thế nghe tin Mông Ðiềm chết, lập tức truyền chỉ ra Thượng quận bắt anh em con cháu Mông Ðiềm đày qua Thục quận.
Bình nhật, Triệu Cao và Lý Tư chỉ sợ có Phù Tô và Mông Ðiềm, nay hai người ấy đều chết cả, nên không còn kiêng nễ ai nữa.
Triệu Cao và Lý Tư từ khi lập vua Nhị Thế lên ngôi, ra sức vơ vét của cải dân chúng, xui vua Nhị Thế hành phạt sinh linh, tất cả những nguy cơ trong nước đều dấu nhẹm không cho vua Nhị Thế biết.
Trộm cướp nổi dậy khắp nơi, các tay anh hùng hào kiệt đua nhau chiêu tập binh mã để mưu đồ quốc sự.
Khắp các miệt Sơn Ðông, Sơn Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc và quanh vùng Ngô, Sở không chỗ nào không có giặc giã.
Trần Thắng khởi binh ở đất Tần, Vũ Thần khởi binh ở đất Triệu, Lưu Bang khởi binh ở đất Bái, Hạng Lương khởi binh nơi đất Ngô, bốn biển tung hoành, rộn ràng gươm giáo. Cái họa vong quốc đã đến nơi, thế mà vua Nhị Thế không hay biết gì cả, ngày đêm mải mê tửu sắc nơi cung A Phòng.
Trong số hào kiệt, Lưu Bang được nhiều người nói đến.
Lưu Bang quê ở đất Bái tên chữ là chữ Quý. Khi xưa bà mẹ Lưu Bang thường nằm trên một bờ bưng lớn nghĩ ngơi… Bỗng một hôm, thấy thần nhân đến cùng với mình giao cấu.
Lúc tỉnh dậy, trong mình rã rượi, rồi thụ thai. sinh ra Lưu Bang. Lưu Bang mũi cao, miệng rộng, trán cao, mặt rồng, dưới vế bên tả có bảy mươi hai nốt ruồi, tính tình rộng rãi, trọng nghĩa, yêu người, khi lớn lên được làm chức Ðình Trưởng ở Tứ Thượng. Tuy nhiên, phải cái bệnh ham mê tửu sắc, nên ai cũng chê.
Bấy giờ có ông Lã Văn người Ðan Phủ, ngắm tướng mạo Lưu Bang rồi nói với mọi người:
– Bang tuy là kẻ ham mê tửu sắc, song lúc gặp thời phú quý sẽ về tay. Với đức tánh hiền lương ấy, tôi tưởng gầy nên nghiệp cả không khó.
Một hôm, Lã Văn về bàn với vợ, muốn đem con gái mình là Lã Nha gả cho Lưu Bang.
Bà vợ cau mày nói:
– Sao ông lẩn thẩn thể? Trước kia quan huyện Bái đến cầu hôn, ông không chịu gả, bây giờ lại đem gả cho tên du đãng sao?
Lã Văn cười lớn, nói:
– Ai bảo bà Lưu Bang là kẻ du đãng? Bà có biết đâu người ấy là bậc anh hùng trong thiên hạ!
Hôm sau, Lã Văn mời Lưu Bang đến nhà, đặt tiệc khoản đãi.
Lúc đang ăn uống, Lã Văn nâng chén, nói với Lưu Bang:
– Tôi xem tướng ngài không phải là bậc phàm nhân, xin ngài phải tự trọng mới được. Nhà tôi có một gái, tuổi vừa cặp kê, tôi muốn cho theo hầu ngài để sửa tráp nâng khăn.
Lưu Bang khúm núm thưa:
– Tôi có ba việc chưa làm xong dám đâu nghĩ đến chuyện vợ con!
Lã Công nói:
– Ý tôi đã quyết, ngài chớ phụ lời. Vả lại kẻ trượng phu trên đời phải làm đến trăm nghìn việc, chớ cứ gì ba việc. Tôi chưa thấy ai vì bận việc mà từ chối không lấy vợ bao giờ.
Lưu Bang thấy Lã Công đem lòng quyến luyến không nỡ chối từ. Hai người bắt chén tương tri, rồi giã biệt.
Lã Công đưa tiễn Lưu Bang ra khỏi ngõ, bỗng có một chàng trai vồn vã chạy đến, nói với Lưu Bang:
– Ôi chao! Ngài đi đâu mà đã ba hôm tôi tìm không gặp.
Lã Công thấy chàng trai ấy hình vóc cao lớn, tiếng nói vang như sấm, khí phách đường đường, nghĩ thầm:
– Hẳn là một tay hảo hớn, gặp thời có thể vá trời lấp biển được!
Liền mời cả hai vào hàng rượu gần đó đánh chén.
Lã Công lựa lời hỏi thăm tên họ khách.
Khách đáp:
– Phàn tên Khoái, người huyện Bái, làm nghề bán thịt chó.
Nhân đi tìm Lưu Bang lại gặp ngài đây, thật vạn hạnh.
Lã Công nói:
– Tôi từng nghe danh tráng sĩ đã lâu, hôm nay mới gặp màt, muốn tỏ một lời, song còn e ngại.
Phàn Khoái kính cẩn hỏi:
– Việc gì xin ngài cứ thật tình dạy bảo.
Lã Công mỉm cười, nhìn Phàn Khoái hỏi:
– Tôi hỏi thế này tưởng cũng quá đường đột, nhưng xin tráng sĩ hỉ xả cho. Chẳng hay tráng sĩ đã có người nội trợ chưa?
Phàn Khoái đáp:
– Thưa ngài, tôi nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, việc ấy chưa thể nghĩ đến.
Lã Công nói:
– Tôi có hai gái, đứa lớn gả cho Lưu Bang rồi, còn đứa nhỏ là Tu, nếu tráng sĩ có lòng thương, tôi xin dâng nốt.
– Hôm nay là ngày kỳ ngộ, chỉ một bữa mà Lã đại nhân đem hai tiểu thư gả cho hai ta. Lã đại nhân đã có lòng thương, hiền đệ chớ nên từ chối.
Phàn Khoái vội vã đứng dậy tạ ơn Lã Công.
Rượu tan, ánh nắng chiều cùng bắt đầu nhạt dần, hai người bái biệt ra về.
Ngày hôm sau, quan huyện Bái sai Lưu Bang đưa phu đến núi Ly Sơn để phục vụ công tác xây thành.
Khi đi đường, bọn dân phu trốn thoát quá nửa. Tối hôm ấy nghỉ lại nơi trạm Chăm Phong Tây, Lưu Bang nói với mọi người:
– Các anh ra đi không biết ngày về, vợ đói con rét, người nào trốn được thì trốn, tội gì đem thân hy sinh cho công việc không đem lại lợi ích cho quốc gia.
Bọn dân phu nói:
– Cám ơn ngài có lòng thương chúng tôi, song chúng tôi nỡ nào trốn thoát để ngài mang tội sao đành!
Không, các anh cứ đi! Tôi đây cũng phải tìm đường lánh nạn, chứ dại gì chịu chết!
Trong bọn dân phu có hơn mười người tráng sĩ, thấy Lưu Bang đầy lòng nhân đạo, đồng nói:
– Chúng tôi xin tình nguyện theo ngài!
Lưu Bang thuận tình. Ðêm ấy mọi người cùng Lưu Bang đánh chén thực say rồi theo lối tắt tìm đường đi trốn.
Ði được một quãng, bỗng thấy người dẫn lối quay trở lại nói:
– Ðàng trước có một con rắn dài ước mười trượng, nằm ngang giữa đường, không sao đi được. Phải tìm lối khác thoát thân.
Cả đoàn đều nhốn nháo. Riêng Lưu Bang vẫn điềm nhiên nói:
– Ðấng trượng phu không vì trở ngại mà lùi bước.Nói xong, cầm kiếm bước đến chém con rắn đứt làm hai đoạn, rồi vẫy tay nói với mọi người:
– Rắn đã chết, chúng ta tiến bước!
Mọi người le lưỡi, lắc đầu, bảo nhau:
– Bình nhật, Lưu Bang là kẻ nhút nhát, cớ sao hôm nay lại bạo dạn đến thế.
Cả đoàn kéo nhau vào ẩn nơi núi Mang Ðãng. Dân chúng trong vùng hay tin theo đến rất đông..
Cách mấy hôm, có người đến chỗ Lưu Bang chém con Bạch xà hôm trước, thấy có một bà già đang ôm xác con rắn khóc sướt mướt.
Người ấy lấy làm lạ, hỏi:
– Rắn chết thì trừ hại cho dân làng, cớ sao bà lại thương tiếc?
Bà già nói:
– Con tôi là con Bạch Ðế, hóa ra rắn nằm dọc đường, rủi bị ông Xích Ðế chém chết, vì vậy mà tôi thương khóc.
Bà già nói dứt lời biến mất. Dân trong vùng hay chuyên lạ bảo nhau:
– Ðó là một quái tượng!
Ðất Bái xung thiên khí đế vương
Trảm xà khởi nghĩa cứu tai ương.
Mở dầu sự nghiệp gây nhà Hán
Công đức Lưu Bang thật khó lường.
Từ khi Lưu Bang trảm xà, mưu việc lớn, bốn phương thiên hạ tình nguyện theo phò ước hơn hai trăm người.
Bấy giờ hai người Lại Mục huyện Bái là Tiêu Hà và Tào Tham thấy chính sách nhà Tần tàn bạo, thuế má nặng nề, bàn nhau tôn quan huyện Bái lên làm minh chủ, mộ quân chống lại nhà Tần.
Lưu Bang hay tin ấy, kéo đoàn nghĩa dũng của quân mình đến xin gia nhập.
Quan huyện thấy thanh thế của Lưu Bang thì sợ hãi, gọi Tiêu Hà và Tào Tham đến trách.
– Các ngươi mượn tiến cử ta làm minh chủ, nay lại viện quân ngoài đến, có khác gì thêm cánh cho hùm, sau này không tránh khỏi nội biến.
Tiêu Hà và Tào Tham nhìn nhau mỉm cười.
Ðêm ấy, hai người lén ra ngoài thành, tìm đến nói với Lưu Bang:
– Quan huyện Bái là kẻ tầm thường không mưu nổi việc lớn. Ngài nay thanh thế đã khá, nên thừa cơ hội này chiếm lấy thành trì huyện Bái, làm chỗ đồn trú quân mã, chiêu dụ hiền tài, khởi xướng việc nghĩa, mưu trừ kẻ tàn bạo, thì thiên hạ bốn phương mới có chỗ tôn phò.
Lưu Bang nói:
– Nếu hai ông sẵn sàng giúp tôi làm việc nghĩa, tôi đâu dám cãi lời. Song điều cần yếu hai ông phải giúp tôi làm nội ứng thì mới nên việc được.
Tiêu Hà và Tào Tham đồng đáp:
– Các bậc bô lão trong thành hiện nay đều mong mỏi có người tài cầm đầu khởi nghĩa, nếu ngài viết một bức thư vạch rõ lợi hại hiểu dụ, ắt trăm dân một lòng nghe theo, thành huyện Bái chiếm đoạt không khó gì.
Lưu Bang theo lời, viết một bức thư bắn vào thành, trong thư đại ý nói:
” Lâu nay thiên hạ khổ sở vì chính sách tàn bạo nhà Tần, vì vậy, hào kiệt bốn phương đua nhau dấy nghĩa, chọn người tài làm minh chủ liên kết chư hầu để đánh đổ bạo chúa, đem an cư, lạc nghiệp lại cho muôn dân là người trọng nghĩa vì dân nên cùng tôi ứng theo nghĩa cả “.
Các bô lão trong thành được thư, bàn nhau:
– Hiện nay Lưu Bang chiêu tập binh mã vì dân khởi nghĩa, chúng ta là những kẻ sống ngất ngưởng trong chế độ mục nát bạo tàn, lẽ nào lại không hưởng ứng.
Liền rủ nhau vào giết quan huyện Bái rồi mở cửa thành cho nghĩa binh Lưu Bang kéo vào.
Tiêu Hà, Tào Tham bàn với dân chúng lập Lưu Bang lên làm quan huyện Bái.
Lưu Bang từ chối, nói:
– Không thế được. Nay thiên hạ loạn lạc, các chư hầu đua tranh, cần phải tìm người tài tôn lên. Tôi đức bạc, tài hèn không đủ tín nhiệm làm chủ huyện Bái, xin các ông chọn người khác.
Mọi người đồng thanh nói:
– Lâu nay nghe tiếng ngài là bậc kỳ tài, đáng cho chúng tôi tôn làm minh chủ. Nếu ngài từ chối lòng dân ắt ly tán.
Lưu Bang thấy không thể từ chối được, phải nhận chức, tự xưng là Bái Công, dùng cờ đỏ làm “nghĩa kỳ”. Dân chúng đất Bái theo đến hơn ba ngàn người.
Cùng trong thời gian ấy, Hạng Lương và Hạng Vũ sang đất Cối Kê.
Quan Thái Thú Cối Kê là Ân Thông biết Hạng Lương là người mưu trí, liền mời đến bàn chuyện.
Ân Thông nói:
– Nay vua Nhị Thế vô đạo, Trần Thiệp khởi binh thiên hạ nhao nhao hưởng ứng. Tôi cũng muốn thừa cơ khởi nghĩa nên mời ngài đến cùng tôi hợp tác, ý ngài nghĩ sao?
Hạng Lương giả cách vâng lời, rồi trở về bàn với Hạng Vũ:
– Kẽ trượng phu cần tự lập, lẽ nào đem thân xu phụ người khác! Vả lại Ân Thông không phải là người đủ tài đức đứng ra gánh lấy việc đại nghĩa. Tuy nhiên, nếu ta không cướp lấy cơ hội thì làm sao có chỗ dung thân để mưu việc lớn.
Hạng Vũ nói:
– Việc ấy chẳng khó gì! Ngày mai chú vào giả cách đàm đạo với Ân Thông, cháu giắt kiếm vào lưng, theo chú đến đó, thừa cơ giết hắn đi chiếm lấy quận ấy để làm nơi nương tựa, chiêu tập binh mã, tích thảo dồn lương.
Hạng Lương nói:
– Nếu cháu làm được việc ấy thì hay lắm.
Sáng hôm sau Hạng Lương và Hạng Vũ cùng vào nha môn. Ân Thông đem việc phản Tần bàn với Hạng Lương.
Hạng Vũ đứng một bên, hét lớn:
– Ngươi với ta hai lãnh vực khác nhau. Ta là dòng dõi khanh tướng nước Sở. Nước Tần diệt nước Sở nên ta đối với Tần có cái thù bất cộng đái thiên. Còn ngươi là một quan thái thú, ăn lộc vua lại âm mưu phản quốc, rõ là kẻ bất trung, không giết còn để làm gì.
Dứt lời vung kiếm chém Ân Thông rơi đầu.
Nha môn im lặng như tờ không ai dám hé môi.
Hạng Vũ cầm đầu Ân Thông giơ cao, nói:
– Hạng Công là người tài trí, đáng lãnh đạo dân chúng trong quận. Người nào không thuận hãy xem tấm gương này.
Hai viên môn lại là Quý Bá và Chung Ly Muội bước lên công đường nói lớn:
– Ðến đất người, giết chủ người, sao gọi là làm việc nghĩa?
Hạng Vũ đáp:
– Hạng Công vì nước Sở trả thù Tần, vì thiên hạ cứu lầm than đó là chí lớn, nếu hai người bằng lòng qui thuận, nêu cờ khởi nghĩa chẳng phải là hành động đại nghĩa sao!
Hai người nghe nói đều phục xuống thềm, thưa:
– Chúng tôi xin nghe theo lời tướng quân.
Hạng Lương phong cho Quý Bá và Chung Ly Muội làm chức Ðô Úy.
Chẳng bao lâu, các nơi nghe tiếng kéo nhau đến theo hơn vạn người.
Hạng Lương sắp thành đội ngũ, thưởng phạt nghiêm minh ai cũng nức lòng phò tá.
Quý Bá và Chung Ly Muội bàn với Hạng Lương:
– Quân mạnh phải có tướng hùng mới nên việc. Nay thế quân của ta đã đông, nhưng tướng chưa đủ. Trong quận Cối Kê nơi Ðồ Sơn có hai viên tướng là Hoàn Sở và Vũ Anh, sức mạnh địch muôn người, đang chiêu mộ tinh binh ước hơn tám ngàn. Nếu dụ được hai tướng ấy thì hay lắm.
Hạng Lương nghe nói, lập tức sai Hạng Vũ và Quý Bá đến Ðồ Sơn chiêu dụ.
Hạng Vũ đến nơi, sai một tên tùy tùng vào nói.:
– Quan Ðại tướng nước Sở tôi là Hạng Vũ, tùy hành chỉ có vài người, mình không mặc giáp, tay không binh khí đến đây cốt để bàn với nhị vị việc Vương, Bá mà thôi.
Hoàn Sở và Vũ Anh nghe nói, cho mời Hạng Vũ vào.
Hạng Vũ nói:
– Nay vua Nhị Thế vô đạo, dân chúng lầm than, các anh hùng hào kiệt đều nổi lên dấy nghĩa, mong cứu dân khỏi vòng tai biến. Nhị vị tướng quân sẵn tài vũ dũng, có thể giúp ích cho đời, nếu cứ ẩn mãi trong chốn sơn lâm phỏng có ích gì. Hạng Công tích thảo dồn lương nơi quận Cối Kê, quyết lòng rửa hờn cho sáu nước, nếu hai vị tướng quân bằng lòng hợp tác sau này thành công phú quý cùng hưởng.
Hoàn Sở nói:
– Tần tuy vô đạo, song binh lực còn mạnh, nếu không có tài cái thế khó nổi thành công. Chúng tôi nhắm sức mình chưa đủ, không dám mưu việc lớn. Ngài đã dám đứng ra tính việc đại nghĩa, hẳn tài cán siêu quần. Bao giờ chúng tôi thấy được tài năng của ngài thì mới quy thuận, bằng không chỉ vẽ hổ không thành, mang tiếng với đời mà thôi.
Hạng Vũ nói:
– Nhị vị tướng quân muốn thử tài tôi bằng cách nào?
Hoàn Sở nói:
– Ở dưới sườn núi có miếu Vũ Vương. Trước miếu có cái đỉnh nặng mấy nghìn cân. Nếu ngài lay nổi ba lượt, thì quả là người có sức mạnh vô địch.
Hạng Vũ nói:
– Thế thì đưa tôi đến đó xem thử.
Hai tướng dẫn Hạng Vũ, Quý Bá và bọn tùy tướng xuống sườn núi, vào miếu Vũ Vương. Giữa sân có một cái đỉnh đồng cao bảy thước, chu vi năm thước, nặng ước năm ngàn cân. Hạng Vũ xem qua rồi bảo viên tiểu tướng đẩy thử xem. Viên tiểu tướng cố sức đẩy mạnh, mặt đỏ bừng, nhưng đỉnh đồng không hề lay chuyển.
Hạng Vũ, xăn tay áo, đẩy mạnh một cái, đỉnh đồng ngã xuống rồi lại đỡ lên như cũ. Ba lần như vậy, vẫn không lấy gì làm nặng nhọc.
Hai tướng vỗ tay reo lớn:
– Ôi chao! Quả là tay hảo hớn!
Hạng Vũ vừa cười vừa nói:
– Thế đã lấy gì làm lạ.
Dứt lời, cầm lấy chân đỉnh đưa cao lên trời, đi quanh miếu ba vòng, mà sắc mặt vẫn không thay đổi.
Hai tướng la lớn:
– Thật là bậc thiên thần, dẫu Mạnh Bôn tái sinh cũng chưa chắc đã địch nổi. Chúng tôi xin tùng phục ngài.
Hạng Vũ đem đỉnh đồng để xuống chỗ cũ, rồi theo hai tướng trở về trại.
Hai tướng đặt tiệc khoản đãi.
Ngày hôm sau thu xếp hành trang, thống suất binh mã, cùng theo Hạng Vũ hạ san.
Vừa đi khỏi Ðồ Sơn vài dặm, bỗng thấy một toán dân chúng hơ hải chạy đến.
Hạng Vũ ngạc nhiên, gò ngựa, hỏi:
– Các ngươi có việc chi sợ hãi thế?.
Vài người dân binh đến đầu ngựa cúi chào Hạng Vũ và nói:
– Trong vực lớn cạnh núi Ðồ Sơn có con rồng đen, hóa thành ngựa, ngày nào cũng đến thôn Nam Phụ gầm, thét, cắn, đá, phá hoại mùa màng, chúng tôi không làm cách nào đuổi đi được. Ai đến gần đều bị ngựa đá chết. Chúng tôi thấy đại binh qua đây, đến nhờ tướng quân vì dân trừ hại. Ðược vậy dân vùng này mang ơn tướng quân không ít.
Hạng Vũ nghe nói lập tức dẫn Hoàn Sở cùng bọn tùy tướng đến bên vực.
Thần mã thấy có người đến, nhảy xổ tới, cắn đá rất hăng. Hạng Vũ xăn áo, túm lấy bờm ngựa ghì xuống, con ngựa không cử động nổi. Hạng Vũ lấy dây cương tròng vào, rồi cưỡi mươi vòng quanh bờ vực, thần mã toát mồ hôi, đứng rũ chân không còn dám hung hăng như trước.
Dân chúng thấy vậy đều sụp lạy, hoan hô, và xin cho biết danh tính.
Hạng Vũ nói:
– Tôi là Hạng Vũ, cháu Hạng Yên, quan Ðại tướng nước Sở thời xưa, nhân đi mộ quân đánh Tần mới qua đây.
Trong đám dân chúng có một ông lão đến gần nói:
– Tôi nghe danh tướng quân đã lâu nay mới gặp mặt, xin mời tướng quân quá bộ đến thảo trang, cùng xơi với lão một chén trà.
Hạng Vũ nhận lời, kéo cả đoàn quân đến nơi.
Ông lão đặt tiệc thiết đãi rất ân cần.
Hạng Vũ hỏi:
– Thưa lão trượng, chẳng hay lão trượng phương danh là chi, cớ sao có thịnh tình này?
Ông lão đáp.
– Tôi họ Ngu, người ta thường gọi tôi là Ngu Công, vì trọng tài tướng quân nên đem lòng quyến luyến. Chẳng hay tướng quân niên kỷ được bao nhiêu?
Hạng Vũ thưa:
– Tôi năm nay 24 tuổi.
Ngu Công hỏi:
– Và, đã có người nội trợ để nâng khăn sửa túi chưa?
Hạng Vũ đáp:
– Chí cả chưa thành, tôi chưa nghĩ đến chuyện đó.
Ngu Công ngập ngừng đáp:
– Lão hiếm hoi, chỉ có một gái tên Ngu Cơ, tư chất thông minh, tánh tình trang nhã. Khi tiện thê gần sinh cháu, mơ thấy năm con phượng đến múa trước nhà, lão chắc con gái lão sau này có số giàu sang, vì vậy lâu nay có ý chọn mặt gởi vàng. Nếu tướng quân không câu nệ nghèo hèn, lão xin đem tiện nữ dâng hầu tướng quân làm bầu bạn.
Hạng Vũ thấy lòng quyến luyến của Ngu Công, rất hân hoan, đứng dậy xin cảm ơn.
Ngu Công gọi Ngu Cơ ra chào. Thực là một đóa hoa tuyệt mỹ, giá đáng nghìn vàng.
Hạng Vũ cởi thanh kiếm đeo bên mình dâng cho Ngu Công làm lễ hứa hôn, rồi bái từ trở về Cối Kê, dẫn Hoàn Sở và Vũ Anh vào yết kiến Hạng Lương.
Hạng Lương thấy hai tướng hình dung vạm vỡ, khí phách kiêu hùng, lại dẫn theo hơn tám ngàn tinh binh đến đầu phục, lòng mừng rỡ vô cùng.
Hạng Vũ dắt con thần mã đến trình Hạng Lương.
Hạng Lương trông thấy con ngựa mình cao bảy thước, dài hơn một trượng, liền đặt tên là Ô Truy, và nói:
– Từ ta khởi binh đến nay gặp nhiều may mắn, có lẽ trời khiến nhà Tần phải diệt vong.
Cách mấy hôm, Hạng Lương cho đón Ngu Cơ về Cối Kê kết hôn với Hạng Vũ.
Ngu Cơ lại đem theo một người em họ là Ngu Tử Kỳ để dùng.
Từ đó, thanh thế Hạng Lương mỗi ngày một mạnh, các binh sĩ đào vong bốn phương nghe tiếng tìm đến hơn mười vạn.
Hạng Lương thấy binh hùng, tướng mạnh, lương thực đầy đủ, liền định ngày xuất quân đánh Tần.
Ngày khởi binh đến, các bô lão nơi thành Cối Kê ra đứng cả hai bên vệ đường, nói:
– Tướng quân ra đi, chúng tôi còn biết lấy ai trông coi chúng tôi.
Hạng Lương xuống ngựa, kính cẩn nói:
– Khi trước tôi lấy thành Cối Kê là tạm mượn chỗ để lưun đồn nhân mã. Nay đại quân đóng lâu ngày sợ nhiễu loạn nhân dân chăng? Tôi vì sanh linh trừ hôn quân vô đạo. Nếu nghiệp cả được thành, quyết chẳng bao quên ơn nơi đã giúp tôi khởi nghĩa.
Các bô lão đều cảm động, phục xuống đất, quyến luyến không nở rời.
Hạng Lương bùi ngùi ra lệnh ba quân tiến phát.
Ðại binh theo đường lớn, kéo thẳng qua sông Giang, đến sông Hoài.
Bỗng đạo tiền quân dừng lại, và có thám mã chạy đến báo:
– Phía trước có một toán quân ngăn đường.
Hạng Vũ vội vã giục ngựa tới trước, thấy trong toán quân đó có một tướng mặt mày vạm vỡ, khí thế uy nghi liền hỏi:
– Tướng kia là ai? Cớ sao lại cản đường quân ta?
Tướng ấy đáp:
– Ta là người đất Lục An, tên Anh Bố, lâu nay chiêu tập nghĩa binh để trừ gian, cứu thiên hạ. Các ngươi là toán quân vô danh ở đâu đến đây, ta quyết chẳng cho đi.
Hạng Vũ đáp:
– Tướng quân lầm rồi! Ta đây là Hạng Vũ, con cháu Hạng Yên nước Sở, bởi vua Nhị Thế bạo tàn nên dấy binh khởi nghĩa, trả thù cho sáu nước chư hầu, sao lại gọi là vô danh?
Hai người còn đang tranh phải trái, Hoàn Sở nghe tên Anh Bố, vội thúc ngựa ra trước quân, gọi lớn:
– Hiền huynh ơi! Hãy xuống ngựa quy hàng. Tiểu đệ đã tùng phục theo nước Sở rồi, xin hiền huynh giữ lời hứa cũ.
Hạng Vũ ngạc nhiên hỏi Hoàn Sở:
– Có lẽ hai người quen thân với nhau sao?
Hoàn Sở nói:
– Thưa phải. Anh tướng quân vũ dũng siêu quần, ít người sánh kịp. Trước kia phải đi làm phu dịch ở Ly Sơn, bỏ trốn đến nhà tôi tá túc. Hai tôi có hẹn nhau, lúc nào gặp được anh quân sẽ cùng nhau đem thân giúp nước. Vừa rồi, tôi có nghe Anh Bố chiêu tụ nghĩa quân, nhưng chẳng rõ thực hư. Nay gặp mặt, thật may mắn.
Anh Bố xuống ngựa nói:
– Nếu ngài đã vì đại nghĩa dấy binh, tôi xin tình nguyện đem thân giúp sức.
Hạng Vũ mừng rỡ, dẫn Anh Bố đến yết kiến Hạng Lương.
Hạng Lương tiếp đón niềm nở và nói:
– Muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Ðược tướng quân cộng tác, chẳng khác nào như hùm thêm vây.
Nói xong truyền thống hợp binh mã, tiếp tục lên đường.
Một hôm, Hạng Lương bàn với chư tướng:
– Quân mạnh, tướng hùng là điều kiện tất yếu trong quân, song trí dũng lúc nào cũng phải đi đôi với nhau mới có lợi. Quân ta sức mạnh đủ đánh Tần, chỉ thiếu một người mưu sĩ.
Quý Bố nói:
– Tôi nghe thôn Cư Sào, hạt Hoài Dương có một người họ Phạm tên Tăng, tuồi đã bảy mươi mà mưu trí còn thừa, dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng khó bì kịp. Nếu Minh Công muốn dùng, tôi xin đi rước.
Hạng Lương mừng rỡ, sai Quý Bố đem lễ vật đến mời Phạm Tăng.
Quý Bố đến Cư Sào tìm nhà trọ nghỉ ngơi, dò hỏi tông tích Phạm Tăng.
Người chủ trọ nói:
– Ông ấy tuy ở gần thành thị, song không thích cảnh phố phường, lâu nay mai danh ẩn tích, chẳng chịu tiếp kiến ai bao giờ.
Quý Bố nghĩ thầm:
– Nếu không được giáp mặt Phạm Tăng làm sao bày tỏ cạn lời.
Nghĩ rồi hỏi chủ trọ:
– Ông có biết nhà Phạm Tăng hiện ở đâu chăng?
Chủ trọ đáp:
– Cách đây ba dặm, nơi chân núi Kỳ Cổ có ngôi nhà lá đó là nhà Phạm Tăng.
Quý Bố nghĩ ra môt kế, sai đứa tùy tùng giả làm khách buôn đến nói với người nhà Phạm Tăng:
– Chúng tôi người xứ lạ, đến Cư Sào buôn bán, chẳng may gặp vận rủi, hàng hóa lỗ lã nghe đồn tiên sinh đây là bậc kỳ mưu, đến xin yết kiến để lãnh vài lời chỉ giáo.
Phạm Tăng bình nhật vốn thích việc bày mưu, lập kế, nghe người nhà nói có khách buôn từ phương xa lại, liền cho vào.
Quý Bố lập tức cùng với tên tùy tùng vào yết kiến.
Thấy Phạm Tăng tóc bạc da mồi, khăn nâu áo vải, mà khí tượng đường bệ, ra vẻ tiên phong, đạo cốt, vội vã cúi chào.
Phạm Tăng hỏi:
– Khách từ đâu đến? Nghề nghiệp gì?
Quý Bố lập tức dâng lễ vật, quỳ mọp xuống đất thưa:
– Tiện nhân không phải khách xa lạ, cũng chưa từng buôn bán ở Cư Sào, vì sợ không được yết kiến Tiên sinh nên mượn lời nói vậy. Nay vua Nhị Thế vô đạo, lòng dân oán vọng, hào kiệt nỗi lên chiếm đất giành dân, mưu đường tiến thủ. Hạng tướng quân tôi vốn dòng dõi Hạng Yên nước Sở, tài kiêm văn vũ, lòng sẵn hiếu trung, vừa phất cờ khởi nghĩa ở Cối Kê, muôn dân hưởng ứng. Trộm nghe Tiên sinh mưu trí, hơn người, Tôn, Ngô, không sánh kịp, nên sai tôi đem lễ vật đến dâng, nếu được Tiên sinh giúp sức thì việc đại nghĩa ắt thành, xin tiên sinh vì cảnh lầm than của thiên hạ, ra cứu dân độ thế.
Pham Tăng bảo Quý Bố đứng dậy chỉ ghế mời ngồi và nói:
– Việc đồ vương định bá không thể quyết định trong chốc lát được. Túc hạ đã đến đây, xin tạm trú nơi tệ xá, ngày mai sẽ bàn.
Quý Bố cứ quỳ mãi dưới đất năn nỉ:
– Hạng tướng quân tôi mong được Tiên sinh chẳng khác nắng hạn trông mưa, lòng nóng như đốt, xin Tiên sinh vì cảnh điêu linh của muôn dân, đem tài cứu vớt, thiên hạ sẽ mang ơn Tiên sinh không nhỏ.
Phạm Tăng thấy Quý Bố năn nỉ quá, bất đắc dĩ phải nhận lời.
Tối hôm ấy Phạm Tăng bấm độn xem vận mệnh nước Sở, bỗng thở dài lẩm bẩm:
– Thôi! Ta lầm rồi! Sở không phải chân mệnh, khó lòng giúp nên công. Nhưng kẻ trượng phu đã nói một lời không thể thay đổi.
Hôm sau, Phạm Tăng thu dọn hành lý, cùng đi với Quý Bố đến giúp Hạng Lương.
Hạng Lương hay tin sửa sang áo mão, ra ngoài năm dặm đón rước vào đại trại, và nói:
– Lương tôi nghe tiếng Tiên sinh đã lâu, lòng khao khát, ngặt bận rộn việc quân, chưa đến bái yết được. Nay Tiên sinh không nỡ bỏ kẻ ngu hèn này đến đây dạy bảo, thật Lương tôi thỏa chí bình sinh.
Phạm Tăng đứng lên nói:
– Dòng dõi tướng quân mấy đời thờ nước Sở, nay vì dân khởi nghĩa, thiên hạ ai chẳng nức lòng. Tăng này dẫu tuổi già trí cạn, được tướng quân đoái tưởng, quyết tận tâm mưu tính nghiệp vương, để đền ơn tri ngộ.
Từ đó Hạng Lương cùng Phạm Tăng ngày đêm bàn tính việc quân cơ, rất tương đắc.
Một hôm Hạng Lương sai người đi dò thám tin tức Trần Thắng.
Quân thám thính về báo:
– Trần Thắng bị tướng Tần là Chương Hàm đánh bại, chạy về đất Nhữ Âm, bị tên Trang Giả giết chết. Chư hầu đều giải tán cả. Quân Chương Hàm hiện còn đóng ở Nam Dương.
Hạng Lương thất kinh, nói:
– Ta họp chư hầu cốt để giúp Trần Thắng đánh Tần, ngờ đâu Trần Thắng lại tử trận rồi. Quân ta không nên khinh thường kinh động.
Ðoạn, mời Phạm Tăng đến thương nghị.
Phạm Tăng nói:
– Trần Thắng là hạng tầm thường, chỉ tham lợi nhỏ mà không thấy được đại cuộc. Dẫu sống cũng chẳng làm được trò gì.
Hạng Lương hỏi:
– Thế nào là lợi nhỏ, thế nào là đại cuộc?
Phạm Tăng nói:
– Phàm kẻ mưu đại cuộc trước hết phải chinh phục lòng dân. Trong lúc muôn dân ly tán, không phân tính được chân, thiện, ác, lẽ ra Trần Thắng phải tìm dòng dõi vua Sở trước kia lập lên để tỏ ra mình vì đại nghĩa, đàng này Trần Thắng tự lập mình, cho mọi người nghi ngờ hành động của mình, rõ là kẻ bất trí.
Hạng Lương nghe Phạm Tăng nói, ngẩn người một lúc, rồi hỏi:
– Việc thất bại của Trần Thắng có ảnh hưởng gì đến đường tiến thủ của chúng ta chăng?
Phạm Tăng đáp:
– Dĩ nhiên đó là một bài học. Cứ như tướng quân khởi nghĩa chuyến này, dân chúng đâu đâu cũng hưởng ứng, vì tin chắc rằng tướng quân dòng dõi tôi thần nước Sở, tất sẵn lòng lập con cháu vua Sở lên làm vua. Mà như thế là chính nghĩa. Danh chánh ngôn thuận là một sức mạnh tuyệt đối, thắng bạo lực.
Hạng Lương cho là phải, liền dùng Phạm Tăng làm quân sư, sai người đi tìm con cháu vua Sở đem về lập lên ngôi.
Bọn thủ hạ đi tìm mãi không thấy tông tích con cháu vua Sở đâu cả.
Hạng Lương tức giận sai Chung Ly Muội dẫn một đám thủ hạ đi tìm.
Chung Ly Muội nói với bọn thủ hạ:
– Nước Sở từ khi bị nhà Tần diệt, con cháu ly tán, nếu còn thì nay cũng đổi họ tên, lẩn trốn nơi hoang dã, khó mà tìm được.
Ðoạn, cùng với bọn tùy tùng cất bước, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm mà vẫn chưa tìm ra tông tích.
Một hôm, đi đến địa phận Nam Hoài, thấy một lũ chăn dê đang đuổi đánh một đứa trẻ đồng bọn.
Ðứa trẻ bị đánh ấy mặt mũi khôi ngô, trán cao, vai rộng, không phải như những đứa trẻ tầm thường, Chung Ly Muội gọi đứa trẻ ấy lại, hỏi:
– Tại sao chúng lại xúm nhau đánh mày như thế?
Ðứa trẻ đáp:
– Tôi vốn không nhà cửa.., mẹ cha, ở làm con nuôi cho nhà Vương Xã trưởng, vì vậy chúng nó khi dễ. Vừa rồi tôi nói với chúng nó rằng: “Chúng bây dẫu có mẹ cha, nhà cửa, nhưng là con nhà tầm thường, ta đây tuy không nhà cửa, mẹ cha, nhưng là dòng dõi nhà vua. Chúng cho tôi nói láo, xúm nhau đuổi đánh.
Chung Ly Muội nghe nói, có ý mừng thầm, hỏi vội:
– Em nói em là con cháu nhà vua, vậy quê quán em ở đâu?
Ðứa bé ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Tôi từ nhỏ lưu lạc đó đây, nay cũng không nhớ đâu là quê quán.
– Ðừng sợ! Ta muốn hỏi để biết rõ mà giúp đỡ em đó thôi.
Ðứa bé đứng trù trừ một lúc, rồi mới nói:
– Tôi năm nay mười ba tuổi, đến đây đã tám năm rồi. Mẹ tôi nói tôi là cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở.
Ðứa bé nói chưa cạn lời, Chung Ly Muội đã truyền bọn tùy tùng bế đứa bé bỏ lên lưng ngựa thẳng đến nhà Vương Xã trưởng.
Vương Xã trưởng thấy quân lính đến nhà ồ ạt, sợ liền quỳ trước cửa rên rĩ:
– Tôi là kẻ tiều phu thảo dã, không rõ phép nước chẳng hay có điều gì lầm lổi xin các ngài dung thứ!
Chung Ly Muội đặt đứa bé lên giường cao ngồi rồi nói:
– Hãy mời người mẹ đứa trẻ này ra đây cho ta nói chuyện.
Xã trưởng vâng lời chạy xuống bếp thay quần áo cho bà lão rồi dắt lên yết kiến Chung Ly Muội.
Chung Ly Muội hỏi lai lịch, bà lão ban đầu sợ sệt tìm lời chối quanh, nhưng sau thấy Chung Ly Muội một mực kính cẩn, liền lấy ra một chiếc áo lót mình đã cũ, đưa cho Chung Ly Muội xem.
Chung Ly Muội thấy trên áo có nét chữ, nhưng không rõ là chữ gì, bèn giơ lên trời xem, mới đọc được. Dòng chữ viết:
” Cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở tên Mễ Tâm, Phu nhân Thái tử nước Sở là Vệ Thị “.
Dưới dòng chữ có đóng dấu quốc bảo của nước Sở.
Chung Ly Muội xem xong mừng rỡ, gọi Xã trưởng nói:
– Ông hãy thay áo quần sạch sẽ cho đức Ðiện hạ, rồi cùng tôi đưa đức Ðiện hạ đến hội kiến Hạng tướng quân, ông sẽ được trọng thưởng.
Vương Xã trưởng mừng rỡ, lấy quần áo cho Mễ Tâm thay rồi theo Chung Ly Muội đến Hoài Tây.
Hạng Lương hay tin, hội cả văn võ ra ngoài ba dặm tiếp đón, rồi tôn Mễ Tâm lên làm vua hiệu là Hoài Vương, Vệ Thị làm Vương Thái hậu.
Hoài Vương phong Hạng Lương làm Võ Tín Quân, Hạng Vũ làm Ðại Tư Mã phó tướng quân, Phạm Tăng làm quân sư, Quý Bố và Chung Ly Muội làm đô kỵ, Anh Bố làm thiên tướng quân, Hoàn Sở, Vũ Anh làm tán kỵ.
Bá quan văn võ thảy đều được hưởng hàm ân.
Còn Vương Xả trưởng được thưởng năm mươi lạng vàng, cho về quê quán.
Ngày hôm sau, có tướng nước Sở tên Tống Nghĩa đang mộ quân ở Giang Hạ, hay tin Hạng Lương lập con cháu nước Sở, liền dẫn ba vạn quân đến quy phục.
Hoài Vương phong Tống Nghĩa làm Khanh Tử Quán Quân, cùng với Hạng Vũ thống lãnh binh mã đi đánh Tần.
Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ:
– Hoài Tây tuy là đất Sở, nhưng đóng đô không tiện. Nay Trần Anh hiện đang đồn quân ở Vu Thai, nơi đó địa thế hiểm trở, lúc tiến có thể đánh, lúc lui có thể giữ, ta nên đến đó chiêu dụ Trần Anh lấy Vu Thai làm căn bản để xử sự.
Hạng Vũ khen phải, liền vào tâu với Hoài Vương, rồi chỉnh đốn ba đội quân, chia làm ba đạo, kéo thẳng đến Vu Thai.
Ðạo tiên phong vừa kéo đến sông Hoài, thấy phía trước có bụi cát bay mịt mù, rồi một toán quân ồ ạt kéo đến.
Hạng Lương và Phạm Tăng cùng dừng ngựa lại xem, thấy tinh kỳ tề chỉnh, kiếm kích huy hoàng.
Phạm Tăng giật mình, lẩm bẩm:
– Chao ôi! Toán quân uy nghi như thế, kẻ cầm đầu phải là bậc siêu quần.
Vừa nói dứt lời, chợt thấy một tướng cỡi ngựa vọt tới trước đầu quân, mũi phụng, mặt rồng hào quang sáng chói.
Phạm Tăng thở dài, than:
– Ta lầm rồi! Chính người này mới là vị chân chúa.
Người cầm đầu toán quân vừa xuất hiện chính là Lưu Bang.
Từ khi Lưu Bang chém rắn ở Mang Ðãng, chiếm Phong Bái làm căn cứ, hợp quân hơn mười vạn, tiếng dậy bốn phương.
Nay nghe Hạng Lương khởi binh đánh Tần, liền cùng với Hạ Hầu Anh, Phàn Khoái, dẫn quân ra đón, định hiệp lực đánh Tần.
Hạng Lương và Phạm Tăng ra tiếp rất vui vẻ. Hai đội quân họp lại qua sông Hoài thẳng đến Vu Thai.
Trần Anh hay tin kéo quân ra tiếp đón.
Hạng Lương đem đại binh vào thành thống suất binh mã, rồi chia ra một đội, tự mình điều khiển, đến đóng nơi bờ sông Tứ Thủy để làm thế ỷ giác.
Từ đấy vua Hoài Vương đóng đô ở Vu Thai, quân thần đông đảo, quân sĩ kiêu hùng, các hào kiệt bốn phương lần lượt đến đầu phục mỗi lúc một đông hơn.
Một hôm, có người ở Hoài Âm tên Hàn Tín, chống gươm đến bờ sông Tứ Thủy, yết kiến Hạng Lương.
Hạng Lương thấy Hàn Tín gầy gò, không muốn dùng.
Phạm Tăng nói:
– Người này tuy dáng điệu gầy gò song chứa đựng một tiềm tàng về thao lược. Ngài chớ nên bỏ. Vả lại, đang lúc chúng ta chiêu hiền đãi sĩ, bỏ rơi một người có thể làm phật ý hàng trăm hào kiệt bốn phương.
Hạng Lương nể lời Phạm Tăng, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, lưu ở dưới trướng để sai khiến.
Hàn Tín là người Hoài Âm. nhà nghèo, thường câu cá ở sông Hoài, nhưng nghề câu không đũ nuôi sống, nhiều bữa phải nhịn đói suốt ngày.
Bên cạnh nhà có người phiếu mẩu (thợ giặt) thấy Hàn Tín đói, thương dẫn về nhà cho ăn.
Hàn Tín cảm nghĩa, nói:
– Ngày sau tôi sẽ đền ơn bà.
Người phiếu mẫu mắng:
– Sức vóc đàn ông mà nuôi thân không nổi. Ta thương tình dẫn về cho ăn, có mong vì sự đền ơn của kẻ bất tài.
Tuy không vui nhưng Hàn Tín cũng lặng thinh
Lại một hôm, Hàn Tín ra chợ bán cá, có một anh hàng thịt thấy Hàn Tín quá nghèo nàn dùng lời khinh bỉ:
– Này Tín, mày kiếm không đủ cơm nuôi bữa, cái thân trai như mày thực đê tiện, thế mà ngày nào cũng đeo gươm đi khắp phố phường để làm gì? Mầy có dám đâm ta không? Nếu không dám thì quăng gươm xuống luồn trôn ta đây, chớ làm ra mặt hào kiệt!
Hàn Tín nghe nói đỏ mặt. Sau một lúc ngẫm nghĩ Tín đành chịu khúm núm luồn qua trôn gã hàng thịt.
Cả chợ trông thấy cười ồ, chê Tín là đứa nhút nhát.
Duy có một người tên Hứa Phụ vốn giỏi nghề xem tướng, nói nhỏ với Tín:
– Anh có tướng Vương hầu, tuy khổ cực, song ngày sau gặp cơ hội có thể phú quý tột bực.
Hàn Tín cười nhạt, đáp:
– Tấm thân khốn nạn, tài hèn không đủ nuôi thân có đâu nói đến chuyện phú quý.
Kịp lúc Hạng Lương khởi binh đánh Tần, Hàn Tín tìm đến tiến thân, không ngờ Hạng Lương khinh bỉ cho làm chức chấp kích lang lẫn lộn trong đám quân hầu.
Tuy buồn bực nhưng Hàn Tín không lấy thế làm bất mãn.
Quân Sở đóng nơi Vu Thai độ vài tuần, rồi bắt đầu tiến đánh các vùng lân cận. Ðánh đến đâu được đến đấy, uy danh lừng lẫy, tiếng đồn đến Hàm Dương, Triệu Cao lo sợ, cho gọi Chương Hàm đến nói:
– Hiện nay thiên hạ loạn lạc, giặc giã nổi lên như ong, Hạng Lương lập vua nước Sở, mua chuộc lòng dân, lại họp với quân Lưu Bang đóng ở Vu Thai, mười phần lợi hại. Tướng quân thống suất binh mã, thế mà không chịu đem quân đi đánh dẹp là ý làm sao?
Chương Hàm nói:
– Mấy ngày nay được tin cáo cấp, tôi toan vào bệ kiến xin xuất quân, nhưng Thừa Tướng đòi hội nghị, thành thử chậm trễ. Vậy để tôi ra quân dẹp loạn, không trì hoãn.
Nói xong, kiếm điểm quân mã, cùng với Tư Mã Hân, Ðổng Ể và Lý Do kéo ba mươi vạn binh ròng ra cửa Hàm Cốc, thẳng đến phương Ðông đánh nước Ngụy trước, rồi sau mới đánh Sở.
Quân Ngụy thấy quân Tần quá mạnh, không dám giao phong, vội sai sứ đến hai nước Tề và Sở cầu cứu.
Vua nước Tề là Ðiền Chiêm, đích thân dẫn quân đi cứu Ngụy.
Trong lúc đó thì nước Lỗ vừa hạ được Trương Dương, thu được hàng tướng là Hạng Minh và ba vạn quân mã.
Hoài Vương liền sai Hạng Minh đem quân sang đất Ngụy đóng đồn để giữ thanh thế.
Chương Hàm một mặt sai Tư Mã Hân chống quân Tề, một mặt sai Ðổng Ể cự với quân Sở, còn mình dẫn đại binh đi hậu vệ, phòng cứu ứng.
Tư Mã Hân kéo quân đến, gặp đạo quân vua Tề là Ðiền Chiêm, liền chia quân làm hai đạo, phục hai bên đường, rồi dẫn một toán khinh binh đến khiêu chiến.
Ðiền Chiêm thấy quân của Tư Mã Hân quá ít, bèn đốc quân hỗn chiến.
Ðánh được vài mươi hiệp Tư Mã Hân giả thua bỏ chạy, Ðiền Chiêm đuổi theo được vài dậm, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, tức thì quân phục hai bên đường túa ra đánh. Ðiền Chiêm biìết mình mắc mưu, vội thu quân về, chẳng ngờ quân Tần dùng cung tên bắn loạn xạ, Ðiền Chiêm trúng tên tử trận. Tư Mã Hân chém lấy thủ cấp.
Trong lúc đó Ðổng Ể kéo quân đánh quân Sở gặp tướng Hạng Minh trên đất Ngụy.
Quân Ðổng Ể từ xa kéo đến, binh tướng mỏi mệt chưa kịp nghỉ ngơi thì bị Hạng Minh đến đánh. Ðổng Ể không cự nỗi, phải kéo quân bỏ chạy ngoài ba mươi dặm mới dám hạ trại.
Ðóng quân chưa yên thì Hạng Minh lại kéo đến truy kích, Ðổng Ể bị thua to, thu góp tàn quân chạy trở về.
Trong cơn nguy cấp may gặp toán hậu quân của Chương Hàm đến kịp.
Chương Hàm sai Lý Do dẫn một toán quân ra tiếp cứu.
Hạng Minh đuổi đánh Ðổng Ể suốt ngày đêm, người mỏi mệt nên giao chiến với Lý Do chưa đầy ba hiệp, bị Lý Do chém rơi đầu.
Chương Hàm đắc thắng, họp ba đạo quân làm một đến vây thành vua Ngụy.
Ngụy vương hay tin quân cứu bại trận, cùng Thái tử Ngụy Báo bỏ thành, thoát ra cửa Tây chạy trốn.
Chương Hàm đem quân vào thành phủ dụ nhân dân, rồi kéo quân đến đóng đồn nơi Ðông A.
Tàn quân của Hạng Minh chạy về cáo cấp với Hoài Vương.
Hoài Vương kinh hãi, triệu các tướng hội kiến.
Hạng Lương tâu:
– Hạ thần xin lãnh một đạo quân đến lấy đầu Chương Hàm trước, rồi sẽ lấy đất Tần sau.
Hoài Vương chuẩn tấu Hạng Lương dẫn Hạng Vũ, Phạm Tăng và một số tướng cận, thống suốt hai mươi vạn tinh binh, kéo đến Ðông A cách thành ba mươi dặm hạ trại.
Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ ra khiêu chiến. Hạng Vũ bày binh bố trận xong thúc ngựa đến bên thành gọi lớn:
– Chưong Hàm! Hãy ra đây nạp mạng!
Chương Hàm nổi giận lên ngựa khai thành.
Hạng Vũ nói:
– Vua Tần nhà bây vô đạo, trăm họ than vãn. Kẻ nịnh thần Triệu Cao lung lạc, chẳng bao lâu nhà Tần bị diệt, điều ấy đã hiển nhiên, cớ sao chúng bây không rõ.
Chương Hàm nói:
– Ta đem binh thiên triều dẹp loạn, đi đến đâu trúc chẻ ngói tan. Chúng bay chỉ là bọn giặc cỏ, tài cán gì mà phách lối.
Hạng Vũ nổi giận cùng Chương Hàm giao chiến.
Ðánh được ba mươi hiệp, Chương Hàm đuối sức bỏ chạy, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo ước mươi dặm, bỗng gặp tên kiện tướng của nhà Tần là Quý Do đem một toán quân đến chặn đường, giải thoát cho Chương Hàm.
Hạng Vũ hét lên một tiếng, Quý Do cả người bủn rủn, lùi ngựa hơn bốn mươi thước, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo. Tướng Tần Tư Mã Hân và Ðổng Ể trông thấy vội tiếp cứu, nhưng đánh chỉ mới ba hiệp đã phải bỏ chạy.
Hạng Vũ quyết đuổi theo bát sống, Hạng Lương sợ Hạng Vũ vào sâu nội địa của địch e nguy hiểm, liền sai Hoàn Sở và Anh Bố ra lệnh thu quân.
Chương Hàm thua to, lui về hơn năm mươi dặm mới dám hạ trại, và bàn với các tướng:
– Hạng Vũ sức mạnh như thần nếu dùng sức khó thắng nổi. Nay phải cố thủ, chờ cho quân Sở trễ biếng, thừa cơ đánh bất ngờ mới phá được.
Các tướng cho là phải. Từ đó, Chương Hàm cố thủ, không chịu ra quân.
Hạng Vũ dẫn quân trở về yết kiến Hạng Lương, và nói:
– Chương Hàm vừa thua một trận sợ uy quân ta cố thủ không dám ra quân. Ngàv mai quân ta chia làm ba đạo đánh úp ba mặt mới có thể tiêu diệt trại địch.
Hạng Lương gật đầu nói:
– Chương Hàm là một lão tướng, tuổi già sức yếu, không làm nên việc gì.
Liền mở tiệc khao thưởng ba quân, hẹn ngày mai xuất quân đột chiến.
Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ lãnh đạo trung quân, Anh Bố lãnh đạo tả quân kéo về hướng Tây, Lưu Bang lãnh đạo hữu quân kéo về hướng Ðông, ba đạo quân đánh trống reo hò, áp vào trại địch.
Chương Hàm thấy ba đạo quân kéo đến, liệu sức địch không nổi liền nhổ trại rút lui.
Ba đạo quân Sở đuổi theo truy kích, đánh quân Tần đứt làm ba đoạn.
Chương Hàm chạy ra Ðịnh Ðào, Tư Mã Hân, Ðổng Ể chạy ra Bộc Dương, Quý Do chạy ra Ung Khâu.
Hạng Vũ đuổi theo Quý Do vừa đến Ung Khâu thì chém được Quý Do, quân Tần bị chết thây phơi chật đất.
Lưu Bang đuổi Tư Mã Hân chay đến Bộc Dương, Tiêu Hà bàn:
– Giặc cùng không nên đuổi gấp e chúng liều chết chiến thắng ta. Chi bằng cứ đóng quân nơi Bộc Dương tùy cơ tác chiến.
Lưu Bang nghe lời, đóng quân lại không đuổi nữa.
Còn Anh Bố đuổi Chương Hàm đến Ðịnh Ðào, Chương Hàm đóng cửa thành thủ thế. Anh Bố hạ trại xong, cởi ngựa đến dưới thành khiêu chiến suốt mấy ngày, Chương Hàm nhất định không xuất quân. Anh Bố chưa biết tính sao, còn đang bối rối, bỗng có tin Hạng Lương kéo binh đến tiếp ứng.
Anh Bố mừng rỡ, ra khỏi trại tiếp đón.
Hạng Lương nói:
– Chương Hàm thế cùng sức yếu, chạy đến thành này lánh nạn, ta phải tiêu diệt ngay, nếu để lâu ngày cứu binh đến thì khó trừ đặng.
Anh Bố nói:
– Chương Hàm tuy thất trận, song binh lực còn mạnh, đánh gấp khó thắng. Ý tôi muốn đóng quân lại đây chờ cơ hội thuận tiện sẽ lấy.
Hạng Lương gắt:
– Sao ngươi làm tướng mà nhát gan như vậy. Thế quân ta đang mạnh không diệt địch còn đợi cơ hội nào?
Nói xong chia quân làm bốn đạo, đánh trống reo hò, dùng thang bắc lên mặt thành công hãm.
Chương Hàm ở trên thành trông thấy khiến quân dùng tên lửa bắn ra, bao nhiêu thang đều cháy hết.
Quân Sở chết rất nhiều, đành phải rút lui về trại.
Hạng Lương tức giận truyền đóng mấy trăm xung xa. Quyết phá thành cho được.
Xung xa đóng xong, vừa đem ra xung kích thì trên thành Chương Hàm lại truyền lấy dây xúc xích buộc vào những dùi sắt ném xuống. Bao nhiêu xe đều gãy hết.
Hạng Lương thất bại, vừa giận vừa buồn, ngày đêm thẫn thờ tính chưa ra kế.
Bấy giờ có viên chấp kích lang là Hàn Tín thấy vậy vào thưa:
– Việc quân tấn thối không nên diên trì. Nay quân ta phá thành không được mà cứ đóng mãi dưới thành, đêm ngày trễ biếng, phỏng như quân địch dò biết được, nửa đêm kéo ra cướp trại thì nguy! Ðánh thành là việc nhỏ, phòng bị là việc lớn, xin tướng quân thận trọng.
Hạng Lương hét lớn.
– Ta từ lúc khởi binh nơi Cối Kê uy danh lừng lẫy. Chương Hàm là đứa thất phu, nghe đến tên ta đã vỡ mật, còn dám mở cửa thành đem binh ra cướp trại ư! Ngươi là một tên quân hầu biết gì mà nói nhảm.
Tống Nghĩa thấy vậy cũng can:
– Hàn Tín tuy là tên quân hầu nhưng lời nói đầy thao lược, xin tướng quân chớ khi dễ. Kẻ thắng mà tự kiêu là bắt đầu nếm mùi thất bại đó.
Hạng Lương nghe Tống Nghĩa nói càng giận thêm.
Ðêm ấy, Chương Hàm dò biết quân Sở không phá thành được, sanh ra chán nản, trễ biếng, liền truyền lệnh ba quân ăn uống thật no, nai nịt chỉnh tề, im hơi lặng tiếng mở cửa thành kéo đến trại Sở.
Quân Sở bấy giờ đang ngủ say, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, bốn bề tiếng reo ó nổi lên vang trời dậy đất.
Hạng Lương say rượu, nằm mê mệt, không biết gì. Bọn tả hữu phải vực ra ngoài viên môn. Nhưng còn cháng voáng chưa lên ngựa kịp đã bị tướng Tần là Tôn Thắng xông đến chém một nhát rụng đầu.
Người sau có thơ nói đến Hạng Lương:
Vì nước vì dân quyết rửa thù
Phất cờ khởi nghĩa tíếng thiên thu
Sa cơ một phút, dành chung kiếp
Làm kẻ trung thần thiếu trí mưu
Hạng Lương bị giết, quân Sở rối loạn, dày xéo lên nhau mà chạy.
Tống Nghĩa, Anh Bố hết sức chống giữ nhưng không nổi, bất đắc dĩ phải bỏ trại thoát thân.
Chương Hàm toàn thắng, kéo quân thẳng đến Trần Lưu đóng đồn, thanh thế lừng lẩy.
Lưu Bang hay tin Hạng Lương thất trận vội kéo quân đến cứu ứng, nhưng không kịp, đành phải cùng Tống Nghĩa thu nhặt tàn quân kéo đến Ung Khâu rồi báo tin cho Hạng Vũ biết.
Hạng Vũ được tin Hạng Lương bỏ mình, hét lên một tiếng, ngã xỉu xuống đất.
Bọn ta hữu vội vàng đỡ dậy. Hồi lâu, Hạng Vũ mới tỉnh, vừa khóc vừa nói:
– Chú ôi! Cháu từ lúc tuổi thơ, cha mẹ mất sớm được chú nuôi dưỡng nên người. Nay sự nghiệp chưa thành, ơn chú chưa đền mà chú đã bị hại, thù này cháu quyết chẳng đội chung trời.
Các tướng đều xúm lại khuyên giải, Hạng Vũ mới nguôi dần.
Phạm Tăng nói:
– Làm tướng cầm quân ra trận chết sống lẽ thường. Nay Vũ Tín Quân dẫu qua đời, nhưng sự nghiệp càng ngày càng vững chắc. Tưóng quân cần nối chí lớn ấy, lo việc phục hưng, đem lại vinh quang cho dòng giống. Ðược vậy người chết dưới suối vàng cũng hài lòng, và nhiệm vụ báo thù của tướng quân mới tròn được.
Hạng Vũ lau nước mắt đứng dậy tạ ơn, và nói:
– Tôi xin tuân lời chỉ dạy của tiên sinh.
Nói xong, khởi quân thẳng đến Ðịnh Ðào, hội với Tống Nghĩa và Lưu Bang hạ lệnh cho ba quân để khăn trắng, thu hài cốt Vũ Tín Quân tẩn liệm an táng nơi Ðịnh Ðào, rồi kéo quân đến Trấn Lưu để đánh Chương Hàm báo thù.
Nhưng, quân Sở chưa đến nơi đã được tin Chương Hàm dẫn quân sang sông đánh Triệu.
Vua Triệu là Hấp, cùng với hai tướng Trần Dư, Chương Nhĩ đem quan ra thành cự địch, nhưng đánh không lại phải lui về Cự Lộc, đóng cửa thành cố thủ và cho người sang cầu cứu nước Sở.
Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ:
– Chương Hàm thắng luôn mấy trận, thanh thế lừng lẫy, quân sĩ đang hăng. Còn ta, Vũ Tín Quân mới mất, vua Hoài Vương cô lập nơi Vu Thai, nếu tiến binh e bất tiện. Chi bằng trở về Thiên Ðô, qua Bành Thành để giữ thế thủ, rồi sẽ liệu sau.
Hạng Vũ đem ý ấy bàn với các tướng. Mọi người đều đồng ý.
Hạng Vũ ra lệnh thu quân trở về Vu Thai.
Vua Hoài Vương được tin Vũ Tín Quân tử trận, lòng thương xót vô cùng, cả ngày chỉ ngồi than thở.
Hạng Vũ tâu:
– Quân ta vừa bị bại, thế quân bị giảm yếu, nay phải củng cố thế thủ trước rồi sẽ tính đến thế công, xin bệ dời đô qua Bành Thành để làm thế ỷ giác, chớ nên chậm trễ.
Hạng Vũ nói vừa dứt lời, có tin nước Triệu sai sứ đến cầu cứu.
Hoài Vương cho vào yết kiến, sứ Triệu tâu:
– Quân Tần ba mươi vạn, vây thành Cự Lộc ngót một tháng trời, trong thành lương đã hết, quân sĩ mỏi mòn, chẳng bao lâu thành bị vỡ, xin đại vương thương tình cứu cấp.
Hoài Vương liền phong Tống Nghĩa làm đại tướng, Hạng Vũ làm phó tưóng, Phạm Tăng làm quân sư, thống lãnh hai mươi vạn quân đi cứu Triệu.
Quân Sở đến đóng nơi An Ðương cho người thám thính.
Qua hai ngày, Tống Nghĩa vẫn cho án binh bất động không chịu ra quân, lại sai con là Tống Tương sang làm tướng nước Tề.
Hạng Vũ lấy làm lạ, nói:
– Thành Cự Lộc sắp mất, quân ta có nhiệm vụ đến cứu, cớ sao tướng quân lại án binh bất động.
Tông Nghĩa nói:
– Quân Chương Hàm vây thành Cự Lộc đã lâu, thể nào cùng phải trễ biếng. Ta cứ đóng quân nơi đây chờ xem cái cơ suy nhược của nó. Lúc nào quân địch mỏi mệt, ta chỉ đánh một lần là xong.
Hạng Vũ hậm hực bước ra, đợi hơn một tuần cũng không thấy Tống Nghĩa động binh, hoặc có kế hoạch nào khác, ngày đêm chỉ uống rượu, say sưa.
Hạng Vũ vào nói với Tống Nghĩa:
– Quân Tần vây Triệu mười phần nguy cấp. Tướng quân cứ đóng quân nơi đây, ngày đêm say sưa làm sao thực hiện được trọng trách của mình?
Tống Nghĩa cười nhạt nói:
– Ví phỏng mặc áo dầy, cầm giáo nhọn, xông pha trận địa thì tôi không bằng ông, nhưng ngồi mà lập mưu, bày chước, chắc ông còn kém tôi.
Nói xong, Tống Nghĩa hạ lệnh cho ba quân:
– Ðâu đó phải im lìm, chớ nên hành động gì cả. Ai trái lệnh chém đầu.
Rồi đó, Tống Nghĩa lại rượu chè say sưa như cũ.
Bấy giờ vào tiết mùa đông, trời mưa dầm, rét mướt, quân sĩ đói khát, chết chóc rất nhiều.
Một hôm, Hạng Vũ lén vào trong quân để dò xem tình hình thấy quân sĩ ai cũng đem lòng oán vọng.
Hạng Vũ lập tức thẳng đến dinh Tống Nghĩa, nghiêm sắc mặt, nói:
– Tướng sĩ đều đem thân liều chết đánh Tần, bao nhiêu sinh mạng gởi vào tay tướng quân, thế mà tướng quân cứ ngồi yên hưởng lạc, không kể đến ai! Trên phụ lòng vua, dưới gây oán thù với tướng sĩ, người như vậy không đáng làm tôi xã tắc.
Tống Nghĩa nổi giận, chỉ vào mặt Hạng Vũ nói:
– Ta giữ quyền Tướng ấn, nhà người phải phục tùng,lại dám dùng lời nhục mạ ta sao?
Hang Vũ hét lên một tiếng, rút gươm chém Tống Nghĩa một nhát bay đầu rồi nói lớn:
– Tống Nghĩa đưa con sang làm tướng nước Tề, lại không tuân mệnh vua cứu Triệu, rõ là đứa phản nghịch.
Chư tướng thấy Hạng Vũ giết Tống Nghĩa đều mừng rỡ, đồng thanh nói:
– Ngươi khởi xướng lập nước Sở là tướng quân. Nay tướng quân đã giết bỏ kẻ phản nghịch thật hợp với lòng công chúng
Tướng sĩ đều một lòng tôn Hạng Vũ lên làm Thượng tướng.
Hạng Vũ nói:
– Ðiều ấy phải được mệnh vua. Bây giờ cần nhất trừ cho tuyệt loài phản phúc.
Bèn sai tướng đuổi theo bắt Tống Tương để giết.
Tống Tương sang nước Tề, còn đương tìm cách tiến thân, ở nơi quán trọ, tướng Sở tìm được chém đầu đem về nạp. Hạng Vũ làm sớ kể tội cha con Tống Nghĩa dâng về triều. Hoài Vương sai Chung Ly Muội cầm cờ Tiết đến phong Hạng Vũ làm Thượng tướng.
Từ đó, uy phong Hạng Vũ đồn khắp chư hầu.
Mọi việc đã xong. Hạng Vũ sai Anh Bố làm tiên phong, kéo quân sang sông, còn mình điểm quân đi hậu tập.
Chương Hàm nghe tin liền sai Tư Mâ Hân và Ðổng Ể kéo quân đóng nơi phía Nam để ngăn địch.
Anh Bố đến nơi, hai tướng xông ra chận đánh.
Ðánh vừa mới được ba mươi hiệp, đạo hậu quân nước Sở kéo đến, hai tướng Tần thấy Hạng Vũ thất kinh bỏ chạy. Hạng Vũ đốc binh đuổi theo cướp trại, đoạt lương thực rất nhiều, Tư Mã Hân và Ðổng Ể thoát chết chạy về miền Hà Bắc lánh nạn, đợi chờ tình thế êm dịu mới dám lần về báo tin cho Chương Hàm hay.
Thắng được quân Tần, Hạng Vũ truyền họp đại binh để qua sông. Lại truyền quân sĩ chỉ mang lương thực theo đủ ăn trong ba ngày. Hễ quân qua sông rồi các chiến thuyền đều đánh đắm hết, thề quyết không trở về.
Tướng sĩ thấy Hạng Vũ quyết chí như thế, người người đều rạo rực.
Phạm Tăng và Chung Ly Muội mật bàn với Hạng Vũ:
– Tướng quân đuổi đánh Chương Hàm mà chỉ đem theo ba ngày lương, lại đắm thuyền, đạp chỗ, nếu trong ba ngày mà chưa thắng được địch tất hư việc lớn, chi bằng sai một nha tướng tâm phúc mật báo với Triệu vận lương cho để phòng trác trở, như thế mới vẹn toàn.
Hạng Vũ thuận ý, sai ngưoi đến nước Triệu báo tin.
Giữa lúc đó, hai bại tướng Tư Mã Hân và Ðổng Ể dẫn một số tàn quãn chạy về báo với Chương Hàm:
– Anh Bố kiêu dũng, chúng tôi không thể địch nổi. Hiện giờ quân Hạng Vũ đã qua sông, xin tướng quân phòng bị.
Chương Hàm liền họp các tướng Vương Ly, Sa Gian, Tô Giác, Mạnh Phòng, Hán Chương, Lý Ngô, Chương Bình, Chu Hồng, Vương Quang đến cả dưới trướng bàn luận.
Chương Hàm nói:
– Hạng Vũ là tay dũng tướng, không ai địch nổi. Bọn các ngươi, mỗi người lãnh một đội quân, chia làm chín đạo, đóng trại cách xa nhau, chờ ta ra đối địch với Hạng Vũ sẽ lần lượt tiếp ứng. Khi nào Hạng Vũ vào sâu trọng địa, cả chín đạo cùng kéo đến một lúc vây đánh, như thế may thắng nổi.
Chư tưóng vâng lời, kéo quân ra đi, ai lo phần nấy.
Chẳng bao lâu, quân Hạng Vũ kéo đến, Chương Hàm ra ngựa nghênh chiến.
Hạng Vũ thấy Chương Hàm, nghiến răng, trợn mắt hét:
– Cừu nhân! Ngươi giết hại chú ta, thù ấy ta cùng ngươi quyết không đội chung trời!
Nói dứt lời vung gươm chém Chương Hàm. Chương Hàm đưa thương đỡ, nhưng Hạng Vũ chém quá mạnh làm cho ngựa Chương Hàm lui ba bước.
Ðánh được năm mươi hiệp, Chương Hàm mồ hôi ướt đẫm, nhắm không cự nổi nữa, liền quất ngựa bỏ chạy.
Hạng Vũ thúc ngựa đuổi theo độ năm dặm, bỗng có đạo quân Vương Ly xông ra tiếp cứu.
Hạng Vũ hét lớn:
– Ngươi muốn chết thế cho Chương Hàm sao?
Vương Ly cầm giáo đâm tới, Hạng Vũ đỡ ra quá mạnh làm cho Vương Ly té nhào xuống ngựa, bị quân Sở bắt trói dẫn về trại.
Chương Hàm thấy Vưong Ly bị bắt, liền phóng ngựa bỏ chạy, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo, nói lớn:
– Nghịch tặc! Ngươi chạy đường nào khỏi tay ta! Hãy dâng đầu tạ tội đã sát hại chú ta ngày trước.
Con ngựa Ô Truy của Hạng Vũ chạy vùn vụt như bay. Quân sĩ đều chạy theo sau, không ai theo kịp.
Chương Hàm thấy Hạng Vũ một mình đuổi theo, liền quay lại đấu chiến. Hạng Vũ quyết hạ cho được Chương Hàm, ngờ đâu có bộ tướng của Chương Hàm là Sa Nhân đem quân tiếp cứu.
Hạng Vũ tức giận, quay giáo đâm Sa Nhân.
Sa Nhân chới với bị Hạng Vũ chém một nhát té nhào xuống ngựa. Bọn nha tướng liều chết xông ra cứu thì đạo hậu quân của Hạng Vũ đã kéo đến, chém chết quân Tần vô số.
Hạng Vũ thấy mặt trời đã lặn, e có phục binh, nên truyền thu quân về trại.
Phạm Tăng bàn với Hạng Vũ:
– Tướng quân vào sâu nơi đất giặc, đêm nay trời nhiều mây, không trăng, quân địch có thể lợi dụng đến cướp trại tưóng quân cần đề phòng.
Hạng Vũ cho là phải, liền truyền lệnh bao nhiêu binh mã kéo sang chân núi bên kia hạ trại. Còn nơi đại trại thì chứa cỏ khô và đồ dẫn hỏa.
Lại gọi Hoàn Sở, Vũ Anh, Ðinh Công, Ung Sĩ đến truyền rằng:
– Bốn người đem quân ra ngoài mai phục. Hễ thấy trong trại bốc lửa lập tức đem quân đánh vào bốn mặt, chớ cho quân địch chạy thoát.
Bốn tướng tuân lệnh kéo quân ra đi.
Hạng Vũ lại gọi riêng Anh Bố đến dặn:
– Ngươi dẫn ba ngàn quân, lén đến cách trại Chương Hàm ba dặm, phục nơi đó đừng cho chúng tiếp viện.
Hạng Vũ sắp đặt xong thì trời đã vừa khuya.
Ðêm ấy Chương Hàm thu góp tàn quân, cùng với các tướng nghị luận.
Tô Giác nói:
-Nay quân sư vừa thắng trận, khí thế đang mạnh. Hễ mạnh tất phải kiêu căng, việc canh phòng trễ biếng.
Tôi xin lãnh một toán quân kỵ, từ mé Ðông đi lẻn vào sau trại. Tướng quân dẫn đại binh đi đường Tây, đánh vào trước trại. Hai bên xung kích một lượt tất trại Sở phải mất. Chương Hàm khen phải, làm theo kế Tô Giác.
Tô Giác kéo quân đến sau trại Sở, thấy tinh kỳ xiêu vẹo trống canh chểnh mảng, lòng mừng rỡ, lẩm bẩm:
– Phen này thì dẫu có mười tướng Hạng Vũ cũng phải mất đầu.
Liền đốc quân ùa vào. chẳng ngờ đó là một trại trống không người.
Tô Giác biết mình trúng kế vội vã lui binh.
Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, bốn bề lửa cháy rần rần, hai đạo binh Sở kéo đến chận đường, cầm đầu là Vũ Anh và Hoàn Sở.
Hai tướng thét lớn:
– Tần tặc, hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi, còn chờ gì nữa
Tô Giác sợ hãi, quất ngựa chạy theo đường mòn về phía hũu. Nhưng chạy chưa được bao xa, lại gặp binh Sở đón lại, tướng cầm đầu là Hạng Vũ.
Tô Giác thấy Hạng Vũ tay chân run lẩy bẩy, bị Hạng Vũ chém một nhát bay đầu.
Giữa lúc đó, Chương Hàm kéo đại binh đến trước trại, nghe tiếng quân sĩ reo ó vang lừng trong trại lửa cháy mịt trời ngỡ là quân Tô Giác đang cướp trại, liền đốc quân xông vào.
Bỗng gặp lại gặp hai tướng Sở là Ðinh Công và Ung Sĩ cản:
– Tặc tướng, ngươi đã lầm kế mà chưa chịu bó tay sao?
Chưong Hàm thất kinh, vung đao cùng với hai tướng Sở giao tranh.
Vừa đánh được mười hiệp, quân Hạng Vũ kéo đến, Chương Hàm thấy thế trận không còn giữ được, liền mở huyết lộ chạy trốn.
Các đạo quân Tần đóng lẻ tẻ, Hán Chương, Lý Ngô hay tin đến tiếp cứu, nhưng bị đạo binh phục của Anh Bố đón lại đánh tơi bời.
Hạng Vũ đuổi theo Chương Hàm giết quân Tần không biết bao nhiêu mà kể, đoạt quân trang quân dụng rất nhiều. Cho đến khi vầng đông ló dạng, Hạng Vũ mới thu quân về.
Chương Hàm về đến trại kiểm điểm quân mã, đợi đến tối sẽ thi hành diệu kế.
Ciữa lúc đó, Hạng Vũ toàn thắng, mở tiệc khao quân, người người hớn hở, rượu thịt no nê.
Phạm Tăng nói với Hạng Vũ:
– Chưong Hàm tuy thua, nhưng vốn là một mưu tướng, đêm nay thế nào cũng phục quân để phòng ta cướp trại.
Hạng Vũ nói:
– Quân sư luận rất hay. Vậy ta phải làm gì để sớm trừ chúng nó?
Phạm Tăng nói:
– Mượn kế nó làm kế mình. Ðêm nay tướng quân kéo mộ đạo binh đến đóng trước trại, giả làm thanh thế, khua chiêng, đánh trống, lại sai các đạo binh khác phục sẵn, chận những toán binh phục của địch mà đánh, như thế Chương Hàm sẽ không còn đường thoát thân.
Hạng Vũ theo lời, sai Anh Bố lĩnh một vạn quân đi về hướng Nam, Hoàn Sở lãnh một vạn quân đi về hướng Bắc. còn mình tự lĩnh ba vạn quân đi tiền đạo. Tất cả chuẩn bị sẵn sàng, đợi đến đầu canh hai khởi sự.
Ðêm ấy không trăng, ánh sao lờ mờ chiếu xuống khoảng không gian như màu sữa đục. Rừng núi phủ màu đen, các ven đường rải rác những lùm cây rậm, lấp loáng bóng người, đó là hai đạo binh phục của hai tướng Sở kéo đến.
Cảnh vật đang chìm đắm trong giấc ngủ u buồn, bỗng vang lên những tiếng quân reo, tiếng chiêng trống rợp trời.
Chương Hàm mừng rỡ, ngỡ là quân Sở dến cướp trại, liền truyền hai toán quân phục của mình xông đến bao vây. Nhưng liền lúc đó, hai cánh quân Tần bị chận lại, do hai cánh quân Sở đã phục sẵn.
Chương Hàm được tin, biết cơ mưu đã hỏng, truyền quân nhổ trại lui binh.
Hạng Vũ đuổi theo hơn hai mươi dặm thì đến nước Triệu.
Trong thành nghe tiếng quân reo biết quân Sở đến cứu, truyền khai thành để tiếp ứng,hai mặt đánh dồn lại, quân Tần không biết đường nào chạy, bị giết hơn nữa.
Chương Hàm không còn thiết gì đến quân sĩ, dẫn mấy tên kỵ mã chạy trốn về Khúc Dương.
Giải vây được nước Triệu, vua Triệu dẫn bọn Chương Nhĩ. Trần Dư ra ngoài thành đón tiếp quân Sở vào thành đại yến.
Hạng Vũ nói:
– Bây giờ chưa phải là lúc vào thành an nghỉ. Chương Hàm vừa bại trận. ta phải thừa thắng đuổi đến đất Tần, tiêu diệt lực lượng. Nếu vào thành e chậm trễ thì giờ, giặc được nghỉ ngơi, nuôi thêm thế lực, ta phải tốn thêm nhiều công phu.
Nói xong, truyền Quý Bố, Chung Ly Muội thống lãnh hai mươi vạn quân hạ trại ngoài thành Triệu, còn mình thống suất đại binh đuổi theo Chương Hàm.
Quân Hạng Vũ đi đến đâu cũng được quần chúng tiếp đón nồng hậu. Các chư hầu đều ra bái vọng hai bên đường tỏ sự biết ơn của mình đối với nước Sở.
Phạm Tăng nói vói Hạng Vũ:
– Nay Chương Hàm trốn đã xa rồi, lòng người đều ngưỡng vọng quân ta, các chư hầu phục tùng nước Sở, đó là lúc tướng quân lấy nước làm nhà, hà tất phải dấn mình trong đám mưa tên rừng giáo làm chi? Sức mạnh một người không bằng sức mạnh của toàn thể của chính nghĩa. Phương chi, mới có ba ngày, tướng quân thắng luôn chín trận, phá ba mươi vạn quân Tần, từ xưa đến nay chưa có tướng nào lập được kỳ công như vậy. Tôi thiết tưởng nay hãy tạm dồn binh ở Chương Nam để dưỡng sức quân đã. Hiện nay Triệu Cao đang chuyên quyền, áp chế vua Nhị Thế. Triệu Cao là đứa tiểu nhân, ganh tị, Chương Hàm chẳng bao lâu cũng bị hại. Chờ cho triều đình vua Nhị Thế rối loạn, ta sẽ tìm kế tiến thủ.
Hạng Vũ khen phải, nói:
– Xin tuân lời quân sư chỉ giáo.
Ðoạn. truyền đóng quân lại ở Chương Nam.
Trong lúc đó, Chưong Hàm thu nhặt tàn quân, còn lại độ mươi vạn, kéo qua Chương Hà, đóng đồn tại cửa Hàm Cốc, và làm sớ gởi về triều xin quân tiếp viện.
Triều thần hay tin Chương Hàm thua luôn chín trận, tổn thất ba mươi vạn quân, đều khiếp sợ, ăn ngủ không yên.
Triệu Cao quyền chính gồm một tay, các việc quan hệ đều giấu hết, không để lộ cho vua Nhị Thế biết.
Các quan ai trái ý, lập tức tìm cách ám hại, vì vậy ai cũng sợ, không dám nhìn mặt.
Một hôm, Triệu Cao đem dâng cho vua Nhị Thế một con hươu, mà nói là con ngựa.
Vua Nhị Thế cười lớn, nói:
– Thừa Tướng lầm rồi! Ðó là con hươu chứ đâu phải con ngựa. Nhị Thế ngoảnh qua hỏi triều thần:
– Có người lặng thinh không dám nói, có người nói thẳng là con hươu, có người a dua theo Triệu Cao nói là con ngựa.
Người nào nói thẳng đều bị Triệu Cao tìm cách hãm hại. Quần thần lại càng sợ Triệu Cao hơn.
Thừa Tướng Lý Tư thấy vậy lòng băn khoăn không yên. Triệu Cao biết Lý Tư không ưa mình, một hôm tìm cách nói: – Nay cõi Quan Ðông giặc giã nổi lên như ong vỡ tổ, Chương Hàm thua mấy trận, nước nhà đương cơn nguy ngập, tôi là quan hoạn không được phép tâu bày, đó là nhiệm vụ chính của quân hầu, sao quân hầu vẫn lặng yên không tiến gián?
Lý Tư buồn bã nói:
– Bệ hạ ở mãi trong thâm cung, tôi làm sao tiến gián đươc.
Triệu Cao hăm hở nói:
– Quân hầu cứ sắp sẳn lời tấu đi, lúc nào có thể tiến gián được tôi sẽ tin cho quân hầu biết để vào yết kiến.
Lý Tư ngỡ Triệu Cao có thiện cảm với mình, ngờ đâu đó là ác ý của triệu Cao.
Triệu Cao nhân lúc vua Nhị Thế đang say sưa với các phi tần trong thâm cung, ìửa dục phừng phừng trong men rượu, liền sai người bảo Lý Tư:
– Lúc này có thể tâu bày dược, xin Thừa Tướng vào yết kiến.
Lý Tư tin thật, xin vào tâu.
Lần thứ nhất vua Nhị Thế từ chối. Lý Tư lại xin lần thứ hai, rồi lần thứ ba.
Vua Nhị Thế thấy Lý Tư lải nhải mãi, nổi giãn mắng:
– Trẫm đang lúc vui vầy với phi tần, sao Lý Tư lại dám vô lễ như vậy?
Triệu Cao liền lợi dụng cơ hội kiếm lời dèm tấu:
– Lý Tư cậy mình có công lập Bệ hạ trước kia ước vọng được bê hạ cắt đất phong vương, nhưng ước vọng ấy không thành đem lòng oán trách. Vừa rồi sai con là Lý Do làm quan Thái Thú ở Tam Xuyên mục đích để tư thông với Sở xin bệ hạ phải xét mới được.
Từ đó vua Nhị Thế có ý ghét Lý Tư, và Lý Tư cũng biết Triệu Cao muốn hại mình, liền làm biểu dâng lên kể tội Triệu Cao, xin vua bỏ cung A Phòng lo chỉnh đốn việc nước.
Vua Nhị Thế xem tờ biểu, mắng Lý Tư:
– Trẫm biết Triệu Cao là người hiền, thờ trẫm rất trung hậu. Nếu không có Triệu Cao thì trẫm không còn ai sai khiến. Còn ngươi bảo trẫm bỏ cung A Phòng thật là điều phi quân. Cung A phòng của tiên đế lập ra, ngươi đã không ngăn được trộm giặc để bốn phương nổi loạn, thế mà còn bảo trẫm làm trái ý tiên đế để mang tội bất hiếu.
Nói xong, giao Lý Tư xuống Ðình ủy nghị tội, ghép án tư thông với nước Sở chiếu ngũ hình, bắt phải tội chém ngang lưng và tru di tam tộc.
Vũ sĩ trói cha con Lý Tư, dẫn ra chợ Hàm Dương, Lý Tư nhìn con nói:
– Nay cha con mình dẫu muốn dắt chó ra đất Thương Thái săn thỏ để làm vui đâu còn được nữa.
Hai cha con nhìn nhau ứa lệ, rồi cùng bị xử trảm.
Người sau có thơ chê Lý Tư:
Họ Lý không thông vận thế thời
Ngày tàn còn nghĩ cuộc vui chơi
Công thành chẳng liệu lui mình trước
Phú quí vinh hoa, miệng bả đời!
Từ lúc hại được Lý Tư, quyền thế Triệu Cao càng lớn, quần thần không ai dám nhìn mặt.
Chương Hàm đóng quân ở Hàm Cốc lương thực hết sạch, tướng sĩ mỏi mòn, nhiều lần sai người về triều cáo cấp, nhưng Triệu Cao giấu nhẹm, không cho vua Nhị Thế biết.
Một hôm, vua Nhị Thế đi săn về, vào cung nằm tựa gối lim dim đôi mắt, bỗng vẳng nghe bên tai. hai cung nhân hầu hạ thì thầm:
– Công việc ngoài biên ải hiện nay ra sao?
Nguy lắm! Chương Hàm thua luôn chín trận, quân sĩ hao mất ba mươi vạn, bất nhật quân Sở kéo đến đây, chúng ta khó toàn mạng.
Vua Nhị Thế thất kinh, vùng dậy, nắm lấy cung nhân, hỏi:
– Các ngươi vừa nói chuyện gì?
Cung nhân quỳ mọp xuống đất van xin:
– Tâu bệ hạ, chúng tôi ngỡ Bệ hạ yên giấc nên nói chuyện riêng, xin Bệ hạ tha tội.
Vua Nhị Thế gắt:
– Cứ nói đi. Có chuyện gì phải giấu ta?
Cung nhân tâu:
– Hiện nay thiên hạ mười phần rối loạn, Chương Hàm thất trận quân sĩ chết rất nhiều. Nếu tình thế này kéo dài mãi nhà Tần phải diệt vong.
Vua hỏi:
– Do đâu các ngươi biết chuyện đó?
Cung nhân tâu:
– Cả nước không ai không rõ, duy Bệ hạ bị Triệu Cao che mắt mãi yên vui, không biết mà thôi.
Vua Nhị Thế tức giận đòi Triệu Cao đến mắng:
– Ngươi làm Thừa Tướng, việc lớn nhỏ đều ở trong tay. Nay thiên hạ rối loạn, nước nhà nguy cấp, quân ta tổn thất hơn ba mươi vạn, thế mà không tâu cho trẫm biết, lại còn bịa lời nói dối, tội ngươi đáng chém!
Triệu Cao run cầm cập, bỏ mũ, dập đầu xuống tâu:
– Tâu Bệ hạ, thần là một Tể Tướng, chỉ quản cố được công việc bên trong, cung phụng bệ hạ họa hưởng thái bình mà thôi. Còn như việc đánh dẹp ngoài biên ải là nhiệm vụ của quan Ðại tướng. Nay việc đã xảy ra như vậy xin bệ hạ sai người đến vấn tội Chương Hàm, rồi sai một viên đại tướng khác ra thay, tất phải cứu nguy được. Và mọi việc ngoài biên chẳng qua chỉ là lời đồn đại, nếu có gì sao không thấy Chương Hàm cáo cấp? Bệ hạ chớ quá tin bọn cung hoạn mà thống trách vi thần như vậy.
Nhị Thế nghe Triệu Cao nói bùi tai, liền bỏ qua, không nghĩ đến chuyện giặc giã nữa.
Triêu Cao về tư dinh,mồ hôi chưa ráo cho là Chương Hàm vì lâu nay mình giấu nhẹm mấy tờ cáo cấp nên sai người đút lót bọn cung nhân để gièm pha mình. Nghĩ như thế, Triêu Cao căm tức Chương Hàm vô cùng.
Chẳng bao lâu được tin Chương Hàm sai quan Trưởng Sử là Tư Mã Hân về triều cấp tấu.
Triệu Cơ ra lệnh Tư Mã Hân phải đợi ngoài triều môn.
Tư Mã Hân đợi đến ba ngày vẫn chưa được vào tâu, lòng nóng như dốt, liền lấy vàng đút lót cho nhà Triệu Cao, để dò xem tin tức.
Tên lính hầu của Triệu Cao nói riêng với Tư Mã Hân:
– Thừa Tướng đang căm tức Chương tướng quân muốn bới móc tội bại binh để khép án. Tướng quân về triều hôm nay chẳng khác chui đầu vào lưới.
Tư Mã Hân nghe nói vội vàng trở ra nhà trọ, gói ghém hành trang nội trong đêm ấy, lén trốn ra Hàm Cốc.
Sờ dĩ Triệu Cao để Tư Mã Hân chầu chực ba ngày là muốn lập mưu bắt cả gia quyến xử tội, không ngờ Tư Mã Hân đã trốn trước.
Triệu Cao tức giận vào tâu với Nhị Thế:
– Bọn Chương Hàm cầm binh ngoài cõi, thua luôn mấy trận, hao binh tổn tướng, thật nhục nhã, nay lại sai người lén về triều dò thám chắc là âm mưu phản loạn, xin bệ hạ sai người ra thế, và bắt Chương Hàm về triều trị tội, thì việc nước mói yên được.
Nhị Thế chuẩn tấu, Triệu Cao sai cháu là Triệu Thường đến Hàm Cốc đòi Chương Hàm về.
Trong lúc đó, Tư Mã Hân chạy suốt ngày đêm, tất tưởng đến Hàm Cốc, vào yết kiến chương Hàm, nói:
– Hiện nay Triệu Cao chuyên quyền, che mắt trong ngoài, tìm cách hãm hại tướng quân, kiếm lời dèm pha, không chịu phát quân cứu viện. Nếu tôi không nhanh chân thoát thân thì đã bị Triệu Cao hại mạng rồi.
Chương Hàm nghe nói rụng rời, ngước mặt lên trời than:
– Trong thì gian thần tác loạn, ngoài thì giặc giã tranh hùng, nhà Tần ắt chẳng còn bao lâu nữa.
Liền họp các tướng đàm luận.
Ðổng Ế nói:
– Triệu Cao là đứa gian ác chỉ dùng một lời nói mà Lý Tư bị tru di tam tộc. Bọn chúng ta khó thoát khỏi tay hắn.
Ðang lúc bàn bạc, thì Triệu Thường cầm chiếu đến.
Các tướng ra ngoài dinh nghênh tiếp, và mở chiếu ra đọc.
Chiếu rằng:
Ngày thường ăn lộc nước, lúc loạn phải tận trung, nay bọn các ngươi cầm binh dẹp loạn, húy tử tham sanh, để cho hao binh tổn tướng. làm nhục quốc thể, tội đáng chết. Lại còn sai ngườl về triều, chưa thỉnh mệnh đã bỏ trốn đi, rõ là tinh thần phản nghịch. Nay sai Triệu Thường phụng sứ bắt các ngươi lập tức hồi triều, nếu cải lệnh khó dung.
Nay chiếu.
Chương Hàm nghe đọc chiếu xong, chư tướng đều đứng cả dậy, nắm lấy sứ giả nói lớn:
– Bọn chúng ta mặc giáp, cầm thương, xông pha tên đạn, coi chết như lông hồng, cay đắng khó nhọc biết chừng nào. Ðã mấy lần cáo cấp về triều bị Triệu Cao giấu nhẹm, không phát quân. Lỗi sờ sờ ra đó, thế mà còn buộc tội chúng ta sao? Theo sứ về triều chịu chết thà chém sứ phản đối tên phản nghịch.
Dứt lời, các tướng rút gươm toan chém Triệu Thường
Chương Hàm thấy các tướng giận dữ muốn chém sứ, liền cản lại nói:
– Không nên vì đứa phản thần mà chém sứ e mang tội kháng mệnh triều đình. Chi bằng giữ Triệu Thường lại, phiên tấu về triều xem vua xử như thế nào đã.
Các tướng theo lời, bắt Triệu Thường giam lại.
Trong lúc Chương Hàm đang thảo sớ, bọn Trần Hy kéo đến nói:
– Tôi nghe tin Triệu Cao đã in sâu vào đầu óc vua Nhị Thế dẫu chúng ta có minh oan đến đâu cũng chẳng ai xét đến. Cái họa diệt tộc không tránh khỏi. Ấy vậy, cứ chém sứ đi cho hả lòng, rồi sẽ liệu sau.
Chương Hàm còn lưỡng lự. Cách hai ngày sau có thư Trần Dư từ nước Triệu gởi đến.
Trong thư nói:
Xưa Ngô Khởi làm tướng nhà Tần, đánh thành, cướp nước, biết bao khó nhọc, thế mà cuối cùng không khỏi tội chết. Còn như Mông Ðiềm đuổi rợ Hung, mở đất Trung Du dài hơn nghìn dậm. Công lớn dường ấy mà cũng không tránh khỏi thác oan!
Nay tướng quân ba đời làm tướng, công lao không nhỏ. Thế mà mới thua mấy trận, thiệt mất vài muôn vạn quân, trên dưới đã nhao nhao dèm síểm. Rõ là nhà Tần có tánh đố kỵ tơi trung.
Trời đã muốn làm mất nhà Tần, ai còn có thể cứu vãn được. Người ta tận trung vua thảo tôi hiền còn đem thân hy sinh cho kẻ tàn bạo, vong ân mà uổng mạng.
Tướng quân, trong không thể trực gián, ngoài làm một bại tướng, cô lập, sống sao nổi? Vả lại,thiên hạ đang lầm than, anh hùng đua nhau phất cờ khởi nghĩa, đưa xã hội tiến tới cuộc sống huy hoàng, tướng quân làm cái việc giữ lấy bánh xe lịch sử không cho quay, như thế tưởng không phải là thượng sách. Theo tôi, tướng quân nên liên kết với chư hầu, trừ bạo ngược, trước bảo vệ thân mình, sau để người đời khỏi chê trách.
Kính thư
Chương Hàm xem xong, bàn với chư tướng:
– Trần Dư nói cũng có lý, song chẳng biết nên đi phương nào cho phải?
Trần Hy nói:
– Các nước mới lập, sức còn yếu chưa có thể nương thân được. Duy có Sở, Hạng Vũ oai danh lừng lẩy, thế lực kiêu hùng, các chư hầu đều phải tùng phục. Tôi chắc sau này nhà Tần sẽ mất về tay nước Sở. Nếu chúng ta theo về Sở ngôi công khanh chẳng mất.
Chương Hàm nói:
– Trước kia ta giết Hạng Lương, Hạng Vũ đem lòng thù oán, khi nào lại dùng ta.
Trần Hy nói:
– Tôi xin vì tướng quân sang Sở làm thuyết khách, dò ý Hạng Vũ rồi sẽ liệu.
Chương Hàm nói:
– Ðược, xin ngài cứ thử xem, tôi chờ đợi kết quả.
Trần Hy cỡi ngựa sang Sở, sai người vào bẩm:
– Có sứ Tần xin vào yết kiến.
Hạng Vũ cho vào, hỏi sứ giả:.
– Các tướng Tần khốn đốn đã lâu, không chịu nổi, hoàn cảnh ấy sai ngươi đến đây thuyết khách chăng?
Trân Hy nói:
– Kẽ trượng phu vì nghĩa dẫu tan xương nát thịt cũng chẳng phàn nàn huống chi điều khổ nhọc. Tôi đến đây không phải để thuyết khách mà để trình bày với tướng quân một điều bất nghĩa.
Hạng Vũ hỏi:
– Ðiều bất nghĩa là điều gì?
Trần Hy nói:
– Chương tướng quân tôi khó nhọc suốt ba mươi năm trời, phò nhà Tần bảo vệ lấy giang sơn, nằm gai nếm mật nơi rừng giáo mưa tên. Lẽ ra, đó là một công trạng đối với nước Tần, thế mà Triệu Cao đem lòng gian ác, dèm siểm vua Tần, mưu kết tội Chương tướng quân tôi. Thật là điều bất nghĩa.
Hạng Vũ hỏi:
– Ngươi đem chuyện ấy nói với ta để làm gì?
Trần Hy nói:
– Trước là để tướng quân thấu rõ được lòng dạ kẻ bất nghĩa sau là để tướng quân thấy nỗi lòng oán vọng của Chương Hàm đối với Triệu Cao.
Hạng Vũ cười lớn, nói:
– Như thế ta lại càng dễ diệt nước Tần chứ sao!
Trần Hy nói:
– Ðúng vậy. Nhưng nếu tướng quân biết lợi dụng lánh của Chương Hàm thì mới dễ, bằng để cho Chương Hàm cầm quân bảo vệ nhà Tần, tôi e khó diệt nhà Tần được.
HạngVũ hỏi:
– Nhà ngươi muốn ta lợi dụng lòng oán thù của Chương Hàm như thế nào?
Trần Hy nói:
– Chương Hàm tuy bị cô lập, nhưng trong tay còn hơn mươi vạn quân, và nhiều kiện tướng, nếu cho Chương Hàm đầu Sở, chung sức diệt Tần để báo thù, đó lợi dụng được Chương Hàm đó.
Hạng Vũ vỗ án hét:
– Chương Hàm giết chết chú ta, thù ấy chưa trả, ta quyết bắt Chương Hàm sẻ thịt ăn gan, lẽ nào lại cho nó quy hàng!
Trần Hy không đáp, mỉm miệng cười.
Hạng Vũ hét lớn nói:
– Ngươi cười gì? Muốn đem xác đến đây thử lưỡi kiếm của ta sao?
Trần Hy nói:
– Tôi cười tướng quân chỉ chăm chăm lo việc nhỏ mà bỏ mất việc lớn. Ðã là tướng ra trận, ai vì chúa nấy, sao tướng quân lại nghĩ đến tình riêng mà cố chấp như vậy. Kẽ trượng phu vì nước quên nhà, vì lợi chung bỏ thù thù riêng mới gọi là người đại lượng.
Phạm Tăng ghé vào tai Hạng Vũ, bàn:
– Hiện nay uy thế của tướng quân rất mạnh, thế mà chưa vào được cửa quan là vì có Chương Hàm ngăn giử. Chương Hàm đầu Sở tức là trời muốn giúp tướng quân diệt Tần, tướng quân nên bỏ thù riêng lập ơn mới, Chương Hàm mang ơn tướng quân tất phải tận tâm, tận sức Ðó là thủ đoạn của kẽ anh hùng hào kiệt vậy.
Hạng Vũ nghe nói tĩnh ngộ, khen:
– Nếu không có quân sư tôi đã làm môt việc đáng tiếc.
Liền nói với Trần Hy:
– Tôi vì nặng tình gia đình mà quên nghĩa lớn. Thù thúc phụ chỉ là thù riêng, còn việc nước là việc chung của thiên hạ. không lẽ vì thù riêng mà bỏ việc công. Vậy nếu Chương Hàm thực lòng đầu Sở, ta sẽ bỏ hết thù xưa, cùng nhau cộng sự, mai sau phú quí cùng hưỏng.
Trần Hy từ giã Hạng Vũ trở về thuật lại với Chương Hàm.
Chương Hàm nói:
– Cứ như lời túc hạ thì đầu Sở là phải. Nhưng ta e Phạm Tăng nhiều quỉ kế, gạt ta đến đó ám hại chăng. Vậy túc hạ chịu khó đi một lần nữa xem hư thực thế nào.
Trần Hy vâng lời, Cởi ngựa sang dinh Sở, yết kiến Hạng Vũ và nói:
– Chương tướng quân tôi bản ý muốn đầu hàng, nhưng lại e tướng quân có nhớ thù cũ, nén chưa dám xếp giáp.
Hạng Vũ cười nói:
– Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Trượng phu đã nói một lời ngàn vàng khôn chuộc!
Nói xong cầm mũi tên bẻ làm đôi, giao cho Trần Hy một nữa đem về đưa cho Chương Hàm.
Chương Hàm tức tưởi khen, và nói:
– Hạng Vũ thật là kẻ anh hùng nghĩa khí, đáng cho ta theo phò.
Tức thì thăng trướng, hội chư tướng chém đầu Triệu Thường, rồi hợp hai mươi vạn quân kéo thẳng đến Chương Nam, cách trại Sở ba mươi dặm.
Hạng Vũ truyền quân trong trại đội ngủ chĩnh tề, gươm tuốt khỏi võ đứng hai hàng để thu nhận hàng tướng.
Chương Hàm đi đến trước trại Sở, xuống ngựa, thẳng vào viên môn, sụp lạy trước trướng, nói:
– Chương Hàm tôi bị Triệu Cao dèm báng, vua Nhị Thế không tiếp quân lương, sức cùng lực tận, may nhờ tướng quân rộng lượng mở đường cho chúng tôi nương tựa, ơn ấy dẫu chết chẳng dám quên. Xin đem thân trâu ngựa đền đáp.
Hạng Vũ bước xuống cầm tay Chương Hàm an ủi:
– Nay tướng quân đã đến đây cùng tôi lo chung việc thiên hạ, vậy xin hết lòng hết dạ, mai sau diệt được nước Tần công lao chẳng nhỏ….
Tin ấy đồn đến hàm Dương, Triệu Cao vào tâu với vua Nhị Thế:
– Chương Hàm thực có ý làm phản, nay đã đem cả binh bộ đầu Sở rồi!
Vua Nhị Thế giận dữ hạ lệnh bắt cả tôn thuộc của Chương Hàm và các tướng chém hết.
Chương Hàm hay được tin khóc sướt mướt, oán vọng Triệu Cao thấu trời, liền vào bàn với Hạng Vũ:
– Nhân lúc nhà Tần không có tướng giữ cửa quan, tướng quân nên dẫn quân qua sông Chương, đến thẳng đất Tân An và Miên Chỉ, chỉ một trận là diệt được nhà Tần.
Hạng Vũ mời Phạm Tăng vào bàn bạc.
Phạm Tăng nói:
– Binh ta ở ngoài đã lâu ngày, lương thực không được sung đủ. Còn Hoài Vương hiện ở Bành Thành thiếu người bảo giá. Vả lại Tần đất rộng, dân đông, nếu rủi ro, bề nào đầu đuôi gián đoạn. Chi bằng trở về Bành Thành cũng cố triều chính, cho quân sĩ dưỡng sức rồi lập thành hai đạo quân, chia nhau tiến vào đất Tần một lượt, như vậy mới vẹn toàn.
Hạng Vũ đồng ý, truyền lệnh rút quân về Bành Thành, vào yết kiến Hoài Vương, lại dẫn các hàng tướng nước Tần vào bệ kiến.
Hoài vương mừng rỡ, truyền mở tiệc khao thưởng ba quân, phong Hạng Vũ làm Lỗ Công phong Lưu Bang làm Bái Công cho về hươu dưỡng quân sĩ đợi ngày xuất chinh.
Bái Công từ đó tuyển tướng luyện quân, chiêu mộ kẽ hào sĩ bốn phưong. Chỉ mới hai tháng mà các mưu thần, mãnh tướng rất đông như, Tiêu Hà, Phàn Khoái, Tào Tham, Chu Bột, Vương Lãng, Hạ Hầu Anh, Sài Vũ, Ngạn Hấp, Lưu Quán, Ðinh Phục,Chu Xương, Phó Khoan, Tiết Âu, Trần Bái, Chương Thương, Nhâm Ngao. Tướng hơn 50 viên, quân hơn 50 vạn.
Còn Lỗ Công thì dưới trướng có: Phạm Tăng, Anh Bố,Quý Bố, Chung Ly Muội, Hàn Sở, Vũ Anh, Ðinh Báo, Chưong Nhĩ, Trần Dư, Cung Ngao, Tang Ðồ, Long Thư, v.v… Tướng hơn một trăm viên, quân hơn năm mươi vạn. Bái Công chú trọng vê nhân nghĩa, không thích sát phạt, dùng đức thu phục nhân tâm.
Còn Lỗ Công uy thế càng mạnh thì tính khí càng nóng nảy, các tướng sợ uy hơn là đức, cả đến vua Hoài Vương cũng có ý sợ sệt.
Hoài Vương thường nói với quần thần:
– Bái Công là người nhân hậu, sau nay có thể đem lại hạnh phúc thái bình cho trăm họ được.
Một hôm, có người từ Hàm Dương lại, kể sự tàn bạo của vua Nhị Thế và sự chuyên quyền của Triệu Cao mỗi ngày một quá quắt, trăm họ sống không yên.
Lỗ Công hay tin, vào tâu vua Hoài Vương:
– Thần luyện tập binh mã đã lâu, nay chính là lúc cần xuất quân để trừ kẻ vô đạo cứu lấy muôn dân, xin Bệ hạ chỉ phán.
Vua phán:
– Trẫm đang muốn sai hai người chia đường đánh Tần. Khanh tâu như vậy rất hợp ý.
Liền truyền Bái Công và Lỗ Công đến gần, phán:
– Trăm họ rên siết dưới ách bạo chúa nhà Tần đã lâu, cứu dân sớm được ngày nào hay ngày ấy. Nay đánh cần phải chia làm hai nẻo, vì Tần đất rộng dân đông, đánh một mặt khó lấy hết được. Tuy nhiên, trẫm chưa biết sai ai đường nào, vậy hai khanh tạm lui ra, để trẫm bàn với quần thần đã.
Quần thần đều nói:
– Ðánh Tần có hai con đường: một đường phía Ðông, một đường phía Tây. Hai con đường ấy xa bằng nhau. Tuy nhiên, muốn cho được công bình xin Bệ hạ viết một lá thăm, ai bắt trúng đường nào đi đường ấy.
Hoài Vương chuẩn tấu liền viết tên hai con đường: Ðông, Tây bỏ vào hũ.
Lỗ Công bắt trúng Ðông lộ, còn Bái Công trúng Tây lộ.
Hai bên bái tạ vua trở về chỉnh đốn binh mã xuất chinh.
Ba quân hăm hở, cờ xí rợp trời, binh nào tướng ấy rất uy nghi.
Ngày khởi hành vua Hoài Vương cầm tay Lỗ Công, Bái Công nói:
– Các khanh lập ta lên làm vua là để hợp với nguyện vọng nhân dân, song ta xét mình tài hèn, đức bạc, không đủ đem hanh phúc cho thiên hạ. Hai khanh vào đất Tần lần này, người nào vào trước được Hàm Dương ta sẽ phong cho làm vua Tần, người nào vào sau phải chịu làm tôi. Hai khanh nên ghi nhớ lời ước của trẫm. Sau này thiên hạ được thái bình các khanh để cho trẫm một nơi nhàn cư, như thế trẫm mãn nguyện.
Lỗ công và Bái Công đồng thanh tâu:
– Chúng tôi xin hết lòng vì nước, mở rộng cơ đồ, đem thiên đô về Tràng An, gây lại được cơ nghiệp hùng vĩ của nhà Châu trước kia mới toại nguyện.
Nói xong, hai ngưòi lạy tạ, kéo binh mã thẳng đến Ðịnh Ðào, hợp hai làm một, đặt tiệc ăn mừng, kết làm anh em.
Bái Công làm anh, Lỗ Công làm em, tình ý rất thân mật
Ðoạn hai người chia tay, ai đi đường nấy.
Bái Công theo Tây lộ đem quân đến ấp Bắc Xương, lúc ấy vào tiết mùa xuân, trời không nắng lắm, thỉnh thoảng có mưa phùn, ban đêm gió ngàn thổi lạnh.
Thành Bắc Xương cửa đóng kín cờ xí cắm la liệt trong thành lơ thơ với bóng quân canh.
Phàn Khoái xin đánh thành, Bái Công nói:
– Chổ này là ấp nhỏ, thành quách sơ sài. Vả lại dân chúng đã khổ cực nhiều dưới ách bạo chúa, nay ta còn sát phạt sao đành.
Lời nói đầy nhân đạo ấy đồn vang khắp nơi. Các bậc bô lão trong thành hay được bàn tán:
– Những kẽ sống dưới ách tàn bạo, mong một lời nhân nghĩa chẳng khác nào kẻ đang khát trông nước uống. Bái Công người nhân đức như thế chúng ta lẽ nào không tùng phục.
Bèn rủ nhau đến nói với quan Ấp Lệnh:
– Dân chúng tôi khổ với chế độ nhà Tần như chìm trong nước lửa. Nay gặp đại quân của Bái Công đến đây như trời hạn gặp mưa, xm quan lớn mở thành đầu hàng đê dân chúng nếm mùi ân đức.
Quan Ấp Lệnh theo lời, mở cửa thành nghênh tiếp.
Bái Công kéo quân vào thành, hạ lệnh cấm quân sĩ không dược lấy của dân một vật gì.
Trăm họ đem lòng ái mộ. Tiếng thơm đồn đi khắp nơi. Quân Bái Công đi đến đâu dân chúng đều mở cửa tiếp.
Một hôm, đến đất Cao Dương quan Ấp Lệnh là Vương Ðức ra khỏi thành ba mươi dặm đón rước, Bái Công thấy Vương Ðức nói năng hoạt bát, khí tượng hơn người, liền dắt tay vào thành, mời ngồi, và nói:
– Hiền hầu đã vui lòng qui thuận, vậy xin cùng với Bang này đi đánh Tần trừ bạo chúa.
Vương Ðức chắp tay thưa:
– Tôi tài hèn, dốt nát, không giúp tướng quân được bao nhiêu, vả lại, mấy năm chánh sách nhà Tần tàn bạo, tôi cai trị nơi đây dùng nhân nghĩa rải cho dân vì vậy dân chúng mến tôi lắm, không nỡ rời. Nơi huyện này có một hiền sĩ họ Lịch tên Tự Cơ, nhà nghèo, tính phóng đãng, tuy bề ngoài có vẽ ngông cuồng, nhưng bên trong chứa đầy mưu lược. Nhân lúc thiên hạ loạn lạc, nhà Tần đốt sách, chôn học trò, liền mới mượn chén giả say. Ông ta thường nói với tôi: Tôi say suốt ngày, nhưng nếu gặp minh quân tôi tỉnh lại ngay. Xin tướng quân cho cho mời người ấy làm chức Biệt giá để sớm tối bàn bạc thì ích lợi hơn tôi nhiều.
Bái Công mừng rỡ, nhờ Vương Ðức đi mời Lịch Sinh.
Ðến nơi, Lịch Sinh còn đang say, nằm chưa dậy.
Gia đồng đánh thức, Lịch Sinh khoác áo ra chào và nói:
– Hôm nay quý chức hạ cố đến tệ xá hẳn có điều chi dạy bảo?
Vương Ðức nói:
– Thường ngày tiên sinh ước được gặp minh chủ, nay tôi xem Bái Công, người khoan nhân đại độ, đáng bậc đế vương, tôi đã tiến dẫn tiên sinh làm chức Biệt giá, xin tiên sinh bằng lòng cho.
Lịch Sinh nói:
– Tôi đã có nghe đức độ của Bái Công, song chưa giáp mặt chẳng biết lời đồn đãi ấy hư thiệt thế nào. Nếu quả gặp được minh chủ từ nay tôi hết say.
Dứt lời, cười ha hả, sửa soạn khăn áo theo Vương Ðức vào thành, yết kiến Bái Công.
Bái Công đang ngồi cho hai tỳ nữ rửa chân, Lịch Sinh chỉ xá một cái chứ không lạy. Rồi qua một lúc cất tiếng hỏi:
– Túc hạ muốn giúp nhà Tần đánh chư hầu hay giúp chư hầu đánh nhà Tần?
Bái Công thấy Lịch Sinh già nua, ăn nói sổ sàng như thế, cau mày, mắng:
– Chà! Anh hủ nho này hỏi mới ngu chứ! Thiên hạ khổ vì nhà Tần đã lâu, nay ta phụng mệnh vua Hoài Vương trừ bạo chúa, cứu muôn dân, sao lại dám nói giúp nhà Tần?
Lịch Sinh nói:
– Túc hạ muốn đánh Tần trừ bạo chúa, cất nghĩa binh thu phục lòng người, thế mà lại đối xử với hiền sĩ bằng cử chỉ ngạo như thế đó thì ai còn giúp mình lo việc lớn.
Bái Công nghe nói, thôi rửa chân, vội vàng đội mũ, mặc áo, mời Lịch Sinh lên ngồi, và xin lỗi:
– Vừa rồi tôi vô ý, không biết tiên sinh, lỡ thất lễ xin tiên sinh vui lòng hỉ xả.
Qua một lúc, Bái Công hỏi:
– Tiên sinh đã hạ cố đến đây, có điều gì cao kiến xin chỉ giáo?
Lịch Sinh đem chuyện lục quốc tung hoành, và chánh sách tàn bạo của vua Tần ra nói, miệng như nước chảy thao thao bất tuyệt. Bái Công lấy làm đắc ý, hỏi đến mưu đánh Tần.
Lịch Sinh nói:
– Túc hạ đem đoàn quân ô hợp vào đất Tần chẳng khác nào lùa bầy dê vào hang cọp. Tôi thấy sự thất bại trước mắt.
Bái Công nói:
– Tôi lấy nghĩa binh đánh với quân bất nghĩa cớ sao thất bại?
Lịch Sinh nói:
– Ðành vậy! Nhưng binh Tần đông, lương thực đầy đủ, việc nghĩa có sức mạnh lâu dài, bạo lực có sức mạnh cấp thời. Túc hạ không củng cố căn bản thì khó thắng được.
Bái Công hỏi:
– Ý tiên sinh muốn phải làm thế nào?
Lịch Sinh đáp:
– Trần Lưu là cho xung yếu nhất trong thiên hạ, bốn mặt tám bề hình thể hiểm trở, trong thành lương thảo rất nhiều, quan Thái Thú là Trần Ðồng vốn có quen với tôi. Tôi có thể dụ được. Nếu lấy Trần Lưu làm chổ căn bản trú quân, rồi thừa cơ chiếm Quan Trung, đó là thượng sách.
Bái Công mừng rỡ, nhờ Lịch Sinh đến Trần Lưu phủ dụ.
Quan lệnh Trần Lưu nghe Lịch Sinh đến, ra đón vào hậu đường đặt tiệc khoản đải.
Lịch Sinh nói:
– Làm tôi chọn chúa mà thờ. Lâu nay vì nhà Tần vô đạo. Tôi mượn chén giả say, gạt bỏ việc đời. Vừa rồi, gặp được Bái Công là đấng hiền lương, đáng mặt minh chủ, tôi đã đem thân quy phục. Hiền hầu giữ cái thành nhỏ này, dưới chánh lệnh tàn bạo, muôn dân thán oán, chi bằng theo giúp Bái Công phất cờ khởi nghĩa cứu lấy muôn người khỏi cảnh lầm than.
Trần Ðồng ngồi cúi mặt suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Tiên sinh nói cũng phải, song tôi ăn lộc nước, nỡ nào phản lại nhà Tần.
Lịch Sinh vừa cuời vừa nói:
– Vua Tần tàn bạo, làm khổ trăm họ, giết đi là chánh đạo, sao lại bảo là phản?
Trần Ðồng đứng dậy nói:
– Tôi xin lĩnh ý tiên sinh.
Hai người tâm sự một lúc rồi mở cửa thành đón Bái Công vào.
Bái Công đóng quân nơi Trần Lư ngót một tháng, chiêu tập binh mã các cứ được thêm hơn năm vạn.
Lương thực sung túc, quân lực dồi dào.
Bái Công nói với Lịch Sinh:
– Từ khi gặp tiên sinh, tôi chẳng khác nào như cá gặp nước, ơn tiên sinh rất lớn.
Nói rồi phong cho Lịch Sinh làm Quảng Dã quân, ở luôn bên cạnh bàn mưu giúp kế.
Lịch Sinh nói:
– Tôi tuy được túc hạ trọng đãi. song tài năng chưa đáng với lòng ưu ái của túc hạ. Gần đây có một người gồm đủ kinh luân, thừa tài thao lược, mưu trí dẫu Y Doãn đời vua Thang, Lã Vọng đời nhà Châu cũng chưa hơn nổi. Nếu được người ấy giúp sức lo gì không thu đoạt thiên hạ, diệt nhà Tần?
Bái Công hỏi vội:
– Người ấy là ai? Hiện ở đâu?
Lịch Sinh nói:
– Người ấy hiện ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, chữ là Tử Phòng, quyến thuộc năm đời làm tướng nước Hàn. Nay muốn vì nước Hàn báo thù, nhưng nước Hàn mới lập thế quân còn yếu ớt chưa khởi sự được.
Bái Công nói:
– Người ấy đã làm tướng nước Hàn, lẽ nào còn chịu đến giúp ta.
Lịch Sinh nói:
– Tôi có một kế, dụ Trương Lương đến đây, rồi dùng lời khích lệ tất Trưong Lương phải theo ta.
Bái Công nói:
– Xin tiên sinh vì tôi bày kế.
Lịch Sinh nói:
– Túc hạ viết môt phong thư sai người đem đến nước Hàn, mượn 50000 hộc lương. Nước Hàn không có lương tất cho Trương Lương sang giúp.
Bái Công theo lời, viết phong thư gửi cho vua Hàn.
Vua Hàn mở thư ra xem, trong thư nói:
Ðại tướng quân nước Sở là Lưu Bang kính dâng Hàn vương điện hạ nhã giám.
Trộm nghĩ: Thủy Hoàng vô đạo, Nhị Thế bất lương, trăm họ khổ đau, oán hờn chồng chất. Tôi nay phụng mệnh Sở Hoài Vương trả thù cho sáu nước bị diệt vong, cứu thiên hạ qua cơn tai biến, ngặt vì quân đi trăm dặm, lương thực không đủ dùng, vậy sai sứ thần là Lịch Tự Cơ sang vay quý quốc năm mươi vạn hộc lương, chờ lúc diệt xong nước Tần sẽ hoàn lại. Xin cho đó là việc nghĩa, mà cũng là nhiệm vụ chung chớ chối từ. Nay kính thư
Hàn Vương xem thư xong. họp quần thần nghị luận.
Quần thần nói:
– Nước Hàn ta mới lập, binh lương nghèo nàn, tự mình cứu mình còn chưa xong, lấy đâu để giúp người?
Hàn vương nói:
– Bái Công phụng mệnh đánh Tần, thực là việc chung của thiên hạ. Ta cũng có một phần trách nhiệm đối với chư hầu, lẽ nào từ chối. Nếu muốn góp phần giúp đỡ thì lấy đâu ra năm vạn hộc lương. Khó thay!
Trương Lương bước ra tâu:
– Xin Ðại vương tiếp sứ, tôi sẽ theo sứ thần đến yết Bái Công và có cách giải được điều khó khăn đó.
Thấy Trương Lương tình nguyện đến yết kiến Bái Công.
Hàn Vương nói:
– Nhà ngươi nên khéo léo, đừng để mất lòng Bái Công.
Lịch Sinh nghĩ thầm:
– Trương Lương đã trúng kế ta rồi!
Liền từ giã Hàn Vương, dắt Trương Lương đến yết kiến Bái Công.
Dọc đường, Trương Lương mỉm cười, tự nghĩ:
– Ý Lịch Sinh đến đây cốt mượn ta chớ đâu phải rnượn lương. Ta đi đây cốt để xem thử Bái Công đãi người như thế nào?
Bái Công vốn đã bàn mưu với Lịch Sinh nên sắp xếp sẳn sàng đợi Trương Lương.
Khi đươc tin, Bái Công sai Phàn Khoái ra rước.
Thoạt nhìn thấy Phàn Khoái, Trương Lương nghĩ thầm:
– Người này quả là một bậc khai quốc công thần.
Khi vào đến cửa, Bái Công lại dẫn Tiêu Hà, Tào Tham ra tiếp đón.
Trương Lương thấy Bái Công mũi lớn, mặt rồng, thật đáng là một vị an bang chân mệnh, còn bọn Tiêu Hà mày ngài, hàm én, trông đúng là những bậc anh hùng cái thế, lòng mừng thầm:
– Có minh quân tất có tôi hiền. Ta đi chuyến này đúng là gặp dịp. Xưa kia thầy ta Hoàng Thạch Công bảo sau này phò thánh quân lưu danh vạn cổ, thế thì đây là nơi dung thân rồi.
Nghĩ vậy, liền đến vái lạy Bái Công và nói:
– Nay Minh công đem quân đánh Tần, đi đến đâu trăm họ cung đốn đầy đủ, lương thực ê chề, cớ sao lại nghe lời anh cuồng sĩ đến nước tôi mượn lương? Hay là Minh công muốn mượn Lương tôi đến giúp việc chăng?
Bái Công nghe Trương Lương nói thất kinh, không biết trả lời thế nào.
Tiêu Hà vội đỡ lời.:
– Chúa tôi lấy cớ mượn quân lương, nhưng kỳ thực muốn mượn Trương Lương đó. Còn tiên sinh lại đây yết kiến Chúa tôi, kỳ thực là để thuyết khách. Tuy nhiên tiên sinh lại không dở giọng thuyết khách, có lẽ tiên sinh thấy Chúa tôi có thể giúp tiên sinh thỏa được chí bình sinh chăng?
Trương Lương nghe Tiêu Hà nói chắp tay xá một cái và nói:
– Tâm cang tôi túc hạ đã thấu rõ, tôi không dám chối, xin đem thân giúp Minh Công, song phải trở về tâu lại với Hàn Vương tôi đã, rồi mới dám tùy hành.
Bái Công mừng rỡ, mở tiệc tiếp đải Trương Lương rất ân cần.
Hôm sau. Bái Công cùng đi với Trương Lương qua Hàn thành.
Hàn Vương được tin dẫn bá quan ra nghênh tiếp.
Hàn Vương nói:
– Tiểu quốc tôi mới lập, thực còn nghèo lắm, không lấy gì giúp đỡ túc hạ được. Vừa rồi tôi có sai Trương Lương đến cáo lỗi, chẳng hay túc hạ có niệm tình chăng?
Bái Công nói:
– Ðiện Hạ không có lương, tôi đâu dám nài ép. Nay tôi đem quân đánh Tần, nghe Tử Phòng là người thao lược, vậy xin mượn Tử Phòng ít lâu, sớm tối bàn việc quân cơ, chờ lúc diệt Tần xong sẽ giao trả lại.
Hàn Vương nói:
– Trương Lương với tôi không thể xa rời được một chốc, nay tướng quân. vì việc chung của thiên hạ mà mượn, tôi cũng vui lòng. Song, sau khi thành công phải trả lại, chớ sai ước.
Bái Công vâng lời, bái tạ Hàn Vương rồi cùng Trương Lương trở về dinh.
Từ đó, Bái Công với Trương Lương ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu, đêm ngày bàn bạc việc thiên hạ.
Trương Lương đem các sách lục thao tam lược nói không hề thiếu sót chỗ nào.
Trương Lương khâm phục, nhủ thầm:
– Từ khi Hoàng Thạch công cho ta quyển sách này, ta giảng cho ai nghe cũng lờ mờ không hiểu nổi, thế mà Bái Công chỉ nghe qua đã tinh tường, không sót một nghĩa, thật là kẻ thông minh đáng vì chân chúa.
Sau một thời gian chỉnh đốn quân binh, Bái Công nhổ trại kéo vào cửa quan đất Tần.
Vừa đến đất Vũ Quan, bỗng có một đạo quân từ trong núi xông ra đón lại, cầm đầu là một viên đại tướng hình dung tuấn tú, diện mạo đường đường, hét lớn:
– Hỡi Bái Công, hãy ra đây hội kiến cùng ta.
Hai tướng tiên phuông của Bái Công là Phó Khoang và Phó Bất nổi giận giục ngựa tới đánh.
Ðánh được vài mươi hiệp, tướng ấy bắt sống Phó Khoang, còn Phó Bất thua chạy.
Phàn Khoái đi trung đạo, thấy tiền quân dồn lại, nghe hai tướng tiên phuong bị bạ, liền xông đến đánh.
Tướng ấy nói:
– Ta muốn mời Bái Công ra đây nói chuyện, sao các ngươi lại hung hăng thế?
Phàn Khoái vung tít cây phương thiên họa kích, hét:
– Nếu đỡ nổi cây kích của ta thì ta mới mời chúa công ra cho ngươi nói chuyện, bằng không đừng có phách lối.
Nói xong vung kích đâm tới. Hai bên rước đánh. Ðánh nhau hơn sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại.
Trương Lương nói với Bái Công:
– Tôi xem tướng ấy không phải là kẻ tầm thường, nay muốn gặp Chúa công hẳn có điều gì muốn nói, xin Chúa công chớ bỏ qua.
Bái Công liền giục ngựa đến trước hỏi:
– Tướng quân muốn thấy Lưu Bang này có điều chi chỉ giáo chăng?
Tướng ấy thấy Bái Công ăn nói nhã nhặn khí tượng ung dung, liền xuống ngựa thủ lễ và hỏi:
– Tôi đợi Minh công ở đây đã lâu, nay đặng gặp mặt thật vạn hạnh. Vừa rồi tôi đánh nhau với các tướng cốt là để thí võ chứ không dám có ý đối địch.
Bái Công hỏi:
– Dám hỏi tướng quân danh hiệu là chi? Quê quán ở đâu?
Tướng ấy đáp:
– Tôi họ Quán tên Anh, quê ở Lạc Xuyên. Trước đây tôi đi buôn bán ở Tây Xuyên, một hôm gặp bọn giặc cỏ hơn một trăm đứa đón đường cướp giựt, tôi độc lực ra đánh, bọn chúng đầu hàng. Nhân cơ hội, tôi ở lại sào huyệt, chiêu thêm binh mã, định trừ bạo chúa cứu muôn dân. Ðoàn quân tôi hiện được hơn ba ngàn, nay nghe Minh công vì nghĩa, cất binh đánh Tần nên đón nơi đây để đầu hàng. Nếu ngài không chê bất tài, tôi xin làm tiên phuông đi đánh giặc.
Bái Công mừng rỡ, thu nhận Quán Anh, để cùng đi đánh Vũ Quan.
Tướng giữ Vũ Quan là Chu Mạnh, thấy thế binh của Bái Công quá mạnh, không dám ra đánh, sai sứ về Hàm Dương cứu cấp.
Triệu Cao hay tin thất kinh, không dám tâu cho vua Nhị Thế biết. Muốn sai tướng ra quân, nhưng không có tướng nào đảm nhiệm được. Một ngày hai ba tin cáo cấp. Triệu Cao sợ vua Nhị Thế bắt tội, giả bệnh không vào triều.
Vua Nhị Thế không hề hay biết gì cả, suốt ngày đêm vui chơi với phi tần trong cung A Phòng.
Một hôm, nằm chiêm bao thấy mình đi săn, bị một con bạch hổ trong bụi cây nhảy ra vồ. Vua Nhị Thế thất kinh đòi quan Chiêm bốc đến hỏi.
Quan Chiêm bốc tâu:
– Ðiềm chiêm bao rất dữ, xin bệ hạ xa lánh cung A phòng mới mong tránh được tai nạn.
Vua Nhị Thế theo lời, dời giá sang Vọng Di. Từ đó suốt ngày lo sợ, ăn ngủ không yên.
Một hôm, hỏi bọn tả hữu:
-Trong nước lâu nay được yên ổn chăng?
Bọn tả hữu lau nước mắt tâu:
– Quân Sở đánh đến Vũ Quan rồi, các nước chư hầu đều họp quân trợ giúp. Nhà Tần ta chẳng bao lâu phải mất.
Vua Nhị Thế thất kinh, đòi Triệu Cao đến hỏi:
Nhưng Triệu Cao giả bệnh từ chối, và nghĩ thầm:
– Nếu ta chẳng lo bảo tồn tánh mệnh, sau này hối chẳng kip.
Liền mật đòi người rể là Diêm Nhạc và em ruột là Triệu Thành đến bàn:
– Nay quân giặc đã đánh đến cửa quan, trong triều không còn tướng nào đủ sức chống cự. Vua Nhị Thế lại đổ tội cho ta, chẳng lẽ khoanh tay ngồi chịu chết. Các người phao tin đồn trong cung có giặc, rồi đem quân đến cung Vọng Di, bắt vua Nhị Thế giết quách đi, tôn công tử Tử Anh là người hiền đức có thể dùng trấn an thiên hạ được.
Diêm Nhạc và Triệu Thành tuân lệnh dẫn một ngàn binh mã đến vây cung Vọng Di, bắt bọn quân canh trói lại, và nói:
– Giặc vào thành, sao chúng bay không biết?
Quân canh run rẩy nói:
– Bốn mặt thành đêu có binh tướng canh gác ngày đêm, làm gì có giặc.
Diêm Nhạc chém đầu bọn canh cửa, rồi truyền quân đánh vào.
Bọn hoạn quan hầu cận thất kinh chạy tán loạn.
Triệu Thành, Diêm Nhạc thẳng đến chỗ vua Nhị Thế, vung gươm hét lớn:
– Nhà vua ác nghiệt! thiên hạ than oán, chư hầu đều phản, giặc giã khắp nơi, nay lại cứ an hưỡng cảnh vàng son sao?
Vua Nhị Thế hỏi:
– Ai bày các ngươi làm chuyện phản phúc vậy?
Triệu Thành nói:
– Nhà vua thiếu đức cần phải chọn vua khác để cứu giang sơn, lòng dân muốn vậy.
Vua Nhị Thế nói:
– Thừa Tướng đâu? Ta có thể gặp mặt được chăng?
Diêm Nhạc quắc mắt, hét:
– Không được.
Vua Nhị Thế ngập ngừng nói:
– Thế trẫm xin làm chức Vạn Hộ Hầu có được chăng?
– Không được.
Thế trẫm xin được sống với vợ con có được chăng?
– Không được.
Thế các khanh nhất định không để trẫm sống!
Triệu Thành nói:
– Một ông vua bị phế không thể sống. Nếu nhà vua biết điều nên tự xử lấy mình. Chúng ta vâng mệnh Thừa Tướng đến đây, đừng kêu ca vô ích!
Nhị Thế thấy không thể bảo vệ cái sống được nữa đành phải tự vẫn.
Triệu Thành, Diêm Nhạc trở về báo lại với Triệu Cao:
– Nhị Thế tự tử rồi, Thừa Tướng mau lập vua khác.
Triệu Cao liền họp quần thần tuyên bố:
– Vua không nghe lời can gián của ta, làm lắm điều bạo ngược khiến thiên hạ loan lạc, điêu linh, chư hầu nổi lên làm phản, nay ta đã giết vua rồi. Nước Tần từ xưa vẫn xưng vương, đến đời Thủy Hoàng lại xưng đế, làm phật ý chư hầu. Nay bỏ hiệu xưng đế, xưng vương như cũ, bình đẳng với sáu nước, tự nhiên sáu nước sẽ hài lòng rút quân về, các quan nghĩ sao?
Các quan đều nói:
– Thừa Tưóng nói phải lắm.
Triệu Cao lại nói:
– Tử Anh là cháu gọi vua Nhị Thế bằng chú, vốn nhân đức, đáng lập lên kế vị, các quan nghĩ sao?
Các quan đều nói:
– Thừa Tướng nói phải lắm.
Triệu Cao truyền đem hài cốt vua Nhị Thế chôn nơi vườn Nghi Xuân, rồi cùng quần thần đem ngọc tỷ đến mời Tử Anh lên ngôi.
Tử Anh bình nhật thấy Triệu Cao dua nịnh, hãm hại tôi trung, lòng không phục. Tuy nhiên, lại cũng không thể vì vậy mà bỏ sự nghiệp tổ tiên, nên nói:
– Ta phải trai cung năm ngày mới có thể tức vị được.
Ðêm đến, Tử Anh gọi hai con đến bảo:
– Triệu Cao phản nghịch giết vua, sợ đình thần bắt tội mới giả nhân nghĩa đến đón ta về làm vua. Nếu để Triệu Cao, trăm họ oán vọng. Hai con nên cùng với gia tướng Hàm Ðàm, Lý Tất đem quân đao phủ phục ở sau nhà Thái Miếu. Hết hạn, năm ngày ta cáo ốm không đến triều, thế tất Triệu Cao phải thân hành đến đón. Chừng ấy hai con hô phục binh nổi dậy giết quách đi để rửa thù cho tiên vương
Hai vị công tử tuân lệnh đến dẫn gia tướng và đao phủ phục sẵn nơi trai cung.
Ðến hôm thứ năm, Triệu Cao nghe báo Tử Anh bị bệnh liền thân hành đến trai cung thăm viếng.
Ðến nơi, không thấy Tử Anh đâu, bỗng nghe tiếng quát to đứa phản tặc đã đến kia. Quân đâu, hãy bắt nó.
Triệu Cao thất kinh, toan bỏ chạy, nhưng binh phục đã áp đến bằm Triệu Cao nát như tương.
Giết xong Triệu Cao, Từ Anh vào triều, quần thần rước lên ngôi, xưng hiệu Tam Thế Hoàng Ðế.
Vua Tam Thế truyền bắt cả tôn tộc của Triệu Cao giết hết, bêu đầu trước chợ Hàm Dương.
Dân chúng trông thấy ai nấy đều hả dạ.
Vua Tam Thế hỏi quần thần:
– Trẫm mới lên ngôi, trong triều chưa định, ngoài thì quân Sở hoành hành, các khanh có kế gì chăng?
Quần thần tâu:
– Ðịch quân kéo đến cửa quan tình thế rất gấp, xin bệ hạ sai tướng ra giữ cửa quan trước, còn việc triều chính sẽ định sau.
Vua Tam Thế theo lời, sai Hàn Vinh và Cảnh Bái dẫn năm vạn quân hiệp lực với Chu Mạnh cố thủ nơi quan ải.
Bái Công dẫn quân đến cửa Quan Trung thấy bọn Hàn Vinh đã đặt quân canh phòng cẩn mật, khó vượt qua được, liền hội chư tướng bàn luận.
Trương Lương nói:
– Quân Tần mạnh lắm chưa thể đánh ngay được. Tướng Tần tuy cầm quân nhưng cũng rõ được lẽ tồn vong trong thiên hạ. Nay hãy tạm dừng binh lại, sai người lên đỉnh núì cạnh cửa quan, cặm cờ đỏ để làm thinh thế, rồi sai Lục Giả, Lịch Tư Cơ sang làm thuyết khách, lấy lẽ phải trái dụ hàng, đợi cho quân địch chểnh mảng không phòng bị, ta sẽ thừa cơ tấn công thì mới thắng.
Bái Công theo lời cho quân lên núi cắm cờ la liệt, rồi sai Lục Giả và Lịch Tư Cơ sang du thuyết.
Lục Giả và Lịch Tư Cơ sang yết kiến Hàn Vinh, Chu Mạnh.
Lục Giả nói:
– Nay quân Tần vô đạo, trăm họ khổ sở, thiên hạ đua nhau dấy nghĩa! Lòng dân đã muốn tất trời phải theo. Nếu tướng quân biết thương dân, không muốn cho dân lâm vào cảnh binh đao tang tóc, xin mở cửa thành đầu hàng.
Bái Công sẽ tâu với vua Nghĩa Ðế phong tướng quân hàm Vạn Hộ Hầu thì danh tiếng không mất.
Hàn Vinh nói:
– Tôi ăn lộc nhà Tần, lẽ nào lại bội nghĩa.
Tiên sinh hãy tạm trú nơi nhà tôi, để tôi nghĩ lại đã.
Lục Giả nhận lời trở về dinh. Hàn Vinh đem việc ấy bàn với chư tướng.
Tướng lỉnh, có kẻ bảo đầu, người lại bảo không ; bởi thế Hàn Vinh do dự bỏ trễ việc quân.
Hôm sau, Tự Cơ đến yết kiến Hàn Vinh, nói:
– Tướng quân đã suy xét kỹ chưa?
Hàn Vinh thẩn thờ, nói:
– Các tướng không nhất ý, biết làm thế nào?
Tự Cơ cười nhạt đáp:
– Cám ơn tướng quân! Cứ như thiện cảm của tướng quân dẫu tướng quân không hàng, Chúa công tôi cũng kính mến. Tôi có đem theo một trăm nén vàng để tạ ơn tướng quân.
Hàn Vinh từ chối:
– Tôi với Bái Công là đối thủ, lẽ nào lại nhận lễ.
Tự Cơ nói:
– Tướng quân không nhận lễ là tướng quân muốn tuyệt tình với Chúa công tôi. Sau này chư hầu kéo quân tới lấy thành tất tướng quân không giữ nổi chừng ấy tướng quân muốn gây ân nghĩa với Chúa công tôi cũng khó. Chi bằng hãy tạm nhận cái lễ này để phòng bất trắc về sau, tướng quân nên nghĩ kỹ.
Hàn Vinh bấm trán đắn đo một lúc, rồi thuận tình nhận lễ vật.
Tự Cơ trở về thuật lại với Bái Công:
– Tướng Tần tuy không chịu hàng song lòng lưỡng lự việc canh phòng không còn nghiêm nhặt nữa.
Trương Lương nói:
– Thế là cơ trời đã đến
Liền gọi Tiết Âu và Trần Bái đến, bảo:
– Hai ngươi dẫn vài mươi quân kỵ lẻn vào con đường tắt sau chân núi, đốt lửa sau thành làm kế nghi binh. Ta cùng Hàn Khoái đem đại binh đánh vào mặt thành, chúng sẽ tưởng quân ta chận hai đầu tất sợ hãi bỏ thành chạy.
Các tướng làm y kế. Quả nhiên quân trong thành hoảng hốt chạy tán loạn.
Hàn Vinh từ khi nhận lễ, không nghĩ đến việc đánh giặc nữa, cả ngày chỉ uống rượu làm vui.
Khi nghe tiếng quân ó vang trời, mặt trước và mặt sau lửa cháy đỏ rực, tưởng quân Sở đã vào được thành rồi, vội khiến quân mở cửa thành ùa ra thoát nạn.
Hàn Vinh chay đến Lam Ðiền mới dám đóng quân.
Ngày hôm sau, chỉnh đốn quân ngủ kéo đến định quyết chiến
Nhưng, Trương Lương đã đoán được, cho hai đạo binh phục sẳn. Hàn Vinh vừa đến nơi, bị phục quân nổi dậy, đánh một trận tơi bời, không còn manh giáp, chạy thẳng về Hàm Dương cáo cấp.
Bái Công kéo binh thẳng đến Bái Thượng bấy giờ vào mùa đông, tháng mười, năm ất Vị, vua Tam Thế nhà Tần sợ hãi, họp quần thần thương nghị:
– Các khanh tính kế gì trong tình thế nguy cấp?
Quan Thượng đại phu Phù Tất tâu:
– Việc này rất gấp! Bệ hạ nên thương lấy sinh linh khuất giá ra bên đường đầu hàng để tránh tai vạ. Lòng dân lâu nay thán oán nhà Tần, dẫu có đem sức chống cự cũng vô ích.
Vua Tam Thế khóc òa, sai lấy ngọc tỷ gói vào lụa buộc vào cổ rồi đi xe mộc, ngựa trắng ra đầu hàng.
Bái Công mừng rỡ, cùng vua Tam Thế thi lễ.
Vua Tam Thế khúm núm thưa:
– Tử Anh này là kẻ bất tài thiếu đức, không đáng làm chủ muôn dân. Nay thấy tướng quân xa giá Tây chinh, tình nguyện đầu hàng, tránh cảnh lửa binh, cứu nguy trăm họ.
Nói xong, đem ngọc tỷ dâng lên.
Bái Công thu nhận và nói:
– Quân hầu đã dốc lòng qui hàng tôi xin bảo tấu với vua Nghĩa Ðế ân xá cho. Ðoạn, giao Tử Anh cho người coi giữ.
Chư tướng đều nói:
– Tần Vương bạo ác, tội đáng giết sao Minh Công lại tha?
Bái Công nói:
– Kẻ bạo ác chỉ khi nào nắm được quyền hành trong tay mới làm được chuyện đó. Nay nhà Tần đã mất, còn bạo ác được sao? Vả lại giết một kẻ quy hàng là điều bất nghĩa, sau này ai còn dám đầu hàng nữa.
Nói xong cất quân vào thành, truyền mở tiệc khao thưởng ba quân.
Nhà Tây Tần từ vua Trang Vương đến đời Nhị Thế, tất cả được 43 năm và vua Tam Thế lên ngôi được 43 ngày.
Hàm Dương cung điện nguy nga, lầu đài tráng lệ, 36 cung, 24 viện, nào lầu ngọc nhà vàng, nào tường hoa thềm gấm, đâu đâu cũng rực rỡ muôn màu.
Chư tướng tranh nhau kho vàng lấy của cải, chỉ có Tiêu Hà không lấy gì cả, vào ngay phủ Thừa Tướng thu đồ tịch ( sổ đinh và sổ điền ). Bởi thế, Bái Công được biết nơi nào hiểm yếu, nơi nào đông dân, nơi nào nghèo, nơi nào giàu.
Bái Công vào cung A Phòng thấy mỹ nữ dẩy đầy như một vườn hoa muôn sắc, ra đến triều đường thấy ngai vàng, bệ ngọc uy nghi, bèn tấm tắc khen:
– Nhà Tần phú quý đến thế này là cực phẩm! Ðời ta chưa từng thấy bao giờ.
Rồi quay lại nói với chư Tướng:
– Ta muốn ở đây trấn an nhân tâm, tự nhiên các chư hầu không còn cạnh tranh nữa.
Phàn Khoái thấy Bái Công đắm say cảnh vàng son hoa mỹ liền can:
– Ðây chỉ là một khung cảnh vong quốc sao Minh công lại thích nó làm gì? Bởi xa xỉ thế này mà nhà Tần diệt vong. Xin lấy cái gương ấy tránh xa là hơn.
Bái Công do dự, Trương Lương nói tiếp:
– Trong mê sắc đẹp, ngoài thích chim muông, vẽ cột, sơn tường, rượu chè, hát xướng. Phạm một trong các điều ấy tức là triệu chứng bại vong. Vì cái giàu sang vô đạo của Tần mà Minh công mới đến được nơi đây. Nay thiên hạ chưa định, Minh công đã say mê sự giàu sang còn ai phục mình nữa. Xin Minh công nghe lời Phàn Khoái chớ lưu luyến.
Bái Công vở lẽ, truyền niêm phong cung điện, dẫn quân về Bái Thượng đồn trú đợi quân chư hầu đến.
Tiêu Hà nói:
– Dân chúng lâu nay cam khổ dưới chế độ nhà Tần.
Nay Minh công trừ được nhà Tần cũng nên tuyên bố một vài ân đức để được lòng dân.
Bái Công nói:
– Vàng son đã làm cho óc ta u tối, quên điều đại nghĩa.
Liền truyền xuống các huyện, họp tất cả thân hào, bô lão đến Bái Thượng, hiểu dụ rằng:
– Pháp luật nhà Tần quá khắc nghiệt, dân sống không yên, muôn ngàn khốn đốn. Ta nhận lời ước của Hoài Vương: “Vào được Quan Trung trước thì làm vua nước Tần”. Nay ta vào trước, lấy tư cách lời ước ấy ban bố bỏ các luật lệ của nhà Tần, chỉ để lại ba điều như sau:
Giết người phạm tội chết, hại người và ăn trộm bị tội nặng, còn các tội khác tùy nặng nhẹ lượng tình phân xử.
Ta đến đây chỉ cốt vì dân trừ hại, dân sự cứ yên ổn làm ăn đừng lo sợ.
Nói xong, truyền lệnh ba quân không được quấy nhiễu dân chúng, ai trái lệnh bị tội chém.
Dân chúng thấy Bái Công nhân đức như vậy tranh nhau đem trâu, dê, cơm, rượu đến hiến thưởng quân sĩ.
Bái Công không nhận, nói:
– Thóc kho còn nhiều, chẳng dám phiền đến dân.
Trong lúc Bái Công đã lấy được Hàm Dương, diệt nhà Tần an định dân chúng, thì Hạng Vũ mới lấy được Hà Bắc, đem hết quân chư hầu kéo vào Quan Trung để tiến vào Hàm Dương.
Vừa đến trại hàng tốt quân Tần, thấy quân sĩ thì thào nhau:
– Chúng ta bị Chương Hàm đánh lừa, theo hàng Hạng Vũ, ông ta chỉ chuyên về bạo ngược, thưởng phạt bất công. Nghe nói Bái Công là ngườl nhân đạo, không hay chém giết, lại vào được Quan Trung trước chắc sau này sẽ làm vua thiên hạ. Bọn mình rủi không được theo người ấy.
Hạng Vũ nghe đến đấy lòng căm tức, trở vào trung quân gọi Anh Bố đến truyền:
– Hàng tốt nhà Tần muốn làm phản, ta vừa đi tuần, nghe chúng bàn nhau. Vậy phải trừ bỏ để khỏi lo hậu hoạn, chỉ chừa lại Chương Hàm, Tư Mã Hân và Ðổng Ê mà thôi.
Phạm Tăng thấy Hạng Vũ xử sự như vậy, can:
– Không nên. Ðối với sĩ tốt cần phải lấy lượng khoan hồng chinh phục. Tướng quân dùng hình phạt chỉ làm cho ba quân sợ mà không phục.
Hạng Vũ không nghe. Ðêm hôm ấy Anh Bố đem ba mươi vạn quân đến thành Nam và chỗ hàng tốt nhà Tần đóng, bắt tất cả hai mươi vạn người đem chôn sống hết! Chỉ để lại ba hàng tướng mà thôi.
Chương Hàm thấy vậy thở dài, vội đến trung quân lãnh tội.
Hạng Vũ nói:
– Ba người không có tội gì, đừng ngại. Bởi vừa rồi ta đi tuần, nghe bọn hàng tốt âm mưu làm phản nên buộc lòng ta phải trừ bỏ đấy thôi.
Sáng hôm sau Hạng Vũ kéo quân đến trước mặt thành. Phàn Khoái hay tin, vội đến nói với Bái Công:
– Nước Tần giàu, địa thế hiểm trở, nay nghe Hạng Vũ phong hàng tướng nhà Tần là Chương Hàm làm vua, hiện kéo binh đến cửa quan, ý muốn vào chiếm Hàm Dương trái lời ước của vua Nghĩa Ðế, nếu không lo sớm e mang hại.
Bái Công nói:
– Nếu Hạng Vũ đến đây, uy thế ta không còn nữa.
Phàn Khoái nói:
– Hãy sai tướng ra giữ cửa Hàm Cốc, không cho quân chư hầu vào, rồi mộ thêm quân Quan Trung cự địch.
Bái Công theo lời, sai Tiết Ân và Trần Bái ra giữ cửa quan.
Hạng Vũ thấy quân Bái Công đóng chặt cửa thành, canh phòng cẩn mật, nói với Phạm Tăng:
– Bái Công không muốn quân chư hầu vào Hàm Dương là ý gì?
Phạm Tăng nói:
– Bái Công muốn giữ lời ước vua Hoài Vương, làm vua Qnan Trung đó. Minh Công lập lên vua Hoài Vương, chinh chiến ba năm khó nhọc, gây dựng uy thế trong thiên hạ còn Bái Công chỉ dựa vào sự nghiệp của Minh công, chiếm đoạt công lao, như thế làm sao nhịn được?
Hạng Vũ nói:
– Dẫu Lưu Bang có chiếm được Hàm Dương nhưng quân chưa đầy mười vạn, sức không bằng Chương Hàm,
làm thế nào cự nổi ta?
Phạm Tăng nói:
– Nay lấy cớ Bái Công đóng cửa quan, không cho chư hầu vào, đem quân đánh thành đã rồi hãy viết thư nói phải trái với Bái Công sau.
Hạng Vũ liền sai Anh Bố đem mười vạn quân công thành.
Tiết An và Trần Bái đóng cửa thành lại, tuần hành rất nghiêm nhặt.
Hạng Vũ viết thư bắn vào thành, quân sĩ lượm được cấp trình cho Bái Công xem.
Thư rằng:
“Lỗ Công Hạng Vũ kính thư Bái Công hiền huynh nhã giám.
Khi trước tôi cùng hiền huynh nhận ước vua Hiền vương kết làm anh em, hợp sức đánh Tần trừ bạo chúa, cứu muôn dân. Nay hiền huynh sớm được vào Hàm Dương, tài năng ấy tôi rất phục.
Song, nếu tôi không dựng vua Sở, thu lòng thiên hạ, không đánh Chương Hàm, thu phục chư hầu, thì nay hiền huynh có thể vào được Hàm Dương chăng? Kẽ đắc thế thường hay quên công khó của kẽ khác. Tôi, binh hùng tướng mạnh, sức có thể xẻ núi lấp sông, sá gì một cửa thành cỏn con, mà hiền huynh ngăn đón?
Hiền huynh nên tính kỹ, kẻo đến lúc tôi hạ thành tình nghĩa không còn. Vả lại, lời ước trước kia, tôi sẽ tự xử, hiền huynh không phải lo“.
Bái Công xem thư, hỏi Trương Lương:
-Vùc này rất khó nghĩ, tiên sinh có kế chi chăng?
Trương Lương nói:
– Quân Hạng Vũ mạnh lắm, cửa quan không thể giữ được lâu. Nếu dùng sức kháng cự quân ta sẽ bị tiêu diệt, như thế không lợi cho bước đường tiến thủ sau này. Chi bằng mở cửa quan cho họ vào rồi sẽ liệu.
Bái Công sai ngưòi cầm cờ tiết đến bảo mở cửa ải cho quân Sở vào.
Tiết, Trần, hai tướng được lệnh, leo lên mặt thành gọi lớn:
– Mời tướng Sở lại đây nói chuyên.
Anh Bố cỡi ngựa đến hỏi:
– Bọn ngươi có điều gì hãy nói mau?
Tiết Âu nói:
– Chúa công tôi sai chúng tôi ra đây cốt đề phòng bọn cướp chứ không phải kháng cự với quân Sở. Nay tôi vừa tiếp được lệnh của Bái Công bảo mở cửa quan mời tướng quân vào. Vậy tướng quân cứ dẫn quân vào đi.
Anh Bố liền hạ lệnh kéo quân vào thành. trực chỉ đến Hồng Nhạn hạ trại.
Ðồn binh xong, Hạng Vũ sai người đi khắp Hàm Dương điều tra quân tình và hành động của Bái Công.
Riêng Phạm Tăng cũng cho người đi dò xét.
Quân thám thính trở về thuật lại mọi việc, Hạng Vũ buồn bã nói:
– Bái Công không ham vàng bạc châu báu, chinh phục lòng dân là có ý muốn làm vua đất Tần rồi!
Ðêm ấy, Phạm Tăng dắt người chú của Hạng Vũ là Hạng Bá, ra bờ sông Hồng Nhạn, lên một gò cao ngắm các lâu đài cung điện nhà Tần.
Bốn bề vắng ngắt, trăng sao lấp loáng nhả ánh sáng lờ mờ trong bầu vũ trụ u huyền.
Phạm Tăng vỗ vào vai Hạng Bá hỏi:
– Hiền hữu có biết xem thiên văn chăng?
Hạng Bá đáp:
– Tôi thuở bé có người bạn ở nước Hàn là Trương Lương, thường bàn đến thiên văn, và nói:
– Làm tướng phải biết thiên văn, phải thông địa lý, phải hiểu mây gió, phải biết khí sắc thì mới cầm quân được. Tuy nhiên, tôi chỉ biết qua loa, không rành lắm.
Phạm Tăng chỉ lên trời, dẫn giải cho Hạng Bá biết.
Trước chia phương hướng, sau án kinh, vĩ ngũ hành. Nào là mười hai đường Cháu Thiên, nào là hai mươi tám vì tinh tú, cả thảy ba trăm sáu mươi lăm độ. Ðâu là Bắc thần, đâu là Tả phù, Hữu bật, vì sao nào thuộc về Lỗ Công vì sao nào thuộc về Bái Công.
Xem qua một lượt rồi quay về phía sông Hồng Nhạn, thấy sát khí đầy trời, tướng tinh rất mạnh, nhưng chỗ ẩn phục khí vận không được tốt.
Lai quay về Bái Thượng, thấy một tòa đế tinh sáng sủa, trong như nước nguồn mới chảy, mặt trời mới mọc, long lanh muôn dậm vằng vặc một trời.
Phạm Tăng hỏi Hạng Bá:
– Hiền hữu xem Lưu, Hạng, hai người thế nào?
Hạng Bá nói:
– Sao đế tinh chiếu về Bái Thương có lẽ vượng khí về Lưu Bang. Còn về Hồng Nhạn, tuy sát khí đây trời, song đó chỉ là tướng tinh của một trang dũng tướng chói ngời trong hoàn vũ mà thôi.
Phạm Tăng gật đầu khen:
– Ông xem thiên văn cũng khá lắm. Nhưng xưa Thân Bao Tư có nói: “Nhân định thắng thiên”. Trời tạo ra định mệnh, nhưng con người cũng cố thể sửa định mệnh được. Nay chúng ta đã đem thân thờ Hạng Vũ, há dám hai lòng. Vậy cứ mưu đổi mệnh trời, dầu chết cũng cam.
Hạng Bá khen:
– Tiên sinh thực là kẽ trung liệt..
Ðêm khuya, sương xuống nhiều, hai người dắt tay nhau về trại.
Ngày hôm sau, Hạng Vũ hội chư tướng bàn luận việc binh, bỗng có quân vào báo:
– Có quan Tả Tư Mã của Bái Công là Tào Võ Thương sai người đến dâng mật thư.
Hạng Vũ truyền cho vào, và mở thư ra đọc.
Bức thư viết
” Kẻ hèn là Tả Tư Mã Tào Võ Thương cúi đầu trăm lạy.
Thiết nghĩ: Thiên hạ sống dưới ách nhà Tần chẳng khác nào sống trong hỏa ngục. Nay nhờ uy đức của Minh Công ; trở gươm sang mé Tây, nhà Tần thúc thủ, kéo quân sang Hà Bắc chư hầu ngưỡng vọng làm tôi. Công đức ấy dẫu đúc tượng vàng thờ kính muôn đời chưa xứng đáng.
Còn Bái Công chẳng qua là một kẽ xu thời, lợi dụng việc người làm việc mình, mượn uy vũ của Minh Công kéo quân vào Hàm dương, lẽ ra phải cúi đàu tùng phục, giúp Minh Công xây dựng nghiep Bá vương mới phải.
Lại dám sai quân giử cửa quan, mưu đoạt công lao, xây sự nghiệp mình trên công lao kẽ khác. Bái Công tự lượng sức mình, trứng không chọi nổi đá, nên mới mở cửa ải cho minh công vào, song vẫn âm thầm sắp sẳn quân để tác chiến. Tôi vẫn làm tôi của Bái Công, song lòng ngay không nín được, dâng bức thư này xin Minh Công xét nghĩ“.
Hạng Vũ đọc thư xong nổi giận, vỗ án hét:
– Lũ chuột đó lại cố tình muốn gây sự với ta ư?
Phạm Tăng nói:
– Bái Công lúc còn ở Sơn Ðông là một kẻ tham tài hiếu sắc ai cũng khinh bỉ. Nay vào Hàm Dương của báu không thích, sắc đẹp không yêu, hẳn đã có chí lớn. Minh công nên liệu trước, chồi non không bẻ, rễ sâu khó đào.
Hạng Vũ lập tức truyền chỉnh đốn binh mã, kéo qua đánh Bái Thượng.
Phạm Tăng can:
– Quân ta mới đến, chớ nên kinh động, vả lại Lưu Bang vào được Hàm Dương trước nhân tâm đã phục, quân lính hơn mười vạn, thủ hạ lại đông. Chi bằng đêm hôm nay, vào đầu canh ba, chia quân làm hai đạo, kéo theo đường tắt, vào đất Bái Thượng bắt Lưu Bang chém đi là xong.
Hạng Vũ khen phải, mật truyền quân sĩ, đúng canh ba khởi sự.
Hạng Bá là bạn thân của Trương Lương, biết Trương Lương hiện ở Bái Thượng, sợ Hạng Vũ đột kích bất ngờ, hại đến sinh mệnh bạn mình, muốn sai người đem mật thư bảo Trương Lương tránh đi nơi khác, nhưng sợ quân canh biết được không cho đi liền thân hành tìm Trương Lương.
Ðúng trong đêm ấy, Trương Lương ra ngoài xem sao thấy trên trời có môt vệt sáng, chỏ vào vùng Bái Thượng trông rất lợi hại, giữa có một đám khánh vân ấn bên trong.
Trương Lương giật mình trở lại dinh Bái Công để đàm luận.
Bái Công hỏi:
– Giờ này đã khuya, cớ sao tiên sinh chưa an nghỉ?
Trương Lương nói.
– Tôi vừa xem thiên văn, thấy có sát khí chiếu vào trại, đêm nay chắc có quân Sở đến đột kích, tình hình rất nguy cấp, phải phòng bị mới được.
Bái Công giật mình nói:
– Quân ta ít, địch sao lại với quân Sở? Tiên sinh có kế gì tự vệ chăng?
Trương Lương nói:
– Dẫu có sát khí, nhưng bên trong lại có khánh vân che chở tôi chắc không hề gì, xin Minh công chớ lo.
Nhắc lại, Hạng Bá chờ cho đến lúc sẩm tối, một mình lên ngựa bôn bả ra cửa dinh, bỗng gặp viên tùy tướng của Hạng Vũ là Ðinh Công đang đi tuần tra, trông thấy chạy lại hỏi:
– Ngài đi đâu trong đêm tối?
Hạng Bá đáp:
– Ta di thám thính quân tình đây.
Ðinh Công thấy Hạng Bá ra đi một người một ngựa, lại là chú của Hạng Vũ nên không dám hỏi nữa.
Hạng Bá phi ngựa về phía Bái Thượng cách trại Bái Công hai mươi dặm bọn quân tuần tiểu của Bái Công đón lại.
Tướng Hạ Hầu Anh chận đường hỏi:
– Lão tướng làm gì đến đây đêm tối?
Hạng Bá nói:
– Tôi là bạn của Trương Lương có việc khẩn cấp xin đến yết kiến.
Hạ Hầu Anh thấy thái độ trầm tĩnh của Hạng Bá, biết không phải quân gian, liền dẫn vào trại Trương Lương.
Qua mấy vòng binh, bốn mặt tinh kỳ sáng chói, hàng ngũ đâu đó có thứ lớp.
Hạng Bá khen thầm:
– Bái Công quả không phải là kẻ tầm thường, lời khen của Phạm Tăng thật đúng vậy?
Hạ Hầu Anh vào báo:
– Có người xưng là bạn của Trương Tiên sinh đến đây xin yết kiến.
Trương Lương mừng rỡ, vỗ tay nói lớn:
– Phúc tinh đã đến đây rồi.
Liền vội vàng ra đón tiếp. Té ra đó là Hạng Bá.
Trương Lương dắt tay Hạng Bá vào nội dinh trò chuyện.
Hiền hữu tri kỷ lâu nay không cho phép tôi vì công danh mà quên nghĩa cũ, nên đến đây nói cho hiền hữu biết ; Ðêm nay Lỗ Công đến cướp trại, xin hiền hữu lánh đi kẻo mang họa.
Trương Lương nói:
– Tiểu đệ vì vua Hàn theo Bái Công, nay biết Bái Công có nạn thoát thân một mình sao đành, để tôi nói cho Bái Công biết đă.
Hạng Bá cản lại nói:
– Ấy chết! Tôi vì hiền hữu đến đây mách bảo, nếu hiền hữu làm lộ cơ mưu, té ra tôi là người phản lại Lỗ vương sao?
Trương Lương nói:
– Không hề chi, Bái Công quân lực yếu ớt, nếu biết cũng khó tránh nổi tai họa.
Nói xong chạy vào thuật lại với Bái Công.
Bái Công sợ hãi, hỏi:
– Việc này tiên sinh nghĩ thế nào?
Trương Lương ghé vào tai Bái Công nói nhỏ một hồi, rồi chạy trở ra tiếp kiến Hạng Bá và nói:
– Xin mời Hạng huynh quá bộ vào tiếp Bái Công một lát để hiễu rõ đức độ của một hiền nhân.
Hạng Bá ngần ngại nói:
– Tôi chỉ cốt đến đây báo tin cho hiền huynh, vậy tiếp kiến Bái Công làm chi?
Hạng Bá từ chối, nhưng Trương Lương nài ép mãi bất đắc dĩ Hạng Bá phải theo Trương Lương vào yết kiến Bái Công.
Bái Công sừa soạn khăn áo ra đón, và đặt tiệc khoản đãi.
Hạng Bá nói:
– Tôi vì nghĩa anh em mà lại đây, đa tạ Minh công có lòng chiếu cố.
Bái Công khiêm tốn đáp:
~ Ðây chỉ là chút tình hoài vọng bấy lâu, nay được gặp mặt. Bang này nghe ngài có hiền công tử chưa định gia thất, nay Bang có một tiện nữ, muốn cùng ngài kết nghĩa thông gia để thỏa tình tri ngộ hôm nay, và xin ngài về dinh đem cái chân tình của Bang nói với Lỗ Công ; Bang này thực không có lòng dám kháng cự. Nếu Lỗ Công nguôi giận, Bang này được tái sinh, thực nhờ ơn tái tạo của ngài đó.
Hạng Bá nói:
– Hai nhà cự địch trí dũng đua nhau, tôi lại thông gia với Minh công, e người ngoài dị nghị, vì vậy tôi chẳng dám nhận lời.
Trương Lương nói:
– Hạng huynh nói cũng phải, nhưng Lưu, Hạng trước đây kết làm anh em cùng nhau hiệp lực đánh Tần, nay Tần đã bị diệt, thì hai nhà tính việc thông gia với nhau là phải lẽ, việc gì phải sợ người ngoài dị nghị.
Nói xong, Trương Lương lấy vạt áo của Hạng Bá và Bái Công cột chung lại, rồi lấy gươm cắt làm hai miếng, trao cho mỗi người một nửa.
Hạng Bá bất đắc dĩ phải nhận lời, uống thêm vài chén trà nữa rồi đứng dậy từ giã và dặn:
– Sáng mai thế nào Minh Công cũng phải đến Hồng Môn yết kiến Lỗ Công cho Lỗ Công bớt giận, tôi xin đứng ra liệu bề phân giải, thế nào Lỗ Công cũng phải nghe.
Trương Lương sai Hạ Hầu Anh dẫn hai mươi tên lính kỵ tiễn chân Hạng Bá về dinh.
Ðêm đó cuối canh hai, Phạm Tăng và Hạng Vũ kiểm điểm nhân mă để kéo sang Bái Thượng cướp trại.
Binh tướng đều đủ mặt, chỉ thiếu một Hạng Bá.
Phạm Tăng nói:
– Quái lạ! Hạng tướng quân sao không đến?
Minh Công nói:
– Lúc sẩm tối, tôi thấy Hạng đại nhân cỡi ngựa ra phía Ðông bảo là đi thám thlnh dân tình.
Phạm Tăng thở dài nói:
– Thế là hỏng! Xin Minh công hãy đình binh lại đã.
Hạng tướng quân ra đi thế nào cung tiết lộ cơ mưu của ta rồi.
Hạng Vũ nói:
– Thúc phụ ta người trung thành, hơn nữa đối với ta tình ruột thịt lẽ nào đem việc cơ mật của ta tiết lộ, tiên sinh chớ ngại!
Phạm Tăng nói:
– Hạng tướng quân tuy không tiết lộ hết chuyện, nhưng đã là cơ mật nếu lộ ra một tí gì thì khó thành. Tôi thiết tưởng đêm nay không nên cất quân.
Vừa dứt lời có người vào bẩm:
– Hạng tướng quân đã về.
Hạng Vũ ra nghênh tiếp, và hỏi:
– Thúc phụ đi đâu thế?
Tôi có bạn cũ nguời. nước Hàn, họ Trương tên Lương, từ thuở bé đến giờ chơi nhau rất thân. Vì sợ đêm nay Minh công cất quân tiêu diệt thì người ấy chết mất, nên đến dặn nhỏ một lời, bảo hắn tìm đường thoát nạn.
Nhân hỏi chuyện Lưu Bang vào Quan Trung như thế nào, thì hắn nói:
– Lưu Bang thực không có tình ý gì cả, sở dĩ sai tướng giử cửa quan, bất quá phòng trộm giặc nhà Tần, chứ không dám cự với quân Sở. Kho tàng châu báu đều niêm phong lại, cung phi mỹ nữ không màng, bắt được vua Tần là Tử Anh vẫn không dám định đoạt, chỉ để đợi Lỗ Công. Tôi thiết nghĩ, nếu Lưu Bang không vào cửa quan trước thì bọn ta còn phải tốn biết bao nhiêu sức lực mà chưa dễ đã vào ngay được. Nay người ta có công lớn, mình lại nghe lời đứa tiểu nhân, chực hại người ta, thì còn gì là thiên đạo nữa! Ngày mai Lưu Bang đến đây tạ tội, Lỗ Công nên lấy nghĩa mà đối xử thì mới được tiếng khen.
Hạng Vũ nghe xong, nói:
– Thúc phụ nói rất phải. Thực ra Lưu Bang cũng chưa có tội gì. Nếu ta giết e thiên hạ chê cười chăng?
Phạm Tăng nói:
– Muốn mưu tmh đại sự nhiều lúc kẻ có tội vẫn phải khoan hồng, ngược lại, kẻ vô tội vẫn phải trừ bỏ. Tôi sở dĩ khuyên Minh công giết Lưu Bang vì thấy Lưu Bang sau này có thể tranh ngôi bá chủ với Minh công. Nay không trừ đi tất sau hối không kịp. Lão tướng nhà ta có lẽ đã mắc mưu Trương Lương rồi, xin Minh công đừng nghe.
Hạng Vũ do dự một lúc rồi nói:
– Giết một kẻ chưa có tội là trái lương tâm. Vả lại, muốn hại Bái Công thì thiếu gì cách cần chi phải lén đến cướp trại trong đêm khuya, uy danh ta bị tổn thương, xin tiên sinh nghĩ kế khác.
Phạm Tăng nói:
– Tôi xin hiến ba kế giết Bái Công. Ðiều cốt yếu Minh Công phải quả quyết mới làm được. Tôi biết Minh Công tánh nóng mà trực. Tánh ấy có hại cho nghiệp lớn.