Từ khi Chương Hàm được phong làm Ung vương, trấn Tam Tần, sai cháu là Chương Bình vào giữ ải Ðại Tản Quan để đề phòng quân Hán Trung.
Chương Hàm lại hạ chỉ truyền rằng: “Phải giữ vững cửa quan, hễ có tin tức gì không được án động, phải cấp báo với Tam Tần để liệu đường phòng bị.”
Nay, nhân nghe tin Hán vương dùng Hàn Tín làm Nguyên Soái ; lại nghe báo Phàn Khoái làm Tiên phong, tu bổ Sạn đạo, để hưng binh Ðông chinh, Chương Bình lập tức phi báo với Ung vương.
Chương Hàm nghe báo cười lớn, nói với kẻ tả hữu:
– Hàn Tín trước kia ở Sở là một tên vác giáo theo hầu, nay bỏ Sở về Hán, chẳng qua cũng chỉ để sai khiến mà thôi, không biết vì lẽ gì mà Hán vương lại phong làm Nguyên Soái? Vả Hàn Tín là kẻ đê tiện thuở hàn vi làm lắm chuyện hèn mạt, nhất đán được phong làm tướng thì ba quân còn ai phục, làm sao điều khiển nổi chư tướng?
Lại như Sạn đạo dài ba trăm dặm, đã bị đốt phá mà tu bổ lại thì biết bao giờ mới xong? Cách hành binh ấy chẳng qua là mưu trí của đứa tiểu nhân, làm trò cười cho thiên hạ.
Tả hữu nghe Chương Hàm nói, tỏ ý can:
– Phạm quân sư đã từng căn dặn Ðại vương phải lưu tâm đề phòng quân Hán, nhất là từ khi Hán vương dùng Hàn Tín làm tướng. Nay quan trấn thủ đã cấp báo đó là chuyện chẳng lành, xin Ðại vương chớ khinh thường.
Chương Hàm nói:
– Sạn đáo là nơi hiểm trở, việc tu bổ không phải ngày tháng mà xong được. Nếu chưa sửa xong Sạn đạo dẫu quân Hán có cánh bay lên trời cũng không vượt được sang Ðông. Ngay bây giờ ta đề phòng là vô ích, chờ lúc chúng sửa gần xong Sạn đạo sẽ hay.
Chương Hàm vẫn điềm nhiên, không lo lắng gì cả.
Chương Bình thấy vậy cũng bỏ đấy, không tâu báo nữa, ngày đêm rượu chè be bét cùng với quân sĩ vui thú tiêu dao.
Rồi một hôm, bỗng có quân giữ cửa vào báo:
– Có một trăm dân phu tu bổ Sạn đạo, không chịu nổi sự khổ sở, trốn đến đây xin đầu hàng.
Chương Bình vỗ tay cười lớn, nói:
– Ta đang muốn biết nội tình của chúng. Thế là gặp dịp lắm? Hãy truyền cho chúng nó vào.
Quân sĩ vâng lệnh, ra dẫn bọn dân phu vào.
Chương Bình hỏi:
– Bọn ngươi ở xứ nào đến đây, có việc chi?
Dân phu phục xuống đất lạy dài, kêu khóc và nói:
– Chúng tôi là tráng đinh quận Phổ An, bị Hán vương bắt đi làm Sạn đạo, ngày đêm cực nhọc, đói rét, Phàn Khoái lại là người nóng nảy, đánh đập luôn tay. Vả chăng, Sạn đạo là con đường hiểm trở, mà bắt phải làm một tháng cho xong thì không thể nào làm nổi. Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Nguyên Soái, ba quân không phục bỏ trốn rất nhiều. Chúng tôi chắc không sao thành sự được Vì vậy chúng tôi đến đây, nguyện núp bóng tướng quân, đem thân lập công. Trong đoàn chúng tôi có hai người Tổng giáp võ nghệ tinh tường, có thể giúp ích cho tướng quân sau này được. Xin tướng quân vui lòng thu nhận.
Chương Bình cho gọi hai người Tổng giáp đến hỏi:
– Hai ngươi tên gì?
Bẩm tướng quân, chúng tôi là phường săn ở quận Phổ An, một người tên Diêu Long, một người tên Ngân Vũ Vì Hán vương bắt phu tu bổ Sạn đạo, không có người trông coi, nên bản quan bắt hai tôi làm Tổng giáp. Không ngờ, lúc đưa phu đến nơi, thấy Sạn đạo gian nan, công việc trăm phần cực nhọc, đã không cơm ăn, lại bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng tôi không dám trốn về bản quận nên phải đến đây tình nguyện theo tướng quân lập thân, chờ lúc thiên hạ thái bình sẽ trở về quê quán.
Chương Bình lại hỏi:
– Vì sao Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Ðại tướng, các ngươi có biết chăng?
Bẩm tướng quân, Hàn tín có tánh khoe khoang được Tiêu Hà phục tài tiến cử, và Hán vương nghe theo lời Tiêu Hà trọng dụng. Thực ra, tướng sĩ không ai phục cả. Chính Phàn Khoái cũng đem lòng căm giận mà chẳng dám nói ra. Lúc này Hán vương cũng vì lẽ đó mà bối rối lắm.
Chương Bình nghe hai người nói đúng với lời đồn đãi nên tin lời thu dụng ngay.
Hai người từ khi đắc dụng, tỏ ra tận tụy hơn người.
Mọi việc được giao phó đều thi hành rất chu đáo. Bởi vậy, Chương Bình rất yêu dùng. Chỉ trong một tháng đã cho hai người làm chức Ðại Kỳ Bài việc lớn nhỏ đều đem ra bàn luận.
Giữa lúc ấy Phạm Tăng đang ở Bành Thành, một hôm xem thiên văn thấy phương Tây Nam vượng khí ngất trời, các vì sao sáng đều chầu về phía ấy, biết là họ Lưu đang hưng ở Hán Trung. Lại nghe tin Hàn Tín bỏ Sở về Hán được trọng dụng, lòng rất lo lắng.
Kế có tin các nước chư hầu lăm le nổi dậy, nhất là nước Tề, binh thế mạnh lắm. Phạm Tăng liền vào triều, đem các việc lợi hại bày tỏ với Bá vương.
Bá vương đòi Quí Lương và Quí Bằng đến bảo:
– Hai người hãy đem ba nghìn quân sĩ thẳng tới Phế Khâu, hội với Ung vương, phòng cửa Tản Quan, và tuần tiểu các nơi hiểm yếu đề phòng Hán chúa.
Hai tướng lãnh mệnh đến Phế Khâu vào yết kiến Chương Hàm, chuyển lại lời dặn của Bá vương.
Chương Hàm nói:
– Chúa thượng quá lo xa, Phạm quân sư có tánh sợ địch. Việc này đâu có gì quan trọng mà phải nhọc lòng như vậy?
Bèn thuật lại việc các dân phu nơi Sạn đạo đến đầu hàng cho Quý Lương và Quý Bằng nghe.
Hai tướng đồng nói:
– Cứ như việc này dẫu Hán vương có hưng binh cũng không làm gì nổi! Lâu nay Phạm quân sư nghe tin Hán vương trọng dụng Hàn Tín đem lòng lo sợ. Tuy nhiên, chúng tôi thiết tưởng Hàn Tín là kẻ đê tiện, không nuôi nổi thân mình, đi xin cơm ăn, chịu luồn trôn gã bán thịt, nay dẫu làm tướng cũng chẳng ai phục. Và Sạn đạo hiểm trở mười phần, dễ gì tu bổ cho xong.
Chương Hàm cười tít mắt, hối quân đặt tiệc thiết đãi Quý Lương và Quý Bằng.
Trong tiệc, Quý Lương nâng chén nói với Chương Hàm:
– Tuy chúng ta không cần lo lắng, song lệnh Bá vương đã truyền, chúng ta cũng nên điều bát nhân mã, lập thành đồn trại cho có hình thức để khỏi bị khiển trách.
Chương Hàm nghe theo, hến viết hịch truyền các quản hạt lưu tâm phòng giữ, và viết thư gởi dặn Chương Bình chớ nên trễ tràng.
Giữa lúc đó, nơi Hán Trung, Hàn Tín chuẩn bị quân mã đã xong, xin với Hán vương chọn ngày xuất quân.
Tướng sĩ hay tin đều ngơ ngác bảo nhau:
– Sạn đạo chưa tu bổ xong mà Nguyên soái chọn ngày khởi binh thì không biết phải đi lối nào?
Ai nấy đều hồ nghi, nhưng không dám hỏi.
Hán vương nghe Hàn Tín xin thỉnh giá xuất chinh, liền đòi Tiêu Hà vào hỏi:
– Phàn Khoái sửa sang Sạn đạo chưa xong, Hàn Nguyên soái lại xin xuất quân là ý làm sao?
Tiêu Hà cũng không biết được, xin phép sang dinh Hàn Tín để hỏi cho tường tận.
Tiêu Hà đến nơi, Hàn Tín vội vàng mũ áo ra đón chào.
Tiêu Hà theo Hàn Tín vào thính đường, hỏi nhỏ:
– Nguyên soái vừa xin thỉnh giá xuất chinh, Chúa thượng rất nghi ngờ về việc Sạn đạo chưa làm xong, không biết quân sĩ phải đi lối nào, nên sai tôi đến hỏi Nguyên soái.
Hàn Tín mỉm cười nói:
– Thừa tướng khéo giả vờ hỏi tôi. Trước kia Tử Phòng đốt Sạn đạo tất đã tìm ra lối khác rồi. Việc ấy lẽ nào Thừa tướng không biết đến.
Tiêu Hà ngập ngừng nới:
– Tôi cũng biết, nhưng không rõ lắm. Và lại Chúa thượng thấy Nguyên soái sai Phàn Khoái đi sửa Sạn đạo, đem lòng nghi hoặc, xin Nguyên soái nói rõ phương lược để Chúa thượng an tâm.
Hàn Tín nhìn quanh, thấy không có ai, liền kế tai nói nhỏ với Tiêu Hà:
– Ðó là cái kế giả danh đi sửa Sạn đạo cho bọn Chương Hàm không phòng bị. Chúng ta lẻn đi lối Trần Thương, chỉ trong năm ngày có thể đến Tản Quan được. Chừng ấy Chương Bình dẫu có cánh cũng không thoát khỏi tay ta. Không cần mất một mũi tên cũng lấy được Tản Quan rồi. Ngu ý định thế, xin Thừa tướng về tâu lại với Chúa thượng.
Tiêu Hà mừng rỡ liền trở về tâu với Hán vương.
Hán vương nghe xong, lòng rất hân hoan, cho là diệu kế ; liền truyền lệnh văn vũ sắp sửa xa giá Ðông chinh.
Hôm sau, Hàn Tín đến giáo trường, kiểm điểm nhân mã, tất cả hơn bốn mươi lăm vạn, chia làm bốn đại đội.
Lại sai nha tướng Tôn Hưng đến thay cho Phàn Khoái đôn đốc việc sửa Sạn đạo, và chỉ để ở đấy ba nghìn dân phu mà thôi, còn bao nhiêu rút về điều dụng.
Trong bốn đạo quân, Phàn Khoái thống suất đội thứ nhất, đi tiên phong, đem theo tám viên bộ tướng, gặp núi mở đường, gặp suối bắc cầu, gặp khó khăn phải phi báo cho hậu quân biết.
Chu Anh thống suất đội quân thứ hai, đem theo mười viên kiện tướng, thấy đạo tiên phong thắng thế thì thúc quân, thấy thất bại thì tiếp ứng. Nếu gặp việc nguy cấp phải báo cho hậu quân biết.
Hàn Tín bản thân thống lanh đội quân thứ ba, đem theo bốn mươi viên kiện tướng. Trong đó lại chia ra làm bốn đội nhỏ, tiến thoái theo hiệu lệnh đã định.
Sau cùng, là đội quân thứ tư do Hán vương cùng các quan văn vũ thống lĩnh. Hàn Tín lại sai Phó Khoan và Chu Xương giám phu để hộ giá.
Ðiều bát xong, Hàn Tín mời Hán vương ngự xa giá ra nơi đồi cao, để xem lễ xuất quân.
Hán vương thấy quân dàn theo chín cung, bốn tượng, tinh kỳ rực rỡ, hiệu lệnh nghiêm minh, tùy theo tài sức của mỗi người mà dùng, lòng rất cảm phục.
Hàn Tín bước đến trước xa giá tâu:
– Hạ thần xin đem quân đi trước hai ngày. Ðại vương sẽ ngự giá theo sau. Qua khỏi cửa quan hạ thần xin nghênh tiếp.
Hán vương nhậm lời, Hàn Tín ra lệnh ba quân lên đường tấn phát:
Hai hôm sau, Hán vương xa giá lên đường. Nhân dân già trẻ dắt nhau ra nơi vệ đường lạy mừng tâu:
– Chúng tôi sinh trưởng ở Bao Trung, chưa lúc nào được xem binh tướng hùng mạnh như vầy.
Hán vương hớn hở hỏi Tiêu Hà:
– Trước đây ta đã truyền cho Thừa tướng tập hợp các bô lão để hiểu dụ, chẳng hay Thừa tướng đã làm cái chuyện đó chưa?
Tiêu Hà tâu:
– Muôn tâu Ðại vương, mấy hôm nay bá tánh thấy Ðại vương sắp sửa Ðông chinh, đoán rằng Ðại vương thế nào cũng lấy Hàm Dương, đóng đô ở đó, nên đem lòng mến tiếc, cùng nhau rủ đến tỏ lòng ái mộ. Hiện nay đủ mặt cả ở trước đường.
Hán vương nói:
– Nếu vậy Thừa tướng truyền chỉ cho họ đến đây.
Tiêu Hà lãnh mệnh, bước ra truyền chỉ. Dân chúng ùa nhau kéo đến đứng vòng quanh xa giá chật mạch, một hàng dài ước độ vài dặm đường.
Hán vương bước xuống xe. Một bô lão thay mặt bước đến quỳ xuống đất tâu:
– Tâu Ðại vương, từ khi Ðại vương đến đất Bao Trung, mưa thuận gió hòa, muôn dân lạc nghiệp, ngoài đường không ai nhặt của rơi, trong nhà tối không cần đóng cửa. Thật là cảnh tượng đời Nghiêu, Thuấn thuở xưa. Chúng tôi chưa có dịp đền đáp. Nay Ðại vương kéo quân chinh phạt phương Ðông chắc là nhất cử công thành biết thuở nào dân Bao Trung chúng tôi còn thấy mặt long nhan nữa.
Vị bô lão vừa dứt lời, dân chúng đều phục xuống đất khóc òa. Tiếng khóc vang ra xa hơn năm dặm.
Hán vương cũng động lòng rơi lệ, nói:
– Ta vì muốn cho thiên hạ thoát khỏi ách bạo tàn của Bá vương, nên phải xa dân chúng Bao Trung này. Lòng ta thực không nỡ. Nay ta để Thừa tướng Tiêu Hà ở lại đây bảo bọc, giữ việc trị an cho muôn dân.
Dân chúng đều giơ tay reo to:
– Nếu được Tiêu Thừa tướng ở lại đây, thật là hành phúc cho dân chúng tôi lắm.
Hán vương sai viên quan cận thần đọc lời hiển dụ.
Dụ rằng:
Xưa đấng minh vương trị dân cột lấy nhân nghĩa làm đầu, trước hết phải nặng về giáo hóa. Ta từ khi đến đất này, sớm tối chăm lọ trau dồi đạo đức cốt đem cái gương ấy cho trăm họ noi theo. Vậy nay hiểu dụ cho ai nấy biệt, trong đời sống không có gì quý hơn là đạo đức.
Ðạo đức giúp cho loài người tạo một đời sống tươi đẹp tuyệt vời. Một nhà có gia trưởng, một làng có hương trưởng.
Làm gia trưởng phải dạy bảo con em, tôn trọng nghĩa nhân, thấm nhuần đạo lý. Cha tỏ lòng nhân, con đội chữ hiếu, anh thuận, em kính, lấy lễ giáo làm phương châm, đó là hạnh phúc của gia đình. Làm hương trưởng phải biết thương dân, phải mưu cơm áo cho mọi người, khuyến khích nghề nghiệp, sĩ, nông, công, thương, đều là những nghề quí hóa! Sĩ thì tư minh nghĩa lý, chăm chỉ học hành, nông thì lo cày cấy cho thóc lúa dồi dào, công thì phải chuyên nghề nghiệp, tập luyện cho tinh, thương thì phải thật thà lấy chữ tín làm danh dự. Như thế, thôn xóm tất yên vui, ai ai mà không lạc nghiệp. Còn như muốn được an cư, mỗi người phải tự coi mình có trách nhiệm với lệ luật. Chớ cờ bạc, dâm đãng, chớ ganh tị kiện cáo nhau, chớ trộm cắp rượu chè. Mọi quyền lợi cá nhân đều đặt dưới tình thương nhân loại.
Như thế phong tức sẽ thuần mỹ, trăm họ thái bình, đó là hạnh phúc của làng.
Mấy lời truyền dụ, bá tánh phải ghi lòng. Nay dụ. “
Lúc đó là đầu tháng tám, năm ất vị, Ðại Hán nguyên niên.
Hán vương truyền dụ xong, nói với Tiêu Hà:
– Thừa tướng ở lại Bao Trung vỗ an trăm họ, giúp dân cày cấy làm ăn, lấy nhân đức thay cho hình phạt, gần người hiền, xa kẻ dữ, chứa sẵn lương thực để cấp cho quân lính. Ðó là trách nhiệm của Thừa tướng.
Tiêu Hà cúi lạy, lãnh vương mệnh.
Hán vương truyền lệnh ba quân lên đường, nhắm hướng Ðông tiến phát.
Nhắc lại Hàn Tín lãnh ba đội quân đi trước, ra khỏi bao Trung, không theo lối Sạn đạo, mà theo đường nhỏ đến Cô Vân, vòng theo chân núi Lưỡng Cước.
Tuy khúc đường hiểm hóc, song nhờ Phàn Khoái đi trước đốn cây xẻ đường, bắc cầu, chẳng bao lâu đã đến sông Hán Khê.
Nơi đây, đàng sá rộng rãi nhơn, Hàn Tín nói với chư tướng:
– Ngày trước tôi một người một ngựa, đang đêm trốn đến sông Hán Khê này, gặp khi nước đang dâng cao, không sang sông được Tiêu Thừa tướng đuổi theo kịp, thỉnh tôi về, nếu không hôm nay tôi đã ở Hoài Âm rồi.
Chư tướng đều nói:
– Ðó thật là lòng trời muốn giữ Nguyên soái ở đây phò Hán diệt Sở đó. Vậy xin lưu lại nơi đây một vật kỷ niệm.
Hàn Tín liền sai dựng một tấm bia đá trên đỉnh núi, khắc tám chữ: “Hán Thừa tướng thỉnh Hàn Tín chi lộ “.
Ðoạn truyền quân sĩ sang sông thẳng tiến.
Ðường tuy rộng, nhưng đá gập ghềnh, quanh co, tướng sĩ đều phải xuống ngựa đi bộ, lúc lội suối, lúc trèo đèo lúc leo ghềnh, khi xuống dốc, thật vất vả.
Mặc dầu khổ cực. song quân sĩ phần nhiều ở phương Ðông, nay được dịp hồi hương, lòng hân hoan ấy thắng mọi gian lao.
Ðoàn quân đang ồ ạt tiến bước, bỗng có quân tiền đội trở lại báo:
– Bẩm Nguyên soái, phía trước, nơi rừng rậm, có một con rắn độc dài hơn hai trượng, hai mắt long lanh, miệng há đỏ chót, trông rất ghê sợ, đang nằm giữa đường, xin Nguyên soái liệu định.
Hàn Tín nói:
– Rắn chặn ngang đường chỉ nên sai cung thủ dùng tên độc mã bắn, còn các pháo thủ phải chuẩn bị sẵn để phòng cứu nguy.
Chúng quân được lệnh, cung tên sẵn sàng, kéo nhau núp nơi khe núi để mưu hạ thủ rắn độc.
Giữa lúc đó, có một viên tướng từ trung quân bước ra, nói với Hàn Tín:
– Một con rắn chặn đường có gì mà Nguyên soái phải dùng nhiều người như thế! Cho đến con Giao Long dưới bể, một mình tôi cúng có thể giết được kia mà!
Ba quân nghe nói giật mình, tranh nhau đến xem kẻ nào đã táo bạo nói câu ấy.
Viên tướng vừa xin đi chém rắn là Tín Vũ Hầu Ngân Hấp.
Ngân Hấp vốn là trang dũng tướng, đem thân phò Hán vương lâu nay, nhưng chưa có dịp trổ tài.
Hàn Tín thấy Ngân Hấp thân hình vạm vỡ, ăn nói khí phách, cả mừng, nói:
– Tướng quân tuy có sức mạnh, song nơi đây rừng núi âm u, khí hậu độc địa, loài rắn đó lại nguy hiểm, tướng quân phải đề phòng cho lắm mới được.
Nói xong rót ba chén rượu thưởng Ngân Hấp, rồi sai bộ tốt dẫn đường đưa Ngân Hấp đến nơi có rắn độc.
Lúc ấy trời đã mờ tối, vành trăng chênh chếch đỉnh non Ðông, Ngân Hấp trông xa nơi khe núi, dưới ánh sáng vàng nhạt thấy hai đốm lửa to bằng cái thúng chói lòa.
Càng đến gần, khí tanh ngạt mũi, hơi lạnh buốt xương. Mấy tên bộ tốt chỉ chỗ ánh sáng nói với Ngân Hấp:
– Hai đốm đỏ chói lòa đó là hai mắt của rắn độc. Nếu ta đến gần sẽ bị nó thở hơi ra như khói. Hơi độc ấy ai thở vào cũng bị té xỉu chết ngay, xin tướng quân liệu định.
Ngân Hấp nổi giận cầm gươm nhảy đến khe, hét lên một tiếng như sấm.
Rắn độc cất đầu lên cao nghêu, uốn mình lướt tới, dài thườn thượt đến mấy trượng, miệng phun khói mù mịt.
Ngân Hấp lách mình sang một bên, nhường cho rắn đến gần. Rắn độc vừa há mồm chực đớp, bị Ngân Hấp chém một nhát đứt làm hai đoạn, đầu rơi xuống suối, máu tuôn ồng ộc như thác đổ.
Quân sĩ vỗ tay reo hò. Hàn Tín dẫn chư tướng đến xem, ai nấy đều kinh khủng, khen Ngân Hấp là kẻ phi thường.
Chư tướng hỏi Hàn Tín:
– Con rắn dài hơn thế này chắc có lẽ đã sống hơn trăm năm nay?
Hàn Tín nói:
– Ðời thượng cổ, núi Côn Lôn chu vi ba vạn dặm, thế mà có một con rắn quấn khắp vòng núi. Ấy vậy, trước kia loài thú dữ còn đáng sợ hơn thời bây giờ.
Tướng sĩ nghe nói le lưỡi, lắc đầu.
Hàn Tín truyền tấn binh. Ði gần đến núi Thái Bạch, Hàn Tín gọi Lư Quán đến bảo:
– Lúc trước tôi qua đây có gặp một người tên Tân Kỳ, kết làm anh em, hẹn ngày tái ngộ. Người ấy có hàng cơm dưới núi, phiền tướng quân đến báo trước cho Tân Kỳ hay, ta sẽ đến thăm viếng để tỏ tình tri ngộ.
Lư Quán lĩnh mệnh ra đi. Một lúc lại trở về nói:
– Dưới núi Thái Bạch có độ vài mươi nóc nhà..
Nhưng tháng bảy vừa rồi bị một trận lụt tràn ngập, dân cư đã rời bỏ nơi ấy, dời đến ở phía núi bên Bắc, chưa rõ Tân Kỳ có ở đấy hay không.
Hàn Tín thở dài, kéo quân đèn chân núi Thái Bạch quả thấy cửa nhà xiêu vẹo, không còn một bóng người, bốn bề hoang lạnh đìu hiu.
Ðoàn quân lại tiến bước. Vừa qua khỏi mấy cụm núi nhỏ, bỗng có quan tuần tiễu chạy về báo:
– Trước mặt có một tráng sĩ đang đuổi một con mãnh hổ chạy vòng chân núi.
Hàn Tín vội cưỡi ngựa đến gần xem, thấy tráng sĩ đầu đội mũ da hổ, mình mặc áo da beo, chân đi giày da báo, tay cầm cây đinh ba, đuổi theo một con cọp rất lớn.
Cọp bị đuổi, lồng lên chạy, vừa lúc gặp quân sĩ kéo đến, cọp định vồ lấy vài tên. Nhưng tráng sĩ lanh tay, phóng đinh ba trúng ngay giữa trán, cọp té quy xuống, nằm giẫy đành đạch.
Hàn Tín thấy tráng sĩ chính là Tân Kỳ, liền truyền một bộ tướng chạy đến, gọi lớn:
– Hỡi tráng sĩ, có Hàn Nguyên soái đến tìm, xin tráng sĩ mau mau yết kiến.
Tân Kỳ nghe gọi vội vàng lội qua suối, đến chỗ gò cao, trông thấy Hàn Tín liền sụp lạy.
Hàn Tín cầm tay đỡ dậy, Tân Kỳ nói:
– Tiểu đệ nghe Nguyên soái sửa soạn chinh Ðông lại sai người tu bổ Sạn đạo, ngỡ là Nguyên soái đi đường ấy nên sắp sửa vào Hán Trung ứng hầu, nhưng vì chưa được lệnh mẫu thân nên còn nấn ná. Nay may gặp Nguyên soái đến đây, thật vạn hạnh.
Hàn Tín nói:
– Từ khi cùng hiền đệ giã biệt, ta mải lo việc nước không viết thư thăm được, thật có lỗi. Nay nhân đi ngang qua đây cố tìm đến thăm cho thỏa tình mong ước. Vậy nhà hiền đệ ở nơi nào?
Tân Kỳ nói:
– Nay hiền huynh đã làm Nguyên soái Hán triều, nhà tiểu đệ nghèo nàn, mái tranh cột sậy, e đến đó mất đi thể diện chăng?
Hàn Tín nói:
– Ðã là anh em cố cựu, ai còn kể nghèo sang. Xin hiền đệ đừng nghĩ như thế mà phụ lòng nhớ mong của ta!
Tân kỳ nói:
– Hiền huynh đã có lòng chiếu cố. vậy cứ đi thẳng lối này, đến chân núi đá kia là nhà của tiểu đệ.
Hàn Tín đem vài mươi tên quân tùy tùng, theo Tân Kỳ. Ðối ngựa song song qua mấy chòm cây rậm, đến một vùng nhà độ vài mươi nóc. Trong đó có một ngôi nhà có vẻ sạch sẽ rộng rãi hơn, Tân Kỳ xuống ngựa, đón Hàn Tín vào rồi mời mẹ và gọi vợ ra chào.
Hàn Tín lấy một trăm lạng vàng trao cho Tân Kỳ làm lễ chúc thọ thân mẫu. Tân Kỳ không nhận.
Hàn Tín nói:
– Ðó là lộc của vua ban, ta thành tâm kính dâng lão mẫu, hiền đệ nên vì ta nhận lấy, giao cho đệ phụ phụng dưỡng. Còn hiền đệ nên theo ta đi phò vua lập công, một mai tên ghi sử sách, như thế mới khỏi uổng tấm thân nam tử
Tân Kỳ vâng lời, nhận lấy vàng trao cho vợ, và pha trà khoản đãi.
Hàn Tín lại nói:
– Chỗ này rừng thiêng nước độc, hiền đệ không nên lưu gia quyến nơi đây trong lúc tòng quân. Ta sẽ viết thư đưa về Nam Chính bẩm với Tiêu Thừa tướng cho người đến rước về đó cấp dưỡng, hiền đệ mới yên lòng theo ta chinh phạt.
– Chúng ta đã kết nghĩa anh em, thì gia quyến của hiền đệ là gia quyến của ta, cần gì phải bận tâm như thế.
Nói xong viết thư giao cho quan Quân Chính, đưa gia quyến Tân Kỳ về Nam Chính.
Tân Kỳ thu xếp hành trang để kịp ngày ra đi.
Hàn Tín nói:
– Ðây đến Tản Quan chỉ còn hai ngày đường nữa mà thôi, hiền đệ quen thuộc lối, vậy hãy nhập vào đoàn hướng đạo, giúp Phàn Khoái tiến đến Tản Quan gấp.
Hàn Tín lại gọi Phàn Khoái và Hạ Hầu Anh đến dặn:
– Hạ Hầu tướng quân tìm một nơi cho quân sĩ nghỉ ngơi chớ nên kinh động, đợi khi tiền quân qua được cửa quan rồi bấy giờ sẽ sung chức Tiên phong vượt sang Phế Khâu đánh với Chương Hàm. Còn Phàn tướng quân thì hiệp với Tân Kỳ lãnh đội quân thứ hai làm cứu viện.
Hai tướng tuân lệnh kéo quân ra đi.
Hàn Tín lại sai quân thám thính, biết được quân Hán vương mới vừa đến Hán Khê, bèn sai người đến ngã ba đường nơi chân núi để tìm mả tiều phu lúc nọ.
Quân sĩ tuân lệnh, tìm kiếm khắp nơi, rồi trở về báo:
– Chỗ dốc núi bên đường kia có một mô đất, chắc là mộ của người ấy.
Hàn Tín liền sai chặt gỗ, đóng quan tài, và sắm đồ khâm liệm, cải táng cho tiều phu, bên trên có dựng tấm bia, để mấy dòng chữ:
” Ngày mồng bảy tháng tám, mùa thu năm ất vị tức là năm thứ nhất nhà Ðại Hán, quan Phá Sở Ðại Nguyên soái Hoài Âm Hàn Tín vì nghĩa sĩ tiều phu lập bia… “
Ðoạn lập miếu, cắt người ở đó phụng thờ, bốn mùa hương khói.
Nhắc qua việc bên Sở, quan trấn thủ Tản Quan là Chương Bình từ khi được hai tướng Diêu Long và Ngân Vũ đem dân phu đến đầu hàng, ngày ngày sai quân lính đi thám thính xem Sạn đạo tu bổ đã xong chưa.
Một hôm, có quân về báo:
– Sạn đạo vẫn chưa tu bổ xong, mà người đốc công nay không phải Phàn Khoái nữa.
Chương Bình hỏi:
– Ai đến thay cho Phàn Khoái vậy?
Quận sĩ thưa:
– Viên nha tướng tên Tôn Hưng, còn dân phu mỗi ngày một ít đi, việc Ðông chinh cũng không nghe thấy động tĩnh gì nữa.
Diêu Long nói:
– Người Hán Trung chỉ thị uy thế thôi, chứ tài nào thoát ra khỏi Bao Trung được?
Ngân Vũ nói:
– Mấy năm nay Bao Trung được mùa, dân tình sung mãn, Hán vương chỉ hưởng lạc, đâu còn nghĩ đến việc lớn
Chương Bình nói:
– Cứ xem Hán vương dùng Hàn Tín đủ biết con người thấp thỏi, không có con mắt tinh đời rồi.
Ba người đang bàn luận, bỗng có quân vào báo:
– Phàn Khoái dẫn quân đến cửa quan đốc quân đánh thành.
Chương Bình nghe báo tái mặt, vội vã cấp báo cho Chương Hàm biết để đem quân đến cứu, và bàn với Diêu Long, Ngân Vũ:
– Phàn Khoái đã đến đây, ta phải ra quân cự chiến.
Vậy hai ngươi đốc quân canh bốn mặt thành cho Nghiêm ngặt.
Hai người đồng thanh nói:
– Xin tướng quân cứ an lòng. Chúng tôi nguyện tận lực
Chương Bình dẫn ba ngàn quân xuống cửa Ðông, thấy quân Phàn Khoái đội ngũ chỉnh tề, giáo gươm sáng chói, đàng sau có Tân Kỳ áp hậu, sát khí đằng đằng.
Phàn Khoái ngồi trên ngựa, mặt hầm hầm như than lửa đỏ, thấy Chương Bình kéo quân ra, hét lớn, nói:
– Bọn bây đem hai mươi vạn quân Tần đầu Hạng Vũ để cho Hạng Vũ chôn sống cả. Nay lại còn tham danh làm tướng, chẳng hổ lắm sao?
Chương Bình cũng quát lớn nói:
– Hán vương nhà ngươi được thụ phong nơi Bao Trung lẽ ra phải an phận chăn dân, giữ đạo chư hầu, cớ sao còn dám phạm đến đất đai ta? Nếu muốn sống phải kéo quân về kẻo hối không kịp.
Phàn Khoái nổi giận, cầm kích đâm thẳng tới.
Chương Bình đưa dao ra đỡ. Giao chiến được hai mười hiệp, Chương Bình đuối sức, quất ngựa bỏ chạy.
Tân Kỳ lập tức xua đạo hậu quân đuổi theo.
Chương Bình chạy vào thành đóng kín cửa lại.
Phàn Khoái và Tân Kỳ đắc thắng thu quân về trại.
Hôm sau, Phàn Khoái dự bị các hỏa pháo, hỏa tiễn, kéo đến dưới thành khiêu chiến.
Chương Bình đóng cửa, có thủ không ra.
Phàn Khoái chẳng biết làm sao, còn đang nghĩ kế thì có tin Hàn Nguyên soái đã kéo quân đến nơi.
Phàn Khoái và Tân Kỳ vội vã ra khỏi trại ba dặm nghênh đón.
Hàn Tín đến cửa Tản Quan, xem xét mọi nơi, thấy được ám hiệu của mình, biết Chương Bình đã trúng kế, đang trọng dụng Diêu Long và Ngân vũ, liền truyền quân đốt hỏa pháo và bắn hỏa tiễn tung vào cửa quan.
Quân canh rối loạn, không dám lên mặt thành chống giữ.
Chương Bình nóng ruột, thân dẫn quân sĩ lên mặt thành.
Lúc đó Ngân Vũ, Diêu Long và một trăm dân phu đầu hàng trước kia, cũng đều cầm giáo lên mặt thành cả.
Hàn Tín giơ roi quất ngựa đến nói:
– Chương Bình? Bá vương nhà ngươi vô đạo giết vua Nghĩa Ðế, bội ước với Hán vương, lòng dân căm phẫn.
Nay ta đem quân đến đây quyết dẹp loạn, trừ đứa hung tàn, cứu muôn dân. Nếu ngươi giác ngộ đầu hàng sẽ khỏi tội chết.
Chương Bình nói:
– Ta đây là quý tộc của Ung vương, làm sao lại hàng đứa luồn trôn thiên hạ.
Chương Bình vừa dứt tiếng thì Diêu Long và Ngân Vũ xông đến bắt Chương Bình trói lại. Một trăm dân phu đều bao quanh, cầm binh khí canh giữ.
Ngân Vũ giơ gươm lên trời nói lớn:
– Hỡi binh sĩ, Hán vương là một minh quân, giàu đạo đức đáng cho chúng ta tôn thờ. Nếu kẻ nào đầu hàng sẽ được thu dụng, kẻ nào chống lại sẽ rơi đầu.
Quân sĩ trong thành thấy chủ tướng đã bị bắt, đều bỏ vũ khí, quì móp xuống đất.
Diêu Long, Ngân Vũ sai mở cửa giải Chương Bình ra.
Hai người này đâu phải ai xa lạ, chính là Chu Bột và Trần Vũ, tướng của Hán Vương. Trước đây Hàn Tín sai Lục Giả đến Sạn đạo bảo Phàn Khoái sai Chu Bột và Trần Vũ giả cách đầu hàng. Ðợi khi Hàn Tín đến thì dùng đá dựng ở cửa quan làm ám hiệu, và lợi dụng lúc Hàn Tín công thành bắt Chương Bình.
Ðó là kế “Minh tu Sạn đạo, ám độ Trần Thương”.
Vì vậy chỉ trong mười hôm, Hàn Tín đã hạ được Tản Quan, đệ nhất kỳ công trong bước đường Ðông chinh của Hàn Tín.
Hàn Tín vào thành, vỗ an trăm họ, rồi sai dọn dẹp các công thự để chờ đón rước Hán vương.
Quân sĩ giải Chương Bình đến, Hàn Tín truyền rằng:
– Ngươi là cháu Chương Hàm, làm quan với Sở, trấn thủ ải này, nay bị bắt đáng lẽ phải chém, song người là đứa đê hèn, dẫu có chém cũng chỉ bẩn gươm, nên ta giao người cho quan Quân Chính quản thúc trong quân để sai khiến. Nếu có hành động nào ngang ngạnh chẳng toàn mạng.
Chương Bình mừng rỡ dập đầu xuống đất lạy tạ, rồi lủi thủi theo quân sĩ bước ra.
Bỗng có tin báo xa giá Hán vương đã gần đến Tản Quan.
Hàn Tín liền đem văn vũ ra khỏi thành mười dặm tiếp đón.
Hán vương thấy hạ được Tản Quan, lòng vui khôn tả truyền chỉ cho Hàn Tín được lên ngựa theo về Tản Quan.
Hán vương nói:
– Tản Quan là chỗ yết hầu của Tam Tần, Nguyên soái không tốn một tên quân mà hạ được, khiến cho Tam Tần nghe tin phải vỡ mật, công ấy thật đáng khen.
Hàn Tín tâu:
– Nay Tản Quan vừa lấy được, Tam Tần chưa kịp phòng bị, xin Ðại vương tạm đình giá lại đây, để hạ thần đem quân đánh Phế Khâu, bắt sống Chương Hàm, thu phục Tam Tần xong sẽ xin nghênh giá. Ðại vương cứ truyền chỉ tiếp vận binh lương, và kíp tu bổ cho xong Sạn đạo để tiện lối đi lại.
Hán vương nhậm lời, truyền định đô nơi Tản Quan, giao cho Hàn Tín xuất quân chinh phạt.
Hàn Tín truyền đem Chương Bình ra, cắt mất một tai, thả cho về Phế Khâu để khích lệ Chương Hàm.
Ngay lúc đó, ở Phế Khâu, Chương Hàm mới vừa được tin Phàn Khoái đánh phá Tản Quan rất gấp.
Chương Hàm thất kinh bàn với các tướng:
– Ta cứ tưởng Sạn đạo chưa làm xong nên Hán vưong không thể nào vượt ra khỏi Bao Trung, ngờ đâu chúng lại kéo đến Tản Quan mau như vậy? Việc đã đến nỗi này, vậy phải báo cho hai xứ Lịch Dương và Ca Nô phòng bị mới kịp.
Nói xong, sai Mã Thông và Tôn Anh điểm binh mã đi cứu Tản Quan.
Bàn bạc chưa xong, bỗng thấy Chương Bình ôm cái tai bị cắt đứt chạy về, khóc lóc, kể lể tự sự.
Chương Hàm toát mồ hôi, than thầm:
– Phạm quân sư trước kia đã có ủy thư tâu với Bá vương: “Nếu không dùng Hàn Tín thì nên giết đi”. Nay để Hàn Tín trốn về Hán, hối sao kịp nữa!
Chẳng bao lâu lại có quân vào báo:
– Quân Hán rầm rộ kéo đến, chỉ xa cách đây mấy dặm.
Chương Hàm tức giận, vỗ án hét:
– Ta thề giết cho được thằng luồn trôn này mới hả giận.
Các tướng bàn:
– Ðại vương chớ nên khinh địch. Hàn Tín có lắm quỉ kế, xem như việc lấy Tản Quan vừa rồi đủ biết thao lược dường nào?
Chương Hàm hét lớn:
– Ta cầm quân ra trận đã hơn ba mươi năm, trải hơn trăm trận, há lại sợ cái thằng bất cố liêm sỉ ấy sao?
Liền cầm thương lên ngựa, khai thành, dẫn quân sĩ ra đấu chiền.
Lúc ấy Hạ Hầu Anh đã đến Phế Khâu trước một hôm, nhưng chưa thấy Chương Hàm động binh nên chưa dám khiêu chiến, truyền quân hạ trại cách Phế Khâu năm mươi dặm để chờ Hàn Tín đến.
Hàn Tín vừa đến nơi, kêu Hạ Hầu Anh dặn nhỏ:
– Chương Hàm là một dũng tướng của nhà Tần trước kia, nếu dùng sức không thắng nổi. Phải dụng mưu mới thành công được. Tướng quân ra trận, phải làm như vậy như vậy.
Hạ Hầu Anh nhất nhất tuân theo, hành động có vẻ thận trọng lắm.
Lúc Chương Hàm kéo quân đến nơi, đã thấy Hạ Hầu Anh dàn quân đợi sẵn hàng ngũ chỉnh tề, gươm đao rợp đất.
Chương Hàm giục ngựa đến hét:
– Chúa ngươi đã được thụ phong nơi Hán Trung, lẽ phải giữ gìn cương thổ, sao lại nghe lời đứa luồn trôn đến đây quấy rối?
Hạ Hầu Anh nói:
– Vua Nghĩa Ðế có ước, ai vào Quan Trung trước thì được làm vua Quan Trung. Chúa ta vào trước, thế mà Hạng Vũ dám trái lời, tự lập lên làm vua, giết vua Nghĩa Ðế đày Chúa ta vào Ba Thục. Thật là vô đạo. Nay ta đem quân vấn tội chúng bay là bọn theo đóm ăn tàn, lẽ phải tự xấu hổ bó mình chịu tội, sao lại dám đối địch?
Chương Hàm nổi giận vung đao đâm tới. Hạ Hầu Anh rước đánh. Vừa được vài mươi hiệp, Hạ Hầu Anh giả thua bỏ chạy về trại. Chương Hàm đuổi theo, Hạ Hầu Anh không vào trại mà rẽ cương cho ngựa chạy ngược lên đỉnh núi gần đó, gọi Chương Hàm, nói:
– Chương Hàm, ngươi có giỏi thì lên đây chúng ta tranh thắng phụ.
Chương Hàm cười lớn, nói:
– Hán tặc! Mi đã thua mà còn phách lối à?
Hạ Hầu Anh múa tít lưỡi gươm đáp:
– Nhà ngươi già rồi, gân cốt suy nhược, đối địch với ta sao lại? Sở dĩ ta bỏ chạy là muốn dụ ngươi lên đây để giết cho quân sĩ hai bên trông thấy rõ chứ đâu phải ta thua ngươi.
Chương Hàm không nén được giận, giục ngựa lên núi cùng Hạ Hầu Anh đấu chiến. Ðánh vừa được mười hiệp, Hạ Hầu Anh lại lui chạy vào rừng thông, Chương Hàm đuổi theo hét lớn:
– Quân phách lối, hãy để cái đầu lại đó cho ta rồi sẽ chạy!
Nhưng Chương Hàm vừa qua khỏi mé rừng, bỗng nghe một tiếng pháo hiệu nổ vang, bên đường một đoàn quân xông ra chân lại.
Chương Hàm thấy tướng cầm đầu đoàn quân ấy là Hàn Tín, nổi giận hét:
– Thằng luồn khố kia! Hôm nay gặp ta mi tận số rồi.
Hàn Tín không thèm đáp lại, cầm kích nhắm ngay đầu Chương Hàm đánh xuống. Chương Hàm né khỏi. Hai bên đánh nhau được mười hiệp, Hàn Tín bỏ chạy, Chương Hàm tức giận đuổi theo. Ðàng sau hai tên bộ tướng của Chương Hàm là Quý Lương và Quý Hằng đốc quân theo kịp, cản lại, nói:
– Xin Ðại vương chớ vào sâu trận địa, e trúng kế Hàn Tín chăng?
Chương Hàm nói:.
– Thằng hèn mạt ấy tài cán gì mà sợ. Ta quyết đuổi theo lấy đầu, dẹp cho xong giống phản loạn. Hai ngươi cứ thúc quân tiếp ứng.
Chương Hàm vừa nói vừa dứt lời, bỗng có quân đến báo:
– Hàn Tín bị trại vương đuổi gấp quá nên cả người và ngựa đều lọt xuống khe núi. Hạ Hầu Anh cùng chư tướng đang tìm cách cứu lên. Nếu Ðại vương đến ngay thì có thể bắt sống Hàn Tín được.
Chương Hàm lấy làm lạ, dắt Quý Lương và Quý Hằng lên chỗ cao xem, quả thấy trước mặt có một hang núi đầy bụi rậm. Trên sườn núi có một số quân sĩ đang lấy dây thòng xuống.
Chương Hàm đắc ý nói:
– Phen này thằng luồn khố tận mạng rồi.
Liền đốc quân nhắm hang núi ấy tiến tới. Nhưng khi đến nơi không thấy tên quân Hán nào cả xung quanh toàn cây cối và đá dựng chập chồng.
Lúc bấy giờ quân sĩ của Chương Hàm ùa tới quá đông không làm sao trở lại được nữa. Cửa hang chật, người ngựa lộn xộn chẹt lối đi. Chương Hàm còn do dự, thì trên núi có tiếng pháo nổ, tiếp theo đó ngọn lửa, chẳng biết từ đâu bốc cháy ngất trời, sau trước khói tỏa ngùn ngụt.
Quân sĩ thất kinh, lui tới không thông, đạp nhau chạy, lớp chết, lớp gãy chân, tiếng kêu vang cả góc trời.
Quý Lương và Quý Hằng nới với Chương Hàm:
– Phía trước rừng này có con đường hẻm dẫn đến Phượng Lĩnh, xin Ðại vương theo đường ấy lánh nạn may ra khỏi chết.
Chương Hàm theo.lời, cùng hai tướng bỏ ngựa chạy bộ đến Phượng Lĩnh, người người mệt gần ngất hơi.
Ngồi trên tảng đá, nghỉ được một lúc, Chương Hàm nói với hai tướng:
– Chỗ này không thể ở lâu được. Chúng ta không khí giới không còn ngựa, nếu quân Hán đuổi theo lấy gì tự vệ. Chi bằng chúng ta cố gắng sang bên kia núi, tìm một cái đồn nghỉ đỡ, sáng máu sẽ liệu.
Quý Lương nói:
– Ðại vương nghĩ thế cũng phải, song biết đường nào đi bây giờ.
Lúc đó trời đã tối, ngoài ánh sáng của ngọn lửa bọc cháy nơi hang núi, ánh trăng cũng đã bắt đầu soi tỏ những khóm cây cao. Quý Lương đưa mắt nhìn xa rồi chỉ tay về phía trước nói:
– Chỗ hốc núi kia có ánh đèn, chắc có nhà người ở, chúng ta lần mò đến đó hỏi thăm.
Ba người mò mẫm dắt nhau đến chỗ có ánh đèn. Ðó là điếm Ðại Trấn, có hơn ba trăm nhà ở, nhưng đêm khuya dân chúng đóng chặt cửa, ngủ yên phăng phắc.
Gần đó, đại có một cái miếu, ba người lần vào, nằm trên bệ đá nghỉ chân.
Quá nhọc mệt, không ai còn muốn màn bạc gì nữa cả và họ ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Gần đến nửa đêm, bên ngoài có tiếng vó ngựa bước rộn ràng, Quý Lương giật mình thức dậy, dòm qua khe cửa sổ thấy một toán quân đang đi lùng quanh nơi đấy.
Một người trong bọn nói:
– Cửa hang kia có lửa, ta chớ nên khinh tiến.
Không biết Ðại vương ở nơi nào, hay đã bị thương trong đám loạn quân rồi?
Quý Lương nhận ra tiếng người Sở, mừng rỡ gọi Chương Hàm và Quý Hằng dậy, mở cửa chạy ra.
Thì ra đó là Sở tướng Mã Thông.
Mã Thông thấy Chương Hàm mừng rỡ nói:
– Khi Ðại vương đuổi theo Hán tướng, Chương Bình đoán biết thế nào. Ðại vương cũng mắc mưu Hàn Tín nên sai tôi đem một toán quân cứu ứng. Tôi lãnh một nghìn quân đi đến giữa đường thấy nơi ven núi lửa cháy ngất trời, biết là Ðại vương đã mắc kế, nhưng không dám tiến, phải vòng sang mé Tây Nam để phòng ngừa. Trời tối, không biết Ðại vương ở đâu, cho quân Sĩ bủa tìm khắp nơi, may gặp Ðại vương nơi đây, thật may mắn.
Mã Thông sai quân sĩ nấu cơm đem dâng cho Chương Hàm ăn xong thì trời đã rực sáng. Chương Hàm cùng các tướng lên ngựa, theo Mã Thông quanh vế lối cũ.
Ðến Phế Khâu, Chương Bình và Tôn An hay tin đem quân ra tiếp đón vào thành.
Trận ấy, tiền quân của Chương Hàm chết quá nửa, chỉ còn vài nghìn người sống sót trở về, nhưng phần nhiều bị thương khá nặng.
Chương Hàm hối hận, truyền quân đóng chặt cửa thành để an dưỡng. Kế đó, sai người đến hai xứ Lịch Dương và Cao Nô xin điều binh cứu viện.
Chương Hàm phân phối công việc vừa xong thì có tin Hàn Tín kéo quân đến vây thành.
Chương Hàm tức giận vỗ bàn hét:
– Trước đây ta làm tướng nhà Tần, uy đanh lừng lẫy trong sáu nước ai nghe đến danh ta cũng đều khiếp vía. Nay đường đường một vương vị, đứng đầu Tam Tần, há lại sợ thằng luồn trôn, phải đóng cửa thành cố thủ sao? Ba quân hãy chỉnh tề đội ngũ mở cửa thành ra đánh. Ta quyết sống thác với Hàn Tín phen này.
Quý Lương và Quý Hằng can:
– Ðại vương không nên nóng nảy. Hàn Tín lợi dụng sự nóng nảy của Ðại vương mà thủ thắng, xin Ðại vương cứ yên tâm tịnh dưỡng vài ngày rồi sẽ liệu.
Chương Hàm mặt vẫn hầm hầm, ngồi đứng không an. Bên ngoài có quân vào báo:
– Quân của Hàn Tín đứa nằm đứa ngồi, có đứa cởi áo quần chỉ vào thành mắng nhiều lời rất thô bỉ.
Chương Hàm nghiến răng, dắt chư tướng lên vọng địch lầu trông ra, quả nhiên thấy quân Hán làm đủ trò ngáo nghễ.
Chương Hàm nói nhỏ với các tướng:
– Hàn Tín đắc thắng trận vừa qua, nay đã kiêu ngạo chẳng khác Hạng Lương lúc trước ở Ðịnh Ðào. Ðó là triệu chứng bại vong của Hàn Tín rồi.
Quý Lương nói:
– Người ta lúc thắng trận ai cũng kiêu. Hễ thắng mà kiêu là điều tối ky trong binh pháp. Nếu Ðại vương áp dụng phương pháp phá Sở trước kia tất Hàn Tín không tránh được cái nạn Ðịnh Ðào.
Tôn An nói:
– Hạng Lương trước kia ít mưu lược, nay Hàn Tín nhiều quỉ kế, Ðại vương phải suy tính cho kỹ chớ khinh thường…
Chương Hàm mỉm cười nói:
– Hôm qua vì ta cố thắng nên mới mắc lầm gian kế. Hàn Tín đâu có gì đáng gọi là quan trọng. Cứ xem như hàng ngũ quân Hán trước mặt đó, cũng biết quân lực chẳng ra gì.
Chương Hàm xuống thành, truyền chư tướng điểm quân, dự bị sẵn sàng để tối đến đi cướp trại Hán.
Lại gọi Quý Lương và Quý Hằng đến dặn:
– Hai tướng đem ba nghìn quân ra Nam môn tuần tiễu. Ta sẽ đem một vạn quân ra cửa Tây cướp trại địch.
Còn Chương Bình vì bị thương nên để lại giữ thành.
Lúc bấy giờ Hàn Tín liệu chừng việc khiêu khích mình đã thành công liền sai Phàn Khoái và Sài Vũ đem ba ngàn quân ra đóng nơi phía Bắc, Hạ Hầu Anh và Chu Bột đem ba nghìn quân đóng ở phía Nam, Ngân Hấp đem năm ngàn quân phục ở tả trại, Lư Quán và Quán Anh đem năm ngàn quân phục ở hữu trại, còn mình kéo hết đại binh lùi ba mươi dặm hạ trại.
Hàn Tín phân phối xong thì trời cũng vừa tối. Bên kia, Chương Hàm cũng đã kiểm điểm quân mã, bố trí sẵn sàng chỉ chờ đến canh ba là mở cửa thành kéo ra.
Thời gian âm thầm trôi trong lo lắng. Trống canh ba vừa điểm, quân Chương Hàm im chiêng lặng trống, người ngậm thẻ, ngựa bó lạc, kéo ra.
Quý Lương ra cửa Bắc, Mã Thông ra cửa Nam, Chương Hàm ra cửa Tây. Cả ba đạo quân nhất tề kéo đến trại Hán một lượt.
Nhưng khi đến nơi, thấy dãy trại không người, bốn bề vắng ngắt. Chương Hàm thất kinh, biết mình đã trúng kế, liền truyền lệnh lui ra.
Hời ôi! Hùm thiêng đã sa bẫy, còn hối sao kịp nữa?
Một tiếng pháo lệnh nổ vang, hai bên quân phục nổi dậy đánh ập vào tên bắn như mưa. Quân Chương Hàm lớp chết, lớp bị thương, tranh nhau bỏ chay.
Chương Hàm nhờ mấy viên kiện tướng bảo vệ, thoát ra được. Nhưng dọc đường lại bị một mũi tên, suýt té xuống ngựa. Tả hữu phải xúm lại đỡ và dìu đi.
Cũng trong lúc ấy, Quý Lương ra cửa Bắc, đi chưa đến trại địch đã bị đạo quân của Phàn Khoái đón lại đánh. Quý Lương bất ngờ chống cự không lại phải bỏ chạy. Phàn Khoái vì chưa có tướng lệnh nên không dám đuổi theo.
Còn Mã Thông và Tôn An ra cửa Nam, đi đến giữa đường Tôn An nói với Mã Thông:
– Hàn Tín lắm quỉ kế, tôi e Ðại vương lầm mưu! Chúng ta không khéo nguy mất. Chi bằng cứ tạm đóng quân lại đây nghe động tinh đã. Nếu quả quân Hán không đề phòng, chừng ấy chúng ta tiến binh cũng chưa muộn.
Còn nếu quân ta bị thua, thì ta rút về theo đường lớn Phế Khâu để ứng cứu. Như vậy lưỡng toàn hơn.
Mã Thông nói:
– Ông lo xa như thế cũng phải? Nhưng nếu Ðại vương hỏi đến cái tội trái quân lệnh thì sao?
Tôn An nói:
– Không sao! Phàm làm tướng ra trận phải tùy cơ ứng biến, cứ gì mỗi mỗi phải theo lệnh vua.
Mã Thông và Tôn An bàn luận xong đóng quân lại, sai người thám thính. Chẳng bao lâu, quân thám lưu về báo:
– Quân ta bị lầm mưu Hàn Tín. Ðại vương đã bị thua to, nhị vị tướng quân mau cứu ứng.
Hai người tức khắc kéo quân vòng ra đường lớn đến Phế Khâu. Vừa đến nơi, gặp quân Hán đuổi theo Chương Hàm rất nguy cấp.
Hai tướng ra sức chống cự, vừa đánh vừa chạy, giải thoát cho Chương Hàm.
Hàn Tín thấy có quân tiếp viện, liền ra lệnh thu quân.
Các tướng hỏi:
– Chương Hàm đã kiệt lực, sao Nguyên soái không cho đuổi bắt, lại thu quân?
Hàn Tín nói:
– Binh pháp có câu.” Ðuổi giặc không nên đuổi đến bước đường cùng “. Vả lại Chương Hàm cũng là tay danh tướng không nên khinh thường. Ðợi sáng mai sẽ chuẩn bị công tiếp.
Chương Hàm chạy về đến Phế Khâu vết thương đau nhức lạ lùng, liền đòi ngự y vào băng bó, rồi khiến quân canh giữ bốn mặt thành để chờ quân cứu viện.
Hôm sau, Hàn Tín đem quân vây thành Phế Khâu, dùng hỏa pháo công phá rất ngặt ba quân đều đóng trại quanh thành, tạo một vòng vây mấy lớp.
Thành Phế Khâu là thành cũ, đời nhà Châu, chu vi có núi cao bao bọc, một bên ăn thông với dòng sông lớn gọi là Bạch Thủy, bờ thành cao, hào lũy sâu, địa thể rất kiên cố. Quân Hán đánh mãi không phá nổi.
Thúc Tôn Thông và Chương Thoáng thấy vậy vào bẩm với Hàn Tin:
– Thành Phế Khâu không phải chốc lát mà hạ được. Quân các quận, huyện lại lần lượt kéo về cứu ứng. Nếu chậm ít ngày Tư Mã Hân và Ðổng Ể khởi binh, chúng ta khó thắng. Xin Nguyên soái liệu định.
Hàn Tín cười và nói:
– Các tướng có lòng lo lắng, thật đáng khen. Song việc này tôi đã có kế hoạch sẵn, chỉ trong vòng vài hôm nữa là thành Phế Khâu phải vỡ.
Các tướng nghe nói lui ra, ai nấy chỉnh đốn quân ngũ của mình.
Chiều hôm ấy, Hàn Tín cùng Tào Tham đem vài mươi kiện tốt lên chỗ đồi cao, đưa mắt nhìn về phía sông Bạch Thủy. Hàn Tín nói:
– Dưới chân thành, con sông Bạch Thủy chảy vòng quanh từ Tây Bắc sang Ðông Nam, làn nước rất mạnh. Nếu ta dùng bao cát đắp ngang mặt sông, cho nước dâng lên, tràn vào thành, quân địch ắt phải vào bụng cá hết.
Tào Tham nói:
– Nguyên soái định kế rất thần diệu. Tôi xin lãnh lãnh cái việc đó cho.
Ðêm ấy, Tào Tham lãnh một nghìn quân lẻn ra phía Nam thành Phế Khâu, dùng túi cát lấp dòng sông.
Bấy giờ vào tiết tháng tám, nước thu đầy dấy, bờ vừa đắp xong nước đã tràn vào thành Phế Khâu, bốn mặt tường cao, xung quanh núi dựng, nước chảy vào như róc.
Chương Hàm đang dưỡng bệnh, nghe quân báo, vội vã ra chỗ cao xem, thấy nước lai láng, thất kinh, cùng bọn Quý Lương, Quý Hằng, Mã Thông, Tôn An đem quân sĩ và gia quyến lên ngựa chạy ra phía Bắc mở lối trốn vào rừng.
Hàn Tín đem quân đuổi theo, truy kích. Một mặt sai Tào Tham tháo nước, không cho vào thành nữa, một mặt đốc quân chiếm thành.
Dân chúng trong và các quận, huyện lân cận, thấy Chương Hàm đã bỏ trốn, quân Hán thế mạnh, liền rủ nhau đến quy hàng.
Hàn Tín vỗ an dân thứ, rồi sai người về Tản Quan rước Hán vương qua Phế Khâu.
Thế là Tam Tần đã lấy được một phần vậy.
Trong lúc đó, Tái vương là Tư Mã Hân và Ðịch vương là Ðổng Ể hay tin Phế Khâu bị vây, sửa soạn đem quân đến giúp, bỗng được tin Chương Hàm bỏ thành chạy trốn, Phế Khâu và các quận, huyện đất Ung đã thuộc về tay Hán Vương rồi.
Ðổng Ể sợ hãi gọi mưu thần là Lý Chi đến đàm luận.
Ðổng Ể nói:
– Hàn Tín mới hạ được Phế Khâu, binh thế đang mạnh, án binh mã Lịch Dương ít ỏi, cự sao cho lại, nay phải họp sức với Tái vương mới chống nổi.
Lý Chi nói:
– Tình thế nguy ngập, Ðại vương nên cho người về Bành Thành tâu xin Bá vương phát binh cứu ứng mới có thể thắng nổi Hàn Tín.
Còn đang bàn bạc thì đã có tin báo:
– Quân Hán kéo đến chật đường, đi đến đâu quận, huyện đều quy phục. Hiện nay, tiền đội Hàn Tín chỉ có cách Lịch Dương trăm dặm.
Ðổng Ể vội sai Ðại tướng Cảnh Xương, phó tướng Ngô Luân, đem một vạn quân đóng cách thành hai mươi dặm ngăn địch. Lại tự mình thống suất một vạn quân đóng ngoài thành để làm thanh thế.
Chẳng bao lâu, Hàn Tín kéo quân đến như sóng tràn nước vỡ, người ngựa, gươm giáo bời bời.
Cảnh Xương và Ngô Luân lập tức dàn quân đón đánh.
Hàn Tín thúc ngựa ra trước trận, nói lớn:
– Hai tướng Trung Tần hãy mau xuống ngựa đầu hàng để được toàn mạng.
Hai tướng tức giận, vung gươm thúc ngựa đến đánh. Ðàng sau, Phàn Khoái và Vũ Dương lướt tới đỡ thương.
Bốn tướng đánh nhau hai mươi hiệp, Cảnh Xương bị Phàn Khoái đâm một kích ngã xuống ngựa. Ngô Luân không dám đánh giục ngựa chạy trở về.
Hàn Tín huy động ba quân đuổi theo, đến Lịch Dương vừa gặp Ðổng Ể hoành thương hét:
– Thằng luồn trôn kia, mi là đứa tiểu nhân đắc ý, dám đến đây vô lễ ư?
Hàn Tín cười lớn hơn:
– Ðổng Ể, nhà ngươi là một đứa đầy tớ của Chương Hàm. Ðến như Chương Hàm còn phải thua ta nữa huống hồ ngươi..
Chưa được vài hiệp, Phàn Khoái xông ra trợ lực, Ðổng Ể không chịu nổi phải bỏ chạy.
Hán tướng là Tân Kỳ và Quán Anh đã thụ mật kế của Hàn Tín, mỗi người đem ba nghìn tinh binh vòng ra đường nhỏ bên Ðông thành Lịch Dương đánh ập lại.
Ðồng Ể bị bọc hậu, phải thúc quân dồn lại. Quân Hán vây phủ trùng điệp, không hở một chỗ nào. Ðổng Ê sợ hãi đứa trơ trơ giữa vòng vây. Hàn Tín thúc ngựa đến hét lớn:
– Muốn khỏi chết hãy mau xuống ngựa đầu hàng.
Ðổng Ể xét thấy không còn cách gì chống đối nữa, vội vã buông thương xuống đất nói:
– Thôi? Ta chịu đầu hàng.
Quân sĩ áp lại bắt trói, giải về trại.
Hàn Tín bước vào truyền mở trói cho Ðổng Ể, và kéo ghế mời ngồi.
Ðổng Ể phục xuống đất nói:…
– Tôi là một tù nhân, được Nguyên soái tha chết là vạn hạnh rồi, có đâu dám vô lễ.
Hàn Tín đỡ dậy nói:
– Ông là danh tướng nhà Tần, nay đã thọ phong vương tước, lại bỏ Sở đầu Hán, khiến cho trăm họ thoát cảnh đao binh. Hành động ấy đáng trọng thưởng, nên coi đó là một nghĩa cử vậy.
Ðổng Ể thấy Hàn Tín niềm nở lòng mừng khấp khởi cùng ngồi nói chuyện.
Hàn Tín nói:
– Nay tôi cùng ngài đều làm tôi nhà Hán, tôi có một việc phiền đến ngài.
Ðổng Ể thưa:
– Xin Nguyên soái cứ dạy.
Hàn Tín hỏi:
– Hiện Tái vương Tư Mã Hân đang đóng quân ở Cao Nô, nghe quân Hán đến đây tất xuất quân đối địch. Như thế chỉ làm khổ dân mà chẳng ích gì. Vầy phiền ngài viết một phong thư bàn việc thiệt hơn với Tư Mã Hân, khuyên Tư Mã Hân nộp khoản qui hàng. Tôi sẽ tâu với Hán vương cứ y tước cũ mà phong cho hai ông để cùng nhau chung sức giúp nhà Hán dựng nghiệp cả, vãn hồi thái bình cho thiên hạ.
Ðổng ể mừng rỡ nói:
– Xin Nguyên soái cứ đem quân tiến đánh. Tôi sẽ viết thư sai mưu sĩ Lý Chi đem đến Cao Nô khuyên Tái vương ra hàng.
Nói về Tư Mã Hân ở Cao Nô, hay tin Thượng Tần và Trung Tần đã thuộc về Hán, ngày đêm lo sợ, truyền quân kéo ra ngoài thành đóng cách hai mươi dặm để phòng bị.
Một hôm, quân tuần báo tin có sứ của Ðịch vương là Lý Chi đến yết kiến.
Tư Mã Hân cho vào Lý Chi đệ trình phong thư của Ðổng Ể.
Tư Mã Hân mở ra đọc. Thư rằng:
“Ðịch vương Ðổng Ể kính thư Tái vương túc hạ.
Nhà Tần vô đạo, chư hầu ly loạn, nước Sở nổi lên thôn tính trên hạ. Tuy nhiên Bá vương bạo ngược thiếu đức không thể cầm quyền được lâu. Theo lời hứa của vua Hoài vương trước kia, lẽ ra Hán vương phải được làm vua Quan Trung, thế mà Bá vương bội ước, dùng uy lực bức kẻ hiền lương. Hán vương, đạo đức cao dày, đáng làm minh chúa. Nay lại dùng Hàn Tín làm Nguyên soái mưu lược như thần, binh pháp không kém Tôn Ngô. Như việc minh tu Sạn đạo, ám độ Trần Thương, dùng trí lấy Tản Quan, tháo nước thu thành Phế khâu, thật trong đời chẳng ai sánh kịp.
Binh Hán đang mạnh, thế như chẻ tre đi đến đâu thắng đến đây, tôi đã thuận thứa thiên ý, về với Hán triều, tước lộc chẳng mất, ưu đãi hơn xưa. Vậy có đôi lời tỏ bày lợi hại xin Ðại vương xét kỹ. Nay kính.”
Tư Mã Hân xem thư xong nổi giận mắng:
– Ta chưa hề giao chiến với Hàn Tín một trận nào, sao đành chịu bó tay đầu giặc? Ðại trượng phu đâu lại tham sống cầu vinh.
Nói xong xé nát phong thư, lấy chân chà dưới đất, và khiến quân đuổi Lý Chi ra.
Lý Chi thở dài nói:
– Ðại Vương quân không đầy hai vạn, tướng chỉ có mấy viên, bị cô lập nơi Cao Nô, còn Bá vương thì ở xa, làm sao cứu viện kịp. Vả Ðại vương trí không bằng Hàn Tín, dũng không hơn Phàn Khoái, tôi e chẳng sớm lo việc ngày sau hối không kịp.
Tư Mã Hân lại càng giận dữ hơn, vung gươm hét lớn:
– Lý Chi, ngươi khinh ta không có trí dũng. Ðể ta đánh một trận giết Phàn Khoái, bắt sống Hàn Tín cho mà xem.Lúc đó ta sẽ tặng cho nhà ngươi lưỡi gươm này để xuống suối vàng theo quân phản phúc.
Lý Chi không hề sợ hãi, ung dung nói:
– Vâng, nếu Ðại vương ra trận mà giết được một tên quân nhỏ, tôi cũng xin ngửa cổ cho Ðại vương chém, đừng nói chi đến chuyện giết Phàn Khoái, bắt Hàn Tín.
Tư Mã Hân truyền giam Lý Chi vào ngục, rồi kiểm điểm quân mã, sai Phó tướng Lưu Lâm và Vương Thủ Ðạo lãnh một vạn quân làm tiên phong, tự mình đem bốn vạn quân ra khỏi thành Cao Nô giáp giới đất Lịch Dương hạ trại.
Quân đi theo Lý Chi trở về báo lại việc Tư Mã Hân xé thư, giam Lý Chi, Ðổng Ế đỏ mặt, vội đến trung quân nói với Hàn Tín:
– Tư Mã Hân là đứa phách lối, khó dụ hắn được!
Hàn Tín mỉm cười nói:
– Hắn chỉ là một mảnh thịt trên thớt,. ta bắt ìúc nào chẳng được. Nói vừa dứt lời, có quân thám thính vào báo:
– Tư Mã Hân lập kế đem quân hạ trại, cách thành hai mươi dặm.
Phàn Khoái nói:
– Xin Nguyên soái cho tiểu tướng đem quân bắt Tư Mã Hân.
Hàn Tín nói:
– Tướng quân muốn đi cũng được song phải theo kế ta, làm như vầy mới thắng.
Phàn Khoái lãnh mệnh. Chiều hôm ấy đến bàn với Ðổng Ể:
– Tư Mã Hân thực đáng giận, hắn dám xé thư và giam sứ của ngài, tôi muốn tìm kế gì bắt hắn cho được để trị tội
Ðổng Ế nói:
– Phải, tôi cũng đang lúc tức giận, và cố tìm mưu bắt cho được hắn. Vậy tướng quân có ý gì hay xin cho biết.
Phàn Khoái nói:
– Muốn bắt Mã Hân tất phải đem một người thân quyến của ngài trói lại, rồi tôi cùng độ trăm người dẫn sang trại Tư Mã Hân giả cách trá hàng, tất nhiên hắn tin và cho ở trong quân. Sáng mai, ngài đến trại hắn đòi thân quyến tất nhiên hắn phải ra đối khẩu. Chừng ấy tôi thừa cơ bắt hắn trói lại điệu về, chẳng khó chi.
Ðổng Ể khen:
– Kế ấy diệu lắm. Tôi có đứa con lớn tên Ðổng Thực, khỏe mạnh lạ thường, tướng quân trói nó lại, đem đi trá hàng rất tiện.
Phàn Khoái mừng rỡ, tuyển một trăm kiện tốt, cùng bọn Sài Vũ thay đổi thường phục, trói Ðổng Thực, lẻn ra con đường hẻm thành Lịch Dương, đi sang trại Tư Mã Hân.
Quân Tư Mã Hân bắt vào hỏi lai lịch rồi dẫn đến trình Tư Mã Hân.
Tư Mã Hân hỏi:
– Chúng bay qua đây cốt trá hàng chăng?
Phàn Khoái nói:
– Chúng tôi nguyên là quân Sở, theo Ðịch vương trấn thủ Lịch Dương. Chẳng ngờ Ðịch vương phản Sở, đầu Hán. Nay mai Hàn Tín phát giao chúng tôi vào Bao Trung biết bao giờ trông thấy vợ con, quê quán. May sao Ðịch vương sai chúng tôi cùng trưởng từ ra thành thám thính, chúng tôi liền bắt trói Ðổng Thực đem nộp cho Ðại vương, xin Ðại vương trị tội đứa bội phản, và thu dùng chúng tôi, vì chúng tôi là người bản thổ.
Tư Mã Hân trông thấy Ðổng Thực, con lớn của Ðổng Ể, tức giận hét:
– Cha mày cùng ta làm tôi nước Sở, được phong vương tước há phải hèn mọn gì mà đem thân đầu thằng luồn trôn giữa chợ, sao không biết nhục?
Mắng xong, truyền đem đem Ðổng Thực cùng với Lý Chi, đợi khi bắt được Ðổng Ê sẽ giải một lượt về Bành Thành trị tội. Còn bọn sĩ tốt đều lưu lại trong quân sử dụng.
Sáng hôm sau, Ðổng Ể cỡi ngựa đến trước trại, khiến quân nói lớn:
– Ðịch vương mời Tái vương ra hội kiến.
Tư Mã Hân nghe báo, mặc giáp lên ngựa ra cửa trại, thoáng thấy Ðổng Ể, mặt hầm hầm hét:
– Kẻ đã đem thân đầu hàng đứa luồn trôn thì còn mặt mũi nào đến đây trông thấy ta nữa!
Ðổng Ể nói:
– Tái vương, nhà ngươi không biết thiên đạo, không hiểu nhân tâm? Bá vương giết Tử Anh, vì vua của chúng ta, lẽ nào lại không báo thù, còn theo phò quân địch. Như thế nhà ngươi gọi là trung quân, ái quốc sao! Ta bỏ Sở về Hán, trên báo thù vua, dưới hợp lòng người, theo kẻ hiền, diệt đứa nịnh, lẽ ấy hiển nhiên, sao ngươi ngu muội như vậy? Ta viết thư nói lẽ phải trái nhà ngươi đã không nghe lại còn giam sứ, và bắt con trai ta, hành động ấy dung tha sao được?
Tư Mã Hân nói:
– Ta quyết bắt cả bọn người để rửa nhục, hãy mau trở về kêu Phàn Khoái ra đây chịu chết trước.
Tư Mã Hân vừa nói dứt lời, bỗng sau lưng có một người nhảy đến, bóp vào cổ Tư Mã Hân hét:
– Ta chính là Vũ Dương hầu Phàn Khoái đây.
Hàng trăm quân trá hàng theo Phàn Khoái áp đến, Phàn Khoái nói lớn:
– Hỡi quân sĩ Hạ Tần! Nếu muốn sống hãy mau bỏ khí giới qui hàng lập tức.
Quân sĩ đồng thanh nói:
– Chúng tôi xin tình nguyện đầu hàng.
Lưu Lâm và Vương Thủ Ðạo là hai tướng tiên phong của Tư Mã Hân trông thấy quân sĩ mình hạ khí gần hết, biết việc không xong đành chịu bó tay.
Quân Hán bắt bọn Tư Mã Hân bỏ vào tù xa, giải đến nạp cho Hàn Tín.
Hàn Tín mắng:
– Sở vương là thù của nhà Tần, Hán vương có ân với Tử Anh, lẽ nên bỏ Sở đầu Hán để trung với chúa cũ, sao nhà ngươi lại ngoan cố?
Tư Mã Hân cúi đầu không đáp. Phàn Khoái thấy vậy nói với Hàn Tín:
– Tái vương trước kia thụ phong với Sở là điều bất đắc dĩ, nay Tái vương đã đến đây, xin Nguyên soái khoan dung mà tâu với Chúa thượng phong cho vương tước, để Tái vương đội ơn hết lòng phò Hán.
Hàn Tín theo lời, sai quân tháo cũi thả Tư Mã Hân ra. Tư Mã Hân mừng rỡ cúi lạy tạ ơn.
Hôm sau, Hàn Tín lại sai sứ đến báo với Hán vương việc Lịch Dương và Cao Nô đã định, nay xin rước xa giá đến phủ Tam Tần để định mưu thu phục Quan Trung.
Chẳng bao lâu, xa giá Hán vương đến. Hàn Tín đem chư tướng, Ðổng Ế và Tư Mã Hân ra nghênh đón.
Hán vương bước xuống xe, gọi Hàn Tín đến ủy lạo:
– Ngày trước Tiêu thừa tướng ba lần tiến cử, nay Nguyên soái ra quân ba lần thắng giặc, thật tài của Nguyên soái không phụ lòng ngưỡng vọng của Tiêu thừa tướng.
Hàn Tín phục lạy, tâu:
– Ðó không phải do tài của hạ thần mà do đạo đức của Chúa công. Chính đạo đức của Chúa công đã làm cho quân uy của hạ thần như gió bão.
Hán vương nói:
– Nay Tam Tần đã định, Hàm Dương có thể thu phục rất dễ dàng. Chẳng hay Nguyên soái định ngày nào khởi binh?
Hàn Tín tâu:
– Lấy Hàm Dương không khó, chỉ e Chương Hàm trốn lên Ðào Lâm, cách Phế Khâu không xa. Nếu ta kéo đại binh đến Hàm Dương tất Chương Hàm thừa cơ chiếm lại Phế Khâu. Phế Khâu mất, đường vận lương của ta bị bế tắc, thật là điều đáng lo.
Hán vương hỏi:
– Thế thì phải làm sao bây giờ?
Hàn Tín nói:
– Tâu Ðại vương, hạ thần thiết tưởng giết rắn phải trừ nọc, Ðại vương đóng quân nơi đây, để hạ thần kéo quân thẳng đến Ðào Lâm, trừ cho được Chương Hàm thì mới an lòng được.
Hán vương khen ngợi vô cùng. Hôm sau, Hàn Tín đem bọn Phàn Khoái, Chu Bột, Sài Vũ, Tân Kỳ và một đoàn quân mã thẳng đến Ðào Lâm.
Bấy giờ Chương Hàm vết thương mới vừa bình phục, đang dự tính sai sứ về Bành Thành viện binh khôi phục Phế Khâu, xảy nghe quân báo Hàn Tín đem đại binh đến, Chương Hàm giận dữ nói:
– Phen này ta quyết giết cho được đứa luồn trôn mới nghe.
Tôn An bàn:
– Ðại vương hiện giờ cô thế. Theo ý tôi chỉ nên đắp thành cao cho quân cố thủ chờ viện binh. Nếu ra đánh e mắc gian kế của Hàn Tín nữa.
Chương Hàm nói:
– Quân cứu viện Bành Thành đến đây rất xa xôi. Nếu cứ cố thủ, quân mòn, tướng hết sau này làm thế nào thắng giác được. Kể hoạch của ta là phải tốc chiến, tốc thắng mới bảo vệ được thực lực.
Nói xong, Chương Hàm truyền Mã Thông, Quý Lương, Quý Hằng và Tôn An dẫn năm ngàn quân ra đóng ngoài trước để làm thanh viện. Phân phối xong, quân Hán cũng vừa kéo đến.
Hàn Tín giơ roi chỉ vào thành gọi Chương Hàm nói:
– Chương Hàm, mau ra đây dâng đất cho ta khỏi mất công đánh đập.
Chương Hàm tức giận khai thành kéo quân ra.
Ðàng sau Phàn Khoái và Chu Bột đốc quân ùa tới, tiếng chiêng trống vang trời. Chương Hàm cầm cự được một lúc, liệu thế chống không nổi, cho quân lui dần.
Hàn Tín giền sai Tân Kỳ và Sài Vũ lẻn ra sau trận đánh ập lại.
Chương Hàm bị dồn quân, hàng ngũ hỗn loạn, tiến thoái lưỡng nan, vừa giận vừa thẹn, máu uất xông lên, vết thương trước kia lại nứt ra, đau đớn lạ thường.
Biết không thể nào giải vây được, nếu để giặc bắt mang nhục, Chương Hàm đành rút gươm tự vận.
Quý Lương và Quý Hằng cũng chết trong đám loạn quân.
Mã Thông thấy Chương Hàm chết, liền quay ngựa đầu hàng. Hàn Tín thu phục Mã Thông công với Tôn An vào thành phủ dụ trăm họ.
Hàn Tín nói Mã Thông:
– Hiện nay trong thành Ðào Lâm còn bao nhiêu nhân mã?
Mã Thông nói:
– Bẩm Nguyên soái, nhân mã trong thành không còn được năm trăm, tướng tá không còn ai; chỉ có dân cư mà thôi.
Hàn Tín truyền lệnh vào thành, ban bố hiệu lệnh, đặt người trấn giữ rồi dắt bọn hàng tướng về Cao Nô yết kiến Hán vương.
Hán vương phong chức cho các hàng tướng, cho theo trong quân để lập công.
Sau hai ngày chỉnh đốn quân ngũ, Hàn Tín tiến binh thẳng đến Hàm Dương.
Quan trấn thủ Hàm Dương là Tư Mã Di và Lã Thần, từ khi nghe Tam Tần bị mất, đã cho người báo với Bá vương hay, để xin quân cứu ứng. Nhưng mãi đến nay vẫn chưa thấy đến.
Cả thành Hàm Dương đang ấp ủ lo âu, thì bỗng nghe báo quân Hán đã kéo đến nơi.
Tư Mã Di bàn với Lã Thần:
– Thành Hàm Dương quân mã chẳng bao nhiêu, cứu binh lại không đến. Dân trong thành cảm nghĩa Hán vương thuở trước, ai cũng mong hàng, nay phải làm sao?
Lã Thần nói:
– Bổn phận ta phải giữ thành, không thể trì hoãn. Vậy đêm nay cho người cấp báo về Bành Thành, thế nào Phạm quân sư cũng có chước hay.
Hai tướng bàn bạc xong, một mặt cho người về Bành Thành cấp báo, một mặt điểm quân thủ thành chờ viện binh.
Hàn Tín kéo binh đến thấy cửa thành đóng chặt, nghĩ thầm:
– Thành Hàm Dương rất kiên cố, không thể lấy sức phá nổi, phải dùng kế mới xong.
Liền gọi Mã Thông đến dưới trướng nói:
– Nhà ngươi mới đầu Hán chưa có công gì. Nay ta sai ngươi đem những quân của Chương Hàm vừa đầu hàng, kéo cờ Sở, giả làm viện binh của Bành Thành, gạt chúng mở cửa, kéo ập vào làm nội công ngoại kích. Nhà ngươi dám làm việc đó chăng?
Mã Thông thưa:
– Lệnh Nguyên soái truyền, tôi đâu dám chẳng tuân, nhưng không có phê văn của Bá vương tướng giữ thành đâu chịu mở cửa để quân ta kéo vào.
Hàn Tín nói:
– Ðiều đó không sợ Ta đây có bản văn cũ của Bá vương trước kia, trong đó có ấn tín, để ta sai người tẩy đi viết lại thì xong.
Nói rồi, mở thắp, kiếm mấy bức phê văn của Bá vương phát giao Tam Tần, mà Hàn Tín bắt được trước đây gọi Lý Bình vào tẩy bỏ chữ cũ, điền lại chữ mới, đoạn sao cho Mã Thông đem mật kế thi hành.
Mã Thông cùng Tôn An đem năm ngàn hàng tốt, dùng hiệu cờ nước Sở, qua sông Kinh Vị lẻn theo đường hẻm ra phía Ðông Nam, thẳng đến Ba Ðăng chạy tắt về Hàm Dương.
Hàn Tín lại sai Phàn Khoái, Chu Bột, Ngân Hấp đem một vạn quân lẻn theo sau, rồi xin Hán vương tạm đóng quân cách thành hai mươi dặm để chờ tin tức.
Bọn Mã Thông kéo đến dưới thành đưa phê văn lên. Tư Mã Di và Lã Thần nhận thấy ấn tín của Bá vương liền truyền quân mở cửa thành cho vào.
Mã Thông nói:
– Tôi lãnh lệnh kéo quân đi trước báo tin, đại binh sẽ đến sau cứu ứng.
Mặt trời vừa chen lặn, đường xa, một toán quân kéo đến, bụi cát mịt mù.
Mã Thông nói:
– Ðó là quân viện của Bá vương sai.đến.
Tư Mã Di mở cửa thành bái mạng và truyền lệnh cho cựu binh sáng sớm sẽ nhập thành.
Tuy nhiên, đội quân cứu đó không tuân lời, cứ xống xộc thẳng tới.
Viên quan giữ cửa bước ra ngăn cản, bị tướng đi đầu của đoàn quân ấy chém một dao rơi đầu.
Tư Mã Di thất kinh, truyền quân đóng cửa thành lại nhưng không kịp nữa. Viên tướng đi đầu đã nhảy tới chém luôn Tư Mã Di một dao chết tốt.
Quân sĩ trong thành rối loạn. Một tướng đem đầu Tư Mã Di treo lên ngọn giáo, nói lớn:
– Chúng ta không phải là cứu binh của Hạng Vũ sai đến mà chính là bộ tướng của Hán vương đến đây lập kế mở cửa thành. Nay Tư Mã Di đã chết, ba quân nên đầu hàng để khỏi mang họa.
Quân dân trong thành nghe nói đến Hán vương, đồng phục xuống đất hô lớn:
– Chúng tôi xin hàng phục và xin rước Hán vương vào thành.
Phàn Khoái thấy lòng dân hâm mộ, mừng rỡ, sai cắm cờ Hán khắp bốn mặt thành rồi sai người đi thỉnh giá.
Hai hôm sau, xa giá Hán vương đến, trăm họ đón tiếp rất nồng nhiệt. Hán vương đem lời phủ dụ:
– Ta, từ khi Bá vương bội ước, đày vào Bao Trung, ngỡ không còn gặp được dân chúng Hàm Dương. Ngờ đâu, trời không phụ kẻ có lòng, cứu dân trừ loạn, nên khiến ta đến được nơi đây. Vậy trăm họ cứ an cư lạc nghiệp, giữ lấy bổn phận làm dân.
Dân chúng cảm động rơi nước mắt. Hàn Tín sai quân dọn dẹp cung điện, rước Hán vương vào ngự, rồi đem bộ tướng đến triều kiến.
Hán vương truyền bày tiệc khao thưởng ba quân.
Vua tôi vui say rộn rã.
Hàn Tín tâu:
– Nay Hàm Dương tuy đã định, song ngoài Quan Ðông còn có Ngụy Báo và Thân Dương chưa quy phục! Nếu Hạng vương đem binh họp với hai Phiên vương ấy đánh vào ba mặt e quân ta khó chống nổi.
Hán vương hỏi:
– Thế thì phải làm sao?
Hàn Tín tâu:
– Nay phải tìm một người có tài du thuyết, đủ sức nói cho Sở di binh sang đánh Tề, để tôi thừa cơ đem quân đánh Thân Dương và Ngụy Báo. Hễ Quan Ðông bình được thì phá Sở không khó.
Hán vương hỏi:
– Trong các mưu sĩ có ai đủ tài làm việc này chăng?
Lời hỏi vừa dứt, quan Ðại phu Lục Giả bước ra tâu:
– Ngày trước Ðại vương vào đánh Tần, tôi từ Lục Dương theo hầu. Lâu nay vào Bao Trung, vắng tin tức gia đình vợ con. Nay tôi xin tình nguyện đến Lạc Dương thăm nhà rồi thừa cơ dụ Thân Dương về đầu Hán. Sau đó, tôi lại đến Bình Dương dụ Ngụy Báo. Trong hai xứ ấy ắt có một xứ nghe lời tôi.
Hán vương mừng rỡ liền ban cho Lục Giả mười cân vàng làm lộ phí.
Ngay ngày hôm ấy, Lục Giả từ tạ trở về Lạc Dương, ghé về thăm cha mẹ, vợ con.
Cha mẹ Lục Giả nói:
– Từ khi con theo Hán vương vào Nam Trịnh, cha mẹ ở nhà nhờ ở Thân Vương Bai người cung cấp cơm áo ; do đó cả nhà được no ấm. Nay con về đây cũng nên vào yết kiến Thân Vương để tạ ơn.
– Từ lúc Lục Ðại phu theo Hán vương, ta bi cô độc, muốn bàn việc gì không người mưu sĩ. Nay Lục Ðại phu trở về, lại ghé thăm ta, kể cũng quí lắm.
Nói xong, truyền đòi Lục Giả vào.
Lục Giả bước vào thi lễ, Thân Vương cầm tay nói:
– Ðại phu vắng nhà đã ba năm, lúc nào ta cũng mong nhớ, gia quyến Ðại phu được ta săn sóc chu toàn, chắc Ðại phu cũng được hài lòng chứ?
Lục Giả nói:
– Tôi theo Hán vương đi đánh Tần định xong việc về ngay, không ngờ Hán vương cố lưu tôi đại. Vả Hán vương là kẻ nhân đức, tôi không nỡ bỏ nên phải theo vào Bao Trung. Vừa rồi Hán vương trở về lấy Tam Tần, định Hàm Dương, tôi nhân đó xin phép về thăm gia quyến, được biết Ðại vương có lòng quảng đại, bảo tồn gia đình tôi, ơn ấy dẫu thịt nát xươiig tan tôi cũng chưa đáp đền đặng.
Thân Vương vui vẻ hỏi:
– Hán vương được dân chúng khen là nhân đức, có thật vậy chăng?
Lục Giả liền nói:
– Thực vậy, Hán vương là bậc khoan nhân, đại độ, biết trọng hiền sĩ, biết quý kẻ. nghèo, dùng Hàn Tín chưa đầy hai tháng mà đã hạ được Tản Quan, phá Tam Tần, thu Hàm Dương, quân kéo đến đâu dân chúng đều ngưỡng mộ, thế mạnh như chẻ tre, uy như vũ bao ố. Chẳng bao lâu ắt gồm thâu thiên hạ.
Thân vương gật đầu nói:
– Ta nghe Hán vương có đức, cũng muốn qui phục, nhưng thấy Sở còn đang mạnh, rủi Bá vương biết được lòng ta, ắt không thoát khỏi tai nạn.
Lục Giả nói:
– Trước kia thì Sở mạnh thật, nhưng bây giờ Hán lại mạnh hơn nhiều. Hàn Tín dụng binh như thần, khó ai sánh kịp. Nếu nay mai quân Hán có đến Lạc Dương, Ðại vương cũng nên nghênh tiếp để tránh cho dân. chúng nạn binh đao.
Thân vương nói:
– Ta xin nghe theo lời Ðại phu.
Lục Giả toan đem lời thuyết phục, nhưng thấy Thân Vương có lòng ưu ái, đem lòng quyến luyến muốn ở lại Lạc Dương cũng không muốn trở về Hán nữa.
Ngày tháng trôi qua, Hán vương chờ mãi không thấy Lục Giả trở về, ngày đêm buồn bực.
Bỗng một hôm, có người báo Trương Lương ở Tam Ðiền ra, sắp đến Tân Phong. Hán vương mừng rỡ sai Quán Anh và Tào Tham ra ngoài địa giới nghênh tiếp.
Hàn Tín được tin cũng sai hai tùy tướng là Tiết Âu và Trần Bái đi đón.
Chẳng bao lâu, Trương Lương đến nơi, Hán vương đi chân không thân hành ra cửa Thừa Ðức cầm tay Trương Lương nói:
– Tiên sinh đã đến đây ư? Ngài đi du lịch nơi đâu, để cho ta trông mòn con mắt.
Trương Lương sụp lạy tâu:
– Tôi từ khi bái biệt Chúa Công dẫu ở xa song tấm lòng không một chút xao lãng. Khi ra đi, tôi có hứa ba việc lớn: Một là nói cho Hạng vương thiên đô sang Bành Thành hai là xui sáu nước phản Sở, ba là tìm cho Chúa công một vị Phá Sở Nguyên soái. Nay, ba việc ấy đã làm xong, mới dám đến đây triều kiến.
Hán vương tươi cười đỡ Trương Lương dậy, và nói:
– Tiên sinh chẳng quản gian lao khổ sở, ta vì mưu việc lớn, ngày nay ta được ra khỏi Bao Trung là nhờ công Tiên sinh hết cả, dẫu khắc vào bia đá, lưu lại ngàn đời ta cũng chưa thỏa dạ.
Trương Lương triều bái xong, cùng văn võ bá quan hội diện, Hàn Tín đến trước mặt Trương Lương nói:
– Ðội ơn Tiên sinh tiến cử, Chúa thượng đặc cách tin dùng, trọn đời tôi chẳng dám quên.
Trương Lương nói:
– Chúng ta đều là những kẻ vì vua vì nước, thì việc dẫn dắt nhau chỉ là nhiệm vu chung. Hơn nữa, chỉ có một tháng mà Nguyên soái đã hạ được Tam Tần, làm cho tôi cũng được thơm lây.
Hán vương truyền mở tiệc mừng, bá quan đủ mặt.
Vua tôi nâng chén chúc nhau, cuộc vui kéo dài mãi cho đến tối mới mãn.
Hôm sau, Hán vương cho mời Hàn Tín và Trương Lương vào hội diện.
Hán vương nói:
– Lạc Dương vây Bình Dương chưa lấy đặng. Hai xứ ấy tuy nhỏ nhưng quan hệ cho việc tiến binh. Lục Giả lãnh mệnh du thuyết mãi đến nay chưa về, nếu quân Sở kéo đến đây thì biết làm thế nào?
Trương Lương nói:
– Lục Giả về Lạc Dương là nơi quê cha đất tổ, thế nào cũng đem lòng lưu luyến, không nỡ dụ Thân Vương.
Còn Ngụy Báo là kẻ hư danh, lâu nay khoe khoang tự phụ, chắc gì Lục Giả đã dụ nổi. Hai xứ ấy tôi phải đi một
phen mới xong việc được.
Hàn Tín nói:
– Tôi cũng đã nghĩ hai xứ ấy nếu không có Tiên sinh thì không thu phục được. Lục Giả ra đi chẳng qua viện cớ để về thăm nhà đó thôi.
Hán vương nói:
– Ðành vậy song Tiên sinh cách biệt đã lâu, nay mới về lại đi nữa, lòng ta không yên.
Trương Lương nói:
– Thiên hạ chưa định, chưa thể ngồi yên mà nhàn rỗi được. Nay tôi làm một tờ biểu, sai người dâng về Bành Thành, gạt Bá vương đem quân đánh Tề, không chú ý đến ta. Trong lúc đó, ta có đủ thì giờ chinh phục hai xứ kia.
Sau khi Trương Lương từ biệt Hán vương, một mặt viết biểu sai người đem về Bành Thành dâng cho Hạng Vương, một mặt đem mấy tên đầy tớ đắc lực lẻn đến hai xứ Bình Dương và Lạc Dương.
Nhắc lại, Hạng Vũ ở Bành Thành, một hôm thiết triều đàm đạo việc nước, bỗng có thủ quan ở Hàm Dương sai người về cầu cứu.
Cứu binh chưa phát, thì lại được tin Hàm Dương thất thủ, Hán vương chiếm đóng rồi, các quận, huyện đều hàng phục.
Hạng vương nổi giận vỗ án hét:
– Ðứa thất phu ấy tài cán gì mà dám phá Tam Tần, lấy Hàm Dương. Nếu ta không bắt sống được Lưu Bang và Hàn Tín thề không trở về đây nữa.
Phạm Tăng nói:
– Trước kia tôi đã tỏ ý một là dùng Hàn Tín, hai là giết đi để trừ hậu hoạn, Ðại vương không nghe, bây giờ thì đã muộn.
Hạng vương nói:
– Chương Hàm già yếu, còn lũ Tư Mã Hân, Ðổng Ể là lũ bất tài, nên mới bị Hàn Tín mưu lừa. Nếu quân ta kéo đến, Lưu Bang và Hàn Tín trốn đi đâu cho thoát.
Hạng vương nói vừa dứt lời thì có tin Trương Lương ở nước Hàn, sai người dâng mật biểu, và đem cả bức phản thư của nước Tề đến trình.
Hạng vương truyền chỉ cho vào.
Sứ giả vào bệ kiến, Hạng vương mở mật biểu ra xem.
Biểu rằng:
” Tư đồ nước Hàn là Trương Lương, cúi đầu thành khẩn Tây Sở Bá vương khán hạ.
Lương tôi đội ơn không giết, được về bản quốc mai táng vong quân. Từ ấy đến nay tiêu dao non nước, khi vào núi hái cỏ chi, lúc đến khe xem nước biếc, cốt lánh mùi phú quí, vinh hoa. Tuy nhiên, dẫu không màng danh lợi ơn vua cũng chẳng hề quên. Vừa rồi, Hán vương cho mời, nhưng tôi đã từ thác, không ham địa vị, công hầu. Hai nước Tề, Lương lại cho người đến triệu tôi luôn, tôi lấy cớ bệnh hoạn từ chối. Vua hai nước ấy biết không dùng tôi được, nên sau có truyền hích đến bản quốc, rủ cùng phản Sở, nói lắm điều ngông cuồng. Tôi đội ơn Ðại vương lẽ nào lân quốc manh tâm làm loạn mà không mật báo? Tôi liệu kiến thức Hán vương chẳng qua chỉ cầu được Hàm Dương, như lời ước trước kia là đã mãn nguyệt rồi, không bao giờ dám cả gan đánh Sở. Duy có Tề và Lương hai nước ấy âm mưu thôn tính thiên hạ, chí không phải nhỏ. Xin Ðại vương, trước phát binh vấn tội Tề, Lương, trừ mầm phản loạn, sau sẽ xem Hán vương có hành động gì khác chăng. Nếu Hán vương có nuôi mầm phản Sở thì chừng ấy ra uy trừ khử cũng chưa muộn. Cái nguy của Ðại vương là Tề và Lương, xin Ðại vương suy xét. “
Hạng vương xem tờ biểu xong đại mở bức hịch của Tề vương ra xem.
Hịch rằng:
” Chúng tôi thiết nghĩ, ngôi trời dành cho người có đức kẻ thất đức không thể trị thiên hạ được. Xét như Hạng vương vào Quan Trung bội ước với Hán vương chôn sống mấy vạn người vô tội, giết vua Hoài vương chiếm đoạt thiên hạ, hành động ấy trái với nhân đạo, trái với lòng người. Chẳng những chư hầu chúng ta có trách nhiệm diệt ác sùng thiện, mà khắp trong dân chúng ai cũng muốn trừ Hạng vương để cứu sinh linh. Nay xin kính đệ hịch văn thông đạt chư hầu, quí quốc nên vì nhiệm vụ chung phát binh cùng giết đứa vô đạo là Hạng Tịch để đem lại ngôi trời cho người biết trọng nhân nghĩa. Muôn dân sẽ cảm phục.”
Hạng Vũ đọc Xong, mặt giận hầm hầm, vỗ án hét:
– Hai đứa thất phu sao dám vô lễ dường ấy. Ta thề diệt Tề, Lương trước, rồi sẽ trừ Hán sau.
Phạm Tăng vội vã can:
– Xin Ðại vương nguôi giận. Ðó là kế Trương Lương sợ quân ta đánh Hán, nên giả hịch văn khích Ðại vương, khiến quân ta lo đánh Tề, Lương mà không động gì đến Hán.
Hạng vương nói:
– Thật ra Tề và Lương đang mạnh hơn Hán, nếu hai nước ấy có ý phản loạn mà không lo trừ trước thì làm thế nào được?
Phạm Tăng nói:
– Nếu Ðại vương muốn phạt Tề, Lương trước thì phải truyền hịch cho hai xứ Lạc Dương và Bình Dương phòng bị cẩn mật đừng để cho quân Hán tràn xuống mặt Ðông mới xong.
Hạng vương theo lời, truyền hịch phát binh đánh. Giữa lúc đó, Trương Lương đến Bình Dương, vào nội thành xem phong cảnh, non sông tươi đẹp, khí hậu ôn hòa, rõ là nơi vua Nghiêu trước kia lập nghiệp, nay thuộc về Tây Ngụy, người, vật phồn thịnh, sông núi xây nên thành quách thiên nhiên, tạo thành chốn thủy tú sơn kỳ, khiến cho khách hậu sanh chạnh lòng hoài cổ.
Trương Lương đến trước Ngụy vương cung, sai tả hữu vào báo với Ngụy vương.
Ngụy Báo (tức Ngụy vương) phán hỏi quần thần:
– Trương Lương đột nhiên đến đây hẳn có điều gì khác các ngươi có biết chăng?
Quan Ðại phu Chu Thúc tâu:
– Trương Lương là một tay thuyết khách lợi hại không kém Tô Tần, Trương Nghi. Nay đến đây tất dùng lời dẫn dụ, Ðại vương nên để ý mới được.
Ngụy Báo gật đầu nói:
– Không ngại gì! Nếu hắn dụng lời thuyết khách ta đã sẵn có thanh bảo kiếm đây.
Chu Thúc can:
– Ấy chết! Trương Lương được tiếng là người hiền, ai nấy đều khâm phục. Ðến như Bá vương còn chưa nỡ giết ; xin Ðại vương dùng lời tiếp đãi, chớ nên dụng uy. Chỉ cần không nghe lời hắn là đủ.
Ngụy Báo liền truyền tả hữu an tọa, và đòi Trương Lương vào chầu.
Trương Lương bước vào thi lễ, Ngụy Báo hỏi:
– Nghe nói tiên sinh đang ở dưới cờ Hán vương, nay nhục lâm đến tệ bang hẳn có điều chỉ giáo?
Trương Lương nói:
– Khi trước Hán vương qua tệ quốc, mượn tôi đem đi đánh Tần. Việc xong, tôi đã trở về nước Hàn rồi. Mới đây Hán vương phá Tam Tần, định Hàm Dương, lại cho người đến mời tôi nữa. Từ ngày tôi trở về nước đã có ý rời bỏ phú quí công danh, không nghĩ đến cuộc đời trần thế, lấy cảnh vật tiêu dao. Tuy nhiên, Hán vương là bậc anh quân, đầy lòng nhân nghĩa, không đến e vô lễ. Vì vậy tôi phải đến yết kiến. Nay nhân đường về, ghé ngang qua đây tiện dịp vào thăm Ðại vương.
Ngụy Báo nghe nói mừng rỡ, đặt tiệc khoản đãi.
Trong lúc uống rượu, Ngụy Báo hỏi:
– Hiện nay sáu nước tung hoành, Hán, Sở giao chiến, theo cao ý của Tiên sinh thi việc hưng thịnh, tồn vong như thế nào, xin nói cho ta nghe thử?
Trương Lương nói:
– Nếu luận về thế sự thì xưa nay đạo đức bao giờ cũng tồn tại. Hán, Sở đang tranh nhau, mặc đầu Hán còn đang yếu, nhưng có ngày thành đạt. Sở tuy mạnh, nhưng có lúc phải diệt vong. Bằng chứng là chỉ trong vòng hai tháng. Hán vương phá Tam Tần, định Hàm Dương đến đâu dân chúng đều ngưỡng mộ. Yếu tố ấy quyết định cho tương lai. Vì, đã nói đến việc thiên hạ phải lấy lòng dân làm gốc. Hiện nay lòng dân không ai không hướng về Hán vương. Ðến như tôi, một kẻ không màng công danh phú quí việc đời gạt bỏ ngoài tai, thế mà được lời mời, không nỡ bỏ qua, phải đến tận nơi yết kiến. Còn như chư hầu hai nước lớn nhất là Yên, Tề vừa rồi cũng nạp cống xưng thần với Hán. Như thế đủ biết sự nghiệp nhà Hán sau này tất thịnh.
Ngụy Báo nghiêng mình, bưng chén rượu trao cho Trương Lương, và hỏi tiếp:
– Cứ như ý của Tiên sinh thì Hán vương sau này tất đoạt thiên hạ, lên ngôi thiên tử. Tôi tự nghĩ, tôi được thụ phong nơi đây nhưng khó giữ vững địa vị lâu dài. Nghe lời nói của Tiên sinh tôi muốn thuộc ý với Hán, chẳng hay Tiên sinh có vui lòng tiến cử chăng?
Trương Lương nói:
– Lương tôi vốn hâm mộ Ðại vương là người hiền, vì vậy đi qua đây phải vào yết kiến. Nếu Ðại vương muốn về Hán cũng không khó khăn gì. Hán vương là bậc đạo đức, khoan hậu, Ðại vương về Hán sẽ không mất vương vị mà còn được hưởng nhiều phú quý.
Chu Thúc đứng sau bình phong, thấy Trương Lương thu phục được Ngụy Báo, liền bước ra tâu:
– Xin Ðại vương chớ nghe lời Trương Lương, lỡ Bá vương hay được phát binh phạt Ngụy thì làm sao chống nổi? Tương lai chưa thấy, nhưng thực tại Sở mạnh hơn Hán nhiều.
Trương Lương nhìn Chu Thúc cười khanh khách, không nói.
Chu Thúc lấy làm lạ hỏi:
Trương Lương nói:
– Tôi cười Ðại phu là kẻ nông cạn, chỉ thấy được việc trước mắt mà không hình dung nổi việc tương lai. Vả chăng cái thế yếu mạnh không phải ở chỗ nhiều quân nhiều tướng, mà là ở chỗ có thắng hay là không thắng.
Chu Thúc đưa mắt nhìn Trương Lương, ngơ ngác hỏi:
– Tiên sinh muốn nói cái mạnh cái yếu như thế nào?
Trương Lương nói:
– Chương Hàm trấn thủ nơi Thượng Tần, quân hai mươi vạn, so với quân Hán thì quân Chương Hàm đông gấp năm lần, thế mà Hàn Tín chỉ dùng một trận thủy chiến, Chương Hàm phải tự sát. Như thế việc yếu mạnh không phải ở quân lực mà là ở chỗ biết thời thế.
Chu Thúc hỏi:
– Thế nào là biết thời thế?
Trương Lương nói:
– Trong thế chiến có ba điều lợi: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Về thiên thời, Hán vương trảm xà khởi nghĩa, ứng theo lòng trời, mặt rồng mũi cao, đi đứng có tường vân hiện thực là chân mệnh đế vương. Về địa lợi, Hán vương lui vào Ba Thục chỉnh đốn quân binh, chiếm Quan Trung là nơi đế đô quan trọng, lợi khí bừng bừng. Về nhân hòa Hán vương đem đạo đức đãi mọi người, bốn phương tùng phục, chư hầu mến yêu. So với Bá vương điều đó thật không có. Trước vào Quan Trung bội ước, giết Hoài vương, chôn sống mấy vạn dân, đem uy vũ trấn áp nhân tình, tuy bên ngoài bá tánh tùng phục, nhưng bên trong chan chứa oán hờn. Thời thế như vậy mà quan Ðại phu không thấy sao?
Chu Thúc bị Trương Lương nói một hồi, tinh thần rối loạn, không còn biết đường nào cãi lại.
Ngụy Báo đứng phắt dậy nói:
– Trương Tiên sinh luận rất cao kiến, nhà ngươi mau mang tả hàng biểu, chuẩn bị lễ vật để sang đầu Hán. Nếu sau này Hạng vương có đem binh phạt Ngụy, sẽ cùng Hán vương đồng tâm chống Sở đó mới thật la kế vạn toàn.
Trương Lương ung dung nói tiếp:
– Ðại vương muốn hàng Hán thì cứ sai người đem biểu đến dâng, không cần phái nhờ đến Lương tôi làm chi.
Vì nếu Lương tôi dự vào việc này e mang tiếng là thuyết khách mà Ðại vương vốn không ưa kẻ thuyết khách, chực thanh bảo kiếm để xử tội kẻ ấy kia mà.
Ngụy Báo và Chu Thác nghe Trương Lương nói, cả hai đều thẹn đỏ mặt nghĩ thầm:
– Quái lạ! Trương Lương có phép gì mà lại hiểu thấu được lòng kẻ khác?
Ngụy Báo đỡ lời:
– Xin Tiên sinh chớ nghĩ thế? Ta đâu dám nghi Tiên sinh là thuyết khách, và đâu có ý xâm phạm đến Tiên sinh. Tiên sinh là bậc siêu nhân ở đời này ai mà chẳng biết. Xin Tiên sinh vui lòng tiến cử cho.
Bấy giờ Trương Lương mới nhận lời đảm đương việc tiến dẫn.
Hôm sau, Trương Lương cùng Chu Thúc đến Hàm Dương, Hán vương hay tin mừng rỡ triệu vào yết kiến.
Chu Thúc bước vào quỳ lạy dâng biểu và các đồ cống lễ.
Hán vương sai mở biểu tuyên đọc.
Biểu rằng:
” Tây vương ngụy Báo cúi đầu trình tấu.
Trộm nghe, sông ngòi trăm nẻo, chung qui tụ về biển sâu, chim chóc ngàn nơi, cuối cùng tìm về cây rậm. Nước Ngụy tôi ở về phía Tây, ít chiêm Vương Hóa. Mới đây nghe Bệ hạ chế phục Tam Tần, Chương Hàm nộp mạng phú an Bách việt, Tề, Sở sợ uy. Thiên hạ qui tâm, chư hầu ngưỡng mộ, ấy vậy mệnh trời đã định, Bệ hạ là chủ muôn người, tôi xin tuân theo lẽ trời xưng thần nộp cống, ngữa mong soi xét, được hầu hạ long nhan “
.
Hán vương nghe lời biểu, lòng rất hân hoan, truyền mở tiệc khoản đãi Chu Thúc rất hậu.
Chu Thúc mừng rỡ, nghĩ thầm:
– Trung Lương khen Hán vương là bậc nhân đức, lời ấy quả không sai.
Hôm sau, Chu Thúc xin về, Hán vương truyền Trương Lương thảo phúc thư trao Chu Thúc đem về nước, lại ban ân tứ rất hậu.
Chu Thúc về đến nơi, ca tụng đạo đức của Hán vương với Ngụy Báo.
Ngụy Báo mừng rỡ mở thư ra xem.
Thư rằng:
” Hán vương kính trao Ngụy vương túc hạ.
Bang tôi nghe tiếng tức hạ đã lâu! Túc hạ là dòng dõi Tất Công nhà Châu, trót lầm theo phiên thần nước Sở, Bang tôi vẫn lấy làm tiếc. Nay túc hạ kết hiếu với tệ bang, hiệp lực đồng tâm, an bang tế thế, Bang tôi rất vui mừng, từ nay an nguy có nhau, lấy nhiệt tâm tương trợ. Túc hạ có lòng, Bang tôi lấy làm may mắn “.
Ngụy Báo đọc thư xong, sai tả hữu đem cất vào thủ viện, đoạn mở tiệc ăn mừng.
Thế là Tây Ngụy đã bội Sở về Hán rồi.
Trương Lương du thuyết Tây Ngụy đã thành công, liền đến Lạc Dương, đem theo Phàn Khoái, Quán Anh và một nghìn nhân mã. Lúc đi đường, Trương Lương dặn hai tướng cứ y kế mà làm. Hai tướng tuân lệnh.
Vua Lạc Dương là Thân Dương từ khi được Lục Giả trở về, chọn ngày họp mặt bàn quốc sự.
Một hôm, đang bàn bạc, bỗng có quân báo:
– Trương Lương từ Hàm Dương sang đây, và xin vào yết kiến.
Thân vương hỏi Lục Giả:
– Trương Lương thân hành đến đây chắc có điều quan trọng?
Lục Giả nói:
– Trương Lương đến tất vì Hán vương mà thuyết khách. Ðại vương đã có lòng về Hán, cũng nên mời Trương Lương vào tiếp đãi tử tế. Còn nếu Ðại vương một lòng phò Sở thì bắt quách Trương Lương giải về Bành Thành lãnh thưởng. Phạm Tăng vốn ghét Trương Lương, nếu Ðại vương bắt Trương Lương đem nạp thế nào cũng được Phạm Tăng tán tụng công đức Ðại vương trước mặt Bá vương. Như thế là nghiệp lớn của Ðại vương thêm vững bền.
Thân vương nói:
– Ta đã thụ phong với Sở lẽ nào bỏ Sở về Hán.
Lục Giả nói:
– Nếu vậy tôi xin lánh mặt. Lúc Trương Lương vào, Ðại vương không cần hỏi lời nào cả, chỉ truyền bắt Trương Lương là đủ.
Vua tôi bàn định xong, sai môn hạ ra gọi Trương Lương vào.
Trương Lương nghĩ thầm:
– Thân Dương bàn định một lúc lâu mới gọi ta, tất Lục Giả bày kế gì đây. Tuy nhiên, ta đã phòng bị trước thì còn lo gì nữa.
Nghĩ rồi, thong dong bước vào. Nhưng chưa kịp thi lễ Thân Vương đã chống gươm đứng lên trên thềm quát lớn:
– Trương Lương, ngươi đến đây tất du thuyết cho Hán vương. Trước đây Bá vương có chiếu chỉ, hễ gặp Trương Lương thì phải bắt giải nạp. Nay ngươi đến nước ta thực là hợp lúc.
Nói xong hô vũ sĩ bắt trói. Vũ Sĩ ra tay, bắt Trương Lương trói lập tức, không cho nói nửa lời.
Trói xong, Thân Vương truyền Quách My lãnh một ngàn quân, áp giải Trương Lương về Bành Thành.
Quách My vừa giải Trương Lương ra khỏi điện, Lục Giả bước ra nói với Thân vương:
– Quách My đến yết kiến Bá vương sợ không đủ trí khôn để ứng đối. Vậy tôi xin theo về Bành Thành, trước là để dò xem Bá vương đánh Tề, Lương như thế nào, sau là thông hiếu với Phạm Tăng, để Phạm Tăng rõ được thiện ý của Ðại vương.
Thân vương nghe nói rất vừa lòng, lập tức sai sắm sửa lễ vật để Lục Giả sang Bành Thành.
Lục Giả bái tạ, thẳng tiến lên đường, lòng riêng khấp khởi tự hào mình đã làm được một việc kỳ tuyệt.
Ngờ đâu Quách My giải Trương Lương đi chưa đầy hai mươi dặm, bỗng nghe trước mặt, trong khu rừng, có tiếng chiêng trống vang rền, rồi từ bên trong xông ra một tướng, hùng hổ quát lớn:
– Quân mã nào? Áp giải ai? Ðịnh đi đâu? Muốn sống phải nạp ba trăm cân vàng thì mới qua được.
Quách My vỗ ngựa đến nói:
– Ta là Ðại tướng ở Lạc Dương, phụng mệnh vua giải phạm nhân đến Bành Thành dâng nộp Bá vương. Nhà ngươi có mắt, có tai tất biết oai vũ của Bá vương rồi. Vậy nên nhường lối ta đi, kẻo mất đầu đó.
Viên tướng ấy nổi giận nói:
– Bá vương và Thân vương của bây ta coi như đứa con nít, đừng đem ra dọa vô ích.
Nói xong, tướng ấy cầm kích nhảy đến đánh. Quách My vội vàng nghênh chiến.
Chưa đầy hai hiệp đã bị tướng ấy phóng cho một kích, Quách My nhào xuống ngựa chết tươi.
Quân sĩ thấy vậy, vội vã điệu Trương Lương vào rừng lẩn trốn.
Tuy nhiên, tướng ấy đuổi theo rất gấp.
Vừa được ba bốn dặm thì gặp Lục Giả dẫn ba, bốn tên tùy tùng từ Lạc Dương đi đến.
Tướng ấy hét:
– Hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi.
Lục Giả thất kinh, nhìn kỹ té ra tướng ấy là Phàn Khoái.
Phàn Khoái hối quân trói Lục Giả lại, rồi chạy thẳng vào rừng giải cứu cho Trương Lương.
Khi Trương Lương được mở trói, trông thấy Lục Giả bị trói gô bên gốc cây, mỉm cười trách:
– Ngươi đã theo Hán vào Bao Trung ba năm rồi, Hán vương đối đãi với ngươi không bạc, cớ sao ngươi lại nỡ phản phúc?
Lục Giả nói:
– Tôi đi theo Hán vương cũng như Tiên sinh bỏ Hàn phò Hán vậy. Tiên sinh không quên được Hàn thì làm sao tôi quên được Ngụy?
Trương Lương cười lớn nói:
– Ngươi dẫu biện bác thế nào cũng không che được tội lỗi! Ðã đành rằng ngươi không nỡ quên Ngụy. Tuy nhiên, lấy cái cớ không quên ấy để phản phúc thật là kẻ tầm thường. Ngươi thấy ta có bao giờ phản Hán không?
Ngươi đem ta so sánh với ngươi là việc ngu xuẩn.
Lục Giả nói:
– Tôi đã hỏi vua Ngụy thờ Sở hay thờ Hán, vua Ngụy nhất định thờ Sở, vì vậy tôi mới hiến kế bắt Tiên Sinh để vua Ngụy trọn bổn phận làm Sở thần.
Phàn Khoái nghe nói nổi giận hét:
– Lục Giả bắt Tiên sinh nộp Sở để tỏ lòng trung của Thân vương ; vậy thì ta bắt Lục Giả về nạp cho Hán để tỏ lòng trung của ta, nói làm chi cho nhiều.
Dứt lời, bắt Lục Giả bỏ vào tù xa, giải về hướng Tây.
Quân của Thân vương theo giải Trương Lương thấy vậy bỏ chạy về Lạc Vương cấp báo.
Thân vương được tin, vội vã điểm một nghìn quân cấp tốc đến nơi. Nhưng chỉ thấy núi rừng hiu quạnh, không có một bóng người nào..
Còn đang do dự, bỗng gặp ba bốn hành khách, vác hành lý từ con đường lớn đi vào.
Thân vương sai quân hỏi thăm, khách đáp:
– Chúng tôi vừa ở con đường ấy đến đây, không gặp một nhân mã nào cả.
Ðang cơn sốt ruột, bỗng nơi ven rừng có một tiếng pháo lệnh, Phàn Khoái vung kích ra chặn giữa đường hét lớn:
– Ta tha chết cho đó, nhà ngươi hãy mau xuống ngựa quy hàng.
Thân vương đánh vài hiệp, thấy Phàn Khoái mạnh quá, liệu bề cự không lại, thúc ngựa chạy vào mé rừng.
Trời tối mịt, Thân vương chạy được một lúc, bỗng vấp vào một dây giăng ngang, cả người ngựa đều té xỉu.
Quân Hán bắt Thân Vương trói lại.
Phàn Khoái ra lệnh thâu quân, dẫn Thân Vương đem nạp cho Trương Lương.
Trương Lương trông thấy Thân vương vội bước đến mở trói mời ngồi, và nói:
– Lương tôi phụng mệnh đến mời Ðại vương họp binh đánh Sở, chẳng ngờ Ðại vương chưa đợi Lương tôi thưa, đã bắt ngay nộp Sở. Lương tôi buộc lòng phải bày mưu như vậy. Xin Ðại vương nghĩ kỹ hàng phục Hán đi.
Thân vương nói:
– Việc đã đến thế này tôi còn cưỡng lại được sao?
Vậy tôi xin mời Tiên sinh đến Lạc Dương để tôi thu xếp công việc rồi sẽ theo về Hán.
Trương Lương bằng lòng, cùng với Phàn Khoái kẻo về Lạc Dương.
Khi đến dưới thành, Thân vương đã thấy trên thành cắm cờ Hán. Một viên tướng chỉ xuống nói lớn:
– Ta là Hán tướng Quán Anh, phụng mệnh quân sư đến đây lấy thành. Nhà ngươi còn chỗ đâu mà trở về đây nữa.
Thân vương hoảng sợ, nghĩ thầm:
– Trương Lương là bậc thần nhân.
Lúc đó, Trương Lương thúc ngựa đến, gọi Quán Anh nói:
– Hãy mở cửa thành cho vào.
Cửa thành mở, Trương Lương dắt Thân vương vào.
Ðược một lúc lại có quân báo:
– Một toán quân Hán tiếp ứng, cầm quân là Chu Bột và Sài Vũ, hiện ở ngoài thành, muốn vào yết kiến Quân sư.
Trương Lương truyền hai tướng vào, hỏi ra mới biết, sau khi Trương Lương ra khỏi Hàm Dương, Hàn Tin sợ Trương Lương thiếu binh lực, nên cắt hai tướng ấy dẫn ba ngàn tinh binh theo sau đề phòng tiếp cứu. Nhưng hai tướng đến nơi thì đã được tin Trương Lương lấy Lạc Dương rồi.
Thân vương ngơ ngác nghĩ thầm:
– Hán vương có bầy tôi trí dũng như vậy, cơ nghiệp thế nào cũng thành. Nay mình về Hán là phải lắm rồi.
Hôm sau, Trương Lương đem Thân Vương, Lục Giả cùng các tướng trở về Hàm Dương phục lệnh.
Hán vương mừng rỡ, tiếp đón Thân Vương rất hậu, lại tha tội cho Lục Giả, sung vào làm tùy phái nơi dinh Nguyên soái.
Một hôm Hàn Tín bàn với các mưu sĩ:
– Nay nơi Lạc Dương và Tây Ngụy đã bình xong, Chúa thượng hằng mong việc Ðông Chinh, ngặt vì đức Thái công hiện nay còn ở Phong Bái, nằm trong tay của Hạng vương, các ngài có kế gì hay chăng?
Ðại tướng Vương Lăng đứng dậy nói:
– Tôi có hai người bạn thân tên Chu Cát và Chu Lợi, hiện đóng ở Nam Dương, quân sĩ hơn ba vạn. Tôi xin đưa tin cho hai người ấy mật đưa đức Thái công và hộ tống gia quyến đến đây.
Hàn Tín nghe nói mừng rỡ, liền tâu với Hán vương sai Vương Lăng đi đón Thái công.
Nhắc lại Bá vương, ở Bành Thành cử binh đi đánh Tề, Lương, việc chưa xong, xảy ra có quân báo:
– Ngụy Báo và Thân vương đều đã hàng Hán cả rồi.
Bá vương nổi giận, muốn cử binh đánh Hán, Phạm Tăng can:
– Hiện nay Tề, Lương chưa hạ được, chư hầu ly tán. Nếu Ðại vương Tây chinh, thì Bành Thành khó giữ. Chi bằng sai người đến Phong Bái bắt Thái Công đem về đây câu thúc, rồi truyền các lộ canh phòng cẩn mật, đợi khi hạ được Tề sẽ đề binh đánh Hán.
Bá vương nghe lời, sai bộ tướng Lưu Tín đêm một nghìn quân, lẻn sang đường Phong Trạch đến huyện Phong Bái bắt Thái công và gia quyến cả thảy 125 người, niêm phong tài sản, giao cho quan huyện coi giữ, rồi giải về Bành Thành.
Nhưng vừa đi được hơn ba mươi dặm, bỗng nghe trong rừng có tiếng pháo nổ, ba viên Ðại tướng là Vương Lăng, Chu Cát và Chu Lợi xông ra, chặn ngang đường, đánh giết Lưu Tín, cướp tù xa, đưa Thái công dong ruổi.
Toán quân Sở bị thua, chạy về báo với Bá vương, Bá vương nổi giận, sai Chung Ly Muội và Anh Bố đem ba ngàn quân đuổi theo.
Lúc ấy bọn Vương Lăng đã đưa Thái Công đến thành Hàn Nam, bỗng thấy phía sau cát bụi bay nghịt trời.
Vương Lăng nói với Chu Cát và Chu Lợi:
– Quân Sở đuổi theo, hai ông phải đi đoạn hậu, để tôi hộ vệ Thái công và gia quyến đi trước.
Chu Cát và Chu Lợi theo lời, đóng quân lại bên vệ đường thẳng mấy chốc, Chung Ly Muội và Anh Bố đã đuổi kịp. Chu Cát và Chu Lợi xông ra ngăn cản, nhưng đánh không lại, hai tướng đều tử trận. Hơn ba ngàn quân Hán đều đã bỏ chạy tán loạn.
Anh Bố và Chung Ly Muội thấy trời đã tối, không dám đuổi theo. Ðóng quân lại một nơi đợi sáng hôm sau sẽ truy nã.
Vương Lăng được tin hai bạn mình từ trận, đêm ấy vội đưa Thái công suốt đêm băng rừng vượt núi, không dám dừng chân. Ði được hai ngày thì bọn Anh Bố đuổi theo kịp.
Ðang cơn bối rối, bỗng trong rừng có một đạo quân xông ra, cờ đề hai chữ “Hán tướng”.
Cầm đầu đạo quân ấy là Chu Bột và Trần Vũ. Hai tướng xông ra chặn Anh Bố và Chung Ly Muội lại.
Vương Lăng thừa cơ hội phò gia quyến Thái công thoát qua khỏi núi.
Anh Bố và Chung Ly Muội đuổi theo suốt mấy ngày, người mỏi, ngựa mệt, nay gặp Hán tướng đánh sao cho lại, hai bên giao chiến một hồi, quân Anh Bố đuối sức lui dần.
Chung Ly Muội bàn với Anh Bố:
– Quân Hán đến cứu viện, thế mạnh lắm, quân ta đường xa địch không nổi, chi bằng thừa lúc trăng sáng ta rút quân là hơn.
Anh Bố nghe lời ra lệnh lui binh.
Vương Lăng bảo hộ Thái công về đến Hàm Dương, Hán vương được tin ra khỏi thành nghênh tiếp.
Cha con gặp nhau, gia đình đoàn tụ, nỗi mừng tràn ngập cả kinh thành.
Giữa lúc đó Anh Bố và Chung Ly Muội kéo tàn quân trở lại Bành Thành, mặt buồn rười rươi, vào yết kiến Bá vương tâu trình tự sự.
Bá vương hỏi:
– Vương Lăng là người thế nào lại lắm mưu chước như vậy?
Phạm Tăng nói:
– Vương Lăng là một mưu tướng, lại là người chí hiếu. Năm trước, Vương Lăng tụ đảng ở Nam Dương rồi theo phò Hán vương. Hiện nay mẹ Vương Lăng còn đang ở với người con thứ hai là Vương Trạch, làm nghề cày ruộng nơi huyện Bái. Nếu ta bắt được Lăng mẫu đến đây, rồi sai người dụ Vương Lăng, ắt Vương Lăng vì hiếu về hàng Sở.
Bá vương lập tức sai người đến huyện Bái, bắt Lăng mẫu dẫn về Bành Thành, và dụ rằng:
– Ta nghe con mụ là Vương Lăng, hiền hòa, dễ dạy, nếu mụ bảo Vương Lăng về hàng Sở, ta sẽ phong tước Vạn hộ hầu, cả nhà đều hưởng lộc trời. Mụ hãy viết một phong thư, ta sai người đem đến.
Lăng mẫu chỉ cúi đầu không đáp.
Phạm Tăng mật tâu với Bá vương:
– Xin cứ giam Lăng mẫu một nơi, sai người trông coi tử tế chờ khi quân Hán đến cướp cõi, bấy giờ có kế hay.
Bấy giờ Hán vương ở Hàm Dương, quân thế mỗi lúc một lừng lẫy, liền gọi quần thần bàn việc đánh Sở.
Hàn Tín tâu:
– Quân ta dẫu mạnh, nhưng bên Ðông còn có Ân vương ngăn trở, phải phục được Ân vương đã. Vả lại, tuế tinh năm nay chưa được lợi, xin cứ chiêu tập hào kiệt, luyện tập quân sĩ, chờ đến sang năm sẽ hay.
Hán vương khen phải. Hàn Tín liền bái biệt, lĩnh quân đi đánh Ân vương, kéo đến Hà Nội, cách năm mươi dặm hạ trị.
Ân vương là Tư Mã Ngang biết trước, đã sai quân đóng đồn. Cách bên ngoài ba mươi sáu dặm, và cắt quân phòng thủ bốn mặt thành, rồi hội các tướng thương nghị.
Ân vương hỏi triều thần:
– Hàn Tín quân nhiều thế mạnh, lại lắm chước quỉ, mưu thần, ta phải dùng cách gì để địch lại?
Mưu sĩ Ðỗ Văn Ðại nói:
– Cứ như ý tôi, chỉ nên phòng thủ cẩn mật, đoạn sai người về Bành Thành phi báo với Bá vương, chớ nên khinh chiến.
Ðại tướng Tôn Dần nói:
– Hàn Tín ở xa đến đây, người mỏi, ngựa mệt, ta cần phải đánh ngay, nếu diên trì khó thắng.
Phó tướng Ngụy Hanh nới:
– Ðánh là phải, nhưng việc cầu cứu cũng cần thiết.
Ân vương nghe lời, một mặt sai người phi báo về Bành Thành, một mặt sai Tôn Dần điểm quân xuất trận.
Hàn Tín vừa hạ trại xong, Tôn Dần đã đến ngay trước dinh khiêu chiến.
Hàn Tín vỗ ngựa ra, hét lớn:
– Ân vương nhà ngươi không biết cơ trời, không rõ nhân thế. Hiện nay chư hầu đều hàng phục Hán triệu, nước ngươi nhỏ bé, sao dám kháng cự?
Tôn Dần nói:
– Hán vương nhà ngươi cướp được Hàm Dương, như vậy cũng đủ lắm rồi, cớ sao còn đem lòng tham dấy loạn khắp nơi! Thật không biết biết sức mình.
Phàn Khoái đứng sau nghe nói, nổi giận, vỗ ngựa tới đâm nhầu một kích. Tôn Dần rước đánh. Hai bên đánh đến năm mươi hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại.
Ngụy Hanh thấy Tôn Dần không địch nổi Phàn Khoái, liền xem đến đánh giúp. Bên kia, Tiết Ân và Trần Bái thấy vậy cũng xông ngựa vào trợ lực với Phàn Khoái.
Trận chiến bừng sôi, bụi cát bay nghịt trời.
Ân vương đứng trên thành trông thấy, vội vã đem một đạo quân, mở cửa thành ra tiếp ứng.
Hàn Tín cũng vội vã sai Chu Bột, Sài Vũ, Lư Quán và Ngân Hấp ra đối địch.
Ân vương đánh một hồi, liệu thế không thắng nổi, bèn thu quân vào thành. Hàn Tín xua quân đuổi theo vây hãm.
Nhắc lại, sứ thần của Ân vương tuân lệnh đến Bành Thành cầu cứu.
Nhưng đến nơi Bá vương đã đem quân đi đánh Tề, Lương nên vắng mặt.
Sứ giả lại thân hành đến địa phận Tề, Lương để dâng thư.
Bá vương được thư, mở ra xem, nổi giận hét lớn:
– Không ngờ thằng thất phu Lưu Bang ngày nay dám hoành hành như vậy.
Liền gọi Phạm Tăng đến hỏi:
– Nay Tề, Lương chưa hạ được, nếu giải binh đi cứu Hà Nội e lòng quân chán nản. Ta định sai người đi thế có được chăng?
Phạm Tăng nói:
– Hàn Tín không phải là tay vừa. Ðại vương không thân chinh thì không ai địch nổi. Tuy nhiên, việc đánh Tề Lương đã lỡ, không thể bỏ đi được, xin Ðại vương sai Hạng Trang, Quí Bố đem ba vạn quân thẳng đến Hà Nội phòng bộ, chờ khi hạ được Tề Lương sẽ di binh đến phá Hán. Chừng ấy, ta có thể điều binh chư hầu trợ lực nữa.
Bá vương nghe lời theo, sai Hạng Trang và Quý Bố đem binh cứu Hà Nội.
Lúc bấy giờ, Hàn Tín vây Hà Nội mấy ngày mà không phá nổi, nên mật nghị với chư tướng rằng:
– Hà Nội thành cao, hào sâu, Ân vương cố thủ mãi, khó mà phá vỡ được. Nếu để diên trì, Bá vương cho quân đến cứu viện, làm nội ứng ngoại hiệp, quân ta tất bị đẩy lui Các tướng phải lãnh mật kế ta thi hành như thế mới được.
Chư tướng vâng lệnh, chia nhau theo nhiệm vụ cắt đặt lại sai dọn dẹp, thu xếp hành trang giả cách lui quân.
Quân canh trên thành thấy vậy vào báo với Ân vương.
Ân vương lên mặt thành xem, quả thấy quân Hán rút lui dần, vòng vây thưa thớt, hến gọi mưu sĩ Ðỗ Văn Ðại đến bàn:
– Có lẽ Hàn Tín nghe được tin Bá vương sắp đưa binh đến đây cứu viện, nên sợ mà rút lui chăng?
Ðỗ Vạn Ðại nói:
– Hàn Tín rất nhiều quỷ kế, không thể lường được. E rằng hắn giả cách lui quân để gạt ta đuổi theo rồi phục binh cướp thành? Ðại vương cần phải xem xét kỹ càng kẻo lầm mưu đó.
Ân vương liền sai vài tên quân ra khỏi thành vài mươi dặm, thám thính địch tình.
Vừa ra đến nơi, gặp mấy tên quân Hán đang khuân vác hành trang có vẻ hấp tấp lắm.
Quân thám thính của Ân vương giả cách hỏi:
– Sao các anh không đánh thành lại sắp sửa ra về?
Mấy tên quân Hán đáp:
– Ðánh thành để chịu chết sao? Hôm qua có tin Bá vương đem quân từ Hà Bắc đến đây tiếp cứu. Hán vương không dám đối địch với Bá vương, nên sai người triệu Hàn Nguyên soái về. Nhân mã đã lui hết cả rồi, chỉ còn một số chúng tôi ở lại khuân vác những đồ nên ở lại mà thôi.
Quân thám thính mừng thầm, trở vế báo lại với Ân vương.
Ân vương nói:
– Thế thì ta đem quân truy kích ắt chúng sẽ không còn manh giáp mà trở về.
Liền ra lệnh cho Tôn Dần, Ngụy Hanh dẫn một vạn quân đuổi theo. Còn mình, cũng đem một vạn quân làm hầu ứng. Trong thành chỉ để hơn năm trăm ngàn nhân mã.
Tôn Dần và Ngụy Hanh đuổi theo quân Hán hơn năm mươi dặm vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Hai bên đường cây cối um tùm. Trời đã xế bóng, Tôn Dần truyền đóng quân tạm nghỉ. Bỗng nghe trong rừng rậm có tiếng pháo nổ, tiếp theo có tiếng vó ngựa dồn dập.
Tôn Dần và Ngụy Hạnh còn đang ngơ ngác, thì trong rừng xông ra hai viên đại tướng Chu Bột và Sài Vũ.
Hai tướng này không nói gì cả, huơi đao lược chiến.
Ðánh một hồi, đạo quân của Tôn Dần và Ngụy Hanh bị cắt ra làm hai đoạn. Tôn Dần liệu chống chế không nổi, liền thu quân bại tẩu.
Ngụy Hạnh thấy tiền quân bị thua, cung rút lui, không dám tiến.
Ðàng sau, Ân vương dẫn đạo quân hậu vệ vừa đến nơi, bỗng thấy đàng sau lửa cháy ngất trời người ngựa đều bấn loạn, không biết đàng nào lẩn tránh. Hai bên rừng quân phục của Hàn Tín nổi dậy chém giết quân của Ân vương vô số.
Ân vương toan ra lệnh mở huyết lộ để tháo lui thì bỗng bị Phàn Khoái sảy ngựa đến bắt sống giữa đám loạn quân.
Tôn Dần và Ngụy Hanh trốn ra khỏi vòng vây, đi tìm Ân vương, nhưng không thấy đâu cả, chỉ thấy quân Hán trùng trùng điệp điệp, tiếng la hét dậy trời.
Bóng tối bắt đầu rùm cả núi rừng, mùi lửa, mùi thịt khét, lẫn với mùi tạnh hôi xông lên không chịu nổi.
Hai tướng không biết nơi nào chạy nữa, đành núp dưới gốc cây để chờ sáng sẽ hay. Chẳng ngờ Hàn Tín đứng trên gò cao, sai quân đốt đuốc đi tìm. Ðến nơi thấy hai người đang ôm nhau núp bóng.
Trương Hán hét lớn:
– Hai tướng Hà Nội! Ân vương nhà ngươi đã bị bắt rồi hãy đầu hàng mau kẻo chết!
Tôn Dần và Ngụy Hạnh sợ hãi, tình nguyện đầu hàng.
Hàn Tín liến thu quân, kéo đến mặt thành.
Trong lúc đó Phàn Khoái, sau khi bắt được Ân vương, gạt Ðỗ Vạn Ðại mở cửa thành rồi. Nên lúc Hàn Tín đến thì đã cắm toàn cờ Hán.
Quân giữ cửa thấy Hàn Tín đến, vội vã mở cửa nghinh tiếp.
Hàn Tín vào truyền dẫn Ân vương đến mở trói mời ngồi và nói:
– Xin đại vương cứ tự nhiên cho.
Ân vương khúm núm thưa:
– Tôi là tù mất nước, Nguyên soái không giết đã là may lắm rồi, dám đâu đồng tọa.
Hàn Tín nói:
– Ðại vương chớ nên quá khiêm tốn. Hán vương là bậc khoan nhân, đại độ, chuyên lấy nhân nghĩa đãi mọi người. Dẫu kẻ có tội cũng không nỡ giết. Nếu Ðại vương chịu đầu Hán, góp công trong việc trừ Hạng Vũ, tôi chắc chắn ngôi vương tước không mất.
Ân vương mừng rỡ, truyền lệnh cho các tướng, huyện quy hàng. Thế là Hàn Tín đã bình định xong Hà Nội, liến viết tiệp sai người về Hàm Dương báo tin.
Lúc bấy giờ Hạng Trang và Quý Bố mời lẽo đẽo dẫn cứu binh đến nơi.
Vừa được tin Hàn Tín đã chiếm thành rồi, Quí Bố bàn với Hạng Trang:
– Thành đã bị chiếm, Ân vương đã đầu giặc, chúng ta còn làm cách nào được nữa. Chi bằng trở về báo với Bá vương liệu định.
Hạng Trang và Quí Bố cứu Hà Nội không kịp, kéo binh trở về tâu với Hạng vương:
– Chúng tôi phụng mệnh đi cứu Ân vương, nhưng đến nơi Ân vương đã bị bắt thành đã bị chiếm vì vậy phảỉ trở về phục mệnh.
Hạng vương vỗ án mắng:
– Ta sai chúng bay đi cứu Hà Nội việc không lo để đến nỗi thành mất đất không còn. Hà Nội là nơi thị trấn quan trọng, để cho mất là tội chậm trể của các ngươi không thể dung tha được.
Trần Bình đứng lên tâu:
– Hàn Tín dụng binh chẳng kém Tôn Ngôn dẫu hai tướng có đến kịp cũng không địch nổi. Ðại vương chớ nên bắt tội hai tướng. Nay tôi xin cùng với Phạm quân sư lãnh một đội quân thu phục Hà Nội, ngăn quân Hàn Tín, không cho tràn xuống phía Ðông, để Ðại vương an lòng đánh Tề, Lương. Lúc xong việc sẽ di binh về mặt Tây phá Hán.
Bá vương nổi giận nói:
– Lúc trước Ân vương cầu cứu, nhà ngươi cũng ở luôn bên cạnh ta, sao không được nửa lời! Nay Hà Nội đã mất rồi, còn tài nào khôi phục nổi nữa. Nhà người chỉ là kẻ vô dụng.
Nói xong đuổi Hạng Trang và Quý Bố ra, đồng thời cách chức Trần Bình.
Trần Bình lui về tư thất, suốt ngày hậm hực không an, mật sai bọn gia đinh thu xếp hành trang đưa gia quyến về Dương Vu, rồi một mình xách gươm lần theo đường nhỏ, nhắm hương Lạc Dương thắng đến.
Trần Bình đi suốt ngày đêm, không hề ghé nghỉ một nơi nào. Ðến chỗ nào đói thì dừng lại ăn rồi tìm khe uống nước, xong lại tiếp tục đi.
Cuộc hành trình cực nhọc như thế không biết đã mấy hôm. Lúc Trần Bình đến bờ sông Hoàng Hà thì trời đã sẩm tối, nước thu rào rạt, đêm thu lạnh lùng, bờ sông vắng lặng không có bóng ghe thuyền.
Trần Bình đi vòng sang cồn cát sau chân núi, bỗng thấy một con thuyền nhỏ lắc lư trên mặt sóng.
Quá mừng rỡ, Trần Bình lên tiếng gọi, chiếc thuyền ghé vào, đồng thời hai chàng thanh niên lực lưỡng trạc độ hai mươi lăm tuổi, từ trên thuyền nhảy xuống, nhìn Trần Bình hỏi:
– Khách đi đâu trong đêm vắng?
Nhìn qua tướng mạo hai thanh niên kia, Trần Bình đoán chắc là bọn thủy khấu, nhưng đã lỡ, không dám chạy trốn đi đâu được, liền đáp:
– Tôi ở xa, đến đây tìm thăm người bà con.
Hai thanh niên vội đỡ Trần Bình lên thuyền.
Thuyền ra giữa vời, hai gã thanh niên nọ cầm dao, nói chuyện xầm xì, toan giết Trần Bình đoạt của.
Trần Bình ngồi trong khoang thuyền thấy rõ nguy cơ như vậy nhưng nghĩ thầm:
– Quả là bọn thủy khấu rồi! Ta đoán không sai.
Nếu không làm kế này để chúng giết mất mạng.
Nghĩ rồi cỡi quần áo, lướt ra nói lớn:
– Tôi dẫu là khách qua đường nhưng cũng biết chút ít nghề chèo, chống, xin ra đây để giúp sức, nhờ các ngài làm ơn cho tôi sang sông.
Hai tên hải khấu thấy Trần Bình cởi bỏ áo quần, liền vào khoang lục lạo một hồi, không thấy có bạc vàng gì cả liền bảo nhau:
– Tên này chi có một bộ áo quần và một thanh kiếm giết nó làm gì.
Nhờ đó mà Trần Bình khỏi chết.
Thuyền ghé bờ đã nửa đêm, Trần Bình không còn quần áo, thoát khỏi con thuyền nguy hiểm đó, cắm đầu chạy
Ðến một nhà hàng cơm, Trần Bình bước đến gõ cửa.
Chủ quán trông thấy Trần Bình trần truồng vội hỏi ngay:
– Có phải khách qua đò bị bọn thủy khấu cướp bóc chăng?
Trần Bình giả cách khóc lóc thảm thiết, nói:
– Tôi là người Hà Nam, sang buôn bán ở đất Sở, nay đem lòng về quê, qua đó rủi bị quân cướp đoạt hết, lại giết mất hai đứa đầy tớ của tôi. Ðêm khuya xin ngài làm ơn cho tá túc, và cho tôi xin đỡ một bộ áo quần cũ để che thân, ơn ấy ngàn ngày chẳng dám quên.
Chủ quán thấy Trần Bình tướng mạo khôi ngô, ăn nói thanh nhã, liền lấy áo quần cho mặc, và đem rượu thịt ra đãi.
Bình ngủ nán nhà hàng cơm một đêm. Sáng hôm sau dạy sớm thẳng đến Lạc Dương, rẽ sang Hàm Dương, nhanh đến nước Hán.
Ðến Hàm Dương, Trần Bình trước tiên vào yết kiến bạn cũ là Ngụy Vô Chi, tỏ ý bỏ Sở về Hán, và nhờ Vô Chi tiến cử.
Ngụy Vô Chi lưu Trần Bình tại nhà, rồi đem việc ấy tâu với Hán vương.
Hán vương hỏi:
– Có phải Trần Bình năm trước ta đã gặp ở Hồng Môn đó chăng?
Ngụy Vô Chi nói:
– Tâu Ðại vương, chính người đó.
Hán vương nói:
– Ta hoài vọng người đó đã lâu, ngay về đây còn gì quí hơn.
Bèn bảo Vô Chi đưa Trần Bình vào kiến.
Hán vương bước xuống nắm tay Trần Bình nói:
– Năm trước ta gặp Tiên sinh ở Hồng Môn, lòng đang thấp thỏm không quên nay lại được đồng triều, thực là ý trời định.
Trần Bình bái tạ, lòng vui khôn xiết. Hán vương phong Trần Bình làm chức Ðô úy, đêm ngày gần gũi bên cạnh không rời.
Chư tướng thấy vậy đàm luận:
– Một đứa trần truồng ở đâu trốn đến, chưa biết lòng trung hậu thế nào mà Chúa thượng đã cho làm đến chức Ðô úy, lỡ sanh biến thì thế nào?
Tùng đàm luận ấy thấu đến tai Hán vương, nhưng Hán vương vẫn trọng đãi Trần Bình như thường.
Một hôm, Chu Bột nói với Hán vương:
– Trần Bình không phải là kẻ trung hậu Tôi nghe trước kia, khi còn ở nhà, hắn thường ăn cắp tiền của chị dâu, nay làm Hộ quân, ăn tiền của Chủ tướng, xem đó đủ biết hắn là người phản phúc, xin Ðại vương chớ dùng.
Hán vương nghe nói, liến gọi Ngụy Vô Chi vào trách.
Ngụy Vô Chi nói:
– Tôi tiến cử Trần Bình là người có tài, còn nếu Ðại vương nói đến người có hạnh thì nay có nhiều hiền như Vĩ Sinh, Ðại vương muốn dùng chăng?
Hán vương gọi Trần Bình đến nói:
– Tiên sinh trước kia thờ Ngụy, sau bỏ Ngụy về Sở, nay lại bỏ Sở về Hán. Người tín hạnh đâu làm thế? Vả lại tiên sinh còn ăn tiền của chư tướng nữa, hành động ấy ta thực không bằng lòng.
Trần Bình nói:
– Muôn tâu Ðại vương, hạ thần không phải là vật vô dụng, chỉ tùy ở người biết dùng bay không biết dùng mà thôi. Vua Ngụy không biết dùng nên tôi phải về Sở, vua Sở cũng không biết dùng nên tôi bỏ Sở về Hán. Tôi hằng được nghe Ðại vương là người khéo dụng, bởi vậy không ngại đường xa, treo non vượt sông đến đây. Song chỉ vì tôi trốn Sở, đi qua sông bị bọn hải khấu cướp bóc mất sạch, nếu không ăn tiền của chư tướng thì lấy gì chi dụng? Thiết tưởng, điều đó chỉ là tiết nhỏ, mà việc hết lòng giúp vua dựng nước mới là điều lớn. Nay Ðại vương quở tôi ăn tiền, tôi không chối, nhưng những mưu kế của tôi vạch ra, Ðại vương có dùng được chăng? Nếu Ðại vương thấy tôi là bất tài xin cho tôi được phép đem thân trở về làng cũ, thì tôi đội ơn Ðại vương không biết dường nào.
Hán vương nghe nói vội vàng xin lổi, lại hậu thưởng Trần Bình, sai cai quản các tướng. Và, cũng từ đấy không ai còn dám ganh tỵ nữa.
Hán vương đem quân vào thành Lạc Dương, truyền khắp trung sĩ mặc đồ trắng, kéo cờ trắng để tang cho vua Nghĩa Ðế. Suốt ba ngày, truyền hịch đi khắp thiên hạ.
Bài hịch như sau:
“Thiên hạ lập vua Nghĩa Ðế để trừ nhà Tần tàn bạo, đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Nhà Tần đã trừ được, lại sanh ra một Hạng Vũ, tàn ác không kém vua Tần, khiến bá tánh chửa thoát khỏi cảnh tai ương. Tôi phát binh từ Quan Trung, thu quân ở Tam Hà, xin cùng với chư hầu đánh Sở, hỏi cái tội giết vua Nghĩa Ðế“
Hịch văn truyền đi khắp nơi chưa đầy một tháng, binh mã các lộ kéo đến hợp nơi Lạc Dương hơn năm mươi vạn.
Chỉ vì một lời nói nhà lòng người qui hướng đến thế, đủ biết “thiên lý tại nhân tâm”. Lời xưa bất hủ.
Hán vương cho triệu Hàn Tín đến nói:
– Nay các vua chư hầu đều đã họp binh ớ Lạc Dương hơn năm mươi vạn. Sức mạnh ấy có thể địch Sở được. Vậy Nguyên Soái củng nên tính việc Ðông chinh.
Hàn Tín nói:
– Muôn tâu Ðại vương, phép dùng binh phải nhắm tại nhân bản: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nay các chư hầu kéo đến qui phục, đó là được điểm nhân hòa, chiếm được Quan Trung, ấy là điều địa lợi, song năm nay thiên mệnh của Ðại vương chưa tốt, thiếu điểm thiên thời.
Ấy vậy, xin Ðại vương hãy nghỉ quân dưỡng khí, huấn luyện nhân mã, đợi đến sang năm sẽ cử sự. Tôi nhất thuyết phá Sở không khó. Ví bằng cử binh năm nay tôi thật không dám vâng mệnh.
Hán vương nói:
– Năm trước ta mới dùng Nguyên soái chưa đầy ba tháng, Nguyên soái đã khuyên ta Ðông chinh. Nay Quan Trung đã được, binh thế lại thịnh gấp mấy năm xưa, thế nay Nguyên soái lại rụt rè, thật ta không hiểu nổi.
Hàn Tín tâu:
– Ðại vương dẫu được Quan Trung, song chưa từng đấu chiến với Hạng vương lần nào cả. Thế lực Hạng vương nay còn cường thịnh lắm, hiện đang đánh Tề, Lương, Yên, Triệu. Ta nên chờ cho các nước kia phân bớt sức mạnh của Sở rồi sẽ đánh. Như vậy mới cầm chắc sự thành công.
Hán vương thở dài nói:
– Dịp tốt không phải lúc nào cũng có, lòng dân không phải lúc nào cũng giữ được. Nay Hạng Vũ đem quân chinh phạt chư hầu, chính là lúc ta nên thừa cơ mà đánh Sở. Nguyên soái đã không đồng ý với ta, vậy thì hãy đem bản bộ nhân mã trở về trấn thủ Tây Tần, để ta đi Ðông chinh. Nếu có điều gì nguy cấp, Nguyên soái đem binh đến cứu. Công ấy cũng chẳng nhỏ.
Trương Lương cũng đến khuyên giải, nhưng Hán vương nhất định không nghe.
Hàn Tín lại tâu:
– Hạng vương kiêu dũng thiên hạ vô địch, Ðại vương phải suy xét kỹ càng, chớ nên khinh địch.
Lịch Sinh nói:
– Ý Chúa thượng đã quyết, thế thì Nguyên soái ngồi ở nhà lo lắng sao bằng theo Chúa thượng cùng đi cho được chắc ý hơn.
Hàn Tín lắc đầu nới:
– Không được! Ðất Tam Tần mới thu phục, nhân tâm chưa định. Vả lại đó là căn bản, tôi cần phải trấn thủ, vạn nhất có điều gì bất lợi, thì đó là nơi dùng để quật khởi sau này.
Nói xong, đem ấn tín nộp trả cho Hán vương, rồi bái tạ, dẫn quân bản bộ trở về Hàm Dương trấn thủ.
Hán vương đem đại binh sang sông. Ði đến đâu, quận huyện đều quy phục đến đấy.
Khi gần đến Trần Lưu, Trương Lương tâu:
– Chủ cũ tôi bị Hạng Tịch giết, nay có cháu là Cơ Tín, hiện phủ dương nơi các nhà Công tử, xin Ðại vượng truyền hịch, dùng làm vua, trấn nơi Trần Lưu, tức cũng là một phiên trấn của nhà Hán ta vậy.
Hán vương nhận lời, sai Trương Lương cầm cờ tiết, phong Cơ Tín làm Hàn vương, lại chọn người hiền đức trong đám Công tử là Cơ Khang, phong làm Trần Lưu quan để giúp Hàn vương.
Trương Lương lãnh mệnh, và tâu:
– Tôi đi Trần Lưu độ một tháng sẽ trở lại yết kiến Ðại vương nơi Bành Thành. Nay xin Ðại vương lựa trong hàng tướng cử ra một người Nguyên soái để điều dụng.
Trương Lương đi rồi, Hán vương đem binh tiến phát, qua đò sông Hiệp Hà, quân sĩ tranh nhau sang trước chen nhau vấp ngã, hò reo ầm ĩ, không kỷ luật. Chư tướng ngăn không được. Hán vương gọi Lục Giả và Lịch Sinh đến bàn:
– Ba quân không nghiêm lệnh vì không có Nguyên soái ta định lựa một người trong hàng tướng lập làm Nguyên soái. Nay chỉ có Ngụy Báo đáng làm chức ấy các người nghĩ sao?
Lục Giả nói:
– Ngụy Báo tính thực thà, sợ không đủ tài làm Nguyên soái.
Lịch Sinh nói:
– Trương quân sư vẫn thường khinh Ngụy Báo. Về Ngụy Báo cũng không được các tướng tin yêu, sợ khó lòng quản thủ ba quân.
Trần Bình tâu:
– Ngụy Báo là dòng dõi Ngụy vương năm đời làm tướng, môn hộ trọng vọng, so với Hàn Tín thì khác hẳn, lẽ nào không phục nổi ba quân.
Hán vương nghe lời Trần Bình, ngay ngày hôm ấy phong Ngụy Báo làm Nguyên soái điểm duyệt ba quân kéo thẳng đến Bành Thành.
Lúc ấy, Hạng vương đi đánh Tề, Lương, Yên, Triệu chưa về. Bành Thành hiện có Bành Việt trấn thủ Hán vương sai Lục Giả đem thủ thư đến dụ Bành Việt.
Bức thủ thư như sau:
“Hán vương thủ thư chuyển đến Bành túc hạ ngưỡng khán.
Hạng Vũ phản nghich, giết vua Nghĩa Ðế, trăm họ oán hờn, chính sách lại tàn bạo, khiến sinh linh khốn đốn. Tướng quân vốn người trí dũng, sao chịu làm tôi kẻ tặc loàn. Ta cử binh đến đây cốt rửa thù cho vua Nghĩa Ðế giải ách cho muôn dân. Nếu tướng quân theo về Hán thì ngôi công hầu chẳng mất, tướng quân nên tự liệu. “
Bành Việt xem thư xong mừng rỡ, mở cửa thành ra nghênh tiếp. Hán vương vào thành, phủ dụ trăm họ. Ðoạn truyền Ngụy Báo chỉnh bị ba quân để phòng giao chiến với quân Sở kéo đến.
Tối hôm ấy, Hán vương vào cung nội, thu các bảo vật cùng mỹ nữ, và đặt tiệc rượu yết hội.
Ngu Tử Kỳ cứu được vợ Hạng Vũ là Ngu Cơ thoát ra khỏi thành, chạy về hướng Bắc.
Hán vương không đuổi theo, cứ uống rượu và hát xướng suốt ngày.
Bấy giờ văn vũ, tướng tá đều không chịu ước thúc cùng Ngụy Báo.
Ngụy Báo tức giận đánh đập quân sĩ, và mắng nhiếc các tướng, do đó, lòng quân mỗi lúc một rời rã, biếng nhác.
Ngu Tử Kỳ hộ tống Ngu Cơ và gia quyến Hạng Trương đến Sở doanh, báo tin Bành Việt đã mở cửa thành đầu Hán, và hiện quân Hán đang mở tiệc vui say trong thành.
Hạng vương nổi giận hét như sấm:
– Lưu Bang lớn mật, dám chiếm kinh thành của ta.
Ta thề sống chết với Lưu Bang một phen.
Liền cấp tốc sai Long Thư và Chung Ly Muội lĩnh binh đánh Tề, còn mình dẫn ba vạn quân, ngày đêm đi miết về Bành Thành, cách mười dặm hạ trại, sai người đưa chiến thư cho Hán vương.
Ngụy Báo hay tin Hạng vương kéo quân đến, vội vàng hội chư hầu và chư tướng thương nghị, rồi chia quân ra làm năm đạo: Ðạo thứ nhất: Ân vương Tư Mã Ngang. Ðạo thứ nhì: Lạc Dương vương Thần Dương. Ðạo thứ ba: Thường Sơn vương Trương Nhĩ. Ðạo thứ tư: Hán vương và chư tướng. Ðạo thứ năm: Ngụy Báo tự lãnh Nguyên nhung đi áp hậu.
Cắt đặt xong, Ngụy Báo sai Tư Mã Hân, Ðổng Ể và Lưu Trạch giữ Bành Thành, làm quân ứng tiếp.
Ngày hôm sau, Ngụy Báo nai nịt gọn gàng, lên ngựa ra khỏi thành năm dặm, bày sẵn trận thế rồi đem năm đạo nhân mã tiến phát.
Bỗng thấy trong đám cờ Long phượng nhật nguyệt, Hạng vương cỡi ngựa Ô truy, cầm trường thương xông đến hét lớn?
– Lưu Bang, hãy ra đây chịu trói.
Ðạo quân thứ nhất của Hán là Tư Mã Ngang ra tiếp chiến. Hạng vương nổi giận mắng:
– Thằng nghịch tử! Ta không phụ ngươi, sao người lại nỡ phản ta?
Tư Mã Ngang nói:
– Ðại vương giết vua Nghĩa Ðế, hành động ấy tôi không phục, nên bỏ về Hán.
Hạng vương hét lên như sấm, làm cho Tư Mã Ngang thất kinh ngã nhào xuống ngựa. Hạng vương bước tới đâm một thương, Tư Mã Ngang định đưa thương ra đở nhưng con ngựa của Hạng vương lướt tới mau. Tư Mã Ngang đỡ không kịp, bị một thương chết tốt.
Hạng vương thúc quân truy sát ngót một dặm, thì gặp đạo quân thứ hai của bên Hán là Thân Dương kéo đến.
Hạng vương mắng:
– Phản tặc? Ngươi dám phụ ta, bỏ Sở đầu Hán sao?
Thân Dương nói:
– Hán vương có đức, thiên hạ quy phục. Ðến như Ðại vương cũng nên đầu hàng mới phải.
Hạng vương nổi giận, vung trường thương đâm tới.
Thân Dương ban đầu còn lui tránh,. sau bị Hạng vương đánh riết quá không tránh đỡ được nữa.
May thay, giữa lúc đó đạo quân thứ ba của Hán do Thương Nhĩ cầm đầu, kéo đến kịp, phụ lực.
Hai tướng hợp sức đánh với Hạng vương được mươi hiệp, nhưng rồi cũng đuối sức, không làm sao chịu nổi cây thương quả nặng của Hạng vương.
Thân Dương bấn loạn, bị Hạng vương chém chết, Thương Nhĩ không dám đánh nữa, lui quân bỏ chạy. Quân Sở ồ ạt đuổi theo, được một lúc, gặp Hán vương và chư tướng dẫn đạo binh thứ tư kéo đến.
Hạng vương sai quân gọi Hán vương ra nói chuyện.
Trong đám cờ tán rợp trời, trống chiêng dậy đất,
Hán vương cưỡi ngựa bạch long xông ra, Hạng vương nhìn mặt nghiến răng nói:
– Lưu Bang, mi là một tên Ðình trưởng trên sông Tứ, được phong làm Hán vương, còn chưa biết phận, dám manh tâm gây loạn. Ta bảo ngươi, nếu đám đánh với ta ba hiệp, ta giao cả sơn hà cho, bằng không, hãy gục mặt dưới chân ngựa ta mà chết đi cho rồi!
Hán vương nói:
– Ngươi là đứa bạo nghịch, chớ cậy sức khỏe nói càn. Ta không đánh ngươi bằng sức mạnh, ta chỉ đánh ngươi bằng lòng nhân, ngươi cũng đủ chết rồi?
Hạng vương đánh luôn năm tướng một lượt, cát bụi bụi mù mịt, tiếng gươm giáo chan chát.
Ðược một lúc, bên Sở, bọn Hạng Trang, Hoàn Sở, Quí Bố và Ngu Từ Kỳ kéo binh đến trợ chiến.
Tướng Hán cự không lại bỏ chạy, ba quân rối loạn, đạp nhau chết rất nhiều. Hạng vương thúc quân đuổi theo. Bỗng thấy một đội quân từ sau trận kéo đến, cản binh Sở lại.
Thì ra, đạo binh đó là đạo binh của Hán Nguyên Soái Ngụy Báo. Hán vương bấy giờ mới hoàn hồn.
Ngụy Báo vỗ ngựa, chận Hạng vương lại.
Hạng vương trông thấy Ngụy Báo hét lớn:
– Nhà ngươi cũng phản Sở sao?
Ngụy Báo nói:
– Ðại vương cậy mạnh, bạc đãi chư hầu, giết vua Nghĩa Ðế, thiên hạ đều ly loạn, Tôi không dám trái mệnh trời, nên phải về giúp Hán. Ðại vương nên lui binh thủ phận, nếu đối địch với Hán, tôi e mất cả uy danh.
Hạng vương nổi giận, xốc ngựa tới đâm một thương, Ngụy Báo rước đánh.
Ngụy Báo dầu có sức mạnh, nhưng không tài nào địch nổi Hạng Vũ, vừa đánh được ba hiệp, tay chân bủn rủn, quay ngựa bỏ chạy.
Hạng vương xua binh đuổi theo truy sát, quân Hán thây nằm chật đất, máu chảy dầm đường.
Trong lúc rối loạn, bỗng có quân đến báo:
– Tư Mã Hân và Ðổng Ê đã mở cửa thành Bành Thành, đón quân của Sở vào rồi.
Hán vương thất kinh, tay chân run rẩy, ngứa mặt lên trời than:
– Ðại binh đã tan rã, Bành Thành mất tất Thái công bị giết rồi. Việc này do ta gây nên cả, nếu nghe lời Trương Lương, Hàn Tín thì đâu đến thảm bại!
Than chưa dứt tiếng đã thấy bốn tướng Sở xua quân đến phủ vây đông nghịt. Hán vương trông trước nhìn sau, tướng tá mình đâu mất hết, chỉ còn có mấy trăm quân kỵ theo hầu.
Trời đã tối, Hán vương. tưởng mình không thể nào tránh khỏi tử thần được, mạng sống chỉ còn là sợi chỉ treo chuông.
Bỗng một luồng gió Ðông thổi tới bốn phương trời cát bụi mịt mù. Quân của Hạng vương đang vây phủ thấy vậy hoảng sợ, chạy tứ tán.
Trời tối như mực, không thấy bóng người, Hán vương thấy phía trước có đốm lửa sáng liền cho ngựa lần tới. Chẳng bao lâu ra khỏi vòng vây, xa tiếng quân reo.
Hán vương chạy ước hai mươi dặm, dông gió mới tạnh, và trời cũng bắt đầu rừng sáng.
Hạng vương kiểm điểm quân mã, không tìm thấy Hán vương đâu, lòng căm tức vô cùng.
Phạm Tăng thở dài nói:
– Thôi! Lưu Bang lại trốn thoát rồi. Lần này không bắt Lưu Bang thì còn đợi lúc nào nữa.
Hạng vương liền sai Ðinh Công và Ung Sĩ đem ba ngàn quân truy nã.
Hai tướng được lệnh, cứ hướng Ðông Nam đuổi theo.
Bấy giờ, Hán vương một người một ngựa đang đào tẩu, bỗng thấy phía sau, cát bụi mịt mù, tiếng quân reo hò tở mở.
Tướng Sở là Ðinh Công trông thấy Hán vương vội thúc ngựa đến, Hán vương không kịp tránh, không biết làm sao, bèn vái Ðinh Công, nói:
– Bang tôi đến nước này, thực không còn đường trốn thoát. Nếu ông tha tôi, ngày sau tôi chẳng dám quên ơn!
Còn nếu như không thương kẻ cô cùng này, tôi đành chịu trói vậy
Ðinh Công nói:
– Việc tôi đuổi theo ngài là lệnh vua, tôi không dám trái mệnh. Thực lòng tôi không hề muốn hại ngài. Thôi thì ngài cứ rẽ cương sang hướng Ðông mà chạy, tôi giả vờ bắn theo mấy phát tên để cho quân sĩ khỏi nghi ngờ.
Hán vương tạ ơn, rẽ cương chạy về phía Ðông, Ðinh Công rút tên bắn theo ba phát, làm ra cách cố đuổi bắt. Ðoạn, quảy ngựa trở về, gặp Ung Sĩ đang thúc quân tiến tới.
Ung Sĩ nói:
– Túc hạ đã rượt kịp Hán vương sao còn trở lại.
Ðinh Công đáp:
– Tôi đuổi theo gần kịp, nhưng con bạch mã của Hán vương chạy quá mau, tôi bắn theo ba phát tên nhưng không trúng. Hán vương chạy thoát về phía rừng rậm, tôi sợ phục binh, không dám mạo hiểm vào một mình.
Ung Sĩ nói:
– Sao túc hạ bất tài thế! Ðã theo kịp còn để cho Hán vương trốn thoát thì còn gì là thể diện. Tôi đoán Hán vương còn quanh quẩn trong rừng, chưa chạy đâu xa, vậy chứng ta khá hiệp sức tiến binh truy nã.
Nói rồi cùng Ðinh Công băng rừng đuổi theo.
Hán vương chạy suốt một ngày đêm, người mỏi ngựa mệt, lúc đó trời đã gần tối, đàng sau quân Sở reo ó vang lừng, lòng Hán vương rối loạn, không biết nên chạy về hướng nào thoát nạn, chợt thấy bên đường có cái giếng cạn, Hán vương liền bỏ ngựa, nhảy xuống giếng núp.
Ung Sĩ đi qua, không để ý, trời lại tối, nên cứ thẳng đường đi tới.
Quân Ung Sĩ qua rồi, Hán vương mới hoàn hồn, lấy gươm khoét đất làm bậc leo lên. Cũng may, giếng cạn và không có nước.
Khi lên được mặt đất, Hán vương đi tìm ngựa, thì thì con bạch mã cách đó năm mươi thước, đang núp mình trong bụi rậm.
Ôi! May thay? Hán vương thoát chết, lên ngựa rẽ cương quay về hướng khác.
Bóng tối chập chùng, xa xa có tiếng gà gáy, chó sủa trong quãng rừng sâu, lại thấy một đốm lửa leo lét cách đó vài dặm.
Hán vương bụng đói như cào, đoán chắc nơi ấy có nhà ở, liền dong ngựa lần đến.
Quả nhiên, đi bộ vài dặm thì gặp một tòa trang viện rất lớn, xung quanh tòng, bá bao vây. Chính giữa có một cánh cửa đóng kín.
Hán vương gọi cửa, có một ông lão bước ra mở và hỏi:
– Khách ở xứ nào, có việc gì qua đây trong canh vắng?
Hán vương nói:
– Tôi là Hán vương, vua xứ Bao Trung, nhân đi đánh Sở bị bại binh đến đây, xin lão trượng cho trọ nhờ một đêm.
Ông lão ngước nhìn thấy Hán vương giáp vàng, áo đỏ lật đật sụp lạy và nói:
– Lão phu vốn nghe tiếng Ðại vương là bậc nhân dực trong thiên hạ, ngày nay quá bước đến tệ ấp, lão phu không biết, xin Ðại vương tha tội chết.
Hán vương đỡ ông lão dậy, hỏi họ tên.
Ông lão nói:
– Lão họ Thích, có trang trại ở đây đã năm đời, nên người ta thường gọi là Thích gia trang.
Hán vương hỏi:
– Sống trong rùng núi thế này chẳng hay lão trượng có con cái chi chăng?
Ông lão tâu:
– Tâu Ðại vương, lão phu hiếm hoi, không có con trai, chỉ có một gái năm nay mười tám tuổi. Trước đây, vị thầy tướng tên Hứa Phụ có nói con của lão phu sau này hưởng đại quý. Nay vạn hạnh gặp Ðại vương đây, lão phu muốn đem tiện nữ hầu dưới trướng, chẳng biết thánh ý có rộng lượng cho chăng?
Hán vương nói:
– Ta trốn nạn đến đây, được lão trượng trọng đãi, đó là may lắm rồi, còn dám đâu nghĩ đến chuyện đó.
Thích ông liền gọi con gái mình là Thích Cơ ra lạy chào.
Dưới đèn, bóng hoa muôn vẻ, Hán vương lòng thấy bồi hồi, liền cởi chiếc đai ngọc trao cho Thích ông làm lễ sính.
Thích ông mừng rỡ thu nhận, và ngay đêm ấy sửa soạn đuốc hoa.
Hán vương ở đấy vài hôm, rồi nói với Thích ông:
– Quân Hán vừa đại bại, tướng lãnh thất lạc, tôi đâu dám quyến luyến mãi nơi đây. Vậy tôi xin tạm biệt, lo việc thu góp tàn quân, lúc nào thư thả sẽ xin đón lệnh ái.
Thích ông không dám cố lưu, làm lễ tiễn đưa ra khỏi gia trang, theo con đường lớn đi thẳng về hướng Nam.
Vừa được mươi dặm, bỗng thấy một toán quân mã từ xa kéo đến, cát bụi mịt mù. Hán vượng vội vã lẩn trốn vào rừng.
Chẳng ngờ toán quân đó là toán quân của Hạ Hầu Anh đi tìm Hán vương.
Hán vương trông thấy mừng rỡ chạy ra hỏi:
– Ngươi làm thế nào mà ra khỏi được Bành Thành?
Hạ Hầu Anh nói:
– Nhân khi Tư Mã Hân và Ðổng Ể hàng Sở, Thái công và nương nương đều bị hãm, tôi ráng sức công phá để mở đường đưa hoàng tộc ra, nhưng vì thế cô không làm nổi, phải trốn ra cửa Tây. Cũng may, vừa lúc đó quân Sở đang bắt hai vị điện hạ để ngồi trên ngựa định đưa về dinh, tôi vội vàng đánh lui quân Sở, giải cứu được. Ra khỏi thành, tôi tập hợp được vài nghìn sĩ tốt đi tìm Ðại vương đây.
Hán vương khóc lớn, nói:
– Tính mệnh Thái công không biết ra sao? Còn hai đứa con nít này đáng gì mà phải bận lòng tướng quân?
Hạ Hầu Anh nói:
– Thái tử là gốc của thiên hạ, Ðại vương nếu được thiên hạ mà không có thái tử thì sao yên được lòng dân?
Hán vương gọi hai đứa con đến nói:
– Hầu tướng quân liều chết trong đám muôn quân mà cứu anh em mày, chúng mày phải ghi nhớ, ngày sau đừng phụ ơn. Hai người con quay lại, phục lạy Hạ Hầu Anh, tỏ sự tri ân. Hạ Hầu Anh vội đỡ dậy, rồi quỳ xuống đất nói:
– Ðó là nhờ hồng phúc của Chúa thượng, chứ sức tôi làm gì nổi chuyện đó.
Ngày hôm ấy, quân Hán đóng trên bờ sông Biện, vua tôi, cha con đang ăn uống, bỗng có quân vào báo:
– Nơi ven sông có một toán quân mã kéo đến, cát bụi mịt mờ.
Hán vương nói:
– Ðó là quân của ta đến cứu chứ không phải địch quân đâu.
Hán vương nói vừa dứt lời quả nhiên thấy tinh kỳ đỏ ối kiếm kích chói lòa, một lá cờ đề mấy chữ lớn: “Hưng Lưu phá Sở Ðại Nguyên soái Hàn Tín”. Và một lá cờ đề “Tư Ðồ Trương Lương”.
Nguyên là Trương Lương và Trần Bình chiêu tập được ba vạn tàn quân chạy thất lạc, dùng thêm cờ hiệu của Hàn Tín đi tìm Hán vương.
Hán vương trông thấy mừng rỡ nói:
– Hai người can ta không nên xuất quân vội. Bởi vì ta không nghe nên chịu thảm bại. Giờ đây hai người lại chịu khó tìm đến cứu ta, thật là may mắn. Ta khổ vì Ngụy Báo không biết đùng quân khiến cho năm mươi sáu vạn quân mang lấy tai ương thảm khốc.
Trương Lương nói:
– Việc đã qua, xin Ðại vương chớ nên lấy đó làm ân hận. Chỗ này trống trải, không phải là chỗ đóng quân.
Ðại vương nên lui về Huỳnh Thành, dưỡng uy sức nhuệ chỉnh đốn ba quân, rồi dùng Hàn Tín làm Nguyên soái, mới có thể trả thù cho Ðại vương được.
Hán vương theo lời, truyền thu quân đến Huỳnh Dương.
Quan Thái thú Huỳnh Dương là Hán Quất Hưu nghe quân Hán tới, vội mở cửa thành nghênh tiếp.
Hán vương cùng Trương Lương, Trần Bình, Hạ Hầu Anh và quân sĩ kéo thẳng vào trong thành.
Phàn Khoái, Chu Bột, và Vương Lăng được tin cùng lục đục kéo đến.
Còn Ngụy Báo vì xấu hổ, không dám đến Huỳnh Dương, tự lui về Bình Dương.
Nhắc lại Ðinh Công và Ung Sĩ đuổi theo Hán vương suốt đêm mà không tìm được, sáng hôm sau trở về báo lại với Hạng vương:
– Lưu Bang chạy đã xa, chúng tôi không theo kịp.
Phạm Tăng nói:
– Lưu Bang bị thua vì Ngụy Báo cầm quân. Nếu là Hàn Tín thì chưa chắc quân ta đã địch nổi.
Hạng vương cười lên nói:
– Hàn Tín ta đã biết tài rồi, quân sư bất tất phải tâng bốc. Nếu Hàn Tín thật có tài sao không theo Hán vương đến đánh Bành Thành, để cho Hán vương phải thua trận Truy Thủy vừa rồi?
Phạm Tăng cúi đầu không đáp. Giữa lúc đó có quân báo:
– Tư Mã Hân và Ðổng Ể bắt Thái Công và Lã Hậu đem nạp.
Hạng vương cho gọi vào quát mắng:
– Ta phong cho hai người ở Trung Tần là nơi trọng yếu thế mà lúc Chương Hàm thua, các ngươi không tiếp cứu, đợi cho quân Hán đến dâng thành đầu hàng. Nay thấy Lưu Bang thua lại bỏ Hán về Sở, các người thật là những đứa tiểu nhân phản phúc.
Nói xong, sai võ sĩ dẫn Ðổng Ể và Tư Mã Hân ra pháp trường xử trảm.
Ðoạn gọi Thái Công đến dưới trướng mắng:
– Con của nhà người là Lưu Bang ta đã phong cho đất Hán trung, lẽ ra phải biết ơn ta, lại sanh lòng phản phúc, đem quân cướp Quan Trung phạm đến Bành Thành. Một người làm phản, ba họ bị tru di. Nay ta bắt được nhà ngươi, nhà ngươi khó lòng thoát chết được.
Nói xong, toan gọi vũ sĩ đem Thái Công ra chém, Phạm Tăng vội vàng can:
– Lưu Bang tuy bị thua, song Hàn Tín ở Quan Trung đang sắp sửa phục hận. Ta nên giữ Thái Công lại làm con tin, khiến cho Lưu Bang phải hệ niệm, không dám phạm đến ta. Còn giết đi chỉ gây thêm lòng căm phẫn, chẳng ích gì?
Hạng vương theo lời, giao Thái công và Lã Hậu cho Ngu Tử Kỳ quản thủ, đoạn đem binh sang đánh Tề.
Vua Tề là Duyên Hoàng, bị Sở vây khổ lâu ngày, lại thấy Hạng vương vừa thắng được quân Hán, sợ hãi mở cửa thành ra đầu hàng.
Thế rồi nước Tề lại thuộc về nước Sở.
Hạng vương kéo binh về Bành Thành, chỉnh đốn nhân mã, có ý dùng vào việc phá Hán sau này.
Tướng giữ Bành Thành là Bành Việt, từ khi hàng Hán, thấy Hán vương thua trận vội vã đem quân bản bộ chạy vào Ðại Lương, hợp binh với Hán để giữ đất Lương.
Còn Anh Bố lúc bấy giờ cũng bất mãn với Hạng vương về việc phụng mạng đi bắt Thái Công bị Vương Lăng đánh thua chạy về lại bị Hạng vương sỉ nhục, nên buồn lòng đem quân bản bộ lui về giữ Cửu Giang.
Thời gian đó, Hán vương đồn binh ở Huỳnh Dương, chiêu tập nhân mã, quân thế dần dần hùng mạnh, lòng dân đã bình ổn nhu xưa.
Một hôm, Hán Vương bàn với Trương Lương:
– Nay quân ta đã chấn chỉnh xong; song vị Ðại tướng chưa đủ tài điều khiển, nếu lựa kẻ bất tài e khó điều dụng. Hàn Tín từ khi giao trả ấn tượng không thấy tin tức, nghe tin thua cũng không đem quân đến cứu. Nếu bây giờ Tiên sinh có kế chi khiến cho Hàn Tín phải tự đến, ta nhân dịp đó mà trao trả ấn tướng mới vẹn toàn.
Trương Lương nói:
– Việc đó không khó gì Tôi chỉ đến nói với Hàn Tín và Hàn Tín tức khắc đến đây. Tuy nhiên, được Hàn Tín chỉ mới lợi một thôi, phải có Bành Việt và Anh Bố giúp sức thì mới phá Sở được.
Hán vương nói:.
– Bành Việt hiện đã về với ta, còn Anh Bố đang làm tôi nước Sở, làm thế nào mà dùng được.
Trương Lương nói:
– Anh Bố tuy làm tôi nước Sở, nhưng vừa rồi bất mãn với Hạng vương. Nếu được một người thuyết khách giỏi đến Cửu Giang phân trần, tất Anh Bố sẽ bỏ Sở về Hán.
Hán vương phán hỏi quần thần:
– Có ai vì ta mà đi sứ Cửu Giang chăng?
Quan Ðại phu Tùy Hà bước ra tâu:
– Tôi tuy bất tài, nhưng xin Ðại vương cứ giao việc ấy cho tôi.
Hán vương mừng rỡ, viết thư chiếu sai Tùy Hà đi.
Tùy Hà đến Cửu Giang, Anh Bố hay tin, gọi mưu sĩ Phi Hách đến bảo:
– Người này đến đây, tất Hán vương vì mới bại binh, không địch nổi Sở, muốn lợi dụng ta việc gì đây chăng?
Phi Hách nói:
– Có lẽ Hán vương muốn dụ ta bỏ Sở về Hán. Ðại vương nên tìm cách thoái thác.
Anh Bố nói:
– Sở bạc đãi ta, ta không muốn phò Sở. Tuy nhiên, về Hán chưa chắc Hán đây trọng dụng.
Phi Hách nói:
– Thế thì Ðại vương nên giả bệnh từ chối để dò xem Hán vương có tha thiết dùng mình không, rồi sẽ liệu.
Anh Bố liền sai môn lại ra nói với Tùy Hà:
– Sứ Hán hãy lưu lại ngoài thành, đợi Ðại vương tôi khỏi bệnh sẽ tiếp đón.
Tùy Hà đoán biết mưu của Phi Hách, liền tìm đến yết kiến riêng Phi Hách.
Phi Hách đón vào, hỏi:
– Quan Ðại phu đến đây có việc gì?
Tùy Hà nói:
– Hán vương vừa bại trận, đóng quân nơi Huỳnh Thành, các tướng đều nhân dịp về thăm quê nhà. Tôi, quê ở Lục An, đi theo Hán vương đã lâu, nay được phép về tảo mộ, qua đây mến tiếng Ðại vương nên ghé vào yết kiến, không ngờ ngài lại nghi tôi là thuyết khách nên không tiếp. Lẽ ra tôi đi ngay, nhưng lại nghĩ rằng đi như thế, làm cho ngài nghi mãi, không lợi cho ngài. Vả Ðại vương trấn giữ nơi Cửu Giang này chính nên nhún mình để tiếp người hiền mới phải. Ðại phu phụ tá Anh vương cũng nên khuyên vua trọng sĩ. Nếu những kẻ mộ danh tìm đến thì cự tuyệt thì còn ai đến với mình.
Tùy Hà nói mấy câu, gieo vào lòng Phi Hách một niềm cảm phục vô biên, Phi Hách lưu Tùy Hà lại nơi tư dinh, đặt rượu khoản đãi và nói:
– Xin quan Ðại phu tạm nghỉ nơi đây một đêm, sáng mai tôi sẽ đưa ngài vào yết kiến Anh vương.
Tùy Hà cáo từ, lui ra trú nơi quán trọ.
Hôm sau, Phi Hách vào triều thuật lại những lời nói của Tùy Hà, Anh Bố truyền mời Tùy Hà vào tương kiến.
Tùy Hà chỉnh đốn mũ áo, ung dung đến nơi. Anh Bố cầm tay dắt lên thềm thi lễ, mời ngồi và nói:
– Tiên sinh theo Hán vương đã lâu, chắc rõ nội tình. Tại sao trận Tuy Thủy vừa rồi Hán vương không dùng Hàn Tín? Và hiện nay đóng quân ở Huỳnh Thành ý muốn làm gì?
Tùy Hà nói:
– Hán vương phát thủ thư bá cáo chư hầu đi đánh Hạng vương hỏi tội giết vua Nghĩa Ðế. Chư hầu đều tình nguyện giúp Hán, vì thế Hán vương cậy có nhiều người giúp mới lưu Hàn Tín trấn thủ ở Quan Trung là nơi căn bản. Chẳng ngờ Hạng vương đã mật sai người đưa thư khắp thiên hạ bảo rằng giết vua Nghĩa Ðế là chính tay Cửu Giang vương chứ không phải Sở vương, các chư hầu lại cho Sở vương bị mắc hàm oan, không hợp sức với Hán nữa. Do đó, Hán bị cô lập và bị thua. Hiện nay các nước như Tề, Lương, Yên, Triệu đều công nhận Ðại vương là kẻ thí nghịch đang muốn khởi binh vấn tội. Bất nhật, các nước ấy sẽ kéo đến đây. Chỉ có Hán vương vì mới bị thua nên không sự binh vào việc này. Thế mà Ðại vương vẫn điềm nhiên, nay mai nghĩa binh kéo đến, đại vương sẽ thành một người đại ác trong thiên hạ, tội nhân của muôn đời vậy.
Anh Bố nghe nói hầm hầm nổi giận, đứng phắt dậy, chỉ về phía Bắc cả tiếng mắng:
– Giết vua Nghĩa Ðế nơi sông Hằng là do Hạng Vũ chủ mưu, ta đây chẳng qua ai sai gì làm nấy, nay lại đổ tiếng đại ác cho ta, sao ta lại chịu để muôn đời nguyền rủa?
Tùy Hà giả cách vội vàng can:
– Xin Ðại vương bớt nóng, Ðại vương hiện đang là Phiên thần của Sở, lỡ ra lời của Ðại vương đến tai Hạng Vũ thì nguy cho Hạng vương lắm?
Anh Bố càng thêm tức giận, hét:
– Ta nghĩ việc giết Tử Anh, đào mả Thủy Hoàng và giết vua Nghĩa Ðế, đều là Hạng Vũ sai khiến. Ta vẫn lấy làm hối hận, sợ thiên hạ chê cười. Nay Hạng Vũ lại đổ tội cho ta thật là đứa đê hèn vô liêm sỉ.
Tùy Hà nói:
– Ðại vương nay cần phải giải bày tội lỗi của Hạng Vũ cho thiên hạ biết, mới mong minh oan được, chứ nóng giận mà ích gì. Theo ý tôi, hiện nay Hán đang thù Sở, thế nào cũng đánh Sở để trả thù. Ðại vương nên thuộc ý với Hán, họp với Hán vương rửa được tiếng tai ác sau này.
Anh Bố nghe Tùy Hà nói, lòng phơi phới, ghé tai nói:
– Ta vẫn có ít nhiều bất mãn với Sở, ý muốn phò Hán, nếu ngài giúp cho được việc ấy, ta sẽ không quên ơn.
Tùy Hà nói:
– Tôi cảm ơn đức Ðại vương đã lâu, việc ấy dẫu có khó khăn tôi cũng quyết tán thành.
Anh Bố nói:
– Thế thì Tiên sinh lưu lại đây vài hôm, ta sắp xếp xong sẽ tính việc đầu Hán.
Anh Bố nói vừa dứt lời bỗng có sứ Sở mang chiếu thư đến, xin vào yết kiến.
Anh Bố vội vàng tiếp chiếu, mở ra đọc:
Chiếu rằng:
“Cứ phép xưa nay, nhà vua động binh, chư hầu trợ giúp Ðó là nghĩa vụ của bề tôi.
Cửu Giang vương trấn thủ Giang Hoài, cầu an ẩn dật, nghe quân đánh Tề cáo bệnh không giúp đến, trận Tuy Thủy cũng ngồi xem thắng phụ mà thôi.
Lâu nay trẫm vì bận việc quân không xuống chiếu trách cứ. Vậy Cửu Giang vương nên biết tội xét mình, từ này hễ thấy hội binh phải đến hội ngay chớ nên chậm“.
Anh Bố đọc xong, cúi đầu suy nghĩ.
Tùy Hà sợ Anh Bố đổi ý, vội chạy đến nói:
– Cửu Giang vương đã có ý định về với Hán, còn tiếp chiếu Sở làm chi?
Anh Bố thất kinh chưa kịp nói, thì sứ Sở đã hỏi:
– Ngươi là ai mà dám nói càn như vậy?
Tùy Hà nói:
– Ta là sứ Hán, đến ước với Anh vương, họp sức đánh Sở, hỏi tội đứa thí quân, sao mày không biết?
Sứ Sở nghe Tùy Hà nói, lại thấy Anh Bố ngồi yên, biết việc mình đã hỏng, sợ lụy đến thân, nên nhảy vội xuống thềm chạy trốn.
Tùy Hà nói với Anh Bố:
– Cứ xem lời chiếu, đủ biết Hạng Vũ muốn giết Ðại vương để bịt miệng chư hầu. Sao Ðại vương không giết đứt sứ Sở đi đế ra mặt giúp Hán.
Anh Bố bị khích lệ của Tùy Hà, hầm hầm giận dữ, rút gươm đuổi theo chém sứ Sở chết ngay, rồi xé nát chiếu chỉ, điểm quân cùng với Tùy Hà kéo đến Huỳnh Dương đầu Hán.
Anh Bố theo Tùy Hà đến Huỳnh Dương vào triều kiến Hán vương.
Giữa lúc đó, Hán vương đang ngồi trên ngự ỷ, thòng chân cho hai cung nữ rửa.
Anh Bố vừa bước vào, thấy thế vội quay trở ra nói với Tùy Hà:
– Ðại phu hại ta rồi! Ta dẫu hèn cũng là một vị vương tước, sao Hán vương lại tiếp ta như thế? Thôi, đã lỡ, thà ta tự sát cho xong, để khỏi đời sau mai mỉa.
Tuy Hà vội cản lại nói:
– Xin Ðại vương. Chúa thượng tôi say rượu mới dậy, chờ lát nữa sẽ yết kiến tất có trọng lễ.
Anh Bố bước ra ngoài cùng Trương Lương và Trần Bình tương kiến. Anh Bố đưa mắt nhìn quanh thấy nơi chỗ Trương Lương và Trần Bình cũng có đủ cả: cư, chỉ, khí, dụng, mọi vẻ sang trọng không khác gì chỗ của Hán vương.
Anh Bố còn đang bâng khuâng suy nghĩ thì văn võ bá quan đã tề tựu đủ mặt. Hán vương lâm trào tiếp kiến, lễ nghĩa khiêm cung nói cười khoát đạt, vua tôi thật tương đắc.
Anh Bố mừng rỡ, nghĩ thầm:
– Người ta đồn Hán vương là bậc trưởng giả, thật chẳng sai lời. Nếu lúc nãy ta nóng tính thì đã hỏng việc.
Cách cổ vũ hào kiệt của Hán vương, các vua Ðường, Tống sau này không bì kịp.
Từ khi Anh Bố về hàng, Hán vương lại được thêm hơn ba vạn quân, đóng đồn nơi Thành Cao lại sai người đến Ðại Lương nói với Bành Việt ngăn tuyệt đường vận lương của quân Sở.
Sứ Sở bị Anh Bố giết, kẻ tòng nhân chạy về báo với Hạng vương.
Hạng vương nổi giận, truyền chư tướng chỉnh tề đội ngũ định ngày tấn binh bắt bọn Anh Bố, Bành Việt và Hàn Tín để xử phạt, làm gương cho những kẻ tôi loàn.
Phạm Tăng can:
– Việc phản loạn của tôi thần là việc nhỏ, mà việc trừ Hán là việc lớn. Xin Ðại vương thư thả luyện tập quân mã cho tinh vi, tập trung được các chư hầu để lãnh thanh thế rồi sẽ động binh. Khi đã trừ được Hàn Tín, thông đường vận lương rồi thì phải cấp tốc phá Tam Tần, dời đô về Hàm Dương, mới cầm trong tay được thiên hạ.
Hạng vương nghe lời bỏ ý định cử binh vội.
Trong thời gian đó hai bên Sở, Hán vẫn ám thầm củng cố thực lực của mình.
Một hôm Hán vương gọi Trương Lương đến nói:
– Hôm trước Tiên sinh có nói sớm muộn Hàn Tín cũng tự mình đến đây nhận lấy trách nhiệm. Nay ta đã thu phục được Anh Bố và Bành Việt rồi mà Hàn Tín cũng chưa thấy đến, vậy biết lấy ai điều dụng?
Trường Lương nói:
– Ðại vương không cần phải lo việc đó, ngày mai tôi đến triệu Hàn Tín về đây tức khắc. Ðồng thời tôi có nghe Tiêu Hà hiện đang vận lương đến Hàm Dương, nhân dịp, tôi rủ Tiêu Hà đến đây yết kiến một thể.
Hôm sau, Trương Lương lên đường về Hàm Dương, vào thẳng phủ Thừa tướng, gặp Tiêu Hà hai bên gặp nhau mừng rỡ, câu chuyện hàn huyên tưởng không bao giờ ngớt.
Trương Lương hỏi đến Hàn Tín, Tiêu Hà nói:
– Hàn Tín từ khi ở Lạc Dương về thường phàn nàn rằng: “Hán vương không nghe lời nói phải, lấy ấn tướng giao cho Ngụy Báo, không nhớ đến công phá Tam Tần, lấy Hàm Dương. Khi nghe Ðại vương thất trận nơi Bành Thành, Hàn Tín lại đóng cửa không tiếp khách. Tôi có đến mấy lần mà vẫn không gặp được. Xem thế thì ý Hàn Tín muốn Chúa thượng phải thân trở về đây rước Hàn Tín mới chịu dựng binh. Hành động như thế thật quá đối với kẻ làm tôi. Tiên sinh có kế chi cho Hàn Tín không còn tự ti mặc cảm nữa chăng?
Trương Lương ghé tai Tiêu Hà nói nhỏ mấy câu:
– Tiêu Hà mỉm cười, gật đầu, rồi ngày hôm sau yết bảng khắp bốn mặt thành, truyền dân chúng phải lập tức kê khai số hộ khẩu cả nam, phụ, lão, ấu. Lại tuyển lựa vài trăm người, chữ tốt viết mau để lập thành sổ bộ.
Tin ấy làm náo động suốt trong ngoài. Quân dân Hàm Dương đều nhao nhao nói lên rằng Hán vương bị thua, Thái công bị hãm, nay phải đem hết quân huyện, mới lấy được Hán Trung để hàng Sở.
Trương Lương và sứ Sở vừa về đây truyền cái việc đó.
Hàn Tín được tin, lòng áy náy sai người đi dò hỏi khắp nơi, đâu đâu cũng nói như thế cả.
Hàn Tín nghĩ bụng:
– Có lẽ nào Hán vương lại làm cái chuyện quái gở thế. Có lẽ Trương Lương dụng kế để gạt ta ra dụng binh chăng? Ta phải dò xem tin tức thế nào đã?
Liền sai bọn tả hữu đi thám thính. Qua hai ngày, tả hữu về tâu:
– Có lẽ là việc thực không phải bày mưu, hiện các bảng yết được treo cao khắp bốn mặt thành, ai nấy đều có vẻ sợ hãi lắm.
Hàn Tín thở dài, nghĩ ngợi. Bỗng có người của Thừa tướng phủ sai đến xin sao hộ khẩu phủ Nguyên soái.
Hàn Tín cho gọi vào nói.
– Ta là Nguyên soái, không thể xem như bá tánh được
Sai nhân thưa:
– Việc kê khai hộ khẩu, không phân biệt quan hay dân. Chỉ khi viết sổ, môn hộ nào làm quan thì ghi chức vụ vào mà thôi. Việc này thượng khẩn xin Nguyên soái cho phép biên ngay, kẻo sứ Sở giục mãi làm phiền lòng Thừa tướng
Hàn Tín nói:
– Nếu vậy, nhà ngươi đi biên các môn hộ khác, ngày mai sẽ lại ta cũng chưa muộn.
Sai nhân không chịu đi, năn nĩ mãi:
– Trong sổ chừa lại một đoạn trống thì làm sao cộng tính. Xin Nguyên soái cho phép biên ngay hôm nay, tiện hơn để ngày mai.
Hàn Tín nghĩ thầm:
– Thực là phí công ta quá! Công lao khó nhọc bao nhiêu mới chiếm được Hán Trung, nay chỉ vì thua một trận Truy Thủy mà bỏ cả, thật là vô lý. Ta đây có sợ gì quân Sở! Ta không khởi binh là muốn cho Hán vương tự đến đón ta để cho chư tướng kính trọng, chẳng ngờ Hán vương đã không hỏi gì đến ta, mà lại sắp đặt việc hàng Sở. Âu ta phải đến bàn với Tiêu Hà và Trương Lương xem sao mới được.
Liền gọi tả hữu đóng ngựa, đến phủ Thừa tướng.
Tiền hô hậu ủng, phủ việt rực rỡ trông rất uy nghi.
Quân dân trông thấy đón đường reo lớn:
– Hẳn là Nguyên soái không chịu hàng Sở nên đến bàn với Thừa tướng bãi việc kê khai hộ khẩu. Thôi! Thế là chúng ta sống lại cả rồi! Nếu hàng Sở, chúng ta không khỏi bị Hạng vương chôn sống.
Hàn Tín ngồi trên ngựa, nghe tiếng reo hò của quân dân, càng tin việc Hán vương sắp hàng Sở, vội thúc ngựa vào phủ Thừa Tướng, cho người đi thông báo..
Trương Lương mỉm cười, nói với Tiêu Hà:
– Hàn Tín bị tôi khích lệ rồi!
Hàn Tín xuống ngựa bước vào. Tiêu Hà ra đón. Hai bên thi lễ xong, Tiêu Hà hỏi:
– Mấy lần tôi đến yết kiến ngài nhưng không được gặp mặt. Nay ngài tự đến đây hẳn có điều gì chỉ giáo?
Hàn Tín đáp:
– Tôi nhân Chúa thượng bỏ không dùng, lui về nhàn cư, xấu hổ không dám trông thấy mặt Thừa tướng.
Tiêu Hà nói:
– Chúa thượng không nghe lời can, bỏ Nguyên soái, dùng Ngụy Báo đến nỗi thất trận. Lỗi ấy do Chúa thượng chứ đâu phái do Nguyên soái mà Nguyên soái xấu hổ.
Hàn Tín đáp:
– Ðành thế? Song nay lại nghe Chúa thượng sai Tử Phòng Tiên sinh đền đây lập hộ khẩu, đem đất Quan Trung giao cho Sở là ý gì?
Tiêu Hà nói:
– Nào có ý gì đâu? Trận thua Tuy Thủy, Chúa thượng cũng không cần, chỉ ngại Thái công và Lã hậu đang bị Hạng Vũ giam cầm, nên phải đem đất Quan Trung để chuộc. Tôi cũng không biết làm sao hơn, phải thừa lệnh thi hành.
Hàn Tín thở dài, nói:
– Thừa tướng lại cũng đành lòng đem nộp đất Quan Trung cho Sở sao? Nhờ oai Chúa thượng, quân ta đã chiếm trọn Tam Tần, trận Tuy Thủy chẳng qua là lầm lỡ thất cơ một lúc đó thôi. Thái công Lã hậu dẫu bị bắt, nhung chắc Sở cũng giữ làm con tin chứ không giết. Dù Hạng vương nóng nảy cũng còn có Phạm Tăng can gián. Tôi chắc tánh mạng Thái công và Lã hậu chẳng hề chi. Nay xin để Trần Hy trấn giữ Tam Tần, tôi tình nguyện thống lãnh binh nhung báo thù trận Tuy Thủy, rước Thái công và Lã hậu về. Vậy xin Thừa tướng bãi việc lập hộ khẩu để khỏi náo động lòng dân.
Giữa lúc đó, Trương Lương từ bức bình phong bước ra chào Hàn Tín và nói:
– Vừa rồi tôi được nghe lời nói của Nguyên soái thật là xác luận. Nhưng chỉ sợ Hạng vương thế mạnh, Phạm Tăng nhiều mưu, Nguyên soái không thắng nổi mang tiếng với thiên hạ đã đành, mà tánh mạng Thái công, Lã hậu e cũng chẳng còn. Chi bằng trả lại Tam Tần cho Sở để chuộc mạng thì hay hơn.
Hàn Tín nghe nói cau mày nhìn Trương Lương có vẻ bực tức và nói:
– Sao ngày trước Tiên sinh cho Tín tôi là khả dụng, nay lại khinh bỉ Tín tôi đến thế?
Trương Lương nói:
– Xin Nguyên soái chở nên khinh địch. Tôi xem Phạm Tăng mưu kế như thần, còn bọn Long Thư kiêu dũng như hổ. Nay Hạng vương lại tin dùng bọn ấy, e rằng Nguyên soái khó thắng nổi.
Hàn Tín đỏ mặt, đứng dậy nói lớn:
– Nếu tôi không chém được Long Thư, bắt được Phạm Tăng thì tôi tình nguyện cắt đầu để tiên sinh dùng làm đồ đựng nước tiểu.
Trương Lương cầm tay Hàn Tín vừa cười vừa nói:
– Nguyên soái đã quả quyết như thế, Lương tôi tin tưởng vạn phận. Song bãi việc kê khai hộ khẩu e trái lệnh Chúa thượng, biết làm sao?
Tiêu Hà xen vào nói:
– Lệnh Chúa thượng ta làm sao trái. Vậy thì cứ tiếp tục việc kê khai sổ bộ, chừng nào Nguyên soái thắng Sở sẽ hay.
Hàn Tín nói:
– Xin hai ngài chớ câu chấp như thế. Cứ cùng với tôi về Huỳnh Dương bệ kiến là xong.
Dứt lời, Hàn Tín đứng dậy cáo từ, và dặn:
– Tinh sương, xin hai ngài theo tôi lên đường. Còn sứ Sở cần phải chém ngay để thị uy chúng.
Tiêu Hà nói:
– Hai nước tranh nhau không nên chém sứ. Ta chỉ nên đình việc lập sổ bộ, và cho sứ Sở trở về là hơn.
Hàn Tín khen phải. Ðoạn cáo biệt trở về soái phủ.
Ngày hôm sau, Hàn Tín chỉnh đốn binh mã, cùng với Trương Lương và Tiêu Hà đến Huỳnh Thành.
Trương Lương vào trước, đem mưu kế mình đã làm thuật lại với Hán vương. Lại dặn lúc tiếp Hàn Tín phải làm y theo kế.
Hán vương mừng rỡ, truyền cho Tiêu Hà và Hàn Tín vào bệ kiến.
Hán vương nói:
– Ta không nghe lời can Hàn Nguyên soái, thua trận Tuy Thủy thiệt hại nặng nề. Nguyên soái đã không vọng oán ta, thân hành đến tương kiến, ta rất mang ơn. Còn Tiêu Thừa tướng phủ an trăm họ, vận tải quân lương, khiến cho ta được vững tâm khai thác cõi ngoài, công ấy kể sao cho xiết.
Tiêu Hà nói:
– Nhờ hồng phúc của Ðại vương bấy lâu nay dân chúng yên vui, sau lại lấy thêm được Quan Trung làm căn bản. Nay dẫu thua trận Tuy Thủy cũng chẳng hề chi.
Hán vương nghe nói đến hai tiếng Quan Trung giả vờ cau mày ngồi lặng thinh.
Hàn Tín bước đến, quì móp xuống đất, tâu:
– Tín tôi phụng mệnh trấn thủ Quan Trung, nhờ oai của Ðại vương dân chúng một lòng qui phục. Vừa rồi Tử Phòng đến Hàm Dương hợp với Tiêu Thừa tướng kê khai hộ khẩu để nộp sổ bộ cho Sở. Thiết nghĩ, đất Quan Trung Ðại vương trải bao khó nhọc mới chiếm được, nay đột nhiên trả lại e thiên hạ chê cười.
Hán vương nói:
– Ðại binh tổn thất, Thái công bị bắt giam cầm. Các chư hầu như Tề, Yên đầu hàng Sở. Thế nước Sở ngày nay cường thịnh lắm. Ta nhắm tướng Hán không người nào địch nổi Hạng vương, mưu lược không ai qua khỏi Phạm Tăng. Thôi thà trả đất Quan Trung đổi lấy Thái công lui về Bao Trung thủ thế an phận.
Hàn Tín nghẹn ngào nói:
– Tín tôi chưa đánh với Hạng vương trận nào, sao Chúa thượng lại bảo là không ai địch nổi Hạng vương?
Hán nói:
– Nguyên soái có tài thực, song tài ấy chỉ đánh nổi Chương Hàm, thu Tam Tần mà thôi. Trận Tuy Thủy vừa rồi một mình Hạng vương phá tan sáu mươi kiện tướng Hán. Xem thế thì nếu Nguyên soái có đi trận đó cũng phải vỡ mật.
Hàn Tín mặt đỏ bừng bừng, nói lớn:
– Ðại vương khinh Tín tôi quá lắm. Phen này tôi xin. thống lãnh bản bộ, chỉ đánh một trận đã làm cho Hạng Vũ manh giáp chẳng còn để cho Ðại vương xem. Nếu không được vậy, Tín tôi thề quyết chẳng trở về.
Hán vương đứng dậy nói:
– Nguyên soái đã nhất quyết phá Sở tất đã có mưu kế gì thần diệu vậy hãy nói cho ta biết, ta mới an tâm.
Hàn tâu:
– Tôi ở Hàm Dương đã chế ra được vài trăm cỗ xe để dự bị đánh Sở, loại xe này gọi là chiến xa, có tác dụng rất mạnh trong trận chiến thuộc bình nguyên. Huỳnh Dương cách đây ba mươi dặm, có một khu đất bằng có thể áp dụng chiến xa được.
Hán vương ngắt lời hỏi:
– Công dụng của loại chiến xa ấy như thế nào?
Hàn Tín đáp:
– Theo binh pháp, loại xe này dùng đánh trận rất tiện lợi. Một cỗ xe có một con trâu kéo, bên trong chỉ có bốn tên lính, dùng cung nỏ bắn ra, có thể địch nổi hàng trăm quân ky. Khi đi xa, xe có thể dùng vận lương, lúc đóng quân, xe dùng làm đồn hoặc đem ngăn ải, lúc đột kích, xe làm bức bình phong án ngữ cho bộ binh của ta tiến tới. Tuy nhiên, muốn dùng chiến xa, quân sĩ cũng phải được rèn luyện chiến thuật cho tinh vi mới được.
Hán vương nghe nói mừng rỡ, lập tức gọi thợ, chiếu theo cách thức Hàn Tín chỉ dẫn, tạo thêm ba nghìn cổ xe để dự bị đánh Sở.
Hàn Tín ra ngoài thành Huỳnh Dương, cắt đặt đồn trại, triệu chư tướng đến trao mật kế, ai nấy tuân lệnh trở về án nhận địa phương, mỗi ngày thao luyện quân sĩ cách dùng chiến xa.
Trong thời gian hai tháng, chiến thuật đã tinh vi.
Quân sĩ trước kia thua trận trốn tránh, này lục tục kéo về cả thảy trên năm mươi vạn người.
Tiêu Hà bái biệt Hán vương trở về Hàm Dương.
Chẳng bao lâu, Hàn Tín vào thành tâu với Hán vương:
– Quân sĩ nay hàng ngũ đã chỉnh tề, nếu có sứ nước Sở đến, xin Ðại vương hạ chiếu thư, khích Hạng Vũ đem quân đến đây tranh thắng phụ.
Hán vương nói:
– Hôm qua sứ nước Sở có đến đây, giả truyền lời bà mẹ Vương Lăng, bảo Vương Lăng về hàng Sở. Nhưng, Vương Lăng biết mẹ hiền, không khi nào muốn con về đầu Sở nên chẳng tin lời. Hiện nay sứ Sở còn nghỉ nơi công quán. Vậy ta nhân dịp này trao chiến thư cho sứ Sở đêm về thì tiện lắm.
Hàn Tín liền trở ra nơi công quán, đặt tiệc khoản đãi sứ Sở và nói:
– Tôi vốn là thần nước Sở, dẫu phò Hán mà lòng hoài vọng đối với Sở chưa phai. Nay có bức biểu vấn an, phiền ngài đem về dâng cho Hạng vương. Tôi chẳng bao lâu sẽ trở về chúa cũ.
Nói xong, đem hai mươi lượng vàng tặng cho sứ Sở làm lộ phí.
Sứ Sở nói:
– Tôi phụng mệnh Bá vương sang triệu Vương Lăng và thăm tin tức Túc hạ, nay Túc hạ nhờ tôi mang biểu về tất Bá vương sẽ vui mừng khôn xiết.
Tiệc tan, sứ Sở từ giã lên đường, trở về yết kiến Hạng vương tâu bày mọi việc, rồi dâng bức biểu của Hàn Tín lên.
Hạng vương hớn hở tiếp lấy, mở ra đọc.
Lời biểu như sau:
“Nguyên soái nhà Ðại Hán Hàn Tín trao thư Tây Sở Bá Vương khán hạ.
Tín vẫn có sưng vào chức Chấp kích lang của Sở, song trước kia cùng với Bá vương lập vua Hoài vương, quay mặt về Bắc dưng thần, đồng triều chấp sự, thì Tín là tôi của vua Nghĩa Ðế chứ không phải là tôi của Sở, lẽ ấy đã rõ ràng.
Chẳng ngờ Ðại vương lại giết vua Nghĩa Ðế,chuyên chế chư hầu, thiên hạ oán vọng, còn Tín cũng lấy làm đau lòng.
Những muốn vung gươm giết đứa đại nghịch trả thù cho vua, nhưng xét thấy tài hèn sức yếu chưa làm nổi chuyện đó, đành phải sang đầu Hán để bá cáo tội ác cho thiên hạ biết.
Vừa rồi, Tín đóng quân tại Hàm Dương, không đi đánh Sở, thất cơ một chút đến nỗi quân thua. Nay Tín thống lãnh hùng binh, áo trắng cờ tang, thi vũ tại Huỳnh Dương trước rửa hờn cho vua Nghĩa Ðế, sau vì Hán vương tuyết sĩ. Ðại vương phen này khó mà toàn mạng được Tín báo trước cho Ðại vương giữ mình.”
Hạng vương đọc thư xong, hầm hầm nổi giận, hét lớn:
– Thằng luồn trôn khốn nạn đó đã dám dùng lời vô lễ với ta. Phen này, ta thề không bắt được đứa phản phúc quyết không trở về.
Nói rồi truyền lệnh cất quân đi đánh Hán lập tức.
Phạm Tăng hay tin vội đến can:
– Ðó là kế của Hàn Tín khích lệ Ðại vương để cho Ðại vương tức giận chui vào cạm bẫy của hắn. Xin đại vương thận trọng.
Hạng vương nói:
– Ta không thể nhẫn nhục được trước lời nói vô lễ của đứa phản thần thô bỉ kia. Ý ta đã quyết, các ngươi chớ can ngăn.
Liền phân phối các tướng kéo quân nhắm Huỳnh Dương thẳng tới.
Nhắc lại Hàn Tín, từ khi trao thư cho sứ Sở về, ngày đêm chỉnh đốn binh mã, đợi ngày nghênh chiến.
Bỗng thấy Trương Lương, Lục Giả đệ thủ chiếu của Hán vương và ấn Nguyên soái đến dinh Hàn Tín.
Hàn Tín vội vã tiếp chiếu, mở ra đọc:
Chiếu rằng:
“Tướng là rường cột quốc gia, sinh mệnh ba quân ở trong tay người tướng.
Trước ta dùng lầm Ngụy Báo là tướng đến nỗi thành mất, quân tan.
Hàn Tín tài gồm kinh tế, học suất thiên nhân, công lấy Tam Tần danh vương bốn bể. Nay ta đã đuổi Ngụy Báo về nhàn cư, trao ấn soái lại cho Hàn Nguyên soái điều dựng ba quân, trả thù trận Tuy Thủy vừa rồi. Hàn Nguyên soái khá vì ta thống suất chư tướng, dự bị đánh Sở hết lòng báo quốc, chớ phụ bụng ta.”
Hàn Tín đọc chiếu xong, quay mặt ra cửa khuyết lạy tạ đoạn nhận lấy ấn tín.
Trương Lương cáo từ trở về phục mệnh.
Hôm sau, Hàn Tín vào triều tạ ơn Hán vương, đoạn về dinh phân phối tướng sĩ chỉnh tề, chờ địch quân đến.
Giữa lúc đó, Hạng vương lưu Phạm Tăng ở lại giữ Bành Thành, còn mình đem ba mươi vạn hùng binh thẳng đến Huỳnh Dương, cách năm mươi dặm hạ trại, đoạn sai Quý Bố và Chung Ly Muội đem một toán quân đi thám thính.
Hàn Tín được tin quân Sở đến, liền hội họp chư tướng, nói:
– Quân Sở mới đến, thế đang hăng, ta chớ nên đánh vội phải dùng chiến xa dàn khắp bốn mặt, mỗi tướng phải trấn thủ nơi trận địa mình không được rời khỏi chiến khu, kỷ luật phải nghiêm minh, không được sơ xuất. Chư tướng cúi đầu tuân lệnh.
Bấy giờ bọn Quý Bố và Chung Ly Muội đi thám thính không thấy động tĩnh gì, liền về báo với Hạng vương:
– Chúng tôi đi thám thính, chỉ thấy trên thành cắm cờ la liệt, doanh trại im lìm, không một bóng quân thấp thoáng. Chẳng biết quân Hán đã dụng ý gì.
Hạng vương nói:
– Ðó là Hàn Tín đã phân binh sẵn, chờ quân ta đến phục kích. Các ngươi phải giữ doanh trại cho cẩn thận, chờ khi đối địch sẽ tùy cơ liệu định.
Chư tướng nhất nhất tuân lời, quân kỳ nghiêm chỉnh, hàng ngũ hẳn hoi đợi tác chiến.
Hạng vương nai nịt gọn gàng, dắt bọn Hoàn Sở, Vũ Anh, Hạng Trang, Ngu Tử Kỳ, cả thảy bốn tướng, cầm đầu một toán tinh binh kéo sang trại Hán.
Hàn Tín được tin, ra ngựa đón lại, nói:
– Từ khi cùng Ðại vương từ biệt ở Hàm Dương, ngày nay mới được gặp mặt. Tôi, mình mặc giáp trụ, không thủ lễ được, xin Ðại vương miễn chấp.
Hạng vương nổi giận hét:
– Thằng chui khố khốn nạn! Ngươi dám dùng thư sỉ nhục ta. Ta đã đến lấy mạng ngươi khó giữ.
– Thằng luồn trôn đê tiện kia? Ngươi chạy đi đâu, ta quyết lấy đầu răn chúng, liền thúc quân đuổi theo.
Quý Bố, Chung Ly Muội thấy vậy tế ngựa theo can:
– Hàn Tín chưa đánh đã chạy là muốn dụ đến chỗ phục binh. Xin Ðại vương lui binh về, mới khỏi lầm mưu của hắn.
Hạng vương nói:
– Ta, từ khi xuất quân khỏi Cối Kê đến nay, trải hơn trăm trận, chưa hề biết lui quân bao giờ. Nay đánh với thằng chui khố này mà chịu lui, chẳng sợ thiên hạ cười ư?
Ðến bờ sông Kinh Sách, Hàn Tín giục ngựa qua cầu, chống thương đứng đợi. Hạng vương liền vỗ ngựa sấn lên cầu. Quân mã lục đục kéo theo.
Nhưng vừa đến giữa cầu thì bỗng cầu gãy, quân Sở rơi xuống nước chết đuối vô số.
Hạng vương và các tướng Sở đã qua khỏi khúc cầu gãy quay lại thấy quân mình lớp chết trọi, lớp sợ chết bỏ chạy tứ tán, lòng căm tức chẳng cùng. Hạng vương hét lên một tiếng, thúc ngựa đến đâm Hàn Tín. Hàn Tín rẻ ngựa sang một khúc quanh, Hạng vương xua các tướng đuổi theo, nhưng không còn tìm thấy Hàn Tín đâu nữa cả.
Biết mình đã lầm kế Hàn Tín. Hạng vương dừng ngựa lại. Bỗng nghe pháo nổ liên thanh, chiến xa vây kín bốn mặt, tên bắn như mưa. Quân Sở thất kinh, chạy tán loạn, không biết đường nào trốn núp.
Hạng vương truyền các tướng nhân lúc Hàn Tín chưa bày trận xong, liều chết đánh tháo lấy lối ra, nhưng các chiến xa đã khép chặt vòng vây, trơ như đá, vững như tường, tên bắn tua tủa, không ai dám xông ra mở huyết lộ.Hai tướng thấy Hạng vương bị vây giữa vòng xe, vội vàng đốc quân đánh phá.
Tướng Hán là Tổ Ðức thấy bên Sở có quân ứng cứu, liền dẫn quân ra cản lại, Quý Bố và Chung Ly Muội đánh một hồi giết được Tổ Ðức, ùa binh xông vào trận địa. Thấy bốn mặt đều có chiến xa vây kín, Quý Bố nói với Chung Ly Muội:
– Nếu không liều chết mở vòng vây thì làm sao cứu Bá vương ra được.
Hai tướng xua quân đánh vào. Bên trong quân Hán cũng quay ra kháng cự nhưng vì phải đánh hai mặt nên quân Hán hơi lúng túng.
Hạng vương thừa thế thét quân mở huyết lộ, đánh vẹt một chiến xa, mở đường chạy thoát.
Quý Bố và Chung Ly Muội thấy Hạng vương đã ra khỏi, không đánh nữa, đem quân hộ vệ cho Hạng vương chạy trốn.
Quân Sở bị chiến xa sát thương quá nửa. Hoàn Sở bị Vũ Anh bắn chết.
Hạng vương vừa ra khỏi vòng vây thì bị Sài Vũ xua quân theo bắt.
Hạng vương bỏ chạy bị Ðại tướng Hán là Tân Kỳ đón lại. Hạng vương tức giận, hươi thương chém chết Tân Kỳ, rồi giục ngựa chạy về hướng Nam.
Vừa chạy được vài dặm, lại thấy Hàn Tín dẫn quân đến. Quý Bố thất kinh, dẫn Hạng vương chạy quanh xuống một khe suối nhỏ ven sông.
Trời tối dần, ánh sáng nhá nhem không còn trông thấy rõ cảnh vật. Nơi trận chiến, tiếng reo hò đắc thắng của quân Hán còn vang mãi không dứt.
Sáng hôm sau, Hạng vương trốn về được nơi bản doanh, thấy doanh trại trống không, Hàn Tín thừa đêm khuya đã kéo quân đến cướp phá sạch cả.
Hạng vương thu góp tàn quân, lòng căm tức, nói:
– Thằng chui khố làm hại ta bao nhiêu nhân mã,nếu không báo được tnù này ta nguyền chẳng đội chung trời.
Chung Ly Muội nói:
– Hàn Tín nhiều mưu lắm kế, quân ta mới thua,nhuệ khí đã lụt, xin Ðại vương dưỡng uy, củng cố tinh thần quân sĩ rồi sẽ tính, chớ nên đánh vội.
Chung Ly Muội mới vừa dứt lời, bên ngoài lại nghe có tiếng quân ó vang trời.
Hạng vương hét lên một tiếng, cầm thương vỗ ngựa xông ra, nói:
– Ðể cho giặc khinh khi như thế này thì còn gì uy vũ của ta.
Các tướng cũng cầm thương lên kéo ngựa kéo theo Hạng vương vừa ra khỏi trại, bị một mũi tên bắn tới, trúng vào miếng kính tâm, làm cho Hạng vương cả kinh không không dám tiến, quảy ngựa chạy về hướng Ðông.
Tướng sĩ đều chạy theo bảo vệ.
Lúc bấy giờ, Hạng vương chỉ còn vài trăm quân kỵ,phía sau quân Hán đuổi theo, tiếng reo hò như thác đổ.
Hạng vương chạy suốt ngày đêm không nghỉ, lại gặp lúc trời mưa đường trơn, ngựa mệt, lắm điều nguy khốn.
May thay, giữa lúc đó từ trong rừng rậm có một toán quân kéo ra, cầm đầu là Bồ tướng quân.
Bồ tướng quân trông thấy Hạng Vũ mừng rỡ nói:
– Xin Ðại vương an tâm. Tôi phụng mệnh quân sư đem ba ngàn quân đến đây cứu giá.
Hạng vương hỏi:
– Vì sao quân sư biết ta nguy khốn nơi đây mà khiến ngươi đi cứu giá.
Bồ tướng quân nói:
– Ðại vương nóng giận, quân sư đoán biết thế nào cũng lầm kế Hàn Tín.
Bồ tướng quân vừa dứt lời thì tiền đội quân Hán đã đuổi đến, cầm đầu là hai tướng Lý Tất và Lục Giáp.
Bồ tướng quân liền vung đao cản lại.
Ba tướng đánh nhau hơn hai mươi hiệp, Lý Tất sa cơ, bị Bồ tướng quân đâm một đao nhào xuống ngựa Lục
Giáp thấy Lý Tất không dám đánh, quay ngựa bỏ chạy, bị Bồ tướng quân bắn theo một mũi tên ngang lưng, chết
không kịp la lên một tiếng.
Tiền đội của quân Hán thấy chủ tướng bị chết chạy dồn trở lại báo cho đạo trung quân biết.
Hàn Tín nói:
– Binh pháp có nói: “Giặc thế cùng không nên đuổi “, Ta sơ xuất làm mất hai chiến tướng, thật là lỗi nặng.
Nói xong truyền đóng quân lại, không đuổi theo nữa.
Bồ tướng quân thấy quân Hán không theo vội vã phò Hạng vương trở về Bành Thành.
Hạng vương ngẩng mặt lên trời than:
– Từ khi ta kéo cờ khởi nghĩa đến nay, đánh dư trăm trận, nhưng chưa hề bị thua nhục nhã như vầy.
Phạm Tăng được tin Hạng Vũ hồi loan, vội vã mở cửa thành đón tiếp, kiểm điểm tàn quân hao mất hai mươi vạn.
Hạng vương nói:
– Ta không nghe quân sư nên đến nỗi này. Nay phải làm thế nào để trả thù, kẻo nhục nhã quá.
Phạm Tăng nói:
– Tôi nghe Ngụy Báo từ khi lui về Bình Dương, suốt ngày buồn bã, lo sợ Hán vương hỏi đến tội bại binh ở Tuy Thủy. Nay nếu sai một biện sĩ, đến cổ động vài điều tất Ngụy Báo lại bỏ Hán đầu Sở. Ngụy Báo phản Hán, thì Hàn Tín phải đem binh đi đánh. Chừng đó ta thừa cơ Huỳnh Dương bỏ trống, đem quân đến đánh, tất bắt được Lưu Bang, trả thù cho trận vừa qua.
Hạng vương mừng rỡ nói:
– Quân sư nói rất phải. Song biết sai ai làm biện sĩ bây giờ?
Quan thượng thư Hạng Bá đến gần tâu:
– Tôi có nghe một người thầy tên Hứa Phụ hiện ở Bình Dương rất thân với Ngụy vương. Ngụy vương có việc gì đều hỏi đến Hứa Phụ rồi mới thi hành. Vậy tôi xin viết một bức thư bảo Hứa Phụ làm việc ấy tất thành công.
Phạm Tăng nói:
– Thế thì còn gì hơn, xin quan Thượng thư làm ngay kẻo trễ.
Hạng Bá liền viết một phong thư sai tên tiểu tốt giả người lái buôn, lần đến Bình Dương tìm Hứa Phụ.
Hứa Phụ ở Bình Dương lâu nay có tiếng, nên hỏi đến, ai cũng biết.
Tên tiểu tốt đến tư gia, nhờ bọn gia đinh vào báo có thư cố nhân đưa đến.
Hứa Phụ đòi vào, mở thư ra đọc mới biết Hạng Bá nhờ mình xúi Ngụy vương phản Hán đầu Sở.
Hứa Phụ nghĩ thầm:
“Hán vương thế đang mạnh, Hạng Bá lại là chỗ bạn cũ, nay đã có lời ủy thác chẳng lẽ ta bỏ qua”.
Nghĩ rồi vào yết kiến Ngụy Báo.
Ngụy Báo mừng rỡ hỏi:
Tôi đang mong ông đến để đoán một việc, nay ông lại tự nhiên đến đây, thực may mắn.
Hứa Phụ nói:
– Ðại vương muốn đoán xem việc chi?
Ngụy Báo nói:
– Lúc này, tâm thần tôi thường hay hoảng hốt, vậy nhờ ông xem thử sắc khí thế nào?
Hứa Phụ bảo Ngụy Báo quay qua phía ánh sáng,thấy sắc mặt Ngụy Báo nhợt nhạt biết là điềm xấu.
Tuy nhiên, Hứa Phụ lại nghĩ thầm:
– Nếu ta nói thực thì phụ tình Hạng Bá. Chi bằng nói dối cho xong.
Nghĩ rồi, cúi đầu nói:
– Tôi coi Ðại vương sắc mặt hồng hào đó là hỉ khí minh hiện. Chỉ trong trăm ngày, Ðại vương đánh đâu được đó Chẳng bao lâu dựng lên nghiệp lớn, lên ngôi cửu ngũ chớ chẳng phải làm tước vương mà thôi.
Ngụy Báo mừng rỡ nói:
– Nếu được như lời ông, tôi sẽ báo ân một cách xứng đáng.
Hứa Phụ lại nói:
– Tôi còn trông thấy nơi hậu cung của Ðại vương vượng khí xông lên rất nhiều.
Ngụy Báo hớn hở nói:
– Thế thì nhờ ông vào hậu cung xem tướng Bạc hậu xem sao?
Hứa Phụ tuân lời, bước theo Ngụy Báo vào hậu cung. Vừa trông thấy mặt Bạc hậu, Hứa Phụ sụp xuống khen vui:
– Ôi chao! Tướng của nương nương sang quá. Sau này thế nào cũng làm mẹ thiên hạ. Tôi nói chẳng sai.
Ngụy Báo thích ý nghĩ thầm:
– Ta đã làm bậc đại quan lẽ nào vợ ta không làm mẹ thiên hạ?
Liền thưởng Hứa Phụ rất hậu. Sau khi Hứa Phụ bái biệt, Ngụy Báo gọi Ðại phu là Chu Thúc vào nói:
– Ngày trước Hán vương dùng ta làm Ðại tướng,chẳng ngờ đến khi thua trận Tuy Thủy, Hán vương đối xử với ta tệ bạc, lột ấn chức trao cho Hàn Tin. Vừa rồi Hàn Tín lại phá hơn hai mươi vạn quân Sở. Như thế tội ta thực khó ngồi yên được. Nay ta muốn nhân cơ hội này phản Hán để đầu Sở, chia ba thiên hạ, nhà ngươi nghĩ sao?
Chu Thúc thưa:
– Không nên! Hán vương là bậc khoan nhân đại độ, đâu có lẽ vì thua một trận mà bất tội Ðại vương. Vả lại Hàn Tín dụng binh như thần, đến Hạng vương mà địch chưa nổi huống hồ Ðại vương binh ít, tướng cô. Xin Ðại vương cứ phò Hán giữ đất Bình Dương này bảo tồn cho nước Ngụy là hơn.
Ngụy Báo nói:
– Thiên hạ là của chung, trời cho ai nấy được, đâu phải căn cứ vào việc mạnh yếu. Lời Hứa Phụ đoán lẽ nào sai được, nhà ngươi chưa hiểu đó thôi.
Chu Thúc nói:
– Trước hết phải xét sức mình rồi mới nói đến mệnh trời. Mình thiếu tài, kém đức mà hy vọng ở mệnh trời thật là chuyện hão huyền.
Ngụy Báo nổi giận nói:
– Ta muốn cử binh sao người lại buông lời gàn dở. Hay nhà ngươi có tư thông với Hán?
Chu Thúc nói:
– Tôi thờ Ðại vương đã lâu, có bao giờ lại hai lòng.Chẳng qua thấy việc trái can ngăn đó thôi. Bây giờ Ðại vương không nghe lời tôi, ngày sau hối không kịp.
Ngụy Báo bực tức, đuổi Chu Thúc ra ngoài, rồi tự mình điểm lấy mười vạn quân dùng Hàng Trưởng làm Quân sư, Phùng Kích làm Ky tướng, Hạng Ðà làm Bộ tướng giữ vững cửa ải Bình Dương, dâng biểu xin hàng về Sở.
Hán vương nghe tin Ngụy Báo làm phản, cười lớn nói:
– Ðứa thất phu ấy làm gì nên việc mà hòng phản phúc. Tuy nhiên ta cũng phải sai người đem binh đến bắt hắn mà giết đi để răn muôn chúng.
Lịch Sinh can:
– Quân sĩ đánh Sở vừa về, chưa kịp nghỉ ngơi, bây giờ lại đi đánh Ngụy e không nên. Nếu dụng binh như vậy sẽ mất lòng dân. Tôi có quen với Ngụy Báo, xin sang tận nơi lấy lẽ phải trái mà giảng cho Ngụy Báo nghe. Nếu hắn không nghe, chừng ấy ta kéo binh sang trách phạt cũng chẳng muộn.
Hán vương nói:
– Nếu tiên sinh dùng lời thuyết phục được Ngụy Báo thì công ấy rất lớn, tiên sinh khá thực hành ngay.
Lịch Sinh liền từ biệt Hán vương, thẳng đến Bình Dương ra mắt Ngụy Báo.
Ngụy Báo vội hỏi:
– Cố nhân sang đây có lẽ muốn thuyết khách cho bên Hán chăng?
Lịch Sinh nghiêm nét mặt đáp:
– Tôi sang đây vì tình bạn, muốn đem lời hơn lẽ thiệt bàn bạc. Ðại vương muốn nghe hay không thì tùy ý, cần gì phải nghi nhau là thuyết khách!
Ngụy Báo nói:
– Thế thì cố nhân có điều chi xin chỉ giáo.
Lịch Sinh nói:
– Bậc Ðại nhân từ ý nghĩ đến việc làm bao giờ cũng nhất quyết. Ðại vương trước bỏ Sở theo Hán, bây giờ lại bỏ Hán đầu Sở, việc làm của Ðại vương không nhất định, phải trái không phân minh. Người mà phải trái điên đảo tất nhiên mang thảm họa. Huống chi, cứ như ngày nay Hán, Sở tranh hùng, Hạng vương tuy có vũ dũng nhưng tàn bạo, lòng dân không phục. Chúa thượng tôi ân đức dấy đầy muôn người hoài vọng, lại dùng Hàn Tín làm tướng, mưu lược như thần, chẳng bao lâu thiên hạ sẽ về nhà Hán. Ðại vương nên khuông phò nhà Hán để nước Ngụy khỏi vì Ðại vương mà tang tóc.
Ngụy Báo nghe Lịch Sinh nói đến đấy, lắc đầu,ngắt lời nói:
– Hán vương có tính khinh người, tôi tự lấy mình làm xấu hổ, không thể nào trông thấy mặt nhau được nữa. Vả lại chịu khúm núm dưới chân người mãi sao? Ý tôi đã quyết dẫu Tô Tần, Trương Nghi sống lại cũng không thể dùng lời nào làm đổi ý tôi được.
Lịch Sinh biết không thể thuyết phục được Ngụy Báo nổi, liền bỏ ra về tâu lại với Hán vương mọi lẽ.
Hán vương hỏi:
– Viên chủ tướng của Ngụy Báo là ai?
Lịch Sinh thưa:
– Là Hoàng Thực.
Hán vương nói:
– Thằng đó miệng còn hôi sữa, làm sao địch lại Hàn Tín của ta.
Nói xong, Hán vương liền sai quân gọi Hàn Tín, Quán Anh, Tào Tham lãnh mười vạn binh theo đường An Ấp thẳng tới Tây Ngụy đánh Ngụy Báo.
Lúc sắp đi, Hàn Tín nói với Hán vương:
– Tôi đi đánh Ngụy tất Sở thừa cơ đến đánh Huỳnh Dương. Trong các tướng ở nhà, Vương Lăng có thể giao được việc lớn, Ðại vương nên sai Vương Lăng chống với quân Sở. Vương Lăng trí dũng có thừa, quyết không ngại gì.
Hán vương nói:
– Mẹ Vương Lăng bị giam ở Sở đã lâu, chắc gì Vương Lăng dám mạnh dạn đánh Sở?
Hàn Tín nói:
– Vương Lăng ý chí sắt đá, tôi chắc không làm gì lay chuyển nổi. Ðại vương cứ tin dùng Vương Lăng làm tướng và nếu có gì khó khăn cứ hỏi đến Trương tiên sinh là xong.
Hán vương nhậm lời. Hàn Tin cáo từ lui ra, tức tốc dẫn đại quân thẳng tới Bồ Bản.
Ðến nơi, quân Ngụy cũng vừa kéo đến nghênh chiến. Nhưng vì cách con sông, hai bên chưa thế đánh nhau được.
Hàn Tín gọi các tướng đến nói:
– Ngụy Báo dùng con sông này để làm thế thủ, quân ta khó sang sông được. Bắc cầu dùng thuyền đều bất tiện.
Quán Anh nói:
– Ý định của Nguyên soái như thế nào?
Hàn Tín nói:
– Tướng quân hãy lựa trong quân một số thợ mộc,làm cho tôi một số lớn chum bằng gỗ để thay thuyền, đổ quân sang sông mới được.
Quán Anh hỏi:
– Cách thế chum gỗ như thế nào mà thay thuyền được?
Hàn Tín nói:
– Chặt cây bên rừng, cưa từng khúc, đẽo tròn hình cái chum, khoét trống ruột, thế là xong. Các chum ấy ta sẽ thả xuống nước kết lại thành bè.
Quán Anh vâng lời, sai lính thợ theo phép chế ra rất nhiều cái chum gỗ.
Chưa đầy ba ngày, chum gỗ đã đủ số. Hàn Tín lại sai Quán Anh đem một vạn quân bày thuyền ở bến Lâm Tấn, kéo cờ, giương buồm làm ra cách muốn độ binh sang sông. Ðồng thời lại sai Tào Tham, lãnh một vạn quân xuống bến Hạ Dương, dùng chum gỗ, độ qua sông, lén bọc vào phía sau đánh úp quân Ngụy.
Hai người tuân lệnh, dẫn quân ra đi.
Bên kia, Ngụy Báo thấy quân Hán muốn độ qua bến ấy, cho quân mai phục sẵn sàng, không để ý gì tới Hạ Dương cả.
Tào Tham, dùng chum gỗ, chở quân sang bến Hạ Dương kéo thẳng ra mặt hậu, đánh úp lấy An Ấp, bắt cả gia quyến Ngụy Báo, rồi lại đốc quân đánh thẳng đến Lâm Tấn.
Ngụy Báo hay tin thất kinh truyền quay lại chống với Tào Tham.
Tức thì, Hàn Tín lợi dụng cơ hội ấy, cho thuyền độ quân sang sông, hai bên đánh dồn lại.
Ngụy Báo nhắm thế không địch nổi tế ngựa chạy về phía Tây.
Tào Tham và Quán Anh đốc quân đuổi theo bắt sống được Ngụy Báo, trói lại đem nạp cho Hàn Tín.
Hàn Tín trợn mắt hỏi Ngụy Báo:
– Nhà ngươi làm chức Nguyên soái không tròn nhiệm vụ, để quân thua, thất trận nơi Tuy Thủy. Lẽ ra chúa thượng chiếu luật trừng phạt, nhưng lại để cho nhà ngươi được về Bình Dương, giữ y vương vị ân đức ấy nhà ngươi không cố sức báo đền, lại nghe lời thầy tướng phản phúc. Nay ta bắt ngươi, đáng ra phải chém đầu song nghĩ nhà ngươi là vua một nước, nên giải về cho Chúa thượng xét định.
Nói xong, một mặt sai người đóng cũi giải Ngụy Báo về Huỳnh Dương, một mặt hiểu dụ muôn dân, cho Chu Thúc tạm coi các việc nước Ngụy.
Nhắc lại bên Sở, khi Hạng vương nghe tin Hàn Tín đi đánh Ngụy Báo, liền đòi Phạm Tăng đến bảo rằng:
– Quả như lời quân sư đã đoán, Ngụy Báo nay đã phản Hán, và Hàn Tín đã đem quân đi đánh. Tôi muốn nhân cơ hội này lấy Huỳnh Dương, quân sư nghĩ sao?
Phạm Tăng nói:
– Lúc này đánh lấy Huỳnh Dương là phải. Tuy nhiên, Ðại vương cũng nên thận trọng chớ có khinh địch, sợ rằng Hàn Tín ra đi có để mưu gì lại chăng?
Long Thư đứng dậy góp ý:
– Sao quân sư lại nhát gan đến thế?
Phạm Tăng nói:
– Việc binh cần phải thận trọng sao lại gọi là nhát?
Hạng vương nói:
– Lời quân sư bảo thán trọng là phải lắm.
Nói rồi điểm binh, theo đường Huỳnh Dương, Hán vương đang cùng với Trương Lương bàn việc đề phòng quân Sở, xảy có tin báo:
– Ðại binh của Bá vương đã khéo đến Huỳnh Dương chỉ còn cách mười dặm. Tướng Tiên phong của Sở là Lý Phụng đã cho quân thám thính dò xét quân tình.
Hán vương giật mình nói:
– Lúc Hàn Tín ra đi có dặn hễ quân Sở đến đánh phải dùng Vương Lăng làm tướng, Trần Bình phụ tá, thế thì ta phải đòi Vương Lăng đến bàn mới được.
Liền cho đòi Vương Lăng đến hội kiến.
Vương Lăng vào, Hán vương hỏi:
– Nay Hạng Vũ kéo dại binh đến Huỳnh Dương, tướng quân có kế chi chăng?
Vương Lăng tâu:
– Theo ngu ý thì quân của Hạng Vũ đang lúc thế mạnh, nếu dùng sức mà địch, không thể nào địch nổi. Ta nên hạ cờ, giấu trống cố thủ thành trì, đợi cho quân Sở trể biếng sẽ phản công thì mới thắng.
Hán vương nghi ngại hỏi:
– Nếu quân Sở trễ biếng, tướng quân dùng mưu gì phá giặc?
Vương Lăng ghé vào tai Hán vương nói nhỏ một hồi, Hán vương hân hoan nói:
– Nếu tướng quân can đảm như vậy lo gì không thắng quân Sở.
Rồi, Hán vương phong Vương Lăng làm Ðại tướng, Trần Bình làm Quân sư lo việc phá Sở.
Vương Lăng truyền quân sĩ quấn cờ, dấu trống,đóng chặt bốn cửa thành cố thủ.
Tướng tiên phong của Sở là Lý Phụng kéo quân đến nơi, dò thấy quang cảnh như vậy lòng nghi hoặc, không dám dẫn quân đến bên thành, sai người báo cho Hạng vương biết.
Hạng vương hỏi các tướng:
– Thành Huỳnh Dương cửa đóng chặt, trên thành không một tên quân thấp thoáng là ý gì vậy?
Viên cận thần tâu:
– Cái đó có hai lẽ. Một là, Hán vương hay tin Ðại vương đến, sợ hãi bỏ thành trốn đi nơi khác. Hai là, Hàn Tín mắc đi đánh Ngụy, trong thành không còn tướng giỏi, không dám xuất quân đối địch nên làm kế nghi binh, để cho Ðại vương hồ nghi không dám đánh.
Hạng vương nói:
– Quân ta mới đến, hãy đóng quân an nghỉ, ngày mai xem hư thật thế nào rồi sẽ liệu.
Quân sĩ tuân lệnh, hạ trại, cỡi giáp bỏ gươm, ăn uống no nê, rồi mạnh ai nấy tìm chỗ nghỉ ngơi.
Vương Lăng ở trong thành, sai người tâm phúc giả thường dân ra ngoài do thám.
Khi biết được địch tình Vương Lăng liền tuyển hai nghìn tinh binh, quấn khăn đỏ, đeo khí giới, lên ngựa ra khỏi thành. Một mặt chọn năm trăm pháo thủ mang hỏa pháo theo sau, chất nơi chân cửa thành và dặn khi nào nghe pháo nổ thì phải đốt lửa để phòng quân Sở cướp thành. Ðoạn sai Hạ Hầu Anh đem ba vạn quân theo sau tiếp ứng.
Cắt đặt xong, trống canh hai vừa điểm. Vương Lăng truyền vài mươi tiểu tốt, giả quân Sở đến dò thám một lần nữa cho chắc ý.
Quân thám thính về báo:
– Quân Sở đều yên nghỉ, không có phòng bị gì cả.
Vương Lăng bèn đốc quân xông vào dinh Sở, mở toang bốn cửa, reo hò ầm ĩ.
Quân Sở đang ngủ, giật mình thức dậy, thất kinh mạnh ai tìm đường chạy trốn. Cảnh hỗn loạn làm náo động cả góc trời. Quản Hán ùa vào chém giết, quân Sở nằm như rạ, máu loang khắp doanh trại.
Lúc đó, Hạng vương đang ở trong trướng, nghe bên ngoài có tiếng quân reo, vội vã vác giáo lên ngựa xông ra.
Vừa ra khỏi dinh gặp một tướng Hán hoành đao cản lại. Hạng vương nổi giận cùng tướng ấy giao chiến.
Hai bên đánh nhau một lúc, tướng Hán liệu bề không cự nổi thúc ngựa bỏ chạy. Hạng vương hét lên một tiếng thúc ngựa đuổi theo. Vừa lúc ấy có bọn Quý Bố, Chung Ly Muội, Long Thư kéo đến trợ chiến.
Hạng Vương hỏi:
– Các nơi có biết tương vừa đánh với ta là ai chăng?
Quý Bố nói:
– Ðó là Vương Lăng được Hán vương phong làm Ðại tướng. Vương Lăng vốn là tay vũ dũng, sức mạnh muôn người khôn địch, mưu chước như thần, xin Ðại vương chớ nên đuổi theo.
Hạng vương nói:
-Nếu không chém Vương Lăng làm thế nào hạ Huỳnh Dương được.
Long Thư nói:
– Vương Lăng đến cướp trại, giành thế chủ động tất đã phòng bị, xin Ðại vương thu góp tàn quân rồi sai bắt mẹ Vương Lăng kê gươm vào cổ để ở trong dinh, đồng thời cho người đến báo cho Vương Lăng biết.
Vương Lăng là kẻ chí hiếu tất phải ra hàng. Chừng ấy thành Huỳnh Dương lấy dễ như trở tay.
Hạng vương khen phải, liền sai người về Bành Thành bắt mẹ Vương Lăng dẫn đến.
Vương Lăng, sau khi thắng trận, kéo quân vào thành, Hán vương mừng rỡ ban một chung ngự tửu, và nói:
– Tướng quân một đêm giết hơi ba vạn quân Sở, khiến cho Bá vương phải lui ba chục dặm. Từ nay danh tiếng tướng quân lẫy lừng trong thiên hạ.
Vương Lăng tâu:
– Ðó chẳng qua tôi biết địch tình, nhân lúc quân Sở không phòng bị đến đánh bất ngờ. Hạng vương tuy thua nhưng nay mai tất kéo đến đánh thành, xin Ðại vương lo kế phòng thủ.
Trương Lương nói:
– Tôi nghe Hàn Tín đã thắng quân Ngụy, nay mai sắp kéo quân về. Ta cứ an tâm thủ thành, đợi Hàn Tín về sẽ liệu.
Hán vương theo lời, truyền các tướng chuẩn bị gỗ, đá quanh thành, cố thủ không ra đánh.
Hôm sau, có quân vào báo:
– Sứ Sở đến ngoài thành, muốn mời Vương tướng quân lên thành nói chuyện.
Vuơng Lăng lập tức lên mặt thành. Sứ Sở trông thấy nói lớn rằng:
– Lão mẫu của tướng quân hiện. ở trong dinh Sở, muốn được thấy mặt tướng quân ngay bây giờ. Nếu tướng quân không sang, Bá vương quyết sẽ hủy hoại lão mẫu. Và như thế, tướng quân sẽ là kẻ bất hiếu, tiếng xấu lưu muôn đời.
Vương Lăng nghe nói khóc òa, bước vào ra mắt Hán vương, tâu:
– Mẹ tôi năm nay hơn bảy mươi tuổi, xưa nay tôi chưa hề phụng dưỡng cho trọn đạo. Mẹ tôi hiện bị giam bên Sở, muốn trông thấy mặt tôi, dù phải chết tôi cũng không thể bỏ chữ hiếu, xin Ðại vương cho phép tôi sang Sở và tôi hứa quyết không khi nào ra sức giúp Sở.
Trương Lương nói:
– Tướng quân chớ tin lời sứ Sở. Vừa rồi tướng quân giết hơn ba vạn quân Sở, biết đâu đó là kế của Hạng Vương, mà lão mẫu không có nơi đó. Muốn chắc chắn, tướng quân nên cho người dò xét buộc Sở phải có bức thư lão mẫu gởi sang mới tin được..
Vương Lăng vừa khóc vừa nói với Hán vương:
– Xin Ðại vương cho người sang Sở dò xét xem sự thế ra sao.
Hán vương lòng cũng cảm động, liền sai Thúc Tôn Thông làm sứ sang dinh Sở.
Thúc Tôn Thông tuân lệnh, đến xin ra mắt Hạng vương.
Hạng vương đòi vào, nói:
– Vương Lăng là người Bái quận mà nỡ không về với ta, lại theo giúp Lưu Bang. Nay ta đã bắt mẹ hắn giam ở đây, nếu hắn mau mau về hàng, thì mẹ con sẽ gặp mặt, bằng không, ta chém ngay mẹ hắn, để cho hắn mang tiếng bất hiếu với thiên hạ muôn đời.
Thúc Tôn Thông xin ra thăm mẹ Vương Lăng. Bá vương truyền dẫn Vương mẫu đến.
Trong lúc hai người gặp nhau, bà già đáng thương có bị gươm kề cổ, nức nở khóc.
Thúc Tôn Thông lòng áy náy, trơ mắt nhìn.
Bà ta hỏi:
– Ông là người ở đâu?
Thúc Tôn Thông đáp:
– Tôi là sứ giả bên Hán, tên Thúc Tôn Thông.
Vương mẫu hỏi:
– Ông đến đãy có việc gì?
Thúc Tôn Thông thưa:
– Vương tướng quân là con trai cụ, nghe cụ bị bắt ở đây ý muốn hàng Sở để cho hai mẹ con được trông thấy nhau. Vì chưa biết thiệt hư lẽ nào, nên sai tôi sang đây dò xét. Nếu lòng cụ muốn thấy mặt Vương Lăng xin viết thư cho tôi đem về, tất Vương Lăng sang ngay.
Vương mẫu trợn mắt, nói:
– Nói vậy là nghĩa lý gì? Con tôi đem thân ra phò Hán vương, một bậc khoan nhân đại độ, thế là chính nghĩa rồi.
Nhờ ông v bảo nó: “Hễ muốn đến chữ hiếu phải dốc lòng diệt Sở lập công. Già này dẫu chết cũng an thân “.
Dứt lời bà ta chụp lấy thanh gươm đâm mạnh vào cổ mình.
Thúc Tôn Thông thết kinh toan chạy đến đỡ tay bà ta thì bà ta đã nhào xuống đất tắt thở.
Khắp tướng sĩ, ai trông thấy cũng thương xót.
Cảm cảnh ấy người ta có thơ khen Vương mẫu:
Thương con chẳng kể tấm thân già,
Tình nước trọn hơn chút nghĩa nhà.
Nhờ mẹ, Vương Lăng nên sự nghiệp,
Khí thiêng muốn thuở vẫn chưa nhòa.
Bà mẹ Vương Lăng chết rồi. Hạng vương hay tin nổi giận nói:
– Mẹ già ấy sao liều lĩnh dại dột thế.
Liền truyền quân sĩ đem bằm thây để làm hiệu lệnh trong quân.
Quý Bố can:
Mẹ Vương Lăng đã chét rồi, dàu có bằm thây cũng chẳng ích gì, chỉ nung thêm lòng căm thù của Vương Lăng. Xin Bệ hạ sai quân đem thây Vương mẫu về huyện Bái mai táng tử tế để mua lòng Vương Lăng thì hơn.
Hạng vương khen phải, truyền lệnh khâm liệm thi thể Vương mẫu đưa về Bái quận chôn cất, rồi đòi Thúc Tôn Thông vào nói:
– Ngươi về nói với Hán vương và Vương Lăng mau mau mở cửa ra hàng, nếu không ta sẽ đem quân đến phá Huỳnh Dương như bình địa.
– Tôi tuy ở Hán, song thường ngày bị Hán vương chửi mắng măi, nhục không thể chịu nổi lâu nay vẫn muốn về Sở. Tôi đã bàn với Vương Lăng rồi. Xin Ðại vương cho tôi trở về báo với Vương Lăng biết và cả hai chúng tôi sẽ đến đây hàng phục.
Hạng vương hỏi:
– Quân, tướng trong thành Huỳnh Dương hiện còn bao nhiêu?
Thúc Tôn Thông nói:
– Quân còn hơn hai mươi vạn, tương ước hơn bảy chục tên, lương thực đầy kho. Ðại vương rất khó lòng vây hãm.
Hán vương chờ Hàn Tín dẹp xong Ngụy sẽ họp binh đánh Sở, xin Ðại vương khá đề phòng.
Hạng vương hỏi:
– Ngươi trở về Huỳnh Dương, đến bao giờ sẽ cùng Vương Lăng sang đầu hàng?
Thúc Tôn Thông đáp:
– Lúc nào có cơ hội chúng tôi sẽ sang ngay.
Nói xong, Thúc Tôn Thông cáo từ trở về thành Huỳnh Dương đem việc mẹ Vương Lăng tự sát kể lại cho Hán vương nghe.
Vương Lăng nghe tin mẹ chết, ngã lăn xuống đất khóc ngất. Các tướng đỡ dậy hồi lâu mới tỉnh.
Vương Lăng nghiến răng nói:
– Ta thề với Sở không đội chung trời.
Thúc Tôn Thông đem những lời nói mình nói với Hạng vương trong lúc từ biệt kể lể cho Hán vương nghe.
Trương Lương, Trần Bình đều nói:
– Như thế chắc Hạng vương sẽ bỏ Huỳnh Dương về giữ Bành Thành. Có điều ông hứa cùng với Vương Lăng ra hàng, e rằng sanh chuyện khác chăng. Bây giờ nên bắt một người tù đem chém, bảo rằng: Thúc Tôn Thông tư thông với Sở, rủ cả Vương Lăng hàng Sở, chẳng ngờ mưu cơ bị lộ nên bị chém.
Hán vương khen phải, sai người làm theo kế hoạch củaTrương Lương.
Bên kia Hạng vương nghe tin, Thúc Tôn Thông bị chém, nói với các tướng:
– Thúc Tôn Thông bị chém, kế ta hỏng rồi Thành Huỳnh Dương, lại chưa lấy được, nếu ở đây mãi Hàn Tín đến đánh Bành Thành thì nguy chi bằng về thủ Bành Thành là hơn.
Long Thư nói:
– Ðại vương muốn về xin rút quân từ từ, kẻo quân Hán hay được đem quân truy kích thì khốn.
Hạng vương khen phải. Ngay đêm đó truyền rút quân một nửa, vài ngày sau mới triệt thoái.
Quân thám thính dò biết vào tâu với Hán vương.
Hán vương sai Chu Bột đem một toán quân ra khỏi thành cách hai mươi dặm đóng đồn canh giữ.
Hạng vương về đến Bành Thành, Phạm Tăng hay tin ra đón tiếp.
Hạng vương thuật lại việc Thúc Tôn Thông phản Hán bị chết, Phạm Tăng vỗ tay xuống bàn nói:
– Ðại vương lầm rồi. Thúc Tôn Thông là mưu sĩ của Hán, theo phò Hán đã lâu, khi nào lại có ý hàng Sở. Ðó chẳng qua thấy Ðại vương vây Huỳnh Dương lâu ngày mà Hàn Tín chưa về nên lập kế gạt Ðại vương giải vây về Bành Thành Còn chuyện Thúc Tôn Thông bị chém tôi chắc là chuyện bịa.
Hạng vương như tĩnh ngộ, trợn mắt hét.
– Ðứa thất phu ấy lại dám dùng lời dối gạt ta sao? Thế thì ta phải kéo đại binh trở lại Huỳnh Dương mới được.
Phạm Tăng nói:
– Huỳnh Dương phải nhất chiến nhất thắng Ðại vương trì hoãn lâu ngày, nay kéo binh trở lại e Hàn Tín về kịp, trong đánh ra ngoài đánh vô thì bất lợi. Xin cứ tạm nghỉ quân rồi sẽ liệu.
Hạng vương theo lời cho quan sĩ yên nghỉ.
Quả thật, giữa lúc đó Hàn Tín bắt được Ngụy Báo lại về Huỳnh Dương.
Hán vương mừng rỡ hỏi:
– Nguyên soái dẹp Ngụy xong rồi, giờ có nên động binh chăng?
Hàn Tín tâu:
– Hạ Duyệt, Trương Ðồng ở Ðại Châu vẫn chưa quy quản. Tôi muốn trước tiên đánh lấy Ðại Châu, rồi thuận đường phá luôn Triệu, Yên, Tề để củng cố lực lượng ta.
Ðồng thời chặt vây cánh của địch, sau sẽ đánh Sở mới dễ thắng.
Hán vương nhận lời truyện dẫn Ngụy Báo và gia quyến vào xem mặt.
Khi thấy hai vợ Ngụy Báo là Bạc thị và Quản thị đều có nhan sắc. Hán vương thích lắm, lưu cả trong cung rồi hỏi Ngụy Báo:
– Nhà ngươi phản phúc nay đã bị bắt, ý nghĩ thế nào?
Ngụy Báo đáp:
– Chết là hết.
Giữa lúc đó có tiếng khóc thét lên. Ðó là tiếng khóc của mẹ Ngụy Báo, một bà lão đã hơn tám mươi tuổi.
Bà lão nói:
– Ngụy Báo vì ngu dại mà phạm pháp tội đáng chết. Nhưng tôi sinh được chỉ có mình nó nối dòng Tây Ngụy. Xin Ðại vương niệm tình tha cho chết để khỏi tuyệt tự. Ðó là ân đức của Ðại vương.
Hán vương thở dài than:
– Ðứa con trai lưng dài vai rộng như thế mà ý chí thua một bà già. Thôi cũng vị tình bà lão tha cho hắn khỏi chết.
Liền truyền lệnh cách hết chức tước của Ngụy Báo, sai người giải về Bình Dương cho cùng ở với Chu Thúc.
Rồi đó, xuống chiếu sai Hàn Tín độ binh sang Ðại Châu. Một mặt giữ Vương Lăng làm Ðại tướng giao cho Tiêu Hà trấn thủ Quan Trung, hầu hạ Thái tử cai trị nhân dân, lập ra tôn miếu, xã tắc. Mọi việc đều tùy nghi định liệu.
Tiêu Hà vâng lệnh, sớm hôm gắng sức làm việc nào việc tra xét số bộ, nào việc vận tải lương thực, đâu đó hẳn hòi.
Quân mã Hàn Tín xuất phát, kẻo thẳng đến Ðại Châu hạ trại cách thành ba mươi dặm.
Quân thám thính Ðại Châu hay tin lập tức chạy về báo với Hạ Duyệt.
Hạ Duyệt bàn với Trương Ðồng:
– Hàn Tín ỷ tài đem quân đến đây xâm chiếm, ta thấy lúc địch quân đường xa mới đến đánh ngay một trận là tất thắng.
Trương Ðồng khen phải, cùng với Hạ Duyệt liền điểm quân kéo thẳng đến trại Hàn Tín.
Trời trưa nóng nực bày trận xong, Hạ Duyệt sai gọi tướng Hán ra nói chuyện.
Tướng Hán là Tào Tham được tin vội phóng ngựa ra trước trận, đem một đoàn quân lão nhược, quân kỳ nghiêng ngửa, hàng ngũ lộn xộn.
Hạ Duyệt thấy thế cười lớn gọi Tào Tham nói:
– Người ta đồn Hàn Tín dụng binh rất giỏi, nay trước mặt ta, ta mới thấy đó là lời hư truyền.
Dứt lời chỉ vào mặt Tào Tham hét:
– Thằng luồn khố đâu, sao không ra đây chịu chết? Mày là đứa vô danh tiểu tốt, đem đầu đến đây làm gì?
Tào Tham giả cách tức giận, vểnh râu, giục ngựa xông đến đâm Hạ Duyệt một giáo.
Hai bên rước đánh. Chẳng bao lâu, Tào Tham bỏ chạy Hạ Duyệt thúc quân đuổi theo.
Bỗng có tiếng quân reo hò ầm ĩ, bên tả Quán Anh bên hữu Lư Quán kéo quân phục xông ra một lược đón Hạ Duyệt lại.
Tào Tham lúc bấy giờ cũng quay lại đánh.
Hạ Duyệt hoảng vía cố gắng chống đỡ nhưng thế cô không làm sao địch nổi, vừa đánh vừa lui.
Mặt trời chen núi, binh Hán mỗi lúc một đông thêm.
Hạ Duyệt tự nghĩ:
– Nếu không thoát thân ắt mang tai họa.
Liền nhắm con đường trống phía chân núi Bình Sơn, kéo hơn trăm quân kỵ chạy vào.
Chạy được vài dặm, đàng sau quân Hán vẫn đuổi theo, trước mặt lại có một toán quân phục xông ra cản lại, cầm đầu là Vũ vương hầu Phàn Khoái.
Hạ Duyệt luống cuống không biết chạy đường nào, chợt thấy mé núi có ánh sáng, ngỡ đó có đường ra, liều chết xông đến, té ra đó là một hang đá.
Phàn Khoái vừa rượt đến. Hạ Duyệt bỏ ngựa bò lên đỉnh núi trốn, chẳng ngờ có một tiếng pháo nổ. Hàn Tín dẫn một toán quân hiện đến bắt sống Hạ Duyệt đem về trại.
Bấy giờ trống đã điểm canh hai, Trương Ðồng ở trong thành không thấy Hạ Duyệt về, biết Hạ Duyệt lâm nguy, toan đem binh cứu ứng, thì quân thua trận đã chạy về báo.
Trương Ðồng lập tức dẫn quân vào thành, đóng chặt bốn cửa cố thủ, không dám tính chuyện ứng cứu nữa.
Hàn Tín bắt được Hạ Duyệt đem về đại doanh hỏi:
– Hán vương đức dày, nghĩa trọng, sao chúng bay không chịu hàng phục?
Hạ Duyệt trợn mắt hét:
– Ta muốn tranh ngôi thiên hạ, lập chí phục chư hầu, nay việc làm không xong đành chịu chết, có đâu lại hàng phục kẻ nào.
Hàn Tín giận dữ nói:
– Ðêm đã khuya rồi, chém ngươi cũng không làm hiệu lệnh trong quân được. Ta tạm giam ngươi, đợi bắt được Trương Ðồng sẽ cùng chém một thể.
Hôm sau, Hàn Tín đem quân đến chân thành.
Trương Ðồng giữ chặt cửa thành không chịu xuất quân.
Hàn Tín sai trói Hạ Duyệt triệu đến cho xem, và khuyên trong thành ra hàng.
Trương Ðồng trông thấy Hạ Duyệt, khóc lớn nói:
– Trông ngài bị bắt tôi thật đau lòng.
Hạ Duyệt ngồi trong tù xa, thét lớn:
– Dù chết cũng phải giữ giữ thành trì không nên vì ta mà quy hàng thằng chui khố.
Hàn Tín nổi giận truyền lôi Hạ Duyệt ra chém.
Trương Ðồng trông thấy vội kêu lên một tiếng rồi từ trên mặt thành nhảy xuống chết tươi.
Phó tướng là Vương Tồn và mưu sĩ Ðan Trung thấy hai người đã chết biết không đủ sức thủ thành bèn mở cửa ra hàng.
Hàn Tín dẫn quân vào thành chiêu an dân chúng.
Một mặt ủy thác cho Trương Tồn, Ðan Trung giữ thành, một mặt sai người tới Huỳnh Dương báo tin thắng trận.
Ðoạn kiểm binh mã tất cả hơn ba vạn thẳng đường sang đánh Triệu.
Khi tới Tỉnh Bình. Hàn Tín truyền đóng quân, và gọi Trương Nhĩ đến nói:
– Nước Triệu có hai mưu sĩ là Quảng Vũ Quân và Lý Tả Xa rất có nhiều mưu lạ, chúng ta không nên khinh chiến. Phải sai người dò xét địch tình trước đã. Nếu cứ kéo quân vào ắt bị chặn nghẽn đường vận lương, binh cơ nguy hiểm.
Trương Nhĩ nói:
– Trần Dư tuy khéo dùng quân nhưng không biết sông biển, mặc dù Lý Tả Xa là kẻ lắm mưu chước, nhưng Trần Dư cũng không chịu dùng.
Hàn Tín nói:
– Ðành vậy nhưng phải dò xét kỹ càng. Không hiểu địch tình không làm sao thủ thắng được.
Trương Nhĩ vâng lời, sai kẻ tâm phúc giả làm khách buôn, lẻn vào thành nước Triệu nghe ngóng.
Nhờ đó, những lời bàn bạc của Thanh An Quân và Lý Tả Xa đối với Triệu vương, Hàn Tín đều rõ cả.
Một hôm, Triệu vương đang cùng với Thành An quân và Trần Dư bàn quốc sự, xảy được tin Hàn Tín dẫn ba mươi vạn quân sang đánh, hiện đóng nơi cửa Tỉnh Bình.
Triệu vương lập tức cho đòi Lý Tả Xa vào, để cùng đàm luận.
Tả Xa nói với Trần Dư:
– Tôi nghe nói Hàn Tín từ khi qua sông, bắt Ngụy vương, giết Hạ Duyệt thế quân rất mạnh. Quân địch đang hăng mà chúng ta dùng sức đối địch thì không thể nào thắng được. Ðường Tỉnh Bình rất hiểm, xe đi không thẳng bánh, lính đi không thể xắp hàng, như thế đường vận lương quân Hán rất khó. Túc hạ hãy cấp cho tôi ba vạn quân, tôi theo đường ra đó chẹn đường. Trong này Túc hạ cứ giữ thành không đánh, tôi tưởng không quá mười ngày quân Hán sẽ lui tức khắc.
Thành An Quân nói:
– Ðó là cái mưu trí trá. Quân ta vẫn tự xưng là quân nhân nghĩa tại sao lại dùng cái mưu trí trá ấy? Vả lại, quân Hàn Tín tuy nói là mấy chục vạn nhưng từ xa mới đến, người ngựa mỏi mệt. Ta lấy sức thủ thắng mới làm cho chư hầu nể oai.
Thành An Quân nhất định không nghe lời Tả Xa. Bọn thám thính hay tin ấy về báo với Hàn Tín.
Hàn Tín mừng rỡ, lập tức kéo quân sang đường Tỉnh Bình.
Khi gần đến cửa ai, trời đã nửa đêm, Hàn Tín chọn hai nghìn quân ky, giao cho mỗi người một lá cờ, bắt phải lẻn ra sau chân núi lần đến cạnh trại Trần Dư để dò xem trong trại động tĩnh lẽ nào, và dặn:
– Sáng mai, khi giao chiến với quân Triệu ta giả vờ thua bỏ chạy, quân Triệu tất bỏ thành xua quân đuổi theo. Các ngươi thừa cơ đột nhập vào thành Triệu cắm cờ Hán lên, tức khắc quân Triệu phải loạn.
Các tướng vâng lệnh, sắp đặt theo hiệu lệnh của Hàn Tín.
Trời gần sáng, Hàn Tín gọi Trưong Nhĩ, Tào Tham, Phàn Khoái đến bảo:
– Ngày nay đánh Triệu không cần dùng cơm sớn, nên truyền ba quân tạm ăn lót lòng, chừng nào phá quân Triệu xong sẽ dùng bữa cũng chẳng muộn.
Các tướng ngơ ngác nghĩ thầm:
– Nước Triệu quân tướng hùng mạnh lẽ nào lại phá gấp được như vậy?
Tuy nhiên, không ai dám cãi lời.
Hàn Tín liền dàn quân quay lưng về phía sông, chờ địch quân.
Quân Triệu thấy thế cười sặc sụa, bảo thầm:
– Có tướng nào lại dùng binh nguy hiểm như vậy. Hàn Tín quả là kẻ hư danh!
Trời đã sáng rõ. Hàn Tín kéo cờ trống làm hiệu. Trong thành, quân Triệu cũng khai thành ồ ạt kéo ra.
Hàn Tín và Trương Nhĩ đốc quân đánh được một lúc liền giả thua bỏ chạy về mé sông, quân Hán dồn về một góc
Quân Triệu thấy vây reo lên tờ mở. Rồi tiếng chiêng, tiếng trống giục vang tai, quân Triệu ùa tới đánh rất ngặt.
Bấy giờ các tướng Hán như Phàn Khoái, Tào Tham thấy thế nguy không biết làm cách nào, đành xua quân lại liều chết đánh với quân Triệu.
Trong cái thế túng cùng ấy, quân Hán liều mạng chết đánh quá hăng, quân Triệu sợ hãi không dám đến gần.
Giữa lục đó hai nghìn quân kỵ của Hàn Tín đã bố trí trong đêm tối, lẻn vào trại quân Triệu cắm toàn cờ Hán.
Quân Triệu đang đánh với quân Hán nhìn lại thấy doanh trại mình đều có địch kỳ, ngỡ là quân Hán đã phá được Triệu, mạnh ai nấy bỏ chạy. Trần Dư tuốt gươm chém chết mấy tên, nhưng cũng không làm sao cản lại nổi.
Quân Hán thừa thế đuổi đánh quân Triệu một hồi rồi kéo thẳng vào thành bắt sống vua Triệu và chiêu an bá tánh.
Các tướng đều hỏi Hàn Tín:
– Theo binh pháp, bày trận quay lưng về mé sông là việc tối kỵ, sao Nguyên soái lại bố trì trận vừa rồi như thế?
Hàn Tín nói:
– Dùng thủy bối cũng là theo binh pháp. Binh pháp có nói: “Ðưa vào chỗ chết thì mới sống, đặt vào chỗ mất thì mới còn”. Trong cái nguy hiểm, ai không dốc lòng bảo vệ mạng sống của mình.
Các tướng đều phục thầm. Rồi đó Hàn Tín sai đi tìm bắt các tướng Triệu.
Các tướng dẫn quân tủa ra khắp nơi bắt được Lý Tả Xa dẫn về, còn Thành An Quân thì đã chết trong đám loạn quân rồi.
Hàn Tín trông thấy Lý Tả Xa mừng rỡ, vội bước đến mở trói, mời ngồi, và hỏi:
– Bây giờ tôi muốn sang Bắc đánh nước Yên, sang sông đánh nước Tề, phải làm cách nào mới thành công?
Lý Tả Xa nói:
– Kẻ đại phu nước đã mất thì không thể.bàn đến việc giữ nước, viên tướng đã bị thua không thể nào nói mạnh.
Hàn Tín nói:
– Bá Lý Hề ở nước Ngu mà nước Ngu mất, sang nước Tần, nước Tần dựng lên nghiệp bá. Có phải là ông ta người ở nước Ngu mà không ở nước Tần đâu. Ðó chẳng qua một đàng biết dùng, một đàng không biết dùng vậy. Nếu Thành An Quân chịu dùng kế của ông thì nay tôi đã bị bắt rồi, có đâu ngồi hầu chuyện với ông được.
Tiếp đó Hàn Tín lại dùng lời tâng bốc Lý Tả Xa, coi Lý Tả Xa như bậc thầy vậy.
Lý Tả Xa nói:
– Tôi nghe nói kẻ khôn nghĩ một nghìn điều ắt nghĩ một điều lầm, người ngu nghĩ một nghìn điều ắt có một điều phải. Bởi vậy, dẫu lời nói của kẻ ngông cuồng, thánh nhân cũng đem ra mà lựa chọn. Kế của tôi chưa chắc đã dùng được, tuy nhiên tướng quân đã gạn hỏi không lẽ tôi chẳng giải bầy. Tướng quân bắt Ngụy Báo, giết Hạ Duyệt, cả đến Thành An Quân là người có mưu lược, chỉ một trận, tướng quân hạ được cửa Tỉnh Bình, phá được hai mươi vạn quân Triệu, khiến cho khắp thiên hạ ai cũng nghe danh. Ðó là chỗ sở trường của tướng quân. Nhưng bây giờ, quân sĩ đang mỏi mệt, nếu kéo binh sang đánh Yên, trong lúc đó nước Yên đang mạnh mẽ, tôi tưởng đó là điểm yếu của tướng quân đó. Người dụng binh giỏi không khi nào đem cái nhược điểm của mình đối chọi với ưu thế của kẻ khác.
Hàn Tín hỏi vội?
– Theo ý Tiên sinh thì nên thế nào?
Lý Tả Xa nói:
– Cái kế của tướng quân bây giờ không gì bằng cho quân lính nghỉ ngơi, bồi bổ thực lực. Lấy uy danh của mình đem phủ dụ Yên, Tề. Tôi tưởng tướng quân không kéo binh tới, Yên, Tề mới sợ.
Hàn Tín nói:
– Vâng, lời dạy của Tiên sinh rất hay, tôi xin lấy kế đó làm lòng.
Liền viết một bức thư sai Tùy Hà làm sứ, sang nước Yên, còn mình vẫn đóng quân nơi nước Triệu.
Nước Yên từ khi nghe Hàn Tín phá Triệu, chém Thành An Quân, dân chúng nhốn nháo không an. Vua Yên thấy vậy rất lo lắng, đòi mưu sĩ Khoái Văn Thông vào nghĩ kế.
Văn Thông nói:
– Thế quân Hàn Tín tuy mạnh nhưng chinh chiến đã lâu ngày ắt mỏi mệt. Hiện nay Hàn Tín đóng quân nơi nước Triệu, sớm tối sẽ cho người mang thư đến dụ hàng.
Nếu có người đến, xin Ðại vương chớ nhận lời vội, để tôi sang Triệu dò xét địch tình rồi sẽ liệu.
Yên vương nhận lời. Quả nhiên, chẳng bao lâu Tùy Hà mang thư đến.
Vua Yên xem thư xong, truyền đặt tiệc khoản đãi, rồi phái Văn Thông sang Triệu dò la mình hình quân Hán.