Cuối thời Minh, đại tướng Viên Sùng Hoán bị cáo buộc oan tội tư thông với ngoại biên và bị hoàng đế Sùng Trinh xử tử. Con trai Viên Sùng Hoán là Viên Thừa Chí được đồng đạo võ lâm bảo vệ, rồi được Mục Nhân Thanh – Chưởng môn phái Hoa Sơn truyền dạy võ nghệ.
Viên Thừa Chí khi lớn lên học được võ nghệ cao cường, trở thành minh chủ thất tỉnh, gia nhập lực lượng khởi nghĩa của Lý Tự Thành lật đổ triều đình nhà Minh và bảo vệ Trung Quốc trước sự xâm lược của quân Mãn Châu ở phía bắc.
Đó là nội dung tác phẩm “Bích huyết kiếm” – Một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung, được đăng lần đầu tiên trên Hương Cảng thương báo từ ngày 1 tháng 1 năm 1956 đến ngày 31 tháng 12 năm 1956.
Vào tháng tám Ất Mùi, năm Vĩnh Lạc thứ sáu đời Minh Thành Tổ, quốc vương Ma Na Nhã Gia Na Nại của nước Bột Nê ở vùng biển Tây Nam xa xôi đến Trung thổ triều cống. Y dẫn theo cả phi tần, em trai, em gái, thế tử và một số triều thần, tiến cống đủ thứ: long não, mào chim hạc, đồi mồi, tê giác và kim ngân châu báu. Thành Tổ rất vui mừng, ủy lạo một phen rồi ban yến tiệc ở Phụng Thiên Môn.
Nước Bột Nê này chính là Brunei ở phía Bắc quần đảo Indonesia, cũng gọi là Văn Lai. Tuy họ ở xa Trung thổ tới hơn vạn dặm đường biển, nhưng đã ngưỡng mộ Trung Hoa từ rất lâu. Vào năm Thái Bình thứ hai đời Tống, vua nước đó là Hướng Đả đã từng sai sứ giả đến tiến cống long não, ngà voi, đàn hương… rồi từ đó về sau thỉnh thoảng lại triều cống.
Quốc vương Ma Na Nhã Gia Na Nại thấy thiên triều đất đai sung túc, sản vật dồi dào, dùng văn để trị nước dạy dân, dụng cụ y phục thứ nào cũng đáng ngưỡng mộ. Y lại được hoàng đế nhà Minh tiếp đãi hậu hĩ, nên lưu luyến không chịu trở về. Mãi đến tháng mười một năm đó, một là do tuổi già sức yếu, hai là do thủy thổ không hợp, nên y bị bệnh không trị được, bỏ xác lại Trung thổ.
Minh Thành Tổ thương tiếc, vì chuyện này mà bãi triều ba ngày, cho an táng tại cửa An Đức thành Nam Kinh. (Hiện nay di tích ngôi mộ đó vẫn còn trên đồi Tụy Bảo Sơn, ngoài cửa Trung Hoa thành phố Nam Kinh. Dân chúng quanh đó gọi là mộ Mã Hồi Hồi.) Sau đó, Thành Tổ hạ chiếu tấn phong thế tử Hà Vương Tập làm Quốc vương nước Bột Nê, sai sứ giả hộ tống về nước, đồng thời ban thưởng rất nhiều kim ngân châu báu, đồ sành sứ, vải vóc, thổ cẩm.
Những năm Chính Đức, Gia Tĩnh sau đó, quốc vương nước Bột Nê đều có triều cống. Một số người Trung Quốc đến Bột Nê được phong làm Na đốc, là một chức quan lớn.
Đến giữa năm Vạn Lịch thì nước Bột Nê có nội loạn. Bột Nê truyện trong Minh Sử có chép: “Quốc vương băng hà, không người kế vị, người trong nước tranh ngôi vua, chém giết lẫn nhau rất nhiều. Sau này họ tôn con gái của cựu vương lên làm vua. Có người họ Trương, quê quán ở Trương Châu, Trung Quốc, đang làm Na đốc ở nước đó, vì loạn lạc nên bỏ đi, sau đó được nữ vương đón trở về. Con gái của họ Trương thường ra vào cung điện, có lần nổi điên nói cha mình mưu phản. Nữ vương Bột Nê kinh hãi, liền sai người đến nhà tra xét. Trương Na đốc sợ tội tự tử, rồi được nhiều người Bột Nê minh oan cho. Nữ vương hối hận, giết đứa con gái kia, rồi phong cho một người con của họ Trương tiếp tục làm quan Na đốc.”
Vì sao mà ái nữ của Trương Na đốc phát bệnh thần kinh, tố cáo cha mình tạo phản, gây ra tấn bi kịch đó? Chắc chắn bên trong có nhiều tình tiết ly kỳ, nhưng vì sử sách không chép lại nên người đời sau không cách nào biết được. Dù sao thì nhà họ Trương gốc ở Trương Châu tỉnh Phúc Kiến cũng nhiều đời được phong làm Na đốc tại nước Bột Nê, sống rất đàng hoàng, có quyền có thế, được dân chúng kính ngưỡng.
Không ít người Trung Hoa đi xứ khác làm ăn, dù làm ruộng hay buôn bán đều có công khai phá, mở mang đất đai, cư xử tương thân tương ái với dân chúng địa phương.
Trong sách Tinh Xà Thánh Lãm của Phí Tín có ghi: “Dân chúng nước Bột Nê tôn sùng đạo Phật, thường ăn chay. Họ rất thương mến những người Đường đến nước mình, thấy ai say rượu cũng dìu về nhà nghỉ ngơi, đối đãi hậu hĩ như hàng xóm quen biết lâu năm vậy. Có bài thơ làm chứng:
Bột Nê ở hải ngoại,
Dựng nước đã từ lâu.
Hè mát, đông ấm áp,
Đất bằng phẳng phì nhiêu.
Một lòng sùng Phật giáo,
Người say cũng đãi chiều.
Thuyền đi khắp thiên hạ,
Tiếng tốt mãi truyền lưu.”
Chức Na đốc của nhà họ Trương ở nước Bột Nê truyền được mấy đời thì đến Trương Tín. Trương Tín chỉ có một đứa con trai, đặt tên là Triều Đường để tỏ lòng không quên cố quốc. Năm Triều Đường được mười hai tuổi, có một nhân sĩ ở Phúc Kiến đến xứ Bột Nê. Ông này thi cử nhiều lần không đậu nên bỏ học đi buôn, kinh doanh cũng dở nốt nên mất sạch cả vốn, không còn tiền để về quê, vì đó phải lưu lạc xứ người. Có người giới thiệu ông ta đến nhà họ Trương, không chừng sẽ tìm được kế sinh nhai. Hai bên nói chuyện xong, Trương Tín hoan hỉ mời ông ta làm gia sư, dạy dỗ con trai mình.
Việc học của Trương Triều Đường bắt đầu tuy muộn, nhưng nhờ tư chất thông minh nên trong vòng mười năm đã thuộc làu Tứ Thư, Ngũ Kinh. Gia sư bèn khuyên Trương Tín cho con trai về Trung thổ mà thi cử, may ra đậu tú tài hay cử nhân ở Trung Hoa thì trở về nước Bột Nê chắc chắn sẽ vinh dự hơn nhiều.
Trương Tín cũng muốn cho con trai về thăm lại phong thổ nhân tình ở quê cha đất tổ, nên ban thưởng hậu hĩ cho gia sư, rồi thu xếp tiền bạc, sai thêm một đứa thư đồng là Trương Khang đi theo con trai về Trung Nguyên ứng thí. Dĩ nhiên gia sư cũng được về theo.
Đó là năm Sùng Trinh thứ sáu. Tên nghịch tặc Ngụy Trung Hiền đã bị xử tử, nhưng những chuyện hắn bán nước hại dân, tàn sát trung lương vào năm Thiên Khải thứ bảy đã làm nguyên khí của triều Minh thương tổn nặng nề. Lại còn thiên tai hạn hán mấy năm liên tiếp, dân nghèo nổi lên làm giặc, loạn lạc khắp nơi.
Ba người Trương Triều Đường lên bờ ở Hạ Môn, rồi lại thuê thuyền đi về hướng Tây để đến Trương Châu. Không ngờ mới đi được mấy dặm, đến vùng Tứ Hương thì gặp phải đại họa. Một bọn cường đạo xông thẳng lên thuyền, không nói không rằng, giết ngay ông gia sư. May mà chủ tớ Trương Triều Đường là dân biển giỏi bơi lội nên nhảy xuống nước trốn thoát, tránh được họa sát thân.
Hai người trốn ở vùng quê được ba ngày, nghe toàn những chuyện dân chúng đói khổ ở khắp bốn phương kéo đến tấn công Trương Châu, Hạ Môn. Tin tức này khiến Trương Triều Đường hoảng sợ đến mất hết hùng tâm thi cử, thấy nơi này bất an không ở được, chỉ muốn về nhà cho lẹ.
Nhưng lúc này không thể trở về Hạ Môn được nữa. Hai chủ tớ bàn nhau, quyết định đi theo hướng Tây đến Quảng Châu, rồi từ Quảng Châu sẽ mướn thuyền vượt biển. Thế là hai người mua hai con ngựa, dọc đường luôn miệng hỏi thăm đường về Quảng Đông, lòng nơm nớp hoảng sợ không lúc nào nguôi.
May mà dọc đường vô sự. Họ đi qua Tam Tịnh, Bình Hòa đến Nam Hòa Bá, đã là địa giới tỉnh Quảng Đông rồi. Từ lâu Trương Triều Đường đã nghe Quảng Đông là nơi trù phú, nhưng nhìn thấy dọc đường toàn là dân chúng đói khổ. Chàng nghĩ bụng: “Đất đai Trung Hoa sản vật phong phú, thế mà bá tính người nào cũng mạng treo đầu sợi tóc. Bột Nê chỉ là một nước nhỏ ở hải ngoại, thế mà già trẻ trai gái đều được an cư lạc nghiệp, không phải lo lắng ưu phiền gì hết”. Chàng chợt thở dài, lại nghĩ: “Nghe nói Trung thổ núi sông hùng vĩ, mình đến đây chưa thấy được một phần trăm, mà sinh mạng không biết sẽ mất lúc nào. Chi bằng trở về Bột Nê, ngồi hóng mát dưới bóng dừa mà ca hát, an lạc hơn nhiều.”
Hôm đó, khi họ vượt qua một ngọn đèo dài, đường núi khúc khuỷu hết lên lại xuống, thì trời đã gần tối. Hai chủ tớ lo lắng thúc ngựa chạy một hơi mười mấy dặm, đến một thị trấn nhỏ. Họ cả mừng, định tìm khách sạn mà tá túc, nào ngờ thị trấn vắng lặng không một bóng người.
Trương Khang xuống ngựa, tới trước một khách điếm nhỏ vẫn còn treo bảng Việt Đông Khách Sạn, lớn tiếng kêu: “Này! Chủ quán! Chủ quán!”
Khách sạn này được xây tựa vào vách núi. Chỉ nghe từ thung lũng tiếng vọng về “Chủ quán… án… án”, còn bên trong hoàn toàn không có động tĩnh gì. Ngay lúc đó một cơn gió thổi tới, những tiếng xào xạc nổi lên, hai người đều bất giác dựng tóc gáy.
Trương Triều Đường rút kiếm ra chạy vào trong tiệm. Bên trong có hai thi thể, một đàn ruồi bay quanh những vũng máu đen, mùi hôi thối xộc vào mũi. Xem ra hai người này chết đã nhiều ngày rồi. Trương Khang kinh hãi la lớn một tiếng, quay đầu chạy ra ngoài.
Trương Triều Đường nhìn quanh tứ phía, thấy chỗ nào cũng lộn xộn. Rương hòm quăng vãi tứ tung, cửa sổ xiêu vẹo, hình như đã bị cường đạo lục soát. Lúc này Trương Khang thấy chủ nhân lâu quá không ra ngoài, bèn từng bước một rón rén đi vào trong quán. Trương Triều Đường bảo: “Đi chỗ khác xem thử!”
Họ đi vào ba căn khách điếm khác, thấy căn nào cũng vậy. Có những thi hài nữ nhân thân thể lõa lồ, hiển nhiên bị hiếp trước khi giết. Không khí trong thị trấn cực kỳ thê thảm, gió thổi âm u rờn rợn, mùi hôi thối của xác chết từng cơn ập tới. Hai người không dám ở lại lâu, liền lên ngựa chạy tiếp về hướng Tây.
Đi thêm được mười mấy dặm thì trời đã tối hẳn. Trong lúc bối rối, vừa đói meo vừa sợ sệt, Trương Khang bỗng lên tiếng: “Công tử xem kìa!”
Trương Triều Đường nhìn theo hướng nó chỉ, thấy xa xa có một đốm lửa nhỏ, liền mừng rỡ nói: “Chúng ta tới đó tìm nơi tá túc đi”.
Hai người rời khỏi đường cái, đi về hướng ngọn lửa. Đường đi càng lúc càng hẹp. Trương Triều Đường bỗng nói: “Nếu đó là sào huyệt của bọn cướp, há chẳng phải chúng ta tự chuốc lấy cái chết?”.
Trương Khang kinh hoảng nhảy dựng lên, vội nói: “Thế thì đừng đi nữa!”.
Trương Triều Đường thấy mây đen kéo đến, hình như trời sắp mưa, bèn nói: “Cứ từ từ, tới đó xem sao đã.”
Hai người xuống ngựa, cột ngựa vào một gốc cây bên vệ đường, nhẹ nhàng đi về hướng có ánh lửa. Gần tới thì thấy đó là hai căn nhà tranh. Trương Triều Đường định đến cửa sổ nhìn vào, đột nhiên có một con chó lớn sủa vang lên, chồm chồm toan phóng tới.
Trương Triều Đường chĩa thanh kiếm ra, con chó kia mới không dám đến gần, nhưng vẫn đứng sủa không ngớt. Từ gian nhà chứa củi phía sau có một bà lão bước ra, tay cầm ngọn đèn dầu, run rẩy cất tiếng hỏi. Trương Triều Đường nói: “Bọn vãn bối là người qua đường, muốn xin tá túc ở quý phủ một đêm.”
Bà lão chần chừ một lát rồi đáp: “Xin mời vào.”
Trương Triều Đường đi vào gian nhà tranh, thấy trong nhà chỉ có một chiếc giường đắp bằng đất, hoàn toàn không có bàn ghế gì cả. Trên giường còn có một ông lão đang nằm, không ngớt ho hắng.
Trương Triều Đường bảo Trương Khang ra tháo cương dắt ngựa tới đây. Nhưng Trương Khang nhớ đến cảnh tượng người chết thê thảm vừa rồi, run rẩy co rúm lại, không dám bước ra ngoài. Ông lão phải gắng gượng xuống giường, cùng đi với nó ra dẫn ngựa về, cột lại bên hè nhà. Bà lão vào trong lấy ra một ít bánh làm bằng bột bắp, rồi đun một ấm nước sôi, mời khách ăn uống.
Trương Triều Đường ráng nuốt xong một miếng bánh bắp rồi hỏi: “Ở thị trấn phía trước có nhiều người bị giết. Đó là bọn thổ phỉ nào vậy?”.
Ông lão thở dài nói: “Thổ phỉ nào ư? Thổ phỉ đâu có tàn ác như vậy? Đó là bọn quan binh!”.
Trương Triều Đường giật mình hỏi: “Quan binh ư? Quan binh sao lại vô pháp vô thiên như vậy, cướp bóc hãm hiếp dân lành? Chẳng lẽ quan tướng chỉ huy không được hay sao?”.
Ông lão cười buồn rồi nói: “Nhất định đây là lần đầu tiểu tướng công ra ngoài, không hiểu thế thái nhân tình gì cả. Chỉ huy tất nhiên là được nhiều, đồ quý được lấy trước, đàn bà đẹp được cưỡng bức trước”.
Trương Triều Đường hỏi: “Thế sao bá tính không tố cáo lên quan phủ?”.
Ông lão đáp: “Tố cáo thì ích gì? Ai dám đi tố cáo thì tám chín phần là mất luôn cả mạng”.
Trương Triều Đường hỏi: “Thế là thế nào?”.
Ông lão đáp: “Dĩ nhiên người làm quan phải tương trợ lẫn nhau. Chẳng những quan huyện lão gia không nhận đơn tố cáo, lại còn đánh cho mấy hèo rồi nhốt lại. Nếu không có tiền để kính biếu thì đừng hòng thoát thân”.
Trương Triều Đường lắc đầu quầy quậy, lại hỏi: “Thế thì quan binh đến vùng núi này để làm gì?”.
Ông lão nói: “Trên danh nghĩa thì chúng đến đây để tiêu diệt thổ phỉ. Thật ra, kẻ cướp trên núi thì mười người có đến tám là bị quan phủ ép cho không còn đường sống, phải đi ăn cướp. Quan binh tới đây không lo bắt cướp mà chỉ lo cướp bóc một phen, rồi giết chết một mớ dân chúng, xách thủ cấp nộp lên mà báo công. Thế là vừa phát tài vừa thăng quan tiến chức”.
Ông lão nghiến răng nghiến lợi, lại ho hắng một chập. Bà lão không ngừng ra hiệu bảo chồng dừng nói, sợ Trương Triều Đường quen biết bọn nhà quan, sẽ gây thêm tai họa cho mình.
Trương Triều Đường nghe xong buồn bã, không ngờ thế cuộc bại hoại đến mức như thế. Chàng nghĩ: “Gia gia từng nói Trung Hoa là xứ văn vật lễ nghĩa, giáo dục bằng vương đạo, dọc đường không lượm của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, người nào cũng giữ tín nghĩa, hòa mục yêu thương lẫn nhau. Hôm nay nhìn thấy thì không phải vậy, thua xa cái nước Bột Nê mang tiếng man di của mình”. Chàng than thở một hồi rồi nằm xuống đất mà ngủ.
Mới mơ màng chợp mắt, đột nhiên ngoài cửa có tiếng chó sủa vang dội. Sau đó có tiếng quát mắng, rồi tiếng đập cửa bình bình. Bà lão bước xuống giường định ra mở cửa, nhưng ông lão nắm tay kéo lại, rồi khẽ bảo Trương Triều Đường: “Tướng công! Tướng công ra sau mà ẩn nấp một lát.”
Trương Triều Đường và Trương Khang ra sau nhà, ngửi thấy mùi rơm mới, đoán rằng đây là kho chứa củi. Hai chủ tớ chui vào trong đống rơm mà trốn. Nghe tiếng lách cách, răng rắc, cửa nhà đã bị đẩy ngã. Có tiếng quát rất thô bạo: “Sao không chịu mở cửa?”.
Chưa có tiếng đáp, đã nghe “bốp”, rõ ràng có người bị tát tai.
Bà lão khúm núm lên tiếng: “Quan sai lão gia! Vợ chồng già chúng tôi tuổi tác hồ đồ, nên không nghe gọi cửa”.
Lại nghe một tiếng “bốp” nữa, rồi tên kia chửi mắng: “Không nghe thì phải ăn đòn! Mau mau giết gà, làm cơm cho ba người ăn.”
Ông lão nói: “Vợ chồng lão sắp chết đói rồi, còn gà vịt gì nữa”.
Nghe một tiếng “bịch”, hình như ông lão đã bị xô ngã nhào xuống đất. Bà lão khóc òa lên. Một giọng khác nói: “Lão Vương, thôi đi! Hôm nay chạy suốt ngày thu thuế, chỉ thu được ba lạng bảy tiền, chẳng ai vui vẻ gì được. Ngươi có đánh lão già này cũng không hả dạ nổi đâu”.
Tên họ Vương kia đáp: “Đối với cái loại này thì không mạnh tay không được. Phải đòi mấy lạng bạc, nếu không đánh què chân lão thì lão đâu có chịu lòi tiền ra?”
Một giọng khàn khàn cất lên: “Bọn nhà quê này thật là nghèo mạt rệp. Trút lu gạo ra, đếm tới đếm lui cũng chỉ có mười mấy hạt gạo; ép thế nào cũng không ra được cái gì đâu. Dù sao thì anh em chúng ta cũng sắp bị quan lớn lão gia chửi mắng là đồ vô dụng rồi…”
Đang nói chuyện rôm rả, đột nhiên con ngựa của Trương Triều Đường hí lên. Bọn công sai kinh ngạc, vội chạy ra ngoài cửa xem xét. Chúng nhìn thấy hai con ngựa, bèn bàn nhau: “Nhất định là người cưỡi ngựa đang tá túc trong nhà. Thế nào cũng kiếm được chút ít!”.
Bọn chúng cả mừng, kéo nhau xông vào nhà trong lục lọi. Trương Triều Đường kinh hãi, vội kéo tay Trương Khang tông cửa sau mà chạy. Hai người chân thấp chân cao chạy loạn xạ trong vùng núi, không thấy ai đuổi theo mới yên tâm. May mà tiền bạc đều giấu trong người Trương Khang hết.
Hai chủ tớ chui vào lùm cây trốn suốt một đêm, đợi trời mờ sáng mới dám ra đường cái. Họ đi bộ được mười mấy dặm, chỉ mong mau mau đến thị trấn để mua ngựa đi tiếp. Trương Khang mỏi chân quá, không ngừng thóa mạ bọn công sai.
Đang thóa mạ đến lúc cao hứng, đột nhiên nó thấy trên một con đường nhỏ có bốn tên công sai bước ra, tay cầm thước sắt xích sắt. Hai tên đi sau có dắt ngựa, đúng là ngựa của hai chủ tớ.
Trương Triều Đường và Trương Khang liếc nhau một cái. Lúc này không tránh né gì được nữa, họ đành giả bộ không nghe không thấy, cứ tiếp tục đi. Bốn tên công sai giương mắt nhìn họ chằm chằm. Một tên mặt tròn cất tiếng hỏi: “Này! Ông bạn đi đâu vậy?”.
Trương Triều Đường nghe giọng nói, nhận ra đây chính là tên họ Vương hôm qua chưa hỏi đã đánh người. Trương Khang bước lên một bước, nói: “Đây là công tử của tiểu nhân, đang tới Quảng Châu để học thi”.
Lão Vương vung tay ra đoạt lấy tay nải đeo trên vai Trương Khang, mở ra thấy đầy vàng bạc. Hắn mừng rỡ la lên: “Công tử cái gì? Nhìn hai người bọn ngươi chắc chắn không phải là người tốt. Vàng bạc này từ đâu mà có? Rõ ràng là của ăn cắp hay lường gạt được. Hay lắm! Bây giờ đã có vật chứng, bọn ngươi hãy theo ta về gặp đại lão gia”.
Hắn thấy hai người này còn trẻ dễ ăn hiếp, toan dọa cho họ hoảng sợ mà bỏ chạy. Nào ngờ Trương Khang nói: “Công tử của ta là đại quan ở nước ngoài, tri phủ đại nhân mà gặp ông ấy cũng phải nói chuyện cho lịch sự. Được! Ông dẫn chúng ta về gặp đại lão gia là hay nhất.” Nó lập tức giật lấy tay nải, đeo lại sau lưng.
Một gã công sai trung niên nghe xong bỗng chau mày, nghĩ bụng: “E rằng vụ này sẽ có hậu hoạn. Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm cho trót. Chi bằng giết luôn hai thằng nhóc này, phát tài trước rồi giải quyết sau”. Hắn đột nhiên rút đao ra chém tới Trương Khang.
Trương Khang hoảng sợ, vội vã rụt đầu lại, lưỡi đao lướt sát qua đỉnh đầu. Nó bước ra ngăn trước mặt Trương Triều Đường, la lớn: “Công tử! Chạy nhanh lên.” Trương Triều Đường quay lưng chạy ngay.
Tên công sai đó xoay tay lại chém thêm một đao nữa. Lần này Trương Khang đã đề phòng, nên nó né mình tránh qua, không bị chém trúng. Hai chủ tớ vắt giò lên cổ mà chạy. Bốn tên công sai cầm khí giới, vừa la hét vừa rượt theo.
Trương Triều Đường vốn là công tử nhà giàu quen sống trong nhung lụa, bây giờ lại hoảng sợ quýu chân, làm sao mà chạy nhanh được? Rõ ràng chàng sắp bị bọn công sai đuổi kịp, bỗng thấy phía trước có một con ngựa chạy nhanh tới. Tên công sai trung niên thấy có người đến, vội vã la lên: “Phản rồi, phản rồi! Bọn cướp này cả gan, dám chống lại quan quân!”.
Mấy tên công sai kia cũng la lớn: “Bắt cướp, bắt cướp!” Chúng vu cáo chủ tớ Trương Triều Đường là trộm cướp, nghĩ bụng: “Giết đi là xong, còn ai dám đến hỏi nữa?”.
Con ngựa phía trước đã chạy tới nơi. Người cưỡi ngựa thấy hai người đang chạy trốn, phía sau có bốn công sai hò hét đuổi theo, tưởng chúng đang bắt cướp thật. Y liền thúc ngựa tới trước mặt chủ tớ Trương Triều Đường, cúi người đưa tay ra, mỗi tay túm lấy một người xách hổng lên khỏi mặt đất.
Bốn tên công sai vừa thở hổn hển vừa chạy tới. Người cưỡi ngựa quăng chủ tớ Trương Triều Đường xuống đất, mỉm cười nói: “Kẻ cướp đã bị bắt rồi!”
Nói xong, y cũng nhảy xuống ngựa. Người này thân hình khôi vĩ, thanh âm vang dội, râu ria đầy mặt, tuổi trạc tứ tuần.
Bốn tên công sai thấy y tay chân nhanh nhẹn, khí hùng lực mạnh, bèn mỉm cười chắp tay đa tạ rồi bước tới dựng hai người Trương Triều Đường đứng dậy.
Người cưỡi ngựa nhìn thấy Trương Triều Đường mặc y phục thư sinh, còn Trương Khang mặc áo xanh đội mũ nhỏ, rõ ràng là một đứa thư đồng. Y thấy hai người này chẳng giống trộm cướp chút nào, bất giác ngẩn ra.
Trương Khang vội la lớn: “Xin anh hùng cứu mạng! Chúng muốn mưu hại bọn tiểu nhân”.
Người kia quát hỏi: “Các ngươi là ai?”
Trương Khang kêu lên: “Đây là công tử của tiểu nhân, định đi Quảng Châu ứng thí…” Nó chưa nói xong, đã bị một tên công sai dùng tay bịt miệng lại.
Tên công sai trung niên nói với người cưỡi ngựa: “Lão huynh! Huynh đi đâu thì cứ việc đi, đừng nhúng tay vào việc công của chúng ta”.
Người cưỡi ngựa bảo: “Huynh buông tay ra, để người ta nói đã”.
Trương Triều Đường cũng lên tiếng: “Tại hạ là kẻ thư sinh, sức trói gà không chặt, sao làm cường đạo…”
Một tên công sai hét lên: “Còn dám nhiều chuyện!” Hắn vung tay, toan tát vào mặt chàng.
Người cưỡi ngựa liền vẫy roi ra, dùng đầu ngọn roi cuộn lấy cổ tay tên công sai đó, nên cái tát của y không trúng đích. Người cưỡi ngựa bèn hỏi: “Việc này rốt cuộc như thế nào?”
Trương Khang nói: “Công tử của tiểu nhân định đi Quảng Châu để thi tú tài, nhưng gặp phải bốn người này. Chúng nhìn thấy vàng bạc, nảy ý giết người cướp của”.
Nói đến đây, nó quỳ xuống la lên: “Xin anh hùng cứu mạng!”.
Người cưỡi ngựa bèn hỏi bọn công sai: “Chuyện này có thật không?”.
Bọn kia chỉ cười nhạt không đáp. Tên họ Vương đứng ở sau lưng, nhân lúc người kia không chú ý, đột nhiên vung đao lên chém bổ từ trên đầu xuống. Người kia nghe sau gáy có tiếng gió, không cần quay đầu lại, thân hình chỉ hơi nghiêng về bên trái, dùng chân trái xuất chiêu Ô Long Tảo Địa đá quét ngang qua. Phát cước này trúng ngay vào mắt cá chân tên họ Vương, hất hắn văng ra mấy bước.
Ba tên công sai còn lại la lớn lên: “Trùm cướp đã đến rồi!” Lập tức hai tên vung thước sắt, một tên múa dây xích sắt, vây quanh người cưỡi ngựa.
Trương Triều Đường thấy người kia tay không tấc sắt, không khỏi âm thầm lo lắng. Nhưng người kia không hoảng hốt, cứ né trái né phải, binh khí của ba tên công sai không đụng vào y được chút nào.
Tên họ Vương đã bò dậy được, cũng xách đao nhảy vào giáp công, nhưng người kia đột nhiên thét lớn một tiếng. Tên họ Vương giật bắn mình, nhát đao chém xuống lệch đi, bị đối thủ giáng cho một quyền ngay giữa mặt, máu mũi lập tức tuôn ra. Hắn bất giác đưa hai tay lên ôm lấy mặt, đơn đao rơi xuống đất nghe “choảng” một tiếng.
Người kia nhặt lấy đơn đao, lập tức chém ngược ra sau trúng vào tay trái của một tên công sai cầm thước sắt. Y có binh khí trong tay giống như hổ mọc thêm cánh, vung đao sáng lóe như chớp giật. Chỉ chốc lát là tên công sai cầm xích sắt bị trúng một đao vào đùi bên trái, té nhào xuống đất. Tên công sai cuối cùng không dám đánh nữa, vội vắt giò lên cổ mà chạy trốn, đồng bọn sống chết ra sao mặc kệ.
Người kia cười rộ lên ha hả, vứt thanh đao xuống đất rồi tung người nhảy lên lưng ngựa. Trương Triều Đường vội vã bước tới cảm ơn, hỏi han danh tính. Người cưỡi ngựa thấy hai tên công sai nằm dưới đất vừa rên la vừa giương mắt giận dữ nhìn mình, bèn nói: “Chỗ này không nói chuyện được. Chúng ta lên ngựa trước đã”.
Trương Khang dẫn ngựa tới, ba người ba ngựa đi song song với nhau. Trương Triều Đường tự giới thiệu gia thế và danh tính mình. Người kia nói: “Thì ra là Trương công tử. Tại hạ họ Dương, tên Bằng Cử, được bằng hữu giang hồ gọi là Ma Vân Kim Xí, là tiêu đầu của Võ Hội tiêu cục”.
Trương Triều Đường nói: “Hôm nay mà không được các hạ ra tay giải cứu, thì chủ tớ tiểu đệ hai người chắc chắn không toàn mạng”.
Dương Bằng Cử nói: “Tình hình nơi đây loạn lạc, quan quân thổ phỉ khó mà phân biệt, công tử mau mau về nước thì hay hơn. Tại hạ cũng có việc cần đến Quảng Châu. Nếu công tử không thấy phiền hà thì chúng ta có thể cùng đi.”
Trương Triều Đường mừng rỡ cảm tạ liên hồi. Mấy ngày nay chàng hoảng sợ đến loạn cả thần trí, bây giờ được cùng đi với một vị tiêu sư võ công rất khá, lập tức cảm thấy yên lòng.
Ba người đi được hai mươi mấy dặm đường vẫn chưa tìm được quán nào để ăn cơm. Dương Bằng Cử có mang theo lương khô, bèn lấy ra mời hai người ăn. Trương Khang nhặt được một cái hũ sành cũ kỹ, đi lượm ít củi khô, toan nấu nước để uống. Đột nhiên phía sau có người la lên: “Cường đạo đây rồi!”
Trương Khang giật mình kinh hãi, hất đổ cả nước trong hũ sành lên bếp lửa. Dương Bằng Cử quay lại nhìn, thấy tên công sai họ Vương ban nãy đang cưỡi ngựa dẫn theo mười mấy tên lính ào đến.
Dương Bằng Cử vội la lên: “Mau mau lên ngựa!”
Ba người vội vã lên ngựa. Dương Bằng Cử để hai người đi trước, rút cương đao cài bên yên ngựa ra, đi sau hộ vệ. Bọn quân sĩ lớn tiếng la lên: “Bắt cướp!”
Ba người chạy được một đoạn thì bọn công sai đuổi tới gần. Bọn lính bắt đầu bắn tên, Dương Bằng Cử phải múa đao cản trở. Y thấy phía trước có ngã ba đường, vội kêu lên: “Đi theo đường nhỏ!”
Trương Triều Đường giục ngựa chạy vào con đường nhỏ, Trương Khang và Dương Bằng Cử chạy theo sau. Bọn lính vẫn đuổi theo, không chịu tụt lại chút nào. Tên công sai họ Vương hét lớn: “Cố đuổi theo mà bắt! Bắt được tên cướp này, rồi chúng ta chia nhau tiền bạc của nó.”
Dương Bằng Cử đắn đo một chút rồi dứt khoát thắng ngựa, quay đầu lại, vung đao hét lớn một tiếng. Tên họ Vương hoảng sợ lùi lại, còn bọn quan binh đều nhảy xổ tới. Dương Bằng Cử địch không nổi số đông, hỗn chiến một lúc thì trên đùi trúng một mũi thương. Tuy vết thương không nặng, nhưng y không dám ham chiến, vội kẹp chặt hai chân, giật cương cho ngựa chạy gấp về phía trước. Y múa đao chém rớt cánh tay trái của một tên lính, bọn kia kinh hãi lùi lại phía sau.
Dương Bằng Cử cho ngựa chạy men theo con đường nhỏ. Bọn lính thấy y bỏ chạy, lại hô hoán rượt theo. Chỉ chốc lát Dương Bằng Cử đã đuổi kịp hai chủ tớ họ Trương. May mà con đường rất hẹp, bọn lính lại khiếp oai Dương Bằng Cử nên không dám đuổi quá gần.
Ba người giục ngựa chạy một hồi. Đường núi vòng vèo khúc khuỷu, tiếng la hét của bọn lính vẫn nghe rất rõ ràng, nhưng người thì không thấy. Đang chạy nhanh, bỗng phía trước xuất hiện ba con đường nhỏ. Dương Bằng Cử khẽ quát: “Xuống ngựa!” Ba người liền dắt ngựa trốn vào trong rừng cây.
Trong chốc lát bọn lính đã đuổi tới nơi. Tên họ Vương chần chừ một chút rồi dẫn cả đám chạy theo một con đường rẽ. Dương Bằng Cử nói: “Chúng đuổi một lát mà không thấy, nhất định sẽ quay trở lại. Chúng ta phải nhanh chóng đi thôi.”
Y vừa nói vừa xé ống tay áo buộc vết thương trên đùi lại. Ba người đi theo một con đường rẽ khác. Chẳng bao lâu, lại nghe tiếng binh sĩ đuổi theo phía sau.
Dương Bằng Cử thầm kêu khổ, bỗng thấy trước mặt có ba gian nhà ngói, lại có một người nông phu đang cuốc đất. Y nhảy xuống ngựa, chạy tới cất tiếng gọi: “Lão huynh! Phía sau có quan binh muốn hại bọn ta, phiền lão huynh tìm chỗ cho bọn ta trốn nhờ một chút.”
Người nông phu vẫn tiếp tục cuốc đất, như không nghe thấy gì. Trương Triều Đường cũng xuống ngựa năn nỉ. Lúc này nông phu mới ngẩng đầu lên, nhìn dò xét họ một lát.
Từ lùm cây phía trước bỗng vọng ra tiếng chân trâu đạp mạnh, rồi một chú mục đồng cỡi trâu tiến ra ngoài. Chú bé này khoảng chừng mười tuổi, dùng chỉ đỏ thắt tóc thành một cái bím nhỏ trên đỉnh đầu, da mặt hơi ngăm đen, miệng mỉm cười, cặp mắt to rất có thần khí. Người nông phu bảo chú mục đồng: “Ngươi dắt mấy con ngựa này lên núi thả cho ăn cỏ, chờ tối hãy trở về.”
Chú mục đồng nhìn ba người Trương Triều Đường một cái, vâng dạ rồi lập tức dẫn ba con ngựa lên núi.
Tuy không biết người nông phu có dụng ý gì, nhưng Dương Bằng Cử cảm thấy trong lời nói và thần sắc của y tỏa ra uy thế, nên không lên tiếng cản trở chú mục đồng.
Lúc này tiếng bọn lính đuổi theo đã rất gần. Trương Triều Đường vội vã hỏi: “Làm sao đây?”
Người nông phu bảo: “Theo ta!” Rồi y dẫn ba người vào nhà. Trong phòng khách cũng có bàn ghế gỗ, trên tường cũng treo áo rơm và lưỡi cày, nhưng thu dọn rất chỉnh tề, không giống nhà nông bình thường.
Người nông phu đi thẳng ra phía sau nhà, ba người cứ việc đi theo. Qua khỏi sân trong, đến một căn phòng nhỏ, người nông phu vén màn lên, để lộ ra một bức tường. Y đưa tay đẩy lên tường, bỗng có một tảng đá lớn xoay vào bên trong, lộ ra một cái lỗ. Người nông phu bảo: “Vào trong ấy đi!”
Ba người vào trong, thì ra đây là một sơn động rất rộng rãi. Gian nhà này xây tựa vào vách núi ngay trước sơn động, che cửa động lại. Nếu không tháo dỡ cả gian nhà đi thì không ai đoán được bên trong có nơi ẩn náu tốt như vậy.
Ba người trốn vào xong, người nông phu bèn đóng cánh cửa bí mật lại, rồi ra ngoài tiếp tục cuốc đất. Chỉ chốc lát tên công sai họ Vương đã dẫn quân sĩ đuổi đến. Hắn lớn tiếng quát hỏi: “Này! Có thấy ba người cưỡi ngựa đi qua đây không?”
Người nông phu chỉ vào con đường nhỏ rồi nói: “Qua từ lâu rồi.”
Bọn công sai và quân sĩ rượt theo bảy tám dặm vẫn không thấy dấu vết gì của ba người Trương Triều Đường, đành quay ngựa trở lại hỏi nữa. Người nông phu giả vờ ngu ngốc, ấp úng mãi chẳng nói gì. Một tên lính cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Hỏi thằng khùng này có ích gì đâu? Đi thôi!” Rồi cả bọn rẽ qua một con đường khác.
Trương Triều Đường, Trương Khang, Dương Bằng Cử ba người trốn trong sơn động, chỉ lờ mờ nghe thấy tiếng vó ngựa chạy tới chạy lui. Lát sau không nghe thấy gì nữa, nhưng cũng không thấy người nông phu quay lại mở cửa. Dương Bằng Cử bắt đầu lo lắng, ra sức kéo cửa, kéo hơn nửa ngày mà không thấy động đậy gì.
Ba người chỉ còn biết ngồi bệt dưới đất nghỉ ngơi. Vết thương của Dương Bằng Cử bắt đầu đau nhức, y không ngừng buông lời thóa mạ bọn công sai và quân lính.
Không biết sau bao lâu, cánh cửa đá mới kêu kèn kẹt rồi mở ra, chút ánh sáng hắt vào trong. Người nông phu cầm nến tới gọi: “Mời ra ngoài ăn cơm!”
Dương Bằng Cử nhảy ra trước, chủ tớ họ Trương lập tức theo sau. Ba người ra đến phòng khách, thấy trên bàn gỗ đã bày sẵn hai đĩa rau xanh, đậu hũ kho, hai con gà mái luộc và cơm nóng hổi. Cả ba thầm mừng trong bụng.
Ngoài người nông phu và chú mục đồng đã gặp ban ngày, còn có ba người khác cũng ăn mặc theo kiểu nhà nông. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử chắp tay đa tạ, tự giới thiệu danh tính, rồi xin hỏi danh tính đối phương.
Một nông phu khoảng bốn mươi tuổi, khuôn mặt gầy guộc lên tiếng: “Tại hạ họ Ưng.” Y chỉ người nông phu đã dẫn họ chạy trốn ban chiều, giới thiệu: “Vị này họ Chu.” Còn một người cao ốm tự xưng họ Nghê, một người mập lùn mang họ La.
Trương Triều Đường nói: “Tại hạ cứ tưởng các vị là người một nhà, thì ra đều khác họ cả”.
Họ Ưng đáp: “Bọn tại hạ là bạn thân”.
Trương Triều Đường thấy họ ít nói, thần sắc lỗi lạc, cử chỉ đoan chính trang nghiêm, không giống những người nông phu bình thường. Người họ Chu và họ Nghê thì khí thế oai dũng, người họ Ưng thì trông cao nhã như một nhân sĩ bụng đầy kinh sách, lại nói thổ âm vùng phía Bắc. Trương Triều Đường hỏi thêm mấy câu, nhưng người họ Ưng cứ ừ hử không đáp.
Ăn cơm xong, người họ Ưng mới hỏi tại sao họ bị quan binh đuổi bắt, Trương Triều Đường bèn kể lại đầu đuôi tỉ mỉ. Chàng có khiếu nói chuyện, diễn tả những thảm cảnh dọc đường nhìn thấy, rồi nhắc đến tình hình bọn công sai hung ác bức hiếp dân lành, ép người lương thiện phải đi làm cướp. Chàng nói mỗi lúc một hùng hồn, người họ Nghê nghe mà nổi lòng phẫn hận. Y vỗ mạnh lên bàn một cái, mày râu dựng ngược hẳn lên, há miệng toan thóa mạ. Người họ Ưng phải liếc mắt một cái, y mới im lặng không nói.
Trương Triều Đường lại kể chuyện Dương Bằng Cử ra tay cứu mình, khen ngợi một phen. Dương Bằng Cử đắc ý bèn lên tiếng: “Chuyện nhỏ xíu này không đáng nhắc đến. Năm xưa ở Giang Tây một mình ta giết chết Phan Dương Tam Hùng, chuyện đó mới thật là nở mày nở mặt”.
Y oang oang kể lại lúc đó tình thế nguy cấp, bản thân mình anh dũng, lăn vào chỗ chết để tìm đường thắng thế nào, nói đến phun cả nước bọt ra tứ phía. Mỗi lúc một thêm cao hứng, y thêm mắm dặm muối, diễn tả mình anh hùng cái thế, thiên hạ vô địch, bôn ba giang hồ đã mười mấy năm trời.
Những chuyện giang hồ mà y kể thì Trương Triều Đường chưa từng nghe, nên chàng cảm thấy rất thú vị. Trương Khang còn tính trẻ con, nghe đến há hốc mồm lại còn liên tiếp hỏi thêm.
Về sau Dương Bằng Cử nhắc đến võ nghệ, vừa kể vừa huơ tay múa chân để minh họa. Dường như mấy người nông phu này không khoái nghe chuyện đó, nên người mập họ La bỗng ngáp một cái rồi nói: “Muộn rồi, ngủ thôi!”.
Chú mục đồng bước ra đóng chặt cửa lại. Người họ Chu xách một tảng đá lớn trong góc nhà ra chèn vào sau cửa. Dương Bằng Cử nhìn thấy, bất giác thở ra một hơi, thầm nghĩ: “Người này mạnh quá! Tảng đá này tối thiểu cũng phải ba trăm cân mà y xách dễ như không, chẳng phải ra sức gì cả”.
Người họ Ưng thấy y đổi sắc mặt, bèn nói: “Vùng núi này có rất nhiều cọp, có khi nửa đêm nhảy vào nhà người ta. Vì thế phải dùng đá tảng chèn lại cửa nẻo đàng hoàng”.
Đêm hôm đó, Trương Triều Đường, Dương Bằng Cử và Trương Khang ba người ngủ chung một phòng. Trương Khang vừa đặt đầu xuống gối đã lập tức ngủ say. Trương Triều Đường nghĩ đến chuyến đi này phong ba vạn dặm, nhiều phen sợ hãi, không biết từ đây đến Quảng Châu còn gặp hung hiểm gì không. Chàng cứ suy nghĩ mãi, khó mà ngủ được.
Hồi lâu, bỗng nghe thấy tiếng đọc sách dõng dạc, đúng là giọng của chú bé mục đồng kia.
Trương Triều Đường chú ý lắng nghe, hình như trong sách có nhắc đến chuyện dàn trận đánh nhau. Chàng không nén nổi hiếu kỳ, bước xuống giường, mặc áo đi lên nhà trước.
Trên bàn thắp đèn sáng trưng, chú bé mục đồng đang ngồi học. Họ Ưng ngồi bên dạy dỗ, thấy chàng bước ra chỉ gật đầu chào một cái, rồi lại cúi đầu xuống, chỉ vào những dòng chữ trong sách để giảng giải.
Trương Triều Đường tới gần, thấy trên bàn còn mấy cuốn sách. Chàng cầm lên xem, thấy trên bìa sách có ghi bốn chữ Kỳ Hiệu Tân Thư. Thì ra đây là binh pháp do tướng quân Thích Kế Quan của bản triều soạn ra. Ở Bột Nê, Trương Triều Đường đã từng nghe tiếng Thích Kế Quan, biết ông là một danh tướng đã phá tan Qua Khấu, sau này trấn giữ tại Quế Châu, cường địch không dám xâm phạm biên cương nữa. Thích Kế Quan dụng binh như thần, oai chấn một vùng duyên hải.
Trương Triều Đường hỏi người họ Ưng: “Quý vị chắc chắn không phải thường nhân, không hiểu sao lại ẩn cư ở nơi này. Có thể cho tại hạ biết hay không?”.
Người họ Ưng đáp: “Bọn ta chỉ là thảo dân, trồng trọt săn bắn để kiếm ăn, đọc sách để biết chữ. Đó là chuyện hết sức bình thường, sao công tử lại thấy lạ? Chẳng lẽ chỉ có con cái nhà quan mới được đọc sách hay sao?”.
Trương Triều Đường thầm nghĩ: “Thì ra ở Trung thổ, ngay cả những nông dân tầm thường cũng có học vấn đến thế này. Quả nhiên là nơi văn vật, bọn man di chúng ta không thể nào sánh được”. Chàng thán phục trong lòng, xin lỗi vì đã quấy rầy, rồi trở về phòng mà ngủ.
Trong lúc mơ hồ, đột nhiên chàng cảm thấy có người khẽ kéo mình. Chàng tỉnh dậy, nghe Dương Bằng Cử nói rất nhỏ: “E rằng đây là sào huyệt bọn cướp. Chúng ta phải đi ngay!”
Trương Triều Đường giật mình một cái, khẽ hỏi: “Sao rồi?”.
Dương Bằng Cử đưa nến soi vào một cái rương gỗ, bảo: “Công tử nhìn xem.”
Trương Triều Đường thấy trong rương đầy kim ngân châu báu. Dĩ nhiên chàng kinh hãi, nhưng không dám lên tiếng.
Dương Bằng Cử đưa cây nến cho chàng cầm, nhấc cái rương ra một bên, phía dưới còn có một cái rương gỗ nữa. Y đưa tay toan bẻ cái khóa đồng.
Trương Triều Đường bảo: “Đừng tò mò chuyện bí mật riêng tư của người khác, e rằng gây họa.”
Dương Bằng Cử nói: “Không khí ở đây có mùi kỳ lạ.”
Trương Triều Đường hỏi: “Kỳ lạ chỗ nào?”
Dương Bằng Cử đáp: “Tanh mùi máu”.
Trương Triều Đường không dám nói gì nữa.
Dương Bằng Cử nhẹ nhàng vặn gãy ổ khóa, ở phòng trước vẫn hoàn toàn không có tiếng động gì. Y liền mở nắp rương ra, đưa nến đến gần soi sáng. Hai người lập tức hoảng sợ đến trợn mắt lên, đứng ngẩn ra một lúc.
Trong rương đựng hai cái thủ cấp. Một cái đã chặt lâu rồi, máu khô đen kịt lại, nhưng vẫn chưa thối rữa. Còn cái kia thì mới hơn nhiều. Rõ ràng hai cái thủ cấp này đã ướp thuốc đàng hoàng, nên râu mày vẫn còn đầy đủ, mặt mũi nhìn rất rõ ràng. Dương Bằng Cử đã bôn ba giang hồ khá lâu, nhưng cũng không khỏi tay chân bủn rủn. Trương Triều Đường lại càng không nói được lời nào.
Dương Bằng Cử khẽ đặt rương lại chỗ cũ, rồi nói: “Mau mau chuồn thôi!”.
Y đến giường lắc Trương Khang dậy. Ba người bò rạp xuống sàn, nhẹ nhàng lần ra trước cửa. Dương Bằng Cử sờ được tảng đá lớn, nhưng vận hết sức cũng không sao nhấc lên được. Y thầm kêu khổ, vừa cố gắng nhích được một chút thì bỗng có ánh lửa lóe lên, người họ Chu cầm nến bước ra.
Dương Bằng Cử nắm chặt chuôi đao, biết rõ mình không địch nổi, nhưng hoàn cảnh thế này chỉ còn cách nhắm mắt đánh liều một trận. Nào ngờ họ Chu chỉ hỏi: “Muốn đi rồi ư?”.
Rồi y dùng một tay xách tảng đá lớn kéo qua một bên. Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường không dám nhiều lời, chỉ cúi đầu ấp úng cảm ơn, rồi lên ngựa chạy về hướng Tây.
Chạy được mười mấy dặm, ba người cứ tưởng đã thoát nguy. Nhưng họ chưa kịp yên tâm, thì đột nhiên phía sau có tiếng vó ngựa vang lên, rồi có người giận dữ quát: “Này, dừng lại! Dừng lại!”.
Ba người không dám dừng lại, vội vàng giục ngựa chạy nhanh hơn. Đột nhiên có bóng người thấp thoáng, một người lướt qua bên mình ngựa, chặn ở trước mặt. Y đưa tay ra cản, con ngựa của Dương Bằng Cử giật mình hí dài một tiếng, dựng hai vó trước lên.
Dương Bằng Cử vung đao chém tới. Người kia không dùng binh khí, né chiêu đao rồi đột nhiên nhảy lên, vung quyền trái đánh vào huyệt Thái dương bên phải của Dương Bằng Cử. Dương Bằng Cử dựng thẳng đao lên, ra chiêu Hoành Giá Kim Ngưỡng chém vào cánh tay đối thủ. Nào ngờ đó chỉ là hư chiêu, thoi quyền giữa đường bỗng xòe ra thành chưởng. Người kia chưa rơi xuống đất đã túm được cổ tay Dương Bằng Cử, quát lên một tiếng: “Xuống!”
Y lôi họ Dương từ trên ngựa xuống, tiện tay đoạt lấy thanh cương đao, quăng xuống đất. Lúc này trời đã gần sáng, trong khoảng mờ mờ có thể nhận ra đó là người nông phu họ Chu.
Họ Chu lạnh lùng bảo: “Quay về!” Y quay lưng lại, cưỡi ngựa đi trước, không cần nhìn xem ba người kia có đi theo hay không.
Dương Bằng Cử biết mình có phản kháng cũng vô ích, muốn trốn cũng không được, đành ngoan ngoãn lên ngựa chạy theo.
Bốn người dắt nhau về, đến cửa đã thấy phòng khách đèn đuốc sáng trưng. Chú bé mục đồng và ba người nông phu còn lại đang ngồi chờ đợi, thần sắc rất trang nghiêm, không ai mở miệng nói gì.
Dương Bằng Cử biết mình không tránh khỏi cái chết, đành ngang tàng nói: “Hôm nay Dương đại gia này đã lọt vào tay các ngươi. Muốn giết thì giết, không cần phải nói nhiều”.
Người họ Chu lên tiếng hỏi: “Ưng đại ca! Chúng ta phải làm sao đây?”.
Người họ Ưng im lặng không đáp. Người họ Nghê nói: “Chủ tớ Trương công tử thì thả đi, còn tên họ Dương thì giết”.
Người họ Ưng bèn nói: “Tên họ Dương này làm nghề bảo tiêu, tức là chó săn của bọn nhà giàu, không phải hảo nhân. Nhưng hôm qua hắn có một phen nghĩa khí, dũng cảm làm việc tốt, thôi thì tha mạng một lần. La huynh đệ, phế cặp chiêu bài của hắn đi”.
Người họ La đứng dậy. Sắc mặt Dương Bằng Cử thay đổi trông rất thảm hại.
Trương Triều Đường không hiểu tiếng lóng giang hồ “phế chiêu bài” có nghĩa là “móc mắt”; nhưng nhìn thần sắc mọi người cũng biết là chuyện tổn hại đến Dương Bằng Cử. Chàng định mở miệng cầu xin, nhưng chú bé mục đồng đã nói trước: “Ưng thúc thúc! Cháu thấy người này cũng rất đáng thương, hay là tha hắn một lần đi”.
Người họ Ưng nhìn mọi người một cái, ngập ngừng chốc lát rồi bảo Dương Bằng Cử: “Có người xin tha cho ngươi, thì cũng được thôi. Nhưng ngươi phải thề là mọi việc hôm nay nhìn thấy, nhất định không tiết lộ ra ngoài một tiếng.”
Dương Bằng Cử cả mừng, lập tức đáp ngay: “Việc tối hôm nay, thật sự tại hạ không cố ý nhìn trộm, nhưng đã lỡ thấy rồi. Tiếc là Dương mỗ có mắt không tròng, không biết các vị là anh hùng hảo hán. Về chuyện của các vị, tại hạ xin thề sẽ thủ khẩu như bình. Nếu sau này phản bội lời thề, xin trời tru đất diệt cho tại hạ chết thê thảm không sao tả xiết”.
Người họ Ưng nói: “Được! Chúng ta tin ngươi là tay hảo hán. Ngươi đi đi”.
Dương Bằng Cử chắp tay, quay người lại định đi. Người họ Nghê đột nhiên đứng bật dậy, lớn tiếng hỏi: “Cứ thế mà đi hay sao?”
Dương Bằng Cử ngẩn ra một chút mới hiểu ý, khổ sở gượng cười rồi nói: “Được! Xin cho tại hạ mượn đao.”
Người họ Chu lấy ở dưới bàn ra một lưỡi đao rất bén, nhẹ nhàng xoay ngược lại, đưa chuôi ra ngoài. Dương Bằng Cử đưa tay đón lấy, bước tới một bước, đặt bàn tay trái lên bàn. Y vung đao xoẹt một tiếng, chặt đứt lìa hai ngón tay của mình rồi mỉm cười nói: “Tại hạ đã không có tài sản lại không có danh tiếng gì, nhưng đã tự làm thì phải tự chịu. Chuyện này hoàn toàn không liên quan gì đến Trương công tử.”
Mọi người thấy máu trên tay y tuôn ra như suối, mà nói chuyện vẫn cứng cỏi, ai cũng thán phục khí phách của y. Người họ Nghê giơ ngón tay cái lên khen ngợi rồi nói: “Hay lắm! Việc hôm nay coi như kết thúc ở đây.” Nói xong, y quay lưng đi vào bên trong, lấy thuốc trị thương và vải trắng ra, cầm máu rồi buộc lại vết thương cho họ Dương.
Dương Bằng Cử không muốn ở đây thêm nữa, liền quay lại bảo Trương Triều Đường: “Chúng ta đi thôi!”
Trương Triều Đường thấy mặt y tái xanh tái mét, chắc chắn đang rất đau đớn. Chàng muốn khuyên y ở lại nghỉ ngơi một lát, nhưng không sao nói được.
Người họ Ưng lên tiếng: “Trương công tử đã từ vạn dặm xa xôi đến đây. Chúng ta làm kinh hãi khách phương xa, thật sự áy náy trong lòng. Không ai muốn công tử về nước kể lại người Trung thổ chúng ta toàn là bọn cùng hung cực ác. Dương Bằng Cử nói vậy là khá thông minh, còn ta cũng tặng công tử một món quà.”
Nói xong, y lấy trong bọc ra một vật, đưa cho Trương Triều Đường.
Trương Triều Đường nhận lấy nhìn kỹ, thấy đó là một cái thẻ tre. Mặt trước có dùng bút lửa vẽ chìm hai chữ Sơn Tông, còn mặt sau thì chạm khắc một ít hoa văn nhìn không ra hình gì.
Người họ Ưng nói: “Hiện nay thiên hạ đang đại loạn. Công tử là một thư sinh yếu đuối, không nên đi lại bên ngoài. Ta khuyên công tử nên mau mau về nước. Mấy ngày sắp tới, nếu dọc đường gặp phải chuyện gì, công tử đưa cái thẻ tre này ra không chừng sẽ có ích. Vài năm nữa… Ôi, có thể mười năm, hai mươi năm cũng không chừng, khi nào công tử nghe thấy Trung thổ đã thái bình thì hãy quay trở lại. Thời thế này mà theo đuổi công danh cũng vô ích, lại còn thêm họa”.
Trương Triều Đường xem kỹ cái thẻ tre một lần nữa, vẫn không thấy chỗ nào kỳ lạ hay đặc biệt. Chàng không tin nó có pháp lực thần bí gì, cho rằng đó chỉ là một vật lấy hên, bèn thuận miệng cảm ơn rồi giao cho Trương Khang cất vào trong bọc quần áo.
Ba người từ biệt ra ngoài, lên ngựa chầm chậm mà đi. Quay về tới chỗ vừa rồi giao thủ với người họ Chu, Dương Bằng Cử thấy thanh cương đao vẫn còn dưới đất, phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Y nhặt lên, nghĩ bụng: “Ta tự khoe mình là anh hùng tài giỏi, nhưng khi lọt vào tay người ta thì thật không đáng một phát đánh rắm”.
***
Trời sáng thì đến một thị trấn nhỏ. Trương Triều Đường tìm khách điếm cho Dương Bằng Cử nghỉ ngơi một ngày một đêm, sáng hôm sau mới tiếp tục lên đường.
Giữa trưa họ ghé lại ăn cơm, rồi lại lên ngựa đi tiếp hai mươi dặm nữa. Đột nhiên nghe tiếng vó ngựa vang lên, một con ngựa chạy từ phía trước tới. Lúc đi ngang qua, kỵ sĩ kia nhìn họ một lượt rồi chạy tiếp.
Đi được năm sáu dặm, tiếng vó ngựa lại vang lên ở phía sau, thì ra kỵ sĩ vừa rồi quay lại đuổi theo. Lần này Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường đều nhìn thấy rõ ràng, kỵ sĩ đó đầu quấn khăn xanh, giữa cặp lông mày lộ ra sắc thái nửa anh hùng nửa ngang ngạnh. Y lại qua mặt ba người, rồi giục ngựa chạy nhanh về phía trước.
Trương Triều Đường nói: “Người này lạ thật! Sao y đi rồi lại quay trở về?”
Dương Bằng Cử nói: “Trương công tử! Lát nữa công tử cứ tự mình chạy trốn, không cần phải đợi tại hạ.”
Trương Triều Đường kinh ngạc hỏi: “Lại có kẻ cướp ư?”.
Dương Bằng Cử nói: “Trong vòng năm dặm nữa, chắc chắn có chuyện xảy ra. Nhưng bây giờ chúng ta không còn đường lùi, đành phải đi tiếp.”
Ba người lo lắng không yên, từ từ đi về phía trước. Chỉ mới được khoảng hai dặm bỗng nghe có tiếng veo véo, một mũi tên hiệu bắn lên trời. Lập tức có ba người cưỡi ba con ngựa từ vệ đường tiến ra, đứng chặn giữa đường.
Dương Bằng Cử thúc ngựa tiến lên, chắp tay nói: “Tại hạ họ Dương, ở Võ Hội tiêu cục, hôm nay đi đường qua quý địa phương, nhưng không phải đi bảo tiêu nên không trình thiếp để bái phỏng đương gia của các vị. Trương tướng công này là nhân sĩ ở ngoại quốc, xin các vị rộng lượng một phen để bọn tại hạ lên đường đi tiếp.”
Trên giang hồ Dương Bằng Cử hơi có danh tiếng, võ nghệ cũng không tệ lắm. Nhưng y vừa phải tự chặt ngón tay, nghĩ đến bằng hữu vùng này chắc phần lớn là đồng bọn của mấy người họ Ưng, họ Chu vừa gặp, nên mới dùng lời cung kính để mong giúp đỡ.
Trong ba người chặn đường, có một người tay không. Y mỉm cười nói: “Bọn ta đang túng tiền, muốn mượn một trăm lạng bạc.”
Y nói bằng thổ ngữ Nam Chiết Giang. Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường nghe chẳng hiểu gì, ngẩn ra đưa mắt nhìn nhau.
Người khi nãy chạy tới chạy lui thăm dò, bây giờ bỗng cất tiếng quát: “Muốn mượn một trăm lạng bạc! Còn chưa chịu hiểu ư?”
Dương Bằng Cử thấy họ vô lễ như thế, giận dữ không kìm được, quát trả: “Muốn mượn bạc thì dựa vào bản lãnh mà mượn!”.
Người nói thổ ngữ Nam Chiết Giang lên tiếng: “Được! Để xem bản lãnh của ta có xứng đáng mượn một trăm lạng bạc hay không!”
Y nói xong, lấy cây cung đeo sau lưng xuống, lắp đạn bắn veo véo ba viên lên trời. Khi ba viên đạn này lên hết đà bắt đầu rơi xuống, y bắn tiếp ba phát đạn liên châu nữa. Sáu viên đạn chia làm ba cặp chạm nhau vỡ vụn giữa trời, thành một đám bụi rơi xuống.
Dương Bằng Cử nhìn tuyệt kỹ thần đạn này mà ngẩn người ra. Đột nhiên y thấy cổ tay đau nhói, đơn đao rơi xuống đất nghe xoảng một tiếng. Thì ra cổ tay y đã bị bắn trúng rồi.
Người thứ ba vẫn chưa lên tiếng, xách nhuyễn tiên giật cương ngựa chạy tới, ra chiêu Khô Đằng Triền Thọ quất vào giữa lưng Dương Bằng Cử. Họ Dương phải thúc ngựa chạy ra tránh né. Người kia thừa thế dùng đầu nhuyễn tiên cuộn lấy cây đơn đao ở dưới đất, giật lên nắm trong tay, buông tiếng cười dài rồi giục ngựa chồm lên. Khi chạy qua cạnh Trương Khang, y lướt cương đao hai nhát, bạch quang vừa nháy động là hai sợi dây đeo cái bao sau lưng đã bị cắt đứt.
Người kia không thèm dừng lại, cứ thúc ngựa chạy tới trước. Cái bao vải đang từ trên lưng Trương Khang tuột xuống, người bắn đạn đã kịp thời chạy tới, vươn cánh tay ra. Cái bao chưa kịp rơi tới đất, y đã cúi người xách lên, nhấc thử xem nặng nhẹ ra sao rồi mỉm cười nói: “Cảm ơn nhé!”
Ba người đó phi ngựa quay trở lại, chớp nhoáng đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Dương Bằng Cử chỉ biết thở dài, không nói được tiếng nào. Trương Khang lo lắng hỏi: “Tiền sinh hoạt đi lại của chúng ta đều ở trong cái bao đó. Như vậy… như vậy… làm sao về nhà được?”.
Dương Bằng Cử nói: “Còn giữ được mạng, coi như không tệ lắm. Bây giờ chúng ta cứ đi đã, sau này hãy tính”.
Ba người cúi đầu ủ rũ đi tiếp. Mới chừng ăn được bữa cơm, đột nhiên nghe phía sau có tiếng vó ngựa chạy tới, quay lại nhìn thì thấy ba người kia quay trở lại. Dương Bằng Cử và Trương Triều Đường đều lo lắng thở dài, nghĩ bụng: “Cướp hết vàng bạc rồi thì thôi chứ! Chẳng lẽ muốn lấy mạng nữa hay sao?”
Ba người kia phi ngựa đến trước mặt, rồi cùng ấn tay vào yên nhảy xuống ngựa. Người đầu tiên chắp tay nói: “Thì ra người phe mình cả, đắc tội, đắc tội! Bọn tại hạ không biết nên mới mạo phạm, xin các vị đừng trách”.
Một người khác hai tay nâng cái bao đưa cho Trương Khang. Trương Khang không dám nhận, nhìn qua chủ nhân một cái. Trương Triều Đường khẽ gật đầu, Trương Khang mới đón lấy.
Người đầu tiên lại nói tiếp: “Vừa rồi nghe nói, một người là Dương tiêu đầu, một người là Trương công tử, đều là tên họ thật phải không?”.
Trương Triều Đường đáp: “Đúng vậy.” Sau đó chàng nói rõ tên tuổi và lai lịch của mình.
Ba người kia nghe xong đều ra vẻ kinh ngạc, nhìn nhau một cái. Người đầu tiên nói: “Tại hạ họ Hoàng, còn hai người này là anh em ruột họ Lưu. Trương công tử! Nếu công tử đưa cái thẻ tre này ra từ sớm thì hay biết mấy, bọn tại hạ tránh được cái tội vô lễ”.
Trương Triều Đường nghe câu này mới biết cái thẻ tre kia có ích. Trong lúc tâm thần bất định, chàng không biết phải nói gì.
Người họ Hoàng lại nói: “Nhất định là các vị đang lên đỉnh Thánh Phong rồi. Chúng ta cùng đi nhé!”.
Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử đều đoán họ là phe đảng của một bang hội nào đó rất có thanh thế, tránh xa còn sợ không kịp, dĩ nhiên không dám đi chung để rước họa vào thân.
Trương Triều Đường nói: “Tại hạ và vị bằng hữu này đang phải đi gấp đến Quảng Châu, chắc không lên đỉnh Thánh Phong được”.
Người họ Hoàng lộ vẻ hơi giận, nói: “Ba ngày nữa đã là mười sáu tháng tám rồi. Bọn tại hạ từ ngàn dặm xa xôi cũng cố đến Việt Đông này cho kịp, còn các vị đã đến đây rồi sao không lên núi?”.
Lên núi để làm gì? Mười sáu tháng tám là ngày gì? Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử hoàn toàn không biết, nhưng không dám nhận là mình không biết. Trương Triều Đường còn bướng bỉnh nói: “Gia đình tiểu đệ đang có việc gấp, phải lập tức quay về”.
Người họ Hoàng giận dữ nói: “Lên núi không mất tới hai ngày. Ngày kỵ của Đốc sư, các vị đi ngang núi mà không lên bái, sao có thể gọi là bằng hữu Sơn Tông?”.
Trương Triều Đường càng nghe càng mù tịt, không biết ngày kỵ của vị Đốc sư nào, và Sơn Tông là cái gì. Dương Bằng Cử có kiến thức hơn, hiểu rằng phen này đỉnh Thánh Phong không thể không lên, dù gặp nguy hiểm cũng phải thử thời vận một phen. Hơn nữa, nhìn thần sắc và nghe giọng điệu của mấy người này cũng không thấy ác ý, nên y bèn nói: “Ba vị đã có hảo ý như vậy, tại hạ cùng Trương công tử nhất định phải lên núi một phen”.
Nói xong, y nháy mắt với Trương Triều Đường một cái, tỏ ý không nên từ chối.
Ba người kia đều tỏ vẻ vui mừng. Người họ Hoàng mỉm cười nói: “Phải như vậy mới đúng. Tại hạ cũng nghĩ, các vị không phải loại người không có nghĩa khí”.
Sáu người kết bạn đi cùng, suốt dọc đường ăn nghỉ ở khách sạn đều do người họ Hoàng lo liệu. Y chỉ cần đưa tay ra hiệu, nói mấy câu ám ngữ là không tiệm cơm hay khách sạn nào dám lấy tiền, lại còn tiếp đãi mười phần lịch sự.
Đi được hai ngày, phía trước đã xuất hiện một ngọn núi cao ngất chạm tới mây. Người họ Hoàng nói: “Đây chính là đỉnh Thánh Phong rồi”.
Dọc đường họ gặp rất nhiều người, phần lớn đều hướng tới đỉnh Thánh Phong. Mập ốm cao lùn loại nào cũng có, nhưng nhìn thần sắc cử chỉ đều là người có võ công. Rất nhiều người quen biết họ Hoàng và anh em họ Lưu, khi gặp mặt đều chắp tay chào hỏi.
Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử đã khôn ra, cố gắng không thám thính bí mật riêng tư của người ta nữa, mỗi khi thấy họ nói chuyện lại đứng xa ra. Dương Bằng Cử nghe những người này chào hỏi nhau bằng đủ thứ thổ âm, Nam có Bắc có, Điêu Long có Hà Sóc có, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Thiểm Tây đều có cả. Nhìn cách ăn mặc cũng biết họ từ phương xa tới, người nào cũng dày dạn phong trần. Hai người Trương và Dương đều cảm thấy kỳ lạ, cứ phập phồng lo sợ.
Dương Bằng Cử nghĩ: “Nhất định bọn này đều là cường đạo ở các sơn trại, chắc là muốn tập hợp tạo phản. Mình là lương dân trong sạch mà phải chung đụng với bọn phản tặc này, muốn rời khỏi cũng không được, thật là cực kỳ xúi quẩy”.
Đêm đó, Trương Triều Đường cùng họ nghỉ lại một khách điếm dưới chân ngọn núi Thánh Phong, để sáng sớm hôm sau cùng lên núi. Mọi người đang ăn cơm tối, đột nhiên có một người chạy vào khách điếm la lên: “Tôn tướng công đến rồi!”
Tiếng hô vừa dứt, tám chín phần thực khách trong tiệm đều lập tức đứng dậy, chạy ào ào ra ngoài. Dương Bằng Cử giật tay áo Trương Triều Đường, khẽ bảo: “Ra ngoài xem thử!”
Ra khỏi khách điếm, họ thấy mọi người sắp hàng hai bên, thõng tay đứng nghiêm chỉnh, hình như đang đợi một nhân vật quan trọng nào đó. Lát sau từ phía tây vọng đến tiếng vó ngựa, mọi người đều kiễng chân cao lên để nhìn. Một thư sinh trạc ngoại tứ tuần đang cưỡi ngựa từ từ tiến đến. Y thấy mọi người dàn hai bên đường đón tiếp, bèn thúc ngựa chạy nhanh tới nơi rồi nhảy xuống đi bộ.
Thư sinh đó đi qua chỗ nào cũng gật đầu chào hỏi mọi người. Khi tới trước mặt Trương Triều Đường, thấy chàng cũng ăn mặc ra vẻ thư sinh, y hơi ngạc nhiên, chắp tay lại hỏi: “Xin hỏi các hạ là ai?”
Trương Triều Đường đáp: “Tại hạ họ Trương. Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh các hạ.”
Thư sinh kia đáp: “Tại hạ họ Tôn, tên Trọng Thọ.”
Trương Triều Đường chắp tay nói: “Ngưỡng mộ đã lâu!”
Tôn Trọng Thọ hơi mỉm cười, đi vào trong.
Ăn cơm tối xong, Dương Bằng Cử khẽ bảo Trương Triều Đường: “Người thư sinh họ Tôn này có vẻ rất có quyền thế. Trương công tử nên qua đó nói chuyện một chút, xin ông ấy thả chúng ta đi. Hai vị đều là thư sinh cả, nói chuyện chắc dễ thông cảm hơn”.
Trương Triều Đường cũng cho là phải, bèn bước đến cửa phòng Tôn Trọng Thọ, đằng hắng một tiếng rồi đưa tay gõ cửa. Trong phòng đang có tiếng đọc thơ văn gì đó. Chàng gõ được mấy cái, tiếng đọc sách dừng lại, cửa phòng mở ra. Tôn Trọng Thọ bước ra đón tiếp, lên tiếng: “Khách điếm này tĩnh mịch quá. Được Trương huynh ghé qua nói chuyện, thật là tuyệt diệu”.
Trương Triều Đường chắp tay thi lễ xong bước vào phòng, thấy trên bàn có một quyển vở chép tay đang mở ra. Chàng liếc vào thấy mấy chữ Liêu Đông, Ninh Viễn, Thần, Hoàng thượng… giống như một bản tấu chương.
Trương Triều Đường sợ phạm vào chuyện kiêng kỵ của người khác, nên ngồi xuống không dám nhìn lâu. Tôn Trọng Thọ hỏi về gia thế lai lịch, chàng thật tình nói hết.
Tôn Trọng Thọ nói: “Phen này Trương huynh đến đây thật không đúng lúc. Triều chính Trung thổ đang ở vào thời kỳ tồi tệ, không biết ngày nào mới sáng sủa trở lại. Theo ý tại hạ thì Trương huynh hãy tạm thời trở về Bột Nê là tốt nhất, đợi khi nào Trung thổ có thánh thiên tử trị vì rồi hãy quay lại đây ứng thí”.
Trương Triều Đường vâng dạ, nói mình cũng đang muốn trở về. Sau đó chàng kể đến những việc mình trốn tránh quan sai, Dương Bằng Cử ứng cứu như thế nào, vì sao mà có được cái thẻ tre đó. Chàng hoàn toàn không nhắc đến việc nhìn thấy thủ cấp trong rương.
Tôn Trọng Thọ nói: “Chúng ta gặp nhau ở đây, có thể gọi là có duyên. Ngày mai Trương huynh hãy theo tại hạ lên núi để biết một vụ thiên cổ kỳ oan nơi Trung thổ. Chỉ cần không tiết lộ những gì đã thấy đã nghe với người khác, tại hạ có thể đảm bảo Trương huynh không bị thiệt thòi chi hết.” Trương Triều Đường đa tạ, nhưng không dám hỏi nhiều.
Tôn Trọng Thọ hỏi đến chuyện phong thổ dân tình ở nước Bột Nê. Nghe Trương Triều Đường kể lại những chuyện chưa từng được nghe, y than thở: “Không biết đến lúc nào bá tính ở Trung thổ bọn tại hạ mới được an cư lạc nghiệp, không lo nghèo đói, phước hưởng thái bình như bá tính ở nước Bột Nê!”
Hai người nói chuyện mãi đến canh hai, Trương Triều Đường mới từ biệt trở về phòng. Dương Bằng Cử thức đợi, vô cùng lo lắng. Nghe chàng nói lại lời của Tôn Trọng Thọ, y mới yên tâm.
***
Hôm sau đúng là tết Trung thu. Trương Triều Đường, Dương Bằng Cử và Trương Khang theo đám đông lên núi từ sáng sớm. Đến giờ ăn trưa, ở lưng chừng núi đã có mười mấy người gánh cơm nước thức ăn đợi sẵn, đều là thức ăn chay cả. Mọi người ăn xong, nghỉ ngơi một chút rồi tiếp tục lên núi.
Càng lên cao, dọc đường đều có người canh gác, tra xét rất nghiêm ngặt. Nhưng khi hỏi đến ba người Trương, Dương, Tôn Trọng Thọ chỉ gật đầu một cái là họ không hỏi tiếp nữa. Trương Triều Đường nghĩ thầm trong bụng: “Nguy quá! Nếu đêm qua ta không nói chuyện với ông ấy, hôm nay chết sống không biết thế nào”.
Xế chiều thì đến đỉnh núi, mấy trăm hán tử đã xếp hàng nghênh đón. Trên núi chỉ thưa thớt mấy chục gian nhà. Tòa nhà lớn nhất trông như một ngôi chùa. Những gian nhà xung quanh trông rất bình thường, không hề có trạm gác hay pháo đài phòng vệ, hoàn toàn không giống sơn trại của bọn trộm cướp.
Nhìn khí thế mọi người, Dương Bằng Cử cứ tưởng trên đỉnh núi phải là sơn trại hùng vĩ oai phong, phòng thủ nghiêm ngặt, nào ngờ hoàn toàn không phải, nên thầm kinh ngạc trong lòng. Y đã lăn lộn mười mấy năm trời trên chốn giang hồ, kiến văn khá rộng, nhưng lần này hoàn toàn không hiểu tí gì.
Có một việc lại càng kỳ lạ. Những người này từ vạn dặm xa xôi đến đây tụ họp, nhìn vẻ thân mật rõ ràng đã quen biết từ lâu. Nhưng họ gặp nhau lại không vui vẻ chút nào, cũng không lớn tiếng cười nói. Thần sắc ai cũng đầy vẻ bi tráng, lo âu, phẫn nộ.
Ba người họ Trương, Dương được dẫn vào một căn phòng nhỏ. Chốc lát đã có người đưa cơm đến, bốn đĩa đều là đồ chay cả. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử âm thầm trao đổi, đều không đoán được những người này đang định làm gì. Về vụ thiên cổ kỳ oan mà Tôn Trọng Thọ đã nhắc đến, họ lại càng mù mờ không hiểu.
Sáng hôm sau, Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử thức dậy dùng điểm tâm xong, rủ nhau ra ngoài tản bộ. Chỗ nào cũng đầy những hán tử to cao, người thì mặt mũi sứt sẹo, người thì cụt tay què chân, ai cũng ra vẻ đánh quen trăm trận, sương gió đã nhiều. Hai người Trương, Dương sợ sinh sự chuốc họa vào thân, chỉ chốc lát đã trở về phòng, không dám ra ngoài nữa.
Suốt ngày cứ phải ăn đồ chay, Dương Bằng Cử âm thầm thóa mạ: “Con mẹ nó! Chắc là bọn cường đạo này chết sạch tổ tông mười tám đời rồi, bắt lão gia ăn toàn những thứ rau xanh, đậu khô nhạt thếch, nuốt không nổi!”.
Xế chiều, đột nhiên nghe tiếng chuông binh boong vang lên. Chẳng bao lâu, có một hán tử đi vào trong phòng, lên tiếng: “Tôn tướng công mời hai vị đến đại điện xem hành lễ”.
Hai người Trương, Dương đi theo. Trương Khang cũng muốn theo, nhưng hán tử đó bảo: “Tiểu huynh đệ! Ngủ sớm một bữa đi”.
Trương, Dương theo y qua mấy gian nhà ngói, tới trước một cái miếu. Trương Triều Đường ngẩng đầu nhìn lên, thấy một tấm hoành phi viết ba chữ rất lớn: Trung Liệt Tự. Chàng nghĩ bụng: “Thì ra là một gian từ đường, không biết thờ phụng vị nào”.
Hán tử đó dắt hai người qua khỏi tiền sảnh rồi một cái sân, hai bên xếp đầy giá đựng binh khí. Trên giá bày đủ mười tám loại binh khí, nào là đao, thương, búa, mâu, kích, tiên, món nào cũng được lau chùi sáng loáng.
Vào đến đại điện, thật không ngờ bên trong đen kịt đầu người, ít ra cũng phải tới hai ba ngàn. Hai người Trương, Dương âm thầm kinh hãi, không hiểu vì sao trên đỉnh núi hoang sơ này lại tụ tập nhiều người đến thế.
Trương Triều Đường ngẩng đầu nhìn lên, thấy trong điện thờ một bức thần tượng. Người trong tranh phục sức theo kiểu đại quan bản triều, đầu đội nón sắt sơn vàng, khoác trường bào đỏ bên ngoài áo giáp màu vàng, tay phải cầm bảo kiếm, tay trái phất lệnh kỳ. Mặt ông hơi ốm, để ba chòm râu dài trông rất oai nghi, ánh mắt nghiêng nghiêng dõi về phương xa. Lông mày khóe mắt hơi chau, như có phần lo âu tư lự.
Hai bên thần tượng này còn sắp hai dãy linh vị. Trương Triều Đường đứng khá xa, không sao nhìn rõ tên tuổi ghi trên những bài vị đó. Bốn vách tường trong đại điện treo đầy cờ xí, khôi giáp, binh đao, yên cương. Cờ xí đủ màu vàng, trắng, đỏ, xanh lam, cũng có loại màu vàng viền đỏ, có loại màu trắng viền đỏ.
Trong lòng Trương Triều Đường nảy ra vô số nghi ngờ, nhưng thấy tất cả mọi người trong điện đều có sắc thái bi tráng, phẫn nộ, nên chàng im lặng không dám lên tiếng hỏi. Đột nhiên kế bên thần tượng có một hán tử vừa ốm vừa cao đứng dậy, thắp nến lên, đốt nhang rồi lớn tiếng hô: “Chí tế!”.
Cả điện lập tức quỳ xuống, chỉ thấy một bãi đen nhánh đầu người. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử cũng theo đó mà quỳ lạy.
Tôn Trọng Thọ vượt qua mọi người, tiến lên phía trước, cầm lấy bài văn tế, dõng dạc đọc lên. Dương Bằng Cử thì không hiểu lời văn nói những gì, còn Trương Triều Đường càng nghe càng kinh hãi.
Văn tế sôi sục phẫn nộ, chửi bọn Thát tử Mãn Thanh đến mức như dội máu chó lên đầu; đối với hoàng đế Sùng Trinh đương triều cũng chẳng nể mặt tí nào, nói y “hôn quân vô đạo, không biết phân biệt ngay gian, bảo thủ cố chấp, giết hại tướng tài, tự làm sụp đổ trường thành vạn dặm, đáng làm tội nhân của con cháu Diêm vương”. Đối với đương kim hoàng đế mà dám buông lời thóa mạ như vậy, còn chưa phải công nhiên tạo phản hay sao?
Trương Triều Đường càng nghe càng kinh hãi nghi ngờ. Về sau bài văn tế còn quyết liệt thêm, ngay cả liệt tổ liệt tông của Sùng Trinh hoàng đế cũng bị lôi ra thóa mạ vô cùng thống khoái. Minh Thái Tổ thì giết hại Từ Đạt, Lưu Cơ là những vị công thần. Thần Tông thì lạm thu thuế má, chà đạp bá tính. Thi Tông thì chỉ thích dùng bọn hoạn quan ẻo lả, những bậc quân tử thanh cao trong triều không bị chém đầu cũng bị giam vào ngục. Lắm vị đại thần một lòng bảo vệ sơn hà, hy sinh kháng địch như Phùng Đình, Bạch Đề bị giết hại một cách thê thảm.
Bài văn tế này lý ngay lẽ thẳng, ngữ khí hào hùng, từng chữ từng câu đều đi vào tâm khảm Trương Triều Đường. Tuy chàng ở ngoại quốc xa xôi, nhưng những việc lớn ở Trung thổ đã từng nghe biết. Nửa cuối bài văn tế là một thiên chữ nghĩa ca tụng võ công của Đốc sư oai trấn biên cương, rồi sau đó lại chửi bới Sùng Trinh giết hại trung lương.
Nghe đến đây, Trương Triều Đường mới đoán được người trong thần tượng là Kế Liêu đốc sư Viên Sùng Hoán, người đã từng liên tiếp đánh bại quân Thanh, thắng cả Thanh thái tổ Nỗ Nhĩ Ha Xích, khiến cho binh tướng nhà Thanh nghe tên là vỡ mật.
Trương Triều Đường ngẩng đầu lên nhìn, thấy thần tượng sống động như người thật, cặp mắt dõi ra xa như đang nhìn bọn dị tộc xâm lăng Trung thổ, chiếm cứ sơn hà, tàn hại lê dân, chỉ hận không thể trở lại Liêu Đông để chống đỡ ngoại xâm.
Cuối bài văn tế là lời thề của mọi người đang dự tế ở đây: “Báo cừu tuyết hận, rửa mối thiên cổ kỳ oan, xin Đốc sư trên trời chứng giám.”
Đọc xong văn tế, người xướng lễ hô lớn: “Khấu đầu, lạy tạ thần tượng Đốc sư và linh vị của các tướng quân tử nạn”.
Mọi người liền quỳ xuống khấu đầu. Một đứa bé trai mặc đồ đại tang bỗng quay đầu lại, nằm rạp xuống đất, trả lễ mọi người. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử lại kinh hãi một phen. Thì ra đứa bé này chính là chú mục đồng hôm trước họ đã gặp ở nhà mấy người nông phu.
Mọi người bái lạy xong đứng dậy, ai cũng nước mắt đầm đìa, bi phẫn khó mà nén được. Tôn Trọng Thọ lên tiếng gọi Trương Triều Đường: “Trương huynh! Bài văn tế của tại hạ có chỗ nào không ổn, xin được chỉ dạy, bổ sung sửa chữa giúp”.
Trương Triều Đường khiêm tốn trả lời: “Không dám!”
Tôn Trọng Thọ sai người đem văn phòng tứ bảo ra, lại nói: “Tại hạ mời Trương huynh lên núi, chính vì muốn mượn bàn tay tài tử hải ngoại diễn tả cho huân nghiệp Viên đốc sư càng thêm sáng tỏ, khiến mọi người trên thế gian đều biết Viên đốc sư mắc nạn hàm oan, cả thiên hạ đều phẫn nộ, Trung thổ hải ngoại đồng mối bi ai. Đám bộ hạ cũ này của Đốc sư Viên Sùng Hoán ích kỷ một phen, mong Trương huynh thông cảm”.
Trương Triều Đường bây giờ đã hiểu tại sao họ Tôn mời mình lên núi, nhưng nhất thời không biết phải làm gì. Viên Sùng Hoán bị triều đình xử tử đúng là do hoàng đế Sùng Trinh hồ đồ ngu xuẩn, không biết phân biệt người trung kẻ nịnh, nghe lời sàm tấu của bọn gian thần và thái giám, thiên hạ đều biết là oan uổng. Khi ở Bột Nê, chàng đã nghe mấy thương gia người Quảng Đông vừa rơi lệ vừa nhắc đến chuyện này. Nhưng tuân chỉ của hoàng đế mà thi hành án, ai nói oan uổng tức là phỉ báng đương kim hoàng thượng. Nếu hoàng thượng biết được, gửi một bức thư đến nước Bột Nê, thì cả nhà mình khó tránh khỏi bị liên lụy. Nhưng Tôn Trọng Thọ đã nói ra lời, tình thế này làm sao cự tuyệt?
Đang lo lắng trong lòng, Trương Triều Đường bỗng phúc chí tâm linh nhớ lại hai bộ tiểu thuyết từng xem, một là Tam Quốc diễn nghĩa, một là Tinh Trung Nhạc truyện. Chàng đọc sách có hạn, không thể viết một bài văn tứ lục dài như Tôn Trọng Thọ, phải suy nghĩ một hồi mới cầm bút viết mấy dòng:
“Tống vương hôn ám;
Vũ Mục chết oan;
Hán triều vận mạt;
Gia Cát sao tàn;
Ôi đau xót thay;
Hồn về thượng hưởng”
Chàng chỉ nhắc chuyện đời xưa. Nếu không may bài văn tế này rơi vào tay hoàng đế, cũng không ai căn cứ vào đó mà định tội được.
Tôn Trọng Thọ vốn nghĩ họ Trương là học trò hải ngoại, học vấn chẳng được bao nhiêu, chắc không viết nổi câu nào hay ho. Y chỉ mong chàng tán tụng mấy câu về công đức của Viên đốc sư là được, nhưng đọc xong sáu câu này không khỏi vui mừng. Trương Triều Đường so sánh Viên Sùng Hoán như Gia Cát Lượng và Nhạc Phi, chính là tôn kính tối đa rồi, không thể nào hơn được nữa.
Gia Cát Lượng lừng danh từ xưa đến nay, không người nào không ngưỡng mộ. Người Thanh lại là hậu duệ của người Kim, đều là tộc Nữ Chân, tự xưng là Hậu Kim. Khi Mãn Thanh mới lập quốc, đã từng xưng quốc hiệu là Kim. Nhạc Phi và Viên Sùng Hoán đều có công đối địch với quân Kim, đều chết dưới tay hôn quân gian thần. Hai người về tài lược cũng có nhiều chỗ giống nhau.
Tôn Trọng Thọ càng nghĩ càng cảm thấy không phải Trương Triều Đường nhắm mắt nói bừa. Y đem mấy câu này giải thích rõ ra, trong đại điện tức thì vang dội những lời cảm tạ. Cái nhìn của mọi người đối với Trương, Dương thân mật hơn nhiều, không cư xử như người ngoài nữa.
Tôn Trọng Thọ nói: “Trương huynh văn bút phi phàm. Võ Mục Gia Cát, hai câu này đủ khiến Đốc sư Viên Sùng Hoán ngậm cười ở chốn cửu tuyền. Lát nữa tại hạ sẽ cho người khắc bài này lên một tảng đá, dựng bên từ đường. Phải để người đời sau biết được Viên đốc sư của chúng ta lừng danh thiên hạ, ngay cả những danh sĩ ở ngoại bang xa xôi vạn dặm cũng đem lòng ngưỡng mộ”.
Trương Triều Đường vội vàng chắp tay đa tạ.
Mọi người khấu bái xong, ai về ngồi chỗ nấy. Người xướng lễ cất tiếng hô lên: “… tướng quân… tổng binh… phó tổng binh…”, toàn là quân hàm của võ tướng. Y hô đến tên ai, người đó đứng dậy vái chào.
Trương Triều Đường nghe vậy, biết những người ở đây đều là thuộc hạ cũ của Đốc sư Viên Sùng Hoán. Sau khi ông bị hại, mọi người phẫn nộ rời bỏ quân ngũ, tứ tán khắp nơi. Hôm nay là ngày giỗ kỵ ba năm Viên đốc sư gặp nạn, nên họ tụ họp về đỉnh Thánh Phong, gần quê hương của ông là Đông Quán tỉnh Quảng Đông, để tế lễ cựu soái của mình. Dường như họ còn có mưu đồ gì quan trọng nữa.
Khi người xướng lễ kêu đến Kế Chấn phó tổng binh Chu An Quốc, một người đứng dậy. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử lại giật mình một cái. Thì ra đây chính là người nông phu đã dẫn họ trốn vào mật thất. Dương Bằng Cử nghĩ thầm: “Thì ra y là Kế Liêu đại tướng, từng cầm quân kháng cự bọn Mãn Thanh. Ta thua dưới tay y cũng chẳng thiệt thòi gì lắm”.
Chu An Quốc dõng dạc nói: “Ba năm nay Viên công tử thân thể tráng kiện, võ nghệ tiến bộ nhiều, đọc sách cũng không ít. Tại hạ cùng hai vị huynh đệ Nghê, La đã truyền gần hết võ công của mình cho Viên công tử rồi, xin quý vị cử minh sư khác.”
Tôn Trọng Thọ nói: “Trong huynh đệ chúng ta, còn ai võ công cao hơn các vị? Chu tướng quân đừng quá khiêm nhường”.
Chu An Quốc nói: “Viên công tử hết sức thông minh, ba người bọn tại hạ đã đem hết võ nghệ của mình ra dạy rồi, không còn chiêu thức mới lạ nào nữa. Thật sự phải mời minh sư khác, để khỏi làm chậm trễ đà tiến bộ của Viên công tử.”
Tôn Trọng Thọ nói: “Được! Việc này lát nữa chúng ta sẽ bàn tiếp. Còn chuyện trừ gian thì sao rồi?”
Người nông phu họ Nghê đứng dậy lên tiếng: “Phạm gian tặc đã bị La tham tướng xử tội ở Chiết Giang mấy tháng trước. Còn Sử gian tặc thì mười ngày trước bị tại hạ đuổi kịp ở Triều Châu. Thủ cấp hai tên đó ở đây”.
Nói xong, y xách một cái bao vải dưới đất lên, lấy ra hai cái thủ cấp. Đại điện xôn xao, người thì cất tiếng hoan hô, người thì nghiến răng thóa mạ. Tôn Trọng Thọ đón lấy hai cái thủ cấp đó, đem đặt lên bàn thờ, ngay trước thần tượng.
Bây giờ Trương Triều Đường mới hiểu, hai cái thủ cấp mình phát hiện giữa đêm chính là kẻ thù của Viên đốc sư. Dĩ nhiên đây là bọn gian tặc có liên quan đến vụ hãm hại Đốc sư Viên Sùng Hoán.
Lúc này không ngớt có người nộp thủ cấp lên, trước mặt thần tượng đã bày mười mấy cái. Nghe họ trình bày, thì trong số đó có đầu của Cao thị lang đương triều. Hắn là phe cánh của Ngụy Trung Hiền, đã từng vu cáo bừa bãi Viên Sùng Hoán thông địch phản quốc. Còn có đầu của Tham tướng Tạ Thượng Chấn, vốn là đồng hương của Viên Sùng Hoán, đã được ông dìu dắt nâng đỡ rất nhiều. Nhưng vì hắn có mưu đồ thăng quan tiến chức mà vu cáo ân sư tạo phản. Mọi người hận thù sâu đậm tên này nhất.
Sau khi mọi người bẩm báo xong xuôi, Tôn Trọng Thọ nói: “Bọn tiểu gian đã giết không ít, nhưng đại thù vẫn chưa báo được. Bọn Thát tử Mãn Thanh còn nguyên, hôn quân Sùng Trinh đang tại vị. Làm cách nào để báo cừu tuyết hận cho Đốc sư, các vị có cao kiến gì không?”
Một người hơi lùn đứng dậy cất tiếng gọi: “Tôn tướng quân!”
Tôn Trọng Thọ nói: “Triệu tham tướng có cao kiến gì, xin nói”.
Người lùn ấy nói: “Theo tại hạ thì…”
Mới được bốn chữ, bên ngoài có một hán tử chạy vội vào bẩm báo: “Vương tướng quân Tam Thập Lục Doanh ở Sơn Tây phái người đến đây cầu kiến.”
Mọi người nghe thấy đều cất tiếng hoan hô. Tôn Trọng Thọ nói: “Triệu tham tướng! Chúng ta hãy đón tiếp sứ giả của Tam Thập Lục Doanh trước đã”.
Triệu tham tướng nói: “Đúng vậy!” Y lập tức đi ra ngoài, mọi người cũng đứng dậy hết. Cánh cửa lớn mở ra, nhìn thấy hai đại hán tay cầm đuốc. Hai đại hán đó đứng nép sang một bên, nhường lối ba người bước vào.
Từ lâu Dương Bằng Cử đã nghe danh tiếng của Tam Thập Lục Doanh. Ở Sơn Tây có hơn hai chục vạn quân dân khởi nghĩa, kết thành đồng minh gọi là Tam Thập Lục Doanh, tôn Tử kim dương Vương Tự Dũng làm minh chủ. Mấy năm gần đây họ giết quan tạo phản, thanh thế cực lớn. Trong Tam Thập Lục Doanh thì Sấm vương Cao Nghênh Tường là nổi danh nhất. Dưới trướng họ Cao có đứa cháu kêu bằng cậu là Lý Tự Thành, còn gọi là Sấm tướng, anh hùng vô địch, oai chấn vùng Sơn Tây, Thiểm Tây.
Trong ba vị khách thì người đi đầu khoảng hơn bốn mươi tuổi, mặt rỗ, đầu tóc bù xù, trên người mặc quần áo vải thô. Y phục rách thủng nhiều chỗ ở đầu gối và khuỷu tay, vá víu lung tung. Chân y mang giày cỏ, dính đầy đất bùn, trông hệt như một nông phu. Hai người đi theo y, thì một người chừng ba mươi tuổi, da dẻ trắng trẻo, còn người kia chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, thân hình khôi vĩ, da mặt ngăm đen, trông cũng giống nông phu. Ba người này dáng vẻ trung hậu thật thà, không hiểu sao lại là phe đảng bọn cường khấu đang hoành hành thiên hạ.
Ba người này đi vào đại điện, không nói lời nào, đến đứng trước thần tượng. Hán tử trắng trẻo lấy nhang đèn trong bao vải sau lưng ra, thắp lên. Ba người quỳ xuống khấu đầu, chú bé mục đồng vội tới trước bàn quỳ xuống, khấu đầu trả lễ.
Hành lễ xong xuôi, hán tử mặt rỗ dõng dạc lên tiếng: “Vương tướng quân của bọn tại hạ biết Viên đốc sư ở quan ngoại đánh bọn Thát tử đã lập đại công, người người thán phục. Viên đốc sư bị hôn quân giết hại oan uổng, bá tính trong thiên hạ đều giận dữ vô cùng. Vương tướng quân, Cao Sấm vương, Lý Sấm tướng phái bọn tại hạ đến đây thay mặt để bái lạy trước thần vị của Đốc sư. Tình hình hiện giờ là quan ép dân làm loạn, chúng ta muốn có cơm ăn thì chỉ còn cách kháng lệnh, giết quan. Khẩn cầu anh hồn của Viên đại soái phù hộ cho chúng ta đánh đến Bắc Kinh, bắt hết hôn quân gian thần giết từng tên một, để trả thù cho đại soái và bá tính khắp thiên hạ.”
Nói xong, y lại lạy thêm mấy cái.
Mọi người thấy sứ giả của Vương Tự Dũng tôn sùng Đốc sư của mình, ai cũng phát sinh hảo cảm. Mấy câu nói của y tuy rằng thô thiển, nhưng đều là lời chí lý. Tôn Trọng Thọ bước lên, chắp tay nói: “Đa tạ, đa tạ! Xin thỉnh giáo cao tính đại danh”.
Hán tử đó nói: “Tại hạ là Điền Kiến Tú. Vương tướng quân biết hôm nay là ngày giỗ của Viên đại soái, nên phái tại hạ đến đây bái tế trước linh vị, đồng thời gặp gỡ quý vị một phen”.
Tôn Trọng Thọ nói: “Xin đa tạ thịnh tình của Vương tướng quân. Tại hạ họ Tôn, tên Trọng Thọ”.
Người trắng trẻo nói: “Thì ra tướng quân là em trai của Tôn Tổ Thọ tướng quân. Tôn tướng quân đánh bọn Thát tử mà trận vong, bọn tại hạ vô cùng kính ngưỡng”.
Tôn Tổ Thọ là một đại tướng trấn giữ biên cương, lập nhiều công lớn. Khi quân Mãn Thanh xâm lăng, ông đã cùng Viên Sùng Hoán bảo vệ bờ cõi. Sau khi Viên Sùng Hoán bị hạ ngục, Tôn Tổ Thọ phẫn nộ xông ra liều chết ở ngoài Vĩnh Định Môn thành Bắc Kinh, tử trận cùng với đại tướng Mãn Quế, đã vang danh thiên hạ.
Tôn Trọng Thọ tài kiêm văn võ, trước nay vẫn là cánh tay đắc lực của huynh trưởng mình. Trong trận đó ông chạy thoát được, ôm lòng uất hận vì Sùng Trinh giết hại trung thần, nên cùng đám bộ hạ của Viên Sùng Hoán lưu lạc giang hồ, nuôi dạy con trai của Viên Sùng Hoán, âm thầm lập mưu trả thù. Ông là người túc trí đa mưu, vô hình trung chính là thủ lãnh của đám bộ hạ cũ họ Viên.
Tôn Tổ Thọ đã trung dũng lại liêm khiết, trong Minh Sử có chép hai câu chuyện về ông.
Khi Tôn Tổ Thọ trấn thủ ở quan ải, chống cự với tộc Nữ Chân, ra trận bị thương, không thể đứng dậy được. Vợ của ông là Trương Thị đã cắt thịt trên cánh tay để nấu canh cho ông uống, lại còn tuyệt thực bảy ngày bảy đêm, cầu trời cho mình chết thay trượng phu. Khi Tôn Tổ Thọ lành bệnh thì Trương Thị chết. Tôn Tổ Thọ cảm niệm ân tình của vợ, suốt đời không thân cận nữ nhân nào khác.
Khi Tôn Tổ Thọ đã làm đại tướng, có một bộ hạ đi qua Xương Bình là quê hương của ông, đưa năm trăm lạng bạc đến nhà ông. Thời kỳ đó thì việc này rất bình thường, nhưng con của ông kiên quyết không nhận. Sau này đứa con tìm đến trung quân, Tôn Tổ Thọ khen ngợi, mời con uống rượu rồi nói: “Ngươi không nhận quà cáp, rất hợp lòng ta. Nếu ngươi nhận thì phen này nhất định bị xử bằng quân pháp.”
Tôn Trọng Thọ xử sự rất có phong cách, giống như huynh trưởng của mình. Vì thế ông cũng được mọi người khâm phục.
Trong lúc mọi người nói chuyện, thiếu niên mặt đen đi cùng Điền Kiến Tú bỗng nhảy vọt từ chỗ ngồi ra phía ngoài, đứng chặn ngay trước cửa. Mọi người đều bất ngờ, không biết xảy ra việc gì, tất cả đều đứng bật dậy. Thiếu niên mặt đen chỉ mặt hai hán tử trung niên trong đám đông, quát hỏi: “Hai ngươi là tay chân của Tào thái giám! Đến đây để làm gì?”
Mọi người nghe câu này đều kinh hãi một phen. Ai cũng biết hoàng đế Sùng Trinh đã tru diệt Ngụy Trung Hiền và bọn Khách Thị, nghịch đảng hoạn quan trong triều đã bị quét sạch; nhưng hoàng đế tính đa nghi, thừa hưởng dòng máu từ ông cha Thái Tổ, Thành Tổ. Vì thế Sùng Trinh chỉ tin dùng đám thái giám đến từ Tín Vương Phủ của y, trong đó được sủng ái nhất là Tào Hóa Thuần.
Tào Hóa Thuần thống lãnh cả cẩm y thị vệ lẫn thám tử ở Đông Xưởng của hoàng đế, gọi chung là Xưởng Vệ, chuyên việc dò xét chuyện riêng tư của các đại thần trong triều và tướng soái khắp nơi. Văn võ đại thần rất thường bị hoàng đế hạ chỉ giết hại một cách không minh bạch, hoặc bắt nhốt vào thiên lao không cần tuyên bố tội danh. Sử sách về sau chỉ chép mơ hồ là họ bị bắt giết theo lời bẩm báo của bọn thân tín của Tào thái giám.
Ba chữ Tào thái giám vừa nhắc đến là quần hùng nơi đây đều thay đổi sắc mặt.
Hai người đó, một người cằm đầy râu vàng, trên dưới bốn mươi tuổi; còn người kia mặt trắng không râu, thân hình hơi lùn mập. Người lùn mập cũng biến sắc, nhưng trấn tĩnh lại được ngay, mỉm cười hỏi lại: “Ngươi nói ta đó phải không? Giỡn kiểu gì vậy?”.
Thiếu niên mặt đen nói: “Giỡn cái gì? Hai ngươi lén lút bàn bạc trong khách điếm, tìm cách lẩn vào Sơn Tông, lại nói đã bẩm báo Tào thái giám rồi, phải phái binh đến đây để bủa lưới giết cho tận tuyệt. Những chuyện đó ta đều nghe hết.”
Người râu vàng rút soạt đao, ra vẻ muốn xông lên liều mạng. Người mập mạp mặt trắng thì cười ha hả, lại nói: “Vương Tự Dũng muốn thu gom bằng hữu Sơn Tông để lập thành doanh thứ ba mươi bảy của mình. Tâm địa hiểm ác như thế, ai mà không hiểu? Còn ngươi đến đây là muốn tung tin đồn, khiêu khích ly gián. Hừ, làm sao thành công được?”.
Hắn nói chuyện nhỏ nhẹ ẻo lả, rõ ràng là giọng điệu thái giám. Nhưng mấy câu nói này cũng có hiệu lực, rất nhiều người trong đại điện đưa mắt nhìn nhau, ra vẻ nghi ngờ sứ giả của Vương Tự Dũng.
Điền Kiến Tú xuất thân làm ruộng, nhưng chiến trận lâu ngày nên đã luyện được tinh thần gang thép. Y nhìn thấy thần sắc mọi người, biết họ đã bị mấy câu này làm động tâm, liền quát hỏi: “Các hạ là ai? Có phải là bằng hữu Sơn Tông hay không?”.
Câu này đã chọc trúng vào yếu điểm. Người kia không nói được tiếng nào, chỉ biết cười nhạt.
Tôn Trọng Thọ hét lên: “Ngươi có phải là bộ hạ của Viên đốc sư không? Sao ta chưa gặp ngươi? Ngươi thuộc quyền vị tổng binh nào?”
Tên mặt trắng biết sự tình bại lộ, liền nháy mắt với tên râu vàng. Cả hai lập tức tung người nhảy ra phía cửa. Tên râu vàng vung đao chém tới thiếu niên mặt đen. Còn tên mặt trắng có vẻ bán nam bán nữ, nhưng thân thủ lại cực kỳ nhanh nhẹn. Cổ tay hắn chỉ lật một cái đã rút được đôi phán quan bút ra, điểm ngay vào trước ngực thiếu niên mặt đen.
Thiếu niên mặt đen đến đây bái tế để tỏ lòng tôn kính, không muốn bị nghi ngờ nên khi lên núi không mang theo vũ khí. Mọi người thấy chàng tay không mà bị hai địch thủ giáp công, lập tức bảy tám người xông lên cứu viện. Không ngờ võ công của thiếu niên đó không phải tầm thường. Tay trái chàng vẫy ra như gió, thi triển cầm nã thủ, túm vào cổ tay của tên râu vàng. Đồng thời ngón trỏ và ngón giữa tay phải chia ra đâm tới cặp mắt của tên mặt trắng. Hai chiêu này phát sau nhưng đến trước, lập tức ép địch phải lùi hai bước.
Quần hùng Viên đảng thấy chàng chỉ trong một chiêu vừa phòng thủ nghiêm mật vừa phản kích đối phương, đều âm thầm khen ngợi, dừng bước đứng nhìn.
Hai tên kia thấy không chạy ra cửa được, biết mình đã vào hang cọp, tình thế cực kỳ nguy hiểm. Chúng vừa lùi hai bước vào trong, lại tiếp tục xông ra. Thiếu niên mặt đen múa tít song chưởng, một mình quẫy lộn giữa đơn đao và song bút, nhưng vẫn công nhiều thủ ít. Hai tên kia mấy lần xông đến ngưỡng cửa, đều bị chàng ép trở vào.
Ba người tỷ đấu kịch liệt trong đại điện, càng lúc càng hăng. Đột nhiên tên râu vàng kinh hãi la lên một tiếng, đơn đao rời khỏi tay bay vào giữa đám đông. Chu An Quốc nhảy lên đưa tay bắt lấy. Ngay lúc đó, thiếu niên mặt đen bước tới một bước, phóng chân trái ra đá ngã ngay tên râu vàng. Chân trái của chàng chưa thu về, chân phải lại thừa thế đá lên.
Tên mặt trắng lại càng kinh hãi, chỉ muốn ép đối phương ra khỏi cửa để cướp đường chạy xuống núi. Hắn vận hết sức bình sinh, song bút một trước một sau điểm vào ngực địch thủ. Thiếu niên mặt đen đưa tay phải ra chụp được cán cây tả bút, vận sức vặn ngược lại giằng được. Bây giờ hữu bút của đối phương đã điểm tới, chàng thuận tay đưa cây bút của mình ra cản trở. Hai cây bút giao nhau nghe “keng” một tiếng, lửa bắn tứ tung. Cổ tay tên mặt trắng bị chấn động trật khớp, hữu bút vuột nốt khỏi tay.
Thiếu niên mặt đen cười dài một tiếng, đưa tay phải túm lấy ngực áo của hắn xách bổng người lên, còn tay trái nắm lấy thắt lưng của hắn. Hai tay chàng dang ra, cái quần tên mặt trắng bị tụt xuống, roạt một tiếng, hạ thể lõa lồ. Mọi người còn ngạc nhiên, thiếu niên mặt đen đã mỉm cười nói: “Đây có phải là thái giám hay không, mọi người cứ nhìn là biết.”
Hàng trăm cặp mắt đều tập trung vào một chỗ, quả nhiên thấy tên mặt trắng đã bị thiến trụi lủi rồi. Trong tiếng cười nói ồn ào, mọi người đều quây cả lại. Thấy thiếu niên mặt đen thân thủ cực nhanh, võ công cao cường, ai cũng đem lòng khâm phục.
Lúc này nhiều người đã ùa lên, đè tên mặt trắng và tên râu vàng xuống. Tôn Trọng Thọ quát hỏi: “Tào thái giám phái ngươi đến đây làm gì? Còn bao nhiêu đồng đảng? Làm sao bọn ngươi đột nhập vào đây được?”
Hai tên đó im lặng không nói lời nào. Tôn Trọng Thọ đưa mắt một cái, người họ La bèn xách đơn đao tới, chỉ xoẹt xoẹt hai cái đã cắt thủ cấp của chúng, đặt lên bàn thờ ở trước thần tượng.
Tôn Trọng Thọ chắp tay lại nói với Điền Kiến Tú: “Nếu không nhờ ba vị phát hiện gian tặc, bọn tại hạ đại họa đến trước mắt còn chưa biết.”
Điền Kiến Tú nói: “Cũng là may mắn mà thôi. Bọn tại hạ dọc đường gặp hai tên này, thấy thần sắc của chúng kỳ lạ, thân thủ lại nhanh nhẹn, nên đêm đó theo vào khách điếm để dò xét. May mà điều tra được tung tích của chúng.”
Tôn Trọng Thọ hỏi hai người đi theo Điền Kiến Tú: “Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh hai vị.”
Hai người kia xưng tên, người da dẻ trắng trẻo là Lưu Phương Lượng, còn thiếu niên mặt đen là Thôi Thu Sơn. Chu An Quốc bước tới nắm tay Thôi Thu Sơn, tán dương mãi không dứt.
Điền Kiến Tú, Tôn Trọng Thọ, mấy nhân vật đầu não vào trong hậu đường để đàm đạo. Điền Kiến Tú nói: “Vương tướng quân mong mọi người kết nghĩa, nắm tay nhau làm đại sự phản lại triều đình.”
Ba người này là thuộc hạ dưới trướng Sấm tướng Lý Tự Thành. Sấm tướng là cháu gọi Sấm vương Cao Nghênh Tường bằng cậu. Trong tam thập lục doanh, doanh của y là doanh có thanh thế hùng mạnh nhất.
Người bên Viên đảng đều ra vẻ trù trừ. Tuy mọi người đều rất hận hoàng đế Sùng Trinh, đã quyết âm thầm hành thích, những chuyện giết quan trừ tặc cũng đã làm không ít, nhưng ai cũng vốn là mệnh quan của nhà Đại Minh, nên thật sự không muốn tạo phản. Họ chỉ mong giết được Sùng Trinh, rồi lập một vị tôn thất lên làm vua nhà Minh.
Huống hồ, dù sao Vương Tự Dũng cũng là lưu khấu, danh tiếng tuy lớn nhưng vẫn làm những chuyện cường đạo, cướp bóc khắp nơi, nên trong lòng mọi người vẫn coi thường. Tam thập lục doanh lại ở xa xôi, khó mà chi viện. Mọi người trong Viên đảng sau khi rời quân ngũ, vì sinh kế mà không khỏi cướp bóc mấy vụ, nhưng trước giờ họ quyết không tự coi mình là quân cường đạo. Thân phận hai bên có chỗ khác nhau, nên bàn luận mãi mà không quyết định được gì.
Cuối cùng, Tôn Trọng Thọ nói: “Việc của chúng ta đã bị Tào thái giám biết rồi. Nếu không kết hợp với Vương tướng quân để mưu đồ đại sự, không những việc hành thích Sùng Trinh trả thù cho Viên đốc sư khó mà thành được, còn sợ Tào thái giám sẽ phái người lùng xét, chặn giết khắp nơi. Chúng ta thế đơn lực bạc, không tránh khỏi bị hạ độc thủ. Điền huynh, hay là chúng ta quyết định thế này. Sơn Tông chúng ta sẽ giúp Vương tướng quân đánh lại quan binh, nhưng sau khi đại sự thành công, Vương tướng quân phải nỗ lực đi đánh bọn Thát tử Mãn Thanh. Nói trước một câu, nếu sau này Vương tướng quân xưng làm hoàng đế thì bằng hữu Sơn Tông chúng ta không để yên đâu. Nhất định hoàng đế phải là con cháu họ Chu của Thái Tổ.”
Điền Kiến Tú nói: “Vương tướng quân và Cao Sấm vương, Lý Sấm tướng quân đều bị bọn quan phủ ép không chịu nổi, muốn sống nên mới tạo phản, chứ bản ý không muốn làm hoàng đế. Chuyện này tại hạ dám vỗ ngực đảm bảo. Bọn tại hạ bị kêu là lưu khấu, thật ra đều là nông phu quen nghề trồng trọt, chỉ mong miệng có miếng ăn, đầu yên trên cổ là mãn nguyện. Bọn tại hạ bôn ba khắp đông tây cũng là bắt buộc, chứ bản lãnh thật sự không đủ làm hoàng đế, đại quan gì hết. Còn về chuyện đánh bọn Thát tử Mãn Châu, thì tâm ý của Lý tướng quân hoàn toàn giống như quý vị ở đây. Bình thời nhắc đến chuyện này, Lý tướng quân vẫn thường nghiến răng căm hận bọn Thát tử đến tận xương tận tủy. Chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng Sấm tướng Lý đại ca. Lý đại ca thật sự anh hùng hào kiệt, nhân nghĩa vô song”.
Minh chủ của Tam Thập Lục Doanh là Vương Tự Dũng, nhưng nghe nói chuyện thì rõ ràng họ tuân phục Lý Tự Thành hơn.
Tôn Trọng Thọ đáp: “Nếu vậy thì không còn gì hay hơn nữa.” Mọi người trong Viên đảng không dị nghị gì, thế là việc kết nghĩa đã thành.
*
* *
Trong điện thì thương nghị đại kế kết liên, còn ngoài điện thì Chu An Quốc và Nghê Hào dắt tay Thôi Thu Sơn vào một góc yên tĩnh nói chuyện.
Chu An Quốc nói: “Thôi đại ca! Chúng ta tuy mới gặp nhau, nhưng có thể nói là tình như cố cựu. Huynh đừng xem bọn ta như người ngoài.”
Thôi Thu Sơn nói: “Trước kia hai vị đại ca đánh bọn Thát tử bảo vệ giang sơn, tại hạ khâm phục từ lâu. Hôm nay được gặp gỡ nhiều bằng hữu Sơn Tông, thật sự là chuyện vui mừng.”
Nghê Hào hỏi: “Mạo muội xin hỏi, sư thừa của Thôi đại ca là vị tiền bối anh hùng nào?”
Thôi Thu Sơn đáp: “Ân sư thụ nghiệp của tại hạ là Nhất thanh lôi Bạch Giả lão gia ở phủ Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây. Lão nhân gia đã tạ thế nhiều năm rồi”.
Chu An Quốc và Nghê Hào nhìn nhau một cái, đều cảm thấy hoài nghi. Nghê Hào nói: “Đại danh của Nhất thanh lôi Bạch lão tiền bối thì bọn tại hạ đã ngưỡng mộ từ lâu, nhưng có một câu xin Thôi đại ca đừng trách. Võ công Bạch lão tiền bối tuy cao, nhưng hình như không bằng được Thôi đại ca”.
Thôi Thu Sơn im lặng không đáp. Chu An Quốc nói: “Màu xanh phát xuất từ màu lam, Trường Giang sóng sau đè sóng trước, trò giỏi hơn thầy cũng là việc thường gặp. Nhưng vừa rồi nhìn thân thủ Thôi đại ca đánh ngã hai tên gian tế đó, hình như là một loại võ công khác hẳn”.
Thôi Thu Sơn ngần ngừ một lát rồi nói: “Hai vị là hảo bằng hữu, tại hạ không dám giấu giếm. Sau khi sư phụ tạ thế, tại hạ có cơ duyên gặp gỡ một vị thế ngoại cao nhân. Lão nhân gia chỉ điểm cho một chút võ công, nhưng lại bắt tại hạ thề không được nói tới danh hiệu của ông. Vì vậy, việc này phải xin hai vị đại ca tha thứ”.
Hai người Nghê, Chu thấy chàng nói rất thành khẩn, vội lên tiếng: “Thôi đại ca đừng nói thế. Bọn tại hạ có việc cần nhờ vả, nên mới cả gan hỏi vậy”.
Thôi Thu Sơn nói: “Hai vị có việc gì cứ nói thẳng đi. Chúng ta là người một nhà, hà tất phải khách sáo như vậy.”
Chu An Quốc nói:
“Xin Thôi đại ca chờ một chút. Bọn tại hạ phải đi tìm hai người bạn để thương lượng mấy câu đã”.
Chu, Nghê bèn kéo Ưng, La qua một bên. Chu An Quốc nói: “Vị Thôi huynh đệ này võ nghệ cao cường, chỗ chúng ta không có ai sánh kịp. Nghe y nói chuyện, biết tính cách cũng rất hào phóng”.
Nghê Hào nói: “Chỉ khi nói đến sư thừa thì có phần giấu giếm mà thôi”. Họ bèn kể lại câu chuyện với Thôi Thu Sơn vừa rồi.
Người họ Ưng là Ưng Tùng, mưu sĩ dưới trướng Viên Sùng Hoán, năm xưa đã góp sức không ít giữ thành Ninh Viễn. Còn người họ La là La Đại Thiên, một pháo thủ trứ danh. Trận chiến ở Ninh Viễn, y đã dùng hỏa pháo giết chết vô số Thanh binh, luận công được thăng đến Tham tướng.
Ưng Tùng nói: “Chúng ta đừng ngại, cứ thẳng thắn mà nhờ vả, xem thử y nói thế nào”.
Chu An Quốc nói: “Việc này phải hỏi Tôn tướng quân trước”.
Ưng Tùng đáp: “Không sai”.
Họ ra sau hậu điện, thấy Tôn Trọng Thọ và Điền Kiến Tú đang nói chuyện rất thân thiết, bèn mời Tôn Trọng Thọ ra thương lượng. Chu An Quốc và bằng hữu chuyên về hành quân đánh trận, sử dụng thương dài cung cứng, đụng trận là quyết tử lập công, dũng cảm khó ai sánh kịp. Nhưng về võ công quyền cước hay binh khí, thì họ tự biết mình không sao bì được Thôi Thu Sơn.
Tôn Trọng Thọ nói: “Ưng sư gia! Chuyện này liên quan đến cả đời ấu chúa. Huynh hãy thăm dò khẩu khí của họ Thôi trước đã”.
Ưng Tùng gật đầu đồng ý, cùng ba người Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên đi gặp Thôi Thu Sơn.
Ưng Tùng nói: “Chúng ta có một việc, chỉ có Thôi đại ca mới giúp được mà thôi. Cho nên…”
Thôi Thu Sơn thấy họ cứ ấp a ấp úng, ra vẻ khó nói nên lời, bèn đáp ngay: “Tại hạ là người thô lỗ. Các vị có gì sai bảo, chỉ cần tại hạ làm được thì không điều gì không tuân lệnh”.
Ưng Tùng nói: “Thôi huynh thật là sảng khoái! Thế thì tại hạ xin nói thẳng. Khi bị hại, Viên đốc sư có để lại một vị công tử, lúc đó mới bảy tuổi. Bọn tại hạ phải tử chiến ba trận với bọn cẩm y vệ do hôn quân phái tới bắt bớ gia đình Đốc sư, hy sinh bảy huynh đệ mới bảo vệ được chút xíu cốt nhục cho cựu chủ”.
Thôi Thu Sơn “À” một tiếng. Ưng Tùng tiếp: “Ấu chúa tên là Viên Thừa Chí, do bốn người bọn tại hạ phụ trách dạy chữ và luyện võ. Ấu chúa rất thông minh, hễ dạy là hiểu ngay, nên nếu tiếp tục theo bọn tại hạ luyện tập thì nhất định tiến bộ không nhiều. Bọn tại hạ là kẻ dũng phu, chỉ biết hành quân đánh trận chứ võ công phòng thân chẳng được bao nhiêu”.
Thôi Thu Sơn đã hiểu ý, bèn hỏi: “Chắc quý vị muốn cho ấu chúa theo tại hạ học võ?”
Chu An Quốc nói: “Vừa rồi thấy Thôi đại ca ra tay giết giặc, võ công gấp mười bọn tại hạ. Nếu Thôi đại ca chịu nhận đồ đệ, dạy dỗ ấu chúa thành tài, thì anh linh của Viên đốc sư trên trời nhất định cảm kích vô cùng”.
Nói xong bốn người đều chắp tay vái lạy. Thôi Thu Sơn trả lễ, suy nghĩ một hồi mới nói: “Quý vị nể mặt như thế, tại hạ thật không dám chối từ. Nhưng bây giờ tại hạ đang ở trong quân ngũ của Sấm tướng Lý đại ca, đi lại không nơi nhất định, thường xuyên đánh trận với quan quân, chưa biết sống đến ngày nào. Nếu dẫn theo Viên công tử vào quân ngũ, tại hạ chỉ sợ không có thời gian dạy dỗ, vả lại cũng quá nguy hiểm”.
Ưng Tùng và mọi người đều biết đây là chuyện thật, không khỏi hơi thất vọng. Họ gọi Viên Thừa Chí đến gặp mặt Thôi Thu Sơn. Thôi Thu Sơn thấy Viên Thừa Chí hoạt bát linh động, da mặt ngăm đen, chẳng có chút gì ra vẻ công tử phú quý sống trong nhung lụa, bèn đem lòng yêu mến. Chàng hỏi về võ nghệ Viên Thừa Chí đã học.
Viên Thừa Chí trả lời, rồi hỏi lại: “Thôi thúc thúc! Vừa rồi thúc thúc sử dụng công phu gì để bắt hai tên khốn kia?”.
Thôi Thu Sơn đáp: “Đó là Phục Hổ Chưởng.”
Viên Thừa Chí nói: “Thúc thúc đánh nhanh quá, con nhìn không kịp”.
Thôi Thu Sơn mỉm cười hỏi: “Ngươi muốn học không?”.
Viên Thừa Chí đáp ngay: “Thôi thúc thúc! Xin thúc thúc dạy cho con”.
Thôi Thu Sơn cười bảo Ưng Tùng: “Để tại hạ xin phép Điền tướng quân ở lại đây mấy ngày, truyền pho chưởng pháp này cho ấu chúa”.
Viên Thừa Chí và ba người Ưng, Chu, Nghê đều cả mừng, cảm ơn liền miệng.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Trương Triều Đường, Dương Bằng Cử xin cáo biệt. Tôn Trọng Thọ nói: “Chúng ta gặp nhau phen này, coi như là có duyên. Việc ở đây chỉ cần tiết lộ nửa câu, hậu quả thế nào không cần tại hạ phải nói nhiều”.
Hai người Trương, Dương đều vâng dạ. Tôn Trọng Thọ tặng cho mỗi người năm chục lạng bạc để làm lộ phí đi đường, rồi phái hai huynh đệ tiễn họ xuống núi. Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử đi đến Quảng Châu, dọc đường không gặp sự cố gì nữa.
Phen này Dương Bằng Cử thảm bại, sinh ra nản lòng thoái chí, biết trên giang hồ còn rất nhiều kẻ hơn hẳn mình. Đúng là ngoài trời lại có trời, trên người có người, dựa vào chút xíu võ công kém cỏi của mình mà sống được đến nay đã là may mắn lắm rồi. Nếu không nhờ chú bé Viên Thừa Chí nói giúp một câu thì Dương Bằng Cử đã trở thành phế nhân mù mắt.
Y nghĩ lại vẫn còn kinh hãi, lập tức từ bỏ công việc ở tiêu cục, định về nhà làm ruộng. Trương Triều Đường nghĩ y có ơn cứu mạng, thấy tâm sự của y ưu uất không vui, bèn mời y cùng đến nước Bột Nê du ngoạn giải sầu. Dương Bằng Cử thấy mình chẳng có việc gì để làm, mà cũng không có vợ con níu kéo, nên lập tức đồng ý.
Ba người tới Quảng Châu thuê được một chiếc thuyền, vượt biển về nước Bột Nê. Dương Bằng Cử ở đó hơn một tháng, thấy xứ này thái bình an lạc, giống như một cõi đào nguyên bên ngoài thế tục, không muốn trở về nữa. Y lưu lại đốc phủ của Trương Tín, cha của Trương Triều Đường, lãnh một công việc nhỏ, mỗi ngày trực khoảng hai giờ cũng đủ tiền uống rượu đánh bạc, khoái hoạt vô cùng.
*
* *
Điền Kiến Tú và Tôn Trọng Thọ bàn xong việc liên minh kết nghĩa, mọi người bèn tới trước thần tượng Viên Sùng Hoán lập lời thề: “Huynh đệ Sơn Tông và huynh đệ bên Sấm tướng kết thành bằng hữu, thà chết quyết chẳng phụ nhau.”
Điền Kiến Tú đang có ý giao kết với Viên đảng, nghe nói Thôi Thu Sơn dạy võ cho Viên Thừa Chí bèn rất vui mừng. Y cùng Lưu Phương Lượng xuống núi về trước.
Các lộ hảo hán Viên đảng thì có người đi tìm nơi dụng võ; có người về quê chuẩn bị cử sự; cũng có người nói rõ là không muốn tạo phản làm loạn, nhưng nhất định không tiết lộ bí mật, nhất định không chống đối anh em. Mỗi người có chí hướng riêng, không ai cưỡng ép ai.
Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, Ưng Tùng ở lại trên núi để thương lượng tỉ mỉ về tương lai Viên Thừa Chí.
Từ lúc được Thôi Thu Sơn hứa dạy Phục Hổ Chưởng, Viên Thừa Chí vui mừng đến nỗi suốt đêm không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, mọi người bận rộn về việc liên minh kết nghĩa, không rảnh để nhắc lại việc này. Buổi chiều mọi người cáo biệt xuống núi, ai cũng tới tạ từ ấu chúa, lại bận rộn thêm nửa ngày.
Đến đêm, Tôn Trọng Thọ và Ưng Tùng mới sai người thắp nến, đặt ghế mời Thôi Thu Sơn ngồi trên cao, bảo Viên Thừa Chí làm lễ bái sư.
Thôi Thu Sơn nói: “Tại hạ vừa gặp Viên tiểu huynh đệ đã cảm thấy thương mến. Viên tiểu huynh đệ thích bộ Phục Hổ Chưởng này, thì tại hạ sẽ bỏ ra mấy ngày để truyền đại khái. Còn trong mấy ngày học được tới đâu, và học xong có dùng được hay không, thì còn tùy theo tâm ý và công phu rèn luyện sau này của Viên tiểu huynh đệ. Đây chỉ là bằng hữu chỉ bảo lẫn nhau, còn danh phận sư đồ thì thế nào đi nữa cũng không thể nhắc đến”.
Ưng Tùng nói: “Dù chỉ dạy một chiêu nửa thức, cũng có thể suốt đời gọi là sư phụ rồi. Thôi đại ca hà tất phải khiêm cung đến thế”.
Thôi Thu Sơn nhất quyết không chịu, nên mọi người đành bỏ qua chuyện bái sư. Quy luật võ lâm là trong lúc truyền võ nghệ, người khác không tiện đứng xem, nên mọi người nói mấy câu khách sáo rồi cáo từ ra ngoài.
Đợi mọi người đi hết, Thôi Thu Sơn mới nghiêm giọng nói: “Thừa Chí! Pho Phục Hổ Chưởng này, ta được một vị cao nhân tiền bối truyền thụ. Chính ta cũng chưa lãnh hội được hết chỗ ảo diệu bên trong, công phu còn kém cỏi, nhưng dùng để đối phó với kẻ địch bình thường trên giang hồ thì thừa sức. Khi vị tiền bối đó truyền thụ chưởng pháp, đã từng bắt ta lập thệ: Sau khi học được, nhất định không được dùng để hà hiếp kẻ lương thiện, đả thương người vô cớ”.
Viên Thừa Chí nghe xong hiểu ý, lập tức quỳ xuống nói: “Đệ tử Viên Thừa Chí sau khi học được Phục Hổ Chưởng quyết không dám hà hiếp kẻ lương thiện, đả thương người vô cớ. Nếu không… nếu không…”
Cậu chưa biết quy luật thề thốt như thế nào, ấp úng rồi nói tiếp: “Nếu không sẽ bị Thôi thúc thúc đánh chết”.
Thôi Thu Sơn bật cười rồi nói: “Hay lắm!”
Đột nhiên thân hình chàng lắc lư một cái, không thấy bóng dáng đâu nữa. Viên Thừa Chí vội vã quay lại, thì ra Thôi Thu Sơn đã đứng sau lưng cậu, vừa vỗ vai cậu vừa mỉm cười bảo: “Ngươi bắt ta đi!”.
Viên Thừa Chí đã được Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên ba vị sư phụ chỉ điểm, có chút cơ bản võ công. Cậu lập tức cúi người xuống, tay trái đưa hờ lên, tay phải quờ ra. Đầu không quay lại, chỉ nghe tiếng gió mà đoán phương hướng, cậu toan nắm lấy chân Thôi Thu Sơn.
Thôi Thu Sơn khoái chí khen: “Chiêu này không tệ!” Lời vừa dứt, chàng lại đưa bàn tay khẽ vỗ lên vai Viên Thừa Chí, bóng người lại không thấy nữa.
Thừa Chí tập trung hết tinh thần cùng khí lực, bàn tay nhỏ xíu triển khai ra bảo vệ những chỗ quan trọng trên người. Thấy thân pháp của Thôi Thu Sơn cực nhanh, cậu biết mình không thể bắt được, bèn không chơi cút bắt với Thôi Thu Sơn nữa mà lùi từng bước về phía vách tường. Đột nhiên cậu quay người lại, tựa vào vách tường, mỉm cười nói: “Thôi thúc thúc! Con nhìn thấy thúc thúc rồi.”
Thôi Thu Sơn không thể xoay ra sau lưng cậu bé được nữa, bèn mỉm cười nói: “Được, được! Ngươi thông minh lắm, nhất định sẽ luyện thành Phục Hổ Chưởng.” Chàng bắt đầu dạy Viên Thừa Chí từng chiêu, từng thức một từ đầu đến cuối.
Pho chưởng pháp này tổng cộng có một trăm lẻ tám thức, mỗi thức lại có nhiều biến hóa, chiêu chẵn chiêu lẻ tương sinh tương khắc. Viên Thừa Chí dụng tâm ghi nhớ, chỉ học mấy lần đã đại khái nhớ được hết, không lẫn lộn nữa.
Thôi Thu Sơn vừa nói vừa ra điệu bộ làm mẫu, truyền dạy tỉ mỉ công dụng của mỗi chiêu thức, mỗi chỗ biến hóa. Viên Thừa Chí vốn có căn bản võ công, ngộ tính lại cao, nên Thôi Thu Sơn vừa nói là lãnh hội được ngay. Một người hăng say mà dạy, một người dụng tâm mà học, mãi đến khuya mới đi nghỉ.
Mờ sáng hôm sau Thôi Thu Sơn lên núi tản bộ, thấy Viên Thừa Chí đang luyện quyền, ôn lại một trăm lẻ tám chiêu biến hóa của Phục Hổ Chưởng. Quả nhiên cậu đã hiểu được nhiều chỗ tinh diệu trong tám đại yếu quyết “câu, phiệt, nại, đức, tư, nãi, băng, thố” trong chưởng pháp. Thôi Thu Sơn cao hứng, đợi đến khi Viên Thừa Chí luyện đến chỗ nhập thần, đột nhiên nhảy tới phóng cước đá vào sau lưng cậu bé.
Viên Thừa Chí đột nhiên nghe sau lưng có tiếng gió, liền nghiêng người tránh né, quờ tay phải ra sau toan bắt lấy chân địch thủ. Vừa thấy người sau lưng chính là Thôi Thu Sơn, cậu đã vội thu tay về, kinh hãi kêu lên: “Thôi thúc thúc!”
Thôi Thu Sơn mỉm cười bảo: “Đừng dừng tay, cứ đánh đi.” Chàng lại đánh một chưởng đến trước mặt.
Viên Thừa Chí biết Thôi Thu Sơn đang rèn luyện cho mình, bèn bước qua tránh né, rồi vung nắm đấm nhỏ xíu đánh vào eo lưng Thôi Thu Sơn. Đó đúng là Thâm Nhập Hổ Huyệt, chiêu thứ tám mươi chín trong Phục Hổ Chưởng. Thôi Thu Sơn cất tiếng khen ngợi: “Hay lắm! Đúng rồi.”
Miệng chàng chỉ điểm, tay xuất chiêu không dứt, mỗi khi thấy chiêu thức của Viên Thừa Chí có chỗ sai lầm liền sửa lại cho. Hai người tay đấm chân đá, ôn đi ôn lại một trăm lẻ tám thức trong Phục Hổ chưởng pháp. Viên Thừa Chí thấy bộ chưởng pháp này biến hóa vô cùng, Thôi Thu Sơn vận dụng mỗi lúc thêm kỳ ảo, lại càng mừng rỡ mà cố dụng tâm ghi nhớ.
Tỉ đấu khá lâu, Thôi Thu Sơn thấy đầu Viên Thừa Chí ướt đẫm mồ hôi, biết cậu bé đã mệt liền kêu lên: “Dừng tay!”.
Hai người ngồi xuống nghỉ ngơi, thầy vẫn không dừng giảng giải thêm cho trò hiểu. Nói được một giờ, Thôi Thu Sơn lại bảo Viên Thừa Chí đứng dậy tiếp tục tỉ đấu.
Hai người cứ thế mà luyện tập chưởng pháp không dừng, từ sáng sớm đến tối mịt, thấm thoát đã bảy ngày. Tối ngày thứ tám, Thôi Thu Sơn bảo: “Tất cả những điều ta biết, đã truyền dạy cho ngươi cả rồi. Ngươi nên ghi nhớ cho thật kỹ, sau này thành tựu tới đâu là hoàn toàn dựa vào công phu luyện tập của bản thân. Khi gặp địch, cục diện sẽ thay đổi biến hóa vô cùng, công phu chỉ dựa được bảy phần, còn ba phần phải trông vào cơ trí linh mẫn. Nếu mù quáng mà đánh thì chẳng thắng được ai”.
Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ. Thôi Thu Sơn lại nói: “Ngày mai ta phải về chỗ Lý tướng quân, mong ngươi tiếp tục dụng công luyện tập. Vị cao nhân truyền bộ chưởng pháp này cho ta đã dạy: Võ học cao hay thấp là ở đầu óc chứ không phải ở tay chân, suy nghĩ nhiều còn quan trọng hơn luyện tập nhiều. Tiếc là đầu óc của ta không được linh mẫn lắm, khó đặt đến chỗ tinh diệu. Hy vọng sau này ngươi sẽ giỏi pho chưởng pháp này hơn ta”.
Viên Thừa Chí chỉ ở cùng Thôi Thu Sơn tám chín ngày, nhưng họ Thôi đã đem Phục Hổ Chưởng ra dốc túi truyền thụ xong xuôi, đủ biết cậu bé được yêu thương sâu sắc. Nghe nói ngày mai đã phải chia tay, bất giác khóe mắt cậu bé rưng rưng. Thôi Thu Sơn thấy cậu luyến tiếc mình không nỡ rời xa, cũng không nén nổi xúc động, khẽ xoa đầu Viên Thừa Chí mà nói: “Tư chất ngươi thông minh như thế, trong võ lâm thật là hiếm thấy. Đáng tiếc chúng ta không có cơ duyên cùng ở lâu dài”.
Viên Thừa Chí nói: “Thôi thúc thúc! Con theo thúc thúc đến chỗ Lý tướng quân”.
Thôi Thu Sơn mỉm cười bảo: “Ngươi còn nhỏ thế này, làm sao mà đến đó được. Chúng ta đi theo Lý tướng quân, giờ phút nào cũng phải thí mạng, ăn bữa đói bữa no, chỉ biết chuyện hôm nay chứ ngày mai không biết sẽ ra sao”.
Đang nói chuyện, bỗng nghe tiếng dã thú kêu ở bên ngoài. Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Con gì mà lạ thế? Không phải cọp cũng không phải sói”.
Thôi Thu Sơn đáp: “Đó là con báo.”
Chàng bỗng nảy ra một ý, lại nói: “Chúng ta đi bắt con báo này. Thúc thúc cần dùng đến nó”.
Thừa Chí nghe vậy cao hứng, liền hỏi: “Thúc thúc bắt con báo để làm gì?”.
Thôi Thu Sơn không đáp. Thừa Chí đi theo, nhưng thấy chàng không mang theo binh khí, lại hỏi: “Thôi thúc thúc! Thúc thúc dùng binh khí gì để đánh con báo đó?”
Thôi Thu Sơn tới gõ cửa phòng Tôn Trọng Thọ, lên tiếng hỏi: “Chu đại ca, Nghê đại ca ở đây phải không?”
Chu An Quốc cùng mọi người đang nói chuyện, nghe gọi liền mở cửa ra. Thôi Thu Sơn nói: “Nhờ quý vị giúp một tay, dồn con báo ngoài kia vào trong nhà. Tại hạ cần dùng đến nó”.
Nghê Hào là tay giỏi nghề săn bắn, lập tức xách cây Liệt hổ xoa nhảy ra cửa sổ. Thôi Thu Sơn gọi theo: “Nghê đại ca, đừng giết con súc sinh đó!”.
Nghê Hào đáp vọng lại: “Được rồi!”.
Chỉ chốc lát là tiếng gầm gừ đã vang lên. Thôi Thu Sơn, Chu An Quốc, La Đại Thiên cũng tung người ra khỏi cửa. Viên Thừa Chí xách một cây đoản thương muốn chạy theo, nhưng Tôn Trọng Thọ đã lên tiếng: “Thừa Chí! Chúng ta đừng ra ngoài đó, cứ ở đây xem”.
Viên Thừa Chí đành ở lại với Tôn Trọng Thọ, đứng tựa vào cửa sổ mà nhìn.
Ngoài kia ba người cầm đuốc chia ra đứng ở ba hướng Đông, Nam, Bắc. Nghê Hào cầm cây Liệt hổ xoa đang lăn xả vào đánh nhau với một con Kim tiền báo khá lớn bên sườn núi. Y múa cây xoa bảo vệ toàn thân, không cho con báo phóng lại gần; đồng thời chĩa mũi xoa ra đâm không ngớt.
Con báo thấy lửa hoảng sợ muốn chạy, nhưng bị ba người Chu, Thôi, La cản mất đường. Nó thấy Thôi Thu Sơn tay không binh khí, liền gầm một tiếng, phóng lên người chàng. Thôi Thu Sơn đảo người thoát khỏi móng vuốt sắc nhọn, tả chưởng đánh ngược lên trên. Con báo bị hất lộn lại, xoay mình hướng về phía Nam. Cánh cửa phía Nam đã mở sẵn, nhưng con báo không dám vào trong phòng. Nó chạy loạn xạ bên ngoài, nhưng bị mọi người vây chặt, không còn đường nào khác để đi. Thôi Thu Sơn tung người nhảy tới, đá mạnh một phát vào mông nó. Con báo bị đau, gầm lên một tiếng rồi nhảy vào trong nhà.
Lúc này Ưng Tùng đã khóa chặt cửa nẻo bên trong, chỉ chừa lại một cánh cửa phía Tây. Con báo thấy hai người cầm đuốc đuổi theo, chạy nhảy lung tung bên trong một hồi, rồi vừa gừ gừ trong họng vừa chạy vào tòa điện phía Tây. La Đại Thiên đóng nốt cánh cửa, thế là con báo đã bị nhốt bên trong.
Mọi người đều hoan hỉ nhìn Thôi Thu Sơn, không biết chàng dùng con báo này để làm gì. Thôi Thu Sơn mỉm cười bảo: “Thừa Chí! Ngươi vào trong đó đánh báo đi.”
Câu này vừa nói ra, mọi người đều giật mình kinh hãi. Tôn Trọng Thọ vội nói: “Chuyện này xem chừng không ổn”.
Thôi Thu Sơn nói: “Tại hạ đứng bên trông chừng, con thú này không làm Viên tiểu huynh đệ bị thương được đâu”.
Thừa Chí vâng dạ, rồi lập tức cầm lấy cây đoản thương, định tới mở cửa. Thôi Thu Sơn nói: “Bỏ thương xuống, đi tay không vào trong đó”.
Thừa Chí ngẩn ra, hiểu Thôi Thu Sơn muốn mình dùng Phục Hổ Chưởng vừa học để đánh con báo này, nhưng không khỏi có phần khiếp sợ. Thôi Thu Sơn hỏi: “Ngươi không dám hay sao?”.
Thừa Chí không ngần ngừ nữa, liền mở chốt ra, đẩy cửa đi vào. Nghe tiếng gầm vang dội, rồi thấy một bóng đen phóng tới trước mặt, cậu lùi chân phải nửa bước để tránh thế tấn công, xoay tay phóng chưởng đánh trúng ngay vai con báo. Chiêu này đúng là La Hán Truyền Tinh trong Phục Hổ Chưởng.
Phát chưởng này đánh trúng, nhưng bàn tay nhỏ bé chưa đủ sức, nên con báo không đau chút nào, quay đầu lại muốn cắn. Viên Thừa Chí luồn ra sau lưng nó, dùng tay kéo chặt đuôi báo.
Lúc này Thôi Thu Sơn đã ở bên hộ vệ, sợ con báo quá hung dữ, Thừa Chí không kiềm chế nổi. Nhưng cậu bé mới học Phục Hổ Chưởng mà đã sử dụng khá nhuần nhuyễn. Con báo ba lần phóng tới, ba lần đưa móng vuốt ra cào, nhưng không đụng được vào y phục Viên Thừa Chí chút nào, lại còn trúng một chưởng và một cước. Họ Thôi thấy vậy lòng thầm mừng rỡ.
Tôn Trọng Thọ cùng mọi người thấy Thừa Chí tay không đánh báo, tuy có Thôi Thu Sơn ở bên lo liệu, nhưng dù sao cũng không thể yên tâm. Họ bèn cầm đuốc, đứng trong góc điện để nhìn. Chu An Quốc và Nghê Hào còn nắm sẵn ám khí, để trong lúc khẩn cấp có thể giết báo cứu người.
Trong ánh lửa sáng, Thừa Chí nhảy lên hụp xuống, tràn qua xoay lại, thân pháp cực kỳ linh hoạt. Lúc đầu cậu bé chạy loạn xạ, không dám để con báo đến gần. Về sau cậu thử thi triển chưởng pháp vừa học, thấy diệu dụng vô cùng, vừa thủ vừa công, hình như muốn sao là được vậy. Thế là cậu bé càng đánh càng trấn tĩnh hơn, hăng say hơn.
Viên Thừa Chí thấy mình phóng chưởng đánh trúng con báo cũng chỉ vô ích, bèn chuyển từ đánh sang kéo. Hễ cậu đánh tới một chưởng, khi rút tay về lại giật theo một nhúm lông. Con báo bị đau gầm thét om sòm, bắt đầu thấy sợ bàn tay nhỏ xíu đó. Vì thế nó vừa kêu gào vừa lùi lại tránh né, nhe hàm răng ra chống đỡ.
Nhưng thủ pháp của Thừa Chí rất nhanh, nhiều lần con báo không tránh kịp. Lát sau, lông báo bay tứ tung trong điện. Thật là đáng tiếc, con kim tiền báo có bộ lông đẹp như vậy mà bị cậu bé giật chỗ này một miếng, giật chỗ kia một miếng, mất đi không ít lông gấm trên mình. Mọi người đều cười rộ.
Tuy Viên Thừa Chí đã giật được khá nhiều lông báo, nhưng không đủ sức kiềm chế con báo bằng tay không. Tới lúc cao hứng, cậu đột nhiên sử chiêu Bồ Tát Đê Mi, cúi rạp người, xông thẳng vào trước mặt con báo. Con báo kinh hãi lùi lại hai bước, sau đó bay người phóng tới, chụp Viên Thừa Chí vào dưới bụng.
Nghê Hào hoảng hốt, phóng ra hai mũi phi tiêu, nhưng bị con báo đưa chân gạt rơi mất. Mọi người không biết Thừa Chí ở đâu, nhìn mãi mới thấy cậu bé đang nấp dưới bụng con báo, đôi chân kẹp vòng lên lưng con vật, dùng đầu đỡ dưới cằm nó, khiến cho con báo không thể cắn, móng vuốt cũng không chụp trúng được mình.
Con báo nhảy chồm chồm, lật người lăn lộn, Thừa Chí cũng không chịu thả. Nhưng cậu biết, nếu kéo dài thì sức lực mình không đủ, tay chân chỉ buông lỏng một chút là khó tránh khỏi bị thương dưới móng vuốt con báo này, bèn kêu lớn: “Thôi thúc thúc! Tới đây nhanh lên.”
Thôi Thu Sơn bảo: “Móc mắt nó ra.”
Nghe nhắc, Thừa Chí liền đưa tay phải ra, chĩa hai ngón tay đâm vào mắt trái của con báo. Con báo đau đớn điên cuồng, vừa gầm thét vừa giãy giụa mạnh hơn. Thôi Thu Sơn bước lên mấy bước, đánh liền hai chưởng liên hoàn nghe “bịch bịch”. Con báo váng đầu hoa mắt, ngã nhào dưới đất.
Thôi Thu Sơn đưa tay ôm lấy Thừa Chí dỗ dành: “Không tồi, không tồi! Ta làm khó ngươi rồi.”
Tôn Trọng Thọ cùng mọi người đều hoảng sợ đến vã mồ hôi trán. Ai cũng nghĩ: “Thôi Thu Sơn là người tốt, nhưng dù sao cũng là thủ hạ của Lý Tự Thành, ngày nào cũng phải liều mạng, sống nay đây mai đó, can đảm có thừa nhưng khả năng suy nghĩ không nhiều. Chắc y không biết tính mạng Viên công tử quý tới mức nào. Nhưng phải nói Viên công tử mới được y dạy dỗ tám chín ngày, mà võ nghệ đã tiến bộ rất nhiều.”
Thôi Thu Sơn mở cửa điện, đá vào mông hất con báo ra ngoài, lên tiếng: “Cho ngươi đi!”
Đột nhiên bên ngoài có tiếng la lên. Mọi người cứ tưởng con báo vừa được tha đã cắn người, liền chạy ra xem, lập tức bất ngờ kinh hãi. Cả một quả núi sáng rực ánh đuốc, đao thương lấp lóe vây kín xung quanh. Thì ra quan binh đã kéo tới rất đông, tấn công lên đỉnh Thánh Phong. Tình hình thế này, muốn thoát thân không phải dễ. Nhất định những người canh gác dưới núi đã bị giết sạch, nên hoàn toàn không có báo động gì.
Tôn Trọng Thọ cùng mọi người đã đánh quen trăm trận, lúc này tuy có kinh hãi nhưng không hoảng loạn. Ai cũng nghĩ: “Tiếc là huynh đệ đã xuống núi hết rồi. Không thì cũng như trận đại chiến Ninh Viễn năm xưa, mười mấy vạn tinh binh Thát tử còn bị chúng ta đánh cho cúp đuôi chạy trốn, sá gì bọn lính lác Quảng Đông này?” Thời đó, tinh binh Liêu Sóc đứng đầu thiên hạ. Thuộc hạ Viên Sùng Hoán trước nay vẫn rất coi thường quan binh ở phương Nam.
Tôn Trọng Thọ lập tức ra lệnh: “La tướng quân! Huynh tập hợp số huynh đệ nấu cơm quét tước từ đường, chạy tới đỉnh núi phía Đông phóng hỏa hò hét, làm nghi binh.” La Đại Thiên tuân lệnh đi ngay.
Tôn Trọng Thọ lại bảo: “Chu tướng quân, Nghê tướng quân! Hai vị ra phía trước núi, mỗi người bắn khoảng mười mũi tên để bọn quan binh không dám tới gần ngay. Bắn tên xong, quay trở về đây.” Hai người Chu, Nghê cũng vâng dạ rồi đi.
Tôn Trọng Thọ quay lại nói: “Tại hạ có một chuyện quan trọng, phải nhờ đến Thôi huynh.”
Thôi Thu Sơn hỏi: “Các vị muốn tại hạ bảo vệ Thừa Chí phải không?”
Tôn Trọng Thọ đáp: “Đúng thế!” Y cùng với Ưng Tùng quỳ xuống đất khấu đầu.
Thôi Thu Sơn kinh hãi, vội vàng trả lễ rồi nói: “Hai vị đã dặn dò thì tại hạ nhất định làm ngay. Xin đừng đa lễ như thế.”
Giữa tiếng hò hét vang trời, bỗng lờ mờ có tiếng trống, tiếng chuông từ trên núi vọng xuống. Thì ra La Đại Thiên đã khiêng trống chuông trong từ đường ra ngoài, khua lên dữ dội để nhiễu loạn quan binh.
Tôn Trọng Thọ nói: “Viên đốc sư chỉ còn một giọt máu này thôi. Xin Thôi đại ca ra sức, bảo vệ Viên công tử thoát hiểm.”
Thôi Thu Sơn đáp: “Nhất định tại hạ sẽ cố hết sức.”
Lúc này Chu An Quốc và Nghê Hào đã bắn tên xong, quay trở lại. Tôn Trọng Thọ nói: “Ta và Chu tướng quân đi một đường, tới gặp La tướng quân rồi chạy xuống phía Đông. Ưng tiên sinh và Nghê tướng quân đi một đường, chạy xuống phía Tây. Chúng ta chạy trước để dụ chủ lực quân địch chia ra mà đuổi, rồi Thôi đại ca dẫn Thừa Chí ra sau núi chạy xuống. Sau này mọi người đến chỗ Lý tướng quân để gặp nhau.”
Mọi người đồng thanh vâng dạ.
Thừa Chí đã được Ưng Tùng và mọi người dạy dỗ từ bé, bây giờ phải chia tay. Trong lòng cậu khó chịu vô cùng, liền quỳ xuống vừa lạy vừa gọi: “Tôn thúc thúc, Ưng thúc thúc, Chu thúc thúc, Nghê thúc thúc! Con… con…”
Cổ họng cậu bé bất giác nghẹn lại, không sao nói được nữa. Tôn Trọng Thọ bảo: “Con đi theo Thôi thúc thúc, phải ngoan ngoãn nghe lời.” Thừa Chí gật đầu.
Từ lưng chừng núi, quan binh la hét như vỡ chợ, hò nhau xung phong lên đỉnh núi. Ưng Tùng nói: “Chúng ta đi thôi! Thôi đại ca, huynh đợi một lát rồi hãy đi.”
Mọi người đều cầm binh khí xông xuống núi. Nghê Hào thấy Thôi Thu Sơn không mang binh khí, liền ném cây Liệt hổ xoa cho chàng, gọi: “Thôi đại ca, đón lấy!”
Thôi Thu Sơn nói: “Nghê huynh cứ dùng đi!” Chàng bắt được cây Liệt hổ xoa, muốn ném trả lại, nhưng Nghê Hào đã đi xa rồi. Thế là tay phải chàng cầm xoa, tay trái dẫn Viên Thừa Chí đi về phía sau núi. Hướng này cũng sáng rực đèn đuốc, không biết bao nhiêu quan binh vây chặt không có kẽ hở. Tên từ dưới núi bắn lên như mưa.
Thôi Thu Sơn lùi vào trong từ đường, chạy xuống bếp lấy hai cái nắp nồi, một lớn một nhỏ. Chàng cầm cái lớn, đưa cái nhỏ cho Thừa Chí rồi bảo: “Lấy cái này làm thuẫn. Chúng ta đi thôi!” Chàng thi triển khinh công, dắt Viên Thừa Chí chạy biến vào màn đêm.
Một lúc sau, bọn quan binh phát hiện tung tích hai người, vừa reo hò vừa đuổi theo. Mấy chục mũi tên đồng thời bắn tới. Thôi Thu Sơn che sau lưng Viên Thừa Chí, khua cái nắp nồi cản tên bắn tới, nghe những tiếng keng keng không dứt. Không ít mũi tên đã bắn trúng nắp nồi.
Hai người chạy thẳng xuống núi, quan binh kéo ra cản trở. Thôi Thu Sơn sử cây Liệt hổ xoa vừa đâm vừa quật, lập tức đả thương mười mấy tên lính. Cây đoản thương của Thừa Chí chẳng giết được ai, nhưng có thể tự bảo vệ mình. Quan binh thấy cậu chỉ là một đứa trẻ, nên không quan tâm gì lắm. Nhờ thế mà trong chốc lát hai người đã chạy xuống lưng chừng núi.
Mới hít thở mấy hơi, lại nghe tiếng reo hò vang dội, một đội quan binh từ kế bên xông tới, chạy đầu tiên là một tên thiên hộ. Hắn cầm đại đao hung dữ chém tới. Thôi Thu Sơn đưa cây xoa ra cản, cảm thấy sức lực tên này cực mạnh.
Chàng ra chiêu Độc Long Xuất Động đâm thẳng tới. Tên thiên hộ đưa đao gạt ra, la lớn: “Anh em xông vào cả đi!”
Thôi Thu Sơn không dám ham chiến, cầm cái nắp nồi quạt vào trước mặt tên thiên hộ. Hắn vừa né sang bên phải, Thôi Thu Sơn quát lớn vung tay, cây xoa cắm lút vào dưới nách hắn. Khi rút cây xoa ra, chàng quay đầu lại thì không thấy Thừa Chí đâu nữa.
Thôi Thu Sơn không khỏi kinh hãi, đảo mắt nhìn quanh thì thấy bên trái có một đám đông đang bao vây hò hét. Chàng sải bước chạy tới đó, múa xoa đâm loạn xạ, bọn quan binh phải dạt ra tránh né. Đến gần, quả nhiên thấy Thừa Chí bị vây ở giữa, cây đoản thương đã bị đánh rơi mất. Cậu đang thi triển Phục Hổ Chưởng đối địch với ba tên lính.
Dù sao Thừa Chí cũng tuổi nhỏ sức yếu, chưởng pháp lại mới học, nên bị giáp công cả hai bên, tình thế rất nguy hiểm. Thôi Thu Sơn không dám để lâu, vung xoa soạt soạt hai chiêu đâm ngã ngay hai tên lính, tay trái kéo Thừa Chí bỏ chạy.
Quan binh hò hét đuổi theo. Thôi Thu Sơn đột ngột quay lại, hươi xoa đâm ngã hai tên lính đuổi gần nhất. Chàng nhảy tới một bước, cây xoa quét ra lại hất một tên văng xuống núi đá. Hắn gào lên một tiếng dài như bất tận, rồi mới chết.
Bọn quan binh thấy đối thủ dũng mãnh phi thường, hoảng sợ dừng hết lại không dám đuổi theo. Thôi Thu Sơn liền kẹp Thừa Chí dưới nách, thi triển khinh công Đề Tung Thuật chạy vào những chỗ vắng vẻ âm u, chỉ chốc lát đã cách xa bọn quan binh.
Thôi Thu Sơn thả Thừa Chí xuống, cất tiếng hỏi: “Ngươi có bị thương không?”
Thừa Chí đưa tay chùi mồ hôi trên miệng, cảm thấy tay hơi rít. Cậu nhìn lại, dưới ánh trăng thấy bàn tay đầy máu. Nhìn qua Thôi Thu Sơn, thấy trên mặt, trên tay, trên áo chỗ nào cũng dính máu, cậu hoảng sợ hỏi: “Thôi thúc thúc! Máu… máu…”
Thôi Thu Sơn nói: “Không sao, toàn là máu của địch. Ngươi có đau chỗ nào không?”
Thừa Chí lắc đầu. Thôi Thu Sơn bèn nói: “Hay lắm! Vậy chúng ta chạy tiếp.”
Hai người khom lưng, luồn vào một khu rừng. Đi hơn nửa giờ, rừng cây sắp hết, Thôi Thu Sơn thò đầu nhìn ra ngoài, thấy dưới núi đèn đuốc sáng trưng, mấy trăm quan binh canh gác. Chàng khẽ nói: “Không xuống dưới được, lùi lại đi!”
Hai người quay lại mấy trăm bước, nhìn thấy một sơn động, trước động có mấy bụi cây. Họ liền chui vào trong.
Thừa Chí còn nhỏ, tuy ở nơi nguy hiểm nhưng lúc này đã quá mệt, nằm xuống chẳng bao lâu đã ngủ say. Thôi Thu Sơn nhẹ nhàng ôm cậu vào lòng, lắng tai nghe ngóng những tiếng la ó vang lên không dứt. Lát sau chàng thấy trên đỉnh núi có khói đen bay lên, ánh lửa đỏ rực soi sáng một vùng trời. Thế là từ đường của Viên Sùng Hoán đã bị quan binh đốt mất.
Qua nửa giờ nữa, nghe tiếng tù và trên núi vang lên. Thôi Thu Sơn đã đánh nhau mấy chục trận với bọn quan binh này, biết đó là hiệu lệnh thu quân xuống núi. Một lúc sau, đại đội nhân mã rầm rập kéo ngang qua kế bên, rất lâu vẫn chưa dứt. Thì ra sơn động này nằm ngay cạnh đường xuống núi của bọn quan binh.
Một lát sau, phía ngoài lùm cây có tiếng người ngồi xuống. Thôi Thu Sơn tay phải cầm cương xoa lên, tay trái đặt bên miệng Thừa Chí đề phòng cậu bé ngủ mơ thành tiếng, để hết tinh thần lắng nghe. Một người quát hỏi: “Tên nghịch tặc họ Viên có để lại một đứa con trai. Nó đâu rồi?”
Câu hỏi này rất vang dội, làm Thừa Chí thức dậy. Tay trái Thôi Thu Sơn liền khẽ ấn vào miệng cậu. Người kia lại quát tháo: “Ngươi chịu nói hay không? Không nói thì ta phải chặt đứt một cánh tay của ngươi trước”.
Một thanh âm khác mắng lại: “Ngươi muốn chặt thì chặt đi! Chúng ta vùng vẫy biên cương, cứ một đao một thương là lấy mạng một tên Thát tử, há sợ gì ngươi?”.
Đúng là giọng của Ưng Tùng. Thừa Chí khẽ la lên: “Ưng thúc thúc!”
Người kia gằn giọng: “Ngươi không chịu nói thật à?”
“Phẹt” một tiếng, hình như Ưng Tùng đã nhổ một bãi nước bọt lên mặt người đó. Tiếp theo là một tiếng la thê thảm, hình như họ Ưng đã bị tên kia chém cho một đao.
Thừa Chí không nhẫn nại được nữa, dùng sức giãy thoát khỏi tay Thôi Thu Sơn, la lớn: “Ưng thúc thúc!” Rồi cậu chạy thẳng ra ngoài.
Dưới ánh lửa, thấy rõ một người đang cầm đao chém xuống Ưng Tùng nằm dưới đất. Thừa Chí phóng người lên, thi triển thủ pháp Tả Kích Hữu Cầm của Phục Hổ Chưởng, đấm trúng ngay mắt phải của tên kia một quyền. Hắn thấy trước mắt đầy sao nhấp nháy, rồi cổ tay nhói lên một cái, thanh đao trong tay đã bị đoạt mất.
Thừa Chí thuận tay vung đao chém trúng vào vai hắn. Lực đạo yếu ớt, không chặt rớt được cánh tay, nhưng hắn đau quá thét lên ầm ĩ. Bọn quan binh bị bất ngờ, kinh hãi chạy tán loạn. Khi thấy rõ chỉ là một đứa bé, chúng lập tức quay trở lại, đao thương cùng đưa lên, rõ ràng chuẩn bị băm vụn Viên Thừa Chí ra.
Đột nhiên một cây cương xoa bay vù ra, cổ tay bọn quan binh đều chấn động, mấy tên để khí giới tuột khỏi tay. Thôi Thu Sơn túm lấy lưng Thừa Chí phóng vọt đi. Khi bọn quan binh bắn được tên, hai người đã chạy xuống dưới núi rồi.
Bọn chó săn Đông Xưởng nhận lệnh của thái giám Tào Hóa Thuần đến đây cốt ý lùng bắt Thôi Thu Sơn. Chàng vừa lộ diện, bốn tay hảo thủ lập tức rượt theo. Dưới nách chàng kẹp một đứa bé mà vẫn chạy như bay, nhanh chóng lạ thường. Một tên chó săn lấy tụ tiễn ra, vận hết kình lực ném tới sau lưng Thôi Thu Sơn.
Thôi Thu Sơn nghe sau gáy có tiếng gió, lập tức cúi người xuống, mũi tụ tiễn bay qua trên đỉnh đầu. Chàng vừa khựng lại một chút, một tên khác phóng liền ba mũi cương tiêu đến. Thôi Thu Sơn liền đặt Thừa Chí xuống đất, xoay tay trái lại chụp được hai mũi cương tiêu, né mũi thứ ba. Chàng chưa kịp phóng trả, tụ tiễn và phi hoàng thạch của địch đã phóng ào ào tới trước mặt. Thôi Thu Sơn vừa đón bắt, vừa múa xoa để gạt, vừa tránh né ám khí, kéo tay Thừa Chí chạy xuống núi.
Bốn tên chó săn của thiên tử nhìn thấy võ công Thôi Thu Sơn tinh diệu, không dám đuổi theo. Chúng chỉ đứng đó ngoác mồm ra thóa mạ, đồng thời tiếp tục phóng ám khí. Từ trên cao ném xuống, lực đạo càng thêm mãnh liệt.
Trong đêm tối chỉ nghe tiếng gió rít không dứt. Thôi Thu Sơn ôm Thừa Chí trước ngực, bước cao bước thấp vừa chạy vừa tránh né. Dù sao thì chàng phải ôm một người, chạy nhảy không tiện lợi. Né được ba hạt bồ đề tử bên phải, đùi trái chàng bỗng nhói lên một cái, trúng đoản tiễn. Vết thương chưa kịp đau đã ngứa ngáy dữ dội.
Chàng kinh hãi trong lòng, biết đoản tiễn có độc, nhưng không dám dừng lại mà cứ gấp rút chạy xuống núi. Vì chạy như thế, chất độc phát tán càng nhanh hơn. Chạy thêm được vài bước, chân trái chàng tê liệt, loạng choạng té nhào xuống đất. Thừa Chí kinh hãi, vội kêu lên: “Thôi thúc thúc!”
Bốn tên chó săn thấy địch thủ té ngã, vừa reo hò vừa chạy tới.
Thôi Thu Sơn bảo: “Thừa Chí! Chạy nhanh lên, nhanh lên! Để ta cản chúng.”
Nhưng Viên Thừa Chí bắt chéo song chưởng, nhảy ra đứng sau lưng Thôi Thu Sơn, đợi địch thủ đến. Thôi Thu Sơn nghĩ bụng: “Dựa vào chút xíu võ công của ngươi mà muốn bảo vệ ta hay sao?” Nhưng trong lòng chàng vô cùng cảm động.
Trong chớp nhoáng địch đã đuổi tới nơi, chạy đầu là hai tên sử đao. Một tên cầm quỷ đầu đao muốn bắt sống hai người, bèn trở sống đao lại gõ vào mắt cá chân Viên Thừa Chí. Cậu bé liền nhảy lên tránh né.
Thôi Thu Sơn dùng tay phải chống người dậy, quỳ một chân dưới đất, nhặt một tảng đá ném vào đầu tên cầm song đao. Hắn quá bất ngờ, muốn tránh né nhưng không thể kịp, bị đập trúng ngay trán, lập tức ngất xỉu. Tên sử quỷ đầu đao vừa ngẩn ra một chút, Thôi Thu Sơn đã phóng người tới, mười ngón tay siết chặt cổ họng của hắn.
Hắn vung đao chém lên vai Thôi Thu Sơn, nhưng chàng đã vận thêm kình lực vào tay, nên nhát đao tuy chém trúng nhưng không đủ mạnh. Chốc lát hắn đã tắt thở mà chết. Hai tên còn lại thấy đối thủ hung hãn như vậy, hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, vội vàng chạy ngược trở lại.
Cánh tay Thôi Thu Sơn chảy máu ròng ròng, nhưng vết thương không sâu lắm. Lúc này chân trái của chàng đã hoàn toàn mất hết cảm giác.
Thôi Thu Sơn nghiến chặt răng, dùng tay trái lượm thanh đao chống xuống đất, đẩy người đứng dậy. Bây giờ địch thủ đã chạy trốn, nhưng không bao lâu chắc chắn sẽ có viện binh kéo tới. Dĩ nhiên chàng không thể ở lại đây lâu, đành phải co chân trái lên, nhảy lò cò xuống dưới núi. Viên Thừa Chí đứng bên phải, kéo tay phải của chàng gác lên vai mình, từng bước đi về phía trước.
Đi được một hồi, độc tính của mũi đoản tiễn bên chân trái Thôi Thu Sơn dần dần xông lên phía trên, khiến cho tay trái cũng bắt đầu tê liệt, chỉ còn cách dùng tay phải để chống đỡ. Viên Thừa Chí cảm thấy vai mình càng lúc càng nặng, nhưng cậu không than thở tiếng nào, vẫn cố gắng hết sức dìu Thôi Thu Sơn xuống núi.
Chỉ chốc lát, hai người đã mệt mỏi vô cùng. Viên Thừa Chí thấy bên sườn núi có một nông trại, bèn gọi: “Thôi thúc thúc! Phía trước có người, chúng ta tới đó mà ẩn nấp.”
Thôi Thu Sơn gật đầu, miễn cưỡng kéo lê thân mình về phía trước. Đến trước cửa thì chàng hoàn toàn không gượng được nữa, té nhào xuống đất.
*
* *
Viên Thừa Chí kinh hãi, cúi xuống la lên: “Thôi thúc thúc!”
Có tiếng mở cửa ken két rồi một phụ nữ trung niên bước ra. Viên Thừa Chí nói: “Đại nương! Bọn con gặp phải quan binh. Thúc thúc của con bị thương, xin đại nương cho chúng con tá túc một đêm”.
Nông phụ đó gọi một thiếu niên khoảng mười sáu mười bảy tuổi ra giúp một tay đỡ Thôi Thu Sơn vào trong, rồi xếp ba cái ghế dài lại cho chàng nằm tạm.
Thôi Thu Sơn trúng độc không nhẹ, may nhờ võ công tinh thâm nên tâm trí không hôn mê điên loạn. Chàng bảo Viên Thừa Chí cầm cây đèn dầu rọi vào vết thương bên đùi trái mà xem xét. Hai người đều giật mình hoảng sợ, thì ra bắp đùi này đã sưng to gấp đôi bình thường, chỗ tím ngắt, chỗ đen thẫm lại, trông rất kinh người.
Thôi Thu Sơn nhờ thiếu niên nhà nông đó bó lại vết thương trên cánh tay, rồi lấy vải siết mạnh đùi bên trái, đề phòng chất độc theo máu di chuyển vào tim. Sau đó chàng nắm chặt đuôi mũi đoản tiễn, dùng sức rút ra. Máu theo vết thương chảy ra, toàn là máu đen. Thôi Thu Sơn muốn cúi xuống hút máu độc ra, nhưng đùi sưng to quá, miệng không kề tới được.
Viên Thừa Chí bèn cúi xuống, dùng miệng hút từng ngụm máu đen trong vết thương ra, nhổ xuống đất. Hút được ba bốn chục ngụm, máu mới dần dần trở thành màu đỏ. Thôi Thu Sơn thở ra một hơi rồi nói: “May mà loại thuốc độc này chưa phải lợi hại nhất. Con mau đi súc miệng đi”.
Nông phụ đứng bên, mắt nhìn nhưng miệng không ngừng niệm Phật.
Trưa hôm sau, thiếu niên về nói là quan binh đã rút đi hết. Chân Thôi Thu Sơn đã bớt sưng, nhưng người phát sốt, bắt đầu nói năng lộn xộn như mê sảng. Viên Thừa Chí không biết làm sao, lo sợ khóc thút thít.
Nông phụ bảo: “Ta thấy chất độc trong mình thúc thúc của cháu chưa hút hết ra, phải lên thị trấn nhờ đại phu khám mới được”.
Viên Thừa Chí đáp: “Vâng, vâng. Nhưng làm sao con đưa thúc thúc đi được?”
Nông phụ này rất tốt bụng, cho mượn một chiếc xe bò, bảo thiếu niên đưa họ lên thị trấn. Thiếu niên đưa họ vào khách điếm rồi về ngay.
Khi hai người chạy xuống núi, không ai mang tiền theo. Viên Thừa Chí không biết làm sao, cứ rầu rĩ ngồi nhìn Thôi Thu Sơn hôn mê trên giường. Tiểu nhị trong khách điếm đến hỏi có ăn gì không, Thừa Chí không dám nói mình không có tiền, chối là không đói rồi cứ ngồi một chỗ mà khóc lóc.
Hồi lâu, rốt cuộc Thôi Thu Sơn cũng tỉnh lại một chút. Viên Thừa Chí liền hỏi mình phải làm gì. Thôi Thu Sơn hỏi: “Trong mình ngươi có mang theo món đồ nào giá trị hay không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Chỉ có cái vòng cổ này, không hiểu có được không.”
Cậu bé tháo cái vòng cổ đeo bên trong áo ra. Thôi Thu Sơn thấy cái vòng này làm bằng vàng, có khảm tám hạt châu nhỏ. Trên cái chốt khóa có khắc bốn chữ “Phú quý hằng xương”. Còn có hai hàng chữ nhỏ, một hàng là: “Viên công tử Thừa Chí chu tuế chi khánh”; một hàng là: “Tiểu tướng Triệu Suất Giáo kính tặng.” Thì ra đây là quà của đại tướng Triệu Suất Giáo, bộ hạ của Viên Sùng Hoán, tặng ngày Thừa Chí thôi nôi.
Triệu Suất Giáo cùng với ba người Tổ Đại Thọ, Hà Khả Cương, Mãn Quế là bốn đại danh tướng dưới trướng Viên Sùng Hoán. Năm đại thắng ở Ninh Viễn, Triệu Suất Giáo đã dẫn quân bản bộ giết được rất nhiều Thanh binh, thăng quan đến chức Tả đô đốc Bình Liêu tướng quân.
Tháng mười năm Sùng Trinh thứ hai, quân Thanh vòng qua Sơn Hải Quan, từ Đại An Khẩu tiến vào đánh úp kinh sư. Viên Sùng Hoán thống lĩnh bốn vị tướng này từ ngàn dặm xa xôi trở về cứu viện, nhưng lại bị Sùng Trinh nghi ngờ bắt giam nhốt vào đại lao. Triệu Suất Giáo và Mãn Quế xuất chiến, hy sinh trong trận đó. Còn Tổ Đại Thọ và Hà Khả Cương giận dữ, thống lãnh bộ hạ rời bỏ quân đội triều đình. Sau này, Viên Sùng Hoán từ trong ngục viết thư khuyên can, hai tướng Tổ Đại Thọ và Hà Khả Cương mới quy thuận về triều kháng địch, phòng thủ kinh sư.
Triệu Suất Giáo là danh tướng bộ hạ của Viên Sùng Hoán, thiên hạ ai cũng biết tên. Nhưng lúc này Thôi Thu Sơn thần trí mơ hồ, chưa suy nghĩ kỹ đã nói: “Bảo tiểu nhị của khách điếm dẫn ngươi đến tiệm cầm đồ, cầm tạm cái vòng cổ này. Sau này chúng ta sẽ chuộc lại”.
Viên Thừa Chí đáp: “Vâng, con đi ngay!” Rồi cậu lập tức nhờ tiểu nhị dẫn đến tiệm cầm đồ trong thị trấn.
Chủ tiệm cầm đồ vừa xem cái vòng đã giật mình kinh hãi, hỏi gặng: “Tiểu bằng hữu! Chiếc vòng này ở đâu cháu có?”
Viên Thừa Chí đáp: “Chính là của con”.
Chủ tiệm thay đổi sắc mặt, ngắm nghía Viên Thừa Chí từ đầu xuống chân rất lâu, rồi bảo: “Chờ ta một chút.”
Hắn đem cái vòng cổ đi vào trong nhà, nửa ngày vẫn chưa trở ra. Viên Thừa Chí và tiểu nhị ngồi chờ, lo lắng đến sốt ruột. Rất lâu, chủ tiệm mới bước ra nói: “Cầm được hai mươi lạng”.
Viên Thừa Chí không hiểu luật lệ, biếu tên tiểu nhị của khách điếm tới hai lạng bạc vì đã cố gắng giúp mình. Cậu cất bạc và giấy cầm đồ, tiện thể nhờ tiểu nhị dẫn đi mời đại phu, rồi mới trở về khách điếm. Nào ngờ sau lưng đã có hai tên công sai âm thầm theo dõi.
Viên Thừa Chí về phòng trọ, thấy Thôi Thu Sơn nằm thiêm thiếp, trán nóng hầm hập. Đại phu chưa tới, cậu sốt ruột chạy ra ngoài cửa nhìn xem. Đột nhiên bảy tám tên công sai cầm xích sắt và thước sắt xuất hiện, một tên nói: “Chính là thằng bé này”.
Tên công sai đi đầu quát hỏi: “Thằng nhóc kia! Ngươi họ Viên phải không?”
Viên Thừa Chí hoảng hốt đến nhảy dựng lên, chối ngay: “Không phải.”
Tên công sai cười ha hả, thò tay vào bọc lấy chiếc vòng cổ ấy ra, hỏi: “Cái vòng cổ này ngươi ăn cắp ở đâu?”
Viên Thừa Chí lo sợ đáp: “Không phải ăn cắp, mà là của con”.
Tên công sai cười gằn: “Viên Sùng Hoán là gì của ngươi?”
Viên Thừa Chí không dám trả lời, chạy vào phòng, dùng hết sức lay Thôi Thu Sơn dậy. Phía ngoài bọn công sai đã la lên: “Bọn gian tặc ở núi Thánh Phong đang trốn trong này. Đừng để chúng trốn thoát!”.
Thôi Thu Sơn nghe vậy lập tức ngồi dậy, cựa quậy muốn bước xuống đất, nhưng không cách nào gượng nổi. Chân chàng vừa chấm đất, người đã ngã nhào.
Bọn công sai ùa đến trước cửa phòng. Viên Thừa Chí không kịp dìu Thôi Thu Sơn dậy, vội chạy ra cửa, bắt chéo song chưởng đứng cản đường. Trong lòng cậu bé chỉ có một suy nghĩ: “Nhất định không để chúng bắt Thôi thúc thúc đi.”
Ngoài cửa là một khu vườn lớn. Những người giúp việc và khách trọ trong khách điếm này nghe có quan sai đến bắt phạm nhân, kéo nhau chạy tới khu vườn để xem náo nhiệt. Họ thấy bảy tám công sai đang ra oai với một đứa bé chỉ khoảng mười tuổi, đều cảm thấy kỳ lạ.
Một tên công sai vung sợi xích sắt lên, toan tròng vào cổ Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí lùi lại một bước tránh né, vẫn cản trước cửa không để chúng vào. Tên công sai đó rất giỏi nghề dùng xích bắt người, đã ăn mười mấy năm cơm của nha môn rồi, có thể nói không bao giờ thất thủ. Nào ngờ cậu bé này thân thủ nhanh nhẹn, hắn không tròng được xích vào đầu, nên tức giận vung tay phải ra toan chụp lấy tóc Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí thấy rất nhiều công sai hùng hổ, vốn đã hoảng sợ muốn khóc. Nhưng khi thấy đối phương đưa tay bắt mình, tự nhiên cậu ra chiêu Hoành Kha Đơn Tiên trong Phục Hổ Chưởng, nắm được cổ tay hắn giật một phát.
Tên công sai bước chân loạng choạng, suýt nữa té nhào, lại càng giận dữ hơn. Hắn vung cước đá mạnh, vừa đá vừa thóa mạ: “Thằng giặc con này! Hôm nay lão gia phải cho ngươi xem bản lãnh”.
Thừa Chí cúi xuống, hai tay ôm lấy đùi và mông của hắn, mượn sức đẩy ra phía ngoài. Thân hình mập mạp đó lập tức ngã ngửa ra sau, đập xuống đất nghe “bình” một tiếng sướng tai. Thật ra Viên Thừa Chí không có sức mạnh như thế, nhưng thừa lúc hắn đá chân lên cậu đã dùng sức của hắn mà hất hắn, nên hắn mới té nhào. Đây chính là một chiêu trong Phục Hổ chưởng pháp.
Những người đứng xem đều cất tiếng hoan hô. Thấy người lớn ăn hiếp con nít là họ đã ngứa mắt, huống chi bọn công sai quan phủ hoành hành bá đạo đã lâu, dân chúng hễ thấy là liếc xéo nghiến răng chửi bới. Phen này họ thấy công sai bị thua thảm hại, bất giác vui mừng.
Bọn công sai còn lại đều ngẩn ra, thầm nghĩ: “Hình như thằng nhóc này có tà pháp gì đó.” Chúng nháy mắt với nhau, vung đơn đao và thước sắt lên, cùng lúc ào tới. Mọi người thấy chúng đã dùng võ khí, ai cũng hoảng sợ lùi lại phía sau.
Tuy Thừa Chí đã học mấy năm võ nghệ, nhưng tuổi còn quá nhỏ, địch thủ lại nhiều, nên cậu không làm gì được nữa, chỉ liều mạng cản trở mà thôi. Chẳng bao lâu, vai cậu đã bị thước sắt đánh trúng rất nặng, nhịn không nổi phải khóc ầm lên.
Trong lúc nguy cấp, đột nhiên từ gian phòng bên trái có một đại hán xông ra, tung vọt người lên không, đáp xuống trước mặt Thừa Chí. Y đưa hai tay quơ chụp loạn xạ, không biết sử dụng thủ pháp gì mà chỉ chốc lát đã đoạt hết khí giới trong tay bọn công sai. Mấy tên công sai lùi lại chậm chạp một chút đã bị y đánh cho mấy quyền, mũi miệng sưng húp lên. Đại hán vừa đánh vừa kêu oa oa, thanh âm nghe rất kỳ lạ.
Một tên công sai hét lên: “Chúng ta đến đây để bắt yếu phạm. Ngươi là loại người nào? Mau mau biến khỏi đây!”.
Đại hán đó mặc kệ, nhoáng một cái đã bước tới trước mặt hắn, đưa tay phải túm lấy ngực áo quẳng ra. Tên công sai đó giống một con diều bị đứt dây, bay thẳng ra ngoài, nhào xuống đất nghe ầm một tiếng, đau đớn quằn quại. Bọn công sai còn lại không dám đứng đó nữa, kéo nhau chạy ào ra ngoài hết.
Đại hán đó bước tới trước mặt Viên Thừa Chí, hai tay quơ loạn lên, trong miệng chỉ phát ra những tiếng oa oa. Thì ra đây là một người câm, hình như đang hỏi lai lịch Viên Thừa Chí. Cậu bé không biết phải trả lời như thế nào, lo lắng trong lòng.
Đại hán đột nhiên đưa tả chưởng hướng lên trên, hữu chưởng hướng xuống đất, bắt đầu biểu diễn những chiêu thức Phục Hổ Quyền. Đến chiêu thứ mười Tỵ Thục Tiết Thủ, y thu chiêu lại.
Viên Thừa Chí hiểu ý, bắt đầu từ chiêu thứ mười một Hoành Suyễn Hổ Yêu, thi triển tiếp bốn chiêu. Ông câm mỉm cười gật đầu lia lịa, đưa tay ôm lấy Viên Thừa Chí, ra vẻ rất thân mật.
Viên Thừa Chí chỉ vào trong, ra hiệu trong phòng có người. Ông câm liền bế cậu vào phòng. Thấy Thôi Thu Sơn đang ngồi dưới đất, mặt nhợt nhạt như người chết, y giật mình kinh hãi chạy tới. Hình như Thôi Thu Sơn quen biết y, đưa tay chỉ vào chân mình ra hiệu. Ông câm gật đầu, tay trái dẫn Viên Thừa Chí, tay phải bế Thôi Thu Sơn, sải bước ra khỏi khách điếm. Thôi Thu Sơn nặng tới một trăm mấy chục cân, thế mà ông câm này bế chàng như như bế trẻ nít, chẳng thấy gắng sức gì cả, chân chạy như bay.
Hai tên công sai đang trốn bên vệ đường, thấy ông câm chạy về hướng Tây, bèn chạy xa xa theo dõi. Nhất định chúng muốn xem họ dừng ở đâu, để gọi người tới bắt.
Lúc này Thôi Thu Sơn lại mê man bất tỉnh nhân sự trên tay ông câm. Ông câm không nghe được âm thanh ở xa. Viên Thừa Chí kéo tay y, hất đầu ra sau bĩu môi một cái. Ông câm quay lại, thấy phía sau có công sai, nhưng mặc kệ, cứ tiếp tục đi về phía trước.
Bốn bề hoang vu không một nóc nhà, cũng không có người qua lại. Đi được khoảng hai ba dặm, ông câm đột nhiên đặt Thôi Thu Sơn xuống đất, tung người nhảy ngược lại, đến chỗ hai tên công sai đó. Chúng quay người chạy trốn nhưng không kịp nữa, bị y túm lấy sau lưng, xách mỗi tay một người quăng xuống thung lũng. Nghe tiếng la lên thê thảm rồi tắt lịm, rõ ràng cả hai đã chết rồi.
Ông câm lại bế Thôi Thu Sơn lên, sải bước như bay về phía trước. Phen này Viên Thừa Chí không theo kịp được nữa. Cậu miễn cưỡng sải cặp giò vừa ngắn vừa nhỏ cố gắng chạy theo, nhưng chỉ hơn một dặm là thở hổn hển rồi. Ông câm bật cười, cúi xuống ôm lấy Viên Thừa Chí nhấc lên. Y hai tay bế hai người, nhưng chạy càng nhanh hơn trước. Rất lâu y mới rẽ sang trái, chạy về phía chân núi.
*
* *
Vượt qua hai ngọn núi, thấy ở lưng chừng núi có ba gian nhà tranh. Ông câm chạy về hướng đó. Đến gần thì thấy một người từ trong nhà bước ra, đó là một thiếu phụ chưa tới ba mươi tuổi. Bà gật đầu với ông câm một cái, rồi nhìn thấy hai người Thôi, Viên, ra vẻ kinh ngạc. Bà đưa tay ra hiệu với ông câm một hồi, rồi dẫn mọi người vào trong nhà. Thiếu phụ kêu lên: “Tiểu Huệ, mau đem trà ra đây!”
Một bé gái ở phòng bên vâng dạ, rồi xách bộ ấm chén thô kệch qua, ngẩn ra nhìn hai người Thôi, Viên. Đôi mắt của cô bé tròn xoe đen nhánh, xoay chuyển nhìn hết chung quanh.
Thiếu phụ tuy không nhung gấm phấn son, nhưng nét mặt xinh đẹp, dáng người cân đối. Đứa bé gái cũng rất linh lợi khả ái.
Thiếu phụ cất tiếng hỏi Viên Thừa Chí: “Con tên gì? Sao lại gặp ông ấy?”
Viên Thừa Chí biết bà là bạn của ông câm, nên trả lời ngay, không giấu giếm gì.
Thiếu phụ nghe nói Thôi Thu Sơn trúng độc bị thương, liền lấy trong túi ra mấy cái bình nhỏ, đổ thuốc bột màu trắng và màu đỏ ra, trộn chung lại, khuấy nước cho Thôi Thu Sơn uống. Rồi bà lấy một con dao nhỏ cắt bỏ hết chỗ thịt thối rữa trên chân Thôi Thu Sơn, bó thuốc bột màu vàng lên. Để một lúc, bà lấy nước rửa sạch, rồi lại bó thuốc khác lên. Cứ thế rửa đi bó lại ba lần, Thôi Thu Sơn đã rên được mấy tiếng.
Thiếu phụ mỉm cười với Viên Thừa Chí, nói: “Hết nguy hiểm rồi.” Bà đưa tay ra hiệu, bảo ông câm bế Thôi Thu Sơn vào trong nghỉ ngơi.
Thiếu phụ vừa thu dọn thuốc men, vừa nói với Viên Thừa Chí: “Ta họ An, con kêu ta bằng An thẩm thẩm là được. Đây là con gái của ta, nó tên là Tiểu Huệ. Con cứ ở lại đây với thẩm thẩm.”
Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ. An đại nương xuống bếp nấu mì.
Viên Thừa Chí đã mệt mỏi một ngày một đêm nên không gượng được nữa, ăn xong nằm gục ngay trên bàn mà ngủ thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, cậu bé nhận ra mình đang nằm trên giường. Tiểu Huệ dẫn đi rửa mặt, Thừa Chí nói: “Để ta đi thăm Thôi thúc thúc đã. Vết thương của thúc thúc đã đỡ chưa?”
Tiểu Huệ nói: “Bác câm đã cõng Thôi thúc thúc đi từ sớm rồi.”
Thừa Chí giật mình hỏi lại: “Thật không?”
Tiểu Huệ gật đầu. Thừa Chí chạy vào trong phòng, quả nhiên không thấy Thôi Thu Sơn và ông câm đâu nữa. Cậu đột nhiên không tự chủ được, khóc òa lên. Tiểu Huệ dỗ: “Đừng khóc, đừng khóc nữa.”
Thừa Chí không nghe lời, Tiểu Huệ liền kêu lên: “Mẹ, mẹ ơi! Đến đây nhanh lên.”
An đại nương chạy tới, Tiểu Huệ nói: “Huynh ấy thấy Thôi thúc thúc và bác câm đi rồi, khóc mãi không chịu nín.”
An đại nương dịu dàng dỗ: “Con ngoan! Thôi thúc thúc của con bị thương rồi, mà bị thương rất nặng, có phải vậy không?”
Thừa Chí gật đầu. An đại nương lại nói: “Ta chỉ cấp cứu tạm thời, giữ cho độc khí ở vết thương không chạy lung tung, chứ không chữa Thôi thúc thúc lành hẳn được đâu. Vì thế bác câm phải cõng Thôi thúc thúc đi tìm người khác để chữa trị. Khi lành vết thương, thúc thúc sẽ đến đây với con.”
Thừa Chí nghe vậy mới từ từ nín khóc. An đại nương nói: “Thúc thúc sẽ lành bệnh nhanh thôi. Bây giờ con đi rửa mặt đi, rồi vào ăn cơm.”
Ăn cơm xong, An đại nương bảo Viên Thừa Chí kể lại tỉ mỉ những chuyện đã qua, vừa nghe vừa không ngớt than thở. Thế là Viên Thừa Chí tạm trú lại đây.
*
* *
An đại nương bảo Viên Thừa Chí biểu diễn lại tất cả những võ công đã học cho bà xem. Xem xong, bà gật đầu nói: “Vậy là khó cho con lắm rồi.”
Từ đó, ngày nào An đại nương cũng bảo Viên Thừa Chí tự mình luyện võ. Hay dở thế nào, bà chẳng bao giờ chỉ điểm thêm, mà lúc Viên Thừa Chí luyện võ bà cũng rất ít khi đứng xem. Tiểu Huệ thường chơi chung với cậu, nhưng khi cậu luyện võ, cô bé cũng bị mẹ kêu đi chỗ khác.
Thừa Chí từ nhỏ đã mất cha mẹ. Tuy rằng Ưng Tùng, Chu An Quốc mọi người chăm lo cho cậu rất chu đáo, nhưng họ đều là tướng quân quát gió gầm mây, dĩ nhiên chăm sóc trẻ nít không chu đáo được. Bây giờ cậu được An đại nương đối xử như một người mẹ hiền, quan tâm chu đáo, lại có Tiểu Huệ làm bạn, nên cuộc sống lúc này có thể nói là những ngày tháng ấm cúng nhất, hạnh phúc nhất mà từ nhỏ cậu chưa được biết. Chỉ có điều ngày nào cậu cũng lo lắng, không biết Thôi thúc thúc bao giờ mới trở về.
Mới đó mà đã mười mấy ngày. Hôm đó An đại nương phải lên thị trấn để mua thực phẩm, lại còn phải đi cắt vải để may quần áo cho Viên Thừa Chí. Hôm gặp nạn trên đỉnh Thánh Phong, cậu phải lăn lê bò lết, quần áo bị đá núi cành cây làm cho rách nát hết. Tuy An đại nương đã vá lại cho, nhưng đầy người vá víu chẳng dễ coi gì.
An đại nương dặn dò hai đứa bé ở nhà, đừng vào trong núi kẻo gặp sói. Chúng ngoan ngoãn vâng dạ.
An đại nương đi rồi, hai đứa bé đều vâng lời không bước ra ngoài, ở trong nhà kể chuyện cho nhau nghe. Chúng chơi trốn tìm được nửa ngày, rồi lấy chén đũa nhỏ để chơi đồ hàng, giả bộ nấu cơm. Tiểu Huệ nói: “Huynh ở đây làm gà đi, để muội đi mua thịt.”
Làm gà chính là xắt củ cải thành miếng nhỏ, còn mua thịt là đi nhặt hạt dẻ ở ngoài cửa.
Tiểu Huệ ra ngoài nhặt hạt dẻ, khá lâu không thấy trở vào. Viên Thừa Chí kêu lớn tiếng: “Tiểu Huệ, Tiểu Huệ”, cũng không nghe trả lời. Cậu nhớ đến lời An đại nương dặn, sợ cô bé gặp sói thật, liền xuống bếp lấy một cây chĩa dùng để đun củi, chạy ra ngoài cửa.
Vừa ra khỏi cửa, cậu giật mình nhìn thấy Tiểu Huệ bị một tên võ quan kẹp vào nách, định bắt xuống núi. Tiểu Huệ vừa giãy giụa vừa la ầm lên. Thừa Chí quát một tiếng, cầm cây chĩa đâm vào sau lưng tên võ quan.
Tên võ quan không kịp đề phòng, bị đâm trúng ngay. Nhưng Viên Thừa Chí thấp bé nên không đâm được vào lưng, chỉ đâm tới mông hắn. May mà cây chĩa này dùng để cời than nên không bén nhọn gì, không đâm sâu vào thịt.
Đại hán giận dữ thả Tiểu Huệ xuống, rút soạt đơn đao, quay lại chém tới. Viên Thừa Chí từng học thương pháp với Nghê Hào, liền cầm cây chĩa thi triển những chiêu thức Nhạc Gia Thần Thương, có công có thủ, đánh nhau kịch liệt với tên võ quan đó.
Đại hán kia sức mạnh đao bén, thế mà Viên Thừa Chí dựa vào thân pháp nhanh nhẹn cũng đối phó được mười mấy chiêu. Đại hán thấy mình đánh mãi không thắng một đứa bé, trong lòng không khỏi lo thầm. Hắn khom người xuống, thay đổi đấu pháp.
Lúc đầu hắn ra chiêu quá nửa là vô dụng, vì thân hình của Viên Thừa Chí quá thấp nên hễ hắn nhắm vào thượng bàn là hụt hết. Hắn phát giác ra, liền chuyển sang dùng địa đường đao pháp, nhưng cảm thấy đối phó với một đứa trẻ nít không cần phải dùng toàn lực, nên không nằm rạp xuống đất để xuất chiêu.
Chỉ như thế Viên Thừa Chí cũng khó chống đỡ lắm rồi. Trong lúc nguy cấp, An Tiểu Huệ bỗng xách một cây trường kiếm ra, đâm vào người tên đại hán. Hắn cất tiếng thóa mạ: “Ái chà! Con bé này cũng muốn chết phải không?”
Tên võ quan cầm đơn đao gạt ngang ra, muốn đánh văng thanh trường kiếm trong tay Tiểu Huệ. Cô bé thân thủ cũng rất linh hoạt, xoay trường kiếm lại đâm vào sau đùi hắn. Đồng thời Thừa Chí cũng đâm cây chĩa tới. Đại hán cùng lúc bị hai đứa bé làm bối rối cả tay chân, quát tháo chửi mắng lung tung.
Lúc đầu thấy Tiểu Huệ tới giúp một tay, Viên Thừa Chí cứ lo cô bé bị thương. Nhưng xem được hai chiêu ba thức, cậu mới thấy thân thủ của cô khá nhanh, kiếm pháp cũng rất thuần thục. Viên Thừa Chí trẻ con hiếu thắng, quyết không chịu thua kém, nên múa cây chĩa càng gấp rút hơn.
Đại hán thấy thương pháp và kiếm pháp của hai đứa trẻ này rất bài bản, chỉ vì khí lực quá yếu nên thành vô dụng. Dù sao hắn cũng phải phong tỏa hết những chỗ sơ hở của mình, vừa cười gằn vừa mắng nhiếc mà cầm cự. Cứ thế một hồi, quả nhiên hai đứa bé bị hao sức, gượng không nổi nữa. Đại hán đưa đơn đao lên, dùng hết sức gạt vào trường kiếm của Tiểu Huệ.
Tiểu Huệ tránh không kịp, để trường kiếm bị đơn đao chạm vào. Cô bé nắm không vững, kiếm lập tức vuột khỏi tay bay tít ra xa. Thừa Chí kinh hãi, vội múa cây chĩa đâm vào trước mặt hắn. Đại hán đưa đao lên cản, đồng thời phóng cước ra đá vào Tiểu Huệ.
Viên Thừa Chí không đếm xỉa gì đến tính mạng mình nữa, cầm chĩa cố hết sức tấn công. Nhưng trong lòng cậu bé đã hoảng loạn, nên sử cây chĩa không thành bài bản nữa.
Đại hán cười lên ha hả, tiến lên một bước, vung đao chém từ trên đầu xuống. Thừa Chí đưa chĩa lên đỡ, hắn dùng tay trái túm được, vận sức bẻ mạnh. Thừa Chí vừa thấy cổ tay đau nhói, cây chĩa đã tuột khỏi tay.
Đại hán bỏ mặc cậu, tiện tay quẳng cây chĩa đi, chạy đến bên Tiểu Huệ. Hắn vung tay phải ra ôm lấy lưng Tiểu Huệ, bế thốc cô bé chạy xuống núi.
Cổ tay Viên Thừa Chí rất đau, nhưng cậu thấy Tiểu Huệ bị bắt, liền lượm cây chĩa rượt theo. Gã đại hán kia mắng: “Thằng tiểu quỷ này, muốn chết hay sao?”
Tay trái hắn ôm chặt Tiểu Huệ, tay phải vung đao quay lại chém. Viên Thừa Chí tránh được năm sáu chiêu, cuối cùng tay trái bị đơn đao xén đi một mảnh áo, da bị rạch một đường, máu tươi ứa ra ngoài. Đại hán mỉm cười hỏi: “Tiểu quỷ! Còn dám đuổi nữa không?”
Viên Thừa Chí vẫn không lùi bước, la lên: “Ngươi bỏ Tiểu Huệ xuống đi, ta sẽ không đuổi nữa.” Cậu bé cứ xách cây chĩa mà đuổi mãi không chịu thôi.
Đại hán nổi giận, sinh ra ác tâm. Hắn nghĩ bụng: “Hôm nay mà không kết liễu thằng tiểu quỷ này, thì nó cứ lẵng nhẵng mãi không sao thoát được”.
Hắn quát lên một tiếng, quay người lại vung đao chém loạn lên. Mới được vài hiệp, hắn đã dùng chân phải quét ngang, đá ngã được Viên Thừa Chí. Phen này hắn không dung tình nữa, vung đao lên muốn chém chết cậu bé. Tiểu Huệ vô cùng kinh hãi, dùng cả hai tay níu kéo cánh tay của hắn, ra sức cắn vào cổ tay một cái. Đại hán đau quá, giận dữ thét lên be be. Thừa Chí thừa cơ lăn người ra ngoài thoát được.
Gã đại hán vung tay tát bốp vào mặt Tiểu Huệ, lại múa đao chém tới Thừa Chí. Cậu nghiêng người tránh né, nhưng cũng bị mũi đao nhọn hoắt vạch trúng lông mày bên trái, máu tươi đã chảy ra.
Đại hán nghĩ rằng cậu bé không dám đuổi theo nữa, nên xách Tiểu Huệ lên chạy đi. Nào ngờ Thừa Chí như lên cơn điên, lại xô tới ôm chặt lấy hắn. Trong lúc gấp rút mà cậu vẫn nhớ được Phục Hổ Chưởng, ra chiêu Đảo Ngũ Kim Chung toan bẻ ngược chân trái của hắn lại.
Đúng là Thừa Chí đã thừa hưởng tính cách quật cường, thà chết không khuất phục của phụ thân. Tình thế nguy cấp đến thế, mà cậu vẫn không chịu để Tiểu Huệ bị địch thủ bắt đi.
Gã đại hán kia vừa đau vừa tức, co chân phải lên đá Viên Thừa Chí lộn ngửa ra ngoài. Hắn vung đao lên, đang muốn chém xuống, đột nhiên nghe phía sau có tiếng hét, rồi sau gáy nghe một tiếng “bốp”. Gáy hắn ướt đẫm, có cái gì đó bầy nhầy dính dính. Hắn không biết có phải mình bị người ta đánh cho chảy máu hay không, giật mình quay đầu lại thì thấy An đại nương đứng xa mấy trượng, hai tay đang vung lên.
Gã đại hán biết bà lợi hại, liền bỏ Thừa Chí lại, toan ôm Tiểu Huệ chạy trốn. An đại nương lại vẫy tay, ba quả trứng gà liên tiếp ném vào mặt hắn. Đại hán né tả né hữu tránh được hai quả, còn quả thứ ba không thể né kịp nữa. “Bụp” một tiếng, hắn bị trúng ngay sống mũi, lòng trắng lòng đỏ chảy xuống đầy mặt.
An đại nương nhặt đến quả trứng cuối cùng, lại ném trúng vào mắt trái hắn. Thủ kình của bà không yếu, tuy chỉ là một quả trứng mà đối phương cũng phải váng cả mặt mày.
Gã đại hán cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Ngươi không xào trứng để mời lão gia ăn thì thôi, lại còn dùng trứng để đánh lão gia.”
Hắn ném Tiểu Huệ xuống đất, đưa tay trái lên xoa mắt mấy cái, xách đao nhảy về phía An đại nương. Trong tay An đại nương không có binh khí, chỉ còn cách tránh né liên tục.
Viên Thừa Chí thấy bà nguy cấp, liền xách chĩa tới đâm vào sau lưng gã đại hán. Cậu bé thấy đã có người trợ giúp, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Cây chĩa trên tay vừa gạt vừa đâm, vừa công vừa thủ, quả nhiên sử được Nhạc Gia Thần Thương tới ba phần công lực.
An đại nương rảnh tay một chút, liền nảy ra một ý. Bà lấy trong giỏ ra tấm vải mới mua để may quần áo cho Viên Thừa Chí, giũ thẳng ra trước gió, ném xuống khe suối sau lưng mình. Bà lại nhặt ba hòn đá ném tới.
Gã đại hán vừa phải tránh né mấy cục đá, vừa phải đề phòng cây chĩa, liền lùi ba bước. An đại nương nhặt lấy tấm vải đã thấm nước, hét lên: “Hồ lão tam! Ngươi thừa lúc ta không có nhà mà đến đây ăn hiếp bọn trẻ con, như vậy gọi là hảo hán sao?”
Bà vừa quát vừa vung tấm vải ướt đẫm lên, đánh tới gã đại hán. Tuy nội lực của bà không đủ để múa tấm vải ướt thành một cây côn, nhưng tấm vải dài thấm nước khi vẫy ra cũng khá có lực đạo.
Hồ lão tam chau mày, phóng cước đá ngã Viên Thừa Chí, rồi quay lại đánh với An đại nương. Viên Thừa Chí bò dậy, nhặt lấy cây chĩa, lại nhảy vào đánh tiếp.
Võ công của An đại nương vốn đã trên Hồ lão tam, bây giờ trong lòng phẫn nộ, tấm vải ướt càng lúc càng lợi hại hơn. Lưng của Hồ lão tam liên tục bị tấm vải đánh trúng, nước bắn tung toé, sau lưng đã cảm thấy tê nhức. Hắn xuất thủ hơi chậm một chút, đơn đao đã bị tấm vải quấn lấy kéo ngược lại, tuột khỏi tay.
Hắn tung người nhảy lùi hai bước, vừa cười gằn dữ tợn vừa nói: “Ta được chồng ngươi nhờ vả, nên mới đến đây đón con gái của ông ấy về. Đã là âm hồn bất tán, nhất định có ngày chúng ta sẽ quay trở lại. Con mụ kia! Cẩm y vệ như ta mà ngươi cũng dám đắc tội, thật sự không sợ vương pháp hay sao?”.
An đại nương nhíu đôi lông mày, lại vung tấm vải ướt lên quét ngang tới. Hồ lão tam đã đề phòng chiêu này, nói vừa dứt câu đã tung người nhảy lùi ra. Hắn đứng xa xa, chỉ trỏ chửi mắng: “Con mẹ nó! Hôm nay coi như ngươi mời ta ăn hột gà sống. Có ngày lão gia cũng bắt được ngươi nhốt vào thiên lao. Lúc đó ta sẽ xẻo thịt mông của mụ để xào măng, lại cắm mười cây tăm tre vào mười đầu ngón tay mụ, cho mụ nếm thử mùi vị. Hôm nay nể mặt chồng mụ, ta tạm tha cho mụ một phen”.
Chửi được mấy câu, hắn quay đầu chạy xuống núi. An đại nương không đuổi theo, quay lại xem xét Tiểu Huệ và Thừa Chí.
Tiểu Huệ không bị thương, nhưng hoảng sợ đến nỗi ngơ ngác thất thần, hồi lâu mới nhảy vào lòng mẹ khóc rống lên. Còn Thừa Chí thì máu tươi chảy đầy mặt đầy người. An đại nương liền rửa sạch vết thương cho cậu, lấy thuốc ra băng bó. May mà hai nhát đao không sâu lắm, chảy máu nhiều nhưng thương thế không nặng.
An đại nương bế Viên Thừa Chí vào giường ngủ, rồi mới bảo Tiểu Huệ kể lại tỉ mỉ vừa rồi Viên Thừa Chí liều mạng cứu mình như thế nào.
An đại nương nhìn Thừa Chí, trong lòng thầm nghĩ: “Không ngờ tuổi nó còn nhỏ như vậy mà đã có tấm lòng nghĩa hiệp rồi. Chúng ta không thể ở đây lâu dài nữa, phải có cách để giúp đỡ nó cho tốt đẹp hơn”.
Bà bảo Tiểu Huệ: “Con cũng đi ngủ đi. Tối nay chúng ta phải rời khỏi đây”.
Tiểu Huệ đã cùng mẹ chuyển chỗ ở quen lắm rồi, nên không ra vẻ kinh ngạc gì. An đại nương thu dọn một ít đồ đạc cần dùng, xếp vào hai cái bao.
Ăn cơm tối xong, ba người thắp đèn cầy ngồi đó. An đại nương không chốt cửa, hình như đang đợi cái gì.
Đôi mày xinh đẹp khẽ chau lại, bà chống cằm ngơ ngẩn. Lát sau khóe mắt bà hơi đỏ lên, hình như nước mắt sắp lăn xuống. Viên Thừa Chí thấy vậy thầm nghĩ: “Tên Hồ lão tam kia nói là chồng của An thẩm thẩm bảo hắn đến đây đón Tiểu Huệ về, không biết vì lý do gì. Chồng của An thẩm thẩm bức hiếp bà, khi mình lớn lên, luyện võ nhiều rồi, nhất định phải đánh cho hắn một trận để An thẩm thẩm hả dạ. Nhưng khi Tiểu Huệ thấy gia gia bị mình đánh, không biết có vui mừng hay không?”.
Cậu lại nghĩ: “Hồ lão tam tự xưng là cẩm y vệ. Hừ, bọn cẩm y vệ cực kỳ tệ hại, má má của mình cũng bị chúng bắt đi hại chết. Sẽ có một ngày mình giết sạch bọn cẩm y vệ, trả thù cho má má”.
Sau khi Viên Sùng Hoán bị Sùng Trinh xử tử, huynh đệ và thê tử của ông đều bị hoàng đế hạ chỉ sung quân, đày ra ngoài ba vạn dặm. Khi cẩm y vệ đến bắt người nhà họ Viên, đám thuộc hạ của Viên Sùng Hoán biết tin kéo đến cứu Viên Thừa Chí ra, nhưng Viên phu nhân thì không cứu được. Năm xưa cẩm y vệ đến bắt người tịch thu gia sản, tên nào cũng ra vẻ hung dữ như sài lang hổ báo. Hình ảnh đó đã in rất sâu trong trí của Viên Thừa Chí từ thuở nhỏ.
Vào khoảng canh hai, từ ngoài cửa vọng vào tiếng bước chân rất khẽ. Một người đi vào như bay, chính là ông câm. Thân hình ông khôi vĩ tráng kiện nhưng đi lại rất nhẹ nhàng, đặt chân xuống đất chỉ phát ra chút xíu âm thanh.
Nhìn thấy ông câm, Viên Thừa Chí cả mừng nhảy xổ vào lòng, lên tiếng hỏi ngay: “Thôi thúc thúc đâu? Thúc thúc có khỏe hay không?”. Cậu quên mất là ông ta bị câm điếc.
Ông câm hé môi mỉm cười với cậu, hiển nhiên gặp lại Viên Thừa Chí cũng rất vui mừng. Hồi lâu ông mới quay sang An đại nương, dùng tay ra hiệu, chỉ lên vạch xuống.
An đại nương quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Thôi thúc thúc không sao cả, con yên tâm đi.” Bà cũng dùng tay ra hiệu với ông câm.
Ông câm không ngớt gật đầu mỉm cười, vỗ bôm bốp hai tay vào nhau liên tục. Viên Thừa Chí không hiểu ông ta khen ngợi việc gì mà vui vẻ đến thế.
An đại nương kéo Viên Thừa Chí vào trong phòng, cho cậu bé ngồi trên giường cạnh mình. Bà dịu dàng nói: “Thừa Chí! Thẩm thẩm vừa gặp con đã thấy yêu thương, coi con như con ruột của mình vậy. Hôm nay con lại không quản tính mạng mình mà cứu giúp cho Tiểu Huệ, thẩm thẩm lại càng không thể quên con. Nhưng tối nay thẩm thẩm phải đi đến một nơi rất xa. Con hãy đi theo bác câm đi.”
Viên Thừa Chí nói: “An thẩm thẩm! Con muốn đi theo thẩm thẩm.”
An đại nương mỉm cười nói: “Thẩm thẩm cũng không nỡ xa con. Nhưng thẩm thẩm muốn bác câm dẫn con đi gặp một người, người đó sẽ dạy con biết võ công như Thôi thúc thúc. Thôi thúc thúc của con chỉ học với ông ấy hai tháng, mà võ nghệ đã cao đến thế rồi. Võ công của vị tiền bối này là thiên hạ vô song, thẩm thẩm muốn con theo học ông ấy.”
Viên Thừa Chí nghe vậy là khoái chí ngay.
An đại nương lại bảo: “Suốt đời ông ấy chỉ nhận hai đồ đệ. Nhưng đó là việc rất lâu rồi, bây giờ chưa chắc ông ấy đã chịu nhận đồ đệ nữa. Nhưng tư chất của con rất tốt, tâm địa lại lương thiện; thẩm thẩm nghĩ rằng ông ấy sẽ thích con. Bác câm là người hầu cận ông ấy. Ta nhờ bác câm dẫn con đến cầu xin. Nếu ông ấy không chịu nhận con, thì bác câm sẽ dẫn con về chỗ thẩm thẩm.”
Thừa Chí gật đầu, nghĩ bụng: “Nếu ông ấy không chịu nhận mình làm đồ đệ cũng tốt”.
An đại nương dặn tiếp: “Tính khí của vị tiền bối này rất cổ quái. Nếu con không nghe lời, ông ấy đương nhiên không thích. Nhưng nếu con quá nghe lời, ông ấy lại chê con ngu dại, không có chủ ý của mình. Phải xem duyên phận của con như thế nào thôi.”
Nói xong, bà tháo từ cổ tay ra một chiếc vòng kết bằng sợi vàng, đeo vào cổ tay Viên Thừa Chí rồi nhẹ nhàng bóp lại. Chiếc vòng lập tức rút nhỏ lại, không tuột xuống nữa. Bà mỉm cười nói: “Khi con luyện thành võ công, trở thành người lớn, đừng quên An thẩm thẩm và Tiểu Huệ muội muội.”
Viên Thừa Chí đáp: “Con vĩnh viễn không quên. Nếu vị tiền bối đó chịu nhận con, thì An thẩm thẩm sẽ dẫn Tiểu Huệ muội muội đến thăm con chứ?”
Khóe mắt An đại nương hơi đỏ lên. Bà khẽ nói: “Nhất định là thế. Thẩm thẩm cũng rất nhớ con.”
An đại nương viết một lá thư giao cho ông câm, nhờ chuyển cho chủ nhân của ông. Bốn người ra ngoài cửa rồi từ biệt nhau, ai đi đường nấy.
Viên Thừa Chí cùng ở với An đại nương và Tiểu Huệ không được bao lâu, nhưng hai mẹ con đối đãi với cậu vô cùng quan tâm thân thiết. Qua trận chiến hôm nay, họ lại có cảm giác cùng hoạn nạn, cùng sinh tử. Vì thế mà khi từ biệt, người nào cũng ra vẻ lưu luyến không nỡ rời xa.
*
* *
Ông câm biết Thừa Chí bị thương vẫn còn chảy máu, thân thể yếu đuối, nên ôm cậu vào lòng mà sải bước chạy như bay.
Cứ ngày đi đêm nghỉ, hai người không ngừng chạy về hướng Bắc. Hơn một tháng trời, vết thương của Viên Thừa Chí đã lành, chỉ để lại phía trên lông mày bên trái một vết sẹo nhỏ. Ông câm không trú trong khách sạn, cứ mỗi hoàng hôn lại chọn bừa một hang động hay một ngôi miếu hoang để nghỉ lại. Còn khi ăn uống thì phải vào phạn điếm, Viên Thừa Chí muốn ăn gì cứ gọi. Về chuyện ăn uống thì ông câm không câu nệ, thấy gì ăn đó. Bữa nào ông cũng ăn đến hai cân mì.
Lần nào Viên Thừa Chí dùng tay ra hiệu hỏi mình đang đi đâu, ông câm cũng trỏ về hướng Tây Bắc.
Nhiều ngày nữa thì họ đến một vùng núi, càng đi càng lên cao, cuối cùng không còn đường để đi nữa. Ông câm dùng cả tay chân men theo vách núi và những sợi dây mây trèo lên, trèo hết đỉnh này lại đến đỉnh khác. Bên sườn núi toàn là những thung lũng sâu hun hút. Viên Thừa Chí phải dùng hai tay cố ôm chặt lấy cổ ông câm, chỉ sợ lỏng tay là rơi xuống tan xương nát thịt.
Cứ thế trèo hơn một ngày, hai người mới đến đỉnh núi cao nhất. Trên đỉnh núi là một khu đất bằng phẳng, đầy những cây tùng cổ đâm thẳng lên trời. Qua một khu rừng thông, trước mắt xuất hiện năm sáu gian nhà dựng bằng đá tảng.
Ông câm cười vui vẻ, kéo tay Viên Thừa Chí vào trong nhà đá. Trong nhà mạng nhện giăng đầy, hiển nhiên rất lâu không có ai ở. Ông câm lấy một cây chổi lớn, quét sạch sẽ từ trong ra ngoài, sau đó nấu nước thổi cơm. Đỉnh núi này quá hiểm trở, không hiểu lương thực và dụng cụ được vận chuyển lên bằng cách nào.
Ở được ba ngày, Viên Thừa Chí lại nóng ruột, dùng tay để hỏi: “Sư phụ ở đâu?”
Ông câm chỉ xuống dưới núi. Viên Thừa Chí tỏ ý muốn xuống núi, nhưng ông câm lắc đầu không chịu. Viên Thừa Chí không làm gì được, đành phải chờ đợi một cách khổ sở trên đỉnh núi chọc trời. Bên cạnh chỉ có ông câm không nghe không nói gì được, xung quanh không có hàng xóm, hoang vắng cô quạnh không sao tả xiết. Cậu nghĩ mãi đến những ngày ấm cúng ngắn ngủi bên hai mẹ con An đại nương; chỉ tiếc không thể mọc cánh mà bay đến bên bà.
Một đêm trong lúc mơ màng, đột nhiên Viên Thừa Chí thấy ánh sáng chói vào mắt. Cậu dụi dụi mấy cái, bỗng hiện ra một ông lão cầm nến đứng trước giường. Ông lão này râu tóc lông mày đều bạc phơ, nhưng khuôn mặt rất hồng hào, mỉm cười quan sát Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí vội nhảy xuống giường, cung kính quỳ lạy ông lão bốn cái rồi hô lên: “Sư phụ! Thì ra lão nhân gia đã đến rồi.”
Ông lão cười ha hả rồi nói: “Thằng bé kia! Ai bảo ngươi kêu ta là sư phụ? Sao ngươi biết ta sẽ nhận ngươi làm đồ đệ?”
Nghe cách ông lão nói, Viên Thừa Chí biết chắc mình được nhận rồi. Cậu bé mừng rỡ nói: “An thẩm thẩm bảo con gọi thế.”
Ông lão nói: “Lúc nào con bé đó cũng kiếm chuyện phiền phức cho ta. Được! Nể mặt người cha quá cố của ngươi, ta thu nhận ngươi.”
Viên Thừa Chí muốn bái lạy, nhưng ông lão xua tay bảo: “Đủ rồi, đủ rồi! Ngày mai nói chuyện tiếp.”
Sáng sớm hôm sau, trời chưa sáng Viên Thừa Chí đã dậy rồi. Ông câm biết ông lão đã chịu dạy Viên Thừa Chí, mừng rỡ tung cậu bé lên không rồi dang tay ra đón lấy, cứ thế bốn năm lần.
Ông lão nghe tiếng cười reo của Viên Thừa Chí, bước ra khỏi phòng mỉm cười nói: “Được đấy! Còn nhỏ như vậy mà đã biết hành hiệp trượng nghĩa, cứu trợ đàn bà con nít, giỏi thật. Ngươi có bản lãnh gì, biểu diễn cho ta xem thử.”
Viên Thừa Chí nghe khen mà đỏ mặt tía tai, ngượng nghịu đứng không yên.
Ông lão lại mỉm cười, bảo: “Ngươi không cho ta xem công phu của ngươi thế nào, thì ta biết đâu mà dạy?”
Lúc này Viên Thừa Chí mới biết sư phụ không nói đùa, bèn đem bài Phục Hổ Chưởng mà Thôi Thu Sơn đã dạy ra tập từ đầu đến cuối.
Ông lão vừa xem vừa mỉm cười, đợi Viên Thừa Chí luyện xong mới nói: “Thu Sơn không ngớt miệng khoe ngươi thông minh, lúc đó ta không chịu tin. Nó chỉ dạy cho ngươi mấy ngày mà đã được như thế, đúng là không tệ.”
Vừa nghe thấy tên Thôi Thu Sơn, Viên Thừa Chí đã muốn hỏi chuyện an nguy của Thôi thúc thúc ngay, nhưng ông lão đang nói nên cậu không dám ngắt lời. Đợi ông lão dừng lại, cậu mới hỏi: “Thôi thúc thúc đang ở đâu? Thúc thúc có khỏe không?”
Ông lão đáp: “Nó khỏe rồi, đã về chỗ Lý Sấm tướng quân, tiếp tục hành quân đánh trận.”
Viên Thừa Chí nghe vậy mừng rỡ vô cùng.
Ông câm đã bày hương án. Ông lão lấy ra một bức tranh vẽ một nho sĩ trung niên, hai tay để không nhưng giữ tư thế đang cầm kiếm. Ông lão thắp nhang đèn, đứng trước mặt bức tranh cung kính quỳ lạy, rồi bảo Viên Thừa Chí: “Đây là khai sơn tổ sư, Phong tổ sư gia của phái Hoa Sơn chúng ta. Ngươi tới khấu đầu đi.”
Viên Thừa Chí nhìn lại người trong bức tranh, nghĩ bụng: “Ông này còn trẻ hơn sư phụ của ta rất nhiều, sao lại là tổ sư gia?” Cậu bước tới khấu đầu ngay, nhưng không biết phải lạy bao nhiêu cái. Cậu nghĩ chắc là lạy càng nhiều càng tốt, nên cứ lạy mãi, đến khi ông lão bảo dừng mới thôi.
Ông lão mỉm cười, bảo Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, coi như chính thức bái sư. Ông lão nhận lễ bái sư rồi nói: “Từ nay về sau, con là đệ tử phái Hoa Sơn chúng ta. Nhiều năm trước ta đã nhận hai đồ đệ. Sau đó ta không gặp đứa bé nào thông minh lanh lợi cả, nên chưa dạy ai thêm. Ngươi là đệ tử thứ ba, cũng là đệ tử cuối cùng của ta. Ngươi phải học hành tử tế, đừng làm mất mặt ta trước người khác.”
Viên Thừa Chí gật đầu lia lịa.
Ông lão lại nói: “Ta họ Mục, tên Nhân Thanh, được bằng hữu giang hồ gọi là Thần Kiếm Tiên Viên, ngươi hãy nhớ lấy. Sau này có người hỏi sư phụ là ai, nếu ngươi ấp úng không nhớ, thì thật là hỏng bét.”
Viên Thừa Chí cười phá lên, thầm nghĩ: “An đại nương nói tính khí sư phụ rất cổ quái, mình nghe mà sợ hãi. Không ngờ sư phụ lại hòa ái dễ gần như thế, lại thích nói chuyện khôi hài.”
Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh võ công rất cao, có thể gọi là số một đương thời. Ông hành hiệp trượng nghĩa trên giang hồ đã hai mươi mấy năm, chưa từng gặp đối thủ. Chỉ vì lúc nào ông cũng hành sự âm thầm, không để lại danh tính, nên tiếng tăm không vang dội lắm.
Thật ra thì tính khí của ông vốn lạnh lùng, khó mà thân cận. Nhưng lần này gặp Viên Thừa Chí, một đứa bé côi cút đáng thương, lại được Thôi Thu Sơn và An đại nương hết sức giới thiệu, cộng thêm phần tôn kính phụ thân của Viên Thừa Chí là Viên Sùng Hoán đáng mặt trung thần, giữ nước giết giặc, hàm oan mà chết nên ông mới phá lệ, gần gũi thương yêu khác hẳn mọi khi.
Mục Nhân Thanh không con không cái, một mình một kiếm độc hành trên chốn giang hồ. Tới tuổi già, đột nhiên gặp một chú bé thông minh hoạt bát như thế, nỗi mừng rỡ trong lòng chẳng kém gì so với Viên Thừa Chí gặp được minh sư. Vì thế mà ông cười đùa với Viên Thừa Chí, cao hứng khác hẳn bình thường,
Mục Nhân Thanh lại nói: “Hai sư huynh của ngươi đều lớn hơn ngươi mấy chục tuổi, đồ đệ của chúng cũng lớn hơn ngươi nhiều. Không chừng chúng sẽ trách ta đến lúc này còn bắt chúng nhận thêm một đứa sư đệ nhỏ xíu. Hừ, nếu ngươi không chịu dụng công nỗ lực, sau này bị đồ tử đồ tôn của chúng đánh bại, thì chúng có lý lẽ để trách lão già này hồ đồ.”
Viên Thừa Chí vội nói: “Đệ tử nhất định sẽ hết sức dụng công.” Cậu bé lại hỏi: “Thôi thúc thúc có phải là đồ đệ của lão nhân gia hay không?”
Mục Nhân Thanh nói: “Nó phải đi theo Sấm tướng đánh trận, không có thời gian để học với ta cho đàng hoàng. Ta chỉ truyền cho nó một bài Phục Hổ Chưởng, không thể gọi là đồ đệ. Hơn nữa tư chất của Thu Sơn cũng không đủ để làm đồ đệ của ta.”
Ông chỉ vào ông câm, nói tiếp: “Gã này cũng vậy, ngày nào cũng nhìn ta luyện tập nên học lóm được không ít chiêu thức. Nhưng so với hai đồ đệ của ta, thì khác nhau một trời một vực.”
Viên Thừa Chí từng thấy ông câm hai lần tay không trừng trị bọn công sai, xuất thủ như sấm sét, thán phục vô cùng. Nghe sư phụ nói bản lãnh hai sư huynh của mình còn cao hơn nhiều, thế thì chỉ cần mình hết sức dụng công, dù không bằng được sư huynh thì bét ra cũng hơn được ông câm. Trong lòng cậu lại càng mừng rỡ.
Mục Nhân Thanh nói: “Phái Hoa Sơn chúng ta có rất nhiều quy luật. Những gì là Nhân giới, Sĩ giới, Bảo giới, bây giờ có nói thì ngươi cũng không hiểu. Vậy ta chỉ dặn ngươi ba câu thôi: Phải nghe lời sư phụ; Không được làm việc tồi tệ; Không được tùy tiện giết chóc đả thương người khác. Ngươi có nhớ được không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Con nhất định sẽ nghe lời sư phụ, không dám làm việc xấu, lại càng không tùy tiện đánh giết người ta.”
Mục Nhân Thanh nói: “Được! Vậy bây giờ chúng ta bắt đầu luyện công. Vì thời gian gấp rút nên Thôi thúc thúc của ngươi dạy cho ngươi một lúc trọn bài Phục Hổ Chưởng. Bộ chưởng pháp này quá thâm sâu phức tạp. Tuổi ngươi còn nhỏ, dù học được cũng chưa biết cách vận dụng. Ta sẽ dạy cho ngươi bộ Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm trước.”
Viên Thừa Chí nói: “Cái đó thì con biết, trước đây Nghê thúc thúc đã dạy rồi.”
Mục Nhân Thanh cười bảo: “Ngươi học được mấy tư thế, coi như đã biết rồi hay sao? Còn xa lắm! Nếu thực sự ngươi đã hiểu hết chỗ ảo diệu của Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm, thì trên giang hồ ít người thắng được ngươi.”
Khuôn mặt xinh xắn nhỏ nhắn của Viên Thừa Chí lập tức đỏ ửng lên, không dám mở miệng nói nhiều nữa.
Mục Nhân Thanh vừa đọc tên chiêu thức vừa thi triển Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm. Từ chiêu thức lẫn đường quyền, hoàn toàn không khác những gì Nghê Hào đã dạy. Viên Thừa Chí không khỏi thấy lạ lùng, có gì khác nhau đâu?
Mục Nhân Thanh nói: “Ngươi tưởng sư phụ đánh lừa phải không? Ngươi tới đây, nắm lấy áo của ta. Chỉ cần đụng vào một chéo áo thôi, coi như ngươi có bản lãnh.”
Viên Thừa Chí không dám chọc tức sư phụ, nên mỉm cười không dám động đậy.
Mục Nhân Thanh giục: “Tới đây nhanh lên. Ta đang dạy ngươi công phu mà?”
Viên Thừa Chí nghe nói sư phụ dạy mình mới dám bước tới, đưa tay toan nắm lấy vạt áo sau lưng sư phụ. Mắt thấy rõ ràng sờ tới rồi, nhưng cái vạt áo tự nhiên co rút lại, lệch đi hai ba tấc. Tay Viên Thừa Chí đưa lên mấy tấc, sắp nắm được cái vạt áo thì sư phụ đột nhiên không thấy đâu nữa. Rồi ông khẽ vỗ vào sau gáy Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Ta ở đây này.”
Viên Thừa Chí liền xuất chiêu Diêu Tử Phản Thanh, quờ hai tay ôm ngược ra phía sau. Nào ngờ sư phụ không còn ở đó nữa. Cậu bé vội vã xoay người lại, thấy sư phụ đã ở ngoài hai trượng.
Viên Thừa Chí hứng thú, thầm nghĩ: “Phen này phải bắt được sư phụ mới được”. Cậu tung người nhảy lên phía trước, toan kéo tay áo ông ta. Mục Nhân Thanh vẫy tay áo một cái, thân hình đã vụt ra khỏi tầm tay cậu bé.
Viên Thừa Chí mỉm cười nhưng chưa đuổi theo vội. Cậu quay lại nhìn, đột nhiên thấy ông câm đang ra hiệu bảo mình lưu ý. Viên Thừa Chí chợt hiểu, thầm nghĩ: “Rõ ràng sư phụ chỉ sử dụng những chiêu thức trong Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm, nhưng sao lại nhanh đến thế?”
Thế là cậu bé vừa rượt theo nắm bắt, vừa chăm chú để ý thân pháp của sư phụ. Pho Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm này Viên Thừa Chí đã luyện nhuần nhuyễn lắm rồi, nhưng bây giờ cậu thấy sư phụ tiến lùi tránh né vô cùng linh hoạt. Cũng một chiêu một thức như vậy, nhưng khi sư phụ thi triển lại có dụng ý xảo diệu khác thường. Viên Thừa Chí vừa đuổi vừa âm thầm học theo bí quyết, chẳng bao lâu đã bắt chước được mấy thuật nhảy tới nhảy lui của sư phụ, lập tức rượt đuổi nhanh hơn hẳn.
Mục Nhân Thanh lẩm nhẩm gật đầu, mừng rỡ nghĩ: “Thằng bé này dạy được, có tương lai đấy!”
Thừa Chí càng cố đuổi, Mục Nhân Thanh càng tránh né nhanh hơn. Hai người chạy vù vù đuổi nhau, trên mặt sân chỉ còn thấy hai bóng bay đi lượn lại. Lúc này Viên Thừa Chí đã quên hết chuyện đùa giỡn, tập trung tinh thần bắt chước thân pháp sư phụ.
Đột nhiên Mục Nhân Thanh cười ha hả quay người lại, vươn tay ôm lấy cậu bé, mỉm cười nói: “Hảo đồ đệ! Hảo hài tử! Được rồi, tập như thế là được rồi.”
Ông thả Viên Thừa Chí xuống, dặn cậu bé tự luyện thêm mấy lượt, rồi quay lưng vào nhà.
Viên Thừa Chí luyện lại pho Trường Quyền Thập Đoạn Cẩm từ đầu đến cuối mười mấy lần nữa. Ngoài việc cố gắng học hỏi thân pháp của sư phụ ra, cậu còn tự sáng chế ra mấy chỗ biến hóa xảo diệu, mừng rỡ đến độ ngứa ngáy tay chân, gãi đầu gãi tai, suốt đêm không sao chợp mắt; mà có chợp mắt thì trong mơ vẫn chăm chỉ luyện quyền.
Trời mới mờ sáng, cậu sợ quên mất những gì đã học hôm qua, vội chạy ra sân để luyện tập, càng tập càng thêm hứng thú. Đột nhiên nghe phía sau có tiếng đằng hắng, cậu quay đầu lại thì thấy sư phụ đứng đó mỉm cười. Viên Thừa Chí bước tới, hô một tiếng “Sư phụ”, rồi lỏng tay đứng kế bên.
Mục Nhân Thanh nói: “Mấy chiêu ngươi sáng chế ra cũng không đến nỗi tệ. Chiêu này nhanh thì có nhanh, nhưng hạ bàn lại để lộ sơ hở. Nếu địch thủ biết đường đưa chân ra móc thế này, thì ngươi hỏng rồi. Phải làm thế này mới đúng.”
Ông vừa nói vừa dùng động tác chỉ bảo, Viên Thừa Chí khâm phục vô cùng. Hôm đó cậu lại học được không ít bí quyết.
*
* *
Mới đó mà ba năm đã trôi qua. Trong ba năm này, Mục Nhân Thanh truyền cho Viên Thừa Chí thêm Phá Ngọc Quyền và Hỗn Nguyên Chưởng. Hỗn Nguyên Chưởng tuy là chưởng pháp, nhưng lại có công dụng tu tập nội công. Xưa nay các môn phái tu luyện nội công đều dựa vào công phu thổ nạp, đả tọa luyện khí. Nội công của phái Hoa Sơn lại có cách luyện riêng biệt, từ ngoài vào trong, tu tập dựa vào chưởng pháp.
Như vậy phải tốn rất nhiều thời gian, hiệu quả hơi chậm, nhưng trong lúc tu tập thì hoàn toàn không gặp nguy hiểm tẩu hỏa nhập ma, khi luyện thành thì oai lực vô cùng lớn. Vì nội ngoại cùng luyện một lần, nên khi đối địch thì mỗi chiêu mỗi thức đều tự nhiên có nội lực kèm theo, địch thủ chỉ sơ ý một chút là nếm mùi thất bại. Tới khi Hỗn Nguyên Công luyện thành lại càng lợi hại, có thể nói không gì cứng rắn mà không phá nổi.
Viên Thừa Chí luyện võ chưa lâu, Hỗn Nguyên Công dĩ nhiên chưa thành tựu, nhưng thân thể cậu bé đã tráng kiện lắm rồi, bệnh tật không xâm nhập được nữa. Nhiều lúc Mục Nhân Thanh xuống núi, mỗi lần hai ba tháng hoặc ba bốn tháng không chừng. Lần nào ông về kiểm tra cũng thấy cậu bé dụng công siêng năng, tiến bộ nhanh chóng, nên không ngớt khen thưởng và khuyến khích.
Tết Đoan Ngọ năm nay, uống xong rượu hồng hoàng để chống tà khí và sâu bọ theo phong tục, Mục Nhân Thanh lại bày hương án, thỉnh tranh vẽ tổ sư gia ra. Ông tự mình khấu đầu, rồi bảo Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, sau đó mới hỏi: “Hôm nay bảo ngươi bái tổ sư, ngươi biết vì lý do gì hay không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Xin sư phụ dạy bảo.”
Mục Nhân Thanh vào nhà trong, bưng ra một chiếc hộp gỗ dài dài, đặt trên hương án. Nắp hộp vừa mở ra, ánh sáng chói lòa cả mắt. Trong hộp gỗ có một thanh trường kiếm dài ba thước, óng ánh soi sáng cả một vùng.
Viên Thừa Chí vừa kinh ngạc vừa vui mừng, tim đập lên thình thịch. Cậu ấp úng hỏi: “Sư phụ! Sư phụ dạy kiếm cho con phải không?”
Mục Nhân Thanh gật đầu, rồi lấy trường kiếm trong hộp ra. Ông nghiêm nghị nói: “Ngươi quỳ xuống, nghe ta nói trước đã.”
Viên Thừa Chí vâng lời quỳ xuống.
Mục Nhân Thanh nói: “Kiếm là tổ của trăm loại binh khí, là đạo môn khó học nhất. Kiếm pháp bản phái lại càng rộng lớn thâm sâu. Từ nhiều đời tổ sư cho đến nay, đời nào cũng tăng cường thêm ít nhiều chiêu thức. Môn phái khác thì sư phụ thường giấu lại mấy chiêu tinh diệu nhất, nên đời sau không bằng đời trước, càng về sau võ công càng kém. Còn phái ta thì không phải vậy, tuyển chọn đệ tử cực kỳ nghiêm ngặt, mà đã chọn rồi thì phải dạy dỗ đến cùng. Bởi thế mà kiếm pháp hậu nhân giống như màu xanh, chiết từ màu lam mà đẹp hơn màu lam. Ngươi đã thông minh lại cần mẫn, muốn giỏi kiếm thuật không phải là việc khó. Sư phụ kỳ vọng nơi ngươi, sau này sẽ phát dương quang đại kiếm pháp bản phái, nhưng không chỉ có thế. Ngươi phải nhớ rõ, kiếm là lợi khí, nếu dùng để hành thiện thì nó thiện vô cùng, nếu dùng để làm ác thì nó ác cũng vô cùng. Hôm nay sư phụ muốn ngươi lập lời trọng thệ, suốt đời tuyệt đối không được vô cớ giết nhầm một người lương thiện nào.”
Viên Thừa Chí nói: “Xin sư phụ dạy con kiếm pháp. Nếu sau này con dùng kiếm giết một người tốt, nhất định sẽ bị người ta giết chết.”
Mục Nhân Thanh bảo: “Được rồi! Ngươi đứng dậy đi.”
Viên Thừa Chí đứng dậy.
Mục Nhân Thanh tiếp: “Sư phụ biết tâm địa của ngươi nhân hậu, nhất định không giết bừa người tốt. Nhưng chuyện thị phi có lúc rất khó phân biệt; thế gian xảo trá, lòng người khó lường. Người bề ngoài tốt có thể là kẻ xấu; còn người bề ngoài có vẻ xấu thì không chừng lại là người tốt. Ngươi phải thường xuyên có tấm lòng khoan dung tha thứ thì mới ít làm tổn thương người khác.”
Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ.
Mục Nhân Thanh lại nói: “Hoàng đế Sùng Trinh giết gia gia của ngươi, vì trong lòng hắn nghĩ gia gia của ngươi là người xấu. Hắn nghĩ mình giết là đúng, nhưng đó lại là một sai lầm cực lớn. Mấy năm nay Sùng Trinh đã giết không ít đại thần trong triều, dĩ nhiên cũng có người xấu, nhưng người tốt bị hắn giết còn nhiều hơn. Hắn không rõ thị phi, lại hoàn toàn không có tấm lòng khoan dung nhân hậu. Hắn giết chóc bừa bãi như thế, giang sơn Đại Minh này chắc chắn sẽ tan rã trong tay hắn.”
Viên Thừa Chí ủ rũ gật đầu. Cậu hiểu, khi nhắc đến việc Sùng Trinh giết phụ thân mình, sư phụ muốn mình biết rằng thị phi khó phân biệt, không nên vọng sát. Mình phải nhớ rõ điều đó, không lúc nào dám quên.
Mục Nhân Thanh đưa tay trái nắm kiếm quyết, tay phải đưa trường kiếm ra. Thanh kiếm vùng vẫy như rồng bay, phát sáng rực rỡ như cầu vồng. Bộ kiếm pháp thiên hạ vô song được thi triển dưới ánh mặt trời, kiếm quang càng lúc càng óng ánh, sau cùng chỉ còn thấy một khối bạch quang mờ mờ ảo ảo.
Thừa Chí đã theo sư phụ luyện quyền ba năm trời, nhãn quan khác trước rất xa. Tuy vậy, cậu vẫn không thể nhìn thấy rõ ràng thân pháp của sư phụ. Khi cần trụ chắc thì vững như một ngọn núi nguy nga, lúc nhẹ nhàng lại thoảng như một cơn gió không để lại vết tích, biến ảo khôn lường, nhanh chóng không tả được.
Đến lúc tối hậu, Mục Nhân Thanh quát lớn một tiếng, trường kiếm đột nhiên rời khỏi tay bay ra. “Xoẹt” một tiếng, kiếm ghim sâu vào thân một cây thông lớn, lưỡi kiếm ngập hẳn vào, chỉ còn chuôi kiếm thò ra ngoài.
Viên Thừa Chí biết thớ gỗ của cây thông rất mịn. Vừa rồi thấy sư phụ múa kiếm, lưỡi kiếm không dừng rung động, cậu cũng biết lưỡi kiếm đó mềm dẻo chứ không cứng rắn, nào ngờ chiêu phi kiếm này lại ghim lút được trường kiếm vào thân cây. Cậu bé không nén nổi kinh hãi, há hốc miệng, không sao ngậm lại được.
Đột nhiên phía sau có người lớn tiếng hoan hô: “Hay quá!”
Viên Thừa Chí ở trên ngọn núi này đã ba năm trời, ngoài giọng của sư phụ và mình ra, chưa nghe thấy tiếng nói của một người thứ ba. Tuy trên núi còn một người nữa là ông câm, nhưng ông này không thể lên tiếng được.
Viên Thừa Chí vội vàng quay lại, thấy một lão đạo vừa mỉm cười vừa tiến lên đỉnh núi. Lão mặc một bộ đạo bào bằng vải thô màu xanh, khuôn mặt ốm vàng, khô cằn, đầu tóc thưa thớt, trắng nhiều hơn đen, trên đầu bới một cái búi tó đúng kiểu đạo nhân. Lão lớn tiếng hô: “Con khỉ già kia! Chiêu Thiên Ngoại Quy Long này, đúng là trên đời không còn người thứ hai thi triển được như thế. Hôm nay bần đạo được mở rộng tầm mắt. Mười năm trời không thấy huynh dùng kiếm, không ngờ đã tiến bộ đến mức này.”
Mục Nhân Thanh cười ha hả, đáp: “Hay quá! Ngọn gió nào thổi huynh đến đây vậy? Vừa tới Hoa Sơn, đã bốc ta lên tận mây xanh rồi. Thừa Chí! Vị này là Mộc Tang đạo trưởng, hảo bằng hữu của sư phụ. Ngươi mau mau tới thi lễ.”
Viên Thừa Chí liền bước tới, quỳ xuống khấu đầu.
Mộc Tang đạo nhân cười bảo: “Thôi đi!” Lão đưa tay ra, kéo Viên Thừa Chí dậy.
Đã là người học võ, khi gặp ngoại lực sẽ tự động vận công chống đỡ. Mộc Tang đạo nhân kéo dậy, nhưng lúc này Thừa Chí đã thành tựu chút ít về Hỗn Nguyên Công, hai cánh tay khẽ gượng lại một chút.
Mộc Tang đạo nhân biết mức nội công của Viên Thừa Chí rồi, mỉm cười nói với Mục Nhân Thanh: “Con khỉ già này mấy năm không gặp, thì ra lén lút trốn ở chỗ này để dạy khỉ con vận khí. Phước khí của huynh không đến nỗi tồi, một chân bước vào quan tài rồi mà còn tìm được một thằng bé giỏi giang như thế.”
Mục Nhân Thanh đùa giỡn với lão đã quen, nhưng nghe lão tán dương đồ đệ của mình cũng không khỏi khoái chí. Ông vuốt râu mỉm cười, ra vẻ tự đắc.
Mộc Tang đạo nhân lại nói: “Ái chà! Hôm nay không mang theo tiền lẻ lì xì, làm sao ta dám nhận mấy cái khấu đầu của ngươi được? Phải làm sao đây?”
Mục Nhân Thanh nghe vậy, nảy ra một ý: “Võ công lão đạo này có chỗ độc đáo, được người trên giang hồ gọi là Thiên Biến Vạn Kiếp. Nếu lão chịu truyền chút xíu võ công cho Viên Thừa Chí, thì thằng bé được lợi không nhỏ. Nhưng lão này xưa nay không chịu nhận đồ đệ, ta phải tìm cách bức ép một chút.” Ông bèn nói: “Thừa Chí! Đạo trưởng đã hứa cho con cái gì rồi đó. Mau mau khấu đầu cảm tạ đi.”
Thừa Chí nghe sư phụ bảo, lập tức bước tới dập đầu.
Mộc Tang đạo nhân cười ha hả: “Ha ha! Có khỉ già tất có khỉ con. Sư phụ đã không sợ mất mặt, thì đồ đệ cũng không biết xấu hổ. Này, nghe ta nói đây: Làm người thì phải đường đường chính chính, đừng học theo sư phụ ngươi luyện bộ mặt dày, vừa nghe người ta cho quà đã hí ha hí hửng. Chẳng lẽ lão già như ta còn đi lừa gạt con nít hay sao? Thôi cũng được. Hôm nay nhân lúc cao hứng, ta tặng cho ngươi cái này.”
Nói xong, lão lấy trong cái túi sau lưng ra một gói đồ, đưa cho Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí cảm tạ, hai tay cung kính đón lấy. Cậu đứng thẳng dậy mở ra xem, thấy đó là một cái áo không tay màu đen kịt, cầm trong tay nặng trịch, không phải tơ mà cũng không phải da, chẳng biết làm bằng thứ gì. Cậu đang thắc mắc thì nghe Mục Nhân Thanh nói: “Đại huynh, đừng đùa giỡn nữa. Bảo vật này làm sao cho nó được?”
Viên Thừa Chí nghe vậy mới biết là vật quý, bèn hai tay nâng lên trả lại.
Mộc Tang đạo nhân không nhận, lại nói: “Hừ! Lão đạo này đâu có bủn xỉn như sư phụ của ngươi? Đồ đã tặng rồi, ta quyết không nhận lại! Ngoan ngoãn cầm lấy đi.”
Viên Thừa Chí không dám nhận, nhìn qua xem sư phụ nói sao. Mục Nhân Thanh bảo: “Đã vậy thì ngươi đa tạ đạo trưởng đi.”
Thừa Chí liền quỳ xuống lạy tạ. Mục Nhân Thanh nghiêm giọng nói: “Đây là một báu vật để phòng thân. Năm xưa đạo trưởng đã tốn biết bao nhiêu tâm huyết, liều mạng vào chỗ chín phần chết một phần sống mới có được. Ngươi mặc thử xem.”
Viên Thừa Chí vâng lời khoác áo vào người, trông hơi rộng so với vóc dáng của cậu.
Mục Nhân Thanh tung người đến chỗ cây thông, dùng ngón giữa và ngón trỏ kẹp vào chuôi kiếm, nhẹ nhàng rút trường kiếm ra rồi nói: “Cái áo này có hai màu chỉ vàng đen, đó là lông vượn và kim ty hỗn hợp dệt thành. Bất cứ loại vũ khí nào cũng không làm tổn thương nó được.” Nói xong, ông đưa kiếm đâm ngay vào trước ngực Viên Thừa Chí.
Nhát kiếm này nhanh vô cùng, cậu bé không sao tránh né được. Chưa kịp kinh hãi, cậu đã thấy mũi kiếm chạm vào áo rồi nhẹ nhàng dội ngược lại ngay. Viên Thừa Chí cả mừng, vội vã quỳ xuống, dập đầu cảm tạ Mộc Tang đạo trưởng.
Mộc Tang đạo nhân mỉm cười nói: “Lúc nãy ngươi thấy cái này chỉ là một cục đen thui, chẳng bắt mắt gì cả, chắc là nghĩ mình khấu đầu oan uổng. Lần này mới thật sự cam tâm tình nguyện.”
Thừa Chí nghe mà thẹn đỏ chín cả mặt, ấp a ấp úng không biết nói gì.
Nói chuyện một lúc, Mục Nhân Thanh bỗng hỏi: “Gần đây có tin tức gì về hắn không?”
Mộc Tang đạo nhân lúc nào cũng cười rạng rỡ, nhưng nghe nhắc đến người ấy, bất giác thở dài, thần sắc kém vui hẳn đi. Lão nói: “Chẳng giấu gì đại ca, không biết hắn đã trốn chui trốn lủi ở đâu, nhưng gần đây lại xuất hiện ở gần Sơn Hải Quan. Lão đạo không muốn gặp hắn, phải tới Hoa Sơn này tránh né. Phen này đến đây đúng là chạy trốn.”
Mục Nhân Thanh nói: “Đạo huynh hà tất phải đề cao người khác mà làm giảm oai phong của mình. Dựa vào công phu xuất thần nhập hóa của đạo huynh, chẳng lẽ không thể đối phó với hắn hay sao?”
Mộc Tang đạo nhân lắc đầu, ủ rũ nói: “Không phải là lão đạo không đối phó nổi, chỉ vì không thể nhẫn tâm. Mấy năm nay ta đã đấu với hắn hai lần. Lần đầu ta chiếm thượng phong, nhưng cuối cùng nhớ tới tình nghĩa đồng môn, vả lại trước khi mất tiên sư cũng dặn ta phải chiếu cố quan tâm hắn cho tử tế. Lão đạo vô phương dạy dỗ, để hắn càng ngày càng lún sâu vào con đường tà ác, trong lòng có phần áy náy nên không thể ra tay được. Lần động thủ thứ hai, không biết hắn học được ở đâu mấy công phu tà phái, đâm trúng vào ngực ta một kiếm. May có cái áo này hộ thân, nên mũi kiếm không xuyên vào được. Hắn kinh hãi một phen, tưởng ta đã luyện thành công phu kỳ diệu, nên sơ suất bị ta kiềm chế. Lúc đó ta cố khuyên răn một hồi, nhưng hắn chỉ cười lạnh nhạt. Trước khi về, hắn còn quay lại nói là ta chỉ dựa vào bảo y hộ thân, lần sau động thủ sẽ đâm vào mặt cho ta hết đường tránh né.”
Mục Nhân Thanh giận dữ nói: “Loại người cuồng vọng như thế, đạo huynh lại nghĩ đến tình nghĩa đồng môn mà tha mạng. Mục mỗ thì chẳng liên can gì đến hắn. Đạo huynh cứ ở tạm đây ít lâu, bây giờ ta xuống núi tìm hắn ngay. Nếu khi gặp mà thấy hắn vẫn làm chuyện bậy bạ, Mục mỗ sẽ xách thủ cấp của hắn về gặp đạo huynh.”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Đa tạ hảo ý của huynh. Nhưng ta vẫn mong hắn có thể giác ngộ hối cải, sửa chữa lỗi lầm. Mấy năm nay ta đã suy xét tỉ mỉ võ công tà môn ngoại đạo của hắn, nếu thật sự phải động thủ thì chưa chắc gì hắn đã thắng được ta. Ta né lên Hoa Sơn, chỉ mong mắt không thấy, tai không nghe là được. Nếu hắn có thể hối cải, dĩ nhiên đó là phước của sư môn. Nếu không, cứ để hắn làm những việc bất nghĩa, sẽ có người khác giết hắn.”
Lão thở ra một hơi, lại tiếp: “Nhưng hắn có chịu hối cải hay không? Ôi, khó lắm!”
Mục Nhân Thanh nói: “Con người này háo sắc tham hoa, đã làm hại danh tiết của không ít nữ nhân con nhà lương thiện; gần đây lại càng lợi hại. Loại võ lâm bại hoại này mà lần sau rơi vào tay đạo huynh, thiết tưởng không cần nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ nữa. Đạo huynh thanh lý môn hộ, diệt trừ những kẻ bất nhân, đó chính là bảo vệ danh dự sư môn, báo đáp ân đức của tôn sư.”
Mộc Tang đạo nhân gật đầu đáp: “Huynh nói rất đúng. Ôi…” Nói chưa dứt câu, lão đã thở dài sườn sượt.
Viên Thừa Chí nghe hai người nói chuyện, biết đại khái Mộc Tang đạo nhân có một người sư huynh đệ gì đó, nhân phẩm không được đoan chính nhưng võ công rất cao cường. Cậu bé cầm bộ bảo y, nói với Mộc Tang đạo nhân: “Đạo trưởng! Đạo trưởng cần diệt trừ kẻ ác ôn đó, nên mặc cái áo này cho chắc ăn hơn. Khi trừ khử xong, đạo trưởng hãy ban cho con sau. Võ công của con chưa đủ để đi động thủ với kẻ xấu đâu, nên món báu vật này chưa cần dùng đến.”
Mộc Tang vỗ vai Viên Thừa Chí, bảo: “Đa tạ hảo ý của ngươi. Nhưng dù ta không có cái áo này hộ thân, hắn cũng không giết được ta. Công phu tà môn của hắn chỉ dùng để đánh lén khi đối phương chưa phòng bị, dùng được một lần chứ không thể dùng tới lần thứ hai. Ngươi không cần lo lắng cho ta.”
Thấy đạo trưởng khổ tâm, Mục Nhân Thanh cũng chẳng vui vẻ gì. Ông biết chỉ có một việc bắt được lão đạo sĩ già quên hết mọi sự trên đời, bèn nói: “Chuyện này nói mãi rồi, càng nghe càng mất vui. Này, lão đạo kia! Kỳ nghệ của lão…”
Vừa nghe hai chữ “kỳ nghệ”, da thịt trên mặt Mộc Tang đạo nhân bỗng giãn hẳn ra, vẻ mặt vui tươi sáng sủa hẳn lên, trông như trẻ lại đến hai mươi tuổi. Mục Nhân Thanh tiếp: “… mấy năm nay có tiến bộ chút nào không?”
Mộc Tang đáp ngay: “Võ công của lão đạo thì trước giờ vẫn không bằng huynh, nhưng bản lãnh chơi cờ thì có thể làm sư phụ của huynh được. Nếu huynh không tin, chúng ta cứ…”
Mục Nhân Thanh mỉm cười ngắt lời: “Để ta lãnh giáo công phu Thiên Biến Vạn Kiếp của đạo trưởng một phen. Đạo trưởng có mang đồ nghề tới hay không?”
Mộc Tang đạo nhân cười tươi, lấy sau lưng ra một bàn cờ vây, hai gói quân cờ, rồi đáp: “Loại đồ nghề này, lão đạo quyết không để xa mình một tấc. Chắc là huynh sợ kỳ nghệ không bằng ta nên tránh né vụ chơi cờ, định chối là trên Hoa Sơn không có bàn cờ. Phen này thì không chối được rồi. Ha ha, ha ha…”
Ông câm khiêng bàn ghế ra, hai người ngồi chơi cờ dưới bóng cây.
Viên Thừa Chí không hiểu gì về cờ vây. Mộc Tang đạo nhân vừa chơi cờ vừa giảng giải cho cậu hiểu, không ngớt khoa trương nào là kỳ nghệ của mình vô địch, nước cờ này cao minh; sư phụ của Viên Thừa Chí không thể là địch thủ… Mục Nhân Thanh chỉ mỉm cười suy nghĩ, mặc kệ lão ta muốn bốc phét thế nào cũng được.
Chơi cờ vây cho tinh xảo thì khó, nhưng luật chơi cờ chỉ học một chút là hiểu ngay. Viên Thừa Chí mới xem xong một ván đã biết được đại khái.
Cái bàn cờ này làm bằng thép tinh luyện, quân cờ đúc bằng sắt đen, quân trắng thì phủ thêm một lớp đồng trắng. Quân cờ đặt xuống bàn cờ phát ra những tiếng “tinh tang” rất êm tai.
Ván đầu Mộc Tang đạo nhân thắng được hai quân. Hai người bạn cố tri chơi cờ từ giữa trưa đến tối, cả thảy được ba ván. Mộc Tang đạo nhân thắng hai thua một, vẫn muốn chơi tiếp, nhưng Mục Nhân Thanh đã nói: “Ta không còn đủ tinh thần chơi với đạo huynh nữa.”
Bấy giờ Mộc Tang mới chịu đi ngủ, nhưng vẫn còn lưu luyến.
Liên tiếp ba ngày, ngày nào Mộc Tang cũng bắt Mục Nhân Thanh chơi cờ với mình, Viên Thừa Chí hứng thú đứng xem. Đến sáng ngày thứ tư, Mục Nhân Thanh nói: “Hôm nay chúng ta nghỉ chơi một ngày, để ta truyền kiếm pháp cho đồ đệ đã.”
Mộc Tang đạo nhân biết đây là việc quan trọng, không mở miệng cản trở. Lão chờ đợi suốt ngày đến ngứa ngáy tay chân, khó khăn lắm mới đợi được tới lúc Mục Nhân Thanh dạy xong. Mộc Tang đạo nhân lập tức túm lấy ông, nói: “Lại đây, lại đây! Chúng ta giết nhau ba ván nữa.”
Mục Nhân Thanh dạy kiếm nửa ngày, đã thấy hơi mệt mỏi. Nhưng ông biết Mộc Tang đạo nhân rất ghiền chơi cờ, mình mà không chịu thì e rằng cả đêm lão ta ngủ không yên giấc được, nên đành phải ngồi xuống so cờ với lão.
Viên Thừa Chí đang ôn luyện mấy chiêu kiếm pháp mới học, đột nhiên nghe Mộc Tang đạo nhân vui vẻ la lên: “Thừa Chí! Mau mau qua đây xem, sư phụ của ngươi hỏng bét rồi.” Cậu vội vàng chạy tới.
Kỳ nghệ của Mục Nhân Thanh vốn đã không bằng Mộc Tang đạo nhân, bây giờ miễn cưỡng mà chơi lại càng bất lợi. Chưa đến nửa cuộc mà ông đã bị kiềm chế gần trọn bàn cờ.
Mục Nhân Thanh thấy một mảng cờ trắng vô cùng nguy cấp, bắt buộc phải đặt một quân làm mắt để cứu sống, nhưng bao nhiêu yếu điểm ở bốn góc đều bị quân cờ đối phương chiếm cứ cả rồi. Ông cầm một quân cờ trên tay, suy nghĩ mãi không nói tiếng nào, nhìn tới ngó lui cũng không tìm được chỗ đặt quân cờ xuống.
Viên Thừa Chí đứng bên xem, nhịn không nổi nữa bèn la lên: “Sư phụ, sư phụ đặt ở đây này! Mộc Tang sư bá nhất định sẽ phải qua cứu. Sư phụ lại đặt thêm chỗ này nữa, thì có thể giải vây để thoát ra ngoài. Không biết con nói như vậy có đúng không?”
Mục Nhân Thanh xưa nay tính khí điềm đạm, không giống cái kiểu tự phụ hiếu thắng của Mộc Tang, bèn đi theo nước cờ của đồ đệ chỉ cho. Quả nhiên một mảng cờ trắng được giải thoát ra ngoài, lại còn vây khốn được một đám cờ đen. Ván này lẽ ra Mục Nhân Thanh thảm bại, nhờ một nước cờ của đệ tử mà cuối cùng chỉ thua có năm quân.
Mộc Tang đạo nhân tấm tắc khen ngợi tâm cơ linh xảo của Viên Thừa Chí, bèn chấp cậu bé chín quân, rủ chơi một ván. Tuy rằng Viên Thừa Chí không hiểu cách chơi của người xưa, nhưng đối với môn cờ vây thì quan trọng nhất là ngộ tính. Cổ nhân từng nói: “Hai mươi tuổi chưa thành quốc thủ, chơi suốt đời cũng chỉ vô vọng.” Con người thông minh như Tô Đông Pha, về kinh sử, văn chương, thư họa, thi từ, không món nào không hiểu, không món nào không tinh, nhưng đối với cờ vây thì rút cuộc chỉ là một tay phàm tục. Đó là một chuyện áy náy suốt đời của họ Tô. Bởi thế Tô Đông Pha có câu thơ tự an ủi: “Thắng cố nhiên là sướng, nhưng bại cũng phải vui”. Sau này người đời lại khen họ Tô tâm địa khoáng đạt, không nghĩ nhiều đến chuyện thắng bại.
Độc giả nên biết, chuyện “đắc thất” trong cờ vây rất nặng. Tranh một quân cờ hay một khu đất, nhất định phải tính toán kỹ càng, tuyệt đối không được dễ dãi mới có thể đắc thắng. Ai chơi cờ mà thường xuyên có ý niệm “thắng sướng bại vui”, dĩ nhiên không phải là không thể rèn luyện cá tính, tiêu khiển cho thoải mái. Nhưng nhất định người đó sẽ “sướng” ít, “vui” nhiều.
Tính tình Mục Nhân Thanh đạm bạc hiền hòa, Mộc Tang đạo nhân cảm thấy chơi cờ với ông thiếu phần quyết liệt, không đã tay lắm. Bây giờ lão chơi với Viên Thừa Chí thì hoàn toàn khác hẳn. Viên Thừa Chí khá thông minh về kỳ nghệ, lại còn tính trẻ nít nên cố tìm thiên phương vạn kế để chiến thắng vị sư bá này. Tuy rằng ván này Mộc Tang đạo nhân vẫn thắng, nhưng phải đương đầu với không ít phen nguy hiểm, không thể thắng một cách dễ dàng được.
Sáng sớm hôm sau, Mộc Tang đạo nhân lại kéo Viên Thừa Chí chơi cờ, bị cậu bé đánh bại ba ván liền. Lão phải chùn lại, đổi từ chấp chín quân cờ xuống còn chấp tám quân. Không đến một tháng, Viên Thừa Chí đã nhớ rất nhiều xảo thuật, những nước cờ kỳ diệu mà Mộc Tang đạo nhân đã dùng, kỳ nghệ tiến bộ rất nhiều. Mộc Tang đạo nhân chỉ còn có thể nhường cậu ba quân, đánh mới có thắng có thua.
Viên Thừa Chí dụng tâm về môn cờ vây, thời gian luyện võ tự nhiên phải bớt đi, kiếm pháp tiến bộ không bằng lúc luyện quyền chưởng. Mục Nhân Thanh nể mặt ông bạn già, lúc đầu không nói gì, nhưng sau này nhìn thấy một già một trẻ suốt ngày quên ăn quên ngủ, ngồi chơi cờ riết, chẳng được tích sự gì. Ông bèn thầm dặn Thừa Chí: “Mỗi ngày chỉ được chơi một ván cờ với Mộc Tang đạo nhân thôi, phải để thời gian luyện võ.”
Nghe sư phụ nhắc nhở, Viên Thừa Chí chợt nghĩ: “Đúng là mình đã hoang phí nhiều ngày không luyện võ!” Cậu bứt rứt trong lòng, lập tức đi luyện kiếm hai ngày liền.
Hai ngày sau Mộc Tang đạo nhân rủ chơi cờ, cậu đáp là phải luyện kiếm. Mộc Tang đạo nhân bèn nói: “Ngươi cứ tới đây chơi cờ với ta. Chơi xong, ta sẽ dạy cho ngươi một môn công phu. Sư phụ của ngươi nhất định sẽ hoan hỉ.”
Thừa Chí nói: “Để con đi hỏi sư phụ đã.”
Mộc Tang đạo nhân bảo: “Được! Ngươi đi hỏi đi.”
Viên Thừa Chí liền chạy vào nhà, nói cho sư phụ biết. Mục Nhân Thanh vừa nghe đã mừng thầm.
Ngoại hiệu Mộc Tang đạo nhân vốn không phải là Thiên Biến Vạn Kiếp. Hồi còn trẻ, vì khinh công của lão tuyệt diệu, thân pháp biến hóa ảo diệu vô cùng, người trên giang hồ mới tặng cho lão một ngoại hiệu là Thiên Biến Vạn Hóa Thảo Thượng Phi. Sau này, lão mới say mê môn cờ vây. Đạo lý của cờ vây thường nhắc đến chữ “kiếp”, tức là “cướp vị trí”, vô số biến hóa đều từ đó mà sinh ra.
Võ công của Mộc Tang đạo nhân rất cao, mà lão lại cho là bình thường chẳng có chi kỳ lạ. Còn kỳ nghệ của lão chỉ hơn người thường một tí, lão lại tự phụ vô cùng, nên mới tự đặt một cái ngoại hiệu là Thiên Biến Vạn Kiếp Kỳ Quốc Thủ. Mọi người nể mặt, không tiện bỏ cái ngoại hiệu lão tự đặt, nhưng ai cũng biết kỳ nghệ của lão còn cách hai chữ “quốc thủ” hàng vạn dặm, nên mới gọi tắt đi là Thiên Biến Vạn Kiếp.
Thật ra bốn chữ này có ý ca ngợi võ công của lão biến hóa hàng ngàn chỗ, khiến người ta phải bái phục vạn đời. Nhưng nếu ai giải thích như vậy trước mặt, thì Mộc Tang nhất định không bằng lòng, thậm chí còn nổi giận nữa. Phải bắt đối phương thừa nhận cái ngoại hiệu này là chỉ về kỳ nghệ, hoàn toàn không có liên quan gì đến võ công, lão mới chịu thôi.
Trước nay chính Mục Nhân Thanh cũng phải thán phục võ công của lão có chỗ độc đáo. Lão chưa chịu nhận một đồ đệ nào, bây giờ lại đồng ý truyền thụ võ công cho Viên Thừa Chí, nhất định chỉ vì nhịn không nổi cơn nghiện chơi cờ.
Mục Nhân Thanh vội vã kéo tay Thừa Chí dắt ra, thi lễ với Mộc Tang đạo nhân rồi nói: “Huynh chịu dạy cho tiểu đồ của ta, ta xin đa tạ trước.” Ông lại bảo Thừa Chí dập đầu bái sư Mộc Tang đạo nhân.
Viên Thừa Chí quỳ ngay xuống, nhưng Mộc Tang tung vọt người đi, vừa xua hai tay loạn lên vừa nói: “Ta không nhận đồ đệ! Nếu nó muốn ta dạy võ công, thì phải dựa vào bản lãnh mà thủ thắng.”
Mục Nhân Thanh kinh ngạc hỏi: “Thằng bé này có bản lãnh gì mà thắng được huynh?”
Mộc Tang đạo nhân không đáp ngay câu hỏi mà nói: “Về kiếm pháp hay quyền thuật, thì Mục huynh thiên hạ vô song, lão đạo này bái phục chịu ở hạ phong. Thằng bé này chỉ cần học được hai ba phần công phu của huynh, là trên giang hồ đã khó tìm địch thủ rồi. Nhưng nói về khinh công hay ám khí, thì lão đạo cũng có một hai chiêu.”
Mục Nhân Thanh nói: “Ai chẳng biết huynh là Thiên Biến Vạn Kiếp, chiêu thức kỳ lạ biến hóa hàng muôn thứ?”
Mộc Tang mỉm cười lắc đầu: “Bốn chữ Thiên Biến Vạn Kiếp là nói về kỳ nghệ của lão đạo thiên hạ vô song, hoàn toàn không có liên quan gì đến võ công, tuyệt đối không nên nhầm lẫn. Chỉ vì Mục huynh là tông sư một phái, chuyện gì cũng đàng hoàng ngay ngắn, khí phách phong độ, nên mới không chịu hạ mình luyện những môn khinh công, ám khí. Vì thế mà lão đạo mới được tự hào về hai môn đó. Bây giờ huynh cứ để Thừa Chí mỗi ngày chơi với ta hai ván cờ, ta chấp nó ba quân. Nếu ta thắng, thì coi như nó có lòng hiếu thảo, bỏ thời giờ ra tiêu khiển cho sư bá. Nếu nó thắng một ván, ta sẽ dạy cho nó một chiêu khinh công. Nếu nó thắng liền hai ván, thì ngoài khinh công ra ta còn dạy thêm một chiêu ám khí. Chơi cờ phải có đặt cược mới vui, thì đó chính là những thứ để đặt cược rồi. Huynh thấy như vậy có công bằng hay không?”
Mục Nhân Thanh nghĩ bụng: “Lão đạo này thật là biết khôi hài.” Ông bèn nói: “Được! Chúng ta cứ thế mà làm. Ta vốn sợ Thừa Chí mê chơi cờ mà chậm rèn luyện công phu. Bây giờ chơi cờ có ích lợi như thế, thì mỗi ngày hai người cứ chơi tám ván hay mười ván, ta cũng mặc kệ.”
Mộc Tang đạo nhân và Thừa Chí nghe vậy cả mừng, một già một trẻ lại tiếp tục chơi cờ.
Hôm đó Mộc Tang đạo nhân thắng một ván, thua một ván. Chơi xong, lão bảo Thừa Chí: “Hôm nay ta dạy cho ngươi một chiêu khinh công. Tuy chỉ là một chiêu, nhưng nếu ngươi cố gắng luyện tập thì có thể dùng suốt đời rồi. Cố gắng nhìn kỹ đây!”
Vừa nói xong, không thấy lão cong lưng hay lấy đà gì cả, đột nhiên toàn thân bay vọt lên, đứng trên ngọn một cây lớn. Nhào lộn trên không một cái, lão lại đứng ngay trước mặt Viên Thừa Chí. Cậu bé chỉ biết há mồm trợn mắt, ngơ ngác rồi vỗ tay hoan hô vang dội.
Mộc Tang liền dạy cho Viên Thừa Chí chiêu khinh công Phiên Vân Thừa Long đó. Tuy chỉ là một chiêu, nhưng để thi triển cho đúng phải luyện kình lực ở hông đùi, cước pháp, nhãn lực, vô số ảo diệu bên trong. Thừa Chí hết sức dụng tâm mà nhất thời cũng không nhớ hết được.
Ngày hôm sau Thừa Chí thua liền hai ván, không được gì cả. Mộc Tang đạo nhân cả mừng, vô cùng hả hê. Đến sáng ngày thứ ba, Viên Thừa Chí đột nhiên xuất kỳ binh, bỏ trống cả bốn góc, chỉ lo giữ chặt trung ương, quả nhiên thắng cả hai ván. Mộc Tang đạo nhân không phục, đòi chơi hai ván nữa, lần này một thắng một thua. Cộng lại, Mộc Tang phải dạy cho Viên Thừa Chí ba chiêu.
Mộc Tang đạo nhân dạy cho Viên Thừa Chí hai chiêu khinh công nữa. Đợi cậu nhớ kỹ xong, lão mới hỏi: “Khi gặp địch thủ thì ta sử dụng binh khí gì, ngươi có biết không?”
Viên Thừa Chí lắc đầu. Mộc Tang đạo nhân mỉm cười, nắm lấy bàn cờ nói: “Trước kia ta cũng dùng kiếm, nhưng gần đây đã chuyển qua cái món này.”
Viên Thừa Chí đã thấy cái bàn cờ này đúc bằng thép tốt, nhưng cứ tưởng lão thích chơi cờ nên lúc nào cũng mang theo, sợ hư hỏng nên mới dùng thép đúc nên. Không ngờ đó cũng là binh khí để đối địch.
Mộc Tang đạo nhân nắm lấy một vốc quân cờ, cười nói: “Đây là ám khí của ta.”
Lão tiện tay ném ra, mười mấy quân cờ văng lên không trung. Đợi rơi xuống, Mộc Tang đạo nhân đưa bàn cờ đón lấy. Chỉ nghe một tiếng “kịch” duy nhất, mười mấy quân cờ đồng thời nằm yên trên bàn cờ. Thừa Chí há hốc mồm, hồi lâu không nói được tiếng nào.
Mười mấy quân cờ được quăng lên trời, khi rơi xuống nhất định phải có trước có sau. Hơn nữa, khi quân cờ bằng sắt rớt trúng bàn cờ bằng thép, nhất định phải vang lên những tiếng leng keng. Thế mà mười mấy quân cờ rơi xuống chỉ nghe “kịch” một tiếng, dĩ nhiên đã được ném lên bằng thủ kình đều đặn phi thường. Quân cờ rơi xuống bàn cờ không nảy đi chút nào, vì bàn tay phải của lão đạo hơi gằn xuống một chút, triệt tiêu hết đà rơi. Thế là mười mấy quân cờ rơi từ trên trời xuống mà giống như dùng tay đặt lên nhẹ nhàng vậy.
Mộc Tang đạo nhân mỉm cười, lại nói: “Muốn phóng ám khí thì phải luyện lực đạo trước, rồi mới luyện phát xạ chính xác sau. Ám khí khi phóng ra phải nắm chắc được cân lượng nặng nhẹ, rồi mới tính cho chính xác được.”
Sau đó Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho Viên Thừa Chí tâm pháp vận thủ kình để ném quân cờ ra.
*
* *
Mộc Tang đạo nhân ở lại tuyệt đỉnh Hoa Sơn thấm thoát đã nửa năm. Ngày nào lão cũng chơi cờ với người bạn nhỏ, lưu luyến quên hết thời gian, vui vẻ quên hết mệt mỏi. Toàn bộ tâm pháp công phu về khinh công ám khí, trong nửa năm này lão hoàn toàn không giấu giếm gì, dốc túi truyền thụ hết cho Viên Thừa Chí.
Hôm nay đã là đầu mùa đông rồi. Buổi sáng Viên Thừa Chí luyện quyền kiếm, buổi chiều cậu ngồi chơi cờ dưới tán cây với Mộc Tang đạo nhân.
Lúc này kỳ nghệ của cậu đã cao hơn Mộc Tang rồi. Nếu hai người chơi sòng phẳng không nhường nước nào, thì Mộc Tang đạo nhân thắng ít thua nhiều. Cho dù Thiên Biến Vạn Kiếp, nhưng biến tới biến lui vẫn thua trận như thường. Thua càng nhiều, lão càng phải truyền thụ lắm thứ võ công.
May mà kỳ nghệ của lão đạo biến hóa có chừng, nhưng võ học của lão lại bao la bát ngát. Thua cờ nhiều tới đâu, lão vẫn có đủ chiêu số để trả nợ cho Viên Thừa Chí, tưởng chừng không bao giờ cạn kiệt.
Hôm đó, lão dạy cho cậu thủ pháp phát xạ ám khí Mãn Thiên Hoa Vũ, đồng thời bắn ra bảy quân cờ, quân cờ nào cũng phải bắn trúng huyệt đạo địch thủ. Loại võ công thượng thừa này không phải một sớm một chiều mà học được. Viên Thừa Chí đã khổ luyện hai tháng về công phu phát xạ ám khí này, nhưng mới đồng thời phát ra ba bốn quân cờ mà mỗi lần cũng chỉ trúng được một hai quân.
Mộc Tang đã làm một cái bia bằng gỗ, trên bia vẽ hình người, sai ông câm cầm chạy qua chạy lại. Mộc Tang la lên: “Thiên Tông, Kiên Trinh, Ngọc Chẩm.”
Viên Thừa Chí bắn ra ba quân cờ, đánh trúng hai huyệt Thiên Tông, Ngọc Chẩm, còn huyệt Kiên Trinh bị lệch đi.
Mộc Tang lại la lên: “Quang Viên, Thần Phong, Trung Đỉnh.”
Ông câm vừa chạy vừa lắc lư tấm bia gỗ. Viên Thừa Chí thi triển khinh công rượt theo. Tay cậu vừa vẫy ra, Mộc Tang đã la lên: “Huyệt Quang Viên không trúng.”
Lão đang định ra lệnh tiếp, bỗng nghe Thừa Chí kinh hãi la lớn. Cậu bé chạy tới nắm lấy cánh tay ông câm, dùng sức kéo mạnh.
Ông câm ngơ ngác quay đầu lại, đột nhiên thấy một con vượn to lớn đứng sau lưng mình, mặt mũi xấu xí ghê tởm, nhe nanh múa vuốt, chồm chồm muốn phóng tới. Ông câm bèn đưa tấm bia gỗ toan đánh lên đầu con vượn đó. Đột nhiên tay ông bị túm chặt, thì ra bị Mộc Tang đạo nhân nắm kéo lại.
Mộc Tang la lên: “Thừa Chí! Ngươi đối phó với nó.”
Thừa Chí biết Mộc Tang sư bá kiểm tra công phu của mình, bèn lớn tiếng vâng dạ. Cậu bắt chéo hai tay, nhẹ nhàng tung người đến trước mặt con vượn khổng lồ này.
Con vượn thấy cậu không sợ mà nhảy đến trước mặt, bèn quay lưng muốn chạy. Thừa Chí vung tay đánh mạnh vào lưng nó, nghe “bịch” một tiếng. Con vượn khổng lồ đau quá kêu lên chét chét, quay lại vươn cánh tay dài muốn túm lấy địch thủ.
Thừa Chí nhún người nhảy ra, đang muốn tìm chỗ sơ hở để đánh tiếp, đột nhiên cảm thấy sau lưng có gió, hình như bị đánh lén. Cậu không kịp quay đầu lại, dùng chân trái điểm mạnh xuống đất, nhảy bật lên không trung. Chưa rơi trở xuống, cậu đã thấy kẻ đánh lén mình là một con vượn khổng lồ khác.
Viên Thừa Chí đã lên núi luyện võ mấy năm, nhưng chỉ chiết chiêu với sư phụ, chưa từng tỉ đấu thật sự. Hai con vượn khổng lồ này tuy dữ tợn, nhưng cậu cũng không sợ hãi, thi triển Phục Hổ Chưởng để đối địch. So với hồi nhổ lông báo trên đỉnh núi Thánh Phong, lúc này kình lực cùng chưởng pháp đương nhiên đã khác rất xa.
Nghe tiếng reo hò, Mục Nhân Thanh chạy ra, nhìn thấy Viên Thừa Chí đang ra sức giao đấu với hai con thú. Tay cậu đánh tới đâu, hai con vượn này đau đớn kêu la đến đó. Mục Nhân Thanh mừng rỡ nghĩ thầm: “Thằng bé này không uổng một phen tâm huyết của ta.”
Hai con vượn khổng lồ này trúng đòn nhiều, không dám tới gần nữa, chỉ nhảy tới nhảy lui tìm cơ hội để phóng tới.
Mục Nhân Thanh thấy rõ ràng chưởng pháp của Viên Thừa Chí đủ kiềm chế hai con súc sinh, nhưng muốn xem thử kiếm pháp của cậu thế nào, liền chạy vào trong lấy trường kiếm ra, hô lớn: “Đón kiếm!” Rồi ông tung thanh kiếm lên trời.
Viên Thừa Chí vọt người lên, vươn tay phải ra bắt lấy chuôi kiếm. Trường kiếm vào tay như hổ thêm cánh, người chưa rơi xuống cậu đã xuất chiêu Xuyên Trâm Nhẫn Tuyến, đâm vào vai một con vượn lớn. Nó vội vã nhảy lùi tránh né.
Viên Thừa Chí thi triển kiếm pháp, lập tức hai con vượn khổng lồ bị trùm trong lưới kiếm quang. Mộc Tang kêu lên: “Thừa Chí! Đừng hại mạng chúng.”
Thừa Chí vâng một tiếng, múa kiếm càng gấp rút hơn. Lúc này cậu muốn giết hai con vượn lớn này thật dễ như trở bàn tay. Chỉ một lúc là chúng bị kiếm vạch vào mông, vai, đùi, đầu, trúng thương liên tục. Nhưng rút cuộc Thừa Chí vẫn không ra sát thủ, chiêu nào cũng chỉ điểm nhẹ tới lại rút về.
Hai con vượn lớn này rất có linh tính. Lúc đầu chúng còn cố gắng tránh né, nhưng về sau nhận ra hễ mình tránh né thì lưỡi kiếm đuổi theo, khi dừng chân thì đối phương lại thu hồi chiêu thức, hiểu rằng địch thủ cố ý nương tay. Chúng đồng thanh kêu lên mấy tiếng rồi khom mình xuống đất, hai tay ôm đầu, không phóng tới mà cũng không chạy trốn nữa. Bốn con ngươi chuyển động qua lại, nhìn Thừa Chí lộ ra sắc thái van xin.
Thấy Viên Thừa Chí đã kiềm chế được hai con súc sinh, ông câm vui mừng đến nỗi giậm chân vỗ tay, chạy ngay vào nhà lấy ra một cuộn dây gai, trói hai con vượn khổng lồ này lại. Chúng nhe răng gào thét, nhưng ông câm chỉ dùng sức bấu cho một cái là gân cốt đau kịch liệt, không dám phản kháng nữa. Hai con vượn đành ngoan ngoãn chịu trói, miệng vẫn khẹc khẹc không dứt.
Mộc Tang đạo nhân và Mục Nhân Thanh đều lên tiếng khen ngợi võ công Viên Thừa Chí có phần tiến bộ. Cậu bé vui mừng, lấy thuốc kim sang ra băng bó vết thương cho hai con vượn, lại hái cho chúng một ít trái cây, hạt dẻ.
Nuôi được bảy tám ngày, hai con được tháo bỏ dây trói nhưng vẫn không bỏ trốn. Thừa Chí cả mừng, đặt tên cho con đực là Đại Oai, con cái là Tiểu Oai, hễ gọi tên là vượn đến ngay.
Mục Nhân Thanh và Mộc Tang thấy con vượn lớn lông lá xù xì lại được đặt cho cái tên nghe có vẻ lanh lợi, không khỏi buồn cười.
Đại Oai và Tiểu Oai càng nuôi càng thuần, hễ Thừa Chí ra lệnh là lập tức thi hành.
*
* *
Một hôm, hai con vượn lớn tới bên bờ vực thẳm ở phía tây để hái trái cây. Vực thẳm này có một mặt hơi nghiêng có thể leo trèo, còn mặt kia thì giống như một bức tường rất phẳng, hoàn toàn không có chỗ nào để bám víu.
Hai con vượn vừa hái trái cây vừa đùa giỡn, Tiểu Oai đột nhiên bị sẩy chân, rơi về phía vách núi trơn tru. Chỗ này cách mặt đất hơn bốn mươi trượng, rơi xuống đương nhiên là tan xương nát thịt.
Đại Oai sợ đến mất hồn, chạy đến bên vách núi nhìn xuống thì thấy Tiểu Oai may mắn chưa rơi hẳn xuống. Hai cánh tay dài ngoằng của nó đang móc vào một cửa động trên vách núi. Sơn động này đã lâu năm không ai lui tới, đất đá bịt kín cửa động. Lúc Tiểu Oai rơi xuống dọc vách núi, nó đưa tay quơ quào loạn xạ, may mà cạy rớt được chỗ đất đá đó ra, nên mấy ngón tay chụp được nền động.
Thân hình Tiểu Oai treo giữa không trung, lên cũng không được xuống cũng không xong, bối rối không biết làm gì. Đại Oai cũng vô kế khả thi, liền chạy đi tìm người cứu.
Thừa Chí đang luyện kiếm, bỗng thấy Đại Oai bị gai góc cào rớm máu khắp nơi, thần sắc kinh hãi, vừa nhảy nhót vừa kêu chí chóe loạn xạ, biết ngay Tiểu Oai đã gặp nguy hiểm gì rồi. Cậu liền gọi ông câm, theo Đại Oai đi đến đó.
Đại Oai chỉ vào vách núi phẳng phiu, vừa nhảy chồm chồm vừa kêu thảm thiết. Viên Thừa Chí và ông câm đến gần để xem, thấy ngay Tiểu Oai bị treo giữa lưng chừng trời đất.
Viên Thừa Chí quay về thạch thất lấy mấy sợi dây dài, cùng ông câm và Đại Oai chạy đến bên vách núi, nối ba sợi dây lại thòng xuống dưới. Tiểu Oai đã gần kiệt sức, vừa thấy dây là dùng cả hai tay hai chân cố sức túm chặt. Ông câm và Đại Oai hợp sức kéo Tiểu Oai lên.
Tiểu Oai chỉ bị đá núi cào xước mấy chỗ, không nặng gì. Nhưng nó vừa kêu chét chét vừa đưa bàn tay phải ra trước mặt Viên Thừa Chí. Cậu bé nhìn kỹ, thấy trên bàn tay vượn có ghim hai mũi ám khí hình con rắn nhỏ trông rất kỳ lạ. Cậu đưa tay nhổ thử nhưng không giật ra được, Tiểu Oai lại đau đớn nhảy loạn lên, biết ngay loại ám khí này có móc ngược.
Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ có địch đến đây?” Cậu dùng tay ra hiệu, cố hỏi Tiểu Oai xem ai tấn công nó. Tiểu Oai dùng cả tay chân quơ loạn lên, hình như nói là khi thò tay vào động thì bị đâm trúng.
Viên Thừa Chí lại càng kinh ngạc. Cậu nghĩ: “Trên vách núi phẳng phiu này vốn không lộ ra cửa động, mà động đó ở lưng chừng, cách đỉnh núi và cách mặt đất đều khá xa, tại sao lại có ám khí bên trong?” Cậu nghĩ mãi vẫn không đoán ra, bèn đi tìm sư phụ và Mộc Tang đạo nhân.
Hai người nghe Viên Thừa Chí kể lại sự tình, lại thấy ám khí trên bàn tay Tiểu Oai, đều cảm thấy kỳ lạ. Mộc Tang nói: “Trước nay ta thích dùng ám khí, cứ tưởng ám khí của môn phái nào trên giang hồ mình cũng thấy rồi. Thế mà loại tiểu truy hình con rắn này hôm nay mới gặp lần đầu. Lão Mục! Chuyện này thật làm ta mất mặt.”
Mục Nhân Thanh nghe vậy lại càng thấy lạ, liền nói: “Cứ nhổ ra rồi tính.”
Mộc Tang đạo nhân về phòng, lấy trong bao thuốc ra một con dao rất bén. Lão dùng dao rạch bàn tay Tiểu Oai, lấy được hai mũi ám khí ra. Tiểu Oai cũng biết là nó đang được trị thương nên không phản kháng gì cả. Sau đó Mộc Tang bó thuốc cho Tiểu Oai, dùng vải buộc vết thương lại.
Tiểu Oai gặp phải đại nạn này, bộ dạng rầu rĩ vô cùng. Đại Oai phải tới bắt rận và gãi ngứa cho nó như để an ủi, cố gắng làm nó vui trở lại.
Hai mũi ám khí đó dài khoảng hai tấc tám phân, đúc thành hình một con rắn nhỏ thè lưỡi ra. Đầu lưỡi rắn chẻ làm hai nhánh, mỗi nhánh có một cái móc ngược. Thân rắn đen thui, dính đầy bụi đất và rêu. Mộc Tang cầm lên soi tỉ mỉ, dùng dao nhỏ cạo những chỗ dơ bẩn trên thân rắn. Mũi tiểu truy hình con rắn này từ từ sáng lên, lấp lánh ánh vàng.
Mộc Tang nói: “Chẳng trách một mũi ám khí nhỏ xíu mà nặng đến thế, thì ra được đúc bằng vàng. Người sử ám khí này thật là hào phóng, cứ vẫy tay một cái là mất hơn một lạng hoàng kim.”
Mục Nhân Thanh bỗng vỗ đùi một cái, nói: “Cái này của Kim Xà Lang Quân.”
Mộc Tang hỏi: “Kim Xà Lang Quân? Huynh nói là Hạ Tuyết Nghi ư? Nghe nói y đã chết mười mấy năm rồi.”
Nói tới đó, đột nhiên lão la lên: “Không sai! Đúng là y.”
Khi dùng dao nhỏ cạo sạch phía dưới bụng rắn, lão thấy hiện ra một chữ Tuyết. Mũi xà truy kia cũng có chữ này.
Thừa Chí hỏi: “Sư phụ! Kim Xà Lang Quân là ai vậy?”
Mục Nhân Thanh đáp: “Việc này lát nữa hãy nói. Đạo huynh! Theo huynh thì sao y lại giấu ám khí trong cái động này?”
Mộc Tang suy nghĩ mãi không nói gì, ngơ ngác xuất thần. Thừa Chí thấy thần sắc sư phụ và Mộc Tang sư bá trông rất trịnh trọng, không dám hỏi nhiều.
Ăn cơm xong, Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân ngồi trước ngọn nến, nói rất nhiều chuyện, phần lớn Thừa Chí không hiểu. Hình như họ bàn về những chuyện truy sát, báo cừu.
Mộc Tang đạo nhân bỗng nói: “Theo huynh thì Kim Xà Lang Quân đến đây có phải vì trốn tránh kẻ thù không?”
Mục Nhân Thanh nói: “Với võ công cơ trí của y, lẽ ra không cần phải chạy từ Giang Nam đến nơi xa xôi này, trốn vào nơi hoang sơn dã lãnh.”
Mộc Tang lại hỏi: “Chẳng lẽ người này vẫn chưa chết ư?”
Mục Nhân Thanh nói: “Con người này xưa nay hành sự xuất quỷ nhập thần. Nhiều năm đi lại giang hồ, ta chỉ nghe oai danh của y nhưng chưa từng gặp. Cũng nghe nói là y đã chết rồi, nhưng không ai biết chắc y chết như thế nào.”
Mộc Tang đạo nhân thở dài rồi nói: “Con người này hành sự rất kỳ lạ. Lúc thì cùng hung cực ác, lúc lại hành hiệp trượng nghĩa, khiến cho người ta không biết đâu mà lần. Ta đã mấy phen muốn tìm y, nhưng không tìm được.”
Mục Nhân Thanh nói: “Thôi, đừng đoán bừa nữa. Ngày mai chúng ta vào sơn động đó để tìm hiểu thử xem.”
Sáng sớm hôm sau, Mục Nhân Thanh, Mộc Tang đạo nhân, Viên Thừa Chí và ông câm, bốn người mang theo dây nhợ, binh khí trèo lên đỉnh vách núi đó. Mộc Tang đạo nhân bảo: “Để ta xuống dưới.”
Mục Nhân Thanh gật đầu đáp: “Nhớ cẩn thận!”
Ông lấy dây cột vào lưng lão đạo, rồi cùng với ông câm giữ chặt, từ từ thả lão xuống vách núi.
Mộc Tang đạo nhân một tay xách cái bàn cờ thép, tay kia cầm ba quân cờ, xuống đến cửa động, nhìn vào bên trong. Dưới chân lão sương mù dày đặc trôi giạt theo gió, không thấy mặt đất đâu. Tuy khinh công của lão thuộc vào loại đệ nhất thiên hạ, ngày thường vẫn coi những nơi tuyệt lãnh hiểm phong như chỗ đất bằng, nhưng bây giờ cũng thoáng chút run sợ.
Mộc Tang thò đầu nhìn vào trong động, nhưng bên trong tối đen không thấy gì cả, chỉ cảm thấy động này rất sâu. Cửa động nhỏ quá, người không chui vào được, lão bèn dùng một tấm vải quấn lấy bàn tay, nhẹ nhàng thò vào trong động để thăm dò. Đụng phải mấy vật nhọn cắm ở cửa động, sờ vào biết ngay là Kim xà truy, lão nhẹ nhàng rút ra.
Lão rút được tổng cộng mười bốn cái. Đến khi mặt lão đã áp sát cửa động thì không thể mò sâu hơn nữa, lúc đó lão mới hô lớn: “Kéo ta lên đi!”
Mục Nhân Thanh từ từ rút dây kéo lão lên. Còn cách đỉnh núi khoảng hai trượng, Mộc Tang đạo nhân ấn chân phải vào vách đá, tung người nhảy vọt lên. Lão đặt lên bàn cờ một nắm Kim xà truy, mỉm cười nói: “Lão Mục, anh em mình phát tài rồi. Kiếm được nhiều vàng thế này!”
Sắc mặt của Mục Nhân Thanh lại rất nghiêm trọng, cặp mày chau lại. Ông thủng thẳng nói: “Con người quái lạ ấy đặt những thứ này ở đó, không biết để làm gì. Trong động còn gì nữa không? Để ta xuống xem thử.”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Huynh trèo xuống cũng phí công thôi. Cửa động quá nhỏ, không thể chui vào trong được.”
Mục Nhân Thanh cúi đầu ngẫm nghĩ, không nói gì. Viên Thừa Chí bỗng lên tiếng: “Sư bá! Con xuống được không?”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Có thể được. Nhưng vực sâu như thế, ngươi dám xuống không?”
Thừa Chí đáp: “Con dám. Sư phụ, con xuống đó có được không?”
Mục Nhân Thanh thầm nghĩ: “Tay quái khách giang hồ đó đã bố trí vật chí bảo phòng thân ở đây, chắc chắn là có dụng ý. Chúng ta ở kế bên, nhất định phải thám thính, tra xét rõ ràng. Nhưng e rằng trong động có nguy hiểm, thằng bé này một mình vào đó là chuyện đáng lo.” Ông bèn nói: “Ta sợ trong động có chuyện nguy hiểm.”
Thừa Chí nài nỉ: “Sư phụ, con cẩn thận là được rồi.”
Mục Nhân Thanh thấy Viên Thừa Chí đang hưng phấn, nhấp nhổm muốn thử sức một phen, liền gật đầu nói: “Ngươi hãy thắp một ngọn đuốc, đưa vào trong động trước đã. Nếu lửa tắt thì nhất định không được vào.”
Thừa Chí vâng dạ rồi tay phải cầm kiếm, tay trái cầm đuốc, thòng dây trèo xuống vực thẳm. Cậu làm theo lời sư phụ dặn dò, đưa ngọn đuốc vào trong động trước. Nhưng sau khi đất đá bịt kín ở ngoài bị phá vỡ, gió núi lồng lộng đã thổi uế khí trong động bay sạch hết, nên ngọn đuốc không bị tắt.
Viên Thừa Chí từ từ bò vào trong, thấy đây là một ngõ hẹp thiên nhiên, thật ra là một cái kẽ nứt trong lòng núi. Bò được mười mấy trượng, trần động cao dần, tiếp một trượng nữa đã có thể đứng thẳng dậy. Viên Thừa Chí duỗi thẳng lưng, tiếp tục đi tới.
Trước mặt có một chỗ quanh, cậu không dám sơ ý, tay phải cầm kiếm chĩa ra trước ngực, cẩn thận tiến tới. Đi được hai ba trượng, phía trước đột nhiên mở rộng, xuất hiện một động lớn, giống như một tòa thạch thất.
Thừa Chí vừa đưa ngọn đuốc lên soi sáng, bỗng rùng mình kinh hãi. Ở vách đá đối diện có một bộ hài cốt, y phục đã mục nát hư hỏng bảy tám phần, nhưng vẫn còn nhìn rõ hình người.
Nhìn thấy cảnh tượng này, trái tim cậu bé đập thình thịch một lúc. Nhưng trong thạch thất này không có việc gì đáng sợ xảy ra nữa, nên cậu bình tĩnh đưa ngọn đuốc lên cao, quan sát tỉ mỉ.
Trước bộ hài cốt có mười mấy mũi Kim xà truy vứt lung tung dưới đất. Vách đá nhẵn nhụi, trên vách có khắc vô số hình người bằng mũi dao kiếm gì đó. Mỗi hình người đều có tư thế khác nhau, giơ tay giơ chân như đang luyện võ.
Viên Thừa Chí nhìn tỉ mỉ, thấy toàn là đồ hình được vẽ san sát với nhau. Cậu không hiểu người ta vẽ ở chỗ này để làm gì. Cuối những đồ hình có mười sáu chữ cũng khắc bằng lợi khí: “Trọng bảo bí thuật; Tặng người hữu duyên; Làm môn hạ ta; Gặp họa đừng oán.” Chữ viết nghiêng ngả, nét khắc vào đá nông cạn, hình như khi khắc tới những chữ này thì người khắc đã kiệt lực. Bên mười sáu chữ có một cái chuôi kiếm lộ ra. Hình như đó là một thanh kiếm đã đâm sâu vào vách đá, ngập đến tận chuôi.
Cậu bé nổi tính hiếu kỳ, nắm thử chuôi kiếm, dùng sức lắc nhẹ một cái, thấy lay động nhưng không dám rút tiếp.
Đang định xem xét thêm, bỗng nghe thấy ngoài động có tiếng gọi, cậu liền chạy ra ngoài. Qua khỏi chỗ ngoặt, đi hết đoạn đường rộng, Thừa Chí đã nghe rõ giọng Mộc Tang đạo nhân kêu tên mình, liền lớn tiếng vâng dạ rồi bò ra ngoài.
Thì ra Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đứng trên đỉnh núi, thấy sợi dây bị kéo đi rất dài, đợi hồi lâu không thấy cậu bé trở ra, trong lòng lo lắng. Mộc Tang bèn theo sợi dây đó xuống để tìm hiểu, nhưng lão không chui vào trong được, đành phải đứng phía ngoài động mà hô hoán.
Thừa Chí bò ra ngoài, nói với Mộc Tang đạo nhân: “Trong động có nhiều thứ rất kỳ lạ.”
Cậu nắm dây giật một cái, Mục Nhân Thanh và ông câm ở phía trên liền kéo hai người lên. Thừa Chí định thần lại một lát, rồi kể lại những gì đã thấy trong động.
Mục Nhân Thanh nói: “Bộ hài cốt đó nhất định là của Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi. Không ngờ quái kiệt một thời lại vùi xác ở đây.”
Mộc Tang đạo nhân hỏi: “Mười sáu chữ của y để lại, không biết có ý nghĩa gì?”
Mục Nhân Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chắc là y đã chôn cất bảo vật gì trong động đó. Những đồ hình khắc trên vách đá, đương nhiên là võ công của y rồi. Nhưng mười sáu chữ này có chỗ kỳ bí, hình như ý nói ai được tặng phẩm này coi như là môn nhân của y, không chừng sẽ bị họa hoạn.”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Cứ theo nghĩa chữ thì đúng là như thế. Không biết dị nhân này lại bày ra chuyện gì cổ quái nữa đây!”
Mục Nhân Thanh thở dài rồi nói: “Chúng ta không tham lam bảo vật hay bí thuật của y làm gì. Thừa Chí! Ngày mai con vào đó lần nữa, chôn cất hài cốt của vị tiền bối này, đốt nhang đèn rồi khấu bái, coi như tử tế với ông ấy một phen.”
Thừa Chí lập tức vâng dạ.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Thừa Chí cùng ông câm xách cuốc trèo lên vách núi. Lần này Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đã biết trong động không có gì nguy hiểm, nên không đi cùng.
Thừa Chí và ông câm cột chặt một sợi dây dài vào gốc cây to bên vách núi. Cậu bé nghĩ rằng mai táng hài cốt phải tốn khá nhiều thời gian, nên mang theo tới ba ngọn đuốc. Cậu bò vào trong động, dùng cuốc đào một cái lỗ nhỏ dưới đất, cắm đuốc vào, đắp đất đá giữ chắc lại, rồi mới quay đầu lại nhìn bộ hài cốt.
Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Nghe sư phụ nói, hồi sinh tiền người này là một quái hiệp, không biết sao lại từ trần ở chốn hoang sơn này, bỏ xác trong một sơn động bí hiểm, đến nỗi hài cốt không ai chôn liệm”. Cậu đột nhiên nảy lòng trắc ẩn, bèn quỳ xuống trước bộ hài cốt khấu đầu mấy cái, âm thầm khấn vái: “Đệ tử Viên Thừa Chí vô tình nhìn thấy thi thể, hôm nay xin được an táng cho tiền bối. Mong tiền bối yên nghỉ dưới suối vàng.”
Vừa khấn xong, một đợt gió lạnh từ ngoài động thổi vào. Cậu bé cảm thấy hàn khí ép người, rùng mình lạnh thấu xương.
Viên Thừa Chí không dám ở lại lâu trong huyệt động, lập tức lấy cuốc đào đất. Cậu nghĩ: “Đất đá trong lòng núi chắc là rất cứng, nếu đào không được thì đành phải thu dọn hài cốt, đem chôn ở ngoài động”.
Không ngờ khi chạm xuống nền đất, lưỡi cuốc lại ăn ngọt xớt. Thì ra nền đất trong thạch thất này rất mềm, chẳng khác gì đất ở bên ngoài, đào bới rất dễ dàng. Đào được một hồi, đột nhiên cậu nghe một tiếng “keng”, hình như cuốc trúng vào một vật bằng sắt. Đưa đuốc tới nhìn, Viên Thừa Chí thấy đúng là dưới đó có một miếng sắt. Bới thêm mấy cái để gạt bớt đất đá xung quanh, nhìn rõ đó là một cái hộp sắt lớn, vuông vắn chừng hai thước.
Viên Thừa Chí nhấc cái hộp ra, thấy nó cao chừng một thước. Cậu nhấc rất nhẹ nhàng, hình như trong hộp không chứa đựng cái gì cả. Khi mở nắp ra, thấy cái hộp cạn tới mức kỳ cục, chỉ sâu chừng một tấc, cậu bé không khỏi thắc mắc: “Cái hộp cao tới một thước, sao đáy lại cạn như thế? Chắc chắn bên trong còn một tầng nữa.”
Trong hộp có một phong thư, ngoài viết mấy chữ: “Đã lấy được thì mở ra xem”. Viên Thừa Chí theo lời, mở bì thư ra. Bên trong có một tờ giấy, vì lâu năm nên đã ố vàng.
Thư viết: “Vật trong hộp này, tặng cho người có duyên. Phải chôn hài cốt của ta trước, mới được mở hộp ra. Nhất định phải theo lời.” Trong bì thư còn có hai phong thư nhỏ, một phong viết: “Cách mở hộp”, còn phong kia viết: “Cách chôn hài cốt ta”.
Viên Thừa Chí nhấc cái hộp lên lắc thử, quả nhiên bên trong còn chứa vật gì khác. Cậu nghĩ bụng: “Sư phụ ta thương ông bỏ xác chốn hoang sơn, mới bảo ta an táng cho ông. Đâu phải ta tham lam đồ vật của ông?”
Cậu bèn mở bao thư “Cách chôn hài cốt ta”. Trong đó cũng có một tờ giấy, viết: “Nếu ngươi thành tâm chôn hài cốt cho ta, hãy đào trong hang sâu xuống ba thước nữa rồi mới an táng. Ta muốn nằm sâu dưới đất, không bị sâu kiến hủy hoại”.
Thừa Chí nghĩ: “Làm người tốt thì phải làm đến cùng, ta cứ theo lời ông ấy dặn dò”. Cậu bèn đào tiếp xuống dưới. May mà đất trong động này mềm xốp, nên chẳng tốn nhiều sức.
Đào được chừng ba thước, lại nghe một tiếng “keng”, lưỡi cuốc đụng vào một vật. Bới đất đá ra, cậu lại thấy một cái hộp sắt nhỏ hơn, vuông vắn chừng một thước. Thừa Chí thầm nghĩ: “Vị quái hiệp này thật là kỳ lạ. Không biết hộp này đựng cái gì nữa.” Mở hộp ra xem, cậu giật mình kinh hãi, toát mồ hôi lạnh.
Thì ra trong hộp có một tờ giấy, viết: “Ngươi là kẻ nhân nghĩa trung hậu, đã chôn cất hài cốt của ta, ta sẽ đền đáp bằng trọng bảo bí thuật. Nếu ngươi mở hộp sắt lớn, sẽ có độc tiễn bắn ra. Bí lục và đồ phổ trong đó không phải đồ thật, lại có kịch độc, dùng để trừng phạt những kẻ độc ác tham lam. Đồ thật nằm trong hộp sắt nhỏ này.”
Thừa Chí không dám nghĩ nhiều, đặt hai cái hộp sắt qua một bên, cẩn thận di chuyển hài cốt của Kim Xà Lang Quân vào huyệt, lấp đất, thắp nhang đèn lên, bái lạy mấy cái. Sau đó cậu bưng hai cái hộp ra ngoài.
Dưới ánh đuốc, Viên Thừa Chí thấy phía trong cửa động là những tảng đá xếp thành. Cậu hiểu ra, ngày xưa Kim Xà Lang Quân vào trong động rồi mới dùng đá niêm phong cửa động, tự nhốt mình. Không thì một người khôi vĩ như ông, nhìn bộ xương là biết, quyết không thể chui được vào động.
Viên Thừa Chí gỡ những tảng đá xuống, mở rộng cửa động để sư phụ và Mộc Tang đạo nhân có thể vào trong xem xét. Cậu chui ra, lấy dây cột vào lưng mình, gọi ông câm kéo lên. Sau đó cậu cầm hai cái hộp sắt, đi tìm sư phụ.
Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đang chơi cờ, thấy Viên Thừa Chí đến, liền dừng chơi để nghe Viên Thừa Chí kể lại đầu đuôi. Hai người xem mấy phong thư, đều âm thầm kinh ngạc. Họ mở phong thư ghi “Cách mở hộp” của chiếc hộp sắt lớn ra xem. Trong thư viết: “Bên trái bên phải hộp sắt này đều có nút ấn. Hai tay bưng hộp, đồng thời dùng sức ấn nút, hộp sắt sẽ mở”.
Mộc Tang đạo nhân lè lưỡi, nhìn Mục Nhân Thanh nói: “Cái mạng nhỏ xíu của Thừa Chí, hôm nay suýt nữa là mất trong sơn động đó. Nếu nó hơi tham lam một chút, không chôn cất hài cốt của y mà lo mở cái hộp sắt này ngay, e rằng khó tránh được độc tiễn.”
Mục Nhân Thanh bảo ông câm vác ra một cái thùng gỗ dày, dùi hai lỗ ở hai mặt đối diện, đặt hộp sắt lớn vào trong, rồi dùng một tấm ván lớn đậy thùng gỗ lại. Ông câm lại tìm hai cây nhỏ, theo lỗ ở hai bên mà chọc vào trong thùng.
Mục Nhân Thanh cùng Viên Thừa Chí mỗi người cầm một cây, vận sức ấn vào. Nghe “soạt” một tiếng, chắc là cái nắp tầng thứ hai của hộp sắt đã mở ra. Sau đó những tiếng veo véo, bôm bốp vang lên không dứt, ngay cả cái thùng gỗ lớn cũng phải rung chuyển.
Lát sau Viên Thừa Chí không còn nghe tiếng tên bay, định mở tấm ván ra xem. Mộc Tang vội kéo cậu bé lại, quát lên: “Đợi một chút đã.”
Lão nói chưa dứt, đã nghe veo véo.
Hồi lâu, không còn âm thanh gì nữa. Lúc đó Mộc Tang đạo nhân mới mở tấm gỗ ra. Quả nhiên trên tấm ván và trong thùng gỗ đã có mấy chục mũi đoản tiễn ghim vào, nghiêng có thẳng có, phương hướng đều khác nhau. Mũi tên nào cũng đâm sâu vào thớ gỗ.
Mộc Tang lấy một cái kìm, nhẹ nhàng rút tên ra để một bên, không dám chạm tay vào. Lão thở dài rồi nói: “Người này dụng tâm quá đáng. Y sợ loạt tên đầu bị người ta tránh được, nên mới chia thành hai đợt bắn.”
Mục Nhân Thanh lắc đầu nói: “Giả tỉ người nào có lòng hiếu kỳ, muốn xem trong cái hộp sắt này có gì trước đã, thì đó cũng là lẽ thường tình của con người. Nhưng như vậy thì người đó không chôn được hài cốt của y. Mà ai không chịu chôn hài cốt của y, tưởng cũng chưa đáng chết. Người này dụng tâm sâu sắc như thế, thật sự không phải là chính nhân quân tử. Thừa Chí còn trẻ nít mà lần này lại nhẫn nại dừng tay, không mở cái hộp đó ra xem, đúng là cực kỳ may mắn.”
Ông nhấc cái hộp sắt lớn ra khỏi thùng gỗ. Trong tầng dưới của hộp sắt có rất nhiều lò xo, chính là cơ quan để phóng độc tiễn. Mộc Tang dùng kìm để nhổ bớt lò xo ra, phía dưới xuất hiện một quyển sách, bìa ghi bốn chữ: Kim Xà Bí Kíp. Lão dùng kìm lật thử mấy trang sách, thấy bên trong chi chít chữ nhỏ, lại có rất nhiều đồ hình. Có đồ hình vẽ tư thế luyện võ, cũng có đồ hình vẽ cách chế cơ quan để phóng ám khí.
Khi mở hộp sắt nhỏ ra, thấy trong đó cũng có một quyển sách. Hai quyển sách này kích thước lớn nhỏ, nét chữ, cách đóng bìa không khác gì nhau, nhưng đối chiếu thì thấy nội dung hoàn toàn khác biệt.
Mục Nhân Thanh nói: “Chỉ để trừng trị người không chịu chôn hài cốt cho mình, mà y tốn nhiều công phu như thế để viết sách giả, gắn độc tiễn. Thật ra mình chết rồi thì người khác tốt hay xấu cũng chẳng can hệ gì, không cần phải khổ sở như thế.”
Mộc Tang nói: “Vì con người của y hẹp hòi, nên mới có kết cuộc bi đát như thế. Nhưng sách giả và hộp sắt thì chắc đã được làm trước từ lâu, dùng để đối phó với kẻ địch nào khác. Trước lúc chết, nhất định y không có thời gian cùng tâm lực để chế tạo những thứ hại người này. Mà trong sơn động chưa chắc đã có công cụ để chế tạo cơ quan.”
Mục Nhân Thanh gật đầu than thở. Ông bảo Viên Thừa Chí cất giữ hai cái hộp này, lại nói: “Hành vi của con người này thật là cổ quái. Sách của y viết, có đọc cũng vô ích. Hơn nữa quyển sách giả có chất kịch độc, nhớ là không được đụng vào.”
Viên Thừa Chí lập tức vâng dạ.
Mấy năm sau đó, Viên Thừa Chí cứ tiếp tục luyện võ chơi cờ. Mộc Tang đạo nhân đã đem hết yếu quyết về khinh công và ám khí của mình để truyền thụ cho cậu.
Kỳ nghệ của Viên Thừa Chí ngày càng tiến bộ, bây giờ cậu phải chấp lại Mộc Tang đạo nhân hai quân. Trong khi chơi cậu vẫn thường phải khéo léo nhường nhịn, nhưng dù khéo léo đến đâu cũng không che giấu được.
Mộc Tang đạo nhân ngán ngẩm, cảm thấy ngoại hiệu “Thiên Biến Vạn Kiếp Kỳ Quốc Thủ” của mình không còn xứng đáng nữa. Lão vẫn cho rằng kỳ nghệ của Viên Thừa Chí chỉ ở mức bình thường, không hiểu sao mình lại không thắng nổi, nên bắt đầu cho rằng kỳ nghệ của mình chẳng cao minh gì lắm.
Nhưng bắt lão thừa nhận kỳ nghệ của mình thấp kém, thì thật là thiên nan vạn nan. Một hôm lão thua liên tiếp mấy ván, không đợi xong ván cuối cùng đã đột ngột đứng dậy. Viên Thừa Chí vội xin lỗi, nhưng Mộc Tang chỉ mỉm cười rồi quay lưng đi luôn xuống núi.
Lúc này, Viên Thừa Chí đã cao lớn hơn nhiều, võ công rất tiến bộ. Hồi mới lên Hoa Sơn cậu là một đứa trẻ con, bây giờ đã là một chàng thanh niên khỏe mạnh, anh khí đường đường.
Mấy năm nay, tình thế thiên hạ biến chuyển trong dầu sôi lửa bỏng, bá tính đang gặp vô vàn kiếp nạn. Lũ lụt, hạn hán liên tục, lại thêm nạn châu chấu tàn hại mùa màng. Bọn Mãn Thanh từ quan ngoại không ngừng cho quân xâm lấn. Triều đình không có kế sách kháng địch, bá tính đói khổ chạy nạn khắp nơi, có kẻ phải ăn cả thịt người chết.
Triều đình chỉ lo vơ vét, tăng cường thu thuế để trả đủ lương cho binh lính. Thuế má càng lúc càng nhiều loại, nên dân chúng nổi dậy khắp nơi. Lúc này các thủ lĩnh quân khởi nghĩa Vương Tự Dũng, Cao Nghênh Tường đã tử trận. Sấm tướng Lý Tự Thành lúc thắng lúc bại, tuy gặp nhiều nguy nan, nhưng nhờ đa mưu thiện chiến nên ông thường chuyển bại thành thắng.
Quần hào quy tụ quanh Lý Tự Thành, bộ hạ càng lúc càng đông. Sau vụ Thập Tam Gia Thất Thập Nhị Doanh mở đại hội quân khởi nghĩa ở Doanh Dương tỉnh Hà Nam, thanh thế của Lý Tự Thành lại càng vang dội. Ông đương nhiên trở thành tổng thủ lãnh, được gọi là Sấm Vương, tấn công thành trì, chiếm cứ đất đai, thắng trận liên tiếp.
Thời gian đó Mục Nhân Thanh vẫn thường xuống núi, mỗi khi trở về đều kể lại nỗi khổ của dân chúng cho Viên Thừa Chí biết. Ông đã uống rượu kết giao với Sấm Vương, khuyên Viên Thừa Chí sau khi học võ thành tài phải dùng hết sức để cứu khổ cứu nạn cho bá tính, mục đích của võ công chính là ở đó. Lần nào nghe xong, Viên Thừa Chí cũng cúi đầu bái lĩnh.
*
* *
Viên Thừa Chí đã kiêm tu võ công thượng thặng của hai phái, là một cao thủ hiếm có trong võ lâm. Chỉ vì mấy năm nay chàng chưa hề đặt chân xuống núi, nên không ai biết trong phái Hoa Sơn đã xuất hiện một thiếu niên anh kiệt như thế.
Một hôm vào tiết đầu xuân, Thừa Chí đang luyện võ thì ông câm đến dùng tay ra hiệu cho biết sư phụ gọi vào. Chàng vào nhà, thấy có hai đại hán đứng hai bên sư phụ. Trên tuyệt đỉnh Hoa Sơn này, ngoài Mộc Tang ra, chưa có người khách nào khác. Viên Thừa Chí nhìn thấy hai người này, không khỏi kinh ngạc.
Mục Nhân Thanh nói: “Vị này là Vương đại ca, vị này là Cao đại ca. Ngươi tới gặp mặt đi.”
Viên Thừa Chí thấy là bằng hữu của sư phụ, liền bước tới thi lễ, cất tiếng chào hỏi: “Vương sư thúc, Cao sư thúc!”
Hai người kia lập tức quỳ xuống, nói: “Không dám! Xin Viên sư thúc đứng dậy.”
Nghe họ gọi lại mình là sư thúc, Viên Thừa Chí kinh ngạc vô cùng. Mục Nhân Thanh vừa cười ha hả vừa bảo mọi người đứng dậy. Hai người kia ăn mặc theo kiểu nông dân, nhưng thần sắc ra vẻ anh hùng thượng võ.
Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo Viên Thừa Chí: “Trước nay ngươi chưa từng theo ta xuống núi, nên không biết vai vế của mình cao đến mức nào, đừng khách sáo quá. Các ngươi đừng gọi nhau là sư thúc, cứ theo tuổi tác mà hô huynh gọi đệ là được rồi.”
Thì ra họ Vương và họ Cao là huynh đệ đồng môn. Sư phụ của họ không cùng sư môn với Mục Nhân Thanh, nhưng gọi ông là sư thúc để tỏ lòng tôn kính bậc trưởng bối. So về danh phận, thì đúng là hai người này còn dưới Thừa Chí một cấp.
Mục Nhân Thanh nói: “Hai vị đại ca này từ xa đến đây, phụng mệnh Sấm Vương mời ta đi bàn một chuyện. Sáng mai ta phải xuống núi rồi.”
Thừa Chí nói: “Sư phụ! Phen này con muốn theo sư phụ đi thăm Thôi thúc thúc, có được hay không?”
Chàng ở trên ngọn núi này đã quá lâu, rất nhiều lần đòi theo sư phụ xuống núi, nhưng chưa bao giờ được chấp thuận, lần này mới được Mục Nhân Thanh mỉm cười một cái. Vương và Cao biết hai thầy trò cần nói chuyện riêng, bèn cáo thoái ra ngoài.
Mục Nhân Thanh nói: “Lúc này thanh thế nghĩa quân rất lớn, trở tay là lấy được hai tỉnh nữa. Đây chính là cơ hội rất tốt để ngươi báo phụ thù. Ngươi đã mấy lần xin ta dẫn xuống núi để hành thích Sùng Trinh hoàng đế, nhưng ta vẫn chưa cho phép. Ngươi có biết tại sao không?”
Thừa Chí đáp: “Nhất định là công phu của đệ tử chưa học tới nơi.”
Mục Nhân Thanh nói: “Đó cũng là một nguyên nhân, nhưng còn một lý do khác quan trọng hơn. Ngươi ngồi xuống đây, nghe sư phụ nói chuyện.”
Viên Thừa Chí vâng lời ngồi xuống.
Mục Nhân Thanh nói: “Mấy năm gần đây, quân tình ở quan ngoại hết sức khẩn trương. Bọn Mãn Châu có dã tâm thôn tính giang sơn, tìm thiên phương bách kế để xâm lấn vào quan nội. Sùng Trinh tuy rất đa nghi, hành sự thường tam tâm lưỡng ý, nhưng nói về kháng cự Mãn Thanh thì hắn có ra sức đối phó, so với bọn hôn quân tiền triều như Vạn Lịch, Thiên Khải còn khá hơn nhiều. Nếu ngươi vì tư thù mà vào cung giết hắn, thái tử kế vị còn nhỏ xíu, quyền bính rơi vào tay bọn gian thần, e rằng giang sơn nhà Hán chúng ta lập tức rơi vào tay người. Khi đó, ngươi có phải là tội nhân của thiên hạ hay không? Phụ thân của ngươi cả đời kháng cự Mãn Châu, quyết chí bình định Liêu Đông. Nếu lệnh tôn trên trời mà linh hiển, biết được chuyện đó nhất định sẽ giận dữ mà mắng ngươi là bất trung bất hiếu.”
Nghe sư phụ giải thích, Thừa Chí không khỏi hoảng sợ đến nỗi mồ hôi lạnh toát đầy người.
Mục Nhân Thanh lại nói: “Quốc sự là lớn, tư thù là nhỏ. Trước đây ta không cho ngươi đi hành thích phục thù, chính vì lý do này. Nhưng cục diện bây giờ khác hẳn, Sấm Vương thắng lợi liên tục, Lạc Dương đã lấy được, chỉ một hai năm nữa là tiến vào Bắc Kinh. Sấm Vương anh minh thần võ, đứng ra chủ trì đại cuộc thì bọn giặc Mãn Châu, Liêu Đông không đáng sợ nữa.”
Viên Thừa Chí nghe mà mặt nóng bừng bừng, hưng phấn lạ thường.
Mục Nhân Thanh nói: “Bây giờ võ công của ngươi đã có căn cơ, nhưng võ học là chuyện vô cùng vô tận. Những gì ta biết, ta đã truyền thụ cho ngươi cả rồi. Sau này ngươi tiến bộ đến đâu là dựa vào bản thân dụng công tu luyện. Ngày mai sư phụ xuống núi, đi với hai người Vương và Cao để lo mấy việc. Hỗn Nguyên Công của ngươi còn thiếu một nấc cuối cùng, nhanh thì mười ngày, chậm thì một tháng sẽ được như ý, quán thông từ trên xuống dưới. Bây giờ mà ngươi bôn ba xuống núi, tất sẽ bị phân tâm, luyện công không được tập trung như ở trên núi. Ngươi hãy đợi tới khi Hỗn Nguyên Công quán xuyến toàn thân, không tắc nghẽn chỗ nào nữa rồi hãy xuống núi, đến chỗ quân đội Sấm Vương tìm sư phụ. Dọc đường nếu gặp những việc không công bằng, có thể thuận tay giúp đỡ, hành hiệp trượng nghĩa, giúp kẻ yếu đuối, cứu kẻ khốn cùng, đó là bổn phận phải làm. Dù gặp gian khó nguy hiểm đến đâu, cũng không được khoanh tay đứng nhìn.”
Thường ngày Mục Nhân Thanh đã dạy Viên Thừa Chí tất cả môn quy phái Hoa Sơn và những điều cấm kỵ trên chốn giang hồ, cũng đã nhắc đến tất cả các bang hội chính tà, nguồn gốc và gia số võ công các môn các phái cho chàng biết. Bây giờ ông nhắc lại những chỗ quan trọng, cuối cùng mới nói: “Ngươi là con người thận trọng ngay thẳng, chuyện này sư phụ rất an tâm. Nhưng ngươi đang lúc tuổi trẻ, huyết khí cương thịnh, phải cẩn thận về vấn đề nữ sắc. Rất nhiều đại anh hùng đại hào kiệt, chỉ vì sẩy chân vào chữ tình mà thân bại danh liệt. Ngươi phải nhớ lời ta dặn.”
Thừa Chí nghiêm chỉnh vâng dạ.
Sáng sớm hôm sau, Thừa Chí thức dậy cứ theo lệ thường mà giúp ông câm đun nước nấu cơm, xong xuôi mới vào phòng sư phụ vấn an. Nhưng Mục Nhân Thanh và hai người khách đã đi từ sớm rồi.
Thừa Chí nhìn chiếc giường trống của sư phụ mà ngẩn ngơ một lúc. Chàng nghĩ đến chỗ chẳng bao lâu mình cũng xuống núi, bèn dùng tay ra hiệu cho ông câm biết. Ông câm cũng ra vẻ buồn bã, quay lưng đi ra ngoài.
Viên Thừa Chí và ông câm đã sống chung mười mấy năm trời, tình nghĩa như anh em ruột thịt. Chàng biết ông câm không nỡ chia ly với mình, trong lòng cũng buồn man mác.
Mười bảy mười tám ngày thấm thoắt trôi qua. Viên Thừa Chí vẫn chăm chỉ luyện công, nhưng nghĩ đến mình sắp phải rời khỏi đây, nên đối với từng ngọn cỏ từng gốc cây đều có phần thương yêu luyến tiếc hơn.
Một hôm dùng xong cơm tối, ngồi trên giường luyện Hỗn Nguyên Công, chàng bỗng cảm thấy nội tức lan truyền khắp toàn thân, thông suốt nhanh chóng lạ thường. Chàng biết rằng cửa ải cuối cùng mà sư phụ nói đã thông, trong lòng vô cùng mừng rỡ.
Đang định tắt đèn đi ngủ thì ông câm vào phòng, ra hiệu hình như có người lạ lên núi. Viên Thừa Chí toan chạy ra xem, nhưng ông câm tỏ ý đã xem xét cẩn thận, không thấy chỗ nào không ổn.
Viên Thừa Chí vẫn không yên tâm, dẫn hai con vượn khổng lồ đi xem xét cả trước núi sau núi, không phát hiện được gì lạ mới quay về ngủ.
Đến nửa đêm, đột nhiên ngoài phòng có tiếng Đại Oai và Tiểu Oai kêu loạn xạ. Thừa Chí ngồi bật dậy, chú ý lắng tai nghe, đột nhiên cảm thấy mùi hương ngòn ngọt bay vào mũi. Chàng la thầm: “Hỏng bét!”
Viên Thừa Chí vận khí toan nhảy ra ngoài, không ngờ dưới chân hoàn toàn vô lực, loạng choạng suýt nữa té nhào. Đây là chuyện xưa nay chưa từng gặp, chàng đang kinh ngạc thì “bình” một tiếng, cửa phòng bị đá bật ra, một bóng đen nhảy xổ vào trong.
Một luồng đao phong rít lên trong bóng tối, chém vào phòng. Viên Thừa Chí đang xây xẩm mặt mày, chân đứng không vững, nhưng gặp lúc nguy cấp cũng gượng chống đỡ. Chàng đảo người sang trái, phóng hữu chưởng ra đánh trả. Người kia trở đao bổ thẳng xuống, chém vào cánh tay chàng.
Viên Thừa Chí không cho đối phương cơ hội phản đòn. Trong màn đêm chàng nghe tiếng mà định phương vị, bước tới một bước, tay trái đánh trúng vai đối thủ nghe “bịch” một tiếng. Tiếc là cánh tay chàng bủn rủn tê liệt, nên lực đạo không bằng một phần mười lúc bình thường. Tuy vậy người kia cũng để đao tuột khỏi tay, không tự chủ được, lảo đảo lùi ra khỏi phòng.
Một người phía ngoài đưa tay đỡ lấy hắn, cất tiếng hỏi: “Cái xương trong đó cứng lắm ư?”
Thừa Chí toan nhảy ra truy kích, nhưng đột nhiên đầu nhức mắt hoa, lăn xuống đất bất tỉnh.
Không biết bao lâu chàng mới tỉnh lại, cảm thấy toàn thân bủn rủn. Toan cử động tay chân mà không được, chàng kinh hãi nhận ra mình đã bị trói chặt. Hé mắt nhìn ra thấy trong phòng đèn đuốc sáng trưng, có hai người đang đổ hết rương hòm ra, lục lọi khắp nơi.
Viên Thừa Chí biết đã bị ám toán, trong lòng tự trách mình vô dụng. Sư phụ xuống núi chưa bao lâu, đối phương đã lên tận núi khống chế mình rồi, nói gì tới việc bôn ba giang hồ, trả thù cho thân phụ. Đầu chàng vẫn nhức, mắt nhìn tán loạn, phải âm thầm vận nội công một lúc mới trấn tĩnh lại được.
Nhưng chàng vẫn giả vờ hôn mê chưa tỉnh, hé mắt mảnh như sợi chỉ để lén nhìn, thấy một người thân hình ốm yếu chừng bốn mươi tuổi, mặt mũi khô cằn. Lại còn một người đầu trọc lóc, thân hình cao lớn, dường như là người vừa giao đấu với mình.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Trên núi này có gì quý trọng đâu mà chúng đến đây cướp giật? Cả thảy chỉ có năm chục lượng bạc, sư phụ để cho mình làm lộ phí. Nhưng hai người này chắc chắn không phải là trộm cướp bình thường. Võ công của tên trọc không tệ lắm, chắc tên ốm kia cũng vậy. Nhưng nếu chúng đến tìm sư phụ trả thù, thì sao không giết mình mà đi lục lọi tìm kiếm khắp nơi?”
Chàng thầm vận công lực, muốn giật đứt dây trói. Không ngờ địch thủ biết võ công của chàng cao cường, nên cắm thêm một cây tre vào giữa hai tay Viên Thừa Chí. Nếu dùng sức vận nội công thì cây tre sẽ bị vỡ trước, lập tức phát ra tiếng động. Viên Thừa Chí sợ bị phát giác nên lập tức dừng tay lại, cố tìm cách thoát thân khác.
Tên trọc đột nhiên vui mừng la lên: “Đây rồi!” Hắn lôi dưới gầm giường ra cái hộp sắt lớn, di vật của Kim Xà Lang Quân để lại.
Hai người ngồi bên bàn mày mò mở hộp sắt, lấy ra một quyển sách, thấy trên bìa sách viết bốn chữ Kim Xà Bí Kíp. Tên trọc nói: “Quả nhiên là ở đây. Kim sư ca! Công phu mười tám năm trời của chúng ta đúng là không uổng phí.”
Chúng mở bí kíp ra, thấy vẽ đầy đồ hình, viết đầy chữ nhỏ, mừng rỡ gãi đầu gãi tai, vui mừng không sao tả xiết.
Tên ốm đột nhiên la lên: “Ái chà! Ngươi muốn trốn ư?” Nói xong, hắn trỏ vào Thừa Chí, khiến chàng không khỏi giật mình.
Tên trọc quay đầu lại nhìn, nhưng cổ tay tên ốm bỗng xoay lại. “Xoẹt” một tiếng, trủy thủ đã cắm vào người tên trọc, sâu đến cán. Tên ốm lập tức nhảy ra ngoài một thước, rút trường kiếm ra bảo vệ trước mặt mình.
Tên trọc nét mặt bi phẫn lạ lùng, đột nhiên cười đau khổ rồi nói: “Hai mươi mấy sư huynh đệ chúng ta đã chia nhau tìm kiếm mười mấy năm trời, đến hôm nay ngươi và ta mới tìm được bảo bối này. Trương sư ca! Thì ra ngươi muốn nuốt trọn, hạ độc thủ với ta. Ha ha, ha ha… Thế là ngươi phản bội Kỳ Tiên Phái rồi. Nhưng giấu giếm năm vị lão gia không phải là việc dễ đâu. Ta… ta đoán ngươi chắc chắn không có kết cuộc tốt lành. Ha ha… ha ha…”
Trong màn đêm vắng lặng, nghe tiếng cười lạnh lẽo thảm khốc, toàn thân Viên Thừa Chí rởn ốc, dựng cả tóc gáy.
Tên trọc cứ quờ quờ muốn rút trủy thủ ra khỏi lưng, nhưng sờ mãi vẫn không tới được. Hắn hét lên một tiếng thê thảm, ngã nhào xuống đất, giãy giãy mấy cái rồi bất động.
Tên ốm sợ hắn chưa chết hẳn, bước tới đâm thêm hai nhát kiếm vào lưng, “hứ” một tiếng rồi nói: “Ta không giết ngươi thì chắc ngươi cũng giết ta. Hà tất phải khách sáo.”
Hắn phóng cước đá mạnh vào xác tên trọc, lại nói: “Ngươi nói là ta không giấu được năm lão già đó phải không? Chờ đấy mà xem!”
Hắn không biết Viên Thừa Chí đã tỉnh, nham hiểm cười gằn hai tiếng, dùng tay gạt bớt tim cây đèn nến, rồi mở sách ra xem tiếp. Hắn vừa xem vừa lắc lư qua lại, khuôn mặt đầy vẻ hoan hỉ. Lật được mấy trang, bỗng có trang lâu ngày bị dính lại không mở được, hắn bèn đưa ngón tay trỏ vào miệng, thấm nước bọt để lật tiếp; cứ thế lật thêm mấy tờ.
Viên Thừa Chí bỗng nghĩ đến một chuyện. Quyển sách này có tẩm chất kịch độc, hắn lật như vậy chắc chắn phải trúng độc. Chàng không nhịn được, bất giác la lên một tiếng.
Tên ốm quay đầu lại, thấy sắc mặt Thừa Chí kinh hãi bàng hoàng. Hắn từ từ đứng dậy, rút lấy thanh trủy thủ đang cắm sau lưng tên trọc, bước tới hai bước rồi nói: “Ta với ngươi không oán không thù, nhưng hôm nay không thể tha mạng cho ngươi.”
Hắn đảo cặp mắt hung dữ, chĩa trủy thủ ra, cười gằn rồi nói: “Bây giờ giết ngươi, e rằng ngươi xuống âm phủ cũng không biết vì sao mình chết. Nói thật cho ngươi biết, ta là Trương Xuân Cửu của Kỳ Tiên Phái, tỉnh Chiết Giang. Kỳ Tiên Phái của chúng ta có đại thù với Kim Xà Lang Quân. Hắn gian dâm sư muội của chúng ta rồi chạy trốn, không biết tung tích nơi nào. Mười mấy năm trời chúng ta tìm hắn khắp nơi, không ngờ di vật của hắn đã rơi vào tay thằng lỏi này. Kim Xà Lang Quân đang ở đâu?”
Hỏi xong, hắn nhìn ra cửa sổ, sắc mặt bỗng lộ vẻ sợ hãi, hình như sợ Kim Xà Lang Quân đột nhiên xuất hiện.
Nếu Thừa Chí có kinh nghiệm giang hồ, dĩ nhiên sẽ dùng lời hù dọa, dù không thể bắt hắn sợ hãi bỏ chạy, thì cũng làm hắn phải kiêng nể không dám giết mình. Nhưng lúc này chàng chẳng nghĩ gì đến chuyện lừa gạt người khác, bèn nói: “Kim Xà Lang Quân đã chết lâu rồi. Thi hài của ông ấy do ta chôn cất.”
Trương Xuân Cửu mừng rỡ, hỏi lại: “Kim Xà Lang Quân chết thật rồi ư?”
Viên Thừa Chí gật đầu.
Trương Xuân Cửu quát hỏi: “Hắn chết vì lý do gì?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta không biết. Thật sự ta không biết.”
Sắc mặt Trương Xuân Cửu trông ghê tởm vô cùng. Hắn dữ tợn nói: “Thằng lỏi này ở trên núi Hoa Sơn, nhất định không phải là người tốt, chắc cũng một lò với Kim Xà Lang Quân. Ta giết ngươi cũng chẳng oan ức gì. Sau khi ngươi làm ma, muốn trả thù thì cứ đến Tịnh Nham ở Cù Châu để tìm Trương Xuân Cửu này. Ha ha! Nhưng từ nay về sau ta không trở về Cù Châu nữa. E rằng ngươi biến thành ma cũng không tìm được ta.”
Hắn đưa kiếm lên, toan chém vào đầu Viên Thừa Chí, nhưng đột nhiên chân bước loạng choạng.
Thừa Chí biết mình sắp gặp nguy, sức lực toàn thân đều vận hết lên hai cánh tay. “Rắc” một tiếng, cây tre dập nát trước, rồi bao nhiêu dây trói đều đứt bung nghe bừng bực. Chàng toan phóng chưởng đánh tới, nhưng Trương Xuân Cửu đột nhiên ngã ngửa ra sau, nằm ngẩng mặt nhìn trời.
Thừa Chí sợ hắn giở trò gian trá, bèn cầm lấy một đoạn dây đứt múa lên che trước mặt, phát ra tiếng gió vù vù. Bỗng chàng thấy hai chân hắn đạp đạp mấy cái rồi không động đậy nữa, mắt tai mũi đều chảy máu đen, mới tin chắc hắn đã trúng độc mà chết.
Chàng cúi xuống tháo dây trói chân mình, rồi chạy ra ngoài thạch thất, thấy ông câm cũng bị trói chặt, cặp mắt giương to mà không động đậy gì được. Chàng cởi trói cho ông câm, lại thấy Đại Oai và Tiểu Oai đang ngất xỉu, liền đi lấy một thau nước lạnh xối trên đầu xuống. Hai con vượn khổng lồ từ từ tỉnh lại.
Thừa Chí dùng tay ra hiệu, kể lại tình hình vừa rồi cho ông câm biết. Đợi sáng hôm sau, hai người khiêng hai cái thi thể ra phía sau núi. Thừa Chí nghĩ cái hộp sắt lớn này là vật hại người, nên đem cả hộp cả sách ném xuống hố, chôn chung với hai tử thi.
Nghĩ đến chuyện xảy ra đêm qua, chàng không khỏi thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Hai tên này trói chặt ta với ông câm mà không chém chết ngay, chỉ vì muốn tra hỏi tung tích của Kim Xà Lang Quân. Nếu chúng không có mưu đồ khác, thì hai cái thi hài bị chôn dưới hố này là mình và ông câm mới phải”.
Viên Thừa Chí vô tình tìm ra hộp sắt từ hồi mười bốn tuổi, mấy năm nay đã quên hẳn không nghĩ tới nữa. Nhưng bây giờ nhìn thấy bộ điệu của Trương Xuân Cửu và tên trọc kia, chàng bỗng nghĩ: “Trong Kim Xà Bí Kíp nhất định phải có một bí mật cực lớn, nên chúng mới chịu tìm kiếm mười tám năm liền, rồi khi tìm thấy lại liều mạng giành nhau như vậy. Thế thì pho bí kíp này viết những gì?”
Ý niệm này nổi lên, chàng không dằn được, bèn chui vào gầm giường lấy cái hộp sắt nhỏ đầy bụi bặm ra. Cái hộp này nhỏ hơn nhiều, nên Trương Xuân Cửu và tên trọc chưa phát hiện. Chúng vừa nhìn thấy cái hộp sắt lớn và pho bí kíp giả là đã mừng rỡ điên cuồng, chưa kịp tìm thêm vật khác.
Viên Thừa Chí mở hộp sắt nhỏ, lấy pho Kim Xà Bí Kíp thật ra đặt trên bàn, lật ra xem. Cuốn sách này hơi nhỏ hơn một chút, nhưng số trang lại nhiều hơn. Phần đầu tiên là bí quyết luyện công và tâm pháp phóng ám khí, không khác biệt gì lắm so với những gì mà sư phụ của chàng và Mộc Tang đạo nhân đã dạy. Ngoài ra còn nhắc đến những chỗ bí ảo trong võ công các môn các phái cùng phương pháp phá giải, có thể nói là phong phú. Sau đó thì đến phần võ công của Kim Xà Lang Quân tự sáng chế ra.
Đọc sơ qua, Viên Thừa Chí thấy những điều ghi trong bí kíp có nhiều chỗ không bằng sở học của mình, nhưng về mặt âm hiểm, ác độc thì hơn hẳn. Chàng nghĩ: “Lần này suýt nữa mình trúng phải quỷ kế đê tiện của địch thủ. Sau này đi lại giang hồ, khó mà tránh khỏi những thủ đoạn hiểm độc như thế. Loại thủ đoạn này dĩ nhiên mình không muốn sử dụng, nhưng biết người biết ta thì dễ phòng địch giữ mình, cũng nên đọc qua.” Chàng bèn nghiên cứu tỉ mỉ những tâm pháp ghi lại trong bí kíp.
Càng đọc, mồ hôi lạnh càng tuôn ra ướt đẫm cả tóc, rồi từng giọt nhỏ xuống. Trên thế gian có nhiều phương pháp ác độc hại người đến thế, thật khó mà tưởng tượng được. Thủ đoạn dùng thuốc mê của Trương Xuân Cửu và tên trọc đã dùng, có thể nói là không thấm vào đâu.
Đọc đến sáng ngày thứ ba, chàng thấy những võ công ghi trong bí kíp hoàn toàn khác với những gì mình đã học, chẳng những không liên quan chút nào tới võ công phái Hoa Sơn, mà trước nay chàng cũng chưa nghe sư phụ và Mộc Tang đạo nhân nhắc đến lần nào. Đây không chỉ là một con đường khác, mà có nhiều chỗ rất kỳ lạ, ngược hẳn những yếu chỉ võ công mình đã học, nhưng lại là phương pháp kỳ diệu để khắc địch chế thắng.
Ai đã giỏi một nghề thì học thêm nghề khác cũng dễ dàng hơn. Viên Thừa Chí đã có căn bản võ học thâm sâu, khi học những loại bàng môn tả đạo đương nhiên rất dễ. Trong bí kíp có nhiều quái chiêu kỳ lạ, nhưng chàng vừa đọc là hiểu ngay, nên cứ thế mà đọc tiếp.
Viên Thừa Chí đã luyện Hỗn Nguyên Công thâm hậu, nên học võ công gì khác cũng dễ dàng như trở bàn tay. Nhưng luyện được hai mươi mấy ngày thì chàng gặp phải một cửa ải khó qua. Bí quyết chỗ này ghi chép khá tường tận, nhưng lại không có đồ hình vẽ tư thế, nên chàng đành đọc sơ qua mà không luyện tập.
Mười mấy trang bí kíp cuối cùng ghi toàn những công phu dùng để đối phó với một trận pháp gọi là Ngũ Hành Trận, đòi hỏi người học phải thuộc phương vị bát quái cùng những chỗ biến hóa tương sinh tương khắc. Trận pháp này biến ảo vô cùng, phải có năm người mới hình thành được, năm phương vị bổ sung cứu trợ lẫn nhau. Kim Xà Lang Quân đưa ra phương pháp cực kỳ xảo diệu, chỉ dùng một chiêu mà phá được, nhưng trong chiêu đó bao hàm không ít võ công cao minh.
Viên Thừa Chí nghĩ chưa chắc mình sẽ gặp Ngũ Hành Trận, nhưng công phu để phá trận lại có công dụng rất rộng, luyện tập có nhiều lợi ích, nên chàng bỏ ra mấy ngày khổ luyện cho thấu hiểu.
Phần lớn võ công chép trong bí kíp đều viết một cách bình hòa, phân tích ưu điểm khuyết điểm hẳn hoi. Chỉ có mười mấy trang chép cách phá Ngũ Hành Trận là ngữ khí đầy vẻ oán giận. Rõ ràng Kim Xà Lang Quân thù hận năm địch thủ này rất sâu, nên phương pháp phá trận cực kỳ ác liệt, chiêu nào thức nào cũng muốn giết kẻ địch cho khoái chí.
Trong lúc luyện tập, Viên Thừa Chí nhiều lần lắc đầu thầm nghĩ: “Phá xong trận là được rồi, hà tất phải giận dữ như thế? Xem ra ông ấy sáng chế bộ võ công này là có mục đích, đối thủ thật sự có hình có dáng, không phải chỉ do tưởng tượng mà thôi.”
Viên Thừa Chí chỉ học chiêu thức mà bỏ qua thâm ý hiểm độc bên trong, nghĩ bụng: “Sư phụ vẫn dạy, võ công mình cao hơn thì phải nhớ hạ thủ lưu tình, chừa cho người khác một con đường sống.”
Trong bí kíp còn có một bộ Kim Xà Kiếm Pháp. Viên Thừa Chí nghĩ: “Kim Xà Lang Quân đặt tên pho kiếm pháp này là Kim Xà, nhất định ông rất coi trọng. Bên trong chắc có chỗ độc đáo.”
Chàng theo đó mà luyện, lúc đầu chưa thấy gì, nhưng về sau thì có nhiều chỗ không thuận tay, lại có mấy chiêu thức dường như hoàn toàn vô dụng, thử tới thử lui không được. Chàng liền nghĩ: “Trên vách động, chỗ mình mai táng Kim Xà Lang Quân có rất nhiều đồ hình, chẳng lẽ có liên quan đến phần này hay sao?”
Vừa nghĩ tới đó chàng đã không nhẫn nại được, lập tức gọi ông câm, mang dây và đuốc trèo xuống động. Lúc này thân hình chàng đã cao lớn rồi, may mà năm trước đã phá rộng cửa động nên rất dễ vào trong.
Chàng cầm đuốc soi lên vách động, nghiên cứu đồ hình tỉ mỉ. Quả nhiên đây là đồ hình để giải thích những yếu quyết trong bí kíp. Vách đá ở đây chẳng cứng gì, nhưng đồ hình lại vẽ sơ sài, nét khắc rất cạn. Rõ ràng lúc Kim Xà Lang Quân khắc những đồ hình này, ông chẳng còn bao nhiêu hơi sức nữa.
Viên Thừa Chí cả mừng, theo đồ hình mà tập thử, cố ghi khắc vào lòng. Chỉ tốn mấy giờ, chàng đã thuộc hết đồ hình trên vách. Chàng tới trước mộ Kim Xà Lang Quân lạy thêm mấy lạy, cảm tạ ông đã để lại võ công.
Đang định ra ngoài, đột nhiên chàng nhìn thấy chuôi kiếm trên vách động, lần trước còn bé chưa dám rút ra. Bây giờ chàng nắm chặt chuôi kiếm, chỉ khẽ vận sức là rút được ra nghe “sột” một tiếng. Bên dưới chuôi kiếm quả nhiên có lưỡi kiếm, cắm vào một kẽ nứt có sẵn trên vách đá. Lúc đó Kim Xà Lang Quân đã kiệt lực rồi, chắc không đủ sức đâm lút lưỡi kiếm này vào đá núi.
Viên Thừa Chí bỗng thấy kiếm khí lạnh ngắt ép người. Thanh kiếm này óng ánh màu vàng, hình dạng rất lạ, trông rất giống Kim xà truy trước kia đã gặp. Lưỡi kiếm giống như một con kim xà uyển chuyển bò tới, đuôi rắn uốn cong là chuôi kiếm, đầu rắn là mũi kiếm, lưỡi rắn thè ra chẻ đôi nên mũi kiếm cũng có hai nhánh hai bên.
Thanh kiếm này lấp lánh ánh hoàng kim, cầm trên tay thấy nặng, hình như khi đúc có pha lẫn vàng. Trên lưỡi kiếm có một vết máu phát ra những tia sáng xanh lục âm u, trông vừa lạ mắt vừa kỳ dị.
Viên Thừa Chí xem xét một hồi, trong lòng đột nhiên rờn rợn. Chàng nghĩ bụng: “Vết máu màu xanh lục này không biết là máu của ai? Của bậc trung thần nghĩa sĩ, của kẻ đại gian đại ác, hay là máu của hàng trăm hàng ngàn người ngưng tụ lại thành?”
Chàng cầm kiếm múa thử một lúc, bỗng hiểu được mấy chỗ quái lạ của Kim Xà Kiếm Pháp. Thì ra hai nhánh của mũi kiếm vừa có thể dùng để đâm, vừa có thể khóa chặt binh khí của địch thủ. Thanh kiếm này khi giật ngược về hoặc khi chém xéo đi đều có thể đả thương, so với trường kiếm bình thường thì có thêm không ít công dụng. Trước kia chàng cảm thấy nhiều chiêu thức trong Kim Xà Kiếm Pháp hoàn toàn vô dụng, nhưng nếu thi triển bằng thanh kiếm cổ quái này thì đó là những chiêu sát thủ.
Múa đến chỗ hăng say, Viên Thừa Chí vô ý vung kiếm chém vào vách động. Một tảng đá rơi ngay xuống, chẳng khác gì chém vào chỗ đất bùn, thì ra thanh kiếm này sắc bén vô cùng. Chàng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nhưng chợt nghĩ: “Kim Xà Lang Quân không có di ngôn tặng kiếm cho ta. Ta thấy bảo kiếm đã muốn chiếm ngay, không khỏi có lòng tham. Chi bằng để nó ở đây với chủ là hơn.”
Chàng cầm kiếm đâm trở vào vách đá. Nhát đâm này chưa dùng toàn lực, cũng không nhằm vào kẽ nứt trên vách đá, thế mà thanh kiếm chỉ còn lộ ra ngoài chưa đầy một thước. Lưỡi kiếm đu đưa, phát ra những tia sáng màu xanh lục dưới ánh lửa bập bùng, trông hệt như một con rắn còn sống đang run rẩy uốn mình, cố gắng chui vào vách đá.
Nhìn lại mười sáu chữ ghi ở trên vách động: “Trọng bảo bí thuật; Tặng người hữu duyên; Làm môn hạ ta; Gặp họa đừng oán”, Viên Thừa Chí không khỏi ngơ ngẩn xuất thần. Chàng nghĩ bụng: “Không hiểu vị Kim Xà Lang Quân tiền bối này tướng mạo ra sao? Hồi sinh tiền đã làm bao nhiêu chuyện kỳ lạ, kinh thế hãi tục? Cuối cùng sao lại bỏ xác trong sơn động này?”
Sau khi thấy Kim Xà Kiếm, Viên Thừa Chí càng ngưỡng mộ võ công chép trong Kim Xà BíKíp hơn, nên tự nhiên phát sinh tình cảm thân cận đối với vị quái hiệp này. Ra khỏi động, chàng lại mất hơn hai mươi ngày nữa để học hiểu hết toàn bộ võ công trong bí kíp. Trong đó, thủ pháp để bắn Kim xà truy là kỳ diệu nhất, so với tâm pháp phát xạ ám khí của Mộc Tang đạo nhân thì có thể nói mỗi môn có chỗ hay riêng.
Ba trang cuối cùng viết đầy khẩu quyết bằng chữ nhỏ xíu. Đối chiếu với những võ công ghi ở các trang trước thì rõ ràng ba trang này có nhiều chỗ biến hóa tinh xảo ảo diệu, nhưng lại cực kỳ khó hiểu. Chàng vùi đầu vào đọc tỉ mỉ ba trang khẩu quyết này, ngẫm nghĩ liên tiếp hai ngày nhưng vẫn thấy trong đó có rất nhiều mâu thuẫn. Chắc chắn còn có mấu chốt gì khác.
Viên Thừa Chí đã lật đi lật lại, nghiền ngẫm hết quyển bí kíp, toàn bộ đã thuộc lòng, chỉ còn ba trang cuối cùng là không hiểu. Chàng trở vào sơn động, xem lại đồ hình trên vách một lần, nhưng cũng không lý giải hết được.
Trong bí kíp có nhiều chiêu thức danh xưng cực kỳ quái lạ, như “Thứ niên biệt quân thời”, “Nhẫn lệ tường đế dị”, “Hàm tu bán khiết ni”, “Dương trường bách biến”, “Phấn lệ thiên thành”, “Bán tu hoàn bán hỷ”, “Dục thứ hựu y y”, “Lệ châu nan ký”, “Cựu hoa như mộng”, “Thúy ngã tảo quy gia”, “Cô nhạn thê lương”, “Đồng sinh cộng tử”, “Vọng lang hà nhật lai”… Đây là những lời lẽ yêu đương trai gái, tựa như tâm tình của người thiếu nữ phải xa cách tình lang, tương tư khổ sở ngày đêm. Lúc này Viên Thừa Chí chưa hiểu tình cảm nam nữ, cũng không đọc sách nhiều, nên cảm thấy tên gọi những chiêu thức này vô nghĩa, có vẻ dài dòng khó hiểu. Thử thi triển thì quyền chưởng hay kiếm pháp cũng vậy, muốn tiến lại lùi, muốn tấn công lại dừng bước, hư chiêu rất nhiều, thực chiêu lại hiếm. Đây giống như hai người đùa giỡn với nhau, không phải là những chiêu đoạt mạng, đem ra đối địch chắc không ích lợi gì.
Đến chiêu Ý Giả Tình Chân, đọc thấy trong bí kíp nói tỉ mỉ chiêu này như thật như ảo thế nào, lại chú thích: “Trên thế gian, người mang ý giả rất nhiều, người có chân tình thì hiếm thấy. Phải dùng nhiều cách để thăm dò chân ý của đối phương ở chỗ nào, nhưng thật khó mà biết được.” Viên Thừa Chí trằn trọc suốt đêm, ruột rối như tơ vò mà không sao lĩnh hội, cũng không thể dứt bỏ được.
Trong chiêu này bao hàm vô số hư chiêu, cuối cùng kết luận: “Đừng nói tới chuyện người khác có hay không có chân tình, mà ngay bản thân mình, chiêu này nhắm đến chỗ nào mình cũng chưa chắc đã biết. Kết liễu nửa hư nửa thực, tâm ý không định được.”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Sư phụ thường dặn mình, lúc luyện tập võ công phải tránh tẩu hỏa nhập ma. Bị nhập ma thì tinh thần hỗn loạn, không trấn tĩnh được. Kim Xà Lang Quân suy nghĩ thế này, đã tẩu hỏa nhập ma rồi hay sao? Ta không thể học theo chiêu đó.” Chàng gập bí kíp lại, đột nhiên cảm thấy chiêu này hư hư thực thực, biến ảo vô cùng, thật sự xảo diệu, không có chiêu nào so sánh được. Người xuất chiêu đã không biết chiêu này nhằm vào đâu, dĩ nhiên đối thủ càng không thể biết. Đã không biết nhằm vào đâu, làm sao mà chống đỡ?
Có thể nói đây là một chiêu thức không thể chống đỡ được. Mọi chiêu thức võ công trong thiên hạ, bất luận kỳ diệu đến đâu, cũng có cách chiết giải đối phó. Đâm trái thì đỡ phải, đánh trước thì lùi sau. Còn chiêu này không biết đánh vào chỗ nào, nên bất kể cách chống đỡ nào cũng có thể sai lầm.
Đêm hôm đó, Viên Thừa Chí nghĩ ngợi đến lý lẽ này mà trằn trọc trên giường, không sao yên giấc được. Nhìn ra ngoài cửa sổ thấy ánh trăng soi vào phòng, cả nền nhà như được nhuộm một màu trắng bạc, chàng bỗng nghĩ: “Hỗn Nguyên Công của mình đã luyện thành, chỉ vì bộ Kim Xà Bí Kíp này mà ở lại trên núi thêm hai tháng. Sư phụ từng nói Kim Xà Lang Quân là con người quái lạ, sách của ông ta đọc chỉ vô ích. Mình xuất thủ mà chính mình cũng không biết đánh vào chỗ nào, tâm ý không định, thì làm sao gọi là chiêu thức được? Nhưng nói gì thì nói, cái chiêu Ý Giả Tình Chân cũng là một chiêu xảo diệu.”
Viên Thừa Chí nghiên cứu võ công đã tới cảnh giới rất cao. Khi gặp võ học cao siêu mà không tham cứu đến cùng, thật sự ngứa ngáy không chịu nổi. Bây giờ chàng phải quyết tâm: “Mắt nhìn không thấy coi như sạch. Ta đốt quách nó đi là xong.”
Đã có chủ ý, chàng lập tức xuống giường, đốt đèn lên, cầm quyển bí kíp hơ vào ngọn lửa để thiêu cháy. Nhưng đốt rất lâu mà trang bìa của bí kíp chỉ dính đầy muội khói chứ không chịu bắt lửa.
Viên Thừa Chí kinh ngạc, dùng sức để xé mà quyển sách cũng không rách. Lúc này Hỗn Nguyên Công của chàng đã luyện thành, kình lực nội gia ở hai tay cực mạnh. Lực xé này không phải tầm thường, dù là một miếng sắt cũng phải bị kéo giãn ra. Thế mà quyển sách này vẫn y nguyên, chắc chắn bên trong phải có chỗ kỳ lạ. Nhìn lại tỉ mỉ, thì ra bìa sách dệt bằng một loại chỉ giống như kim ty, gồm có hai lớp.
Viên Thừa Chí lấy dao nhỏ cắt đứt những sợi chỉ đóng sách, tháo bìa rời ra, rồi đem từng trang bí quyết đốt trên ngọn lửa. Thế là tuyệt học cả đời của Kim Xà Lang Quân đã bị đốt thành tro bụi. Nhìn lại trang bìa, hình như giữa hai lớp có một vật gì đó. Viên Thừa Chí tỉ mỉ tháo bỏ những sợi chỉ may dính hai lớp bìa, quả nhiên bên trong còn giấu hai tờ giấy.
Một tờ giấy có ghi bốn chữ: “Trọng bảo chi đồ”. Bên cạnh có vẽ một cái bản đồ, ghi rất nhiều ký hiệu. Sau tấm bản đồ có viết hai câu: “Người được món bảo bối này, thật sự là tri kỷ của ta. Hãy đến Tịnh Nham, Cù Châu, tỉnh Chiết Giang, tìm người con gái tên là Ôn Nghi, tặng giúp ta mười vạn lạng vàng.” Viên Thừa Chí nghĩ: “Khẩu khí người này lớn quá!”
Cuối tờ giấy còn mấy hàng chữ nhỏ: “Bây giờ gom hết châu báu trong thiên hạ cũng khó mua được nửa ngày gặp gỡ. Xem nặng báu vật mà coi thường ly biệt, cực kỳ ngu muội. Thật là hối hận, thật là hối hận.” Trong những chữ này có nhiều vết ố, hình như là nước mắt đã khô. Viên Thừa Chí suy nghĩ hồi lâu, vẫn không hiểu ý nghĩa ra sao.
Còn tờ giấy kia viết đầy những yếu quyết võ công, tham chiếu vào những chỗ mù mờ trong bí kíp, lập tức hiểu rõ ngay. Quả nhiên diệu dụng vô cùng. Chàng ngước mắt nhìn lên ánh trăng trong vắt trên trời, cảm thấy toàn bộ võ công bí ảo trong Kim Xà Bí Kíp bây giờ như một dòng suối trong xanh từ từ chảy qua lòng mình, trong suốt nhìn thấy đáy, không có một chút cặn bã nào. Viên Thừa Chí ngủ say một giấc, mãi đến khi mặt trời rọi vào cửa sổ mới tỉnh dậy.
Loại võ công này quá phức tạp phiền hà, chiêu thức biến ảo rất nhiều, xem ra bản tính của Kim Xà Lang Quân ở nơi bình dị vẫn thích quanh co khó hiểu, khiến cho người ta phải hoa cả mắt. Chữ trên hai tờ giấy này viết bằng bút mực, đương nhiên không phải viết trong sơn động. Đây là những khẩu quyết cuối cùng, quán xuyến hết những chiêu số cổ quái ở cuối sách.
Suy nghĩ một đêm, chẳng những Viên Thừa Chí hiểu hết bí lục của Kim Xà Lang Quân, mà đối với những võ công thượng thừa của sư phụ và Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, chàng cũng hiểu sâu thêm một tầng nữa.
Viên Thừa Chí ngồi nhìn hai tờ giấy trắng và một đống tro tàn mà ngơ ngẩn xuất thần, âm thầm than thở: “Kim Xà Lang Quân dụng tâm đến thế, cố ý để lại trong bí kíp mấy chỗ không thể lý giải được, bắt người được bí kíp phải cố ý tìm tòi, cuối cùng mới tìm được bản đồ cất giấu bảo tàng. Nếu bí kíp này rơi vào tay những kẻ bình thường, không say mê nghiên cứu võ công tới chỗ tinh vi, thì chắc họ không phát hiện được bản đồ.”
Chàng kẹp lại hai tờ giấy vào trong bìa quyển bí kíp, lại vào sơn động lấy Kim Xà Kiếm để luyện tập nhuần nhuyễn pho kiếm pháp. Sau đó chàng trả lại thanh kiếm vào chỗ cũ.
Hai ngày sau Viên Thừa Chí thu thập hành trang, từ biệt ông câm. Chàng đã ở trên núi nhiều năm, bây giờ chia xa, trong lòng không khỏi bùi ngùi. Đại Oai và Tiểu Oai rất có linh tính, nắm lấy vạt áo của chàng mà kêu “chét chét”, mãi không chịu thả. Viên Thừa Chí lại càng cảm thấy bổi hổi bồi hồi. Ông câm phải dẫn hai con vượn khổng lồ này đưa chàng một quãng dài, chúng mới chịu rơi nước mắt mà tạm biệt.
*
* *
Phen này Viên Thừa Chí thành tài xuống núi, thế giới chung quanh chàng cái gì trông cũng lạ lẫm. Dọc đường, bá tính người nào cũng áo quần lam lũ, ốm đói, sắc mặt vàng khè. Đi được hơn trăm dặm, vẫn còn thấy mấy chục người dân kéo nhau lên núi đào rễ cây mà ăn. Trong bọc chàng có bạc của sư phụ để lại, nhưng không chỗ nào mua được thức ăn, đành phải thi triển võ công để bắt chim thú làm bữa. Chỗ nào cũng thấy dân chúng đói khổ, cuộc sống thật là thê thảm.
Đi được mấy ngày, sắp vào địa giới Sơn Tây, thấy dân chúng đang chống chọi với cơn đói bằng chính xác chết của đồng loại. Chàng không dám nhìn lâu, co giò chạy qua cho lẹ.
Đến một thị trấn, Viên Thừa Chí thấy một đám đông lê dân rách rưới đang thất thểu ca hát. Bài hát như sau:
“Mẹ thương cho ăn; Mẹ thương cho mặc; Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Sấm Vương mà đến; Khỏi đóng thuế lương.
Sáng cầu yên ổn; Chiều mong ấm no; Sống trong nghèo khó; Chết vẫn âu lo.
Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Cuộc sống thanh bình; Ai cũng hân hoan.”
Một tên võ quan dẫn mười mấy tên lính tới, lớn tiếng quát tháo: “Bọn bay dám hát những lời yêu ngôn tạo phản thế này, không sợ chém đầu sao?” Hắn vung roi quất loạn xạ vào đám đông.
Đám dân đói la lên: “Sấm Vương không đến thì mọi người phải chết đói hết. Chúng ta đang muốn tạo phản đây!”
Họ ùa cả lên, túm lấy bọn quan quân, vừa đánh vừa cắn. Chỉ chốc lát là mười mấy tên chết sạch.
Viên Thừa Chí thấy tình hình thế này, nghĩ bụng: “Chẳng trách thanh thế Sấm Vương ngày càng vang dội. Bá tính không tìm được cái ăn, chỉ còn cách giết quan tạo phản mà thôi.”
Chàng hỏi một người dân đói: “Đại ca có biết Sấm Vương đang ở đâu không? Tại hạ muốn đến đó để đầu quân.”
Người ấy đáp: “Nghe nói đại quân của Sấm Vương đang ở vùng Tương Lân, Văn Hỷ, sắp đến đây rồi. Mọi người chúng ta sẽ đi đầu quân.”
Viên Thừa Chí lại hỏi: “Vừa rồi mọi người hát bài đó nghe hay thật. Còn bài nào nữa không?”
Người ấy đáp: “Còn nhiều bài lắm, đều do Lý công tử, thuộc hạ của Sấm Vương sáng tác.” Y hát mấy bài nữa, đại ý đều khuyên dân chúng giết quan tạo phản, đón tiếp Sấm Vương.
Viên Thừa Chí vừa đi đường vừa thám thính, đến sông Hoàng Hà thì gặp một toán nhỏ Sấm quân. Người chỉ huy nghe chàng nói đến tìm Sấm Vương, không dám chậm trễ liền phái người dẫn chàng đến chỗ đại quân.
Sấm Vương nghe nói đệ tử của Thần Kiếm Tiên Viên đến gặp, tuy việc quân bận bịu nhưng vẫn đích thân tiếp kiến. Thấy ông khí thế oai mãnh, phong độ hòa ái, Viên Thừa Chí đem lòng kính phục. Sấm Vương nói sư phụ của chàng đã đi về Giang Nam.
Chắc chắn khi trao đổi với Sấm Vương, Mục Nhân Thanh đã nhiều lời khen ngợi đứa đồ đệ thương yêu, nên Sấm Vương đối với Viên Thừa Chí đầy vẻ coi trọng, có ý mở lời chiêu dụng.
Viên Thừa Chí nghe thấy sư phụ không có ở đó, không khỏi kém vui. Hỏi đến Thôi Thu Sơn, thì họ Thôi cũng đi cùng Mục Nhân Thanh đến vùng Tô Hàng ở Giang Nam để tìm kiếm quân lương.
Viên Thừa Chí nói là phải đi tìm sư phụ trước, xin phép rồi mới về đầu quân sau. Sấm Vương không miễn cưỡng, hạ lệnh cho Tế tướng quân Lý Nhai tiếp đãi, lại còn tặng thêm một trăm lạng bạc làm lộ phí. Viên Thừa Chí tạ ơn nhận lấy.
Lý Nhai cũng là võ tướng trong Sấm quân, nhưng lại mặc y phục kiểu thư sinh, ăn nói nho nhã. Chàng là con của Binh bộ thượng thư Lý Tinh Bạch, trước đây từng đậu cử nhân. Vì chẩn tế dân chúng bị thiên tai mà chàng đắc tội với huyện quan và bọn hào phú trong vùng, bị chúng vu khống bắt giam vào ngục. Có một vị nữ hiệp ngưỡng mộ chàng nên tập hợp dân đói đi phá nhà lao, cứu Lý Nhai ra. Nữ hiệp này thích mặc áo đỏ, mọi người đều gọi là Hồng Nương Tử.
Lý Nhai bị ép đến mức không thể không tạo phản, liền kết phu thê với Hồng Nương Tử, gia nhập quân khởi nghĩa của Sấm Vương. Chàng hiến kế phân chia ruộng đất công bằng, miễn giảm thuế má, đối đãi tốt với bá tính. Sấm Vương nghe lời cố vấn, cực kỳ trọng dụng Lý Nhai.
Đầu tiên thì Sấm quân chỉ là một tập hợp dân chúng do đói khổ mà tạo phản, chẳng qua chỉ muốn tìm miếng cơm manh áo chứ không có lý tưởng gì. Vì thế họ đến đâu cũng ra tay cướp bóc, không được lòng dân nên cứ chạy đông chạy tây, lúc thắng lúc bại, không phát huy được chính nghĩa. Từ khi Lý Nhai đầu quân, Lý Tự Thành mới chỉnh đốn quân kỷ, nghiêm cấm lạm sát gian dâm, lập tức thanh thế lừng lẫy khắp nơi.
Lý Nhai trị quân rất nghiêm, lại soạn nhiều bài đồng dao, sai người dạy trẻ con ca hát, lưu truyền khắp nơi. Bá tính đang đói khổ không có cơm ăn, lại bị quan phủ ép nộp quân lương. Nghe nói khi Sấm Vương đến thì khỏi đóng thuế, đương nhiên ai cũng ủng hộ. Vì thế nhiều thành trì không cần tấn công cũng chiếm được.
Lý Nhai đối với Viên Sùng Hoán trước nay hết lòng kính ngưỡng. Nghe nói có công tử của Viên đốc sư đến đây, chàng hết lòng đối đãi, mời vào doanh của mình, lại gọi phu nhân Hồng Nương Tử ra gặp. Hồng Nương Tử đường đường khí thế, sảng khoái hào hùng chẳng kém gì tu mi nam tử. Ba người đàm luận tâm đầu ý hợp.
Viên Thừa Chí chỉ giỏi võ công, còn kiến thức thì rất nông cạn. Lý Nhai thuộc làu lịch sử hưng vong trong thiên hạ cổ kim, đem ra bàn luận. Viên Thừa Chí nghe tới đâu thấm thía tới đó, lại càng khâm phục Lý Nhai hơn. Hai người ý khí tương đồng, bèn lạy nhau tám lạy, kết nghĩa huynh đệ.
Viên Thừa Chí ở trong doanh của Lý Nhai ba ngày, mãi đến khi Sấm Vương phải chuyển quân về phía bắc, hai người mới lưu luyến chia tay.
Viên Thừa Chí mới bước vào chốn giang hồ, đối với phong cách của Lý Nhai vô cùng ngưỡng mộ. Chàng muốn bắt chước, bèn đi mua y phục kiểu thư sinh để mặc.
Viên Thừa Chí chỉ biết sư phụ đang ở Giang Nam, còn cụ thể ở đâu thì không biết, đành đi bừa về hướng nam, phó mặc cho số phận.
Đất đai Giang Nam trù phú, tuy quan lại ở đây cũng tham ô vơ vét, nhưng bá tính vẫn còn có cơm ăn. So với các vùng chàng đã đi qua thì nơi này thật là chốn thiên đường.
Hôm đó Viên Thừa Chí đến Ngọc Sơn ở phía đông tỉnh Cống. Ăn cơm xong, chàng đến bến đò, tìm thuyền đi về hướng đông. Thấy bên bờ sông có một chiếc thuyền lớn, hỏi thì biết thuyền này đã được một phú thương bao thầu để chở hàng đến Kim Hoa tỉnh Chiết Giang, Viên Thừa Chí liền xin quá giang.
Chủ thuyền muốn kiếm thêm mấy đồng, bèn thương lượng với Long Đức Lân, phú thương bao chiếc thuyền đó. Long Đức Lân thấy chàng ra vẻ nho sinh nên cũng ưng thuận.
Chủ thuyền đang nhổ neo định khởi hành, bỗng trên bến có một thiếu niên nhanh chân chạy tới, kêu lớn: “Thuyền lão đại! Ta có việc gấp phải đến Cù Châu, nhờ ông giúp đỡ. Chở thêm một người cũng chẳng sao.”
Viên Thừa Chí nghe thanh âm thánh thót êm tai, ngẩng lên nhìn, không khỏi ngẩn ngơ một chút. Đó là một thiếu niên tuấn tú, khoảng mười tám mười chín tuổi, mặc trường bào vải đoạn màu xanh, đầu buộc khăn xanh khảm một miếng bạch ngọc, áo quần giày dép đều rất tinh nhã, ngang hông đeo một cái bao. Da dẻ y trắng trẻo, trông chẳng khác một tiểu thư khuê các.
Long Đức Lân thấy người này sắc phục sang trọng, khí thái hơn người, cảm thấy vui vẻ liền bảo chủ thuyền hạ tấm ván xuống để đón y.
Khi thiếu niên áo xanh vừa bước lên, chiếc thuyền bỗng hơi lún xuống như bị một vật nặng đè lên vậy. Viên Thừa Chí kinh ngạc trong lòng. Thân hình y ốm yếu chưa tới trăm cân, cái bao mà y đeo cũng không lớn lắm, sao lại nặng như thế được?
Sau đó thuyền khởi hành ngay. Thiếu niên áo xanh đi vào trong khoang, gặp Long Đức Lân và Viên Thừa Chí thi lễ, tự xưng họ Ôn tên Thanh, nghe tin mẫu thân bệnh nặng nên gấp rút về thăm. Y nhìn qua Long Đức Lân, ánh mắt không có biểu hiện gì bất thường, nhưng khi hướng về Viên Thừa Chí, cái nhìn của y lại có ý dò xét. Y hỏi: “Nghe khẩu âm Viên huynh hình như không phải là người bản xứ?”
Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ quê quán ở Quảng Đông, từ nhỏ đã cư ngụ ở Thiểm Tây. Đây là lần đầu tiên tại hạ đến Giang Nam.”
Ôn Thanh hỏi: “Viên huynh đi Chiết Giang để làm gì vậy?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đi thăm một người bạn.”
Nói đến đây, đột nhiên có hai chiếc thuyền nhỏ chèo nhanh như bay tới, lướt ngang qua hai bên chiếc thuyền này. Cặp mắt Ôn Thanh cứ dõi theo, mãi đến khi hai chiếc thuyền nhỏ đó qua một khúc quanh, bị những ngọn núi phía trước che khuất, y mới không nhìn theo nữa.
Tới giờ cơm trưa, Long Đức Lân tỏ tình hiếu khách, mời hai người cùng ăn. Sức ăn của Viên Thừa Chí rất mạnh, mỗi bữa phải ba chén cơm lớn, cá thịt cũng ăn không ít. Còn Ôn Thanh chỉ ăn chiếu lệ một chén, đầy vẻ tuấn tú văn nhã.
Vừa ăn cơm xong lại nghe tiếng mái chèo, thêm hai chiếc thuyền nhỏ nữa lướt qua mặt. Trên mũi một chiếc thuyền nhỏ có một gã đại hán đứng yên, nhìn chằm chằm qua thuyền này. Ôn Thanh dựng ngược lông mày lên, sắc mặt đầy vẻ giận dữ.
Viên Thừa Chí ngạc nhiên, không hiểu tại sao y thấy chiếc thuyền nhỏ lại nổi giận như thế. Hình như Ôn Thanh cảm giác được, bèn quay đầu mỉm cười một cái, sắc mặt lập tức trở lại hiền hòa. Bọn thuyền phu vừa pha một bình trà bưng lên. Y uống một hớp, hình như chê trà dở nên chau mày một cái, đặt ly xuống bàn.
Đến xế chiều, thuyền ghé vào một thị trấn nhỏ. Viên Thừa Chí muốn lên bờ dạo chơi một lát. Rủ Long Đức Lân thì y không muốn rời khỏi hàng hóa. Mời Ôn Thanh thì Ôn Thanh bĩu môi một cái, ra vẻ khinh miệt rồi nói: “Nơi này có gì vui đâu?” Hình như y chê Viên Thừa Chí hiểu biết nông cạn. Viên Thừa Chí cảm thấy thiếu niên này kiêu ngạo, nhưng cũng chẳng bận tâm.
Vùng Giang Nam sông núi hiền hòa, cảnh sắc đẹp đẽ, khác hẳn vẻ kỳ vĩ hiểm trở của chốn hoang sơn. Viên Thừa Chí không muốn bỏ qua dịp vui chơi tìm hiểu, bèn lên bờ, vào thị trấn nhỏ mua mấy cân quýt rồi trở về thuyền. Chàng định mời Long Đức Lân và Ôn Thanh ăn quýt, nhưng thấy hai người đã ngủ rồi, nên cởi áo ra nằm nghỉ.
Đến giữa khuya, đang mơ màng thì nghe xa xa có tiếng huýt sáo. Viên Thừa Chí lập tức tỉnh dậy, sực nhớ sư phụ từng dạy mình đề phòng những trò biến trá trên chốn giang hồ. Chàng biết sẽ có chuyện xảy ra, bèn nằm trong chăn âm thầm mặc lại quần áo.
Chẳng bao lâu nghe tiếng mái chèo nổi lên gấp rút, có thuyền từ hạ lưu chèo gấp đến đây. Ôn Thanh ngồi bật dậy. Y lấy trong chăn ra một thanh trường kiếm sáng đến chói mắt, nhảy lên đầu thuyền.
Viên Thừa Chí kinh hãi, thầm đoán: “Chẳng lẽ bọn thủy tặc phái y đến đây để làm nội ứng hay sao? Chắc chúng muốn cướp tài sản của thương gia họ Long này.”
Trước khi xuống núi, sư phụ chàng có nói là thời thế đang loạn lạc, đường đi không yên ổn, nếu mang theo trường kiếm lồ lộ trước mắt người ta thì khó mà tránh khỏi những chuyện vô duyên vô cớ. Viên Thừa Chí nghe lời sư phụ dặn nên chỉ mang theo một ngọn trủy thủ; còn thanh trường kiếm thường ngày luyện tập thì để lại Hoa Sơn. Chàng đưa tay sờ thử cây trủy thủ trong bọc, rồi cũng ngồi dậy.
Tiếng mái chèo của chiếc thuyền con lướt tới càng lúc càng gần. Trên mũi thuyền, một âm thanh thô lỗ quát lên: “Họ Ôn kia! Ngươi có hiểu đạo nghĩa giang hồ hay không?”
Ôn Thanh quát trả: “Hiểu thì sao? Không hiểu thì sao?”
Người kia mắng: “Bọn ta phải cực khổ theo dõi suốt con đường từ Cửu Giang đến đây, thế mà ngươi dám giữa đường can thiệp, bợ mất món hàng đó.”
Lúc này Long Đức Lân đã tỉnh dậy, thò đầu nhìn ra ngoài. Thấy bốn chiếc thuyền con thắp đuốc sáng rực, trên thuyền người nào cũng cầm binh khí; y lập tức hoảng sợ run lên bần bật. Viên Thừa Chí bèn tìm lời trấn an: “Đừng sợ! Không liên quan đến ông đâu.”
Long Đức Lân lắp bắp: “Không phải… không phải chúng… chúng định cướp hàng của ta ư?”
Lúc đó Ôn Thanh thét lên: “Tiền tài trong thiên hạ thì người thiên hạ đều lấy được. Chẳng lẽ chỗ tiền đó là của ngươi hay sao?”
Người kia nói: “Mau mau đem hai ngàn lượng vàng đó ra đây, chia đều ra. Hai bên chúng ta, mỗi bên được một ngàn lượng. Như vậy là dễ dãi cho ngươi rồi.”
Hai đại hán trên thuyền nhỏ giận dữ nói: “Sa đại ca, hà tất phải nhiều lời với tên gian tặc này. Hắn không muốn lấy một ngàn lạng thì thôi, một xu một cắc cũng đừng cho hắn!” Chúng cầm binh khí, tung người nhảy qua thuyền lớn.
Long Đức Lân mới nghe hai bên chửi nhau đã run rẩy toàn thân. Bây giờ thấy hai người từ thuyền nhỏ nhảy qua, y lại càng hồn phi phách tán, lớn tiếng la lên: “Viên… Viên tướng công! Bọn cướp… bọn cướp đến cướp… cướp…”
Viên Thừa Chí kéo y đến sát người mình, hạ giọng nói: “Đừng sợ.”
Thân hình Ôn Thanh hơi nghiêng một tí, chân trái phóng lên, “bõm” một tiếng đã đá người bên trái văng xuống sông, đồng thời trường kiếm bên tay phải vung lên. Người còn lại vội đưa đao lên đỡ. Nào ngờ trường kiếm đột nhiên xoay chuyển, tránh né lưỡi đao, thuận thế chém xuống. “Xoẹt” một tiếng, cả cánh tay lẫn thanh đao rơi xuống ván thuyền. Hắn ngã nhào xuống, ngất xỉu ngay tại chỗ.
Ôn Thanh cười nhạt, la lên: “Sa lão đại! Ngươi đừng bắt bọn vô dụng này đến đây chịu chết nữa.”
Đại hán đứng đối diện “hừ” một tiếng rồi nói: “Đi khiêng lão Lý về đây.”
Hai người tay không từ chiếc thuyền nhỏ tung người nhảy qua. Ôn Thanh chỉ cười nhạt, không lý gì đến chúng. Hai người đó khiêng tên bị chặt đứt cánh tay trở về thuyền nhỏ.
Chẳng bao lâu, tên bị đá lọt xuống sông cũng loi ngoi bò lên chiếc thuyền nhỏ, mình mẩy ướt như chuột lột.
Sa lão đại hô lớn: “Du Long Bang chúng ta và Kỳ Tiên Phái các ngươi, xưa nay nước sông không phạm nước giếng. Đương gia chúng ta nể mặt Ngũ Tổ của ngươi, không muốn làm khó ngươi. Nhưng ngươi muốn tốt thì đừng coi thường chúng ta.”
Viên Thừa Chí nghe nhắc đến Kỳ Tiên Phái, trong lòng bỗng nghĩ: “Ngày ấy, Trương Xuân Cửu và tên trọc không phải tự xưng là Kỳ Tiên Phái hay sao? Họ Ôn này cùng một phái với Trương Xuân Cửu, chắc chắn là quân gian ác rồi.”
Ôn Thanh nói: “Ngươi đừng lấy lòng ta. Đánh không lại, giở trò năn nỉ hay sao?”
Sa lão đại giận dữ hỏi: “Rút cuộc thì ngươi có tuân thủ quy luật giang hồ hay không?”
Ôn Thanh cười nhạt, đáp: “Ai muốn tuân thủ thì cứ việc tuân thủ. Sao phải nhiều lời vô ích như vậy?”
Sa lão đại nói: “Nghe ta nói đây. Du Long Bang chúng ta đã theo đúng quy luật, giữ đủ lễ số, nói chuyện đàng hoàng với ngươi, chỉ mong hai bên không tổn thương hòa khí. Ngũ Tổ của ngươi không thể trách chúng ta lấy nhiều hiếp ít, lấy lớn hiếp nhỏ.”
Cứ nghe khẩu khí cũng biết, tên này đối với Ngũ Tổ gì gì đó của Ôn Thanh vừa kính nể vừa sợ sệt.
Ôn Thanh mỉm cười nói: “Dựa vào bản lãnh mèo què như thế mà đòi bức hiếp ta ư?”
Viên Thừa Chí nghe hai bên càng nói càng cứng rắn, biết rằng nhất định sẽ xảy ra động thủ. Hình như Du Long Bang định cướp một số vàng, nhưng bị Ôn Thanh giữa chừng nhảy ra đoạt trước. Du Long Bang không phục, đuổi đến đây đòi chia một nửa chỗ vàng cướp được. Khi Ôn Thanh lên thuyền thân thể nặng nề như thế, chắc chắn có hai ngàn lượng vàng trong bao.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Hai bên đều chẳng tử tế gì. Mình cứ giả vờ không biết võ công, phủi tay đứng xem là được.”
Sa lão đại quát lên một tiếng, nắm chặt chuôi thanh Đại hoàn đao, nhảy qua thuyền lớn. Mười mấy đại hán tới tấp nhảy theo, đứng sau lưng hắn.
Sa lão đại chắp tay nói: “Võ công Kỳ Tiên Phái các vị có thể nói là độc đáo ở Giang Nam. Hôm nay Sa mỗ phải lãnh giáo cao chiêu của các hạ.”
Ôn Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Một mình ngươi đánh với ta, hay là cả bọn ùa lên?”
Sa lão đại giận dữ nói: “Ngươi xem thường người khác quá rồi. Trên thuyền ngươi có bao nhiêu người, hãy mời hết ra đây làm chứng. Đừng để bằng hữu giang hồ nói là Sa mỗ không biết giữ thể diện.”
Nói xong, hắn quay lại hô lớn: “Mời những người trong khoang ra đây.”
Hai đại hán vào trong khoang, bảo Viên Thừa Chí và Long Đức Lân: “Đại ca của chúng ta mời hai vị ra ngoài.”
Long Đức Lân run rẩy toàn thân, nói không ra tiếng. Viên Thừa Chí nói: “Họ muốn đánh nhau, chỉ muốn gọi chúng ta ra để làm chứng, không có gì quan trọng đâu. Ra đi!” Chàng kéo tay Long Đức Lân, dắt ra mũi thuyền.
Ôn Thanh hình như không muốn đợi lâu phiền phức. Y không để Sa lão đại nói nhiều nữa, cười gằn rồi nói: “Ngươi đã muốn chuốc lấy tai họa về mình thì đừng trách ta ra tay ác độc. Xuất chiêu đi!”
Soạt soạt hai tiếng, y phóng kiếm đâm vào cánh tay trái và ngực phải đối thủ. Thân hình Sa lão đại khôi vĩ to lớn, nhưng thân pháp cũng khá linh hoạt. Hắn múa cây Bát phong đại hoàn đao ra chiêu Thiết Ngưu Đỉnh Canh, xoay ngược sống đao chém tới Ôn Thanh. Chiêu này vừa gạt được trường kiếm đâm tới, vừa có thể tấn công kẻ địch, lại ra vẻ hạ thủ lưu tình, chỉ dùng sống đao mà đánh.
Ôn Thanh quát lên: “Ngươi có bao nhiêu bản lĩnh thì đem ra hết đi. Ta không muốn lễ nghĩa với ngươi đâu.” Miệng chưa nói xong, trường kiếm trên tay đã liên tiếp đâm tới veo véo.
Sa lão đại hơi sơ suất một chút, vai áo đã bị đâm thủng một lỗ, da thịt trên vai cũng bị vạch trúng. Hắn chửi tục mấy câu, rồi điên cuồng thi triển những chiêu sát thủ ác độc của Bát phong đại hoàn đao. Ôn Thanh múa kiếm rất nhanh, đảo qua lượn lại, trường kiếm lấp loáng ánh xanh, trùm kín thân thể đối phương.
Mới nhìn hai bên tỉ đấu mấy chiêu, Viên Thừa Chí đã biết võ công của Ôn Thanh hơn hẳn Sa lão đại. Thanh đao của Sa lão đại trầm trọng, nhìn thì oai mãnh, nhưng đao pháp lại trì trệ, không qua được những chiêu xảo diệu của Ôn Thanh.
Thời gian càng kéo dài, đầu Sa lão đại càng ướt đẫm mồ hôi. Hắn thở nghe hổn hển, thân pháp không nhanh nhẹn như trước nữa.
Trong bóng kiếm bỗng nghe Ôn Thanh quát lên một tiếng, Sa lão đại trúng kiếm vào đùi. Sắc mặt hắn thay đổi hẳn, tung người nhảy lùi ba bước, tay phải vung lên, ba mũi Thấu cốt đinh bay tới Ôn Thanh. Ôn Thanh dùng kiếm gạt văng hai mũi, còn một mũi thì né mình tránh khỏi.
Hai mũi Thấu cốt đinh bị gạt ra, có một mũi bay thẳng tới trước ngực Viên Thừa Chí. Ôn Thanh giật mình, nghĩ chắc mình vô ý đả thương người khác. Nào ngờ Viên Thừa Chí đưa tay trái ra, chỉ dùng hai ngón tay kẹp gọn mũi đinh.
Bọn đại hán theo Sa lão đại nhảy qua đều cầm đèn đuốc, mũi thuyền sáng trưng như ban ngày. Ôn Thanh nhìn thấy rõ ràng, không khỏi ngẩn ra: “Chiêu này hay quá! Thì ra võ công người này rất khá.”
Sa lão đại thấy Ôn Thanh cứ chăm chú nhìn Viên Thừa Chí ra vẻ kinh ngạc, nhân lúc y không đề phòng lại bắn tới ba mũi Thấu cốt đinh. Viên Thừa Chí bất giác la lên: “Ôn huynh cẩn thận!”
Ôn Thanh vội vã quay đầu lại, thấy ba mũi đinh còn cách mình chưa tới ba thước. Nếu không nhờ Viên Thừa Chí kịp thời nhắc nhở, thì y giỏi lắm chỉ tránh được một mũi, còn hai mũi phía dưới chắc chắn không tránh được. Y nghiêng đầu tránh một mũi, vung kiếm đánh bật hai mũi khác, quay lại gật đầu ra vẻ cảm ơn Viên Thừa Chí, rồi vung trường kiếm đâm tới Sa lão đại.
Tên này đánh lén ba mũi Thấu cốt đinh không trúng, dĩ nhiên đã có phòng bị. Hắn cầm cây Bát phong đao đâm chém loạn xạ như người điên. Ôn Thanh tức giận hắn ra tay ác độc, phen này ra toàn những sát chiêu. Mới mấy chiêu, cánh tay phải của Sa lão đại đã trúng kiếm, buông cây Bát phong đao rơi xuống sàn thuyền loảng xoảng.
Ôn Thanh nhảy tới một bước, vung kiếm phạt xuống, chặt đứt lìa chân phải của hắn. Sa lão đại kêu lên một tiếng thảm khốc, lập tức ngất xỉu. Đám bộ hạ của hắn vô cùng kinh hãi, ùa vào giải cứu. Ôn Thanh vừa phóng chưởng vừa phóng kiếm, chỉ chốc lát đã giết chết bảy tám người.
Viên Thừa Chí thấy vậy không nỡ, bèn lên tiếng: “Ôn đại ca, tha cho họ đi.”
Nhưng Ôn Thanh mặc kệ, giết thêm hai tên nữa. Bọn còn lại thấy đối phương hung hãn, bèn gọi nhau nhảy xuống sông chạy trốn. Ôn Thanh thuận tay phóng kiếm đâm vào giữa ngực Sa lão đại, rồi thuận chân đá văng thi thể của hắn xuống sông.
Viên Thừa Chí cảm thấy bất mãn, thầm nghĩ: “Thắng là được rồi, hà tất phải ra tay ác độc như thế?” Chàng quay đầu nhìn Long Đức Lân, thấy gã đã hoảng sợ đến bủn rủn toàn thân, không động đậy được.
Đám bang chúng Du Long Bang từ dưới sông trèo lên thuyền nhỏ, khua mái chèo xuôi dòng chạy trốn.
Viên Thừa Chí nói: “Họ muốn đoạt lấy tài vật của huynh mà không được thì thôi, hà tất phải hại nhiều sinh mạng?”
Ôn Thanh liếc chàng một cái rồi nói: “Huynh không thấy vừa rồi chúng đê tiện độc ác thế nào hay sao? Nếu ta lọt vào tay chúng, e rằng còn thảm khốc hơn nhiều. Huynh đừng tưởng đã giúp đỡ một lần thì có thể tùy tiện dạy dỗ người khác.”
Viên Thừa Chí không nói gì nữa, nghĩ bụng: “Người này thật là không thông tình lý.”
Ôn Thanh lau khô những vết máu trên trường kiếm, rồi tra kiếm vào vỏ. Y chắp tay vái chào Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Viên đại ca! Vừa rồi may được huynh lên tiếng nhắc nhở, nên ta mới tránh được ám khí. Đa tạ nhé.”
Mặt của Viên Thừa Chí hơi đỏ lên, chắp tay trả lễ, cảm thấy khó chịu vì không biết phải nói gì. Chàng cảm thấy người thiếu niên tuấn tú này lúc thì lễ độ đàng hoàng, lúc thì hung dữ ác ôn như lang sói. Không biết tính tình của y thật sự ra sao?
Ôn Thanh gọi chủ thuyền ra, bảo rửa sạch máu me trên mũi thuyền rồi cho thuyền đi tiếp. Người chủ thuyền thấy trận ác đấu vừa rồi, không dám ý kiến nửa câu. Hắn lập tức xách nước rửa sạch ván thuyền, rồi rút neo giương buồm, khởi hành lập tức.
Ôn Thanh lại bảo chủ thuyền dọn thức ăn và rượu của Long Đức Lân ra, đổi khách làm chủ, mời Viên Thừa Chí ra mũi thuyền ngắm trăng. Y hoàn toàn không nhắc đến trận ác đấu vừa rồi, uống mấy ly rồi nói: “Trăng sáng khi nào có; Nhấp rượu hỏi trời xanh.. Ái chà, e rằng trăng lúc nào muốn sáng thì sáng, không muốn sáng thì thôi, trời xanh cũng không biết đâu mà đáp. Viên đại ca! Huynh nghĩ có phải vậy không?”
Viên Thừa Chí nghe y đột nhiên nói chuyện văn chương, chỉ biết ừ à mấy tiếng. Chàng từng theo Ưng Tùng đọc mấy năm sách vở, mà lúc theo Mục Nhân Thanh học võ cũng đôi khi lật vài trang sách. Nhưng chàng không coi đó là chuyện chính, nên chữ nghĩa rất có giới hạn.
Ôn Thanh lại nói: “Viên huynh! Trăng trong gió mát thế này, chúng ta cùng làm câu đối có được không?”
Viên Thừa Chí nói: “Câu đối ư? Câu đối là cái gì? Chuyện này ta không hiểu.”
Ôn Thanh cười cười không đáp, rót đầy ly cho Viên Thừa Chí. Đột nhiên từ phía trước có một chiếc thuyền nhỏ lướt tới, tuy ngược dòng nhưng nhanh chóng khác thường. Sắc mặt Ôn Thanh thay đổi, cười lạnh mấy tiếng, nhưng vẫn tiếp tục uống rượu.
Thuyền lớn đang thuận gió thuận nước, chạy xuống hạ lưu. Trong chớp mắt hai chiếc thuyền đã tới sát nhau. Ôn Thanh đặt ly rượu xuống, đột nhiên tung người nhảy lên, chỉ chấm chân xuống ván thuyền một cái đã bay tới cuối thuyền. Y giành lấy tay lái trong tay thuyền phu, bẻ sang một bên. Mũi thuyền lập tức quặt sang bên trái, đâm thẳng vào chiếc thuyền nhỏ đang chạy tới.
Chiếc thuyền nhỏ muốn tránh né cũng không kịp nữa. Nghe một tiếng ầm dữ dội, hai chiếc thuyền va thẳng vào nhau. Viên Thừa Chí la lên một tiếng, nhìn thấy từ thuyền nhỏ có ba người nhảy lên rồi đáp xuống thuyền lớn, thân pháp không phải là tệ. Lúc này thuyền nhỏ đã bị lật úp, đáy thuyền hướng ngược lên trời.
Từ xa Viên Thừa Chí đã thấy trên thuyền nhỏ có năm người. Ngoài ba người này ra, còn hai người nữa, một cầm tay lái, một cầm mái chèo. Hai người này không kịp nhảy lên, đều rơi xuống sông. Họ chưa kịp kêu cứu mạng đã chìm xuống đáy. Đoạn sông này nước chảy xiết, đá ngầm lại nhiều. Dù là người bơi lội giỏi, nhưng đêm tối thế này mà rơi xuống lòng sông, không khỏi may ít rủi nhiều.
Viên Thừa Chí âm thầm chửi mắng Ôn Thanh ác độc, vô cớ làm tổn thương người khác. Chàng đợi hai người đó nhô đầu lên khỏi mặt nước, lập tức đưa tay giật đứt sợi dây cột buồm, cắn chặt vào miệng. Hai chân chàng đạp nhẹ lên be thuyền một cái, lộn người nhảy xuống sông, mỗi tay chụp lấy một người, nắm tóc kéo họ từ dưới nước lên. Chàng nương vào sợi dây cột buồm đang cắn chặt trong miệng, lượn nửa vòng trên mặt sông, xách cả hai người bay trở về thuyền.
Phen này chàng vừa vận dụng nội kình Hỗn Nguyên Công, vừa sử dụng khinh công của Mộc Tang đạo nhân đã dạy. Khi bay tới thuyền, chàng nghe bốn người cùng hoan hô vang dội. Một là Ôn Thanh, y đã từ đuôi thuyền nhảy trở ra mũi thuyền. Ba người khác là những người vừa từ chiếc thuyền nhỏ nhảy qua.
Viên Thừa Chí buông hai người phu thuyền xuống, dưới ánh trăng nhìn kỹ lại ba người kia. Có một ông lão gầy guộc ngoài năm mươi tuổi, để râu thưa thớt dưới cằm; một đại hán trung niên to khỏe; người còn lại là một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi.
Ông lão cười khẩy rồi nói: “Vị lão đệ này thân pháp tuyệt vời, xin thỉnh giáo tôn tính đại danh. Không hiểu tôn sư là ai?”
Viên Thừa Chí chắp tay nói: “Vãn bối họ Viên, vì thấy hai người này rơi xuống nước nguy hiểm nên mới kéo họ lên, chứ không phải cố ý khoe khoang công phu thô thiển, múa rìu qua mắt thợ trước mặt tiền bối. Xin đừng trách.”
Ông lão thấy Viên Thừa Chí khiêm cung như vậy, không khỏi bất ngờ. Lão tưởng Viên Thừa Chí sợ mình, nên cười nhạt rồi quay lại nói với Ôn Thanh: “Chẳng trách đứa bé này càng lúc càng lớn mật; thì ra có một tay cứng viện trợ sau lưng. Hắn có phải là huynh đệ của ngươi không?”
Ôn Thanh lập tức đỏ bừng mặt, giận dữ nói: “Ta tôn trọng ông là trưởng bối, nhưng ông phải ăn nói đàng hoàng một chút.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Xem thần sắc cũng biết những người này chẳng đứng đắn gì. Ta không nên để bị cuốn vào vòng xoáy thị phi.” Chàng bèn dõng dạc nói: “Tại hạ cùng Ôn huynh chỉ là bèo nước gặp nhau, không thể nói là có giao tình. Tại hạ khuyên quý vị có gì thì cứ thương lượng đàng hoàng, không nên động đao kiếm để tổn thương hòa khí.”
Ông lão kia nghe Viên Thừa Chí nói vậy, biết chàng không về phe Ôn Thanh, bèn mừng rỡ nói: “Viên bằng hữu đã không có dây mơ rễ má gì với tên họ Ôn này, thế thì tuyệt diệu. Lát nữa mọi việc xong xuôi, chúng ta sẽ thương thảo với nhau, kết thành bằng hữu. Dĩ nhiên chúng ta tuân thủ quy luật giang hồ, người nào có mặt người đó có phần.”
Lão nói chuyện lấy lòng, hình như hứa là cướp được số vàng đó sẽ chia cho chàng một phần. Viên Thừa Chí không tiện đáp, chỉ chắp tay thi lễ rồi lùi ra phía sau Ôn Thanh.
Ông lão kia gằn giọng với Ôn Thanh: “Ngươi tuổi tác còn nhỏ, mà hành sự lại tàn ác đến thế. Sa lão đại đánh không thắng ngươi, thì ngươi đuổi hắn đi là được rồi, sao phải đoạt mạng hắn?”
Ôn Thanh đáp: “Ta chỉ có một mình, còn các ngươi dùng số đông ùa lên một lúc, làm sao ta không tàn nhẫn được? Các ngươi mới là kẻ không sợ người khác chê cười, lấy lớn hiếp nhỏ, lấy đông hiếp ít. Nếu có bản lãnh thì cứ đoạt vàng của người ta trước đi, đằng này đợi ta lấy được rồi mới lẵng nhẵng đuổi theo như âm hồn bất tán. Muốn người khác dọn sẵn cho ăn, đúng là không biết giữ thể diện!”
Thanh âm của y dõng dạc, nói liền một thôi một hồi. Ông lão ngậm miệng, không cãi được tiếng nào.
Nữ nhân kia đột nhiên dựng ngược lông mày, cất tiếng thóa mạ: “Tên nhãi ranh kia! Nhà họ Ôn chiều chuộng ngươi quá mức, không biết quy củ là gì nữa. Ta phải đi hỏi gia gia của ngươi là ai mà không biết dạy ngươi kính trọng bậc trưởng bối.”
Ôn Thanh nói: “Muốn làm trưởng bối thì phải tỏ rõ tư cách trưởng bối mới được. Các ngươi ngông nghênh như thế, toan chiếm đoạt công sức người khác thì không được đâu!”
Ông lão kia giận dữ, tay trái phóng chưởng nghe vù một tiếng, đập vào cái bàn đặt ở mũi thuyền. Mặt bàn lập tức vỡ nát.
Ôn Thanh nói: “Công phu của Vinh lão gia thế nào, ta đã biết từ lâu rồi. Chỉ có chút xíu ngón nghề, hà tất phải khoe khoang trước mặt bọn tiểu bối làm gì. Muốn khoe khoang bản lãnh của mình, thì cứ đến trước mặt gia gia ta mà khoe.”
Ông lão kia nói: “Ngươi đừng đem ông ngoại ra mà hù dọa người khác. Ông ngoại của ngươi thì đã ra gì? Nếu họ thật sự có bản lãnh, thì con gái của họ đã không bị người ta làm nhục, đẻ ra một đứa tạp chủng như ngươi, làm mất mặt nhà họ Ôn.”
Sắc mặt Ôn Thanh thay đổi đến mức méo mó, y đưa tay nắm chặt chuôi kiếm. Bàn tay trắng trẻo như bạch ngọc của y không ngớt run rẩy, hiển nhiên tức giận đến cùng cực. Đại hán và nữ nhân kia cười rộ lên.
Viên Thừa Chí thấy trên mặt Ôn Thanh đã có hai hàng nước mắt chảy xuống, trong lòng bất nhẫn nghĩ thầm: “Huynh ấy hành sự lão luyện hơn ta rất nhiều, tại sao mới bị người ta khích bác đã khóc rồi? Còn lão già kia, tại sao lại chửi mắng cha mẹ người ta? Tuổi tác đã lớn mà ăn nói bừa bãi vô lý, thốt ra những lời khó nghe để làm tổn thương danh dự kẻ khác!”
Chàng vốn định không giúp bên nào, bây giờ thấy Ôn Thanh bị người ta bức hiếp, bèn quyết ý giúp yếu trừ bạo.
Ông lão gằn giọng nói: “Khóc thì ích gì? Mau mau đưa vàng ra đây! Chúng ta không tham lam lắm đâu. Chỗ vàng này phải chia một phần cho quả phụ của Sa lão đại, mà Viên bằng hữu đây cũng phải có một phần.”
Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Ta không cần.”
Ôn Thanh thì thân thể run rẩy, vừa khóc vừa nói: “Ta không đưa.”
Đại hán kia “hừ” một tiếng. Hắn thấy chiếc thuyền lớn đã hạ buồm xuống nhưng vẫn tiếp tục trôi theo dòng nước, bèn nhấc cái neo bằng sắt ở mũi thuyền lên, quay trên không trung một vòng rồi ném lên bờ. Cả neo lẫn dây xích phải nặng hơn trăm cân, mà hắn ném được xa như vậy, rõ ràng khí lực không nhỏ.
Neo sắt móc vào bờ, thuyền lớn lập tức dừng lại. Đại hán quát lên: “Rốt cuộc thì ngươi có chịu lấy ra hay không?”
Ôn Thanh đưa tay trái lên lau nước mắt, đáp: “Được! Ta đưa cho các ngươi.”
Y chạy vào khoang thuyền, chỉ chốc lát là hai tay bưng một cái bao ra, dáng vẻ trông rất nặng nề. Đại hán đưa tay ra đón, nhưng Ôn Thanh thét lên: “Hừ! Đâu có dễ dàng như thế?”
Y vận sức ném cái bao ra ngoài, rơi tõm xuống sông, rồi la lên: “Các ngươi có gan thì đến đây giết ta đi. Còn muốn lấy số vàng đó thì đừng hòng.”
Đại hán tức quá thét lên be be, rút đao ra chém tới. Ôn Thanh vừa ném cái bao là rút kiếm ra ngay, veo véo đâm trả hai chiêu. Ông lão vội la lên: “Dừng tay!”
Đại hán lập tức thu kiếm, nhảy lùi hai bước. Ông lão liếc xéo Ôn Thanh, cười nhạt rồi nói: “Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, con rùa lại đẻ ra rùa! Cha nào con nấy, có người cha như thế mới sinh ra thứ tiểu súc sinh này. Hôm nay mà lão phu để tên nhãi này làm bừa trước mặt, thì quyết không mang họ Vinh nữa.”
Thân thể lão không thấy lắc lư chút nào mà đột nhiên bay vọt lên, đáp xuống trước mặt Ôn Thanh. Ôn Thanh múa kiếm đâm tới, còn lão dùng tay không xuất chiêu, chưởng phong rít lên tiếng gió, chưởng thế rất lợi hại. Ôn Thanh có trường kiếm trên tay, nhưng cũng bị ép phải lùi liên tiếp.
Được mười mấy chiêu, cổ tay phải của Ôn Thanh bị ngón tay của lão điểm trúng, trường kiếm rơi xuống nghe loảng xoảng. Ông lão dùng mũi bàn chân hất thanh kiếm bay lên, đưa tay trái chụp lấy chuôi kiếm, tay phải vuốt dọc sống kiếm, chĩa mũi kiếm vào mặt Ôn Thanh. Lão hét lên: “Hôm nay ta phải ký tên vào mặt ngươi, kẻo sau này ngươi quên mất lão phu lợi hại.”
Lão cầm trường kiếm quẹt vào mặt Ôn Thanh, y kinh hãi lùi bước liên tục. Ông lão tiến từng bước một, tay trái đưa thẳng ra, lưỡi kiếm lấp loáng cứ nhằm thẳng vào mặt Ôn Thanh mà vạch.
Viên Thừa Chí thấy ông lão này xuất chiêu hiểm độc, nghĩ nếu mình không ra tay thì mặt mũi Ôn Thanh chắc chắn bị hủy hoại. Chàng quát lên: “Xin tiền bối dừng tay, đừng đả thương người khác.”
Ông lão không lý gì đến chàng, cứ chĩa kiếm vào mặt Ôn Thanh. Viên Thừa Chí liền lấy trong bọc ra một đồng tiền, búng vào thanh kiếm trong tay lão. “Keng” một tiếng, tay của ông lão bị chấn động kịch liệt, đau nhói lên, để trường kiếm tuột khỏi tay.
Ôn Thanh đang hoảng sợ đến co rúm người lại, bây giờ cất tiếng hoan hô rồi nhảy ra núp sau lưng Viên Thừa Chí, như muốn nhờ chàng bảo vệ.
Ông lão này họ Vinh, tên Thái, là bang chủ Du Long Bang. Ở vùng Giang Nam, ngoài Ngũ Tổ của Kỳ Tiên Phái và Lữ Thất tiên sinh ra, võ công của lão có thể coi là cao nhất.
Mười ngón tay của Vinh Thái đã luyện thành Đại Lực Ưng Trảo Công, so với đao kiếm bình thường còn lợi hại hơn. Thế mà một thứ ám khí nhỏ xíu của đối phương đánh rơi được binh khí trên tay lão, thật là suốt đời chưa từng gặp chuyện sỉ nhục nào lớn như vậy. Lão giận đến tía tai đỏ mặt, nhưng không giấu được vẻ kinh hãi: “Thủ kình của thằng lỏi này sao lại khủng khiếp đến thế?”
Đại hán và nữ nhân kia cũng đã thấy võ công Viên Thừa Chí cao cường, đều nghĩ: “Dù sao chỗ vàng kia cũng lọt xuống sông mất rồi. Hôm nay gặp phải cao thủ can thiệp, nhất định chúng ta không thể chiếm được lợi thế. Chi bằng nói mấy câu để lấy thể diện, rồi rút lui cho xong”.
Nữ nhân bèn hô lớn: “Lão gia, chúng ta đi thôi. Nể mặt Viên bằng hữu, hôm nay hãy tạm tha cho đứa nhóc đó. Hòa thượng bỏ đi, miếu còn ở lại. Sau này chúng ta sẽ đến Tịnh Nham ở Cù Châu, tìm Kỳ Tiên Phái tính sổ món nợ này.”
Ôn Thanh la lên: “Gặp người giỏi là chuồn ngay phải không? Du Long Bang các ngươi quen thói sợ mạnh hiếp yếu, thật là không biết xấu hổ.”
Viên Thừa Chí chau mày nghĩ bụng: “Người này vừa thoát khỏi đại nạn đã lập tức kiếm lời châm biếm, không để cho người ta một chút đường lùi”.
Nữ nhân kia bị Ôn Thanh mắng cho bối rối, mặt mũi sượng sùng. Vinh Thái cảm thấy khó thoát khỏi tình trạng khó xử này, bèn gượng cười nói: “Viên lão đệ công phu thật tuyệt. Hôm nay gặp nhau ở đây cũng là có duyên. Hai người chúng ta thi thố một phen quyền cước xem thử thế nào?”
Lão đã khổ công luyện tập Ưng Trảo Công không dưới hai mươi năm, rất tự tin. Lão nghĩ: “Thằng lỏi này giỏi công phu ám khí, nhưng về quyền cước chưa chắc đã thắng được ta.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình mà động thủ với ông lão này tức là ra mặt giúp Ôn Thanh rồi. Tên thiếu niên Kỳ Tiên Phái này lòng dạ hẹp hòi, điêu ngoa xảo trá. Vì vàng bạc mà hắn giết người bừa bãi, chắc chắn không phải là bạn tốt. Mình không nên vì hắn mà kết thêm thù oán.”
Chàng bèn chắp tay nói: “Vãn bối mới vào giang hồ, sao dám dựa vào chút xíu công phu nhỏ mọn mà múa rìu qua mắt thợ trước mặt tiền bối?”
Vinh Thái khen thầm: “Thiếu niên này thật là biết xử sự”. Lão nhân cơ hội để thoát khỏi khó xử, nói ngay: “Viên bằng hữu khách sáo rồi.” Rồi lão trừng to cặp mắt nhìn Ôn Thanh, giận dữ nói: “Sẽ có ngày lão phu dạy cho ngươi biết thế nào là lợi hại.”
Lão quay đầu lại, gọi đại hán và nữ nhân kia: “Chúng ta đi thôi.”
Ôn Thanh nói: “Ngươi lợi hại thế nào, ta biết từ lâu rồi. Hễ thấy công phu người ta giỏi thì không dám ra tay, chỉ muốn chuồn cho sớm, chạy gấp về nhà uống mấy gói thuốc an thần, rồi rúc đầu vào chăn mà nằm run như đuôi thằn lằn đứt.”
Miệng lưỡi Ôn Thanh không nhường nhịn chút nào, cố ý xúc xiểm cho lão đánh nhau với Viên Thừa Chí. Y đã thấy võ công Viên Thừa Chí cao cường, Vinh Thái không phải là địch thủ.
Câu nói này khiến cho Vinh Thái vô cùng khó xử, ngay cả Viên Thừa Chí cũng lộ vẻ không vui. Vinh Thái nổi giận nói: “Viên bằng hữu tuổi tuy còn trẻ, nhưng rất biết xử sự. Qua đây, chúng ta thử mấy chiêu, đừng để tên tiểu bối thiếu hiểu biết này tưởng là ta khiếp nhược.”
Viên Thừa Chí nói: “Lão tiền bối hà tất phải bận tâm. Huynh ấy chỉ nói đùa thôi mà.”
Vinh Thái cười ha hả rồi nói: “Lão đệ cứ yên tâm, nhất định ta không nặng tay với lão đệ đâu.”
Ôn Thanh lạnh nhạt nói: “Thế mà nói là không sợ! Chưa ra tay động thủ, đã lo liệu tình cảm trước rồi. Mau mau chuồn đi, đừng đánh nhau còn hay hơn. Ta sống đến tuổi này rồi, chưa bao giờ thấy tình hình như vậy, đúng là không biết nói gì nữa. Vinh lão gia! Lão sợ run đến như vậy, sao không mời Viên tướng công về, nhường ngôi bang chủ Du Long Bang đi?”
Mặt Vinh Thái nhăn nhúm lại, cơn giận như sắp vỡ toang ra. Đột nhiên trên bờ có ánh lửa lấp loáng, mấy chục người cầm binh khí và đèn đuốc chạy tới, kêu réo om sòm: “Vinh lão gia! Đã bắt được tên nhãi đó chưa? Chúng ta phải bằm nhuyễn nó ra, trả thù cho Sa lão đại.”
Ôn Thanh thấy đối phương đem toàn quân tới, tuy gan to không biết sợ gì, nhưng trong lòng không khỏi kinh hãi.
Vinh Thái hô lớn: “Lưu gia huynh đệ! Hai ngươi qua đây một chút.”
Hai người kia liền vâng dạ, chạy đến bờ sông. Thuyền lớn ở cách bờ khá xa, họ liền nhảy bừa xuống nước, bơi nhanh đến. Thủy tính của họ rất giỏi, chỉ nháy mắt đã áp mạn, tung mình nhảy lên thuyền.
Vinh Thái bảo: “Gói hàng đó đã bị tên nhãi này ném xuống sông rồi. Hai anh em ngươi xuống tìm đi.” Nói xong, lão chỉ tay xuống sông. Anh em họ Lưu liền nhảy ngay xuống, lặn mất hút.
Ôn Thanh kéo tay áo Viên Thừa Chí, kề vào tai chàng nói nhỏ: “Mau mau cứu ta đi! Chúng muốn giết ta.”
Viên Thừa Chí quay lại, dưới ánh trăng thấy sắc mặt y trông rất đáng thương. Chàng bất giác gật đầu một cái.
Ôn Thanh nắm chặt tay chàng, khẽ nói: “Chúng người đông thế mạnh. Huynh phải tìm cách chặt đứt sợi dây xích, rồi chúng ta cho thuyền rời khỏi đây chạy trốn.”
Viên Thừa Chí chưa đáp, chợt cảm thấy bàn tay Ôn Thanh mềm mại trơn tru như không có xương. Chàng kinh ngạc trong lòng, tự hỏi: “Tại sao bàn tay của thiếu niên này giống như bông gòn vậy? Thật là hiếm có.”
Lúc này, Vinh Thái đã để ý thấy hai người thầm thì bàn luận. Lão quay lại nhìn.
Ôn Thanh bỗng nhéo vào hông Viên Thừa Chí một cái, đột nhiên túm lấy cái bàn trên mũi thuyền, quét về phía ba người Vinh Thái. Đại hán và nữ nhân kia đang tập trung hết tinh thần theo dõi anh em họ Lưu dưới nước, nên không đề phòng. Họ bị cái bàn đập vào lưng, giật mình la lên một tiếng, cùng lúc té nhào xuống nước.
Vinh Thái tung người nhảy lên, vung tay chụp xuống. Năm ngón tay lão bấm thủng mặt bàn, vận sức kéo mạnh. Nghe mấy tiếng lách cách, hai cái chân bàn trên tay Ôn Thanh bị gãy lìa ra.
Vinh Thái biết đại hán và nữ nhân kia không biết bơi lội. Nước sông đang chảy xiết, anh em họ Lưu khó mà cứu họ kịp. Lão liền hất cái bàn xuống sông cho hai người nắm lấy, không đến nỗi chìm ngay. Rồi lão vung song chưởng lên vù vù, đánh vào mặt Ôn Thanh.
Ôn Thanh nắm lấy hai cái chân bàn che đỡ trước mặt, vội vã la lên: “Mau lên! Mau lên đi huynh!”
Viên Thừa Chí liền nắm lấy sợi dây xích, vận hết kình lực Hỗn Nguyên Công giật mạnh. Cái neo sắt rất lớn bị nhổ khỏi bờ sông, bay vù về phía mũi thuyền. Vinh Thái và Ôn Thanh đều kinh hãi, nhảy dạt sang hai bên tránh né. Lúc hai người quay đầu lại nhìn Viên Thừa Chí, đã thấy chàng đỡ cái neo sắt, từ từ đặt xuống mũi thuyền.
Neo vừa nhổ, chiếc thuyền lớn lập tức trôi về phía hạ lưu, xa dần mọi người đang đứng trên bờ. Vinh Thái thấy công lực đối phương như thế, biết mình ở đây chẳng được tích sự gì. Lão bèn vận sức vào chân đạp xuống ván thuyền, hít một hơi nhảy lên bờ.
Viên Thừa Chí nhìn thân pháp của lão, biết lão nhảy không đến được bờ. Chàng chụp lấy một miếng ván mặt bàn, ném mạnh ra.
Khi hết đà rơi xuống, Vinh Thái thấy dưới chân mình là mặt nước mênh mông. Lão chưa kịp kinh hãi, đột nhiên thấy một tấm ván bay tới, vừa vặn rơi vào chỗ mặt nước mà chân mình sắp chạm phải. Lão cả mừng, đưa chân trái đạp lên miếng ván đó, mượn sức nhảy lên bờ, vừa thầm cảm kích hảo ý của Viên Thừa Chí, vừa thán phục công lực của chàng. Lão nhảy ra trước, miếng ván ném theo sau mà cũng kịp tới nơi.
Ôn Thanh hừ một tiếng rồi nói: “Không biết xanh đỏ trắng vàng gì cả, đã ngốc nghếch lại cố giả làm người tốt. Rốt cuộc là huynh giúp ta hay giúp lão già thối tha kia? Để lão tắm mát một lúc, giải khát mấy ngụm nước sông không tốt hay sao? Đã đến nỗi chết chìm đâu?”
Viên Thừa Chí đã biết thiếu niên này tính tình cổ quái, nói chuyện không cần lý lẽ. Chàng nghĩ bụng: “Người như thế này, càng ít giây vào càng tốt. Mình vừa cứu mạng y, thế mà y không cảm ơn lại còn vô lễ như thế”. Chàng không nói gì, trở vào trong khoang nằm ngủ tiếp.
Chiều hôm sau thuyền đến Cù Châu. Viên Thừa Chí cảm tạ Long Đức Lân, rồi lấy năm đồng tiền ra trả cho chủ thuyền. Long Đức Lân nhất định đòi trả giúp, Viên Thừa Chí từ chối không được, đành phải chắp tay đa tạ.
Ôn Thanh nói với Long Đức Lân: “Ta biết ông không thích trả tiền thuyền giùm ta đâu. Hừ, cho dù ông đòi trả, ta cũng không chịu.” Nói xong, y lấy trong bọc ra một thỏi bạc nặng khoảng mười lượng, ném cho chủ thuyền rồi nói: “Cho ngươi hết!”
Chủ thuyền thấy thỏi bạc lớn quá, kinh hoảng đến ngẩn ra, vội nói: “Tiểu nhân không đủ tiền để thối.”
Ôn Thanh quát: “Ai bảo ngươi thối? Cho ngươi hết.”
Chủ thuyền không dám tin, lại nói: “Đâu có cần nhiều như thế?”
Ôn Thanh mắng luôn: “Lải nhải cái gì? Ta trả bao nhiêu thì ngươi phải nhận bấy nhiêu. Ngươi mà chọc ta nổi giận, thì ta phải đục thủng đáy thuyền ngươi mấy lỗ, nhận chiếc thuyền mục này chìm xuống nước.”
Đêm hôm qua chủ thuyền đã thấy thiếu niên này cất tay là giết người, hung hãn vô cùng. Hắn không dám nói nhiều, ngay cả cảm ơn cũng không dám, vội cất thỏi bạc vào trong bọc.
Ôn Thanh lấy cái bao trong người ra, trút lên bàn. Ánh hoàng kim lấp lánh, thì ra trong bao toàn là vàng ròng. Cứ mỗi thanh là mười lượng, tổng cộng có tới hai trăm thanh.
Ôn Thanh lấy tay gạt từ trên xuống, chia đống vàng làm hai phần. Y hốt lại một phần vào cái bao; dùng hai tay đẩy phần kia đến trước mặt Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Cho huynh đây.”
Viên Thừa Chí không hiểu, hỏi lại: “Gì thế?”
Ôn Thanh mỉm cười nói: “Huynh tưởng ta ném cái bao vàng ấy xuống lòng sông thật hay sao? Để chúng mò tìm dưới đáy sông, mò tới mò lui cũng chỉ thấy cái bao đá để dằn thuyền.”
Nói xong y cười khanh khách, cười đến nỗi cong lưng nằm rạp xuống bàn, run bần bật cả người.
Viên Thừa Chí không khỏi thán phục cơ trí của y, thầm nghĩ: “Hắn nhỏ hơn mình một hai tuổi, thế mà lừa được cả một tay lão luyện như Vinh Thái.” Chàng nói: “Ta không cần, huynh cứ mang đi. Ta giúp huynh không phải vì số vàng này.”
Ôn Thanh nói: “Đây là ta tặng cho huynh, không phải huynh đòi lấy. Đừng giả vờ làm ngụy quân tử nữa.”
Viên Thừa Chí lắc đầu quầy quậy.
Long Đức Lân tuy là một phú thương, nhưng thấy đống vàng sáng lóa đặt trên bàn cũng không khỏi hoa mắt. Thế mà một người nhất định không lấy, một người cố gắng nài ép đối phương mang đi. Chuyện này thật sự hắn chưa nghe chưa thấy, bây giờ tai nghe mắt thấy cũng không tin được, bèn đoán là Viên Thừa Chí chê ít.
Ôn Thanh giận dữ nói: “Bất luận huynh chịu lấy hay không, ta cũng cho huynh.” Đột nhiên y nhảy vọt lên bờ.
Viên Thừa Chí bị bất ngờ, ngẩn ra một chút mới tung người nhảy theo. Chỉ hai cú nhảy, chàng đã đứng chặn trước mặt y, dang hai tay ra cản trở, quát bảo: “Khoan đã! Hãy đem vàng của huynh đi.”
Ôn Thanh chạy sang phải thì chàng chặn bên phải, chạy sang trái thì chàng chặn bên trái. Y cố gắng mấy lần cũng không vượt qua được, bèn vung tay phóng chưởng đánh vào mặt chàng. Viên Thừa Chí đưa tay trái ra, mới nhẹ nhàng đỡ một cái là Ôn Thanh đã không chịu được, phải lùi ba bước mới đứng vững.
Ôn Thanh biết không thể trốn thoát, bỗng ngồi phịch xuống đất, hai tay bưng mặt khóc rống lên. Viên Thừa Chí kinh ngạc vội hỏi: “Ta làm đau huynh hay sao?”
Ôn Thanh “hừ” một tiếng: “Chính huynh mới đau!” Rồi y mỉm cười, nhảy vọt lên. Viên Thừa Chí không dám đuổi theo nữa, chỉ đưa mắt nhìn theo bóng y khuất dần dọc bờ sông.
Người này võ công đầy mình, giết người không nháy mắt, rõ ràng là một hào khách trong chốn giang hồ, nhưng sao lại vừa khóc vừa cười, điêu ngoa cổ quái như vậy? Chàng bất giác lắc đầu, trở lại thuyền, chắp tay tạm biệt Long Đức Lân rồi gói chỗ vàng đó lại xách đi.
Viên Thừa Chí đến con đường lớn trong thành Cù Châu, tìm khách sạn nghỉ lại. Chàng nghĩ: “Một ngàn lượng vàng này chẳng biết đến từ đâu, nhất định ta không thể nhận. Chẳng qua ta thấy y đáng thương nên ra tay giúp đỡ, đâu thể nhận thù lao? Lão già kia nói y thuộc Kỳ Tiên Phái ở Tịnh Nham, Cù Châu. Sao ta không tìm đến nhà y? Nếu y từ chối nữa, ta chỉ cần bỏ vàng xuống rồi đi ngay là xong.”
Sáng hôm sau, Viên Thừa Chí hỏi kỹ đường đến Tịnh Nham, cầm gói vàng đi tìm. Tịnh Nham cách Cù Châu khoảng hai mươi dặm, chàng bước rất nhanh, chỉ hơn nửa giờ là đến.
Tịnh Nham là một thị trấn nhỏ ở cạnh núi Lạn Kha. Tương truyền vào đời nhà Tấn, có người tiều phu tên là Vương Chất vào trong núi kiếm củi. Thấy hai vị tiên đang chơi cờ, y đứng lại xem. Xem xong một ván quay đầu nhìn lại thì cán rìu của mình đã mục nát rồi, về nhà thấy mọi người khác hẳn. Thì ra chỉ một ván cờ mà mấy chục năm đã trôi qua.
Giữa hai đỉnh của núi Lạn Kha có một trụ đá rất lớn bắc qua. Công trình này thần kỳ như búa thần rìu quỷ, sức người không thể đưa lên được. Truyền thuyết vùng này kể rằng thần tiên đã dùng pháp lực để di chuyển trụ đá tới làm một chiếc cầu. Gần Tịnh Nham có một thị trấn nhỏ khác tên là Thạch Lương, gọi theo cái trụ đá này. Tên của Kỳ Tiên Phái cũng xuất phát từ ván cờ mấy chục năm của tiên nhân.
Viên Thừa Chí đến Tịnh Nham, thấy một bà nông dân từ phía trước đi tới. Chàng liền hỏi: “Đại tẩu! Xin hỏi nhà họ Ôn trong thị trấn này ở chỗ nào?”
Bà kia giật mình đáp: “Không biết!” rồi quay đầu bỏ đi ngay. Sắc mặt bà lộ vẻ khinh ghét.
Viên Thừa Chí đến một tiệm tạp hóa, hỏi thăm chủ tiệm. Y lạnh nhạt hỏi lại: “Lão đệ tìm nhà họ Ôn có việc gì không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ đến đó để giao trả một món đồ.”
Chủ tiệm cười nhạt, nói: “Thì ra lão đệ là bằng hữu của nhà họ Ôn. Cần gì hỏi ta nữa?”
Viên Thừa Chí mất hết hứng thú, nghĩ bụng cư dân ở đây chẳng hiếu khách chút nào.
Thấy hai đứa bé đang chơi ở vệ đường, chàng lấy mười đồng tiền nhét vào tay một đứa rồi bảo: “Tiểu huynh đệ! Ngươi dẫn ta đến nhà họ Ôn đi.”
Thằng bé đã nhận tiền rồi, nhưng nghe xong lập tức trả lại cho chàng, giận dữ nói: “Nhà họ Ôn ư? Chính là căn nhà lớn đằng kia. Cái chỗ quỷ quái đó ta không đến đâu.”
Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu. Chắc là nhà họ Ôn có chỗ đắc tội với hàng xóm nên bị người ta trách móc, không ai chịu đi lại, chứ không phải dân cư vùng này vô lễ.
Chàng đi về phía căn nhà thằng bé chỉ, xa xa đã nghe tiếng người rất ồn ào. Tới gần thì thấy có đến mấy trăm nông dân đang cầm cuốc xẻng bao vây trước cửa, lớn tiếng la lối: “Chúng bay đã đánh người ta trọng thương, tính mạng khó mà giữ được, lại bỏ mặc như vậy hay sao? Họ Ôn kia! Mau mau ra đây đền mạng.”
Trong đám người đó có bảy tám nữ nhân đầu tóc bù xù, ngồi bệt dưới đất khóc lóc. Viên Thừa Chí đi tới, hỏi một nông phu: “Lão huynh! Các vị ở đây làm gì vậy?”
Nông phu ấy nói: “Tướng công là khách qua đường nên mới không biết. Nhà họ Ôn này cùng hung cực ác, hết sức bá đạo. Hôm qua chúng xuống miền quê thu tô. Lão bá nhà họ Trình xin chúng cho trả chậm mấy ngày, bị chúng hất bắn vào tường, thọ thương rất nặng. Con cháu của Trình lão bá ra cãi lý, đều bị chúng đánh cho thừa sống thiếu chết, e rằng ba người không qua nổi. Tướng công nghĩ xem, chủ điền như vậy có ác ôn hay không?”
Trong lúc nói chuyện, đám nông dân càng la lối lớn tiếng hơn. Có người cầm cuốc xẻng đập ầm ầm vào cánh cổng; cũng có người nhặt đá ném vào trong cửa.
Đột nhiên cửa lớn mở “két” một tiếng, một gã ốm nhom chạy ra ngoài. Chưa ai kịp nhìn rõ, đã có bảy tám nông dân bị hắn hất văng ra ngoài hai ba trượng, ngã tét đầu chảy máu.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Thủ pháp người này nhanh quá!” Chàng định thần nhìn lại, thấy người này vừa ốm vừa cao, khuôn mặt vàng khè, lông mày xếch lên, dáng vẻ vừa lanh lẹ vừa lưu manh. Hắn quát mắng: “Cái thứ chưa bằng con heo con chó mà cả gan đến đây giở trò! Chán sống rồi ư?”
Mọi người chưa kịp trả lời, hắn đã bước tới mấy bước, xách mấy người ném vù ra xa.
Viên Thừa Chí thấy gã này quăng người như quăng củi mục, không tốn sức chút nào. Chàng nghĩ: “Không biết người này có liên quan gì đến Ôn Thanh? Nếu hôm trước hắn ở cạnh Ôn Thanh thì thừa sức chống trả bọn Vinh Thái, không cần mình phải ra tay.”
Trong đám đông có ba nông phu bước ra, lớn tiếng nói: “Các ngươi đánh người ta trọng thương, chẳng lẽ bỏ qua hay sao? Chúng ta nghèo thật, nhưng người nghèo cũng có sinh mạng chứ?”
Gã ốm cười gằn mấy tiếng rồi nói: “Không đánh chết mấy tên thì bọn ngươi chưa biết lễ độ.”
Thân hình gã nhoáng lên, nắm lưng một nông phu to lớn quẳng đi rất mạnh, nhằm thẳng vào bờ tường phía Đông. Ngay lúc đó, hai thanh niên cùng đưa cuốc lên toan đập vào đầu hắn. Hắn đưa tay trái ra đỡ, hai cây cuốc văng tuốt lên trời. Hắn lại túm lấy hai người đó, quật vào cái bệ của cột cờ trước cổng.
Thấy gã bức hiếp đám nông dân, Viên Thừa Chí đã giận lắm rồi. Nhưng chàng thấy võ công của hắn cũng khá, sợ mình nhảy vào can thiệp sẽ gặp phiền hà. Chàng toan đợi tình hình êm dịu rồi xin vào gặp Ôn Thanh, trả vàng xong là lập tức bỏ đi.
Không ngờ gã ốm này đột nhiên hạ sát thủ, ba người kia sắp va vào góc tường và đá tảng, không chết cũng trọng thương, Viên Thừa Chí động lòng nghĩa hiệp, phi thân bay vèo tới. Tay trái chàng chụp được chân phải của nông phu to lớn, buông y xuống đất. Sau đó chàng xuất chiêu Nhạc Vương Thần Tiễn, thân hình như một mũi tên rời khỏi dây cung, bay tới chụp lấy lưng hai thanh niên, rồi uốn lưng đứng thẳng lại, đặt họ nhẹ nhàng xuống đất.
Nhạc Vương Thần Tiễn là tuyệt kỹ khinh công do Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, nhanh hơn bất cứ phái nào. Chàng vốn không muốn hiển lộ võ công, nhưng phải gấp rút cứu người nên không thể không dùng.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Phen này nhất định gã ốm kia rất hận mình. May mà đã biết nhà họ Ôn rồi, để tối nay mình âm thầm đến đây giao trả.” Chàng vừa thả hai thanh niên xuống đất là quay người đi ngay, không nhìn lại gã ốm nữa.
Ba nông phu vừa thoát chết đều ngẩn ngơ đứng đó, không ai nói được tiếng nào.
Gã ốm thấy võ công chàng như vậy, kinh hãi vô cùng. Nhưng thấy chàng quay lưng bỏ đi, hắn liền phi thân đuổi theo, vừa đưa tay chụp lấy vai chàng vừa hô lên: “Bằng hữu, khoan đi đã!”
Phát chụp này đã vận kình lực nặng đến ngàn cân. Thế mà Viên Thừa Chí không tránh né, chỉ hạ đầu vai xuống một chút để hóa giải lực đạo đối phương. Chàng cũng không vận kình lực đánh trả, cứ như không biết chuyện gì.
Gã ốm lại càng kinh hãi, quát hỏi: “Có phải các hạ được đám này mời tới để làm khó dễ chúng ta hay không?”
Viên Thừa Chí chắp tay lại nói: “Thật là xin lỗi. Tại hạ chỉ sợ gây ra án mạng, mọi người sẽ gặp phiền hà, nên mạo muội đỡ họ một chút, đắc tội với huynh đài. Lão huynh đã có bản lãnh như vậy, hà tất phải chấp nhất những người nơi thôn dã.”
Gã ốm nghe chàng nói chuyện khiêm cung, lập tức giảm phần đối địch. Gã hỏi: “Xin hỏi tôn tính đại danh các hạ, đến tệ xứ có việc gì không?”
Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ họ Viên, có một bằng hữu trẻ tuổi họ Ôn, không biết có phải ở đây không?”
Gã ốm đáp: “Tại hạ cũng họ Ôn. Không biết người các hạ muốn tìm là ai?”
Viên Thừa Chí nói:
“Tại hạ muốn tìm Ôn Thanh tướng công.”
Đám nông dân thấy Viên Thừa Chí nói chuyện tình cảm với gã ốm kia, nên không dám ở lại nữa. Họ kéo nhau giải tán, vừa bỏ đi vừa chửi mắng, càng đi xa tiếng thóa mạ càng vang dội. Giọng miền quê rất khó nghe, Viên Thừa Chí không hiểu họ chửi mắng những gì.
Gã ốm kia mặc kệ, bảo Viên Thừa Chí: “Xin mời vào nhà uống nước.”
Viên Thừa Chí theo gã vào trong, đến một gian đại sảnh rộng lớn, chính giữa có một tấm hoành phi viết ba chữ Bát Đức Đường. Trong đại sảnh bài trí nhiều tấm bình phong cùng bình hoa, trông rất khí thế, đúng là nhà của cự phú.
Gã ốm mời Viên Thừa Chí ngồi vào thủ tọa, gọi gia nhân bưng trà lên. Gã không ngớt hỏi thăm lai lịch sư thừa của Viên Thừa Chí. Tuy lời nói khách sáo, nhưng chàng cảm thấy hắn vẫn còn mang địch ý, nên chỉ nói: “Xin mời Ôn Thanh tướng công ra đây gặp gỡ. Tại hạ muốn giao trả cho y một vật.”
Gã ốm nói: “Ôn Thanh là em trai của tại hạ. Tại hạ tên là Ôn Chính. Xá đệ đang ra ngoài, chắc chẳng bao lâu sẽ trở về. Xin huynh đài ở đây đợi một lát.”
Viên Thừa Chí không muốn kết giao với bọn hung bạo hiếp người này, nhưng Ôn Thanh không có ở đây nên chàng đành phải đợi. Chàng chẳng có chuyện gì để nói với Ôn Chính, hai người cứ yên lặng mà ngồi, không khí ngột ngạt.
Mãi đến trưa mà Ôn Thanh vẫn chưa về, nhưng Viên Thừa Chí không muốn đem số vàng lớn như vậy giao cho người khác. Ôn Chính bèn gọi gia nhân bày biện cơm trưa, có cả thịt ướp, thịt đùi, gà mập, cá tươi, thức ăn thật là phong phú.
Đến khi mặt trời ngả về phía Tây, Viên Thừa Chí không đợi nổi nữa. Chàng nghĩ bụng: “Dù sao đây cũng là nhà của Ôn Thanh, để vàng lại là được rồi.” Chàng bèn tháo cái bao vàng ra đặt lên bàn, nói: “Đây là vật của lệnh đệ, phiền huynh đài chuyển lại. Tại hạ xin cáo từ.”
Ngay lúc đó, đột nhiên từ ngoài cổng vọng vào tiếng cười đùa của một đám nữ nhân, hình như trong đó có lẫn giọng cười của Ôn Thanh. Ôn Chính nói: “Xá đệ đã về rồi.”
Gã đứng dậy chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí muốn theo ra, nhưng Ôn Chính nói: “Xin Viên huynh chờ ở đây chốc lát.” Viên Thừa Chí đành phải dừng lại.
Ôn Thanh không vào nhà, chỉ có Ôn Chính quay lại nói: “Xá đệ phải thay đổi y phục, một lát sẽ ra ngay.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Gã Ôn Thanh này thật là lắm chuyện. Chỉ gặp một người khách, phải thay đổi quần áo làm gì?”
Đợi hồi lâu, Ôn Thanh mới từ nhà trong bước ra. Y khoác trường bào màu tím, ngang lưng thắt một sợi dây tơ màu vàng lông ngỗng, đầu buộc khăn khảm minh châu. Y tươi cười nói: “Viên huynh đại giá quang lâm, thật là vinh dự.”
Viên Thừa Chí nói: “Ôn huynh để quên cái bao này, nên tại hạ đến đây giao trả.”
Ôn Thanh giận dữ hỏi: “Huynh xem thường ta có phải không?”
Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ hoàn toàn không có ý này, chỉ vì hậu thưởng không dám nhận. Bây giờ tại hạ xin cáo từ.”
Chàng lập tức đứng dậy, chắp tay thi lễ với Ôn Chính và Ôn Thanh. Ôn Thanh bước tới, nắm chặt tay áo chàng mà nói: “Huynh không được đi!”
Viên Thừa Chí không khỏi ngạc nhiên, sắc mặt Ôn Chính cũng thay đổi. Ôn Thanh mỉm cười nói: “Tại hạ có một việc quan trọng cần hỏi Viên đại ca. Hôm nay huynh ở lại nhà tại hạ đi.”
Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ còn nhiều việc cần làm ở Cù Châu này. Nếu lần sau có cơ duyên, nhất định sẽ đến đây quấy rầy.”
Ôn Thanh vẫn không chịu. Ôn Chính nói: “Viên đại ca đã có chuyện, chúng ta đừng làm lỡ việc người ta.”
Ôn Thanh nói: “Được! Nếu huynh có việc phải đi thì cứ xách cái bao này đi luôn. Nói gì thì nói huynh cũng không chịu ở lại, đúng là xem thường đệ quá.”
Viên Thừa Chí ngần ngừ một chút, thấy y chân thành muốn giữ mình lại, bèn nói: “Ôn huynh đã có hậu ý, tại hạ không dám chối từ nữa.”
Ôn Thanh mừng rỡ, liền kêu nhà bếp chuẩn bị thức ăn. Ôn Chính thì mặt sưng mày sỉa, nhưng không chịu bỏ đi mà cứ ngồi lì ra đó, chẳng nói câu nào. Ôn Thanh toan đàm luận với Viên Thừa Chí về chuyện sách vở, nhưng Viên Thừa Chí không hiểu gì về thi từ, hồi nhỏ chỉ đọc sơ qua các loại sách sử cùng binh pháp.
Ôn Thanh biết ý chàng, bèn chuyển sang bàn về những trận chiến ở Phì Thủy, dẫn ra không ít sử liệu về chuyện hành quân đánh trận. Viên Thừa Chí âm thầm thán phục, nghĩ bụng: “Người này tính tình cổ quái mà đọc không ít sách vở, chẳng bù với ta giả làm thư sinh mà thật ra vô học.”
Ôn Chính nghe chuyện chẳng hiểu chút nào, nhưng không chịu rời khỏi đó. Viên Thừa Chí áy náy khó chịu, định nói chuyện với hắn về võ công. Nhưng Ôn Chính chưa kịp mở miệng tiếp lời, Ôn Thanh đã xen vào, chuyển qua vấn đề khác.
Nhìn hai anh em này, Viên Thừa Chí thấy hơi kinh ngạc. Ôn Chính là huynh trưởng, nhưng đối với em trai lại vô cùng kính nể, không dám đắc tội chút nào. Đang nói chuyện mà bị Ôn Thanh cướp lời, hắn cứ mỉm cười ra vẻ lấy lòng. Lúc nào Ôn Thanh nói chuyện hòa nhã với hắn chút xíu, thì hắn lập tức nở mặt nở mày, vui vẻ khác thường.
Đêm đó bày tiệc rượu, thức ăn càng phong phú hơn. Dùng xong cơm tối, Viên Thừa Chí nói: “Hôm nay tại hạ mệt quá rồi, muốn nghỉ sớm một chút.”
Ôn Thanh nói: “Đệ ở vùng quê hẻo lánh, khó mà được Viên huynh đại giá quang lâm, đang định thắp đèn để nói chuyện thâu đêm, thêm phần lợi ích. Nhưng Viên huynh đã mệt thì thôi, ngày mai chúng ta nói chuyện tiếp.”
Ôn Chính bảo: “Tối nay Viên huynh đến phòng của ta mà ngủ.”
Ôn Thanh cãi ngay: “Phòng của huynh làm sao mà tiếp đãi quý khách? Viên huynh đến phòng đệ mà ngủ.”
Sắc mặt của Ôn Chính trầm hẳn xuống, hỏi lại: “Cái gì?”
Ôn Thanh nói: “Có gì không tốt đâu? Đệ qua ngủ chỗ mẫu thân.”
Ôn Chính lộ vẻ không vui, đứng dậy bỏ vào nhà trong, quên cả cáo từ. Ôn Thanh nói: “Hừ! Thật là vô lễ, không sợ người khác chê cười.”
Viên Thừa Chí thấy anh em nhà người ta cãi vã vì mình, không yên lòng, bèn nói: “Tại hạ đã quen ở vùng hoang sơn dã lãnh, Ôn huynh không cần bận tâm như thế.”
Ôn Thanh nói: “Thôi được! Đệ không bận tâm nữa là xong.”
Y cầm ngọn đèn lên, dẫn Viên Thừa Chí vào trong. Qua hai khoảnh sân, họ vào gian nhà thứ ba, theo cầu thang phía Đông mà lên lầu. Ôn Thanh vừa đẩy cửa phòng, trước mắt Viên Thừa Chí bỗng sáng rực lên.
Trong phòng thoang thoảng hương thơm, đang thắp một ngọn nến màu đỏ rất lớn, khiến cho không khí ấm áp. Giường buông rèm đỏ, chăn bằng lụa trắng có thêu một con phượng hoàng màu vàng. Đồ đạc bài trí thanh nhã, trên tường treo một bức Sĩ nữ đồ.
Trên bàn ngủ trước giường đặt một cái nghiên chạm hoa, vài món đồ chơi bằng bích ngọc, một cái ống có cắm sáu bảy cây viết lớn nhỏ đủ cỡ. Phía Tây cũng có một cái bàn nhỏ đặt chậu hoa lan, một con két trắng đậu trên cái giá.
Viên Thừa Chí từ chốn thâm sơn cùng cốc bước ra, chưa bao giờ nhìn thấy nơi nào sang trọng như thế, nên đứng ngẩn ra mà nhìn. Ôn Thanh mỉm cười nói: “Đây là phòng ngủ của đệ, cho Viên huynh mượn tạm một đêm.”
Y không đợi chàng trả lời, mở cửa ra ngoài.
Viên Thừa Chí nhìn quanh phòng thấy không có gì khác lạ, định cởi áo nằm ngủ. Đột nhiên có người gõ cửa nhẹ nhàng, chàng bèn hỏi: “Ai đấy?”
Người bước vào là một a hoàn mười lăm mười sáu tuổi, bưng một cái khay sơn màu đỏ chói. Ả lên tiếng: “Viên thiếu gia, xin mời dùng món ăn khuya.”
Ả đặt cái khay lên bàn, trong khay có một chén gì đó, trông như nhựa màu trắng. Tuy Viên Thừa Chí là con trai quan Đốc sư, nhưng từ nhỏ đã phải sống ở vùng thôn quê hẻo lánh, chưa từng nhìn thấy yến sào, nên không biết đó là thứ gì.
A hoàn mỉm cười nói: “Nô tì tên là Tiểu Cúc. Thiếu gia… thiếu gia… hí hí… đã dặn dò nô tì phụng sự Viên thiếu gia. Viên thiếu gia cần gì, xin cứ sai bảo nô tì.”
Viên Thừa Chí nói: “Không, không có gì.”
Tiểu Cúc từ từ lùi ra, đột nhiên quay đầu lại, vừa cười khúc khích vừa nói: “Bát yến sào này… hí hí… là thiếu gia của nô tì tự tay hầm cho Viên thiếu gia đó.”
Viên Thừa Chí thật sự kinh ngạc, không biết phải nói gì. Tiểu Cúc vừa cười vừa nhẹ nhàng bước ra ngoài, khép cửa lại.
Viên Thừa Chí chỉ hớp có ba miếng đã nuốt hết chén yến sào. Chàng cảm thấy món này ngọt ngào béo ngậy, vị thơm ngon không biết phải so sánh với cái gì. Rồi chàng cởi áo, lên giường. Khi giũ tấm chăn ra, mùi hương càng đậm đến say người. Một cảm giác vừa mềm mại vừa ấm áp.
Đến tuổi này Viên Thừa Chí vẫn chưa từng được ngủ với cảm giác như thế. Chàng mơ mơ hồ hồ, chỉ trong chốc lát đã thiếp đi.
Đến giữa đêm, bên ngoài cửa sổ bỗng vọng vào tiếng cười trong trẻo. Viên Thừa Chí cảnh giác không dám ngủ say, nên lập tức tỉnh dậy. Người bên ngoài gõ nhẹ vào khung cửa sổ, rồi mỉm cười nói: “Trăng thanh gió mát, đêm đẹp thế này. Viên huynh là người nho nhã mà không sợ bỏ phí cảnh thiên nhiên hay sao?”
Viên Thừa Chí nhận ra giọng Ôn Thanh, cứ nằm trong màn đưa mắt nhìn ra. Quả nhiên trăng sáng trước giường như một màn sương bạc phủ lên nền đất, trong mảng ánh trăng từ cửa sổ soi vào hiện rõ bóng một đầu người. Rõ ràng Ôn Thanh đang dùng thế Đảo Quyển Châu Liêm treo ngược người, thò đầu nhìn vào trong phòng.
Viên Thừa Chí lên tiếng: “Được! Ta mặc áo rồi ra ngay.” Chàng thầm nghĩ: “Hành động của con người này thật sự khiến cho người ta không biết đâu mà lường. Đêm khuya thế này, để xem y giở trò gì cổ quái nữa đây.”
Mặc xong quần áo, chàng lén giấu trủy thủ vào trong bọc rồi đẩy cửa sổ ra. Hương hoa ập ngay vào mặt, thì ra phía ngoài cửa sổ này là một vườn hoa.
Ôn Thanh vận kình vào bàn chân, tung ngược người lên rồi đáp nhẹ xuống đất, khẽ bảo: “Đi theo đệ!”
Y xách theo một cái giỏ tre vốn đặt dưới đất. Viên Thừa Chí không biết y định đi đâu, nhưng cũng theo y vượt tường ra ngoài.
Hai người bước đi chậm rãi về phía sau đồi. Đây chỉ là một ngọn đồi nhỏ, nhưng xung quanh cây cối um tùm, sương giăng bốn bề nhẹ như làn khói lẩn quẩn giữa những cành lá. Trong đêm vắng, trên cỏ mềm, hình như bước chân hai người cũng không nỡ phát ra tiếng động.
Rẽ qua hai chỗ ngoặt thì đến đỉnh đồi. Gió khuya lồng lộng, bốn phía đầy ắp hương hoa, ánh trăng mờ mờ soi xuống. Đưa mắt nhìn quanh, thì ra quả đồi này trồng rất nhiều hoa hồng đủ màu đủ sắc, đỏ có, trắng có, vàng có.
Viên Thừa Chí khẽ tán dương: “Thật là xứ thần tiên.”
Ôn Thanh nói: “Hoa ở đây do chính tay đệ trồng. Ngoài mẫu thân và Tiểu Cúc ra, chưa có ai được phép đến chỗ này.”
Y xách cái giỏ tre, từ từ đi tới. Viên Thừa Chí chậm rãi theo sau, tâm hồn vô cùng khoái hoạt. Bao nhiêu ý tứ cảnh giác đề phòng vừa rồi, trong hương hoa và dưới ánh trăng đã đột nhiên biến mất.
Đi một quãng nữa, phía trước xuất hiện một ngôi đình nhỏ. Ôn Thanh mời Viên Thừa Chí ngồi lên ghế đá, rồi mở giỏ lấy ra một ít đồ nhắm, một bình rượu nhỏ và hai cái ly. Y rót đầy rượu, lên tiếng: “Ở đây không nên ăn mặn.”
Viên Thừa Chí nâng ly rồi gắp thức ăn, quả nhiên toàn là nấm hương, mộc nhĩ và các món chay.
Ôn Thanh lấy trong giỏ ra một ống sáo, lại nói: “Để đệ thổi một bài cho huynh nghe.”
Thừa Chí khẽ gật đầu, Ôn Thanh bắt đầu thổi sáo. Thừa Chí không rành âm luật, nhưng vẫn cảm thấy tiếng sáo triền miên lúc như oán trách, lúc như hâm mộ. Trái tim chàng nương theo tiếng sáo uyển chuyển mà phiêu du vùng tiên cảnh, quên mất mình vẫn đang ngồi trong chốn nhân gian.
Ôn Thanh thổi dứt một bài, mỉm cười nói: “Huynh thích nghe bài gì, để đệ thổi cho nghe.”
Viên Thừa Chí thở dài nói: “Ta không biết bài nào cả. Đệ biết thật là nhiều thứ. Sao đệ lại thông minh như thế?”
Ôn Thanh ngẩng đầu lên nhìn, mỉm cười hỏi lại: “Có thật thế không?”
Y nâng ống sáo thổi tiếp một bài. Lần này điệu nhạc rất nhu mì, dịu dàng hòa quyện vào ánh trăng và hương hoa xung quanh.
Cả đời Viên Thừa Chí chỉ biết võ công quyền kiếm, chưa bao giờ trải qua cảm giác phong nhã thế này. Chàng không khỏi cảm thấy mình phiêu phiêu bồng bồng, như trong lúc tập những thế khinh công mà Mộc Tang đạo nhân truyền thụ.
Ôn Thanh đặt ống sáo xuống, dịu dàng hỏi: “Huynh thấy có hay không?”
Viên Thừa Chí nói: “Thì ra trên thế gian có loại nhạc nghe hay như thế, trước đây ta có nằm mơ cũng không thấy. Bài này tên là gì vậy?”
Mặt của Ôn Thanh đột nhiên đỏ ửng lên, khẽ nói: “Không nói cho huynh biết đâu.” Nhưng y lại tiếp ngay: “Khúc ca này tên là Nhã Nhi Mi.” Y liếc mắt một cái, mỉm cười với Viên Thừa Chí.
Bây giờ hai người ngồi rất gần nhau. Viên Thừa Chí ngửi thấy xen giữa mùi hương thoang thoảng của hoa hồng có mùi phấn son nhàn nhạt. Chàng nghĩ: “Người này thật sự không có khí khái trượng phu. Tướng mạo của y đã quá văn nhã tuấn tú rồi, lại trát thêm phấn son vào thì còn ra trò gì nữa? May mà mình không phải loại người ưa chọc ghẹo người khác, không thì phải trêu y mấy câu.” Rồi chàng lại nghĩ: “Phong khí ở Giang Nam rất xa hoa, chẳng lẽ con cái nhà giàu đều như vậy hay sao? Chỉ vì mình là thôn phu sơn dã, ít khi gặp họ nên mới thấy lạ.”
Đang suy nghĩ, bỗng nghe Ôn Thanh hỏi: “Ca ca thích nghe đệ thổi sáo nữa không?”
Viên Thừa Chí khẽ gật đầu. Ôn Thanh lại đặt ống sáo lên môi, tiếng bổng tiếng trầm dìu dặt. Âm vận từ từ chuyển thành như khóc như than, Viên Thừa Chí nghe đến xuất thần. Đột nhiên tiếng sáo dừng lại, bàn tay đang cầm ống sáo khẽ vặn một cái, ống sáo tre gãy nghe răng rắc.
Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Sao thế? Không phải đệ đang thổi say mê hay sao?”
Ôn Thanh cúi đầu xuống, khẽ nói: “Chẳng ai thích nghe đệ thổi sáo cả. Người ta chỉ thích động đao động kiếm, không thích nghe những tiếng này.”
Viên Thừa Chí lo lắng nói: “Ta đâu có gạt đệ? Ta thích nghe, thích nghe thật mà.”
Ôn Thanh nói: “Ngày mai ca ca rời khỏi đây rồi, không chừng sẽ không bao giờ trở lại. Thế thì đệ thổi sáo làm gì nữa?”
Y dừng lại một lúc, lại tiếp: “Tính khí của đệ không tốt, chính đệ cũng biết. Nhưng đệ không thể quản thúc được bản thân mình. Đệ biết ca ca ghét đệ, trong lòng coi thường đệ.”
Nhất thời Viên Thừa Chí chưa biết phải nói gì, Ôn Thanh đã tiếp: “Vì thế ca ca sẽ vĩnh viễn không đến đây nữa. Đệ… đệ muốn gặp ca ca cũng không gặp được.”
Nói đến chuyện không gặp lại nhau, giọng y hết sức rầu rĩ. Viên Thừa Chí không nén nổi xúc động, bèn nói: “Nhất định đệ cũng thấy ta chẳng hiểu biết gì. Ta mới vào giang hồ, không biết nói dối. Đệ nói là trong lòng ta coi thường đệ, cảm thấy ghét đệ. Nói thật với đệ, chuyện ấy vốn không sai. Lúc đầu, ta thấy đệ chỉ động tay là giết người, cảm thấy khó chịu. Nhưng bây giờ thì khác rồi.”
Ôn Thanh nhỏ nhẹ hỏi: “Có đúng thế không?”
Viên Thừa Chí nói: “Ta thấy bản tính của đệ vốn lương thiện, chắc bị người ta ép bức, trong lòng uất ức không có chỗ nào trút được, nên tính khí mới kỳ lạ. Lý do thế nào, có thể nói cho ta nghe không? Có thể ta sẽ giúp được đệ.”
Ôn Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Đệ nói ra, chỉ sợ ca ca còn xem thường đệ hơn.”
Viên Thừa Chí nói: “Nhất định không.”
Ôn Thanh nghiến chặt răng lại, nói: “Được, để đệ nói. Mẹ của đệ vốn là một cô nương, bị người ta bức hiếp mà sinh ra đệ. Năm lão gia gia của đệ đánh không thắng nổi người đó; sau này phải hẹn rất nhiều cao thủ mới đuổi người đó đi được. Vì thế đệ không có cha, đệ là một đứa con hoang…”
Nói đến đây giọng y nghẹn lại, nước mắt ròng ròng.
Viên Thừa Chí nói: “Chuyện này không thể trách đệ, cũng không thể trách mẹ của đệ. Chỉ có người đó là không tốt.”
Ôn Thanh nói: “Y… y… là phụ thân của đệ. Người ta… người ta cứ ở sau lưng mà chửi đệ, chửi mẹ của đệ.”
Viên Thừa Chí tức giận nói: “Ai lại đê tiện vô sỉ như thế? Để ta giúp đệ đánh họ. Bây giờ ta đã hiểu nguyên nhân rồi, không ghét đệ nữa. Nếu đệ thật sự coi ta là bạn, nhất định ta sẽ đến thăm đệ.”
Ôn Thanh cả mừng, nhảy bật người lên. Viên Thừa Chí thấy y vui mừng lộ rõ ra ngoài, mỉm cười hỏi: “Ta đến thăm đệ, đệ có thích không?”
Ôn Thanh nắm chặt hai bàn tay chàng, vừa lắc lắc vừa nói: “Này, tự ca ca nói đấy nhé! Nhất định ca ca phải đến.”
Viên Thừa Chí nói: “Ta không gạt đệ đâu.”
Đột nhiên sau lưng có tiếng chân bước nhẹ. Viên Thừa Chí quay đầu lại, một người lên giọng hỏi: “Đêm hôm khuya khoắt, ở đây lén lút làm gì vậy?”
Đó chính là Ôn Chính. Mặt hắn đầy vẻ giận dữ, hai tay chống nạnh như muốn hỏi tội người khác.
Ôn Thanh vốn đang kinh hãi, nhưng khi nhận ra Ôn Chính liền giận dữ hỏi lại: “Đến đây làm gì?”
Ôn Chính nói: “Ngươi tự hỏi mình đi.”
Ôn Thanh nói: “Ta và Viên huynh ở đây thưởng trăng, có ai mời huynh đến đâu? Ở đây ngoài mẹ của ta ra, không ai được đến cả. Tam gia gia đã từng nói, huynh dám bất tuân phải không?”
Ôn Chính chỉ Viên Thừa Chí, hỏi: “Tại sao y đến đây được?”
Ôn Thanh nói: “Ta mời huynh ấy đến đây. Huynh không được xía vào.”
Viên Thừa Chí thấy hai anh em vì mình mà tổn thương hòa khí, không yên lòng bèn nói: “Chúng ta thưởng trăng đã vui lắm rồi. Mọi người về nghỉ ngơi thôi.”
Ôn Thanh nói: “Đệ không thích về. Ca ca ngồi xuống đây đi.”
Viên Thừa Chí đành phải ngồi xuống.
Ôn Chính ngơ ngác đứng yên tại chỗ, uất ức không nói được gì, liếc xéo Viên Thừa Chí đầy vẻ ganh ghét.
Ôn Thanh giận dữ nói: “Hoa ở đây do chính tay ta trồng. Ta không cho huynh ngắm.”
Ôn Chính nói: “Ta đã ngắm rồi, chẳng lẽ ngươi móc tròng mắt ta ra? Ta còn muốn ngửi một chút.”
Nói xong, hắn đưa mũi hít hít về phía những đóa hoa. Ôn Thanh vô cùng giận dữ, đột nhiên tung người lên vung hai tay nhổ một hơi hai mươi mấy gốc hồng, vừa nhổ vừa quẳng ra ngoài, khóc nói: “Ngươi ăn hiếp ta! Ngươi ăn hiếp ta! Ta phải nhổ hết những khóm hồng này, ai cũng không được nhìn nữa. Thế thì ngươi mừng lắm phải không?”
Ôn Chính tái mặt, giận dữ bỏ đi. Đi được mấy bước, hắn quay đầu lại nói: “Ta đối với ngươi đầy hảo ý, còn ngươi thì lại đối xử với ta như vậy! Ngươi nghĩ xem, ngươi có lương tâm hay không? Còn tên mọi rợ Quảng Đông họ Viên này đen thui đen thủi, ngươi… ngươi lại…”
Ôn Thanh vừa khóc vừa nói: “Còn ngươi thì đẹp trai tuấn tú, mặt mày trắng trẻo lắm ư? Ai cần ngươi tốt với ta? Nếu ngươi thấy ta mà ấm ức, thì cứ việc kêu các vị gia gia đuổi hai mẹ con ta ra ngoài. Ta cùng Viên huynh ở đây, ngươi đi nói với các vị gia gia đi.
Ôn Chính thở ra một hơi dài, cúi đầu đi thẳng. Ôn Thanh quay vào trong đình, ngồi xuống. Hồi lâu Viên Thừa Chí mới hỏi: “Sao đệ lại đối xử với anh mình như vậy?”
Ôn Thanh nói: “Hắn đâu có phải là ca ca của đệ? Mẹ của đệ mới là họ Ôn. Đây là nhà của ông ngoại đệ. Hắn là con trai người anh họ của mẹ đệ, là biểu ca của đệ. Nếu đệ có phụ thân, có nhà cửa, thì đã không cần ở lại nhà người khác để nghe gièm pha nhạo báng.”
Nói tới đây, y lại rơi nước mắt. Viên Thừa Chí nói: “Ta thấy huynh ấy đối xử với đệ rất tốt, chỉ có đệ là hung dữ với huynh ấy.”
Ôn Thanh đột nhiên bật cười rồi nói: “Nếu đệ không hung dữ với hắn, thì hắn còn vô pháp vô thiên hơn nữa.”
Viên Thừa Chí thấy y chợt khóc chợt cười đầy vẻ ngây thơ, lại nghĩ đến thân thế của mình, không khỏi phát sinh cảm giác đồng bệnh tương lân. Chàng nói: “Gia gia của ta cũng bị hại chết rồi. Lúc đó ta mới lên bảy tuổi. Mẹ của ta cũng chết vào năm đó.”
Ôn Thanh hỏi: “Ca ca đã trả thù được chưa?”
Viên Thừa Chí đáp: “Nói ra xấu hổ, ta thật là bất hiếu.”
Ôn Thanh nói: “Khi nào ca ca trả thù, đệ sẽ giúp một tay. Cho dù kẻ thù có lợi hại đến thế nào chăng nữa, đệ cũng nhất định giúp ca ca.”
Viên Thừa Chí cảm kích, nắm chặt lấy tay Ôn Thanh. Y bất giác rụt tay về một chút, nhưng rồi để yên cho chàng nắm, khẽ nói: “Bản lãnh của ca ca cao hơn đệ rất nhiều, nhưng đệ biết ca ca không quen thuộc những chuyện trong giang hồ. Sau này đệ sẽ giúp ca ca để ý hơn.”
Viên Thừa Chí nói: “Đệ thật là tốt. Ta chưa có người bạn nào đồng trang đồng lứa. Bây giờ mới gặp được đệ…”
Ôn Thanh cúi đầu nói: “Đệ thì tính khí không tốt, e rằng sẽ có một ngày đắc tội với ca ca.”
Viên Thừa Chí nói: “Đệ đã coi ta là bằng hữu. Ta đã biết tấm lòng đệ tốt như vậy, dù đệ đắc tội thì ta cũng không để ý.”
Ôn Thanh mừng rỡ, thở ra một hơi rồi nói: “Chính vì việc này mà đệ không yên tâm. Ca ca nói lời phải giữ lấy lời, nhất định sẽ bỏ qua lỗi lầm của đệ đấy nhé.”
Viên Thừa Chí thấy y đổi hẳn thần sắc, vừa dịu dàng vừa đàng hoàng, khác hẳn vẻ hung dữ lúc nãy, bèn nói: “Ta có một câu, không biết đệ có chịu nghe không?”
Ôn Thanh nói: “Trên đời đệ chỉ nghe lời của ba người. Người đầu tiên là mẹ đệ, người thứ hai là ông ngoại ruột của đệ, còn người thứ ba chính là ca ca.”
Viên Thừa Chí rùng mình một cái rồi nói: “Đa tạ đệ đã coi trọng như thế. Thật ra chỉ cần lời nói có lý, ai nói chúng ta cũng nên nghe.”
Ôn Thanh cãi: “Có lý đệ cũng không nghe. Nếu ai tốt với đệ, đệ… đệ… thích người đó, thì bất luận người đó nói gì đi nữa, có lý hay không, đệ cũng nghe lời. Nếu đệ ghét người đó rồi, thì người đó có nói đúng tới đâu đệ cũng không chịu làm theo.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Thật là tính khí trẻ nít. Đệ bao nhiêu tuổi rồi?”
Ôn Thanh đáp: “Đệ mười tám tuổi. Ca ca bao nhiêu?”
Viên Thừa Chí nói: “Ta lớn hơn đệ hai tuổi.”
Ôn Thanh đột nhiên cúi đầu xuống, mặt đỏ lên, nhỏ nhẹ nói: “Đệ không có anh em ruột. Chúng ta kết bái thành huynh đệ, có được hay không?”
Viên Thừa Chí từ nhỏ gia đình đã gặp đại biến, đương nhiên tính tình thận trọng tỉ mỉ. Chàng hoàn toàn không biết về thân thế của Ôn Thanh, đã thấy y cướp vàng giết người, hành động tà quái, lại là người Kỳ Tiên Phái, không hiểu sao y đối với mình lại phơi hết ruột gan ra. Hai chữ “kết bái” là đại sự, liên quan đến phước họa cả đời, nên chàng buộc phải ngần ngừ.
Ôn Thanh thấy chàng nghĩ mãi không nói gì, đột nhiên đứng dậy chạy ra khỏi đình. Viên Thừa Chí giật mình đuổi theo, thấy Ôn Thanh chạy thẳng lên đỉnh đồi.
Chàng nghĩ: “Tính tình người này quyết liệt, nếu mình không đồng ý là sỉ nhục y, chuyện gì xảy ra không lường trước được.” Chàng vội thi triển khinh công, chạy lên mấy bước cản trước mặt Ôn Thanh, kêu lớn: “Thanh đệ! Đệ giận ta phải không?”
Nghe Viên Thừa Chí gọi mình là Thanh đệ, Ôn Thanh mừng rỡ, lập tức ngồi xuống đất mà nói: “Ca ca đã xem thường người ta, sao còn gọi người ta là Thanh đệ?”
Viên Thừa Chí nói: “Ta xem thường đệ hồi nào đâu? Tới đây, chúng ta kết bái ở đây.”
Thế là hai người cùng quỳ xuống, hướng về mặt trăng mà phát thệ: “Có phước cùng hưởng, có họa cùng chia”. Sau đó đứng dậy, Ôn Thanh chắp tay nhìn Viên Thừa Chí, khẽ gọi: “Đại ca”.
Viên Thừa Chí chắp tay trả lễ, gọi một tiếng “Thanh đệ” rồi nói: “Bây giờ không còn sớm nữa, chúng ta về nghỉ đi.”
Hai người dắt tay nhau trở về phòng. Viên Thừa Chí nói: “Đệ đừng về, kẻo làm bá mẫu tỉnh giấc. Chúng ta ở lại đây, ngủ cùng giường đi.”
Ôn Thanh đột nhiên đỏ ửng mặt lên, vẫy tay ấp úng nói: “Đại ca… đại ca… đại ca… ngày mai gặp lại.”
Y vừa mỉm cười vừa chạy ra khỏi phòng, khiến Viên Thừa Chí ngơ ngác chẳng hiểu gì.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Viên Thừa Chí đang ngồi trên giường luyện công thì Tiểu Cúc đưa đồ điểm tâm vào. Viên Thừa Chí nhảy xuống giường, lên tiếng cảm ơn.
Đang ăn sáng thì Ôn Thanh vào phòng nói: “Đại ca! Có một con bé đến đây, nói là đến để đòi vàng. Chúng ta ra ngoài xem thử.”
Viên Thừa Chí gật đầu, nghĩ bụng: “Cướp tiền người khác thì dĩ nhiên không được yên ổn. Bây giờ ta phải khuyên Thanh đệ trả lại vàng cho người ta.”
Hai người chưa đến cửa sảnh, đã nghe thấy tiếng chân gấp rút trong sảnh, lại có tiếng gió vù vù, rõ ràng có người đang động thủ. Vào trong đại sảnh thì thấy Ôn Chính nhanh chân chạy qua chạy lại, múa tít đơn đao, tỉ đấu với một thiếu nữ cầm kiếm. Kế bên có hai ông lão ngồi trên ghế mà nhìn. Một lão tay cầm quải trượng, còn lão kia tay không.
Ôn Thanh đến bên ông lão cầm quải trượng, kề tai thầm thì gì đó. Ông lão liền quay đầu lại, ngắm nhìn Viên Thừa Chí rồi gật đầu một cái.
Viên Thừa Chí thấy thiếu nữ kia khoảng mười tám mười chín tuổi, hai má ửng hồng, dung mạo thanh tú, chiêu thức công thủ rất nghiêm mật. Hai người đấu thêm mười mấy chiêu, nhất thời chưa phân cao thấp, nhưng Viên Thừa Chí càng nhìn kiếm pháp của nàng càng thấy nghi ngờ.
Thiếu nữ bước tới một bước, đưa trường kiếm điểm tới vai của Ôn Chính. Ôn Chính xoay đao lại đỡ cực nhanh. Tưởng trường kiếm sẽ bị đơn đao gạt văng đi, nào ngờ thiếu nữ kia còn nhanh hơn, xoay trường kiếm lại chém ngang cổ đối thủ. Ôn Chính giật mình lùi luôn ba bước. Thiếu nữ thừa thắng lại phóng kiếm đâm tới veo véo.
Nhìn gia số võ công, Viên Thừa Chí biết thiếu nữ này tuy không phải là người phái Hoa Sơn, nhưng chắc chắn đã được nhân vật bản môn chỉ điểm, nếu không thì công lực của nàng không đủ để duy trì đến lúc này. Nàng chỉ dựa vào kiếm thuật tinh xảo mà gắng gượng cầm cự với Ôn Chính. Chiêu thức của Ôn Chính vừa ổn định vừa hiệu quả hơn, nội kình mạnh hơn rất nhiều.
Ôn Thanh cũng đã thấy thiếu nữ đó không phải là địch thủ của Ôn Chính, bèn cười nhạt lên tiếng: “Dựa vào chút xíu bản lãnh như vậy mà muốn đến nhà đòi nợ ư?”
Tỉ đấu mấy chục chiêu nữa, quả nhiên kiếm pháp thiếu nữ đó mỗi lúc một chậm đi, còn Ôn Chính thì đao sau ác hơn đao trước. Chỉ chốc lát là thiếu nữ liên tiếp gặp nguy hiểm.
Thấy tình thế nguy cấp, Viên Thừa Chí đột nhiên tung người lên, nhảy vào giữa hai đối thủ. Hai bên đang tỉ đấu kịch liệt, binh khí không thu về kịp, một đao một kiếm cùng chém lên người Viên Thừa Chí. Ôn Thanh kinh hãi la lên, hai ông lão cùng đứng bật dậy, nhưng vì bất ngờ nên không kịp nhảy tới cứu viện.
Tay phải của Viên Thừa Chí đẩy nhẹ lên tay của Ôn Chính, còn tay trái xoay lại gõ nhẹ vào cổ tay của thiếu nữ kia. Hai món binh khí đều không giữ nổi mà bay thẳng ra ngoài; hai đối thủ lập tức nhảy lùi ra sau. Hai ông lão nhìn nhau “Ủa” lên một tiếng, rõ ràng kinh ngạc về công phu của Viên Thừa Chí.
Ôn Chính tưởng Thừa Chí nhớ mối hận đêm qua, nên ra tay làm khó dễ mình. Còn thiếu nữ kia thấy chàng cùng Ôn Thanh từ trong nhà đi ra, đương nhiên nghĩ chàng cùng phe với đối phương. Nàng thấy mình không địch nổi, bèn nhặt kiếm rồi nhảy ra ngoài.
Thừa Chí kêu lên: “Cô nương khoan đã.”
Thiếu nữ giận dữ nói: “Ta không đánh nổi các ngươi, đương nhiên sẽ có những người giỏi hơn ta đến đây để đòi vàng. Ngươi muốn gì nữa?”
Thừa Chí chắp tay lại nói: “Cô nương đừng trách. Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh, lệnh sư là vị nào?”
Thiếu nữ bĩu môi đáp: “Ta không đến đây để lảm nhảm với ngươi!”
Nàng co giò chạy thẳng ra cửa. Viên Thừa Chí nhún chân một cái, tung người ra chặn trước cửa, khẽ nói: “Đừng đi! Ta giúp cô nương.”
Thiếu nữ ngẩn ra, hỏi lại: “Các hạ là ai?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta họ Viên.”
Đôi mắt đen láy của thiếu nữ đó nhìn thẳng vào mặt chàng một lát, rồi nàng bỗng la lên: “Các hạ biết An đại nương hay không?”
Thừa Chí run rẩy cả người, lòng bàn tay cũng nóng hẳn lên, đáp ngay: “Ta là Viên Thừa Chí. Cô nương là Tiểu Huệ phải không?”
Thiếu nữ đó mừng quá, quên mất mình đang ở đâu, cứ nắm chặt lấy tay chàng mà la lên: “Đúng rồi, đúng rồi! Huynh là Thừa Chí đại ca.”
Nàng đột nhiên nghĩ đến nam nữ hữu biệt, chợt đỏ mặt buông tay chàng ra.
Tình huống diễn ra quá bất ngờ, Ôn Thanh cảm thấy cảnh vật trước mắt như nhòa đi trong một màn sương mỏng. Ôn Chính kêu lên: “Ta cứ tưởng Viên huynh này là ai, thì ra là do Lý Tự Thành phái tới nằm vùng mai phục.”
Viên Thừa Chí nói: “Đúng là tại hạ đã gặp gỡ Sấm Vương một lần, nhưng không thể nói là tới đây mai phục được. Vị cô nương này đã quen tại hạ từ hồi nhỏ. Không biết hai vị vì lý do gì mà giao đấu? Tại hạ cả gan xin hai vị giảng hòa có được không?”
An Tiểu Huệ nói: “Thừa Chí đại ca! Họ đã là bạn của ca ca, thì chỉ cần trả lại vàng là xem như không có chuyện gì.”
Ôn Thanh lạnh nhạt lên tiếng: “Đâu có chuyện dễ dàng như thế?”
Viên Thừa Chí nói: “Thanh đệ! Để ta giới thiệu cho Thanh đệ biết, vị này là An Tiểu Huệ cô nương. Hồi nhỏ chúng ta thường chơi đùa với nhau, đã hơn mười năm không gặp rồi.”
Ôn Thanh lạnh nhạt liếc nhìn An Tiểu Huệ một cái, không thi lễ mà cũng chẳng nói gì.
Viên Thừa Chí cảm thấy khó xử, liền hỏi An Tiểu Huệ: “Sao muội nhận ra ta?”
An Tiểu Huệ nói: “Trên lông mày của ca ca có một vết sẹo, muội làm sao quên được? Hồi nhỏ tên khốn kia đến bắt muội, ca ca liều mạng cứu giúp, bị hắn đả thương. Ca ca quên rồi hay sao?”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Hôm đó chúng ta còn dùng chén nhỏ nồi nhỏ để chơi đồ hàng nữa.”
Ôn Thanh lại càng cảm thấy không vui, lên tiếng riết róng: “Các vị cứ ở đó mà nói chuyện thanh mai trúc mã. Ta phải vào trong đây.”
Viên Thừa Chí vội gọi: “Đợi một lúc đã! Tiểu Huệ, sao muội lại đánh nhau với vị đại ca này?”
An Tiểu Huệ nói: “Muội và… và… Thôi sư huynh…”
Viên Thừa Chí cướp lời hỏi: “Thôi sư huynh là Thôi Thu Sơn thúc thúc có phải không?”
An Tiểu Huệ nói: “Không, huynh ấy là cháu của Thôi thúc thúc. Hai người bọn muội hộ tống một món quân lương của Sấm Vương về Chiết Đông, nào ngờ giữa đường bị tên kia lấy cắp.” Vừa nói, tay nàng chỉ về hướng Ôn Thanh.
Viên Thừa Chí đã hiểu, thì ra số vàng Ôn Thanh đã cướp là quân lương của Sấm Vương. Đừng nói Sấm Vương đối xử lịch sự với chàng, được sư phụ chàng dồn toàn lực giúp đỡ, mà chỉ vì tình cảm của ba cố nhân là Thôi Thu Sơn, An đại nương, An Tiểu Huệ thì cũng đủ để chàng phải xả thân giúp An Tiểu Huệ đoạt về. Hơn nữa Sấm Vương gửi tiền từ xa mấy ngàn dặm đến Giang Nam, nhất định rất cần sử dụng. Nếu là quân lương, đương nhiên phải dùng để chi trả cho quân đội. Nếu dùng để lôi kéo người trợ giúp, hoặc hối lộ cho bọn tham quan cũng rất có ích. Sấm Vương tạo phản là vì nhân nghĩa, muốn cứu dân khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng, làm sao chàng khoanh tay đứng nhìn được?
Lòng đã quyết, Viên Thừa Chí bèn bảo Ôn Thanh: “Thanh đệ! Xin đệ nể mặt ta, trả lại số vàng đó cho vị cô nương này đi.”
Ôn Thanh “hứ” một tiếng rồi nói: “Huynh cứ nói chuyện với hai vị gia gia của đệ trước đã.”
Viên Thừa Chí nghe y gọi hai ông lão này là gia gia, thầm nghĩ: “Đã kết bái rồi, thì họ cũng là trưởng bối của mình.” Vì thế chàng bước lên phía trước, cúi đầu chào hai ông lão rất cung kính.
Ông lão cầm quải trượng nói: “Ái chà, không dám! Viên thế huynh đứng dậy đi.”
Lão dựng cây quải trượng vào bên ghế, hai tay đỡ lấy khuỷu tay Viên Thừa Chí, nhấc chàng lên. Viên Thừa Chí đột nhiên cảm thấy một luồng kình lực rất lớn, có thể hất mình văng bổng lên không trung. Chàng phải trì đôi vai xuống, vận kình trầm ổn lại thân hình, tiếp tục khấu đầu cho đủ bốn cái mới đứng dậy.
Ông lão thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Thiếu niên này có nội lực rất thâm hậu.” Lão cười ha hả rồi nói: “Nghe Thanh nhi nói công phu của Viên thế huynh rất lợi hại, quả nhiên không sai.”
Ôn Thanh nói: “Vị này là Tam gia gia của đệ.” Y trỏ sang ông lão tay không, lại nói: “Còn đây là Ngũ gia gia.” Rồi y giới thiệu danh hiệu của hai người, một là Ôn Phương Sơn, một là Ôn Phương Ngộ.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Hai người này chắc chắn là hai tổ trong Ngũ Tổ của Kỳ Tiên Phái rồi. Võ công của các vị gia gia cao hơn Ôn Chính và Thanh đệ rất nhiều.” Chàng bèn lên tiếng chào: “Tam gia gia, Ngũ gia gia!”
Hai ông lão đồng thanh nói: “Không dám nhận cách xưng hô như thế.” Sắc mặt họ đều lộ vẻ không vui.
Viên Thừa Chí thầm tức giận: “Phụ thân ta là danh tướng kháng Thanh, là Đốc sư ở Liêu Đông. Ta kết bái với cháu của các ông, các ông lại coi là không xứng ư?”
Chàng quay lại bảo Ôn Thanh: “Thanh đệ trả lại vàng cho vị cô nương này đi.”
Ôn Thanh tức giận nói: “Huynh chỉ biết cô nương này, cô nương kia, chẳng nghĩ gì đến đệ cả.”
Viên Thừa Chí nói: “Thanh đệ! Người học võ chúng ta phải lấy nghĩa khí làm trọng. Số vàng này là của Sấm Vương, lúc đệ lấy mà không biết thì có thể cho qua. Bây giờ đã biết được tung tích rồi, nếu không trả lại há chẳng có lỗi với người ta?”
Hai ông lão vốn không biết món vàng này liên quan trọng đại như thế, cứ tưởng là của một phú thương nào đó. Bây giờ nghe An Tiểu Huệ, Viên Thừa Chí nói đến, họ bỗng thấy không yên lòng, biết thanh thế của Sấm Vương cực lớn, giang hồ hào kiệt quy tụ rất đông. Nếu mình không trả số vàng này, nhất định sẽ có vô số hảo thủ đến đây đòi lại, hậu hoạn vô cùng.
Ôn Phương Sơn mỉm cười nói: “Nể mặt Viên thế huynh, chúng ta trả lại đi thôi.”
Ôn Thanh kêu lớn: “Tam gia gia! Chuyện đó không được.”
Viên Thừa Chí nói: “Đệ định chia cho ta một nửa. Thế thì đem một nửa của ta trả cho cô ấy trước đi, rồi tính tiếp.”
Ôn Thanh nói: “Nếu bản thân huynh cần, thì phần của đệ cũng có thể cho huynh. Mấy ngàn lạng vàng chẳng phải là nhiều nhặn gì, ai lại bủn xỉn như thế? Nhưng vì cô nương này đến đây đòi, nên đệ mới không chịu trả.”
An Tiểu Huệ bước lên một bước, giận dữ nói: “Vậy phải thế nào ngươi mới chịu trả? Cho ta biết điều kiện đi.”
Ôn Thanh bảo Viên Thừa Chí: “Rốt cuộc là huynh giúp ả hay là giúp đệ?”
Viên Thừa Chí trù trừ một lúc rồi mới đáp: “Ta không giúp ai cả, ta chỉ nghe lời sư phụ thôi.”
Ôn Thanh hỏi: “Sư phụ ư? Sư phụ của huynh là ai?”
Viên Thừa Chí đáp: “Sư phụ của huynh đang ở trong quân ngũ Sấm Vương.”
Ôn Thanh giận dữ nói: “Hừ, nói đi nói lại cũng là huynh giúp cô ả này. Được! Vàng để ở đây. Đệ đã tốn công sức để lấy được, thì huynh cũng phải tốn công sức để lấy lại. Trong vòng ba ngày, nếu huynh có bản lãnh thì đến đây mà lấy. Hết ba ngày mà không lấy được, đệ sẽ tiêu xài xả láng, hết sạch trong vòng một ngày.”
Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Nhiều vàng như thế, làm sao tiêu hết trong vòng một ngày?”
Ôn Thanh nói: “Tiêu không hết, chẳng lẽ đệ không biết ném ra giữa đường cho người khác giúp đệ tiêu xài hay sao?”
Viên Thừa Chí kéo tay áo Ôn Thanh, bảo: “Thanh đệ, đi theo ta.”
Hai người đến một góc sảnh, Viên Thừa Chí nói: “Đêm qua đệ vừa nói là sẽ nghe lời ta, sao chưa tới nửa ngày đã thay đổi hẳn rồi?”
Ôn Thanh nói: “Nếu huynh tốt với đệ, thì dĩ nhiên đệ nghe lời huynh.”
Viên Thừa Chí nói: “Huynh có chỗ nào không tốt với đệ đâu? Nhưng chỗ vàng này thật sự không thể lấy.”
Khóe mắt Ôn Thanh rơm rớm, nói: “Huynh mới gặp người quen cũ là đã toàn tâm toàn ý bảo vệ, không để ai vào trong lòng nữa. Vàng của Sấm Vương, đệ tiêu xài hết thì đã sao nào? Cùng lắm là bị ông ấy giết đi. Dù sao đi nữa, cả đời cả kiếp này có ai thương đệ đâu?”
Nói tới đây, nước mắt y lại rơi xuống.
Viên Thừa Chí thấy không thể nói lý lẽ với người này được, lộ vẻ không vui. Chàng nói: “Đệ là huynh đệ kết nghĩa, còn cô ấy là con gái của cố nhân, dĩ nhiên ta phải đối xử như nhau, không bên nào nặng nhẹ. Tại sao đệ phải như vậy?”
Ôn Thanh nói ngay: “Chuyện khiến đệ hận chính là huynh đối xử như nhau, không phân nặng nhẹ. Hừ, không cần nói nhiều nữa. Trong vòng ba ngày huynh cứ đến đây mà lấy.”
Thừa Chí muốn nắm tay y khuyên bảo, nhưng Ôn Thanh giật tay ra, đi vào nhà trong.
*
* *
Viên Thừa Chí thấy tình hình đã bế tắc, nói gì đi nữa cũng không giải quyết được. Chàng đành cùng An Tiểu Huệ rời khỏi đó, tìm một nhà nông để tá túc, rồi hỏi đầu đuôi câu chuyện mất vàng này. Thì ra An Tiểu Huệ cùng vị Thôi sư ca đó hộ tống món vàng, giữa đường có việc phải chia tay, nên Ôn Thanh có cơ hội đoạt hết.
An Tiểu Huệ nhắc đến thời gian sau khi tạm biệt, mẫu thân của nàng thường xuyên nhớ đến Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí lấy trong bọc ra một cái vòng tay thắt bằng chỉ vàng, nói rằng: “Vật này là má má của muội đã cho ta. Muội xem, cổ tay ta lúc đó nhỏ xíu thế này.”
An Tiểu Huệ cười khúc khích nhìn cánh tay chàng, lại hỏi: “Thừa Chí đại ca! Mấy năm nay ca ca làm gì vậy?”
Viên Thừa Chí nói: “Ngày nào cũng luyện võ, thỉnh thoảng có chơi cờ.”
An Tiểu Huệ nói: “Chẳng trách võ công của ca ca cao cường như thế. Vừa rồi ca ca chỉ đẩy nhẹ vào thanh kiếm mà muội không vận được chút xíu kình lực nào nữa.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Sao muội cũng biết kiếm pháp phái Hoa Sơn? Ai dạy cho muội vậy?”
Khóe mắt của An Tiểu Huệ đỏ lên, quay đầu đi rồi mới nói: “Chính là Thôi sư ca dạy cho muội. Huynh ấy cũng là đệ tử Hoa Sơn.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Huynh ấy bị thương phải không? Tại sao muội lại đau lòng?”
An Tiểu Huệ nói: “Có bị thương gì đâu! Huynh ấy mặc kệ người ta, giữa đường bỏ đi trước.”
Viên Thừa Chí cảm thấy chuyện này có liên quan đến tình cảm trai gái, nên không tiện hỏi thêm.
Đợi đến khoảng canh hai, hai người cùng chạy về phía nhà họ Ôn. Viên Thừa Chí nhẹ nhàng nhảy lên mái nhà, thấy bên trong đại sảnh đèn đuốc sáng trưng. Hai lão Ôn Phương Sơn, Ôn Phương Ngộ ngồi uống rượu; Ôn Chính, Ôn Thanh đứng bên hầu hạ.
Viên Thừa Chí không biết vàng giấu chỗ nào, muốn nghe lén họ nói chuyện một lúc. Nhưng Ôn Thanh bỗng cười nhạt một tiếng, ngẩng đầu nhìn lên mái nhà, buột miệng: “Vàng ở ngay đây, có bản lãnh thì đến lấy đi.”
An Tiểu Huệ kéo vạt áo của Viên Thừa Chí, khẽ nói: “Họ đã biết chúng ta đến đây rồi.”
Ôn Thanh lấy hai cái bao từ dưới gầm, đặt lên mặt bàn rồi mở ra. Dưới ánh nến, hoàng kim chói mắt, đầy bàn toàn những thỏi vàng. Ôn Thanh và Ôn Chính cũng ngồi xuống, đặt đao kiếm lên bàn mà uống rượu.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu họ cứ canh giữ như vậy, làm sao mà lấy được? Chẳng lẽ phải ra mặt đánh nhau?”
Đợi hơn nửa giờ mà bốn người dưới đại sảnh vẫn bình chân như vại. Chàng biết tối nay không có cách nào để ra tay, đành cùng An Tiểu Huệ trở về nơi trú ngụ.
Tối hôm sau hai người lại đến nhà họ Ôn, thấy trong đại sảnh vẫn có bốn người canh giữ, chỉ có điều là đã thay đổi hai ông già khác. Xem ra đây cũng là người trong Ngũ Tổ, còn ba người kia chắc đang mai phục trong bóng tối.
Viên Thừa Chí bảo An Tiểu Huệ: “Họ có cao thủ bí mật canh gác, phải cẩn thận.”
An Tiểu Huệ gật đầu một cái rồi chau mày lại. Đột nhiên nàng nghĩ ra một kế, bèn tung người nhảy xuống. Viên Thừa Chí sợ nàng đơn độc nên vội nhảy theo, thấy nàng chạy thẳng ra sau, đến chỗ nhà bếp, đập đá lửa lên, đốt một đống củi khô ở kế bên.
Chẳng bao lâu lửa đã bốc cao. Trong nhà họ Ôn lập tức ồn ào, rất nhiều trang đinh xách nước chạy tới để dập lửa.
Hai người chạy lên tiền sảnh. Đèn nến trong sảnh vẫn sáng rực, nhưng bốn người trong đó không thấy đâu nữa. An Tiểu Huệ mừng rỡ khẽ la lên: “Họ đi chữa cháy rồi.”
Nàng tung người nhảy xuống mái nhà, theo cửa sổ xông vào trong sảnh. Thừa Chí cũng nhảy theo. Hai người chạy đến bên bàn, đang đưa tay để lấy vàng thì đột nhiên bị mất thăng bằng. Thì ra dưới đất có đặt cơ quan, một tấm ván bỗng lật ngược lại.
Thừa Chí thầm la: “Hỏng bét!” Chàng tung người vọt lên, vươn tay ra toan nắm lấy An Tiểu Huệ, nhưng với không tới. Tay trái chàng nắm được một cây xà nhà, rồi lộn người lại đặt chân lên xà. Lúc này tấm ván đã lật ngược lại, nhốt An Tiểu Huệ dưới sàn nhà.
Thừa Chí kinh hãi vội chạy ra ngoài cửa sổ, xem thử có bố trí gì không rồi tìm cách để cứu An Tiểu Huệ. Vừa ra khỏi cửa, một luồng kình phong đã ập tới trước mặt. Chàng lập tức vung tay phải lên đỡ phát chưởng đánh tới. Hai chưởng chạm nhau, Thừa Chí mượn thế nhảy lên mái nhà, còn người đánh lén ở dưới thì ngã ra đất. Nhưng người này thân pháp cũng rất linh hoạt, lưng vừa chạm đất lại nhảy lên mái nhà ngay. Đó là Ôn Chính.
Thừa Chí đứng vững trên mái nhà rồi đưa mắt nhìn tứ phía, bỗng thấy ớn lạnh toàn thân. Xung quanh đầy người, có cao có lùn, có mập có ốm. Viên Thừa Chí bị bao vây trùng điệp, không biết ý đồ của đối phương như thế nào, bèn tập trung tinh thần đề khí.
Giữa đám đông có năm ông lão bước ra, trong đó có Ôn Phương Sơn và Ôn Phương Ngộ là hai người chàng đã bái kiến, có hai ông lão vừa ngồi trong sảnh canh giữ đống vàng. Ông lão còn lại thân hình khôi vĩ, cao hơn người bình thường tới nửa cái đầu. Lão cười ha hả rồi cất giọng rổn rảng như tiếng chuông đồng: “Năm huynh đệ ta sống ở nơi thâm sơn hẻo lánh này, không ngờ thủ hạ của Sấm Vương lại quang lâm đến tận đây. Đúng là tam sinh hữu hạnh, nhà cỏ huy hoàng. Ha ha… ha ha…”
Viên Thừa Chí vái chào, lên tiếng: “Vãn bối bái kiến.”
Chàng biết xung quanh toàn là kẻ địch, khi cúi đầu xuống rất dễ bị ám toán, nhưng lễ số không thể thiếu được.
Ôn Thanh bước ra, lên tiếng: “Vị này là Đại gia gia của ta. Hai vị kia là Nhị gia gia và Tứ gia gia.”
Thừa Chí hướng về từng người mà chắp tay thi lễ. Chàng đưa mắt nhìn quanh thấy ánh lửa đã tắt, biết đám cháy chưa lan rộng, nên yên tâm hơn một chút.
Lão đại Ôn Phương Đạt, lão nhị Ôn Phương Nghĩa, lão tứ Ôn Phương Thi trong Ngũ Tổ của Kỳ Tiên Phái đều gật đầu một cái nhưng không trả lễ. Họ không ngớt nhìn chàng từ đầu đến chân. Ôn Phương Nghĩa giận dữ hét lên: “Tuổi ngươi còn nhỏ như vậy mà đã coi trời bằng vung. Dám đến nhà ta phóng hỏa ư?”
Viên Thừa Chí nói: “Đó là do đồng bạn của vãn bối hơi lỗ mãng. Vãn bối thật sự áy náy trong lòng, rất may là chưa thành tai họa. Ngày mai vãn bối sẽ đến đây lạy tạ xưng tội với quý vị.”
Ông nội của Ôn Chính là Ôn Phương Thi, thân hình vừa cao vừa ốm, dung mạo rất giống Ôn Chính. Lão lên tiếng: “Dập đầu bao nhiêu cái mới gọi là đủ đây? Thằng bé này cả gan như thế, đến nhà họ Ôn ở Tịnh Nham này mà giở thói lưu manh. Sư phụ của ngươi là ai?”
Ngũ Tổ tuy đối với thanh thế của Sấm Vương có phần kiêng nể, nhưng năm huynh đệ này từ xưa đến giờ rất yêu tiền bạc. Vàng đã vào tay rồi, không dễ gì họ buông ra trả lại cho người khác. Vừa rồi lão thấy Viên Thừa Chí mới một chưởng đã hất Ôn Chính rơi xuống, võ công rất giỏi, nên định hỏi rõ sư thừa môn phái của chàng rồi mới định đối sách sau.
Viên Thừa Chí nói: “Lúc này gia sư đang ở trong quân ngũ Sấm Vương. Chỉ mong các vị trả lại món vàng của Sấm Vương, ngày sau vãn bối sẽ xin gia sư viết thư đến đây đa tạ.”
Ôn Phương Đạt hỏi: “Sư phụ của ngươi là ai?”
Viên Thừa Chí đáp: “Lão nhân gia trước nay ít khi đi lại giang hồ. Vãn bối không dám nhắc đến danh tự của lão nhân gia.”
Ôn Phương Đạt “hứ” một tiếng, rồi nói: “Ngươi không nói, chẳng lẽ có thể giấu giếm được chúng ta hay sao? Nam Dương, ra tiếp chiêu với thằng lỏi này thử xem.” Lão nghĩ bụng, chỉ cần động thủ một chút là chắc chắn Viên Thừa Chí phải lộ rõ môn phái ngay.
Trong đám đông có một người lên tiếng vâng dạ rồi bước ra. Người này khoảng bốn mươi tuổi, râu quai nón, là con trai thứ hai của Ôn Phương Nghĩa, có thể gọi là một cao thủ đời thứ hai của Kỳ Tiên Phái.
Hắn vừa tung người tới là phóng ngay một quyền vào mặt Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí vừa né đầu tránh qua, tả quyền của Ôn Nam Dương đã đánh tới ngay, kình lực cũng rất lợi hại.
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Quá nhiều người tụ tập ở đây. Nếu từng người cứ đánh như thế, đến khi nào mới có kết quả? Bây giờ phải tốc chiến tốc thắng. Nhưng e rằng mình khó thoát thân được, còn Tiểu Huệ không biết ra sao rồi?”
Đợi tả quyền của địch thủ bay đến trước mặt, hữu chưởng chàng đột nhiên vươn ra cản trở, rồi năm ngón tay chụp lại túm được đầu quyền của địch, thuận thế kéo về phía sau. Ôn Nam Dương thu thế không kịp, loạng choạng nhào về phía trước, chân đạp vỡ một mảng lớn mái ngói. Nếu không nhờ Ngũ thúc của hắn là Ôn Phương Ngộ đưa tay kéo lại, chắc hắn đã lọt khỏi mái nhà.
Hắn xấu hổ đến đỏ mặt tía tai, quay lại phóng tới. Viên Thừa Chí đứng bất động, đợi hắn phóng tới mới xoay người lại, ngửa ra sau một chút, đưa chân trái móc nhẹ một cái. Ôn Nam Dương đổ người về phía trước.
Nhưng chân trái của Viên Thừa Chí vừa móc thì tay phải cũng đồng thời đưa ra. Chàng sợ địch thủ té sấp xuống, nên chụp lấy gáy hắn mà kéo lên.
Ôn Nam Dương vừa chạm đến mái ngói đã bị người ta xách bổng lên. Làm sao hắn dám đánh nữa, bèn giận dữ nhìn Viên Thừa Chí rồi lùi ra sau.
Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Thằng lỏi này quả nhiên có chút bản lãnh. Để lão phu tiếp đệ tử của cao nhân thử xem.”
Lão bắt chéo song chưởng, định bước tới. Ôn Thanh đột nhiên tung người nhảy đến, khẽ nói: “Nhị gia gia! Huynh ấy đã kết bái với con rồi. Lão nhân gia đừng đả thương huynh ấy.”
Ôn Phương Nghĩa mắng luôn: “Đồ tiểu quỷ!”
Ôn Thanh kéo chặt tay lão, lại hỏi: “Nhị gia gia! Gia gia đồng ý rồi chứ?”
Ôn Phương Nghĩa nói: “Còn xem đã.” Lão vận sức hất tay Ôn Thanh ra. Ôn Thanh đứng không vững, không tự chủ được phải lùi mấy bước.
Ôn Phương Nghĩa bước tới hai bước, lấy tấn rồi bảo: “Ngươi xuất chiêu đi!”
Viên Thừa Chí chắp tay nói: “Vãn bối không dám.”
Ôn Phương Nghĩa nói: “Ngươi không dám nói ra tên tuổi sư phụ thì cứ thử đánh ba chiêu, xem ta có biết hay không?”
Viên Thừa Chí thấy lão ra vẻ oai phong như thế, bèn nghĩ: “Cứ thử xem.” Chàng lên tiếng: “Thế thì vãn bối xin vô lễ. Công phu vãn bối có hạn, xin tiền bối hạ thủ lưu tình.”
Ôn Phương Nghĩa quát lên: “Động thủ nhanh lên! Ai cần ngươi lải nhải như thế? Lão Nhị này xưa nay hạ thủ không biết lưu tình.”
Viên Thừa Chí vái lạy rất cung kính. Khi tay áo vừa chạm đến mái ngói, chàng hoành tay lại. Cánh tay áo đột nhiên quét ngang qua, vù một tiếng hất lên đầu Ôn Phương Nghĩa, kình lực rất lợi hại. Ôn Phương Nghĩa cúi đầu tránh né, vung tay ra toan nắm lấy tay áo, nhưng bỗng thấy chàng nhẹ nhàng tung người lên, tay áo bên trái quét thành một vòng tròn, tay áo bên phải đột nhiên từ giữa vòng tròn đó thần tốc đâm thẳng ra, đánh ngay vào giữa mặt.
Ôn Phương Nghĩa lập tức ngửa mặt ra sau để tránh né. Viên Thừa Chí không để lão có cơ hội đánh trả, đột nhiên quay người lại, xoay lưng hướng về đối thủ.
Ôn Phương Nghĩa ngơ ngác, tưởng chàng muốn chạy trốn, bèn phóng hữu chưởng ra. Đột nhiên lão cảm thấy một luồng kình phong ào tới, hai cánh tay áo đánh ngược từ dưới lên như hai con rắn dài quật vào dưới nách mình. Chiêu này thật sự bất ngờ, lão vội đưa hai tay ra toan chụp lại. Không ngờ cả hai tay áo lại vẫy vào sau lưng lão, đánh trúng vào hông nghe bịch bịch hai tiếng. Ôn Phương Nghĩa vừa cảm thấy tê chồn, đối thủ đã nhảy ra khỏi trận.
Viên Thừa Chí quay người lại, mỉm cười đứng yên. Ôn Thanh thấy chàng thân thủ xảo diệu như thế, suýt nữa đã buột miệng khen: “Tuyệt diệu!” Y vội đưa cả hai tay lên bịt chặt lấy miệng, rồi thè lưỡi ra một cái.
Bốn huynh đệ Ôn Phương Đạt đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy kỳ lạ. Khuôn mặt già nua của Ôn Phương Nghĩa bây giờ đã đỏ ngầu lên, râu mày đều dựng ngược. Lão đột nhiên phóng chưởng đánh ra.
Dưới ánh trăng, Viên Thừa Chí thấy trên đầu lão nhiệt khí bừng bừng, bước chân trông như chậm chạp, loạng choạng mà lại vô cùng vững chắc. Chàng không dám đùa giỡn nữa, phải cúi mình tránh né hai chiêu, rồi cuộn tay áo lại, thấy chiêu đỡ chiêu, tập trung tinh thần nghênh chiến.
Viên Thừa Chí sợ bị đối phương biết môn phái của mình, nên sử dụng Ngũ Hành Quyền, loại quyền pháp tầm thường nhất trên giang hồ. Quyền pháp này thì bất cứ người học võ nào cũng từng luyện tập. Ngũ Tổ họ Ôn không thể dựa vào chiêu thức của chàng mà đoán được sư thừa môn hộ.
Ôn Phương Nghĩa ra tay không nhanh lắm, nhưng mỗi quyền mỗi chưởng phát ra đều kèm theo kình phong cực lớn. Đánh được bảy tám chiêu, Viên Thừa Chí đột nhiên cảm thấy chưởng phong của đối phương nóng hực lên. Chàng nhìn vào bàn tay lão, bỗng thấy hơi run. Lòng bàn tay lão đỏ ngầu như máu, dưới ánh trăng nhợt nhạt cũng thấy rõ ràng, trông rất đáng sợ.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Người này đã luyện Chu Sa Chưởng. Sư phụ nói chưởng lực này rất khó chống đỡ, mình quyết không để lão ta đánh trúng.” Chàng bèn thay đổi đấu pháp, vẫn sử dụng những chiêu thức bình thường nhưng kình lực thì tăng lên một bậc.
Ôn Phương Nghĩa đang đấm đá hăng say thì đột nhiên cảm thấy cổ tay nhói lên một cái. Lão vội nhảy ra ngoài, cúi xuống nhìn thì thấy cổ tay mình có một vết sưng màu đỏ, thì ra vừa bị ngón tay đối phương quét trúng. Đó vẫn là hạ thủ lưu tình, tuy trong lòng Ôn Phương Nghĩa rất giận dữ, nhưng lão không tiện tiếp tục tỉ đấu với Viên Thừa Chí.
Ôn Phương Sơn bước lên một bước, cất tiếng: “Viên lão đệ tuổi còn rất trẻ, nhưng quyền cước tinh thâm, không phải dễ dàng mà có được. Lão phu xin lãnh giáo công phu về binh khí của lão đệ một chút.”
Thừa Chí đáp: “Vãn bối không dám mang theo binh khí đến bảo trang.”
Ôn Phương Sơn cười ha hả rồi nói: “Lễ số của ngươi cũng đầy đủ lắm. Có thể gọi là tài cao mật lớn. Được, chúng ta hãy đến luyện võ sảnh.”
Lão vẫy tay một cái rồi nhảy xuống đất, mọi người đều nhảy theo. Thừa Chí cũng theo mọi người vào trong nhà.
Ôn Thanh bước lên cạnh chàng, khẽ nói: “Trong cán trượng có ám khí.”
Viên Thừa Chí đang muốn tiếp chuyện thì Ôn Thanh đã quay đi, nói với Ôn Chính: “Huynh thấy tên mọi Quảng Đông đen thui đen thủi này thế nào? Bây giờ đã phục chưa?”
Ôn Chính nói: “Nhị gia gia quen chiều chuộng ngươi, nên không nặng tay với hắn. Có gì lạ đâu?”
Mọi người vào luyện võ sảnh. Thừa Chí thấy đó là một gian đại sảnh rộng bằng khoảng ba gian nhà bình thường. Gia đinh vào thắp lên ba cây nến lớn, tòa sảnh lập tức sáng rực như ban ngày.
Già trẻ lớn bé trong nhà họ Ôn, ai cũng biết võ công. Họ nghe Tam lão gia sắp tỉ võ với người khách hôm trước đến đây, đều kéo lên sảnh để xem, ngay cả bọn trẻ nít cũng háo hức không kém.
Người vào cuối cùng là một phụ nữ trung niên rất đẹp, đi cùng Tiểu Cúc. Ôn Thanh vội chạy tới hô một tiếng: “Mẫu thân!”
Khuôn mặt diễm lệ của bà ẩn chứa một tâm sự u uẩn. Bà chỉ liếc Ôn Thanh một cái, hình như chẳng vui vẻ gì.
Ôn Phương Sơn chỉ vào những chiếc giá cắm đao thương ở xung quanh, bảo: “Ngươi sử dụng binh khí gì, tự chọn đi.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Chuyện hôm nay chắc không thể kết liễu một cách êm thấm được, nhưng mình lại không nên đả thương bậc tôn trưởng của huynh đệ kết nghĩa. Vừa xuống núi đã gặp chuyện nan giải thế này, không biết phải giải quyết thế nào cho tốt?”
Ôn Thanh thấy chàng chau mày không nói gì lại tưởng chàng sợ hãi, bèn lên tiếng trấn an: “Tam gia gia của đệ vốn thương yêu bọn tiểu bối, nhất định không đả thương huynh đâu.”
Câu này một nửa là nói cho Ôn Phương Sơn nghe, muốn lão không hạ sát thủ. Mẹ y bèn nói: “Thanh Thanh, đừng có nhiều chuyện.”
Ôn Phương Sơn nhìn Ôn Thanh một cái, rồi nói: “Còn phải xem may rủi thế nào. Viên thế huynh! Ngươi sử dụng binh khí gì?”
Viên Thừa Chí đưa mắt nhìn bốn phía, thấy một thằng bé khoảng sáu bảy tuổi đang đứng ở kế bên, cầm một cây kiếm đồ chơi bằng gỗ, sơn phết lòe loẹt. Cây kiếm này chỉ dài bằng một nửa trường kiếm bình thường. Chàng nảy ra một ý, bèn nói: “Tiểu huynh đệ! Cho ta mượn cây kiếm này một chút, có được hay không?”
Thằng bé mỉm cười, đưa kiếm cho chàng. Thừa Chí nhận lấy, rồi nói với Ôn Phương Sơn: “Vãn bối không dám động đao thương thật sự với tiền bối, nên dùng cây kiếm này để xin chỉ giáo mấy chiêu.”
Mấy câu nói này có vẻ khiêm cung, nhưng ngụ ý coi thường đối phương. Chàng nghĩ phía họ đông người, nếu cứ xa luân chiến thế này thì không biết lúc nào mới xong được. An Tiểu Huệ lại đang bị nhốt trong bẫy, bây giờ phải hiển thị võ công thượng thừa để nhanh chóng khuất phục địch thủ mới có thể lấy vàng cứu người, đỡ phải chậm trễ đêm dài lắm mộng, lại đỡ tổn thương tình nghĩa với Ôn Thanh.
Vừa rồi trên mái nhà Viên Thừa Chí đã động thủ với Ôn Phương Nghĩa, hiểu rõ võ công của đối phương. Nếu võ công của Ôn Thị Ngũ Lão không khác nhau lắm, thì dùng kiếm gỗ đón địch cũng không quá mạo hiểm.
Ôn Phương Sơn nghe mà tức đến nỗi tay chân run rẩy, ngẩng mặt lên trời cười ha hả rồi nói: “Lão phu đi lại giang hồ mấy chục năm trời, chưa ai dám coi thường cây Long Đầu Cương Trượng này như thế. Ha ha… hôm nay là lần đầu tiên gặp phải. Được! Ngươi có bản lãnh thì cứ dùng kiếm gỗ mà chém gãy cương trượng của ta thử xem.”
Nói vừa dứt câu, quải trượng đã quét ngang qua vù một tiếng, nhằm vào eo lưng Viên Thừa Chí, thế gió rất gấp rút. Dường như thân hình của Viên Thừa Chí bị cây cương trượng hất tung, Ôn Thanh la lên một tiếng. Nhưng chàng chưa rơi xuống đất thì mũi cây kiếm gỗ đã chỉ vào trước mặt đối phương. Ôn Phương Sơn bèn đảo ngược cây trượng, đuôi trượng điểm vào yếu huyệt sau lưng chàng.
Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Thì ra cây quải trượng này cũng có thể dùng để điểm huyệt. Thanh đệ còn nói trong cán trượng có ám khí. Ta phải cẩn thận.”
Thân hình chàng hơi nghiêng một chút để né quải trượng, kiếm gỗ ra chiêu Chiêm Địa Phi Tự lướt theo quải trượng mà chém tới, thế kiếm cực kỳ thần tốc.
Ôn Phương Sơn thấy vậy, biết tuy là kiếm gỗ nhưng nếu hớt trúng ngón tay thì mình cũng bị thương. Trong lúc gấp rút, tay phải lão buông lỏng cho cây trượng rơi xuống. Trượng vừa chạm vào mặt đất, tay trái lão nhanh như điện chớp lướt xuống dưới chụp lấy đuôi trượng rồi hất ngược lên, cây cương trượng nặng mấy chục cân bỗng hất đầu lên đánh tới đối phương. Thừa Chí thấy lão tinh mắt lẹ tay, biến chiêu nhanh chóng như thế, không khỏi đem lòng thán phục.
Hai người càng tỉ đấu càng khẩn trương. Cương trượng của Ôn Phương Sơn hễ quét vào chỗ trống thì phát ra tiếng gió vù vù, hễ đập xuống đất thì gạch đá sàn nhà nát vụn, thanh thế kinh người. Thừa Chí cứ luồn qua né lại trong bóng trượng, sử cây kiếm gỗ cực kỳ linh hoạt, chiêu nào cũng không rời khỏi chỗ yếu hại của đối phương.
Chớp nhoáng hai người đã qua lại bảy tám chục chiêu. Ôn Phương Sơn lo lắng nghĩ thầm: “Cây Long Đầu Cương Trượng của mình oai chấn Giang Nam, tung hoành vô địch. Hôm nay lại bị tên hậu sinh tiểu bối này dùng một cây kiếm gỗ đồ chơi để đánh ngang tay. Oai danh cả đời, chẳng lẽ mất đi như vậy hay sao?” Lão lập tức thay đổi trượng pháp, quét ngang đâm thẳng, vây kín kẻ địch vào trong bóng trượng.
Mọi người đứng xem đều cảm thấy gió lốc phát ra từ cây trượng càng lúc càng mạnh, bất giác từ từ lùi lại, tựa lưng vào vách đề phòng cương trượng quét nhằm. Dưới ánh nến không nhìn rõ cương trượng nữa, chỉ còn một khối tròn sáng loáng.
Võ công của Ôn Phương Sơn so với Vinh Thái, bang chủ Du Long bang thì cao hơn rất nhiều. Từ lúc xuống núi, bây giờ Thừa Chí mới gặp đối thủ võ công cao cường. Vì chàng sợ Ôn Thị Ngũ Lão nhận ra môn phái, không muốn sử dụng kiếm pháp chính tông của phái Hoa Sơn, nên để cương trượng của đối phương vũ lộng thần oai. Chàng không thể tiến đến gần, mà cũng không dám đụng kiếm gỗ vào cây cương trượng nặng nề, bèn nghĩ bụng: “Nếu ta không xuất tuyệt chiêu thì không dễ gì thắng được.” Đột nhiên thân pháp chàng chậm lại một chút, người hơi khựng lại.
Ôn Phương Sơn cả mừng, lập tức quét ngang trượng tới. Tay trái của Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công nắm chặt lấy đầu trượng vặn mạnh một cái, còn tay phải cầm kiếm gỗ đâm lên. “Soạt” một tiếng, vai áo Ôn Phương Sơn đã bị đâm thủng. Chiêu này còn cố ý nhường nhịn, không thì phải đâm vào ngực. Tuy là kiếm gỗ, nhưng nội kình lợi hại nhất định sẽ xuyên thủng ra tới sau lưng.
Ôn Phương Sơn kinh hãi, cổ tay đau nhói lên, cương trượng đã bị đối phương đoạt lấy.
Thừa Chí nghĩ bụng: “Đây là ông ngoại ruột của Ôn Thanh, không nên để lão bị khó xử.” Chàng lập tức thu kiếm gỗ về, tay trái đẩy ra giao lại cây trượng vào tay lão. Sự việc xảy ra trong chớp nhoáng, những người võ công hơi kém hoàn toàn không thể nhìn thấy được. Cương trượng vừa đoạt lấy đã trả lại ngay. Chàng để lão biết thua mà dừng tay như vậy, đã là cố gắng cứu vớt danh dự cho lão lắm rồi.
Không ngờ Ôn Phương Sơn lại quét ngang trượng ra. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đã thua một chiêu còn không biết thôi, không giữ thân phận cao thủ võ lâm chút nào!” Chàng lập tức né sang bên trái, đột nhiên nghe sột soạt mấy tiếng. Từ trong miệng của đầu rồng cương trượng bay ra ba mũi cương đinh, chia ra ba đường nhằm vào trên, dưới, giữa Viên Thừa Chí. Đầu trượng cách thân hình chàng chưa đầy một thước, ám khí đột ngột phát ra, rõ ràng không thể tránh né được.
Ôn Thanh không nén nổi, lạc giọng la lên một tiếng. Y thấy tình thế trước mắt vô cùng nguy cấp, sắc mặt thay đổi hẳn đi.
Nhưng Viên Thừa Chí đã kịp xoay cây kiếm gỗ lại, nghe lách cách ba tiếng, ba mũi cương đinh đã bị đánh rơi xuống đất. Chiêu kiếm Hoa Sơn này có tên gọi là Khổng Tước Khai Bình, bắt chước kiểu chim công xòe đuôi, chuôi kiếm ở ngoài còn mũi kiếm lại hướng về phía mình, dùng để đỡ gạt binh khí của địch trong lúc thập phần nguy cấp.
Viên Thừa Chí gạt rơi ám khí rồi lại dùng cây kiếm gỗ đè xuống cây cương trượng. Kiếm gỗ tuy nhẹ, nhưng khi đè lên khoảng giữa cán trượng thì hoàn toàn không cần vận sức, theo đúng yếu chỉ tứ lạng bát thiên cân trong võ học.
Ôn Phương Sơn cảm thấy một luồng đại lực đè cây cương trượng của mình xuống dưới, liền vận sức để nhấc lên nhưng lại chậm mất một chút, đầu trượng đã chạm tới mặt đất. Thừa Chí tức giận lão dùng thủ pháp âm hiểm ngầm bắn cương đinh, nên dùng chân trái đạp xuống đầu trượng. Ôn Phương Sơn dùng hết sức để kéo về mà không kéo nổi.
Khi Thừa Chí lỏng chân nhảy lùi lại, Ôn Phương Sơn mới thu hồi được cương trượng. Nền gạch màu xanh trên đại sảnh bị ấn chìm xuống thành hình nửa cái đầu rồng, nhìn thấy rất rõ ràng. Thì ra cái đầu rồng đã bị đối phương dùng chân đạp lún xuống, để lại dấu ấn trên nền gạch. Mọi người xung quanh thấy vậy, ai cũng phải kinh ngạc.
Sắc mặt Ôn Phương Sơn thay đổi hẳn, hai tay ném mạnh cây cương trượng lên mái nhà. Nghe rào một tiếng, cây trượng phá nát một khoảng mái ngói rồi bay ra ngoài.
Lão la lớn lên: “Cái thứ này đã thua một cây kiếm gỗ, còn dùng làm chi nữa?”
Thấy lão nộ khí đằng đằng, hơi thở phù phù làm chòm râu trước ngực bay ngược lên, Viên Thừa Chí thầm cười trong bụng: “Ông thua ta, chứ đâu phải cương trượng thua kiếm gỗ?”
Bụi bặm và ngói vụn rơi từ trên xuống còn chưa hết, Ôn Phương Thi đã tung người ra nói: “Tiểu bằng hữu này công phu ám khí không đến nỗi tồi. Đến đây, tiếp thử mấy mũi phi đao của ta xem!”
Lão đưa tay tháo cái bao da đeo trên lưng xuống, khoác ngang người.
Thừa Chí thấy trong bao da có cắm hai mươi bốn lưỡi phi đao óng ánh sáng ngời, lưỡi dao dài chừng một thước. Chàng nghĩ: “Bất cứ loại ám khí gì cũng phải phát ra nhân lúc người ta không phòng bị. Tụ tiễn thì giấu trong tay áo; kim tiêu, thiết liên tử thì để trong túi. Phi đao của lão lại bày trên người, đập vào mắt người ta, chắc chắn phải có chỗ kỳ lạ.”
Chàng biết bây giờ mình có khiêm tốn thế nào cũng vô dụng, bèn gật đầu nói: “Xin lão tiền bối hạ thủ lưu tình.” Rồi chàng trả cây kiếm gỗ cho thằng bé, quay người lại.
Mọi người trong nhà họ Ôn đều biết phi đao của Tứ lão gia kình lực rất mạnh, gấp rút như điện chớp, chỉ nháy mắt là lấy mạng đối phương ngay. Nếu thiếu niên này trúng đao hay đón đỡ được hết thì chẳng nói làm gì, nhưng nếu chàng phải tránh né thì cực kỳ nguy hiểm. Phi đao không có mắt, ở đây không ai chịu nổi một đao của Tứ lão gia. Lập tức ngoài bốn ông lão ra, tất cả những người còn lại đều rời khỏi đại sảnh, từ ngoài ghé mắt vào cửa lớn hay cửa sổ nhìn xem.
Ôn Phương Thi hô lớn: “Đỡ đao!”
Tay lão vừa vung lên, hàn quang lấp loáng, một lưỡi đao bay ra, phát lên những tiếng u u. Thì ra cán phi đao của lão khoét rỗng, khi bay trên không thì gió thổi xuyên qua chỗ rỗng phát ra tiếng u u như người ta thổi còi, âm thanh vừa thê thảm vừa kịch liệt. Phi đao rít lên chói tai như thế, hình như cảnh cáo cho kẻ địch biết trước, tỏ ra mình quang minh lỗi lạc. Nhưng thật ra âm thanh đó có tác dụng làm đối phương khiếp sợ hoảng hồn, tâm thần rối loạn.
Viên Thừa Chí thấy oai thế phi đao mãnh liệt, khác hẳn những loại ám khí khác lấy nhanh nhẹn hay âm độc để thủ thắng. Chàng nghĩ: “Nếu ta dùng tay đón lấy phi đao một cách bình thường, thì không thể đánh gục lòng kiêu ngạo của lão. Phải có chiêu thức gì để bắt họ tâm phục khẩu phục, thả Tiểu Huệ ra, trả lại số vàng.” Chàng bèn lấy trong bọc ra hai đồng tiền, tay trái một đồng tay phải một đồng, cùng búng vào lưỡi phi đao. Đồng tiền tay trái bay tới trước, chỉ nghe “keng” một tiếng là âm thanh của phi đao lập tức ngưng bặt. Thì ra đồng tiền này đã đánh móp phần cán đao khoét rỗng. Đồng tiền bên tay phải tiếp tục bay tới, chạm vào phi đao rồi cùng rơi xuống. Lưỡi phi đao nặng tới nửa cân, còn đồng tiền vừa nhẹ vừa nhỏ, mà hai món ám khí này chạm nhau lại cùng lúc rơi xuống. Rõ ràng thủ kình của chàng hơn hẳn Ôn Phương Thi, mà hơn không chỉ vài lần.
Sắc mặt Ôn Phương Thi thay đổi hẳn, liền phát tiếp hai lưỡi phi đao. Viên Thừa Chí cứ thế mà làm, búng ra bốn đồng tiền, làm hai lưỡi phi đao đó tắt tiếng trước rồi mới rơi xuống đất.
Ôn Phương Thi “hứ” một tiếng rồi nói: “Công phu giỏi lắm!”
Miệng lão nói mà tay không chậm trễ chút nào, sáu lưỡi phi đao liên tiếp phát ra. Lúc này lão đã biết phi đao của mình khó đánh trúng đối phương, nên cố ý phóng thêm sáu lưỡi phi đao bay ra tứ tán, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ ngươi đánh rơi được hết phi đao của ta sao?” Nhưng lại nghe sáu tiếng “keng keng” liên tiếp, sáu lưỡi phi đao đã bị mười hai đồng tiền đánh cho câm tiếng rồi rơi xuống.
Ngày trước Viên Thừa Chí ở trên đỉnh Hoa Sơn đã chơi không biết bao nhiêu ván cờ với Mộc Tang đạo nhân, học không biết bao nhiêu chiêu thức Thiên Biến Vạn Kiếp, cộng thêm nhiều năm sớm hôm khổ luyện, bây giờ mới thi triển được công phu ám khí Mãn Thiên Hoa Vũ thế gian hiếm thấy này. Nếu có Mộc Tang đạo nhân ở kế bên, không chừng lão sẽ chỉ trích thủ pháp chàng chưa đủ thành thục. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ bắt nhà họ Ôn phải kinh tâm động phách.
Ôn Phương Thi quát lớn một tiếng: “Tuyệt diệu!”
Lão vung cả hai tay, sáu lưỡi phi đao đồng thời bắn vào chỗ yếu hại của đối phương. Sáu lưỡi đao này vừa rời khỏi tay, lập tức có sáu lưỡi khác nối theo. Đó là tuyệt kỹ một đời của lão. Dù là cao thủ tránh được sáu lưỡi phi đao trước, cũng khó mà tránh được sáu lưỡi phi đao bồi theo. Mười hai lưỡi phi đao rít lên những tiếng “u u” vang rền cả phòng, từ bốn phương tám hướng bay tới Viên Thừa Chí.
Ôn Phương Đạt thấy võ công của Viên Thừa Chí tuyệt vời, nhất định phải là đệ tử của bậc tiền bối cao nhân. Đột nhiên lão thấy Tứ đệ sử dụng đao pháp lợi hại, trong lòng bất giác kinh hãi, vội la lên: “Tứ đệ! Đừng hại mạng hắn.”
Lời còn chưa dứt, đã thấy Viên Thừa Chí vung hai tay trên không loạn xạ rồi hất ra ngoài. Mười hai lưỡi phi đao vừa chụp trong tay đã bắn ra, hướng về những chiếc giá cắm binh khí.
Đao thương kiếm kích cắm trên giá vốn đã óng ánh rồi, bây giờ lại càng sáng chói hơn, mũi nhọn rơi lả tả xuống đất. Thì ra Viên Thừa Chí đã dùng mười hai lưỡi phi đao đó ném ra chặt đứt. Thế bay của phi đao vẫn chưa yếu, cắm ngập hết vào vách tường.
Đột nhiên năm ông lão cùng đứng bật dậy, bao vây quanh Viên Thừa Chí, ánh mắt vô cùng giận dữ, đồng thanh quát hỏi: “Kim Xà gian tặc phái ngươi đến phải không?”
Thủ pháp bắt đao của Viên Thừa Chí đúng là đã học từ Kim Xà bí kíp. Đột nhiên chàng thấy năm ông lão này thần sắc hung dữ, như sắp nhảy xổ vào nuốt chửng mình, không nén nổi kinh hãi. Chàng đang định trả lời thì thấy ngoài sảnh có người bước vào. An Tiểu Huệ bị hai đại hán dùng dây trói chặt giải tới; tất nhiên đã bị lôi lên từ cái hầm có ván lật.
Viên Thừa Chí vội cứu người, bèn chạy ra ngoài sảnh. Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Nghĩa cầm binh khí đuổi theo sau.
Viên Thừa Chí mặc kệ đối thủ đuổi theo, cứ phóng thẳng về phía An Tiểu Huệ. Hai đại hán cùng vung đao kiếm lên, chém xuống đầu Viên Thừa Chí. Bỗng nghe “keng keng” hai tiếng, cả đao lẫn kiếm sút tay văng ra ngoài. Hai tên này ngơ ngác, nhìn lại thấy người đánh rơi vũ khí của mình là Đại lão gia và Nhị lão gia, bèn hoảng hồn đứng yên. Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Nghĩa mắng một tiếng: “Tệ hại!”, rồi tiếp tục đuổi theo.
Thì ra Viên Thừa Chí thân pháp cực kỳ nhanh chóng, không tránh né mà cũng không chống đỡ vũ khí của địch, chỉ chui qua bên dưới đao kiếm nghe vù một tiếng. Khi chúng chém xuống thì đúng lúc hai ông lão họ Ôn chạy tới, thế là một đao một kiếm chém lên đầu Đại lão gia và Nhị lão gia.
Viên Thừa Chí vung tay giật đứt dây trói An Tiểu Huệ. Nàng mừng rỡ kêu lên: “Thừa Chí đại ca!”
Lúc này một đao một kiếm mới rơi từ trên không trung xuống. Thừa Chí dùng sợi dây vừa giật đứt quấn lấy trường kiếm, giật lại rồi bảo An Tiểu Huệ: “Đón lấy!”
Chuôi kiếm đi trước, hướng về phía An Tiểu Huệ. Nàng bèn đưa tay đón lấy.
Diễn biến vừa rồi kể thì chậm, nhưng xảy ra nhanh chóng vô cùng. Trường kiếm vừa vào tay An Tiểu Huệ, cặp đoản kích của Ôn Phương Đạt đã đâm đến trước ngực Viên Thừa Chí. Lại nghe hai tiếng “binh binh”, thì ra Ôn Phương Nghĩa bị hai đại hán đứng xớ rớ cản đường, nên giận dữ phóng cước đá văng chúng ra ngoài.
Chân của Viên Thừa Chí không động đậy, thân hình đột nhiên lùi ra hai thước, song kích của Ôn Phương Đạt đâm vào khoảng trống. Lão muốn đâm tới nữa, nhưng kình lực chưa phát xuất đã cảm thấy cặp kích tự động đi về phía trước. Thì ra sợi dây trên tay của đối phương đã quấn lấy cặp kích rồi, đang giật tới.
Ôn Phương Đạt mượn lực đối phương, song kích thừa thế mà đâm tới. Mũi kích bén nhọn, nhấp nháy dưới ánh nến. Viên Thừa Chí né qua một bên, vận sức kéo đứt sợi dây, rồi đột nhiên thả lỏng tay. Ôn Phương Đạt quá bất ngờ, thu thế không kịp, loạng choạng mất hai bước. Khi lão quay lại thì thấy Viên Thừa Chí đã kéo An Tiểu Huệ vào trong luyện võ sảnh rồi.
Ôn Phương Đạt vốn đã giận dữ đùng đùng, bây giờ lại càng đằng đằng sát khí. Lão vung tay bứt mạnh sợi dây quấn trên cây kích, rồi tung người vào trong sảnh. Mọi người vào hết trong sảnh, đứng phía sau năm lão già họ Ôn.
Ôn Phương Đạt dồn song kích qua tay trái, đưa tay phải chỉ mặt Viên Thừa Chí, giận dữ quát hỏi: “Kim Xà gian tặc đang ở đâu, nói ngay đi!”
Viên Thừa Chí nói: “Lão tiền bối có gì thì từ từ mà nói, đừng nổi nóng.”
Ôn Phương Nghĩa giận dữ hỏi: “Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi là gì của ngươi? Hắn đang ở đâu? Có phải ngươi do hắn phái tới hay không?”
Viên Thừa Chí nói: “Vãn bối chưa từng gặp mặt Kim Xà Lang Quân, làm sao được ông ấy phái đến?”
Ôn Phương Sơn hỏi: “Câu này có thật không?”
Viên Thừa Chí nói: “Nói dối tiền bối để làm gì? Vãn bối ở Cù Giang đã may mắn gặp vị Ôn huynh đệ này, rồi được y coi trọng kết thành bằng hữu. Chuyện đó đâu có liên quan gì đến Kim Xà Lang Quân?”
Năm ông lão sắc mặt đã dịu lại, nhưng trong lòng vẫn còn nghi ngờ. Ôn Phương Đạt nói: “Nếu ngươi không chịu nói ra nơi trốn tránh của Kim Xà gian tặc, thì hôm nay đừng hòng rời khỏi Tịnh Nham này.”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Dựa vào chút xíu công phu của các ngươi mà muốn giữ ta ở lại, e rằng không được đâu.” Chàng nghe họ cứ gọi Kim Xà Lang Quân là gian tặc, bất giác tức giận. Trong lòng Viên Thừa Chí, Kim Xà Lang Quân đã một nửa là sư phụ, tương tự như Mộc Tang đạo nhân. Nhưng chàng vẫn giữ thần sắc hòa nhã, cung kính đáp: “Vãn bối với Kim Xà Lang Quân không quen không biết, cũng chưa từng gặp mặt. Nhưng vãn bối biết ông ấy ở đâu. Chỉ sợ rằng ở đây không có ai dám đi gặp ông ấy.”
Năm lão họ Ôn nổi giận đùng đùng, lập tức quát lên: “Ai nói không dám? Mười mấy năm nay, chẳng có ngày nào chúng ta không tìm hắn. Tên gian tặc đó đã biến thành phế nhân từ lâu rồi, còn ai sợ nữa? Hắn đang ở đâu, nói nhanh lên, nói nhanh lên!”
Viên Thừa Chí cười nhạt rồi hỏi: “Các vị thật sự muốn gặp ông ấy phải không?”
Ôn Phương Đạt bước lên một bước, đáp ngay: “Không sai!”
Viên Thừa Chí mỉm cười hỏi: “Gặp ông ấy thì có gì tốt lành đâu?”
Ôn Phương Đạt giận dữ nói: “Thằng lỏi kia, ai giỡn với ngươi? Mau mau nói cho ta biết!”
Viên Thừa Chí nói: “Các vị còn tráng kiện như thế, chắc phải đợi nhiều năm mới gặp ông ấy được. Ông ấy đã tạ thế rồi.”
Câu này vừa nói ra, mọi người đều lộ vẻ ngạc nhiên. Bỗng nghe Ôn Thanh lo lắng kêu lên: “Má má! Má má làm sao rồi?”
Viên Thừa Chí quay đầu lại, thấy mỹ phụ trung niên kia đã ngất xỉu trong lòng Ôn Thanh, mặt mày tái mét, không còn một chút huyết sắc.
Ôn Phương Sơn cũng biến sắc, chửi mắng liên hồi: “Oan nghiệt, oan nghiệt!”
Ôn Phương Nghĩa bảo Ôn Thanh: “Thanh Thanh! Mau dìu má má ngươi vào trong đi. Đừng ở đây làm chuyện xấu hổ, khiến người ta phải chê cười.”
Ôn Thanh ngẩng nhìn, vừa khóc vừa nói: “Có gì xấu hổ đâu? Má má nghe tin phụ thân đã chết, dĩ nhiên phải đau lòng.”
Viên Thừa Chí nghe vậy giật mình, thầm nghĩ: “Mẹ của y là vợ của Kim Xà Lang Quân? Ôn Thanh là con trai của ông ấy à?”
Ôn Phương Nghĩa nghe Ôn Thanh cãi lại mình trước mặt người ngoài, nói lộ ra một chuyện mà nhà họ Ôn coi là sỉ nhục, bất giác nghiến hai hàm răng ken két, rồi bảo Ôn Phương Sơn: “Tam đệ! Đệ còn nuông chiều đứa bé này nữa thì ta không chịu nổi đâu.”
Ôn Phương Sơn liền mắng Ôn Thanh: “Ai là phụ thân của ngươi? Con nít không được ăn nói bừa bãi. Còn không chịu vào cho lẹ?”
Ôn Thanh dìu mẹ mình từ từ đi vào trong nhà. Mỹ phụ đó dần dần hồi tỉnh, khẽ nói: “Con mời Viên tướng công tối mai đến gặp, má má có lời cần hỏi.”
Ôn Thanh gật đầu, quay lại nói với Viên Thừa Chí: “Còn một ngày nữa, tối mai huynh đến đây mà lấy vàng. Lúc nào huynh cũng giúp đỡ người ngoài. Huynh… huynh… Những lời thề thốt của huynh toàn là lừa gạt người ta.”
Y giận dữ nhìn An Tiểu Huệ một cái, rồi mới dìu mẹ vào trong.
Viên Thừa Chí bảo An Tiểu Huệ: “Chúng ta đi thôi.”
Hai người đi ra phía ngoài, nhưng Ôn Phương Ngộ đã đứng chặn trước cửa, dang hai tay ra cản trở, giận dữ nói: “Khoan đi đã. Ta có chuyện muốn hỏi ngươi.”
Viên Thừa Chí chắp tay lại nói: “Bây giờ đã khuya lắm rồi. Ngày mai vãn bối lại tiếp tục đến đây thăm hỏi.”
Ôn Phương Ngộ hỏi: “Kim Xà gian tặc chết ở đâu? Lúc hắn chết có ai nhìn thấy hay không?”
Viên Thừa Chí nhớ lại cái đêm mà Trương Xuân Cửu đâm chết tên sư đệ đầu trọc, thảm trạng đó tái hiện rõ ràng trong đầu. Chàng nghĩ: “Kỳ Tiên Phái các ngươi vừa gian trá vừa hung ác. Đêm đó trên núi Hoa Sơn, chính ta đã suýt chết dưới tay các ngươi, hà tất phải nói thật cho các ngươi biết. Huống chi các ngươi đang dòm ngó di vật của Kim Xà Lang Quân, ta càng không thể nói.” Chàng bèn đáp: “Vãn bối cũng chỉ nghe bạn bè kể lại, Kim Xà Lang Quân chết trên một hoang đảo, ngoài khơi tỉnh Quảng Đông.”
Nói đến đây, tính trẻ con thích đùa lại nổi lên, chàng tiếp: “Quý phái có một người ốm nhom tên là Trương Xuân Cửu, lại có một người đầu trọc, có phải vậy không? Tung tích của Kim Xà Lang Quân, hai sư huynh đệ đó biết rõ ràng nhất. Chỉ cần gọi họ đến hỏi thì bất cứ chuyện gì cũng rõ ràng, đâu cần phải hỏi vãn bối?”
Ôn thị ngũ lão nhìn nhau, đều ra vẻ kinh ngạc. Ôn Phương Nghĩa nói: “Trương Xuân Cửu, Vương Thất Động, hai thằng đó không biết chết tiệt ở đâu rồi. Con mẹ nó! Lúc chúng trở về, không lột da không được.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Các ngươi cứ đến mấy ngàn hoang đảo ngoài khơi Quảng Đông mà đào bới tìm kiếm. Nếu không thì đích thân đi gặp Trương Xuân Cửu và tên trọc mà hỏi cũng được.” Chàng chắp tay nói: “Vãn bối xin cáo lui.”
Ôn Phương Ngộ quát lên: “Bận việc gì mà phải lui?”
Lão nhất định muốn hỏi rõ ràng, bèn vươn tay ra cản lại. Viên Thừa Chí đưa chưởng ra, nhẹ nhàng đẩy vào tay lão. Cổ tay Ôn Phương Ngộ liền xoay ngược lại, định thi triển cầm nã thủ để bắt lấy cổ tay Viên Thừa Chí. Nào ngờ Viên Thừa Chí không muốn đánh nhau nữa, đây chỉ là hư chiêu. Đối phương vừa ra tay, bên trái liền lộ chỗ sơ hở. Chàng kéo tay An Tiểu Huệ, “vù” một tiếng theo khoảng trống đó chạy ra ngoài, hoàn toàn không chạm đến áo quần Ôn Phương Ngộ.
Ôn Phương Ngộ cả giận, thò tay phải vào hông lấy ra một cây nhuyễn tiên bằng da trâu, vẫy lên đánh vào sau lưng Viên Thừa Chí. Nhuyễn tiên dùng trong võ lâm cũng có loại đúc bằng thép ròng, nhưng thường được bện bằng chỉ kim loại, hoặc tơ vàng. Ôn Phương Ngộ ỷ mình nội công thâm hậu, nên lão chỉ dùng một cây nhuyễn tiên bằng da bình thường mà thôi. Cây roi da này vừa dai vừa mềm mại, vẫy ra thuận tiện như dùng cánh tay điều khiển ngón tay vậy. Có kình lực vận vào, cây roi da đó còn lợi hại hơn nhuyễn tiên bằng kim khí nhiều.
Viên Thừa Chí nghe sau lưng có tiếng gió, liền kéo An Tiểu Huệ vọt nhanh tới trước, nên phát roi đó không trúng đích. Chàng nghe “véo” một tiếng xé tai, biết đó là một loại binh khí mềm mại, không quay lại nhìn mà tung người nhảy ngay lên đầu tường.
Ôn Phương Ngộ đã luyện cây nhuyễn tiên này mấy chục năm công phu, lại bị đối phương tránh né dễ dàng như vậy, quyết chẳng chịu thôi. Tay phải lão lại vẫy ra, cây nhuyễn tiên vòng thành một đóa hoa cuộn tới chân An Tiểu Huệ. Phen này lão theo bí quyết “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, biết thiếu nữ này công lực bình thường, không tránh né chiêu này được. Nếu kéo được nàng trở lại thì cũng như cản được Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí nghe thấy tiếng gió, vung ngược tay trái ra sau chụp trúng đầu roi, đồng thời vận Hỗn Nguyên Công. Thế nhảy của chàng không hề chậm lại, tay trái dùng sức xách nguyên cả người Ôn Phương Ngộ lên. Mọi người nhà họ Ôn thấy vậy, không ai là không kinh hãi.
Ôn Phương Thi muốn cứu Ngũ đệ, lập tức vung tay phải lên. Hai lưỡi phi đao vừa rít lên vừa bay tới, bắn vào lưng Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí buông đầu roi, kéo An Tiểu Huệ nhảy ra ngoài tường. Chàng nghe tiếng phi đao, bèn quờ tay phải ra sau vỗ nhẹ trúng vào sống hai lưỡi phi đao, hất chúng quay ngược trở về.
Chân của Ôn Phương Ngộ vừa chạm xuống đất, hai lưỡi phi đao đã bay đến đầu. Lão không kịp đứng dậy, liền vung cây nhuyễn tiên định gạt phi đao ra, nào ngờ nhuyễn tiên đã đứt thành từng khúc. Thì ra vừa rồi Viên Thừa Chí đã vận Hỗn Nguyên Công thượng thừa, nên mới lơ lửng giữa trời mà xách bổng được lão Ôn Phương Ngộ nặng một trăm mấy chục cân lên. Kình lực Hỗn Nguyên Công truyền vào cái roi da này đã bứt nó đứt thành từng đoạn.
Ôn Phương Ngộ giật mình kinh hãi, vội vã dùng thân pháp Lãn Lư Đả Cổn lăn ra ngoài, nhưng cũng bị phi đao cắt rách một mảnh áo. Khi đứng dậy, lão toát mồ hôi lạnh đầy người, hồi lâu không nói được lời nào.
Ôn Phương Đạt không ngớt lắc đầu quầy quậy. Cả năm ông lão đều cảm thấy nội công này hiếm có trên đời. Ôn Phương Nghĩa nói: “Thằng lỏi này bất quá hơn hai mươi tuổi. Cho dù nó luyện võ từ trong bụng mẹ, cũng chỉ có hai mươi năm công lực. Làm sao mà giỏi như thế?”
Ôn Phương Sơn nói: “Kim Xà gian tặc lợi hại như vậy mà cũng thua dưới tay chúng ta rồi. Tối mai thằng lỏi đó đến đây, chúng ta phải đối phó nghiêm chỉnh hơn mới được.”
*
* *
Viên Thừa Chí cùng An Tiểu Huệ quay về chỗ trọ để nghỉ ngơi. An Tiểu Huệ không ngớt khen ngợi Thừa Chí đại ca, tỏ vẻ thán phục vô cùng. Nàng nói: “Thôi sư ca lúc nào cũng khoe khoang sư phụ võ nghệ cao cường. Nhưng muội thấy sư phụ của huynh ấy nhất định không sánh được với đại ca.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Thôi sư ca tên gì vậy? Còn sư phụ của huynh ấy là vị nào?”
An Tiểu Huệ đáp: “Huynh ấy tên Thôi Hy Mẫn, ngoại hiệu là Phục Hổ Kim Cang gì gì đó, còn sư phụ là đồ đệ của Mục lão tổ sư phái Hoa Sơn, ngoại hiệu là Đồng Bút Thiết Toán Bàn. Hễ muội nghe thấy cái ngoại hiệu này là tức cười nhịn không nổi. Trước nay muội chưa hỏi Thôi sư ca sư phụ của huynh ấy tên gì.”
Viên Thừa Chí gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra là đồ đệ của Hoàng Chân đại sư ca. Vị Thôi huynh đó phải gọi mình là sư thúc.” Nhưng chàng không nói cho Tiểu Huệ biết. Hai người tự tìm chỗ mà nghỉ.
Đêm hôm sau, Viên Thừa Chí bảo An Tiểu Huệ ở nhà chờ, không cần phải đi theo. An Tiểu Huệ biết công phu của mình nông cạn, đi theo chỉ gây cản trở, đã không giúp được gì mà còn bắt chàng phải phân tâm chiếu cố. Tuy nàng không muốn, nhưng vẫn phải đồng ý.
Đợi đến khoảng canh hai, Viên Thừa Chí lại đến nhà họ Ôn. Đến nơi thì thấy xung quanh tối đen như mực, chẳng có chút đèn lửa nào. Chàng đang định nhảy vào trong tường, thì đột nhiên nghe thấy xa xa vọng đến ba tiếng sáo rất nhẹ. Tiếng sáo vừa thổi đã dừng, lát sau mới thổi ba tiếng nữa.
Viên Thừa Chí hiểu đó là tiếng sáo của Ôn Thanh gọi. Chàng nghĩ: “Ôn thị ngũ lão tuy hung ác, nhưng Ôn Thanh đã có tình kết nghĩa với mình. Tốt nhất là khuyên Ôn Thanh trả lại số vàng đó, không cần động thủ.” Chàng bèn theo hướng tiếng sáo mà chạy lên ngọn đồi trồng hoa hồng.
Tới ngọn đồi đó, từ xa chàng đã nhìn thấy trong đình có hai người ngồi. Dưới ánh trăng nhìn rõ tóc xõa như mây, cả hai đều là nữ nhân. Viên Thừa Chí lập tức dừng chân, nghĩ bụng: “Thanh đệ không có ở đây.”
Một nữ nhân bỗng đưa sáo lên miệng, âm điệu chính là bài ca thê thiết mà hôm trước Ôn Thanh từng thổi. Chàng không nhịn được, bèn bước tới mấy bước để xem đó là ai.
Cô gái cầm sáo bước ra ngoài đình để đón chàng, gọi một tiếng rất dịu dàng: “Đại ca!”
Viên Thừa Chí giật mình nhìn lại. Ánh trăng trong vắt soi lên một khuôn mặt đẹp đẽ, đúng là Ôn Thanh. Chàng lập tức ngẩn ra, hồi lâu mới ấp úng: “Đệ… đệ… đệ…”
Ôn Thanh mỉm cười rồi nói: “Thật ra tiểu muội là nữ nhân, nhưng cứ mãi giấu giếm đại ca. Xin đại ca đừng trách.”
Nói xong, nàng khom lưng vái chào. Viên Thừa Chí chắp tay trả lễ, bao nhiêu thắc mắc trước kia đã thông suốt hết. Chàng nghĩ: “Mình cứ trách người này phấn son quá nặng, tính khí hẹp hòi, hoàn toàn không có khí phách đại trượng phu. Thì ra là một nữ nhân. Ái chà! Mình chẳng biết gì, đi kết bái huynh đệ với một vị cô nương, thật là hồ đồ. Chuyện này phải giải quyết thế nào đây?”
Ôn Thanh nói: “Tiểu muội tên là Ôn Thanh Thanh. Lần trước khi giới thiệu với huynh, đã cắt bớt một chữ Thanh.”
Nói xong nàng mỉm cười một cái, lại tiếp: “Thật ra tiểu muội phải gọi là Hạ Thanh Thanh mới đúng.”
Nàng mặc y phục nữ nhân, mắt phượng mày thanh, môi má ửng hồng, đúng là giai nhân diễm lệ tuyệt vời. Viên Thừa Chí âm thầm tự trách: “Mình quá hồ đồ! Mỹ nhân như thế thì ai cũng có thể nhận ra. Chỉ có mình quá đỗi thật thà, để cô ấy lừa gạt suốt bấy nhiêu ngày.”
Thật ra từ lúc chàng khôn lớn, chỉ có hồi niên thiếu là ở với An đại nương và An Tiểu Huệ mấy ngày. Sau đó là mười mấy năm luyện võ trên tuyệt đỉnh Hoa Sơn, không hề nhìn thấy nữ nhân. Trong quân của Sấm Vương chàng có kết giao với vợ của Lý Nhai là Hồng Nương Tử, nhưng vị nữ hiệp này hào phóng sảng khoái, chẳng khác bậc đại trượng phu. Vì thế Viên Thừa Chí thật sự mơ hồ về chuyện nam nữ hữu biệt, nên chàng không nhận ra Ôn Thanh Thanh là nữ cải nam trang.
Ôn Thanh Thanh nói: “Má má của tiểu muội ở đây. Má má có mấy câu muốn hỏi đại ca.”
Viên Thừa Chí đi vào trong đình, chắp tay thi lễ rồi nói: “Bá mẫu! Tiểu điệt Viên Thừa Chí xin bái kiến.”
Cặp mắt bà sưng đỏ lên, sắc mặt tiều tụy, rõ ràng đang nặng mối thương tâm. Viên Thừa Chí không nói gì nữa, ngồi xuống suy nghĩ: “Nghe Thanh Thanh nói, mẹ nàng bị người ta cưỡng hiếp rồi mới sinh ra nàng. Người đó nhất định là Kim Xà Lang Quân rồi. Ôn thị ngũ lão ghét cay ghét đắng Kim Xà Lang Quân, Thanh Thanh vừa gọi một tiếng “phụ thân” đã bị Nhị gia gia quát mắng thậm tệ. Nhưng mẹ của cô ấy vừa nghe tin Kim Xà Lang Quân tạ thế là lập tức ngất xỉu, bây giờ vẫn còn đau lòng như thế. Bà đối với Kim Xà Lang Quân hiển nhiên tình sâu nghĩa nặng. Bên trong chắc chắn có sự tình gì đặc biệt.”
Mẹ của Thanh Thanh ngơ ngác một hồi mới khẽ hỏi: “Ông ấy… Ông ấy chết thật rồi ư? Viên tướng công có đích thân nhìn thấy hay không?”
Viên Thừa Chí gật đầu. Bà lại hỏi: “Viên tướng công đối với Thanh Thanh của ta rất tốt, chuyện này ta biết. Nhất định ta không như gia gia và mấy người thúc bá của ta, coi Viên tướng công là kẻ địch. Xin… xin Viên tướng công kể lại tình hình lúc ông ấy chết. Ai đã hại chết ông ấy? Ông ấy… ông ấy có đau khổ lắm không?”
Nói đến đây, giọng bà đã run run, nước mắt lưng tròng.
Ý niệm của Viên Thừa Chí về Kim Xà Lang Quân thật sự không rõ ràng lắm. Chàng đã nghe sư phụ và Mộc Tang đạo nhân nói tính khí người này kỳ lạ, rất nhiều tâm kế, ở giữa chính tà. Ông ấy bố trí độc tiễn bắn lén trong hộp sắt, tẩm chất kịch độc lên bí kíp, dụng tâm vô cùng hiểm ác, thật sự không phải hành động của bậc chính nhân quân tử. Nhưng từ khi chàng nghiên cứu võ công trong Kim Xà Bí Kíp, đối với vị kỳ tài tuyệt thế này không khỏi âm thầm thán phục, từ tận đáy lòng bất giác đã cảm thấy ông ấy gần như sư phụ của mình. Đêm qua nghe thấy Ôn Thị Ngũ Lão giận dữ quát mắng Kim Xà Lang Quân là gian tặc, chàng tự dưng nổi giận, sau này nghĩ lại cũng tự cảm thấy kỳ lạ.
Bây giờ nghe mẹ của Thanh Thanh hỏi đến, chàng bèn nói: “Kim Xà Lang Quân thì vãn bối chưa từng gặp mặt, nhưng nói đến cùng thì vị tiền bối đó với vãn bối có danh phận sư đồ. Không ít võ công của vãn bối là học từ tiền bối. Về tình hình tiền bối sau khi chết thì xin thứ lỗi, vãn bối không tiện nói với bá mẫu, e rằng có nhiều người xấu muốn đi khai quật hài cốt của tiền bối.”
Mẹ của Thanh Thanh ngồi lảo đảo, rồi chợt ngã ra sau. Thanh Thanh nhanh tay đỡ lấy, kêu lên: “Má má! Đừng thương tâm quá.”
Lát sau mẹ của Thanh Thanh tỉnh lại, vừa khóc vừa nói: “Ta chờ đợi ông ấy mười tám năm đầy khổ sở, chỉ mong ông ấy đến đây đón mẹ con ta rời khỏi nơi này. Nào ngờ ông ấy đã sớm một mình rời khỏi cõi trần. Tội nghiệp Thanh Thanh, chưa gặp cha được lần nào.”
Viên Thừa Chí nói: “Bá mẫu không cần phải quá đau lòng. Hạ tiền bối bây giờ đã yên nghỉ rồi. Hài cốt của tiền bối, tiểu điệt đã chôn cất đàng hoàng.”
Chàng ngẫm nghĩ, lại nói: “Lúc từ trần Hạ lão tiền bối ngồi ngay ngắn, trước khi chết đã sắp xếp mọi việc đàng hoàng, hiển nhiên không phải bị người ta hại chết một cách bất ngờ.”
Mẹ của Thanh Thanh nói: “Thì ra đã nhờ Viên tướng công an táng. Đại ơn đại đức này, thật không biết phải báo đáp thế nào mới được.”
Nói xong bà đứng lên thi lễ, rồi tiếp: “Thanh Thanh! Mau mau qua đây, khấu đầu tạ ơn Viên đại ca đi.”
Thanh Thanh bái lạy sát đất, Viên Thừa Chí vội quỳ xuống trả lễ. Mẹ của Thanh Thanh hỏi: “Không biết ông ấy có di thư gì để lại cho mẹ con ta hay không?”
Viên Thừa Chí nhớ lại tấm bản đồ có ghi chữ, kẹp trong tấm bìa bí kíp. Trên đó viết: “Người được bảo vật này, xin đến Cù Nham, Tịnh Châu ở tỉnh Chiết Giang, tìm Ôn Nghi để tặng mười vạn lượng vàng.” Khi chàng nhìn thấy tấm bản đồ kho báu này, không hề khởi niệm tham lam nên tiện tay nhét vào trong hành lý, từ đó về sau không nhớ tới nữa. Chàng lại nghĩ đến Kim Xà Lang Quân võ công cái thế, thông minh tuyệt đỉnh, thế mà bỏ mạng ở núi Hoa Sơn, thậm chí hài cốt cũng không có ai thu liệm, chắc chắn đã bị món trọng bảo này làm hại. Lòng tham của thiên hạ thật khó tưởng tượng, không có món bảo vật nào không gây đại họa cho người, chuyện này sư phụ thường xuyên nhắc đến. Vì thế chàng có phần chán ghét tấm bản đồ này.
Bây giờ mẹ Thanh Thanh hỏi đến chàng mới nhớ ra, bèn hỏi: “Tiểu điệt vô lễ, cả gan xin hỏi, có phải khuê tự của bá mẫu là một chữ Nghi hay không?”
Mẹ của Thanh Thanh giật mình đáp: “Không sai! Tại sao Viên tướng công biết?”
Bà lập tức nói tiếp: “Nhất định là ông ấy… ông ấy… viết lên di thư rồi. Viên tướng công có… có mang theo đây không?”
Thần sắc của bà đầy vẻ mong mỏi và lo lắng.
Viên Thừa Chí đang định trả lời, đột nhiên ấn chân phải một cái, bay nghiêng ra khỏi lan can đình. Mẹ con Ôn Nghi chưa kịp kinh hãi đã nghe tiếng “Úi chà” của ai đó.
Viên Thừa Chí thò tay vào một bụi hồng, túm lấy một đại hán lôi ra, rồi xách vào trong đình. Người đó đã bị điểm trúng huyệt đạo, tay chân bủn rủn buông thõng xuống, không phản kháng gì được.
Thanh Thanh la lên: “Thất bá bá!”
Ôn Nghi thở ra một hơi rồi nói: “Viên tướng công! Xin tướng công thả huynh ấy ra đi. Trong nhà họ Ôn này, không có ai xem mẹ con chúng tôi là thân thích cả.”
Viên Thừa Chí vỗ lên vai người đó, giải khai huyệt đạo. Đây chính là Ôn Nam Dương, đêm qua đã giao đấu với Viên Thừa Chí. Hắn là con trai của Ôn Phương Nghĩa, xếp hàng thứ bảy trong đám anh em.
Ôn Thanh Thanh giận dữ nói: “Thất bá bá! Chúng ta nói chuyện ở đây, tại sao bá bá lại đến nghe lén? Không ra vẻ trưởng bối gì cả.”
Ôn Nam Dương nghe vậy nổi giận, chỉ muốn phát tác ngay. Nhưng vừa rồi hắn bị Viên Thừa Chí điểm huyệt bắt đi, không phản kháng gì được, mà đêm qua cũng đã bị một trận đòn dưới tay chàng. Vì thế hắn chỉ trừng to cặp mắt giận dữ nhìn ba người, rồi quay đầu bỏ đi ngay. Ra khỏi đình mấy bước, hắn hằn học nói với lại: “Đồ tiện nhân không biết xấu hổ. Bản thân mình vụng trộm với đàn ông vẫn chưa thấy đủ, còn dạy con gái lén lút với người khác.”
Ôn Nghi tức nghẹn, hai hàng lệ trào ra. Thanh Thanh không sao tiêu hóa nổi câu thóa mạ này, bèn đuổi theo hét lên: “Thất bá bá! Miệng lưỡi bá bá thật là dơ dáy.”
Ôn Nam Dương chửi tiếp: “Con bé tạp chủng này muốn làm phản hay sao? Các vị gia gia bảo ta đến đây. Ngươi dám làm gì nào?”
Ôn Thanh Thanh nói: “Bá bá muốn dạy dỗ con cháu thì cứ ăn nói đàng hoàng, sao phải đến đây nghe lén chúng ta nói chuyện?”
Ôn Nam Dương cười khẩy rồi nói: “Không biết ở đâu mới chui ra một thằng đàn ông nữa, đã xưng chung là “chúng ta” rồi. Mặt mũi mười tám đời tổ tông nhà họ Ôn này đã bị các ngươi bôi tro trát trấu.”
Thanh Thanh tức đến đỏ mặt, quay lại hỏi: “Má má! Má má có nghe ông ấy nói gì hay không?”
Ôn Nghi vẫn ôn tồn nói: “Mời Thất ca vào đây, muội có chuyện cần nói.”
Ôn Nam Dương phân vân một chút rồi sải bước đi vào trong đình, nhưng đứng khá xa trước mặt Viên Thừa Chí, đề phòng chàng đột nhiên xuất thủ.
Ôn Nghi nói: “Thân thế mẹ con muội thật là bất hạnh, may mà được năm vị gia gia và các vị huynh đệ chiếu cố, cho ở lại trong nhà họ Ôn mười mấy năm trời. Việc của người họ Hạ đó, trước nay muội chưa từng kể với Thanh Thanh. Bây giờ ông ấy không còn ở trên nhân thế nữa, không cần phải tiếp tục giấu giếm làm chi. Đầu đuôi chuyện này Thất ca biết rõ nhất, nhờ Thất ca kể lại cho Viên tướng công và Thanh Thanh biết.”
Ôn Nam Dương cười khẩy rồi nói: “Sao ta phải kể? Việc của cô thì cô kể là phải rồi. Hay là cô xấu hổ không dám kể?”
Ôn Nghi nhẹ nhàng thở ra một hơi, vẫn nói dịu dàng: “Được thôi! Muội nghĩ ông ấy đã từng cứu mạng Thất ca, tưởng Thất ca cảm kích đôi chút. Nào ngờ, người nhà họ Ôn toàn là những kẻ vong… vong… ơn.”
Ôn Nam Dương giận dữ nói: “Hắn đã từng cứu mạng ta, chuyện đó không sai. Nhưng vì lý do gì hắn cứu mạng ta? Được! Ta sẽ kể lại rõ ràng, kẻo cô tự kể thì sẽ thêm mắm dặm muối những lời dối trá nào không biết.”
Thanh Thanh giận dữ nói: “Mẹ ta mà thèm nói dối ư?”
Ôn Nghi kéo nàng ra một chút, bảo: “Để Thất bá bá nói đi.”
Ôn Nam Dương ngồi xuống, bắt đầu nói: “Họ Viên kia! Thanh Thanh! Tại sao ta quen biết tên Kim Xà gian tặc đó, bây giờ ta sẽ kể lại rõ ràng, để hai ngươi biết dụng tâm của tên gian tặc đó nham hiểm thế nào.”
Thanh Thanh lại xen vào: “Nếu bá bá lại nói những lời xấu xa, thì con không thèm nghe đâu.” Nói xong nàng đưa hai tay bịt tai mình lại.
Ôn Nghi bảo: “Thanh Thanh, con hãy nghe đi. Người cha quá cố của con, tuy không thể gọi là người tốt, nhưng so với mọi người trong nhà họ Ôn thì tốt hơn không chỉ trăm lần.”
Ôn Nam Dương cười nhạt hỏi: “Cô quên mất mình họ Ôn rồi ư?”
Ôn Nghi ngẩng đầu nhìn về chân trời xa tít, mơ màng nói: “Muội… muội… muội không phải người nhà họ Ôn nữa”.
Ôn Nam Dương nói: “Chuyện này đã hai mươi năm rồi, lúc đó ta mới hai mươi sáu tuổi. Gia gia bảo ta đi Dương Châu để giúp Lục thúc một tay.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nhà họ Ôn ở Tịnh Nham bây giờ còn Ngũ Tổ, thì ra trước kia có sáu anh em.”
Ôn Nam Dương tiếp: “Khi đến Dương Châu ta không gặp Lục thúc. Một đêm ta đi làm ăn, không cẩn thận nên thất thủ.”
Ôn Nghi lạnh nhạt hỏi: “Không biết làm ăn chuyện gì đây?”
Ôn Nam Dương giận dữ nói: “Nam tử hán đại trượng phu, dám làm chẳng lẽ không dám nói? Ta nhìn thấy một cô nương rất đẹp, nên ban đêm nhảy vào trang viện định bẻ hoa. Cô ả không chịu, nên ta dùng dao giết chết. Nào ngờ trước khi chết ả còn la lên một tiếng, người ta nghe thấy. Trong đám võ sư hộ viện ở đó có mấy tên cao thủ cùng lúc ùa tới. Hảo hán không địch nổi số đông, nên ta bị chúng bắt được.”
Viên Thừa Chí nghe hắn kể lại những chuyện tồi bại của mình mà không ra vẻ xấu hổ hối hận chút nào, thầm nghĩ: “Người này thật là vô sỉ đến cùng cực.”
Ôn Nam Dương lại nói: “Họ đánh ta một trận, rồi nhốt vào trong lao của nha môn. Ta chẳng sợ hãi gì, vì vụ án ta gây ra không phải là chuyện nhỏ, không bao lâu sẽ lan truyền rộng rãi. Ta biết Lục thúc đang ở Dương Châu. Võ công ông ấy cực cao, khi biết tin tất nhiên sẽ cứu ta vượt ngục. Nào ngờ chờ tới mười mấy ngày mà Lục thúc vẫn không thấy đến. Công văn thượng cấp đã đưa xuống, phán xử ta bị chém đầu. Khi ngục tốt nói cho biết, lúc đó ta mới hoảng sợ.”
Ôn Thanh Thanh “hứ” một tiếng rồi nói: “Ta cứ tưởng Thất bá không sợ chết.”
Ôn Nam Dương mặc kệ nàng, kể tiếp:
“Ba ngày sau, cai ngục mang tới cho ta một chén rượu to, một mâm thịt lớn. Ta biết ngày mai mình bị hành hình, nghĩ bụng: ai cũng có ngày phải chết, nhưng lão gia tuổi còn trẻ như vậy, chưa hưởng phúc đầy đủ mà đã tới số thì thật có phần đáng tiếc. Nghĩ thì cứ nghĩ, ta chén sạch hết rượu thịt của cai ngục đem vào, rồi lăn ra ngủ một giấc say sưa.
Ngủ đến nửa đêm, đột nhiên ta thấy có người nhẹ nhàng vỗ vào vai. Ta tung người ngồi dậy, nghe y kề tai nói nhỏ: “Đừng lên tiếng, ta cứu ngươi ra ngoài”.
Sau đó nghe “soạt soạt” mấy tiếng, gông xiềng trên tay chân ta đều bị binh khí cực kỳ sắc bén chém đứt. Y kéo tay ta, nhảy ra khỏi ngục. Khinh công của y cực giỏi, thủ kình lại mạnh, cứ kéo tay ta chạy trên đường, ta chẳng tốn sức chút nào.
Chạy đến một cái miếu hoang ở ngoại thành, y thắp sáng ngọn nến trên bàn bày hương án. Lúc đó ta mới nhìn rõ. Y còn nhỏ hơn ta mấy tuổi, mặt mày bảnh bao. Hừ…”
Nói đến đây, Ôn Nam Dương đưa mắt liếc xéo Ôn Nghi và Thanh Thanh, rồi giận dữ kể tiếp: “Sau đó, ta thi lễ rồi cảm ơn y. Người này kiêu ngạo vô cùng, không trả lễ mà chỉ nói: “Ta họ Hạ. Ngươi họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái phải không?” Ta gật đầu, nói phải. Lúc này ta mới thấy binh khí mà y đã dùng để chặt đứt xiềng xích, đang đeo trên thắt lưng y. Binh khí này giống như một thanh kiếm cong queo, nhưng mũi kiếm lại chia thành hai nhánh, trông rất cổ quái.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Chắc là Kim Xà Kiếm rồi.” Chàng không lên tiếng, cứ im lặng mà nghe.
Ôn Nam Dương nói:
“Ta hỏi danh tính của y. Y chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi không cần biết. Dù sao thì ngươi cũng không cảm kích ta đâu.”
Ta ngạc nhiên nói: “Các hạ vừa cứu mạng tại hạ, dĩ nhiên suốt đời tại hạ phải đem lòng cảm kích.”
Y nói: “Ta chỉ vì Lục thúc của ngươi là Ôn Phương Ngọc mà cứu ngươi ra. Theo ta!”
Ta theo y đến một con kênh đào, lên một chiếc thuyền. Y bảo thuyền phu cho thuyền chạy về hướng Nam. Khi thuyền rời khỏi Dương Châu mười mấy dặm đường, ta mới yên tâm trở lại, biết rằng quan phủ không thể truy đuổi được nữa. Ta hỏi mấy câu, nhưng y chỉ cười nhạt mà không trả lời. Đột nhiên, y lấy trong bọc áo ra một cặp Nghê nga mi thúy. Đó là binh khí của Lục thúc, trước giờ không để rời thân, sao lại nằm trong tay người này?
Ta đang ngạc nhiên thì y nói: “Lục thúc của ngươi là bạn cũ của ta. Ha ha…” Y cười nhạt mấy tiếng, trên mặt bỗng lộ ra sát khí. Ta bất giác rùng mình mấy cái.
Y bảo: “Ngươi mang cái rương này về nhà đi.” Nói xong, y trỏ tay vào trong khoang thuyền. Ta thấy cái rương đó rất lớn, đóng đinh chắc chắn, bên ngoài còn dùng dây thừng to buộc lại.
Y nói: “Ngươi mau mau trở về nhà, dọc đường không được ghé lại nơi nào. Cái rương này nhất định phải giao cho Đại bá bá của ngươi, để chính tay ông ấy mở ra.” Y nói gì ta cũng vâng dạ hết.
Y lại nói: “Trong vòng một tháng, ta sẽ ghé thăm nhà ngươi. Về dặn trưởng bối chuẩn bị đón tiếp ta cho tử tế.” Nghe y nói chuyện chẳng có đầu đuôi gì cả, ta không hiểu gì, nhưng chỉ còn cách vâng dạ. Dặn dò xong, đột nhiên y khom người nhấc bổng cái neo thuyền lên, rồi soạt soạt mấy tiếng, tuốt kiếm chặt cái neo đó thành bốn mảnh.”
Ôn Thanh Thanh nghe đến đây, không nén nổi kêu lên một tiếng: “Tuyệt diệu!”
Ôn Nam Dương bĩu môi, rồi nhổ phẹt xuống đất một bãi nước bọt. Thanh Thanh vốn thích sạch sẽ, thấy Ôn Nam Dương phỉ nhổ tòa tiểu đình ngắm hoa hồng do chính tay mình bài trí, trong lòng khó chịu vô cùng.
Viên Thừa Chí hiểu ý nàng, đưa chân xóa bãi nước bọt đó đi. Thanh Thanh nhìn chàng một cái, trong ánh mắt lộ vẻ cảm kích.
Ôn Nam Dương nói tiếp:
“Y biểu diễn võ công trước mặt ta, không biết có dụng ý gì. Chỉ thấy y hất cái neo đã bị chặt đứt vào trong khoang thuyền rồi nói: “Nếu ngươi không nghe lời ta dặn, lén mở rương ra xem, tự ý lấy đi báu vật bên trong; hoặc dọc đường tiếp tục gây án, thì cứ lấy cái neo này làm gương.” Rồi y lấy trong bọc ra một thỏi bạc, vất xuống sàn thuyền mà nói: “Đây là lộ phí của ngươi.”
Sau đó y nhổ hai cây sào cắm ở đầu thuyền, chống vào lòng sông một cái, thân hình đã bắn ra giữa không trung. Y buông sào ra, nhào lộn mấy vòng, thân pháp cực kỳ xảo diệu, nháy mắt đã đứng trên bờ. Bóng y khuất dần trong màn đêm, chỉ còn nghe tiếng cười xa xa vẳng lại.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Vị Kim Xà Lang Quân này thật là hào khí.” Chàng chỉ nghĩ thôi, còn Thanh Thanh lại công nhiên khen ngợi: “Đáng mặt anh hùng hào kiệt, oai phong khí khái vô cùng.”
Ôn Nam Dương tức giận nói:
“Anh hùng ư? Con mẹ cái anh hùng đó. Lúc đó ta chỉ coi y là ân nhân cứu mạng, nhưng khi nói chuyện thì ánh mắt y lại để lộ sát khí, ra vẻ chán ghét ta. Ta cứ tưởng tính khí của y kỳ lạ, nên không để ý lắm. Qua một đoạn sông khác, ta thuê một chiếc thuyền khác để về nhà. Suốt dọc đường, bọn phu khuân vác đều nói là chiếc rương này rất nặng.
Ta nghĩ bụng: “Lần này Lục thúc phát tài rồi, trong rương chất đầy kim ngân châu báu. Mình phải tốn biết bao hơi sức mới vận chuyển được về nhà, chắc chắn các vị bá bá thúc thúc sẽ chia cho mình nhiều hơn một chút.” Càng nghĩ ta càng khoái chí.
Khi trở về nhà, đúng là gia gia và các vị bá bá thúc thúc đều khen ta tài giỏi, mới lần đầu bước ra giang hồ đã hành động không tồi.”
Thanh Thanh xen vào: “Đúng là không tồi! Hạ sát một cô nương, mang về một cái rương.”
Ôn Nghi bảo: “Thanh Thanh đừng nhiều chuyện, nghe Thất bá bá nói tiếp đã.”
Ôn Nam Dương nói:
“Đêm đó đại sảnh thắp đầy đèn nến, hai tên gia đinh khiêng cái rương đó vào. Gia gia cùng các vị thúc bá ngồi giữa. Ta chính tay cắt đứt dây thừng trước, rồi nhổ từng cây đinh sắt đóng rương ra. Ta còn nhớ rõ ràng, lúc đó Đại bá bá mỉm cười nói: “Không biết lão Lục nhắm trúng cô nương nhà nào đây, quên mất cả đường về rồi. Cái rương quý thế này mà bảo Nam Dương mang về trước. Tới đây, chúng ta xem thử có những món bảo bối gì.”
Ta mở nắp rương ra, thấy bên trong chất rất đầy, trên phủ một lớp giấy. Trên giấy có một lá thư, ngoài phong bì viết: “Gửi Ôn thị huynh đệ.” Ta thấy mấy chữ đó không phải là bút tích của Lục thúc, bèn trao lá thư cho Đại bá bá.
Ông ấy không mở thư ra ngay, lại hỏi: “Phía dưới là cái gì vậy?” Ta mở lớp giấy đó ra, bên dưới là một cái bao vải vuông vức, dùng chỉ may rất chắc chắn.
Đại bá bá gọi: “Lục muội! Lục muội đem kéo đến đây để cắt ra đi. Không hiểu sao Lục đệ bỗng nhiên tỉ mỉ như thế?” Lục thẩm cắt đứt mấy sợi chỉ, vừa mở cái bao vải ra, đột nhiên trong bao “soạt soạt” bắn ra bảy tám cây độc tiễn.”
Thanh Thanh kinh hãi la lên một tiếng. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Đúng là thói quen của Kim Xà Lang Quân rồi.”
Ôn Nam Dương tiếp: “Mãi đến hôm nay, nhớ lại việc đó ta vẫn thấy rùng mình. Nếu lúc đó ta vội vã mở cái bao ra, thì cái mạng này đâu còn ở đây nữa? Mấy cây độc tiễn đó đều ghim hết vào da thịt Lục thẩm. Loại tên này tẩm thuốc độc vô cùng lợi hại, thấy máu là chết ngay. Lục thẩm lập tức đen kịt cả người, không rên được một tiếng, ngã nhào ra chết ngay.”
Nói đến đó hắn quay lại, tức giận nói với Thanh Thanh: “Đó chính là kiệt tác của thằng cha ngươi đấy. Sau khi sự việc xảy ra như vậy, mọi người trong đại sảnh nhốn nháo cả lên. Ngũ thúc đổ cho ta gây ra vụ này, ép ta mở cái bao đó ra. Ta phải đứng rất xa, lấy một cây thương dài khều mở cái bao, nhưng không có mũi tên nào bắn ra nữa. Theo ngươi thì trong bao có những trân châu, báu vật gì?”
Thanh Thanh hỏi: “Có cái gì vậy?”
Ôn Nam Dương lạnh lùng nói: “Đó là thi thể Lục gia gia của ngươi, đã bị chặt thành tám mảnh.”
Bốn người im lặng một hồi, Ôn Nam Dương mới nói tiếp: “Ngươi thấy con người này có ác độc hay không? Y giết Lục thúc thì thôi, còn gửi xác Lục thúc về nhà bằng cách đó.”
Ôn Nghi nói: “Tại sao y phải làm như vậy, huynh chưa kể.”
Ôn Nam Dương nói: “Hừ! Đương nhiên cô phải kể tiếp. Đã là hành động của người xưa thân ái, thì bất luận chuyện gì cô cũng thấy không sai.”
Ôn Nghi nhìn lên những ngôi sao trên bầu trời một cách xuất thần, chậm rãi nói:
“Y là phu quân của ta. Dù chúng ta chưa từng bái thiên địa, nhưng trong lòng ta thì y là phu quân thân ái của ta. Thanh Thanh! Lúc đó ta nhỏ hơn con bây giờ hai tuổi, tính tình trẻ nít hơn con bây giờ, lại không thích học võ, cái gì cũng không hiểu cả. Các vị thúc bá trong nhà rất hung dữ, việc ác nào cũng dám làm, trước nay ta vẫn không thích họ. Khi thấy xác Lục thúc, thật sự trong lòng ta không thấy buồn bã gì. Lúc đó ta chỉ cảm thấy ngạc nhiên, tại sao Lục thúc võ công giỏi như vậy mà cũng bị giết chết?
Sau đó Đại bá bá mở thư ra, đọc lớn cho mọi người cùng nghe. Chuyện này đã hơn hai mươi năm rồi, nhưng tình hình đêm hôm đó ta nhớ rất rõ ràng. Những lời nói trong thư, ta vẫn nhớ từng chữ một.
Đại bá bá tức đến nỗi mặt không còn sắc máu, đọc thư mà thanh âm có phần run rẩy. Bức thư như sau: “Anh em họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái hãy nghe đây. Ta gửi tặng các ngươi thi thể của Ôn Phương Ngọc, đệ đệ của các ngươi, hãy nhận lấy. Người này năm xưa đã làm nhục rồi giết chết chị ruột của ta, sau đó lại giết hết một nhà năm người, cha mẹ và các anh của ta. Một mình ta chạy thoát ra ngoài, bây giờ quay lại trả thù. Nợ máu phải đòi gấp mười lần mới giải được hận. Ta nhất định phải giết năm chục nhân mạng, làm nhục mười nữ nhân trong gia đình các ngươi. Không đủ con số đó, ta thề không làm người. Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi lập thệ.”
Đọc xong lá thư đó, Ôn Nghi thở ra một hơi rồi hỏi Ôn Nam Dương: “Thất ca! Lục thúc giết sạch nhà y, việc này có hay không?”
Ôn Nam Dương ngạo mạn nói: “Nam tử hán đại trượng phu chúng ta đã vào hắc đạo thì cướp tài đoạt sắc, phóng hỏa giết người là chuyện rất bình thường. Lục thúc thấy tỷ tỷ của y xinh đẹp, dùng bạo lực mà cô ả không chịu, rút dao giết chết thì đã sao nào? Lẽ ra không cần phải giết cả nhà, nhưng nhất định Lục thúc đã lộ mặt nên phải giết người diệt khẩu. Tiếc là lúc đó để thằng nhãi con chạy thoát, để lại hậu hoạn vô cùng.”
Ôn Nghi thở dài nói: “Nam nhân các người ra ngoài gây ra tội nghiệt lớn như thế, bọn nữ nhân trong nhà làm sao biết được?”
Ôn Nam Dương nói: “Đại bá bá đọc xong lá thư này, cười ha hả mà nói: “Thằng giặc đó tìm đến đây, thật là tuyệt diệu. Không thì chúng ta muốn đi tìm hắn cũng không biết hắn trốn ở chỗ nào.” Nói thì nói vậy, nhưng ông ấy lại khẽ hỏi ta tỉ mỉ về tướng mạo và võ công của tên gian tặc này. Bắt đầu từ đêm đó mọi người cảnh giới nghiêm mật, lại phái người đi ngay trong đêm mời Thất thúc và Bát thúc từ Kim Hoa và Nghiêm Châu về.”
Viên Thừa Chí ngạc nhiên nghĩ: “Sao huynh đệ nhà này đông tới như thế?”
Thanh Thanh cũng hỏi: “Má má! Ở nhà còn có Thất gia gia và Bát gia gia, sao con không biết?”
Ôn Nghi đáp: “Đó cũng là anh em của gia gia con, nhưng trước nay không ở đây. Nhà họ Ôn có tám người, nên mới gọi là Bát Đức Đường.”
Thanh Thanh cười khẩy: “Có đức gì mà gọi là Bát Đức?”
Ôn Nam Dương nói: “Trước nay Thất thúc vẫn ở Kim Hoa, còn Bát thúc ở Nghiêm Châu. Tuy là người một nhà, nhưng bên ngoài ít người biết đến. Nào ngờ Kim Xà gian tặc điều tra tin tức rất giỏi. Thất thúc và Bát thúc vừa mới khởi hành, đã bị y giết chết dọc đường. Tên gian tặc này thần xuất quỷ nhập, không hiểu lúc nào đã lấy cắp được một mớ thẻ tre mà nhà ta vẫn sử dụng khi thu thuế lúa gạo. Gian tặc hễ giết chết một người chúng ta lại cắm một cái thẻ tre lên xác chết. Xem ra y chưa cắm đủ năm chục thẻ tre thì không chịu buông tay.”
Thanh Thanh nói: “Gia đình chúng ta trên dưới có hơn trăm người, sao không cản nổi? Còn ông ấy có bao nhiêu người?”
Ôn Nam Dương đáp:
“Y chỉ có một mình. Gian tặc này xưa giờ không công khai lộ diện, bình thường không biết trốn ở nơi nào. Nhưng chỉ cần người nhà chúng ta lơi lỏng một chút là y ra tay hại chết. Đại bá bá đã mời mấy chục hảo hán giang hồ đến làm khách, cả ngày ngồi nhà ăn uống để đợi tên gian tặc đến. Còn ngoài cổng thì dán một tờ bố cáo lớn, mời y đến để quyết đấu một cách quang minh chính đại. Nhưng tên gian tặc đó mặc kệ, hễ thấy chúng ta đông người thì không xuất hiện.
Hơn nửa năm sau, cao thủ giang hồ từ từ giải tán. Tam ca ở chi thứ nhất và Ngũ đệ ở chi thứ năm đột nhiên chết chìm trong ao, trên người có cắm thẻ tre. Thì ra tên gian tặc rất biết nhẫn nại, đã im lặng chờ thời hơn nửa năm, bây giờ có cơ hội mới ra tay. Liên tiếp mười mấy ngày, trong nhà ngày nào cũng có người mất mạng. Tiệm bán quan tài ở thị trấn Tịnh Nham làm không kịp, phải đến Cù Châu để mua. Người bên ngoài đồn đãi là nhà họ Ôn gặp phải ôn thần. Nghi muội! Những ngày đáng sợ đó, cô còn nhớ chứ?”
Ôn Nghi nói: “Thời gian đó cả thị trấn bàng hoàng, còn gia đình chúng ta thì ngày đêm đều có người canh gác. Gia gia và các vị thúc bá thay phiên tuần tra cả ngoài lẫn trong. Đàn bà con nít tập trung trong nhà, không dám bước ra khỏi cổng một bước.”
Ôn Nam Dương nghiến chặt răng nói: “Đã vậy mà hai người chị dâu ở chi thứ tư vẫn bị y bắt cóc giữa đêm. Lúc ấy chúng ta tưởng họ bị giết rồi. Nào ngờ hơn một tháng sau, hai vị tẩu tẩu đó từ Dương Châu nhắn tin về, nói là đã bị tên gian tặc bán vào kỹ viện, ép tiếp khách cả tháng trời. Tứ thúc tức giận đến nỗi suýt ngất tại chỗ. Ông ấy mặc kệ hai đứa con dâu, đích thân đi giết sạch toàn bộ kỹ nữ, khách mua hoa, tú bà và bọn phục dịch trong kỹ viện đó. Đương nhiên hai vị tẩu tẩu cũng bị giết chết. Tứ thúc còn phóng hỏa, thiêu rụi tám tòa kỹ viện ở Dương Châu.”
Viên Thừa Chí nghe mà dựng cả tóc gáy lên, trong lòng nghĩ: “Kim Xà Lang Quân trả thù cho cha mẹ và anh chị là phải, nhưng giết chết hung thủ chủ chốt đã đủ rồi, làm như thế có phần quá đáng.” Chàng lại nghĩ: “Ôn Phương Thi thì trút giận lên đầu người khác, giết luôn hai cô con dâu.” Nghĩ đến đó chàng bất giác lắc đầu một cái, cảm thấy uất ức trong lòng.
Ôn Nam Dương tiếp: “Lại còn một việc khiến cho người ta tức tối. Mỗi năm đến tết Đoan Ngọ, Trung Thu, Nguyên Đán là y lại gửi thư tới, ghi rõ còn nợ bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu nữ nhân, cứ như kê đơn vậy. Kỳ Tiên Phái ngang dọc giang hồ mười mấy năm trời, thế mà bị tên gian tặc hại cho thê thảm đến thế. Mọi người vừa nơm nớp lo âu vừa nghiến răng căm hận, thề quyết trả mối thù này. Nhưng bản lãnh gian tặc quá cao, gia gia và các vị thúc bá đã giao thủ mấy lần với y mà không giết nổi. Khi chúng ta phòng thủ nghiêm ngặt thì mấy tháng trời y cũng không đến, chỉ cần lơi lỏng chút xíu thì lập tức có chuyện. Chúng ta ngoài sáng còn y trong bóng tối, thật sự không làm gì được. Trong vòng hai năm, nhà họ Ôn chúng ta bị y giết tổng số ba mươi tám mạng lớn có nhỏ có. Thanh Thanh! Ngươi nói đi, chúng ta có nên hận tên gian tặc đó không?”
Thanh Thanh hỏi: “Về sau thì sao?”
Ôn Nam Dương nói: “Để má má của ngươi kể tiếp.”
Ôn Nghi nhìn Viên Thừa Chí một cái, ủ rũ nói: “Hài cốt của y đã được vị Viên tướng công này mai táng. Vì thế ta không cần giấu giếm gì nữa, chỉ mong Viên tướng công sẽ kể lại tình hình lúc y tạ thế để hai mẹ con ta biết.”
Nói đến đó giọng bà nghẹn hẳn đi, hồi lâu mới nói tiếp được:
“Lúc đó ta không hiểu tại sao y lại hung hãn đến thế, thật sự không hiểu nổi. Gia gia không cho phép mọi người ra khỏi cổng một bước. Ta rất buồn bực, ngày nào cũng chỉ quanh quẩn trong vườn. Gia gia còn nói, nếu không có các vị ca ca ở cạnh thì bọn con gái dù là ban ngày ban mặt cũng không được vào vườn chơi.
Lúc đó là tháng Ba, tiết xuân rực rỡ. Hương hoa cải trong vườn theo gió thổi vào cửa sổ từng đợt, từng đợt. Ta những muốn lên đồi để ngắm hoa, thưởng thức hương vị ruộng đồng tươi mát. Chỉ vì Kim Xà Lang Quân, tên ác độc hại người đó, mà ta bị nhốt trong nhà buồn bã lúc trời đẹp thế này. Ta muốn lẻn ra ngoài một lát, nhưng nghĩ đến bộ mặt nghiêm trọng của gia gia lại không dám nữa.
Hôm đó, ta và Tam tỉ tỉ, Ngũ tẩu tẩu của chi thứ hai, lại còn huynh Nam Dương này và huynh Thiên Ba, cả thảy năm người đang chơi ở trong vườn. Ta trèo lên một cái đu, càng đu càng cao, thân thể như bay bổng hẳn lên. Lúc bay cao hơn đầu tường, nhìn ra ngoài thấy dương liễu xanh mơn mởn, hoa đào nở rộ, ta sung sướng vô kể. Nhưng đột nhiên huynh Thiên Ba kêu lên một tiếng kỳ lạ, rồi ngã xuống nằm ngẩng mặt lên trời. Ta giật mình hoảng hốt, sau này mới biết trước ngực huynh ấy đã bị phóng trúng một mũi Kim Xà Truy, chết ngay tức khắc. Còn huynh Nam Dương… Ta nhớ lúc đó huynh lập tức chạy trốn vào nhà, để mặc ba nữ nhân chúng ta ở ngoài vườn.”
Ôn Nam Dương đỏ ửng mặt lên, biện bạch: “Ta đánh không lại y, nếu không chạy đi, chẳng lẽ chết uổng mạng? Ta chạy vào nhà là để gọi người đến cứu.”
Ôn Nghi nói:
“Chẳng lẽ ta không hiểu chuyện đó hay sao? Chỉ thấy trên đầu tường có một người nhảy vào, đạp lên cái đu của ta. Y ôm chặt ngang hông ta, vận sức nhún mạnh, cái đu bay tít lên trời. Ta cảm thấy mình bay ra ngoài như đằng vân giá vũ, cứ tưởng phen này hai người sẽ cùng ngã chết. Nào ngờ tay trái y ôm lấy ta, tay phải chụp vào một cành cây to ở ngoài tường, rồi lại bắn người lên, nhẹ nhàng rơi ra xa mấy trượng.
Lúc đó ta hoảng sợ đến nỗi hồ đồ, đưa tay đấm loạn xạ lên mặt của y. Y đưa đầu ngón tay điểm vào dưới nách ta một cái, thân thể ta lập tức bủn rủn, không động đậy được nữa. Phía sau có nhiều người lớn tiếng hò hét đuổi theo, nhưng âm thanh càng lúc càng xa.
Y cứ ôm ta chạy hơn nửa ngày, lên một ngọn núi cao, chui vào sơn động trên vách núi dựng đứng. Y giải huyệt đạo cho ta, rồi nhìn ta cười rất dễ sợ. Ta bỗng nhớ đến hai vị tẩu tẩu, nghĩ bụng: “Nếu bị sỉ nhục như vậy, thì chết đi trong trắng còn hơn.” Thế là ta đập đầu vào núi đá. Y nắm lưng ta kéo lại, nên ta mới không chết, chỉ để lại một cái sẹo ở đây.”
Vừa nói bà vừa chỉ vào vết sẹo trên trán của mình. Viên Thừa Chí thấy vết sẹo đó bị mái tóc che khuất một phần, nhưng lộ ra ngoài đến hơn một tấc, dài đến tận đỉnh đầu. Vết thương lúc đó đúng là không nhẹ.
Ôn Nghi than thở:
“Nếu ta đập đầu vào đá mà chết, thì tốt cho y hơn nhiều. Y kéo ta lại một cái, chính là rước khổ vào mình. Lúc đó ta ngất xỉu tại chỗ, khi tỉnh dậy thì trên người có phủ một tấm chăn. Ta giật bắn mình, suýt ngất lần nữa. Nhìn lại thấy y phục trên người mình còn rất đàng hoàng, ta mới yên tâm hơn một chút, nghĩ bụng: “Chắc là thấy mình tự sát, tên ác nhân này đã phát thiện tâm nên chưa ra tay hãm hại.”
Ta nhắm nghiền mắt lại, không nhìn y, cũng không dám nghĩ đến những chuyện đang xảy ra. Y sợ ta tự sát nữa, nên canh giữ suốt hai ngày đêm, ngồi bên nói chuyện với ta. Dĩ nhiên ta không thèm nói gì. Y nấu cho ta ăn, ta cứ khóc, không ăn bất luận thứ gì.
Đến sáng ngày thứ tư, ta đói đến nỗi hoa cả mắt. Y nấu cho ta một chén canh thịt rất lớn, nhẹ nhàng dỗ ta uống, nhưng ta không uống. Y đột nhiên túm lấy ta, bóp mũi ta rồi đổ tô canh thịt vào miệng, ép ta nuốt hơn nửa chén canh. Tay y vừa buông lỏng, ta lập tức phun một búng canh vào giữa mặt y.
Ta muốn chọc y nổi giận, chém ta một đao chết đi cho xong, để khỏi bị bức hiếp rồi bán vào kỹ viện, khổ sở như hai vị tẩu tẩu. Nào ngờ y không giận, chỉ mỉm cười rồi lấy tay áo chùi nước canh trên mặt. Y ngẩn ra nhìn ta, không ngớt thở dài.”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh bất giác nhìn nhau một cái. Thanh Thanh đỏ hẳn mặt lên.
Ôn Nghi tiếp: “Đêm đó y nằm ngoài cửa động, hỏi ta: “Ta hát một bài cho cô nghe có được không?” Ta gắt: “Không thích nghe.” Y mừng đến nhảy chồm lên, nói: “Ta cứ tưởng cô bị câm, thì ra cũng biết nói.” Ta lại mắng: “Ai bị câm? Nhưng gặp người xấu thì ta không thèm nói chuyện.” Y không nói chuyện nữa, hoan hỉ ngồi hát những khúc sơn ca. Hát đến nửa đêm, tới khi mặt trăng ló lên y vẫn còn hát. Từ nhỏ đến lớn ta sống trong một đại gia, chưa từng nghe loại sơn ca như vậy.”
Ôn Nam Dương hét lên: “Cô vừa sợ lại vừa muốn nghe phải không? Ta không đủ kiên nhẫn để nghe cô kể những chuyện làm mất thể diện nữa.” Nói xong, hắn sải bước đi ra khỏi đình.
Thanh Thanh nói: “Nhất định bá bá đi mách các vị gia gia.”
Ôn Nghi đáp: “Cứ để ông ấy đi mách, bây giờ ta không cần gì nữa.”
Thanh Thanh nói: “Má má! Má má kể tiếp đi.”
Ôn Nghi kể tiếp:
“Sau đó ta ngủ thiếp đi, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy không thấy y đâu. Ta muốn trốn về nhà, nhưng sơn động này ở trên đỉnh một ngọn núi cao dốc đứng, không có đường xuống. Chỉ có những người giỏi khinh công như y mới lên xuống được. Mãi đến giữa trưa y mới quay lại, mang về cho ta rất nhiều đồ trang sức, vàng bạc, phấn son. Ta không nhận, quẳng hết xuống vực sâu. Nhưng y không giận, đến đêm lại hát cho ta nghe.
Một hôm y đem một mớ gà con, mèo con, rùa con lên đỉnh núi. Y biết ta không nhẫn tâm ném những con vật dễ thương này xuống vực. Suốt ngày y ngồi cạnh ta, chơi với những con mèo, đút cho lũ rùa con ăn, rồi lại hát. Buổi tối ta ngủ trong sơn động, y không bước vào một bước.
Ta thấy y không xúc phạm mình nên yên tâm hơn, bắt đầu chịu ăn uống. Trong suốt một tháng ta không thèm nói chuyện, nhưng y thủy chung vẫn rất dịu dàng, đối xử hòa nhã với ta. Ngay cả gia gia và má má cũng không chiều chuộng ta như thế.
Mấy ngày sau bỗng nhiên y nhăn mặt, nhìn ta một cách hung dữ. Lúc đó ta sợ hãi bật khóc lên. Y thở ra một hơi, rồi dỗ ngọt cho ta nín khóc. Đêm hôm ấy ta nghe tiếng y khóc, khóc rất thương tâm. Lát sau trời đổ mưa lớn, nhưng y không vào trong động. Ta không nỡ, gọi y vào sơn động tránh mưa, y cũng mặc kệ.
Ta hỏi: “Tại sao ngươi khóc?” Y thô lỗ đáp: “Ngày mai là ngày giỗ của gia gia, má má, ca ca, tỷ tỷ của ta. Hôm đó cả nhà ta đã bị gia đình cô hại chết. Dù sao thì ngày mai ta cũng phải giết một người để trả thù. Nhưng bây giờ trong nhà cô phòng bị rất nghiêm mật, lại còn mời Lý Thác đạo nhân phái Không Động và Thanh Minh thiền sư ở Thập Phương Tự đến giúp. Tuy hai người này rất lợi hại, nhưng chẳng lẽ ta chịu buông tay hay sao?”
Y vừa nói vừa nghiến răng ken két, rồi đội mưa mà chạy xuống núi. Đến xế chiều hôm sau, y vẫn chưa trở lại. Lúc đó ta có phần nhớ y, lại mong y được bình yên trở về.”
Nghe đến đây Thanh Thanh lén nhìn Viên Thừa Chí một cái, xem thử chàng có khinh rẻ mẹ con mình hay không. Nhưng nàng thấy Viên Thừa Chí vẫn cung kính ngồi yên, chú ý lắng nghe. Nàng bỗng cảm thấy nhẹ nhàng, thở ra một hơi.
Ôn Nghi nói:
“Lúc đó trời sắp tối. Thỉnh thoảng ta lại nhìn xuống núi, không biết bao nhiêu lần nữa. Cuối cùng cũng thấy trên đỉnh núi đối diện có bốn người đang rượt đuổi nhau, thân pháp cực nhanh. Ta cố gắng nhìn kỹ, người đầu tiên quả nhiên là y. Đuổi theo y là một đạo sĩ, một hòa thượng, và người thứ tư là gia gia của ta. Y cầm Kim Xà Kiếm một mình đánh với ba người, vừa đánh vừa chạy.
Được một hồi, hòa thượng dùng thiền trượng quét ngang đầu y. Thấy y không có đường tránh né, ta lo lắng trong lòng, bất giác kêu lớn. Nào ngờ y hoành Kim Xà Kiếm trở lại, chặt đứt một khúc thiền trượng của hòa thượng đó. Gia gia nghe tiếng kêu, quay lại nhìn thấy ta, bèn không đánh nữa mà chạy về hướng ngọn núi này.
Y lộ vẻ lo lắng, xuất hai chiêu kiếm ép hòa thượng và đạo nhân kia lùi lại, rồi đuổi gấp theo. Bây giờ thì gia gia của ta chạy trước, y chạy giữa, một tăng một đạo chạy sau cùng, chẳng bao lâu bốn người đã chạy xuống thung lũng. Y đuổi kịp gia gia, cố cản trở không để ông ấy chạy tới ngọn núi này.
Đánh được mấy hiệp thì một tăng một đạo đã đuổi tới nơi. Gia gia được rảnh tay, lại trèo lên ngọn núi ta đang đứng. Bốn người vừa đánh vừa rượt đuổi nhau, chốc lát đã đến nơi. Ta thật sự vui mừng, gọi lớn: “Gia gia! Mau mau đến đây.” Lúc đó y giống như người điên, nhảy xổ tới xuất liền ba chiêu kiếm, ép gia gia lùi lại. Gia gia đánh không lại y, sắp gặp nguy thì hai người tăng đạo đến giải vây.
Gia gia hô lớn: “A Nghi, ngươi ra sao rồi?” Ta đáp: “Con không sao. Gia gia yên tâm đi.” Gia gia nói: “Được! Để ta xử lý xong tên gian tặc này rồi nói chuyện.” Ba người lại vây y vào giữa.
Đạo nhân lớn tiếng nói: “Kim Xà Lang Quân! Phái Không Động chúng ta không thù không oán với các hạ, chỉ vì thấy các hạ quá đáng nên mới đứng ra giải hòa. Ta không muốn giúp bên nào. Nếu các hạ đồng ý dừng tay, từ nay về sau không kiếm chuyện với nhà họ Ôn nữa, thì vụ này có thể chấm dứt ở đây.”
Y quát trả: “Thù giết cha, mẹ, anh, chị, ta không thể không trả.”
Hòa thượng nói: “Thí chủ đã giết rất nhiều người, tưởng đã đủ rồi. Bần tăng khuyên thí chủ hãy nể mặt hai người xuất gia này mà dừng tay đi.”
Y đột ngột vung kiếm đâm tới hòa thượng, thế là bốn người tiếp tục ác đấu. Đạo nhân dùng thứ binh khí gì trông lạ mắt, chiêu thức khác thường. Còn thiền trượng của hòa thượng đã cụt một nửa, nhưng vung ra cũng nổi gió vù vù, kình lực rất mãnh liệt.
Y càng đánh càng không thành chiêu thức gì nữa, mồ hôi toát đầy đầu. Đột nhiên y bước hụt chân, loạng choạng suýt nữa té nhào. Hòa thượng vung thiền trượng đập xuống, y né qua một bên tránh được. Khi y nghiêng người như vậy, vô tình nhìn thấy mặt ta. Sau này y kể lại: “Lúc đó ta đã kiệt sức rồi, nhưng khi thấy muội lộ vẻ lo lắng cho mình, đột nhiên tinh thần phấn chấn hẳn lên.”
Y múa kiếm càng lúc càng nhanh. Lúc đó sương trong thung lũng bắt đầu bốc lên dày đặc, trong đám sương mù chỉ còn thấy kiếm quang lấp loáng. Bỗng nghe y hô lớn: “Ôn cô nương đừng sợ! Xem đây!”
Hòa thượng đột nhiên la lên một tiếng rồi lăn xuống vực thẳm, thì ra sau gáy bị trúng một mũi Kim Xà Truy. Gia gia của ta và đạo nhân đều giật mình kinh hãi. Thừa lúc y phóng kiếm đâm vào gia gia của ta, đạo nhân tập kích sau lưng. Y bỗng quát lên một tiếng, đưa ngược hai ngón tay trái ra sau, đâm vào cặp mắt đạo nhân. Đạo nhân vừa cúi đầu xuống, y vung kiếm quét ngang qua trúng vào giữa lưng, thế là đạo nhân bị chặt thành hai khúc.”
Thanh Thanh sợ hãi la lên một tiếng.
Ôn Nghi kể tiếp:
“Y thu kiếm về, đâm tới gia gia của ta. Gia gia thấy hai tay trợ thủ cao cường liên tiếp bị giết, hoảng sợ đến nỗi kinh tâm động phách, cương trượng mỗi lúc một vụng về chậm chạp. Ta liền chạy ra khỏi động, la lên: “Dừng tay, dừng tay!” Y vừa nghe đã dừng tay lại ngay. Ta nói: “Đây là phụ thân của ta.” Y giận dữ nhìn gia gia một cái rồi bảo: “Đi đi! Ta tha mạng ông.” Gia gia lộ vẻ bất ngờ, quay lưng đi ngay.
Ta suốt ngày chưa được ăn gì, lại phải chứng kiến trận đấu kinh hồn vừa rồi. Khi thấy y tha mạng gia gia, ta mừng quá, đột nhiên loạng choạng té xuống. Y vội chạy tới đỡ ta dậy. Ta nhìn qua vai y ra ngoài, thấy vẻ mặt gia gia đầy sát khí, rồi gia gia đột nhiên đưa cương trượng lên, nhằm đánh vào sau gáy y.
Y đang chăm chú xem ta có bị thương hay không, hoàn toàn không đề phòng gia gia đánh lén. Ta nhịn không được, bất giác la lên: “Cẩn thận!” Y lập tức nghiêng người, nhưng chỉ né được cái đầu, đưa lưng hứng lấy phát trượng. Y quay lại giật lấy cương trượng quẳng xuống vực sâu, đưa song chưởng lên định đánh ra. Gia gia biết mình không đỡ nổi, nhắm mắt chờ chết. Bỗng y quay lại nhìn ta một cái, thở dài rồi bảo gia gia: “Ông mau rời khỏi đây đi, kẻo ta đổi ý kiến lại không tha nữa.” Gia gia vội vã bỏ chạy xuống núi.
Lưng y bị cương trượng đả thương rất nặng. Gia gia vừa đi khuất, y đã ọe ra một ngụm máu tươi, phun ướt cả ngực áo ta.”
Thanh Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Gia gia không còn biết thể diện là gì nữa. Quang minh chính đại đánh nhau không lại, lén hạ độc thủ sau lưng.”
Ôn Nghi thở dài rồi nói:
“Đúng ra thì y là đại cừu nhân, giết liên tiếp mấy chục mạng trong gia đình ta. Nhưng khi thấy y bị bao vây, tấn công, ám toán, ta không nén nổi lòng mình hướng về y. Đúng là oan nghiệt từ kiếp trước.
Y lảo đảo bước vào trong động, lấy thuốc trị thương ra uống, lại oẹ ra rất nhiều máu tươi. Ta sợ quá, chỉ biết khóc chứ không làm gì được. Bị thương mà thần sắc y lại vui vẻ, hỏi ta: “Ai làm gì cô nương mà khóc?” Ta vừa khóc vừa nói: “Ngươi bị thương nặng đến thế này…” Y mỉm cười hỏi: “Cô nương vì ta mà khóc đấy ư?” Ta không nói gì được, vừa đau lòng vừa khó xử.
Hồi lâu y mới nói: “Từ khi cả nhà ta bị Lục thúc của cô hại chết, chưa có ai quan tâm đến ta. Hôm nay, ta giết được một ông anh họ của cô, tổng số đã bốn mươi người rồi, lẽ ra còn phải giết mười người nữa. Nhưng trừ vào chỗ nước mắt của cô, từ nay ta sẽ dừng tay.” Ta chỉ biết khóc.
Y lại nói: “Nữ nhân trong gia đình cô, ta cũng không hại nữa. Đợi vết thương lành, ta sẽ đưa cô về nhà.” Ta không lý giải được cảm xúc của mình như thế nào, nhưng thấy y hứa không giết người nữa đã là tốt rồi. Vì thế mấy ngày sau, ta nấu canh nấu cơm, quan tâm phục vụ cho y. Y thỉnh thoảng lại phun máu ra, có lúc nửa mê nửa tỉnh, luôn mồm kêu má má.
Có một hôm, suốt ngày y hết hôn mê lại nói lảm nhảm mãi đến xế chiều. Ta thấy không làm gì được nữa, khóc đến nỗi mắt sưng vù lên. Y đột nhiên mở mắt ra, mỉm cười rồi nói: “Không sao, ta không chết đâu.” Hai ngày sau, quả nhiên y dần dần bình phục.
Sau này y nói với ta: “Hôm đó trúng một đòn cương trượng, lẽ ra ta không sống nổi nữa. Nhưng sau khi ta chết, muội bị nhốt trên đỉnh núi cao không thể leo xuống, người nhà muội lại sợ ta mà không dám đến tìm, muội chắc chắn phải chết đói. Vì nghĩ đến muội mà ta cố sống.””
Thanh Thanh nói xen vào: “Má má! Phụ thân đối với má rất tốt, rất có lương tâm.” Nói xong, nàng giận dữ nhìn Viên Thừa Chí. Mặt chàng nóng bừng lên, rồi quay đầu đi, không dám để ánh mắt mình chạm vào ánh mắt nàng nữa.
Ôn Nghi lại nói: “Thân thể y dần dần hồi phục, kể lại rất nhiều chuyện hồi nhỏ, được cha mẹ cưng chiều thế nào, anh chị yêu mến ra sao. Có lần y bệnh, mẹ y ngồi bên giường y ba ngày ba đêm không ngủ. Thế mà chỉ trong một đêm, gia đình y bị Lục thúc giết sạch. Con người này tuy thủ đoạn tàn độc, nhưng khi kể đến người thân của mình thì ngữ khí lại rất lương thiện hiền hòa. Y lại lấy một cái yếm màu đỏ có thêu hoa cho ta xem, nói là mẹ thêu hồi mới thôi nôi.”
Kể đến đây, Ôn Nghi lấy trong bọc ra một cái yếm của trẻ nít, đặt lên bàn. Viên Thừa Chí thấy cái yếm này may bằng đoạn đỏ, thêu một đứa bé mập mạp đang ngủ trên một tàu lá chuối. Đứa bé mập mạp sống động trông rất dễ thương, mũi thêu tinh tế. Có thể thấy khi thêu cái yếm này, người mẹ đã dồn hết tình yêu con vào đó.
Viên Thừa Chí từ nhỏ đã mất cha mẹ. Khi nhìn cái yếm, chàng nghĩ đến thân phận mình, không nén nổi chua xót trong lòng.
Ôn Nghi nói tiếp:
“Y thường hát những khúc sơn ca cho ta nghe, lại lấy gỗ khắc thành chó con, ngựa con, búp bê cho ta chơi, cứ nói ta giống như trẻ nít chẳng hiểu biết gì. Sau này vết thương lành hẳn, y càng lúc càng lộ vẻ không vui. Ta nhịn không nổi phải hỏi tại sao, thì y nói: “Ta không nỡ xa nàng.” Ta đáp: “Thế thì ta ở đây với ông.” Y rất vui mừng, vừa hò hét vừa nhào lộn giữa hai ngọn cây lớn trên đỉnh núi, hệt như một con khỉ vậy.
Y kể: “Ta có một tấm bản đồ, vẽ nơi chôn giấu một kho báu cực lớn, chứa kim ngân châu báu nhiều đến mức không tưởng tượng nổi. Trước đây Yến Vương soán vị, đánh từ Bắc Kinh đến Nam Kinh. Kiến Văn hoàng đế vội vàng chạy trốn, phải giấu toàn bộ trân châu bảo bối trong nội phủ vào một chỗ bí mật ở Nam Kinh. Khi Yến Vương tiếp vị, lục nát thành Nam Kinh mà cũng không tìm được. Yến Vương đã phái Tam Bảo thái giám tới quần đảo Nam Dương mấy lần, một là để điều tra tung tích Kiến Văn hoàng đế, hai là để tìm kiếm số châu báu này.”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Thì ra tấm bản đồ giấu trong Kim Xà Bí Kíp là bản đồ kho báu đó.”
Ôn Nghi tiếp: “Y nói là Thành Tổ hoàng đế suốt đời không tìm được tấm bản đồ, thế mà mấy trăm năm sau y lại tình cờ có được. Đại thù đã báo, y phải đi tìm kho báu này, sau khi tìm được sẽ đến đón ta. Bây giờ y tạm đưa ta về nhà trước.”
Kể đến đây, giọng bà khẽ hẳn đi: “Y không nỡ rời ta. Thật ra trong lòng ta cũng có phần không nỡ, nhưng… nhưng… ta không thể tùy tiện đi theo y như vậy. Sau khi ta về nhà, mọi người không coi ta ra gì cả. Ta rất giận dữ. Họ đã không đủ bản lãnh bảo vệ con gái nhà mình, thế mà khi ta trở về thanh bạch, mọi người lại kéo đến sỉ nhục ta. Nhưng ta cứ mặc kệ, không nói gì đến họ.”
Thanh Thanh nói: “Đúng lắm! Má má có làm gì sai đâu?”
Ôn Nghi nói: “Ta ở nhà đợi mất ba tháng, rồi một đêm đột nhiên nghe dưới cửa sổ có tiếng hát. Ta vừa nghe giọng là biết ngay y đến, liền mở cửa sổ cho y vào, hai người gặp nhau mừng mừng rỡ rỡ. Đêm đó ta trao thân cho y, nên có đứa bé này. Đó là do ta tình nguyện, mãi đến bây giờ vẫn không hối hận chút nào. Người ta nói là y cưỡng bức ta, nhưng không phải vậy. Thanh nhi! Phụ thân của con đối xử với má má rất tốt. Chẳng những ông ấy yêu thương mà còn tôn trọng má má. Thủy chung ông ấy chưa làm trái ý má má lần nào.”
Viên Thừa Chí âm thầm thán phục dũng khí của bà. Nghe nhắc đến mối tình thâm hậu, bất giác trong lòng chàng nảy ra mối cảm thông.
Đột nhiên Thanh Thanh hát nhỏ: “Một bầy chim nhạn, đến từ phương Nam. Con bay thành đôi, con bay đơn lẻ. Nhạn bay đôi vui vẻ, nhạn đơn côi vất vả. Nhìn nhạn đơn côi, ta nghĩ đến chàng. Ta buồn như chàng, chàng buồn như ta.”
Giọng hát của Thanh Thanh uyển chuyển dịu dàng, tràn đầy u uất.
Ôn Nghi ủ rũ nói: “Đó là bài hát mà phụ thân của Thanh Thanh thường hát cho ta nghe. Thanh Thanh hồi nhỏ được ta bồng bế, thường nghe bài hát này. Nó nghe mãi, quả nhiên đã thuộc mấy khúc.”
Viên Thừa Chí nói: “Lúc đó chắc Hạ tiền bối đã tìm được kho tàng rồi?”
Ôn Nghi đáp:
“Y nói là chưa tìm được, nhưng đã có đôi chút manh mối, chỉ vì lúc nào cũng nhớ ta nên không muốn vì tìm kho báu mà đến trễ. Khi y nói đến chuyện kho báu, ta không để ý nghe lắm. Hai ta bàn bạc, định sáng hôm sau lén lút trốn đi. Lúc đó ta hoan hỉ vô cùng, không phòng bị gì cả, không ngờ mình nói gì cũng bị nghe trộm hết.
Sáng hôm sau, trời chưa sáng hẳn, ta đã thu dọn quần áo rồi viết thư để lại cho gia gia, đang định lẻn đi thì bỗng có người gõ cửa. Dĩ nhiên ta rất sợ. Y bèn nói: “Không sao! Dù có thiên binh vạn mã, hai ta cũng phải rời khỏi đây.” Y cầm Kim Xà Kiếm, ra mở cửa phòng. Đại bá bá, Nhị bá bá và gia gia bước vào. Ba người đều khoác trường bào, tay không binh khí, trên mặt mỉm cười, hoàn toàn không ra vẻ thù địch. Chúng ta thấy vậy không khỏi kinh ngạc.
Gia gia nói: “Việc của hai ngươi, chúng ta biết cả rồi. Đây cũng là oan nghiệt kiếp trước. Lần trước ngươi không giết ta, ta đã hiểu rồi. Từ nay về sau chúng ta kết thành thân thích, quyết không động đao thương nữa.”
Y tưởng gia gia sợ mình tiếp tục giết người, bèn nói: “Ông yên tâm, ta đã hứa với lệnh tiểu thư từ lâu rồi, không làm hại gia đình ông nữa.”
Gia gia nói: “Nhưng lén lút trốn đi thế này thì không được. Ngày mai phải cưới gả đàng hoàng, bái đường nghiêm chỉnh.” Y lắc đầu không tin, gia gia bèn nói: “A Nghi là đứa con gái thương yêu độc nhất của ta. Ta không thể để nó bỏ trốn với người khác, suốt đời không ngẩng đầu lên được.” Y thấy câu này có lý, nào ngờ vì nghĩ đến ta mà bị gạt.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Lệnh tôn lừa gạt ông ấy, không phải thật lòng ư?”
Ôn Nghi gật đầu, lại nói:
“Gia gia dọn phòng khác cho y nghỉ ngơi, để chuẩn bị lo đám cưới. Y không tin tưởng, nên thức ăn và rượu gia đình ta bưng tới, y đều cho chó ăn trước. Chó ăn vào hoàn toàn vô sự, thế mà y vẫn không yên tâm, hoàn toàn không chạm môi vào. Đến khuya y đem đổ hết, rồi chạy lên thị trấn Tịnh Nham mua thức ăn.
Một đêm, mẹ của ta đem một chén chè hạt sen tới, bảo ta: “Con bưng chén chè này cho huynh ấy ăn đi.” Ta không biết, lại nghĩ mẹ thương mình, nên hoan hỉ bưng vào phòng. Y thấy ta đích thân bưng vào, vui vẻ chẳng phòng hờ gì cả. Ăn mấy miếng, đang nói chuyện, đột nhiên sắc mặt y đổi hẳn, lập tức đứng dậy quát lên: “A Nghi! Sao cô ác thế?” Ta hoảng sợ hỏi lại: “Chuyện gì?” Y hỏi: “Sao cô hạ độc ta?”
“Sao cô hạ độc ta?” Câu này được Ôn Nghi nói ra nhẹ nhàng, nhưng người ta nghe mà phát sợ. Viên Thừa Chí nghĩ đến lúc đó Kim Xà Lang Quân vừa tức giận vừa đau lòng thế nào, bất giác chàng dựng tóc gáy lên, Thanh Thanh cũng vậy. Nước mắt của Ôn Nghi rơi lã chã xuống vạt áo, bà không nói tiếp được nữa.
Trong màn đêm vắng lặng, đột nhiên ngoài đình vang lên những tiếng cười độc ác. Ba người quay lại, thấy năm lão già họ Ôn sánh vai nhau bước đến, phía sau còn khoảng hai ba chục người tay cầm binh khí.
Ôn Phương Sơn hét lên: “A Nghi! Ngươi đem chuyện xấu xa của mình nói cho người ngoài nghe, còn biết thể diện là gì không?”
Ôn Nghi đỏ mặt lên muốn trả lời ngay, nhưng bà cố nén, quay lại bảo Thừa Chí: “Mười chín năm nay, ta chưa nói một câu nào với gia gia. Từ nay về sau, ta cũng không nói chuyện với ông ấy. Ta không muốn ở trong nhà họ Ôn này từ lâu rồi, nhưng đã có Thanh Thanh nên chẳng đi đâu được. Hơn nữa ta vẫn mong y chưa chết, sẽ có ngày đến đây tìm ta. Nếu ta rời khỏi đây, thì làm sao y tìm ta được? Bây giờ y đã chết rồi, ta không còn gì phải lo lắng nữa. Ta không sợ họ. Viên tướng công có sợ họ không?”
Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời, Thanh Thanh đã cướp lời: “Nhất định Thừa Chí đại ca không sợ.”
Ôn Nghi nói: “Được! Vậy ta kể tiếp.”
Bà tiếp tục nói lớn tiếng: “Lúc đó ta khóc òa lên, không biết nói gì làm gì cho phải. Đột nhiên cửa phòng bị đá bật ra, rất nhiều người cầm đao thương ùa vào trong.”
Bà chỉ ra ngoài đình mà nói:
“Lúc đó chính là những người này đứng ở cửa phòng. Họ… họ… đều nắm sẵn ám khí. Dù sao gia gia đối với ta cũng còn chút xíu tình phụ tử, bèn kêu gọi: “A Nghi, ra đây!” Ta biết, họ chỉ đợi ta ra ngoài là lập tức phóng ám khí vào. Gian phòng nhỏ xíu, y trốn vào đâu được? Ta la lên: “Ta không ra! Muốn giết thì giết cả hai cùng lúc đi.” Ta đứng cản trước mặt y, trong lòng chỉ có một ý niệm: “Phải hứng hết ám khí cho chàng! Không để bọn ác nhân làm hại chàng.”
Y đang ngồi trên ghế chau mày suy nghĩ, tưởng ta cố ý hạ độc, vì thương tâm nên không muốn phản kháng gì nữa. Nghe ta nói vậy, đột nhiên y nhảy chồm dậy, mừng rỡ hỏi: “Muội không biết trong chén chè hạt sen này có thuốc độc à?”
Ta bưng cái chén đó lên, thấy trong chén còn một ít nước chè, vừa dốc vào miệng vừa nói: “Muội sẽ cùng chết với huynh.” Y vẫy tay đánh rơi cái chén, nhưng ta đã uống rồi.
Y mỉm cười nói: “Được! Hai ta chết chung, tuyệt diệu.” Rồi y quay lại mắng: “Các ngươi lén hạ độc, dùng thủ đoạn đê tiện như thế không biết xấu hổ hay sao?”
Đại bá bá giận dữ nói: “Ai hạ độc? Ai mà hạ độc thì không phải anh hùng hảo hán. Ngươi vẫn tự coi mình bản lãnh cao siêu, hãy ra đây tỉ đấu một phen.”
Y nói: “Được!”, rồi lập tức xông ra lấy một đánh năm. Đúng là trong chè hạt sen không có thuốc độc, nhưng có Túy Tiên Mật, thuốc gia truyền của nhà họ Ôn. Chỉ uống vào một chút là từ từ mất hết sức lực, ngủ say như chết, một ngày một đêm mới tỉnh dậy được. Những người này không dùng thuốc độc để hại chết y, chỉ muốn đánh thuốc mê để từ từ hành hạ. Họ… họ thật là anh hùng hảo hán!”
Nói đến đây, ngữ khí của Ôn Nghi đầy vẻ oán hận. Nhưng tính cách bà rất dịu dàng, không biết nói những lời ác độc để mắng chửi người khác.
Ôn Phương Thi ở ngoài đình lớn tiếng quát lên: “Con tiện nhân vô sỉ này lẽ ra đã chết lâu rồi. Chúng ta nuôi nó mãi đến hôm nay, nó lại lấy oán trả ơn như vậy!”
Thanh Thanh nói: “Đúng là mẹ con ta đã ăn mười mấy năm cơm gạo trong nhà họ Ôn này, nhưng… Tứ gia gia! Hai năm nay ta đã tìm được rất nhiều kim ngân châu báu cho các ông, cho dù một trăm đời người cũng không ăn hết được. Mẹ con ta mắc nợ nhà họ Ôn này bao nhiêu, đã trả sạch sẽ rồi.”
Ôn Phương Đạt không muốn vạch xấu cho người xem lưng nữa, bèn quát lên: “Này, họ Viên kia! Ngươi dám đấu với năm lão già này không?”
Hai hôm trước Viên Thừa Chí còn nể mặt họ là trưởng bối của Thanh Thanh, nên đối xử rất lễ phép. Bây giờ đã nghe Ôn Nghi kể những chuyện hiểm độc của nhà này, chàng không nén nổi mối phẫn hận trong lòng nữa, bèn quát trả: “Hừ! Đừng nói là năm người, dù có tới mười người ta cũng không sợ.”
Ôn Nghi cười nhạt rồi nói: “Đêm hôm đó, năm anh em họ liên thủ đánh một mình y. Lẽ ra y vẫn chống đỡ được, nhưng vì đã uống Túy Tiên Mật nên càng đánh tay chân càng bủn rủn. Năm anh em họ đã luyện xong Ngũ Hành Trận, khi đánh nhau phối hợp chặt chẽ năm người như một…”
Nghe đến ba chữ “Ngũ Hành Trận”, đột nhiên Viên Thừa Chí nhớ lại Kim Xà Bí Kíp đã nói tường tận về cách phá Ngũ Hành Trận. Chàng đột nhiên hiểu hết, thì ra là thế.
Ôn Phương Sơn hét lên: “Ngươi ăn cháo đá bát, tiết lộ bí mật gia truyền.”
Ôn Nghi mặc kệ cha hét gì thì hét, vẫn kể với Viên Thừa Chí: “Y ráng sức, cố mau mau đánh ngã một trong năm người để phá Ngũ Hành Trận. Nhưng mỗi lúc y một thêm choáng váng, bước chân lảo đảo. Lúc đó ta kêu: “Huynh chạy trốn nhanh lên! Muội vĩnh viễn không phụ huynh đâu.”
Bà kể ra câu này bằng một giọng thảm khốc, có lẽ hệt như tiếng kêu đêm ấy. Thanh Thanh hoảng sợ, la lên: “Má má!”
Thừa Chí nói: “Bá mẫu về phòng nghỉ ngơi đi. Tiểu điệt nói chuyện với các vị gia gia và bá bá một lát, sáng mai sẽ đến thăm bá mẫu.”
Ôn Nghi nắm tay chàng kéo lại, la lên: “Không, không! Lòng ta đã uất ức mười chín năm rồi, đêm nay phải nói ra kỳ hết. Viên tướng công! Tướng công nghe ta nói hết đã.”
Viên Thừa Chí nghe thấy giọng bà đã pha nước mắt, bèn gật đầu đáp: “Tiểu điệt xin nghe tiếp.”
Ôn Nghi vẫn nắm chặt tay áo chàng không thả, kể tiếp:
“Họ muốn lấy mạng y, nhưng họ còn muốn phát tài hơn. Vì thế họ chỉ đánh cho y bị thương không gượng nổi, té ngã xuống đất rồi bắt lấy. Ta phóng lên người y, nhưng không biết vị thúc bá nào vung cước đá ta ra. Họ ép y giao ra tấm bản đồ vẽ kho báu. Y nói: “Bản đồ không ở trên người, ai giỏi thì theo ta mà lấy.” Họ lục lọi trên người y tỉ mỉ, quả nhiên không có bản đồ.
Họ đều thấy khó xử. Nếu thả y ra, khi thuốc mê tan hết thì không ai chế ngự được y nữa. Nhưng nếu giết y đi, thì kho báu đó vĩnh viễn không lọt vào tay mình. Cuối cùng, chính gia gia ta đưa ra ý kiến cao minh. Ha ha! Cao minh lắm, còn không phải hay sao? Lúc ấy y hôn mê ngất xỉu, ta cũng nằm bất tỉnh trên người y. Khi ta tỉnh lại thì họ đã cắt đứt hết gân tay gân chân của y rồi.
Dù y bản lãnh bằng trời, vĩnh viễn cũng không vận được kình lực ra ngoài nữa. Sau đó họ áp giải y đi lấy bản đồ, tìm kiếm báu vật. Ha ha! Cao minh lắm, có phải vậy không? Ha ha… ha ha…”
Thấy ánh mắt Ôn Nghi tán loạn, hơi thở gấp rút, thần trí có vẻ bất thường, Viên Thừa Chí bèn khuyên: “Bá mẫu! Bá mẫu về phòng nghỉ ngơi đi.”
Ôn Nghi nói: “Không! Tướng công mà đi khỏi đây là họ giết ta lập tức. Ta phải nói hết rồi mới chết được… Họ đem y rời khỏi đây, lại có hai hảo thủ phái Không Động đi theo. Ai cũng muốn tìm kiếm món hoạnh tài này. Không hiểu tại sao y vẫn thoát được. Chắc là y đã đưa họ một tấm bản đồ, nên họ vui mừng mà canh giữ lỏng lẻo hơn. Họ rất thông minh, nhưng lang quân của ta cũng chẳng dại gì. Bảy người bọn họ khi cầm được tấm đồ hình vẽ nơi chôn cất bảo tàng, sinh ra tranh đoạt lẫn nhau. Năm anh em lập kế, hại chết được hai người phái Không Động.”
Ôn Phương Thi giận dữ mắng: “A Nghi! Ngươi mà nói bừa bãi nữa thì coi chừng đấy.”
Ôn Nghi mỉm cười hỏi lại: “Ta cẩn thận làm chi nữa? Ông tưởng ta còn sợ chết hay sao?”
Bà quay lại nói với Viên Thừa Chí: “Nào ngờ tấm bản đồ đó là đồ giả. Năm người đến Nam Kinh, tìm tới tìm lui hơn nửa năm trời, tốn hết mấy ngàn lạng bạc, nhưng một đồng xu mẻ cũng không tìm được. Ha ha! Thật không có gì hứng thú hơn nữa.”
Anh em họ Ôn từ ở phía ngoài đình giương mắt giận dữ nhìn vào, nhưng sợ Viên Thừa Chí nên không dám xông lên.
Ôn Nghi ngẩn ngơ xuất thần một lúc, rồi kể tiếp. Giọng bà vừa nhỏ vừa chậm hẳn đi: “Sau khi y trốn thoát, ta không nghe tin tức gì về y nữa. Gân tay gân chân bị đứt hết, y đã trở thành một phế nhân. Tâm khí y vốn cao ngạo, nếu không chết vì đau thì cũng chết vì tức tối.”
Ôn Phương Đạt la lên: “Họ Viên kia! Ngươi đã nghe con tiện nhân đó nói đến Ngũ Hành Trận rồi chứ? Có giỏi thì ra đây mà thử một phen.”
Ôn Nghi khẽ bảo: “Tướng công rời khỏi đây đi, đừng đấu với họ.”
Bà nhẹ nhàng thở ra một hơi, lại nói: “Mối oan khuất Kim Xà Lang Quân gặp phải, cuối cùng đã có người biết rồi.”
Viên Thừa Chí từng giao đấu với anh em họ Ôn, biết nếu đơn đả độc đấu thì không có lão nào là đối thủ của mình. Nhưng nếu năm lão cùng xuất thủ, lại có Ngũ Hành Trận tập luyện nhuần nhuyễn, e rằng khó chống đỡ. Trận pháp và cách phá Ngũ Hành Trận thì chàng đã học trong Kim Xà Bí Kíp, hiểu thấu hết rồi, không sợ gì lắm.
Nhưng năm ông lão họ Ôn này lại là tôn trưởng của Thanh Thanh. Phương pháp mà Kim Xà Lang Quân truyền thụ thì hiểm độc vô cùng, chàng không muốn dùng. Vì thế mà Viên Thừa Chí ngần ngừ một lúc.
Ôn Phương Thi lại la lên: “Sao? Không dám ư? Vậy thì ngoan ngoãn lạy mỗi người ba cái, chúng ta sẽ thả ngươi đi.”
Lão cười khẩy rồi tiếp: “Để lát nữa thì muốn lạy cũng không được đâu.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình cần thì giờ để suy tính đàng hoàng.” Chàng vừa bước chân ra chốn giang hồ, kinh nghiệm còn rất nông cạn, không như những tay lão luyện giang hồ hễ gặp vấn đề nan giải là lập tức có đối sách ngay.
Chàng bèn dõng dạc nói: “Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn lợi hại vô cùng, vãn bối cũng muốn mở rộng kiến văn một chút. Nhưng bây giờ vãn bối đang rất mệt, xin nghỉ một giờ có được không?”
Ôn Phương Nghĩa lẹ miệng đáp ngay: “Một giờ thì một giờ, dù ngươi nghỉ tới mười ngày nửa tháng cũng không thoát được.”
Ôn Phương Sơn khẽ nói: “Coi chừng thằng lỏi này sử dụng ngụy kế gì.”
Ôn Phương Đạt nói: “Nhị đệ đã hứa rồi, cứ để nó sống thêm một giờ nữa, khỏi phải oán trách mà chết.”
Ôn Nghi lo lắng nói: “Viên tướng công! Tướng công đừng để họ lừa. Họ tàn ác đã quen, đâu có lòng tốt mà cho tướng công nghỉ ngơi một giờ? Nhiều năm nay họ vẫn không quên được kho báu đó. Họ muốn tìm cách ám hại tướng công, cắt đứt gân tay gân chân của tướng công, áp giải tướng công đi tìm kho báu. Tướng công mau dắt Thanh Thanh rời khỏi đây, chạy càng xa càng tốt.”
Ôn Phương Đạt nghe Ôn Nghi nói rõ dụng ý của mình, sắc mặt bỗng nửa xanh nửa trắng. Lão cười nhạt rồi nói: “Ba người bọn ngươi còn muốn chạy càng xa càng tốt nữa ư? Hừ, đâu có dễ thế? Họ Viên kia! Ngươi đến luyện võ sảnh mà nghỉ ngơi. Lát nữa chúng ta động thủ sẽ thuận tiện hơn.”
Viên Thừa Chí đáp: “Được!” Chàng lập tức đứng dậy, nghĩ bụng: “Xem ra không sử tuyệt chiêu thì không thoát thân được.”
Mẹ con Ôn Nghi đã biết Ngũ Hành Trận lợi hại, trong lòng rất lo lắng. Nhưng họ không có cách nào cản trở, đành theo chàng ra khỏi mái đình.
Vào đến luyện võ sảnh, Ôn Phương Đạt sai người thắp mấy ngọn nến lớn, rồi nói: “Khi nến cháy hết, chắc ngươi đã nghỉ ngơi đủ rồi.”
Viên Thừa Chí gật đầu, ngồi xuống một chiếc ghế đặt giữa sảnh. Ôn thị ngũ lão mỗi người lấy một chiếc ghế, ngồi thành vòng tròn bao vây chàng vào giữa. Năm lão cũng nhắm mắt nghỉ ngơi. Lại còn Ôn Nam Dương, Ôn Chính cùng mười mấy cao thủ của Kỳ Tiên Phái chia nhau ngồi trên mười sáu chiếc ghế thấp hơn, vây ở phía ngoài thành một vòng tròn lớn.
Viên Thừa Chí thấy mười sáu người này ngồi theo phương vị bát quái, đúng là phụ trợ cho Ngũ Hành Trận. Ngoài Ngũ Hành Trận lại còn Bát Quái Trận, phá trận khó càng thêm khó. Chàng ngồi ngay ngắn trên ghế, nghĩ lại tỉ mỉ tất cả các loại võ công của sư môn. Càng nghĩ chàng càng thấy bị hai mươi mốt cao thủ này tấn công thì khó khăn lắm mới tự bảo vệ được. Muốn phá trận thoát thân còn khó hơn nhiều. Thời gian kéo dài, tinh thần khí lực mình suy giảm đi, chắc chắn phải thất bại.
Giả tỉ có thể dùng khinh công Mộc Tang đạo nhân đã truyền thụ mà thoát ra khỏi trận, thì số vàng kia làm sao đoạt lại? Hai mẹ con Ôn Nghi ở lại, khó mà tránh được họa sát thân. Bây giờ phải làm sao? Ngoài việc dùng bí pháp phá trận đã chép trong Kim Xà Bí Kíp, thật không còn cách nào khác.
Lúc chàng theo bí kíp mà luyện tập, ngoài việc cảm thấy thủ pháp quá ác độc ra, còn không hiểu tại sao võ công quá phức tạp, thậm chí có nhiều chiêu thức giống như rắn bò. Trong thực chiến cho dù võ công của địch thủ cao đến đâu, đông người đến mức nào, mình cũng không thể bị tấn công cùng lúc từ bốn phương tám hướng, nên lẽ ra không cần phòng thủ tới mức không lộ chút sơ hở nào như vậy. Bây giờ chàng bị vây khốn thế này mới tỉnh ngộ ra.
Thì ra năm xưa Kim Xà Lang Quân trúng phải gian kế, bị phế tay chân. Ông trốn thoát rồi trút hết tâm trí mà sáng tạo ra bộ võ công này, là để chuyên phá Ngũ Hành Trận. Dĩ nhiên ông muốn đến Tịnh Nham để trả thù, nhưng tiếc là gân ở tay chân đều bị cắt đứt, không vận được kình lực. Ông đành suy tính tỉ mỉ, ghi lại chiêu thức vào bí kíp, hy vọng người sau làm mình hả dạ.
Viên Thừa Chí ngẫm nghĩ: “Mình vô tình mà học được bộ võ công này, nhờ thế mà hôm nay có thể thoát hiểm, lại có thể trút nỗi oán hận giúp vị ân sư chưa từng gặp mặt. Nếu dưới cửu tuyền mà ông ấy biết, nhất định sẽ rất vui mừng, không uổng một phen khổ tâm ngày trước.”
Chàng hoan hỉ mở mắt ra nhìn, thấy những ngọn nến trên bàn còn không đến một tấc. Ôn thị ngũ lão thấy mặt chàng khi lo âu khi mừng rỡ, không biết chàng đang suy tính gì. Nhưng họ nghĩ Ngũ Hành Bát Quái Trận này oai lực vô cùng nên không thèm để ý, chỉ giương mười con mắt nhìn khắp căn phòng, chỉ sợ có sơ hở để chàng chạy thoát.
Viên Thừa Chí nhắm mắt, ôn lại tỉ mỉ từ đầu đến cuối những chiêu thức phá trận ghi lại trong bí kíp. Nghĩ đến chiêu Khoái Đao Trảm Loạn Ma quyết thắng cuối cùng, chàng bỗng rùng mình một cái, mồ hôi lạnh đầy đầu, thầm la trong bụng: “Hỏng rồi! Chiêu này cố tình để lộ sơ suất, dẫn dụ đối thủ tấn công, rồi theo chỗ hở của trận pháp mà đột kích, nhưng muốn không mất mạng trước thì trên tay phải có bảo đao bảo kiếm để tự vệ. Kim Xà Lang Quân tính toán dựa theo Kim Xà Kiếm của ông. Bây giờ tay mình không có Kim Xà Kiếm, trong chốc lát làm sao tìm được bảo đao hay bảo kiếm?”
Thanh Thanh đứng bên chăm chú nhìn, bỗng thấy trên mặt chàng lộ vẻ lo lắng, mồ hôi đẫm trán. Nàng biết chưa giao đấu mà trong lòng đã chán nản khiếp sợ thì nắm chắc phần thua, nên bất giác lo lắng cho chàng.
Nến đã lụn, ngọn lửa nhấp nháy rung động, sắp tắt tới nơi. Viên Thừa Chí vẫn chưa nghĩ ra phương pháp phá trận, càng lo lắng hơn. Ngay lúc đó một đứa a hoàn bưng một chén trà tới, lên tiếng: “Tướng công! Xin dùng chén trà đường này.”
Chàng vốn đã khát nước từ lâu. Bây giờ tâm trí dồn hết về việc làm sao tìm được bảo kiếm để dùng, nên nghe mời trà là chàng nhận ngay, mơ hồ đặt lên môi, mở miệng định uống. Đột nhiên tay chàng rung động một cái, chén trà bị một mũi tụ tiễn đánh trúng, rơi loảng choảng rồi nát vụn. Thừa Chí nhìn lại thấy tay của Thanh Thanh chưa thu về kịp, biết mũi tên này do nàng phát ra. Chàng kinh hãi trong lòng, thầm la lên: “Nguy hiểm quá! Sao mình hồ đồ như thế, không đề phòng họ cho uống Túy Tiên Mật gì gì đó?”
Ôn Phương Ngộ thấy quỷ kế của mình bị Thanh Thanh lật tẩy, giận dữ không sao nhịn được. Lão ngoác mồm ra thóa mạ: “Con mẹ nó! Đẻ ra một đứa con gái đê tiện, ăn cháo đá bát thế này, đúng là tổ tông nhà họ Ôn không tích đức.”
Miệng lưỡi Thanh Thanh quyết không chịu thua người khác. Nàng nói ngay: “Tổ tông nhà họ Ôn tích nhiều đức lắm chứ? Sửa cầu, làm đường, cứu tế người nghèo, việc tốt nào cũng làm. Lại còn không cướp của, không giết người, không phóng hỏa, tuyệt đối không gian dâm bắt cóc.”
Ôn Phương Ngộ giận dữ, nhảy chồm lên định đánh. Ôn Phương Đạt vội cản: “Ngũ đệ, khoan đã! Cẩn thận thằng lỏi này.”
Thì ra lúc này, mặt mày Viên Thừa Chí rạng rỡ hẳn lên. Mũi tụ tiễn của Thanh Thanh đã nhắc chàng nghĩ đến chuyện dùng ám khí. Nhìn thấy mấy ngọn nến chập chờn, hai ngọn đã tắt ngấm, chàng bèn đứng dậy lên tiếng: “Được rồi, xin các vị chỉ giáo. Lần này phân thắng bại xong thì sao?”
Ôn Phương Đạt nói: “Nếu ngươi thắng thì cứ đem số vàng đó đi. Nếu ngươi không thắng, thì không cần phải nói nhiều.”
Viên Thừa Chí biết nếu mình thua thì dĩ nhiên tính mạng không giữ được. Chàng chỉ sợ nếu mình thắng thì họ tìm cách cãi chối, bèn nói: “Các vị hãy đem vàng ra đây. Phá trận xong là vãn bối lấy đi ngay.”
Ôn thị ngũ lão thấy chàng kề cận cái chết mà còn nói cứng, nghĩ bụng: “Cao thủ như Kim Xà Lang Quân còn bị Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn bắt được. Bây giờ chúng ta thêm mười mấy năm trời chuyên tâm nghiên cứu, sáng tạo thêm Bát Quái Trận để phụ trợ, thì làm sao ngươi trốn nổi?”
Trận thế này họ đã luyện rất thuần thục, đối phó với ba bốn chục hảo thủ vẫn còn thừa sức. Đây quả là bảo vật trấn phái của Kỳ Tiên Phái, rất ít khi sử dụng để khỏi bị người khác biết chỗ lợi hại. Lần này chỉ vì Viên Thừa Chí võ công quá cao, năm anh em người nào cũng mang tuyệt kỹ mà thảm bại trong vòng hai chiêu ba thức. Năm lão họ Ôn chỉ còn cách đem bản lãnh trấn sơn này ra sử dụng, không hơi đâu mà nghĩ đến chuyện người khác nói mình lấy đông hiếp ít.
Ôn Phương Đạt gọi gia nhân thay nến, rồi bảo Thanh Thanh: “Đem vàng ra đây.”
Thanh Thanh hối hận nghĩ: “Biết trước thế này thì đem vàng trả cho huynh ấy là xong.” Bây giờ nàng muốn trả cũng không kịp nữa, bèn xách cái bao đựng đầy vàng vào luyện võ sảnh, đặt lên bàn. Nàng nghĩ đến Viên Thừa Chí đang gặp nguy hiểm thế này mà vẫn không quên đoạt lại vàng cho An Tiểu Huệ, bất giác cơn tức giận lại nổi lên.
Ôn Phương Đạt vung tay trái quét qua cái bàn, hất cái bao đựng vàng ra. Liên tiếp những tiếng loảng xoảng, mấy chục thỏi vàng rải đầy mặt đất, sáng lóe cả mắt. Lão cười nhạt nói: “Nhà họ Ôn tuy nghèo, nhưng chừng đó vàng chưa đủ để vào trong mắt. Họ Viên kia! Nếu ngươi có bản lãnh phá được Ngũ Hành Trận thì cứ việc lấy đi.”
Nghe lão lớn tiếng, mọi người đều rút binh khí ra vây chặt Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí bỗng giật mình, nghĩ bụng: “Ngay cả trên mái nhà, họ cũng bố trí rồi. Thế thì trận pháp này làm sao hóa giải được?”
Nhưng chàng bỗng nghe Ôn Phương Thi la lên: “Trên mái nhà có người! Ai ở trên đó, mau xuống đây gặp ta.”
Trên mái nhà có người vừa cười ha hả vừa đáp: “Năm vị lão gia! Vinh mỗ đến chịu tội đây.”
Hai mươi mấy người vừa reo hò vừa nhảy xuống, người đầu tiên chính là bang chủ Du Long Bang, Vinh Thái.
Viên Thừa Chí lập tức nhẹ nhõm. Chàng nhìn Thanh Thanh một cái, thấy nàng hơi đổi sắc mặt, khẽ cắn môi.
Ôn Phương Đạt hỏi: “Lão Vinh nửa đêm quang lâm tệ xá, có gì chỉ giáo không? Ái chà! Lữ Thất tiên sinh cũng đến rồi.” Vừa nói lão vừa chắp tay chào một ông lão đứng phía sau Vinh Thái.
Ông lão đó trả lễ rồi nói: “Thì ra các vị huynh đệ đều khỏe mạnh cả. Đã lâu năm chúng ta không gặp mặt nhau.”
Vinh Thái mỉm cười nói: “Năm vị lão gia thật là có phước, sinh được một đứa cháu gái võ công đã cao, mưu kế lại khá. Không những Sa lão đại và mười mấy huynh đệ mất mạng dưới tay cô ấy, ngay cả Vinh mỗ cũng chịu phần thua thiệt.”
Ôn thị huynh đệ chưa biết chuyện xích mích giữa Thanh Thanh với những người này. Bình thường Kỳ Tiên Phái cùng Du Long Bang có đi lại với nhau. Lúc này cường địch trước mắt, dĩ nhiên họ không muốn gặp thêm phiền phức.
Ôn Phương Đạt bèn nói: “Lão huynh! Cháu gái ta có lỗi gì với lão huynh, chúng ta nhất định không bao che. Giết người thường mạng, thiếu nợ trả tiền, thế có được không?”
Vinh Thái nghe mà ngẩn ra, nghĩ bụng: “Mấy lão này từ xưa đến giờ cường hung bá đạo, sao hôm nay lại ăn nói dễ nghe đến thế? Chẳng lẽ họ sợ Lữ Thất tiên sinh hay sao?”
Y đảo mắt nhìn quanh, chợt thấy Viên Thừa Chí lại càng không hiểu nổi. Nhà họ Ôn có đại cao thủ này ở đây, Lữ Thất tiên sinh cũng chưa chắc thắng được, xem ra mình xử nhũn là hơn. Y bèn nói: “Du Long Bang cùng quý phái trước nay chưa hề xích mích. Tại hạ trước nay vẫn kính trọng các vị lão gia. Dù sao Sa lão đại cũng chết rồi, không thể sống lại được, chỉ trách hắn học nghệ không tinh. Nhưng số vàng này…”
Y đưa mắt nhìn những thỏi vàng rải rác dưới đất, nói tiếp: “Du Long bang bọn tại hạ đã theo dõi mấy trăm dặm đường, tốn không ít tâm huyết, lại có người vì đó mà mất mạng. Mọi người chúng ta đều kiếm miếng ăn trên chốn giang hồ…”
Nghe y nói đến đây dừng lại, Ôn Phương Đạt hiểu y chỉ nhắm vào đống vàng, bèn nói: “Vàng ở đây cả. Nếu huynh cần thì cứ lấy hết đi, không sao.”
Vinh Thái nghe lão nói chuyện hào phóng như vậy, cứ tưởng đó là một lời nói ngược để trêu chọc. Nhưng y nhìn lại thấy mặt lão không có chút ác ý nào, bèn đáp: “Nếu Ôn lão gia chịu tặng cho bọn tại hạ một nửa, coi như trợ cấp cho những huynh đệ thương vong của tệ bang, thì tại hạ cảm kích không ít.”
Ôn Phương Sơn bảo: “Huynh cứ lấy đi.”
Vinh Thái chắp tay lại nói: “Thế thì xin đa tạ.”
Tay y vừa buông xuống, một tên đại hán đứng sau lưng lập tức khom người xuống, nhặt những thỏi vàng. Nhưng ngón tay vừa chạm đến vàng, đột nhiên vai hắn bị đẩy một cái. Hắn cảm thấy một luồng đại lực ập tới, đứng không vững phải lùi mấy bước, ngẩng đầu lên thì thấy Viên Thừa Chí đứng trước mặt.
Viên Thừa Chí nói: “Vinh lão gia! Số vàng này là quân lương của Sấm Vương, lão gia muốn lấy thì có phần không ổn.”
Ở phương Bắc thì dĩ nhiên danh tiếng của Sấm Vương vang như sấm động, nhưng nhân vật giang hồ ở Giang Nam không biết ông lắm. Vinh Thái quay lại, mỉm cười nói với Lữ Thất tiên sinh: “Hắn định đem cái tên Sấm Vương ra hù dọa chúng ta.”
Lữ Thất tiên sinh đang cầm một ống điếu to lớn khác thường. Lão rít một hơi rồi phà khói ra, từ từ quay mình lại nhìn chòng chọc Viên Thừa Chí, ra vẻ hỏi: “Ngươi biết ta không?”
Viên Thừa Chí thấy lão vô lễ, trong lòng đã tức giận. Nhưng nhìn khí phách của lão, chàng biết đây là một nhân vật đã thành danh trong võ lâm, nên không dám khinh mạn. Chàng chắp tay thi lễ rồi hỏi: “Dường như tiền bối họ Lữ? Xin thứ lỗi, vãn bối mới đến Giang Nam nên chưa được quen biết.”
Lữ Thất tiên sinh phà khói thẳng vào mặt Viên Thừa Chí, lại rít một hơi nữa. Hai làn khói từ trong mũi lão bay ra như hai con rắn trắng, tụ lại hồi lâu không chịu tan.
Viên Thừa Chí vẫn rất bình tĩnh, không nói gì. Trên mặt Thanh Thanh tỏ vẻ tức giận, định mở miệng nói gì đó, nhưng Ôn Nghi đã vuốt nhẹ vai nàng. Thanh Thanh quay lại, thấy mẹ mình chầm chậm lắc đầu, bèn nuốt lại câu thóa mạ vào trong bụng.
Lữ Thất tiên sinh từ từ gõ ống điếu xuống nền gạch nghe lóc cóc một hồi lâu, dỗ hết tàn thuốc ra, lại từ từ nhét một ít sợi thuốc vào.
Bây giờ ngay cả Ôn thị ngũ lão cũng không nhịn nổi nữa. Họ cũng biết lão này thành danh đã lâu, năm xưa từng dùng Hạc Thần Quyền đánh bại vô số cao thủ, ống điếu trên tay lão là một món vũ khí kỳ lạ dùng để đả huyệt, cũng có thể đoạt binh khí của người khác. Nhưng bản lãnh lão thật sự như thế nào thì họ chưa được thấy.
Ôn thị ngũ lão đều mong hai bên nói chuyện không hợp rồi động thủ. Nếu Lữ Thất tiên sinh thắng thì đương nhiên là tốt, không thì lão cũng tiêu hao bớt sức lực của Viên Thừa Chí.
Lữ Thất tiên sinh từ từ lấy đá lửa trong bọc ra, gõ lách cách mấy cái. Thuốc lá còn chưa bén lửa, đột nhiên trên mái nhà có người hét lên: “Mau trả vàng cho ta!”
Một thiếu nữ và một thanh niên to lớn nhảy xuống, tiếp theo là một hán tử trung niên trạc ngoại ngũ tuần, ăn mặc kiểu người buôn bán, dáng vẻ trông rất buồn cười, tay trái cầm bàn tính, tay phải cầm cây bút. Ông này chậm rãi từ trên đầu tường nhảy xuống, không biết võ công cao thấp thế nào.
Viên Thừa Chí nhận ra thiếu nữ đó là An Tiểu Huệ, vừa mừng lại vừa lo. Chàng mừng vì có người đến giúp, nhưng lo vì không biết võ công của hai người đi cùng nàng như thế nào. Địch thủ trước mắt, ngoài Kỳ Tiên Phái lại có thêm Du Long Bang và Lữ Thất tiên sinh. Mẹ con Ôn Nghi và Thanh Thanh đã va chạm ra mặt với Ôn thị ngũ lão, tình cảnh cực kỳ nguy hiểm, không thể không cứu. Giả tỉ bản lãnh của hai người mới tới chỉ tương tự An Tiểu Huệ, thì chàng phải phân tâm lo lắng, lại càng rắc rối hơn.
Trong đám nhà họ Ôn có người bước ra chặn hỏi. Thanh niên to cao bèn la lớn: “Mau mau trả vàng lại cho chúng ta.” Y thấy những thỏi vàng rải trên mặt đất, cả mừng nói: “Ha ha! Thì ra ở đây cả.” rồi cúi xuống nhặt ngay.
Viên Thừa Chí chau mày, nghĩ bụng: “Người này hành sự lỗ mãng, e rằng công phu có giới hạn.”
Ôn Nam Dương thấy y khom xuống, bèn nhảy ra phóng cước đá vào mông. An Tiểu Huệ vội kêu lên: “Thôi sư ca, cẩn thận!”
Y nghiêng người tránh né rồi lập tức tấn công, song chưởng đẩy ra rất nhanh. Ôn Nam Dương tránh không kịp, cũng đưa song chưởng ra chống đỡ. Một tiếng “chát”, bốn chưởng giao nhau, hai bên đều lui mấy bước.
Thanh niên đó lại muốn bước lên, nhưng người ăn mặc kiểu nhà buôn bỗng gọi: “Hy Mẫn, khoan đã!”
Viên Thừa Chí nhớ lại An Tiểu Huệ đã nói, có một người sư ca họ Thôi cùng nàng hộ tống món vàng này, chỉ vì dọc đường hai người gây chuyện chia tay, nên mới sơ suất để Thanh Thanh trộm mất. Chàng đoán thanh niên này chính là cháu của Thôi Thu Sơn, tên là Thôi Hy Mẫn. Thế thì nhà buôn trông tức cười này chính là đại sư ca Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân rồi. Cây bút bên tay phải của ông phát ra ánh vàng lấp loáng, quả nhiên được đúc bằng đồng. Còn bàn toán bên tay trái thì đen sì, chắc là làm bằng sắt.
Chàng cực kỳ mừng rỡ, liền nhảy tới ngay, quỳ xuống khấu đầu rồi nói: “Tiểu đệ Viên Thừa Chí bái kiến đại sư ca.”
Người đó chính là Hoàng Chân. Ông đưa hai tay đỡ Viên Thừa Chí dậy, ngắm nghía tỉ mỉ rồi vui vẻ nói: “Chào sư đệ. Thì ra sư đệ còn trẻ như thế. Thật không ngờ được gặp ở đây.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Đại sư ca! Ân sư hiện đang ở đâu? Lão nhân gia có mạnh khỏe không?”
Hoàng Chân đáp: “Lúc này ân sư đang ở Nam Kinh. Lão nhân gia rất khỏe.”
An Tiểu Huệ bước tới nói: “Thừa Chí đại ca! Đây chính là Thôi sư ca mà muội đã nói.”
Viên Thừa Chí gật đầu chào một cái. An Tiểu Huệ thấy trên lưng Viên Thừa Chí có dính mấy cọng cỏ khô bèn đưa tay nhặt giúp, chàng mỉm cười ra vẻ cảm tạ. Thôi Hy Mẫn thấy vậy, sắc mặt bất bình thấy rõ.
Hoàng Chân quát bảo: “Hy Mẫn, sao vô lễ thế? Mau qua khấu đầu với sư thúc đi.”
Thôi Hy Mẫn thấy Viên Thừa Chí còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, trong lòng không phục nhưng cũng chậm rãi bước tới, ra vẻ muốn quỳ. Viên Thừa Chí vội nói: “Không dám!”, đưa tay cản lại.
Thôi Hy Mẫn lập tức không quỳ nữa, chỉ chắp tay hô lớn: “Tiểu sư thúc!”
Hoàng Chân lại mắng: “Cái gì mà tiểu sư thúc, đại sư thúc? Dù ngươi lớn hơn sư thúc, thì sư thúc vẫn là trưởng bối. Ta già hơn ngươi, sao ngươi không kêu ta là lão sư phụ?”
Viên Thừa Chí mỉm cười hỏi Thôi Hy Mẫn: “Thúc thúc của huynh có khỏe không? Ta rất nhớ ông ấy.”
Thôi Hy Mẫn đáp: “Thúc thúc rất khỏe.”
Lữ Thất tiên sinh thấy mấy người này gặp nhau chào hỏi, cứ liên hồi sư huynh đệ, sư thúc điệt, hoàn toàn không đếm xỉa gì tới những người đứng bên. Bây giờ lão nhịn không nổi nữa, bèn ngửa mặt nhìn lên mái nhà mà hỏi: “Loại người nào đến đây vậy?”
Lão vừa lên tiếng, mọi người đều giật mình. Thanh âm của lão chói tai kỳ lạ, vừa khàn khàn vừa nhọn hoắt, rất khó nghe.
Thôi Hy Mẫn bước lên một bước, nói: “Chỗ vàng này là của chúng ta, bị các ông đánh cắp đến đây. Bây giờ sư phụ dẫn chúng ta đến đây lấy lại.”
Lữ Thất tiên sinh vẫn ngẩng mặt nhìn trời, miệng phun khói trắng, cười nhạt mấy tiếng.
Thôi Hy Mẫn thấy lão này ỷ già nhìn người bằng nửa con mắt, tức tối nói: “Có chịu trả vàng hay không, ông nói rõ một câu đi. Còn nếu ông không chủ trương được, thì để người có thể làm chủ bước ra nói chuyện.”
Lữ Thất tiên sinh lại cười hai tiếng quái dị, rồi quay lại bảo Vinh Thái: “Ngươi nói đi, bảo thằng bé này biết ta là ai.”
Vinh Thái hét lên: “Ngươi nghe đừng hoảng sợ, vị này là Lữ Thất tiên sinh lừng danh đã lâu. Tuổi còn trẻ sao dám vô lễ như vậy?”
Thôi Hy Mẫn không biết Lữ Thất tiên sinh là ai, dĩ nhiên không hoảng sợ. Y quát lên: “Thất tiên sinh, Bát tiên sinh gì gì ta cũng mặc kệ. Hôm nay chúng ta đến đây là để đòi vàng.”
Vừa rồi Ôn Nam Dương giao đấu với y chưa phân thắng bại, trong lòng còn ray rứt, bèn nhảy ra hét lớn: “Muốn lấy vàng thì rất dễ. Nhưng phải xem thử các ngươi có bản lãnh gì không, thắng được ta rồi nói chuyện sau.”
Hắn không đợi đối phương trả lời, lập tức phóng tới đánh ra một quyền. Thôi Hy Mẫn nhất thời không đề phòng, bị đánh trúng vào vai. Y cả giận, xuất quyền đánh vào bụng Ôn Nam Dương nghe “bình” một tiếng. Hai người bị đau cùng nhảy ra, giương mắt nhìn nhau, rồi lại nhảy xổ vào.
Những tiếng bình bịch nổi lên loạn xạ, mỗi bên chớp nhoáng đã trúng mười mấy quyền. Cách đánh của hai người giống hệt nhau, phòng thủ sơ hở, tấn công liều mạng.
Viên Thừa Chí âm thầm than thở, nghĩ bụng: “Sao đồ đệ do đại sư ca dạy dỗ lại hỏng bét thế này? Nếu gặp hảo thủ, trên người trúng một hai quyền thì còn gì nữa? Chẳng lẽ Thôi thúc thúc cũng không chỉ điểm cho cháu mình được mấy chiêu hay sao?”
Chàng chưa biết Thôi Hy Mẫn tính tình thẳng thắn nóng nảy, lại không chú tâm học võ. May mà thân thể y rất khỏe mạnh, chịu vài cú đấm cũng không sao. Trong lúc hỗn chiến, y bỗng dùng hữu quyền phóng một hư chiêu. Ôn Nam Dương vừa né sang trái, tả quyền của y lập tức móc tới, đánh trúng ngay dưới cằm đối thủ. “Bình” một tiếng, Ôn Nam Dương té nhào xuống đất, ngất xỉu tại chỗ.
Thôi Hy Mẫn đắc ý nhìn sang sư phụ, chắc mẩm được khen. Nhưng y lại thấy sư phụ ra vẻ giận dữ, nên thật sự không hiểu, thầm nghĩ: “Mình thắng rồi, sao sư phụ lại trách?”
Tiểu Huệ thấy miệng y sưng vù, tai bên phải chảy máu đầm đìa, liền lấy khăn tay để lau máu cho. Nàng khẽ hỏi: “Sao huynh không tránh né, cứ nhắm mắt mà đánh như vậy?”
Thôi Hy Mẫn gắt: “Tránh né cái gì? Nếu lo tránh né thì làm sao đánh trúng hắn được?”
Lữ Thất tiên sinh vừa ồm ồm vừa the thé cất giọng: “Đánh ngã một tên lỗ mãng, có gì là đắc ý? Ngươi còn muốn vàng hay không?”
Đột nhiên lão nhảy lên đứng trên hai thỏi vàng, ống điếu trên tay ấn xuống một thỏi khác, rồi nói: “Bất kể ngươi dùng quyền đánh hay dùng chân đá, chỉ cần lấy được ba thỏi vàng dưới tay chân ta, thì tất cả những thỏi vàng này đều là của ngươi.”
Câu này vừa nói ra, mọi người đều cảm thấy lão quá ngông cuồng. Ai cũng thấy võ công Thôi Hy Mẫn không cao, nhưng kình lực khá mạnh. Chỉ dùng ống điếu đè lên thỏi vàng mà cho rằng không ai lấy được, e rằng quá xem thường người khác.
Thôi Hy Mẫn tức giận nói: “Ông đã nói rồi thì không được nuốt lời.”
Lữ Thất tiên sinh ngẩng mặt lên trời cười lớn, bảo Vinh Thái: “Ngươi có nghe không? Nó sợ ta nuốt lời kìa.”
Vinh Thái chỉ có cách cười theo, nhưng trong lòng không khỏi nghi ngờ.
Thôi Hy Mẫn nói: “Được, ta đến đây!”
Y nhảy tới ba bước, nhắm ngay vào thỏi bạc bị đè dưới ống điếu, dồn hết sức vào chân phải, ra chiêu Tảo Đường Thối đá quét ngang.
Viên Thừa Chí thấy rất rõ ràng, thầm nghĩ: “Phát đá này tối thiểu cũng nặng tới hai ba trăm cân. Công lực của Lữ Thất tiên sinh cao tới đâu cũng không thể dùng một cái ống điếu mà đè thỏi vàng không cho động đậy, trừ khi lão sử dụng yêu pháp ma thuật gì.”
Khi Thôi Hy Mẫn sắp đá tới, ống điếu của Lữ Thất tiên sinh bỗng hất nhẹ một cái, điểm vào đầu gối của y. Chân phải của Thôi Hy Mẫn lập tức tê liệt, nên phát đá giữa chừng bỗng nhiên bủn rủn rồi khom gối quỳ xuống. Lữ Thất tiên sinh chắp tay lại, vừa mỉm cười vừa nói: “Không dám! Tiểu huynh đệ hà tất đa lễ như thế.”
An Tiểu Huệ kinh hãi, vội chạy tới đỡ Thôi Hy Mẫn dậy, dẫn y đến trước mặt Hoàng Chân rồi nói: “Hoàng bá bá! Lão này giở trò gian xảo, sư bá dạy lão một phen đi.”
Thôi Hy Mẫn ngoác mồm ra thóa mạ: “Lão già này chuyên nghề ám toán, không phải là anh hùng hảo hán.”
Hoàng Chân đưa tay xoa vào hông Thôi Hy Mẫn, vỗ lên đùi giải khai huyệt đạo, rồi nói: “Chẳng lẽ ngươi trúng phải ám toán mới là anh hùng hảo hán hay sao? Thật là thán phục, thật là thán phục!”
Ông thấy thủ pháp của Lữ Thất tiên sinh thần tốc như thế, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Không ngờ ở vùng Chiết Giang hẻo lánh này lại có hảo thủ đả huyệt như thế.” Tay trái Hoàng Chân sử dụng Thiết Toán Bàn làm binh khí, chuyên môn phong tỏa đoạt lấy binh khí của đối phương, còn tay phải dùng cây Đồng Bút, dĩ nhiên cũng giỏi về đả huyệt.
Ông đưa tay gảy lên bàn toán rồi nói: “Món nợ này ta ghi vào đây. Thời buổi này giao dịch bằng tiền mặt, không cho thiếu nợ. Lữ Thất tiên sinh, ra trả nợ đi.” Ông chĩa cây Đồng Bút ra trước, bước lên để đòi nợ cho đồ đệ của mình.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình là sư đệ, chắc phải lên trước.” Chàng bèn nói: “Đại sư ca, cho tiểu đệ lên trước. Nếu tiểu đệ thất bại, sư ca hãy xuất thủ.”
Hoàng Chân thấy tuổi chàng rất trẻ, thầm nghĩ: “Dù sư đệ đã học hết võ công bản môn thì hỏa hầu cũng chưa đủ. Chưa chắc sư đệ hơn Thôi Hy Mẫn bao nhiêu, nhất định không phải là đối thủ của Lữ Thất tiên sinh. Sư phụ tuổi già mới nhận một đứa đồ đệ nhỏ như thế, nhất định thương yêu vô cùng. Nếu sư đệ gặp phải chuyện gì, sư phụ há chẳng đau lòng? Chuyện này khác hẳn Thôi Hy Mẫn ra trận vừa rồi. Tên đồ đệ bảo bối của mình võ công đã tầm thường mà tính tình lại lỗ mãng tự cao. Bắt nó chịu khổ một tí, thì sau này luyện võ có phần tốt hơn.”
Ông bèn nói nhỏ: “Sư đệ! Để sư ca lên trước.”
Viên Thừa Chí cũng nói nhỏ: “Đại sư ca! Hảo thủ bên họ rất nhiều. Năm lão già kia có một bộ Ngũ Hành Trận rất lợi hại, lát nữa còn phải ác đấu. Sư ca là chủ tướng bên mình, để tiểu đệ lên trước là hơn.”
Hoàng Chân thấy Viên Thừa Chí cố chấp đòi lên trước, thầm nghĩ: “Nghé con không biết sợ cọp, mình không nên làm cậu bé này mất hứng.” Ông bèn bảo: “Thế thì sư đệ phải cẩn thận.”
Viên Thừa Chí gật đầu rồi bước lên một bước, nói với Lữ Thất tiên sinh: “Vãn bối cũng muốn đá một cái, có được không?”
Lữ Thất tiên sinh và mọi người đều kinh ngạc nghĩ thầm: “Vừa rồi tên thanh niên to lớn kia đã nếm mùi rồi, sao ngươi còn chưa sợ chết?”
Lữ Thất tiên sinh thấy chàng trẻ hơn cả Thôi Hy Mẫn, lại càng không để vào lòng. Lão mỉm cười nói: “Được thôi! Nhưng chúng ta phải nói trước, ngươi mà thi hành đại lễ thì ta không dám nhận đâu.” Vừa nói lão vừa đưa ống điếu đè lên một thỏi vàng.
Viên Thừa Chí làm hệt như Thôi Hy Mẫn, bước lên ba bước, đưa chân phải đá quét ngang qua. Thôi Hy Mẫn thấy vậy lo lắng, la lên: “Tiểu sư thúc, kiểu này không được. Ông lão đó biết điểm huyệt.”
Năm anh em họ Ôn đã biết Viên Thừa Chí còn trẻ nhưng võ công cực cao. Họ thấy chàng đi theo vết xe đổ của Thôi Hy Mẫn, đều cảm thấy kỳ lạ. Chẳng lẽ chàng có thể giấu được huyệt đạo trên người, không sợ người ta điểm trúng?
Ánh mắt mọi người đều dồn vào chân của Viên Thừa Chí. Hoàng Chân chuyển cây Đồng Bút sang tay trái, chuẩn bị hễ thấy Viên Thừa Chí thất lợi là lập tức ra tay cứu sư đệ trước, rồi mới tấn công kẻ địch sau.
Chân phải Viên Thừa Chí quét ngang qua, sắp đá trúng thỏi vàng. Ống điếu của Lữ Thất tiên sinh nhanh như điện chớp đưa ra, điểm vào đùi Viên Thừa Chí. Nào ngờ phát cước này chỉ là hư chiêu, khi tay đối phương vừa động thì chân mình đã thu hồi. Lữ Thất tiên sinh điểm không trúng, ống điếu thừa thế đưa về phía trước. Chân phải Viên Thừa Chí vạch nửa vòng tròn, vừa tránh khỏi ống điếu vừa khều nhẹ một cái, hất thỏi vàng đó lên.
Lữ Thất tiên sinh lập tức biến chiêu, đưa ống điếu điểm vào sau lưng đối thủ. Viên Thừa Chí nghiêng người sang phải, tay trái đỡ lấy thỏi vàng, lại ném lên trời. Đồng thời chàng dùng chân trái quét vào đôi chân Lữ Thất tiên sinh đang giẫm lên hai thỏi vàng. Hai thỏi vàng đó lập tức bay lên, Lữ Thất tiên sinh loạng choạng một cái, lùi bước mới đứng vững được.
Hai tay Viên Thừa Chí bắt lấy hai thỏi vàng, vỗ vào nhau. Nghe “chát” một tiếng, hai thỏi vàng đó đã kẹp trúng thỏi vàng đang từ trên không rơi xuống. Chàng mỉm cười nói: “Ba thỏi vàng này vãn bối đã lấy được. Lời nói của lão tiền bối không có gì thay đổi chứ?”
Mấy động tác này nhanh chóng vô cùng. Mọi người hoa mắt lên một cái, khi hai đối thủ tách ra thì ba thỏi vàng đã nằm gọn trong tay Viên Thừa Chí rồi. Lúc này Thanh Thanh cười tươi như hoa, Hoàng Chân vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, An Tiểu Huệ và Thôi Hy Mẫn vỗ tay khen ngợi. Ngay cả đám Kỳ Tiên Phái cũng không nén nổi phải hoan hô vang dội.
Mặt của Lữ Thất tiên sinh đỏ tận mang tai, không nói được tiếng nào. Tả chưởng lão “vù” một tiếng, rít gió đánh vào người Viên Thừa Chí. Chưởng vừa phát ra, chân trái lại xoay nửa vòng tròn, mượn đà đá tới hông của đối phương. Đây chính là quái chiêu của Hạc Hình Quyền. Hai chưởng giống như hai cánh của một con tiên hạc đang bay tới, hai chân co rút lại lúc dài lúc ngắn, giống hệt những con bạch hạc đang đánh nhau. Lão đã giấu cái ống điếu vào tay áo bên phải, hai chưởng xoay ngược lại, xòe ra cụp vào thật là linh động.
Viên Thừa Chí chưa từng gặp phải loại quái quyền này, cũng chưa nghe sư phụ nhắc đến. Nhất thời chàng không dám đến gần, chỉ chạy vòng quanh lão, càng chạy càng nhanh.
Lữ Thất tiên sinh thấy Viên Thừa Chí không dám đến gần mình, nghĩ bụng: “Thằng lỏi này chỉ có thân thủ nhanh nhạy, còn công lực thì nông cạn.” Lão lại nổi lòng khinh thị, cười ha hả rồi lấy cái ống điếu trong tay áo ra, rít một hơi dài, phà một làn khói trắng.
Chạy được mấy vòng, Viên Thừa Chí đã hơi hiểu chưởng pháp của đối thủ. Thấy lão hút thuốc khinh địch rất hợp với tâm ý của mình, chàng đột nhiên tung người lên, tống ngay một quyền vào giữa sống mũi của lão.
Lữ Thất tiên sinh giật mình đưa ống điếu ra cản trở, nhưng quyền của Viên Thừa Chí đã biến thành chưởng, áp lên ống điếu rồi xoay tay nắm lại. Lữ Thất tiên sinh vội vận sức kéo về. Viên Thừa Chí biết trước, nhân lúc lão kéo ngược về để lộ sơ hở dưới nách phải, bèn đưa tay điểm trúng huyệt Thiên Phủ của lão.
Lữ Thất tiên sinh vừa đau nhói vừa tê chồn, té nhào xuống đất, ống điếu đã rời khỏi tay.
Viên Thừa Chí liếc lại thấy Thanh Thanh mỉm cười nhìn mình, bèn nghĩ: “Để cô ấy vui vẻ một chút.” Chàng bèn xoay ngược ống điếu lại, kề vào bộ râu của Lữ Thất tiên sinh. Tẩu thuốc vừa được lão rít một hơi, lửa còn hừng, nên chòm râu của lão lập tức bén lửa, một làn khói xanh bay lên.
Hoàng Chân la lên: “Chết rồi! Hỏng bét! Lữ Thất tiên sinh lấy râu làm thuốc hút.”
Viên Thừa Chí hé miệng thổi vào tẩu thuốc. Tro bụi, tàn lửa và râu cháy dở cùng lúc bay lên, dính đầy mặt Lữ Thất tiên sinh.
Hoàng Chân cười ha hả, nhảy tới vừa vỗ vừa nắm vào người Lữ Thất tiên sinh để giải khai huyệt đạo. Ông tiện tay giật lấy cái ống điếu, nhét trở vào trong tay lão.
Lữ Thất tiên sinh lồm cồm đứng dậy, ngẩn ra một lúc. Lão thấy mọi người nhìn mình ra vẻ như cười mà không phải là cười, tức đến xanh mặt, quẳng ống điếu xuống đất, lập tức quay lưng bỏ chạy.
Vinh Thái la lên: “Lữ Thất tiên sinh!” Y nhặt cái ống điếu, đuổi theo nắm lấy tay áo của lão, nhưng bị lão dùng sức hất ra. Vinh Thái loạng choạng rồi đứng lại. Còn Lữ Thất tiên sinh thì cắm đầu chạy thẳng, nhất quyết không dừng bước.
Thôi Hy Mẫn hỏi: “Sư phụ! Lão đó thua trận thì thôi, sao lại quẳng cả ống điếu đi?”
Hoàng Chân trả lời rất nghiêm chỉnh: “Lão cai thuốc rồi.”
Thôi Hy Mẫn gãi gãi đầu, không hiểu được tại sao thua trận lại phải bỏ hút thuốc. Y không dám hỏi sư phụ nữa, bèn nhìn An Tiểu Huệ mong nàng giải thích cho mình biết. Nhưng An Tiểu Huệ cứ đứng nhìn theo Lữ Thất tiên sinh đang bỏ chạy mà cười khanh khách.
Bọn Kỳ Tiên Phái đã từng chứng kiến võ công của Viên Thừa Chí thì còn đỡ, chỉ tội cho đám bang chúng Du Long Bang. Xưa nay chúng vẫn coi Lữ Thất tiên sinh như một vị thiên thần, bây giờ thấy Viên Thừa Chí còn quá trẻ mà chỉ cất tay đã đánh cho lão đại bại cúp đuôi bỏ chạy, đều không khỏi chấn động hồn xiêu phách tán.
Tuy nhiên người bị chấn động nhất là Hoàng Chân. Ông thấy cái khều của Viên Thừa Chí vào dưới nách Lữ Thất đúng là tuyệt kỹ Thiết Chỉ Khuyết của phái Hoa Sơn. Nhưng bộ pháp Viên Thừa Chí chạy vòng quanh đối phương, và thủ pháp dùng hai tay cầm hai thỏi vàng kẹp lấy thỏi thứ ba, thì khác hẳn những gì ông đã tập luyện. Chiêu xoay tay đoạt lấy ống điếu của Lữ Thất thì quen thuộc, nhưng lại có ba phần kỹ xảo cổ quái, chắc chắn không phải võ công bản phái. Sở trường của võ công phái Hoa Sơn là ở chỗ nội lực mạnh, tốc độ nhanh. Không hiểu sư phụ lúc tuổi già có sáng tạo ra những chiêu thức tân kỳ, dạy cho người tiểu sư đệ này hay không, nhất thời ông không suy nghĩ cho thấu đáo được.
Hoàng Chân đưa tay gảy lách cách những hạt châu trên bàn tính, lên tiếng: “Vừa rồi lão gia kia đã nói, chỉ cần ba thỏi vàng bị nhích động là tất cả vàng ở đây đều trả lại. Tại hạ xin đa tạ trước.”
Nói xong, ông chắp tay thi lễ rồi bảo Thôi Hy Mẫn: “Nhặt đi.” Thôi Hy Mẫn bèn cúi xuống nhặt vàng.
Vinh Thái nhìn những thoi vàng sáng chói sắp rơi vào tay người khác, trong lòng không sao yên được. Y biết rõ Viên Thừa Chí đứng bên là đại cao thủ, công phu của mình không thể thắng được, nhưng luật lệ giang hồ là người nào gặp người đó có phần. Du Long Bang vì chỗ vàng này đã tổn thất nhiều nhân mạng, dù không được một nửa cũng phải được một phần ba mới phải.
Vinh Thái thấy Thôi Hy Mẫn võ công bình thường dễ bắt nạt, liền chạy đến tranh cướp, kề vai hất vai Thôi Hy Mẫn ra ngoài. Thôi Hy Mẫn lùi lại mấy bước, giận dữ hỏi: “Sao? Ông cũng muốn phân thắng bại với ta hay sao?”
Thấy thân pháp của Vinh Thái, Hoàng Chân biết đồ nhi của mình không phải là đối thủ, bèn quát lên: “Hy Mẫn, lùi ra.”
Sau đó ông bước tới, chắp tay mỉm cười nói: “Phát tài, phát tài! Xin hỏi lão bản đây là ông chủ cửa tiệm nào, trước nay buôn bán những thứ hàng gì? Chắc chắn buôn bán tấp nập, thuyền đầy tứ bể, hàng hóa trùm hết dương gian.”
Hoàng Chân xuất thân nhà buôn, tính tình rất hoạt kê, mỗi khi đối địch lại xổ rặt giọng thương lái, chẳng ra vẻ gì người biết võ cả. Vinh Thái giận dữ nói: “Ai rảnh mà giỡn? Tại hạ họ Vinh tên Thái, hiện là bang chủ Du Long Bang, chưa kịp thỉnh giáo tên tuổi của các hạ.”
Hoàng Chân nói: “Tiện tính là Hoàng, Hoàng trong câu Hoàng kim vạn lạng, nghe là thấy hên rồi. Còn thảo tự chỉ có một chữ Chân, nghĩa là chân thật. Buôn bán chân thật tức là không cần trả giá; hàng hóa thật, giá cả thật. Hàng trị giá một lượng bạc, bổn tiệm không dám bán mắc một xu. Đó mới là già trẻ đều thích thú, không ai ăn hiếp ai cả. Đại lão bản cần gì, xin chiếu cố qua một chút.”
Hình như ông nói không thể hết lời được, Vinh Thái càng nghe càng tức. Hoàng Chân là khai sơn đại đệ tử phái Hoa Sơn, nhưng ở vùng Giang Nam này ít người biết ông. Vinh Thái thấy tướng mạo ông chẳng oai phong gì nên có vẻ khinh thường, hét lên: “Đem vũ khí tới đây!”
Bọn Du Long Bang lập tức đưa đến một cây thương lớn. Vinh Thái đón lấy, chĩa ra phía trước, lập tức vẫy ra trước mặt Hoàng Chân một đóa hoa thương rất lớn, cuộn gió ào ào ập tới.
Hoàng Chân bước theo bộ pháp Thất Tinh Bộ, vọt người qua trái, la lên: “Ái chà! Chúng ta là người buôn bán, thấy vàng phải lấy.” Ông cất cái bàn tính và cây bút vào trong bọc, cúi xuống nhặt những thỏi vàng.
Ôn thị huynh đệ nhìn thân thủ đã biết Hoàng Chân là kình địch, nghe nói chuyện lại biết ông là sư huynh Viên Thừa Chí. Ôn Phương Nghĩa và Ôn Phương Ngộ biết Vinh Thái chắc chắn không phải là đối thủ, nên đồng thời nhảy ra quát lớn: “Lấy vàng không dễ như thế đâu.”
Thấy hai lão này hung hãn tấn công, Hoàng Chân liền né mình nhảy qua bên phải, tay trái xuất chiêu Kính Đức Quý Tiên, chém xéo ra nghe “vù” một tiếng.
Ôn Phương Nghĩa và Ôn Phương Ngộ vừa động thủ là bước theo bộ pháp Ngũ Hành Trận ngay, đánh xong một chiêu lập tức lùi ra, nhường chỗ cho Ôn Phương Đạt, Ôn Phương Sơn bước tới. Ôn Phương Sơn đưa tay trái lên đỡ chiêu của Hoàng Chân, còn tả quyền của Ôn Phương Thi âm thầm tập kích vào sau lưng ông.
Đại đệ tử phái Hoa Sơn nói chuyện khôi hài, nhưng hành sự vô cùng cẩn thận, võ công lại cao cường, nên cả đời hiếm khi bị hạ phong thế này. Bây giờ ông bị vây trong Ngũ Hành Trận, Ôn thị huynh đệ người ra kẻ vào, người đánh kẻ đỡ, chỉ năm người mà như mấy chục người tới lui bất tận. Hoàng Chân nghĩ bụng: “Sao trận pháp này biến hóa vừa phức tạp vừa nhanh chóng đến thế?” Ông phải bảo nguyên thủ nhất, thấy chiêu nào tránh chiêu đó, không dám mạo hiểm tấn công.
Thấy Hoàng Chân bị hãm vào giữa vòng vây của Ôn thị huynh đệ, chỉ miễn cưỡng chống đỡ chứ không có cách phản công, Vinh Thái mừng thầm. Y tưởng dễ ăn, liền dùng Dương Gia thương pháp đâm vào lưng Hoàng Chân. Tiểu Huệ kinh hãi la lên: “Hoàng sư bá, cẩn thận!”
Hoàng Chân là khai sơn đại đệ tử của Mục Nhân Thanh, võ công được chân truyền của phái Hoa Sơn. Nếu năm lão họ Ôn không dùng trận pháp độc môn này, dù họ xông lên một lúc cũng chưa phải là địch thủ của ông. Tên Vinh Thái này làm sao đánh lén được? Nghe sau lưng có tiếng gió của cây thương sắt, Hoàng Chân liền xoay ngược tay chụp trúng đầu thương. Thế tay không đoạt binh khí này giống hệt như Viên Thừa Chí vừa chụp lấy ống điếu của Lữ Thất, nhưng Hoàng Chân có mấy chục năm hỏa hầu nên vừa nhanh vừa chuẩn hơn nhiều.
Ông thuận tay kéo Vinh Thái tới, đồng thời tả chưởng ra chiêu Đơn Chưởng Khai Tiên đánh trả thoi quyền của Ôn Phương Sơn đánh tới, chân phải bước lên một bước tránh được đòn cước đá từ phía sau của Ôn Phương Nghĩa.
Nghe một tiếng “Úi chà”, cây thương lớn văng lên trước, rồi Vinh Thái văng theo. Cả thương lẫn người bay qua đầu sáu người, rớt ầm xuống đất. Bọn Du Long Bang vội chạy tới dìu bang chủ dậy. Phó bang chủ cùng đại đệ tử, nhị đệ tử thấy bang chủ thất thủ, lập tức nhảy vào. Nhưng mới mấy chiêu, cả ba đã bị Hoàng Chân mượn sức của Ôn thị ngũ lão hất văng ra hết. Phó bang chủ còn bị gãy cánh tay phải. Sau đó Du Long Bang không dám tham chiến nữa.
Hoàng Chân la lên: “Ông chủ lớn, ông chủ nhỏ, ông chủ vừa vừa, ai cũng có phần. Ai cũng được té nhào một cái, không ai bị bỏ sót đâu.” Ông một mình ác đấu với Ôn thị ngũ lão tới chỗ hăng say, chỉ còn thấy sáu bóng người vờn qua múa lại. Có lúc tưởng như Hoàng Chân đã thoát khỏi vòng vây, nhưng năm người đó như bóng theo hình, lập tức vây ông lại.
Hoàng Chân âm thầm lo lắng, kêu lên: “Vốn ít lãi nhiều thì chu chuyển không linh hoạt. Hoàng lão bản này một mình buôn bán năm mặt hàng, bận rộn không thể lo liệu hết ngay, xin thứ lỗi.”
Ôn thị huynh đệ cũng không nén được kinh ngạc, không hiểu nổi tại sao một tên quê mùa thế này mà có thể tự vệ nghiêm mật đến thế. Năm lão càng đánh càng nhanh, như năm con bướm bay lượn trong vườn hoa. Có lúc một người giơ chân định đá thì đột nhiên né qua một bên, để người sau lưng phóng quyền đánh tới. Có lúc một người dang hai tay xông tới như môn đánh vật, địch thủ vừa lùi thì sau lưng có người phóng cước đá tới, phối hợp rất ăn ý.
Hoàng Chân thấy chiêu pháp địch thủ biến hóa vô cùng, mình liên tiếp gặp nguy hiểm, may mà võ công rất tinh thuần mới tránh né được. Ông hú lên một tiếng, lấy trong bọc ra Đồng Bút và Thiết Toán Bàn, nghĩ bụng: “Năm anh em hắn đánh một mình ta, đã là một vụ giao dịch không công bằng rồi. Hoàng lão bản dùng binh khí trước, không thể gọi là ăn gian. Thế mới đúng là công bằng, già trẻ đều không ăn hiếp”.
Ông bèn lấy công làm thủ, Thiết Toán Bàn vỗ ngang đập dọc, Đồng Bút quét tới điểm lui, chiêu nào cũng nhằm vào yếu huyệt của Ôn thị ngũ lão.
Ôn Phương Đạt đột nhiên huýt một tiếng sáo. Bọn Ôn Chính, Ôn Nam Dương bèn ném binh khí của năm người vào trong vòng chiến. Năm lão họ Ôn cầm đủ thứ song kích, đơn đao, nhuyễn tiên, cương trượng, cương nhu phối hợp lẫn nhau, thỉnh thoảng lại có mấy mũi phi đao phóng tới.
Phen ác đấu này so với trận tỉ thí quyền cước vừa rồi còn hung hiểm thêm mấy phần. Chuyến đi buôn này của Hoàng lão bản rõ ràng sẽ lỗ to, không chừng sạt nghiệp là khác.
Thôi Hy Mẫn thấy tình thế sư phụ nguy cấp, biết chắc mình không đủ sức, nhưng y đã quen coi chết như về. Y hét lên một tiếng, rút đơn đao ra, tung người toan nhảy vào trong Ngũ Hành Trận. Mới bước được hai bước, thấy trước mắt có người đưa tay ra ấn xuống vai mình, Thôi Hy Mẫn liền vung đao chém tới. Nhưng người kia cực nhanh, đã đè tay lên vai của y rồi. Thân hình Thôi Hy Mẫn như bị đè dưới núi đá vạn cân, nửa bước cũng không nhúc nhích được. Y đang kinh hãi thì nghe người đó nói: “Thôi huynh! Huynh không vào được đâu.”
Bây giờ y mới nhìn rõ người đó là Viên Thừa Chí. Vừa rồi Viên Thừa Chí đánh ngã Lữ Thất tiên sinh, y chưa phục lắm, nghĩ đó chỉ là may mắn nhất thời. Bây giờ người ta chỉ để hờ tay lên vai, mà mình đã tê liệt cả người, y mới biết võ công người ta cao hơn mình rất nhiều. Chuyện này khiến y vô cùng kinh ngạc.
Viên Thừa Chí thả tay ra, nói: “Sư phụ của Thôi huynh còn chống đỡ được một lúc, đừng quá lo lắng.”
Chàng đứng nhìn sáu người tỉ đấu một hồi, đột nhiên nghĩ đến một vấn đề nan giải. Viên Thừa Chí chau mày một cái, nhất thời không định được chủ ý.
An Tiểu Huệ bước đến trước mặt chàng, lên tiếng gọi: “Thừa Chí đại ca! Huynh mau đi giúp Hoàng sư bá đi. Năm người họ đánh một mình sư bá, chẳng kể gì đến danh dự nữa.”
Viên Thừa Chí đang suy nghĩ không muốn phân tâm, bèn vẫy tay bảo nàng lùi ra. Tiểu Huệ mất cả hứng thú, vừa bĩu môi vừa rời khỏi đó. Thanh Thanh thấy vậy, thầm khoái chí trong lòng.
Sáu người càng đánh càng nhanh. Mỗi lần Hoàng Chân dùng Thiết Toán Bàn định khóa chặt binh khí đối phương, ngũ lão đều tránh né được. Sáu người đánh nhau chí tử như vậy nhưng hoàn toàn không có tiếng binh khí chạm nhau. Trong đại sảnh chỉ nghe thấy tiếng gió vù vù.
Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy bật lên, đến trước mặt Tiểu Huệ mà nói: “Tiểu Huệ muội muội, đừng trách ta vô lễ. Vừa rồi ta phải suy nghĩ đến xuất thần, bây giờ đã nghĩ ra rồi.”
Tiểu Huệ dằn dỗi nói: “Lúc này là lúc nào mà còn bày đặt xin lỗi này nọ? Mau mau vào giúp Hoàng sư bá đi!”
Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta đã suy nghĩ thông suốt rồi, không sợ nữa.”
Tiểu Huệ nói: “Huynh thật là không biết vật có nặng có nhẹ, việc có chậm có nhanh. Trong lòng khó xử thì đánh xong hãy suy nghĩ sau, không được hay sao?”
Thừa Chí mỉm cười nói: “Điều mà ta suy nghĩ, chính là phương pháp để phá trận pháp này. Muội có thấy không? Binh khí của năm ông lão này từ nãy đến giờ chưa từng đụng chạm vào Đồng Bút và Thiết Toán Bàn của Hoàng sư ca.”
Tiểu Huệ nói: “Bây giờ muội mới thấy lạ.”
Thôi Hy Mẫn đã có phần thán phục Viên Thừa Chí, liền hỏi: “Tiểu sư thúc! Thế thì có nghĩa gì?”
Viên Thừa Chí nói: “Trận thế này được tính toán hoàn chỉnh, hoàn toàn không để lộ chút sơ suất nào. Nếu binh khí hai bên chạm nhau, hơi khựng lại một chút thì không tránh khỏi để lộ sơ sót. Bí quyết để phá trận, chính là tìm cách làm cho bộ pháp, phương vị của năm người này rối loạn. Chỉ cần dụ một trong năm ông lão này đi sai một bước, hoặc chậm hơn một chút, trận pháp sẽ bị phá ngay.”
Thôi Hy Mẫn lắc đầu nói: “Họ luyện nhuyễn rồi, nhắm mắt chưa chắc đã bước sai.”
Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Đúng là họ đã luyện đến mức cực kỳ nhuần nhuyễn.” Chàng quay lại bảo: “Tiểu Huệ! Cho ta mượn cây trâm cài tóc một chút.”
Tiểu Huệ liền tháo ngọc trâm trên đầu xuống, đưa cho Viên Thừa Chí. Cây trâm ngọc này trong veo, óng ánh sắc xanh dìu dịu. Viên Thừa Chí nhận lấy, rồi đột nhiên hô lên: “Đại sư ca! Mậu Thổ sinh Ất Mộc. Sư ca hãy đạp cung Khôn, tới cung Khảm.”
Hoàng Chân ngẩn ra một cái, chưa kịp hiểu gì, Ôn thị ngũ lão đã giật mình kinh hãi: “Bí mật của Ngũ Hành Trận đã bị thằng lỏi này hiểu được rồi sao?”
Viên Thừa Chí lại kêu lên: “Bính Hỏa khắc Canh Kim. Sư ca hãy vào cung Chấn, rời cung Ly.”
Hoàng Chân đánh nhau đã lâu, dù cương mãnh tấn công trực diện hay biến hóa hư chiêu xảo diệu cũng không thoát khỏi vòng vây của năm lão này. Ông cũng đã nghĩ, trận thế này tên là Ngũ Hành Trận, chắc chắn chứa đựng nguyên lý ngũ hành tương sinh tương khắc. Nhưng ngũ lão chạy qua chạy lại như con thoi, thế công rất lợi hại, ông buộc phải dồn hết sức chống đỡ, không rảnh chút nào để suy nghĩ về trận pháp. Đột nhiên nghe Viên Thừa Chí chỉ điểm, ông nghĩ: “Thử một chút cũng hay.” Ông lập tức chạy đến cung Chấn, rời khỏi cung Ly; quả nhiên nhìn thấy một chỗ trống.
Hoàng Chân đang đảo người toan chạy ra khỏi vòng vây, đột nhiên nghe Thừa Chí la lên rất gấp: “Nhảy đến cung Càn, nhảy đến cung Càn.”
Lúc này ở vị trí cung Càn, rõ ràng có tới hai người là Ôn Phương Thi và Ôn Phương Sơn cản trở. Hoàng Chân hơi tiếc cơ hội trước mắt, nhưng không kịp suy nghĩ cho tỉ mỉ, cứ chạy tới thẳng chỗ hai lão đó. Khi ông đến gần thì quả nhiên hai lão này tách ra chạy ra hai bên, nhường chỗ Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Ngộ bọc vào nhưng không kịp. Hoàng Chân thân thủ cực nhanh, vung Đồng Bút điểm sang phải, Thiết Toán Bàn đập qua trái, đột nhiên đã ra ngoài trận, đứng bên Viên Thừa Chí.
Thế là Hoàng Chân thoát khỏi Ngũ Hành Trận. Đây là chuyện xưa nay Ôn thị ngũ lão chưa từng gặp phải, nên họ không khỏi kinh hãi. Năm người đồng thời lui ra, xếp thành một hàng ngang.
Ôn Phương Đạt nói: “Các hạ có thể thoát khỏi Ngũ Hành Trận của chúng ta, thân thủ quả bất phàm. Các hạ có phải ở phái Hoa Sơn không? Xưng hô với Mục Nhân Thanh lão tiền bối như thế nào?”
Võ công của Hoàng Chân tinh thuần, không phức tạp lung tung như Viên Thừa Chí. Ngũ lão chỉ qua lại mười mấy chiêu đã sớm biết môn phái của ông rồi.
Hoàng Chân vui vẻ đáp: “Mục lão tiền bối là ân sư của tại hạ. Đồ đệ như thế này, đã làm ân sư mất mặt rồi.”
Ôn Phương Đạt nói: “Đệ tử của Thần Kiếm Tiên Viên, hèn chi cao minh đến thế.”
Hoàng Chân nói: “Không dám, không dám! Không sợ không biết hàng, chỉ cần đem so sánh hàng này với hàng khác thôi. Chúng ta đã so sánh rồi, Hoàng tiểu lão bản này không làm gì được năm vị đại lão bản nhà họ Ôn, mà các vị cũng không bắt được tại hạ. Coi như đây là một vụ giao dịch sòng phẳng, nửa cân tám lạng. Món vàng này bây giờ phải tính sao đây?”
Ông quay đầu lại, nói với Vinh Thái: “Còn ông chủ này thì đi buôn lỗ vốn chắc chắn rồi. Món vàng này không có phần của ông chủ nữa đâu.”
Vinh Thái nhìn thấy mặt đất vàng chói không khỏi đau lòng, nhưng tự biết công phu mình kém cỏi. Y đành nói khoác mấy câu cho đỡ xấu hổ: “Họ Hoàng kia! Ngươi đừng khoa trương quá đáng. Rồi sẽ có ngày ngươi rơi vào tay ta.”
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Quý hiệu có món buôn bán gì, cứ việc giới thiệu cho bản hiệu. Hàng xấu thì bán rẻ một chút cũng không sao. Các vị đã là thân chủ lâu năm, giá cả có thể thương lượng đặc biệt.”
Vinh Thái đã biết mình không đánh nổi. Họ Viên mới là sư đệ của ông ấy, mà Hạc thần quyền Lữ Thất tiên sinh đã phải cụp cánh lủi đi, nói gì đến mình. Y đành dẫn đám đồ đệ và bang chúng rời khỏi đó. Trước khi ra khỏi cửa, y nhịn không nổi phải liếc nhìn đống vàng rơi vãi dưới đất, đột nhiên hối hận: “Vừa rồi sáu người ác đấu, sao mình không lén nhặt mấy thỏi, chắc không bị người ta nhìn thấy. Mà có nhìn thấy thì chưa chắc đã có ai rảnh tay cản trở.”
Bang chúng Du Long Bang đều là người huyện Long Du, ở gần Cù Châu. Chúng đảo ngược hai chữ Long Du để đặt tên Du Long Bang. Người ở huyện Long Du phần lớn là chính nhân quân tử. Du Long Bang đem đảo ngược hai chữ này, chẳng trách nhân phẩm của chúng không đàng hoàng gì lắm.
Ôn Phương Đạt không đếm xỉa gì tới bọn Du Long Bang nữa, nói với Hoàng Chân: “Các hạ võ công đầy mình, có thể coi là hào kiệt đương thời. Thôi thì thế này, chúng ta nể mặt các hạ, xin trả lại một nửa số vàng.”
Ôn Phương Đạt khiếp sợ oai danh phái Hoa Sơn, không muốn kết thêm oan gia, nên mới giải quyết lịch sự như vậy.
Hoàng Chân mỉm cười đáp: “Giả tỉ món vàng này của riêng tại hạ thì chẳng nói làm gì. Bây giờ thời thế không bình yên lắm, kiếm tiền không phải dễ dàng, nhưng bằng hữu đã cần thì cứ lấy dùng cũng không sao. Chúng ta đều biết, thắng bại là chuyện thường của binh gia, còn lời lỗ là chuyện cơm bữa của người buôn bán. Hòa khí sinh tài, buôn bán không lời thì nhân nghĩa vẫn còn. Nhưng lão huynh nên hiểu cho một việc, đây là quân lương của Sấm Vương. Tên đồ đệ bất tài của tại hạ chịu trách nhiệm đưa đến cho Sấm Vương, nếu tặng cho lão huynh một nửa thì làm sao tại hạ ăn nói được?”
Ôn Phương Nghĩa ra điều kiện: “Nếu các hạ đòi hết, không phải là không được. Nhưng các hạ phải ưng thuận chúng ta hai việc.”
Hoàng Chân nói: “Giá cả đã niêm yết ra là thương lượng được. Lão huynh đừng ngần ngại, giả tỉ lão huynh đòi giá trên trời thì ta vẫn có thể đứng dưới đất mà mặc cả một cách thoải mái. Lão huynh cho biết giá đi, chúng ta từ từ thương lượng, trả giá đàng hoàng.”
Ôn Phương Nghĩa nói: “Không trả giá gì cả. Thứ nhất, các hạ phải đem lễ vật tới để chuộc số vàng này. Lễ vật nhiều hay ít cũng được. Đây là quy luật của chúng ta. Tiền tài châu báu đã lọt vào tay chúng ta thì không dễ gì đoạt lại.”
Hoàng Chân biết, câu nói này chỉ cốt giữ thể diện mà thôi. Xem ra đối phương đã chịu trả toàn bộ số vàng, kết thêm oan gia chỉ có hại. Ông lập tức dẹp vẻ cười đùa, nghiêm chỉnh nói: “Ôn gia đã dặn dò, tại hạ dĩ nhiên tôn trọng. Sáng mai tại hạ sẽ vào thành Cù Châu, sắm một phần lễ trọng đưa tới, rồi đặt tiệc mời những bằng hữu có thể diện ở địa phương đến uống mấy ly để tỏ lòng cảm tạ quý vị.”
Ôn Phương Nghĩa nghe ông nói chuyện đàng hoàng, “hứ” một tiếng rồi nói tiếp: “Việc này coi như xong. Còn việc thứ hai, chúng ta phải giữ Viên lão đệ lại đây.”
Hoàng Chân ngẩn ra, nghĩ bụng: “Vì các ngươi chịu trả lại vàng nên ta đã nể mặt lắm rồi, thế mà còn kiếm chuyện làm phiền. Có mặt ta ở đây, làm sao các ngươi bắt nạt tiểu sư đệ được!”
Hoàng Chân không biết quan hệ bên trong phức tạp thế nào. Viên Thừa Chí đã biết bí mật giữa Kim Xà Lang Quân và Ôn Nghi, thì ngũ lão phải giết được chàng mới yên lòng. Lại còn việc quan trọng nhất, là phải dựa vào Viên Thừa Chí để tìm tấm bản đồ kho báu của Kim Xà Lang Quân. Tuy Ôn thị ngũ lão đã biết võ công của chàng cao cường, nhưng vẫn tự tin Ngũ Hành Trận của mình ảo diệu vô song, có thể kiềm chế được Viên Thừa Chí.
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Sư đệ của tại hạ ăn uống rất nhiều. Các vị muốn giữ nó lại chơi sáu tháng một năm cũng là chuyện tốt, chỉ sợ các vị tốn kém, lỗ vốn không chịu nổi.”
Ôn Phương Đạt cười nhạt nói: “Viên lão đệ vừa chỉ điểm cho các hạ thoát khỏi trận thế của chúng ta, nhất định đã hiểu bí quyết bên trong. Ta phải mời y thử một phen.”
Thì ra Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn có tới năm bộ trận pháp. Vừa rồi họ đối phó với Hoàng Chân chỉ dùng bộ Mậu Thổ, còn rất nhiều biến hóa kỳ lạ chưa đem ra hết. Ôn Phương Đạt nghĩ: “Ngươi vừa bị ép đến nỗi chỗ nào cũng suýt bị đánh trúng, tuy may mắn thoát khỏi vòng vây, nhưng chưa làm sứt mẻ đến trận pháp tí gì. Sư đệ của ngươi đứng ngoài thấy rõ ràng hơn, nên mới nhìn ra một chút manh mối. Nếu bản thân hắn bị vây vào trong trận, nhất định không khỏi mê man mờ mịt.” Vì thế lão thách thức Viên Thừa Chí không chút ngần ngại.
Hoàng Chân đã biết mùi lợi hại của trận pháp này, thầm nghĩ: “Mấy chục năm công lực của mình còn chưa đủ để thoát thân. Về thuật số tương sinh tương khắc của ngũ hành bát quái, sư phụ chẳng giỏi gì lắm, chưa từng dạy ta, chắc tiểu sư đệ không tinh thông được. Vừa rồi sư đệ chỉ điểm mấy câu, có thể vì đứng ngoài nhìn kỹ mà đột nhiên thấy chỗ sơ hở. Nếu phải tiếp chiêu với họ, năm địch thủ chạy qua chạy lại liên miên bất tuyệt, thì sư đệ làm sao đối phó nổi?”
Ông không biết Viên Thừa Chí học từ chỗ khác mà hoàn toàn hiểu rõ những biến hóa của trận pháp này. Hoàng Chân bèn nói: “Trận pháp của các vị rất lợi hại, tại hạ đã lãnh giáo rồi. Tiểu sư đệ của tại hạ còn nhỏ tuổi hơn cháu chắt của các vị lão gia, hà tất phải làm khó dễ y. Nếu các vị thật sự thấy y không vừa mắt, thì cử một vị ra dạy dỗ y một chút là được rồi.”
Câu này nghe thì khiêm tốn, thật ra là chèn ép ngũ lão, yêu cầu họ đơn đả độc đấu. Hoàng Chân đã thấy thân thủ của sư đệ đánh ngã Lữ Thất tiên sinh, tin rằng lấy một đánh một thì chàng không đến nỗi thua.
Ôn Phương Sơn cười nhạt nói: “Phái Hoa Sơn danh tiếng không vừa, thế mà gặp phải Ngũ Hành Trận nho nhỏ này thì lập tức hoảng sợ co đầu rút cổ. Từ nay về sau các vị đừng ra chốn giang hồ mà khoác lác nữa.”
Thôi Hy Mẫn giận dữ, từ sau lưng Hoàng Chân nhảy ra, quát lớn: “Ai nói phái Hoa Sơn chúng ta sợ các ngươi?”
Ôn Phương Sơn mỉm cười nói: “Ngươi cũng là nhân vật phái Hoa Sơn phải không? Hà hà… thật là lợi hại. Thế thì ngươi đến đây.”
Thôi Hy Mẫn tưởng lão khen mình lợi hại thật, toan nhảy ra động thủ ngay. Viên Thừa Chí vội đưa tay giữ lại, khẽ bảo: “Thôi đại ca, để ta lên trước. Nếu ta gặp nguy, huynh hãy đến giúp một tay.”
Thôi Hy Mẫn gật đầu nói: “Được! Lúc nào tiểu sư thúc cần ta giúp đỡ, chỉ cần gọi một tiếng Hy Mẫn là ta đến ngay. Không cần khách sáo gọi Thôi đại ca, Thôi nhị ca gì hết.”
Viên Thừa Chí gật đầu. Tiểu Huệ đứng bên bỗng phì cười một tiếng. Thôi Hy Mẫn trừng mắt lên hỏi: “Muội cười cái gì?”
Thôi Hy Mẫn định hỏi nữa, nhưng Viên Thừa Chí đã bước ra trước, tay vẫn cầm cây ngọc trâm. Chàng nói: “Ngũ Hành Trận của Kỳ Tiên Phái thật là kỳ diệu, vãn bối trước nay chưa từng được thấy.”
Ôn Phương Nghĩa nói: “Ngươi miệng còn hôi sữa, dĩ nhiên còn rất nhiều thứ chưa được thấy, đừng nói là Ngũ Hành Trận của chúng ta.”
Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Đúng vậy, kiến thức vãn bối rất nông cạn. Các vị lão gia muốn giữ vãn bối lại chơi, đó cũng là mong ước của vãn bối. Bây giờ xin thỉnh giáo Ngũ Hành Trận bí ảo của các vị lão gia một phen.”
Thôi Hy Mẫn lo lắng nói: “Tiểu sư thúc! Chúng không giữ sư thúc lại chơi tử tế đâu. Sư thúc đừng bị chúng lừa.”
Tiểu Huệ lại cười khúc khích. Viên Thừa Chí bảo Thôi Hy Mẫn: “Các vị lão gia không chấp nhặt bọn trẻ chúng ta đâu. Thôi đại ca cứ yên tâm đi.”
Chàng quay đầu lại nói với ngũ lão: “Vãn bối học nghệ chưa tinh, võ công phái Hoa Sơn chỉ biết một chút thô thiển bề ngoài. Xin các vị lão gia hạ thủ lưu tình.”
Mọi người nghe chàng nói năng mềm mỏng như có phần khiếp sợ, nhưng thần sắc lại chẳng lo lắng gì lắm, đều không biết Viên Thừa Chí đang suy tính thế nào. Còn Hoàng Chân thì âm thầm lo lắng, nhưng không tiện cản trở sư đệ, trong lòng cứ nghĩ: “Ôi! Vụ giao dịch này không nên làm.”
Ôn thị ngũ lão đã biết công lực của Viên Thừa Chí, không dám khinh suất. Năm người vẫy tay ra hiệu, Ôn Phương Nghĩa, Ôn Phương Sơn bước qua bên phải; Ôn Phương Thi, Ôn Phương Ngộ quay sang bên trái. Chỉ mấy bước là trận thế đã bày ra, vây Viên Thừa Chí vào giữa.
Viên Thừa Chí chẳng lo âu gì, chắp tay hỏi: “Bây giờ chúng ta bắt đầu luyện tập hay sao?”
Ôn Phương Đạt lạnh nhạt bảo: “Ngươi lấy binh khí ra đây.”
Viên Thừa Chí giơ cây ngọc trâm bên tay phải ra, nói: “Các vị là trưởng bối, vãn bối đâu dám vô lễ mà động đao thương? Xin dùng cây ngọc trâm này lãnh giáo mấy chiêu của các vị lão gia.”
Câu này vừa nói ra, mọi người đều kinh hãi, cảm thấy người này quá ngông cuồng. Ngọc trâm không giết chết được một con bọ, chỉ đụng nhẹ là gãy ngay, làm sao đỡ được cương trượng, đao, kích trong tay ngũ lão? Hồ đồ bừa bãi như thế, thật chẳng khác nào tự sát. Thanh Thanh vô cùng lo âu, nhưng chỉ biết than thầm: “Phải làm sao đây?”
Hoàng Chân biết lúc này không khuyên can được nữa, thầm nghĩ: “Nhất định tiểu sư đệ đã được sư phụ nuông chiều thành tính, mới bước vào giang hồ không biết trời cao đất rộng gì cả.” Ông nắm chặt Đồng Bút và Thiết Toán Bàn, lại nghĩ: “Nếu sư đệ gặp nguy, ta phải lập tức cứu viện. Phen này vì báo đáp ân sư, dù mất cái mạng già này cũng không tiếc.”
Ông hạ giọng dặn dò Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ: “Địch thủ mạnh vốn quá, chúng ta ít tiền không chống nổi, chuyến buôn này chắc chắn lỗ lã. Lát nữa khi ta bảo các ngươi chạy, thì hai ngươi phải lập tức nhảy lên mái nhà mà chạy ra ngoài. Ta và Viên sư đệ lo phần đoạn hậu. Bất kể hung hiểm thế nào, các ngươi tuyệt đối không được quay lại trợ giúp. Còn số vàng này thì đừng nghĩ đến nữa.”
Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ đều vâng dạ.
Hoàng Chân đã tính đến chuyện liều mạng cản địch, tìm cách cứu sư đệ thoát hiểm. Việc này không khó, chỉ cần hai người Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ không bắt mình phải lo lắng là được. Hôm nay thua trận bỏ chạy là nhục nhã, nhưng cứ tạm thời nhẫn nại. Sau này hẹn đủ năm cao thủ phái Hoa Sơn đồng thời tấn công, nhất định có thể phá được Ngũ Hành Trận. Lúc đó mới hỏi lại năm lão già này, có phải phái Hoa Sơn chỉ có hư danh hay không.
Năm người mà ông dự tính, ngoài ông thì có vợ chồng Nhị sư đệ Quy Tân Thụ, đại đệ tử Bát diện oai phong Phùng Nhân Địch của ông, lại thêm sư phụ Mục Nhân Thanh chủ trì. Chỉ cần chia ra tập kích Ôn thị ngũ lão, không cho năm lão này hợp sức tấn công, thì Ngũ Hành Trận không thành vấn đề. Nói đến đơn đả độc đấu, thì Ôn thị ngũ lão nhất định không phải là đối thủ của mình.
Hoàng Chân vẫn mỉm cười vui vẻ, nhưng trong lòng mưu kế sâu xa, chưa nghĩ thắng đã lo bại trước rồi. Ông định xong kế sách thoát thân trước mắt, rồi sắp đặt kế hoạch báo thù ngày sau. Trong những người mà ông chọn để phá Ngũ Hành Trận không có Viên Thừa Chí, vì ông nghĩ rằng công lực của tiểu sư đệ còn nông cạn, không bì được Phùng Nan Địch, môn đồ đắc ý của mình.
Bỗng nghe Viên Thừa Chí hỏi: “Các vị lão gia đã có lòng chỉ giáo, sao còn giấu giếm, không cho vãn bối được thấy toàn bộ tuyệt kỹ này?”
Ôn Phương Đạt ngạc nhiên hỏi: “Cái gì mà toàn bộ với không toàn bộ?”
Viên Thừa Chí nói: “Các vị ngoài Ngũ Hành Trận ra, còn có Bát Quái Trận để hỗ trợ. Sao không bày ra cùng lúc, để vãn bối có thể mở rộng tầm nhìn?”
Ôn Phương Nghĩa thét lên: “Chính ngươi tự nói đấy nhé! Ta sẽ cho ngươi được chết mà không oán trách.”
Lão quay lại, gọi bọn Ôn Nam Dương: “Các ngươi đến đây!”
Ôn Nam Dương vẫy tay một cái, cùng mười lăm người anh em đồng thời tung người ra. Ôn Nam Dương hét lên một tiếng, mười sáu người bắt đầu chạy quanh ngũ lão, người chạy sang trái, người vòng sang phải, chạy qua chạy lại như thoi đưa. Trong mười sáu người này có Ôn Nam Dương, Ôn Chính, có con cháu nhà họ Ôn, cũng có đồ đệ của ngũ lão, đều là cao thủ Kỳ Tiên Phái đã đặc biệt chọn ra để luyện tòa Bát Quái Trận này.
Thấy tình hình xoay chuyển như thế, dù Hoàng Chân kiến thức rộng rãi cũng không khỏi hoảng sợ. Ông nghĩ: “Viên sư đệ thật là trẻ nít không biết gì, gây thêm nhiều chuyện phiền hà cho mình. Nếu y chỉ đấu với ngũ lão thôi, thì khi thật sự nguy hiểm ta còn có thể nhảy vào trong trận mà cứu giúp. Bây giờ bên ngoài lại thêm mười sáu người cản trở, bao nhiêu khoảng trống đều bị chúng bao vây cẩn mật, chim cũng không bay vào trong được. Chuyến buôn này đã ít vốn rồi, sao càng làm càng lớn? Không thể điều động vốn đến được, chỉ còn đường dẹp tiệm.”
Viên Thừa Chí cầm ngọc trâm bằng ngón cái và ngón giữa, tay trái nhẹ đưa lên, chân phải co lại, dùng chân trái làm trụ, thân hình đột nhiên quay tít bốn năm vòng. Chàng vừa nhúc nhích, Ôn thị ngũ lão lập tức di chuyển, phát động thế trận ngay, chăm chú nhìn xem chàng tấn công hướng nào. Nhưng Viên Thừa Chí chỉ quay quanh một chỗ như bông vụ, không di chuyển bước nào mà cũng không xuất thủ.
Trước đây Kim Xà Lang Quân đã giao đấu với Ôn thị ngũ lão, vì trúng độc nên bị bắt. Sau này ông được người cứu thoát, trốn trong sơn động dưới núi Hoa Sơn, ngày đêm cứ suy nghĩ về tình hình ác đấu lúc đó. Ông nhận ra, nếu khi đó mình không trúng phải Túy Tiên Mật, nội lực không trì trệ, thì cũng không thể công phá nổi Ngũ Hành Trận, chẳng qua chỉ chống đỡ thêm được một giờ hay ba khắc.”
Kim Xà Lang Quân suy nghĩ rất kỹ, nghiên cứu từng chiêu thức, từng bộ pháp của ngũ lão, cuối cùng đã phát hiện mấu chốt của trận pháp này. Đã lọt vào vòng vây thì bất luận ra tay cứng cỏi hay tránh né xảo diệu, ngũ lão vẫn có những chiêu thức lợi hại để đánh trả. Khi một lão ra tay, bốn lão kia liên tục chuyển động theo. Những chiêu thức của ngũ lão đều hỗ trợ nhau phòng thủ, bổ sung che chắn sơ hở cho nhau. Đúng là chiêu thức của năm người kín kẽ như chỉ một người. Võ công của một người mà không có chỗ sơ hở thì làm sao công phá được?
Kim Xà Lang Quân nghĩ mãi, nghĩ mãi, suy xét tỉ mỉ ngày đêm, tìm tòi không ít phương pháp kỳ lạ. Nhưng ông càng nghĩ càng cảm thấy thế trận này không có cách nào phá được.
Đương nhiên Kim Xà Lang Quân có nghĩ đến chuyện ám sát hay hạ độc. Chỉ cần hại chết một người trong ngũ lão là xong, Ngũ Hành Trận không thể tinh giản thành Tứ Hành Trận được. Nhưng ông là người cao ngạo, không muốn thắng bằng biện pháp hạ lưu. Huống chi gân mạch của ông đã bị cắt đứt, võ công mất sạch, không thể chính tay báo thù được. Đã nói là phá trận thì phải đường đường chính chính, dùng bản lãnh thật sự để phá.
Một buổi sớm, khi ra ngoài, đột nhiên ông thấy một con rắn xanh nhỏ đang bò trong bụi cỏ. Khi nghe tiếng người, nó lập tức khoanh tròn lại như cái bánh, đầu ngẩng cao ở giữa, hoàn toàn không động đậy.
Ông có ngoại hiệu Kim Xà Lang Quân vì quen hành sự linh hoạt hiểm ác, cũng vì ông thích nuôi rắn để lấy nọc chế tạo thuốc độc, ám khí. Năm xưa, vợ của Ôn Phương Ngọc trong Ôn thị huynh đệ vừa trúng độc tiễn là mất mạng ngay, thuốc độc tẩm trên đầu tên chính là nọc rắn.
Kim Xà Lang Quân rất hiểu tính nết loài rắn. Ông biết nó khoanh người lại, đầu ngẩng cao ở giữa là để đợi địch tấn công trước, rồi bất ngờ phóng tới, nhằm chỗ sơ suất của địch mà phản kích. Nếu địch không động đậy, thì loài rắn rất ít khi tấn công. Thân rắn khoanh lại thành cái bánh tròn, che giấu được những nhược điểm của mình. Đầu ngẩng lên để có thế tấn công, dùng nọc độc là vũ khí mạnh nhất của mình để thừa cơ tập kích. Nếu loài rắn mà ngang nhiên duỗi người ra để cắn, thì thân rắn rất dài nên nhược điểm sẽ nhiều, không khỏi bị địch thừa cơ đánh trúng chỗ bảy tấc trên cổ, hoặc dưới bụng, hoặc ở đuôi. Đó là thiên tính tự vệ của loài rắn.
Chuyện này Kim Xà Lang Quân đã thấy mấy trăm lần, nhìn mãi thành quen. Bây giờ trong lúc ông tập trung tinh thần suy nghĩ đến yếu quyết công phá Ngũ Hành Trận, đột nhiên trong đầu nảy ra một tia sáng. Ông mừng đến nỗi reo lên. Phương pháp để phá Ngũ Hành Trận đã được phát minh, chỉ có bốn chữ: “Hậu phát chế nhân”. Bí quyết “Hậu phát chế nhân” này hoàn toàn trái ngược đường lối “Tiên hạ thủ vi cường” thường thấy trong võ học.
Chiến lược cơ bản đã hoạch định, mọi thủ đoạn khác theo đó mà giải quyết. Kim Xà Lang Quân không khó nhọc lắm đã nghĩ ra toàn bộ phương pháp để phá Ngũ Hành Trận, chép tỉ mỉ vào Kim Xà Bí Kíp. Ông biết rõ rằng chưa chắc có người phát hiện bí kíp này, mà có người gặp cũng không chừng đã trễ cả trăm cả ngàn năm. Lúc đó hài cốt của Ôn thị ngũ lão đã hóa thành bụi lâu rồi. Nhưng uất khí trong lòng ông không trút ra được, lại nghĩ: “Có lẽ Ngũ Hành Trận sẽ được lưu truyền cho đời sau. Nếu vĩnh viễn không ai phá được, chẳng lẽ để bọn Kỳ Tiên Phái xưng bá trong thiên hạ?”
Trong lòng Kim Xà Lang Quân đã có phương pháp, coi như Ngũ Hành Trận đã bị phá. Nếu ông có thể tự mình dùng phương pháp này phá vỡ Ngũ Hành Trận, dĩ nhiên là tốt nhất, nhưng đó chỉ là một trường ảo mộng. Ông cũng không có điều kiện thu nhận đệ tử để hoàn thành tâm nguyện của mình.
*
* *
Lúc này Viên Thừa Chí theo đúng cương lĩnh Hậu Phát Chế Nhân, chỉ quay tại chỗ mấy vòng đã làm rúng động Ngũ Hành Trận và Bát Quái Trận.
Bát Quái Trận được ngũ lão sáng lập sau này, trong Kim Xà Bí Kíp không đề cập đến. Nhưng yếu chỉ căn bản của nó không khác gì Ngũ Hành Trận, Viên Thừa Chí chỉ nhìn mười sáu người chạy quanh mấy vòng đã hiểu được rồi. Chàng nghĩ: “Nếu đối thủ không thể phá được Ngũ Hành Trận, thì có thêm Bát Quái Trận để làm gì? Còn nếu ai đã phá được Ngũ Hành Trận, thì Bát Quái Trận chắc chắn không cản được người đó.”
Kiến thức và thiên bẩm của Ôn thị ngũ lão kém xa Kim Xà Lang Quân. Có lẽ Ngũ Hành Trận là do đời trước truyền xuống, chứ bản thân Ôn thị ngũ lão không đủ sức sáng chế ra. Họ tự ý tăng cường thêm thế trận này, lại làm cho nó yếu đi. Năm xưa, nếu Kim Xà Lang Quân biết sau này Ôn thị ngũ lão bày trò vẽ rắn thêm chân thế này, thì ông vạch kế hoạch phá Ngũ Hành Trận còn dễ hơn nhiều. Muốn phá Ngũ Hành Trận, mấu chốt là ở chỗ tìm sơ suất trong trận đó. Nếu không có sơ suất, thì phải làm cho nó tự phát sinh sơ suất. Bọn đệ tử kết thành Bát Quái Trận bên ngoài, dĩ nhiên công phu kém cỏi hơn. Muốn bắt chúng phát sinh sơ suất thì dễ hơn nhiều.
Ôn thị ngũ lão đợi chàng ra tay rồi mới thừa thế xông vào. Nhưng họ thấy thân hình chàng càng xoay càng chậm, hoàn toàn không tấn công. Cuối cùng Viên Thừa Chí ngồi bệt xuống đất, hai tay đặt lên đầu gối, miệng nhoẻn cười. Ngũ lão dĩ nhiên bị bất ngờ, những người đứng bên nhìn cũng hoàn toàn không hiểu. Ai cũng nghĩ, sao chàng dám đùa giỡn trước mặt đại địch như thế?
Thật ra không phải Viên Thừa Chí khinh địch. Chàng đã cố ý dùng cây ngọc trâm yếu ớt làm binh khí là để đối thủ không có ý đề phòng. Bây giờ chàng ngồi bệt xuống đất, hoàn toàn không có thế để tấn công, ra vẻ rất khinh thị đối phương, khiến đối phương tức giận khó kiềm chế được. Khi đã nổi giận, thấy cơ hội sẽ mất thận trọng. Mình lại cố ý để lộ sơ suất, đối phương biết là không nên tấn công mà nhịn không nổi phải tấn công. Hễ họ tấn công là lập tức trận pháp để lộ sơ suất. Lúc này Viên Thừa Chí ra vẻ khinh mạn, thật ra là dụ dỗ đối phương lỗ mãng khinh địch.
Quả nhiên khi thấy Viên Thừa Chí ngồi bệt xuống đất, Ôn Phương Nghĩa nhịn không nổi nữa, bắt chéo song chưởng muốn đánh vào sau lưng chàng. Ôn Phương Ngộ vội bảo: “Nhị ca! Đừng làm loạn trận pháp.” Ôn Phương Nghĩa bèn cố nhẫn nại. Chân của ngũ lão chạy nhanh hơn, trận pháp thay đổi liên miên, chỉ đợi Viên Thừa Chí xuất thủ là lập tức ùa lên.
Bất kể là đại quân dàn trận hay hai người tỉ đấu, đã tập trung toàn lực để tấn công đối phương thì bên mình chắc chắn sẽ lộ ra yếu điểm không thể phòng bị. Nhưng nếu mình tấn công lợi hại, địch thủ phải lo tự vệ, không rảnh tay để đánh trả, thì yếu điểm của mình không cần phải thủ, đó gọi là lấy công làm thủ. Ngũ Hành Trận dùng một người dụ đối phương tấn công mà bộc lộ điểm yếu, bốn người còn lại nhằm vào điểm yếu ấy mà tập kích. Đạo lý tương sinh tương khắc chính là chỗ đó. Nhưng bây giờ Viên Thừa Chí hoàn toàn không động đậy, toàn thân không chỗ nào không phòng bị. Vì thế ngũ lão không có cách nào đánh tới.
Một lúc sau, Viên Thừa Chí đột nhiên ngáp dài rồi nằm hẳn xuống đất, hai tay đặt dưới đầu làm gối, đầy vẻ nhàn hạ thoải mái. Mười sáu tên đệ tử ở Bát Quái Trận phía ngoài đã phải chạy khá lâu, mà càng chạy càng nhanh. Những tên nội lực hơi yếu đã vã mồ hôi đầy đầu, thở hào hển nghe rõ tiếng. Phải công nhận ngũ lão nhẫn nại phi thường, đến lúc này vẫn chưa xuất kích.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Không ngờ mấy lão già này nhịn giỏi đến thế.” Chàng đột nhiên nằm sấp lại, lưng hướng lên trên, giấu mặt trong tay, ngáy khò khò. Từ xưa đến giờ, võ lâm mấy ngàn năm tỉ đấu chưa từng có tư thế kiểu này. Lưng hướng lên trên mà nằm ngủ, không phải mặc kệ cho người ta chém giết hay sao?
Thôi Hy Mẫn, Tiểu Huệ, Thanh Thanh, Ôn Nghi vừa buồn cười vừa lo lắng cho Viên Thừa Chí. Còn Hoàng Chân thấy Viên Thừa Chí ngồi xuống, rồi nằm xuống, đã hiểu sách lược đối địch của chàng, không khỏi thán phục sư đệ vừa gan dạ vừa thông minh. Nhưng lúc này thấy chàng khinh địch tới mức lật người nằm sấp, ông phải thầm lo: “Hỏng bét! Sư đệ khuyến mãi quá đáng rồi. Nếu ngũ lão đánh lén sau lưng, thì làm sao tránh né được? Đành rằng muốn bán được hàng thì không ngại ăn nói ngọt như mật, tự thổi phồng mình. Vương bà bán dưa, không dưa nào không ngọt. Có thể dựng chuyện khoe khoang khoác lác, nhưng ai lại đi dùng kiểu khổ nhục kế như thế?”
Ôn Phương Đạt thấy có cơ hội, mừng rỡ vội đưa tay trái lên vẫy. Bốn lưỡi phi đao của Ôn Phương Thi bay tới nhanh như điện chớp, nhằm vào giữa lưng Viên Thừa Chí. Phi đao vừa nhanh vừa chính xác, mọi người đứng bên kinh hãi la lên.
Bỗng thấy bạch quang nhấp nháy bắn ngược trở ra. Thì ra Viên Thừa Chí nghe tiếng phi đao lao tới, liền bật người dậy vung cả hai tay ra bắt lấy bốn lưỡi phi đao, ném trả vào Bát Quái Trận phía ngoài. Ôn Nam Dương và ba đệ tử đời thứ hai nhà họ Ôn bị trúng đao, chẳng phải vai cũng phải đùi. Tiếng la chưa dứt, chúng đã bị Viên Thừa Chí xách cổ quẳng vào trong Ngũ Hành Trận.
Ngũ lão vừa ngẩn ngơ, bước chân hơi chậm trễ đã thấy Viên Thừa Chí theo khoảng trống bắn vọt ra ngoài. Mười sáu tên đệ tử bên ngoài giống như bầy ngựa khát tranh nhau chạy xuống suối, liên tiếp bị ném vào trong. Viên Thừa Chí vung quyền phóng cước, chiêu nào cũng rất nặng nề. Bọn đệ tử nhà họ Ôn nếu không bị chàng kiềm chế yếu huyệt rồi tóm cổ quăng vào, cũng bị chàng phóng chưởng lực đẩy bật vào trong trận. Mấy tên công lực thâm hậu hơn như Ôn Chính tuy cố chống đỡ, nhưng chỉ ba chiêu hai thức là bị đánh ngã rồi lọt vào giữa Ngũ Hành Trận.
Ngũ Hành Bát Quái Trận lập tức đại loạn, trong trận không thấy địch đâu, chạy tới chạy lui đều là phe ta cả. Mọi người hoàn toàn không ngờ được, Viên Thừa Chí đang nằm sấp dưới đất mà có thể xuất quái chiêu, dẫn dụ Ngũ Hành Trận và Bát Quái Trận sơ suất đến thế này.
Ôn thị ngũ lão kêu la om sòm, tay chân múa loạn lên để đón lấy những tên đệ tử bị đẩy vào trong trận. Dĩ nhiên Viên Thừa Chí không để họ bố trí lại trận mạc. Chàng bước tới hai bước, đưa ba ngón tay chụp vào huyệt đạo của Ôn Phương Thi.
Ôn Phương Thi thấy Viên Thừa Chí tấn công tới, phóng tiếp bốn lưỡi phi đao nhằm vào trước ngực chàng. Viên Thừa Chí đưa tay vỗ trúng cán đao cho phi đao bay mất hết, lại đưa ngón tay điểm vào Cơ Huyệt ở dưới yết hầu Ôn Phương Thi hai tấc.
Cương trượng của Ôn Phương Sơn bay vù tới, nhắm vào chân phải Viên Thừa Chí. Chàng thuận tay lôi ngay một tên đệ tử Kỳ Tiên Phái vào, cản trước đầu trượng của lão.
Ôn Phương Sơn kinh hãi. Lão không mong phát trượng này đánh trúng kẻ địch, nhưng tình thế lúc đó Viên Thừa Chí dù tiến hay lùi cũng không thể tránh né, chỉ còn cách dùng binh khí đỡ gạt. Nhưng vũ khí của Viên Thừa Chí chỉ là một cây ngọc trâm nhỏ xíu, rất giòn, chỉ chạm nhẹ vào cương trượng là nát vụn ngay. Nào ngờ Viên Thừa Chí lại kéo một tên đệ tử của lão đến trước mặt để làm lá chắn, phát trượng này chắc chắn đánh cho đệ tử nát xương.
May mà võ công lão cao cường, biến chiêu cực kỳ nhanh chóng. Trong lúc khẩn cấp, đột nhiên lão bước lên một bước, tay trái dùng hết sức vỗ vào đầu trượng, miệng hô lớn: “Đại ca, cẩn thận!”
Lực đạo của cương trượng vẫn còn mãnh liệt, nhưng phương hướng đã được thay đổi, đập vào hông Ôn Phương Đạt. Ôn Phương Sơn biết đại ca chắc chắn đỡ được chiêu trượng này, quả nhiên Ôn Phương Đạt đã dựng đứng song kích lên. Một tiếng “choảng” điếc tai, tia lửa bay tứ tán. Cả cương trượng lẫn song kích đều chấn động dội ngược về.
Viên Thừa Chí tận dụng cơ hội, gấp rút tấn công Ôn Phương Ngộ. Tả chưởng chàng phóng ra che đỡ, ngọc trâm bên tay phải không ngớt đâm vào cặp mắt lão này. Ôn Phương Ngộ liền lùi lại, rung động trường tiên, định phong tỏa phía trước mặt mình. Nhưng Viên Thừa Chí đã tới cách có ba thước, còn cây roi da trong tay lão lại quá dài đâm ra vướng víu. Chỉ trong chốc lát, ngọc trâm đã tấn công liên tiếp sáu bảy chiêu.
Ôn Phương Ngộ thấy ngọc trâm nhấp nháy mãi trước mặt, không rời cặp mắt của mình, hai lần đã chạm vào mí mắt. Lão hoảng sợ đến nỗi hồn xiêu phách tán, bây giờ mới biết mùi lợi hại của cây ngọc trâm. Cuối cùng lão không tránh né được nữa, bèn vứt bỏ trường tiên, đưa hai tay bịt mắt, nhào ngửa ra sau lộn đi mấy vòng mới giữ được cặp mắt. Nhưng lưng lão đã trúng một cước rất nặng của Viên Thừa Chí, đau thấu tâm can.
Năm xưa Ôn Phương Ngộ đã dùng trường tiên đả bại liên tiếp mười hai hảo hán trên lôi đài Trịnh Châu, oai phong lẫm liệt, lừng danh cả một vùng. Mấy chục năm nay tiếng tăm lão càng lúc càng lên, nào ngờ hôm nay thảm bại dưới cây ngọc trâm trên tay một thiếu niên. Lúc đứng dậy được, dĩ nhiên lão vừa xấu hổ vừa giận dữ. Mọi người đứng bên nhìn đều phải kinh ngạc.
Hoàng Chân thấy tiểu sư đệ xuất thủ đã tuyệt diệu lại kỳ lạ, thật sự trước nay chưa từng thấy. Ông vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nghĩ bụng: “Ngay cả sư phụ cũng chưa chắc biết những công phu này. Tiểu sư đệ đã vốn lớn lại hàng hóa dồi dào, lắm thứ lắm kiểu nhìn hoa cả mắt, xem ra không chỉ là hàng phái Hoa Sơn. Đường lối đi buôn của y thật là phong phú.”
Thôi Hy Mẫn hò hét cổ vũ như điên, còn An Tiểu Huệ che miệng mỉm cười.
Viên Thừa Chí phá xong trận, tinh thần lại càng phấn chấn. Bây giờ phần thắng đã nắm chắc trong tay, chàng liên tục xuất chiêu công kích đối phương. Chàng vừa sử Phục Hổ Chưởng của phái Hoa Sơn, vừa dùng ngọc trâm ra những chiêu Kim Xà Kiếm Pháp trong Kim Xà Bí Kíp. Thân thủ này cho dù Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh đến đây, Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi phục sinh, thì mỗi người nhìn thấy cũng chỉ biết một nửa, dĩ nhiên Ôn thị ngũ lão không sao hiểu được.
Đánh lùi Ôn Phương Ngộ xong, Viên Thừa Chí quay sang tấn công Ôn Phương Nghĩa. Chàng liên tiếp xuất hiểm chiêu, ép cho lão này tay chân rối loạn.
Ôn Phương Đạt thấy tình thế gấp rút bèn lớn tiếng huýt sáo, đột nhiên phóng chưởng đẩy một tên đệ tử ra ngoài. Ôn Phương Sơn cũng dùng cả tay chân đấm đá xua bọn đệ tử ra khỏi trận cho đỡ vướng. Trong luyện võ sảnh ít người hẳn đi, Ngũ Hành Trận bắt đầu ráp lại. Nhưng Viên Thừa Chí cứ ép Ôn Phương Nghĩa không chút nương tay, khiến năm lão không thể phối hợp nhịp nhàng với nhau được.
Đột nhiên Ôn Phương Nghĩa trúng chưởng vào vai trái. Cương trượng của Ôn Phương Sơn đánh thẳng lên lưng Viên Thừa Chí, đồng thời song kích của Ôn Phương Đạt đâm tới bên trái. Tay trái của Ôn Phương Nghĩa rất đau, nhưng lão vẫn cố giữ đúng phương vị. Bây giờ Bát Quái Trận đã phá, Ngũ Hành Trận đã loạn, nhưng ngũ lão vẫn tiếp tục bước theo trận pháp, dùng hết sức chống đỡ.
Lúc đầu Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí dùng cây ngọc trâm của An Tiểu Huệ làm binh khí, nàng có phần tức tối. Nhưng bây giờ thấy chàng sắp thắng, nàng lại âm thầm mừng rỡ.
Còn Ôn Nghi thấy Viên Thừa Chí tiến thoái tránh né giữa vòng vây của ngũ lão, ung dung tiêu sái chẳng khác gì dáng vẻ của Kim Xà Lang Quân trong Ngũ Hành Trận năm xưa. Xem được một hồi, bà như nhìn thấy tình lang đêm ngày trông đợi đang áo trắng phất phơ hiển lộng thần oai. Bà không nén nổi tâm thần khích động, đứng bật dậy kêu lên: “Hạ lang! Hạ lang! Ca ca… ca ca cuối cùng đã đến!”
Ôn Nghi cất bước tiến vào cửa luyện võ sảnh. Thanh Thanh vội nắm tay bà kéo lại, la lên: “Má má! Đừng đi!”
Ôn Nghi giật mình, tập trung tinh thần nhìn lại thiếu niên trong trận. Thân hình người này hơi giống Kim Xà Lang Quân, nhưng mặt mũi khác hẳn. Bà cảm thấy choáng váng, ngã vào lòng Thanh Thanh.
Ngay lúc đó Viên Thừa Chí đột nhiên tung người nhảy lên, tay phải đưa cây ngọc trâm cắm vào búi tóc, tay trái chụp lấy cây xà ngang trên nóc sảnh. Ngũ lão đang tập trung cao độ cho trận ác đấu bỗng không thấy địch thủ đâu nữa. Họ đang kinh ngạc thì cảm thấy trên đỉnh đầu có gió cuốn tới, mấy chục món ám khí từ trên không vãi xuống, biết là hỏng rồi. Ôn Phương Sơn và Ôn Phương Thi chưa kịp tránh né đã bị kim tiền tiêu đánh trúng huyệt đạo, té nhào xuống đất.
Theo bí kíp của Kim Xà Lang Quân, lẽ ra phải dùng bảo kiếm để hộ thân rồi mới tấn công vào chỗ sơ suất của đối phương. Viên Thừa Chí không có bảo kiếm, nên phải thay đổi. Chàng lật người nằm sấp để dụ đối phương phóng phi đao, rồi thừa thế tấn công phá tan Bát Quái Trận, cuối cùng phóng ám khí để thay thế bảo kiếm mà phá nốt Ngũ Hành Trận. Tuy thủ pháp có khác nhau, nhưng sách lược cơ bản vẫn là di ý của Kim Xà Lang Quân.
Ôn Phương Đạt vội cúi xuống cứu em, nhưng Viên Thừa Chí lại ném một mớ tiền đồng từ trên xuống. Song kích của Ôn Phương Đạt lập tức ra chiêu Mật Vân Bất Vũ xoay tít trên đỉnh đầu. Nghe những tiếng tinh tang không dứt, lão gạt văng được mười mấy mũi kim tiền tiêu. Đột nhiên tay lão rung lên một cái, song kích hình như bị quấn chặt lại, không thể thi triển được nữa. Lão giật mình, cố vận sức kéo ngược lại, nào ngờ kéo mạnh như thế mà song kích vẫn tuột khỏi tay bay ra.
Ôn Phương Đạt không kịp suy nghĩ, liền nhảy sang bên hai bước, đưa song chưởng ra hộ thân. Trong tiếng la kinh hãi của những người đứng quanh, Viên Thừa Chí từ trên không nhảy xuống, đứng ở một phía luyện võ sảnh, hai tay cầm song kích. Cây roi da của Ôn Phương Ngộ đang quấn trên đầu của cặp kích đó.
Viên Thừa Chí quát: “Xem đây!” Song kích rời tay chàng bay vù ra, chia nhau cắm vào hai cây trụ rất to trong đại sảnh. Lưỡi kích đâm ngập vào thân trụ. Hai cây trụ lắc lư, mái ngói trên đầu chuyển nghe rào rào. Những người đang đứng gần cửa tranh nhau chạy ra xa, sợ đại sảnh bị sập.
Năm xưa, khi Mục Nhân Thanh bắt đầu dạy kiếm cho Viên Thừa Chí, ông từng vung tay phóng kiếm đâm ngập vào cành cây. Lúc đó Mộc Tang đạo nhân có mặt, khen là kiếm pháp thiên hạ vô song. Viên Thừa Chí hôm nay hiển lộ oai phong, chính là chiêu đó vận dụng nhuần nhuyễn.
Hoàng Chân thấy chàng dùng thủ pháp bản môn ném kích cắm vào trụ, oai phong không gì đỡ nổi. Ông không nén được, la lên: “Viên sư đệ! Chiêu Thiên Ngoại Phi Long tuyệt diệu.”
Viên Thừa Chí quay đầu lại mỉm cười, lên tiếng: “Đó là nhờ ơn dạy dỗ của sư phụ. Xin đại sư ca chỉ giáo.”
Ôn Phương Đạt hoang mang nhìn quanh tứ phía, thấy bốn người em đều nằm dưới đất.
Viên Thừa Chí bước chậm rãi đến cạnh Hoàng Chân, rút cây ngọc trâm trên đầu xuống trả cho Tiểu Huệ.
Ôn Phương Đạt thấy Ngũ Hành Bát Quái Trận “thiên hạ vô địch” của bản phái đã bị thiếu niên này phá vỡ trong khoảnh khắc, nhanh như chặt ngã cây khô mục. Lão đau lòng chỉ muốn đập đầu vào cột mà chết cho xong. May mà lão kịp thời nghĩ lại: “Ta đã là một lão già hết thời, mối thù này coi như không trả được là xong. Nên giữ lại hơi thở để tiếp tục làm những chuyện hay ho.”
Lão bèn vẫy tay bảo Hoàng Chân: “Vàng ở đây cả, các ngươi cứ lấy đi.”
Thôi Hy Mẫn không đợi nghe câu thứ hai, lập tức vơ những thỏi vàng dưới đất, nhét vào một túi da. Kỳ Tiên Phái có mấy chục người đứng kế bên mà như không có người nào, ai cũng giương mắt lên nhìn không dám cản trở. Trận đấu vừa rồi của Viên Thừa Chí đã khiến chúng vỡ gan vỡ mật, mất sạch ý chí.
Ôn Phương Đạt đến bên nhị đệ Ôn Phương Nghĩa, thấy tròng mắt đảo loạn xạ, thân thể không động đậy được. Lão biết nhị đệ đã bị Viên Thừa Chí dùng kim tiền tiêu đánh trúng huyệt đạo, bèn ra sức xoa bóp vào huyệt Vân Đài. Nhưng xoa hồi lâu mà Ôn Phương Nghĩa vẫn bủn rủn không động đậy được, Ôn Phương Đạt bèn qua xem ba đứa em kia. Nhìn là biết ngay cả ba đều bị đả huyệt, lão dùng hết sở học để vận nội lực giải khai, nhưng hoàn toàn không có công hiệu.
Ôn Phương Đạt biết phương pháp đả huyệt của Viên Thừa Chí có chỗ quái lạ. Nhưng thảm bại thế này, thân phận như lão làm sao có thể hạ mình xin giúp đỡ? Lão bèn quay lại nhìn Thanh Thanh, môi mấp máy.
Thanh Thanh biết lão muốn mình năn nỉ Viên Thừa Chí, nhưng nàng giả vờ không hiểu mà hỏi: “Đại gia gia! Gia gia sai bảo con phải không?”
Ôn Phương Đạt lầm bầm trong miệng: “Con nha đầu điêu ngoa này! Bây giờ ngươi làm khó dễ ta phải không? Để chuyện này xong xuôi ta mới sửa trị mẹ con ngươi.” Nhưng lão vẫn dịu dàng nói: “Con nhờ huynh ấy giải huyệt cho bốn vị gia gia đi.”
Thanh Thanh đến trước mặt Viên Thừa Chí, chắp tay thi lễ rồi nói lớn: “Đại gia gia của muội muốn nhờ huynh giải huyệt cho bốn vị gia gia của muội. Đây là đại gia gia của muội nhờ đại ca, chứ không phải muội nhờ đâu đấy.”
Viên Thừa Chí nói: “Được!” Chàng lập tức bước tới, cúi xuống toan chữa trị.
Đột nhiên Hoàng Chân gảy lách cách trên Thiết Toán Bàn, lên tiếng: “Sư đệ chẳng hiểu biết gì cả. Hàng hóa độc quyền có thể lên giá, tại sao không lên giá? Sư đệ cứ cho giá đi, dù đắt thế nào người ta cũng phải mua.”
Viên Thừa Chí biết đại sư huynh có ác cảm với Kỳ Tiên Phái, bây giờ muốn thừa cơ trả thù. Chàng nghĩ: “Sư phụ đã dạy, ra tay phải khoan dung, phải dành đường sống cho người khác. Thanh Thanh đã năn nỉ, vàng cũng lấy lại rồi, mình không muốn bắt bí Ôn thị ngũ lão làm chi. Nhưng đại sư ca ở đây thì mọi việc phải để huynh ấy chủ trì.” Chàng bèn nói: “Xin đại sư ca chỉ dạy.”
Hoàng Chân nói: “Ôn gia ở vùng này tàn hại lương dân, hoành hành bá đạo. Dân chúng Cù Châu oán tận xương tủy, hai ngày nay ta đã nghe thấy rõ ràng. Sư đệ! Sư đệ trị bệnh cho người ta cũng phải bỏ vốn, nên thu lại chút ít phí tổn mới không lỗ lã. Món tiền chẩn bệnh này, bản thân chúng ta không cần lắm. Nhưng nếu dùng để cứu tế những nông gia đã bị họ Ôn hãm hại, thì cần lắm chứ?”
Lúc mới đến Tịnh Nham, Viên Thừa Chí đã thấy rất nhiều nông dân kéo tới nhà họ Ôn kêu oan cãi lý, bị Ôn Chính đánh cho sứt đầu mẻ trán. Không có người nào trong thị trấn Tịnh Nham này mà không hận Ôn gia. Chàng bỗng nổi lòng nghĩa hiệp, nói: “Không sai! Nông dân ở đây đã bị họ làm khổ lắm rồi. Đại sư ca nói đi, phải như thế nào?”
Hoàng Chân đưa tay gảy lóc cóc lên bàn tính, vừa gạt lên gạt xuống vừa lẩm nhẩm tính toán: “Một với một là hai, hai thêm hai là bốn, bốn với một là năm…” Ông gảy mãi không dừng, cứ như đang cộng sổ nợ vậy.
Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ đã quen nhìn bộ điệu này của Hoàng Chân, còn Viên Thừa Chí thì cung kính với đại sư huynh nên thấy ông tính toán kỳ lạ cũng không dám cười. Bọn Kỳ Tiên Phái đang giận dữ bừng bừng, dĩ nhiên không cười nổi. Chỉ có Thanh Thanh luôn miệng khúc khích.
Cuối cùng Hoàng Chân gật đầu nói: “Viên sư đệ! Lệ phí chẩn mạch đã được ta tính xong. Cứu một mạng là bốn trăm thạch gạo trắng.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Những bốn trăm thạch ư?”
Hoàng Chân đáp: “Không sai! Bốn vị lão gia này đều là anh hùng hảo hán một phương. Tính ít như vậy là có phần coi thường họ rồi. Mỗi vị bốn trăm thạch gạo trắng thượng hạng, không được lẫn một hạt sỏi, một hạt thóc. Cân đo phải đúng tiêu chuẩn, không được thiếu một cân một lạng nào.”
Chưa cần hỏi Ôn Phương Đạt đồng ý hay không, Hoàng Chân đã nói đến chi tiết về gạo trắng.
Viên Thừa Chí nói: “Ở đây bốn vị lão gia, thế thì tổng cộng một ngàn sáu trăm thạch.”
Hoàng Chân giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Sư đệ tính toán rất giỏi, không cần dùng bàn tính vẫn tính được một người là bốn trăm thạch, bốn người là một ngàn sáu trăm thạch.”
Thôi Hy Mẫn buột miệng lên tiếng: “Con cũng tính được.”
Hoàng Chân gật đầu với y một cái, tỏ ý khen ngợi, rồi bảo Ôn Phương Đạt: “Sáng sớm ngày mai, xin quý hiệu chuẩn bị đầy đủ một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, chia cho dân nghèo quanh vùng Tịnh Nham, mỗi người một đấu. Khi các vị phát xong một ngàn sáu trăm thạch, sư đệ của tại hạ sẽ chữa trị bốn huynh đệ các vị.”
Ôn Phương Đạt nhẫn nhịn nói: “Gấp rút thế này, ta làm sao kiếm được nhiều gạo trắng như thế? Dù dọn sạch kho gạo trong nhà cũng được bảy tám chục thạch là cùng.”
Hoàng Chân nói: “Lệ phí chẩn mạch này là thống nhất trên toàn quốc, nhất định không trừ chiết khấu. Nhưng nể mặt bằng hữu lâu năm, có thể mở rộng kỳ hạn phát gạo. Phát xong bốn trăm thạch thì cứu một người; phát xong tám trăm thạch thì cứu người thứ hai. Nếu tiền bạc các vị không thuận lợi lắm, thì cứ việc để mười ngày nửa tháng, hoặc sáu tháng một năm rồi hãy phát gạo. Lúc đó dù sư đệ của tại hạ đang ở Liêu Đông hay Vân Nam cũng lập tức khởi hành đến đây cứu người, không chậm trễ một phút nào.”
Ôn Phương Đạt nghĩ: “Bốn người đã bị điểm huyệt, tối đa mười hai giờ huyệt đạo sẽ tự giải. Chẳng qua hao tổn một ít nội lực, đâu cần để hắn bắt nạt như thế?”
Hoàng Chân thấy mắt lão láo liên, đoán được tâm ý bèn nói: “Thật ra chúng ta là đồng nghiệp, đều biết sau mấy giờ huyệt đạo sẽ tự giải. Thế thì một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng đó có thể tiết kiệm. Nhưng cách điểm huyệt bằng Hỗn Nguyên Công của phái Hoa Sơn bọn tại hạ có chỗ bá đạo. Nếu không dùng công phu bản môn để giải cứu, thì người bị điểm huyệt sau này tay chân không nhanh nhẹn lắm, dần dần sẽ hoa mắt chóng mặt, đại tiện không thông, tiểu tiện bế tắc. Nội lực khó tránh khỏi bị tổn thương, chuyện này không cần tại hạ nói nhiều. May mà tuổi tác của bốn vị lão gia còn rất trẻ, chỉ rèn luyện năm sáu chục năm là khôi phục nguyên trạng ngay thôi.”
Ôn Phương Đạt biết chuyện này không phải giả dối, bèn nghiến răng lại nói: “Được! Ngày mai ta bắt đầu phát gạo là xong.”
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Đúng là đại lão bản, buôn bán sảng khoái, không thèm trả giá. Sau này có buôn bán gì, xin chiếu cố đến bản hiệu.”
Ôn Phương Đạt bị trêu ghẹo mà không dám nói gì, phất tay áo đi vào trong.
Viên Thừa Chí thi lễ với Ôn Nghi và Thanh Thanh rồi nói: “Hẹn mai gặp lại.” Chàng biết Kỳ Tiên Phái đang có việc cần mình, nhất định không làm khó dễ hai mẹ con này. Thế là bốn người phái Hoa Sơn vui sướng xách gói vàng quay về nông gia đang tá túc.
*
* *
Lúc này trời đã mờ mờ sáng. Tiểu Huệ xuống bếp nấu mì, bốn người vừa ăn vừa bàn tán trận đại thắng này, ai cũng mặt mày rạng rỡ.
Hoàng Chân bưng tô mì lên nói: “Viên sư đệ! Khi nghe tin sư phụ vừa thu nhận một đồ đệ rất trẻ, ta từng nói giỡn với vợ chồng nhị sư đệ Quy Tân Thụ: “Đệ tử của chúng ta nhiều người đã ngoại tứ tuần, đột nhiên sư phụ bắt chúng có thêm một vị tiểu sư thúc, chỉ sợ chúng bị khó xử.” Nào ngờ công phu của sư đệ lại giỏi như thế. Đại sư ca này kém sư đệ rất xa. Nhị sư đệ ngoại hiệu là Thần Quyền Vô Địch, đại giang nam bắc ít khi gặp địch thủ, nhưng theo ta thì chưa chắc y thắng được sư đệ. Chuyện phát dương quang đại phái Hoa Sơn sau này phải đặt lên vai sư đệ. Ở đây không có rượu, ta dùng tô nước mì này để kính sư đệ một ly.”
Nói xong, ông đưa tô canh lên miệng rồi uống cạn.
Viên Thừa Chí lập tức đứng dậy, cũng bưng tô canh lên uống một hớp rồi nói: “Hôm nay tiểu đệ may mà đắc thắng. Cử chỉ đệ có phần khinh suất vì muốn dụ cho đối phương khinh địch mà ra tay công kích, thật sự không dám làm sai những điều sư phụ dạy dỗ. Lời khen của sư ca, đệ không dám nhận. Xin đại sư ca chỉ giáo cho đệ nhiều hơn.”
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Tính khiêm cung cẩn thận của sư đệ, võ lâm ít ai bì được. Ngồi xuống, ăn mì tiếp đi.”
Viên Thừa Chí ngồi xuống ăn tiếp. Hoàng Chân gắp thêm mấy đũa rồi quay lại bảo Thôi Hy Mẫn: “Chỉ cần ngươi học được một phần của Viên sư thúc là đủ sử dụng cả đời rồi.”
Thôi Hy Mẫn ở trong nhà họ Ôn đã thấy Viên Thừa Chí đại hiển thần oai, giơ tay một cái là phá tan Ngũ Hành Trận kỳ quái, trong lòng thán phục. Bây giờ nghe sư phụ nói vậy, y đột nhiên quỳ xuống khấu đầu với Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Xin tiểu sư thúc dạy cho một chút bản lãnh.”
Viên Thừa Chí vội quỳ xuống trả lễ, đáp: “Công phu của sư phụ huynh còn tinh thuần gấp mười lần ta.”
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Công phu của ta không bằng sư đệ, nhưng thừa sức dạy dỗ gã này. Ta chỉ thiếu lòng nhẫn nại thôi. Nếu sư đệ chịu giúp hắn, sư ca thật cảm kích không sao nói hết.”
Thì ra Hoàng Chân không khước từ nổi Thôi Thu Sơn năn nỉ, mới nhận Thôi Hy Mẫn làm đồ đệ. Tên đệ tử này tư chất ngu đần, nghe mười cũng không hiểu một hai, ngược hẳn tính cách cơ biến linh hoạt của Hoàng Chân. Vị đại sư ca này nói giỡn đã quen, dù trong lúc truyền thụ võ nghệ cũng không ngớt xen vào những chuyện khác. Đệ tử càng ngu dốt, ông trêu chọc càng nhiều.
Thôi Hy Mẫn không phân biệt nổi trong lời nói của sư phụ câu nào thật, câu nào giỡn. Rõ ràng Hoàng Chân châm biếm, y vẫn tưởng sư phụ khen ngợi mình. Học hành như thế thì khó mà thành tựu. Sau này Viên Thừa Chí nhớ tới thúc thúc của y là Thôi Thu Sơn đã liều mạng cứu mình, lại thấy y là ý trung nhân của Tiểu Huệ, nên tìm cách chỉ điểm. Tuy rằng Thôi Hy Mẫn thiên tư có giới hạn, không lãnh hội được bao nhiêu, nhưng so với trước đây thì tiến bộ rất nhiều.
Bốn người nằm trong đống rơm ngủ được mấy giờ. Đến trưa Hoàng Chân và Viên Thừa Chí mới thức dậy, phía ngoài có người kêu cửa. Một đại hán đi vào, trình danh thiếp của Ôn Phương Đạt, mời bốn người tới nhà. Hoàng Chân mỉm cười nói: “Tin tức các ngươi thật là thông suốt, ngay cả nơi ở của chúng ta mà cũng thám thính ra được.”
Bốn người tới nhà họ Ôn thì thấy thương nhân tụ tập đông đúc, gạo trắng gánh kìn kìn vào. Thì ra Ôn Phương Đạt đã sai người đi suốt đêm đến Cù Châu để mua gạo. Cù Châu là một thành phố trù phú ở Chiết Đông, nhưng đột ngột có người cần mua tới một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, không khỏi làm giá gạo tăng lên. Thế là Ôn gia lại tốn thêm mấy trăm lượng bạc.
Ôn gia mời Hoàng Chân xem lại để kiểm tra số lượng, rồi bắt đầu phát cho người nghèo quanh vùng, mỗi người một đấu. Cả vùng xôn xao bàn tán, không hiểu tại sao những vị Ôn thần này đổi tính.
Hoàng Chân thấy Ôn Phương Đạt đã phát gạo thật sự, không tiếp tục trêu ghẹo nữa. Ông nói: “Ôn lão gia! Lão gia phát gạo tế bần, thật đã tích đức cho con cháu rồi. Tại hạ mới nghe một bài hát rất hợp, để hát cho lão gia nghe thử.”
Ông lập tức gân cổ lên, vừa vung tay múa chân vừa hát:
“Năm tháng gần đây khổ liên miên; Hạn hán lũ lụt, châu chấu liền; Giá gạo tăng vọt, tiền không có; Lê dân bá tính sống không yên.
Rễ cây cành lá ăn để sống, Gái trai già trẻ phải khóc ròng; Lu rỗng, nồi niêu kết mạng nhện; Nhiều ngày một bữa cháo cũng không.
Quan phủ thúc lương như hổ dữ; Phú hào đòi nợ tựa sài lang; Thương thay những kẻ còn ngoi ngóp; Hồn phách chưa tan đã vùi hang.
Thây ma chất cao như ngọn núi; Cơ cực đói khát chỉ ngậm ngùi; Khóc mãi lệ khô thành chảy máu, Ai nhìn cảnh ấy chẳng bùi ngùi.
Khuyên kẻ giàu ra tay cứu giúp; Một hạt gạo nhường nhau đúng lúc; Phúc đức từ đó mà tích tụ; Nhân nghĩa từ đó mà vững gốc.
Trời cao có mắt giúp kẻ hiền; Ơn đức sâu dày phúc vô biên; Cứu trợ muôn dân công lao lớn; Con cháu đời đời hưởng triền miên.”
Giọng hát của Hoàng Chân chẳng hay gì, nhưng ý nghĩa của ca từ làm động lòng người, ai nghe cũng thay đổi sắc mặt.
Viên Thừa Chí khen: “Sư ca! Bài hát này hay thật.”
Hoàng Chân nói: “Ta đâu có tài như thế? Đây là do Lý Nham công tử, một đại tướng dưới trướng Sấm Vương sáng tác ra.”
Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Thì ra do Lý Nham đại ca sáng tác. Huynh ấy chẳng lúc nào quên lê dân đói khổ, thế mới là đại anh hùng chân chính.”
Viên Thừa Chí không chờ phát hết một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, giải luôn huyệt đạo cho Ôn thị tứ lão. Bốn ông lão này khốn đốn mất nửa đêm, chỉ còn hơi mà không còn sức, lại thêm tức tối khiến cho mặt mày xanh mét.
Viên Thừa Chí chắp tay thi lễ với mấy lão, nói: “Đắc tội rất nhiều, vãn bối muôn phần áy náy.”
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Các vị đã đem tặng một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, không khỏi có phần đau lòng xót của. Nhưng danh tiếng của Ôn gia ở Tịnh Nham lại tốt lên không ít. Chuyến buôn này thật sự quý hiệu lời to, chẳng lẽ không tự biết?”
Năm lão không nói tiếng nào, quay lưng bỏ vào trong nhà.
Hoàng Chân thấy gạo đã phát xong, người nghèo đã giải tán hết, bèn nói: “Chúng ta đi thôi!”
Viên Thừa Chí định cáo biệt Thanh Thanh, lại nghĩ: “Hai mẹ con nàng đã ra mặt cãi lại nhà họ Ôn, e rằng không ở đây được nữa.” Chàng toan thương nghị với sư ca thì bỗng thấy Thanh Thanh ôm chầm lấy mẹ, vừa khóc vừa kêu: “Thừa Chí đại ca!”
Viên Thừa Chí nhanh chân chạy tới, thấy sau lưng Ôn Nghi đã có hai lưỡi phi đao đâm lút tới cán, rõ ràng là trí mạng không cứu nổi. Lại thấy Ôn Phương Thi mặt đầy sát khí bước ra, hai tay vẫy lia lịa, bốn lưỡi phi đao nữa phóng vào lưng Thanh Thanh. Viên Thừa Chí nhảy vọt lên, đưa hai tay ra chụp hết.
Ôn Phương Thi vừa thấy Viên Thừa Chí bắt đao đã biết là hỏng bét. Lão gấp gáp lùi lại, toan núp sau cánh cổng. Viên Thừa Chí thấy lão dã man giết hại người thân, nổi giận bừng bừng. Chàng tung người tới, phóng cước rất nặng đá trúng lưng lão. Đòn cước này đã vận Hỗn Nguyên Công, kình lực phi thường.
Ôn Phương Thi không la được một tiếng, té nhào vào trong cổng, miệng phun máu tươi liên tục. Viên Thừa Chí đá phát này tuy không lấy mạng lão, nhưng nội lực đã thấm vào yếu huyệt. Ôn Phương Thi từ đây trở thành phế nhân, suốt đời không chữa được, công phu mất sạch.
Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Tứ gia gia… hạ độc thủ giết… giết má má…”
Viên Thừa Chí vừa giận vừa buồn, đưa tay muốn nhổ phi đao cho bà. Hoàng Chân vội gạt chàng ra, bảo: “Không thể rút ra được, rút ra là lập tức chết ngay.” Ông thấy Ôn Nghi trọng thương khó cứu, bèn điểm vào hai huyệt cho bà đỡ thấy đau đớn.
Ôn Nghi lộ nụ cười, nói nhỏ nhẹ: “Thanh nhi đừng buồn. Mẹ… mẹ đi đây… Mẹ đi gặp phụ thân của con đây. Ở bên phụ thân của con, không còn ai… không còn ai có thể bức hiếp mẹ nữa.”
Thanh Thanh vừa khóc vừa gật đầu liên tục.
Ôn Nghi bảo Viên Thừa Chí: “Còn một chuyện, xin Viên tướng công đừng giấu giếm ta.”
Viên Thừa Chí nói: “Bá mẫu muốn biết việc gì? Vãn bối nhất định không giấu giếm.”
Ôn Nghi hỏi: “Y có để lại di thư hay không? Có nhắc đến ta hay không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Hạ tiền bối có để lại đồ phổ võ công. Hôm qua vãn bối phá Ngũ Hành Trận, chính là dùng phương pháp của tiền bối. Thế là đã trả được thâm thù, bớt phần uất hận cho tiền bối.”
Ôn Nghi hỏi: “Y có để lại thư cho ta không?”
Viên Thừa Chí không trả lời, chầm chậm lắc đầu.
Ôn Nghi lộ vẻ thất vọng, nói: “Y uống xong chén chè hạt sen thì mất đi khí lực. Chén chè hạt sen đó do chính… chính ta bưng cho y uống. Nhưng ta thật… thật không biết chút nào cả.”
Viên Thừa Chí an ủi: “Hạ tiền bối linh thiêng trên trời nhất định đã hiểu, không trách bá mẫu đâu.”
Ôn Nghi nói: “Chắc chắn y chết vì thương tâm, trách ta ám hại y. Bây giờ y hiểu thì cũng muộn rồi.”
Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Má má! Phụ thân đã hiểu từ lâu rồi. Hôm đó má má đã uống chỗ chè thừa, nguyện chết cùng phụ thân, lại còn ngăn cản trước mặt phụ thân. Lúc đó phụ thân đã hiểu rõ rồi.”
Ôn Nghi mơ hồ hỏi: “Y… y hiểu thật không? Sao mãi không đến đón ta? Ngay cả di thư… cũng không viết cho ta chữ nào.”
Viên Thừa Chí thấy bà sắp chết mà vẫn canh cánh bên lòng về việc này, nhất thời không nghĩ ra được câu nào an ủi. Chàng thấy ánh mắt bà tán loạn, hai tay từ từ thõng xuống, đột nhiên động tâm nhớ đến tấm bản đồ kho báu kẹp trong bìa Kim Xà Bí Kíp, trong đó có tên Ôn Nghi. Chàng vội lấy trong bọc ra, gọi lớn: “Bá mẫu, bá mẫu! Bá mẫu xem này.”
Cặp mắt Ôn Nghi đã khép lại, bây giờ từ từ mở ra. Khi thấy nét chữ trên bản đồ, đột nhiên bà phấn chấn hẳn, lên tiếng: “Đúng là chữ của y, ta nhận ra rồi.”
Rồi bà khẽ đọc mấy dòng chữ: “Người được món bảo bối này, thật sự là tri kỷ của ta. Hãy đến Tịnh Nham, Cù Châu, tỉnh Chiết Giang, tìm người con gái tên là Ôn Nghi, tặng giúp ta mười vạn lạng vàng. Đúng là tên ta rồi.”
Bà cố đọc nốt hai hàng chữ nhỏ: “Bây giờ gom hết châu báu trong thiên hạ cũng khó mua được nửa ngày gặp gỡ. Xem nặng báu vật mà coi thường ly biệt, cực kỳ ngu muội. Thật là hối hận, thật là hối hận.”
Ôn Nghi mỉm cười, nắm lấy tay áo Viên Thừa Chí, hoan hỉ nói: “Y không trách ta. Y vẫn nhớ nhung ta… vẫn thương yêu ta. Bây giờ ta đi đây. Ta đi gặp y đây…” Bà từ từ nhắm mắt lại.
Viên Thừa Chí thấy tình cảnh này, không kìm nổi nước mắt chảy ra. Ôn Nghi đột nhiên mở mắt ra nói: “Viên tướng công! Ta cầu xin tướng công hai việc. Xin tướng công ưng thuận.”
Viên Thừa Chí vội đáp: “Bá mẫu nói đi. Chỉ cần làm nổi, chuyện gì vãn bối cũng tuân theo.”
Ôn Nghi nói: “Việc thứ nhất, nhờ tướng công đem ta an táng cạnh y. Việc thứ hai… thứ hai…”
Viên Thừa Chí hỏi: “Việc thứ hai là gì? Bá mẫu nói đi.”
Ôn Nghi nói: “Ta… thân thích trên đời chỉ có… chỉ có đứa con gái này. Nhờ tướng công… đời này kiếp này… thay ta chiếu cố cho nó.”
Bà trỏ Thanh Thanh, đột nhiên nghẹn hơi không nói tiếp được, mi mắt khép lại, cổ ngoẹo xuống không động đậy nữa.
Thanh Thanh nằm phục lên người mẹ mà khóc lóc. Viên Thừa Chí nhẹ nhàng vỗ lên vai nàng an ủi. Hoàng Chân, An Tiểu Huệ, Thôi Hy Mẫn, ba người thấy Viên Thừa Chí quan tâm đến nàng như thế, lại thấy mẫu thân của nàng bị giết thảm, đều nổi lòng trắc ẩn. Nhưng họ không biết chút gì về nội tình sự việc, nên không thể nói gì để an ủi.
Thanh Thanh đột nhiên đặt thi thể mẹ xuống đất, tuốt kiếm ra chạy đến trước cổng, vung kiếm chém loạn vào cánh cổng, vừa khóc vừa la lên: “Các ngươi đã hại chết phụ thân ta, bây giờ lại hại chết mẫu thân ta. Ta… ta phải giết sạch cả nhà họ Ôn các ngươi.”
Rồi nàng tung người nhảy lên đầu tường. Viên Thừa Chí nhảy lên theo, nhẹ nắm lấy cánh tay nàng, khẽ nói: “Thanh đệ! Đúng là họ rất ác độc. Nhưng dù sao Tam gia gia vẫn là ông ngoại của Thanh đệ.”
Thanh Thanh uất nghẹn, lảo đảo rồi té quỵ xuống. Viên Thừa Chí vội đưa cánh tay quàng ngang hông đỡ lại, nhận ra nàng đã ngất xỉu. Chàng kinh hãi la lên: “Thanh đệ! Thanh đệ!”
Hoàng Chân nói: “Không sao, chỉ do thương tâm quá độ mà thôi.” Ông lấy ra một điếu ngải nhung, đốt lên rồi hơ vào dưới mũi Thanh Thanh một lúc. Nàng bỗng hắt hơi rồi từ từ tỉnh lại, cứ ngơ ngác nhìn thi thể mẹ, không nói tiếng nào.
Viên Thừa Chí hỏi: “Thanh đệ! Thanh đệ làm sao vậy?”
Thanh Thanh chẳng nói gì.
Viên Thừa Chí nghẹn ngào bảo: “Thanh đệ không thể ở đây nữa rồi. Hãy đi theo chúng ta.”
Thanh Thanh ngơ ngẩn gật đầu. Viên Thừa Chí ôm lấy thi hài Ôn Nghi, rồi năm người cùng rời khỏi căn nhà của họ Ôn.
Viên Thừa Chí đi được vài bước quay đầu nhìn lại, thấy trước sân nhà vương vãi gạo trắng, là những hạt rơi vãi lúc phát gạo. Mấy chục con chim đang nhảy nhót giành ăn. Lúc này thái dương ở giữa bầu trời, bóng người tròn trĩnh dưới chân, căn nhà lớn của họ Ôn khóa chặt cửa, im lặng không một tiếng người.
*
* *
Hoàng Chân bảo Thôi Hy Mẫn: “Một trăm lượng bạc đây. Ngươi cầm tới cho nhà nông mình đã tá túc, nói họ phải dọn nhà tức khắc.”
Thôi Hy Mẫn nhận tiền, giương to mắt hỏi lại: “Sao phải dọn nhà?”
Hoàng Chân đáp: “Kỳ Tiên Phái không làm gì được chúng ta, dĩ nhiên sẽ trút giận qua người khác. Chúng sẽ tới làm khó dễ gia đình nông phu đó. Theo ngươi thì mấy người nông dân có phá được Ngũ Hành Trận không?”
Thôi Hy Mẫn lắc đầu đáp: “Chắc họ không phá được.” Rồi y nhanh chân chạy đi lo việc.
Bốn người đợi y trở về, rồi theo đường nhỏ rời khỏi trấn Tịnh Nham. Đi được mười mấy dặm, thấy bên vệ đường có một cái miếu cũ nát, Hoàng Chân nói: “Vào đây nghỉ ngơi một chút. Miếu cũ tượng hư, người đi lại khỏi phải nghi ngờ chúng ta tiện tay trộm mèo bắt chó.”
Thôi Hy Mẫn nói: “Đương nhiên là thế. Tòa miếu cũ nát thế này, có gì đáng ăn cắp đâu?”
Vào miếu ngồi trong đại điện, Hoàng Chân hỏi: “Di thể của vị thái thái này sẽ lo liệu thế nào? Bây giờ an táng tại đây, hay vào thành khâm liệm?”
Viên Thừa Chí chau mày không đáp. Hoàng Chân lại nói: “Nếu vào thành phố tìm linh cữu khâm liệm thì có chỗ không tiện. Bà ấy chết vì phi đao, quan phủ phải điều tra hỏi đến. Tuy chúng ta không sợ, nhưng cũng phiền phức đôi chút.”
Rõ ràng ông muốn an táng thi thể ngay tại đây. Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Mẹ đã dặn, muốn được yên nghỉ cạnh phụ thân.”
Hoàng Chân hỏi: “Di thể của lệnh tôn an táng nơi nào?”
Thanh Thanh không biết, nhìn sang Viên Thừa Chí. Chàng đáp: “Trên núi Hoa Sơn chúng ta.” Mọi người nghe thấy đều tỏ vẻ kinh ngạc.
Viên Thừa Chí tiếp: “Phụ thân của cô ấy chính là Kim xà lang quân Hạ tiền bối.”
Hoàng Chân lớn hơn Hạ Tuyết Nghi mấy tuổi, nhưng Hạ Tuyết Nghi đã thành danh từ hồi trẻ. Khi Hoàng Chân mới ra giang hồ thì oai danh của Kim Xà Lang Quân đã chấn động võ lâm rồi. Ông vừa nghe là lập tức chỉnh đốn sắc mặt, suy nghĩ một chút rồi nói: “Ta có ý này, xin cô nương đừng trách.”
Thanh Thanh nói: “Xin bá bá chỉ dạy.”
Hoàng Chân trỏ Viên Thừa Chí, bảo: “Y là sư đệ của ta. Cô nương gọi ta bằng bá bá thì ta không dám nhận. Hay cô nương gọi ta là đại ca đi?”
Thôi Hy Mẫn trừng mắt nhìn Thanh Thanh, nghĩ bụng: “Chẳng lẽ ta phải gọi cô nương nhỏ xíu này là cô cô hay sao?”
Thanh Thanh nhìn Viên Thừa Chí một cái, lập tức đổi cách xưng hô ngay: “Hoàng đại ca đã dạy, dĩ nhiên tiểu muội phải nghe lời.”
Thôi Hy Mẫn âm thầm kêu khổ: “Hỏng bét, hỏng bét! Tiểu cô nương này chẳng biết khách sáo gì cả, thật thà gọi ngay Hoàng đại ca rồi.”
Hoàng Chân không thể ngờ được tên tiểu tử hỏng bét này suy nghĩ như thế, cứ nói với Thanh Thanh: “Di chí của lệnh đường là muốn được an táng cùng lệnh tôn. Chúng ta phải hoàn thành tâm nguyện này của bà. Nhưng chưa nói nơi đây cách Hoa Sơn ngàn dặm xa xôi, cho dù linh cữu đã vận chuyển đến dưới chân núi Hoa Sơn thì cũng khó mà đưa lên vách núi được.”
Thanh Thanh hỏi: “Như vậy phải làm sao?”
Viên Thừa Chí nói: “Dãy núi Hoa Sơn vô cùng hiểm trở, người võ công hơi kém là không lên được. Vận chuyển linh cữu lên đó, nhất định là không thể.”
Hoàng Chân nói: “Còn một giải pháp khác, là di chuyển hài cốt của lệnh tôn xuống đây để an táng. Nhưng di thể của lệnh tôn đã yên ổn trong huyệt mộ rồi, nếu làm kinh động e rằng không tiện.”
Thanh Thanh nghe ông nói có lý, lo lắng vừa khóc thút thít vừa nói: “Thế thì làm sao bây giờ?”
Hoàng Chân nói: “Theo ý ta thì hỏa táng di thể của lệnh đường ở đây trước, sau đó đem tro cốt lên Hoa Sơn hợp táng.”
Khi đề cập vấn đề này, ông nói rất đàng hoàng nghiêm chỉnh. Tuy Thanh Thanh không muốn vậy, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào khác. Nàng đành gạt lệ gật đầu.
Mọi người lập tức gom góp củi khô, hỏa thiêu thi thể của Ôn Nghi. Thanh Thanh từ nhỏ ở trong nhà họ Ôn đã bị coi thường, tuy mấy tên anh em họ như Ôn Chính thấy nàng xinh đẹp cũng muốn lấy lòng, nhưng trong lòng chúng chỉ có tà ý mà thôi. Chỉ có một mình mẫu thân là thương yêu nàng. Bây giờ nhìn người thương yêu mình nhất từ từ tan biến trong ánh lửa, nàng không chịu đựng nổi nữa, nằm rạp xuống đất mà khóc rống lên.
Viên Thừa Chí tìm trong tòa miếu hoang được một cái hũ sành. Chàng đợi lửa tắt, thi hài đã thành tro, mới gom tro cốt vào trong hũ, vái hai vái rồi lâm râm khấn: “Bá mẫu trên trời có linh thiêng, xin hãy yên tâm. Tiểu điệt nhất định sẽ đưa hài cốt của bá mẫu đến an táng trên đỉnh Hoa Sơn, quyết không dám phụ lòng bá mẫu.”
Hoàng Chân thấy chuyện đã xong, bèn bảo Viên Thừa Chí: “Bây giờ ta phải đưa số vàng này đến phủ Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Sấm Vương đã phái rất nhiều huynh đệ đến liên lạc ở vùng Chiết Đông, Giang Nam này. Khi Trung Nguyên cử sự thì Giang Nam cũng phất cờ nghĩa mà hưởng ứng. Đông người lắm việc, chỗ nào cũng cần tiền cả. Phen này Viên sư đệ đoạt lại số vàng, công lao không nhỏ.”
Thanh Thanh nói: “Tiểu muội thật sự không biết số vàng này liên quan trọng đại đến thế. Nếu hai vị đại ca không đến kịp thời, thì không chừng muội làm hỏng mất đại sự của Sấm Vương.”
Thôi Hy Mẫn nói: “Bây giờ cô mới biết thì hơi muộn.”
Thanh Thanh xưa nay miệng lưỡi không chịu nhường ai, bèn nói: “Từ đây đến đó Hoàng đại ca phải đích thân hộ tống. Không chừng giữa đường lại xảy ra chuyện nữa.”
Thôi Hy Mẫn vội vã hỏi: “Cái… cái gì? Cô muốn đến ăn cắp vàng nữa hay sao?”
Hoàng Chân liếc mắt một cái, không để y nhiều chuyện. Ông nói: “Nếu Viên sư đệ và Hạ cô nương không có việc gì khác, mọi người cùng đến Cửu Giang có được hay không?”
Viên Thừa Chí nói: “Tiểu đệ rất nhớ sư phụ, muốn đến Nam Kinh bái kiến lão nhân gia, tiện thể gặp Thôi thúc thúc. Đại sư ca thấy có được không?”
Hoàng Chân gật đầu nói: “Sư phụ thiếu người giúp việc thân cận, mà lão nhân gia cũng rất nhớ sư đệ. Sư đệ! Lần này chúng ta mới khai trương ở Cù Châu đã trúng quả lớn, lời một món to. Sau này hành hiệp trượng nghĩa, trừ bạo vì dân, cũng mong sư đệ đại cát đại lợi, buôn bán hưng thịnh, một vốn vạn lời.”
Viên Thừa Chí nghiêm trang đáp: “Phải nhờ đại sư ca chỉ dạy rất nhiều.”
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Ta không muốn làm phiền sư đệ nữa, bây giờ tạm biệt ở đây. Hạ cô nương! Sau này cô thuận tay phát tài, nhớ nhận rõ chiêu bài và nhãn hiệu hàng hóa rồi mới ra tay nhé.”
Ông đứng dậy, chắp tay rồi quay lưng đi ngay. Thôi Hy Mẫn cũng bái biệt sư thúc.
Tiểu Huệ dặn Viên Thừa Chí: “Thừa Chí đại ca, hãy bảo trọng.”
Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Khi gặp An thẩm thẩm, muội đừng quên nói ca ca rất nhớ thẩm thẩm.”
Tiểu Huệ nói: “Mẹ biết đại ca cao lớn thế này rồi, nhất định rất vui mừng. Tiểu muội đi đây.” Nàng thi lễ cáo biệt, rồi đuổi theo Hoàng Chân và Thôi Hy Mẫn về hướng Tây.
Nàng vừa đi vừa quay lại vẫy tay, Viên Thừa Chí cũng không ngớt vẫy tay tạm biệt. Mãi đến khi ba người đã khuất bóng qua một khúc quanh bên núi, chàng mới dừng tay thôi vẫy.
Thanh Thanh “hừ” một tiếng, lạnh nhạt hỏi: “Sao không đuổi theo mà vẫy tay nữa đi?”
Viên Thừa Chí ngẩn ra, không hiểu câu này ý nghĩa ra sao. Thanh Thanh giận dữ nói: “Lưu luyến mãi không muốn chia tay như thế, sao không đi cùng cô ấy cho xong?”
Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu. Chàng bèn nói: “Lúc nhỏ ta từng gặp nguy nan, được mẹ cô ấy cứu giúp. Hai ta từ nhỏ đã cùng chơi với nhau rồi.”
Thanh Thanh càng tức giận hơn, cầm một cục đá đập loạn xạ trên bậc thềm, đập đến nỗi tóe lửa ra. Nàng nhăn mặt hỏi: “Cái đó gọi là… thanh mai trúc mã chứ gì?”
Rồi nàng lại hỏi: “Khi huynh phá Ngũ Hành Trận, sao không dùng binh khí gì khác, nhất định phải dùng cây ngọc trâm của cô ấy?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta muốn dùng một cây ngọc trâm đụng vào là gãy ngay, để năm vị gia gia của muội không kiêng nể mà xuất thủ tấn công. Khi họ xuất thủ tấn công, thì trong Ngũ Hành Trận mới lộ ra sơ hở. Nếu họ chỉ phòng thủ không tấn công, thì trận này không thể phá được.”
Thanh Thanh gằn giọng hỏi: “Chẳng lẽ muội không có trâm hay sao?”
Nói xong, nàng rút cây ngọc trâm trên đầu xuống, bẻ làm hai khúc, liệng xuống đất rồi lấy chân xéo lên.
Viên Thừa Chí cảm thấy nàng gây chuyện vô cớ, đành im lặng không đáp.
Thanh Thanh giận dữ nói: “Khi có mặt cô ấy thì huynh có cười có nói, có vui có giận. Khi chỉ với muội thì huynh lặng lẽ, chẳng vui vẻ gì cả.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Sao muội nói ta không vui?”
Thanh Thanh không đáp, lại nói: “Mẹ của người ta tốt, lúc huynh còn nhỏ đã cứu giúp huynh, thương yêu huynh. Còn muội chỉ là một đứa không có mẹ.”
Nhắc đến mẫu thân, nàng lại cúi mặt xuống khóc tức tưởi.
Viên Thừa Chí lo lắng dỗ: “Muội đừng tức giận như thế nữa. Chúng ta còn phải bàn chuyện sau này sẽ làm gì.”
Thanh Thanh nghe nói “bàn chuyện sau này”, mặt bỗng ửng hồng. Nhưng nàng vẫn tức giận nói: “Sau này ư? Huynh cứ đuổi theo Tiểu Huệ muội muội của huynh đi. Người khổ mạng như muội, cứ để phiêu bạt chân trời góc bể cũng được rồi.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Sắp xếp cho đại cô nương này như thế nào, thật sự không phải đơn giản.”
Thanh Thanh thấy chàng không nói gì, đứng dậy bưng hũ tro cốt của mẹ lên, quay lưng đi ngay. Viên Thừa Chí vội hỏi: “Muội đi đâu vậy?”
Thanh Thanh đáp: “Cứ mặc kệ muội.” Nàng đi về hướng Bắc.
Viên Thừa Chí không biết làm gì, đành phải đi theo. Suốt dọc đường Thanh Thanh không nói chuyện với chàng. Viên Thừa Chí hỏi sao thì hỏi, nàng cũng không trả lời.
Đến Kim Hoa, hai người tá túc trong một khách sạn. Thanh Thanh đi chợ mua y phục nam nhân, lại cải nam trang. Viên Thừa Chí biết nàng đột ngột rời khỏi nhà, không mang theo nhiều tiền bạc, nên nhân lúc nàng ra ngoài mà bỏ hai thỏi vàng vào túi áo nàng. Khi Thanh Thanh trở về, nàng bĩu môi một cái rồi quẳng trả hai thỏi vàng vào phòng chàng.
Đêm đó nàng ra ngoài gây án, vào nhà một phú hộ đánh cắp được năm trăm lượng bạc. Sáng sớm hôm sau thành Kim Hoa đã xôn xao bàn tán. Viên Thừa Chí biết đây là kiệt tác của nàng, không khỏi chau mày. Chàng hoàn toàn không hiểu tại sao nàng đột nhiên nổi giận vô cớ, nên cũng không biết phải đối phó thế nào. Nếu dùng lời lẽ ngọt ngào mềm mại để dỗ dành, thì không biết phải dỗ dành cô nàng như thế nào mới đúng. Còn nếu mặc kệ nàng, thì cảm thấy để thiếu nữ côi cút này một mình bôn ba trong chốn giang hồ không khỏi có phần bất nhẫn. Chàng nghĩ đi nghĩ lại cũng không biết phải làm sao.
Ngày đó, hai người rời khỏi Kim Hoa, đi về hướng Nghĩa Ô. Thanh Thanh cứ hầm hầm đi trước, Viên Thừa Chí theo sau.
Đi được hơn ba mươi dặm, đột nhiên mây đen kéo đầy trời. Hai người phải rảo bước đi nhanh hơn. Chưa đầy năm dặm, mưa to đã trút xuống. Viên Thừa Chí có đem theo dù, còn Thanh Thanh chê vướng víu không đem. Nàng liền thi triển khinh công chạy về phía trước. Quanh đó không có nhà cửa, cũng không có chùa chiền đình miếu gì.
Viên Thừa Chí mang cây dù chạy nhanh đến trước mặt đưa cho nàng. Thanh Thanh gạt ra, chàng bèn nói: “Thanh đệ! Chúng ta là anh em kết nghĩa, đã thề đồng sinh cộng tử, phúc họa cùng chia. Sao muội giận ta lâu thế?”
Sắc mặt Thanh Thanh có vẻ dịu hơn. Nàng nói: “Huynh muốn muội không giận thì rất dễ, chỉ cần hứa với muội một việc.”
Viên Thừa Chí nói: “Muội nói đi. Đừng nói là một việc, mười việc ta cũng làm theo.”
Thanh Thanh nói: “Được, huynh nghe đây! Từ nay về sau, huynh không được gặp An cô nương và mẹ của cô ấy nữa. Nếu huynh đồng ý, muội lập tức xin lỗi huynh ngay.” Nói xong nàng khẽ mỉm cười.
Viên Thừa Chí hết sức bối rối. Hai mẹ con họ An đã có ơn với chàng, sau này phải tìm cách báo đáp. Nếu vô duyên vô cớ tránh mặt không gặp người ta, thì còn ra thể thống gì nữa? Chuyện này không dễ hứa, nên chàng ngần ngừ một lúc.
Thanh Thanh cau mặt lại, giận dữ nói: “Muội biết, huynh không dễ gì bỏ rơi Tiểu Huệ muội muội của huynh đâu.”
Nàng quay phắt đi, chạy như điên về phía trước. Viên Thừa Chí kêu lớn: “Thanh đệ, Thanh đệ!”
Thanh Thanh bịt tai lại không nghe. Chạy qua mấy khúc quanh, thấy bên đường có một gian đình nhỏ, nàng liền chạy vào trong. Viên Thừa Chí cũng chạy vào theo, thấy nàng ướt sũng cả người. Lúc này tiết trời đang nóng, y phục nàng đã mỏng manh lại bị nước mưa thấm ướt, trông rất bất nhã. Thanh Thanh vừa hổ thẹn vừa lo lắng, phục lên lan can trong đình, vừa khóc vừa kêu: “Huynh ăn hiếp muội, huynh ăn hiếp muội!”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Lạ quá, mình ăn hiếp cô ấy hồi nào?” Nhưng chàng không phân trần gì cả, cởi trường bào của mình ra phủ lên người cho nàng. Viên Thừa Chí có dù che mưa, nên áo quần không bị ướt.
Chàng nghĩ: “Rốt cuộc nàng muốn gì, mình thật không hiểu. Tiểu Huệ muội muội không đắc tội gì với nàng, sao nàng lại đòi mình từ nay về sau không được gặp Tiểu Huệ? Chẳng lẽ vì Tiểu Huệ tới đòi vàng mà liên lụy hại chết mẹ của nàng hay sao? Việc đó đâu thể trách Tiểu Huệ được?”
Viên Thừa Chí đánh cho bọn Lữ Thất tiên sinh, Ôn thị ngũ lão đại bại tới kinh hồn vỡ mật, chưa phải là khó lắm. Nhưng cô chiêu Thanh Thanh này lúc hân hoan lúc nhõng nhẽo, mới khóc đã cười, khiến chàng có gãi chảy máu đầu đi nữa cũng không hiểu được. Viên Thừa Chí từ nhỏ đến giờ chưa từng giao thiệp với những cô nương trẻ tuổi. Thanh Thanh lại yêu sách quá mức, nên chàng thật không biết phải làm gì.
Thanh Thanh lại nghĩ đến cái chết thê thảm của mẫu thân, cứ khom người khóc rống lên. Viên Thừa Chí nhức đầu nhức óc. Hồi lâu mưa từ từ ngớt, nhưng Thanh Thanh vẫn khóc mãi không thôi. Nàng lén nhìn Viên Thừa Chí một cái, thấy chàng cũng đang nhìn mình, bèn xoay ánh mắt sang chỗ khác, càng khóc lớn hơn. Viên Thừa Chí dứt khoát nghĩ: “Để xem cô còn bao nhiêu nước mắt cho biết.”
Tình hình đang bế tắc, đột nhiên nghe tiếng bước chân, một nông phu trẻ dìu một bà lão bước vào gian đình. Dường như bà lão đang bệnh, rên rỉ không dứt. Nông phu đó là con của bà, cố dùng lời lẽ dịu dàng an ủi mẹ.
Thanh Thanh thấy có người lạ vào đình mới chịu ngưng khóc. Viên Thừa Chí chợt nảy ra sáng kiến: “Để ta thử xem phương pháp này dùng được hay không.”
Chẳng bao lâu, mẹ con nông phu rời khỏi đình, đi tiếp. Thanh Thanh thấy mưa đã dứt hẳn, định lên đường thì bỗng nghe Viên Thừa Chí kêu: “Úi chà! Trời ơi!”
Thanh Thanh giật mình kinh hãi, quay lại nhìn thì thấy Viên Thừa Chí ôm bụng cúi rạp dưới đất. Nàng vội chạy tới xem. Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, lập tức trên trán tươm ra những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Đã giả vờ thì phải giả vờ cho đến cùng.” Chàng tiếp tục vận khí, bế những huyệt đạo trên tay. Thanh Thanh sờ vào tay chàng thấy lạnh như băng, hoảng sợ đến nỗi không biết làm gì, rối rít hỏi: “Huynh sao rồi? Sao rồi?”
Viên Thừa Chí rên rỉ lớn tiếng hơn, vẫn không trả lời. Thanh Thanh lo quá, bắt đầu khóc lớn.
Viên Thừa Chí vừa rên vừa nói: “Thanh đệ! Ta… ta bệnh thế này, không khỏi được đâu. Thanh đệ cứ mặc kệ ta, đi một mình đi.”
Thanh Thanh hỏi: “Tại sao đang mạnh khỏe mà đột nhiên phát bệnh?”
Viên Thừa Chí ủ rũ nói: “Từ nhỏ ta đã có tật không chịu được người khác giận mình. Nếu có ai tức giận ta, trong lòng ta lo lắng là lập tức đau bụng ngay. Úi chà! Trời ơi! Đau chết đi được. Hôm qua ta lại ác đấu với năm vị gia gia của Thanh đệ, bay giờ đuối sức rồi. Trời ơi! Đau quá!…”
Thanh Thanh kinh hãi, vòng tay ôm chầm lấy chàng, xoa nhè nhẹ trước ngực cho chàng. Viên Thừa Chí được nàng ôm, cảm thấy vừa dễ chịu vừa khó chịu.
Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Thừa Chí đại ca! Muội không phải rồi, huynh đừng giận nữa.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu mình không tiếp tục giả vờ, nàng chắc chắn sẽ coi mình là đồ lợi dụng”. Lỡ phóng lao thì phải theo lao, chàng chỉ còn cách gục xuống rên rỉ: “Ta không sống nổi nữa rồi. Sau khi ta chết, nhờ Thanh đệ an táng rồi báo cho đại sư ca một tiếng.”
Viên Thừa Chí càng giả vờ càng giống, nhưng trong bụng cười thầm.
Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Huynh không được chết! Huynh không hiểu, muội chỉ giả vờ tức giận để trêu tức huynh. Trong lòng của muội… muội từ lâu đã thích huynh. Thấy huynh tử tế với Tiểu Huệ muội muội, muội thấy khó chịu, cứ tưởng huynh không thích muội. Nếu huynh chết đi thì muội sẽ cùng chết với huynh.”
Viên Thừa Chí kinh hãi, thì ra cô gái này đã yêu mình. Từ nhỏ đến giờ, đây là lần đầu tiên Viên Thừa Chí được nếm mùi vị ôn nhu. Trong lòng chàng nổi lên một cảm giác khó tả, vừa ngọt ngào vừa xấu hổ, cứ ngẩn ngơ không nói được gì.
Thanh Thanh nghĩ chàng sắp chết, nên ôm càng chặt thêm, kêu lên: “Đại ca! Huynh không thể chết. Không có huynh thì muội không sống nổi.”
Viên Thừa Chí cảm thấy hơi thở nàng dịu dàng thoang thoảng như hoa lan, thân thể mềm mại tựa sát vào mình. Chàng không khỏi thần hồn điên đảo.
Thanh Thanh lại nói: “Muội chỉ giả vờ tức giận, huynh đừng coi là thật.”
Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Huynh chỉ giả vờ bệnh, muội đừng coi là thật.”
Thanh Thanh ngơ ngác, đột nhiên nhảy bật dậy, tát một phát thẳng tay lên mặt Viên Thừa Chí. Nghe một tiếng “bốp”, trước mắt Viên Thừa Chí như có ngàn sao nhấp nháy. Thanh Thanh xoay mặt lại, bỏ đi ngay.
Viên Thừa Chí lại ngơ ngác: “Nàng vừa nói là thích mình, không có mình thì không sống nổi, sao đột nhiên đánh mình rồi bỏ đi?” Chàng không hiểu tâm sự của Thanh Thanh, chỉ còn cách lẽo đẽo theo sau.
Sau phen vui mừng, Thanh Thanh đã quên hết chuyện ghen tị với An Tiểu Huệ. Thấy trên má trái của Viên Thừa Chí có năm vết ngón tay đỏ ửng, nàng bất giác vừa áy náy vừa có phần đắc ý. Nghĩ đến mình đã thổ lộ tâm sự rồi, nàng lại khó chịu trong lòng.
Hai người đều có chuyện khó nói, nên suốt dọc đường không hề trò chuyện gì với nhau. Có lúc ánh mắt chạm nhau, cả hai đều đỏ mặt quay đi tránh né, nhưng trong lòng đều cảm thấy ngọt ngào. Họ đi mấy chục dặm đường trên mặt đất, mà cảm giác như phiêu lãng trên mây.
Xế chiều hôm đó đã đến Nghĩa Ô. Thanh Thanh tìm khách sạn để nghỉ lại, Viên Thừa Chí cũng theo vào. Thanh Thanh liếc chàng một cái, nói: “Tên vô lại này, theo người ta mãi, thật là đáng ghét.”
Viên Thừa Chí sờ lên má, mỉm cười rồi nói: “Đau bụng là giả, nhưng đau má là thật.”
Thanh Thanh cũng mỉm cười, đáp: “Nếu huynh chịu không nổi thì cứ tát trả muội một tát đi.”
Hai người lại hòa như trước, ăn cơm xong nói chuyện một hồi rồi mới về phòng nghỉ ngơi. Thanh Thanh thấy mình đã thổ lộ tâm tình mà chàng vẫn giữ lễ độ, không nhắc gì đến chuyện đó, nên đỡ phải bối rối. Nhưng nàng nhịn không nổi, lại phải nghĩ: “Mình đã nói là thích huynh ấy, thế mà huynh ấy chẳng nói gì cả. Không biết lòng dạ huynh ấy đối với mình thế nào? Huynh ấy thích mình không, hay là không thích?” Suốt đêm nàng cứ trăn qua trở lại, không sao ngủ yên giấc được, cứ băn khoăn không biết Viên Thừa Chí có thích mình không.
Sáng hôm sau thức dậy, tiếp tục lên đường. Thanh Thanh hỏi chàng đã phát hiện hài cốt của phụ thân mình trong trường hợp nào. Viên Thừa Chí bèn kể lại tỉ mỉ hai con vượn phát hiện sơn động đó, rồi chàng chui vào trong động, thấy bộ hài cốt, đào hộp sắt lên, phát hiện đồ phổ. Sau đó chàng kể đến chuyện Trương Xuân Cửu và tên trọc giữa đêm đánh lén lên đỉnh núi rồi gặp họa.
Thanh Thanh nghe mà dựng tóc gáy lên, nói: “Trương Xuân Cửu là đồ đệ của Tứ gia gia, gian ác có tiếng. Còn Vương Thất Động là đồ đệ của Nhị gia gia. Cứ mười sáu tháng giêng hằng năm là năm lão gia gia của muội phái con cháu đồ đệ ra ngoài tìm kiếm. Không hiểu tìm ai hay tìm vật gì, mọi người đều giấu giếm không nói cho muội biết. Nhưng khi trở về thì ai cũng ra vẻ ủ rũ, nhất định chưa tìm được gì cả. Bây giờ nghĩ lại, đích thị là họ đi tìm tung tích của phụ thân muội rồi.”
Nàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Phụ thân của muội đã chết mà vẫn có thể dùng kế giết địch, thật không thể ngờ được.”
Thanh âm nàng đầy vẻ thán phục. Nàng lại tiếp: “Nếu phụ thân còn sống, thấy huynh đánh cho bọn ác nhân ở Ôn gia thua tơi bời, nhất định sẽ rất vui mừng… À, mẹ đã chính mắt nhìn thấy, nhất định sẽ kể cho phụ thân biết. Huynh cho muội nhìn bút tích của phụ thân một lát nữa đi.”
Viên Thừa Chí lấy tấm bản đồ đưa nàng, bảo: “Đây là bút tích của phụ thân muội, phải trả cho muội mới đúng.”
Thanh Thanh nhìn di bút của cha mình, vừa đau lòng vừa hoan hỉ.
Hôm đó, hai người đến Tùng Giang. Thanh Thanh bỗng nói: “Khi đến Nam Kinh, gặp sư phụ của huynh xong, chúng ta hãy đi tìm bảo bối.”
Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Bảo bối gì?”
Thanh Thanh nói: “Tấm bản đồ này của phụ thân, không phải bản đồ kho báu hay sao? Gia gia còn nói, người tìm được kho báu này phải tặng cho má má của muội mười vạn lượng vàng. Má má cũng nói, đây là kho của hoàng cung, không biết chứa đựng bao nhiêu kim ngân châu báu.”
Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc rồi nói: “Muội nghĩ như vậy cũng đúng. Nhưng bây giờ chúng ta làm việc chính trước đã.” Chàng chỉ nghĩ đến việc tìm gặp sư phụ, sau đó đi trả thù cho cha.
Thanh Thanh nói: “Theo bản đồ này đi tìm kho báu, chưa chắc đã tốn nhiều thời gian.”
Viên Thừa Chí lộ vẻ không vui, bảo: “Nếu chúng ta tìm được kim ngân châu báu thì có ích gì? Thanh đệ! Ta khuyên Thanh đệ nên đứng đắn hơn, bớt tham tiền một chút thì tốt.”
Sáng hôm sau lên đường, Thanh Thanh mới nói: “Muội chỉ lấy có hai ngàn lượng vàng của Sấm Vương mà họ đã lo sốt vó, khiến đại sư ca của huynh phải đích thân đi đòi lại. Sao Sấm Vương nhỏ mọn đến thế?”
Viên Thừa Chí cãi: “Sấm Vương không nhỏ mọn đâu. Ta đã gặp rồi, ông ấy đối xử với người khác rất trọng nghĩa khí. Ông muốn trừ khổ cho thiên hạ, chính mình thì vô cùng tiết kiệm, đáng mặt là đại anh hùng, đại hào kiệt. Hai ngàn lượng vàng này chắc Sấm Vương đang cần sử dụng, nên mới không dễ dàng bỏ mất.”
Thanh Thanh nói: “Đúng vậy. Nếu chúng ta có thể tặng cho Sấm Vương hai chục vạn lượng vàng, thậm chí hai trăm vạn lượng, ba trăm vạn lượng thì sao? Huynh thấy việc này có được không?”
Viên Thừa Chí bỗng nghĩ ra, cả mừng nắm chặt đôi tay Thanh Thanh mà nói: “Thanh đệ! Ta thật là hồ đồ, may mà được muội nhắc nhở.”
Thanh Thanh hất tay chàng ra nói: “Muội không cần huynh tử tế đâu. Từ nay về sau, huynh bớt mắng người ta một chút là tốt rồi.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Nếu chúng ta tìm được số kim ngân châu báu này, đem tặng Sấm Vương, thì cứu được không biết bao nhiêu sinh linh đồ thán.”
Hai người ngồi bên vệ đường, lấy tấm bản đồ ra xem tỉ mỉ. Giữa tấm bản đồ có một vòng tròn màu đỏ, bên cạnh ghi chú bốn chữ: Ngụy Quốc Công Phủ. Hai người nhìn chung quanh tường tận, rồi Viên Thừa Chí nói: “Kho báu chôn dưới một căn nhà, kế bên Ngụy Quốc Công Phủ.”
Thanh Thanh nói: “Sau khi đến Nam Kinh, chúng ta chỉ cần tìm được Ngụy Quốc Công phủ là xong. Ngụy Quốc Công là phong hiệu của tướng quân Từ Đạt. Ông ấy là đệ nhất đại công thần của bản triều, phủ đệ nhất định rất nguy nga, chắc cũng dễ tìm.”
Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Phủ đệ của đại tướng quân chắc chắn phòng bị nghiêm ngặt khác hẳn nhà của bá tính. Dù có thể lẻn vào trong, nhưng muốn đào bới châu báu thì chẳng dễ dàng đâu.”
Thanh Thanh nói: “Bây giờ mình đoán mò chỉ vô ích. Cứ đến Nam Kinh, rồi tùy cơ mà ứng biến.”
*
* *
Mấy ngày sau hai người đã đến Nam Kinh. Thạch Đầu Thành ở Kim Lăng là tòa thành lớn nhất thiên hạ, nơi kiến đô khai quốc của Thái Tổ năm xưa, nay vẫn dùng tên cũ gọi là Ưng Thiên phủ. Ở đây nhà cửa san sát, đường sá quy hoạch đàng hoàng, lan can cầu được sơn son thiếp vàng, trên cầu có nhiều người đang ca hát. Dù là đường lớn hay hẻm nhỏ, dân cư vẫn ăn mặc rất bảnh bao. Các bậc vương tôn thế gia tập trung cư ngụ ở đây rất nhiều. Tuy thời thế đang loạn, nhưng sự xa xỉ so với trước kia không giảm bao nhiêu.
Sau khi tìm khách sạn nghỉ ngơi, Thừa Chí liền theo địa chỉ mà đại sư ca đã dặn để đi tìm sư phụ. Khi hỏi thì biết Mục Nhân Thanh đã tới An Khánh phủ rồi, còn An Khánh phủ ở nơi nào thì ngay cả người đưa tin cũng không biết. Thừa Chí rầu rĩ tỏ vẻ không vui. Thanh Thanh kéo chàng ra ngoài thăm viếng các nơi thắng cảnh nhưng chàng chẳng còn lòng dạ nào đi dạo, chỉ ngồi trong khách sạn mà thở dài thở ngắn.
Thanh Thanh gọi tiểu nhị vào phòng để hỏi thăm Ngụy Quốc Công phủ ở đâu. Tên tiểu nhị ngẩn ra, lắc đầu nói: “Ở Nam Kinh làm gì có Ngụy Quốc Công phủ?”
Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Ngụy Quốc Công là đệ nhất danh thần của bản triều, chẳng lẽ không có phủ đệ?”
Tiểu nhị nói: “Nếu có, tướng công hãy tự mà đi tìm. Tiểu nhân là dân bản địa, ở Nam Kinh hơn bốn mươi năm rồi, nhưng chưa từng nghe thấy.”
Thanh Thanh trách hắn ăn nói vô lễ, đưa tay định đánh, nhưng Viên Thừa Chí cản lại. Tên tiểu nhị vừa bỏ ra ngoài vừa lầm bầm một lúc.
Hai người tìm kiếm ở Nam Kinh bảy tám ngày trời, hoàn toàn không được chút manh mối nào. Viên Thừa Chí đòi đi An Khánh phủ tìm sư phụ, nhưng Thanh Thanh nói: “Đã đến Nam Kinh rồi, thì phải điều tra cho rõ mới chịu thôi.”
Lại dò hỏi năm sáu ngày nữa, có người nói: “Vào đời Vĩnh Đạt, hậu nhân của Từ Đạt tướng quân đã thay đổi tước hiệu thành Định Quốc Công, nghe nói phủ đệ bây giờ ở Thuần Thiên phủ thành Bắc Kinh.” Có người nói: “Sau khi đại tướng quân tạ thế, được truy hiệu là Trung Sơn Vương. Ở Nam Kinh có Trung Sơn Vương phủ, hai vị tới xem thử.” Lại có người nói: “Thủ Bị Quốc Công của Nam Kinh cũng họ Từ, ở Thủ Bị phủ. Còn Ngụy Quốc Công phủ thì không biết ở đâu.” Hai người tới Trung Sơn Vương phủ và Thủ Bị phủ xem xét, nhưng thấy địa thế khác hẳn hình vẽ trên bản đồ.
Đêm hôm ấy hai người thuê một chiếc thuyền để giải khuây trên sông Tần Hoài. Viên Thừa Chí nói: “Phụ thân của muội bản lãnh bằng trời, đã được tấm bản đồ mà cũng chưa tìm ra kho báu. Như thế đủ biết chuyện này rất phiêu lưu.”
Thanh Thanh nói: “Rõ ràng phụ thân đã viết như vậy, làm gì có sai sót. Không phải là chuyện một hai lượng bạc, dĩ nhiên không dễ lấy vào tay.”
Viên Thừa Chí nói: “Chúng ta tìm thêm một ngày nữa, nếu không có manh mối thì phải đi thôi.”
Thanh Thanh nói: “Tìm thêm ba ngày.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Được, cứ theo lời muội, ba ngày thì ba ngày. Muội tưởng ta không muốn tìm ra kho báu hay sao?”
Trên mặt sông vẳng tiếng xướng ca, mái chèo khua nhẹ, đèn nến mông lung. Hình như trong gió thoảng có mùi hương son phấn. Không khí ủy mị sang trọng thế này, Thừa Chí dĩ nhiên chưa thấy, mà Thanh Thanh sống nơi Chiết Đông xa xôi cũng chưa từng gặp. Nàng uống mấy ly, mặt đã hơi đỏ, nghe từ thuyền bên cạnh vọng đến tiếng ca hát cười đùa, không khỏi nổi chí tò mò.
Thanh Thanh mỉm cười nói lớn: “Đại ca! Chúng ta gọi hai cô gái đến hát ca chuốc rượu có được không?”
Viên Thừa Chí lập tức đỏ mặt hỏi: “Đệ uống say rồi phải không? Sao bừa bãi như vậy?”
Gã thuyền phu đang chèo chiếc du thuyền liền nói: “Các vị tướng công đến du ngoạn trên sông Tần Hoài này, chẳng ai là không gọi các cô đến cùng uống rượu. Nếu hai vị tướng công có ai quen biết, thì tiểu nhân đi gọi.”
Thanh Thanh mỉm cười hỏi thuyền phu: “Trên sông này có vị cô nương nào nổi tiếng?”
Thuyền phu đáp: “Nói về danh tiếng thì có Biện Ngọc Quân, Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển, Lý Hương Quân. Cô nào cũng tài mạo song toàn, biết làm thơ lại biết ca hát.”
Thanh Thanh nói: “Thế thì ngươi gọi giúp hai cô Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển gì gì đó đi.”
Thuyền phu lè lưỡi nói: “Nhất định tướng công mới đến Nam Kinh lần đầu.”
Thanh Thanh hỏi: “Thì đã sao?”
Thuyền phu nói: “Muốn gặp những cô nương nổi tiếng đó, không phải là vương tôn công tử thì phải là bậc danh sĩ văn chương. Người buôn bán thì có khiêng cả núi vàng đến cũng chưa chắc được gặp họ một lần. Làm sao tiểu nhân gọi họ đến đây được!”
Thanh Thanh bĩu môi nói: “Ca kỹ mà cũng phách lối đến thế ư?”
Thuyền phu nói: “Trên sông Tần Hoài này còn nhiều cô nương rất khá. Để tiểu nhân gọi hai cô đến cho hai vị tướng công.”
Thừa Chí nói: “Chúng ta sắp về rồi, để hôm khác hãy gọi.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Nhưng đệ đi chơi chưa đã.” Rồi nàng bảo thuyền phu: “Ngươi gọi đi.”
Tên thuyền phu đang đợi câu này, nhanh nhẩu ngoác miệng ra kêu mấy tiếng. Lập tức một chiếc thuyền hoa từ bờ sông chèo vội ra. Hai người ca kỹ theo cầu ván bước sang, chắp tay chào Viên Thừa Chí và Thanh Thanh. Viên Thừa Chí đứng dậy trả lễ, thần sắc đầy vẻ ngượng nghịu.
Thanh Thanh ngồi ngay tại chỗ ra vẻ nhà quan, chẳng động đậy gì mà chỉ mỉm cười. Thấy Viên Thừa Chí bối rối như thế, nàng buồn cười nghĩ bụng: “Thì ra chàng quá thật thà. Giả tỉ trong lòng có thương yêu mình, chắc chàng cũng không biết đường mà nói.”
Hai người ca kỹ này dung mạo chỉ bình thường. Một cô cầm sáo thổi bài Chiết Quế Lệnh, nghe cũng khá êm tai. Thanh Thanh biết bài này lẽ ra phải thổi bằng ống địch, nhưng nữ nhân thì thổi sáo trông văn nhã hơn.
Một cô hỏi Thanh Thanh: “Tướng công! Bọn muội cùng hát bài Quá Chi Nhi cho tướng công nghe, có được hay không?”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Hay lắm!”
Người ca kỹ đó nâng đàn tỳ bà, hát giọng nam:
“Ta bảo muội gọi ca ca; Thủy chung muội không chịu gọi; Lẽ ra không chờ ta nói; Gọi ca ca mới chân tình.
Muốn nghe muội gọi ca ca; Muội cứ lắc đầu đỏ mặt; Chờ mãi không nghe muội nói; Chắc là không thương ta rồi.
Nếu muội thương ta thật lòng; Sao không gọi ta như vậy?”
Nghe đến đây, Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình quen gọi nàng là Thanh đệ, còn nàng chẳng gọi mình là ca ca bao giờ. Nàng chỉ thường gọi là Thừa Chí đại ca, cùng lắm là gọi đại ca.” Bất giác chàng liếc qua Thanh Thanh, thấy nàng mặt đỏ ửng lên, cũng đang liếc mình. Ánh mắt hai người vừa chạm nhau đều cảm thấy thiếu tự nhiên, vội vã quay đi.
Người ca kỹ lại hát tiếp:
“Oan gia ơi là oan gia; Ta không muốn nghe muội xạo; Nếu trong lòng muội không thương; Thì thôi đừng gọi cho rồi.
Đã gọi phải gọi dịu dàng; Nghe mà lòng sôi hừng hực; Còn nếu giả vờ tình cảm; Thì thôi đừng gọi hay hơn.”
Người ca kỹ cầm sáo hát giọng nữ đáp lại:
“Oan gia ơi là oan gia; Muốn muội gọi thì muội gọi; Nhưng nếu muội không mở lời; Xin ca ca đừng lo lắng.
Gọi ca ca ở ngoài miệng; Thương ca ca để trong lòng; Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương.”
Tiếng hát cực kỳ nhu mì uyển chuyển, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe mà không khỏi điên đảo thần hồn.
Hai cô hòa giọng hát lại câu cuối: “Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương.”
Tiếng tỳ bà vẫn dạo tình tang, dịu dàng lưu loát, khêu động lòng người; hòa vào ca từ ngọt như đường mật, thơm như son phấn, đầy vẻ kiêu sa.
Từ nhỏ đến lớn Viên Thừa Chí chỉ bạn cùng đao kiếm. Trước khi quen với Thanh Thanh, chàng kết giao toàn là nam nhi sảng khoái hào phóng, chưa hề nghĩ rằng một tiếng gọi “ca ca” mà có nhiều nội dung đến thế. Nghĩ đến tình ý triền miên trong ca từ, tim chàng bỗng đập rộn lên nghe thình thịch.
Mắt Thanh Thanh nhìn xuống, cầm lấy ống sáo trong tay người ca kỹ. Nàng lấy khăn tay thấm một ít rượu, lau chùi sạch sẽ lỗ sáo rồi đưa lên miệng mà thổi.
Trước đây Viên Thừa Chí từng nghe nàng thổi sáo trên đồi hoa hồng ở Tịnh Nham; bây giờ lại nghe trên sông nước, dưới trăng trên sóng, hương rượu nồng, phấn son thoang thoảng, lại có một cảm giác khác biệt. Tiếng sáo uyển chuyển du dương, chính là khúc Quá Chi Nhi vừa rồi. Nghe đến câu “Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương”, chàng ngắm nhìn khuôn mặt Thanh Thanh diễm lệ dưới ánh nến hồng, không nén nổi tâm thần say đắm.
Viên Thừa Chí nghe đến xuất thần, không nhận thấy một chiếc thuyền hoa lớn đã chạy tới sát thuyền mình. Bỗng có người cười ha hả, hô lớn: “Tiếng tiêu hay quá, tiếng tiêu hay quá!” Rồi có ba người bước sang.
Thanh Thanh thấy có người quấy nhiễu, nổi giận bỏ ống sáo xuống, đưa mắt liếc nhìn. Trong ba người bước lên thuyền, người đầu tiên cầm quạt xếp, mặc gấm vóc, khoảng hơn ba mươi tuổi, cặp mắt ti hí, da còn trắng hơn cả hai người ca kỹ. Phía sau là hai tên gia đinh cầm lồng đèn, trên đèn viết ba chữ: Tổng đốc phủ.
Viên Thừa Chí đứng dậy chắp tay nghênh đón, hai người ca kỹ khấu đầu, còn Thanh Thanh thì mặc kệ.
Người đó vừa cười lớn vừa tiến vào khoang thuyền, nói: “Làm phiền các vị rồi.” Nói xong, hắn tỉnh bơ ngồi xuống.
Viên Thừa Chí lên tiếng: “Xin hỏi tôn tính đại danh?”
Hắn chưa kịp trả lời, một người ca kỹ đã đáp hộ: “Đây là Mã công tử ở Tổng đốc phủ huyện Phượng Dương này, là một thiếu gia hào phóng có tiếng trên sông Tần Hoài.”
Mã công tử không thèm hỏi danh tính Viên Thừa Chí. Hắn cố giương cặp mắt ti hí lên, mê mẩn nhìn ngắm Thanh Thanh, cười hỏi: “Vị này ở ban nhạc nào vậy? Thổi sáo cực hay, sao không qua đây hầu hạ đại gia? Hà hà, hà hà…”
Thanh Thanh thấy hắn coi mình như một tên nhạc công nào đó, dựng ngược lông mày lên, muốn phát tác ngay. Thừa Chí vội đưa mắt ra hiệu rồi nói: “Đây là huynh đệ của tại hạ. Bọn tại hạ đến Nam Kinh để tìm bằng hữu.”
Mã công tử mỉm cười nói: “Tìm bằng hữu làm chi? Hôm nay tình cờ gặp nhau, kết Mã công tử này làm bằng hữu là được ăn nhậu không bao giờ dứt.”
Thừa Chí rất giận, nhưng chỉ lạnh lùng hỏi: “Các hạ làm chức quan gì trong Tổng đốc phủ vậy?”
Mã công tử mỉm cười đáp: “Tổng đốc Mã đại nhân chính là gia thúc.”
Từ chiếc thuyền hoa đó lại có một người bước qua. Người này mặc trường bào màu cánh sen, thân hình lùn tịt, bên mép vắt hai chòm râu, thần sắc rất hòa nhã. Hắn mỉm cười hỏi Mã công tử: “Công tử! Huynh đệ này thổi sáo không tệ phải không?”
Nhìn bộ điệu tên này, Viên Thừa Chí đoán hắn là loại khách bám theo Mã công tử để ăn nhậu. Mã công tử bảo: “Cảnh Đình! Ngươi nói với họ mấy câu đi.”
Người ấy vâng dạ lia lịa, tự xưng mình họ Dương tên Cảnh Đình, rồi nói với Viên Thừa Chí và Hạ Thanh Thanh: “Mã công tử là cháu ruột của Mã đại nhân, tổng đốc huyện Phượng Dương. Công tử rất nhiệt tâm kết giao bằng hữu, kim ngân ngàn lượng coi như không. Ai kết được người bạn như thế như nhặt được hũ vàng, chuột sa chĩnh nếp. Mã đại nhân thương yêu nhất là đứa cháu này, thương hơn cả con ruột. Vị huynh đệ này muốn tìm bằng hữu phải không? Tốt nhất là dọn ngay vào trong phủ Mã công tử mà ở.”
Viên Thừa Chí nghe chúng buông lời vô lễ, lại sợ Thanh Thanh nổi giận. Nào ngờ nàng lại nhoẻn cười mà nói: “Thế thì tuyệt diệu! Chúng ta lên bờ đi.”
Mã công tử cả mừng, đưa tay toan nắm tay Thanh Thanh. Thanh Thanh lùi lại, đẩy một người ca kỹ tới chỗ hắn. Thừa Chí kinh ngạc, nhưng nhất thời không lên tiếng.
Thanh Thanh đứng dậy, nói với Mã công tử: “Tiểu đệ muốn thưởng hai vị cô nương và thuyền gia này, mỗi người năm lượng bạc.”
Mã công tử nói: “Dĩ nhiên ta sẽ lo liệu. Ngày mai các ngươi đến nhà ta để lãnh thưởng.”
Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Thưởng ngay bây giờ, há chẳng sảng khoái hơn sao?”
Mã công tử gật đầu lia lịa: “Đúng vậy, đúng vậy!”
Hắn vẫy tay một cái, bọn gia đinh lấy ra mười lăm lượng bạc. Thuyền phu và ca kỹ khấu đầu đa tạ.
Mã công tử trố mắt nhìn Thanh Thanh không chớp, mặt mày rạng rỡ, miệng cười toe toét. Dường như hắn đang ngứa ngáy khó chịu, như lượm được một món kỳ trân dị bảo trên trời rơi xuống vậy.
Chỉ một lát sau, thuyền đã ghé vào bờ. Dương Cảnh Đình nói: “Để tại hạ đi gọi kiệu.”
Thanh Thanh bỗng kêu lên: “Trời ơi! Tiểu đệ còn một món đồ để ở nhà, bây giờ phải đi lấy ngay.”
Mã công tử nói: “Để ta sai gia nhân đi lấy là được rồi. Hiền đệ đang trú ở đâu vậy?”
Thanh Thanh nói: “Bọn đệ đang ngụ trong một ngôi chùa ở ngõ Phúc Châu, cửa Thái Bình. Món đồ đó không thể để mất được.”
Dương Cảnh Đình kề vào tai Mã công tử khẽ nói: “Hãy theo sát, đừng để con gà xinh đẹp này chạy mất.”
Mã công tử nháy mắt đáp: “Đúng thế!” Rồi hắn quay lại bảo Thanh Thanh: “Hiền đệ! Ta đi cùng hiền đệ.”
Nói xong, hắn đưa tay ôm choàng lấy vai nàng. Thanh Thanh cười khúc khích, tránh qua một bên.
Mã công tử thần hồn điên đảo, nói với Dương Cảnh Đình: “Cảnh Đình! Nếu huynh đệ này mặc y phục nữ nhân, chắc chắn không có cô nương nào trong thành Kim Lăng này sánh được. Quả nhiên trên đời có một thiếu niên tuyệt sắc đến thế. Hôm nay ta gặp được, thật là tổ tông tích đức.”
Thanh Thanh nói: “Đại ca, chúng ta đi thôi!”
Nói xong, nàng nắm tay Viên Thừa Chí đi ngay. Mã công tử đảo mắt một cái, cả bốn người đều đi theo. Mã công tử bước tới mấy bước để cười giỡn với Thanh Thanh. Nàng cũng đối đáp với hắn, câu được câu mất.
Vì vụ tìm kiếm Ngụy Quốc Công phủ mà Thanh Thanh và Viên Thừa Chí đã lục lạo khắp nội thành, ngoại thành Nam Kinh mười mấy ngày nay, lội hết đường lớn hẻm nhỏ, nên rất quen thuộc đường sá nơi này. Viên Thừa Chí thấy nàng đi về phía đồng hoang hẻo lánh, biết nàng nổi sát khí rồi.
Chàng nghĩ bụng: “Tuy tên Mã công tử này hành vi không tốt, lại có mắt không tròng, nhưng chưa đến nỗi đáng tội chết. Sư phụ thường nói, người học võ không nên lạm sát. Ta phải cản trở thôi.” Chàng bèn dừng chân lại nói: “Thanh đệ, đừng giỡn với Mã công tử nữa. Chúng ta về khách sạn ở cửa Tây Thủy đi.”
Thanh Thanh mỉm cười bảo: “Huynh về một mình trước đi.”
Mã công tử cả mừng nói: “Đúng thế, đúng thế, huynh đệ về trước đi. Huynh đệ cần tiền xài không?”
Thừa Chí lắc đầu than thở, thầm nghĩ: “Ta đã nói là về khách sạn ở cửa Thủy Tây, cố ý nói cho hắn biết không có ngôi chùa nào ở ngõ Phúc Châu hết. Tên này chết đến gáy rồi còn chưa tỉnh ngộ.”
Vừa đi vừa nói chuyện, cuối cùng đã đến một khu nghĩa địa. Mã công tử mệt muốn đứt hơi, hào hển hỏi: “Sắp… sắp… đến chưa?”
Thanh Thanh cười rộ lên đáp: “Đến rồi.”
Mã công tử ngơ ngác nghĩ: “Đến khu nghĩa địa này để làm gì?”
Dương Cảnh Đình cũng thấy tình hình có vẻ không êm, nhưng nghĩ phe ta có tới bốn người, hai tên gia đinh lại có sức khỏe, chắc hai thiếu niên mảnh dẻ này không thể bày gian kế được. Hắn bèn nói: “Tiểu huynh đệ đừng đùa nữa. Mọi người hãy về phủ công tử uống mấy ly rượu nóng, vui vẻ một phen, tiểu huynh đệ hát mấy bài cho mọi người vui một chút, há chẳng tốt hơn sao?”
Thanh Thanh chỉ cười gằn. Viên Thừa Chí quát lên: “Các ngươi mau mau về đi. Sống đàng hoàng một chút thì đỡ gặp rắc rối.”
Dương Cảnh Đình giận dữ nói: “Tên này thật là đáng ghét. Chính ngươi sao không về trước đi? Đừng để Mã công tử tức giận.”
Mã công tử giả vờ kiếm chác, bèn nói: “Hiền đệ, ta mỏi rồi. Hiền đệ dìu ta một chút đi.”
Hắn tựa mình vào người Thanh Thanh, đưa cánh tay phải quàng qua vai nàng.
Thanh Thanh lạng người ra tránh, đột nhiên hỏi Viên Thừa Chí: “Đại ca! Cái gì đằng kia vậy?” Nàng đưa tay chỉ về hướng Đông.
Thừa Chí vừa quay đi nhìn, bỗng sau lưng nghe “xoẹt” một tiếng. Chàng vội vã quay đầu lại, thì cái thủ cấp hồ đồ của Mã công tử đã lăn xuống đất, vòi máu trên cổ vẫn còn phun ra. Dương Cảnh Đình và hai tên gia đinh ngẩn ngơ đứng đó, Thanh Thanh bước lên cho mỗi người một kiếm.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đã giết một tên thì phải diệt cỏ tận gốc, tránh khỏi hậu hoạn.” Vì thế chàng không ngăn cản nữa.
Thanh Thanh lau thanh kiếm vấy máu vào người Mã công tử, rồi cười khanh khách.
Viên Thừa Chí nói: “Loại người này thì đánh cho một trận, dạy cho một bài học cũng đủ rồi. Thanh đệ làm vậy là hơi nhẫn tâm.”
Thanh Thanh lườm một cái, giận dữ nói: “Hai chúng ta đang thổi sáo nghe hát trên sông thật là thú vị, tên này bỗng tới quấy nhiễu làm mất hứng. Huynh thấy hắn có đáng chết không?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu chỉ có tội quấy nhiễu làm mất hứng, dĩ nhiên không thể nói là đáng chết. Nhưng loại người như Mã công tử và Dương Cảnh Đình quen dựa thế mà hoành hành bá đạo, chắc chắn đã làm không ít chuyện thương thiên hại lý. Giết hắn không thể nói là lạm sát người vô tội được.” Chàng bèn nghiêm giọng nói: “Bọn khốn nạn thế này, muốn giết thì cứ giết. Nhưng nếu sau này Thanh đệ giết bừa một người tốt, thì giao tình giữa chúng ta sẽ chấm dứt.”
Thanh Thanh lè lưỡi ra nói: “Muội không dám.”
Hai người đá bốn cái xác vào trong lùm cỏ. Đang định quay về khách sạn, Viên Thừa Chí đột nhiên kéo tay áo của Thanh Thanh khẽ nói: “Có người!”
Hai người lập tức khom xuống, nấp vào sau một ngôi mộ.
Xa xa có tiếng bước chân vang lên, từ hai phía Đông Tây đều có người đi tới. Hai người từ sau phần mộ ghé mắt nhìn ra, thấy mỗi bên có mười mấy người, có cầm theo lồng đèn phất giấy dầu. Hai bên tới gần nhau, phía Đông vỗ tay ba tiếng, dừng một lúc lại vỗ hai tiếng. Phía Tây cũng vậy, vỗ tay ba tiếng rồi dừng một lúc vỗ hai tiếng. Sau đó họ đến gần nhau, tụ lại một nơi, ngồi quanh một ngôi mộ lớn. Chỗ họ ngồi cách Viên Thừa Chí và Thanh Thanh hơn mười trượng, nói nghe không rõ.
Thanh Thanh nổi dạ hiếu kỳ, muốn lại gần để nghe. Viên Thừa Chí kéo tay áo nàng, khẽ bảo: “Đợi đã.”
Thanh Thanh hỏi: “Đợi gì?”
Viên Thừa Chí xua tay ra hiệu đừng lên tiếng, Thanh Thanh bèn ngoan ngoãn chờ đợi.
Khoảng uống xong tách trà, một cơn gió thổi qua. Cỏ dại bốn bề xào xạc, những cành tùng bách mọc bên mộ cũng cọ vào nhau phát ra âm thanh lạ tai. Thừa Chí đưa tay phải đỡ lấy cánh tay phải Thanh Thanh, tay trái vòng qua hông nàng, thi triển khinh công vọt đi nhưng không tung người lên. Chàng chạy mười mấy trượng mà chân hầu như không chấm đất, đến một ngôi mộ sau lưng đám người đó rồi nằm rạp xuống. Cơn gió vẫn chưa dứt, những người kia hoàn toàn không phát giác.
Hai người vừa nằm xuống, Thừa Chí lập tức rút cả hai tay về. Thanh Thanh thầm nghĩ: “Chàng đúng là bậc quân tử chí thành, nhưng không khỏi quá cổ hủ.”
Lúc này Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cách đám người kia không quá ba trượng. Nghe rõ một giọng hơi khàn nói: “Các vị đại ca từ xa đến đây rút đao tương trợ, tại hạ vô cùng cảm kích.”
Một giọng khác nói: “Sư phụ tại hạ đã nói, Mẫn lão sư đã triệu tập thì lẽ ra phải đích thân đến đây. Nhưng lão nhân gia đã ngã bệnh hơn một tháng rồi, không rời khỏi giường được, nên sai Vạn sư thúc dẫn mười hai đệ tử bọn tại hạ đến đây để Mẫn lão sư sai khiến.”
Người có giọng khàn khàn nói: “Thì ra lệnh sư Long lão gia thọ bệnh, chỉ mong lão gia sớm bình phục. Xong việc ở đây, tại hạ nhất định sẽ đến Vân Nam vấn an, cảm tạ Long lão gia. Truy phong kiếm Vạn sư huynh kiếm pháp thần thông, oai chấn thiên nam. Tại hạ vừa thấy Vạn sư huynh đến đây, tảng đá lớn đè nặng trong lòng lập tức được dỡ bỏ.”
Một người nói rất nhỏ nhẹ: “Khách sáo rồi! Chỉ sợ phái Điểm Thương chúng ta không đủ sức giúp Mẫn lão sư.”
Viên Thừa Chí động tâm, nhớ lại sư phụ khi đàm luận về kiếm pháp thiên hạ từng nói: “Võ lâm hiện nay có tứ đại kiếm phái là Nga Mi, Hoa Sơn, Côn Luân, Điểm Thương. Nhân tài bốn phái này hưng thịnh, trong kiếm pháp có chỗ bí truyền độc đáo. Còn những môn phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, thì tuy võ học thâm sâu nhưng không chuyên về kiếm thuật.” Người họ Vạn này có ngoại hiệu là Truy Phong Kiếm, lại là cao thủ trong phái Điểm Thương, kiếm thuật nhất định vô cùng tinh xảo. Ông ấy vượt ngàn dặm xa xôi đến Kim Lăng, không biết có đại sự gì.
Hai bên khách sáo mấy câu, xa xa lại có tiếng vỗ tay vọng đến. Bên này lại vỗ tay đáp lại. Chẳng bao lâu đã có thêm ba nhóm nhân vật. Nghe họ gặp nhau nói chuyện, một nhóm là tăng chúng Thanh Lương Tự trên Ngũ Đài Sơn tỉnh Sơn Tây, do giám tự Thập Lực đại sư đích thân dẫn dắt. Một nhóm là hải tặc ở vùng duyên hải Chiết Giang, Phúc Kiến, do tổng minh chủ Bích hải trường kình Trình Khởi Vân của bảy mươi hai đảo dẫn dắt. Nhóm thứ ba là ba người anh em kết nghĩa phái Thái Bạch vùng Tần Lãnh tỉnh Thiểm Tây, gọi chung là Thái Bạch Tam Anh. Ba người này mang tên Sử Bính Quan, Sử Bính Vân và Lê Cương.
Viên Thừa Chí càng nghe càng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Những người này đều là nhân vật có thể diện trong võ lâm cả, sư phụ từng nhắc đến tên tuổi họ rồi. Sao tự nhiên họ tụ tập tới thành Nam Kinh này? Người họ Mẫn không ngừng đa tạ, hiển nhiên những người này đều do ông ấy mời đến.”
Thanh Thanh thấy hành tung những người này khó hiểu, muốn hỏi Viên Thừa Chí, nhưng nàng nghe khẩu khí thì biết đây không phải những kẻ tầm thường, mình chỉ phát ra một chút xíu âm thanh là nhất định bị họ phát giác ngay, nên thở cũng không dám thở mạnh.
Người họ Mẫn cất cao giọng nói: “Các vị tiền bối, sư huynh, sư đệ từ ngàn dặm xa xôi, muôn trùng cách trở đến đây trợ giúp, nghĩa khí sâu nặng. Tại hạ Mẫn Tử Hoa thật sự vô cùng cảm kích. Xin nhận một lạy này.”
Nghe tiếng thì biết y quỳ xuống khấu đầu thật sự. Mọi người vội vã dìu y dậy, lên tiếng khiêm nhường: “Mẫn nhị ca, đừng làm như thế.”
Hoặc: “Làm khổ tiểu đệ rồi. Làm sao đệ dám nhận lễ này?”
Hoặc: “Dọc đường gặp chuyện bất bình rút đao tương trợ là bổn phận của nhân vật võ lâm. Mẫn huynh không cần khách sáo.”
Loạn xạ lên một lúc, rồi Mẫn Tử Hoa lại nói: “Trong vài ngày tới, Trương Tấn sư huynh phái Côn Luân, mấy vị đạo trưởng phái Nga Mi, mấy vị sư huynh phái Hoa Sơn có thể đến đây.”
Có người hỏi: “Phái Hoa Sơn cũng có người đến hay sao? Thế thì hay quá. Không hiểu là môn hạ của vị nào?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Ông này hỏi hay quá, chính mình cũng đang muốn biết.”
Mẫn Tử Hoa đáp: “Là mấy vị sư huynh, môn hạ của Thần Quyền Vô Địch.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra là đệ tử của Nhị ca.”
Lại có người hỏi: “Mẫn nhị ca có đi lại với phu phụ Quy nhị gia ư? Thế thì tuyệt diệu. Có phu phụ họ đứng sau lưng mình, còn sợ gì tên gian tặc họ Tiêu nữa?”
Mẫn Tử Hoa nói: “Tiền bối cao nhân như Quy thị phu phụ, tại hạ dĩ nhiên không với tới. Nhưng Mai Kiếm Hòa sư huynh, đại đồ đệ của họ thì có giao tình nồng hậu với tại hạ.”
Một người nói: “Mai Kiếm Hòa, chắc là Mạt Ảnh Tử đơn kiếm đánh bại Sơn Đông thất hùng rồi.”
Mẫn Tử Hoa đáp: “Không sai, chính là ông ấy.”
Viên Thừa Chí nghe đến đây bèn nghĩ: “Đã có nhân vật bản môn tham dự, việc này chắc chắn là ngay thẳng, mình tạm thời không nên lộ diện. Nếu gặp cơ duyên, có thể âm thầm trợ giúp.”
Lại nghe Mẫn Tử Hoa nói: “Gia huynh năm xưa bỏ mạng, mười mấy năm nay tại hạ điều tra vẫn chưa biết kẻ thù là ai. Bây giờ may được huynh đệ họ Sử phái Thái Bạch nói cho biết, người hại chết gia huynh chính là tên gian tặc họ Tiêu. Thù này không trả, thề chẳng làm người.”
Khẩu khí rất bi phẫn, lại nghe “keng” một tiếng, chắc là tiếng binh khí gõ mạnh lên bia đá.
Một giọng già nua cất lên: “Thiết bối kim tiên Tiêu Công Lễ là một hán tử có tiếng trên giang hồ, danh tiếng của Kim Long Bang xưa nay cũng không tồi tệ. Không ngờ họ lại gây ra việc này. Không hiểu Sử thị huynh đệ từ đâu mà có tin tức?”
Dường như lão này có phần hoài nghi. Mẫn Tử Hoa không đợi anh em họ Sử trả lời, đáp hộ: “Sử thị huynh đệ đã kể lại tỉ mỉ tình hình gia huynh gặp nạn ở Sơn Đông. Việc này có bằng cớ hẳn hoi, Thập Lực đại sư không cần phải nghi ngờ.”
Một người khác nói: “Tiêu Công Lễ ở Nam Kinh đã mấy chục năm rễ sâu gốc vững, Kim Long Bang người đông thế mạnh. Tuy chưa nghe nói họ có cao thủ siêu quần, nhưng dù sao cũng là thổ địa. Lần này động thủ, chúng ta nhất định phải cẩn thận.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Đúng là như vậy. Tại hạ tự biết sức mình khó chống đỡ, nên mới cả gan mời đại giá các vị đến đây. Ngày mai giờ Dậu, tại hạ bày mấy bàn rượu nhạt ở Đại Công Phường để quý vị tẩy trần. Xin quý vị quang lâm.”
Mọi người đa tạ rồi nói: “Người trong nhà không cần khách sáo.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Phen này hảo bằng hữu đến rất nhiều, khó tránh khỏi kẻ địch phát giác. Ngày mai các vị đến nhà, xin đưa ra ba ngón tay: ngón giữa, ngón áp út, và ngón út để làm ký hiệu cho người đón tiếp trước cửa biết, và khẽ nói một câu: Giang hồ nghĩa khí, rút đao tương trợ. Như vậy để tránh bọn Kim Long Bang trà trộn vào chúng ta.”
Mọi người đều nói: “Đúng là phải làm như vậy. Viện thủ đến từ khắp nơi, đa số chưa quen biết. Sau này đối địch, chúng ta nên dùng ám hiệu này để nhận ra nhau.”
Bàn xong việc chính, mọi người đàm luận một lúc về tin tức thời sự, nghĩa quân Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung các nơi đánh nhau với quan quân triều đình. Sau đó họ lục tục giải tán.
Mọi người đi hết, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới nằm xuống nghỉ ngơi. Thanh Thanh phải cúi hồi lâu không động đậy, bây giờ đôi chân hầu như tê liệt. Nàng hỏi: “Đại ca! Ngày mai chúng ta đi xem náo nhiệt chứ?”
Viên Thừa Chí đáp: “Xem một chút cũng không sao. Nhưng Thanh đệ phải nghe lời ta, không được gây chuyện.”
Thanh Thanh nói: “Ai nói muội thích gây sự với họ? Muội chỉ gây sự với huynh thôi, không gây với người khác đâu.”
Trưa ngày hôm sau, tin tức Mã công tử bị giết đã loan truyền xôn xao khắp thành Nam Kinh. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh trốn trong khách điếm suốt ngày không đi ra ngoài. Đến xế chiều, hai người mới thay đổi y phục theo kiểu những hán tử giang hồ tầm thường, đi bộ đến Đại Công Phường.
Ở đó có một căn nhà lớn, phía trước treo lồng đèn, khách khứa tấp nập kéo vào không ngớt. Căn nhà này khá rộng nhưng tường rào cũ kỹ, tam cấp đã mòn khuyết rất nhiều. Chỉ có trước cổng là mới được trang trí và quét vôi lại sơ sài, rõ ràng gấp rút nên trông rất tạm bợ.
Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh đi đến trước cổng, đưa ba ngón tay rồi nói: “Giang hồ nghĩa khí, rút đao tương trợ.”
Một người khoác trường bào liền chắp tay thi lễ, một đại hán bên cạnh dẫn hai người vào trong, bưng trà ra mời rồi thỉnh giáo danh tính. Viên Thừa Chí cùng với Thanh Thanh thuận miệng bịa ra hai cái tên. Đại hán ấy nói: “Ngưỡng mộ từ lâu. Tại hạ trên giang hồ này đã nghe đại danh của hai vị từ lâu lắm rồi.”
Thanh Thanh cười thầm, nghĩ bụng: “Đại danh này thì chính ta cũng mới nghe lần đầu tiên vào đúng hôm nay, không hiểu ngươi đã nghe ở đâu.”
Khách đến càng lúc càng tấp nập. Đại hán ấy thấy hai người còn trẻ, nghĩ rằng đây là đệ tử phái nào đó theo sư trưởng đến đây, nên không xem trọng lắm. Hắn xin phép ra đón tiếp người khác.
Lát sau dọn tiệc, Viên Thừa Chí ngồi cùng Thanh Thanh một bàn. Đại diện chủ nhà ở bàn tiệc này là một tiểu đồ đệ phái Tiên Đô, ngồi trong bàn đều là môn nhân hậu bối cả.
Rót được ba tuần, Mẫn Tử Hoa đi quanh các bàn tiệc để mời rượu. Đến bàn này, Viên Thừa Chí thấy y khoảng ba mươi tuổi, gân xanh trên tay nổi vồng lên, cái nhìn rất tinh nhanh, cử chỉ và bước đi tỏ ra võ công không kém. Cặp mắt của y mọng đỏ, chắc là nghĩ đến mối thù huynh trưởng bị hại nên mấy ngày nay khóc nhiều.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Người này có tình thủ túc chí thành, thật là đáng kính. Lần này y mời bằng hữu rất đông, chắc họ Tiêu kia và Kim Long Bang thế lực không nhỏ.”
Mẫn Tử Hoa chắp tay thi lễ mọi người, nói mấy câu cảm tạ rồi mới mời rượu. Những người ở bàn này đều là vãn bối cả, ai cũng đứng dậy thi lễ.
Mẫn Tử Hoa mời rượu hết các bàn rồi trở về chỗ. Vừa mới ngồi xuống, một tên đệ tử đi lẹ đến chỗ y, kề tai nói gì đó. Mẫn Tử Hoa sắc mặt mừng rỡ, bước vội ra ngoài. Chỉ chốc lát đã thấy y dẫn ba người khác vào, cung kính ngồi vào bàn thủ tọa.
Viên Thừa Chí nhìn thần sắc Mẫn Tử Hoa, biết lai lịch ba người này không nhỏ. Chàng nhìn kỹ, thấy người đầu tiên ăn mặc theo kiểu nho sinh, lưng mang trường kiếm, hai mắt hơi xếch, mặt hất lên trời đầy vẻ kiêu ngạo. Người thứ hai là một hán tử tráng kiện, cả hình tướng lẫn dung mạo đều ra vẻ chân thật. Người thứ ba là một thiếu nữ cao ráo khoảng hai hai hai ba tuổi, mặt mày xinh đẹp, lông mày rất thanh, nhưng cặp mắt sắc như dao.
Mẫn Tử Hoa nói: “Mai huynh kịp thời đến đây, tại hạ thật sự cảm kích vô cùng.”
Nho sinh kia nói: “Việc của Mẫn huynh, tại hạ lý nào không đến?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra người này chính là Mai Kiếm Hòa, đệ tử của Nhị sư ca. Sao thần sắc y ngạo mạn như thế?”
Mai Kiếm Hòa nói: “Tại hạ rước thêm chuyện phiền phức cho huynh, mời giúp huynh hai người đến trợ quyền. Đây là Tam sư đệ Lưu Bồi Sinh và Ngũ sư muội Tôn Trọng Quân của tại hạ.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Từ lâu đã biết oai danh Ngũ linh thủ Lưu huynh và Tôn nữ hiệp. Tại hạ thật vô cùng may mắn.” Ngoại hiệu của Tôn Trọng Quân là Phi Thiên Ma Nữ, nghe không thanh nhã lắm nên y không nhắc đến.
Mẫn Tử Hoa giới thiệu ba người với Thập Lực đại sư, Thái Bạch Tam Anh, Trình Khởi Vân, Vạn Lý Phong. Mọi người gặp nhau chào hỏi, nói mấy câu ngưỡng mộ khách sáo rồi vui vẻ cụng ly.
Tiệc rượu đang nồng, một tên gia đinh cầm tấm thiệp đỏ chạy vào trong, trình lên chủ nhân. Mẫn Tử Hoa vừa xem đã đổi sắc mặt, cười khẩy rồi nói: “Họ Tiêu kia quả nhiên thần thông quảng đại. Chúng ta chưa mời hắn, hắn đã tìm đến trước rồi. Mai huynh! Các vị vừa tới mà họ đã có ngay tin tức.”
Mai Kiếm Hòa nhận lấy tấm thiệp, thấy trên bì thư ghi: “Hậu học Tiêu Công Lễ đốn thủ bách bái”. Trong thiệp viết đủ danh tính của Mẫn Tử Hoa, Thập Lực đại sư, Thái Bạch Tam Anh và những người đã thành danh. Tên của ba người Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh và Tôn Trọng Quân ghi ở cuối cùng, mực chưa ráo hẳn, hiển nhiên mới viết thêm vào. Nội dung thiệp mời mọi người trưa mai đến dự yến ở nhà họ Tiêu.
Mai Kiếm Hòa ném tấm thiệp lên bàn, nói: “Tên thổ địa họ Tiêu này thật sự có bản lãnh, tin tức cực kỳ linh nhạy. Chúng ta không biết có làm nổi thiên tướng hay không, nhưng phải đấu với thổ địa một phen mới được.”
Mẫn Tử Hoa hỏi: “Bằng hữu đưa thiệp đến đâu rồi? Mời hắn vào đi.”
Gia đinh nhận lệnh đi ra. Mọi người dừng ăn uống, ánh mắt dồn hết ra trước cổng, thấy tên gia đinh đó dẫn vào một người khoảng hơn ba mươi tuổi, khoác trường bào.
Y chậm rãi đi vào, khom người thi lễ với bàn thủ tọa, chắp tay nhìn đủ bốn hướng rồi lên tiếng: “Sư phụ của tại hạ nghe tin các vị tiền bối giá lâm Nam Kinh, vội mời đại giá các vị trưa mai đến dự tiệc để tỏ lòng kính trọng.”
Mai Kiếm Hòa cười nhạt nói: “Tên họ Tiêu bày Hồng Môn Yến đấy.”
Rồi y quay lại hỏi người đưa thiệp: “Này, ngươi tên gì vậy?”
Y ăn nói vô lễ, nhưng người kia vẫn cung kính trả lời: “Tại hạ là La Lập Như.”
Mai Kiếm Hòa quát hỏi: “Tiêu Công Lễ mời bọn ta qua đó có quỷ kế gì? Ngươi có biết không?”
La Lập Như đáp: “Gia sư nghe tin các vị tiền bối đại giá đến đây, rất lấy làm ngưỡng mộ, chỉ muốn gặp các vị để tỏ mối tình địa chủ.”
Mai Kiếm Hòa nói: “Hừ, nói hay lắm. Ta hỏi ngươi, năm xưa Tiêu Công Lễ hại chết huynh trưởng Mẫn đại gia của Mẫn lão sư, ngươi có ở đấy không?”
La Lập Như nói: “Gia sư đã nói, ngày mai mời các vị đến nhà, một là tỏ ý ngưỡng mộ các vị tiền bối, hai là có lời tạ tội với Mẫn nhị gia, mong Mẫn nhị gia đại nhân đại lượng mà thu xếp mối bất hòa này.”
Mai Kiếm Hòa hét lên: “Đã giết người rồi, chẳng lẽ chỉ tạ tội là xong hay sao?”
La Lập Như nói: “Chuyện này có tiền nhân hậu quả, theo gia sư thì có những chỗ khó nói ra, liên quan đến thanh danh của danh môn đại phái, nên…”
Tôn Trọng Quân bỗng thét lên: “Ăn nói bừa bãi gì vậy? Sư ca của ta chỉ hỏi, lúc đó ngươi có ở hiện trường hay không.”
La Lập Như đáp: “Lúc đó tại hạ còn nhỏ, chưa bái sư nhập môn. Nhưng sư phụ của tại hạ xưa nay là con người cẩn thận đàng hoàng, nhất định không lạm sát người vô tội.”
Tôn Trọng Quân quát: “Hay lắm! Ngươi còn già mồm nữa ư? Theo ngươi nói thì Mẫn đại gia có tội, chết không đáng tiếc chứ gì?”
Ả vừa quát vừa vọt người ra như một mũi lao, tay phải cầm thanh trường kiếm sáng loáng, tay trái xuất chưởng đánh vào ngực La Lập Như. Họ La giật mình kinh hãi, tay phải ra chiêu Thiết Môn Tuyên gạt ngang, cản trở phát chưởng đánh tới.
Lời chưa nói dứt, đã nghe La Lập Như la một tiếng thảm khốc, quả nhiên cánh tay phải đã bị chặt đứt lìa, máu tươi phun ra đầm đìa. Mọi người trong đại sảnh đều la lên, đứng bật dậy. Sắc mặt La Lập Như trắng bệch như tờ giấy, nhưng quyết không chịu ngất đi. Y dùng tay trái xé vạt áo buộc vào vai phải, cúi nhặt cánh tay bị chặt đứt, sải bước bỏ ra ngoài. Mọi người thấy y cứng cỏi như thế đều đem lòng thán phục, nhìn nhau không ai nói tiếng nào.
Tôn Trọng Quân chùi những vết máu rồi tra kiếm vào vỏ, thần sắc rất tự nhiên. Ả quay về chỗ, nâng ly rượu lên uống cạn. Chiêu kiếm này nhanh chóng gọn gàng, xuất thủ như sấm sét, nhưng mấy trăm người trong đại sảnh không ai cất tiếng hoan hô. Ai cũng cảm thấy bất luận đối phương lỗi phải thế nào, cũng không nên đối xử tàn độc với một sứ giả đến chuyển lời mời. Ngay cả Mẫn Tử Hoa cũng kinh hãi, quên mất phải khen một tiếng “tuyệt diệu” cho Tôn Trọng Quân được hài lòng.
Mẫn Tử Hoa nói: “Tên này hung hãn như thế, đủ thấy sư phụ của hắn hiểm ác thế nào. Ngày mai chúng ta có nên qua đó dự tiệc hay không?”
Vạn Lý Phong nói: “Đương nhiên là đi. Nếu không đi, chẳng lẽ để hắn coi thường hay sao?”
Trình Khởi Vân nói: “Tối nay chúng ta cho người đi dò xét trước, xem thử Tiêu Công Lễ đã mời những tay viện thủ nào, ngày mai Kim Long Bang có quỷ kế gì, có hạ độc trong rượu thịt hay không. Phòng bị trước thì đỡ bị lừa.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Trình đạo trưởng nói rất đúng. Tại hạ cũng nghĩ chúng sẽ phòng bị rất cẩn mật. Phải nhờ mấy vị huynh trưởng cực khổ một phen mới được.”
Vạn Lý Phong nói: “Tại hạ xung phong đi trước.”
Mẫn Tử Hoa đứng dậy, rót đầy một ly rượu bưng đến, lên tiếng: “Tại hạ kính trước một ly, chúc Vạn huynh mã đáo thành công.”
Hai người chạm ly rồi uống cạn.
*
* *
Tan tiệc, mọi người lần lượt cáo biệt trở về. Viên Thừa Chí kéo tay Hạ Thanh Thanh, dắt nàng âm thầm theo dõi Vạn Lý Phong. Lúc này đã khoảng canh một.
Vạn Lý Phong trở về khách sạn, thay y phục chẽn rồi chạy về hướng Đông. Hai người theo dõi xa xa, thấy y rẽ qua rẽ lại bảy tám con đường, ra phía sau một căn nhà khá lớn, rồi tung người nhảy vào trong. Viên Thừa Chí thấy thân pháp y khá nhanh, nghĩ bụng: “Thật không uổng ba chữ Truy Phong Kiếm.”
Hai người cũng vượt tường sau nhảy vào, thấy một gian phòng có ánh đèn rọi ra. Theo khe cửa sổ nhìn vào, thấy trong phòng có ba người. Ngồi quay mặt ra ngoài là một người trạc ngũ tuần, sắc mặt đỏ hồng, trán đầy nếp nhăn. Ông ngồi chau mày ủ rũ, mặt hiện rõ vẻ âu lo.
Ông thở ra một hơi rồi hỏi: “Lập Như sao rồi?”
Một người đứng đối diện đáp: “La sư ca ngất đi mấy lần, nhưng bây giờ đã cầm máu rồi.”
Nghe đối đáp, Viên Thừa Chí biết người lớn tuổi là Tiêu Công Lễ, thầy trò đang bàn đến vết thương của La Lập Như.
Lại nghe một người khác nói: “Sư phụ! Chúng ta hãy cử mấy huynh đệ tuần tra quanh nhà thì hơn, chỉ sợ đối phương cho người đến quấy rối.”
Tiêu Công Lễ thở dài nói: “Có đến hay không cũng vậy thôi, ta tới số rồi. Sáng sớm mai, các ngươi hãy đưa sư nương, sư muội và tiểu sư đệ đến nhà họ Ngô ở Tường Châu.”
Người đệ tử ấy nói: “Sư phụ! Tuy đối thủ lợi hại, nhưng lão nhân gia không nên nản chí. Bang chúng bản bang trong thành Nam Kinh có tới hơn hai ngàn huynh đệ. Mọi người cùng sống mái một phen, xem chúng làm gì được?”
Tiêu Công Lễ than thở: “Những người được đối phương mời đến đều là hảo thủ trong giang hồ. Anh em trong bang đối địch với họ chỉ uổng phí tính mạng mà thôi. Ôi! Sau khi ta chết, các ngươi phải thị phụng sư nương cho đàng hoàng. Sư đệ và sư muội cũng nhờ các ngươi giáo dục nên người.” Ông không nén nổi, nước mắt lăn xuống má.
Một đệ tử nói: “Sư phụ đừng nói vậy. Lão nhân gia võ công cái thế, oai chấn Giang Nam, dù không chắc thắng cũng chẳng chắc thua. Sư huynh đệ chúng con có hai mươi lăm người, trừ La sư ca còn lại hai mươi bốn. Lão nhân gia giao tình khắp thiên hạ, cũng có thể mời bằng hữu đến đây để đánh nhau một trận. Họ có bạn bè, chẳng lẽ chúng ta không có hay sao?”
Tiêu Công Lễ nói: “Năm xưa ta huyết khí phương cương, tính tình nóng nảy như ngươi bây giờ vậy, nên đã gây ra mối hận này. Bây giờ ta để cho họ giết, trả món nợ máu đó coi như xong việc.”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe vậy đều cảm thấy bất nhẫn, nghĩ thầm: “Tiêu Công Lễ hình như không phải loại cùng hung cực ác. Trước đây ông ấy làm sai một việc, bây giờ đã thành tâm hối cải.”
Lát sau bỗng nghe một đồ đệ kêu lên: “Sư phụ!”
Tiêu Công Lễ hỏi: “Sao?”
Người ấy nói: “Sư phụ không muốn đối địch với họ thì chúng ta khởi hành ngay đêm nay, tạm thời tránh né một phen. Đại trượng phu biết co biết duỗi…”
Đồ đệ kia vội nói: “Như vậy sao được? Anh danh một đời sư phụ, chẳng lẽ sợ họ mà bỏ trốn?”
Tiêu Công Lễ nói: “Anh danh hay không thì ta không nghĩ đến nữa, nhưng muốn tránh cũng không tránh kịp. Hơn nữa, bang chủ Kim Long Bang mà co đầu rút cổ bỏ chạy như thế thì mấy ngàn huynh đệ trong Kim Long Bang còn có thể đứng thẳng làm người hay không? Sáng sớm mai các ngươi rời khỏi đây hết, một mình ta ở lại đối phó với họ.”
Hai đồ đệ đều giật mình, đồng thanh nói: “Con ở lại đây với sư phụ.”
Tiêu Công Lễ giận dữ nói: “Cái gì? Đại nạn ngay trước mắt, các ngươi còn cãi lời của ta nữa ư?”
Hai đồ đệ không dám nói nữa. Tiêu Công Lễ bảo: “Các ngươi đi giúp sư nương thu thập đồ đạc, xem thử xe cộ đã xong chưa. Không cần mang quá nhiều đồ, lên đường sớm mới là quan trọng.”
Hai người miệng thì vâng dạ, nhưng vẫn đứng yên không động đậy. Tiêu Công Lễ thở dài nói: “Thôi được! Gọi hết vào đây.”
Hai người cả mừng mở cửa chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh vội rúc vào một góc tường, đang cúi xuống thì thấy ở góc tường phía Tây cũng có hai người đang nấp. Nhìn dáng người thì một là Truy phong kiếm Vạn Lý Phong, người kia là nữ nhân thân hình thon thả, chính là Tôn Trọng Quân.
Viên Thừa Chí tức giận ả này vừa rồi ra tay ác độc, muốn giáo huấn một phen, bèn khẽ bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ ở đây, đừng nhúc nhích.”
Thanh Thanh uốn vai một cái, khẽ đáp: “Muội mỏi quá thì phải nhúc nhích mấy cái chứ?”
Viên Thừa Chí mỉm cười. Thấy Vạn Lý Phong và Tôn Trọng Quân đang tập trung nhìn vào bên trong, chàng lướt tới chỗ Tôn Trọng Quân, tiện tay rút lấy thanh kiếm cài trên lưng ả. Động tác này cực kỳ nhanh chóng nhẹ nhàng. Khi trường kiếm ra khỏi vỏ cũng có một tiếng động nhỏ, nhưng lúc đó Tôn Trọng Quân đang dồn hết tinh thần quan sát Tiêu Công Lễ, nên ả không phát giác.
Khi Viên Thừa Chí quay lại, Thanh Thanh thấy chàng ra tay đoạt kiếm của một cô nương khác, lộ vẻ không vui. Viên Thừa Chí bèn đưa thanh kiếm cho nàng, khẽ bảo: “Muội giữ lấy.”
Thanh Thanh hân hoan nhận lấy, cài vào sau lưng.
Hai người lại từ khe cửa sổ nhìn vào trong phòng, thấy hai mươi mấy người liên tục tiến vào. Người lớn tuổi nhất đã gần bốn mươi, người trẻ nhất chỉ khoảng mười sáu mười bảy, xem ra đều là đệ tử của Tiêu Công Lễ. Đám đệ tử thi lễ với sư phụ rồi thõng tay đứng đó, mặt ai cũng tỏ ra giận dữ.
Tiêu Công Lễ sắc mặt tái xanh, cất tiếng: “Thời trẻ ta ở chốn lục lâm. Bây giờ không cần giấu giếm các ngươi nữa.”
Viên Thừa Chí thấy đám đệ tử đều lộ vẻ kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra họ không biết lai lịch của sư phụ.”
Tiêu Công Lễ thở ra một hơi rồi nói:
“Bây giờ kẻ thù đã tìm đến rồi, ta phải nói rõ nguyên do cho các ngươi biết.
Năm đó, ta lập trại ở sông Long Cương. Anh em thám thính được Khưu Đạo Đài ở tỉnh Sơn Đông cáo lão hồi hương, đưa gia quyến về quê, sẽ đi ngang sông Long Cương, mang theo tiền bạc rất nhiều. Chúng ta là người lục lâm, đương nhiên kiếm cơm bằng cách cướp tiền người khác, gặp bọn tham quan ô lại là sướng nhất. Một là bọn tham quan vơ vét rất nhiều, cướp một tên tham quan còn hơn cướp một trăm thương khách tầm thường. Hai là cướp của bọn tham quan không tổn âm đức. Tiền của chúng là tiền bất nghĩa, cướp lại của chúng là chuyện hợp đạo lý.
Nhưng khi điều tra rõ thì người hộ tống là một nhân vật có danh. Đó là Mẫn Tử Diệp, tổng tiêu đầu Hồi Mẫn tiêu cục ở phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông, chính là huynh trưởng của Mẫn Tử Hoa.”
Nghe đến đây Viên Thừa Chí và Thanh Thanh đã hiểu nguyên nhân hai bên xích mích. Tiêu Công Lễ muốn cướp tiền, còn Mẫn Tử Diệp đi bảo tiêu. Chắc là hai bên giao đấu, Mẫn Tử Diệp đánh thua bị giết.
Viên Thừa Chí vừa lắng nghe Tiêu Công Lễ kể chuyện trong phòng, vừa liếc xem động tĩnh của Vạn Lý Phong và Tôn Trọng Quân. Đột nhiên chàng thấy Tôn Trọng Quân đưa tay sờ lên lưng rồi giật bắn người. Ả phát hiện thanh kiếm của mình đã bị rút mất, liền đưa tay ra hiệu với Vạn Lý Phong. Hai người không dám ở lại nữa, nhảy qua tường bỏ chạy. Viên Thừa Chí không khỏi buồn cười.
Lại nghe Tiêu Công Lễ nói tiếp: “Mẫn Tử Diệp rất có danh tiếng trên giang hồ, là cao thủ phái Tiên Đô.”
Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra Mẫn thị huynh đệ đều ở phái Tiên Đô. Nghe sư phụ nói, phái Tiên Đô là nội gia chính tông, bắt nguồn từ Võ Đang, có thể gọi là một chi nhánh của Võ Đang. Chưởng môn phái này xưa nay đều thích kết giao bằng hữu, trao đổi tin tức với các môn phái khác. Chẳng trách Mẫn Tử Hoa mời được nhiều nhân vật nổi danh như vậy.”
Tiêu Công Lễ nói:
“Ta nghe tên Mẫn Tử Diệp, bèn không dám ra tay bừa bãi mà đích thân đi dò xét. Đêm đó ta lẻn vào khách sạn của họ để xem động tĩnh, tình cờ nghe một chuyện khiến người ta phải tức vỡ bụng mà chết.
Thì ra tên Mẫn Tử Diệp này tham hoa háo sắc, thấy Nhị tiểu thư của Khưu Đạo Đài có nhan sắc liền bày gian kế. Hắn âm thầm hẹn ước với Trương trại chủ Phi Hổ Trại, bảo chúng ra tay đánh cướp Khưu Đạo Đài. Mẫn Tử Diệp sẽ giả vờ cố sức kháng cự nhưng không địch nổi số đông, để Trương trại chủ giết chết cả nhà Khưu Đạo Đài, cướp hết tài sản, bắt luôn Nhị tiểu thư đi.
Sau đó Mẫn Tử Diệp sẽ đơn thân vào sào huyệt địch để cứu tiểu thư này ra. Tất cả tiền tài sản vật sẽ thuộc về Phi Hổ Trại, còn Khưu nhị tiểu thư thì gia đình tan nát, không nơi nương tựa, lại có ơn phải trả, đương nhiên sẽ nhận lời làm vợ Mẫn Tử Diệp. Trương trại chủ muốn lấy lòng Mẫn Tử Diệp, lại tham tài vật, nên đồng ý với mưu kế của hắn.
Hai người bàn tính trong phòng kín, không ngờ lọt vào tai ta hết. Ta cực kỳ giận dữ, liền trở về triệu tập huynh đệ, mai phục gần Phi Hổ Trại. Đến giờ hẹn, đoàn người Khưu Đạo Đài quả nhiên đến đó.”
Chuyện này thật sự làm Viên Thừa Chí bị bất ngờ. Lại nghe Tiêu Công Lễ kể tiếp:
“Lúc đó ta nghĩ, dù sao chúng ta cũng là nhân vật võ lâm. Tuy đường cùng mạng bạc mà bị vùi thân vào hắc đạo, làm nghề buôn không vốn, nhưng về chữ Sắc thì phải quang minh lỗi lạc mới không hổ mặt nam tử hán đại trượng phu. Nào ngờ Mẫn Tử Diệp lại vô sỉ đến thế. Hắn là đệ tử danh môn chính phái, nổi tiếng trên giang hồ, lại đang là tổng tiêu đầu, thế mà bày mưu hạ tiện.
Chính mắt ta thấy Trương trại chủ dẫn bọn lâu la đến cướp. Mẫn Tử Diệp giả vờ quát tháo, vung kiếm đâm chém loạn xạ nhưng chẳng trúng ai. Ta tức giận không chịu nổi, bèn nhảy ra can thiệp. Kiếm pháp của Mẫn Tử Diệp không tệ, lẽ ra ta không phải là đối thủ của hắn. Nhưng ta vừa đánh vừa la, lật tẩy hết quỷ kế mưu đồ của hắn. Hắn hổ thẹn lại giận dữ, không sao định thần được, rốt cuộc bị ta một đao chém chết…”
Một đệ tử kêu lên: “Sư phụ! Người này rất đáng chết, chúng ta hà tất phải sợ. Đợi ngày mai đối thủ đến đây, mọi người phải nói rõ ràng. Không chừng Mẫn Tử Hoa vẫn muốn trả thù cho huynh trưởng, nhưng những người khác chưa chắc đã không phân biệt thị phi.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Không sai! Nếu họ Tiêu thật sự thấy chuyện bất bình mà giết Mẫn Tử Diệp, võ lâm chẳng ai trách ông ấy. Nhưng đây chỉ là lời nói từ một phía, chưa chắc đáng tin. Cũng có thể ông ấy nói thật, nhưng bên trong còn có ẩn tình khác thì sao?”
Tiêu Công Lễ thở ra một hơi rồi nói:
“Sau khi giết họ Mẫn, đâu phải ta không biết rước đại họa vào thân? Hắn là một nhân vật hữu danh trong phái Tiên Đô. Sư phụ của hắn là Hoàng Mộc đạo nhân chắc chắn không chịu bỏ qua, sẽ dẫn đệ tử tìm ta trả thù. Dù ta có ba đầu sáu tay cũng không đỡ nổi. May mà lúc đó thủ hạ của ta bắt được Trương trại chủ. Ta buộc Trương trại chủ viết một bản cung, ghi ra đầy đủ âm mưu gian xảo của Mẫn Tử Diệp.
Dĩ nhiên Khưu Đạo Đài vô cùng cảm kích, muốn tặng ta hai ngàn lượng bạc. Ta vốn định cướp sạch tiền của lão, nhưng đang là một tên cường đạo mà bỗng phát thiện tâm, hành hiệp trượng nghĩa như thế này, nghĩ lại thật là hiếm có. Vì thế ta không nhận của lão một lượng bạc nào.
Khưu Đạo Đài vạn lần cảm tạ, viết lời chứng kể rõ tình hình đã xảy ra, còn gọi hai tiêu đầu của Hồi Mẫn tiêu cục đến ký tên và lăn dấu tay, coi như nhân chứng. Hai tiêu đầu này vốn không biết nội tình, nghe Trương trại chủ và đồng bọn Phi Hổ Trại khai rõ ra mới biết. Họ đều thóa mạ Mẫn Tử Diệp là đồ vô sỉ, suýt nữa bị hắn bán đứng, nếu không có ta thì đã bỏ mạng ở đây rồi. Họ rối rít cảm ơn, rất có tình cảm.
Sau vụ này, ta biết không thể sống trong hắc đạo nữa, bèn giải tán chúng huynh đệ, cầm hai lá thư lên Long Hổ Quán trên núi Tiên Đô xin gặp Hoàng Mộc đạo nhân.
Lúc đó môn nhân Tiên Đô Phái đã biết tin, không để ta lên núi mà giữa đường chặn lại làm khó dễ. Khí thế mọi người vô cùng hung hãn, không cho ta cơ hội biện minh. May mà có một kỳ hiệp giang hồ đi ngang qua đó, rút kiếm tương trợ, hộ tống ta lên núi gặp Hoàng Mộc đạo nhân, ba mặt một lời nói chuyện rõ ràng.
Hoàng Mộc đạo nhân rất biết thể diện, ra lệnh cho môn nhân vĩnh viễn không được tìm ta trả thù. Nhưng vì thanh danh phái Tiên Đô, lão xin ta đừng kể chuyện này ra ngoài. Dĩ nhiên ta đồng ý. Từ khi xuống núi, xưa nay ta không nhắc đến chuyện này, nên trên giang hồ hiếm ai hiểu rõ nguyên do sự việc. Mẫn Tử Hoa là tiểu đệ của Mẫn Tử Diệp, lúc đó còn rất trẻ, chắc là không biết nội tình. Người phái Tiên Đô dĩ nhiên không nói cho y biết.”
Một đệ tử hỏi: “Sư phụ! Hai lá thư đó sư phụ còn giữ hay không?”
Tiêu Công Lễ lắc đầu đáp: “Chuyện này thì phải trách ta có mắt không tròng, nhìn không biết người. Mùa thu năm ngoái, có bằng hữu nhắn ta là em trai của Mẫn Tử Diệp đã học nghệ thành tài, rời phái Tiên Đô xuống núi, biết ta là kẻ thù giết anh nên muốn đến trả thù. Sau này ta phát hiện giữa Thái Bạch Tam Anh và Mẫn Tử Hoa có quan hệ không phải là sơ. Tam Anh với ta là chỗ tri giao, tuy đã mười mấy năm không gặp, nhưng từng cùng vào sinh ra tử trong chốn lục lâm hồi tuổi trẻ. Vì thế ta đi tìm anh em họ Sử trong Thái Bạch Tam Anh…”
Một đệ tử nói xen vào: “À! Tháng chạp năm ngoái sư phụ đi Thiểm Tây, Tết cũng không về, chính vì việc này phải không?”
Tiêu Công Lễ nói:
“Không sai, ta đến nhà họ Sử ở núi Thái Bạch vùng Tần Lĩnh tỉnh Thiểm Tây. Ta cứ nghĩ tháng chạp, năm hết Tết đến, anh em họ nhất định ở nhà, nào ngờ lại không gặp. Thì ra họ đã đi Liêu Đông, nói là lo một món buôn bán lớn. Ta ở lại nhà họ đợi hơn mười ngày, anh em Sử Bính Quan, Sử Bính Vân mới trở về. Bạn bè lâu năm gặp mặt, ai cũng vui mừng.
Ta đem chuyện kết thù với nhà họ Mẫn kể họ nghe. Sử lão đại lập tức vỗ ngực, đảm bảo là vô sự. Ta liền giao lá thư của Khưu Đạo Đài và tờ cung của Trương trại chủ cho hắn. Anh em họ Sử đều nói, chỉ cần đưa hai lá thư này cho Mẫn Tử Hoa xem, dĩ nhiên Mẫn lão nhị chẳng còn lòng dạ nào tìm ta trả thù nữa. Không chừng y còn phải thân hành đến tạ tội, và thỉnh cầu ta đừng kể chuyện xấu xa của huynh trưởng ra ngoài.
Huynh đệ nhà họ Sử tiếp đãi ta rất ân cần. Ta rảnh rỗi chẳng có việc gì làm, nên ngày nào cũng cùng họ đi săn, nghe hát. Hai anh em từ Liêu Đông mang về không ít nhân sâm và da điêu, tặng ta một mớ.
Một hôm ba người đang uống rượu, Sử lão đại bỗng nói: “Khí số Đại Minh đã hết. Huynh đệ chúng ta đều có võ công đầy mình, sao không tìm minh chủ đầu quân để làm khai quốc công thần?”
Ta đáp: “Đến chỗ Sấm Vương đầu quân để gây sự nghiệp cũng không đến nỗi tồi.”
Hắn cười rộ lên ha hả, nói: “Lý Tự Thành là đồ thổ phỉ cướp đường, làm gì được? Nhà Mãn Thanh đang thế hùng lực mạnh, chỉ một thời gian ngắn là có thể nhập quan. Nếu Tiêu huynh chịu cùng góp sức, Sử mỗ có thể nói lời giới thiệu trước mặt Cửu vương gia Mãn Thanh.”
Ta lập tức nổi giận, mắng chúng quên mất mình là người Hán. Sao không chịu làm hào kiệt Đại Minh, lại đi đầu hàng bọn man di mọi rợ, há chẳng biến thành Hán gian vô liêm sỉ hay sao? Sau khi chết rồi, còn mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên nữa?”
Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, nghĩ bụng: “Tiêu Công Lễ xuất thân đạo tặc, thế mà thị phi phân biệt rõ ràng, gặp chuyện lớn chẳng hàm hồ gì cả.”
Tiêu Công Lễ kể tiếp:
“Lúc đó ta đập bàn thóa mạ, ba người cãi nhau một hồi. Hôm sau anh em họ Sử xin lỗi ta. Sử lão đại nói là đêm qua uống say quá, không biết đã nói những chuyện hồ đồ gì, bảo ta đừng để tâm. Chúng ta là bằng hữu lâu năm, cãi vã xong vẫn có thể bỏ qua. Họ ân cần chiêu đãi ta như trước, hoàn toàn không nhắc đến việc đó nữa. Ta ở lại Thiểm Tây thêm mười mấy ngày rồi trở về Nam Kinh.
Nào ngờ anh em họ Sử là bọn lòng lang dạ sói, chẳng những không đi giải thích với Mẫn Tử Hoa, lại còn chơi trò đòn xóc hai đầu, hoạch định kế sách, hẹn người đông đúc. Kế hoạch này đã chuẩn bị nửa năm trời, nhưng ta hoàn toàn bị che mắt chẳng hiểu tí gì, một chút phong thanh cũng không nghe thấy. Ta cứ nghĩ rằng huynh đệ Sử gia đã nói rõ đầu đuôi với Mẫn Tử Hoa, mọi chuyện yên rồi. Đột nhiên trời quang nổi sấm, rất nhiều võ lâm cao thủ kéo đến Nam Kinh.
Nhất định huynh đệ họ Sử không đưa Mẫn Tử Hoa xem hai lá thư đó. Chuyện này đã qua nhiều năm, những người có mặt lúc đó nếu chưa chết thì cũng không biết đã giải tán phương nào. Bây giờ ta có biện minh thế nào đi nữa, Mẫn Tử Hoa cũng không thể tin được. E rằng lại làm y giận dữ hơn, kết tội ta phao tin đồn nhảm, phỉ báng người anh quá cố của y.
Ta chỉ có một điều không hiểu. Ta cùng anh em họ Sử đã kết bạn lâu năm như thế, dù có lần cãi vã cũng không thể coi là đoạn tuyệt tình nghĩa. Hà tất chúng phải sắp đặt âm mưu, tập trung rất nhiều cao thủ cùng lúc đến đây? Xem cách bố trí thế này, rõ ràng là chúng muốn giết ta cho tận tuyệt. Ta đã đắc tội chuyện gì với họ, ta nghĩ mãi không ra.”
Đám đệ tử nghe xong đều nổi giận đùng đùng. Mỗi người một câu huyên náo hẳn lên, quyết chí liều chết đánh nhau với anh em họ Sử.
Tiêu Công Lễ xua tay bảo: “Các ngươi ra đi. Những chuyện tối nay ta kể, tuyệt đối không được nói lộ một câu ra ngoài. Ta từng thề trước mặt Hoàng Mộc đạo trưởng là không để lộ chuyện Mẫn Tử Diệp cho mọi người biết, nhưng chúng ta là người một nhà, kể một chút cũng không sao. Ai bất nghĩa mặc ai, ta quyết không làm con người bất tín. Sau khi ta chết, không ai được nuôi dạ báo thù. Ai nhắc tới hai chữ báo thù, người đó có lỗi với ta. Mọi người trong Kim Long Bang đều phải nhớ lấy chuyện này.”
Ông thở ra một hơi rồi xuống giọng nói: “Gọi sư đệ, sư muội vào đây.”
Đám đệ tử đều lộ vẻ bi phẫn, lùi bước ra ngoài.
Sau đó màn cửa vén lên. Một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi và một chú bé khoảng bảy tám tuổi đi vào. Dung mạo thiếu nữ đó khá xinh đẹp, mặt trái xoan, sống mũi cao, rất có anh khí, trên má có vết nước mắt. Nàng kêu một tiếng “gia gia”, rồi sà vào lòng Tiêu Công Lễ.
Tiêu Công Lễ xoa đầu con gái, hồi lâu chẳng nói gì. Thiếu nữ cứ thút thít khóc trong lòng cha, còn cậu bé thì giương mắt lên nhìn, không biết tại sao chị mình lại thương tâm như thế.
Tiêu Công Lễ hỏi: “Đồ đạc của mẹ đã dọn xong chưa?” Thiếu nữ gật đầu.
Tiêu Công Lễ dặn: “Sau khi em trai lớn lên, con hãy dạy em học chữ rồi làm ruộng nuôi thân, đừng thi cử làm quan, lại càng không nên học võ.”
Thiếu nữ vừa khóc vừa nói: “Đệ đệ phải học võ chứ? Nhất định sau này phải trả thù cho gia gia.”
Tiêu Công Lễ giận dữ quát lên: “Nói bậy! Con muốn trêu ta tức chết hay sao? Hai chữ trả thù không được nhắc tới.”
Ông ngừng một lúc, lại nói dịu dàng: “Oan oan tương báo trong võ lâm chẳng bao giờ chấm dứt. Thà làm một người dân an phận thủ thường, còn được hưởng tuổi già tử tế. Em trai của con tư chất không tốt, học võ không luyện được một nửa công phu của ta đâu. Ngay cả ta, hôm nay cũng bị bức bách đến thế này, không còn lối thoát… Ôi! Chỉ tiếc chưa gặp nơi nào tử tế để con thành gia thất, để ta bớt một nỗi lo… Con dặn mọi người, sau khi ta chết thì mọi việc của Kim Long Bang giao cho phó bang chủ Cao thúc thúc xử lý.”
Thiếu nữ nói: “Để con cho người đến Phượng Dương gọi Cao thúc thúc đến ngay.”
Tiêu Công Lễ sắc mặt trầm xuống, nói: “Con vẫn chưa hiểu được tâm tư của ta hay sao? Nếu gọi Cao thúc thúc đến đây, ông ấy tính nóng như lửa, làm sao đứng nhìn người bức hiếp ta được? Như vậy chắc chắn phải động can qua, không biết tổn thương bao nhiêu nhân mạng. Cho dù ta thoát chết, mà bắt mấy trăm huynh đệ chết vì mình, ta có nhẫn tâm như vậy được không? Con đi đi.”
Ông ôm lấy con trai, hôn lên má nó, mỉm cười rồi bảo: “Con trai ngoan! Từ nay về sau con phải nghe lời tỉ tỉ.”
Cậu bé đáp: “Con nhớ rồi. Sao gia gia lại khóc?”
Tiêu Công Lễ gượng cười nói: “Ta có khóc đâu?”
Ông đặt cậu bé xuống đất, sờ lên đỉnh đầu nó, ánh mắt chứa chan tình cảm. Cảnh sinh ly tử biệt này quá đau lòng, chẳng ai nỡ nhìn lâu.
Tiêu cô nương nước mắt đầm đìa, nắm tay em dẫn ra ngoài. Đến trước cửa, nàng dừng chân quay lại hỏi: “Gia gia! Chẳng lẽ ngoài cái chết ra không có cách nào khác hay sao?”
Tiêu Công Lễ nói: “Bất cứ cách gì ta cũng nghĩ tới rồi. Nếu có thể không chết, chẳng lẽ ta không muốn hay sao? Ôi! Bây giờ chỉ còn một người có thể cứu mạng ta. Nhưng chắc ông ấy đã tạ thế trước rồi.”
Sắc mặt Tiêu cô nương đột nhiên rạng rỡ lên, bước tới hai bước hỏi: “Gia gia, người ấy là ai? Nếu ông ấy còn sống thì sao?”
Tiêu Công Lễ nói: “Vị ân công này họ Hạ, ngoại hiệu là Kim Xà Lang Quân.”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe vậy, vô cùng kinh ngạc.
Tiêu Công Lễ lại nói: “Ông ấy là một kỳ hiệp giang hồ. Ta đã kể lại đầu đuôi vụ giết Mẫn Tử Diệp cho ông ấy biết rõ ràng. Năm xưa, mười một đệ tử phái Tiên Đô làm khó ta, ông ấy một mình đẩy lùi họ, hộ tống ta lên núi Tiên Đô để gặp Hoàng Mộc đạo nhân. Hoàng Mộc đạo nhân đã rời núi đi vân du, nhiều năm nay không biết ở đâu, chắc tạ thế từ lâu rồi. Mười mấy năm trước ta nghe nói Kim Xà Lang Quân đã bị ám toán, không biết hư thực ra sao. Ân đức này chưa báo đáp, trong lòng ta vẫn thường cảm thấy không yên. Nếu ông ấy còn sống… Ôi! Các con đi đi.”
Tiêu cô nương ủ rũ dẫn em ra ngoài.
Viên Thừa Chí đưa tay ra hiệu với Thanh Thanh, hai người âm thầm theo sau hai chị em. Đến một vườn hoa, thấy xung quanh không có ai, Viên Thừa Chí vọt đến cạnh Tiêu cô nương, hỏi nhỏ: “Tiêu cô nương! Cô muốn cứu mạng gia gia không?”
Tiêu cô nương giật mình quát hỏi: “Ai thế?”
Viên Thừa Chí nói: “Nếu cô muốn cứu gia gia thì hãy đi theo ta.”
Nói xong chàng tung người nhảy lên, nhẹ nhàng lướt ra ngoài tường. Thanh Thanh phải nhảy liền ba cái mới ra theo được. Tiêu cô nương không ngờ thiếu niên này giỏi khinh công đến thế, trước nay nàng chưa từng thấy. Nàng kinh ngạc trong lòng, cầm kiếm nhảy qua tường đuổi theo.
Đuổi được một đoạn, nàng bắt đầu nổi dạ nghi ngờ, đột nhiên dừng bước lại không đuổi nữa, muốn quay về. Mới quay người lại, bỗng có một cơn gió thổi qua, dây thắt lưng phất phới bay lên, rồi nàng cảm thấy cổ tay hơi tê một cái, ngón tay thả lỏng, trường kiếm đã bị Viên Thừa Chí đoạt lấy.
Tiêu cô nương kinh hãi. Vũ khí đã tuột khỏi tay, đường lùi lại bị cản trở, nàng không biết phải làm gì. Viên Thừa Chí vội nói: “Cô nương đừng sợ! Nếu ta muốn đả thương cô thì dễ như trở bàn tay. Ta là bạn của gia đình cô.”
Nói xong, chàng hai tay cầm kiếm trả lại cho nàng. Tiêu cô nương nhận kiếm, khẽ gật đầu một cái.
Viên Thừa Chí thấy nàng vẫn còn bán tín bán nghi, bèn nói: “Gia gia của cô nương đang gặp cơn hoạn nạn. Cô có chịu mạo hiểm cứu ông ấy hay không?”
Cặp mắt Tiêu cô nương đỏ hẳn lên, nói: “Chỉ cần cứu được gia gia, dù xương tan thịt nát muội cũng cam lòng.”
Viên Thừa Chí nói: “Gia gia cô rất tốt, thà hy sinh tính mạng chứ không muốn động binh đao, làm hại những người vô tội. Ta phải giúp đỡ ông ấy một phen.”
Tiêu cô nương nghe Viên Thừa Chí nói rất thành khẩn, hơn nữa trong lúc nguy cấp thế này, một tia hy vọng nhỏ nhoi cách mấy cũng không nên bỏ phí. Nàng toan quỳ xuống.
Viên Thừa Chí nói: “Xin cô nương đừng đa lễ. Chuyện này thành công hay không, ta chưa nắm chắc lắm.”
Tiêu cô nương cảm thấy Viên Thừa Chí đỡ mình ra vẻ nhẹ nhàng, nhưng luồng lực đạo cực lớn, mình không thể nào quỳ xuống được. Nàng lại thêm phần tin tưởng Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí bảo: “Nhờ cô dẫn ta vào nhà, ta cần viết một lá thư cho gia gia cô.”
Tiêu cô nương hỏi: “Xin hỏi cao tính đại danh hai vị? Nhờ hai vị khuyên can gia gia của muội một chút có được không?”
Viên Thừa Chí nói: “Danh tính của ta tạm thời khoan nhắc đến. Gia gia của cô nương nhìn thấy lá thư này, nhất định sẽ từ bỏ ý niệm liều chết. Chúng ta phải lo xong việc này rồi hãy nói tiếp.”
Tiêu cô nương mừng rỡ nói: “Mời hai vị theo muội.”
Ba người nhảy qua tường trở vào trong nhà. Tiêu cô nương dẫn hai người vào một thư phòng nhỏ, lấy bút nghiên giấy mực. Nàng mài mực rồi ra xa ngồi, thấy Viên Thừa Chí cầm bút không biết viết những gì. Thanh Thanh ngồi cạnh chàng, sắc mặt tỏ vẻ kinh ngạc.
Viên Thừa Chí gấp tờ giấy đó thành một phong thư, lấy hồ dán lại, giao cho Tiêu cô nương rồi nói: “Mau đem lá thư này tới chỗ gia gia. Nhưng cô nương phải hứa với ta một việc.”
Tiêu cô nương nói: “Tôn giá đã dặn dò, dĩ nhiên muội phải tuân mạng.”
Viên Thừa Chí nói: “Cô nương không được đem tuổi tác, tướng mạo của ta nói cho gia gia biết.”
Tiêu cô nương ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại thế?”
Viên Thừa Chí đáp: “Nếu cô nói ra, thì ta không thể giúp cô được nữa.”
Tiêu cô nương nói: “Được, muội đồng ý.”
Viên Thừa Chí nói: “Ngày mai giờ Mão, mời cô đến phòng số ba dãy chữ Hoàng trong Hưng Long khách điếm ở cửa Thủy Tây, ta sẽ thương lượng với cô về việc giải trừ nguy nan cho lệnh tôn. Việc này tuyệt đối phải giữ bí mật.”
Tiêu cô nương gật đầu đồng ý.
Viên Thừa Chí kéo tay Thanh Thanh bảo: “Được rồi. Chúng ta đi thôi!”
Tiêu cô nương nhìn theo hai người lướt qua tường mà ra, trong lòng vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ, nhưng phần vui mừng lại nhiều hơn. Nàng lập tức chạy tới phòng của phụ thân. Thấy cửa phòng đóng chặt, nàng vừa gõ cửa vừa lớn tiếng gọi: “Gia gia, mở cửa!”
Rất lâu không nghe tiếng gì, nàng lo lắng bèn vòng qua cửa sổ, phóng chưởng đẩy gãy chốt cửa, rồi theo cửa sổ nhảy vào. Tiêu Công Lễ đang thần sắc ủ rũ, tay nâng ly rượu kề lên miệng. Tiêu cô nương la lên: “Gia gia! Gia gia xem thư đã.”
Tiêu Công Lễ vẫn ngơ ngác không nói gì. Tiêu cô nương mở phong thư ra, đưa cho phụ thân mình.
Tiêu Công Lễ vừa nhìn đã ngẩn ra, rồi run rẩy toàn thân không kìm nổi. Tay ông buông lỏng, cái ly vỡ nát loảng xoảng dưới đất. Tiêu cô nương hoảng sợ nhảy lùi ra, nhưng Tiêu Công Lễ lại đầy vẻ vui mừng, run giọng hỏi: “Thư này từ đâu gửi đến? Ai đưa cho con? Ông ấy… ông ấy đã đến rồi sao? Đã đến thật rồi sao?”
Tiêu cô nương đưa mắt nhìn xem, thấy trên tờ giấy không viết chữ nào, chỉ vẽ một thanh trường kiếm. Thân kiếm quanh co như con rắn, mũi kiếm là cái đầu rắn, lưỡi thè ra chẻ thành hai nhánh.
Nàng không hiểu tại sao phụ thân vừa thấy cây kiếm này đã vui mừng đến thế, liền hỏi: “Gia gia, đây là cái gì vậy?”
Tiêu Công Lễ đáp: “Chỉ cần ông ấy đến đây là cái mạng già này được cứu rồi. Con có thấy ông ấy không?”
Tiêu cô nương hỏi: “Ai thế?”
Tiêu Công Lễ nói: “Người vẽ thanh kiếm này.”
Tiêu cô nương gật đầu rồi nói: “Ông ấy hẹn con ngày mai gặp mặt.”
Tiêu Công Lễ hỏi: “Ông ấy có bảo ta đi hay không?”
Tiêu cô nương đáp: “Ông ấy không nói.”
Tiêu Công Lễ nói: “Vị kỳ hiệp này tính khí có phần cổ quái, đã dặn thì chúng ta không thể không tuân. Ngày mai con cứ đi một mình. Ôi! Con mà đến trễ một chút thì gia gia đã không gặp con được nữa.”
Tiêu cô nương kinh hãi, bây giờ mới hiểu ly rượu vừa rồi có thuốc độc. Nàng vội lấy chổi quét dọn, rồi lo liệu cho phụ thân nghỉ ngơi.
Tiêu phu nhân và đám đệ tử nghe nói cứu tinh đã đến, vẫn nghĩ: “Bất luận người đó võ công cao cường đến mức nào, nhưng chỉ một mình thì khó mà chống nổi rất nhiều cao thủ đối phương.” Nhưng họ thấy Tiêu Công Lễ yên tâm chắc phải có lý do, nên đều cảm thấy an ủi. Tiêu Công Lễ đang bắt họ giải tán đi bốn phương lánh nạn. Mọi người vốn không muốn làm vậy, dĩ nhiên bây giờ không ai chịu bỏ đi nữa.
Trên đường từ nhà họ Tiêu trở về, Thanh Thanh hỏi: “Huynh vẽ thanh kiếm đó là ý gì vậy?”
Viên Thừa Chí đáp: “Tiêu Công Lễ nói, trên thế gian này chỉ có phụ thân của muội mới cứu được mạng ông ấy. Thanh kiếm ta vẽ chính là Kim Xà Kiếm mà phụ thân của muội vẫn dùng.”
Thanh Thanh gật đầu, im một lúc mới hỏi: “Tại sao ca ca phải cứu ông ấy?”
Viên Thừa Chí nói đáp: “Tiêu Công Lễ không phải người xấu, bị bạn bè bán đứng, bị bức ép khốn khổ như thế, chẳng lẽ ta thấy chết mà không cứu hay sao? Huống chi ông ấy lại là bạn của phụ thân Thanh đệ.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Muội cứ tưởng huynh thấy con gái của ông ấy xinh đẹp, nên muốn lấy lòng cô nương đó.”
Viên Thừa Chí tức giận hỏi: “Thanh đệ coi ta là loại người như thế nào?”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Úi chà, đừng nổi nóng! Thế thì huynh hẹn cô ấy đến khách sạn để làm chi?”
Thừa Chí cũng cười nói: “Bụng dạ hẹp hòi của Thanh đệ thật là hết thuốc chữa. Thôi, đừng nói nhiều nữa, theo ta đi nhanh lên.”
Thanh Thanh vừa cười khúc khích vừa theo chàng đi về hướng Tây, chẳng bao lâu đã tới nhà Mẫn Tử Hoa ở Đại Công Phường. Hai người vượt tường nhảy vào trong, nép vào một góc tường, im lặng quan sát động tĩnh xung quanh.
Viên Thừa Chí khẽ nói: “Trong nhà này có không biết bao nhiêu cao thủ. Nếu bị phát giác, mọi việc chắc chắn không thành công được.”
Thanh Thanh mỉm cười nói nhỏ: “Huynh muốn giúp đỡ cô nương xinh đẹp đó, nhưng muội không muốn, chỉ muốn phá hỏng kế hoạch của huynh. Muội đang muốn la làng đây.”
Viên Thừa Chí mỉm cười, mặc nàng muốn nói gì thì nói.
Đợi một lát không thấy động tĩnh gì, hai người mới bắt một tên phục dịch, hỏi rõ nơi ở của anh em họ Sử. Sau đó Viên Thừa Chí điểm á huyệt của hắn, rồi mang giấu vào lùm cây.
Hai người đi tới cửa sổ phòng ngủ của anh em họ Sử hoàn toàn không phát ra tiếng động, bẻ gãy chốt cửa rồi nhảy vào trong. Anh em họ Sử không phải tay vừa, lập tức tỉnh giấc. Nhưng chúng chưa kịp quát hỏi, đã bị điểm trúng huyệt đạo rồi.
Viên Thừa Chí lấy mồi lửa đốt nến lên, cùng Thanh Thanh lục lọi khắp nơi, dưới gối, trong hộc tủ, cả những bao đồ đạc, nhưng chỉ thấy toàn là y phục, tiền bạc, ám khí, vũ khí. Đang muốn lục nữa thì nghe ngoài cửa phòng có tiếng bước chân rất nhẹ. Viên Thừa Chí lập tức thổi tắt nến, thò tay vào bọc áo của anh em họ Sử, lôi ra một mớ giấy tờ và thư từ. Chàng hoan hỉ nhét hết vào trong bọc, khẽ nói: “Có rồi!”
Thanh Thanh nói: “Đi thôi! Hình như ngoài cửa có người.”
Viên Thừa Chí bảo: “Đợi một chút.” Rồi chàng cầm một thanh trủy thủ của anh em họ Sử, viết mò năm chữ lớn trên bàn: “Tiêu Công Lễ kính bái”.
Đột nhiên ngoài cửa có người quát hỏi: “Ai?”
Hai người theo cửa sổ nhảy ra, lập tức phóng tới chân tường. Những tiếng vỗ tay vang lên tứ phía, bên này vỗ bên kia đáp. Họ biết đối phương đã bố trí nghiêm ngặt, cao thủ phục kích từ trong tới ngoài, nên chưa dám mạo hiểm xông ra. Hai người cứ khom người dưới chân tường không động đậy, theo dõi tiếng chân tuần tra trên mái nhà.
Thanh Thanh đột nhiên khẽ gọi: “Huynh xem này!”
Nàng nắm tay chàng đặt xuống chân tường. Viên Thừa Chí đưa tay sờ, thì thấy dưới chân tường hình như có khắc chữ, nhưng rêu xanh phủ kín nên không nhìn thấy. Chàng đưa đầu ngón tay dò theo nét khắc lõm xuống, thấy quanh co uốn khúc như kiểu chữ triện. Chàng không biết chữ triện, bèn khẽ hỏi: “Chữ gì vậy?”
Thanh Thanh đáp: “Chữ Đệ, như đệ nhất đệ nhị.”
Sờ tiếp lên trên, lại có một chữ khác. Thanh Thanh nói đó là chữ Tứ, nghĩa là ban tặng. Trên nữa là chữ Công, trên nữa là chữ Quốc. Chữ ở trên cùng nhiều nét rối rắm, Thanh Thanh đọc mãi mới ra chữ Ngụy. Viên Thừa Chí ráp từ trên xuống dưới, đúng là năm chữ: Ngụy Quốc Công Tứ Đệ.
Tòa Ngụy Quốc Công phủ mà hai người tìm kiếm mười mấy ngày trời không ra manh mối, lại chính là nơi ở của đối phương. Đúng là đi rách đế giày tìm không thấy, tìm ra chẳng tốn chút công phu. Mấy chữ này lâu năm bị rêu xanh che phủ hết, nhất định hậu nhân của Từ Đạt tướng quân đã bán ngôi nhà này, không chừng còn đổi chủ mấy lần, nên mới không ai biết.
Viên Thừa Chí đang mừng rỡ, đột nhiên cảm thấy sau gáy nhột nhạt, thì ra Thanh Thanh đang hà hơi trêu ghẹo. Chắc nàng tìm được Ngụy Quốc Công phủ, hoan hỉ đến nỗi quên mất mình đang ở đâu. Viên Thừa Chí rụt cổ lại, nói nhỏ: “Đừng giỡn nữa.”
Lát sau nghe tiếng vỗ tay từ phía Tây từ từ di chuyển về phía Nam, chàng bảo: “Đi thôi!”
Hai người tung người nhanh như chớp lên đầu tường phía Tây rồi nhảy ra ngoài, chạy về khách sạn.
Về tới khách sạn thì đã sang canh tư rồi. Thanh Thanh thắp nến, Viên Thừa Chí lôi mớ giấy tờ văn kiện ra, chọn xem hai lá thư cũ kỹ nhất, giấy đã ngả màu vàng. Quả nhiên đó là tờ cung của Trương trại chủ và lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài.
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Không biết cô ấy sẽ lấy gì để cảm ơn huynh đây?”
Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Cô nào?”
Thanh Thanh cười khúc khích, đáp: “Dĩ nhiên là Tiêu đại tiểu thư rồi!”
Viên Thừa Chí bĩu môi, mặc kệ nàng, đọc kỹ hai lá thư đó rồi nói: “Tiếc là Tiêu Công Lễ nói câu nào cũng thật. Nếu ông ấy có lòng mờ ám thì mình có thể phủi tay không lo tới, khỏi phải đắc tội với rất nhiều tiền bối giang hồ. Trong đó lại có đệ tử của Nhị sư ca nữa.”
Thanh Thanh nửa như cười nửa như không, nói: “Phi Thiên Ma Nữ xinh đẹp tuyệt vời, không nên đắc tội là phải.”
Viên Thừa Chí nói: “Ả này lòng dạ hẹp hòi, ra tay hiểm ác, hành sự không biết nặng nhẹ, vô duyên vô cớ chặt tay người khác.”
Chàng suy nghĩ một lúc, lại tiếp: “Nếu không sợ Nhị sư ca trách móc, lúc đó ta đã ra tay để dạy cho ả một bài học. Ta dặn Tiêu cô nương đến đây gặp mặt, vì sợ mình để lộ tung tích. Nếu xảy ra hiềm khích giữa sư huynh đệ, thì có lỗi với ơn dưỡng dục của sư phụ.”
Thanh Thanh thấy chàng thần sắc nghiêm túc, không dám đùa giỡn nữa. Viên Thừa Chí lại mở mấy lá thư khác ra xem, đột nhiên giận dữ kêu lên: “Thanh đệ xem này.”
Thanh Thanh trước giờ chưa thấy Viên Thừa Chí phẫn nộ đến thế. Cho dù đối diện đại địch chàng vẫn ung dung tự tại, thế mà bây giờ đỏ mặt tía tai, gân xanh nổi vồng trên trán. Nàng không khỏi hoảng sợ, liền cầm lá thư đó xem. Thì ra đó là mật hàm do thư ký của Đa Nhĩ Cổn, Cửu vương gia Mãn Thanh, viết cho anh em họ Sử. Hắn dặn bọn này giết Tiêu Công Lễ rồi thừa cơ đoạt lấy Kim Long Bang, tạo thế lực ở Giang Nam, thám thính tin tức, liên lạc hảo hán giang hồ. Khi Thanh binh nhập quan, chúng có thể khởi sự ở Giang Nam làm nội ứng. Cuối lá thư có hai dấu ấn son rất lớn. Dấu trên là năm chữ lệ: Đại Thanh Nhuệ Thân Vương, còn dấu dưới là ba chữ triện: Đa Nhĩ Cổn. May mà Thanh Thanh đọc được nhiều thể chữ.
Nhất thời Thanh Thanh ngẩn ra không nói tiếng nào, càng nghĩ càng tức, muốn xé vụn lá thư đó. Viên Thừa Chí vội giữ tay nàng lại, bảo: “Không thể xé được.”
Thanh Thanh lập tức tỉnh ngộ, nói: “Không sai! Đây đúng là chứng cớ to bằng trời.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Thanh đệ nghĩ xem, tại sao anh em họ Sử đã lấy được hai lá thư của Tiêu Công Lễ mà không hủy đi?”
Thanh Thanh đáp: “Chúng muốn dùng để kiềm chế Mẫn Tử Hoa.”
Viên Thừa Chí nói: “Nhất định là thế. Ta định cứu Tiêu Công Lễ xong rồi phủi tay không lo tiếp nữa, nào ngờ trong này lại có gian mưu to lớn. Đừng nói là đắc tội với Nhị sư ca, ô dù lớn hơn nữa ta cũng không sợ.”
Thanh Thanh nhìn chàng đầy vẻ ngưỡng mộ, nói: “Dĩ nhiên chúng ta phải nhúng tay vào. Cho dù Nhị sư ca mách lên sư phụ, lão nhân gia cũng sẽ nói là huynh đúng. Bây giờ chúng ta mời Đại sư ca của huynh đến đây, nhờ ông ấy dùng Thiết Toán Bàn mà tính một với một là hai, xem huynh có lý hay Nhị sư ca có lý.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Được rồi, đi nghỉ đi. Ta phải suy nghĩ đàng hoàng, tìm cách đối phó với bọn gian tặc này.”
Thanh Thanh cười nói: “Muội muốn ngồi cạnh, cùng suy nghĩ với huynh.”
Viên Thừa Chí dứt khoát lắc đầu. Thanh Thanh vừa cười vừa quay về phòng mình.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Viên Thừa Chí thức dậy ngồi trên giường luyện khí, điều hòa hô hấp, ý thủ đơn điền, đưa nội tức vận hành qua mọi huyệt đạo trong cơ thể. Chàng cảm thấy luồng khí nóng từ đơn điền đưa lên, hoan hỉ vì biết gần đây công lực mình tiến bộ nhiều.
Mới bước xuống giường, chàng đã thấy trên bàn có hai chén sữa đậu nành, một đĩa bánh quẩy. Thanh Thanh vừa cười khúc khích vừa từ sau cánh cửa chui ra, hỏi: “Lão hòa thượng tham thiền xong rồi chứ?”
Hai người vừa dùng xong điểm tâm, tiểu nhị đã dẫn một người vào. Miệng hắn cứ cằn nhằn: “Cô tìm hai vị này phải không? Đi tìm mà người ta họ gì cũng không biết!”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh chưa nhìn đã biết Tiêu cô nương đến. Nàng đợi tiểu nhị ra khỏi cửa rồi lập tức quỳ xuống khấu đầu. Viên Thừa Chí vội trả lễ. Thanh Thanh nắm tay nàng kéo dậy.
Tiêu cô nương thấy thiếu niên tuấn tú này tự nhiên nắm tay mình, xấu hổ đến mặt đỏ ửng lên, nhưng người ta có ơn cứu cha mình nên nàng không tiện giật lại ngay. Lát sau nàng mới nhẹ nhàng rút tay về.
Thanh Thanh hỏi: “Tiêu cô nương! Cô nương tên gì?”
Tiêu cô nương đáp: “Muội là Uyển Nhi. Xin hỏi quý tính hai vị?”
Thanh Thanh trỏ Viên Thừa Chí, cười nói: “Ông này dữ như sói, không cho ta nói. Cô nương tự hỏi ông ấy đi.”
Tiêu Uyển Nhi biết nàng nói đùa, cũng mỉm cười rồi trang trọng nói: “Hai vị đã cứu mạng gia gia muội. Đại ơn đại đức này, dù xương tan thịt nát cũng khó mà đền đáp.”
Viên Thừa Chí nói: “Lệnh tôn là bậc tiền bối giang hồ, cao phong hiệp nghĩa, xứng đáng để người ta khâm phục. Vãn bối chỉ góp chút sức nhỏ mọn, không cần đa lễ. Cô nương hãy trở về, bẩm báo với lệnh tôn là trưa nay cứ đãi khách bình thường. Đây có hai gói đồ, nhờ cô nương chuyển cho lệnh tôn. Đợi tình hình khẩn cấp hãy mở ra trước mặt mọi người, chắc chắn có hiệu quả. Vật trong gói vô cùng quan trọng, hãy đề phòng giữa đường có người cướp đoạt.”
Tiêu Uyển Nhi thấy một gói dài dài, trọng lượng khá nặng, hình như là binh khí gì đó. Còn gói kia thì nhỏ xíu nhẹ nhàng. Nàng dùng cả hai tay nhận lấy, rồi bái tạ.
Đợi nàng ra khỏi cửa phòng, Viên Thừa Chí bảo: “Chúng ta phải âm thầm theo sau bảo vệ, đừng để kẻ xấu đoạt mất.”
Hai người khóa cửa phòng đi ra, chợt thấy Tiêu Uyển Nhi đang ngồi trong phòng khách. Họ lùi lại tránh, ngạc nhiên không biết nàng nán lại khách điếm này để làm gì. Bỗng nghe Tiêu Uyển Nhi dõng dạc nói: “Bảo chưởng quỹ đến đây. Kim long thám trảo, tiêu lôi trấn không.”
Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Cô ấy nói gì vậy?”
Thanh Thanh khẽ đáp: “Chắc là ám hiệu của Kim Long Bang.”
Tên tiểu nhị vừa rồi lầm bầm giận dữ, bây giờ vừa nghe đã giật mình, khom lưng vâng dạ.
Chưởng quỹ chạy tới cũng khom lưng cung kính nói: “Cô nương có gì dặn dò? Tiểu nhân lập tức đi lo.”
Tiêu Uyển Nhi nói: “Ta là Tiêu đại cô nương. Phiền ông đến nhà ta, nói ta có việc quan trọng, mời các vị sư ca đến đây.”
Chưởng quỹ nghe nàng xưng là Tiêu đại cô nương, lại càng hoảng sợ. Y lập tức nhảy lên lưng ngựa, đích thân chạy đi. Chỉ khoảng ăn xong bữa cơm là ngoài tiệm đã có hai mươi mấy võ sư ùa tới, tay đều cầm binh khí, bảo vệ Tiêu Uyển Nhi rời khỏi đó.
Viên Thừa Chí nói: “Thế lực Kim Long Bang ở đây rất lớn, chúng ta không cần phải đi theo. Lát nữa đến nhà họ Tiêu ăn tiệc là được rồi.”
*
* *
Giờ Ngọ sắp đến, hai người từ từ đi đến Tiêu phủ, thấy khách đang lục tục kéo vào. Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh theo mọi người vào trong, khi đến trước cửa cũng được Tiêu Công Lễ chắp tay thi lễ. Tiêu Công Lễ tưởng đây là môn nhân tiểu bối của đối phương, nên không để ý đến.
Đến giờ Ngọ thì khách khứa đến đủ, ngồi vào bàn tiệc. Khí thế hôm nay rực rỡ khác hẳn hôm Mẫn Tử Hoa đãi khách. Kim Long Bang tiền nhiều thế mạnh, tiếp đãi rất long trọng. Bàn nào cũng phủ khăn đỏ thêu chỉ vàng, tô chén bằng sứ tinh tế, đũa ngà. Thức ăn cũng không phải tầm thường, dĩ nhiên không thể thiếu món vịt quay nổi tiếng ở Nam Kinh. Đầu bếp nấu nướng đều là người có tiếng ở đất Nam Kinh này. Rượu đang rót đã thấy sắc đỏ như son, chính là Thiệu tửu lâu năm.
Mẫn Tử Hoa cùng các vị danh túc phái Côn Luân, Thập Lực đại sư, Trình Khởi Vân, Trương Tâm Nhất, Mai Kiếm Hòa, Vạn Lý Phong, Lưu Bội Sinh, Tôn Trọng Quân ngồi ở thủ tọa. Tiêu Công Lễ đích thân ngồi cùng, ân cần mời rượu. Bọn Mai Kiếm Hòa đều không chịu uống, còn quan sát sắc mặt Mẫn Tử Hoa.
Đột nhiên Mẫn Tử Hoa cầm ly rượu lên quẳng xuống đất vỡ nát, nghe “choang” một tiếng. Y quát lên: “Họ Tiêu kia! Hôm nay rất nhiều bằng hữu võ lâm đã nể mặt Mẫn mỗ đến đây. Mối thù giết huynh trưởng của ta phải xử lý thế nào, ngươi hãy nói đi.”
Mới mở miệng đã nói ngay chuyện chính, Tiêu Công Lễ nhất thời không biết đáp sao. Đại đệ tử Ngô Bình của ông bèn đứng dậy nói: “Mẫn nhị gia! Huynh trưởng của nhị gia thấy nữ sắc động tà khí, bại hoại quy luật võ lâm. Sư phụ tại hạ…”
Ngô Bình chưa nói hết, đột nhiên thấy một luồng kình phong đến trước mặt, phải gấp rút nghiêng đầu né. “Phụp” một tiếng, một cây đinh bằng thép hình tam giác, dài chừng năm tấc, ghim vào mặt bàn. Ngô Bình thấy mũi đinh này do Tôn Trọng Quân phát ra, lập tức nộ khí đằng đằng, rút đơn đao ra la lớn: “Ái chà! Mụ la sát này đã ám toán chặt tay La sư đệ của ta, còn muốn hại thêm người khác nữa sao?”
Y lập tức nhảy ra, toan động thủ. Tiêu Công Lễ vội cản lại, quát lên: “Trước mặt các vị tân khách, không được vô lễ.”
Ông quay lại mỉm cười nói với Tôn Trọng Quân: “Tôn cô nương là cao thủ phái Hoa Sơn, hà tất phải chấp nhất tiểu đồ…”
Mẫn Tử Hoa đỏ rực mắt lên, chụp lấy một đôi đũa trước mặt mình, nhằm vào cặp mắt Tiêu Công Lễ phóng tới, hét lên: “Hôm nay ta phải thí mạng với tên lão tặc này.”
Tiêu Công Lễ đưa đôi đũa ra, nhẹ nhàng kẹp lấy hai chiếc đũa đang bay tới mặt. Ông đặt hết xuống bàn, ôn tồn nói: “Mẫn nhị gia! Sao lại nổi giận như thế? Có gì chúng ta hãy nói từ từ. Người đâu? Đem cho Mẫn nhị gia một đôi đũa sạch.”
Mẫn Tử Hoa thấy võ công ông tinh diệu, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng trách ca ca của ta mất mạng dưới tay hắn.”
Mai Kiếm Hòa thấy Mẫn Tử Hoa đã thua một chiêu, liền đưa tay ra toan nắm lấy cánh tay của Tiêu Công Lễ, lên tiếng: “Tiêu bang chủ bản lãnh phi thường. Hai chúng ta hãy làm quen một chút.”
Tiêu Công Lễ thấy tay hắn đến quá nhanh, bèn nghiêng người tránh ra ngoài. Bàn tay Mai Kiếm Hòa nắm trúng lưng ghế, nghe “rắc” một tiếng lưng ghế đã gãy rời.
Tiêu Công Lễ thấy tình hình căng thẳng, bên họ Mẫn đã có người xắn áo xoa tay, có người rút binh khí ra. Bang chúng bên mình cũng trừng mắt lên nhìn, đề phòng nghiêm ngặt. Cuộc loạn đấu có thể xảy ra ngay, thế mà chưa thấy Kim Xà Lang Quân đến giải vây. Tình thế nguy cấp thế này, nếu hai bên động thủ thì nhất định sẽ tổn thương rất nhiều nhân mạng. Họ Tiêu lo lắng, bèn đưa mắt ra hiệu cho con gái.
Tiêu Uyển Nhi đang ôm hai cái gói, cũng đã sốt ruột từ lâu. Nàng vừa nhìn thấy ánh mắt của phụ thân, lập tức mở cái gói dài ra. Thấy trong gói là một thành trường kiếm, nàng liền đem tới đặt trước mặt cha mình.
Tiêu Công Lễ không hiểu thanh kiếm này có công dụng gì. Ông đang thắc mắc, Tôn Trọng Quân đã nhận ra binh khí của mình. Ả vừa xấu hổ vừa giận dữ, lập tức vọt tới đoạt lấy, cất tiếng mắng luôn: “Có bản lãnh thì cứ minh bạch mà tỉ đấu. Lén ăn cắp đồ, có gì đáng gọi anh hùng hảo hán?”
Tiêu Công Lễ lại càng không hiểu. Tôn Trọng Quân bước tới hai bước, mũi kiếm lóe ra những tia sáng xanh, đâm ngay vào trước ngực Tiêu Công Lễ.
Khi để Tiêu Công Lễ trả kiếm cho Tôn Trọng Quân, Viên Thừa Chí nghĩ: “Ả biết đêm qua người ta hạ thủ lưu tình, nhất định sẽ cảm kích mà ra sức giải hòa. Không ngờ ả lại hung dữ đến thế.” Chàng không khỏi vừa hối hận vừa giận dữ.
Tiêu Công Lễ thấy đối phương ra chiêu ác độc, vội lùi hai bước. Một đệ tử đưa cho ông cây Chiết thiết đao. Tiêu Công Lễ đón lấy, nhưng cố nhịn chưa đánh trả. Tôn Trọng Quân xuất thủ rất nhanh, vừa trượt một chiêu lại rung động mũi kiếm đâm tới yết hầu đối thủ. Nếu Tiêu Công Lễ không chống đỡ, thì dứt khoát phải mất mạng dưới nhát kiếm này. Ông đành đưa cây Chiết thiết đao ra chém vào lưỡi kiếm.
Thanh kiếm của Tôn Trọng Quân trầm xuống dưới như để tránh né lưỡi đao. Nào ngờ khi xuống tới hạ bàn, nó đột nhiên hất ngược lên nhanh như điện chớp, đâm vèo tới bụng dưới đối phương. Chiêu kiếm này đã nhanh lại chuẩn xác, dù Tiêu Công Lễ đã luyện mấy chục năm công phu đao pháp cũng không thể kịp xoay đao lại đỡ. Ông vội vã tung người nhảy lên, bay qua đầu những người kế bên mà ra khỏi vòng chiến, tránh được chiêu kiếm đâm tới bụng mình. Nhưng “xoẹt” một tiếng, ống quần của ông đã bị mũi kiếm quẹt rách.
Tiêu Công Lễ thầm la lên: “Nguy hiểm quá!” Ông quay đầu lại xem đối thủ có đuổi theo hay không, nhưng đột nhiên vui mừng không tả nổi. Ông vừa thấy con gái đang cầm hai lá thư trước đây đã bị Thái Bạch Tam Anh lừa lấy mất.
Lúc này hai đồ đệ của ông đang múa đao ngăn cản Tôn Trọng Quân. Hai người này tức giận cô ả chặt đứt cánh tay La sư ca, nên đao rít gió cuồn cuộn, liều mạng mà phóng tới. Khóe miệng Tôn Trọng Quân vẫn cười nhạt, tay trái chống hờ vào hông, trường kiếm bên tay phải chỉ cần đưa nhè nhẹ đã đủ bắt hai đại hán tay chân rối loạn, đón đỡ loạn xạ.
Tiêu Công Lễ cầm lấy hai lá thư, kêu lớn: “Dừng tay, dừng tay! Ta có câu này muốn nói.”
Hai đệ tử nghe sư phụ gọi liền thu đao lùi lại. Một người lùi hơi chậm, trước ngực trúng cước của Tôn Trọng Quân nghe “bình” một tiếng. Y loạng choạng lùi luôn mấy bước, ọe ra một ngụm máu tươi, mặt lập tức xanh lại.
Tiêu Công Lễ liếc xéo Tôn Trọng Quân một cái, cố nén cơn giận. Ông hô lớn: “Các bằng hữu hãy nghe ta nói một câu.”
Đại sảnh đang hỗn loạn, phải một lúc mới từ từ yên tĩnh lại. Tiêu Công Lễ nói: “Vị Mẫn bằng hữu này trách ta hại huynh trưởng của y. Không sai, Mẫn Tử Diệp là do ta giết.”
Nghe thấy câu này, đại sảnh lập tức im phăng phắc, không ai mở miệng.
Mẫn Tử Hoa nghẹn ngào nói: “Thiếu nợ trả tiền, giết người đền mạng.”
Những võ sư bên họ Mẫn đều ồ lên. Mỗi người mỗi câu ầm ĩ: “Không sai, giết người phải đền mạng.” “Giết một mạng đền một mạng.” “Tiêu Công Lễ, ngươi tự kết liễu đi.”
Tiêu Công Lễ đợi cho tiếng ồn ào giảm xuống, rồi dõng dạc nói: “Ở đây có hai lá thư, muốn nhờ mấy vị tiền bối đức cao vọng trọng xem qua. Nếu các vị này xem thư xong mà nói Tiêu mỗ phải đền mạng, Tiêu mỗ sẽ lập tức tự vẫn. Chau mày một tí cũng không xứng là hảo hán.”
Mọi người nổi dạ hiếu kỳ, ai cũng muốn tới đọc thư. Tiêu Công Lễ nói: “Khoan đã! Nhờ Mẫn nhị gia đề cử ba vị tiền bối đến xem.”
Mẫn Tử Hoa muốn biết trong thư viết gì, bèn hô lớn: “Được! Thế thì nhờ ba vị Thập Lực đại sư, Trình đảo chủ và Mai đại ca.”
Ba người nhận lấy thư, để lên bàn khẽ đọc. Thái Bạch Tam Anh tái xanh cả mặt, thì thào bàn tán với nhau.
Người đầu tiên đọc xong là Thập Lực đại sư. Lão lên tiếng: “Theo ý lão nạp, Mẫn nhị gia hãy bỏ vụ xích mích này, đổi địch thành bạn là tốt nhất.”
Thập Lực đại sư có danh vọng rất cao trong võ lâm. Cả kiến thức lẫn võ công của lão đều được mọi người thán phục. Câu này vừa nói ra, trong đại sảnh ai cũng ngạc nhiên.
Mẫn Tử Hoa đón lấy thư, đọc tờ cung của Trương trại chủ trước. Trương trại chủ viết chẳng trôi chảy gì, sai rất nhiều chữ, nhưng đọc xong vẫn hiểu một phần sự việc. Xem tới lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài, thì hành văn lưu loát, kể lại mọi chuyện rõ ràng.
Mẫn Tử Hoa mới đọc một nửa đã vừa xấu hổ vừa khó chịu, ngơ ngác đứng yên không biết nói gì. Đột nhiên y hiểu ra rất nhiều việc trước nay không sao hiểu được:
“Thái Bạch Tam Anh đến nói với mình, người hại chết ca ca là Tiêu Công Lễ ở Kim Long Bang. Khi mình đi mời các vị sư ca giúp trả thù, ai cũng tìm cách thoái thác. Đại sư ca Thủy Vân còn nói, phải tìm sư phụ để lão nhân gia chủ trì sự việc. Mọi sư ca trước nay rất tốt với mình, sao lần này không có nghĩa khí đồng môn? Chỉ có một mình Động Huyền sư đệ chịu theo mình đến đây.
Tiên Đô Phái người đông thế mạnh, gặp đại sự này mà nhân vật bản môn lại không lộ diện, buộc mình phải đi mời người ngoài tương trợ, thật chẳng ra thể thống gì cả. Thì ra năm xưa ca ca đã gây một chuyện không thể đưa ra ánh sáng, nhất định các vị sư ca đã biết rõ nên không chịu giúp mình. Nhưng họ sợ làm mình mất mặt, nên mới trút trách nhiệm qua sư phụ đã mất tích nhiều năm. Chỉ có Động Huyền sư đệ còn nhỏ, không biết…”
Đột nhiên nghe tiếng Mai Kiếm Hòa quát lên: “Đồ giả mạo, lừa gạt được ai?” Hắn đưa tay giật lấy hai lá thư, xé nát vụn.
Tiêu Công Lễ thật sự không ngờ hắn dám xé thư trước mặt mọi người. Thế là bùa hộ mạng của mình đã mất. Ông vừa lo vừa giận, đỏ mặt tía tai quát hỏi: “Họ Mai kia! Ngươi biết danh dự là gì không?”
Mai Kiếm Hòa lạnh nhạt nói: “Chưa biết ai mới không cần danh dự. Đã hại huynh trưởng người ta rồi, còn giả tạo mấy lá thư văn tự không thông suốt để vu oan người chết. Tiếc rằng người chết không đối chứng được, để mặc cho ngươi ăn nói bừa bãi như thế. Loại thư thế này, ta đóng cửa một ngày là viết được hàng trăm lá. Ngươi có tin không? Nếu ngươi muốn vu oan Thập Lực đại sư phạm đủ loại tội ác, muốn vu oan Trình đảo chủ đã giết huynh trưởng của Mẫn nhị gia, loại thư như vậy ta cũng viết được.”
Thập Lực Đại sư và Trình Khởi Vân vốn đã thấy Mẫn Tử Hoa đuối lý, nhưng nghe Mai Kiếm Hòa nói một hồi lại sinh ra trù trừ, không biết hai lá thư này thật hay giả. Hai người nhìn nhau, nhất thời không quyết đoán được.
Ngô Bình thấy sư phụ bị sỉ nhục như thế, giận dữ vô cùng. Y phóng ào tới, vừa quát lên vừa múa đao chém Mai Kiếm Hòa. Họ Mai hơi nghiêng người một chút, rút kiếm nhanh như điện chớp. Bạch quang nhấp nháy, Ngô Bình quát chưa dứt tiếng, đơn đao đã tuột khỏi tay. Mai Kiếm Hòa chỉ mũi kiếm vào yết hầu y, thét lên: “Quỳ xuống! Mai đại gia sẽ tha cái mạng nhỏ xíu của ngươi.”
Ngô Bình lùi luôn ba bước, nhưng mũi kiếm của địch thủ vẫn không rời khỏi yết hầu. Mai Kiếm Hòa cười gằn nói: “Ngươi không chịu quỳ thì ta phải đâm tới.”
Ngô Bình quát trả: “Đâm nhanh lên đi, đứng đó nói nhiều làm gì?”
Đệ tử môn nhân nhà họ Tiêu cầm binh khí kéo ùa vào trong sảnh. Đám võ sư bên họ Mẫn, đa số là loại chỉ biết nhắm mắt đánh nhau, liền rút binh khí chia nhau đón đánh. Lập tức những tiếng loảng xoảng vang lên, vô cùng náo nhiệt.
Tiêu Công Lễ nhảy lên ghế đứng, quát lớn: “Mọi người dừng tay! Nhìn ta đây.”
Ông xoay ngược cổ tay, đưa cây Chiết thiết đao kề ngang cổ họng mình, kêu lên: “Oan có đầu, nợ có chủ. Hôm nay ta đền mạng cho Mẫn Tử Diệp là xong. Các ngươi mau lui ra cho ta.”
Đám môn đồ nghe lệnh nhanh chóng lùi ra, đứng ủ rũ nhìn sư phụ. Tiêu Uyển Nhi vội la lên: “Gia gia, khoan đã! Lá thư đó đâu? Ông ấy nói sẽ đến cứu gia gia mà?”
Tiêu Công Lễ lấy ra một tờ giấy trắng, giơ lên trước mặt. Mọi người thấy trên giấy có vẽ một thanh kiếm kỳ lạ, chẳng ai biết ý nghĩa ra sao.
Bỗng nghe Tiêu Công Lễ kêu lên: “Kim Xà đại hiệp! Đại hiệp đến trễ một bước rồi.” Rồi ông vận sức, ấn mạnh vào thanh Chiết thiết đao đang kề ngang cổ.
Nghe “keng” một tiếng, vật gì đó đụng vào lưỡi đao. Cây Chiết thiết đao lập tức rớt xuống đất. Bên cạnh Tiêu Công Lễ đã xuất hiện thêm một người. Ai cũng thấy đây là một thiếu niên mày rậm mắt to, da dẻ đen nhẻm, chỉ khoảng hai mươi tuổi. Nhưng thiếu niên này đến bên Tiêu Công Lễ như thế nào, thì không ai nhìn thấy rõ ràng.
Dĩ nhiên thiếu niên đó chính là Viên Thừa Chí. Chàng đứng trong đám đông quan sát, cứ tưởng đã có hai lá thư thì việc của Tiêu Công Lễ có thể giải quyết nhẹ nhàng, bản thân mình không cần lộ diện để khỏi phát sinh hiềm khích với đồ đệ của Nhị sư ca. Nào ngờ Mai Kiếm Hòa lại giở trò xé vụn thư, ép Tiêu Công Lễ không còn đường tiến thối, buộc phải đưa đao tự vẫn.
Tới lúc phải nhúng tay can thiệp, chàng bèn phóng kim tiền tiêu đánh rơi cây Chiết thiết đao, rồi tung người nhảy đến dõng dạc nói: “Kim Xà Lang Quân không tới được, nên phái công tử là vị huynh đệ này tới cùng tại hạ để giải hòa cho quý vị.”
Không ít người lớn tuổi đã từng nghe danh Kim Xà Lang Quân, biết ông võ nghệ kinh người, hành sự xuất quỷ nhập thần. Mười mấy năm nay trong giang hồ không còn tung tích của ông, có lời đồn ông đã tạ thế, nào ngờ lúc này ông bỗng phái người đến đây. Mọi người đều kinh ngạc.
Tiêu Uyển Nhi kinh ngạc lại mừng rỡ, nói nhỏ với phụ thân: “Gia gia! Chính là vị này.”
Tiêu Công Lễ trấn tĩnh tâm thần, đưa mắt nhìn. Thấy chỉ là một thiếu niên, ông không khỏi nghi hoặc, khẽ lắc đầu.
Tôn Trọng Quân the thé hét lên: “Ngươi tên gì? Ai bảo ngươi đến đây nhiều chuyện?”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Tuy tuổi ta nhỏ hơn, nhưng vai vế lại lớn hơn ngươi đấy. Đợi lát nữa ta nói ra, coi thử ngươi còn dám vô lễ hay không?” Dĩ nhiên lúc này chàng chưa nói rõ, chỉ đáp: “Tại hạ họ Viên, được Kim xà lang quân Hạ đại hiệp phái đến đây để gặp Tiêu bang chủ. Hôm nay có cơ duyên bái kiến các vị tiền bối, thật là vinh dự.” Nói xong chàng chắp tay thi lễ với mọi người.
Người bên họ Tiêu thấy chàng đã cứu mạng Tiêu Công Lễ, đều cung kính thi lễ. Còn bên họ Mẫn chỉ có mấy người Thập Lực đại sư ra vẻ trang nghiêm mới chắp tay đáp lễ, số còn lại thấy tuổi chàng còn trẻ nên mặc kệ.
Tôn Trọng Quân mới hai mươi mấy tuổi, không biết oai danh Kim Xà Lang Quân lúc trước, tính tình lại nóng nảy, bèn lớn tiếng thóa mạ: “Rắn vàng rắn trắng cái gì? Mau mau bò xuống hang cho ta, đừng đứng đây vướng víu.”
Thanh Thanh cười nhạt bĩu môi, rồi thè lưỡi làm mặt xấu. Tôn Trọng Quân giận dữ, tưởng thiếu niên mặt mày tuấn tú này thấy mình xinh đẹp nên trêu ghẹo, bèn hét lên: “Thằng lỏi này vô lễ!”
Đột nhiên ả rùn người xuống, vung kiếm đâm vào bụng dưới Thanh Thanh. Thế kiếm gấp rút, chính là một chiêu hiểm ác của phái Hoa Sơn. Chiêu Tuệ Tinh Phi Đạt này là bản lĩnh độc đáo của Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh, Thanh Thanh làm sao tránh né được?
Vừa thấy chiêu này Viên Thừa Chí lập tức giận dữ, nghĩ bụng: “Mới lần đầu gặp mặt, không thù không oán, chưa hỏi thị phi phải trái, vừa ra tay đã hạ sát thủ ngay, thật là quá đáng!” Chàng bèn lạng người ra cản trước mặt Thanh Thanh, co chân trái cao lên rồi đạp xuống, đè cứng trường kiếm của Tôn Trọng Quân dưới chân mình. Đây là một quái chiêu trong Kim Xà Bí Kíp. Trong đại sảnh chưa ai từng thấy chiêu này, nên cả đám đông cùng ồ vang lên, vừa tán dương vừa kinh ngạc.
Tôn Trọng Quân dùng sức cố rút kiếm về, nhưng không sao lay chuyển được. Ả lại thấy chưởng trái của đối phương vỗ thẳng tới trước mặt mình, chỉ còn cách bỏ kiếm nhảy lùi ra. Viên Thừa Chí đang tức giận, trách ả ác độc, bèn nhấn thêm kình lực xuống chân. “Rắc” một tiếng, trường kiếm đã bị đạp gãy.
Lưu Bội Sinh thấy sư muội bị khó dễ, muốn bước lên ra tay. Mai Kiếm Hòa thấy chiêu thức của Viên Thừa Chí quái lạ, liền kéo tay Lưu Bội Sinh lại, khẽ bảo: “Đợi một lúc đã, nghe xem hắn nói bậy bạ những gì.”
Viên Thừa Chí dõng dạc lên tiếng: “Mẫn nhị gia! Lệnh huynh năm xưa có hành vi sai trái, Tiêu bang chủ thấy mà bất bình nên vung đao giết chết. Tiền nhân hậu quả vụ này Kim Xà Lang Quân biết rất rõ ràng, đã nói là trước kia có hai lá thư viết rõ nội tình. Kim Xà Lang Quân từng cùng Tiêu bang chủ đến bái kiến chưởng môn phái Tiên Đô, chính là lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân, trình hai lá thư lên. Hoàng Mộc đạo nhân xem xong thư, liền không truy cứu việc này nữa. Nhất định hai lá thư đó đây rồi.”
Nói xong, chàng trỏ đống giấy vụn rơi vãi dưới đất, lại nói: “Vị huynh đài này đã xé nát hai lá thư, không biết có dụng ý gì?”
Tiêu Công Lễ nghe Viên Thừa Chí nói không sai chút nào, trong lòng hoan hỉ vô cùng. Bây giờ ông đã tin chàng đúng là sứ giả của Kim Xà Lang Quân, bèn nắm chặt tay con gái, tim đập rộn lên.
Mai Kiếm Hòa cười nhạt rồi nói: “Đây là đồ giả tạo. Họ Tiêu muốn dùng nó để lừa gạt người khác, không xé nát thì để làm gì?”
Viên Thừa Chí nói: “Bọn tại hạ từng nghe Kim Xà đại hiệp nhắc đến nội dung hai lá thư này. Tuy thư đã bị xé, nhưng hai vị này đã từng xem qua.”
Chàng quay đầu lại, chắp tay hướng về Thập Lực đại sư và Bích hải trường kình Trình Khởi Vân nói: “Lát nữa để tại hạ cùng hậu nhân của Kim xà lang quân Hạ đại hiệp nói sơ qua nội dung hai lá thư này. Khi đó thật giả có thể xác định được ngay.”
Thập Lực đại sư cùng Trình Khởi Vân đều nói: “Được! Các hạ nói đi.”
Viên Thừa Chí nhìn Mẫn Tử Hoa hỏi: “Mẫn nhị gia! Lệnh huynh đã tạ thế rồi, bây giờ nhắc đến việc cũ thì có chỗ không tốt cho danh dự của lệnh huynh. Có nên nhắc lại không?”
Mẫn Tử Hoa đã có phần không yên tâm rồi, nhưng bây giờ bị Viên Thừa Chí hỏi thẳng trước mặt đám đông, y không thể xin chàng không tiết lộ nội dung thư được. Nhất thời y không biết phải làm gì, gân xanh từng sợi nổi vồng trên trán, kêu lớn: “Ca ca của ta đâu phải loại người như thế? Lá thư này nhất định là giả.”
Viên Thừa Chí quay lại bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ! Nội dung thư thế nào, Thanh đệ nói ra đi.”
Thanh Thanh bèn dõng dạc kể nội dung lá thư. Nàng đã đọc thư trong khách sạn, tuy không thuộc từng chữ một, nhưng đại ý thì nhớ rõ ràng.
Thanh Thanh đọc lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài trước. Giọng nàng trong trẻo, miệng lưỡi lanh lợi, người nào cũng nghe rõ từng câu từng chữ. Có chỗ quên mất, nàng tự thêm thắt mấy câu. Khi đọc đến chỗ quan trọng, nàng nhịn không nổi lại thêm vào mấy câu bài xích Mẫn Tử Diệp nặng nề hơn.
Mới đọc mấy chục câu, mọi người đã xầm xì bàn luận. Đọc chưa đến một nửa, Mẫn Tử Hoa nhịn không nổi phải hét lớn: “Câm miệng lại! Tiểu tử này, nữ không ra nữ nam chẳng phải nam, là loại gì đây?”
Thanh Thanh chưa kịp trả lời, Mai Kiếm Hòa đã lạnh lùng nói: “Nếu hắn không phải thủ hạ của họ Tiêu, thì cũng là người được Kim Long Bang mời tới giúp đỡ. Chúng sắp xếp kế hoạch trước rồi, có gì lạ đâu?”
Mẫn Tử Hoa mừng quá, la lên: “Ngươi nói bừa nói bãi là do Kim Xà Lang Quân gì gì đó phái đến. Ai biết là thật hay giả?”
Viên Thừa Chí hỏi: “Phải như thế nào thì Mẫn nhị gia mới tin được?”
Mẫn Tử Hoa chĩa trường kiếm ra, nói: “Giang hồ đồn đại võ công của Kim Xà Lang Quân kinh người. Nếu ngươi là hậu bối của Kim Xà Lang Quân thật sự, nhất định phải được ông ấy chân truyền. Chỉ cần ngươi thắng được thanh kiếm này là ta tin ngay.”
Trong lòng Mẫn Tử Hoa đã có bảy tám phần tin những lời trong thư là chuyện thật. Nếu không, tại sao các vị sư huynh đồng môn của y lại phủi tay không chịu nhúng vào? Lại có sư huynh cố sức khuyên y đừng lỗ mãng. Tình hình trước mắt đang cấp bách, càng nói nhiều càng xấu hổ, không bằng động võ có thể nắm chắc phần thắng.
Thấy Viên Thừa Chí trẻ tuổi, y nghĩ: “Cho dù ngươi đúng là truyền nhân của Kim Xà Lang Quân, học được mấy quái chiêu, nhưng tuổi tác như vậy thì làm sao công phu thâm hậu được? Ta chỉ cần xuất thủ đánh cho ngươi thảm bại, thế thì lá thư tên mặt trắng vừa đọc chẳng ai tin nữa. Việc giết Tiêu Công Lễ trả thù cho ca ca, có thể tạm gác một bên. Việc quan trọng trước mắt là bảo vệ thanh danh của ca ca. Nếu không, ngay cả danh dự của phái Tiên Đô cũng bị liên lụy.”
Viên Thừa Chí lại tính toán: “Kim Xà Lang Quân ngông cuồng quái đản, mọi người đều biết. Mình mạo nhận là sứ giả của ông ấy, cũng phải ngạo mạn điên cuồng một chút, ra vẻ cổ quái thì người ta mới tin được.” Chàng bèn cười ha hả, ngồi xuống nâng ly uống một hớp, cầm đũa gắp một miếng thịt bỏ vào mồm, vừa nhai vừa cười nói: “Muốn thắng thanh kiếm trong tay các hạ, chỉ cần học một chút xíu võ công của Kim Xà Lang Quân là thừa sức rồi. Các hạ đã biết bị người ta lợi dụng mà còn chưa giác ngộ, thật là đáng tiếc. Ôi! Thật là đáng tiếc.”
Mẫn Tử Hoa giận dữ hỏi: “Ta bị ai lợi dụng? Thằng lỏi kia có dám tỉ võ hay không? Nếu không dám thì mau mau cút khỏi đây.”
Vừa rồi Viên Thừa Chí đã dùng chân đạp gãy trường kiếm của Tôn Trọng Quân, lộ ra quái chiêu, nên bọn võ sư bên họ Mẫn có phần kiêng nể chàng. Nếu không thì đã có người lên xách cổ Viên Thừa Chí quăng ra ngoài rồi, đâu thể để chàng nói năng ngông cuồng như thế.
Viên Thừa Chí lại uống một hớp rượu rồi nói: “Từ lâu tại hạ đã nghe phái Tiên Đô là một trong Tứ Đại Kiếm Phái, kiếm pháp ảo diệu tinh vi vô cùng, hôm nay mới được may mắn lãnh giáo. Nhưng chúng ta phải nói trước, nếu tại hạ thắng thì chuyện xích mích giữa Mẫn gia và Tiêu bang chủ từ nay không được nhắc đến nữa. Nếu Mẫn gia tiếp tục sinh sự trả thù, các vị tiền bối võ lâm ở đây chắc chắn sẽ nói một câu công bằng.”
Mẫn Tử Hoa giận dữ nói: “Chuyện đó đương nhiên. Ở đây có Thập Lực đại sư, Trình đảo chủ và nhiều vị khác làm chứng. Nhưng nếu ngươi không thắng được ta thì sao?”
Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ sẽ khấu đầu xin lỗi các hạ, dĩ nhiên không mặt mũi nào nhúng tay vào chuyện này nữa.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Hay lắm! Bước ra đi.”
Y rung động cây trường kiếm, phát ra tiếng ngân oai phong như tiếng hổ gầm. Đám võ sư bên họ Mẫn cùng lúc hoan hô vang dội. Chiêu kiếm này hiển thị nội công thâm hậu. Mẫn Tử Hoa đắc ý trong lòng, nghĩ bụng: “Ta phải để lại mấy ký hiệu trên mặt ngươi mới được. Nếu không thì sao hiển lộ được oai phong của Tiên Đô phái?”
Viên Thừa Chí nói: “Kim Xà đại hiệp từng dặn tại hạ: Linh Bảo Quyền, Thượng Thanh Kiếm của phái Tiên Đô đều là tuyệt nghệ của võ lâm. Chẳng qua những lộ quyền pháp kiếm pháp này quá thâm sâu, Mẫn nhị gia tuổi tác còn trẻ chắc chưa lĩnh hội được. Chỉ có Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, có lẽ Mẫn nhị gia đã luyện tập thành thục. Kim Xà đại hiệp còn nói: Lần này tại hạ đi, nhất định Mẫn nhị gia không chịu nghe lời khuyên bảo. Khi động thủ phải lưu ý lộ kiếm pháp này.”
Mẫn Tử Hoa liếc nhìn chàng một cái, thầm nghĩ: “Câu này không sai. Tại sao ông ấy biết rõ như thế?”
Thì ra sư phụ Mẫn Tử Hoa là Hoàng Mộc đạo nhân có cá tính cang cường. Võ công đời trước truyền lại của phái Tiên Đô thì Linh Bảo Quyền và Thượng Thanh Kiếm là tinh diệu nhất. Thế mà Hoàng Mộc lại không đi sâu nghiên cứu quyền pháp và kiếm pháp này. Võ công đắc ý nhất của lão là bộ Lưỡng Nghi Kiếm Pháp tự mình sáng chế, từng nhắc tới trước mặt Kim Xà Lang Quân. Trong Kim Xà Bí Kíp, phần phá địch có nói đến cách phá giải những loại võ công của phái Không Động và Tiên Đô, trong đó có Lưỡng Nghi Kiếm Pháp.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Sư phụ của y đã đắc ý như vậy, chắc chắn lộ kiếm pháp này y đã luyện tập tới nơi.” Nói đến đây chàng nhìn chăm chú thần sắc Mẫn Tử Hoa, biết mình đã đoán trúng, lại nói: “Kim Xà Lang Quân từng nói, dưới mắt ông ấy thì kiếm pháp này không đáng một nụ cười. Ông ấy đã dạy cho tại hạ mấy chiêu phá giải…”
Nói đến đây, trong đám đông có một đạo nhân còn trẻ tung người vọt ra, giận dữ nói: “Hay lắm! Lưỡng Nghi Kiếm Pháp không đáng một nụ cười ư? Ta phải xem Kim Xà Lang Quân phá giải kiểu nào.”
“Soạt” một tiếng, y đâm ngay kiếm vào mặt Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí tránh sang bên trái, nhảy vào trung tâm đại sảnh. Tay trái cầm ly rượu, tay phải cầm đôi đũa, giữa đôi đũa vẫn còn cái đùi gà, chàng nói: “Xin thỉnh giáo pháp hiệu của đạo trưởng.”
Y la lớn: “Ta là Động Huyền, đệ tử thứ mười ba phái Tiên Đô, là sư đệ của Mẫn sư ca.”
Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay lắm. Kim Xà đại hiệp và lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân năm xưa đã từng luận kiếm ở Long Hổ quán trên núi Tiên Đô. Hoàng Mộc đạo nhân cho rằng Lưỡng Nghi Kiếm Pháp do mình sáng tạo là vô địch thiên hạ. Kim Xà đại hiệp mỉm cười rồi bỏ qua, không tranh luận với lệnh sư. Hôm nay bọn hậu bối chúng ta có thể ấn chứng một phen.”
Động Huyền đạo nhân lớn tiếng nói: “Nhất định sư phụ của ta không nói là Lưỡng Nghi Kiếm Pháp vô địch thiên hạ. Nhân vật phái Tiên Đô không bao giờ ngông cuồng ngạo mạn, tự cao tự đại như thế. Nhưng muốn giáo huấn một thằng lỏi đen thui miệng còn hôi sữa thế này, thì đúng là nhẹ nhàng như búng ngón tay.”
Nói xong y liền vẫy tay gọi Mẫn Tử Hoa, hai thanh kiếm cùng lúc đưa ra, kiếm phong gấp rút đâm tới Viên Thừa Chí. Thân hình của Viên Thừa Chí xoay nghiêng, luồn qua giữa hai thanh kiếm.
Động Huyền và Mẫn Tử Hoa múa tít trường kiếm, người công người thủ, vừa nhanh chóng vừa nghiêm mật lạ thường.
Đột nhiên Thanh Thanh kêu lên: “Xin ba vị dừng tay, ta có câu này muốn nói.”
Động Huyền đạo nhân và Mẫn Tử Hoa cùng thu kiếm về giữ trước ngực. Mẫn Tử Hoa cầm kiếm tay phải, Động Huyền đạo nhân cầm kiếm tay trái. Hai người đứng ở phương vị Khởi Thủ Thức trong Lưỡng Nghi Kiếm Pháp.
Thanh Thanh nói: “Viên đại ca đã đồng ý so tài với Mẫn nhị gia, sao lại có thêm một vị đạo gia ra đây?”
Động Huyền trợn mắt lên nói: “Thằng lỏi này không đánh mà khai, rõ ràng là đồ mạo nhận. Ai mà không biết Lưỡng Nghi Kiếm Pháp phải hai người sử dụng? Ngươi không biết, chẳng lẽ Kim Xà Lang Quân oai danh như thế cũng không biết hay sao?”
Thanh Thanh đỏ ửng mặt lên, không biết trả lời sao. Nàng nghĩ: “Phen này hỏng bét, bị hắn lật tẩy.” Nàng đành nói đông nói tây, bừa bãi một phen: “Thì ra nhân vật phái Tiên Đô hễ đánh nhau với người ta là nhất định phải có hai người. Nếu các hạ đang ở một mình, chẳng lẽ phải cưỡi khoái mã quay về núi Tiên Đô, mời một huynh đệ đồng môn, rồi cưỡi khoái mã trở lại để hai người đánh một người hay sao? Nếu đối thủ không cho các hạ đi, bắt phải đơn đả độc đấu thì sao? Lưỡng Nghi Kiếm Pháp làm sao vô địch trong thiên hạ được?”
Viên Thừa Chí nói xen vào: “Lưỡng Nghi Kiếm Pháp dựa vào âm dương tương sinh tương khắc. Bản lĩnh hơi kém thì đương nhiên phải có hai người đồng thời ra chiêu, nhưng nếu học đến nơi đến chốn thì phải một người sử dụng. Chẳng lẽ lệnh sư võ công cao như thế, cũng không biết thi triển một mình hay sao?”
Thanh Thanh không biết gì về Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, nhưng thấy hai người hợp công Viên Thừa Chí nên lo lắng mà chất vấn, nào ngờ lộ tẩy. Viên Thừa Chí đành phải nói theo, đỡ lời cho nàng. Thật ra, Lưỡng Nghi Kiếm Pháp của phái Tiên Đô xưa nay phải do hai người sử dụng đồng thời.
Mẫn Tử Hoa cùng Động Huyền đạo nhân nhìn nhau một cái, đều nghĩ: “Sư phụ chưa bao giờ nói bộ kiếm pháp này có thể sử dụng một mình. Nhất định thằng lỏi này ăn nói bừa bãi.” Dĩ nhiên họ không dám nói sư phụ biết thi triển một mình.
Thanh Thanh nghe Viên Thừa Chí chống chế kín kẽ như áo trời không có đường may, hân hoan nghĩ bụng: “Trước nay chàng rất thật thà, hôm nay mới giở trò xảo trá.” Nàng mỉm cười lên tiếng: “Hai vị đồng thời giáp công, thế thì tiền đánh cược phải tăng thêm chút ít.”
Mẫn Tử Hoa hỏi: “Ngươi muốn cược cái gì?”
Thanh Thanh nói: “Nếu các vị thua, thì ngoài việc từ nay về sau không được tìm Tiêu bang chủ sinh sự, phải chung thêm cho Viên đại ca căn nhà lớn ở Đại Công Phường.”
Mẫn Tử Hoa nghĩ bụng: “Sợ gì mà không đồng ý? Chỉ khoảnh khắc là thằng lỏi kia không chết cũng trọng thương.” Y đáp ngay: “Cứ thế! Nếu ngươi muốn nhảy vào, lấy hai đấu hai cũng được. Đừng nói chúng ta lấy lớn hiếp nhỏ, lấy nhiều thắng ít.”
Thanh Thanh nói: “Sao các hạ biết là không phải nhỏ ăn hiếp lớn, lấy ít thắng nhiều? Thật chẳng biết trời cao đất rộng là gì. Tiên Đô ơi hỡi Tiên Đô, nổ như con ếch muốn to ngang bò.”
Mẫn Tử Hoa giận dữ thét lên: “Họ Viên kia! Nếu ngươi bị ta đánh bại thì thua thứ gì?”
Nhất thời Viên Thừa Chí không thể trả lời. Tiêu Công Lễ bèn hỏi: “Mẫn nhị gia! Căn nhà của huynh đáng giá bao nhiêu?”
Mẫn Tử Hoa tức giận nói: “Ai thèm xưng huynh đệ với ngươi? Căn nhà này ta mới mua tháng trước, tốn hết bốn ngàn ba trăm lượng bạc. Nhà tuy cũ kỹ, nhưng đất đai khá rộng.”
Tiêu Công Lễ gật đầu nói: “Căn nhà ở Đại Công Phường rất rộng rãi, Mẫn nhị gia mua giá đó là quá rẻ rồi. Xin ba vị chờ một lát.”
Ông quay lại, dặn dò con gái mấy câu. Tiêu Uyển Nhi chạy vào nội thất, đem ra một xấp ngân phiếu.
Tiêu Công Lễ nói: “Vị Viên gia này đã ra sức giúp người như thế, tại hạ vô cùng cảm kích. Đây là bốn ngàn ba trăm lượng bạc. Nếu Viên gia song quyền khó địch bốn tay, thì xin Mẫn nhị gia nhận trước chỗ này, rồi muốn gì khác cứ hỏi tại hạ. Oan có đầu, nợ có chủ. Đã ra tay trợ giúp tức là hảo bằng hữu, xin mọi người hạ thủ lưu tình, điểm tới là ngưng.”
Ông nghĩ Viên Thừa Chí không địch nổi, nên không muốn chàng bị hại vì mình.
Đảo chủ Trình Khởi Vân tính tình sảng khoái hào phóng, rất thích đổ bác, bèn nổi cơn ghiền cá độ, la lên: “Câu này không sai, chỉ phân thắng bại, không quyết sinh tử. Ta theo phe Mẫn nhị gia.”
Lão lấy trong bọc ra hai thoi vàng, hô lớn: “Ta ra kèo ba ăn một. Đây là ba trăm lượng vàng, coi như ba ngàn lượng bạc, ai muốn cá với ta thì bỏ ra một ngàn lượng bạc.”
Lão hô mấy lần, vẫn không ai trả lời. Mọi người đều thấy Viên Thừa Chí còn quá trẻ, làm sao địch nổi hai cao thủ phái Tiên Đô? Tuy ăn ba thua một là rất có lãi, nhưng không ai dám đánh cá.
Tiêu Uyển Nhi lên tiếng: “Trình bá bá! Con đánh cược với bá bá.”
Nàng lập tức tháo chiếc vòng vàng nạm đá quý ra, đặt trên bàn. Những viên bảo thạch óng ánh đến chói mắt dưới ngọn đèn cầy, vô cùng trân quý. Trình Khởi Vân biết người biết của, cầm chiếc vòng lên xem rồi nói: “Chiếc vòng này trị giá ba ngàn lượng bạc. Ta không muốn ăn hiếp trẻ con. Người đâu, đưa cho ta thêm sáu ngàn lượng bạc nữa.”
Thủ hạ của lão đưa tới bốn thoi vàng. Trình Khởi Vân mỉm cười nói: “Nếu ngươi thắng, coi như đây là quà hồi môn ta tặng ngươi.”
Thanh Thanh nghe thấy hai chữ “hồi môn”, liền giương mắt nhìn Uyển Nhi. Nàng cảm thấy trong lòng không thoải mái lắm.
Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân đột nhiên đặt nửa thanh kiếm gãy lên bàn, giận dữ nói: “Ta cá khúc kiếm gãy này.”
Thanh trường kiếm của cô ả vừa bị Viên Thừa Chí đạp gãy là do sư nương ban tặng. Vì thế trong lúc mọi người tranh cãi, ả đã nhặt lấy.
Thanh Thanh ngạc nhiên hỏi: “Nửa khúc kiếm gãy này, có ai thèm lấy?”
Mọi người ai cũng ngạc nhiên. Tôn Trọng Quân giận dữ nói: “Ta cũng lấy ba cá một. Nếu thằng mọi đen này phúc tổ ông bà mà thắng, ngươi cứ dùng nửa thanh kiếm này đâm thủng ta ba lỗ. Nếu hắn thua, ta đâm thủng ngươi một lỗ. Tiểu tử thối tha kia đã hiểu chưa?”
Những hào kiệt giang hồ trong đại sảnh, suốt đời đã gặp không biết bao nhiêu hung hiểm, trải qua bao nhiêu thách thức, nhưng kiểu thách đố liều mạng này thì chưa ai thấy. Họ nghe xong lời thách của Tôn Trọng Quân, không khỏi âm thầm lè lưỡi.
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Thân thể mỹ miều như thế, làm sao ta nỡ ra tay đâm thủng?”
Mai Kiếm Hòa quát lên: “Tiểu tử khốn nạn kia! Nói năng phải sạch sẽ hơn một chút.”
Thanh Thanh cười khẩy không nói gì nữa.
Tôn Trọng Quân trừng mắt nhìn mọi người bên họ Tiêu, cười nhạt nói: “Ta cứ tưởng Kim Long Bang khai sơn lập địa ở Giang Nam phải có mấy tay khí khái. Nào ngờ toàn bọn hèn đớn, thua cả nữ nhân.”
Tiêu Uyển Nhi kêu lên: “Nữ nhân thì đã sao? Ta nhận cá với cô.”
Bốn năm đệ tử họ Tiêu đồng thời bước ra, tranh nhau hô lớn: “Sư muội! Để ta đánh cá với mụ này.”
Uyển Nhi đáp: “Không cần, cứ để ta.”
Tôn Trọng Quân cười nhạt nói: “Được! Trình đảo chủ, xin đảo chủ làm chứng.”
Trình Khởi Vân là hải tặc giết người không nháy mắt, tính lại thích cờ bạc, nhưng cũng không nỡ nhìn ván bài này. Lão bèn khuyên: “Hai vị đại cô nương! Nếu muốn đánh cá thì đánh cá một ít son phấn gì đó là được, hà tất phải làm như thế.”
Uyển Nhi nói: “Cô ấy đã chặt đứt một cánh tay La sư ca của con. Lát nữa con cũng phải chặt đứt một cánh tay của cô ấy.”
Trình Khởi Vân thở ra một hơi, không tiện khuyên can nữa.
Mai Kiếm Hòa lạnh lùng nói: “Tiêu đại cô nương đối với tên môn nhân Kim Xà này thật đã có tình cảm thâm sâu, dám lấy sinh mạng để thách đố vì hắn.”
Tiêu Uyển Nhi đỏ ửng mặt lên hỏi: “Các hạ muốn đánh cá không?”
Thanh Thanh nghe Mai Kiếm Hòa nói xong, không nén nổi lửa giận bừng bừng. Nàng quát lên: “Để ta đánh cá với tên Mạt Ảnh Tử này.”
Mai Kiếm Hòa hỏi: “Đánh cá cái gì?”
Thanh Thanh nói: “Ta cũng cá ba ăn một với ngươi. Nếu Viên huynh thua, ta lập tức gọi ngươi ba tiếng gia gia. Nếu Viên huynh thắng, ngươi chỉ cần gọi ta một tiếng là xong. Coi như ngươi lợi lắm rồi.”
Mọi người không nén nổi tức cười, cảm thấy thiếu niên này thật hay đùa giỡn.
Mai Kiếm Hòa tức giận nói: “Ai giỡn với ngươi? Ta còn phải đợi, nếu hắn thắng thì ta tiếp tục lãnh giáo.”
Thanh Thanh nói: “Nếu nói vậy, chẳng lẽ ngươi một mình một kiếm còn lợi hại hơn Lưỡng Nghi Kiếm Pháp hai người phái Tiên Đô hợp lực hay sao?”
Mai Kiếm Hòa nói: “Ta là phái Hoa Sơn, họ là phái Tiên Đô, mỗi phái đều có tuyệt chiêu. Ngươi đừng giở trò ly gián.”
Động Huyền đạo nhân nghe họ đấu khẩu qua lại mãi không dứt, càng nghe càng lo lắng, bèn lên tiếng: “Đừng nói nữa. Tiểu tử, tiếp chiêu!”
Y đưa kiếm lên đâm tới hông trái Viên Thừa Chí. Mẫn Tử Hoa theo đó tấn công vào bên tay phải. Hai đệ tử phái Tiên Đô, một đạo sĩ một tục gia, một cầm kiếm tay trái, một cầm kiếm tay phải, bước chân theo đúng phương vị sáu mươi bốn quẻ trong Kinh Dịch. Hai thanh kiếm tung hoành, bạch quang thanh quang thay phiên nhau nháy động, kiếm phong dài ngắn thay phiên nhau vũ lộng, tựa hồ bên trong ẩn tàng thế mạnh như sấm sét.
Kim Xà Lang Quân trên núi Tiên Đô đã từng luận kiếm với Hoàng Mộc đạo nhân, biết Lưỡng Nghi Kiếm Pháp tuy biến hóa phức tạp, lợi hại ác độc, nhưng vốn không sánh kịp Thượng Thanh Kiếm Pháp của đời trước phái Tiên Đô. Ông thấy nhiều chỗ sơ suất, bèn chỉ ra mấy chỗ. Nhưng Hoàng Mộc đạo nhân quá tự phụ, đã nói: “Kiếm pháp nào cũng phải có sơ suất. Nhưng e rằng trong thiên hạ không ai phá nổi Lưỡng Nghi Kiếm Pháp của ta.” Khi đó Kim Xà Lang Quân không nói gì thêm nữa.
Sau này Ôn thị ngũ lão mời nhiều người đến để chống lại Kim Xà Lang Quân. Trong những cao thủ được mời cũng có kiếm khách của phái Tiên Đô. Khi đối địch Kim Xà Lang Quân đầy lòng tự tin, thừa chỗ hổng mà vào, chỉ vài chiêu là phá được Lưỡng Nghi Kiếm Pháp. Sau này Kim Xà Lang Quân tường thuật tỉ mỉ trong bí kíp của mình, nên Viên Thừa Chí không sợ hãi gì, cứ xuyên qua xuyên lại giữa ánh kiếm của hai người, vô cùng ung dung tiêu sái.
Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đạo nhân múa hai thanh kiếm nhanh như gió, mạnh như sấm sét, nhưng không sao chạm được đến chàng. Những người đứng quanh càng nhìn càng thấy lạ.
Trình Khởi Vân nói với Thập Lực đại sư: “Khinh công của thiếu niên này thật tuyệt. Kim Xà Lang Quân đúng là danh bất hư truyền.”
Thập Lực đại sư gật đầu đáp: “Trong đám hậu bối, một nhân tài như thế thật là khó kiếm.”
Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân không kìm nỗi lo lắng trong lòng được nữa. Tôn Trọng Quân lớn tiếng nói: “Tiểu tử này nhát gan quá. Chạy đi chạy lại, tránh chỗ này né chỗ kia, không dám phản đòn, thế mà gọi là tỉ võ hay sao?”
Mẫn Tử Hoa đánh đến lúc cao hứng, chĩa kiếm theo trung cung đâm thẳng vào trước ngực Viên Thừa Chí. Động Huyền xuất chiêu Tả Hữu Khai Cung đâm soạt soạt hai kiếm, một nhát đâm sang trái, một nhát đâm sang phải. Hai người cùng lúc ép vào, tưởng như Viên Thừa Chí không còn chỗ nào tránh né nữa.
Nhưng Viên Thừa Chí đột nhiên quay nghiêng người, bước trượt theo nhát kiếm đâm tới ngực. Vai trái chàng đưa ra, hất trúng vào vai trái Mẫn Tử Hoa. Viên Thừa Chí mới vận ba thành công lực, Mẫn Tử Hoa đã bước chân loạng choạng, suýt nữa té nhào.
Động Huyền kinh hãi, ra luôn ba chiêu liên hoàn liều mạng cản trở, Mẫn Tử Hoa mới đứng yên lại được rồi mắng: “Thằng ranh con lộn giống kia! Đụng vào ông nội mi làm chi vậy?”
Lần này Viên Thừa Chí xuất thủ chỉ mong giải quyết được xích mích ở đây, không muốn đắc tội với nhân vật giang hồ, càng không muốn kết oán gây thù. Nhưng bây giờ nghe Mẫn Tử Hoa nói năng xằng bậy, xúc phạm đến tổ tiên mình, chàng không khỏi giận dữ nghĩ thầm: “Nếu hôm nay không hiển lộ võ công thượng thừa đánh ngã hai người này, sự việc khó mà kết thúc nhẹ nhàng. Hơn nữa, khi xử lý bọn Thái Bạch Tam Anh bán nước, chỉ sợ những người kế bên không phục, phải tốn công giải thích. Tốt nhất là ta cứ mạo nhận môn nhân của Kim Xà Lang Quân đến cùng, đừng tiết lộ môn phái của mình để khỏi đụng chạm đến Nhị sư ca.”
Chàng quyết định tỏ ra ngông cuồng ngạo mạn khác hẳn tính cách bình thường, bèn nhảy đến bên bàn cầm một ly rượu lên, ngửa cổ uống cạn rồi kêu lớn: “Đánh nhanh lên, đánh nhanh lên! Ta uống rượu chưa say, ăn cơm chưa no, đánh nhanh để còn ăn uống.”
Mẫn Tử Hoa thấy đối phương khinh miệt mình như thế lại càng giận dữ, vũ lộng trường kiếm nhanh hơn. Động Huyền khẽ bảo: “Mẫn sư ca! Trầm tĩnh lại, đừng trúng vào kế khích tướng.”
Mẫn Tử Hoa lập tức tỉnh ngộ. Hai người vòng sang hai bên trái phải, hai thanh kiếm vừa trầm ổn vừa ác độc lại bao vây Viên Thừa Chí vào trong. Viên Thừa Chí tay trái cầm ly, tay phải cầm đũa, tiến lùi nương theo hai thanh kiếm của địch. Tuy kiếm pháp đối phương hung hãn, nhưng không làm gì được chàng.
Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy ra khỏi vòng kiếm quang, dằn ly rượu lên bàn nghe “cốp” một tiếng, hô lớn: “Thanh đệ, rót rượu cho ta!” Thanh Thanh vâng dạ rồi rót ngay.
Viên Thừa Chí đứng bên bàn, tay trái nhấc một cái ghế lên, tiện tay gạt đỡ hai thanh kiếm tấn công tới. Đợi rượu rót đầy, chàng đưa đôi đũa gắp một đùi gà rồi mới buông cái ghế xuống, cầm ly rượu nhảy ra giữa sảnh, vừa gặm đùi gà vừa la lên: “Lưỡng Nghi Kiếm Pháp vốn đã nhiều sơ suất rồi, các ngươi lại học chưa tới nơi, làm sao đả thương được ta? Vụ buôn bán hôm nay, quý hiệu nhất định phải lỗ vốn.”
Thanh Thanh thấy vị nghĩa huynh xưa nay nghiêm cẩn trung hậu bây giờ đột nhiên tỏ vẻ ngông cuồng, nhưng không sao giống được, cố lắm mới nói được mấy câu bắt chước hơi hám của đại sư ca. Nàng không khỏi buồn cười.
Nên biết Viên Thừa Chí từ nhỏ đến giờ chưa từng ngông nghênh tiêu sái lần nào. Bây giờ chàng muốn cuồng ngạo như Kim Xà Lang Quân, nhưng đã hết ba phần khôi hài giống đại sư ca Hoàng Chân. Bảy phần còn lại thì giống vẻ ngạo mạn tự cao của Lữ Thất tiên sinh lúc mới vào Ôn gia trang.
Lưỡng Nghi Kiếm Pháp càng đánh càng nhanh. Viên Thừa Chí liên tiếp tránh né ba chiêu nguy hiểm, rồi đột nhiên quay người lại. Chàng hất cái đùi gà vào mặt Mẫn Tử Hoa, đưa đôi đũa ra kẹp lấy thanh kiếm của Động Huyền, vừa vận sức lên đầu đũa vừa quát lên dữ dội: “Buông kiếm!”
Nghe “xoảng” một tiếng, quả nhiên trường kiếm của Động Huyền rơi xuống đất. Y còn ngoan cố dựng đứng hữu chưởng lên, chân trái đá quét ngang mặt đất, muốn tìm phần thắng khi sắp bại. Viên Thừa Chí hai chân chấm đất nhẹ nhàng, thân hình tung lên tránh né cước này. Đồng thời ly rượu trong tay chàng bay ra, đánh ngay vào huyệt Khúc Xích trên tay trái Mẫn Tử Hoa. Cánh tay tê chồn, trường kiếm của họ Mẫn rơi nốt xuống đất.
Viên Thừa Chí phóng tới nhặt hai thanh kiếm lên, vừa rung động cổ tay vừa hô lên: “Hai vị chưa thấy một người sử dụng Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, chắc chắn Hoàng Mộc đạo nhân chưa dạy. Chú ý xem đây!”
Chàng múa song kiếm lên; bên trái công, bên phải thủ; bên phải đâm thẳng phía trước, bên trái chống đỡ một bên; từng chiêu từng thức đúng là Lưỡng Nghi Kiếm Pháp, phức tạp biến hóa vô cùng. Động Huyền và Mẫn Tử Hoa vừa chia nhau sử dụng, ai cũng chính mắt nhìn thấy. Bây giờ thấy chàng cầm song kiếm, một mình thi triển kiếm chiêu của hai đệ tử phái Tiên Đô, mọi người đều phải ngạc nhiên.
Viên Thừa Chí múa kiếm đến lúc cao hứng, kiếm khí vọt ra như cầu vồng, kiếm phong rít như sấm động, đúng là khí thế nuốt chửng Ngân hà.
Lưỡng Nghi Kiếm Pháp có cả thảy sáu mươi bốn chiêu. Sau khi sử hết, chàng thét một tiếng, song kiếm rời tay bay ra, cắm vào một cây trụ gần mái nhà, ngập sâu hết lưỡi, chỉ còn chuôi kiếm thò ra. Chiêu Thiên Ngoại Phi Long này là tuyệt kỹ của Mục Nhân Thanh phái Hoa Sơn.
Hiển lộ xong tuyệt kỹ, Viên Thừa Chí thõng tay lùi ra. Trong sảnh nổi lên tiếng hoan hô và tiếng vỗ tay như sấm động. Nhưng trong lòng chàng âm thầm hối hận: “Trời ơi, hỏng bét rồi! Lúc ta cao hứng đã biểu diễn tuyệt chiêu của bản môn. Môn hạ của Nhị sư ca làm sao không nhận ra được?”
Thanh Thanh la lên: “Ha ha! Có người phải gọi ta là gia gia rồi.”
Mai Kiếm Hòa tái xanh mặt mũi, tay nắm chặt chuôi kiếm.
Trình Khởi Vân mỉm cười nói: “Thế là Tiêu đại cô nương thắng rồi. Ngươi cất tiền đi.” Lão thuận tay đẩy mấy thoi vàng đến trước mặt Tiêu Uyển Nhi.
Tiêu Uyển Nhi khom lưng đa tạ rồi nói: “Trình bá bá! Để con thay mặt bá bá thưởng cho mọi người.”
Nàng dõng dạc cất tiếng: “Đây có chín ngàn lạng bạc, là món tiền của Trình đảo chủ vừa đánh cược, đùa giỡn với tiểu nữ. Các vị đường xa đến đây, Kim Long Bang tiếp đãi không được chu đáo, áy náy vô cùng, bây giờ xin mượn hoa cúng Phật. Các vị tiền bối, thúc thúc, bá bá, huynh trưởng, tỉ tỉ! Trình đảo chủ tặng mỗi vị một trăm lạng bạc. Lát nữa tiểu nữ sẽ đi đổi mấy thoi vàng này ra bạc, đưa đến nơi ở của các vị. Nếu còn thiếu, Kim Long Bang sẽ bù cho đủ số.”
Thế là mối cừu này giải quyết xong mà không tổn thương nhân mạng, Kim Long Bang xử trí cũng đúng điệu. Mỗi người tự dưng được một số tiền hậu hĩ, nên ai cũng vui mừng. Kim Long Bang lại mượn danh nghĩa của Trình đảo chủ, nên không thể nói là họ nhận quà của đối thủ. Tuy không ai hoan hô thành tiếng, nhưng mắt ai cũng sáng rực lên.
Trình Khởi Vân cũng cảm thấy hoan hỉ, dõng dạc nói: “Đa tạ Tiêu đại cô nương. Sau này ngươi xuất giá, Trình bá bá sẽ tặng ngươi một phần lễ hậu khác.”
Tiêu Công Lễ lên tiếng: “Tại hạ năm xưa tính khí nóng nảy, hành sự lỗ mãng, nên lỡ tay làm tổn thương huynh trưởng của Mẫn nhị gia, thật áy náy vô cùng. Bây giờ trước mặt các vị anh hùng, tại hạ xin tạ tội với Mẫn nhị gia. Uyển Nhi! Ngươi đi thi lễ với Mẫn thúc thúc đi.”
Mẫn Tử Hoa đã hứa trước rồi. Hảo hán trên giang hồ nói một là một, nếu y nuốt lời thì số bằng hữu được mời đến cũng không chịu giúp. Đệ tử của Kim Xà Lang Quân lại có võ công cao cường như thế, bản thân y chắc chắn không phải là địch thủ. Hơn nữa, y xem hai lá thư đã biết bên mình có lỗi, tốt nhất là nhân cơ hội này để kết liễu cho xong. Vì thế y đành chắp tay trả lễ, nhưng nghĩ đến huynh trưởng quá cố, không nén nổi rơi mấy giọt lệ.
Tiêu Công Lễ lại nói: “Mẫn nhị gia rộng lượng khoan hồng, không truy cứu chuyện cũ, tại hạ cảm kích vô cùng. Về chuyện đánh cược căn nhà, thiết nghĩ đây chỉ là câu nói đùa của vị huynh đài này, không cần nhắc đến nữa. Ngày mai tại hạ lập tức tìm cho hai vị này một nơi ở tốt đẹp là xong.”
Thanh Thanh hất mặt lên một cái, nói: “Chuyện này không được. Quân tử nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Lời đã nói rồi, sao có thể bỏ qua?”
Mọi người đều ngẩn ra nghĩ bụng: “Tiêu Công Lễ đã hứa mua một căn nhà khác, nếu lớn gấp mười lần căn nhà Mẫn Tử Hoa đang ở cũng không phải là chuyện lạ. Phải xé rách mặt mày người khác làm chi? Tiểu tử mặt trắng này thật không biết cách xử thế.”
Tiêu Công Lễ chắp tay nhìn Thanh Thanh nói: “Ân tình của hai vị, tại hạ vĩnh viễn không đền đáp nổi. Xin hai vị giúp cho lần nữa. Tại hạ có một khu vườn ở cửa Nam, khá nổi danh ở thành Nam Kinh này, xin hai vị nể mặt mà sử dụng. Nhất định hai vị sẽ vừa lòng.”
Thanh Thanh nói: “Mẫn nhị gia vừa rồi đòi giết ông trả thù. Giả tỉ ông nói: “Thôi, đừng giết ta nữa. Để ta tìm một người khác cho Mẫn nhị gia giết. Người này khá nổi danh ở thành Nam Kinh, xin Mẫn nhị gia nể mặt mà giết hắn đi, nhất định Mẫn nhị gia sẽ vừa lòng.” Không biết Mẫn nhị gia có chịu hay không?”
Tiêu Công Lễ nghe mấy câu này, mặt lại ngẩn ra. Ông chỉ còn cách cười đau khổ, quay lại bảo con gái: “Vị huynh đài này đã thích căn nhà của Mẫn nhị thúc rồi. Con chuẩn bị bốn ngàn ba trăm lượng bạc, lát nữa cho người đưa qua chỗ Mẫn nhị thúc.”
Mẫn Tử Hoa tức tối, lớn tiếng nói: “Thôi đi, thôi đi! Ta còn lấy thứ bạc đó làm chi nữa? Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Oán thù giữa ta và Tiêu bang chủ từ nay xóa bỏ. Ngày mai ta sẽ về quê gánh phân trồng trọt, không còn mặt mũi nào xuất hiện trên giang hồ nữa. Căn nhà đó, các người cứ việc lấy là xong.”
Y quay bốn phía, chắp tay bái tạ mọi người rồi nói: “Đa tạ các vị bằng hữu từ phương xa đến đây tương trợ. Nào ngờ tại hạ học nghệ không tinh, không đủ tài cán để trả thù cho huynh trưởng, làm phiền các vị đi một phen vô ích. Tại hạ đành phải nghĩ cách sau này báo đáp.”
Viên Thừa Chí thấy y nói chuyện thẳng thắn, cảm thấy vừa rồi mình sỉ nhục hơi quá đáng. Chàng áy náy trong lòng, bèn nói: “Mẫn nhị gia! Tuy tại hạ vừa thắng nhị gia, nhưng thật ra chỉ dựa vào những điều Kim Xà Lang Quân chỉ điểm. Võ công của bản thân tại hạ thì kém rất xa nhị gia và Động Huyền đạo trưởng. Xin hai vị đừng lấy làm khó chịu. Vãn bối vừa rồi vô lễ, thật là có lỗi. Bây giờ xin hai vị tha thứ cho.”
Nói xong, chàng chắp tay thi lễ với hai người đến sát đất, rồi tung người lên rút hai thanh kiếm đang cắm trên cột nhà, nâng lên giao trả hai người.
Mọi người thấy khinh công của chàng nhảy lên lấy kiếm, lại một phen trầm trồ. Ai cũng nghĩ: “Thiếu niên mặt đen này võ công cực cao, lại biết khiêm cung lễ phép, nể mặt người khác. Y nói là công phu của mình không bằng người ta, dĩ nhiên chẳng ai tin được.”
Viên Thừa Chí lại nói: “Hai vị không thua tại hạ, mà thua Kim Xà đại hiệp. Ông ấy biết rõ kiếm pháp của hai vị, đã dặn tại hạ làm bộ khinh miệt ngông cuồng, để kích động hai vị giận dữ rồi thừa cơ thủ thắng. Vừa rồi tại hạ có điều bất kính, không phải là có gan cố ý sỉ nhục, mà là kế khích tướng để công phu của hai vị chỉ thi triển được một phần. Kim Xà đại hiệp là cao nhân đương thế, võ công sâu không lường được. Tại hạ không dám nhận là truyền nhân của ông ấy, chẳng qua có duyên được gặp, rồi phụng mạng đến đây giảng hòa mà thôi. Hai vị thua dưới tay Kim Xà Lang Quân, có gì là nhục đâu? Tại hạ xin nói một câu khó nghe. Đừng nói là hai vị, dù là lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân, năm xưa đối với Kim Xà đại hiệp cũng mười phần thán phục.”
Động Huyền đạo nhân và Mẫn Tử Hoa nghe mấy câu này bán tín bán nghi, nhưng tâm ý đã bình hòa lại. Động Huyền nói: “Các hạ vì phái Tiên Đô mà giữ thể diện cho huynh đệ chúng ta, bần đạo xin đa tạ. Không hiểu cao tính đại danh các hạ là gì, có thể cho mọi người được biết hay không?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Tên thật của mình không nên nói, để môn nhân của Nhị sư ca khỏi chú ý.” Chàng bèn chỉ Thanh Thanh, nói: “Vị này là công tử của Kim Xà Lang Quân, họ Hà. Tại hạ họ Viên.”
Mẫn Tử Hoa chắp tay thi lễ với Tiêu Công Lễ rồi nói: “Đã quấy nhiễu nhiều, xin cáo từ.”
Tiêu Công Lễ nói: “Ngày mai tại hạ phải đến quý phủ vác roi thỉnh tội.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Không dám!”
*
* *
Ồn ào một buổi, đã đến xế chiều. Quần hào đang cáo từ ra về, đột nhiên Thanh Thanh la lên: “Còn vụ đánh cược nửa khúc kiếm, bây giờ làm sao đây?”
Tiêu Uyển Nhi thấy phụ thân thoát khỏi đại nạn đã mừng rỡ lắm rồi. Nàng không muốn sinh phiền phức nữa, bèn nói: “Hạ gia! Mời vào nội đường dùng trà. Chuyện đó không cần nhắc đến nữa.”
Thanh Thanh nói: “Còn một thằng cháu chưa chịu gọi ta một tiếng ông nội nữa. Như vậy sao được?”
Nàng đã thắng cuộc Ngụy Quốc Công phủ, hoan hỉ lắm rồi. Nhưng vừa rồi Mai Kiếm Hòa nói Tiêu Uyển Nhi có thâm tình với Viên Thừa Chí, câu nói này mãi canh cánh trong lòng nên nàng quyết chẳng thôi.
Mai Kiếm Hòa đã thấy Viên Thừa Chí võ công cao cường, thân thủ kỳ dị, nên không muốn sinh sự nữa. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, y đành chỉ mặt Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi ghim hai thanh kiếm vào cột, chiêu Thiên Ngoại Quy Long này học lén ở đâu? Nói nhanh lên.”
Viên Thừa Chí hỏi lại: “Học lén? Ta mà học lén à?”
Tôn Trọng Quân mắng: “Thằng lỏi dối trá kia! Đã học lén còn chối nữa ư?”
Mai Kiếm Hòa lạnh lùng hỏi: “Thế thì ngươi học ở đâu?”
Viên Thừa Chí nghĩ, bây giờ mà nói dối thì trái với bản tính của mình. Hơn nữa, chuyện sư môn không thể dối trá được, chàng bèn đáp: “Ta là môn hạ phái Hoa Sơn.”
Tôn Trọng Quân bước lên một bước, trỏ tay mắng luôn: “Lúc nãy ngươi dựa vào chiêu bài Kim Xà, Ngân Xà gì gì đó, người khác không biết lai lịch nên để mặc cho ngươi nói bậy bạ. Bây giờ thì khác rồi, dám nói mình ở phái Hoa Sơn nữa. Ngươi biết bà nội ngươi đây là nhân vật phái nào không? Hà hà… Lý Quỷ gặp phải Lý Quỳ rồi. Nói thật với ngươi, ba người chúng ta là môn hạ phái Hoa Sơn đây.”
Viên Thừa Chí nói: “Ta đã nói từ sớm rồi, ta hoàn toàn không có liên quan gì tới Kim Xà Lang Quân, chẳng qua chỉ là bằng hữu của con ông ấy. Còn ba vị, ta đã biết ở phái Hoa Sơn từ sớm rồi. Chúng ta đúng là người cùng một nhà.”
Trong ba người đó thì Lưu Bội Sinh là người trầm tĩnh nhất. Y nói: “Tại hạ quen biết hết môn nhân của Hoàng sư bá, nhưng không có các hạ trong số đó. Sư muội! Sư muội có nghe Hoàng sư bá mới nhận thêm đệ tử hay không?”
Tôn Trọng Quân nói: “Tầm nhìn của Hoàng sư bá rất cao, đâu thể thu gom bọn lừa gạt dối trá này làm đồ đệ?”
Ả còn hận Viên Thừa Chí đạp gãy trường kiếm của mình, nên nói năng càng lúc càng khó nghe.
Viên Thừa Chí vẫn không đổi giọng, đáp: “Không sai! Đồng bút thiết toán bàn Hoàng sư ca có tầm nhìn rất xa.”
Mọi người nghe chàng gọi Hoàng Chân là sư ca, đều kinh hãi một phen. Lưu Bội Sinh hỏi: “Các hạ gọi ai là Hoàng sư ca?”
Viên Thừa Chí nói: “Sư phụ ta họ Mục, tôn danh là thượng Nhân hạ Thanh. Người trên giang hồ đều gọi lão nhân gia là Thần Kiếm Tiên Viên. Đồng Bút Thiết Toán Bàn là đại sư ca của ta.”
Mai Kiếm Hòa nghe Viên Thừa Chí tự xưng là môn hạ phái Hoa Sơn đã bán tín bán nghi, tưởng chàng học nghệ rồi mới bái sư, vừa được Hoàng Chân thu nhận. Bây giờ nghe chàng xưng là đồ đệ của sư tổ mình, hắn tin chắc là buột miệng nói bừa.
Hắn nghĩ thầm: “Sư tổ xưa nay hành tung bí ẩn, chính mình cũng mới được gặp có ba lần. Sư phụ Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ đã gần năm mươi tuổi rồi. Thằng lỏi này nhỏ tuổi như vậy mà dám đến đây mạo nhận sư thúc của mình, thật là ngông cuồng hết sức.” Hắn bèn lạnh lùng nói: “Nếu thế thì các hạ là sư thúc của ta rồi.”
Viên Thừa Chí nói: “Ta không dám nhận ba vị là sư điệt.”
Mai Kiếm Hòa nghe hiểu ý mỉa mai mình, bèn nói: “Chẳng lẽ ta đã làm nhục danh tiếng của phái Hoa Sơn hay sao? Sư thúc đại nhân! Hà hà… Sư thúc hãy giáo huấn ba người tiểu điệt có tội này đi.”
Mai Kiếm Hòa đã ba sáu ba bảy tuổi rồi. Nghe hắn nói như thế, đám võ sư bên họ Mẫn đều lớn tiếng cười ồ.
Viên Thừa Chí nghiêm trang nói: “Nếu Quy sư ca có ở đây, đương nhiên sẽ giáo huấn các vị.”
Mai Kiếm Hòa tức run lên, xoẹt một tiếng kiếm đã ra khỏi vỏ, gằn giọng: “Thằng lỏi kia! Ngươi ăn nói bừa bãi gì thế?”
Tiêu Công Lễ thấy chuyện đã yên rồi, bây giờ vì một duyên cớ nhỏ mà khởi lên tranh chấp, cảm thấy lo lắng bèn nói: “Viên gia nói đùa chút thôi, Mai gia không cần giận dữ. Qua đây, qua đây! Chúng ta uống ly rượu giảng hòa.”
Nghe nói thì biết ông cũng không tin Viên Thừa Chí là sư thúc của Mai Kiếm Hòa.
Mai Kiếm Hòa dõng dạc nói: “Tiểu tử hỗn láo kia! Bây giờ ngươi thử khấu đầu gọi ta ba tiếng sư thúc đi, xem Mạt Ảnh Tử này có đồng ý hay không?”
Thanh Thanh bỗng la lên: “Này, Mạt Ảnh Tử! Ngươi kêu ta một tiếng Thanh gia gia trước đi. Đã thua cuộc rồi, muốn chối phải không?”
Viên Thừa Chí bèn bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ, đừng đùa nữa.” Rồi chàng quay lại nói với Mai Kiếm Hòa: “Ta chưa được bái kiến Quy sư ca. Ba vị tuổi tác lớn hơn ta, lẽ ra ta không dám nhận là sư thúc. Nhưng lần này ba vị hành sự có chỗ quá đáng. Nếu Quy sư ca biết, nhất định sẽ nổi giận.”
Mai Kiếm Hòa dựng ngược lông mày, ngẩng mặt lên trời cười rộ rồi quát lớn: “Quả nhiên thằng lỏi này muốn dạy dỗ người ta rồi. Xin thỉnh giáo, ba người chúng ta sai lầm chỗ nào? Bằng hữu có việc, chẳng lẽ không nên rút đao tương trợ hay sao?”
Viên Thừa Chí nghiêm trang nói: “Phong tổ sư gia của phái Hoa Sơn chúng ta đã truyền xuống thập nhị đại giới, môn nhân đệ tử phải tuân thủ nghiêm ngặt. Điều ba, điều năm, điều sáu, điều mười một là gì?”
Mai Kiếm Hòa ngẩn ra chưa đáp, Tôn Trọng Quân đã cầm nửa khúc kiếm gãy quăng tới Viên Thừa Chí, hét lên: “Biểu diễn công phu Hoa Sơn trước đi!”
Thanh quang chớp lên, nhoáng cái đã đến trước mặt. Viên Thừa Chí đợi khúc kiếm gãy bay đến gần, đưa tả chưởng hướng lên, hữu chưởng hướng xuống, vỗ “bốp” một tiếng đã ép chặt khúc kiếm gãy vào giữa hai lòng bàn tay. Chàng hỏi: “Chiêu này là Hoành Bái Quan Âm, đúng không?”
Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh lại ngẩn ra. Đây đúng là chưởng pháp bản môn, nhưng chiêu này vốn dùng để đánh nát bàn tay địch thủ. Chàng xoay chuyển phương vị để chụp ám khí, thủ pháp xảo diệu vô cùng, sư phụ họ chưa từng dạy.
Lưu Bội Sinh bước tới một bước, lên tiếng: “Chiêu các hạ vừa sử đúng là chưởng pháp bản môn. Tại hạ muốn thỉnh giáo.”
Viên Thừa Chí nói: “Lưu huynh! Ngoại hiệu của Lưu huynh là Ngũ Đinh Khai Sơn, chắc quyền pháp đã tới chỗ tinh diệu. Hai loại quyền pháp bản môn, Phục Hổ Chưởng Pháp và Bích Thạch Phá Ngọc, chắc Lưu đại ca rất tâm đắc phải không?”
Lưu Bội Sinh thấy chiêu vừa rồi của Viên Thừa Chí đã phục thầm, bèn khiêm tốn đáp: “Tại hạ chỉ học được sơ sài những gì sư môn truyền thụ, không dám nói là tâm đắc.”
Viên Thừa Chí nói: “Lưu huynh đừng quá khiêm nhường. Khi huynh chiết chiêu với lệnh sư, nếu lệnh sư thi triển công phu chân chính như Bảo Nguyên Kình hoặc Hỗn Nguyên Công, thì Lưu huynh đón được mấy chiêu?”
Lưu Bội Sinh đáp: “Sư phụ của tại hạ nội lực thâm hậu, khi chiết chiêu với đồ đệ thì trước nay không sử nội kình, không thì bọn tại hạ một chiêu cũng không đỡ nổi. Nếu chỉ đấu về quyền pháp, thì mười chiêu đầu có thể miễn cưỡng đối phó. Sau mười chiêu thì rất khó khăn.”
Viên Thừa Chí nói: “Lệnh sư ngoại hiệu là Thần Quyền Vô Địch, quyền pháp đương nhiên xảo diệu. Lưu huynh tiếp được hơn mười chiêu, trên giang hồ đã là hiếm thấy. Ba chữ Ngũ Đinh Thủ thật là xứng đáng.”
Lưu Bội Sinh nói: “Đó chỉ là cách bằng hữu gọi đùa. Công phu của tại hạ còn kém lắm, thật sự hổ thẹn không dám nhận.”
Tôn Trọng Quân nghe Lưu Bội Sinh đối với thiếu niên này càng lúc càng cung kính, như đã có ý nhận Viên Thừa Chí là sư thúc. Ả giận dữ hỏi: “Lưu sư ca! Huynh sao thế? Người ta chỉ khoác lác mấy câu là đủ cho huynh sợ rồi ư?”
Viên Thừa Chí mặc kệ ả, tiếp tục hỏi Lưu Bội Sinh: “Phải như thế nào huynh mới tin ta là sư thúc?”
Lưu Bội Sinh đáp: “Tại hạ muốn đối chiêu với các hạ. Nếu quyền pháp bản môn của các hạ thật sự giỏi hơn…”
Viên Thừa Chí đã thấy Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân xuất thủ, nghĩ võ công của Lưu Bội Sinh cũng chẳng khác bao nhiêu, bèn đáp: “Lưu huynh đã nói, nếu lệnh sư dùng tới nội kình thì một chiêu cũng không đón nổi. Công phu của ta dĩ nhiên không bằng được lệnh sư. Ông ấy cần một chiêu, ta phải cần năm chiêu. Bây giờ nếu huynh tiếp được ta năm chiêu, thì xem như ta là đồ giả mạo. Được chứ?”
Mai Kiếm Hòa vốn lo sư đệ không thắng nổi Viên Thừa Chí. Nghe chàng nói chỉ dùng năm chiêu là đánh bại Lưu sư đệ, người giỏi quyền nhất trong huynh đệ đồng môn, hắn bèn yên tâm trở lại, nghĩ chắc Viên Thừa Chí chỉ nói bừa. Hắn bèn xen vào: “Cứ thế, để ta đếm cho.”
Lưu Bội Sinh chắp tay nói: “Công phu của tại hạ có chỗ nào chưa đúng, xin các hạ chỉ điểm.”
Thừa Chí từ từ bước đến, nói: “Chiêu đầu tiên là Thạch Phá Thiên Kinh, huynh phải đỡ cho cẩn thận.”
Lưu Bội Sinh nói: “Được!” Trong lòng y nghĩ: “Động thủ đối chiêu, làm gì có chuyện nói cho đối thủ biết trước chiêu số? Chắc chắn bên trong có gian trá gì đây. Không chừng hắn dặn ta lưu ý thượng bàn, rồi bất ngờ tấn công vào hạ bàn cũng nên.” Y bèn đưa tay phải che trước mặt, còn tay trái hoành ngang thủ giữ Đan Điền, đợi Viên Thừa Chí tấn công vào giữa là lập tức vung quyền đánh trả.
Viên Thừa Chí hô lớn: “Chiêu thứ nhất!” Tả chưởng chàng ra hư chiêu, hữu quyền phóng tới nghe “vù” một tiếng. Đúng là Thạch Phá Thiên Kinh, một chiêu của phái Hoa Sơn.
Lưu Bội Sinh vội đưa tay phải ra đỡ. Viên Thừa Chí sắp đánh trúng mặt y, đột nhiên dừng tay lại hỏi: “Sao huynh không tin ta? Một tay không cản nổi đâu, phải dùng hai tay cùng lúc.”
Lưu Bội Sinh đã thấy thế quyền của Viên Thừa Chí hùng mạnh, biết tay phải mình không đủ sức cản trở, rõ ràng mũi mình sắp bị đối phương đánh dập. Y đang lo lắng thì thấy thoi quyền của Viên Thừa Chí đột nhiên dừng lại, bèn lập tức đưa thêm chưởng trái lên cản trước ngực. Y ra chiêu Thiết Thuyên Hoành Môn, khẽ quát lên một tiếng, vận kình lực đẩy cả song chưởng ra ngoài.
Lúc này Viên Thừa Chí mới tiếp tục đấm tới, đánh thẳng vào song chưởng của Lưu Bội Sinh. Họ Lưu cảm thấy sức ép lên hai tay mình rất nặng, xương cốt chuyển nghe răng rắc, kinh hãi nghĩ thầm: “Quyền của hắn dừng lại nửa chừng rồi đánh tiếp, không cần thu lại lấy đà, làm sao kình lực vẫn mạnh như thế được?”
Viên Thừa Chí thu quyền về rồi nói tiếp: “Bây giờ ta xuất ba chiêu liên hoàn là Lực Phách Tam Quan, Phao Chuyên Dẫn Ngọc, Kim Cang Chế Vĩ, huynh đón đỡ thế nào?”
Lưu Bội Sinh không cần suy nghĩ, đáp ngay: “Tại hạ dùng Phong Bế Thủ, Bạch Vân Xuất Tụ, Bàng Hoa Phất Liễu để nghênh đón.”
Viên Thừa Chí nói: “Hai chiêu trước thì đúng, chiêu cuối thì sai. Huynh nên biết chiêu Bàng Hoa Phất Liễu trong thủ có công, nếu đối chiêu với người có công lực tương đương thì dĩ nhiên là tốt. Nhưng chiêu này muốn thừa cơ phản kích, nên thế thủ phải yếu đi một nửa. Do đó chiêu Kim Cang Chế Vĩ của ta, huynh sẽ không đón nổi.”
Lưu Bội Sinh nói: “Thế thì tại hạ dùng Thiên Cân Trụy Địa.”
Viên Thừa Chí nói: “Đúng rồi. Đón chiêu!”
Thấy chàng vung tay phải lên, Lưu Bội Sinh bèn đứng tấn đàng hoàng để chống đỡ. Nào ngờ chàng để hữu chưởng lơ lửng trên cao, còn tay trái đột nhiên đánh xuống, miệng nói: “Võ công không phải là luật lệ, không nên bảo thủ. Sư phụ dạy huynh là chiêu Lực Phách Tam Quan dùng tay phải, nhưng tùy cơ ứng biến vẫn có thể dùng tay trái.”
Miệng nói nhưng tay vẫn làm, chàng không đợi Lưu Bội Sinh phong bế đã nắm lấy cổ tay y kéo về phía trước. Lưu Bội Sinh ra chiêu Bạch Vân Xuất Tụ giải khai. Trong chiêu này ngầm chứa nhiều chiêu khác, nếu đối phương không cảnh giác thì huyệt đạo trước ngực sẽ bị điểm ngay. Nhưng bây giờ y không dám phản kích, vừa giải được chiêu đã thu thế lại, trầm khí xuống hạ bàn, hai chân bám chặt dưới đất như đóng đinh vậy. Chiêu Thiên Cân Trụy Địa này đúng là sức nặng ngàn cân.
Viên Thừa Chí ra chiêu Kim Cang Chế Vĩ, tả chưởng vòng ra sau lưng Lưu Bội Sinh, vận sức đẩy một cái. Lưu Bội Sinh không đứng vững nổi, phải chạy tới hai bước, lắc lư mấy cái mới quay người lại được. Mặt y đỏ hẳn lên, vội hít một hơi thật sâu.
Viên Thừa Chí nói: “Huynh không công nhiên đón tiếp chiêu này để khỏi bị thương, thế là hay lắm. Đệ tử của Nhị sư ca thật sự bất phàm. Chiêu thứ năm của ta là Khởi Thủ Thức của Phá Ngọc Quyền.”
Lưu Bội Sinh nghe mà kinh ngạc, nhưng không dám nói ra.
Viên Thừa Chí hỏi: “Huynh tưởng Khởi Thủ Thức chỉ là thế chào khách sáo, trong thực chiến hoàn toàn vô dụng phải không? Nên nhớ, tổ sư gia chúng ta sáng tạo bộ quyền này, không chiêu thức nào là không thể thắng địch. Huynh xem đây!”
Chàng hơi khom người, tay phải nắm thành quyền, tay trái xòe thành chưởng, chắp vào nhau như đang thi lễ. Thân hình theo thế chào này mà hướng về phía trước, cả quyền lẫn chưởng đều giáng trúng vào mông trái của Lưu Bội Sinh.
Lưu Bội Sinh không thể đứng vững được, văng lên cao rồi té nhào xuống. Viên Thừa Chí nhảy tới một bước, đưa tay đón lấy Lưu Bội Sinh, đặt y đứng xuống đất.
Lưu Bội Sinh quỳ ngay xuống đất, nói: “Vãn bối chưa biết sư thúc, vừa rồi mạo phạm thật là vô lễ. Xin sư thúc nể mặt gia sư mà giáo huấn.”
Viên Thừa Chí đáp lễ rồi nói: “Lưu huynh lớn tuổi hơn ta, gọi nhau huynh đệ là được rồi.”
Lưu Bội Sinh nói: “Việc này thì vãn bối nhất định không dám. Quyền pháp của sư thúc thần diệu không sao lường được. Năm chiêu vừa rồi, tuy nói là đối chiêu, thật ra là sư thúc dạy dỗ về tinh nghĩa của quyền pháp bản môn. Vãn bối cảm kích vô cùng. Khi trở về, nhất định sẽ suy ngẫm tỉ mỉ, luyện tập đàng hoàng.”
Viên Thừa Chí khẽ mỉm cười.
Lưu Bội Sinh từ năm chiêu này mà hiểu được yếu chỉ “Tùy cơ ứng biến”, sau này theo đó mà mở rộng quyền pháp, quả nhiên tiến bộ rất nhiều. Suốt đời y đối với Viên Thừa Chí vô cùng cung kính. Sư phụ y là Quy Tân Thụ, quyền pháp chắc chắn không dưới Viên Thừa Chí. Nhưng tính tình ông nghiêm ngặt, câu nệ cố chấp, không thích thay đổi; khi dạy đồ đệ cũng không biết dạy từ từ. Đồ đệ vừa thấy mặt ông đã sợ hãi rồi, khi chiết chiêu phải xuất thủ đúng răm rắp theo quy củ, không dám sai lệch chút nào. Vì thế mà họ không thể lĩnh hội tới nơi tinh yếu võ công của phái Hoa Sơn.
Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân lúc này không dám nghi ngờ gì nữa. Nhưng Mai Kiếm Hòa tự thị kiếm pháp của mình đã học tới chỗ tinh túy của bản môn, bèn nghĩ: “Công phu quyền cước của ngươi tuy cao, nhưng kiếm thuật chưa chắc đã thắng nổi ta.”
Hắn đang nghĩ ngợi, Tôn Trọng Quân đột nhiên kêu lên: “Mai sư ca! Huynh thử kiếm pháp của hắn xem.”
Mai Kiếm Hòa gật đầu, rồi quay sang nói với Viên Thừa Chí: “Ta muốn lãnh giáo mấy chiêu kiếm pháp của các hạ.” Hắn nói chuyện đã khiêm tốn hơn trước rất nhiều, nhưng trên mặt vẫn đầy ngạo khí.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Chắc là người này đã được chân truyền kiếm pháp bản môn, trên giang hồ chưa gặp cường địch, quen được thiên hạ nể nang nịnh bợ, nên kiêu ngạo vô cùng. Hành vi của hắn đã đến mức ngông cuồng, khác hẳn Lưu Bội Sinh. Ta phải làm khó hắn đôi chút, để sau này môn hộ phái Hoa Sơn không đến nỗi bị người ta sỉ nhục”.
Chàng bèn nói: “Muốn tỉ kiếm cũng được. Nhưng sau khi phân thắng bại, huynh phải nghe ta nói mấy câu trái tai.”
Mai Kiếm Hòa ngạo mạn nói: “Lúc này thắng bại chưa quyết, dường như các hạ nói câu này hơi sớm.”
Hắn liền đưa trường kiếm lên ngang ngực, bước sang bên trái. Lưu Bội Sinh kêu lên: “Mai sư ca! Huynh đứng mé dưới đi.” Mai Kiếm Hòa mặc kệ, coi như không nghe thấy.
Theo quy luật võ lâm, vãn bối chiết chiêu với trưởng bối phải đứng ở mé dưới, tỏ vẻ không dám đối địch mà chỉ là học hỏi, xin trưởng bối giáo huấn. Bây giờ, Mai Kiếm Hòa đứng bên trái, tức là coi mình ngang hàng Viên Thừa Chí, không nhận chàng là sư thúc.
Hắn đưa tay trái lên chuôi kiếm, chắp tay lại hỏi: “Các hạ dùng kiếm chứ?”
Viên Thừa Chí đã quyết ý bắt hắn bỏ thói kiêu ngạo, bèn nói với Tiêu Công Lễ: “Tiêu lão bá! Nhờ lão bá sai người mang mười thanh kiếm tới đây.”
Tiêu Công Lễ vội nói: “Viên tướng công đừng xưng hô như vậy, tại hạ thật không dám nhận.”
Tiêu Uyển Nhi vẫy tay một cái, mấy môn đồ của Tiêu Công Lễ lập tức bưng mười thanh trường kiếm ra. Họ thấy Viên Thừa Chí ra sức vì sư môn của mình, dĩ nhiên đã tuyển lựa những thanh kiếm sắc bén nhất.
Mười thanh kiếm đã bày lên mặt bàn. Lúc này trời đã âm u, dưới ánh nến mười thanh kiếm lấp loáng hào quang. Mọi người hết nhìn mười thanh bảo kiếm lại nhìn Viên Thừa Chí, không biết chàng chọn thanh nào.
Không ngờ Viên Thừa Chí lại nhặt lấy nửa khúc kiếm gãy mà Tôn Trọng Quân đã ném tới, mỉm cười nói: “Ta dùng nửa thanh kiếm này.”
Lời vừa nói ra, mọi người lại kinh ngạc nghĩ thầm: “Khúc kiếm này không có chuôi, làm sao y sử dụng được?”
Viên Thừa Chí cầm khúc kiếm đó bằng ngón trỏ và ngón cái, bảo: “Xuất chiêu đi!”
Mai Kiếm Hòa vô cùng giận dữ, nghĩ bụng: “Ngươi coi thường ta như thế, chết đừng oán ta. Bất luận ngươi là sư thúc thật hay sư thúc giả, ngông cuồng như vậy là đáng chết rồi.”
Hắn vận nội kình lên cánh tay, rung động thanh kiếm một cái. Hào quang loé lên rồi tiếp đến tiếng ngân nga bất tuyệt, cuối cùng là tiếng quát: “Xem chiêu!”
Thanh kiếm xoay nghiêng đi, đâm vào cổ tay Viên Thừa Chí. Mai Kiếm Hòa nghĩ: “Ngươi cầm kiếm như thế, tay phải nhất định chuyển động không linh hoạt. Ta tấn công ngay vào nhược điểm này, xem thử ngươi đối phó thế nào.” Mấy trăm cặp mắt trong đại sảnh cùng lúc nhìn vào mũi kiếm của hắn.
Kiếm sắp tới nơi, cổ tay Viên Thừa Chí đột nhiên xoay lại, khúc kiếm gãy đưa lên đỡ. Hai lưỡi kiếm giao nhau nghe “xoẹt” một tiếng, sau đó là tiếng rơi loảng xoảng. Trường kiếm trong tay Mai Kiếm Hòa đã gãy lìa. Lưỡi kiếm rơi xuống đất, trong tay hắn chỉ còn lại cái chuôi.
Mọi người đồng thanh “Ồ” lên một tiếng.
Viên Thừa Chí chỉ lên bàn, ra ý bảo: “Chuẩn bị sẵn cho ngươi mười thanh kiếm rồi đó, đổi kiếm đi”. Bây giờ mọi người mới biết, chàng đòi mười thanh kiếm đó là chuẩn bị cho đối phương sử dụng.
Mai Kiếm Hòa vừa kinh hãi vừa giận dữ, lấy ngay một thanh kiếm trên bàn, đâm vào đầu gối Viên Thừa Chí. Chàng biết đây là hư chiêu, không thèm chống đỡ. Quả nhiên, thanh kiếm đang đâm xuống bỗng nhiên biến thế, hất ngược lên đâm vào bụng dưới.
Viên Thừa Chí đưa khúc kiếm gãy ra đỡ, cũng nghe “xoẹt” một tiếng rồi loảng xoảng, trường kiếm trong tay Mai Kiếm Hòa đã gãy thành hai khúc. Mai Kiếm Hòa đổi thêm ba thanh kiếm nữa, cả ba đều bị chấn động gãy lìa. Hắn ngơ ngác đứng yên tại chỗ, miệng ú ớ không nói được tiếng nào.
Tôn Trọng Quân la lên: “Nói là tỉ kiếm mà cứ dùng yêu pháp! Không biết tỉ cái gì nữa.”
Viên Thừa Chí vứt khúc kiếm gãy đi, mỉm cười rồi lấy trên bàn hai thanh trường kiếm, đưa Mai Kiếm Hòa một thanh. Chàng quay lại nói với Tôn Trọng Quân: “Xấu hổ thật! Cô nhận là người của bản môn, mà ngay cả Hỗn Nguyên Công cũng không biết, lại nói là yêu pháp.”
Mai Kiếm Hòa không đợi chàng quay đầu lại, phóng kiếm đâm tới. Mũi kiếm gần tới lưng địch thủ, hắn mới hô lên: “Xem chiêu!”
Chiêu kiếm này rõ ràng đánh lén, người nào đứng ngoài cũng thấy. Viên Thừa Chí né sang một bên, quay lại hô lên: “Xem chiêu!”
Chàng xuất chiêu Thương Ưng Tróc Thố, hệt như chiêu của Mai Kiếm Hòa vừa sử dụng. Mai Kiếm Hòa bắt chước chàng mà tránh. Nào ngờ Viên Thừa Chí vừa đâm ra đã lập tức xoay mình, thay đổi phương vị. Mai Kiếm Hòa chưa đứng vững đã cảm thấy mũi kiếm nhọn hoắt dí vào lưng. Hắn hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh, vội phóng tới trước rồi nhảy lên không. Thế mà mũi kiếm của địch thủ vẫn điểm vào lưng hắn như bóng theo hình.
Bất luận Mai Kiếm Hòa tránh qua né lại, nhảy nhót thế nào cũng không thoát khỏi mũi kiếm. May mà Viên Thừa Chí hạ thủ lưu tình, chỉ điểm vào lưng áo hắn. Nếu chàng đẩy nhẹ tới, thì Mai Kiếm Hòa có mười mạng cũng không giữ được mạng nào.
Ngoại hiệu của Mai Kiếm Hòa là Mạt Ảnh Tử, khinh công dĩ nhiên rất cao. Bây giờ hắn hoảng sợ, liên tiếp sử dụng bảy tám loại thân pháp, biến hóa liền liền để thoát khỏi mũi kiếm sau lưng, nhưng cuối cùng vẫn không thoát được.
Viên Thừa Chí thấy hắn hoảng sợ đến tay chân run rẩy, thầm nghĩ: “Dù sao cũng là sư điệt, mình đừng bức bách hắn quá”. Chàng bèn mỉm cười thu kiếm về, cất tiếng hỏi: “Đây cũng là kiếm pháp bản môn. Huynh đã học chưa?”
Mai Kiếm Hòa định thần lại, cúi đầu vừa thở hổn hển vừa đáp: “Đây là chiêu Phụ Cốt Chi Thư.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không sai! Danh xưng không hay lắm, nhưng kiếm pháp rất hữu dụng.”
Bên kia Thanh Thanh la lên: “Ngoại hiệu ngươi là Mạt Ảnh Tử, sao lúc nào sau lưng cũng có mũi kiếm của người khác vậy? Ba chữ Mạt Ảnh Tử nên đổi thành Kiếm Ảnh Tử đi.”
Mai Kiếm Hòa cố gắng trầm tĩnh lại, không lý gì đến Thanh Thanh. Hắn đã chuyên tâm nghiên cứu kiếm pháp hơn hai chục năm trời, thế mà nãy giờ không có cơ hội thi triển, trong lòng bất phục bèn nói với Viên Thừa Chí: “Chúng ta tỉ kiếm đàng hoàng đi. Tạp học của các hạ nhiều quá, ta không hiểu được.”
Viên Thừa Chí nói: “Tất cả những chiêu này đều là võ công chính tông của bản môn, sao gọi là tạp học? Được, xem kiếm đây.”
Chàng đưa kiếm ngang trước ngực, đâm tới. Mai Kiếm Hòa vung kiếm ra gạt rồi đánh trả. Viên Thừa Chí hất ngược kiếm lại, đè vào trường kiếm đối thủ. Mai Kiếm Hòa muốn thu kiếm về để đâm tới, nhưng không hiểu sao kiếm của hắn đã dính chặt vào kiếm của đối phương.
Viên Thừa Chí xoay tay thành hai vòng tròn, tay của Mai Kiếm Hòa bất đắc dĩ phải quay theo, trường kiếm tuột khỏi tay bay ra ngoài. Viên Thừa Chí hỏi: “Cần thử nữa không?”
Mai Kiếm Hòa vẫn còn ngoan cố, chạy đến bàn lấy một thanh kiếm khác. Hắn lướt thanh kiếm rất linh hoạt nhẹ nhàng, đâm vào cánh tay trái đối phương. Lần này Mai Kiếm Hòa đã biết khôn, quyết không để kiếm mình chạm vào kiếm địch, vừa thấy Viên Thừa Chí đưa kiếm ra đỡ là lập tức thu kiếm về ngay.
Nào ngờ kiếm của Viên Thừa Chí nhân chỗ sơ hở đó mà đâm nhanh tới trước ngực hắn. Nếu hắn không đỡ gạt thì bị đâm thủng một lỗ ngay, nên đành vung kiếm gạt ra. Hai thanh kiếm vừa giao nhau, tay Viên Thừa Chí hất đi một cái, trường kiếm của Mai Kiếm Hòa bay lên trời rồi phát ra một tiếng “rắc”, gãy làm hai đoạn rơi xuống.
Hắn lại chụp lấy một thanh kiếm khác. Viên Thừa Chí quát lên: “Đến nước này mà huynh còn chưa phục hay sao?”
Chàng đâm veo véo liền hai kiếm. Mai Kiếm Hòa phải ngửa người ra sau tránh né, nên hạ bàn trống rỗng. Viên Thừa Chí dùng chân trái móc nhẹ một cái, hắn lập tức khuỵu gối xuống, mặt hướng lên trời. Viên Thừa Chí trỏ mũi kiếm vào cổ họng hắn, hỏi: “Huynh phục chưa?”
Mai Kiếm Hòa từ khi bước ra giang hồ chưa từng phải nhục nhã đến thế. Uất khí của hắn không thể nuốt trôi xuống được, ngã ra ngất xỉu ngay tại chỗ.
Tôn Trọng Quân thấy cặp mắt hắn trợn ngược lên, nằm sát dưới đất không động đậy, tưởng hắn đã bị Viên Thừa Chí giết chết. Ả tung người nhảy ra, lớn tiếng la làng: “Giết nốt ta đi!”
Viên Thừa Chí thấy Mai Kiếm Hòa ngừng thở, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Nếu mình lỡ tay đánh chết y, sau này làm sao gặp mặt sư phụ và Nhị sư ca?” Chàng cúi xuống xem xét, thấy tim hắn vẫn đập đều mới yên tâm, liền vỗ mấy cái lên huyệt đạo dưới nách và trên cổ hắn.
Tôn Trọng Quân vung song quyền đánh xuống lưng Viên Thừa Chí như đánh trống, đánh mãi không thôi. Viên Thừa Chí mặc kệ ả, cứ lo cứu chữa Mai Kiếm Hòa. Thanh Thanh và Lưu Bội Sinh cùng nhảy tới quát ả dừng tay, Tôn Trọng Quân mới ngồi bệt xuống đất khóc rống lên.
Chẳng bao lâu Mai Kiếm Hòa hồi tỉnh, thều thào nói: “Các hạ giết ta đi!”
Lưu Bội Sinh vội khuyên: “Mai sư ca! Chúng ta đừng bướng bỉnh nữa, nghe sư thúc giáo huấn đi.”
Thanh Thanh mỉm cười nói với Tôn Trọng Quân: “Hắn chưa chết, cô khóc cái gì? Cô đối với hắn thật là mối tình thâm hậu.”
Tôn Trọng Quân lúc này vừa giận dữ vừa xấu hổ, đột nhiên từ dưới đất nhảy lên, vung quyền đánh Thanh Thanh. Dù sao ả cũng là cao thủ phái Hoa Sơn, thoi quyền này vừa nhanh vừa mạnh. Thanh Thanh không thể tránh được, bị đấm trúng vào vai trái. Nàng chưa kịp đánh trả, Tôn Trọng Quân đột nhiên đau đớn la lên: “Trời ơi!”
Thanh Thanh ngẩn ra, giận dữ nói: “Đánh người ta, mà chính mình lại kêu đau là nghĩa gì?”
Viên Thừa Chí đưa mắt ra hiệu, Thanh Thanh không hiểu gì nhưng cũng không nói tiếp. Nàng nhìn lại thấy hai nắm đấm của Tôn Trọng Quân sưng vù. Ả đau quá, nước mắt chảy ròng ròng xuống mặt.
Thì ra vừa rồi Tôn Trọng Quân dùng sức đánh vào lưng Viên Thừa Chí, chàng đã vận khí lên lưng. Ả đánh càng mạnh, sức phản chấn vào nắm tay càng lớn, giống như tự đánh mình vậy. Lúc đầu ả chưa cảm thấy, nhưng khi vận sức đánh lên vai Thanh Thanh thì xương cốt đau nhói, như bị hàng ngàn mũi kiếm nhọn đâm xuyên vào trong thịt.
Viên Thừa Chí tức giận ả này ra tay tàn độc, chưa hỏi tiếng nào đã chặt đứt một cánh tay của họ La. Mai Kiếm Hòa tuy ngông cuồng, nhưng so với ả thì hung ác chưa thấm vào đâu. Vì thế chàng cố ý bắt Tôn Trọng Quân chịu khổ một phen.
Mọi người đứng bên không biết, cứ tưởng Thanh Thanh là con trai của Kim Xà Lang Quân, võ công phải cao hơn Viên Thừa Chí. Tôn Trọng Quân không lượng sức mình, đương nhiên tự chuốc khổ vào thân. Chỉ có Thập Lực Đại sư, Trình Khởi Vân và Vạn Lý Phong thì biết Tôn Trọng Quân bị phản chấn, chỉ cần vuốt lại gân cốt, điểm mấy huyệt đạo là giảm đau và bớt sưng ngay. Nhưng họ biết mình không phải là địch thủ của Viên Thừa Chí, nên không dám mạo muội ra tay giải cứu.
Mai Kiếm Hòa từ nhỏ đã theo học Quy Tân Thụ, nhìn thấy ân sư như chuột thấy mèo vậy. Hắn bị áp chế quá lâu, nên khi được một mình ngang dọc giang hồ thì ngông cuồng tự đại gấp bội người khác. Tính tình Quy Tân Thụ lại trầm lặng ít nói, rất ít khi dạy cho đệ tử cách xử thế làm người.
Bản thân Mai Kiếm Hòa thì bị giày vò, thà chết không khuất phục. Nhưng khi thấy sư muội đau đớn như vậy, hắn không dám quật cường nữa, vội định thần đứng dậy, quay về phía Viên Thừa Chí chắp tay vái luôn ba vái, nhỏ nhẹ nói: “Viên sư thúc! Vãn bối không biết sư thúc giá lâm, mạo phạm đã nhiều. Xin sư thúc giải cứu cho Tôn sư muội.”
Viên Thừa Chí nghiêm giọng hỏi: “Huynh biết lỗi mình chưa?”
Mai Kiếm Hòa cúi đầu xuống đáp: “Đệ tử không nên tự tiện hủy hai lá thư của Tiêu bang chủ, cũng không nên ra mặt giúp đỡ Mẫn nhị ca.”
Viên Thừa Chí nói: “Sau này Mai đại ca hành sự, phải cẩn thận hơn mới tốt.”
Mai Kiếm Hòa nói: “Đệ tử xin nghe sư thúc chỉ dạy.”
Viên Thừa Chí nói: “Mẫn nhị gia không biết chuyện năm xưa, muốn trả thù cho huynh trưởng là đúng. Huynh cùng các vị anh hùng ở đây được mời tới trợ giúp, là xuất phát từ nghĩa khí bạn bè. Bây giờ chuyện đã rõ ràng, mọi người buông tay hóa địch thành bạn, nghĩa khí lại càng cao đẹp. Chuyện này thì ta hoàn toàn không trách huynh. Nhưng huynh đã làm một việc rất sai, e rằng chính huynh cũng chưa hiểu.”
Mai Kiếm Hòa ngạc nhiên hỏi: “Xin hỏi đó là việc nào?”
Viên Thừa Chí hỏi lại: “Thập nhị đại giới phái Hoa Sơn chúng ta, điều thứ ba là gì?”
Mai Kiếm Hòa đáp: “Vừa rồi sư thúc đã hỏi đệ tử bốn điều giới luật. Điều thứ ba là lạm sát vô cớ. Tôn sư muội đã phạm lỗi này, chỉ còn cách trịnh trọng xin La huynh thứ tội, rồi chúng ta đền bù phần nào tổn thất cho huynh ấy…”
Một đệ tử của Tiêu Công Lễ từ giữa đám đông la lên: “Ai cần mấy đồng tiền thối của ngươi? Đứt cánh tay rồi, tiền bạc có thể nối lại được không?”
Mai Kiếm Hòa biết mình đuối lý, bèn im lặng không cãi.
Viên Thừa Chí quay lại nói với người vừa lên tiếng: “Sư điệt của tại hạ đúng là có hành vi lỗ mãng, tại hạ rất áy náy. Đợi vết thương của La huynh lành hẳn, tại hạ muốn nghiên cứu với huynh ấy một đường Độc Tí Đao. Công phu này không phải của phái Hoa Sơn, nên tại hạ không cần bẩm báo tôn sư trước.”
Mọi người đã thấy chàng võ nghệ kinh người. Chàng khiêm tốn nói là nghiên cứu đao pháp, thật sự là hứa truyền cho một môn tuyệt nghệ. Tuy La Lập Như mất một cánh tay, nhưng do họa mà được phước, sau này võ công cao hơn huynh đệ đồng môn rất nhiều. Đệ tử nhà họ Tiêu thấy chàng đã đền bù cho tội lỗi của Tôn Trọng Quân, nên không nói gì nữa.
Mai Kiếm Hòa lại tiếp: “Điều thứ sáu là bất kính tôn trưởng, điều này đệ tử biết tội. Điều thứ mười một là không phân biệt thị phi, đệ tử cũng biết tội. Chỉ còn điều thứ năm là kết giao với gian nhân. Mẫn nhị ca là trang hảo hán, rất đáng kết giao…”
Phần lớn mọi người không biết thập nhị đại giới của phái Hoa Sơn là gì. Nghe Mai Kiếm Hòa nói tới đây, Mẫn Tử Hoa nhảy chồm lên la lớn: “Cái gì? Ta là gian nhân ư?”
Viên Thừa Chí nói: “Xin đừng hiểu lầm! Dĩ nhiên tại hạ không nói đến Mẫn nhị gia.”
Mẫn Tử Hoa giận dữ hỏi: “Vậy các hạ nói đến ai?”
Viên Thừa Chí định đáp, bỗng thấy hai đệ tử nhà họ Tiêu dìu La Lập Như từ hậu đường ra ngoài, hướng về Viên Thừa Chí bái lạy. Chàng vội vàng trả lễ.
Tay áo bên phải của La Lập Như trống rỗng buông thõng xuống, mặt không chút huyết sắc. Nhưng thần thái y vẫn rất cứng cỏi, lên tiếng: “Viên đại hiệp đã cứu sư phụ tại hạ, lại hứa truyền thụ võ nghệ cho tại hạ. Thật sự cảm kích vô cùng.”
Viên Thừa Chí khiêm nhường nói: “Đã là bằng hữu thì nghiên cứu võ nghệ là chuyện bình thường, La huynh không cần khách sáo.”
Khi La Lập Như đi vào thì mồ hôi trán Tôn Trọng Quân đã nhỏ giọt bồm bộp xuống đất. Ả đau đến run rẩy toàn thân, môi tím ngắt lại. Viên Thừa Chí thấy ả chịu khổ đủ rồi, bèn bước tới, đưa tay muốn điểm huyệt cứu cho.
Tôn Trọng Quân giận dữ nói: “Đừng đụng vào ta. Có đau tới chết đi nữa ta cũng không cần các hạ cứu.”
Viên Thừa Chí đỏ mặt, muốn đem phương pháp giải cứu nói cho Mai Kiếm Hòa biết. Bỗng nghe “bình bình” hai tiếng, hai cánh cửa đã bị chưởng lực đánh văng vào trong sảnh.
*
* *
Mọi người kinh hãi quay lại nhìn, thấy hai người từ từ bước vào. Một người tuổi khoảng trên dưới năm mươi, lưng thắt một sợi dây cỏ, mặc y phục kiểu nông phu. Người kia là một nông phụ, trên tay bồng đứa con nít.
Tôn Trọng Quân hô lớn: “Sư phụ, sư nương!” Rồi ả vội chạy tới đón.
Mọi người nghe ả gọi, đều biết vợ chồng Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ đã đến.
Quy nhị nương giao con cho chồng bế, mặt hơi tái lại, dùng phép thôi cung quá huyệt chữa cho Tôn Trọng Quân. Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh cùng bước lên tham kiến. Lưu Bội Sinh khẽ kể lai lịch của Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí thấy tướng mạo Quy Tân Thụ chất phác trung hậu, nhưng Nhị tẩu lại có âm khí ép người. Chàng theo sau Mai và Lưu bước lên bái kiến. Quy Tân Thụ đưa tay đỡ chàng dậy, nói cộc lốc một câu: “Không dám!” rồi thôi.
Quy nhị nương vừa xoa nắn cánh tay Tôn Trọng Quân vừa liếc nhìn Viên Thừa Chí, ngay cả gật đầu cũng không một cái nào.
Tôn Trọng Quân đã đỡ đau, vừa khóc vừa nói: “Sư nương! Tên này tự xưng là sư thúc gì gì đó, đánh cho tay con đau đến thế này. Ngay cả thanh kiếm mà sư nương cho con, hắn cũng đạp gãy rồi.”
Viên Thừa Chí vừa nghe đã biết là hỏng bét. Chàng nghĩ bụng: “Nếu biết thanh kiếm đó là Nhị tẩu cho cô ả, thì bất luận thế nào mình cũng không bẻ gãy.”
Chàng liền nói: “Tiểu đệ cuồng vọng không biết, xin sư ca sư tẩu thứ tội.”
Quy nhị nương hỏi chồng mình: “Này, Nhị ca! Nghe nói gần đây sư phụ có nhận một tiểu đồ đệ, không lẽ chính là tên này? Sao lại bừa bãi như thế?”
Quy Tân Thụ đáp: “Ta chưa gặp.”
Quy nhị nương nói: “Phải biết là sự học không có điểm dừng. Ngoài trời có trời, trên người có người. Học được chút xíu công phu đã đi bức hiếp người khác hay sao? Đồ đệ của ta không tốt thì để ta trách phạt, không phiền đến sư thúc.”
Viên Thừa Chí chắp tay lại nói: “Vâng, vâng! Tiểu đệ lỗ mãng rồi.”
Quy nhị nương nhăn mặt nói: “Ngươi dám đạp gãy kiếm của ta, trong mắt còn thấy bậc tôn trưởng nữa không? Cứ cho là sư phụ thương ngươi, chẳng lẽ vì thế ngươi dám vô lễ với sư ca?”
Mọi người nghe mụ nói càng lúc càng hung dữ hàm hồ, rõ ràng cưỡng từ đoạt lý, thế mà Viên Thừa Chí cứ mãi khiêm cung nhỏ nhẹ. Những người bên Tiêu Công Lễ thì giận dữ bất bình; còn Mẫn Tử Hoa, Động Huyền và Vạn Lý Phong lại âm thầm đắc ý, trong lòng nghĩ: “Vừa rồi ngươi chiếm thế thượng phong, nhưng sư ca sư tẩu ngươi đã đến đây, xem ngươi còn dám làm gì?”
Tôn Trọng Quân nói: “Sư phụ, sư nương! Hắn dựa vào một tên Kim Xà Lang Quân gì gì đó đỡ đầu, dám đánh ngã Lưu sư ca, Mai sư ca, còn dám ăn nói lung tung, lên mặt dạy dỗ chúng con cả nửa ngày, hoàn toàn không nể mặt sư phụ sư nương gì cả.”
Con trai độc nhất của vợ chồng Quy Tân Thụ là Quy Chung đang mắc trọng bệnh, họ phải đem đi khắp nơi tìm kiếm danh y. Mấy bậc danh y khám xong đều nói giống nhau, lúc Quy nhị nương có thai mà động thủ đánh người nên tổn thương đến thai nhi. Đứa bé này bị nội thương từ trong bụng mẹ, bây giờ phát tác ra ngoài. Đã mắc chứng này thì ngàn người không sống được một. Sách thuốc cổ có nói, phải có đại bổ linh dược như thiên niên phục linh, thêm vào hà thủ ô đã thành hình, thì mới cứu chữa được. Không thì phải có thiên niên nhân sâm, linh chi thiên thảo, những thứ còn khó tìm hơn nữa. Nếu không có linh dược thì tối đa chỉ kéo thêm được hai năm, sau đó kiệt quệ mà chết.
Vợ chồng Quy Tân Thụ lớn tuổi mới có con, nên yêu con hơn cả mạng mình. Họ hỏi khắp đồng đạo võ lâm để tìm thuốc, nhưng chỉ thiên niên phục linh đã khó tìm rồi, lại thêm hà thủ ô đã thành hình thì biết tìm ở đâu ra? Họ tìm kiếm đã hơn một năm, hoàn toàn không có kết quả. Thấy đứa con càng lúc càng ốm yếu, Quy nhị nương chỉ còn cách rơi nước mắt. Hai vợ chồng bàn nhau, Kim Lăng là thị trấn nổi tiếng nhất Giang Nam, dược vật trân quý chắc chắn rất nhiều, nên cùng đến Nam Kinh để tìm thuốc, rồi hỏi thăm võ lâm đồng đạo, biết ba người đệ tử đang theo Mẫn Tử Hoa tới đây. Hai vợ chồng nghĩ ba người này đều tinh minh mẫn cán có thể giúp mình tìm thuốc, nên lập tức tìm đến nhà họ Tiêu. Nào ngờ vừa đến đã thấy hai bàn tay Tôn Trọng Quân đang đau nhức.
Tính tình của Quy nhị nương đã nóng nảy, lại thêm con trai bệnh nặng nên trong lòng lo lắng, mới nghe lời nói một phía của đồ đệ cưng đã chửi mắng Viên Thừa Chí chẳng kể số gì. Nghe nói sau lưng chàng còn một người chống đỡ, mụ càng tức giận hơn, quay lại hỏi chồng: “Kim Xà quái vật còn sống ư?”
Quy Tân Thụ đáp: “Nghe nói đã tạ thế rồi, nhưng không ai biết rõ.”
Thanh Thanh nghe mụ vô cớ trách mắng Viên Thừa Chí đã tức giận rồi, bây giờ nghe mụ gọi cha mình là quái vật càng giận dữ hơn. Nàng đốp ngay: “Con mụ lắm mồm kia, sao mắng chửi người khác bừa bãi thế?”
Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Ngươi là ai?”
Tôn Trọng Quân nói leo vào: “Hắn chính là con trai của Kim Xà quái vật.”
Cổ tay Quy nhị nương rung lên một cái, một mũi kim bắn vào vai Thanh Thanh nhanh như điện xẹt.
Viên Thừa Chí kêu thầm: “Hỏng rồi!” Chàng vọt ngay lại, nhưng Quy nhị nương xuất thủ bất ngờ như sấm nổ giữa trời quang, chẳng ai đỡ kịp. Thanh Thanh rùng mình một cái, ám khí đã ghim vào vai trái.
Viên Thừa Chí kinh hãi nắm lấy cánh tay nàng xem xét, thấy đó là một mũi táng môn đinh đen nhánh. Thanh Thanh vừa sợ vừa giận, đau đến biến hẳn sắc mặt. Viên Thừa Chí vội bảo: “Đừng cử động!”
Chàng dùng ngón giữa và ngón trỏ tay trái ấn vào hai bên vết thương, khẽ bóp cho mũi đinh lồi ra ngoài khoảng ba bốn phân. Biết chắc đầu đinh không có móc ngược, chàng mới vận kình vào hai ngón tay. Mũi đinh lập tức bị đẩy ra, văng xuống đất nghe “keng” một tiếng.
Tiêu Uyển Nhi đã đứng bên giúp đỡ, liền đưa hai cái khăn tay để chùi máu. Viên Thừa Chí bó lại vết thương cho Thanh Thanh, khẽ bảo: “Thanh đệ! Thanh đệ đứng đây đợi ta, đừng cãi nhau với bà ấy.”
Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Tại sao?”
Viên Thừa Chí đáp: “Nể mặt sư ca, chúng ta chỉ còn cách nhẫn nhịn.”
Thanh Thanh nhăn nhó gật đầu. Viên Thừa Chí biết cô nương này trước nay tính khí quật cường, thế mà lần này bị thiệt thòi vẫn chịu nghe lời mình, so với trước kia thì dịu dàng nhu thuận hơn nhiều. Chàng bất giác vui mừng, mỉm cười với nàng một cái.
Quy nhị nương đợi băng bó xong mới cười nhạt nói: “Ta chỉ tiện tay phóng một mũi đinh nhỏ để xem hư thực ra sao. Nếu cha hắn là Kim Xà Lang Quân có bản lãnh, thì sao hắn tránh né không nổi một cây đinh nhỏ? Kim Xà Ngân Xà gì gì đó, chẳng qua chỉ là đồ lừa bịp, gạt người ta để kiếm chút hư danh.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Lúc này Nhị tẩu hiểu lầm đã sâu, mình càng phân trần thì bà ấy càng thêm giận dữ.” Chàng bèn im lặng, không nói gì nữa.
Quy nhị nương nói: “Ở đây người ngoài rất đông, việc trong môn hộ không tiện nói nhiều. Canh ba đêm mai, vợ chồng ta đợi ở Ngũ Hoa Đài trên núi Tử Kim, mời Viên gia đến. Chúng ta phải điều tra rõ ràng, xem ngươi có đúng là đồ đệ của lão nhân gia hay không. Hà hà…” Nói xong, mụ cười lạnh thêm mấy tiếng.
Mọi người nghe đều hiểu, đây rõ ràng là bày trận thách đấu. Tiêu Công Lễ cảm thấy khó chịu, bèn lên tiếng: “Hiền khang lệ oai chấn Giang Nam, mọi người nghe thấy đại danh Thần Quyền Vô Địch không ai là không ngưỡng mộ. Hôm nay may mắn được hai vị quang lâm, thật sự tại hạ muốn mời cũng không thể mời.”
Quy nhị nương “hứ” một tiếng. Quy Tân Thụ đang bận ôm con, tâm thần không bình tĩnh nên không để ý nghe.
Tiêu Công Lễ lại nói: “Viên gia vì thấy tại hạ gặp việc khó giải quyết nên trượng nghĩa mà giúp đỡ. Ba vị Mai huynh, Lưu huynh, Tôn cô nương đã biết rõ rồi. Tại hạ xin làm chủ nhà tiếp đón hiền khang lệ, đồng thời chúc mừng sư huynh đệ tương phùng. Nếu tiện, ly rượu nhạt tối nay…”
Quy nhị nương không thèm nghe tiếp, quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Sao? Ngươi không dám đến phải không?”
Viên Thừa Chí nói: “Sư ca sư tẩu đang ngụ ở đâu? Sáng mai tiểu đệ sẽ đến xin hai vị trách phạt, nhất định không dám giấu giếm chuyện gì.”
Quy nhị nương “hứ” một tiếng rồi nói: “Có ma mới biết ngươi là thật hay giả, đừng xưng hô như thế. Để tối mai xem rõ rồi nói chuyện tiếp. Đi thôi!” Mụ kéo tay Tôn Trọng Quân, xoay lưng đi ngay.
Vừa rồi Thái Bạch Tam Anh thấy Viên Thừa Chí ra tay can thiệp, đã biết âm mưu khó thành. Chúng nghĩ: “Người đêm qua kiềm chế mình để lấy mật thư, nhất định là hắn rồi.” Chúng biết bất cứ lúc nào Viên Thừa Chí cũng có thể lấy thư của Đa Nhĩ Cổn ra, lật tẩy việc thông địch bán nước của mình, nên vừa rồi mới tranh thủ định chuồn.
Bất ngờ vợ chồng Quy Tân Thụ xuất hiện, khởi lên một vụ tranh chấp khác. Tam tặc âm thầm mừng rỡ, chỉ mong xảy ra động thủ để thừa nước đục thả câu. Nhưng nghe đêm mai họ mới hẹn nhau tỉ võ tại Ngũ Hoa Đài, đêm nay không còn việc gì nữa, ba tên bèn nháy mắt với nhau, định chuồn trước khi vợ chồng họ Quy rời khỏi.
Viên Thừa Chí vội quát lên: “Này, khoan đã!” Chàng tung người nhảy ra cản trở.
Quy nhị nương hét lớn: “Tiểu tử vô lễ! Ngươi dám chặn đường ta ư?”
Mụ đưa tả chưởng vỗ lên đầu Viên Thừa Chí, chàng vội rùn người, lùi lại. Phát chưởng của Quy nhị nương đánh xuống sượt bên vai, thế mà chàng cũng bị chưởng phong ảnh hưởng, hơi tê một chút.
Ngày nào Quy nhị nương cũng so chưởng với chồng, siêng năng luyện tập võ công, nên không phát chưởng nào là không ác độc. Mụ tự phụ là ngoài chồng mình ra, trong võ lâm ít khi gặp địch thủ. Phát chưởng này không đánh trúng đối phương, đó là chuyện mười năm nay chưa gặp, nên trong lòng mụ càng tức giận.
Tả chưởng đổi từ vỗ thành chém, thuận thế quét ngang qua. Viên Thừa Chí vội vận kình lực xuống chân, tung người lên nhảy qua một cái bàn. Vì thế Quy nhị nương không tiện truy kích nữa, chỉ trừng mắt nhìn chàng rồi cùng Quy Tân Thụ, Tôn Trọng Quân, Mẫn Tử Hoa, Lưu Bội Sinh đi ra khỏi cổng.
Thái Bạch Tam Anh thấy cơ hội tốt lập tức chạy theo ra ngoài. Viên Thừa Chí sợ Quy nhị nương lại hiểu lầm nên không dám hô hoán nữa, im lặng nhảy ra. Chàng chụp được người chạy sau cùng là Lê Cương, tiện tay điểm huyệt rồi quẳng xuống đất. Còn anh em họ Sử đã chạy thoát ra ngoài.
Viên Thừa Chí đuổi ra cổng, nhưng lúc này trời đã tối mịt, không thấy bóng dáng tên nào. Chàng nghĩ, bắt được một tên cũng đủ hỏi khẩu cung, bèn quay về nhà họ Tiêu. Đột nhiên nghe sau lưng có một thanh âm già nua vừa cười vừa nói: “Tiểu bằng hữu! Lâu quá không gặp, công phu ngươi lại giỏi lên nhiều.”
Viên Thừa Chí nghe giọng nói quen thuộc, bèn quay lại nhìn thì thấy ngoài sảnh có hai người đang sải bước tiến vào. Người đi trước râu mày bạc phơ, sau lưng đeo một tấm thép hình vuông đen nhánh, đúng là Mộc Tang đạo nhân từng truyền thụ cho chàng khinh công ám khí. Lão một tay xách cổ Sử Bính Quan, tay kia xách cổ Sử Bính Vân.
Viên Thừa Chí cả mừng chạy tới, quỳ xuống bái kiến, hô lên: “Đạo trưởng! Lão nhân gia khỏe chứ?”
Mộc Tang đạo nhân mỉm cười bảo: “Đứng dậy đi, đứng dậy đi! Ngươi xem thử ai đây?”
Viên Thừa Chí đứng dậy nhìn, thấy đứng cạnh Mộc Tang đạo nhân là một hán tử trung niên, râu tóc hơi bạc, khuôn mặt đầy vẻ phong trần. Chàng nhìn tỉ mỉ mới nhận ra người này chính là Thôi Thu Sơn, từng dạy chưởng pháp cho mình, lại từng liều mạng cứu mình hồi nhỏ.
Chàng nhận ra Mộc Tang đạo nhân ngay vì cách biệt chưa lâu lắm, diện mạo lão lại chẳng thay đổi bao nhiêu. Còn Thôi Thu Sơn thì xuất sinh nhập tử trong quân ngũ Sấm Vương từ tuổi trẻ đến trung niên, trải qua phong sương rất nhiều, nên thần sắc lẫn tướng mạo đã khác trước rất xa.
Viên Thừa Chí vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nhảy ngay tới ôm chầm lấy Thôi Thu Sơn, không ngớt reo lên: “Thôi thúc thúc! Thì ra là thúc thúc.”
Chàng không nén nổi nước mắt trào ra. Thôi Thu Sơn thấy Viên Thừa Chí tình nghĩa thâm trọng lộ hẳn ra ngoài, nên mi mắt cũng hơi ươn ướt.
Đột nhiên nghe Mẫn Tử Hoa quát hỏi: “Này! Các vị làm khó dễ Thái Bạch Tam Anh chi vậy? Sao không thả họ xuống?”
Mọi người đều biết anh em họ Sử võ công không tệ, thế mà bị lão già này nắm trong tay như xách hai đứa bé, không cục cựa được chút nào, hiển nhiên đã bị điểm trúng huyệt đạo. Ai cũng thấy ngạc nhiên.
Mộc Tang đạo nhân cười ha hả rồi quẳng anh em họ Sử xuống đất, mỉm cười hỏi: “Ta xách chơi một tí không được hay sao?”
Viên Thừa Chí trỏ vào Mộc Tang đạo nhân, giới thiệu: “Vị này là Mộc Tang đạo trưởng, cao nhân tiền bối của Thiết Kiếm Môn.”
Chàng lại trỏ Thôi Thu Sơn, nói: “Vị này là Thôi đại thúc, lừng danh thiên hạ về Phục Hổ Chưởng Pháp, có ơn dạy dỗ từ hồi tại hạ bắt đầu học võ.”
Những người lớn tuổi trong sảnh đều biết đại danh Thiên Biến Vạn Kiếp của Mộc Tang đạo nhân, chỉ vì hành tung của lão xuất quỷ nhập thần nên tám chín phần mười chưa từng gặp mặt. Chỉ có Thập Lực đại sư và Trương Tâm Nhất phái Côn Luân là quen biết lão, nhưng tính ra cũng là vãn bối. Hai người vội bước tới chào hỏi.
Mọi người thấy thân phận Thập Lực đại sư và Trương Tâm Nhất như vậy mà phải cung kính hết mực, nên ai cũng đứng dậy chào hỏi đàng hoàng.
Mộc Tang đạo nhân nói: “Bần đạo ngoài việc ăn cơm chỉ thích đánh cờ, còn những việc tạp nhạp khác trước nay không muốn để vào lòng. Nếu không, kỳ thuật của lão làm sao xuất thần nhập hóa như thế? Nhưng tháng trước nhận được tin tức, nói rằng có người tư thông với giặc, đến Nam Kinh để mưu đồ bán nước. Bần đạo không thể phủi tay đứng nhìn nữa, nên mới theo chúng đến đây.”
Mẫn Tử Hoa ngạc nhiên hỏi: “Ai là gian tặc bán nước? Chẳng lẽ Thái Bạch Tam Anh hay sao?”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Không sai! Chính là ba vị anh hùng hào kiệt, danh tiếng lẫy lừng này.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Ba vị này đã là anh hùng hào kiệt, sao lại làm chuyện vô sỉ như thế? Ông đừng vu oan người khác.”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Bần đạo với ba người này không thù không oán, vu oan chúng làm chi? Chúng lén lút thương lượng với bọn Mãn Châu, ta ở quan ngoại chính mắt nhìn thấy, chính tai nghe thấy, làm gì sai được!”
Mẫn Tử Hoa hỏi: “Có chứng cứ gì không?”
Mộc Tang đạo nhân hỏi lại: “Chứng cứ gì nữa? Chẳng lẽ câu nói của ta không thể coi là chứng cứ hay sao?”
Mẫn Tử Hoa cười nói: “Thế thì chuyện này ai mà tin được?”
Mộc Tang đạo nhân giận dữ hét lên: “Ngươi là ai?”
Viên Thừa Chí đáp hộ: “Vị này là Mẫn Tử Hoa nhị gia của phái Tiên Đô.”
Mộc Tang đạo nhân bực bội nói: “Sư phụ ngươi là Hoàng Mộc đạo nhân, từ xưa đến giờ hễ nghe giọng ta là không dám nói nửa chữ không. Thế mà tiểu tử này cả gan không tin lời nói của lão gia hay sao?”
Mọi người tuy kính trọng bậc võ lâm tiền bối, nhưng không khỏi cảm thấy lão nói chuyện vô lý. Ai cũng có phần không phục, nhưng không ai dám bước ra tranh biện. Mộc Tang đạo nhân thì tức tối đứng vuốt râu, không biết nói sao.
Viên Thừa Chí lấy trong bọc ra một lá thư, đưa cho Mẫn Tử Hoa rồi nói: “Mẫn nhị gia! Nhờ nhị gia đọc cái này cho mọi người nghe.”
Mẫn Tử Hoa đón lấy, mới xem mấy dòng đã run lên bần bật. Viên Thừa Chí đứng cạnh đề phòng, giả tỉ y học theo sách Mai Kiếm Hòa mà xé thư diệt chứng, thì lập tức điểm huyệt để đoạt lại. Nhưng y hai tay cầm thư, dõng dạc đọc lớn.
Đây chính là thư của Nghệ thân vương Đa Nhĩ Cổn xứ Mãn Châu viết cho Thái Bạch Tam Anh, dặn chúng thừa cơ thâm nhập các bang hội ở Giang Nam, khiêu khích cho nhân sĩ võ lâm xích mích tàn sát lẫn nhau, đồng thời tìm cách mở mang thế lực, đợi quân Thanh nhập quan là khởi sự làm nội ứng. Cuối thư còn có hai dấu ấn son của Nghệ Thân Vương.
Mẫn Tử Hoa chưa đọc xong, quần hào đã giận dữ vô cùng, quát tháo thóa mạ om sòm. Trình Khởi Vân xách Lê Cương dậy, giải huyệt cho hắn rồi quát hỏi: “Các ngươi còn gian kế gì nữa không! Khai ra đi!”
Lê Cương nhắm mắt, không nói. Trình Khởi Vân tát cho hai phát vào mặt, hai má hắn lập tức sưng vù. Sau đó Viên Thừa Chí kể vụ lấy được lá mật thư này cho mọi người cùng nghe.
Lê Cương biết không còn cách nào chối cãi nữa, bèn kêu lớn: “Nhất định quân Thanh chẳng bao lâu nữa có thể nhập quan, thiên hạ là của Đại Thanh rồi. Các vị bây giờ quy thuận thì không mất địa vị khai quốc công thần, còn nếu…”
Hắn nói chưa dứt câu đã bị Trình Khởi Vân nện cho một quyền vào giữa ngực, lập tức ngất xỉu. Sử thị huynh đệ còn run hơn cả Lê Cương, biết chắc mình sẽ bị đòn nên muốn biện bạch mấy câu, chỉ vì đang bị điểm huyệt nên không lên tiếng được.
Trình Khởi Vân nói: “Đạo trưởng! Loại gian tặc này để lại làm chi? Cho bốc hơi ngay được rồi.”
Tiêu Công Lễ nói: “Chắc bọn gian tặc này còn có đồng đảng, chúng ta phải điều tra cho rõ. Hôm nay không còn sớm nữa, mời quý vị sáng mai quay lại đây thương lượng.”
Mọi người đồng ý, cáo biệt quay về. Có người trước khi về còn ghé qua chỗ Thái Bạch Tam Anh nhổ nước bọt, đá vào mông.
Mẫn Tử Hoa biết mình bị kẻ gian lợi dụng, hối hận vô cùng. Y rối rít xin lỗi Tiêu Công Lễ, lại nói với Viên Thừa Chí: “Nếu không nhờ Viên tướng công đứng ra giải hòa cho yên đại họa, rồi lại vạch trần âm mưu độc kế của kẻ gian, thì tội lỗi của tại hạ không ai tha nổi.”
Thập Lực đại sư, Trình Khởi Vân và Trương Tâm Nhất cũng đến trước mặt Viên Thừa Chí ngỏ lời cảm ơn rồi mới cáo từ.
Mộc Tang đạo nhân tháo bàn cờ trên lưng xuống, lôi túi quân cờ ra, nói với Viên Thừa Chí: “Lúc nào ta cũng nhớ ngươi, nhớ nhất là những lúc chúng ta đánh cờ.”
Viên Thừa Chí thấy lão cao hứng, bèn mỉm cười ngồi xuống, nhặt lấy quân cờ. Chàng nghĩ: “Đạo trưởng đối với mình ơn nặng như núi, khó mà báo đáp. Sở thích duy nhất của lão là chơi cờ, mình phải chơi với lão để tỏ tấm lòng hiếu thảo.”
Mộc Tang đạo nhân lập tức mặt mày rạng rỡ, bảo những người xung quanh: “Các ngươi đi ngủ cả đi. Lão đạo kỳ nghệ cao thâm, thiên biến vạn hóa, các ngươi có xem chắc cũng không hiểu được.”
Tiêu Công Lễ dặn dò sắp xếp cơm rượu tiếp đãi mọi người, rồi dẫn Thôi Thu Sơn vào phòng để nghỉ ngơi. Còn Thanh Thanh nhất định đòi ngồi xem chơi cờ, không chịu đi ngủ. Tiêu Uyển Nhi ở một bên phục vụ nước, rượu, trái cây.
Thanh Thanh không biết chơi cờ vây, chốc lát đã thấy chán. Hơn nữa, vai nàng đang bị thương, không khỏi tinh thần mỏi mệt. Xem được một lúc, nàng gục xuống bàn ngủ thiếp đi. Mộc Tang bảo Tiêu Uyển Nhi: “Tiêu đại cô nương! Đưa vào phòng cô nghỉ ngơi đi.”
Uyển Nhi đỏ mặt lên giả bộ không nghe, nghĩ bụng: “Sao vị đạo trưởng này lại trêu ghẹo mình?”
Mộc Tang cười ha hả rồi nói: “Ngươi sợ cái gì? Đây là nữ nhân mà.”
Uyển Nhi hỏi Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Có phải thế không?”
Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Cô ấy cải dạng nam trang để đi lại bên ngoài dễ dàng hơn.”
Uyển Nhi nhỏ hơn Thanh Thanh hai tuổi, nhưng đã quen lo liệu công việc trong bang giúp phụ thân, nên tinh nhanh linh hoạt hơn nhiều. Thanh Thanh là nữ cải nam trang, lẽ ra nàng có thể nhìn ra. Chỉ vì hai ngày nay nàng lo lắng đến chuyện an nguy sinh tử của phụ thân, nên không để ý những chuyện khác. Cũng vì nàng thấy Thanh Thanh là một thiếu niên tuấn tú mà mới gặp mình đã muốn nắm tay, cảm thấy người này không nghiêm chỉnh lắm nên không muốn nhìn thẳng đối phương.
Bây giờ nghe Thừa Chí nói, nàng vẫn chưa yên tâm, bèn khẽ tháo cái khăn trùm đầu Thanh Thanh, để lộ ra mái tóc đen nhánh, còn cắm hai cây ngọc trâm. Uyển Nhi bèn đỡ dậy nhìn tỉ mỉ, thấy nét mặt Thanh Thanh đẹp đẽ, mày dài môi đỏ, da dẻ trắng trẻo, quả nhiên là một thiếu nữ mỹ miều. Nàng mỉm cười gọi: “Tỉ tỉ! Để muội đưa tỉ tỉ vào nghỉ.”
Thanh Thanh mơ hồ nói: “Ta không mệt, ta còn phải xem… Đạo trưởng thua mấy ván rồi?”
Mộc Tang đạo nhân mắng ngay: “Nói bậy!”
Uyển Nhi liền cười nói: “Được rồi, được rồi! Vào nghỉ ngơi một lát đi, rồi chúng ta lại ra xem tiếp.” Nói xong, nàng dìu Thanh Thanh vào phòng mình để nghỉ ngơi.
Đã rất lâu Viên Thừa Chí chưa đánh cờ nên hơi lạ tay. Trong lòng chàng lại đang lo lắng đến cuộc hẹn với vợ chồng họ Quy vào đêm mai, tâm thần không yên ổn nên liên tiếp sai lầm, nhường cả một đám quân cờ cho Mộc Tang đạo nhân. Định thần lại, đột nhiên chàng nghĩ đến một chuyện, bèn hỏi: “Đạo trưởng! Sao đạo trưởng biết cô ấy là nữ nhân?”
Mộc Tang đạo nhân cười ha hả rồi đáp: “Ta và Thôi thúc thúc đã gặp ngươi từ năm ngày trước rồi, nhưng âm thầm quan sát công phu và nhân phẩm của ngươi nên chưa để ngươi gặp. Cẩn thận đấy, ta ăn đám này đây.”
Lão vừa đặt quân cờ xuống vừa nói: “Võ công của ngươi tiến bộ rất nhiều, đã thành cao thủ. Có thể ngươi chưa sánh kịp sư phụ ngươi, nhưng lão đạo này thì không phải đối thủ của ngươi nữa rồi.”
Viên Thừa Chí đứng dậy đa tạ, nói: “Hoàn toàn trông vào ơn chỉ dạy của ân sư và đạo trưởng. Nếu mấy ngày nay đạo trưởng rảnh rỗi, xin dạy cho con mấy chiêu.”
Mộc Tang đạo nhân mỉm cười nói: “Đúng là hệt như xưa, chơi cờ với ta mà không chịu uổng phí thời gian. Nhưng ta biết dạy ngươi gì nữa? Võ công ngươi đã hơn ta rồi, hay là ngươi dạy ta mấy chiêu đi. Nếu ngươi muốn ta dạy cho mấy đường biến hóa trên bàn cờ này, thế thì còn được.”
Lão càng thắng thế càng đắc ý, lại nói: “Ngươi giỏi võ công chưa đáng nói. Chơi cờ được như ngươi chẳng dễ gì, còn nhân phẩm đoan chính của ngươi lại càng khó kiếm. Một thiếu niên mà có thể không lợi dụng người ta trong bóng tối, đối với thiếu nữ cùng đường vẫn ngay ngắn quy củ, ta và Thôi thúc thúc của ngươi phải khen đến mỏi miệng.”
Viên Thừa Chí hổ thẹn mặt nóng rực lên, thầm nghĩ: “Nếu mình có cử chỉ thân mật với Thanh Thanh, há chẳng bị lão nhìn thấy hết? Sao lão kế bên dò xét, mà bản thân mình hoàn toàn không phát giác? Đủ biết khinh công của lão đạo này cao đến mức nào.”
Đi thêm mấy nước, Mộc Tang đạo nhân đột nhiên đặt một quân cờ vào góc phía tây. Nơi đó là vùng cờ trắng của Viên Thừa Chí, một quân đen đơn độc xâm nhập vào trong là mạo hiểm vô cùng. Lão nói: “Ta hạ quân này là cố ý. Mấy ngày nữa lão đạo phải đi Tây Tạng. Nước cờ này đi vào trọng địa, họa phước ra sao khó mà đoán trước.”
Viên Thừa Chí hiếu kỳ hỏi: “Đạo trưởng đi tới vùng Tây Tạng vạn dặm xa xôi để làm gì?”
Mộc Tang đạo nhân thở dài rồi nói: “Đi tìm đồ. Đó là di vật của tiên sư, tìm không ra cũng không quan trọng gì lắm, nhưng nếu bị người khác lấy được thì cực kỳ không ổn. Giống như chơi cờ phải cố tranh tiên, nếu lão đạo mất đi cơ hội là sẽ thua sạch ván cờ. Thì ra đối phương đã đến đó tìm kiếm mấy năm rồi. Chuyện này ta mới biết mấy ngày, lập tức đi theo.”
Viên Thừa Chí thấy sắc mặt lão lo âu, hoàn toàn không tiêu sái như lúc bình thường, biết chuyến đi này liên quan trọng đại, bèn nói: “Để con cùng đi với đạo trưởng. Bây giờ chúng ta khởi hành luôn.”
Mộc Tang đạo nhân lắc đầu nói: “Không được, không được. Việc này ngươi không giúp được ta đâu.”
Đột nhiên ngoài sảnh có tiếng động nhẹ nhàng, nghe thì biết trên mái nhà có ba người nhảy xuống. Viên Thừa Chí thấy Mộc Tang đạo nhân không lên tiếng nên cũng mặc kệ, tiếp tục chơi cờ.
Mộc Tang đạo nhân nói: “Hành động vừa rồi của sư tẩu ngươi, ta đã thấy hết rồi. Ngươi yên tâm đi. Ngày mai ta sẽ giúp ngươi đối phó với họ.”
Viên Thừa Chí nói: “Con không thể động thủ với sư ca, sư tẩu. Xin đạo trưởng tìm cách hòa giải, để con có thể nhận lỗi.”
Mộc Tang đạo nhân cao giọng nói: “Sợ gì? Cứ động thủ đánh bừa một phen, chưa chắc đã thua. Nếu sư phụ ngươi trách, thì nói là ta bảo ngươi đánh.”
Nói đến đây, trên mái nhà lại thêm bốn người nhảy xuống. Kình phong rít lên, bốn mũi cương tiêu bay vù vào phòng. Mộc Tang đạo nhân không thèm để ý, đưa tay ra chụp hết rồi đặt lên bàn, coi như không có việc gì xảy ra. Bảy người ngoài sảnh đồng thời nhảy vào trong phòng, trên tay đều cầm binh khí.
Mộc Tang đạo nhân hỏi: “Ngươi có thể ăn hết đám quân cờ này không?”
Viên Thừa Chí hiểu ý, đáp: “Để con thử xem.”
Trong bảy người này, hai người tới dìu Thái Bạch Tam Anh đang nằm dưới đất, năm người còn lại thì cầm đao kiếm xông tới.
Viên Thừa Chí bốc một nắm quân cờ ném vãi ra. Những tiếng loảng xoảng vang lên, thì ra cả bảy người đều bị ném trúng huyệt đạo, thả binh khí rơi xuống đất. Mộc Tang đạo nhân gật đầu khen: “Rất tiến bộ, rất tiến bộ!”
Uyển Nhi vừa lo cho Thanh Thanh nằm nghỉ, nghe tiếng binh khí rơi liền chạy ra ngoài, thấy hai người vẫn tập trung tinh thần chơi cờ, còn dưới đất có thêm bảy tên đại hán. Nàng không hỏi nhiều, gọi gia đinh tới, bảo họ lấy dây trói bảy người đó và Thái Bạch Tam Anh lại.
Lúc này quân cờ đen của Mộc Tang đạo nhân đặt vào góc trên phía tây đã bị bao vây trùng điệp, rõ ràng đã vào tuyệt lộ. Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Đạo trưởng đã ví đám cờ này với cuộc hành trình đi Tây Tạng. Nếu ta giết cho tận tuyệt, e rằng chuyến đi này không may mắn.” Chàng suy nghĩ một lúc rồi đặt một quân cờ vào phía đông bắc.
Mộc Tang đạo nhân cười ha hả, tiếp tục đặt thêm quân cờ vào phía tây rồi nói: “Cực kỳ hung hiểm! Quân cờ này đặt xuống là sống được rồi. Ngươi không giết nổi ta, mà ta còn có thể phản kích.”
Mất nửa giờ nữa, hai bên đã đặt hết quân xuống, Viên Thừa Chí thua năm quân. Mộc Tang đạo nhân đắc ý, mỉm cười nói: “Mấy năm nay võ công của ngươi tiến bộ rất nhiều, nhưng kỳ nghệ không tiến triển lắm.”
Viên Thừa Chí cười đáp: “Đó là do những nước đi biến hóa tuyệt diệu của đạo trưởng, con không đỡ nổi.”
Mộc Tang đạo nhân cười ha hả, vui sướng tới tận đáy lòng. Lão tự khoa trương một hồi, rồi mới quay lại bảo Uyển Nhi: “Sai người lục soát bọn này.”
Uyển Nhi gọi gia đinh lục soát cả mười người, lôi ra một mớ thư từ và mấy quyển sổ chép mật khẩu, ám hiệu. Trong đống thư đó, có một lá thư do Cửu vương gia Đa Nhĩ Cổn của Mãn Thanh viết cho Tư lễ thái giám Tào Hóa Thuần trong hoàng cung, đại ý nói quan ải tra xét nghiêm ngặt nên phải phái người đi vòng đường biển đến đây. Những chuyện đại sự cơ mật có thể thương lượng với sứ giả Hồng Thắng Hải cầm lá thư này.
Mộc Tang đạo nhân vô cùng giận dữ, la lên: “Bọn gian tặc này to gan quá rồi. Ngay cả thái giám trong hoàng cung cũng bị chúng mua đứt.”
Chân phải lão phóng ra, chỉ một phát đã đá vỡ óc một tên gian tế. Lão vung chân định đá tiếp, nhưng Viên Thừa Chí vội cản: “Xin đạo trưởng khoan đã, đợi con tra xét rõ ràng.”
Mộc Tang đạo nhân không kìm được giận dữ, muốn xé thư nhưng cũng bị Viên Thừa Chí khuyên ngăn. Lão hậm hực nói: “Thôi thì ta nghe lời ngươi. Nhưng ngày mai phải chơi với ta ba ván cờ.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Nếu đạo trưởng hứng thú thì chơi luôn mười ván cũng không sao.”
Mộc Tang đạo nhân hoan hỉ, theo gia đinh vào trong nghỉ ngơi.
Viên Thừa Chí đọc qua thư từ và sổ ghi ám hiệu mật ngữ, bỗng nảy ra một ý: “Đại thù của gia gia đến nay vẫn chưa trả được. Dựa vào những thứ này, ta có thể xâm nhập hoàng cung để hành thích hôn quân, trả thù cho gia gia.”
Chàng bèn giải huyệt cho một tên, hỏi xem ai là Hồng Thắng Hải. Hắn chỉ một người khoảng hơn ba mươi tuổi, da mặt trắng trẻo.
Viên Thừa Chí giải khai huyệt đạo cho Hồng Thắng Hải để tra hỏi, nhưng tên này quật cường không chịu nói.
Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Trước mặt đồng bọn, nhất định y không chịu thổ lộ một câu nửa chữ.” Chàng bèn bảo gia đinh dẫn y vào thư phòng, rồi mới nói: “Ta hỏi gì, ngươi phải trả lời thành thật thì còn một con đường sống. Nếu có gì giấu giếm thì ta phải giam ngươi lại cho chết dần mòn.”
Hồng Thắng Hải giận dữ nói: “Yêu đạo kia sử dụng tà pháp mê hoặc người ta, ta dù chết cũng không phục.”
Viên Thừa Chí nói: “Hừ! Ngươi tưởng võ công ngươi cao cường lắm sao? Ngươi là người Hán, lại đi làm nô tài cho bọn phiên bang là tội đáng chết, mà chết cũng chưa hết tội. Nếu ngươi không phục cứ thử tỉ thí với ta. Nếu ngươi thắng, ta sẽ thả ngươi đi. Nếu ngươi thua thì phải khai cho thật.”
Hồng Thắng Hải mừng rỡ nghĩ thầm: “Vừa rồi không biết tại sao huyệt đạo mình đột nhiên tê liệt rồi té nhào, nhất định lão yêu đạo kia đã thi triển yêu pháp. Bây giờ yêu đạo không có ở đây, tên nhóc này làm sao đánh lại ta?” Y bèn gật đầu lia lịa rồi đáp: “Yêu đạo kia dùng yêu pháp, ta thua mà không phục. Nếu ngươi dùng công phu chân thực đánh bại ta, thì bất luận ngươi hỏi gì ta cũng thành thật trả lời.”
Viên Thừa Chí bước tới, đưa tay nắm lấy sợi dây đang trói quanh người y. Chàng mới giật một cái, dây đã đứt thành mấy đoạn.
Hồng Thắng Hải ngẩn người ra. Dây trói y rất to, bện bằng sợi đay. Sau khi huyệt đạo được giải, y đã thầm vận sức giãy giụa để mong tuột khỏi, nhưng càng giãy thì dây thít vào càng chặt. Thế mà thiếu niên này chỉ tiện tay giật một cái là sợi dây đứt ngay.
Tâm lý khinh địch của y bỗng chuyển thành sợ hãi, bèn hỏi: “Chúng ta ra ngoài đi. Tỉ thí binh khí hay quyền cước?”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta dùng quân cờ ném trúng huyệt đạo của ngươi, ngươi lại tưởng đạo trưởng dùng yêu pháp. Thật là tức cười! Xem thân pháp ngươi nhảy vào trong này, đúng là công phu nội gia của phái Thê Hà.”
Hồng Thắng Hải lại càng kinh ngạc, khẽ gật đầu. Lúc y nhảy vào trong sảnh, hai người đang tập trung chơi cờ, mắt cũng không nhìn lên, tưởng như hoàn toàn không phát giác. Nào ngờ hành động y đã lọt vào mắt người ta một cách rõ ràng, ngay cả gia số võ công cũng nói không sai.
Viên Thừa Chí lại nói: “Không cần phải ra ngoài. Cứ ở đây, chúng ta chơi đẩy tay một chút là được rồi.”
Hồng Thắng Hải để hai tay trước ngực, người hơi khom xuống, thủ thế đợi chàng đứng dậy.
Viên Thừa Chí mặc kệ y, cứ mài mực, thấm bút, trải một tờ giấy trắng lên bàn rồi nói: “Ta ngồi đây viết chữ. Viết cái gì đây?”
Hồng Thắng Hải vừa nghe chàng nói là tỉ võ, bây giờ lại thấy chàng viết chữ, kinh ngạc ngồi xuống lại.
Viên Thừa Chí bảo: “Ngươi đừng ngồi xuống.” Chàng đưa tả chưởng ra nói: “Nếu ngươi đẩy được ta lắc lư một cái, chữ viết bị nghiêng hay hỏng nét thì coi như ngươi thắng, lập tức ta thả đi ngay. Nhưng nếu ta viết đầy tờ giấy mà ngươi vẫn chưa đẩy ta nhúc nhích được thì sao?”
Hồng Thắng Hải nói: “So tài như vậy không công bằng lắm.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không sao! Bây giờ ta bắt đầu viết, ngươi cứ xông vào đi.” Chàng đưa tay phải cầm lấy bút, viết bốn chữ: Đại kế khôi phục.
Hồng Thắng Hải vận nội lực xuất chiêu Bàn Sơn Đảo Hải, song chưởng đẩy mạnh vào cánh tay trái Viên Thừa Chí. Y thấy cánh tay chàng hơi nghiêng sang một bên, kình lực của mình đánh vào khoảng không.
Hồng Thắng Hải ra chiêu không trúng, hữu chưởng bèn ép xuống, tả chưởng hất lên, kẹp cánh tay trái Viên Thừa Chí vào chính giữa. Khi trên dưới đều vận sức, cánh tay này dứt khoát phải gãy.
Viên Thừa Chí vẫn viết chữ bằng tay phải, bình thản nói: “Chiêu Thăng Thiên Nhập Địa này hình như là chiêu số của phái Bột Hải ở Sơn Đông? À, đúng là Trảm Giao Quyền. Phái Bột Hải xuất phát từ một chi nhánh của phái Thê Hà. Vậy ngươi ở phái Bột Hải.”
Năm xưa Mục Nhân Thanh dạy võ, từng phân tích tỉ mỉ võ công các nhà các phái đương thời, nên Viên Thừa Chí hiểu biết rất nhiều.
Hồng Thắng Hải nghe chàng nói ra lai lịch võ công của mình không sai một mảy, trong lòng bắt đầu sợ hãi. Lúc này song chưởng của y đã kẹp cánh tay của đối phương vào giữa, liền vận kình lực mấy lần. Nhưng cánh tay này như đúc bằng sắt vậy, hoàn toàn không động đậy.
Viên Thừa Chí nói mấy câu rồi rút tay về. Cánh tay trái chàng như một con cá, lướt ra từ giữa hai bàn tay của Hồng Thắng Hải. Nghe một tiếng “bốp”, hai bàn tay của y thu lại không kịp nên vỗ vào nhau. Hồng Thắng Hải vừa kinh hãi vừa giận dữ, cố thi triển tuyệt học bản môn để tấn công, chẳng khác gì một cơn sóng dữ ào ạt trút lên người Viên Thừa Chí.
Tay phải Viên Thừa Chí vẫn viết không dừng, còn tay trái ung dung tiêu sái đưa lên đưa xuống, hóa giải những chiêu thức đối phương đánh tới. Chàng hoàn toàn không nhìn về phía Hồng Thắng Hải cái nào. Dĩ nhiên, thỉnh thoảng chàng cũng đánh trả một hai đòn, nhưng cánh tay trái chỉ co duỗi đến nách là cùng, toàn thân ổn định không động đậy, không ngửa ra sau mà cũng không chồm tới trước truy kích đối phương.
Hồi lâu, bộ Trảm Giao Quyền của Hồng Thắng Hải đã dùng sắp hết. Viên Thừa Chí nói: “Trảm Giao Quyền của ngươi còn những chín chiêu nữa, thế mà bản văn của ta lại sắp viết xong rồi. Được, ta chờ ngươi một chút. Ngươi đánh một chiêu, ta viết một chữ.”
Hồng Thắng Hải càng kinh hãi hơn, thầm nghĩ: “Sao người này rành rẽ quyền pháp của ta đến thế? Chẳng lẽ y là nhân vật bản môn hay sao? Nhưng chưởng pháp của y vừa kỳ lạ vừa lợi hại, nhất định không phải người phái mình rồi”.
Tám chiêu gần cuối của Trảm Giao Quyền, y thi triển bằng toàn bộ công lực bình sinh, chiêu nào cũng như đao chém hay búa đập, lợi hại phi thường. Lúc này y không mong đánh ngã đối phương nữa, chỉ mong thân hình Viên Thừa Chí lung lay một chút, chữ chàng đang viết có nét bị lệch hay tờ giấy bị vấy mực, là có cớ để thoát thân rồi.
Viên Thừa Chí vừa viết vừa đọc: “Nhưng việc nguy cấp có thể xảy ra, không dám không tấu trình”. Đến chữ “trình”, Hồng Thắng Hải tự biết hai chiêu cuối cùng không thể đẩy ngã đối phương, bèn đột nhiên cúi đầu xuống, rút hai khuỷu tay ra sau, hai vai chĩa ra phía trước, dùng hết sức lực phóng ào tới. Y thầm nghĩ: “Võ công của ngươi có bằng trời, thì cái ghế này cũng phải bị ta đẩy lệch đi!”
Nào ngờ Hồng Thắng Hải vận kình đến tột độ, phát ra không thể thu về kịp, phạm vào đại kỵ của người học võ. Y cảm thấy dưới nách có một luồng đại lực nhấc mình lên, hai chân không ổn định, người ngửa ra sau không thể tự chủ được. Thân hình y lộn mấy vòng trên không, rồi rớt xuống ngồi phệt dưới đất nghe “bình” một tiếng. Hồi lâu y mới hiểu ra mình đã bị đối phương đánh ngã, liền duỗi chân ra đứng dậy.
Ngay lúc đó Tiêu Uyển Nhi bưng đến một cái khay đựng bình trà vào thư phòng rồi nói: “Viên tướng công! Đây là trà Sư Phong Long Tỉnh mới pha, tướng công uống thử một chén.”
Nói xong, nàng đặt khay lên bàn, rót trà cho Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí đón lấy chén trà, thấy nước trà trong xanh như phỉ thúy, hương thơm xông vào mũi. Chàng nhấp một ngụm, cất tiếng khen ngợi: “Trà ngon quá.”
Rồi chàng cầm lấy tờ giấy trên bàn, hỏi: “Tiêu cô nương! Cô xem thử trên tờ giấy này có chữ nào thiếu nét hay viết ẩu không?”
Tiêu Uyển Nhi đón lấy tờ giấy, nhẹ nhàng đọc:
“Đại kế khôi phục, không ngoài những gì thần đã trình tấu năm ngoái: dùng người Liêu giữ đất Liêu, dùng đất Liêu nuôi dân Liêu, thủ hòa để luyện binh, đã đánh là phải thắng, củng cố từng bước không đột biến, tích trữ thật chắc chắn, không hy vọng hão huyền. Đó là những điều mà người canh giữ biên cương có thể thực hiện. Về việc dùng người thì phải danh chính ngôn thuận, không tin thì không dùng, đã dùng thì không được nghi ngờ. Đại thần trong triều vốn hay nghi kỵ tướng soái bên ngoài. Trong quân ngũ cũng có nhiều việc đáng nghi ngờ, nhưng chỉ nên luận đại cục thành hay bại, không nên xoi mói từng chữ từng câu. Lo việc càng trọng đại thì sơ suất càng nhiều. Đó là điều bất lợi cho thần đang canh giữ chốn biên thùy. Ta muốn tiêu diệt địch, địch cũng có kế hoạch ly gián. Bệ hạ yêu thần, hiểu thần, thần không lo sợ. Nhưng việc nguy cấp có thể xảy ra, không dám không tấu trình.”
Ý nghĩa bản văn này, Uyển Nhi hiểu không rõ lắm. Nàng cũng không rành về thư pháp, nhưng thấy khoảng trăm chữ này viết cũng thường thôi. Kết cấu, chương pháp, bố cục, có thể nói là rất thô thiển; nhưng nét nào cũng có lực in sâu vào giấy, không hề cong quẹo hay dơ bẩn chút nào. Nàng bèn nói: “Bút pháp rõ ràng, nét nào cũng ngay ngắn. Bản văn này là gì vậy?”
Viên Thừa Chí nói: “Đây là một tấu chương trình lên Hoàng thượng của Viên đốc sư năm trước, trong lúc canh giữ Kế Liêu.”
Tiêu Uyển Nhi khen: “Viên tướng công thật văn võ toàn tài, lưu ý đến việc biên cương. Ngay cả những tấu chương này cũng thuộc lòng hết.”
Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Ta chỉ đọc mấy bài thôi. Đó là những bài ta học thuộc lòng từ hồi nhỏ.”
Năm xưa Viên Sùng Hoán canh giữ đất Liêu, ngăn chống Mãn Châu xâm nhập. Ông biết tính cách vua Sùng Trinh đa nghi, thường nghe bọn tiểu nhân khiêu khích ly gián, nên mới viết bản tấu chương này. Sau này quả nhiên Sùng Trinh đã trúng kế phản gián của Hoàng Thái Cực ở Mãn Châu. Sùng Trinh vốn đã kiêng sợ Viên Sùng Hoán, bây giờ lại tin lời sàm tấu của bọn gian thần, bèn cho giết ông. Những chuyện Viên Sùng Hoán lo sợ nghi ngờ, không may là ông nghi đúng cả.
Hồi Viên Thừa Chí còn nhỏ, Ưng Tùng dạy chàng đọc sách viết chữ, đã đem những bài tấu chương của phụ thân chàng là Viên Sùng Hoán ra giảng giải tường tận. Ngoài những bài ấy ra, chàng học hành không nhiều. Bây giờ phải viết chữ, lại nghĩ đến mưu đồ của Mãn Châu ngày càng hung bạo, biên cương thiếu tướng tài canh giữ, nên tiện tay viết bài này.
Tiêu Uyển Nhi nói: “Bản thư pháp này, Viên tướng công cho muội xin.”
Viên Thừa Chí nói: “Chữ của ta rất tệ, vừa rồi vì đánh đố với ông bạn này mà viết chơi thôi. Tiêu cô nương cần thì cứ lấy, nhưng nhất định đừng để người có học vấn nhìn thấy, kẻo người ta chê cười.”
Viên Thừa Chí hỏi Hồng Thắng Hải: “Cửu vương gia Mãn Châu phái ngươi đi gặp Tào Hóa Thuần thương lượng việc gì vậy?”
Hồng Thắng Hải ấp úng không đáp.
Viên Thừa Chí hỏi: “Vừa rồi không phải chúng ta đã đánh cuộc hay sao? Ngươi đâu có đẩy ngã ta?”
Hồng Thắng Hải nhỏ nhẹ nói: “Tướng công võ nghệ kinh người, tại hạ chưa từng nghe chưa từng thấy, thật vô cùng bái phục.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi sờ thử xương sườn thứ hai trước ngực, xem có cảm giác gì không?”
Hồng Thắng Hải đưa tay sờ rồi kinh hãi nói: “Chỗ đó hoàn toàn tê liệt, không có chút cảm giác nào.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Còn dưới nách phải thì sao?”
Hồng Thắng Hải sờ một cái, đột nhiên la lên một tiếng rồi đáp: “Không sờ thì không thấy gì, nhưng sờ vào thì đau đến không chịu nổi.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Vậy là đúng rồi.” Chàng rót một tách trà, vừa uống trà vừa lật sách trên bàn ra đọc, không đếm xỉa gì đến y nữa.
Hồng Thắng Hải muốn đi nhưng lại không dám. Lát sau y ngẩng lên, hỏi Viên Thừa Chí: “Tướng công thả tại hạ đi ư?”
Viên Thừa Chí đáp: “Tự ngươi đến đây, ta đâu có mời ngươi? Nếu ngươi muốn đi, ta cũng không giữ khách đâu.”
Hồng Thắng Hải cả mừng, quỳ xuống khấu đầu thi lễ rồi nói: “Tiểu nhân không dám quên ân đức của tướng công.”
Viên Thừa Chí gật đầu, tiếp tục đọc sách.
Hồng Thắng Hải đi tới cửa thư phòng, đột nhiên sợ mình đi ra sẽ có người cản trở, bèn xô cửa sổ nhảy ra ngoài. Y quay đầu lại, thấy Viên Thừa Chí vẫn đang đọc sách, không có vẻ gì muốn đuổi theo, bèn yên tâm nhảy lên mái nhà rồi chạy mất.
*
* *
Từ khi Viên Thừa Chí cứu cha mình thoát khỏi đại nạn, Tiêu Uyển Nhi đã cảm kích tận đáy lòng. Nàng nghĩ: “Chàng võ nghệ kinh người, từ nay về sau chắc mình không còn cơ hội báo đáp”. Vì thế, nhân lúc chàng còn ở lại nhà mình mấy ngày, nàng tận tâm săn sóc cho chàng.
Bây giờ đã hết canh ba, tuy đêm đã khuya nhưng nàng vẫn đi qua đi lại mấy lần trước cửa thư phòng. Thấy trong khe cửa vẫn còn ánh sáng rọi ra, biết chàng chưa ngủ, nàng bèn sai tỳ nữ làm mấy món lót dạ, đích thân bưng tới. Nàng khẽ gõ cửa rồi đẩy cửa đi vào, thấy Viên Thừa Chí đang cầm quyển Trung Nghĩa Thủy Hử Truyện mà đọc say mê.
Tiêu Uyển Nhi lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công chưa nghỉ hay sao? Xin dùng một ít điểm tâm rồi đi nghỉ đi, có được hay không?”
Viên Thừa Chí đứng dậy, cảm ơn rồi nói: “Cô nương đi nghỉ trước đi, không cần lo lắng cho ta. Ta phải ở đây đợi một người.”
Nói đến đó, đột nhiên cửa sổ động đậy rồi có người nhảy vào. Tiêu Uyển Nhi kinh hãi, nhìn lại thì ra Hồng Thắng Hải. Y quỳ ngay trước mặt Viên Thừa Chí, nói: “Viên đại anh hùng! Tiểu nhân biết lỗi rồi, xin anh hùng cứu mạng.”
Viên Thừa Chí ra hiệu bảo y dậy. Hồng Thắng Hải vẫn quỳ không chịu dậy, lại nói: “Từ nay về sau, tiểu nhân nhất định sửa chữa lỗi lầm, đái công chuộc tội. Cầu xin Viên đại anh hùng tha mạng.”
Uyển Nhi đứng bên mở to cặp mắt, hoàn toàn không hiểu.
Viên Thừa Chí đưa tay đỡ, Hồng Thắng Hải không tự chủ được phải lộn đi một vòng rồi ngã ngồi xuống. Y tiện tay sờ vào dưới nách, lập tức tỏ vẻ vui mừng, rồi sờ vào dưới ngực, ủ rũ trở lại.
Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi hiểu rồi chứ?”
Hồng Thắng Hải suy nghĩ một chút, hiểu ý Viên Thừa Chí liền nói: “Viên đại anh hùng muốn hỏi gì, tiểu nhân xin nói thật. Vừa rồi tiểu nhân từng nói, nếu tỉ võ bị thua thì không dám giấu giếm việc gì.”
Tiêu Uyển Nhi biết hai người có việc cơ mật cần bàn, bèn cáo từ lùi ra.
Thì ra sau khi được thả, Hồng Thắng Hải trốn khỏi nhà họ Tiêu rồi gấp rút chạy về. Y cởi áo ra, thấy trước ngực mình có một đốm đỏ to khoảng đồng tiền, sờ vào không có cảm giác gì. Dưới nách lại có ba chấm đen như ba hạt đậu, hễ chạm vào là đau kịch liệt. Đúng là trong lúc động thủ, y đã bị nội lực của đối phương đả thương mà không tự biết.
Y vội ngồi xếp bằng trên giường, vận nội công để trị thương. Không vận thì thôi, hễ vận nội tức thì dưới nách đau thấu tâm can, phải nằm xuống nghỉ. Nằm yên thì không sao cả. Liên tiếp ba lần như vậy, y nghĩ đến võ công Viên Thừa Chí cao thâm, có thể dùng nội lực vô hình đả thương người khác khó mà chữa trị; càng nghĩ càng kinh sợ không nén nổi, nên phải quay lại đây cầu cứu.
Viên Thừa Chí nói: “Ngươi bị thương hai chỗ. Chỗ đau đớn thì ta đã trị cho ngươi rồi. Còn một chỗ, trước mắt không có cảm giác gì. Ba tháng sau, vùng mất cảm giác từ từ lan rộng ra, đến khi trái tim bị tê liệt là xong.”
Hồng Thắng Hải lại quỳ rạp xuống đất, dập đầu lia lịa.
Viên Thừa Chí nghiêm trang hỏi: “Ngươi đầu hàng Mãn Thanh, đi làm Hán gian, tội này lẽ ra không tha được. Ta hỏi ngươi, ngươi muốn chuộc tội hay không?”
Hồng Thắng Hải cúi đầu, vừa rơi nước mắt vừa nói: “Tiểu nhân cũng có lúc tự vấn lương tâm, cũng có lúc cảm thấy tội lỗi với tổ tiên. Tướng công cho tiểu nhân một con đường sửa lỗi, phục sinh thành con người mới, thật là ơn bằng phụ mẫu. Tiểu nhân cũng không phải tự mình muốn vậy, chỉ vì năm xưa bị ép đến không còn đường sống, nên mới sai lầm như thế.”
Viên Thừa Chí thấy y ra vẻ thành khẩn, bèn bảo: “Ngươi đứng dậy đi!” Chàng chậm rãi hỏi: “Ai đã ép ngươi đến không còn đường sống?”
Hồng Thắng Hải nghiến răng nói: “Là Quy nhị nương và Tôn Trọng Quân, hai thầy trò phái Hoa Sơn.”
Viên Thừa Chí bị bất ngờ, hỏi lại: “Cái gì? Là hai người đó ư?”
Hồng Thắng Hải biến sắc mặt, hỏi: “Tướng công quen biết họ hay sao?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta vừa đánh nhau với họ.”
Hồng Thắng Hải nghe vậy, nửa mừng nửa lo. Mừng vì đại cao thủ này là đối thủ của hai thầy trò đó, lo vì họ cũng đang ở Nam Kinh, oan gia ngõ hẹp rất dễ gặp nhau. Y bèn nói: “Hai mụ này bản lãnh không tệ, nhưng chắc chắn không phải là đối thủ của tướng công. Nhưng họ lòng dạ hung ác, việc gì cũng dám làm, tướng công phải cẩn thận một chút.”
Viên Thừa Chí “hừ” một tiếng rồi hỏi: “Tại sao họ phải ép ngươi?”
Hồng Thắng Hải ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Thật không dám giấu, tiểu nhân vốn ở vùng biển Sơn Đông, làm nghề buôn không vốn. Trong đám bằng hữu có một người nghĩa huynh si mê Tôn Trọng Quân, ngỏ lời cầu hôn cô ả. Ả không chịu thì thôi, lại còn rút kiếm ra xẻo mất hai tai huynh ấy. Tiểu nhân bất bình, bèn hẹn mấy chục người đi bắt cóc cô ả, định ép ả thành thân với nghĩa huynh. Không ngờ sư phụ của ả là Quy nhị nương đêm đó đến kịp, mỗi kiếm một người, đâm chết sạch cả nghĩa huynh lẫn bao nhiêu bằng hữu khác. Tiểu nhân may mắn chạy nhanh trốn thoát, giữ được cái mạng này.”
Viên Thừa Chí nói: “Bắt cóc người ta để ép hôn, thế thì ngươi có lỗi trước.”
Hồng Thắng Hải nói: “Tiểu nhân cũng biết mình lỗ mãng gây ra đại họa, nên sau khi chạy thoát không dám thò mặt ra ngoài. Nào ngờ họ điều tra được chỗ ở của tiểu nhân, liền tới giết sạch cả mẹ già bảy mươi tuổi, vợ và ba đứa con của tiểu nhân, không chừa lại một mạng nào.”
Viên Thừa Chí thấy y vừa nói vừa chảy nước mắt ròng ròng, biết chuyện này không dối, liền khẽ gật đầu.
Hồng Thắng Hải nói tiếp: “Tiểu nhân đánh không lại họ, nhưng thù này không thể không trả. Không trả mối thù này thì nỗi hận không sao tiêu được. Tiểu nhân ở Trung Nguyên không còn đường sống, biết sớm muộn gì cũng bị hai mụ chằn này tìm ra giết bỏ. Nhất thời nghĩ quẫn, tiểu nhân liền đến Liêu Đông, dựa dẫm vào Cửu vương gia…” Nói đến đây, y ra vẻ vừa tức giận vừa hối hận.
Viên Thừa Chí nói: “Họ giết mẹ và vợ con của ngươi, tuy rằng quá đáng nhưng nguyên nhân là ngươi có lỗi trước. Hơn nữa đây chỉ là việc tư thù, sao ngươi lại đi đầu hàng Mãn Thanh, cam chịu làm Hán gian?”
Hồng Thắng Hải nói: “Cầu mong Viên đại anh hùng giúp tiểu nhân trả mối thù này. Anh hùng muốn sai bảo tiểu nhân việc gì cũng được.”
Viên Thừa Chí nói: “Trả thù ư? Suốt đời ngươi đừng nghĩ đến nữa. Võ công Quy nhị nương đã cực cao, chồng của bà ấy là Thần Quyền Vô Địch lại còn giỏi hơn. Ông ấy là sư huynh của ta. Ta hỏi ngươi, Cửu vương gia sai ngươi đi gặp Tào thái giám để làm gì?”
Hồng Thắng Hải nói: “Cửu vương gia dặn tiểu nhân bảo Tào thái giám kể cho nghe mọi việc lớn nhỏ trong triều đình, sau đó về trình báo lại.”
Viên Thừa Chí lại hỏi: “Tào Hóa Thuần làm đến chức Tư Lễ Thái Giám, đã là đầu lĩnh trong bọn thái giám rồi. Hắn đầu hàng Mãn Thanh là có mưu đồ gì? Đa Nhĩ Cổn hứa cho hắn cái gì? Chẳng lẽ cho nhiều hơn hoàng đế được sao?”
Hồng Thắng Hải nói: “Cửu vương gia Mãn Thanh chỉ hứa với hắn một việc: sau này tấn công vào Bắc Kinh không chém đầu hắn và cho hắn giữ lại gia sản. Nếu hắn không làm nội ứng, khi phá được Bắc Kinh sẽ chém hắn ngàn vạn nhát đao.”
Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu, bèn nói: “Thì ra Tào thái giám chịu làm Hán gian chỉ vì sợ chết, sắp xếp đường lùi trước cho mình.”
Hồng Thắng Hải đáp: “Đúng vậy.”
Viên Thừa Chí thở ra một hơi rồi nói: “Rất nhiều người sợ chết, sợ mất gia tài, sợ mất vinh hoa phú quý. Nếu bảo toàn được tính mạng tài sản cho họ, thì bảo họ làm gì họ cũng chịu làm.”
Nói tới đây chàng nhìn Hồng Thắng Hải nghĩ thầm: “Người này cũng sợ chết, cũng vì muốn giữ tính mạng mà chịu làm bất cứ việc gì. Việc xấu hắn đã chịu làm, nói gì đến việc tốt.” Chàng bèn nói: “Bây giờ ngươi muốn cải tà quy chính làm người tốt, hay muốn chờ ba tháng rồi chết?”
Hồng Thắng Hải đáp ngay: “Xin Viên anh hùng chỉ cho một con đường sáng. Phải làm bất cứ việc gì, tiểu nhân cũng không dám từ chối.”
Viên Thừa Chí nói: “Được! Ngươi đi theo làm tùy tùng cho ta.”
Hồng Thắng Hải vô cùng mừng rỡ, quỳ xuống đất khấu đầu ba cái.
Viên Thừa Chí bảo: “Sau này ngươi đừng gọi ta là anh hùng gì gì nữa.”
Hồng Thắng Hải đáp: “Vâng! Tại hạ xin gọi là tướng công.”
Y mừng rỡ nghĩ thầm: “Được đi theo ông ấy thì không sợ hai mụ nữ tặc Quy nhị nương và Tôn Trọng Quân tới giết mình. Ba tháng sau vết thương phát tác, nhất định ông ấy không phủi tay đứng nhìn.” Y lập tức yên tâm, lòng dạ thoải mái hẳn đi. Trước đây làm gian tế cho Mãn Thanh, y thường bứt rứt ăn ngủ không yên, bây giờ như đã cất đi được một tảng đá lớn trong lòng, sự thoải mái không thể nào nói hết.
Viên Thừa Chí bận rộn suốt ngày đêm, bây giờ mới vào phòng nghỉ ngơi. Chàng bảo Hồng Thắng Hải ngủ chung một phòng, cho y nằm dưới đất. Hồng Thắng Hải thấy Viên Thừa Chí tín nhiệm mình, hoàn toàn không đề phòng gì cả, lại càng thêm cảm kích.
Thật ra, Viên Thừa Chí đã dùng Hỗn Nguyên Công đả thương y, biết y phải nhờ mình giải cứu. Nếu y hại mình, cũng là hại chính y.