Hồi 26: Bách biến thiên ảo Hành sơn vân vụ thập tam thức

Lệnh Hồ Xung tuy bị vết kiếm đâm trầm trọng, nhưng bên ngoài đã được bôi Thiên hương đoạn tục giao, bên trong đã được uống Bạch vân hùng đảm hoàn là hai thứ thánh dược trị thương của phái Hằng Sơn, vả lại hắn đang lúc thanh niên trai tráng, nội công thâm hậu, nên chỉ ngủ một ngày hai đêm bên thác nước thì vết thương gần như đã hoàn toàn bình phục. Suốt hai đêm một ngày, hắn chỉ ăn toàn dưa hấu. Lệnh Hồ Xung yêu cầu Nghi Lâm đi bắt cá bắn thỏ, nhưng dù hắn nói sao cô cũng không chịu. Cô nói Lệnh Hồ Xung thoát chết lần này là hoàn toàn nhờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ, tốt nhất là nên ăn chay trường một hai năm để tạ ân đức Quán Thế Âm Bồ Tát, còn bắt cô phá giới sát sanh thì vạn lần không thể được. Lệnh Hồ Xung cười thầm, cho là cô hủ lậu, tẻ nhạt nhưng không có cách nào nên đành phải ăn chay.

Trời đã chạng vạng tối, hai người dựa vào vách đá, nhìn trong đám cỏ thấy những bóng đom đóm lập lòe bay qua bay lại đẹp như những ngôi sao trên trời.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Mùa hạ năm ngoái, ta từng bắt mấy ngàn con đom đóm, đựng vào mười mấy túi vải the treo ở trong phòng, thật thú vị.

Nghi Lâm nghĩ tính tình Lệnh Hồ Xung phù động như vậy, quyết không thể tự đi may mười mấy cái túi vải the được. Cô hỏi:

– Nhạc sư muội của đại ca bảo đại ca bắt đom đóm phải không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu sư muội thật thông minh, đoán trúng chóc. Sao tiểu muội biết Linh San sư muội bảo ta bắt đom đóm?

Nghi Lâm mỉm cười nói:

– Đại ca nóng tính như vậy, lại không phải là con nít, không thể chịu khó đi bắt mấy ngàn con đom đóm để chơi được.

Cô hỏi tiếp:

– Sau đó thì sao?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Linh San sư muội đem treo ở trong màn, nói là khắp giường đầy ánh sao lấp lánh, cũng giống như y đang ngủ ở trên mây, khi mở mắt ra thì bốn bề toàn những sao là sao.

Nghi Lâm nói:

– Tiểu sư muội của đại ca thật là biết chơi. Chỉ có một mình đại ca là sư ca mà y cũng thật biết pha trò. Giả tỷ y muốn đại ca lên bắt các vì sao trên trời, không chừng đại ca cũng chịu đi.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Chuyện bắt đom đóm chơi cũng từ việc muốn bắt những vì sao trên trời mà ra. Tối hôm đó, ta và tiểu sư muội cùng đứng hóng mát, nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời. Tiểu sư muội bỗng thở dài rồi nói: “Thật là đáng tiếc, chút nữa phải đi ngủ rồi. Tiểu muội muốn ngủ ở ngoài trời, nửa đêm tỉnh dậy, thấy được những vì sao đầy trời đang lấp lánh nhìn tiểu muội thì vui biết mấy, nhưng mẫu thân nhất định không cho”. Ta liền nói: “Chúng ta đi bắt đom đóm rồi bỏ vào trong màn, thì cũng giống như những vì sao kia thôi”.

Nghi Lâm khẽ nói:

– Thì ra là chủ ý của đại ca.

Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười nói:

– Linh San sư muội nói: “Đom đóm ở trong màn bay qua bay lại trên mặt mình thì chán chết được. Đúng rồi, để tiểu muội đi may một ít túi vải the, bắt đom đóm bỏ vào”. Thế rồi y ngồi may túi còn ta đi bắt đom đóm suốt một ngày một đêm. Đáng tiếc là chỉ chơi được có một đêm, sang ngày hôm sau tất cả đom đóm đều chết sạch.

Nghi Lâm giật mình, giọng run run hỏi:

– Mấy ngàn con đom đóm đều bị chết cả ư? Hai người… hai người sao…

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu muội nói chúng ta quá tàn nhẫn phải không? Úi chao, tiểu muội là đệ tử của Phật môn, lòng dạ từ bi hơn người. Sự thật thì khi gặp trời lạnh, những con đom đóm đều chết cóng hết; chúng chết sớm hay chết muộn hơn vài ngày cũng chẳng có gì quan trọng.

Một hồi lâu, Nghi Lâm sụt sùi nói:

– Thật ra kiếp người sống trên thế gian này đều như vậy cả thôi, có người chết sớm, có kẻ chết muộn, sớm muộn gì cuối cùng cũng phải chết. Đức Phật dạy mỗi con người đều không tránh khỏi bốn cái khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Còn chuyện giác ngộ sâu rộng để tự giải thoát mình ra khỏi luân hồi không phải dễ làm đâu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy. Tiểu muội việc gì phải tâm niệm mãi những thanh quy giới luật đó? Việc gì mà không thể sát sinh, không thể trộm cắp. Nếu đức Bồ Tát mà mỗi chuyện đều phải để mắt đến thì thật phiền quá đi mất.

Nghi Lâm quay đầu đi. Cô không biết phải nói làm sao cho Lệnh Hồ Xung hiểu được. Giữa lúc đó, đầu ngọn núi phía trái có một ngôi sao băng rất nhanh, vạch thành một đường sáng dài trên bầu trời đêm mênh mông.

Nghi Lâm nói:

– Nghi Tĩnh sư tỷ có nói: “Người nào thấy được sao băng, nếu vừa thắt dải vạt áo vừa ước nguyện một điều, chỉ cần thắt dải vạt áo xong trước khi ngôi sao băng thì sẽ đạt được ước nguyện ấy”. Đại ca, có đúng như vậy không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta không biết. Chúng ta hãy thử làm xem, nhưng chỉ sợ động tác mình làm không nhanh được như vậy.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền cởi vạt áo ra rồi nói:

– Tiểu muội chuẩn bị đi, chậm một chút thì không kịp đâu.

Nghi Lâm cầm vạt áo, ngẩng nhìn lên bầu trời. Trời đêm mùa hạ sao băng rất nhiều, chỉ trong chốc lát có một vì sao băng vạch thành một đường dài trong không trung. Nhưng ngôi sao băng chỉ xẹt qua trong nháy mắt rồi tắt ngay. Ngón tay Nghi Lâm chỉ vừa động đậy thì sao băng đã tắt rồi. Cô khẽ kêu ối rồi lại đợi ngôi sao băng kế tiếp. Ngôi sao băng thứ hai từ hướng Đông sang hướng Tây kéo thành một đường dài. Động tác của Nghi Lâm rất mau lẹ, cô đã thắt được dải vạt áo.

Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Hay quá, hay quá, tiểu muội thắt được rồi. Có Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ, nhất định tiểu muội đã đạt được sở nguyện.

Nghi Lâm thở dài nói:

– Tiểu muội chỉ mới cố gắng thắt dải vạt áo nhưng lòng chưa kịp ước nguyện gì cả.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Vậy tiểu muội mau mau nghĩ ra điều ước nguyện trước đi, tâm niệm trước mấy lần để khỏi đến lúc thắt được dải vạt áo lại quên điều ước nguyện.

Nghi Lâm cầm dải vạt áo, nghĩ: Ta biết ước nguyện gì đây? Ta biết ước nguyện gì đây? Rồi cô liếc nhìn Lệnh Hồ Xung, bỗng hai má ửng hồng; cô vội quay đầu đi.

Lúc này trên bầu trời liên tục có mấy ngôi sao băng xẹt qua. Lệnh Hồ Xung luôn miệng kêu lên không ngớt:

– Lại một vì sao băng nữa. Ái chà, vì sao này dài thật, tiểu muội thắt dải vạt áo được chưa? Lần này lại không kịp rồi.

Tâm sự Nghi Lâm rối như tơ vò. Ẩn sâu tận đáy lòng cô là một khát vọng thiết tha nhưng chính cô cũng không dám nghĩ đến chứ đừng nói đến chuyện cầu xin đức Quán Thế Âm Bồ Tát cho được toại nguyện. Tim cô đập thình thịch, cảm thấy vừa sợ hãi vô cùng, vừa sung sướng khôn xiết.

Lệnh Hồ Xung lại hỏi:

– Tiểu muội đã nghĩ xong ước nguyện gì chưa?

Trong sâu thẳm, lòng cô như khẽ hỏi:

– Ta nên ước nguyện gì đây? Ta nên ước nguyện gì đây?

Từng vì sao băng trên bầu trời cứ lần lượt xẹt qua, cô ngẩng đầu lên nhìn rồi lại ngẩn người ra.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu muội không nói thì để ta đoán thử xem.

Nghi Lâm vội nói:

– Không, không, đại ca đừng đoán.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sao tiểu muội lại hoảng hốt lên như vậy? Ta chỉ thử đoán ba lần, xem có trúng không thôi mà.

Nghi Lâm đứng dậy nói:

– Đại ca cứ muốn đoán nữa thì tiểu muội đi đây.

Lệnh Hồ Xung cười, nói:

– Được rồi, ta không nói. Cho dù trong thâm tâm tiểu muội muốn làm chưởng môn phái Hằng Sơn thì điều đó cũng có gì là đáng xấu hổ đâu?

Nghi Lâm ngẩn ngơ một lát rồi nghĩ: Đại ca… đại ca đoán mình muốn làm chưởng môn phái Hằng Sơn ư? Xưa nay, mình chưa bao giờ có ý nguyện đó, mà mình thì sao làm được chưởng môn nhân? Bỗng nghe mấy tiếng tình tang từ xa vọng lại, dường như có ai đang đánh đàn. Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm nhìn nhau, cảm thấy kỳ lạ vô cùng.

Nơi hoang sơn dã lĩnh này sao lại có người đến đánh đàn? Tiếng đàn không ngớt vọng lại nghe rất u nhã; một lúc sau, có tiếng sáo nhu hòa dìu dặt nổi lên hòa với tiếng đàn. Âm điệu tiếng đàn thất huyền cầm dịu dàng, trung chính lẫn với tiếng sáo thanh cao véo von làm rúng động lòng người. Tiếng đàn tiếng sáo dường như một bên hỏi, một bên đáp, rồi từ từ đi đến gần.

Lệnh Hồ Xung nhích người đến, nói khẽ vào tai Nghi Lâm:

– Điệu nhạc này thật cổ quái, e rằng có điều bất lợi cho chúng ta. Bất luận có chuyện gì, tiểu muội cũng không được lên tiếng.

Nghi Lâm gật đầu, nghe tiếng đàn dần dần cao vút lên, còn tiếng sáo lại từ từ trầm xuống. Nhưng tiếng sáo hạ xuống thấp mà vẫn không dứt, du dương như làn gió thoảng mà liên miên bất tuyệt khiến người nghe không khỏi cảm thấy bâng khuâng, bùi ngùi trong dạ.

Từ sau tảng đá, có ba người xuất hiện. Lúc này, ánh trăng bị mây che khuất nhưng dưới ánh sáng mờ ảo, vẫn thấy được ba người, hai cao một thấp. Hai người cao là đàn ông, người thấp là một thiếu nữ. Hai người đàn ông khoan thai bước đến bên một tảng đá to rồi ngồi xuống; một người gảy đàn, một người thổi sáo; còn thiếu nữ thì đứng bên cạnh người gảy đàn. Lệnh Hồ Xung thu mình vào phía sau tảng đá, không dám ló mặt ra, sợ bị ba người phát hiện. Nghe tiếng đàn tiếng sáo du dương hài hòa, Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Bên thác nước, tiếng nước chảy rì rầm mà không át được tiếng đàn sáo dịu dàng, xem ra nội công của hai người đánh đàn thổi sáo không phải tầm thường. Phải rồi, sở dĩ họ đến đây hòa nhạc là vì nơi đây có thêm âm thanh của thác đổ. Như vậy thì không có liên can gì đến chúng ta.

Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy mới cảm thấy an tâm.

Bỗng dưng tiếng đàn phát ra những âm thanh gào thét, dường như có ý sát phạt nhưng tiếng sáo vẫn ôn hòa uyển chuyển. Một lúc sau, tiếng đàn trở lại êm dịu; hai âm điệu lúc trầm lúc bổng hòa quyện vào nhau. Bỗng nhiên tiếng đàn tiếng sáo biến đổi thình lình, dường như cùng một lúc có bảy tám cây đàn, bảy tám ống sáo cùng hòa tấu một nhạc khúc. Âm thanh của tiếng đàn tiếng sáo biến ảo vô cùng phức tạp, một tiếng phát ra chợt trầm bổng, chợt ngừng ngắt, vui tai nhưng vẫn khiến người ta xúc động nghẹn ngào. Lệnh Hồ Xung lắng nghe đến nỗi mạch máu căng lên, không kìm được muốn đứng dậy. Lại nghe một lúc nữa, tiếng đàn tiếng sáo biến đổi; tiếng sáo biến thành giai điệu lĩnh xướng, tiếng đàn thất huyền cầm chỉ phụ họa theo tình tang tình tang. Rồi tiếng sáo càng lúc càng cao vút lên. Lệnh Hồ Xung không hiểu sao lòng mình cảm thấy đau xót, nghiêng đầu nhìn Nghi Lâm, thấy tiểu ni cô nước mắt rơi lã chã. Đột nhiên cung đàn rít lên một tiếng cấp bách, tiếng đàn lập tức dừng lại; tiếng sáo cũng ngừng ngay. Bốn bề trở lại tĩnh mịch, chỉ còn vầng trăng ở trên bầu trời cao soi bóng những hàng cây xuống đất.

Chỉ nghe một người khoan thai nói:

– Lưu hiền đệ, ta và hiền đệ hôm nay bỏ mạng tại đây âu cũng do số trời định sẵn. Chỉ tại ngu huynh không ra tay sớm hơn một chút, khiến cho cả thân quyến và đệ tử của hiền đệ đều bị nạn. Lòng ngu huynh thực sự không yên.

Người kia nói:

– Huynh và đệ đã gan dạ kết giao với nhau, còn nói với nhau những lời đó làm gì…

Nghi Lâm nghe giọng nói của lão, lòng chợt dao động. Cô nói khẽ vào tai Lệnh Hồ Xung:

– Đó chính là Lưu Chính Phong sư bá.

Cả hai người tuyệt đã không biết chuyện thảm sát trong phủ của Lưu Chính Phong, bây giờ lại thấy Lưu Chính Phong xuất hiện nơi hoang dã này. Một người lại nói cái gì “Ta và hiền đệ hôm nay bỏ mạng tại đây”, cái gì “Thân quyến và đệ tử của hiền đệ đều bị nạn”, khiến cả hai đều kinh ngạc vô cùng.

Lưu Chính Phong tiếp tục nói:

– Con người sinh ra ai cũng phải chết, có được một người tri kỷ thì chết cũng không tiếc.

Người kia nói:

– Lưu hiền đệ, ta nghe trong tiếng sáo của hiền đệ có chút tình ý di hận, phải chăng là do lệnh lang gặp lúc nguy nan đã tỏ ra tham sống sợ chết làm hoen ố thanh danh của hiền đệ?

Lưu Chính Phong thở dài, nói:

– Khúc đại ca đoán không sai. Cần nhi là đứa con mà ngày thường tiểu đệ quá nuông chìu, thiếu sự giáo huấn, không ngờ trở nên hèn yếu không còn chút khí tiết nào hết.

Khúc Dương nói:

– Có khí tiết hay không có khí tiết cũng vậy thôi, một trăm năm sau cũng về với đất, có khác biệt gì đâu? Ngu huynh đã nằm phục trên nóc nhà từ lâu, đáng lý nên ra tay sớm một chút nhưng nghĩ rằng hiền đệ sẽ không tình nguyện vì cố nhân mà làm tổn thương hòa khí của Ngũ Nhạc kiếm phái, lại nghĩ rằng ngu huynh đã từng vì hiền đệ mà lập lời trọng thệ quyết không làm phương hại đến nhân sĩ trong bạch đạo, vì vậy nên ngần ngừ chưa muốn ra tay. Đâu ngờ Ngũ Nhạc minh chủ phái Tung Sơn lại ra tay tàn nhẫn như vậy.

Lưu Chính Phong lặng yên, thở dài rồi nói:

– Bọn chúng là người phàm tục, làm sao hiểu được huynh đệ chúng ta vì âm luật cao tình nhã chí mà kết giao với nhau? Bọn chúng lấy cái thường tình mà xét đoán, khẳng định rằng huynh đệ chúng ta kết giao với nhau để gây bất lợi cho bạch đạo và Ngũ Nhạc kiếm phái. Chao ôi, chúng không hiểu nên cũng không trách chúng được. Khúc đại ca, đại ca bị thương ở huyệt Đại truy làm chấn động tâm mạch phải không?

Khúc Dương nói:

– Đúng vậy. Nội công của phái Tung Sơn quả thật là ghê gớm, ta không ngờ đến nên đưa lưng ra nhận một chưởng, vận nội lực không đủ, lại làm cho tâm mạch của hiền đệ cũng bị chấn động đứt đoạn ra. Nếu ta sớm biết hiền đệ không tránh khỏi bị thương thì nắm Hắc huyết thần châm đó cũng không cần phải liệng ra để nhiều người vô tội bị tổn thương mà chẳng ích gì. May thay, mũi kim không tẩm thuốc độc.

Lệnh Hồ Xung nghe bốn chữ “Hắc huyết thần châm” thì lòng chấn động, nghĩ: Người này đã từng cứu tính mệnh ta, lẽ nào lão lại là cao thủ trong Ma giáo? Lưu sư thúc vì sao lại kết giao với lão?

Lưu Chính Phong cười khẽ rồi nói:

– Nhưng có vậy thì huynh đệ chúng ta mới có dịp hợp tấu khúc nhạc này. Từ nay về sau trên đời này sẽ không còn tiếng đàn tiếng sáo như vậy nữa.

Khúc Dương nghe vậy thở dài, nói:

– Ngày xưa, Kê Khang lúc sắp bị hành hình còn gảy khúc nhạc “Quảng Lăng tán” bi ai rồi từ đó cung đàn này không còn tồn tại trên thế gian. Ha ha, khúc “Quảng Lăng tán” tuy tinh diệu nhưng bì sao được với khúc “Tiếu ngạo giang hồ” của hai chúng ta? Nhưng năm đó, tâm tình của Kê Khang cũng giống như tâm tình của ta với hiền đệ lúc này.

Lưu Chính Phong cười nói:

– Vừa rồi Khúc đại ca còn rất thoáng đạt mà sao bây giờ lại cố chấp như vậy? Đêm nay, đại ca và tiểu đệ đã hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” phát huy đến chỗ lâm ly tận chí. Trên thế gian có khúc nhạc này thì đại ca và tiểu đệ đã hợp tấu rồi, một bản hợp tấu tuyệt nhất ở cõi đời thì còn ân hận gì nữa?

Khúc Dương vỗ tay khẽ nói:

– Hiền đệ nói phải lắm.

Một lúc sau lão lại thở dài. Lưu Chính Phong hỏi:

– Đại ca, sao đại ca thở dài? Đúng rồi, nhất định là đại ca không an tâm vì Phi Phi.

Nghi Lâm giật mình, nghĩ thầm: Phi Phi, chính cô bé Phi Phi kia ư?

Quả nhiên nghe tiếng Khúc Phi Yên nói:

– Gia gia, gia gia và Lưu công công từ từ tịnh dưỡng thương thế cho lành hẳn rồi chúng ta đến phái Tung Sơn giết sạch bọn ác đồ mà trả thù cho Lưu bà bà.

Đột nhiên, vách núi vang vọng một tràng cười dài. Tiếng cười chưa hết, một bóng đen từ sau vách núi đi ra, ánh thanh quang lấp loáng, hắn đã đứng trước mặt Khúc Dương và Lưu Chính Phong, tay cầm trường kiếm. Đó chính là Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Tung Sơn. Hắn lạnh lùng cười lên ha hả rồi nói:

– Con nhãi ranh kia, ngươi nói hay đấy. Muốn giết sạch cả phái Tung Sơn ư? Trên đời này đâu có những chuyện dễ toại ý đến như vậy được?

Lưu Chính Phong đứng dậy nói:

– Phí Bân, ngươi đã giết cả nhà ta; chính Lưu mỗ cũng bị chưởng lực của hai sư huynh ngươi đánh, nguy hiểm tính mạng trong khoảnh khắc. Ngươi còn muốn làm gì nữa đây?

Phí Bân cười hô hố rồi nói khích:

– Con nhãi ranh kia nói muốn giết sạch phái Tung Sơn, tại hạ đến đây để cho nó giết sạch. Con nhãi kia, ngươi qua đây chịu chết trước đi.

Nghi Lâm ngồi bên cạnh Lệnh Hồ Xung nói:

– Phi Phi và gia gia của cô ấy đã cứu đại ca; chúng ta phải tìm cách cứu họ mới được.

Lệnh Hồ Xung không đợi cô nói ra đã ngầm tính kế giải vây để báo đáp ơn cứu mạng của hai cha con Khúc Dương. Nhưng một là đối phương là cao thủ phái Tung Sơn, chính mình lúc chưa bị trọng thương cũng không phải là đối thủ của hắn; hai là bây giờ đã biết Khúc Dương là người trong Ma giáo, mà phái Hoa Sơn và Ma giáo lại thù địch với nhau, làm sao có thể cứu giúp kẻ địch được? Lòng hắn còn ngại, chưa thể quyết định, lại nghe Lưu Chính Phong nói:

– Họ Phí kia, ngươi cũng được coi như là một nhân vật có tiếng trong danh môn chính phái. Hôm nay, Khúc Dương và Lưu Chính Phong lọt vào tay của ngươi, ngươi muốn băm muốn vằm thế nào chúng ta cũng không oán hận; song ngươi lại hà hiếp một đứa con gái nhỏ tuổi thì còn gì là anh hùng hảo hán nữa? Phi Phi, ngươi chạy mau đi!

Khúc Phi Yên nói:

– Tiểu nữ nguyện chết cùng gia gia và Lưu công, quyết không chịu tìm cái sống một mình.

Lưu Chính Phong thúc giục:

– Chạy mau đi! Chạy mau đi! Chuyện của người lớn, ngươi là con nít không có liên can gì đây cả.

Khúc Phi Yên đáp:

– Tiểu nữ không đi.

Loảng xoảng hai tiếng, cô rút hai thanh đoản kiếm từ sau lưng lạng ra cản trước Lưu Chính Phong rồi quát:

– Phí Bân, trước đây Lưu công tha chết cho ngươi mà ngươi lại lấy oán báo ân. Ngươi có còn biết hổ thẹn không đó?

Phí Bân hầm hầm nói:

– Con ranh này nói là muốn giết sạch phái Tung Sơn của chúng ta. Lẽ nào họ Phí ta chịu bó tay để bị ngươi phanh thây hay là cắm đầu chạy trốn.

Lưu Chính Phong kéo tay Khúc Phi Yên vội nói:

– Chạy mau đi, chạy mau đi!

Nhưng vì lão bị nội lực của phái Tung Sơn làm chấn động gần đứt hết kinh mạch, vừa rồi lại đem hết tâm lực ra diễn tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” nên tay lão không còn chút nội lực nào. Khúc Phi Yên kéo nhẹ một cái đã thoát khỏi tay Lưu Chính Phong. Trước mặt cô thanh quang lấp loáng, trường kiếm của Phí Bân đã đâm tới.

Tay trái Khúc Phi Yên giơ đoản kiếm lên gạt, tay phải cầm kiếm phóng ra. Phí Bân cười gằn một tiếng, quay trường kiếm một vòng rồi chát một tiếng, hắn đánh xuống đoản kiếm bên tay phải của cô. Cánh tay Khúc Phi Yên tê nhức, hổ khẩu đau đớn, thanh đoản kiếm trên tay phải rớt xuống đất. Trường kiếm của Phí Bân chênh chếch đánh ngược lại, chát một tiếng nữa, đoản kiếm bên tay trái của cô lại bị chấn động, rớt xuống văng xa mấy trượng. Phí Bân chỉ trường kiếm vào yết hầu cô bé, nhìn Khúc Dương cười nói:

– Khúc trưởng lão, tại hạ đâm đui mắt trái của hài nhi trưởng lão trước rồi xẻo mũi, xẻo tai cô ta sau.

Khúc Phi Yên thét to, nhảy xổ lao thẳng vào mũi trường kiếm của hắn. Phí Bân rút kiếm lại rất nhanh, hắn đưa ngón trỏ tay trái điểm huyệt Khúc Phi Yên rồi cười hô hố nói:

– Tà ma ngoại đạo làm nhiều chuyện gian ác, muốn chết cũng không dễ dàng đâu. Ta đâm mù mắt trái của ngươi trước đã.

Hắn giơ trường kiếm lên toan đâm vào mắt trái của Khúc Phi Yên, bỗng nghe đằng sau có tiếng người quát:

– Dừng tay!

Phí Bân giật mình kinh hãi, vội quay người lại, thủ kiếm hộ thân. Hắn không ngờ Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm đã sớm ẩn núp sau tảng đá không nhúc nhích, nếu không thì với nội công của hắn, quyết không thể có ai đến gần mà lại không phát giác được. Dưới ánh trăng, hắn chỉ thấy một hán tử trẻ tuổi, hai tay chống nạnh đang đứng đó.

Phí Bân quát hỏi:

– Ngươi là ai?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu điệt là Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn tham kiến Phí sư thúc.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền khom người hành lễ, thân người loạng choạng không vững. Phí Bân gật đầu nói:

– À, thì ra đại đệ tử của Nhạc sư huynh. Ngươi làm gì ở đây?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu điệt bị đệ tử phái Thanh Thành đánh trọng thương nên ở đây để dưỡng thương, rất may mắn được bái kiến Phí sư thúc.

Phí Bân hừ lên một tiếng rồi nói:

– Ngươi đến đúng lúc lắm. Con ranh này là tà ma ngoại đạo trong Ma giáo, đáng bị tiêu diệt; nếu chính ta ra tay thì không tránh khỏi ỷ lớn hiếp nhỏ. Ngươi hãy giết con ranh này đi.

Hắn nói vậy rồi đưa tay chỉ vào Khúc Phi Yên.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Gia gia của cô bé này và Lưu sư thúc kết giao với nhau, cứ tính như vậy thì cô bé này thấp hơn tiểu điệt một bậc. Nếu tiểu điệt giết cô ta thì trên giang hồ đồn đãi rằng phái Hoa Sơn ỷ lớn hiếp nhỏ, cứ vậy truyền rộng ra thì thanh danh rất thương tổn. Vả lại, Khúc tiền bối này và Lưu sư thúc đều đã bị trọng thương. Trước mặt hai vị mà ăn hiếp tiểu bối của hai vị quyết không phải là hành vi của bậc anh hùng hảo hán. Phái Hoa Sơn của tiểu điệt không thể làm việc này, xin Phí sư thúc lượng thứ cho.

Lệnh Hồ Xung nói như vậy ý tứ rất rõ ràng. Chuyện phái Hoa Sơn không muốn làm mà phái Tung Sơn cứ làm, thì hiển nhiên là phái Tung Sơn không sánh bằng phái Hoa Sơn được.

Đôi mày Phí Bân dựng ngược, ánh mắt lộ hung quang. Hắn gằn giọng:

– Thì ra ngươi và gian nhân Ma giáo cũng đã ngấm ngầm câu kết với nhau. Phải rồi, vừa rồi Lưu Chính Phong có nói gian nhân họ Khúc đã trị thương cho ngươi, cứu tính mạng ngươi. Không ngờ ngươi đường đường là đại đệ tử phái Hoa Sơn cũng quy đầu Ma giáo nhanh như vậy.

Trường kiếm trong tay hắn rung động, lưỡi kiếm sáng loáng, dường như chỉ muốn đâm Lệnh Hồ Xung.

Lưu Chính Phong nói:

– Lệnh Hồ hiền điệt, hiền điệt và bọn ta không có liên can gì, không nên đến đây rước thêm mối nhục nhã, mau mau rời khỏi nơi này để khỏi làm khó cho sư phụ của hiền điệt.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Lưu sư thúc, từ xưa đến nay bạch đạo của chúng ta và tà ma ngoại đạo không đội trời chung với nhau. Hai chữ “hiệp nghĩa” có ý nghĩa gì? Ức hiếp người đang bị trọng thương cũng được coi là hiệp nghĩa ư? Tàn sát đứa bé gái vô tội cũng được coi là hiệp nghĩa ư? Nếu những chuyện này đều làm được thì ta có khác gì tà ma ngoại đạo đâu?

Khúc Dương than thở:

– Những chuyện như vậy, Ma giáo chúng ta cũng không làm. Lệnh Hồ huynh đệ, chính miệng huynh đệ đã nói ra đó, phái Tung Sơn thích làm những chuyện này thì cứ để cho hắn tự do làm đi.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu điệt không muốn đi. Đại tung dương thủ Phí Bân trên giang hồ danh tiếng lẫy lừng, là bậc anh hùng hảo hán nhất nhì trong phái Tung Sơn. Sư thúc chẳng qua chỉ nói vài câu hăm dọa cô bé thôi, chứ không thể làm những chuyện xấu xa như vậy được. Phí sư thúc quyết không phải là hạng người như vậy.

Lệnh Hồ Xung nói xong, hai tay khoanh trước ngực, dựa lưng vào gốc cây. Mặt Phí Bân bừng bừng sát khí. Hắn cười lên một tràng dài man rợ rồi nói:

– Ngươi tưởng có thể dùng ba tấc lưỡi làm xiêu lòng ta, có thể lung lạc ta tha cho ba tên gian nhân này ư? Ha ha, ngươi đừng có ngu si mộng tưởng. Ngươi đã đầu quân vào Ma giáo, Phí mỗ này giết ba người hay giết thêm cả ngươi nữa cũng vậy thôi.

Nói rồi hắn khoa chân bước lên một bước.

Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của hắn rất hung tợn, lòng không khỏi kinh hãi nhưng vẫn ngấm ngầm tìm kế sách để giải vây. Lệnh Hồ Xung vẫn cố làm ra vẻ bình thản, nói:

– Phí sư thúc, ngay cả tiểu điệt sư thúc cũng muốn giết để bịt miệng phải không?

Phí Bân nói:

– Ngươi thông minh thật, câu này không sai!

Hắn nói xong lại tiến gần thêm một bước. Bỗng nhiên từ sau tảng đá hiện ra một nữ ni nhỏ tuổi. Cô nói:

– Phí sư thúc, khổ hải vô biên hồi đầu thị ngạn (biển khổ mênh mông, quay đầu là thấy bến). Bây giờ sư thúc định làm chuyện bại hoại, nhưng việc chưa ra tay mà biết gò cương dừng ngựa thì cũng chưa muộn.

Ni cô này chính là Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung bảo cô cứ núp sau tảng đá, không được để ai nhìn thấy, nhưng trước mắt, Lệnh Hồ Xung đang lâm vào tình thế nguy cấp; không kịp suy nghĩ cô đành đánh bạo đi ra, nghĩ có thể lấy lời nói phải để khuyên răn Phí Bân dừng tay.

Phí Bân giật mình kinh hãi nói:

– Ngươi là đồ đệ phái Hằng Sơn phải không? Sao lại lén lút núp ở đây?

Mặt Nghi Lâm ửng hồng, cô ấp úng nói:

– Đệ tử… đệ tử…

Khúc Phi Yên bị điểm huy ệt đạo, đang nằm dưới đất, không nhúc nhích được, nghe giọng Nghi Lâm cô liền lớn tiếng nói:

– Nghi Lâm tỷ tỷ, tiểu muội sớm đoán được tỷ tỷ cùng đi với Lệnh Hồ đại ca. Quả nhiên tỷ tỷ đã trị lành vết thương cho đại ca, chỉ đáng tiếc… chỉ đáng tiếc chúng ta đều sắp chết hết rồi.

Nghi Lâm lắc đầu nói:

– Không đâu, Phí sư thúc là bậc anh hùng hào kiệt tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, có khi nào lại đi giết hại những người đang bị trọng thương và một tiểu cô nương như muội muội.

Khúc Phi Yên cười gằn hỏi:

– Lão thật đúng là đại anh hùng, đại hào kiệt ư?

Nghi Lâm đáp:

– Phái Tung Sơn là minh chủ của Ngũ Nhạc kiếm phái, là lãnh tụ bạch đạo trên giang hồ; bất luận làm chuyện gì, phái này cũng phải lấy hiệp nghĩa làm đầu.

Cô nói mấy câu này với tất cả tấm lòng chân thành, nhưng Phí Bân nghe lại hoàn toàn cho là lời chế giễu. Hắn nghĩ bụng: Một là không làm, hai là không nghĩ; nếu hôm nay còn một tên sống sót thì thanh danh Phí mỗ từ đây sẽ bị ô nhục. Tuy ta giết gian nhân trong Ma giáo nhưng giết đang lúc chúng bị trọng thương thì không phải là hành vi của bậc anh hùng hào kiệt, tất bị người ta coi thường. Hắn nghĩ vậy liền vung trường kiếm lên chỉ vào Nghi Lâm nói:

– Ngươi đã không bị trọng thương, cũng không phải là tiểu cô nương không biết võ công, ta giết ngươi được chứ?

Nghi Lâm giật mình sợ hãi, lùi lại mấy bước, run run nói:

– Đệ tử… đệ tử… Sao sư thúc lại muốn giết đệ tử?

Phí Bân nói:

– Ngươi cấu kết với gian nhân Ma giáo, gọi nhau là tỷ muội, cũng đã là cùng một phe với gian nhân, tất nhiên không thể dung tha được.

Hắn nói xong, khua chân bước lên một bước, giơ kiếm toan đâm thẳng vào Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung vội lạng người cản trước mặt Nghi Lâm, rồi la lên:

– Sư muội mau chạy đi, mời sư phụ đến cứu mạng.

Lệnh Hồ Xung biết nước xa khó cứu được lửa gần, hắn bảo Nghi Lâm đi cầu cứu viện binh chẳng qua là muốn cô rời xa chỗ này cho khỏi mất mạng.

Trường kiếm của Phí Bân lay động, mũi kiếm đâm về phía bên phải Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vội nghiêng người né tránh. Phí Bân đánh ba đường kiếm liên hoàn véo véo, rất nguy hiểm cho Lệnh Hồ Xung. Nghi Lâm vội rút thanh kiếm gãy sau lưng ra, nhắm vai Phí Bân đâm tới. Cô la lên:

– Lệnh Hồ đại ca, đại ca bị trọng thương, mau mau lùi lại đi.

Phí Bân cười ha hả nói:

– Tiểu ni cô động lòng phàm tục rồi, thấy thiếu niên anh tuấn thì không kể chi đến sinh mạng.

Nói xong, hắn đưa kiếm đỡ. Choang một tiếng, song kiếm giao nhau, thanh kiếm gãy trong tay Nghi Lâm bị văng đi; trường kiếm của Phí Bân phóng tới ngực Nghi Lâm. Phí Bân muốn giết cả năm người, tuy người nào cũng chẳng còn sức lực chống lại hắn nhưng hắn sợ đêm dài sinh lắm mộng, chỉ cần một tên chạy thoát thì hậu hoạn vô cùng, nên hắn phải ra tay tuyệt diệt.

Lệnh Hồ Xung vọt đến, tay trái phóng song chỉ đâm vào mắt Phí Bân. Phí Bân vội đứng lại, rồi nhảy lùi ra sau. Lúc hắn rút trường kiếm về, thừa thế lia một cái, vạch một đường dài lên cánh tay trái của Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung liều mình xông vào để cứu nguy cho Nghi Lâm, nhưng hắn đã thở lên hồng hộc, thân người lảo đảo muốn té nhào. Nghi Lâm vội nhảy lên trước đỡ lấy Lệnh Hồ Xung, nghẹn ngào nói:

– Để lão giết chúng ta hết đi.

Lệnh Hồ Xung vừa thở vừa giục:

– Tiểu muội… tiểu muội chạy mau đi…

Khúc Phi Yên cười nói:

– Ông ngốc ơi, đến nước này mà ông còn chưa hiểu rõ bụng dạ người ta. Người ta muốn vì ông mà chết đó.

Câu nói của Khúc Phi Yên chưa xong thì trường kiếm của Phí Bân đã phóng đến, đâm thẳng vào tim cô. Khúc Dương, Lưu Chính Phong, Lệnh Hồ Xung, Nghi Lâm cùng giật mình kinh hoàng.

Phí Bân nở một nụ cười man rợ, khoa chân bước lên một bước hướng về Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm, rồi tiến lên một bước nữa; lưỡi kiếm của hắn nhỏ máu tươi từng giọt.

Lệnh Hồ Xung suy nghĩ loạn xạ: Hắn… hắn đã giết tiểu cô nương này, chẳng khác nào hạng lang sói, ta đây cũng phải chết. Tại sao Nghi Lâm sư muội muốn vì ta mà chết? Tuy ta đã cứu nàng nhưng nàng cũng đã cứu lại ta, xem như ân tình đã báo đáp đủ rồi. Trước đây ta và nàng không hề quen biết, chẳng qua chỉ là sư huynh sư muội trong Ngũ Nhạc kiếm phái, muốn giữ đạo nghĩa trên giang hồ cũng không cần lấy tính mạng mà đền đáp như vậy. Không ngờ đệ tử môn hạ phái Hằng Sơn lại vẹn toàn nghĩa khí võ lâm; Định Dật sư thái thật là một nhân vật hiếm có. Ôi, Nghi Lâm sư muội lại muốn cùng chết với ta, tại sao không phải là Linh San tiểu sư muội? Nàng… nàng bây giờ đang làm gì?

Trước mắt Lệnh Hồ Xung, nét mặt hung tợn cùng nụ cười man rợ của Phí Bân đang tiến đến gần. Lệnh Hồ Xung mỉm cười, thở dài rồi nhắm mắt lại.

Bỗng nghe tiếng hồ cầm từ xa xa vọng lại. Tiếng đàn thê lương, ai oán, giống như đang khóc tỉ tê, lại như đang run bần bật, phát ra những âm điệu lúc đứt lúc nối giống như những hạt mưa nhỏ rơi xuống trên lá cây. Lệnh Hồ Xung sửng sốt, mở to mắt ra nhìn.

Phí Bân giật mình nghĩ:

– Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh đã đến rồi!

Tiếng hồ cầm càng lúc càng thê lương não nuột, Mạc Đại tiên sinh vẫn đứng sau gốc cây chưa chịu xuất hiện. Phí Bân gọi to:

– Mạc Đại tiên sinh, sao chưa hiện thân tương kiến?

Tiếng hồ cầm bỗng nhiên im bặt. Từ sau gốc cây tùng, một người gầy nhom bước ra. Lệnh Hồ Xung nghe danh tiếng Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh đã lâu nhưng chưa bao giờ thấy qua mặt lão. Lúc này dưới ánh trăng, chàng chỉ thấy lão gầy còm như que củi, hai vai nhô lên giống như một người bệnh lao nặng có thể ngã ra chết ngay bất cứ lúc nào. Lệnh Hồ Xung không ngờ chưởng môn phái Hành Sơn lừng danh khắp giang hồ lại là một người có bộ dạng cổ quái đến như vậy. Tay trái Mạc Đại tiên sinh kẹp cây hồ cầm, hai tay cung lại, hướng về Phí Bân nói:

– Phí sư huynh, Tả minh chủ có khỏe không?

Phí Bân thấy lão không có ác ý, lại biết lão và Lưu Chính Phong bất hòa, bèn nói:

– Đa tạ Mạc Đại tiên sinh, Tả sư ca vẫn khỏe. Lưu Chính Phong của quý phái và gian nhân Ma giáo kết giao với nhau, muốn gây bất lợi cho Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta. Mạc Đại tiên sinh, theo tiên sinh thì nên xử trí thế nào?

Mạc Đại tiên sinh bước đến hai bước gần Lưu Chính Phong, dõng dạc nói hai tiếng:

– Đáng giết!

Tiếng “giết” vừa nói ra khỏi miệng, ánh thanh quang lấp loáng, tay lão đã cầm một thanh trường kiếm vừa mỏng vừa nhỏ như lá lúa, phát chiêu rất nhanh, đâm thẳng vào ngực Phí Bân. Chiêu kiếm cực kỳ nhanh song lại như mộng như ảo, chính là một tuyệt chiêu trong Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức. Phí Bân lúc ở Lưu phủ đã từng biết qua môn võ công này của Lưu Chính Phong, bây giờ hắn lại bị lãnh đủ, kinh hãi không kịp trở tay. Hắn vội lùi ra sau thở hồng hộc, ngực hắn đã bị lưỡi kiếm lợi hại vạch một đường dài, áo bị rách toạc, lưỡi kiếm rạch vào da thịt, tuy vết thương không nặng nhưng hắn kinh hãi, nhuệ khí mất hẳn.

Phí Bân lập tức xoay kiếm đâm trả nhưng Mạc Đại tiên sinh đã chiếm được tiên cơ nên cứ liên tục phóng kiếm đánh tới. Thanh kiếm của tiên sinh như con linh xà, rung động không ngớt, luồn lách vào làn kiếm quang của Phí Bân mà đâm tới, ép Phí Bân phải liên tục thối lui, nửa câu chửi cũng không mở miệng phát ra được.

Kiếm pháp của Mạc Đại tiên sinh biến ảo trước mắt Khúc Dương, Lưu Chính Phong, Lệnh Hồ Xung; giống như ma như quỷ khiến cả ba không khỏi kinh tâm loạn phách. Ngay Lưu Chính Phong từng là đồng môn học nghệ, làm sư huynh sư đệ với nhau mấy chục năm cũng không ngờ kiếm thuật của sư huynh lại tinh thâm đến vậy.

Từng giọt máu tươi từ giữa hai thanh kiếm nhỏ xuống. Phí Bân không ngừng chuyển dịch né tránh, cố sức chống đỡ vẫn không thoát khỏi làn kiếm quang của Mạc Đại tiên sinh, máu tươi nhỏ xuống chung quanh hai người thành một vòng đỏ lòm. Bỗng nghe Phí Bân thét một tiếng đau đớn rồi nhảy vọt lên cao. Mạc Đại tiên sinh lùi ra sau hai bước, nhét trường kiếm vào đáy hồ cầm rồi quay người đi. Khúc Tiêu Tương dạ vũ từ sau cây tùng vọng lại rồi xa dần…

Phí Bân nhảy lên rồi lập tức ngã xuống, máu từ vết thương trước ngực hắn phun ra như suối. Trong trận kịch chiến vừa rồi, hắn vận nội lực chính tông của phái Tung Sơn, sau khi bị kiếm đâm vào ngực mà nội lực vẫn chưa tan, nên nội lực ép máu tươi trong vết thương phụt ra ngoài, trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ.

Hồi 27: Trao hào kiệt Tiếu Ngạo giang hồ

Nghi Lâm đỡ bên vai Lệnh Hồ Xung, trái tim trong lồng ngực cô đập loạn cả lên vì sợ hãi. Cô hỏi khẽ:

– Đại ca không bị thương chứ?

Khúc Dương thở dài nói:

– Lưu hiền đệ, hiền đệ nói sư huynh và hiền đệ bất hòa; không ngờ đến lúc hiền đệ lâm nguy thì lão ra tay cứu giúp.

Lưu Chính Phong nói:

– Sư ca của tiểu đệ hành động cổ quái khiến cho người khác khó đoán được. Tiểu đệ và sư ca bất đồng quyết không phải vì chuyện bần phú nhỏ nhoi, chỉ vì tính nết không hợp nhau mà thôi.

Khúc Dương lắc đầu nói:

– Kiếm pháp của lão tinh thâm như vậy nhưng tiếng hồ cầm lại thê lương não nuột, khiến người nghe phải rơi lệ. Lão chưa thoát được vòng trần tục, chưa ra khỏi được cái lẩn quẩn của đời thường.

Lưu Chính Phong nói:

– Đúng vậy, sư ca tấu hồ cầm chỉ có đi mà không có lại, khúc điệu vô cùng não nuột bi ai, cứ thế mà đi mãi. Ca từ diễn đạt cái vui vẻ mà không dâm, bi ai mà không ảm đạm, nhưng khúc điệu lại không được như vậy. Tiểu đệ vừa nghe tiếng hồ cầm của sư ca thì chỉ muốn tránh xa.

Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm:

– Hai người này mê âm nhạc quá mức, đang lúc hai chân sắp bước vào quan tài mà còn thảo luận cái gì bi ai mà không ảm đạm, cái gì phong nhã với tục khí. May mà Mạc Đại sư bá kịp thời đến cứu tính mệnh chúng ta, nhưng đáng tiếc tiểu cô nương họ Khúc lại bị Phí Bân giết chết rồi.

Lại nghe Lưu Chính Phong nói:

– Nhưng nói đến kiếm pháp võ công, tiểu đệ vạn lần cũng không bằng sư ca. Lúc bình thường tiểu đệ thất kính với sư ca, bây giờ nghĩ lại thật là hổ thẹn.

Khúc Dương gật đầu nói:

– Chưởng môn phái Hành Sơn quả thật danh bất hư truyền.

Nói xong lão quay đầu nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu huynh đệ, ta có một chuyện muốn thỉnh cầu, không biết tiểu huynh đệ có thể đáp ứng không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiền bối có điều gì sai bảo, vãn bối xin nghe theo.

Khúc Dương liếc nhìn Lưu Chính Phong rồi nói:

– Ta và Lưu hiền đệ say mê âm luật, đem mấy chục năm công lực ra để sáng chế khúc “Tiếu ngạo giang hồ”, một khúc nhạc kỳ diệu xưa nay chưa từng có. Từ nay về sau trên thế gian này nếu có được Khúc Dương thì không thể có Lưu Chính Phong; nếu có Lưu Chính Phong thì không thể có Khúc Dương. Cứ coi như hai nhân vật Khúc Dương và Lưu Chính Phong tuy không sinh cùng ngày nhưng đã có duyên tương ngộ nên kết giao bằng hữu. Hai người đã tinh thông âm luật, lại có nội công thâm hậu, sở thích giống nhau, lao tâm khổ trí cùng sáng tác ra khúc nhạc này, ta và Lưu hiền đệ dẫu thác về chín suối cũng không khỏi ngậm ngùi.

Lão nói đến đây, lấy từ trong bọc ra một cuốn sách rồi nói:

– Đây là cầm phổ và tiêu phổ của “Tiếu ngạo giang hồ”. Xin tiểu huynh đệ hãy niệm tình nghĩ đến tâm huyết của hai ta mà đem cầm phổ và tiêu phổ này đi khắp thế gian, kiếm tìm cho được truyền nhân.

Lưu Chính Phong nói:

– Khúc “Tiếu ngạo giang hồ” này nếu có thể truyền lại được cho thế gian thì ta và Khúc đại ca mới yên lòng nhắm mắt.

Lệnh Hồ Xung khom lưng nhận khúc phổ từ tay Khúc Dương, cất vào trong túi của mình rồi nói:

– Hai vị tiền bối hãy an tâm, vãn bối xin tận lực.

Trước đó, Lệnh Hồ Xung nghe Khúc Dương nói có chuyện khẩn cầu thì tưởng là chuyện khó khăn nguy hiểm, trong thâm tâm hắn đã nghĩ ra cách để giải quyết, chỉ sợ phải vi phạm môn quy, đắc tội với đồng đạo trong chính phái. Nhưng hắn không ngờ Khúc Dương chỉ muốn hắn tìm giúp hai người học gảy đàn thổi sáo, lúc này hắn mới an tâm, nhẹ thở phào một cái.

Lưu Chính Phong nói:

– Lệnh Hồ hiền điệt, khúc nhạc kỳ lạ này không những là tất cả tâm huyết của hai chúng ta tạo nên mà lại có liên quan đến một vị tiền nhân. Trong “Tiếu ngạo giang hồ” có đoạn viết cho đàn là do Khúc đại ca dựa vào khúc “Quảng Lăng tán” của Kê Khang đời Tấn mà cải biên thành.

Đối với chuyện này, Khúc Dương rất đắc ý. Lão mỉm cười nói:

– Ngàn xưa đã tương truyền, sau khi Kê Khang chết, khúc “Quảng Lăng tán” không còn nữa. Tiểu huynh đệ có đoán ra ta kiếm được nó từ đâu không?

Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Đạo lý của âm luật ta chẳng hiểu một chút nào cả, huống hồ hai người này hành sự không giống ai, ta làm sao mà đoán được. Hắn bèn nói:

– Xin tiền bối chỉ giáo cho.

Khúc Dương cười nói:

– Kê Khang là người có tính cách rất đặc biệt. Sử thư khen Kê Khang là “Văn từ trang nghiêm, từ thuở trẻ đã thấm nhuần tư tưởng của Lão Trang”, tính cách của Kê Khang rất hợp với ta. Chung Hội lúc đó làm quan lớn, ngưỡng mộ danh tiếng của Kê Khang tìm đến thăm; Kê Khang cứ chuyên chú đánh kiếm, không cần biết đến sự có mặt của Chung Hội. Chung Hội muốn hỏi một điều nhưng không còn hứng thú nữa, bèn bỏ đi. Kê Khang hỏi Chung Hội: “Ngươi nghe cái gì mà đến, đã thấy cái gì mà đi?” Chung Hội nói: “Ta nghe cái đã nghe mà đến, thấy cái đã thấy mà đi”. Chung Hội được coi là một kẻ sĩ thông minh tài trí, nhưng đáng tiếc tính tình lại nhỏ nhen, vì chuyện này mà ấm ức trong lòng, sàm tấu Kê Khang với Tư Mã Chiêu. Tư Mã Chiêu bèn bắt Kê Khang đem giết. Lúc Kê Khang sắp bị hành hình bèn gảy lên một khúc nhạc tràn đầy khí phách, nhưng Kê Khang lại nói: “Quảng Lăng tán từ đây không còn nữa”. Người hậu thế nghe được câu nói này. Nên nhớ rằng khúc nhạc này không phải do Kê Khang sáng tác. Kê Khang là người đời Tây Tấn, khúc nhạc này sau đời Tây Tấn thì bị thất truyền, như vậy nó phải có trước đời Tây Tấn chứ?

Lệnh Hồ Xung không hiểu bèn hỏi:

– Trước đời Tây Tấn ư?

Khúc Dương nói:

– Đúng vậy. Ta không phục câu nói của Kê Khang, bèn tìm cách đi quật mộ phần của hoàng đế và đại thần hai triều Tây Hán và Đông Hán. Liên tục quật hai mươi chín ngôi mộ cổ, tới ngôi mộ cuối cùng ở Thái Ưng thì ta tìm được khúc phổ “Quảng Lăng tán”.

Lão nói xong cười ha hả, rất lấy làm đắc ý.

Lệnh Hồ Xung kinh hãi, nghĩ thầm:

– Lão này vì một khúc nhạc viết cho đàn mà lớn gan đi quật hai mươi chín ngôi mộ cổ!

Chợt thấy trên mặt Khúc Dương nụ cười biến mất, thần sắc ủ rũ, nói:

– Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ là đại đệ tử trong danh môn chính phái; ta vốn không muốn ủy thác việc này cho tiểu huynh đệ, nhưng tình thế rất cần cấp nên ta phải nhờ đến tiểu huynh đệ, xin đừng trách.

Lão nói xong quay sang Lưu Chính Phong nói:

– Lưu hiền đệ, chúng ta có thể đi được rồi đấy.

Lưu Chính Phong dạ một tiếng rồi đưa tay ra. Hai người nắm chặt tay nhau, cùng cất lên một tràng cười dài, vận nội lực khắp người, làm đứt đoạn nội tức lẫn tâm mạch. Cả hai cùng nhắm mắt đi về thế giới bên kia.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi la to:

– Tiền bối, sư thúc!

Hắn đưa tay sờ lên mũi của hai người thì không còn thấy hơi thở nữa.

Nghi Lâm sợ hãi lắp bắp:

– Họ… họ chết hết rồi ư?

Lệnh Hồ Xung gật đầu, nói:

– Sư muội, chúng ta mau đem bốn thi thể này chôn đi, để tránh khỏi bị người tìm ra sẽ sinh thêm chuyện. Chuyện Phí Bân bị Mạc Đại tiên sinh giết nhất thiết không được tiết lộ ra ngoài.

Lệnh Hồ Xung nói đến đây, hạ nhỏ giọng:

– Nếu chuyện này mà tiết lộ ra ngoài, Mạc Đại tiên sinh sẽ biết do hai chúng ta nói ra thì tai họa không nhỏ đâu.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ, nếu sư phụ hỏi, tiểu muội có nên nói không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bất kỳ ai hỏi cũng không được nói. Tiểu muội mà nói thì Mạc Đại tiên sinh sẽ đến so kiếm với sư phụ của tiểu muội, há không phải hỏng bét sao?

Nghi Lâm nghĩ đến chuyện vừa được chứng kiến kiếm pháp của Mạc Đại tiên sinh thì không kìm được sợ hãi, vội nói:

– Tiểu muội không nói đâu.

Lệnh Hồ Xung cúi người xuống nhặt trường kiếm của Phí Bân lên, đâm mười bảy mười tám nhát trên thi thể của hắn.

Nghi Lâm cảm thấy bất nhẫn, liền nói:

– Lệnh Hồ đại ca, người ta đã chết rồi, hà tất đại ca còn hận thù mà giày xéo thi thể người ta như vậy?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Lưỡi kiếm của Mạc Đại tiên sinh vừa nhỏ vừa mỏng, người qua đây thấy vết thương của Phí sư thúc thì biết ngay là ai đã hạ thủ. Ta không phải muốn hành hạ thi thể của Phí sư thúc, mà chỉ muốn làm cho các vết thương trên người lão loạn xạ cả lên để ai nhìn cũng không nhận ra người hạ thủ mà thôi.

Nghi Lâm thở dài rồi nghĩ: Giang hồ có quá nhiều chuyện dối trá, thật… thật là khó đoán.

Lệnh Hồ Xung liệng trường kiếm xuống, nhấc một cục đá đặt lên thi thể của Phí Bân, nói:

– Tiểu muội đừng động lòng, ngồi xuống nghỉ ngơi đi.

Nói xong chàng nhấc cục đá đặt nhè nhẹ lên thi thể của Phí Bân, dường như nghĩ thi thể cũng có tri giác, hắn chỉ sợ thi thể bị đau.

Nghi Lâm nhặt đá lần lượt lấp hết bốn thi thể của bọn Lưu Chính Phong. Lúc lấy đá lấp đi thi thể Khúc Phi Yên, cô nói:

– Tiểu muội muội, nếu tiểu muội không vì ta thì đâu gặp nguy nan như thế này. Ta mong tiểu muội được lên tiên giới hưởng phúc; kiếp sau đầu thai lại làm thân nam tử, tích nhiều công đức để cuối cùng có thể đến được cõi Tây phương cực lạc. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát…

Lệnh Hồ Xung ngồi trên tảng đá, nghĩ đến ân cứu mạng của Khúc Phi Yên, nghĩ đến cô bé tuổi còn nhỏ mà sớm gặp bất hạnh, lòng rất thương cảm. Chàng vốn không tin đạo Phật, nhưng cũng ráng niệm vài câu “Nam mô A Di Đà Phật” với Nghi Lâm.

Một lúc sau, vết thương của Lệnh Hồ Xung đau buốt. Hắn lấy từ trong người ra khúc phổ “Tiếu ngạo giang hồ”, mở ra xem chỉ thấy toàn là những văn tự cổ quái, một chữ cũng không đọc ra. Sở học, văn tự của hắn vốn có hạn, không biết cầm phổ của thất huyền cầm vốn là kỳ hình quái tự ; còn văn tự trong tiêu phổ lại cổ xưa và bí hiểm, chính hắn chưa hề thấy qua. Tiện tay, hắn gấp cuốn sách cất vào trong túi, ngẩng đầu lên trời thở dài, rồi nghĩ: Lưu sư thúc kết giao bằng hữu khiến tính mệnh toàn gia bị diệt. Tuy sư thúc kết giao với trưởng lão trong Ma giáo nhưng cả hai đều gan dạ nghĩa khí, không hổ thẹn là những bậc hảo hán tử oanh liệt, thật khiến cho người đời khâm phục. Ngày Lưu sư thúc rửa tay gác kiếm muốn rút ra khỏi võ lâm không biết như thế nào mà kết oán thù với phái Tung Sơn. Thật là kỳ lạ.

Hồi 28: Hẻm Hướng Dương phố Phúc Châu

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bỗng thấy thanh quang lấp loáng ở góc Tây Bắc, ánh sáng ngang dọc, vừa nhìn đã biết ngay là có trận chiến quyết liệt, dường như cao thủ của bổn môn và người đang giao đấu. Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu sư muội, tiểu muội ngồi đây đợi ta một chút, ta đi một lát rồi về ngay.

Nghi Lâm đang lấy đất đắp mộ, không thấy được ánh thanh quang đó, chẳng biết đại ca muốn đi đâu chốc lát, cô bèn gật đầu.

Lệnh Hồ Xung chống gậy bước được mười mấy bước, nhặt lấy trường kiếm của Phí Bân đeo vào sau lưng rồi tiến về phía phát ra thanh quang. Đi được một lúc, đã nghe được loáng thoáng tiếng đao kiếm giao đấu kịch liệt, nhanh như pháo liên châu. Chàng nghĩ thầm: Không hiểu vị tôn trưởng nào của bổn môn đã cùng người động thủ? Đấu với nhau như vậy, rõ ràng đối phương là một cao thủ.

Lệnh Hồ Xung nép thấp người xuống, từ từ di chuyển đến gần. Khi nghe tiếng đao kiếm giao đấu không xa, hắn núp vào phía sau một gốc đại thụ, nhìn ra. Dưới ánh trăng, một vị nho sinh tay cầm trường kiếm đứng yên một chỗ, chính là sư phụ Nhạc Bất Quần. Một đạo nhân thấp bé chạy vòng ngoài vô cùng mau lẹ bao vây Nhạc Bất Quần; trường kiếm trong tay lão phóng rất nhanh, mỗi vòng chạy phóng ra đến mười mấy kiếm. Đó chính là Dư Thương Hải, chưởng môn phái Thanh Thành.

Lệnh Hồ Xung bất ngờ thấy sư phụ và người động thủ, đối thủ lại là chưởng môn phái Thanh Thành, bất giác cảm thấy cao hứng. Phong cách của sư phụ nhàn nhã, mỗi kiếm của Dư Thương Hải đâm tới sư phụ chỉ tiện tay gạt ra. Dư Thương Hải chuyển đến sau lưng sư phụ, sư phụ cũng không quay người lại, chỉ quơ kiếm hộ thân ở phía sau. Dư Thương Hải phóng kiếm càng lúc càng nhanh, Nhạc Bất Quần chỉ thủ mà không xuất chiêu. Lệnh Hồ Xung rất khâm phục, thầm nghĩ: Trong võ lâm, sư phụ ta được tôn xưng là Quân tử kiếm, quả nhiên phong độ ung dung nho nhã; cùng người động thủ ra chiêu mà cũng không có một chút bá đạo nào.

Hắn xem một lúc, lại nghĩ: Sở dĩ sư phụ không nổi nóng bởi vì phong độ sư phụ không những rất nhàn nhã mà võ công lại rất cao thâm.

Nhạc Bất Quần ít động thủ với ai. Trước nay, Lệnh Hồ Xung thường thấy lão chỉ ra chiêu tỉ thí với sư mẫu hoặc truyền dạy cho bọn đệ tử nhưng cũng chỉ là đánh giả, bây giờ hắn mới được xem sư phụ chiến đấu thực sự, tất nhiên là không giống vậy. Lại thấy Dư Thương Hải phóng kiếm đều phát ra những tiếng rít veo véo đủ biết nội lực của lão rất mạnh. Lệnh Hồ Xung lo thầm, nghĩ: Ta trước nay vẫn coi thường phái Thanh Thành, nào ngờ lão đạo sĩ thấp bé này lại lợi hại như vậy. Nếu ta không bị thương, quyết cũng không thể là đối thủ của lão. Lần sau có gặp lão, ta nên cẩn thận; tốt hơn hết là sớm tránh xa.

Lại xem thêm một lúc nữa, hắn thấy Dư Thương Hải càng chuyển động càng nhanh, vòng quay của lão hóa thành một bóng xanh xoay quanh Nhạc Bất Quần. Song kiếm giao nhau rất nhanh, tiếng trước tiếp liền sau thành một chuỗi âm thanh kéo dài vô tận. Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nếu mấy chục chiêu kiếm kia đều phóng vào mình, e rằng một chiêu mình đỡ cũng không nổi, toàn thân sẽ bị lão đâm mười mấy vết ngay. Đạo sĩ lùn này còn hơn cả Điền Bá Quang, dường như ra tay mà không cần phải trù tính gì cả.

Thấy sư phụ vẫn không chuyển thế công, bất giác chàng ngấm ngầm sợ hãi: Kiếm pháp của đạo sĩ lùn này thật lợi hại; sư phụ mà sơ hở một chút thì sẽ thất bại dưới kiếm của lão ngay.

Bỗng nghe một tiếng choang rất nhanh, Dư Thương Hải bay vọt về phía sau hơn một trượng, đứng lại. Không biết lão đã tra kiếm vào vỏ từ lúc nào. Lệnh Hồ Xung giật mình nhìn sư phụ, cũng thấy trường kiếm của sư phụ đã tra vào vỏ rồi, vẫn đứng bất động. Biến cố này diễn ra quá nhanh. Lệnh Hồ Xung không biết ai thắng ai bại, cũng không biết có người nào bị nội thương hay không.

Nhạc Bất Quần và Dư Thương Hải đứng lặng người nhìn nhau một lúc. Dư Thương Hải lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:

– Được, sau này có dịp gặp lại.

Nói xong lão xoay người hướng về mé phải vọt đi. Nhạc Bất Quần lớn tiếng nói:

– Dư quán chủ khoan hãy đi! Vợ chồng Lâm Chấn Nam thế nào rồi?

Lão nói rồi phóng người đuổi theo, dư âm chưa dứt, bóng của hai người đã mất hút.

Lệnh Hồ Xung biết được sư phụ đã thắng Dư Thương Hải, lòng thầm vui mừng. Chàng đang bị trọng thương lại đứng lâu nên cảm thấy rất mệt, nghĩ bụng: Sư phụ đuổi theo Dư Thương Hải, cả hai triển khai khinh công, trong nháy mắt chắc đã chạy xa đến mấy dặm.

Lệnh Hồ Xung chống gậy, quay về hướng Nghi Lâm, bỗng nghe mé trái khu rừng phát ra tiếng kêu thảm thiết, thanh âm rất thê lương. Lệnh Hồ Xung giật mình, đi thêm vài bước về hướng khu rừng, nhìn thấy một bức tường màu vàng ẩn hiện, dường như là một ngôi miếu. Chàng lo bọn sư đệ, sư muội đồng môn và bọn đệ tử phái Thanh Thành loạn đấu với nhau bị thương, liền bước nhanh về hướng bức tường.

Đi đến cách ngôi miếu khoảng mấy trượng, bỗng nghe trong miếu có một giọng nói chát chúa của một lão già:

– Bây giờ Tịch tà kiếm phổ đang ở đâu? Ngươi nên ngoan ngoãn nói cho ta biết, ta sẽ vì vợ chồng ngươi mà báo thù, thay ngươi đi tru diệt toàn phái Thanh Thành cho.

Lúc Lệnh Hồ Xung nằm ở trên giường trong Quần Ngọc viện đã từng nghe giọng người này nói.

Chàng biết lão già đang nói là Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong, thầm nghĩ: Sư phụ mình đang đi tìm vợ chồng Lâm Chấn Nam bị thất lạc, thì ra hai người này rơi vào tay Mộc Cao Phong.

Lại nghe tiếng một người đàn ông nói:

– Ta không biết Tịch tà kiếm phổ là cái gì. Tịch tà kiếm pháp được truyền qua mấy đời của nhà họ Lâm ta đều là khẩu quyết chứ không có kiếm phổ.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Lão này nhất định là phụ thân của Lâm sư đệ, tổng tiêu đầu Lâm Chấn Nam của Phước Oai tiêu cục rồi.

Lại nghe Lâm Chấn Nam nói:

– Tiền bối muốn vì tại hạ mà báo thù, tại hạ cảm kích vô cùng. Dư Thương Hải phái Thanh Thành đã làm nhiều chuyện bất nghĩa, ngày sau tất có họa báo, dù hắn không bị tiền bối giết thì cũng sẽ chết dưới đao kiếm của một vị anh hùng hảo hán khác.

Mộc Cao Phong nói:

– Ngươi nói như vậy là không tin vào ta lắm. Danh tiếng Tái Bắc minh đà chắc ngươi đã được nghe nhiều.

Lâm Chấn Nam nói:

– Mộc tiền bối oai trấn giang hồ, không ai không biết, không ai không nghe.

Mộc Cao Phong nói:

– Hay lắm, hay lắm! Oai trấn giang hồ, thật không dám! Nhưng họ Mộc này ra tay rất tàn nhẫn, trước nay không hề nương tình, chắc là ngươi cũng đã nghe qua rồi.

Lâm Chấn Nam nói:

– Ý của Mộc tiền bối là dùng cường lực để đối phó với Lâm mỗ, chuyện này Lâm mỗ cũng đã liệu trước rồi. Đừng nói nhà họ Lâm ta không có Tịch tà kiếm phổ, mà nếu có thật đi nữa thì bất luận người nào có uy hiếp dụ dỗ đến đâu, Lâm mỗ cũng quyết không nói ra. Lâm mỗ bị phái Thanh Thành giam cầm, không có ngày nào mà không chịu cực hình; võ công của Lâm mỗ tuy thấp nhưng xương cốt lại rất cứng rắn.

Mộc Cao Phong nói:

– Đúng rồi, đúng rồi, đúng rồi!

Lệnh Hồ Xung đứng ngoài miếu nghe vậy, bèn nghĩ: Cái gì là “Đúng rồi, đúng rồi, đúng rồi!” Thì ra là như vậy. Quả nhiên nghe Mộc Cao Phong nói tiếp:

– Ngươi khoác lác tự cho mình có xương cốt cứng rắn, chịu đựng nổi cực hình, bất luận lão mũi trâu lùn beo phái Thanh Thành tra tấn thế nào vẫn kiên quyết không khai. Nếu nhà họ Lâm ngươi vốn không có Tịch tà kiếm phổ thì khi ngươi không khai có nghĩa là không thể khai được, đừng cho rằng xương cốt cứng hay là không cứng. Phải rồi, Tịch tà kiếm phổ của ngươi là có thật, có nói sao cũng không chịu đưa ra.

Một lúc sau, lão thở dài nói:

– Ta thấy ngươi thật ngu xuẩn. Lâm tổng tiêu đầu, tại sao ngươi chịu chết mà không chịu đưa kiếm phổ ? Kiếm phổ này chẳng ích lợi gì cho ngươi cả. Theo ta thấy, kiếm pháp ghi trên kiếm phổ này có lẽ rất tầm thường, nếu không thì tại sao ngay cả đệ tử phái Thanh Thành ngươi cũng đấu không lại? Loại võ công như vậy không cần đề cập đến nữa.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đúng rồi, Mộc tiền bối nói không sai. Đừng nói ta không có Tịch tà kiếm phổ, cứ coi như có thật đi thì bộ kiếm pháp mèo què này cũng tầm thường thôi, đến cả tính mạng người thân trong nhà của mình cũng không bảo vệ được. Mộc tiền bối để mắt tới kiếm phổ làm gì?

Mộc Cao Phong cười nói:

– Ta chỉ hiếu kỳ thôi. Lão mũi trâu lùn beo kêu nhiều người đến đánh, tìm mọi cách tra tấn ngươi, vậy thì trong kiếm phổ tất có điều gì kỳ lạ. Nói không chừng kiếm pháp ghi trong kiếm phổ rất cao thâm, mà tư chất của ngươi lại ngu muội nên không có cách lĩnh ngộ được, mới làm ô nhục thanh danh của tổ tiên nhà họ Lâm ngươi. Ngươi mau đem ra đi để cho lão nhân gia xem một chút, chỉ ra những điểm hay của Tịch tà kiếm pháp nhà họ Lâm cho anh hùng thiên hạ đều biết, há không phải là tốt đẹp cho thanh danh nhà họ Lâm ngươi sao?

Lâm Chấn Nam nói:

– Hảo ý của Mộc tiền bối tại hạ xin tâm lãnh. Tiền bối lục soát khắp người tại hạ thử xem có Tịch tà kiếm phổ hay không?

Mộc Cao Phong nói:

– Không cần phải vậy. Ngươi bị phái Thanh Thành giam cầm đã nhiều ngày chỉ sợ chúng đã lục soát trên người của ngươi không mười lần thì cũng tám lần. Lâm tổng tiêu đầu, ta cảm thấy ngươi ngu xuẩn lắm, ngươi có biết không?

Lâm Chấn Nam nói:

– Tại hạ quả thật là ngu xuẩn, không cần đến tiền bối chỉ điểm, tại hạ đã biết từ lâu rồi.

Mộc Cao Phong nói:

– Không đúng, ngươi không biết. Hoặc giả Lâm phu nhân có thể biết rõ chăng cũng không biết chừng. Tấm lòng yêu con của từ mẫu bao giờ cũng lớn hơn nghiêm phụ.

Lâm phu nhân thét lên:

– Mộc tiền bối nói sao? Chuyện đó với Bình nhi ta đâu có liên can gì? Bình nhi thế nào? Hắn… hắn ở đâu?

Mộc Cao Phong nói:

– Tiểu tử Lâm Bình Chi thông minh lanh lợi, lão phu vừa thấy là đã thích lắm rồi. Hài tử cũng rất hiểu võ công của lão lợi hại liền bái sư vào làm môn hạ của lão phu.

Lâm Chấn Nam nói:

– Thì ra hài tử của ta bái Mộc tiền bối làm sư phụ, thật là may mắn cho hắn. Hai vợ chồng tại hạ đã chịu nhiều cực hình, thân bị trọng thương, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Cầu mong Mộc tiền bối cho kêu hài nhi đến đây để gặp hai vợ chồng tại hạ lần cuối.

Mộc Cao Phong nói:

– Ngươi muốn hài tử đến để vĩnh biệt nhau cũng là chuyện thường tình của con người, chuyện này không khó.

Lâm phu nhân nói:

– Bình nhi ở đâu? Mộc tiền bối, ta cầu xin tiền bối mau bảo hài nhi đến đây, đại ân đại đức này ta vĩnh viễn không bao giờ quên.

Mộc Cao Phong nói:

– Được, để ta đi kêu hắn. Có điều trước nay, Mộc Cao Phong này không chịu để ai sai khiến; ta đi gọi hài nhi của ngươi đến, việc đó dễ như trở bàn tay, song trước hết các ngươi hãy ngoan ngoãn nói chỗ để Tịch tà kiếm phổ cho ta nghe đã.

Lâm Chấn Nam thở dài nói:

– Mộc tiền bối thật sự không tin thì tại hạ cũng không biết làm sao. Tính mệnh vợ chồng tại hạ như chỉ mành treo chuông, muốn gặp mặt hài nhi lần cuối chắc khó đạt được ý nguyện. Nếu quả thật có Tịch tà kiếm phổ, thì tiền bối không cần hỏi, tại hạ cũng sẽ cầu xin tiền bối chuyển lời cho hài nhi tại hạ.

Mộc Cao Phong nói:

– Đúng vậy. Ta nói ngươi ngu xuẩn lắm vì đến giờ phút này, tâm mạch của ngươi đã bị đứt hết, ta không cần chỉ một đầu ngón tay lên trên người của ngươi thì ngươi cũng sống không được một giờ ba khắc nữa. Ngươi chết cũng không chịu nói chỗ để kiếm phổ, vậy là sao? Tất nhiên là ngươi muốn bảo toàn công phu tổ truyền của họ Lâm, nhưng sau khi ngươi chết, họ Lâm chỉ còn lại một hài nhi Lâm Bình Chi. Nếu ngay cả hắn cũng chết đi thì trên đời này có kiếm phổ cũng không có con cháu của Lâm gia luyện kiếm; kiếm phổ này có còn trên thế gian thì đối với nhà họ Lâm ngươi cũng vô dụng!

Lâm phu nhân sợ hãi nói:

– Hài nhi của ta… hài nhi của ta bình an chứ?

Mộc Cao Phong nói:

– Bây giờ tất nhiên là bình an vô sự. Hai ngươi hãy nói chỗ để kiếm phổ, sau khi lấy được, ta bảo đảm sẽ giao hài nhi của các ngươi ra. Nếu hắn không hiểu rõ, ta có thể ở bên cạnh chỉ điểm để khỏi giống như Lâm tổng tiêu đầu nghiên cứu Tịch tà kiếm pháp cả đời mà đến lúc già vẫn chưa hiểu cái kỳ diệu của nó, một chút cũng không thông. Còn không thì ta phải đánh một chưởng cho hài nhi của ngươi chết còn hay hơn.

Tiếp theo chỉ nghe rầm một tiếng, hiển nhiên là lão vung chưởng đánh đổ một vật gì lớn ở trong miếu.

Lâm phu nhân kinh hãi hỏi:

– Sao… sao lại vung chưởng đánh chết con trai của ta?

Mộc Cao Phong cười ha hả nói:

– Lâm Bình Chi là đồ nhi của ta, ta muốn hắn sống thì hắn sống, muốn hắn chết thì hắn chết. Khi nào ta thích vung một chưởng đánh chết hắn thì cứ vung chưởng lên.

Lại nghe mấy tiếng loảng xoảng, lão dùng chưởng lực đánh đổ tiếp một vật gì đó.

Lâm Chấn Nam nói:

– Nương tử không cần nói nhiều. Hài nhi của chúng ta không nằm trong tay lão đâu, nếu có thì tại sao lão lại không đem đến đây để uy hiếp chúng ta?

Mộc Cao Phong ha hả nói:

– Ta nói ngươi ngu, quả nhiên ngươi ngu như bò. Tái Bắc minh đà muốn giết hài nhi của ngươi có gì là khó đâu. Có thể nói bây giờ hắn không ở trong tay ta nhưng nếu ta quyết chí đi tìm để giết hắn lẽ nào ta không làm được? Bằng hữu của họ Mộc này có khắp thiên hạ, tai mắt rất nhiều, muốn tìm đứa con bảo bối của ngươi thì chẳng phí tâm lực chút nào hết.

Lâm phu nhân nói nhỏ:

– Tướng công, nếu lão thực sự muốn tìm hài nhi của chúng ta để giết cho hả giận…

Mộc Cao Phong tiếp:

– Đúng vậy, hai ngươi hãy nói ra, nếu tính mạng hai ngươi mất đi thì còn có Lâm Bình Chi sống để tiếp tục hương khói không phải là điều tốt sao?

Lâm Chấn Nam cười hà hà, nói:

– Phu nhân ơi, nếu chúng ta nói ra chỗ để Tịch tà kiếm phổ cho lão nghe thì lão gù này trước hết là đi lấy kiếm phổ, sau đó là giết con chúng ta. Nếu ta không nói thì lão gù này muốn được kiếm phổ phải bảo hộ tính mạng Bình nhi được chu toàn, một ngày mà Bình nhi chưa nói ra thì lão sẽ không giết hắn. Chuyện đó ai cũng biết.

Lâm phu nhân nói:

– Đúng vậy, lão gù kia mau đem vợ chồng ta giết đi!

Lệnh Hồ Xung nghe đến đây, nghĩ rằng Mộc Cao Phong chắc giận lắm, nếu không tìm cách dẫn dụ lão đi thì khó bảo toàn tính mạng vợ chồng Lâm Chấn Nam. Chàng lớn tiếng nói:

– Mộc tiền bối, Lệnh Hồ Xung đệ tử phái Hoa Sơn phụng mệnh sư phụ xin thỉnh Mộc tiền bối dời gót ra đây có chuyện cần bàn bạc.

Mộc Cao Phong vô cùng tức giận, vung chưởng lên định đánh vào đầu Lâm Chấn Nam, bỗng nghe tiếng Lệnh H ồ Xung nói ngoài miếu, không kìm được kinh sợ. Bình sinh, lão chưa hề nhân nhượng ai nhưng đối với chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần thì lão có lòng kiêng dè, nhất là khi ở Quần Ngọc viện, lão đã được nếm qua Tử hà công lợi hại của Nhạc Bất Quần. Lão uy hiếp vợ chồng Lâm Chấn Nam là hành động danh môn chính phái không bao giờ làm, sư đồ Nhạc Bất Quần có lẽ đang ở bên ngoài miếu nghe hết ráo rồi. Lão nghĩ: Nhạc Bất Quần bảo ta có chuyện bàn bạc gì đây? Lão muốn dùng lời hay để khuyên ta hay dùng lời mỉa mai châm biếm để sỉ nhục ta. Hảo hán không thể thụ nhục, tốt nhất là nên chuồn khỏi đây ngay. Lão liền nói:

– Mộc mỗ đang bận việc khác, không thể nào tuân theo lời mời được. Ngươi hãy bẩm báo với tôn sư, lúc nào rảnh rỗi xin mời đến Tái Bắc chơi, Mộc mỗ sẽ quét sạch cửa ngõ để đón tiếp.

Lão vừa nói hai chân vừa lùi từ trong miếu ra ngoài sân, chân trái nhẹ điểm xuống đất phóng người lên trên nóc miếu rồi nhảy ra phía sau. Lão sợ bị Nhạc Bất Quần cản lại chất vấn nên vọt đi như một làn khói.

Lệnh Hồ Xung biết lão đã đi xa, lòng vui mừng, nghĩ thầm: Thì ra lão gù này sợ sư phụ ta gần chết. Nếu quả thật lão không chịu đi mà kiếm chuyện với ta thì thật nguy hiểm cho ta vô cùng.

Lệnh Hồ Xung chống gậy đi vào trong miếu thổ địa, trong điện tối thui không có đèn lửa nhưng chàng vẫn thấy hai bóng người một nam một nữ nửa nằm nửa ngồi cùng tựa lưng vào ghế. Chàng khom lưng nói:

– Tiểu điệt là Lệnh Hồ Xung, môn hạ của phái Hoa Sơn, cùng với Bình Chi sư đệ có nghĩa đồng môn, xin ra mắt Lâm bá phụ và Lâm bá mẫu.

Lâm Chấn Nam vui mừng nói:

– Tiểu hiệp chớ đa lễ, ta không dám nhận đâu. Hai vợ chồng ta đang bị trọng thương, khó đáp lễ lại, xin tha lỗi. Hài nhi của ta có thật là đã bái Nhạc đại hiệp để làm môn hạ của phái Hoa Sơn không?

Lão nói đến chữ cuối cùng thì giọng đã run run. Oai danh của Nhạc Bất Quần trong võ lâm cao hơn Dư Thương Hải gấp bội. Lâm Chấn Nam vì muốn kết thân với Dư Thương Hải nên hàng năm đều phái người đưa tặng lễ vật, nhưng đối với các chưởng môn nhân trong Ngũ Nhạc kiếm phái của bọn Nhạc Bất Quần thì lão tự biết không thể kết giao được, ngay cả lễ vật cũng không dám đưa tặng. Trước mắt, lão thấy Mộc Cao Phong hung hãn như vậy mà vừa nghe đến tên Nhạc Bất Quần phái Hoa Sơn thì lập tức bỏ chạy có cờ. Hài nhi của lão may mắn bái sư làm môn hạ phái Hoa Sơn, thật không có gì vui bằng.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy, lão gù Mộc Cao Phong đã ép buộc lệnh lang làm đồ đệ nhưng lệnh lang quyết không chịu. Lão gù đó đang muốn gia hại y thì được sư phụ của tiểu điệt giải cứu. Lệnh lang đã cầu xin, mong được đầu nhập vào môn phái của tiểu điệt; sư phụ thấy y rất thành khẩn, lại có thể trở thành nhân tài bèn nhận lời. Vừa rồi, sư phụ của tiểu điệt và Dư Thương Hải đấu kiếm, sư phụ đánh cho lão thua phải bỏ chạy. Sư phụ của tiểu điệt đuổi theo muốn hỏi lão chỗ giam giữ bá phụ bá mẫu. Không ngờ hai vị lại ở đây.

Lâm Chấn Nam nói:

– Ta mong… mong gặp Bình nhi ngay mới được, chậm… chậm thì không kịp nữa.

Lệnh Hồ Xung nghe giọng nói của lão rất yếu ớt, rõ ràng tính mạng của lão lâm nguy trong khoảnh khắc, bèn nói:

– Thưa Lâm bá phụ, tiểu điệt còn chưa nói, sư phụ của tiểu điệt sau khi giải quyết xong Dư Thương Hải sẽ đến đây tìm bá phụ ngay. Sư phụ lão nhân gia tất có cách trị thương cho bá phụ.

Lâm Chấn Nam cười đau đớn, nhắm đôi mắt lại, một lúc sau nói khẽ:

– Lệnh Hồ hiền điệt… ta… ta… không thể sống được nữa rồi. Bình nhi được làm môn hạ của phái Hoa Sơn khiến ta thật sự vui sướng, xin… xin hiền điệt ngày sau… chăm sóc, chỉ vẽ thêm cho y.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Bá phụ hãy an tâm, bọn tiểu điệt là đồng môn học nghệ thì coi nhau như huynh đệ ruột thịt. Hôm nay, tiểu điệt chịu lời ủy thác của bá phụ, tất nhiên phải hết sức chiếu cố cho Lâm sư đệ.

Lâm phu nhân nói vào:

– Hai vợ chồng ta có về nơi chín suối cũng không lúc nào quên đại ân, đại đức của Lệnh Hồ thiếu hiệp.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Xin hai vị đừng nói nữa, hãy ngưng thần tịnh dưỡng.

Lâm Chấn Nam thở gấp, hơi thở đứt đoạn, nói:

– Xin… xin hiền điệt dặn lại cho hài nhi của ta rõ: Trong hẻm Hướng Dương thành Phúc Châu, có một vật còn lại trong ngôi nhà cũ là… là vật tổ truyền của nhà họ Lâm ta, gã nên… nên giữ gìn cẩn thận. Nhưng… nhưng tằng tổ Viễn Đồ Công có di huấn: “Phàm là con cháu ta thì không được mở ra xem, nếu không sẽ gặp rất nhiều hoạn nạn”. Gã phải… phải nhớ kỹ lời dạy này.

Lệnh Hồ Xung gật đầu đáp:

– Được. Tiểu điệt sẽ chuyển những lời di ngôn này đến y.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đa… đa… đa…

Chữ “tạ” cuối cùng vẫn chưa nói được thì lão đã tắt thở rồi. Trước đây, lão gắng gượng chống chọi, chỉ mong có thể gặp mặt hài nhi để nói ra những lời quan trọng này. Bây giờ, được Lệnh Hồ Xung đồng ý chuyển lời, lại biết hài nhi đã được nhận vào làm môn hạ phái Hoa Sơn thì lão rất vui mừng, không còn lo lắng gì nữa, mới an tâm mà đi.

Lâm phu nhân nói:

– Lệnh Hồ thiếu hiệp, mong thiếu hiệp nói với hài nhi của ta đừng bao giờ quên mối thâm thù của phụ mẫu.

Nói xong, bà nghiêng người cố sức đập đầu vào cột đá. Bà vốn đã bị trọng thương, một cái đập đầu nhẹ cũng đủ qua đời.

Lệnh Hồ Xung thở dài nghĩ thầm:

– Dư Thương Hải và Mộc Cao Phong bức bách lão nói ra chỗ để Tịch tà kiếm phổ nhưng lão thà chịu chết chứ không nói, đợi đến bây giờ biết mình gần chết mới bất đắc dĩ ủy thác cho ta chuyển lời. Nhưng lão sợ ta đi lấy kiếm phổ của nhà họ Lâm nên nói “không được mở ra xem, nếu không thì sẽ gặp rất nhiều hoạn nạn”. Ha ha… Lệnh Hồ Xung ta là hạng người như thế nào mà đi dòm ngó kiếm phổ của nhà họ Lâm? Thật là lấy tấm lòng của tiểu nhân…

Lệnh Hồ Xung đã thấm mệt, liền ngồi d ựa vào cột, nhắm mắt dưỡng thần. Một lúc lâu sau, nghe tiếng Nhạc Bất Quần ở ngoài miếu nói:

– Chúng ta vào trong miếu xem sao.

Lệnh Hồ Xung gọi:

– Sư phụ, sư phụ!

Nhạc Bất Quần vui mừng nói:

– Xung nhi phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp dạ rồi chống gậy chầm chậm đứng dậy. Lúc này, trời đã bình minh. Nhạc Bất Quần tiến vào trong miếu, nhìn thi thể hai vợ chồng Lâm Chấn Nam, chau mày nói:

– Vợ chồng Lâm tổng tiêu đầu đây ư?

Lệnh Hồ Xung đem chuyện Mộc Cao Phong bức bách vợ chồng Lâm Chấn Nam thế nào, tự mình lấy tên của sư phụ dọa lão làm lão sợ hãi bỏ đi ra sao, tình trạng vợ chồng Lâm Chấn Nam qua đời như thế nào lần lượt kể hết ra. Di ngôn sau cùng của Lâm Chấn Nam cũng được hắn bẩm báo rõ cho sư phụ nghe hết.

Nhạc Bất Quần trầm ngâm nói:

– Hừ, Dư Thương Hải đã uổng công hao tâm tổn sức một phen mà chẳng được gì, lại gây ra tội nghiệt không nhỏ.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Sư phụ, lão thấp lùn họ Dư đã đắc tội với sư phụ ư?

Nhạc Bất Quần đáp:

– Dư quán chủ có trình độ khinh công cực kỳ nhanh, ta đuổi theo rất lâu mà không thể đuổi kịp, lão chạy càng lúc càng xa. Khinh công của phái Thanh Thành quả thật cao hơn khinh công của phái Hoa Sơn ta một bậc.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Công phu Thí cổ hướng hậu rồi bỏ trốn của phái Thanh Thành vốn cao thâm hơn các phái khác.

Nhạc Bất Quần sa sầm nét mặt, mắng:

– Xung nhi, ngươi ăn nói khinh bạc, lời lẽ chẳng đứng đắn chút nào, làm sao có thể làm gương cho các sư đệ, sư muội được?

Lệnh Hồ Xung quay đầu, lè lưỡi rồi dạ một tiếng.

Nhạc Bất Quần nói:

– Ngươi trả lời thì trả lời, còn lè lưỡi ra là có ý gì?

Lệnh Hồ Xung lại dạ. Chàng được Nhạc Bất Quần nuôi dưỡng từ nhỏ đến lớn như phụ tử nên đối với sư phụ có phần kính sợ. Chàng cười hỏi:

– Sư phụ, sao sư phụ biết đệ tử lè lưỡi?

Nhạc Bất Quần hừ lên một tiếng, nói:

– Da dưới tai ngươi rung động, không phải lè lưỡi thì là cái gì? Ngươi buông tuồng bừa bãi, lần này lại bị lộ tẩy rồi. Thương thế có đỡ chút nào không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ, đã đỡ nhiều rồi.

Chàng lại nói:

– Một lần thất bại là một lần khôn ra.

Nhạc Bất Quần hừ lên một tiếng rồi nói:

– Ngươi khôn quá hóa thành yêu tinh rồi, còn nói chưa đủ khôn sao?

Lão lấy trong túi ra cây hỏa pháo, đến giữa sân bật lửa châm ngòi rồi ném lên trời.

Cây hỏa pháo bay vút lên, nổ đùng một tiếng ở lưng chừng trời, biến thành một thanh trường kiếm sắc bạc, lơ lửng trong không trung một lúc rồi mới từ từ rơi xuống. Khi rơi xuống cách mặt đất khoảng hơn mươi trượng thì hóa thành những vì sao tỏa khắp một vùng. Đây là tín hiệu của chưởng môn phái Hoa Sơn triệu tập các đồ đệ.

Thời gian qua chừng một bữa ăn, nghe xa xa có tiếng bước chân người vọng lại hướng về phía miếu thổ địa. Không bao lâu Cao Căn Minh đã ở ngoài miếu gọi:

– Sư phụ, sư phụ lão nhân gia có đây không?

Nhạc Bất Quần đáp:

– Ta ở trong miếu đây.

Cao Căn Minh tiến vào trong miếu, khom người chào sư phụ, thấy Lệnh Hồ Xung ở bên cạnh. Hắn vui mừng nói:

– Đại sư ca, đại sư ca mạnh giỏi chứ? Ở đại sảnh Lưu phủ nghe nói đại sư ca bị trọng thương, bọn tiểu đệ lo lắng vô cùng.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Coi như ta to mạng, thoát được cái chết.

Trong lúc nói chuyện, lại nghe thấp thoáng tiếng bước chân từ xa. Lần này là Lao Đức Nặc và Lục Đại Hữu. Lục Đại Hữu vừa thấy Lệnh Hồ Xung, chưa kịp vấn an sư phụ, đã chạy đến ôm đại sư ca, vừa kêu réo vui mừ ng khôn xiết. Tiếp đến là tam đệ tử Lương Phát và tứ đệ tử Thi Đới Tử đi vào miếu. Khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà; thất đệ tử Đào Điếu, bát đệ tử Anh Bạch La, con gái Nhạc Bất Quần là Nhạc Linh San và tên đệ tử mới nhập môn là Lâm Bình Chi cũng kéo đến.

Lâm Bình Chi vừa trông thấy thi thể của song thân liền chạy đến, phủ phục ôm lấy khóc lóc thảm thiết. Bọn đồng môn thấy vậy ai cũng đau xót rơi lệ.

Nhạc Linh San thấy Lệnh Hồ Xung bình yên vô sự, cô vừa kinh ngạc vừa vui mừng khôn xiết. Nhưng thấy Lâm Bình Chi đau thương như vậy nên cô không tiện nói lời vui mừng với Lệnh Hồ Xung. Cô đi đến gần, nhẹ nắm tay phải của hắn hỏi nhỏ:

– Đại ca… đại ca không sao chứ?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không sao.

Mấy hôm nay, Nhạc Linh San quá lo lắng cho đại sư ca, bây giờ bỗng nhiên tương phùng. Những xót xa, buồn lo không thể nào kìm được nữa, cô kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung rồi khóc òa lên.

Lệnh Hồ Xung nhẹ nhàng vỗ vai cô, khẽ hỏi:

– Tiểu sư muội, sao vậy? Ai ăn hiếp tiểu sư muội cứ nói ra để đại ca đánh hắn một trận cho tiểu sư muội vừa lòng.

Nhạc Linh San không trả lời, chỉ khóc hoài. Một lúc sau, thấy lòng đã nhẹ nhàng hơn, cô kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung lên lau nước mắt rồi nói:

– Đại ca không chết, đại ca không chết thật chứ?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Ta không chết đâu.

Nhạc Linh San nói:

– Nghe nói đại ca bị Dư Thương Hải phái Thanh Thành đánh cho một chưởng. Tồi tâm chưởng của lão giết người không thấy máu, chính mắt tiểu muội thấy lão giết khá nhiều người, nên tiểu muội rất lo sợ, tiểu muội… rất…

Cô nghĩ tới những ngày vừa qua ruột gan quặn đau, tâm thần khổ sở, không kìm được, nước mắt lại rơi xuống.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Rất may, chưởng của lão không đánh trúng ta. Vừa rồi sư phụ đánh Dư Thương Hải chạy bán mạng, ta rất vui mừng, đáng tiếc là sư muội không được chứng kiến.

Nhạc Bất Quần nói:

– Các ngươi không được nói chuyện này ra cho người ngoài biết.

Lệnh Hồ Xung và bọn đệ tử cùng đáp dạ.

Nước mắt đầm đìa, Nhạc Linh San nhìn Lệnh Hồ Xung, chỉ thấy lờ mờ khuôn mặt tiều tụy của đại sư ca không còn một chút huyết sắc. Lòng đau xót, cô nói:

– Đại sư ca, lần này… lần này đại sư ca bị thương không nhẹ đâu. Sau khi về núi phải an dưỡng rất lâu mới được.

Nhạc Bất Quần thấy Lâm Bình Chi vẫn còn nằm phục ôm song thân khóc lóc thống thiết bi ai, lão nói:

– Bình nhi đừng khóc nữa. Lo liệu hậu sự cho song thân của ngươi là việc quan trọng hơn hết.

Lâm Bình Chi đứng dậy, thấy đầu và mặt của mẫu thân đầy máu, không kìm lòng được, nước mắt lại chảy dài. Chàng nghẹn ngào nói:

– Gia gia, má má lìa đời, ngay cả giây phút cuối cùng cũng không gặp được đệ tử, không biết… không biết người có di ngôn gì muốn dặn dò lại đệ tử không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lâm sư đệ, lúc lệnh tôn và lệnh đường sắp lâm chung, ta ở đây. Hai vị lão nhân gia muốn ta chăm sóc, chiếu cố cho sư đệ. Đó là điều tất nhiên, dù hai vị không dặn, ta đây cũng phải chăm sóc chiếu cố cho sư đệ. Lệnh tôn còn có lời muốn ta chuyển lại cho sư đệ.

Lâm Bình Chi cúi người nói:

– Đại sư ca, đại sư ca… Lúc gia gia và má má của tiểu đệ sắp lâm chung, có được đại sư ca ở bên cạnh không đến nỗi tứ cố vô thân. Tiểu đệ… tiểu đệ cảm kích vô cùng.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lệnh tôn và lệnh đường bị bọn ác đồ phái Thanh Thành tra tấn, bức hiếp để hỏi chỗ giấu Tịch tà kiếm phổ. Hai vị lão nhân gia quyết không khuất phục, nên bị chúng làm chấn động đứt đoạn tâm mạch. Sau đó lão Mộc Cao Phong lại bức bách hai vị lão nhân gia. Mộc Cao Phong vốn là kẻ có hành động tiểu nhân; Dư Thương Hải cũng không xứng đáng làm tôn sư một phái. Những hành vi đê tiện của họ sẽ bị anh hùng thiên hạ chê cười.

Lâm Bình Chi nghiến răng nói:

– Mối thù này không trả thì Lâm Bình Chi không bằng giống cầm thú.

Chàng vung quyền lên đánh mạnh vào cột miếu. Tuy võ công của chàng bình thường nhưng lòng đầy căm phẫn nên xuất quyền rất mạnh; cây cột rung động, cát bụi trên miếu đổ xuống.

Nhạc Linh San nói:

– Lâm sư đệ, chuyện này có thể nói do ta gây nên tai họa. Sư đệ muốn báo thù, sư tỷ quyết sẽ không phủi tay đâu.

Lâm Bình Chi cúi người nói:

– Đa tạ sư tỷ.

Nhạc Bất Quần thở dài rồi nói:

– Phái Hoa Sơn ta xưa nay có tôn chỉ: “Người không phạm đến ta thì ta không phạm đến người” nên ngoài sự đối đầu tử chiến với Ma giáo ra, phái ta tưởng đã không hiềm khích với các môn phái trong võ lâm. Nhưng từ nay về sau, phái Thanh Thành… phái Thanh Thành… Ôi, đã dấn thân vào chốn giang hồ, không muốn đắc tội với người khác thật chẳng dễ dàng.

Lao Đức Nặc nói:

– Tiểu sư muội, Lâm sư đệ! Chuyện tai họa này không phải là do Lâm sư đệ bất bình giết tên nghiệt tử của Dư Thương Hải mà hoàn toàn do Dư Thương Hải dòm ngó Tịch tà kiếm phổ gia truyền của Lâm sư đệ mà ra. Năm xưa, chưởng môn phái Thanh Thành là Trường Thanh Tử đã bị bại dưới Tịch tà kiếm pháp của tằng tổ Viễn Đồ Công của Lâm sư đệ. Mối họa này bắt nguồn từ đó.

Nhạc Bất Quần nói:

– Đúng vậy, trong võ lâm chuyện tranh cường hiếu thắng xưa nay khó tránh khỏi. Khi nghe tới bí cấp võ lâm gì đó thì dù không biết thật hay giả, người ta vẫn không từ một thủ đoạn nào để cướp đoạt cho bằng được. Kỳ thực, Dư quán chủ và Tái Bắc minh đà là hai tay cao thủ có địa vị trong võ lâm thì không nên tham lam, mưu đồ chiếm đoạt kiếm phổ của Lâm gia mới phải.

Lâm Bình Chi đáp:

– Thưa sư phụ, trong nhà đệ tử thực sự không có Tịch tà kiếm phổ gì cả. Bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp là do gia gia của đệ tử truyền miệng cho, muốn đệ tử phải dụng tâm để ghi nhớ lấy. Nếu có kiếm phổ gì thì gia gia của đệ tử không tiết lộ cho người ngoài nhưng quyết không có lý nào lại giữ bí mật không nói cho đệ tử biết.

Nhạc Bất Quần gật đầu nói:

– Ta vốn cũng không tin có Tịch tà kiếm phổ gì gì đó. Nếu không thì Dư quán chủ đã không phải là đối thủ của gia gia ngươi. Chuyện này cũng đã rõ cả rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lâm sư đệ, di ngôn của lệnh tôn nói là: “Ở hẻm Hướng Dương thành Phúc Châu…”

Nhạc Bất Quần khoát tay nói:

– Đây là di ngôn của lệnh tôn Bình nhi, ngươi chỉ nên nói riêng cho Bình nhi thôi. Người khác không được nghe.

Lệnh Hồ Xung đáp dạ. Nhạc Bất Quần nói tiếp:

– Đức Nặc, Căn Minh! Hai ngươi đi vào thành Hành Sơn mua hai cỗ quan tài.

Hồi 29: Lâm Bình Chi lên núi Hoa Sơn

Sau khi khâm liệm vợ chồng Lâm Chấn Nam, phái Hoa Sơn thuê người khiêng hai cỗ quan tài ra bờ sông rồi lên thuyền đi về hướng Bắc. Đến Dự Tây thì bỏ thuyền đi đường bộ. Lệnh Hồ Xung nằm trong cỗ xe lớn để dưỡng thương, thương thế ngày càng thuyên giảm.

Một ngày kia đến chân ngọn Ngọc Nữ, Hoa Sơn. Hai cỗ quan tài của vợ chồng Lâm Chấn Nam tạm quàn lại trong ngôi miếu nhỏ bên núi để định ngày mai táng.

Cao Căn Minh và Lục Đại Hữu lên núi trước báo tin, hơn hai mươi đệ tử phái Hoa Sơn đều xuống núi bái kiến sư phụ. Lâm Bình Chi thấy những đệ tử lớn tuổi đã quá tam tuần, người nhỏ không quá mười lăm mười sáu tuổi, trong đó có nữ đệ tử vừa thấy Nhạc Linh San là ríu rít nói cười không ngớt. Lao Đức Nặc dẫn Lâm Bình Chi đi yết kiến từng người. Theo quy củ của phái Hoa Sơn thì ai nhập môn trước là sư huynh, ai nhập môn sau là sư đệ, cho nên Dư Kỳ là người nhỏ tuổi nhất nhưng Lâm Bình Chi cũng phải kêu hắn bằng sư huynh. Chỉ có Nhạc Linh San là ngoại lệ, cô là con gái của Nhạc Bất Quần nên không xếp theo thứ tự của các môn đồ, đành phải dựa vào tuổi mà xưng hô, ai lớn tuổi hơn cô thì gọi cô là “sư muội”. Cô vốn nhỏ hơn Lâm Bình Chi mấy tuổi nhưng nhất định đòi làm sư tỷ, mà Nhạc Bất Quần đã không cản nên Lâm Bình Chi phải kêu cô bằng “sư tỷ”.

Đoàn người lên đến đỉnh núi. Lâm Bình Chi đi theo sau các sư huynh. Chàng trông thấy thế núi hiểm trở, cây cối âm u, chim hót líu lo, nước chảy róc rách, bốn năm tòa nhà lớn vách tường trắng dựa theo sườn núi, cái cao cái thấp.

Một thiếu phụ trung niên xinh đẹp bước đến gần; Nhạc Linh San chạy đến nhảy vào lòng bà gọi:

– Má má, hài nhi vừa có một tên sư đệ. Cô vừa cười vừa chỉ tay vào Lâm Bình Chi.

Lâm Bình Chi đã nghe các sư huynh nói sư nương Nhạc phu nhân Ninh Trung Tắc và sư phụ vốn là sư huynh sư muội đồng môn; kiếm thuật bà tinh thâm không kém gì sư phụ. Chàng vội tiến lên trước khấu đầu nói:

– Đệ tử Lâm Bình Chi xin bái kiến sư nương.

Nhạc phu nhân tươi cười nói:

– Hay lắm, đứng dậy, đứng dậy đi.

Bà nhìn Nhạc Bất Quần rồi cười nói:

– Mỗi lần tướng công xuống núi, nếu không thu được vài món bảo bối về thì nhất định không chịu nổi. Lần này đi dự lễ rửa tay gác kiếm ở Hành Sơn, thiếp đoán ít nhất trượng phu phải thu được ba bốn tên đệ tử, sao chỉ thu có một?

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Phu nhân thường nói: quân quý là ở tinh nhuệ chứ không phải ở số đông, phu nhân thấy gã thế nào?

Nhạc phu nhân cười nói:

– Tướng mạo gã tuấn tú, không giống người luyện võ. Chi bằng tướng công cho gã học Tứ thư, Ngũ kinh để sau này thi tú tài, trạng nguyên hay hơn.

Mặt Lâm Bình Chi ửng hồng, chàng thầm nghĩ: Sư nương thấy mình giống một thư sinh yếu đuối thì có ý khinh thị. Mình phải nỗ lực dụng công, quyết phải theo kịp các vị sư huynh để đừng ai xem thường mình mới được.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Vậy cũng được. Nếu trong phái Hoa Sơn có được một trạng nguyên thì cũng là giai thoại thiên cổ hiếm thấy.

Nhạc phu nhân trừng mắt nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngươi lại đánh lộn với người ta rồi bị thương phải không? Sao sắc mặt khó coi thế này? Bị thương có nặng không?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười đáp:

– Đệ tử đã đỡ nhiều rồi. Nếu lần này mà cái mạng không lớn thì e rằng Xung nhi không gặp được sư mẫu nữa.

Nhạc phu nhân lại trừng mắt nói:

– Có vậy ngươi mới biết ngoài trời còn có trời, mình hơn người thì có người hơn mình. Thua như vậy đã biết ăn năn chưa?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Khoái đao của Điền Bá Quang thật lợi hại, Xung nhi đỡ không nổi, đang muốn xin sư nương chỉ giáo cho.

Nhạc phu nhân nghe Lệnh Hồ Xung nói bị thương dưới tay của Điền Bá Quang, sắc mặt bà mới vui, gật đầu nói:

– Hay lắm, thì ra ngươi đánh nhau với tên ác tặc Điền Bá Quang. Ta cứ tưởng ngươi đi sinh sự với ai khác để rước họa vào thân. Khoái đao của hắn thế nào? Chúng ta hãy chuẩn bị sẵn một cây đao để lần sau đánh thắng hắn.

Trên đường về Hoa Sơn, Lệnh Hồ Xung đã mấy lần hỏi sư phụ biện pháp chiết giải khoái đao của Điền Bá Quang nhưng Nhạc Bất Quần nhất định không nói, bảo hắn về thỉnh giáo sư nương. Quả nhiên Nhạc phu nhân vừa nghe thì cao hứng vô cùng.

Mọi người đi vào phòng riêng của Nhạc Bất Quần rồi kể lại chuyện xảy ra sau khi chia tay. Sáu nữ đệ tử nghe Nhạc Linh San thuật lại những chuyện ở Phúc Châu và Hành Sơn đều lấy làm thích thú. Lục Đại Hữu thì khoa trương với các sư đệ về cuộc tỉ đấu giữa đại sư ca và Điền Bá Quang thế nào; đại sư ca đâm La Nhân Kiệt ra sao. Hắn thêm mắm thêm muối, dường như Điền Bá Quang bị đại sư ca đánh bại chứ không phải là đại sư ca bị Điền Bá Quang đánh thua te tua đâu.

Mọi người ăn điểm tâm rồi uống trà. Nhạc phu nhân thì muốn Lệnh Hồ Xung diễn tả lại đao pháp của Điền Bá Quang, lại hỏi cách chiết giải thế nào.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đao pháp của Điền Bá Quang thần diệu vô cùng. Lúc đó, đệ tử bị hoa cả mắt, hết sức chống đỡ còn không xong, nào dám nói chi đến chuyện chiết giải?

Nhạc phu nhân nói:

– Ngươi đã chống đỡ không nổi, vậy nhất định đã sử dụng ngụy kế vô lại để chuồn đi.

Lệnh Hồ Xung từ thuở nhỏ được bà nuôi dưỡng đến lớn, bản lĩnh tính cách của hắn thế nào bà biết quá rõ.

Lệnh Hồ Xung đỏ mặt, mỉm cười nói:

– Lúc đấu với nhau ở sơn động, vị sư muội phái Hằng Sơn đã trốn đi rồi, đệ tử không còn lo lắng gì nữa bèn dốc hết toàn lực để giao đấu với Điền Bá Quang. Không ngờ đấu không được bao lâu, hắn đã sử phép khoái đao. Đệ tử chỉ đỡ được hai chiêu thì bụng đã kêu trời: “Phen này chắc mạng ta tiêu rồi”. Đệ tử liền cười ha hả lên. Điền Bá Quang thu đao về rồi hỏi: “Có gì đâu đáng cười? Ngươi có đỡ nổi Phi sa tẩu thạch thập tam thức đao pháp của ta không?” Đệ tử cười nói: “Thì ra Điền Bá Quang danh tiếng lẫy lừng thiên hạ lại là đồ bỏ đối với phái Hoa Sơn ta. Không ngờ, quả thật không ngờ. Đúng rồi, nhất định là phẩm chất ngươi xấu xa nên bị bổn phái trục xuất ra khỏi môn tường”. Điền Bá Quang nói: “Cái gì là đồ bỏ của phái Hoa Sơn? Đừng ăn nói hồ đồ. Võ công của Điền mỗ là của riêng Điền mỗ, không liên can gì với các món thúi hoắc của phái Hoa Sơn ngươi”. Đệ tử cười nói: “Đường đao pháp của ngươi có mười ba thức phải không? Cái gì là Phi sa tẩu thạch, tự mình bịa cái tên dễ nghe dữ. Ta đã từng thấy sư phụ và sư nương chiết giải rồi. Đao pháp này là do lúc ngồi thêu, sư nương ta bỗng nhiên nghĩ ra. Hoa Sơn ta có ngọn Ngọc Nữ, ngươi có nghe qua chưa?” Điền Bá Quang nói: “Ngọn Ngọc Nữ ở Hoa Sơn ai mà không biết. Vậy thì sao nào?” Đệ tử nói: “Kiếm pháp do sư nương ta sáng chế gọi là Ngọc nữ kim châm thập tam kiếm, trong đó có các chiêu Xuyên châm dẫn tuyến, Thiên y vô phùng, Dạ tú uyên ương”. Đệ tử vừa nói, vừa đếm đầu ngón tay rồi nói tiếp: “Đúng rồi, chiêu đao pháp của ngươi vừa rồi là từ chiêu thứ tám gọi là Chức Nữ xuyên thoa, do sư nương ta sáng chế rồi biến hóa ra. Ngươi đường đường là một tay hảo hán oai phong lẫm liệt, lại học cái dáng thướt tha của sư nương ta, giống như Chức Nữ trên trời ngồi dệt vải bên khung cửi; tay ngọc thon thả cầm con thoi từ bên này ném sang bên kia lại từ bên kia ném lại bên này, thật là ngộ nghĩnh, há không khiến cho người ta buồn cười sao?”

Lệnh Hồ Xung nói chưa dứt thì Nhạc Linh San và bọn nữ đệ tử đều bật cười khanh khách.

Nhạc Bất Quần mỉm cười:

– Vớ vẩn, vớ vẩn quá.

Nhạc phu nhân phì một tiếng rồi nói:

– Miệng lưỡi của ngươi thật ranh mãnh, cái gì cũng nói được, sao lại kéo cả sư nương của ngươi vào? Thật đáng đánh đòn.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sư nương không biết đâu. Tên Điền Bá Quang rất tự phụ, nghe đệ tử đem hắn ra so sánh với đàn bà, lại nói là bộ đao pháp thần kỳ của hắn là do sư nương sáng chế ra cốt để hắn suy nghĩ đặng kéo dài thời gian, không giết đệ tử ngay. Quả nhiên hắn đem bộ đao pháp từ từ sử lại từng chiêu một, cứ sử một chiêu thì hắn hỏi một câu: “Chiêu này có phải do sư nương ngươi sáng chế không?”; đệ tử làm ra vẻ bí mật, trầm ngâm không đáp, lòng ngấm ngầm ghi nhớ đao pháp của hắn. Đợi hắn sử hết mười ba chiêu rồi, đệ tử mới nói: “Bộ đao pháp của ngươi và bộ kiếm pháp của sư nương ta sáng chế tuy có một chút khác biệt nhưng cơ bản đều giống nhau. Ngươi làm sao mà học lóm kiếm pháp của phái Hoa Sơn, thật kỳ lạ vô cùng”. Điền Bá Quang cả giận nói: “Ngươi đỡ không nổi đao pháp của ta, lại khua môi múa mép để kéo dài thời gian, muốn xem rõ chiêu thức đao pháp của ta, ta há không biết sao? Lệnh Hồ Xung, ngươi nói ở quý phái có đao pháp này, xin mời thi triển ra để Điền mỗ mở rộng tầm mắt”.

Đệ tử nói: “Tệ phái sử kiếm chứ không sử đao. Vả lại, bộ Ngọc Nữ kim châm kiếm của sư nương ta chỉ truyền cho nữ đệ tử không truyền cho nam đệ tử. Chúng ta đường đường là nam tử hán đại trượng phu, lại đi sử kiếm pháp của bọn nữ nhi, há không khiến cho bằng hữu trong võ lâm chế giễu ư?” Điền Bá Quang càng tức giận, nói: “Chế giễu cũng vậy mà không chế giễu cũng vậy, hôm nay nhất định ngươi phải thừa nhận phái Hoa Sơn thực sự không có bộ đao pháp như thế này. Lệnh Hồ Xung, Điền mỗ khâm phục ngươi là một hảo hán, ngươi không nên nói năng xằng bậy giỡn mặt ta”.

Nhạc Linh San nói xen vào:

– Quân ác tặc vô liêm sỉ này ai cần hắn khâm phục? Chẳng qua giỡn mặt hắn một lúc mà chơi thôi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nhưng nhìn tình cảnh lúc đó, nếu ta không bịa đặt đem bộ Ngọc Nữ kim châm kiếm ra, thì lập tức sẽ toi mạng ngay, đành phải dựa vào đao pháp của hắn, õng à õng ẹo mà hóa chiêu loạn xạ cả lên để đánh ra.

Nhạc Linh San cười nói:

– Đại sư ca õng à õng ẹo hóa chiêu như vậy, có giống hắn không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ngày thường, ta nhìn tiểu muội sử kiếm rất nhiều, có lý nào nhại lại mà không giống?

Nhạc Linh San nói:

– Ui chao, đại ca cười người ta sử kiếm õng à õng ẹo. Tiểu muội ba ngày không thèm nhìn mặt đại ca nữa đâu.

Nhạc phu nhân nãy giờ vẫn trầm ngâm, lúc này mới lên tiếng:

– Linh nhi, ngươi đưa kiếm cho đại sư ca đi.

Nhạc Linh San rút thanh trường kiếm ra, chuyển chuôi kiếm lại đưa cho Lệnh Hồ Xung rồi cười nói:

– Má má muốn xem đại ca õng à õng ẹo sử kiếm không giống ai.

Nhạc phu nhân nói:

– Xung nhi, đừng thèm nghe những lời vớ vẩn của Linh nhi nữa. Lúc đó ngươi sử kiếm ra sao?

Lệnh Hồ Xung biết sư nương muốn xem đao pháp của Điền Bá Quang, liền nhận lấy trường kiếm, hướng về sư phụ sư nương cúi người hành lễ rồi nói:

– Sư phụ, sư nương, đệ tử xin thử diễn đao chiêu của Điền Bá Quang.

Nhạc Bất Quần gật đầu. Lục Đại Hữu nói với Lâm Bình Chi:

– Lâm sư đệ, quy củ của môn phái chúng ta là tiểu bối trước khi sử quyền động kiếm trước mặt tôn trưởng phải xin phép trước.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ, đa tạ Lục sư ca chỉ giáo.

Lệnh Hồ Xung giả bộ uể oải ngáp dài, hai tay yếu ớt giơ lên tựa hồ như muốn vươn vai, đột nhiên hắn rung cổ tay phải một cái, liên tục chém ra ba kiếm nhanh như chớp, nghe veo véo. Bọn đệ tử giật mình kinh hãi, mấy tên nữ đệ tử không hẹn mà cùng la lên một tiếng. Lệnh Hồ Xung sử trường kiếm loạn xạ cả lên chẳng theo chương pháp nào cả, nhưng trong mắt của Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân, mấy chục chiêu đều nhìn ra rất rõ; chỉ thấy mỗi nhát đâm, mỗi nhát chém đều lợi hại và chuẩn xác. Bỗng nhiên, Lệnh Hồ Xung thu kiếm đứng lại, hướng về sư phụ và sư nương cúi mình hành lễ.

Nhạc Linh San hơi thất vọng, nói:

– Nhanh đến như vậy sao?

Nhạc phu nhân gật đầu nói:

– Nên nhanh như vậy mới được. Khoái đao thập tam thức này, mỗi thức có ba bốn chiêu biến hóa, chỉ trong khoảnh khắc sử được hơn bốn mươi chiêu thì thật là loại đao pháp hiếm có trên thế gian.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Điền Bá Quang sử đao còn nhanh hơn đệ tử sử kiếm rất nhiều.

Nhạc phu nhân và Nhạc Bất Quần nhìn nhau, lòng có ý thán phục. Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca, sao không thấy đại sư ca õng ẹo chút nào?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Mấy ngày này, lúc nào ta cũng nghĩ đến phép khoái đao, lúc sử chiêu pháp tất nhiên phải rất thần tốc. Lúc ở trong hoang sơn nhìn Điền Bá Quang diễn thử không mau lẹ như vậy là do ta muốn cố ý không sử đúng đao pháp của hắn, còn thêm vào điệu bộ uốn éo của đàn bà nên càng chậm hơn nữa.

Nhạc Linh San cười nói:

– Đại ca hôm đó uốn éo ra sao? Mau diễn lại cho tiểu muội xem chơi một chút.

Nhạc phu nhân nghiêng người, rút thanh trường kiếm ở sau lưng một tên nữ đệ tử, nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Sử khoái đao đi!

Lệnh Hồ Xung đáp dạ.

Véo một tiếng, trường kiếm xoay một vòng quanh Nhạc phu nhân, mũi kiếm hướng về phía lưng bà ta rồi móc ngược trở lại. Nhạc Linh San giật mình sợ hãi la lên:

– Má má, cẩn thận!

Nhạc phu nhân nhảy vọt ra, không để ý gì tới nhát kiếm từ phía sau của Lệnh Hồ Xung đang đâm tới, trường kiếm trong tay bà đâm vào trước ngực Lệnh Hồ Xung cũng rất nhanh. Nhạc Linh San lại hốt hoảng la lên:

– Đại sư ca, cẩn thận!

Lệnh Hồ Xung cũng không đỡ gạt mà đâm ngược lại một kiếm rồi nói:

– Sư nương, hắn hoàn đao còn nhanh hơn nhiều.

Nhạc phu nhân chém vèo vèo ba kiếm, Lệnh Hồ Xung cũng đồng thời đánh trả lại ba kiếm. Hai người đều đánh rất nhanh, lấy công làm thủ, không có chiêu nào gạt đỡ để phòng thân. Chỉ trong chớp mắt hai thầy trò đã chiết giải hơn hai mươi chiêu.

Lâm Bình Chi chỉ há hốc miệng đứng nhìn, nghĩ thầm: Đại sư ca ăn nói và xử sự có vẻ điên rồ nhưng võ công lại tuyệt diệu vô cùng. Sau này mình phải từng giờ từng phút cố gắng luyện công, không lơi lỏng mới khỏi bị người coi thường.

Giữa lúc ấy, Nhạc phu nhân phóng kiếm nghe vèo một tiếng, mũi kiếm đã chỉ vào yết hầu của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung không còn cách nào né tránh bèn nói:

– Hắn đỡ được chiêu này.

Nhạc phu nhân nói:

– Hay lắm!

Thanh trường kiếm trong tay bà như rồng bay phượng múa, sau vài chiêu lại chỉ vào ngực Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vẫn nói:

– Hắn vẫn đỡ được chiêu này.

Ý hắn muốn nói đao pháp của Điền Bá Quang nhanh hơn nhiều, hai chiêu này hắn đều có thể gạt được.

Hai người càng đấu càng nhanh, càng về sau Lệnh Hồ Xung không còn rảnh để nói câu “Hắn vẫn đỡ được”, mỗi khi bị Nhạc phu nhân dùng kiếm chế ngự, chàng chỉ lắc đầu biểu thị rằng chiêu kiếm này vẫn không thể đâm chết được Điền Bá Quang. Trường kiếm của Nhạc phu nhân càng sử càng cao hứng, đột nhiên bà la lên một tiếng, mũi kiếm lấp loáng bất định, vây quanh người Lệnh Hồ Xung mà đâm tới, ngân quang nhảy múa, mọi người nhìn thấy đều hoa cả mắt. Bà phát mạnh một kiếm đâm thẳng đến trước ngực Lệnh Hồ Xung như sét đánh, thế kiếm như sấm động. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi la lên.

– Sư nương!

Kỳ thực mũi kiếm đã đâm rách áo của hắn. Tay phải Nhạc phu nhân đâm thẳng về phía trước, trường kiếm đã đụng đến da trước ngực của Lệnh Hồ Xung rồi xuyên vào ngực hắn đến tận chuôi.

Nhạc Linh San thất kinh la lên:

– Má má!

Chỉ nghe tiếng loảng xoảng không dứt, từng mảnh kiếm gãy dài khoảng một tấc rớt xuống bên chân Lệnh Hồ Xung. Nhạc phu nhân cười vang, rút tay về, thanh trường kiếm trong tay bà chỉ còn lại cái chuôi kiếm.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Sư muội, nội lực của sư muội đã tinh tiến đến vậy khiến ngay cả ta cũng bị lừa nữa.

Vợ chồng lão vốn là đồng môn kết thành chồng vợ, thời còn trẻ đã quen gọi như vậy, sau khi thành vợ chồng vẫn xưng hô với nhau là sư huynh sư muội.

Nhạc phu nhân cười nói:

– Đại sư huynh quá khen, mấy chiêu nhỏ nhoi này đâu có chi đáng kể.

Lệnh Hồ Xung nhìn những đoạn kiếm gãy dưới đất, lòng thực sự kinh hãi, mới hay lúc sư nương phóng kiếm đâm tới đã sử dụng hết toàn lực, nếu nội lực không đủ thì xuất kiếm khó thần tốc như vậy. Nhưng mũi kiếm vừa đụng đến da, bà lập tức chuyển luồng nội lực hùng hậu từ thế đâm thẳng biến thành thế chấn động ngang làm trường kiếm bị gãy thành từng đoạn cho đến tận chuôi. Trong nháy mắt, bà đã vận dụng nội kình tuyệt xảo, thật đã đến mức xuất quỷ nhập thần khiến Lệnh Hồ Xung vô cùng khâm phục. Hắn bèn nói:

– Đao pháp của Điền Bá Quang có nhanh hơn nữa cũng quyết khó tránh khỏi chiêu kiếm này của sư nương.

Lâm Bình Chi thấy áo của Lệnh Hồ Xung chỗ nào cũng bị thủng, đều là do trường kiếm của Nhạc phu nhân đâm rách. Gã nghĩ bụng: Trên thế gian này lại có thứ kiếm thuật cao minh như vậy, ta phải học cho bằng được thì mới có thể báo thù cho phụ mẫu.

Gã lại nghĩ tiếp: Phái Thanh Thành và Mộc Cao Phong đều là những kẻ tham lam mưu đồ chiếm đoạt Tịch tà kiếm phổ của nhà ta. Kỳ thực Tịch tà kiếm pháp của nhà ta so với kiếm pháp của sư nương thì cách biệt một trời một vực.

Nhạc phu nhân rất đắc ý nói:

– Xung nhi, ngươi đã nói chiêu kiếm này có thể đâm chết được Điền Bá Quang thì phải dụng công cho tốt, ta sẽ truyền thụ cho ngươi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đa tạ sư nương.

Nhạc Linh San nói:

– Má má, hài nhi cũng muốn học nữa.

Nhạc phu nhân lắc đầu nói:

– Nội công của hài nhi chưa đủ trình độ, học không được đâu.

Nhạc Linh San trề môi, lòng nghĩ má má không muốn dạy mình, bèn nói:

– Nội công của đại sư ca không hơn hài nhi bao nhiêu, tại sao đại sư ca có thể học được còn hài nhi thì không thể học được?

Nhạc phu nhân mỉm cười không nói. Nhạc Linh San kéo tay áo phụ thân nói:

– Gia gia, gia gia truyền cho hài nhi công phu phá giải chiêu kiếm này, để sau khi đại sư ca học xong chiêu kiếm này sẽ không ăn hiếp được hài nhi.

Nhạc Bất Quần lắc đầu cười nói:

– Chiêu kiếm này của má má ngươi gọi là “Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm thiên hạ vô địch” ta làm sao có pháp môn để phá giải.

Nhạc phu nhân cười nói:

– Đại sư huynh nói giỡn để trêu ghẹo sư muội cũng không sao, nhưng nếu truyền ra ngoài thì đồng đạo võ lâm có thể cười sư muội đến rớt cả răng.

Chiêu kiếm này do bà nhất thời sáng chế ra, kỳ thực trong đó bao hàm tuyệt kỹ kiếm pháp và nội công của phái Hoa Sơn cộng thêm với sự thông minh tài trí riêng của bà, lợi hại không thể so sánh được, nhưng do sáng chế vội nên chưa đặt tên cho nó. Nhạc Bất Quần vốn muốn đặt cho nó cái tên là “Nhạc phu nhân vô địch kiếm”, nhưng lão nghĩ lại vợ mình tính khí cao ngạo, sau khi thành hôn, vẫn thích đồng đạo võ lâm gọi bà là “Ninh nữ hiệp”, chứ không thích gọi là “Nhạc phu nhân”. Phải biết ba chữ “Ninh nữ hiệp” là tên gọi thể hiện bản lãnh hành vi của chính bà, còn ba chữ “Nhạc phu nhân” thì không tránh khỏi dựa vào thanh danh lừng lẫy của chồng mà có. Tuy ngoài miệng bà trách móc chồng nhưng trong lòng đối với tám chữ “Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm” thì rất thích thú. Bà ngấm ngầm khen chồng là người có học, đặt cho chiêu kiếm của mình một cái tên rất hay. Lời nói có vẻ giận dỗi nhưng trong lòng lại ngầm thích thú.

Nhạc Linh San nói:

– Gia gia, khi nào gia gia cũng sáng chế ra mấy chiêu “Vô tỷ vô địch, Nhạc gia thập kiếm” truyền cho hài nhi, để hài nhi và đại sư ca đấu ngang cơ với nhau.

Nhạc Bất Quần lắc đầu cười nói:

– Không được đâu, gia gia không thông minh bằng má má của ngươi, không sáng chế ra được chiêu kiếm mới nào.

Nhạc Linh San kề sát miệng vào tai phụ thân nói nhỏ:

– Không phải gia gia sáng chế không được, mà vì gia gia sợ vợ nên không dám sáng chế.

Nhạc Bất Quần cười ha hả, đưa tay bẹo nhẹ vào má cô rồi nói:

– Chỉ được cái nói năng bậy bạ!

Nhạc phu nhân nói:

– Linh nhi, ngươi đừng làm rộn gia gia nữa. Đức Nặc, ngươi đi sắp đặt hương án để Lâm sư đệ bái linh vị liệt đại tổ sư của bổn phái.

Trong khoảnh khắc, mọi thứ đã sắp đặt xong, Nhạc Bất Quần dẫn mọi người đến hậu đường. Lâm Bình Chi thấy ở giữa xà nhà treo một tấm biển viết bốn chữ to “Dĩ khí ngự kiếm”, trên sảnh đường bày biện trang nghiêm, hai sợi dây thao của hai thanh trường kiếm đã biến thành màu đen, hai thanh kiếm đã cũ lắm, có thể đoán được đó là những phục kiếm các tôn sư đời trước của phái Hoa Sơn. Gã nghĩ thầm: Ngày nay thanh danh phái Hoa Sơn trong võ lâm đã vang dội, không biết có bao nhiêu kẻ gian tà ác tặc đã táng mạng ở dưới trường kiếm của các vị tôn sư đời trước.

Nhạc Bất Quần quỳ xuống trước hương án lạy bốn lạy, khấn vái:

– Đệ tử là Nhạc Bất Quần hôm nay thu nhận Lâm Bình Chi ở Phúc Châu làm đồ đệ. Cúi xin liệt đại tổ tông ở trên trời linh thiêng phù hộ, dạy dỗ Lâm Bình Chi dụng công học nghệ, giữ mình trong sạch, tuân thủ môn quy của bổn phái, không làm bại hoại thanh danh của phái Hoa Sơn.

Lâm Bình Chi nghe sư phụ khấn như vậy vội cung kính quỳ xuống.

Nhạc Bất Quần đứng dậy, dõng dạc nói:

– Lâm Bình Chi, hôm nay ngươi vào làm môn hạ phái Hoa Sơn, phải biết giữ môn quy, nếu vi phạm hoặc chống lại thì chiếu theo tình tiết nặng nhẹ để xét xử, nếu phạm tội đại ác thì giết chứ không nương tình. Bổn phái đã đứng vững trong võ lâm mấy trăm năm rồi, võ công tuy có cùng tranh cao thấp với phái khác, nhưng nhất thời mạnh yếu thắng bại không đáng để nói. Điều cốt lõi là đệ tử của bổn phái ai cũng phải giữ gìn thanh danh của sư môn, ngươi nên ghi nhớ cho kỹ.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ, đệ tử xin nhớ lời sư phụ giáo huấn.

Nhạc Bất Quần nói:

– Lệnh Hồ Xung, ngươi đã thông thuộc môn quy của bổn phái, nên dạy cho Lâm Bình Chi biết.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ. Lâm sư đệ nghe đây. Giới đầu tiên của bổn phái là khi sư diệt tổ, bất kính tôn trưởng. Giới thứ hai là ỷ mạnh hiếp yếu, gia hại kẻ vô tội. Giới thứ ba là gian dâm hiếu sắc, trêu ghẹo phụ nữ. Giới thứ tư là ghen ghét đồng môn, tàn sát lẫn nhau. Giới thứ năm là thấy lợi quên nghĩa, trộm cắp tài vật. Giới thứ sáu là kiêu ngạo tự đại, đắc tội đồng đạo. Giới thứ bảy là kết giao với địch, cấu kết gian tà. Đây là Hoa Sơn thất giới, đệ tử bổn phái đều phải tuân theo.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ, tiểu đệ xin ghi nhớ Hoa Sơn thất giới mà đại sư ca vừa chỉ dạy, nỗ lực tuân hành, không dám vi phạm.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Được rồi, chỉ có bấy nhiêu thôi. Bổn phái không giống với những phái khác có lắm thanh quy giới luật. Ngươi nên tuân theo thất giới này, lúc nào cũng phải nhớ rằng nhân nghĩa là trên hết để trở thành một chính nhân quân tử, sư phụ sư nương sẽ rất vui mừng.

Lâm Bình Chi đáp dạ, hướng về sư phụ sư nương cúi đầu tạ ơn, rồi quay qua hướng các vị sư huynh sư tỷ cung tay xá dài hành lễ.

Nhạc Bất Quần nói:

– Bình nhi, trước tiên chúng ta hãy an táng cho phụ mẫu ngươi để ngươi trọn đạo làm con, sau đó mới truyền thụ công phu căn bản của bổn môn cho ngươi.

Lâm Bình Chi rơi lệ, lạy phục xuống rồi nói:

– Đa tạ sư phụ sư nương.

Nhạc Bất Quần đưa tay ra đỡ dậy, ôn tồn nói:

– Trong bổn phái, mọi người thân thiết với nhau như ruột thịt, bất luận người nào gặp chuyện, ai ai cũng phải chung lo giúp đỡ. Từ nay về sau ngươi không nên đa lễ.

Hồi 30: Phạm giới luật, Hồ Xung sám hối

Lão quay đầu lại nhìn chăm chăm Lệnh Hồ Xung từ đầu đến chân, một lúc sau mới hỏi:

– Xung nhi, lần này xuống núi, ngươi đã phạm bao nhiêu giới trong Hoa Sơn thất giới?

Lệnh Hồ Xung sợ hãi, biết lúc bình thường sư phụ đối với các đệ tử vô cùng thân mật và từ ái, nhưng nếu đã vi phạm môn quy thì lão nghiêm minh không hề tha thứ. Hắn lập tức quỳ xuống trước bàn hương án nói:

– Đệ tử biết tội rồi. Đệ tử không nghe lời của sư phụ sư nương răn dạy, đã phạm vào giới thứ sáu kiêu ngạo tự đại, đắc tội với đồng đạo, trên Hồi Nhạn lâu thành Hành Sơn đã giết La Nhân Kiệt của phái Thanh Thành.

Nhạc Bất Quần hừ lên một tiếng, sắc mặt cực kỳ nghiêm khắc.

Nhạc Linh San nói:

– Gia gia, đó là do La Nhân Kiệt đến uy hiếp đại sư ca. Lúc đó đại sư ca và Điền Bá Quang ác đấu với nhau, bản thân đã bị trọng thương. La Nhân Kiệt thừa lúc người ta nguy khốn mà đến uy hiếp thì đại sư ca làm sao có thể khoanh tay chờ chết được?

Nhạc Bất Quần nói:

– Ngươi không được xen vào. Chuyện này là do Xung nhi đá hai tên đệ tử phái Thanh Thành mà ra. Nếu không có hiềm khích từ trước thì La Nhân Kiệt làm sao lại thừa lúc Xung nhi bị thương mà đến gây sự?

Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca đá hai tên đệ tử phái Thanh Thành đã bị gia gia phạt đánh ba mươi côn. Vụ đó xem như đã xong, không thể lại tính sổ tiếp. Bây giờ, đại sư ca đang bị trọng thương, không thể tiếp tục bị đòn được nữa.

Nhạc Bất Quần trợn mắt nhìn con gái rồi lớn tiếng nói:

– Lúc này là lúc luận xét về giới luật của bổn môn, ngươi là đệ tử phái Hoa Sơn, đừng có ấm ớ chõ miệng vào.

Nhạc Linh San hiếm khi thấy phụ thân hầm hầm giận dữ đối với mình như vậy. Cô cảm thấy rất tủi thân, cặp mắt đỏ hoe, muốn bật khóc. Nếu như bình thường thì Nhạc phu nhân đã dùng lời dịu dàng vỗ về cô. Nhưng lúc này Nhạc Bất Quần đang lấy địa vị chưởng môn nhân cứu xét giới luật của môn hộ; Nhạc phu nhân không thể để ý đến con gái, chỉ đưa mắt trộm nhìn con.

Nhạc Bất Quần quay sang Lệnh Hồ Xung nói:

– La Nhân Kiệt thừa lúc ngươi gặp nguy cấp mà gây chuyện cốt làm cho ngươi nhục nhã; ngươi thà chết chứ không chịu khuất phục, rõ là hành vi của một nam tử hán đại trượng phu nghĩa hiệp. Nhưng tại sao ngươi lại nói ra những lời vô lễ với phái Hằng Sơn, cái gì “Hễ thấy ni cô là xui xẻo, đánh bạc tất thua”? Ngươi lại nói ngay cả đến ta cũng sợ gặp các ni cô là sao?

Nhạc Linh San cười lên hinh hích, gọi:

– Gia gia!

Nhạc Bất Quần nhìn con gái nhưng không tỏ vẻ nghiêm khắc với cô nữa.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lúc đó đệ tử chỉ mong sư muội của phái Hằng Sơn sớm đi khỏi. Đệ tử tự biết mình không phải là đối thủ của Điền Bá Quang, không còn cách nào khác để cứu sư muội phái Hằng Sơn. Nhưng cô ta cố giữ nghĩa khí đồng đạo, không chịu bỏ đi; đệ tử đành phải ăn nói bậy bạ như vậy. Những lời này mà lọt vào tai các vị sư bá, sư thúc phái Hằng Sơn thì quả là rất vô lễ.

Nhạc Bất Quần nói:

– Ngươi muốn Nghi Lâm sư điệt đi khỏi đó, tuy có dụng ý tốt, nhưng sao không lựa lời lại nói ra những điều xúc phạm như vậy? Ngươi đã bậy bạ quá mức rồi. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái, ai ai cũng biết chuyện này; sau lưng ta, họ sẽ bảo nhau rằng ngươi không phải là một chính nhân quân tử, lại trách ta không biết cách giáo dục ngươi.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ, đệ tử đã biết tội.

Nhạc Bất Quần lại nói:

– Ngươi ở trong Quần Ngọc viện dưỡng thương, đó là chuyện bất đắc dĩ. Nhưng ngươi lại để Nghi Lâm sư điệt và tiểu ma nữ của Ma giáo chui vào trong chăn, còn nói với Dư quán chủ phái Thanh Thành đó là hai cô gái làng chơi của thành Hành Sơn; chuyện như vậy sẽ gây ra nhiều nguy hiểm, ngươi biết chưa? Nếu chuyện này bị bại lộ, thanh danh của phái Hoa Sơn ta bị mất hết còn là thứ yếu, lại làm liên lụy đến đến thanh danh của phái Hằng Sơn mấy trăm năm tàn tạ chỉ trong một ngày. Chúng ta phải ăn nói với người ta ra sao đây?

Lệnh Hồ Xung lạnh xương sống, run run nói:

– Sau này đệ tử mới nghĩ ra chuyện này, sợ đến toát mồ hôi hột. Thì ra sư phụ đã sớm biết rồi.

Nhạc Bất Quần nói:

– Khúc Dương của Ma giáo đem ngươi đến Quần Ngọc viện dưỡng thương sau đó ta mới biết, nhưng lúc ngươi bảo hai đứa tiểu nữ chui vào trong chăn, ta đang đứng ngoài cửa sổ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– May là sư phụ biết đệ tử không có hành động của kẻ lãng tử vô hạnh.

Nhạc Bất Quần nghiêm nghị nói:

– Nếu ngươi thực sự vào trong kỹ viện ngủ với kỹ nữ thì ta đã sớm lấy cái đầu trên cổ ngươi rồi, đâu có thể dung tha để ngươi sống đến hôm nay?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ!

Sắc mặt Nhạc Bất Quần càng lúc càng nghiêm khắc. Một lúc sau, lão mới hỏi:

– Ngươi biết rõ thiếu nữ họ Khúc kia là người trong Ma giáo, sao không cho nó một kiếm giết đi? Tuy tổ phụ[3] của nó có ơn cứu mạng ngươi nhưng rõ ràng người trong Ma giáo mua ơn bán nghĩa. Chúng làm nhiều thủ đoạn nhằm gây chia rẽ Ngũ Nhạc kiếm phái ta, ngươi không phải thằng ngốc, sao lại không hiểu? Chuyện chúng cứu mạng ngươi bên trong ẩn chứa một âm mưu rất lớn. Lưu Chính Phong là hạng người thông minh tài giỏi như vậy cũng không tránh khỏi cạm bẫy của chúng để đến nỗi thân bại danh liệt, người nhà bị giết hết. Thủ đoạn của bọn Ma giáo hiểm độc vô cùng, ngươi đã nhìn thấy tận mắt. Khi chúng ta đi từ Hồ Nam về đến Hoa Sơn, ta không hề nghe ngươi nói một câu lên án bọn Ma giáo. Xung nhi, ta thấy sau khi bọn chúng cứu mạng ngươi, ngươi không còn phân biệt được chính tà, ngay gian chút nào, đã vậy còn quá hồ đồ nữa. Chuyện như vậy có liên quan rất lớn đến việc an thân lập mệnh của ngươi về sau, ngươi không thể xem nhẹ được.

Lệnh Hồ Xung hồi tưởng lại ngày nào giữa đêm khuya ở chốn hoang sơn, lắng tai nghe Khúc Dương và Lưu Chính Phong hợp tấu đàn sáo. Nếu nói Khúc Dương có tâm địa hiểm độc, cố ý hãm hại Lưu Chính Phong thì vạn lần không thể tin được.

Nhạc Bất Quần thấy sắc mặt Lệnh Hồ Xung có vẻ do dự, hiển nhiên là hắn chưa tin vào lời mình nói. Lão hỏi tiếp:

– Xung nhi, chuyện này quan hệ đến sự hưng suy vinh nhục của phái Hoa Sơn ta và cũng quan hệ đến sự an nguy thành bại của ngươi nữa. Ta chỉ hỏi ngươi: sau này thấy người trong Ma giáo, ngươi có căm ghét như kẻ thù mà quyết giết chúng hay không?

Lệnh Hồ Xung trầm ngâm nhìn sư phụ, lòng vẫn bán tín bán nghi, tự hỏi: Sau này nếu ta thấy người trong Ma giáo có nên hỏi chuyện thị phi cho rõ ràng hay rút kiếm giết ngay?

Chàng không biết phải hành xử vấn đề này thế nào, nên khi sư phụ hỏi, chẳng biết phải trả lời sao.

Nhạc Bất Quần chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc lâu, thấy hắn không đáp; lão thở dài, nói:

– Lúc này, ngươi trả lời một cách gượng gạo cũng vô nghĩa thôi. Lần này ngươi xuống núi đã làm tổn hại thanh danh của phái ta rất nhiều. Ta phạt ngươi quay mặt vào tường một năm để ngươi suy nghĩ cho thật chín chắn về những chuyện này.

Lệnh Hồ Xung cúi người đáp:

– Dạ, đệ tử xin kính cẩn nhận hình phạt.

Nhạc Linh San nói:

– Quay mặt vào tường một năm ư? Vậy thì trong vòng một năm, mỗi ngày phải quay mặt vào tường mấy giờ?

Nhạc Bất Quần nói:

– Sao lại mấy giờ? Mỗi ngày từ sáng đến tối, ngoài lúc ăn ngủ ra, phải quay mặt vào tường để suy nghĩ.

Nhạc Linh San vội nói:

– Vậy thì làm sao được? Quay mặt vào tường khiến người ta buồn đến chết ư? Chẳng lẽ ngay cả đi đại tiện, tiểu tiện cũng không được phép ư?

Nhạc phu nhân quát:

– Con gái gì mà nói năng khiếm nhã vậy?

Nhạc Bất Quần nói:

– Quay mặt vào tường một năm có gì là nặng? Năm xưa, tổ sư của ngươi phạm tội đã từng bị phạt quay mặt vào tường ba năm sáu tháng trên ngọn Ngọc Nữ không rời một bước.

Nhạc Linh San lè lưỡi nói:

– Vậy thì quay mặt vào tường một năm coi như là nhẹ ư? Kỳ thực đại sư ca nói “Hễ gặp ni cô đánh bạc tất thua” hoàn toàn là do lòng tốt muốn cứu người chứ có cố ý thóa mạ ai đâu.

Nhạc Bất Quần nói:

– Chính vì lòng tốt nên ta mới phạt hắn một năm quay mặt vào tường. Nếu hắn có ý đồ đen tối, ta đã tát cho hắn rớt răng, cắt cái lưỡi hắn đi rồi.

Nhạc phu nhân nói:

– Linh nhi, ngươi không được lý sự với gia gia nữa. Đại sư ca của ngươi ở trên ngọn Ngọc Nữ để ăn năn hối lỗi, ngươi đừng có lên đó tán gẫu với hắn, nếu không thì ý định tốt đẹp của gia gia ngươi đối với hắn sẽ bị ngươi làm hỏng đi.

Nhạc Linh San nói:

– Giam đại sư ca ở trên ngọn Ngọc Nữ còn cho là có ý định tốt sao? Không cho hài nhi được chuyện trò với đại sư ca thì lúc tịch mịch có ai để đại ca chuyện trò giải sầu? Trong một năm, ai sẽ cùng luyện kiếm với hài nhi?

Nhạc phu nhân nói:

– Ngươi đi tán gẫu với hắn, hắn còn quay mặt vào tường ăn năn sám hối sao được? Bao nhiêu sư huynh sư tỷ trên núi ai cũng có thể cùng ngươi luyện kiếm được cả.

Nhạc Linh San nghiêng đầu suy nghĩ một lúc lại hỏi:

– Vậy thì trên đó đại sư ca ăn cái gì? Một năm không xuống núi đại ca phải nhịn ăn chết đói sao?

Nhạc phu nhân nói:

– Ngươi không phải lo, sẽ có người đem cơm cho hắn.

Hồi 31: Trong hậu động tình đầu nồng thắm

Chạng vạng tối hôm đó, Lệnh Hồ Xung bái biệt sư phụ, sư nương và bọn sư đệ, sư muội, mang thanh trường kiếm tự đi lên ngọn Ngọc Nữ cao vút.

Đỉnh núi có một sơn động làm nơi giam cầm đệ tử các đời của phái Hoa Sơn vi phạm môn quy. Đỉnh núi này nhẵn nhụi, không một cành cây ngọn cỏ nào sống được; ngoài sơn động ra, không còn cái gì khác. Hoa Sơn vốn cây cỏ xanh um, cảnh sắc tuyệt đẹp nhưng trên đỉ nh núi lại khác hẳn. Từ ngàn xưa tương truyền rằng nơi đây là một hạt trân châu đính trên cây thoa của nàng Ngọc Nữ. Các tổ sư phái Hoa Sơn dùng đỉnh núi này làm nơi phạt bọn đệ tử, chủ yếu vì chỗ này không có cây cỏ, không có côn trùng chim muông. Bọn đệ tử bị phạt phải quay mặt vào tường ăn năn hối lỗi không bị ngoại cảnh chi phối, tâm hồn sẽ lắng đọng, an tĩnh.

Lệnh Hồ Xung đi vào sơn động nhìn thấy dưới đất có một tảng đá to bóng loáng, nghĩ bụng: Mấy trăm năm nay, không biết đã có bao nhiêu vị tiền bối phái Hoa Sơn đã từng ngồi lên khiến cho tảng đá này trơn bóng thế này. Lệnh Hồ Xung ngày nay là tên đệ tử đệ nhất ma mãnh, càn quấy của phái Hoa Sơn; tảng đá này mà ta không ngồi lên thì còn ai xứng đáng ngồi nữa? Mà đợi đến ngày hôm nay mới phái ta đến ngồi trên tảng đá này thì có thể coi như ta đã được khoan hồng lắm rồi.

Chàng giơ tay vỗ vỗ vào tảng đá, nói:

– Tảng đá ơi là tảng đá, ngươi đã chịu cô quạnh nhiều năm. Hôm nay đã có Lệnh Hồ Xung đến làm bạn với ngươi đây.

Lệnh Hồ Xung ngồi lên tảng đá, đối diện bức tường đá không quá một thước. Hắn thấy bên trái bức tường ai đó đã khắc ba chữ to “Phong Thanh Dương”, chắc là dùng kiếm để khắc. Nét khắc điêu luyện, sâu vào đến nửa tấc. Hắn nghĩ thầm: Phong Thanh Dương là ai? Có lẽ là một vị tiền bối của bổn phái, đã từng bị phạt quay mặt vào tường. A, đúng rồi, tổ sư gia của ta thuộc hàng chữ “Phong”, vị Phong tiền bối này là thái sư bá hoặc là thái sư thúc tổ của ta. Ba chữ này được khắc bằng kình lực phi phàm như vậy, thì võ công của người nhất định vô cùng thâm hậu. Tại sao sư phụ sư nương trước giờ không đề cập qua chuyện này? Chắc là vị tiền bối ấy không còn trên đời này nữa.

Chàng nhắm mắt ngồi luyện công khoảng nửa canh giờ, đứng dậy thư giãn một chút rồi đi vào thạch động, quay mặt vào tường trầm tư: Sau này ta gặp người trong Ma giáo thì có nên hỏi chuyện thị phi cho rõ ràng hay rút kiếm giết chúng ngay? Chẳng lẽ trong Ma giáo thực sự không có người tốt ư? Nhưng nếu đã là người tốt, tại sao lại gia nhập Ma giáo? Nếu coi như nhất thời lầm đường lạc lối thì cũng nên lập tức rút khỏi Ma giáo mới phải; đã không rút lui là cam tâm cùng với gian tà gây tai họa cho thế nhân.

Lúc này, đầu óc của Lệnh Hồ Xung lại hiện lên rất nhiều tình cảnh, đều là những chuyện ác mà bình thường sư phụ sư nương cùng với các vị tiền bối trên giang hồ kể lại những hành động người trong Ma giáo hại người. Cả nhà Vu lão quyền sư ở Giang Tây gồm hai mươi ba người bị Ma giáo bắt rồi đem đóng đinh lên cây cổ thụ, ngay cả đứa bé ba tuổi cũng không tha. Hai người con trai của Vu lão quyền sư đau đớn suốt ba ngày ba đêm mới chết. Chưởng môn nhân Long Phụng đao ở phủ Tế Nam là Triệu Đăng Khôi cưới con dâu, lúc tân khách đến đầy sảnh, người Ma giáo xông vào cắt thủ cấp của cặp vợ chồng tân nhân đặt ở giữa sảnh đường, nói là làm quà chúc lễ. Hắc lão anh hùng ở Hán Dương mừng đại thọ bảy mươi tuổi, các hảo hán khắp nơi đều đến chúc thọ, không ngờ bị bọn Ma giáo chôn thuốc nổ dưới đại sảnh, châm lửa đốt ngòi dẫn vào cho nổ; anh hùng hảo hán lớp chết lớp bị thương không biết bao nhiêu mà kể. Kỷ sư thúc phái Thái Sơn trong vụ này bị mất một cánh tay, chuyện này do chính miệng Kỷ sư thúc nói ra, tất nhiên tuyệt đối không thể là bịa đặt được. Chàng lại nghĩ đến hai năm trước, trên đại lộ ở Trịnh Châu gặp Tôn sư thúc phái Tung Sơn; hai tay hai chân của lão đều bị chặt đứt hết, hai mắt cũng bị khoét đi, không ngừng kêu la: “Ma giáo hại ta, nhất định phải báo thù! Ma giáo hại ta, nhất định phải báo thù!” Lúc đó phái Tung Sơn đã có người đến tiếp ứng, nhưng Tôn sư thúc bị thương nặng như vậy thì làm sao có thể chữa trị được? Lệnh Hồ Xung nghĩ đến hai mắt của lão bị khoét, bất giác thấy lạnh xương sống, nghĩ thầm: Người trong Ma giáo làm nhiều chuyện ác như vậy, ông cháu Khúc Dương ra tay cứu mình, nhất định không phải là do lòng tốt. Sư phụ hỏi ta sau này gặp người trong Ma giáo có nên hạ sát hay không mà ta còn do dự gì nữa? Đương nhiên là phải rút kiếm ra giết liền.

Lệnh Hồ Xung đả thông được vấn đề này, lòng thấy vô cùng thoải mái. Chàng huýt dài một tiếng, nhắm mắt nhảy lộn ra ngoài động, lúc đang lơ lửng trong không, chàng nhẹ nhàng xoay người hướng ra phía trước rồi hạ xuống, đứng vững lại, trố mắt nhìn thì thấy hai chân mình vừa đạp xuống mép sườn núi, cách bờ vực không đầy hai thước. Vừa rồi nếu chàng dùng lực nhảy mạnh hơn một chút, vượt quá hai thước thì sẽ bị rơi xuống vực sâu vạn trượng, xương thịt đã nát như tương. Lúc nhắm mắt quay người, chàng đã tính toán trước rồi. Ấy là do khi đã quyết định chủ ý gặp người trong Ma giáo thì ra tay giết ngay, lòng không còn vướng bận gì nữa, liền chơi một trò mạo hiểm.

Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Lá gan ta chắc chưa lớn lắm, ít ra nên nhảy ra xa một thước nữa mới xứng danh nam tử.

Bỗng nghe sau lưng có người vỗ tay, cười nói:

– Đại sư ca nhảy tuyệt quá chừng!

Đó chính là giọng nói của Nhạc Linh San. Lệnh Hồ Xung vui mừng quay người lại, thấy Nhạc Linh San tay xách một thùng cơm, cười hì hì nói:

– Đại sư ca, tiểu muội đem cơm đến cho đại sư ca đây!

Cô để thùng cơm xuống, đi vào thạch động, xoay người ngồi xuống tảng đá to, rồi nói:

– Đại sư ca ở đây nhắm mắt xoay mình nhảy trông rất ngộ nghĩnh; tiểu muội cũng muốn làm thử xem.

Lệnh Hồ Xung nghĩ trò chơi này nguy hiểm vô cùng, hành động của mình vừa rồi cũng do một lúc liều mạng mà ra. Võ công của Nhạc Linh San còn thua xa mình, nếu tính trật một chút thì thật là tai hại. Nhưng chàng thấy cô đang cao hứng, cũng không dám ngăn cản, lập tức đứng bên sườn núi để đề phòng. Bản tánh Nhạc Linh San vốn hiếu thắng nên cô muốn hơn đại sư ca, ngấm ngầm tính luồng lực đạo cùng bộ vị, điểm hai chân xuống đất, phóng người lên khoảng không rồi nhẹ nhàng quay người phóng ra phía trước. Cô muốn mình nhảy xa ra gần bờ vực hơn Lệnh Hồ Xung. Lúc vọt người lên, cô vận nội lực mạnh hơn một chút, nên khi thân người rơi xuống, đột nhiên cô sợ hãi mở mắt nhìn, chỉ thấy trước mắt là vực thẳm không đáy. Cô sợ hãi thét to lên.

Lệnh Hồ Xung đưa tay ra nắm chặt cánh tay trái của cô lại. Nhạc Linh San rơi xuống đất, thấy hai chân cách bờ vực chỉ khoảng một thước, đúng là xa hơn Lệnh Hồ Xung. Cô định thần lại, cười nói:

– Đại sư ca, tiểu muội rơi xa hơn đại ca nhiều.

Lệnh Hồ Xung thấy cô ta sợ hãi đến nỗi mặt không còn chút máu, liền vỗ nhẹ lưng cô, cười nói:

– Lần sau chúng ta đừng chơi trò này nữa. Sư phụ sư nương mà biết được sẽ mắng ta một trận, phạt ta phải quay mặt vào tường thêm một năm nữa đó.

Nhạc Linh San đã định thần lại, lùi ra sau hai bước, cười nói:

– Vậy thì tiểu muội cũng bị phạt. Cả hai chúng ta ở đây cùng quay mặt vào tường há chẳng thú vị lắm sao? Ngày ngày, chúng ta có thể thi với nhau xem ai nhảy xa hơn.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chúng ta ngày ngày ở đây quay mặt vào tường ư?

Chàng nói xong, đưa mắt nhìn vào thạch động, bất giác trong đầu bâng khuâng, thầm nghĩ: Nếu ta được cùng tiểu sư muội ở đây ngày đêm không rời nhau trong một năm thì ngay cả thần tiên cũng không hạnh phúc bằng ta. Ôi, làm gì có chuyện đó được!

Hắn bèn nói:

– Chỉ sợ sư phụ bắt sư muội quay mặt vào tường trong Chính khí hiên, không cho rời một bước. Vậy thì chúng ta cả năm không thể gặp nhau được.

Nhạc Linh San nói:

– Như vậy không công bằng. Tại sao đại sư ca có thể ở đây chơi mà lại bắt tiểu muội giam mình ở Chính khí hiên?

Nhưng cô nghĩ phụ mẫu quyết không cho phép mình ngày đêm ở trên đỉnh núi bầu bạn với đại sư ca, liền nói lảng sang chuyện khác:

– Đại sư ca, má má đã phái Lục hầu nhi đưa cơm đến cho đại sư ca. Tiểu muội nói với hầu nhi: “Lục sư ca, mỗi ngày sư ca phải trèo lên xuống đỉnh núi cao vút này, dù sư ca có là hầu nhi thì cũng rất vất vả. Chi bằng để tiểu muội thay thế sư ca, nhưng sư ca trả công cho tiểu muội cái gì?” Lục hầu nhi nói: “Sư nương phái ta làm việc này, ta đâu dám trốn tránh trách nhiệm. Vả lại, đại sư ca rất yêu thương ta, ta đem cơm cho đại ca một năm, mỗi ngày được gặp đại ca một lần thì mới sảng khoái, có gì đâu mà gọi là vất vả?” Đại sư ca, đại sư ca thấy Lục hầu nhi nói vậy có tệ hại không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Hắn nói như vậy là đúng đó.

Nhạc Linh San nói:

– Lục hầu nhi còn nói: “Bình thường, ta vẫn muốn nhờ đại sư ca dạy cho vài chiêu công phu, tiểu muội mà đến thì ta bị đuổi đi không được nói chuyện nhiều với đại sư ca nữa”. Sao lại có chuyện đó được, Lục hầu nhi ăn nói thật vớ vẩn. Y lại còn nói: “Trong vòng một năm bắt đầu từ hôm nay, chỉ còn một mình ta có thể lên núi gặp đại sư ca còn sư muội thì không được gặp đại sư ca nữa”. Tiểu muội tức muốn điên vì Lục sư ca không đếm xỉa gì đến tiểu muội. Sau đó… sau đó…

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sau đó tiểu muội rút kiếm ra dọa hắn phải không?

Nhạc Linh San lắc đầu nói:

– Không phải, sau đó tiểu muội tức quá khóc òa lên. Lục hầu nhi mới năn nỉ tiểu muội, nhường cho tiểu muội được đem cơm lên cho đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung nhìn gương mặt xinh xắn của cô, thấy đôi mắt còn hơi sưng, quả nhiên cô đã khóc thật. Bất giác lòng chàng thấy thương cảm vô cùng. L ệnh Hồ Xung nghĩ: Sư muội đối với ta nặng tình như vậy thì ta có vì cô ta mà chết đến trăm ngàn lần cũng cam lòng.

Nhạc Linh San mở thùng đựng cơm, lấy hai chiếc đĩa, hai cái bát, hai đôi đũa để trên tảng đá. Lệnh Hồ Xung nói:

– Có đến hai cái bát và hai đôi đũa ư?

Nhạc Linh San cười nói:

– Tiểu muội cũng ăn một chút với đại sư ca. Đại sư ca xem thử đây là cái gì?

Từ trong thùng, cô lấy ra một hồ rượu. Lệnh Hồ Xung quý rượu như tính mạng của mình, vừa thấy có rượu, hắn liền đứng dậy xá dài Nhạc Linh San rồi nói:

– Đa tạ sư muội. Ta đang buồn vì sợ suốt năm không có một hớp rượu để uống.

Nhạc Linh San mở nắp hồ rượu, đưa hồ cho Lệnh Hồ Xung rồi cười nói:

– Đại sư ca không được uống nhiều. Mỗi ngày tiểu muội chỉ có thể đánh cắp một hồ rượu cho đại sư ca; lấy nhiều sợ bị má má biết.

Lệnh Hồ Xung uống cạn hồ rượu rồi mới ăn cơm. Theo quy củ của phái Hoa Sơn, tên đệ tử nào lên đỉnh núi quay mặt vào tường sám hối thì phải cữ rượu thịt, chỉ được ăn chay. Vì vậy, nhà bếp chỉ nấu chay cho Lệnh Hồ Xung gồm một đĩa rau xanh, một bát đậu hũ. Nhạc Linh San nghĩ mình và đại sư ca đã qua cơn hoạn nạn, cô ăn uống rất ngon lành. Hai người ăn cơm xong, Nhạc Linh San ngồi lại trò chuyện gần tối mới thu dọn bát đĩa xuống núi.

Từ đó mỗi ngày vào lúc hoàng hôn, Nhạc Linh San đem cơm lên đỉnh núi và hai người cùng ăn cơm. Buổi trưa Lệnh Hồ Xung ăn cơm rau còn lại của ngày hôm trước.

Lệnh Hồ Xung tuy ở một mình trên đỉnh núi cao nhưng không cảm thấy buồn chán. Sáng sớm dậy, chàng ngồi luyện công, ôn lại kiếm pháp, khí công mà sư phụ đã truyền, còn ngấm ngầm suy nghĩ đao pháp của Điền Bá Quang và chiêu “Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm” của sư nương chế ra. “Ninh thị nhất kiếm” tuy chỉ có một chiêu nhưng bao hàm cả tuyệt chỉ khí công và kiếm pháp của phái Hoa Sơn. Lệnh Hồ Xung tự biết nội công kiếm thuật của mình chưa đạt được cảnh giới đó, cứ miễn cưỡng tập luyện thì chỉ có hại nhiều hơn là có lợi, cho nên mỗi ngày, chàng tăng cường luyện nội công. Cứ như vậy, tuy gọi là bị phạt quay mặt vào tường ăn năn sám hối nhưng thật ra chẳng quay mặt vào tường, và cũng chẳng ăn năn sám hối gì cả. Ngoài lúc hoàng hôn cùng với Nhạc Linh San nói chuyện ra, thì mỗi ngày chàng không phải lo điều gì, chỉ chuyên chú luyện công thôi.

Trải qua hơn hai tháng, đỉnh Hoa Sơn càng ngày càng lạnh lẽo. Lại trải qua mấy ngày, Nhạc phu nhân đan cho Lệnh Hồ Xung chiếc áo ấm, rồi sai Lục Đại Hữu đem lên. Sáng sớm hôm ấy trời lại nổi cơn gió bấc, đến giữa trưa thì mưa tuyết rơi xuống.

Lệnh Hồ Xung thấy trời đầy mây xám đen, trận mưa tuyết chắc không nhỏ , liền nghĩ: Đường lên đỉnh núi hiểm trở, tuyết rơi đến chiều tối cũng không ngớt, đường trơn vô cùng. Tiểu sư muội không nên đem cơm lên cho ta nữa.

Nhưng chàng không có cách nào báo tin xuống núi được nên lòng rất lo lắng, chỉ mong sư phụ và sư nương biết chuyện này đưa lời ngăn cản. Chàng lại nghĩ: Ngày nào tiểu sư muội cũng thay Lục Đại Hữu đem cơm lên cho ta, lẽ nào sư phụ và sư nương chẳng biết? Chắc tại hai vị làm ngơ mà thôi. Nếu hôm nay tiểu sư muội lại lên núi nữa, lỡ trượt chân thì nguy tính mạng, mong rằng sư nương nhất định không cho sư muội lên núi.

Đến chiều, chốc chốc hắn lại nhìn xuống núi. Trời tối dần, quả nhiên Nhạc Linh San không lên núi. Lệnh Hồ Xung thấy lòng nhẹ nhõm, tự nhủ: Đến sáng mai, Lục sư đệ nhất định sẽ mang cơm lên cho mình; chỉ mong sao sư muội đừng mạo hiểm.

Chàng định vào động nằm ngủ, bỗng nghe trên đường lên núi có tiếng chân sột soạt rồi tiếng Nhạc Linh San gọi:

– Đại sư ca, đại sư ca!

Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa vui mừng, vội chạy ra bên sườn núi. Trong màn tuyết rơi giống như từng đám lông ngỗng bay phất phơ, Nhạc Linh San lần từng bước đi lên đỉnh núi trơn trượt.

Lệnh Hồ Xung vì sư mệnh ngăn cản, không dám bước xuống núi nửa bước, chỉ vươn tay ra đón cô. Khi tay trái của Nhạc Linh San đụng đến tay phải của chàng, Lệnh Hồ Xung nắm chặt tay cô, nhấc bổng lên đỉnh núi.

Trong ánh sáng mờ mờ, chàng thấy toàn thân cô phủ đầy tuyết, ngay cả đầu tóc cũng trắng xóa. Trên trán bên trái bị sưng lên một cục giống cái trứng gà nhỏ, máu vẫn còn đang rướm ra. Lệnh Hồ Xung lắp bắp:

– Sư muội… sư muội…

Miệng Nhạc Linh San méo xệch, cô nói như muốn khóc:

– Tiểu muội bị trượt chân té ngã, làm rớt thùng cơm của đại sư ca xuống vực thẳm rồi. Đại sư ca… đại sư ca tối nay phải nhịn đói.

Lệnh Hồ Xung vừa xúc động vừa thương cảm, giơ tay áo lên nhè nhẹ chấm vào vết thương của cô rồi dịu dàng nói:

– Tiểu sư muội, đường lên núi trơn như vậy, tiểu sư muội không nên lên đây nữa.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội chỉ lo đại ca không có cơm ăn, vả lại… vả lại tiểu muội muốn gặp đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nếu tiểu muội lỡ trượt chân rớt xuống vực thẳm thì làm sao ta dám nhìn mặt sư phụ và sư nương nữa.

Nhạc Linh San mỉm cười nói:

– Đại ca đừng lo lắng như vậy, chẳng phải tiểu muội đang đứng sờ sờ ra đây sao? Nhưng đáng tiếc là tiểu muội vô dụng, lúc vội leo lên núi lại làm rơi mất cơm rượu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Cầu mong cho sư muội được bình an thì ta có nhịn ăn mười ngày cũng chẳng sao.

Nhạc Linh San nói:

– Lúc lên được nửa núi thì đường đi trơn ướt quá chừng; tiểu muội dùng hết sức bước, lại vịn vào những gốc cây tùng mà lên núi. Lúc đó tiểu muội sợ té xuống vực thẳm vô cùng.

Lệnh Hồ Xung năn nỉ:

– Tiểu sư muội, sư muội nghe lời ta đi. Sau này sư muội đừng vì ta mà mạo hiểm nữa. Nếu tiểu sư muội lỡ trượt chân té xuống vực thẳm thì ta đây chắc phải nhảy theo tiểu muội.

Ánh mắt của Nhạc Linh San lộ vẻ vui mừng vô hạn, nói:

– Đại sư ca, thật ra đại sư ca không nên lo lắng như vậy. Tiểu muội đem cơm lên cho đại sư ca lỡ trượt chân té xuống là do tại mình không cẩn thận, đại sư ca hà tất phải lo lắng làm chi?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu chầm chậm nói:

– Không phải vì lòng ta lo lắng. Nếu người đem cơm là Lục hầu nhi thì dù sư đệ có trượt chân té xuống nguy hiểm đến tính mạng, ta cũng không nhảy theo đâu.

Lệnh Hồ Xung nói tiếp:

– Ta chỉ tận lực phụng dưỡng phụ mẫu của hắn, chiếu cố người nhà của hắn, chớ không vì chuyện này mà chết theo Lục sư đệ được.

Nhạc Linh San nói nhỏ:

– Nhưng nếu người bị chết là tiểu muội thì đại sư ca không muốn sống nữa ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng vậy, tiểu sư muội. Nhưng đó không phải là vì tiểu sư muội đem cơm cho ta. Nếu tiểu sư muội đem cơm cho người khác mà gặp chuyện nguy hiểm thì ta đây cũng quyết không sống nữa.

Nhạc Linh San nắm chặt lấy tay của Lệnh Hồ Xung, tình cảm nồng nàn. Cô gọi khẽ:

– Đại sư ca!

Lệnh Hồ Xung muốn dang tay ra ôm cô vào lòng nhưng không dám. Bốn mắt nhìn nhau bất động, tuyết vẫn rơi xuống mỗi lúc một nhiều, dần dần tựa hồ như cả hai đã biến thành hai người tuyết.

Một lúc sau, Lệnh Hồ Xung mới nói:

– Tối nay một mình tiểu sư muội không thể xuống núi được nữa. Sư phụ và sư nương có biết tiểu muội lên đây không? Nếu hai vị phái người lên đây đưa tiểu muội xuống núi thì hay quá.

Nhạc Linh San nói:

– Sáng nay, gia gia vừa nhận được thư của Tả minh chủ phái Tung Sơn nói là có chuyện cần thương nghị nên gia gia và má má xuống núi đi rồi.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Vậy có ai biết tiểu muội lên đây không?

Nhạc Linh San cười nói:

– Không. Không ai biết cả. Nhị sư ca, tam sư ca, tứ sư ca và Lục hầu nhi; cả bốn người theo gia gia má má đi Tung Sơn, không ai biết tiểu muội lên đây với đại sư ca cả. Nếu không thì Lục hầu nhi nhất định giành mang cơm với tiểu muội rồi, thật là phiền phức. A, đúng rồi, có tiểu tử Lâm Bình Chi thấy tiểu muội lên đây nhưng tiểu muội đã dọa hắn không được bép xép, nếu không thì ngày mai tiểu muội sẽ đánh cho hắn một trận nên thân.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ui chao, sư tỷ oai phong quá chừng!

Nhạc Linh San cười nói:

– Tất nhiên rồi. Dễ gì có người gọi tiểu muội bằng tỷ tỷ, không làm oai làm giá há không uổng lắm ư? Không giống như đại sư ca, ai cũng gọi là “đại sư ca” thì còn gì thú vị nữa.

Cả hai cùng cười. Lệnh Hồ Xung nói:

– Tối nay tiểu muội không thể về được rồi, đành phải tá túc lại trong thạch động này một đêm, sáng mai hãy xuống núi.

Nói xong Lệnh Hồ Xung liền nắm tay cô dẫn vào trong động.

Thạch động nhỏ hẹp, chỉ vừa đủ cho hai người dung thân, khó bề xoay xở. Cả hai ngồi đối mặt nhau nói chuyện trên trời dưới đất cho đến nửa đêm. Nhạc Linh San nói càng lúc càng nhỏ dần rồi thiếp đi.

Lệnh Hồ Xung sợ cô ta bị lạnh, bèn cởi áo ngoài của mình đắp lên người cô. Ngoài động ánh tuyết phản chiếu, thấy lờ mờ nét mặt xinh xắn của Linh San. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Ân tình của sư muội đối với ta nặng như vậy thì ta có vì sư muội mà tan xương nát thịt cũng nguyện cam lòng.

Chàng lặng lẽ trầm tư. Từ nhỏ ta đã không có cha mẹ, hoàn toàn nhờ sư phụ sư nương nuôi dưỡng đến lớn, thương yêu như con ruột. Ta là đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn, không những nhập môn sớm nhất mà võ công cũng cao cường hơn bọn sư đệ, sau này chắc chắn là người kế thừa ngôi vị của sư phụ, lên nắm quyền phái Hoa Sơn. Mà tiểu sư muội lại đối với mình nặng ân tình như vậy thì ân đức sâu dày của sư môn thật khó báo đáp. Chỉ vì tính tình ta nóng nảy không biết tự kìm chế, lúc nào cũng làm cho sư phụ và sư mẫu tức giận, phụ lòng kỳ vọng của hai vị. Từ nay về sau, ta phải sửa đổi tính nết, nếu không thì không những có lỗi với sư phụ và sư mẫu mà còn có lỗi ngay cả tiểu sư muội nữa.

Lệnh Hồ Xung nhìn mái tóc của Nhạc Linh San bay phất phơ, đang lúc ngơ ngẩn xuất thần, bỗng nghe cô ta kêu khẽ:

– Tiểu Lâm tử, ngươi không nghe lời ta, lại đây ta đánh ngươi mới được.

Lệnh Hồ Xung sửng sốt, nhưng thấy mắt cô vẫn nhắm nghiền. Chàng bèn nghiêng người lắng nghe, hơi thở cô vẫn đều đều, biết là cô đang nằm mơ. Chàng cười thầm trong bụng, nghĩ: Sư muội được làm sư tỷ nên ra vẻ oai phong lắm. Chắc mấy ngày nay, Lâm sư đệ bị sư muội kêu đến rồi quát đi, phải chịu ấm ức nhiều phen. Trong giấc mơ, tiểu muội cũng không quên quát mắng hắn.

Lệnh Hồ Xung ngồi cạnh Nhạc Linh San cho đến sáng, không chợp mắt chút nào. Chiều hôm qua Nhạc Linh San vì quá mệt nên ngủ đến giờ Thìn mới tỉnh dậy. Thấy Lệnh Hồ Xung đang nhìn mình mỉm cười, cô vươn vai ngáp dài một cái rồi cười nói:

– Đại sư ca dậy sớm vậy?

Lệnh Hồ Xung không cho cô biết suốt đêm mình thức trắng, chỉ cười nói:

– Tiểu sư muội nằm mơ thấy gì vậy? Lâm sư đệ bị tiểu sư muội đánh đòn phải không?

Nhạc Linh San ngoẹo đầu suy nghĩ một lúc rồi cười nói:

– Đại sư ca nghe tiểu muội nói mớ phải không? Tiểu tử Lâm Bình Chi này bướng bỉnh lắm, hắn không nghe lời tiểu muội. Hi hi, tiểu muội ban ngày mắng hắn, khi ngủ cũng mắng hắn nữa.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Hắn đã đắc tội ra sao với tiểu muội?

Nhạc Linh San cười nói:

– Trong mơ tiểu muội bảo hắn đi luyện kiếm với tiểu muội bên thác nước; hắn từ chối ba lần bảy lượt không chịu đi. Tiểu muội lừa hắn đến bên thác nước rồi xô hắn xuống.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ui chao, sao tiểu muội làm vậy, lỡ xảy ra án mạng thì sao?

Nhạc Linh San cười nói:

– Là mơ chứ đâu có phải là thật, đại sư ca lo lắng làm gì? Hay là đại sư ca sợ tiểu muội giết tiểu tử này thật?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ngày nghĩ sao đêm chiêm bao làm vậy. Ban ngày tiểu muội muốn giết Lâm sư đệ lắm rồi nên nghĩ quanh nghĩ quẩn, tối ngủ mới nằm mơ như vậy.

Nhạc Linh San bĩu môi nói:

– Tiểu tử này thật vô dụng, chỉ một bộ kiếm pháp nhập môn đã luyện ba tháng rồi mà chẳng ra làm sao cả. Hắn dụng công dữ lắm, luyện ngày luyện đêm khiến cho ai thấy cũng phát bực. Tiểu muội muốn giết hắn thì cần gì phải suy nghĩ, chỉ giơ kiếm lên một cái là giết hắn ngay.

Tay cô giơ ngang quơ một cái làm thế đánh một chiêu Hoa Sơn kiếm pháp.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Bạch vân xuất tụ mà phát ra thì đầu của gã họ Lâm rơi xuống đất ngay.

Nhạc Linh San cười khanh khách nói:

– Nếu tiểu muội sử chiêu Bạch vân xuất tụ này thì nhất định cái đầu của hắn rơi xuống đất thật cũng không chừng.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu sư muội được làm sư tỷ, thấy kiếm pháp của sư đệ kém cỏi thì nên chỉ điểm cho hắn mới phải, sao động một tí là đòi vung kiếm giết? Sau này sư phụ nhận thêm đệ tử, đều là sư đệ của sư muội. Sư phụ nhận thêm một trăm đệ tử, chỉ trong vòng mấy ngày bị sư muội giết hết chín mươi chín người, vậy thì làm sao đây?

Nhạc Linh San vịn vào vách đá, cười ngặt nghẹo nói:

– Đại ca nói đúng lắm. Tiểu muội chỉ giết chín mươi chín người thôi, phải chừa lại một tên mới được. Nếu giết hết thì ai gọi tiểu muội bằng sư tỷ nữa?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Nếu sư muội giết hết chín mươi chín tên sư đệ thì tên thứ một trăm chắc cũng bỏ trốn đi luôn, tiểu muội đâu còn làm sư tỷ được nữa?

Nhạc Linh San cười nói:

– Lúc đó tiểu muội bắt đại sư ca gọi tiểu muội là sư tỷ.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta gọi sư muội là sư tỷ cũng không sao, nhưng sư muội có giết ta không?

Nhạc Linh San cười nói:

– Nếu nghe lời thì không giết, còn không nghe lời thì sẽ giết.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu sư tỷ, cầu xin tiểu sư tỷ nương tình cho.

Lệnh Hồ Xung thấy tuyết đã ngừng rơi, sợ bọn sư đệ sư muội phát hiện không thấy Nhạc Linh San đâu, sẽ nói bóng nói gió thì sẽ vô cùng có lỗi với Nhạc Linh San. Chàng nói đùa một lúc nữa rồi hối thúc cô xuống núi. Nhạc Linh San quyến luyến chưa muốn đi, bèn nói:

– Tiểu muội muốn ở đây chơi thêm một chút nữa; gia gia má má đều không có ở nhà, buồn chết đi được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sư muội ngoan, mấy ngày nay ta đã nghĩ ra mấy chiêu Hồ – Linh kiếm pháp, đợi sau khi ta xuống núi, sẽ cùng tiểu muội đến thác nước luyện kiếm.

Chàng dỗ dành một lúc lâu, cô mới chịu xuống núi. Chiều hôm đó, Cao Căn Minh đem cơm lên núi, nói rằng Nhạc Linh San bị cảm, sốt li bì, đang nằm trên giường, lúc nào cũng nghĩ đến đại sư ca, bảo gã lúc đem cơm lên phải nhớ mang thêm rượu. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, vô cùng lo lắng, biết chiều hôm qua cô ta bị trượt ngã, quá sợ hãi nên sinh bệnh, hận không được chạy xuống núi để thăm cô. Tuy đã nhịn đói hai ngày một đêm, nhưng bưng bát cơm lên, chàng cảm thấy nghèn nghẹn khó nuốt. Cao Căn Minh biết đại sư ca và tiểu sư muội yêu thương nhau thắm thiết, vừa nghe nói sư muội bị bệnh, đại sư ca đã lo âu vạn phần, gã khuyên:

– Đại sư ca không nên lo lắng quá. Hôm qua tuyết rơi nhiều, chắc tiểu sư muội ham chơi tuyết nên bị cảm lạnh. Chúng ta đều là người tu luyện nội công, một chút cảm mạo như vậy không có gì đáng ngại, chỉ uống một hai thang thuốc thì sẽ khỏi ngay.

Nào ngờ Nhạc Linh San bệnh đến mười mấy ngày, cho đến lúc hai vợ chồng Nhạc Bất Quần trở về, dùng nội lực để tống khí lạnh ra khỏi người cô, cô mới thuyên giảm. Đến lúc cô lên núi lại thì đã trải qua hai mươi mấy ngày.

Hai người xa nhau lâu giờ mới gặp lại nhau, vừa mừng vừa tủi. Nhạc Linh San nhìn sắc mặt Lệnh Hồ Xung, kinh hãi nói:

– Đại sư ca, đại sư ca cũng bị bệnh sao? Sao lại ốm nhom như vậy?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Ta đâu có bệnh. Ta… ta…

Nhạc Linh San chợt hiểu ra, bỗng òa lên khóc, nói:

– Đại sư ca, đại sư ca vì thương nhớ tiểu muội đến nỗi ốm nhom như vậy ư? Đại sư ca, tiểu muội đã khỏe rồi đây.

Lệnh Hồ Xung nắm lấy tay nàng khẽ nói:

– Mấy ngày nay, ta ngày đêm nhìn theo con đường xuống núi, mong sư muội từng giờ từng khắc. Tạ ơn trời đất, cuối cùng tiểu sư muội cũng đến đây.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội lúc nào cũng thấy hình ảnh đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:

– Tiểu muội lúc nào cũng thấy được ta ư?

Nhạc Linh San nói:

– Đúng vậy, lúc tiểu muội bệnh, hễ nhắm lại là thấy ngay đại sư ca. Ngày hôm đó, tiểu muội phát sốt dữ dội, má má nói tiểu muội nói nhảm, toàn là trò chuyện với đại ca. Đại sư ca, má má biết chuyện tối hôm đó tiểu muội lên đây ở lại với đại sư ca rồi.

Lệnh Hồ Xung đỏ mặt, lòng hắn có chút sợ hãi, hỏi:

– Sư nương có nổi giận không?

Nhạc Linh San đáp:

– Má má không nổi giận, nhưng… nhưng…

Cô nói đến đây, hai má bỗng nhiên ửng hồng, không nói tiếp nữa. Lệnh Hồ Xung nói:

– Nhưng làm sao?

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội không nói đâu.

Lệnh Hồ Xung thấy cô e thẹn, lòng hắn ngẩn ngơ, vội định thần lại, nói:

– Tiểu sư muội, tiểu sư muội bệnh nặng mới đỡ một chút, không nên lên đây sớm như vậy. Ta biết bệnh tiểu muội đã thuyên giảm, lúc ngũ sư đệ và lục sư đệ đem cơm lên cho ta ăn đều nói cho ta nghe hết rồi.

Nhạc Linh San hỏi:

– Vậy sao đại sư ca lại ốm đến như vậy?

Lệnh Hồ Xung cười cười nói:

– Tiểu muội mà hết bệnh thì ta lập tức mập ra ngay.

Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca nói thật với tiểu muội, trong mấy ngày nay, mỗi bữa đại sư ca ăn được mấy bát cơm? Lục hầu nhi nói đại sư ca chỉ uống rượu chứ không ăn cơm, có khuyên đại sư ca, đại sư ca cũng không nghe. Đại sư ca, đại sư ca… tại sao không bảo trọng thân mình?

Cô nói đến đây thì hai mắt đỏ lên.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hắn nói lung tung, tiểu muội đừng thèm nghe. Bất luận nói chuyện gì, Lục hầu nhi đều dặm mắm thêm muối, ta đâu chỉ có uống rượu mà không ăn cơm?

Chàng nói đến đây, một trận gió thổi đến, Nhạc Linh San bị lạnh run lên cầm cập. Trời đang vào lúc trọng đông, trên đỉnh núi gió lộng bốn bề, không một cành cây cản gió. Hoa Sơn vốn đã vô cùng rét lạnh, ở trên đỉnh núi càng rét lạnh hơn. Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Tiểu sư muội, tiểu sư muội chưa được khỏe hẳn, lúc này ngàn lần không thể để bị lạnh nữa. Mau mau xuống núi đi; đợi hôm nào có nắng, tiểu muội hoàn toàn bình phục hãy lên thăm ta.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội đâu có lạnh. Mấy ngày nay nếu trời không nổi gió thì tuyết vẫn rơi, nếu đợi lúc có nắng thì không biết đến bao giờ mới có.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Muội muội lại bị bệnh thì biết làm sao? Ta… ta…

Nhạc Linh San thấy dáng vẻ Lệnh Hồ Xung tiều tụy, nghĩ bụng: Nếu ta lại bệnh nữa thì chắc đại sư ca có thể bệnh theo. Trên đỉnh núi cao vút không có người chăm nom, như vậy không phải là ta làm nguy hiểm đến tính mạng của đại ca sao?

Cô liền nói:

– Được, tiểu muội đi đây. Đại ca phải bảo trọng, uống ít rượu một chút, mỗi bữa phải ăn ba bát cơm. Tiểu muội sẽ nói với gia gia là đại ca không được khỏe, nên cần tẩm bổ một chút mới được, không nên ăn chay mãi.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Ta không dám phạm giới ăn mặn. Ta thấy tiểu sư muội hết bệnh thì lòng vui mừng lắm, không đầy ba ngày, lập tức sẽ mập lên cho mà coi. Hảo muội tử, hảo muội tử xuống núi đi thôi.

Ánh mắt Nhạc Linh San chứa chan tình cảm, hai má ửng hồng, cô khẽ hỏi:

– Đại sư ca kêu tiểu muội bằng gì?

Lệnh Hồ Xung cảm thấy ngại ngùng nói:

– Ta chỉ buột miệng nói ra. Tiểu sư muội, tiểu sư muội đừng trách.

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu muội làm sao mà trách được? Tiểu muội rất thích đại sư ca gọi tiểu muội như vậy.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy nóng ran, chỉ muốn dang hai tay ra ôm cô vào lòng, nhưng lập tức nghĩ lại: Tiểu sư muội đối đãi với ta nặng tình như vậy, đương nhiên ta phải kính trọng cô ta, tại sao ta có thể mạo phạm cô ta được? Chàng nghĩ vậy rồi quay người đi, dịu dàng hỏi:

– Lúc tiểu muội xuống núi nhớ đi chầm chậm từng bước một, nếu mệt thì nghỉ một chút, đừng giống như lúc bình thường cứ chạy một mạch.

Nhạc Linh San dạ rồi quay người đi, đến bên sườn núi.

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng bước chân của cô xa dần, mới quay người lại, thấy Nhạc Linh San đứng cách đỉnh núi mấy trượng, chàng đứng trân người nhìn cô. Hai người bốn mắt nhìn nhau rất lâu.

Lệnh Hồ Xung nói to:

– Tiểu muội đi chầm chậm thôi, nên về đi.

Nhạc Linh San đáp dạ rồi mới quay người đi thẳng xuống núi.

Ngày hôm đó, Lệnh Hồ Xung cảm thấy chưa bao giờ được hạnh phúc như vậy. Chàng ngồi trên tảng đá, nhịn không được bật cười lên. Đột nhiên chàng huýt dài một tiếng vang dội cả sơn cốc, tiếng huýt tựa hồ như muốn la to:

– Ta hạnh phúc quá, ta hạnh phúc quá!

Ngày hôm sau, tuyết lại rơi, quả nhiên Nhạc Linh San không đến. Nghe Lục Đại Hữu nói, Lệnh Hồ Xung biết cô bình phục rất nhanh, càng ngày càng khỏe ra, lòng vui mừng khôn tả.

Hồi 32: Bảo kiếm rơi tỏm đáy vực sâu

Qua hơn hai mươi ngày sau, Nhạc Linh San xách một thùng bánh nếp lên đỉnh núi, nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc rồi mỉm cười nói:

– Quả nhiên đại sư ca không gạt tiểu muội, đã mập ra nhiều.

Lệnh Hồ Xung thấy mặt cô hồng hào, cũng cười nói:

– Tiểu muội cũng khỏe lắm rồi, ta thật vui mừng.

Nhạc Linh San nói:

– Ngày nào tiểu muội cũng đòi đem cơm lên cho đại sư ca, nhưng nói sao má má cũng không cho, lại nói nào là trời đang lạnh, rồi nào là khí hậu không tốt, làm như lên đến đỉnh núi sẽ chết ngay không bằng. Tiểu muội nói đại sư ca ngày đêm ở trên đỉnh núi nhưng đại sư ca có bệnh đâu. Má má nói nội công của đại sư ca cao cường, tiểu muội làm sao có thể bì được với đại sư ca. Sau lưng, má má khen đại sư ca, đại sư ca có khoái không?

Lệnh Hồ Xung cười rồi gật đầu nói:

– Ta lúc nào cũng nhớ đến sư phụ sư nương, chỉ mong sớm được gặp mặt hai vị.

Nhạc Linh San nói:

– Cả ngày hôm qua tiểu muội giúp má má làm bánh nếp. Tiểu muội muốn lấy mấy cái bánh nếp đem cho đại ca ăn, nào ngờ không đợi tiểu muội mở miệng, má má đã nói: “Hài nhi đem thùng bánh này lên cho Xung nhi ăn”. Tiểu muội quả thật không ngờ.

Cổ họng Lệnh Hồ Xung nghẹn ngào, nghĩ thầm: Sư nương đối với ta thật tốt.

Nhạc Linh San nói:

– Bánh nếp mới vừa nấu xong, vẫn còn nóng, tiểu muội lột hai cái cho đại sư ca ăn.

Nói rồi cô xách thùng bánh nếp đi vào thạch động, mở dây cột bánh, lột lá ra.

Lệnh Hồ Xung ngửi thấy mùi thơm, thấy Nhạc Linh San đã lột xong bánh rồi liền cầm lấy, cắn một miếng. Bánh này tuy là bánh chay nhưng có nấm rơm, nấm hương, đậu phộng, hạt sen, đậu nành, các thứ này trộn lẫn với nhau, thêm gia vị rất ngon. Nhạc Linh San nói:

– Nấm rơm này là do Tiểu Lâm tử và tiểu muội ngày hôm kia đi hái đấy…

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Tiểu Lâm tử là ai?

Nhạc Linh San cười cười nói:

– Chính là Lâm sư đệ đó. Gần đây tiểu muội cứ gọi hắn là Tiểu Lâm tử. Ngày hôm kia, hắn nói với tiểu muội dưới gốc tùng ở sườn núi phía Đông có nấm rơm. Hắn cùng tiểu muội đi hái cả nửa ngày nhưng chỉ được có nửa thùng. Tuy không hái được nhiều, nhưng gia vị nêm ngon, phải vậy không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bánh thật ngon, suýt chút nữa ta nuốt cả cái lưỡi vào bụng. Tiểu sư muội, tiểu sư muội đừng mắng mỏ Lâm sư đệ nữa.

Nhạc Linh San nói:

– Tại sao không mắng mỏ? Hắn không nghe lời thì bị mắng ngay. Gần đây, hắn ngoan được một chút, tiểu muội bớt mắng hắn vài câu. Lúc hắn dụng công luyện kiếm có tiến bộ thì tiểu muội cũng khen hắn: “Này, này, Tiểu Lâm tử, chiêu này sử rất đúng, giỏi hơn ngày hôm qua nhiều nhưng còn hơi chậm. Luyện lại, luyện lại”. Hi hi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu muội đang dạy hắn luyện kiếm ư?

Nhạc Linh San nói:

– Đúng, có điều hắn nói tiếng Phúc Kiến, bọn sư huynh sư tỷ nghe không hiểu gì cả. Tiểu muội đã đến Phúc Châu, nên hiểu được tiếng của hắn, gia gia bảo tiểu muội lúc rảnh thì chỉ bảo cho hắn. Đại sư ca, tiểu muội không thể lên đỉnh núi thăm đại sư ca nên buồn muốn chết, không có chuyện gì làm thì dạy hắn vài chiêu. Tiểu Lâm tử cũng không đến nỗi ngu, học cũng rất nhanh.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Thì ra tiểu muội làm sư tỷ rồi kiêm luôn sư phụ; tất nhiên hắn không dám không nghe lời sư muội.

Nhạc Linh San nói:

– Chưa chắc đúng như vậy đâu. Hôm qua tiểu muội bảo hắn đi săn gà rừng với tiểu muội, hắn không chịu, nói là hai chiêu Bạch hồng quán nhật và Thiên thân đảo huyền còn chưa học xong, muốn luyện thêm nữa.

Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ nói:

– Hắn lên Hoa Sơn mới có mấy tháng mà đã luyện đến Bạch hồng quán nhật và Thiên thân đảo huyền rồi ư? Tiểu sư muội, kiếm pháp của bổn phái nên luyện theo thứ tự, không thể nhảy vọt như vậy.

Nhạc Linh San nói:

– Đại ca đừng lo, tiểu muội không muốn dạy lung tung cho hắn như vậy đâu. Tiểu Lâm tử rất kiên cường hiếu thắng, hắn luyện cả ngày lẫn đêm. Lúc rảnh muốn nói chuyện với hắn một chút, hắn nói không được ba câu thì liền hỏi ngay đến kiếm pháp. Người ta luyện kiếm pháp trong ba tháng thì hắn chỉ học khoảng nửa tháng là xong. Tiểu muội bảo hắn đi chơi, hắn cũng chẳng bao giờ chiều ý tiểu muội.

Lệnh Hồ Xung trầm ngâm không nói, bỗng nhiên lòng dâng lên một nỗi buồn không thể tả được; cái bánh nếp chỉ ăn mới hai miếng còn cả nửa cái. Chàng cảm thấy trước mắt tối sầm lại.

Nhạc Linh San kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung, cười nói:

– Đại sư ca, đại sư ca nuốt nhầm lưỡi vào bụng rồi ư? Sao đại sư ca không nói gì cả?

Lệnh Hồ Xung giật mình, đút luôn nửa cái bánh vào miệng. Cái bánh nếp vốn thơm ngon vô cùng cứ nằm dính trong họng, không cách nào nuốt trôi xuống được.

Nhạc Linh San chỉ tay, cười khanh khách rồi nói:

– Đại sư ca ăn mà cũng vội vàng, để bánh dính chặt vào răng rồi.

Lệnh Hồ Xung cười gượng, cố gắng nuốt miếng bánh xuống cổ họng, nghĩ bụng: Ta ngu thật! Tiểu sư muội thích chơi đùa, ta lại không thể xuống núi được, cô ta bèn kéo Lâm sư đệ để bầu bạn, đó cũng là chuyện bình thường thôi. Sao ta lại nhỏ nhen, để tâm như vậy?

Nghĩ đến đây,chàng cảm thấy bình thường trở lại, cười nói:

– Cái bánh này chắc có tiểu muội ở trong nên mới dính dữ quá, làm cả răng và lưỡi của ta đều dính lại rồi.

Nhạc Linh San cười ha hả, một lúc sau mới nói:

– Đại sư ca thật đáng thương, bị giam ở trên đỉnh núi trọc lóc này nên mới háu ăn như vậy.

Lần này cô xuống núi, mười mấy ngày sau mới lên lại, ngoài cơm rượu ra còn đem thêm một cái giỏ tre nho nhỏ đựng một ít trái tùng khô và hạt dẻ.

Lệnh Hồ Xung mong ngóng cô đến dài cả cổ. Trong mười mấy ngày này, khi Lục Đại Hữu đem cơm lên, hắn hỏi thăm tiểu sư muội thì thấy thần sắc của Lục Đại Hữu hơi kỳ lạ, hỏi mãi cũng không biết được chút gì. Hắn hỏi riết, Lục Đại Hữu bèn nói:

– Tiểu sư muội vẫn rất khỏe, mỗi ngày đều siêng năng dụng công luyện kiếm. Sư phụ không cho cô ta lên đỉnh núi nữa, sợ cô ta quấy rầy làm ảnh hưởng đến việc luyện tập của đại sư ca.

Lệnh Hồ Xung ngày đêm mong nhớ, đột nhiên thấy Nhạc Linh San, lòng không vui sao được? Hắn thấy cô tinh thần phấn chấn, kiều diễm thướt tha hơn trước lúc bị bệnh, không kìm được hoài nghi, tự hỏi: Cô ta đã sớm mạnh khỏe rồi, mà sao lâu ngày mới lên đỉnh núi thăm ta? Chẳng lẽ sư phụ sư nương cấm đoán thật ư?

Nhạc Linh San thấy thần sắc Lệnh Hồ Xung lộ vẻ lúng túng, mặt cô chợt hồng lên. Cô nói:

– Đại sư ca, đã lâu ngày không lên thăm đại sư ca, đại sư ca có trách tiểu muội không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta sao trách tiểu muội được? Chắc sư phụ, sư nương không cho tiểu muội lên đây nữa, có phải không?

Nhạc Linh San nói:

– Đúng vậy, má má dạy tiểu muội luyện một bộ kiếm pháp mới, nói rằng kiếm pháp này biến hóa rất phức tạp, nếu tiểu muội lên đỉnh núi chuyện trò với đại sư ca thì sẽ bị phân tâm ngay.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bộ kiếm pháp gì vậy?

Nhạc Linh San nói:

– Đại ca thử đoán xem.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Dưỡng ngô kiếm phải không?

Nhạc Linh San nói:

– Không phải.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hy di kiếm phải không?

Nhạc Linh San lắc đầu nói:

– Đoán sai nữa rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chẳng lẽ là Thục nữ kiếm?

Nhạc Linh San lè lưỡi nói:

– Đây là bản lĩnh sở trường của má má, tiểu muội chưa có tư cách để luyện Thục nữ kiếm đâu. Nói cho đại sư ca nghe, đó là Ngọc nữ kiếm thập cửu thức đó.

Cô nói đang luyện chiêu kiếm này với vẻ rất đắc ý. Lệnh Hồ Xung hơi kinh ngạc, nói:

– Tiểu sư muội đã bắt đầu luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức rồi ư? Bộ kiếm pháp này vô cùng phức tạp.

Chàng nói xong, lòng lập tức trút bỏ hết mọi hiềm nghi. Bộ Ngọc nữ kiếm này tuy chỉ có mười chín chiêu thức, nhưng mỗi chiêu thức đều biến hóa phức tạp, nếu nhớ không rõ ràng thì ngay cả một chiêu thức cũng không sử được. Chàng từng nghe sư phụ nói: “Bộ Ngọc nữ kiếm thập cửu thức này ý nghĩa là ở chỗ biến ảo kỳ diệu, vẫn dựa vào nguyên tắc lấy khí sử kiếm của phái Hoa Sơn nhưng vẫn khác với kiếm pháp Hoa Sơn”. Sức lực của nữ đệ tử tương đối yếu, lúc gặp phải kình địch, có thể dùng kỹ xảo của kiếm pháp này để thắng sự vụng về, nhưng nam đệ tử thì không cần phải học.

Lệnh Hồ Xung không học qua bộ kiếm pháp này. Công lực của Nhạc Linh San dường như cũng chưa đủ để luyện. Nhưng ngày trước Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San cùng với các sư huynh sư muội cùng xem sư phụ và sư nương chiết giải bộ kiếm pháp này, sư phụ sử cả kiếm pháp tấn công của các môn phái khác nhau, sư nương trước sau vẫn sử Ngọc nữ kiếm thập cửu thức để chống đỡ. Mười chín chiêu Ngọc nữ kiếm vẫn đấu ngang cơ với mấy trăm chiêu kiếm cao minh của hơn mười môn kiếm pháp khác nhau. Lúc đó bọn đệ tử nhìn hoa cả mắt, vô cùng kinh ngạc và thán phục. Nhạc Linh San bèn năn nỉ mẫu thân dạy cho. Nhạc phu nhân nói: “Tuổi hài nhi còn nhỏ , thứ nhất là công lực chưa đủ, thứ hai là luyện bộ kiếm này sẽ làm tổn thương tinh thần, hãy đợi đến hai mươi tuổi mới học. Vả lại, bộ kiếm pháp này chuyên dùng để chế ngự chiêu kiếm của các phái khác, nếu để sư huynh sư muội của bổn môn chiết chiêu với hài nhi, luyện đi luyện lại sẽ biến thành một thứ kiếm pháp chuyên chế ngự kiếm pháp của phái Hoa Sơn. Xung nhi đã học rất nhiều, nhớ được nhiều kiếm pháp bên ngoài, đợi Xung nhi rảnh rỗi cùng với hài nhi chiết chiêu luyện tập”. Chuyện này đã qua gần hai năm, từ đó về sau không ai nhắc đến nữa, không ngờ sư nương lại dạy cho cô.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lúc này chắc sư phụ cao hứng lắm, mỗi ngày cùng với tiểu muội chiết chiêu.

Bộ kiếm pháp này quan trọng ở chỗ tùy cơ ứng biến, quyết không thể câu nệ ở chiêu thức, hễ ra tay luyện thì phải chiết chiêu. Trong phái Hoa Sơn, chỉ có Nhạc Bất Quần và Lệnh Hồ Xung am hiểu nhiều thứ kiếm pháp của các phái khác. Nhạc Linh San muốn luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức thì phải chính Nhạc Bất Quần đứng ra chỉ dạy; mỗi ngày cô cùng với lão chiết giải vài chiêu.

Mặt Nhạc Linh San lại ửng hồng, e thẹn nói:

– Gia gia có rảnh đâu. Chính Lâm Bình Chi mỗi ngày cùng với tiểu muội chiết chiêu đó.

Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:

– Lâm sư đệ ư? Hắn hiểu được nhiều kiếm pháp của các phái khác ư?

Nhạc Linh San cười nói:

– Hắn chỉ hiểu được có một thứ Tịch tà kiếm pháp gia truyền của nhà hắn mà thôi. Gia gia nói bộ Tịch tà kiếm pháp này uy lực tuy không mạnh nhưng biến chiêu rất thần kỳ, có thể mượn để áp dụng vào đó được. Tiểu muội luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức có thể bắt đầu đối kháng với Tịch tà kiếm pháp của hắn được rồi.

Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:

– Thì ra là như vậy.

Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca, hình như đại sư ca không vui?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đâu có! Ta làm sao mà không vui? Tiểu sư muội luyện được bộ kiếm pháp thượng thừa của bổn môn, ta vui mừng không hết, làm sao mà không vui được!

Nhạc Linh San nói:

– Nhưng tiểu muội thấy vẻ mặt của đại sư ca rõ ràng là không vui chút nào.

Lệnh Hồ Xung gượng cười, nói:

– Tiểu sư muội luyện đến chiêu thứ mấy rồi?

Nhạc Linh San không đáp, một lúc sau mới nói:

– Đúng rồi, thì ra má má nói để đại sư ca giúp tiểu muội chiết chiêu cho, vậy mà bây giờ tiểu muội lại nhờ Tiểu Lâm tử chiết chiêu, cho nên đại ca không bằng lòng, phải vậy không? Nhưng đại ca ơi, đại sư ca ở trên đỉnh núi này không thể xuống được; tiểu muội lại rất nóng lòng muốn sớm luyện kiếm pháp, vì vậy không thể đợi đại sư ca được.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Tiểu muội lại nói chuyện như con nít rồi. Sư huynh sư muội đồng môn ai chiết chiêu giúp tiểu sư muội cũng vậy thôi.

Chàng ngừng một lúc, rồi cười nói tiếp:

– Ta biết tiểu sư muội muốn Lâm sư đệ chiết chiêu với tiểu muội, chứ không muốn chiết chiêu với ta.

Mặt Nhạc Linh San ửng hồng, nói:

– Đừng nói vớ vẩn! Bản lĩnh của Tiểu Lâm tử so với đại sư ca cách nhau một trời một vực, muốn cùng hắn chiết chiêu có gì hay ho đâu?

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Lâm sư đệ mới nhập môn có vài tháng, dù hắn có thực sự thông minh đến đâu cũng chẳng đáng là bao, bèn nói:

– Muốn hắn chiết chiêu tất nhiên vẫn có chỗ hay. Mỗi chiêu của tiểu muội đều có thể giết được hắn mà hắn không có cách nào trở tay, há không phải là điều thích thú sao?

Nhạc Linh San cười khanh khách rồi nói:

– Cái món Tịch tà kiếm pháp mèo què của hắn làm sao chống đỡ nổi?

Lệnh Hồ Xung biết rõ tính khí tiểu sư muội vô cùng hiếu thắng, đoán rằng cô ta cùng với Lâm Bình Chi chiết chiêu, bộ kiếm pháp mới luyện này tự nhiên dùng đến thì lòng ứng với tay, chiêu kiếm nào cũng chiếm được thượng phong. Võ công đối thủ lại thấp, quả thực là điều kiện để tập luyện tốt. Những buồn phiền lập tức tan biến, Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Vậy thì để ta giúp tiểu muội chiết giải mấy chiêu, xem Ngọc nữ kiếm thập cửu thức của tiểu sư muội đã luyện được tới đâu rồi.

Nhạc Linh San vui mừng, cười nói:

– Hay quá, hôm nay… hôm nay tiểu muội lên đỉnh núi là muốn…

Cô bẽn lẽn rút thanh trường kiếm ra. Lệnh Hồ Xung nói:

– Hôm nay tiểu sư muội lên đây là muốn thi triển kiếm pháp mới học cho ta xem chứ gì. Nào, xuất chiêu đi!

Nhạc Linh San cười nói:

– Đại sư ca, kiếm pháp của đại sư ca trước nay vẫn hơn tiểu muội, nhưng khi tiểu muội đã luyện xong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức thì không sợ đại sư ca ăn hiếp đâu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Có bao giờ ta ăn hiếp tiểu sư muội đâu? Thật là nói oan cho người tốt.

Nhạc Linh San dựng thanh trường kiếm lên nói:

– Sao đại sư ca còn chưa rút kiếm ra?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Làm sao mà tiểu sư muội vội vàng quá vậy?

Chàng nói rồi tay trái thủ thế theo kiếm quyết, đồng thời chưởng tay phải phóng ra, nói:

– Đây là Tùng Phong kiếm pháp của phái Thanh Thành. Chiêu này gọi là Tùng đào như lôi.

Lệnh Hồ Xung dùng chưởng làm kiếm đâm thẳng vào bả vai của Nhạc Linh San.

Nhạc Linh San nghiêng người lùi lại, vung kiếm đỡ chưởng của Lệnh Hồ Xung rồi la lên:

– Cẩn thận đó!

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Không cần khách khí, lúc đỡ không được thì ta sẽ rút kiếm ra.

Nhạc Linh San giận dỗi nói:

– Đại sư ca dám dùng tay không đấu với Ngọc nữ kiếm thập cửu thức của tiểu muội sao?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Bây giờ tiểu muội chưa luyện xong. Sau khi luyện xong, ta đây đâu dám đấu tay không.

Trong mấy ngày nay, Nhạc Linh San khổ luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức, tự cảm thấy kiếm thuật của mình tiến bộ rất nhanh, nếu so sánh với các tay cao thủ hạng nhất trên giang hồ, cũng không thua ai. Mười mấy ngày cô không lên đỉnh núi vì dụng ý không muốn tiết lộ cho đại sư ca biết, hy vọng chàng nghe đến là phải kinh sợ, khiến chàng phải khâm phục. Không ngờ đại sư ca lại vô cùng khinh thị, chỉ dùng song chưởng để đỡ Ngọc nữ kiếm thập cửu thức của mình. Cô nghiêm mặt nói:

– Nếu kiếm của tiểu muội làm đại sư ca bị thương thì đại sư ca đừng trách, và cũng đừng mách lẻo lại cho gia gia má má hay nghen.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Dĩ nhiên rồi, tiểu sư muội tận lực thi triển. Nếu ra tay mà nương tình thì không thể nào phát huy được bản lĩnh vốn có.

Lệnh Hồ Xung nói xong chưởng tay trái đột nhiên phát ra nghe vù một tiếng, la lên:

– Cẩn thận!

Nhạc Linh San giật mình sợ hãi, la lên:

– Sao… sao? Đại sư ca cũng dùng tay trái làm kiếm ư?

Chưởng vừa rồi của Lệnh Hồ Xung nếu đánh ra thực sự thì bả vai của Nhạc Linh San sẽ bị thương.

Chàng thu nội lực lại, không phát ra nữa rồi cười nói:

– Phái Thanh Thành có mấy người sử dụng song kiếm.

Nhạc Linh San nói:

– Đúng! Tiểu muội đã từng thấy mấy tên đệ tử phái Thanh Thành mang song kiếm, nhưng quên xem chúng ra chiêu thế nào.

Cô nói xong liền rút kiếm lại. L ệnh Hồ Xung thấy thế kiếm đánh tới giống như chiêu số thượng thừa trong Ngọc nữ kiếm, liền khen:

– Chiêu kiếm này rất tốt, nhưng xem ra vẫn chưa nhanh lắm.

Nhạc Linh San nói:

– Chưa nhanh lắm ư? Nếu nhanh nữa thì tiểu muội đã chặt đứt cánh tay của đại sư ca rồi.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu sư muội chặt thử xem.

Nói rồi hắn vung tay phải thành kiếm, đâm thẳng vào vai trái cô.

Nhạc Linh San vẫn còn tức, liền vung kiếm như gió, đem từng thức vừa luyện được trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức sử ra hết. Kiếm pháp thập cửu thức này, cô chỉ còn nhớ chín thức, mà trong chín thức này cô thực sự có thể dùng được không quá sáu thức, nhưng sáu thức của kiếm pháp này đã đầy đủ uy lực rồi. Mũi kiếm chĩa tới đâu, Lệnh Hồ Xung không thể đến gần được tới đó. Lệnh Hồ Xung quay quanh cô ta đấu giỡn chơi, mỗi lần chàng đâm ra phía trước đều bị chiêu kiếm lợi hại của cô ta bức văng ra, có lần chàng vội nhảy về phía sau, lưng bị đụng mạnh vào những mỏm đá lồi ra trên vách núi. Nhạc Linh San rất khoái chí, cười nói:

– Còn chưa rút kiếm ra ư?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đợi một chút.

Chàng dẫn dụ cô ta đem từng chiêu Ngọc nữ kiếm sử ra hết, lại đấu thêm một lúc nữa, thấy cô ta giở đi giở lại cũng chỉ có thể sử được sáu thức, hắn đã tỏ tường hết rồi liền phóng về trước, chưởng tay phải đánh ra, miệng la lên:

– Sát thủ Tùng Phong kiếm, cẩn thận!

Thế chưởng đánh ra rất mạnh. Nhạc Linh San thấy hắn vung chưởng đánh xuống đầu mình, vội giơ kiếm lên đỡ. Chiêu này đúng vào ý nghĩ của Lệnh Hồ Xung, tay trái hắn phóng về phía trước, ngón giữa búng ra, keng một tiếng, hắn búng đúng vào sống của thanh trường kiếm. Hổ khẩu của Nhạc Linh San đau buốt, cầm kiếm không vững, trường kiếm bay đi, rơi thẳng xuống vực thẳm.

Sắc mặt của Nhạc Linh San tái xanh, trừng mắt nhìn Lệnh Hồ Xung, mím môi cắn chặt răng, không nói nên lời nào.

Lệnh Hồ Xung kêu lên:

– Trời ơi!

Chàng vội xông đến bên sườn núi, thanh kiếm đã rơi xuống vực sâu ngàn trượng rồi, không còn thấy gì cả. Bỗng trong lúc đó, bên sườn núi thấp thoáng một bóng xanh, tựa hồ như hình ảnh một tà áo. Lệnh Hồ Xung định thần nhìn lại thì chẳng thấy gì nữa. Trống ngực chàng đập thình thịch, thầm nghĩ:

– Ta làm sao vậy? Ta làm sao vậy? Ta cùng với tiểu sư muội tỉ kiếm với nhau không biết đã mấy trăm lần, lúc nào cũng nhường nhịn cô ta, nhưng lần này lại ra tay không nương tình. Ta hành động càng lúc càng kỳ cục.

Nhạc Linh San quay người nhìn xuống vực thẳm rồi kêu lên:

– Thanh kiếm, trời ơi thanh kiếm!

Lệnh Hồ Xung càng lo lắng, biết trường kiếm của tiểu sư muội là thứ vũ khí sắc bén tan vàng nát ngọc, gọi là Bích thủy kiếm. Ba năm trước, sư phụ đến Long Tuyền tỉnh Triết Giang tìm được; tiểu sư muội vừa trông thấy thanh kiếm đã thích ngay không muốn rời tay. Cô xin sư phụ mấy lần, sư phụ vẫn không cho; đợi đến sinh nhật lần thứ mười tám của cô, sư phụ mới lấy ra tặng cô làm quà. Bây giờ thanh kiếm rơi xuống vực thẳm không thể lấy lại được nữa. Chàng quá sai lầm rồi.

Chân trái của Nhạc Linh San dẫm xuống đất, nước mắt lăn dài trên má, quay người toan xuống núi. Lệnh Hồ Xung gọi:

– Tiểu sư muội!

Nhạc Linh San không thèm nghe, chạy thẳng xuống núi.

Hồi 33: Sơn ca Phúc Kiến nát dạ tan hồn

Lệnh Hồ Xung đuổi theo đến bên sườn núi, định nắm tay cô. Ngón tay hắn mới chạm đến tay áo cô, lại rút về. Cô không hề quay lại mà đi thẳng xuống núi.

Lệnh Hồ Xung buồn bã, nghĩ bụng: Trước đây đối với sư muội, bất cứ chuyện gì ta cũng hết sức nhường nhịn, tại sao hôm nay lại lấy ngón tay bật văng thanh bảo kiếm của sư muội đi? Chẳng lẽ sư nương đã truyền cho sư muội Ngọc nữ kiếm thập cửu thức thì ta lại có ý đố kỵ với sư muội sao? Không, quyết không phải như vậy. Ngọc nữ kiếm thập cửu thức vốn là công phu của nữ đệ tử phái Hoa Sơn, huống hồ bản lĩnh của tiểu sư muội càng cao bao nhiêu thì ta càng vui sướng bấy nhiêu. Ôi, vì ta ở một mình trên đỉnh núi này quá lâu nên tính khí thất thường. Chỉ mong ngày mai tiểu sư muội lại lên đỉnh núi này, ta sẽ xin lỗi cô ta mới được.

Tối hôm đó chàng không sao ngủ được, ngồi xếp bằng trên tảng đá luyện khí công một lúc, cảm thấy tinh thần khó an định, nên không dám luyện công nữa. Ánh trăng soi vào động tỏa sáng trên vách đá. Lệnh Hồ Xung thấy ba chữ lớn “Phong Thanh Dương” trên vách, liền giơ ngón tay ra, lần theo vết khắc của chữ lồi lõm trên vách, viết lại từng nét.

Ngay lúc đó, trước mặt chợt tối đen; một cái bóng in lên vách đá. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, thuận tay chụp thanh trường kiếm bên mình, chưa kịp rút kiếm ra khỏi vỏ đã lập tức xoay tay đâm ngược về phía sau. Kiếm đâm đến giữa chừng, chàng mừng rỡ gọi:

– Tiểu sư muội!

Lệnh Hồ Xung dừng tay không phóng kiếm ra nữa, quay người lại, chỉ thấy một người đàn ông đang đứng cách cửa động hơn một trượng, thân hình ốm nhách, mình mặc thanh bào. Người này quay lưng về hướng ánh trăng, mặt quấn tấm vải xanh, chỉ để lộ ra hai mắt, hiển nhiên là chàng chưa bao giờ thấy qua. Lệnh Hồ Xung lớn tiếng hỏi:

– Các hạ là ai?

Rồi liền phóng khỏi thạch động, rút trường kiếm ra. Người đó không đáp, đưa tay phải ra đánh liền hai chưởng về phía phải. Đó lại là hai chiêu trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức mà Nhạc Linh San đã sử. Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên, ý nghĩ thù địch biến mất, bèn hỏi:

– Các hạ là tiền bối của môn phái nào?

Đột nhiên, một luồng kình phong xông thẳng đến, tạt vào mặt Lệnh Hồ Xung. Không kịp nghĩ ngợi, chàng vung kiếm ra nhưng đã nghe đầu vai trái hơi đau. Chàng đã bị trúng một chưởng của người đó, nhưng dường như người đó chưa vận hết nội lực. Lệnh Hồ Xung vô cùng kinh sợ, vội lùi sang trái mấy bước. Người đó không truy kích, biến chưởng thành kiếm, trong khoảnh khắc đã sử đủ sáu chiêu trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức đến mấy chục lần. Mấy chiêu này được nối liền như một chiêu duy nhất, thủ pháp cực kỳ mau lẹ, thật ngoài sức tưởng tượng. Mỗi chiêu đều lấy từ các chiêu mà ban ngày Nhạc Linh San cùng với Lệnh Hồ Xung đã chiết giải qua, bây giờ dưới ánh trăng Lệnh Hồ Xung mới nhìn thấy rõ. Nhưng làm sao có thể đem mấy chục chiêu kiếm pháp nối liền lại giống như chỉ sử một chiêu? Nhất thời chàng há hốc miệng, toàn thân cứng đờ ra.

Người đó phất tay áo rồi quay người đi thẳng xuống núi.

Lệnh Hồ Xung gọi lớn:

– Tiền bối, tiền bối!

Chàng nhìn xuống núi, nhưng chỉ thấy một làn ánh sáng xanh lè, rồi chẳng thấy gì nữa.

Lệnh Hồ Xung hít một luồng khí lạnh, nghĩ: Lão là ai? Sao lại sử đúng các chiêu trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức? Ta vạn lần cũng không thể bật trúng trường kiếm trong tay lão; ngược lại mỗi chiêu của lão đều có thể đâm trúng vào ta. Không hiểu sao muốn đâm lão lại không đâm, muốn chém ta lão lại không chém? Sáu chiêu thức của Ngọc nữ kiếm thập cửu thức này, Lệnh Hồ Xung chỉ có nghe luyện từng chiêu mà thôi. Thì ra bộ kiếm pháp này lại có đại uy lực như vậy. Chàng lại chuyển ý nghĩ: Hiển nhiên uy lực không phải ở chiêu kiếm mà do phương pháp sử kiếm của lão. Lão sử kiếm như vậy, bất luận chiêu thức dù bình thường nhất ta vẫn không đối phó được. Vậy lão là ai? Sao lại lên được trên đỉnh Hoa Sơn này?

Chàng suy nghĩ đến bể đầu cũng chẳng giải đáp được gì nhưng vẫn cho rằng sư phụ và sư nương chắc biết lai lịch của người này. Ngày mai tiểu sư muội lên đây, nhờ sư muội chuyển lời hỏi sư phụ và sư nương thì rõ.

Nhưng ngày sau đó Nhạc Linh San không lên đỉnh núi, ngày thứ ba, ngày thứ tư cũng không lên. Cho đến ngày thứ mười tám cô ta mới cùng với Lục Đại Hữu lên núi. Lệnh Hồ Xung mong chờ mười tám ngày đêm mới thấy cô đến, chàng có nhiều điều muốn thổ lộ với cô, nhưng có Lục Đại Hữu bên cạnh nên không tiện nói ra.

Sau khi ăn cơm xong, Lục Đại Hữu hiểu tâm ý của Lệnh Hồ Xung bèn nói:

– Đại sư ca, tiểu sư muội, hai người đã lâu không gặp nhau nên chuyện trò thêm một lúc. Tiểu đệ đem thùng cơm về trước đây.

Nhạc Linh San cười nói:

– Lục hầu nhi, sư huynh muốn trốn ư? Hai người đến sao lại về một người?

Cô nói xong liền đứng dậy.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu sư muội, ta có chuyện muốn nói với sư muội.

Nhạc Linh San nói:

– Được rồi, đại sư ca muốn nói gì thì Lục hầu nhi cũng đứng đây để nghe đại sư ca giáo huấn.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không phải ta muốn giáo huấn. Thanh Bích thủy kiếm của tiểu muội…

Nhạc Linh San ngắt lời, nói:

– Tiểu muội nói với má má là lúc luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức vì không cẩn thận nên tuột tay làm rơi xuống vực thẳm không tìm thấy được. Tiểu muội khóc một trận, má má không trách mắng tiểu muội mà còn an ủi mấy câu, lại nói lần sau sẽ tìm cho tiểu muội một thanh kiếm tốt hơn. Chuyện đã qua rồi, đại sư ca nhắc lại làm chi?

Nói xong cô giang hai tay ra cười.

Nhạc Linh San càng không muốn nhắc đến chuyện đó, Lệnh Hồ Xung càng cảm thấy áy náy. Chàng nói:

– Sau khi mãn hạn phạt xuống núi, nhất định ta sẽ đi khắp giang hồ tìm một thanh bảo kiếm đền cho tiểu sư muội.

Nhạc Linh San cười nói:

– Mình là sư huynh sư muội với nhau, còn nhắc đến thanh kiếm để làm gì? Huống hồ thanh kiếm đó đích xác là do tiểu muội vuột tay làm rơi xuống vực thẳm, chỉ giận tiểu muội học nghệ không thông, chứ trách ai được? Ai cũng “Làm hết sức mình, ra sao thì ra” mà thôi!

Cô nói xong cười lên khanh khách. Lệnh Hồ Xung không hiểu hỏi:

– Tiểu muội nói cái gì vậy?

Nhạc Linh San cười nói:

– A, đại sư ca không biết, đây là câu mà Tiểu Lâm tử thường nói, nó có nghĩa gần như “Làm hết sức lực của mình, còn bao nhiêu dựa vào mệnh trời”. Hắn nói huyên thuyên không ngừng, tiểu muội học lấy câu đó để làm trò cười hắn. Ha ha “Làm hết sức mình, ra sao thì ra”!

Lệnh Hồ Xung cười gượng, bỗng nghĩ ra: Hôm đó tiểu sư muội sử Ngọc nữ kiếm thập cửu thức, tại sao ta lại dùng Tùng Phong kiếm pháp của phái Thanh Thành để chiết giải với sư muội? Phải chăng là ta có chủ tâm đối phó với Tịch tà kiếm pháp của Lâm sư đệ? Họ Lâm ở Phước Oai tiêu cục đều bị nhà tan cửa nát dưới tay của phái Thanh Thành, mà ta lại cố ý châm biếm hắn, ta là hạng nhỏ nhen ích kỷ vậy sao?

Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ: Hôm ở trong Quần Ngọc viện thành Hành Sơn, ta xém chút nữa mất mạng dưới chưởng của Dư Thương Hải, may nhờ Lâm sư đệ không màng đến sự an nguy tính mệnh, la lên: “Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm” nên Dư Thương Hải mới không phóng chưởng ra. Tóm lại Lâm sư đệ có thể nói là có ân cứu mạng ta.

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác cảm thấy hổ thẹn, thở phào một cái rồi nói:

– Lâm sư đệ tư chất thông minh, lại chịu khó rèn luyện, mấy tháng nay lại được tiểu sư muội chỉ điểm kiếm pháp, chắc võ công của y tiến bộ nhanh lắm. Nhưng đáng tiếc là trong một năm ta không xuống núi được, nếu không y đã có ân với ta thì ta cần giúp đỡ y luyện kiếm mới phải.

Nhạc Linh San nhướng mày hỏi:

– Tiểu Lâm tử sao lại có ân với đại sư ca? Tiểu muội chưa từng nghe hắn nhắc qua bao giờ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Dĩ nhiên y không tự nói ra đâu.

Rồi Lệnh Hồ Xung đem tình cảnh ngày hôm đó kể tỉ mỉ lại. Nhạc Linh San nghe xong, nói:

– Thảo nào gia gia cứ khen hắn là người có hiệp khí, cho nên mới cứu hắn ra khỏi tay Tái Bắc minh đà. Tiểu muội thấy hắn ngu ngốc, nào ngờ hắn cũng đã từng cứu mạng đại sư ca.

Cô nói đến đây, không nhịn được nữa bèn cười lên rồi nói tiếp:

– Chỉ có một chút bản lĩnh nhỏ nhoi, hắn lại cứu được đại sư huynh phái Hoa Sơn và cũng từng vì đứa con gái của chưởng môn phái Hoa Sơn mà ra tay giết đứa con cưng của chưởng môn phái Thanh Thành. Hai việc này đã đủ để hắn nổi tiếng oanh liệt trong võ lâm một thời. Nhưng không ai ngờ anh chàng đại hiệp thích ôm chuyện bất bình quyết ra tay, hi hi, Lâm Bình Chi, Lâm đại hiệp mà võ công lại quá tầm thường như vậy.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Võ công có thể luyện thành nhưng nghĩa khí hào hiệp thì do trời sinh ra; nhân phẩm cao hay thấp là ở chỗ này.

Nhạc Linh San mỉm cười nói:

– Lúc tiểu muội nghe gia gia và má má đề cập đến Tiểu Lâm tử cũng nói như vậy. Đại sư ca, ngoài tính nghĩa hiệp ra, về mặt khí phách, đại sư ca và Tiểu Lâm tử cũng giống nhau đó.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Cái gì, còn khí phách nữa ư? Nóng tính phải không?

Nhạc Linh San cười nói:

– Đâu phải, đó là sự cao ngạo. Hai người cao ngạo quá mức.

Lục Đại Hữu bỗng nhiên nói xen vào:

– Đại sư ca là thủ lĩnh của bọn sư huynh sư muội, có một chút cao ngạo cũng phải, ở Hoa Sơn này, gã họ Lâm kia là cái thá gì mà cũng đòi vênh mặt cao ngạo?

Giọng nói của Lục Đại Hữu đầy vẻ căm ghét Lâm Bình Chi. Lệnh Hồ Xung ngây người ra, hỏi:

– Lục sư đệ, Lâm sư đệ có khi nào đắc tội với sư đệ không?

Lục Đại Hữu hậm hực nói:

– Hắn không đắc tội với tiểu đệ, nhưng các sư huynh sư đệ không ưa tính tình của hắn.

Nhạc Linh San nói:

– Lục sư ca làm sao vậy? Vì lẽ gì Lục sư ca lại hằn học với Tiểu Lâm tử dữ vậy? Người ta là sư đệ, Lục sư ca làm sư ca thì nên rộng lượng một chút mới phải chứ.

Lục Đại Hữu hừ lên một tiếng rồi nói:

– Nếu hắn biết an phận thủ thường thì thôi, còn không thì họ Lục này là người đầu tiên không dung tha hắn.

Nhạc Linh San nói:

– Sao hắn lại không an phận thủ thường?

Lục Đại Hữu nói:

– Hắn… hắn… hắn…

Hắn nói ba chữ “hắn” thì không nói nữa.

Nhạc Linh San nói:

– Rốt cuộc là chuyện gì mà sư ca ấp a ấp úng hoài vậy?

Lục Đại Hữu nói:

– Ta mong rằng Lục hầu nhi này bị đui mắt nên nhìn lầm mà thôi.

Đôi má Nhạc Linh San ửng hồng, không hỏi nữa. Lục Đại Hữu đòi về, Nhạc Linh San cùng theo hắn xuống núi.

Lệnh Hồ Xung đứng bên sườn núi trân trân nhìn theo sau lưng hai người cho đến lúc cả hai rẽ vào khúc quanh. Bỗng nhiên, từ sau khúc quanh vọng lại tiếng hát trong trẻo của Nhạc Linh San; khúc hát rất nhẹ nhàng, lưu loát. Lệnh Hồ Xung và cô ta sống chung nhà từ nhỏ đến lúc trưởng thành, đã nhiều lần chàng được nghe cô hát, nhưng chưa hề nghe qua khúc hát này. Trước đây, Nhạc Linh San thường hát những tiểu khúc Thiểm Tây, âm cuối cùng thường kéo thật dài, ở khe núi nghe càng lảnh lót. Khúc hát này lại giống như châu rơi nước chảy, từng chữ nhả ra tròn trĩnh.

Lệnh Hồ Xung nghiêng đầu lắng nghe lời ca, nghe được mang máng mấy chữ: “Chị em lên núi hái chè”. Nhưng giọng hát cô ta rất kỳ lạ, mười phần thì có đến tám chín chỉ nghe âm mà không hiểu nghĩa. Chàng nghĩ thầm: Tiểu sư muội học khúc tân ca này lúc nào mà hát nghe rất hay. Lần sau tiểu sư muội lên núi mình mời cô ta hát lại một lần nữa nghe xem sao.

Bỗng nhiên, ngực chàng đau nhói giống như bị ai đó đánh một chùy thật mạnh. Hắn bỗng hiểu ra: Đây là sơn ca ở Phúc Kiến do Lâm sư đệ dạy cho cô ta hát!

Đêm hôm đó, tâm tư Lệnh Hồ Xung dậy sóng, không cách nào ngủ được, bên tai như vẫn nghe tiếng hát nhẹ nhàng văng vẳng của Nhạc Linh San với âm sắc sơn ca Phúc Kiến khó hiểu. Mấy lần chàng tự oán trách mình: Lệnh Hồ Xung ơi Lệnh Hồ Xung! Trước kia ngươi tiêu dao tự tại biết chừng nào, hôm nay chỉ vì một khúc hát mà lòng ngươi lại day dứt mãi không thôi, thật uổng cho ngươi là một bậc nam tử hán đại trượng phu quá đỗi.

Dù rằng biết mình không nên nghĩ ngợi như vậy, nhưng âm điệu bài sơn ca Phúc Kiến mà Nhạc Linh San hát cứ văng vẳng bên tai không dứt. Lòng đau đớn vô cùng, chàng cầm trường kiếm lên, đâm chém loạn xạ vào vách đá. Lệnh Hồ Xung cảm thấy một luồng nội lực từ huyệt Đan điền xông lên, bèn vận hết nội lực vung kiếm đâm ra, dường như giống chiêu Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm của Nhạc phu nhân. Soạt một tiếng, trường kiếm đâm vào vách đá ngập đến tận chuôi.

Hồi 34: Xem đồ hình chợt mất niềm tin

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, không hiểu do đâu công lực trong mấy tháng vừa qua lại tiến nhanh đến nỗi kiếm đâm sâu vào vách đá ngập đến tận chuôi. Nội lực trên lưỡi kiếm phải cao thâm đến bậc nào mới có thể sử kiếm đâm vào đá như đâm vào cây mục chứ? Cả sư phụ sư nương cũng chưa chắc sử kiếm được như vậy. Chàng ngây người một lúc rồi rút lưỡi kiếm ra, có cảm giác như vách đá này rất mỏng, chỉ dày khoảng hai ba tấc là đến khoảng không, sau vách đá là một hang động.

Lệnh Hồ Xung nổi tính hiếu kỳ, liền vung kiếm đâm thêm một nhát nữa. Cách một tiếng, lưỡi kiếm gãy làm hai. Thì ra lần này hắn vận nội kình không đủ, ngay cả vách đá khoảng hai ba tấc cũng không cách nào đâm xuyên qua được. Hắn chửi tục một câu, ra ngoài động ôm lấy một tảng đá to vận lực ném vào vách đá. Tảng đá ném thật mạnh, sau vách đá nghe loáng thoáng có tiếng động truyền đến, hiển nhiên ở sau là một khoảng không khá rộng. Hắn vận nội lực ném tiếp, bỗng nghe đùng một tiếng, tảng đá bay xuyên qua vách đá rớt xuống nghe tiếng lạch cạch không dứt, hình như tảng đá không ngừng lăn đi.

Lệnh Hồ Xung phát hiện sau vách đá còn có một cái động khác, trong thoáng chốc nỗi phiền muộn chất chứa đầy lòng đều tan mất. Chàng lại đi bê đá ném vào mấy lần nữa, vách đá bị thủng một lỗ lớn, có thể chui đầu qua. Chàng lại bê đá ném thêm lên vách đá cho cái lỗ rộng ra rồi đốt lửa lên, chui sang. Hóa ra bên trong là một cái hang hẹp. Lúc chàng cúi đầu nhìn, đột nhiên toàn thân toát mồ hôi. Dưới chân có một bộ xương khô nằm đó.

Tình cảnh này vượt quá sức liệu đoán. Chàng định thần lại, nghĩ thầm: Lẽ nào đây là ngôi mộ cổ của tiền nhân? Nhưng sao bộ xương này không nằm ngay mà lại phủ phục xuống như thế này? Nhìn kiểu dáng bộ xương như vậy thì cái hang nhỏ hẹp này quyết không phải là lối vào nhà mồ.

Lệnh Hồ Xung cúi xuống nhìn bộ xương, thấy áo của người chết đã mục nát hết, bên bộ xương còn đặt hai cây búa to phản chiếu ánh sáng khi ánh lửa rọi vào.

Lệnh Hồ Xung nhặt cây búa lên, thấy nặng khoảng hơn bốn mươi cân. Chàng nhấc búa chém vào vách đá bên cạnh; cạch một tiếng, một tảng đá to rơi xuống. Chàng ngẩn người ra, nghĩ: Cây búa này bén như vậy, không phải là vật tầm thường, nhất định là khí giới của một vị tiền bối trong võ lâm.

Lệnh Hồ Xung lại thấy chỗ vết búa chém rất ngọt, ngoài ra, vách đá còn có nhiều vết đao, vết búa khác chém vào. Chàng tập trung suy nghĩ một lát, bất giác ngẩn người ra, rồi cầm đuốc theo con đường đi xuống. Trong hang đầy những vết búa chém, Lệnh Hồ Xung kinh hãi nghĩ: Thì ra hang này là do người dùng búa phá để mở đường ra. Đúng rồi, người này bị giam cầm trong lòng núi, nên dùng búa phá núi để thoát thân, nhưng không đủ sức, chỉ còn cách động vài tấc thì đã kiệt sức mà chết. Ôi, quả là số mệnh người này rất xui xẻo.

Chàng đi thêm mười trượng nữa, vẫn chưa tới đầu hang bên kia, lại nghĩ: Người này phá núi mở đường được thì chắc chắn nghị lực rất sắt đá, võ công rất cao cường, thật xưa nay hiếm có.

Bất giác chàng sinh lòng khâm phục. Chàng đi thêm vài bước nữa, thấy dưới đất có hai bộ xương khô, một bộ ngồi tựa vào vách, bộ kia nằm khoanh tròn lại. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra bị giam trong núi không phải chỉ có một người.

Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nơi này là đất cấm của phái Hoa Sơn ta, người ngoài không dễ đến được. Chẳng lẽ các bộ xương này đều là các vị tiền bối vi phạm môn quy của phái Hoa Sơn bị giam cho đến chết ở đây?

Lệnh Hồ Xung đi thêm vài trượng rồi thuận đường quay người sang hướng trái. Trước mắt chàng hiện ra một thạch động rất lớn có thể chứa đủ một ngàn người, trong động lại có bảy bộ xương ngồi nằm khác nhau, bên cạnh bộ xương nào cũng có khí giới. Khí giới gồm một cặp thiết bài, một cặp phán quan bút, một cây thiết côn, một cây thục đồng côn, một thứ giống như lưỡi tầm sét, một thứ là thanh đao hai lưỡi có ba răng nhọn hoắt như răng chó sói, một thứ có lưỡi không giống đao cũng chẳng giống kiếm, xưa nay chàng chưa bao giờ gặp qua. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Những người sử dụng các thứ khí giới kỳ lạ và người sử dụng hai cây búa quyết không phải là đệ tử của bổn môn.

Cách đó không xa, dưới đất có khoảng mười thanh trường kiếm. Lệnh Hồ Xung nhặt lên một thanh, thấy cây kiếm ngắn hơn kiếm thường nhưng lưỡi lại lớn gấp đôi, cầm nghe rất nặng. Chàng nghĩ: Đây là kiếm của phái Thái Sơn.

Lệnh Hồ Xung xem một thanh khác thấy nhẹ và mềm, chính là khí giới của phái Hằng Sơn; có thanh hình bán nguyệt, là một trong ba loại trường kiếm mà phái Hành Sơn sử dụng; có thanh lưỡi không có sống, mũi kiếm rất nhọn và vô cùng sắc bén, là thứ khí giới mà vài vị tiền bối của phái Tung Sơn thích dùng. Còn ba thanh kiếm kia xem chiều dài, độ nặng chính là kiếm của bổn môn. Chàng càng lúc càng hoang mang: Tại sao ở đây có nhiều khí giới của Ngũ Nhạc kiếm phái?

Lệnh Hồ Xung cầm đuốc soi bốn vách động, chỉ thấy trên vách đá bên phải cách mặt đất mấy trượng có một tảng đá lớn giống như một cái bệ, trên vách có khắc mười sáu chữ lớn:

Ngũ Nhạc kiếm phái

Vô sỉ hạ lưu

Tỉ võ bất thắng

Ám toán hại nhân

Tạm dịch là:

Than ôi, Ngũ Nhạc kiếm phái

Toàn quân vô sỉ, hạ lưu

Đánh nhau đã không thủ thắng

Ngấm ngầm dùng mẹo hại người

Bốn chữ xếp thành một hàng, tất cả có bốn hàng, mỗi chữ dài hơn một thước được khắc sâu vào vách đá. Người xưa đã dùng thứ khí giới cực kỳ bén nhọn để khắc, vết khắc sâu đến mấy tấc. Mười sáu chữ này trông rất oai phong, tựa hồ như bạt kiếm giương cung. Lại thấy bên cạnh mười sáu chữ lớn khắc vô số chữ nhỏ, nào là: “Đê hèn vô lại; thật đáng sỉ nhục; khiếp nhược; hèn hạ…” toàn là những câu nguyền rủa hoặc thóa mạ. Lệnh Hồ Xung xem xong, tức cành hông, nghĩ bụng: Thì ra những người này bị Ngũ Nhạc kiếm phái ta giam cầm ở đây. Họ quá phẫn uất, không thể chửi cho ai nghe được bèn khắc lên vách đá những lời thóa mạ người khác. Hành động này mới đúng là quân đê hèn vô sỉ.

Chàng lại nghĩ tiếp: Không biết họ là người như thế nào? Đã là thù địch với Ngũ Nhạc kiếm phái tất chẳng phải người tốt lành gì.

Lúc Lệnh Hồ Xung cầm đuốc rọi lên vách đá còn thấy khắc một hàng chữ: “Phạm Tùng, Triệu Hạt phá kiếm pháp Hằng Sơn ở đây”. Bên hàng chữ này có vô số đồ hình: cứ hai người là một đồ hình, một người sử kiếm còn người kia sử búa. Chỉ đếm sơ qua, ít nhất cũng có năm sáu trăm đồ hình, hiển nhiên là người sử búa đang phá giải kiếm pháp của người sử kiếm.

Bên cạnh những đồ hình lại xuất hiện một hàng chữ: “Trương Thừa Vân, Trương Thừa Phong tận phá Hoa Sơn kiếm pháp”. Lệnh Hồ Xung đùng đùng nổi giận, chửi thầm: Quả là bọn chuột nhắt vô liêm sỉ, to gan ngông cuồng! Kiếm pháp Hoa Sơn ta tinh vi ảo diệu, trong thiên hạ mấy ai có thể chống đỡ được, một chữ “phá” cũng không dám nói, càng không có ai dám nói hai chữ “tận phá” bao giờ.

Chàng lượm thanh trường kiếm của phái Thái Sơn lên, vận nội lực để chém bạt hàng chữ xấc láo này. Choang một tiếng, tia lửa văng tung tóe, chữ “tận” bị chém mất một góc, nhưng từ nhát kiếm này, chàng nhận ra vách đá vô cùng cứng rắn, muốn xóa những đồ hình và chữ khắc trên vách đá dù có lợi khí cũng không dễ xóa được.

Lệnh Hồ Xung định thần lại, nhìn hàng chữ bên đồ hình. Hình người sử kiếm tuy chỉ được phác họa vài nét rất sơ sài, nhưng cũng có thể nhận ra chính là chiêu Hữu phụng lai nghi thuộc kiếm pháp căn bản của bổn môn; thế kiếm bay lượn phát ra nhẹ nhàng linh động. Chiêu này đang chiết giải với hình người trong tay cầm một thứ khí giới thẳng đuột, không biết nó là côn hay là trường mâu. Thứ khí giới thẳng đuột này chỉ vào mũi kiếm của đối phương với tư thế chậm chạp dị thường. Lệnh Hồ Xung lạnh lùng cười hề hề, thầm nghĩ: Chiêu Hữu phụng lai nghi này của bổn môn còn ẩn giấu năm tuyệt chiêu nữa, chiêu thức vụng về của ngươi làm sao có thể phá giải được?

Nhưng chàng xem lại hình người trong bức đồ hình cầm khí giới thẳng đuột giống như cây côn đang thuận thế phóng vào mũi kiếm của người ra chiêu Hữu phụng lai nghi. Chiêu Hữu phụng lai nghi cứ một chiêu thì có năm chiêu kế tiếp nhưng cây côn của người kia dường như tiềm ẩn đến sáu bảy chiêu kế tiếp, rất có khả năng đối phó với những chiêu tiếp theo của Hữu phụng lai nghi.

Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn những nét khắc sơ sài tạc hình người giao đấu, vừa sợ hãi vừa kỳ dị, nghĩ: Chiêu Hữu phụng lai nghi của bổn môn, chiêu số rất tầm thường nhưng uy lực rất lợi hại; địch thủ biết mà đỡ gạt né tránh thì không sao, nếu họ cố gắng chiết giải tất sẽ thất bại. Nhưng chiêu côn kia của đối phương thực sự có thể phá được chiêu Hữu phụng lai nghi của phái ta. Đây… đây… đây…

Lệnh Hồ Xung từ chỗ kinh hãi ngạc nhiên chuyển sang khâm phục, lòng không kìm được nỗi lo sợ. Chàng ngây người nhìn hai đồ hình này không biết bao lâu, bỗng nhiên cảm thấy tay phải đau rát. Thì ra bó đuốc đã cháy đến tận tay. Chàng vội liệng bó đuốc đi, nghĩ bụng: Bó đuốc đã cháy hết rồi, trong động tối đen như mực.

Lệnh Hồ Xung vội chạy đến trước động, lấy mười mấy nhánh tùng khô làm đuốc rồi chạy vào trong động, đốt lửa lên. Chàng vẫn nhìn hai hình người này rồi nghĩ thầm: Nếu công lực của người sử côn kia tương đương với người sử kiếm của bổn môn thì người sử kiếm của bổn môn không khéo sẽ bị thương mất. Nếu công lực của đối phương cao hơn thì lúc hai thứ khí giới giao nhau, người sử kiếm bổn môn lập tức mất mạng ngay. Chiêu Hữu phụng lai nghi của phái ta… đích thực đã bị người ta phá rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.

Lệnh Hồ Xung nghiêng đầu nhìn đồ hình thứ hai, thấy người sử kiếm của bổn môn sử chiêu Thương tùng nghênh khách. Tinh thần chàng chấn động. Năm xưa, Lệnh Hồ Xung luyện chiêu này mất một tháng mới xong, trở thành một tuyệt chiêu lúc lâm địch. Chàng có chút hoảng sợ, chỉ e chiêu này lại bị người phá giải được. Chàng nhìn hình người sử côn lại thấy trong tay y có đến năm cây côn phân ra đánh vào năm bộ vị dưới hạ bàn của hình người sử kiếm. Lệnh Hồ Xung ngây người ra hỏi: Sao lại có đến năm cây côn? Nhưng khi xem kỹ tư thế của hình người sử côn, hắn liền hiểu ra: Đây không phải là năm cây côn mà vì trong nháy mắt y liên tục phóng ra năm phát nhắm vào năm chỗ trong hạ bàn của đối phương. Nhưng y nhanh ta cũng nhanh, chưa chắc kịp phóng ra liên tiếp năm côn được đâu. Chiêu Thương tùng nghênh khách chắc y phá giải không nổi.

Chàng đang ra chiều tự đắc, bỗng nhiên lại ngẩn người ra rồi tự hỏi: Nếu y không liên tục xuất ra năm côn mà chỉ đánh một côn vào một phương vị nào đó thì ta làm sao né tránh đây?

Lệnh Hồ Xung nhặt một thanh trường kiếm của bổn môn, sử chiêu Thương tùng nghênh khách, lại xem kỹ đồ hình trên vách đá, tưởng tượng bị côn của đối phương đánh đến. Nếu biết được đối phương đánh vào chỗ nào thì tự mình có cách để đối phó, nhưng cây côn của đối phương có thể đánh vào bất kỳ bộ vị nào cũng được, lúc đó trường kiếm của mình đã đâm ra ngoài thì chắc thu về không kịp. Trừ khi chiêu kiếm này phóng ra đâm chết đối phương trước, nếu không thì hạ bàn của mình tất bị đánh trúng. Nhưng đối phương đã là cao thủ, há có thể hy vọng một kiếm mà đâm chết được sao? Nhìn thấy thế địch nhân hạ thấp vai xuống, chân bước tới thì nhất định trong đường tơ kẽ tóc, sẽ né được chiêu kiếm của mình. Chiêu kiếm này mà bị đối phương né được rồi phản công lại thì không thể tránh vào đâu được. Như vậy tuyệt chiêu Thương tùng nghênh khách của phái Hoa Sơn há không phải đã bị người phá được rồi sao?

Lệnh Hồ Xung hồi tưởng lại ba lần ra chiêu Thương tùng nghênh khách đều thủ thắng. Nếu đối phương thấy đồ hình trên vách đá, biết dùng chiêu này mà phản kích, dù sử côn, sử thương, sử mâu, sử gậy thì mình cũng đã mất mạng rồi, còn đâu thằng Lệnh Hồ Xung tồn tại trên thế gian này nữa?

Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng kinh hãi, trán toát mồ hôi hột, lẩm bẩm: Không phải, không phải. Nếu chiêu Thương tùng nghênh khách thật sự có cách phá giải như thế này thì sao sư phụ không biết? Sao sư phụ không cho ta biết trước?

Đối với chiêu Thương tùng nghênh khách, chàng rất tinh thục yếu quyết song nhìn thấy hình người sử năm cây côn cực kỳ lợi hại, tuy trên vách chỉ vẽ hình năm cây côn rất ngắn nhưng mỗi cây lại dường như đánh mạnh vào đùi, vào chân.

Chàng lại xem phía dưới, thấy vách đá khắc toàn những tuyệt chiêu của bổn môn mà đối phương cũng sử toàn chiêu cực kỳ xảo diệu hiểm ác để phá. Lệnh Hồ Xung càng xem càng sợ hãi. Lúc xem đến chiêu Vô biên lạc mộc thấy cây côn của đối phương phản chiêu yếu ớt như không có chút sức lực nào, chỉ thủ chứ không công, bất giác chàng thở phào một cái rồi nghĩ: Chiêu này ngươi phá không được rồi.

Lệnh Hồ Xung nhớ lại tháng chạp năm ngoái, sư phụ thấy tuyết rơi phất phơ nhiều nên rất cao hứng, bèn tập hợp bọn đệ tử lại để giảng luận về kiếm pháp. Sau cùng, sư phụ thi triển chiêu Vô biên lạc mộc, chiêu kiếm của sư phụ rất thần tốc, đường kiếm lấp loáng trên không giống như những đóa hoa tuyết tung bay, ngay cả đến sư nương cũng vỗ tay khen ngợi. Bà nói: “Sư ca, tiểu muội chịu phục sư ca chiêu kiếm này rồi; phái Hoa Sơn phải có sư ca làm chưởng môn nhân là đúng rồi”. Sư phụ cười nói: “Người đứng đầu phái Hoa Sơn phải dựa vào đức chứ không dựa vào lực, chưa chắc sử được một chiêu kiếm thuần thục như vậy thì có thể làm được chưởng môn nhân”. Sư nương cười nói: “Xấu hổ quá! Đức hạnh của sư ca cao hơn tiểu muội sao?” Sư phụ cười cười không nói nữa. Sư nương hiếm khi chịu phục ai, thường thích cùng với sư phụ tranh thắng, thế mà bà phải phục chiêu Vô biên lạc mộc thì phải biết nó lợi hại biết chừng nào. Sau đó, sư phụ giảng giải chiêu thức này được đặt tên từ một câu trong Đường thi, gọi là Vô biên lạc mộc gì gì đó, sư phụ có đọc qua nhưng chàng không nhớ rõ. Lá trên trăm ngàn cây cổ thụ rơi xuống bay chầm chậm trong gió, chiêu kiếm pháp này hầu như chiếu cố đến cả bốn phương tám hướng.

Chàng lại nhìn tiếp hình người sử côn nhưng thấy y đứng ở tư thế co rúm trông rất khó coi, chiêu số cũng chẳng ra chương pháp nào cả. Lệnh Hồ Xung cảm thấy nực cười. Bỗng nhiên, nét mặt đang tươi cười của chàng sựng lại; hắn thấy lạnh đến tận xương tủy. Lệnh Hồ Xung nhìn chằm chằm vào cây côn trong tay người đó, càng nhìn càng cảm thấy đầu côn ra chiêu cực kỳ xảo diệu. Chiêu Vô biên lạc mộc phóng ra chín chiêu, mười chiêu, mười một, mười hai chiêu; mỗi thế kiếm đều nhằm đâm vào côn. Ngược lại, cây côn này lúc mới nhìn qua thấy ra chiêu rất vụng về, nhìn kỹ lại rất xảo diệu; hình người trông yếu ớt nhưng thực ra rất mạnh mẽ. Người sử côn dùng cách lấy tĩnh chế động, lấy cái vụng về chế cái tinh xảo.

Trong chốc lát, niềm tin của chàng đối với võ công bổn phái hoàn toàn mất hết. Lệnh Hồ Xung cảm thấy dù mình có luyện được kiếm thuật bổn môn tinh diệu bằng sư phụ mà gặp phải người sử côn này cũng chẳng khác gì bị người khác cột tay trói chân không còn cách gì để kháng cự, vậy thì kiếm thuật của bổn môn có học đến đâu cũng vô dụng thôi. Chẳng lẽ kiếm thuật của phái Hoa Sơn thực không thể chống nổi một đòn của đối phương sao? Trước mắt, những bộ xương ở trong động đã mục rã lâu rồi, ít nhất cũng ba bốn chục năm, vậy mà sao đến nay Ngũ Nhạc kiếm phái vẫn còn xưng hùng trên giang hồ, chưa từng nghe nói đến kiếm pháp của một phái nào bị người khác phá giải? Nhưng nếu nói những đồ hình trên vách đá chẳng qua chỉ là đấu nhau trên giấy thì cũng không phải. Để xem kiếm pháp của phái Tung Sơn có bị người khác phá hay không. Nhưng chàng biết rõ kiếm pháp phái Hoa Sơn nếu bất ngờ gặp phải những chiêu số cực kỳ cao minh của đối phương thì cũng chỉ còn con đường thất bại mà thôi.

Lệnh Hồ Xung như bị ai điểm trúng huyệt đạo. Chàng đứng trơ bất động, từng ý nghĩ xuất hiện rồi lại tan biến ngay. Không biết trải qua bao lâu, bỗng nghe tiếng người gọi:

– Đại sư ca, đại sư ca! Đại sư ca đang ở đâu vậy?

Lệnh Hồ Xung giật mình, từ trong thạch động vội chạy ra con đường hẹp rồi chui qua lỗ hổng, trở lại sơn động của mình. Nghe tiếng Lục Đại Hữu từ ngoài sườn núi vọng lại, Lệnh Hồ Xung từ trong động chạy ra, đi vòng về phía sau sườn núi đến tảng đá lớn, ngồi xếp bằng ngay ngắn rồi nói:

– Ta đang ngồi luyện công ở đây. Lục sư đệ, có chuyện gì vậy?

Lục Đại Hữu nghe tiếng liền chạy đến, vui mừng nói:

– Đại sư ca ở đây ư? Tiểu đệ đem cơm lên cho đại sư ca đây.

Lệnh Hồ Xung quan sát các chiêu số trên vách đá từ lúc bình minh. Chàng để hết tâm trí vào các bức đồ hình, không biết thời gian trôi qua nhanh, bây giờ đã sau giờ Ngọ rồi. Sơn động là nơi chàng đến để tĩnh tâm ăn năn sám hối tội lỗi của mình; Lục Đại Hữu không dám tự tiện đi vào. Sơn động này rất hẹp, vừa nhìn không thấy Lệnh Hồ Xung ở trong, gã liền đến bên sườn núi tìm kiếm.

Lệnh Hồ Xung thấy trên trán của Lục Đại Hữu có dán một miếng thuốc lớn, máu rỉ ra thấm qua miếng thuốc dán, rõ ràng là gã bị thương không nhẹ, vội hỏi:

– Ui chao! Mặt mũi sư đệ bị sao vậy?

Lục Đại Hữu nói:

– Sáng nay tiểu đệ luyện kiếm không cẩn thận, lúc rút kiếm lại lỡ rạch một đường, thật đáng xấu hổ.

Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của gã vừa xấu hổ vừa tức giận, đoán rằng có lý do khác, bèn nói:

– Lục sư đệ, sư đệ bị thương ra sao? Chẳng lẽ ngay cả ta, sư đệ cũng muốn nói dối sao?

Lục Đại Hữu đùng đùng nổi giận nói:

– Đại sư ca, tiểu đệ đâu dám nói dối đại sư ca, chỉ vì sợ đại sư ca nổi nóng nên không dám nói thật mà thôi.

Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ. Sư huynh sư đệ trong bổn môn xưa nay đối với nhau rất hòa nhã, không bao giờ có chuyện đánh lộn hoặc tỉ đấu đến đổ máu. Lẽ nào có địch nhân bên ngoài lên núi?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ai đã làm cho sư đệ bị thương?

Lục Đại Hữu nói:

– Sáng nay, tiểu đệ và Lâm sư đệ luyện kiếm. Hắn mới vừa học xong chiêu Hữu phụng lai nghi, tiểu đệ sơ ý bị hắn vạch kiếm lên mặt làm bị thương.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bọn sư huynh sư đệ tập dượt kiếm pháp với nhau, gặp lúc lỡ tay làm bị thương là chuyện bình thường, không nên để bụng làm gì. Lâm sư đệ mới học kiếm pháp nên thu phát chiêu chưa theo ý muốn, trách hắn làm sao được, chắc tại Lục sư đệ vô ý mà thôi. Uy lực của chiêu Hữu phụng lai nghi không nhỏ, phải cẩn thận ứng phó mới được.

Lục Đại Hữu nói:

– Đúng vậy, nhưng tiểu đệ làm sao ngờ được… Gã họ Lâm nhập môn mới được vài tháng mà đã luyện được chiêu Hữu phụng lai nghi; còn tiểu đệ bái sư đã trên năm năm rồi, sư phụ mới bảo đại sư ca truyền cho tiểu đệ một chiêu.

Lệnh Hồ Xung hơi sững sờ, lòng nghĩ Lâm sư đệ mới nhập môn mấy tháng mà đã được học xong chiêu Hữu phụng lai nghi thì quả là hắn tiến bộ quá nhanh. Nếu không phải trời phú cho hắn thông minh tài trí hơn người, hắn chưa học xong căn bản đã cầu sự thành đạt nhanh như vậy thì ngày sau sẽ rất tai hại cho việc luyện công. Không biết tại sao sư phụ lại truyền cho hắn nhanh như vậy?

Lục Đại Hữu lại nói:

– Tiểu đệ thấy chiêu này thì giật mình kinh hãi liền bị hắn đả thương. Đã vậy tiểu sư muội còn đứng bên cạnh vỗ tay reo lên: “Lục hầu nhi, ngay cả đồ đệ của tiểu muội mà Lục sư ca cũng đánh không lại, sau này còn dám ra oai trước mặt tiểu muội nữa không?” Gã tiểu tử họ Lâm đó tự biết mình có lỗi nên chạy đến định buộc vết thương cho tiểu đệ liền bị tiểu đệ đá cho lộn nhào. Tiểu sư muội giận nói: “Lục hầu nhi, người ta có lòng tốt muốn băng bó vết thương cho Lục sư ca, sao Lục sư ca lại đánh người ta? Phải chăng Lục sư ca thẹn quá mà hóa giận?” Đại sư ca, thì ra tiểu sư muội lén lút truyền cho hắn chiêu Hữu phụng lai nghi này.

Lệnh Hồ Xung nghe đến đây, lòng đau như cắt. Chiêu Hữu phụng lai nghi này rất khó luyện vì nó biến hóa rất phức tạp, lại tiềm tàng nhiều bí quyết. Tiểu sư muội đã dạy Lâm sư đệ chiêu kiếm pháp này nhất định cô rất hao tâm tổn sức, mất nhiều công phu. Hóa ra những ngày cô ta không lên núi là những ngày ở gần Lâm sư đệ.

Bản tính Nhạc Linh San hiếu động, không bao giờ chịu nhẫn nại làm những chuyện tỉ mỉ. Cô ta lại cương cường hiếu thắng, tự luyện kiếm cho mình thì được còn muốn dạy cho ai thì người đó khó mà mong được cô ta hết lòng chỉ điểm. Vậy mà bây giờ, cô lại đem chiêu Hữu phụng lai nghi biến hóa phức tạp truyền cho Lâm Bình Chi đủ biết cô ta yêu mến gã sư đệ này biết chừng nào. Trải qua một lúc lâu, Lệnh Hồ Xung mới bình tĩnh lại, thản nhiên hỏi:

– Sư đệ sao lại đi luyện kiếm với Lâm sư đệ?

Lục Đại Hữu đáp:

– Ngày hôm qua, tiểu đệ và đại sư ca nói với nhau mấy câu đó, tiểu sư muội có vẻ không vui, dọc đường xuống núi cô ta cứ cằn nhằn tiểu đệ, sáng sớm hôm nay lại kéo tiểu đệ đi cùng với Lâm sư đệ chiết chiêu. Tiểu đệ không chút cảnh giác, cứ nghĩ chiết chiêu là chuyện bình thường. Nào ngờ tiểu sư muội ngấm ngầm dạy cho tên tiểu tử họ Lâm mấy tuyệt chiêu; tiểu đệ ra tay sơ ý bị trúng đòn hại ngầm của hắn.

Lệnh Hồ Xung càng nghe càng hiểu rõ mọi chuyện. Nhất định là trong những ngày này, Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi rất thân thiết với nhau mà Lục Đại Hữu lại rất yêu mến mình nên gã thấy chướng mắt; không kìm được giận đã thốt ra những lời châm chọc, thậm chí còn sinh sự nhục mạ Lâm Bình Chi. Chàng bèn hỏi:

– Sư đệ thóa mạ Lâm sư đệ mấy lần rồi phải không?

Lục Đại Hữu hằn học đáp:

– Tiểu đệ không chửi cái thứ mặt trắng đê tiện vô liêm sỉ đó thì còn chửi ai? Hắn thấy tiểu đệ thì sợ lắm; tiểu đệ chửi hắn, hắn không bao giờ dám mở miệng cãi lại, vừa thấy tiểu đệ liền lủi đi chỗ khác. Không ngờ tên tiểu tử này lại thâm hiểm như vậy. Hừ, hắn thì có được mấy hơi, nếu không có tiểu sư muội đứng sau lưng làm hậu thuẫn thì tên tiểu tử này làm sao đả thương tiểu đệ nổi?

Lệnh Hồ Xung lúc này đau khổ, tức giận đến cùng cực. Chàng nhớ lại chiêu côn chuyên đả phá tuyệt chiêu Hữu phụng lai nghi khắc trên vách đá trong hậu động, liền lượm một cành cây dưới đất, tiện tay đưa ra một tư thế ra hiệu, định truyền lại chiêu này cho Lục Đại Hữu. Nhưng chàng lại chuyển ý, nghĩ bụng: Lục sư đệ đang căm hận tên tiểu tử họ Lâm. Nếu lục sư đệ ra chiêu nhất định sẽ làm gã họ Lâm bị trọng thương; sư phụ và sư nương sẽ truy xét ra thì cả mình và Lục sư đệ nhất định sẽ bị trừng phạt nặng. Chuyện này vạn lần không thể làm được.

Lệnh Hồ Xung liền nói:

– Một lần thất bại, một lần khôn ra, về sau đừng mắc bẫy hắn nữa là yên thân. Mình là sư huynh sư đệ với nhau, lúc cùng nhau chiết chiêu, những chuyện thắng bại nho nhỏ đừng để bụng làm gì.

Lục Đại Hữu nói:

– Đúng. Nhưng đại sư ca ơi, tiểu đệ có thể không để bụng, còn đại sư ca… đại sư ca lại có thể làm ngơ được sao?

Lệnh Hồ Xung biết gã nói đến chuyện Nhạc Linh San, lại cảm thấy trong lòng quặn đau dữ dội, da mặt co rúm lại.

Lục Đại Hữu vừa nói ra liền biết câu nói của mình đã khiến cho đại sư ca đau lòng. Gã cuống quýt:

– Tiểu đệ… tiểu đệ đã nói sai rồi.

Lệnh Hồ Xung cầm tay gã ôn tồn nói:

– Lục sư đệ đâu có nói sai. Sao ta có thể làm ngơ được? Nhưng… nhưng…

Chàng ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Lục sư đệ! Từ nay về sau, chúng ta đừng đề cập đến chuyện này nữa.

Lục Đại Hữu nói:

– Dạ! Đại sư ca, đại sư ca đã từng dạy cho tiểu đệ chiêu Hữu phụng lai nghi này rồi, nhưng lúc đó tiểu đệ không chú ý lắm nên mới bị mắc bẫy của tiểu tử họ Lâm. Tiểu đệ nhất định dụng hết tâm sức luyện cho thật giỏi, thật tinh thông để tiểu tử này biết đại sư ca dạy giỏi hay tiểu sư muội dạy giỏi.

Lệnh Hồ Xung cười đau đớn, nói:

– Ha ha, chiêu Hữu phụng lai nghi đó thực ra chẳng là cái cóc gì cả.

Lục Đại Hữu thấy tinh thần của Lệnh Hồ Xung suy sụp thì cho rằng tại tiểu sư muội lãnh đạm nên đại sư ca đâm ra buồn chán. Gã không dám nói thêm gì nữa, bày cơm rượu chờ Lệnh Hồ Xung ăn xong rồi thu dọn cáo từ xuống núi.

Lệnh Hồ Xung nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi đốt một cành thông, đến hậu động xem tiếp những chiêu kiếm trên vách đá. Lúc đầu, chàng chỉ nghĩ đến chuyện Nhạc Linh San truyền thụ kiếm thuật cho Lâm Bình Chi nên không thể chú tâm đến các đồ hình trên vách đá được, những nét khắc sơ sài vạch thành hình người trên vách tựa hồ từng hình đều hóa thành Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi. Một người đang dạy, một người đang học, vẻ mặt họ rất tình tứ. Trước mắt Lệnh Hồ Xung cứ thấp thoáng tướng mạo tuấn tú của Lâm Bình Chi, bất giác chàng thở dài, nghĩ bụng: Tướng mạo Lâm sư đệ vốn tuấn tú hơn ta gấp mười lần, tuổi lại nhỏ hơn ta khá nhiều và chỉ lớn hơn tiểu sư muội một hai tuổi, hèn gì hai người dễ thân nhau đến như vậy.

Đột nhiên, Lệnh Hồ Xung bỗng chăm chú nhìn người sử kiếm trong đồ hình trên vách xuất ra một chiêu kiếm. Người sử kiếm từ tư thế vận kình lực, đường chiêu kiếm đi, lại giống hệt chiêu Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm của Nhạc phu nhân. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, nghĩ bụng: Chiêu kiếm này là do sư nương ta sáng chế, sao trên vách đá lại sớm có người khắc ra? Chuyện này quả thật cổ quái.

Lệnh Hồ Xung quan sát tỉ mỉ đồ hình, mới phát hiện những chiêu trên vách đá có chỗ khác biệt những chiêu kiếm của Nhạc phu nhân sáng chế ra. Chiêu kiếm trên vách đá nội lực hùng hậu mà giản dị, không khoe khoang, hiển nhiên là do đàn ông xuất chiêu, đúng là những chiêu kiếm không giống như chiêu thức của Nhạc phu nhân vì còn ngấm ngầm ẩn tàng vô số những biến hóa về sau. Bởi vì nó đơn giản nên càng lợi hại. Lệnh Hồ Xung gật đầu lẩm bẩm: Chiêu kiếm do sư nương ta sáng chế cũng trùng với kiếm ý của tiền nhân. Điều này cũng không có gì lạ vì cả hai cũng lấy kiếm pháp Hoa Sơn làm căn bản mà biến hóa ra, công lực và trí tuệ của hai người này chẳng kém nhau bao nhiêu, tất nhiên trong cách sáng chế chiêu thức phải khác nhau chút ít.

Chàng lại nghĩ tiếp: Nếu nói như vậy thì những chiêu kiếm trên vách đá có rất nhiều điểm mà ngay cả sư phụ và sư nương đều không biết. Chẳng lẽ sư phụ lại chưa học hết những kiếm pháp cao thâm của bổn môn?

Chàng thấy cây côn trong tay đối thủ điểm thẳng tới, đầu côn điểm chuẩn xác vào mũi kiếm, cả kiếm và côn hợp thành một đường thẳng.

Lệnh Hồ Xung vừa thấy đường thẳng này không kìm chế được, phải la hoảng lên:

– Không xong rồi!

Cây đuốc trong tay rơi xuống đất, trong động tối thui. Chàng hoảng sợ vô cùng, tự hỏi: Phải làm sao đây? Phải làm sao đây?

Lệnh Hồ Xung nhìn rất rõ từng côn từng kiếm chạm nhau; côn cứng mà kiếm thì mềm, đôi bên lại vận toàn lực thì trường kiếm chắc sẽ gãy đôi. Kình lực của đôi bên đều liên miên bất tuyệt; cây côn thừa thế đâm thẳng tới, còn hậu kình trên kiếm sẽ đánh phản lại chính mình mà không có cách nào phá giải được.

Trong đầu Lệnh Hồ Xung lại lóe lên một ý nghĩ: Có thật là không có cách nào phá giải được sao? Cũng chưa chắc đâu. Lưỡi kiếm bị gãy, còn cây côn của đối phương phóng nhanh đến thì chỉ còn cách liệng cây kiếm gãy đi mà quỳ phục xuống, nếu không thì nằm xoài về phía trước mới có thể tránh được thế đánh của côn. Nhưng sư phụ và sư nương đều là những kiếm thuật danh gia, có địa vị lẫy lừng liệu có thể chịu làm tư thế đó không? Tất nhiên họ thà chết chứ không chịu nhục, ôi, thất bại thê thảm! Thất bại thê thảm rồi!

Một lúc lâu sau, Lệnh Hồ Xung lấy đao và đá đánh lửa đốt đuốc lên, lại tiếp tục quan sát vách đá, chỉ thấy kiếm càng xuất càng kỳ diệu, càng lúc càng tinh thâm, mấy chục chiêu sau biến ảo khôn cùng, kỳ bí vô phương. Nhưng bất luận chiêu kiếm lợi hại ra sao, cây côn của đối phương vẫn có cách chế ngự. Đồ hình kiếm pháp của phái Hoa Sơn ở khắp nơi đều khắc hình người sử kiếm liệng trường kiếm đi mà quỳ gối phủ phục trước mặt người sử côn. Bao nhiêu căm phẫn trong lòng Lệnh Hồ Xung đều tan biến, chỉ còn lại một nỗi buồn man mác. Tuy hắn cảm thấy đồ hình người sử côn đầy sự kiêu ngạo khinh bạc, nhưng kiếm pháp của phái Hoa Sơn bị tận phá sạch sành sanh không còn cách gì để tranh hùng nữa là sự thực một trăm phần trăm không còn nghi ngờ nữa.

Tối hôm đó, Lệnh Hồ Xung đi quanh quẩn tới lui không biết bao nhiêu lần. Trong đời mình, chưa bao giờ chàng bị hụt hẫng trầm trọng như vậy. Chàng nghĩ thầm: Phái Hoa Sơn ta được liệt vào Ngũ Nhạc kiếm phái, là một danh môn chánh phái tiếng tăm lẫy lừng từ lâu trong võ lâm mà sao võ công lại tệ hại như vậy? Trên vách đá, ít nhất có đến hơn một trăm chiêu kiếm ngay cả sư phụ và sư nương cũng chưa biết đến, nhưng giả sử có luyện kiếm pháp của bổn môn cao thâm đến đâu thì bản thân sư phụ cũng thua kém xa, như vậy thì còn dùng làm được gì nữa? Chỉ cần đối phương biết cách phá giải thì ngay cả đệ nhất cao thủ của bổn môn cũng phải liệng kiếm đầu hàng; nếu không chịu thua thì chỉ còn tự sát mà thôi.

Lệnh Hồ Xung đi lại loanh quanh càng thấy lo lắng khổ não. Cây đuốc đã tắt rụi. Không biết trải qua bao lâu, chàng lại đốt cây đuốc khác, nhìn hình người quỳ gối đầu hàng, càng nghĩ càng tức giận, vung trường kiếm lên đâm thẳng vào vách đá, nhưng khi mũi kiếm vừa đụng đến vách đá, chàng bỗng nghĩ: Bậc đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, thua thì chịu thua, thắng thì bảo thắng. Phái Hoa Sơn ta đã không bằng người thì còn gì để nói nữa? Chàng bèn liệng trường kiếm, thở dài.

Chàng lại đi xem những đồ hình khác trên vách đá, thấy kiếm pháp của bốn phái Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn cũng hoàn toàn bị đối thủ phá sạch, không thể cứu vãn nổi, sau cùng cũng quỳ xuống đầu hàng.

Lệnh Hồ Xung ở sư môn đã lâu ngày nên hiểu biết rất rộng, chiêu kiếm của các phái tuy chàng không hiểu rõ chỗ tinh thâm nhưng những điều cốt yếu đều đã được nghe qua. Vách tường bên phải khắc những chiêu kiếm của bổn phái không có chiêu nào là không cao minh lợi hại nhưng mỗi chiêu rốt cuộc cũng bị đối phương phá sạch.

Ngoài sự kinh hãi, lòng Lệnh Hồ Xung còn tràn ngập mối nghi ngờ: Lai lịch của Phạm Tùng, Triệu Hạt, Trương Thừa Phong, Trương Thừa Vân thế nào? Sao họ lại nghĩ ra được mà khắc lên vách đá những cách phá giải các loại kiếm pháp của Ngũ Nhạc kiếm phái, mà mình lại chưa từng nghe người trong võ lâm nói tới họ? Sao Ngũ Nhạc kiếm phái ta lại giữ được oai danh cho đến ngày nay?

Lệnh Hồ Xung nhận thấy Ngũ Nhạc kiếm phái ngày nay vẫn còn oai danh lừng lẫy, thực không có chút gì là giả dối để lừa thiên hạ. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái mấy nghìn người từ sư trưởng đến đệ tử sở dĩ có thể đứng vững được trong võ lâm hoàn toàn là nhờ các đồ hình trên vách đá chưa bị bại lộ ra ngoài. Chàng lại nghĩ: Sao ta không giơ búa lên chém vào các đồ hình trên vách đá để xóa hết đi, không để lại một vết tích gì trên thế gian này? Như vậy sẽ làm cho oai danh của Ngũ Nhạc kiếm phái được bảo toàn, cứ coi như trước nay ta chưa phát hiện ra hậu động này là được.

Lệnh Hồ Xung quay người nhặt cây búa to lên, xoay lại đứng trước vách đá. Nhưng khi xem đến những chiêu số kỳ diệu trên vách thì lại không nỡ phá đi. Chàng trầm ngâm một hồi rồi lớn tiếng nói:

– Lệnh Hồ Xung đâu phải là kẻ có thể làm những hành vi đê tiện vô liêm sỉ này.

Bỗng nhiên chàng lại nghĩ đến vị tiên sinh mặc áo bào xanh bịt mặt: Kiếm thuật của người đó cao thâm như vậy, chắc có liên quan đến các đồ hình trong động này. Người này là ai? Người này là ai?

Hồi 35: Bị phụ rẫy Hồ Xung lâm trọng bệnh

Lệnh Hồ Xung trở về động suy nghĩ cả nửa ngày, lại đến hậu động quan sát các đồ hình trên vách đá; hết đi ra rồi lại đi vào không biết bao nhiêu lần. Trời đã xế chiều, bỗng nghe tiếng bước chân vọng lại, Nhạc Linh San xách thùng cơm đi lên. Lệnh Hồ Xung vui mừng, vội chạy đến sườn núi đón rồi gọi:

– Tiểu sư muội!

Giọng chàng run run vì quá xúc động.

Nhạc Linh San không đáp. Cô lên tới đỉnh núi, đặt mạnh thùng cơm lên tảng đá to, không thèm liếc nhìn Lệnh Hồ Xung một cái liền quay người bỏ xuống núi.

Lệnh Hồ Xung vội gọi:

– Tiểu sư muội, tiểu sư muội làm sao vậy?

Nhạc Linh San hừ một tiếng, chân phải bước nhanh xuống núi. Mặc cho Lệnh Hồ Xung gọi hoài, cô vẫn không đáp một tiếng, cũng không thèm quay đầu lại liếc nhìn. Lệnh Hồ Xung hoang mang không biết phải làm sao; mở thùng cơm ra thấy có đủ cơm trắng, hai đĩa rau và một hồ rượu nhỏ. Chàng ngơ ngẩn nhìn thùng cơm hồi lâu rồi bất giác đờ người ra.

Mấy lần Lệnh Hồ Xung muốn ăn cơm nhưng chỉ ăn được một miếng thì cảm thấy miệng khô lưỡi đắng, không sao nuốt nổi nên không ăn nữa. Chàng tự hỏi: Nếu tiểu sư muội giận ta, sao lại đích thân đem cơm lên cho ta? Còn nếu y không giận ta, sao một tiếng cũng không nói, mắt cũng không thèm liếc nhìn ta một chút? Chẳng lẽ Lục sư đệ bị bệnh nên y phải đem cơm lên? Nhưng nếu Lục sư đệ không đem cơm lên thì bọn ngũ sư đệ, thất sư đệ, bát sư đệ… đều có thể đem cơm lên được, tại sao tiểu sư muội lại muốn tự mình đem cơm?

Những suy nghĩ của Lệnh Hồ Xung như thủy triều lên xuống từng đợt nối tiếp. Mải suy đoán những tâm tình của Nhạc Linh San, chàng dẹp hết những suy nghĩ về võ công trên vách đá ở hậu động.

Chiều hôm sau, Nhạc Linh San lại đem cơm lên. Cô ta vẫn không thèm liếc chàng một cái, một câu cũng không nói, lúc xuống núi cô ta còn hát vang bài sơn ca Phúc Kiến. Lòng Lệnh Hồ Xung đau như dao cắt, thầm nghĩ: Thì ra cô ta cố ý chọc tức mình.

Chiều ngày thứ ba, Nhạc Linh San lại đem thùng cơm đặt mạnh lên trên tảng đá rồi quay người bỏ đi. Lệnh Hồ Xung không nhịn được nữa bèn gọi:

– Tiểu sư muội, xin dừng bước, ta có chuyện muốn nói với sư muội.

Nhạc Linh San quay người lại nói:

– Có chuyện gì, cứ nói ra đi!

Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt cô ta lạnh lùng như bao phủ một lớp sương dày đặc, không một chút tươi cười, chàng lẩm bẩm nói:

– Tiểu sư muội… sư muội… sư muội…

Nhạc Linh San nói:

– Tiểu sư muội làm sao?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta… ta…

Bình thường chàng rất tự nhiên, miệng lưỡi lanh lợi nhưng lúc này lại nói không nên lời.

Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca không nói được, tiểu muội đi đây.

Cô nói xong liền quay người bỏ đi.

Lệnh Hồ Xung sốt ruột, nghĩ rằng cô xuống núi thì đến chiều mai mới lên lại, hôm nay không hỏi cho rõ ràng thì đêm nay lại đau khổ dằn vặt, làm sao ta có thể chịu đựng nổi? Huống chi nhìn vẻ mặt cô như vậy, không chừng chiều mai cô ta sẽ không lên nữa, thậm chí có thể một tháng cũng không lên. Tình hình cấp bách, hắn bèn giơ tay kéo tay áo của cô lại. Nhạc Linh San giận nói:

– Buông tay ra!

Cô giật mạnh tay. Roạt một tiếng, tay áo bị rách trễ xuống, để lộ ra nửa cánh tay trắng nõn.

Nhạc Linh San vừa thẹn vừa giận, cảm thấy cánh tay lộ ra không biết giấu vào đâu. Cô tuy là người học võ, nhưng còn câu nệ tiểu tiết theo chuẩn mực của người con gái khuê các, bỗng nhiên bị để lộ ra hơn nửa cánh tay, cô lúng ta lúng túng nói:

– Đại sư ca… cả gan…

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Tiểu sư muội xin… xin lỗi. Ta… ta không cố ý.

Nhạc Linh San lấy tay áo bên phải che cánh tay trái lại rồi lớn tiếng nói:

– Đại sư ca muốn nói cái gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta không hiểu, tại sao tiểu muội đối xử với ta như vậy? Nếu đúng thật ta đắc tội với tiểu sư muội, thì sư muội… sư muội… rút kiếm đâm lên người ta mười bảy mười tám nhát, ta… có chết cũng không oán hận.

Nhạc Linh San cười nhạt nói:

– Đại sư ca là đại sư huynh, chúng tôi làm sao dám đắc tội với đại sư ca, còn nói chi đến chuyện đâm mười bảy mười tám nhát? Chúng tôi là sư đệ sư muội của đại sư ca, đại sư ca không đánh mắng đã là cám ơn trời đất lắm rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta suy nghĩ nát nước mà không ra, không biết mình có chỗ nào đắc tội với sư muội?

Nhạc Linh San hậm hực nói:

– Đại sư ca không biết ư? Đại sư ca bảo Lục hầu nhi tâu rỗi trước mặt gia gia và má má, đại sư ca đã rõ lắm rồi mà.

Lệnh Hồ Xung rất lấy làm kỳ, hỏi:

– Ta bảo Lục sư đệ tâu rỗi với sư phụ và sư nương ư? Tâu rỗi… tiểu sư muội sao?

Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca biết rõ gia gia và má má rất yêu thương tiểu muội, có tâu tiểu muội cũng uổng công. Đại sư ca lại quỷ quái bảo y đi tâu… hừ hừ. Đại sư ca còn làm bộ giả vờ, chẳng lẽ đại sư ca thật sự không biết?

Lệnh Hồ Xung chấn động tâm thần, lòng càng cảm thấy đau xót, liền nói:

– Lục sư đệ và Lâm sư đệ tỉ kiếm bị thương, sư phụ và sư nương đều biết, vì vậy mà trách phạt Lâm sư đệ có phải không?

Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Chỉ vì sư phụ và sư nương trách phạt Lâm sư đệ, nên cô ta giận mình như vậy.

Nhạc Linh San nói:

– Sư huynh sư đệ tỉ kiếm với nhau, một người bị thua, một người lại không cố ý đả thương người. Vậy mà gia gia lại thiên vị Lục hầu nhi, trách mắng Tiểu Lâm tử một trận, gia gia còn nói Tiểu Lâm tử công lực chưa đủ, không nên học chiêu Hữu phụng lai nghi và cấm tiểu muội dạy gã luyện kiếm. Hay lắm, đại sư ca thắng rồi! Nhưng… nhưng… tiểu muội… tiểu muội cũng không để ý đến đại sư ca đâu, vĩnh viễn không nhìn mặt sư ca nữa.

Bảy chữ “vĩnh viễn không nhìn mặt sư ca” bình thường cô ta vẫn hay nói với Lệnh Hồ Xung lúc vui đùa nhõng nhẽo, nhưng trước đây cô nói thì cặp mắt đưa đẩy, miệng cười chúm chím, nào có ý “không nhìn đại sư ca” đâu? Nhưng lần này vẻ mặt cô nghiêm khắc, trong lời nói đầy quyết tâm đoạn tuyệt thật rồi.

Lệnh Hồ Xung tiến đến một bước, nói:

– Tiểu sư muội, ta…

Lệnh Hồ Xung muốn nói: Ta thật không có bảo Lục sư đệ đi thưa gửi sư phụ và sư nương đâu. Nhưng chàng nghĩ lại: Ta không thẹn với lòng, chuyện này mình không làm thì việc cóc gì mà cầu xin lòng thương hại của sư muội.

Lệnh Hồ Xung nói một chữ “ta” thì không nói nữa.

– Đại sư ca làm sao?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Ta không sao! Ta chỉ nghĩ: Sư phụ và sư nương cấm tiểu sư muội dạy Lâm sư đệ luyện kiếm cũng không phải là chuyện gì lớn lao, mà sao tiểu sư muội giận ta đến như vậy?

Nhạc Linh San ửng hồng hai má, nói:

– Tiểu muội giận đại sư ca thì tiểu muội cứ giận đại sư ca! Chủ ý của đại sư ca là phá hoại chuyện này, cho rằng tiểu muội không dạy Lâm sư đệ luyện kiếm thì mỗi ngày có thể lên đây bầu bạn với đại sư ca chứ gì? Hừ, tiểu muội vĩnh viễn không nhìn mặt đại sư ca nữa.

Cô nói xong, chân phải dậm mạnh rồi đi thẳng xuống núi.

Lần này Lệnh Hồ Xung không dám đưa tay kéo cô lại nữa. Chàng đau khổ vô cùng, tai lại nghe dưới núi vang lên âm thanh véo von trong trẻo của cô hát khúc sơn ca Phúc Kiến. Lệnh Hồ Xung đi đến bên sườn núi và nhìn xuống thấy cái bóng thướt tha của cô đang chuyển qua thung lũng, thấp thoáng thấy cánh tay trái lồng vào ống tay phải, bất giác lo sợ: Ta đã kéo rách tay áo của sư muội, nếu sư muội nói với sư phụ và sư nương thì hai vị lão nhân gia sẽ bảo ta khinh bạc vô lễ với tiểu sư muội. Vậy… vậy… vậy thì làm sao mới được? Nếu chuyện này đồn đãi ra ngoài thì bọn sư đệ sư muội đều coi thường ta hết ráo.

Lệnh Hồ Xung nghĩ lại: Thật tình ta không hề khinh bạc tiểu sư muội. Người ta thích nghĩ thế nào thì mặc kệ họ, ta giữ làm sao được?

Nhưng Lệnh Hồ Xung nghĩ đến chuyện tiểu sư muội chỉ vì không được dạy kiếm cho Lâm Bình Chi mà lại tức giận như vậy thì không cầm được nỗi xót xa.

Lúc đầu, chàng còn yên tâm lý giải: Tiểu sư muội nhỏ tuổi hiếu động, mà ta phải ở trên này sám hối, không ai chuyện trò giải buồn với tiểu sư muội thì tiểu sư muội tìm Lâm sư đệ tuổi tác suýt soát để bầu bạn là đúng. Kỳ thực hắn có tình ý gì đâu?

Nhưng Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Ta và tiểu sư muội sống cùng một nhà với nhau từ thuở nhỏ, tình nghĩa sâu nặng biết dường nào? Lâm sư đệ đến Hoa Sơn chẳng qua chỉ mới vài tháng, mối thân sơ hậu bạc phải khác nhau chứ. Chàng nghĩ đến đây lòng lại đau đớn như bị dao cắt.

Tối hôm đó, Lệnh Hồ Xung từ trong động đi đến bên sườn núi, rồi từ bên sườn núi đi vào trong động, cứ đi ra đi vào, không biết đến bao nhiêu lần. Hôm sau cũng lại như vậy, lòng chàng chỉ nhớ đến Nhạc Linh San, còn đối với đồ hình trên vách đá ở hậu động và chuyện đêm hôm đó bỗng nhiên xuất hiện người mặc thanh bào đều dẹp qua một bên.

Đến chạng vạng tối Lục Đại Hữu đem cơm đến. Gã để cơm và thức ăn trên tảng đá, dọn ra rồi nói:

– Mời đại sư ca dùng cơm.

Lệnh Hồ Xung ừ một tiếng rồi cầm đũa bát và miếng cơm vào miệng mà không sao nuốt được.

Chàng nhìn xuống núi rồi từ từ để bát cơm xuống. Lục Đại Hữu nói:

– Đại sư ca, sắc mặt đại sư ca khó coi lắm, có phải trong người không được khỏe?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không sao!

Lục Đại Hữu nói:

– Ngày hôm qua tiểu đệ đi hái mớ nấm này về nấu cho đại sư ca ăn. Đại sư ca nếm mùi vị thế nào?

Lệnh Hồ Xung không nói gì, sợ làm phật ý gã, liền gắp hai miếng nấm lên ăn rồi khen:

– Ngon lắm!

Nấm đông cô có mùi vị thơm ngon, nhưng bây giờ chàng nếm thử cảm thấy không có chút ngon lành gì cả.

Lục Đại Hữu cười hi hi nói:

– Đại sư ca, tiểu đệ báo cho đại sư ca một tin rất hay là bắt đầu từ ngày hôm qua trở đi, sư phụ và sư nương cấm không cho Tiểu Lâm tử theo tiểu sư muội học kiếm nữa.

Lệnh Hồ Xung lạnh lùng nói:

– Sư đệ đấu kiếm không lại Lâm sư đệ, thì khóc lóc nói cho sư phụ và sư nương biết phải không?

Lục Đại Hữu nhảy bổ lên nói:

– Ai nói tiểu đệ đấu không lại? Tiểu đệ… vì tiểu đệ…

Hắn nói đến đây thì im bặt không nói nữa.

Lệnh Hồ Xung đã biết rõ rồi, tuy Lâm Bình Chi nhờ chiêu Hữu phụng lai nghi mà xuất kỳ bất ý đả thương được Lục Đại Hữu, nhưng Lục Đại Hữu đã nhập môn lâu ngày, bất luận thế nào Lâm Bình Chi cũng không phải là đối thủ của hắn. Sở dĩ hắn mách với sư phụ và sư nương thực ra cũng chỉ vì mình. Lệnh Hồ Xung bỗng nghĩ: Thì ra các sư đệ và sư muội đều có lòng thương xót ta, đều biết tiểu sư muội từ nay không còn đến với ta nữa. Chỉ vì Lục sư đệ là sư đệ thâm giao với ta mới nghĩ cách giúp ta cứu vãn tình thế. Hừ hừ, bậc đại trượng phu há chịu ai thương xót?

Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung phát giận như điên, cầm bát cơm và đĩa rau liệng xuống vực thẳm rồi la lên:

– Ai cần ngươi nhiều chuyện? Ai cần ngươi nhiều chuyện?

Lục Đại Hữu giật mình sợ hãi. Hắn đối với đại sư ca trước giờ một lòng kính trọng khâm phục, không ngờ lại khích động cho đại sư ca phẫn nộ như vậy. Hắn hoảng loạn, càng hoảng loạn thì càng thụt lùi, miệng chỉ nói được:

– Đại sư ca, đại… sư ca.

Lệnh Hồ Xung ném hết cơm rau xuống vực thẳm mà nỗi tức giận vẫn chưa nguôi. Tiện tay hắn ném tiếp từng cục đá to xuống vực. Lục Đại Hữu nói:

– Đại sư ca, tiểu đệ làm chuyện không đúng. Đại sư ca… đánh đòn đi.

Trong tay Lệnh Hồ Xung đang cầm cục đá to, nghe hắn nói vậy, quay người lại lớn tiếng nói:

– Tiểu đệ có điều gì không đúng?

Lục Đại Hữu sợ quá thụt lùi một bước, ấp úng nói:

– Tiểu đệ… tiểu đệ… tiểu đệ không biết.

Lệnh Hồ Xung thở dài, ném cục đá ra xa, nắm hai tay Lục Đại Hữu rồi dịu dàng nói:

– Lục sư đệ, ta xin lỗi. Ta đang phiền muộn trong lòng chứ không có liên can gì đến sư đệ đâu.

Lục Đại Hữu thở phào rồi nói:

– Tiểu đệ xuống bới cơm khác cho đại sư ca ăn.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không. Không cần, ta không muốn ăn.

Lục Đại Hữu thấy trên tảng đá thức ăn trong thùng đem lên ngày hôm qua còn y nguyên. Hắn không khỏi lo âu, bèn nói:

– Đại sư ca, ngày hôm qua đại sư ca cũng không ăn cơm ư?

Lệnh Hồ Xung cười gượng đáp:

– Sư đệ bất tất phải bận lòng. Mấy ngày nay ta đắng miệng, không muốn ăn cơm mà thôi.

Lục Đại Hữu không dám nói nhiều. Hôm sau, chưa đến giờ thì Lục Đại Hữu đã mang cơm lên núi, thầm nghĩ: Hôm nay ta đem lên một hũ rượu ngon, lại nấu hai món thức ăn nóng sốt, bất luận thế nào cũng phải khuyên đại sư ca ăn được vài bát.

Hắn lên đến đỉnh núi, thấy Lệnh Hồ Xung đang nằm trên tảng đá trong động, vẻ mặt rất tiều tụy.

Hắn hơi kinh hãi, bèn gọi:

– Đại sư ca, đại sư ca coi thử đây là cái gì?

Hắn lắc hồ rượu rồi mở nắp hồ rượu ra, khắp hang động đều thơm lừng mùi rượu.

Lệnh Hồ Xung liền đón hũ rượu, uống một hơi hết nửa hũ, rồi khen:

– Rượu ngon quá!

Lục Đại Hữu khoái chí, nói:

– Để tiểu đệ dọn cơm cho đại sư ca ăn.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Không, mấy ngày nay ta không muốn ăn.

Lục Đại Hữu nói:

– Chỉ ăn một bát thôi mà.

Hắn nói xong, bới một bát cơm đầy đưa cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thấy hắn lo cho mình như vậy, đành nói:

– Được rồi, để ta uống hết rượu rồi hãy ăn cơm.

Nhưng Lệnh Hồ Xung lại không ăn bát cơm này. Ngày hôm sau lúc Lục Đại Hữu đem cơm đến, thấy bát cơm vẫn nguyên vẹn trên tảng đá, Lệnh Hồ Xung lại nằm dưới đất ngủ. Lục Đại Hữu thấy hai má Lệnh Hồ Xung đỏ bừng, bèn đưa tay lên trán hắn, thấy trán nóng hổi, rõ ràng là hắn đang sốt cao. Gã không khỏi lo sợ, hỏi khẽ:

– Đại sư ca, đại sư ca bị bệnh phải không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Rượu, rượu, đưa rượu cho ta!

Tuy Lục Đại Hữu có mang rượu đến nhưng gã không dám đưa cho đại sư ca; gã chỉ rót một bát nước lạnh đưa tới bên miệng. Lệnh Hồ Xung ngồi dậy, bưng bát nước uống cạn rồi nói:

– Rượu ngon, rượu ngon quá!

Chàng ngã người ngẩng mặt lên trời miệng vẫn lẩm bẩm:

– Rượu ngon, rượu ngon quá!

Lục Đại Hữu biết bệnh tình của Lệnh Hồ Xung khá nặng, rất lo âu. Gã ch ợt nhớ sư phụ và sư nương sáng sớm hôm sau có việc phải xuống núi, liền chạy xuống núi đi báo cho Lao Đức Nặc và các sư huynh sư đệ biết. Tuy Nhạc Bất Quần có nghiêm huấn ngoài mỗi ngày một lần đem cơm ra không ai được phép lên núi gặp Lệnh Hồ Xung, nên khi biết Lệnh Hồ Xung bị bệnh, bọn họ muốn lên thăm hắn lại sợ phạm môn quy. Vì vậy cả bọn vẫn không dám cùng nhau lên núi mà bàn bạc chia nhau mỗi ngày lên núi thăm bệnh. Trước tiên là Lao Đức Nặc và Lương Phát.

Lục Đại Hữu lại đi báo cho Nhạc Linh San biết Lệnh Hồ Xung bệnh nặng. Cô ta vẫn chưa nguôi giận, lạnh lùng nói:

– Nội công của đại sư ca thâm hậu, sao lại bị bệnh được? Tiểu muội không lên đó nữa đâu.

Bệnh tình của Lệnh Hồ Xung rất trầm trọng, liên tiếp bốn ngày bốn đêm hắn hôn mê bất tỉnh. Lục Đại Hữu nài nỉ cầu xin Nhạc Linh San lên núi thăm Lệnh Hồ Xung, suýt chút nữa thì hắn đã quỳ trước mặt cô ta, Nhạc Linh San mới tin Lệnh Hồ Xung bệnh thật, cũng sốt ruột vội cùng với Lục Đại Hữu lên núi. Chỉ thấy hai má của Lệnh Hồ Xung hóp lại, râu mọc xồm xoàm đầy cả mặt, điệu bộ ung dung lúc bình thường dường như không còn nữa. Nhạc Linh San vô cùng áy náy, cô đến bên Lệnh Hồ Xung nhỏ nhẹ nói:

– Đại sư ca, tiểu muội đến thăm đại sư ca đây, đại sư ca đừng giận tiểu muội nữa được không?

Vẻ mặt Lệnh Hồ Xung ngẩn ngơ, mở to mắt nhìn cô ta không chớp, ánh mắt lộ vẻ mơ màng tựa hồ như không hề quen biết cô. Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca, tiểu muội đây mà, sao đại sư ca không nhìn ra tiểu muội?

Ánh mắt Lệnh Hồ Xung vẫn đờ đẫn, một lúc sau hắn mới nhắm mắt lại ngủ vùi, cho đến lúc Lục Đại Hữu và Nhạc Linh San xuống núi hắn vẫn chưa tỉnh lại.

Lệnh Hồ Xung bệnh hơn một tháng mới thuyên giảm dần. Trong hơn một tháng này, Nhạc Linh San đến thăm ba lần. Lần thứ hai thần trí Lệnh Hồ Xung đã bình phục, thấy cô chàng rất vui mừng. Lần thứ ba lúc cô ta đến thăm, Lệnh Hồ Xung đã ngồi dậy được, ăn chút thức ăn mà cô đem đến.

Nhưng từ lần đó trở đi, cô ta không hề lên núi nữa. Sau khi Lệnh Hồ Xung tự mình có thể đứng dậy, ngày nào chàng cũng đứng hơn cả buổi bên sườn núi trông ngóng hình bóng của tiểu sư muội, nhưng mỗi lần chỉ thấy nếu không phải là vực thẳm tịch mịch thì là hình dáng Lục Đại Hữu đang leo lên núi.