Hồi 76: Lúc nguy hiểm liên thủ chiến đấu

Lệnh Hồ Xung liền cung tay nói:

– Vãn bối xin cáo từ.

Hướng Vấn Thiên chưa kịp trả lời, đã thấy kiếm quang lấp loáng, ba thanh trường kiếm chỉ vào lương đình. Đó là ba tên đệ tử thuộc bọn Hầu Nhân Hùng tấn công đến. Cả ba tên đều chỉ kiếm nhắm vào Lệnh Hồ Xung, một kiếm chỉ vào lưng, hai kiếm chỉ vào hông, khoảng cách không đầy một thước. Hầu Nhân Hùng quát:

– Lệnh Hồ Xung, quỳ xuống đi!

Tiếng quát vừa dứt thì gã đã phóng lên trước, đụng vào người Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Ta đường đường là nam tử hán, tuy hôm nay không mong sống sót nhưng cũng không cam tâm chết dưới kiếm của mấy tên đê tiện phái Thanh Thành nhà ngươi.

Lúc này Lệnh Hồ Xung đã biết đang bị ba mũi kiếm bao vây, chỉ cần xoay người thì một kiếm sẽ đâm vào ngực còn hai kiếm kia sẽ đâm vào bụng dưới. Chàng liền cười ha hả nói:

– Quỳ thì quỳ.

Đầu gối phải hơi quỵ xuống, tay phải đã rút trường kiếm trên bàn, vung một cái, Lệnh Hồ Xung đã chặt đứt cổ tay của ba tên đệ tử phái Thanh Thành. Ba thanh trường kiếm rơi xuống đất. Cả ba tên mặt không còn giọt máu, chúng khó tin rằng trên đời này lại có chuyện như vậy. Chúng hết hồn, đứng ngây một lúc rồi mới nhảy về sau. Một tên trong bọn đệ tử Thanh Thành chỉ khoảng mười tám mười chín tuổi đau quá khóc rống lên. Lệnh Hồ Xung áy náy nói:

– Huynh đệ, tại huynh đệ muốn giết ta trước.

Hướng Vấn Thiên trầm trồ:

– Hảo kiếm pháp!

Rồi lão nói tiếp:

– Thế kiếm không mạnh, nội lực quá yếu.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Nội lực không chỉ quá yếu mà chẳng có chút nào.

Bỗng nhiên Hướng Vấn Thiên quát một tiếng, tiếp theo tiếng dây xích kêu leng keng. Hai tên hán tử mặc áo đen đã xông vào lương đình, tấn công nhanh về Hướng Vấn Thiên. Hai người này một tay lăm lăm cây song hoài trượng làm bằng thép nguyên chất còn tay kia cầm cây song thiết bài, đều là nhữ ng thứ binh khí rất nặng. Bốn thứ binh khí va chạm vào dây xích nơi tay Hướng Vấn Thiên phát ra những tia lửa tung tóe. Hướng Vấn Thiên lạng người mấy cái, muốn vòng ra phía sau để đoạt hoài trượng nhưng người cầm song trượng nghiêm mật phòng thủ, bảo vệ nhữngnđiểm yếu hại trên người. Hai tay của Hướng Vấn Thiên bị dây xích trói chặt nên lão xoay chuyển không linh hoạt lắm.

Bọn Ma giáo liên tục la hét, lại có thêm hai người xông vào lương đình. Hai người này đều sử bát giác đồng chùy vung lên vung xuống rất mãnh liệt. Hai người cầm bốn cây chùy vừa xông đến, thì người sử song hoài trượng liền chuyển từ thế thủ sang thế tấn công. Hướng Vấn Thiên lạng qua lạng lại, thân pháp cực kỳ linh động nhưng cũng không cách nào đả thương được đối thủ. Mỗi khi có cơ hội, lão dùng dây xích tấn công một người, thì ba người kia liều mạng xông vào, thế đánh rất hung hãn.

Hai bên tỉ đấu mười mấy chiêu, tên thủ lãnh bọn Ma giáo quát:

– Bát thương xông vào!

Tám tên hán tử áo đen tay cầm trường thương phân ra bốn phía xông vào lương đình, bốn hướng đều có hai cây trường thương xông vào nhắm Hướng Vấn Thiên mà đâm.

Hướng Vấn Thiên nhìn Lệnh Hồ Xung quát:

– Tiểu bằng hữu, mau tránh ra đi!

Tiếng quát chưa dứt, tám cây trường thương cùng một lúc đâm vào lão. Ngay lúc này bốn cây đồng chùy toan đánh vào ngực, cây song hoài trượng sắp đánh vào chân, hai cây thiết bài nhắm đánh vào mặt, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng có sát thủ. Mười hai tên cao thủ Ma giáo mỗi tên đều hạ thủ không chút lưu tình. Xem ra ai ai cũng đều biết giao thủ với Hướng Vấn Thiên là chuyện nguy hiểm nhất trên đời, nếu kéo dài cuộc đấu thì càng bước gần đến Quỷ môn quan.

Lệnh Hồ Xung thấy bọn người này đánh kiểu man rợ, tình thế Hướng Vấn Thiên khó thoát khỏi nguy hiểm liền quát:

– Quân đê tiện!

Hướng Vấn Thiên đột nhiên xoay người một cách thần tốc, vung dây xích đụng vào các binh khí kêu leng keng loảng xoảng. Người lão giống như con vụ xoay tít đến nỗi ai cũng hoa cả mắt. Chỉ nghe loang choang hai tiếng, hai cây thiết bài đụng phải dây xích của lão bị hất văng lên xuyên qua nóc lương đình bay ra ngoài. Hướng Vấn Thiên không thèm để ý các chiêu tấn công của đối phương, lão xoay người càng nhanh khiến cho tám người cầm trường thương phải lùi ra xa. Tên thủ lĩnh của Ma giáo quát:

– Tấn công từ từ để tiêu hao khí lực của lão.

Tám tên sử thương cùng dạ, mỗi tên lùi lại hai bước, chỉ đợi lúc lực của Hướng Vấn Thiên suy giảm, thế dây xích sơ hở thì lập tức tấn công.

Một số người bàng quan từng trải đều nhận ra điều đó. Võ công Hướng Vấn Thiên dù có cao thâm đến đâu cũng quyết khó xoay người liên tục nhanh như vậy. Cách đánh này cuối cùng sẽ hao tổn hết khí lực, phải bó tay chịu trói.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả. Bỗng nhiên chân trái hơi lún xuống, lão vung dây xích ra, đánh vào lưng một tên sử đồng chùy. Tên đó thét lên một tiếng, cây đồng chùy tay trái đánh ngược lại trúng đầu gã khiến gã vỡ đầu. Tám tên sử thương cùng xông ra, phân ra trái phải trước sau. Hướng Vấn Thiên vung dây xích hất hai cây trường thương, trường thương của sáu người còn lại không hẹn mà cùng đâm vào hông trái của lão. Trong tình cảnh đó, Hướng Vấn Thiên có tránh được cây thương thứ nhất thì không tránh được cây thương thứ hai, có tránh được cây thương thứ hai thì không tránh được cây thương thứ ba, huống hồ cả sáu cây thương cùng đồng thời đâm tới.

Lệnh Hồ Xung giật mình khi thấy sáu cây thương cùng đâm tới mà Hướng Vấn Thiên không cách nào né được. Đầu chàng lóe lên một ý nghĩ, chàng nhớ ra chiêu thứ tư Phá thương thức trong Độc Cô cửu kiếm. Gặp lúc nguy hiểm trong đường tơ kẽ tóc, đâu có thể nghĩ ngợi gì thêm nữa? Thanh trường kiếm lóe lên, chỉ nghe mấy tiếng choang choang, tám cây trường thương cùng rơi xuống, tám tên sử thương ngã lăn ra đất, chỉ nghe một tiếng loảng xoảng cơ hồ như mấy cây thương cùng rớt xuống một lúc. Một kiếm của Lệnh Hồ Xung phân ra đâm vào tám cổ tay của tám người dĩ nhiên có trước có sau, nhưng vì thế kiếm quá mau lẹ nên tám tên này dường như đồng thời bị trúng kiếm.

Lệnh Hồ Xung đã xuất kiếm ra, thế kiếm khó dừng lại, chàng lại sử tiếp chiêu thứ năm Phá tiên thức. Chiêu Phá tiên thức này chỉ là một tên gọi chung, bên trong biến hóa vô cùng, bất kể cương tiên, thiết giản, điểm huyệt quyết, phán quan bút, trượng tử, Nga Mi thích, trủy thủ, bản phủ, thiết bài, bát giác chùy, thiết thôi và các đoản khí đều có thể phá giải được. Kiếm quang lấp loáng, hai cây hoài trượng và hai cây đồng chùy đã bị đánh rớt. Trong mười hai tên Ma giáo tấn công vào lương đình ngoài một tên bị Hướng Vấn Thiên giết, một người bị đánh rơi thiết bài ra còn mười tên đều bị trúng kiếm nơi cổ tay, binh khí bị rơi xuống. Mười một người la hoảng, vội chạy lùi ra ngoài.

Quần hào chính phái không kìm được đều lớn tiếng reo hò:

– Hảo kiếm pháp!

– Kiếm pháp phái Hoa Sơn khiến cho người ta mở rộng tầm mắt.

Tên thủ lĩnh Ma giáo phát một câu hiệu lệnh, lập tức có năm người tấn công vào lương đình. Một phụ nữ trung niên tay cầm song đao nhắm Lệnh Hồ Xung mà chém; bốn tên đại hán thì vây đánh Hướng Vấn Thiên. Đao pháp của người phụ nữ cực nhanh, một đao hộ thân một đao tấn công, lúc đao tay trái tấn công thì đao tay phải phòng thủ, lúc đao tay phải tấn công thì đao tay trái phòng thủ. Song đao sử liên tục, mỗi chiêu đều vừa tấn công vừa phòng thủ; thủ thì rất nghiêm mật, công thì rất mãnh liệt. Lệnh Hồ Xung nhìn không rõ đường đao, liên tiếp lùi lại bốn bước.

Chỉ nghe tiếng gió vù vù, tựa như có người dùng binh khí mềm đấu với Hướng Vấn Thiên. Lệnh Hồ Xung gặp lúc cấp bách cũng liếc qua một cái, thấy người sử liễn tử chùy và hai người sử nhuyễn tiên đấu kịch liệt với sợi dây xích trên tay Hướng Vấn Thiên. Sợi dây thép ở trên cây liễn tử chùy rất dài, vung lên một cái quất ngang hơn một trượng. Đã mấy lần sợi dây vượt qua đầu Lệnh Hồ Xung. Hướng Vấn Thiên chửi:

– Tổ mẹ đồ chó má!

Một tên hán tử quát:

– Hướng tả sứ, đắc tội!

Thì ra một sợi dây thép trên liễn tử chùy đã quấn chặt sợi dây xích trên tay Hướng Vấn Thiên.

Trong khoảnh khắc, ba tên kia với ba thứ binh khí đồng thời nhắm đánh vào Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên hú một tiếng, vận kình lực kéo mạnh, lão đã kéo được người sử liễn tử chùy về phía mình để đỡ cho mình. Hai cây nhuyễn tiên và cương chùy đều đánh vào lưng người đó.

Lệnh Hồ Xung phóng kiếm chênh chếch đâm ra, thế kiếm phiêu bồng đâm trúng vào cổ tay trái của người phụ nữ. Nghe choang một tiếng, trường kiếm oằn lại, cây liễu diệp đao trong tay người phụ nữ không bị rớt xuống, mụ vung lưỡi đao quét ngang một cái. Lệnh Hồ Xung giật mình hiểu ra: Trên cổ tay mụ có đeo thiết bố sam bảo vệ nên kiếm đâm không vào được.

Cổ tay Lệnh Hồ Xung hơi nhích lên, chàng phóng trường kiếm bật cao lên, chát một tiếng, kiếm đâm trúng vào huyệt Kiên trinh trên vai trái của mụ. Người phụ nữ sửng sốt, nhưng mụ ta rất hung hãn, tuy vai trái đau buốt nhưng đao tay phải vẫn cố sức chém tới. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung lóe lên, huyệt Kiên trinh trên vai phải của mụ ta lại bị trúng kiếm. Mụ cầm binh khí không vững nữa, liền sử kình lực ném song đao về phía Lệnh Hồ Xung nhưng hai cánh tay mụ không phát huy được lực đạo nên hai thanh đao chỉ văng ra hơn một thước liền rớt xuống đất.

Lệnh Hồ Xung vừa chế phục được người phụ nữ thì một đạo nhân mặt xanh lè trong đám quần hào chính phái bên mé phải vung kiếm xông đến quát:

– Phái Hoa Sơn e không có thứ kiếm pháp yêu tà này.

Lệnh Hồ Xung thấy trang phục của lão thì biết lão là trưởng bối của phái Thái Sơn, vừa rồi một đồng môn của lão bị Hướng Vấn Thiên đả thương nên lão xông lên để trả thù. Tuy Lệnh Hồ Xung bị sư phụ trục xuất nhưng từ nhỏ đã làm môn hạ phái Hoa Sơn, Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi, nên thấy vị tiền bối phái Thái Sơn này thì tự nhiên có ý cung kính. Chàng liền xoay trường kiếm lại, chĩa mũi kiếm xuống đất rồi cung tay nói:

– Đệ tử không dám đắc tội với sư bá phái Thái Sơn.

Đạo nhân này có đạo hiệu là Thiên Ất, cùng hàng với Thiên Môn đạo nhân và Thiên Tùng đạo nhân. Lão lạnh lùng hỏi:

– Người sử thứ kiếm pháp gì vậy?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Kiếm pháp mà đệ tử sử là do một vị trưởng bối phái Hoa Sơn truyền cho.

Thiên Ất đạo nhân hừ một tiếng nói:

– Nói bậy, không biết ngươi đã đi bái tên yêu ma nào làm sư phụ. Xem kiếm đây!

Lão vung kiếm lên nhắm vào ngực Lệnh Hồ Xung đâm tới, kiếm quang lấp loáng, trường kiếm phát ra tiếng vù vù, chỉ một chiêu kiếm này mà bảy đại huyệt Thiện trung, Thần tàng, Linh khư, Thần phong, Bộ lang, U môn, Thông cốc ở trước ngực Lệnh Hồ Xung đều bị khống chế. Bất luận Lệnh Hồ Xung né về hướng nào cũng có một huyệt đạo sẽ bị mũi kiếm của lão đâm trúng. Chiêu kiếm này gọi là Thất tinh lạc trường không, là một chiêu tinh yếu của Thái Sơn kiếm pháp. Chiêu này phát ra thì đối phương phải có khinh công cao cường tung người lên hơn một trượng mới có thể né tránh được. Nhưng cũng phải biết được chiêu Thất tinh lạc trường không để lúc chiêu kiếm vừa phát ra phải bay vọt lên ngay, không được do dự mới có thể tránh bị mũi kiếm đâm xuyên qua ngực, và sau khi rớt xuống đất lại phải ứng phó với ba chiêu kiếm cực kỳ lợi hại tiếp theo. Ba chiêu này hiểm độc như nhau được phát ra theo thế liên hoàn thật khó chống đỡ.

Thiên Ất đạo nhân thấy kiếm pháp lợi hại của Lệnh Hồ Xung nên lão ra chiêu kiếm đầu tiên là chiêu này. Từ khi tiền bối phái Thái Sơn sáng chế ra chiêu kiếm này lão chưa từng với ai động thủ, đây là lần đầu tiên.

Lệnh Hồ Xung giật mình, bỗng nhớ mình đã thấy qua chiêu này khắc trên vách đá sau hậu động trên ngọn núi sám hối, ngày trước đã học qua để đối phó với Điền Bá Quang. Có điều chàng chưa học đến nơi nên chưa thể thủ thắng, nhưng thế đánh của chiêu kiếm pháp này chàng đã thuộc lòng. Lúc này kiếm khí mịt mùng sắp chụp vào người, không nghĩ ngợi gì nữa, chàng liền vung kiếm đâm thẳng vào bụng dưới của Thiên Ất đạo nhân. Chiêu kiếm này đúng là chiêu học từ đồ hình trên vách đá mà Lệnh Hồ Xung dùng để phá giải, mới nhìn tưởng như chàng liều mạng với lão theo kiểu đồng quy ư tận. Kỳ thực chiêu Thất tinh lạc trường không này của phái Thái Sơn phân làm hai phần, phần thứ nhất dùng kiếm khí để phong tỏa bảy đại huyệt ở trước ngực địch nhân, khiến địch nhân kinh hoàng luống cuống, phần thứ hai là chọn một huyệt đạo mà đâm vào. Kiếm khí tuy bao trùm cả bảy huyệt, nhưng chỉ một kiếm là đâm địch chết ngay. Chiêu kiếm này bất luận đâm trúng một huyệt nào đều có thể khắc địch thủ thắng, nên không cần đâm trúng bảy huyệt một lúc, mà cũng không thể đâm trúng cùng lúc bảy huyệt. Chiêu này có hai phần, đó chính là chỗ lợi hại, nhưng năm xưa Ma giáo trưởng lão đã nghiên cứu tỉ mỉ tìm ra nhược điểm về chỗ lợi hại này. Đợi sau khi đối phương sử ra phần thứ nhất của kiếm pháp liền tấn công vào bụng dưới của đối phương, chiêu Thất tinh lạc trường không này bị đứt đoạn, không hoàn thành hết chiêu thức được.

Thiên Ất đạo nhân thấy thế kiếm ảo diệu của Lệnh Hồ Xung, tuyệt không cách nào đỡ gạt được. Lão kinh hãi thất sắc, la toáng lên, nghĩ rằng bụng của mình chắc bị kiếm đâm vào. Trong lúc kinh hoàng tưởng không biết đau đớn, lão hoảng loạn cho rằng mình đã chết rồi liền ngã xuống đất. Kỳ thực mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung vừa đến bụng dưới của lão liền dừng lại không phát ra nữa, không ngờ Thiên Ất đạo nhân kinh hãi quá mức, chỉ bị dọa cũng ngất đi.

Môn hạ phái Thái Sơn thấy Thiên Ất ngã xuống đất đều cho là lão bị Lệnh Hồ Xung đả thương liền đua nhau mắng chửi, năm tên thanh niên đạo nhân liền phóng kiếm tấn công. Năm người này đều là môn hạ của Thiên Ất, vì nóng lòng báo thù cho sư phụ nên năm thanh trường kiếm vội phóng ra xoay tít như gió táp mưa sa. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung liên tục điểm, cổ tay của năm tên đạo sĩ đều bị trúng kiếm, trường kiếm của chúng rớt loảng xoảng xuống đất. Năm tên này kinh hãi nhảy lùi ra. Thấy Thiên Ất đạo nhân đứng dậy run cầm cập la lên:

– Hắn đâm chết ta rồi, hắn đâm chết ta rồi!

Năm tên đệ tử thấy người lão không bị thương mà miệng vẫn không ngớt la om sòm, chúng đều kinh ngạc, không biết lão sống hay chết nữa. Thiên Ất đạo nhân la rùm mấy tiếng, thân người loạng choạng lại té ngã xuống. Hai tên đệ tử chạy đến đỡ lão dậy vội vã thối lui.

Quần hào thấy Lệnh Hồ Xung mới sử nửa chiêu đã khiến cho Thiên Ất đạo nhân cao thủ phái Thái Sơn không biết mình sống hay chết nên ai cũng kinh sợ.

Lúc này bọn vây đánh Hướng Vấn Thiên lại thay đổi mấy người. Hai tên hán tử sử kiếm là người trong phái Hành Sơn, song kiếm vung lên chém xuống rất thần tốc nhằm tìm chỗ sơ hở trong sợi dây xích trên tay Hướng Vấn Thiên. Còn một tên khác tay trái cầm lá mộc, tay phải sử đao, là một nhân vật trong Ma giáo. Tên này dùng mộc để hộ thân, đồng thời triển khai Địa đường đao pháp, lăn xả vào gần chân Hướng Vấn Thiên, dùng đao chém hạ bàn của lão. Hướng Vấn Thiên liên tiếp vung dây xích đánh hai cái mạnh lên cái lá mộc nhưng đều không đả thương được gã. Cây cương đao ở dưới cái mộc bỗng đưa ra bỗng thụt vào, chiêu số rất tàn độc.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Người này dùng lá thuẫn hộ thân, phòng thủ nghiêm mật, nhưng gã vừa xuất đao tấn công thì trên người lại sơ hở, có thể lập tức chặt đứt cánh tay gã.

Bỗng nghe đằng sau có người quát:

– Tiểu tử, ngươi còn muốn sống nữa không?

Tuy tiếng quát không lớn nhưng cự ly rất gần dường như không đầy một hai thước. Lệnh Hồ Xung giật mình quay lại thì mặt đối mặt với người quát, cơ hồ mũi cả hai sắp đụng nhau. Chàng vội né qua nhưng song chưởng của người đó đã nắm lấy ngực chàng lạnh lùng nói:

– Ta mà nhả nội lực ra thì bao nhiêu xương sườn của ngươi gãy hết.

Lệnh Hồ Xung biết lão nói thật, nên đứng không dám nhúc nhích, trái tim dường như ngừng đập. Hai mắt lão nhìn chằm chằm, nhưng vì khoảng cách quá gần nên chàng không cách nào nhìn rõ dung mạo của lão, nhưng thấy thần quang hai mắt của lão lấp loáng rất uy mãnh thì nghĩ: Thì ra mình chết vì tay người này.

Lệnh Hồ Xung nghĩ việc sống chết là đại sự chung quy chỉ xảy ra một lần nên cảm thấy thư thái.

Lúc đầu, người này thấy ánh mắt của Lệnh Hồ Xung có vẻ kinh hoàng nhưng chỉ trong khoảnh khắc trở lại vẻ thản nhiên. Đến lúc sắp chết mà không sợ thì dù là cao nhân tiền bối trong võ lâm cũng khó có thể bình thản như vậy. Bất giác lão sinh lòng khâm phục, cười ha hả nói:

– Ta đánh lén ngươi mà đắc thủ, kìm chế được yếu huyệt của ngươi. Tuy ta giết ngươi nhưng ngươi có chết cũng không phục.

Gã liền buông tay ra, thụt lùi ba bước.

Lúc đó, Lệnh Hồ Xung mới nhìn rõ. Người này mập lùn, da mặt vàng khè, khoảng năm chục tuổi, hai bàn tay vừa nhỏ vừa dày, một chưởng đưa lên cao, một chưởng để xuống thấp, rõ ràng là chiêu thức Tung dương thủ. Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Vị này là tiền bối phái Tung Sơn, xin hỏi tôn tính đại danh là gì? Đa tạ tiền bối chưởng hạ lưu tình.

Người này nói:

– Ta là Hiếu cảm Lạc Hậu.

Lão ngừng một lúc rồi nói tiếp:

– Kiếm pháp của ngươi quả thật rất cao thâm, có điều chưa đủ kinh nghiệm lúc lâm địch.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Thật hổ thẹn. Thân pháp của Đại âm dương thủ Lạc sư bá thật mau lẹ phi thường.

Lạc Hậu nói:

– Hai tiếng sư bá ta không dám nhận.

Lão liền giơ chưởng trái lên, chưởng phải phóng ra một chiêu. Thân người lão xấu xí, nhưng vừa phóng chưởng ra thì oai phong lẫm liệt, khí phách hiên ngang, đẹp không sao tả nổi.

Lệnh Hồ Xung thấy toàn thân lão không có chỗ nào sơ hở liền cất tiếng khen:

– Hảo chưởng pháp!

Chàng phóng trường kiếm chênh chếch đâm ra. Vì thấy trong chiêu thức chưởng pháp của Lạc Hậu không chỗ sơ hở, nên chiêu kiếm này vừa thủ vừa công, chín phần hư chỉ một phần thực. Lạc Hậu thấy trường kiếm của Lệnh Hồ Xung phóng chênh chếch ra, song chưởng của mình bất luận là đánh vào bộ vị nào của hắn thì lòng bàn tay cũng tự đâm vào mũi kiếm. Song chưởng chỉ đánh ra hơn một thước, lão liền thu chưởng về, nhảy lùi lại hoan hô:

– Hảo kiếm pháp!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối vô lễ.

Lạc Hậu quát:

– Cẩn thận!

Song chưởng lão đưa lên cao đẩy ra, một luồng chưởng phong mãnh liệt xông đến. Lệnh Hồ Xung la thầm: Không xong rồi!

Lúc này khoảng cách giữa Lạc Hậu và Lệnh Hồ Xung rất xa, song chưởng kình lực đánh tới, Lệnh Hồ Xung không cách nào dùng trường kiếm đỡ gạt được. Chàng vừa toan né tránh bỗng cảm thấy một luồng khí lạnh chụp lên người, liền run lên cầm cập. Chưởng lực song chưởng của Lạc Hậu không xuất ra đồng thời, một âm một dương, trước khi dương chưởng xuất ra thì âm chưởng đã đánh vào cơ thể. Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, một luồng chưởng phong nóng đánh đến, khiến chàng muốn nghẹt thở, người loạng choạng.

Chưởng lực âm dương của song chưởng đã xông vào người thì không thể thoát được. Nội lực của Lệnh Hồ Xung tuy đã mất hết nhưng chân khí lại đầy rẫy. Chàng đã có sáu luồng chân khí của Đào Cốc lục tiên, lại có thêm chân khí của Bất Giới hòa thượng; khi ở trong Thiếu Lâm tự dưỡng thương lại có thêm chân khí của Phương Sinh đại sư. Mỗi luồng chân khí đều rất hùng hậu. Hai luồng chưởng lực một âm một dương này đánh vào người Lệnh Hồ Xung khiến chân khí trong nội thể của chàng tự nhiên phát sinh lực tương ứng để bảo vệ tim mạch nội tạng nên không bị tổn thương. Nhưng lúc này toàn thân Lệnh Hồ Xung bị chấn động khó chịu vô cùng. Chàng sợ Lạc Hậu dùng chưởng lực đánh tiếp, liền cầm kiếm xông ra ngoài lương đình rồi vung kiếm phóng nhanh ra.

Song chưởng của Lạc Hậu đắc thủ, cho rằng đối phương không táng mệnh ngay tại chỗ cũng bị trọng thương ngã lăn xuống đất. Nào ngờ Lệnh Hồ Xung lại bình an vô sự. Lão lại thấy kiếm quang của hắn lấp loáng chỉ vào lòng bàn tay mình thì kinh dị vô cùng. Song chưởng giao nhau, một chưởng đánh vào mặt của Lệnh Hồ Xung còn một chưởng đánh vào bụng dưới của hắn. Chưởng lực vừa nhả ra, đột nhiên lão thấy đau thấu tận tâm can, chỉ thấy hai bàn tay của mình dính lại, đã bị trường kiếm của Lệnh Hồ Xung xuyên qua. Lão không biết hắn dùng trường kiếm liên tiếp đâm vào song chưởng của mình hay là song chưởng của mình tự đánh lên mũi kiếm của hắn. Nhưng lão chỉ thấy chưởng trái ở trên chưởng phải ở dưới, mũi kiếm từ lưng bàn tay của chưởng trái xuyên qua năm tấc.

Nếu Lệnh Hồ Xung thuận thế phóng trường kiếm tới thì lập tức đâm vào ngực của lão nhưng chàng nghĩ lại vừa rồi lão đã nương tình, nên sau khi kiếm xuyên qua song chưởng, chàng liền dừng kiếm lại.

Lạc Hậu thét lên, rụt song chưởng về, rút tay ra khỏi lưỡi kiếm rồi vọt người lùi ra.

Lệnh Hồ Xung áy náy gọi:

– Tại hạ đắc tội.

Lệnh Hồ Xung đã sử tuyệt chiêu Phá chưởng thức trong Độc Cô cửu kiếm. Từ khi Phong Thanh Dương quy ẩn, chưa bao giờ thấy chiêu này xuất hiện trên giang hồ.

Bỗng nghe tiếng loảng xoảng, ầm ầm vang lên. Lệnh Hồ Xung quay đầu lại thấy bảy tám tên hán tử vây đánh Hướng Vấn Thiên, trong đó có hai người sử chưởng lực rất lợi hại, đã đánh gãy cả cột của quán lương đình, ngói trên nóc rơi xuống. Mọi người chiến đấu hăng say, bị ngói rớt trên đỉnh đầu cũng mặc.

Lệnh Hồ Xung đưa mắt nhìn thấy Lạc Hậu xông gần đến mình, từ xa đã phát ra chưởng lực đánh vào ngực hắn. Thân người Lệnh Hồ Xung bay đi, trường kiếm bị rớt khỏi tay. Lưng của Lệnh Hồ Xung chưa chạm đất đã có bảy tám người đuổi đến cùng vung binh khí nhắm đánh lên người. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta chết dễ dàng vậy sao?

Bỗng nhiên cảm thấy lưng của mình bị siết chặt. Một sợi dây xích bay đến quấn chặt người Lệnh Hồ Xung lại, rồi tung lên tưởng chừng như đang đằng vân giá vũ. Chàng đã được người ôm lên mà chạy.

Hồi 77: Hướng Vân Thiên trí dũng hơn người

Người cứu tính mạng của Lệnh Hồ Xung chính là Ma giáo cao thủ Hướng Vấn Thiên. Lão bị bọn Ma giáo và chính giáo cùng vây đánh, truy kích, lúc thế cùng lực kiệt bỗng có một thiếu niên không sợ trời đất thấy chuyện bất bình ra tay tương trợ khiến lão cảm kích vô cùng, xem như tri kỷ. Lão vừa thấy Lệnh Hồ Xung thất thủ thì biết thiếu niên này tuy kiếm pháp rất cao thâm nhưng nội lực lại kém cỏi, bị cường địch vây đánh như vậy thì rất nguy hiểm. Cho nên một mặt lão đối phó với địch nhân, một mặt lại để ý đến tình huống chiến đấu của Lệnh Hồ Xung. Khi thấy Lệnh Hồ Xung bị đánh văng ra, lão liền vung dây xích quấn lấy hắn phóng đi như cuồng phong. Hướng Vấn Thiên triển khai khinh công nhanh như ngựa phi, trong khoảnh khắc lão đã chạy được mấy chục trượng.

Ở đằng sau mấy chục người chạy như bay đến, chỉ nghe mấy chục cái miệng la lối ỏm tỏi:

– Hướng Vấn Thiên trốn rồi! Hướng Vấn Thiên trốn rồi!

Hướng Vấn Thiên tức giận, bỗng quay người lại, xông về trước mấy bước. Những người đuổi theo giật mình kinh hãi vội dừng lại. Có một người công phu hạ bàn còn non nớt, chạy nhanh quá không dừng lại được, cứ lao thẳng về trước. Hướng Vấn Thiên vung chân trái lên đá trúng gã hất ngược về giữa đám đông rồi quay người chạy tiếp. Mọi người lại truy đuổi theo sau, nhưng ai cũng không dám đuổi hết sức và khoảng cách càng lúc càng xa dần.

Hướng Vấn Thiên vừa chạy vừa nghĩ: Thiếu niên này với ta chưa từng quen biết, lại chịu hy sinh vì ta. Bằng hữu như vậy trong thiên hạ tìm đâu cho thấy? Nhưng những âm hồn của bọn nhãi con cứ bám theo mãi, làm sao thoát khỏi bọn chúng đây?

Lão chạy một lúc, chợt nhớ ra một nơi liền mừng thầm trong bụng. Lão lẩm bẩm: Nơi đó hay lắm.

Lão lại chuyển đổi ý nghĩ: Nhưng cách đây rất xa, không biết có đủ sức để chạy đến đó không? Không sao, nếu ta không còn sức thì bọn nhãi con kia cũng kiệt lực.

Lão ngẩng đầu lên nhìn mặt trời, định phương hướng, rồi chạy vượt qua đồng lúa mạch, nhắm hướng Đông Bắc mà tiến. Sau khi chạy hơn mười dặm, gặp một con đường lớn, có ba con ngựa chạy lướt qua. Hướng Vấn Thiên chửi:

– Bà mẹ nó!

Lão đề khí lao nhanh tới, đuổi kịp sau lưng con ngựa, vọt người lên không phóng cước đá người cưỡi ngựa rớt xuống đất rồi ngồi xuống lưng ngựa thế chỗ. Lão đặt Lệnh Hồ Xung nằm ngang ngựa rồi vung dây xích đánh rớt hai người cưỡi ngựa khác xuống đất. Hai người này bị té xuống gãy xương, chắc khó sống được. Cả ba người đều là thường dân, xem cách ăn mặc của họ thì không phải là người trong võ lâm, nhưng họ không may gặp phải sát tinh nên bị uổng mạng. Hai người cưỡi ngựa rớt xuống đất, hai con ngựa vẫn tiếp tục chạy theo. Hướng Vấn Thiên vung dây xích lên quấn lấy dây cương, sợi dây xích trong tay lão chuyển động theo ý muốn giống như một cánh tay rất dài.

Lệnh Hồ Xung thấy lão lạm sát người vô tội, bất giác ngấm ngầm than thở.

Hướng Vấn Thiên cướp được ba con ngựa, tinh thần phấn chấn, lão ngửa mặt lên trời cười hô hố rồi nói:

– Tiểu huynh đệ, những thằng nhãi con đó đuổi không kịp chúng ta đâu.

Lệnh Hồ Xung cười nhạt nói:

– Hôm nay đuổi không kịp thì ngày mai chúng đuổi cũng kịp.

Hướng Vấn Thiên chửi:

– Tổ mẹ nó, đuổi con mẹ nó! Ta sẽ giết sạch từng tên một.

Hướng Vấn Thiên luân phiên cưỡi ba con ngựa, chạy trên đường lớn một lúc rồi quẹo qua một con đường núi. Đường đi dần dần dốc lên, sau cùng thì ngựa không đi được nữa. Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Tiểu huynh đệ có đói không?

Lệnh Hồ Xung gật đầu hỏi:

– Tiền bối có mang theo lương khô ư?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Không có lương khô thì uống máu ngựa vậy.

Lão nhảy xuống ngựa, đưa năm ngón tay phải bấu vào cổ con ngựa xuyên thủng một lỗ, máu ngựa tuôn ra như suối. Hướng Vấn Thiên kê miệng vào uống ừng ực mấy ngụm máu ngựa rồi nói:

– Tiểu huynh đệ uống đi.

Lệnh Hồ Xung thấy tình cảnh như vậy, lòng rất kinh hãi. Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Không uống máu ngựa làm sao có sức để nghênh địch?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Còn đánh nữa ư?

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Tiểu huynh đệ sợ à?

Lệnh Hồ Xung bỗng nổi hào khí, cười ha hả nói:

– Tiền bối nói tại hạ sợ phải không?

Chàng liền đưa miệng vào cổ ngựa, cảm thấy máu ngựa chảy vào cổ họng liền nuốt xuống.

Lúc đầu mùi tanh xông vào mũi nhưng uống vài ngụm thì không còn thấy khó ngửi nữa. Lệnh Hồ Xung uống một hơi mười mấy ngụm lớn đến lúc bụng no mới thôi. Hướng Vấn Thiên lại kề miệng vào uống tiếp nhưng không bao lâu thì con ngựa đứng không vững, hý lên một tiếng dài thống thiết rồi ngã lăn xuống đất. Hướng Vấn Thiên giơ chân trái đá con ngựa rớt xuống khe suối.

Lệnh Hồ Xung không khỏi ngạc nhiên. Con ngựa to như vậy, nặng ít nhất cũng khoảng năm sáu trăm cân mà lão tùy ý nhấc chân đá đi. Hướng Vấn Thiên lại đá con ngựa thứ hai xuống rồi lão quay người lại vung chưởng chém đứt chân sau của con ngựa thứ ba và chặt luôn đùi sau của con ngựa đó. Con ngựa hý lên vang trời, bị Hướng Vấn Thiên đá rớt xuống khe núi mà vẫn còn hý không dứt.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ cầm một đùi, có thể làm lương thực cho cả mười ngày.

Lệnh Hồ Xung mới hiểu ra. Thì ra lão chặt đùi ngựa là dùng để làm lương thực chứ không phải vì tính tàn nhẫn hiếu sát. Chàng liền nghe lời lấy một đùi ngựa. Thấy Hướng Vấn Thiên cầm cái đùi ngựa leo lên núi, chàng liền đi theo sau lão. Hướng Vấn Thiên đi rất chậm, lão bước khoan thai. Nội lực của Lệnh Hồ Xung không còn nên đi không được nửa dặm thì đã rớt lại tuốt đằng sau, thở hồng hộc, mặt xanh mét. Hướng Vấn Thiên đành phải dừng bước đợi. Lệnh Hồ Xung đi thêm khoảng được một dặm thì không nổi nữa liền ngồi xuống bên đường nghỉ chân. Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ thật là kỳ lạ. Nội lực đã kém như vậy nhưng lại bị trúng hai lần chưởng lực Đại âm dương thủ của cái quân trứng thúi Lạc Hậu mà không sao cả, khiến người ngoài thật không hiểu nổi.

Lệnh Hồ Xung cười gượng nói:

– Làm gì có chuyện không sao cả. Lục phủ ngũ tạng của vãn bối đã bị chấn động lộn nhào cả lên rồi, cũng không biết đã bị mười mấy loại nội thương. Chính vãn bối cũng thấy kỳ quái, sao đến lúc này mình vẫn còn sống. Chỉ e vãn bối sẽ ngã ra bất cứ lúc nào, có muốn bò cũng bò không nổi.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ, chúng ta hãy nghỉ thêm một chút nữa.

Lệnh Hồ Xung muốn nói rõ với lão mạng của mình chẳng còn bao lâu nữa, không cần phải đợi khiến cho địch nhân đuổi kịp. Nhưng chàng chuyển đổi ý nghĩ, cho rằng người này rất hào hiệp, quyết không chịu bỏ rơi mình mà trốn đi. Nếu nói như vậy không chừng lão sẽ coi thường mình.

Hướng Vấn Thiên ngồi trên tảng đá hỏi:

– Tiểu huynh đệ, nội lực của tiểu huynh đệ vì sao mất hết?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười:

– Chuyện này nói ra thật nực cười.

Lệnh Hồ Xung liền đem chuyện mình bị thương thế nào, Đào Cốc lục tiên vì mình mà truyền chân khí để trị thương ra sao, sau đó Bất Giới hòa thượng lại truyền thêm chân khí vào nội thể mình thế nào. Chàng lần lượt kể lại tất cả.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả, tiếng cười chấn động cả sơn cốc, lão nói:

– Chuyện kỳ lạ như vậy, lão Hướng ta hôm nay mới nghe lần đầu.

Lão đang cười, bỗng nghe có tiếng quát từ xa truyền lại:

– Hướng Vấn Thiên, ngươi chạy không thoát đâu, hãy ngoan ngoãn đầu hàng đi.

Hướng Vấn Thiên vẫn cười ha hả nói:

– Nực cười thật! Nực cười thật! Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng là những tên đại ngu ngốc nhất trong thiên hạ.

Lão lại cười ba tràng liên tiếp, nhếch cặp lông mày lên chửi:

– Tổ mẹ nó, bầy trứng thúi đuổi đến rồi.

Lão dang hai tay ôm Lệnh Hồ Xung vào lòng, cái đùi ngựa đành bỏ lại bên đường, đề khí chạy nhanh.

Lão vắt giò chạy cật lực, Lệnh Hồ Xung có cảm giác như mình đang đằng vân giá vũ. Không bao lâu, bỗng thấy trước mặt một vùng sương núi, lão đã chuồn vào trong làn sương mù dày đặc.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Tuyệt diệu! Trên ngọn núi này thì mấy trăm người kia không cách nào vào một lúc được, đành phải từng người một vào độc chiến. Ta và vị Hướng tiên sinh này có thể đối phó được.

Nhưng ở phía sau, tiếng hô hoán càng lúc càng gần, hiển nhiên bọn người đuổi theo cũng đều là những cao thủ khinh công cao cường. Tuy so với Hướng Vấn Thiên thì không bằng nhưng vì lão đang ôm thêm Lệnh Hồ Xung nên tốc độ không khỏi bị chậm lại.

Hướng Vấn Thiên chạy đến một khúc quanh, đặt Lệnh Hồ Xung xuống, nói khẽ:

– Đừng lên tiếng.

Hai người đứng nép mình vào vách đá. Trong khoảnh khắc, tiếng bước chân mỗi lúc một gần, có người đuổi đến.

Hai người đuổi theo chạy quá nhanh, trong sương mù không thấy Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung. Họ chạy vượt qua khỏi hai người thì mới phát hiện ra, toan dừng bước quay lại. Song chưởng của Hướng Vấn Thiên phóng ra vừa mãnh liệt vừa chuẩn xác, bọn chúng chưa kịp lên tiếng thì đã rớt xuống khe núi, một lúc sau mới vọng lên hai tiếng uỳnh uỳnh. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lúc hai người này rớt xuống, sao không có tiếng kêu la? Phải rồi, hai người trúng chưởng lực đã chết trước khi rớt xuống.

Hướng Vấn Thiên cười ha ha nói:

– Hai tên khốn kiếp này bình thường giễu võ giương oai, tự xưng cái gì là Điểm Thương song kiếm, kiếm khí xung thiên. Mẹ kiếp, rớt xuống khe núi, xú khí xung thiên thì có!

Lệnh Hồ Xung đã từng nghe đến tên Điểm Thương song kiếm, nghe nói kiếm pháp của hai người này rất cao thâm, đã từng giết không ít nhân vật lợi hại trong hắc đạo. Không ngờ họ chết ở đây mà không biết tại sao, ngay cả tướng mạo của họ chàng cũng chưa kịp nhìn rõ.

Hướng Vấn Thiên lại ôm Lệnh Hồ Xung lên nói:

– Từ đây đến Tiên Sầu Giáp còn khoảng mười dặm, khi đến đó rồi thì chẳng ngại những tên khốn kiếp nữa.

Lão nói xong, chạy càng lúc càng nhanh. Có tiếng bước chân phía sau, mấy người đuổi đến. Đường núi đi quẹo qua hướng Đông, bên cạnh không có vực thẳm, Hướng Vấn Thiên không thể giở lại trò núp vách núi đánh lén nữa, đành phải đề khí chạy thẳng.

Bỗng nghe vù một tiếng, một thứ ám khí xé gió bay đến rất mạnh, rõ ràng là ám khí có trọng lượng rất nặng. Hướng Vấn Thiên để Lệnh Hồ Xung xuống, quay người lại bắt lấy, cất tiếng chửi:

– Họ Hà kia, ngươi cũng hòa mình vào dòng nước đục này ư?

Có tiếng người từ trong đám sương mù vọng lại:

– Ngươi là tai họa của võ lâm, ai ai cũng phải tru diệt. Hãy tiếp một chùy nữa của ta.

Chỉ nghe tiếng vù vù bất tuyệt, miệng hắn nói một chùy mà ít nhất cũng có bảy tám phi chùy ném tới.

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng ám khí rít lên thì ngấm ngầm lo lắng: Phong thái sư thúc tổ truyền kiếm pháp cho ta tuy có thể đánh được bất kỳ loại ám khí nào, nhưng phi chùy này được ném với kình lực lợi hại như vậy, trường kiếm của ta dù có đánh trúng nhưng nội lực không còn, tất trường kiếm bị chấn động, sẽ gãy mất.

Hướng Vấn Thiên hai chân dạng ra, người cúi về phía trước, nét mặt rất căng thẳng, không thản nhiên như lúc ở trong lương đình bị quần địch bao vây. Từng quả phi chùy bay đến trước mặt lão đều tắt hẳn âm thanh, chắc đã bị lão thu hết rồi.

Bỗng nghe tiếng vù vù dữ dội, không biết có bao nhiêu phi chùy cùng lúc ném ra. Lệnh Hồ Xung biết đây là thủ pháp Mãn thiên hoa vũ, vốn chỉ để phóng những ám khí nhỏ bé như kim tiền tiêu, thiết liên tử. Tiếng phi chùy rít lên trong không khí, mỗi quả chùy nếu không nửa cân thì cũng một cân, sao có thể cùng một lúc phóng ra mấy chục quả được? Lệnh Hồ Xung nghe tiếng phi chùy rít lên, hắn liền nằm phục xuống đất. Hướng Vấn Thiên thét lên thất thanh:

– Úi chao!

Dường như lão bị trọng thương. Lệnh Hồ Xung kinh hãi cố nhảy lên chắn trước mặt lão, vội hỏi:

– Hướng tiên sinh, tiên sinh bị thương rồi ư?

Hướng Vấn Thiên nói ấp úng:

– Ta… ta không xong rồi. Ngươi… ngươi mau chạy.

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:

– Hai chúng ta đồng sinh cộng tử, Lệnh Hồ Xung quyết không bỏ tiên sinh đi tìm cái sống một mình.

Bọn người đuổi theo lớn tiếng reo hò.

– Hướng Vấn Thiên trúng phi chùy rồi!

Trong làn sương trắng mịt mờ ẩn hiện mười mấy người dần dần đến gần.

Giữa lúc này một luồng kình phong mãnh liệt lướt qua bên mình của Lệnh Hồ Xung. Hướng Vấn Thiên cười ha hả, mười mấy người ở trước mặt lần lượt ngã xuống đất. Thì ra mấy chục quả phi chùy đều bị lão giữ lại trong tay. Lão giả vờ trúng chùy bị thương, khiến cho địch nhân không phòng bị rồi dùng thủ pháp Mãn thiên hoa vũ phát xạ trở lại.

Sương mù dày đặc, mắt nhìn không rõ mà tiếng la của Lệnh Hồ Xung hoảng hốt rõ ràng đúng sự thực khiến đối phương nghe đều tin, không còn nghi ngờ gì nữa. Hướng Vấn Thiên lại có thể dùng thủ pháp Mãn thiên hoa vũ phát xạ ám khí nặng như vậy là vượt ra ngoài dự liệu của những kẻ truy đuổi. Mười mấy người đi đầu hoặc chết hoặc bị thương, không một người nào thoát.

Hướng Vấn Thiên ôm Lệnh Hồ Xung lên rồi quay người chạy tiếp, lão nói:

– Hay lắm, tiểu huynh đệ rất có nghĩa khí.

Lão nghĩ Lệnh Hồ Xung ôm mối bất bình chẳng qua là tính cách cổ quái của người thiếu niên, nhưng vừa rồi mình giả vờ bị trọng thương thật giống; Lệnh Hồ Xung lại không chịu bỏ mình để trốn thoát, quyết ý đồng sinh cộng tử, thật là nghĩa khí quý báu nhất giang hồ.

Chạy không được bao lâu, địch nhân lại dần dần đuổi đến gần, chỉ nghe tiếng vèo vèo bất tuyệt, ám khí liên tục bay đến. Hướng Vấn Thiên trồi lên hụp xuống để né tránh. Người đuổi theo càng đến gần, lão để Lệnh Hồ Xung xuống, quát to một tiếng, xoay người xông vào giữa đám đông.

Mấy tiếng bốp bốp vang lên, lão trở lại trên lưng đã thấy cõng một người. Lão dùng dây xích trên cổ tay mình quấn chặt hai tay người đó. Hướng Vấn Thiên ôm Lệnh Hồ Xung chạy tiếp, cười nói:

– Chúng ta có thêm tấm lá chắn sống.

Người kia lớn tiếng la:

– Đừng phóng ám khí, đừng phóng ám khí nữa!

Nhưng bọn người đuổi theo không thèm để ý cứ phóng ám khí không ngừng. Đột nhiên người đó thét lên một tiếng:

– Chao ôi!

Lưng gã đã bị ám khí đánh trúng. Hướng Vấn Thiên lưng mang tấm lá chắn sống, tay ôm Lệnh Hồ Xung, vẫn chạy như bay. Người trên lưng lớn tiếng thóa mạ:

– Vương Sùng Cổ, mẹ kiếp ngươi không có chút nghĩa khí, biết rõ ta… úi chao, là tên bắn lén. Tổ mẹ nó, Trương Phù Dung gặp phải hồ ly, ngươi… ngươi mượn đao giết người.

Chỉ nghe mấy tiếng phù phù, tiếng chửi mắng của người đó càng lúc càng nhỏ dần, cuối cùng không lên tiếng nữa. Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Lá chắn sống biến thành lá chắn chết rồi.

Hướng Vấn Thiên quên cả hiểm nguy, đề khí chạy nhanh, quẹo qua hai thung lũng rồi nói:

– Đến rồi!

Lão thở phào nhẹ nhõm, nổi lên một tràng cười ha hả, lòng sung sướng vô cùng. Mười dặm đường núi sau cùng thật là nguy hiểm, không biết có thể thoát được sự truy đuổi không, tưởng như cái chết đã nắm chắc trong tay.

Lệnh Hồ Xung nhìn ra, lòng hơi sợ hãi, thấy trước mắt có cây cầu đá nhỏ hẹp bắc qua một vực sâu muôn trượng. Cầu đá chỉ thấy được không quá tám chín thước, xa hơn nữa thì mây mù dày đặc, không nhìn được đầu bên kia. Hướng Vấn Thiên nói khẽ:

– Trong làn sương trắng có một dây xích sắt, đừng tùy tiện dẫm lên.

Lệnh Hồ Xung đáp dạ nhưng lòng không kìm được sự kinh sợ: cầu đá này rộng không quá một thước, phía dưới là vực thẳm, vốn đã nguy hiểm vô cùng, lại bắc qua một sợi dây xích, công lực của mình bây giờ thật khó mà qua được.

Hướng Vấn Thiên cởi xích quấn trên tay lá chắn chết ra, rút thanh trường kiếm sau lưng gã đưa cho Lệnh Hồ Xung, rồi dựng lá chắn chết ở trước mặt, yên lặng đợi địch.

Không đầy thời gian uống một tuần trà, tốp người đầu tiên đã đuổi đến, có cả nhân vật trong chính giáo và Ma giáo. Mọi người thấy địa hình hiểm ác, Hướng Vấn Thiên ở chỗ vào thế trận quay lưng vào vực thẳm, cũng không dám đến gần. Một lúc sau, người đuổi đến càng đông, đứng ở ngoài năm sáu trượng lớn tiếng thóa mạ hoặc phóng ra các loại ám khí. Phi hoàng thạch, tụ tiễn tới tấp được phóng ra. Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung ở phía sau lá chắn, các thứ ám khí không thể bắn trúng hai người.

Bỗng một tiếng gầm làm chấn động cả sơn cốc, một đầu đà múa cây thiền trượng xông đến. Cây thiền trượng đúc bằng thép nặng bảy tám chục cân nhắm đánh vào lưng Hướng Vấn Thiên. Hướng Vấn Thiên cúi xuống, thiền trượng lướt qua đầu lão. Lão vung dây xích lên quấn lấy hai chân của gã đầu đà trong khi lão đầu đà lỡ dùng sức phóng trượng quá mạnh không thu lại kịp để chống đỡ. Hướng Vấn Thiên lập tức quay dây xích đã quấn chặt gót chân phải của đầu đà dùng phép tá lực đả lực thừa thế đẩy về trước. Gã đầu đà đứng không vững, ngã nhào về phía trước, rớt xuống vực thẳm. Hướng Vấn Thiên vừa hất vừa đẩy, đã mở dây xích ở gót chân của gã. Tiếng rú thảm thiết của gã đầu đà từ vực thẳm vọng lên, khiến mọi người không ai không kinh hãi nổi da gà, bất giác tự lùi về sau, như sợ Hướng Vấn Thiên sắp cuốn mình xô xuống vực thẳm.

Hai bên giằng co nhau một lúc, bỗng có hai người vượt đám đông xông ra. Một người tay cầm song kích, người kia là một hòa thượng cầm một cây nguyệt nha sạn. Đôi kích một trên một dưới nhằm đâm vào bụng dưới và mặt của Hướng Vấn Thiên, còn cây nguyệt nha sạn nhằm đâm vào sườn trái của lão. Cả ba thứ binh khí đều rất nặng, lại được vận nội lực thâm hậu nên lúc tấn công ra uy thế rất mãnh liệt. Hai người xem đúng địa hình tấn công, khiến cho Hướng Vấn Thiên không cách nào né tránh được, chỉ còn cách vung dây xích đánh đỡ. Quả nhiên dây xích của Hướng Vấn Thiên vung ra, choang choang ba tiếng, cả song kích và nguyệt nha sạn đều bị đánh giạt ra hết, bốn thứ binh khí đều xẹt ra tia lửa. Đây là cách lấy mạnh đánh mạnh, không thể lấy kỹ xảo để thủ thắng. Trong đám đông có tiếng reo hò vang dội.

Binh khí trong tay hai người bị dây xích hất ra thì liền tấn công tới, choang choang choang, lại giao nhau lần nữa. Hòa thượng và hán tử đó đều loạng choạng. Ngược lại Hướng Vấn Thiên vẫn đứng vững vàng. Lão không đợi địch nhân lấy hơi đã quát một tiếng thật to, vung nhanh dây xích đánh ra. Hai người giơ binh khí gạt đỡ. Binh khí chạm nhau ba tiếng chát chúa. Hòa thượng gầm lên một tiếng, liệng cây nguyệt nha sạn, miệng phun máu tươi, còn hán tử giơ cao song kích nhằm đâm vào Hướng Vấn Thiên. Hướng Vấn Thiên ưỡn ngực ra không đỡ không gạt, cười ha ha.

Song kích đâm đến ngực lão cách khoảng nửa thước bỗng nhiên rũ xuống. Hán tử cũng nằm phục xuống đất không nhúc nhích nữa. Hắn đã bị kình lực của Hướng Vấn Thiên làm chấn động chết ngay lập tức.

Quần hào tụ tập ở sườn núi nhìn nhau thất sắc, không ai dám tiến lên.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ, chúng ta hao tổn hơi sức với chúng khá nhiều rồi, tiểu huynh đệ ngồi xuống nghỉ một lát đã.

Lão nói xong liền ngồi xuống, hai tay ôm gối ngửa mặt lên trời, không thèm liếc nhìn quần hào một cái. Bỗng nghe có người lớn tiếng quát:

– Yêu tà to gan, dám coi thường anh hùng thiên hạ như vậy ư?

Bốn tên đạo nhân cầm kiếm xông tới trước mặt Hướng Vấn Thiên. Cả bốn người cầm ngang thanh trường kiếm nói:

– Đứng dậy giao thủ!

Hướng Vấn Thiên cười khinh bạc, lạnh lùng nói:

– Hướng mỗ đâu có gây chuyện gì với phái Nga Mi của các vị?

Một đạo sĩ bên trái nói:

– Tà ma ngoại đạo làm hại giang hồ. Ta là bậc chân tu tuyên dương chính nghĩa, trừ yêu diệt ma, trách nhiệm không đổ cho người khác được.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Hay cho quân trừ yêu diệt ma, trách nhiệm không đổ cho người khác! Sau lưng của các vị trong đám người đó có hơn một nửa là người trong Ma giáo, sao không trừ yêu diệt ma đi?

Đạo nhân đó nói:

– Tru diệt ác ma đầu sỏ trước.

Hướng Vấn Thiên ngồi ôm gối ngẩng đầu trông những đám mây trôi lờ lững trên trời, ỡm ờ nói:

– Thì ra là vậy. Hay lắm, hay lắm!

Đột nhiên lão quát một tiếng thật to, vọt người lên, dây xích giống như con thuồng luồng từ dưới vực sâu nhảy vọt lên nhằm bốn người quét ngang qua một cái rất mau. Lão ra đòn tập kích quá đột ngột, dù bốn đạo nhân đều là cao thủ của phái Nga Mi cũng không kịp chống đỡ. Trong lúc thảng thốt, trường kiếm của ba đạo nhân dựng đứng đỡ sau lưng, còn đạo nhân thứ tư đứng bên mé phải phóng trường kiếm ra nhằm vào yết hầu của Hướng Vấn Thiên đâm tới. Chỉ nghe choang một tiếng, ba thanh trường kiếm đều bị dây xích đánh cong, Hướng Vấn Thiên nghiêng đầu tránh chiêu kiếm của đạo nhân thứ tư. Thế kiếm của đạo nhân như gió, phóng ba kiếm liên hoàn bức bách Hướng Vấn Thiên không cách nào chậm tay lại được. Còn ba đạo nhân kia lùi ra, đổi kiếm rồi lại xông vào đấu tiếp. Thế kiếm của bốn đạo nhân phối hợp hỗ tương, giống như một kiếm trận nho nhỏ, bốn thanh trường kiếm lượn tới lượn lui như rồng bay phượng múa, lúc phân ra, lúc hợp lại.

Lệnh Hồ Xung nhìn một lúc, thấy Hướng Vấn Thiên lúc múa vung dây xích tất phải cử động hai tay thì không linh hoạt bằng một tay. Nếu còn kéo dài, lão sẽ không tránh khỏi thất bại. Chàng liền bước qua mé phải của Hướng Vấn Thiên, trường kiếm đâm ra, phóng nhanh vào bên sườn của một đạo nhân. Chiêu kiếm này phương vị xuất chiêu rất cổ quái, đạo nhân đó khó mà tránh khỏi, soạt một tiếng, lão đã bị trúng kiếm. Lệnh Hồ Xung lóe lên tâm niệm: Nghe nói phái Nga Mi xưa nay tự hào trong sạch, bỏ mặc chuyện trên giang hồ, thanh danh lừng lẫy. Ta giúp Hướng tiên sinh giải vây, không nên làm tổn thương tính mệnh của đạo nhân này.

Khi mũi kiếm vừa chạm vào da của đạo nhân, chàng liền rút về, nhưng lúc rút lại kiếm sử không nhanh. Đạo nhân cố chịu đau, đưa song chỉ kẹp chặt trường kiếm của Lệnh Hồ Xung lại.

Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm về, vạch một đường trên cánh tay và mé sườn đạo nhân. Chàng rút chậm lại một chút, trường kiếm của một đạo sĩ trung niên khác chém tới, đè lên kiếm của chàng. Cánh tay Lệnh Hồ Xung tê buốt, muốn buông kiếm ra nhưng nghĩ nếu buông kiếm thì mình sẽ thành phế nhân. Chàng liền gắng sức nắm chặt chuôi kiếm, cảm thấy một kình lực hùng hậu trên kiếm truyền đến, tấn công vào tâm mạch của mình.

Đạo nhân thứ nhất bị trường kiếm gây vết thương không nặng nhưng vì lão lấy tay chụp kiếm lại, lúc Lệnh Hồ Xung rút kiếm về khiến lão bị kiếm vạch một vết thương thấu tận xương, máu tươi chảy ra lênh láng không thể đấu được nữa. Hai đạo nhân còn lại lúc này ở sau lưng Lệnh Hồ Xung đang đấu kịch liệt với Hướng Vấn Thiên, kiếm pháp rất tinh kỳ, song kiếm liên thủ nghiêm cẩn dị thường.

Hướng Vấn Thiên đấu tiếp mấy chiêu liền lùi về sau một bước, rồi lão liên tục lùi hơn mười bước, thân mình lọt dần vào làn sương trắng. Hai đạo nhân tiếp tục tấn công về trước, nửa thanh trường kiếm đã phóng vào sương mù. Bỗng phía bên kia cầu đá có người la lên:

– Cẩn thận, đi tiếp nữa là cầu bằng dây xích đó!

Chữ “xích” vừa ra khỏi miệng thì nghe tiếng hai đạo nhân cùng rú lên thảm thiết, thân người hai lão xông mạnh về trước, rớt xuống làn sương trắng. Rõ ràng hai lão không tự chủ được, bị Hướng Vấn Thiên kéo tới. Tiếng rú thê thảm kéo dài đến tận vực thẳm, trong khoảnh khắc thì im bặt.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả từ trong làn sương trắng đi ra. Lão thấy Lệnh Hồ Xung lảo đảo muốn té, giật mình sợ hãi.

Lệnh Hồ Xung lúc ở lương đình đã dùng Độc Cô cửu kiếm liên tục đả thương người, bốn tên đạo sĩ phái Nga Mi tận mắt chứng kiến nên tự biết kiếm pháp của mình quyết không phải là địch thủ của chàng, nhưng chúng thấy nội lực của Lệnh Hồ Xung không đáng kể, liền đem nội lực uyên thâm của mình ra tấn công liên tiếp vào Lệnh Hồ Xung. Đừng nói bây giờ nội lực của Lệnh Hồ Xung đã mất hết mà ngay lúc trước, khi còn sung sức cũng không thể bì được hơn ba mươi năm luyện nội công tâm pháp của lão đạo nhân phái Nga Mi. May mà chân khí nội thể của Lệnh Hồ Xung sung mãn nên nhất thời cũng không đến nỗi bị thương nhưng khí huyết bị nhộn nhạo cả lên, mắt nảy đom đóm.

Lệnh Hồ Xung bỗng cảm thấy trên huyệt Đại truy ở sau lưng có một luồng nhiệt khí truyền vào, áp lực trên tay lập tức nhẹ hẳn. Tinh thần Lệnh Hồ Xung phấn chấn, biết đã được Hướng Vấn Thiên trợ giúp, nhưng chàng liền phát giác Hướng Vấn Thiên lại đem nội lực tấn công của đối phương dẫn từ cánh tay truyền qua sống lưng rồi đến hai chân, rồi truyền thẳng xuống đất, mất hẳn.

Đạo nhân phát giác sắp gặp nguy hiểm bèn lớn tiếng la lên, rút kiếm nhảy ra sau, quát:

– Hấp tinh yêu pháp! Hấp tinh yêu pháp!

Quần hào vừa nghe bốn chữ “Hấp tinh yêu pháp” không ít người đổi sắc mặt.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả nói:

– Đúng vậy! Đây là Hấp tinh đại pháp. Vị nào có hứng thú thì lên đây thử chơi.

Một trưởng lão tên Hoàng Đái trong Ma giáo la lên:

– Chẳng lẽ Nhậm… Nhậm… lại tái xuất? Chúng ta về bẩm báo giáo chủ ngay để giáo chủ định đoạt.

Bọn người Ma giáo dạ, cùng quay người, lập tức đám đông hơn một trăm người liền giải tán một nửa. Còn lại người trong chính giáo bàn bạc to nhỏ với nhau một lúc, liền có một số người lục tục bỏ về, sau cùng chỉ còn hơn mươi người lèo tèo.

Một người giọng sang sảng nói:

– Hướng Vấn Thiên, Lệnh Hồ Xung! Các ngươi lại sử Hấp tinh đại pháp, trụy nhập vào cảnh vạn kiếp không được siêu sinh. Từ nay về sau, bằng hữu trong võ lâm đối phó với hai ngươi không cần phải dùng thủ đoạn chính đáng. Đây là việc các ngươi tự làm tự chịu, đến nước này đừng có hối hận!

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Hướng mỗ đã làm việc gì thì có bao giờ hối hận đâu? Các ngươi mấy trăm người vây đánh hai chúng ta, chẳng lẽ là thủ đoạn chính đáng ư? Hì hì, buồn cười thật, buồn cười thật!

Tiếng bước chân vọng lại, mười mấy người còn lại cũng đi hết. Hướng Vấn Thiên lắng tai nghe, biết xác thực bọn địch đuổi đến đã đi xa rồi. Lão nói khẽ:

– Bọn chó má đó nhất định sẽ quay lại, tiểu huynh đệ hãy nằm lên lưng ta.

Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của lão rất trịnh trọng, cũng không hỏi nhiều, liền nằm phục lên lưng lão. Hướng Vấn Thiên khom người xuống, chân trái từ từ đưa ra, lần mò leo xuống vực thẳm.

Lệnh Hồ Xung hơi kinh hãi, thấy sợi dây xích của Hướng Vấn Thiên vung ra, quấn chặt vào một gốc cây bên vách núi, thử giật xem gốc cây có chịu nổi sức nặng của hai người không rồi mới nhè nhẹ leo xuống. Hai người đu lơ lửng trong không khí, Hướng Vấn Thiên lắc lư mấy cái, tìm được chỗ đặt chân liền vung tay thu dây xích lại. Sợi dây xích rời khỏi gốc cây. Hai tay của Hướng Vấn Thiên bám vào vách núi, rồi dừng lại một lúc, sợi dây xích đã quấn chặt vào mỏm đá lớn bên dưới chân lão, thân hình của hai người lại từ từ hạ xuống hơn một trượng.

Cứ theo cách như vậy mà lão đu xuống. Có lúc vách núi không có gốc cây cũng không có mỏm đá lồi ra, Hướng Vấn Thiên mạo hiểm, dán người vào vách núi rồi từ từ tụt xuống. Lão tụt hơn mười trượng, vách đá càng trơn, lão tụt càng nhanh. Nhưng chỉ cần có chỗ có thể đỡ lại được thì lão thi triển thần công hoặc phát chưởng, hoặc đạp chân tạo thế cho người trượt chậm lại.

Lệnh Hồ Xung thấy mình và lão quá mạo hiểm, sợ đến nỗi hồn vía lên mây. Lão cứ như vậy mà tụt xuống vực thẳm, thật nguy hiểm chẳng khác nào trận kịch đấu vừa rồi. Nhưng chàng nghĩ bình sinh chưa bao giờ có chuyện kỳ lạ hiếm có, nguy hiểm thì quá nguy hiểm nhưng nếu không gặp một kỳ nhân như Hướng Vấn Thiên chỉ e rằng qua một trăm kiếp cũng khó gặp ai có gan như vậy. Lúc Hướng Vấn Thiên đạp hai chân xuống đáy vực rồi, Lệnh Hồ Xung cảm thấy hơi tiếc nuối, hận sao cái vực này không sâu thêm vài trăm trượng nữa. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, miệng vực toàn là mây trắng, cái cầu đá đã trở thành một sợi dây màu đen rất nhỏ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hướng tiên sinh!

Hướng Vấn Thiên đưa tay bịt miệng Lệnh Hồ Xung lại, ngón tay cái bên tay trái chỉ lên trên. Lệnh Hồ Xung liền hiểu ra, biết bọn địch quả nhiên đã quay trở lại, chàng cố nhướng mắt nhìn lên nhưng không thấy bóng người nào trên cầu đá cả.

Hướng Vấn Thiên buông tay ra, kề sát tai vào vách núi lắng nghe. Qua một lúc sau lão mới mỉm cười nói:

– Bà mẹ nó, có giữ ở trên đó thì cứ đi Tây thiên mà tìm.

Lão ngoái lại nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu huynh đệ là đệ tử của danh môn chính phái, Hướng mỗ lại là bàng môn yêu tà, song phương xưa nay là kẻ tử thù của nhau. Tại sao tiểu huynh đệ lại cam tâm tình nguyện đắc tội với chính giáo bằng hữu, để xả thân cứu tính mệnh của ta?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối vừa hội ngộ thì đã liên thủ với tiên sinh đấu một trận sinh tử với bọn quần hào song phương chính giáo và Ma giáo mà không sao cả, thật là may mắn vô cùng. Hướng tiên sinh lại còn nói chuyện cứu mạng với không cứu mạng, thật là… thật là…

Hướng Vấn Thiên tiếp lời:

– Thật là vớ vẩn phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối không dám nói Hướng tiên sinh ăn nói vớ vẩn, nhưng nếu nói vãn bối có công cứu mạng tiên sinh thì thật chẳng đúng chút nào.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Hướng mỗ đã nói vậy thì không rút lời lại. Ta nói tiểu huynh đệ có ân cứu mạng ta thì là có ân cứu mạng.

Lệnh Hồ Xung cười cười, không biện luận nữa. Hướng Vấn Thiên nói:

– Vừa rồi bọn chó má la to cái gì Hấp tinh đại pháp, chúng sợ đến nỗi giải tán hết. Tiểu huynh đệ có biết Hấp tinh đại pháp là công phu gì không? Tại sao bọn chúng sợ đến như vậy?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối đang muốn thỉnh giáo Hướng tiên sinh.

Hướng Vấn Thiên cau mày nói:

– Cái gì vãn bối với trưởng bối, tiên sinh với hậu sinh, khiến cho người nghe thật bực mình. Ta dứt khoát không chịu, tiểu huynh đệ cứ gọi ta là Hướng huynh còn ta gọi tiểu huynh đệ là huynh đệ được rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện này vãn bối thật không dám…

Hướng Vấn Thiên tức giận nói:

– Được, vì huynh đệ thấy ta là người trong Ma giáo nên coi thường ta. Huynh đệ đã cứu tính mạng ta, cái mạng của lão tử này sống hay chết cũng là chuyện nhỏ, nhưng tiểu huynh đệ coi thường ta là chuyện lớn, vậy chúng ta phải động thủ.

Tuy lão nói nhỏ nhưng vẻ mặt rất tức giận. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đâu cần phải động thủ. Hướng huynh đã cố chấp như vậy thì tiểu đệ đành tuân mệnh thôi.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ngay cả Điền Bá Quang là một tên thái hoa dâm tặc như vậy mà ta cũng kết giao bằng hữu, giờ kết giao thêm một Hướng Vấn Thiên thì có sao đâu? Người này khí phách hào hùng, thật là một hảo hán tử, ta cũng vốn thích những người như vậy.

Lệnh Hồ Xung liền phục người xuống bái rồi nói:

– Hướng huynh ở trên xin nhận một lạy của tiểu đệ.

Hướng Vấn Thiên mừng rỡ nói:

– Khắp thiên hạ kết nghĩa kim lan với Hướng mỗ chỉ có một mình huynh đệ thôi. Huynh đệ phải nhớ điều đó.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu đệ được Hướng huynh thương mến thật là hân hạnh.

Chiếu theo quy củ của giang hồ thì hai người kết nghĩa huynh đệ ít nhất cũng phải thắp hương tuyên thệ, lập thệ có phúc cùng hưởng có họa cùng gánh. Nhưng hai người này đều là người lãng mạn phóng khoáng, vừa trải qua một cuộc chiến nảy lửa, đều cảm thấy ý hợp tâm đầu, hiểu thấu lòng nhau, chỉ cần khấu đầu kết giao nhau là đủ, không cần lễ nghi phiền phức. Đã nói là huynh đệ tức là huynh đệ rồi.

Hướng Vấn Thiên là người của Ma giáo nhưng huynh đệ trong Ma giáo chẳng mấy ai coi trọng lão, hôm nay nhận được một huynh đệ kết nghĩa, lòng lão rất vui sướng. Lão nói:

– Đáng tiếc ở đây không có rượu, nếu không thì chúng ta uống một hơi hết tổ mẹ nó mấy chục bát nữa mới đã.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy, cổ họng của tiểu đệ ngứa ngáy quá rồi, ca ca nhắc đến rượu thì càng không chịu được.

Hướng Vấn Thiên chỉ lên trên nói:

– Bọn chó đẻ chưa đi xa đâu, chúng ta đành phải ở dưới đáy vực sâu cố nhịn mấy bữa. Huynh đệ, vừa rồi lão mũi trâu phái Nga Mi đó dùng nội lực tấn công huynh đệ, ta dùng nội lực giúp đỡ huynh đệ tiêu hao nội lực của lão mũi trâu ra sao, huynh đệ biết không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Dường như đại ca đem nội lực của đạo nhân đó dẫn xuống đất hết.

Hướng Vấn Thiên vỗ đùi cái bốp, vui mừng nói:

– Đúng vậy, đúng vậy! Huynh đệ thật thông minh. Môn công phu này của ta là do ta vô tình nghĩ ra, trong võ lâm không ai biết cả, ta đặt cho nó cái tên là Hấp công nhập địa tiểu pháp.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Cái tên nghe cũng kỳ quái.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Môn công phu này của ta so với Hấp tinh đại pháp trong võ lâm cũng như nhau nên ai nghe cũng biến sắc, cũng giống như bợm nhỏ gặp bợm lớn, cho nên mới gọi là “tiểu pháp”. Công phu này của ta chỉ là một tiểu xảo di hoa tiếp mộc, mượn lực để đánh lực, đem nội lực của đối phương dẫn xuống đất khiến cho đối phương không thể hại mình, mà cũng chẳng có lợi lộc gì cho mình cả. Vả lại, môn công phu này chỉ nên sử dụng lúc tương đấu với đối phương chứ không thể đem ra mà đả thương người. Đối phương gặp lúc thấy nội lực cuồn cuộn tiết ra ngoài thì không khỏi cả kinh thất sắc, một lúc sau liền phục hồi lại nguyên khí. Ta đoán rằng bọn chúng bỏ đi rồi nhất định quay lại cho nên công lực của lão mũi trâu phái Nga Mi vừa hồi phục thì lão biết Hấp công nhập địa tiểu pháp này của ta chỉ là dọa trêu người thôi, kỳ thực chẳng có gì đáng sợ. Ca ca của tiểu đệ vốn không thích gạt người bằng cái trò này cho nên xưa nay chưa bao giờ dùng qua.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Hướng Vấn Thiên chưa bao giờ gạt người, hôm nay vì tiểu đệ đành phải phá giới.

Hướng Vấn Thiên cười hì hì nói:

– Chưa bao giờ gạt ai thì cũng chưa chắc, có điều lão Tùng Văn đạo nhân phái Nga Mi kiến văn quảng bác như vậy nên ca ca của huynh đệ thật không muốn gạt lão. Nếu gạt người thì phải chọn đại sự, gạt phải kinh thiên động địa để thiên hạ đều biết.

Hai người nhìn nhau cười, sợ bị địch nhân ở trên vực nghe được, nên tuy cố cười nhỏ lại nhưng tiếng cười cũng rất sảng khoái.

Hồi 78: Thay tên đổi họ tìm đến Mai Trang

Lúc này hai người rất mệt, phân ra ngồi dựa vào vách đá nhắm mắt dưỡng thần.

Không bao lâu, Lệnh Hồ Xung đã ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, chàng bỗng mơ thấy Doanh Doanh tay cầm ba con ếch nướng đưa cho mình hỏi: “Ngươi quên ta rồi phải không?” Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói: “Đâu có quên, đâu có quên! Cô nương… cô nương đi đâu vậy?” Hình bóng của Doanh Doanh bỗng tan biến, chàng vội la lên: “Cô nương đừng đi! Ta có rất nhiều điều muốn nói với cô nương”. Lại thấy đao thương kiếm kích tới tấp đâm đến, chàng thét lên một tiếng rồi tỉnh lại. Hướng Vấn Thiên cười hì hì hỏi:

– Mơ thấy tình nhân phải không? Muốn nói rất nhiều điều phải không?

Mặt Lệnh Hồ Xung đỏ lên, không biết trong mơ đã nói gì mà lão nghe được. Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, nếu huynh đệ muốn gặp lại người tình thì phải dưỡng thương cho khỏe, trị khỏi bệnh mới có thể đi tìm cô ta.

Lệnh Hồ Xung ủ rũ nói:

– Tiểu đệ… tiểu đệ chưa có người tình. Vả lại thương thế của tiểu đệ trị không khỏi đâu.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Ta thiếu nợ huynh đệ một lần cứu mạng, tuy là huynh đệ nhưng lòng ta vẫn còn áy náy. Ta phải trả một cái mạng cho huynh đệ mới được. Ta dẫn huynh đệ đi đến một nơi, ở đó nhất định có thể trị khỏi thương thế cho huynh đệ.

Tuy Lệnh Hồ Xung chẳng màng gì đến chuyện sống chết, nhưng không thể thản nhiên khi nghe Hướng Vấn Thiên nói thương thế của mình có thể trị khỏi. Nếu lời này từ miệng người khác nói ra thì chưa chắc tin được nhưng Hướng Vấn Thiên tài trí hơn người, võ công lại cao cường, ngoài thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương ra, bình sinh chàng chưa thấy ai như lão. Lão chỉ nói phớt một câu mà rất có trọng lượng khiến lòng chàng vô cùng hưng phấn. Chàng lắp bắp nói:

– Tiểu đệ… tiểu đệ…

Lệnh Hồ Xung nói hai tiếng “tiểu đệ” thì không nói được nữa. Lúc này mảnh trăng lưỡi liềm chiếu xuống miệng vực, ánh sáng tỏa khắp nơi, dưới vực thẳm tuy âm u nhưng trong ánh mắt của Lệnh Hồ Xung đầy ngập ánh dương quang.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Chúng ta đi gặp một người. Người này tính tình rất cổ quái, sự việc đừng nói trước cho lão biết. Huynh đệ, nếu huynh đệ tin ta thì nhất thiết phải để ta sắp đặt.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Có gì đâu mà không tin? Ca ca muốn tìm cách trị thương cho tiểu đệ, đó là chuyện cải tử hoàn sinh mà tiểu đệ vốn không còn hy vọng nữa. Nếu trị khỏi bệnh thì tạ ơn trời đất, trị không khỏi thì cũng là chuyện thường tình mà thôi.

Hướng Vấn Thiên thè lưỡi liếm môi nói:

– Không biết cái đùi ngựa biến đâu rồi? Mẹ kiếp, giết không biết bao nhiêu thằng nhãi mà ở dưới đáy vực này lại chẳng thấy cái xác nào cả.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói, biết lão muốn tìm xác chết để ăn. Lòng chàng cảm thấy kinh sợ, không dám nói nhiều, liền nhắm mắt ngủ.

Sáng sớm hôm sau, Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, ở đây ngoài cỏ xanh và rong rêu ra thì không có cái gì khác. Chúng ta sống lây lất ở đây e phải đi tìm xác chết mà ăn, nhưng ngày hôm qua mấy tên rớt xuống đáy vực này vừa già vừa gầy, ta nghĩ huynh đệ ăn vào cũng chẳng thấy ngon lành gì.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Dứt khoát chẳng có chút mùi vị gì.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Chúng ta phải tìm đường ra khỏi đây. Ta cải trang cho huynh đệ trước đã.

Lão đến vũng bùn bốc một nắm bôi lên mặt Lệnh Hồ Xung, rồi đưa tay tự bôi lên mặt mình. Lão bôi mạnh quá, bôi đến đâu thì tóc rụng đến đó. Xong lão đưa hai tay lên vò đầu, mái tóc hoa râm của lão đã rụng trọc lóc. Lệnh Hồ Xung thấy trong khoảnh khắc tướng mạo lão đã hoàn toàn thay đổi, hắn vừa tức cười vừa khâm phục. Hướng Vấn Thiên lại bốc một ít bùn đắp cho mũi to lên, hai má cũng dày lên, bây giờ có đứng đối mặt nhìn kỹ cũng không thể nhận ra lão nữa.

Hướng Vấn Thiên đi trước dẫn đường. Lão để hai tay lọt vào trong tay áo để che kín sợi dây xích trên cổ tay lại, chỉ cần lão không động thủ thì không ai nhận ra được cái lão mập đầu láng bóng là Hướng Vấn Thiên oai phong quắc thước.

Hai người đi quanh quẩn đến giờ ngọ, thấy ở thung lũng có một cây đào dại, trái còn xanh, bỏ vào miệng nhai vừa chua vừa chát. Hai người bụng đã quá đói, liền hái ăn đến kỳ no. Nghỉ ngơi hơn một canh giờ, họ lại đi tiếp. Đến lúc hoàng hôn, Hướng Vấn Thiên đã tìm được lối ra khỏi hang, nhưng phải vượt qua một vách núi dài mấy trăm thước. Lão cõng Lệnh Hồ Xung trên lưng trèo lên vách.

Lúc leo lên trên vách núi, họ nhìn thấy một con đường nhỏ ngoằn ngoèo, hai bên đường cỏ mọc rậm rạp. Cảnh vật hoang dã, ngay cả vết chân chim thú cũng không hề thấy. Hai người đều thở dài.

Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng Đông đến một thị trấn lớn. Hướng Vấn Thiên lấy trong túi một miếng vàng lá bảo Lệnh Hồ Xung đi đến tiệm đổi thành bạc, sau đó tìm đến một khách điếm thuê phòng. Hướng Vấn Thiên gọi thức ăn, bảo tiểu nhị đem đến một vò rượu lớn, cùng Lệnh Hồ Xung uống hết nửa vò thì đã say mèm, không ăn cơm nữa. Một người nằm phục trên bàn ngủ, còn một người thì nằm lăn ra giường. Đến hôm sau, khi mặt trời rọi vào khe cửa cả hai mới tỉnh dậy. Hai người nhìn nhau cười, hồi tưởng lại cuộc ác đấu mấy ngày trước ở quán lương đình và trên chiếc cầu đá, tưởng chừng như đã qua một kiếp người.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, huynh đệ ở đây nghỉ đi, ta đi ra ngoài một lúc.

Lão đi ra ngoài hơn một canh giờ . Lệnh Hồ Xung đang lo lắng, sợ lão gặp phải địch nhân, lại thấy hai tay lão cầm bao lớn bao nhỏ, kẹp thêm bên người rất nhiều đồ đạc. Sợi dây xích trên tay lão đã biến mất, chắc lão đã bảo thợ rèn chặt bỏ rồi. Hướng Vấn Thiên mở bao ra, bao nào cũng đựng đầy quần áo sang trọng. Lão nói:

– Hai huynh đệ ta đều cải trang thành đại phú thương, càng ra vẻ phong lưu càng tốt.

Lão và Lệnh Hồ Xung liền thay đổi cả quần trong áo ngoài. Lúc ra khỏi điếm, đã thấy tiểu nhị dẫn hai con ngựa cao to, yên mới cáu cạnh. Ngựa này cũng do Hướng Vấn Thiên mua về.

Hai người cưỡi ngựa thong thả đi về hướng Đông. Đi được hai ngày, Lệnh Hồ Xung cảm thấy mệt, Hướng Vấn Thiên liền thuê một cỗ xe lớn để hắn ngồi. Đến bờ sông Vận Hà, hai người xuống ngựa lên thuyền đi về hướng Nam. Trên đường đi, Hướng Vấn Thiên tiêu tiền như nước, tưởng chừng như vàng lá bên người lão xài hoài không hết. Qua Trường Giang, hai bên bờ sông chợ búa phồn thịnh. Hướng Vấn Thiên lại mua thêm quần áo, càng lúc càng sang trọng hơn.

Đi thuyền lâu ngày, Hướng Vấn Thiên nhàn rỗi kể lại nhiều chuyện thú vị trên giang hồ. Lão kể nhiều chuyện mà Lệnh Hồ Xung chưa hề biết khiến chàng nghe một cách thích thú. Nhưng những chuyện liên quan đến Ma giáo trên Hắc Mộc Nhai, Hướng Vấn Thiên tuyệt không đề cập tới, Lệnh Hồ Xung cũng không hỏi.

Hôm ấy, thuyền đến Hàng Châu. Ở trong thuyền, Hướng Vấn Thiên lại cải trang cho Lệnh Hồ Xung và mình thật vừa ý rồi mới rời thuyền lên bờ. Lão mua hai con tuấn mã rồi cưỡi ngựa vào thành Hàng Châu.

Thời cổ, Hàng Châu gọi là phủ Lâm An, thời Nam Tống dựng thành kinh đô, xưa nay là nơi rất nổi tiếng. Vào trong thành, trên đường người đi đông nghẹt, ca nhạc xập xình khắp nơi. Lệnh Hồ Xung đi theo Hướng Vấn Thiên đến bờ Tây Hồ, thấy mặt hồ xanh biếc như gương, liễu rủ phất phơ, cảnh vật thơ mộng như cảnh thần tiên. Lệnh Hồ Xung nói:

– Người ta thường nói: thượng giới có thiên đàng, hạ giới có Tô Hàng. Tô Châu chưa đi qua không biết ra sao chứ hôm nay tận mắt thấy Hàng Châu, gọi đây là thiên đàng quả thực không sai.

Hướng Vấn Thiên cười. Cả hai cưỡi ngựa đi đến một ngọn núi nhỏ bên bờ hồ, cách bờ một con đê dài, phong cảnh rất yên tĩnh. Hai người xuống ngựa, cột ngựa vào gốc cây liễu bên bờ hồ rồi đi theo bậc tam cấp lên núi. Hướng Vấn Thiên dường như đã từng du ngoạn nơi đây, lão rất thông thuộc đường lối. Quẹo qua mấy khúc quanh, khắp nơi đều trồng mai. Những cây mai già vươn dài cành lá rậm rạp, giống như ngày đầu xuân hoa mai nở rộ, hương thơm ngào ngạt, sắc hoa trắng trông như một biển tuyết. Phong cảnh đẹp khiến người ta ngây ngất biết chừng nào.

Hai người đi xuyên qua rừng mai lên một con đường lát đá xanh rộng lớn, đi đến ngoài một đại trang viện có tường trắng, cổng sơn đỏ. Gần đến nơi, thấy ngoài cổng lớn đề hai chữ to “Mai trang”, bên cạnh đề bốn chữ “Ngu Doãn Văn đề”. Lệnh Hồ Xung ít đọc sách nên không biết Ngu Doãn Văn là đại công thần đã đánh tan giặc Kim đời Nam Tống, nhưng cũng cảm thấy trong mấy chữ nho nhã này tràn đầy anh khí.

Hướng Vấn Thiên đi đến trước cổng, nắm chiếc vòng bằng đồng lớn ở trên cửa, quay đầu lại nói khẽ:

– Nhất thiết phải nghe lời ta sắp đặt.

Lệnh Hồ Xung gật đầu thầm nghĩ: Cái tòa Mai trang này hiển nhiên là chỗ ở của nhà đại phú thành Hàng Châu. Chẳng lẽ đây là chỗ ở của một vị danh y đương thời sao?

Hướng Vấn Thiên gõ bốn tiếng vào cái vòng đồng; ngừng một lúc lại gõ hai cái nữa, ngừng một lúc lại gõ thêm năm cái. Rồi lão lại ngừng một lúc, gõ thêm ba cái nữa. Sau đó, lão buông vòng đồng ra, đứng lùi về một bên.

Một lúc sau, cánh cổng lớn từ từ mở ra, có hai lão gia nhân ăn mặc chỉnh tề sánh vai đi ra. Lệnh Hồ Xung hơi giật mình. Ánh mắt hai lão này sáng quắc, bước đi nghiêm trang, hiển nhiên là người có võ công cao cường, sao lại chịu ở đây làm phận nô bộc? Người bên trái cúi người nói:

– Hai vị giá lâm tệ trang có điều chi dạy bảo?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Môn hạ phái Tung Sơn và đệ tử môn hạ phái Hoa Sơn có chuyện muốn cầu kiến Giang Nam tứ hữu bốn vị tiền bối.

Người đó nói:

– Gia chủ tại hạ xưa nay không tiếp khách.

Lão nói xong liền muốn đóng cửa.

Hướng Vấn Thiên thò tay vào bọc, lấy ra một vật. Lệnh Hồ Xung kinh hãi vì trong tay lão là một cây cờ ngũ sắc, có đính nhiều hạt minh châu. Hắn biết đây là Ngũ Nhạc minh kỳ của Tả minh chủ phái Tung Sơn. Minh kỳ đi đến đâu cũng như Tả minh chủ thân hành đến đó. Người trong Ngũ Nhạc kiếm phái từ bậc tôn sư đến bọn đệ tử, không ai không tuân lệnh của người cầm cờ.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chắc Hướng đại ca đã dùng thủ đoạn bất chính cướp được lá cờ nầy, không chừng đại ca đã giết người phái Tung Sơn. Đại ca còn xưng là đệ tử Tung Sơn, không hiểu mưu đồ chuyện chi đây.

Chàng đã hứa mọi chuyện nghe theo cách bố trí của lão nên lẳng lặng không nói gì.

Hai lão gia nhân nhìn thấy Ngũ Nhạc minh kỳ, sắc mặt thay đổi, hỏi:

– Phải chăng đây là minh kỳ của Tả minh chủ phái Tung Sơn?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Đúng vậy!

Gã gia nhân đứng bên phải nói:

– Giang Nam tứ hữu và Ngũ Nhạc kiếm phái trước nay không hề qua lại. Dù có Tả minh chủ đến đây thì… thì… chưa chắc…

Rồi lão không nói tiếp nữa nhưng ý nghĩa câu nói đã rất rõ ràng: “Dù Tả minh chủ có thân hành đến thì chủ nhân của tại hạ cũng chưa chắc chịu tiếp kiến”.

Tả minh chủ phái Tung Sơn là một nhân vật đức cao vọng trọng, người này không muốn mở miệng nói lời coi thường nhưng rõ ràng lão cho rằng địa vị của Giang Nam tứ hữu còn cao hơn Tả minh chủ nhiều.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Giang Nam tứ hữu này là những nhân vật nào? Nếu bọn họ thực là những nhân vật sừng sỏ trong võ lâm thì sao ta chưa từng nghe sư phụ và sư nương đề cập đến bọn họ? Ta hành tẩu trên giang hồ từng nghe nhiều người nói đến những bậc tiền bối cao nhân trong võ lâm đương thời, nhưng chưa từng nghe ai đề cập đến bốn chữ “Giang Nam tứ hữu”.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười, xếp cờ lệnh bỏ vào túi nói:

– Tả sư điệt của ta không phải đem cờ lệnh này đến để dọa người. Bốn vị tiền bối ở Giang Nam là những nhân vật thế nào, tất không coi lá cờ lệnh này vào đâu.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lão nói “Tả sư điệt” ư? Lão lại mạo xưng là sư thúc của Tả minh chủ, càng lúc lão càng chẳng ra làm sao cả.

Lại nghe Hướng Vấn Thiên nói tiếp:

– Có điều tại hạ không có danh phận gì e khó được bái kiến bốn vị tiền bối Giang Nam nên đưa cờ lệnh này ra, chẳng qua chỉ để làm tín vật mà thôi.

Hai gia nhân ồ một tiếng, nghe trong lời nói của lão có vẻ đề cao thân phận Giang Nam tứ hữu thì nét mặt họ hòa dịu lại một chút.

Một người nói:

– Các hạ là sư thúc của Tả minh chủ ư?

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Đúng vậy. Tại hạ là hạng vô danh tiểu tốt trong võ lâm nên hai vị dĩ nhiên không quen. Nghĩ lại năm xưa, Đinh huynh ở dưới núi Tà Liên đơn chưởng đánh tứ bá, một kiếm phục song hùng; Thi huynh ở Hồ Bắc tung hoành giang hồ cứu kẻ cô thế, một thanh tử kim bát quái đao giết được mười ba tên đầu sỏ của Thanh Long bang, máu nhuộm một vùng Hán Thủy. Hình ảnh oai hùng như vậy khiến tại hạ vẫn ghi nhớ trong lòng.

Hai người ăn mặc như gia nhân, một người tên là Đinh Kiên, người kia là Thi Lệnh Oai. Trước khi quy ẩn ở Mai trang, họ là những nhân vật nửa chính nửa tà, trên giang hồ hành sự rất độc ác. Tính khí của hai người rất giống nhau, sau khi làm chuyện gì tuyệt không lưu danh cho nên tuy võ công họ cao cường nhưng tên tuổi thì ít ai biết đến. Hướng Vấn Thiên nói đến hai chuyện này chính là những kiệt tác đắc ý trong cuộc đời hai lão. Một là đối thủ rất cao cường mà hai lão lại lấy ít địch nhiều nhưng thủ thắng một cách oanh liệt; hai là hai chuyện này đối phương đều sai quấy còn hai lão đã hành hiệp trượng nghĩa, những hành động bình sinh hai lão rất ít khi làm.

Phàm làm việc gì tốt, tuy không cố ý tuyên dương để ai cũng biết, nhưng nếu có người vô tình biết đến thì hai lão rất khoái chí. Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai nghe Hướng Vấn Thiên nói một lèo như vậy, bất giác mặt hai lão lộ vẻ hớn hở. Đinh Kiên mỉm cười nói:

– Chuyện nhỏ nhặt này đâu có chi đáng kể. Kiến văn của các hạ rất rộng.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Trong võ lâm, kẻ tranh danh đoạt lợi rất nhiều còn kẻ sĩ thanh cao có chân tài thực học, làm nên đại sự mà không muốn tuyên dương thật khó có được. Nhất tự điện kiếm Đinh đại ca và Ngũ lộ thần Thi cửu ca là những tên tuổi mà tại hạ ngưỡng mộ đã lâu. Tả sư điệt từng nói, có chuyện gì nên đến thỉnh giáo Giang Nam tứ hữu ở Hàng Châu. Tại hạ quy ẩn đã lâu, lòng nghĩ chưa chắc được gặp Giang Nam tứ hữu nhưng nếu có thể gặp được hai vị Nhất tự điện kiếm và Ngũ lộ thần thì coi như không uổng chuyến đi cho nên mới đồng ý đến Hàng Châu một chuyến. Tả sư điệt nói: nếu Tả sư điệt đích thân đến chỉ sợ bốn vị tiền bối không chịu tiếp kiến vì mấy năm gần đây trên giang hồ hắn làm nhiều chuyện thái quá, e rằng các tiền bối coi thường hắn. Còn tại hạ lâu nay ít đi ra ngoài, nói không chừng được các vị chiếu cố. Ha ha, ha ha!

Hai lão Đinh, Thi nghe Hướng Vấn Thiên đã tâng bốc Giang Nam tứ hữu lại còn đề cao hai người mình nên rất cao hứng, cùng cười bồi theo mấy tiếng. Họ thấy cái tướng mập, cái đầu láng bóng của Hướng Vấn Thiên tuy khó ưa nhưng lời nói cử chỉ tỏ ra rất có phong độ , xác thực lão không phải là nhân vật tầm thường. Lão đã là sư thúc của Tả Lãnh Thiền võ công tất nhiên rất cao, trong lòng hai lão cũng đã có mấy phần kính nể.

Thi Lệnh Oai đã quyết định đi vào bẩm báo, lão quay sang Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Vị này là môn hạ của phái Hoa Sơn ư?

Hướng Vấn Thiên cướp lời nói:

– Vị này là Phong huynh đệ, sư thúc của Nhạc Bất Quần, đương kim chưởng môn phái Hoa Sơn.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói liều như vậy, hắn đã sớm đoán được lão muốn đặt cho mình một cái tên và một thân phận nhưng hắn không ngờ rằng lão lại nói mình là sư thúc của sư phụ. Tuy Lệnh Hồ Xung không màng đến mọi chuyện nữa nhưng nếu hắn mạo nhận là trưởng bối của ân sư thì trong lòng rất áy náy. Hắn không khỏi giật mình, may mà trên mặt hắn đã trét một lớp phấn dày nên vẻ khích động không bị lộ ra ngoài chút nào.

Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai liếc nhìn nhau, lòng đều có chút hoài nghi:

– Vị này tuy không biết bao nhiêu tuổi nhưng có lẽ không quá bốn mươi, sao có thể là sư thúc của Nhạc Bất Quần được?

Hướng Vấn Thiên tuy đã trang điểm diện mạo cho Lệnh Hồ Xung già đi rất nhiều nhưng lại khó hóa trang cho hắn thành một lão già, nếu hóa trang thêm nữa thì không khỏi bị lộ tẩy. Lão liền tiếp lời nói:

– Vị Phong huynh đệ này so với Nhạc Bất Quần thì vẫn còn ít tuổi, nhưng là truyền nhân duy nhất về Độc Cô kiếm pháp của Phong sư huynh Phong Thanh Dương, kiếm thuật tinh thâm, trong phái Hoa Sơn ít ai bì kịp.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi: Tại sao Hướng đại ca biết mình là truyền nhân của Phong thái sư thúc tổ?

Nhưng chàng liền hiểu ra: Kiếm pháp của Phong thái sư thúc tổ tuyệt diệu như vậy, năm xưa nhất định uy chấn giang hồ. Hướng đại ca kiến thức bất phàm, sau khi thấy kiếm pháp của mình thì tự suy luận ra được. Phương Sinh đại sư đã nhìn ra được thì tất nhiên Hướng đại ca cũng nhìn ra được.

Đinh Kiên ồ lên một tiếng. Lão là danh gia sử kiếm, nghe nói kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung tinh thông, lão cảm thấy ngứa nghề, nhưng thấy người này da mặt vàng vọt, sưng húp, tướng mạo bần tiện, thật chẳng giống là một người tinh thông kiếm pháp chút nào. Lão bèn hỏi:

– Không biết phải xưng hô đại danh hai vị thế nào?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ họ Đồng tên gọi là Đồng Hóa Kim, vị Phong huynh đệ này có đại danh là Phong Nhị Trung.

Hai lão Đinh, Thi đều cung tay nói:

– Ngưỡng mộ, ngưỡng mộ!

Hướng Vấn Thiên cười thầm. Lão tự xưng là Đồng Hóa Kim có ý nói đồng mà hóa thành vàng tức là đồ giả. Còn hai chữ “Nhị Trung” tức là chữ Xung tách rời ra. Trong võ lâm làm gì có hai người này, vậy mà hai lão này lại nói “ngưỡng mộ, ngưỡng mộ”, không biết ngưỡng mộ cái gì?

Đinh Kiên nói:

– Mời hai vị vào sảnh dùng trà, đợi tại hạ đi bẩm báo với tệ chủ nhân. Còn các vị lão gia có chịu tiếp kiến hay không cũng khó mà nói được.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Hai vị và Giang Nam tứ hữu tuy là chủ tớ mà tình chẳng khác gì huynh đệ, nên chắc bốn vị tiền bối sẽ nể mặt hai vị.

Đinh Kiên mỉm cười nép qua một bên. Hướng Vấn Thiên liền bước vào trong, Lệnh Hồ Xung đi theo sau.

Đi qua một cái sân lớn, hai bên tả hữu có trồng hai cây mai già, cành cứng như sắt, đúng là lão mai. Đến đại sảnh, Thi Lệnh Oai mời hai người ngồi còn lão đứng một bên bồi tiếp, Đinh Kiên vào trong bẩm báo.

Hướng Vấn Thiên thấy Thi Lệnh Oai đứng mà mình lại ngồi thì không khỏi bất bình cho lão, nhưng ở trong Mai trang thân phận lão là nô bộc nên không thể mời lão cùng ngồi, bèn nói:

– Phong huynh đệ, Phong huynh đệ xem bức họa này tuy chỉ có vài nét sơ sài mà khí thế thể hiện thật bất phàm.

Hướng Vấn Thiên vừa nói vừa đứng dậy đi đến trước bức họa treo ở đại trung đường trong sảnh.

Lệnh Hồ Xung và lão đồng hành nhiều ngày rồi nên biết lão tuy thông minh cơ trí vô cùng nhưng đối với văn mặc thư họa lão chẳng biết gì cả. Lúc này bỗng nghe lão tấm tắc khen bức họa, biết ngay lão đang có thâm ý khác. Chàng liền dạ một tiếng rồi đi đến trước bức họa. Bức họa vẽ một tiên nhân quay lưng ra, nét mực tràn trề, bút lực hùng tráng, tuy Lệnh Hồ Xung không hiểu về thư họa nhưng cũng biết xác thực đây là bức họa dùng lực tác thành. Lại thấy phía trên bức họa có đề tám chữ “Đan Thanh sinh đại túy hậu pháp mặc”, bút pháp nghiêm mật, từng nét cứng cỏi như nét khắc họa của trường kiếm. Lệnh Hồ Xung xem một lúc nói:

– Đồng huynh, tiểu đệ thấy chữ “Túy” trên bức họa này thì vô cùng thích thú. Trong mấy chữ đề trên bức họa dường như ẩn chứa một bộ kiếm thuật cực kỳ cao minh.

Lệnh Hồ Xung thấy bút pháp của tám chữ này và thủ thế y chiết của tiên nhân trong bức họa, bỗng nghĩ đến kiếm pháp khắc trên vách đá trong hậu động trên ngọn núi sám hối.

Hướng Vấn Thiên chưa trả lời thì Thi Lệnh Oai đứng sau hai người nói:

– Phong gia quả nhiên là một kiếm thuật danh gia. Tứ trang chủ tệ gia là Đan Thanh lão gia nói: ngày hôm đó, sau khi lão gia say túy lúy đã vẽ bức họa này. Trong lúc vô tình tiên sinh đem kiếm pháp đưa vào thư pháp, đây là kiệt tác đắc ý nhất trong đời lão gia. Sau khi tỉnh rượu, lão gia có muốn vẽ thêm một bức nữa cũng không được. Phong gia lại có thể coi bức họa mà nhìn ra kiếm ý, tứ trang chủ nhất định sẽ coi Phong gia là tri kỷ. Tại hạ đi báo cho lão gia biết.

Lão nói xong liền hớn hở chạy đi.

Hướng Vấn Thiên đằng hắng một tiếng rồi nói:

– Phong huynh đệ, thì ra huynh đệ hiểu được cả thư họa.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu đệ có hiểu gì đâu, chỉ nói bừa vài câu không ngờ lại trúng. Nếu vị Đan Thanh tiên sinh này đàm luận thư họa với tiểu đệ thì tiểu đệ chắc bị lộ tẩy.

Bỗng nghe ngoài cửa có người lớn tiếng nói:

– Hắn xem bức họa của ta mà nhìn ra kiếm pháp ư? Nhãn quan của người này thật hiếm có.

Người này vừa lớn tiếng nói vừa đi vào, râu lão dài đến bụng, tay trái cầm một bát rượu, vẻ mặt say sưa ngây ngất.

Thi Lệnh Oai đi theo sau lão nói:

– Hai vị này là Đồng gia phái Tung Sơn và Phong gia phái Hoa Sơn. Vị này là tứ trang chủ Đan Thanh tiên sinh của Mai trang. Tứ trang chủ, vị Phong gia này vừa thấy nét mực, bút pháp của trang chủ thì nói trong bức họa có ẩn chứa một bộ kiếm thuật cao minh.

Tứ trang chủ Đan Thanh tiên sinh nghiêng mắt say khướt nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc rồi hỏi:

– Các hạ hiểu được thư họa ư? Biết sử kiếm ư?

Hai câu này lão hỏi rất vô lễ.

Lệnh Hồ Xung thấy trong tay lão cầm một cái chén màu xanh biếc, đúng là chén Phỉ thúy, lại ngửi được mùi rượu Lê hoa ở trong chén. Chàng bỗng nhớ tới lời nói của Tổ Thiên Thu trên sông Hoàng Hà, bèn nói:

– Bạch Lạc Thiên ở Hàng Châu lúc cao hứng có thơ rằng: “Hồng tụ chức lăng khoa thị diệp. Thanh kỳ khiết tửu sấn lê hoa”. Uống rượu Lê hoa nên dùng chén Phỉ thúy. Tứ trang chủ quả đúng là một tay uống rượu sành sỏi.

Lệnh Hồ Xung ít đọc sách, cái gì thi từ ca phú hắn chẳng hiểu, nhưng tính vốn thông minh, chỉ cần người khác nói qua thì hắn nhớ nằm lòng ngay. Lúc này hắn nhớ lời Tổ Thiên Thu nên nói ra thôi.

Đan Thanh tiên sinh vừa nghe, lão trố hai mắt lên, bỗng ôm lấy Lệnh Hồ Xung rồi lớn tiếng reo:

– A ha, hảo bằng hữu đến rồi! Nào nào, chúng ta cùng uống ba trăm chén đi. Phong huynh đệ, lão phu hảo tửu, hảo thư, hảo kiếm, nên người ta gọi là tam tuyệt. Trong tam tuyệt, lấy tửu làm đầu, thứ hai là họa, còn kiếm thì sau cùng.

Lệnh Hồ Xung vui mừng thầm nghĩ: Thư họa mình chẳng biết gì hết, mình đến để cầu danh y trị thương, cũng không nên tỉ kiếm động thủ với người ta. Còn việc uống rượu lại là việc chẳng mong.

Lệnh Hồ Xung liền đi theo Đan Thanh tiên sinh vào trong, Hướng Vấn Thiên và Thi Lệnh Oai đi theo sau. Đi qua một dãy hành lang, đến một gian phòng ở đầu mé Tây, vén rèm cửa ra, mùi rượu thơm xông lên nức mũi.

Lệnh Hồ Xung từ nhỏ đã thích rượu, nhưng vì sư phụ sư nương không cho hắn nhiều tiền tiêu xài nên rượu đến thì uống ngay, cũng không cần phân biệt người mời rượu là hạng tốt hay xấu. Từ hôm hắn nghe Lục Trúc Ông ở Lạc Dương tỉ mỉ luận về tửu đạo, lại được lão mời uống nhiều thứ rượu ngon, một là tính khí hợp nhau, hai là được danh sư chỉ điểm. Từ đó về sau, hắn thưởng thức giám định rất tinh, vừa ngửi được hương rượu thì reo lên:

– Hay quá, ở đây có cả rượu Phần lâu năm. Ồ, Bách thảo tửu chỉ e cất được bảy mươi lăm năm, Hầu nhi tửu lại càng hiếm có.

Lệnh Hồ Xung ngửi đến hương Hầu nhi tửu thì chợt nhớ đến Lục sư đệ Lục Đại Hữu, không kìm được lòng chua xót.

Đan Thanh tiên sinh vỗ tay cười, lớn tiếng reo lên:

– Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Phong huynh đệ vừa vào tửu thất của ta thì đã nói đúng tên ba loại rượu quý mà ta cất giấu, thật là một đại danh gia. Tài thật, tài thật!

Hồi 79: Hướng Vân Thiên đưa đồ đánh cược

Lệnh Hồ Xung thấy trong phòng đầy ắp những thứ quý giá, khắp nơi đều là vò rượu, bình rượu, bầu rượu, chén uống rượu, bèn nói:

– Rượu mà tiền bối tàng trữ há đâu chỉ có ba loại mà thôi. Đây là Thiệu Hưng nữ nhi hồng, thứ thượng hạng. Đây là Bồ đào tửu ở Thổ Lỗ Phồn bên Tây Vực, phải bốn lần chưng cất mới được, trên đời này tìm đâu cho thấy.

Đan Thanh vừa kinh ngạc vừa vui mừng, bèn hỏi:

– Rượu Bồ đào bốn lần chưng, bốn lần cất của Thổ Lỗ Phồn được ta niêm kỹ trong thùng gỗ, sao lão đệ cũng đánh hơi ra được vậy?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười, nói:

– Thứ hảo tửu này dù chôn sâu dưới đất mấy trượng cũng không khỏa lấp được mùi hương của nó.

Đan Thanh tiên sinh reo lên:

– Nào nào, chúng ta lại uống thứ rượu Bồ đào bốn lần chưng, bốn lần cất này đi!

Lão bê cái thùng gỗ ở trong góc phòng ra. Thùng gỗ cũ đến nỗi màu gỗ đen sì, trên nắp viết nhiều chữ Tây Vực ngoằn ngoèo, nắp gỗ niêm bằng keo sơn, đóng ấn đỏ rất trịnh trọng. Đan Thanh tiên sinh đưa tay vào nắp gỗ khẽ nạy lên, lập tức hương rượu ngào ngạt tỏa ra khắp nhà.

Thi Lệnh Oai xưa nay không hề uống một giọt rượu nào, khi ngửi mùi rượu sực nức, bất giác lão như ngà ngà say. Đan Thanh tiên sinh vẫy tay cười nói:

– Ngươi đi đi, ngươi đi đi, đừng để say lăn ra ở đây.

Lão bày ba cái chén lên bàn rồi ôm thùng rượu rót vào chén. Thứ rượu này đỏ như máu, lão rót cao hơn miệng chén mà không bị tràn ra giọt nào. Lệnh Hồ Xung khen thầm: Võ công của người này thật tuyệt. Lão bê cái thùng gỗ nặng khoảng một trăm cân, rót rượu vào trong cái chén nhỏ xíu đầy tới hơn miệng mà rượu không bị tràn ra giọt nào. Thật là tuyệt!

Đan Thanh tiên sinh ôm cái thùng bên hông, tay trái cầm chén rượu lên, nói:

– Mời, mời!

Hai mắt lão chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung, để coi vẻ mặt chàng ra sao khi uống rượu. Lệnh Hồ Xung bưng chén rượu uống một nửa, thưởng thức mùi vị, có điều do trét một lớp phấn dày nên sắc mặt vẫn bình thường như không có vẻ gì thích thú lắm. Vẻ mặt Đan Thanh tiên sinh lo âu, dường như lão sợ “tửu trung hành gia” này cảm thấy thùng rượu của lão bình thường, chẳng có gì lạ.

Lệnh Hồ Xung nhắm mắt một lúc mới mở ra nói:

– Kỳ lạ, kỳ lạ!

Đan Thanh tiên sinh hỏi:

– Kỳ lạ cái gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện này thật khó giải thích, vãn bối thật không hiểu.

Cặp mắt Đan Thanh tiên sinh lộ ra vẻ vui mừng, nói:

– Các hạ nói là…

Lệnh Hồ Xung nói:

– Rượu này ở thành Lạc Dương vãn bối chỉ mới được uống qua một lần, tuy rượu cực kỳ ngon nhưng trong rượu lại có vị chua chua. Theo lời một vị tửu quốc tiền bối nói đó là do lúc vận chuyển làm rượu dao động. Rượu Bồ đào của Thổ Lỗ Phồn bốn lần chưng bốn lần cất này dịch chuyển một lần thì làm vị rượu giảm đi. Từ Thổ Lỗ Phồn về đến Hàng Châu không biết có mấy vạn dặm đường nhưng rượu này của tiền bối lại tuyệt không có vị chua. Chuyện này…

Đan Thanh tiên sinh cười ha hả, vô cùng đắc ý nói:

– Đây là bí quyết bất truyền của ta. Ta dùng ba chiêu kiếm pháp để đánh đổi lấy bí quyết của kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ ở Tây Vực. Các hạ có muốn biết không?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Vãn bối được thưởng thức thứ rượu này đã là mãn nguyện lắm rồi, còn bí quyết của tiền bối thì vãn bối không dám hỏi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Uống rượu, uống rượu đi!

Lão lại rót ba chén rượu nữa. Lão thấy Lệnh Hồ Xung không hỏi bí quyết này thì trong lòng ngứa ngáy khó chịu, bèn nói:

– Kỳ thực bí quyết này nói ra thì không hay ho gì, có thể nói không có gì kỳ lạ.

Lệnh Hồ Xung biết mình càng không muốn nghe thì lão lại càng muốn nói, vội cung tay nói:

– Tiền bối dù thế nào cũng đừng nói ra. Ba chiêu kiếm của tiền bối đương nhiên không phải tầm thường. Tiền bối đã trả nó bằng một cái giá đắt mà vãn bối học được một cách dễ dàng thì lòng vô cùng áy náy. Người ta thường nói: Vô công bất thụ lộc…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Các hạ uống rượu với ta, lại nói được lai lịch của những loại rượu này thì là có công lao lớn lắm. Bí quyết này các hạ phải nghe mới được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối được tiền bối tiếp kiến, lại được ban cho rượu ngon thượng hạng. Vãn bối cảm kích vô cùng, sao có thể…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Ta muốn nói, các hạ phải nghe mới được.

Hướng Vấn Thiên khuyên:

– Tứ trang chủ có hảo ý, Phong huynh đệ không nên từ chối.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, đúng vậy!

Lão cười híp mắt nói:

– Ta muốn khảo nghiệm các hạ, các hạ có biết rượu này cất được bao nhiêu năm rồi?

Lệnh Hồ Xung bưng chén rượu uống cạn, phân biệt vị rượu, hồi lâu mới nói:

– Rượu này còn có điểm kỳ lạ, dường như cất khoảng một trăm hai mươi năm, nhưng giống như mới cất có mười hai, mười ba năm. Trong cái mới có cái cũ, trong cái cũ có cái mới; nếu đem nó so sánh với loại rượu ngon bình thường cất hơn một trăm năm thì còn một phong vị khác.

Hướng Vấn Thiên chau mày, thầm nghĩ: Chuyện này có thể bị lộ tẩy. Một trăm hai mươi năm và mười hai, mười ba năm cách nhau hơn một trăm năm, sao có thể đem ra luận chung với nhau được.

Lão sợ Đan Thanh tiên sinh nghe xong sẽ không vui, nhưng thấy Đan Thanh tiên sinh lại cười ha hả, bộ râu dài bị thổi tung lên. Lão cười nói:

– Hảo huynh đệ quả nhiên rất lợi hại. Bí quyết của ta là ở chỗ đó. Ta nói cho huynh đệ biết: kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ ở Tây Vực đã tặng cho ta mười thùng rượu ngon ba lần chưng, ba lần cất của vùng Thổ Lỗ Phồn đã để lâu một trăm hai mươi năm, dùng năm con ngựa Đại Uyển chở đến Hàng Châu. Sau đó ta dựa theo phương pháp cũ mà chưng một lần, cất một lần nữa. Mười thùng rượu ngon này cất lại còn một thùng. Ta bấm ngón tay tính lại đúng là chuyện mười hai năm rưỡi về trước. Thứ rượu ngon này vận chuyển đến quan san vạn lý mà không bị chua, vị rượu trong cũ có mới, trong mới có cũ là vì chỗ đó.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung cùng vỗ tay nói:

– Thì ra là vậy.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Có thể cất thành loại rượu ngon như vậy thì đem mười chiêu kiếm pháp đánh đổi cũng xứng đáng. Tiền bối chỉ lấy ba chiêu kiếm pháp đi đổi là đã chiếm được tiện nghi của thiên hạ rồi.

Đan Thanh tiên sinh càng khoái chí, nói:

– Lão đệ đúng là tri kỷ của ta. Ngày trước, đại ca và tam ca đều oán giận việc ta lấy ba chiêu kiếm đổi lấy rượu, làm cho tuyệt chiêu của Trung Nguyên truyền vào Tây Vực. Tuy nhị ca cười không nói nhưng trong lòng e cũng không vừa ý. Chỉ có lão đệ mới hiểu ta đã chiếm được tiện nghi lớn, chúng ta cùng uống một chén nữa.

Lão thấy Hướng Vấn Thiên rõ ràng không hiểu về tửu đạo, nên chẳng coi lão ra gì.

Lệnh Hồ Xung lại uống một chén nữa rồi nói:

– Tứ trang chủ, rượu này còn có một cách uống khác, đáng tiếc bây giờ không thể làm được.

Đan Thanh tiên sinh vội hỏi:

– Còn cách uống nào nữa? Tại sao làm không được?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Thổ Lỗ Phồn là nơi nóng nhất trong thiên hạ, nghe nói năm xưa Huyền Trang đại sư đến Thiên Trúc thỉnh kinh phải đi qua Hỏa Diệm sơn, là vùng Thổ Lỗ Phồn.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, nơi đó rất nóng. Vừa đến mùa hạ thì suốt ngày người ta phải ngâm mình trong thùng nước lạnh mà vẫn còn thấy nóng; đến mùa đông, vùng này lại lạnh thấu xương. Vì thời tiết như vậy nên trái bồ đào mới khác hẳn những nơi khác.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lúc vãn bối ở trong thành Lạc Dương uống loại rượu này, trời đang mùa đông, vị tửu quốc tiền bối đó lấy một tảng băng lớn đặt bát uống rượu lên. Rượu ngon có hơi lạnh thấm vào, nên có một mùi vị khác. Bây giờ đang đầu hạ, vị lạ của rượu ngon lành lạnh không thể thưởng thức được.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Lúc ta ở Tây Vực không may cũng đúng vào mùa hạ, Mạc Hoa Nhĩ cũng nói qua chuyện lấy băng ướp rượu tạo ra một phong vị tuyệt diệu. Lão đệ, vậy thì dễ quá, lão đệ ở đây với ta hơn nửa năm, đến mùa đông, chúng ta cùng thưởng thức rượu ướp lạnh.

Lão ngừng một lúc rồi chau mày nói:

– Có điều phải chờ lâu như vậy thì thật nóng lòng.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Đáng tiếc một dải Giang Nam không có nhân vật nào luyện Hàn băng chưởng hay Âm phong trảo, thứ công phu thuần âm, nếu không thì…

Lão nói chưa hết lời thì Đan Thanh tiên sinh vui mừng nói:

– Có rồi, có rồi!

Lão nói vậy liền đặt thùng rượu xuống, hối hả chạy đi.

Lệnh Hồ Xung đưa mắt nhìn Hướng Vấn Thiên, lòng đầy nghi ngờ. Hướng Vấn Thiên nín cười không nói. Không bao lâu, Đan Thanh tiên sinh dắt một lão già mặc áo đen, ốm nhom, cao nghệu đi vào, nói:

– Nhị ca, lần này bất luận thế nào cũng phải giúp tiểu đệ.

Lệnh Hồ Xung thấy người này mày thanh mắt sáng, có điều sắc mặt trắng bệch như một cương thi khiến cho ai vừa trông qua cũng cảm thấy ớn lạnh. Đan Thanh tiên sinh dẫn nhị ca vào, thì ra lão là nhị trang chủ Hắc Bạch Tử ở Mai trang. Tóc của lão rất đen mà da thì trắng bạch, quả nhiên là hắc bạch phân minh. Hắc Bạch Tử lạnh lùng nói:

– Giúp cái gì?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Xin nhị ca biểu diễn công phu hóa nước thành băng cho hai vị hảo bằng hữu của tiểu đệ xem một chút.

Hắc Bạch Tử đảo cặp quái nhãn hắc bạch phân minh, lạnh lùng nói:

– Cái tài vặt đó có gì đáng nói đâu, không khéo khiến người ta cười cho.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Nhị ca, không giấu gì nhị ca, Phong huynh đệ này nói rượu Bồ đào ở Thổ Lỗ Phồn dùng băng để ướp lạnh, khi uống vào có vị rất kỳ thú. Trời nóng như vậy thì đi tìm đâu ra băng bây giờ?

Hắc Bạch Tử nói:

– Hương rượu này rất thuần túy, hà tất phải ướp lạnh.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thổ Lỗ Phồn là nơi cực nóng…

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, rất nóng!

Lệnh Hồ Xung nói tiếp:

– Bồ đào mọc ở vùng này tuy ngon nhưng không khỏi có khí nóng thấm vào.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, đó là chuyện đương nhiên.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Khí nóng đó truyền vào trong rượu, để qua một trăm năm tuy đã giảm đi nhiều nhưng vị rượu vẫn còn cay nồng là điều khó tránh khỏi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, đúng lắm! Lão đệ không nói thì ta cứ tưởng là lúc ta chưng rượu để lửa hơi mạnh nên đã trách oan tên nhà bếp rồi.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Cái gì nhà bếp?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Ta chỉ sợ lúc chưng rượu để lửa không đủ làm hỏng hết mười thùng rượu ngon nên lẻn vào hoàng cung ở Bắc Kinh bắt một lão nhà bếp của hoàng đế về cho lão chưng rượu.

Hắc Bạch Tử lắc đầu nói:

– Thực là chuyện bé mà xé ra to.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Thì ra là vậy. Nếu là anh hùng hiệp sĩ bình thường lúc uống thứ rượu này thấy hơi cay một chút chẳng đáng gì. Nhưng nhị trang chủ, tứ trang chủ ẩn cư nơi phong cảnh tuyệt mỹ bên cạnh Tây Hồ, là những bậc thanh cao không giống những người thô kệch trong võ lâm. Rượu này ướp băng cho lạnh một chút để khử đi khí nóng thì mới xứng với thân phận thanh cao của hai vị cao nhân. Ví như đánh cờ, cứ lo những chuyện nhỏ nhặt tìm thế bắt quân mà không nghĩ đến đại cục là hạng bỏ đi.

Hắc Bạch Tử đảo cặp quái nhãn, chụp vai Hướng Vấn Thiên vội hỏi:

– Ngươi cũng biết đánh cờ sao?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bình sinh tại hạ thích nhất là đánh cờ nhưng đáng tiếc tay cờ không cao, nên đã đi khắp Giang Nam, Giang Bắc, Hoàng Hà để sưu tầm kỳ phổ. Ba mươi năm qua, tại hạ nhớ không ít các danh cục từ xưa tới nay.

Hắc Bạch Tử vội hỏi:

– Ngươi nhớ được những danh cục nào?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tỉ như cuộc đấu cờ của Vương Chất gặp tiên trên núi Lạn Kha. Cuộc cờ của Lưu Trọng Phủ đánh với tiên bà trên núi Ly Sơn, cuộc cờ của Vương Tích Tân đấu với Cô Tiên…

Lão nói chưa hết câu thì Hắc Bạch Tử đã lắc đầu lia lịa nói:

– Những thần thoại này làm sao có thể tin được? Làm gì có kỳ phổ thật?

Hắc Bạch Tử nói rồi buông tay ra. Hướng Vấn Thiên nói:

– Lúc đầu tại hạ cũng cho rằng những cố sự này do kẻ hiếu kỳ bịa đặt ra. Nhưng hai mươi lăm năm về trước, tại hạ đã thấy được phổ đồ của cuộc đấu giữa Lưu Trọng Phủ và tiên bà ở núi Ly Sơn. Nước cờ tuyệt diệu, người thường không thể bì được nên tại hạ mới tin những chuyện đó có thực chứ không phải là bịa đặt. Tiền bối cũng thích chơi cờ lắm phải không?

Đan Thanh tiên sinh cười ha hả, bộ râu dài của lão bay phấp phới.

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Sao tiền bối lại cười?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Các hạ hỏi nhị ca của ta có thích đánh cờ không? Ha ha, nhị ca ta có đạo hiệu là Hắc Bạch Tử, các hạ nói xem nhị ca thích hay không thích đánh cờ? Nhị ca mê cờ cũng như ta mê rượu vậy.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ nói bậy, thật là múa rìu qua mắt thợ, xin nhị trang chủ đừng trách.

Hắc Bạch Tử nói:

– Có thật ngươi đã thấy qua đồ phổ cuộc đấu cờ giữa Lưu Trọng Phủ và tiên bà trên núi Ly Sơn không? Ta xem trong bút ký của tiền nhân có ghi lại rằng Lưu Trọng Phủ là quốc thủ đương thời bị đại bại dưới tay của một bà già thôn quê ở chân núi Ly Sơn nên thổ huyết mấy tháng trời. Do vậy, cuộc cờ đó được gọi là “Ẩu huyết phổ”. Chẳng lẽ trên đời này thật có cuộc Ẩu huyết phổ này ư?

Lúc lão vào phòng, vẻ mặt rất lạnh lùng, bây giờ lại rất thân mật.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Hai mươi lăm năm về trước, tại hạ đã từng thấy qua kỳ phổ trong một nhà thế gia ở Thành Đô, Tứ Xuyên. Chỉ vì cuộc cờ này có những nước đi kinh tâm động phách, nên tuy chuyện đã qua hai mươi lăm năm, toàn bộ có một trăm mười hai nước cờ đến hôm nay tại hạ vẫn còn nhớ rõ.

Hắc Bạch Tử nói:

– Tất cả có một trăm mười hai nước ư? Lão huynh thử bày ra cho ta coi. Nào nào, đến kỳ thất của ta để bày cờ đi.

Đan Thanh tiên sinh dang tay cản lại nói:

– Khoan đã. Nhị ca, nhị ca không làm cho tiểu đệ một tảng băng thì tiểu đệ không cho nhị ca đi đâu.

Lão vừa nói vừa bưng một chậu bằng sứ trắng đựng đầy nước đến.

Hắc Bạch Tử thở dài nói:

– Tứ đệ cũng có cái say mê, thôi ta đành chịu vậy.

Lão đưa ngón trỏ của tay phải ra nhúng vào chậu nước. Trong khoảnh khắc, mặt nước nổi lên những bọt khí trắng li ti, không bao lâu quanh miệng chậu đã có một lớp sương trắng. Tiếp theo trên mặt nước kết thành một lớp băng mỏng. Lớp băng kết càng lúc càng dày, trong khoảng thời gian uống cạn một tuần trà, nước trong chậu đều biến thành băng.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung lớn tiếng khen ngợi. Hướng Vấn Thiên nói:

– Công phu Hắc phong chỉ nghe nói thất truyền trong võ lâm đã lâu, thì ra nhị trang chủ…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Đây không phải là Hắc phong chỉ mà là Huyền thiên chỉ, nó cùng với công phu bá đạo Hắc phong chỉ có chỗ sai biệt rất lớn.

Lão vừa nói vừa đem bốn cái chén để lên chậu băng, rót đầy rượu Bồ đào vào chén. Không bao lâu, trên mặt rượu nổi lên những hạt khí trắng li ti. Lệnh Hồ Xung nói:

– Được rồi.

Đan Thanh tiên sinh cầm chén rượu uống một hơi, quả nhiên lão cảm thấy vị rượu vừa đậm vừa ngon, một luồng thanh lương thấm nhập vào tâm phế. Lão lớn tiếng khen:

– Tuyệt diệu! Rượu này ta cất đã ngon, cách bình phẩm rượu của Phong huynh đệ thật cao, băng của nhị ca làm cũng tuyệt. Còn lão huynh?

Lão quay sang Hướng Vấn Thiên nói:

– Lão huynh ngồi bên cạnh lúc tung lúc hứng lại càng tuyệt.

Hắc Bạch Tử cũng cầm bát rượu đưa lên miệng uống nhưng không nói vị rượu ngon hay dở mà kéo tay Hướng Vấn Thiên nói:

– Đi đi! Đi bày cuộc cờ Ẩu huyết phổ của Lưu Trọng Phủ cho ta xem.

Hướng Vấn Thiên kéo tay áo Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ Xung hiểu ý nói:

– Tại hạ cũng đi xem.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Có gì hay đâu mà xem, chi bằng ta với lão đệ ở đây uống rượu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chúng ta vừa uống rượu vừa xem cờ.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền đi theo Hắc Bạch Tử và Hướng Vấn Thiên. Đan Thanh tiên sinh không còn cách nào khác, đành ôm thùng rượu lớn đi vào kỳ thất.

Đó là một gian phòng rất lớn, ngoài cái bàn đá với hai cái ghế mềm ra, không có cái gì khác. Trên cái bàn đá khắc ngang dọc mười chín đường[5], bên cạnh đặt hộp cờ đen và một hộp cờ trắng. Trong kỳ thất ngoài bàn ghế ra, không bày một vật gì khác để người đấu cờ khỏi bị phân tâm.

Hướng Vấn Thiên đi đến trước bàn đá, bày ra bốn thế bình, thượng, khứ, nhập ở bốn góc bàn cờ.

Tiếp theo lão đặt vào vị bình ở điểm lục tam một con cờ trắng, sau đó đặt ở điểm cửu tam một con cờ đen, ở điểm lục ngũ đặt một con cờ trắng, ở điểm cửu ngũ đặt một con cờ trắng. Cứ như vậy lão đặt không nghỉ, dần dần lão đặt càng lúc càng chậm lại.

Lão bày xong, song phương cờ đen, cờ trắng thành thế tỉ đấu kịch liệt, ở giữa không còn một chỗ trống. Hắc Bạch Tử xem đến toát mồ hôi trán.

Lệnh Hồ Xung ngấm ngầm sửng sốt. Chàng thấy vừa rồi lão dùng Huyền thiên chỉ để hóa nước thành băng, thì biết nội lực tu luyện của lão cao cường đến thế nào. Lúc đó lão rất bình thường. Còn đánh cờ chỉ là chuyện nhỏ mà lão nhìn đến toát mồ hôi; có thể thấy lão chẳng quan tâm chuyện gì khác để khỏi loạn thần trí. Lão này say mê cờ đến nỗi trở thành điên khùng, chắc Hướng Vấn Thiên đã tìm được nhược điểm của lão mà tấn công.

Hắc Bạch Tử thấy Hướng Vấn Thiên đi xong nước cờ thứ sáu mươi sáu thì một lúc sau không đi thêm nước cờ nào nữa. Không nhịn được, lão hỏi:

– Nước kế tiếp đi thế nào?

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Đây là nước cờ then chốt, theo cao kiến của nhị trang chủ thì nên đi thế nào?

Hắc Bạch Tử suy nghĩ hồi lâu, trầm ngâm nói:

– Nước cờ này ư? Bỏ thì không ổn, liên cũng không phải, xông ra thì không được, làm cho sống cũng không xong. Cái này… cái này… cái này…

Lão cầm một con cờ trắng gõ lách cách lên bàn đá, qua khoảng thời gian một bữa ăn, không biết đi nước nào. Lúc này Đan Thanh tiên sinh và Lệnh Hồ Xung đã uống mười bảy, mười tám chén rượu Bồ đào.

Đan Thanh tiên sinh thấy sắc mặt của Hắc Bạch Tử càng lúc càng xanh mét, lão nói:

– Đồng lão huynh, Ẩu huyết phổ này chẳng lẽ Đồng huynh muốn nhị ca của ta phải thổ huyết mới được ư? Nước cờ kế tiếp ra sao, lão huynh thẳng thắn nói ra thôi.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Được! Nước cờ thứ sáu mươi bảy đặt ở chỗ này.

Nói rồi lão đặt con cờ xuống điểm thất tứ ở thượng bộ. Hắc Bạch Tử vỗ bốp một cái vào đùi, reo lên:

– Hay quá, con cờ này đặt ở đây thật là tuyệt diệu!

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nhị trang chủ thử nghĩ xem.

Hắc Bạch Tử suy nghĩ rất lâu, cảm thấy ván cờ sắp bại, khó lòng cứu vãn, bèn lắc đầu nói:

– Đã là tiên thì hàng phàm phu tục tử như ta sao nghĩ ra được? Đồng huynh đừng thử thách nữa.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Nước cờ này thần cơ diệu toán, thật chỉ có thần tiên mới nghĩ ra được.

Hắc Bạch Tử là người giỏi đánh cờ cũng là người biết dò xét tâm ý của đối phương một cách rất tinh vi. Lão thấy Hướng Vấn Thiên không chịu nói huỵch toẹt ra nước cờ này khiến cho lão cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, nghĩ rằng Hướng Vấn Thiên chắc là có đòi hỏi gì đó, bèn nói:

– Đồng huynh, Đồng huynh cứ đem thế cờ này nói ta cho ta nghe, ta cũng không nghe chùa của Đồng huynh đâu.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chẳng lẽ Hướng đại ca biết thần công Huyền thiên chỉ của nhị trang chủ có thể trị được bệnh cho ta nên mới bày chuyện để cầu xin lão?

Hướng Vấn Thiên ngẩng đầu lên cười ha hả, nói:

– Tại hạ và Phong huynh đệ tuyệt không có yêu cầu gì đối với bốn vị trang chủ. Nhị trang chủ nói như vậy là coi thường bọn tại hạ rồi.

Hắc Bạch Tử xá dài nói:

– Tại hạ lỡ lời, xin miễn thứ.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung trả lễ. Hướng Vấn Thiên nói:

– Bọn tại hạ đến Mai trang là muốn đánh cuộc với bốn vị trang chủ.

Hắc Bạch Tử và Đan Thanh tiên sinh cùng hỏi:

– Đánh cuộc ư? Đánh cuộc cái gì?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ đánh cuộc trong Mai trang không ai có thể thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ đây.

Hắc Bạch Tử và Đan Thanh tiên sinh quay qua nhìn Lệnh Hồ Xung, vẻ mặt của Hắc Bạch Tử thản nhiên, không nói gì. Đan Thanh tiên sinh thì cười ha hả nói:

– Đặt cược thế nào?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nếu bọn tại hạ thua thì bức họa này xin tặng cho tứ trang chủ.

Lão nói rồi cởi cái bao cột trên lưng xuống, mở ra. Bên trong có hai cuộn tròn. Lão mở một cuộn ra thì là một bức họa rất cũ, trên góc trái bức họa đề mười chữ “Bắc Tống Phạm Trung Lập khê sơn hành lữ đồ”. Bức họa vẽ một ngọn núi cao ngất trời, nét mực đen thẫm, khí thế rất hùng vĩ. Tuy Lệnh Hồ Xung không hiểu về thư họa song cũng biết bức họa sơn thủy này thật là một tuyệt tác; ngọn núi cao chót vót rậm rạp tuy chỉ được vẽ trên giấy cũng khiến cho người xem cảm thấy ngưỡng mộ, bất giác không tự chủ được.

Đan Thanh tiên sinh reo lên:

– Úi chà!

Hai mắt lão nhìn vào bức họa không chớp. Một lúc sau, lão mới nói:

– Đây là chân tích của Phạm Khoan đời Bắc Tống. Lão… lão… có được từ đâu vậy?

Hướng Vấn Thiên mỉm cười không đáp, từ từ cuộn bức họa lại. Đan Thanh tiên sinh nói:

– Khoan đã!

Lão đưa tay kéo tay Hướng Vấn Thiên muốn cản không cho Hướng Vấn Thiên cuốn lại. Nào ngờ bàn tay lão vừa đụng vào tay Hướng Vấn Thiên thì một luồng nội lực ôn hòa nhưng hùng hậu phát sinh làm cánh tay của lão bị đẩy nhẹ ra.

Hướng Vấn Thiên vờ như không biết gì, tiếp tục cuộn bức họa lại. Đan Thanh tiên sinh cảm thấy sửng sốt. Vừa rồi, lão đụng đến tay của Hướng Vấn Thiên, sợ làm rách bức họa nên chưa dùng nội lực nhưng Hướng Vấn Thiên vận nội kình hất tay lão ra như vậy, rõ ràng nội lực của Hướng Vấn Thiên vào hàng thượng thừa. Lão ngấm ngầm khâm phục, nói:

– Lão Đồng, thì ra võ công của lão Đồng tuyệt diệu như vậy, chỉ e không thua gì tứ trang chủ ta.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tứ trang chủ nói đùa. Ngoài kiếm pháp ra, môn công phu nào của bốn vị trang chủ Mai trang đều là vô địch đương thời. Đồng Hóa Kim vô danh tiểu tốt này làm sao dám so với tứ trang chủ.

Đan Thanh tiên sinh sa sầm nét mặt nói:

– Tại sao lão nói “Ngoài kiếm pháp ra”? Chẳng lẽ kiếm pháp của ta không bằng kiếm pháp của Phong huynh đệ?

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Nhị vị trang chủ, xin xem bức thư pháp này thế nào?

Lão đem một cuộn khác mở ra. Đây là một bức thảo thư, nét bút tinh xảo như rồng bay phượng múa.

Đan Thanh tiên sinh lấy làm lạ thốt lên:

– Úi chà, úi chà, úi chà!

Lão thốt lên ba tiếng úi chà rồi đột nhiên lớn tiếng gọi:

– Tam ca, tam ca! Cái bảo bối mà tam ca quý như tính mệnh đang ở đây này.

Tiếng lão gọi rất vang dội, làm chấn động cả tường vách cửa sổ, bụi cát ở trên tường rớt xuống. Lão la lên một cách đột ngột khiến Lệnh Hồ Xung không khỏi giật mình.

Từ xa có người hỏi:

– Chuyện gì mà la hoảng vậy?

Đan Thanh tiên sinh lại la lên:

– Tam ca mà không đến xem, người ta cuốn lại thì tam ca hối hận cả đời.

Bên ngoài có người nói:

– Ngươi lại tìm được bức thư pháp giả mạo nào nữa phải không?

Rèm cửa vén ra, một người đi vào. Người này mập lùn, cái đầu hói bóng lưỡng không có một cọng tóc nào, tay phải cầm một cây bút lớn, quần áo dính đầy vết mực. Lão đi đến gần vừa nhìn qua, bỗng hai mắt trợn ngược lên, hơi thở dồn dập, run run nói:

– Đây… đây là chân tích! Đúng là… đúng là Suất ý thiếp của Trương Húc đời Đường… Không… không giả được.

Thảo thư trên tấm thiếp múa lượn giống như một tay cao thủ võ lâm triển khai khinh công, lên cao rồi xuống thấp, tuy hành động thần tốc nhưng không làm mất đi sự phong lưu tao nhã. Trong mười chữ này, Lệnh Hồ Xung không đọc được chữ nào, nhưng thấy phía dưới thiếp viết đầy tên người đề tặng, không ít người có quan hàm rất cao, hắn đoán chừng tấm thiếp này không phải tầm thường.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Vị này là tam ca Ngốc Bút Ông của ta. Tam ca lấy ngoại hiệu này vì tính tam ca rất mê thư pháp, tam ca viết cùn hết hàng trăm ngàn cây bút chứ không phải vì đầu tam ca nhẵn bóng. Điểm này các vị chớ nhầm lẫn.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười đáp dạ.

Ngốc Bút Ông đưa ngón trỏ tay phải vẽ trong không khí nét móc lên thuận theo đường bút họa trên thiếp, vẻ mặt say sưa ngây ngất không để ý gì đến Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung. Ngay cả Đan Thanh tiên sinh nói gì lão cũng bỏ ngoài tai.

Trong lúc đó Lệnh Hồ Xung đột nhiên chấn động đầu óc. Chàng nghĩ: Hướng đại ca bày chuyện này chỉ e đã có âm mưu từ trước. Nhớ lần đầu mình gặp đại ca ở trong lương đình thì trên lưng đại ca đã có bao này rồi.

Nhưng Lệnh Hồ Xung chuyển đổi ý nghĩ: Trong cái bao lúc đó chưa chắc có đựng hai cuộn tròn này. Nói không chừng vì Hướng đại ca đến cầu bốn vị trang chủ của Mai trang trị bệnh cho ta, lúc ta nghỉ ngơi trong khách điếm, đại ca đã đi ra ngoài mua hoặc là ăn trộm về. Hừ, chắc là ăn trộm thì đúng hơn, báu vật vô giá như vậy dễ gì mua được?

Tai chàng nghe Ngốc Bút Ông vẽ chữ trong không khí, chỉ phong phát ra tiếng veo véo nho nhỏ, nội lực của lão thật mạnh, chẳng thua kém gì Hắc Bạch Tử . Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nội thương của ta là vì Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng mà ra, mà nội công của ba vị trang chủ Mai trang dường như mạnh hơn cả Đào Cốc lục tiên và Bất Giới đại sư. Còn vị đại trang chủ không chừng càng lợi hại hơn nữa. Thêm vào nội lực của Hướng đại ca, năm người hợp lại thì có thể trị thương cho ta. Nhưng chỉ mong bọn họ đừng phí công nhiều mới được.

Hướng Vấn Thiên không đợi Ngốc Bút Ông viết xong, đã cuộn bức thiếp thư lại, cho vào bao.

Ngốc Bút Ông sửng sốt nhìn Hướng Vấn Thiên, một lúc sau mới nói:

– Lão huynh đổi cái gì?

Hướng Vấn Thiên lắc lắc đầu nói:

– Cái gì cũng không thể đổi được.

Ngốc Bút Ông nói:

– Hai mươi tám chiêu Thạch cổ đả huyệt bút pháp được không?

Hắc Bạch Tử và Đan Thanh tiên sinh cùng la lên:

– Không được!

Ngốc Bút Ông nói:

– Được chứ, tại sao không được? Có thể đổi lấy được chân tích bức thảo thư của Trương Húc thì Thạch cổ đả huyệt bút pháp của ta đâu có gì phải tiếc?

Hướng Vấn Thiên lắc đầu nói:

– Không được!

Ngốc Bút Ông sốt ruột hỏi:

– Vậy tại sao huynh lại đem đến cho ta xem?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Dù tại hạ không phải nhưng tam trang chủ cứ coi như chưa từng xem qua là được.

Ngốc Bút Ông nói:

– Đã xem qua rồi, làm sao có thể cho rằng chưa từng xem qua?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tam trang chủ muốn có được bức chân tích của Trương Húc này cũng đâu có khó, chỉ cần đánh cược với bọn tại hạ.

Ngốc Bút Ông vội hỏi:

– Đánh cược thế nào?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Tam ca, người này hơi khùng khùng điên điên. Lão đánh cược trong Mai trang chúng ta không ai có thể thắng được kiếm pháp của vị Phong bằng hữu phái Hoa Sơn này.

Ngốc Bút Ông hỏi:

– Nếu có người thắng được vị bằng hữu này thì sao?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Nếu trong Mai trang bất luận vị nào thắng được trường kiếm trong tay Phong huynh đệ của tại hạ thì tại hạ sẽ đem bức Suất ý thiếp chân tích của Trương Húc phụng tặng tam trang chủ, đem bức Khê sơn hành lữ đồ chân tích của Phạm Khoan phụng tặng tứ trang chủ, đem hai mươi danh cục cờ vây của thần tiên quỷ quái mà tại hạ thuộc nằm lòng nhất nhất viết ra để tặng cho nhị trang chủ.

Ngốc Bút Ông nói:

– Còn đại ca của bọn ta thì sao? Lão huynh sẽ tặng đại ca ta cái gì?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ có một bộ cầm phổ “Quảng Lăng tán”, không chừng đại trang chủ…

Hướng Vấn Thiên chưa nói hết lời thì bọn Hắc Bạch Tử ba người cùng thốt lên:

– “Quảng Lăng tán” ư?

Lệnh Hồ Xung cũng giật mình: Cầm phổ “Quảng Lăng tán” này là do Khúc trưởng lão quật mộ cổ mà có được. Lão đem khúc cầm phổ này đưa vào khúc “Tiếu ngạo giang hồ”, sao Hướng đại ca lại có nó?

Lệnh Hồ Xung liền hiểu ra: Hướng đại ca là tả sứ của Ma giáo mà Khúc trưởng lão là trưởng lão trong Ma giáo, chắc hai người có mối giao hảo. Sau khi Khúc trưởng lão được bộ cầm phổ này thì vui mừng khôn xiết nên nói với Hướng đại ca. Hướng đại ca muốn mượn để sao chép, tất nhiên Khúc trưởng lão đồng ý.

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến khúc phổ của người đã mất, bất giác thở dài. Ngốc Bút Ông lắc đầu nói:

– Từ sau khi Kê Khang chết, “Quảng Lăng tán” bị thất truyền. Đồng huynh nói vậy chắc để lừa dối người.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Tại hạ có một vị bằng hữu thâm giao mê đàn đến hóa điên. Lão nói sau khi Kê Khang chết thì từ đó thiên hạ không còn nghe khúc “Quảng Lăng tán”. Bộ cầm phổ này sau đời Tây Tấn thì không còn nữa, nhưng trước đời Tây Tấn thì sao?

Bọn Ngốc Bút Ông ba người sửng sốt nhìn nhau, nhất thời không hiểu ý Hướng Vấn Thiên muốn nói gì. Hướng Vấn Thiên nói tiếp:

– Vị bằng hữu này của tại hạ thông minh hơn người, dám to gan làm càn. Lão đi quật mộ của các danh nhân gảy đàn trước đời Tấn. Quả nhiên người có chí thì việc hoàn thành, sau khi lão quật mấy chục ngôi mộ cổ, cuối cùng tìm được trong ngôi mộ cổ của Thái Ung đời Đông Hán khúc phổ này.

Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đều giật mình ồ lên một tiếng. Hắc Bạch Tử gật đầu nói:

– Trí dũng song toàn, thật tuyệt!

Hướng Vấn Thiên mở bao lấy một cuốn sách, trên bìa sách viết năm chữ “Quảng Lăng tán cầm khúc”. Lão giở sách ra, quả là cầm phổ. Lão đưa cuốn sách cho Lệnh Hồ Xung rồi nói:

– Phong huynh đệ, trong Mai trang nếu có vị cao nhân nào thắng được kiếm pháp của huynh đệ thì huynh đệ đem cầm phổ này tặng cho đại trang chủ.

Lệnh Hồ Xung nhận sách, bỏ vào trong túi, thầm nghĩ: Nói không chừng đây là di vật của Khúc trưởng lão. Khúc trưởng lão đã chết, Hướng đại ca muốn lấy quyển cầm phổ này thì đâu có khó gì?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Vị Phong huynh đệ này tinh thông tửu lý, kiếm pháp chắc cũng cao minh nhưng tuổi của Phong huynh đệ còn trẻ, chẳng lẽ trong Mai trang ta, hì hì… hì hì, thật là nực cười.

Hắc Bạch Tử nói:

– Nếu trong Mai trang ta quả nhiên không ai có thể thắng được Phong thiếu hiệp thì bọn ta phải thua cuộc cái gì?

Lệnh Hồ Xung và Hướng Vấn Thiên đều có giao ước trước mọi chuyện phải theo sự sắp đặt của lão. Nhưng sự việc diễn biến đến thế này, chàng cảm thấy Hướng Vấn Thiên làm hơi thái quá, đã đến cầu danh y sao lại cuồng vọng coi nhẹ đối phương? Huống hồ nội lực của mình đã mất hết, làm sao có thể là đối thủ của những cao nhân trong Mai trang được? Lệnh Hồ Xung nói:

– Đồng đại ca thích nói đùa. Kẻ hèn này thuộc hàng hậu bối, học chưa đến nơi, sao dám giảng võ luận kiếm với các vị trang chủ ở Mai trang?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Mấy câu khách khí này Phong huynh đệ đương nhiên phải nói, nếu không người ta sẽ cho rằng Phong huynh đệ là kẻ cuồng vọng tự đại.

Dường như Ngốc Bút Ông chẳng để tai nghe hai người nói, lão lẩm bẩm ngâm: “Trương Húc tam bôi thảo thánh truyền. Thoát mạo lộ đỉnh vương công tiền. Huy hào lạc chỉ như vân yến”. Nhị ca, Trương Húc hiệu xưng là Thảo thánh, là thánh của môn chữ thảo, nhưng ba câu thơ này là của Đỗ Phủ trong bài “Ẩm trung bát tiên ca” viết về Trương Húc. Người này cũng là một trong Ẩm trung bát tiên. Nhị ca xem Suất ý thiếp này có tưởng tượng ra tình cảnh năm xưa lúc lão say rượu hạ bút. Ôi, thật là thiên mã hành không, không có dây cương để dừng lại. Chữ đẹp, chữ đẹp quá!

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, người này mê uống rượu thì dĩ nhiên là một đại hảo nhân, nên chữ viết đương nhiên không chê vào đâu được.

Ngốc Bút Ông nói:

– Hàn Dũ bình phẩm về Trương Húc rằng: “Hỷ nộ bần cùng, ưu bị sảng khoái, oán hận nhớ thương, say sưa túy lúy. Lòng động nỗi bất bình, đem phác cả thành chữ thảo”. Vị công chính này là người cùng làng với ta, hễ lòng có chuyện bất bình thì phác cả vào chữ thảo, giống như vung kiếm múa trượng há chẳng khoái ư?

Lão đưa ngón tay lên, lại viết trong không khí, lão viết được mấy nét thì nói với Hướng Vấn Thiên:

– Này, lão huynh mở ra cho ta xem chút nữa đi.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu cười nói:

– Sau khi tam trang chủ thủ thắng thì tấm thiếp này là của tam trang chủ. Bây giờ hà tất phải sốt ruột?

Hắc Bạch Tử giỏi về đánh cờ, trầm ngâm suy nghĩ đắn đo mãi, không nghĩ thắng mà lo bại trước, lại hỏi:

– Nếu trong Mai trang không ai thắng được kiếm pháp của Phong thiếu hiệp thì bọn ta phải thua cái gì?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bọn tại hạ không cầu chuyện gì, cũng không cầu vật gì. Phong huynh đệ bất quá là tìm đến chỗ võ học tuyệt đỉnh thiên hạ này để chứng thực kiếm pháp với các tay cao thủ đương thời. Nếu may mắn thắng được các vị, thì bọn tại hạ quay người đi, cái gì đặt cược ta cũng không cầu.

Hắc Bạch Tử nói:

– Ồ, vị Phong thiếu hiệp này chỉ muốn cầu danh tiếng. Một kiếm liên tục đả bại Giang Nam tứ hữu dĩ nhiên oai danh sẽ chấn động giang hồ.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu nói:

– Nhị trang chủ đoán sai rồi. Hôm nay Mai trang chứng thực kiếm pháp bất luận ai thắng ai bại, nếu có một lời tiết lộ ra ngoài thì tại hạ và Phong huynh đệ sẽ bị trời tru đất diệt, là hạng người không bằng cứt chó.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Được, được! Nói thật là hay! Căn phòng này rất rộng, ta và Phong huynh đệ thử tỉ hoạch mấy chiêu. Phong huynh đệ, kiếm của Phong huynh đệ đâu?

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Đến Mai trang, sao dám mang binh khí?

Đan Thanh tiên sinh lớn tiếng gọi:

– Đem hai thanh kiếm ra đây!

Bên ngoài có người đáp dạ. Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai mỗi lão cầm một thanh kiếm đi đến trước mặt Đan Thanh tiên sinh cúi người dâng lên. Đan Thanh tiên sinh nhận kiếm từ tay Đinh Kiên, nói:

– Đưa thanh kiếm này cho Phong huynh đệ.

Thi Lệnh Oai đáp dạ, rồi hai tay cầm kiếm đi đến trước mặt Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy lúng túng trước chuyện này, chàng quay đầu nhìn Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Kiếm pháp thần thông của tứ trang chủ Mai trang, Phong huynh đệ chỉ cần học được một chiêu nửa thức thì có thể thụ dụng bất tận cả đời.

Lệnh Hồ Xung đứng trước tình thế này, biết không thể từ chối trận tỉ kiếm, đành phải cúi người, hai tay nhận lấy trường kiếm.

Hắc Bạch Tử bỗng nói:

– Tứ đệ khoan đã. Vị Đồng huynh này đánh cược là bất kỳ ai trong Mai trang chúng ta thắng được Phong huynh, Đinh Kiên cũng biết sử kiếm mà lão cũng là người trong Mai trang, nên đâu cần nhất định tứ đệ phải đích thân ra tay.

Lão càng nghe Hướng Vấn Thiên nói có vẻ chắc chắn thắng thì lão càng cảm thấy chuyện này không ổn, liền quyết định để Đinh Kiên ra tay thử chiêu trước. Lão nghĩ kiếm pháp của Đinh Kiên cũng tuyệt diệu mà thân phận chỉ là gia nhân của Mai trang, dù thua cũng không làm tổn thương oai danh của Mai trang. Chỉ cần lão ra một chiêu thì có thể biết được thực hư trong kiếm pháp của gã Phong Nhị Trung này.

Hồi 80: Lệnh Hồ Xung đả bại Đan Thanh

Hướng Vấn Thiên nói:

– Phải, phải. Chỉ cần có người trong Mai trang thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ tại hạ thì coi như bọn tại hạ đã thua, không nhất định là đích thân tứ trang chủ ra tay. Vị Đinh huynh này được người trên giang hồ gọi là Nhất tự điện kiếm, kiếm chiêu rất nhanh, thế gian hiếm thấy. Phong huynh đệ, trước tiên huynh đệ hãy lĩnh giáo chữ “Điện” trong kiếm pháp của Đinh huynh này là được rồi.

Đan Thanh tiên sinh ném trường kiếm qua Đinh Kiên rồi cười nói:

– Nếu ngươi thua, ta phạt ngươi đi Thổ Lỗ Phồn vận chuyển rượu về đấy.

Đinh Kiên khom người nhận kiếm bay đến. Lão quay sang nói với Lệnh Hồ Xung:

– Đinh mỗ xin lĩnh giáo kiếm pháp của Phong gia.

Soạt một tiếng, Đinh Kiên rút trường kiếm ra. Lệnh Hồ Xung cũng rút trường kiếm ra khỏi vỏ, đặt vỏ kiếm lên trên bàn đá. Hướng Vấn Thiên nói:

– Ba vị trang chủ và Đinh huynh, chúng ta chỉ chứng thực kiếm pháp chứ không tỷ đấu nội lực.

Hắc Bạch Tử nói:

– Vậy ai điểm trúng thì dừng lại.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Phong huynh đệ, Phong huynh đệ không được sử ra một chút nội lực nào hết. Chúng ta tỉ đấu kiếm pháp, người nào có chiêu số tinh thục thì thắng, người ra chiêu số sơ hở thì thua. Khí công của phái Hoa Sơn huynh đệ nổi danh trong võ lâm, nếu huynh đệ dùng nội lực thủ thắng thì coi như chúng ta thua rồi.

Lệnh Hồ Xung cười thầm trong bụng, nghĩ: Hướng đại ca thừa biết ta chẳng có chút nội lực nào. Đây là nói để lừa người ta.

Lệnh Hồ Xung liền nói:

– Nội lực của tiểu đệ mà sử ra thì khiến cho ba vị tiền bối và hai vị huynh đệ Đinh, Thi đây phải cười đến rớt cả răng, đương nhiên tiểu đệ không dám sử ra chút nào đâu.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Chúng ta đến Mai trang với tất cả thành ý, nếu Phong huynh đệ quá khiêm tốn thì đối với bốn vị tiền bối sẽ trở thành bất kính. Tử hà thần công của phái Hoa Sơn huynh đệ còn hơn cả nội công của phái Tung Sơn ta, trong võ lâm ai cũng biết điều đó. Phong huynh đệ, huynh đệ hãy đứng vào trong hai vết chân của ta, hai chân không được di động, để cùng Đinh huynh tỷ thí kiếm chiêu xem sao.

Hướng Vấn Thiên nói xong liền đứng sang một bên. Trên hai miếng gạch xanh hiện ra dấu ấn hai bàn chân, sâu đến hai tấc. Thì ra lúc đang nói, lão đã ngấm ngầm vận nội lực ấn mạnh hai bàn chân xuống nền gạch xanh.

Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút Ông, Đan Thanh tiên sinh cả ba người cùng reo lên:

– Hảo công phu!

Họ thấy Hướng Vấn Thiên nói năng hoạt bát, vẻ mặt bình thản, lão chỉ vận nội lực xuống bàn chân và ấn bàn chân xuống mà không bị sứt mẻ miếng gạch nào, hai vết chân sâu cạn như nhau giống như điêu khắc tỉ mỉ vậy. Nội công kinh người ấy thực là khó ai bì kịp. Bọn Đan Thanh tiên sinh chỉ biết là Hướng Vấn Thiên phô diễn nội công, cách phô trương như vậy tuy không khỏi có chút nông cạn, không phải là hành vi của bậc cao nhân, nhưng thần công kinh người khiến cho người ta khâm phục. Bọn họ không biết Hướng Vấn Thiên còn có một thâm ý khác. Còn Lệnh Hồ Xung đương nhiên là hiểu. Hướng Vấn Thiên tuyên dương nội công của chàng cao hơn so với lão, nội công của lão đã cao thâm như vậy thì dĩ nhiên chàng càng lợi hại hơn, lúc đối phương quá chiêu quyết không dám sử dụng nội lực để khỏi rước nhục vào thân. Vả lại ngoài kiếm pháp ra, những võ công khác của chàng không có gì đáng nói, còn khinh công quyết không phải là sở trường. Hai chân đứng vào vết chân của lão, chỉ triển khai kiếm pháp, cũng là cách che giấu cái sở đoản của mình.

Đinh Kiên nghe Hướng Vấn Thiên bảo Lệnh Hồ Xung đứng hai chân vào vết chân của lão để tỷ kiếm với mình, rõ ràng là có ý coi thường lão, nên lòng lão không khỏi tức giận. Nhưng lão thấy công lực của lão họ Đồng thâm hậu như vậy cũng không khỏi kinh hãi, thầm nghĩ: Bọn này cả gan dám đến khiêu chiến với bốn vị trang chủ, thì dĩ nhiên không phải là hạng tầm thường. Ta chỉ mong đấu với người này giữ được thế quân bình coi như đã lập được công cho Cô Sơn Mai trang rồi vậy.

Năm xưa, lão rất ngông cuồng kiêu ngạo, về sau gặp phải cường địch bức bách lão lâm vào thế sống dở chết dở. May mà được Giang Nam tứ hữu ra tay giải cứu khỏi nơi khốn cùng, lão mới đầu thân vào Mai trang, cam tâm làm đầy tớ, bao nhiêu kiêu ngạo hống hách đều bỏ hết.

Lệnh Hồ Xung bước vào vết chân của Hướng Vấn Thiên, mỉm cười nói:

– Mời Đinh huynh!

Đinh Kiên nói:

– Tại hạ xin thất lễ.

Đinh Kiên vung ngang trường kiếm, véo một tiếng, trước mắt mọi người một đường chớp sáng lướt qua. Tuy lão đã quy ẩn ở Mai trang hơn mười năm nhưng công phu vẫn không thua kém gì năm xưa. Mỗi chiêu Nhất tự điện kiếm xuất ra đều như chớp xẹt ngang trời, khiến cho người nhìn thấy phải kinh tâm động phách. Năm xưa Đinh Kiên bị bại dưới tay Độc hành đại đạo mù lòa chỉ vì đối thủ mù mắt chỉ nghe tiếng động mà nhắm phương hướng, nên chiêu Nhất tự điện kiếm khiến người ta phải khiếp mà lão không thể thi triển ra được. Bây giờ lão đem kiếm pháp này thi triển ra, trong chớp mắt cả gian phòng đều đầy những tia điện quang làm lóa mắt mọi người.

Nhưng Đinh Kiên vừa xuất ra một chiêu Nhất tự điện kiếm thì Lệnh Hồ Xung đã thấy được ba chỗ sơ hở lớn của lão. Đinh Kiên không vội tấn công, lão chỉ vung ngang trường kiếm liên tục giống như là ra vẻ kính lễ với khách nhưng thực ra lão có dụng ý muốn Lệnh Hồ Xung bị lóa mắt, thần trí đờ ra, khó chống đỡ những chiêu sau của lão. Lúc lão sử chiêu thứ năm, Lệnh Hồ Xung đã thấy được mười tám chỗ sơ hở trong kiếm pháp của lão liền nói:

– Tại hạ thật là đắc tội.

Lệnh Hồ Xung phóng trường kiếm chênh chếch ra.

Lúc này Đinh Kiên đang vung kiếm lướt nhanh từ trái qua phải thì mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung chỉ cách cổ tay lão khoảng hai thước sáu, bảy tấc. Thế lướt kiếm này của Đinh Kiên là tự đưa cổ tay của mình đến mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung. Thế kiếm của Đinh Kiên đi quá mạnh nên không cách nào đổi được. Năm người đứng xem không hẹn mà cùng la lên:

– Cẩn thận!

Hắc Bạch Tử đang cầm hai con cờ trong tay, toan ném qua đánh trường kiếm của Lệnh Hồ Xung, để cổ tay của Đinh Kiên không bị chặt đứt, nhưng lão lại nghĩ: Nếu mình ra tay hỗ trợ thì thành thế hai chọi một, Mai trang bị thua trắng rồi, không thể đấu tiếp nữa.

Lúc lão đang chần chừ thì cổ tay của Đinh Kiên đã hướng thẳng vào mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung, Thi Lệnh Oai lớn tiếng la lên:

– Chao ôi!

Trong khoảng thời gian chớp nhoáng này, Lệnh Hồ Xung nhẹ xoay chuyển cổ tay nên mũi kiếm nghiêng lệch qua. Bốp một tiếng, cổ tay của Đinh Kiên đã đánh lên sống kiếm của hắn nên lão không bị tổn thương gì hết. Đinh Kiên ngẩn người ra, biết Lệnh Hồ Xung đã hạ thủ lưu tình. Trong khoảnh khắc này lão nhìn lại bàn tay của mình, nghĩ nếu nó bị chặt đứt thì tàn phế võ công suốt đời, khắp người lão toát mồ hôi lạnh. Lão cúi người nói:

– Đa tạ Phong lão hiệp đã nương tay.

Lệnh Hồ Xung cũng khom người hoàn lễ, nói:

– Không dám! Đa tạ Đinh huynh đã nhường nhịn.

Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh thấy Lệnh Hồ Xung nghiêng mũi kiếm để Đinh Kiên không bị đả thương thì lòng họ đều nẩy ra mối thiện cảm. Đan Thanh tiên sinh rót đầy một chén rượu nói:

– Phong huynh đệ, kiếm pháp của Phong huynh đệ thật tinh kỳ, ta kính huynh đệ một chén.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tại hạ không dám.

Lệnh Hồ Xung liền đón chén rượu uống cạn. Đan Thanh tiên sinh bồi tiếp một chén nữa rồi lại rót đầy rượu vào chén của Lệnh Hồ Xung, nói:

– Phong huynh đệ, tấm lòng nhân hậu của Phong huynh đệ đã bảo toàn được bàn tay của Đinh Kiên. Ta kính huynh đệ một chén nữa.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đó chẳng qua là may mắn, đâu có gì đáng kể?

Lệnh Hồ Xung đưa hai tay bưng chén rượu uống. Đan Thanh tiên sinh lại rót thêm một chén nữa, nói:

– Đây là chén thứ ba, hai chúng ta không ai được uống trước. Ta và huynh đệ cùng đấu chơi, nếu ai thua thì phải uống chén rượu này.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Nếu vậy thì dĩ nhiên tại hạ thua, chi bằng để tại hạ uống trước.

Đan Thanh tiên sinh xua tay nói:

– Đừng vội, đừng vội!

Lão đặt chén rượu lên bàn đá, nhận trường kiếm từ tay của Đinh Kiên nói:

– Phong huynh đệ, huynh đệ xuất chiêu trước đi.

Lúc Lệnh Hồ Xung uống mấy chén rượu, lòng đã tính toán: Lão tự xưng là đệ nhất hảo tửu, đệ nhị hảo họa, đệ tam hảo kiếm, tất nhiên kiếm pháp của lão rất tinh thâm. Ta xem bức tranh tiên nhân mà lão họa treo ở trong đại sảnh, bút pháp rất mạnh mẽ mà dường như có một chút gì đó mình chưa nắm được. Nếu kiếm pháp của lão cũng như vậy thì ta đối phó cũng không khó gì lắm. Lệnh Hồ Xung cúi người nói:

– Tứ trang chủ, xin trang chủ nhẹ tay cho.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong huynh đệ không cần phải khách khí, xuất chiêu đi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Xin tuân mệnh!

Lệnh Hồ Xung đưa trường kiếm lên, vung kiếm nhắm đâm vào đầu vai của Đan Thanh tiên sinh.

Chiêu kiếm này phóng ra thế đi xiêu vẹo rõ ràng không có chút khí lực nào, càng không ra chiêu pháp gì. Kiếm pháp trong thiên hạ quyết không có chiêu nào như vậy. Đan Thanh tiên sinh ngạc nhiên nói:

– Sao kỳ vậy?

Lão đã biết Lệnh Hồ Xung là người phái Hoa Sơn nên trong đầu lão đã hiện lên các đường kiếm pháp của phái Hoa Sơn, nào ngờ Lệnh Hồ Xung xuất ra chiêu này ngoài sự tưởng tượng của lão.

Nó không những không phải là kiếm pháp của phái Hoa Sơn, thậm chí cũng không phải là kiếm pháp nữa.

Lệnh Hồ Xung học kiếm pháp của Phong Thanh Dương, ngoài Độc Cô cửu kiếm độc đáo xưa nay còn lĩnh ngộ được tinh nghĩa trong việc học kiếm là “Lấy vô chiêu thắng hữu chiêu”. Yếu chỉ này và Độc Cô cửu kiếm luôn bổ sung cho nhau. Độc Cô cửu kiếm tinh vi ảo diệu đạt đến cực điểm. Trong từng chiêu từng thức, có thể tìm ra chỗ sơ hở của đối phương, rồi đem kiếm lý “Lấy vô chiêu thắng hữu chiêu” mà vận dụng thêm vào thì chiêu kiếm càng linh hoạt phiêu bồng khiến cho người không biết đường đối phó. Lệnh Hồ Xung chỉ mới xuất một chiêu thì Đan Thanh tiên sinh đã ngẩn người, liền cảm thấy nếu chống đỡ thì thực lão không biết nên chống đỡ ra sao. Lão đành phải lùi ra hai bước né tránh.

Một chiêu của Lệnh Hồ Xung đã bức được Đinh Kiên phải buông kiếm chịu thua, tuy Hắc Bạch Tử và Ngốc Bút Ông đã ngấm ngầm khen kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung nhưng hai lão cũng hơi kiêu ngạo, nghĩ rằng Lệnh Hồ Xung đã dám đến Mai trang khiêu chiến, nếu ngay cả một tên đầy tớ của Mai trang mà đấu cũng không lại tất khiến người ta quá nực cười. Nhưng khi thấy Đan Thanh tiên sinh bị một kiếm của Lệnh Hồ Xung bức bách phải thối lui hai bước thì hai lão không khỏi ngạc nhiên.

Sau khi Đan Thanh tiên sinh lùi lại hai bước liền tiến lên hai bước. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung liền phóng ra, lần này nhắm kiếm đâm vào sườn trái của lão, vẫn thuận tay đâm kiếm ra hoàn toàn không theo chiêu thức nào hết. Đan Thanh tiên sinh quét ngang kiếm toan đỡ nhưng song kiếm chưa giao nhau thì lão liền cảm thấy mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung đã chỉ chênh chếch vào dưới sườn phải của mình. Môn hộ dưới sườn phải của lão là chỗ sơ hở lớn, đối phương mà thừa thế tấn công thì không sao cứu vãn được. Lão không dám gạt, trong lúc nguy cấp liền biến chiêu, đẩy mạnh hai chân nhảy lùi về phía sau hơn một trượng. Lão lớn tiếng khen:

– Hảo kiếm pháp!

Lão không ngừng nghỉ chút nào, vội xông đến, cả người lẫn kiếm nhắm đâm nhanh về hướng Lệnh Hồ Xung, thế rất uy mãnh.

Lệnh Hồ Xung thấy khuỷu tay phải của lão có một chỗ sơ hở rất lớn, liền vung trường kiếm nhắm hớt vào khuỷu tay phải của lão. Nếu Đan Thanh tiên sinh không biến chiêu thì khuỷu tay phải của lão sẽ bị Lệnh Hồ Xung chém trúng. Võ công của lão cũng thật cao cường, trong lúc nguy cấp lão vội trầm cổ tay xuống. Lão đâm trường kiếm xuống đất, mượn thế phóng lộn người ra sau hai trượng. Lúc này, lưng lão cách vách tường không quá mấy tấc, nếu lúc lộn người lão dùng lực quá mạnh thì lưng đã đập vào vách tường, làm mất đi oai phong của một cao nhân. Trong phút chốc, lão đã tránh được nguy hiểm, mặt lão nổi lên sắc đỏ tía.

Lão là người phóng khoáng đầy khí phách, không thẹn hay tức giận mà trái lại còn bật cười ha hả, đưa ngón tay cái lên khen:

– Hảo kiếm pháp!

Lão múa tít trường kiếm xuất ra chiêu Bạch hồng quán nhật, kế tiếp lão biến chiêu Xuân phong dương liễu rồi lại biến chiêu Đằng giao khởi phụng. Ba chiêu kiếm này xuất ra liên tục, dường như không thấy chân lão xê dịch nhưng lúc lão sử ba chiêu kiếm ra, mũi kiếm đã nhắm đến trước mặt Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung liền nhẹ nghiêng kiếm, đánh lên lưng kiếm của lão, phương vị rất chuẩn xác. Trường kiếm của Đan Thanh tiên sinh phóng tới thì bao nhiêu tinh thần khí lực đều tập trung vào mũi kiếm còn trên sống kiếm lại không có chút lực đạo nào. Chỉ nghe keng một tiếng nhẹ, trường kiếm của lão bị đè xuống. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung hất ra rồi chỉ vào ngực lão. Đan Thanh tiên sinh a lên một tiếng, nhảy người né sang bên trái.

Tay trái của lão nắm chặt kiếm quyết, trường kiếm trong tay phải tấn công qua, lần này thế chém của lão rất mạnh. Đang lúc vung kiếm lên cao chém xuống, lão la to:

– Cẩn thận!

Lão cũng không muốn làm tổn thương Lệnh Hồ Xung nhưng thế kiếm Ngọc long đảo huyền rất lợi hại, nếu Lệnh Hồ Xung không tránh kịp thì lão không thu kiếm về kịp, chỉ e lão sẽ chém Lệnh Hồ Xung bị thương thật.

Lệnh Hồ Xung hất trường kiếm lên, choang một tiếng, lưỡi kiếm của chàng đã chênh chếch dính vào lưỡi kiếm của lão. Nếu chiêu kiếm này của Đan Thanh tiên sinh thừa thế chém xuống thì lúc lưỡi kiếm chưa đến đỉnh đầu Lệnh Hồ Xung, năm ngón tay cầm kiếm của lão đã bị Lệnh Hồ Xung chém rớt. Thấy trường kiếm của Lệnh Hồ Xung trượt lên trên lưỡi kiếm của mình, chiêu này lão không thể phá được. Lão đành phải đánh mạnh chưởng trái xuống. Ầm một tiếng, lão vọt người nhảy về phía sau hơn một trượng.

Lão chưa đứng vững đã liên tục vạch trường kiếm ba vòng trước mặt tựa hồ như ba vòng hào quang trắng xóa. Ba vòng ánh quang này giống như vật hữu hình ngừng lại trên không gian một lúc rồi từ từ dịch chuyển đến trước người Lệnh Hồ Xung. Mấy luồng kiếm khí xoay thành vòng tròn, ánh bạch quang dường như không lợi hại bằng Nhất tự điện kiếm nhưng kiếm khí tỏa ra đầy nhà, khí lạnh ào ạt. Lệnh Hồ Xung phóng trường kiếm ra, đâm tạt ngang vào vòng ánh quang từ mé trái. Luồng lực đạo chiêu thứ nhất của Đan Thanh tiên sinh vừa đi qua mà kình lực của chiêu thứ hai chưa phát sinh nên Lệnh Hồ Xung mới tận dụng được chỗ sơ hở này. Đan Thanh tiên sinh la úi chà một tiếng, liền nhảy lùi ra, vòng kiếm quang cũng lùi ra theo lão. Vòng kiếm quang bỗng nhiên co lại rồi trương rộng ra, lại xông về hướng Lệnh Hồ Xung. Cổ tay Lệnh Hồ Xung rung một cái, phóng trường kiếm đâm ra, Đan Thanh tiên sinh lại la úi chà một tiếng rồi vội nhảy lùi ra.

Đan Thanh tiên sinh cứ chợt tiến chợt thoái, lão tấn công càng nhanh thì thoái cũng càng nhanh. Trong khoảnh khắc lão đã tấn công mười một chiêu và lùi mười một lần. Bỗng thấy râu tóc lão dựng đứng, luồng kiếm quang cực mạnh chiếu vào mặt lão khiến mặt lão bao phủ một làn thanh khí. Mấy chục luồng bạch quang lớn nhỏ cùng xông vào Lệnh Hồ Xung. Đây là tuyệt tác về kiếm pháp của lão, lão đem mấy chục chiêu kiếm pháp hợp lại làm một. Mỗi chiêu trong mấy chục chiêu kiếm pháp đều có chỗ tuyệt diệu, mỗi chiêu đều có biến hóa, nên khi mấy chục chiêu hợp lại làm một thì phức tạp vô cùng.

Lệnh Hồ Xung lấy cách đánh đơn giản để chống lại chiêu số phức tạp. Người chùn xuống, chàng hất ngược mũi kiếm từ phía dưới mấy chục vòng bạch quang lên rồi chỉ thẳng vào bụng dưới của Đan Thanh tiên sinh.

Đan Thanh tiên sinh lại la to, lão cố hết sức nhảy lùi ra. Bịch một tiếng, lão ngồi phịch lên bàn đá, tiếp theo nghe mấy tiếng loảng xoảng, mấy cái chén rượu trên bàn bị chấn động rớt hết xuống đất, bể nát vụn ra. Lão cười ha hả nói:

– Tuyệt quá, tuyệt quá! Phong huynh đệ, kiếm pháp của Phong huynh đệ cao hơn ta rất nhiều. Nào, nào! Ta kính huynh đệ ba chén rượu.

Hắc Bạch Tử và Ngốc Bút Ông từng biết kiếm pháp của tứ đệ, trước mắt thấy lão đã tấn công mười sáu chiêu mà hai chân của Lệnh Hồ Xung vẫn không rời khỏi vết chân của Hướng Vấn Thiên, lại bức Đan Thanh tiên sinh phải thối lui đến mười tám lần. Kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung quá cao cường thật khiến cho người khác vừa khiếp sợ vừa khâm phục.

Đan Thanh tiên sinh rót rượu ra cùng uống với Lệnh Hồ Xung ba chén rồi nói:

– Trong Giang Nam tứ hữu thì ta là người có võ công thấp kém nhất, tuy ta chịu thua nhưng nhị ca và tam ca chắc lại không phục. Chắc các vị đều muốn tỉ thí với huynh đệ đó.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hai người chúng ta đã chiết mười mấy chiêu, tứ trang chủ đâu có thua chiêu nào, làm sao nói thắng hay bại được?

Đan Thanh tiên sinh lắc đầu nói:

– Ngay từ chiêu đầu tiên thì ta đã thua rồi, mười bảy chiêu sau đều là thừa. Đại ca nói phong độ của ta không đủ, quả thật không sai chút nào.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Phong độ của tứ trang chủ cực cao, tửu lượng cũng cực cao.

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Đúng, đúng, chúng ta uống rượu nữa.

Trước đây lão rất tự phụ về kiếm thuật của mình. Vậy mà hôm nay lão bị thua dưới tay một kẻ hậu sinh không tiếng tăm nhưng lão không có chút gì tức giận. Tính lão phóng khoáng thoải mái, thật là người có phong độ vào hàng đệ nhất khiến cho Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đều không kìm được sự nể phục.

Ngốc Bút Ông nói với Thi Lệnh Oai:

– Thi quản gia, phiền quản gia đem cây ngốc bút đến cho ta.

Thi Lệnh Oai đáp dạ rồi đi lấy một món binh khí vào, hai tay đưa lên. Lệnh Hồ Xung nhìn thấy đó là cây phán quan bút đúc bằng thép nguyên chất dài một thước sáu tấc. Điều kỳ lạ là ở chỗ trên đầu phán quan bút lại buộc một túm lông cừu dính đầy mực giống như một cây bút để viết chữ to. Cái đầu bút của những cây phán quan bút bình thường dùng để điểm huyệt, nhưng thứ binh khí này của lão lại dùng lông cừu mềm mại làm đầu bút, khi điểm huyệt đạo trên người đối phương thì làm sao có thể khắc địch chế thắng được. Lệnh Hồ Xung nghĩ võ công của lão chắc có gia số khác mà nội lực của lão tất nhiên rất hùng hậu, nội lực vận lên sợi lông cừu cũng có thể đả thương người.

Ngốc Bút Ông cầm cây phán quan bút mỉm cười nói:

– Phong huynh, Phong huynh vẫn để hai chân không rời khỏi vết chân ư?

Lệnh Hồ Xung vội lùi lại hai bước, cúi người nói:

– Không dám. Vãn bối xin thỉnh giáo tiền bối, đâu dám tự cao tự đại.

Đan Thanh tiên sinh gật đầu nói:

– Đúng vậy, huynh đệ đấu kiếm với ta đứng yên một chỗ thì được nhưng tỷ kiếm với tam ca của ta thì không được đâu.

Ngốc Bút Ông giơ phán quan bút lên mỉm cười nói:

– Mấy đường bút pháp này của ta là từ trong bút thiếp danh gia mà biến hóa ra, Phong huynh văn võ song toàn tất nhiên nhìn thấy được bút pháp của ta. Phong huynh là hảo bằng hữu nên ta không tẩm mực vào ngốc bút này.

Lệnh Hồ Xung hơi ngẩn ra, thầm nghĩ: Nếu mình không là hảo bằng hữu của lão thì lão tẩm mực vào bút. Bút tẩm mực để làm gì?

Lệnh Hồ Xung không biết khi Ngốc Bút Ông lâm địch, lão tẩm lên phán quan bút một thứ mực chế bằng dược liệu đặc biệt, sau khi quệt vào da người thì mực thấm sâu vào, vĩnh viễn không rửa sạch, dao cắt cũng không hết. Năm xưa cao thủ trong võ lâm đối địch với Giang Nam tứ hữu, cảm thấy ngán nhất là Ngốc Bút Ông. Nếu không cẩn thận thì bị lão vẽ một cái vòng tròn hoặc gạch chéo lên mặt, thậm chí còn viết lên mặt một hai chữ thì suốt đời không dám nhìn mặt ai. Thà bị ai chém một đao, chặt đứt một cánh tay còn hơn là bị lão quẹt mực vào mặt. Ngốc Bút Ông thấy lúc Lệnh Hồ Xung động thủ với Đinh Kiên và Đan Thanh tiên sinh, chàng xuất kiếm rất nhân nhượng nên lão không tẩm mực vào bút. Tuy Lệnh Hồ Xung không hiểu ý của lão nhưng cũng nghĩ lão đối với mình rất khách khí. Chàng liền cúi người nói:

– Đa tạ thịnh tình của tam trang chủ. Vãn bối chữ nghĩa kém cỏi nên không thể hiểu được bút pháp của tam trang chủ.

Ngốc Bút Ông hơi cảm thấy thất vọng. Lão nói:

– Phong huynh không hiểu thư pháp ư? Thôi được, ta giải thích cho Phong huynh nghe. Bộ bút pháp của ta gọi là Bùi tướng quân thi, từ thư thiếp của Nhan Chân Khanh biến hóa ra, tất cả gồm hai mươi ba chữ, mỗi chữ từ ba chiêu đến mười sáu chiêu không đều nhau. Phong huynh hãy nghe rõ “Bùi tướng quân! Đại quân chế lục hợp. Mãnh tướng thanh cửu cai. Chiến mã như long hổ. Đằng lăng hà tráng tai”.

Hồi 81: Bút Ông, Bạch Tử cũng thua luôn

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đa tạ tiền bối đã chỉ giáo.

Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Bất luận thi từ, thư pháp gì của lão mình cũng cóc hiểu.

Ngốc Bút Ông dựng phán quan bút lên, hướng về má trái của Lệnh Hồ Xung liên tục điểm ba chấm, đúng là ba nét chấm đầu của chữ “Bùi”. Ba điểm này chỉ là hư chiêu. Lão lại giơ bút lên, muốn vạch từ trên xuống dưới. Lệnh Hồ Xung vung trường kiếm ra đâm nhanh vào vai phải của lão để chế ngự tiên cơ. Ngốc Bút Ông bất đắc dĩ phải giơ ngang cây bút để đỡ thì Lệnh Hồ Xung đã rút trường kiếm về rồi. Binh khí của hai người chưa giao nhau, chiêu sử ra đều là hư chiêu, nhưng chiêu thứ nhất trong bút pháp Bùi tướng quân thi của Ngốc Bút Ông chỉ sử được nửa chiêu, không cách nào sử ra hết được. Cây bút của lão đỡ vào khoảng không. Lão liền sử ra chiêu thứ hai. Lệnh Hồ Xung không chờ đầu bút của lão đâm ra, vung trường kiếm tấn công buộc lão phải tự cứu mình. Ngốc Bút Ông hồi bút về đỡ, Lệnh Hồ Xung cũng rút trường kiếm về; chiêu thức thứ hai của Ngốc Bút Ông vẫn chỉ sử ra được nửa chiêu.

Ngốc Bút Ông vừa xuất chiêu thì bị Lệnh Hồ Xung liên tiếp phong tỏa hai chiêu, bộ bút pháp vô cùng đắc ý của lão không sao sử ra được. Lão vô cùng bực bội, giống như một người viết chữ đẹp nhưng vừa để bút lên viết được vài nét thì bị đứa con nít đứng bên cạnh cản bút, kéo cánh tay khiến cho người đó không sao viết xong một chữ. Ngốc Bút Ông thầm nghĩ: Ta lỡ đem nội dung bài thơ “Bùi tướng quân thi” ngâm cho hắn nghe nên hắn biết đường bút của ta mà kìm chế tiên cơ. Từ giờ trở đi, mỗi chiêu ta đánh không theo thứ tự bài thơ nữa.

Lão liền giơ bút lên không, điểm một cái rồi từ góc phải kéo xuống đến chỗ quanh bên góc trái, kình lực của lão sung mãn, đầu bút vẽ chữ “Như” theo lối viết chữ thảo, Lệnh Hồ Xung vung trường kiếm ra nhắm vào sườn phải của lão đâm tới. Ngốc Bút Ông giật mình kinh hãi, vội xoay phán quan bút về để đỡ trường kiếm của chàng. Lệnh Hồ Xung phóng ra chiêu này kỳ thực không phải muốn đâm vào lão mà chỉ bày ra tư thế của chiêu thức thôi. Ngốc Bút Ông lại chỉ sử được nửa chiêu. Trong nét chữ thảo, lão đã tập trung bao nhiêu tinh thần khí lực, bỗng nhiên nửa chừng phải chuyển hướng, không những đường bút bị gián đoạn mà đồng thời nội lực bị đổi hướng nên lão cảm thấy khí huyết trong huyệt Đan điền nhộn nhạo rất khó chịu.

Lão thở mạnh, múa tít phán quan bút toan sử ra chiêu thức của chữ “Đằng” nhưng chỉ sử ra được nửa chiêu thì bị Lệnh Hồ Xung tấn công, lão phải hồi bút về để chiết giải. Ngốc Bút Ông tức giận quát:

– Hảo tiểu tử, chỉ giỏi quấy rối!

Lão sử phán quan bút càng nhanh, nhưng dù lão chuyển dịch, biến hóa thế nào thì bút pháp của mỗi chữ nhiều lắm chỉ viết được hai nét liền bị Lệnh Hồ Xung kìm chế, không cách nào viết được nữa.

Lão quát to một tiếng liền biến hóa bút pháp, không phóng túng như vừa rồi mà tập trung kình lực vào đầu ngọn bút, đường bút phóng ra như tuốt kiếm giương cung, khí thế cực kỳ dũng mãnh. Lệnh Hồ Xung không biết đường bút pháp này của lão là mô phỏng cách viết của Trương Phi, đại tướng đời Thục Hán để viết chữ “Bát mông sơn minh” nhưng Lệnh Hồ Xung cũng nhận thấy đường bút này khác hẳn trước. Chàng mặc kệ cho lão sử chiêu thức gì, cứ thấy phán quan bút của lão vừa nhấc lên thì liền tấn công vào chỗ sơ hở của lão. Ngốc Bút Ông tức quá la oai oái, bất luận lão biến hóa ra sao rốt cuộc cũng chỉ sử được nửa chiêu, không cách nào sử được trọn vẹn.

Ngốc Bút Ông lại biến đổi bút pháp, lão viết lối chữ thảo trong bài Hoài Tố tự sự thiếp, nét bút tung hoành, lưu chuyển vô phương. Lão nghĩ: Chữ thảo của Hoài Tố vốn rất khó nhận ra, nếu mình càng viết tháu thêm thì chắc tiểu tử này không phát hiện được lối cuồng thảo trên đầu bút của ta.

Lão cho rằng vừa rồi Lệnh Hồ Xung kìm chế được lão là vì hắn đoán mò được đường bút. Kỳ thực Lệnh Hồ Xung chỉ thấy chiêu thức của lão đầy những chỗ sơ hở và chàng chỉ tấn công vào chỗ sơ hở mà thôi.

Trong đường cuồng thảo này của Ngốc Bút Ông, mỗi chiêu lão vẫn chỉ có thể sử được nửa chiêu. Lão càng tức giận, đột nhiên quát to:

– Không thèm đấu nữa, không thèm đấu nữa!

Lão nhảy ra phía sau, bê thùng rượu của Đan Thanh tiên sinh để trên bàn đổ xuống thành một vũng rồi thấm cây bút to vào vũng rượu, viết lên trên bức tường bài “Bùi tướng quân thi”. Cả hai mươi ba chữ lão viết với tinh thần sảng khoái, nhất là chữ “Như” lão viết tưởng chừng như muốn phá bức tường mà bay đi. Lão viết xong, thở phào một cái thật mạnh, cười ha hả, nghiêng đầu thưởng thức các chữ to đỏ như máu trên bức tường, rồi nói:

– Thật tuyệt! Thư pháp trong đời của ta chỉ có bức này là tuyệt nhất.

Lão càng xem càng đắc ý, nói:

– Nhị ca, gian kỳ thất này của nhị ca nên nhường lại cho tiểu đệ ở thôi. Tiểu đệ không thể rời bức này, chỉ e rằng từ nay về sau tiểu đệ không thể viết được chữ đẹp như vậy nữa.

Hắc Bạch Tử nói:

– Được thôi. Trong kỳ thất này của ta, ngoài cái bàn cờ ra chẳng có gì cả. Dù tam đệ không muốn thì ta cũng đổi đi chỗ khác vì trước mấy chữ lớn rồng bay phượng múa của đệ thì làm sao ta có thể tĩnh tâm đánh cờ được?

Ngốc Bút Ông cứ nhìn mấy chữ vừa viết, nghiêng đầu lắc cổ, lẩm bẩm tự khen: Dù Nhan Lỗ Công sống lại cũng chưa chắc viết được như vậy.

Lão quay sang Lệnh Hồ Xung nói:

– Huynh đệ, nhờ huynh đệ đã áp bức khiến bút ý đầy bụng ta không cách nào thi triển được, mới đột nhiên bật lên ngón tay, viết thành một kiệt tác chưa từng có trong thiên hạ. Kiếm pháp của huynh đệ thật tuyệt, thủ pháp của ta cũng thật tuyệt, thế này gọi là mỗi người có một sở trường, nên cuộc tỷ đấu này bất phân thắng bại.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Đúng vậy, mỗi người có một sở trường, bất phân thắng bại.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Còn nữa, còn nhờ vào rượu của tiểu đệ nữa.

Hắc Bạch Tử nói:

– Con người tam đệ ta thật hồn nhiên, say mê thư pháp như kẻ điên khùng đến độ tỉ thí thua rồi mà không chịu nhận.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ hiểu. Cuộc cá cược của chúng ta như tại hạ đã nói là trong Mai trang không ai có thể thắng kiếm pháp của Phong huynh đệ. Chỉ cần song phương bất phân thắng bại thì cuộc cá cược này bọn tại hạ cũng chưa thua.

Hắc Bạch Tử gật đầu nói:

– Đúng vậy.

Lão thò tay vào dưới bàn đá, kéo ra một tấm thiết bản hình vuông. Trên thiết bản khắc mười chín đường cờ ngang dọc, thì ra đó là một cái bàn cờ đúc bằng sắt. Lão nắm góc bàn cờ giơ lên nói:

– Phong huynh, ta dùng cái bàn cờ này làm binh khí, xin lãnh giáo cao chiêu của Phong huynh.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nghe nói cái bàn cờ này của nhị trang chủ là một báu vật, có thể hút được các loại binh khí, ám khí?

Hắc Bạch Tử nhìn chằm chằm vào Hướng Vấn Thiên rồi nói:

– Đồng huynh thật là bác văn cường ký. Khâm phục, khâm phục! Kỳ thực binh khí của ta không phải là báu vật, nó được chế từ sắt và nam châm dùng để hút những con cờ làm bằng sắt. Ta đấu cờ với ai trên thuyền hay trên ngựa, dù bị chao lắc, các con cờ cũng không bị rối loạn.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Thì ra là vậy.

Lệnh Hồ Xung nghe xong liền nghĩ: May nhờ Hướng đại ca chỉ giáo, nếu không thì thanh trường kiếm của ta bị bàn cờ của lão hút vào, chưa đánh đã thua rồi. Đối địch với người này không thể để bàn cờ của lão chạm vào trường kiếm của ta.

Lệnh Hồ Xung liền hướng mũi kiếm xuống, cung tay nói:

– Xin nhị trang chủ chỉ điểm.

Hắc Bạch Tử nói:

– Không dám. Kiếm pháp của Phong huynh thật cao minh, bình sinh tại hạ chưa từng thấy qua. Xin tiếp chiêu.

Lệnh Hồ Xung thuận tay quét kiếm ra, trường kiếm trong không trung cong cong quẹo quẹo tiến về phía trước. Hắc Bạch Tử ngẩn người ra, thầm hỏi: Đây là chiêu số gì?

Lão thấy mũi kiếm nhắm chỉ vào yết hầu của mình liền giơ bàn cờ lên đỡ. Lệnh Hồ Xung chuyển đầu kiếm toan đâm vào vai phải của lão, Hắc Bạch Tử lại giơ bàn cờ lên đỡ. Lệnh Hồ Xung không để trường kiếm đến gần bàn cờ; chàng liền rút kiếm về rồi vung kiếm hướng vào bụng dưới của lão mà đâm.

Hắc Bạch Tử lại giơ bàn cờ gạt, thầm nghĩ: Nếu ta không phản kích thì làm sao chiếm được tiên cơ?

Đánh cờ cần chú trọng chiếm tiên cơ, tỉ võ quá chiêu cũng chú trọng chiếm tiên cơ. Hắc Bạch Tử tinh thâm kỳ lý, đương nhiên lão cũng tinh thông nguyên tắc chiếm tiên cơ. Lão vung bàn cờ nhắm đánh nhanh lên vai phải của Lệnh Hồ Xung. Cái bàn cờ này dài hai thước vuông, dày cỡ một tấc, là một thứ binh khí rất nặng. Nếu nó đập vào kiếm dù từ trường trên bàn cờ không hút vào thì trường kiếm cũng bị gãy.

Lệnh Hồ Xung hơi nghiêng người, kiếm chênh chếch đâm vào sườn phải của lão. Hắc Bạch Tử thấy chiêu kiếm này của Lệnh Hồ Xung dường như không thành chiêu thức nhưng chỗ hắn tấn công cần phải ứng phó. Lão liền nghiêng bàn cờ để gạt trường kiếm của Lệnh Hồ Xung đồng thời đẩy bàn cờ về trước. Chiêu Đại phi này vốn trong thế thủ có thể tấn công, chỉ cần Lệnh Hồ Xung ra tay đối phó chiêu này thì những chiêu sau sẽ ồ ạt xông tới. Nào ngờ Lệnh Hồ Xung lại bỏ mặc, trường kiếm đâm chênh chếch ra tấn công lão. Trong chiêu Đại phi này của Hắc Bạch Tử vừa thủ vừa công nên hiệu lực chỉ có một nửa, chỉ còn lại thế đỡ mà không có lực để tấn công.

Lệnh Hồ Xung liên tiếp tấn công hơn bốn chục chiêu không ngừng nghỉ . Hắc Bạch Tử chống bên phải gạt bên trái rồi chống trước đỡ sau. Lão thủ rất kín kẽ dường như nước cũng không văng vào được, nghiêm mật vô cùng. Nhưng hai người đã chiết hơn bốn chục chiêu mà Hắc Bạch Tử vẫn giữ thế thủ hơn bốn chục chiêu, không ra tay đánh trả được chiêu nào.

Ngốc Bút Ông, Đan Thanh tiên sinh, Thi Lệnh Oai, Đinh Kiên cả bốn người chỉ trợn mắt há miệng, thấy kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung không nhanh lắm, càng không uy mãnh lợi hại gì, lúc hắn biến chiêu cũng không có gì đặc biệt xảo diệu nhưng mỗi kiếm hắn phóng ra đều khiến cho Hắc Bạch Tử phải chống đỡ, không thể không phòng thủ chỗ sơ hở. Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đều biết bất cứ trong chiêu số nào cũng có chỗ sơ hở, nhưng đã có thể chiếm được tiên cơ một bước, tấn công đánh vào điểm yếu của đối phương thì chỗ sơ hở của mình không còn là chỗ sơ hở nữa. Cho dù có trăm ngàn chỗ sơ hở cũng không sao. Lệnh Hồ Xung liên tiếp tấn công hơn bốn chục chiêu này chính là đã dùng đạo lý đó.

Hắc Bạch Tử càng lúc càng kinh hãi, chỉ muốn biến chiêu để đánh trả nhưng bàn cờ vừa dịch chuyển thì mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung đã chỉ vào chỗ sơ hở của lão. Trong hơn bốn mươi chiêu, ngay cả nửa chiêu lão cũng không kịp đánh trả, chẳng khác nào lão đang đấu cờ với một tay cao thủ hơn mình xa. Đối phương liên tiếp đi hơn bốn chục nước cờ mà mình ngay cả một nước cũng không đi được.

Hắc Bạch Tử thấy nếu cứ tỉ đấu tiếp nữa thì dù chiết một chiêu hay hai trăm chiêu cũng vẫn không cách nào đánh trả được. Lão thầm nghĩ: Hôm nay, nếu ta không mạo hiểm, nếu bị gãy gánh giữa đường thì thanh danh cả đời của Hắc Bạch Tử này sẽ trôi theo dòng nước.

Lão liền quét ngang bàn cờ vung mạnh ra, đánh vào hông trái của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vẫn không né tránh, phóng trường kiếm ra trước đâm vào bụng dưới của lão. Lần này Hắc Bạch Tử lại không thu bàn cờ về để phòng hộ mà vẫn thuận thế đánh giống như lão quyết đánh liều mạng để cả hai cùng bị thương. Đợi trường kiếm của Lệnh Hồ Xung phóng đến, lão liền đưa song chỉ của tay trái phóng ra nhằm kẹp vào lưỡi kiếm của chàng. Lão đã luyện thần công Huyền thiên chỉ, nội kình trên hai ngón tay này rất lợi hại, thật không có thứ binh khí nào lợi hại hơn.

Năm người đứng xem thấy lão mạo hiểm như vậy đều la lên, ai cũng hiểu cách đánh như vậy đã không còn là tỉ võ để so tài mà là cuộc chiến sinh tử. Nếu lão kẹp không trúng thì lưỡi kiếm của Lệnh Hồ Xung sẽ xuyên vào bụng lão. Trong khoảnh khắc, năm người đều nắm chặt bàn tay, toát mồ hôi hột.

Hai ngón tay của Hắc Bạch Tử sắp đụng vào lưỡi kiếm, bất luận có kẹp trúng hay không cũng có người bị thương hoặc chết. Nếu lão kẹp trúng thì trường kiếm của Lệnh Hồ Xung không cách nào đâm ra được, bàn cờ sẽ đánh lên lưng không thể nào né tránh; nếu lão kẹp không trúng mà sức của song chỉ cản không nổi thế kiếm thì trường kiếm sẽ đâm tới, dù Hắc Bạch Tử muốn thoái lui cũng không kịp nữa.

Lúc hai ngón tay của Hắc Bạch Tử sắp đụng kiếm thì mũi kiếm bỗng hất lên, chỉ vào yết hầu của lão.

Cách biến chiêu của Lệnh Hồ Xung vượt ra ngoài sự liệu đoán của mọi người. Trong võ học từ xưa tới nay quyết không thể có chiêu nào như vậy. Nếu như vậy thì chiêu kiếm nhằm đâm vào bụng dưới vừa rồi lại là hư chiêu, những tay cao thủ tương đấu mà sử hư chiêu kiểu ấy thì thật giống trò trẻ con. Nhưng chiêu này tuyệt không có trong kiếm lý mà Lệnh Hồ Xung lại sử ra. Mũi kiếm hất lên đâm thẳng vào yết hầu của lão, nếu bàn cờ của Hắc Bạch Tử tiếp tục đánh tới thì mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung nhất định đâm xuyên qua yết hầu của lão trước.

Hắc Bạch Tử kinh hãi, tay phải cố sức giữ cho bàn cờ đứng yên. Lão là người nhanh nhạy, lại giỏi về kỳ lý, trong lúc tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, lão vẫn đoán được tâm ý của đối phương. Nếu lão dừng bàn cờ lại thì trường kiếm của hắn cũng không đâm tới nữa.

Quả nhiên Lệnh Hồ Xung thấy bàn cờ của lão không đánh đến thì chàng cũng dừng, trường kiếm bất động, mũi kiếm cách yết hầu của lão không quá vài tấc mà bàn cờ của lão cách lưng Lệnh Hồ Xung cũng không quá vài tấc. Hai người nhìn nhau giữ thế giằng co nhưng toàn thân bất động.

Trông cục diện giống như thế giằng co nhưng kỳ thực Lệnh Hồ Xung đã chiếm thượng phong toàn diện. Bàn cờ là vật rất nặng, ít nhất phải cách mấy thước vận lực đánh xuống thì mới có thể đả thương được địch. Bây giờ nó chỉ cách Lệnh Hồ Xung vài tấc thì dù lão có đánh mạnh đến đâu cũng không đả thương được đối phương. Nhưng trường kiếm của Lệnh Hồ Xung chỉ cần nhẹ đâm tới thì lão sẽ mất mạng. Tính cách ưu liệt của hai bên ai cũng thấy được.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Bên này cũng không dám tranh tiên cơ, bên kia cũng không dám tranh tiên cơ, theo kỳ lý đây là thế Song hoạt. Nhị trang chủ quả là người đại trí đại dũng, đấu với Phong huynh đệ bất phân thắng bại.

Lệnh Hồ Xung thu trường kiếm về, lùi ra hai bước, cúi người nói:

– Tại hạ đắc tội!

Hắc Bạch Tử nói:

– Đồng huynh khéo nói đùa. Cái gì bất phân thắng bại? Kiếm thuật của Phong huynh tinh tuyệt, tại hạ thua liểng xiểng rồi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Nhị ca, tài dùng con cờ làm ám khí của nhị ca là đệ nhất trong võ lâm, ba trăm sáu mươi mốt con cờ đen trắng bắn ra thì không ai có thể cản được. Sao nhị ca không thử xem công phu phá ám khí của vị Phong huynh đệ này thế nào?

Hắc Bach Tử giật mình thấy Hướng Vấn Thiên hơi cúi đầu. Lão quay qua nhìn Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt chàng vẫn thản nhiên, bèn nghĩ bụng: Kiếm pháp của người này quá cao minh, trong võ lâm hiện nay e rằng chỉ có người đó mới có thể thắng được vị khách họ Phong này.

Nhìn mặt bọn họ vẫn không có chút gì ra vẻ sợ hãi thì dù lão có sử ám khí xem ra cũng chỉ thêm một lần xấu hổ nữa mà thôi.

Lão liền lắc đầu cười nói:

– Ta đã chịu thua rồi, còn tỉ đấu ám khí gì nữa!

Hồi 82: Hoàng Chung Công thảm bại mà mừng

Ngốc Bút Ông chỉ nhớ đến bức Suất ý thiếp của Trương Húc nên nói:

– Đồng huynh, xin Đồng huynh mở tấm thiếp ra cho ta xem một chút nữa đi.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Chỉ đợi đại trang chủ thắng được Phong huynh đệ của tại hạ thì tấm thiếp này thuộc về sở hữu của tam trang chủ, lúc đó dù có muốn xem ba ngày ba đêm cũng là quyền của tam trang chủ.

Ngốc Bút Ông nói:

– Ta muốn xem bảy ngày bảy đêm liền.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Được, trang chủ cứ xem bảy ngày bảy đêm.

Ngốc Bút Ông cảm thấy bứt rứt khó chịu hỏi:

– Nhị ca, tiểu đệ đi mời đại ca ra tay được không?

Hắc Bạch Tử nói:

– Hai ngươi ở đây tiếp khách để ta đi nói với đại ca.

Lão nói rồi quay người đi ra ngoài. Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong huynh đệ, chúng ta uống rượu đi. Ôi thùng rượu này bị tam ca làm đổ mất quá nhiều.

Lão nói xong rót rượu vào bát. Ngốc Bút Ông bực mình nói:

– Cái gì mà đổ mất quá nhiều? Rượu của ngươi có đổ vào trong bụng cũng biến thành nước tiểu ra ngoài, còn rượu lưu lại qua nét bút của ta trên tường thì ngàn năm không hư hoại. Nhờ có thư pháp của ta mà rượu lưu lại được tiếng thơm ngàn năm, người đời sau xem thư pháp của ta mới biết trên đời này còn có thứ rượu đỏ Thổ Lỗ Phồn này của ngươi.

Đan Thanh tiên sinh cầm chén rượu lên hướng vào bức tường nói:

– Bức tường ơi hỡi bức tường, ngươi thật là may mắn được thưởng thức rượu ngon của tứ đại gia. Dù cho không có tam ca ta viết lên mặt của ngươi, ngươi… ngươi… ngươi cũng ngàn năm không bị hư hoại.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– So với bức vách vô tri vô giác này thì vãn bối may mắn hơn nhiều vì được thưởng thức thứ rượu ngon hiếm có trên đời.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền nâng chén lên uống cạn. Hướng Vấn Thiên ngồi bên cạnh bồi tiếp được hai chén thì dừng lại không uống nữa. Đan Thanh tiên sinh và Lệnh Hồ Xung cứ rượu đưa đến thì uống cạn, càng uống càng hứng chí.

Hai người mỗi người uống được mười bảy mười tám chén thì Hắc Bạch Tử mới trở lại nói:

– Phong huynh, đại ca ta mời Phong huynh dời bước. Đồng huynh ở lại đây uống thêm vài chén rượu nữa được chăng?

Hướng Vấn Thiên ngạc nhiên nói:

– Chuyện này…

Lão thấy Hắc Bạch Tử hoàn toàn không có ý mời lão cùng đi nên lão không thể đi theo được. Lão thở dài nói:

– Tại hạ vô duyên không được bái kiến đại trang chủ thật là điều hối tiếc suốt đời.

Hắc Bạch Tử nói:

– Xin Đồng huynh miễn trách, đại ca của ta ẩn cư đã lâu, xưa nay không tiếp khách. Nhưng vì nghe kiếm thuật của Phong huynh tinh tuyệt nên sinh lòng ngưỡng mộ mới mời Phong huynh đến tiếp kiến chứ quyết không dám có ý bất kính với Đồng huynh.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ đâu dám, đâu dám!

Lệnh Hồ Xung để bát rượu xuống, nghĩ không tiện cầm kiếm đi gặp chủ nhân, liền đi tay không theo Hắc Bạch Tử ra khỏi kỳ thất. Đi qua một dãy hành lang, hai người đến trước một cái cửa động hình bán nguyệt.

Trên cửa động có hai chữ “Cầm tâm” do những mảnh đá lưu ly màu lam xếp thành, nét bút rất cứng cáp, đúng là thủ bút của Ngốc Bút Ông. Đi qua cửa là một con đường hoa thẳng tắp, hai bên trúc mọc um tùm. Đường hoa rải đá trứng ngỗng, phủ đầy rêu xanh, rõ ràng nơi đây bình thường ít người qua lại. Đường hoa thông đến trước ba gian thạch thất. Trước sau thạch thất trồng bảy tám cây tùng cao vút, che phủ âm u cả mặt đất. Hắc Bạch Tử nhẹ đẩy cửa phòng rồi nói khẽ:

– Mời Phong huynh vào.

Lệnh Hồ Xung vừa vào cửa thất thì ngửi thấy một mùi đàn hương ngào ngạt. Hắc Bạch Tử nói:

– Đại ca, Phong thiếu hiệp phái Hoa Sơn đến rồi.

Một lão già từ trong nội thất đi ra vung tay nói:

– Phong thiếu hiệp giá lâm tệ trang, lão phu chưa ra xa đón tiếp. Xin miễn thứ, miễn thứ!

Lệnh Hồ Xung thấy lão già này khoảng sáu mươi tuổi, ốm như que củi, mặt hóp sọp giống như một cái đầu lâu nhưng hai mắt lão thần quang sáng loáng. Chàng liền cúi người nói:

– Vãn bối đến thật đường đột, xin tiền bối miễn thứ.

Lão già nói:

– Nói hay lắm, nói hay lắm!

Hắc Bạch Tử nói:

– Đại ca của ta có đạo hiệu là Hoàng Chung Công, Phong thiếu hiệp chắc cũng đã nghe tiếng rồi.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối ngưỡng mộ đại danh của bốn vị trang chủ đã lâu, hôm nay được bái kiến thanh nhan, thật là may mắn.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Hướng đại ca thật lắm trò. Chuyện này đại ca không nói trước cho mình biết, chỉ dặn tất cả phải nghe theo sự sắp đặt của lão. Bây giờ đại ca lại không ở bên cạnh mình, nếu vị đại trang chủ này đưa ra vấn đề nan giải thì mình không biết ứng phó sao đây?

Hoàng Chung Công nói:

– Nghe nói Phong thiếu hiệp là truyền nhân của tiền bối Phong lão tiên sinh phái Hoa Sơn, kiếm pháp như thần. Xưa nay lão phu rất ngưỡng mộ võ công và nhân cách của Phong tiên sinh, chỉ đáng tiếc chưa có duyên gặp mặt. Trước đây ít lâu nghe trên giang hồ đồn rằng Phong lão tiên sinh đã về nơi tiên cảnh, lão phu rất thương tiếc. Hôm nay được gặp truyền nhân đích tôn của Phong lão tiên sinh cũng coi như được an ủi nguyện vọng trong đời lão phu. Không biết Phong thiếu hiệp có phải là con cháu của Phong lão tiên sinh không?

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Phong thái sư thúc tổ đã ân cần dặn dò ta không được tiết lộ hành tung của Phong thái sư thúc lão nhân gia. Hướng đại ca thấy kiếm pháp của ta thì đoán ta được lão nhân gia truyền thụ. Vào đây Hướng đại ca đã không kiêng dè, cứ phô trương đã đành còn nói ta thuộc họ Phong, không tránh khỏi chuyện huênh hoang lừa bịp. Nhưng nếu ta nói thật cả ra thì không ổn. Lệnh Hồ Xung đành phải nói lấp lửng:

– Vãn bối là đệ tử thuộc hàng hậu bối của Phong lão nhân gia. Vãn bối tư chất đần độn, thụ giáo chỉ ít ngày nên kiếm pháp của lão nhân gia vãn bối chỉ học được một hai phần.

Hoàng Chung Công thở dài nói:

– Nếu Phong huynh thật chỉ học được một hai phần kiếm pháp của Phong lão nhân gia mà đã thắng được ba huynh đệ của lão phu thì kiếm thuật của Phong lão tiên sinh cao thâm khôn lường.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ba vị trang chủ và vãn bối chỉ tùy ý qua lại vài chiêu, chưa phân thắng bại thì đã dừng tay.

Hoàng Chung Công gật đầu, vẻ mặt xương xẩu của lão lộ ra nét vui mừng, lão nói:

– Người trẻ tuổi không kiêu ngạo, không nóng nảy thật hiếm có. Xin mời Phong huynh vào cầm đường dùng trà.

Lệnh Hồ Xung và Hắc Bạch Tử đi theo lão vào cầm đường ngồi xuống. Một tên đồng tử bưng trà xanh vào, Hoàng Chung Công nói:

– Nghe nói Phong thiếu hiệp có bộ cổ phổ “Quảng Lăng tán”, chuyện này có thật không? Lão phu rất mê âm nhạc, nghĩ đến chuyện lúc Kê Khang sắp bị hành hình đã gảy khúc đàn này rồi nói “Quảng Lăng tán từ nay không còn nữa”. Nếu khúc phổ này còn trên đời thật thì lúc lão hủ chưa xuống mộ mà được tấu khúc phổ này, cuộc đời không còn chuyện gì nuối tiếc nữa.

Lão nói đến đây, khuôn mặt nhợt nhạt hiện ra chút huyết sắc, rõ ràng lão rất thiết tha được tấu khúc phổ này.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Hướng đại ca liên tục nói dối để lừa bịp họ. Ta thấy bốn vị trang chủ ở Cô Sơn Mai trang đều không phải là người tầm thường, vả lại đại ca đến cầu xin bọn họ trị thương cho ta thì việc gì phải bịa ra lắm chuyện như vậy? Cuốn cầm phổ này nếu đúng là “Quảng Lăng tán” do Khúc Dương tiền bối tìm được trong ngôi mộ của người nào đó thời Đông Hán thì ta nên đưa cho lão xem qua.

Lệnh Hồ Xung lấy từ trong túi ra cuốn cầm phổ liền đứng dậy, dâng hai tay lên nói:

– Xin mời đại trang chủ xem.

Hoàng Chung Công nghiêng người nhận lấy nói:

– “Quảng Lăng tán” thất truyền trong nhân gian đã lâu, hôm nay lão phu được xem danh phổ của cổ nhân thật không còn gì sung sướng bằng. Có điều… có điều không biết…

Dường như lão muố n nói làm sao biết được đây xác thực là chân phổ “Quảng Lăng tán”, phải chăng có kẻ hiếu sự ngụy tạo ra nó để lừa bịp người? Lão liền giở cầm phổ ra nói:

– Ồ, khúc phổ này rất dài.

Lão xem trang thứ nhất, chỉ xem được chốc lát thì mặt biến sắc. Lão đưa tay phải lật cầm phổ, còn năm ngón tay trái thì gõ lên bàn theo tư thế gảy đàn, khen:

– Tuyệt diệu! Âm điệu nhu hòa, trong trẻo, u nhã vời vợi.

Lão lật đến trang thứ hai, xem một lúc lại khen:

– Cao lượng nhã chí, thâm tàng huyền cơ, thần trí ra theo tiếng đàn, trong khoảnh khắc lòng đã sung sướng vô cùng.

Hắc Bạch Tử thấy Hoàng Chung Công mới xem đến trang thứ hai mà thần trí đã mê mẩn, chỉ e lão xem tiếp nữa thì không biết đến mấy canh giờ mới xong, liền nói xen vào:

– Vị Phong thiếu hiệp phái Hoa Sơn này cùng đến với vị Đồng huynh nói rằng trong Mai trang nếu có người thắng được kiếm pháp của Phong thiếu hiệp…

Hoàng Chung Công ngắt lời:

– Ấy, nhất định phải có người thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ thì Phong huynh đệ mới chịu đưa cho mượn bộ “Quảng Lăng tán” này để sao chép phải không?

Hắc Bạch Tử đáp:

– Đúng vậy. Ba người bọn tiểu đệ đều bại cả rồi, nếu đại ca ra tay thì Cô Sơn Mai trang của chúng ta, hì hì…

Hoàng Chung Công cười nhạt nói:

– Các người đã thất bại thì ta cũng vậy thôi.

Hắc Bạch Tử nói:

– Ba người bọn tiểu đệ làm sao có thể bì với đại ca được?

Hoàng Chung Công nói:

– Già rồi, ta vô dụng rồi.

Lệnh Hồ Xung đứng dậy nói:

– Đại trang chủ có đạo hiệu là Hoàng Chung Công, dĩ nhiên là cao thủ trong cầm âm. Khúc phổ này tuy khó có được nhưng cũng không phải là bí quyết bất truyền gì. Đại trang chủ cứ giữ lại để sao chép. Ba ngày sau, vãn bối sẽ đến đây mượn lại.

Hoàng Chung Công và Hắc Bạch Tử đều sửng sốt. Hắc Bạch Tử lúc ở trong kỳ thất thấy Hướng Vấn Thiên rất khó chịu, làm khó dễ đủ điều khiến tâm thần lão bứt rứt, nhưng không ngờ gã Phong Nhị Trung này lại vô cùng khẳng khái. Lão là người giỏi về đánh cờ nên nghĩ cử chỉ này của Lệnh Hồ Xung chắc là muốn bày cái bẫy để Hoàng Chung Công lọt vào, nhưng lão chưa nhìn ra được chỗ ngụy tạo của Lệnh Hồ Xung. Hoàng Chung Công nói:

– Vô công bất thụ lộc. Phong huynh đệ và lão phu vốn không quen biết, làm sao lão phu có thể nhận hậu lễ này của Phong huynh đệ được? Hai vị đến tệ trang, rốt cuộc có điều chi muốn chỉ giáo, mong hãy nói thật ra.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Hướng đại ca và ta đến Mai trang có dụng ý gì, đại ca chẳng hề đề cập. Nhưng nghĩ lại, chắc đại ca muốn cầu bốn vị trang chủ trị thương cho ta nhưng đại ca sắp đặt công chuyện vô cùng bí mật. Bốn vị trang chủ này đều là những nhân vật đặc biệt khác ngườ i, ta không nên nói rõ cho họ biết. Dù sao ta cũng không biết Hướng đại ca đến đây để cầu xin gì, vậy ta cứ nói thẳng ra cũng đâu có ý khinh người. Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nói:

– Vãn bối theo Đồng đại ca đến bảo trang, thực tình mà nói trước khi bước vào vãn bối chưa từng nghe đại danh của bốn vị trang chủ, cũng không biết trên đời này có tòa Cô Sơn Mai trang này.

Lệnh Hồ Xung ngừng một lúc lại nói tiếp:

– Vì vãn bối cô lậu quả văn không biết các vị là cao nhân tiền bối trong võ lâm, xin hai vị trang chủ đừng trách.

Hoàng Chung Công liếc nhìn Hắc Bạch Tử, mặt lộ ra nụ cười, lão nói:

– Phong thiếu hiệp nói rất chân thành, lão phu xin đa tạ. Lão phu vốn rất lấy làm lạ, bốn huynh đệ lão phu ẩn cư ở Lâm An, trên giang hồ rất ít người biết. Ngũ Nhạc kiếm phái và huynh đệ lão phu càng không có liên quan gì, mà sao hai vị lại tìm đến đây? Nói như vậy thì Phong thiếu hiệp quả thật không biết lai lịch của bốn huynh đệ lão phu phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối rất lấy làm hổ thẹn, mong hai vị trang chủ chỉ giáo. Vừa rồi vãn bối nói cái gì “ngưỡng mộ đại danh của bốn vị trang chủ đã lâu” kỳ thực… kỳ thực… là…

Hoàng Chung Công gật đầu nói:

– Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử đều do bọn lão phu tự đặt ngoại hiệu cho mình. Tên họ đích thực của bọn lão phu đã sớm không dùng nữa. Thiếu hiệp trước nay chưa từng nghe thấy qua tên của bốn huynh đệ lão phu thì cũng là lẽ đương nhiên.

Tay phải lão mở cầm phổ ra hỏi:

– Phong thiếu hiệp thành tâm cho lão phu mượn bộ cầm phổ này để sao chép ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng vậy. Vì cầm phổ này là vật sở hữu của Đồng đại ca, vãn bối mới nói là cho mượn. Nếu không thì vãn bối đã nói tiền bối giữ luôn cũng được. Kiếm báu tặng người tài thì cũng không cần phải trả lại.

Hoàng Chung Công ồ lên một tiếng, vẻ mặt xương xẩu của lão lộ ra nét hớn hở. Hắc Bạch Tử hỏi:

– Phong thiếu hiệp đem cầm phổ cho đại ca ta mượn, Đồng huynh có đồng ý không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đồng đại ca và vãn bối giao tình sâu nặng, đại ca lại là người khẳng khái hào hiệp. Vãn bối đã đồng ý dù chuyện có lớn đến đâu đại ca cũng không chấp nhứt.

Hắc Bạch Tử gật đầu, Hoàng Chung Công nói:

– Hảo ý của Phong thiếu hiệp lão phu rất cảm kích. Nhưng chuyện này chưa được Đồng huynh chính miệng nói đồng ý thì lòng lão phu không yên. Vị Đồng huynh đó nói muốn được cầm phổ thì phải có người của bổn trang thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ, nên lão phu không thể giành lấy phần tiện nghi này được. Vậy chúng ta hãy tỉ đấu vài chiêu xem sao.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Vừa rồi nhị trang chủ nói: “Ba người tiểu đệ làm sao có thể sánh với đại ca được”, vậy thì võ công của vị đại trang chủ này đương nhiên cao hơn hẳn ba người kia. Võ công của ba vị trang chủ trác tuyệt, còn ta hoàn toàn dựa vào kiếm pháp của Phong thái sư thúc tổ truyền thụ cho mới chiếm được thượng phong. Ta giao thủ với đại trang chủ chưa chắc có thể thắng được thì việc gì ta phải tự chuốc lấy cái nhục vào thân? Dù ta thắng được lão đi nữa cũng chẳng hay ho gì.

Lệnh Hồ Xung bèn nói:

– Đồng đại ca nhất thời hiếu sự nên mới nói vậy, thật khiến cho vãn bối hổ thẹn vô cùng. Bốn vị trang chủ không phiền trách tính ngông cuồng, vãn bối đã vô cùng cảm kích, làm sao còn dám giao thủ với đại trang chủ?

Hoàng Chung Công mỉm cười nói:

– Phong huynh đệ là người rất tốt, chúng ta tỉ đấu vài chiêu điểm đến thì dừng, cũng đâu có gì là quan trọng?

Lão xoay lại lấy cây ngọc tiêu treo trên vách, đưa cho Lệnh Hồ Xung nói:

– Huynh đệ cầm ống tiêu làm kiếm, còn lão phu dùng cây dao cầm làm binh khí.

Lão lấy ở đầu giường ra một cây dao cầm, mỉm cười nói:

– Hai thứ nhạc khí này của lão phu tuy không dám nói là vật có giá trị liên thành nhưng cũng là những vật hiếm có trên đời, không nên để chúng bị vỡ. Chúng ta chỉ ra kiểu dáng của chiêu thức mà thôi.

Lệnh Hồ Xung thấy cái ống tiêu làm bằng ngọc xanh biếc, đúng là thứ thúy ngọc tuyệt hảo. Gần miệng ống tiêu có mấy chấm đỏ như máu, nổi bật lên màu xanh biếc của thân tiêu. Hoàng Chung Công cầm cây dao cầm rất cũ, là cổ vật mấy trăm năm, thậm chí một ngàn năm trở lại. Hai thứ nhạc khí này chỉ cần chạm nhẹ cũng bị vỡ tan, cho nên không thể dùng chúng đấu thật được. Lệnh Hồ Xung cũng không thể từ chối nên đưa hai tay cầm ngọc tiêu, cung kính nói:

– Xin đại trang chủ chỉ điểm cho.

Hoàng Chung Công nói:

– Phong lão tiên sinh là bậc kiếm hào danh tiếng một đời, xưa nay lão phu vô cùng khâm phục. Phong lão nhân gia truyền thụ kiếm pháp thì không phải tầm thường. Xin mời Phong thiếu hiệp.

Lệnh Hồ Xung vung ống tiêu lên một cách nhẹ nhàng, gió lùa vào ống tiêu phát ra mấy tiếng nhạc nhu hòa. Hoàng Chung Công đưa tay phải gảy vào huyền cầm mấy cái, tiếng đàn vang lên, đuôi đàn đẩy về hướng vai phải Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung nghe thấy tiếng đàn, lòng hơi chấn động. Chàng từ từ điểm vào sau khuỷu tay Hoàng Chung Công. Nếu dao cầm tiếp tục đánh về đầu vai Lệnh Hồ Xung thì chắc chắn huyệt đạo sau khuỷu tay của lão bị điểm trước. Hoàng Chung Công xoay dao cầm nhắm đánh lên phía trên Lệnh Hồ Xung. Lúc dao cầm phóng ra, lão lại gảy lên mấy tiếng. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Nếu ta dùng cây ngọc tiêu này đánh nhau thì hai thứ nhạc cụ quý hiếm cùng bị vỡ. Vì lão quý trọng nhạc khí nên chuyển thế dao cầm. Nhưng cách đánh như vậy thì không tránh khỏi hành vi vô lại.

Lệnh Hồ Xung liền xoay ống tiêu, nhắm vào phía dưới nách của Hoàng Chung Công. Hoàng Chung Công đưa đàn lên đỡ thì Lệnh Hồ Xung liền thu ngọc tiêu về. Hoàng Chung Công lại liên tiếp gảy mấy tiếng đàn, nhạc âm chuyển rất gấp.

Hắc Bạch Tử biến sắc mặt. Lão lảo đảo người quay ra khỏi cầm đường, tay vịn lên cánh cửa. Hắc Bạch Tử biết Hoàng Chung Công đang gảy đàn phát ra tiếng là đang vận nội công thượng thừa vào cầm âm để phân tán tâm thần của địch nhân. Nội lực của đối phương và tiếng đàn đồng sinh cộng hưởng thì vô tình bị tiếng đàn khắc chế. Tiếng đàn thong thả ung dung thì đối phương xuất chiêu cũng thong thả; tiếng đàn gấp rút thốt nhiên thì đối phương xuất chiêu cũng gấp theo. Nhưng chiêu số trên tiếng đàn của Hoàng Chung Công và cầm âm lại tương phản vừa vặn. Lão xuất chiêu càng thần tốc mà cầm âm càng du dương nhẹ nhàng, đối phương không cách nào đỡ được. Hắc Bạch Tử hiểu rõ môn công phu này của Hoàng Chung Công không phải tầm thường.

Lão sợ nội lực của mình lại bị tổn thương, liền bước lui ra ngoài cầm đường.

Tuy Hắc Bạch Tử đứng bên ngoài cách một lần cửa nhưng vẫn còn nghe được tiếng đàn lúc thong thả, lúc dồn dập, chợt im bặt, chợt thét lên. Qua một lúc sau, tiếng đàn càng dồn dập. Hắc Bạch Tử nghe đến nỗi tâm thần bất định, hơi thở khó chịu, lại lùi ra ngoài cửa lớn rồi đóng cửa lớn lại. Đã cách hai tầng cửa, tiếng đàn dường như không nghe được nữa. Nhưng thỉnh thoảng tiếng đàn lên cao lọt ra mấy tiếng, vẫn làm cho trái tim lão đập càng kịch liệt hơn. Lão đứng bên ngoài rất lâu, nhưng nghe tiếng đàn vẫn không dừng. Lão kinh dị thầm nghĩ: Thiếu niên họ Phong này kiếm pháp cực cao, nội lực lại cũng cao thâm khó tả. Thất huyền vô hình kiếm của đại ca ta tấn công đã lâu, tại sao hắn vẫn có thể chống chọi được?

Giữa lúc lão đang lo lắng thì Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh sóng vai đi tới. Đan Thanh tiên sinh hỏi khẽ:

– Sao rồi?

Hắc Bạch Tử nói:

– Đã đấu lâu lắm rồi. Thiếu niên này vẫn còn gắng gượng chống chọi. Ta lo đại ca sẽ làm tổn thương tính mạng của thiếu niên này.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Để tiểu đệ đi cầu xin đại ca nương tình, không sát thương vị hảo bằng hữu này mới được.

Hắc Bạch Tử lắc lắc đầu nói:

– Không vào được đâu.

Ngay lúc này, cầm âm phát lên choang choang rất lớn. Cầm âm phát lên thì cả ba người thoái lui một bước, cầm âm liên tiếp phát ra năm tiếng, ba người không tự chủ được liền lui năm bước, sắc mặt của Ngốc Bút Ông trắng bệch, lão định thần lại mới nói:

– Chiêu Lục đinh khai sơn này trong vô hình kiếm pháp của đại ca thật là lợi hại. Sáu âm này mãnh liệt liên tục đánh mạnh ra thì họ Phong làm sao chống đỡ nổi?

Lão chưa dứt lời, lại nghe rít một tiếng, tiếp theo là bựt bựt mấy tiếng, dường như đã đứt mấy dây huyền cầm.

Hắc Bạch Tử giật mình kinh hãi, đẩy cửa lớn chạy vào, lại đẩy cánh cửa cầm thất, thấy Hoàng Chung Công đứng thộn ra không nói gì, cây dao cầm bảy dây trong tay lão đều bị đứt hết, rủ xuống bên đàn. Lệnh Hồ Xung tay cầm ngọc tiêu đứng một bên cúi người nói:

– Vãn bối đắc tội.

Hiển nhiên trong cuộc tỉ võ này Hoàng Chung Công đã thua. Bọn Hắc Bạch Tử đều ngạc nhiên vô cùng vì họ biết nội lực của đại ca rất hùng hậu, là một nhân vật cao thủ nhất nhì trong võ lâm, không ngờ lại bị thua trong tay của thiếu niên phái Hoa Sơn này. Nếu không tận mắt chứng kiến khó tin là thật.

Hoàng Chung Công cười khổ não nói:

– Phong thiếu hiệp kiếm pháp tinh thâm, bình sinh lão phu rất hiếm thấy mà nội lực cũng thật tuyệt vời. Thật đáng kính phục. Thất huyền vô hình kiếm của lão phu vốn được xem như một môn tuyệt học trong võ lâm, nào ngờ nó như một trò chơi dưới tay Phong thiếu hiệp. Bốn huynh đệ của lão phu ẩn cư ở Mai trang mười mấy năm không bước chân ra giang hồ, biến thành ếch ngồi đáy giếng hết rồi.

Lão nói với giọng rất thê lương. Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối cố gắng chống đỡ, rất may được tiền bối hạ thủ lưu tình.

Hoàng Chung Công thở dài, lắc đầu ngồi thừ ra, vẻ mặt buồn thảm. Lệnh Hồ Xung thấy Hoàng Chung Công đau đớn như vậy, cảm thấy áy náy, thầm nghĩ: Hướng đại ca không muốn bọn họ biết nội lực của ta bị mất hết, để ta khỏi xin bọn họ trị thương cho, khỏi bị trở ngại. Nhưng bậc đại trượng phu quang minh lỗi lạc, ta không thể chiếm phần tiện nghi này. Chàng liền nói:

– Đại trang chủ, có một chuyện vãn bối cần nói rõ. Sở dĩ vãn bối không sợ Vô hình kiếm khí trong tiếng đàn của tiền bối phát ra không phải vì nội lực của vãn bối cao cường mà là vì trên người vãn bối không có một chút nội lực nào hết.

Hoàng Chung Công sửng sốt đứng dậy hỏi:

– Cái gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối bị thương nhiều lần, nội lực mất hết nên hoàn toàn không bị cảm ứng tiếng đàn của tiền bối.

Hoàng Chung Công vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, lão run run hỏi:

– Có thật vậy không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Nếu tiền bối không tin thì cứ chẩn mạch của vãn bối là biết ngay.

Lệnh Hồ Xung nói xong đưa tay phải ra. Hoàng Chung Công và Hắc Bạch Tử đều lấy làm lạ, lòng nghĩ hắn đến Mai trang, tuy không hẳn là địch nhưng cũng không phải vì lòng tốt. Nhưng sao hắn lại dám ngang nhiên đưa tay ra, y như đem tính mạng của mình giao vào tay người? Nếu Hoàng Chung Công mượn cơ hội bắt mạch mà nắm lấy huyệt đạo trên cổ tay hắn thì hắn có bản lãnh bằng trời cũng không cách nào thi triển được, đành phải để mặc ai muốn làm gì thì làm. Vừa rồi Hoàng Chung Công đã vận thần kỹ Lục đinh khai sơn, không những không làm gì được Lệnh Hồ Xung mà sau cùng cả bảy dây đàn cũng được gảy vang lên, nội lực vận đến tột đỉnh khiến bảy dây đứt hết. Lão bị đại bại, không cam lòng, thầm nghĩ: Nếu ngươi chờ ta đưa tay qua để nắm huyệt đạo của ta thì ta sẽ cùng ngươi liều đấu nội lực.

Lão liền đưa tay phải ra, từ từ đặt lên mạch tay phải của Lệnh Hồ Xung. Trong lúc đưa tay ra, lão đã ngấm ngầm vận thủ pháp ba môn cầm nã thủ thượng thừa là Hổ trảo cầm nã thủ, Long trảo công, Tiên thập bát nã, để bất luận đối phương biến chiêu ra sao cũng không thể nắm được cổ tay lão, thừa cơ kiềm chế lão. Không ngờ năm ngón tay của lão vừa đưa qua, Lệnh Hồ Xung vẫn bất động, tuyệt không có biểu hiện phản kích gì.

Hoàng Chung Công vừa cảm thấy mạch của Lệnh Hồ Xung đập rất yếu, chậm chạp, xác thực nội lực của hắn bị mất hết. Lão ngẩn người ra, bất giác cười ha hả nói:

– Thì ra là như vậy, thì ra là như vậy! Lão phu bị mắc bẫy của lão đệ rồi, lão phu bị mắc bẫy lão đệ rồi.

Tuy lão nói mình bị mắc bẫy nhưng vẻ mặt lão lại rất vui sướng.

Thất huyền vô hình kiếm của lão chỉ là cầm âm, thanh âm vốn có thể đả thương địch, hiệu dụng của nó là kích phát nội lực của địch, làm quấy động chiêu thức địch. Nội lực của đối thủ càng mạnh thì cảm ứng cầm âm càng lợi hại hơn. Vạn lần lão không ngờ Lệnh Hồ Xung lại không có chút nội lực nào, nên Thất huyền vô hình kiếm này chẳng có chút hiệu nghiệm gì. Hoàng Chung Công bị đại bại, lòng buồn chán vô cùng, bây giờ biết sở dĩ lão thất bại không phải là do tuyệt kỹ mấy chục năm khổ luyện không hiệu nghiệm nên lão vui mừng đến phát điên. Lão nắm tay Lệnh Hồ Xung lắc lắc rồi cười nói:

– Hảo huynh đệ, hảo huynh đệ! Tại sao hảo huynh đệ lại đem bí mật này nói cho lão phu biết?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Nội lực của vãn bối bị mất hết. Vừa rồi, lúc tỉ kiếm phải giấu giếm thì đã không ngay thẳng, làm sao có thể dối gạt đến cùng được? Tiền bối đánh đàn ra hay đến đâu cũng không lọt vào tai của vãn bối được.

Hoàng Chung Công vuốt râu cười nói:

– Nếu nói như vậy thì Thất huyền vô hình kiếm của lão phu cũng không thể coi là phế vật. Lão phu chỉ sợ Thất huyền vô hình kiếm sẽ biến thành Đoạn huyền vô hình kiếm mà thôi. Ha ha!

Hắc Bạch Tử nói:

– Phong thiếu hiệp, Phong thiếu hiệp thành thật nói ra khiến huynh đệ bọn ta rất cảm kích. Nhưng tại sao Phong thiếu hiệp không nghĩ rằng hễ tiết lộ nhược điểm thì bọn ta muốn giết thiếu hiệp dễ như trở bàn tay? Tuy kiếm pháp của thiếu hiệp cực cao nhưng nội lực không có thì không thể chống nổi bọn ta.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nhị trang chủ nói không sai. Vãn bối biết bốn vị trang chủ là anh hùng hào kiệt nên mới nói rõ ra như vậy.

Hoàng Chung Công gật đầu nói:

– Phải lắm, phải lắm! Phong huynh đệ, Phong huynh đệ đến tệ trang vì dụng ý gì xin đừng ngại, cứ nói thẳng ra. Bốn huynh đệ lão phu vừa gặp mặt huynh đệ mà như thể cố tri, chỉ cần sức còn thì không ngại chi tính mệnh để giúp huynh đệ.

Ngốc Bút Ông nói:

– Nội lực của thiếu hiệp đã mất hết chắc do bị trọng thương. Ta có một hảo bằng hữu y thuật như thần, có điều người này tính tình cổ quái, không dễ trị thương cho ai, nhưng nể mặt ta tất chịu trị thương cho thiếu hiệp. Đó là Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ, xưa nay có giao tình với ta…

Lệnh Hồ Xung đau đớn thốt lên:

– Bình Nhất Chỉ đại phu ư?

Ngốc Bút Ông nói:

– Đúng vậy, thiếu hiệp cũng nghe qua tên của lão phải không?

Lệnh Hồ Xung buồn bã:

– Vị Bình đại phu này mấy tháng trước đã tạ thế trên Ngũ Bá Cương ở Sơn Đông rồi.

Ngốc Bút Ông la lên một tiếng, kinh hãi nói:

– Lão… lão chết rồi ư?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Bệnh gì lão cũng có thể trị được sao lão không trị được bệnh của mình? A, lão bị kẻ thù nào giết hại rồi sao?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu. Cái chết của Bình Nhất Chỉ khiến lòng chàng rất lấy làm áy náy. Lệnh Hồ Xung nói:

– Lúc Bình đại phu sắp chết, đại phu còn chẩn mạch cho vãn bối, nói thương thế của vãn bối rất cổ quái, quả thật không thể trị khỏi.

Ngốc Bút Ông nghe tin Bình Nhất Chỉ chết, lão rất thương cảm. Lão ngồi thừ người ra, nước mắt chảy dài. Hoàng Chung Công trầm tư một lúc rồi nói:

– Phong huynh đệ, lão phu chỉ cho huynh đệ một con đường. Người ta có đồng ý hay không cũng khó nói trước. Lão phu viết một lá thư, huynh đệ cầm đi gặp chưởng môn Phương Chứng đại sư ở Thiếu Lâm tự. Nếu lão có thể dùng Dịch cân kinh, tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm để truyền thụ thì nội lực của huynh đệ có hy vọng hồi phục. Dịch cân kinh này vốn là bí cấp bất truyền của phái Thiếu Lâm, nhưng Phương Chứng đại sư năm xưa còn nợ lão phu một món ân tình, không chừng lão có thể nể mặt lão phu.

Lệnh Hồ Xung nghe hai lão, một người giới thiệu Bình Nhất Chỉ, một người chỉ điểm đi cầu Phương Chứng đại sư, đều là những người rất tài giỏi có thể chữa được bệnh của mình. Hai vị trang chủ này không những tri thức hơn người mà đối với mình xác thực cũng có tấm lòng nhiệt thành. Bất giác lòng chàng cảm kích vô cùng nói:

– Thần kỹ Dịch cân kinh, Phương Chứng đại sư chỉ truyền cho đệ tử bổn môn, mà vãn bối thì không tiện bái nhập vào môn hạ Thiếu Lâm. Chuyện này rất khó xử.

Lệnh Hồ Xung đứng dậy xá dài nói:

– Hảo ý của bốn vị trang chủ vãn bối rất cảm kích. Sống chết có số, thương thế trên người vãn bối cũng không sao, khiến cho bốn vị phải bận tâm. Vãn bối xin cáo từ.

Hoàng Chung Công nói:

– Khoan đã!

Lão quay người đi vào nội thất, trong khoảnh khắc lấy ra một cái bình sứ nói:

– Đây là hai viên dược hoàn mà ngày trước ân sư đã ban cho lão phu. Nó vừa bổ thân thể vừa trị thương rất hiệu nghiệm. Lão phu tặng cho tiểu huynh đệ, coi như là chút thành ý của lão phu về cuộc hội ngộ hôm nay.

Lệnh Hồ Xung thấy cái nắp của bình sứ rất cũ, lòng nghĩ đây là di vật của sư phụ lão. Lão giữ gìn đến ngày nay dĩ nhiên nó trân quý vô cùng. Chàng vội nói:

– Đây là thuốc tôn sư ban cho tiền bối, không phải là vật tầm thường, vãn bối không dám bái lãnh.

Hoàng Chung Công lắc đầu nói:

– Bốn huynh đệ lão phu tuyệt không bước vào giang hồ, không tranh đấu với ai bên ngoài nên thánh dược trị thương cũng không cần dùng đến. Huynh đệ của lão phu không có đệ tử, cũng không có con cái, huynh đệ từ chối không nhận thì hai viên dược hoàn này lão phu chỉ còn cách mang theo vào quan tài.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói thật thê lương đành phải trịnh trọng đáp tạ nhận lấy hai viên dược hoàn, cáo từ đi ra cửa. Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút Ông, Đan Thanh tiên sinh cả ba người đưa Lệnh Hồ Xung về đến kỳ thất.

Hướng Vấn Thiên thấy vẻ mặt của bốn người rất trịnh trọng thì biết rằng Lệnh Hồ Xung tỉ kiếm với đại trang chủ đã thắng rồi. Nếu đại trang chủ thắng thì Hắc Bạch Tử cố nhiên vẫn không biến sắc, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh bừng bừng khí thế, vừa gặp mặt thì đã đưa tay đòi lấy thư pháp của Trương Húc và bức họa sơn thủy của Phạm Khoan ngay. Lão giả bộ hỏi:

– Phong huynh đệ, đại trang chủ chỉ điểm kiếm pháp cho Phong huynh đệ chưa?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Công lực của đại trang chủ cao thâm thật hiếm thấy, nhưng vừa rồi gặp phải tiểu đệ nội lực đã mất hết, nên đối với dao cầm của đại trang chủ phát ra nội lực không cảm ứng đến tiểu đệ. Chuyện hy hữu trong thiên hạ đến vậy là cùng.

Đan Thanh tiên sinh trừng mắt nhìn Hướng Vấn Thiên nói:

– Vị Phong huynh đệ này là con người thành thật, không giấu giếm điều gì. Đồng huynh lại nói nội lực của Phong huynh đệ còn cao thâm hơn Đồng huynh nhiều, làm cho đại ca ta mắc bẫy.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Phong huynh đệ khi chưa mất hết nội lực, quả thật là cao thâm hơn tại hạ nhiều. Tại hạ nói là trước đây chứ đâu có nói bây giờ đâu.

Ngốc Bút Ông hừ một tiếng nói:

– Ngươi không phải là người tốt.

Hướng Vấn Thiên cung tay nói:

– Trong Mai trang đã không có ai thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ của tại hạ. Ba vị trang chủ, bọn tại hạ xin cáo từ.

Rồi lão quay lại nói với Lệnh Hồ Xung:

– Chúng ta đi thôi!

Lệnh Hồ Xung cung tay cúi người nói:

– Hôm nay được hân hạnh bái kiến bốn vị trang chủ là điều an ủi trong đời của vãn bối. Sau này nếu có cơ duyên sẽ ghé thăm bảo trang, bái kiến các vị.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong huynh đệ, bất luận ngày nào Phong huynh đệ muốn uống rượu thì cứ việc đến đây, ta sẽ đem các loại danh tửu đã cất lâu nay ra cùng với huynh đệ bình phẩm từng loại một. Còn vị Đồng huynh này thì hì hì, hì hì…

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Tại hạ tửu lượng rất kém, không dám đến thảo luận, cũng không thích uống lắm đâu.

Lão nói xong, lại cung tay bái biệt lần nữa, rồi nắm tay Lệnh Hồ Xung đi ra. Bọn Hắc Bạch Tử đưa tiễn. Hướng Vấn Thiên nói:

– Ba vị trang chủ xin dừng bước, không dám làm phiền các vị đưa tiễn xa.

Ngốc Bút Ông nói:

– Ô hay, Đồng huynh tưởng bọn ta tiễn Đồng huynh sao? Bọn ta tiễn là tiễn Phong huynh đệ. Nếu một mình Đồng huynh đến đây, thì một bước bọn ta cũng không tiễn nữa.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Thì ra là vậy.

Bọn Hắc Bạch Tử tiễn đến ngoài cổng lớn, mới cùng Lệnh Hồ Xung trân trọng từ biệt. Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh chỉ trừng mắt lườm lườm nhìn Hướng Vấn Thiên, hận là không giật được cái bao trên lưng của lão.

Hồi 83: Mai Trang vẫn còn người muốn đấu

Hướng Vấn Thiên dắt tay Lệnh Hồ Xung đi vào rặng liễu âm u, cách Mai trang đã xa mới cười nói:

– Vô hình kiếm pháp trên đàn của đại trang chủ phát ra vô cùng lợi hại. Huynh đệ, tại sao huynh đệ lại thủ thắng được?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Thì ra đại ca đã biết hết rồi. May mà nội lực của tiểu đệ mất hết, nếu không thì e rằng bây giờ tính mạng của tiểu đệ không còn. Đại ca, đại ca có thù oán gì với bốn vị trang chủ này?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Không có thù oán gì cả. Ta chưa bao giờ gặp mặt họ, làm gì có thù oán được?

Bỗng nghe có người gọi:

– Đồng huynh, Phong huynh, xin mời hai vị quay lại.

Lệnh Hồ Xung quay người lại, thấy Đan Thanh tiên sinh chạy nhanh đến, tay cầm chén rượu, rượu còn hơn nửa chén. Lão nói:

– Phong huynh đệ, ta có nửa bình Trúc diệp thanh cất hơn một trăm năm, nếu Phong huynh đệ không nếm thử thì thật là đáng tiếc.

Lão nói rồi đưa chén rượu qua. Lệnh Hồ Xung đón nhận chén rượu, thấy rượu xanh biếc như ngọc Phỉ thúy, nhìn không thấy đáy, hương rượu rất thuần hậu. Hắn khen:

– Quả là hảo tửu!

Lệnh Hồ Xung uống một hớp, khen:

– Ngon quá!

Rồi liền uống liên tục bốn hớp. Nửa chén rượu cạn sạch. Lệnh Hồ Xung nói:

– Rượu này khinh linh hậu trọng, mới uống nghe nhẹ nhàng nhưng sau thì đậm đà, đúng là rượu ngon hạng nhất ở Triết Giang, Dương Châu.

Đan Thanh tiên sinh hớn hở nói:

– Đúng vậy. Rượu ngon danh tiếng này là vật báu trấn tự ở Kim Sơn tự tỉnh Triết Giang, tất cả có sáu bình. Một vị đại hòa thượng ở trong chùa giữ giới, không uống rượu mới tặng cho ta một bình. Ta uống hết nửa bình thì không nỡ uống nữa. Phong huynh đệ, ta còn có mấy thứ rượu ngon, mời Phong huynh đệ trở lại bình phẩm một chút được chăng?

Lệnh Hồ Xung đối với Giang Nam tứ hữu có mối thiện cảm, thêm nữa là có rượu ngon để uống làm sao mà không thích. Chàng quay lại nhìn Hướng Vấn Thiên dọ ý của lão. Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, tứ trang chủ mời huynh đệ đi uống rượu, vậy huynh đệ cứ đi đi, còn ta thì tam trang chủ và tứ trang chủ gặp mặt đã không ưa rồi. Thì ta… hi hi… hi hi…

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Ta bực mình Đồng huynh bao giờ? Cùng đi, cùng đi. Đồng huynh là bằng hữu của Phong huynh đệ, ta cũng mời Đồng huynh uống rượu.

Hướng Vấn Thiên chưa kịp từ chối thì tay trái của Đan Thanh tiên sinh đã nắm tay lão, còn tay phải nắm tay Lệnh Hồ Xung, cười nói:

– Đi, đi! Đi uống vài bát rượu nữa!

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lúc bọn mình cáo từ, vị tứ trang chủ này đối với Hướng đại ca rất không thân thiện, làm sao bỗng nhiên tha thiết mời đại ca trở lại? Chẳng lẽ lão không quên được bức thư họa ở trong bao trên lưng Hướng đại ca, định bày ra âm mưu khác lấy cho bằng được ư?

Ba người trở lại Mai trang. Ngốc Bút Ông đứng chờ ở cửa, vui mừng reo lên:

– Phong huynh đệ quay lại rồi. Hay quá, hay quá!

Bốn người trở về kỳ thất. Đan Thanh tiên sinh rót mấy thứ rượu ngon ra cùng ẩm xướng với Lệnh Hồ Xung, còn Hắc Bạch Tử vẫn không lộ diện.

Trời đã sắp tối, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh dường như đang đợi một người nào đó, cứ liếc mắt nhìn ra cửa hoài. Hướng Vấn Thiên cáo từ mấy lần mà hai lão vẫn cố giữ lại. Lệnh Hồ Xung không thèm để ý, chỉ uống rượu. Hướng Vấn Thiên ngẩng nhìn trời, cười nói:

– Nhị vị trang chủ, nếu không cho bọn tại hạ ăn cơm thì tại hạ phải chết đói mất thôi.

Ngốc Bút Ông nói:

– Phải, phải!

Lão lớn tiếng gọi:

– Đinh quản gia, mau bày tiệc ra!

Đinh Kiên ở ngoài cửa đáp dạ. Giữa lúc này, cánh cửa phòng bị đẩy vào, Hắc Bạch Tử đi vào nói với Lệnh Hồ Xung:

– Phong huynh đệ, tệ trang còn có một vị bằng hữu muốn thỉnh giáo kiếm pháp của Phong huynh đệ.

Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh nghe nói như vậy, cùng nhảy lên hớn hở nói:

– Đại ca đồng ý rồi ư?

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Người đó tỉ kiếm với mình, cần phải được sự đồng ý của đại trang chủ. Bọn họ giữ mình lại ở đây, dường như nhị trang chủ đang thương lượng với đại trang chủ . Phải năn nỉ lâu như vậy, đại trang chủ mới đồng ý. Vậy nếu người này không phải là con cháu hậu bối của đại trang chủ thì cũng là môn hạ của lão. Chẳng lẽ kiếm pháp của người đó còn cao minh hơn cả đại trang chủ ư?

Lệnh Hồ Xung liền chuyển đổi ý nghĩ, la thầm: Chao ôi, không xong rồi! Bọn họ biết nội lực của ta không còn, họ muốn giữ thể diện nên không tiện ra tay. Nhưng nếu phái một tên hậu bối hoặc thuộc hạ đến động thủ với ta, tỉ thí nội lực với ta, há không phải lấy tính mạng ta ngay lập tức ư?

Nhưng chàng liền nghĩ lại: Bốn vị trang chủ đều là bậc anh hùng quang minh lỗi lạc, làm sao có thể có hành vi đê hèn như vậy? Nhưng tam trang chủ và tứ trang chủ lại mê hai bức thư họa như điên, còn nhị trang chủ vẻ mặt lạnh lùng im lặng, nhưng đối với những thế cờ chưa được đến tay thì không cam tâm. Vì những bức thư họa và các nước cờ mà làm hạ sách này, cũng không phải là chuyện vô lý. Nếu có người dùng nội lực đả thương ta thật, thì ta dùng kiếm pháp đả thương những chỗ yếu hại của hắn trước.

Hắc Bạch Tử nói:

– Phong thiếu hiệp, làm phiền Phong thiếu hiệp một lần nữa.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nếu lấy công phu thật mà luận thì ngay cả tam trang chủ, tứ trang chủ, vãn bối cũng không phải là đối thủ, đừng nói chi đến đại trang chủ, nhị trang chủ. Bốn vị tiền bối ở Cô Sơn Mai trang võ công trác tuyệt, chỉ vì thích rượu hợp tính với vãn bối cho nên mới tình nguyện nhân nhượng đủ điều. Một chút kiếm thuật thô thiển của vãn bối, thật không dám phô trương cái dở ra nữa.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong huynh đệ, võ công của người đó đương nhiên là cao hơn Phong huynh đệ, nhưng Phong huynh đệ không cần phải sợ. Người đó…

Hắc Bạch Tử chặn lời nói của lão lại. Lão nói:

– Trong tệ trang còn có một vị tiền bối danh gia tinh thâm kiếm thuật. Người đó nghe nói kiếm pháp của Phong thiếu hiệp tinh thâm như vậy, nhất định đòi so tài mấy chiêu, hy vọng Phong thiếu hiệp hãy tỉ đấu thêm một trận nữa.

Lệnh Hồ Xung nghĩ tỉ đấu thêm một trận nữa, không chừng bị ép buộc phải đả thương người và gây thù hận với bọn Giang Nam tứ hữu. Chàng bèn nói:

– Bốn vị trang chủ đối đãi với vãn bối rất tốt, nếu tỉ đấu thêm một trận nữa, không biết vị tiền bối này tính tình thế nào. Nếu làm náo động thì không vui khi chia tay, hoặc giả vãn bối bị thương ở dưới kiếm của tiền bối này há không phải là tổn thương hòa khí ư?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Không sao, sẽ… sẽ không…

Hắc Bạch Tử lại cướp lời nói:

– Bất luận thế nào, bốn huynh đệ ta cũng không trách Phong thiếu hiệp đâu.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Thôi được, tỉ thí thêm một trận nữa có sao đâu? Ta có một chút việc không thể chậm trễ được, phải đi ngay. Phong huynh đệ, chúng ta sẽ gặp nhau ở phủ Gia Hưng.

Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đồng nói:

– Đồng huynh đi trước sao được?

Ngốc Bút Ông nói:

– Trừ phi Đồng huynh để thư pháp của Trương Húc lại.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Sau khi Phong thiếu hiệp thua thì đi đâu tìm Đồng huynh để lấy thư họa, kỳ phổ? Không được, không được. Đồng huynh nán lại một chút. Đinh quản gia, mau bày tiệc ra!

Hắc Bạch Tử nói:

– Phong thiếu hiệp, ta đưa thiếu hiệp đi. Đồng huynh, mời Đồng huynh dùng cơm trước, bọn tại hạ đi một chút thì sẽ quay lại với Đồng huynh.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu lia lịa nói:

– Trận tỷ đấu này các vị quyết chí thủ thắng. Phong huynh đệ của tại hạ tuy kiếm pháp tinh thâm, nhưng thiếu kinh nghiệm lâm địch. Các vị lại biết nội lực của Phong huynh đệ đã mất, nếu tại hạ không đứng bên lược trận, dù cuộc tỉ thí này bị thua thì lòng cũng không cam phục.

Hắc Bạch Tử nói:

– Đồng huynh nói vậy là có dụng ý gì? Chẳng lẽ bọn ta lừa dối sao?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bốn vị trang chủ ở Cô Sơn Mai trang là người hào kiệt, tại hạ ngưỡng mộ oai danh đã lâu, dĩ nhiên vô cùng tin tưởng. Nhưng Phong huynh đệ phải đi tỉ kiếm với người khác, tại hạ thực không biết ở trong Mai trang ngoài bốn vị trang chủ ra lại có một vị cao nhân nào khác. Xin hỏi nhị trang chủ, người này là ai? Nếu tại hạ biết người này cũng như bốn vị trang chủ, cũng là anh hùng hiệp sĩ quang minh lỗi lạc thì tại hạ mới an lòng.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Võ công danh vọng của vị tiền bối này so với bốn huynh đệ của ta còn cao hơn, thật không thể một lúc mà nói được.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Trong võ lâm, người có danh vọng tương đương với bốn vị trang chủ chỉ đếm trên đầu ngón tay, chắc tại hạ cũng biết tên người đó.

Ngốc Bút Ông nói:

– Tên của người này không tiện nói cho Đồng huynh nghe được.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Vậy tại hạ nhất định phải ở bên cạnh xem tỉ kiếm, nếu không thì cuộc so tài này phải hủy bỏ thôi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Sao Đồng huynh cố chấp quá vậy? Ta thấy Đồng huynh lâm trận thì có hại cho Đồng huynh chớ không có lợi. Người này ẩn cư đã lâu, không thích người ngoài nhìn thấy diện mạo của y.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Vậy sao Phong huynh đệ tỉ kiếm với người đó được?

Hắc Bạch Tử nói:

– Cả hai bên đều trùm đầu lại, chỉ để lộ hai mắt thì ai cũng không nhìn ra được ai.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bốn vị trang chủ cũng trùm đầu luôn ư?

Hắc Bạch Tử nói:

– Đúng vậy! Tính khí của người này rất cổ quái, nếu không thì người đó không động thủ.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Vậy thì tại hạ trùm đầu luôn là được rồi.

Hắc Bạch Tử do dự một lúc mới nói:

– Đồng huynh đã cố chấp muốn đến tận nơi xem tỉ đấu thì cũng được thôi, nhưng xin Đồng huynh phải đồng ý một chuyện là từ đầu đến cuối trận Đồng huynh không được lên tiếng.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Giả câm thì đâu có khó gì?

Hắc Bạch Tử liền dẫn đường, Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đi theo sau, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đi sau cùng. Lệnh Hồ Xung thấy lão đi theo lối cũ thẳng đến nơi đại trang chủ ở. Đến ngoài cầm đường của đại trang chủ, Hắc Bạch Tử gõ nhẹ lên cửa ba tiếng rồi đẩy cửa vào. Thấy trong phòng có một người đầu trùm khăn đen, nhìn y phục biết là Hoàng Chung Công. Hắc Bạch Tử đến trước lão, cúi đầu kề tai lão nói nhỏ mấy câu. Hoàng Chung Công lắc đầu nói nhỏ vài câu, rõ ràng lão không muốn Hướng Vấn Thiên tham dự cuộc đấu. Hắc Bạch Tử gật đầu quay người lại nói:

– Đại ca ta e rằng tỉ kiếm là chuyện nhỏ nhưng làm tức giận vị bằng hữu này là chuyện lớn. Chuyện tỉ kiếm phải bãi bỏ thôi.

Năm người cúi người về phía Hoàng Chung Công hành lễ rồi cáo từ, đi ra. Đan Thanh tiên sinh càu nhàu:

– Đồng huynh, con người của Đồng huynh thật cổ quái, chẳng lẽ Đồng huynh sợ bọn ta cùng về hùa ăn hiếp Phong huynh đệ sao? Đồng huynh đòi phải đến đứng bên cạnh xem xét cuộc tỉ kiếm khiến chuyện này biến thành mây khói, há không phải khiến người ta cụt hứng ư?

Ngốc Bút Ông nói:

– Nhị ca phải tốn nhiều hơi sức mới xin được đại ca đồng ý, vậy mà Đồng huynh lại cứ quấy rối hoài.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Thôi được, thôi được! Tại hạ nhường một bước không xem trận tỉ đấu này nữa. Nhưng các vị phải công bằng, không được ăn hiếp Phong huynh đệ của tại hạ.

Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh vui mừng cùng nói:

– Đồng huynh coi bọn ta là hạng người thế nào? Có lý nào bọn tại hạ lại ăn hiếp Phong thiếu hiệp?

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Tại hạ ở trong kỳ thất đợi. Phong huynh đệ, bọn họ úp úp mở mở không biết sắp giở trò gì, huynh đệ phải thật tỉnh táo, vạn lần cẩn thận.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Trong Mai trang toàn là những bậc cao nhân ẩn sĩ, nào có người làm chuyện gian dối đâu?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Đúng vậy, Phong thiếu hiệp đâu giống như Đồng huynh, cứ lấy bụng tiểu nhân đo lòng người quân tử.

Hướng Vấn Thiên đi vài bước thì quay đầu lại ngoắc tay nói:

– Phong huynh đệ, huynh đệ qua đây. Ta phải dặn dò huynh đệ vài câu, đừng để mắc bẫy của người ta.

Đan Thanh tiên sinh cười cười, không thèm để ý. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Hướng đại ca quá cẩn thận. Ta đâu phải đứa trẻ lên ba, muốn gạt ta đâu có dễ.

Lệnh Hồ Xung liền đi đến gần Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên nắm tay Lệnh Hồ Xung, chàng cảm thấy trong tay mình có một cuộn giấy. Lệnh Hồ Xung nắm chặt thì cảm thấy trong cuộn giấy đó có vật gì rất cứng. Hướng Vấn Thiên cười hi hi, kéo chàng đến gần rồi nói nhỏ vào tai:

– Sau khi huynh đệ gặp người đó thì đến gần nắm tay người đó, làm ra vẻ thân mật rồi đem cuộn giấy này nhét vào tay người đó. Chuyện này có quan hệ rất trọng đại, không được sơ suất. Ha ha, ha ha!

Lúc lão nói mấy câu này giọng rất trịnh trọng, nhưng vẻ mặt vẫn hớn hở thản nhiên. Sau cùng lão cười ha hả, thái độ và lời nói của lão chẳng có liên can gì với nhau cả.

Bọn Hắc Bạch Tử ba người đều cho rằng lão mỉa mai châm biếm mình. Đan Thanh tiên sinh nói:

– Có gì đâu mà đáng cười? Phong thiếu hiệp cố nhiên kiếm pháp cao minh nhưng Đồng huynh kiếm pháp thế nào bọn ta chưa được thỉnh giáo.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Kiếm pháp của tại hạ bình thường thôi, không cần phải thỉnh giáo thỉnh giếc gì cả. Hướng Vấn Thiên nói xong, nghênh ngang đi ra ngoài. Đan Thanh tiên sinh cười nói: – Hay lắm, chúng ta lại đi gặp đại ca.

Bốn người cùng đi vào cầm thất của Hoàng Chung Công.

Hoàng Chung Công không ngờ bọn họ quay lại nên lão đã bỏ khăn trùm đầu ra rồi. Hắc Bạch Tử nói:

– Đại ca, vị Đồng huynh đó cuối cùng đã thuyết phục được. Lão đã đồng ý không đi xem cuộc tỉ thí.

Hoàng Chung Công nói:

– Được!

Lão cầm bao vải đen trùm lên đầu. Đan Thanh tiên sinh mở rương gỗ lấy một tấm vải đen đưa cho Lệnh Hồ Xung rồi nói:

– Cái này của ta, Phong thiếu hiệp trùm đi. Đại ca, tiểu đệ mượn cái bao gối của đại ca để dùng.

Lão đi vào nội thất, một lúc sau đi ra với cái đầu đã trùm một cái bao gối màu xanh, trên bao gối khoét hai lỗ tròn để lộ ra hai con mắt sáng quắc.

Hoàng Chung Công gật đầu nói với Lệnh Hồ Xung:

– Lát nữa tỉ thí, cả hai vị đều sử kiếm gỗ, khỏi phải dùng đến nội lực để Phong huynh đệ không bị thiệt thòi.

Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Vậy thì tốt quá.

Hoàng Chung Công nhìn Hắc Bạch Tử nói:

– Nhị đệ, nhị đệ cầm theo hai thanh kiếm gỗ.

Hoàng Chung Công nói với Lệnh Hồ Xung:

– Phong huynh đệ, trận tỉ thí này bất luận ai thắng ai bại, xin huynh đệ đừng tiết lộ ra ngoài.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện này đương nhiên phải vậy. Vãn bối đã nói trước rồi, vãn bối đến Mai trang không phải để cầu danh có lý đâu lại nói vớ vẩn ra ngoài? Huống chi vãn bối nắm phần bại nhiều hơn phần thắng, cũng đâu có gì để nói.

Hoàng Chung Công nói:

– Cũng chưa chắc như vậy. Nhưng lão phu tin Phong huynh đệ là người thủ tín, chắc không tiết lộ ra ngoài. Từ bây giờ tất cả chuyện gì nghe thấy được, xin Phong huynh đệ cũng đừng nói với ai một câu, ngay cả đến Đồng huynh cũng không thể nói. Chuyện này huynh đệ làm được không?

Lệnh Hồ Xung ngần ngừ nói:

– Ngay cả Đồng đại ca cũng không thể nói ư? Sau cuộc tỉ kiếm, dĩ nhiên Đồng huynh muốn hỏi những việc đã qua. Nếu vãn bối mà im miệng không nói thì không khỏi lỗi đạo bằng hữu.

Hoàng Chung Công nói:

– Đồng huynh là người lão luyện trên giang hồ, biết Phong huynh đệ đã hứa với lão phu, bậc trượng phu lời hứa nặng hơn ngàn vàng, không thể nuốt lời được, đương nhiên cũng không đến nỗi o ép huynh đệ phải khó xử đâu.

Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:

– Tiền bối nói cũng phải, vãn bối xin hứa.

Hoàng Chung Công cung tay nói:

– Đa tạ hậu ý của Phong huynh đệ, xin mời huynh đệ.

Lệnh Hồ Xung quay người toan đi ra ngoài. Nào ngờ Đan Thanh tiên sinh chỉ vào nội thất nói:

– Ở trong này.

Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, rất ngạc nhiên nghĩ: Sao ở bên trong nội thất? Nhưng chàng liền hiểu ra: A, phải rồi, người tỉ kiếm với mình là một phụ nữ, không chừng là phu nhân hoặc cơ thiếp của đại trang chủ. Vì vậy bọn họ kiên quyết không để Hướng đại ca đứng bên xem, đã không muốn bà ta thấy tướng mạo của mình, lại cũng không cho mình thấy được mặt mũi thật của bà ta, đương nhiên là có ý phân biệt nam nữ. Đại trang chủ cứ dặn dò, bắt mình không được nói cho người khác, ngay cả Hướng đại ca cũng không thể nói. Nếu không phải là chuyện người khuê các thì hà tất phải trịnh trọng như vậy?

Lệnh Hồ Xung nghĩ được vấn đề này thì bao nhiêu mối nghi ngờ đều thông suốt. Chàng vừa bóp mạnh cuộn giấy trong tay và vật cứng nhỏ trong đó, thầm nghĩ: Xem ra Hướng đại ca đã bố trí mọi việc, lo xa tính trước, chẳng qua là muốn tìm cách gặp mặt người phụ nữ này. Đại ca tự biết không thể gặp được bà ta, nên muốn mình đưa dùm thư tín và vật tín. Trong chuyện này nhất định có tư tình mờ ám. Hướng đại ca và mình tuy kết nghĩa kim lan, nhưng bốn vị trang chủ đối đãi mình rất nồng hậu, nếu mình truyền vật này cho bà ta, thì quá có lỗi với bốn vị trang chủ. Làm thế nào bây giờ?

Rồi Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Hướng đại ca và bốn vị trang chủ đều là người năm sáu chục tuổi, người phụ nữ đó nhất định không còn trẻ nữa, dù có vướng víu tình duyên cũng là chuyện cũ nhiều năm về trước. Vậy có đưa thư này thì cũng không làm tổn thương danh tiết của người phụ nữ đó.

Lệnh Hồ Xung vừa đi vừa trầm ngâm suy nghĩ, năm người đã đi vào nội thất.

Trong nội thất có một cái giường và một cái tràng kỷ, cách bày biện đơn giản, trên giường treo tấm rèm the rất cũ, đã ngả sang màu vàng. Trên tràng kỷ để một cây đoản cầm màu đen hơi xanh, dường như chế bằng thép.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Tất cả sự việc diễn tiến hoàn toàn đúng với sự tính toán của Hướng đại ca. Ôi mối thâm tình của Hướng đại ca như vậy, lẽ nào ta không giúp đại ca thỏa mãn tâm nguyện này.

Lệnh Hồ Xung tính lãng mạn, xưa nay không để tâm chuyện đề phòng danh giá lễ nghĩa. Lúc này lòng chàng ẩn hiện hình bóng của tiểu sư muội Nhạc Linh San. Nếu cô ta lấy sư đệ Lâm Bình Chi, thì mình cũng như Hướng Vấn Thiên, cách mấy chục năm sau, tìm trăm phương ngàn kế gặp mặt tiểu sư muội một lần. Nếu không gặp mặt được thì cũng truyền đưa tín vật năm xưa để tỏ mối tình sâu đậm, cũng đủ an ủi nỗi tương tư mấy chục năm trời. Lòng chàng lại nghĩ: Hướng đại ca thoát ly Ma giáo, không thèm đếm xỉa gì đến giáo chủ và chúng huynh đệ trong Ma giáo, không chừng là vì người tình cũ này.

Lệnh Hồ Xung còn đang suy nghĩ thì Hoàng Chung Công đã vén tấm đệm trên giường ra, dựng tấm ván giường lên, phía dưới là một tấm sắt, ở trên tấm sắt có vòng đồng. Hoàng Chung Công nắm chặt vòng đồng nhấc lên một thiết bản dài khoảng năm thước rộng khoảng bốn thước để lộ ra một đường hầm dài vuông. Thiết bản này dày đến nửa thước, hiển nhiên là rất nặng. Lão đặt dưới đất rồi nói:

– Chỗ ở của người này có hơi kỳ lạ một chút, mời Phong huynh đệ đi theo lão phu.

Lão nói xong liền nhảy xuống. Hắc Bạch Tử nói:

– Mời Phong thiếu hiệp xuống trước.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy kỳ lạ, liền nhảy theo, thấy phía dưới trên tường có ngọn đèn dầu leo lét, phát ra ánh sáng vàng nhạt mờ mờ, dường như nơi mình đang đứng là một địa đạo. Lệnh Hồ Xung theo Hoàng Chung Công tiến về phía trước, bọn Hắc Bạch Tử ba người cũng lần lượt nhảy xuống sau.

Đi được khoảng hai trượng, trước mặt không còn đường đi nữa. Hoàng Chung Công lấy trong túi ra một chùm chìa khóa, đút vào ổ khóa xoay mấy vòng rồi đẩy vào trong. Chỉ nghe tiếng cửa nghiến kèn kẹt, cánh cửa đá từ từ mở ra. Lệnh Hồ Xung càng cảm thấy kinh dị, đối với Hướng Vấn Thiên lại có ý đồng tình với lão mấy phần. Chàng thầm nghĩ: Bọn họ đem người phụ nữ giam dưới này, dĩ nhiên là cưỡng ép cầm tù, trái với tâm nguyện của bà ta. Bốn vị trang chủ này dường như đều là kẻ sĩ hào kiệt nhân nghĩa mà sao lại làm chuyện đê tiện bỉ ổi như vậy?

Lệnh Hồ Xung đi theo Hoàng Chung Công tiến vào thạch môn. Đường đi dốc xuống, sau khi đi được mấy chục trượng lại đến trước một cánh cửa. Hoàng Chung Công lại lấy chùm chìa khóa rồi mở ra, lần này lại là một cánh cửa sắt. Địa thế không ngừng dốc xuống, e rằng đã đi sâu vào lòng đất hơn trăm trượng. Địa đạo vòng qua mấy khúc quanh, ở trước mặt lại xuất hiện một cánh cửa nữa. Lệnh Hồ Xung lập tức nổi máu bất bình: Ta cứ tưởng bốn vị trang chủ tinh thâm cầm kỳ thư họa là bậc cao nhân nhã sĩ, nào ngờ lại vì chuyện riêng tư mà bày địa đạo, đem một phụ nữ nhốt trong bóng tối không thấy ánh mặt trời.

Lúc đầu Lệnh Hồ Xung mới xuống địa đạo thì không có suy nghĩ gì nhưng bây giờ không khỏi có ý thức cảnh giác đề phòng. Chàng ngấm ngầm run sợ : Bọn họ tỉ kiếm với ta không thắng, phải chăng dẫn ta đến nơi đây cũng muốn để cầm tù ta? Trong địa đạo, cơ quan môn hộ trùng trùng dày đặc, dẫu có mọc cánh cũng không bay ra được.

Tuy Lệnh Hồ Xung có ý đề phòng, nhưng ở trước có Hoàng Chung Công, phía sau có Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút Ông, Đan Thanh tiên sinh, trong tay chàng lại không có binh khí, dẫu có đề phòng cũng không thể làm gì được.

Tầng cửa thứ ba lại là do bốn cánh cửa hợp lại, sau cánh cửa sắt là một cánh cửa gỗ nhồi bông đóng đinh rất dày, sau cánh cửa gỗ là cánh cửa sắt, rồi lại một cánh cửa ván đóng đinh nhồi bông. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Tại sao giữa hai cánh cửa sắt lại ép hai cánh cửa gỗ nhồi bông đóng đinh dày đặc? Phải rồi. Chắc người bị cầm tù nội công vô cùng lợi hại, lõi bông này dùng để hút đi chưởng lực của bà ta, đề phòng bà ta phá cửa sắt.

Chàng tiếp tục đi hơn mười trượng, không thấy có cửa ngõ nào nữa. Trong địa đạo cách rất xa mới có một ngọn đèn dầu, có những chỗ đèn dầu tắt, đường tối om om, phải lần mò mà đi vài trượng mới thấy được ánh đèn. Lệnh Hồ Xung cảm thấy khó thở, trên vách và dưới chân rất ẩm ướt. Bỗng Lệnh Hồ Xung hiểu ra: Chao ôi, Mai trang ở bên cạnh Tây Hồ, đi xa như vậy chỉ e rằng đã đi sâu xuống đáy Tây Hồ. Người này bị cầm tù ở đáy hồ, dĩ nhiên không có cách nào thoát được, nếu đào xuyên vào vách ngục thì nước hồ sẽ tràn vào.

Hồi 84: Gặp tù nhân dưới đáy hồ

Đi thêm vài trượng nữa, địa đạo bỗng nhiên nhỏ lại, phải khom người, càng tiến về phía trước thì càng khom thấp xuống. Đi thêm vài trượng, Hoàng Chung Công dừng bước, bật lửa lên đốt ngọn đèn dầu trên vách. Ánh sáng mờ mờ, chàng thấy trước mặt là một cánh cửa sắt, trên cánh cửa sắt có một lỗ hổng khoảng một thước vuông.

Hoàng Chung Công nhìn vào lỗ vuông lớn tiếng nói:

– Nhậm tiên sinh, bốn huynh đệ Hoàng Chung Công đến thăm Nhậm tiên sinh đây.

Lệnh Hồ Xung sửng sốt: Sao lại là Nhậm tiên sinh? Chẳng lẽ người bị giam ở bên trong không phải là phụ nữ sao? Bên trong không có tiếng đáp lại. Hoàng Chung Công lại nói:

– Nhậm tiên sinh, bọn tại hạ đã lâu không đến bái yết thật là áy náy. Hôm nay đặc biệt đến đây để nói cho Nhậm tiên sinh hay một chuyện lớn.

Bên trong có tiếng người hậm hực thóa mạ:

– Chuyện lớn chuyện nhỏ cái con mẹ nó, có rắm chó thì cứ phóng ra đi, nếu không phóng ra thì cút khỏi nơi đây càng xa càng tốt.

Lệnh Hồ Xung rất đỗi kinh ngạc, bao nhiêu điều tưởng tượng lúc trước trong phút chốc đều tan thành mây khói. Khẩu âm của người này là một lão già lớn tuổi, nói năng thô tục. Thật là một người lỗ mãng thuộc hàng cự phách.

Hoàng Chung Công nói:

– Trước đây bọn tại hạ cho rằng kiếm pháp của mình cao thâm trên giang hồ, Nhậm tiên sinh cũng là bậc đệ nhất, nào ngờ đã nhầm to. Hôm nay có người đến Mai trang, bốn huynh đệ của tại hạ không phải là địch thủ của người đó. Kiếm pháp của Nhậm tiên sinh so với người đó thì cũng như bợm nhỏ gặp bợm lớn thôi.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra lão dùng lời nói khích, muốn người đó tỉ kiếm với ta.

Người đó cười ha hả nói:

– Bốn quân chó lộn giống người các ngươi đấu không lại người ta mới tìm cách nói khích để ta tỷ kiếm với hắn, mong ta thay bốn cái đồ ngu các ngươi thu xếp cường địch có phải không? Ha ha, các ngươi tưởng bở lắm nhưng hỏng rồi. Đáng tiếc mười mấy năm nay ta không động kiếm, kiếm pháp đã quên sạch sành sanh. Bà mẹ đồ rắm chó, các ngươi mau cúp đuôi cút khỏi đây cho ta.

Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên nghĩ: Người này cơ trí hơn người. Lão liệu đoán sự việc như thần, vừa nghe Hoàng Chung Công nói thì đã đoán được ngay.

Ngốc Bút Ông nói:

– Đại ca, Nhậm tiên sinh quyết không phải là địch thủ của người này. Người đó nói trong Mai trang không ai thắng nổi hắn, câu nói này không sai. Chúng ta không cần nói nhiều với Nhậm tiên sinh nữa.

Người họ Nhậm quát:

– Ngươi có khích ta cũng vô ích thôi. Chẳng lẽ Nhậm mỗ còn có thể đi làm giùm việc cho cái đồ chó lộn giống người các ngươi sao?

Ngốc Bút Ông nói:

– Kiếm pháp của người này được chân truyền của Phong Thanh Dương lão tiên sinh phái Hoa Sơn. Đại ca, nghe nói năm xưa Nhậm tiên sinh tung hoành giang hồ, không sợ trời, chẳng sợ đất mà chỉ sợ Phong lão tiên sinh. Nhậm tiên sinh có ngoại hiệu là Vọng Phong nhi đào. Chữ “Phong” này là chỉ vào Phong Thanh Dương, Phong lão tiên sinh. Có đúng vậy không?

Người họ Nhậm la om sòm rồi chửi:

– Thúi quá, thúi quá! Thúi không chịu nổi!

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Tam ca nói sai rồi.

Ngốc Bút Ông hỏi:

– Sai cái gì?

Đan Thanh tiên sinh đáp:

– Tam ca nói sai một chữ. Ngoại hiệu của Nhậm tiên sinh không phải là Vọng Phong nhi đào mà là Văn Phong nhi đào. Tam ca nghĩ xem, nếu Nhậm tiên sinh gặp Phong lão tiên sinh, hai người cách nhau không xa lắm, Phong lão tiên sinh liệu có thể để Nhậm tiên sinh đào tẩu hay không? Chỉ cần vừa nghe đến tên của Phong lão tiên sinh, Nhậm tiên sinh liền co giò chạy, vội vã như chó đạp lửa.

Ngốc Bút Ông tiếp lời:

– Hoang mang như cá mắc lưới.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Vì vậy mới giữ được ngôi thủ lĩnh cho đến ngày nay.

Người họ Nhậm không giận mà còn cười nói:

– Bốn cái đồ ngu thúi tha bị người ta dồn đến đường cùng, không làm gì được mới nghĩ đến chuyện cầu lão phu ra tay. Bà mẹ bọn bây, nếu lão phu trúng quỷ kế của các ngươi thì không còn là Nhậm mỗ nữa.

Hoàng Chung Công thở dài nói:

– Phong huynh đệ, vị Nhậm tiên sinh này vừa nghe đến chữ “Phong” của huynh đệ thì đã hồn xiêu phách tán, ruột gan teo nhách cả rồi. Cuộc đấu kiếm này không cần tỉ nữa, bọn ta thừa nhận kiếm pháp Phong huynh đệ là đệ nhất đương thời.

Tuy Lệnh Hồ Xung thấy người đó không phải là phụ nữ, những suy đoán trước đây của chàng hoàn toàn sai bét nhưng thấy lão bị giam cầm ở chốn lao lung thâm sâu đã nhiều năm, lòng chàng không kìm được sự đồng cảm với lão. Từ trong ngữ khí của mọi người, chàng đoán rằng người này là bậc tiền bối, võ công cực cao. Khi nghe Hoàng Chung Công nói vậy, Lệnh Hồ Xung bèn nói:

– Đại trang chủ nói vậy không đúng rồi. Lúc Phong lão tiền bối và vãn bối đàm luận kiếm pháp, đối với… vị Nhậm lão tiên sinh này rất tôn sùng, nói rằng kiếm pháp đương thời thì Phong lão tiền bối chỉ khâm phục một mình Nhậm lão tiên sinh. Phong lão tiền bối còn dặn sau này nếu vãn bối có cơ duyên bái kiến Nhậm lão tiên sinh, thì phải thành tâm thành ý cung kính khấu đầu trước Nhậm lão tiên sinh, xin lão nhân gia chỉ giáo.

Lệnh Hồ Xung vừa nói ra, bọn Hoàng Chung Công bốn người đều ngạc nhiên. Lão họ Nhậm vô cùng đắc ý cười lên ha hả nói:

– Tiểu bằng hữu, tiểu bằng hữu nói đúng lắm. Phong Thanh Dương không phải là hạng tầm thường, chỉ có lão mới biết được chỗ tinh diệu trong kiếm pháp của ta.

Hoàng Chung Công nói:

– Phong… Phong lão tiên sinh biết lão… lão đang ở đây không?

Tiếng lão nói hơi run, dường như có ý hoảng sợ.

Lệnh Hồ Xung nói bừa:

– Phong lão tiên sinh chỉ biết Nhậm lão tiên sinh quy ẩn ở danh sơn thắng địa. Lúc Phong lão nhân gia dạy vãn bối luyện kiếm, thường nhắc đến Nhậm lão tiên sinh, nói rằng những chiêu kiếm này chỉ dùng để đối địch với truyền nhân của Nhậm lão tiên sinh. Trên đời này nếu không có Nhậm lão tiên sinh thì những thứ kiếm pháp phức tạp như vậy không cần phải học.

Lúc này Lệnh Hồ Xung đối với bốn vị trang chủ của Mai trang có ý bất mãn, những lời này chàng có ý mai mỉa bọn họ. Lệnh Hồ Xung nghĩ lão họ Nhậm này là anh hùng tiền bối lại bị cầm tù ở chốn lao lung ẩm thấp này, nhất định là bị bọn họ ám toán. Bốn người họ đã dùng thủ đoạn đê tiện, không hỏi cũng biết.

Lão họ Nhậm nói:

– Đúng vậy, tiểu bằng hữu, quả nhiên Phong Thanh Dương là người rất hiểu biết. Tiểu bằng hữu đã đánh bại bốn cái đồ thúi tha ở Mai trang có phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Kiếm pháp của vãn bối được đích thân Phong lão tiên sinh truyền cho, trừ phi chính Nhậm lão tiên sinh hoặc truyền nhân của Nhậm lão tiên sinh ra, còn người bình thường dĩ nhiên không phải là địch thủ.

Lệnh Hồ Xung nói mấy câu này là đã công nhiên mạt sát bốn người bọn Hoàng Chung Công. Chàng cảm thấy chỗ hắc lao này ẩm thấp mịt mùng thì càng tức giận bốn vị trang chủ. Mình mới ở đây trong chốc lát mà đã khó chịu như vậy, bọn họ lại đem vị cao nhân võ lâm này nhốt ở đây còn thậm tệ hơn chỗ nhốt súc vật, không biết đã bao nhiêu năm, thật tàn nhẫn vô cùng. Chàng bị kích động nghĩa khí, phẫn nộ nên nói thẳng ra không kiêng dè gì nữa. Lệnh Hồ Xung nghĩ cùng lắm bọn họ giết mình ngay tại đây cũng đâu có sao?

Bọn Hoàng Chung Công nghe vậy rất khó chịu nhưng quả thực bọn họ tỉ kiếm thua nên không nói gì được. Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phong huynh đệ, Phong huynh đệ nói…

Hắc Bạch Tử níu áo lão, Đan Thanh tiên sinh liền im miệng.

Lão họ Nhậm nói:

– Hay lắm, hay lắm! Tiểu bằng hữu, tiểu bằng hữu đã trút cơn giận thay ta. Tiểu bằng hữu làm sao mà đánh bại được bọn họ?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Người thứ nhất trong Mai trang tỉ kiếm với vãn bối là bằng hữu họ Đinh, gọi cái gì là Nhất tự điện kiếm Đinh Kiên.

Lão họ Nhậm nói:

– Kiếm pháp của người này hoa hòe mà không thực, chỉ dùng kiếm quang để dọa người chứ không có bản lĩnh thực sự. Tiểu bằng hữu không cần xuất chiêu đả thương hắn, chỉ cần đưa mũi kiếm vào chỗ nào đó thì ngón tay, cổ tay, cánh tay của hắn tự nhiên đưa đến mũi kiếm của tiểu bằng hữu để tự cắt đứt.

Năm người vừa nghe đều ngạc nhiên, không hẹn mà cùng ồ lên một tiếng.

Lão họ Nhậm hỏi:

– Thế nào? Ta nói có đúng không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiền bối nói rất đúng, giống như tiền bối đã tận mắt chứng kiếnnvậy.

Lão họ Nhậm cười nói:

– Hay lắm! Hắn bị chém đứt năm ngón tay hay là cả cánh tay?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối đưa mũi kiếm nghiêng đi.

Lão họ Nhậm nói:

– Không đúng, không đúng! Đối phó với địch nhân sao phải khách khí? Tiểu bằng hữu lòng dạ nhân từ, ngày sau tất sẽ hối hận. Người đối địch thứ hai của tiểu bằng hữu là ai?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Là tứ trang chủ.

Lão họ Nhậm nói:

– Ấy! Kiếm pháp của lão tứ đương nhiên cao minh hơn cái tên Nhất tự thí kiếm[6] một chút, nhưng hắn chẳng cao hơn bao nhiêu. Hắn thấy tiểu bằng hữu thắng Đinh Kiên, nên nhất định vừa ra chiêu liền sử ngay tuyệt kỹ đắc ý nhất của hắn. Hừ hừ, hắn gọi là kiếm pháp gì? Phải rồi, gọi là Bát mặc phi ma kiếm pháp, cái gì Bạch hồng quán nhật, Đằng giao khởi phụng, lại cái gì Xuân phong dương liễu…

Đan Thanh tiên sinh nghe lão đem mấy tuyệt chiêu đắc ý của mình nói ra không sai chút nào thì rất kinh ngạc.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Kiếm pháp của tứ trang chủ kỳ thực cũng rất cao minh nhưng khi tấn công để lộ sơ hở quá nhiều.

Lão họ Nhậm cười ha hả, nói:

– Truyền nhân của lão Phong quả nhiên có đôi mắt tinh đời. Tiểu bằng hữu nói được nhược điểm chí mệnh của đường Bát mặc phi ma kiếm pháp của hắn rồi. Trong đường kiếm pháp này của hắn có một chiêu mà hắn cho là sát thủ lợi hại nhất gọi là Ngọc long đảo huyền, vung trường kiếm từ trên chém xuống. Hắn không sử chiêu này thì thôi, nếu hắn sử ra mà đụng phải truyền nhân lão Phong, chỉ cần đưa trường kiếm thuận theo lướt trên mũi kiếm của hắn, thì năm ngón tay của hắn đều bị đứt, máu trên tay sẽ túa như mực. Đây gọi là Bát huyết phi chỉ kiếm pháp. Ha ha, ha ha…

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiền bối đoán chuyện như thần, quả là vãn bối đã thắng lão chiêu này. Nhưng vãn bối không thù không oán với lão, tứ trang chủ lại đem rượu ngon ra, tiếp đãi vãn bối rất nồng hậu. Năm ngón tay này không thể làm cho đứt được. Ha ha, ha ha.

Sắc mặt của Đan Thanh tiên sinh tức đến nỗi vừa đỏ bừng lại chuyển sang tái xanh, thực đúng là “Đan Thanh tiên sinh”, có điều trên đầu lão trùm bao gối nên không ai nhìn được mà thôi.

Lão Nhậm nói:

– Ngốc đầu lão tam giỏi về sử phán quan bút, tay hắn viết chữ giống như đứa trẻ ba tuổi mà cứ học đòi ung dung phong nhã, trong võ lâm lại tự xưng là có bút ý bao hàm cả thư pháp danh gia. Hì hì, tiểu bằng hữu, nên biết lúc lâm địch quá chiêu đại sự sinh tử như treo trên sợi chỉ mành, toàn lực chiến đấu e chưa thắng nổi còn đâu rảnh rỗi mà nghiên cứu cái gì Chung Vương bi thiếp? Trừ phi võ công của đối phương kém tiểu bằng hữu thì tiểu bằng hữu mới có thể đem đối phương ra làm trò đùa. Nhưng nếu song phương võ công ngang nhau, tiểu bằng hữu lại dùng phán quan bút để viết chữ, tất là đem tính mạng của mình hai tay dâng cho địch nhân.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiền bối nói rất đúng, vị tam trang chủ này động thủ với người hơi lạm dụng thái quá.

Lúc đầu Ngốc Bút Ông nghe lão Nhậm nói như vậy thì rất tức giận, nhưng càng nghĩ lão càng cảm thấy lời nói vô cùng có lý. Lão đem thư pháp hòa nhập vào chiêu số của phán quan bút, tuy không phải là trò giải trí nhưng uy lực trên bút giảm đi nhiều, nếu Lệnh Hồ Xung không hạ thủ lưu tình thì mười Ngốc Bút Ông cũng bị giết. Lão nghĩ đến đây bất giác toát mồ hôi lạnh.

Lão họ Nhậm lại nói:

– Muốn thắng Ngốc đầu lão tam thì dễ lắm. Phán quan bút pháp của hắn vốn khá đẹp mắt nhưng ngông cuồng thái quá, cứ muốn trong võ công có thêm cái gì thư pháp. Hì hì, cao thủ quá chiêu, tranh nhau từng hơi, từng tấc. Hắn lại đem tính mạng của mình để làm trò đùa mà sống được đến ngày nay thì cũng là chuyện lạ trong võ lâm. Ngốc đầu lão tam, mười mấy năm gần đây, ngươi là con rùa chui rúc xó nhà, không hành tẩu trên giang hồ phải vậy không?

Ngốc Bút Ông hừ một tiếng không trả lời, lòng sợ hãi, tự nghĩ: Lão nói không sai. Trong mười mấy năm, nếu ta hành tẩu trên giang hồ thì sao có thể sống đến hôm nay?

Lão Nhậm nói:

– Công phu trên bàn cờ sắt của lão nhị quả có chút thực lực, vừa động thủ tấn công người thì ra chiêu nhanh như gió táp mưa sa, hạng tầm thường không dễ chống đỡ nổi. Tiểu bằng hữu, làm sao tiểu bằng hữu lại phá được chiêu này của lão, nói ta nghe thử.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chữ “phá” vãn bối không dám nhận. Chẳng qua lúc vãn bối vừa tấn công nhị trang chủ chiêu thứ nhất, vãn bối đã khiến cho nhị trang chủ phải quay về thế thủ.

Lão họ Nhậm nói:

– Hay lắm! Chiêu thứ hai thì sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Chiêu thứ hai vãn bối vẫn tấn công, nhị trang chủ lại giữ thế thủ.

Lão Nhậm nói:

– Hay lắm! Chiêu thứ ba thì thế nào?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Chiêu thứ ba vãn bối vẫn tấn công, nhị trang chủ vẫn thủ.

Lão họ Nhậm nói:

– Tuyệt thật! Năm xưa Hắc Bạch Tử oai danh trên giang hồ, hắn sử một tấm thiết bài, chỉ cần ai đó có thể đỡ được ba chiêu liên hoàn của hắn thì Hắc Bạch Tử sẽ tha không giết. Sau này hắn đổi lại sử bàn cờ sắt, thứ binh khí chiếm phần tiện nghi, nên sử càng lợi hại hơn. Tiểu bằng hữu lại bức được hắn liên tiếp thủ ba chiêu. Hay lắm! Chiêu thứ tư hắn phản kích ra sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Chiêu thứ tư vãn bối vẫn công, nhị trang chủ vẫn thủ.

Lão họ Nhậm nói:

– Kiếm pháp của lão Phong cao minh đến vậy sao? Muốn thắng cũng không khó nhưng bức được hắn cả bốn chiêu đều giữ thế thủ, ha ha, hay lắm, hay lắm! Chiêu thứ năm nhất định hắn tấn công chứ?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chiêu thứ năm thế công thủ vẫn không thay đổi.

Lão họ Nhậm ồ một tiếng, một lúc lâu sau mới hỏi:

– Tất cả tiểu bằng hữu tấn công được bao nhiêu chiêu thì Hắc Bạch Tử mới phản kích?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Cái này… cái này… chiêu số vãn bối không nhớ.

Hắc Bạch Tử nói:

– Kiếm pháp Phong thiếu hiệp như thần, từ đầu tới cuối vãn bối chưa trả được chiêu nào. Lúc thiếu hiệp tấn công hơn bốn chục chiêu, vãn bối tự biết mình không phải là địch thủ nên hạ bàn cờ chịu thua.

Cho đến bây giờ, Hắc Bạch Tử mới nói với lão họ Nhậm, ngữ khí vô cùng cung kính. Lão Nhậm ồ lớn một tiếng, nói:

– Có lý nào lại như vậy? Tuy Phong Thanh Dương là nhân tài xuất chúng của phe Kiếm tông phái Hoa Sơn nhưng kiếm pháp của phe Kiếm tông cũng có hạn. Ta quyết không tin trong phái Hoa Sơn lại có người có thể liên tiếp tấn công Hắc Bạch Tử đến hơn bốn mươi chiêu, bức hắn không cách nào hoàn chiêu được.

Hắc Bạch Tử nói:

– Nhậm lão tiên sinh quá khen vãn bối rồi! Vị Phong huynh đệ này hậu sinh khả úy, kiếm pháp cao thâm, đã sớm vượt xa phạm vi Kiếm tông phái Hoa Sơn. Nhìn quanh võ lâm đương thời, chỉ có đại cao thủ Nhậm lão tiên sinh hiếm thấy trong võ lâm mấy trăm năm nay mới có thể chỉ điểm vài chiêu cho Phong thiếu hiệp.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Hoàng Chung Công, Ngốc Bút Ông, Đan Thanh tiên sinh cả ba người ăn nói rất cao ngạo với lão Nhậm, còn Hắc Bạch Tử đối với lão lại rất cung kính. Nhưng lão vừa khích vừa khen, dụng ý giống nhau, đều muốn vị Nhậm lão tiên sinh này tỉ kiếm với mình.

Lão họ Nhậm nói:

– Hà, ngươi lại bợ đít ta, thúi không chịu nổi. Chiêu số võ thuật của Hoàng Chung Công so với Hắc Bạch Tử cũng chỉ tám lạng nửa cân nhưng nội lực của hắn thì tuyệt. Tiểu bằng hữu, nội lực của tiểu bằng hữu cũng thắng được hắn sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Trước đây vãn bối bị thương, nội lực bị mất hết cho nên Thất huyền vô hình kiếm của đại trang chủ hoàn toàn không hiệu ứng gì với vãn bối.

Lão họ Nhậm cười ha hả nói:

– Thật là hoạt kê! Rất tốt, tiểu bằng hữu, ta rất muốn biết kiếm pháp của tiểu bằng hữu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiền bối đừng để mắc bẫy, Giang Nam tứ hữu chỉ muốn khích tiền bối tỉ kiếm với vãn bối, kỳ thực còn có mưu đồ khác.

Lão Nhậm hỏi:

– Mưu đồ gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Bọn họ đánh cuộc với một vị bằng hữu của vãn bối, nếu trong Mai trang có người thắng được kiếm pháp của vãn bối thì bằng hữu của vãn bối chịu thua, phải đưa mấy thứ cho bọn họ.

Lão Nhậm nói:

– Đưa mấy thứ gì? À, chắc là cầm phổ, kỳ phổ hiếm thấy hay là cái gì chân tích thư họa đời xưa.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiền bối đoán việc như thần.

Lão Nhậm nói:

– Ta chỉ muốn xem kiếm pháp của tiểu bằng hữu, chứ không quá chiêu thật. Hơn nữa, ta cũng chưa chắc thắng được tiểu bằng hữu đâu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiền bối muốn thắng vãn bối là chuyện mười phần nắm chắc hết chín nhưng vãn bối phải xin bốn vị trang chủ hứa cho một chuyện.

Lão Nhậm hỏi:

– Chuyện gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Nếu tiền bối thắng vãn bối thì bọn họ có được mấy thứ quý hiếm trên đời; còn bốn vị trang chủ phải mở cửa ngục, cung kính mời tiền bối rời khỏi chỗ này.

Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh cùng nói:

– Chuyện này vạn lần không được.

Lão Nhậm cười nói:

– Tiểu bằng hữu có ý tưởng lạ đời như vậy là do Phong Thanh Dương dạy tiểu bằng hữu phải không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Phong lão tiên sinh tuyệt không hề biết tiền bối bị giam ở đây, vãn bối càng vạn lần không ngờ được.

Hắc Bạch Tử bỗng nói:

– Phong thiếu hiệp, Phong thiếu hiệp có biết vị Nhậm lão tiên sinh này tên là gì không? Bằng hữu trong võ lâm gọi ngoại hiệu của Nhậm lão tiên sinh là gì? Nhậm lão tiên sinh là chưởng môn của phái nào, vì sao bị cầm tù ở đây? Phong thiếu hiệp đã từng nghe Phong lão tiên sinh nói qua bao giờ chưa?

Đột nhiên Hắc Bạch Tử liên tiếp đưa ra mấy câu hỏi như vậy, Lệnh Hồ Xung không trả lời được câu nào. Trước đây Lệnh Hồ Xung liên tiếp tấn công lão hơn bốn mươi chiêu, Hắc Bạch Tử chỉ có thể thủ hơn bốn mươi chiêu mà bây giờ lão liên tiếp phát ra bốn câu hỏi cũng giống như tấn công tới tấp bốn chiêu, Lệnh Hồ Xung cũng không đỡ được chiêu nào. Chàng ấp úng một lúc mới nói:

– Chuyện này vãn bối chưa nghe Phong lão tiên sinh nói qua. Vãn bối… vãn bối quả thực không biết.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Phải rồi, ta chắc Phong thiếu hiệp cũng không biết, nếu thiếu hiệp biết nguyên do cũng sẽ không muốn bọn ta thả lão ra. Nếu lão rời khỏi chỗ này thì trời đất sẽ đảo điên, võ lâm không biết có bao nhiêu người sẽ táng mạng dưới tay lão, giang hồ từ đây không có một ngày bình yên.

Lão Nhậm cười ha hả nói:

– Đúng vậy! Giang Nam tứ hữu có gan bằng trời cũng không dám để lão phu thoát khỏi chốn lao lung. Hơn nữa bọn chúng chỉ phụng mệnh ở đây canh giữ, chẳng qua cũng chỉ là bốn tên cai ngục mà thôi. Bọn chúng đâu có quyền thả lão phu? Tiểu bằng hữu, tiểu bằng hữu nói câu này là đã đề cao thân phận của bọn chúng quá rồi.

Lệnh Hồ Xung không nói, thầm nghĩ: Trong chuyện này có vô số điều bí ẩn, mình chẳng biết chút nào, thực là vừa nói thì đã để lộ ra cái dốt rồi.

Hoàng Chung Công nói:

– Phong huynh đệ, Phong huynh đệ thấy chỗ lao tù này tối tăm ẩm thấp mà sinh ý đồng tình với Nhậm tiên sinh, đối với bốn huynh đệ lão phu rất bất nhẫn, đây là tấm lòng hiệp nghĩa của Phong huynh đệ, lão phu không trách. Phong huynh đệ có biết nếu vị Nhậm tiên sinh này trở lại giang hồ thì chỉ riêng phái Hoa Sơn của huynh đệ ít nhất cũng bị chết hơn một nửa. Nhậm tiên sinh, tại hạ nói vậy có đúng không?

Lão Nhậm cười nói:

– Đúng vậy, đúng vậy! Chưởng môn nhân phái Hoa Sơn là Nhạc Bất Quần phải không? Người này giả nhân giả nghĩa, chỉ đáng tiếc trước đó ta bận rộn, sau đó lại bị thất thủ vì bị người ám toán, nếu không ta đã sớm lột cái bộ mặt giả dối của hắn ra rồi.

Hồi 85: Nhậm tiên sinh đại đấu Lệnh Hồ Xung

Lệnh Hồ Xung giật mình. Tuy sư phụ đã trục xuất chàng ra khỏi phái Hoa Sơn và truyền thư đi khắp thiên hạ nói chàng là công địch của nhân sĩ võ lâm chính phái, nhưng ân đức sư phụ, sư mẫu nuôi dưỡng từ nhỏ đến lớn, tình nghĩa như ruột thịt khiến chàng không thể nào quên được. Bây giờ nghe lão họ Nhậm sỉ nhục sư phụ của mình như vậy, Lệnh Hồ Xung không kìm được tức giận, la lên:

– Im đi, sư…

Chữ “phụ” tiếp theo kịp dừng lại. Chàng nhớ đến chuyện Hướng Vấn Thiên dẫn đến Mai trang, bảo mình mạo nhận là sư thúc của sư phụ; đối phương thiện ác chưa rõ, thì không nên để lộ chân tướng cho bọn họ biết.

Lão họ Nhậm không biết Lệnh Hồ Xung tức giận mà quát, lão cười tít nói:

– Trong phái Hoa Sơn, ta thấy cũng có người tử tế. Ngoài Phong lão tiên sinh và tiểu bằng hữu, còn có một hậu bối của tiểu bằng hữu gọi cái gì là Hoa Sơn ngọc nữ Ninh… Ninh cái gì. A! Phải rồi Ninh Trung Tắc. Tiểu cô nương này cũng khảng khái hào hiệp, là một nhân vật đáng trọng. Chỉ đáng tiếc cô đi lấy Nhạc Bất Quần, chẳng khác gì bông hoa lài cắm bãi cứt trâu.

Lệnh Hồ Xung nghe lão gọi sư nương của mình là tiểu cô nương thì dở khóc dở cười, đành nín thinh. Xem ra đối với sư nương, lão cũng có ý đề cao, nói bà là một nhân vật đáng trọng.

Lão Nhậm hỏi:

– Tiểu bằng hữu, tiểu bằng hữu tên gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối họ Phong tên là Nhị Trung.

Lão Nhậm nói:

– Người họ Phong của phái Hoa Sơn đều không phải là nhân vật tầm thường. Tiểu bằng hữu vào đây, lão phu lĩnh giáo kiếm pháp của Phong lão.

Lão vốn kêu Phong Thanh Dương là lão Phong, sau lão đổi lại gọi là Phong lão. Lệnh Hồ Xung khéo ăn nói làm cho lão vui lòng nên trong lời nói của lão đối với Phong Thanh Dương cũng có vẻ trọng vọng.

Lệnh Hồ Xung động lòng hiếu kỳ, rất muốn xem chân tướng của lão thế nào, võ công cao minh ra sao. Chàng liền nói:

– Kiếm pháp của vãn bối thô thiển, bên ngoài hù dọa người còn miễn cưỡng được nhưng ở trước mặt tiền bối thực không đáng làm trò cười. Nhưng Nhậm lão tiên sinh là rồng là phượng trong loài người, đã đến nơi đây làm sao không bái kiến được.

Đan Thanh tiên sinh đến trước Lệnh Hồ Xung kề tai chàng nói nhỏ:

– Phong huynh đệ, võ công người này vô cùng quái dị, thủ đoạn lại hiểm độc. Phong thiếu hiệp phải hết sức cẩn thận, lỡ gặp gì bất thường thì mau thoát ra ngay.

Lão nói cực nhỏ nhưng rõ ràng lão thể hiện sự quan tâm rất chân thành. Lệnh Hồ Xung chấn động tinh thần: Tứ trang chủ rất có nghĩa khí với ta, vừa rồi ta châm biếm lão, lão không những không giận mà còn dặn dò ân cần như vậy. Chàng bất giác ngấm ngầm xấu hổ.

Lão Nhậm lớn tiếng nói:

– Vào đây, vào đây! Bọn chúng ở bên ngoài còn úp úp mở mở nói cái gì? Tiểu bằng hữu, Giang Nam tứ xú không phải là người tốt, ngoài việc đưa tiểu bằng hữu vào bẫy, còn những điều khác quyết không phải là lời hay ho gì, nửa câu cũng đừng có tin.

Lệnh Hồ Xung rất khó xét đoán, rốt cuộc không biết bên nào là người tốt, nên giúp đỡ ai mới phải.

Hoàng Chung Công lấy trong túi ra một cái chìa khóa, đưa vào ổ khóa cửa sắt quay mấy vòng. Lệnh Hồ Xung cho rằng sau khi lão mở khóa thì sẽ đẩy cửa sắt ra, nào ngờ lão thoái lui đứng sang một bên. Hắc Bạch Tử đi đến trước, lấy trong túi ra một cái chìa khóa đưa vào một ổ khóa kế bên quay mấy vòng. Sau đó Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh cũng lấy chìa khóa của mình đưa vào ổ xoay. Lệnh Hồ Xung hiểu ra: Thì ra thân phận của vị tiền bối này quan trọng đến như vậy, bốn vị trang chủ người nào cũng có chìa khóa riêng. Phải dùng bốn loại chìa khóa khác nhau này lần lượt đưa vào ổ khóa thì mới có thể mở cửa sắt được. Giang Nam tứ hữu như huynh đệ, bốn người cũng như một, chẳng lẽ không tin tưởng nhau sao?

Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Vừa rồi vị tiền bối đó nói Giang Nam tứ hữu chẳng qua chỉ phụng mệnh canh gác cũng như bốn người cai ngục, không có quyền thả lão. Không chừng bốn người giữ bốn cái chìa khóa là quy định của chủ nhân họ. Nghe tiếng chìa khóa chuyển động rất rít, ổ khóa rõ ràng đã han rỉ. Cánh cửa sắt này không biết đã bao nhiêu năm chưa được mở ra.

Sau khi Đan Thanh tiên sinh quay chìa khóa xong, lão nắm cửa sắt lay mấy cái rồi vận lực đẩy vào trong, chỉ nghe ken két mấy tiếng, cửa sắt đẩy vào mấy tấc. Cửa sắt vừa mở ra, Đan Thanh tiên sinh liền nhảy lùi về phía sau. Bọn Hoàng Chung Công ba người cũng đều nhảy lùi hơn một trượng. Lệnh Hồ Xung không tự chủ được cũng thoái lui vài bước.

Lão họ Nhậm cười ha hả nói:

– Tiểu bằng hữu, bọn chúng sợ ta còn tiểu bằng hữu tại sao phải sợ?

Lệnh Hồ Xung đáp dạ rồi đi đến phía trước, đưa tay đẩy cửa sắt. Chàng cảm thấy then cửa đóng một lớp rỉ sắt rất dày, phải tốn rất nhiều khí lực mới đẩy ra được hai thước, một luồng hơi thúi xông lên mũi. Đan Thanh tiên sinh đi đến trước đưa hai thanh kiếm gỗ cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung đón lấy cầm trong tay trái. Ngốc Bút Ông nói:

– Huynh đệ, huynh đệ cầm cái đèn dầu này vào đi.

Lão lấy trên vách tường xuống một cái đèn dầu. Lệnh Hồ Xung đưa tay phải tiếp lấy rồi đi vào bên trong.

Ngục thất rộng không quá một trượng vuông, sát tường kê một cái sập. Một người đang ngồi trên sập, râu dài đến tận ngực, tóc xõa đầy mặt nên không thấy rõ khuôn mặt của lão. Tóc tai, lông mày lão toàn một màu đen, không lẫn một sợi bạc. Lệnh Hồ Xung cúi người nói:

– Hôm nay vãn bối may mắn được bái kiến Nhậm lão tiền bối, mong được tiền bối chỉ giáo nhiều.

Lão Nhậm cười nói:

– Không cần khách sáo. Tiểu bằng hữu đến đây làm vơi bớt nỗi tịch mịch của ta, đa tạ tiểu bằng hữu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối không dám. Ngọn đèn này vãn bối để trên giường được không?

Lão Nhậm nói:

– Được.

Lão không đưa tay nhận lấy.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Trong ngục chật chội như vậy làm sao tỉ kiếm được?

Chàng liền đi đến bên sập đặt ngọn đèn xuống, tiện tay hắn nhét cuộn giấy và vật cứng của Hướng Vấn Thiên vào tay lão.

Lão Nhậm hơi sững người, cầm cuộn giấy rồi lớn tiếng nói:

– Này, bốn cái đồ coi ngục, có vào đây xem đánh nhau không?

Hoàng Chung Công nói:

– Địa thế chật hẹp, người vào không tiện.

Lão Nhậm nói:

– Được, tiểu bằng hữu hãy đóng cửa lại.

Lệnh Hồ Xung dạ rồi quay người đóng cửa sắt lại. Lão già đứng dậy, người phát ra những tiếng leng keng; một sợi dây xích sắt nhỏ chuyển động phát thành tiếng. Lão đưa tay phải nhận thanh kiếm gỗ từ tay Lệnh Hồ Xung, thở dài nói:

– Đã mười mấy năm lão phu không dùng binh khí, không biết kiếm pháp học được năm xưa còn nhớ hay đã quên rồi.

Lệnh Hồ Xung thấy cổ tay lão bị xích sắt, sợi dây xích lại thông vào bức vách sau lưng lão. Chàng lại thấy một tay và hai chân lão cũng bị khóa dây xích thông vào tường như vậy, rồi liếc mắt nhìn quanh bốn bức vách màu xanh phát ra ánh sáng lấp lánh. Thì ra bốn bức vách đều được đúc bằng gang thép. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Những sợi xích khóa tay chân lão toàn bằng gang thép, nếu không thì sợi xích nhỏ này khó có thể kiềm tỏa được một cao nhân võ học như lão.

Lão Nhậm đưa kiếm gỗ chém dứ một cái vào khoảng không, chiêu thức đi từ trên xuống dưới, đường kiếm chỉ khoảng hai thước nhưng trong nhà ngục lại phát ra tiếng gió vù vù. Lệnh Hồ Xung tán dương:

– Lão tiền bối công lực rất thâm hậu.

Lão Nhậm quay người đi. Lệnh Hồ Xung đoán thầm lão đang mở cuộn giấy để nhìn vật cứng bên trong và đọc những dòng chữ viết trên giấy. Lệnh Hồ Xung lùi lại một bước, đưa đầu vào cái lỗ vuông trên song sắt khiến bốn lão đứng bên ngoài không thấy được quang cảnh bên trong.

Lão già cử động làm sợi dây xích phát ra tiếng leng keng, thân lão hơi run, dường như sau khi đọc được những chữ viết trên giấy lão rất xúc động. Trong khoảnh khắc, lão quay người lại, mắt phát ra ánh sáng, nói:

– Tiểu bằng hữu, hai tay ta cử động khó khăn, chưa chắc đã thắng được tiểu bằng hữu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối là kẻ mạt học hậu tiến, không phải là đối thủ của tiền bối được.

Lão Nhậm nói:

– Tiểu bằng hữu liên tiếp tấn công Hắc Bạch Tử hơn bốn mươi chiêu, bức bách hắn không cách chi phản kích được một chiêu thì bây giờ lão phu cứ thử xem.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối cứ phóng kiếm bừa bãi mà thôi.

Chàng vung kiếm phóng tới lão Nhậm, đúng là sử lại chiêu thứ nhất khi tấn công Hắc Bạch Tử lúc trước. Lão Nhậm khen:

– Hay lắm!

Lão phóng cây kiếm gỗ đâm chênh chếch vào ngực Lệnh Hồ Xung, trong thủ có công, trong công có thủ. Quả là một chiêu vừa tấn công vừa phòng thủ cực kỳ lợi hại. Hắc Bạch Tử nhìn từ lỗ hổng vào, vừa thấy, không nhịn được lớn tiếng khen:

– Hảo kiếm pháp!

Lão Nhậm cười nói:

– Hôm nay xem ra bốn cái đồ coi ngục các ngươi gặp may, được mở rộng tầm mắt.

Giữa lúc này, chiêu kiếm thứ hai của Lệnh Hồ Xung đã phóng đến.

Lão Nhậm vung kiếm gỗ nhắm chỉ vào vai phải của Lệnh Hồ Xung. Đó là một chiêu tuyệt diệu vì trong thế thủ có thế công, trong thế công có thế thủ. Lệnh Hồ Xung sợ hãi, cảm thấy chiêu kiếm của lão đánh ra không có chỗ nào sơ hở, khó mà phóng kiếm vào để kìm chế những chỗ yếu hại của lão. Chàng đành vung kiếm phong tỏa, mũi kiếm chỉ chênh chếch như định nhắm vào bụng dưới của lão. Chiêu này trong thế thủ có thế công. Lão Nhậm cười nói:

– Chiêu này thật tuyệt!

Lão liền hồi kiếm lướt sang bên. Hai người cứ ăn miếng trả miếng, trong khoảnh khắc đã chiết hơn hai chục chiêu mà hai thanh kiếm gỗ vẫn chưa chạm nhau lần nào. Lệnh Hồ Xung thấy kiếm pháp của lão biến hóa phức tạp vô cùng, còn mình từ lúc học được Độc Cô cửu kiếm đến nay chưa gặp phải cường địch nào như lão. Kiếm pháp của lão không phải không có chỗ sơ hở, có điều chiêu số của lão biến ảo vô cùng, chàng không cách nào tấn công vào chỗ sơ hở của lão được. Lệnh Hồ Xung dựa theo yếu chỉ “Lấy vô chiêu thắng hữu chiêu” mà Phong Thanh Dương đã truyền thụ, biến hóa theo ý mình. Phá kiếm thức trong Độc Cô cửu kiếm tuy chỉ có một chiêu nhưng bao hàm hết những yếu nghĩa mấu chốt của các môn phái trong thiên hạ. Tuy gọi “vô chiêu” nhưng thực sự nó lại lấy các chiêu số kiếm pháp khắp thiên hạ làm căn bản. Lão Nhậm thấy chiêu kiếm của Lệnh Hồ Xung kỳ ảo khôn lường, mỗi biến hóa lão đều chưa bao giờ thấy qua. Lão dựa vào kinh nghiệm phong phú, võ công thâm hậu, lần lượt hóa giải nhưng sau khi chiết được hơn bốn mươi chiêu, đường kiếm của lão đã hơi chậm lại. Lão từ từ vận nội lực vào kiếm gỗ, kiếm phát ra tiếng gió rít veo véo.

Nhưng bất luận nội công của địch thủ thâm hậu thế nào, gặp phải kiếm pháp tinh vi của Độc Cô cửu kiếm tất cả đều vô ích. Có điều nội lực của lão Nhậm quá mạnh, kiếm thuật lại tinh thâm, hai điều này hòa nhập làm một, không thể phân hóa được. Liên tiếp mấy lần lão Nhậm bức bách Lệnh Hồ Xung đến đường cùng, tưởng như ngoài việc buông kiếm chịu thua thì không còn cách nào khác nhưng Lệnh Hồ Xung cứ bỗng nhiên sử ra quái chiêu, không những giải thoát được sự khốn đốn rõ ràng không cứu vãn được mà còn thừa cơ phản kích. Chiêu số kỳ diệu vượt ra ngoài sức tưởng tượng của lão.

Bọn Hoàng Chung Công bốn người đều đứng ngoài cửa sắt, nhìn từ lỗ hổng vào bên trong. Cái lỗ vuông này thực quá nhỏ, chỉ đủ hai người cùng xem, một người chỉ dùng mắt trái, một người dùng mắt phải mới xem được. Hai người xem một lúc thì nhường lại cho hai người khác xem.

Lúc đầu bốn người thấy lão Nhậm và Lệnh Hồ Xung tương đấu, kiếm pháp tinh kỳ, không ngớt khen ngợi. Xem đến lúc sau, thấy kiếm pháp của hai người đi đến chỗ ảo diệu, bọn họ không cách nào lĩnh ngộ được. Có lúc Hoàng Chung Công xem được một chiêu, đăm đăm suy nghĩ về chỗ tinh yếu trong chiêu thức này rất lâu mới có thể lĩnh hội được thì hai người đã chiết thêm mười mấy chiêu nữa rồi. Mười mấy chiêu hai người chiết giải thế nào tuy lão nhìn thấy mà hoàn toàn không nhận ra. Lão quá ngạc nhiên, thầm nghĩ: Thì ra kiếm pháp của Phong huynh đệ tinh thâm đến không ngờ. Vừa rồi Phong huynh đệ và ta tỉ kiếm, chỉ e hắn sử không quá ba bốn thành công phu. Đừng nói nội lực của Phong huynh đệ bị mất hết khiến Thất huyền vô hình kiếm trên dao cầm của ta không làm gì được mà dù nội lực của Phong huynh đệ còn đầy đủ thì Vô hình kiếm này của ta cũng không làm gì được. Chỉ cần Phong huynh đệ xuất ba chiêu kiếm liên hoàn thì ta phải bỏ đàn chịu thua. Nếu Phong huynh đệ muốn tỉ đấu sinh tử thì ngay chiêu đầu tiên, hắn đã có thể dùng ngọc tiêu điểm mù hai mắt ta rồi.

Hoàng Chung Công không ngờ kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung lại cao siêu đến vậy. Độc Cô cửu kiếm gặp kẻ địch mạnh thì càng mạnh, nếu võ công địch nhân không cao thì chỗ tinh yếu của Độc Cô cửu kiếm cũng không phát huy được. Bây giờ Lệnh Hồ Xung gặp phải một nhân vật kinh thiên động địa trong võ lâm đương thời, võ công cao cường, đã đạt đến mức xuất thần nhập hóa, hễ lão kích phát thì những chiêu số tinh vi ảo diệu trong Độc Cô cửu kiếm mới phát huy được đến chỗ lâm ly tận chí. Nếu Độc Cô Cầu Bại phục sinh, hoặc Phong Thanh Dương tận mắt chứng kiến, gặp được đối thủ như vậy cũng vui mừng khôn xiết. Sử Độc Cô cửu kiếm này, trừ việc tinh thục kiếm quyết kiếm thuật ra còn có một yếu tố rất lớn là sự linh mẫn của người sử kiếm. Người sử kiếm phải đạt đến mức tự nhiên thoải mái không theo quy tắc nào cả, trí tuệ càng cao bao nhiêu thì kiếm pháp càng cao bấy nhiêu. Mỗi lần tỉ kiếm cũng như nguồn cảm hứng đến với đại thi nhân để sáng tác ra một bài thơ tuyệt tác.

Hai người chiết hơn bốn chục chiêu nữa, Lệnh Hồ Xung càng xuất chiêu càng đắc tâm ứng thủ. Rất nhiều chiêu thức mà Phong Thanh Dương chưa từng chỉ điểm qua, khi gặp phải kiếm pháp tinh kỳ của đối thủ, Độc Cô cửu kiếm lại tự nhiên phát sinh những chiêu số tương ứng để kháng ngự. Lòng Lệnh Hồ Xung tiêu tan hết những mối lo sợ, cũng có thể nói chàng toàn tâm toàn ý đặt mình vào trong kiếm pháp, không còn rảnh rỗi để hoảng sợ hay vui mừng. Lão Nhậm tiếp tục biến đổi tám môn kiếm pháp thượng thừa, có môn tấn công lợi hại, có môn chiêu số liên miên, có môn tiểu xảo tấn tốc, có môn uy mãnh vững vàng. Nhưng bất luận lão biến chiêu như thế nào, Lệnh Hồ Xung đều ứng phó hết các đường kiếm của lão, giống như tám môn kiếm pháp này của lão chàng đều học qua và chiết giải rất thuần thục.

Lão Nhậm vung ngang kiếm quát:

– Tiểu bằng hữu, kiếm pháp của tiểu bằng hữu là do ai truyền cho? Ta đoán Phong Thanh Dương cũng không có bản lĩnh như vậy.

Lệnh Hồ Xung hơi ngẩn ra, bèn nói:

– Kiếm pháp này nếu không phải do Phong lão tiên sinh truyền thì có vị cao nhân nào có thể truyền được?

Lão Nhậm nói:

– Nói như vậy cũng phải. Hãy tiếp đường kiếm phải này của ta đi.

Lão hú một tràng, kiếm gỗ của lão từ dưới đất đánh lên. Lệnh Hồ Xung phóng kiếm chênh chếch ra bức lão phải thu kiếm về gạt đỡ. Lão Nhậm liên tục quát tháo, giống như kẻ điên loạn. Lão quát tháo càng nhanh thì kiếm xuất ra càng uy mãnh.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy đường kiếm pháp này của lão cũng không kỳ lạ gì, nhưng mỗi tiếng quát tháo của lão đều khiến cho hai tai của mình ù cả lên, tâm thần rối loạn, đành phải cố gắng trấn tĩnh lại, xuất chiêu để chiết giải.

Bỗng nhiên, lão Nhậm gầm lên một tiếng long trời lở đất. Tai Lệnh Hồ Xung ù đặc, màng nhĩ dường như bị chấn động, đầu óc choáng váng, lập tức không biết gì nữa. Chàng ngã xuống đất hôn mê.