Hồi 42: Giả chết chờ ngày phục quốc, cõi thiền nặng nợ phu thê

Mộ Dung Phục được Đặng Bách Xuyên ném cho trường kiếm, tinh thần liền phấn khởi. Hắn thi triển kiếm pháp gia truyền, xuất chiêu liên miên bất tuyệt, tựa như nước chảy mây trôi, chỉ trong nháy mắt toàn thân được kiếm quang dày đặc che phủ, một giọt nước cũng không thể lọt vào. Trước nay nhân sĩ võ lâm chỉ nghe đồn Cô Tô Mộ Dung vô cùng uyên bác, biết hết võ công các môn các phái, bây giờ mới thấy kiếm pháp nhà này cũng tinh diệu vô cùng. Nhưng dù cho kiếm pháp Mộ Dung Phục có lợi hại đến đâu, hắn cũng không thể tới gần Đoàn Dự trong vòng một trượng được. Hai tay Đoàn Dự vừa đâm vừa chém, bức bách Mộ Dung Phục hết nhảy lên cao lại bò xuống đất, tránh Đông né Tây. Đột nhiên một tiếng “choang” vang lên, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục gãy vụn ra thành hai ba chục mảnh, bay tứ tán lên không, bạch quang lấp loáng dưới ánh trời chiều.

Mộ Dung Phục tuy kinh hãi nhưng không hoảng loạn, liền vung chưởng đánh ra khiến cho hai ba chục mảnh kiếm gây đều bắn tới Đoàn Dự rào rào như một trận mưa ám khí. Đoàn Dự la lên: “Trời ơi!”, tay chân cuống quít không biết làm sao, liền nhào sấp xuống đất, mấy chục mảnh kiếm gãy bay lướt qua trên đầu. Nhưng cao thủ tỉ võ mà phục xuống tựa như chó liếm phân thì thật là khó coi. Mộ Dung Phục tuy bị đánh gãy trường kiếm nhưng phản bại thành thắng, nét mặt vẫn khoan thai nhàn nhã, oai hơn Đoàn Dự nhiều.

Phong Ba Ác kêu lên: “Công tử nhận đao!” rồi ném thanh đơn đao tới. Mộ Dung Phục giơ tay ra đón được thanh đao, thấy Đoàn Dự lồm cồm đứng lên thì bật cười hỏi: “Chiêu Ác Cẩu Ngật Xí (chó dữ liếm phân) của Đoàn huynh có phải là tuyệt kỹ gia truyền của họ Đoàn nước Đại Lý không?” Đoàn Dự ngẩn người đáp: “Không phải!” Rồi ngón út chàng lại vung lên, phóng ra một chiêu Thiếu Xung Kiếm.

Mộ Dung Phục múa đao chống lại. Hắn vừa thi triển Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao đã biến sang Bát Quái Đao Pháp, rồi đổi sang Lục Hợp Đao. Mới trong khoảnh khắc mà Mộ Dung Phục đã thi triển đến tám chín thứ đao pháp, dường như sẽ còn tiếp tục biểu diễn tất cả các đao pháp trong thiên hạ, mà chiêu thức nào cũng tinh vi khiến cho những danh gia về đao pháp đứng xem đều phải thán phục. Nhưng dù đao pháp của hắn tinh thâm đến đâu, vẫn không thể tiến lại gần Đoàn Dự được. Lát sau Đoàn Dự phóng một chiêu Thiếu Xung Kiếm cực kỳ mãnh liệt, Mộ Dung Phục giơ đao lên đỡ, nghe đánh choang một tiếng, thanh đơn đao lại gãy làm mấy đoạn.

Công Dã Càn lập tức rung tay ném cặp phán quan bút cho Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục vứt thanh dao gãy, đón lấy phán quan bút, vung lên điểm tới tấp. Kình lực từ đầu bút nhọn vọt ra, rít lên những tiếng veo véo ghê người.

Đoàn Dự sau khi trao đổi hơn trăm chiêu dần dần đã điềm tĩnh lại, càng lúc càng hiểu nội công tâm pháp của bá phụ cùng Khô Vinh đại sư đã truyền dạy ở chùa Thiên Long, thi triển Lục Mạch Thần Kiếm mỗi lúc càng thông thạo. Bỗng nghe Tiêu Phong lên tiếng: “Tam đệ! Đệ sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm chưa thuần thục, nếu đồng thời phát huy cả sáu loại, những lúc thay đổi còn có sơ hở để đối phương né tránh. Đệ thử chỉ dùng một loại kiếm khí xem sao.”

Đoàn Dự đáp: “Vâng! Đa tạ đại ca chỉ điểm.” Chàng liếc nhìn một cái, thấy Tiêu Phong thõng tay nhàn nhã đứng xem, còn Trang Tụ Hiền đã gãy gập cả hai chân, nằm lăn dưới đất lớn tiếng rên la.

Thì ra từ lúc Tiêu Phong không phải lo về Mộ Dung Phục, chàng đơn đả độc đấu với Du Thản Chi, lập tức chiếm được thượng phong. Nhưng mỗi khi song chưởng đối nhau, chàng lại cảm thấy một luồng hơi lạnh buốt truyền thấu vào thân thể, phải vận khí thúc đẩy hàn khí ra ngoài. Tiêu Phong không muốn kéo dài, bèn phóng cả song chưởng tấn công dồn dập, rồi nhân lúc Du Thản Chi đem toàn lực chống đỡ, đột nhiên chàng phóng chân đá quét ngang một cái. Du Thản Chi sở trường về chất hàn độc của băng tằm và về nội công Dịch Cân Kinh, còn công phu quyền cước chỉ hoàn toàn học ở A Tử, hết sức tầm thường. Hắn thấy chân đau điếng, rồi nghe tiếng lắc cắc thì biết là cả hai chân đã gãy rồi ngã lăn ra đất. Tiêu Phong lớn tiếng quát hỏi: “Cái Bang vốn lấy nhân nghĩa làm đầu, ngươi đã là Bang chủ, sao lại hòa mình với bọn yêu quái phái Tinh Tú? Thế là ngươi đã làm nhơ danh nghĩa hiệp mấy trăm năm của Cái Bang.”

Du Thản Chi được làm Bang chủ Cái Bang là hoàn toàn nhờ võ công cao cường, còn kiến thức khí độ thì không đủ cho người ta khâm phục. Gã còn đeo mặt nạ giả thần giả quỉ, mọi việc lại đều do A Tử cùng Toàn Quan Thanh điều khiển, dĩ nhiên bang chúng Cái Bang không tôn trọng gã chút nào. Hôm nay gã đã chụp chết mấy tên bang chúng, rồi dập đầu lạy Đinh Xuân Thu, gia nhập phái Tinh Tú, quần cái đều không coi gã là Bang chủ nữa. Tiêu Phong đá gãy hai chân Du Thản Chi, bang chúng Cái Bang lại thấy vui mừng, chẳng một ai ra giúp sức. Mấy tên phe đảng Toàn Quan Thanh dù muốn liều chết cứu viện, nhưng thấy Tiêu Phong oai nghi lẫm liệt nên đều co đầu rụt cổ, còn ai dám xông ra chịu chết?

Tiêu Phong đả thương Du Thản Chi, quay lại xem Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu tỉ đấu, thì thấy Hư Trúc đang ở thế thượng phong. Còn Đoàn Dự đang thi triển Lục Mạch Thần Kiếm có lúc tinh diệu nhưng có lúc lại vụng về đến cực điểm, nên bỏ qua rất nhiều cơ hội có thể thủ thắng. Chàng bèn lên tiếng chỉ điểm cho nghĩa đệ.

Đoàn Dự quay đầu nhìn sang Tiêu Phong và Du Thản Chi, vừa phân tâm một chút là Lục Mạch Thần Kiếm liền xuất hiện chỗ sơ hở. Mộ Dung Phục nhạy bén vô cùng, chụp ngay cơ hội phóng cây bút bên tay trái tới, tựa như sắp xuyên qua ngực chàng. Đoàn Dự thấy phán quan bút phóng tới nhanh như chớp, bất gịác chân tay luống cuống, hô hoán: “Đại ca, nguy rồi!”

Tiêu Phong lập tức phóng ra một chiêu Kiến Long Tại Điền, cây phán quan bút bị chưởng phong đẩy mạnh quá, cong oằn lại rồi chuyển hướng đâm về Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục phải vung cây bút bên phải lên để gạt cây bút phản chủ nghe đánh choang một tiếng, cả hai cổ tay đều tê điếng. Hắn không để cho cây bút cong rớt xuống tới đất, vung tay trái chụp lấy, rồi vung lên như móc câu.

Quần hùng vừa thấy chưởng lực cương mãnh phi thường của Tiêu Phong, lại thấy Mộ Dung Phục biến bút thành câu, ứng biến vô cùng tuyệt diệu. Mọi người bất giác lớn tiếng hoan hô, đều nghĩ rằng hôm nay được thấy những bậc kỳ tài đệ nhất thiên hạ đem toàn lực tranh đấu, thật là được mở rộng tầm mắt, không uổng công đến núi Thiếu Thất.

Đoàn Dự thoát được chiêu bút đâm vào ngực, cố định thần lại rồi giơ ngón tay cái ra sử Thiếu Thương Kiếm. Đường kiếm pháp này đánh ra rất rộng, mỗi chiêu phóng ra đều mãnh liệt đến vỡ đá tan bia, kiếm khí dồn dập như cuồng phong bạo vũ. Mộ Dung Phục sử một bút một câu, dần dần không chống nổi nữa. Đoàn Dự được Tiêu Phong chỉ điểm, chỉ sử một đường Thiếu Thương Kiếm, quả nhiên kiếm pháp cực kỳ nghiêm cẩn không có chỗ sơ hở nữa. Sáu đường Lục Mạch Thần Kiếm nếu biết sử dụng phối hợp, so với đơn kiếm thì oai lực rộng lớn hơn nhiều, nhưng Đoàn Dự chưa thông thạo lắm nên chàng sử đơn kiếm lại hiệu quả hơn. Mới khoảng mười chiêu, Mộ Dung Phục đã toát mồ hôi trán, lùi dần đến một gốc cây hòe, tựa vào cây để chống đỡ. Đoàn Dự sử hết bộ Thiếu Dương Kiếm Pháp, lại thu ngón cái về, đứa ngón trỏ ra, thi triển Thương Dương Kiếm Pháp.

Thương Dương Kiếm dùng ngón trỏ, dĩ nhiên không mạnh mẽ bằng Thiếu Dương Kiếm dùng ngón cái, nhưng so ra lại linh hoạt hơn nhiều. Kiếm thuật linh hoạt hay không là do cổ tay. Nhưng cổ tay linh hoạt đến đâu thì phóng kiếm ra thu kiếm về khoảng cách đến mấy thước, so với kiếm khí vô hình ở ngón tay trỏ chỉ nhích động trong phạm vi vài tấc, dĩ nhiên không thể mau lẹ bằng được. Huống chi Mộ Dung Phục đã bị Đoàn Dự bức bách phải lui lại đến hơn trượng, không có cách nào phản kích. Giả tỉ Đoàn Dự phải cùng Mộ Dung Phục đánh qua đỡ lại thì dĩ nhiên chàng không phải là đối thủ của hắn, chỉ hai chiêu là mất mạng. Nhưng hiện giờ, chàng chỉ có công mà không cần thủ, thi triển Thương Dương Kiếm Pháp của Thiên Long Tự, thật là chiếm thượng phong tuyệt đối.

Vương Ngữ Yên thấy biểu huynh nguy ngập thì trong lòng nóng nảy vô cùng. Tuy nàng hiểu hết các chiêu thức võ công các nhà các phái khắp thiên hạ, nhưng không biết gì về Lục Mạch Thần Kiếm, nên không có cách nào chỉ điểm cho Mộ Dung Phục. Nàng hết sức hoang mang nhưng không biết phải làm sao.

Tiêu Phong thấy Đoàn Dự phát huy vô hình kiếm khí mỗi lúc một thần diệu thì vừa yên lòng vừa khâm phục. Bỗng chàng chợt nghĩ tới A Châu: “Trước kia A Châu cam tâm chết thay cho phụ thân, chỉ vì sau khi mình giết ông ta thì họ Đoàn nước Đại Lý sẽ tìm đến báo thù, nàng sợ mình không địch nổi Lục Mạch Thần Kiếm. Kiếm pháp của tam đệ thần diệu đến thế, nếu mình thay vào chỗ Mộ Dung Phục thì cũng không địch nổi. A Châu đã hy sinh tính mạng để mình khỏi chết. Mình… mình chỉ là một tên võ phu Khất Đan, làm sao xứng đáng nhận lấy ân tình như thế?”

Quần hùng đang ngẩn ra nhìn Đoàn Dự cùng Mộ Dung Phục tỉ đấu, chẳng ai nghĩ đến chuyện tiến ra giúp đỡ bên nào. Đột nhiên ở hướng Tây Nam có vô số nữ nhân đồng thanh la lên: “Tinh Tú Lão Quái! Sao ngươi dám động thủ với chủ nhân cung Linh Thứu trên núi Phiêu Diểu chúng ta? Mau mau quì xuống dập đầu đi!” Mọi người quay lại nhìn thì thấy cả một khoảng núi toàn là nữ nhân cả già lẫn trẻ, chia thành tám đội, mỗi đội mặc y phục một màu, trông rất rực rỡ. Ngoài tám đội nữ nhân lại còn mấy trăm hào khách giang hồ, cách phục sức cũng khác hẳn người thường. Bọn hào khách này cũng rầm rộ hô lên: “Chủ nhân hãy gieo vào người hắn mấy miếng Sinh Tử Phù.” “Đối với Tinh Tú Lão Quái thì Sinh Tử Phù lại càng thích hợp.”

Võ công cũng như nội lực của Hư Trúc cao hơn Đinh Xuân Thu một bậc, lẽ ra đã thắng lâu rồi. Nhưng một là y còn ít kinh nghiệm lâm địch nên chỉ phát huy công lực bản thân được sáu bảy thành; hai là y vẫn giữ lòng từ bi, có những chiêu thức sát hại được đối phương nhưng y chỉ phóng ra nửa chừng rồi lại thu về; ba là Đinh Xuân Thu chất độc đầy mình, Hư Trúc vẫn úy kỵ nên không dám khinh suất tiến lại gần hắn. Vì thế mà trận đấu vẫn chưa kết thúc. Lúc Hư Trúc nghe những thanh âm hô hoán vang dội, liền ngoảnh đầu nhìn ra thì vừa kinh ngạc vừa mừng thầm. Chín bộ Cửu Thiên cung Linh Thứu đã có tám bộ đến đây, chắc là bộ Loan Thiên ở lại giữ cung, còn bọn nam nhân là các Đảo chúa, Động chúa của ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo. Số người rất đông, nếu bọn Đảo chúa, Động chúa không đến đủ thì cũng phải đến tám chín phần mười.

Hư Trúc gọi lớn: “Dư bà bà! Ô tiên sinh! Các vị đến đây làm chi?” Dư bà bà đáp: “Khải bẩm chủ nhân, bọn thuộc hạ nhận được tin của Mai, Lan, Trúc, Cúc tứ kiếm báo về, được biết bọn trọc đầu chùa Thiếu Lâm muốn làm khó chủ nhân, lập tức triệu tập các động các đảo đi ngày đêm tới đây. Tôn chủ vẫn bình yên, thật là may mắn vô cùng, bọn thuộc hạ vui mừng khôn xiết!” Hư Trúc nói: “Phái Thiếu Lâm là sư môn ta, các ngươi không được ăn nói vô lễ. Mau mau lại tạ tội với phương trượng Thiếu Lâm đi!” Y mở miệng nói chuyện mà vẫn thi triển Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng rất thần diệu, không để sơ hở chút nào.

Dư bà bà lộ vẻ sợ hãi, khom lưng nói: “Vâng! Tiện phụ biết tội rồi.” Mụ chạy tới trước mặt Huyền Từ phương trượng, quì mọp xuống cung kính dập đầu bốn cái mới nói: “Tiện phụ là Dư bà bà ở bộ Hạo Thiên, thuộc hạ của chủ nhân cung Linh Thứu, nói năng vô lễ mạo phạm đến cao tăng Thiếu Lâm, xin dập đầu tạ tội, mong phương trượng đại sư thứ lỗi.” Mụ nói mấy câu này cực kỳ thành khẩn, thanh âm dõng dạc chứng tỏ nội lực vào hạng cao thủ bậc nhất giang hồ.

Huyền Từ phất tay áo bào rồi nói: “Không dám! Nữ thí chủ đứng lên.” Đại sư đã vận đến năm thành công lực để đỡ Dư bà bà đứng lên, nhưng mụ không bị đẩy lên mà chỉ hơi rung người một chút, dập đầu thêm cái nữa rồi nói: “Tiện phụ mạo phạm sư môn của chủ nhân, tội đáng muôn thác!” Rồi mụ mới từ từ đứng lên lui về chỗ.

Chỉ trừ các vị lão tăng hàng chữ Huyền đã được nghe Hư Trúc kể chuyện về cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu, còn các tăng nhân Thiếu Lâm khác và quần hùng đứng xem đều ngạc nhiên tự hỏi: “Mụ này nội lực ghê gớm, mà bọn nam nữ kia xem chừng bản lĩnh cũng không phải tầm thường. Chẳng hiểu sao họ đều là bộ hạ của một tiểu hòa thượng Thiếu Lâm, thật đúng là quái sự.”

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy trong tám bộ nữ nhân cung Linh Thứu có rất nhiều người xinh đẹp, liền buông lời trêu ghẹo. Bọn Động chúa, Đảo chúa đa số là những hán tử thô hào, lập tức ngoác miệng thóa mạ lại chúng, gây nên một trường khẩu chiến. Bọn Động chúa, Đảo chúa rút binh khí ra khiêu chiến, nhưng bọn đồ đệ phái Tinh Tú chưa được lệnh của sư phụ nên không dám xuất trận ứng chiến, chỉ già họng văng ra những lời thô tục để thóa mạ. Lại có những tên thấy sư phụ đánh nhau bất lợi, cục diện xem ra không tốt, dáo dác ngó đông ngó tây chuẩn bị tìm đường an toàn nhất để chạy xuống núi.

Đoàn Dự không dám phân tâm, thấy đám thuộc hạ cung Linh Thứu tới nơi mà cũng không mở miệng chào hỏi, chỉ ngưng thần huy động Thương Dương Kiếm Pháp, mỗi lúc càng dồn Mộ Dung Phục vào bước đường cùng. Mộ Dung Phục chống đỡ một lúc nữa rồi không còn nhìn rõ vô hình kiếm khí đánh vào đâu, chỉ còn biết múa tít một bút một câu che kín thân mình, tưởng chừng như mưa gió cũng không lọt vào được.

Đột nhiên nghe “véo” một tiếng, một đường kiếm khí của Đoàn Dự đã lọt vào, hất mũ Mộ Dung Phục rớt xuống. Đầu tóc hắn rối tung, vẻ mặt cực kỳ hoảng hốt. Vương Ngữ Yên vội la lên: “Đoàn công tử! Xin hạ thủ lưu tình!” Đoàn Dự nghe tiếng nàng liền thở dài một tiếng, chiêu kiếm tiếp theo không phóng ra nữa. Chàng buông thõng tay xuống, nghĩ thầm: “Ta đã hiểu rõ, trong lòng nàng chỉ có biểu huynh mà thôi. Nếu ta lỡ tay giết y thì nàng tất đau đớn vô cùng, chẳng bao giờ thấy nàng cười nữa. Đoàn mỗ đã thương yêu nàng, nhất quyết không để nàng phải bi thương.”

Sắc mặt Mộ Dung Phục xám như tro tàn. Hôm nay hắn lên núi Thiếu Thất đấu kiếm bị thảm bại đã là nhục nhã, huống chi lại nhờ một cô gái mở miệng van xin mới được đối phương tha mạng, từ đây còn mặt mũi nào mà đứng trên chôn giang hồ nữa? Hắn bèn quát lên: “Đại trượng phu coi chết như về, ai cần ngươi nhân nhượng.” Rồi hắn múa tít một câu một bút, nhảy xổ lại tấn công Đoàn Dự.

Đoàn Dự xua hai tay loạn lên, nói: “Chúng ta vốn không thù oán, hà tất phải đánh nhau nữa? Không đấu nữa, không đấu nữa!”

Mộ Dung Phục bản tính cao ngạo, vốn chỉ coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Hôm nay trước mặt anh hùng thiên hạ, hắn bị Đoàn Dự đánh cho tơi bời không trả đòn được, phải nhờ Vương Ngữ Yên năn nỉ cho đối phương nhân nhượng, thì cái hận này làm sao nuốt cho trôi? Hắn vung câu móc vào mặt Đoàn Dự, còn phán quan bút thì đâm tới trước ngực chàng, nghĩ bụng: “Mi cứ dùng vô hình kiếm khí để giết ta đi. Bây giờ ta liều mạng với mi cho, đồng qui ư tận, còn hơn là nhục nhã sống thừa trên thế gian này.” Y liều mạng nhảy xổ tới, chuyện sinh tử tồn vong bỏ hết ra ngoài.

Đoàn Dự thấy Mộ Dung Phục khí thế hung mãnh mà lại không dám phóng Lục Mạch Thần Kiếm ra, sợ mình lỡ tay giết chết y. Chàng không biết làm thế nào, đứng ngẩn người ra, Mộ Dung Phục đánh liều mạng, dĩ nhiên còn mau lẹ và mãnh liệt hơn lúc bình thường. Bóng người vừa thấp thoáng đã nghe soạt một tiếng, cây bút bên tay phải đã đâm vào người Đoàn Dự. Bất giác Đoàn Dự nghiêng người sang trái, đầu nhọn cây phán quan bút khộng đâm trúng ngực nhưng đã đâm vào vai phải, xuyên từ trước ra sau. Đoàn Dự mới la lên một tiếng: “Úi chao!”, Mộ Dung Phục lại vung cây câu bên tay trái móc vào đầu chàng. Lúc này Đoàn Dự đã bị cây phán quan bút ghim cứng vào vai, không còn nhúc nhích được nữa. Cây cương câu lại ra chiêu Đại Hải Lao Châm cực kỳ lợi hại trong Ngư Tẩu Câu Pháp của phái Bắc Hải, thật là vừa chuẩn xác vừa độc địa. Đoàn Dự không còn cách nào thoát được nữa.

Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần thấy nguy, đều nhảy xổ vào cứu Đoàn Dự. Lần này Mộ Dung Phục quyết tâm giết chết Đoàn Dự, chấp nhận chết cùng đối thủ, vì thế mà không để ý gì đến Đoàn Chính Thuần cùng Nam Hải Ngạc Thần xông vào công kích. Ngay lúc cây cương câu sắp móc vào gáy Đoàn Dự thì đột nhiên huyệt Thần Đạo trên lưng Mộ Dung Phục tê tái, rồi hắn bị nhấc hẳn lên không. Huyệt Thần Đạo là một yếu huyệt, khi đã bị người nắm được thì lập tức hai tay nhũn ra, Mộ Dung Phục không giữ được phán quan bút và cương câu nữa. Rồi nghe Tiêu Phong quát lên: “Người ta đã tha mạng cho ngươi mà ngươi còn hạ độc thủ thì còn gì là anh hùng hảo hán?”

Thì ra Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục nhảy xổ tới để toàn thân sơ hở, cứ nghĩ rằng Đoàn Dự sẽ phóng ra một chiêu kiếm khí giết y, không ngờ Đoàn Dự đứng yên không chịu ra tay. Mộ Dung Phục nhảy tới lẹ quá, tuy Tiêu Phong ra tay thần tốc mà cũng không kịp ngăn cản nhát bút đâm vào vai Đoàn Dự. Lúc hắn sử tới chiêu Đại Hải Lao Châm thì Tiêu Phong mới kịp nắm lấy huyệt Thần Đạo ở sau lưng. Kể ra võ công của Mộ Dung Phục tuy kém Tiêu Phong, nhưng cũng không đến nỗi mới một chiêu đã bị kiềm chế ngay. Chỉ vì lúc này hắn căm hận đến cực điểm, quyết giết Đoàn Dự mà không nghĩ gì đến tự vệ nên Tiêu Phong chỉ cần một chiêu cầm nã tuyệt diệu là đã nắm đươc huyệt đạo trọng yếu, khiến Mộ Dung Phục hết đường nhúc nhích.

Tiêu Phong thân thể khôi vĩ, tay chân vừa dài vừa khỏe, nhấc Mộ Dung Phục lơ lửng trên không chẳng khác gì diều hâu bắt gà con. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác, bốn người đồng thanh la lên: “Đừng hại công tử ta!”, rồi nhất tề nhảy xổ lại. Vương Ngữ Yên cũng la lên: “Biểu huynh, biểu huynh!” Mộ Dung Phục chỉ giận sao mình không chết ngay lập tức để khỏi chịu nỗi nhục này.

Tiêu Phong lạnh lùng cười nói: “Tiêu mỗ đáng mặt nam nhi, không ngờ bị xếp ngang hàng với ngươi!” Chàng vung tay một cái liệng Mộ Dung Phục ra. Mộ Dung Phục bay ra bảy tám trượng mới rớt tới đất, toan đứng dậy. Không ngờ lúc Tiêu Phong nắm lấy huyệt Thần Đạo, nội lực chàng đã thấu vào kinh mạch Mộ Dung Phục khiến chân tay hắn tê dại chưa đứng được ngay. Nghe “huỵch” một tiếng, hắn lại ngã ngửa đập lưng xuống đất, hoảng sợ vô cùng.

Bọn Đặng Bách Xuyên đều xoay người chạy tới chỗ Mộ Dung Phục đang nằm dưới đất, nhưng lúc tới nơi thì hắn đã điều vận chân khí, đứng dậy được rồi. Mặt hắn xám ngắt, vươn tay phải rút lấy trường kiếm sau lưng Đặng Bách Xuyên, rồi vung tay trái gạt một vòng tròn đẩy bọn Đặng Bách Xuyên ra xa mấy thước, xoay tay phải lại đưa lưỡi kiếm lên kề vào cổ. Vương Ngữ Yên la hoảng: “Biểu huynh! Không nên…”

Bỗng nhiên trên không nổi lên tiếng gió rít, một mũi ám khí từ xa ngoài hai chục trượng bay lướt qua đầu quần hùng, đập vào thanh kiếm của Mộ Dung Phục đánh choang một tiếng. Cánh tay hắn lập tức tê nhức, trường kiếm rời khỏi tay bay ra, hổ khẩu rách toạc chảy máu đầm đìa.

Mộ Dung Phục ngoảnh đầu nhìn về phía ám khí phóng tới, thì thấy trên một tảng đá lớn có một nhà sư áo xám, che mặt bằng khăn xám. Nhà sư này rảo bước đến cạnh Mộ Dung Phục rồi hỏi: “Ngươi đã có con chưa?” Mộ Dung Phục trả đáp: “Ta chưa có vợ, làm gì có con?” Nhà sư áo xám nghiêm mặt hỏi tiếp: “Ngươi có tổ tiên không?” Mộ Dung Phục tức giận lớn tiếng đáp: “Dĩ nhiên là có! Ta muốn chết, sao ngươi lại can thiệp? Sĩ khả sát bất khả nhục, Mộ Dung Phục này đường đường nam tử, không thể nghe ngươi ăn nói vô lễ.” Nhà sư áo xám nói: “Cao tổ ngươi có con, tằng tổ, tổ phụ, phụ thân ngươi đều có con. Sao ngươi lại không có con? Ha ha! Nước Đại Yên ngày trước có Mộ Dung Tuấn, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Đức đểu là đấng anh hùng, không ngờ nay biến thành không người nối dõi.”

Mộ Dung Tuấn, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Đức đều là những vị anh quân của nước Yên, oai danh lừng lẫy thiên hạ, lập nên sự nghiệp hiển hách. Họ đều là tổ tiên Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục đang tức giận nổi điên, nghe nhắc đến tên tuổi bốn vị tổ tiên thì chẳng khác gì bị nước lạnh dội vào mặt. Y nghĩ thầm: “Tiên phụ ta trước kia đã hết lời răn dạy, bảo ta phải lấy việc phục hưng nước Đại Yên làm mục đích ở đời. Thế mà hôm nay ta nóng giận nhất thời tự sát, dòng họ Mộ Dung tuyệt tự từ đây. Ta không có lấy một đứa con, thì còn nói chi đến chuyện phục quốc?” Bất giác trán hắn toát mồ hôi lạnh, rồi lạy phục xuống đất nói: “Mộ Dung Phục kiến thức nông cạn, may nhờ cao tăng thức tỉnh. Đại ân đại đức này suốt đời khó mà quên được.”

Nhà sư áo xám cứ để hắn lạy, thản nhiên nói: “Xưa nay, những người làm nên nghiệp lớn đều phải trải qua trăm cay nghìn đắng. Hán Cao Tổ cầu hòa ở Bạch Đăng, Đường Cao Tổ đầu hàng rợ Đột Quyết. Giả tỉ những vị đó cũng vung kiếm lên tự tử giống ngươi, thì chỉ có tâm địa hẹp hòi muốn tự giải quyết chuyện mình, chẳng nghĩ gì đến việc dựng nghiệp mở cõi. Đầu óc của ngươi thật là nông cạn, còn thua cả Câu Tiễn, Hàn Tín.”

Mộ Dung Phục vẫn quì dưới đất nghe giáo huấn, kinh hãi nghĩ bụng: “Dường như vị này biết hoài bão của ta, nên đem những những bậc vua chúa lập quốc như Hán Cao Tổ, Đường Cao Tổ ra làm ví dụ.” Hắn liền đáp: “Mộ Dung Phục biết lỗi rồi!” Nhà sư áo xám bảo: “Dậy đi!” Mộ Dung Phục kính cẩn dập đầu thêm ba cái nữa rồi mới đứng dậy.

Nhà sư áo xám lại nói: “Ngươi chưa học đến nơi đến chốn mà thôi. Nhà Mộ Dung Cô Tô các ngươi cũng có võ công gia truyền thần kỳ tinh diệu, thế gian chẳng ai bằng, có lý đâu lại chịu thua Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý? Ngươi hãy coi đây!” Đột nhiên lão đưa ngón tay trỏ ra điểm hờ ba cái.

Lúc này Đoàn Chính Thuần cùng Ba Thiên Thạch đứng bên Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần đang dùng Nhất Dương Chỉ để phong tỏa những huyệt đạo chung quanh vết thương của Đoàn Dự, toan rút cây phán quan bút cắm trên vai chàng ra. Không ngờ nhà sư áo xám điểm nhanh như chớp, chuôi bút chỉ lay động một cái là bắn ra ngoài, vẫn còn dư lực để cắm phập vào một cành tùng. Đoàn Chính Thuần cùng Ba Thiên Thạch ngã ra, lập tức chuyển người đứng dậy, đều không khỏi kính hãi. Rõ ràng nhà sư áo xám hạ thủ lưu tình, nếu không thì lão điểm hờ trên không cũng đủ hạ sát hai người rồi.

Bỗng nghe nhà sư áo xám dõng dạc lên tiếng: “Đó là Tham Hợp Chỉ của nhà Mộ Dung các ngươi. Ngày trước lão tăng chỉ được tiền nhân nhà ngươi dạy cho một chút vỏ ngoài, còn biết bao nhiêu môn lão tăng chưa hiểu đến. Ha ha! Chẳng lẽ một gã thiếu niên kém cỏi như ngươi mà sáng lập ra phép “Gậy ông đập lưng ông” danh tiếng của nhà Mộ Dung ở Cô Tô ư?”

Quần hùng vốn đều nể sợ oai danh của Cô Tô Mộ Dung, nhưng họ thấy Mộ Dung Phục thảm bại trước Đoàn Dự, rồi lại bị Tiêu Phong kiềm chế thì cho là nhà Mộ Dung Phục chỉ có hư danh, chẳng có gì gọi là quán thế. Bây giờ họ thấy nhà sư áo xám biểu diễn thần công, lại nghe lão nói đó chỉ là một chút vỏ ngoài phép Tham Hợp Chỉ của nhà Mộ Dung, thì bất giác lại sinh lòng kính cẩn bốn chữ Cô Tô Mộ Dung. Nhưng ai cũng nghi ngờ tự hỏi: “Nhà sư áo xám kia là ai? Lão có quan hệ gì với nhà Mộ Dung?”

Nhà sư áo xám quay lại nhìn Tiêu Phong, chắp tay nói: “Tiêu đại hiệp vô công trác tuyệt, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão tăng muốn lĩnh giáo mấy chiêu”. Tiêu Phong vốn đã đề phòng, thấy nhà sư thi lễ, cũng chắp tay đáp lễ nói:” Không dám!” Hai luồng nội lực chạm nhau, cả hai người đều run lên một chút.

Ngay lúc ấy, một người áo đen tựa như chim ưng khổng lồ đột ngột từ trên không xẹt xuống, ngay giữa nhà sư áo xám và Tiêu Phong. Thân pháp người này vừa mau lẹ vừa kỳ quái, mọi người đều kinh hãi la lên. Lúc lão đáp xuống đất, mọi người mới nhìn rõ lão đang cầm một sợi dây dài, đầu dây kia buộc vào một cành cây cách đó hơn mười trượng. Người này cũng là một nhà sư, che mặt bằng khăn đen, chỉ để hở đôi mắt sáng loáng như có thần quang.

Hai nhà sư một áo đen một áo xám đứng nhìn nhau, hồi lâu vẫn không ai lên tiếng. Thân hình cả hai đều rất cao, nhưng nhà sư áo đen thì mập mạp, còn nhà sư áo xám lại gầy gò.

Tiêu Phong vừa vui mừng vừa cảm kích. Chàng thấy nhà sư áo đen dùng sợi dây dài để tung người vào, nhận ra ngay đây là đại hán áo đen đã cứu mạng mình ở Tụ Hiền Trang. Hôm đó đại hán áo đen đội mũ vải, mặc áo tục gia, còn bây giờ lại mặc áo kiểu hòa thượng. Trong quần hùng tụ tập trên núi Thiếu Thất cũng có nhiều người đã từng đến dự Anh hùng hội ở Tụ Hiền Trang, nhưng khi đó đại hán áo đen chỉ xuất hiện trong nháy mắt rồi đi ngay, không ai kịp nhìn rõ nên đều không nhận ra.

Sau một lúc lâu, đột nhiên hai nhà sư đồng thời lên tiếng: “Ngươi…”. Chữ “ngươi” vừa ra khỏi miệng, cả hai lập tức ngừng lại. Sau một lúc, nhà sư áo xám hỏi: “Ngươi là ai?” Nhà sư áo đen cũng hỏi lại: “Ngươi là ai?”

Quần hùng vừa nghe nhà sư áo đen nói mấy tiếng liền nghĩ thầm: “Vị hòa thượng này giọng nói khàn khàn, chắc cũng là một vị lão tăng.” Tiêu Phong nghe thanh âm thì đúng là đại hán áo đen bữa trước đã giáo huấn mình trên núi hoang. Chàng vô cùng xúc động, chỉ muốn chạy ra để tạ ơn cứu mạng.

Nhà sư áo xám bỗng lên tiếng hỏi: “Ngươi ẩn núp tại chùa Thiếu Lâm mấy chục năm để làm gì?”

Nhà sư áo đen hỏi lại: “Ta cũng muốn hỏi ngươi như vậy. Ngươi ẩn núp trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm để làm gì?” Hai nhà sư chỉ nói mấy câu, quần tăng Thiếu Lâm từ Huyền Từ phương trượng trở xuống đều kinh dị, ngơ ngác nhìn nhau tự hỏi: “Hai vị lão tăng này đã ở trong bản tự mấy chục năm mà sao mình chẳng biết chút gì? Lại có việc này thật ư?”

Nhà sư áo xám đáp: “Ta ẩn trong chùa Thiếu Lâm là để tìm kiếm mấy thứ.” Nhà sư áo đen nói: “Ta ẩn trong chùa Thiếu Lâm cũng để tìm kiếm mấy thứ. Ta đã tìm được rồi, chắc rằng ngươi cũng đã tìm được. Nếu không thì sao chúng ta tỉ thí ba lần mà thủy chung vẫn chưa phân cao thấp?” Nhà sư áo xám đáp: “Đúng thế! Võ công của các hạ rất cao thâm, bình sinh tại hạ chưa thấy ai bằng. Hôm nay chúng ta lại tỉ thí nữa chăng?” Nhà sư áo đen nói: “Tại hạ cũng rất bội phục võ công của các hạ. Bây giờ có tỉ đấu nữa, e rằng cũng khó mà phân được thắng bại.” Mọi người nghe hai nhà sư gọi nhau bằng “các hạ”, “tại hạ”, không đúng ngôn ngữ của người xuất gia thì không sao hiểu được.

Nhà sư áo xám lại nói: “Thế thì chúng ta chẳng nên gắng gượng tỉ thí làm gì nữa.” Nhà sư áo đen nói: “Phải lắm!” Hai nhà sư cùng gật đầu, sóng vai đi đến một gốc cây lớn ngồi xuống, nhắm mắt như nhập định, không nói gì nữa.

Mộ Dung Phục vừa hổ thẹn vừa cảm kích nghĩ thầm: “Vị cao tăng này biết rõ tổ tiên ta, không hiểu lão là bằng hữu của gia gia hay chính là gia gia? Từ đây, ta phải nhờ vị cao tăng này chỉ điểm cho công cuộc phục hưng đại nghiệp. Hôm nay nhất định ta không thể quấy nhiễu lão.” Hắn bèn đứng chờ một bên, quyết định đợi nhà sư áo xám đứng lên rồi mới lại khấu đầu để xin lĩnh giáo.

Vương Ngữ Yên nghĩ tới việc vừa rồi biểu huynh suýt nữa tự vận, nàng vẫn chưa hết kinh sợ liền tới nắm tay áo hắn, nước mắt lã chã. Mộ Dung Phục khó chịu trong lòng, nhưng cũng biết rằng đây là hảo ý của nàng nên cũng không đẩy nàng ra.

Từ lúc hai vị lão tăng xuất hiện đến lúc hai người cùng ngồi dưới gốc cây, Hư Trúc vẫn cùng Đinh Xuân Thu kịch chiến không ngừng. Bây giờ quần hùng mới để mắt theo dõi hai người tỉ thí.

Một tì nữ ở cung Linh Thứu là Cúc Kiếm chợt nhớ ra một việc, liền chạy đến chỗ mười tám võ sĩ Khất Đan nói: “Chủ nhân ta đang cùng người tỉ đấu, muốn xin chút rượu để tăng gia khí lực.” Một tên võ sĩ nói: “Rượu ở đây nhiều lắm, cô nương cứ lấy mà dùng!” Gã liền xách hai bì rượu đưa ra. Cúc Kiếm cười đáp: “Đa tạ! Chủ nhân ta không uống được nhiều, một bì là đủ lắm rồi.” Nàng cầm bì rượu mở nút ra, từ từ lại gần chỗ Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu đang đánh nhau, rồi cất tiếng gọi: “Chủ nhân! Chủ nhân lấy rượu mà gieo Sinh Tử Phù vào người Tinh Tú Lão Quái!” Nàng xách ngang bì rượu hất mạnh ra, một tia rượu vọt ra lẹ như tên bắn đến chỗ Hư Trúc. Ba cô Mai Lan Trúc đều vỗ tay hoan hô: “Cúc muội! Tuyệt diệu!”

Bỗng từ sau núi có một giọng nữ cất tiếng hát cao vút: “Một cành hồng thắm điểm mùi hương; Mưa gió Vu Sơn luống đoạn trường; Nô gia Dương Quí Phi chính thị; Hảo tửu mềm môi say túy lúy; Trầm Hương Đình chỉ muốn ngủ vùi!

Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu kịch đấu đã lâu mà chưa thủ thắng được, chợt nghe bọn thuộc hạ cung Linh Thứu bảo y dùng Sinh Tử Phù để đối phó. Tuy y vẫn biết môn này tàn ác bá đạo, nhưng thấy Cúc kiếm phóng rượu đến nơi thì cũng đưa tay ra hứng lấy một vốc. Ngay lúc đó từ sau núi có tám người tiến ra, chính là Cầm tiên Khang Quảng Lăng, Kỳ ma Phạm Bách Linh, Thư ngại Cẩu Độc, Họa cuồng Ngô Lãnh Quân, Thần y Tiết Mộ Hoa, Xảo tượng Phùng A Tam, Hoa si Thạch Thanh Lộ, Hí mê Lý Quỷ Lỗi, cả bọn Hàm Cốc Bát Hữu tám người này thấy Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu đang quyền qua chưởng lại chiến đấu hăng hái, liền reo hò trợ oai:”Chưởng môn sư thúc! Hôm nay lão nhân gia phải trổ thần thông để giết lão tặc Đinh Xuân Thu, báo thù cho sư tổ cùng sư phụ!”

Cúc kiếm phun rượu về phía Hư Trúc, nhưng võ công nàng chưa cao lắm nên cũng có một phần lớn phun về phía Đinh Xuân Thu. Tinh Tú Lão Quái đã ác đấu cùng Hư Trúc đến quá nửa giờ, nhưng đối phương thủ pháp tinh diệu vô cùng nên hắn không có lúc nào rảnh tay để thì triển tà thuật. Đột nhiên, hắn thấy một tia rượu bắn tới liền nghĩ ra một kế, bèn vận kình vào tay áo bên trái phất lên, tức thì một cơn mưa rượu bắn vào Hư Trúc. Lúc này công lực toàn thân Hư Trúc đang vận chuyển ra ngoài, hàng ngàn hàng vạn giọt rượu bay tới chưa dính vào đến áo là đã bị hất ra. Đột nhiên Cúc Kiếm la lên một tiếng “úi chao” rồi loạng choạng. Thì ra Đinh Xuân Thu phất tay áo làm mưa rượu, trong mỗi giọt đều có chất độc. Cúc Kiếm đứng gần đó, bị mưa độc tạt vào mình, liền ngã lăn ra.

Hư Trúc rất quan tâm đến Cúc Kiếm, lập tức kinh hãi nghĩ thầm: “Không biết làm sao để cứu được nàng?” Tiết Mộ Hoa bỗng la lên: “Sư thúc! Chất độc này lợi hại vô cùng, nhất định phải kiềm chế lão tặc, ép hắn đưa thuốc giải.” Hư Trúc la lên: “Đúng lắm!” Rồi vung hữu chưởng tấn công Đinh Xuân Thu. Y ngấm ngầm vận nội lực vào tả chưởng, vận chuyển Bắc Minh chân khí ngược lại. Chỉ trong khoanh khắc, rượu trong lòng bàn tay đã đông thành bảy tám miếng băng. Tay phải y liền phóng ra veo véo luôn ba chưởng.

Đinh Xuân Thu chợt thấy gió nổi lên lạnh buốt không sao chịu được, bất giác cả kinh nghĩ thầm: “Thằng trọc này nội lực vốn dương cương, bỗng dưng lại đổi thành âm hàn, thật là nguy hiểm.” Hắn vội vận toàn lực chống đỡ, nhưng đột nhiên thấy giá lạnh ở huyệt Khuyết Bồn, trên vai tựa như có tuyết bám. Rồi đến huyệt Thiên Khu ở bụng dưới, huyệt Phục Thố ở vế đùi, huyệt Thiên Tuyền trên cánh tay, lại thêm ba chỗ đều giá lạnh. Đinh Xuân Thu vội tăng gia kình lực để chống đỡ, thì đột nhiên huyệt Thiên Trụ ở sau gáy, huyệt Thần Đạo và huyệt Chí Thất ở sau lưng cũng lạnh như băng. Đinh Xuân Thu cả sợ nghĩ thầm: “Chưởng lực của thằng trọc này biến thành âm hàn, rồi mấy đại huyệt mình bị giá lạnh, chắc là có tà thuật cổ quái gì đây. Mình phải đề phòng mới được.” Lão liền phất tay áo ra để che hai chân, rồi phóng cước đá vào Hư Trúc.

Không ngờ đòn cước mới đến nửa chừng thì đột nhiên huyệt Phục Thố và huyệt Dương Giao phát sinh ngứa ngáy cực kỳ khó chịu, bất giác lão la lên một tiếng: “Úi chao!” Rõ ràng mũi bàn chân lão đã chạm đến áo Hư Trúc, nhưng hai yếu huyệt đồng thời phát ngứa dữ dội nên phải rụt chân về. Hắn lại kêu một tiếng “Úi chao!” nữa, rồi sau đó kêu la không ngớt.

Bọn đồ đệ lão vẫn đang ca tụng: “Tinh Tú Lão Tiên thần thông quảng đại thiên hạ vô song, tên trọc kia đã trúng phải tiên thuật còn chưa tự biết.” “Lão nhân gia đá một phát trời long đất lở, phóng một chưởng nhật nguyệt lu mờ.” “Tinh Tú Lão Tiên tay phất áo bào miệng niệm chân ngôn, bọn tà môn ngưu quỷ xà thần chúng bay chết không đủ đất mà chôn.” Những câu ca tụng Tinh Tú Lão Tiên hòa lẫn với tiếng la “Úi chao” luôn miệng của Tinh Tú Lão Quái thực chẳng ăn nhập chút nào. Mấy tên tinh khôn thì ngẩn người im miệng, nhưng số đông vẫn ráng gân cổ lên mà nịnh hót.

Chỉ trong khoảnh khắc, Đinh Xuân Thu thấy bảy huyệt đạo Khuyết Bồn, Thiên Khu, Phục Thố, Thiên Tuyền, Thiên Trụ, Thần Đạo, Chí Thất đồng thời tê dại, rồi ngứa ngáy như bị muôn ngàn con kiến đốt không sao chịu nổi. Bảy miếng rượu đông cứng thành băng lại có chứa nội lực của Hư Trúc, đã xuyên vào cơ thể hắn. Băng thì tan mất, nhưng nội lực vô hình vẫn còn chạy trong kinh mạch Đinh Xuân Thu. Lão chân tay luống cuống, thò tay vào bọc lấy ra bảy tám thứ thuốc giải độc uống liền một lúc, lại vận nội tức năm sáu lần mà huyệt đạo lại càng ngứa ngáy thêm. Nếu là người khác đã sớm lăn xuống đất rồi, nhưng Đinh Xuân Thu bản lĩnh ghê người vẫn gắng gượng chống đỡ. Chân lão bước loạng choạng như người say rượu, sắc mặt lúc đỏ bừng lúc trắng nhợt, hai tay xua loạn lên coi rất khủng khiếp. Bảy miếng Sinh Tử Phù của Hư Trúc chế biến từ rượu, so với loại bình thường cũng có chỗ đặc biệt.

Bọn môn đồ phái Tinh Tú thấy tình trạng sư phụ khốn đốn như vậy đều yên lặng. Chỉ có mấy gã còn ráng kêu: “Tinh Tú Lão Tiên đang vận Đại La Kim Tiên Thần Công, rồi tiểu hòa thượng kia sẽ biết mùi lợi hại.” “Lão Tiên chỉ niệm lên một tiếng chân ngôn là ba hồn sáu phách của tiểu hòa thượng kia nát ra như cám.” Nhưng những câu nói này ra chiều gượng gạo, không hăng hái như trước nữa.

Lý Quỷ Lỗi lớn tiếng hát:”Ngũ hoa mã Thiên kim cừu; Gọi trẻ đem đổi lấy rượu ngon; Cùng ngươi giải vạn nỗi buồn; Ha ha! Lý Thái Bạch chính thị là ta! Túy lúy bát tiên thì đệ nhất là Thịnh Đường thi tiên Lý Thái Bạch, đệ nhị là Tinh Tú lão tiên Đinh Xuân Thu.” Quần hùng thấy Đinh Xuân Thu loạng choạng như người say rượu mà vẻ mặt hốt hoảng vô cùng, lại nghe Lý Quỷ Lỗi giễu cợt thì cười ầm cả lên.

Chẳng mấy chốc, Đinh Xuân Thu không chi trì được nữa, giơ tay lên bứt những sợi râu bạc dài đến rốn, thả tung bay theo gió. Rồi lão lại xé rách từng mảnh áo, để lộ làn da trắng như tuyết chẳng khác thiếu niên cường tráng, tay lão gãi vào đâu thì rách da chảy máu đến đó. Lão vừa cào cấu vừa kêu lên: “Ngứa chết ta rồi! Ngứa chết ta rồi!”, rồi lão khuỵu chân xuống kêu gào cực kỳ thảm thiết.

Hư Trúc hối hận nghĩ thầm: “Lão này tội ác đã nhiều, song mình bắt lão khổ sở thế này cũng hơi quá! Biết thế thì mình chỉ gieo một hai miếng Sinh Tử Phù cũng đủ rồi.”

Phần lớn quần hùng là người biết nhiều hiểu rộng, nhưng thấy một võ lâm cao thủ đồng nhan bạch phát chẳng khác thần tiên chỉ trong khoảnh khắc đả biến thành ma quỷ, tru lên như dã thú, ai nấy đều kinh hãi thất sắc. Cả đến gã Lý Quỷ Lỗi hay cười đùa giễu cợt cũng sợ hãi rụng rời không dám mở miệng. Chỉ có hai vị lão tăng ngồi nhắm mắt nhập định dưới gốc cây là bình thản như không có gì xảy ra.

Đến lúc này Huyền Từ phương trượng mới lên tiếng: “Thiện tai, thiện tai! Hư Trúc, ngươi giải trừ khổ não cho Đinh cư sĩ đi!”  Hư Trúc đáp: “Vâng! Xin kính tuân pháp dụ của phương trượng.” Huyền Tịch vội nói: “Khoan đã! Phương trượng sư huynh! Đinh Xuân Thu tội ác đã nhiều, Huyền Nạn, Huyền Thống hai vị sư huynh đều mất mạng về tay hắn, sao lại buông tha hắn một cách dễ dàng được?” Khang Quảng Lăng cũng lên tiếng: “Chưởng môn sư thúc! Sư thúc là chưởng môn bản phái, sao lại phải nghe lời kẻ khác? Chẳng lẽ không báo đại thù của sư tổ và sư phụ hay sao?”

Đang lúc Hư Trúc không biết làm sao cho phải, Tiết Mộ Hoa nói: “Sư thúc! Trước tiên hãy giúp hắn đỡ đau khổ.” Hư Trúc gật đầu nói: “Phải rồi! Mai Kiếm cô nương! Lấy thuốc trị ngứa cho hắn nửa viên.” Mai Kiếm “Vâng!” một tiếng rồi lấy trong bọc ra chiếc bình nhỏ sắc xanh, móc lấy một viên thuốc to bằng hạt đậu. Nhưng nàng thấy Đinh Xuân Thu tựa như người điên khùng, không dám đến gần.

Hư Trúc cầm lấy viên thuốc, bẻ làm đôi rồi kêu lớn:”Đinh tiên sinh! Há miệng ra, tại hạ cho uống thuốc trị ngứa!” Đinh Xuân Thu vừa thở hồng hộc vừa cố há miệng cho to, Hư Trúc dùng ngón tay búng nửa viên thuốc vào miệng hắn. Thuốc chưa kịp ngấm, Đinh Xuân Thu lại nhào ra đất mà lăn lộn, sau thời gian chừng ăn xong bữa cơm, mới thấy đỡ ngứa, liền trở mình đứng dậy.

Thần trí Đinh Xuân Thu đã tỉnh táo, hiểu rằng không thể phản kháng được nữa. Lão không đợi Hư Trúc mở miệng, đã lấy thuốc giải ra đưa cho Tiết Mộ Hoa rồi nói: “Thoa thuốc đỏ, uống thuốc trắng.” Lão đã tru rống đến nửa ngày, khàn cả tiếng nên thanh âm không rõ lắm. Tiết Mộ Hoa biết lão không dám man trá, liền đưa thuốc cho Cúc Kiếm trong uống ngoài thoa.

Mai Kiếm lớn tiếng nói: “Tinh Tú Lão Quái! Nửa viên thuốc đó có thể giữ được ba ngày khỏi ngứa. Ba ngày sau thì cơn ngứa lại phát tác, khi đó chủ nhân ta có cho linh dược nữa hay không là tùy ở ngươi.” Đinh Xuân Thu toàn thân run lẩy bẩy, nói không ra tiếng.

Trong đám đệ tử phái Tinh Tú có mấy trăm tên tranh nhau chạy đến trước mặt Hư Trúc, khẩn cầu y thu dụng. Có tên nói: “Chủ nhân cung Linh Thứu anh hùng vô địch, tiểu nhân thành tâm quy phục, nhất quyết vì chủ nhân mà ra sức khuyển mã”. Có tên nói: “Ngôi Minh chủ võ lâm trong thiên hạ, ngoài chủ nhân thì không còn ai nữa. Chủ nhân vẫy tay ra lệnh thì tiểu nhân dù phải nhảy vào lửa cũng không nhăn mặt.” Lại có mấy tên muốn bày tỏ tấc dạ trung trinh, chỉ thẳng mặt Đinh Xuân Thu mà chửi mắng, nào là: “Đom đóm mà dám tranh sáng với nhật nguyệt.” “Đồ tiểu nhân gian tà độc ác, phản trắc không thể tin được.” Có tên lại cầu xin Hư Trúc xử tử Đinh Xuân Thu lập tức để thế gian bớt mùi hôi thối. Bỗng nhiên tiếng chiêng trống cùng đàn sáo lại nổi lên, môn đồ phái Tinh Tú đồng thanh hợp xướng: “Linh Thứu chủ nhân, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh.” Đây vốn là khúc hát ca tụng Đinh Xuân Thu, chúng chỉ xào xáo bốn chữ “Tinh Tú Lão Tiên” thành “Linh Thứu chủ nhân”, còn khúc đuôi giữ nguyên như cũ.

Hư Trúc vốn là người chất phác, nhưng y nghe bọn môn đồ phái Tinh Tú ca tụng cũng bất giác thấy nhẹ nhàng khoan khoái.

Lan Kiếm quát lên: “Bọn mi thật là đồ tiểu nhân vô sỉ, dám đem bài hát bậy bạ nịnh bợ Tinh Tú Lão Quái chuyển sang ca tụng chủ nhân ta. Thật là vô lễ đến cùng cực!” Bọn môn đồ phái Tinh Tú sợ hãi vô cùng, có kẻ nói: “Dạ, dạ! Tiểu nhân xu thời, dĩ nhiên cái gì cũng phải sửa đổi. Xin tiên cô mở lượng bao dung.” Có người nói: “Bốn vị tiên cô, hoa nhường nguyệt thẹn, đã hơn Tây Tử, lại vượt Quí Phi.” Bọn môn đồ phái Tinh Tú sau khi sụp lạy Hư Trúc rồi kéo nhau lại đứng sau lưng các Động chúa, Đảo chúa, tên nào cũng dương dương tự đắc, vênh mặt lên nhìn trời, chẳng thèm để ý đến quần hào Trung Nguyên, bang chúng Cái Bang và các tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa.

Huyền Từ nói: “Hư Trúc! Ngươi tự lập môn phái, sau này nên theo chính đạo, dẫn dắt đệ tử không làm điều trái, tạo phúc cho giang hồ. Được như vậy thì tại gia hay xuất gia cũng là một mà thôi.” Hư Trúc nghẹn ngào nói: “Dạ! Hư Trúc xin nghe lời phương trượng dạy dỗ.” Huyền Từ lại nói: “Cái tội khai trừ khỏi môn phái thì không thể xóa được, nhưng phạt trượng thì có thể miễn cho.”

Bỗng có người cười ha hả rồi nói: “Ta cứ tưởng chùa Thiếu Lâm coi trọng giới luật, chấp pháp nghiêm như núi, ngờ đâu cũng chỉ là hạng xuôi chiều gió mà nịnh bợ kẻ mạnh. Ha ha! Linh Thứu chủ nhân, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh.” Mọi người quay lại nhìn xem người đó là ai, té ra là quốc sư Cưu Ma Trí của nước Thổ Phồn.

Huyền Từ biến sắc mặt nói: “Quốc sư lấy đại nghĩa mà trách cứ, lão tăng biết lỗi rồi. Huyền Tịch sư đệ, chuẩn bị pháp trượng.” Huyền Tịch “Vâng!” một tiếng rồi quay lại nói: “Pháp trượng đã sẵn sàng!” Lão tăng bảo Hư Trúc: “Hư Trúc! Hiện giờ ngươi còn là đệ tử chùa Thiếu Lâm, mau nằm xuống thọ hình.” Hư Trúc khom lưng đáp: “Vâng!” Rồi y quì xuống trước mặt Huyền Từ và Huyền Tịch hành lễ, nói: “Đệ tử là Hư Trúc, đã vi phạm giới luật bản tự, cung kính nhận hình phạt của phương trượng cùng thủ tòa Giới Luật Viện.”

Bọn môn đồ phái Tinh Tú nổi lên la ó om sòm: “Tăng lữ chùa Thiếu Lâm lại dám mạo phạm đến quí thể của lão nhân gia ư?” “Các ngươi mà đụng đến một sợi lông chân của lão nhân gia thì ta quyết cùng các ngươi sống chết một phen.” “Dù ta có phải tan xương nát thịt, chết vì chủ nhân cũng lấy làm vinh hạnh.” “Ta lấy chữ Trung làm đầu, quyết dâng hết máu thịt toàn thân cho chủ nhân cung Linh Thứu.”

Dư bà bà cả giận quát lên: “Sao bọn yêu ma quỷ quái các ngươi dám gọi hai tiếng Chủ Nhân? Câm miệng ngay lập tức!” Bọn môn đồ phái Tinh Tú thấy Dư bà bà quát mắng, lập tức im thin thít, kinh hãi đến không dám thở mạnh.

Thủ tòa Giới Luật Viện của chùa Thiếu Lâm là Huyền Tịch quát lên: “Dụng hình!” Mấy chấp pháp tăng cởi tăng bào của Hư Trúc để hở lưng y ra, một nhà sư giơ côn toan đập xuống. Hư Trúc nghĩ thầm: “Ta chịu phạt trượng là vì đã phạm giới luật, mỗi côn đánh vào người là tội lỗi nhẹ đi một phần. Nếu ta vận khí chống chọi cho đỡ đau khổ thì bị đánh mà chẳng được ích lợi gì.” Giữa lúc ấy, thanh âm một thiếu phụ lanh lảnh vang lên: “Khoan đã! Khoan đã! Ngươi… trên lưng ngươi có gì thế kia?”

Mọi người đều nhìn vào lưng Hư Trúc, thì thấy trên lưng y có chín chấm đen. Những nhà sư thụ giới thường đốt hương điểm vào đỉnh đầu, nhưng Hư Trúc không những có nốt tàn hương trên đỉnh đầu, mà sau lưng cũng có. Những vết tàn hương sau lưng y lớn bằng đồng tiền, hiển nhiên đã đốt từ thuở nhỏ, rồi theo người mà lớn lên, bây giờ trông vẫn rất rõ ràng.

Quần hùng còn đang kinh ngạc thì một thiếu phụ đứng tuổi từ đám đông chạy ra, mặc áo màu xanh nhạt, tóc dài xõa xuống vai, hai gò má đều có ba ngấn máu như bị cào, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương trong Tứ Đại Ác Nhân. Mụ nhảy xổ lại, hai tay đẩy hai chấp pháp tăng chùa Thiếu Lâm, rồi túm lấy dây lưng Hư Trúc cởi tuột ra, toan kéo quần y xuống.

Hư Trúc cả kinh, đứng bật dậy, lùi lại mấy bước rồi hỏi: “Bà… bà làm gì thế?” Diệp Nhị Nương toàn thân phát run, la lên: “Ngươi… ngươi là con ta!” Rồi mụ giang hai tay ra toan ôm lấy Hư Trúc, Hư Trúc né mình tránh khỏi, thành ra Diệp Nhị Nương ôm vào khoảng không. Mọi người đều tự hỏi: “Mụ này điên rồi chăng?” Diệp Nhị Nương nhào tới mấy lần nữa, đều bị Hư Trúc tránh được hết. Mụ điên cuồng la lên: “Hài nhi! Sao con không chịu nhận mẫu thân?”

Hư Trúc chấn động như bị sét đánh trước mặt, hỏi: “Bà… bà là mẫu thân của ta ư?” Diệp Nhị Nương lớn tiếng: “Hài nhi! Lúc ta mới sinh ngươi, đã điểm vào sau lưng và hai bên mông chín nốt tàn hương. Ngươi xem có đúng thế không?”

Hư Trúc cả kinh, vì hai bên mông y có chín nốt tàn hương thật. Y đã thấy từ nhỏ nhưng chẳng hiểu lai lịch ra sao, lại vì mắc cỡ nên không kể với ai. Những lúc tắm rửa, y thấy vậy còn cho là mình có duyên với Phật môn nên trời sinh ra thế, vì vậy mà lại càng một lòng theo Phật pháp. Bây giờ y nghe Diệp Nhị Nương hỏi mà tưởng như sét đánh giữa trời quang, run lên đáp: ‘Có, có!… Hai bên… mông ta có chín nốt tàn hương, là do bà… do mẫu… do bà đã châm vào ư?”

Diệp Nhị Nương khóc rống lên nói: “Phải rồi! Phải rồi! Nếu không phải ta châm thì làm sao ta biết được? Ta… ta tìm thấy con rồi, tìm thấy đứa con yêu quí của ta rồi!” Mụ vừa khóc vừa đưa tay ra vuốt ve mặt Hư Trúc, y cũng không né tránh nữa, để mụ ôm vào lòng. Hư Trúc từ nhỏ đã không cha không mẹ, vốn là một đứa nhỏ bị bỏ rơi được chùa Thiếu Lâm đem về nuôi dưỡng. Hai bên mông y có nốt tàn nhang là chuyện bí mật chỉ có mình y biết, bây giờ Diệp Nhị Nương nói ra thì còn giả làm sao được? Từ nhỏ đến giờ y mới được mẫu thân nâng niu trìu mến, bất giác nước mắt đầm đìa rồi cất tiếng gọi: “Mẫu thân… đúng là má má của hài nhi rồi.”

Diễn biến đột ngột này làm tất cả mọi người đều kinh ngạc. Hai mẹ con ôm nhau mà khóc, mừng mừng tủi tủi nói sao cho xiết? Quần hùng tuy lòng dạ cứng rắn nhưng đứng trước tình cảnh, này cũng không ít kẻ thấy cay cay nơi khóe mắt.

Diệp Nhị Nương nói: “Hài nhi! Năm nay con đã hai mươi bốn tuổi rồi. Hai mươi bốn năm trời, mẹ ngày đêm thương nhớ con chẳng lúc nào nguôi. Con ta bị tên cẩu tặc trời đánh nào bắt đi mất, ta thấy người khác có con mà nổi lòng ghen ghét, rồi cũng đi bắt con người khác. Nhưng… nhưng con của người ta đâu có bằng con chính mình sinh ra?”

Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả rồi nói: “Tam muội! Mụ cứ thấy con nhà ai trắng trẻo dễ thương là mụ bắt trộm về nựng nịu chơi, lúc chán lại bỏ cho chết, thì ra vì con mụ bị người ta bắt trộm nên mụ mới làm vậy. Thế mà Nhạc lão nhị đã hỏi mụ không biết bao nhiêu lần, mụ vẫn không chịu nói. Được lắm! Hư Trúc tiểu tử, má má ngươi là nghĩa muội ta. Ngươi mau kêu ta một tiếng Nhạc lão bá đi!” Nam Hải Ngạc Thần thấy Hư Trúc võ công cao siêu khôn lường, lại là chủ nhân cung Linh Thứu, mà mình lại được đứng vào hàng tiền bối của y, thì nỗi mừng vui của lão không cần phải nói. Vân Trung Hạc lắc đầu nói: “Không được! Không được! Hư Trúc Tử là nghĩa huynh của sư phụ ngươi, vậy ngươi phải kêu nó bằng sư bá. Còn ta là nghĩa đệ của mẫu thân nó, thế thì ta còn ở trên lão tam hai bậc. Lão tam mau kêu ta một tiếng Sư thúc tổ đi.” Nam Hải Ngạc Thần ngẩn người ra suy nghĩ, nhổ một bãi nước bọt rồi thóa mạ: “Con mẹ nó! Lão gia không gọi.”

Diệp Nhị Nương buông đầu Hư Trúc ra, ôm lấy vai y nhìn trái nhìn phải, mừng vui khôn xiết. Mụ quay lại nói với Huyền Tịch: “Nó là con trai ta, lão đừng đánh nó nữa!” Rồi mụ quay lại nhìn Hư Trúc, lớn tiếng nói:”Không biết tên cẩu tặc trời đánh nào đã bắt trộm hài nhi, làm mẹ con ta phải chia lìa hai mươi bốn năm. Hài nhi! Chúng ta dù đến tận chân trời góc biển cũng phải tìm quân cẩu tặc đó để phân thây muôn đoạn. Dù ta không địch nổi hắn, thì hài nhi võ công cao cường cũng nhất định báo thù rửa hận cho ta.”

Nhà sư áo đen vẫn đang ngồi yên dưới gốc cây không nói một lời, lúc này bỗng đứng dậy, chầm chậm hỏi: “Con của ngươi bị người ta bắt trộm hay bị người ta cướp mất? Sáu vệt máu trên mặt ngươi do đâu mà có?”

Diệp Nhị Nương đột nhiên biến sắc mặt, cao giọng hỏi: “Ngươi… ngươi là ai? Sao ngươi lại biết?” Nhà sư áo đen hỏi lại: “Ngươi không nhận ra ta ư?” Diệp Nhị Nương thét lên: “Trời ơi! Là ngươi, chính là ngươi!” Rồi mụ nhảy xổ lại phía nhà sư áo đen. Lúc còn cách đối phương hơn trượng thì đột nhiên mụ đứng lại, đưa song trảo ra, nghiến răng kèn kẹt ra chiều căm hận vô cùng, nhưng không dám tới gần hơn

Nhà sư áo đen nói: “Không sai! Con của ngươi bị chính ta cướp đi, sáu vệt máu trên mặt ngươi do chính ta gây ra.” Diệp Nhị Nương kêu lớn: “Tại sao? Tại sao ngươi lại cướp con ta? Ta với ngươi vốn chưa từng gặp mặt, không thù không oán. Ngươi… ngươi đẩy ta vào tuyệt lộ. Ngươi hại ta suốt hai mươi bốn năm trời, ngày đêm lòng đau như cắt. Đó là vì sao? Vì… Vì sao?” Nhà sư áo đen chỉ Hư Trúc, hỏi lại: “Phụ thân của đứa bé này là ai?” Diệp Nhị Nương toàn thân run bắn lên, đáp: “Là… là… Ta không thể nói được.”

Bây giờ Hư Trúc mới nghĩ tới, liền nhảy vọt lại gần Diệp Nhị Nương rồi gọi: “Má má! Má má nói cho con nghe đi, phụ thân con là ai?” Diệp Nhị Nương lắc đầu quầy quậy, đáp: “Mẹ không nói được.”

Nhà sư áo đen chầm chậm nói: “Diệp Nhị Nương! Ngươi vốn là một cô nương nhan sắc tuyệt vời, đoan trang trinh thục. Năm ngươi mười tám tuổi đã đem lòng yêu thương một chàng trai bản lĩnh cao cường lại có địa vị, rồi ngươi thất thân với hắn mà sinh ra đứa bé này. Có phải thế không?” Diệp Nhị Nương cứng đờ như khúc gỗ, hồi lâu mới gật đầu đáp: “Đúng thế! Hồi đó không phải y dẫn dụ ta, mà là ta dẫn dụ y.” Nhà sư áo đen lại nói: “Chàng trai kia chỉ nghĩ tới thanh danh cùng tiền đồ của mình, không nghĩ đến một cô nương nhỏ tuổi chưa chồng đã có con, lâm vào cảnh ngộ cực kỳ thê thảm!” Diệp Nhị Nương cãi: “Không, không! Y vẫn săn sóc đến ta, cho ta rất nhiều tiền bạc, sắp xếp sinh kế cho ta.”Nhà sư áo đen lại hỏi: “Thế thì sao hắn lại để ngươi phiêu bạt giang hồ?” Diệp Nhị Nương đáp: “Ta không thể làm vợ y. Làm sao y có thể lấy ta làm vợ được? Y là người tốt, đối xử với ta rất tốt. Chính là ta không muốn làm liên lụy tới y. Y… y là người tốt.” Nghe mụ nói thì ra vẫn còn quyến luyến người tình đã bỏ rơi mình, mối tình xa xưa không vì cuộc sống khổ não mà tàn phai cùng tuế nguyệt.

Mọi người đều nghĩ: “Diệp Nhị Nương tàn ác có tiếng, song tình nghĩa của mụ đối với người xưa thật là thâm trọng. Không hiểu tình lang của mụ là ai?”

Cả bọn người Đại Lý gồm Đoàn Dự, Nguyễn Tinh Trúc, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch nghe hai người đối đáp nhau về những chuyện phong lưu xưa cũ, bất giác cùng đưa mắt nhìn trộm Đoàn Chính Thuần. Họ đều nghĩ rằng địa vị, tính tình cùng cách xử sự của tình lang Diệp Nhị Nương rất phù hợp với ông. Có người lại nghĩ: “Ngày trước cả Tứ Đại Ác Nhân đều tới Đại Lý, chắc cũng để đòi món nợ ân tình của Trấn Nam Vương.” Chính Đoàn Chính Thuần cũng không yên tâm, nghĩ thầm: “Mình quen biết nữ nhân rất nhiều, chẳng lẽ có cả mụ này? Sao mình không nhớ ra? Nếu thật sự là mình làm khổ nàng như thế, cho dù phải đem danh dự vứt xuống đất cho anh hùng thiên hạ phỉ nhổ, dứt khoát Đoàn mỗ cũng không quay lưng với nàng. Nhưng… nhưng… sao ta lại không nhớ nổi chuyện này?

Nhà sư áo đen dõng dạc hỏi: “Phụ thân của đứa bé hiện có mặt tại đây. Sao ngươi không gọi hắn ra?” Diệp Nhị Nương đáp: “Không, không! Ta không nói được.” Nhà sư áo đen lại hỏi: “Tại sao ngươi lại điểm tàn hương vào lưng và hai mông thằng bé thành hai mươi bảy dấu thọ giới?” Diệp Nhị Nương che mặt lại đáp: “Ta không biết, ta không biết! cầu xin ngươi, ngươi đừng hỏi ta nữa.”

Nhà sư áo đen vẫn không chút động lòng, điềm nhiên hỏi tiếp: “Phải chăng lúc ngươi sinh ra thằng bé này đã định cho nó làm hòa thượng?” Diệp Nhị Nương đáp: “Không phải, không phải!” Nhà sư áo đen lại hỏi: “Thế ư? Sao ngươi lại điểm hương vào người nó cho thành dấu vết của Phật môn?” Diệp Nhị Nương đáp: “Ta không biết, ta không biết!” Nhà sư áo đen cao giọng nói: “Ngươi không nói thì ta cũng biết. Đó là vì phụ thân nó là đệ tử Phật môn, cũng là một vị cao tăng đắc đạo.”

Diệp Nhị Nương phát ra một tiếng rên như xé ruột, rồi không chịu đựng được nữa, ngã ra bất tỉnh.

Quần hùng nhốn nháo cả lên, ai nhìn thần sắc Diệp Nhị Nương cũng biết lời nói của nhà sư áo đen đúng là sự thực. Té ra mụ đã tư thông với một hòa thượng, mà lại là một cao tăng nổi tiếng. Mọi người kề vào tai nhau thì thầm bàn luận.

Hư Trúc đỡ Diệp Nhị Nương dậy, lay gọi rối rít: “Má má! Má má mau tỉnh lại.” Hồi lâu Diệp Nhị Nương mới hồi tỉnh, khẽ bảo: “Hài nhi, mau đưa ta xuống núi. Lão này… đúng là yêu quái, không hiểu sao lão lại biết. Ta không muốn thấy mặt lão nữa, mà mối thù… cũng không cần phải trả nữa.” Hư Trúc nói: “Vâng! Má má, chúng ta đi thôi.”

Nhà sư áo đen nói: “Hãy khoan, ta chưa nói hết. Ngươi muốn báo thù, ta cũng muốn báo thù. Diệp Nhị Nương! Tại sao ta lại cướp con của ngươi, ngươi có biết không? Là vì… là vì có người cướp mất con ta, gây ra cảnh nhà tan người mất, vợ chồng cha con tử biệt sinh ly. Ta phải báo thù.”

Diệp Nhị Nương hỏi: “Có người cướp mất con ngươi ư? Ngươi muốn báo thù ư? Nhà sư áo đen đáp: “Đúng thế! Ta cướp con ngươi, đem bỏ vào vườn rau chùa Thiếu Lâm, để sư Thiếu Lâm nuôi nó lớn lên rồi dạy võ nghệ. Đó là vì con của ta cũng bị cướp mất, cũng được nuôi nấng cho khôn lớn, rồi chùa Thiếu Lâm cũng truyền thụ cho y một thân võ nghệ. Ngươi có muốn nhìn rõ mặt ta không?” Lão không đợi Diệp Nhị Nương đáp, đã giơ tay lên kéo tấm khăn che mặt xuống.

Quần hùng đều kinh ngạc la lên một tiếng:”úi chao!” Lão này mặt vuông tai lớn, râu ria xồm xoàm, tướng mạo rất oai phong, khoảng trên dưới sáu mươi tuổi. Tiêu Phong vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, tiến đến trước mặt lão, rồi lạy phục xuống đất, hỏi to: “Ông… ông… là gia… gia…”

Lão cười ha hả nói: “Hảo hài nhi, hảo hài nhi! Ta chính là gia gia ngươi. Cha con ta tướng mạo giống nhau, không cần phải đánh dấu, ai nhìn thấy cũng biết ta là gia gia ngươi. Lão vung tay mở phanh vạt áo trước ngực, để lộ hình đầu chó sói xăm trên ngực, rồi kéo Tiêu Phong đứng dậy.

Tiêu Phong cũng mở phanh vạt áo để lộ ra hình đầu chó sói đang há miệng nhe nanh. Hai người sánh vai đi mấy bước, đột nhiên ngẩng mặt nhìn trời gầm lên một tiếng. Tiếng gầm như cuồng phong bão tố vang vọng đi rất xa, tựa như chấn động cả một khoảng rừng, mấy ngàn hào kiệt nghe thấy đều phải sợ run. Yên Vân Thập Bát Kỵ cũng rút trường đao ra cất tiếng hòa theo, chỉ có hai mươi người mà thanh thế hùng mạnh như thiên binh vạn mã.

Tiêu Phong lấy trong bọc ra một gói nhỏ bằng vải dầu, mở lấy ra một mảnh vải rất lớn. Đây chính là di văn trên vách núi ngoài Nhạn Môn Quan mà Trí Quang hòa thượng đã in lại rồi tặng cho chàng. Trên mặt vải có những chữ Khất Đan màu trắng nổi trên nền đỏ của máu.

Lão già rậm râu chỉ mấy chữ cuối cùng, cười nói: “Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút, Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút! Ha ha! Hài nhi! Hôm ấy ta đau lòng quá, nhảy xuống vực thẳm để tự vận, không ngờ chưa tận số, rơi trúng một cành cây bên vách núi nên không chết. Sau đó ta không muốn chết nữa mà đặt ra mục tiêu rửa hận. Ngày đó ngoài Nhạn Môn Quan, bọn hào kiệt Trung Nguyên chưa hỏi câu nào đã giết chết người mẹ không biết võ công của con. Hài nhi! Con nói đi, mối thù này có nên trả hay không?”

Tiêu Phong cũng nói: “Mối thù của cha mẹ quyết chẳng đội trời chung, sao lại không trả?” Tiêu Viễn Sơn nói: “Số người sát hại mẫu thân ngươi, ngay hôm đó đã bị ta đánh chết và bị thương đến quá nửa. Trí Quang hòa thượng sợ tội tự sát, Triệu Tiền Tôn đã bị giết, Bang chủ Cái Bang Uông Kiếm Thông may mắn đã mắc bệnh mà chết. Nhưng Tên Đại ác đứng đầu bọn ác nhân hiện vẫn còn sống. Hài nhi! Con nói đi, phải xử trí hắn thế nào?” Tiêu Phong gấp rút hỏi: “Người đó là ai?” Tiêu Viễn Sơn lại gầm lên một tiếng rùng rợn, rồi quát lớn: “Người đó là ai?” Mục quang lão như điên đảo qua nhìn khắp quần hào một lượt.

Kẻ nào chạm vào ánh mắt lão cũng run lên. Bọn họ không liên quan gì đến vụ sát hại mẫu thân Tiêu Phong ngoài Nhạn Môn Quan, nhưng đã lỡ nhìn vẻ mặt cha con Tiêu Phong thì đều khiếp sợ, không dám nhúc nhích chân tay, không dám mở miệng nói nửa lời, chỉ sợ tai họa giáng xuống đầu.

Tiêu Viễn Sơn nói: “Hài nhi! Hôm ấy ta cùng mẫu thân đưa ngươi sang thăm nhà bà ngoại. Không ngờ tới Nhạn Môn Quan thì mấy chục tên võ sĩ Trung Nguyên đột nhiên xông ra giết sạch bọn tùy tùng, lại giết cả mẫu thân ngươi. Đại Tống với Khất Đan đã có thâm thù, tàn sát lẫn nhau thì cũng chẳng lạ gì. Nhưng trong bọn võ sĩ mai phục phía sau núi lại có kẻ dự mưu, ngươi có biết vì cớ gì không?”

Tiêu Phong đáp: “Hài nhi có nghe Trí Quang hòa thượng nói, bọn họ được tin báo rằng võ sĩ Khất Đan muốn đến chùa Thiếu Lâm để cướp kinh điển võ học, đem về cho binh tướng nước Liêu luyện tập để sau này chiếm giang sơn Đại Tống. Vì thế mà họ phục kích tấn công đột ngột, lại tàn sát cả mẫu thân của hài nhi.”

Tiêu Viễn Sơn cười thê thảm rồi nói:”Ngày đó ta không hề có ý cướp đoạt kinh điển võ học của chùa Thiếu Lâm, chính là bọn chúng vu oan cho ta. Được lắm! Tiêu Viễn Sơn này quyết không chịu nhịn, chúng đã vu oan thì ta phải cho chúng biết tay. Ba mươi năm nay, Tiêu mỗ đã ẩn núp trong chùa Thiếu Lâm, kinh điển võ học đã xem kỳ thích. Bọn cao tăng Thiếu Lâm kia! Giả tỉ các ngươi lại ra Nhạn Môn Quan mai phục thì cũng không làm gì được ta đâu.”

Quần tăng Thiếu Lâm nghe Tiêu Viễn Sơn nói vậy đều không lạnh mà run. Ai cũng nghĩ rằng lão không nói dối. Võ công bản phái đã bị người Liêu học lén, nếu lão đem về truyền thụ cho bọn võ sĩ Khất Đan thì chúng như hổ thêm cánh, làm sao đối phó được? Hết thảy quần hùng trên núi đều có chung ý nghĩ: “Hôm nay nhất định không để cho lão này xuống núi.”

Tiêu Phong nói: “Gia gia! Năm xưa Tên Đại ác giết mẫu thân của con là do hiểu lầm chứ không phải thực tâm tàn độc. Có điều hắn đã hạ sát phu phụ họ Kiều nghĩa phụ, nghĩa mẫu của con, lại đổ tiếng ác cho con thì nhất định không thể tha thứ được. Hài nhi chưa hiểu hắn là ai, xin gia gia nói cho biết.”

Tiêu Viễn Sơn cười ha hả nói: “Hài nhi! Con lầm rồi!” Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi: “Hài nhi lầm ư?” Tiêu Viễn Sơn gật đầu đáp: “Lầm rồi. Phu phụ họ Kiều là do ta giết.” Tiêu Phong cả kinh, lạc giọng hỏi: “Là gia gia giết ư? Tại… tại sao vậy?” Tiêu Viễn Sơn đáp: “Ngươi là con ruột của ta, lẽ ra gia đình ta cha con vợ chồng đoàn tụ một nhà vui vẻ biết mấy! Thế mà bọn võ lâm Nam triều coi người Khất Đan không bằng heo chó, chúng ta không động gì đến họ, họ cũng giết vợ ta, bắt con ta cho người khác nuôi. Phu phụ họ Kiều đã mạo xưng là song thân ngươi, đoạt mất hạnh phúc của trời ban cho ta, không chịu nói rõ chân tướng cho con biết. Họ chết là đáng lắm.”

Tiêu Phong chua xót trong lòng nói: “Nghĩa phụ, nghĩa mẫu có ân nghĩa rất sâu xa với hài nhi. Hai vị lão nhân gia vốn là người rất tốt. Vậy những việc đốt Đơn gia trang, giết chết Đàm công, Đàm Bà, đều do… do…”

Tiêu Viễn Sơn đáp: “Không sai! Những việc đó đều do ta làm. Bọn này đã biết rõ kẻ chủ mưu giết người ở ngoài Nhạn Môn Quan ngày trước mà không chịu nói ra. Tên nào cũng che giấu cho hắn, lại còn chưa đáng chết ư?”

Tiêu Phong lẳng lặng nghĩ thầm: “Mình khổ sở điều tra Tên Đại ác là ai, té ra chính là gia gia. Lại còn… lại còn…” Chàng chậm rãi nói: “Huyền Khổ đại sư chùa Thiếu Lâm đã dạy võ công cho hài nhi, mười năm trời không hề gián đoạn. Hài nhi có được ngày nay, hoàn toàn nhờ ân sư tài bồi…” Nói tới đây chàng cúi đầu xuống, bất giác nhỏ lệ.

Tiêu Viễn Sơn nói: “Bọn võ lâm Nam triều âm hiểm gian trá, làm gì có ai tử tế? Lão Huyền Khổ cũng bị ta phóng chưởng đánh chết.” Quần tăng chùa Thiếu Lâm đồng thanh tụng niệm: “A di đà Phật! A di đà Phật!”. Tuy chưa có ai tiến ra khiêu chiến với Tiêu Viễn Sơn, nhưng trong tiếng niệm Phật của quần tăng đã lộ vẻ cực kỳ đau khổ, dĩ nhiên quyết không thể bỏ qua chuyện này được. Ai cũng nghĩ: “Thật ra thì mình đã nghi oan Tiêu Phong, nhưng cha con như một, phụ thân hung ác thì hài tử gánh tội, cũng không có gì sai trái.”

Tiêu Viễn Sơn lại nói: “Trong những kẻ đại thù giết chết người vợ yêu quí của ta, cướp đứa con độc nhất của ta, có cả Bang chủ Cái Bang, có cả bọn cao thủ phái Thiếu Lâm. Ha ha! Chúng cứ tưởng vĩnh viễn che giấu được vụ huyết án này không còn ai biết. Chúng biến con ta thành người Hán, bắt con ta gọi kẻ đại thù bằng sư phụ, kế vị kẻ đại thù làm Bang chủ Cái Bang. Ha ha! Hài nhi! Tối hôm ấy ta phóng chưởng đánh Huyền Khổ rồi nấp một bên, một lát sau thấy con về bái kiến lão trọc. Huyền Khổ sắp chết, thấy tướng mạo cha con ta giống hệt nhau thì cho rằng chính con đã hạ thủ, cả chú tiểu cũng không phân biệt được cha con ta. Hài nhi! Người Khất Đan ta bị vu oan giá họa như vậy còn chưa đủ hay sao?”

Bây giờ Tiêu Phong mới hiểu tại sao lúc Huyền Khổ đại sư thấy mình lại ra vẻ kinh ngạc, mà chú tiểu cũng nhất định làm chứng là mình đã hạ thủ giết chết đại sư. Thì ra hung thủ là cốt nhục với mình, tướng mạo không giống mình sao được? Tiêu Phong bèn nói: “Những người này bị gia gia giết, thì cũng chẳng khác gì bị hài nhi giết, vậy hài nhi bị gán tội cũng không phải là oan uổng. Còn việc bọn võ lâm ở Trung Nguyên mai phục ngoài Nhạn Môn Quan thì ai là kẻ thủ ác, gia gia đã điều tra minh bạch chưa?

Tiêu Viễn Sơn đáp: “Ha ha! Sao ta lại không điều tra minh bạch? Kẻ đó đã tàn hại gia đình mình đến người chết nhà tan. Nếu ta phóng một chưởng đánh chết hắn ngay, thì hóa ra nhẹ nhàng cho hắn quá. Diệp Nhị Nương! Khoan đi đã!”

Lão thấy Diệp Nhị Nương được Hư Trúc dìu đi mỗi lúc một xa, bèn quát mụ dừng lại để hỏi tiếp: “Cha đứa nhỏ là ai, nếu ngươi không nói ra thì ta cũng biết. Ta đã ở trong chùa Thiếu Lâm ba mươi năm, có chuyện gì qua mắt được ta? Bọn ngươi hò hẹn nhau trong động Từ Vân thế nào, rồi hắn kêu Kiều bà bà đến đỡ đẻ cho ngươi ra sao, ta đều thấy rõ hết, ngươi có muốn ta kể hết cho mọi người nghe không?”

Diệp Nhị Nương quay người lại, lê đến gần Tiêu Viễn Sơn thêm mấy bước, rồi bỗng quỳ xuống nói: “Tiêu lão anh hùng! Ông là bậc đại nhân đại nghĩa, nên bỏ qua cho y. Hài nhi của ta đã cùng quí công tử lạy nhau tám lạy, kết thành huynh đệ kim lan. Y… y là người có thanh danh trong võ lâm, địa vị tối cao mà niên kỷ cũng lớn rồi, xin đừng bắt y phải chịu tai tiếng. Tiêu anh hùng muốn giết, muốn mổ ta thế nào cũng được, chỉ xin… chỉ xin đừng làm khó dễ y.”

Quần hùng trước đã nghe Tiêu Viễn Sơn nói phụ thân Hư Trúc là một “cao tăng đắc đạo”, sau lại nghe Diệp Nhị Nương bảo y có thanh danh trong võ lâm, lại có địa vị tối cao. Mấy việc này kết hợp lại, rõ ràng người đó là một lão tăng có địa vị cao tại chùa Thiếu Lâm. Ai nấy đều đưa mắt nhìn các vị lão tăng râu mày bạc phơ ở Thiếu Lâm Tự nghìn năm lịch sử.

Đột nhiên Huyền Từ phương trượng lên tiếng: “Thiện tai, thiện tai! Đã gây nghiệp nhân thì phải chịu nghiệp quả. Hư Trúc! Ngươi lại đây!” Hư Trúc chạy lại trước mặt phương trượng quỳ xuống. Huyền Từ nhìn ngắm y hồi lâu, rồi đưa tay ra khẽ xoa đầu y, nói: “Ngươi đã ở trong chùa hai mươi bốn năm, thế mà thủy chung ta vẫn không biết ngươi chính là con ta!”

Câu này vừa nói ra, quần tăng và quần hùng nhốn nháo cả lên. Sắc mặt người nào cũng tỏ vẻ kinh dị, hãi hùng, căm giận, khinh bỉ, bi thương, mỗi người mỗi cảm xúc riêng, đủ các trạng thái. Huyền Từ phương trượng đạo cao đức trọng, trong võ lâm chẳng ai là không ngưỡng mộ, ngờ đâu lộ ra việc này khiến ai nấy đều sửng sốt. Phải đến nửa ngày, tiếng bàn tán huyên náo mới lắng xuống.

Huyền Từ lại lên tiếng, giọng nói vẫn trầm tĩnh: “Tiêu lão thí chủ! Thí chủ phải xa cách lệnh lang ba mươi mấy năm, tuy không được gặp nhưng vẫn biết con trai võ công tinh tiến, thanh danh lừng lẫy, trở nên anh hùng hảo hán bậc nhất giang hồ, như vậy trong lòng thí chủ chắc cũng được an ủi phần nào. Còn ta thì hàng ngày được thấy hài nhi, mà cứ tưởng đã bị cường đạo cướp mất, còn sống hay đã chết cũng không biết, ngày đêm mong nhớ canh cánh bên lòng.”

Diệp Nhị Nương vừa khóc vừa nói: “Ngươi… ngươi đừng nói nhiều nữa! Bây giờ biết làm thế nào đây?”. Huyền Từ dịu dàng trả lời: “Nhị nương! Chúng ta đã tạo nên ác nghiệp, có hối hận cũng vô ích. Mấy chục năm nay, ngươi thật là đau khổ!” Diệp Nhị Nương vẫn khóc: “Ta không đau khổ. Ngươi đau khổ mà không nói ra được, mới thật sự là đau khổ.”

Huyền Từ chầm chậm lắc đầu, rồi nhìn Tiêu Viễn Sơn nói: “Tiêu lão thí chủ! Ngoài Nhạn Môn Quan ngày trước, lão nạp đã phạm vào đại tội. Các huynh đệ đã vì lão nạp mà tham gia vào việc này đều chết cả rồi. Lão nạp đến nay mới chết, kể ra cũng đã quá muộn, nhưng trong lòng có một điều vẫn chưa hiểu rõ.” Đột nhiên, đại sư cất cao giọng nói: “Mộ Dung Bác thí chủ! Ngày ấy, chỉ vì thí chủ phao tin rằng võ sĩ Khất Đan định tấn công vào chùa Thiếu Lâm đoạt kinh điển võ học, nên mới có sự hiểu lầm to lớn như vậy. Trong lòng thí chủ có đau khổ áy náy hay chăng?”

Mọi người nghe đến ba chữ “Mộ Dung Bác” đều giật mình kinh hãi. Đa số quần hùng đều biết phụ thân của Mộ Dung Phục tên là Bác, nhưng lão đã tạ thế lâu rồi, sao bây giờ Huyền Từ đột nhiên gọi đến tên? Vậy Mộ Dung Bác thật ra là ai? Mọi người đều nhìn theo mục quang Huyền Từ, thì thấy đôi mắt lão tăng đang chăm chú nhìn nhà sư áo xám ngồi dưới gốc cây.

Nhà sư áo xám bật cười rồi đứng dậy nói: “Phương trượng đại sư! Nhãn quang đại sư thật là lợi hại, đã nhận ra tại hạ!” Rồi lão đưa tay kéo tấm khăn bịt mặt xuống, để lộ khuôn mặt tụấn nhã, đôi mày bạc phơ dài rủ xuống má.

Mộ Dung Phục vừa kinh ngạc vừa vui mừng, la lên: “Gia gia! Gia gia… chưa chết ư?” Lúc đó trong lòng y nổi lên rất nhiều nghi vấn. Ngày phụ thân tạ thế, chính tay y sờ xem hơi thở mấy lần, chính tay y khâm liệm an táng. Bây giờ phụ thân còn sống sờ sờ, tất nhiên khi đó đã vận thần công để bế khí giả chết. Sao lão nhân gia lại giấu giếm cả đứa con ruột thịt để làm gì?

Huyền Từ nói: “Mộ Dung lão thí chủ! Ta cùng thí chủ giao hảo lâu năm, dĩ nhiên tất tin tưởng lời thí chủ. Ngày trước, thí chủ báo với ta cái tin đó, ta chẳng nghi ngờ gì. Sau khi giết lầm người tốt, lão nạp không tìm thấy thí chủ nữa, rồi được tin thí chủ mắc bệnh qua đời. Lão nạp đau xót vô cùng, cứ nghĩ rằng thí chủ cũng như bần tăng sơ ý tin lời người khác gây nên tội lỗi, hối hận rồi uất khí không tan được mà nên nỗi. Ngờ đâu… Hỡi ôi!…” Đại sư thở dài, tỏ ra vừa hối hận vừa oán trách Mộ Dung Bác.

Tiêu Viễn Sơn cùng Tiêu Phong đưa mắt nhìn nhau, bây giờ hai người mới hiểu kẻ phao tin để Đại Tống và Khất Đan chém giết nhau chính là Mộ Dung Bác. Tiêu Phong chợt nghĩ: “Chuyện bi thảm ngoài ải Nhạn Môn Quan là do Huyền Từ cầm đầu, nhưng lão là phương trượng chùa Thiếu Lâm, dĩ nhiên phải quan tâm đến sự tồn vong của giang sơn Đại Tống và kinh điển võ học bản môn, phải theo đại nghĩa mà làm. Về sau lão phát giác ra mình đã sai lầm, bèn đem hết sức bù đắp lại. Thế thì kẻ đại ác là Mộ Dung Bác chứ không phải Huyền Từ.”

Còn Mộ Dung Phục thì nghe Huyền Từ nói, lập tức hiểu ra: “Gia gia phao tin giả là muốn châm ngòi cho Tống, Liêu đánh nhau, Đại Yên ta đứng giữa hưởng lợi. Sau đó dĩ nhiên Huyền Từ phải nghi ngờ chất vấn, gia gia làm sao trả lời được? Gia gia vốn mang thân phận đại anh hùng hào kiệt, dĩ nhiên không thể nhận lỗi đó mà hủy hoại thanh danh. Lão nhân gia hiểu rõ Huyền Từ, nếu người giả chết thì Huyền Từ tất không tiết lộ ra để tổn hại đến danh dự người quá cố. Vì thế gia gia phải giả chết để bảo toàn uy danh nhà Mộ Dung, ta vẫn có thể tiếp tục mưu đồ đại sự. Nếu gia gia không làm vậy thì anh hùng hào kiệt Trung Nguyên tất kéo đến hỏi tội nhà Mộ Dung, gia gia toàn mạng là khổ rồi, còn nói gì đến chuyện phục quốc? Chỉ vì lúc đó ta còn quá trẻ, nếu biết gia gia trá tử thì không chừng để lộ chuyện, nên gia gia phải giấu cả ta.” Y nghĩ đến tâm ý của phụ thân, vứt bỏ tất cả nhằm khôi phục Đại Yên, cảm thấy trách nhiệm trên vai mình càng nặng nề hơn.

Huyền Từ chầm chậm hỏi: “Mộ Dung lão thí chủ! Hôm nay lão nạp nghe mấy lời thí chủ khuyên bảo lệnh lang, mới biết được dòng họ Mộ Dung là hậu duệ đế vương, mưu đồ rất lớn. Như thế có thể hiểu năm xưa thí chủ phao tin giả là để làm gì. Nhưng mưu đồ của thí chủ đến nay vẫn chưa thành công, mà không biết bao nhiêu sinh linh đã thiệt mạng một cách oan uổng”. Mộ Dung Bác đáp: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”

Huyền Từ đổi sắc mặt, nói: “Tệ sư đệ là Huyền Bi đã từng vâng mệnh lão nạp đi đến Cô Tô để hỏi thăm thí chủ. Không hiểu sư đệ đã nói năng đắc tội, hay đã thấy được vết tích gì trong quí phủ mà đoán được ý đồ tạo phản, nên thí chủ muốn giết người bịt miệng. Nhưng sao thí chủ lại nhẫn nại thêm mấy năm, lúc Huyền Bi đến Đại Lý mới ra tay. Ái chà! Thí chủ lại toan gây tranh chấp giữa Đại Lý với Thiếu Lâm Tự, vì thế mà lúc thí chủ ra tay ám toán đã sử dụng Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia. Chỉ vì thí chủ học Nhất Dương Chỉ chưa đến chỗ tinh vi, cuối cùng cũng phải dùng tuyệt kỹ gia truyền Gậy ông đập lưng ông để sát hại sư đệ Huyền Bi của ta.”

Mộ Dung Bác cười khẩy, lắc mình vung quyền đánh vào thân cây lớn kế bên. Nghe tiếng răng rắc, mấy cành lớn gãy rơi xuống. Hắn đánh vào thân cây, nhưng lại chấn động gãy hai cành cây ở cao hơn một trượng, thần công quả thật phi phàm. Mười mấy vị lão tăng Thiếu Lâm đồng thanh hô lên: “Vi Đà Chử!” Trong thanh âm đầy vẻ kinh hãi.

Huyền Từ gật đầu nói: “Thí chủ lén lút ở trong bản tự nhiều năm, quả nhiên đã luyện thành môn Vi Đà Chử trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của Thiếu Lâm. Nhưng tuyệt chiêu Thiên Linh Thiên Liệt của phái Phục Ngưu ở Hà Nam, chắc thí chủ không khỏi tốn nhiều công phu mới luyện được. Tại sao thí chủ giết Kha Bách Tuế lại phải sử dụng võ học gia truyền?”

Mộ Dung Bác cười đầy vẻ âm hiểm, lên tiếng đáp: “Lão phương trượng quả nhiên tinh minh tột bậc, không rời khỏi sơn môn mà hiểu rõ mọi việc trên giang hồ chẳng khác lòng bàn tay, khiến cho người khác phải khâm phục. Chuyện này mà phương trượng lại đoán…” Y chưa dứt lời thì có hai người hét to lên, nhắm vào y xông tới, chính là Kim toán bàn Thôi Bách Tuyền và sư điệt Quá Ngạn Chi. Mộ Dung Bác chỉ phất tay áo bào, hai người Thôi, Quá đã văng ra hơn một trượng, nằm dưới đất không nhúc nhích gì nữa. Chỉ trong nháy mắt lão đã phóng Tụ Trung Chỉ trúng vào huyệt đạo hai người.

Huyền Từ nói: “Kha thí chủ gia tài ức vạn, hành sự cẩn thận tỉ mỉ. Ái chà! Thí chủ muốn chiếm lấy gia tài đó để tính chuyện chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thảo. Nhưng chắc là Kha thí chủ không chịu, lại còn muốn báo lên quan phủ.”

Mộ Dung Bác cười ha hả, giơ ngón tay cái lên nói: “Lão phương trượng thật là sáng suốt. Tiếc rằng phương trượng không rõ đầu đuôi câu chuyện, cũng chưa rõ những chuyện đã từng xảy ra, nên tại hạ cùng vị Tiêu huynh này đã trốn trong quí tự mấy chục năm, mà phương trượng cũng chẳng biết gì.”

Huyền Từ chầm chậm lắc đầu, thở ra một hơi rồi đáp: “Hiểu rõ người khác thì dễ, hiểu rõ chính mình thì khó. Muốn khắc chế địch thì dễ; còn muốn khắc phục tam độc tham sân si trong lòng mình thì khó hơn không biết mấy lần.”

Mộ Dung Bác nói: “Lão phương trượng! Niệm tình hai ta giao kết nhiều năm, ta sẽ trả lời thẳng thắn. Lão còn gì muốn hỏi ta không?” Huyền Từ đáp: “Cứ theo cách đối nhân xử thế của Tiêu Phong thí chủ, thì ba vị Mã Đại Nguyên, Mã phu nhân, Bạch Thế Kính của Cái Bang chắc chắn không phải Tiêu Phong sát hại. Không biết là Mộ Dung lão thí chủ hay Tiêu lão thí chủ đã hạ thủ?”

Tiêu Viễn Sơn đáp: “Mã Đại Nguyên thì bị vợ y cùng với Bạch Thế Kính âm mưu giết chết. Bạch Thế Kính thì do ta giết. Tình hình lúc ấy, chính Đoàn Vương gia của Đại Lý đã mắt thấy tai nghe. Phương trượng muốn hiểu rõ thì lát nữa cứ hỏi Đoàn Vương gia sẽ biết.”

Tiêu Phong tiến lên hai bước, chỉ vào mặt Mộ Dung Bác quát lên: “Mộ Dung lão tặc! Ngươi là người đã gây ra đại họa này, mau bước lên đây chịu chết!” Mộ Dung Bác cười khẩy một tiếng, buông tay Mộ Dung Phục ra rồi theo đường lên núi mà vọt đi cực kỳ mau lẹ. Tiêu Viễn Sơn cùng Tiêu Phong quát lên: “Đuổi!” Dứt lời hai người chia hai bên tả hữu đuổi theo. Cả ba người này đều là những tay võ công trác tuyệt, chỉ trong nháy mắt đã chạy rất xa, một người chạy, hai người đuổi, đều chạy về phía chùa Thiếu Lâm. Chỉ trong giây lát một bóng xám hai bóng đen, đã khuất sau tường vàng ngói biếc của Thiếu Lâm Tự.

Quần hùng thấy diễn biến ly kỳ đều nghĩ thầm: “Mộ Dung Bác cùng Tiêu Viễn Sơn công lực ngang nhau không phân cao thấp. Có thêm Tiêu Phong thì họ Mộ Dung không thể địch nổi. Không hiểu sao lão không chạy xuống núi để trốn mà lại chạy lên chùa Thiếu Lâm?”

Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác và mười tám võ sĩ Khất Đan đều toan chạy lên núi để tiếp tay cho chủ nhân, nhưng họ vừa cất bước thì Huyền Từ đã quát lên: “Lập trận ngăn cản.” Hơn trăm nhà sư chùa Thiếu Lâm đều dạ ran, lập thành trận thế ngay giữa đường lên núi, người cầm thiền trượng, kẻ cầm giới đao cản mọi người lại. Huyền Tịch lên tiếng: “Chùa Thiếu Lâm là nơi Phật môn thiện địa, không phải là nơi để đánh nhau. Xin các vị thí chủ đừng tự tiện lên nữa.”

Bọn Đặng Bách Xuyên thấy chùa Thiếu Lâm người nhiều thế mạnh, biết không thể xông lên được, nếu cố gây chuyện thì chỉ tổ thêm cừu địch, tuy họ băn khoăn lo lắng cho chủ nhân nhưng đành phải dừng bước. Bao Bất Đồng nói: “Không sai, không sai! Chùa Thiếu Lâm là nơi Phật môn thiện địa…” Câu cửa miệng của gã là “Sai bét, sai bét!” mà bây giờ lại “Không sai, không sai!” Không ít người liền ngạc nhiên nhìn gã, nhưng bỗng nghe tiếp: “…chuyên nhận nuôi những đứa con hoang tội nghiệp.”

Gã vừa nói câu này, liền bị mấy trăm cặp mắt nhìn trừng trừng vào mặt đầy vẻ căm hận. Bao Bất Đồng là người lớn mật, tuy gã biết rõ quần tăng chùa Thiếu Lâm có rất nhiều cao thủ vào hàng chữ Huyền, bất luận là ai gã cũng không địch nổi, thế mà gã muốn nói là nói chẳng kiêng nể chút nào. Gã thấy quần tăng chùa Thiếu Lâm hằn học nhìn mình, thì cũng hầm hầm nhìn lại không chớp mắt.

Bỗng nghe Huyền Từ lớn tiếng nói: “Lão nạp phạm vào đại giới của Phật môn, làm nhơ danh chùa Thiếu Lâm. Huyền Tịch sư đệ! Theo giới luật bản tự thì phải trừng trị thế nào?” Huyền Tịch ngập ngừng đáp: “Chuyện này… Sư huynh…” Huyền Từ nói: “Nước có phép nước, nhà có luật nhà. Bất luận là môn phái bang hội nào, tôn tộc chùa chiền nào cũng khó tránh khỏi có những đệ tử bất kham. Muốn bảo toàn thanh danh bản tự, răn đe để vĩnh viễn không có người phạm pháp, phải chiếu luật mà trừng trị, không thể nhân nhượng dược. Chấp pháp tăng! Đem Hư Trúc ra đánh một trăm ba chục côn. Một trăm côn phạt tội chính y, còn ba chục côn là y chịu thay cho sư phụ.”

Chấp pháp tăng đưa mắt nhìn Huyền Tịch. Huyền Tịch gật gật đầu, còn Hư Trúc quì xuống để chịu phạt. Chấp pháp tăng vung côn lên đánh, lưng và mông Hư Trúc da thịt nát nhừ, máu bắn tứ tung. Diệp Nhị Nương trong lòng đau xót nhưng thấy Huyền Từ oai nghiêm nên sợ không dám van xin.

Hư Trúc lãnh xong một trăm ba mươi trượng, không vận nội lực chống đỡ chút nào, đau quá không ngồi dậy được. Huyền Từ lại nói: “Kể từ lúc này, ngươi rời chùa hoàn tục, không được quay lại làm tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa.” Hư Trúc sa lệ đáp: “Vâng!”

Huyền Từ lại nói: “Huyền Từ phạm vào sắc giới, cũng phải chịu tội như Hư Trúc. Phương trượng mà phạm tội thì phải phạt nặng gấp đôi, chấp pháp tăng phải đánh Huyền Từ hai trăm côn thật nặng. Chùa Thiếu Lâm có được thanh danh là nhờ ở giới luật nghiêm minh, không được vị nể mà sinh tệ nhũng.” Huyền Từ nói xong, quay về phía Phật tượng trong Đại hùng bảo điện, quì phục xuống rồi tự cởi tăng bào, để hở lưng ra.

Quần hùng ngơ ngác nhìn nhau. Phương trượng Thiếu Lâm thụ hình trước mặt công chúng, thật là chuyện xưa nay chưa từng có.

Huyền Tịch nói: “Sư huynh! Người…” Huyền Từ lớn tiếng nói: “Thanh danh ngàn năm của Thiếu Lâm Tự không thể bị tiêu diệt vì ta!” Huyền Tịch sa lệ nói: “Vâng! Chấp pháp tăng! Dụng hình!” Hai nhà sư chấp pháp chắp tay khom lưng nói: “Phương trượng! Xin đắc tội!”, rồi hai người đứng thẳng lên, vung côn đập xuống lưng Huyền Từ. Hai vị này biết rằng phương trượng thụ hình thì đau khổ nhất là nỗi nhục nhã trước mặt công chúng, còn cái đau khổ về xác thịt không đáng kể, nếu họ hạ thủ dung tình, để người ngoài phát hiện rồi xuyên tạc thêm, thì phương trượng thụ hình thật là vô ích, không có kết quả gì. Vì thế mà mỗi côn đập xuống lưng và mông Huyền Từ đều vang lên những tiếng rùng rợn, máu đẫm tăng bào. Quần tăng nghe nhà sư chấp pháp vừa đánh vừa đếm số côn “… bảy mươi mốt, bảy mươi hai…”, ai cũng cúi đầu nhắm mắt, âm thầm niệm Phật.

Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ chợt lên tiếng: “Huyền Tịch sư huynh! Quí tự tôn trọng giới luật Phật môn, chính phương trượng cũng phải thụ hình, bần tăng rất khâm phục. Nhưng Huyền Từ sư huynh già nua tuổi tác, lại không vận nội lực chống đỡ, thì làm sao chịu nổi hai trăm côn? Bần tăng mạo muội có lời năn nỉ, hiện giờ phương trượng đã chịu tám mươi côn rồi, số còn lại xin để lại sau.”

Rất nhiều người trong quần hùng cũng la lên: “Đúng thế, đúng thế! Bọn tại hạ cũng xin năn nỉ.”

Huyền Tịch chưa kịp trả lời, Huyền Từ đã lên tiếng: “Đa tạ hảo ý của các vị, nhưng giới luật bản tự nghiêm như núi, không thể khoan thứ được. Chấp pháp tăng! Mau mau dụng hình!” Hai nhà sư chấp pháp đang ngừng tay, nghe phương trượng hạ lệnh, đành tiếp tục đánh xuống.

Thêm bốn chục côn nữa thì Huyền Từ không gượng nổi, hai tay đang chống xuống đất bỗng nhũn ra, mặt gục xuống đất dính đầy cát bụi. Diệp Nhị Nương la khóc: “Việc này không thể trách phương trượng, mọi sự đều do ta không tốt, đều do ta cố ý dẫn dụ phương trượng. Số… số côn phạt còn lại, để ta nhận lấy.” Mụ vừa khóc la vừa xông đến chỗ Huyền Từ đang thụ hình. Huyền Từ đưa ngón tay trỏ điểm đánh “véo” một tiếng, phong tỏa huyệt đạo của mụ rồi mỉm cười nói: “Con người si mê kia! Ngươi không phải là nữ ni trong Phật môn, không phạm vào giới luật, thì làm gì có tội?” Diệp Nhị Nương đứng cứng đờ không nhúc nhích được, nhưng hai hàng nước mắt vẫn nhỏ xuống như mưa.

Huyền Từ lại quát lên: “Dụng hình!” Chấp pháp tăng tiếp tục đánh cho đủ hai trăm côn, Huyền Từ máu me đầm đìa mặt đất, phải cố gắng đề khí hộ tâm cho khỏi ngất đi. Hai chấp pháp tăng dựng côn lên, quay lại bẩm với Huyền Tịch: “Thưa thủ tòa, Huyền Từ phương trượng chịu đòn đã đủ số.” Huyền Tịch gật gật đầu, không biết nói gì cho phải.

Huyền Từ cố gắng ngồi dậy, đưa tay điểm cách không để giải huyệt cho Diệp Nhị Nương. Không ngờ đại sư bị thương nặng quá, không ngưng tụ chân khí được, phóng chỉ vô hiệu. Hư Trúc thấy vậy bèn giải khai huyệt đạo cho mẫu thân. Rồi Huyền Từ vẫy vẫy tay gọi Diệp Nhị Nương cùng Hư Trúc lại gần. Hư Trúc vẫn ngần ngừ không biết nên gọi Huyền Từ bằng gia gia hay bằng phương trượng.

Huyền Từ đưa tay ra, tay phải nắm tay Diệp Nhị Nương, tay trái nắm tay Hư Trúc, lên tiếng nói: “Hai mươi mấy năm nay, ngày đêm nào ta cũng nhớ đến mẹ con ngươi. Ta biết mình phạm vào đại giới, nhưng lại không dám công khai sám hối trước chúng tăng. Hôm nay được giải thoát mọi sự, từ nay không còn lo lắng sợ hãi gì nữa, trong lòng mới được an lạc.” Rồi lão đọc kệ:”Người trên thế gian; Có muốn có yêu; Phiền não khổ nhiều; Giải thoát mới an.” Sau đó lão từ từ nhắm mắt lại, trên khóe miệng đọng nụ cười đầy vẻ bình yên.

Diệp Nhị Nương cùng Hư Trúc không dám nhúc nhích, để ý nghe xem lão còn nói gì nữa không. Không ngờ tay lão mỗi lúc một lạnh dần, Diệp Nhị Nương giật mình, đưa tay ra sờ mũi, thì đã tắt hơi rồi. Mụ biến sắc la lên: “Ngươi… ngươi… bỏ ta mà đi ư?” Đột nhiên, mụ nhảy lên cao đến hơn trượng, rơi xuống nằm cạnh Huyền Từ đánh huỵch một tiếng, giãy giãy mấy cái rồi không nhúc nhích nữa.

Hư Trúc la hoảng: “Má má! Má má không thể…” Y vội đưa tay ra đỡ mụ dậy, thì thấy một lưỡi trủy thủ đã cắm vào tim rồi. Hư Trúc hốt hoảng điểm các huyệt đạo xung quanh vết thương mụ, lại vận chân khí truyền vào thân thể Huyền Từ, đồng thời muốn cứu cả hai người nên chân tay luống cuống.

Tiết Mộ Hoa chạy lại giúp đỡ, nhưng thấy cả hai người tim đã ngừng đập, mũi tắt hơi, hết đường cứu chữa, liền cất lời khuyên nhủ: “Sư thúc nên bình tĩnh lại. Hai vị lão nhân gia không thể cứu được nữa.”

Hư Trúc vẫn chưa chịu thôi, y vận Bắc Minh chân khí đến nửa giờ mà song thân vẫn không thấy động tĩnh gì. Y đau đớn quá không nhịn được, khóc rống lên. Suốt hai mươi bốn năm trời, y chưa biết thế nào là cha mẹ bồng bế nâng niu, chưa được hưởng nửa ngày gia đình đoàn tụ. Hôm nay y vừa gặp cha sinh mẹ đẻ thì chỉ được một lúc là song thân đã nối nhau thảm tử.

Quần hùng vừa được biết cha ruột Hư Trúc là Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm, ai cũng khinh bỉ lão không giữ thanh qui giới luật, đến khi lão thản nhiên thụ hình trước công chúng để duy trì thanh danh bản tự thì mới thấy dũng tâm của lão hơn người. Ai cũng tưởng lão chịu cực hình là đền xong tội, không ngờ sau đó lại tự đoạn kinh mạch mà chết để chuộc lỗi. Hành động của Huyền Từ hiển nhiên là lão tự thấy hai trăm côn chưa đáng tội, chỉ có chết đi thì trăm việc đều xong. Giả tỉ Huyền Từ tự vận sớm hơn thì khỏi chịu hai trăm côn vừa đau vừa nhục, nhưng lão chịu đánh đòn rồi mới chết thì thật là hành vi của anh hùng hảo hán. Quần hùng đem lòng kính phục Huyền Từ, nhiều người tới quì lạy trước thi thể lão.

Nam Hải Ngạc Thần nói: “Nhị tỉ! Ngươi chết rồi, bây giờ Nhạc lão tam không tranh ngôi thứ với ngươi nữa, ngươi cứ làm lão nhị.” Mấy năm nay, lúc nào lão cũng muốn tranh ngôi với Diệp Nhị Nương, cho rằng ai có võ công cao hơn thì được làm Thiên Hạ Đệ Nhị Ác Nhân. Bây giờ lão tự rút lui thật không phải chuyện dễ dàng, chỉ vì đau xót cái chết của Diệp Nhị Nương và bội phục tiết nghĩa của mụ.

Hồi 43: Một đời mộng bá vương, cũng trở về cát bụi

Bang chúng Cái Bang lúc vui vẻ theo Bang chủ đến chùa Thiếu Lâm thì hết sức khí thế, chỉ mong Bang chủ dựa vào võ công cao thâm khó lường để giành được ngôi võ lâm minh chủ, từ nay Cái Bang áp đảo được Thiếu Lâm mà làm lãnh tụ võ lâm Trung Nguyên. Ngờ đâu Trang Bang chủ lại bái Đinh Xuân Thu làm sư phụ, rồi bị Tiêu Phong đá gãy hai chân, nên khí thế mọi người đều xẹp xuống, trên mặt không còn chút hứng thú nào.

Ngô trưởng lão lớn tiếng nói: “Các vị huynh đệ! Chúng ta còn ở đây làm chi? Chẳng lẽ còn muốn xin ít tiền lẻ cơm nguội nữa chăng? Mau xuống núi đi thôi.” Bang chúng dạ ran, toan quay xuống núi.

Bỗng nhiên Bao Bất Đồng hô lớn: “Khoan đã, khoan đã! Bao mỗ còn có chuyện muốn nói với Cái Bang.” Trần trưởng lão đã cùng gã và Phong Ba Ác tỉ đấu ở Vô Tích, biết gã chẳng bao giờ nói được một câu tử tế. Lão dừng bước, lớn tiếng nói:” Họ Bao kia! Có lời thì nói ra, có rắm thì đừng phóng.” Bao Bất Đồng đưa tay bịt mũi la lên: “Thối quá! Thối quá! Trời ơi, tên ăn mày nào cũng thối! Trong Cái Bang nhà ngươi có một lão hóa tử thối tha tên là Dịch Đại Bưu phải không?”

Trần trưởng lão nghe gã gọi đến Dịch Đại Bưu liền để ý hỏi lại: “Có thì sao, mà không có thì sao?” Bao Bất Đồng đáp: “Ta nói là tên ăn mày nào cũng thối. Ngươi đã chõ miệng vào, tức là thừa nhận rồi phải không?” Trần trưởng lão nghĩ đến việc lớn trong bang, không thèm đấu khẩu tranh hơn thua với gã, liền hỏi: “Ta hỏi ngươi, Dịch Đại Bưu làm sao? Hắn là đệ tử bản bang được phái đi công chuyện bên Tây Hạ. Ngươi có tin tức gì về gã không?”  Bao Bất Đồng đáp: “Chính là ta đang định nói với ngươi về một chuyện lớn bên Tây Hạ, nhưng Dịch Đại Bưu thì đã xuống gặp Diêm Vương rồi.” Trần trưởng lão sửng sốt hỏi: “Có thật không? Bên Tây Hạ có việc gì trọng đại?” Bao Bất Đồng đáp: “Ngươi đã mắng ta hễ mở miệng là phóng rắm. Bây giờ ta không muốn phóng rắm nữa.”

Trần trưởng lão tức muốn dựng chòm râu bạc lên, nhưng lại nghĩ đến chuyện lớn là trọng, liền cười ha hả nói: “Lão phu đã đắc tội với các hạ, bây giờ xin lỗi vậy.” Bao Bất Đồng nói: “Xin lỗi thì không cần, chỉ cần từ đây ngươi phải ít nói đi mà phóng rắm ra nhiều hơn.” Trần trưởng lão ngạc nhiên tự hỏi: “Gã nói vậy là sao?”. Nhưng lão đang có việc phải cần gã nên không hỏi lại, chỉ mỉm cười mà không nói. Bao Bất Đồng lại nói: “Thối quá! Thối quá! Lão này nói không ra tiếng rồi.” Trần trưởng lão hỏi: “Nói không ra tiếng là sao?” Bao Bất Đồng nói: “Ngươi không mở miệng nói gì, hơi không ra đằng miệng thì dĩ nhiên phải ra đường khác.” Trần trưởng lão nghĩ bụng: “Thằng cha này thật là khó chịu, mình mới nói một câu vô lễ, mà gã xoay tới xoay lui tới ba bốn lần. Giả tỉ mình lại lên tiếng thì gã lại kiếm chỗ vặn vẹo, không chịu nói vào chuyện chính.” Lão bèn mỉm cười, không nói nửa lời.

Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét! Ngươi lại muốn tranh hơi với ta, thật là thối tha!” Trần trưởng lão mỉm cười nói: “Tại hạ không mở miệng ra, sao lại bảo là tranh hơi với các hạ?” Bao Bất Đồng nói: “Ngươi chỉ phóng hơi thối ra mà không nói, thì dĩ nhiên không cần phải mở miệng.” Trần trưởng lão chau mày nói: “Thật là tức cười.”

Bao Bất Đồng thấy Trần trưởng lão nhân nhượng, mình đã nắm được thượng phong, liền nói: “Ngươi đã mở miệng nói, tức là không tranh hơi với ta nữa. Vậy ta nói cho ngươi biết. Nửa năm trước đây, ta theo Mộ Dung công tử, Đặng đại ca, Công Dã nhị ca… cả một đoàn người theo đường Cam Lương, thấy trong một khu rừng có một bọn ăn mày nằm chết dưới đất. Tên thì đầu lìa khỏi cổ, tên thì ruột đổ tứ tung, thật là vừa đáng thương vừa đáng sợ. Bọn này trên lưng có đeo túi vải, tên thì ba cái, tên thì bốn cái, tên thì năm cái, cũng có tên sáu cái.” Trần trưởng lão xen vào hỏi: “Không hiểu họ có phải là đệ tử của tệ bang không?” Bao Bất Đồng nói: “Lúc ta trông thấy thì mấy vị lão huynh này chết đã lâu, cũng chẳng biết đang ăn cháo lú hay đang lên Vọng Hương đài, không chừng lại đang bị thẩm vấn ở Thập Điện Diêm Vương. Họ đã không nói được, thì dĩ nhiên ta không thỉnh giáo được họ tôn tính đại danh là gì, quê quán ở đâu, thuộc về bang hội nào, vì sao lại chết. Nếu không thế thì họ biến thành quỷ sứ cũng còn mắng ta: Có lời thì nói ra, có rắm thì đừng phóng. Như thế thì ta bị mắng oan uổng hay sao?”

Trần trưởng lão nghe đến tin tức về nhiều huynh đệ trong bang chết thảm, đương nhiên rất quan tâm, không thể nín thinh mà cũng không thể buông lời chống đối, chỉ đáp: “Bao huynh nói đúng lắm!”

Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét! Tính Bao mỗ rất ghét kẻ phụ họa, theo hùa, thế mà lão lại bảo “Bao huynh nói đúng lắm”, còn trong lòng lại thóa mạ ta là loài rùa đen, là quân chó đẻ. Cái kiểu nịnh trước mặt chửi sau lưng là hành vi bỉ ổi của bọn phái Tinh Tú. Nam tử hán đại trượng phu thì đúng là đúng, sai là sai, người ta có lập trường của người ta, mình có chủ trương của mình. Thương ai dám bảo là thương, ghét ai dám bảo là ghét. Tự đi tự đứng một mình, không cần kéo bè kéo lũ. Như thế mới là anh hùng hảo hán.”

Hắn giáo huấn cho Trần trưởng lão một tràng dài rồi mới nói tiếp: “Có một lão ăn mày bị trọng thương, lúc đó chưa kịp chết, nhưng mà cũng sắp chết. Hắn tự xưng là Dịch Đại Bưu, vừa ở Tây Hạ đem về một bảng văn của vua nước Tây Hạ, nói là có quan hệ trọng đại, đưa cho bọn ta để nhờ trao lại cho trưởng lão trong quí bang.” Tống trưởng lão nghĩ thầm: “Trần huynh đệ đã ăn nói lỗ mãng với gã, để ta đứng ra nói chuyện chắc hay hơn.” Lão bèn tiến ra xá một cái rồi nói: “Bao tiên sinh đã vì nghĩa mà đưa tin, tệ bang từ trên xuống dưới đều cảm kích đại đức.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Nói quí bang từ trên xuống dưới đều cảm kích đại đức của ta là sai bét.” Tống trưởng lão ngẩn ra hỏi lại: “Sao Bao tiên sinh lại nói thế?” Bao Bất Đồng trỏ Du Thản Chi nói: “Bang chủ quí bang đây chẳng những không cảm kích ta mà còn tức giận ta đến cực điểm.” Tống, Trần hai vị trưởng lão đồng thanh hỏi: “Sao lại thế? Xin Bao tiên sinh chỉ giáo.”

Bao Bất Đồng đáp: “Dịch Đại Bưu lúc sắp chết có nói rằng bọn họ đều bị Trang Bang chủ của quí bang sai người sát hại. Chỉ vì họ không phục gã tiểu tử đó làm Bang chủ, nên bị gã sai người truy sát. Ôi thôi, thật là đáng tiếc, thật là đáng thương. Dịch Đại Bưu còn nhờ bọn ta báo tin cho Ngô trưởng lão, dặn lão cùng các vị trưởng lão khác nhất định phải đề phòng cẩn thận.”

Bao Bất Đồng vừa nói câu đó, quần cái đều chấn động. Ngô trưởng lão chạy tới trước mặt Du Thản Chi lớn tiếng quát hỏi: “Chuyện đó là đúng hay sai?”

Từ lúc Du Thản Chi bị Tiêu Phong đá gãy chân, gã ngồi yên dưới đất chẳng nói năng mà cũng không nhúc nhích, âm thầm vận nội lực cho đỡ đau, đột nhiên nghe Bao Bất Đồng kể ra chuyện bí mật ngày trước thì không khỏi hoảng hồn. Gã không biết trả lời Ngô trưởng lão thế nào cho phải, cứ ấp úng: “Là Toàn… Toàn Quan Thanh bảo ta ra lệnh, không… không liên quan đến ta.”

Tống trưởng lão không muốn phô chuyện xấu trong bang trước mặt mọi người, chỉ lườm Toàn Quan Thanh một cái, nghĩ thầm: “Chuyện trong bang, ta sẽ xử trí ngươi sau.” Rồi lão quay lại hỏi Bao Bất Đồng: “Tấm bản văn của Dịch Đại Bưu huynh đệ đưa cho tiên sinh, chắc là tiên sinh vẫn giữ bên mình?” Bao Bất Đồng quay lại đáp: “Ta không giữ!” Tống trưởng lão lập tức mặt biến sắc, nghĩ thầm: “Ngươi đã nói chuyện đến nửa ngày mà vẫn chưa chịu đưa bản văn cho ta, dám đem người khác ra tiêu khiển đỡ buồn ư?”. Bao Bất Đồng xá dài nói: “Non xanh trơ đó, nước biếc còn đây, chúng ta còn ngày tái hội.” Nói xong, gã quay người toan bỏ đi.

Ngô trưởng lão vội hỏi: “Sao các hạ không giao lại tấm bản văn của nước Tây Hạ?” Bao Bất Đồng đáp: “Thật là kỳ cục! Sao ngươi biết Dịch Đại Bưu giao bản văn vào tay Bao mỗ? Sao ngươi lại dùng hai chữ “giao lại”? Hôm ấy chính mắt ngươi có trông thấy chăng?”

Tống trưởng lão cố nén giận nói: “Rõ ràng Bao huynh vừa nói là Dịch Đại Bưu huynh đệ của tệ bang vừa cầm từ Tây Hạ về một tấm bản văn của vua nước Tây Hạ, nhờ Bao huynh giao cho trưởng lão bản bang. Ở đây có rất nhiều anh hùng hảo hán, ai cũng nghe thấy câu này. Sao đột nhiên Bao huynh lại đổi giọng?”

Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét! Ta không nói như vậy.” Gã thấy Tống trưởng lão biến sắc mặt, lại tiếp: “Nghe nói các vị trưởng lão Cái Bang đều là hảo hán như gang như thép, thế mà trước mặt anh hùng thiên hạ lại đổi trắng thay đen, thị phi đảo lộn. Như vậy chẳng phải là đem danh tiếng anh hùng mà thả trôi theo dòng nước ư?”

Ba vị trưởng lão Tống, Trần, Ngô nhìn nhau, sắc mặt cực kỳ khó coi, không quyết định được nên tiếp tục nhẫn nại hay trở mặt động thủ. Trần trưởng lão nói: “Các hạ đã nói thế, bọn ta cũng không biết nói thế nào. Đúng hay sai thì phải có công luận.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Ngươi bảo múa lưỡi nói nhăng cũng chỉ vô ích ư? Thế thì sao ngày trước Tô Tần chỉ múa lưỡi mà đeo tướng ấn sáu nước? Trương Nghi chỉ múa lưỡi mà giúp nhà Tần gồm thâu lục quốc?” Tống trưởng lão nghe Bao Bất Đồng đưa câu chuyện đi mỗi lúc một xa, đành nhăn nhó cười nói: “Giả tỉ Bao tiên sinh mà sinh vào thời Chiến Quốc thì còn vượt xa Tô Trương, đeo tướng ấn đến bảy nước, tám nước!”

Bao Bất Đồng nói: “Ngươi lại mỉa mai ta sinh chẳng gặp thời nên vận khí xui xẻo phải không? Được lắm! Từ đây mà họ Bao này có đau mình váng mẩy, lưng mỏi chân chồn, nhức đầu ngạt mũi, nhất định phải đi kiếm ngươi mà hỏi.”

Trần trưởng lão bực tức hỏi: “Bao huynh muốn thế nào, xin nói mau cho biết!” Bao Bất Đồng nói: “Hừ! Ngươi nóng tính quá. Trần trưởng lão! Trước kia ở thành Vô Tích, ngươi tỉ đấu cùng Phong tứ đệ, trong tay ngươi cầm một cái túi lớn, trong cái túi lớn có một con bò cạp to, con bò cạp này có kim độc, kim độc này đâm vào người thì sưng lên thành một cục, sưng lên thành một cục là đối phương phải toi mạng. Có đúng thế không?” Trần trưởng lão nghĩ thầm: “Chuyện này chỉ nói mấy chữ là xong, mà gã cũng cố lý la lý lố cho thành một tràng, dài.” Lão đáp gọn: “Đúng thế!”

Bao Bất Đồng nói: “Hay lắm! Bao mỗ muốn đánh cuộc với ngươi. Ngươi mà thắng cuộc thì Bao mỗ lập tức nói cho ngươi biết tin tức của lão già Dịch đưa từ Tây Hạ về. Còn nếu ngươi thua cuộc thì phải đưa cái túi có con bò cạp cho Bao mỗ, kèm theo cả thuốc giải. Ngươi có bằng lòng không?” Trần trưởng lão hỏi lại: “Bao huynh định đánh cuộc gì?” Bao Bất Đồng đáp: “Tống trưởng lão của quí bang đã vu cáo rằng Bao mỗ có nói là Dịch Đại Bưu đem bản văn của vua nước Tây Hạ giao cho Bao mỗ, rồi nhờ Bao mỗ giao lại cho trưởng lão quí bang. Nhưng Bao mỗ không nói vậy, thế thì chúng ta đánh cuộc về chuyện đó. Nếu Bao mỗ có nói vậy thì ngươi thắng cuộc, còn Bao mỗ không nói vậy thì ngươi thua cuộc.”

Trần trưởng lão đưa mắt nhìn hai vị Tống, Ngô. Cả hai đều gật gật đầu như muốn nói: “Ở đây có tới mấy ngàn người làm chứng, bất luận gã có giảo quyệt đến đâu cũng khó mà cãi chối. Cứ nhận đánh cuộc đi”. Trần trưởng lão liền đáp: “Được lắm! Lão phu đánh cuộc với Bao huynh. Nhưng không biết Bao huynh dùng cách gì để xác định ai thua ai thắng? Phải chăng chúng ta nên cử ra mấy vị đức cao vọng trọng, công chính nghiêm minh, để phân xử cho công bằng?”

Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét! Ngươi muốn cử ra mấy vị đức cao vọng trọng để phân xử cho công bằng ư? Giả tỉ chúng ta cử ra đến tám vị hay mười vị, thì ở đây cũng còn lại hàng trăm hàng ngàn anh hùng hảo hán, chẳng lẽ họ đều không có đức cao vọng trọng hay sao? Mà nếu họ không có đức cao vọng trọng thì họ là bọn vô danh tiểu tốt hèn mạt hạ lưu hay sao? Vậy thì Cái Bang dám khinh mạn anh hùng hảo hán ở đây, thật là vô lễ.”

Trần trưởng lão nói: “Bao huynh lại nói giỡn rồi, tại hạ nhất định không dám có ý ấy. Vậy Bao huynh tinh sao cho phải?” Bao Bất Đồng nói: “Chuyện đó phải hay trái, cong hay thẳng thì chỉ nói một lời là xong, để ta chứng minh cho ngươi coi. Đưa đây!” Gã vừa nói vừa chìa tay ra. Trần trưởng lão hỏi: “Đưa cái gì?” Bao Bất Đồng đáp: “Cái bao, bò cạp, thuốc giải.” Trần trưởng lão cãi: “Bao huynh chưa chứng minh, sao lại đòi thắng cuộc?” Bao Bất Đồng nói: “Ta chỉ sợ ngươi thua cuộc rồi cãi xóa để quịt nợ.”

Trần trưởng lão cười ha hả nói: “Cái thứ độc vật nhỏ mọn đó chẳng có chi đáng kể. Bao huynh thích thì lão phu lập tức đưa tặng, cần gì phải nói chuyện thua hay thắng.” Lão bèn tháo chiếc bao vải trên vai xuống, lại móc trong bọc lấy một cái bình đưa cho Bao Bất Đồng.

Bao Bất Đồng không cần khách khí, đón ngay lấy rồi mở miệng bao ra xem. Gã thấy trong túi có bảy tám con bò cạp lớn màu sắc sặc sỡ, vội cột miệng bao lại, nhét bình thuốc giải vào trong bọc rồi nói: “Bây giờ Bao mỗ chứng minh cho ngươi xem là ngươi thua cuộc.” Gã vừa nói vừa tháo đai áo, nắm lấy một góc vạt áo mở phanh ra, kêu mọi người đến coi thì trong bọc chỉ có một ít bạc vụn và hỏa đao hỏa thạch, không còn vật gì khác. Tống, Trần, Ngô ba vị trưởng lão vẫn chưa hiểu ý gã ra sao, sắc mặt đầy vẻ nghi ngờ. Bao Bất Đồng nói: “Nhị ca lấy bản văn cho bọn họ coi.”

Công Dã Càn đang lo lắng về sự yên nguy của cha con Mộ Dung Phục, tuy trong lòng nóng nảy mà không có cách nào vượt qua La Hán đại trận của quần tăng chùa Thiếu Lâm, đành mỉm cười, lấy bản văn ra cầm trong tay. Quần hùng đều nhìn xem tấm bản văn, thì thấy nó là một tờ giấy vàng lớn có dấu son to tướng, viết đầy những chữ ngoằn ngoèo văn tự lạ, tuy chẳng biết đúng sai thế nào, nhưng tựa như không phải là đồ giả mạo.

Bao Bất Đồng nói: “Lúc nãy Bao mỗ đã nói là Dịch Đại Bưu của quí bang đem tấm bản văn giao cho bọn ta, nhờ giao lại cho trưởng lão quí bang, có đúng thế không?” Tống, Trần, Ngô ba trưởng lão đột nhiên thấy gã thừa nhận, liền cả mừng nói: “Đúng thế!” Bao Bất Đồng nói: “Thế mà Tống trưởng lão lại bịa đặt thành Dịch Đại Bưu giao tấm bản văn cho Bao mỗ, nhờ Bao mỗ giao lại cho trưởng lão quí bang, có đúng thế không?” Ba vị trưởng lão cùng nói: “Đúng thế! Có gì là sai đâu?”

Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét! Sai bét! Có nói đầu trâu giống đầu ngựa cũng chỉ sai đến thế. Sai một ly, đi một dặm. Bao mỗ nói là đưa bản văn cho bọn ta, mà Tống trưởng lão lại bảo là đưa bản văn cho ta. Bọn ta, là cả bọn Cô Tô Mộ Dung, gồm có Mộ Dung công tử, có Đặng đại ca, có Công Dã nhị ca, có Phong tứ đệ, có Bao Bất Đồng, lại có một vị cô nương là Vương Ngữ Yên. Còn ta, chỉ là gã Bao Bất Đồng một mình một bóng, một gã giang hồ mở miệng ra là sai bét, sai bét. Các vị anh hùng nghĩ mà xem, Vương cô nương nguyệt thẹn hoa nhường là một khuê nữ, mà bảo là tương đồng với Bao Bất Đồng Bao lão tam hay cãi chày cãi cối này thì có vô lý không?”

Tống, Trần, Ngô ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ gã này chẻ một chữ làm tư, chỉ có “ta” hay “bọn ta” mà cho ra cả một bài đại luận.

Bao Bất Đồng lại nói: “Bản văn này là do Dịch Đại Bưu trao vào tay Công Dã nhị ca. Ta nói cho các ngươi biết chuyện này, là do Mộ Dung Phục công tử quyết định chủ ý. Bởi thế phải nói là “giao cho bọn ta” mới đúng, nếu nói là “giao cho ta” thì dĩ nhiên sai bét. Các ngươi phải hiểu rằng ta không biết chữ Tây Hạ thì giữ tấm bản văn đó làm gì, vứt đi lại càng nhẹ. Ở ngoài thành Vô Tích, ta thảm bại dưới tay quí bang mà không tìm đến báo thù đã là tốt, còn báo tin làm gì? Nhưng chuyện báo tin về bảng văn Tây Hạ lại là việc của cả bọn ta chứ không phải là việc của cá nhân Bao Bất Đồng. Gã nói xong, quay lại bảo Công Dã Càn: “Nhị ca! Bọn họ thua rồi cất bản văn đi thôi.”

Trần trưởng lão nghĩ bụng: “Thằng cha này nói lòng vòng, té ra chỉ vì chưa quên cái nhục thảm bại năm nào ở ngoại thành Vô Tích.” Lão bèn chắp tay nói: “Ngày đó Bao huynh tay không mà tỉ đấu với cây trượng nặng sáu mươi cân của Hề trưởng lão, vẫn chiếm được thượng phong. Rồi tệ bang thấy không địch nổi, phải lập Đả… Đả cái gì… trận mà vẫn không làm gì được Bao huynh, về sau Bang chủ tệ bang khi đó là Kiều Phong phải xuất toàn lực chiến đấu với Bao huynh hồi lâu mới miễn cưỡng thắng được nửa chiêu. Khi đó Bao huynh mới cất tiếng hát vang mà bỏ đi, bản lĩnh đã cao cường, phong độ lại ung dung. Tệ bang từ trên xuống dưới, mỗi khi nhắc lại chuyện này đều lấy làm thú vị, ai cũng bội phục Bao huynh vô cùng! Thế mà Bao huynh lại tự khiêm nói là thảm bại về tay tệ bang, nhất quyết là không phải. Hơn nữa Kiều Phong cùng tệ bang đã có xích mích, có thể nói y là kẻ thù chung của chúng ta.”

Lão không biết rằng Bao Bất Đồng nói đông nói tây, không phải vì cái nhục thua trận ở rừng Hạnh ngoài thành Vô Tích ngày nào, càng không phải vì mấy chữ “có lời thì nói ra, có rắm thì đừng phóng”. Bao Bất Đồng chỉ đợi câu cuối cùng của lão, bèn chớp cơ hội nói ngay: “Thế thì tuyệt diệu. Trưởng lão hãy thống lĩnh huynh đệ quí bang hợp sức cùng bọn tại hạ đi bắt kẻ thù chung là Kiều Phong. Khi đó tại hạ sẽ nghĩ tình bằng hữu mà hai tay dâng bản văn lên. Nếu trưởng lão không biết văn tự ngoằn ngoèo trong bản văn thì Công Dã nhị ca xin đem bản văn ra giải thích rõ ràng từ đầu đến cuối không sót một chữ. Trưởng lão nghĩ sao?”

Trần trưởng lão hết nhìn Tống trưởng lão lại nhìn Ngô trưởng lão, không biết quyết định thế nào. Bỗng có tiếng người nói: “Như thế là phải rồi, còn ngần ngại gì nữa?” Mọi người nhìn xem ai nói câu đó, thì ra chính là Thập phương tú tài Toàn Quan Thanh. Hắn lại nói tiếp: “Nước Liêu là đại thù của nhà Tống. Cha Kiều Phong là Tiêu Viễn Sơn lại chính miệng nói ra là đã ẩn núp ba mươi năm trời trong chùa Thiếu Lâm, xem hết võ kinh bí lục của phái này. Hôm nay nếu bọn ta không đồng tâm hiệp lực trừ khử hắn đi, nếu hắn yên lành trở về Liêu quốc, truyền thụ võ công Trung Nguyên cho bọn võ sĩ Khất Đan thì chẳng khác gì chắp thêm cánh cho hổ. Sau này chúng kéo đến tấn công Đại Tống thì bọn con cháu Viêm Hoàng chúng ta đều biến thành nô lệ vong quốc.”

Quần hùng nghe Toàn Quan Thanh nói đều thấy rất có lý, nhưng Huyền Từ viên tịch, Trang Tụ Hiền gãy chân, thành ra Thiếu Lâm cùng Cái Bang vốn là cột trụ võ lâm Trung Nguyên lại biến thành hai đàn rắn không đầu, không có người đứng ra chủ trương đại cuộc.

Toàn Quan Thanh lại nói: “Xin mời ba vị cao tăng hàng chữ Huyền của phái Thiếu Lâm và ba vị trưởng lão Tống, Trần, Ngô của Cái Bang hợp nhau để ban hiệu lệnh, thì hết thảy chúng ta đều phải vâng lời. Trước hết là giết cha con Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong để trừ mối lo tâm phúc cho nhà Đại Tống, còn những việc khác sẽ bàn sau cũng không muộn.” Hắn thấy Du Thản Chi đã thân bại danh liệt, bản thân mình trong bang không còn chỗ dựa dẫm có thế lực nữa, mà việc giết Dịch Đại Bưu cũng đã bại lộ rồi, trong lòng hắn rất lo lắng, liền muốn bày ra chuyện khác để tạm thời thoát tội. Tuy hắn cũng là một trong bốn trưởng lão của Cái Bang, nhưng lúc này không dám tự liệt ngang hàng với ba vị Tống, Trần, Ngô nữa.

Quần hùng hoan hô rầm rộ: “Thế là phải lắm! Xin ba vị cao tăng cùng ba vị trưởng lão ra lệnh!”  “Việc này quan hệ đến an nguy của quốc gia, xin sáu vị tiền bối đừng từ chối!”  “Chúng tôi đồng lòng tuân lệnh, đi giết hai tên Liêu cẩu trước.” Hàng trăm hằng ngàn người cùng rút binh khí nghe xoang xoảng, lại có người định xông tới giết mười tám tên võ sĩ Khất Đan.

Dư bà bà la lên: “Các huynh đệ Khất Đan, hãy sang đây nói chuyện.”

Mười tám võ sĩ Khất Đan không biết mụ có dụng ý gì, cứ đứng cầm đao yên lặng thủ thế. Họ biết rằng số ít không địch nổi nhiều, nhưng cũng quyết một trận tử chiến. Dư bà bà lại la lên: “Tám bộ cung Linh Thứu chúng ta phải bảo vệ cho mười tám vị bằng hữu.” Quần nữ trong tám bộ liền chạy sang đứng phía trước mười tám võ sĩ Khất Đan, còn các Động chúa, Đảo chúa chia ra đứng hai bên. Bọn môn đồ phái Tinh Tú muốn lập công trước mặt chủ mới, cũng phất cờ reo hò, thanh thế rất là cương mãnh.

Dư bà bà khom lưng trước Hư Trúc nói: “Chủ nhân! Mười tám võ sĩ này là thuộc hạ của nghĩa huynh chủ nhân, nếu để họ bị người ta loạn đao giết chết trước mặt chủ nhân thì còn gì là oai phong của cung Linh Thứu nữa? Bọn thuộc hạ xin tạm thời bảo vệ cho họ, để chờ chủ nhân phát lạc.”

Hư Trúc vẫn đang đau xót vị song thân tuyệt mạng, không suy nghĩ được gì, chỉ gật gật đầu rồi nói: “Cung Linh Thứu chúng ta cùng phái Thiếu Lâm là bạn chứ không phải thù. Chúng ta nhất định không được đánh giết càn bậy, làm tổn thương hòa khí.”

Huyền Tịch thấy thanh thế cung Linh Thứu lớn quá, biết là gặp phải cường địch nguy hiểm. Lão nghe Hư Trúc nói vậy bèn lên tiếng: “Mười tám tên võ sĩ Khất Đan kia có giết hay không thì cũng chẳng quan hệ gì đến đại cục. Chúng ta hãy nể mặt Hư Trúc tiên sinh mà gác việc đó lại sau. Hư Trúc tiên sinh! Bây giờ chúng ta đi bắt giết Tiêu Phong, thì tiên sinh tương trợ bên nào?”

Hư Trúc ngần ngừ đáp: “Phái Thiếu Lâm là nơi vãn bối xuất thân, còn Tiêu Phong lại là nghĩa huynh. Một bên là ân sâu, một bên lại là nghĩa nặng, vãn bối… không thể giúp bên nào được. Bất quá… bất quá… Sư thúc tổ! Vãn bối cầu xin sư thúc tổ tha cho Tiêu đại ca! Vãn bối sẽ khuyên y không qua đánh Đại Tống là xong.”

Huyền Tịch nghĩ bụng: “Võ công mi cao cường thật là uổng, đã làm chủ nhân một phái mà còn nói chuyện như con nít.” Lão bèn nói: “Từ đây Hư Trúc tiên sinh đừng nói tới ba chữ sư thúc tổ nữa.” Hư Trúc nói: “Dạ dạ! Vãn bối quên mất.”

Huyền Tịch lại nói: “Cung Linh Thứu không giúp bên nào, thế thì phái Thiếu Lâm cùng quí cung vẫn là bằng hữu, không nên làm tổn thương hòa khí.” Rồi lão quay lại nói với ba vị trưởng lão Cái Bang: “Ba vị trưởng lão! Chúng ta hãy lên chùa xem động tĩnh ra sao trước đã.” Ba lão Tống, Trần, Ngô đồng thanh nói: “Phải lắm! Phải lắm! Các huynh đệ Cái Bang, chúng ta cùng lên chùa Thiếu Lâm!” Quần tăng chùa Thiếu Lâm đi trước dẫn đường, Cái Bang cùng quần hùng Trung Nguyên cùng reo hò xông lên núi.

Đặng Bách Xuyên cả mừng nói: “Tam đệ! Ngươi có công lớn, chỉ diễn thuyết một phen mà đã lôi kéo được khá nhiều tay đắc lực để viện trợ cho chúa công cùng công tử.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Tiểu đệ nói chuyện lâu quá, không biết chúa công cùng công tử đã thắng bại thế nào, làm sao gọi là công lớn?”

Vương Ngữ Yên vội giục: “Đi mau lên! Đừng sai hét, sai bét nữa!” Nàng vừa nói vừa cất bước chạy theo quần hùng lên núi, bỗng thấy Đoàn Dự đi theo bên cạnh liền hỏi: “Đoàn công tử! Công tử lại đi giúp nghĩa huynh để đối phó với biểu ca ta chăng?” Giọng nàng nói đầy vẻ bất mãn. Vừa rồi Mộ Dung Phục vung kiếm tự tử là do y bại dưới tay Đoàn Dự cùng Tiêu Phong, nên y vừa thẹn vừa giận, không muốn sống nữa. Vương Ngữ Yên nhớ tới việc này, đâm ra tức giận Đoàn Dự.

Đoàn Dự ngẩn ra, dừng bước. Từ khi chàng gặp Vương Ngữ Yên đến nay, lúc nào cũng chiều ý nàng, lắm phen liều mạng để cứu nàng thoát hiểm, chưa bao giờ thấy nàng nhìn mình hằn học như lúc này. Chàng không biết tính sao, ruột rối như tơ vò, lát lâu mới ngập ngừng đáp: “Tại hạ… tại hạ không muốn đối phó với Mộ Dung công tử.” Nhưng khi chàng ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy quần hùng đang tới tấp chạy qua mặt mình, còn Vương Ngữ Yên và bọn Đặng Bách Xuyên đã mất hút rồi, không thấy đâu nữa.

Chàng lại ngẩn ra, nghĩ bụng: “Vương cô nương đã đem lòng ngờ vực, thì mình còn lên chùa làm gì nữa?” Nhưng rồi chàng lại nghĩ: “Tiêu đại ca bị hàng trăm hàng ngàn người xông lên như ong vỡ tổ vây đánh, thật nguy hiểm vô cùng. Hư Trúc nhị ca đã nói rõ là không giúp bên nào, nếu mình cũng khoanh tay đứng nhìn thì còn chi là tình nghĩa kim lan? Dù Vương cô nương có oán trách ta thì cũng đành chịu thôi.” Thế là chàng bèn chạy theo quần hùng lên núi.

Lúc này Đoàn Chính Thuần thấy mục quang của Đoàn Diên Khánh đang lạnh lùng chiếu vào mình, lập tức nắm lấy chuôi kiếm, vận khí chuẩn bị chống trả. Quần hào Đại Lý cũng hết sức cảnh giới đề phòng, nên Đoàn Dự vội vàng bỏ đi mà cũng không ai chú ý.

***

Chỉ chốc lát Đoàn Dự đã lên đến cổng chùa Thiếu Lâm, rồi chạy thẳng vào sơn môn. Chu vi chùa Thiếu Lâm rất rộng, nhà trước viện sau có đến mấy nghìn gian. Quần tăng cùng quần hùng Trung Nguyên quát tháo om sòm, lùng sục khắp các tòa viện trong chùa để tìm cha con Tiêu Viễn Sơn cùng cha con Mộ Dung Bác. Nhiều người nhảy lên cả nóc nhà để quan sát bốn mặt, chỗ nào cũng nhốn nháo cả lên mà vẫn chưa tìm ra bọn họ ở chỗ nào. Tiếng mở đóng cửa phòng, tiếng chân chạy rầm rập xen lẫn tiếng người hỏi nhau ơi ới: “Họ ở đâu? Đã thấy chưa?” Chùa Thiếu Lâm vốn trang nghiêm cổ kính, lúc này giống như một cái chợ huyên náo om sòm.

Đoàn Dự cũng chạy loạn lên một lúc, rồi đột nhiên thấy hai tăng nhân người Hồ ở cửa bên bước ra. Chàng nghĩ: “Hai tên Phiên tăng này không phải là hòa thượng Thiếu Lâm, không hiểu chúng lén lút làm trò ma quỉ gì ở đây?” Chàng liền thi triển Lăng Ba Vi Bộ đi theo, tuyệt không phát ra tiếng động. Hai tên Hồ tăng chạy thẳng vào khu rừng cạnh chùa, theo một con đường nhỏ trong rừng đi thẳng về hướng tây bắc. Quanh qua quẹo lại mấy chỗ ngoằn ngoèo, đột nhiên trước mặt có ánh sáng lóa lên, và có tiếng nước suối chảy róc rách. Bên kia suối là một tòa lầu, treo biển đề ba chữ Tàng Kinh Các. Đoàn Dự lẩm bẩm: “Tàng Kinh Các chùa Thiếu Lâm nổi danh thiên hạ, té ra là chỗ này đây. Phải rồi! Tàng Kinh Các dựng trên bờ suối, xa những phòng ốc khác là để đề phòng hỏa hoạn có thể tiêu hủy những kinh điển quí giá vô kể.”

Hai tên Hồ tăng khom mình, lẻn đến Tàng Kinh Các, Đoàn Dự cũng lần theo. Bỗng có hai nhà sư đứng tuổi bước ra, đằng hắng rồi hỏi: “Hai vị đến đây làm chi?” Một tên Hồ tăng đáp: “Sư huynh của ta đã ngưỡng mộ Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm từ lâu, muốn đến tham quan.” Người nói câu đó chính là Ba La Tinh. Y cùng với sư huynh Triết La Tinh thấy trong chùa đang đại loạn, muốn thừa cơ cháy nhà mà hôi của, toan đến Tàng Kinh Các để ăn cắp bí kíp võ công.

Một nhà sư Thiếu Lâm nói: “Đại sư hãy dừng bước. Tàng Kinh Các là trọng địa của bản tự, người ngoài không được vào.” Lúc đó lại thêm bốn nhà sư nữa xách thiền trượng bước ra ngăn trước cửa. Triết La Tinh và Ba La Tinh đưa mắt nhìn nhau, biết âm mưu khó mà thành được, bèn rút lui.

Đoàn Dự cũng quay mình lại, toan đi tìm Tiêu Phong thì bỗng nghe trong các có thanh âm khàn khàn nói vọng ra: “Ngươi có thấy bọn họ đi về hướng nào không?” Đây chính là thanh âm của Huyền Tịch. Một giọng khác đáp: “Bọn đệ tử bốn người giữ ở đây, chỉ thấy một nhà sư áo xám chạy vào rồi bị lão điểm huyệt mê đi, lúc được sư bá cứu tỉnh lại thì không biết nhà sư áo xám đã đi đâu rồi.” Lại nghe một giọng khàn khàn nói: “Cửa sổ chỗ này bị phá, chắc họ ra phía sau núi.” Huyền Tịch nói: “Đúng thế!” Vị lão tăng kia lại hỏi: “Không hiểu bọn họ có ăn cắp kinh sách gì không?” Huyền Tịch đáp: “Hai người này ẩn cư trong bản tự đã mấy chục năm mà chúng ta từ trên xuống dưới đều không hay biết, thật là xấu hổ. Nếu bọn họ định lấy kinh sách thì đã lấy mấy chục năm nay rồi, hà tất phải đợi đến ngày nay.” Vị lão tăng kia nói: “Sư huynh nói đúng lắm.” Rồi hai nhà sư cùng thở dài buồn bã.

Đoàn Dự nghĩ rằng mấy vị này đang nói chuyện chùa Thiếu Lâm bị mất thể diện, mình chẳng nên nghe trộm làm gì. Thực ra, bọn Huyền Tịch nói rất khẽ, chỉ vì nội lực chàng thâm hậu nên mới nghe rõ. Đoàn Dự từ từ bước đi, nghĩ bụng: “Họ bảo Tiêu đại ca ra phía sau núi, vậy mình cũng nên ra đó.”

Phía sau núi Thiếu Thất, địa thế hiểm trở, rừng rậm âm u. Đoàn Dự đi được vài dặm, không còn nghe thấy tiếng huyên náo bên ngoài chùa nữa. Trong rừng cây, chim chóc gọi nhau tíu tít. Dù đang mùa nóng bức nhưng ánh dương quang không lọt vào được, nên trong khu rừng này vẫn tối tăm lạnh lẽo. Đoàn Dự thấy vậy nghĩ thầm: “Nếu cha con Tiêu đại ca đến đây rồi thoát thân thì rất dễ, quần hùng khó mà bủa vây được.” Chàng chợt nhớ tới Vương Ngữ Yên vừa oán giận thì lại nghĩ: “Nếu đại ca ta lỡ đánh chết Mộ Dung công tử rồi thì… thì biết làm thế nào?” Mồ hôi bất giác toát ra lạnh ngắt, chàng nghĩ: “Mộ Dung công tử mà mất mạng thì e rằng Vương cô nương đau khổ vô hạn, không chừng suốt đời vẻ mặt nàng cứ buồn rười rượi.”

Chàng bâng khuâng thả bước vào rừng, lúc thì nghĩ đến Mộ Dung Phục, lúc nghĩ đến Tiêu đại ca, rồi lại nghĩ đến phụ thân, mẫu thân và bá phụ. Cuối cùng người mà chàng nghĩ đến nhiều nhất vẫn là Vương Ngữ Yên, với thần sắc đầy vẻ oán trách hờn giận vừa rồi.

Không biết chàng đã nghĩ ngợi lung tung bao lâu, bỗng nghe bên trái có tiếng niệm Phật theo chiều gió đưa lại: “Phật tức thị tâm; Tâm tức thị Phật; Tâm minh mới thấy Phật, Thấy Phật mới minh tâm.” Thanh âm này vừa hiền hòa vừa hùng hậu, chàng chưa từng nghe thấy bao giờ. Đoàn Dự lẩm bẩm: “Té ra bên đó có người. Ta thử tới đó hỏi xem họ có thấy Tiêu đại ca cùng bọn người kia không.” Chàng hướng phía có thanh âm mà đi tới.

Chàng đi qua một khu rừng trúc thì thấy có không ít người đang tụ họp trên một khoảnh đất bằng, cỏ mọc xanh um. Một nhà sư mặc áo xám tựa lưng vào một phiến đá. Những tiếng niệm kinh vừa rồi là do miệng nhà sư này thốt ra. Trước mặt nhà sư có rất nhiều người đang quì, trong số đó có cha con Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong, cha con Mộ Dung Bác và Mộ Dung Phục, hai vị Hồ tăng Triết La Tinh và Ba La Tinh, mấy vị cao tăng các chùa khách, và các vị hòa thượng hàng chữ Huyền chùa Thiếu Lâm. Những người này đều cúi đầu, chắp tay, lông mày rủ thấp yên lặng nghe nhà sư áo xám thuyết pháp. Cách đó chừng bốn năm trượng có một người đứng, chính là Cưu Ma Trí, quốc sư nước Thổ Phồn. Sắc mặt lão ra chiều nhạo báng, hiển nhiên trong lòng không phục nhà sư áo xám.

Đại Lý vốn là một Phật quốc, Đoàn Dự đã theo những vị cao tăng, nghiên cứu Phật pháp từ thuở nhỏ. Chàng am hiểu rất nhiều kinh điển, nhưng đó là Phật học tại nước Đại Lý chứ không phải là Thiền tông chùa Thiếu Lâm, hai nơi này có nhiều điểm không đồng nhất. Chàng nghe vị lão tăng đọc mấy câu kệ, tuy không sâu xa gì nhưng rất hợp lý, thì nghĩ thầm: “Theo y phục mà nhìn thì vị tăng này là một nhà sư Thiếu Lâm chức phận thấp kém, làm việc tạp dịch pha nước, quét chùa. Không hiểu sao những vị cao tăng chùa Thiếu Lâm cùng Tiêu đại ca và bao nhiêu người nữa đều quì mọp nghe thuyết pháp?”

Đoàn Dự muốn nhìn dung mạo vị lão tăng kia xem là nhân vật thế nào, nhưng muốn nhìn trước mặt lão thì phải ra phía sau bọn Tiêu Phong. Chàng sợ kinh động mọi người nên nhẹ nhàng đi vòng phía sau, lúc rón rén đến gần Cưu Ma Trí thì đột nhiên lão quay đầu lại nhìn chàng, miệng mỉm cười. Đoàn Dự cũng mỉm cười đáp lễ.

Ngay lúc ấy, Đoàn Dự chợt thấy một luồng kình phong mãnh liệt xô vào trước ngực, biết ngay là nguy, bèn la lên một tiếng: “Chao ôi!”, toan phóng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ thì đã không kịp nữa. Chàng cảm thấy trước ngực đau nhói lên rồi mê man bất tỉnh, bèn tai còn văng vẳng có tiếng niệm kinh: “A di đà Phật! A di đà Phật!” Sau đó chàng không biết gì nữa.

***

Mộ Dung Bác đã bị Huyền Từ gọi ra chân tướng, lại tố cáo lão đã phao tin để gây nên cuộc thảm sát ngoài Nhạn Môn Quan. Lão biết rằng chẳng những cha con họ Tiêu phải hạ sát mình mới cam tâm, mà quần hào Trung Nguyên cũng chẳng chịu dung tha mình, liền phi thân chạy vào chùa Thiếu Lâm. Trong chùa Thiếu Lâm phòng viện rất nhiều, nhưng lão đã thuộc hết địa hình, hy vọng có thể trốn tránh được. Không ngờ cha con Tiêu Viễn Sơn hận y thấu xương, đuổi sát như bóng theo hình. Tiêu Viễn Sơn cũng trạc tuổi lão, công lực cũng tương đương, khó lòng đuổi kịp vì Mộ Dung Bác đã chạy trước một lát. Nhưng Tiêu Phong đang tuổi tráng niên, nội lực dồi dào, hết sức đuổi thật mau. Lúc Mộ Dung Bác chạy đến trước cửa chùa Thiếu Lâm, Tiêu Phong còn cách xa hơn mười trượng đã phóng chưởng ra, chưởng lực xô tới sau lưng hắn.

Mộ Dung Bác phải xoay chưởng đánh lại để chống đỡ. Toàn thân lão bị rung động, cánh tay ngâm ngẩm dau, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Thằng chó con Khất Đan này công lực ghê quá!” Lão bèn lạng người một cái, chuồn vào trong cổng.

Tiêu Phong đời nào để lão chạy thoát? Chàng nhảy xổ tới nơi thì Mộ Dung Bác đã chạy vào trong chùa rồi. Trong chùa Thiếu Lâm hành lang vòng vèo, phòng viện chi chít, chưởng lực của Tiêu Phong tuy mãnh liệt nhưng cũng không thể phóng tới lão được. Ba người một trước hai sau, chỉ trong khoảnh khắc đã chạy đến Tàng Kinh Các.

Mộ Dung Bác phá cửa sổ chui vào, đồng thời xoay tay điểm huyệt bốn nhà sư gác cửa cho mê đi. Lão quay lại, cười nhạt nói: “Tiêu Viễn Sơn! Cha con ngươi cùng xông vào, hay là hai lão già chúng ta lấy một chọi một liều mạng với nhau?” Tiêu Viễn Sơn không đáp, đứng chắn ngoài cửa Tàng Kinh Các, bảo Tiêu Phong: “Hài nhi! Ngươi chặn cửa sổ, đừng để hắn chạy thoát.” Tiêu Phong “Vâng” một tiếng, lạng mình đến bên cửa sổ, cử chưởng lên thủ thế. Cha con họ Tiêu hợp lực bao vây, xem chừng Mộ Dung Bác không còn đường thoát. Tiêu Viễn Sơn nói: “Ta với ngươi đã có mối thù chẳng đội trời chung, không giết ngươi thì không rửa được cừu hận. Đây không phải là cuộc tỉ võ để phân cao thấp, dĩ nhiên cha con ta sẽ hợp lực để hạ sát ngươi.”

Mộ Dung Bác cười ha hả, toan trả lời, bỗng nghe dưới thang lầu có tiếng bước chân, rồi một người đi lên, chính là Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí nhìn Mộ Dung Bác, chắp tay thi lễ nói: “Mộ Dung tiên sinh! Ngày trước, hai ta từ biệt nhau ở Thiên Trúc, về sau tiểu tăng nghe tin tiên sinh quy tiên lòng rất đau buồn. Té ra tiên sinh ẩn cư không xuất hiện để giải quyết việc riêng. Hôm nay lại được trùng phùng, tiểu tăng vui mừng khôn xiết.” Mộ Dung Bác chắp tay đáp lễ, cười nói: “Tại hạ vì quốc gia đại sự mà phải lánh mình trá tử, khiến đại sư tưởng nhớ, thật lấy làm hổ thẹn.” Cưu Ma Trí nói: “Không dám! Ngày trước tiểu tăng cùng tiên sinh gặp nhau ở Thiên Trúc đàm luận võ công mấy ngày, nhờ tiên sinh chỉ điểm cho bao nhiêu chỗ nghi ngờ, lại được tiên sinh tặng cho cuốn Thất Thập Nhị Tuyệt Kỹ Yếu Chỉ. Đại ân ấy tiểu tăng ghi mãi vào tâm khảm.”

Mộ Dung Bác cười đáp: “Cái việc nhỏ mọn đó, đại sư nhắc đến làm gì?” Rồi lão quay lại cha con họ Tiêu, nói: “Tiêu lão hiệp cùng Tiêu thiếu hiệp! Thần tăng Cưu Ma Trí đây là Đại Luân Minh Vương của nước Thổ Phồn, Phật pháp đã uyên thâm mà võ công cũng cao cường hơn tại hạ nhiều, có thể nói là thế gian hiếm có.”

Tiêu Viễn Sơn cùng Tiêu Phong đưa mắt nhìn nhau, bụng bảo dạ: “Lão Cưu Ma Trí này bản lĩnh ghê gớm, lại giao tình cùng Mộ Dung Bác sâu xa như vậy, chắc sẽ ra tay giúp lão. Cuộc chiến này thắng bại khó lòng biết trước được.”

Cưu Ma Trí lên tiếng: “Năm xưa tiểu tăng được nghe tiên sinh giảng giải rằng môn Lục Mạch Thần Kiếm của chùa Thiên Long nước Đại Lý là kiếm pháp đệ nhất trong thiên hạ, tiên sinh chỉ tiếc là chưa được thấy qua cho thỏa chí bình sinh. Tiểu tăng được tin tiên sinh quy tiên, liền đến chùa Thiên Long nước Đại Lý, định lấy Lục Mạch Thần Kiếm Phổ thiêu hóa trước mộ tiên sinh để đáp tình tri kỷ. Không ngờ, Khô Vinh lão tăng chùa Thiên Long giảo quyệt đa mưu, gặp lúc khẩn cấp, lão dùng nội lực tiêu hủy mất kiếm phổ. Tiểu tăng không hoàn thành được ý nguyện Quí Trát treo gươm trước mộ, thật xấu hổ vô cùng!”

Mộ Dung Bác nói: “Đại sư chí tình như thế, tại hạ rất cảm kích. Nhưng Lục Mạch Thần Kiếm hãy còn ở nhân gian, vừa rồi Đoàn công tử nước Đại Lý tỉ đấu cùng khuyển tử đã phóng kiếm khí tung hoành. Lục Mạch Thần Kiếm quả là kiếm pháp đệ nhất trong thiên hạ, danh bất hư truyền.”

Đột nhiên bóng người thấp thoáng, trong Tàng Kinh Các lại có thêm một người nữa, chính là Mộ Dung Phục. Gã chạy sau mấy bước, vào đến trong chùa thì đã mất hút cha con Tiêu Phong. Lúc này gã tìm đến Tàng Kinh Các, nghe thấy phụ thân đang đề cập đến chuyện Đoàn Dự dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh bại mình thì lấy làm nhục nhã vô cùng.

Mộ Dung Bác lại hỏi: “Cha con họ Tiêu muốn giết cho bằng được tại hạ ở đây mới cam lòng. Đại sư nghĩ sao?” Cưu Ma Trí đáp: “Đã là tri kỷ, có lẽ đâu tụ thủ bàng quan?”

Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục đã đến nơi, đối phương ba người mà mình chỉ có hai. Mộ Dung Phục tuy kém hơn một chút, nhưng cũng không thể coi thường được. Chàng lo rằng chẳng những cha con mình khó lòng giết được Mộ Dung Bác mà e phải bỏ mạng trong Tàng Kinh Các này cũng không chừng. Tuy nghĩ vậy, nhưng chàng vốn đầy lòng dũng cảm, tình cảnh càng khó khăn, thần oai lại càng lẫm liệt. Tiêu Phong lớn tiếng quát: “Hôm nay nếu không kẻ sống người chết quyết chẳng chịu thôi. Tiếp chiêu!” Dứt lời, Tiêu Phong vung chưởng nhằm đánh vào Mộ Dung Bác. Lão bèn vung tay lên ngưng tụ công lực để hóa giải. Bỗng nghe những tiếng rắc rắc, giá sách bên tay trái bị gãy, gỗ vụn văng ra tứ phía, kinh sách trên giá rớt xuống lả tả. Thì ra chưởng lực của Tiêu Phong hùng hậu vô cùng, Mộ Dung Bác không giải khai được hoàn toàn mà chỉ đẩy trệch đi, trúng vào giá sách.

Mộ Dung Bác tủm tỉm cười nói: “Nam Mộ Dung Bắc Kiều Phong, quả nhiên danh bất hư truyền. Tiêu huynh! Ta có lời muốn nói, Tiêu huynh có chịu nghe không?” Tiêu Viễn Sơn đáp: “Dù ngươi có hoa ngôn xảo ngữ đến đâu cũng đừng hòng ta bỏ qua mối thù giết vợ.” Mộ Dung Bác nói: “Ngươi muốn giết ta để báo thù, nhưng hôm nay e rằng ngươi không làm nổi. Bên ta ba người mà bên ngươi chỉ có hai, thử hỏi bên nào có ưu thế?” Tiêu Viễn Sơn nói: “Dĩ nhiên bên ngươi thắng thế. Nhưng bậc đại trượng phu lấy ít chọi nhiều, Tiêu mỗ phỏng có sợ gì?” Mộ Dụng Bác nói: “Cha con họ Tiêu anh hùng cái thế, bình sinh chẳng biết sợ ai. Nhưng dù không sợ, mà hôm nay muốn giết ta thì cũng khó lắm. Ta muốn cùng Tiêu huynh thương lượng. Tiêu huynh vẫn có thể báo thù cho thỏa nguyện, nhưng cha con Tiêu huynh phải ưng chịu một điều.” Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong cùng tự hỏi: “Không hiểu lão tặc này có ngụy kế gì đây?”

Mộ Dung Bác lại tiếp: “Chỉ cần cha con Tiêu huynh ưng thuận điều này, rồi cứ đến giết tại hạ để báo thù. Tại hạ bó tay chịu chết, quyết không kháng cự. Cưu Ma huynh và Phục nhi không được ra tay cứu giúp.” Nghe lão nói vậy, cha con Tiêu Phong rất lấy làm kỳ, Cưu Ma Trí cùng Mộ Dung Phục cũng không khỏi kinh hãi, chẳng hiểu ra sao. Mộ Dung Phục la lên: “Gia gia! Họ ít mình nhiều…” Cưu Ma Trí cũng nói:”Sao Mộ Dung tiên sinh lại nói thế? Tiểu tăng còn một hơi thở, cũng quyết không để người khác đụng đến tiên sinh.” Mộ Dung Bác nói: ” Nghĩa khí của đại sư, tại hạ rất lấy làm cảm kích. Kết giao được một người bạn như thế thì chết cũng cam lòng. Tiêu huynh! Tại hạ muốn hỏi một câu. Năm trước tại hạ phao tin đồn, gây nên đại họa. Tiêu huynh có biết vì sao mà tại hạ làm cái việc thất đức đó chăng?”

Tiêu Viễn Sơn nộ khí bốc lên ngùn ngụt, trỏ tay vào mặt Mộ Dung Bác mắng: “Ngươi là kẻ hèn hạ tiểu nhân, làm điều càn rỡ, gieo tai rắc họa, ta còn hỏi đến dụng ý làm chi?” Dứt lời, lão tiến lên một bước phóng quyền đánh luôn.

Cưu Ma Trí lạng người tới, vung song chưởng lên ngăn cản. “Sầm” một tiếng lòng trời lở đất, quyền chưởng chạm nhau nảy lửa, kình lực làm rung động cả nóc nhà, cát bụi rớt xuống ầm ầm. Hai bên trao đổi chiêu này không phân cao thấp, cùng ngấm ngầm bội phục nhau.

Mộ Dung Bác nói: “Tiêu huynh khoan hãy giận, xin nghe tại hạ nói hết đã. Mộ Dung Bác này tuy bất lương, nhưng cũng có chút tiếng tăm trên chốn giang hồ, lại chưa được quen biết cùng Tiêu huynh thì dĩ nhiên là không thù oán. Tại hạ với Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm lại là chỗ thâm giao. Thế mà tại hạ đã phí bao nhiêu tâm lực, gây ra xích mích giữa hai bên, để thanh danh mình tan nát. Dĩ nhiên bên trong phải có lý do trọng đại.”

Đôi mắt Tiêu Viễn Sơn như tóe lửa, quát hỏi: “Lý do gì trọng đại? Ngươi… ngươi nói đi!” Mộ Dung Bác nói: “Tiêu huynh! Tiêu huynh là người Khất Đan, Minh Vương Cưu Ma Trí là người nước Thổ Phồn. Bọn võ lâm Trung Nguyên đều coi các vị là phiên bang di địch, không phải là hàng thượng quốc. Lệnh lang vốn là Bang chủ Cái Bang, võ công cao tuyệt, hùng tài đại lược, lừng lẫy tiếng tăm, thật là một bậc anh hùng hào kiệt cổ kim hiếm có. Thế mà Cái Bang vừa biết lệnh lang là dòng dõi Khất Đan, liền trở mặt không cho làm Bang chủ nữa, lại còn muốn giết chết mới cam tâm. Tiêu huynh! Tiêu huynh thử nghĩ coi việc đó có hợp lý hay không?”

Tiêu Viễn Sơn nói: “Tống, Liêu đời đời thù oán, hai nước đã giao tranh hơn trăm năm nay. Ở chốn biên cương, người hai nước thấy nhau là giết, xưa nay vẫn thế. Bang chúng Cái Bang đã biết con ta là người nước Liêu, đời nào họ để kẻ thù làm thủ lĩnh? Đó là lẽ thường, chẳng có gì là hợp lý với không hợp lý.” Lão ngừng một lát, lại nói tiếp: “Bọn Huyền Từ, Uông Kiếm Thông đã giết thê tử cùng thuộc hạ của ta, đó là vô tình chứ không phải cố ý. Cho dù họ có cố ý thì cũng chỉ do mối tương tranh giữa hai nước Tống, Liêu, chẳng lấy chi làm lạ. Còn ngươi đã bày mưu kế thâm độc để hại người, nhất định không thể tha thứ được.”

Mộ Dung Bác nói: “Vậy theo ý Tiêu huynh, khi hai nước giao tranh thì chỉ cần thắng được là tốt, có thể bỏ qua nhân nghĩa đạo đức hay sao?” Tiêu Viễn Sơn đáp: “Binh bất yếm trá đã là qui luật, người đời sau nhắc đến lòng nhân của Tống Tương Công chỉ để chê cười. Ngươi hỏi những chuyện không liên can gì đến mình để làm chi?” Mộ Dung Bác mỉm cười, hỏi lại: “Tiêu huynh nghĩ Mộ Dung Bác này là người nước nào?”

Tiêu Viễn Sơn giật mình đáp: “Ngươi là họ Mộ Dung ở Cô Tô thì dĩ nhiên là người Hán thuộc Nam triều, không lẽ là người ngoại quốc nữa sao?” Lúc nãy Huyền Từ phương trượng nhờ có học vấn uyên thâm, lúc nghe Mộ Dung Bác can Mộ Dung Phục đừng tự tử, chỉ mấy câu đã hiểu ra thân thế cùng lai lịch của lão. Còn Tiêu Viễn Sơn là kẻ võ phu Khất Đan, không hiểu lịch sử mấy, dĩ nhiên không biết nội tình.

Mộ Dung Bác lắc đầu đáp: “Tiêu huynh nói thế là sai.” Rồi hắn quay lại nhìn Mộ Dung Phục nói: “Hài nhi! Chúng ta là người nước nào?” Mộ Dung Phục đáp: “Họ Mộ Dung vốn là người Tiên Ty. Trước kia nước Đại Yên chúng ta dựng nên cơ nghiệp ở miền Hà Sóc, nhưng về sau bị địch nhân nham hiểm tàn độc lấy mất giang sơn.” Mộ Dung Bác lại hỏi: “Hài nhi có biết tại sao ta đặt tên cho ngươi là Phục không?” Mộ Dung Phục đáp: ” Gia gia muốn hài nhi không được quên lời di huấn của tổ tiên, phải phục hưng nước Đại Yên, đoạt lại giang sơn.” Mộ Dung Bác nói: “Ngươi lấy ngọc tỉ truyền quốc của Đại Yên cho Tiêu tiên sinh coi.”

Mộ Dung Phục “Vâng” một tiếng, thò tay vào bọc lấy ra một cái ấn vuông bằng ngọc đen, khắc hình đầu báo rất linh động, rồi xoay ngửa lại để lộ hàng chữ bên dưới. Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong, Cưu Ma Trí ba người đều tinh mắt phi thường, nhìn rõ ấn khắc sáu chữ “Đại Yên Hoàng Đế Chi Bảo”. Ngọc tỉ này điêu khắc rất tinh vi, góc trên bị sứt một chút, chắc là mấy trăm năm nay đã trải qua nhiều bước gian lao. Tuy không phân biệt được chân hay giả, nhưng nhất định đây là một cổ vật rất giá trị.

Mộ Dung Bác lại nói: “Ngươi lấy phả hệ của hoàng tộc Đại Yên ra cho Tiêu tiên sinh coi.” Mộ Dung Phục vâng lời, cất ngọc tỉ vào bọc rồi lấy ra một gói vải dầu. Trong gói này có một bức lụa vàng viết chữ đỏ bằng hai thứ văn tự, bên phải là thứ chữ ngoằn ngoèo không ai biết, chắc đó là văn tự Tiên Ty, còn bên trái là chữ Hán. Trên cùng là Thái Tổ Văn Minh đế húy Hoảng, rồi đến. “Liệt Tổ Cảnh Chiêu đế húy Tuấn”, “U đế húy Vi”, “Thế Tổ Thành Võ đế húy Thùy”, “Liệt Tôn Huệ Mẫu đế húy Bảo”, “Khai Phong Công húy Tường”, “Triệu Vương húy Lâu. Đoạn dưới viết: Trung Tôn Chiêu Võ húy Thịnh”. “Chiêu Văn đế húy Hy. Tên húy các vị hoàng đế đều viết thiếu nét cho khỏi phạm húy). Đến năm Thái Thượng thứ sáu về đời Mộ Dung Siêu, nhà Nam Yên mất nước. Các đời sau đều là thứ dân, không có ai làm đế vương công hầu nữa. Trải qua rất nhiều đời nhưng con cháu dòng họ Mộ Dung không được đông đúc. Lúc này Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong, Cưu Ma Trí, ba người không để tâm xem kỹ nhưng cũng nhìn thấy dưới cùng phả hệ này là tên Mộ Dung Phục, phía trên Mộ Dung Phục là Mộ Dung Bác.

Cưu Ma Trí nói: “Té ra Mộ Dung tiên sinh là dòng dõi vương tôn của nước Đại Yên. Tại hạ thật là thất kính.”

Mộ Dung Bác thở dài nói: “Tại hạ chỉ là một tên dân vong quốc, còn giữ được cái đầu đã là may lắm rồi, chỉ vì có lời di huấn của liệt tổ, nên lúc nào cũng nghĩ đến công cuộc phục quốc. Mộ Dung Bác này bất tài, bôn tẩu giang hồ đã nửa đời người mà chẳng làm nên công cán gì. Họ Mộ Dung tại hạ thuộc dòng Tiên Ty, mưu đồ phục quốc thì Tiêu huynh thấy có nên chăng?”

Tiêu Viễn Sơn đáp: “Được làm vua thua làm giặc. Quần hùng đuổi hươu ở Trung Nguyên, chẳng có gì là nên với không nên.” Mộ Dung Bác nói: “Đúng thế! Suy nghĩ của Tiêu huynh rất hợp với tại hạ. Họ Mộ Dung muốn phục hưng nước Đại Yên, hễ gặp cơ hội là phải nắm ngay. Nhưng hiện nay, họ Mộ Dung ít người cô thế, phục hưng đất nước đâu phải chuyện dễ dàng? Tại hạ nghĩ rằng chỉ khi thiên hạ đại loạn, khắp chốn can qua, thì mình mới có cơ hội để hành động.”

Tiêu Viễn Sơn trầm giọng hỏi: “Thì ra ngươi phao tin thất thiệt để gây xích mích Tống, Liêu, là mong nổ ra đại chiến phải không?” Mộ Dung Bác đáp: “Chính thế. Nếu Tống, Liêu xảy cuộc chiến tranh thì Đại Yên mới thừa cơ đứng dậy được. Ngày trước, nhà Đông Tấn có loạn Bát Vương, họ Tư Mã tàn sát lẫn nhau, rợ Ngũ Hồ mới có thể chiếm lấy Trung Nguyên. Tình thế ngày nay cũng tương tự như vậy.” Cưu Ma Trí gật đầu nói: “Đúng lắm! Giả tỉ Tống triều ngoài có ngoại xâm, trong sinh nội biến, thì chẳng những Mộ Dung tiên sinh có hy vọng phục quốc mà nước Thổ Phồn của tại hạ cũng được chia sẻ chén canh.”

Tiêu Viễn Sơn hắng giọng, liếc mắt nhìn hai người. Mộ Dung Bác nói: “Lệnh lang ở nước Liêu làm đến Nam Viện Đại Vương, nắm giữ binh quyền trấn thủ Nam Kinh. Giả tỉ lệnh lang xua quân Nam tiến, lấy hết đất đai phía bắc Hoàng Hà, lập nên công nghiệp muôn đời, thì tiến ra có thể tự lập làm vua, lui về cũng được phú quí, có thể gom hết hào kiệt Trung Nguyên mà giết đi, dễ dàng như giẫm lên đàn kiến. Ngày trước lệnh lang bị Cái Bang xử bạc, có nên nhân dịp này mà trả oán không?”

Tiêu Viễn Sơn nói: “Ngươi muốn con ta ra sức, chỉ để ngươi đục nước béo cò mà thỏa mãn dã tâm khôi phục nước Yên phải không?”

Mộ Dung Bác nói: “Đúng thế! Nếu họ Mộ Dung dựng cờ khởi nghĩa ở Sơn Đông, được Đại Liêu hưởng ứng, đồng thời mấy nước Thổ Phồn, Đại Lý, Tây Hạ cũng tiến quân thì năm nước chúng ta chia xẻ giang sơn Đại Tống không phải là chuyện khó. Nước Yên của tại hạ không dám động chạm đến một tấc đất phần của Đại Liêu, nếu phục hưng thành tựu thì chỉ lấy đất Nam triều. Vụ này rất có lợi cho Đại Liêu, sao Tiêu huynh lại không đồng ý?” Lão nói đến đây, đột nhiên xoay tay một cái, trong tay đã nắm lưỡi trủy thủ sáng loáng. Lão vung tay lên đâm lưỡi trủy thủ vào cái ghế bên cạnh, dõng dạc nói: “Nếu Tiêu huynh nhận lời đề nghị này, thì có thể lập tức đâm chết tại hạ để báo thù cho phu nhân. Tại hạ quyết không kháng cự.” “Roạc” một tiếng, lão xé toạc vạt áo để hở ngực ra.

Chuyện này hoàn toàn ngoài dự liệu của cha con Tiêu Viễn Sơn, cả hai đều không ngờ đối phương đang có ưu thế mà lại bó tay chịu chết, nhất thời không biết làm sao cho phải.

Cưu Ma Trí nói: “Mộ Dung tiên sinh! Người ta thường nói, không ai học được chữ ngờ. Đối với chuyện quân quốc đại sự thì mưu cơ giả trá lại càng hết sửc bình thường. Giả tỉ Mộ Dung tiên sinh cam tâm chịu chết, nhưng sau đó cha con họ Tiêu phụ lời ước hẹn, thì cái chết của tiên sinh chẳng… chẳng phải uổng phí ư?”

Mộ Dung Bác đáp: “Tiêu lão hiệp đã ẩn cư mấy chục năm nay, ít khi xuất hiện ở nhân gian. Còn Tiêu đại hiệp nổi tiếng anh hùng, thiên hạ đều biết lời nói của ý nặng bằng chín đỉnh. Y chỉ vì một thiếu nữ không quen không biết, mạo hiểm đơn thương độc mã xông vào Tụ Hiền Trang để xin chữa bệnh cho người, sao lại có thể giết lão phu rồi nuốt lời được? Lão phu suy tính đã lâu, đây chính là cơ hội ngàn năm khó gặp. Ta đã già rồi, đem cái mạng héo hắt như đèn sắp hết dầu này mà đổi lấy cơ đồ vạn thế, cuộc trao đổi này sao lại không làm?” Mặt lão hiện nét cười, chăm chú nhìn Tiêu Viễn Sơn, rõ rằng chỉ mong đối phương mau mau hạ thủ.

Tiêu Viễn Sơn nói: “Hài nhi! Dường như lão này không nói dối. Ngươi nghĩ sao?” Tiêu Phong đáp: “Không được!” Đột nhiên chàng phóng chưởng đập cái ghế gỗ đánh chát một tiếng, cái ghế gãy làm mấy mảnh, lưỡi trủy thủ xuyên qua ván lầu rớt xuống tầng dưới Tàng Kinh Các. Tiêu Phong nghiêm giọng nói: “Mối đại thù giết mẹ đâu có thể đem ra mua bán? Báo được thì báo, không báo được thì cha con ta chịu chết nơi đây. Những chuyện tham lam hèn hạ, cha con họ Tiêu ta đâu có thể làm được?”

Mộ Dung Bác ngửa mặt lên trời cả cười rồi lớn tiếng nói: “Ta thường nghe nói Tiêu Phong đại hiệp là anh hùng quán thế, kiến thức phi thường, đến hôm nay mới thấy y là kẻ không hiểu đại nghĩa, chỉ sính cường theo cái dũng của kẻ thất phu. Ha ha! Thật là tức cười!”

Tiêu Phong biết lão nói khích, lạnh lùng đáp: “Tiêu mỗ là anh hùng hào kiệt cũng được, là phàm phu tục tử cũng được, nhưng không chịu để kẻ khác lợi dụng mình làm theo mưu kế của họ.”

Mộ Dung Bác nói: “Ăn lộc của vua phải biết trung với vua. Đại hiệp vì mối tư thù mà không hết lòng tận trung báo quốc, há chẳng bất nghĩa với Đại Liêu?” Tiêu Phong tiến lên một bước, hiên ngang nói: “Ngươi đã thấy thảm trạng ngoài biên cương, hai nước Tống, Liêu thù hận giết nhau chưa? Ngươi đã thấy cảnh nhân dân hai nước chia lìa vợ con, nhà tan người chết chưa? Hai nước Tống, Liêu đã bãi việc binh đao mấy chục năm trời, nếu lại xảy ra đại chiến, thiết kỵ Khất Đan vào xâm lấn Nam triều thì sẽ có bao nhiêu người Tống phải phơi thây, bao nhiêu người Liêu phải uổng mạng?”

Chàng nói tới đây, chợt nghĩ tới tình trạng ở ngoài Nhạn Môn Quan ngày nọ, quân Tống đi “thu hoạch” cực kỳ tàn khốc, càng cất cao giọng nói tiếp: “Trên thế gian này có ai đánh nhau mà nắm chắc phần thắng không? Đại Tống binh nhiều lương đủ, chỉ cần mấy viên đại tướng hết lòng chống cự thì Đại Liêu và Thổ Phồn có hợp lực chiến đấu may ra nếu thắng được cũng phải máu chảy thành sông, thây chất thành núi, để cho họ Mộ Dung nhà ngươi thừa cơ phục hưng Yên quốc. Việc kiến công lập nghiệp cần nhất là phải giữ đất yên dân, ngươi có biết không?”

Đột nhiên ngoài cửa sổ có thanh âm khàn khàn già nua cất lên: “Thiện tai, thiện tai! Tiêu cư sĩ nổi từ tâm, thương xót lê dân thiên hạ, đúng là lòng dạ Bồ Tát.”

Năm người đều giật mình kinh hãi, vì họ đều là cao thủ tuyệt đỉnh mà chẳng ai biết có người đứng ngoài cửa sổ, mà lại dường như đứng nghe chuyện đã lâu. Mộ Dung Phục quát hỏi: “Ai đó?”, rồi không đợi đối phương trả lời, y phóng chưởng đánh sầm một tiếng. Hai cánh cửa sổ bật tung, bay ra rớt xuống.

Chỉ thấy trên hành lang ngoài cửa sổ có một vị tăng nhân gầy khô như hạc, mình mặc áo xám, tay cầm chổi đang khom lưng quét tước. Nhà sư này tuổi đã cao, mấy sợi râu thưa thớt chùng xuống trước ngực đều đã bạc hết. Cử động của lão tăng rất chậm chạp, không có khí lực gì, tựa như người không biết võ công. Mộ Dung Phục lại hỏi: “Ngươi lén lút ở đây đã bao lâu rồi?” Lão tăng từ từ ngẩng đầu lên, hỏi lại: “Thí chủ hỏi lão lén lút ở… ở đây đã bao lâu ư?” Cả năm người chăm chú nhìn lão thì thấy đôi mắt đã mờ đục không chút thần quang, nhưng giọng nói thì đúng là thanh âm vừa khen ngợi Tiêu Phong.

Mộ Dung Phục nói: “Đúng thế! Ta hỏi ngươi lén lút ở đây đã bao lâu?” Lão tăng đưa bàn tay ra tính toán hồi lâu rồi lắc đầu, vẻ mặt ra chiều ảm đạm nói: “Lão không nhớ rõ, chẳng hiểu là bốn mươi hai hay bốn mươi ba năm rồi. Lão chỉ nhớ, đêm đầu tiên Tiêu lão cư sĩ đến xem kinh thì ta đã ở đây mười mấy năm. Về sau Mộ Dung lão cư sĩ lại đến, rồi cách đây mấy năm, vị phiên tăng Thiên Trúc là Ba La Tinh cũng đến lấy trộm kinh. Hỡi ôi! Người này chưa đi người kia lại đến, kinh sách trong này đảo lộn cả lên. Chẳng biết họ xem để làm gì.”

Tiêu Viễn Sơn cả kinh nghĩ thầm: “Mình vào chùa Thiếu Lâm để lén lút nghiên cứu võ công, tăng lữ trong chùa chẳng một ai hay, sao nhà sư này lại biết rõ? Chắc là vừa rồi lão nghe câu chuyện ngoài kia, nên mở miệng nói bừa.” Tiêu Viễn Sơn liền hỏi: “Thế sao từ trước đến nay ta không gặp ngươi?” Lão tăng đáp: “Cư sĩ để hết tâm thần vào việc nghiên cứu võ học phái Thiếu Lâm, nên không để ý đến lão. Lão còn nhớ đêm đầu cư sĩ vào gác đã xem cuốn Vô Tướng Kiếp Chỉ Phổ. Hỡi ôi! Bắt đầu từ đêm ấy, cư sĩ đã đi vào ma đạo, thật là đáng tiếc!”

Tiêu Viễn Sơn lại càng kinh hãi hơn, vì đêm đầu lão lén vào Tàng Kinh Các đúng là đã xem cuốn Vô Tướng Kiếp Chỉ Phổ, biết rằng đó là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Khi ấy lão mừng rỡ vô cùng, cứ tưởng không ai hay biết, chẳng lẽ lão tăng này đã đứng bên nhìn rõ hay sao? Tiêu Viễn Sơn ngẩn người ra, không biết nói sao.

Lão tăng lại nói: “Lần thứ hai, cư sĩ lấy cuốn Bát Nhã Chưởng Pháp ra coi. Khi đó lão chỉ biết thở dài, hiểu rằng cư sĩ đã mê muội rồi. Lão bèn đem bộ Pháp Hoa Kinh gồm bốn mươi hai chương đặt vào chỗ mà cư sĩ vẫn lấy sách, chỉ mong cư sĩ nghiên cứu mà tỉnh ngộ. Chẳng ngờ cư sĩ chỉ ham muốn võ công, còn chính tông Phật pháp lại chẳng thèm sờ đến. Cư sĩ bỏ hai cuốn kinh sang một bên, tìm được pho Phục Ma Trượng Pháp thì mừng cuống quít lấy đi. Hỡi ôi! Đã chìm vào bể khổ, biết ngày nào mới quay đầu lại?”

Tiêu Viễn Sơn nghe vị lão tăng thuật lại những hành vi lén lút của mình ba mươi năm trước trong Tàng Kinh Các chẳng sai chút nào, thì từ ngạc nhiên chuyển sang hoảng sợ, rồi đi tới chỗ khiếp đảm. Sau lưng lão toát mồ hôi lạnh ngắt, trái tim cơ hồ ngừng đập.

Lão tăng từ từ quay đầu lại nhìn Mộ Dung Bác. Mộ Dung Bác thấy mục quang nhà sư lờ đờ tựa như không nhìn rõ gì, thế mà trong lòng ẩn tàng bí mật, việc gì cũng nhìn rõ hết. Mộ Dung Bác không khỏi sợ nổi da gà, trong lòng thấp thỏm không yên. Bỗng nghe lão tăng thở dài rồi nói: “Mộ Dung cư sĩ vốn thuộc dòng họ Tiên Ty, nhưng ở đất Giang Nam đã mấy đời. Lúc đầu lão tưởng cư sĩ đã hấp thụ được văn hóa Nam triều, ngờ đâu cư sĩ lại lẻn vào Tàng Kinh Các, đem những lý thuyết về Thiền Tông cùng ngữ lục truyền đời của các vị cao tăng mà coi như đồ bỏ, tìm được cuốn Niêm Hoa Chỉ Pháp mà tưởng chừng như vồ được đồ chi bảo. Hai vị cư sĩ đều là cao nhân đương thời mà cũng có hành động ngu muội bỏ vật quí lấy vật hèn. Hỡi ôi! Hành động ấy làm hại người khác mà lại chẳng ích gì cho mình.”

Mộ Dung Bác lại một phen kinh hãi. Hôm đầu tiên lão vào Tàng Kinh Các quả nhiên đã lục lấy bộ Niêm Hoa Chỉ Công. Lúc ấy lão đã quan sát kỹ càng bốn mặt, cả trong lẫn ngoài không thấy bóng người, thế mà nhà sư già này nói như chính mắt mình trông thấy.

Bỗng nghe lão tăng nói tiếp: “Mộ Dung cư sĩ so với Tiêu cư sĩ thì lòng tham lại có phần hơn. Tiêu cư sĩ chỉ chuyên nghiên cứu cách khắc chế võ công của phái Thiếu Lâm, còn Mộ Dung cư sĩ thì lại chép cả bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự đem đi, sau ba năm mới trở lại Tàng Kinh Các. Chắc ba năm ấy cư sĩ đã tận tâm kiệt lực nghiên cứu cho hiểu hết bảy mươi hai tuyệt kỹ, để truyền thụ cho lệnh lang.”

Lão tăng nói tới đây thì quay sang nhìn Mộ Dung Phục, nhưng vừa nhìn một cái đã lắc đầu. Lão ngó qua Cưu Ma Trí, gật đầu nói: “Phải rồi! Lệnh lang còn nhỏ tuổi chưa đủ công lực, không thể nghiên cứu được bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm. Té ra cư sĩ đem truyền cho vị cao tăng nước Thổ Phồn là Đại Luân Minh Vương. Minh Vương đã mắc sai lầm, mà lại là sai lầm rất lớn, thứ tự đảo điên, đại nạn tới trong sớm tối.”

Cưu Ma Trí chưa vào Tàng Kinh Các bao giờ, cũng chẳng kinh sợ gì nhà sư già. Hắn hững hờ hỏi: “Cái gì mà thứ tự đảo điên? Cái gì mà đại nạn tới trong sớm tối? Đại sư nói chuyện tựa như thầy bói đoán mò.” Lão tăng nói: “Không phải đoán mò đâu. Xin Minh Vương trả lại pho Dịch Cân Kinh cho bản tự.” Bấy giờ Cưu Ma Trí mới kinh hãi tự hỏi: “Sao lão này lại biết mình đoạt được Dịch Cân Kinh trong tay gã đầu sắt? Lão muốn đòi lại ư? Đâu có dễ dàng thế được?” Hắn liền cãi chối: “Pho Dịch Cân Kinh nào? Đại sư nói gì, tại hạ khó mà hiểu được.”

Lão tăng nói: “Võ công bản phái là do Đạt Ma tổ sư truyền lại. Đệ tử nhà Phật học võ, mục đích là thân thể cường kiện, bảo vệ Phật pháp, hàng phục ma quỷ. Bất luận là tu tập môn võ công nào, trong lòng đều phải có ý niệm từ bi nhân hậu. Nếu không lấy Phật học làm căn bản thì lúc luyện võ nhất định tự hại đến mình. Công phu luyện được càng thâm hậu thì thân thể bị tổn thương càng trầm trọng. Nếu chỉ luyện về quyền cước, hoặc đao kiếm ám khí, những môn ngoại công thì chẳng nói làm chi, vì nó hại rất ít, thân thể cường tráng là chống lại được ngay…”

Lão tăng chưa dứt lời, bỗng nghe dưới chân lầu có tiếng người huyên náo, tiếp theo là tiếng chân bước nhẹ nhàng lên thang, thoáng qua đã thấy bảy tám nhà sư tung mình lên gác. Đi đầu là mấy vị cao tăng hàng chữ Huyền trong phái Thiếu Lâm như Huyền Sinh, Huyền Diệt, kế đến bọn Thần Sơn Thượng Nhân, Đạo Thanh đại sư là mấy vị cao tăng từ ngoài đến, sau nữa là Triết La Tinh, Ba La Tinh nước Thiên Trúc, cuối cùng lại là mấy nhà sư hàng chữ Huyền như Huyền Chân, Huyền Tịch. Quần tăng thấy cha con Tiêu Viễn Sơn, cha con Mộ Dung Bác và Cưu Ma Trí cả bọn năm người đang ở trong gác, lặng yên nghe một vị lão tăng lạ mặt hạ thuyết tự, đều lấy làm kỳ dị. Những tăng nhân này đều là kẻ sĩ cao minh, dày công tu dưỡng. Họ không tiến vào quấy nhiễu, chỉ đứng một bên nghe xem lão tăng nói gì.

Lão tăng này thấy quần tăng lên tới mà chẳng hỏi han gì, cứ tiếp tục nói: “Nếu luyện những môn võ công thượng thặng của bản phái như Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, Bát Nhã Chưởng mà hàng ngày không lấy Phật pháp từ bi để điều hòa, hóa giải, thì chướng khí thấm vào tạng phủ ngày càng nặng, so với bất cứ loại ngoại độc nào cũng tệ hại hơn nhiều. Đại Luân Minh Vương nguyên là đệ tử nhà Phật, tinh thông Phật pháp, về ký ức hay về minh kiến cũng vào hạng thế gian hiếm có, nhưng nếu không chịu giác ngộ, không đem lòng từ bi hỉ xả phổ độ chúng sinh, thì dù tinh thông kinh điển đến đâu cũng vô ích. Minh Vương không thể tiêu trừ được chướng khí do tu tập võ công thượng thặng mà mỗi ngày một chồng chất mãi lên.”

Quần tăng mới nghe mấy câu, đã biết vị lão tăng này là bậc minh kiến, trình bày rõ ràng những điều mà tiền nhân chưa từng nói đến, bất giác đều sinh lòng kính cẩn. Có mấy vị chắp tay niệm: “A di đà Phật! Thiện tai, thiện tai!”

Lão tăng lại nói tiếp: “Chùa Thiếu Lâm dựng nên đã hàng ngàn năm, xưa nay chỉ có một mình Đạt Ma tổ sư là kiêm thông hết được bảy mươi hai môn tuyệt kỹ. Còn về sau thì chưa có một vị cao tăng nào tinh thông hết được, mặc dù kinh điển bảy mươi hai tuyệt kỹ vẫn để trong gác này, không bao giờ ngăn cấm đệ tử lấy xem. Đó là vì lẽ gì, Minh Vương có hiểu không?” Cưu Ma Trí đáp: “Đó là việc riêng của quí tự, người ngoài hiểu thế nào được?”

Huyền Sinh, Huyền Diệt, Huyền Chân, Huyền Tịch đều tự hỏi: “Nhìn sắc phục thì vị lão tăng này chỉ vào hàng tạp dịch, mà sao lại có đạo hạnh cao siêu đến thế?” Những tăng nhân chuyên việc phục dịch cũng là tăng lữ chùa Thiếu Lâm, nhưng không được bái sư để truyền thụ võ công, không được liệt vào hàng các chữ Huyền, Tuệ, Hư, Không. Họ chẳng khác gì những kẻ làm thuê: nấu ăn, xới đất, quét tước hay làm những việc thổ mộc. Bọn Huyền Sinh đều là cao tăng bậc nhất nên không biết tướng mạo nhà sư này chẳng có chi là lạ, nhưng họ nghe lão nghị luận cao nhã, kiến thức siêu việt thì không khỏi lấy làm kinh ngạc.

Lão tăng lại nói tiếp: “Bản tự có bảy mươi hai tuyệt kỹ, mỗi tuyệt kỹ đều nhằm vào chỗ yếu hại, cướp lấy sinh mạng của người, thật là độc ác, phạm đến lòng trời. Vì thế mỗi tuyệt kỹ đều phải tương xứng với Phật pháp từ bi để hóa giải. Mọi tăng lữ trong bản tự đều hiểu đạo lý này, nên mỗi người sau khi luyện bốn năm tuyệt kỹ đều lĩnh hội được thêm về Thiền học, nếu không ắt đã bị cản trở. Trong phái Thiếu Lâm ta, cái đó gọi là “Võ học chướng”, cũng tương tự như “Tri kiến chướng” của các môn phái khác. Nên biết rằng, Phật học là để cứu thế, mà võ công lại để sát sinh. Hai thứ đó trái ngược nhau, phải tương khắc để kiềm chế nhau. Phật pháp cao siêu thì ý niệm từ bi mới hưng thịnh, võ công tuyệt nghệ mới có thể luyện được nhiều. Nhưng các vị cao tăng đã tu dường đến mức độ đó, thì thông thường lại không muốn học thêm những phép giết người lợi hại nữa.

Đạo Thanh đại sư gật đầu nói: “Được nghe sư phụ giảng giải một lần mà tiểu tăng cởi mở được bao chỗ bế tắc ngu muội.” Lão tăng chắp tay đáp: “Không dám! Lão nói có chỗ nào sai thì mong được các vị chỉ giáo cho!” Quần tăng đều chắp tay nói: “Xin sư phụ giảng thêm về Phật pháp!”

Cưu Ma Trí đứng tựa vào giá sách, nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm đã bị Mộ Dung tiên sinh lấy cắp làm tiết lộ ra ngoài. Lão sư già này giả thần giả quỷ là có ý hăm dọa cho người ngoài không dám luyện võ công của họ. Hà hà! Cưu Ma Trí ta đâu có thể mắc bẫy dễ dàng như thế?”

Lão tăng lại nói: “Trong bản tự dĩ nhiên cũng có người không đủ về Phật học mà miễn cưỡng luyện võ công thượng thặng, nhưng nếu họ không bị tẩu hỏa nhập ma thì cũng nội thương khó lòng chữa khỏi. Trước đây, Huyền Trừng đại sư đã có một tấm thân siêu phàm tuyệt tục, được các vị tiền bối đánh giá là người có võ công cao nhất bản tự trong vòng hai trăm năm nay. Thế mà chỉ trong một đêm, đột nhiên kinh mạch đứt hết, Huyền Trừng đại sư biến thành phế nhân, cũng chỉ vì lý do đó.”

Huyền Sinh, Huyền Diệt đột nhiên quỳ xuống nói: “Đại sư! Đại sư có cách gì cứu được Huyền Trừng sư đệ chăng?” Lão tăng lắc đầu đáp: “Chậm quá rồi, không thể cứu được nữa. Năm ấy Huyền Trừng đại sư vào Tàng Kinh Các để tìm sách luyện võ, lão tăng đã ba bốn lần nhắc nhở mà người trước sau vẫn chấp mê không tỉnh. Kinh mạch đã đứt hết thì còn nối lại thế nào được?”

Bỗng nghe ba tiếng veo véo khẽ vang lên, bọn Huyền Sinh đều biết đó là công phu Vô Tướng Kiếp Chỉ của bản môn. Mọi người đều quay lại nhìn Cưu Ma Trí thì thấy hắn biến sắc, song vẫn gượng mỉm cười.

Thì ra Cưu Ma Trí càng nghe càng không phục, nghĩ thầm: “Ngươi bảo bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm không ai học được cả. Thế mà ta học được hết thì sao? Ta chẳng thấy kinh mạch bị đứt, trở thành phế nhân gì gì hết.” Hắn bèn giấu hai tay vào trong áo rồi ngấm ngầm phóng ra Vô Tướng Kiếp Chỉ thần không hay, quỷ không biết, nhắm vào lão tăng. Ngờ đâu, chỉ lực còn cách người lão tăng ba thước đã gặp phải một bức màn vô hình, tuy mềm nhũn mà rất dai ngăn trở. “Véo” một tiếng, chỉ lực tiêu tan mất tích, không hề quật ngược trở lại như gặp vật cản. Cưu Ma Trí kinh hãi nghĩ thầm: “Nhà sư già này tựa như có phép thần thông, không phải nói khoác dọa người.”

Lão tăng thản nhiên như không có gì, nhìn hai nhà sư Thiếu Lâm nói: “Xin hai vị đứng lên. Lão ở chùa Thiếu Lâm để các vị đại sư sai khiến, mà hai vị thi hành đại lễ thì nhất định lão không dám nhận.” Huyền Sinh, Huyền Diệt cảm thấy một luồng lực đạo nhu hòa đẩy nhẹ vào cánh tay, người không tự chủ được phải đứng lên. Không ai nhìn thấy lão tăng giơ tay hay phất áo gì cả, đều lấy làm kinh dị tự hỏi: “Dường như vị lão tăng này ngấm ngầm vận thần công, nghĩ tới đâu là cường lực tự nhiên tới đó. Giả tỉ người không phải là Bồ Tát hóa thân, thì cũng là bậc thần thông quảng đại, Phật pháp vô biên.”

Lão tăng lại nói: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự đều có hai phần Thể và Dụng. Thể tức là nội lực trong người, Dụng là vận dụng côn kiếm quyền cước ra bên ngoài. Hai vị lão cư sĩ cùng Đại Luân Minh Vương và Ba La Tinh sư huynh bên Thiên Trúc đã có nội lực vào hàng thượng thặng, mà đến bản tự cũng chỉ nghiên cứu tuyệt kỹ về phần Dụng, tuy có tổn hại nhưng trong thời gian ngắn chưa cảm thấy gì. Phải chăng Minh Vương đã luyện Tiểu Vô Tướng Công của phái Tiêu Dao?”.

Cưu Ma Trí càng kinh hãi thêm. Hắn đã học lỏm môn Tiểu Vô Tướng Công của phái Tiêu Dao, không một ai hay mà sao nhà sư này lại biết? Nhưng hắn lại nghĩ rằng: “Vừa rồi tên tiểu hòa thượng Hư Trúc đấu với mình đã sử dụng Tiểu Vô Tướng Công. Vậy chắc Hư Trúc đã bảo cho lão này biết, cái đó chẳng có chi là lạ.” Hắn liền nói: “Tiểu Vô Tướng Công tuy nguồn gốc ở Đạo gia, nhưng gần đây đệ tử nhà Phật rất nhiều người đã kiêm luyện được sở trường của Đạo gia và Phật gia. Ngay trong quí tự cũng chẳng thiếu gì cao thủ về môn này.”

Lão tăng hơi ngạc nhiên, hỏi lại: “Trong chùa Thiếu Lâm cũng có người biết Tiểu Vô Tướng Công ư? Hôm nay lão mới được nghe lần đầu.” Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Lão này thật khéo giả vờ!”, bèn tủm tỉm cười rồi không nói nữa. Nhà sư già lại nói: “Tiểu Vô Tướng Công vừa rộng lớn vừa tinh vi, ai đã có căn cơ về môn này đều có thể vận dụng được bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của bản tự. Nhưng ở những chỗ khúc chiết, tế nhị không khỏi có trở ngại, nhiều môn nhìn bề ngoài thì rất đúng, mà thật ra không phải.”

Huyền Sinh quay lại bảo Cưu Ma Trí: “Minh Vương tự xưng là thông suốt hết bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của bản phái, té ra chỉ kiêm thông bằng cách đó.” Huyền Sinh nói câu này có ý để châm chọc Cưu Ma Trí.

Lão tăng lại nói: “Nếu Minh Vương chỉ học phép vận dụng bảy mươi hai tuyệt kỹ thì chỉ bị nội thương nhẹ, tuy có hại về sau nhưng không đến nỗi mất mạng ngay. Thế mà hiện giờ huyệt Thừa Khấp của Minh Vương đã ửng đỏ mà trên huyệt Nghênh Hương đã ẩn hiện màu tím, huyệt Mi Xung cũng bị chấn động, chứng tỏ Minh Vương không những luyện bảy mươi hai môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, mà còn gắng gượng luyện bí lục Dịch Cân Kinh của bản tự…”. Lão tăng nói tới đây thì đột nhiên dừng lại, đôi mắt lộ ra vẻ thương tiếc.

Mấy tháng trước đây, Cưu Ma Trí đã lấy được pho Dịch Cân Kinh của gã đầu sắt. Hắn biết đó là một pho võ học chi bảo nên tìm nơi tĩnh mịch khổ luyện, nhưng lụyện đi luyện lại mà thủy chung vẫn không tiến bộ chút nào. Hắn cho rằng đã là võ công thượng thừa thì không thể luyện trong một sớm một chiều mà thành công được, nên vẫn kiên trì luyện tập, không hề trễ nải. Hắn nhớ lại Mộ Dung Bác đã từng khen Dịch Cân Kinh của phái Thiếu Lâm và Lục Mạch Thần Kiếm của Thiên Long Tự ngang hàng với nhau, là hai pho bí lục quí báu nhất trần gian thì dĩ nhiên không thể nào luyện tập trong một thời gian ngắn mà thành công, phải luyện đến tám năm hay mười năm mới có thể lãnh hội được những chỗ ảo diệu cao thâm. Nhưng Cưu Ma Trí càng luyện, càng cảm thấy trong lòng phiền muộn và tính tình nóng nảy, thật là một mớ chỉ rối bòng bong, chẳng biết đầu mối đâu mà gỡ. Hắn tự hỏi: “Chẳng lẽ nhà sư này nói thứ tự đảo điên, đại nạn tới trong sớm tối, là đúng sự thực hay sao?” Nhưng rồi hắn lại nghĩ: “Luyện võ không thành, bị tẩu hỏa nhập ma trở thành phế nhân cũng là chuyện thường. Nhưng Cưu Ma Trí này đã nghiên cứu võ học đến chỗ uyên thâm, đâu có phải như người tầm thường? Lão này chỉ đem lời hù dọa, nếu mình trúng kế lão thì tiếng tăm lừng lẫy một đời phải trôi theo dòng nước.”

Lão tăng chăm chú nhìn Cưu Ma Trí, thấy hắn tuy lộ vẻ lo nghĩ, nhưng thái độ vẫn tự phụ, tựa như không thèm tin lời mình nói. Lão tăng bất giác thở dài, hỏi Tiêu Viễn Sơn: “Tiêu cư sĩ! Gần đây cư sĩ có thấy hai huyệt Lương Môn và Thái Ất ngấm ngầm đau đớn không?” Tiêu Viễn Sơn giật mình đáp: “Thần tăng sáng suốt, thật không sai chút nào.” Nhà sư già lại hỏi: “Huyệt Quan Nguyên của cư sĩ vốn đã tê dại, hiện nay thế nào?” Tiêu viễn Sơn lại càng kinh hãi đáp:”Mười năm trước đây, huyệt đó đã chai lại bằng đầu ngón tay, bây giờ đã… đã lớn bàng tách trà.” Lão nói tới đây, thanh âm run lên.

Tiêu Phong nghe vậy, hiểu rằng phụ thân có ba chỗ yếu huyệt phát sinh quái trạng, chỉ vì miễn cưỡng luyện tập những tuyệt kỹ Thiếu Lâm mà ra. Phụ thân đau đớn đã lâu mà thủy chung không có cách nào trừ được, thật là một mối lo tâm phúc. Chàng lo lắng, tiến ra hai bước quỳ xuống sụp lạy lão tăng, nói: “Thần tăng đã biết bệnh trạng của gia phụ, xin mở lòng từ bi mà giải cứu!”

Lão tăng chắp tay thi lễ nói: “Cư sĩ hãy đứng lên. Cư sĩ có lòng nhân đạo, thương xót lê dân trong thiên hạ, không chịu vì thù riêng mà đẩy quân dân Tống, Liêu vào chỗ lầm than. Cư sĩ đại nhân đại nghĩa như vậy, thì bất luận có sai bảo điều gì, lão tăng cũng nhất nhất tuân theo, hà tất phải đa lễ?” Tiêu Phong cả mừng, dập đầu hai cái nữa rồi mới đứng lên. Lão tăng lại nói: “Tiêu lão cư sĩ trước kia đã sát sinh rất nhiều, hại cả đến người vô tội, Phu phụ Kiều Tam Hòe, Huyền Khổ đại sư, thật là những người không nên hạ sát.”

Tiêu Viễn Sơn là một anh hùng Khất Đan, tuy đã già mà tính khí hãy còn nóng nảy. Lão vừa nghe lão tăng khiển trách mình liền dõng dạc nói: “Lão phu tự biết mình bị nội thương trầm trọng, nhưng tuổi đã quá lục tuần, con đã thành nhân, dù có chết ngay cũng không tiếc gì nữa. Thần tăng muốn lão phu nhận tội mà hối cải thì không được đâu.”

Lão tăng lắc đầu đáp: “Lão nạp không dám xin lão cư sĩ nhận tội hối cải. Nhưng nội thương của lão cư sĩ là do luyện võ công Thiếu Lâm mà ra, nếu muốn hóa giải thì phải theo Phật pháp mà tìm đường lối.”

Lão quay lại bảo Mộ Dung Bác: “Mộ Dung lão cư sĩ đã coi chết như về, dĩ nhiên lão nạp chẳng dám nhiều lời. Nhưng nếu ta chỉ cách để lão cư sĩ giải trừ nội thương ba chỗ yếu huyệt Dương Bạch, Liêm Tuyền, Phong Phủ, đã làm cho mỗi ngày lão cư sĩ phải ba lần đau đớn, thì lão cư sĩ nghĩ sao?”

Mộ Dung Bác sắc mặt biến đổi, toàn thân run bần bật. Ba chỗ huyệt đạo nói trên của lão quả nhiên mỗi ngày ba lần sáng sớm, giữa trưa và giữa đêm bị đau như muôn ngàn mũi kim đâm vào, không sao chịu nổi. Gần đây những cơn đau lại càng tệ hại hơn. Lão đã uống không biết bao thứ linh đơn diệu dược mà không thấy một chút hiệu nghiệm, mỗi lần vận công là đau dữ dội tựa hồ dao đâm vào xương tủy. Con người đã mỗi ngày ba lần đau đến chết người thì còn gì là sinh thú nữa? Vì thế mà lão chịu chết để đổi lấy lời hứa Tiêu Phong hưng binh phạt Tống. Tuy mục đích vẫn là phục hưng Yên quốc, nhưng một phần là lão chán sống vì cái bệnh thảm khốc kia, không muốn chịu đựng thêm nữa.

Mộ Dung Bác đột nhiên nghe vị lão tăng kể ra bệnh trạng của mình thì chẳng khác gì thấy sét nổ giữa trời quang, kinh hãi vô cùng! Thực ra võ công đã cao cường, thì bên tai có nghe sét nổ luôn mười tiếng, lão cũng chẳng giật mình, chỉ cho là trời hắt hơi, chẳng cần để ý. Thế mà mấy câu nhỏ nhẹ của lão tăng đã khiến lão phải kinh hồn bở vía. Mộ Dung Bác run rẩy hai cái, đột nhiên lại thấy ba huyệt đạo Dương Bạch, Liêm Tuyền và Phong Phủ như bị kim châm, những cơn đau đớn kịch liệt bắt đầu phát tác. Giờ này không phải là giờ lên cơn thường lệ như mọi khi, nhưng vì tinh thần lão chấn động nên cơn đau lại nổi lên, những khớp xương trong người kêu răng rắc tựa như đang bị người ta đánh đập. Mộ Dung Bác nghiến răng chịu đau, nhưng hàm trên hàm dưới vẫn va vào nhau, khua lên lách cách.

Mộ Dung Phục biết tính khí phụ thân vốn cương cường, giết lão thì dễ, chứ bắt lão khuất phục trước mặt mọi người thì không thể được. Hắn suy nghĩ một lúc, rồi chắp tay nói với cha con Tiêu Phong: “Non xanh trơ đó, nước biếc còn đây, sau này còn ngày tái ngộ. Hai vị muốn tìm cha con tại hạ để báo thù thì xin mời đến Tham Hợp Trang, trong Yến Tử Ổ ở Cô Tô. Cha con tại hạ xin sẵn sàng nghênh tiếp đại giá.” Rồi hắn nắm tay Mộ Dung Bác kéo đi, nói: “Gia gia! Chúng ta đi thôi!”

Vị lão tăng hỏi: “Sao thí chủ lại nhẫn tâm như vậy? Thí chủ để lệnh tôn phải chịu cái đau đớn như bị đẽo xương cắt gân ư?” Mộ Dung Phục sắc mặt nhợt nhạt, dắt tay Mộ Dung Bác rảo bước đi ra.

Tiêu Phong quát lên: “Ngươi muốn đi ư? Trong thiên hạ sao lại có việc dễ dàng thế được? Phụ thân ngươi đang lên cơn bệnh, chúng ta đã là đại trượng phu thì không nhân lúc người ta gặp nguy nan mà hạ thủ đâu!” Mộ Dung Phục khí tức bốc lên, quát trả: “Ta lại muốn tiếp mấy cao chiêu của Tiêu huynh.” Tiêu Phong không nói gì nữa, xuất chiêu Kiến Long Tại Điền trong Hàng Long Thập Bát Chưởng đánh tới Mộ Dung Phục. Tiêu Phong thấy Tàng Kinh Các địa thế chật hẹp, lại đông cao thủ không tiện đánh nhau, nên vận đến mười thành công lực, muốn chỉ vài chưởng là hạ sát địch thủ. Mộ Dung Phục thấy chưởng lực đối phương cực kỳ hung mãnh liền vận hết sức bình sinh, dùng kỹ thuật Đẩu Chuyển Tinh Di để hóa giải.

Lão tăng chắp tay trước ngực, cất tiếng: “A di dà Phật! Nơi Phật môn thiện địa, hai vị cư sĩ không nên vọng động.”

Lão chỉ chắp hai bàn tay mà phát ra một luồng kình lực, tựa như bức tường vô hình để ngăn giữa đôi bên. Chưởng lực nghiêng non dốc biển của hai bên vừa chạm phải bức tường vô hình ấy lập tức mất tích, chẳng thấy tăm hơi gì nữa.

Tiêu Phong kinh ngạc vô cùng. Bình sinh chàng chưa gặp địch thủ, lại thấy vị lão tăng này công lực cao gấp mấy mình. Lão đã ra tay ngăn trở thì hôm nay nhất định không thể trả thù được. Tiêu Phong lại nghĩ đến nội thương của phụ thân, liền khom lưng nói: “Tại hạ là kẻ thất phu hoang dã, không biết lễ nghi, đã mạo phạm đến thần tăng, xin thứ tội cho.”

Lão tăng mỉm cười đáp: “Thí chủ dạy quá lời. Lão nạp đối với Tiêu thí chủ vẫn một lòng kính cẩn. Tiêu thí chủ mang bản sắc đại anh hùng, thật không hổ thẹn.”

Tiêu Phong nói: “Gia phụ phạm tội, giết người đều chỉ vì tại hạ. Tại hạ khẩn cầu thần tăng trị nội thương cho gia phụ. Bao nhiêu tội nghiệt, tại hạ cam tâm nhận hết, dù muôn thác cũng không từ chối.”

Lão tăng lại mỉm cười đáp: “Lão nạp đã nói rồi, muốn hóa giải nội thương cho Tiêu lão cư sĩ thì phải tìm đường trong Phật pháp. Phật vốn tại tâm, Phật là giác ngộ, người ngoài chỉ có thể chỉ điểm chứ không thể làm thay được. Lão tăng hỏi Tiêu cư sĩ một câu: Nếu cư sĩ biết phương pháp trị thương thì có chịu chữa cho Mộ Dung lão cư sĩ không?”

Tiêu Viễn Sơn ngẩn người ra, hỏi lại: “Ta… ta trị thương cho Mộ Dung lão thất phu ư?” Mộ Dung Phục quát lên: “Ngươi ăn nói cẩn thận!” Tiêu Viễn Sơn nghiến răng nói: “Mộ Dung lão thất phu giết ái thê của ta, làm tan nát đời ta. Ta chỉ hận mình chưa băm vằm hắn ra được.” Lão tăng hỏi: “Tiêu lão cư sĩ chưa nhìn thấy Mộ Dung lão cư sĩ chết bất đắc kỳ tử thì chưa tiêu được mối hận trong lòng ư?” Tiêu Viễn Sơn đáp: “Chính thế! Lão phu ẩn trong chùa Thiếu Lâm ba mươi năm chính là để báo mối đại thù này.” Vị lão tăng gật đầu nói: “Chuyện đó cũng dễ thôi.” Đoạn lão đứng dậy, từ từ bước tới, vung chưởng ra đánh vào đỉnh đầu Mộ Dung Bác.

Lúc đầu, Mộ Dung Bác thấy nhà sư đứng lên, lão không để ý. Đến khi lão thấy nhà sư vung chưởng đánh mình, vội vàng vung tay trái lên chống đỡ, lại sợ võ công đối phương quá lợi hại, nên vọt người nhảy lùi ra sau. Mộ Dung Bác là dòng Mộ Dung ở Cô Tô, bản lĩnh đã không phải tầm thường, sau khi luyện những tuyệt kỹ Thiếu Lâm khác nào như hổ thêm cánh. Lão vung tay lên và nhảy lùi lại, tuy trông có vẻ bình thường chẳng có gì kỳ lạ, nhưng thủ thế cực kỳ nghiêm mật, dường như bất luận ai trên thế gian cũng không làm gì được. Mọi người trong Tàng Kinh Các đều là cao thủ về võ học, thấy Mộ Dung Bác ra hai chiêu này đều ngấm ngầm thán phục. Cả cha con Tiêu Viễn Sơn cũng không khỏi trầm trồ khen ngợi.

Không ngờ Mộ Dung Bác vừa chống đỡ, vừa thối lui vẫn chẳng ăn thua gì. Phát chưởng nhẹ nhàng của vị lão tăng vẫn đập “chát” một tiếng, trúng vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Mộ Dung Bác. Huyệt Bách Hội là một đại huyệt khẩn yếu, dù bị kẻ không hiểu võ công đập trúng cũng có thể mất mạng hay trọng thương. Phát chưởng của lão tăng lại mang nội lực, Mộ Dung Bác chỉ run lên một cái rồi tắt thở ngay, thân hình ngã ngửa ra sau.

Mộ Dung Phục cả kinh, vội nâng lão lên, gọi rối rít: “Gia gia! Gia gia!” Nhưng phụ thân hắn miệng đã cắn chặt, mắt nhắm lại, mũi không còn hơi thở nữa. Hắn vội đưa tay lên sờ ngực thì trái tim cũng ngừng đập rồi. Mộ Dung Phục vừa đau thương vừa phẫn nộ, không ngờ nhà sư già này miệng nói toàn Phật pháp từ bi mà đột nhiên hạ độc thủ giết người. Hắn la lên: “Thằng trọc này!… Ngươi…”. Y để thi thể phụ thân dựa vào cột nhà rồi tung mình nhảy lại, vung song chưởng ra đánh lão tăng.

Vị lão tăng lờ đi như không thấy gì, nhưng song chưởng của Mộ Dung Phục còn cách lão hai thước thì đột nhiên vấp phải một bức tường vô hình mềm nhũn, tựa như một tấm lưới. Chưởng lực tuy mãnh liệt nhung không phát huy được, hắn lại bị đẩy ngược lại hơn trượng, va vào giá sách. Kỳ lạ ở chỗ, chưởng lực của hắn bị bức tường vô hình kia hóa giải một cách êm dịu, rồi hắn bị đẩy ra hết sức nhẹ nhàng, tuy đập lưng vào giá sách mà giá sách vẫn không đổ. Cả những kinh sách trên giá cũng không rơi xuống một quyển nào.

Mộ Dung Phục thông minh cơ biến, tuy xót thương phụ thân thảm tử, nhưng hắn biết võ công lão tăng cao gấp trăm mình, dù có tức điên lên mà liều mạng cũng chẳng làm gì được đối phương. Nghĩ vậy, hắn bèn đứng dựa vào giá sách, giả vờ ho rũ rượi, nhưng suy nghĩ rất nhiều, muốn chờ cơ hội đối phương không kịp đề phòng sẽ tập kích đột ngột.

Lão tăng quay lại nhìn Tiêu Viễn Sơn, thản nhiên hỏi: “Tiêu lão cư sĩ muốn chính mắt trông thấy Mộ Dung lão cư sĩ chết, để hả mối thù chứa chất trong lòng bấy lâu nay. Bây giờ Mộ Dung lão cư sĩ chết rồi, Tiêu lão cư sĩ đã nguôi giận chưa?”

Tiêu Viễn Sơn thấy lão tăng phóng chưởng đánh chết Mộ Dung Bác đã kinh ngạc vô cùng, bây giờ nghe hỏi vậy thì trong lòng không khỏi bâng khuâng, há miệng cứng lưỡi không biết nói sao.

Suốt ba mươi năm trời, Tiêu Viễn Sơn tìm trăm phương nghìn kế để báo mối thù giết vợ cướp con. Sau khi điều tra được vụ thảm án ngoài Nhạn Môn Quan, lão đã tìm bọn hào kiệt Trung Nguyên có dính líu đến, đánh chết từng người một. Ngoài ra Huyền Khổ đại sư cùng vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng chết về tay lão. Lão biết Thủ Lĩnh Đại Ca chính là Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm, bèn tố cáo bí mật về cuộc tư thông giữa Huyền Từ và Diệp Nhị Nương trước quần hùng thiên hạ, khiến cho Huyền Từ thân danh tan nát rồi phải tự sát. Nhưng cái chết của Huyền Từ thật sự quang minh lỗi lạc, không mất phong độ anh hùng, nên Tiêu Viễn Sơn trong thâm tâm cũng hối hận là mình đã quá tàn nhẫn. Cái chết của Diệp Nhị Nương cũng làm cho lão áy náy trong lòng.

Sau đó Tiêu Viễn Sơn lại biết Mộ Dung Bác là người phao tin thất thiệt để gây nên vụ thảm sát ngoài Nhạn Môn Quan, cũng chính là nhà sư áo xám cùng ẩn núp trong chùa Thiếu Lâm, đã cùng lão giao thủ ba phen mà không phân thắng bại. Tiêu Viễn Sơn căm hận Mộ Dung Bác đến cực điểm, chỉ muốn đem ra xé thịt lột da, rút từng lóng xương. Ngờ đâu lão tăng vô danh đã phóng chưởng đánh chết kẻ thù của mình một cách quá dễ dàng. Diễn biến đột ngột này khiến cho lão rất đỗi bâng khuâng, tâm thần bàng hoàng, tưởng chừng như ở thế gian không còn việc gì để mình làm nữa.

Thuở nhỏ Tiêu Viễn Sơn hào khí ngất trời, luyện thành bản lĩnh xuất thần nhập hóa. Lão chỉ mong đem tài sức mình để lập công danh, được nêu tên trong sử sách. Lão cùng ái thê vừa yêu thương vừa kính trọng nhau, lại sinh hạ một cậu quí tử. Đời lão đang sung sướng, tràn trề hy vọng thì bỗng nhiên xảy ra thảm kịch chết vợ, mất con ngoài Nhạn Môn Quan, thật là thê thảm. Lão nhảy xuống vực thẳm mà không chết, rồi từ đó đã hoàn toàn biến thành con người khác, xem công danh sự nghiệp cùng danh vọng tiền tài như đất bùn. Ngày đêm lão chỉ nghĩ đến việc tìm cách cầm gươm đâm suốt ngực cừu nhân cho hả giận. Tiêu Viễn Sơn vốn là người hào sảng chất phác, nóng nảy chứ không sâu hiểm, nhưng cừu hận đã làm cho lão thay đổi tính tình, ngày càng tàn nhẫn. Lão lén lút trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm trời, ban ngày ẩn nấp trong chỗ kín, ban đêm mới chui ra để nghiên cứu võ công. Mấy chục năm lão chẳng nói với ai nửa lời, tính tình lại càng đại biến.

Đột nhiên Tiêu Viễn Sơn thấy kẻ đại thù mấy chục năm chết trước mắt mình, lẽ ra thì phải sung sướng lắm. Thế mà trong lòng lão lại cảm thấy tịch mịch thê lương khôn tả, tựa như trên đời chẳng còn việc gì để làm. Lão thấy vẻ mặt cừu nhân vẫn thanh thản, trên môi đọng một nụ cười, tưởng chừng như chết đi lại vui thú hơn lúc còn sống. Tiêu Viễn Sơn thấy thế, lại ngấm ngầm mừng cho cừu nhân tốt phúc.

Người đã chết rồi thì bao nhiêu nợ nần, thù oán đều phủi sạch. Chỉ trong khoảnh khắc, Tiêu Viễn Sơn tính lại thì kẻ thù đều chết hết, đại thù đã trả sạch. Lão thầm nghĩ: “Bây giờ ta biết đi đâu? về Đại Liêu hay ra ngoài Nhạn Môn Quan ẩn cư? Hay dắt Phong nhi tìm nơi góc bể chân trời, tứ hải phiêu lưu?” Nhưng lão thấy cách nào cũng hoàn toàn vô vị.

Bỗng vị lão tăng lên tiếng: “Tiêu lão cư sĩ! Bây giờ lão cư sĩ muốn đi đâu, xin cứ việc tùy tiện.” Tiêu Viễn Sơn lắc đầu đáp: “Lão phu… Lão phu biết đi đâu bầy giờ? Lão phu chẳng còn có chỗ nào để đi nữa!” Lão tăng lại hỏi: “Bây giờ Mộ Dung lão cư sĩ đã bị ta đánh chết rồi, phải chăng trong lòng Tiêu lão cư sĩ còn tiếc là không được tự tay hạ sát kẻ thù?” Tiêu Viễn Sơn đáp: “Không phải thế. Dù thần tăng chẳng đánh chết y, thì lão phu cũng chẳng muốn đánh chết y làm chi nữa.” Lão tăng gật đầu nói: “Đúng thế! Nhưng Mộ Dung thiếu hiệp vì đau xót phụ thân thảm tử, lại muốn báo thù ta và Tiêu lão cư sĩ thì biết làm thế nào?” Tiêu Viễn Sơn trong lòng chán nản đáp: “Thần tăng đã vì lão phu mà ra tay. Nếu Mộ Dung thiếu hiệp muốn báo thù cho phụ thân, thì cứ lại đây mà giết lão phu đi là xong.” Đột nhiên lão thở dài rồi nói tiếp: “Mộ Dung thiếu hiệp có giết ta cũng là phải. Phong nhi! Ngươi trở về Đại Liêu đi! Mọi việc của ta đều xong hết, hành trình của ta đến đây là tới đích rồi.” Tiêu Phong la lên: “Gia gia…”

Vị lão tăng lại lên tiếng: “Nếu Mộ Dung thiếu hiệp hạ sát Tiêu lão cư sĩ, thì Tiêu thí chủ lại giết Mộ Dung thiếu hiệp để báo thù cho phụ thân. Như vậy oán thù lẩn quẩn mãi, biết bao giờ kết thúc? Chi bằng để ta nhận hết tội nghiệt trong thiên hạ là xong.” Lão tăng nói xong, tiến lên một bước, đánh vào đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Phong giật mình kinh hãi, nhà sư già này chỉ phóng một chưởng là đánh chết được Mộ Dung Bác, thì dĩ nhiên cũng một chưởng hạ sát phụ thân mình một cách dễ dàng. Chàng hốt hoảng la lên: “Dừng tay!”, đồng thời phóng cả song chưởng đánh mạnh vào trước ngực nhà sư già. Tiêu Phong đối với vị thần tăng này vẫn mười phần kính ngưỡng, nhưng lúc này nóng nảy cứu viện phụ thân, phải dùng toàn lực xuất chiêu. Lão tăng đưa tả chưởng ra để gạt song chưởng của Tiêu Phong, hữu chưởng tiếp tục vỗ xuống đỉnh đầu Tiêu Viễn Sơn.

Tiêu Viễn Sơn hoàn toàn không kháng cự, thấy hữu chưởng lão tăng đã sắp đến đỉnh đầu mình. Đột nhiên lão tăng lại quát lên một tiếng rồi xoay tay một cái, hữu chưởng rút về tập kích Tiêu Phong.

Song chưởng của Tiêu Phong đang chống đỡ tả chưởng của lão tăng, thì đột nhiên hữu chưởng của nhà sư lại đánh tới nơi. Chàng liền rụt tay trái về để chống đỡ, đồng thời la lên:”Gia gia! Chạy mau!” Không ngờ, hữu chưởng của nhà sư chỉ giả vờ biến chiêu để Tiêu Phong phải rút một tay về tự vệ. Tiêu Phong vừa rụt tay trái về thì tay phải nhà sư lại chuyển hướng, vỗ vào đỉnh đầu Tiêu Viễn Sơn đánh “bốp” một tiếng.

Giữa lúc ấy hữu chưởng của Tiêu Phong đã đánh tới, nghe “binh” một tiếng, đập trúng trước ngực nhà sư. Tiếp theo là những tiếng kêu “lắc rắc” tưởng như xương cốt lão tăng bị gãy nát hết. Lão chỉ mỉm cười nói: “Hảo công phu! Hàng Long Thập Bát chưởng quả nhiên là thiên hạ đệ nhất.” Chữ “nhất” chưa nói xong, máu tươi trong miệng đã phun ra.

Tiêu Phong ngẩn ra một chút, lại nâng phụ thân dậy thì thấy trái tim lão đã ngừng đập, tắt hơi mất mạng. Nhất thời chàng không biết phải làm gì.

Vị lão tăng bỗng nói: “Đã đến lúc rồi! Ta phải đi gấp.” Lão đưa cả hai tay ra, tay phải nắm cổ áo Tiêu Viễn Sơn, tay trái nắm cổ áo Mộ Dung Bác, rồi vọt đi rất nhanh, tựa hồ chân không chấm đất, nháy mắt đã ra khỏi Tàng Kinh Các.

Tiêu Phong và Mộ Dung Phục cùng la lên:”Đại sư… đại sư làm gì thế?” Đồng thời phóng chưởng lực ra đánh vào sau lưng lão. Vừa rồi hai người này là kẻ thù không đội trời chung, nhưng bây giờ phụ thân đều bị hại, nên hai người lại hợp lực đuổi theo lão tăng kia. Chưởng lực của hai người hợp lại mãnh liệt vô cùng, kình lực làm rung chuyển cả Tàng Kinh Các. Thân thể lão tăng tựa như chiếc diều giấy, bị chưởng phong đẩy bay đi mấy trượng. Lão vẫn nắm hai xác chết, cả ba người lơ lửng chân không chấm đất bay vọt đi, tưởng chừng không phải là tấm thân bằng máu thịt nữa.

Tiêu Phong vọt qua cửa sổ rượt theo, thấy lão hai tay xách hai xác chết chạy thẳng lên núi, bèn gia tăng cước bộ, cứ tưởng mình chỉ chạy thêm vài bước nữa là đuổi kịp. Không ngờ khinh công của lão rất kỳ dị, tựa như người có tà thuật. Tiêu Phong ra sức chạy cực nhanh, gió vù vù đau cả tai, mà thủy chung vẫn còn cách lão đến hai ba trượng. Chàng phóng chưởng ra liên tiếp, nhưng đều đánh vào khoảng không.

Lão tăng mỗi lúc một vượt xa, chạy quanh qua quẹo lại trong khu rừng. Đến một khoảng đất bằng phẳng rộng rãi, đột nhiên lão đặt hai xác chết xuống ngồi xếp bằng dưới gốc cây, rồi ngồi phía sau, đưa hai bàn tay ra đỡ lưng hai xác chết. Lão vừa ngồi yên thì Tiêu Phong đuổi đến nơi.

Tiêu Phong thấy lão tăng có hành động kỳ lạ, liền không động thủ nữa. Bỗng nghe lão lên tiếng nói: “Lão nạp cắp hai vị chạy một lúc để mạch máu lại lưu thông.” Tiêu Phong không tin ở tai mình nữa. Người đã chết mà mạch máu còn lưu thông được ư? Chàng chẳng hiểu gì, buột miệng hỏi lại: “Mạch máu lưu thông trở lại ư?” Nhà sư già đáp: “Hai vị bị nội thương quá nặng, phải chết đi một lúc mới giải cứu được.” Tiêu Phong cả kinh tự hỏi: “Chẳng lẽ gia gia chưa chết ư? Lão… lão đang trị thương cho gia gia ư? Trong thiên hạ sao lại có kẻ đánh chết người trước rồi mới chữa thương?”

Lúc này Mộ Dung Phục, Cưu Ma Trí, Huyền Sinh, Huyền Độ cùng Thần Sơn Thượng Nhân cũng lục tục đuổi đến nơi.

Mọi người nhìn thấy trên đầu hai tử thi vọt ra một tia bạch khí, lão tăng lại xoay hai xác chết cho quay mặt vào nhau, rồi đặt bốn bàn tay xác chết nắm lấy nhau. Mộ Dung Phục lớn tiếng hỏi: “Lão… lão đang làm gì thế?” Nhà sư già không trả lời, chầm chậm bước vòng quanh hai xác chết, vung tay ra không ngớt, lúc đè vào huyệt Đại Truy của Tiêu Viễn Sơn, lúc lại nắm vào huyệt Ngọc Chẩm của Mộ Dung Bác. Luồng bạch khí trên đầu hai tử thi mỗi lúc một dày đặc hơn.

Thời gian chừng uống cạn tuần trà, người của Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác đồng thời nhúc nhích. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục vừa sợ vừa mừng, đồng thanh cất tiếng gọi: “Gia gia!”. Tiêu Viễn Sơn cùng Mộ Dung Bác từ từ mở mắt ra nhìn, rồi nhắm mắt lại. Nhưng sắc mặt Tiêu Viễn Sơn đã ửng hồng, còn mặt Mộ Dung Bác có ẩn hiện màu xanh.

Bây giờ mọi người mới hiểu hai người kia chưa chết, chỉ là qui tức mà ngừng thở. Phép qui tức thì những bậc kỳ sĩ nội công cao thâm đều có luyện qua, nhưng chỉ có thể tự đình chỉ hô hấp. Đằng này lão tăng phóng chưởng đánh người ta ngừng thở mà không chết, thì không ai tưởng tượng nổi. Nhưng lão dụng tâm lương thiện mà sao lại không nói trước, khiến Tiêu Phong cùng Mộ Dung Phục vừa kinh hãi vừa căm giận, để chính mình bị Tiêu Phong đánh một chưởng đến thổ huyết? Mọi người tuy trong lòng nghi hoặc, nhưng thấy nhà sư đang bận rộn chữa thương nên không dám hỏi.

Hơi thở của Tiêu Viễn Sơn cùng Mộ Dung Bác dần dần mạnh lên. Sắc mặt Tiêu Viễn Sơn càng lúc càng đỏ như sắp ứa máu ra, còn sắc mặt Mộ Dung Bác thì mỗi lúc một xanh như sắp chết cóng, thân thể cả hai cùng run lên bần bật. Mọi người đứng nhìn đều biết rằng một lão thì dương khí quá vượng nên hư hỏa xông lên, còn một người thì âm khí quá thịnh nên phong hàn bế tắc bên trong. Bọn Huyền Sinh, Huyền Diệt, Thần Sơn, Đạo Thanh đều có mang theo linh dược, nhưng không hiểu thứ nào phù hợp với chứng này.

Bỗng nghe lão tăng quát lên: “Nào! Bốn tay nắm chặt, nội tức hòa hợp, khí âm khí dương, tiêu diệt lẫn nhau. Nào! Mưu đồ quyền vị, thù hận thâm sâu, mau mau tan biến, vào cõi hư không.”

Bốn bàn tay đã nắm vào nhau khi hai người còn là xác chết, nghe tiếng quát của lão tăng càng nắm chặt thêm, nội tức của hai người đều truyền sang đối phương để dung hợp khai thông cho nhau. Sắc mặt hai người dần dần nhạt đi, sau một lúc mở mắt nhìn nhau mà cười, tựa hồ không còn gì oán hận nhau nữa.

Tiêu Phong cùng Mộ Dung Phục thấy phụ thân lại mở mắt mỉm cười thì nỗi mừng biết lấy chi cân? Bỗng Tiêu Viễn Sơn cùng Mộ Dung Bác khoác tay nhau, đến quỳ trước mặt lão tăng. Vị lão tăng hỏi: “Hai vị sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, chuyển quanh một vòng. Trong lòng hai vị có điều gì ân hận nữa không? Hai vị còn nghĩ đến chuyện phục hưng Đại Yên hay báo phục thê cừu nữa không?”

Tiêu Viễn Sơn đáp: “Đệ tử giả làm hòa thượng, đã ở chùa Thiếu Lâm trong ba mươi năm, nhưng trong tâm chưa có chút nào giác ngộ đáng gọi là đệ tử nhà Phật. Hôm nay đệ tử khẩn cầu sư phụ thu nạp cho.” Lão tăng hỏi: “Thế còn mối thù giết vợ, lão cư sĩ không muốn báo phục nữa ư?” Tiêu Viễn Sơn đáp: “Đệ tử bình sinh đã giết hàng trăm người. Giả tỉ thân nhân họ cũng đến đòi mạng thì dù đệ tử có chết đến trăm lần cũng chưa đủ trả nợ.”

Lão tăng lại quay sang hỏi Mộ Dung Bác: “Còn Mộ Dung lão cư sĩ nghĩ sao?” Mộ Dung Bác đáp: “Thứ dân là cát bụi, đế vương cũng là cát bụi. Đại Yên khôi phục cũng là không, mà chẳng khôi phục cũng là không.” Lão tăng cười rạng rỡ, nói: “Thế là lão cư sĩ giác ngộ rồi. Thiện tai! Thiện tai!” Mộ Dung Bác nói: “Đệ tử cũng thỉnh cầu sư phụ thu làm đệ tử, khai thông những điểm ngu muội.” Lão tăng đáp: “Hai vị thí chủ đã muốn xuất gia làm sư, thì hãy yêu cầu một vị đại sư trong chùa Thiếu Lâm xuống tóc cho. Ta có mấy câu kệ muốn đọc cho các vị nghe, tưởng cũng chẳng hại gì.” Đoạn lão ngồi xuống, xếp bằng thuyết pháp.

Tiêu Phong cùng Mộ Dung Phục cũng quỳ xuống. Tiếp theo là Huyền Sinh, Huyền Diệt, Thần Sơn, Đạo Thanh, Ba La Tinh khi nghe thuyết pháp đến chỗ tinh diệu thì đều hoan hỉ, sinh lòng ngưỡng mộ rồi hết thảy đều quỳ xuống.

Khi Đoàn Dự tới nơi thì mọi người đang nghe lão tăng giảng giải Phật nghĩa. Chàng định đi vòng ra trước mặt vị lão tăng này để xem tướng mạo. Ngờ đâu Cưu Ma Trí thốt nhiên hạ độc thủ, trước ngực chàng trúng một chiêu Hỏa Diệm Đao, ngã lăn ra bất tỉnh.

Hồi 44: Đừng xây mộng đẹp mà chi, trăm năm chẳng có duyên gì với nhau

Đoàn Dự mê đi không biết đã bao lâu. Lúc chàng hồi tỉnh, giương mắt lên nhìn thì vật đầu tiên nhìn thấy là nóc màn, nhận ra mình đang nằm trên giường có đầy đủ chăn gối. Thần trí chàng chưa hoàn toàn tỉnh táo, ngẫm nghĩ một lúc mới nhớ ra mình bị Cưu Ma Trí ám toán, không hiểu tại sao bây giờ lại nằm trên giường. Chàng nghĩ mãi không ra, cảm thấy khát nước như cháy họng, đã toan ngồi dậy, nhưng vừa nhúc nhích thì trước ngực lại đau nhói không chịu nổi phải la lên một tiếng.

Bên ngoài có tiếng reo: “Đoàn công tử tỉnh lại rồi! Đoàn công tử tỉnh lại rồi!” Thanh âm này là của một thiếu nữ đầy vẻ mừng vui. Đoàn Dự nghe rất quen tai, chàng đang ngẫm nghĩ cố nhớ xem người nói là ai, thì thấy một thiếu nữ áo xanh bước vội vào.

Thiếu nữ này mặt tròn trĩnh, má lúm đồng tiền, chính là người mà chàng đã gặp mấy năm trước trong đại sảnh trên Vô Lượng Cung, tên gọi Chung Linh.

Phụ thân nàng là Kiến nhân tựu sát Chung Vạn Cừu đã kết mối thâm thù với phụ thân Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần, lúc nào cũng toan bày kế để hại ông. Nhưng lúc Đoàn Dự ở trong thạch thất đi ra, tay chàng lại đang bồng Chung Linh áo quần xốc xếch. Chung Vạn Cừu định hại người mà hóa ra tự hại mình, tức chết đi được. Giữa lúc mọi người cố níu kéo lẫn nhau trong địa đạo ở Vạn Kiếp Cốc, Đoàn Dự trong lúc mơ màng đã hấp thu không ít nội lực của họ, rồi sau đó không lâu lại bị Cưu Ma Trí bắt đến Trung Nguyên. Mấy năm trước Đoàn Dự và Chung Linh tạm biệt, ngờ đâu đến bây giờ mới gặp lại nhau.

Mục quang của hai người vừa chạm nhau, mặt Chung Linh bỗng ửng hồng, tựa như cười mà không phải cười, cất tiếng hỏi: “Huynh đã sớm quên muội rồi ư? Có còn nhớ tên muội chăng?”

Đoàn Dự sực nhớ lại bức họa sống động lúc nàng ngồi vắt vẻo trên xà nhà, hai chân buông thõng đưa đi đưa lại, miệng cắn hạt dưa. Nhưng hôm đó nàng đi đôi giày xanh biếc, trên mũi giày có thêu hoa vàng, mà lúc này lại đi đôi giày khác. Bất giác chàng buột miệng hỏi:”Đôi giày thêu hòa vàng ngày trước của cô nương đâu?”

Chung Linh đỏ mặt lên mừng rỡ, mỉm cười đáp:”Huynh vẫn còn nhớ cả chuyện ấy ư? Thế là huynh… huynh chưa quên ta.” Đoàn Dự lại cười hỏi:”Sao bây giờ cô nương không cắn hạt dưa?” Chung Linh đáp: “Hay nhỉ! Mấy bữa nay người ta phải chầu chực huynh dưỡng thương, lo lắng muốn chết, tâm trí đâu mà cắn hạt dưa?” Câu “lo lắng muốn chết” vừa ra khỏi miệng, nàng biết mình tự thổ lộ tâm tình, bất giác thẹn đỏ mặt lên.

Đoàn Dự sửng sốt, chăm chú nhìn nàng hồi lâu, chợt nghĩ tới chuyện trước kia nàng suýt là vợ mình, bây giờ lại biến thành muội muội, bất giác thở dài rồi hỏi: “Hảo muội tử! Tại sao muội lại ở đây?” Chung Linh lại đỏ mặt lên, đôi mắt long lanh chiếu ra những tia sáng vui mừng, khẽ đáp: “Hôm đó huynh đi khỏi Vạn Kiếp Cốc rồi, không thèm đến thăm muội lần nào, muội giận huynh lắm.” Đoàn Dự hỏi lại: “Sao lại giận ta?” Chung Linh lườm chàng một cái rồi đáp: “Giận huynh đã quên người ta rồi.”

Đoàn Dự thấy ánh mắt cộ nàng đầy vẻ chân tình, trong lòng xúc động khẽ gọi: “Hảọ muội tử!” Chung Linh nửa như giận nửa như cười, đáp: “Gọi thì nghe thân thiết lắm, thế mà không tới thăm muội lần nào. Khi đó muội giận lắm, mới qua Trấn Nam Vương phủ hỏi dò, biết huynh bị một tên ác hòa thượng bắt đi. Muội… muội lo lắng vô cùng, bèn quyết đi tìm huynh.”

Đoàn Dự nói: “Mẫu thân của muội chưa kể cho muội nghe chuyện của người với gia gia ta hay sao?” Chung Linh đáp: “Chuyện gì mà kể? Hôm đó cha con huynh đi rồi, mẫu thân của muội ngất xỉu, rồi sau thành bệnh, lần nào gặp muội cũng chảy nước mắt. Muội cũng cố hỏi tại sao, nhưng mẫu thân không thèm nói một tiếng.”

Đoàn Dự nói: “Ối chao! Mẫu thân không chịu nói, thì… thì muội làm sao mà biết được?” Chung Linh hỏi lại: “Biết chuyện gì mới được chứ?” Đoàn Dự ấp úng đáp: “Biết ta là… ta là…”

Mặt Chung Linh đỏ bừng lên, cúi đầu xuống không dám nhìn chàng, thì thầm: “Muội mà không biết ư? Hôm đó huynh bồng muội từ thạch thất ra, bỗng nhiên muội thấy rất nhiều người, vừa hoảng sợ vừa xấu hổ phải nhắm mắt lại, nhưng gia gia huynh nói gì thì muội… muội nghe rất rõ ràng.”

Nàng và Đoàn Dự cùng nhớ đến lúc ra khỏi căn phòng đá, Đoàn Chính Thuần đã nói với Chung Vạn Cừu như sau: “Lệnh ái ở trong thạch thất cùng Dự nhi bầu bạn mấy ngày mấy đêm. Cô nam quả nữ, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn phòng tối thế này thì lắm trò hay ho, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là Thế tử của Trấn Nam Vương, tuy chưa chắc đã lấy con gái Cốc chủ làm chính phi được, song làm trai năm thê bảy thiếp vẫn được chứ sao? Tại hạ với Cốc chủ thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì?”

Đoàn Dự thấy đôi má nàng đỏ như mận chín, cũng ngượng ngùng nói: “Hảo muội tử… Thì ra muội còn chưa biết nguyên do bên trong. Hảo muội tử, như thế… như thế không được đâu…” Chung Linh vội xen vào: “Mộc tỉ tỉ không chịu phải không? Mộc tỉ tỉ đâu rồi?” Đoàn Dự đáp: “Không phải thế. Cô ấy… cô ấy cũng là…” Chung Linh mỉm cười đáp: “Gia gia huynh đã nói làm trai năm thê bảy thiếp gì gì đó, đâu phải là muội không chịu nhường nhịn tỉ ấy? Mộc tỉ tỉ hung hãn như vậy, làm sao muội tranh giành cho nổi?” Nàng nói xong, thè lưỡi ra vẻ sợ hãi.

Đoàn Dự thấy nàng cực kỳ ngây thơ khả ái, chợt thấy trong lòng đau nhói. Lúc này chàng thấy chưa tiện mà cũng chưa nỡ nói ra sự thật, bèn kiếm chuyện khác hỏi: “Thế sao muội lại đến đây?” Chung Linh đáp: “Muội đi tìm huynh khắp Trung Nguyên, tìm từ đông sang tây cũng chẳng nghe được chút tin tức nào. May mà mấy hôm trước đây, muội gặp đồ đệ của huynh là Nhạc Lão Tam, nghe lão đang nói chuyện với người ta là phen này anh hùng hảo hán khắp nơi đều tụ hội tại chùa Thiếu Lâm, sẽ có một trường náo nhiệt, lão cũng phải đến. Còn gã ác nhân Vân Trung Hạc lại trêu chọc lão, nói là lão mong nhớ sư phụ mà đi tìm gặp. Nhạc Lão Tam nổi trận lôi đình, tuyên bố hễ lão gặp huynh là vặn cổ gãy kêu cắc ngay. Muội vừa mừng vừa lo, lén lút đi theo đến đây, lại sợ Nhạc Lão Tam và Vân Trung Hạc nhìn thấy nên không dám theo quá gần. Muội đi lung tung dưới núi, gặp ai cũng hỏi thăm tin tức của huynh, chỉ muốn nhắn huynh phải cẩn thận đề phòng đồ đệ bẻ cổ. Muội thấy khu này có một căn nhà bỏ trống, không có ai ở, liền vào trú tạm.”

Đoàn Dự nghe nàng kể, lại thấy mặt nàng dày dạn phong sương thì thương cho cô bé vô tư vì tìm mình mà phải một mình lưu lạc giang hồ, hẳn đã chịu đắng cay không ít. Thật là tình ý của nàng đối với mình vô cùng tha thiết. Chàng không nhẫn nại được nữa, đưa tay ra cầm lấy tay nàng nói nhỏ: “Hảo muội tử! May sao ông trời còn thương, cho ta gặp được muội.”

Chung Linh mỉm cười đáp: “May sao ông trời có mắt, ta còn gặp được muội! Ha ha! Đây không phải là câu nói lấy lòng đấy chứ? Huynh đã gặp được muội, dĩ nhiên muội cũng gặp được huynh.” Nàng ngồi xuống bên giường rồi hỏi: “Huynh đến đây làm chi?”

Đoàn Dự giương to mắt lên nhìn nàng đáp: “Ta cũng đang muốn hỏi muội, vì sao ta lại đến đây? Ta chỉ nhớ mình bị một lão ác tăng ám toán, trước ngực trúng đao khí vô hình bị thương rất nặng, hôn mê, rồi sau không biết gì nữa.”

Chung Linh chau mày đáp: “Thế thì kỳ thật! Hôm qua vào lúc hoàng hôn, muội ra vườn nhổ rau về, xuống bếp rửa xong xuôi, đang sắp nấu ăn, bỗng nghe trong phòng có tiếng người rên rỉ. Muội sợ quá liền cầm con dao thái rau chạy lên phòng thì thấy có người nằm trên giường. Muội hỏi luôn mấy câu: “Ai đó? Ai đó?” nhưng không có tiếng đáp lại, liền nghĩ là người xấu, vung dao lên toan chém xuống. May mà… may mà huynh đang nằm ngửa, dao chém chưa tới nơi thì muội đã nhìn thấy mặt huynh rồi. Lúc đó muội suýt ngất đi, con dao rớt xuống hồi nào cũng không hay biết.” Nàng kể đến đây, vừa giơ tay lên khẽ vỗ vào ngực, tựa như nghĩ tới tình thế nguy hiểm lúc đó hãy còn khủng khiếp.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm không xa lắm. Chắc là sau khi mình bị thương thì có người đưa vào đây.”

Chung Linh lại nói: “Muội gọi huynh luôn mấy tiếng thì chỉ thấy rên hừ hừ mà không nói tiếng nào. Muội sờ vào áo huynh thấy có nhiều vết máu thì biết là huynh bị trọng thương, liền cởi áo ra để xem xét vết thương rồi băng bó hẳn hoi. Muội chờ lâu, lâu lắm, vẫn không thấy huynh tỉnh lại. Trời ơi! Muội vừa vui mừng lại vừa lo lắng, mà không biết phải làm gì.” Đoàn Dự nói: “Để cho muội phải lo lắng, huynh thật là áy náy!”

Chung Linh đột nhiên làm mặt giận, cất tiếng mắng: “Huynh không phải là người tốt. Nếu muội sớm biết huynh là hạng vô lương tâm, thì chẳng thèm nghĩ đến huynh làm gì. Bây giờ muội cũng không muốn nhìn, mặc kệ huynh sống hay chết cũng được.”

Đoàn Dự vội hỏi: “Tại sao lại thế? Sao muội lại giận ta?” Chung Linh hứ một tiếng, rồi tức tối đáp: “Huynh đã tự hiểu rồi, còn phải hỏi làm gì?” Đoàn Dự vội nói: “Ta… ta không biết thật. Hảo cô nương! Hảo muội tử! Muội nói cho ta nghe đi!” Chung Linh giậm chân đáp: “Thôi đi! Ai là hảo cô nương, hảo muội tử của huynh? Huynh nằm mơ đã nói những gì? Sao còn phải hỏi muội?” Đoàn Dự ôn tồn hỏi: “Ta nằm mơ đã nói những gì ư? Đó là những lời mê sảng trong cơn mộng mị, có chi là chuẩn xác? À, phải rồi! Chắc là ta nằm mộng thấy Linh muội, mừng quá rồi ăn nói lỗ mãng mà mạo phạm đến Linh muội chứ gì?”

Chung Linh đột nhiên sa nước mắt, hằn học đáp: “Đến bây giờ mà huynh còn định lừa gạt muội ư? Lúc nằm mơ huynh đã thấy gì?” Đoàn Dự thở dài nói: “Sau khi ta bị thương, mê man chẳng biết chi hết, thực tình không nhớ đã thấy những gì.” Chung Linh hỏi như quát lên: “Vương cô nương là ai? Vương cô nương là ai? Tại sao trong lúc mê man mà huynh cứ gọi Vương cô nương mãi thế?”

Đoàn Dự cảm thấy trước ngực đau nhói lên, hỏi lại: “Ta đã gọi Vương cô nương ư?” Chung Linh đáp: “Chứ còn gì nữa? Huynh nằm mê vẫn gọi đến tên nàng, hừ, thế là huynh tưởng nhớ đến nàng lắm chứ gì? Được rồi! Bây giờ huynh gọi Vương cô nương đến trông nom đi, muội không thèm ngó ngàng đến huynh nữa.” Đoàn Dự thở dài nói: “Trong lòng Vương cô nương không nghĩ gì đến ta đâu. Dù ta có nghĩ đến nàng cũng chỉ vô ích thôi.” Chung Linh hỏi: “Tại sao lại thế?” Đoàn Dự đáp: “Nàng chỉ say mê biểu huynh của nàng, đối với ta thì nàng chẳng để lọt vào mắt xanh.”

Chung Linh đổi giận làm mừng, cười nói: “Tạ ơn trời đất. Ác nhân tất hữu ác nhân trị.” Đoàn Dự hỏi: “Ta mà là ác nhân ư?” Chung Linh nghiêng đầu cho mái tóc xõa ra, cười nói: “Đồ đệ của huynh là Nhạc Lão Tam, một trong bốn tên đại ác. Đồ đệ đã là ác nhân thì sư phụ dĩ nhiên còn ác hơn nhiều.” Đoàn Dự cười hỏi: “Thế còn sư nương thì sao? Nhạc Lão Tam cũng cứ luôn mồm gọi muội là sư nương đấy thôi.” Chàng vừa nói xong, lại cảm thấy rất hối hận: “Sao ta lại đùa giỡn với muội tử của mình như thế?”

Chung Linh mặt đỏ lên, chúm môi thổi ra, dường như trong lòng rất cao hứng. Nàng đứng lên, chạy xuống bếp bưng lên một bát canh gà rồi nói: “Nồi canh này đã nấu nửa ngày trời để chờ huynh tỉnh lại, cứ phải để lửa hoài.” Đoàn Dự nói: “Ta không biết phải cảm ơn Linh muội như thế nào mới đủ!” Chàng thấy Chung Linh bưng bát canh vào, toan gượng ngồi dậy, nhưng vết thương nơi ngực đau quá không chịu được lại rên lên một tiếng.

Chung Linh vội nói:”Huynh đừng dậy nữa. Để muội đút canh cho ông nội của tiểu ác nhân.” Đoàn Dự bật cười hỏi: “Sao lại gọi huynh như thế?” Chung Linh cười đáp: “Huynh là sư phụ của ác nhân, thế chẳng phải ông nội của tiểu ác nhân là gì?” Đoàn Dự cười nói: “Thế thì Linh muội…” Chàng đang nói dở câu thì Chung Linh cầm thìa canh đưa tới trước mặt, làm mặt giận ngắt lời: “Huynh lại sắp nói nhăng gì đó? Muội lại đổ thìa canh nóng này vào mặt bây giờ.” Đoàn Dự thè lưỡi ra nói: “Không dám! Không dám! Nhưng tiểu ác nhân quả là lợi hại!” Chung Linh bật cười, suýt làm đổ chén canh gà xuống người Đoàn Dự. Nàng vội lấy lại binh tĩnh, từ từ đút canh cho chàng.

Đoàn Dự nuốt mấy thìa canh gà, chợt nhìn thấy vẻ mặt Chung Linh tươi như ánh nắng mai, trên mũi dọng mấy giọt mồ hôi lấm tấm. Đang tiết trời tháng sáu nóng bức, cánh tay nhỏ nhắn của Chung Linh thò ra ngoài tay áo, trắng trong như ngọc. Đoàn Dự mơ màng nghĩ bụng: “Giả tỉ lúc này Vương cô nương đút canh cho ta, thì dù ta có phải nát hết gan ruột cũng thấy cam lòng.”

Chung Linh thấy chàng ngẩn ngơ nhìn mình, hoàn toàn không biết chàng đang nghĩ đến người khác. Nàng vẫn tủm tỉm cười hỏi: “Nhìn gì mà nhìn lắm thế?” Đoàn Dự toan đáp, bỗng nghe tiếng kẹt cửa rồi có hai người tiến vào, là một chàng trai và một cô gái. Thiếu nữ lên tiếng: “Chúng mình hãy vào đây nghỉ một lúc.” Chàng trai đáp lại: “Được lắm! Tại hạ bắt cô nương phải mệt nhọc cõng trên lưng, thật là áy náy vô cùng!” Thiếu nữ nói: “Đừng rườm lời nữa.”

Đoàn Dự nghe thanh âm thì biết ngay đây là A Tử và Bang chủ Cái Bang là Trang Tụ Hiền. Chàng chưa chào hỏi A Tử lần nào, nhưng đã nghe bọn Chu Đan Thần nói cô nương này là con gái tư sinh của phụ thân mình, thì với mình cũng là anh em cùng cha khác mẹ. Cảm ơn trời đất, mình trước nay chưa có dính dáng gì tới cô ta. Cô muội tử này từ nhỏ đã theo Tinh Tú Lão Nhân học võ, bị tiêm nhiễm tính khí tà ác, hành sự bướng bỉnh. Chử Vạn Lý là một trong Tứ đại hộ vệ của Trấn Nam Vương phủ đã bị cô ta làm nhục mà chết. Đoàn Dự từ nhỏ đã thân thiết với Tứ đại hộ vệ Chử, Cổ, Phó, Chu, nghĩ tới cái chết của Chử Vạn Lý mà không muốn nhìn mặt cô em tàn ác bướng bỉnh này. Huống chi, hôm qua chàng đã giúp Tiêu Phong đánh Trang Tụ Hiền, lúc này mà để gã thấy mặt thì tính mạng khó mà đảm bảo. Đoàn Dự vội đưa ngón tay lên, ra hiệu cho Chung Linh phải im lặng.

Chung Linh gật gật đầu, tay vẫn cầm bát canh gà không dám đặt xuống bàn, sợ phát ra tiếng động lọt vào tai mấy người ngoài kia. Bỗng nghe phía ngoài A Tử cất tiếng gọi: “Có ai trong ấy không?” Chung Linh đưa mắt nhìn, thấy Đoàn Dự không trả lời thì nghĩ thầm: “Không chừng đây là Vương cô nương, cô nàng đang đi cùng biểu huynh nên Đoàn công tử không muốn gặp mặt.” Nàng rất muốn nhìn xem Vương cô nương nguyệt thẹn hoa nhường thế nào mà khiến cho Đoàn Dự phải điên đảo thần hồn nhưng lại không dám cử động. Nàng nghĩ: “Đoàn công tử mà thấy mặt Vương cô nương tất sẽ có chuyện không hay. Ta cứ để mặc cô nàng kêu gọi là hơn, chắc không thấy ai rồi sẽ cùng biểu huynh bỏ đi thôi.”

A Tử càng gọi lớn hơn: “Nhà này chết sạch rồi hay sao mà không thấy ai ra? Nếu không chịu ra, bản cô nương sẽ phóng hỏa đốt nhà!” Chung Linh nghĩ thầm: “Con nhãi Vương cô nương này hung dữ thật!” Bỗng Du Thản Chi khẽ nói: “Đừng lên tiếng! Lại có người đến!” A Tử hỏi: “Ai vậy? Bọn Cái Bang phải không?” Du Thản Chi đáp: “Có đến bốn năm người, chắc là bọn Cái Bang. Chúng ở phía này đi tới.” A Tử nói: “Mấy tên trưởng lão Cái Bang đã sinh lòng phản bội công tử. Nếu gặp bọn chúng thì hai ta đều nguy mất!” Du Thản Chi hỏi: “Bây giờ biết làm thế nào?” A Tử đáp: “Hãy vào trong ẩn nấp rồi sẽ tính. Công tử bị thương nặng lắm, không thể động thủ với chúng được đâu.”

Đoàn Dự thầm kêu khổ, vội vẫy tay ra hiệu cho Chung Linh tìm cách lẩn tránh. Nhưng đây chỉ là một căn nhà bé nhỏ thô sơ của nông phu, buồng trong rất hẹp, người ngoài vào tới nơi là nhìn thấy ngay, không có chỗ nào nấp được. Chung Linh nhìn khắp bốn phía, chưa biết ẩn vào đâu thì đã nghe tiếng bước chân, hai người ngoài nhà trước đang tiến lại phía cửa buồng. Nàng khẽ bảo Đoàn Dự: “Nấp vào dưới gầm lò sưởi vậy.” Rồi nàng không đợi trả lời, bế xốc chàng lên, cả hai chui vào gầm lò sưởi. Trên núi Thiếu Thất, từ tháng mười trở đi khí trời rất lạnh, cư dân ở đây phải đốt lò sưởi cho ấm. Hiện giờ đang giữa mùa hạ, lò sưởi để không, nhưng dưới gầm lò cũng đầy tro than. Đoàn Dự vừa chui vào, hít phải bụi than suýt nữa hắt hơi, phải cố nhịn.

Chung Linh để chàng tựa vào mình rồi nhìn ra ngoài, thì thấy đôi chân nhỏ đi giày bằng đoạn tía tiến vào phòng. Bỗng nghe chàng trai nói: “Hỡi ơi! Tại hạ bắt cô nương cõng trên lưng, chạy lui chạy tới như vậy thật là mạo phạm quá rồi.” Thiếu nữ nói: “Tình trạng của chúng ta hiện giờ đúng là người mù cõng người què, phải nương tựa vào nhau mà sống.” Chung Linh hết sức ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Té ra Vương cô nương là người mù. Cô nàng cõng biểu huynh trên lưng, nên mình không trông thấy chân của gã.” A Tử đặt Du Thản Chi xuống giường Rồi nói: “Ối chà! Cái giường này vừa có người nằm, hãy còn nóng hổi.”

Bỗng nghe đánh sầm một tiếng, cửa ngoài bị đạp tung ra rồi mấy người tiến vào. Một người lên giọng ồm ồm: “Trang Bang chủ! Đại sự trong bang còn chưa xong, Bang chủ đã vội bỏ đi là nghĩa làm sao?” Người này chính là Tống trưởng lão, lão dẫn hai tên đệ tử bảy túi, hai tên sáu túi đến vùng này tìm Du Thản Chi.

Lúc cha con họ Tiêu, cha con họ Mộ Dung, quần tăng chùa Thiếu Lâm cùng quần hùng Trung Nguyên ầm ập chạy lên chùa Thiếu Lâm rồi, bọn Cái Bang thấy hôm nay đã mất hết thể diện, nếu không gấp rút tìm biện pháp xử lý thì bang hội lớn nhất Trung Nguyên khó lòng còn đất đứng trong võ lâm. Họ thấy mối thù oán lâu năm giữa cha con họ Tiêu và Mộ Dung Bác không liên quan gì đến mình, nên không muốn nhúng tay vào. Tuy họ muốn phục thù trận đấu khẩu với Bao Bất Đồng, cũng muốn tìm Tiêu Phong, nhưng đành tạm thời gác lại để thương lượng kế hoạch về sau. Mọi người đều nhất trí là phải lập được một vị Bang chủ anh hùng để lãnh đạo công cuộc phục hưng danh dự cho Cái Bang. Lúc họ đi tìm Trang Tụ Hiền thì không biết trong lúc lộn xộn gã đã trốn đâu rồi. Quần cái nghĩ rằng hai chân y đã bị gãy, không thể chạy xa được, liền chia đi các ngả để tìm kiếm, cũng chưa tính đến chuyện sau khi gặp gã sẽ xử trí thế nào. Nhưng dù sao thì Trang Tụ Hiền cũng không thể tiếp tục làm Bang chủ Cái Bang được nữa, về điểm này quần cái đã chúng khẩu đồng từ, không ai dị nghị. Mọi người đều lớn tiếng kể tội hắn, nào là vứt bỏ danh dự Cái Bang mà đi bái Tinh Tú Lão Quái làm sư phụ, nào là đã giết huynh đệ bản bang, nhất định phải bắt về tính sổ. Toàn Quan Thanh thì trước đó đã bị Tống Ngô hai vị trưởng lão hợp lực bắt trói lại, chờ tìm được Trang Tụ Hiền sẽ xử lý luôn thể.

Tống trưởng lão dẫn bốn tên đệ tử đi về phía đông nam núi Thiếu Thất để tìm kiếm. Lão trông thấy từ dằng xa có bóng áo tía thấp thoáng tiến vào một căn nhà. Mọi người đuổi theo, nhìn rõ là A Tử, mà trên lưng nàng lại cõng một người hao hao giống Trang Tụ Hiền, liền rượt đến tận nơi, xông vào trong buồng thì quả nhiên thấy Trang Tụ Hiền cùng A Tử đang ngồi trên lò sưởi.

A Tử lạnh lùng đáp: “Tông trưởng lão! Trưởng lão vẫn xưng hô là Bang chủ, sao lại la gọi ầm ĩ, không giữ qui củ của thuộc hạ muốn yết kiến Bang chủ?” Tống trưởng lão ngẩn ra, biết lời nàng cũng có lý, liền đáp: “Bang chủ! Mấy ngàn huynh đệ bọn thuộc hạ đều đang ở trên núi Thiếu Thất, bây giờ phải đi theo ai? Xin Bang chủ chỉ thị cho!” Du Thản Chi đáp: “Các ngươi còn coi ta là Bang chủ nữa không, hay chỉ muốn tìm ta về để giết cho hả giận? Nếu thế thì ta không đi đâu.” Tống trưởng lão vẫy tay bảo mấy tên đệ tử: “Các ngươi mau đi báo cho huynh đệ bản bang biết là Bang chủ ở đây.” Bốn tên đệ tử “Vâng” rồi quay người toan đi. A Tử bỗng quát lên: “Hạ thủ!” Du Thản Chỉ lập tức phóng chưởng. Chung Linh cùng Đoàn Dự ở dưới gầm lò sưởi, bỗng thấy trong phòng nổi lên một luồng gió lạnh thấu xương, bốn tên đệ tử Cái Bang không kịp la một tiếng đã chết lăn dưới đất. Tống trưởng lão vừa kinh hãi vừa tức giận, đưa tay lên trước ngực thủ thế rồi nói: “Ngươi… ngươi… Đối với huynh đệ trong bang mà ngươi lại tàn nhẫn đến thế ư?” A Tử nói: “Giết lão để bịt miệng.” Du Thản Chi lại phóng chưởng đánh ra. Tống trưởng lão giơ chưởng lên đỡ, chỉ thấy người lão bị hất tung ra ngoài, đâm vào cánh cửa nghe “sầm” một tiếng.

A Tử cười khanh khách nói: “Lão già này không sống được nữa rồi! Công tử có đói không? Chúng ta đi kiếm cái gì để ăn đã.” Nói xong, nàng cõng Du Thản Chi xuống bếp, đem cơm canh của Chung Linh đã nấu ra ăn.

Chung Linh ghé vào tai Đoàn Dự,nói thầm: “Hai đứa mặt dày kia ăn mất canh gà của muội nấu cho huynh rồi.” Đoàn Dự khẽ nói: “Bọn chúng thủ đoạn độc ác, cất tay là giết người. Khi chúng ăn xong chắc lại vào nhà, chúng ta nhân lúc này, theo cổng sau chuồn đi là hơn.” Chung Linh vốn không muốn để Đoàn Dự gặp Vương cô nương, nghe chàng nói vậy thì đúng là cầu còn chưa được.

Hai người nhẹ nhàng từ gầm lò sưởi chui ra. Chung Linh thấy Đoàn Dự mặt mũi lem luốc đầy tro bụi, không nín cười được phải giơ tay lên bịt miệng. Hai người ra khỏi cửa buồng, đi vòng ra cổng sau, bỗng dưng Đoàn Dự không nhịn được nữa, lên tiếng hắt hơi.

Du Thản Chi nghe tiếng, la lên: “Có người!” Chung Linh đưa mắt nhìn bốn mặt, không thấy chỗ nào trốn được, chỉ có kho củi đằng sau nhà bếp là kín đáo nhất, liền kéo Đoàn Dự vào nấp trong đống củi. A Tử cất tiếng hỏi: “Người nào thế? Là ma quỉ gì thì cũng chui ra đây mau!” Du Thản Chi nói: “Chắc hẳn là bọn nhà quê làm ruộng, ta bất tất phải để ý làm gì.” A Tử nói: “Sao lại không để ý? Công tử sơ sót như vậy là hay lỡ việc lắm đấy! Đừng có lên tiếng!” Từ khi A Tử bị đui mắt, thính giác nàng tinh tế hơn người, nghe có tiếng sột soạt liền nói: “Ở đây có người.”

Chung Linh bỗng thấy có giọt nước rơi vào má, giơ tay sờ thử thấy hơi đặc, mũi lại ngửi thấy mùi máu tanh, bất giác cả kinh hỏi: “Vết thương của huynh ra sao rồi?” Đoàn Dự khẽ nói: “Đừng lên tiếng!”

A Tử chỉ vào kho củi, kêu lên: “Ở hướng đó.” Du Thản Chi phóng chưởng nghe “vù” một tiếng, đánh vào kho củi. Những tiếng răng rắc vang lên, ván cửa vỡ nát, gỗ vụn và củi khô bay ra tứ tán.

Chung Linh la lên: “Đừng đánh! Đừng đánh! Để chúng ta ra!” Nàng dìu Đoàn Dự từ đống củi ra. Thì ra Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí phóng Hỏa Diệm Đao trúng ngực, bị thương rất nặng. Chàng từ trên lò sưởi chui xuống gầm, rồi lại từ gầm lò sưởi chạy ra nấp trong kho củi, di chuyển mấy lần nên vết thương vỡ ra, máu tươi lại chảy. Lúc chàng chui từ trong đống củi ra, toàn thân bê bết máu tươi lẫn với tro than lem luốc, trông rất thảm hại.

A Tử hỏi: “Lại có thanh âm con bé nào thế?” Du Thản Chi đáp: “Có một chàng trai và một cô gái nấp trong đống củi. Chàng trai đầy mình những máu, còn cô gái thì đang trợn mắt lên nhìn cô nương.” A Tử từ khi bị đui mắt rất ghét ai nói đến tiếng “mắt”, nghe Du Thản Chi nói vậy liền động tâm, hỏi lại: “Con bé đó đang trợn mắt nhìn ta ư? Mắt nó có đẹp không?” Du Thản Chi không hiểu tâm sự nàng đang bực tức, liền đáp: “Người cô ta dơ dáy, chắc là con gái nhà nông. Nhưng mắt cô ta lại đen láy, linh hoạt vô cùng.” Chung Linh vừa nấp dưới gầm lò sưởi nên đầu tóc mặt mũi đều lem luốc, nhưng cặp mắt vẫn trong như nước hồ thu.

A Tử ghen tức, đột nhiên dã tâm nổi lên, nói: “Trang công tử, móc tròng mắt nó ra đi.” Du Thản Chi thất kinh hỏi: “Tại sao lại móc mắt cô ta?” A Tử liền nói: “Cặp mắt ta đã bị Đinh Lão Quái làm cho đui mù. Vậy công tử móc mắt con bé này mà lắp vào, cho ta được nhìn thấy ánh mặt trời. Như vậy chẳng tốt hay sao?”

Du Thản Chi ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ thầm: “Giả tỉ nàng lại nhìn rõ, nàng sẽ thấy mình xấu như quỷ sứ, nhất định không thèm để ý đến mình nữa. Không chừng nàng nhận ra mình là Thiết Sửu thì lại cực kỳ rắc rối. Việc này vạn vạn lần không thể được.” Gã nghĩ vậy liền nói: “Giả tỉ tại hạ mà chữa được cặp mắt cho cô nương thì tốt quá rồi. Tại hạ chỉ sợ phương pháp này không thành công mà thôi.”

A Tử cũng biết rõ không thể móc mắt người khác mà lắp vào mắt mình để nhìn rõ được, nhưng sau khi nàng bị đui mù, trong lòng đầy oán hận, cứ muốn tất cả thiên hạ cũng dui mù như mình mới hả dạ. Nàng liền bảo: “Công tử cứ thử xem, không chừng được thì sao? Mau mau động thủ đi, móc mắt con bé đó ra!” A Tử cõng Du Thản Chi trên lưng, rảo bước tiến tới. Chung Linh nghe hai người đối đáp thì khiếp sợ vô cùng, vội bỏ chạy như điên, chớp mắt đã cách xa mười trượng. A Tử đã đui mắt lại cõng Du Thản Chi trên lưng, dĩ nhiên không thể đuổi kịp Chung Linh. Nàng không thấy gì, chỉ dùng tai nghe phương hướng, rất dễ lầm lẫn.

A Tử nghe tiếng chân Chung Linh đã đi xa, biết không đuổi kịp, bèn la lên: “Con nhãi kia đã chạy thoát, vậy bọn ta đánh chết thằng lỏi kia cũng được rồi!”

Chung Linh nghe thấy bất giác cả kinh, liền dừng chân quay đầu nhìn lại thì thấy Đoàn Dự nằm lăn dưới đất, bên mình chàng máu tươi đã chảy thành vũng. Nàng đành chạy trở lại quát lên: “Con mù kia! Mi dám sát hại chàng ư?” Lúc này nàng đứng đối diện với A Tử, nhìn rõ diện mạo cô này xinh đẹp, quả nhiên là một tiểu mỹ nhân. Nàng không hiểu tại sao người đẹp thế này mà lòng dạ lại tàn ác thế kia.

A Tử bỗng quát lên: “Điểm huyệt con bé này đi!” Du Thản Chi tuy không muốn, nhưng A Tử bảo gì thì gã không dám trái lệnh. Lúc gã còn ở phủ Nam Viện đại vương tại Nam Kinh nước Đại Liêu đã thế rồi, về sau làm Bang chủ Cái Bang cũng vẫn thế. Gã bèn giơ ngón tay ra điểm đánh “véo” một tiếng, Chung Linh ngã lăn ra đất.

Chung Linh la lên: “Vương cô nương! Cô nương dứt khoát không nên đả thương y. Lúc nằm mơ… y vẫn gọi tên cô nương đó! Đối với cô nương, y quả có chân tình một lòng một dạ.” A Tử lấy làm kỳ, hỏi: “Ngươi nói cái gì? Ai là Vương cô nương?” Chung Linh đáp: “Cô… cô không phải là Vương cô nương ư? Vậy cô là ai?”

A Tử tủm tỉm cười nói: “Lúc nãy ngươi thóa mạ ta là con mù. Bây giờ thì chính ngươi sắp mù lòa rồi, còn hỏi lăng nhăng gì nữa? Ta khuyên ngươi, trong lúc còn cặp mắt thì phải tranh thủ nhìn chung quanh càng nhiều càng tốt.” Rồi nàng đặt Du Thản Chi xuống đất, ra lệnh: “Móc mắt con bé kia đi!”

Du Thản Chi “Vâng” một tiếng rồi vươn tay ra nắm lấy đầu Chung Linh. Chung Linh hốt hoảng kêu rú lên: “Đừng móc mắt ta! Đừng móc mắt ta!”

Đoàn Dự nằm thẳng cẳng dưới đất, thần trí không tỉnh táo lắm, nhưng cũng biết rằng hai người kia đang định móc mắt Chung Linh để gắn cho A Tử. Chàng cũng biết Chung Linh đã thoát thân rồi, chỉ vì muốn cứu mình mà bị bắt, liền hít mạnh một hơị chân khí rồi la lên: “Các ngươi… móc luôn cả mắt ta đây nữa! Chúng ta là người một nhà… thêm vào càng tốt…”

A Tử không hiểu chàng nói gì, cũng không hỏi nữa, lên tiếng giục Du Thản Chi: “Sao ngươi chưa động thủ?” Du Thản Chi không biết làm gì hơn, lại “Vâng” một tiếng, rồi kéo Chung Linh lại gần, giơ ngón tay giữa ra toan móc mắt nàng.

***

Bỗng nghe thanh âm nữ nhân la lên: “Trời ơi! Các ngươi làm gì vậy?” Du Thản Chi ngẩng đầu lên, lập tức sắc mặt xám ngắt. Gã thấy dưới gốc cây liễu bên khe suối có hai chàng trai và bốn cô gái đang đi tới. Hai chàng trai là Tiêu Phong và Hư Trúc. Còn bốn cô gái là Tứ kiếm: Mai, Lan, Cúc, Trúc.

Tiêu Phong nhanh mắt, vừa nhìn đã thấy ngay Đoàn Dự nằm dưới đất. Chàng vội nhảy vọt tới bế Đoàn Dự lên, chau mày nói: “Vết thương lại vỡ, ra nhiều máu lắm!”. Tiêu Phong quì chân trái xuống, để người chàng dựa lên đùi mình, xem xét vết thương. Hư Trúc chạy lại gần nhìn rồi nói: “Đại ca bất tất phải hoang mang. Tiểu đệ có Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn, trị thương rất linh nghiệm.” Hư Trúc nói xong, giơ tay ra điểm vào vết thương Đoàn Dự để cầm máu, rồi lấy Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn cho chàng uống.

Đoàn Dự khẽ gọi: “Đại ca! Nhị ca! Đừng… đừng để chúng móc mắt Chung cô nương! Chung cô nương là hảo muội tử của… của đệ.” Tiêu Phong và Hư Trúc đồng thời quay nhìn Du Thản Chi, gã này trong lòng sợ hãi, đang nắm đầu Chung Linh vội buông ra.

A Tử nhận ra thanh âm của Tiêu Phong, liền hỏi: “Tỉ phu! Tỉ tỉ lúc lâm tử đã dặn tỉ phu những gì? Tỉ phu đã đánh chết tỉ tỉ, mà cả những lời tỉ tỉ dặn dò cũng quên hết rồi sao?” Tiêu Phong nghe A Tử nhắc đến A Châu thì vừa thương tâm vừa oán hận, chàng hắng giọng một tiếng chứ không trả lời. A Tử lại nói: “Tỉ phu chẳng chiếu cố gì đến muội. Đinh Lão Quái làm muội đui mắt, tỉ phu cũng chẳng quan tâm. Tỉ phu! Ai cũng bảo tỉ phu là đệ nhất anh hùng trong thiên hạ, thế mà chẳng bảo vệ được cho đứa em bé nhỏ. Chẳng lẽ tỉ phu không có bản lĩnh đáng kể chăng? Hừ! Đinh Lão Quái rõ ràng không địch nổi tỉ phu kia mà? Có điều tỉ phu chẳng muốn quan tâm chiếu cố đến muội mà thôi.”

Tiêu Phong nói: “Ngươi đột nhiên không từ biệt bỏ đi thì ta biết là ngươi đi đâu? Nhưng cặp mắt ngươi đã mù, mà ta bảo vệ không chu toàn, thì cũng không phải với ngươi.”

Lúc đầu Tiêu Phong thấy A Tử tàn ác sai người móc mắt Chung Linh thì trong lòng tức giận vô cùng, nhưng thấy cặp mắt nàng lờ đờ, lại nhớ ngay tới lời dặn của A Châu lúc lâm tử mà không bao giờ chàng quên được. Thảm kịch trong dĩ vãng lại hiện ra trước mắt. Hôm ấy trời mưa to gió lớn, A Châu bị chàng đánh lầm một đòn chí mạng bên cây cầu đá xanh. Nàng đã dặn: “Tiểu muội chỉ có một đứa em cùng cha khác mẹ, từ thuở nhỏ hai chị em không được ở với nhau, khẩn cầu Kiều ca ca chiếu cố cho nó. Tiểu muội vẫn lo lắng là nó đi nhầm đường.” Chàng đã đáp: “Đừng nói một điều, cho dù cả trăm ngàn điều, tiểu huynh cũng ưng chịu.” Thế mà A Tử suốt đời đi theo tà đạo, lại hỏng cả hai mắt rồi. Chàng lẩm bẩm: “Bất luận nó làm nên tội vạ gì, mà mình không bảo vệ được chu đáo, thì cũng là không giữ lời hứa với A Châu” Tiêu Phong nghĩ tới đây, trong lòng chua xót, nét mặt dịu lại.

A Tử tuy không nhìn thấy mặt Tiêu Phong, nhưng nàng hiểu rất rõ, chỉ cần nhắc đến A Châu thì dù việc khó đến đâu, chàng cũng thuận theo. Nàng căm hận Chung Linh mắng mình là “con mù” bèn rủa thầm: “Ta phải cho mi nếm mùi vị đui mù mới được.” Nàng liền làm mặt buồn rười rượi, thở dài, nhìn Tiêu Phong nói: “Tỉ phu ơi! Mắt tiểu muội đui mù rồi, chẳng nhìn thấy gì hết, thà chết đi còn hơn.”

Tiêu Phong an ủi nàng: “Ngươi hãy theo gia gia quay về Đại Lý. Vương phủ cực kỳ phú quý, có trăm ngàn kẻ hầu người hạ, thì dù ngươi đui mắt cũng không đến nỗi khó chịu cho lắm.” A Tử nói: “Mẫu thân tiểu muội không phải là Vương phi thật sự. Tiểu muội về Đại Lý, không chừng lại gặp những chuyện bất ngờ phiền phức. Huống chi muội đã đui mù, khó mà đề phòng được kẻ khác âm mưu ám hại.” Tiêu Phong thấy nàng nói cũng có lý, liền bảo: “Vậy ngươi theo ta về Nam Kinh để ta phái người phục thị, thì chẳng còn lo gì nữa. Như thế không tốt hơn là trôi nổi trên chốn giang hồ nguy hiểm sao?” A Tử nói: “Lại trở về Vương phủ của tỉ phu ư? Trời ơi! Trước kia, tiểu muội chưa bị đui mắt mà còn buồn đến sinh bệnh, bây giờ còn về đó làm chi nữa? Tỉ phu lại chẳng giống như Trang Bang chủ nhất nhất nghe lời tiểu muội. Tiểu muội thà phiêu bạt giang hồ điên đảo, còn có được một chút sinh thú.”

Tiêu Phong liếc nhìn Du Thản Chi, nghĩ bụng: “Mình chẳng nên dây vào việc này nữa. Xem chừng A Tử thân thiết với tên Trang Bang chủ Cái Bang lắm rồi.” Chàng chợt cảm thấy chán ghét Du Thản Chi, nhìn ra phía khác rồi hỏi: “Ngươi đã hỏi rõ lai lịch của Trang huynh chưa?” A Tử đáp: “Dĩ nhiên là tiểu muội đã hỏi rồi. Nhưng nghe người ta tự kể lai lịch mình thì chưa chắc đã tin hoàn toàn được. Trước kia tỉ phu làm Bang chủ Cái Bang, có chịu nói cho người ta biết mình là người Khất Đan không?”

Tiêu Phong thấy nàng cứ mở miệng là châm chọc mình thì rất khó chịu, đằng hắng một tiếng rồi không nói gì nữa. Chàng chưa quyết định được là có nên bỏ mặc cho A Tử đi theo Trang Tụ Hiền hay không.

A Tử lại hỏi: “Tỉ phu! Tỉ phu không chiếu cố gì đến tiểu muội nữa ư?” Tiêu Phong chau mày hỏi lại: “Ngươi muốn ta làm gì bây giờ?” A Tử đáp: “Việc này dễ lắm! Tỉ phu móc cặp mắt con bé kia, gắn vào cho tiểu muội.” Ngừng một lát nàng nói tiếp: “Trang Bang chủ đã nghe lời tiểu muội, chịu làm việc này. Nếu tỉ phu không đến phá đám thì đã xong xuôi rồi. Hừ! Tiểu muội biết tỉ phu đối với tiểu muội rất tốt. Trước kia, tỉ phu bế tiểu muội ra Quan Đông để chữa thương, ngày ấy tiểu muội bảo gì, tiểu phu cũng chiều ý mà làm. Chúng ta cùng ở trong lều, tỉ phu ôm tiểu muội suốt ngày suốt đêm không rời nửa bước. Thế mà bây giờ tỉ phu quên hết rồi ư?”

Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thì nổi ghen, quắc mắt nhìn Tiêu Phong đầy vẻ hung dữ, tựa như muốn bảo: “A Tử cô nương là của ta. Từ đây về sau, ngươi đừng có đụng vào.”

Tiêu Phong không để ý đến gã, thản nhiên đáp: “Ngày ấy, ngươi bị trọng thương, ta phải truyền chân khí để duy trì mạng sống cho ngươi. Ngươi có sống thì mới tìm thầy chữa thuốc được, nên ta phải chiều theo ý ngươi. Bây giờ thì cô nương này là bạn của nghĩa đệ ta, hà cớ gì ta lại đi móc mắt cô để ghép cho ngươi? Huống chi trên đời làm gì có thứ y thuật này, làm sao ghép mắt được? Ngươi quên chuyện đó đi.”

Đột nhiên Hư Trúc nói xen vào: “Tiểu đệ thấy cặp mắt Đoàn cô nương chỉ bị hư hỏng bên ngoài thôi, nếu có mắt người sống thay vào, thì không chừng lại trông rõ cũng nên.” Phái Tiêu Dao vốn có y thuật thần thông, tỉ như sư điệt Hư Trúc là Diêm vương địch Tiết Thần Y chẳng hạn. Hư Trúc tuy không hiểu biết nhiều về y thuật, nhưng y từng đi theo Thiên Sơn Đồng Mỗ mấy tháng, đã được nghe mụ kể về những vụ nối tay, ghép chân.

A Tử reo lên mệt tiếng vui mừng, hỏi: “Hư Trúc tiên sinh! Tiên sinh nói thật hay là gạt ta?” Hư Trúc đáp: “Người xuất gia không biết nói dối…” Y chưa dứt lời, sực nhớ ra mình không còn là người xuất gia nữa thì thẹn đỏ mặt lên, nói tiếp: “Tại hạ không lừa gạt cô đâu, bất quá… bất quá…” A Tử hỏi ngay: “Bất quá cái gì? Hư Trúc tiên sinh! Tiên sinh đã cùng tỉ phu ta kết nghĩa kim lan, vậy chúng ta là người một nhà. Tiên sinh vừa nghe tỉ phu ta nói đó, người thương ta lắm. Tỉ phu! Tỉ phu! Bất luận thế nào, tỉ phu cũng phải nhờ nghĩa đệ chữa mắt cho tiểu muội!” Hư Trúc nói: “Tại hạ từng nghe sư bá bảo: Nếu mắt ai chưa bị hư hỏng hoàn toàn, thì có thể lấy tròng mắt người sống thay vào cho sáng được. Nhưng tại hạ lại chưa biết cách đổi mắt.”

A Tử nói: “Thế thì nhất định sư bá tiên sinh biết cách chữa. Xin tiên sinh năn nỉ lão nhân gia chữa trị cho ta.” Hư Trúc thở dài nói: “Sư bá tại hạ đã bất hạnh qua đời rồi.” A Tử giậm chán la lên: “Té ra tiên sinh chỉ cố ý làm ta mừng hụt thôi.” Hư Trúc lắc đầu lia lịa đáp: “Không phải thế! Không phải thế! Tại cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu có rất nhiều sách thuốc, chắc là sách dạy cách thay mắt cũng cất trong cung này. Bất quá… bất quá…” A Tử vừa mừng rỡ, vừa băn khoăn hỏi: “Tiên sinh là đại trượng phu thì phải ăn nói cho dứt khoát, sao cứ bất quá bất quá hoài?” Hư Trúc đáp: “Nhưng mỗi người cũng chỉ có một đôi mắt, ai mà chịu đổi cho cô nương?” A Tử cười hì hì đáp: “Ta cứ tưởng chuyện gì khó lắm, chứ tìm mắt của người sống thì dễ quá. Tiên sinh cứ móc mắt của vị tiểu cô nương kia là được.”

Chung Linh thét lên: “Không được! Không được! Các ngươi không được móc mắt ta.”  Hư Trúc nói: “Đúng lắm! Cứ suy bụng ta ra bụng người, cô nương không muốn đui mắt thì Chung cô nương cũng không muốn đui mắt. Tuy rằng tiền thân của Thích Ca Mâu Ni khi còn là Bồ Tát, có thể đem bố thí cho người cả da thịt, đầu tóc, mắt mũi, tay chân, não tủy, nhưng Chung cô nương làm sao so sánh được với Đức Như Lai? Hơn nữa Chung cô nựơng lại rất thân thiết với tam đệ của ta…” Y nói đến hai chữ thân thiết thì trong lòng thốt nhiên rung động, la thầm: “Trời ơi! Hỏng rồi! Ngày nọ ở cung Linh Thứu, mình cùng tam đệ uống rượu thổ lộ tâm tình, thì ra ý trung nhân của y chính là Mộng Cô của mình. Bây giờ xem chừng Chung cô nương với tam đệ lại rất thân thiết, đến mức y bảo A Tử móc mắt y chứ đừng làm hại đến nàng. Trong ngũ quan tứ chi của con người thì mắt là trọng yếu hơn cả, tam đệ đã vì Chung cô nương mà chịu hy sinh đôi mắt thì đủ biết tình ý đối với nàng thắm thiết đến đâu. Không lẽ Chung cô nương lại là Mộng Cô đã gặp mình ba đêm trong thời gian ở nhà hầm nước đá?”

Hư Trúc nghĩ tới đây thì toàn thân run lên, quay lại nhìn trộm Chung Linh, thấy mặt nàng đầy tro bụi lem luốc, nhưng cũng không che giấu được vẻ xinh đẹp. Hư Trúc cùng Mộng Cô tuy gặp nhau những lúc khá lâu, nhưng ở trong hầm nước đá, ngày cũng tối như đêm, nên diện mạo Mộng Cô ra sao, y chẳng biết chút nào. Giả tỉ y được đưa tay ra sờ vào mặt nàng thì có thể cảm giác được, nhưng bây giờ là lúc thanh thiên bạch nhật, bao nhiêu cặp mắt nhìn vào, khi nào y dám đưa tay ra sờ mặt Chung Linh? Hư Trúc nhất thời bàng hoàng, không có chủ định.

Nghe thanh âm thì Chung Linh và Mộng Cô có chỗ khác nhau, nhưng y lại nghĩ rằng khi trước Mộng Cô chỉ thì thầm êm dịu bằng một giọng ôn nhu, còn bây giờ Chung Linh hoảng sợ thét lên thì dĩ nhiên là thanh âm không giống, về điểm này chẳng có chi là lạ. Hư Trúc chú ý nhìn Chung Linh, trong lòng tưởng tượng mình đưa tay ra nhẹ nhàng vuốt lên má nàng. Y chẳng hiểu đây có phải là Mộng Cô hay không, song nghĩ tới nàng mà rạo rực trong lòng, vẻ mặt cũng tự nhiên biến thành ôn hòa, khả ái.

Chung Linh thấy vẻ mặt Hư Trúc ôn hòa, chắc không đến nỗi móc mắt mình, nên cũng tạm yên lòng. A Tử lại nói: “Hư Trúc tiên sinh! Ta là muội tử của tam đệ tiên sinh, còn Chung cô nương bất quá mới là bạn y. Vậy muội tử với bạn hữu thì ai thân hơn, chắc tiên sinh cũng biết rồi.”

Đoàn Dự sau khi uống Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu một lúc, thì vết thương không rỉ máu ra nữa. Thần trí chàng dần dần hồi tỉnh nhưng chuyện đổi mắt gì đó chàng chỉ nghe lờ mờ, tới mấy câu sau cùng của A Tử chàng mới hiểu rõ. Chàng không nhịn được, hắng giọng rồi hỏi: “Té ra ngươi đã biết ta là huynh trưởng cùng dòng máu, thế mà sao còn kêu người toan hại mạng ta?”

A Tử cười đáp: “Muội chưa từng nói chuyện với ca ca thì làm sao biết được thanh âm của ca ca? Hôm qua nghe song thân nói chuyện, muội mới biết huynh cùng với tỉ phu muội và Hư Trúc tiên sinh đã kết thành nghĩa huynh nghĩa đệ. Thì ra vị đại anh hùng đã đánh Mộ Dung công tử tơi tả chính là ca ca của muội. Cả tỉ phu lẫn ca ca của muội đều là đại anh hùng, thật là tuyệt diệu, không thể hơn được nữa.” Đoàn Dự xua tay nói: “Đại anh hùng cái gì? Ta vừa trốn chui trốn nhủi, chỉ sợ người khác nhìn thấy, thật là xấu hổ.” A Tử cười nói: “Ái chà, ca ca đừng khách khí. Ai bảo ca ca nấp vào trong kho củi, tiểu muội có biết đâu? Cặp mắt của tiểu muội đui mù rồi chẳng nhìn thấy gì, đến lúc nghe ca ca gọi tỉ phu của muội là đại ca thì mới nhận ra.” Đoàn Dự nghe nàng nói hợp lý, liền bảo: “Nếu nhị ca biết cách chữa mắt, thì chắc chắn y sẽ tìm cách chữa cho ngươi. Còn đôi mắt của Chung cô nương thì nhất định không được đụng đến, vì cô ấy cũng là muội muội thân ái của ta!”

A Tử cười khúc khích, hỏi: “Vừa rồi ở bên kia núi Thiếu Thất, tiểu muội đã nghe ca ca liều mạng để lấy lòng Vương cô nương, thế mà sao mới trong nháy mắt, đã lại thân thiết với Chung cô nương đến thế?” Đoàn Dự nghe A Tử nói, thẹn đỏ mặt, gạt đi: “Ngươi nói nhăng nói cuội gì thế?” A Tử đáp: “Giả tỉ Chung cô nương là tẩu tẩu tiểu muội thì dĩ nhiên không thể đụng đến. Nhưng nàng không phải là tẩu tẩu, thì tại sao lại không đụng đến mắt nàng được? Tiểu muội xin hỏi ca ca: Chung cô nương có phải là tẩu tẩu tương lai của tiểu muội không?”

Hư Trúc liếc mắt nhìn Đoàn Dự, trống ngực đánh thình thình. Y chưa biết rõ Chung Linh có phải là Mộng Cô không, nếu không phải thì chẳng nói làm chi, nhưng nếu đúng là tình nhân trong mộng của mình mà Đoàn Dự lấy làm vợ thì sao được? Y đợi câu trả lời của Đoàn Dự mới trong nháy mắt mà tưởng như lâu đến hàng giờ.

Chung Linh cũng nóng lòng chờ Đoàn Dự trả lời. Nàng nghĩ thầm: “Té ra cô bé đui mù này là em gái Đoàn công tử. Chính nó cũng bảo chàng đã cố lấy lòng Vương cô nương, thì đúng là chàng yêu mến Vương cô nương thật. Thế mà vừa rồi chàng còn bảo mình là sư nương của Nhạc lão tam, lại còn chịu đem cặp mắt của chàng thay vào, cho gã kia khỏi móc mắt ta.”

Bỗng nghe Đoàn Dự đáp: “Dù sao, ta cũng không để ngươi làm hại Chung cô nương. Ngươi còn nhỏ tuổi mà đã làm những chuyện càn rỡ hung tàn. Ngay cả Chử Vạn Lý ở Đại Lý cũng bị ngươi trêu tức mà chết. Nếu ngươi còn có lòng dạ đen tối thì nhị ca ta không chữa mắt cho ngươi đâu.” A Tử bĩu môi nói: “Ca ca lại lên mặt huynh trưởng giáo huấn người ta rồi!”

Tiêu Phong thấy thần sắc Đoàn Dự hãy còn mỏi mệt, nhưng đã nói liền được mấy câu, chứng tỏ trung khí đã khá nhiều. Chàng biết rằng Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu thật là thánh dược, và tính mạng của Đoàn Dự không có gì đáng lo ngại nữa. Tiêu Phong liền nói: “Tam đệ! Chúng ta hãy vào trong nhà nghỉ một lúc rồi hãy tính.” Đoàn Dự đáp: “Phải đấy!” Rồi chàng đứng dậy. Chung Linh vội la lên: “Trời ơi! Công tử không nên cử động, kẻo vết thương lại vỡ ra mất.” Giọng nói của nàng cực kỳ quan thiết. Tiêu Phong cả mừng nói: “Nhị đệ! Thuốc trị thương của nhị đệ thật là thần diệu vô cùng!”

Hư Trúc ầm ừ mấy tiếng, trong lòng đang bâng khuâng về mấy câu nói của Chung Linh tỏ vẻ quan hoài đến Đoàn Dự. Tâm thần y cơ hồ chao đảo, mà cũng dường như có một cái gì mất mát.

Mọi người tiến vào trong nhà. Đoàn Dự lên giường ngồi, bọn Tiêu Phong ngồi xuống trước giường. Tứ kiếm Mai Lan Cúc Trúc, kẻ pha trà, người thổi cơm, đem lên cho Tiêu Phong, Đoàn Dự, Chung Linh và Hư Trúc, chứ không ngó gì đến Du Thản Chi cùng A Tử. A Tử trong lòng căm hận vô cùng, giả tỉ lúc bình thường, nếu nàng không ám hại bốn ả thị tì này thì cũng rũ áo bỏ đi ngay. Nhưng lúc này, nàng nghĩ tới việc chữa mắt cho sáng là quan trọng nhất, cần phải cầu khẩn đến Hư Trúc, nên đành nén lửa giận xuống không nói gì.

Tiêu Phong vốn là người hào sảng, chẳng để ý đến A Tử có tức giận hay không. Chàng tiện tay kéo cái ngăn bàn ở bên cạnh ra xem, bất giác lộ vẻ sửng sốt. Du Thản Chi cùng Hư Trúc thấy vẻ mặt chàng khác lạ, đều để ý nhìn vào ngăn kéo thì thấy bên trong toàn đồ chơi của trẻ nít như con cọp đẽo bằng gỗ, con chó nặn bằng đất, hai cái lồng đựng dế, ngoài ra còn mấy con dao nhỏ. Đó là những vật thường thấy ở nhà nông, chẳng có chi kỳ dị, nhưng Tiêu Phong cầm con hổ lên, ngẩn ra mà nhìn.

A Tử không biết chàng làm gì. Nàng vốn thích được người ta chiều chuộng, thích người ta để ý đến mình. Nhưng Tiêu Phong và Hư Trúc vì chán ghét Du Thản Chi mà hờ hững cả với nàng, không nói gì đến. Nàng tức quá, vung tay lên đập một cái trúng vào cái guồng xe sợi, bèn đưa tay ra sau lưng, rút kiếm chém chiếc guồng này đứt làm đôi.

Tiêu Phong mặt biến sắc quát lên: “Ngươi… ngươi làm gì thế?” A Tử đáp: “Cái xe này làm đau tay tiểu muội, chém nó vỡ ra thì đã sao?” Tiêu Phong tức giận thét lên: “Ngươi cút đi! Sao ngươi lại phá hủy đồ vật trong nhà này?”

A Tử xẵng giọng: “Đi thì đi!” Rồi hồng hộc bỏ đi thật. Không ngờ đang lúc nóng giận nàng đi lẹ quá, va đầu vào cửa đánh “binh” một tiếng. Nàng vẫn không nói gì, sờ soạng tìm đường rồi hấp tấp chạy tiếp. Tiêu Phong thấy thế không khỏi đau lòng, nhảy tới nắm lấy vai nàng, ôn tồn hỏi: “A Tử! Ngươi có đau không?” A Tử quay lại, nhảy xổ vào lòng chàng rồi khóc rống lên.

Tiêu Phong vỗ nhẹ vào lưng nàng, nói nhỏ: “A Tử! Ta nóng nảy với ngươi như thế là không phải.” A Tử vừa khóc vừa nói:”Tỉ phu đổi tính rồi! Tỉ phu đối với tiểu muội không tốt như trước nữa.” Tiêu Phong nói: “Ngươi hãy ngồi xuống đây uống trà đã.” Rồi bưng chén trà kề vào miệng A Tử, tay trái quàng lấy lưng nàng. Ngày trước A Tử bị Tiêu Phong đánh gãy xương sườn, chàng đã săn sóc nàng hơn một năm trời, đút cơm rót nước, thay quần áo, chải đầu, bất cứ việc gì chàng cũng tự tay làm. Một là do nhớ tới di ngôn của A Châu, hai là tự trách mình quá nặng tay làm nàng bị thương, nên chàng tận tâm phục thị, coi nàng như em gái, tuyệt không nghĩ đến tư tình nam nữ. Ngày ấy A Tử bị gãy xương không thể ngồi được, khi chàng đổ thuốc cho A Tử phải dùng tay giữ nàng ngồi. Đã thành thói quen, bây giờ cho nàng uống trà chàng cũng giữ như vậy. A Tử ngồi trong vòng tay Tiêu Phong uống trà, sung sướng mỉm cười hỏi: “Tỉ phu! Bây giờ tỉ phu còn đuổi muội đi nữa không?”

Tiêu Phong buông nàng ra, quay lại đặt chén trà lên bàn. Lúc này trời đã gần tối, đột nhiên mắt chàng chạm phải mục quang hung dữ chiếu thẳng vào mặt chàng như hai ngọn đèn. Tiêu Phong hơi giật mình nhìn lại, thì ra là Du Thản Chi đang ngồi dưới đất trong góc nhà, nghiến răng ken két, mũi thở phập phồng, đường như chỉ muốn nhảy xổ lại mà cắn. Tiêu Phong tự hỏi: “Không hiểu gã này lai lịch ra sao, thái độ của gã thật là cổ quái.” Bỗng nghe A Tử hỏi: “Tỉ phu! Tiểu muội phá vỡ cái guồng, sao tỉ phu lại giận dữ như thế?” Tiêu Phong thở dài đáp: “Đây là nhà nghĩa phụ, nghĩa mẫu ta. Ngươi chém hỏng cái guồng xe sợi của nghĩa mẫu ta, khiến ta đau lòng.” Mọi người giật mình kinh hãi.

Tiêu Phong cầm con cọp nhỏ bằng gỗ trên tay, chăm chú nhìn. Ngọn đèn tù mù hắt cái bóng to lớn của chàng lên bức tường đất. Mấy ngón tay chàng dịu dàng ve vuốt trên lưng con cọp gỗ, mặt lộ vẻ yêu thương, rồi cất tiếng nói: “Con cọp này là do nghĩa phụ đẽo cho ta. Hồi đó ta mới năm tuổi, nghĩa phụ… khi đó, ta gọi bằng gia gia… ngồi bên ngọn đèn dầu này mà gọt đẽo, còn má má ngồi bên chiếc guồng này. Ta ngồi dưới chân gia gia, thấy ông khắc con cọp đã có tai có mũi, trong lòng hết sức hứng thú…”

Đoàn Dự cất tiếng hỏi: “Đại ca! Có phải đại ca đã cứu tiểu đệ đến đây hay chăng?” Tiêu Phong gật đầu đáp: “Đúng thế.”

***

Thì ra lúc vị lão tăng vô danh kia đang thuyết pháp cho mọi người nghe, Cưu Ma Trí đột nhiên hạ độc thủ đả thương Đoàn Dự. Vị lão tăng liền phất tay áo bào hất Cưu Ma Trí ra xa mấy trượng, lão không dám chần chừ, băng mình xuống núi chạy trốn mất.

Tiêu Phong thấy Đoàn Dự bị trọng thương, vội vàng lại cứu cấp. Huyền Sinh đại sư chùa Thiếu Lâm đã cho linh dược trị thương, nhưng Đoàn Dự trúng Hỏa Diệm Đao cực kỳ lợi hại của Cưu Ma Trí. Giả tỉ nội lực chàng không thâm hậu, kình lực không tự nhiên phát sinh đề kháng, thì chiêu đao này phải giết chết chàng ngay tại chỗ.

Tiêu Phong thấy giữa nơi hoang dã, gió núi thổi rất mạnh, người bị thương mà gặp phải gió này thì không tốt. Chàng liền ẵm Đoàn Dự chạy về căn nhà cũ ngày xưa, đặt lên lò sưởi, rồi lập tức quay lại để gặp phụ thân, đồng thời bố trí cho mười tám võ sĩ Khất Đan đã theo mình đến đây. Chàng không ngờ nhà của nghĩa phụ nghĩa mẫu vốn bỏ hoang mà mấy hôm nay lại có người đến ở, người đó lại có quan hệ với Đoàn Dự.

Lúc Tiêu Phong trở lại chùa Thiếu Lâm thì mọi chuyện đã xong. Mối tử thù mấy chục năm trời giữa Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác đã được vị lão tăng vô danh đem Phật pháp ra điểm hóa. Chẳng những hai lão trút bỏ được mối thù xưa mà còn trở nên sư huynh, sư đệ.

Tiêu Viễn Sơn ở lại chùa Thiếu Lâm xuất gia thì những bí lục võ công phái Thiếu Lâm không bị rò rỉ truyền sang nước Liêu, quần hùng Trung Nguyên không phải lo gì đến hiểm họa này nữa. Tiêu Phong cùng Trang Tụ Hiền đã bỏ đi không thấy tăm tích. Mười tám võ sĩ Khất Đan thì được cung Linh Thứu che chở, chẳng ai gia hại được. Các lộ anh hùng thấy đại sự xong xuôi đều lục tục cáo từ xuống núi. Lúc Tiêu Phong trở lại chùa Thiếu Lâm thì quần hùng đang rút lui. Chàng không muốn lại gây tranh chấp, liền nấp vào một hang núi, chờ tối mịt mới vào chùa, định gặp phụ thân để hàn huyên cho thỏa mấy chục năm trời ly biệt.

Không ngờ tri khách tăng của chùa Thiếu Lâm vào bẩm rồi quay ra bảo Tiêu Phong: “Tiêu cư sĩ! Lệnh tôn đã ở lại bản tự xuất gia. Người bảo tiểu tăng ra nhắn lại, là từ đây người đã dứt lòng trần tục để trong tâm thanh thản, cư sĩ đừng lo nghĩ gì nữa. Chỉ mong sau này cư sĩ làm quan ở Đại Liêu thì cố giữ cho hai nước Tống, Liêu đừng xảy chuyện binh đao, nếu vua Liêu có ý xâm phạm đất Tống, thì xin cư sĩ mở dạ từ bi, nghĩ đến muôn vạn sinh linh hai nước.”

Tiêu Phong chắp tay kính cẩn đáp: “Xin tuân pháp dụ.” Trong lòng chàng không khỏi bùi ngùi, nghĩ thầm: “Phụ thân mình đã cao niên, bây giờ không được tương kiến thì ngày sau e rằng cũng khó lòng gặp lại.” Chàng đang làm Nam Viện đại vương nước Đại Liêu, nhận trọng trách trấn giữ biên cương, bây giờ định được chủ ý: “Nếu Đại Tống dẫn quân xâm lấn Đại Liêu thì mình điều binh khiển tướng, ngăn cản Nam quân không cho Bắc tiến. Còn hoàng thượng Đại Liêu có phát binh đánh Tống, thì mình phải cực lực can ngăn.”

Lúc đó bỗng nghe tiếng chân người, bảy tám vị lão tăng từ trong chùa đi ra. Chính là bọn Thần Sơn Thượng Nhân, Đạo Quang, Triết La Tinh, mấy vị khách tăng chia tay trở về bản tự. Bọn Huyền Tịch, Huyền Sinh theo ra tiễn chân. Ba La Tinh đứng ở phía sau Huyền Tịch. Ai nấy đều chắp tay tiễn khách.

Triết La Tinh nói: “Sư đệ! Hôm nay ta từ biệt trở về Thiên Trúc. Từ đây quan san muôn dặm, biết ngày nào mới được trùng phùng? Sư đệ quyết ý không trở về cố hương nữa, định bỏ mình ở Trung Nguyên hay sao?” Ba La Tinh cười đáp: “Sao sư huynh còn chưa giác ngộ? Thiên Trúc cũng là Trung Thổ mà Trung Thổ cũng là Thiên Trúc. Trước kia Đạt Ma tổ sư cũng đã đông lai đấy thôi!” Triết La Tinh trong lòng rung động nói: “Một lời của sư đệ chỉ điểm làm cho ta tỉnh ngộ. Ngươi không phải là sư đệ ta nữa, mà là sư phụ ta.” Ba La Tinh tươi cười nói: “Chẳng nên phân biệt nhập thiền trước hay sau, giác ngộ sớm hay muộn. Sớm cũng thế mà muộn cũng thế, hễ giác ngộ là được.” Sau đó hai người nhìn nhau cười rạng rỡ.

Tiêu Phong né qua một bên, chờ cho bọn Thần Quang, Đạo Thanh, Triết La Tinh xuống núi rồi, chàng mới từ từ theo sau. Chàng vừa đi được mấy bước thì trong chùa lại có một người nữa đi ra, chính là Hư Trúc. Hư Trúc thấy Tiêu Phong thì cả mừng, bước đến hỏi: “Đại ca! Tiểu đệ đang đi tìm đại ca khắp nơi. Tiểu đệ nghe nói tam đệ bị trọng thương mà không hiểu thương thế ra sao.” Tiêu Phong đáp: “Hay lắm! Tam đệ không sao đâu!” Hai người sóng vai mà đi được chừng mười trượng thì bốn cô Mai, Lan, Trúc, Cúc cũng từ trong rừng chạy theo. Hư Trúc hỏi đến quần nữ cung Linh Thứu và quần hào ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, thì đều đã xuống núi cả rồi. Mười tám võ sĩ Khất Đan cũng đi cùng, chắc quần hào Trung Nguyên không dám động đến. Tiêu Phong ngỏ lời cảm tạ, nghĩ bụng: “May mà tam đệ thay ta kết nghĩa kim lan với vị nghĩa đệ này, hết sức giúp ta trong cơn hoạn nạn.”

Hư Trúc còn nói đã đem Đinh Xuân Thu giao cho Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm quản cố. Cứ mỗi năm hai lần, vào tiết Đoan Ngọ và tiết Trùng Dương thì chùa Thiếu Lâm sẽ cho hắn uống thuốc của cung Linh Thứu để Sinh Tử Phù khỏi phát tác. Sinh mạng hắn nằm trong tay người, chắc không còn dám làm điều càn rỡ nữa. Tiêu Phong vỗ tay cả cười nói: “Nhị đệ! Nhị đệ đã trừ cho võ lâm được một mối hại lớn. Đinh Xuân Thu được Phật pháp rèn luyện, rồi đây sẽ trừ khử được ác tính cũng chưa biết chừng.” Hư Trúc rầu rầu nét mặt nói: “Tiểu đệ xuất gia tại chùa Thiếu Lâm thì bị sư tổ, sư phụ đuổi ra khỏi sơn môn, còn lão Đinh Xuân Thu kia làm những chuyện bạo thiên nghịch địa, tội ác ngập đầu, lại được ở chùa Thiếu Lâm thanh tu, như vậy thật là bất công.” Tiêu Phong tủm tỉm cười nói: “Nhị đệ! Ngươi ao ước được như Đinh Lão Quái, thì Đinh Lão Quái lại càng ao ước được như ngươi. Ngươi làm chủ nhân cung Linh Thứu, cầm đầu ba mươi sáu Động chúa, bảy mươi hai Đảo chúa, oai danh vang lừng thiên hạ, còn gì tốt đẹp bằng.”

Hư Trúc lắc đầu nói: “Cung Linh Thứu toàn là nữ nhân, chỉ có mình tiểu đệ là nhà sư trẻ, ở lẫn với họ có điều bất tiện.” Tiêu Phong cười ha hả nói: “Bây giờ nhị đệ có còn là tiểu hòa thượng nữa đâu?” Hư Trúc lại nói: “Bọn tiểu nhân chỉ biết khoác lác nịnh bợ của phái Tinh Tú cứ vây quanh người đệ, không biết làm thế nào để đuổi chúng đi.” Tiêu Phong đáp: “Những người này cũng không phải bẩm sinh như thế, chỉ vì chúng ở dưới trướng Tinh Tú Lão Quái, nếu không khoác lác nịnh bợ thì không tránh khỏi họa sát thân. Nhị đệ, sau này ngươi cứ nghiêm khắc giáo huấn, nếu chúng nhất định không chịu sửa đổi, thì cứ xách cổ từng tên một quẳng ra khỏi cửa là xong.”

Hư Trúc nghĩ đến song thân phụ mẫu vừa trùng phùng giây lát đã vĩnh viễn phân ly, bi thương không nhịn nổi, sắp rơi nước mắt. Tiêu Phong tìm lời an ủi: “Nhị đệ! Trên đời thường gặp chuyện bất như ý. Năm xưa tiểu huynh bị trục xuất khỏi Cái Bang, bị hết thảy anh hùng hào kiệt tìm cách tru diệt cho hả dạ, ta cũng thấy đau đớn vô cùng. Chỉ một thời gian là sẽ trở lại như thường.” Đột nhiên Hư Trúc nói: “Đúng rồi! Ngày xưa Như Lai đã từng thuyết pháp ở núi Linh Thứu thành Vương Xá, hai chữ Linh Thứu cũng có duyên với Phật pháp. Rồi sẽ có lúc chúng ta đổi tên Linh Thứu Cung thành Linh Thứu Tự, cho các bà bà, tẩu tẩu, cô nương đều xuất gia làm ni cô hết.”Tiêu Phong cả cười nói: “Lúc đó trong chùa của hòa thượng trụ trì mà lại toàn là ni cô, thật là quái sự trong thiên hạ.”

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, về tới nhà của Kiều Tam Hòe đúng lúc Du Thản Chi sắp móc mắt Chung Linh, nên mới ngăn trở kịp thời.

***

Đoàn Dự hỏi: “Đại ca cùng nhị ca có thấy gia gia tiểu đệ đâu không?” Tiêu Phong đáp: “Không thấy đâu cả.” Hư Trúc nói: “Trong lúc hỗn loạn, quần hùng tranh nhau bỏ đi, tiểu huynh không được lạy chào lão bá, thật là thất lễ.” Đoàn Dự nói: “Nhị ca bất tất phải khách sáo. Có điều Đoàn Diên Khánh là kẻ đối đầu lợi hại với nhà tiểu đệ. Tiểu đệ sợ lão tìm đến gia phụ để sinh sự.” Tiêu Phong nói: “Việc đó quả là đáng lo. Tiểu huynh phải đi tìm lão bá để tiếp ứng.”

A Tử nói: “Sao tỉ phu cứ kêu người bằng lão bá tiểu bá, mà không gọi là nhạc phụ đại nhân?” Tiêu Phong thở dài đáp: “Đó là một điều mà ta ân hận suốt đời, chẳng biết nói thế nào cho phải.” Chàng nói xong, đứng dậy đi ra khỏi phòng.

Giữa lúc ấy, Mai Kiếm bưng cháo lên cho Đoàn Dự, nghe mọi người bàn bạc liền nói: “Tiêu đại hiệp! Đại hiệp bất tất phải đi tìm. Tì nữ xin chủ nhân ra lệnh cho thuộc hạ cung Linh Thứu tìm kiếm khắp nơi. Nếu Đoàn Diên Khánh cố ý hành hung lão gia thì lập tức đốt pháo hoa làm hiệu, bọn nô tì đi tiếp viện. Như vậy có được không?” Tiêu Phong cả mừng đáp: “Thế thì hay lắm! Thuộc hạ cung Linh Thứu có đến hơn ngàn người, chia đi mọi nơi tìm kiếm thì mau lẹ hơn mấy người chúng ta nhiều.”

Mai Kiếm liền đi phát hiệu lệnh. Cung Linh Thứu đã có cách liên lạc rất mau chóng. Từ lúc Hư Trúc vào nghỉ trong nhà Kiều Tam Hòe, quần nữ bộ Huyền Thiên đã được tin rồi. Phù Mẫn Nghi đã điều động bộ này tới nơi, tản mác ra các vùng phụ cận để bảo vệ cho y.

Đoàn Dự vừa yên lòng đã lại nhớ tới Vương Ngữ Yên. Chàng lẩm bẩm: “Chuyến này Vương cô nương giận ta đến cực điểm, e rằng sau này có gặp, nàng cũng không ngó ngàng gì đến ta nữa.” Rồi chàng thở dài thườn thượt.

Chung Linh rất đỗi quan hoài, hỏi ngay: “Vết thương của huynh đau lắm ư?” Đoàn Dự đáp: “Không đau lắm đâu!” A Tử nói xen vào: “Chung cô nương! Xem chừng cô nương quan tâm đến ca ca ta lắm, nhưng cô chưa hiểu được tâm sự y. Ta xem chừng y đang ôm mối tương tư, lòng dạ cực kỳ bối rối!” Chung Linh nói: “Ta có nói với ngươi đâu mà ngươi chõ miệng vào?” A Tử cười nói: “Ta chõ miệng vào cũng chả sao. Ta chỉ sợ có cô nương nào xinh đẹp ôn nhu gấp mười ngươi chen vào, thì ca ca ta sẽ bỏ rơi ngươi ngay lập tức. Tại sao ca ca ta lại thở dài, ngươi có biết không? Người ta thở dài khi nào trong lòng chưa thỏa mãn. Tỉ như ngươi được phục thị bên mình ca ca ta, trong lòng ngươi lấy làm thỏa mãn nên không thở dài. Còn ca ca ta thở ngắn thở dài, dĩ nhiên là vì y đang mơ tới người khác.” A Tử không móc được mắt Chung Linh, vẫn còn ấm ức. Bây giờ nàng tìm cơ hội châm chọc đối phương đau lòng cho bõ ghét.

Chung Linh vốn rất căm hận A Tử, nhưng nghe nàng nói mấy câu có lý thì nỗi tức giận trở thành sầu muộn. Cô còn nhỏ tuổi, tính tình hoạt bát, tuy có nghĩ tới Đoàn Dự, nhưng chưa phải là mối tình quyến luyến khắc cốt ghi xương, chỉ khi quấn quít bên chàng thì trong lòng thấy vui mừng khôn tả. Đoàn Dự đem lòng nghĩ tới người khác, không hết lòng vì cô thì dĩ nhiên cô rất khó chịu, nhưng cũng chẳng biết làm sao.

Đoàn Dự vội nói: “Chung cô nương! Cô nương đừng nghe con nhỏ đui mù này nói nhăng.” A Tử từ sau khi bị đui mắt, căm hận nhất là hai chữ đui mù. Giả tỉ Đoàn Dự bảo là nàng ăn nói hồ đồ thì cũng không sao, nhưng chàng lại nói đến hai chữ đui mù, nên A Tử nổi giận, xẵng giọng hỏi: “Ca ca! Tiểu muội hỏi thật, ca ca yêu Vương cô nương hay yêu Chung cô nương hơn? Vương cô nương đã ước hẹn với tiểu muội là ngày mai sẽ gặp nhau. Ca ca nói câu gì, tiểu muội sẽ mách nàng câu đó.” Đoàn Dự nghe vậy, ngồi bật dậy hỏi: “Vương cô nương ước hẹn ngày mai gặp ngươi ư? Gặp ở đâu? Có việc gì thương nghị?” Chung Linh thấy Đoàn Dự hốt hoảng như vậy, thì không cần nói cũng biết ngay là chàng thương nhớ kẻ tình địch kia hơn mình nhiều. May mà Chung Linh tính tình đôn hậu, vừa nghe thấy rất lấy làm khó chịu, nhưng rồi tự biết phải dằn lòng. Giả tỉ Vương Ngữ Yên ở vào địa vị Chung Linh, biết ý trung nhân của mình chia xẻ mối tình với người khác thì dù ngoài mặt thản nhiên nhưng trong lòng sẽ thê thảm đến muốn tự tử. Nếu là Mộc Uyển Thanh thì sẽ lập tức chém Đoàn Dự một nhát. Nếu là A Tử thì sẽ tìm cách hạ sát tình địch. Nhưng Chung Linh lại dịu dàng bảo chàng:”Huynh đừng ngồi dậy, phải cẩn thận kẻo vết thương lại vỡ ra chảy máu.”

Hư Trúc ngồi bên để ý quan sát mấy người, nghĩ thầm: “Chung cô nương thương yêu tam đệ sâu sắc như vậy thì chắc nàng không phải là Mộng Cô của ta. Nếu nàng đúng là Mộng Cô mà nghe tiếng ta nói thì không có lý nào lại thản nhiên được.” Nhưng rồi y lại nghĩ: “Cũng không phải! Từ sư bá Đồng Mỗ, sư thúc Lý Thu Thủy, đến Dư bà, Thạch tẩu, Phù cô nương, bao nhiêu nữ nhân đều có con mắt khác bọn nam tử hán chúng ta. Không chừng Chung cô nương chính là Mộng Cô, nàng nhận ra ta rồi mà vẫn không lộ vẻ gì, nên che mắt được ta.”

Đoàn Dự cứ hỏi dồn A Tử là ngày mai nàng hẹn gặp Vương Ngữ Yên ở đâu. A Tử thấy chàng sốt ruột thì cứ muốn trêu chọc chơi, biết đâu lại thu được gì đó. Nghĩ vậy, nàng cứ kéo dài câu chuyện.

Lúc ấy, Lan Kiếm vào báo rằng bộ Huyền Thiên đã truyền hiệu lệnh đi rồi, xin Đoàn Dự cứ yên lòng. Đoàn Dự nói: “Đa tạ tỉ tỉ đã nhọc lòng, tại hạ hết sức cảm kích.” Lan Kiếm thấy chàng là Vương tử Đại Lý, địa vị cao sang mà ăn nói không chút kiêu kỳ thì phát sinh hảo cảm. Nàng nghe Đoàn Dự hỏi mãi A Tử về cuộc ước hẹn ngày mai, không nhịn được nữa cũng nói xen vào: “Đoàn công tử! Lệnh muội nói đùa mà công tử cũng cho là thật ư?” Đoàn Dự hỏi lại: “Sao tỉ tỉ lại biết là xá muội nói đùa?” Lan Kiếm cười đáp: “Nô tỳ nói ra, chỉ sợ Đoàn cô nương trách mình nhiều chuyện. Không hiểu chủ nhân có cho phép chăng?”

Đoàn Dự vội hỏi Hư Trúc: “Nhị ca! Nhị ca bằng lòng cho vị tỉ tỉ này nói thật chứ?” Hư Trúc gật đầu, quay lại bảo Lan Kiếm: “Vị này là huynh đệ kết nghĩa với ta, cũng như chính ta vậy. Có việc gì, các ngươi bất tất phải giấu giếm.”

Lan Kiếm cười nói: “Chính mắt chủ nhân cũng nhìn thấy rồi mà! Mộ Dung công tử cùng đoàn tùy tùng đã nói là lên đường sang nước Tây Hạ, cả Vương cô nương cũng đi theo biểu huynh nàng. Hiện giờ, có lẽ bọn họ đã đi xa đến mấy trăm dặm rồi. Như vậy có lý nào lại ước hẹn cùng Đoàn cô nương tương hội ngày mai được?”

A Tử chu miệng ra nói: “Con nha đầu thối tha kia! Mi đã biết là ta sẽ mắng mi nhiều chuyện, sao còn dám nói leo? Bốn đứa bọn mi thật là lẻo mép, chủ nhân mi đang nói chuyện mà bọn mi cũng chõ miệng vào.”

Ngoài cửa sổ bỗng có thanh âm thiếu nữ nói vọng vào: “Đoàn cô nương! Sao cô nương lại mắng tỉ tỉ của ta? Cô nương nên biết, chính ta giữ chìa khóa Thần Nông Các trong cung Linh Thứu. Nếu chủ nhân của ta muốn chữa mắt cho cô nương, thì dứt khoát sẽ sai ta về Thần Nông Các để tìm sách.” Người nói câu này chính là Cúc Kiếm.

A Tử run lên, nghĩ thầm: “Chỉ sợ con nha đầu thối tha này nói thực. Thằng trọc chết đâm chết chém kia còn chưa chữa mắt cho ta, thì ta không thể chọc giận con nha đầu này được. Không chừng nó có thể thọc gậy bánh xe, ngấm ngầm giấu sách đổi thuốc là hỏng bét. Chà! Để chữa mắt xong rồi ta sẽ cho bọn mi biết thế nào là thủ đoạn của bản cô nương.”

Đoàn Dự nhìn Lan Kiếm nói: “Đa tạ tỉ tỉ đã cho hay. Bọn họ đi Tây Hạ thật ư, để làm gì vậy?” Lan Kiếm đáp: “Nô tì không nghe họ nói đi Tây Hạ để làm gì.”

Hư Trúc nói: “Tam đệ! Vụ này tiểu huynh biết rõ. Tiểu huynh nghe Công Dã tiên sinh kể với mấy trưởng lão Cái Bang, dọc đường họ gặp một đệ tử Cái Bang đem một tấm bản văn từ Tây Hạ về Trung Nguyên. Bản văn đó là của quốc vương Tây Hạ, nói công chúa đã tới tuổi cập kê, định kén rể vào ngày trung thu tháng tám, mời anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ thi văn diễn võ, kén kẻ sĩ tài mạo song toàn vào làm phò mã.”

Trúc Kiếm đứng ngoài cửa cũng nói chõ vào: “Sao chủ nhân không qua Tây Hạ thử coi? Nếu Tiêu đại hiệp cùng Đoàn công tử không tranh đoạt thì chủ nhân trúng tuyển làm phò mã Tây Hạ dễ như trở bàn tay.”

Bốn cô Mai Lan Cúc Trúc tính tình vui vẻ, Đồng Mỗ tuy là chủ nhân mà thực ra đối xử với bốn cô theo tình bà cháu. Trước kia Đồng Mỗ nghiêm khắc, bốn cô này còn sợ hãi không dám nói năng bừa bãi, nhưng Hư Trúc hiền hòa, lại có vẻ kính trọng họ, nên mấy cô không còn úy kỵ gì nữa.

Hư Trúc nghe Trúc Kiếm nói vậy thì xua tay gạt đi: “Không được! Không được! Ta là người xuất…” Y muốn nói là người xuất gia nhưng chưa dứt lời thì trong phòng Lan Kiếm, Trúc Kiếm, ngoài phòng Mai Kiếm, Cúc Kiếm đã đồng thời cười rộ. Hư Trúc thẹn quá đỏ mặt lên, ngoảnh lại nhìn trộm Chung Linh thì thấy nàng đang ngơ ngẩn nhìn Đoàn Dự, dường như không để ý gì đến câu nói của mình. Đột nhiên y động tâm tự nghĩ: “Mình đã cùng Mộng Cô gặp nhau tại nhà hầm nước đá, trong hoàng cung nước Tây Hạ. Không chừng lúc này Mộng Cô còn ở Linh Châu cung. Tam đệ không chịu nói cho mình biết nàng ở đâu, chi bằng mình qua Tây Hạ để dò la tin tức.”

Hư Trúc còn đang ngẫm nghĩ thì Đoàn Dự hỏi: “Nhị ca! Cung Linh Thứu của nhị ca ở gần nước Tây Hạ. Nay nhị ca có trở về thì cũng nên qua Tây Hạ một chuyến xem sao. Trúc Kiếm tỉ tỉ muốn nhị ca đi làm phò mã thì chỉ là chuyện nói đùa, nhưng tiểu đệ nghĩ đến ngày rằm tháng tám, hào kiệt bốn phương đều tụ hội ở Linh Châu, thật là náo nhiệt. Kể cả đại ca bất tất phải về Nam Kinh vội làm chi. Chúng ta cùng nhau đi Tây Hạ chơi một chuyến, rồi lúc về ghé qua cung Linh Thứu để ngắm phong cảnh Thiên Sơn, thưởng thức hảo tửu của Đồng Mỗ đã cất giữ trăm năm, thật là khoái lạc.”

Lúc Tiêu Phong lên đường từ Nam Kinh đến núi Thiếu Thất thì mười tám võ sĩ Khất Đan có chứa rượu vào bì da để đem theo. Nhưng hai ngày nay bọn võ sĩ không ở bên mình, nên chàng không được uống rượu. Tiêu Phong nghe Đoàn Dự rủ lên cung Linh Thứu để uống hảo tửu đã trăm năm của Thiên Sơn Đồng Mỗ để lại, bất giác thèm nhỏ dãi, trên mặt lộ một nụ cười.

A Tử đứng lên giục: “Tỉ phu! Chúng ta cũng đi chứ?” Nàng biết rằng muốn chữa cặp mắt đui mù thì phải theo Hư Trúc đến cung Linh Thứu. Nhưng dù Tiêu Phong không cản Hư Trúc chữa, thì bốn tên nha đầu lẻo mép thủ hạ của y cũng làm khó dễ, lâu ngày không khỏi sinh chuyện, làm sớm ngày nào hay ngày ấy. Nàng thấy Tiêu Phong trầm ngâm không trả lời, thì nghĩ bụng: “Tỉ phu tuy ngoài mặt thô hào mà trong lòng tinh tế, lúc này chắc đã hiểu chỗ dụng tâm của mình rồi. Chi bằng mình nói huỵch toẹt ra, không chừng tỉ phu nể lời mà ưng thuận.” Nghĩ vậy, nàng liền đứng lên kéo tay áo Tiêu Phong, năn nỉ: “Tỉ phu! Nếu tỉ phu không đưa tiểu muội lên cung Linh Thứu thì cặp mắt tiểu muội không còn hy vọng gì phục hồi được nữa, e rằng suốt đời không được thấy ánh mặt trời.”

Tiêu Phong nghĩ bụng: “Chữa cặp mắt cho cô bé này cũng là chuyện phải làm.” Rồi chàng lại nghĩ: “Mình ở Đại Liêu tuy địa vị cao quý nhưng không có một người bạn thân nào để hàn huyên tâm sự, còn hào kiệt ở Trung Nguyên đều thù nghịch với mình. May mà mình kết giao được với hai vị huynh đệ hào hiệp khẳng khái, nhất định phải ở với họ thêm mấy ngày cho thỏa chí bình sinh.” Tiêu Phong liền nói: “Phải đó! Nhị đệ cùng tam đệ! Chúng ta cùng đi Tây Hạ một chuyến, rồi lên cung Linh Thứu uống rượu của nhị đệ mấy ngày cho hả dạ, lại còn nhờ nhị đệ chữa mắt cho Đoàn cô nương nữa.”

Hôm sau, mọi người chuẩn bị lên đường. Hư Trúc lại đến trước cổng chùa Thiếu Lâm để quì lạy bái biệt, lâm râm khấn nguyện, một là bái tạ ân đức của Phật tổ, hai là bái tạ các vị sư phụ trong chùa đã dưỡng dục, giáo huấn mình suốt hai mươi năm, ba là cáo biệt vong linh của phụ thân Huyền Từ và mẫu thân Diệp Nhị Nương.

Vừa xuống đến chân núi thì quần nữ cung Linh Thứu đã thuê xe lừa để Đoàn Dự và Du Thản Chi nằm dưỡng bệnh. Du Thản Chi trong lòng rất đỗi buồn phiền, nhưng cũng cố nhẫn nhục chịu đựng, còn hơn là phải chia lìa A Tử. Mỗi ngày gã chỉ mong A Tử mở rèm xe nói chuyện mấy câu là đã thỏa lòng, khoan khoái được đến nửa ngày. Nhưng A Tử lại cưỡi ngựa, lúc nào cũng đi bên cạnh Tiêu Phong. Trong lòng gã khó chịu vô cùng, nhưng không dám hé răng tỏ ý bất bình.

Đoàn người đi được hai ngày thì các bộ của cung Linh Thứu đến hội họp dần dần. Thủ lĩnh bộ Loan Thiên báo cho Hư Trúc cùng Đoàn Dự hay rằng họ đã gặp Trấn Nam Vương, thương thế ông đã gần lành hẳn không có gì đáng ngại. Trấn Nam Vương rất yên tâm, nhờ bộ Loan Thiên nhắn Đoàn Dự sớm về Đại Lý để ông khỏi mong chờ. Quần nữ còn nói thêm: “Bọn Trấn Nam Vương đi về phía đông bắc, Đoàn Diên Khánh cùng Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc lại chạy rất nhanh về phía tây, thế thì hai bên không tài nào đụng đầu nhau được.” Đoàn Dự cả mừng, ngỏ lời cảm tạ quan nữ bộ Loan Thiên.

Chung Linh hỏi: “Đoàn công tử! Lệnh tôn dặn công tử mau trở về Đại Lý, mà sao ông lại đi về phía đông bắc?” Đoàn Dự mỉm cười, chưa kịp trả lời thì A Tử đã cười nói: “Gia gia ta nhất định bị má má lôi đi, không cho về Đại Lý. Chung cô nương! Nếu cô nương muốn nắm giữ trái tim của ca ca ta, thì phải học hỏi má má ta nhiều.”

Trong hai ngày nay, lúc nào Đoàn Dự cũng suy nghĩ, không biết có nên nói rõ Chung Linh là muội tử của mình hay không. Chàng thấy mở miệng nói ra cũng khó, làm đau lòng Chung Linh, lại tổn hại đến danh dự của phụ thân, tạm thời không nói rõ là hơn.

Chung Linh cũng hiểu rõ Đoàn Dự muốn đi Tây Hạ là cốt để được gặp Vương cô nương. Nhưng mấy ngày nay nàng được kề cận bên Đoàn Dự, thỏa mãn tâm nguyện phần nào. Nàng không cần biết sau này Đoàn Dự gặp mặt Vương cô nương rồi sẽ ra sao, nên dù A Tử cố ý nói móc mà nàng cũng không để ý.

***

Tiết trời mùa hạ cực kỳ nóng bức, lúc giữa ngọ lại càng nóng như lửa,.Từ giờ đến trung thu hãy còn lâu, nên mọi người chỉ đi vào lúc sáng sớm hay xế chiều, cứ đi chừng sáu bảy chục dặm lại nghỉ ngơi. Dọc đường, thương thế Đoàn Dự bình phục rất nhanh. Hư Trúc đã tiếp xương chỗ chân gãy cho Du Thản Chi, xem chừng có nhiều hy vọng bình phục như cũ. Du Thản Chi chẳng nói với ai nửa lời, được Hư Trúc chữa chân mà trong lòng vẫn hằn học căm giận.

Một hôm mọi người đi tới Hàm Dương. Đoàn Dự kể cho bọn Tiêu Phong nghe sự tích Lưu Bang cùng Hạng Võ tranh bá đồ vương ở vùng này. Tiêu Phong cùng Hư Trúc đều ít đọc sách, nghe Đoàn Dự kể chuyện anh hùng hào kiệt ngày xưa đều cảm thấy hứng thú.

Thốt nhiên có tiếng vó ngựa dồn dập, từ phía sau có hai người cưỡi ngựa đi nhanh đến. Bọn Tiêu Phong rẽ ngựa ra hai bên để nhường đường, nhưng A Tử lại tiến ra giữa đường cản lối. Hai người cưỡi ngựa vừa đến sau lưng, nàng liền giơ roi lên quất vào đầu con ngựa đi sau. Người cưỡi ngựa đằng sau cũng vung roi lên đón lấy ngọn roi của A Tử đánh tới, rồi cất tiếng gọi: “Đoàn công tử! Tiêu đại hiệp! Hãy dừng bước đã!”

Đoàn Dự quay đầu nhìn lại, thì ra người đi trước là Ba Thiên Thạch, người đi sau là Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch vừa cầm roi ngựa gạt ngọn roi của A Tử đánh ngựa của Chu Đan Thần, đã vội xuống ngựa đến trước Đoàn Dự phục lạy. Đoàn Dự tuy ở thân phận chủ nhân, nhưng vẫn coi Ba, Chu hai người vào hàng trưởng bối, cũng vội vàng xuống ngựa đáp lễ, hỏi: “Gia gia ta vẫn bình yên chứ?” Bỗng một tiếng “véo” vang lên, A Tử cầm roi ngựa quất xuống đầu Ba Thiên Thạch.

Ba Thiến Thạch chưa đứng dậy, y vẫn quì dưới đất, chỉ né người đi một chút cho ngọn roi của A Tử vụt trệch đi, rồi lấy đầu gối đè lên ngọn roi. A Tử ra sức giật lại mà ngọn roi không nhúc nhích, nàng biết nếu dùng nội lực để tranh chấp thì nhất định mình không bằng đối phương, liền buông tay ra cho ngọn roi hất về phía Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch căm hận nàng đã làm nhục Chử Vạn Lý đến chết, đối với nàng lúc nào cũng dè dặt đề phòng. Ngờ đâu A Tử tuy đui mắt mà hành động cực kỳ cơ biến, đầu ngọn roi của nàng hất lại rất mau. Ba Thiên Thạch vừa nghe tiếng gió vội né tránh, tuy tránh được ngọn roi không vụt vào đầu, nhưng cũng vụt trúng vai đánh “chát” một tiếng.

Đoàn Dự quát lên: “Tử muội! Ngươi lại ngang ngược rồi.” A Tử đáp: “Muội có ngang ngược gì đâu? Y muốn lấy chiếc roi ngựa, nên muội hất lại cho y.” Ba Thiên Thạch là người trầm tĩnh, chỉ cười hì hì nói: “Đa tạ cô nương đã cho ngọn roi này.” Y không muốn nói gì về vụ này nữa, liền móc trong bọc ra một phong thư, hai tay đưa lên cho Đoàn Dự.

Đoàn Dự đón lấy, thấy ngoài phong bì đề ba chữ: Dự nhi lãm, thì ra chính là thư của phụ thân. Chàng liền hai tay nâng bức thư lên cao, chỉnh đốn y phục, kính cẩn mở xem. Bức thư này Đoàn Chính Thuần viết để bảo chàng đi Tây Hạ. Trong thư nói: Nước Đại Lý ta ở miền Nam Cương hẻo lánh, nước nhỏ binh yếu, khó chống ngoại xâm, nếu được cùng cường quốc Tây Hạ kết nghĩa Tấn Tần tức là thượng sách để giữ nước yên dân. Hài nhi phải lấy cơ nghiệp tổ tôn làm trọng, lấy xã tắc nhân dân làm quý, mà đem hết tâm lực để thực hiện việc này.”

Đoàn Dự đọc thư xong, sắc mặt biến đổi, lúc hồng lúc trắng, lẩm bẩm: “Cái này… cái này…”

Ba Thiên Thạch lấy ra một phong thư nữa, nói: “Đây là thủ bút của Vương gia, gửi sang quốc vương nước Tây Hạ để cầu thân. Khi công tử tới Linh Châu thì trình thư này lên quốc vương bệ hạ.” Chu Đan Thần cũng cười hì hì nói: “Công tử! Tại hạ kính chúc công tử mã đáo thành công, lấy được nàng công chúa nguyệt thẹn hoa nhường đưa về Đại Lý, để củng cố giang sơn nước nhà vững chắc như bàn thạch.” Đoàn Dự bẽn lẽn hỏi: “Tại sao gia gia biết ta đi Tây Hạ?” Ba Thiên Thạch đáp: “Vương gia biết Mộ Dung công tử đến Tây Hạ cầu thân, nên đoán rằng công tử… cũng đến đó để… tham dự cuộc náo nhiệt này… Vương gia còn dặn công tử phải lấy đại sự quốc gia làm trọng, nên coi rẻ tư tình nhi nữ.”

A Tử cười khoái chí, nói xen vào: “Không trách người ta thường nói: “Biết con chẳng ai bằng cha.” Gia gia nghe nói Mộ Dung Phục đi Tây Hạ, Vương cô nương tất đi cùng, lão nhân gia liền đoán được ngay cậu quý tử cũng lần mò đi theo. Hừ! Thật là cha nào con nấy. Gia gia khuyên bảo lấy đại sự quốc gia làm trọng, coi rẻ tư tình nhi nữ ư? Thế sao gia gia bỏ nước ra đi bấy lâu vẫn không trở về?”

Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cùng Đoàn Dự thấy A Tử ăn nói bất kính với phụ vương thì đều kinh hãi thất sắc. Nàng nói như vậy tuy thực tình đúng lý, nhưng đạo làm thần tử có lý đâu lại dám bài bác đấng quân phụ?

A Tử lại nói tiếp: “Ca ca! Trong thư gia gia nói gì vậy? Có nhắc đến tiểu muội không?” Đoàn Dự đáp: “Gia gia không biết Tử muội cùng ở với ta.” A Tử nói: “Hừ! Đúng là gia gia không biết. Nhưng gia gia có dặn ca ca đi kiếm tiểu muội không? Gia gia dặn ca ca chiếu cố cho đứa em đui mù không?”

Trong thư, Đoàn Chính Thuần không đề cập đến chuyện này, nhưng Đoàn Dự nghĩ rằng nếu nói thực tình thì cô em phải đau lòng. Chàng liền đưa mắt ra hiệu cho Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần để bọn họ nói rằng phụ thân có bảo họ đi tìm kiếm A Tử, nào ngờ hai người giả vờ không hiểu. Chu Đan Thần nói: “Trấn Nam Vương sai bọn tại hạ đi tùy tùng công tử qua Tây Hạ cầu thân. Nếu không có kết quả thì khi trở về Đại Lý, tuy chẳng bị Vương gia hỏi tội, nhưng chúng ta cũng chẳng còn mặt mũi gặp ai nữa.” Câu nói của Chu Đan Thần tỏ ý vâng lệnh Đoàn Chính Thuần đi giám thị Đoàn Dự, phải cố chiếm cho bằng được ngôi phò mã nước Tây Hạ.

Đoàn Dự cười khổ đáp: “Ta vốn không hiểu võ nghệ, huống chi lại bị thương chưa khỏi, chân khí không vận lên được, thì làm sao so bì được với anh hùng hảo hán trong thiên hạ?”

Ba Thiên Thạch lại nói: “Trấn Nam Vương sai tiểu nhân đến bái kiến Tiêu đại hiệp cùng Hư Trúc tiên sinh, xin hai vị vì nghĩa chi lan giúp công tử một tay. Vương gia còn nói, lần hội kiến vừa qua trên núi Thiếu Thất thời gian ngắn ngủi, người chưa được cùng hai vị chuyện trò, nên sai tiểu nhân kính dâng lễ mọn.” Ba Thiên Thạch nói xong, lấy ra một viên ngọc bích chạm hình sư tử, hai tay dâng lên Tiêu Phong, còn Chu Đan Thần thì lấy trong bọc ra một chiếc quạt ngà, trên quạt có bút tích của Đoàn Chính Thuần đề tặng Hư Trúc.

Hai người tạ ơn, nhận lễ rồi nói: “Công việc của tam đệ, dĩ nhiên bọn tại hạ phải hết sức giúp đỡ, hà tất Vương gia phải căn dặn. Vương gia ban cho báu vật, bọn tại hạ thật lòng không dám nhận.” A Tử nói: “Hai vị xem gia gia ta có hảo tâm không? Gia gia bảo thế để hai vị đừng có tranh ngôi phò mã của tiểu ca ca. Hai vị mà nhận lời là mắc mưu gia gia đó.”

Tiêu Phong thở dài nói: “Tỉ tỉ cô nương chết rồi, khi nào ta còn có ý nghĩ đi lấy người khác nữa?” A Tử nói: “Tỉ phu ngoài miệng tuy nói vậy, nhưng ai biết được lòng dạ thế nào? Hư Trúc tiên sinh trung hậu thực thà, không giống tiểu ca ca quen nết phong lưu. Ta vẫn để ý, thấy tiên sinh chưa vướng bận tình duyên với cô nào. Bây giờ tiên sinh qua Tây Hạ lấy công chúa, có phải tuyệt diệu không?” Hư Trúc thẹn đỏ mặt lên, xua tay lia lịa nói: “Không, không! Tại hạ nhất quyết không làm thế. Tại hạ sẽ cùng đại ca ráng giúp cho tam đệ trong cuộc cầu thân này.”

Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đưa mắt ra hiệu cho nhau, rồi cùng phục lạy nói: “Đa tạ hai vị có lòng chiếu cố cho công tử của bọn tiểu nhân.” Hào kiệt võ lâm đã nói ra là không nuốt lời, Tiêu Phong cùng Hư Trúc đã nhận lời giúp đỡ rồi, Chu, Ba lại trịnh trọng nhắc lại thêm một lần nữa, thế là vừa không sợ hai người hối tiếc mà đổi ý, vừa khiến cho Đoàn Dự khó lòng thoái thác.

***

Đoàn người đi về hướng Tây. Khi gần tới Linh Châu, trên đường càng lúc càng thấy lui tới nhiều nhân vật võ lâm.

Nước Tây Hạ tuy không lớn bằng Đại Tống, Đại Liêu nhưng cũng là một nước lớn ở phía Tây, lúc này quốc vương Tây Hạ cũng đã xưng đế hiệu. Đương kim hoàng đế Tây Hạ Lý Càn Thuận được sử sách gọi là Sùng Tôn Thánh Văn Đế, lấy niên hiệu là Thiên Hựu Dân An, triều chính thanh bình, quốc thái dân an.

Người võ lâm mà lấy được công chúa nước này thì thật là vinh hoa phú quý đến cùng cực, trên đời chẳng còn việc nào may mắn hơn được nữa. Tuy nhiên những nhân vật đã nổi tiếng trong võ lâm thì hầu hết đã có vợ con, còn hạng thiếu niên mới nổi thì chẳng mấy người võ công cao thâm. Trong bọn hào kiệt có cả những vị lão anh hùng dẫn con cháu cùng đồ đệ đi cầu thân, những tay giang dương đại đạo, hào khách các bang hội, lại có cả những người lẻ loi cô độc. Số đông nghĩ rằng: “Nhân duyên ngoài ngàn dặm đều là tiền định, chưa chắc võ công giỏi hơn người khác đã được sánh duyên cùng công chúa. Hễ công chúa ưng ý ai là người đó được làm phò mã.”

Dọc đường gặp không biết bao nhiêu là hào kiệt thiếu niên, ai cũng áo xiêm rực rỡ, binh khí cũng tề chỉnh sáng choang, giống như đi thi võ trạng nguyên. Trong dân gian thường nói “cùng văn phú võ”, người nào có con học võ thì gia đình cũng không đến nỗi nghèo, mà phẩm hạnh không được đoan chính thì lại càng dễ kiếm tiền. Vì thế bọn thiếu niên võ sĩ đi Tây Hạ phải đến chín phần mười trang phục diêm dúa rực rỡ, để cố giành lấy tình cảm của công chúa. Trên đường đi, những người quen biết gặp nhau cũng chỉ cười cợt bên ngoài, hỏi thăm công chúa diện mạo thế nào, dung nhan ra sao, võ nghệ cao hay thấp. Còn những ai không quen biết thì nhìn nhau trừng trừng giận dữ, coi đối phương như là địch thủ.

Một hôm, bọn Tiêu Phong đang lỏng cương cho ngựa đi từ từ, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập, một người cưỡi ngựa từ phía trước phóng lại. Y phục kỵ sĩ rách tươm, trên cổ quấn một miếng vải trắng, thần sắc cực kỳ kinh hoảng. Bọn Tiêu Phong không để ý, chỉ cho là người này nếu không bị ngã thì bị đả thương, chẳng có chi là lạ. Ngờ đâu, lát sau lại có ba người cưỡi ngựa đi qua. Những người này đều bị trọng thương, sắc mặt xám ngắt ra vẻ bẽ bàng, cúi đầu xuống cho ngựa đi mau, không dám ngẩng nhìn mặt bọn Tiêu Phong. Mai Kiếm lẹ miệng lên tiếng: “Phải chăng phía trước có cuộc ẩu đả? Không thì sao lại lắm người bị thương thế này?”

Nàng chưa dứt lời, lại có hai người đi tới. Hai người này đi bộ chứ không cưỡi ngựa, mặt đầm đìa những máu. Một người đầu trùm vải xanh, máu không ngớt thấm ra ngoài. Trúc Kiếm gọi hỏi: “Trời ơi! Ngươi có cần thuốc trị thương không? Làm sao mà bị thương?” Người này mặt mũi hung dữ, trợn mắt nhìn nàng rồi nhổ nước miếng đánh toẹt một cái, cắm đầu đi ngay. Cúc Kiếm cả giận, rút kiếm đánh “soạt” một tiếng, muốn đuổi theo hắn. Hư Trúc lắc đầu nói: “Mặc kệ người ta! Hắn đã bị thương nặng, chẳng nên giận hắn làm gì.” Mai Kiếm nói: “Trúc muội vì lòng tốt hỏi hắn có cần thuốc trị thương không, mà hắn lại tỏ vẻ vô lễ, để hắn chết đi cho đáng kiếp.”

Giữa lúc ấy, lại có bốn con ngựa chạy như bay tới nơi, bên tả hai người, bên hữu hai người. Họ đang trỏ tay vào mặt mà mắng chửi nhau. Một người nói: “Chỉ tại ngươi là con cóc ghẻ mà muốn ăn thịt thiên nga. Sao không biết tự lượng bản lĩnh mà đòi đến Linh Châu để làm phò mã?” Người bên kia mắng lại: “Ngươi có bản lĩnh thì sao không qua được cửa quan? Bây giờ bị thua rồi lại sừng sộ với ta?” Người đối diện lại mắng: “Giả tỉ không có kẻ phóng ám tiễn hại người, thì làm gì ta đến nỗi bị thua?” Bốn người này vừa phóng ngựa rất nhanh vừa nói, nên chưa ai nghe rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao. Lát sau, bọn chúng đã tới trước mặt, nhưng thấy bọn Tiêu Phong nhiều người, không dám giành đường, liền rẽ ngựa sang hai bên. Nhưng họ vẫn giơ tay chỉ trỏ mắng nhiếc nhau, đi xa rồi vẫn nghe nói vọng lại. Thì ra, bốn người này đều đến Linh Châu tranh ngôi phò mã nước Tây Hạ, nhưng dường như có một cửa quan nào đó mà bốn người này không vượt qua được, lại bị đả thương nên phải cụp đuôi chạy về.

Đoàn Dự nói: “Đại ca! Tiểu đệ xem ra…” Chàng chưa dứt lời thì trước mặt lại có mấy người chạy bộ đến nơi, có người bị thương ở tay chân, có người sứt đầu chảy máu. Chung Linh không nén nổi hiếu kỳ, phóng ngựa tới hỏi: “Ôi chao! Người giữ cửa quan phía trước ghê gớm lắm phải không?” Một đại hán trung niên hắng giọng đáp: “Cô là nữ nhân, đi qua không bị họ ngăn trở đâu. Còn bọn nam nhân thì quay về đi là hơn.” Bọn Tiêu Phong, Hư Trúc nghe câu này đều lấy làm kỳ, đồng thanh nói: “Chúng ta thử đi xem!” Rồi mọi người giục ngựa chạy thật nhanh.

Đoàn người đi được chừng bảy, tám dặm thì thấy đường núi gập ghềnh, vòng vèo đi lên, chỉ lọt một người cưỡi ngựa. Qua mấy khúc quanh thì thấy một đám đầu người đen sì, bọn Tiêu Phong ruổi ngựa lại gần, thấy trên cao có hai đại hán sóng vai nhau mà đứng giữa đường. Cả hai người đều cao đến hơn sáu thước, to lớn dị thường, một gã cầm cây Thiết chử, một gã nắm cặp Đồng chùy. Hai gã nét mặt hầm hầm, nhìn mọi người đứng phía trước.

Bọn người tụ tập ở đây ít ra phải đến bảy tám chục người, đang bàn tán nhốn nháo, mỗi người nói một câu. Có người nói: “Chúng tôi muốn đến Linh Châu, xin hai vị mở đường cho.” Có người hỏi: “Hai vị ở đây lấy tiền mãi lộ chăng? Không hiểu mỗi người hai lạng hay một lạng? Xin hai vị cứ nói đi, rồi chúng ta thương lượng.” Có người nói: “Nếu hai ngươi không mở đường thì sẽ bị đại họa.” Lại có người nói: “Hai vị tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt, sao không đến Linh Châu xin ứng tuyển làm phò mã, để nàng công chúa nguyệt thẹn hoa nhường lọt vào tay kẻ khác thì chẳng đáng tiếc ư?” Tha hồ cho bọn này muốn nói gì thì nói, hai đại hán thủy chung vẫn không nói gì.

Đột nhiên trong đám đông có tiếng quát: “Tránh ra!” Rồi hào quang lấp loáng, một người vung kiếm lên, nhằm đâm vào đại hán bên tả. Gã này thân hình to lớn, lại mang khí giới cực nặng, ngờ đâu thân thủ mau lẹ vô cùng. Gã múa cặp chùy đánh lại, ép thanh trường kiếm vào giữa. Mỗi quả chùy nặng tới bốn chục cân, chỉ đập mạnh một cái là thanh kiếm gãy làm hai đoạn. Gã lại phóng cước đá ra trúng vào bụng đối phương. Người kia kêu to lên một tiếng, bị hất tung ra xa bảy tám trượng, nằm sóng sượt dưới đất, một lát sau mới cố lồm cồm bò mãi mà không dậy được.

Lại thấy một người múa song đao xông tới. Đao quang như một bức màn trắng xóa hộ vệ toàn thân, tưởng chừng như nước mưa cũng không rơi vào được. Khi đến trước mặt hai gã đại hán, người này quát lên một tiếng thật to rồi đột nhiên biến đổi đao pháp, vung song đao nhằm chém vào đùi hai gã. Đại hán bên hữu không thèm nhìn đến đường đao biến hóa ra sao, cứ vung Thiết chử lên đập vào giữa làn bạch quang. Chỉ nghe một tiếng rú, song đao của người kia đã bị Thiết chử đánh gãy. Y bị mũi đao gãy đâm vào ngực, máu chảy đầm đìa khắp người, rồi ngã lăn long lóc xuống chân núi.

Hai gã đại hán đánh trọng thương hai người, những người khác không dám tiến lên nữa. Lại nghe có tiếng vó câu lộp cộp, một người cưỡi lừa đi lên. Đó là một thiếu niên thư sinh mới độ mười tám mười chín tuổi, mặc áo bào rộng thùng thình, vẻ người nho nhã, tướng mạo anh tuấn phi thường. Người cưỡi lừa chạy đến bên bọn Tiêu Phong thì ai nấy đều nhận thấy gã này khác hẳn những hào khách giang hồ, bất giác đều quay lại nhìn y. Đoàn Dự đột nhiên la lên một tiếng: “Ôi chao!”, rồi ấp úng: “Ngươi… ngươi…” Nhưng chàng thư sinh này không thèm đưa mắt nhìn, cứ ngồi trên lưng lừa chạy qua mặt chàng.

Chung Linh ngạc nhiên hỏi: “Huynh nhận ra vị tướng công này ư?” Đoàn Dự đỏ mặt đáp:”Không! Ta nhận lầm người. Y… y là nam nhân. Ta có biết y là ai đâu?” Chàng nói câu này thật là ngớ ngẩn. A Tử cười khì một tiếng rồi nói: “Ca ca! Té ra ca ca chỉ biết nữ nhân chứ không biết nam nhân.” Nàng ngừng một lát rồi hỏi: “Chẳng lẽ người vừa đi qua là nam nhân ư? Rõ ràng là nữ nhân mà?” Đoàn Dự hỏi: “Ngươi cũng bảo y là nữ nhân ư?” A Tử đáp: “Đúng là nữ nhân! Người cô ta tiết ra một mùi hương, đúng là của nữ nhân.” Đoàn Dự nghe đến chữ “hương” thì trống ngực đập thình thình, tự hỏi: “Phải chăng đúng là nàng?”

Lúc này thư sinh cưỡi lừa đã đến trước mặt hai gã đại hán, lớn tiếng quát: “Tránh ra!”Thanh âm rất trong trẻo, rõ ràng là giọng một thiếu nữ. Đoàn Dự không còn nghi ngờ gì nữa, cất tiếng gọi: “Mộc cô nương! Uyển Thanh muội tử! Ngươi… ngươi… Ta… ta…” Miệng chàng ấp úng gọi loạn lên, giục ngựa tiến lại. Hư Trúc vội la lên:”Tam đệ! Cẩn thận vết thương…” Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cùng phóng ngựa đuổi theo.

Thiếu niên thư sinh cưỡi lừa vẫn trừng mắt nhìn hai gã đại hán, không quay đầu lại. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần nhìn nghiêng thấy nửa mặt nàng, đã nhận ra con người xinh đẹp này đúng là người mà Đoàn Dự đã đưa về Trấn Nam Vương phủ nước Đại Lý, chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người lẩm bẩm: “Chúng ta thật có mắt như mù, không bằng cô bé đui mắt kia.” Thì ra A Tử tuy mắt chẳng nhìn thấy gì, nhưng thính mũi hơn người thường. Mộc Uyển Thanh có một mùi hương khác lạ, nàng vừa đi qua, A Tử đã ngửi thấy ngay. Còn mọi người thì mắt nhìn rõ ràng là một thiếu niên thư sinh, nhất thời chẳng ai để ý xem xét đó là nam hay nữ.

Đoàn Dự phóng ngựa đến bên, vươn tay nắm lấy vai nàng, dịu dàng nói: “Muội tử! Từ ngày ấy đến nay muội ở đâu? Tiểu huynh nhớ muội quá chừng.” Mộc Uyển Thanh rụt vai lại, né tránh tay Đoàn Dự. Nàng quay đầu hững hờ nhìn chàng, thản nhiên hỏi: “Ngươi nhớ ta ư? Tại sao lại nhớ ta? Ngươi có nhớ ta thật không?” Đoàn Dự ngẩn người ra, cả ba câu hỏi này đều quá khó với chàng.

Đại hán đứng đối diện cười ha hả rồi nói: “Ái chà! Té ra là một cô chiêu! Ta cho cô qua đấy!” Đại hán kia cũng nói: “Nữ nhân thì chúng ta cho qua, còn bọn nam nhân thối tha thì không được đâu. Thằng lỏi kia cút đi!” Hắn trỏ vào mặt Đoàn Dự, nói tiếp: “Cái loại mặt trơn trán bóng kia, lão gia vừa nhìn thấy là ghét cay ghét đắng rồi. Ngươi mà tiến thêm một bước thì lão gia bằm ra làm mắm, đừng có trách ai!” Đoàn Dự nói: “Tôn huynh nói nghe lạ quá! Đường cái là để cho người ta đi lại, tôn huynh không cho đi là vì lẽ gì? Xin được lĩnh giáo!”

Đại hán đáp: “Tôn Tán Vương tử nước Thổ Phồn có lệnh: cửa ải này đóng lại mười ngày, qua khỏi Trung Thu sẽ mở trở lại. Trước ngày Trung Thu chỉ có nữ nhân mới được qua, còn nam nhân thì không được. Ngoài ra, tăng nhân được qua, người phàm tục không được qua; người già được qua, người trẻ không được qua; người chết được qua, người sống không được qua. Cái luật này gọi là Tứ Quá Tứ Bất Quá.” Đoàn Dự hỏi: “Như vậy thì còn nghĩa lý gì?” Đại hán lớn tiếng nói: ” Ngươi hỏi nghĩa lý gì ư? Chẳng có nghĩa lý gì hết. Cặp Đồng chùy của lão gia và cây Thiết chử của lão nhị, chính là nghĩa lý. Tôn Tán vương tử đã hạ lệnh, chính là nghĩa lý. Ngươi là nam nhân, không phải hòa thượng, cũng không phải lão già, thì phải biến thành xác chết mới qua cửa quan này được.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Ái chà! Sao lại có hạng người nói chuyện càn rỡ đến thế?” Nàng vung tay phải lên một cái, hai mũi tên bay vèo vèo nhằm vào hai gã đại hán. Chỉ nghe hai tiếng bịch bịch như bắn vào da thuộc, rõ ràng ám tiễn đã bắn trúng ngực mà hai gã này chẳng tổn thương chi hết. Đại hán cầm Thiết chử tức giận quát to: “Cô bé kia thật không biết điều! Sao lại phóng ám khí vào bọn ta?” Mộc Uyển Thanh giật mình kinh hãi nghĩ bụng: “Có lẽ hai tên này măc áo giáp bằng da, tên độc của ta không bắn thủng được.” Đại hán cầm Thiết chử vươn bàn tay to như cái quạt ra, toan nắm lấy Mộc Uyển Thanh. Người gã cao lớn, Mộc Uyển Thanh ngồi trên lưng lừa mà gã chỉ vươn tay ra đã tới trước ngực nàng.

Đoàn Dự la lên:”Tôn huynh không được vô lễ.” Chàng vội đưa tay trái lên chặn lại. Gã liền xoay tay nắm chặt lấy cổ tay Đoàn Dự. Đại hán sử song chùy reo lên: “Hay lắm! Chúng ta hãy xé thằng lỏi mặt trắng này thành hai mảnh.” Gã đưa hữu chùy sang tay trái, tay phải nắm lấy tay kia của Đoàn Dự toan kéo mạnh.

Mộc Uyển Thanh vội quát: “Không được hại ca ca ta!” Mấy mũi ám tiễn lại phóng ra veo véo rồi mất tích như đá quăng xuống biển. Mộc Uyển Thanh phóng ám tiễn vào thân thể chúng không ăn thua gì, lại muốn bắn vào mắt mũi chúng, nhưng ở giữa còn có Đoàn Dự, nên lại sợ trúng phải chàng. Hai bên lối đi này là hai vách núi dựng đứng. Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần bị Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự cưỡi ngựa chặn mất lối đi, không thể tiến lên cứu ứng được.

Hư Trúc tung mình nhảy lên, rời khỏi yên ngựa, lao tới tên đại hán cầm Thiết chử, toan giơ tay ra điểm vào sườn gã. Đoàn Dự bỗng cười ha hả nói: “Nhị ca bất tất phải hoang mang. Bọn chúng không hại tiểu đệ được đâu.”

Thân hình cao lớn của hai gã đại hán bỗng dần dần run rẩy, hai cái đầu to tướng lắc lư không dừng được, lát sau cả hai đồng thời ngã huỵch xuống đất. Nội lực Bắc Minh Thần Công trong mình Đoàn Dự chuyên hút chân khí địch nhân, nội lực hai gã đại hán bị hút hết, thần lực trời sinh cũng bằng vô dụng, liền ngã lăn ra. Đoàn Dự nói: “Các ngươi đã đánh chết cùng đả thương nhiều người, nên bây giờ phải chịu trừng phạt như thế này. Từ đây về sau không được càn rỡ thế nữa!”

Chung Linh lúc đó cũng tới nơi, liền cười nói: “E rằng bọn chúng không còn bản lĩnh để càn rỡ nữa” Nàng quay đầu lại nhìn Mộc Uyển Thanh nói: “Mộc cô cô! Không ngờ lại chính là cô cô!” Mộc Uyển Thanh lạnh lùng hỏi: “Ngươi là muội tử ta, sao lại gọi ta bằng cô cô?” Chung Linh ngạc nhiên hỏi: “Mộc cô cô nói giỡn rồi! Sao điệt nữ lại là muội tử của cô cô được?” Mộc Uyển Thanh trỏ vào Đoàn Dự nói: “Ngươi cứ hỏi y sẽ rõ.” Chung Linh quay lại nhìn Đoàn Dự, chờ chàng giải thích.

Mặt Đoàn Dự đỏ bừng lên, chàng ấp úng một hồi mà không nói được tiếng nào. May mà lúc đó hai gã đại hán kia đã ngã, những người vốn bị ngăn cản ào ạt kéo qua để tiến vào Linh Châu.

A Tử cất tiếng hỏi: “Ca ca! Vị cô nương thơm phức kia cũng là người quen cũ của ca ca ư? Sao ca ca không giới thiệu với tiểu muội?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi đừng nói lăng nhăng. Đó là… tỉ tỉ ngươi đó. Ngươi lại bái kiến đi!” Mộc Uyển Thanh tức giận nói: “Ta làm gì có phúc khí lớn như thế?” Rồi nàng quất roi vào mông cho lừa chạy về phía trước.

Đoàn Dự đuổi theo hỏi: “Từ bấy đến nay, muội tử ở đâu? Muội… muội trông gầy ốm đi nhiều.” Mộc Uyển Thanh tính tình vừa cao ngạo vừa hung hãn, động tay là giết người, nhưng chỉ nghe một câu nói dịu dàng của Đoàn Dự đã thấy chua xót trong lòng. Hơn một năm nay nàng phiêu bạt giang hồ, dạn dày mưa gió, nghĩ lại cực kỳ đau khổ. Bao nhiêu thảm trạng trong chớp mắt lại hiện ra, nàng không còn ngăn được đôi dòng lụy nhỏ xuống như mưa. Đoàn Dự lại nói: “Muội tử! Bọn chúng ta đông người, có đủ vật dụng. Muội đi cùng với bọn ta nhé!” Mộc Uyển Thanh vùng vằng nói: “Ai cần huynh chiếu cố? Không có huynh thì ta không sống được hay sao?” Đoàn Dự nói: “Tiểu huynh có nhiều chuyện muốn nói với muội. Muội có chịu đi theo ta không?” Mộc Uyển Thanh vẫn hằn học nói: “Huynh còn gì để nói với ta nữa? Chẳng qua lại là mấy câu nói nhăng nói cuội chứ gì?” Tuy nàng không ưng chịu, nhưng khóe miệng đã lộ nét cười. Đoàn Dự cả mừng nói: “Hảo muội tử! Tuy muội có gầy đi đôi chút, nhưng càng lớn lên lại càng xinh đẹp.”

Mộc Uyển Thanh sầm mặt nói: “Huynh là huynh trưởng của ta, từ nay không được nói như thế nữa!” Hiện giờ, lòng dạ Mộc Uyển Thanh rối bời. Nàng biết rõ Đoàn Dự là huynh trưởng cùng cha khác mẹ của mình, thế mà lòng yêu mến nhớ nhung chẳng những không phai nhạt, mà mỗi ngày lại mỗi tăng thêm.

Đoàn Dự cười nói: “Ta khen muội tử càng lớn lên càng xinh đẹp, thì có gì là sai đâu? Hảo muội tử! Muội cải dạng nam trang đến Linh Châu để thi tuyển làm phò mã ư? Muội trông rất giống một chàng thư sinh thiếu niên anh tuấn, công chúa nước Tây Hạ mà nhìn thấy thì phải điên đảo thần hồn.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Còn huynh đến Linh Châu làm chi?” Đoàn Dự đỏ mặt lên đáp: “Ta chỉ muốn đến xem cuộc náo nhiệt này, không có ý gì khác cả.” Mộc Uyển Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Huynh đừng dối muội nữa. Gia gia bảo huynh đến ứng tuyển làm phò mã, lại sai hai gã Ba, Chu đưa huynh đi. Huynh tưởng muội không biết hay sao?”

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi: “Ô hay! Sao muội lại biết thế?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Mẫu thân của muội vừa gặp gia gia. Muội cùng đi với mẫu thân, nên nghe nói thế.” Đoàn Dự nói: “Té ra là vậy! Muội biết ta đi Linh Châu nên cũng đi xem phải không?” Mộc Uyển Thanh đỏ mặt lên vì Đoàn Dự nói câu này rất đúng tâm sự nàng, nhưng chỉ bĩu môi đáp: “Muội đi xem ca ca làm chi? Muội chỉ muốn xem công chúa nước Tây Hạ đẹp đến cỡ nào mà làm náo loạn cả thiên hạ.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Công chúa Tây Hạ chỉ đẹp bằng nửa muội cũng là tốt lắm rồi.” Nhưng chàng nhận ra câu này nói với tình nhân thì được, nói với muội tử thì không nên, bèn không nói ra nữa. Mộc Uyển Thanh lại nói: “Tiểu muội cũng muốn đi xem Đoàn Vương tử nước Đại Lý cầu hôn có thành công hay chăng.” Đoàn Dự khẽ nói: “Ta không làm phò mã nước Tây Hạ đâu. Nhưng muội muội chớ nên tiết lộ với ai, nếu gia gia bức bách thì ta sẽ trốn biệt.”

Mộc Uyển Thanh hỏi: “Chẳng lẽ lệnh của gia gia mà huynh dám cãi ư?” Đoàn Dự nói: “Ta không cãi lệnh, mà chỉ bỏ trốn thôi.” Mộc Uyển Thanh cười nói: “Bỏ trốn với cãi lệnh thì khác gì nhau? Người ta là công chúa cành vàng lá ngọc, sao huynh lại không muốn lấy?” Từ lúc gặp nhau, bây giờ Mộc Uyển Thanh mới hé miệng cười. Đoàn Dự cả mừng nói: “Muội muội tưởng ta cũng giống gia gia, gặp người nào là yêu người nấy, rồi không dứt ra được hay sao?”

Mộc Uyển Thanh nói: “Hừ! Tiểu muội thấy huynh giống hệt gia gia, chẳng khác chút nào, đúng là cha nào con ấy. Có điều huynh không được tốt phúc bằng gia gia thôi. Rồi nàng thở dài nói tiếp: “Sau lưng thì má má tiểu muội trách móc gia gia đủ điều, mà hễ gặp mặt là tha thứ hết. Nhưng các cô nương trẻ tuổi bây giờ không được rộng lượng như má má tiểu muội đâu”.

Hồi 45: Đáy giếng khô hai lòng hòa nhịp, chốn bùn lầy hẹn ước chung thân

Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần cũng đã tới, gặp Mộc Uyển Thanh, bèn giới thiệu nàng với Tiêu Phong, Hư Trúc. Hai người Ba, Chu tuy đã biết nàng là con gái của Trấn Nam Vương, nhưng chưa tổ chức nghi lễ nhìn nhận chính thức, nên vẫn gọi nàng là Mộc cô nương.

Đoàn người đi được mấy dặm thì trời đã xế chiều, bỗng nghe phía bên trái có tiếng kêu gào rất lớn, chính là thanh âm Nam Hải Ngạc Thần. Dường như hắn đang gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Đoàn Dự nói: “Là đồ đệ ta đó!” Chung Linh cũng la lên: “Chúng ta mau tới đó xem sao. Đồ đệ công tử rất tốt!” Hư Trúc cũng nói: “Phải đó! Mẫu thân đệ là Diệp Nhị Nương, tỉ muội với Nam Hải Ngạc Thần nên đệ không khỏi có chút tình hương hỏa.”

Mọi người giục ngựa lao về phía có tiếng hét, vòng vèo qua mấy góc núi thì đến một khu rừng rậm, bỗng thấy trên bờ vực thẳm một cảnh tượng kinh hồn động phách.

Bờ vực có một cây tùng đơn độc. Trên một cành cây mọc ngang ra, có người lấy gậy đâm vào rồi đứng lên đó. Người này mình mặc áo xanh chính là Đoàn Diên Khánh. Tay trái lão nắm gậy, tay mặt cũng cầm một cây gậy nữa, đầu cây gậy này có một người nắm lấy, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Tay kia của Nam Hải Ngạc Thần lại túm lấy đầu tóc của Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Hai tay Vân Trung Hạc nắm giữ hai cổ tay một thiếu nữ. Cả bốn người nối thành một sợi đây dài lơ lửng trên không, ở vào tình trạng nguy hiểm vô cùng! Bất luận ai sểnh tay một chút là mấy người cùng rơi xuống vực thẳm. Dưới khe núi này đá tai mèo chi chít tựa cây rừng, nhiều mỏm đá nhọn hoắt như mũi dao chĩa thẳng lên, ai rớt xuống chắc chắn phải tan xác. Lúc ấy một cơn gió thổi qua, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc và thiếu nữ lắc lư thành vòng cung. Thiếu nữ lúc trước xoay lưng về phía mọi người, bây giờ quay nghiêng mặt lại. Đoàn Dự vừa trông thấy đã la hoảng: “Trời ơi!” rồi suýt nữa chàng lọt từ trên lưng ngựa xuống.

Thiếu nữ này chẳng phải ai xa lạ, chính là Vương Ngữ Yên mà chàng ngày đêm thương nhớ. Đoàn Dự định thần lại, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy sườn núi cực kỳ hiểm hóc, không có cách nào phi ngựa lên được. Chàng vội vàng xuống ngựa, chạy lại trước cây tùng thì thấy một người vừa lùn vừa béo mập đang cầm búa lớn chặt gốc cây tùng này. Đoàn Dự kinh hãi quá, la lên: “Ôi chao! Ngươi làm gì vậy?” Người béo lùn lờ đi như không nghe thấy, giơ búa tiếp tục chặt cây. Đoàn Dự trỏ ngón tay ra vận chân khí, muốn phát Lục Mạch Thần Kiếm tấn công hắn. Nhưng chàng sử Lục Mạch Thần Kiếm chưa được linh hoạt, không phải lúc nào muốn phát huy cũng được ngay, chỉ trỏ luôn mấy cái mà vẫn chẳng thấy kiếm khí vọt ra. Đoàn Dự lại càng sợ hãi đến cuống cuồng, lớn tiếng hô hoán: “Đại ca! Nhị ca! Hai vị hảo muội tử! Bốn vị hảo cô nương! Lại đây! Mau lại đây cứu người!”

Tiêu Phong, Hư Trúc vội chạy lại. Người lùn kia vốn khuất sau một tảng đá lớn nên ở dưới nhìn lên không thấy, gió núi lại thổi mạnh, tiếng chặt cây cũng không nghe rõ, nên không ai phát giác từ xa. May mà cây tùng này rất lớn, hắn không chặt đứt ngay được.

Bọn Tiêu Phong thấy tình trạng này đều vô cùng kinh hãi, không biết tại sao cơ sự lại như thế. Hư Trúc kêu lên: “Lão huynh mập kia, đừng chặt cây nữa!” Lão lùn mập nói: “Cây này do ta trồng, bây giờ ta muốn chặt về làm quan tài, ngươi cấm được ta ư?” Hắn vừa nói, vừa tiếp tục chặt cây. Nam Hải Ngạc Thần vẫn lớn tiếng la hoảng không ngớt. Đoàn Dự nói: “Nhị ca! Không thể nói chuyện phải trái với y được. Nhị ca hãy kiềm chế y trước rồi sẽ nói sau!” Hư Trúc đáp: “Đúng thế!”

Hư Trúc toan chạy tới thì bỗng thấy một người chống gậy lướt qua mặt mọi người mau lẹ phi thường, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã đến trước mặt gã béo lùn. Người này lướt đi mau quá nhìn không rõ, lúc hắn dừng lại mới biết là Du Thản Chi. Không biết gã đã chui từ trong xe lừa ra lúc nào.

Du Thản Chi chống một gậy xuống đất, một gậy giơ lên, lạnh lùng nói: “Không ai được lại đây!” Mộc Uyển Thanh chưa biết mặt gã, đột nhiên thấy dung mạo hắn xấu xí khủng khiếp, nàng cả kinh thất sắc, khẽ la lên một tiếng: “Úi chao!”

Đoàn Dự vội nói: “Trang Bang chủ! Bang chủ mau ngăn trở vị nhân huynh béo mập kia, đừng để y chặt đứt cây tùng.” Du Thản Chi lạnh lùng hỏi lại: “Ta ngăn trở y để làm chi, được ích lợi gì?” Đoàn Dự đáp: “Cây tùng mà đổ xuống thì mấy người kia đều chết hết.”

Hư Trúc thấy tình thế cực kỳ nguy hiểm liền tung mình nhảy vọt ra để ngăn trở không cho gã béo mập chặt cây, đồng thời cứu bọn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần xuống. Ngày trước Hư Trúc giải được thế cờ Trân Lung bí hiểm, cũng đã nhờ Đoàn Diên Khánh chỉ điểm cho. Sau này y học được bản lĩnh đầy mình, cũng chính mở đầu từ ngày đó. Tuy những sự việc này là phúc hay là họa của y thì cũng khó nói, nhưng Đoàn Diên Khánh đối với y thì dĩ nhiên chỉ có hảo ý mà thôi.

Tay phải Du Thản Chi cắm cây trượng gỗ xuống đất, tay trái phóng ra một chưởng. Một luồng khí âm hàn theo chưởng phong xô ra. Hư Trúc không sợ âm hàn độc chưởng, nhưng biết rằng chưởng lực đối phương thâm hậu, không dám coi thường, phải định thần phóng chưởng chống lại. Du Thản Chi lại phóng phát chưởng thứ hai đánh vào cây tùng. Một cành cây rơi xuống, những cành khác lung lay không ngớt, bốn người đang treo lơ lửng cũng lắc lư theo.

Đoàn Dự vội la lên: “Nhị ca! Đừng tới gần nữa. Chúng ta nói chuyện tử tế hay hơn, hà tất phải động thủ? Trang Bang chủ! Ngươi có thù với ai? Sao lại hại người như thế?” Du Thản Chi hỏi: “Đoàn công tử! Ngươi muốn ta ngăn trở lão béo này thì chẳng có chi là khó. Nhưng ngươi có làm chuyện gì tốt cho ta không?” Đoàn Dự nói: “Bang chủ… muốn gì… ta cũng đồng ý. Ngươi muốn sao thì cứ nói ra, lẹ lên, lẹ lên! Đừng chần chừ nữa!” Du Thản Chi đáp: “Ta ngăn trở gã mập này xong, muốn cùng A Tử cô nương lập tức rời khỏi nơi đây. Ngươi cùng bọn Tiêu Phong, Hư Trúc không ai được ngăn trở. Các vị có ưng thuận như vậy không?”

Đoàn Dự vội đáp: “A Tử đang muốn nhị ca của ta chữa mắt cho sáng lại. Nếu A Tử đi theo ngươi thì làm sao chữa mắt?” Du Thản Chi đáp: “Hư Trúc tiên sinh đã có thể chữa mắt cho nàng, thì ta cũng có thể tìm cách chữa trị.” Đoàn Dự ngập ngừng nói: “Cái đó… cái đó…” Chàng thấy gã béo lùn vẫn đang tiếp tục chặt cây, nghĩ rằng cứu người là gấp, liền đáp: “Ta ưng thuận lời ngươi. Ngươi… ngươi… nhanh…”

Du Thản Chi vung chưởng đánh vào gã lùn mập. Gã này cười khì khì, quẳng búa xuống, đứng thủ thế, quát lên một tiếng rồi vung song chưởng lên chống đỡ phát chưởng của Du Thản Chi. Chưởng phong của gã rít lên veo véo, thanh thế cực kỳ mãnh liệt, còn phát chưởng của Du Thản Chi lại không một tiếng động.

Đột nhiên sắc mặt gã béo lùn biến đổi. Gã đang tỏ vẻ kiêu ngạo khinh người, bỗng ra chiều kinh hãi, dường như thấy một quái sự không ngờ nổi. Rồi khóe miệng gã ứa máu tươi, thân thể co rúm lại như một quả bóng, từ trên sườn núi lăn xuống vực thẳm. Một lát sau nghe “ầm” một tiếng, người gã đã đập vào những tảng đá lởm chởm dưới đáy hang. Mọi người nghe tiếng động, tưởng tượng ra thảm trạng gã béo lùn bị vỡ tan đầu óc, thân thể nát nhừ, đều không khỏi rùng mình.

Hư Trúc tung người nhảy vọt lên cành tùng, thấy cây cương trượng của Đoàn Diên Khánh cắm sâu vào cành cây. Nội lực lão cực kỳ ghê gớm, mới có thể đeo được cả bốn người nặng như thế lơ lửng mà không tuột trượng ra. Hư Trúc cực kỳ khâm phục, đưa tay ra nắm lấy cầy cương trượng kéo lên.

Nam Hải Ngạc Thần oang oang khen ngợi: “Tiểu hòa thượng! Ta đã sớm biết ngươi là người tốt! Ngươi là con của nhị tỉ ta, dĩ nhiên là tiểu điệt của Nhạc lão nhị. Ngươi đã là tiểu điệt, dĩ nhiên thấy Nhạc lão nhị bị nguy hiểm thì phải ra tay giúp đỡ. Hôm nay, nếu không được ngươi đến cứu mạng thì thật là nguy quá. Chúng ta bị treo ở đây đã ba ngày ba đêm rồi, không muốn nếm mùi cay đắng này nữa.” Vân Trung Hạc nói: “Thôi thôi! Đừng nói khoác nữa! Làm gì mà bị treo những ba ngày ba đêm.” Nam Hải Ngạc Thần tức giận nói: “Lúc nãy ta mà không gượng nổi, thả đầu tóc ngươi ra thì còn chi là mạng? Bây giờ ngươi có muốn ta thử buông tay không?” Hai người này tuy gặp lúc nguy hiểm mà vẫn gây gổ nhau.

Chỉ trong nháy mắt, Hư Trúc đã kéo được Đoàn Diên Khánh lên, rồi tiếp tục kéo đến Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc, sau cùng là Vương Ngữ Yên. Hai mắt nàng nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt, dường như ngất đi đã lâu.

Đoàn Dự thấy cứu được nàng thì hết sức hoan hỉ, sau đó lại nổi lòng thương xót. Hai cổ tay nàng đều có quầng đen vì bị ngón tay Vân Trung Hạc nắm chặt. Chàng nghĩ tới Vân Trung Hạc là con người hung tàn hiếu sắc, đã mấy lần toan xúc phạm đến Mộc Uyển Thanh và Chung Linh, mà lần nào cũng nhờ Nam Hải Ngạc Thần cứu gỡ. Hôm nay lại diễn ra tấn kịch này, chàng tức giận đến cực điểm, liền nói: “Đại ca! Nhị ca! Gã Vân Trung Hạc này thật là khả ố! Chúng ta giết quách gã đi thôi!”

Nam Hải Ngạc Thần vội la lên: “Không nên! Không nên! Đoàn… sư phụ! Hôm nay hoàn toàn nhờ ở lão tứ mới cứu được… sư nương… Nếu không có y thì tính mạng sư nương đã… ô hô ai tai rồi.”

Lão nói mấy câu này ngắc ngứ tới ba bốn chỗ, mọi người nghe không rõ. Mộc Uyển Thanh thấy Đoàn Dự vì Vương Ngữ Yên mà nóng nảy hoảng hốt, đã rầu rầu nét mặt tự thương thân mình. Bây giờ nàng thấy dung mạo Vương Ngữ Yên tuyệt thế vô song thì trong lòng có một cảm giác kỳ dị khó mà tả được. Vương Ngữ Yên từ từ mở mắt ra, la lên một tiếng rồi hỏi: “Đây có phải là âm phủ không? Ta… chết rồi ư?”

Nam Hải Ngạc Thần nói: “Cô này ăn nói thật là hồ đồ! Nếu đây là âm phủ thì chẳng lẽ mọi người chúng ta đều chết cả rồi ư? Bây giờ cô chưa là vợ sư phụ ta, ta nói mấy câu vô lễ, cô đừng cho là phạm thượng. Theo chỗ ta biết thì sớm muộn gì cô cũng là sư nương ta. Ngày giờ thấm thoát qua nhanh lắm, may còn cơ hội này, ta gọi cô mấy tiếng cô nương tưởng cũng chẳng có chi quá đáng! Ta xin hỏi: Cô nương đang bình yên, sao lại đi tìm cái chết? Cô chết thì thỏa nguyện vọng của cô cũng đành, nhưng suýt nữa chết lây cả đến tứ đệ Vân Trung Hạc. Vân lão tứ có chết cũng không sao, nhưng còn liên can đến đại ca Đoàn Diên Khánh. Đoàn lão đại mà chết thì thật là đáng tiếc, nhưng hãy còn là việc nhỏ. Nhạc lão nhị bị liên can chết theo mới là việc nguy hiểm hơn hết.”

Đoàn Dự nói: “Vương cô nương! Vụ này là thế nào? Cô nương một phen kinh hãi, khiến tại hạ áy náy vô cùng! Thôi, cô nương hãy ngồi tựa vào gốc cây mà nghỉ một lúc.” Chàng dịu dàng an ủi, nhưng Vương Ngữ Yên lại rú lên một tiếng rồi khóc ròng, hai tay ôm đầu khẽ nói: “Các vị đừng nghĩ đến ta nữa! Ta không thể sống nữa đâu!” Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: “Té ra nàng muốn tự tử thật! Nhưng không hiểu tại sao? Chẳng lẽ…” Chàng liếc mắt nhìn Vân Trung Hạc thấy vẻ mặt gã rất đỗi hung tàn bạo ngược, thì la thầm: “Trời ơi! Phải chăng Vương cô nương đã bị gã này làm ô nhục nên định tự tử?”

Chung Linh tiến lên một bước, cất tiếng chào hỏi: “Nhạc lão tam! Mạnh khỏe chứ?” Nam Hải Ngạc Thần nhìn thấy Chung Linh, cả mừng đáp: “Tiểu sư nương! Sư nương vẫn mạnh giỏi chứ? Bây giờ ta là Nhạc lão nhị chứ không phải Nhạc lão tam nữa.” Chung Linh cũng nói: “Lão nhị cũng đừng kêu ta bằng tiểu nọ, tiểu kia nữa, khó nghe lắm! Nhạc lão nhị, ta hỏi ngươi: Vị cô nương kia tại sao lại toan tự tử? Phải chăng thằng cha giống như cây tre kia đã gây ra tai vạ? Ta phải giáo huấn hắn một phen.” Nàng úp hai tay lên miệng, phà hơi cho nóng. Vân Trung Hạc biến sắc mặt, lùi lại hai bước.

Nam Hải Ngạc Thần vội xua tay đáp: “Không phải! Không phải! Lần này không hiểu tại sao hắn đột nhiên biến tính trở thành người tốt. Bọn ta còn ba người, thiếu mất Diệp Nhị Nương, ai nấy đều đau buồn mới đi tản bộ lên đây. Bỗng nhiên thấy cô nương này đâm đầu nhảy xuống vực thẳm, Vân lão tứ đại phát từ tâm, nhảy xuống nắm theo được tay cô. Nhưng cô bé kia nhảy mạnh quá, lại kéo theo Vân lão tứ rớt xuống! Trời đất ơi! Hắn là một tên Cùng Hung Cực Ác, đột nhiên biến đổi tính nết làm việc thiện, mà lại không biết tự lượng sức mình.”

Vân Trung Hạc tức mình nói: “Con mẹ nó! Khi nào Vân mỗ lại đại phát từ tâm làm việc thiện? Vân mỗ thấy cô nương đây chim sa cá lặn mà lại đâm đầu xuống vực thẳm để tự tử, nên tiếc không muốn bỏ qua, mới nhảy theo để bắt nàng về làm phu nhân.”

Nam Hải Ngạc Thần tức giận quát lên như sấm, trỏ tay vào mặt Vân Trung Hạc mắng: “Quân khốn kiếp! Nhạc lão nhị tưởng mi đổi tính thành người tốt, ra tay cứu người, mới nghĩ tình huynh đệ mà nhảy theo nắm lấy tóc mi định lôi lên. Nếu Nhạc lão nhị sớm biết mi lòng lang dạ thú, thì đã để mi chết quách cho xong.”

Chung Linh cười nói: “Nhạc lão nhị! Lão có ngoại hiệu là Hung Thần Ác Sát, chuyên làm việc hung ác, không làm việc tốt. Lão biến đổi tính nết tự bao giờ, có phải là được sư phụ dạy dỗ không?” Nam Hải Ngạc Thần vò đầu bứt tai đáp: “Không đổi tính! Lão nhị không đổi tính, nhưng Tứ Đại Ác Nhân thiếu đi một người thì sức mạnh lại bớt đi một phần, nên ta mới nắm đầu lão tứ định lôi lên. Không ngờ chẳng lôi được hắn mà chính mình cũng bị té nhào. May nhờ Đoàn lão đại bản lĩnh phi thường, phóng đầu gậy xuống cho ta nắm lấy. Nhưng ba người nặng tới trên dưới bốn trăm cân, kéo cả Đoàn lão đại xuống theo. Lão đại liền phóng một cây trượng lên đâm lấy cành tùng, đang tìm cách trèo lên. Không ngờ lại có thằng cha lùn mập người nước Thổ Phồn xách búa đến chặt cây.”

Chung Linh hỏi: “Gã lùn mập đó là người nước Thổ Phồn ư? Sao gã lại toan ám hại các vị?” Nam Hải Ngạc Thần phun một bãi nước bọt rồi đáp: ” Mọi việc đều do lão tứ chẳng ra gì. Hắn lẻn vào hoàng cung nước Tây Hạ để nhìn trộm công chúa, không ngờ sau đó lại khua chiêng đánh trống, lớn tiếng huyên thuyên với mọi người, nào khen công chúa đẹp tựa thiên tiên, nào ca ngợi dáng điệu nàng như chim sa cá lặn. Vụ này đến tai Vương tử nước Thổ Phồn, bọn ta lại phải một phen chiến đấu, đánh chết mười mấy tên võ sĩ Thổ Phồn. Vì thế mà bọn đại ác chúng ta thành ra cừu địch với bọn Thổ Phồn.”

Mọi người nghe lão nói vậy thì đã hơi hiểu manh mối, nhưng vẫn chưa hiểu tại sao tại sao Vương Ngữ Yên định tự tử.

Nam Hải Ngạc Thần lại nói: “Vương cô nương! Sư phụ ta đã đến đây. Hai người biết nhau từ lâu rồi, kết nghĩa phu thê quách đi, đừng tự tử làm chi cho uổng!” Vương Ngữ Yên ngẩng đầu lên nghẹn ngào nói: “Ngươi còn nói nhăng nói càn khinh mạn, ta… ta sẽ đập đầu vào đây mà chết đi cho xong.” Đoàn Dự vội nói: “Không được! Cô hương không được làm thế!” Rồi chàng quay lại bảo Nam Hải Ngạc Thần: “Nhạc lão tam! Ngươi không được…” Nam Hải Ngạc Thần vội ngắt lời: “Nhạc lão nhị chứ!” Đoàn Dự nói: “Ừ, thì Nhạc lão nhị! Ngươi không được nói nhăng nữa. Nhưng ngươi đã có công cứu người, ta cảm kích vô cùng.”

Nam Hải Ngạc Thần giương cặp mắt ti hí lên nhìn Vương Ngữ Yên nói: “Cô không chịu làm sư nương ta, thì cũng chẳng thiếu gì người muốn làm. Vị này là đại sư nương, vị kia là tiểu sư nương, ta cứ kêu bằng sư nương hết.” Lão vừa nói vừa trỏ Mộc Uyển Thanh, rồi lại trỏ sang Chung Linh.

Mộc Uyển Thanh đỏ mặt lên, bĩu môi nói: “Hừ! Lão này say rượu nói càn!” Từ lúc mọi người chú ý nhìn Hư Trúc cứu người, bây giờ mới nhìn lại, phát giác Du Thản Chi cùng A Tử đã đi đâu mất rồi. Đoàn Đự hỏi Tiêu Phong: “Đại ca! Họ đi cả rồi ư?”

Tiêu Phong đáp: “Họ đi cả rồi. Tam đệ đã nhận lời gã, nên ta không ngăn trở nữa.” Chàng nói vậy mà trong lòng không khỏi bâng khuâng, không hiểu A Tử theo Du Thản Chi rồi về sau số phận nàng sẽ ra sao.

Nam Hải Ngạc Thần bỗng la lên: “Lão đại! Lão tứ! Chúng ta về thôi chứ?” Lão thấy Đoàn Diên Khánh cùng Vân Trung Hạc nhằm hướng Linh Châu trở gót, liền quay lại nói với Đoàn Dự: “Nhạc lão nhị cũng đi thôi!” Lão vừa nói vừa xoay mình lẹ bước đi theo bọn Đoàn Diên Khánh.

Chung Linh nói: “Vương cô nương! Chúng ta ngồi xe cùng đi.” Rồi nàng đỡ Vương Ngữ Yên lên ngồi vào chỗ A Tử trên cỗ xe lừa. Đoàn người lại nhằm đường Linh Châu thẳng tiến. Vào lúc xế chiều, mọi người đến nội thành Linh Châu.

***

Thời bấy giờ, thế lực nước Tây Hạ đang cường thịnh, có tới hai mươi hai châu. Khu vực nam sông Hoàng Hà có Linh Châu, Hồng Châu, Ngân Châu, Hạ Châu. Khu Hà Tây có Hưng Châu, Lương Châu, Cam Châu, Túc Châu nay là Cam Túc Ninh Hạ, Tuy Viễn. Vùng đất này có lợi thế ở nguồn nước sông Hoàng Hà nên lương thực rất dồi dào. Người ta thường nói “Hoàng Hà trăm thứ hại, chỉ có một thứ lợi”, thế mà Tây Hạ chiếm trọn vùng đất quanh con sông này. Tây Hạ binh cường mã tráng, có tới năm mươi vạn giáp binh, quân sĩ vừa kiêu dũng vừa thiện chiến. Tống sử chép rằng: Người Tây Hạ dùng binh phần nhiều đứng ở núi hoang, đặt quân mai phục để bao vây địch, dùng thiết kỵ làm tiền quần xung phong. Đội thiết kỵ này cưỡi ngựa và mặc hai lần áo giáp, đao thương đâm không thủng, ngựa lại dùng xích sắt kết chặt vào nhau nên dù chết cũng không ngã xuống. Lúc giao tranh, đội thiết kỵ xông lên đột phá trước, khi trận địch rối loạn rồi đại quân mới tiến lên, quân bộ xen giữa kỵ binh mà tấn công. Quốc vương nước Tây Hạ vốn là người rợ Hồ ở họ Thát Bạt, đến đời Đường Thái Tông mới được ban cho họ Lý. Người Tây Hạ đánh nhau khắp bốn phương, vì vậy mà biên giới nước này biến đổi hoài, kinh đô cũng tùy lúc mà dời đi. Linh Châu tuy là kinh thành nước Tây Hạ nhưng so với các đô thị lớn ở Trung Nguyên thì còn kém xa lắm.”

Tối hôm ấy bọn Tiêu Phong không sao tìm được quán trọ. Linh Châu vốn đã chẳng phồn hoa đô hội gì, lại đã gần đến Trung Thu, hảo hán bốn phương tới đây không biết bao nhiêu mà kể, những khách sạn lớn đều chật ních những người. Bọn Tiêu Phong đành ra khỏi thành, tìm mãi mới được một tòa miếu cũ làm chỗ nghỉ đêm. Nam nhân tụ tập ở gian phía đông, còn nữ nhân ngủ ở phòng phía tây.

Từ lúc Đoàn Dự gặp Vương Ngữ Yên, trong lòng chàng vừa hoan hỉ lại vừa lo âu, đêm ấy chàng trằn trọc không sao ngủ được. Chàng tự hỏi: “Tại sao Vương cô nương lại toan tự tử? Ta phải tìm cách khuyên giải nàng mới được. Nhưng ta không biết nguyên nhân thì làm sao mà khụyên giải?”

Lúc đó, trăng đang lấp ló bên song cửa sổ, phủ xuống mặt đất một vùng ánh sáng trong trẻo. Đoàn Dự không sao ngủ được, rón rén đứng dậy ra sân. Chàng thấy bên góc tường có hai cây ngô đồng, mảnh trăng khuyết từ từ ló lên khỏi ngọn cây. Tiết đại thử vừa qua, đêm ở vùng Cam Lương này đã lạnh. Đoàn Dự quanh quẩn dưới gốc cây ngô đồng một lúc, thấy vết thương trước ngực ngâm ngẩm đau, thì biết rằng ban ngày đi nhiều quá làm động đến vết thương. Bất giác chàng lại tự hỏi: “Tại sao Vương cô nương lại muốn tự tử? Chuyện này thật khó mà hiểu được.”

Chàng thơ thẩn bước ra cửa miếu, dưới ánh trăng, xa xa bên bờ hồ bỗng thấy bóng người thấp thoáng. Dường như đó là một nữ lang áo trắng, mà bộ dạng lại hao hao giống Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự kinh hãi la thầm: “Nguy rồi… Chắc nàng lại đi tự tử…” Chàng liền thi triển Lăng Ba Vi Bộ lướt đi rất nhanh mà không một tiếng động, chẳng khác mỹ nhân đạp trên mặt sóng, chỉ chớp mắt, chàng đã đến sau lưng nữ lang áo trắng. Nước hồ trong suốt như gương, phản chiếu dung mạo nữ lang, quả nhiên chính là Vương Ngữ Yên.

Đoàn Dự rụt rè chưa dám tiến lại. Chàng nghĩ thầm: “Khi ở núi Thiếu Thất, nàng đã căm hận ta, lần này gặp lại thì nàng vẫn chưa lộ vẻ gì, nhưng chắc hẳn chưa nguôi giận. Nàng tự tử, biết đâu chẳng vì giận ta mà ra? Than ôi! Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi đã mạo phạm giai nhân để nàng buồn thảm mà toan tự tử! Dù người có chết trăm lần cũng không đủ chuộc tội.” Chàng nấp vào sau một gốc cây lớn, tự than tự oán, càng nghĩ càng thấy tội mình thâm trọng.

Bỗng thấy mặt hồ trong như ngọc biếc, tự nhiên lăn tăn sóng gợn. Mấy vòng tròn trước còn nhỏ, sau lan rộng ra trên mặt nước. Đoàn Dự chú ý nhìn kỹ, thấy mấy giọt như hạt châu rớt xuống mặt hồ, thì ra là nước mắt Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự càng nghĩ càng xót thương cho người ngọc. Chàng lắng tai, nghe nàng thở dài mấy tiếng rồi nghẹn ngào lẩm bẩm: “Ta chết cho xong, để khỏi phải chịu đau khổ hành hạ giày vò.”

Đoàn Dự không nhịn được nữa, ở sau gốc cây chạy ra nói: “Vương cô nương! Ngàn điều lỗi, vạn điều lỗi, cũng chỉ là tại hạ lỗi lầm, xin cô nương để tại hạ gánh chịu hết. Nếu có nương… mà nổi giận thì tại hạ xin quỳ xuống đây!” Chàng nói xong, quả nhiên quỳ xuống thật.

Vương Ngữ Yên giật mình kinh hãi hỏi: “Công tử! Công tử làm gì vậy? Công tử đứng lên đi. Nếu để người ngoài trông thấy thì còn ra thể thống gì?” Đoàn Dự nói: “Cô nương có tha thứ thì tại hạ mới dám đứng dậy.” Vương Ngữ Yên gắt lên: “Ta tha thứ công tử cái gì? Việc của ta có can dự gì đến công tử?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ thấy cô nương thương tâm, thì chắc rằng đang lúc cô nương yên vui thì tại hạ đắc tội với Mộ Dung công tử, để y buồn bực rồi gây phiền não cho cô nương. Lần sau gặp y, dù có bị y đánh giết, tại hạ nhất định chạy trốn, quyết không trả đòn.” Vương Ngữ Yên giậm chân nói: “Trời ơi! Chuyện đau lòng của ta không liên can gì đến công tử.” Đoàn Dự nói: “Thế cô nương không trách tại hạ ư?” Vương Ngữ Yên nói: “Dĩ nhiên là không!” Đoàn Dự nói: “Có thế tại hạ mới yên tâm.” Chàng đứng lên mà trong dạ ngậm ngùi. Giả tỉ Vương Ngữ Yên vì chàng mà thương tâm đến muốn tự tận, thì dù nàng có đánh mắng hay đâm chém, chàng còn thấy dễ chịu hơn. Nhưng nàng chỉ nói vẻn vẹn một câu: “Chuyện đau lòng của ta không liên can gì đến công tử”, khiến chàng chán ngán vô cùng.

Bỗng Vương Ngữ Yên lại cúi đầu xuống, dòng châu nhỏ giọt. Tay áo của nàng không thấm nước, những giọt lệ rớt vào lại lăn xuống mặt hồ. Đoàn Dự ruột nóng như lửa đốt, vội nói: ” Cô nương! Cô nương có điều gì khó giải quyết thì xin cứ nói ra. Tại hạ nhất định sẽ tận tâm tận lực, làm cho cô nương đổi giận thành vui.”

Vương Ngữ Yên từ từ ngẩng đầu lên. Dưới ánh trăng tỏ, đôi mắt nàng lóng lánh như ngọc, vẻ mặt buồn rười rượi, cất tiếng nói: “Đoàn công tử! Công tử thật đã hết lòng hết dạ với ta, lòng ta xiết bao cảm kích! Nhưng việc này công tử muốn giúp ta cũng không được đâu.”

Đoàn Dự đáp: “Thật ra tại hạ chẳng có bản lĩnh gì, nhưng Tiêu đại ca và Hư Trúc nhị ca của tại hạ đều là những cao thủ vào bậc nhất võ lâm. Hiện giờ, hai người cũng ở đây, đối với tại hạ như tình cốt nhục. Tại hạ nhờ đến việc gì thì hai vị đó nhất định không từ chối. Cô nương có điều chi phiền muộn cứ nói cho tại hạ nghe. Dù cho địch thủ ghê gớm quá không làm gì được, nhưng cô nương đã nói ra thì u uất trong lòng cũng nhẹ đi được vài phần.”

Sắc mặt Vương Ngữ Yên đang nhợt nhạt bỗng nhiên ửng hồng. Nàng quay đi phía khác, không dám nhìn thẳng Đoàn Dự, nói lí nhí trong cổ họng: “Y… muốn đi làm phò mã nước Tây Hạ. Công Dã nhị ca đến khuyên giải ta, nói là vì… vì việc… phục hưng nước Đại Yên gì gì đó, nên y không thể nghĩ đến chuyện nhi nữ tư tình được.” Nàng nói dứt lời, bất giác gục mặt vào vai Đoàn Dự khóc thút thít.

Đoàn Dự cảm thấy như được ban một ân huệ vô cùng vinh dự, người chàng không nhúc nhích. Nhưng chàng hiểu được tâm sự vương Ngữ Yên thì không khỏi thẫn thờ, chẳng hiểu mình nên vui mừng hay nên đau khổ. Mối thương tâm của Vương Ngữ Yên là vì Mộ Dung Phục. Y muốn sang cưới công chúa Tây Hạ để làm phò mã, tất nhiên sẽ không ngó ngàng gì đến nàng nữa. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Khi nàng không thỏa nguyện với biểu huynh, biết đâu lại chẳng đoái hoài đến mình đôi chút. Mình chẳng dám nghĩ tới chuyện nàng hạ cố thành thân, mà chỉ cầu được nàng thỉnh thoảng vui vẻ nhìn mình cũng là thỏa mãn lắm rồi. Nếu nàng ưa thanh tịnh, mình sẽ theo hầu nàng ở nơi rừng sâu núi thẳm, hoặc ngoài hoang đảo xa khơi không vết chân người, sớm tối có nhau. Được thế thì quả không uổng một đời.” Nghĩ tới đây, chàng mừng quá bất giác khoa chân múa tay.

Vương Ngữ Yên run lên, lui lại một bước. Nàng thấy Đoàn Dự hớn hở tươi cười thì buồn bã nói: “Ta tưởng công tử là người tốt nên mới nói ra, té ra công tử thấy ta gặp tai họa lại lấy làm vui sướng.” Đoàn Dự hốt hoảng nói: “Không! Không! Cô nương! Trên có hoàng thiên, dưới có hậu thổ, chứng minh cho tấm lòng Đoàn Dự này. Nếu tại hạ thấy Vương cô nương gặp tai họa mà lại lấy làm vui sướng, thì xin sét đánh xuống đỉnh đầu, vạn mũi tên bắn vào thân thể.”

Vương Ngữ Yên vội nói: “Công tử đã không phải là người ác tâm thì thôi, phát thệ làm gì? Nhưng tại sao công tử lại vui sướng?” Nàng vừa hỏi xong, trong lòng cũng đã tự đáp được rồi, dĩ nhiên Đoàn Dự vui sướng là vì Mộ Dung Phục đi lấy công chúa Tây Hạ, chàng sẽ loại bỏ được một tình địch ghê gớm. Kể ra thì Đoàn Dự yêu thương Vương Ngữ Yên hết lòng hết dạ, có lý nào nàng lại không hay biết? Nhưng từ nhỏ nàng đã dành hết tình cảm cho biểu huynh, còn mối si tình của Đoàn Dự cũng thỉnh thoảng có lúc nàng nghĩ tới, nhưng không tài nào lay chuyển được mối tình đầu. Vương Ngữ Yên vừa hiểu vì sao Đoàn Dự vui mừng, nàng lập tức vừa tức giận vừa hổ thẹn, mặt đỏ bừng lên nói: “Tuy công tử không cười ta, nhưng cũng có tâm địa không tốt… Ta… ta…”

Đoàn Dự trong lòng kinh hãi, lẩm bẩm: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự! Sao ngươi lại nảy ra ý nghĩ đê hèn, muốn thừa cơ cháy nhà để cướp của? Ngươi thật là một kẻ tiểu nhân vô sỉ!” Chàng thấy Vương Ngữ Yên mặt buồn rười rượi thì vô cùng đau xót, lòng hào hiệp lại nổi lên, nghĩ thầm: “Vừa rồi mình ước mơ được sớm tối ở cùng nàng tại hoang sơn dã đảo cho vui thú một đời, nhưng cái vui của Đoàn Dự lại không phải là cái vui của Vương Ngữ Yên, mà lại là nỗi đau lòng của nàng. Cái vui chân chính của ta là phải làm thế nào cho nàng được vui lòng, có thế mới là yêu thương nàng một cách chân thành.”

Vương Ngữ Yên nhìn xuống, khẽ hỏi: “Hay là ta nói sai? Công tử giận ta phải không?” Đoàn Dự đáp: “Không, không! Tại hạ có giận cô nương gì đâu?” Vương Ngữ Yên lại hỏi: “Thế sao công tử không nói gì?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ đang suy nghĩ một điều.”

Trong lòng chàng đang suy tính: “So với Mộ Dung Phục thì văn tài vỗ nghệ mình đều kém y, nhân phẩm phong độ cũng không bằng, thanh danh oai vọng lại càng không thể so sánh được. Mình đã thua kém cả mọi mặt, huống chi hai người còn thân cận từ thuở nhỏ, thâm tình ràng buộc đã lâu. Mình chỉ có một điều hơn Mộ Dung Phục xa, đó là tấm lòng chân thật của mình đối với nàng, cần phải cho nàng biết. Giả tỉ mấy chục năm sau, Vương cô nương ăn ở với Mộ Dung công tử có con có cháu rồi, mà trong lòng nàng thỉnh thoảng vẫn còn nhớ tới Đoàn mỗ là người hết lòng với nàng nhất trên đời, thế là ta thỏa nguyện.”

Đoàn Dự quyết định chủ ý xong, liền nói: “Vương cô nương! Cô nương bất tất phải phiền lòng. Tại hạ sẽ tìm cách khuyến cáo Mộ Dung công tử đừng đi làm phò mã nước Tây Hạ, phải hoàn thành hôn sự với cô nương!”

Vương Ngữ Yên giật mình, kinh hãi nói: “Không được! Biểu huynh ta căm hận công tử đến chết, nhất định y không nghe công tử khuyên can đâu.” Đoàn Dự nói: “Tại hạ sẽ lấy đại nghĩa mà nói. Trên thế gian này, mối tình phu phụ quan trọng nhất là phải tâm đầu ý hợp. Y chưa quen biết công chúa Tây Hạ, nàng xấu hay đẹp, tính thiện hay ác, y cũng chưa hiểu. Vừa nhìn thấy mặt đã nên đạo vợ chồng thì không thể nào thương yêu nhau được. Tại hạ lại nói cho y hiểu, Vương cô nương nhân phẩm khác thường trên đời có một, ôn nhu yểu điệu dưới thể không hai. Huống chi cô nương một lòng thiết tha với y, lẽ nào y lại là con người bạc bẽo để hảo hán thế gian thóa mạ, anh hùng thiên hạ chê cười?

Vương Ngữ Yên nghe Đoàn Dự nói một hồi, trong lòng cực kỳ xúc động, ngậm ngùi nói: “Đoàn công tử! Công tử nói như vậy là cố ý quá khen để ta được vui lòng.” Đoàn Dự vội nói: “Sai bét, sai bét!” Chàng vô tình bắt chước câu nói cửa miệng của Bao Bất Đồng, không nhịn được, bật cười nói tiếp: “Tại hạ một lòng thành thực, nói toàn lời gan ruột.” Vương Ngữ Yên cũng bị câu “Sai bét, sai bét” làm phải bật cười, rồi nói: “Công tử chẳng học cái gì hay tốt, lại đi học cái giọng lè nhè của Bao tam ca.”

Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên bật cười thì trong lòng khoan khoái vô cùng. Chàng nói: “Tại hạ còn nhiều phương pháp để khuyên can, khiến cho Mộ Dung công tử chẳng những bỏ ý nghĩ sang Tây Hạ làm phò mã mà còn gấp rút thành hôn với cô nương!” Vương Ngữ Yên nói: “Công tử hành động như thế để làm chi? Có ích lợi gì cho công tử đâu?” Đoàn Dự đáp: “Chỉ cần được thấy cô nương nói cười vui vẻ, là tại hạ mãn nguyện lắm rồi.”

Vương Ngữ Yên bất giác rung động, câu nói của Đoàn Dự tuy hời hợt mà đã biểu lộ một mối chân tình khôn tả. Nhưng nàng không tài nào quên được Mộ Dung Phục, lại thở đài nói: “Công tử chưa hiểu tâm sự của biểu huynh ta. Y coi việc phục hưng nước Đại Yên là trọng đại nhất trong đời. Y từng nói: tấm thân nam tử phải lấy việc mở mang cơ nghiệp là lớn, chuyện nhi nữ thường tình là nhỏ, anh hùng khí đoản thì không phải anh hùng. Y còn bảo: công chúa Tây Hạ xấu xí như Chung Vô Diệm cũng được, có kiêu ngạo lăng loàn thì cũng chẳng sao. Y chỉ mong tìm được phương tiện để khôi phục lại nước Đại Yên là đủ.”

Đoàn Dự trầm ngâm rồi đáp: “Quả là như thế. Họ Mộ Dung vẫn chuyên tâm trí vào việc lên ngôi hoàng đế, nếu Tây Hạ khởi binh giúp y phục quốc thì… Việc này… Việc này thật khó mà ngăn cản được.” Chàng thấy Vương Ngữ Yên nước mắt chảy quanh, liền ưỡn ngực ra nói: “Cô nương cứ yên tâm. Để tại hạ sang tranh đoạt ngôi phò ma nước Tây Hạ, hất Mộ Dung công tử ra ngoài, nhất định y phải thành hôn với cô nương!”

Vương Ngữ Yên vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, vội hỏi lại: “Công tử nói gì?” Đoàn Dự đáp: ” Tại hạ nhất định sang tranh ngôi, phò mã nước Tây Hạ.” Khi ở núi Thiếu Thất, Vương Ngữ Yên đã chứng kiến Đoàn Dự thi triển Lục Mạch Thần Kiếm đả bại Mộ Dung Phục, biết rằng võ công chàng cao cường hơn biểu huynh mình, nếu chàng quyết tâm đi làm phò mã thì biểu huynh khó mà tranh giành được. Nàng nghĩ vậy, hạ thấp giọng xuống nói: “Đoàn công tử thật hết lòng vì ta, nhưng làm như thế thì biểu huynh ta phải căm hận công tử đến chết chưa thôi.” Đoàn Dự đáp: “Chuyện đó cũng chẳng quan hệ gì, vả lại đằng nào y cũng căm hận tại hạ rồi!” Vương Ngữ Yên lại nói: “Chính công tử vừa nói chưa hiểu công chúa đẹp hay xấu, thiện hay ác, thế mà lại đi thành thân cùng nàng, hóa ra… ta lạm dụng công tử nhiều quá ư?”

Đoàn Dự không ngần ngừ gì, đáp ngay: “Miễn sao được việc cho cô nương, còn đối với tại hạ thì khuất tất một chút phỏng có chi đáng kể.” Câu nói vừa ra khỏi miệng, chàng lại nghĩ: “Giả tỉ mình kể công với nàng thì đâu phải hành vi của người quân tử?” Nghĩ vậy, chàng liền nói tiếp: “Không phải tại hạ vì cô nương mà chịu khuất tất đâu. Gia gia đã ra lệnh cho tại hạ là phải cưới cho bằng được công chúa nước Tây Hạ. Đạo làm con phải tận hiếu với song thân, việc này không can dự gì đến cô nương.”

Vương Ngữ Yên là người thông tuệ phi thường, lẽ nào không hiểu mối thâm tình của Đoàn Dự? Nàng nghĩ tới chàng vì mình mà cam tâm đi lấy một cô gái chưa quen biết, cắn răng ép lòng mà ngoài miệng lại không chịu nhận, thật là người quân tử. Nàng cảm động vô cùng, đột nhiên đưa tay ra nắm lấy tay Đoàn Dự nói: “Đoàn công tử! Kiếp này… ta không thể báo đáp cho công tử được, xin hẹn kiếp sau.” Rồi nàng nghẹn ngào, không nói thêm được nữa.

Hai người đã mấy phen qua cơn hoạn nạn, khi ôm cõng, khi nâng đỡ, đụng chạm nhau không phải một lần. Nhưng trước kia đều là những trường hợp bất đắc dĩ, chỉ có lần này mới là cố ý, Vương Ngữ Yên vì cảm động mà tự nắm lấy tay chàng. Đoàn Dự cảm thấy bàn tay mềm mại nắm lấy tay mình mà tưởng như trời sắp sập, sung sướng quá, miệng lẩm bẩm: “Nàng đối đãi với mình thế này thì đừng nói phải lấy một công chúa Tây Hạ, dù có phải lấy công chúa Đại Tống, công chúa Đại Liêu, công chúa Thổ Phồn hay công chúa Cao Ly gì gì nữa, mình cũng nhất định lấy hết.” Chàng bị trọng thương chưa khỏi, vì vui mừng quá độ mà nhiệt huyết bốc lên không chống nổi, đột nhiên tưởng chừng như trời đất quay cuồng, đầu nhức mắt hoa. Người chàng lảo đảo, rồi “ùm” một tiếng, chàng đã ngã xuống hồ.

Vương Ngữ Yên cả kinh la gọi: “Đoàn công tử! Đoàn công tử!” Rồi đưa tay ra kéo chàng lên. May mà hồ nước không sâu, Đoàn Dự chỉ bị ướt. Nước lạnh thấm vào, đầu óc chàng tỉnh táo lại bèn bò lên bờ, người lem luốc bùn sình.

Tiếng la hoảng của Vương Ngữ Yên vừa rồi đã làm cho nhiều người trong miếu tỉnh giấc. Bọn Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần hốt hoảng chạy ra, thấy Đoàn Dự hoang mang cùng Vương Ngữ Yên bẽn lẽn đứng bên nhau, đều cho là hai người ra bờ hồ tình tự lúc đêm khuya, bất giác cùng nghĩ là không nên hỏi nhiều. Đoàn Dự muốn tìm lời giải thích nhưng chẳng biết nói sao.

***

Hôm sau đã là mười hai tháng tám, còn ba ngày nữa là đến tiết Trung Thu. Ba Thiên Thạch từ sáng sớm đã vào thành Linh Châu để thăm dò tin tức. Khoảng giờ Tỵ, y lật đật chạy về miếu nói với Đoàn Dự:”Công tử! Tại hạ đã tới bộ Lễ, đưa thư của Vương gia về việc cầu thân với công chúa Tây Hạ. Thượng thư bộ Lễ xem thư xong, tỏ vẻ rất lịch sự. Y nói: Công tử đến cầu thân, thật là một vịnh dự lớn cho nước Tây Hạ, tin rằng công tử sẽ được như nguyện.”

Một lúc sau, ngoài cửa miếu bỗng có tiếng người ngựa nhộn nhịp rồi tiếng âm nhạc nổi lên. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần chạy ra nghênh tiếp. Thì ra đây là Đào thị lang bộ Lễ nước Tây Hạ thống lĩnh nhân viên đến đón Đoàn Dự vào quán dịch để khoản đãi. Tiêu Phong làm Nam Viện Đại Vương nước Liêu, một nước lớn còn phồn thịnh hơn Đại Lý. Giả tỉ người Tây Hạ biết chàng tới đây thì cuộc nghênh tiếp còn long trọng hơn, nhưng Tiêu Phong đã căn dặn mọi người đừng tiết lộ hành tung của chàng. Tiêu Phong, Hư Trúc cùng mọi người đều tự nhận là tùy tùng của Đoàn Dự, cùng đến quán dịch.

Mọi người vừa thu xếp xong, bỗng nghe ngoài sân có tiếng ồm ồm quát mắng: “Các ngươi là cái thá gì mà dám đến dòm ngó công chúa Tây Hạ? Ngôi phò mã Tây Hạ dĩ nhiên là tiểu Vương tử chúng ta nắm chắc rồi. Ta khuyên bọn ngươi nên cúp đuôi chạy trốn sớm đi là hơn.” Bọn Ba Thiên Thạch nghe thấy, nổi giận bừng bừng, tự hỏi: “Bọn này là ai mà ăn nói vô lễ thế?” Lúc họ mở cửa quán dịch ra coi thì thấy bảy tám đại hán cao lớn đang đứng trong sân, la ó om sòm.

Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đều là trọng thần nước Đại Lý, hành động cực kỳ tinh tế, nhưng Chu Đan Thần hơn mấy phần nho nhã, còn Ba Thiên Thạch hơn mấy phần uy võ. Hai người đều không lên tiếng, chỉ đứng tựa cửa nhìn ra. Mấy tên đại hán mỗi lúc một lớn tiếng thóa mạ, thỉnh thoảnh lại xen tiếng Phiên vào nghe không hiểu. Miệng chúng cứ lặp đi lặp lại: “tiểu Vương tử chúng ta, tiểu Vương tử chúng ta…” Dường như bọn này là thuộc hạ của Vương tử nước Thổ Phồn.

Ba Thiên Thạch đang nghĩ cách để dẹp chúng di, thì đột nhiên cánh cửa một gian nhà bên trái mở ra đánh “ầm” một tiếng. Hai người ở bèn trong nhảy xổ ra, một người áo vàng, một người áo đen, tay đấm chân đá. Chỉ trong chớp mắt ba gã đại hán nằm thẳng cẳng dưới đất kêu oai oái không ngớt, còn mấy gã kia đã bị liệng ra khỏi cửa hết. Hán tử áo đen nói: “Thú quá! Thú quá!” Hán tử áo vàng lại nói: “Sai bét, sai bét! Đã lấy gì làm thú?” Thì ra hai người này chính là Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng.

Mấy tên võ sĩ Thổ Phồn đứng ngoài cửa lớn tiếng la hét: “Gã Mộ Dung kia! Ta khuyên ngươi sớm về Cô Tô là hơn. Ngươi âm mưu kiếm chuyện với tiểu Vương tử bọn ta, định lấy công chúa Tây Hạ làm vợ, thì Vương tử sẽ thi triển kỹ thuật Gậy ngươi đập lưng ngươi, bắt biểu muội ngươi về làm tì thiếp.” Phong Ba Ác nghe bọn chúng thóa mạ mỗi lúc một thô tục, liền nhảy xổ ra vung chưởng đánh. Tiếp theo là những tiếng la hét ầm ĩ, mấy tên võ sĩ Thổ Phồn chạy trốn mỗi lúc một xa, tiếng thóa mạ cũng dần dần không nghe thấy nữa.

Vương Ngữ Yên ngồi trong phòng đã nghe thanh âm hai gã Bao Phong, nhưng nàng chưa quyết định được có nên gặp họ hay không.

Bao Bất Đồng nhìn Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần chắp tay hỏi: “Ba huynh! Chu huynh! Các vị đến Tây Hạ để xem cuộc náo nhiệt hay còn có mưu đồ chuyện khác?” Ba Thiên Thach đáp: “Hai vị Bao, Phong đến với mục đích gì, hai huynh đệ tại hạ cũng đến với mục đích ấy.” Bao Bất Đồng biến sắc hỏi: “Đoàn công tử nước Đại Lý cùng đến đây cầu thân hay sao?” Ba Thiên Thạch đáp: “Chính thế! Công tử bọn tại hạ là Thế tử, con Hoàng Thái đệ Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Ngày sau công tử lên ngôi đại bảo, làm vua nước Đại Lý, thế thì công tử thành hôn với công chúa Tây Hạ là môn đăng hộ đối. Còn Mộ Dung công tử tuy nhân phẩm không kém, nhưng chỉ là một gã bạch đinh thì xứng đôi thế nào được?” Bao Bất Đồng biến sắc nói: “Sai bét, sai bét! Ngươi chỉ biết có một mà không biết hai. Công tử ta là rồng là phượng trong loài người, tên ngốc họ Đoàn ví với công tử ta thế nào được?” Phong Ba Ác đi xồng xộc trở vào nhà nói: “Tam ca! Tranh hơi với hắn làm gì cho mệt! Hôm đó vào điện Kim Loan thi triển bản lĩnh sẽ biết!” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Cuộc tỉ thí ở Kim Loan Điện là mấy vị công tử so tài cao thấp, còn việc tranh hơi mới là việc của chúng ta.”

Ba Thiên Thạch cười nói: “Nếu nói về việc dùng lời lẽ tranh hơi, thì Bao huynh là đệ nhất, tự cổ chí kim không ai bì kịp, tiểu đệ phải chịu thua thôi.” Đoạn gã vẫy Chu Đan Thần cùng đi vào phòng, rồi nói: “Chu hiền đệ! Nghe Bao Bất Đồng nói thì dường như công tử phải tham dự một cuộc tỉ thí gì đó ở Kim Loan Điện. Thế mà công tử bị trọng thương chưa khỏi, võ công lại chỉ trông vào môn Lục Mạch Thần Kiếm lúc linh nghiệm lúc không. Nếu lúc tỉ thí mà Lục Mạch Thần Kiếm của công tử thi triển không linh nghiệm, thì chẳng những mất ngôi phò mã mà còn nguy đến tính mạng.” Chu Đan Thần cũng đành chiu bó tay, không có mưu chước gì khác. Hai người liền đi tìm Tiêu Phong và Hư Trúc để thương nghị.

Tiêu Phong hỏi: “Không hiểu luật lệ tỉ thí ở điện Kim Loan như thế nào? Hai người đơn đả độc đấu hay là cho cả thuộc hạ xuất trận? Nếu người ngoài cũng được tham gia tỉ thí thì chẳng có gì đáng lo hết.” Ba Thiên Thạch nói: “Chu hiền đệ! Chúng ta đi hỏi Đào thị lang cho biết rõ luật lệ tỉ thí, để chuẩn bị kế hoạch.”

Hai người đi rồi, ba anh em Tiêu Phong, Hư Trúc cùng Đoàn Dự ngồi quây quần uống rượu, chén chú chén anh thật là khoan khoái. Tiêu Phong hỏi Đoàn Dự về Lục Mạch Thần Kiếm, chàng muốn dạy nghĩa đệ cách vận khí để lúc nào muốn phát ra kiếm khí cũng được ngay. Ngờ đâu Đoàn Dự chẳng hiểu chút gì về nội công, ngoại công. Tiêu Phong không biết làm thế nào, chỉ lắc đầu lia lịa, rồi uống cạn hết chén này đến chén khác. Hư Trúc cùng Đoàn Dự tửu lượng kém xa, mới năm sáu chén đã say mèm ngã lăn ra, chẳng còn biết trời đất gì nữa.

***

Lúc chàng mơ màng tỉnh dậy, mở mắt ra nhìn thì thấy bóng trăng chênh chếch nhòm song, biết là đêm đã khuya rồi. Đoàn Dự giật mình nghĩ thầm: “Đêm qua mình cùng Vương cô nương nói chuyện chưa xong, thì mình đã vô ý té xuống hồ. Chẳng biết nàng còn muốn nói gì với mình nữa không? Hiện giờ nàng có chờ đợi ngoài kia không? Trời ơi! Nếu để nàng đợi lâu không nhẫn nại được, về phòng ngủ rồi thì há chẳng đáng tiếc ư?” Đoàn Dự nghĩ tới đó thì trong lòng nóng nảy, đứng phắt dậy, rón rén ra khỏi phòng. Chàng đi qua sân toan rút then cài cổng thì đột nhiên phía sau có tiếng người khẽ bảo: “Đoàn công tử! Công tử lại đây, ta có lời muốn nói.”

Đoàn Dự trong lúc không để ý, giật bắn người lên. Nghe giọng nói dường như không có hảo ý, Đoàn Dự toan quay đầu lại, thì đột nhiên thấy huyệt Thân Trụ ở sau lưng đã bị người ta nắm chặt. Chàng nghe thanh âm đã biết là ai, liền cất tiếng hỏi: “Có phải Mộ Dung công tử đấy không?” Người kia đáp: “Không dám! Chính là tại hạ! Tại hạ mời Đoàn huynh lại đằng kia nói chuyện.” Đoàn Dự thấy đúng là Mộ Dung Phục thì trong lòng hồi hộp đáp: “Mộ Dung công tử đã có lệnh, tại hạ lẽ nào chẳng tuân theo? Xin công tử buông tay ra.” Mộ Dung Phục đáp: “Bất tất phải buông tay.” Đoàn Dự đột nhiên thấy người nhẹ bỗng, rồi bay đi như người đằng vân giá vũ, thì ra Mộ Dung Phục nắm lưng chàng nhảy lên nóc nhà.

Chàng nghĩ: “Nếu mình la lên một tiếng, đại ca cùng nhị ca nghe mà chạy ra cứu viện thì có cơ thoát nạn.” Nhưng chàng lại tự nhủ: “Nếu mình la lên thì Vương cô nương cũng nghe rõ. Nàng thấy hai người lại tranh đấu, tất phải phiền lòng, nhưng chẳng bao giờ oán trách biểu huynh, mà cứ đổ tội cho mình. Thôi, mình chẳng để nàng phải buồn nữa là hơn.” Thế là chàng lẳng lặng để mặc cho Mộ Dung Phục xách mình chạy đi.

Đã sắp đến Trung Thu, ánh trăng vằng vặc tỏa sáng khắp một vùng, trông rõ mọi vật xung quanh. Lúc đầu Đoàn Dự thấy Mộ Dung Phục chạy nhanh trên đường lát đá xanh, lát sau rẽ vào con đường nhỏ đất vàng, hai bên đường cỏ dại mọc đầy, nửa xanh nửa úa.

Mộ Dung Phục chạy một lúc nữa rồi đột nhiên dừng bước, quăng Đoàn Dự xuống đánh “binh” một tiếng. Lưng và vai Đoàn Dự đập xuống đất đau đớn vô cùng. Chàng nghĩ thầm: “Thằng cha này ngoài mặt nho nhã mà hành vi lại dã man.” Chàng hắng giọng một tiếng rồi lồm cồm bò dậy, nói: “Mộ Dung huynh có gì thì cứ nói đi, giở thói thô lỗ làm gì?”

Mộ Dung Phục cười gằn hỏi: “Đêm qua ngươi cùng biểu muội ta đã nói những gì?” Đoàn Dự đỏ mặt lên đáp: “Có chuyện gì đâu? Tiểu đệ chỉ gặp cô nương, nói mấy câu chuyện tầm thường.” Mộ Dung Phục lại hỏi: “Đoàn công tử là nam tử hán, là đại trượng phu. Người quang minh lỗi lạc không làm điều ám muội, đã làm gì, nói gì cũng không giấu giếm.”

Đoàn Dự bị Mộ Dung Phục nói khích, bực tức đáp: “Dĩ nhiên là tiểu đệ chẳng cần phải giấu giếm Mộ Dung huynh. Tiểu đệ hứa với Vương cô nương là sẽ tìm Mộ Dung huynh để khuyên giải.” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Phải chăng ngươi muốn khuyên ta: “Trên thế gian này, mối tình phu phụ quan trọng nhất là phải tâm đầu ý hợp. Ngươi còn nói: ta chưa quen biết công chúa Tây Hạ, nàng xấu hay đẹp, tính thiện hay ác ta cũng chưa hiểu, vừa nhìn thấy mặt đã nên đạo vợ chồng thì không thể nào thương yêu nhau được.” Có đúng thế không? Ngươi còn bình phẩm: “ta phụ rẫy tình cảm thiết tha của Vương cô nương thì sẽ là con người bạc bẽo để hảo hán thế gian thóa mạ, anh hừng thiên hạ chê cười.” Có đúng thế không?”

Mỗi câu nói của Mộ Dung Phục làm Đoàn Dự giật mình một cái. Chàng chờ y dứt lời, rồi ấp úng nói lại: “Phải chăng… Vương cô nương đã kể với Mộ Dung huynh như vậy?” Mộ Dung Phục đáp: “Khi nào nàng lại kể với ta?” Đoàn Dự hỏi: “Thế thì… Mộ Dung huynh đã đứng nấp một bên để nghe hay sao?” Mộ Dung Phục cười nhạt, đáp: “Ngươi lừa gạt một cô gái chẳng hiểu chuyện đời thì được, chứ lừa gạt ta sao nổi?” Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi: “Tiểu đệ lừa gạt Mộ Dung huynh chuyện gì?”

Mộ Dung Phục cười đáp: “Sự tình đã rõ lắm rồi! Chính ngươi muốn làm phò mã nước Tây Hạ, sợ ta đến tranh nên bày trò, chỉ muốn ta mắc bẫy. Ha ha! Mộ Dung Phục này đâu phải đứa con nít lên ba, sao lại để kẻ khác lừa bịp một cách dễ dàng? Ngươi đừng mơ mộng nữa.” Đoàn Dự thở dài đáp: “Tiểu đệ hết sức chân thành, chỉ mong Vương cô nương cùng Mộ Dung huynh bén duyên cầm sắt, nâng án ngang mày, bách niên giai lão.” Mộ Dung Phục nói: “Đa tạ những lời vàng ngọc của Đoàn công tử. Nhà Mộ Dung ở Cô Tô cùng họ Đoàn nước Đại Lý vốn không thân thuộc lại không quen biết, sao ngươi phải bận tâm như vậy? Nếu ta bị Ngữ Yên quấn quít không nỡ buông ra, thì thật là dịp tốt cho ngươi qua làm phò mã Tây Hạ đấy nhỉ?”

Đoàn Dự tức giận nói: “Mộ Dung huynh nói vậy thì càn rỡ quá rồi. Tiểu đệ là Vương tử một nước, tuy Đại Lý là nước nhỏ, nhưng cũng chẳng coi hai chữ phò mã to như trời biển đâu, Mộ Dung huynh! Tại hạ chỉ thực tình khuyên nhủ: vinh hoa phú quý rồi cũng trở về không. Mộ Dung huynh muốn làm phò mã Tây Hạ thì còn dễ, nhưng muốn làm hoàng đế Đại Yên thì còn phải giết biết bao là người? Mộ Dung huynh có giết người Trung Nguyên đến máu chảy thành sông, thây chất thành núi cũng chưa chắc đã khôi phục được Đại Yên.”

Mộ Dung Phục không tức giận gì, lạnh lùng đáp: “Ngoài miệng ngươi thì nói nhân nghĩa đạo đức, mà lòng dạ chẳng khác gì rắn rết.” Đoàn Dự vội nói: “Mộ Dung huynh không tin lòng tốt của tiểu đệ thì tùy ý, nhưng tiểu đệ không nhường cho huynh lấy công chúa Tây Hạ đâu! Tiểu đệ không thể nhìn Vương cô nương vì Mộ Dung huynh mà tan ruột nát lòng, tìm cách tự tử.” Mộ Dung Phục cười gàn, hỏi: “Ha ha! Ngươi không cho ta lấy, nhưng ta nhất định lấy thì ngươi tính sao?” Đoàn Dự thản nhiên đáp: “Tiểu đệ nhất định hết sức ngăn trở. Nếu tự mình không đủ sức, thì nhờ bằng hữu giúp đỡ.”

Mộ Dung Phục không khỏi kinh hãi. Một mình Đoàn Dự thi triển Lục Mạch Thần Kiếm, y cũng không địch nổi, may mà kiếm pháp của chàng lúc linh nghiệm lúc không, nên y còn có thể nhân lúc sơ hở mà công kích. Còn bản lĩnh Tiêu Phong cùng Hư Trúc thế nào y đã rõ rồi. Mộ Dung Phục bỗng ngẩng đầu lên, lớn tiếng gọi: “Biểu muội! Biểu muội lại đây, ta có chuyện muốn nói!”

Đoàn Dự vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, vội quay đầu nhìn lại, nhưng dưới ánh trăng có thấy bóng người nào đâu? Chàng đang cố nhìn kỹ vào trong rừng, thì đột nhiên thấy huyệt Thiên Trụ sau lưng bị siết chặt, thân thể lại bị nhấc bổng lên. Bây giờ chàng mới biết là bị mắc lừa, liền gượng cười nói: “Mộ Dung huynh lại nổi nóng rồi! Thật không phải là hành động của người quân tử!”

Mộ Dung Phục cười nhạt đáp: “Đối với hạng tiểu nhân như ngươi, thì quân tử để làm gì?” Y xách chàng chạy đến cái giếng khô cách đấy chừng mấy trượng, liệng chàng xuống. Đoàn Dự chỉ kịp kêu lên một tiếng “Úi chao!” thì người đã rớt tõm tới đáy giếng rồi.

Mộ Dung Phục đang định tìm mấy khối đá lớn đậy miệng giếng lại để Đoàn Dự phải chết đói, thì bỗng nghe thanh âm một cô gái gọi: “Biểu huynh! Biểu huynh đã nhìn thấy muội rồi ư? Biểu huynh có việc gì sao không nói đi? Trời ơi! Biểu huynh làm gì Đoàn công tử vậy?” Người nói chính là Vương Ngữ Yên. Mộ Dung Phục ngẩn người ra, lông mày nhăn tít lại. Vừa rồi y nhìn về phía sau Đoàn Dự mà kêu biểu muội, là để cho chàng ngoảnh đầu nhìn lại, rồi nắm lấy yếu huyệt sau lưng chàng quăng xuống giếng. Không ngờ Vương Ngữ Yên đang nấp ở gần đó thật.

Thì ra Vương Ngữ Yên đêm ngày sầu thảm, lo lắng triền miên, ngủ không yên giấc. Nàng đang tựa cửa ngắm trăng, bỗng thấy Mộ Dung Phục xách Đoàn Dự chạy qua, sợ hai người lại đánh nhau. Nàng lo Mộ Dung Phục không địch nổi Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, nên lập tức theo sau. Hai người đối đáp ra sao, nàng đều nghe rõ hết, rõ ràng Đoàn Dự đem lời phế phủ ra khuyên Mộ Dung Phục, nhưng hắn lại nghĩ chàng có dụng ý khác. Đến khi Mộ Dung Phục kiếm chuyện lừa gạt Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên lại tin rằng hắn đã thấy mình thật, liền bước ra.

Vương Ngữ Yên chạy đến bên miệng giếng cúi xuống nhìn, la gọi: “Đoàn công tử! Đoàn công tử! Công tử có bị thương không?” Lúc Đoàn Dự bị liệng xuống, đầu chàng đập xuống đáy giếng, chân giơ lên trời. Chàng đang bất tỉnh, không nghe tiếng Vương Ngữ Yên gọi. Vương Ngữ Yên gọi thêm mấy tiếng mà vẫn không thấy Đoàn Dự trả lời, bèn nghĩ rằng chàng đã chết rồi. Nàng nhớ lại Đoàn Dự đối với mình lúc nào cũng hết lòng hết dạ, phen này lại vì mình mà mất mạng, không cầm lòng được liền khóc rống lên: “Đoàn công tử!… Công tử… không thể chết được!”

Mộ Dung Phục cười gằn nói: “Biểu muội quả đã nặng tình với gã lắm rồi.” Vương Ngữ Yên nghẹn ngào nói: “Y đem lời nói thẳng mà khuyên biểu huynh, sao biểu huynh lại hại mạng y?” Mộ Dung Phục đáp: “Gã là địch thủ của ta. Vừa rồi biểu muội không nghe gã nói ư, gã tận tâm tận lực phá hoại kế hoạch của ta. Hôm trước trên núi Thiếu Thất, gã đã làm cho ta phảị mất thể diện, khiến Mộ Dung Phục này không còn đất đứng trên chốn giang hồ nữa. Gã đã như vậy, dĩ nhiên ta không thể khoan dung được.” Vương Ngữ Yên nói: “Chuyện trên núi Thiếu Thất đúng là y đã sai lầm. Muội đã thống trách y, và y đã chịu nhận lỗi.” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Chà chà! Y đã chịu nhận lỗi. Chỉ một câu hời hợt như vậy là đủ ư? Biểu muội có biết Mộ Dung Phục này đi lại giang hồ sẽ bị người ta chỉ trỏ, đàm tiếu là ta đã bị bại dưới phép Lục Mạch Thần Kiếm của gã không? Biểu muội thử nghĩ xem, ta sống ở nhân gian còn có gì là lạc thú nữa?”

Vương Ngữ Yên dịu dàng nói: “Biểu huynh! Chuyện thắng bại chỉ nhất thời, có đáng gì mà biểu huynh phải để tâm như thế? Hôm tỉ kiếm trên núi Thiếu Thất, cữu phụ đã mở đường cho biểu huynh rồi. Việc đã qua còn nhắc lại làm chi?” Nàng không hiểu Đoàn Dự ở dưới đáy giếng còn sống hay chết, lại cúi xuống gọi: “Đoàn công tử! Đoàn công tử!…” Nhưng thủy chung vẫn không có tiếng đáp lại.

Mộ Dung Phục nói: “Biểu muội đã nặng tình với gã thì cứ lấy quách gã cho xong, hà tất phải giả vờ quấn quít với ta?” Vương Ngữ Yên chua xót đáp: “Biểu huynh! Muội đối với biểu huynh một lòng thành thực. Chẳng lẽ… chẳng lẽ biểu huynh còn không tin hay sao?” Mộ Dung Phục cười gằn đáp: “Ha ha! Ngươi đối với ta một dạ chân thành ư? Thế thì ở trong nhà giã gạo gần Thái Hồ ngày nọ, ngươi lõa lồ thân thể cùng gã họ Đoàn chui vào đống rơm để làm gì? Đó là việc chính mắt ta trông thấy, còn giả được sao? Khi ấy ta chỉ muốn chém thằng lỏi họ Đoàn một nhát rồi đời, thế mà ngươi lại chỉ điểm cho gã làm khó dễ ta. Ha ha! Ngươi chân tâm vì ta như thế ư? Thật ta không hiểu lòng dạ ngươi ra sao cả.”

Mộ Dung Phục nói đến đây rồi cười khẩy. Vương Ngữ Yên ngẩn người ra, run lên hỏi: “Trong nhà giã gạo bên Thái Hồ… Người che mặt… tự xưng là võ sĩ Tây Hạ…” Mộ Dung Phục ngắt lời: “Đúng thế! Người giả trang làm Lý Diên Tông, võ sĩ nước Tây Hạ, chính là ta đó.” Vương Ngữ Yên khẽ nói: “Thảo nào. Khi đó muội đã đèm lòng nghi hoặc. Cái câu: “Một ngày kia ta làm hoàng đế đất Trung Nguyên…” chính là khẩu khí của biểu huynh. Muội đã sớm biết mà!” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Ngay lúc ấy mà ngươi biết thì hay hơn, nhưng bây giờ mới biết cũng chưa muộn.” Ngữ Yên đáp: “Biểu huynh! Hôm đó muội bị người Tây Hạ hạ độc, rồi được Đoàn công tử cứu cho, để lên lưng ngựa chạy trốn. Dọc đường gặp mưa lớn, quần áo ướt hết, mới phải chạy vào nhà giã gạo để trú mưa. Biểu huynh… bất tất phải đa nghi.”

Mộ Dung Phục nói: “Thật là một chỗ trú mưa tuyệt diệu! Khi ta đến nơi thì hai người vẫn thủ thỉ với nhau, tên họ Đoàn đưa tay ra sờ má ngươi, ngươi cũng không né tránh. Khi đó ta nói câu gì ngươi còn nhớ không? Ta e rằng bao nhiêu tâm trí ngươi để cả vào gã họ Đoàn, ta có nói gì thì ngươi cũng để ngoài tai”.

Vương Ngữ Yên run lên, hồi tưởng lại chuyện trong nhà giã gạo, câu nói của tên võ sĩ Tây Hạ Lý Diên Tông, lại hiện ra trong đầu nàng rất rõ ràng. Nàng ấp úng đáp: “Khi đó… Khi đó… biểu huynh cười nhạt, hỏi: “Ngươi tự phụ quá. Xem ra ngươi đã nặng tình với gã họ Đoàn này lắm nhỉ?”

Mộ Dung Phục nói: “Ngày ấy ngươi còn nói, nếu ta giết chết thằng lỏi họ Đoàn thì ngươi quyết giết ta để báo thù cho gã. Vương cô nương! Tại hạ nghe cô nương nói câu đó nên mới tha mạng cho gã. Không ngờ nuôi ong tay áo, sau này lên núi Thiếu Thất bị gã làm nhục trước bao nhiêu anh hùng hảo hán.”

Vương Ngữ Yên thấy Mộ Dung Phục không gọi minh là biểu muội, mà lại gọi là Vương cô nương, rồi tự xưng là tại hạ thì lòng nàng se lại. Nhưng nàng bản tính ôn nhu, không muốn cãi nhau với vị biểu huynh kính ái. Nàng chậm rãi đáp: “Biểu huynh! Nếu ngày đó muội nhận ra biểu huynh thì không đời nào lại nói vậy.” Mộ Dung Phục hỏi: “Ngươi có thể không nhận ra mặt ta, vì ta đeo mặt nạ, nhung chẳng lẽ ta đổi giọng nói, ngươi cũng không biết ư? Ngươi không nhận được khẩu âm thì còn được, chẳng lẽ ngươi lại không nhận ra võ công của ta ư? Ha ha! Ngươi hiểu biết võ học rất sâu rộng, bất luận ai ra một chiêu thức nào, ngươi cũng gọi ngay ra được tên chiêu thức cùng môn phái đó. Ta cùng thằng lỏi qua lại hơn trăm chiêu, chẳng lẽ ngươi không nhận ra được hay sao?” Vương Ngữ Yên rụt rè đáp: “Sự thực thì lúc ấy muội cũng đã sinh nghi, nhưng… biểu huynh! Lần đó do chúng ta mấy năm chưa được gặp mặt một lần. Thành ra võ công của biểu huynh, muội không hiểu được đến nơi đến chốn…”

Mộ Dung Phục nghe Vương Ngữ Yên nói thế, lại cho rằng nàng bảo mình võ công tiến bộ rất chậm, không được như dự kiến. Y không nhịn nổi, lại nói: “Ngày ấy, ngươi còn bảo: “Lúc đầu ta thấy đao pháp ngươi phức tạp quả có lấy làm kinh dị, nhưng coi độ năm chục chiêu đã hiểu, nếu gọi là con lừa chỉ biết đá hậu thì hơi ác khẩu, nhưng nói nghiêm chỉnh thì hiểu biết của ngươi còn kém xa ta.” Ngươi nói câu này là khinh bạc ta quá. Vương cô nương! Hiểu biết của ta quả không bằng cô nương, thì cô nương còn theo ta làm chi? Cô nương coi thường ta, nhưng Mộ Dung Phục này đường đường là kẻ trượng phu, không để cô nương coi thường đâu!”

Vương Ngữ Yên tiến lại mấy bước, mở miệng xin lỗi: “Biểu huynh! Ngày đó muội nói năng mạo phạm, bây giờ xin lỗi biểu huynh!” Nói xong, nàng cúi xuống hành lễ rồi nói tiếp: “Thực tình khi đó muội không biết là biểu huynh… Biểu huynh là người đại nhân đại lượng, xin đừng để vào lòng. Muội kính trọng biểu huynh ngay từ thuở nhỏ. Lúc chúng ta chơi đùa với nhau, biểu huynh bảo điều gì, muội cũng nghe theo, có bao giờ dám trái ý đâu? Lúc đó muội không biết mà nói nhăng nói càn, mong biểu huynh nghĩ tới tình cảm đằm thắm ngày xưa mà lượng thứ cho muội một phen.”

Hôm ấy, Vương Ngữ Yên nói mấy câu chạm tự ái Mộ Dung Phục. Y là con người cao ngạo, đã nghe vào tai thì như chôn vào ruột, hết sức tức giận Vương Ngữ Yên. Sau đó hai người có nhiều cơ hội gặp nhau, nhưng trong lòng Mộ Dung Phục vẫn chưa hết hờn giận, nỗi tị hiềm vẫn canh cánh trong lòng. Lúc này y nghe Vương Ngữ Yên nói năng dịu nhẹ, lại thấy nàng dung nhan thoát tục, ánh mắt đằm thắm, thì cũng tin là giữa nàng cùng Đoàn Dự chưa có gì ám muội, những câu nói ngày trước chẳng qua vì vô tâm, chứ không có ý khinh mạn. Y không khỏi động lòng, đưa tay ra nắm lấy tay nàng khẽ gọi: “Biểu muội!”

Vương Ngữ Yên cả mừng, biết biểu huynh đã lượng thứ cho mình. Nàng gục đầu xuống vai y, khẽ nói: “Khi nào biểu huynh tức giận muội điều chi, cứ việc đánh mắng, đừng để trong lòng không nói ra. Biểu huynh! Biểu huynh đừng đi làm phò mã nước Tây Hạ nữa nhé!”

Mộ Dung Phục ôm con người mềm mại trong lòng, tai nghe những lời thánh thót, mũi ngửi hơi thở thơm như hoa lan, bất giác bâng khuâng trong dạ. Nhưng y bỗng nghe nàng nhắc tới việc làm phò mã nước Tây Hạ thì toàn thân lại run lên, bụng bảo dạ: “Hỏng bét! Mộ Dung Phục kia! Ngươi lại mắc vào vòng nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản để lầm lỡ đại sự ư? Ngươi không dứt nổi mối tư tình nhỏ xíu này, thì còn nói gì đến đại sự tranh giành thiên hạ nữa?” Y vội đẩy nàng ra, nói một câu dứt khoát: “Biểu muội! Duyên phận của biểu muội với ta đến đây là hết! Những lời nói, những việc làm của biểu muội, ta không thể quên được!”

Vương Ngữ Yên thê thảm hỏi: “Vừa rồi biểu huynh đã nói là không giận muội.” Mộ Dung Phục đáp: “Ta không giận biểu muội, nhưng… nhưng suốt cuộc đời này thì danh phận của chúng ta chỉ là biểu huynh biểu muội mà thôi”  Vương Ngữ Yên lại hỏi: “Thế là biểu huynh không chịu tha lỗi cho muội rồi.”

Trong lòng Mộ Dung Phục, hai ý niệm “tư tình” và “đại nghiệp” đang xung đột nhau rất dữ, y ngẩn người ra một lúc, sau cùng cũng lắc đầu. Vương Ngữ Yên tuyệt vọng hỏi: “Biểu huynh định đi lấy công chúa Tây Hạ, từ đây không nghĩ gì đến tiểu muội nữa ư?” Mộ Dung Phục cố gật đầu mấy cái.

Vương Ngữ Yên trước kia đã nghe Công Dã Càn nói cho biết biểu huynh muốn đi cưới công chúa Tây Hạ, lúc đó nàng đã thấy đau lòng, tìm cách đi thụt lại sau để tránh mặt bọn Đặng Bách Xuyên, nhảy xuống vực thẳm tự tử nhưng được Vân Trung Hạc cứu thoát. Bây giờ nàng nghe chính miệng ý trung nhân nói lời cự tuyệt thì ruột đau như cắt, muốn thổ huyết ra. Đột nhiên nàng nghĩ: “Đoàn công tử kia đối với mình hết dạ say mê, mà mình chẳng để ý đến chàng chút nào. Phen này chàng lại vì mình mà chết, thực là mình đối với chàng quá tàn nhẫn. Bây giờ mình đã không muốn sống nữa rồi. Cái giếng này đã là mồ chôn Đoàn công tử, chắc dưới đáy có nhiều đá nhọn, chỉ rơi xuống là chết ngay. Thôi thì ta chết cùng chàng ở dưới đáy giếng này, để gọi là báo đáp mối thâm tình.” Nghĩ vậy, nàng từ từ đi về phía cái giếng khô, rồi quay lại nói: “Biểu huynh! Muội thành tâm chúc biểu huynh hoàn thành tâm nguyện, lấy được công chúa Tây Hạ, làm được hoàng đế Đại Yên.”

Mộ Dung Phục biết nàng muốn đi tìm cái chết, lập tức vọt tới một bước, toan nắm tay nàng kéo lại, miệng đã suýt kêu: “Không được!” Nhưng y lại nghĩ: “Nếu mình kêu gọi, níu kéo nàng, lại phải dây dưa với nàng, khó mà dứt ra được nữa. Biểu muội dịu dàng đẹp đẽ, thật là hiếm có trên đời. Lấy được người vợ như vậy thì còn gì phải ân hận nữa? Huống hồ từ thuở nhỏ nàng đã có mối tình đằm thắm với mình, nếu một phút mình không kiềm chế được, kết thành mối nghiệt duyên thì công cuộc phục hưng nước Đại Yên sẽ hư hỏng hết.” Hắn suy nghĩ đến đây, mở miệng mà không nói tiếng nào, đưa tay ra, nhưng không kéo Vương Ngữ Yên lại.

Vương Ngữ Yên nhìn thấy thần sắc của Mộ Dung Phục, cũng đoán được tâm sự của hắn muốn ruồng bỏ nàng. Hai người đã là biểu huynh biểu muội, hắn chính mắt thấy nàng đi vào chỗ chết mà không ngăn cản, so với tên Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc thì còn tệ hại hơn. Nàng nghĩ thầm: “Con người này đã bạc bẽo đến thế, mình còn nghĩ tới làm chi?” Nàng liền cất tiếng gọi: “Đoàn công tử! Ta cùng công tử chết chung một chỗ! Nói rồi tung mình nhảy lên, đâm đầu xuống giếng.

Mộ Dung Phục kêu lên một tiếng “Úi chao!”, bước lên, giơ tay ra toan chụp lấy chân Vương Ngữ Yên. Bản lĩnh của y mà muốn kéo nàng lại thì chẳng khó gì, nhưng y không qụyết định chủ ý, để mặc cho nàng rớt xuống. Mộ Dung Phục buông một tiếng thở dài, lẩm bẩm: “Biểu muội! Ta biết trong thâm tâm biểu muội rất thương yêu Đoàn công tử. Tuy không được sống cùng nhà, nhưng được chết cùng huyệt, chắc biểu muội cũng thỏa mãn tâm nguyện rồi.”

Bỗng sau lưng Mộ Dung Phục có tiếng la lên: “Đồ ngụy quân tử! Ngươi đừng giả vờ nữa!” Mộ Dung Phục kinh hãi tự hỏi: “Sao có người đến sau lưng mà mình không biết?” Y xoay tay lại phía sau đánh ra một chưởng. Dưới ánh trăng, một bóng người lướt đi tránh né chưởng phong, thân pháp lẹ làng khó ai bì kịp.

***

Mộ Dung Phục không chờ người kia hạ xuống đã phi thân nhảy vọt tới, vừa vung chưởng đánh ra vừa quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao lại dám trêu cợt công tử gia?” Người kia còn lơ lửng trên không, phóng chưởng ra để đỡ chưởng lực Mộ Dung Phục rồi lạng người ra xa hơn trượng mới hạ xuống. Đây chính là Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí, quốc sư nước Thổ Phồn.

Cưu Ma Trí lên tiếng: “Rõ ràng ngươi đã bức bách nàng phải tự tận, sao còn nói là nàng thỏa mãn tâm nguyện? Ngươi muốn lấy một bàn tay mà che kín mặt trời ư?” Mộ Dung Phục nói: “Đây là việc riêng của ta, ai cần lão can thiệp vào?” Cưu Ma Trí nói: “Đã là việc của thiên hạ thì người thiên hạ phải can thiệp. Ngươi làm việc thương luân bại lý, hòa thượng ta có làm ngơ được chăng? Huống chi ngươi định làm phò mã nước Tây Hạ, thì không phải là việc riêng nữa rồi.”

Mộ Dung Phục hỏi: “Chẳng lẽ lão là hòa thượng mà cũng muốn đi làm phò mã ư?” Cưu Ma Trí cười ha hả rồi đáp: “Đã là hòa thượng lại muốn làm phò mã ư? Có lý nào thế được?” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Ta đã sớm biết nước Thổ Phồn vốn có dạ bất lương. Chắc lão muốn vì Vương tử nhà lão mà tranh cướp chứ gì?” Cưu Ma Trí cười cười hỏi lại: “Sao lại bảo bọn ta có dạ bất lương? Nếu muốn lấy công chúa Tây Hạ là bất lương, thì ngươi có bất lương không?” Mộ Dung Phục đáp: “Tại hạ muốn lấy công chúa Tây Hạ thì cũng chỉ trông cậy vào bản lĩnh của mình, nhất quyết không sai thủ hạ đi làm mưa làm gió khắp các nẻo đường đến Linh Châu, khiến cho anh hùng phải chau mày, hào kiệt phải nghiến răng.” Cưu Ma Trí cười nói: “Những kẻ không biết tự lượng cũng kéo đến kinh thành Tây Hạ, khắp đường phố đầy rẫy bọn du côn. Bọn ta đuổi bớt như vậy là dọn đường cho ngươi, có chi là không phải?” Mộ Dung Phục nói: “Thế thì hay lắm! Té ra tiểu Vương tử nước Thổ Phồn tự đem công phu ra để tranh đấu với người phải không?” Cưu Ma Trí đáp: “Đúng thế!”

Mộ Dung Phục thấy đối phương có vẻ cương quyết không sợ hãi gì, bất giác sinh nghi hỏi: “Chắc là tiểu Vương tử quý quốc võ công cao cường, anh hùng vô địch, đã nắm chắc phần thắng rồi chăng?” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu Vương tử điện hạ là đồ đệ của ta, bản lĩnh cũng khá, còn bảo là anh hùng vô địch thì chưa chắc. Nhưng y có thể nắm chắc được phần thắng.” Mộ Dung Phục lại càng ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Mình hỏi thẳng thì chưa chắc lão đã chịu nói thật, chi bằng thử khích lão một câu.” Y bèn nói: “Thế thì kỳ thật! Y nắm chắc phần thắng, mà tại hạ cũng nắm chắc phần thắng. Như vậy không hiểu ai sẽ thắng?”

Cưu Ma Trí cười đáp: “Ngươi cũng lo rằng tiểu Vương tử bên ta nắm chắc phần thắng, có đúng thế không? Vậy ngươi hãy nói phương pháp tranh thắng của mình trước đi, rồi ta sẽ giải thích phương pháp của tiểu Vương tử. Sau đó chúng ta cùng xem thử phương pháp của ai cao minh hơn.”

Mộ Dung Phục chỉ ỷ mình võ công cao thâm, dung mạo tuấn nhã, còn lấy gì để nắm chắc phần thắng thì y không biết nói sao, liền đáp: “Bên lão chỉ trông vào quỷ kế, không trọng chữ tín. Sau khi ta nói ra rồi, mà lão không chịu tiết lộ cơ mưu, thì hóa ra ta mắc lừa ư?”

Cưu Ma Trí cười khanh khách nói: “Mộ Dung công tử! Ta cùng lệnh tôn là chỗ thâm giao, lại tương kính. Như vậy có thể nói ta là hàng tiền bối của ngươi. Ngươi nói với ta như vậy thì có quá đáng không?” Mộ Dung Phục khom lưng thi lễ nói: “Minh Vương trách tại hạ như thế là phải, xin thứ lỗi cho.”

Cưu Ma Trí cười nói: “Ngươi là người thông minh, đã tự nhận lỗi. Vậy ta nể mặt gia gia ngươi mà nói cho ngươi biết cũng chẳng sao. Tiểu Vương tử nước Thổ Phồn đã chắc chắn nắm lấy phần thắng. Bất cứ ai muốn tranh ngôi phò mã với tiểu Vương tử, chúng ta sẽ tìm cách đối phó hết. Lúc không còn ai tranh chấp nữa, thì làm sao mà tiểu Vương tử lại không thắng được? Ha ha, ha ha!…”

Mộ Dung Phục đột nhiên biến sắc hỏi: “Nói như thế thì ta… ta…” Cưu Ma Trí ngắt lời: “Ta cùng lệnh tôn giao tình rất hậu, dĩ nhiên không muốn hại mạng ngươi. Ta thực tình khuyên ngươi mau mau rời khỏi Tây Hạ, đó là thượng sách.” Mộ Dung Phục hỏi: “Nếu tại hạ không bỏ đi thì sao?” Cưu Ma Trí tủm tỉm cười đáp: “Tuy ta không hại mạng, nhưng cũng có thể khoét hai mắt, hoặc chặt một chân một tay ngươi cho thành phế nhân. Công chúa Tây Hạ chắc chắn không chịu lấy người ngũ quan tàn phế, tay chân không đủ, dù người đó vốn là anh hùng hảo hán.” Lão kéo dài bốn chữ “anh hùng hảo hán” ra chiều mai mỉa.

Mộ Dung Phục trong lòng rất tức giận, nhưng lại sợ võ công lão ghê gớm, không dám ngang nhiên động thủ với lão, bèn cúi đầu ngẫm nghĩ, tìm cách đối phó.

Dưới ánh trăng, Mộ Dung Phục thấy bên cạnh bóng mình có bóng vật gì động đậy. Y chú ý nhìn kỹ, thì ra là tay phải Cưu Ma Trí. Y không khỏi giật mình kinh hãi, cho rằng đối phương đang ngưng tụ công lực và sắp hạ thủ. Y cũng ngấm ngầm vận động chân khí, chuẩn bị đề phòng. Bỗng nghe Cưu Ma Trí nói: “Mộ Dung công tử! Ngươi đã bức bách lệnh biểu muội phải tự tử, thật là tội lỗi. Ngươi nên mau rời khỏi Tây Hạ thì ta sẽ quên việc ngươi bức tử Vương cô nương đi, không truy cứu đến nữa.” Mộ Dung Phục tức mình cãi lại: “Đó là nàng tự nhảy xuống giếng để tự tử, có liên quan gì đến ta đâu?” Miệng y cãi lý, mà mắt vẫn chăm chú nhìn cái bóng động đậy dưới đất. Bóng hai tay Cưu Ma Trí vẫn không ngớt rung rinh.

Mộ Dung Phục không khỏi nghi ngờ tự hỏi: “Võ cõng lão cao cường như vậy, chắc không phải đề tụ chân khí lâu đến thế mà chưa động thủ. Chắc hẳn có duyên cớ gì khác đây.” Mộ Dung Phục nhìn rõ cả bóng ống quần, tà áo lão cũng khẽ rung động không ngớt, tựa như lão không tự chủ được mà đang run rẩy toàn thân. Mộ Dung Phục suy nghĩ một chút rồi chợt nhớ ra: “Mấy hôm trước, ở trong Tàng Kinh Các chùa Thiếu Lâm, vị lão tăng vô danh kia đã nói là Cưu Ma Trí bị nội thương trầm trọng, vì luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, rồi lại miễn cưỡng luyện Dịch Cân Kinh. Lão tăng còn nói đại nạn sẽ đến với lão trong sớm tối. Theo lời lão tăng thì ai không có tâm địa từ bi mà luyện tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm sẽ bị chướng khí tích lại trong người, không tránh được tai họa. Lão tăng này đã đoán bệnh trạng của gia gia mình và của Tiêu Viễn Sơn rõ như chính mắt trông thấy, thế thì lão nói về Cưu Ma Trí chắc cũng không sai.” Mộ Dung Phục nhớ đến chuyện này, bất giác cả mừng, nghĩ thầm: “Lão trọc này sắp gặp đại nạn trong sớm tối, lại còn hăm đọa ta, đòi khoét mắt, chặt chân tay gì gì nữa.” Nhưng hắn vẫn chưa đám chắc có đúng thế không, liền nói: “Hỡi ơi! Thứ tự điên đảo, đại nạn lâm đầu trong sớm tối. Thế mới biết luyện võ không cẩn thận cũng có thể tẩu hỏa nhập ma, nguy hiểm vô cùng!”

Cưu Ma Trí thét lên một tiếng chẳng khác gì hổ gầm trâu rống, thanh âm cực kỳ khủng khiếp. Lão giơ tay ra toan chụp lấy tay Mộ Dung Phục, hỏi dồn: “Ngươi nói cái gì? Ngươi… ngươi nói đến ai?” Mộ Dung Phục né người tránh khỏi, Cưu Ma Trí cũng xoay mình lại. Ánh trăng chiếu vào mặt lão, thấy rõ cặp mắt đỏ ngầu, lông mày dựng thẳng. Khuôn mặt lão có vẻ ủ rũ, tuy thần sắc rất hung mãnh nhưng cũng không giấu nổi vẻ khủng khiếp.

Mộ Dung Phục không nghi ngờ gì nữa, nói ngay: “Tại hạ có một lời thành thực muốn khuyên. Minh Vương mau rời khỏi Tây Hạ, quay về Thổ Phồn, dọc đường không được vận khí, không được nóng giận, không được động thủ, may ra có thể về tới cố hương được. Nếu không thế thì e rằng lời nói của vị thần tăng chùa Thiếu Lâm ứng nghiệm đến nơi rồi.”Cưu Ma Trí gào thét om sòm, vẻ ung dung bình tĩnh thường ngày đã biến đâu mất hết. Lão quát hỏi: “Ngươi biết gì? Ngươi biết gì mà nói?” Mộ Dung Phục thấy bộ mặt Cưu Ma Trí rất khó coi, không còn chút gì là thánh tăng nghiêm trang nữa, không khỏi ngấm ngầm sợ hãi, vội lùi lại một bước. Cưu Ma Trí quát hỏi giật giọng: “Ngươi biết gì, sao không nói ra?” Mộ Dung Phục cố gắng trấn tĩnh, thở dài một hơi rồi nói: “Chân khí của Minh Vương đã chạy vào đường rẽ, nguy hiểm vô cùng! Nếu Minh Vương không về Thổ Phồn thì lập tức phải lên chùa Thiếu Lâm, xin vị thần tăng đó cứu chữa cho, may ra còn hy vọng.” Cưu Ma Trí cười đầy vẻ hung dữ, hỏi tiếp: “Sao ngươi biết chân khí ta đi vào đường rẽ? Ngươi nói nhăng gì thế?” Lão vung tay trái ra, toan chụp vào mặt Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục, thấy năm ngón tay lão run rẩy, nhưng trảo pháp vẫn kín đáo vô cùng lợi hại, chẳng có vẻ gì là thiếu nội lực. Y thầm tự hỏi: “Hay là ta đoán nhầm chăng?” Rồi lập tức vận khí ngưng thần để tiếp chiến, phóng ra một chưởng, đoạn biến thế toan chụp bẻ xương cổ tay lão. Cưu Ma Trí quát lên: “Ta nể mặt phụ thân ngươi, trong vòng mười chiêu không hạ sát thủ. Đó là vì ta nghĩ đến chút tình giao hảo của cố nhân.” Lão vung quyền đánh thẳng vào vai phải Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục chuyên về môn Đẩu Chuyển Tinh Di mượn sức người để đánh người, nhưng chiêu thức của Cưu Ma Trí cực kỳ tinh diệu. Mỗi chiêu lão chỉ phóng ra nửa chừng rồi đột nhiên biến thế, nên Mộ Dung Phục không thể nào thi triển kỹ thuật Đẩu Chuyển Tinh Di được. Y đành phòng thủ vững chắc những yếu điểm, để chờ đối phương lộ sơ hở. Cưu Ma Trí xuất chiêu liên tiếp, biến hóa liên tục đến mức Mộ Dung Phục chưa thấy bao giờ. Quyền đánh ra nửa chừng đã biến thành chỉ, trảo gần tới nơi lại biến thành chưởng, Cưu Ma Trí đánh xong mười chiêu, quát lên: “Đủ mười chiêu rồi, ngươi nạp mạng đi!”

Mộ Dung Phục hoa mắt lên, thấy bốn phương tám hướng đều có hình ảnh Cưu Ma Trí. Bên trái bị cước đá, bên phải bị quyền đánh, phía trước bị chưởng đập, phía sau bị chỉ đâm, vô số chiêu thức cùng lúc dồn vào y như gió táp mưa sa. Mộ Dung Phục không còn biết phải đánh đỡ mặt nào, đành ngưng thần vận khí, múa tít song chưởng, chỉ thủ chứ không công.

Tiếng thở hồng hộc của Cưu Ma Trí mỗi lúc một thêm gấp rút. Mộ Dung Phục phấn khởi nghĩ thầm: “Lão đã thở như bò rống, tức là nội khí không thông rồi. Ta chỉ chống chọi cầm chừng một lúc nữa, chỉ cần không bị đánh ngã, là lão tự nhiên sẽ lăn quay ra mà chết.” Cưu Ma Trí tuy hơi thở cấp bách, nhưng chiêu số càng mau lẹ hơn trước. Đột nhiên lão quát to một tiếng, Mộ Dung Phục thấy sau cổ bị nắm chặt, rồi thân thể bị nhấc bổng lên. Tiếp theo huyệt Tích Trung ở sau lưng và huyệt Thượng Khúc ở trước bụng cùng bị điểm, chân tay mềm nhũn không nhúc nhích được nữa.

Cưu Ma Trí cười nhạt mấy tiếng, nhưng vẫn ho rũ rượi. Lão chúm môi huýt một tiếng sáo, rồi nói: “Ta bảo ngươi cút đi, ngươi không chịu nghe, bây giờ đừng trách ta nữa. Ta… ta… phải xử trí với ngươi thế nào đây?”

Lúc ấy có bốn tên võ sĩ Thổ Phồn nghe tiếng sáo chạy từ trong rừng ra, khom lưng nói: “Xin Minh Vương hạ pháp chỉ.” Cưu Ma Trí đáp: “Đem thằng lỏi này chém đi!” Bốn tên võ sĩ cùng “Vâng!” một tiếng.

Mộ Dung Phục không nhúc nhích được, nhưng tai vẫn nghe rõ, ngấm ngầm than khổ. Y cảm thấy Cưu Ma Trí đưa mình vào tay hai tên võ sĩ, biết tính mạng sắp nguy, bất giác kinh hãi vô cùng, lẩm bẩm: “Vừa rồi ta cùng biểu muội tình trong như đã mà mặt ngoài cũng chẳng e, giả tỉ ta vì nàng mà không tham ngôi phò mã Tây Hạ, thi làm gì gặp phải cái nạn một đao chém chết? Sau khi ta chết rồi, lại còn hy vọng hưng phục Đại Yên nữa ư?”. Mộ Dung Phục chỉ muốn lên tiếng năn nỉ Cưu Ma Trí tha cho rời khỏi Linh Châu, không tranh ngôi phò mã với Vương tử nước Thổ Phồn nữa. Nhưng y không mở miệng được, mà Cưu Ma Trí lại không thèm nhìn đến, dù y có muốn đưa mắt ra hiệu xin tha cũng không được.

Bốn tên võ sĩ Thổ Phồn đón lấy Mộ Dung Phục, rồi một tên rút cương đao ra, vung lên, nhắm vào cổ hắn. Cưu Ma Trí vội nói: “Khoan đã! Ta cùng thân phụ của thằng lỏi này là chỗ quen biết, cũng nên cho gã chết toàn thây. Các ngươi quẳng gã xuống giếng, rồi đi kiếm mấy tảng đá lớn đậy lên miệng, để gã không ra được.”

Mấy tên võ sĩ vâng lời, xách Mộ Dung Phục lên liệng vào trong giếng khô. Chúng nhìn bốn mặt không thấy có tảng đá nào lớn, liền chạy ra phía sau thung lũng để tìm kiếm.

***

Cưu Ma Trí đứng trên bờ giếng, không ngớt ho hắng, không kìm lại được. Hôm trước lão dùng Hỏa Diệm Đao để ám toán Đoàn Dự, rồi lập tức trốn xuống núi, nhưng chưa xuống đến chân núi Thiếu Thất đã cảm thấy huyệt Đan điền nóng như lửa đốt. Lão ngấm ngầm vận nội lực đã thấy khó khăn, không khỏi kinh hãi rủa thầm: “Thằng trọc già kia nói mình gắng gượng luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, chướng khí tích lại, gây ra mầm họa. Sau đó lại luyện môn Dịch Cân Kinh, chân khí trong người đảo lộn và đại nạn sắp đến nơi. Chẳng lẽ… chẳng lẽ thằng trọc già đó nói đúng ư?” Lão bèn tìm một sơn động chui vào ẩn nấp, ngồi yên một lúc thi thấy luồng nhiệt khí từ từ hạ xuống, nhưng vẫn không vận kình lực được.

Cưu Ma Trí chờ đến tối, không thấy chùa Thiếu Lâm cho người đuổi theo, mới tìm đường nhỏ mà đi, dọc đường nghe tin quốc vương nước Tây Hạ muốn chiêu phò mã. Lão liền viết tấu chương giao cho một tên thám tử Thổ Phồn đưa về trình lên quốc vương. Quốc vương nước Thổ Phồn cũng có ý muốn giao kết với Tây Hạ, nên vừa tiếp được tấu chương của Cưu Ma Trí liền lập tức phái tiểu Vương tử dẫn một số cao thủ võ sĩ, cùng rất nhiều vàng bạc châu báu, ngựa tốt đao quý, đang đêm lên đường đi Linh Châu ngay. Những ngựa tốt đao quý để đem tiến cho Quốc vương Tây Hạ, châu báu thì đưa tặng công chúa. Ngoài ra còn rất nhiều tiền bạc và bảo vật khác, để đút lót cho các hậu phi cùng thái giám ở nước Tây Hạ.

Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn, tham gia vào mọi việc quân sự chính trị trong nước, tuy trong mình đang mắc bệnh, nhưng chuyện cầu thân này có liên quan đến vận mệnh nước Thổ Phồn, nên lão phải thân hành đi Tây Hạ để chủ trì cục diện. Chính lão đã phái những tay cao thủ võ sĩ đón các ngả đường để chặn bớt hào kiệt bốn phương kéo đến tranh ngôi phò mã. Từ mùng mười tháng tám, bọn võ sĩ Thổ Phồn đã đuổi về hàng mấy trăm chàng thiếu niên quý tộc toan đến Tây Hạ cầu hôn. Bọn người đến Tây Hạ tuy nhiều, nhưng số đông chỉ vì lòng tham, không phải là những tay hào kiệt bản lĩnh phi thường, thì địch làm sao nổi bọn võ sĩ Thổ Phồn vây đánh?

Cưu Ma Trí tới Linh Châu, rồi tìm một nơi tĩnh mịch để điều dưỡng. Nhiệt khí trong người lão hạ thấp xuống, rồi bình phục lại dần, nhưng hễ động lo nghĩ việc gì là chân tay lại run lẩy bẩy. Về sau, ngay cả những lúc tâm thần thư thái mà ngón tay, ngón chân, môi miệng, bả vai lão cũng không ngớt rung động, chẳng được lúc nào yên tĩnh. Cưu Ma Trí làm đến Quốc sư nước Thổ Phồn địa vị cao cả, lão không muốn để người ta thấy bộ dạng xấu xa của mình, liền ở riêng một nơi, ít người được thấy mặt.

Một hôm, lão được bọn võ sĩ về báo là Mộ Dung Phục cũng đến Linh Châu, bọn thủ hạ của y đã đánh chết cùng đả thương mấy tên võ sĩ Thổ Phồn. Lão biết rằng Mộ Dung Phục là một thiếu niên anh tuấn, văn võ song toàn, bọn võ sĩ tầm thường không cản nổi. Nhưng nếu không tìm cách đánh đuổi đi, để y tỉ thí với tiểu Vương tử thì phe ta khó thắng. Cưu Ma Trí nghĩ mãi không tìm được cách đối phó với Mộ Dung Phục, đành phải chường mặt ra. Lão đoán rằng Mộ Dung Phục đã hiểu bản lĩnh của mình, không chừng chưa cần động thủ thì y cũng đã sợ hãi mà tự rút lui. Lão liền tìm đến quán dịch.

Khi lão đến thì Mộ Dung Phục đã bắt Đoàn Dự đem đi. Bốn mặt nhà quán dịch đã có bảy tám tên võ sĩ Thổ Phồn mai phục để giám thị, Cưu Ma Trí liền hỏi rõ phương hướng rồi đuổi theo. Lúc lão đuổi tới khu rừng thì Mộ Dung Phục đã liệng Đoàn Dự xuống giếng rồi, đang đối thoại cùng Vương Ngữ Yên. Cưu Ma Trí chờ tới lúc Vương Ngữ Yên đâm đầu xuống giếng mới xuất hiện. Lão không ngờ Mộ Dung Phục tuy sợ hãi lão mà cũng không chịu nhượng bộ, phải tỉ đấu một hồi. Sau cùng, tuy lão bắt được Mộ Dung Phục nhưng chính mình cũng bị khí huyết nôn nao, dường như chân khí trong người muốn phá vỡ kinh mạch để tiết ra ngoài, nhưng lại không có chỗ để thoát ra nên lão khó chịu vô cùng.

Cưu Ma Trí giơ tay lên cào loạn vào trước ngực, nội lực trong người vẫn không ngớt bành trướng, tưởng chừng như màng óc, da bụng đều căng phồng ra, sắp vỡ tung đến nơi. Người ngoài trông vào thân hình lão vẫn như ngày thường, không to lớn hơn chút nào, nhưng Cưu Ma Trí thấy mình căng như một quả bóng, nội khí xông lên cuồn cuộn. Lão sợ quá, lấy ngón tay chọc vào hai bên bắp chân ba lỗ thủng khá sâu, tưởng để xì bớt hơi ra theo những lỗ này. Nhưng chỉ thấy máu tươi chảy ra như suối, còn nội khí không tiết ra được chút nào.

Bây giờ Cưu Ma Trí mới biết rằng lời vị thần tăng đã nói trong Tàng Kinh Các là đúng, vì mình ham muốn quá nhiều, luyện cả bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm cùng Dịch Cân Kinh, để cho thứ tự đảo điên, đại nạn đến trong sớm tối. Cưu Ma Trí tuy hoảng hốt, nhưng nhờ tu luyện lâu năm mà thần trí chưa đến nỗi bối rối. Đột nhiên trong óc lão lóe lên một tia sáng, nghĩ thầm: “Sao… sao lão ta lại không luyện hết, mà chỉ luyện mấy thứ? Lão lại đưa cả bí lục bảy mươi hai tuyệt kỹ cho ta là có ý gì? Ta với lão chỉ là bèo nước gặp nhau, dù có ý hợp tâm đầu, nhưng chưa thể nói là giao tình thân mật được.”

Lúc Cưu Ma Trí lâm nguy mới hiểu nổi dụng ý của Mộ Dung Bác khi tặng mình bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Cưu Ma Trí là người rất thông minh, ngay buổi đầu tiên, lão đã đem lòng ngờ vực Mộ Dung Bác rồi. Nhưng khi ấy lão mở bí lục ra xem, thấy tuyệt kỹ nào cũng tinh diệu phi thường. Lão là người kiến thức uyên bác, nếu có chỗ nào giả trá là xét đoán được ngay. Lão lại thử cả giấy trong bí lục thì tuyệt không có chất độc chi hết, rồi không nghi ngờ gì nữa.

Lúc này lão lâm vào tình trạng sống dở chết dở mới hiểu ra tâm địa độc ác của Mộ Dung Bác xưa kia, nghĩ thầm: “Té ra lão ẩn nấp trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm, đã từng nghe mấy lão tăng Thiếu Lâm phân tích vì sao không thể luyện hết những môn tuyệt kỹ được. Lúc lão gặp mình ở Thiên Trúc, biết mình võ công thao lược hơn đời mới đem tuyệt kỹ bí lục tặng cho mình, một là gieo họa về sau, hai là để gây thù oán giữa mình và chùa Thiếu Lâm. Lão còn mong Thổ Phồn và Đại Tống xảy cuộc can qua, để lão ở giữa thủ lợi, mưu đồ phục hưng nước Đại Yên. Dĩ nhiên bí kíp bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm, lão cũng giữ lại bản sao, chuyện này không cần nói làm gì.”

Lúc nãy Cưu Ma Trí bắt được Mộ Dung Phục, nhớ đến cái ơn phụ thân hắn tặng bí lục Thiếu Lâm cho mình, nên dù biết Mộ Dung Phục là mối họa nhưng cũng không xử tử tức khắc, chỉ quăng xuống giếng khô cho chết được toàn thây. Bây giờ lão hiểu ra Mộ Dung Bác dụng ý sâu độc, hại mình mình khổ sở, bất giác tức giận như điên, cúi xuống miệng giếng phóng luôn ba chưởng, nhưng không thấy động tĩnh gì. Lão biết là giếng sâu quá, chưởng lực đánh không tới đáy.

Cưu Ma Trí lại càng tức giận, vận hết công lực đánh ra một quyền. Thoi quyền vừa đánh ra, nội khí trong người lão chạy rần rần, dường như muốn theo mười vạn tám ngàn lỗ chân lông xông ra ngoài mà không được.

Đang lúc lão vừa kinh hãi vừa tức giận, đột nhiên trước ngực thấy động, một vật gì từ trong bọc áo rớt xuống giếng. Cưu Ma Trí vung tay chụp lại, nhưng không kịp nữa. Lão vội vận Cầm Long Thủ Pháp để vẫy ngược lên. Nếu là lúc bình thời, nhất định lão bắt lại được, nhưng lúc này nội kình không điều khiển nổi, cứ bành trướng rần rần chứ không chịu ra đến lòng bàn tay. Bỗng nghe một tiếng “tạch” vang lên, vật kia đã rớt xuống đáy giếng. Cưu Ma Trí la thầm: “Hỏng bét!” Lão thò tay sờ vào bọc, phát giác pho Dịch Cân Kinh đã rớt xuống giếng mất rồi.

Lão biết nội khí mình không chạy đúng đường là do luyện Dịch Cân Kinh mà ra. Vậy muốn trừ cái đau khổ này, thì không nghiên cứu Dịch Cân Kinh không được. Dịch Cân Kinh là vật quan hệ đến chuyện sống chết của lão, để thất lạc thế nào được?

Cưu Ma Trí không suy nghĩ gì nữa, tung mình nhảy xuống đáy giếng. Lão sợ dưới đáy giếng có đá nhọn hoặc cành cây đâm vào chân tay, lại đề phòng Mộ Dung Phục tự giải khai được huyệt đạo, rồi đánh lén mình, nên hại chân chưa chấm đất đã vung tay phải đánh xuống hai chưởng để giảm bớt đà rơi xuống. Tay trái lão lại xuất chiêu Hồi Phong Lạc Diệp để hộ vệ những chỗ yếu hại trên thân thể. Ngờ đâu nội khí trong người lão đang biến hóa khác thường, chiêu số tuy tinh vi mà lực đạo phóng ra lại không chính xác. Hai phát chưởng không giảm bớt được đà rơi xuống, mà lại đẩy mạnh người sang một bên. Nghe “Huỵch” một tiếng, đầu lão đã va vào thành giếng thật mạnh.

Cưu Ma Trí công lực cao cường, tuy chưa luyện thành tấm thân sắt thép, nhưng đầu lão đập vào gạch chẳng sứt mẻ gì, mà viên gạch lại nát nhừ. Lão thấy mắt nảy đom đóm, trời đất quay cuồng, lăn thẳng xuống đáy giếng.

Cái giếng khô này bị bỏ hoang đã lâu, lá rụng cùng cỏ khô chất đống rất dày, đã mục mát thành bùn. Mấy chục năm trời, bùn sâu có tới hơn trượng. Cưu Ma Trí rớt xuống, mặt mũi mồm miệng đều bị lấp dưới bùn lầy. Lão cảm thấy người mình từ từ chìm xuống, muốn cựa quậy đứng lên, nhưng chân tay không còn chút sức lực nào. Đang lúc hoảng hốt, bỗng lão nghe trên miệng giếng có tiếng la gọi: “Quốc sư! Quốc sư!…” Đó chính là bốn tên võ sĩ Thổ Phồn.

Cưu Ma Trí định la lên: “Ta ở đây!” Nhưng lão mới mở miệng thì đất bùn đã lấp vào miệng, không nói lên lời. Lão còn văng vẳng nghe bốn tên võ sĩ nói chuyện với nhau. Một tên nói: “Chắc quốc sư có việc gấp, không chờ được nên bỏ đi rồi. Lão nhân gia đã dặn mình kiếm đá lớn đậy miệng giếng, vậy mình chỉ tuân lệnh là xong.” Một tên khác nói: “Đúng thế!”

Cưu Ma Trí cố la lên: “Ta ở đây! Các ngươi tìm cách cứu ta!” Lão càng hoảng loạn thì bùn vào miệng càng nhiều, bất giác nuốt hai miếng vào bụng, mùi hôi thối cực kỳ khó chịu. Trên miệng giếng lại nghe có tiếng lịch kịch, bốn tên võ sĩ đang vần tảng đá lớn đậy lên miệng giếng. Bọn võ sĩ Thổ Phồn vốn kính trọng Cưu Ma Trí như bậc thiên thần, chúng coi mệnh lệnh của quốc sư chẳng khác chỉ dụ của vua. Chúng chỉ sợ khối đá chưa đủ nặng, nên lại lấy thêm mười hai mười ba phiến đá nặng mấy trăm cân xếp lên trên.

Cưu Ma Trí nghe rõ bốn tên võ sĩ xếp đá xong rồi gọi nhau bỏ đi. Lão biết trên miệng giếng đã có mấy ngàn cân đá, đừng nói mình đang lúc võ công mất hết, mà trong lúc bình thời cũng không dễ gì từ dưới mà đẩy lên được, chắc chắn phen này mất mạng trong cái giếng khô này. Về võ công cũng như Phật học, về mưu trí cũng như thao lược, lão trùm cả Tây Vực không một ai bì kịp, ngờ đâu cuối cùng bị chôn vùi trong giếng bùn dơ bẩn. Người ta ai mà không chết, nhưng chết trong trường hợp này thật chẳng vinh dự chút nào. Người theo Phật giáo phải quán được thân thể chỉ là một cái túi thối tha, sắc là vô thường, vô thường là khổ, thân không phải là bản ngã, phải biết chán ghét mà rời xa. Những đạo lý cơ bản của Phật học này, những lúc Cưu Ma Trí đăng đàn thuyết pháp thì biện giải thao thao ảo diệu, lập luận vững chắc, thính giả ngồi dưới đều hoan hỉ tán đổng. Lúc này thân dưới giếng cạn, đầu đè đá lớn, miệng đầy bùn đất, so với lúc ngồi cao trên đàn thuyết pháp, nói thao thao bất tuyệt như hoa sen nở, thật là khác xa. Tự Tại Vô Ngại gì gì, Thường Lạc Ngã Tịnh gì gì, đều đã văng mất ra khỏi đầu óc, lúc này lão chỉ thấy ngũ uẩn là thật, tấm thân thối tha là quan trọng nhất. Khiết đế khiết đế, ba la tăng khiết đế, không rời khỏi được giếng bùn này mới là khổ ải chân chính của thế gian.

Cưu Ma Trí nghĩ tới chỗ bi thương nhất, cầm không nổi hai hàng nước mắt trào ra. Người lão đầy bùn chẳng còn chỗ nào sạch sẽ, nhưng theo phản ứng tự nhiên cũng toan giơ tay lên gạt nước mắt, bỗng đụng phải một vật trong vũng bùn. Tiện tay lão cầm lấy, sờ biết là pho Dịch Cân Kinh. Cưu Ma Trí dở khóc dở cười. Kinh báu tìm thấy rồi, nhưng lúc này còn dùng làm gì được nữa?

Chợt nghe thanh âm một cô gái nói: “Công tử có nghe thấy không? Bọn võ sĩ Thổ Phồn đã dùng đá lớn lấp miệng giếng, chúng ta làm thế nào ra được?” Người nói chính là Vương Ngữ Yên. Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng người, trong lòng phấn khởi nghĩ thầm: “Té ra cô này chưa chết! Nhưng không hiểu cô ta nói với công tử nào? Ba người hợp lực, may ra có thể đẩy được phiến đá đậy giếng, thoát khỏi nơi nguy hiểm này.” Lại thấy tiếng một chàng trai đáp lại: “Tại hạ chỉ mong được cùng cô nương ở mãi nơi đây. Giả tỉ không ra khỏi thì đã sao? Có cô nương ở bên mình tại hạ, dù bùn lầy cũng hóa hương thơm. Bất luận thiên đường lạc thổ nào cũng chẳng bằng chỗ này”. Cưu Ma Trí nghe chàng nói, ngấm ngầm kinh hãi tự hỏi: “Gã này vẫn chưa chết ư? Gã bị mình phóng Hỏa Diệm Đao đánh trọng thương, đối với mình dĩ nhiên căm hận sâu cay. Bây giờ mình không phát huy được nội lực, nếu gã nhân cơ hội trả thù thì biết làm thế nào?”

***

Người vừa nói chính là Đoàn Dự. Chàng bị Mộ Dung Phục liệng xuống giếng ngất đi, chân tay không nhúc nhích được. Nhờ vậy mà tuy chàng cũng chìm xuống bùn lầy, nhưng không bị hoảng hốt như Cưu Ma Trí. Lúc Vương Ngữ Yên nhảy xuống giếng, đầu nàng va dụng vào huyệt Đản Trung trước ngực chàng, nên Đoàn Dự hồi tỉnh lại ngay. Còn Vương Ngữ Yên ngã đúng vào lòng chàng nên không bị thương chút nào, mà bùn lầy cũng không bám vào người nhiều lắm.

Đoàn Dự thấy trong lòng mình bỗng có thêm một người, còn đang nghi hoặc, thì nghe Mộ Dung Phục nói trên miệng giếng: “Biểu muội! Ta biết trong thâm tâm biểu muội rất thương yêu Đoàn công tử. Tuy không được sống cùng nhà, nhưng được chết cùng huyệt, chắc biểu muội cũng thỏa mãn tâm nguyện rồi.” Đoàn Dự nghe mấy câu này rất rõ ràng, lẩm bẩm thành tiếng: “Không được! Không thể được! Đoàn Dự này làm gì có phúc lớn như vậy?”

Đột nhiên, người trong lòng chàng lên tiếng: “Đoàn công tử! Muội thật là hồ đồ. Huynh đối với muội hết lòng như vậy mà muội…” Đoàn Dự kinh hãi ngắt lời: “Vương cô nương đấy ư?” Vương Ngữ Yên đáp: “Là muội đây!”

Đoàn Dự đối với nàng một niềm kính cẩn, trong lòng chưa bao giờ dám có một chút ý niệm dâm tà. Chàng vừa biết là nàng, vội vàng ngồi dậy toan đẩy ra xa, nhưng đáy giếng chật hẹp lại đầy bùn lầy. Hai chân chàng vừa đứng lên đã ngập sâu vào trong bùn, biết rằng không thể đặt Vương Ngữ Yên xuống bùn được, đành cứ ôm lấy người nàng, luôn miệng xin lỗi: “Vương cô nương! Tại hạ thật là đắc tội. Chúng ta đang ở trong chỗ bùn lầy, ngộ biến đành phải tòng quyền vậy.”

Vương Ngữ Yên thở dài, trong lòng cảm kích muôn vàn. Nàng đã hai lần chết đi sống lại, đã nhìn rõ tâm địa Mộ Dung Phục, dù muốn tự dối mình cũng không được nữa. Đoàn Dự đối với nàng lại hết dạ chân thành, nếu đem ra mà so sánh, thì một bên tình nghĩa mặn nồng, còn một bên phũ phàng ích kỷ. Từ lúc nàng nhảy xuống giếng, chỉ trong nháy mắt mà tâm ý biến đổi rất nhiều. Lúc nãy nàng tự thương thân, chỉ muốn quyên sinh để tạ tình Đoàn Dự. Không ngờ Đoàn Dự cùng mình đều chưa chết, thật là chuyện khó tưởng tượng ra, lòng nàng mừng rỡ vô cùng. Vương Ngữ Yên vốn là một cô gái đoan trang rất hiểu lễ nghĩa, nhưng vừa trải qua nhiều biến cố hãi hùng nên cảm động không nhịn được nữa, bèn thổ lộ can trường: “Đoàn công tử! Muội cứ tưởng huynh chết rồi. Nhớ lại những lúc huynh hết lòng với muội, muội cứ vừa thương tâm lại vừa hối hận. May mà ông trời có mắt, huynh vẫn bình yên. Lúc muội ở trên miệng giếng đã nói những gì, chắc huynh nghe rõ cả rồi?” Nói tới đây, nàng thẹn đỏ mặt lên, gục đầu vào cổ Đoàn Dự.

Đoàn Dự đột nhiên thấy người nhẹ nhàng bay bổng, không hiểu bay lên không trung hay bay vào cõi mộng, nguyện vọng ngày đêm mơ tưởng đột nhiên biến thành sự thực. Chàng mừng quá, hai chân nhũn ra ngồi ngay xuống bùn, tựa lưng vào thành giếng, hai tay vẫn giữ lấy người Vương Ngữ Yên. Bỗng nhiên mấy sợi tóc nàng luồn vào trong mũi chàng, làm chàng hắt hơi luôn mấy cái. Vương Ngữ Yên vội hỏi: “Huynh… huynh làm sao vậy? Bị thương rồi ư?” Đoàn Dự vội đáp: “Không… không có… Ta không bị thương chi hết, chỉ hắt hơi mà thôi… Vương cô nương! Ta sung sướng tưởng chết đi được!”

Trong giếng tối mò, hai người không nhìn thấy mặt nhau. Vương Ngữ Yên mỉm cười không nói gì, nhưng trong lòng nàng cũng rất vui sướng. Nàng từ thuở nhỏ đã say mê biểu huynh, mà chưa bao giờ được y tỏ tình luyến ái, đến nay mới nếm trải hương vị ái tình nồng nhiệt.

Đoàn Dự ấp úng hỏi: “Vương cô nương! Vừa rồi ở trên miệng giếng muội đã nói gì? Ta chưa nghe thấy!” Vương Ngữ Yên mỉm cười đáp: “Muội cứ tưởng huynh là một người quân tử chí thành, không ngờ huynh cũng biết nói dối. Huynh đã nghe thấy rồi, còn muốn muội nhắc lại lần nữa để muội phải thẹn thùng. Muội không nói đâu.”

Đoàn Dự vội đáp: “Ta thực tình chưa nghe thấy. Nếu ta được nghe rồi, xin hoàng thiên trách phạt…” Chàng toan lập lời trọng thệ, nhưng Vương Ngữ Yên đã bịt miệng, ngắt lời: ‘Huynh chưa nghe thấy thì thôi, có gì quan trọng đâu mà phải thề thốt.” Từ ngày Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên, chưa bao giờ được nàng đối xử đằm thắm như hôm nay nên cả mừng nói: “Lúc đó muội đã nói gì?” Vương Ngữ Yên đáp: “Muội nói…” Rồi nàng thẹn thùng mỉm cười, nói tiếp: “Sau này rồi sẽ nói, ngày tháng còn dài, huynh làm chi mà vội thế?”

Câu nàng nói: “Ngày tháng còn dài, huynh làm chi mà vội thế?” như một khúc tiên nhạc rót vào tai Đoàn Dự. Rõ ràng nàng đã thuận tình ở lâu dài bên chàng, Đoàn Dự nghe mà chưa tin ở tai mình, hỏi lại: “Muội đã nói như thế, thì từ nay trở đi chúng ta sẽ ở bên nhau hay sao?” Vương Ngữ Yên đưa tay ra ôm lấy đầu chàng, thủ thỉ vào tai: “Đoàn lang! Muội chỉ mong huynh đừng phũ phàng với muội, cũng đừng hờn giận vì trước kia muội đã lạnh nhạt vô tình với huynh là đủ. Muội nguyện suốt đời đi theo Đoàn lang, không… không bao giờ xa rời nữa.”

Đoàn Dự nghe nàng nói vậy, tưởng chừng như trái tim muốn nhảy ra ngoài lồng ngực. Chàng hỏi lại: “Thế còn biểu huynh của muội thì sao? Muội vốn… vốn quí trọng Mộ Dung công tử lắm kia mà?” Vương Ngữ Yên đáp: “Nhưng chẳng bao giờ y để ý đến muội. Bây giờ muội mới biết trên thế gian này, ai là người thương yêu muội, coi tính mạng muội quan trọng hơn cả tính mạng mình.” Đoàn Dự hỏi: “Muội nói về ta đấy ư?”

Vương Ngữ Yên sa lệ nói: “Phải đó! Biểu huynh của muội lúc nào cũng mơ tưởng ngôi hoàng đế nước Đại Yên. Chuyện đó cũng không trách được, vì họ Mộ Dung từ bao đời nay đã hoài bão mộng tưởng phục quốc, thì y tỉnh ngộ thế nào được? Biểu huynh vốn cũng không phải là người tệ bạc, nhưng giấc mộng làm hoàng đế đã khiến y bỏ hết mọi sự qua một bên.” Đoàn Dự nghe thấy trong câu nói Vương Ngữ Yên đã tỏ ý dứt tình với Mộ Dung Phục, trong lòng nóng nảy hỏi lại: “Vương cô nương! Giả tỉ có một ngày biểu huynh nghĩ lại, đối với muội một dạ chân thành, thì muội biết làm thế nào?” Vương Ngữ Yên thở dài đáp: “Đoàn lang! Muội tuy là nữ nhân ngu xuẩn, nhưng không đến nỗi coi rẻ đức hạnh. Hôm nay muội đã cùng huynh đính ước, nếu còn thay đổi lòng dạ há chẳng tổn hại đến danh tiết, không xứng với tấm chân tình của huynh dành cho muội hay sao?”

Đoàn Dự sung sướng như hoa nở rộ trong lòng, ôm nàng toan nhảy lên, nhưng nghe “bõm” một tiếng, hai người rớt lại xuống dưới bùn. Đôi môi chàng rung động, toan tìm đôi môi nàng, Vương Ngữ Yên cũng uyển chuyển theo đà. Môi hai người vừa kề sát vào nhau, đột nhiên trên đầu nổi lên tiếng gió veo véo, dường như có vật gì rớt xuống.

Hai người kinh hãi vội nép vào bên thành giếng. “Bõm” một tiếng lớn, rồi có một người rớt xuống.

Đoàn Dự vội hỏi: “Ai thế?” Người kia đằng hắng một tiếng rồi đáp: “Ta đây!” Y chính là Mộ Dung Phục.

Thì ra sau khi Đoàn Dự tỉnh lại, chàng được Vương Ngữ Yên tỏ tình thắm thiết, hết thảy tinh thần đặt cả vào người ngọc, ngoài ra không còn biết gì nữa, cho đù trời long đất lở cũng chẳng buồn nghe thấy. Cưu Ma Trí ác đấu cùng Mộ Dung Phục, quát tháo om sòm trên bờ giếng, hai người cũng không hề hay biết. Lúc này Mộ Dung Phục đột nhiên rớt xuống giếng, hai người mới giật mình kinh hãi, đều nghĩ rằng y nhảy xuống để can thiệp.

Vương Ngữ Yên run lên hỏi: “Biểu huynh! Biểu huynh còn xuống đây làm chi? Tấm thân của muội bây giờ đã thuộc về Đoàn công tử rồi. Biểu huynh có giết chàng thì phải giết luôn cả muội nữa.”

Đoàn Dự cả mừng. Chàng vốn không sợ Mộ Dung Phục hại mình, chỉ sợ Vương Ngữ Yên thấy biểu huynh thì lửa tình cũ lại cháy lên, rồi quay lại với biểu huynh. Chàng nghe nàng nói vậy đã yên tâm, lại thấy nàng đưa tay ra nắm chặt tay mình thì càng thêm tin tưởng, bèn cất tiếng hỏi: “Mộ Dung công tử! Huynh muốn làm phò mã Tây Hạ, bây giờ chẳng những ta không khuyên can nữa, mà còn mong cho huynh toại nguyện. Còn lệnh biểu muội đã thuộc về ta rồi, huynh muốn cướp lại cũng không được nữa. Ngữ Yên! Muội nói xem có đúng thế không?” Vương Ngữ Yên đáp: “Không sai! Đoàn lang dù sống dù chết, muội cũng quyết theo chàng.”

Mộ Dung Phục đã bị Cưu Ma Trí điểm trúng huyệt đạo, tuy y nghe được, nói được, nhưng không cử động được. Y nghe hai người nói vậy thì nghĩ thầm: “Bọn này chưa biết mình đã đại bại và bị kiềm chế huyệt đạo. Chúng đối với mình vẫn sợ sệt, chỉ lo mình hạ thủ gia hại. Thế thì hay lắm! Mình phải tìm kế hoãn binh mới được.” Y nghĩ vậy, liền đáp: “Biểu muội! Muội đã lấy Đoàn công tử rồi, thì chúng ta là người một nhà. Đoàn công tử đã thành em rể ta, khi nào ta lại hại y.”

Đoàn Dự vốn người trung hậu, Vương Ngữ Yên cùng không hiểu nhân tình thế thái. Hai người nghe Mộ Dung Phục nói vậy thì vui mừng khôn xiết, một người nói: “Đa tạ Mộ Dung huynh!” Một người nói: “Đa tạ biểu huynh!”

Mộ Dung Phục nói: “Đoàn huynh đệ! Chúng ta đã là người một nhà, vậy ta đi làm phò mã Tây Hạ, huynh đừng theo ngăn trở ta nữa nhé!” Đoàn Dự đáp: “Dĩ nhiên là thế. Ta được cùng lệnh biểu muội nên đạo vợ chồng, thì không còn có tâm nguyện nào khác nữa. Dù được làm thần tiên hay bồ tát, thì ta cũng chẳng màng.” Vương Ngữ Yên khẽ tựa vào người Đoàn Dự, trong lòng vui mừng khôn xiết.

Mộ Dung Phục âm thầm vận khí muốn tự giải huyệt, nhưng không có cách nào giải khai được, lại không muốn gọi Đoàn Dự giúp đỡ, trong lòng ngấm ngầm căm phẫn: “Người ta bảo đàn bà như nước chảy hoa trôi, quả thật không sai. Trước kia, hễ biểu muội thấy mình là chạy ngay đến bên nâng đỡ, bây giờ lại không thèm nhìn gì đến mình nữa.”

Đáy giếng chật hẹp, đường kính không đầy một trượng, ba người đứng rất gần nhau. Ngữ Yên cũng nghe thấy Mộ Dung Phục đang nằm trong bùn, không đứng dậy được. Nàng chỉ bước một bước là đến được cạnh biểu huynh để dìu hắn dậy, nhưng trong lòng lại e sợ Mộ Dung Phục đang bày mưu kế gì để gia hại Đoàn Dự, lại sợ Đoàn Dự sinh lòng ngờ vực, nên nàng chần chừ, không hành động được.

Tâm thần Mộ Dung Phục càng rối loạn thì huyệt đạo càng khó khai thông. Một lát sau y trấn tĩnh lại, tự giải được huyệt đạo. Y vừa đưa bàn tay vịn vào thành giếng, bỗng nghe “vèo” một tiếng, một vật rớt xuống bên mình, chính là pho Dịch Cân Kinh mà Cưu Ma Trí đánh rơi. Dưới đáy giếng tối đen như mực, Mộ Dung Phục không thấy là vật gì, vội tránh qua một bên. Cũng may là y né tránh, nên lúc Cưu Ma Trí nhảy xuống không đè trúng y.

Cưu Ma Trí nhặt được cuốn kinh trong bùn, đột nhiên nổi lên một tràng cười rộ. Đáy giếng vừa sâu vừa chật hẹp, tiếng cười vang đi vọng lại làm ù cả tai Đoàn Dự, rất khó chịu. Cưu Ma Trí bật lên tiếng cười, rồi không sao ngừng lại được nữa, nội tức trong người lão bành trướng, thần trí mê man. Lão đứng ngập trong bùn lầy, tay đấm chân đá vào thành giếng. Quyền cước của lão có lúc mãnh liệt vô cùng, đập gạch vỡ tan nát, có lúc lại hoàn toàn vô lực.

Vương Ngữ Yên kinh hãi vô cùng, dựa sát vào mình Đoàn Dự khẽ nói: “Lão điên rồi!” Đoàn Dự đáp: “Đúng là lão điên rồi!” Còn Mộ Dung Phục thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường, dán người vào thành giếng trườn dần lên.

Cưu Ma Trí cứ vừa cười rộ vừa ho rũ rượi, quyền cước đánh ra mỗi lúc một nhanh. Vương Ngữ Yên đánh bạo khuyên lão: “Đại sư ngồi xuống đây nghỉ một lúc, định thần lại đã.” Cưu Ma Trí vẫn cười ha hả đáp: “Ta… ta định thần được ư? Ta định cái đầu ngươi!” Rồi lão vung trảo ra chụp xuống nàng. Đáy giếng hẹp quá không có chỗ xoay trở, Vương Ngữ Yên thấy sắp bị Cưu Ma Trí chụp xuống vai, kinh sợ la rầm lên.

Đoàn Dự nghiêng người qua để che cho nàng, la gọi: “Muội nấp vào sau lưng ta!” Giữa lúc ấy hai tay Cưu Ma Trí chụp trúng vào cổ họng Đoàn Dự, bóp thật mạnh. Đoàn Dự cảm thấy khó thở, nói không ra tiếng. Vương Ngữ Yên cả kinh, cố kéo tay lão ra. Nhưng Cưu Ma Trí đã nổi cơn điên, dù không vận nội lực được theo ý muốn, nhưng khí lực cũng mạnh phi thường. Vương Ngữ Yên nắm lấy tay lão, chẳng khác nào chuồn chuồn lay cột đá, không chuyển động mảy may. Nàng lại càng kinh hãi, chỉ sợ Cưu Ma Trí bóp chết Đoàn Dự, vội la lên: “Biểu huynh! Biểu huynh! Mau giúp một tay! Lão hòa thượng này muốn bóp chết Đoàn công tử!”

Mộ Dung Phục ngần ngừ nghĩ bụng: “Gã họ Đoàn này nói là giúp mình làm phò mã nước Tây Hạ, chẳng hiểu hắn nói thật hay nói dối. Hắn đã làm mình mất mặt trên núi Thiếu Thất, làm thanh danh nhà Mộ Dung tan nát trên chốn giang hồ. Nay hắn sắp chết đến nơi, mình cứu hắn làm chi? Hơn nữa tên ác tăng này bản lĩnh ghê hồn, ta không địch nổi. Để hai tên đánh nhau cho chết cả đi càng tốt, nếu ta nhúng tay vào vụ này, thì thật là người bất trí.” Y vẫn bấm ngón tay vào kẽ gạch, dán người vào thành giếng, nhất định không nhảy xuống cứu Đoàn Dự. Vương Ngữ Yên kêu khan cả cổ mà Mộ Dung Phục vẫn lờ đi như không nghe tiếng.

Vương Ngữ Yên bèn vung nắm tay đánh tới tấp xuống đầu xuống lưng Cưu Ma Trí. Nhưng lão chỉ cười ha hả, ho rũ rượi, bóp cổ Đoàn Dự lại càng mạnh hơn trước.

Hồi 46: Ba câu hỏi kén ngôi phò mã

Sáng hôm sau, Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần thức dậy chẳng thấy Đoàn Dự đâu, lại qua phòng Vương Ngữ Yên gọi nhưng chẳng nghe ai trả lời. Ba, Chu thấy cửa phòng khép hờ liền mở ra nhìn, thấy chẳng có một ai thì lo sốt vó. Chu Đan Thần nói: “Tiểu Vương tử cũng y hệt Vương gia, đi đến đâu là vương tình đến đấy. Nhất định y cùng Vương cô nương nửa đêm lẻn đi rồi, mà không biết đi đâu?” Ba Thiên Thạch gật đầu nói: “Tiểu Vương tử là người phong lưu lãng mạn, chỉ thích mỹ nữ, chẳng nghĩ gì đến chuyện quốc gia. Y chung tình với Vương cô nương ai cũng biết rõ, bảo y đi làm phò mã Tây Hạ, chắc y chẳng chịu nghe đâu. Ngày trước, ngay cả hoàng thượng cùng Vương gia bảo y luyện võ, nói thế nào y cũng không chịu. Sau bị bức bách quá, y liền bỏ nhà trốn đi.” Chu Đan Thần nói: “Chúng mình phải chia ra hai ngả mà đuổi tìm, rồi cố khuyên y vậy, chứ còn biết làm thế nào nữa?” Ba Thiên Thạch nắm chặt hai tay, nhăn nhó cười khổ.

Chu Đan Thần lại nói: “Ba huynh! Ngày nọ Vương gia sai tiểu đệ đi tìm tiểu Vương tử. Tìm được y có phải chuyện dễ đâu? Nào ngờ…” Y hạ thấp giọng xuống rồi nói tiếp: “Tiểu Vương tử đang say mê Mộc Uyển Thanh cô nương, hai người đang đêm lẻn đi. May mà vận khí tiểu đệ không tồi, ra chặn ở đầu đường rồi đưa được y về phục mệnh.” Ba Thiên Thạch vỗ đùi đánh đét một cái, nói: “Trời ơi! Thế thì lỗi tại Chu hiền đệ rồi! Hiền đệ đã trải qua một lần, sao lại còn đi vào vết xe đổ? Sao hiền đệ không cho tiểu huynh hay để luân phiên canh chừng?” Chu Đan Thần thở đài đáp: “Tiểu đệ tưởng y phải nể mặt Tiêu đại hiệp cùng Hư Trúc tiên sinh, không dám bỏ đi? Ngờ đâu…” Gã hạ thấp giọng nói tiếp: “Ngờ đâu y say hoa đắm nguyệt, quên tình bằng hữu.” Câu này phê bình người trên thật là phạm thượng, nên gã không dám nói to. Vả lại gã vốn chơi thân với Đoàn Dự, cũng không muốn dị nghị chàng nhiều.

Hai người không biết làm thế nào, đành báo cho Tiêu Phong và Hư Trúc hay. Mọi người chia đi các ngả tìm kiếm ròng rã một ngày, chẳng ai được tin tức gì hết.

Tối hôm ấy mọi người ngồi trong căn phòng trống của Đoàn Dự để bàn bạc. Bỗng có tiếng gõ cửa, một tên chủ sự trong bộ Lễ nước Tây Hạ đến nhà quán dịch. Hắn thông báo với Ba Thiên Thạch rằng, đêm rằm tháng tám, hoàng thượng thiết yến ở Tây Hoa Cung để khoản đãi những tân khách đến cầu hôn, mời Đoàn Vương tử nước Đại Lý tới dự. Ba Thiên Thạch có nỗi khổ mà không nói ra được, đành vâng dạ cho qua.

Tên chủ sự này đã nhận của đút lót của Ba Thiên Thạch nên tỏ vẻ rất thân mật. Lúc cáo từ, Ba Thiên Thạch tiễn ra cửa, y còn ghé tai nói nhỏ: “Ba Tư không! Tại hạ có tin này báo cho Tư không hay. Đêm mai hoàng thượng sẽ đến dự yến, trên bàn tiệc ngài sẽ xem xét tài mạo cử chỉ của quí khách. Sau yến tiệc, không chừng còn có cuộc tỉ đấu, bắn tên thí võ, để quí khách so tài cao thấp. Đây là đầu mối quan trọng để biết vị nào trúng tuyển làm phò mã, sánh duyên cùng công chúa. Vậy Đoàn công tử cần chuẩn bị cẩn thận hơn.” Ba Thiên Thạch chắp tay cảm ơn, rồi lại móc trong tay áo ra một đĩnh vàng nhét vào tay hắn.

Ba Thiên Thạch trở vào nhà tân quán, kể lại cho mọi người nghe rồi nói tiếp: “Trấn Nam Vương dặn cả ngàn lần là phải tìm cách để tiểu Vương tử lấy được công chúa Tây Hạ. Ta cùng Chu đệ mà không tròn phận sự thì chẳng còn mặt mũi nào về gặp Vương gia nữa.”

Trúc Kiếm toét miệng cười nói: “Ba lão gia! Tiểu tì muốn nói một câu, không hiểu có được chăng?” Ba Thiên Thạch nói: “Tỉ tỉ cứ nói đi!” Trúc Kiếm nói: “Phụ vương Đoàn công tử muốn y lấy công chúa nước Tây Hạ, chẳng qua vì mục đích Tây Hạ cùng Đại Lý thành thân gia, nương tựa lẫn nhau phải không?” Ba Thiên Thạch đáp: “Đúng thế!” Trúc Kiếm lại hỏi: “Còn như công chúa nước Tây Hạ đẹp tựa Tây Thi hay xấu như Vô Diệm, Đoàn Vương gia chẳng cần để ý, có đúng thế không?”. Ba Thiên Thạch nói: “Đã là một vị công chúa tôn quí thì nhan sắc dù chẳng chim sa cá lặn, nhất định cũng khả ái dễ nhìn.” Mai Kiếm nói: “Bọn tỉ muội tiểu nữ có ý kiến, chúng ta phải làm sao lấy được công chúa đưa về Đại Lý, còn tìm được Đoàn công tử có kịp hay không thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đại cuộc.” Lan Kiếm cười nói: “Cứ để y cùng Vương cô nương du sơn ngoạn thủy nửa năm hay hai ba năm, rồi mới trở về Đại Lý động phòng hoa chúc cùng công chúa, tưởng cũng không muộn.”

Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, đồng thanh hỏi: “Tiểu Vương tử không có ở đây, thì làm sao cưới được công chúa Tây Hạ về Đại Lý được? Bốn vị cô nương có diệu kế gì, xin nói cho nghe.”

Mai Kiếm đáp: “Vị Mộc cô nương này mà cải dạng nam trang thì thật là một chàng thư sinh mỹ mạo, còn đẹp hơn Đoàn công tử nhiều. Ngày mai, Mộc cô nương phó yến thì dù trên tiệc có hàng trăm hàng ngàn thiếu niên anh hùng cũng chẳng ai hơn được.” Lan Kiếm nói: “Mộc cô nương là muội muội Đoàn công tử, đi cưới tẩu tẩu về thay ca ca, lập công lớn cho quốc gia, làm hài lòng gia phụ. Đây không phải là chuyện vui mừng lắm ư?” Trúc Kiếm nói: “Mộc cô nương từ lúc được chọn làm phò mã, đến lúc bái đường thành thân còn khá nhiều thời gian, không chừng có thể tìm thấy Đoàn công tử.” Cúc Kiếm nói: “Giả tỉ Đoàn công tử chưa có mặt, thì Mộc cô nương thay công tử mà bái đường cũng có sao đâu?”. Nói xong, bốn cô tỉ muội đều bưng miệng cười khúc khích.

Bốn cô này tâm ý tương thông, khẩu âm cũng giống hệt. Bốn người nói tiếp lời nhau, mà nghe chẳng khác gì một người nói.

Ba, Chu ngơ ngác nhìn nhau, đều biết rằng kế hoạch này thật là mạo hiểm. Nếu bị người Tây Hạ khám phá ra, thì thân gia không thành mà lại kết thành oan gia. Giả tỉ hoàng đế Tây Hạ nổi cơn thịnh nộ, hạ lệnh khởi binh, thì vạ lớn không biết đến đâu mà lường.

Mai Kiếm đoán được tâm tư của hai người, liền nói: “Thật ra Đoàn công tử còn có vị nghĩa huynh là Tiêu đại hiệp. Chúng ta cũng không muốn dây dưa đến Tây Hạ làm gì, chỉ vì có lệnh của Trấn Nam Vương mà không thể dừng được. Vạn nhất xảy ra đại biến, Tiêu đại hiệp là Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu, trong tay nắm mấy chục vạn hùng binh, chỉ nói mấy câu tử tế là ngăn cản được Tây Hạ không dám sinh sự với Đại Lý nữa.” Tiêu Phong mỉm cười, khẽ gật gật đầu.

Ba Thiên Thạch là quan Tư không nước Đại Lý, coi sóc nhiều việc lớn trong nước. Y đã nghĩ rằng Tiêu Phong có thể viện trợ rất đắc lực cho Đại Lý, nhưng không tiện nói ra. Lúc này y nghe Mai Kiếm nói vậy, lại thấy Tiêu Phong gật đầu, thì thật là không cầu mà được, quốc gia yên ổn. Y lại nghĩ thầm: “Mưu kế của bốn tiểu cô nương này nghe như trò trẻ, nhưng ngoài kế ấy cũng không còn cách nào khác. Chẳng hiểu Mộc cô nương có chịu mạo hiểm không?” Y liền nói: “Ý kiến của bốn vị cô nương đây thật là diệu kế, nhưng nguy hiểm vô cùng. Vạn nhất mà bại lộ cơ mưu, Mộc cô nương có thể bị bắt. Huống chi, tuấn kiệt thiên hạ kéo về đây tụ tập như mây, kể về mỹ mạo thì Mộc cô nương là số một, nhưng về võ công thì chẳng hiểu có áp đảo quần hùng được chăng?”

Mọi người chú ý nhìn Mộc Uyển Thanh, chờ xem chủ ý nàng thế nào.

Mộc Uyển Thanh nói: “Ba Tư không! Tư không đừng nói khích ta nữa. Ca ca ta… Ca ca ta…” Nàng nội hai câu “Ca ca ta” rồi đột nhiên nước mắt tuôn rơi, thấy Đoàn Dự lẻn đi cùng Vương Ngữ Yên, cũng hệt như năm xưa cùng nàng giữa canh khuya bỏ trốn. Giả tỉ chàng không phải là huynh trưởng thì chắc không thay lòng đổi dạ, nhưng bây giờ chàng cùng kẻ khác thân ái mặn nồng, vui thú chẳng khác thần tiên, còn nàng chịu cô đơn lạnh lẽo ở đây. Thế mà đám thần tử nước Đại Lý lại bảo nàng thay thế chàng mà xuất lực. Bản tính nàng vốn bướng bỉnh, lòng bi phẫn vừa nổi lên là xô đổ cái bàn phía trước, bình tách loảng xoảng rớt xuống đất, rồi nhảy vọt ra khỏi phòng.

Mọi người nhìn nhau ngơ ngác, mất cả hứng thú. Ba Thiên Thạch hối hận nói: “Việc này là lỗi của ta. Giả tỉ ta khéo léo cầu khẩn, thì Mộc cô nương dù không đồng ý cũng bỏ qua. Nhưng ta lại dùng lời nói khích, khiến cô nương phải nổi giận.” Chu Đan Thần lắc đầu nói: “Mộc cô nương nổi giận không phải vì mấy câu nói của Ba huynh đâu, còn có nguyên nhân sâu xa bên trong. Ôi, một lời khó mà nói hết được!”

Sáng sớm hôm sau, mọi người lại chia nhau đi tìm Đoàn Dự. Ngoài đường phố, không biết bao nhiêu thiếu niên công tử phục sức cực kỳ lòe loẹt qua lại lũ lượt. Đại đa số bọn này sẽ vào hoàng cung dự yến. Thỉnh thoảng có tiếng quát mắng ẩu đả om sòm, đó là bọn võ sĩ Thổ Phồn đang tìm cách giúp tiểu Vương tử của chúng loại bớt địch thủ.

Tối đến, mọi người quay về quán dịch. Tiêu Phong nói: “Tam đệ đã bỏ đi thì chúng ta cũng đi thôi. Ai làm phò mã cũng mặc, chẳng liên quan gì đến chúng ta.” Ba Thiên Thạch nói: “Tiêu đại hiệp nói đúng lắm. Chúng ta ngồi đây nhìn người khác làm phò mã lại càng bực bội.”

Chung Linh bỗng hỏi: “Chu tiên sinh! Tiên sinh đã lấy vợ chưa? Đoàn công tử không muốn làm phò mã, sao tiên sinh lại không làm? Tiên sinh lấy được công chúa nước Tây Hạ thì cũng giúp cho Đại Lý được chứ?” Chu Đan Thần cười đáp: “Chung cô nương khéo nói giỡn. Vãn sinh đã có thê tử rồi, có cả con trai lẫn con gái.” Chung Linh lè lưỡi lắc đầu. Chu Đan Thần lại nói tiếp: “Đáng tiếc là khuôn mặt cô nương bầu bĩnh quá, lại má lúm đồng tiền chẳng giống nam nhân chút nào, không thể thay cho ca ca đi lấy công chúa Tây Hạ được.” Chung Linh hỏi: “Thế nào? Thay ca ca ta ư?” Chu Đan Thần biết mình lỡ lời, nghĩ thầm: “Cô này cũng là con tư sinh của Trấn Nam Vương, nhưng việc này chưa thành công khai, mình chẳng nên nói càn.” Gã liền nói chữa: “Tại hạ muốn nói là cô nương không thể giúp cho tiểu Vương gia hoàn thành đại sự.”

Bỗng nhiên ngoài cửa có người lên tiếng: “Ba tiên sinh! Chu tiên sinh! Chúng ta đi thôi chứ!” Rèm cửa vén lên, một chàng thiếu niên tuấn nhã bước vào, chính là Mộc Uyển Thanh đội lốt thư sinh. Mọi người vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, đồng thanh hỏi: “Thế nào? Mộc cô nương chịu đi ư?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Tại hạ họ Đoàn tên Dự, là thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Các vị phải ăn nói cho cẩn thận!” Nàng nói dõng dạc, thanh âm cũng tương tự một chàng thiếu niên. Mọi người thấy nàng bắt chước rất giống, đều cười ha hả.

Thì ra sau khi Mộc Uyển Thanh tức giận chạy về phòng khóc một hồi, nghĩ tới nghĩ lui, thấy mình đắc tội với mọi người, trong lòng rất áy náy, liền giả làm Đoàn Dự để đi lấy công chúa Tây Hạ. Chuyện này cũng làm nàng hứng thú, nghĩ thầm: “Huynh cùng Vương cô nương như chim liền cánh thật là sung sướng. Ta phải đem công chúa Tây Hạ về để quấy rầy chơi, làm huynh phải phiền não mới được.” Nàng nhớ lại xưa kia vào thành Đại Lý, lúc mới gặp song thân Đoàn Dự mình đã bẽn lẽn vô cùng. Rồi đây Đoàn Dự có chính thất là một vị công chúa, lại đủ mai mối nghi lễ, như thế thì Vương Ngữ Yên không thể làm vợ y được. Mình đã không lấy được y, thì cũng không để một cô gái xinh đẹp nào khác trở thành vợ y. Nàng càng nghĩ càng đắc ý, quyết chí mạo xưng là Đoàn Dự.

Ba Thiên Thạch phấn chấn hẳn lên, vội vàng chuẩn bị mọi việc. Gã nhớ tới Đào thị lang ở bộ Lễ đã đến gặp Đoàn Dự tại quán dịch này, bèn chuẩn bị ba trăm lạng vàng, sai Chu Đan Thần đem tặng Đào thị lang. Lễ vật đã biện trước rồi, đây chỉ là số tặng thêm. Ba Thiên Thạch còn dặn dò Chu Đan Thần không cần phải nói nhiều, nếu lát nữa Đào thị lang có phát hiện thấy gì thì cũng sẽ tự hiểu mà im lặng. Ba trăm lạng vàng để trám miệng, đối với Đào thị lang có thể nói im lặng là vàng.

Mộc Uyển Thanh nói: “Tiêu đại ca! Hư Trúc nhị ca! Được hai vị cùng đi phó yến thì tiểu đệ chẳng còn sợ hãi gì nữa. Nếu không thì lúc phải động thủ, làm sao tiểu đệ thắng nổi bọn họ? Trong hoàng cung mà phóng độc tiễn giết người, thì còn ra thể thống gì nữa?”

Lan Kiếm cười nói: ” Phải đó! Nếu Đoàn công tử mà phóng tên độc ra bốn phía, thì trong hoàng cung nước Tây Hạ thây chết ngổn ngang, e rằng công chúa không chịu lấy công tử đâu!” Tiêu Phong cười đáp: “Ta cùng nhị đệ đã chịu lời ủy thác của Đoàn bá phụ, dĩ nhiên là phải tận lực.”

Mọi người thay đổi y phục xong, đi về phía hoàng cung. Tiêu Phong cùng Hư Trúc giả làm tùy tùng trong phủ Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Chung Linh và Tứ Kiếm cung Linh Thứu đều muốn cải dạng nam trang để đi coi vụ náo nhiệt này, nhưng Ba Thiên Thạch ngăn cản: “Một mình Mộc cô nương cải trang đã nguy hiểm rồi, nếu cả năm vị cô nương cùng cải trang nữa thì thế nào cũng bại lộ hành tung.” Bọn Chung Linh đành phải thôi.

Đoàn người vừa ra khỏi cửa quán dịch, Ba Thiên Thạch bỗng la lên: “Trời ơi! Suýt nữa thì nguy to! Mộ Dung Phục cũng đến đây tranh ngôi phò mã, mà gã đã biết mặt Đoàn công tử rồi. Bây giờ phải làm thế nào?” Tiêu Phong mỉm cười nói: “Ba huynh bất tất phải lo ngại, Mộ Dung công tử cũng như Đoàn tam đệ, không từ biệt mà bỏ đi. Vừa rồi tại hạ đã ghé thăm, thấy bọn Đặng Bách Xuyên, Bao Bất Đồng cũng đang nóng nảy chẳng khác gì kiến bò trong chảo.” Mọi người cả mừng, cùng nói: “Thật là tuyệt diệu!”

Chu Đan Thần khen ngợi: “Tiêu đại hiệp thật là chu đáo, đã đi do thám bên Mộ Dung công tử!” Tiêu Phong mỉm cười nói: “Nếu mình không tính toán cho kỹ lưỡng, thì e rằng Mộ Dung công tử võ nghệ cao cường, tất là một tay kình địch của Mộc cô nương.” Ba Thiên Thạch cười nói: “Chắc Tiêu đại hiệp tìm đến cốt để khuyên can y tối nay đừng đi phó yến nữa.” Chung Linh tròn mắt, cất tiếng hỏi: “Y đường xa ngàn dặm đến đây chi vì mục đích mụốn làm phò mã Tây Hạ, đại hiệp muốn khuyên can cũng đâu có dễ gì? Tiêu đại hiệp! Chắc là đại hiệp chơi thân với Mộ Dung công tử lắm?” Mộc Uyển Thanh cười nói: “Giao tình giữa Tiêu đại hiệp với y thế nào thì chưa biết, nhưng quyền cước và khẩu tài Tiêu đại hiệp rất giỏi, y không nghe cũng không được.” Chung Linh hiểu ra, cười nói: “Quyền cước đi đôi với lời khuyên, dĩ nhiên người ta dễ nghe hơn.”

***

Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần, năm người vào tới hoàng cung. Ba Thiên Thạch đưa danh thiếp của Đoàn Dự vào. Quan thượng thư bộ Lễ nước Tây Hạ thân hành ra đón, nghênh tiếp vào cung.

Ở điện Trung Hòa đã có hơn trăm thiếu niên đến dự yến, ngồi rải rác khắp nơi. Giữa điện kê một cái bàn phủ khăn gấm thêu rồng vàng, đó là chỗ của quốc vương nước Tây Hạ. Hai dãy bàn hai bên đều trải khăn bằng đoạn tía. Bàn tiệc phía đông có một thiếu niên mày rậm mắt to, thân thể béo tốt, mình mặc trường bào màu đỏ có thêu một con cọp nhe nanh giơ vuốt, trông cực kỳ uy mãnh. Sau y có tám tên võ sĩ đứng hầu. Bọn Ba Thiên Thạch vừa nhìn thấy đã biết ngay đó là Tôn Tán, Vương tử nước Thổ Phồn.

Quan thượng thư bộ Lễ đưa Mộc Uyển Thanh vào ngồi riêng một bàn tiệc ở đầu phía tây, chứ không ngồi chung với người khác. Xem thế thì đủ biết trong bọn thiếu niên đến cầu thân thì Vương tử nước Thổ Phồn và Vương tử nước Đại Lý là hai nhân vật tôn quý hơn hết, được quốc vương nước Tây Hạ đối đãi một cách đặc biệt. Ngoài ra, con cháu các đại thần cùng hào kiệt thứ dân cũng phân ra người nào ngồi chỗ nấy.

Các bàn tiệc đã đông đủ cả rồi, hai vị tướng quân tuyên bố: “Quí khách đến đông đủ rồi, đóng cửa điện lại.” Âm nhạc bắt đầu nổi lên, bốn tên thị vệ cầm kích từ từ đẩy hai cánh cửa điện rất dày vào, đóng chặt lại. Trong hành lang có một đoàn thị vệ mặc giáp vàng tay cầm trường kích, đầu kích đều có đốt đuốc để soi sáng. Tiếp theo tiếng âm nhạc, hai đội thị vệ từ nội đường đi ra, mỗi tên bưng một lư hương bằng bạch ngọc, khói xanh trong lư bốc lên nghi ngút. Mọi người đều biết nhà vua sắp ra, nín thở chờ đợi, không dám lên tiếng.

Sau cùng là bốn tên thị vệ mặc áo cẩm bào, trong tay không cầm gì, chia ra đứng hai bên bàn ngự tọa. Tiêu Phong thấy huyệt thái dương của bốn tên này đều nhô lên, biết đây là những nhân vật võ công cao cường, cận vệ bên cạnh nhà vua. Một tên nội thị dõng dạc tuyên bố: “Vạn tuế gia đến! Nghênh giá!” Mọi người quì cả xuống.

Rồi có tiếng giày nhà vua từ trong đi ra, ngồi vào ghế ngự tọa. Gã nội thị lại hô: “Bình thân!” Mọi người đều đứng lên. Tiêu Phong quay mặt nhìn về phía hoàng đế, thấy thân hình nhà vua không cao lớn lắm, song vẻ mặt cũng có khí thế một nhân vật anh hùng ngoài biên ải.

Quan thượng thư bộ Lễ đứng bên ngự tọa, mở cuốn trục ra lớn tiếng đọc: “Thuận thiên thừa vận, Quảng thánh thần võ Tây Hạ Hoàng đế xuống chỉ: Các khanh nghe lời hiệu triệu, từ xa đến đây, trẫm rất hài lòng, ban cho ngự yến. Khâm thử.” Mọi người quì xuống tạ ơn. Gã nội thị lại hô: “Bình thân!” Mọi người lại đứng lên.

Hoàng đế nâng ly, vẫy tay ra hiệu, rồi rời chỗ ngồi quay về nội đường. Bọn nội thị cũng theo sau, quay vào hết. Ai nấy đều ngạc nhiên, không ngờ hoàng đế chẳng nói câu nào mà cũng không uống một ly rượu, chỉ ra thi lễ tiếp khách rồi trở vào cung ngay. Mọi người đều tự hỏi: “Nhà vua chẳng thèm nhìn ai thì làm sao nhận xét được? Không hiểu sẽ tuyển lựa phò mã theo phương pháp nào?”

Quan thượng thư bộ Lễ lên tiếng: “Xin mời chư vị tự nhiên ăn uống.” Nhà bếp đưa các thức ăn lên. Tây Hạ là một xứ lạnh, ngày thường chỉ lấy thịt bò, thịt cừu làm món ăn chính. Buổi ngự yến này trong hoàng cung cũng rất nhiều thịt bò, thịt cừu.

Mộc Uyển Thanh thấy bọn Tiêu Phong phải đứng hầu một bên, trong lòng áy náy, khẽ nói: “Tiêu đại ca! Hư Trúc nhị ca! Các vị ngồi cả xuống đây uống rượu.” Tiêu Phong cùng Hư Trúc mỉm cười lắc đầu. Mộc Uyển Thanh biết Tiêu Phong thích rượu liền nghĩ ra một cách, vẫy tay nói: “Rót rượu đi!” Tiêu Phong vâng lời, rót rượu vào bát. Mộc Uyển Thanh, nói: “Ngươi nếm thử xem!” Tiêu Phong khoái chí, đưa bát rượu lên miệng, uống một hơi cạn sạch. Mộc Uyển Thanh lại bảo: “Ngươi uống nữa đi!” Tiêu Phong lại uống thêm một bát.

Bên bàn tiệc phía Đông, Vương tử nước Thổ Phồn uống mấy hớp rượu rồi gắp một miếng thịt bò lớn lên ăn. Y gặm hết thịt, rồi liệng cục xương ra, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý lại liệng về phía Mộc Uyển Thanh. Kình phong rít lên veo véo, nội lực y cũng không phải tầm thường.

Chu Đan Thần giơ quạt lên phẩy một cái, cục xương bò bay ngược về, nhằm thẳng vào Tôn Tán Vương tử. Một tên võ sĩ Thổ Phồn vươn tay ra chụp lấy, chửi đổng một câu, rồi cầm một chiếc bát lớn liệng lại Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch phóng chưởng ra, chiếc bát còn lơ lửng trên không lập tức vỡ nát thành mấy chục mảnh, những mảnh bát bị chưởng phong hất bắn vào bọn võ sĩ Thổ Phồn. Một tên võ sĩ Thổ Phồn vội lột áo ngoài ra phất một cái, cuốn hết mấy chục mảnh bát vỡ vào trong áo. Thủ pháp gã lanh lẹ phi thường.

Lúc mọi người đến hoàng cung dự yến đều đã biết buổi yến tiệc này chẳng có gì là hứng thú, ăn uống cũng chẳng ngon lành gì. Ai cũng đoán trong yến tiệc sẽ xảy ra xô xát, nhưng không ngờ hai bên chưa nói đã đánh, chưa cãi nhau đã động thủ. Mọi người nhốn nháo cả lên, đĩa bát chạm vào nhau choang choảng.

Đột nhiên có tiếng chuông boong boong nổi lên, hai hàng người từ trong nội đường đi ra, kẻ cao người thấp, chẳng ai giống ai. Có người mặc áo võ sinh, có người mặc áo bào rộng thùng thình, đa số trang bị những thứ khí giới kỳ lạ. Một người mặc áo gấm, trông như đại quan nước Tây Hạ, lớn tiếng quát: “Đây là nội điện trong hoàng cung, các vị không được vô lễ. Nhất Phẩm Đường của tệ quốc không thiếu gì hảo thủ, nếu các vị cao hứng thì từng người một bước ra tỉ thí, còn quần đả loạn đấu thì không được đâu!”

Bọn Tiêu Phong đều biết Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ là nơi chiêu tập anh hùng hảo hán trong thiên hạ, có không ít nhân tài. Hai gã Ba, Chu lập tức ngừng tay, bát đĩa cùng đồ vật do bọn võ sĩ Thổ Phồn liệng tới, bên này chỉ đón lấy rồi để xuống chứ không ném lại. Người mặc áo gấm nhìn Vương tử Thổ Phồn, nghiêm giọng nói: “Xin điện hạ ra lệnh cho thuộc hạ dừng tay.” Tôn Tán Vương tử thấy quần hùng trong Nhất Phẩm Đường phải đến hơn trăm, nếu xảy ra động thủ thì mình lâm vào tình trạng quả bất địch chúng, liền vẫy tay một cái cho bọn thuộc hạ không ném nữa.

Quan thượng thư bộ Lễ nước Tây Hạ nhìn viên quan mặc áo gấm, chắp tay kính cẩn hỏi: “Hách Liên Chinh Đông tướng quân! Không hiểu công chúa có điều chi dặn bảo?”

Vị quan áo gấm đó chính là Tổng quản Nhất Phẩm Đường, tên gọi Hách Liên Thiết Thụ, được phong làm Chinh Đông Đại Tướng Quân. Năm trước y đã dẫn bọn võ sĩ Nhất Phẩm Đường vào Trung Nguyên, rồi bị Mộ Dung Phục cải trang Lý Diên Tông dùng Bi Tô Thanh Phong làm cả bọn phải hôn mê. Hách Liên Thiết Thụ bị quần cái Cái Bang bắt sống, may mà được Đoàn Diên Khánh cứu cho thoát hiểm, thua tả tơi chạy về nước. Lần đó y đã được thấy A Châu giả làm Kiều Phong và Đoàn Dự giả làm Mộ Dung Phục. Bây giờ trên điện có Tiêu Phong thật và Đoàn Dự giả, y vẫn không nhận ra. Bọn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần cũng là nhân vật của Nhất Phẩm Đường, nhưng họ có tính toán riêng, không để cho triều đình Tây Hạ sai sử, nên không có mặt tại đây.

Hách Liên Thiết Thụ lớn tiếng đáp: “Công chúa có chỉ dụ, mời quý khách sau khi yến ẩm xong thì vào thư phòng ở Thanh Phụng Các dùng trà.”

Mọi người nghe nói đều “ồ” lên một tiếng. Ai cũng đã biết Ngân Xuyên công chúa ở Thanh Phụng Các, dĩ nhiên nàng mời hết thảy mọi người đến đó dùng trà là để tự mình xem xét lựa chọn. Bọn thiếu niên thấy thế, ai cũng phấn khởi tinh thần, cùng nghĩ như nhau: “Giả tỉ mình không trúng tuyển thì cũng được thấy dung nhan công chúa. Người Tây Hạ đồn rằng công chúa của họ thiên kiều bá mị, thiên hạ vô song. Mình đến đây được thấy mặt nàng, thật không uổng một phen lặn lội.”

Vương tử nước Thổ Phồn là người nóng nảy nhất, lập tức đứng dậy nói: “Ngày nào mà chẳng ăn thịt, uống rượu. Bây giờ không cần ăn uống nữa, chúng ta hãy đi xem công chúa đã!” Tám tên võ sĩ tùy tùng lên tiếng dạ ran. Vương tử nước Thổ Phồn nhìn Hách Liên Thiết Thụ nói: “Phiền tướng quân dẫn đường!” Hách Liên Thiết Thụ đáp: “Vâng! Xin mời điện hạ!” Y quay lại chắp tay nói với Mộc Uyển Thanh: “Xin mời Đoàn điện hạ!” Mộc Uyển Thanh giả giọng ồm ồm đáp: “Xin mời tướng quân đi trước!”

Hách Liên Thiết Thụ dẫn cả đoàn người đi xuyên qua một hoa viên rộng lớn, rồi quanh co mấy dãy hành lang đến bên một tòa giả sơn. Mộc Uyển Thanh bỗng thấy có một người đi sát bên mình, nàng liếc mắt nhìn qua, bất giác khẽ la lên một tiếng kinh ngạc. Người này mình mặc cẩm bào, lưng đeo đai ngọc, chính là Đoàn Dự.

Đoàn Dự mỉm cười khẽ nói: “Đoàn điện hạ! Chắc điện hạ kinh hãi lắm thì phải?” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Huynh biết cả rồi ư?” Đoàn Dự cười đáp: “Ta có biết gì đâu, nhưng cứ trông thế này cũng đoán được một hai phần. Thật là phiền cho Đoàn điện hạ.”

Mộc Uyển Thanh đảo mắt nhìn hai bên xem có quan viên Tây Hạ nào đi gần không, nhưng chỉ thấy phía sau Đoàn Dự có hai thanh niên công tử. Một chàng chừng ba chục tuổi, cặp lông mày xếch lên, trông có vẻ cực kỳ cao ngạo. Còn một chàng nữa thì dung mạo tuyệt đẹp, Mộc Uyển Thanh chú ý nhìn kỹ thì ra là Vương Ngữ Yên cải trang. Mộc Uyển Thanh tức giận nói: “Đại ca tệ thật, bỏ đi với Vương cô nương mà không nói với ai một tiếng, bắt tiểu muội phải đóng vai này.” Đoàn Dự nói: “Muội khoan hãy nổi nóng. Chuyện này nói ra dài lắm, huynh bị người ta quăng xuống giếng khô, tưởng chừng phải chết đói ở đó.” Mộc Uyển Thanh nghe Đoàn Dự nói vừa gặp tai nạn thì hết giận ngay, vội hỏi: “Huynh có bị thương không? Muội thấy huynh tươi tỉnh lắm mà?”

***

Lúc Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí bóp cổ dưới đáy giếng, không sao thở được, chốc lát đã ngất di. Mộ Dung Phục bám vào thành giếng ở trên cao, chỉ mong Cưu Ma Trí bóp cổ Đoàn Dự chết cho xong. Vương Ngữ Yên liều chết đánh đấm Cưu Ma Trí mà chẳng được gì, hắn nhất định không chịu buông tay. Trong lúc nguy cấp, nàng bỗng há miệng cắn vào vai phải Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí chợt thấy huyệt Khúc Trì đau nhói, nội lực trong người hắn chạy tứ tung rồi tràn ra ngoài. Từ lúc hắn đưa tay ra bóp cổ Đoàn Dự, nội tức lại càng bành trướng, toàn thân như muốn nổ tung. Lúc này nội lực có chỗ tiết ra ngoài, hắn cảm thấy trong mình khoan khoái, bàn tay đang siết chặt cổ họng Đoàn Dự cũng từ từ nới ra.

Cưu Ma Trí là một bậc kỳ tài ít thấy trong võ lâm, nội lực cực kỳ thâm hậu. Lúc hắn vận công, kình lực hoàn toàn ngưng tụ nên dù hắn đã đụng vào người Đoàn Dự mà Bắc Minh Thần Công không hút được nội công của hắn. Đến lúc Vương Ngữ Yên cắn vào huyệt Khúc Trì, hắn giật mình kinh hãi, nội tức không giữ được nữa, cuồn cuộn tiết ra ngoài. Đã có đường thông ra, chân khí không còn bị bế tắc, cứ tuôn ào ào vào người Đoàn Dự không ngớt.

Cưu Ma Trí đang lúc thần trí mê man, nội lực thoát ra ngoài đến một nửa, thần trí mới tỉnh táo lại. Lập tức hắn giật mình kinh hãi, la thầm: “Trời ơi! Nội lực mình cứ bị hút đi cuồn cuộn thế này, thì chỉ trong vòng một gìờ là mình biến thành phế nhân. Bây giờ biết làm thế nào?” Hắn liền hết sức chống cự, nhưng đã muộn mất rồi. Một nửa nội lực Cưu Ma Trí đã trút vào người Đoàn Dự, hai bên mạnh yếu chênh lệch rất nhiều. Hắn không còn cách nào chống đối được, dù cố sức ngưng tụ nhưng cũng không tài nào ngăn trở nội lực thoát đi.

Trong giếng tối om, Vương Ngữ Yên không nhìn thấy tình hình ra sao. Nàng thấy mình chỉ cắn Cưu Ma Trí một miếng mà hắn phải nới tay không bóp chặt cổ họng Đoàn Dự nữa thì cả mừng, nhưng thấy một bàn tay Cưu Ma Trí vẫn áp vào cổ Đoàn Dự chứ không buông hẳn, liền đưa tay nắm lấy, toan kéo rời ra. Ngờ đâu bàn tay Cưu Ma Trí tựa như bị dính chặt vào cổ chàng, nàng kéo thế nào cũng không rút ra được. Vương Ngữ Yên vốn hiểu hết tuyệt kỹ của các phái võ, mà cũng đoán mãi không ra đây là công phu gì của Cưu Ma Trí. Nhưng nàng cho rằng đây không phải là chuyện tốt, mà chỉ là yêu thuật tà pháp, nhất định có hại cho Đoàn Dự, bèn vận hết sức để kéo. Cưu Ma Trí cũng nóng ruột, chỉ mong Vương Ngữ Yên mau mau kéo được bàn tay hắn ra khỏi cổ Đoàn Dự. Ngờ đâu, người Vương Ngữ Yên giật lên một cái, rồi nội lực trong người nàng không ngớt thoát ra ngoài, không có cách nào ngăn chặn được. Thì ra Đoàn Dự đang hôn mê, mà Bắc Minh Thần Công không phân biệt được bạn thù, nó hút hết nội lực Cưu Ma Trí rồi hút luôn cả nội lực của Vương Ngữ Yên nữa. Một lát sau, cả Vương Ngữ Yên lẫn Cưu Ma Trí đều ngất đi.

Mộ Dung Phục chú ý một lúc lâu mà không thấy ba người dưới đáy giếng có động tĩnh gì. Y gọi luôn mấy tiếng cũng chẳng thấy ai đáp, bèn tự hỏi: “Phải chăng cả ba đều chết hết rồi?” Y mừng thầm trong bụng, nhưng lúc nhớ tới mối chân tình của Vương Ngữ Yên giành cho mình thì không khỏi đau lòng một chút. Rồi y chợt nhớ ra một chuyện, bất giác la thầm: “Trời ơi! Miệng giếng đã bị đá tảng bịt kín mất rồi! Ba người kia mà sống, thì cả bốn hợp lực lại may ra còn có cơ thoát nạn. Hiện giờ chỉ còn lại một mình ta thì khó lòng thoát ra được. Chao ôi! Các ngươi muốn chết, sao không chờ thoát khỏi giếng này rồi hãy quyết sống mái?” Y vận sức thử đẩy lên, nhưng trên miệng giếng có tới mười mấy tảng đá, cộng lại có đến vạn cân, thì làm sao mà lay chuyển nổi?

Lúc này, bên ngoài bỗng có tiếng người huyên náo, nghe thanh âm thì dường như là bọn nông dân Tây Hạ. Thì ra bốn người lọt xuống giếng từ lúc nửa đêm, đến bây giờ trời đã sáng tỏ. Nông dân trong làng gánh rau vào thành Linh Châu để bán, đi ngang qua cái giếng này.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Nếu mình la hoảng cầu cứu, bọn nông dân này dù đông cũng chưa chắc lay chuyển được khối đá nặng tới mấy nghìn cân. Họ lay không chuyển, chắc lại bỏ đi liền.” Y bèn hô lớn: “Những kim ngân châu báu trong này đều là của ta, các ngươi không thể đỏ mắt lên mà giành giật được. Cùng lắm là chỉ có thể chia cho các ngươi ba ngàn lạng bạc thôi.” Rồi y lại đổi giọng khác nói: “Trong này có rất nhiều vàng bạc châu báu, dĩ nhiên ai có mặt cũng được một phần, ai nhìn thấy cũng được một phần, mỗi người phải được một phần bằng nhau.” Y lại giả vờ than thở: “Đừng để người khác nghe thấy nữa. Giả tỉ ai nghe thấy cũng có phần, thì vàng bạc châu báu tuy nhiều, nhưng chia làm nhiều phần, mỗi người sẽ được ít đi.” Y tự nói tự đáp, dùng nội lực truyền thanh âm ra thật xa.

Bọn nông dân nghe rất rõ ràng, ai nấy vừa kinh ngạc vừa vui mừng, xúm nhau vào ra sức vần khối đá đi. Khối đá tuy nặng, nhưng đông người hợp lực cũng di chuyển được. Mộ Dung Phục không đợi khối đá rời khỏi miệng giếng, vừa thấy một kẽ hở đủ lọt người, đã lập tức lách mình qua, bay ra khỏi giếng nghe vèo một tiếng.

Bọn nông dân đều giật mình kinh hãi, trố mắt mà nhìn hắn lách ra rồi chạy biến, nhoáng một cái đã mất hút. Đám dân quê này cứ ngỡ là quỷ thần gì đó, tuy trong lòng sợ hãi nhưng nghĩ đến tiền tài lại nổi lòng tham. Họ tiếp tục vần hết mười mấy khối đá lớn sang một bên, rồi dùng dây thừng thả một hán tử gan dạ nhất xuống đáy giếng.

Gã này vừa xuống tới nơi, thò tay ra mò thì lập tức đụng phải Cưu Ma Trí. Trong lòng gã vốn đã hồi hộp sẵn, vừa sờ thấy người đã tưởng ngay là thây ma. Gã sợ hết hồn, vội giật dây cho người trên miệng giếng kéo lên. Mọi người bàn tính một lúc, rồi đốt một cành thông, lại xuống soi thử. Xuống tới nơi thì thấy ba người nằm trong bùn lầy không nhúc nhích, gã lại tưởng là mấy thây ma chết đã lâu, mà chẳng thấy vàng bạc châu báu chi hết. Bọn dân quê thấy mạng người là chuyện lớn, nếu để động tới tai quan phủ thì không chừng lại bị khép vào tội cướp của giết người, ai nấy đều sợ vỡ mật bỏ chạy. Chẳng bao lâu, bọn dân quê ngu dốt này đã đồn đại thành tin tức hấp dẫn, cứ đêm trăng sáng là bên giếng lại có bốn con quỉ bùn lầy lem luốc hiện lên, ai nhìn thấy là phải lâm trọng bệnh, nhức đầu sốt rét. Từ đó về sau, cái giếng này biến thành nơi linh thiêng, lập miếu hương khói hàng năm không dứt.

Đến khoảng giờ Ngọ thì ba người mới dần dân tỉnh lại. Người tỉnh đầu tiên là Vương Ngữ Yên, vì công lực nàng kém cỏi nên bị mất chẳng bao nhiêu, chẳng bị tổn thương gì mấy. Nàng vừa tỉnh đã nhớ tới ngay Đoàn Dự. Lúc đó đã là ban ngày, nhưng đáy giếng tối mò không nhìn rõ gì hết, nàng đưa tay ra sờ, đụng phải Đoàn Dự liền cất tiếng gọi: “Đoàn lang! Đoàn lang! Huynh làm sao rồi?” Nàng không thấy Đoàn Dự trả lời, nghĩ là chàng bị Cưu Ma Trí bóp chết rồi, liền gục xuống, ôm lấy thi thể mà vừa khóc vừa kêu: “Đoàn lang! Đoàn lang!… Huynh đối với muội tình thâm nghĩa trọng, mà muội chưa có một câu nào tử tế, một lúc nào niềm nở với huynh. Muội những mong sau này thân cát đằng được nương nhờ tùng bách, đồng thời báo đáp ân tình Đoàn lang trong muôn một. Ngờ đâu… huynh lại chết dưới tay ác tăng rồi.”

Bỗng nhiên Cưu Ma Trí lên tiếng: “Cô nương chỉ nói đúng có một nửa. Ta đúng là ác tăng, nhưng Đoàn công tử không chết vì tay ta.”

Vương Ngữ Yên cả kinh hỏi lại: “Chẳng lẽ… biểu huynh đã hạ độc thủ ư? Sao y lại ác độc đến thế?” Lúc ấy Đoàn Dự cũng đã tỉnh lại, nghe Vương Ngữ Yên thổ lộ tâm tình thì vui sướng đến phát điên. Chàng cảm thấy nàng đang ôm mình vào lòng, nên không dám nhúc nhích, sợ nàng phát giác rồi đẩy mình ra mất.

Bỗng Cưu Ma Trí lại nói tiếp: “Chẳng những Đoàn lang của cô nương không mất mạng về tay ác tăng, mà ác tăng lại suýt bị uổng mạng về tay Đoàn công tử.” Vương Ngữ Yên sa lệ nói: “Lúc này mà lão còn nói giỡn được ư? Lão không biết ta đau lòng đến thế nào ư? Sao lão không bóp cổ ta chết nốt đi, để ta được theo Đoàn lang xuống cửu tuyền.” Đoàn Dự nằm nghe nàng nói những câu thắm thiết, thì trong lòng sung sướng vô cùng.

Cưu Ma Trí tuy mất hết nội lực, nhưng tâm thần đã tỉnh táo, kiến thức vẫn siêu phàm như cũ. Hắn nghe rõ Đoàn Dự cố nín thở thì biết ngay dụng ý của chàng, liền thở dài nói: “Đoàn công tử! Ta tham lam học cả bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, suýt nguy hiểm đến tính mạng. Nếu không được công tử hút mất nội lực thì ta phải phát điên mà chết. Bây giờ tuy ta mất võ công, nhưng còn tính mạng, vậy ta phải tạ ơn công tử đã cứu sống cho.”

Đoàn Dự vốn là người khiêm nhường, nghe Cưu Ma Trí tạ ơn thì không nhịn được nữa, mở miệng nói: “Đại sư bất tất phải quá lời. Tại hạ có tài đức gì mà dám nhận là cứu được tính mạng đại sư?”

Vương Ngữ Yên nghe Đoàn Dự lên tiếng thì vui mừng khôn xiết, nhưng nàng hiểu ra là chàng cố ý không nhúc nhích để được mình ôm lấy, bất giác hổ thẹn vô cùng, thốt lên: “Cái anh này!”. Đoàn Dự cũng thẹn đỏ mặt lên, vội vàng xoay người nhích ra một bên, ngồi tựa vào thành giếng.

Cưu Ma Trí than rằng: “Lão nạp tuy ở Phật môn mà lòng hiếu thắng tranh đua còn hơn cả người thường. Cái quả ngày nay là do cái nhân ba mươi năm trước mà ra. Hỡi ôi! Tam độc Tham Sân Si lão nạp đều không tránh khỏi, tự coi mình là một vị cao tăng mà lại công cao ngã mạn, nghĩ lại xấu hổ vô cùng. Ôi thôi, sau khi chết đi thì thân này phải vào địa ngục vô gián, chắc chắn vạn kiếp không được siêu sinh.”

Đoàn Dự trong lòng hoang mang, không hiểu Vương Ngữ Yên có giận mình không. Chàng nghe Cưu Ma Trí nói mấy câu chán đời thì bỗng nổi lòng thông cảm, liền hỏi: “Sao đại sư lại thốt ra những lời chán nản như vậy? Lúc nãy trong người đại sư khó chịu lắm phải không? Hiện giờ đã đỡ chưa?”

Cưu Ma Trí yên lặng không đáp, ngấm ngầm vận khí thì quả nhiên công trình tu luyện mấy chục năm đã mất sạch trong một sớm một chiều. Lão vốn là người đại trí đại tuệ, hiểu biết rất uyên thâm về Phật học, chỉ vì tham luyện võ công mà lòng hiếu thắng trở nên cực thịnh, lòng hướng Phật sinh ra hờ hững. Lúc này ngồi trong đống bùn lầy, lão chợt tỉnh ngộ, nghĩ thầm: “Như Lai dạy dỗ Phật tử, muốn có hy vọng giải thoát thì đầu tiên phải trừ tham, trừ ái, trừ thủ, trừ triền. Thế mà mình chẳng trừ khử được gì, lại còn bị danh lợi buộc chặt vào thân. Hôm nay, võ công mình mất hết, biết đâu đó chẳng phải là Đức Thế Tôn chỉ điểm cho mình cải tà quy chính, để được giải thoát thanh tịnh?” Hắn tự nghĩ lại những hành động trong mấy chục năm nay, mồ hôi trán toát ra đầm đìa, vừa xấu hổ lại vừa đau lòng.

Đoàn Dự thấy Cưu Ma Trí không đáp, liền hỏi Vương Ngữ Yên: “Mộ Dung công tử đâu rồi?” Ngữ Yên “Ồ” lên một tiếng, rồi đáp: “Biểu huynh đâu rồi nhỉ? Trời ơi, muội quên mất!” Đoàn Dự nghe nàng nói câu: “muội quên mất” mà tưởng như đang nghe tiên nhạc, mừng rỡ vô cùng. Trước nay nàng vốn để hết tâm trí vào Mộ Dung công tử, mà hiện giờ nàng đã không nghĩ tới y hàng nửa ngày trời. Như vậy đủ chứng tỏ mình đã thật sự thay thế được con người Mộ Dung Phục ngày trước trong trái tim nàng.

Cưu Ma Trí lại lên tiếng: “Trước kia lão nạp gây tội rất nhiều, hôm nay xin tạ lỗi.” Nói xong lão chắp tay, nghiêng mình thi lễ. Đoàn Dự vội vàng trả lễ rồi nói: “Nếu vãn bối không được đại sư đưa đến Trung Nguyên, thì làm sao gặp được Vương cô nương? Vãn bối đối với đại sư thật cảm kích vô cùng.” Cưu Ma Trí đáp: “Đó là phúc báo của chính công tử, chuyện lỗi của lão nạp chỉ là trợ duyên mà thôi. Công tử là người nhân hậu, sau này tất được hưởng phúc trạch vô cùng. Bây giờ lão nạp xin cáo biệt, từ đây về sau nghìn trùng xa cách, e rằng khó có ngày tái hội. Quyển kinh này xin gửi lại, sau này có dịp thì nhờ công tử trao trả chùa Thiếu Lâm giúp lão nạp. Kính chúc hai vị nâng án ngang mày, trăm năm đầu bạc.” Cưu Ma Trí nói xong, đưa cuốn Dịch Cân Kinh cho Đoàn Dự.

Đoàn Dự hỏi: “Bây giờ đại sư có quay về Thổ Phồn không?” Cưu Ma Trí đáp: “Lão nạp muốn quay về nơi mà mình đã ra đi, không nhất thiết là Thổ Phồn.” Đoàn Dự hỏi: “Vương tử quý quốc đang đến Tây Hạ cầu thân với công chúa, đại sư không đợi kết quả việc này mà đã đi ư?”

Cưu Ma Trí mỉm cười nói: “Thế ngoại nhàn nhân, sao còn mang những chuyện tục lụy trong lòng? Từ nay lão nạp tấm thân vô định, tùy ngộ nhi an. Nơi mà tâm an lạc, cũng là nơi mà thân an lạc.” Lão nói xong, cầm đầu dây của bọn nông dân để lại, rút thử thì biết là đầu trên đã buộc vào một khối đá lớn. Lão liền từ từ bám vào dây trèo lên.

Phen này Cưu Ma Trí đại giác đại ngộ, về sau trở thành một bậc cao tăng nhất đời. Từ đó, lão đem kinh Phật ở Thiên Trúc dịch sang Tạng văn, hoằng dương Phật pháp, phổ độ vô số chúng sinh. Sau này Phật pháp Thiên Trúc suy tàn, tam tạng kinh lục luận mất mát hầu hết, nhưng ở Tây Tạng còn giữ lại rất nhiều, trong chuyện này thì Cưu Ma Trí thực sự có công.

Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên ngồi đối diện nhau không nói một lời, nghe rõ từng hơi thở, tuy thân ở chốn bùn lầy mà lòng cực kỳ hoan lạc, chẳng muốn ra khỏi cái giếng khô này nữa. Hai người từ từ đưa tay ra nắm lấy tay nhau, bốn bàn tay siết chặt, hai quả tim hòa nhịp.

Hồi lâu, Vương Ngữ Yên mới lên tiếng: “Đoàn lang! Chỉ sợ huynh bị thương ở cổ, chúng ta phải lên trên xem thử.” Đoàn Dự đáp: “Ta chẳng thấy đau đớn chút nào hết, cần gì phải lên vội?” Vương Ngữ Yên dịu dàng nói: “Huynh đã không muốn lên, thì muội cũng ở lại đây bầu bạn với huynh.” Thanh âm nàng cực kỳ nhu thuận, không phản đối chút nào.

Đoàn Dự lại chiều ý nàng, cười nói: “Nhưng để muội ngồi mãi trong bùn lầy thế này, há chẳng tội nghiệp ư?” Rồi tay trái chàng ôm lấy tấm lưng thon của Vương Ngữ Yên, tay phải nắm vào sợi dây. Khí lực chàng cương mãnh vô cùng, chỉ khẽ kéo một cái là người đã lên cao mấy thước. Đoàn Dự rất ngạc nhiên, không tự biết là mình đã hút toàn bộ công lực của Cưu Ma Trí, hơn nữa trong lòng khoan khoái, tinh thần phấn khởi thì khí lực lại càng gia tăng.

Hai người ra khỏi giếng, nhìn thấy ánh dương quang chiếu vào mặt đối phương trông rất lem luốc, tự hiểu là mặt mình cũng vậy thì không khỏi bật cười. Cả hai tìm đến một khe suối nhỏ, để cả quần áo lội xuống tắm rửa, đồng thời giũ bớt bùn sình. Vương Ngữ Yên đã mất nội lực, cũng may mà đang tiết Trung Thu, trời chưa lạnh lắm, nên nàng dầm mình xuống nước suối mà vẫn chịu đựng được. Hai người từ dưới suối bước lên ướt như chuột lột, lại nhớ đến đêm trước Đoàn Dự rớt xuồng hồ. Tình trạng thì tương tự, nhưng tâm tình lại khác hẳn, tưởng chừng như đã chuyển sang một kiếp khác.

Vương Ngữ Yên nói: “Chúng ta ướt sũng thế này mà để cho người ngoài trông thấy thì thẹn chết đi được.” Đoàn Dự nói: “Chi bằng ở đây phơi nắng cho khô, đến tối hãy về.” Vương Ngữ Yên gật đầu đồng ý, rồi ngồi lên một tảng đá.

Đoàn Dự ngắm nghía nàng, thấy người đẹp như ngọc, tóc xanh như mây, thì trong lòng vui sướng khôn tả. Vương Ngữ Yên thấy tình lang đứng nhìn qua nhìn lại thì mặt thẹn đỏ bừng. Hai người mải mê nói không hết chuyện, thời gian qua nhanh như chớp, chốc lát đã thấy mặt trời khuất sau núi. Y phục, giày vớ đều đã khô hẳn.

Đoàn Dự đang lúc vui sướng, lại chợt nhớ tới Mộ Dung Phục liền nói: “Yên muội! Hôm nay tâm nguyện ta thành tựu hoàn toàn, tưởng thần tiên cũng không bằng. Nhưng chẳng hiểu biểu huynh của muội đến cầu hôn công chúa Tây Hạ có thuận lợi hay không.”

Trước kia mỗi khi Vương Ngữ Yên nghĩ đến chuyện này lại thấy thương tâm. Bây giờ nàng đã biến đổi tâm tình, đối với Mộ Dung Phục không khỏi có đôi chút tự trách, nên rất mong cho y lấy được công chúa Tây Hạ. Nàng liền nói: “Phải đấy! Chúng mình qua đó để xem vụ này ra sao.”

Hai người vội vã đi về quán dịch, vừa tới cổng bỗng nghe trong bóng tối có tiếng người nói: “Các ngươi cũng đến đây ư?” Chính là thanh âm Mộ Dung Phục. Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên mừng rỡ đáp: “Đúng thế! Té ra huynh cũng đến đây!”

Mộ Dung Phục hắng giọng một tiếng, rồi nói: “Ta vừa phải đánh nhau với bọn võ sĩ Thổ Phồn, hạ sát hơn mười đứa, mất khá nhiều thời giờ. Họ Đoàn kia, sao ngươi không đến hoàng cung phó yến mà lại để cô nương kia giả làm ngươi đi thay? Ta ta không thể nào để cho ngươi giở trò trí trá, nhất định phải tới tố giác mới được.”

Y từ trong giếng chạy ra sau khi tắm rửa, giặt quần áo, nằm ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy gặp ngay bọn võ sĩ Thổ Phồn, hai bên đánh nhau một trận, tuy đắc thắng nhưng cũng phí mất bao nhiêu hơi sức, chạy về tân quán thì đã thấy bọn Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch một đoàn đi ra. Y nép vào góc tường quan sát động tĩnh, đang định đi tìm bọn Đặng Bách Xuyên thương nghị kế sách đã thấy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người sóng đôi đi vào.

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại: “Sao lại có cô nương nào giả mạo làm tiểu đệ? Thật đệ không hề hay biết chuyện gì.” Vương Ngữ Yên cũng nói: “Biểu ca, bọn tiểu muội vừa mới chui trong giếng ra…”  Nàng chợt nghĩ ra những lời của mình không hoàn toàn đúng sự thật, mình và Đoàn Dự đã ngồi bên khe suối hủ hỉ với nhau cả nửa ngày, đâu có thể nói là vừa ở giếng chui ra, không khỏi sượng sùng.

Cũng may trời đang sâm sẩm tối nên Mộ Dung Phục không nhìn thấy vẻ mặt nàng bẽn lẽn, y chỉ mong mau tới hoàng cung chứ chẳng để ý rằng quần áo hai người không còn chút bùn đất nào nữa, không thể nào vừa mới trong giếng chui ra. Lại nghe Vương Ngữ Yên nói tiếp: “Biểu ca, y… y… Đoàn công tử cùng muội, quả đối với huynh không phải chút nào, chỉ mong biểu ca lấy được công chúa Tây Hạ làm vợ.”

Mộ Dung Phục tinh thần phấn chấn, vui mừng hỏi lại: “Ngươi nói thật chứ? Đoàn huynh quả thực không tranh ngôi phò mã với ta nữa ư?” Trong lòng hắn nghĩ thầm: “Không chừng tên đồ gàn này vừa làm việc càn rỡ, không dám ngó tới công chúa Tây Hạ nữa, nhất tâm nhất ý cưới biểu muội của ta. Trên thế gian lại có những đứa hồ đồ như thế, thật đáng buồn cười. Y có Tiêu Phong, Hư Trúc tương trợ, nếu không tranh giành với ta, thì mình đỡ được một đối thủ lợi hại.”

Đoàn Dự nói: “Ta quyết không tranh giành công chúa Tây Hạ với huynh nữa, nhưng huynh cũng không thể giành Yên muội của ta. Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, quyết không nuốt lời.” Chàng vừa gặp Mộ Dung Phục, bỗng dưng lại phát sinh cảm giác lo lắng.

Mộ Dung Phục cả mừng nói: “Chúng ta phải tới hoàng cung ngay mới được. Huynh phải kêu vị cô nương đó đừng mạo xưng huynh giành ngôi phò mã nữa.” Rồi y lại kể chuyện Mộc Uyển Thanh cải dạng nam trang. Lúc này Đoàn Dự mới đoán ra vì mình mất tích, bọn Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần lại đã nhận lệnh của Trấn Nam Vương, đành phải nhờ Mộc Uyển Thanh cải trang để thay huynh trưởng đi cầu thân. Sau đó ba người về đến chỗ ở của Mộ Dung Phục.

Bọn Đặng Bách Xuyên đang hoang mang lo lắng, thấy công tử trở về thì mừng rỡ không nói hết, ai nấy đều hấp tấp thay đổi y phục. Đoàn Dự không muốn xa rời Vương Ngữ Yên, nên không muốn vào hoàng cung nữa. Mộ Dung Phục đành bảo Vương Ngữ Yên mặc giả nam trang, cùng đi vào cung.

Lúc ba người cùng bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đến hoàng cung thì cửa cung đã đóng rồi. Mộ Dung Phục nhất định không bỏ cuộc, liền đi vòng phía ngoài tường, tìm chỗ vắng vẻ nhảy vào. Phong Ba Ác nhảy lên đầu tường, đưa tay ra định đón lấy Đoàn Dự. Đoàn Dự tay trái ôm lấy Vương Ngữ Yên, nhảy vọt lên, đưa tay phải ra định nắm lấy tay Phong Ba Ác. Không ngờ hai người bay cao hơn đầu gã đến ba bốn thước, rồi hạ xuống nhẹ nhàng như một chiếc lá rơi, không một tiếng động. Mộ Dung Phục đã nhảy vào trong tường, trên mặt tường là Phong Ba Ác, ngoài tường còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn, cả bọn nhìn thân pháp của Đoàn Dự đều khẽ la lên: “Khinh công tuyệt diệu!” Chỉ có Bao Bất Đồng nói: “Ta thấy cũng bình thường thôi!”

Bảy người lẻn vào Ngự hoa viên, cố tìm nơi thiết yến để kiếm cách trà trộn vào. Ngờ đâu, ngự yến chỉ trong khoảnh khắc đã kết thúc, những thiếu niên đến cầu hôn đều đã được Ngân Xuyên công chúa mời vào Thanh Phụng Các uống trà. Ba người Đoàn Dự, Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên đang ở trong vườn hoa thì gặp Mộc Uyển Thanh.

Bọn Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch thấy Đoàn Dự đột ngột xuất hiện thì vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ. Mọi người thương nghị, cho rằng hôm nay rất đông người, vị tất nước Tây Hạ đã nhìn rõ chân tướng, cứ trà trộn vào Thanh Phụng Các rồi sẽ liệu. Bây giờ chính Đoàn Dự đã đến đây, lại càng không sợ tiết lộ cơ mưu.

***

Đoàn người tiến vào ngự hoa viên, nhìn thấy ở xa xa có một tòa lầu giữa đám cỏ hoa rậm rạp, bên lầu có treo hai ngọn đèn lồng rất trang nhã. Hách Liên Thiết Thụ dẫn mọi người đến cửa lầu, dõng dạc lên tiếng: “Quí khách bốn phương đến yết kiến công chúa.”

Cửa lầu hé mở, bốn cung nữ đi ra, mỗi cô xách một chiếc đèn lồng. Sau cùng là một vị nữ quan mặc áo tím, lên tiếng: “Các vị từ xa đến đây thật là muôn vàn gian khó. Công chúa mời các vị vào Thanh Phụng Các dùng trà.”

Tôn Tán Vương tử đáp: “Hay lắm! Hay lắm! Ta đang khát đến khô cổ đây. Để được yết kiến công chúa, thì dù có đi xa đến đâu cùng chẳng đáng quan tâm, có gì là gian khó? Ha ha!…” Hắn vừa cười lớn vừa ngang nhiên lấn qua mặt mấy cung nữ mà đi vào. Mọi người cũng tranh nhau kéo ùa vào để giành chỗ tốt, càng gần công chúa càng hay.

Bên trong là một đại sảnh rất lớn, dưới thềm trải thảm lông cừu rất dày, mặt thảm thêu hoa ngũ sắc trông rất rực rỡ. Những bàn trà được bày thành hàng tề chỉnh, trên bàn có những hộp đậy nắp, bên cạnh hộp đều đặt đĩa hoa xanh đựng kẹo mứt cùng các thứ điểm tâm. Ngoài ra có một chiếc bàn tròn phủ khăn gấm. Mọi người đều nghĩ rằng đó là chỗ ngồi của công chúa, liền tranh nhau đến ngồi gần đó. Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên dắt tay nhau ngồi vào một chiếc bàn nhỏ ở góc sảnh đường, thì thầm với nhau, ánh mắt cả hai rạng rỡ tươi cười, chẳng hiểu đang nói những gì.

Mọi người an tọa xong, vị nữ quan cầm chiếc dùi đồng nhỏ xíu, gõ vào một tấm bạch ngọc “keng keng” ba tiếng. Trong sảnh đường yên lặng hẳn lại, cả Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên cũng không nói nữa, lặng lẽ chờ công chúa đi ra.

Lát sau nghe tiếng ngọc bội khua nhẹ, tám cung nữ mặc áo lục từ nội đường đi ra, đứng thành hai dãy. Rồi một thiếu nữ mặc áo xanh nhạt thoăn thoắt bước ra. Mọi người mắt sáng rực lên chăm chú nhìn thiếu nữ, thấy nàng thân hình mảnh dẻ, cử chỉ nhàn nhã, dung nhan cực kỳ xinh đẹp. Ai cũng khen thầm: “Người ta đồn Ngân Xuyên công chúa nhan sắc vô song, quả nhiên danh bất hư truyền.”

Mộ Dung Phục tự an ủi: “Ban đầu mình tưởng Ngân Xuyên công chúa dung mạo tầm thường. Nhưng bây giờ mới thấy, tuy nàng còn kém biểu muội một chút, nhưng cũng vào hạng mỹ nhân chọn trong muôn người chưa được một. Thì ra mối lo của mình đã quá thừa. Dung mạo nàng thật là đoan chính, về sau có thể trở thành một bậc mẫu nghi thiên hạ, cùng ta sinh ra con cháu, đời đời nối nhau làm chúa tể Đại Yên.”

Thiếu nữ từ từ bước tới trước cẩm đôn, khẽ khom lưng thi lễ, thái độ nghiêm trang, thủy chung vẫn không chăm chú nhìn ai, rõ ràng là một vị khuê nữ cao sang lễ nghĩa. Mọi người dù thô lỗ đến đâu cũng không dám lên tiếng, chỉ sợ làm kinh động công chúa.

Hồi lâu thiếu nữ mặt đỏ lên, cất tiếng nhỏ nhẹ nói rằng: “Công chúa có huấn dụ: Thanh Phụng Các lấy làm xấu hổ vì không có danh trà để đãi quí khách phương xa. Xin mời chư vị tùy tiện dùng trà!” Mọi người nghe nàng nói đều ngơ ngác nhìn nhau, không nhịn được phải la thầm: “Trời ơi! Té ra đây không phải là công chúa mà chỉ là một cung nữ hầu cận.” Nhưng rồi họ lại nghĩ: “Cung nữ đã như thế này thì không hiểu công chúa còn mỹ lệ đến đâu.”

Tôn Tán Vương tử lên tiếng: “Thì ra cô không phải là công chúa, vậy mau mau mời công chúa ra đây! Đến thịt béo rượu ngon ta còn chẳng thiết, chứ đừng nói là nước trà.” Cung nữ đáp: “Chờ các vị dùng trà xong, công chúa sẽ có chỉ thị.” Tôn Tán cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Công chúa đã có lệnh, ta phải kính cẩn tuân theo.” Gã nói xong bèn mở nắp bình trà ra, dốc cả nước trà cùng bã trà vào miệng, rồi vừa nuốt nước ừng ực, vừa nhai bã trà nghe tóp tép. Đây là phong tục ngày xưa, người Thổ Phồn uống trà rồi nhai nuốt cả lá trà, chứ không phải Tôn Tán Vương tử vô lễ hay thô tục. Tôn Tán chưa nuốt hết lá trà, đã cầm đĩa bánh điểm tâm trút cả vào miệng nhai nhồm nhoàm, rồi nói: “Ta đã tuân lệnh mà ăn uống xong rồi. Cô vào mời công chúa ra.”

Ả cung nữ “Vâng” một tiếng, nhưng vẫn không vào, chờ cho mọi người ăn uống xong xuôi rồi mới đi thông báo. Tôn Tán nóng nảy không nhẫn nại được, giục luôn miệng: “Ăn uống lẹ lên! Làm gì mà lâu thế?” Lát sau, số đông đã uống trà và ăn điểm tâm xong. Tôn Tán Vương tử lại giục: “Bây giờ cô vào mời được rồi đó.”

Ả cung nữ nét mặt ửng hồng, dường như cực kỳ bẽn lẽn, rồi nói: “Công chúa mời các vị quí khách vào thư phòng để thưởng ngoạn tranh vẽ cùng bút thiếp.”  Tôn Tán cười ha hả nói: “Tranh vẽ với bút thiếp thì có gì hay ho mà xem?” Gã nói thì nói vậy, nhưng cũng đứng lên.

Mộ Dung Phục mừng thầm tự nhủ: “Thế thì càng hay! Công chúa mời khách vào thư phòng, tuy nói là để thưởng ngoạn họa đồ cùng bút thiếp, mà thực ra chắc là để thử văn tài. Gã Vương tử Tôn Tán này vừa vũ phu vừa quê mùa, làm sao hiểu được thì ca từ phú cùng tranh vẽ bút thiếp. Không chừng gã chỉ nói ba câu là đã bị công chúa tống cổ ra khỏi thư phòng. Y lại nghĩ thầm: “Giả tỉ công chúa chỉ bắt tỉ thí võ công thì ta đây cũng có thể áp đảo quần hùng rồi. Nàng lại muốn thử văn tài thì nhất định mình chiếm thượng phong, không trật vào đâu được nữa.” Y bèn phấn khởi đứng lên.

Ả cung nữ lại nói: “Công chúa có chỉ dụ: Các vị nữ nhân vận nam trang cùng các vị tiên sinh đã ngoại tứ tuần, xin ở lại đây nghỉ ngơi xơi nước. Còn các vị quí khách khác thì mời vào thư phòng.” Mộc Uyển Thanh cùng Vương Ngữ Yên đều ầm thầm kinh hãi: “Té ra họ đã sớm biết mình là nữ nhân vận nam trang rồi.”

Bỗng có người lớn tiếng nói: “Sai bét, sai bét!” Ả cung nữ lại đỏ mặt lên. Ả từ nhỏ đã vào cung, chỉ nhìn thấy bọn thái giám bán nam bán nữ, chưa gặp nam nhân thật sự nào, ngay cả hoàng đế cùng Thái tử ả cũng chưa nhìn thấy bao giờ. Hôm nay đột nhiên thấy rất nhiều nam nhân, ả không khỏi hoang mang, bẽn lẽn vô cùng, hồi lâu mới lên tiếng hỏi: “Không hiểu vị tiên sinh này có cao kiến gì?”

Bao Bất Đồng đáp: “Cao kiến thì không đâu, chỉ có đê kiến thôi.” Cái kiểu ăn nói ba trợn như Bao Bất Đồng, ả cung nữ chưa từng nghe qua, nên không biết đối đáp thế nào cho phải. Bao Bất Đồng lại nói: “Chắc cô định hỏi ta: “Không hiểu vị tiên sinh này có điều chi đê kiến?” Nhưng ta thấy cô e lệ, nên nói trước để miễn cho cô khỏi phải hỏi.” Ả cung nữ mỉm cười đáp: “Đa tạ tiên sinh!”

Bao Bất Đồng nói: “Bọn ta đường sá xa xôi vạn dặm đến đây để gặp công chúa, dọc đường đã bị trăm cay nghìn đắng. Có người phơi thây ngoài sa mạc vì không chịu nổi phong sương, có kẻ mất mạng trong vuốt beo miệng cọp, mười phần đi thì đến Linh Châu chỉ còn được một hai phần. Ai nấy cũng chỉ có mục đích duy nhất là được chiêm ngưỡng dung nhan công chúa. Tiếc rằng gia nương sinh tại hạ ra sớm mất mấy năm nên tuổi đã ngoại tứ tuần, nếu không đạt được mục đích thì thật uổng công một phen lặn lội gian nan. Giả tỉ tại hạ biết công chúa có chỉ dụ này, thì nhất quyết ra đời muộn mấy năm.”

Ả cung nữ không nhịn được, phải nhoẻn miệng cười rồi nói: “Tiên sinh nói giỡn rồi! Con người ta sinh ra sớm hay muộn, đâu có phải tự ý mình mà được.”

Tôn Tán thấy Bao Bất Đồng ăn nói lăng nhăng, thì quắc mắt lên nhìn gã, quát hỏi: “Công chúa đã có huấn dụ, ai nấy đều phải tuân theo. Sao ngươi còn sủa mãi?” Bao Bất Đồng cả giận đã muốn nổi đóa. Nhưng đột nhiên gã nghĩ ra một kế, thản nhiên nói: “Vương tử! Tại hạ nói vậy cũng có lợi cho Vương tử. Năm nay Vương tử đã bốn mươi mốt tuổi, tuy chưa phải là già lão gì, nhưng cũng đã ngoại tứ tuần rồi. Theo chỉ dụ của công chúa thì Vương tử cũng không được vào. Hôm trước tại hạ đã đoán số cho Vương tử, còn nhớ rõ ràng Vương tử sinh năm Bính Dần, tháng Canh Tý, ngày Ất Sửu, giờ Đinh Mão! Như vậy tính ra vừa đủ bốn mươi mốt tuổi.”

Thực ra Tôn Tán Vương tử mới hai mươi tám tuổi, nhưng gã râu ria đầy mặt, nhìn khó mà đoán được. Huống chi ả cung nữ bữa nay mới thấy mặt nam nhân lần đầu, thì đoán tuổi thế nào được? Ả không biết Bao Bất Đồng nói thật hay nói dối, lại thấy Tôn Tán Vương tử mặt giận hầm hầm toan sấn lại đánh Bao Bất Đồng, thì trong lòng khiếp sợ, vội nói: “Tiểu nữ nghĩ… nghĩ chắc là các vị phải tự nhớ rõ ngày sinh của mình hơn, vậy vị nào ngoài bốn chục tuổi xin ở lại đây, vị nào chưa đầy bốn chục tuổi xin mời vào thư phòng.”

Tôn Tán nói: “Hay lắm! Tại hạ còn chưa đến ba chục tuổi, dĩ nhiên là vào thư phòng được.” Gã dứt lời liền lạng người tiến vào. Bao Bất Đồng cũng bắt chước giọng hắn nói theo: “Hay lắm! Tại hạ còn chưa đến tám chục tuổi, dĩ nhiên là vào thư phòng được. Tuổi của ta tuy đã quá tuổi bất hoặc, nhưng tính tình chưa bất hoặc, thậm chí có thể gọi là đại hoặc, đặc biệt hoặc.” Gã nói xong, cũng lạng người tiến vào thư phòng. Ả cung nữ muốn ngăn lại nhưng vừa kinh sợ vừa xấu hổ, không dám nói gì.

Mọi người chen lấn nhau kéo ùa vào trong. Cả đến hạng năm sáu mươi tuổi cũng vô số người tiến vào. Chỉ có mười mấy vị bản tính nghiêm trang, hành động mực thước mới ngồi lại ngoài sảnh đường. Mộc Uyển Thanh cùng Vương Ngữ Yên cũng ở lại. Đoàn Dự muốn ở lại bầu bạn với Ngữ Yên, nhưng bị nàng thúc giục phải theo vào để giúp đỡ Mộ Dung Phục. Đoàn Dự tiến vào mà lòng quyến luyến không nỡ rời, bước đi một bước lại quay đầu nhìn đến ba bốn lần, tưởng chừng như sắp đi xa muôn dặm ra hải ngoại, cách biệt năm ba năm sau mới có ngày tái ngộ.

***

Đoàn người đi qua một con đường khá dài, ai cũng nghĩ thầm: “Nhìn bề ngoài thì Thanh Phụng Các này chẳng rộng lớn gì cho lắm, ngờ đâu bên trong lại mênh mông bát ngát như trời đất thế này.” Đi hết con đường dài mấy chục trượng thì đến trước hai cánh cổng đá lớn.

Ả cung nữ lấy một cái dùi sắt nhỏ, gõ vào cánh cổng lạch cạch mấy tiếng. Cánh cổng kêu cót két một hồi rồi mở ra. Đám người này phần nhiều là kiến văn rộng rãi, thấy cánh cửa đá dày đến một thước, kiên cố dị thường, không khỏi nghĩ thầm: “Giả tỉ sau khi chúng ta vào hết, họ đóng cửa lại thì chẳng khác gì chui đầu vào rọ. Không chừng phen này nước Tây Hạ mượn tiếng kén phò mã để quét một mẻ anh hùng hảo hán khắp thiên hạ.” Tuy ai cũng nghĩ vậy, nhưng đã xem hội thì phải vào chùa, có lý đâu lại quay về để mang tiếng là kẻ khiếp nhược?

Mọi người bước qua cửa đá rồi, quả nhiên cánh cửa từ từ đóng lại. Bên trong cửa đó lại còn một lối đi rất dài, hai bên đèn thắp sáng trưng. Đi hết con đường đá lại đến một tầng cổng đá khác. Qua cổng đá thứ hai lại đi một lúc nữa, rồi qua một tầng cổng đá thứ ba. Lúc này dù là người gan dạ đến đâu cũng không khỏi cảm thấy trong lòng hồi hộp. Đoàn người đi qua vài khúc quanh nữa, bỗng nghe tiếng nước chảy róc rách, thì ra đã đến bên một khe suối.

Trong chốn cấm cung mà đột nhiên thấy lạch nước sâu này, ai cũng không khỏi nghi ngờ. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, có kẻ nóng tính đã toan hành động. Ả cung nữ nói: “Muốn vào thư phòng thì phải qua dòng suối U Lan này. Mời các vị qua suối.” Ả nói xong lội xuống trước. Hai bên suối có bốn bó đuốc ánh sáng lập lòe, đoàn người nhìn thấy ả cung nữ bước bừa xuống suối, bất giác đều la hoảng.

Ngờ đâu thân hình ả nhẹ nhàng lướt trên mặt nước như đi trên không. Ai nấy đều lấy làm kinh dị, đoán là dưới suối phải bắc cầu ngầm để đặt chân mà đi, chứ làm sao người lại đi trên mặt nước được? Mọi người chú ý nhìn, thì quả nhiên thấy một sợi dây sắt rất nhỏ, nối từ bờ bên này sang bờ bên kia. Sợi dây sắt này đã nhỏ xíu lại đen sì, trông lẫn với màu nước suối, dưới ánh đuốc chập chờn khi tỏ khi mờ không thể nhìn thấy rõ. Dòng suối này khá sâu, nếu trượt chân ngã xuống thì chẳng đến nỗi chết đuối, nhưng cũng ướt hết quần áo, lấm láp khó coi. Nhưng bọn người này ai không đến Tây Hạ cầu thân thì cũng là cao thủ đi theo hộ vệ chủ nhân, nên võ công đều rất cao thâm, thi triển khinh công đi trên dây sắt để sang bờ bên kia. Đoàn Dự tuy không hiểu võ công, nhưng phép Lăng Ba Vi Bộ chàng đã luyện rất thành thục. Ba Thiên Thạch dắt tay chàng, hai người nhẹ nhàng đi trên sợi dây bắc ngang suối.

Đoàn người đi qua suối rồi, không hiểu ả cung nữ đã bấm vào cơ quan nào mà nghe “véo” một tiếng, sợi dây sắt rút vào, ẩn trong đám cỏ rậm không thấy đâu nữa. Mọi người kinh hãi vô cùng, nghĩ thầm: “Dòng suối này vừa sâu vừa rộng, khó mà nhảy qua được. Hay là nước Tây Hạ quả có lòng mờ ám? Nếu không thế thì sao trong khuê phòng của công chúa lại có đặt cơ quan này?” Mọi người đều ngấm ngầm đề phòng, nhưng không ai lên tiếng mà chỉ âm thầm hối hận: “Sao mình lại ngu dại đến thế, lúc vào cung lại không đem binh khí tùy thân.”

Ả cung nữ lại nói: “Xin mời các vị vào trong này!” Đoàn người đi theo ả băng qua một khu rừng trúc lớn, đến trước một sơn động. Ả cung nữ gõ mấy tiếng, cánh cửa động mở ra, rồi ả giơ tay ra nói: “Mời các vị!” Ả tự mình đi vào trước.

Chu Đan Thần khẽ hỏi Ba Thiên Thạch: “Làm thế nào đây?” Trong lòng Ba Thiên Thạch cũng hoang mang bất định, cũng muốn bảo Đoàn Dự ở lại bên ngoài để khỏi nguy hiểm, nhưng lại nghĩ rằng nếu chàng không tiến vào sơn động thì dĩ nhiên không thể đạt mục tiêu được. Hai gã Ba, Chu còn đang ngần ngừ thì Đoàn Dự đã cùng Tiêu Phong sánh vai đi vào, đành nắm tay nhau đi theo sau.

Đoàn người vào cửa sơn động, đi qua một đoạn đường hầm rồi đột nhiên trước mắt sáng bừng, đã vào đến một tòa đại sảnh. Đại sảnh này còn rộng gấp ba lần chỗ uống trà vừa rồi, vốn là một sơn động thiên nhiên, đã được xây dựng tu sửa lại. Tường vách cực kỳ nhẵn nhụi, chỗ nào cũng có treo tranh vẽ hay câu đối. Thông thường thì các sơn động đều ẩm ướt, song nơi đây lại rất khô ráo sạch sẽ, những tự họa treo trên vách cũng không hề bị ẩm ướt. Một góc sảnh đường có kê một giá sách lớn, bốn cái ghế đá và một cái bàn đá có bày đủ văn phòng tứ bảo. Ả cung nữ lại lên tiếng: “Đây là thư phòng của công chúa. Xin mời liệt vị tự tiện vào thưởng ngoạn tự họa.”

Mọi người thấy cách bài trí gian phòng này rất đặc biệt, trống trải như một sảnh đường, thế mà nghe giới thiệu là thư phòng của công chúa, đều lấy làm kinh ngạc. Nhưng nơi đây đủ cả án sách cùng tranh vẽ, bút thiếp thì đúng là một thư phòng. Đoàn người này hết chín phần mười là hạng vũ phu chỉ biết võ vẽ mấy chữ, thì làm sao hiểu về bút thiếp cùng tranh vẽ? Họ thấy trên tường có treo thư họa, thì cũng chỉ biết đó là thư họa mà thôi.

Tiêu Phong và Hư Trúc tuy võ công cao cường, nhưng về văn học không am hiểu gì mấy. Hai người sóng vai ngồi xuống đất, để ý xem động tĩnh bọn người cùng đi với mình, về kiến thức cùng lịch duyệt thì Tiêu Phong cao gấp mười Hư Trúc, tuy chàng không quan tâm đến những đối liễn cùng tranh vẽ trên tường, bề ngoài không tỏ vẻ gì, mà thực ra từng phút từng giây đều để ý đến ả cung nữ. Chàng biết ả này có vai trò rất quan trọng, nếu người Tây Hạ đặt mai phục hay có độc kế gì, thì phải do cô bé xinh đẹp đó phát động. Lúc này Tiêu Phong đã biết trong bóng tối có người dòm ngó mà bề ngoài tuyệt nhiên không thấy động tĩnh gì, tinh thần chàng cực kỳ căng thẳng. Tiêu Phong định bụng nếu xảy ra biến cố gì, sẽ lập tức kiềm chế ả cung nữ rồi sẽ tính sau, nhất định không để ả kịp trốn tránh.

Đoàn Dự, Chu Đan Thần, Mộ Dung Phục, Công Dã Càn đều tiến lại gần vách để xem chữ viết và tranh vẽ. Đặng Bách Xuyên là con người tâm cơ tinh tế, quan sát kỹ từng bức họa để xem có lỗ nhỏ có thể phóng ra độc khí hay không, vì Bi Tô Thanh Phong thật là lợi hại, võ lâm Trung Nguyên không chỉ nghe danh mà cũng đã nếm mùi. Còn Ba Thiên Thạch cũng giả vờ xem danh họa, nhưng thực ra là để ý xem xét tường vách, xem có cơ quan bí ẩn gì không, có đường nào để chạy trốn không.

Chỉ có Bao Bất Đồng là bép xép, không ngớt chê bai những bức vẽ trên tường. Y không bảo tranh xấu mà chỉ chê nét bút, nét vẽ không có thần. Tây Hạ là một nước xa xôi hẻo lánh, lập quốc chưa được bao lâu, nên tranh vẽ cùng bút thiếp ở trong cung hãy còn kém Đại Tống và Đại Liêu xa lắm. Nhưng dù sao thì cung diện đế vương cũng khác với nhà thường dân nhiều, trong thư phòng của công chúa cũng có nhiều bút thiếp từ đời Tấn, đời Đường, cùng những tranh vẽ đời Nam Tống, Bắc Tống. Thế mà Bao Bất Đồng chê bai như là những thứ chẳng có giá trị chút nào. Lúc này, thư pháp của Tô, Hoàng nổi tiếng nhất thiên hạ, mà trong hoàng cung Tây Hạ cũng có khá nhiều bút tích của Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc. Cứ theo miệng Bao Bất Đồng thì không những tự tích của Tô, Hoàng chẳng có chi kỳ lạ, mà cả bút thiếp của Chung, Vương cũng không đáng để gã phải phí con mắt.

Ả cung nữ nghe gã nói thiên hô bách sát, phê bình loạn xạ chẳng kiêng nể gì ai thì kinh hãi vô cùng, tiến lại gần khẽ hỏi: “Bao tiên sinh! Những chữ này viết không đẹp thật ư? Công chúa lại cho là bút pháp đó cực kỳ tinh diệu!” Bao Bất Đồng đáp: “Công chúa ở nước Tây Hạ hẻo lánh, chưa được thấy bút pháp của những tay đại danh sĩ, đại tài tử đất Trung Nguyên. Công chúa cần phải vào Trung Nguyên mới biết rõ được. Cô nương cũng nên theo công chúa vào Trung Nguyên để mở rộng tầm mắt, chứ cứ ở đây mãi không được đi đâu, thì suốt đời quê mùa thiển cận.” Ả cung nữ gật đầu đồng ý, mỉm cười đáp: “Đúng là nên đi du ngoạn Trung Nguyên, nhưng việc đó cũng chẳng dễ dàng gì.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Công chúa mà kết hôn với một vị anh hùng ở đất Trung Nguyên, thì việc đi du ngoạn Trung Nguyên dĩ nhiên chẳng khó khăn gì.”

Đoàn Dự đi xem kỹ từng bức một. Đột nhiên chàng thấy một bức tranh vẽ một thiếu nữ ăn mặc cổ trang đang múa kiếm, bất giác giật mình kinh hãi “Ồ” lên một tiếng. Mỹ nữ trong đồ hình này giống Vương Ngữ Yên như đúc, chỉ có phục sức là khác, nhưng lại hoàn toàn giống Thần tiên tỉ tỉ trong thạch động ở Vô Lượng Sơn. Mỹ nữ trong tranh tay phải cầm kiếm, tay trái giữ kiếm quyết, đang múa kiếm trên núi cạnh hồ, thần thái phiêu diêu, nét mặt kiều diễm không sao tả xiết. Trong chốc lát hồn vía Đoàn Dự như bay mất hết, không nhẫn nại được nữa, bèn la lên: “Nhị ca! Lại đây mà coi!”

Hư Trúc tiến đến gần, vừa nhìn thấy cũng lấy làm kinh dị, tự hỏi: “Bức họa Vương cô nương sao lại xuất hiện ở nơi đây? Bức họa này lại giống hệt bức đồ hình mà sư phụ đã đưa cho mình, tướng mạo không sai một chút nào, chỉ hơi khác về niên kỷ.”

Đoàn Dự càng nghĩ càng lấy làm kỳ, không nhịn được bèn đưa tay ra sờ vào bức họa đồ. Ngón tay chàng vừa chạm vào tường vách, liền phát giác ra trên tường có rất nhiều nét vẽ. Chàng nhìn sát vào, té ra trên vách khắc rất nhiều hình người, có người đang ngồi, có người đang nhảy, nhiều kiểu rất kỳ lạ. Phần lớn những hình người này được bao trong một vòng tròn, chung quanh lại có những chữ về thiên can địa chi, cùng số thứ tự.

Hư Trúc vừa nhìn thấy đã nhận ra ngay những đồ hình này rất giống đồ hình khắc trên vách đá trong thạch thất cung Linh Thứu, chẳng khác gì mấy. Y chỉ nhìn mấy bức đã hiểu ra, Lý sư thúc là Hoàng thái phi của nước Tây Hạ, bà khắc những đồ hình này ở trong cung thì cũng chẳng có gì lạ, nhưng y nhìn đồ hình lại nghĩ đến sư thúc đã tạ thế, trong lòng không khỏi bâng khuâng. Y biết đây là những yếu quyết về võ công thượng thừa của phái Tiêu Dao, nếu ai nội lực không đủ thâm hậu mà xem vào ắt phải mê đi, nặng thì tẩu hỏa nhập ma, mà nhẹ cũng hôn mê bất tỉnh. Hôm trước bốn cô Mai, Lan, Cúc, Trúc đã vì coi những đồ hình trên vách đá mà bị hôn mê té nhào rồi trọng thương. Hư Trúc sợ Đoàn Dự cũng bị như thế, vội nói: “Tam đệ! Những đồ hình này tam đệ không xem được đâu.”  Đoàn Dự hỏi lại: “Tại sao vậy?” Hư Trúc khẽ đáp: “Đây là võ học rất cao thâm, nếu luyện tập không đúng phương pháp thì chỉ có hại chứ chẳng ích gì.”

Đoàn Dự vốn chẳng ưa gì võ công, nên dù tò mò đến mấy cũng không thích bằng hình ảnh Vương Ngữ Yên. Chàng liền quay mặt đi, lại nhìn bức họa mỹ nhân, múa kiếm. Mấy hôm nay chàng được cùng Vương Ngữ Yên gần gũi thân mật, nhớ rõ hết mọi chi tiết dù rất nhỏ trên nét mặt nàng. Chàng nhìn lại bức họa, liền phân biệt được ngay những chỗ khác nhau. Người trong tranh so với Vương Ngữ Yên thì đầy đặn hơn, thần sắc người trong tranh cũng linh hoạt sắc bén hơn, không ôn nhu thùy mị như Vương Ngữ Yên, mà tuổi tác cũng có vẻ lớn hơn Vương Ngữ Yên đến ba bốn năm. Nhưng người trong tranh so với Thần Tiên ti tỉ trong thạch động thì chẳng khác chút nào.

Bao Bất Đồng tuy miệng nói huyên thuyên, nhưng mọi cử động cùng lời nói của Đoàn Dự và Hư Trúc đều không qua khỏi tai mắt gã. Gã vừa nghe Hư Trúc nói những đồ hình trên vách đều là võ học cao thâm thì khịt mũi hỏi: “Cái gì mà võ học cao thâm? Tiểu hòa thượng lại gạt người ta rồi!” Đoạn gã mới để ý nhìn vào đồ hình trên vách.

Ả cung nữ nói: “Bao tiên sinh! Những bức đồ hình này không nên xem. Công chúa đã nói, ai luyện tập công phu chưa đến nơi mà xem đồ hình này thì chỉ có hại chứ chẳng ích gì.” Bao Bất Đồng nói: “Nếu người luyện tập công phu đã đến nơi mà xem đồ hình này thì chỉ có ích chứ chẳng hại gì. Có đúng thế chăng? Công phu ta đã luyện đến nơi, nhất định phải xem thử.” Gã thấy đồ hình thiên biến vạn hóa, không biết đâu mà mò, nhưng bất giác bỗng giơ tay giơ chân, bắt chước tư thế trong đồ hình.

Chỉ trong khoảnh khắc mọi người đều để ý đến tình trạng cổ quái của Bao Bất Đồng, rồi phát giác quái trạng này là do đồ hình trên vách gây ra. Bỗng một người đứng bên cạnh gã lên tiếng: “Ồ! Chỗ này có đồ hình!” Một người đứng ở vách bên kia lên tiếng: “Bên này cũng có đồ hình!” Rồi mọi người xô lại xem những bức họa trên vách, thấy đủ thứ hình người cùng thú vật. Sau khi xem một lúc, ai nấy đều hoa tay múa chân.

Hư Trúc trong lòng ngấm ngầm kinh hãi, vội chạy đến gọi Tiêu Phong: “Đại ca! Những đồ hình này không nên xem đâu. Những người này mà nhìn vào thì chắc sẽ bị trọng thương, không chừng điên cuồng mà náo loạn cả lên!”

Tiêu Phong lớn tiếng quát: “Các vị đừng nhìn vào đồ hình trên vách nữa! Chúng ta đã vào nơi hiểm địa, phải mau mau cùng nhau thương nghị!”

Nghe tiếng chàng quát, mấy người quay đầu lại nhìn, nhưng các đồ hình trên vách có một sức quyến rũ rất mãnh liệt. Ai nhìn vào đồ hình, cứ ngẫm nghĩ một chút là tưởng mình có thể giải đáp ngay được những chỗ khó khăn mà mình suy nghĩ đã bao lâu không ra. Thế rồi mọi người lại suy nghĩ mông lung, sau cùng đi đến chỗ để hết tâm trí vào việc nghiên cứu đồ hình. Tiêu Phong thấy số đông vẻ mặt thẫn thờ như ngây như dại, thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi.

Bỗng có tiếng người rú lên: “Úi chao!”, rồi quay mấy vòng, ngã lăn xuống đất. Có người chỉ gừ gừ rất khẽ trong cổ họng, rồi nhảy xổ vào vách đá mà cào cấu, tưởng chừng như muốn kéo những đồ hình trên vách xuống. Tiêu Phong biết rằng nếu không ngăn trở mọi người, để họ chăm chú nhìn vào đồ hình thì chẳng mấy chốc sẽ gây thành đại họa. Chàng liền nghĩ ra một kế, nắm lấy một cái ghế gỗ bẻ đánh “rắc” một tiếng, lưng tựa gãy ra, rồi bóp mạnh cho nát vụn. Tiêu Phong vung tay ném những mảnh gỗ vụn phát ra tiếng kêu veo véo không ngớt, những đèn đuốc đều tắt dần. Chàng liệng vài lần thì mấy chục ngọn đuốc đều tắt hết, trong động trở nên tối mù.

Trong bóng tối chỉ còn nghe tiếng người thở hồng hộc, cùng những tiếng la khẽ: “Nguy hiểm quá!”

Tiêu Phong dõng dạc nói: “Xin các vị chỗ nào ngồi nguyên chỗ ấy, đừng đi lại nhộn lên để khỏi giẫm vào các cơ quan trong nhà này. Những bức đồ hình trên vách có thể làm mê hoặc lòng người, các vị đừng sờ mó vào mà nguy hiểm.” Có người vẫn đang đưa tay ra sờ vào những bức đồ hình, nghe chàng nói liền miễn cưỡng rụt tay về.

Bỗng nghe tiếng Tiêu Phong khẽ nói: “Tại hạ đắc tội, cô nương miễn trách! Xin cô nương mở cánh cổng đá để thả mọi người ra.” Thì ra lúc Tiêu Phong bẻ gãy ghế, chàng đã cùng lúc nắm lấy tay phải ả cung nữ. Ả này võ công cũng không phải tầm thường, kinh hãi vung tay trái lên phóng chưởng. Tiêu Phong ném gỗ vụn cho tắt hết đèn đi, rồi tiện tay chụp nốt cổ tay trái ả. Ả cung nữ vừa kinh hãi vừa xấu hổ, không dám cử động, nghe Tiêu Phong nói vậy liền đáp: “Các hạ hãy buông tay ta ra đã…” Tiêu Phong bèn buông tay ả ra, tuy ở trong bóng tối, nhưng chàng tự tin vẫn có thể theo dõi ả được, quyết không sợ ả giở trò.

Ả cung nữ nói: “Tiểu nữ đã bảo Bao tiên sinh là không thể xem những đồ hình này được. Người nào công phu luyện chưa đến nơi mà xem vào thì chỉ có hại chứ không ích gì. Thế mà tiên sinh cứ nhất định muốn xem.”

Bao Bất Đồng đang ngồi phệt dưới đất, đầu nhức như búa bổ, tâm thần hoảng hốt rất khó chịu, bụng lại quặn lên buồn nôn. Thế mà y vẫn gắng gượng cãi lại: “Nếu ngươi bảo ta xem thì ta không xem đâu. Nhưng ngươi lại bảo ta đừng xem, thì ta phải xem cho bằng được.”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Quả nhiên ả cung nữ này đã khuyên can mọi người đừng coi đồ hình trên vách, dường như thật sự không có ý hại người. Nhưng công chúa Tây Hạ mời bọn ta đến chỗ này chẳng hiểu có dụng ý gì?…” Chàng còn đang ngẫm nghĩ, đột nhiên một mùi hương phảng phất đưa vào mũi. Mùi hương này rất nhẹ nhàng, lại chỉ thoảng qua mà thôi, nhưng Tiêu Phong vừa ngửi thấy đã giật mình kinh hãi, vội đưa tay lên bịt mũi, vì ông nhớ lại hồi còn làm Bang chủ Cái Bang, quần cái đã bị bọn Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ dùng Bi Tô Thanh Phong làm nhũn người ra rồi bắt hết. Tiêu Phong ngầm thử vận khí, nhưng thấy không có gì trở ngại.

Bỗng một thanh âm thiếu nữ thánh thót cất lên: “Công chúa giá lâm!” Mọi người nghe nói công chúa đến thì vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, chỉ tiếc là trong bóng tối nên không được nhìn rõ mặt nàng.

Thanh âm thiếu nữ lại uyển chuyển nói: “Công chúa có lời hiểu dụ: Vì không muốn để nhân sĩ phái khác nhòm ngó đồ hình võ học khắc trên vách đá trong thư phòng, nên đã dùng các tranh vẽ cùng đối liễn che khuất đi, thế mà không ngờ cũng có người phát hiện ra. Công chúa xin các vị đừng đốt lửa lên, e rằng sẽ gây ra những hiểm họa không nhỏ. Công chúa xin cáo lỗi với quý vị tân khách, vì để quý vị phải ngồi tối tăm như vậy thật là bất kính, xin được lượng thứ.”

Rồi lại nghe tiếng lách cách vang lên, cánh cổng đá đã mở ra. Thiếu nữ lại nói: “Nếu vị nào không muốn lưu lại nơi đây, thì có thể lui ra sảnh đường uống trà nghỉ ngơi. Dọc dường có người hướng dẫn, không sợ lạc lối.”

Nhưng công chúa đã đến thì còn ai muốn trở ra nữa? Hơn nữa, thanh âm ả cung nữ này rất ôn tồn, không có vẻ gì là ác ý hay gia hại. Mọi người thấy cổng đã mở rồi, đều bớt kinh hãi, không ai chịu lui ra. Một lát sau, thiếu nữ lại nói: “Các vị đã không muốn rời đi, công chúa rất cảm kích. Công chúa không có vật gì đáng giá để tặng khách phương xa, chỉ kính cẩn đem những bức danh họa cùng bút thiếp thưởng ngoạn hàng ngày để tặng mỗi vị một tấm. Đó đều là tác phẩm của danh gia, xin các vị thu nhận cho. Khi nào các vị ra về, cứ tùy tiện tháo, lấy đem đi.”

Các hào khách giang hồ nghe nói tặng vật của công chúa chỉ là chữ viết cùng tranh vẽ, phần lớn không được vui lòng. Còn một số người có kiến thức, biết rằng những thứ này đem về Trung Nguyên có giá rất cao, quý hơn cả vàng bạc châu báu thì lại mừng thầm. Đoàn Dự là người vui sướng nhất, quyết ý lấy bức tranh vẽ mỹ nhân múa kiếm bên hồ để cùng Vương Ngữ Yên sóng vai mà thưởng ngoạn.

Tôn Tán Vương tử nghe mãi cũng chỉ thấy ả cung nữ đại diện cho công chúa mà phát ngôn, trong lòng nóng nảy vô cùng. Gã lớn tiếng nói: “Công chúa! Chỗ này không tiện thắp đèn lửa, công chúa không nhìn thấy tại hạ mà tại hạ cũng không nhìn thấy công chúa. Vậy chúng ta đến nơi khác để diện kiến được chăng?”

Ả cung nữ lại lên tiếng: “Các vị muốn được thấy dung nhan công chúa thì cũng chẳng khó gì.” Trong bóng tối bỗng có hàng trăm tiếng la hét: “Chúng ta muốn thấy công chúa! Chúng ta muốn thấy công chúa!”  “Mau thắp đèn lên! Chúng ta nhất định không xem những đồ hình trên vách nữa!”  “Chỉ cần thắp mấy ngọn đèn quanh công chúa là đủ. Chúng ta chỉ muốn nhìn công chúa chứ không muốn xem đồ hình.”  “Đúng thế, đúng thế! Xin công chúa xuất hiện.” Mọi người huyên náo một lúc, rồi dần dần yên lặng trở lại.

Ả cung nữ lại từ từ lên tiếng: “Công chúa mời các vị đến Tây Hạ là để hội kiến cùng quí khách. Hiện nay công chúa có ba vấn đề muốn hỏi, vị nào trả lời đúng sẽ được công chúa mời vào tương kiến.”

Mọi người nghe nói thế, tinh thần lại phấn khởi. Có người nói: “Té ra đây là một cuộc thi vấn đáp.” Có người lại nói: “Tại hạ chỉ biết vung đao múa thương, thì làm sao mà trả lời được những đề mục về thi thư? Thế này thì hỏng bét! Sao lại không tỉ thí về chiêu số võ công?”

Ả cung nữ nói: “Công chúa đã cho tiểu nữ biết những vấn đề muốn hỏi. Xin hỏi vị nào muốn trả lời trước?”

Mọi người lại nhao nhao lên tiếng: “Ta trả lời trước! Ta trả lời trước!” Ả cung nữ cười khanh khách nói: “Các vị bất tất phải tranh nhau, người trả lời trước thường hay bị loại.” Mọi người nghĩ lại thấy ả nói có lý, càng trả lời sau thì càng được nghe ý kiến của nhiều người, có thể so sánh đối chiếu mà trả lời thì chắc đúng hơn. Thế là chẳng có ai lên tiếng nữa.

Bỗng có người nói: “Giả tỉ các vị lên trước, tại hạ sẽ theo sau. Còn các vị sợ đi trước dễ bị loại, thì để tại hạ xung phong lên đầu. Tại hạ là Bao Bất Đồng, đã có thê tử, chỉ muốn ngắm dung nhan công chúa một cái, không có ý gì khác cả.”

Ả cung nữ nói: “Bao tiên sinh thật là người mau lẹ. Công chúa có ba vấn đề muốn hỏi: Một là, trong đời Bao tiên sinh thấy nơi nào là khoái lạc nhất?”

Bao Bất Đồng ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Ta thích thú nhất là khi còn học nghề nắn đồ sứ, lão chủ tiệm cứ suốt ngày cáu kỉnh đánh mắng ta. Một hôm ta điên tiết lên, lôi hết bình tích ấm chén, lọ hoa tượng Phật, đập tan tành không sót một cái nào nguyên vẹn, rồi bỏ đi. Đó là một việc thích thú nhất trong đời tại hạ. Cung nữ cô nương! Ta trả lời như vậy có trúng tuyển chăng?”

Ả cung nữ đáp: “Trúng tuyển hay không thì tiểu nữ chẳng biết, chuyện đó hoàn toàn do công chúa quyết định. Bây giờ đến vấn đề thứ hai: Bình sinh Bao tiên sinh yêu ai nhất, người đó tên là gì?” Bao Bất Đồng không suy nghĩ gì, đáp ngay: “Ta yêu nhất là Bao Bất Tịnh.”

Cung nữ hỏi: “Điều thứ ba, tướng mạo người mà Bao tiên sinh yêu đó ra sao?” Bao Bất Đồng đáp: “Người này mới lên sáu tuổi, mắt to mắt nhỏ, mũi hếch lên trời, vành tai vểnh ra. Bao mỗ bảo gì y cũng nhất quyết phản đối, bảo y khóc thì y cười, bảo y cười thì y lại khóc. Mỗi lần y khóc thì đến hai giờ không nín. Y chính là con gái của Bao mỗ, tên gọi là Bao Bất Tịnh.”

Ả cung nữ cười khúc khích, bọn hào khách thì nổi lên cười ha hả. Ả cung nữ lại nói: “Mời Bao tiên sinh qua bên cạnh nghỉ ngơi, xin mời vị kế tiếp trả lời.” Đoàn Dự chỉ mong sớm được ra ngoài thủ thỉ với Vương. Ngữ Yên, còn chuyện thấy hay không thấy công chúa thì chàng chẳng quan tâm. Chàng liền tiến lên xá dài rồi nói: “Tại hạ là Đoàn Dự ở nước Đại Lý, kính cẩn vấn an công chúa. Tại hạ ở nơi hẻo lánh tận Nam cương, mấy hôm nay được thượng quốc tiếp đãi nồng hậu, rất cảm kích thịnh tình.”

Ả cung nữ nói: “Thì ra là Thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Vương tử bất tất phải quá khiêm nhường. Nơi đây hủ lậu, không đủ lễ cung nghênh quý khách, thật lấy làm áy náy.” Đoàn Dự nói: “Tỉ tỉ quá khách khí rồi! Hôm nay công chúa không được nhàn rỗi, xin để lúc khác lại tương kiến cũng không sao.”

Ả cung nữ nói ngay: “Vương tử đã chẳng quản đường xa tới đây, xin cứ trả lời ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất, Vương tử thấy nơi nào là khoái lạc nhất?” Đoàn Dự buột miệng đáp ngay: “Nơi khoái lạc nhất của tại hạ là trong cái giếng khô bùn lầy.” Mọi người không nhịn được cười ồ cả lên, mà Đoàn Dự cũng không giải thích. Ngoài Mộ Dung Phục ra, chẳng ai hiểu tại sao chàng lại thấy cái giếng khô là khoái lạc. Có người lên tiếng mỉa mai: “Không chừng gã này là con rùa, nên mới thích chui vào bùn lầy trong giếng khô.”

Ả cung nữ lại hỏi: “Bình sinh Vương tử yêu ai nhất, và người đó tên là gì?”

Đoàn Dự vừa toan mở miệng trả lời thì bên phải bỗng có người kéo tay, bên trái có người giật áo. Ba Thiên Thạch đứng một bên, khẽ rỉ tai: “Công tử nói là Trấn Nam Vương.” Chu Đan Thần ở bên kia, thầm nhắc: “Công tử nói là Trấn Nam Vương phi.” Thì ra hai gã này đứng bên Đoàn Dự, thấy chàng trả lời câu hỏi thứ nhất đã là thất lễ, đến câu hỏi thứ hai lại có thể khiến cho người ta chê cười. Chàng đến đây cầu hôn công chúa, mà lại tuyên bố mình yêu một vị cô nương khác, thì khi nào công chúa còn ưng thuận lấy chàng? Vì thế một gã bảo chàng trả lời yêu nhất là phụ thân, để tỏ lòng trung hiếu, đó là ý nghĩ của quan Tư không đại thần Ba Thiên Thạch. Còn một gã bảo chàng trả lời yêu nhất là mẫu thân, thì chính là ý kiến dịu dàng từ ái của kẻ sĩ văn nho Chu Đan Thần.

Quả là Đoàn Dự nghe hỏi mình yêu ai nhất đời, đã toan buột miệng nói đến Vương Ngữ Yên, nhưng thấy Chu, Đan hai người kéo tay giật áo, chàng nghĩ lại mình là Thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý, qua Tây Hạ thì lời nói cùng hành động có quan hệ đến quốc thể. Chàng cho là mình mất mặt thì chẳng sao, nhưng không thể hại đến quốc thể nước Đại Lý, liền đáp: “Người mà tại hạ yêu nhất dĩ nhiên là phụ thân cùng mẫu thân.” Lúc trả lời, chàng đem so sánh tình yêu song thân với tình yêu Vương Ngữ Yên thì thấy khác nhau xa, nhưng không thể phân biệt được bên nào nặng bên nào nhẹ, Tuy thế, chàng trả lời mình yêu nhất là song thân cũng không phải chuyện giả trá.

Ả cung nữ lại hỏi: “Tướng mạo lệnh tôn cùng lệnh đường thế nào? Có giống Vương tử không?” Đoàn Dự đáp: “Gia phụ mặt vuông, mày rậm mắt to, tướng mạo uy võ mà tính nết lại ôn hòa…” Chàng nói đến đây bỗng giật mình nghĩ thầm: “Thì ra tướng mạo mình chỉ giống mẫu thân chứ không giống phụ thân trước nay chưa bao giờ mình nghĩ tới chuyện này.” Ả cung nữ thấy Đoàn Dự chỉ trả lời nửa câu rồi không nói nữa, thì cho rằng mẫu thân chàng là bậc Vương phi cao quý, nên chàng không muốn tả rõ tướng mạo trước mặt mọi người. Ả liền nói: “Đa tạ Vương tử. Xin mời Vương tử qua bên cạnh nghỉ ngơi.”

Tôn Tán Vương tử nghe ả cung nữ đối với Đoàn Dự có vẻ vừa kính trọng vừa thân mật, trong lòng ngấm ngầm nổi ghen, lẩm bẩm: “Ngươi là Vương tử, ta đây cũng là Vương tử, phỏng có kém gì? Huống chi nước Thổ Phồn vừa lớn vừa mạnh hơn nước Đại Lý nhiều. Chẳng lẽ cái tên mặt trắng này lại lấn át được ta?” Gã nghĩ vậy, rồi không chờ được nữa, sấn sổ tiến lên nói: “Vương tử nước Thổ Phồn là Tôn Tán xin hội diện cùng công chúa.” Ả cung nữ nói: “Vương tử quang lâm, tệ quốc rất lấy làm vinh hạnh. Công chúa tệ quốc có ba vấn đề…”

Tôn Tán tính nóng nảy, không chờ cung nữ nói hết đã cười đáp: “Ba vấn đề của công chúa, ta đã nghe rõ rồi. Ngươi bất tất phải nhắc lại, mà ta cũng trả lời luôn một lúc; chẳng cần phải hỏi từng câu một. Nơi khoái lạc nhất trong đời ta là chốn động phòng, sau khi được làm phò mã, kết nghĩa phu thê với công chúa. Người ta yêu nhất đời là Ngân Xuyên công chúa, dĩ nhiên nàng họ Lý, còn khuê danh ta chưa được rõ, sau này nên đạo vợ chồng nhất định nàng sẽ cho ta biết. Còn tướng mạo công chúa thì mỹ lệ tựa thần tiên, trên trời đã hiếm, dưới đất không hai. Ha ha! Theo ngươi thì ta có trúng tuyển không?”

Trong đám đông, có đến quá nửa suy nghĩ giống Tôn Tán, đều định trả lời như vậy. Lúc này họ đều ngầm hối hận, tự nghĩ: “Biết thế, mình tiến lên trả lời trước đi có phải hay hơn không? Bây giờ mình cũng trả lời như vậy thì chẳng hóa ra học mót người ta ư?”

Tiêu Phong lại nghe ả cung nữ hỏi mấy người nữa. Người thì trả lời đầy vẻ lo âu, chẳng hiểu mình có trúng tuyển hay không. Nhiều người ra sức nịnh hót để lấy lòng công chúa, lại có người tự cao tự đại, ra vẻ ta đây chẳng ai bằng. Chàng nghe một lát thấy nhàm tai, không muốn ở lại xem kết quả nữa, đã toan bỏ đi ngay.

Lúc đó bỗng nghe Mộ Dung Phục lên tiếng: “Tại hạ là Cô Tô Mộ Dung Phục ở Yến Tử Ổ, hâm mộ phương danh công chúa đã lâu, hôm nay đến xin bái kiến!”

Ả cung nữ nói: “Té ra là Mộ Dung công tử ở Cô Tô, chuyên về tuyệt kỹ Gậy ông đập lưng ông. Tiểu nữ tuy ở chốn thâm cung, nhưng cũng từng được nghe đại danh của công tử.” Mộ Dung Phục cả mừng, thầm nghĩ: “Ả cung nữ đã biết tên tuổi ta, thì dĩ nhiên công chúa cũng phải biết. Không chừng họ đã bàn bạc với nhau, mơ mộng đến ta rồi.” Y lại nói: “Tại hạ không dám. Chỉ sợ tiện danh làm rát tai cô nương!” Ả cung nữ nói: “Người Tây Hạ tuy ở chốn biên cương hẻo lánh, nhưng cũng từng được nghe thanh danh Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Tiểu nữ nghe nói Bắc Kiều Phong đại hiệp đã đổi sang họ Tiêu, và hiện là một trọng thần ở Đại Liêu. Không hiểu chuyện đó có đúng không?” Mộ Dung Phục đáp: “Đúng thế!” Y đã nhìn thấy Tiêu Phong đi vào Thanh Phụng Các, nhưng không muốn nói ra.

Ả cung nữ lại hỏi: “Công tử cùng Tiêu đại hiệp nổi danh ngang nhau, chắc là bằng hữu chi giao. Chẳng hiểu nhân phẩm Tiêu đại hiệp thế nào, võ công hai vị thì ai cao ai thấp?” Mộ Dung Phục vừa nghe đã đỏ mặt tía tai. Quần hùng đều biết rõ y đã thảm bại dưới tay Tiêu Phong ở chùa Thiếu Lâm, nếu y phủ nhận, tất sẽ bị anh hùng thiên hạ chê cười. Nhưng y cũng không muốn nói thẳng là mình thua Tiêu Phong, bèn đánh trống lảng: “Câu hỏi này có phải là một trong ba vấn đề của công chúa chăng?”.

Ả cung nữ vội đáp: “Không phải đâu! Xin công tử miễn trách. Chẳng qua là mấy năm nay tiểu nữ nghe người ta nói đến Tiêu đại hiệp rất nhiều, nên trong lòng ngưỡng mộ, hỏi cho biết mà thôi.”

Mộ Dung Phục nói: “Hiện giờ Tiêu đại hiệp cũng ở đây, nếu cô nương cao hứng thì có thể hỏi thẳng y.” Hắn vừa thốt ra câu này, mọi người nhốn nháo cả lên. Oai danh Tiêu Phong vang dội như sấm nổ, nhân sĩ võ lâm nghe đến tên chàng thì chẳng ai là không chấn động.

Ả cung nữ cũng xúc động vô cùng, run giọng nói: “Té ra Tiêu đại hiệp cũng hạ cố đến đây. Thế mà người tệ quốc chẳng một ai hay biết, thật là mạo phạm. Tiêu đại hiệp là bậc đại nhân đại lượng, xin rộng lòng khoan thứ cho.”

Tiêu Phong chỉ “Hừ” một tiếng, không đáp.

Mộ Dung Phục nghe ả cung nữ có vẻ kính trọng Tiêu Phong hơn mình nhiều, thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm: “Thằng cha Tiêu Phong này cũng chưa lấy vợ, lại đang ở ngôi cao, làm đến chức Nam Viện Đại Vương nước Liêu, trong tay nắm giữ binh quyền, đâu có phải là một gã bạch đinh như mình. Nếu công chúa nước Tây Hạ chấm y làm phò mã, thì mình biết làm thế nào đây?”

Ả cung nữ nói: “Tiểu nữ xin hỏi Mộ Dung công tử trước. Phiền Tiêu đại hiệp đợi cho một chút, xin miễn tội cho tiểu nữ.” Rồi ả quay lại hỏi Mộ Dung Phục: “Xin hỏi công tử: Đối với công tử thì nơi nào là khoái lạc nhất?”

Vấn đề này Mộ Dung Phục đã nghe ả hỏi rất nhiều người, thế mà lúc ả hỏi đến y, y cũng cứng lưỡi không biết trả lời ra sao. Suốt đời y lo lắng, bôn tẩu vì mục tiêu phục quốc, chưa có một lúc nào khoái lạc. Người ngoài thấy y là một thiếu niên anh tuấn, võ công cao cường lừng danh thiên hạ, trên giang hồ ai cũng kinh sợ, cứ tưởng y đã thỏa mãn lắm rồi, mà thực ra trong lòng y chưa bao giờ cảm thấy khoái lạc thật sự. Mộ Dung Phục ngẩn ra một lúc, rồi đáp: “Nơi khoái lạc chân chính của ta là phải ở tương lai, chứ không phải ở hiện tại, mà cũng không phải ở quá khứ.”

Ả cung nữ cứ tưởng y trả lời tương tự như Tôn Tán, nghĩa là sau này được làm phò mã cùng công chúa thành thân, bấy giờ mới là lúc khoái lạc chân chính. Thật ra cái khoái lạc mà Mộ Dung Phục nói đến, là sau này sẽ phục quốc thành công, lên ngôi hoàng đế nước Đại Yên. Ả cung nữ lại mỉm cười hỏi: “Bình sinh công tử yêu ai nhất? Tên người đó là gì?” Mộ Dung Phục thở dài đáp: “Ta chưa yêu ai cả.” Ả cung nữ nói: “Vậy thì tiểu nữ không phải hỏi vấn đề thứ ba nữa.” Mộ Dung Phục nói: “Ta cũng mong được gặp công chúa, sau đó sẽ trả lời cô nương về vấn đề này.”

Ả cung nữ nói: “Xin Mộ Dung công tử qua bên cạnh nghỉ ngơi. Tiêu đại hiệp! Đại hiệp đã đến tệ quốc, tiểu nữ cũng xin tuân lệnh công chúa mà đưa ba vấn đề đó ra thỉnh giáo, dù biết là mạo phạm oai hùm.” Ả hỏi luôn mấy lần, mà vẫn không có tiếng người đáp lại.

Hư Trúc lên tiếng: “Đại ca tại hạ đã đi rồi! Xin cô nương miễn trách!” Ả cung nữ cả kinh hỏi: “Tiêu đại hiệp đã đi rồi ư?” Hư Trúc đáp: “Đúng thế!”

Thì ra Tiêu Phong thấy mấy vấn đề của công chúa Tây Hạ sai cung nữ hỏi mọi người, rõ ràng không có ý gia hại ai, nhung chưa hiểu được thâm ý bên trong, liền nghĩ tới chỗ mình phải trả lời ba vấn đề đó như thế nào. Chàng chợt nhớ tới A Châu, lòng đau như cắt, nhưng không muốn biểu lộ tâm tình trước mặt mọi người, liền quay người ra khỏi nhà thạch thất. Lúc này cánh cổng đá đã mở rồi, chàng nhẹ bước ra đi, không một ai hay biết.

Ả cung nữ hỏi: “Không hiểu sao Tiêu đại hiệp lại bỏ đi? Hay là đại hiệp trách bọn tiểu nữ vô lễ chăng?” Hư Trúc đáp: “Đại ca tại hạ không phải là người khí độ hẹp hòi, chẳng khi nào bắt bẻ chuyện nhỏ mà trách ai. Hừ! Chắc là y lên cơn thèm rượu, nên ra ngoài đánh chén với tân khách rồi.” Ả cung nữ cười nói: “Đúng rồi! Bọn tiểu nữ đã được nghe Tiêu đại hiệp tửu lượng thiên hạ vô song, thế mà không chuẩn bị sẵn rượu nơi đây để mời khách, thật là có lỗi. Lúc nào tiên sinh gặp Tiêu đại hiệp, xin chuyển lời của công chúa cáo lỗi cùng đại hiệp.” Ả cung nữ này nói năng hoạt bát dễ nghe, so với ả cung nữ đón khách bên ngoài chỉ hay thẹn thùng xấu hổ, thì lanh lợi hơn nhiều. Hư Trúc nói: “Khi nào tại hạ gặp đại ca, nhất định sẽ chuyển lời giúp cô nương.”

Ả cung nữ lại hỏi: “Tôn tính đại danh tiên sinh là gì?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Tại hạ… tại hạ… đạo hiệu là Hư Trúc Tử. Ta vốn xuất… xuất… Chuyện này… Ta không phải đến cầu thân, chỉ đi theo tam đệ mà thôi.”

Ả cung nữ lại hỏi: “Bình sinh tiên sinh thấy nơi nào là khoái lạc nhất?” Hư Trúc nhẹ thở dài rồi đáp: “Là ở trong một hầm nước đá tối om.”

Bỗng có thanh âm một thiếu nữ khẽ “ồ” lên một tiếng. Tiếp theo là mấy tiếng rơi đổ, rồi một cái chén rớt xuống đất vỡ tan. Ả cung nữ lại hỏi: “Bình sinh tiên sinh yêu người nào nhất, và tên người đó là gì?” Hư Trúc đáp: “Tại hạ… không hiểu tên vị cô nương đó là gì.”

Mọi người nghe vậy thì cười ồ cả lên, đều nghĩ rằng y quá sức si ngốc, ở đời, khi nào lại có ai yêu một người không biết tên?

Ả cung nữ nói: “Tiên sinh không hiểu tên họ vị cô nương đó, thì cũng chẳng có chi là kỳ lạ. Ngày xưa, hiếu tử Đồng Vĩnh thấy tiên nữ giáng phàm, cũng chẳng biết tên họ là gì, gốc tích ra sao, mà hài người vẫn yêu nhau. Hư Trúc Tử tiên sinh! Chắc là dung mạo vị cô nương đó xinh đẹp phi thường, có phải không?”

Hư Trúc đáp: “Dung mạo nàng như thế nào, tại hạ cũng không biết nốt.”

Trong thạch thất, tiếng cười vang dậy như sấm. Ai cũng cho rằng đây là một quái sự đệ nhất cổ kim, có người lại nghĩ là Hư Trúc cố ý chọc cười.

Giữa tiếng cười nói lộn xộn, bỗng nghe thanh âm một thiếu nữ khẽ hỏi: “Chàng… chàng có phải là Mộng Lang chăng?” Hư Trúc giật mình kinh hãi, run lên hỏi: “Nàng… nàng là Mộng Cô đấy ư? Ta nhớ nàng đến chết được.” Y đưa tay ra phía trước, tiến lên mấy bước, bỗng ngửi thấy một mùi hương ngào ngạt, rồi một bàn tay mềm mại nắm tay y. Một thanh âm quen thuộc khẽ thì thầm vào tai Hư Trúc: “Mộng Lang! Ta không tìm thấy chàng, nên phải tìm cách xin phụ hoàng treo bản văn, để mong chàng trở lại.” Hư Trúc kinh hãi nói: “Nàng… là…” Thiếu nữ nói: “Chúng ta vào trong kia nói chuyện. Mộng Lang! Ta tưởng nhớ đến chàng suốt ngày suốt đêm, mãi tới bây giờ…” Nàng vừa nói rất khẽ vừa dắt tay Hư Trúc, âm thầm xuyên qua bức màn đi vào nội đường.

Trong thạch thất, mọi người vẫn cười nói cực kỳ huyên náo.

***

Ả cung nữ vẫn lần lượt đưa ba vấn đề ra hỏi mọi người, hỏi xong hết rồi mới tuyên bố: “Xin các vị hãy ra phòng ngoài uống trà. Những bức thư họa treo trên vách là quà tiễn khách, xin các vị tự lựa chọn lấy. Công chúa muốn cùng vị nào tương kiến, sẽ cho người đến mời sau.”

Trong bóng tối, nhiều tiếng người la lên: “Chúng ta muốn gặp công chúa!”  “Chúng ta muốn được yết kiến công chúa ngay!”  “Dẫn bọn ta đi hết chỗ này đến chỗ khác để làm trò tiêu khiển chăng”

Ả cung nữ nói: “Các vị hãy ra ngoài nghỉ ngơi một chút, đừng để công chúa phải phiền lòng.” Câu nói này công hiệu như thần. Ai đến Linh Châu cũng mong được làm phò mã, nếu cãi lại ý chỉ của công chúa thì tất nhiên nàng không gọi vào tương kiến, mà đã không được vào yết kiến, thì còn làm phò mã thế nào được? Ả cung nữ vừa nói vậy, mọi người lập tức yên tĩnh trở lại rồi lũ lượt kéo ra. Bên ngoài thạch thất, ánh lửa lập lòe, soi rõ đường đi. Mọi người theo lối cũ, trở ra sảnh đường uống trà.

Đoàn Dự lại gặp Vương Ngữ Yên, kể lại cho nàng nghe ba câu hỏi của công chúa. Vương Ngữ Yên nghe Đoàn Dự nói tới chỗ chàng trả lời nơi khoái lạc nhất trong đời là đáy giếng khô đầy bùn lầy, thì không khỏi phì cười. Hai má nàng đỏ ửng lên, rồi hạ giọng nói: “Muội cũng nghĩ như thế.”

Mọi người ngồi uống trà, nói chuyện vui vẻ, tranh cãi lung tung, cố đoán xem trong vô số câu trả lời vừa rồi thì câu nào là hợp ý công chúa nhất. Qua một hồi lâu, nội giám bưng ra những cuộn tranh vẽ hoặc chữ viết, mời mọi người lựa chọn. Nhưng bọn họ đều trong lòng hồi hộp, chỉ thấp thỏm về chuyện công chúa có vời mình vào tương kiến không, còn lòng dạ nào mà nghĩ tới tranh vẽ cùng bút thiếp? Đoàn Dự thì nhẹ nhàng tìm lấy bức tranh vẽ cô gái múa kiếm bên hồ, chẳng ai thèm giành giật với chàng bức họa này.

Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên ngồi sóng vai ngắm tranh. Vương Ngữ Yên bỗng than thở: “Người trong tranh nhìn rất giống mẫu thân của muội.” Nàng nhớ đến đã chia tay với mẹ lâu ngày, bất giác buồn bã trong lòng. Đoàn Dự chợt nghĩ ra trong mình Hư Trúc cũng có một bức họa tương tự, muốn bảo y lấy ra để so sánh, nhưng đảo mắt nhìn khắp bốn phía trong đại sảnh mà chẳng thấy Hư Trúc đâu cả. Chàng liền cất tiếng gọi: “Nhị ca! Nhị ca!” Không thấy tiếng người đáp lại. Đoàn Dự tự hỏi: “Y cùng đại ca đi đâu rồi? Hay là đã gặp phải chuyện gì nguy hiểm?” Đoàn Dự còn đang lo lắng, thì bỗng có một tên cung nữ tiến đến cạnh chàng rồi nói: “Có một bức thư của Hư Trúc tiên sinh gửi cho Đoàn Vương tử!” Rồi ả hai tay trao cho Đoàn Dự bức thư, là một lá vàng dát mỏng được gấp ngay ngắn.

Đoàn Dự đón lấy mở xem, mũi ngửi thấy mùi hương thoang thoảng. Trên thư viết: Ta rất may, cực kỳ may, nói không hết được. Nhưng để tam đệ mất công vô ích, thật là áy náy. Ta thất tín với Đoàn lão bá, mà không có cách nào. Báo cho tam đệ biết.” Ở dưới có ký tên: Nhị ca. Đoàn Dự biết nhị ca vốn là một vị tiểu hòa thượng ít đọc sách, nên lời lẽ không được lưu loát, ý tứ lại chẳng có đầu có đuôi, thật là khó hiểu. Tay chàng cầm lá thư, đứng ngẩn ra suy nghĩ một hồi mà chẳng hiểu chút nào.

Tôn Tán Vương tử đứng xa xa trông thấy ả cung nữ trao thư cho Đoàn Dự, thì lửa ghen sôi lên sùng sục. Gã cho rằng công chúa mời Đoàn Dự vào tương kiến thì nghĩ thầm: “Được lắm! Quả nhiên thằng lỏi mặt trắng đã chiếm mất tiện nghi rồi. Làm sao ta để gã yên thân được?” Gã bèn lớn tiếng quát: “Bọn ta không thể tha ngươi được!” Rồi hắn nhảy xổ lại. Tôn Tán vừa đến trước mặt Đoàn Dự, liền đưa tay trái ra giật lấy bức thư, tay phải đánh một quyền thật nặng vào trước ngực chàng.

Đoàn Dự đang mải ngẫm nghĩ xem Hư Trúc muốn nói gì, thì bị Tôn Tán phóng quyền đánh tới một cách bất ngờ, chàng không kịp né tránh. Thật ra thoi quyền của Tôn Tán mau như điện chớp, dù chàng có né tránh cũng chưa chắc đã kịp. Nghe “binh” một tiếng, thoi quyền đập trúng ngực Đoàn Dự, nhưng nội lực đầy rẫy trong người chàng tự nhiên phản ứng lại. Bỗng nghe “vù” một tiếng, tiếp theo là tiếng “huỵch” rồi tiếng la “Úi chao”. Tôn Tán Vương tử bị hất ra xa mấy bước, thân thể đập mạnh xuống kỷ trà, bình tách rơi vỡ tan tành.

Gã không nhịn được phải rú lên, nhưng chưa kịp đứng lên đã cầm bức thư đọc ra tiếng: “Ta rất may, cực kỳ may…”

Mọi người thấy y bị Đoàn Dự hất ngã khá đau, mà lại còn nói: “Ta rất may, cực kỳ may” thì kinh ngạc vô cùng, chẳng hiểu ra sao.

Vương Ngữ Yên vội chạy đến bên Đoàn Dự hỏi: “Hắn đánh huynh có đau không?” Đoàn Dự cười đáp: “Không sao! Nhị ca gửi cho ta một lá thư, chắc gã Vương tử kia hiểu lầm là công chúa mời ta vào hội kiến.”

Bọn võ sĩ Thổ Phồn thấy chủ nhân bị người đánh ngã, kẻ lại nâng đỡ, kẻ thì mặt mày hầm hầm toan kiếm chuyện với Đoàn Dự.

Đoàn Dự bảo Vương Ngữ Yên: “Nơi này nhiều chuyện thị phi, ở lại vô ích. Chúng ta về đi thôi!” Ba Thiên Thạch vội nói: “Công tử đã tới đây, sao lại hấp tấp bỏ đi?” Chu Đan Thần cũng nói: “Đây là nội điện hoàng cung Tây Hạ, còn sợ gì bọn Thổ Phồn hung hăng? Không chừng công chúa sắp triệu kiến, công tử mà bỏ đi thì thật là khiếm lễ.” Hai gã không ngớt miệng, cố tình khuyên Đoàn Dự ở lại.

Quả nhiên, có nhân vật trong Nhất Phẩm Đường chạy ra quát mắng bọn võ sĩ Thổ Phồn không được vô lễ. Tôn Tán Vương tử lồm cồm bò dậy, gã thấy bức thư này không phải là công chúa mời Đoàn Dự vào diện kiến, cũng bình tâm lại.

Giữa lúc nhốn nháo, đột nhiên Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh đưa tay vẫy gọi mình, tay trái nàng cầm một mảnh giấy giơ lên. Đoàn Dự gật đầu, bước lại đón lấy. Tôn Tán thấy Đoàn Dự vừa mở thư ra đọc đã biến sắc mặt, gã nghĩ ngay: “Đây mới đúng là thư triệu kiến của công chúa”. Gã liền quát lớn: “Lần trước ngươi còn lừa gạt ta, lần này thì đừng hòng.” Rồi gã nhảy xổ lại, đưa tay cướp lấy bức thư.

Rút kinh nghiệm lúc nãy, y không dám vung quyền đánh nữa, cướp được thư rồi, liền phóng chân phải đá vào bụng Đoàn Dự, rồi chân trái lại đá tiếp theo thế Uyên Ương Liên Hoàn, lợi hại mau lẹ vô cùng. Không ngờ hai chân Tôn Tán đá trúng vào huyệt Đan điền dưới rốn Đoàn Dự, đó là nơi chứa nội kình của con người, không cần vận chuyển cũng có phản ứng. Nội kình của Đoàn Dự phản ứng mau lẹ phi thường, nghe đánh “bốp” một tiếng, Tôn Tán rú lên, người gã bị hất bay vượt qua mấy chục đầu người, xô đổ bảy tám cái kỷ trà, rồi mới té xuống đất.

Tôn Tán da thô thịt dày, Đoàn Dự lại không cố ý vận khí hại gã nên tuy gã té một cái như trời giáng, mà vẫn không bị nội thương. Gã vừa chấm đất, đã giơ bức thư vừa cướp được lên, lớn tiếng đọc: “Có nhân vật cực kỳ lợi hại định giết gia gia ta mà cũng là gia gia huynh. Mau mau đi cứu ứng!”

Mọi người nghe chẳng hiểu đầu đuôi chi hết, sao Tôn Tán lại nói: “gia gia ta mà cũng là gia gia huynh”?

Đoàn Dự cùng Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần biết ngay bức thư này do Mộc Uyển Thanh viết ra. Câu “gia gia ta mà cũng là gia gia huynh” dĩ nhiên là chỉ Đoàn Chính Thuần. Mấy người liền chạy đến chỗ Mộc Uyển Thanh để hỏi kỹ chuyện này.

Mộc Uyển Thanh đáp: “Các vị vào trong một lúc, thì hai vị tỉ tỉ Mai Kiếm và Lan Kiếm đến hoàng cung tìm Hư Trúc tiên sinh để bẩm báo. Hư Trúc Tử không ra được, hai cô liền nói cho muội biết là được tin có mấy nhân vật cực kỳ lợi hại bố trí cơ quan, cố ý ám hại gia gia. Họ bố trí cạm bẫy suốt một giải Thục Nam, chính là đường gia gia phải đi qua để trở về Đại Lý. Hai vị tỉ tỉ đó đã phái bộ Huyền Thiên và bộ Chu Thiên của cung Linh Thứu đuổi theo gia gia, dặn người phải đề phòng cẩn thận, đồng thời có tin tức gì sẽ cấp báo về”.

Đoàn Dự vội hỏi: “Hai vị tỉ tỉ Mai Kiếm, Lan Kiếm đến đây ư? Sao ta lại không thấy?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Trong mắt huynh chỉ có một mình Vương cô nương, làm sao nhìn thấy ai nữa? Mai Kiếm, Lan Kiếm muốn báo tin cho huynh, nhưng gọi mấy lần mà huynh chẳng đoái hoài. Chẳng lẽ huynh không thấy thật ư?” Đoàn Dự đỏ mặt lên nói: “Ta… ta không nhìn thấy thật.” Mộc Uyển Thanh lạnh lùng nói: “Hai cô cần tìm Hư Trúc nhị ca rất gấp, không đợi huynh được. Muội muốn gọi huynh, nhưng chắc huynh cũng lờ đi nốt, nên phải viết mấy chữ đưa cho huynh.”

Đoàn Dự không khỏi bẽn lẽn. Chàng cũng tự biết vừa rồi đã để hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên. Mắt chàng chỉ nhìn thấy nét vui, nét buồn của Vương Ngữ Yên, tai chàng chỉ nghe thấy tiếng cười, tiếng khóc của Vương Ngữ Yên mà thôi. Giả tỉ trời có sụp xuống, cũng chưa chắc chàng đã biết. Mộc Uyển Thanh đứng xa xa ra hiệu, dĩ nhiên Đoàn Dự không trông thấy. Nếu không có Tôn Tán Vương tử nhảy lại đấm một quyền, e rằng chàng còn chưa ngẩng đầu lên đế nhìn thấy Mộc Uyển Thanh vẫy tay gọi mình. Đoàn Dự nhìn Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần nói : ” Chúng ta phải đi ngay đêm nay để đuổi theo gia gia.” Hai gã Ba, Chu đồng thanh đáp: “Đúng thế!”

Mọi người đều lo lắng về chuyện Trấn Nam Vương gặp nạn. Đây là việc khẩn yếu nhất, còn việc Đoàn Dự có được làm phò mã Tây Hạ hay không, thì chẳng quan hệ bằng. Đoàn người lập tức đứng lên, đi ra khỏi cửa.

Bọn Đoàn Dự về quán dịch gặp Chung Linh, cùng chuẩn bị hành lý. Ba Thiên Thạch thì đến cáo từ quan thượng thư bộ Lễ nước Tây Hạ. Gã nói Trấn Nam Vương giữa đường lâm trọng bệnh, nên Thế tử phải vội vã đi ngay để hầu hạ bên mình, không kịp vào bái tạ hoàng thượng. Phụ thân có bệnh, kẻ làm con phải đội sao đội trăng đi suốt ngày đêm để trông nom thang thuốc, là một việc thiên kinh địa nghĩa. Quan Thượng thư bộ Lễ khen tặng một hồi, nào là: “Lòng hiếu thảo của Vương tử thấu đến trời xanh”, “Đoàn Vương gia thật là đại phúc v.v…” Ba Thiên Thạch cáo từ xong, lật đật chạy ra cửa Nam thành Linh Châu. Gã thi triển khinh công đến tột độ, mà lúc đuổi kịp bọn Đoàn Dự thì cũng đã cách thành Linh Châu đến ba mươi dặm.

Hồi 47: Hoa trà nở rộ vì ai ?

Đoàn người ngựa đi một mạch luôn mấy ngày. Từ đất Lô Châu đến Cao Lan, qua Thiên Thủy rồi đi về hướng Đông sang đất Trịnh, qua Quảng Nguyên, Kiếm Các, mới đến Thục Bắc. Dọc đường tiếp được truyền thư của quần nữ hai bộ Chu Thiên, Huyền Thiên cung Linh Thứu, nói là Trấn Nam Vương đang đi về phía chính Nam. Lại có tin đưa đến, nói lúc Trấn Nam Vương đưa hai vị phu nhân về đến Tư Đồng thì hai bà gây ra một trường ác đấu, dường như bất phân thắng bại. Đoàn Dự biết hai vị phu nhân này thì một là Tần Hồng Miên, mẫu thân Mộc Uyển Thanh và một là Nguyễn Tinh Trúc, mẫu thân A Châu, A Tử. Trong hai người này thì võ công Tần Hồng Miên cao hơn, nhưng mưu trí lại kém Nguyễn Tinh Trúc. Chàng yên trí đã có gia gia sắp xếp, chắc cũng không đến nỗi xảy ra chuyện lớn. Quả nhiên, chưa đến hai ngày sau lại có tin đưa đến là hai vị phu nhân đã chung sống hòa bình, đang cùng Trấn Nam Vương uống rượu trong một tửu lâu. Bộ Huyền Thiên đã báo cho Trấn Nam Vương biết là có đối thủ cực kỳ ghê gớm đang đón đường để toan gia hại.

Dọc đường, Đoàn Dự cùng Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần đã thương nghị với nhau mấy lần, cho rằng đối thủ lần này của Trấn Nam Vương, ngoài Đoàn Diên Khánh trong Tứ Đại Ác Nhân thì không còn ai nữa. Võ công của Đoàn Diên Khánh hết sức cao thâm. Trong nước Đại Lý, trừ Bảo Định Đế ra, không chừng chẳng còn ai địch nổi. Nếu lão đuổi kịp Trấn Nam Vương dọc đường, thì thật là chuyện rất đáng lo. Việc khẩn cấp trước mắt là phải đuổi theo cho kịp Trấn Nam Vương để hợp lực lại mới chống chọi nổi với Đoàn Diên Khánh. Ba Thiên Thạch nói: “Chúng ta mà gặp Đoàn Diên Khánh, thì dù thế nào cũng lập tức cùng nhau xông vào để thủ thắng, nhất quyết không chần chừ như lần ở Tiểu Kính Hồ ngày trước, nếu để hắn cùng Vương gia lấy một chọi một là nguy đấy.” Chu Đan Thần nói: “Đúng thế! Bọn ta có Đoàn Thế tử, Mộc cô nương, Chung cô nương, Vương cô nương cùng hai ta, lại thêm hai vị phu nhân và bọn Hoa tư đồ, Phạm Tư mã, Cổ đại ca và các vị cô nương cung Linh Thứu giúp đỡ. Nhiều người hợp sức như vậy, dù chẳng giết được Đoàn Diên Khánh cũng không đến nỗi để lão ăn gỏi bọn mình.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Chúng ta cứ thế mà làm.”

Đoàn người ra roi cho ngựa phi thật nhanh. Khi đến Miên Châu, bỗng nghe phía trước có tiếng vó ngựa dồn dập, rồi thấy hai nữ nhân cưỡi ngựa đến. Hai người từ trên lưng ngựa nhảy xuống, hô lên: “Thuộc hạ bộ Huyền Thiên cung Linh Thứu xin tham kiến Đoàn công tử nước Đại Lý.” Đoàn Dự cũng vội vàng xuống ngựa thi lễ rồi nói: “Hai vị tỉ tỉ vất vả quá! Có gặp gia phụ không?” Thiếu phụ đứng bên phải trả lời: “Khải bẩm công tử! Sau khi Trấn Nam Vương nhận được tin cảnh báo của bọn thuộc hạ, người liền chuyển hướng đi về phía Đông, nói là còn việc khác cần làm, sau đó mới trở về Đại Lý để tránh mặt đối thủ.”

Đoàn Dự vừa nghe đã thấy yên tâm, cả mừng đáp: “Thế là phải lắm! Gia gia là cành vàng lá ngọc, hà tất phải tranh hơi với bọn họ? Đối với bọn độc trùng ác thú, né tránh đi là hơn, đâu có phải là sợ chúng? Hai vị có biết bọn đối thủ đó là ai không? Sao lại nghe được tin này?”

Thiếu phụ đáp: “Đầu tiên là Cúc Kiếm nghe một vị cô nương tên là A Bích nói cho hay.” Vương Ngữ Yên xen vào: “Thì ra là A Bích.” Đoàn Dự cũng nói: “Ồ! A Bích cô nương ư? Ta cũng biết cô này. Nàng là tỳ nữ của Mộ Dung Phục.”

Thiếu phụ nói: “Thế thì phải rồi. Cúc Kiếm bảo A Bích cô nương cũng trạc tuổi như nàng, diện mạo xinh đẹp, nói giọng Giang Nam rất khó nghe. Cúc Kiếm còn nói là chủ nhân cô ta đã cùng công tử đến hoàng cung để chiêu thân, A Bích cô nương phải mau mau đi Tây Hạ gặp Mộ Dung công tử. Cô ta nói trên đường đi có nghe tin, có một nhân vật cực kỳ lợi hại muốn làm khó Trấn Nam Vương. Cô còn nói Đoàn công tử đối với cô rất tốt, nên cô nhờ bọn thuộc hạ tìm cách truyền lại tin này.”

Đoàn Dự nhớ lại lúc gặp A Bích ở Cô Tô, nhờ nàng cùng A Châu dẫn đi mới được gặp Vương Ngữ Yên. Không ngờ lần này cũng chính nàng đã đưa tin, trong lòng chàng xiết bao cảm kích. Đoàn Dự hỏi: “Hiện giờ A Bích cô nương ở đâu?” Thiếu phụ đáp: “Thuộc hạ cũng không biết rõ. Công tử! Theo lời Mai Kiếm thì đối thủ của Đoàn Vương gia rất lợi hại, nên Mai Kiếm không kịp chờ chủ nhân hạ lệnh đã phái ngay hai bộ Huyền Thiên, Chu Thiên đi rất gấp. Công tử phải cẩn thận mới được.”

Đoàn Dự nói: “Đa tạ đại tẩu đã hết lòng. Đại tẩu tên họ là gì? Sau này ta gặp nhị ca sẽ nói cho y biết.” Thiếu phụ cười rạng rỡ, đáp: “Bọn thuộc hạ ở hai bộ Huyền Thiên, Chu Thiên chỉ làm việc theo bổn phận, công tử chẳng cẩn phải hỏi đến tiện danh. Công tử đã có lòng tốt như vậy, thuộc hạ xin đa tạ.” Thiếu phụ nói xong, liền cùng người đàn bà kia khép vạt áo, vái chào mọi người rồi lên ngựa đi ngay.

Đoàn Dự hỏi Ba Thiên Thạch: “Ba Tư không! Theo ý huynh thì nên làm thế nào?” Ba Thiên Thạch đáp: “Vương gia đã chuyển sang hướng Đông. Chúng ta cứ đi thẳng về phía Nam, thì chắc là đến Thành Đô sẽ gặp Vương gia.” Đoàn Dự khẽ gật đầu đáp: “Đúng thế.”

Đoàn người liền đi về phía Nam qua Miên Châu thì đến Thành Đô. Thành Cẩm Quan đúng là nơi phồn hoa đô hội vào bậc nhất Tây Nam. Đoàn Dự ở trong thành du ngoạn đã qua mấy ngày mà chưa thấy Đoàn Chính Thuần đến. Mọi người đều nghĩ rằng: “Trấn Nam Vương đã có hai vị phu nhân bầu bạn, dọc đường chắc còn thưởng ngoạn phong cảnh để tận hưởng những hạnh phúc ấm áp nên chậm tới nơi. Khi về đến Đại Lý rồi sẽ không còn cảnh tiêu dao khoái lạc này nữa.”

Đoàn người cứ theo hướng Nam mà đi, càng lúc lại càng gần Đại Lý. Ai nấy trong lòng thư thái, dọc đường hoa tựa gấm thêu, nhiều nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên sánh vai mà đi, nhưng sợ Mộc Uyển Thanh và Chung Linh khó chịu, nên cũng không dám lạnh nhạt với hai nàng. Mộc Uyển Thanh trên đường đi đã nói cho Chung Linh biết Đoàn Dự chính là huynh trưởng của mình, mà Chung Linh cũng là con tư sinh của Đoàn Chính Thuần. Hai cô liền gọi nhau bằng tỉ muội. Tuy hai người thấy Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên nói cười vui vẻ, tình ý thân mật, mà cũng chẳng biết phải làm gì, chỉ âm thầm rầu rĩ trong lòng.

***

Một hôm trời đã xế chiều, đoàn người đi gần đến một khu rừng dương liễu, đột nhiên trời đổ mưa rào. Mọi người giục ngựa đi tìm nơi trú ẩn, xuyên qua rặng liễu thì thấy bảy tám gian nhà tường trắng, ngói đen ở cạnh một con sông nhỏ. Ai nấy cả mừng, giục ngựa chạy tới. Khi đến trước thềm thì thấy một lão già tay chắp sau lưng, đang ngẩng đầu nhìn những đám mây đen kịt trên trời.

Chu Đan Thần nhảy xuống ngựa, tiến lại chắp tay nói: “Thưa lão trượng! Bọn tại hạ là khách lữ hành, giữa đường gặp mưa. Xin lão trượng mở lòng giúp đỡ, cho vào bảo trang để tạm trú.” Lão già đáp: “Khách quan nói quá lời rồi! Có ai đi đâu mà mang nhà cửa theo được? Mời các vị vào trong này.” Chu Đan Thần nghe thanh âm lão không nặng nề như thổ âm ở Xuyên Nam, mắt lão lại sáng rực, thì không khỏi hồi hộp, chắp tay nói: “Đa tạ lão trượng.”

Mọi người bước vào cổng, Chu Đan Thần trỏ Đoàn Dự giới thiệu: “Vị này là Dư công tử, đi thăm người nhà ở Thành Đô trở về. Vị này là Thạch lão ca, còn tại hạ ở họ Trần. Xin hỏi quý tính lão trượng.” Lão già cười khà khà đáp: “Lão phu họ Giả, là chân chân giả giả ấy mà. Dư công tử! Thạch đại ca! Mời chư vị vào nội đường, uống trà ngắm cảnh trời mưa. Chắc trời còn mưa lâu đấy.” Đoàn Dự nghe Chu Đan Thần báo tên họ Giả thì biết là có điều gì khuất khúc, mọi người đều phải lưu tâm đề phòng.

Lão họ Giả dẫn mọi người vào ngồi trong phòng dưới mái hiên, trên tường có mấy bức tứ bình cùng tranh vẽ, bài trí rất trang nhã, không giống như nhà ở của bọn quê mùa. Chu Đan Thần và Ba Thiên Thạch đưa mắt nhìn nhau, lại càng chú ý đề phòng. Đoàn Dự thấy tự tích trên tứ bình đều do tay phàm tục viết, chàng không muốn nhìn lâu. Lão họ Giả nói: “Để lão phu đi đun nước pha trà.” Chu Đan Thần vội khách sáo: “Không dám phiền lão trượng.” Lão họ Giả cười đáp: “Lão phu chỉ sợ tiếp đãi quý khách không đủ lễ mà thôi.” Lão vừa nói vừa bước ra, khép cửa lại.

Cánh cửa phòng khép lại, sau cửa lộ ra một bức vẽ mấy khóm trà hoa, một khóm hồng bạc rất đẹp, một khóm trắng toát, cành đã bắt đầu khô. Trà hoa thì có nơi đâu nhiều bằng Đại Lý?

Đoàn Dự vừa nhìn thấy đã cao hứng, xem kỹ thì trong bức vẽ có đề một hàng chữ: “Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, Chủng loại thất thập nhất, đại ư mẫu đơn. Nhất vọng nhược hỏa… vân…, thước nhật chưng…” Trong đó để trống mấy chữ. Đoàn Dự biết câu này trích trong cuốn “Điền Trung Trà Hoa Ký” mà chàng đã thuộc lòng, thật ra phải là: “Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập nhị, đại ư mẫu đơn. Nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà.” (Hoa trà ở Đại Lý đứng vào hàng đầu thiên hạ, tất cả có bảy mươi hai loại, có loại lớn hơn cả hoa mẫu dơn. Đứng xa trông đỏ một góc trời, dường như hòa lẫn với ánh dương quang mà tô điểm những đám mây sớm cho thêm phần rực rỡ). Đoàn Dự thấy trên bàn có sẵn nghiên bút, liền viết thêm một nét ngang ở chữ “nhất” cho thành chữ “nhị”, rồi điền vào hết những chỗ còn bỏ trống. Câu này vốn viết theo thể chữ “Chữ Toại Lương”, chàng cũng bắt chước viết vào, nên không có dấu vết gì là mới sửa cả.

Chung Linh vỗ tay cười nói: “Huynh làm như vậy thì bức vẽ mới hoàn chỉnh, không còn khiếm khuyết nữa.”

Đoàn Dự vừa cất bút, lão họ Giả đã đẩy cửa bước vào rồi tiện tay khép lại. Lão thấy những chỗ thiếu sót trên bức họa đã được điền vào cho đủ, lộ vẻ vui mừng, cười nói: “Quý khách! Tiểu lão thật là thất kính. Bức họa này do một ông bạn già vẽ cho, mà lúc đề từ lại quên mất mấy chữ. Y nói về nhà tra lại sách, lần sau đến sẽ thêm vào. Hỡi ơi! Không ngờ y về đến nhà rồi bệnh tật liệt giường, không thể đến đây mà viết thêm được nữa. Ngờ đâu Dư công tử quán cổ thông kim, đã hoàn thành tâm nguyện cho vong hữu của lão phu. Gia nhân đâu! Mau mau bày tiệc rượu!”

Lão họ Giả vừa gọi vừa bước ra, chẳng bao lâu đã thay một bộ y phục mới bằng tơ tằm, vào mời bọn Đoàn Dự uống rượu. Mọi người nhìn qua cửa sổ thấy trời vẫn mưa như trút nước, bao nhiêu khe lạch đều ngập tràn bờ, khó lòng khởi hành được. Hơn nữa, họ lại thấy lão họ Giả có ý chân thành nên không tiện từ khước, liền cùng nhau lên sảnh đường ăn uống. Bữa tiệc có đủ cá tươi, thịt ướp, gà vịt cùng rau xanh, bày ra đến mười mấy đĩa. Bọn Đoàn Dự tạ ơn chủ nhân rồi ngồi vào bàn tiệc.

Lão Giả tự rót rượu vào chén, cười nói: “Nơi đây quê mùa chẳng có chi là cao lương mỹ vị. Dư công tử! Tiểu lão vốn là người ở Giang Nam, hồi trẻ cũng học được một chút võ công, lỡ tay giết mất hai kẻ thù, không thể ở lại quê nhà được nữa, phải trốn vào đất Tứ Xuyên này. Hỡi ôi! Chốc đã mấy chục năm trời, lắm lúc nhớ quê hương vô kể. Rượu ở quê tiểu lão ngon hơn thứ rượu này nhiều.” Lão vừa nói, vừa rót rượu cho mọi người.

Mọi người nghe lão thuật lại thân thế, tuy không tin hẳn, nhưng nghe lão tự nói mình biết võ công thì cũng bớt phần lo âu. Lão họ Giả rót rượu xong lại nói: “Lão xin cạn trước!” Rồi đưa chén rượu lên uống một hơi cạn sạch. Mọi người yên tâm, nâng chén lên uống. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đều rất tinh tế cẩn thận. Hai gã uống rất ít, mà đĩa thức ăn nào cũng đợi lão họ Giả xuống đũa trước rồi mới gắp ăn sau.

Cơm rượu xong, trời vẫn mưa dầm. Lão họ Giả thành khẩn lưu khách, bọn Đoàn Dự thấy trời đã tối liền ngủ trọ lại một đêm. Lúc sắp đi ngủ, Ba Thiên Thạch khẽ dặn Mộc Uyển Thanh: “Mộc cô nương! Đêm nay cô ngủ tỉnh một chút! Ta thấy nơi đây có vẻ tà môn!” Mộc Uyển Thanh gật đầu, mặc nguyên áo nằm trên giường, trong tay áo chuẩn bị sẵn tên độc. Nàng chỉ nghe tiếng mưa rả rích bên ngoài, đến lúc trời sáng vẫn không thấy gì khác lạ.

Lúc mọi người dậy rửa mặt thì thấy trời đã ngớt mưa, liền cáo từ lão họ Giả. Lão tiễn khách ra ngoài mấy chục trượng, mới kính cẩn thi lễ quay về. Đoàn người đi xa rồi, nghĩ lại đều cho là chuyện lạ. Ba Thiên Thạch nói: “Lão họ Giả này không rõ gốc gác ra sao, thật là khó hiểu. Lần này lão qua được mắt mình rồi.” Chu Đan Thần nói: “Ba huynh! Tiểu đệ thấy lão họ Giả này không có vẻ bất lương, nhưng lão vừa thấy công tử điền vào những chữ thiếu trong bức họa, thì đột nhiên biến sắc. Công tử! Công tử thử nghĩ xem, bức họa cùng đề từ đó có quan hệ gì không?” Đoàn Dự lắc đầu đáp: “Bức họa này vẽ mấy khóm sơn trà, là một chuyện rất tầm thường. Hai khóm trà thì một là Phấn Hầu, một là Tuyết Tháp, tuy cũng là danh trà, nhưng không quí hiếm lắm.” Mọi người đoán mãi không ra ý tứ, cũng không nói đến làm gì nữa.

Chung Linh cười nói: “Ước gì dọc đường cứ gặp những bức họa đề thiếu chữ, để ca ca thêm vào. Ca ca vẫy bút mấy cái là được hai bữa cơm rượu cùng một đêm ngủ trọ mà chẳng tốn đồng nào.” Mọi người nghe vậy đều cười ồ.

Thật là kỳ lạ, câu nói của Chung Linh chỉ là giỡn chơi, thế mà sau đó vào chỗ trọ nào cũng thấy những bức họa đồ, đều vẽ hoa sơn trà. Có bức viết sai chữ, có bức đề thiếu chữ, có bức vẽ lá mà chẳng có hoa, hoặc có hoa mà không có lá. Đoàn Dự cứ thấy thế thì lại viết vẽ thêm vào, cứ mỗi lần chàng cất bút là lại được chủ nhân ân cần mời mọc, thết đãi rượu ngon nhắm tốt mà chẳng tốn một xu.

Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần thấy chuyện lạ, đã mấy lần gạn hỏi chủ nhân, nhưng đối phương vẫn trả lời giống nhau, đại khái là họa sĩ vẽ chưa xong, hoặc đề thiếu chữ, nay được quí khách bổ túc cho thì chân thành cảm kích vô cùng. Đoàn Dự cùng Chung Linh hãy còn tính trẻ, thấy thế thì thích thú, chỉ mong thấy thật nhiều những bức vẽ khiếm khuyết hay chữ viết sai trật. Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự cao hứng nên nàng cũng rất vui. Mộc Uyển Thanh vốn là người không biết sợ trời sợ đất, dù đối phương hảo tâm hay nham hiểm, thì nàng cũng chẳng bận tâm suy nghĩ. Chỉ có Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần càng ngày càng thêm lo âu, hai gã thấy đối phương bố trí chu đáo như vậy, dĩ nhiên bên trong phải có mưu đồ trọng đại, nhưng không tài nào dò ra manh mối.

Ba, Chu mỗi khi gặp đối phương ân cần khoản đãi lại càng gia tâm quan sát, phòng ngừa trong rượu thịt có chất độc. Có nhiều chất độc tinh vi khó lòng phát giác được ngay, có khi phải ăn đến mười mấy lần mới phát tác. Ba Thiên Thạch là người kiến văn lịch duyệt, dù đối phương có muốn hạ độc thủ cũng khó lòng che mắt được gã. Thế mà trước sau gã vẫn thấy cơm rượu không có gì khác lạ, lúc nào chủ nhân cũng ăn uống trước, để tỏ ra không có gì ám muội.

***

Đoàn người đi dần xuống phía Nam, đã vào thượng tuần tháng mười nhưng trời vẫn chưa giá rét. Những chốn thâm sơn cây cối vẫn âm u, cỏ rậm xanh um, so với cảnh Tây Hạ ở phía Bắc, thật là khác xa.

Một hôm trời đã xế chiều, đoàn người đến gần một đồng cỏ lớn, cỏ xanh rợn đến chân trời, bên trái là một khu rừng rậm, trong mười dặm không có một bóng người. Ba Thiên Thạch nói: “Công tử! Nơi này địa thế rất nguy hiểm, bọn ta nên sớm tìm một chỗ tốt để trú ngụ.” Đoàn Dự khẽ gật đầu nói: “Đúng thế! Hôm nay chúng ta chưa thể ra khỏi đồng cỏ này được, nhưng không biết tìm đâu ra chỗ tạm trú?” Chu Đan Thần nói: “Trong đồng cỏ này có nhiều muỗi độc, rắn độc, lại nhiều chướng khí. Hiện nay Quế hoa chướng chưa hết, mà Phù dung chướng đã bắt đầu. Hai thứ chướng khí pha trộn với nhau, chất độc lại càng mãnh liệt. Nếu không tìm được nơi ngủ trọ thì phải trèo lên cây cao mà nghỉ. Chướng khí không lên đến trên cao, mà muỗi độc, rắn độc cũng ít.”

Đoàn người bèn quay sang phía trái, tiến vào khu rừng. Vương Ngữ Yên nghe Chu Đan Thần nói đến chướng khí lợi hại như vậy, liền hỏi Quế hoa chướng cùng Phù dung chướng là những thứ gì. Chu Đan Thần đáp: “Chướng khí là những khí độc ở các ao đầm, rừng núi bốc lên. Tháng ba có Đào hoa chướng, tháng năm có Lựu hoa chướng. Thực ra chướng khí thì giống nhau, chỉ có thời gian là khác nhau. Chướng khí về mùa hoa nào, người ta lấy tên thứ hoa đó mà gọi. Vào khoảng từ tháng ba đến tháng năm khí trời viêm nhiệt, các giống độc trùng cùng muỗi rắn sinh sản thì lại càng nguy hiểm. Dải đất này cực kỳ ẩm thấp, đồng cỏ mỗi năm thối nát ra một lần, như vậy nhất định chướng khí mãnh liệt vô cùng.” Vương Ngữ Yên nói: “Thì ra là thế. Vậy có Trà hoa chướng không?” Bọn Đoàn Dự, Ba Thiên Thạch đều phì cười. Chu Đan Thần đáp: “Người Đại Lý chúng tôi rất thích hoa trà, nên không đem hoa trà liệt vào những hạng phát sinh chướng khí đáng ghét kia.”

Mọi người mải nói chuyện, vào trong rừng lúc nào không hay. Vó ngựa giẫm xuống bùn lầy, mỗi lần rút chân lên rất khó khăn, đi lại mất nhiều thời gian. Ba Thiên Thạch nói: “Chúng ta đừng tiến vào sâu nữa. Đêm nay bọn mình phải bắt chước loài chim, làm tổ trên cây mà ngủ. Đợi sáng mai mặt trời lên cao, chướng khí tan đi rồi mới lên đường.” Vương Ngữ Yên hỏi: “Khi mặt trời mọc thì chướng khí không độc nữa ư?” Ba Thiên Thạch đáp: “Đúng thế!”

Đột nhiên Chung Linh chỉ về hướng Đông Bắc thất thanh la hoảng: “Trời ơi! Nguy rồi! Chướng khí ngùn ngụt ở bên kia, không hiểu là loại chướng khí gì?” Mọi người nhìn theo hướng tay nàng, quả nhiên thấy khói đen từ trong khu rừng đang cuồn cuộn bốc lên.

Ba Thiên Thạch nói: “Chung cô nương! Đó là Siêu phạn chướng!” Chung Linh lại hỏi: “Siêu phạn chướng là gì? Có nguy hại lắm không?” Ba Thiên Thạch cười đáp: “Đó không phải là chướng khí, mà là khói người ta thổi cơm bốc lên.” Mọi người nghe Ba Thiên Thạch nói đều cười ồ, ai nấy phấn khởi nói: “Chúng ta đi về phía Siêu phạn chướng kia.” Chung Linh thấy câu nói của mình làm cho mọi người phải phì cười, bất giác thẹn đỏ mặt lên. Vương Ngữ Yên liền an ủi: “Linh muội! May mà Linh muội trông thấy khói người ta thổi cơm, không thì đêm nay chúng ta phải lên ngọn cây mà ngủ.”

Đoàn người liền nhắm về phía khói bốc lên mà đi. Gần đến nơi, ai cũng nhìn rõ nơi đây có bảy tám gian nhà gỗ, cạnh nhà xếp đầy thân cây, hiển nhiên là chỗ ở của bọn tiều phu. Chu Đan Thần giục ngựa lên trước, lớn tiếng gọi: “Các vị lão huynh! Bọn ta là khách qua đường, muốn vào ngủ trọ một đêm được chăng?” Chờ một chút không thấy tiếng đáp lại, Chu Đan Thần lại gọi nữa, nhưng vẫn không có ai thưa. Trên nóc nhà khói vẫn tiếp tục bốc lên, trong nhà nhất định phải có người.

Chu Đan Thần lấy trong bọc ra một cây quạt để làm binh khí cầm tay, khẽ đẩy cửa tiến vào. Lạ thay, trong nhà không một bóng người mà vẫn nghe tiếng lửa cháy nổ lách tách. Chu Đan Thần đi thẳng vào phía sau, tiến vào nhà bếp, thì thấy một mụ già lưng gù đang thổi lửa. Chu Đan Thần hỏi: “Lão bà! Trong nhà này còn ai nữa không?” Mụ già ngơ ngác nhìn gã, dường như không nghe rõ. Chu Đan Thần hỏi lại: “Chỉ có một mình bà thôi ư?” Mụ già chỉ vào lỗ tai rồi lại chỉ vào miệng mình, bật lên mấy tiếng ú ớ, ra hiệu mụ vừa câm vừa điếc.

Chu Đan Thần trở ra nhà ngoài. Bọn Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh đã kiểm tra hết mấy gian nhà; trong khu này, ngoài mụ già kia không còn ai nữa. Trong mỗi căn nhà gỗ đều có kê ván làm giường, trên giường không có chăn đệm chi hết. Xem chừng mùa này bọn thợ rừng chưa bắt đầu làm việc. Ba Thiên Thạch chạy vòng quanh phía ngoài những gian nhà gỗ này hai lượt, cũng không thấy có gì khác lạ.

Chu Đan Thần nói: “Mụ già kia đã câm lại điếc, không có cách nào nói cho mụ hiểu được. Tại hạ xem chừng Vương cô nương là người ôn hòa nhẫn nại, nhờ cô nương giao thiệp với mụ thử xem.” Vương Ngữ Yên mỉm cười, gật đầu nói: “Được rồi! Để muội thử xem sao!” Nàng bèn đi vào nhà bếp, trỏ tay giơ chân rồi lấy ra mấy thoi bạc vụn cho mụ. Quả nhiên, mụ hiểu ý, liền đi lấy gạo thổi cơm. Trong nhà này không có rượu thịt, mọi người chờ cơm rau chín rồi ăn qua loa cho xong bữa.

Ba Thiên Thạch nói: “Chúng ta tập trung ngủ trong một gian nhà này thôi, đừng phân tán ra.” Nam ngủ ở hướng Đông, nữ ngủ ở hướng Tây. Mụ già thắp một ngọn đèn nhỏ, đặt lên chiếc bàn ở giữa phòng. Mọi người mới chợp mắt được một lát, bỗng nghe trong nhà có tiếng lách cách, hình như là tiếng người đang cố đánh lửa, nhưng đánh mãi mà lửa không cháy. Ba Thiên Thạch nhỏm dậy, ra mở cửa xem. Đèn dầu trên bàn đã tắt rồi, trong bóng tối những tiếng lách cách vẫn vang lên. Mụ già đang cố đánh lửa. Ba Thiên Thạch liền lấy hỏa đao hỏa thạch trong mình ra, đánh lửa lên thắp sáng đèn lại. Mụ già tươi cười nhìn Ba Thiên Thạch, ra hiệu cho mụ mượn hỏa đao hỏa thạch, rồi trỏ tay xuống bếp, có vẻ muốn thắp lửa dưới đó. Ba Thiên Thạch liền đưa hỏa đao hỏa thạch cho mụ mượn, rồi vào phòng ngủ.

Chẳng được bao lâu, tiếng lách cách lại vang lên. Bọn Đoàn Dự đã nhắm mắt sắp ngủ, lại bị tiếng động làm thức dậy, mở mắt ra thì thấy tối đen, ngọn đèn dầu lại bị tắt rồi. Chu Đan Thần cười nói:” Bà lão gù lưng này thật là lẩm cẩm”. Gã muốn để mặc mụ muốn làm gì thì làm, nhưng tiếng lách cách cứ vang lên không ngớt, dường như mụ đánh lửa mãi không được. Chu Đan Thần không nhẫn nại được nữa, phải đứng lên đi vào phòng giữa. Trong bóng tối lờ mờ, gã thấy mụ già đang cố đánh lửa thắp đèn, gã liền lấy hỏa đao hỏa thạch của mình ra đánh lửa lên, châm vào ngọn đèn dầu. Mụ già cười hề hề rồi lại giơ tay ra hiệu cho Chu Đan Thần là mụ muốn mượn đồ đánh lửa để nhóm bếp. Chu Đan Thần đưa hỏa đao hỏa thạch cho mụ rồi trở vào phòng.

Ngờ đâu, gã vào nằm được một lúc thì tiếng lách cách ở giữa phòng lại vang lên. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đều bực dọc mắng thầm: “Mụ già này lại làm trò quỉ gì đây?” Những tiếng lách cách vẫn tiếp tục không dứt, Ba Thiên Thạch tức mình bèn chạy ra, đoạt lấy đồ đánh lửa của mụ, gõ mấy cái mà vẫn không bật được lửa lên. Gã sờ xem thì biết rằng đây không phải là hỏa đao hỏa thạch của mình cho mụ mượn lúc nãy, liền lớn tiếng hỏi: “Hỏa đao hỏa thạch của ta đâu?” Nhưng câu nói vừa ra khỏi miệng, bất giác gã bật cười nghĩ thầm: “Té ra mình cũng lẩm cẩm nốt. Mụ này đã câm điếc thì mình còn quát hỏi làm chi?”

Lúc này Mộc Uyển Thanh cũng chạy ra, lấy đồ đánh lửa đưa cho Ba Thiên Thạch, nói: “Ba huynh muốn bật lửa ư?” Ba Thiên Thạch đáp: “Mụ già này thật là cổ quái. Cây đèn dầu này cứ châm lên lại tắt, tắt rồi lại châm, quấy nhiễu đến nửa đêm rồi.” Gã nói xong, cầm lấy hỏa đao hỏa thạch của Mộc Uyển Thanh đánh lửa lên, châm vào ngọn đèn dầu. Mụ già có vẻ thỏa mãn, nhìn ngọn đèn cười hề hề. Ba Thiên Thạch nói: “Mộc cô nương! Đi đường mệt nhọc, vào nghỉ đi thôi!” Rồi gã cũng trở về phòng.

Ngờ đâu qua một lúc chừng uống cạn tuần trà, lại vang lên những tiếng lách cách. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đồng thời nhỏm dậy toan chạy ra, nhưng lại cùng sực tỉnh nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có chuyện cổ quái đến thế? Chắc là ngụy kế chi đây.”

Hai người khẽ cầm tay nhau, ra hiệu chia ra lén đến hai bên mụ già đang đứng bên cây đèn dầu. Lúc toan nhảy xổ vào, đột nhiên mũi ngửi thấy mùi u hương man mác, hình như đó là Mộc Uyển Thanh đang định đánh lửa. Hai người vội thu thế lại, rồi Ba Thiên Thạch hỏi: “Mộc cô nương! Có phải cô đấy không?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Phải rồi! Muội xem chừng nơi này có điều khác lạ, muốn thắp lửa lên xem xét.”

Ba Thiên Thạch nói: “Để tại hạ đánh lửa.” Ngờ đâu gã gõ luôn mấy cái mà không thấy lửa cháy, liền cả kinh nói: “Đồ đánh lửa này không dùng được. Mộc cô nương! Mụ già đã tráo mất hỏa đao hỏa thạch của tại hạ rồi!” Chu Đan Thần nói: “Chúng ta phải mau mau đi kiếm, đừng để mụ chạy thoát.” Mộc Uyển Thanh chạy xuống bếp, còn Ba Chu hai gã chạy ra khỏi khu nhà gỗ, nhưng chẳng ai thấy mụ già đâu hết. Ba Thiên Thạch vội nói: “Đừng đi xa nữa! Lúc này quan trọng nhất là phải bảo vệ công tử.”

Hai người quay về căn nhà gỗ. Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, Chung Linh nghe động đều đã dậy cả rồi.

Ba Thiên Thạch hỏi: “Ai có hỏa đao hỏa thạch không? Hãy thắp đèn lên rồi sẽ bàn.” Bỗng Vương Ngữ Yên và Chung Linh đồng thanh la lên: “Hỏa đao hỏa thạch của muội đã cho mụ già mượn mất rồi!” Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cũng la thầm: “Mình đã đề phòng từng chút, không ngờ còn mắc kế của địch.” Đoàn Dự lấy đồ đánh lửa trong mình ra, gõ mấy cái cũng không cháy. Chu Đan Thần hỏi: “Công tử! Mụ già có mượn hỏa dao hỏa thạch của công tử không?” Đoàn Dự đáp: “Trước khi nấu cơm, mụ đã mượn rồi trả lại ngay.” Chu Đan Thần nói: “Nếu thế thì mụ đánh tráo mất rồi.”

Một lúc lâu, mọi người không ai lên tiếng. Trong bóng tối chỉ nghe dế kêu ra rả, đêm nay là đêm nguyệt tận, không có trăng sao. Sáu người ngồi quây quần với nhau, chỉ nhìn thấy bóng lờ mờ của người ngồi bên cạnh. Ai nấy đều hồi hộp, chờ đợi hiểm họa sắp xảy ra. Từ lúc Đoàn Dự thêm chữ vào bức họa, lão già họ Giả ân cần đối đãi, sáu người này tựa như đã bị che mắt, không ai tự chủ được, rồi hoang mang không biết gì nữa. Ai cũng biết kẻ địch âm thầm tính kế hại mình, chúng đã dùng mưu kế thâm hiểm cố sao cho bọn mình không thắp đèn lên được, chắc là để dễ thi hành mưu kế trong bóng tối. Mọi người đều nghĩ: “Nếu lúc này kẻ địch lén lút xuất hiện trong bóng tối thì thật là trở tay không kịp.”

Mộc Uyển Thanh cất tiếng nói: “Mụ già ấy lấy mất hỏa đao hỏa thạch của chúng ta, chắc dụng ý là để chúng ta không thể đốt được đèn, bọn chúng thi hành độc kế trong bóng tối.” Chung Linh đột nhiên la lớn: “Muội chỉ sợ bọn chúng ở trong bóng tối mà liệng rắn rết hay nhện độc ra.” Ba Thiên Thạch kinh hãi nói: “Chuyện này quả là đáng lo. Trong bóng tối mà chúng dùng những động vật nhỏ bé để tập kích, thì thật là khó đề phòng.” Đoàn Dự nói: “Vậy chúng ta lại ra ngoài, trèo lên cây ẩn nấp.” Chu Đan Thần nói: “E rằng trên cây chúng cũng bố trí độc vật cả rồi.” Chung Linh lại thét lên một tiếng: “Úi chao!”, rồi nắm lấy cánh tay Mộc Uyển Thanh. Ba Thiên Thạch nói: “Chung cô nương đừng sợ. Chúng ta thắp đèn lên rồi sẽ tính.” Chung Linh hỏi: “Không có hỏa đao hỏa thạch thì làm sao đánh lửa?” Ba Thiên Thạch đáp: “Địch nhân có dụng ý gì, hiện ta chưa biết. Nhưng nếu chúng muốn ta không lấy đâu ra lửa, thì ta phải làm cho có lửa, chắc cũng là chuyện tốt.”

Ba Thiên Thạch nói xong, chạy xuống nhà bếp lấy hai cành cây khô đưa cho Chu Đan Thần, nói: “Chu huynh đệ! Ngươi cắt cành cây này nát ra, càng vụn càng tốt.” Chu Đan Thần vừa nghe đã hiểu ý, liền đáp: “Phải rồi! Có lý nào chúng ta ngồi bó tay chờ họ tấn công?” Gã nói xong, lấy trong bọc ra một lưỡi dao, cắt cành cây thành từng miếng nhỏ. Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, Chung Linh cũng lấy dao ra, đem cành khô cắt nghiền thành gỗ vụn. Đoàn Dự thở dài nói: “Tiếc là ta không có thần công như Khô Vinh đại sư, nội lực người truyền tới đâu là gỗ vụn cháy lên tới đó. Cả lão Cưu Ma Trí cũng có bản lĩnh này.” Thật ra thì nội lực trong người chàng hiện nay đã cao thâm hơn Khô Vinh đại sư cùng Cưu Ma Trí khi đó, chỉ vì chàng không biết cách vận dụng mà thôi.

Mấy người tiếp tục nghiền gỗ nát ra như cám, nhưng trong lòng vẫn hồi hộp không yên. Chẳng ai nói gì, cứ cố lắng tai nghe động tĩnh bên ngoài. Mọi người đều nghĩ thầm: “Mụ già kia đánh lừa lấy hết hỏa đao hỏa thạch đi, nhất định là chẳng tốt lành gì. E rằng chúng sắp phát động âm mưu đến nơi rồi.

Ba Thiên Thạch giơ tay ra sờ, thấy đống gỗ vụn đã lớn bằng cái bát ăn cơm, liền vun gọn cho cao lên, để mấy miếng giấy mồi vào trong. Gã cầm lưỡi đơn đao của mình bên tay trái, rồi mượn lưỡi đao của Chung Linh cầm ở tay phải. Hai tay gã đập hai sống đao vào nhau nghe “choang” một tiếng, lửa bắn tung tóe vào đống gỗ vụn. Tiếc rằng lửa chỉ lóe lên một cái rồi tắt ngay, chưa kịp bén vào giấy mồi. Mọi người đều than thở tiếc rẻ. Ba Thiên Thạch tiếp tục gõ hai sống dao vào nhau choang choảng, đến tiếng thứ mười thì rốt cuộc giấy mồi cũng cháy bừng lên.

Bọn Đoàn Dự lớn tiếng hoan hô, châm lửa vào đèn. Chu Đan Thần sợ ngọn đèn bị gió thổi tắt, liền tìm trong bếp và các phòng hai bên, có bao nhiêu đèn lấy hết ra thắp lên. Ánh lửa vàng khè, chập chờn soi rõ mặt mọi người, khói bốc lên nhiều quá làm cho khó thở. Nhưng mọi người đã tốn rất nhiều công phu mới thắp được lửa lên, tinh thần đều phấn khởi, chẳng khác nào đã thắng được một keo.

Gian nhà gỗ này rất thô sơ, gió không ngớt lùa qua vô số khe hở thổi vào trong. Sáu người chú mục đề phòng, cầm sẵn khí giới trong tay mà nghe ngóng. Nhưng chỉ có gió thổi rì rào, côn trùng kêu ra rả, ngoài ra không có gì khác lạ.

Ba Thiên Thạch thấy chưa có động tĩnh gì, bèn quan sát kỹ lại những phòng chứa gỗ, bỗng thấy trên mấy cây cột có quấn chiếu, bên ngoài dùng dây thừng buộc chặt. Lúc mọi người vừa tới thì không thấy cột bị che như thế này. Gã bèn chặt đứt dây thừng cho chiếu rơi xuống. Đoàn Dự thấy trên hai cây cột có khắc một đôi câu đối. Vế trên là: “Xuân câu thủy động trà hoa…” Vế dưới là: “Hạ cốc… sinh lệ tử hồng.” Mỗi vế đều khuyết một chữ. Đoàn Dự quay lại, thay Chu Đan Thần bỏ tiếp chiếu quấn bên ngoài hai cây cột khác, lộ ra câu đối khắc trên cột: “Thanh quần ngọc… như tương thức”; “Cửu… trà hoa mãn lộ khai.”

Đoàn Dự nói: “Dọc đường, ta đi đâu cũng thêm chữ vào, đó là phúc hay họa thì chưa biết được. Bọn chúng lấy chiếu để bọc cây cột lại, chứng tỏ không muốn cho ta thấy mấy câu đối này. Chúng ta cứ hành động ngược tại, để xem bọn chúng còn mưu kế gì nữa.” Chàng liền đưa tay ra vạch vào cột gỗ nghe sào sạo, thêm chữ “bạch” vào dưới chữ “hoa”, thêm chữ “vân” vào dưới chữ “cốc”. Câu đối thành ra: “Xuân câu thủy động trà hoa bạch”; “Hạ cốc vãn sinh lệ tử hồng.” (Dòng xuân nước gợn trà hoa trắng; Non hạ mây trôi trái vải hồng). Nội lực Đoàn Dự rất thâm hậu, chỉ lực của chàng đi tới đâu, gỗ vụn rớt xuống lả tả tới đó. Chung Linh thích quá vỗ tay cười vang nói: “Nếu sớm biết như vậy, thì lúc nãy huynh chỉ cần vạch tay vào gỗ mấy cái là được vô số gỗ vụn, đỡ mất bao nhiêu thì giờ.”

Lại thấy Đoàn Dự thêm vào chỗ khuyết ở bên này, rồi ngâm: Thanh quần ngọc diện như tương thức; Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai. (Quần xanh vóc ngọc dường quen mặt; Tháng chín hoa trà nở rợp sân). Chàng lắc lư cái đầu vừa ngâm thơ, vừa liếc mắt nhìn. Mặt Vương Ngữ Yên bỗng ửng hồng như nắng sớm, nũng nịu quay mặt đi.

Chung Linh nói: “Không biết những cây cột này làm bằng gỗ gì mà thơm quá!” Mọi người hít mạnh vào, quả nhiên thấy gỗ vụn của ngón tay Đoàn Dự vạch ra có mùi thơm phưng phức, giống như hoa quế mà không phải hoa quế, tựa như hoa hồng mà không phải hoa hồng. Đoàn Dự cũng lên tiếng: “Thơm quá!” Mùi hương mỗi lúc một nồng nàn, ngửi vào thấy trong lòng khoan khoái, tinh thần phấn khởi.

Chu Đan Thần chợt biến sắc nói: “Hỏng bét! E rằng mùi hương này có chất độc, các vị nên bịt mũi lại.” Mọi người chợt tỉnh ngộ, rồi lấy tay hoặc vạt áo bịt mũi. Nhưng lúc này ai nấy đã hít mùi thơm vào khá nhiều, nếu là hơi độc thì chắc đã đầu nhức mắt hoa, bụng dạ nôn nao. Thế mà bây giờ chẳng ai thấy khó chịu chút nào.

Qua một lúc lâu, mọi người bịt mũi mãi khó chịu quá, không nhịn được nữa, phải mở hé ra hô hấp, mà vẫn không thấy gì khác lạ. Ai nấy liền từ từ buông tay ra không bịt mũi nữa, cùng nhau bàn bạc, nhưng đoán không ra được dụng ý của kẻ thù.

Lại một lúc nữa, Mộc Uyển Thanh bỗng nghe thấy tiếng vù vù, bèn giật mình kêu lên: “Trời ơi! Chất độc phát tác rồi. Trong tai muội có âm thanh kỳ quái.” Chung Linh nói: “Muội cũng thế.” Ba Thiên Thạch nói: “Đó không phải là âm thanh quái dị trong tai, mà hình như có một đàn ong lớn đang bay tới.” Quả nhiên, tiếng vo vo mỗi lúc một lớn, tựa hồ có hàng ngàn hàng vạn con ong đang từ bốn phương tám hướng bay tới.

Nếu là ong thì chẳng dáng sợ lắm, nhưng ai cũng chưa từng nghe thấy âm thanh kỳ quái này bao giờ, nên đều nghi ngờ không biết có phải là tiếng của ong thật không. Mọi người nhớn nhác mà không biết nên làm thế nào. Tiếng vo vo mỗi lúc một gần, tưởng như một bầy yêu ma quỷ quái đang kêu gào bay đến để cắn người. Chung Linh nắm lấy cổ tay Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên níu lấy Đoàn Dự, mọi người tim dập thình thình. Tuy họ đều biết có địch nhân đang rình trong bóng tối, nhưng không ngờ trước khi địch nhân tấn công, lại tạo ra những thanh âm khủng khiếp như vậy.

Đột nhiên mọi người nghe “cách” một tiếng, một vật nhỏ đụng vào vách ván của gian nhà gỗ. Những tiếng “lách cách” tiếp tục vang lên không ngớt, chẳng hiểu có vô số vật gì đang lao vào vách. Mộc Uyển Thanh và Chung Linh đồng thanh la lên: “Đúng là ong rồi!” Ba Thiên Thạch vội chạy ra đóng cửa sổ. Bỗng bên ngoài lại có tiếng ngựa hí lên rất thê thảm, cùng tiếng vó ngựa giẫm đạp loạn xạ. Chung Linh nói: “Ong đốt ngựa!” Chu Đan Thần nói: “Để tại hạ ra cắt dây cương cho ngựa chạy đi!” Gã bèn xé vạt áo trường bào bịt lên đầu, tay vừa kéo then cửa thì hàng ngàn hàng vạn con ong ùa vào trong nhà như một trận cuồng phong. Chung Linh, và Vương Ngữ Yên thét lên kinh hoàng.

Ba Thiên Thạch vội kéo Chu Đan Thần vào, rồi đóng cửa lại. Nhưng trong nhà đã đầy ong bay đi tìm mọi người để đốt. Chỉ trong khoảnh khắc, đầu mặt tay chân mỗi người đều bị khoảng chục con ong bâu lại. Chu Đan Thần mở quạt ra quạt loạn lên. Ba Thiên Thạch cũng bứt đứt vạt áo, phất thật mạnh. Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên và Chung Linh bốn người cũng cố nhịn đau để xua ong.

Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh vận công lực đến tột độ để động thủ, qua một lúc thì ong trong nhà chết dần, chỉ còn khoảng hai ba chục con. Nhưng lạ thay, loại ong này tựa như thiêu thân nhảy vào lửa, cố sống cố chết xông vào để đốt người. Hồi lâu, mọi người mới hạ hết bầy ong trong nhà, thì Chung Linh và Vương Ngữ Yên đã đau đến chảy nước mắt. Tiếng vo ve bên ngoài vẫn rất dữ dội, tiếng va đập vào vách nhà đồm độp như mưa rào, không biết là mấy ngàn mấy vạn con đang đột kích bên ngoài. Mọi người kinh hãi thất sắc, quên hết cả đau đớn, vội vàng xé áo đút nút hết những khe hở trên vách.

Trên thân trên mặt sáu người nhiều chỗ sưng vù, đỏ tía lên, trông rất khủng khiếp. Đoàn Dự nói: “May là còn căn nhà gỗ này để dung thân. Nếu ở bên ngoài thì hàng ngàn hàng vạn con ong tha hồ mà đốt, chúng mình chỉ còn cách chờ chết.” Mộc Uyển Thanh lại lên tiếng: “Đàn ong này là do địch nhân xua đến, khi nào chúng lại chịu thôi? Chẳng lẽ chúng không biết phá căn nhà này đi hay sao?” Chung Linh kinh hãi la lên: “Mộc tỉ tỉ! Tỉ tỉ bảo chúng sẽ phá gian nhà gỗ này ư?”

Mộc Uyển Thanh chưa kịp đáp, đã nghe đánh “sầm” một tiếng! Một tảng đá lớn được ném lên nóc nhà, may mà chưa thủng. Nhưng lại có hai tảng đá nữa ném lên, xuyên thủng nóc nhà rớt xuống, đèn lửa đều tắt phụt.

Đoàn Dự vội ôm Vương Ngữ Yên vào trong lòng, cố che đầu che mặt cho nàng. Tiếng vo ve vẫn nổi lên đinh tai nhức óc. Mọi người biết rằng xua đuổi đàn ong cũng chỉ vô ích, chỉ đành lấy áo trùm lên che mặt. Trong khoảnh khắc, mọi người bị muôn ngàn mũi ong châm, rồi sáu người cùng ngất đi, không còn biết gì nữa.

***

Đoàn Dự đã nuốt hai con Chu Cáp, bách độc không xâm nhập vào cơ thể được, nhưng sau khi chàng bị hàng trăm con ong đốt cũng nhức nhối khó chịu mà mê đi. Có điều nội lực chàng cực kỳ thâm hậu, nên hồi tỉnh lại trước tiên. Vừa tỉnh lại là chàng nhớ ngay đến Vương Ngữ Yên, đưa tay tìm thì phát giác nàng không còn trong lòng mình nữa. Chàng mở mắt ra nhìn, chỉ thấy tối om, tay chân đều bị trói chặt, mắt cũng bị người ta lấy vải đen bịt lại. Trong miệng chàng bị nhét một hạt vải lớn nên hít thở rất khó khăn, và dĩ nhiên không thể nói được. Những chỗ bị ong đốt hãy còn đau đớn vô cùng. Chàng cảm giác được là mình đang nằm dưới đất, nhưng không biết đây là đâu, và ngất đi đã bao lâu.

Giữa lúc chàng đang hoang mang thì chợt nghe thanh âm một thiếu phụ vang lên: “Ta phí bao nhiêu tâm lực là để tróc nã con chó già họ Đoàn nước Đại Lý, sao ngươi lại bắt con chó non này về để làm gì?” Đoàn Dự nghe thanh âm rất quen tai, nhưng không nhớ được là ai.

Lại nghe thanh âm một bà già đáp lại: “Tiểu tì nhất thiết theo lời dặn bảo của tiểu thư, không dám sai trái chút nào.” Tiếng thiếu phụ kia lại vang lên: “Hừ! Ta thấy trong vụ này nhất định có điều gì khác lạ. Con chó già kia từ nước Tây Hạ đi xuống phía Nam, phải qua đất Tây Xuyên rồi đến đây. Vì sao nửa chừng hắn lại rẽ sang phía Đông? Thế là rượu thuốc chúng ta bố trí ở dọc đường, bọn chó non này đã uống hết.”

Đoàn Dự hiểu ngay thiếu phụ đó nói “con chó già” là ám chỉ Đoàn Chính Thuần phụ thân chàng, mà “con chó non” tức là chàng. Tiếng thiếu phụ và mụ già nói với nhau tựa như chỉ cách một lần vách ván, dĩ nhiên là họ ở trong gian nhà bên cạnh. Mụ già lại nói: “Đoàn Vương gia lần này đến Trung Nguyên chẳng bao lâu, dọc đường lại rẽ về hướng Đông…” Thiếu phụ tức tối ngắt lời: “Ngươi… còn gọi hắn bằng Đoàn Vương gia nữa ư!” Mụ già đáp: “Vâng! Trước kia… tiểu thư bảo tiểu tì gọi y là Đoàn công tử, nhưng hiện nay tuổi y đã cao…” Thiếu phụ quát lên: “Ngươi không được nói nữa!” Mụ già “Vâng” một tiếng rồi im lặng. Thiếu phụ khẽ buông một tiếng thở dài, nhắc lại: “Hiện nay y… tuổi đã cao rồi!…” Thanh âm của mụ ẩn chứa một nỗi niềm luyến tiếc.

Lúc này Đoàn Dự chợt hiểu ra, thầm nghĩ: “Mình cứ tưởng là ai, té ra lại là một cô bạn cũ của gia gia. Mụ này tức giận gia gia, chắc chẳng qua là chuyện ghen tuông. Phải rồi! Mụ sắp xếp đàn ong là định bắt gia gia, nào ngờ bắt nhầm phải bọn mình. Như thế thì dĩ nhiên mụ không hạ độc thủ với bọn mình. Không hiểu vị a di này là ai? Mình nhất định đã nghe qua thanh âm mụ rồi.”

Thiếu phụ lại lên tiếng: “Các quán xá, sơn trang của chúng ta ở khắp nơi, treo những bức họa hoặc bút thiếp thiếu chữ thiếu nét, ngươi nói là con chó non này đều thêm vào đúng cả, ta không thể tin được. Tại sao những câu mà con chó già thuộc lòng đều được con chó non ghi nhớ hết? Không thể có chuyện như vậy được.” Mụ già lên tiếng đáp: “Những câu thơ của cha thích viết, mà con học thuộc lòng thì có chi là lạ?” Thiếu phụ tức giận nói: “Con tiện tì kia làm sao mà sinh con thông minh đến thế được? Ta nhất định không tin.”

Đoàn Dự nghe mụ nhục mạ đến mẫu thân mình, bất giác cả giận không dằn lòng được nữa, toan lên tiếng. Nhưng chàng vừa máy môi đã vấp phải hạt vải trong miệng, làm sao phát ra thanh âm được?

Bỗng nghe mụ già cất lời khuyên can: “Tiểu thư! Chuyện này đã lâu lắm rồi, tiểu thư còn để dạ làm gì? Huống chi chúng ta đối đãi với chàng thiếu niên họ Đoàn này thật là quá đáng. Y chẳng phải là con của Đoàn công tử sao? Đàn Túy Nhân Phong của mình đã đốt y đau đớn lắm rồi, cũng đủ để trừng phạt y rồi!” Thiếu phụ thét lên: “Ngươi nói là tha thằng lỏi họ Đoàn ư? Hừ! Hừ! Ta phải xẻo từng miếng thịt hắn rồi mới buông tha.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Gia gia mình đắc tội với mụ, chứ mình có làm gì nên tội mà mụ lại căm hận cả mình? Hóa ra giống ong kia tên là Túy Nhân Phong, không hiểu mụ tìm được ở đâu mà nhiều đến thế, mà sao lại sai được chúng đuổi theo bọn ta? Mụ là ai? Nhất định không phải là Chung phu nhân, thanh âm của hai người hoàn toàn không giống nhau.”

Bỗng có tiếng một chàng trai: “Cô mẫu! Điệt nhi xin bái kiến!” Đoàn Dự giật mình kinh hãi, không còn nghi ngờ gì nữa, rõ ràng đây là thanh âm của Mộ Dung Phục. Thiếu phụ mà gã kêu bằng cô mẫu, thì dĩ nhiên là Vương phu nhân ở Mạn Đà Sơn Trang trong vùng Cô Tô. Bà là mẫu thân Vương Ngữ Yên, và là nhạc mẫu tương lai của mình. Đoàn Dự tưởng chừng như bị mười lăm gáo nước lạnh dội vào người, bảy gáo trên, tám gáo dưới, trong lòng bối rối vô cùng. Cảnh tượng lúc chàng đến Mạn Đà Sơn Trang lần trước lại hiện ra trước mắt.

***

Hoa trà còn có tên là Mạn Đà hoa, thiên hạ đều cho Đại Lý là nơi trồng hoa trà nổi tiếng nhất, hoa trà ở Cô Tô thì chẳng lấy gì làm quý. Mạn Đà Sơn Trang cũng trồng rất nhiều hoa trà, song rất ít giống quý, lại trồng không đúng phương pháp, hoa vừa nhỏ vừa tàn tạ. Khi đó chàng không hiểu tại sao bà ta đặt tên trang viện là Mạn Đà Sơn Trang, mà trong trang ngoài sơn trà ra, không trồng một thứ hoa cỏ nào khác.

Theo lề luật Mạn Đà Sơn Trang thì bất luận chàng trai nào tự tiện tới đó đều bị chặt mất đôi chân. Chàng còn nhớ đến câu Vương phu nhân nói: “Hễ người Đại Lý, nhất là người họ Đoàn, mà gặp tay ta liền bị chôn sống.” Hôm đó có một tên đệ tử phái Vô Lượng Kiếm, không hiểu sao bị Vương phu nhân bắt được, không phải là người Đại Lý, chỉ vì nhà cách nước Đại Lý chưa tới bốn trăm dặm mà cũng bị chôn sống.

Ngày đó Vương phu nhân còn bắt được một chàng thiếu niên công tử, ra lệnh cho gã quay về giết vợ để kết hôn cùng một vị cô nương họ Miêu. Chàng công tử kia không thuận, phu nhân bèn dọa giết, buộc gã phải nhận lời.

Đoàn Dự nhớ rõ hôm ấy Vương phu nhân đã dặn một tên tì nữ: “Mi áp giải gã về thành Cô Tô, phải chính mắt nhìn thấy gã ra tay giết vợ, cùng Miêu cô nương thành thân rồi hãy về đây phục mệnh.” Gã công tử kia năn nỉ: “Xin phu nhân mở lượng từ bi. Phu nhân cùng vợ chồng tiểu nhân không thù không oán, lại không quen biết Miêu cô nương. Tiểu nhân cũng chưa từng quen biết phu nhân, hà tất phu nhân phải bắt tiểu nhân giết vợ để lấy người khác.” Vương phu nhân liền bảo: “Mi đã có vợ rồi, sao còn đi dùng lời ngon ngọt để tán tỉnh các cô gái khác? Ta không biết thì thôi, một khi đã biết ra đều xử theo đường lối này.” Cứ theo bà ta nói, thì chỉ một mình tì nữ Tiểu Thúy đã xử đến bảy vụ như thế, ở những nơi Thường Thục, Đơn Dương, Vô Tích, Gia Hưng.

Đoàn Dự là người nước Đại Lý, lại ở họ Đoàn, may mà biết cách trồng hoa trà nên lần trước tới đó mới được Vương phu nhân tha chết, lại được mời lên điện Cẩm Vân thiết yến khoản đãi. Lúc chàng cùng phu nhân đàm luận về các thứ sơn trà, đã đề cập đến một thứ hoa trà cánh trắng mà có một tia đỏ, gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Chàng nói: “Thế nhưng nếu cánh có nhiều tia đỏ thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều. Phu nhân thử nghĩ coi: đã là mỹ nhân thì phải thuần nhã ôn nhu, trên mặt thỉnh thoảng bị sướt một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình cào phải mặt. Hoặc giả không phải do mình thì do chơi đùa với con anh vũ, bị vuốt chim cào trúng, thành thử quầng mầu xanh trên cánh hoa kia chính là lông chim vương phải. Còn như khắp mặt sây sát, tươm máu hẳn nàng con gái đẹp kia đã cùng người gây sự đánh nhau thì còn đâu là vẻ mỹ nhân.” Câu nói đó đã làm cho Vương phu nhân tức giận, lớn tiếng mắng: “Ngươi nghe ai sai khiến đến đây nói hươu nói vượn để nhục mạ ta? Ai bảo mi đàn bà học võ công là mất vẻ mỹ miều? Nhuần nhã ôn nhu thì đã hơn ai?” Thế rồi chàng bị đuổi khỏi tiệc rượu, suýt nữa mất mạng.

Đối với những sự việc này, khi đó chàng chỉ cảm thấy Vương phu nhân có những hành động lạ đời, trái với thường tình, ngoài bốn chữ “bất chấp lý lẽ” ra, thì không còn lời nào có thể hình dung được. Bây giờ chàng đã biết thiếu phụ ở phòng bên chính là Vương phu nhân, mọi điều đều không đáng ngạc nhiên nữa. Bà là người tình cũ của gia gia mình, chẳng trách bà quí hoa trà như tính mạng, nhưng đối với họ Đoàn nước Đại Lý thì bà căm hận thấu xương. Vương phu nhân yêu thích hoa trà, có thể là vì thời gian bà nồng ấm với gia gia, đã có những kỷ niệm liên quan đến hoa trà. Mỗi khi bà bắt được người Đại Lý hoặc người họ Đoàn đều đem chôn sống, dĩ nhiên vì gia gia là người Đại Lý họ Đoàn đã bỏ rơi bà, nên bà ôm hận trong lòng mà giận cá chém thớt. Bà ép buộc bọn thanh niên công tử lăng nhăng phải giết vợ để kết hôn với người tình, cũng là biểu lộ mối ẩn ức trong thâm tâm, mong cho gia gia mình giết chính thất để lấy bà ta làm vợ. Khi đó chàng vô ý mở miệng bình phẩm nữ nhân học võ công là mất vẻ mỹ miều, cũng làm bà ta giận dữ ngay tức khắc, không chừng vì xưa kia bà cùng gia gia mình tranh luận, bà nóng tính động thủ ngay, gia gia trách móc rồi hai người chia tay nhau vì lẽ đó.

***

Đoàn Dự đã giải thích được mối hoài nghi, nhưng trong lòng chàng vẫn cảm thấy nặng trĩu như đeo phiến đá ngàn cân, nhưng không hiểu duyên cớ vì đâu, hay nói đúng hơn là chàng không dám hiểu. Chàng nghĩ tới phụ thân mình cùng mẫu thân Vương Ngữ Yên ngày xưa đã có mối tư tình, thì trong thâm tâm nổi lên một mối lo âu khôn tả, không dám nghĩ tới những hình phạt đáng sợ có thể đến với mình.

Bỗng nghe Vương phu nhân nói: “Hiền điệt đấy ư? Hay lắm! Hiền điệt mưu đồ khôi phục Đại Yên để làm hoàng đế, vậy đã sắp lên ngôi đại bảo chưa?” Giọng nói của bà đầy vẻ mỉa mai. Mộ Dung Phục trả lời rất nghiêm trang: “Đó là di chí của tổ tiên. Nhưng điệt nhi bất tài, bao nhiêu năm bôn tẩu giang hồ mà vẫn chẳng nên công cán gì. Điệt nhi đến đây để nhờ cô mẫu chỉ điểm cho.”

Vương phu nhân cười mỉa đáp: “Ta có gì hay mà chỉ điểm? Họ Vương là họ Vương, họ Mộ Dung là họ Mộ Dung. Ta là họ Vương, có liên can gì tới giấc mộng làm hoàng đế của nhà Mộ Dung các ngươi? Ta không cho ngươi đến Mạn Đà Sơn Trang, lại không cho Ngữ Yên gặp ngươi, chỉ vì ta không muốn dính líu đến nhà Mộ Dung. Còn Ngữ Yên đâu? Ngươi đã đưa nó đi đâu?”

“Ngữ Yên đâu?”, ba chữ này giống như ba tiếng sét đánh bên tai Đoàn Dự. Chàng nhớ lại lúc bị ong đốt thì mình đang ôm nàng ở trong lòng, mà không biết bây giờ nàng ở đâu rồi. Nghe giọng nói của phu nhân thì dường như bà không biết thật.

Mộ Dung Phục đáp:”Biểu muội đi đâu thì điệt nhi biết thế nào được? Biểu muội quấn quít với Đoàn công tử hước Đại Lý, không chừng hai bên đã bái thiên địa, kết nghĩa phu thê rồi.” Vương phu nhân run lên hỏi: “Ngươi… nói gì mà thối thế?” Rồi bà dập bàn đánh “binh” một tiếng, tức giận quát: “Sao ngươi không trông nom cho nó? Nó là một đứa con gái nhỏ tuổi, mà ngươi để nó chạy loạn khắp giang hồ, thế ra ngươi không nghĩ đến tình hiểu huynh biểu muội nữa ư?”

Mộ Dung Phục hỏi lại: “Sao cô mẫu lại nổi giận vô lý thế? Cô mẫu sợ điệt nhi lấy biểu muội làm vợ, sợ biểu muội thành ra dâu con nhà Mộ Dung rồi cùng điệt nhi theo đuổi giấc mộng làm hoàng đế. Bây giờ thì tốt rồi, biểu muội lấy Đoàn công tử nước Đại Lý, sau này đường đường chính chính trở thành hoàng hậu Đại Lý, há chẳng phải là chuyện tốt ư?”

Vương phu nhân lại đập bàn mạnh hờn, quát lớn: “Đừng nói nhảm! Cái gì mà là chuyện tốt? Ta nhất định không cho phép.”

Đoàn Dự ở phòng bên cạnh, nghe mấy chữ “nhất định không cho phép” thì trong lòng lo lắng. Chàng liên hồi kêu khổ: ” Khổ rồi! Khổ rồi! Mình cùng Vương Ngữ Yên sao mà gặp nhiều nỗi gian nan đến thế? Mẫu thân nàng không chịu thì biết làm thế nào?”

Bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng người nói: “Sai bét, sai bét! Vương cô nương cùng Đoàn công tử là một đôi do trời sắp sẵn, phu nhân có nhất định không cho phép, cũng không được đâu.” Vương phu nhân tức minh quát hỏi: “Bao Bất Đồng! Ai cho ngươi xen vào nói chuyện với ta? Thật chẳng còn ra thể thống gì nữa. Nếu ngươi dám cãi lại ta, thì ta kêu người giết con gái ngươi đó.” Bao Bất Đồng là người trời không sợ đất không sợ, nhưng nghe Vương phu nhân nổi giận quát mắng, gã lập tức câm miệng không dám nói gì nữa.

Đoàn Dự lẩm bẩm: “Bao tam ca! Bao tam thúc! Bao tam gia! Bao tam thái gia! Tam ca cãi lý tiếp với phu nhân đi. Phu nhân nói chuyện vô lý, chỉ có tam ca là bậc anh hùng hảo hán mới dám tranh luận với phu nhân.” Ngờ đâu, bên ngoài cửa sổ vẫn im lăng như tờ. Không phải Bao Bất Đồng sợ Vương phu nhân sai người giết con gái mình, mà vì mấy đời nhà gã tùy tùng họ Mộ Dung, nên gã vẫn giữ lòng trung thành. Dù sao, Vương phu nhân cũng là một trong những vị chủ nhân của gã, nên gã không dám nổi nóng để lỗi đạo với người trên.

Vương phu nhân thấy Bao Bất Đồng không dám cãi lại thì cũng hơi nguôi giận, liền hỏi Mộ Dung Phục: “Hiền điệt! Ngươi tìm ta để yêu cầu chuyện gì?” Mộ Dung Phục cười đáp: “Cô mẫu! Điệt nhi là chỗ thân tình cốt nhục, đến vấn an cô mẫu không được hay sao? Chẳng lẽ đến là phải yêu cầu chuyện gì sao?”

Vương phu nhân cười khanh khách rồi nói: “Ngươi cũng có lương tâm đấy, còn có lòng nhớ đến cô mẫu. Nhưng giả tỉ ngươi đã sớm nghĩ đến cô mẫu thì đâu đến nỗi xảy ra những việc thê thảm như ngày nay?” Mộ Dung Phục cười đáp: “Cô mẫu có điều gì chẳng được vui lòng, xin cứ cho điệt nhi hay. Điệt nhi sẽ làm cho cô mẫu được như ý.” Vương phu nhân nói: “Chà chà! Mấy năm nay không gặp, ngươi đã học đâu được những lời sáo ngữ đó?” Mộ Dung Phục nói: “Sao cô mẫu lại bảo là sáo ngữ? Chuyện của người ngoài thì điệt nhi khó mà đoán trúng, nhưng cô mẫu là tình cốt nhục, điệt nhi đoán tâm sự cô mẫu thì dù không trúng được cả mười, cũng phải được đến tám chín.” Vương phu nhân hỏi: “Vậy thì ngươi đoán thử xem? Nếu nói hươu nói vượn, ta đánh đòn thì đừng có trách.”

Mộ Dung Phục cất tiếng ngâm: Quần xanh vóc ngọc dường quen mặt; Tháng chín hoa trà nở rợp sân.

Vương phu nhân giật minh kinh hãi, run lên hỏi: “Ngươi… sao ngươi lại biết? Ngươi đã vào căn nhà gỗ giữa đồng cỏ rồi ư?” Mộ Dung Phục đáp: “Cô mẫu bất tất phải hỏi sao điệt nhi lại biết. Chỉ xin cô mẫu nói thực tình, có muốn gặp người đó không?” Vương phu nhân ngập ngừng: “Gặp… người nào?” Giọng nói bà ta yếu ớt, tỏ ý khẩn cầu, không còn nghiêm khắc như trước nữa. Mộ Dung Phục nói: “Theo điệt nhi đoán thì cô mẫu muốn gặp con người đẹp như: “Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng; Non hạ mây trôi trái vải hồng.”

Vương phu nhân run lên hỏi: “Làm thế nào để gặp được y?” Mộ Dung Phục nói: “Cô mẫu phí bao nhiêu tâm huyết định bắt cho được người này, chẳng ngờ đi sai một nước cờ để y trốn mất. Điệt nhi nghĩ rằng muốn gặp y cũng chẳng khó gì, nhưng có gặp cũng chưa đủ, mà phải bắt y ở liền bên cạnh để luôn luôn phục thị cô mẫu. Cô mẫu bắt y làm thế nào y cũng phải tuân theo, dù là việc vẽ mày, thoa phấn.” Mộ Dung Phục nói ra chiều bỡn cợt, nhưng Vương phu nhân lại không cho thế là ngỗ ngược. Bà thở dài nói: “Ta đã bố trí chu đáo đến thế mà y còn lọt lưới được. Bây giờ ta không còn cách nào nữa.”

Mộ Dung Phục đáp: “Điệt nhi đã biết chỗ y ở rồi. Cô mẫu mà tin điệt nhi, thì nói rõ kế hoạch cho điệt nhi nghe. Không chừng điệt nhi có ý kiến hay.”

Vương phu nhân nói: “Dù sao chúng ta cũng là người một nhà, lẽ nào lại không tin nhau? Kế hoạch ta an bài là Túy Nhân Phong. Ta đã nuôi trong Mạn Đà Sơn Trang mấy trăm tổ ong. Trong sơn trang của ta, ngoài hoa trà không có loại hoa gì khác nữa. Sơn trang cách đất liền rất xa, ong trên đảo cũng không bay đi nơi khác để lấy mật.” Mộ Dung Phục nói: “Đúng thế! Loại Túy Nhân Phong này chỉ hút mật hoa trà, không quen loại hoa nào khác.” Vương phu nhân nói: “Nuôi loại ong này, ta đã phải tốn mười mấy năm tâm huyết, dần dần trộn thêm mê dược vào thức ăn của ong, sau đó lại thêm một loại thuốc đặc biệt. Người nào mà bị Túy Nhân Phong đốt là ngã liền, và mê đi bốn năm ngày không biết gì nữa.” Đoàn Dự giật mình tự hỏi: “Chẳng lẽ mình đã hôn mê tới bốn năm ngày rồi ư?”

Mộ Dung Phục nói: “Mưu kế của cô mẫu quả là phi thường! Không hiểu cô mẫu làm thế nào mà sai khiến đàn ong đi đốt người được?” Vương phu nhân đáp: “Cần phải bỏ thuốc vào đồ ăn của họ. Thứ thuốc này tuy không màu sắc, không mùi vị, nhưng lại hơi đắng một chút, cho nên không thể cho họ ăn nhiều một lúc được. Ngươi thử nghĩ xem, thằng cha kia tinh khôn như quỷ, thủ hạ y cũng toàn những tay thông minh tài trí. Muốn dùng thuốc mê, thuốc độc với họ thì chắc chắn là không được. Ta nghĩ ra kế hoạch này, rồi phái người cung cấp đồ ăn cho họ ở dọc dường, và ngấm ngầm cho chất thuốc không độc ấy vào…”

Đoàn Dự nghe tới đây liền tỉnh ngộ: “Té ra dọc dường mình gặp bao nhiêu bức họa cùng bút thiếp thiếu chữ thiếu nét, đều là do Vương phu nhân bày ra để dẫn dụ gia gia mình điền vào. Mình điền được đúng hết, nên bọn thuộc hạ của Vương phu nhân tưởng mình là Đoàn Vương gia nước Đại Lý, liền bỏ thuốc vào rượu và cơm cho bọn mình ăn uống.”

Vương phu nhân lại nói: “Không ngờ âm dương trắc trở, thằng cha kìa lại đi ngả khác mất, chỉ gặp thằng lỏi này. Không hiểu nó là ma quỷ hay sao, mà bao nhiêu thi từ ca phú của cha nó, nó đều thuộc lòng hết. Dĩ nhiên nó cũng là giống phiêu lưu hiếu sắc, buông tuồng lãng mạn như phụ thân. Thằng quỷ con dọc đường điền được đúng hết những chỗ thiếu chữ mất nét. Nó thay cha nó ăn những thức ăn có pha thuốc, rồi sau cùng đến căn nhà gỗ giữa cánh đồng cỏ. Những đèn lửa trong nhà này đều có đặt dược liệu. Trong cột cũng có giấu chất thuốc, hễ có người đụng vào cột là mùi hương xông ra. Túy Nhân Phong ngửi thấy mùi thơm này liền kéo đến. Trời ơi! Kế hoạch của ta chu đáo đến thế, mà lại bắt lầm người! Thế là thằng quỷ con này làm hỏng việc của ta! Hừ! Ta không đem chặt nó ra làm mấy chục khúc, thì không hả được mối căm tức này.”

Đoàn Dự nghe giọng nói của Vương phu nhân cực kỳ oán độc, thì lo lắng nghĩ thầm: “Cạm bẫy của Vương phu nhân thật là kín đáo. Mụ giấu thuốc bột vào trong cột nhà, lại tìm cách dụ mình điền chữ vào câu đối, khoét cột để thuốc tung ra. Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự! Tự ngươi cứ từng bước, từng bước chui đầu vào cạm bẫy của người ta, thật là hồ đồ ngu dại.” Nhưng chàng lại nghĩ: “Nhờ ta điền được đầy đủ chữ khuyết thì bọn thủ hạ Vương phu nhân mới nhầm ta là gia gia, như vậy gia gia mới thoát được hiểm nghèo. Ta hứng chịu tai họa thay gia gia, thì có gì đáng ân hận đâu, đó còn là việc cầu còn chưa được.” Chàng nghĩ thế, liền cảm thấy trong lòng thư thái, nhưng rồi lại nghĩ: “Vương phu nhân bắt được mình, đòi chặt mình ra làm mười bảy mười tám miếng. Không chừng mụ lại bắt được phụ thân, buộc phải hầu hạ, nhất nhất tuân theo mệnh lệnh. Cha con mình mỗi người chịu một cảnh đau khổ khác nhau.”

Vương phu nhân lại hằn học lên tiếng: “Ta đã sai con tì nữ này giả trang làm bà lão câm điếc để chủ trương đại cuộc. Không ngờ nó không nhớ mặt thằng cha kia, mới lầm lẫn thế này, thật là tức cười.”

Mụ già cố giải thích: “Tì nữ đã bẩm với tiểu thư rồi. Tì nữ thấy trong bọn người này không có Đoàn Vương gia, nên đã lừa gạt lấy hết hỏa đao hỏa thạch khiến họ không có gì để thắp đèn. Tì nữ cũng đã lấy chiếu quấn vào cột, che các câu đối lại, để họ không dẫn dụ đàn Túy Nhân Phong vào nhà nữa. Ngờ đâu bọn họ cứ cố chuốc vạ vào thân, cuối cùng vẫn tìm được lửa, đọc thấy câu đối.” Vương phu nhân hừ một tiếng, hậm hực nói: “Dù sao ngươi cũng là đồ bỏ.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mụ già này gạt lấy hết hỏa dao hỏa thạch, dùng chiếu che câu đối, thì ra là vì lòng tốt. Việc này thật là không ngờ được.”

Mộ Dung Phục hỏi: “Cô mẫu! Bầy Túy Nhân Phong đã đốt người rồi thì không dùng được nữa hay sao?” Vương phu nhân đáp: “Con nào đã đốt người rồi thì một lúc sau sẽ chết. Nhưng ta nuôi đến hàng ngàn hàng vạn con, bây giờ mới chết vài trăm con cũng chẳng quan hệ gì.” Mộ Dung Phục vỗ tay cười nói: “Thế thì được rồi! Bắt thằng lỏi trước, rồi bắt cha nó sau cũng chẳng hề chi. Bây giờ cô mẫu lấy mũ áo, bội ngọc trong mình thằng lỏi kia, hay là khí giới vật dụng gì cũng được, để điệt nhi đi bắt lão kia về cho cô mẫu. Lão đã trông thấy đồ vật của con mình, thì dẫn dụ đến căn nhà gỗ giữa cánh đồng cỏ chẳng có gì là khó khăn.”

Vương phu nhân “Ồ” lên một tiếng, rồi đứng dậy nói: “Hiền điệt thật là nhanh trí, thế mới biết người tuổi trẻ đầu óc minh mẫn. Cô mẫu vừa thấy kế hoạch hỏng đã sinh lòng chán nản, không tính đến nước cờ khác. Phải, phải! Y mà biết thằng con lọt vào tay mình thì phụ tử tình thâm, nhất định sẽ tìm đến cứu gã. Khi đó sẽ cho Túy Nhân Phong đốt y cũng chưa muộn.”

Mộ Dung Phục cười nói: “Đã dẫn dụ được y đến đây rồi, không dùng Túy Nhân Phong cũng chẳng sao. Cô mẫu cứ bỏ thuốc mê vào rượu, cho y uống vào ba chén thì còn sợ gì y chẳng tuân theo? Thật ra cũng chẳng cần dùng Túy Nhân Phong hay thuốc mê làm gì nữa, y nhìn thấy nhan sắc hoa dung nguyệt mạo của cô mẫu, lại còn không say bí tỉ ư?”

Vương phụ nhân hứ một tiếng, mắng luôn: “Đồ hỗn láo! Ngươi nói chuyện với cô mẫu mà dám vô lễ, không biết trên biết dưới nữa ư?” Nhưng bà nghĩ tới cảnh được cùng Đoàn Chính Thuần tương kiến, cùng ngồi ngắm hoa uống rượu thì bất giác mặt tươi hớn hở, tâm hồn rung động, lại nói: “Phải rồi! Chúng ta cứ làm theo cách ấy.”

Mộ Dung Phục hỏi lại: “Cô mẫu nghĩ lại coi, chủ ý của điệt nhi như vậy có được chăng?” Vương phu nhân cười đáp: “Nếu vụ này mà thành công, thì ta nhất định không quên hảo ý của ngươi đâu. Bước đầu là chúng ta phải điều tra con người bạc hạnh kia hiện ở đâu?” Mộ Dung Phục nói: “Điệt nhi còn biết một tin tức gây trở ngại cho vụ này.” Vương phu nhân chau mày hỏi: “Còn chỗ nào khó khăn nữa? Sao ngươi không nói ra mà cứ úp mở hoài?” Mộ Dung Phục nói: “Hiện giờ người đó đã bị kẻ khác bắt giữ rồi, tính mạng nguy trong sớm tối.”

Bỗng nghe có tiếng choang choảng, tay áo Vương phu nhân đụng vào chén trà rớt xuống đất vỡ tan. Đoàn Dự cũng giật mình kinh hãi, nếu trong miệng không có hạt vải thì chàng đã bật lên tiếng la hoảng rồi.

Vương phu nhân run lên hỏi: “Y bị ai bắt? Sao ngươi không nói cho ta biết trước? Dù sao chúng ta cũng phải tìm cách giải cứu y.” Mộ Dung Phục lắc đầu đáp: “Cô mẫu! Đối thủ là một tay võ nghệ rất cao cường, điệt nhi không phải là địch thủ của hắn. Chúng ta phải dùng trí, chứ không thể dùng sức được.” Vương phu nhân nghe giọng nói Mộ Dung Phục bình thản, dường như không có gì nguy hiểm lắm, nên cũng hơi bình tĩnh lại, hỏi dồn: “Dùng trí thế nào? Dùng trí thế nào?”

Mộ Dung Phục đáp: “Diệu kế Túy Nhân Phong của cô mẫu vẫn còn có thể dùng được. Bây giờ chỉ cần đổi mấy cột gỗ đi, viết mấy chữ vào, tỉ như: Bảo Định đế Đoàn Chính Minh, đương kim thiên tử nước Đại Lý. Khi y trông thấy, nhất định sẽ tức giận mà lấy ngón tay hủy nát đi. Thuốc bột trong cột sẽ bay ra.”

Vương phu nhân nói: “Thế thì người bắt y chắc là một kẻ muốn tranh đoạt ngôi hoàng đế nước Đại Lý, tên gọi Đoàn Diên Khánh gì gì đó phải không?” Mộ Dung Phục đáp: “Đúng thế!”

Vương phu nhân cả kinh nói: “Y… y… y lọt vào tay Đoàn Diên Khánh thì dữ nhiều lành ít, vì Đoàn Diên Khánh lúc nào cũng muốn hạ sát y. Không chừng bây giờ y đã bị hắn… giết chết rồi.”

Mộ Dung Phục cười đáp: “Xin cô mẫu yên tâm. Trong việc này còn có một điều quan trọng mà cô mẫu chưa tính tới.” Vương phu nhân hỏi: “Lại có điều gì quan trọng?” Mộ Dung Phục đáp: “Hoàng đế Đại Lý hiện nay là Đoàn Chính Minh. Đoàn Chính Thuần được phong làm Hoàng Thái đệ, mọi thần dân nước Đại Lý đều biết rõ. Đoàn Chính Minh lại rất được lòng dân, mà cả Trấn Nam Vương cũng thế, nên ngôi hoàng đế của y khó mà lay động được. Đoàn Diên Khánh muốn giết Đoàn Chính Thuần thì chỉ một nhát đao là xong, nhưng sau đó nước Đại Lý sẽ lâm vào tình trạng hỗn loạn. Đoàn Diên Khánh có lên ngôi hoàng đế thì vị tất đã ngồi yên được.”

Vương phu nhân nói: “Ngươi nói rất có lý. Nhưng sao ngươi biết được chuyện này?” Mộ Dung Phục đáp: “Phần thì điệt nhi nghe được, phần thì điệt nhi tự đoán ra.” Vương phu nhân nói: “Suốt đời ngươi ôm ấp cái mộng làm hoàng đế, hèn gì nhìn thấy rõ cả những chỗ ngoắt ngoéo của việc tranh bá đồ vương.”

Mộ Dung Phục cười nói: “Cô mẫu quá khen! Theo ngu ý của điệt nhi thì Đoàn Diên Khánh bắt Trấn Nam Vương quyết không hạ sát y ngay, mà phải để y lên ngôi làm hoàng đế, sau đó dùng cách bắt y phải nhường ngôi, thì mới được danh chính ngôn thuận.” Vương phu nhân hỏi lại: “Làm sao mà danh chính ngôn thuận được?” Mộ Dung Phục đáp: “Phụ thân Đoàn Diên Khánh vốn là hoàng đế nước Đại Lý trước kia, rồi bị gian thần giết để cướp ngôi, Đoàn Diên Khánh mất tích trong lúc hỗn loạn. Vì thế sau này Đoàn Chính Minh mới lên ngôi hoàng đế. Đoàn Diên Khánh thuộc dòng chính thống, nên người ta mới kêu là Diên Khánh Thái tử, mọi người trong nước ai cũng biết rõ việc này. Sau này Trấn Nam Vương lên ngôi hoàng đế mà không có người kế nghiệp, thì lập Đoàn Diên Khánh lên làm Hoàng Thái đệ là hợp lý nhất. Như thế là danh chính ngôn thuận rồi.”

Vương phu nhân ngạc nhiên hỏi: “Rõ ràng là y có đứa con trai, sao lại bảo là không có người kế nghiệp?” Mộ Dung Phục cười đáp: “Cô mẫu vừa nói đã quên rồi. Chẳng phải cô mẫu đã nói sẽ đem thằng lỏi họ Đoàn chặt làm mười bảy mười tám khúc đó sao? Trên thế gian này, chẳng lẽ có người bị chặt ra từng khúc mà vẫn có thể ráp lại để làm hoàng đế được ư?” Vương phu nhân nói: “Phải lắm, phải lắm! Thằng lỏi đó là dòng giống của con tiện tỳ kia, để nó sống thì ta lại càng thêm tức giận.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Phen này đúng là dữ nhiều lành ít. Vương Ngữ Yên lại không biết đi đâu rồi? Giả tỉ Vương phu nhân thấy nàng ở đây, không chừng có thể tha chết cho mình.”

Vương phu nhân lại nói: “Nếu tính mạng y chưa có gì đáng lo, thì ta cũng yên tâm. Ta chẳng muốn để y về lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý làm gì, mà chỉ muốn bắt y ở lại Mạn Đà Sơn Trang với ta.”  Mộ Dung Phục nói: “Sau khi Trấn Nam Vương nhường ngôi rồi, dĩ nhiên phải quay lại Mạn Đà Sơn Trang với cô mẫu. Khi đó y có ở lại nước Đại Lý cũng chẳng hứng thú gì, mà Đoàn Diên Khánh cũng không muốn để y ở lại. Y có lên ngôi hoàng đế cũng chỉ mười ngày nửa tháng là thoái vị ngay, không thì Đoàn Diên Khánh cũng chẳng chịu. Vương phu nhân đáp: “Hừ! Hắn chịu hay không chịu thì có gì quan hệ đâu? Chúng ta đến bắt Đoàn Diên Khánh, cứu Đoàn công tử ra trước đã. Sau đó thử chém Đoàn Diên Khánh một đao, xem y có chịu hay không.”

Mộ Dung Phục thở dài nói: “Cô mẫu còn quên một điều, là mình chưa bắt được Đoàn Diên Khánh.” Vương phu nhân nói: “Hắn ở đâu chắc là ngươi biết rồi. Bụng dạ ngươi ta còn lạ gì? Ngươi giúp ta thành sự rồi muốn tạ ơn điều chi thì hãy nói toạc ra. Mất lòng trước được lòng sau, chúng ta hãy làm tiểu nhân trước, rồi sau sẽ làm quân tử.” Mộ Dung Phục đáp: “Cô cháu mình là tình cốt nhục. Điệt nhi chỉ giúp cô mẫu được chút việc nhỏ mọn, khi nào dám nghĩ đến chuyện đền đáp. Điệt nhi chỉ biết làm hết sức mình, không đòi thù tạ gì hết.”

Vương phu nhân nói: “Bây giờ ngươi không nói ra, sau khi thành sự mới đòi hỏi, lúc đó nếu ta không chịu thì ngươi đừng trách.” Mộ Dung Phục cười đáp: “Điệt nhi đã nói là không dám mong cô mẫu tạ ơn. Khi ấy cô mẫu vui vẻ thì thưởng cho điệt nhi mấy vạn lạng hoàng kim, hoặc cho mấy bộ võ kinh trong Lang Hoàng Các, là đủ lắm rồi.”

Vương phu nhân hứ một tiếng rồi nói: “Ngươi muốn lấy hoàng kim thì cứ hỏi ta, có bao giờ ta cự tuyệt đâu? Ngươi muốn xem võ kinh trong Lang Hoàng Các thì ta lại càng vui lòng, chỉ lo buồn vì ngươi không chịu theo chính nghiệp để cầu tiến. Ta thật sự không hiểu thằng lỏi này có ý định gì! Nhưng thôi cũng được, chúng ta hãy tính cách bắt Đoàn Diên Khánh, cứu sống mấy người, xong sẽ bàn tiếp. Ý kiến của ngươi thế nào?”

Mộ Dung Phục hỏi: “Bước thứ nhất là dẫn dụ Đoàn Diên Khánh đưa Trấn Nam Vương tới căn nhà gỗ giữa cánh đồng cỏ, có phải không?” Vương phu nhân đáp: “Phải rồi! Ngươi định dùng kế gì để dẫn dụ Đoàn Diên Khánh tới đó?” Mộ Dung Phục nói: “Việc này dễ lắm! Đoàn Diên Khánh muốn lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý, cần phải làm hai việc, một là bắt Đoàn Chính Thuần để ép nhường ngôi, hai là giết Đoàn Dự. Chúng ta đem những vật tùy thân của Đoàn Dự đến cho Đoàn Chính Thuần trông thấy, dĩ nhiên Đoàn Chính Thuần phải tìm đến cứu con, và Đoàn Diên Khánh sẽ theo y đến đó. Thế là cô mẫu bắt Đoàn Dự cũng không phải là sai lầm, coi như đi kiếm mồi thơm để nhử cá ngao.”

Vương phu nhân cười hỏi: “Ngươi bảo thằng lỏi họ Đoàn kia là mồi thơm ư?” Mộ Dung Phục cũng cười đáp: “Điệt nhi thấy hắn nửa thơm, nửa thối.” Vương phu nhân hỏi: “Thế nghĩa là sao?” Mộ Dung Phục đáp: “Nửa của Trấn Nam Vương thì thơm, còn nửa của Trấn Nam Vương phi thì dĩ nhiên là thối.”

Vương phu nhân cười ha hả rồi nói: “Thằng lỏi này thật là khéo ăn khéo nói, biết cách làm cho cô mẫu vui lòng.”

Mộ Dung Phục cười nói: “Bây giờ điệt nhi quất ngựa truy phong, bao giờ mã đáo thành công thì mới gọi là làm cho cô mẫu vui lòng. Cô mẫu gọi thằng lỏi đó ra đây.”Vương phu nhân đáp: “Gã bị Túy Nhân Phong đốt, ít nhất ba ngày nữa mới tình lại. Nếu không thế thì gã nằm bên kia chỉ cách có một lớp vách ván, mà chúng ta nói chuyện đàng hoàng thế này thì bị gã nghe hết. Ta còn có chuyện hỏi ngươi: Giả tỉ thằng cha Trấn Nam Vương bạc hạnh vô tình kia cứ khư khư gịữ lấy ngôi báu, không chịu nhường cho Đoàn Diên Khánh thì sao? Như vậy tất y phải chịu những thứ cực hình đau khổ.” Giọng nói của bà đầy vẻ thiết tha.

Mộ Dung Phục thở dài đáp: “Cô mẫu! Việc này cô mẫu bất tất phải hỏi nữa. Điệt nhi chỉ sợ nói ra một chuyện làm cho cô mẫu phải bực mình!” Vương phu nhân giục: “Nói mau đi! Nói mau đi! Lại còn chuyện gì nữa?” Mộ Dung Phục đáp: “Điệt nhi cũng công nhận Đoàn Vương gia nước Đại Lý quả là con người bạc hạnh vô tình. Cô mẫu có nhan sắc nguyệt thẹn hoa nhường lại tài kiêm văn võ, dù đốt đuốc tìm khắp thiên hạ cũng khó được người thứ hai. Không biết gã họ Đoàn kiếp trước đã tạo bao nhiêu phúc đức mà được cô mẫu rủ lòng thương đến, đáng lý y phải một dạ trung thành. Thế mà… Chao ôi! Sao trong thiên hạ lại có người ngu dại đến thế, có hạnh phúc mà không biết hưởng thụ, chẳng tiếc Hằng Nga nơi nguyệt điện, lại tìm giống lợn chốn bùn lầy…”

Vương phu nhân tức giận quát: “Ngươi bảo thằng cha… thằng cha bạc hạnh vô tình đó còn đi với nữ nhân nào khác hay sao? Với ai? Với ai?” Mộ Dung Phục đáp: “Y đi với bọn người hèn mạt không đáng xách giày cho cô mẫu, toàn là hạng mèo mả gà đồng. Cô mẫu chẳng nên ghen tức với bọn chúng làm gì.”

Vương phu nhân cả giận, đập bàn đánh “binh” một tiếng, quát lớn: “Nói mau! Lúc y bỏ ta quay về làm Vương gia nước Đại Lý, ta không trách y. Y đã có vợ trước, ta cũng không trách y, chỉ vì mình biết y muộn. Nhưng y… y lại còn đi với con đàn bà nào khác nữa? Nó là ai? Nó là ai?”

Đoàn Dự ở phòng bên, nghe phu nhân nổi trận lôi đình mà sợ vỡ mật, nghĩ bụng: “Ngữ Yên dịu dàng nhu thuận, mà sao mẫu thân nàng lại hung dữ đến thế? Gia gia mình kết bạn với bà ta chắc là khổ lắm.” Nhưng chàng lại nghĩ đến những người tình cũ của gia gia đều có chỗ kỳ quặc. Tần a di sai con gái về giết mẫu thân chàng. Nguyễn a di sinh ra cô em A Tử tính tình cực kỳ tàn ác. Cam a di rõ ràng là phu nhân của Chung Vạn Cừu mà vẫn tiếp tục quan hệ với phụ thân mình. Vị phu nhân của Mã phó Bang chủ Cái Bang cũng chẳng ngoan ngoãn gì. Ngay cả mẫu thân mình cũng không chịu ở với gia gia, lại bỏ ra ngoài thành xuất gia làm đạo cô; hoàng bá phụ, hoàng bá mẫu khuyên giải đã nhiều mà cũng chẳng ăn thua. Ôi, chẳng lẽ mẫu thân mình cũng như thế ư?”

Mộ Dung Phục nói: “Cô mẫu giận dữ làm chi cho mệt? Cô mẫu cứ bình tĩnh, điệt nhi xin từ từ nói cho cô mẫu nghe.”

Vương phu nhân nói: “Dù ngươi không nói thì ta cũng đoán ra rồi. Chắc là Đoàn Diên Khánh bắt được cả con tiện nhân sinh ra thằng lỏi họ Đoàn, rồi bức bách cha nó phải nhường ngôi hoàng đế, nếu không chịu thì sẽ làm khó đễ đến con tiện nhân kia. Có phải thế không? Ta còn lạ gì tính khí thằng cha bạc hạnh ấy? Đem gươm kề cổ mà bức bách y, thì y thà chết chứ không chịu khuất phục, nhưng đe dọa đến nữ nhân mà y thương yêu, thì bất luận điều gì y cũng chịu hết. Hừ! Con tiện nhân kia có đẹp không? Con hồ ly đó không biết đã dùng thủ đoạn gì để làm điên đảo thần hồn thằng cha bất nghĩa. Nói mau, con tiện nhân đó là ai?”

Mộ Dung Phục đáp: “Điệt nhi nói cho cô mẫu hay, nhưng cô mẫu đừng nổi nóng. Không phải chỉ có một tên tiện nhân mà thôi.” Vương phu nhân vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, lại đập bàn đánh “binh” một tiếng, hỏi: “Sao? Chẳng lẽ có những hai đứa ư?” Mộ Dung Phục thở dài lắc đầu đáp: “Còn nhiều hơn thế nữa.”

Vương phu nhân lại càng căm tức, hỏi: “Thế nào? Y vơ cả những đồ liễu ngõ hoa tường, một hai đứa chưa đủ mà còn lang chạ với những ba đứa hay sao?”

Mộ Dung Phục lắc đầu đáp: “Hiện giờ có tới bốn mụ đàn bà đang bầu bạn với y. Điệt nhi đã nói rồi, cô mẫu bất tất phải nổi nóng làm chi. Sau này y làm hoàng đế, tam cung lục viện chẳng phải chỉ bấy nhiêu. Đại Lý là một nước nhỏ thì còn ít, những nước Đại Liêu, Đại Tống thì trong nội cung không tới ba nghìn phi tần thì cũng phải ba trăm…”

Vương phu nhân mắng liền: “Thế thì bậy quá! Vì vậy mà ta không muốn cho y làm hoàng đế. Bốn con tiện nhân kia là ai?”

Đoàn Dự cũng động tính hiếu kỳ. Chàng chỉ biết Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc là hai người thân ái của phụ thân, còn hai người nữa là ai?

Mộ Dung Phục đáp: “Một ả họ Tần, một ả họ Nguyễn…” Vương phu nhân ngắt lời gã: “Hừ! Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, hai con hồ ly tinh này lại quấn quít với y một chỗ.” Mộ Dung Phục nói tiếp: “Còn một bà đã có chồng, điệt nhi nghe người ta kêu mụ bằng Chung phu nhân. Dường như mụ ra ngoài để tìm con gái. Mụ này có vẻ nền nếp, không lẳng lơ với Trấn Nam Vương. Trấn Nam Vương đối với mụ cũng rất lịch sự, thỉnh thoảng mới vui vẻ gọi nàng thân mật là Bảo Bảo.” Vương phu nhân nói: “Đó là con tiện nhân Cam Bảo Bảo. Ngươi nói cái gì mà nền nếp với cả lịch sự? Đó chỉ là đóng kịch mà thôi. Nếu nó quả là người nền nếp thì phải ở xa nhau, chứ sao lại chung đụng một nơi? Còn con tiện nhân thứ tư là ai?”

Mộ Dung Phục đáp: “Người thứ tư thì không phải tiện nhân, mà là chính thất của Trấn Nam Vương, tức là Trấn Nam Vương phi.”

Đoàn Dự cùng Vương phu nhân cùng giật mình kinh hãi. Đoàn Dự tự hỏi: “Sao mẫu thân mình cũng đến đây?” Vương phu nhân “A” một tiếng, tỏ vẻ hết sức bất ngờ.

Mộ Dung Phục cười nói: “Cô mẫu nghĩ xem có lạ không? Nhưng nếu nghĩ kỹ thì cũng chẳng có chi là lạ. Trấn Nam Vương rời khỏi Đại Lý đã hơn một năm, mà nữ nhân Trung Nguyên lại đẹp như hoa. Cô mẫu đã vào bậc dung nhan khuynh quốc, lại còn bọn hồ ly tinh Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, thì Trấn Nam Vương phi yên tâm thế nào được.”

Vương phu nhân hứ một tiếng, rồi nói: “Người dám xếp ta ngang với bọn hồ ly tinh đó ư? Hiện giờ cả bốn con tiện nhân đó cùng ở với y hay sao?” Mộ Dung Phục cười đáp: “Cô mẫu cứ yên tâm. Trong trận quyết đấu ở trạm Song Phụng bến Hồng Sa, toàn quân của Trấn Nam Vương đã bị đánh tan tành. Đoàn Diên Khánh giăng một mẻ lưới bắt hết cả nam nhân nữ nhân, điểm huyệt không còn một ai nhúc nhích được nữa. Đoàn Diên Khánh chỉ lo đối phó với Trấn Nam Vương, chẳng khác bọ ngựa bắt ve sầu, lại bị chim sẻ rình ở đằng sau, điệt nhi đã trông thấy hết. Điệt nhi ruổi ngựa theo dõi bọn họ phải đến hơn trăm dặm. Cô mẫu! Việc này không nên chậm trễ. Bây giờ chúng ta một mặt bố trí Túy Nhân Phong cùng thuốc mê, một mặt phái người đi dẫn dụ Đoàn Diên Khánh…”

Chữ Khánh vừa ra khỏi miệng, đột nhiên xa xa có thanh âm rất khó nghe vẳng tới: “Ta đã đến đây rồi, không cần phải dẫn dụ nữa. Chỉ cần bố trí nhiều Túy Nhân Phong cùng thuốc mê là được!”.

Hồi 48: Kẻ thù lại chính là cha, đứa con oan nghiệt bây giờ là vua

Thanh âm này ở xa ngoài mười trượng, mà lọt vào tai Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục rõ ràng như chỉ cách trong gang tấc, hai người cùng tái mặt. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng Phong Ba Ác cùng Bao Bất Đồng vừa quát tháo, vừa xông về phía phát ra thanh âm. Mộ Dung Phục đi đến bên cửa. Dưới ánh trăng tỏ, thấy rõ ràng một bóng xanh đang bay vèo tới, rồi một bóng xám và một bóng vàng từ hai bên xông vào. Đó chính là Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn chia bên tả hữu, giáp công Đoàn Diên Khánh.

Đoàn Diên Khánh chống tả trượng xuống đất, quét ngang hữu trượng điểm tới Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn, âm thanh rít lên veo véo, trong chớp mắt đã xuất đến bảy chiêu sát thủ. Đặng Bách Xuyên gắng gượng đối phó được, còn Công Dã Càn không chống nổi, phải lùi lại hai bước. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác cũng xông ra giáp công. Đoàn Diên Khánh lấy một chọi bốn mà vẫn thừa sức, đại chiếm thượng phong.

Mộ Dung Phục rút trường kiếm ra, một luồng thanh quang lạnh lẽo vọt tới đâm Đoàn Diên Khánh. Lão bị năm người vây đánh, trong đó Mộ Dung Phục lại là cao thủ hạng nhất, mà trượng ảnh vẫn mịt mờ, chiêu nào cũng lấy công làm thủ cực kỳ lợi hại.

Ngày trước Vương phu nhân cùng Đoàn Chính Thuần đã có một đoạn ân tình nồng nhiệt. Những khi ngắm hoa thưởng nguyệt, ngoài những lời thề non hẹn bể, nhiều khi họ còn bàn đến võ công. Đoàn Chính Thuần đã từng đem những môn tuyệt học như Nhất Dương Chỉ hay Đoàn gia kiếm pháp biểu diễn cho bà xem. Lúc này Vương phu nhân thấy Đoàn Diên Khánh sử những chiêu số chẳng khác Đoàn lang ngày trước, thì làm sao không đau lòng được. Bà nghĩ tới Đoàn lang đã bị người ta bắt, chắc là đang ở đâu đó gần đây. Hiện giờ Đoàn Diên Khánh đang bị bọn Mộ Dung Phục vây đánh, nếu không thừa cơ đi giải cứu Đoàn lang thì còn đợi đến lúc nào? Vương phu nhân vừa toan ra phía sau núi tìm kiếm, bỗng nghe Phong Ba Ác rú lên một tiếng thật to.

Bà nhìn lại, thấy Phong Ba Ác ngã quị dưới đất, hữu trượng của Đoàn Diên Khánh đưa qua đưa lại cách người gã chừng một thước, không hạ sát thủ. Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên vung khí giới tấn công đều bị lão gạt đi hết. Lúc này, giả tỉ Đoàn Diên Khánh muốn đánh chết Phong Ba Ác thì dễ như trở bàn tay, chỉ vì lão chưa muốn hạ thủ mà thôi.

Mộ Dung Phục đột nhiên nhảy lùi lại, hô lớn: “Dừng tay!” Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn và Bao Bất Đồng đều nhảy ra ngoài vòng chiến. Mộ Dung Phục nói: “Đoàn tiên sinh! Đa tạ tiên sinh hạ thủ lưu tình. Chúng ta vốn không thù oán, từ nay trở đi nhà Cô Tô Mộ Dung đành chịu hạ phong.”

Phong Ba Ác đã la lên: “Họ Phong này học nghệ không tinh, cái mạng nhỏ xíu này có chi đáng kể? Công tử đừng vì Phong mỗ mà chịu thua lão.” Đoàn Diên Khánh cười khành khạch nói: “Gã họ Phong này quả là một tay hảo hán.” Rồi lão rút cương trượng về.

Phong Ba Ác quát lên một tiếng, dùng thân pháp “Lý Ngư Đả Đỉnh” nhảy vọt lên không, đơn đao từ trên chém xuống Đoàn Diên Khánh. Gã la lên: “Lại nếm một đao của ta!” Đoàn Diên Khánh giơ cây cương trượng lên đè lưỡi đao xuống. Phong Ba Ác cảm thấy một luồng đại lực làm rung động cánh tay, đơn đao tuột ra khỏi tay. Đồng thời sau lưng trúng một trượng đau nhói, gã bị hất văng đi mấy trượng. Đoàn Diên Khánh xoay tay một cái, truyền nội lực từ cương trượng vào lưỡi đao. Nghe những tiếng leng keng, lưỡi đao bị chấn động gãy thành mười mấy khúc, va vào nhau rồi bay ra tứ tán. Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục đều phải né tránh để những mảnh đao khỏi trúng vào mình.

Mộ Dung Phục chắp tay nói: “Đoàn tiên sinh thần công tuyệt thế, tại hạ bội phục vô cùng. Chúng ta đổi thù ra bạn được chăng?” Đoàn Diên Khánh đáp: “Vừa rồi ngươi định bố trí Túy Nhân Phong gì gì đó, hiển nhiên là có ý muốn hại ta. Bây giờ địch không nổi mới thay đổi chủ ý, có phải không?”

Mộ Dung Phục nói: “Chúng ta mà hợp sức đồng mưu thì thật là chuyện tốt. Thái tử là dòng dõi chính thống nước Đại Lý, thế mà để người ta cướp mất ngôi hoàng đế, sao không tìm cách đoạt lại?” Đoàn Diên Khánh hé cặp mắt quái dị nhìn Mộ Dung Phục, lạnh lùng hỏi: “Chuyện đó liên quan gì đến ngươi?” Mộ Dung Phục đáp: “Nếu Thái tử muốn làm hoàng đế nước Đại Lý mà không có tại hạ giúp cho, chắc chắn không thể thành công được.” Đoàn Diên Khánh cười nhạt nói: “Ta không tin ngươi chịu giúp ta, chỉ sợ ngươi hận mình không đâm chết được ta.”

Mộ Dung Phục nói: “Tại hạ mà giúp Thái tử đoạt ngôi hoàng đế nước Đại Lý, cũng chính vì mình mà hành động. Một là tại hạ căm hận thằng lỏi Đoàn Dự đến chết đi được. Hôm ở trên núi Thiếu Thất, gã làm cho tại hạ suýt nũa phải tự vẫn, làm cho nhà Mộ Dung tựa như không còn đất đứng trong võ lâm nữa. Tại hạ nhất định giết chết thằng lỏi họ Đoàn, giúp Thái tử đoạt lại ngôi hoàng đế, cũng là để rửa hận cho mình. Còn điều thứ hai, là sau khi Thái tử lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý rồi, tại hạ sẽ có việc nhờ Thái tử giúp cho.”

Đoàn Diên Khánh vốn biết Mộ Dung Phục là người tâm cơ mau lẹ lại có nhiều mưu trí, đối với mình chắc chẳng tử tế gì, nhưng nghe gã nói vậy thì cũng tin đến bảy tám phần. Ngày trước, Đoàn Dự ở trên núi Thiếu Thất đã dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh cho Mộ Dung Phục thất điên bát đảo, chính mắt Đoàn Diên Khánh đã trông thấy. Lão nhớ tới việc đó, lập tức trong lòng lại hồi hộp không yên. Đoàn Diên Khánh tuy bắt được Đoàn Chính Thuần, nhung lão tự lượng sức mình không địch nổi Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, giả tỉ oan gia đường hẹp gặp nhau mà phải động thủ, tất phải bị chết dưới vô hình kiếm khí của chàng. Lão chỉ còn một cách đối phó là dùng tính mạng vợ chồng Đoàn Chính Thuần để uy hiếp, rồi sẽ tìm cách chế phục Đoàn Dự, nhưng cũng không nắm chắc được phần nào. Lão bèn hỏi: “Ngươi không phải là đối thủ của Đoàn Dự, thì làm sao mà đối phó với gã được?”

Mộ Dung Phục hơi đỏ mặt, lên tiếng đáp: “Dùng sức không nổi, thì phải dùng mưu. Nói tóm lại, tại hạ sẽ phụ trách việc bắt Đoàn Dự, rồi sẽ giao cho điện hạ xử trí gã.” Đoàn Diên Khánh cả mừng. Lão lo nghĩ mãi về võ công của Đoàn Dự cực kỳ ghê gớm, lão không địch nổi. Nếu Mộ Dung Phục có thể bắt được chàng, tức là trừ khử được mối hậu họa rất lớn cho mình. Nhưng Đoàn Diên Khánh lại nghĩ rằng không chừng Mộ Dung Phục đang lừa gạt mình, nếu không cẩn thận là mắc bẫy ngay. Lão liền hỏi: “Công tử hứa bắt được Đoàn Dự, lão phu nghĩ đó là một chuyện rất khó tin. Lời nói suông lấy chi làm bằng cớ?”

Mộ Dung Phục tủm tỉm cười đáp: “Vương phu nhân đây là cô mẫu của tại hạ, đã bắt được Đoàn Dự rồi. Cô mẫu đang định đem gã tiểu tử đó đến trao đổi với các hạ để lấy một người. Sở dĩ bọn tại hạ muốn dẫn dụ các hạ đến đây, cũng chỉ vì ý định đó.”

Lúc này Vương phu nhân đang đảo mắt nhìn bốn phía để xem Đoàn Chính Thuần ở đâu. Bà nghe thấy câu nói của Mộ Dung Phục, liền quay lại. Đoàn Diên Khánh khom lưng thì lễ. Lão nói òng ọc trong cổ họng: “Không hiểu Vương phu nhân muốn trao đổi lấy người nào?”

Vượng phu nhân hai má ửng hồng. Trong lòng bà ngày đêm chỉ nhớ đến Đoàn Chính Thuần, nhưng bà là gái góa mà công nhiên thổ lộ tâm tình với người ngoài thì có điều bất tiện, nên ngần ngừ không biết nói sao.

Mộ Dung Phục lên tiếng: “Phụ thân thằng lỏi Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần, ngày trước có đắc tội với cô mẫu tại hạ, gây nên mối thù sâu tựa bể. Cô mẫu tại hạ chỉ cần các hạ ưng thuận một lời, là sau khi các hạ lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý sẽ giao trả Đoàn Chính Thuần lại, để mặc cho cô mẫu tại hạ muốn chém mổ, nướng luộc y cách nào tùy ý.”

Đoàn Diên Khánh cười ha hả, nghĩ bụng: “Sau khi hắn nhường ngôi, ta còn phải tìm cách xử tử hắn, nếu được bọn ngươi động thủ thay ta thì còn gì hay hơn nữa?” Lão thấy sự việc dễ dàng như vậy, chỉ sợ bên trong có mưu kế liền hỏi lại: “Mộ Dung công tử! Công tử nói rằng sau khi lão phu lên ngôi, sẽ có việc cầu đến lão phu giúp đỡ, nhưng lão phu chưa hiểu sức mình có làm nổi chăng. Công tử nên cho lão phu biết trước là việc gì, giả tỉ đến lúc đó mới nói mà lão phu không làm nổi, hóa ra lão phu là kẻ tiểu nhân vô tín hay sao?”

Mộ Dung Phục đáp: “Đoàn điện hạ đã nói vậy thì tại hạ tin chắc là chúng ta có thể hoàn thành đại sự một cách dễ dàng. Tâm sự của tại hạ chẳng giấu gì. Họ Mộ Dung ở Cô Tô năm xưa vẫn là dòng dõi hoàng tộc nước Đại Yên, vẫn nhớ tổ tiên di huấn là phải lo phục hưng cơ nghiệp Đại Yên, song lực lượng đơn bạc, khó mà thành tựu. Sau khi điện hạ lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý rồi, Mộ Dung Phục xin mượn một vạn tinh binh cùng đầy đủ lương thảo để dùng vào việc phục hưng Đại Yên.”

Lúc Mộ Dung Bác ngăn cản Mộ Dung Phục không cho tự vẫn trên núi Thiếu Thất, Đoàn Diên Khánh đứng nhìn thấy, đã đoán họ Mộ Dung là hoàng tộc nước Đại Yên chắc đến bảy tám phần. Bây giờ lão nghe Mộ Dung Phục thổ lộ bí mật với mình, thì tin rằng gã thành thực. Lão nghĩ thầm: “Gã muốn phục hưng nước Đại Yên, thì biến thành địch thủ của Đại Tống cùng Đại Liêu. Nước Đại Lý mình nhỏ bé, tự vệ còn chưa xong, sao lại đi gây hấn với nước lớn? Huống chi mình mới lên ngôi thì lòng người chưa định, chẳng nên gây họa chiến tranh. Chi bằng bây giờ mình phải giả vờ ưng thuận, khi đó sẽ liệu cách trừ khử gã đi là xong. Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu.” Đoàn Diên Khánh nghĩ vậy liền đáp: “Đại Lý nước nhỏ dân nghèo, một vạn tinh binh thì chưa chắc có đủ, nhưng năm ngàn thì được. Lão phu cũng mong đại sự thành tựu, Đại Yên cùng Đại Lý vĩnh viễn là hai nước anh em.”

Mộ Dung Phục xá dài, sa lệ nói: “Mộ Dung Phục này mà khôi phục được giang sơn của tổ tiên thì đời đời quyết làm phên giậu cho Đại Lý, chẳng bao giờ dám quên ân đức của bệ hạ.”

Đoàn Diên Khánh thấy gã đổi giọng xưng hô mình bằng bệ hạ, bất giác cả mừng. Lão nghe gã nói mấy câu sau cực kỳ cảm động mà nghẹn ngào muốn khóc, vội nâng gã dậy rồi nói: “Công tử chẳng nên câu nệ lễ nghi thái quá! Không hiểu thằng lỏi Đoàn Dự hiện ở đâu?” Mộ Dung Phục chưa kịp đáp thì Vương phu nhân đã tiến đến hai bước, hỏi lại: “Đoàn Chính Thuần hiện ở đâu?” Mộ Dung Phục xen vào: “Tâu bệ hạ! Xin bệ hạ cùng đoàn tùy tùng vào nhà cô mẫu tạm nghỉ. Đoàn Dự đã bị trói, sẵn sàng xin dâng lên.” Đoàn Diên Khánh hoan hỉ nói: “Thế thì hay lắm!”

Đột nhiên có tiếng hú lanh lảnh từ trong bụng lão phát ra. Vương phu nhân còn đang kinh ngạc, đã nghe thây tiếng vó ngựa dồn dập và tiếng bánh xe ruổi tới. Chẳng mấy chốc đã thấy bốn người cưỡi ngựa và ba cỗ xe lừa theo đường lớn chạy lại. Vương phu nhân nhịn không được, lạng người lướt qua hai con ngựa, giơ tay vén rèm xe.

Đột nhiên bà nhìn thấy một người miệng rộng, mắt nhỏ, tai to, đầu trọc. Người này lớn tiếng quát hỏi: “Làm gì vậy?” Vương phu nhân kinh hãi, tung mình nhảy vọt sang bên. Bà nhìn kỹ lại thì thấy người này mặt mũi xấu xí, mình mặc áo chẽn màu vàng, trong tay cầm một chiếc roi ngựa, thì ra là gã đánh xe.

Đoàn Diên Khánh nói: “Tam đệ! Vị này là Vương phu nhân. Chúng ta vào nhà phu nhân để nghỉ ngơi, cả những khách trong xe cũng đưa vào hết.” Gã đánh xe này chính là Nam Hải Ngạc Thần.

Cỗ xe lớn vừa vén màn lên, một người run lẩy bẩy bước xuống. Vương phu nhân nhìn thấy người này hình dung tiều tụy, mái đầu đốm bạc, mình mặc áo bào gấm, chính là Đoàn lang mà phu nhân ngày đêm tưởng nhớ. Trong lòng đau xót, nước mắt chực trào ra, bà không nén được nữa liền tiến lại gần, kêu lên: “Đoàn… Đoàn lang đấy ư?”

Đoàn Chính Thuần vừa nghe thanh âm đã giật mình, quay đầu nhìn lại thấy Vương phu nhân thì sắc mặt biến đổi. Chỗ nào ông cũng mắc nợ phong tình, mà trong các vị chủ nợ thì Vương phu nhân lại là người khó chịu hơn hết. Bọn Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc chỉ cần được y kề cận bên mình là mãn nguyện lắm rồi, còn bà này lại bức bách ông phải giết chính thê là Đao Bạch Phượng để lấy bà làm vợ. Việc này Đoàn Chính Thuần nhất định không thể ưng thuận, đành bỏ đi mà không thể nói lời từ biệt, ngờ đâu bây giờ gặp lại trong hoàn cảnh như thế này.

Đoàn Chinh Thuần là người lãng mạn, không chuyên tâm yêu mến một ai, nhưng đối với người tình nào ông cũng cư xử rất thành thực. Ông vừa nhìn thấy Vương phu nhân thì vội la lên: “A La! Chạy mau đi! Lão áo xanh kia là Tên Đại ác, chớ để lọt vào tay hắn.” Ông nói xong, lại tiến ra đứng chắn giữa Đoàn Diên Khánh và Vương phu nhân, hô hoán liền miệng: “Chạy mau đi! Chạy mau đi!” Thực ra Đoàn Chính Thuần đã bị Đoàn Diên Khánh điểm huyệt, cất bước cũng khó khăn, thì còn sức lực đâu mà bảo hộ cho Vương phu nhân?

Ông chỉ gọi một tiếng “A La”, đã bộc lộ hết tình cảm thành thực. Vương phu nhân đang tức đầy ruột, mà phút chốc mối hờn giận đã tan thành mây khói. Nhưng có Đoàn Diên Khánh cùng Mộ Dung Phục đứng đó, nên bà không dám thổ lộ tâm tình, chỉ lạnh lùng đáp: “Tượng đất bảo vệ cho mình còn chưa xong. Ngươi bảo người ta là Tên Đại ác, thế thì ngươi là người tốt hay sao?” Rồi bà quay lại nói với Đoàn Diên Khánh: “Nào! Xin mời điện hạ!”

Đoàn Diên Khánh biết rất rõ tính cách của Đoàn Chính Thuần, vừa thấy thần sắc hai người cảm động, là hiểu ngay ông đối với Vương phu nhân thì thương yêu mà không oán hận, còn Vương phu nhân đối với ông lại ra chiều trách móc, song cũng tình nhiều hơn thù. Lão nghĩ thầm: “Giữa hai người này nhất định có quan hệ không phải tầm thường, ta phải cẩn thận không mắc vào cạm bẫy của họ.” Đoàn Diên Khánh vừa võ nghệ cao cường vừa gan dạ đầy mình, lão không sợ hãi gì, ngang nhiên tiến vào trong nhà.

Vương phu nhân vì muốn bắt Đoàn Chính Thuần mà đã xây dựng một trang viện rất lớn. Sau cổng là một cái sân rộng trồng toàn hoa trà, dưới ánh trăng trong, hoa lồng bóng nguyệt trông hết sức tao nhã, ngoạn mục.

Đoàn Chính Thuần thấy cảnh hoa trà được xếp đặt xinh tươi như hồi còn vui thú bên Vương phu nhân tại Cô Tô, thì trong lòng chua xót, khẽ nói: “Thì ra… thì ra… đây là chỗ ở của… muội…” Vương phu nhân cười nhạt hỏi: “Ngươi còn nhận ra được ư?” Đoàn Chính Thuần hạ giọng đáp: “Nhận ra rồi. Lúc nào ta cũng mong muốn được sống bên muội đến già ở Mạn Đà Sơn Trang này!”

Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc đẩy hai cỗ xe lớn nhốt những người bị bắt vào trong nhà. Trong một cỗ xe có bốn vị thiếu phụ là Đao Bạch Phượng, Chung phu nhân Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc. Còn cỗ xe thứ hai giam ba đại thần nước Đại Lý là bọn Phạm Hoa, cùng Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi. Cả chín người đều bị Đoàn Diên Khánh điểm huyệt.

Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần phái Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đi hộ tống Đoàn Dự qua Tây Hạ cầu thân, ông lại nhận được chỉ dụ của Bảo Định Đế sai sứ đưa đến, truyền cho Đoàn Chính Thuần phải lên đường về Đại Lý ngay để lên ngôi hoàng đế, vì Bảo Định Đế đã xuất gia đầu Phật tại chùa Thiên Long rồi. Hoàng gia nước Đại Lý tôn sùng Phật pháp, mấy đời nay vua chúa đều lánh ngôi cao để đầu Phật làm sư. Đoàn Chính Thuần tiếp được chỉ dụ thì trong lòng rất thương cảm, nhưng không lấy gì làm lạ. Ông bèn đưa cả Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc từ từ đi về hướng Nam, dự định sẽ bí mật bố trí chỗ ở trong thành Đại Lý, không cho Vương phi Đao Bạch Phượng biết. Mấy hôm sau ông lại được quần nữ cung Linh Thứu báo cho hay là có đối thủ lợi hại đột nhiều cạm bẫy khắp nơi, dặn Đoàn Chính Thuần phải gia tâm đề phòng. Ông cùng bọn Phạm Hoa thương nghị, đều đoán rằng đối thủ lợi hại này chắc chắn là Đoàn Diên Khánh. Ai cũng biết lão là tay ghê gớm khó lòng địch nổi, nên lánh đi là hơn, bèn lập tức chuyển về hướng Đông. Đoàn Chính Thuần có biết đâu, tin tức đó chính là do A Bích nghe được từ bọn nữ tì của Vương phu nhân rồi báo đi. Nhưng A Bích biết một mà không biết hai, dọc đường quả nhiên có bố trí cạm bẫy thật, nhưng Vương phu nhân không hề có ý gia hại Đoàn Chính Thuần.

Đoàn Chính Thuần thay đổi hướng đi, thành ra những chỗ mai phục do Vương phu nhân xếp đặt đều vướng cả vào người Đoàn Dự, còn Đoàn Chính Thuần thì lại gặp phải Đoàn Diên Khánh. Sau trận đánh ở bến Hồng Sa gần trạm Song Phụng, toàn quân Đoàn Chính Thuần bị thua liểng xiểng, Cổ Đốc Thành bị Nam Hải Ngạc Thần đánh bật xuống sông chết mất xác, còn ngoài ra đều bị Đoàn Diên Khánh bắt được, điểm huyệt đưa về phía Nam.

Mộ Dung Phục sai bốn người bọn Đặng Bách Xuyên coi giữ bên ngoài trang. Chính gã tự nhiên đóng vai chủ nhân, sai bảo đầy tớ khoản đãi tân khách.

Vương phu nhân nhìn bọn Đao Bạch Phượng, Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc không chớp mắt, thấy bốn người này đều có vẻ quyến rũ. Tuy họ không giữ được vẻ đài các nhưng gọi bằng hồ ly tinh hay tiện nhân, thì tự bà cũng cảm thấy không thỏa đáng. Bà thầm nghĩ: “Những người này mình thấy còn thương, huống chi lão già dịch kia!”

***

Đoàn Dự ở phòng bên, nghe thấy phụ thân cùng mẫu thân đều lọt vào tay cường địch rồi bị mang đến đây, thì vừa vui mừng vừa lo sợ. Bỗng nghe Đoàn Diên Khánh lên tiếng: “Vương phu nhân! Sau khi đại sự thành tựu rồi, ta nhất định sẽ giao Đoàn Chính Thuần cho phu nhân xử trí thế nào cũng được. Còn thằng lỏi Đoàn Dự bây giờ ở đâu?”

Vương phu nhân vỗ tay ba cái, hai ả thị tỳ đến trước cửa khom lưng đợi lệnh. Vương phu nhân nói: “Đem gã tiểu tử ra đây!”

Đoàn Diên Khánh ngồi trên ghế, đưa tay trái ra đặt lên vai phải Đoàn Chính Thuần. Đoàn Diên Khánh rất sợ Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, phải đề phòng Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục không thành thực, cho Đoàn Dự ra đối phó với lão. Vương phu nhân và Mộ Dung Phục ngụy kế đa đoan, còn Đoàn Dự võ công ghê gớm, cọp đã sổ lồng thì khó mà chế phục được. Lão nắm lấy vai Đoàn Chính Thuần là để Đoàn Dự lo cho tính mệnh phụ thân, không dám giở trò nữa.

Rồi tiếng bước chân vang lên, bốn ả thị tỳ khiêng Đoàn Dự ra đặt giữa nhà. Chân tay chàng đều bị trói bằng gân bò, miệng bị nhét đầy hạt vải. Mắt chàng bị che bằng khăn đen, người ngoài nhìn vào không hiểu chàng còn sống hay đã chết.

Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng thất thanh la gọi: “Dự nhi!” Rồi bà toan nhảy ra ôm lấy cậu con yêu quý. Vương phu nhân đưa tay đẩy vào vai bà rồi quát lên: “Ngồi yên đó.” Đoàn phu nhân đã bị điểm huyệt, khí lực mất hết. Bà vừa bị đẩy một cái là ngã ngay xuống ghế, rồi không nhúc nhích được nữa.

Vương phu nhân nói: “Thằng lỏi này bị ta đánh thuốc mê rồi. Gã tuy còn sống, nhưng bất tri bất giác. Diên Khánh Thái tử! Lão coi cho rõ, xem đúng là gã không, hay là bắt nhầm người.” Đoàn Diên Khánh gật đầu đáp: “Đúng thế!” Vương phu nhân cứ tưởng là bầy Túy Nhân Phong cực kỳ lợi hại, có biết đâu là trong mình Đoàn Dự có Bắc Minh Thần Công, nên chàng mê đi chẳng bao lâu đã hồi tỉnh lại. Nhưng chàng bị trói chặt, lại đang đau khổ thì so với bất tri bất giác cũng chẳng khác nhau gì mấy.

Đoàn Chính Thuần gượng cười hỏi: “A La! Nàng bắt Dự nhi làm chi vậy? Nó có phạm tội gì với nàng không?” Vương phu nhân hắng giọng, không trả lời ông. Bà không muốn thổ lộ tâm tình lưu luyến Đoàn Chính Thuần trước mặt mọi người, mà cũng không nỡ thốt ra những câu tàn độc.

Mộ Dung Phục sợ lửa tình ngày trước của Vương phu nhân bốc lên làm hư hỏng đại sự của mình, liền nói: “Hắn mà không đắc tội với cô mẫu của ta ư? Hắn… hắn quyến rũ, làm nhơ bẩn tiết hạnh biểu muội của ta là Vương Ngữ Yên. Cô mẫu! Hạng người này chết là phải lắm…” Gã chưa dứt lời, Đoàn Chính Thuần cùng Vương phu nhân đã la hoảng: “Sao? Nó… nó cùng…”

Đoàn Chính Thuần tái mặt, nhìn Vương phu nhân khẽ hỏi: “Có đúng con nhỏ đó tên gọi là Ngữ Yên không?” Bản tính Vương phu nhân vốn nóng như lửa, bà nhẫn nại được lâu như thế này đã là chuyện hiếm thấy. Nhưng đến bây giờ thì bà không nhịn được nữa, vừa khóc òa lên vừa la lối: “Con người bạc hạnh vô lương tâm kia! Ngươi hại ta chẳng kể làm gì, lại còn làm hại cả con gái ruột của ngươi nữa. Ngữ Yên… Ngữ Yên… nó… nó là cốt nhục của ngươi đó.” Rồi bà quay lại, vừa phóng cước đá Đoàn Dự túi bụi vừa mắng: “Mi thật là con quỷ hiếu sắc không bằng cầm thú, mất hết cả thiên lương, đến em gái ruột cũng chẳng chịu buông tha. Ta chỉ hận không đem mi ra chém thành trăm mảnh, bằm nát như tương được!”

Bà vừa đá vừa la mắng khiến mọi người trong nhà ai cũng kinh hãi. Bốn bà Đao Bạch Phượng, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Nguyễn Tinh Trúc đã hiểu rõ tính nết Đoàn Chính Thuần, biết ngay ông đã cùng Vương phu nhân tư tình với nhau sinh ra con gái là Ngữ Yên gì gì đó, nào ngờ Đoàn Dự lại có tư tình với Ngữ Yên. Tần Hồng Miên lập tức nhớ đến con gái mình là Mộc Uyển Thanh, Cam Bảo Bảo cũng nhớ đến Chung Linh, đều cảm thấy vừa thương tâm vừa hổ thẹn. Còn Đoàn Diên Khánh, Mộ Dung Phục chỉ nghĩ một chút cũng hiểu rõ ngay.

Tần Hồng Miên la lên: “Con tiện tì kia! Ngày trước ngươi cứ phái bọn thủ hạ tôm tép đến quấy nhiễu chúng ta mãi, ta cùng con gái mới đến Cô Tô để giết loài hồ ly tinh, chỉ hận rằng chưa giết được. Ngươi còn dám đánh đá người nữa ư?” Vương phu nhân mặc kệ bà, cứ đá túi bụi vào Đoàn Dự.

Nam Hải Ngạc Thần thấy người nằm dưới đất chính là sư phụ, liền đưa tay đẩy vào vai Vương phu nhân một cái, quát lớn: “Ôi chao! Y là sư phụ ta. Mi đá sư phụ ta thì có khác gì đá ta? Mi mắng sư phụ ta là loài cầm thú thì ra ta cũng là cầm thú ư? Ta phải bẻ cái cổ trắng trẻo mịn màng của con mụ điên này gãy nghe lắc cắc mới được.”

Đoàn Diên Khánh vội nói: “Nhạc lão tam! Không được vô lễ với Vương phu nhân! Thằng lỏi họ Đoàn này là quân vô sỉ tiểu nhân, gã lừa gạt để ngươi kêu bằng sư phụ. Hôm nay ngươi nên trừ khử gã đi, không thì còn mặt mũi nào mà trông thấy anh hùng thiên hạ nữa?”

Nam Hải Ngạc Thần cãi lại: “Y là sư phụ của ta thật, chứ không phải lừa gạt. Sao ta lại giết y được?” Hắn vừa nói vừa đưa tay ra cởi trói cho Đoàn Dự. Đoàn Diên Khánh lại quát lên: “Lão tam! Chớ có hồ đồ làm bậy! Lấy Ngạc Chủy Tiên ra đập vỡ đầu thằng lỏi cho chết đi!” Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy đáp: “Không được! Không được! Lão đại! Hôm nay Nhạc lão tam này không thể nghe lời lão đại, mà nhất định phải cứu sư phụ!” Nam Hải Ngạc Thần nói xong, dùng sức giật mạnh, toan bứt dứt sợi gân bò.

Đoàn Diên Khánh giật mình kinh hãi, nghĩ rằng Đoàn Dự mà được cởi trói rồi thi triển phép Lục Mạch Thần Kiếm thì không còn ai chống nổi nữa, không những đại sự hỏng bét mà tính mệnh mình cũng khó bảo toàn. Trong lúc cấp bách, lão vung trượng đâm vào sau lưng Nam Hải Ngạc Thần, cây trượng xuyên suốt ra tới trước ngực.

Nam Hải Ngạc Thần bỗng thấy sau lưng đau nhói, rồi nhìn thấy đầu trượng thò ra trước ngực mà còn kinh ngạc chẳng hiểu ra sao. Lão quay đầu lại nhìn Đoàn Diên Khánh, tựa như để hỏi tại sao lão đại lại hạ độc thủ giết mình. Đoàn Diên Khánh đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân, tính tình hung dữ, hễ ra tay là độc địa, mà lại đang sợ Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ lo Nam Hải Ngạc Thần cởi trói cho Đoàn Dự. Lão cũng không cố ý giết Nam Hải Ngạc Thần, không ngờ cây trượng đâm vào chỗ yếu hại. Lão thấy Nam Hải Ngạc Thần kinh ngạc trợn mắt nhìn mình thì có ý hối hận, nhưng chỉ thoáng qua một cái là lòng hối hận lại tiêu tan. Lão giật mạnh, rút cây cương trượng ra, rồi lớn tiếng gọi: “Lão tứ! Đem xác y đi mai táng. Vì y không chịu nghe lời lão đại nên phải chết.”

Nam Hải Ngạc Thần kêu to lên một tiếng, rồi ngã lăn ra, sau lưng và trước ngực máu vọt lên như suối. Hai mắt lão vẫn trợn tròn xoe, thực là chết không nhắm mắt! Vân Trung Hạc nắm lấy xác Nam Hải Ngạc Thần kéo đi. Tuy cùng trong bọn tứ ác, nhưng hắn vẫn ghét cay ghét đắng Nam Hải Ngạc Thần vì lão này nhiều phen ngăn trở việc của hắn, mà võ công hắn thua kém không làm gì được nên đành phải nhịn. Bây giờ hắn thấy Nam Hải Ngạc Thần bị Đoàn Diên Khánh giết chết, trong lòng khoan khoái vô cùng.

Mọi người thấy Nam Hải Ngạc Thần vốn là tam đệ của Đoàn Diên Khánh, mà chỉ một câu nói không hợp đã mất mạng liền, thật là bọn tứ ác lòng lang dạ sói, chuyện hung ác đến thế thật ít thấy trên thế gian. Nhìn thấy cảnh khủng khiếp này, ai nấy đều phập phồng lo sợ.

Đoàn Dự cảm thấy máu nóng từ vết thương của Nam Hải Ngạc Thần phun lên mặt lên cổ mình, chợt nghĩ: “Ta làm sư phụ của hắn đã lâu, mà trước nay chưa làm gì ích lợi cho hắn. Thế mà hắn đã nhiều lần cứu mạng ta, hôm nay lại vì ta mà mất mạng.” Trong lòng chàng đau khổ vô cùng.

Đoàn Diên Khánh cười nhạt, nói: “Thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết.” Lão vung cương trượng lên, nhằm đâm tới trước ngực Đoàn Dự.

Bỗng có thanh âm nữ nhân lên tiếng ngâm nga: “Ngoài chùa Thiên Long; Dưới gốc bồ đề; Hành khất phương xa; Quan Âm tóc dài.” Đoàn Diên Khánh mới nghe bốn chữ “Ngoài chùa Thiên Long”, cây cương trượng đã ngừng lại trên không. Nghe hết bốn câu, cây cương trượng không ngớt rung động, rồi từ từ rút lại. Lão ngoảnh đầu về phía sau, chạm phải mục quang Đao Bạch Phượng, thấy ánh mắt bà dường như có trăm nghìn lời muốn nói, thì trong lòng chấn động. Lão run run nói: “Quan… Quan Thế Âm Bồ Tát…”

Đao Bạch Phượng gật gật đầu, khẽ hỏi: “Ngươi… ngươi có biết thằng nhỏ này là ai không?”

Ruột gan Đoàn Diên Khánh rối bời, dường như tâm thần lão đang mơ hồ quay về hình ảnh một đêm trăng sáng hai mươi năm trước.

***

Ngày ấy, lão vừa từ Đông Hải về tới Đại Lý, đến bên ngoài Thiên Long Tự.

Đoàn Diên Khánh trên đường đi Hồ Quảng thì gặp cường địch vây đánh. Tuy lão giết hết bọn địch song chính mình cũng bị trọng thương, đôi chân gãy nát, diện mục bị tàn hủy, cổ họng cũng trúng đao của địch, không nói ra tiếng được. Lão quả là không còn ra hình người, toàn thân đầy mùi ô uế, ruồi nhặng bay vù vù bâu vào những vết thương.

Lão vốn là Hoàng Thái tử nước Đại Lý. Phụ thân lão bị gian thần giết chết, lão trốn thoát trong lúc hỗn loạn, về sau học được võ công mới quay về. Đoàn Diên Khánh biết đương kim hoàng đế Đại Lý là Đoàn Chính Minh, cũng là anh họ lão. Nhưng thực ra ngôi hoàng đế không phải của Đoàn Chính Minh mà là của lão mới đúng. Lão còn biết Đoàn Chính Minh là người nhân hậu thương dân, rất được lòng người, ngôi hoàng đế mười mấy năm trời đã vững chắc khó lòng lay chuyển. Văn võ bá quan trong triều đều ủng hộ đương kim hoàng đế, chẳng còn ai nhớ đến Hoàng Thái tử của tiền triều. Nếu lão xuất hiện đột ngột ở Đại Lý thì nguy đến tính mạng, dù võ nghệ cao cường đến đâu cũng không chống nổi với muôn dân. Huống chi lúc này lão bị trọng thương, thì chỉ một tên lính quèn cũng đủ giết lão rồi.

Đoàn Diên Khánh gắng gượng lết tới ngoài chùa Thiên Long, chỉ còn hy vọng duy nhất là nhờ Khô Vinh đại sư chủ trì công đạo.

Khô Vinh đại sư là em ruột phụ thân lão, tức là thúc phụ lão, mà cũng là thúc phụ Bảo Định đế Đoàn Chính Minh. Khô Vinh đại sư là một bậc cao tăng đắc đạo, chùa Thiên Long lại là tấm bình phong che chở cho họ Đoàn nước Đại Lý, đây chính là nơi qui y của các vị hoàng đế muốn lánh bụi trần xuất gia đầu Phật. Đoàn Diên Khánh không dám vào thành Đại Lý, phải đi cầu kiến Khô Vinh đại sư. Nhưng Tri khách tăng cho biết Khô Vinh đại sư đang tọa thiền, mới nhập định ba ngày, không chừng mười ngày nửa tháng mới xong. Tri khách tăng còn bảo Đoàn Diên Khánh có việc gì thì viết thư để lại, hoặc là nói rõ để vào bẩm với phương trượng xem lão nhân gia phát lạc thế nào. Dù lão là một kẻ ăn mày nửa người nửa quỉ, mà Tri khách tăng cũng vẫn đối xử rất lịch sự.

Đoàn Diên Khánh khi nào dám thổ lộ thân phận của mình? Lão chống khuỷu tay xuống đất, bò đến gốc cây bồ đề ở bên chùa, cố chờ Khô Vinh đại sư tọa thiền xong. Nhưng lão cũng tự biết là sau khi tọa thiền xong, Khô Vinh đại sư chưa chắc đã gặp người ngoài, ở Đại Lý có nhiều người nhận được mặt lão, lưu lại lúc nào là nguy hiểm lúc ấy, vậy có nên lập tức chạy trốn không? Lão lại đang lên cơn sốt, các vết thương khắp mình mẩy vừa đau nhức vừa ngứa ngáy, thật khó mà chịu nổi. Trong lòng lào nghĩ: “Sống mà đau khổ tuyệt vọng đến thế này, thật chẳng muốn sống tiếp làm gì. Hay là bây giờ tự sát cho xong?”

Lão toan đứng dậy, đập đầu vào gốc bồ đề cho chết, nhưng toàn thân đã kiệt lực hết rồi. Lão nằm dưới đất chẳng động đậy gì được, đúng là không còn đủ dũng khí để sống, mà cũng không đủ dũng khí để chết.

Lúc trăng lên đến đỉnh đầu, thốt nhiên lão thấy một nữ nhân áo trắng từ trong sương mù đi tới…

Giữa rừng hoang cỏ rậm, sương trắng mịt mù, nữ nhân áo trắng tóc xõa xuống vai, thoăn thoắt đi tới dường như chân không chấm đất. Tuy ánh trăng chiếu sau lưng nàng nên không nhìn rõ mặt, nhưng Đoàn Diên Khánh cũng nhận ra đây là một tuyệt thế mỹ nhân, bèn không khỏi giật mình. Những lọn tóc nàng rủ xuống che khuất, mắt mũi chỉ còn thấy lờ mờ, Đoàn Diên Khánh không nhìn rõ mặt, chỉ biết nữ lang này mỹ lệ như tượng Quan Âm Bồ Tát, liền thầm nghĩ: “Đây nhất định là Bồ Tát hạ phàm để cứu nạn cho Hoàng đế, vì Thánh Thiên tử phải có linh thần hộ vệ. Xin đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, bảo hộ cho trẫm lại lên ngôi báu, trẫm nhất định dựng chùa tạc tượng cúng bái đời đời không dứt.”

Nữ lang từ từ đi đến gần. Lúc nàng xoay lại, Đoàn Diên Khánh chỉ nhìn thấy nửa mặt nàng trắng nhợt, không chút huyết sắc. Bỗng nghe nữ lang lẩm bẩm: “Ta trao cả tấm lòng cho ngươi, mà ngươi chẳng để tâm. Ngươi đã có một nữ nhân, bây giờ lại có người khác, thế là ngươi quên hết những lời thệ nguyện trước Bồ Tát ngày xưa rồi. Ta đã tha thứ cho ngươi hết lần này đến lần khác, bây giờ không thể tiếp tục tha thứ nữa. Ngươi có lỗi với ta, ta cũng sẽ có lỗi với ngươi. Ngươi đi tìm người khác, ta cũng sẽ đi tìm người khác! Bọn nam nhân người Hán các ngươi toàn là đồ phụ bạc, khinh bọn nữ nhân Bài Di chúng ta như chó mèo, như bò lợn. Ta nhất định phải báo thù, coi bọn nam nhân các ngươi không phải là người nữa.” Những câu này nữ lang nói rất khẽ, tựa hồ nói để mình nghe, giọng nói đầy vẻ oán hận.

Đoàn Diên Khánh tự nhủ: “Té ra đây là một nữ lang người Bài Di, bị phu quân người Hán khinh khi, đối xử bội bạc.” Người Bài Di và người Đại Lý vốn cùng một chủng tộc, nữ nhân da trắng tóc dài, nhan sắc xinh đẹp hơn người Hán nhiều, còn nam nhân thì yếu ớt, nhân số lại ít nên thường bị người Hán khinh khi lấn át. Đoàn Diên Khánh thấy nữ lang lại từ từ đi xa dần, thì nghĩ thầm: “Không phải! Nữ nhân Bài Di tuy nổi tiếng là xinh đẹp, nhưng cũng không có vẻ thần tiên đến thế này! Huống chi thân thể nữ lang này khoác áo trắng, mỏng nhẹ như sương như khói. Người Bài Di làm gì có phục sức tinh nhã như thế? Đây nhất định là Bồ Tát hiện thân, mình… mình chớ nên nhầm lẫn.”

Đoàn Diên Khánh bị giày xéo đã nhiều, tựa như không còn đất để dung thân. Lão yên trí đây là Bồ Tát hiện thân để cứu mình ra khỏi hoàn cảnh khốn nạn, thấy Bồ Tát bỏ đi liền cố sức bò theo. Lão muốn lên tiếng gọi: “Bồ Tát hãy cứu ta!”, nhưng trong cổ họng chỉ ú ớ mà nói không thành tiếng.

Nữ lang áo trắng nghe tiếng động, nhìn lại dưới gốc Bồ Đề có một đống lù lù, người chẳng ra người, thú chẳng ra thú đang chuyển động thân mình. Nàng nhìn kỹ lại, mới nhận ra là một gã ăn xin đầy mình máu mủ, dơ dáy vô cùng. Những vết thương trên mặt mũi tay chân vẫn còn ứa máu, ruồi nhặng bám đầy, bốc ra mùi xú uế khủng khiếp.

Nữ lang trông thấy tên ăn mày dơ dáy kinh dị này, ban đầu cảm thấy nổi da gà, muốn xoay người chạy trốn. Nhưng trong lòng nàng đang căm hận trượng phu đến cực điểm, liền có ý tự hiến cho hạng người đê tiện để trả thù, bèn nghĩ lại: “Ta nên tìm một kẻ xấu xí ô uế nhất thiên hạ để hiến thân. Ngươi là Vương gia, là Đại tướng quân, ta lại càng nên đối xử tốt với gã hành khất bẩn thỉu này.”

Nàng không nói gì, từ từ trút bỏ y phục, đến trước mặt Đoàn Diên Khánh, chui vào lòng lão, đưa hai cánh tay như hoa như ngọc quàng lấy cổ lão…

Một đám mây nhẹ nhàng bay qua, che khuất mặt trăng. Tựa như Hằng Nga vẫy tay gọi mây đến che khuất, vì nàng không muốn thấy cảnh tượng kỳ lạ này. Không hiểu vì sao một vị phu nhân cao quý như thế mà lại trao thân hình trắng nõn, kiều diễm như một đóa sơn trà, cho một tên ăn mày mình đầy máu mủ?

Nữ lang áo trắng đứng dậy lâu rồi, Đoàn Diên Khánh vẫn còn tưởng mình nằm mơ, chẳng hiểu là chuyện thật hay chuyện giả. Thần trí lão vẫn hồ đồ, nghĩ rằng đây là Bồ Tát giáng trần. Mũi lão vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng của nàng. Lão nghiêng đầu đi, lấy tay viết xuống đất bảy chữ: “Nàng là Quan Thế Âm tóc dài?”

Lão viết bảy chữ này để hỏi nữ lang, thấy nàng gật gật đầu, rồi đột nhiên, mấy hạt châu nhỏ xuống bên dòng chữ. Không hiểu đó là nước mắt của nàng hay nước cam lồ của Quan Âm vẩy ra. Đoàn Diên Khánh đã từng nghe nói Quan Âm Bồ Tát từ bi thường hóa thân làm nữ nhân để phổ độ chúng sinh bị trầm luân trong bể khổ. Lão thầm nghĩ: “Nữ lang áo trắng này nhất định là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân. Quan Âm đến đây là có ý điểm hóa cho ta, bảo ta đừng thối chí. Ta không phải là phàm phu tục tử mà là chân mệnh Thiên tử. Nếu không phải vậy, thì tại sao lại có chuyện này?”

Đoàn Diên Khánh đang lúc chết cũng không được mà sống cũng không xong, đột nhiên được vị Quan Âm tóc dài áo trắng xả thân dâng hiến. Lão cảm thấy tinh thần phấn khởi, tin rằng lòng trời còn giúp mình, ngày sau tất được lên ngôi báu, những nguy nan trước mắt cũng chẳng đáng gì. Đoàn Diên Khánh đang đầy lòng tự tin, lại thấy vầng trăng trước mắt sáng lên. Lão đợi đến bình minh, vào hỏi thăm thì biết Khô Vinh đại sư vẫn còn đang nhập định. Đoàn Diên Khánh quì xuống gốc cây Bồ Đề, cảm tạ đức Bồ Tát đã khai ân, rồi bẻ hai cành bồ đề cắp vào nách, tập tễnh nhảy đi.

Đoàn Diên Khánh không dám lẩn quẩn ở nước Đại Lý nữa. Lão đi mãi xuống phía Nam, đến tận vùng Man Hoang hẻo lánh, dưỡng lành vết thương rồi cố công tập luyện võ nghệ gia truyền. Đoàn Diên Khánh mất năm năm khổ luyện để lấy trượng thay chân. Lão lại đem môn Nhất Dương Chỉ biến hóa đi để dùng cho cương trượng, mất thêm năm năm nữa. Sau đó Đoàn Diên Khánh đi về vùng Lưỡng Hồ, tiêu diệt kẻ cừu địch không để sót một mống. Thủ đoạn tàn ác thâm độc của lão thực khiến cho người ta vừa nghe đến đã phải kinh hồn, vì thế mà lão nổi tiếng là Thiên Hạ Đệ Nhất Đại Ác Nhân. Rồi lão kết nạp thêm Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc. Đoàn Diên Khánh đã mấy phen trở về Đại Lý, lần nào cũng thấy ngôi vua của Đoàn Chính Minh không thể nào lung lay được, nên lại đành bỏ đi. Lần sau cùng lão vừa đánh cờ vừa đấu nội lực với Hoàng Mi Tăng, đang nắm chắc phần thắng thì không ngờ Đoàn Dự xen vào, khiến cho lão chuyển thắng thành bại.

Lúc này, Vương phu nhân bắt được Đoàn Dự, Đoàn Diên Khánh đang định phóng trượng đâm chết chàng cho tiệt nòi Đoàn Chính Thuần, thì đột nhiên Đoàn phu nhân đọc bốn câu: Ngoài chùa Thiên Long; Dưới gốc Bồ Đề; Hành khất phương xa; Quan Âm tóc dài.”

Bốn câu này chỉ có mười sáu chữ, đọc lên thấy nhẹ như không, nhưng vào tai Đoàn Diên Khánh thì chấn động như sấm nổ. Lão nhìn sắc mặt tái nhợt của Đoàn phu nhân, trong lòng tự hỏi: “Chẳng lẽ… Chẳng lẽ… đây lại là Quan Âm ngày trước?”

Đoàn phu nhân từ từ đưa tay lên tháo búi tóc ra, cho suối tóc mây xõa lên vai, rủ xuống che nửa mặt. Lão nhận ra bà chính là vị Quan Âm Bồ Tát đã đến với lão dưới gốc cây bồ đề ngoài chùa Thiên Long đêm đó. Đoàn Diên Khánh không còn hoài nghi gì nữa, lẩm bẩm một mình: “Mình cứ tưởng là Bồ Tát, té ra lại là Trấn Nam Vương phi!”

Thật ra, năm xưa chỉ mấy ngày sau là lão đã tạm bình phục vết thương, cơn sốt cũng lui. Sau khi thần trí tỉnh táo, lão cũng hiểu rằng nữ lang áo trắng đã hiến thân mà lưu được mạng mình không phải là Bồ Tát, nhưng thật tình không muốn giấc mộng đẹp này tan vỡ, nên cứ không ngớt tự nhủ: “Đó là Quan Âm áo trắng, đó là Quan Âm áo trắng.”

Bây giờ lão hiểu rõ chân tướng, nhiều mối nghi hoặc lại nổi lên. Lão tự hỏi: “Tại sao nàng lại hành động như vậy? Khi ấy ta là một kẻ ăn xin mình đầy máu mủ, sao lại lọt vào mắt xanh của nàng?” Lão cúi đầu trầm tư một chút, đột nhiên lại nhìn thấy mấy giọt châu rơi xuống đất, giống hệt tình cảnh năm xưa, không hiểu là nước mắt hay nước cam lồ từ cành dương liễu vẩy ra.

Đoàn Diên Khánh ngẩng lên nhìn thì thấy Trấn Nam Vương phi nước mắt chảy quanh, không cầm lòng được bèn khàn khàn hỏi: “Ngươi muốn ta tha mạng cho con ngươi ư?” Đoàn phu nhân lắc đầu, hạ giọng đáp: “Trên cổ nó có một tấm kim bài nhỏ, ghi năm tháng ngày giờ sinh của nó.” Đoàn Diên Khánh ngạc nhiên hỏi: “Ngươi không xin ta tha mạng cho nó, mà lại bảo ta coi tấm kim bài đó, là có ý gì?”

Từ lúc Đoàn Diên Khánh biết rõ chân tướng sự việc đã xảy ra dưới gốc cây bồ đề ngoài chùa Thiên Long, lão sinh ra vừa kính nể vừa cảm kích Đoàn phu nhân. Lão đưa đầu trượng ra để giải khai huyệt đạo cho bà, rồi cúi xuống nhìn vào cổ Đoàn Dự thì quả thấy một tấm kim bài nhỏ, bèn giật ra, cầm lên nhìn kỹ thì thấy một mặt khắc bốn chữ “Trường mệnh bách tuế”. Lão lại lật mặt kia lên xem, thì có một hàng chữ nhỏ: “Đại Lý Bảo Định nhị niên Quý Hợi thập nhất nguyệt nhị thập tam nhật sinh.”

Đoàn Diên Khánh mới xem đến mấy chữ “Đại Lý Bảo Định nhị niên” thì trong lòng đã run lên, la thầm trong bụng: “Tháng hai năm ấy ta bị kẻ thù vây đánh trọng thương, lê lết đến ngoài chùa Thiên Long. Trời ơi! Tháng mười một sinh ra gã này, thế là vừa đúng mười tháng. Vậy thì… mười tháng mang thai… gã này… gã này… là con ta ư?”

Mặt lão chằng chịt vết sẹo nên không lộ rõ nét kinh hãi, nhưng vẻ mặt nhợt nhạt tựa hồ không còn một chút huyết sắc. Lão cực kỳ xúc động, quay lại nhìn Đoàn phu nhân thì thấy bà đang gật đầu, lẩm nhẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt!”

Suốt đời Đoàn Diên Khánh chưa biết gì là ái tình nam nữ, chưa được nếm mùi hoan lạc gia đình. Lúc này, đột nhiên lão biết trên đời mình đã có một đứa con trai thì trong lòng vui mừng khôn tả. Lão nghĩ rằng bao nhiêu danh lợi vinh hoa trên đời, cả đến cơ nghiệp đế vương cũng không quý bằng một đứa con, nhớ lại vừa rồi suýt nữa phóng trượng đâm chết con mình, may mà chưa kịp hạ thủ, thì vừa kinh hãi vừa mừng thầm, chỉ muốn reo hò nhảy nhót. Chợt nghe “choang” một tiếng, cây cương trượng bên tay phải lão rớt xuống đất.

Bỗng nhiên lão thấy xây xẩm, tay trái như mất sức, tả trượng cũng rơi xuống đất đánh “choang” một tiếng nữa, nhưng trong lòng vẫn chỉ muốn la lên: “Ta có một đứa con trai!” Lão liếc mắt nhìn Đoàn Chính Thuần thì thấy vẻ mặt ông vẫn mơ hồ, hiển nhiên không hiểu gì mấy câu của phu nhân vừa nói.

Đoàn Diên Khánh nhìn kỹ Đoàn Chính Thuần, rồi nhìn sang Đoàn Dự, thấy một người mặt vuông, một người mặt bầu hoàn toàn không giống, nhưng tướng mạo tuấn tú của Đoàn Dự có đến bảy tám phần là giống mình lúc trẻ. Lão không còn hoài nghi gì nữa, trong lòng kiêu hãnh không nói hết, những muốn la lên: “Dù ngươi được làm hoàng đế nước Đại Lý mà ta không được làm cũng chẳng đáng gì. Ta có con trai mà ngươi không có, thế thì ta hơn ngươi nhiều lắm rồi. Đột nhiên đầu óc lão choáng váng, mắt tối sầm lại. Lão tự nhủ: “Chắc là ta vui mừng quá độ rồi.”

***

Bỗng nghe đánh “huỵch” một tiếng, một người ngã làn ra bên cửa, chính là Vân Trung Hạc. Đoàn Diên Khánh kinh hãi la thầm: “Hỏng bét!” Lão giơ tay trái lên không, muốn vận kình lực hút cây cương trượng cho bật lên tay mình, không ngờ nội lực không phát huy được, cây cương trượng vẫn nằm im dưới đất, chẳng chuyển động chút nào. Đoàn Diên Khánh càng kinh hãi hơn, nhưng không để lộ ra ngoài mặt. Lão lại giơ tay phải ra vận kình để hút lấy cây cương trượng, nhưng nó vẫn nằm yên không nhúc nhích. Lão thử đề tụ chân khí cũng không được, ngơ ngẩn chẳng hiểu đã bị người nào giở trò gì.

Lúc đó Mộ Dung Phục lên tiếng: “Đoàn điện hạ! Trong gian nhà bên kia có một người muốn gặp điện hạ, xin điện hạ sang đó để tương kiến.” Đoàn Diên Khánh nói: “Là ai thế? Mộ Dung công tử cứ đưa y đến đây!” Mộ Dung Phục đáp: “Y không đi được, mời điện hạ qua đó!”

Nghe mấy câu này, Đoàn Diên Khánh hiểu ngay là có kẻ âm thầm phóng thuốc mê, mà chắc không phải ai ngoài Mộ Dung Phục. Gã vốn sợ võ công mình lợi hại, sợ thuốc độc chưa đủ hại mình, nên chưa dám trở mặt ngay. Đoàn Diên Khánh lại nghĩ thầm: “Từ lúc vào nhà đến giờ mình đề phòng cẩn thận, không uống một hớp nước trà, cũng không ngửi thấy mùi gì khác lạ, mà sao vẫn bị trúng độc của gã được? Hay là từ lúc mình nghe lời nói của Đoàn phu nhân đã quá đỗi vui mừng, xao lãng đề phòng đến nỗi mắc bẫy?” Đoàn Diên Khánh tuy tính tình hung ác, nhưng có khí độ kẻ cả, khi đã thất cơ kém thế thì thẳng thắn chịu thua chứ không cáu giận mắng chửi. Lão lạnh lùng nói: “Mộ Dung công tử! Họ Đoàn nước Đại Lý chúng ta không quen dùng chất độc. Công tử nên dùng Nhất Dương Chỉ để đối phó với lão phu mới đúng.”

Mộ Dung Phục mỉm cười đáp: “Đoàn điện hạ là bậc cái thế anh hùng, há phải hạng tầm thường? Món Bi Tô Thanh Phong này là của tại hạ đã lấy ở Tây Hạ ngày trước, chỉ biến chế đi một chút để khỏi làm người ta chảy nước mắt. Đoàn điện hạ cũng đã từng tham gia Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, tại hạ dùng Bi Tô Thanh Phong để đối phó với điện hạ thì vẫn là đúng nề nếp gia phong Gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung ở Cô Tô.”

Đoàn Diên Khánh ngấm ngầm kinh hãi. Lão nhớ lại ngày trước, bọn cao thủ tại Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ đã dùng Bi Tô Thanh Phong để đánh ngã vô số bang chúng Cái Bang rồi bắt sống mang đi. Sau này bọn võ sĩ Tây Hạ cùng với tướng quân Hách Liên Thiết Thụ, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, cũng vì trúng chất độc này mà bị bắt. Cũng may chính lão đã đoạt được thuốc giải, cứu hết bọn chúng. Khi đó trên tường có ghi mấy chữ Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân, rõ ràng người hạ độc là Cô Tô Mộ Dung, trong tay Mộ Dung Phục đương nhiên có loại thuốc này. Lão chỉ còn biết tự trách mình không cẩn thận, nhắm mắt lại không nói gì nữa, ngấm ngầm vận nội lực để trục khí độc ra ngoài.”

Mộ Dung Phục cười nói: “Muốn hóa giải Bi Tô Thanh Phong mà vận công ngưng khí thì chẳng ích gì…” Gã chưa dứt lời, Vương phu nhân đã quát lên: “Ngươi hạ độc làm ta cũng bị hại lây. Mau mau lấy thuốc giải ra!” Mộ Dung Phục đáp: “Cô mẫu! Điệt nhi thật là đắc tội. Cô mẫu chờ một chút, rồi điệt nhi sẽ giải độc cho cô mẫu!” Vương phu nhân tức giận nói: “Việc gì mà phải chờ một chút chờ hai chút? Lấy thuốc giải mau đi!” Mộ Dung Phục đáp: “Thật là không phải với cô mẫu, điệt nhi không mang theo thuốc giải bên mình.”

Đoàn phu nhân đã được giải khai huyệt đạo, nhưng lại bị Bi Tô Thanh Phong làm cho mê đi. Trong sảnh đường, ngoài Mộ Dung Phục đã uống thuốc giải từ trước và Đoàn Dự có Bắc Minh thần công trong người, còn hết thảy đều trúng độc.

Nhưng Đoàn Dự đang đau đớn đến mức không nói ra lời. Từ lúc chàng nghe Vương phu nhân nói: “Con người bạc hạnh vô lương tâm kia! Ngươi hại ta chẳng kể làm gì, lại còn làm hại cả con gái ruột của ngươi nữa. Ngữ Yên… Ngữ Yên… nó… nó là cốt nhục của ngươi đó.” Thì uất khí xông lên tận cổ, muốn ngất đi lập tức. Trước đó, chàng nghe Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục đề cập đến mối tư tình giữa phụ thân chàng với bà ta, thì trong lòng đã ngấm ngầm kinh hãi, lo rằng Vương Ngữ Yên cũng giống như Mộc Uyển Thanh, chính là em gái mình. Lúc Đoàn Dự nghe chính miệng Vương phu nhân nói như vậy, thì không còn hoài nghi gì nữa, tưởng chừng trời đất quay cuồng. Nếu chân tay không bị trói, miệng không bị nhét hạt vải, thì chàng đã kêu gào và chạy loạn lên như người điên rồi. Trong lòng đau khổ quá chừng, Đoàn Dự cảm thấy tức ngực, không nhúc nhích được, bàn chân bàn tay giá lạnh rồi dần dần cứng đờ. Chàng cả kinh, than thầm: “Trời ơi! Mấy năm trước mình đã nghe bá phụ nói, người bị tẩu hỏa nhập ma thì nội công càng thâm hậu bao nhiêu càng nguy hiểm bấy nhiêu. Mình… mình bị tẩu hỏa nhập ma rồi ư?”

Khí lạnh chỉ trong chốc lát đã lên đến khuỷu tay, đầu gối, nhưng trong lòng Đoàn Dự lại chán nản nghĩ: “Nếu Ngữ Yên là em cùng cha khác mẹ với mình thì mối tương tư ôm ấp bấy lâu bỗng tan vỡ như bọt nước, sống trên thế gian cũng chẳng còn chi là sinh thú. Thà mình bị tẩu hỏa nhập ma trở thành phế nhân không biết gì nữa, lại càng đỡ phải phiền não suốt đời.”

Đoàn Diên Khánh ba lần vận nội tức, chẳng những vô hiệu mà lại càng tức ngực, khó chịu như muốn nôn oẹ. Lão không nói gì mà cũng không cử động, chỉ nhắm mắt ngồi yên.

Mộ Dung Phục nói: “Đoàn điện hạ! Tuy tại hạ đã dùng thuốc mê để kiềm chế điện hạ, nhưng nhất quyết không có ý vô lễ hay gia hại. Tại hạ chỉ kính cẩn khẩn cầu điện hạ một điều, sau đó không những hai tay dâng thuốc giải lên mà còn cúi đầu nhận tội.” Giọng nói của hắn hết sức khiêm cung.

Đoàn Diên Khánh cười khẩy rồi đáp: “Đoàn mỗ đã sống đến tuổi này, từng trải biết bao sóng to gió lớn, há lại để người ta uy hiếp kiềm chế mà bắt ưng thuận chuyện gì?” Mộ Dung Phục đáp: “Tại hạ khi nào lại dám uy hiếp điện hạ? Có mọi người ở đây làm chứng cho, tại hạ kính cẩn tạ tội, chỉ mong điện hạ ưng thuận một điều.” Gã quì cả hai chân xuống, dập đầu sát đất, tỏ ra rất kính cẩn.

Mọi người thấy Mộ Dung Phục đột nhiên thi hành đại lễ thì không khỏi kinh ngạc. Lúc này gã đã làm chủ tình hình, tính mạng mọi người gã đều nắm trong tay. Dù gã có vì nghĩa khí giang hồ mà kính nể Đoàn Diên Khánh là một cao thủ tiền bối, cũng chỉ vái một cái là đủ, hà tất phải khom lưng uốn gối, dập đầu bái lạy?

Đoàn Diên Khánh chẳng hiểu ra sao, nhưng thấy gã kính cẩn như vậy thì lòng căm hận cũng bớt xuống vài phần. Lão nói: “Người ta thường nói, thi lễ là tất có sở cầu. Công tử thi hành đại lễ như vậy, lão phu thật không dám nhận. Chẳng hay công tử có điều chi dạy bảo?” Giọng điệu của Đoàn Diên Khánh cực kỳ khách khí.

Mộ Dung Phục đáp: “Tâm nguyện của tại hạ thì điện hạ đã hiểu rõ rồi, nhưng phục hưng Đại Yên không phải chỉ một ngày mà xong. Bây giờ tại hạ giúp đỡ điện hạ lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý trước. Điện hạ không có con cái, xin hãy thu nhận tại hạ làm nghĩa tử. Hai chúng ta đồng tâm hiệp lực làm nên đại sự, chẳng phải là lưỡng toàn kỳ mỹ ư?”

Đoàn Diên Khánh nghe Mộ Dung Phục nói đến câu “Điện hạ không có con cái”, bất giác liếc mắt nhìn Đoàn phu nhân, bốn mắt gặp nhau một thoáng mà khác nào như đã trao đổi ngàn vạn lời. Đoàn Diên Khánh cười khằng khặc không trả lời, thầm nghĩ: “Giả tỉ ngươi nói câu này sớm được nửa giờ thì thật là lưỡng toàn kỳ mỹ. Nhưng hiện giờ ta đã biết là mình có con trai, thì khi nào lại đem ngôi vua mà truyền lại cho ngươi?”

Mộ Dung Phục lại nói: “Giang sơn Đại Tống vốn là của họ Sài đời Hậu Chu. Xưa kia Chu Thái Tổ là Quách Oai không người kế nghiệp, mới nhận Sài Vinh làm nghĩa tử. Sài Thế Tôn là tay hào kiệt đương thời, tài kiêm văn võ làm nổi oai danh cho nhà Hậu Chu. Họ Quách đời đời được hưởng tế tự, truyền mãi về sau, hậu thế đều ca tụng việc này. Gương trước còn đó, xin điện hạ xem xét.” Đoàn Diên Khánh hỏi: “Công tử muốn ta nhận làm nghĩa tử ư?” Mộ Dung Phục đáp: “Đúng thế!”

Đoàn Diên Khánh nghĩ thầm: “Bây giờ ta bị trúng độc, đành phải miễn cưỡng nhận lời. Chờ giải độc rồi, ta sẽ giết quách gã đi là xong.” Lão bèn hững hờ đáp: “Công tử chịu đổi sang họ Đoàn ư? Giả tỉ về sau công tử trở thành hoàng đế nước Đại Lý đi nữa, thì chuyện phục hưng Yên quốc cũng chưa hiểu thành bại thế nào, nhưng họ Mộ Dung từ đây tuyệt tự mà công tử cũng đồng ý ư?” Đoàn Diên Khánh đã hiểu rõ những suy tính của Mộ Dung Phục. Sau khi gã lên làm vua nước Đại Lý, chỉ cần vài năm là cho người thân tín nắm hết quyền lực, giết sạch trung thần của họ Đoàn, rồi gã sẽ khôi phục họ Mộ Dung. Có khi gã còn đổi tên nước Đại Lý thành Đại Yên cũng chưa biết chừng. Lão đặt ra mấy câu hỏi này là một nước cờ rất cao, lấy thoái làm tiến, khiến Mộ Dung Phục không đem lòng nghi kỵ. Nếu lão ưng thuận ngay, thì tỏ ra có ý không thành thực.

Quả nhiên Mộ Dung Phục ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi ngập ngừng nói: “Chuyện này…”  Thực ra trong thâm tâm Mộ Dung Phục tính toán đúng như Đoàn Diên Khánh đã nghĩ. Gã cũng cho rằng nếu lão hấp tấp nhận lời, tức là tính chuyện bất lương giả trá. Mộ Dung Phục ngần ngừ một lúc rồi nói tiếp: “Tại hạ tuy không phải là hạng vong bản bất hiếu, nhưng muốn làm nên việc lớn thì không thể câu nệ tiểu tiết. Tại hạ đã bái điện hạ làm nghĩa phụ, thì dĩ nhiên phải lấy họ Đoàn.”

Đoàn Diên Khánh cười ha hả nói: “Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Lão phu phiêu bạt giang hồ không vợ không con, không ngờ đến lúc tuổi già lại có được đứa con trai là bậc thiếu niên anh tuấn thì thật thỏa chí bình sinh. Trên đời ta vui sướng nhất, không có việc gì bằng việc này. Kính ngưỡng Quan Thế Âm Bồ Tát trên cao, đệ tử thật là cảm kích đến rơi lệ, cho dù bứt gân bẻ xương cũng chưa đủ báo đền ân đức của Bạch Y Quan Âm Bồ Tát trong muôn một.”

Trong lòng lão hết sức kích động, hai hàng nước mắt bỗng dưng chảy xuống, lão bèn cúi đầu, chắp hai tay, vẫn đang đối diện với Đoàn phu nhân.

Đoàn phu nhân chầm chậm gật đầu, ánh mắt trước sau vẫn nhìn vào đứa con yêu quí đang nằm dưới đất.

Đoàn Diên Khánh nói câu này là bày tỏ nỗi vui mừng đột nhiên có Đoàn Dự là con, nhưng người khác nghe lại tưởng là lão ưng thuận thu Mộ Dung Phục làm nghĩa tử, để sau này truyền ngôi cho gã.

Mộ Dung Phục cả mừng nói: “Điện hạ là bậc anh kiệt vào hàng tiền bối, lời nói nặng bằng cửu đỉnh, nhất định không tiếc hối. Xin nghĩa phụ nhận của hài nhi mấy lạy!”

Gá vừa toan quì xuống, bỗng nghe thanh âm ngoài cửa vọng vào: “Sai bét, sai bét! Làm như thế này là sai bét!” Rèm cửa vén lên, một người bước vào, chính là Bao Bất Đồng.

Mộ Dung Phục biến sắc mặt, quay lại hỏi: “Bao tam ca nói sao?” Bao Bất Đồng đáp: “Công tử đường đường là dòng dõi Mộ Dung nước Đại Yên, sao lại đổi sang họ Đoàn được? Vẫn biết chuyện phục hưng Đại Yên là gian nan đến cùng cực, nhưng bọn ta cứ tận tụy mà làm, không thành công thì thành nhân. Bây giờ công tử lạy một kẻ người chẳng ra người, quỷ chẳng ra quỷ làm dưỡng phụ, dù có làm nên hoàng đế cũng chẳng quang vinh gì. Huống chi công tử ở họ Mộ Dung mà định nhảy lên làm hoàng đế nước Đại Lý thì là chuyện khó, không thể khó hơn được nữa.”

Mộ Dung Phục nghe gã ăn nói vô lễ thì trong lòng căm tức, nhưng Bao Bất Đồng lại là thuộc hạ tâm phúc, mà gã đang lúc cần người, không tiện nổi giận. Gã chỉ lạnh lùng nói: “Bao tam ca! Việc đời nhiều chỗ ngoắt ngoéo, tam ca không hiểu đâu. Sau này tiểu đệ sẽ nói cho nghe.”

Bao Bất Đồng lắc đầu đáp: “Sai bét, sai bét! Công tử gia! Bao Bất Đồng này tuy ngu xuẩn, nhưng cũng đoán ra được mấy phần dụng ý của công tử. Công tử định bắt chước Hàn Tín nhẫn nhục luồn trôn để có ngày bay bổng. Công tử định bây giờ đổi ra họ Đoàn, sau này nắm giữ binh quyền sẽ đổi lại họ Mộ Dung, đổi luôn cả danh hiệu nước Đại Lý thành Đại Yên, rồi khởi binh đánh Đại Tống, Đại Liêu khôi phục lại giang sơn. Dự định của công tử tuy to lớn thật, nhưng công tử biến thành kẻ bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, không khỏi tự thẹn với lương tâm, lại bị thiên hạ chê cười. Bao mỗ nghĩ rằng cái ngôi hoàng đế đó, công tử chẳng nên ngồi làm gì.”

Mộ Dung Phục cố nén giận, lớn tiếng đáp: “Bao tam ca nặng lời quá rồi. Sao lại bảo tiểu đệ là bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa?” Bao Bất Đồng nói: “Bây giờ công tử làm dân Đại Lý, ngày sau lại đem lòng phản quốc, thế là bất trung! Công tử lạy Đoàn Diên Khánh làm nghĩa phụ, nếu ở với họ Đoàn cho đến già thì bất hiếu với họ Mộ Dung, mà nếu giữ được chữ hiếu với họ Mộ Dung thì lại bất hiếu với họ Đoàn. Sau này công tử tất phải tàn sát quần thần Đại Lý, thế là bất nhân…”

Bao Bất Đồng chưa dứt lời đã nghe một tiếng “binh”, sau lưng gã trúng một phát chưởng rất nặng, rồi nghe thanh âm Mộ Dung Phục lạnh lùng nói: “Ta bán bạn cầu vinh, thế là bất nghĩa!” Phát chưởng của gã vận hết kình lực âm nhu, đánh vào hai đại huyệt Linh Đài và Chí Dương, thật là một đòn sát thủ. Bao Bất Đồng ngàn vạn lần không ngờ nổi, vị công tử gia đã được mình phò tá từ lúc mới sinh đến lúc trưởng thành, lại có thể hạ độc thủ tàn nhẫn đến thế. Gã hộc lên một tiếng, miệng phun máu tươi ra, ngã lăn xuống đất chết liền.

Lúc Bao Bất Đồng lý luận với Mộ Dung Phục, bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác đều đứng ngoài cửa lắng nghe. Ba người đều hiểu rằng gã nói tuy có quá đáng, nhưng rất hợp đạo lý. Đến khi Mộ Dung Phục phóng chưởng đánh Bao Bất Đồng, ba người mới giật mình kinh hãi, xông cả vào trong nhà.

Phong Ba Ác ôm lấy Bao Bất Đồng, la gọi: “Tam ca! Tam ca! Tam ca làm sao rồi?” Hai hàng nước mắt Bao Bất Đồng vẫn đang lăn xuống má, nhưng Phong Ba Ác đưa tay sờ mũi thì thấy tắt hơi rồi. Thì ra lúc lâm tử, Bao Bất Đồng vì thương tâm quá dỗi mà ứa nước mắt ra. Phong Ba Ác lớn tiếng kêu: “Tam ca! Tuy tam ca không còn hơi thở nữa, nhưng chắc cũng còn muốn hỏi công tử: “Vì sao công tử lại hạ độc thủ giết ta?” Gã nói xong, quay đầu lại nhìn Mộ Dung Phục trừng trừng, đầy vẻ hận thù.

Đặng Bách Xuyên dõng dạc hỏi: “Công tử gia! Bản tính Bao tam đệ hay tranh luận với người khác, công tử cũng đã biết rồi. Dù y có vô lễ với công tử, không giữ phận trên dưới, công tử cũng chỉ nên trách mắng mà thôi. Sao công tử lại nhẫn tâm hạ sát y?”

Thực ra Mộ Dung Phục không tức giận Bao Bất Đồng vì tội vô lễ, mà vì họ Bao chẳng kiêng nể gì, nói huỵch toẹt mưu đồ trong thâm tâm gã ra. Gã sợ Đoàn Diên Khánh không chịu nhận mình làm nghĩa tử để truyền ngôi, hoặc lão giữ lời hứa mà nhận mình làm con, phong ngôi Thái tử, nhưng cũng bố trí cẩn thận, thì việc mưu đồ Đại Yên khó lòng thành tựu. Trong lúc cấp bách gã đành hạ độc thủ, không thì cái mũ miện đã sắp vào tay lại cuốn theo chiều gió mất. Bây giờ Mộ Dung Phục nghe hai gã Phong, Đặng trách cứ thì nghĩ thầm: “Chuyên hôm nay đã lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, đành là đắc tội với hai người Phong Đặng, chứ không thể để Diên Khánh Thái tử sinh lòng nghi hoặc được.” Gã bèn đáp: “Bao Bất Đồng nói năng vô lễ thì chẳng quan hệ gì lắm. Nhưng ta thành tâm bái Đoàn điện hạ làm nghĩa phụ, thế mà hắn lại dám ly gián tình phụ tử của chúng ta, thì làm sao tha thứ được?”

Phong Ba Ác quát lớn: “Bao Bất Đồng đã theo công tử vào sinh ra tử mười mấy năm trời, mà trong lòng công tử tam ca lại không bằng được tên Đoàn Diên Khánh ư?” Mộ Dung Phục đáp: “Phong tứ ca bất tất phải nổi nóng. Ta đổi sang họ Đoàn nước Đại Lý là toàn tâm toàn ý, quyết không có nửa phần suy tính gì khác. Thế mà Bao tam ca lấy bụng tiểu nhân mà đo lòng quân tử, nên ta không thể không nặng tay.” Công Dã Càn lạnh lùng hỏi: “Công tử đã quyết định rồi, không thể vãn hồi được nữa ư?” Mộ Dung Phục đáp: “Không sai!”

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng gật đầu. Đặng Bách Xuyên dõng đạc nói: “Công tử gia! Bốn anh em tại hạ tuy chưa kết nghĩa đệ huynh, nhưng đã nguyện cùng sống chết, tình thân như cốt nhục. Chắc công tử cũng biết rồi?” Mộ Dung Phục chau mày đáp: “Phải chăng Đặng đại ca muốn báo thù cho Bao tam ca? Vậy ba vị cứ tiến lên đi, Mộ Dung Phục này đâu có sợ gì?” Đặng Bách Xuyên thở dài đáp: “Bọn tại hạ vốn là gia thần họ Mộ Dung, khi nào dám động thủ? Cổ nhân đã nói: “Hợp ý thì ở, chẳng hợp ý thì đi”, bọn tại hạ không thể theo hầu công tử được nữa. Quân tử dù tuyệt giao nhưng không nói xấu, chỉ mong công tử hãy suy nghĩ kỹ.”

Mộ Dung Phục thấy ba người muốn bỏ đi, nghĩ rằng sau này mình đến Đại Lý mà không có người tâm phúc thì khó mà hành động, không lưu họ lại không xong. Gã bèn nói: “Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Phong tứ ca! Giả tỉ các vị không nghi ngờ ta phản bội họ Đoàn, thì ta đối với các vị chẳng có gì xích mích, cớ sao lại chia tay? Ngày trước gia phụ đã đối đãi với các vị không đến nỗi tệ bạc, mà các vị cũng đã nhận lời với gia phụ tận tâm tận lực giúp ta. Bây giờ các vị bỏ đi, há chẳng trái với lời thề trước kia sao?”

Đặng Bách Xuyên giận xanh mặt, lên tiếng đáp: “Công tử không nhắc đến lão tiên sinh thì chẳng nói làm gì. Nhưng công tử đã nhắc tới lão tiên sinh, thì sao lại còn nhận kẻ khác làm cha, đổi họ, phản quốc? Công tử đã đối với lão tiên sinh như thế nào? Đúng là bọn tại hạ đã thề với lão tiên sinh là phò tá công tử để phục hưng nhà Đại Yên, làm rạng danh họ Mộ Dung. Nhưng bọn tại hạ chưa thề là phò tá công tử để làm hưng vượng nước Đại Lý, làm rạng danh họ Đoàn.” Những lời nói này làm sắc mặt Mộ Dung Phục lúc xanh lúc trắng, không biết nói sao nữa.

Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác đồng thời vái dài sát đất, rồi nói: “Bái biệt công tử!” Phong Ba Ác vác thi thể Bao Bất Đồng lên vai. Ba người rảo bước ra khỏi cửa, không ngoảnh mặt lại nữa.

Mộ Dung Phục cười mấy tiếng khô khan, rồi nói với Đoàn Diên Khánh: “Nghĩa phụ minh xét: bốn người đó đều là gia thần đã theo hài nhi lâu năm, nhưng hài nhi vì muốn giữ lòng trung với họ Đoàn nước Đại Lý mà phải giết một gã, đuổi ba gã di. Hài nhi một mình vào Đại Lý đủ chứng tỏ tấm lòng trung, quyết chẳng còn ý khác.”

Đoàn Diên Khánh gật đầu đáp: “Hay lắm! Hay lắm!”

Mộ Dung Phục lại nói: “Hài nhi xin lập tức giải độc cho nghĩa phụ.” Gã thò tay vào bọc lấy ra một cái bình sứ nhỏ, toan đưa cho Đoàn Diên Khánh, nhưng chợt động tâm: “Sau khi giải chất độc Bi Tô Thanh Phong cho lão, mình không thể uy hiếp được lão nữa. Từ đây trở đi mình chỉ còn cách cầu cạnh lão, không thể đối đáp với lão nữa. Lão hận nhất là thằng lỏi Đoàn Dự, mình phải giết hắn đi trước đã.” Gã rút trường kiếm ra khỏi vỏ đánh “soạt” một cái, rồi nói: “Nghĩa phụ! Công lao đầu tiên của hài nhi là hạ sát thằng lỏi Đoàn Dự này để tuyệt đường nối dõi của Đoàn Chính Thuần, buộc hắn phải truyền ngôi cho nghĩa phụ.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngữ Yên đã biến thành muội tử của mình, mình cũng chẳng muốn sống làm chi nữa. Gã đâm mình chết càng hay.” Một là Đoàn Dự muốn chết cho nhanh, hai là chàng tưởng mình bị tẩu hỏa nhập ma, dù muốn kháng cự cũng không còn sức, nên cứ nằm yên chờ chết.

Đoàn Chính Thuần thấy Mộ Dung Phục xách trường kiếm từ từ tiến lại gần Đoàn Dự, thì lòng đau như cắt, la lên một tiếng: “Trời ơi!”

Đoàn Diên Khánh nói: “Hài nhi! Lòng hiếu thảo của hài nhi thật đáng khen, nhưng thằng lỏi này thật là khả ố. Gã đã nhiều lần đắc tội với ta. Bá phụ và phụ thân gã lại cướp ngôi của ta, hại ta đến thân tàn ma dại. Ta muốn chính mình ra tay hạ sát tên tiểu tặc này mới hả giận.”

Mộ Dung Phục “Vâng!” một tiếng, rồi đưa trường kiếm cho Đoàn Diên Khánh, lại nói: “Trời ơi! Hài nhi thật hồ đồ, quên chưa giải độc cho nghĩa phụ.” Gã lại lấy chiếc bình nhỏ ra, nhưng liếc mắt nhìn trộm thấy Đoàn Diên Khánh lộ vẻ đắc ý, mà hình như đang đưa mắt nhìn người khác. Mộ Dung Phục là con người rất tinh tế mau lẹ, nhìn theo mục quang của Đoàn Diên Khánh thì thấy Đoàn phu nhân khẽ gật đầu. Nét mặt bà tỏ ra vừa cảm kích vừa vui mừng.

Mộ Dung Phục thấy thế không khỏi sinh nghi, nhưng chẳng bao giờ gã đoán nổi Đoàn Dự là con của Đoàn Diên Khánh và Đoàn phu nhân. Đoàn Diên Khánh thà chết chứ quyết không để kẻ khác hạ sát đứa con bảo bối của mình, còn ngôi hoàng đế hay gì gì đi nữa cũng chỉ là thân ngoại chi vật. Lúc đầu Mộ Dung Phục nghĩ: “Phải chăng Đoàn Chính Thuần và Đoàn Diên Khánh ngấm ngầm cấu kết với nhau điều gì? Bọn chúng dù sao cũng là anh em nhà họ Đoàn nước Đại Lý. Người ta thường nói: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” Khi nào lão họ Đoàn lại coi người ngoài hơn người trong nhà bao giờ?” Rồi gã lại nghĩ: “Bây giờ chỉ có một cách duy nhất là cố lập đại công với Đoàn Diên Khánh, để chứng tỏ lời nói của mình là thành thực.” Gã liền quay lại hỏi Đoàn Chính Thuần: “Trấn Nam Vương! Sau khi Vương gia về Đại Lý rồi, khoảng bao lâu thì lên ngôi hoàng đế? Vương gia ở ngôi bao lâu thì truyền lại cho nghĩa phụ tại hạ?”

Đoàn Chính Thuần hững hờ đáp: “Hoàng huynh ta công lực thâm hậu, thân thể tráng kiện, ít ra còn ở ngôi hoàng đế ba chục năm nữa. Sau khi hoàng huynh truyền ngôi cho ta rồi, ta cũng phải ở ngôi khoảng ba chục năm. Khi đó Đoàn Dự con ta đã tám chục tuổi, nó làm vua được chừng hai chục năm nữa. Như vậy là phải sau tám mươi năm…”

Mộ Dung Phục ngắt lời: “Ăn nói hồ đồ! Ai mà chờ lâu thế được? Ta ra lệnh cho ngươi trong vòng một tháng phải lên ngôi hoàng đế, sau một tháng nữa thì phải truyền ngôi cho Diên Khánh Thái tử.”

Đoàn Chính Thuần đã nhận định rõ tình hình, Đoàn Diên Khánh cùng Mộ Dung Phục phải dùng mình làm bậc thang để trèo lên đế vị. Bao giờ mình nhường ngôi cho Đoàn Diên Khánh rồi, bọn chúng mới sát hại. Bây giờ thì chúng chưa dám làm gì, dù có địch nhân đến hại mình thì bọn chúng cũng hết sức bảo hộ. Lúc này chỉ có tính mạng Đoàn Dự là rất nguy hiểm. Ông cười ha hả, nói: “Ngôi hoàng đế của ta chỉ có thể truyền cho con ta là Đoàn Dự. Truyền sớm truyền muộn cũng chẳng sao, nhưng muốn truyền cho người ngoài thì không được đâu!”

Mộ Dung Phục liền lạnh lùng nói: “Được rồi! Bây giờ ta chém thằng lỏi Đoàn Dự một nhát, thử xem ngươi có truyền ngôi cho cái hồn ma của nó được không?” Gã nói xong, lại rút trường kiếm ra.

Đoàn Chính Thuần cười ha hả, nói: “Ngươi coi Đoàn Chính Thuần này là người thế nào? Ngươi giết nó xong, chẳng lẽ ta lại để cho ngươi đắc ý? Nếu ngươi muốn tuyệt diệt thì cứ việc giết ta luôn thể.”

Mộ Dung Phục ngần ngừ không quyết đoán. Lúc này mà gã muốn giết Đoàn Dự thì chỉ giơ tay lên một cái là xong. Nhưng Đoàn Chính Thuần sẽ vì mối thù giết con mà không nghĩ đến tính mạng nữa. Không được ông truyền ngôi cho, thì cái ngôi hoàng đế khó mà lấy nổi. Tay gã cầm thanh trường kiếm, mũi kiếm rung động chiếu ra những tia sáng xanh lè. Gã quay lại nhìn Đoàn Diên Khánh, chờ nghe chỉ thị.

Đoàn Diên Khánh nói: “Thằng cha này nói sao là làm vậy. Nếu hắn uống thuốc độc tự tận hoặc đập đầu mà chết đi, thì đại kế của chúng ta thành bọt nước. Được rồi! Hãy để tạm thằng lỏi Đoàn Dự đó, đừng giết vội. Gã đã ở trong tay cha con mình, còn chạy đi đằng nào được nữa? Ngươi hãy giải độc cho ta rồi sẽ tính.”

Mộ Dung Phục “Vâng!” một tiếng, nhưng lại nghĩ thầm: “Vừa rồi Đoàn Diên Khánh đưa mắt ra hiệu cho Đoàn phu nhân là có ý gì? Mình chưa giải được mối nghi ngờ này mà đã đưa thuốc giải cho lão thì thật không ổn chút nào. Nhưng nếu mình chần chừ, để lão nổi giận lên thì cũng khốn khổ.”

Giữa lúc ấy Vương phu nhân lại la lên: “Mộ Dung Phục! Ngươi nói là lấy thuốc giải cho cô mẫu trước, mà sao lại cứ mãi nịnh nọt cái con người xấu như quỷ sứ mà ngươi nhận làm gia gia đó? Ngươi đừng trách ta, ta mà nổi nóng lên là thóa mạ ngay. Thằng cha người chẳng ra người…”

Mộ Dung Phục nghe bà nói rất trúng ý mình, liền quay lại nhìn Đoàn Diên Khánh cười nói: “Nghĩa phụ! Cô mẫu hài nhi tính khí cương cường, nếu người có thốt ra câu gì đắc tội, cũng xin lão nhân gia châm chước bỏ qua. Để cô mẫu khỏi nói năng bất nhã, hài nhi xin giải độc cho cô mẫu trước, rồi lập tức giải độc cho nghĩa phụ.” Nói xong, y đưa bình thuốc giải kề vào mũi Vương phu nhân.

Vương phu nhân ngửi thấy mùi hôi thối buồn nôn xông vào mũi rất khó chịu, đã toan cất tiếng mắng, nhưng sau một lúc thì thấy tứ chi khôi phục lại sức lực. Mắt bà không ngớt nhìn vào Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân và ba bà Tần, Nguyễn, Cam, đột nhiên thấy máu ghen xông lên không nhịn được, lớn tiếng nói: “Điệt nhi! Ngươi mau giết bốn con nữ tặc này cho ta!”

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Cô mẫu đã từng nói tính tình Đoàn Chính Thuần rất cương cường, không chịu để người ta khuất phục, nhưng đối với thê tử và tình nhân thì hắn lại coi trọng hơn tính mạng. Sao ta không lấy đó mà uy hiếp?” Hắn liền cầm kiếm chạy đến bên Nguyễn Tinh Trúc, rồi quay lại hỏi Đoàn Chính Thuần: “Trấn Nam Vương! Cô mẫu của tại hạ bảo giết mụ này đi, Vương gia nghĩ thế nào?”

Đoàn Chính Thuần trong dạ bồn chồn, vô kế khả thi, liền quay lại nói với Vương phu nhân: “A La! Từ đây sắp tới, nàng nói sao thì ta nghe vậy. Chẳng lẽ nàng gây nên một mối cừu hận suốt đời giữa đôi ta ư? Nàng mà sai gã giết thị, thì ta không thể tử tế với nàng được nữa.”

Vương phu nhân tuy máu ghen đang bốc lên cuồn cuộn, nhưng nghĩ lại Đoàn Chính Thuần nói không sai. Mười năm qua mụ đã hận người phụ bạc mình thấu xương, hễ thấy người họ Đoàn hay người Đại Lý là đem giết cho hả dạ, nhưng lúc này gặp chính oan gia thì mối tình nồng nhiệt ngày xưa lại quay về, liền nói: “Điệt nhi! Khoan động thủ, để ta nghĩ lại xem đã!”

Mộ Dung Phục lại nói: “Trấn Nam Vương! Chỉ cần Vương gia ưng thuận truyền ngôi lại cho Diên Khánh Thái tử, thì tại hạ sẽ hết sức bảo toàn cho chính thất cùng thứ thiếp của Vương gia, quyết không để ai đụng đến.” Đoàn Chính Thuần cười hà hà không nói gì.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Lão này nổi tiếng là người phong lưu lãng mạn, tha thiết với mỹ nhân còn hơn giang sơn tổ quốc. Muốn ép lão truyền ngôi thì cứ ra tay với bọn đàn bà của lão là được.” Gã liền trỏ mũi kiếm vào ngực Nguyễn Tinh Trúc, nói: “Trấn Nam Vương! Chúng ta là nam tử hán, là đại trượng phu, hành động mau lẹ, nói sao làm vậy. Vương gia ưng thuận thì tại hạ lập tức giải thuốc mê cho tất cả mọi người, rồi bày tiệc tạ tội, đổi thù ra bạn, há chẳng tốt ư? Còn nếu Vương gia không ưng thuận, lưỡi kiếm này sẽ đâm tới.”

Đoàn Chính Thuần liếc mắt nhìn Nguyễn Tinh Trúc, thấy trong ánh mắt nàng lộ vẻ khủng khiếp vô cùng, thì trong lòng đau đớn, nhưng lại nghĩ thầm: “Thật tình ta không coi ngôi hoàng đế Đại Lý quan trọng bằng Trúc muội, nhưng nếu ta ưng thuận thì tên gian tặc này sẽ tâng công với Đoàn Diên Khánh mà giết Đoàn Dự ngay lập tức.” Ông không nỡ nhìn, liền quay mặt đi.

Mộ Dung Phục lại la lên: “Tại hạ đếm từ một đến ba, nếu Vương gia không gật đầu thì đừng trách Mộ Dung Phục này hạ thủ vô tình. Đoạn gã cất tiếng đếm: “Một, hai…” Đoàn Chính Thuần quay lại, nhìn thấy vẻ mặt Nguyễn Tinh Trúc thật đáng thương mà không biết làm thế nào. Mộ Dung Phục lại đếm: “Ba!… Trấn Nam Vương! Ngươi nhất định không chịu ư?” Đoàn Chính Thuần đang mải nghĩ lại những kỷ niệm êm đềm lúc mới gặp Nguyễn Tinh Trúc năm xưa, đột nhiên nghe một tiếng rú: “Ôi chao!” Mộ Dung Phục đã đâm trường kiếm vào ngực Nguyễn Tinh Trúc rồi.

Vương phu nhân thấy da mặt Đoàn Chính Thuần co rúm lại, dường như còn đau đớn hơn là chính mình bị lưỡi kiếm đâm vào. Bà cũng không chịu đựng nổi, vội la lên: “Mau! Mau cứu thị sống lại! Ta không thực tình kêu ngươi giết thị, mà chỉ muốn hăm dọa tên vô lương tâm đó.”

Mộ Dung Phục khẽ lắc đầu, nghĩ thầm: “Đã là kết mối thâm cừu, thì giết nhiều thêm một người hay ít đi một người cũng chẳng có gì quan hệ.” Gã lại cầm trường kiếm gí vào ngực Tần Hồng Miên, quát lên: “Trấn Nam Vương! Giang hồ vẫn tưởng ngươi là đa tình đa nghĩa, không ngờ ngươi lại không chịu nói một lời để cứu mạng cho tình nhân!” Gã lại đếm: “Một, hai, ba…” Đếm đến ba, lại nghe “sột” một tiếng, trường kiếm đã đâm chết Tần Hồng Miên.

Lúc này sắc mặt Cam Bảo Bảo đã tái nhợt, nhưng bà cố trấn tĩnh, dõng dạc nói: “Mi muốn giết ai thì cứ giết, nhưng không uy hiếp Trấn Nam Vương được đâu. Ta là thê tử của Chung Vạn Cừu, chẳng có quan hệ gì với Trấn Nam Vương cả. Ngươi không được làm điếm nhục đến thanh danh nhà họ Chung ở Vạn Kiếp cốc.”

Mộ Dung Phục cười nhạt đáp: “Còn ai chẳng biết Đoàn Chính Thuần đa dâm hiếu sắc? Bất luận là khuê nữ, góa phụ hay gái có chồng, y cũng chẳng từ một ai.” Gã vừa nói vừa đâm chết Cam Bảo Bảo.

Vương phu nhân ngấm ngầm kêu khổ. Tuy bình nhật bà giết người không gớm tay, nhưng thấy Mộ Dung Phục giết ba người yêu của Đoàn Chính Thuần trong nháy mắt thì trống ngực cũng đánh thình thình, không dám nhìn Đoàn Chính Thuần nữa, không hiểu vẻ mặt y khủng khiếp đến đâu.

Bỗng nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói: “A La! Nàng với ta đã có một mối tình thắm thiết, mà đến bây giờ nàng vẫn chưa hiểu rõ lòng dạ ta. Trong thiên hạ có không biết bao nhiêu là phụ nữ, nhưng ta vẫn yêu nàng nhất. Điệt nhi của nàng hạ sát ba người bạn gái của ta, ta cũng không lấy chi làm quan hệ, chỉ mong sao gã đừng đụng đến nàng là ta yên tâm.” Lời nói của Đoàn Chính Thuần tuy rất ngọt ngào, nhưng Vương phu nhân nghe mà sợ hãi vô cùng. Bà biết Đoàn Chính Thuần đã tức giận mình đến cực điểm, ông nói câu này là có ý kêu Mộ Dung Phục lại giết mình. Bà vội la lên: “Hiền điệt! Ngươi đừng tin lời hắn!”

Mộ Dung Phục bán tín bán nghi, đột nhiên chĩa trường kiếm vào trước ngực Vương phu nhân, máu tươi từ mũi kiếm từng giọt từng giọt nhỏ lên ngực áo bà.

Vương phu nhân biết gã điệt nhi này tâm địa tàn nhẫn, thủ đoạn độc ác. Gã muốn toại nguyện mộng làm vua thì còn kể gì đến cô mẫu hay không cô mẫu? Đoàn Chính Thuần càng cố ý tỏ ra luyến tiếc mình, thì Mộ Dung Phục lại càng muốn dùng tính mạng của mình để uy hiếp ông. Bà run rẩy nói: “Đoàn lang! Đoàn lang! Chẳng lẽ Đoàn lang giận ta đến thấu xương, ta không chết thì không được ư?”

Đoàn Chính Thuần thấy vẻ mặt của Vương phu nhân đang khiếp sợ chẳng khác gì Nguyễn Tinh Trúc lúc lâm tử. Ông nhớ lại mối ân tình tha thiết cùng phu nhân ngày trước thì nhũn cả ruột gan, bèn lớn tiếng mắng: “Con ác phụ kia! Sao ngươi lại giở thói ghen tuông, làm hại tính mạng ba người yêu quí của ta? Ta mà được tự do thì quyết đâm chém ngươi ngàn đao vạn kiếm. Mộ Dung Phục! Ngươi đâm mạnh kiếm vào giúp ta, con mụ thối tha đó còn để sống làm gì nữa?” Đoàn Chính Thuần biết rõ, ông thóa mạ Vương phu nhân càng tàn nhẫn, thì Mộ Dung Phục lại càng không muốn giết cô mẫu.

Vương phu nhân cũng hiểu rõ lúc nãy Đoàn Chính Thuần ra vẻ thương yêu vì muốn Mộ Dung Phục giết mình, để báo thù cho Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Chung phu nhân. Bây giờ y chuyển sang mắng nhiếc, tức là đã tha thứ cho mình. Nhưng hơn mười năm nay bà tưởng nhớ đến Đoàn Chính Thuần, đột ngột gặp lại, tâm thần đang bất định. Bà nhìn thấy ba người chết lăn dưới đất, thanh kiếm nhuộm máu đang trỏ vào ngực mình thì đầu óc bâng khuâng khôn tả. Những câu thóa mạ “con ác phụ”, “con mụ thối tha” của Đoàn Chính Thuần nghe mà cay đắng, so với những câu thề non hẹn biển xưa kia thật là khác nhau một trời một vực. Bà không nhịn được, dòng châu lã chã tuôn rơi, hỏi: “Đoàn lang! Trước kia chàng đối với thiếp thế nào, chẳng lẽ đã quên hết rồi ư, không còn nghĩ gì đến thiếp nữa chăng? Nhưng thiếp vẫn một lòng thương nhớ chàng. Chúng ta ly biệt nhau bấy nhiêu lâu, nay được trùng phùng đâu phải chuyện dễ dàng, thế mà chàng… chàng không nói được câu nào tử tế với thiếp ư? Thiếp đã sinh hạ cho chàng con bé Ngữ Yên, chàng đã nhìn thấy nó chưa? Chàng có muốn gặp nó không?”

Đoàn Chính Thuần thầm kinh hãi: “Thần trí A La không được sáng suốt nữa rồi. Nếu ta thổ lộ những lời ân ái ngày xưa thì nàng còn sống làm sao được?” Ông liền lớn tiếng quát: “Ngươi đã hại chết ba người yêu quí của ta, ta hận ngươi đến thâu xương. Mười mấy năm trước, chúng ta cũng đã vạch một đao cắt đứt tình nghĩa rồi. Bây giờ ta chỉ muốn phóng cước đá ngươi mấy cái cho hả lòng căm phẫn.”

Vương phu nhân vừa khóc vừa kêu: “Đoàn lang, Đoàn lang!…” Đột nhiên bà nhảy xổ về phía trước, mũi kiếm của Mộ Dung Phục đâm sâu vào ngực.

Mộ Dung Phục đang lúc ngần ngừ không quyết, nửa muốn thu kiếm về, nửa muốn đâm tới. Gã chỉ chần chừ một chút thì mũi kiếm đã xuyên qua ngực Vương phu nhân rồi. Mộ Dung Phục rút kiếm ra, máu tươi trước ngực Vương phu nhân vọt lên như suối. Vương phu nhân run rẩy hỏi: “Đoàn lang! Chàng giận thiếp đến thế ư?”

Đoàn Chính Thuần thấy lưỡi kiếm đâm trúng chỗ yếu hại, biết rằng Vương phu nhân không thể sống được nữa. Nước mắt ông chảy xuống ròng ròng, nghẹn ngào nói: “A La! Ta thóa mạ nàng là chỉ muốn cứu tính mạng cho nàng. Hôm nay được trùng phùng, ta vui mừng kể sao cho xiết, có lý nào lại giận nàng? Tâm ý ta vĩnh viễn như đóa Mạn Đà hoa ngày trước.”

Khóe miệng Vương phu nhân nở một nụ cười, khẽ nói: “Thế là hay lắm! Thiếp biết trong lòng Đoàn lang vĩnh viễn có hình ảnh thiếp, không bao giờ phai được…” Tiếng phu nhân nhỏ dần đi rồi tắt hẳn, cổ bà ngoẹo ra một cái, thế là lại thêm một vị phu nhân nhan sắc khuynh thành tuyệt mạng.

Mộ Dung Phục lạnh lùng nói: “Trấn Nam Vương! Những nữ nhân mà ngươi đã đem lòng yêu dấu đều vì ngươi mà mất mạng. Chẳng lẽ cả Vương phi nguyên phối, ngươi cũng nỡ hại chết nữa chăng?” Gã vừa nói vừa trỏ mũi kiếm vào trước ngực Đoàn phu nhân.

Đoàn Dự nằm dưới đất đã nghe rõ Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo và Vương phu nhân đều mất mạng dưới thanh kiếm tàn độc của Mộ Dung Phục. Bây giờ gã lại dùng mẫu thân để uy hiếp phụ thân, lòng chàng nóng như lửa đốt. Chàng chỉ muốn hét to lên: “Không được hại mẫu thân ta!”, nhưng trong miệng bị nhét đầy hạt vải nên không sao thốt ra lời. Chàng cố sức cựa quậy mà chân khí trong người bị bế tắc, không sao nhúc nhích được.

Lại nghe Mộ Dung Phục nói: “Trấn Nam Vương! Tại hạ đếm từ một đến ba. Nếu Vương gia không chịu nhường ngôi hoàng đế cho Diên Khánh Thái tử thì Vương phi lại mất mạng vì Vương gia!” Đoàn Diên Khánh vội la lên: “Hãy khoan động thủ! Việc này phải suy tính kỹ đã!” Mộ Dung Phục nói: “Nghĩa phụ! Chuyện này quan hệ rất trọng đại, nếu Trấn Nam Vương không chịu nhường ngôi cho nghĩa phụ, thì công cuộc của chúng ta hoàn toàn thất bại. Một…”

Đoàn Chính Thuần ngắt lời: “Ngươi muốn ta chịu, thì phải thuận theo một điều kiện.” Mộ Dung Phục đáp: “Ngươi có chịu thì chịu ngay đi, nếu không chịu thì nói rõ. Đừng dùng kế hoãn binh, ta không mắc lừa đâu. Hai… Thế nào?” Đoàn Chính Thuần thở dài đáp: “Đời ta gây nên tội nghiệt đã nhiều. Nay chúng ta được cùng chết với nhau một nơi, cái chết đó cũng là đúng chỗ.” Mộ Dung Phục hỏi: “Ngươi không chịu hay sao? Ba…”

***

Gã đếm dứt tiếng “Ba”, thấy Đoàn Chính Thuần quay đầu đi không lý gì đến mình nữa, toan rút kiếm ra đâm vào ngực Đoàn phu nhân, bỗng nghe Đoàn Diên Khánh quát lên: “Khoan đã!”

Mộ Dung Phục hơi khựng lại, quay sang nhìn Đoàn Diên Khánh, đột nhiên thấy người Đoàn Dự từ dưới đất bật lên, đâm đầu vào bụng mình. Mộ Dung Phục xoay người né tránh, kinh hãi nghĩ thầm: “Thằng nhãi này đã bị Túy Nhân Phong đốt, rồi lại hít phải Bi Tô Thanh Phong. Sao gã trúng cả hai chất độc này mà còn tung mình nhảy lên được?”

Thì ra lúc đầu Đoàn Dự nghĩ đến Vương Ngữ Yên lại là muội tử của mình, trong lòng đau khổ, nội tức chạy lộn xộn làm rối loạn kinh mạch. Khi chàng nghe Mộ Dung Phục toan giết mẫu thân, tình thế cực kỳ cấp bách, bèn quên bẵng chuyện Vương Ngữ Yên, cũng không nghĩ tới chuyện mình đã tẩu hỏa nhập ma chưa, nội lực bỗng dưng lưu thông đúng đường. Nên biết những người luyện nội công, trong lòng phải quán tưởng cho nội lực đi theo kinh mạch. Sau khi tẩu hỏa nhập ma cố gắng muốn đưa trở về, thì càng cố gắng càng làm rối loạn kinh mạch, lo lắng càng nhiều thì nội tức càng lệch lạc xa. Lúc này trong lòng Đoàn Dự chỉ nghĩ đến sự an nguy của mẫu thân, nội tức không bị ý niệm chi phối, lập tức lưu chuyển bình thường theo đường chính. Chàng vừa nghe Mộ Dung Phục đếm đến số ba, thì quên cả mình đang bị trói, tung mình nhảy về phía Mộ Dung Phục, quả nhiên thấy thân thể lại cử động được. Đoàn Dự xông vào không trúng, vai đụng vào cạnh bàn. Hai tay chàng vừa vận sức để chống đỡ, sợi gân bò đang cột trên tay lập tức đứt rời.

Hai tay chàng vừa tự do, bỗng nghe Mộ Dung Phục lớn tiếng quát: “Thằng lỏi này gớm thật!” Đoàn Dự vung tay ra, bất giác xuất một chiêu Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm đâm vèo về phía Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục né người tránh khỏi, vung kiếm đâm lại. Mắt Đoàn Dự đã bị bịt chặt bằng tấm khăn đen, miệng lại bị nhét đầy hạt vải, không quát hỏi gì được, mà cũng không nhìn thấy Mộ Dung Phục ở hướng nào. Trong lúc cấp bách, chàng quên mất chuyện giơ tay giật tấm khăn bịt mắt ra, hai tay vẫn múa loạn lên, chỉ sợ Mộ Dung Phục đến gần mà gia hại mẫu thân.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tình thế nguy cấp, phải nhân lúc y không thấy gì mà giết y cho lẹ.” Gã liền ra chiêu Đại Giang Đông Khứ, đâm lưỡi kiếm vào trước ngực Đoàn Dự.

Đoàn Dự đang vung hai tay đánh loạn xạ, bỗng nghe kiếm phong rít lên veo véo. Chàng vội vàng né tránh, nhưng đã bị mũi kiếm nhọn đâm trúng vào vai, bèn cố nhịn đaụ nhảy vọt lên không. Nghe “binh” một tiếng, đầu chàng đụng vào trần nhà. Từ lúc Đoàn Dự hút sạch nội lực của Cưu Ma Trí ở dưới giếng khô, nội kình chàng tăng tiến không biết bao nhiêu mà kể. Chàng vừa tung mình đã lên cao mấy trượng, còn đang lơ lửng trên không đã nghĩ thầm: “Mắt mình chẳng trông thấy gì, gã giết mình thì được, mà mình không biết đường giết gã, làm sao bây giờ? Gã giết mình cũng chẳng kể làm chi, nhưng mình không cứu được mẫu thân cùng phụ thân mới là chuyện đau khổ!” Hai chân chàng gắng sức cựa mạnh một cái, sợi gân bò trói chân lại bị đứt tung.

Đoàn Dự cả mừng nghĩ thầm: “Thật là tuyệt diệu! Ngày trước ở trong nhà giã gạo ngoài thành Vô Tích, hắn đã giả làm Lý tướng quân nước Tây Hạ, mình chỉ dùng Lăng Ba Vi Bộ mà hắn không giết được mình.” Nghĩ tới đó, chàng bước chân trái chéo đi nửa bước, nghiêng mình chênh chếch, tránh khỏi nhát kiếm của Mộ Dung Phục đâm tới, chỉ cách chừng mấy tấc. Ba người Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Vương phi đều thấy kiếm quang xanh lè lấp loáng đang nhắm bụng Đoàn Dự phóng tới hung hiểm vô cùng, xem chừng không thể thoát được. Rồi họ lại thấy chàng tránh né bằng một thân pháp xảo diệu không thể hình dung nổi. Dù lúc này mắt chàng nhìn rõ, mà không thi triển Lăng Ba Vi Bộ cũng nhất định không tránh thoát mũi kiếm tàn độc này.

Mộ Dung Phục vung kiếm đánh rất rát mà trước sau vẫn không đụng được vào mình Đoàn Dự, thì vừa nóng nảy vừa hổ thẹn. Gã lại thấy Đoàn Dự vẫn không giật bỏ tấm khăn che mắt, không hiểu được vì tình thế cấp bách mà tâm ý chàng rối loạn quên mất, lại tưởng chàng có ý khinh khi trêu cợt, chẳng coi gã vào đâu. Gã nghĩ thầm: “Địch thủ đã bịt mắt làm kẻ đui mù, mà mình không hạ được thì còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa?” Mắt gã đỏ ngầu cơ hồ tóe lửa, kiếm quang xanh lè thấp thoáng, thanh trường kiếm múa tít lên tựa như một trái cầu xanh, bao trùm gần hết đại sảnh. Đoàn Dự bị vây bọc giữa màn kiếm quang, mỗi chiêu đều là sát chiêu đoạt mạng.

Mọi người Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Thôi Bách Tuyền… cũng bị kiếm quang áp bức. Từng trận hàn khí quạt tới rét run, tóc trên đầu bị thổi dựng lên rồi đứt ra rơi lả tả, vạt áo phần phật rách bươm, tung bay phất phới như đàn bướm.

Đoàn Dự ở trong vòng kiếm quang, chợt tả chợt hữu, xiêu đông vẹo tây, chẳng khác người say tản bộ trong đình viện. Thật là kỳ quái, trường kiếm của Mộ Dung Phục lợi hại là thế mà không sao cắt đứt được một mảnh áo nào của chàng. Thật ra bộ pháp của Đoàn Dự ra vẻ ung dung, mà trong lòng chàng lại lo lắng vô cùng. Đoàn Dự chân cứ bước Lăng Ba Vi Bộ, nghĩ thầm: “Mình chỉ thủ mà không công, mắt lại chẳng nhìn thấy gì. Giả tỉ gã phóng kiếm đâm vào mẫu thân hay phụ thân thì biết làm thế nào?”

Mộ Dung Phục lại nghĩ rằng Đoàn Dự mới là mối lo tâm phúc của mình, còn giết được Đoàn phu nhân hay không cũng chẳng quan hệ gì. Gã đã xuất đến hơn trăm chiêu kiếm mà thủy chung vẫn không đả thương được đối phương, thì nghĩ thầm: “Chắc thằng lỏi này biết nghe tiếng gió để tránh đòn. Bây giờ ta phải dùng Liễu Tự Kiếm Pháp ra chiêu nhẹ nhàng không rít thành tiếng, chắc gã không biết đường mà tránh.” Gã bèn đột nhiên thay đổi kiếm pháp, từ từ phóng chiêu. Nhưng bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ này cứ theo quy củ mà bước, không cần nhìn đến đối phương. Đối phương phóng kiếm mau hay chậm, nhẹ hay nặng thì cũng thế, mà kiếm phong có rít thành tiếng hay không cũng chẳng quan hệ gì.

Đoàn Diên Khánh nhãn lực cao minh, đã nhìn ra dụng ý của Mộ Dung Phục. Lão thấy Mộ Dung Phục ra chiêu thong thả để không phát kiếm phong thì trong lòng kinh hãi vô cùng, vội la lên: “Hài nhi! Ngươi phải mau mau hạ sát thằng lỏi này đi! Nếu để gã kịp kéo tấm khăn che mặt ra, e rằng cả ngươi lẫn ta đều chết về tay gã!”

Mộ Dung Phục giật mình nghĩ thầm: “Thật là hồ đồ! Nói thế thì có khác gì nhắc nhở đối phương?” Quả nhiên câu nói này làm Đoàn Dự tỉnh ngộ. Chàng như người đang mơ sực tỉnh, thò tay lên kéo tấm khăn bịt mặt xuống. Trước mắt chàng đột nhiên chói lòa không thấy chi hết, vì cả ngày mắt không mở ra. Chàng chớp mắt một cái, thấy thanh trường kiếm đã tới ngay trước mặt. Đoàn Dự đã không hiểu võ công lại kém tài ứng biến, vì kinh hãi mà bộ pháp rối loạn. Bỗng nghe “sột” một tiếng, chàng đã bị trúng kiếm vào chân trái, ngã lăn xuống đất.

Mộ Dung Phục cả mừng, lại phóng kiếm đâm tới. Đoàn Dự nằm dưới đất phóng Thiếu Dương Kiếm ra phản kích. Tuy chân chàng máu chảy đầm đìa, nhưng kiếm khí Lục Mạch Thần Kiếm vẫn tung hoành, đánh cho Mộ Dung Phục tránh tả né hữu, hoảng hốt vô cùng.

Ngày trước ở trên núi Thiếu Thất, gã còn chưa địch nổi Đoàn Dự, bây giờ nhờ nội lực thâm hậu của Cưu Ma Trí dồn vào, nên Lục Mạch Thần Kiếm lại càng mãnh liệt phi thường. Mới vài chiêu đã nghe “keng” một tiếng, trường kiếm của Mộ Dung Phục tuột khỏi tay bay lên cắm vào xà nhà. Lại nghe “sột” một tiếng nữa, Mộ Dung Phục bị kiếm khí đâm trúng bả vai. Gã biết rằng còn chần chừ nữa là phải chết về tay Đoàn Dự, liền thét lên một tiếng thật to, rồi nhảy qua cửa sổ ra ngoài, chạy như bay như biến.

***

Đoàn Dự từ từ vịn vào ghế đứng lên, cất tiếng gọi: “Má má! Gia gia! Có bị thương không?” Đoàn phu nhân nói: “Mau mau xé vạt áo buộc vết thương lại đã!” Đoàn Dự đáp: “Hài nhi chẳng hề gì!” Chàng lại bên thi thể Vương phu nhân, gỡ lấy bình thuốc trong tay bà đưa cho mẫu thân. Đoàn phu nhân hít mấy hơi giải được thuốc mê, rồi cầm bình thuốc đưa cho Trấn Nam Vương, quay lại băng bó vết thương cho Đoàn Dự.

Đoàn Chính Thuần tung mình nhảy lên, đưa tay rút lấy thanh trường kiếm cắm trên xà nhà. Lưỡi kiếm này đã thấm máu tươi của Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo và Vương phu nhân là bốn vị nữ nhân đã từng ước hẹn trăm năm với ông. Đoàn Chính Thuần tuy là người phong lưu lãng mạn, chẳng chuyên tâm yêu mến một ai, nhưng ông đã quyến luyến nữ nhân nào thì vẫn cư xử một lòng thành thực, chỉ hận mình chẳng thể móc tim, cắt thịt để trao tặng người yêu.

Ông thấy thi thể bốn nữ nhân nằm ngổn ngang dưới đất, đầu Vương phu nhân gối lên chân Tần Hồng Miên, lưng Cam Bảo Bảo đè ngang bụng Nguyễn Tinh Trúc. Bốn nữ nhân này khi còn sống đã lắm phen vì ông mà tương tư sầu khổ, hoan lạc thì ít mà đau khổ thì nhiều, cuối cùng lại vì ông mà chết bất đắc kỳ tử. Lúc Nguyễn Tinh Trúc bị Mộ Dung Phục đâm chết, Đoàn Chính Thuần đã quyết chết theo để báo đáp hồng nhan tri kỷ, bây giờ lại càng không nghĩ ngợi gì nữa. Con trai ông là Đoàn Dự đã trưởng thành lại tài kiêm văn võ, nước Đại Lý chẳng lo thiếu vị minh quân, ông chẳng còn phải lo lắng gì. Ông quay lại nói với Đoàn phu nhân: “Phu nhân! Ta thật là có lỗi với nàng. Ta xem những nữ nhân này cũng như nàng mà đem lòng thương yêu tất cả, ta yêu họ cũng thành thật như đã yêu nàng.”

Đoàn phu nhân la lên: “Thuần ca!… Chàng… chàng đừng…” Rồi bà nhảy xổ tới chỗ Đoàn Chính Thuần.

Vừa rồi Đoàn Dự nóng lòng cứu mẫu thân, đem hết tâm trí vào việc tranh đấu với Mộ Dung Phục. Từ lúc gã nhảy qua cửa sổ chuồn đi, chàng mới hơi định thần, đột nhiên lại nghĩ: “Mình vừa bị tẩu hỏa nhập ma, không hiểu đã khỏi chưa?” Vừa nghĩ tới đây, toàn thân chàng lại mềm nhũn ra, nhất thời không nhúc nhích được nữa.

Bỗng nhiên Đoàn phu nhân rú lên, thì ra Đoàn Chính Thuần đã cầm kiếm đâm vào ngực để tự tử. Đoàn phu nhân vội rút trường kiếm ra, đưa tay trái bịt lấy vết thương, vừa khóc vừa nói: “Thuần ca! Thuần ca! Dù chàng có hàng ngàn hàng vạn tình nhân, thiếp vẫn yêu chàng như vậy. Có lúc thiếp nghĩ không ra mà căm hận chàng, nhưng… nhưng đó là việc đã qua… thiếp chỉ yêu chàng…” Nhưng Đoàn Chính Thuần đã tự đâm trường kiếm trúng vào trái tim chết ngay lập tức, không nghe thấy lời Đoàn phu nhân nữa.

Đoàn phu nhân xoay trường kiếm lại toan đâm vào ngực mình, bỗng nghe Đoàn Dự la lên: “Má má! Má má!” Một là vì thanh kiếm dài quá, hai là bị phân tâm, bà đâm trệch mũi kiếm xuống dưới bụng.

Đoàn Dự thấy phụ thân, mẫu thân cùng vung kiếm tự tử thì hồn vía lên mây, nhưng hai chân tê dại không bước đi được. Chàng chống tay xuống đất, vừa bò tới vừa gọi: “Má má! Gia gia!” Đoàn phu nhân nói: “Hài nhi! Má má cùng gia gia ra đi đây. Hài nhi tự lo liệu lấy…”  Đoàn Dự vừa khóc vừa nói: “Má má! Má má không thể chết, không thể chết được! Còn gia gia? Người… người làm sao rồi?” Đoàn Dự đưa tay ra đỡ lấy đầu mẫu thân, toan rút thanh trường kiếm ra, nhưng lại sợ rút kiếm càng làm cho mẫu thân chóng chết nên ngừng tay lại. Đoàn phu nhân nói: “Ngươi ráng mà học theo bá phụ, sau này làm một vị hảo Hoàng đế…”

Bỗng nhiên Đoàn Diên Khánh lên tiếng: “Mau lấy thuốc giải cho ta, để ta cứu mẫu thân ngươi.” Đoàn Dự cả giận quát lên: “Lão gian tặc! Ngươi bắt gia gia ta, hại ông chết thảm thế này! Ta với ngươi có mối thù chẳng đội trời chung.” Dứt lời, chàng đứng phắt dậy, lượm một cây cương trượng ở dưới đất toan đập xuống đầu Đoàn Diên Khánh. Đoàn phu nhân hoảng hốt thét lên: “Không được!”

Đoàn Dự sửng sốt quay lại hỏi: “Má má! Lão này là kẻ đại thù của chúng ta, hài nhi phải giết lão để báo thù.” Đoàn phu nhân vẫn thét lên: “Không được! Không được! Ngươi không được phạm vào một tội đại ác…” Đoàn Dự chẳng hiểu gì, ngập ngừng hỏi: “Hài nhi… làm gì mà phạm tội đại ác?” Rồi chàng lại nghiến răng gầm lên: “Không giết lão gian tặc này không được!” Chàng lại giơ cây cương trượng lèn. Đoàn phu nhân vội nói: “Ngươi cúi gần xuống đây, để ta nói cho nghe.”

Đoàn Dự cúi xuống, ghé tai lại gần miệng Đoàn phu nhân. Bà thều thào nói: “Hài nhi! Lão Đoàn Diên Khánh đó mới thực là cha ruột của ngươi. Trượng phu ta không biết, tưởng ngươi là con mình, nhưng lão này mới chính là phụ thân con. Ngươi chớ sát hại lão… mà mang đại tội giết cha. Trước nay ta vẫn không ưa lão, nhưng cũng không để ngươi phạm trọng tội được. Nếu ngươi giết cha thì sau khi chết sẽ không được về thế giới tây phương cực lạc. Ta… ta vốn không muốn nói cho ngươi hay, để khỏi tổn thương đến thanh danh của trượng phu ta, chỉ vì hiện giờ lâm vào tình trạng không nói không được…”

Trong thời gian chẳng bao lâu, mà bao nhiêu diễn biến bất ngờ xảy đến! Đoàn Dự nghe mẫu thân nói mấy câu này, tưởng chừng như sét đánh ngang tai. Chàng kinh hãi, mắt trợn ngược lên, miệng há hốc ra, tựa hồ như không tin ở tai mình, ôm lấy người mẫu thân la gọi: “Má má! Không phải thế! Không phải thế đâu!”

Đoàn Diên Khánh lại nói: “Mau lấy thuốc giải cho ta, để ta còn kịp cứu mẫu thân ngươi.” Đoàn Dự thấy thần sắc mẫu thân mỗi lúc một suy nhược, bèn lượm chiếc bình nhỏ ở dưới đất lên, đưa cho Đoàn Diên Khánh giải độc.

Đoàn Diên Khánh vừa khôi phục nội lực đã nhặt cây cương trượng lên tay, điểm cách không véo véo mấy tiếng vào quanh vết thương của Đoàn phu nhân. Bà cố lắc lắc đầu nói: “Ngươi không được đụng vào người ta nữa!” Rồi bà lại bảo Đoàn Dự: “Hài tử! Ta còn muốn nói với ngươi vài lời nữa!” Đoàn Dự lại cúi xuống.

Đoàn phu nhân thều thào nói: “Lão này và gia gia ngươi tuy cùng họ mà lại ngang hàng, nhưng cũng chẳng phải là huynh đệ ruột thịt gì với nhau. Vậy thì những đứa con gái của gia gia ngươi, nào là Mộc cô nương, Chung cô nương, hay Vương cô nương gì gì đó, ngươi thích cô nào thì cứ việc lấy cô ấy. Bọn người Đại Tống nói là cùng họ thì không lấy nhau được, nhưng người Đại Lý chúng ta thì không câu nệ chuyện đó, miễn sao không phải anh em ruột thịt là được rồi. Mấy cô nương đó, ngươi cưới hết về cũng được. Ngươi… ngươi có thích không?”

Nước mắt Đoàn Dự lã chã tuôn rơi, chàng chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến thích hay không thích nữa.

Đoàn phu nhân thở dài nói tiếp: “Hài tử! Ta tiếc rằng không được tận mắt thấy con mặc áo long bào, ngồi lên bảo tọa… làm một vị Hoàng đế trẻ… Nhưng ta biết rằng con sẽ là một Hoàng đế tốt…” Đột nhiên bà giơ tay lên nắm lấy chuôi kiếm đâm mạnh vào, mũi kiếm xuyên suốt qua tới sau lưng.

Đoàn Dự thét lên: “Má má!” Chàng ôm chặt lấy mình Đoàn phu nhân, nhưng bà đã từ từ nhắm mắt lại, trên môi còn thấp thoáng một nụ cười.

Đoàn Dự lại la gọi: “Má má…” Đột nhiên chàng thấy sau lưng mình tê tái, rồi mấy chỗ huyệt đạo trên đùi, bả vai lại bị điểm trúng. Một thanh âm rất nhỏ lọt vào tai chàng: “Đoàn Diên Khánh ta đây mới đúng là phụ thân ngươi. Vì muốn giữ thể thống cho Trấn Nam Vương, nên ta phải dùng phép Truyền Âm Nhập Mật để nói cho ngươi hay. Mẫu thân ngươi vừa nói gì, ngươi đã nghe rõ rồi chứ?” Lúc Đoàn phu nhân nói chuyện với Đoàn Dự, tuy thanh âm thều thào rất nhỏ, nhưng Đoàn Diên Khánh từ lúc được giải thuốc mê đều nghe rõ hết. Lão biết Đoàn phu nhân đã tiết lộ bí mật về thân thế của Đoàn Dự.

Đoàn Dự kêu lên: “Ta không nghe thấy, ta không nghe thấy! Ta chỉ biết có gia gia và má má ta.” Chàng nói chỉ biết có gia gia và má má mình, thực ra là thừa nhận đã nghe thấy những lời mẫu thân nói.

Đoàn Diên Khánh tức giận nói: “Chẳng lẽ ngươi không chịu nhìn nhận ta?” Đoàn Dự đáp: “Không nhận! Không nhận! Ta không tin!” Đoàn Diên Khánh hạ giọng nói: “Tính mạng ngươi đang ở trong tay ta, nếu ta muốn giết ngươi thì chỉ giơ tay lên một cái là xong. Huống chi ngươi đích thực là con ta, kẻ làm con mà không nhìn nhận phụ thân thì không phải là đại bất hiếu hay sao?”

Đoàn Dự không còn nói gì được nữa, chàng biết những lời mẫu thân mình nói đều là sự thực. Nhưng chàng đã kêu Đoàn Chính Thuần là phụ thân suốt hơn hai chục năm trời, mà ông đối với chàng vẫn một lòng từ ái, khi nào đột nhiên chàng đi nhìn nhận người chưa liên quan chút nào làm cha được? Hơn nữa, có thể nói là phụ thân và mẫu thân chàng đã bị hại về tay Đoàn Diên Khánh, nếu nhìn nhận Đoàn Diên Khánh tức là nhận kẻ thù làm cha, lại càng vạn vạn lần không được. Chàng nghiến răng nói: “Ngươi muốn giết thì giết, ta vĩnh viễn không nhìn nhận ngươi.”

Đoàn Diên Khánh vừa tức giận, vừa thất vọng, thầm nghĩ: “Mình tuy có con, mà con không chịu thừa nhận, thì cũng chẳng khác gì không có con.” Tính hung dữ lại nổi lên, lão cầm cây cương trượng toan đâm xuống lưng Đoàn Dự. Nhưng đầu trượng mới chạm vào áo chàng, bất giác lòng lão lại mềm nhũn ra, buông một tiếng thở dài rồi nghĩ: “Đời mình cay đắng đã nhiều, trên đời chẳng có một ai là thân nhân. Đâu phải dễ dàng mà có một đứa con, nỡ lòng nào lại đang tay hạ sát? Nó nhìn nhận thì tốt mà không nhìn nhận cũng không sao, dù gì nó cũng là cốt nhục của mình.” Rồi lão lại nghĩ: “Đoàn Chính Thuần chết rồi, ngôi hoàng đế nước Đại Lý đương nhiên là do con ta thừa kế. Thế là ngôi vua lại quay về trực hệ của phụ thân ta. Tuy ta chẳng được làm hoàng đế, nhưng cái mộng ta ôm ấp suốt đời cũng được kể là thành tựu.”

Đoàn Dự lại la lên: “Lão muốn giết ta, thì sao không hạ thủ mau đi?” Đoàn Diên Khánh vỗ vào mấy huyệt đạo để giải khai cho chàng, rồi vẫn dùng thuật Truyền Âm Nhập Mật mà nói: “Ta không thể giết con của chính mình được. Ngươi đã chẳng chịu nhìn nhận ta thì cứ dùng Lục Mạch Thần Kiếm mà giết ta đi, để báo thù cho vợ chồng Đoàn Chính Thuần.” Lão nói xong ưỡn ngực ra để chờ Đoàn Dự hạ thủ. Trong lòng Đoàn Diên Khánh đã chất chứa vô số nỗi bi phẫn, từ lúc lão bị trọng thương đến thành tàn phế. Vì thế mà suốt đời lão đã làm rất nhiều chuyện tàn ác để phát tiết nỗi bi phẫn trong lòng. Lúc này những nỗi bi phẫn lại nổi lên, lão nghĩ lại suốt đời mình chẳng làm được chuyện gì, thà chết dưới tay con trai, thì trăm sự cũng đều kết thúc.

Đoàn Dự đưa tay trái lên lau nước mắt, trong lòng rất đỗi băn khoăn. Chàng cũng muốn dùng Lục Mạch Thần Kiếm để giết Tên Đại ác, báo thù cho song thân. Nhưng lời mẫu thân chàng còn vang vọng bên tai, lão chính là cha ruột, thì chàng làm sao dám hạ thủ?

Đoàn Diên Khánh chờ một lúc, thấy Đoàn Dự đưa tay lên rồi lại hạ xuống, hạ xuống rồi lại đưa lên, mãi không quyết định được chủ ý. Lão liền khàn khàn nói: “Nam tử hán đại trượng phu, muốn xuất thủ thì xuất thủ ngay, sao lại rụt rè?”

Đoàn Dự nghiến răng, rụt tay về nói? “Má má ta không nói dối ta. Ta không giết ngươi.” Đoàn Diên Khánh cả mừng, nổi lên một tràng cười ha hả. Lão biết Đoàn Dự đã nhìn nhận mình là phụ thân, trong lòng hết sức phấn khởi. Lão chống đôi trượng xuống đất, rồi vọt mình đi luôn, chẳng thèm nhìn đến gã Vân Trung Hạc đang nằm ngất xỉu nữa.

***

Đoàn Dự trong lòng đau đớn, lại xem kỹ phụ thân và mẫu thân thì hai người đều đã tắt thở rồi, không còn cách nào vãn hồi được nữa. Chàng không nén nổi, phục xuống đất khóc òa lên.

Chàng khóc một lúc lâu, bỗng nghe phía sau có thanh âm thiếu nữ lên tiếng: “Xin Đoàn công tử bớt nỗi bi ai! Bọn nô tỳ không đến ứng cứu kịp, thật là tội đáng muôn thác.” Đoàn Dự ngoảnh đầu nhìn lại, thấy ngoài cửa sổ có bảy tám thiếu nữ đang đứng, hai cô đi đầu tướng mạo giống hệt nhau. Chàng nhận ra đó là bọn tì nữ của Hư Trúc tại cung Linh Thứu. Đoàn Dự nước mắt đầm đìa, vừa khóc vừa nghẹn ngào nói: “Gia gia cùng má má ta bị người hại chết rồi!”

Hai cô này chính là Trúc Kiếm và Cúc Kiếm ở cung Linh Thứu. Trúc Kiếm nói: “Đoàn công tử! Chủ nhân tiểu tỳ được biết tôn đại nhân dọc đường gặp nguy, lập tức sai bọn tiểu nữ dẫn mọi người đuổi theo tiếp viện, không ngờ tới đây đã chậm mất rồi.” Cúc Kiếm cũng nói: “Vương Ngữ Yên cô nương cùng mọi người bị nhốt trong địa lao, đã được cứu ra bình yên vô sự. Xin công tử an tâm.”

Đằng xa có tiếng còi vọng lại, Trúc Kiếm nói: “Mai tỉ và Lan tỉ cũng đã tới rồi.” Lại nghe tiếng vó ngựa vang lên, hơn mười kỵ sĩ đã đến trước cửa, hai người đi đầu là Lan Kiếm và Mai Kiếm. Hai cô bước lẹ vào nhà, thấy thi thể ngổn ngang dưới đất thì tức mình giậm chân, miệng không ngớt kêu: “Trời ơi! Trời ơi!”

Mai Kiếm thi lễ với Đoàn Dự rồi nói: “Chủ nhân tiểu tỳ gửi lời vấn an Đoàn công tử. Người rất hối hận về việc lỗi ước với công tử, nhưng đó là vì tình trạng bất đắc dĩ, xin công tử lượng thứ cho.”

Đoàn Dự không hiểu nàng nói về chuyện gì, nghẹn ngào đáp: “Huynh đệ ta đã kết nghĩa chi lan, đâu còn chuyện riêng tư? Gia gia cùng má má ta đã chết rồi, ta làm sao nghĩ đến chuyện gì khác được?”

Lúc này năm người Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Phó Tư Qui, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi đã ngửi thuốc giải độc và được giải khai huyệt đạo rồi. Hoa Hách Cấn thấy Vân Trung Hạc vẫn nằm dưới đất thì nổi giận đùng đùng, xách đao chém một nhát, tên Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc đầu mình mỗi thứ một nơi. Bọn Phạm Hoa năm người đều quỳ cạnh thi thể của phu phụ Đoàn Chính Thuần, khóc lóc rất bi thảm.

Sáng sớm hôm sau, bọn Phạm Hoa chia nhau đi tìm mua quan tài. Đến trưa thì quần nữ bộ Chu Thiên cung Linh Thứu đưa Vương Ngữ Yên, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh tới nơi. Bọn này đã bị Túy Nhân Phong đốt, đến giờ vẫn mê man chưa tỉnh lại.

Sau đó Đoàn Dự cùng bọn Phạm Hoa lo việc khâm liệm, nhập quan các thi thể. Nơi đây đã thuộc về quốc thổ Đại Lý, Phạm Hoa liền truyền tin đến các châu huyện lân cận. Các quan địa phương được tin phu phụ Trấn Nam Vương bị bạo bệnh mà chết ở địa hạt mình thì sợ hãi điếng người, e rằng không thoát tội lười biếng công việc, phục thị bề trên không được chu đáo. May mà Phạm Tư mã không trách cứ, chỉ hạ lệnh tìm dân phu để đưa linh cữu phu phụ Trấn Nam Vương về kinh thành Đại Lý. Dọc đường, Vương Ngữ Yên cùng bọn Ba Thiên Thạch mới lần lượt tỉnh dậy.

Tin tức Trấn Nam Vương tạ thế dọc đường, được Thế tử đưa linh cữu về, truyền khắp kinh thành Đại Lý rất nhanh. Trấn Nam Vương đã nhiều công trạng với quốc gia lại rất được lòng dân chúng, bá quan cùng trăm họ ra xa ngoài mười dặm nghênh tiếp, tiếng khóc bi ai vang động một góc trời. Đoàn Dự, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch vào thẳng nội cung để bẩm báo với hoàng thượng về nguyên nhân cái chết của Trấn Nam Vương. Còn Vương Ngữ Yên cùng bọn Mai Kiếm thì được Chu Đan Thần tiếp đãi ở nhà quán dịch.

Đoàn Dự vừa vào nội cung đã thấy Đoàn Chính Minh vì khóc nhiều mà hai mắt sưng húp. Chàng vừa lạy phục xuống, Đoàn Chính Minh đã gọi: “Hài tử! Sao… sao lại thế?” Rồi ông ôm chầm lấy chàng. Bác cháu cùng lặng đi một lúc.

Đoàn Dự không dám giấu giếm, kể hết việc xảy ra dọc đường bẩm lại một lượt, cả những lời Đoàn phu nhân nói riêng, chàng cũng không bỏ sót. Chàng kể xong, lại phục lạy xuống đất rồi nói: “Gia gia không phải là cha ruột của hài nhi, hài nhi chỉ là một đứa con oan nghiệt, không dám… không dám ở lại trong cung nữa.”

Đoàn Chính Minh cũng kinh tâm động phách, cứ lẩm bẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt!” Rồi ông đưa tay ra nâng Đoàn Dự dậy, nói: “Hài tử! Trên đời chỉ có ngươi và Đoàn Diên Khánh biết bí mật đó mà thôi. Lẽ ra ngươi có thể không bẩm với ta, thế mà ngươi cứ nói thẳng không giấu giếm gì, đủ chứng tỏ ngươi rất trung thành. Ta không có có con cái, gia gia ngươi không có con trai, đừng nói ngươi cũng ở họ Đoàn, dù ngươi có khác họ thì ta cũng quyết ý lập ngươi thừa kế. Hơn nữa, ngôi Hoàng đế này vốn là của Diên Khánh Thái tử, mấy chục năm trời ta ở trộm ngôi, trong lòng thường lấy làm hổ thẹn. Nay ông trời đã an bài như vậy thì thật là tốt đẹp.” Đoàn Chính Minh nói xong, bỏ mũ xuống, để lộ cái đầu trọc lóc ra, trên đỉnh đầu đã điểm mười hai vết tàn hương.

Đoàn Dự giật mình kinh hãi la lên: “Bá phụ! Người…” Đoàn Chính Minh nói: “Ngày trước lên chùa Thiên Long chống lại Cưu Ma Trí, sư phụ đã thí phát và truyền giới cho ta, chuyện đó ngươi cũng đã thấy.” Đoàn Dự “Vâng!” một tiếng. Đoàn Chính Minh lại nói tiếp: “Ta đã vào cửa Phật, đáng lẽ phải truyền ngôi cho phụ thân ngươi ngay, nhưng vì khi đó y phải vào Trung Nguyên nên ta tạm thời giữ đế vị. Phụ thân ngươi bất hạnh đã tạ thế dọc đường, hôm nay ta truyền ngôi vị cho ngươi.”

Đoàn Dự kinh hãi vô cùng, đáp: “Hài nhi nhỏ tuổi kiến thức nông cạn, làm sao ở ngôi cao được? Hơn nữa, thân thế hài nhi lại không rõ ràng. Hài nhi… hài nhi xin được tìm nơi rừng núi mà ẩn tích…” Đoàn Chính Minh tức giận nói: “Chuyện thân thế ngươi thì từ nay không được nhắc đến nữa. Song thân ngươi đối với ngươi thế nào?”

Đoàn Dự nghẹn ngào đáp: “Ân sâu tựa biển, đức nặng tày non.” Đoàn Chính Minh nói: “Thế thì được rồi. Ngươi muốn báo đáp ân đức song thân thì phải bảo toàn thanh danh cho hai vị. Lên làm Hoàng đế, ngươi chỉ cần ghi nhớ hai điều: một là thương dân, hai là biết nghe can gián. Bản tính ngươi nhân hậu, đối với trăm họ tất nhiên không bạo ngược. Nhưng khi ngươi lớn tuổi hơn, ngàn vạn lần không nên ỷ mình thông minh, đối với quốc sự không nên hành động quá đáng, đối với lân quốc không nên vọng động binh đao”.

Hồi 49: Sống chết chẳng qua là giấc mộng, sá gì phú quý với vinh hoa

Trong hoàng cung nước Đại Lý, Đoàn Chính Minh đang truyền ngôi vua cho Đoàn Dự, dặn bảo mọi điều. Cùng lúc này nhưng cách đó về phía bắc mấy ngàn dặm, ở điện Sùng Khánh trong hoàng cung thành Biện Lương nhà Đại Tống, thái hoàng thái hậu là Cao Thị đang nằm trên giường bệnh dặn dò hoàng tôn là Triệu Hú (tức Tông Triết Tôn): “Hài nhi! Tổ tiên biết bao khó nhọc mới dựng nên cơ đồ, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được thiên hạ thái bình như ngày nay. Trước kia gia gia ngươi nắm quyền đã làm xáo động bách tính, gây nên đại biến. Hiện nay trăm họ đã được yên vui, nhưng nhớ tới những ngày khủng khiếp đã qua vẫn còn kinh tâm động phách. Ngươi có biết tại sao không?”

Triệu Hú đáp: “Hài nhi thường nghe tổ mẫu nói là vì gia gia hài nhi tin theo lời Vương An Thạch, thay đổi pháp độ cũ của nhà nước, khiến cho muôn dân cực khổ.”

Nét mặt khô đét của Thái hoàng thái hậu khẽ động, thở dài rồi nói: “Vương An Thạch đã có học vấn lại có tài năng, nhất định không phải là người vô dụng. Chỉ vì gia gia ngươi nóng lòng về việc trị nước, dụng tâm của y cũng là vì nước vì dân, có điều… Hỡi ơi! Tính tình y nóng nảy, muốn thành công mau lẹ nên thành ra hỏng việc. Dục tốc bất đạt là thế đó.” Bà nói tới đây lại ho rũ rượi, ngừng lại một lúc rồi nói tiếp: “Còn một điều nữa là y không chịu nghe lời trung ngôn nghịch nhĩ. Ai khen y là Thánh Thiên Tử thì không sao, còn kẻ nào thấy y làm việc gì bất lợi mà mở miệng khuyên can mấy câu, là y lập tức nổi nóng, kẻ thì bãi quan, kẻ thì thuyên chuyển đi xa. Như thế thì còn ai dám đem lời ngay thẳng mà can gián nữa?”

Triệu Hú đáp: “Tổ mẫu! Tiếc là chí lớn của gia gia chưa được toại nguyện. Những chính sách của người đều bị bọn tiểu nhân làm cho hỏng việc.”

Thái hoàng thái hậu nghe nói cả kinh, run giọng hỏi: “Chính sách là chính sách nào? Tiểu nhân là ai?”

Triệu Hú đáp: “Gia gia đã lập ra những phép Thanh Miêu, Bảo Mã, Bảo Giáp, chẳng phải là chính sách làm cho quốc phù, binh cường ư? Chỉ hận là bọn hủ nho như Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, Tô Thức làm hỏng mất đại sự.”

Thái hoàng thái hậu đổi sắc mặt, gượng ngồi dậy, nhưng sức bà đã yếu quá rồi nên khó khăn lắm mới nhấc mình lên được một hai tấc, lại còn ho hắng không ngớt. Triệu Hú đáp: “Tổ mẫu đừng tức giận làm chi, cần giữ mình cho khỏe là hơn.” Giọng nói của y đầy vẻ châm chọc.

Thái hoàng thái hậu ho xong một trận, cố bình tâm lại rồi nói: “Hài nhi! Ngươi làm hoàng đế đã chín năm, nhưng chín năm nay… chín năm nay hoàng đế thật sự là tổ mẫu ngươi, việc gì cũng do tổ mẫu quyết định. Ngươi… ngươi tức tối, oán hận tổ mẫu lắm phải không?”

Triệu Hú đáp: “Tổ mẫu làm hoàng đế thay cho hài nhi, tức là thương hài nhi, sợ hài nhi cực khổ. Việc dùng người là do tổ mẫu quyết định, thánh chỉ cũng do tổ mẫu ban bố. Hài nhi được hưởng phúc thanh nhàn, sao lại dám oán hận tổ mẫu?”

Thái hoàng thái hậu lại thở dài rồi nói: “Người giống tính gia gia như đúc, lại tự cho là thông minh hơn người, muốn làm nên đại nghiệp. Trong lòng ngươi vẫn oán hận ta, lẽ nào ta không biết?”

Triệu Hú mỉm cười nói: “Dĩ nhiên là tổ mẫu đã biết rồi. Quân ngự lâm trong cung do người thân tín của tổ mẫu chỉ huy, bọn thái giám cũng là người tâm phúc của tổ mẫu, văn võ đại thần trong triều đều vâng mệnh tổ mẫu. Hài nhi chỉ có việc vâng lời dạy bảo của tổ mẫu, ngoài ra không còn việc gì phải làm nữa.”

Thái hoàng thái hậu nhìn lên đỉnh màn nói: “Chắc ngày ngày đều như hôm nay, ngươi chỉ mong cho bệnh ta nặng thêm rồi chết, cho ngươi… ngươi được rảnh tay hành động.” Triệu Hú nói: “Cái gì của hài nhi cũng là của tổ mẫu ban cho. Ngày mà gia gia hài nhi băng hà, nếu không được tổ mẫu chủ trương, thì các vị đại thần trong triều chẳng lập Ung vương thì cũng lập Tào vương lên ngôi, đâu đến lượt hài nhi? Ơn đức của tổ mẫu, hài nhi chẳng khi nào quên được. Nhưng… nhưng…” Thái hoàng thái hậu hỏi: “Nhưng cái gì? Sao ngươi không nói huỵch toẹt ra, mà cứ úp mở như vậy?”

Triệu Hú nói: “Hài nhi nghe người ta nói, sở dĩ tổ mẫu lập hài nhi là vì hài nhi còn nhỏ tuổi. Như thế thì tổ mẫu mới thao túng được việc triều chính.” Triệu Hú thu hết can đảm để nói câu này, trái tim non trẻ đập loạn lên. Y liếc mắt nhìn ra cửa điện, thấy bọn thái giám đều là tâm phúc của mình, tên nào cũng tay cầm khí giới phòng vệ rất nghiêm mật, mới tạm yên lòng.

Thái hoàng thái hậu gật gật đầu, đáp: “Ngươi nói không sai, quả là ta muốn chính mình xử lý mọi việc trong nước. Chín năm nay ta đã trị quốc ra sao?”

Triệu Hú lấy trong bọc ra một cuộn giấy, đáp: “Tổ mẫu! Trong chín năm nay đã có không biết bao nhiêu những bậc văn nhân trong triều ngoài nội ca tụng công đức, tổ mẫu chắc đã nghe đến phát ngán. Hôm nay có người mang đến một bản tấu chương của tể tướng nước Liêu trình lên Liêu đế, trong đó có đề cập đến chính sách trị quốc của tổ mẫu. Đây là luận điệu của đại thần địch quốc, tổ mẫu có muốn nghe chăng?”

Thái hoàng thái hậu than thở: “Thiên hạ ca tụng ta cũng được, phỉ báng ta cũng được, lão… lão thân chỉ sống đến đêm nay là hết… Chẳng hiểu ta có còn được thấy mặt trời mọc sáng mai không? Tể tướng nước Liêu nói về ta như thế nào?”

Triệu Hú mở cuốn trục ra, rồi nói: “Tên tể tướng đó nói về thái hoàng thái hậu như sau: Buông rèm nhiếp chính, chiêu nạp danh thần, bài trừ chính trị hà khắc. Trong chín năm trời, triều đình hưng thịnh, trăm họ yên vui…” Triệu Hú đọc đến đây thì ngừng lại, liếc sang thì thấy cặp mắt lờ đờ của thái hoàng thái hậu có mấy tia phấn khởi. Hắn lại đọc tiếp: “Người này đúng là nữ trung Nghiêu Thuấn…”

Thái hoàng thái hậu lẩm nhẩm: “Nữ trung Nghiêu Thuấn, nữ trung Nghiêu Thuấn! Dù thật là như vậy, cũng khó mà khỏi chết.” Đột nhiên trong bộ óc đã mờ mịt của bà lóe ra một tia sáng, bà lại hỏi: “Sao tể tướng nước Liêu lại đề cập đến ta? Hài nhi! Ngươi… ngươi phải cẩn thận đề phòng, chắc là bọn chúng đã biết ta sắp chết, chuẩn bị khinh nhờn ngươi đó.”

Bộ mặt non choẹt của Triệu Hú lộ vẻ kiêu ngạo. Y nói: “Họ muốn khinh nhờn hài nhi, hừ, đúng là như vậy, nhưng không phải chuyện dễ dàng đâu. Người Khất Đan có thám tử ở Đông Kinh nên biết tổ mẫu lâm trọng bệnh, chẳng lẽ chúng ta không biết đặt do thám ở Thượng Kinh hay sao? Đến tấu chương của chúng trình lên hoàng đế Đại Liêu cũng bị chúng ta lấy được đó thôi. Vua tôi Khất Đan thương nghị với nhau, nói là khi tổ mẫu trăm tuổi rồi, mà văn võ đại thần bên ta vẫn không thay đổi chính sách bảo quốc an dân thì thôi. Khi nào hài nhi… hài nhi khinh suất vọng động gì… thì bọn họ mới cử sự.”

Thái hoàng thái hậu thất thanh nói: “Nếu thế thì bọn chúng sẽ xuất binh nam chinh ư?” Triệu Hú đáp: “Đúng thế!” Y xoay người ra cửa sổ, nhìn lên chòm sao Bắc Đẩu thất tinh giữa bầu trời. Y tìm sao Bắc Cực, chăm chú nhìn về hướng Bắc mà lẩm bẩm: “Nhà Đại Tống ta binh cường lương đủ, nhân số cũng nhiều, sợ gì bọn Khất Đan? Chúng chẳng nam chinh thì ta cũng đem quân bắc phạt, quyết tỉ thí một phen”

Thái hoàng thái hậu nghe không rõ, hỏi lại: “Ngươi nói gì vậy? Cái gì mà tỉ thí một phen?” Triệu Hú lại trước giường bệnh rồi đáp: “Tổ mẫu! Dân số Đại Tống ta nhiều gấp mười nước Liêu, mà lương thảo cũng gấp ba mươi lần, có đúng thế không? Mười người chọi một, chẳng lẽ không thắng được họ hay sao?” Thái hoàng thái hậu run giọng hỏi: “Ngươi muốn khai chiến với nước Liêu ư? Năm trước Châu Nguyên hoàng đế oai võ như vậy, ngự giá thân chinh rồi cũng phải ký vào hòa ước Thiên Uyên. Ngươi… ngươi lại còn dám dấy động binh đao ư?”

Triệu Hú tức tối đáp: “Tổ mẫu vẫn chưa tin hài nhi, cứ coi hài nhi như một đứa con nít hỉ mũi chưa sạch, không hiểu việc đời. Nói hài nhi không bằng Thái tổ, Thái tông thì còn có lý, chẳng lẽ lại không bằng được Chân Tôn hoàng đế hay sao?” Thái hoàng thái hậu hạ giọng nói: “Ngay cả Thái Tôn hoàng đế năm xưa cũng bị Bắc quốc đánh cho đại bại, may mà chưa mất mạng.” Triệu Hú đáp: “Chuyện thiên hạ không phải lúc nào cũng giống nhau. Ngày trước Đại Tống ta không thắng nổi nước Liêu, nhưng vị tất đã vĩnh viễn chịu thua họ.”

Thái hoàng thái hậu còn muốn nói rất nhiều song tinh lực đã hết, đầu óc mờ mịt không còn sáng suốt, ngay việc nói ra tiếng cũng đã khó khăn. Nhưng vì lòng kiên cường nổi lên, thanh âm dõng dạc trở lại, bà nói tiếp: “Binh đao là việc dữ, sinh linh đồ thán, ngàn vạn lần không được khinh suất mà vọng động.”

Bà hít một hơi chân khí, rồi từ từ nói tiếp: “Hài nhi! Ta cầm quyền chính suốt chín năm trời, mà chưa phân tích rõ cho hài nhi hiểu. Đó là lỗi của ta, cứ tưởng rằng còn sống được lâu năm, ngờ đâu…” Bà ho hắng mấy tiếng rồi lại nói: “Đúng là chúng ta nhân số đông đúc, lương thực đầy đủ, nhưng Đại Tống vốn chuyên về văn học, còn võ bị lại kém Khất Đan. Hơn nữa, nếu xảy việc binh đao thì quân dân gan óc lầy đất, biết bao nhiêu người uổng mạng, bao nhiêu nhà cửa bị thiêu hủy? Làm vua thì trong lòng lúc nào cũng phải nghĩ đến chữ Nhân. Chưa nói đến chuyện thắng bại khó mà biết trước, dù có nắm chắc phần thắng cũng chẳng nên động binh là hơn.”

Triệu Hú nói: “Mười sáu châu quận Yên Vân của chúng ta đã bị người Liêu vô cớ chiếm đóng. Chúng còn đòi hàng năm phải tiến cống vàng lụa, chẳng khác nào một nước phiên thuộc. Hài nhi làm thiên tử nhà Đại Tống, làm sao chịu nổi cái nhục này? Chẳng lẽ cứ để bọn chúng vĩnh viễn khinh nhờn hay sao?” Thanh âm Triệu Hú mỗi lúc một vang dội. Y nói tiếp: “Ngày trước Vương An Thạch thay đổi pháp lệnh, dựng ra phép Bảo Giáp, Bảo Mã, cũng chỉ muốn cho quốc gia giàu mạnh để rửa nhục cho tổ tông. Kẻ làm con cháu, biết trả thù rửa hận cho tổ tông mới là đạo hiếu. Phụ hoàng của hài nhi suốt đời hoài bão ý chí làm cho đất nước hưng thịnh, phải chăng cũng là vì vậy? Hài nhi nhất quyết noi theo di chí của gia gia, nếu không thì nguyện như chiếc ghế này.” Y đột nhiên rút thanh kiếm ở trên lưng ra, chém chiếc ghế bên cạnh đứt làm hai đoạn.

Khi hoàng đế vào đây vốn không được xách đao đeo kiếm. Hoàng thái hậu thấy Triệu Hú còn nhỏ tuổi mà có hành động vũ phu thì không khỏi giật mình kinh hãi, liền nói bằng một giọng đau buồn, uất ức: “Sao mi dám đeo kiếm vào đây? Có phải là để giết ta không? Hay là ngăn cấm không cho ta buông rèm nhiếp chính? Thằng lỏi này lớn mật làm càn, ta phải truất phế mi!” Bản tính thái hoàng thái hậu vốn hiền từ, nhưng bà đã từng nắm giữ quyền binh lâu ngày, bây giờ bà thấy quyền hành bị uy hiếp liền lập tức nghĩ tới chuyện loại trừ đối thủ, dù là cốt nhục cũng không thể khoan dung. Trong lúc hoảng hốt, bà quên mất lúc này mình chỉ như ngọn đèn khô dầu, trong chốc lát là phải từ trần.

Trong lòng Triệu Hú thì chỉ nghĩ đến chuyện xung trận giết giặc, thu phục mười sáu châu quận Yên Vân. Mộng tưởng của y đã đạt đến cực đại, chỉ muốn thống suất trăm vạn hùng binh công phá Thượng Kinh, bắt Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ phải ra hàng. Y giơ cao thanh kiếm lên nói: “Quốc gia đại sự mà hư hỏng là vì bọn hủ nho kém cỏi nhát gan. Chúng tự xưng là quân tử, song thực ra đều tham sinh úy tử, chỉ là hạng tiểu nhân tự tư tự lợi. Hài nhi… hài nhi phải trừng phạt bọn chúng nặng nề, nhất định không tha!”

Thái hoàng thái hậu đột nhiên tỉnh táo lại, nghĩ bụng: “Thằng nhỏ này là đương kim hoàng đế. Nó có chủ ý của nó, ta không thể bắt nó nghe ta được nữa. Ta chỉ là một lão thái bà sắp chết đến nơi, còn nó là hoàng đế, nó mới là hoàng đế.” Bà dồn hết sức tàn, cố cao giọng lên nói: “Hài nhi! Ngươi có chí khí như vậy, tổ mẫu hết sức phấn khởi.” Triệu Hú cả mừng tra kiếm vào vỏ, hỏi lại: “Tổ mẫu! Hài nhi nói vậy có đúng không?” Thái hoàng thái hậu hỏi: “Hài nhi có biết thế nào là kế vẹn toàn chắc thắng không?” Triệu Hú chau mày đáp: “Dạy tướng luyện quân, nuôi ngựa tích lương, cùng người Liêu quyết một trận sống mái thì có thể thắng, nhưng không thể nói là vẹn toàn chắc thắng được.” Thái hoàng thái hậu nói: “Ngươi cũng đã hiểu đem quân đi đánh thì chưa chắc đã nắm vững được phần thắng. Đại Tống ta cũng có thể không đánh mà khuất phục được người ta.” Triệu Hú đáp: “Cho dân nghỉ ngơi, thi hành nhân chính, thì có thể không đánh mà khuất phục được lòng người, có phải thế chăng? Tổ mẫu! Đó chỉ là kiến thức thiển cận của bọn thư sinh kiểu như Tư Mã Quang, làm sao mà thành đại sự được?”

Thái hoàng thái hậu thở dài, nhẹ nhàng nói: “Kiến thức của Tư Mã tướng công thật là siêu tuyệt, sao lại bảo là thư sinh thiển cận? Ngươi có lúc nào rảnh việc thì nên đọc bộ sách Tư Trị Thông Giám của Tư Mã tướng công. Các triều đại hơn ngàn năm nay vì sao thịnh, vì sao suy, vì sao vong quốc, bộ sách này đều có ghi chép rõ ràng. Đại Tống ta đất cát phì nhiêu, dân cư đông đúc gấp mười nước Liêu, nếu không có việc chiến chinh thì mỗi ngày một hưng thịnh lên. Người Liêu tính nết hung hãn hiếu chiến, ta chỉ cần phòng thủ biên cương nghiêm mật, thì trong nội bộ của họ tất sinh nội biến, tàn sát lẫn nhau mà hao hụt nguyên khí. Năm trước, cái loạn Sở vương đã làm hao mòn mất một số lớn quân tinh nhuệ của nước Liêu…”

Triệu Hú vỗ đùi lớn tiếng nói: “Đúng thế! Khi ấy hài nhi đã toan xua quân bắc tiến để nội ngoại giáp công, nước Liêu đang có nội loạn, nhất định không thể đối phó được. Trời ơi! Thật là cơ hội ngàn năm một thuở mà bị lỡ mất rồi!”

Thái hoàng thái hậu nghiêm giọng nói: “Lúc nào ngươi cũng chỉ nghĩ đến chuyện gây hấn với nước Liêu. Ngươi… ngươi…” Đột nhiên bà ngồi dậy, trỏ tay vào mặt Triệu Hú.

Triệu Hú thấy thái hoàng thái hậu nổi cơn thịnh nộ, giật mình lùi lại ba bước. Chân y loạng choạng suýt té ngã, tay nắm chặt đốc kiếm, trống ngực đánh thình thình, miệng lớn tiếng la: “Mau! Các ngươi mau vào đây!”

Bọn thái giám nghe hoàng thượng la gọi, liền tiến vào điện. Triệu Hú run giọng hỏi: “Bà… bà… Các ngươi xem kỹ, bà làm sao rồi?” Y vừa thổ lộ bao nhiêu là hùng tâm tráng chí, muốn quyết một trận tử chiến cùng người Khất Đan, thế mà một bà già ốm o bệnh hoạn vừa ra oai, y lập tức hồn bất phụ thể, chân tay luống cuống. Một tên thái giám tiến lại mấy bước, nhìn kỹ thái hoàng thái hậu, lại đưa tay ra sờ mặt bà, rồi nói: “Khải tâu hoàng thượng, thái hoàng thái hậu đã cỡi hạc về trời rồi!”

Triệu Hú cả mừng, cười ha hả rồi la lớn: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Ta là hoàng đế rồi! Ta là hoàng đế rồi!”

Thực ra, y đã làm hoàng đế được chín năm rồi, nhưng trong chín năm ấy thì chỉ là hoàng đế hữu danh vô thực, việc lớn đều ở trong tay thái hoàng thái hậu. Từ bây giờ y mới thực sự là hoàng đế cầm quyền trị nước.

***

Triệu Hú tự mình trông nom triều chính, việc đầu tiên là y giáng chức Lễ bộ thượng thư Tô Thức, bắt phải đi làm tri phủ ở Định Châu. Tô Thức là một văn nhân lừng danh thiên hạ, ai cũng trọng vọng. Ông là nhân vật chính trong việc phản đối biến pháp cải cách của Vương An Thạch. Những năm Nguyên Hựu, thái hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính, bắt đầu trọng dụng Tư mã Quang và huynh đệ Tô Thức, Tô Triệt. Bà vừa qui thiên, hoàng đế đã đuổi Tô Thức đi, khiến cho từ triều đình đến dân gian đều bị bao phủ một không khí ảm dạm. Ai nấy than thầm: “Hoàng đế lại thi hành biến pháp, trăm họ khốn khổ đến nơi rồi!” Dĩ nhiên cũng có lắm kẻ mừng thầm, vì nếu hoàng đế thi hành cải cách thì chúng lại có cơ hội thăng quan phát tài.

Lúc này những người nắm quyền trong triều đều là cựu thần do thái hoàng thái hậu bổ nhiệm. Hàn lâm học sĩ Phạm Tô Vũ trình lên một bản tấu chương, nói rằng: “Tiên thái hoàng thái hậu lấy công bình chính trực làm gốc, bãi bỏ biến pháp của bọn Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh, mà áp dụng chính sách cũ của tổ tiên. Nhờ thế mà xã tắc nguy nan rồi lại an bình, lòng người ly tán trở nên đoàn kết. Thậm chí Liêu chúa thương nghị cùng tể tướng, cũng nói là nếu Nam triều duy trì chính sự nhân hòa, thì chỉ nên giữ nguyên hiện trạng mà phòng thủ biên cương, không nên sinh sự. Bệ hạ nghĩ xem, địch quốc còn suy nghĩ như vậy, đủ biết lòng người trong nước thế nào. Nay nếu bệ hạ thay đổi chính sách, bọn tiểu nhân sẽ thừa cơ ngóc đầu dậy, mà kẻ vụ lợi cũng ghé mắt nhìn. Thần xin bệ hạ nghĩ đến tổ tiên trải gian nan dựng xây cơ nghiệp, nghĩ đến thái hoàng thái hậu phải nhọc lòng giữ vững giang sơn mà duy trì chính đạo, đừng nghe tiểu nhân sàm tấu, giữ chính sách cũ khiến quốc gia vững bền, bá tính an vui, thì thiên hạ thật là may lắm.”

Triệu Hú đọc tấu chương mà tức giận, đập bàn quát: “Ngươi bảo ta duy trì chính đạo, đừng nghe tiểu nhân sàm tấu. Hai câu này quả là không sai chút nào. Chỉ có điều, ai là quân tử, ai là tiểu nhân?” Nhà vua lại quắc mắt lên nhìn Phạm Tô Vũ.

Phạm Tô Vũ dập đầu tâu: “Bệ hạ minh xét. Lúc thái hoàng thái hậu bắt đầu buông rèm nhiếp chính thì hàng vạn thần dân trong triều ngoài nội đều nói là biến pháp làm cho bách tính phải lầm than. Thái hoàng thái hậu thương dân như con, đã thay đổi chính sách, ân xá cho những người có tội. Khi đó bệ hạ đã thuận lòng dân mà vâng theo lời thái hoàng thái hậu. Những quan chức bị bãi miễn đó, chính là tiểu nhân.”

Triệu Hú cười nhạt nói: “Họ bị thái hoàng thái hậu bãi miễn, có can dự gì đến trẫm đâu?” Y nói xong, lập tức rũ áo bãi triều.

Triệu Hú nhìn bọn đại thần mà ngứa mắt, nhưng vừa được chấp chính nên không tiện đuổi sạch. Y tạm thời hạ chiếu, thăng quan cho bọn nội thị Nhạc Sĩ Tuyến, Lưu Duy Giản, Lương Tòng Chính để thưởng chúng đã có công phụ họa với mình. Y cáo bệnh, không lâm triều mấy ngày liền.

Một hôm, thái giám đưa vào một tấu chương, nét chữ rồng bay phượng múa, dưới ký tên Tô Thức. Triệu Hú nói: “Thằng cha này viết chữ thật là đẹp, không hiểu hắn muốn nói những chuyện hồ đồ gì.” Rồi y mở tấu chương ra xem, thấy viết rằng: “Hạ thần đang chầu chực.trong triều thì được lệnh đi giữ biên cương. Hạ thần không muốn ra đi mà chưa được vào bái biệt, muốn thông tin đến bệ hạ cũng không phải dễ.” Triệu Hú nói: “Ta không thích bộ râu quai nón của ngươi, trọn đời không muốn nhìn thấy ngươi nữa.”

Y lại đọc tiếp: “Nhưng hạ thần không dám chẳng tận trung, đó là hành vi của thánh nhân đã dạy, phải vào chỗ tối để nhìn chỗ sáng, ngồi chỗ tĩnh mà xem chỗ động, thì vạn vật đều rõ ràng trước mắt. Bệ hạ là bậc thánh trí hơn đời, đang tuổi thanh niên…” Triệu Hú cười khẩy, nghĩ bụng: “Thằng cha rậm râu này hỗn láo, dám ra giọng mỉa mai. Hắn bảo ta “thánh trí hơn đời”, mà lại chú thích “đang tuổi thanh niên”, thì ra hắn bảo mình nhỏ tuổi, chưa hiểu việc trị nước.”

Y lại đọc tiếp: “Hạ thần chỉ mong bệ hạ hãy khoan hành động, cứ để tâm theo dõi để nhận rõ chính sách lợi hại ra sao, quần thần tà chính thế nào. Giả tỉ bệ hạ nghiên cứu ba năm rồi mới thực hiện, thì khi hành động tất nhiên bách tính không oán hận, bệ hạ không hối tiếc. Hạ thần e rằng chỉ có bọn thần tử vụ lợi mới nông nổi mà muốn hành động gấp rút, nay dâng biểu tấu này, mong rằng bệ hạ thận trọng mà cải cách thì phúc cho xã tắc, may cho thiên hạ lắm thay.”

Triệu Hú đọc hết tấu chương, thầm nghĩ: “Người ta nói thằng cha rậm râu họ Tô thông minh tuyệt đỉnh, quả nhiên danh bất hư truyền. Hắn biết ta nhất định noi theo tiên đế mà thi hành biến pháp, nhưng hắn không dám công khai ngăn trở mà chỉ khuyên ta hoãn lại ba năm. Y nói gì gì: “Hành động tất nhiên bách tính không oán hận, bệ hạ không hối tiếc”, chỉ là lời nói uyển chuyển. Như vậy tức là gấp rút vụ lợi thì bách tính oán hận, ta phải hối tiếc.” Triệu Hú nghĩ tới đó thì bất giác nổi lôi đình, xé vụn tấu chương.

Mấy hôm sau Triệu Hú lâm triều, Phạm Tô Vũ lại dâng tấu chương: “Đầu niên hiệu Chiêu Ninh, Vương An Thạch cùng Lã Huệ Khanh dựng ra biến pháp, cải cách lề luật cũ của tổ tông, đưa nhiều kẻ tiểu nhân vào làm hỏng việc nước. Chúng lại dấy động binh đao để mở rộng biên thùy, gây thù oán với ngoại bang khiến cho sinh linh đồ thán, trăm họ lầm than”. Triệu Hú xem tới đây thì lửa giận đã bốc lên, mắng thầm: “Ngươi thóa mạ Vương An Thạch cùng Lã Huệ Khanh thì có khác gì thóa mạ phụ hoàng ta?” Y lại xem tiếp: “Thái Xác liên tiếp mở nhà ngục lớn, Vương Thiều lấp Tây Hà, Chương Đôn mở rộng khe cừ, Thẩm Khởi nhiễu loạn bang giao, Thẩm Quát động binh ở phía tây làm quân dân tử thương tới hai mươi vạn người. Tiên đế lâm triều đã tỏ ra hối hận, Ngài tuyên bố triều đình phải chịu trách nhiệm này…” Triệu Hú càng xem càng tức giận, bỏ qua mấy dòng, lại đọc ở dưới: “Dân chúng khổ não như nhà có loạn, chỉ mong bệ hạ khai ân cứu giúp, để người khắp thiên hạ đều được bình yên…” Triệu Hú coi tới đây không nhịn được nữa, vỗ bàn đứng dậy.

Triệu Hú mới mười tám tuổi đã ở ngôi cao, tính tình lại nóng nảy. Y nổi nóng giữa buổi triều thì quần thần không khỏi sợ hãi thất sắc. Triệu Hú nghiêm giọng quát hỏi: “Phạm Tô Vũ! Ngươi trình tấu chương có phải là để phỉ báng chăng?” Phạm Tô Vũ dập đầu tâu: “Bệ hạ minh xét. Hạ thần vạn vạn lần không dám.”

Triệu Hú mới lên nắm quyền mà được thấy quần thần khiếp sợ, trong lòng đắc ý nên nộ khí tiêu tan. Nhưng y vẫn giữ vẻ mặt nghiêm khắc lớn tiếng nói: “Tiên đế là bậc thiên tài đại chí, muốn bình định, giang sơn, thống nhất thiên hạ, chỉ tiếc là ngài còn trẻ đã băng hà. Nay trẫm muốn nối chí của tiên đế, sao lại không được? Các ngươi cứ trách tiên đế thay đổi chính sách, nhàm cả tai trẫm là nghĩa làm sao?”

Trong quần thần có một vị đại thần tướng mạo thanh tú oai phong, bệ vệ bước ra, chính là tể tướng Tô Triệt. Triệu Hú vừa trông thấy đã phát ngán, nghĩ thầm: “Lão này là em thằng cha rậm râu họ Tô. Huynh đệ y cấu kết với nhau, chắc chắn trong miệng chó không thể mọc ngà voi.” Bỗng nghe Tô Triệt lên tiếng: “Bệ hạ minh xét. Tiên đế có nhiều điểm vượt cả tiền nhân, tỉ như ngài ở ngôi mười hai năm trời, đến cuối đời vẫn không chịu nhận tôn hiệu nào. Thần đã trình tấu chương ca tụng công đức, mà tiên đế vẫn khiêm nhường không nhận. Còn việc triều chính có điều lầm lẫn thì đời nào mà chẳng có? Hơn nữa, con cái sửa chữa việc cha đã lầm lẫn, đó là đạo hiếu của người xưa.”

Triệu Hú hắng giọng một tiếng, lạnh lùng hỏi lại: “Con cái sửa chữa việc cha đã lầm lẫn, là nghĩa làm sao?” Tô Triệt đáp: “Tỉ như việc ngày xưa, Hán Võ Đế ngoài đánh tứ di, trong dựng cung thất, tiền tài khánh kiệt, đến nỗi phải cướp bóc tài vật cùng nguồn lợi của bá tính, dân chúng không chịu nổi, suýt gây ra họa loạn. Khi Võ Đế băng hà, Chiêu Đế lên nối ngôi, thu dùng Hoắc Quang, bỏ những việc phiền hà, khiến cho Hán thất trở lại vững vàng.” Triệu Hú hừ một tiếng, thầm nghĩ: “Ngươi dám đem Hán Võ Đế mà so sánh với phụ hoàng ta!”

Tô Triệt thấy long nhan nhăn nhó đã biết là nguy hiểm, nghĩ thầm: “Nếu ta còn nói nữa thì hoàng thượng tất nổi lôi đình, không chừng mất mạng. Nhưng nếu cứ thuận gió theo chiều để cho thiên hạ loạn lạc, bách tính lầm than, cửa nhà tan nát, thì ta đây là một vị đại thần trong nước, nhẫn tâm thế nào được? Hôm nay chính là lúc ta phải đem sinh mạng nhỏ nhoi mà báo đáp thâm ân của thái hoàng thái hậu”. Ông bèn tiếp: “Đời Minh Đế nhà Hậu Hán lấy hai chữ Giám Sát làm gốc, tra xét lời nói cùng việc làm của bá quan thật là tỉ mỉ, tin tưởng các loại bùa chú quái đản tà đạo, khiến cho trên dưới đều phập phồng lo sợ, người người đều không thể sống yên. Khi Chương Đế lên nối ngôi, đã kiểm điểm lại chỗ được mất, đổi sang chính sách khoan hồng để lòng người vui vẻ, thiên hạ thịnh trị. Đó là những bậc làm con đã sửa chữa lỗi lầm của tiên phụ, trở thành những bậc đại hiếu để tiếng thơm muôn đời như thánh nhân đã dạy.”

Tô Triệt đã biết Triệu Hú lên ngôi lúc mới mười tuổi, chín năm nay việc gì cũng phải nghe theo mệnh lệnh của thái hoàng thái hậu, nhất định y thầm phẫn nộ trong lòng, quyết ý muốn hủy những chính sách của bà để quay về chính sách của đời Thần Tông, để tỏ lòng hiếu thuận với phụ thân. Do đó Tô Triệt mới đem chuyện đại hiếu của thánh nhân ra mà khuyên can hoàng thượng.

Triệu Hú lớn tiếng hỏi: “Hán Minh Đế theo đạo thuật thì đã có gì là không tốt? Ngươi đem Hán Võ Đế mà so với tiên đế là có dụng ý gì? Phải chăng là công nhiên phỉ báng? Hán Võ Đế dấy binh đại bại để chết hết quân lính, cuối đời đã hạ chiếu tự phê phán mình, tự trách cứ nặng nề những hành vi hoang đường. Đó là một ông vua bị hậu thế chê cười, sao ngươi dám đem ra so sánh với tiên đế?” Y càng nói, thanh ám càng nghiêm khắc, sắc mặt cũng biến đổi. Tô Triệt dập đầu lia lịa, rồi bước ra khỏi điện, quì trước sân để chờ xử tội, không dám nói gì nữa.

Rất nhiều đại thần cùng nghĩ: “Tiên đế thi hành biến pháp đã làm trăm họ ngày đêm hoảng hốt, so ra còn tệ hơn Hán Võ Đế nhiều.” Nhưng bá quan đều sợ hãi, không ai dám nói câu nào, cũng không ai dám năn nỉ giùm Tô Triệt.

Bỗng thấy một vị đại thần đầu tóc bạc phơ rẽ mọi người đi ra, chính là Phạm Thuần Nhân. Ông chậm rãi nói: “Xin bệ hạ bớt giận. Tô Triệt nói năng có điều thất thố, cũng chỉ vì y một dạ trung thành với bệ hạ. Bệ hạ mới lên chấp chính, đối với đại thần nên giữ lễ.” Triệu Hú nói: “Người ta đã có câu: Tần Hoàng Hán Võ, vậy Hán Võ Đế cũng tàn bạo như Tần Thủy Hoàng. Y nói thế còn chưa vô đạo hay sao?” Phạm Thuần Nhân tâu: “Tô Triệt chỉ nghị luận về thời thế cùng sự việc, chứ không so sánh về con người.”

Triệu Hú nghe Phạm Thuần Nhân giải thích mới nguôi giận, quát lên: “Tô Triệt vào đây!” Tô Triệt từ trong sân trở vào điện, không dám đứng ở chỗ cũ mà quỳ sau hết thảy quần thần, lên tiếng: “Hạ thần biết mình đắc tội với bệ hạ, xin nhận trách phạt.”

Hôm sau, có chiếu chỉ giáng chức Tô Triệt làm Đoan Minh Điện Học Sĩ kiêm Tri châu Nhữ Châu, biệt phái tể tướng đi làm một quan châu nho nhỏ.

***

Động tĩnh của quần thần Nam triều đều được thám tử nước Liêu phi báo về Thượng Kinh rất nhanh. Liêu chúa là Gia Luật Hồng Cơ được tin thái hoàng thái hậu Nam triều đã chết, hoàng đế Triệu Hú còn nhỏ tuổi đã giáng chức đại thần, thi hành biến pháp, thì vô cùng mừng rỡ nói: “Chuẩn bị xa giá để ta xuống Nam Kinh, thương nghị với Tiêu đại vương.”

Gia Luật Hồng Cơ lại nói: “Bọn thám tử Nam triều ở Thượng Kinh không phải là ít. Nếu chúng biết ta đến Nam Kinh, chắc sẽ chú ý đề phòng. Vậy phải giảm bớt số quân kỵ theo ta, lập tức lên đường, chẳng cần báo trước với Nam Viện Đại Vương nữa.” Liêu chúa dẫn ba ngàn giáp binh lập tức xuôi nam, lại nhớ đến cái loạn Sở vương ngày trước, bèn giao cho chính hoàng hậu là Tiêu thị thống lãnh binh quyền lưu lại giữ Thượng Kinh. Liêu chúa lại cắt ra năm vạn binh mã theo hộ tống, nhưng để đi sau.

Ngày mà Liêu chúa đến ngoài thành Nam Kinh thì Tiêu Phong đang đem hơn hai chục kỵ binh đi săn bắn. Ông được tin Liêu chúa đột ngột đến Nam Kinh, liền ruổi ngựa tiến về hướng Bắc để nghênh tiếp. Vừa thấy cờ trắng lọng vàng ở phía xa, Tiêu Phong đã xuống ngựa, lật đật chạy lại bái phục dưới đất.

Gia Luật Hồng Cơ xuống ngựa cười ha hả nói: “Hiền đệ! Ta cùng hiền đệ tiếng là vua tôi mà tình như cốt nhục, cần gì phải làm đại lễ?” Lão nâng Tiêu Phong dậy hỏi: “Có nhiều dã thú không?” Tiêu Phong đáp: “Mấy hôm nay lạnh quá, dã thú đều trốn xuống phương nam. Thần đi săn đã nửa ngày mới được một con sói và mấy con hươu nhỏ, chẳng có chi đáng kể.” Gia Luật Hồng Cơ cũng thích săn bắn, liền nói: “Chúng ta cùng xuống phía nam tìm dã thú đi!” Tiêu Phong đáp: “Phía nam giáp với đất đai của Nam triều. Thần sợ mất hòa khí giữa hai nước, nên nghiêm cấm thuộc hạ không được đi săn về phía đó.” Gia Luật Hồng Cơ hơi nhíu mày hỏi: “Thế thì không đi thu hoạch ư?” Tiêu Phong đáp: “Thần không dám.” Gia Luật Hồng Cơ nói: “Hôm nay huynh đệ ta tụ hội, phá lệ một lần cũng chẳng hề chi.” Tiêu Phong “Vâng!” một tiếng.

Hiệu tù và nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng Tiêu Phong cưỡi ngựa sánh vai mà đi, vòng quanh tường thành Nam Kinh, thẳng xuống phía nam. Đi chừng hơn hai trăm dặm, quân sĩ reo hò chia ra hai ngả, đi một quãng xa, rồi tiến lại gần nhau tựa như thắt miệng túi. Tiếng ngựa hí lẫn với tiếng chó sủa loạn lên, bốn bề từ từ quây lại. Vòng vây mỗi lúc một nhỏ hẹp, chồn cáo trong cỏ rậm chạy ra.

Gia Luật Hồng Cơ không muốn bắn giết những con thú nhỏ bé này, nhưng chờ hàng nửa ngày vẫn chẳng thấy những loài thú lớn như gấu, hổ xuất hiện. Lão đang cụt hứng, bỗng nghe có tiếng la hét loạn lên, từ phía đông nam có mười mấy hán tử đang chạy như bay tới. Cứ nhìn cách ăn mặc của họ thì biết ngay đó là bọn thợ săn và tiều phu người Nam triều. Quân Liêu đuổi không có dã thú, biết là hoàng thượng không vui, liền quay ra vây mười mấy người Hán này. Chúng quát tháo om sòm, rượt đuổi bọn này phải chạy đến chỗ Liêu chúa.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Hay lắm!” Rồi giương cung lắp tên bắn ra veo véo. Lão bắn không trật phát nào, chớp mắt đã có sáu người bị tên xuyên qua bụng cắm chặt xuống đất. Những người chưa trúng tên, khiếp đảm chạy về phía Nam thì lại gặp quân Liêu dùng trường mâu để buộc họ quay trở lại.

Tiêu Phong đau xót trong lòng, la lên: “Bệ hạ!” Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Bọn này để dành cho ngươi, ta muốn coi thần tiễn của hiền đệ!” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Bọn này vô tội, nên tha cho họ là hơn!” Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Người Hán đông quá, giết bớt đi thì dĩ nhiên thiên hạ thái bình thịnh trị. Bọn chúng đầu thai làm người Hán cũng là đáng tội chết rồi!” Nói xong, lão dùng liên châu tiễn bắn ra, mỗi mũi tên trúng một người. Mười mấy người Hán chẳng may mắn chút nào, có người chết ngay lập tức, có người trúng vào bụng chưa tuyệt khí chết ngay thì ngã lăn ra rên xiết! Bọn Liêu binh lớn tiếng reo hò, hoan hô: “Vạn tuế!”

Giả tỉ lúc ấy Tiêu Phong muốn ra tay ngăn trở, thì dĩ nhiên có thể ngăn Liêu chúa bắn tên, nhưng trước mặt quân sĩ mà công nhiên làm bẽ mặt hoàng đế thì phạm tội đại nghịch, nên chàng không nói gì, chỉ có nét mặt là lộ vẻ không bằng lòng.

Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: “Sao thế?” Lão đang định cất cung đi, thì chợt thấy một người cưỡi ngựa xông qua vòng vây chạy đến. Gia Luật Hồng Cơ thấy kỵ sĩ ăn mặc kiểu người Hán thì chẳng thèm hỏi gì, giương cung lắp tên bắn ngay. Người kia đưa hai ngón tay kẹp lấy đuôi mũi tên. Lúc ấy thì mũi tên thứ hai của Gia Luật Hồng Cơ bắn tới, người kia lại đưa tay lên kẹp, ngựa vẫn xông về phía Liêu chúa không hề dừng vó. Hồng Cơ liền bắn liên châu, tên nối nhau bay ra vun vút. Nhưng tên bắn nhanh, thì người kia cũng bắt nhanh. Chỉ trong chớp mắt, một người bắn ra bảy mũi tên, một người bắt được bảy mũi tên.

Bọn quân Liêu hộ vệ đều hò hét vang trời, tên nào cũng chĩa trường mâu ra ngăn cản trước mặt Liêu chúa, chỉ sợ người đó làm kinh hãi nhà vua.

Lúc này hai bên đã gần nhau, Tiêu Phong vừa nhìn rõ mặt người mới đến đã giật mình, kinh hãi la lên: “A Tử! Là muội đấy ư? Không được vô lễ với hoàng thượng!”

Kỵ sĩ kia cười khanh khách, ném cả bảy mũi lang nha tiễn cho bọn vệ binh, rồi nhảy xuống ngựa, quì mọp mà nói: “Hoàng thượng! Hạ thần đã bắt hết tên của ngài, ngài đừng trách nhé!” Gia Luật Hồng Cơ cười rộ, lên tiếng khen ngợi: “Hảo thân thủ! Hảo bản lĩnh!”

A Tử đứng dậy, gọi to: “Tỉ phu! Tỉ phu đến đón tiểu muội đấy ư?” Rồi nàng nhún chân một cái lại nhảy lên lưng ngựa, phi đến trước mặt Tiêu Phong.

Tiêu Phong thấy đôi mắt nàng đã có thần sắc thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng, reo lên: “A Tử! Sao… sao mắt của muội lại khỏi được?” A Tử cười đáp: “Chính nhị đệ của tỉ phu đã chữa cho múội. Tỉ phu thấy y có giỏi không?” Tiêu Phong nhìn lại mắt A Tử thì không khỏi run lên, vì trong khóe mắt nàng chứa đầy nỗi thương tâm tịch mịch, không bút mực nào tả được. Lẽ ra, mắt nàng đã hết mù lòa, mà được gặp lại Tiêu Phong thì nàng phải vui mừng khôn xiết, thế mà mắt nàng lộ vẻ cực kỳ đau khổ là nghĩa làm sao? Nhưng tiếng cười của A Tử lại tỏ ra rất vui mừng. Tiêu Phong thầm nghĩ: “Không chừng Tử muội dọc dường đã gặp chuyện không được như ý.”

A Tử đột nhiên thét lên lanh lảnh, người nàng đang ở trong lòng Tiêu Phong bỗng co lại, rồi nhảy vọt qua vai chàng. Tiêu Phong cũng đã phát giác ra có người đột nhiên ám toán sau lưng mình. Chàng xoay mình lại đưa hai tay lên chặn trước ngực, thì thấy một cây đinh ba phóng tới. A Tử vươn tay trái ra chụp lấy cây đinh ba, ném ngược lại trúng vào trước ngực một người nằm dưới đất, đóng đinh hắn xuống. Người này vốn là một thợ săn người Hán, bị trúng tên của Gia Luật Hồng Cơ ngã ra nhưng chưa chết. Hắn thu tàn lực, phóng đinh ba vào sau lưng Tiêu Phong vì gã thấy chàng ăn mặc kiểu như đại thần nước Liêu, định giết chàng để rửa mối hận mình bị giết oan.”

A Tử trỏ vào mặt tên thợ săn đã chết, lớn tiếng mắng: “Mi không biết tự lượng, cái sức heo chó mà dám ám toán tỉ phu ta ư?”

Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử phóng đinh ba đâm chết tên thợ săn, cả mừng nói: “Hảo cô nương! Thân thủ cô nương tuyệt diệu ít người bì kịp. Mũi đinh ba vừa rồi không đả thương đựợc Nam Viện Đại Vương, thật là may mắn. Nếu y chỉ bị thương rất nhẹ, cũng đủ làm lỡ đại sự của ta. Không biết ta phải trọng thưởng cô nương thế nào cho xứng đáng?”

A Tử đáp: “Hoàng thượng! Hoàng thượng đã phong cho tỉ phu tiểu nữ làm quan lớn, thì xin hoàng thượng cũng cho tiểu nữ một chức quan để làm chơi. Tiểu nữ không cần chức to như tỉ phu, nhưng cũng đừng nhỏ quá để người ta chê cười.” Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: “Ở nước Liêu ta phụ nữ không làm quan, để ta phong cho ngươi làm công chúa. Công chúa gì nhỉ? À phải rồi, kêu bằng Bình Nam Công Chúa!” A Tử bĩu môi nói: “Làm gì cũng được, nhưng làm công chúa thì tiểu nữ không làm đâu.” Hồng Cơ kinh ngạc hỏi: “Sao lại không làm?” A Tử đáp: “Hoàng thượng là huynh đệ với tỉ phu. Nếu tiểu nữ nhận làm công chúa thì hóa ra là hàng con hoàng thượng, chịu thấp xuống một bậc ư?”

Gia Luật Hồng Cơ thấy tình cảm A Tử đối với Tiêu Phong thật là nồng nhiệt. Tiêu Phong tuy ở ngôi cao mà không gần nữ sắc. Theo tập tục nước Liêu thì bậc đại thần như chàng, đừng nói tam thê tứ thiếp mà đến ba chục thê bốn chục thiếp cũng là chuyện thường. Liêu chúa thấy nàng có tình ý với Tiêu Phong, nhưng vì nàng còn nhỏ tuổi không tiện thành thân. Y liền cười nói: “Chức công chúa của ngươi là Trưởng công chúa, vai vế là muội tử ta, chứ không ngang hàng con gái ta. Chẳng những ta phong cho ngươi làm Bình Nam Công Chúa mà còn giúp cho ngươi thỏa lòng tâm nguyện, có được chăng?”

A Tử đỏ mặt lên hỏi: “Tiểu nữ có tâm nguyện gì? Sao bệ hạ lại biết? Bệ hạ là hoàng đế, sao lại gặp đâu nói đấy như thế?” A Tử chẳng biết sợ trời sợ đất là gì, ăn nói với Gia Luật Hồng Cơ mà chẳng giữ lễ vua tôi. May mà lễ giáo nước Liêu cũng không nghiêm lắm, Tiêu Phong lại được Hồng Cơ yêu mến tin cậy. Vì thế A Tử nói sao thì nói, Hồng Cơ vẫn cười ha hả rồi đáp: “Nếu ngươi không thích chức Bình Nam Công Chúa đó thì ta không phong nữa. Một, hai, ba, ngươi có thích không?” A Tử liền lạy phục xuống, khẽ nói: “A Tử tạ ân!” Tiêu Phong cũng khom lưng thi lễ nói: “Đa tạ bệ hạ tấn phong.” Tiêu Phong vốn coi A Tử như muội tử mình, nên nàng được Liêu chúa gia ân, chàng cũng ngỏ lời bái tạ.

Gia Luật Hồng Cơ lại cho là mình đoán không sai, nghĩ thầm: “Bây giờ ta đứng chủ hôn cho y một cách trọng thể, rồi sai y khởi binh đánh Tống, thì chắc là y phải tận tâm tận lực.” Còn Tiêu Phong lại tự hỏi: “Phen này hoàng thượng đến đây là có ý gì? Ngài phong A Tử làm công chúa, lại thêm hai chữ Bình Nam là nghĩa làm sao? Bình Nam, Bình Nam… Phải chăng là có ý động binh đánh xuống Nam triều?”

Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói: “Hiền đệ! Hai ta lâu ngày chưa được gặp nhau, bây giờ đi chơi nói chuyện một lúc.”

***

Hai người cưỡi ngựa đi về phía nam. Ngựa hay, đường tốt, chớp mắt đã đi được ngoài ba mươi dặm. Nơi đây là một cánh đồng bát ngát nhưng lại hoang vu, lúa má cùng cỏ dại mọc chen nhau. Chỗ nào cũng đầy chông gai, vì lâu ngày không người đi lại. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Vì người Tống sợ bọn mình đến đây thu hoạch, đành phải bỏ hoang mấy chục vạn khoảnh ruộng tốt này”.

Gia Luật Hồng Cơ ra roi quất ngựa chạy lên một cái gò nhỏ, đứng nhìn đầy vẻ tự mãn. Tiêu Phong cũng giục ngựa theo lên. Chàng nhìn theo mục quang của Hồng Cơ, thấy phía nam núi đồi chập chùng bao la bát ngát, không biết đâu là cùng tận.

Gia Luật Hồng Cơ trỏ roi ngựa về phía nam nói: “Hiền đệ! Ba mươi năm trước, phụ hoàng đã dẫn ta tới đây, chỉ cho biết đó là giang sơn gấm vóc của nhà Đại Tống…” Tiêu Phong “Vâng!” một tiếng.

Hồng Cơ lại nói: “Ngươi sinh trưởng ở phương nam, từ thuở nhỏ đã am hiểu về nhân vật cùng sông núi Nam man. Phải chăng ở đó sung sướng hơn nhiều, không rét mướt khổ sở như chúng ta?” Tiêu Phong đáp: “Mỗi nơi có cái hay của nó. Trong tâm có thư thái thì người mới vui sướng được. Người nam không quen ở phương bắc, người bắc cũng không quen ở phương nam. Ông trời đã an bài như vậy, ai miễn cưỡng đứng núi này trông núi nọ thì chỉ rước lấy phiền não vào mình.” Hồng Cơ hỏi: “Thế thì người bắc xuống ở phương nam đã quen, rồi lại quay về sống ở miền bắc, thì có thấy phiền não không?” Tiêu Phong đáp: “Thần là người phiêu bạt giang hồ, bốn bể là nhà, khác với những người bình thường. Hiện nay thần đã được bệ hạ ban cho chỗ nương thân, lại được quan cao lộc hậu, trong lòng cảm tạ đại đức còn chưa hết, làm gì có chuyện phiền muộn nữa?”

Hồng Cơ quay lại nhìn vào mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong không muốn bốn mắt gặp nhau, liền mỉm cười rồi nhìn ra phía khác.

Hồng Cơ chậm rãi nói: “Hiền đệ! Hai ta tuy phận là vua tôi nhưng tình là huynh đệ. Lâu ngày chưa được nói chuyện với nhau, sao ngươi cứ giữ lễ quân thần?” Tiêu Phong đáp: “Trước kia hạ thần chưa được biết bệ hạ, nên mạo phạm đã nhiều. Sau khi biết rồi, làm sao thần dám lấy nghĩa huynh đệ mà đối xử?” Hồng Cơ thở dài nói: “Làm hoàng đế thì không được giao kết thân thiết với người khác hay sao? Hiền đệ! Nếu ta được cùng ngươi bôn tẩu giang hồ, không bị điều gì câu thức, hóa ra lại sướng.”

Tiêu Phong nói: “Bệ hạ thích giao kết bằng hữu thì cũng chẳng khó gì. Thần có hai vị nghĩa đệ ở Trung Nguyên, một là Hư Trúc Tử ở cung Linh Thứu, một là Đoàn Dự người nước Đại Lý, đều là anh hùng hảo hán, phơi gan trải mật đối xử cùng người. Nếu bệ hạ muốn gặp, thần xin mời họ qua chơi Liêu quốc.” Từ lúc Tiêu Phong về Nam Kinh, hàng ngày phải giao thiệp với quần thần cùng tướng sĩ nước Liêu, lời nói tính tình đều không hợp ý, nên ông vẫn nhớ Đoàn Dự và Hư Trúc, chỉ mong họ đến nước Liêu để gặp mặt vài ngày cho thỏa tình khao khát.

Hồng Cơ cả mừng nói: “Hiền đệ mau mau sai người đưa thư mời hai vị nghĩa đệ đến nước Liêu. Nếu họ muốn làm quan, thì ta sẽ phong cho quan cao tước lớn.” Tiêu Phong mỉm cười đáp: “Mời họ qua chơi thì được, nhưng chắc họ không chịu làm quan đâu.”

Hồng Cơ trầm ngâm một lúc rồi nói: “Hiền đệ! Ta xem nét mặt cùng lời nói của ngươi dường như có ý không vui. Ta có phúc được làm hoàng đế, giàu gồm bốn bể, mà không làm cho ngươi được như ý, còn làm ca ca thế nào được?”

Tiêu Phong cảm động đáp: “Không dám giấu bệ hạ, việc năy là do thần lầm lỡ gây ra một mối hận chung thân, không còn cách nào vãn hồi được nữa.” Rồi chàng thuật sơ lại chuyện đã giết lầm A Châu cho Hồng Cơ nghe.

Hồng Cơ vỗ đùi đánh đét một cái rồi nói: “Thảo nào hiền đệ gần bốn mươi tuổi vẫn chưa lấy vợ, thì ra không quên được người cũ. Hiền đệ! Chuyện lầm lỡ của ngươi là phát xuất từ bọn người Hán tàn bạo mà ra, nhất là bọn Cái Bang lại càng vong ân bội nghĩa. Ngươi đừng phiền não nữa, ta lập tức hưng binh chinh phạt Nam man, giết cho kỳ hết bọn Cái Bang cùng võ lâm Trung Nguyên, để trả mối thù chúng hạ sát mẫu thân đệ, cùng cái hận vây khốn ngươi ở Tụ Hiền Trang. Ngươi thích con gái Nam man xinh đẹp thì ta sẽ bắt về cho một ngàn đứa, hai ngàn đứa để hầu hạ ngươi, có gì là khó đâu?”

Tiêu Phong nở một nụ cười đau khổ, nghĩ thầm: “Mình đã giết lầm A Châu, kiếp này chẳng thể gặp nàng được nữa. A Châu là A Châu, tính hết mọi nước trên thế gian cũng chỉ có một A Châu, thiên thu vạn tải cũng chỉ có một A Châu mà thôi. Một ngàn cô, một vạn cô mỹ nữ người Hán thì làm sao thay thế cho nàng được? Hoàng thượng quen có trong hậu cung hàng trăm hàng ngàn cung phi nô tì, làm sao hiểu được chữ Tình?” Chàng liền nói: “Đa tạ bệ hạ khai ân, nhưng thù oán giữa thần và võ lâm Trung Nguyên coi như đã một nét sổ toẹt, vì chính tay thần đã giết không ít người học võ ở Trung Nguyên. Oan oan tương báo thì vô cùng vô tận, nếu gây cuộc chiến chinh thì binh họa liên miên, nhất định không phải chuyện nhỏ.”

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, nói: “Người Tống trọng văn khinh võ, nói khoác thì hay lắm, nhưng động đến binh đao thì chưa chắc đã chịu nổi một trận. Hiền đệ anh hùng vô địch, lãnh binh Nam chinh thì chỉ trong một ngày bình định Nam man, còn lo gì họa hoạn? Hiền đệ! Lần này ca ca đến đây, ngươi có biết vì lẽ gì không?” Tiêu Phong đáp: “Thần đang đợi bệ hạ cho biết.”

Hồng Cơ cười nói: “Việc thứ nhất, ta muốn hỏi hiền đệ địa thế Tây Hạ hiểm trở thế nào, quân mã mạnh yếu ra sao. Ngươi mới qua Tây Hạ chắc đã biết rõ tình hình, nói thử cho ta nghe liệu có lấy nước Tây Hạ được chăng?”

Tiêu Phong giật mình kinh hãi nghĩ thầm: “Hoàng thượng mưu đồ không nhỏ, đã muốn chiếm Nam Tống, lại toan lấy Tây Hạ”. Chàng đáp: “Vừa rồi thần qua Tây Hạ chỉ là đi chơi, xem cuộc cầu thân của công chúa nước này, không nghĩ gì đến địa thế chiến trận cả. Xin bệ hạ minh xét, thần tuy từng trải giang hồ, nhưng chỉ là những cuộc tỉ đấu tầm thường với người võ lâm, còn việc hành binh bố trận thì thật tình không hiểu gì hết.” Gia Luật Hồng cơ cười nói: “Hiền đệ bất tất phải quá khiêm nhường. Phen này quốc vương Tây Hạ yết bảng chiêu phò mã là một chuyện đầu voi đuôi chuột, chẳng có kết quả gì, thật đáng tức cười. Nếu hôm đó hiền đệ mang mười vạn binh đến, cưới công chúa Tây Hạ mang về Nam Kinh thì lại là chuyện khác, tốt đẹp hơn nhiều.” Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm: “Hoàng thượng cứ nghĩ là có trọng binh trong tay thì muốn sao cũng được.”

Gia Luật Hồng Cơ lại nói: “Hôm nay ca ca đến đây, còn có việc thứ hai nữa là thăng quan tấn tước cho hiền đệ. Hiền đệ hãy nghe ca ca gia phong.” Tiêu Phong đáp: “Hạ thần chịu ân đức của bệ hạ đã nhiều, không dám lại…” Gia Luật Hồng Cơ dõng dạc ngắt lời: “Nam Viện đại vương Tiêu Phong hãy nghe trẫm gia phong!” Tiêu Phong đành phải vội vàng nhảy xuống ngựa, lạy phục dưới đất.

Hồng Cơ tuyên bố: “Nam Viện đại vương Tiêu Phong hết dạ trung thành với quốc gia, là thủ túc của trẫm, nay phong tước Tống Vương, nhận chức Bình Nam Đại Nguyên Soái thống lĩnh ba quân. Khâm thử!”

Tiêu Phong trong lòng nghi hoặc mà không biết làm sao, chỉ nói: “Hạ thần chưa làm nên công trạng gì, không dám nhận lãnh đại ân của bệ hạ!” Hồng Cơ nghiêm giọng hỏi: “Sao? Ngươi kháng lệnh của trẫm ư?” Tiêu Phong thấy hoàng đế nghiêm giọng, biết rằng không thể chối từ, đành khấu đầu đáp: “Thần là Tiêu Phong tạ ơn bệ hạ!” Hồng Cơ cười ha hả, rồi nói: “Có thế mới là hiền đệ của ta!” Lão đưa hai tay ra đỡ Tiêu Phong dậy, nói: “Hiền đệ! Lần này ta xuôi nam không phải chỉ tới Nam Kinh mà thôi, còn muốn ngự giá vào thành Biện Lương nữa!”

Tiêu Phong lại một phen kinh hãi, quì tâu: “Bệ hạ muốn đến Biện Lương… Thế thì sao…” Liêu chúa cả cười ngắt lời: “Hiền đệ đã là Bình Nam Đại Nguyên Soái thống lĩnh ba quân, hãy lên đường trước đi, chúng ta tới thẳng Biện Lương! Sau này bình xong Đại Tống, sẽ đặt phủ Tống Vương của hiền đệ ở ngay hoàng cung của thằng lỏi Triệu Hú trong thành Biện Lương”.Tiêu Phong hỏi: “Bệ hạ nói là chúng ta khai chiến với Nam triều ư?”

Hồng Cơ đáp: “Không phải là ta khai chiến với Nam triều, mà là bọn Nam man muốn tỉ thí với ta! Ngày trước Nam triều còn thái hoàng thái hậu cầm quyền chính, mọi việc đều có khuôn phép, nên tuy ta vẫn muốn khởi binh Nam chinh, nhưng không nắm chắc phần thắng. Bây giờ mụ già đó chết rồi, thằng lỏi Triệu Hú chưa ráo máu đầu bỗng dưng phái người chỉnh đốn việc Bắc phòng, huấn luyện ba quân, tích lương chứa thảo, mộ binh nuôi ngựa. Thế là thằng lỏi đó cố ý gây hấn với ta, chứ còn gì nữa?”

Tiêu Phong nói: “Việc Nam triều huấn luyện sĩ tốt, chúng ta bất tất phải can thiệp đến. Mấy năm nay Tống, Liêu không giao binh, người dân hai nước từ trong triều ngoài nội đều an hưởng thái bình. Giả tỉ Triệu Hú xâm phạm bờ cõi thì chúng ta đánh cho tàn tạ. Còn nếu y sợ oai võ của bệ hạ mà không dám vọng động, thì ta chẳng cần gây sự với y làm gì.”

Hồng Cơ nói: “Hiền đệ không hiểu, Nam triều đất rộng người nhiều, sản vật phong phú. Nếu họ có minh quân trị nước mà muốn thôn tính Đại Liêu, chúng ta khó lòng địch nổi. May mà thằng lỏi Triệu Hú mới lên cầm quyền đã làm điều bất nghĩa, đuổi hết những vị đại thần có kiến thức, ngay cả Tô Đông Pha cũng bị biếm ra chốn biên cương. Lúc này vua tôi họ chẳng đồng lòng, thật là cơ hội ngàn năm một thuở. Nếu mình không cử sự thì còn đợi đến bao giờ?”

Tiêu Phong nhìn về phía nam, tưởng tượng ra cảnh hàng ngàn hàng vạn quân Liêu rong ruổi, nhà cửa bị tàn phá, lửa cháy ngút trời, già trẻ trai gái ở Trung Nguyên đều bị vó ngựa dày xéo rên xiết; tên bắn như mưa, quân Tống cùng quân Liêu chiến đấu cực kỳ khốc liệt. Những cảnh máu đổ thành sông, xương chất thành núi, như hiện ra trước mắt chàng.

Gia Luật Hồng Cơ lại lớn tiếng nói: “Tổ tông người Khất Đan ta lúc nào cũng nghĩ đến chuyện thu phục Nam triều, nhưng mấy phen hành động đều bị thất bại. Ngày nay chúng ta có được thiên thời, có thể lập nên công lớn. Hiền đệ! Sau này tên tuổi hai ta được lưu vào sử xanh, há chẳng hay lắm ru?”

Tiêu Phong quì hai gối xuống đất, liên tiếp dập đầu rồi nói: “Bệ hạ! Thần có một việc khẩn cầu.” Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ kinh ngạc, đáp: “Hiền đệ có điều chi? Nếu sức ca ca làm được thì bất luận điều gì cũng ưng thuận!” Tiêu Phong nói: “Xin bệ hạ rủ lòng thương đến ức triệu sinh linh của hai nước Tống, Liêu mà thu ý chỉ nam chinh lại. Người Khất Đan chúng ta sinh sống bằng nghề săn bắn chăn nuôi, dù có lấy được đất đai Nam triều cũng bằng vô dụng. Huống chi việc đao binh hung hiểm khó mà nói trước được. Giả tỉ mình bị bất lợi thì không khỏi thương tổn đến oai danh của bệ hạ.”

Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy Tiêu Phong không muốn cử binh nam chinh thì hết sức ngạc nhiên. Người Khất Đan từ vương công cho đến tướng soái đại thần, ai mà nghe thấy hai chữ “nam chinh” cùng nhảy nhót reo hò, không hiểu sao Tiêu Phong lại khuyên can ngăn trở. Gia Luật Hồng Cơ lại liếc nhìn Tiêu Phong, thấy chàng rủ cặp lông mày ra vẻ lo buồn, thì nghĩ thầm: “Ta phong cho y làm Tống Vương kiêm Bình Nam Đại Nguyên Soái, thế là y chỉ ở dưới một mình ta, mà trên cả muôn người, sao y lại không hớn hở mừng vui? Phải rồi! Tuy y là người Liêu, nhưng từ thuở nhỏ đã được bọn Nam man nuôi dạy, có thể nói phân nửa là người Nam man. Nước Đại Tống đối với y đã thành quê hương cố thổ, nên y nghe ta định phát binh đánh Nam man mới cực lực can gián. Thế thì dù ta có ép được y dẫn binh nam chinh, e rằng y cũng không chiu tận tâm tận lực.” Liêu chúa lại nói: “Ý ta đã quyết nam chinh, hiền đệ chẳng nên nói nhiều nữa.”

Tiêu Phong nói: “Chinh chiến là việc lớn của quốc gia, xin bệ hạ nghĩ kỹ. Nếu bệ hạ quyết ý nam chinh, xin hãy ủy thác cho bậc hiền tài nào khác. Hạ thần mà thống lĩnh ba quân, e rằng làm lỡ việc lớn của bệ hạ.”

Chuyến này Gia Luật Hồng Cơ phấn khởi xuôi nam, phong cho Tiêu Phong quan tước lớn, hạ lệnh cho chàng đem quân nam chinh, nghĩ tới tình nghĩa huynh đệ mà ban ân điển, đinh ninh rằng chàng phải hoan hỉ tạ ơn. Thế mà lão lại bị Tiêu Phong dội một gáo nước lạnh lên đầu, không chịu nhận chức Bình Nam Đại Nguyên Soái, trong lòng thật sự không vui. Liêu chúa lạnh lùng hỏi: “Trong mắt ngươi thì Nam triều trọng hơn Liêu quốc, có phải không? Ngươi trung với Nam triều mà không trung với Đại Liêu ta, có phải không?”

Tiêu Phong lạy mọp xuống đất rồi đáp: “Bệ hạ minh xét, Tiêu Phong là người nước Liêu dĩ nhiên là phải tận trung với Đại Liêu. Nếu Đại Liêu gặp nguy nan, Tiêu Phong dù phải nhảy vào lửa cũng tận trung báo quốc, chết vạn lần không lùi bước.”

Hồng Cơ nói: “Thằng lỏi Triệu Hú đã nảy ra ý muốn dòm ngó Đại Liêu. Người ta thường nói: Tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương. Chúng ta mà không kiềm chế họ trước thì cái họa vong quốc có thể xảy ra. Ngươi nói là tận trung báo quốc, chết vạn lần không lùi bước, ta muốn ngươi vì nước mà cầm quân, sao ngươi lại không chịu?”

Tiêu Phong đáp: “Thần bình sinh giết người đã lắm, thực tình không muốn nhúng tay vào máu nữa. Cầu xin bệ hạ cho thần được từ quan, vào chốn sơn lâm ẩn cư.”

Gia Luật Hồng Cơ nghe Tiêu Phong xin từ quan thì trong lòng căm giận, chỉ muốn giết ngay lập tức. Lão nắm lấy chuôi đao, toan rút ra chém vào cổ Tiêu Phong, nhưng lại nghĩ: “Người này võ công lợi hại, nếu mình chém y một đao mà không chết thì tất bị y sát hại. Huống chi ngày trước y đã có đại công cứu mạng, lại cùng mình kết nghĩa anh em. Thế mà ngày nay chỉ vì một câu nói không hợp đã giết kẻ công thần, sao khỏi mang tiếng vong ân phụ nghĩa?” Lão bèn thở dài một tiếng, buông đao ra nói: “Ý kiến của chúng ta không hợp nhau, nhất thời khó mà cưỡng ép được. Ngươi hãy về nghĩ lại. Mong rằng ngươi sẽ hồi tâm chuyển ý mà phụng mạng nam chinh.”

Tiêu Phong tuy phủ phục dưới đất, nhưng người đứng bên chỉ chau mày hay nhúc nhích ngón tay chàng cũng biết ngay, huống chi Gia Luật Hồng Cơ tay nắm chuôi đao nảy ý giết người? Chàng biết rằng nếu mình còn đối đáp với Hồng Cơ thì càng nói càng căng thẳng, khó tránh khỏi chuyện trở mặt nhau, liền đáp ngay: “Tuân chỉ!” Rồi chàng lập tức đứng dậy, dắt ngựa lại cho Hồng Cơ.

Hồng Cơ không nói nửa lời, nhảy phắt lên lưng ngựa, phóng đi ngay. Vua tôi lúc trước cưỡi ngựa song song đi xuống phía nam, bây giờ quay về phía bắc thì chúa trước tôi sau, cách nhau đến nửa dặm dường. Tiêu Phong biết rằng Gia Luật Hồng Cơ đã sinh lòng nghi kỵ, nếu chàng đi gần quá thì sợ nhà vua không yên lòng, mà đối với chuyện nam chinh cũng không biết nói gì thêm, nên chàng đi sau một quãng xa.

Hai người về đến thành Nam Kinh, Tiêu Phong mời Liêu chúa nghỉ lại trong phủ Nam Viện Đại Vương. Hồng Cơ cười nói: “Ta không ở lại Vương phủ để khỏi phiền hiền đệ, chỉ muốn hiền đệ được yên tĩnh mà suy tính cho kỹ những chuyện họa phúc lợi hại. Ta về ngự doanh mà nghỉ!” Tiêu Phong liền đưa Hồng Cơ đến ngự doanh.

Hồng Cơ có đem từ Thượng Kinh đến rất nhiều bảo đao bảo kiếm cùng ngựa hay gái đẹp, ban thưởng cho Tiêu Phong hết. Tiêu Phong tạ ơn, nhận lấy đưa về Vương phủ.

Tiêu Phong rất ít khi đích thân lo chính sự, lại không ưa sách vở chữ nghĩa, nên trong vương phủ chẳng có thư phòng chi hết. Ngày thường chàng cùng chư tướng ngồi bệt trong đại sảnh chuyển bì rượu mà uống, xẻo thịt ra mà ăn, vẫn giữ tập quán thô hào như ở Cái Bang năm trước. Khi các tướng Khất Đan ở trong lều trướng nơi sa mạc thì cũng vậy mà thôi, họ thấy đại vương thân cận hòa đồng với mọi người, được đại vương đích thân tiếp đãi như thế thì lấy làm hoan hỉ.

Tiêu Phong ở ngự doanh trở về thì trời vừa tối. Lúc chàng bước vào đại sảnh, thấy dưới ánh lửa lập lòe có một thiếu nữ áo tía nằm phục trên tấm da hổ, chính là A Tử.

Nàng nghe tiếng bước chân Tiêu Phong đi vào, liền nhỏm đậy, chạy ra ôm lấy cổ, rồi nhìn thẳng vào mắt chàng hỏi: “Muội đến đây, huynh có vui mừng không? Sao vẻ mặt huynh lại buồn bã như thế?” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Ta còn có việc khác. A Tử! Muội đến đây, ta mừng lắm. Trên đời này ta chỉ còn nghĩ đến một mình muội, lúc nào ta cũng lo Tử muội gặp chuyện không may. Nay Tử muội lại quay về cạnh ta, đôi mắt cũng khỏi rồi, thì ta không còn lo lắng gì nữa.”

A Tử cười nói: “Tỉ phu! Chẳng những tiểu muội chữa khỏi mắt, mà còn được hoàng thượng phong làm công chúa. Huynh có thích không?” Tiêu Phong đáp: “Có phong làm công chúa hay không, thì Tiểu A Tử vẫn là Tiểu A Tử. Hoàng thượng lại thăng quan cho ta, ôi thôi!” Chàng thở dài một tiếng, xách một túi rượu lên, mở nắp ra uống ừng ực hai ngụm lớn. Bốn vách đại sảnh xếp toàn bì rượu, lúc nào Tiêu Phong hứng lên lại uống, không cần có người phục thị. A Tử cười nói: “Cung hỉ tỉ phu lại được thăng quan!”

Tiêu Phong lại thở dài, đáp: “Hoàng thượng phong cho ta làm Tống Vương, Bình Nam Đại Nguyên Soái, thống lĩnh ba quân đi chinh phạt Nam triều. Muội nghĩ mà xem, nếu xảy ra chiến tranh thì phải mất mạng bao nhiêu quan binh cùng bách tính? Vì ta không chịu lãnh mệnh, nên hoàng thượng đem lòng tức giận.”

A Tử nói: “Tỉ phu! Huynh thật là cổ quái! Muội nghe người ta kể, khi ở Tụ Hiền Trang, huynh đã sát hại vô số hào kiệt võ lâm Trung Nguyên mà không thở dài một tiếng. Bọn dã man võ lâm Trung Nguyên khinh mạn huynh quá sức tệ hại. Hôm nay chẳng phải dễ dàng mà huynh được hoàng thượng cho một cơ hội nở mày nở mặt, thống lĩnh đại quân giết sạch chúng mà rửa hận. Thế mà nét mặt huynh lại không vui là nghĩa làm sao?”

Tiêu Phong lại nâng bì rượu lên uống một ngụm lớn, rồi thở dài đáp: “Ngày ấy ta cùng tỉ tỉ của muội bị vây đánh, nếu mình không quyết chiến thì phải bị loạn đao phân thây, đó là trường hợp bất đắc dĩ. Hôm ấy ta phải giết không ít hảo bằng hữu, mỗi khi nghĩ đến lại hối hận trong lòng.”

A Tử nói: “À! Tiểu muội hiểu rồi, ngày ấy huynh vì A Châu nên mới giết người. Vậy bây giờ huynh hãy vì muội mà giết bọn Nam man, như vậy có được không?”

Tiêu Phong trợn mắt lên nhìn nàng, nghiêm giọng đáp: “Mạng người là chuyện lớn, vậy mà muội nói cứ như giết dê, giết bò. Gia gia Tử muội tuy là người Đại Lý, song má má Tử muội cũng là người Tống.”

A Tử bĩu môi, xoay lưng lại rồi nói: “Muội đã sớm biết rồi. Trong lòng huynh thì một ngàn muội cũng không bằng một tỉ tỉ, một vạn A Tử còn sống cũng chưa bằng một A Châu đã chết rồi. Tiểu muội chắc là phải chết may ra mới được tỉ phu nghĩ tới một chút. Nếu tiểu muội biết thế này… thì chẳng tội gì mà lặn lội đường xa diệu vợi đến đây để… thăm tỉ phu… Tỉ phu có bao giờ quan tâm đến tiểu muội đâu?”

Tiêu Phong nghe lời nói của nàng đầy vẻ oán hận, bất giác tim chàng đập loạn lên, ngờ rằng cô bé này ngấm ngầm có tình ý với mình. Chàng liền đáp: “A Tử! Muội còn nhỏ tuổi, bướng bỉnh mà tức tối, không hiểu được chuyện của người lớn…” A Tử cướp lời: “Cái gì mà nhỏ tuổi với cả người lớn? Muội không còn nhỏ nữa đâu. Huynh đã nhận lời với tỉ tỉ mà lo lắng cho muội… huynh chỉ lo lắng cho cơm ăn áo mặc… huynh có lo lắng đến tâm sự của muội không? Huynh chưa bao giờ nghĩ tới trong lòng muội đang nghĩ đến chuyện gì.” Tiêu Phong càng nghe lại càng kinh hãi, không dám đáp lời.

A Tử quay người lại, nói tiếp: “Hôm trước muội bị mù lòa, tự biết huynh chẳng ưa gì mình, nên muội cũng chẳng đến thân cận làm chi. Bây giờ đôi mắt muội lành rồi, huynh cũng chẳng thèm nghĩ đến. Muội… muội kém A Châu tỉ tỉ ở chỗ nào? Muội không dễ nhìn bằng tỉ tì ư? Muội kém thông minh hơn tỉ tỉ ư? Chỉ vì tỉ tỉ chết rồi, nên lúc nào tỉ phu cũng nhớ. Muội… muội chỉ hận không được huynh đánh cho một chưởng chết ngay, như thế thì huynh mới bớt nghĩ đến A Châu mà nghĩ đến muội…”

A Tử nói đến chỗ thương tâm, đột nhiên nhảy xổ vào lòng Tiêu Phong rồi khóc òa lên. Tiêu Phong nhất thời chân tay luống cuống, không biết phải làm gì.

A Tử nghẹn ngào một lúc, rồi lại nói: “Muội có còn là đứa trẻ con nữa đâu? Vào đêm mưa gió ở bên cây cầu nhỏ, muội thấy huynh đánh chết tỉ tỉ, rồi khóc lóc cực kỳ thảm thiết. Muội thấy thế mà thương huynh vô cùng, vô cùng. Trong lòng muội đã nghĩ, huynh đừng đau lòng như thế, đã mất A Châu thì muội sẽ thay thế A Châu mà chăm sóc cho huynh hết tình hết ý. Muội đã định bụng đi theo huynh suốt đời, nhưng lại không lọt vào mắt của huynh. Vì huynh nhất định không cho muội đi theo, nên muội mới rủa thầm: Được rồi! Ngươi đã không chịu, thì ta quyết làm cho ngươi thành tàn phế để ta muốn làm gì làm, bắt ngươi phải đi theo ta suốt đời.”

Tiêu Phong lắc lắc đầu rồi nói: “Đừng nhắc đến những chuyện đã qua nữa.” A Tử la lên: “Cái gì mà gọi là chuyện đã qua? vĩnh viễn trong lòng muội, những chuyện đó như mới phát sinh. Đâu phải muội chưa từng nói với huynh, nhưng trước nay huynh có coi muội ra gì đâu?”

Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt tóc A Tử, khẽ nói: “A Tử! Ta lớn tuổi hơn muội nhiều. Ta chỉ có thể lo lắng cho muội như một vị thúc thúc hoặc ca ca mà thôi. Suốt đời ta chỉ yêu có một người, đó là tỉ tỉ của muội. Vĩnh viễn không có nữ nhân thứ hai nào thay thế cho A Châu được. Ta nhất định không thể yêu một cô gái nào nữa. Hoàng thượng đã ban cho ta hơn một trăm mỹ nữ, mà ta chưa để mắt nhìn đến bao giờ. Ta quan tâm đến muội, hoàn toàn chỉ vì A Châu.”

A Tử vừa giận vừa buồn, vung tay lên tát mạnh vào mặt Tiêu Phong đánh bốp một cái. Giả tỉ Tiêu Phong muốn né tránh thì làm sao phát chưởng này đánh trúng mặt chàng được? Nhưng chàng thấy A Tử căm hận đến xám mặt, toàn thân run lẩy bẩy, mục quang lộ vẻ cực kỳ đau khổ, nên không nỡ tránh phát chưởng này.

A Tử tát xong lại hối hận, la lên: “Tỉ phu! Là muội không tốt, huynh… huynh đánh muội đi, đánh muội đi!” Tiêu Phong nói: “Thế còn chưa phải là tính tình trẻ nít ư? A Tử! Trên thế gian này chẳng có việc gì là quá lớn không giải quyết được, muội bất tất phải thương tâm làm chi. Sao mục quang của muội lai buồn thảm đến thế? Tỉ phu chỉ là một hán tử thô lỗ, ở cạnh muội mà chỉ biết khuyên muội đừng đau buồn nữa.”

A Tử hỏi: “Mục quang của muội trông buồn thảm lắm ư? Ôi, đó là của gã Xú Bát Quái đã cho muội.” Tiêu Phong hỏi: “Gã Xú Bát Quái nào đã cho muội?” A Tử nói: “Đôi tròng mắt này là của gã Xú Bát Quái đầu sắt đã cho tiểu muội.”Tiêu Phong nhất thời vẫn chưa hiểu được, liền hỏi: “Gã Xú Bát Quái đầu sắt là ai?” A Tử đáp: “Gã là Bang chủ Cái Bang tên gọi Trang Tụ Hiền. Huynh có biết gã là ai không? Nói tới lại không khỏi cười vỡ bụng, gã chính là Du Thản Chi mà muội đã chụp cái lồng sắt vào đầu. Gã là con của Du Câu nhị trang chủ Tụ Hiền Trang, đã từng ném vôi bột vào mắt huynh. Không hiểu gã học được võ công cổ quái ở đâu, rồi cứ lẽo đẽo theo muội mãi, dám liều mạng để mong được muội thương yêu. Lúc muội mù lòa đã bị gã lừa gạt cực kỳ đau khổ, cứ gọi tới gọi lui gã là Trang công tử. Bây giờ, mỗi khi nghĩ đến muội lại xấu hổ vô cùng!”

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi:”Té ra Trang Bang chủ Cái Bang chính là gã Thiết Sửu đồ chơi của muội, hèn gì mặt gã đầy những sẹo, chắc là khi tháo cái đầu sắt đã bị tổn hại đến da mặt. Gã Thiết Sửu này lại là Du Thản Chi ư? Hừ, thật ra thì muội đã chơi ác quá rồi, hại người ta đến như thế. Người này không nghĩ đến oán cũ, lại hết lòng với muội, thật là hiếm có.”

A Tử cười nhạt nói: ” Hừ! Cái gì mà hiếm có? Có phải gã thật sự hảo tâm đâu? Gã chỉ muốn nịnh nọt để lấy cho được tiểu muội.”

Tiêu Phong nhớ lại hôm trước ở trên núi Thiếu Thất, Du Thản Chi đã đăm đăm nhìn A Tử bằng cặp mắt thâm tình, nhưng lúc đó chàng không để tâm lắm. Tiêu Phong lại hỏi: “Muội hiểu ra chân tướng gã, rồi nổi nóng lên giết phắt gã đi phải không? Rồi muội móc lấy cặp mắt phải không?” A Tử lắc đầu đáp:”Không phải, muội không giết gã. Cặp mắt này là gã tự nguyện cho muội.” Tiêu Phong lại càng không hiểu, liền hỏi: “Sao gã lại móc mắt ra cho muội?”

A Tử đáp:”Gã là một tên si ngốc. Muội lên cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu tìm Hư Trúc Tử để xin chữa mắt. Y lục sách thuốc ra đọc mất nửa ngày, rồi nói là phải có mắt người sống thay vào mới được. Toàn bộ bọn nữ nhân trong cung Linh Thứu đều là thuộc hạ Hư Trúc Tử. Muội đến xin y chữa mắt, dĩ nhiên không tiện móc mắt bọn nữ nhân đó, bèn sai Du Thản Chi xuống núi tìm một người, thì gã khóc ròng, nói là khi muội khỏi mắt rồi, nhìn thấy chân tướng gã chắc chắn sẽ không quan tâm gì đến gã nữa. Muội đã bảo là vẫn coi gã như cũ, nhưng gã không tin. Ngờ đâu gã lấy một lưỡi dao nhọn đưa cho Hư Trúc Tử, bảo lấy mắt gã mà thay. Gã đã tự nguyện như thế, mà Hư Trúc Tử vẫn không chịu. Gã đầu sắt liền cầm dao rạch vào người mấy nhát, rạch lên mặt mấy nhát, rồi nói, nếu Hư Trúc Tử không chịu thì gã tự sát ngay lập tức. Hư Trúc Tử không biết làm sao, đành lấy mắt gã để thay vào cho muội.”

A Tử kể lại câu chuyện một cách thản nhiên như chuyện đương nhiên phải thế, nhưng Tiêu Phong nghe thì lại cho là chuyện rùng rợn bình sinh chưa thấy, còn kinh tâm động phách hơn cả ác đấu giết người. Hai tay chàng run lên, đánh rơi bi rượu xuống đất nghe “bịch” một tiếng rồi hỏi: “A Tử! Du Thản Chi cam tâm tình nguyện đem cặp mắt tặng cho ngươi ư?” A Tử đáp: “Đúng thế!” Tiêu Phong nói: “Ngươi… ngươi đúng là lòng dạ sắt đá, người ta tặng mắt cho ngươi mà ngươi cũng nhận ư?”

A Tử nghe chàng xẵng giọng, hai hàng nước mắt lại chảy ra, rồi khóc òa lên nói: “Tỉ phu! Nếu huynh bị mù mắt thì muội cũng cam tâm tình nguyện tặng cặp mắt cho huynh!”

Tiêu Phong nghe giọng nàng cực kỳ thiết tha, tuyệt không chút giả trá nên không khỏi động lòng, dịu dàng nói: “A Tử! Tình cảm của vị Du quân dành cho muội là cực kỳ thâm trọng. Muội có phúc mà không chịu hưởng, trên thế gian này, ngoài y ra thì còn tìm đâu được một vị lang quân thứ hai hữu tình như thế? Hiện giờ y ở đâu?”

A Tử đáp: “Chắc là gã còn ở cung Linh Thứu. Gã đã mù lòa thì làm sao mà xuống được núi Phiêu Diểu?”

Tiêu Phong nói: “Ôi chao! Không chừng nhị đệ sẽ tìm được một tên tử tù để thay mắt cho gã.” A Tử nói: “Không được đâu! Tiểu hòa thượng… không phải, Hư Trúc Tử đã nói, mắt của muội chỉ bị Đinh Xuân Thu dùng chất độc làm mù, kinh mạch chưa đứt, bên trong vẫn tốt, nên có thể thay cặp tròng mắt được. Còn Du Thản Chi bị móc mắt ra thì kinh mạch bị đứt hết, không thay lại được nữa.” Tiêu Phong nói: “Muội mau mau đi tìm y, rồi vĩnh viễn không rời xa gã nữa.” A Tử lắc đầu đáp: “Muội không đi, muội chỉ kề cận tỉ phu mà thôi. Con người xấu như quỷ sứ kia, muội chỉ trông thấy là đã muốn nôn, làm sao đi với gã được?” Tiêu Phong tức giận nói: “Tuy mặt y xấu xí, nhưng lòng dạ y đẹp gấp trăm lần ngươi. Ta không muốn ở cạnh ngươi, ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa.” A Tử khóc rống lên: “Muội… muội…”

Bỗng nghe có tiếng chân người bước tới cửa, rồi hai gã vệ sĩ đồng thanh nói: “Thánh chỉ tới!” Cánh cửa mở ra, Tiêu Phong cùng A Tử quay người lại, thấy sứ giả của hoàng đế tiến vào sảnh đường.

Nghi lễ ở triều đình nước Liêu không phiền phức như ở Đại Tống, thần tử thấy sứ giả của hoàng đế mang chiếu chỉ tới thì chỉ đứng nghiêm trang để nghe đọc, không phải mặc triều phục, bày hương án, quì xuống tiếp chỉ. Sứ giả lớn tiếng nói: “Hoàng thượng triệu Bình Nam Công Chúa vào triều kiến.” A Tử đáp: “Vâng!” rồi lau nước mắt, đi theo sứ giả.

Tiêu Phong nhìn sau lưng A Tử, nghĩ thầm: “Du Thản Chi đối với nàng hết dạ chung tình, thật là cổ kim hiếm có. Chỉ vì mối tình đầu của nàng đã đặt vào ta, mà lúc nàng bị trọng thương, ta lại không tị hiềm nam nữ, đến nỗi nàng mang một mối tình si từ lúc còn nhỏ tuổi. Ta phải bảo nàng quay về với Du quân. Người ta đối với nàng như vậy, nếu nàng ruồng bỏ con người đui mù đáng thương đó, thì hoàng thiên tất chẳng dung tha” Tiếng bước chân của sứ giả và A Tử đi mỗi lúc một xa, rồi dần dần không nghe thấy nữa. Tiêu Phong lại nghĩ tới chuyện Gia Luật Hồng Cơ quyết ý sai chàng đi đánh Tống.

Chàng nghĩ thầm: “Không hiểu hoàng thượng triệu kiến A Tử có việc gì? Chắc chỉ để bảo nàng khuyên mình vâng mệnh đánh Tông. Nếu mình cương quyết không tuân chiếu chỉ thì còn đâu là phép nước? Vừa rồi ở phía nam thành đã xảy ra tranh chấp, hoàng thượng nắm lấy chuôi đao, đã nổi sát khí, nhưng chắc ngài nghĩ lại tình chúa tôi, nghĩa huynh đệ rồi cố nén lòng. Nếu mình phụng mệnh phạt Tống, tàn sát ngàn ngàn vạn vạn người Tống, thì quá nhẫn tâm. Huống chi phụ thân lại đã xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, nếu người nghe mình dẫn quân nam chinh thì nhất định phải đau lòng. Hỡi ôi! Mình chống lại lệnh vua là kẻ bất trung, không vẹn tình kim lan là bất nghĩa. Mình đem quân nam chinh tàn sát bá tính lại là bất nhân, trái với ý nguyên của phụ thân lại là bất hiếu. Trung hiếu khó vẹn, nhân nghĩa khó toàn, mình biết làm sao cho phải? Thôi, thôi! Chức Nam Viện Đại Vương này không làm nữa, mình không chờ từ biệt, cứ treo ấn mà bỏ đi, nhưng đi đâu bây giờ? Trời đất mênh mông mà không có chỗ cho Tiêu Phong này dung thân!

Chàng nâng bì rượu lên, nốc hai ngụm lớn, rồi tự nhủ: “Ta chờ A Tử quay về, rồi dẫn nàng lên núi Phiêu Diểu. Một là đưa nàng lại cho Du quân, hai là ở chơi với nhị đệ ít ngày, rồi sau sẽ liệu.”

***

A Tử đi theo sứ giả đến ngự doanh, nàng vừa nhìn thấy Gia Luật Hồng Cơ đã nói: “Hoàng thượng! Cái chức Bình Nam Công Chúa này xin trả lại cho ngài, muội không làm nữa!”

Lý do Hồng Cơ triệu kiến A Tử quả không ngoài dự liệu của Tiêu Phong, chỉ muốn nàng về khuyên Tiêu Phong phụng chỉ mà nam chinh. Vừa nghe A Tử nói, hoàng thượng đã chau mày, giận dữ quát: “Việc triều đình phong thưởng là đại sự quốc gia, đâu phải chuyện trẻ con mà muốn làm là làm, không làm thì thôi?” Hồng Cơ sủng ái Tiêu Phong, yêu hoa thích cả lá nên vẫn thường nuông chiều A Tử, lão đột nhiên mắng câu này kể ra cũng nặng. A Tử nấc một tiếng, rồi òa lên khóc. Hồng Cơ giậm chân rồi nói: “Nói năng loạn xạ, thật chẳng ra gì!”

Bỗng phía sau trướng có thanh âm nữ nhân trong trẻo vang lên: “Hoàng thượng giận dữ chuyện gì vậy? Sao lại làm tiểu cô nương phải khóc lóc thế kia?” Rồi có tiếng ngọc khua đinh đang, một thiếu phụ sang trọng bước ra.

Thiếu phụ này mắt long lanh như sóng, miệng tươi tắn như hoa. A Tử biết đây là Mục quý phi, vốn rất được Hồng Cơ sủng ái. Nàng vừa khóc vừa nói: “Mục quý phi! Quý phi phân xử công bằng giúp, tiểu nữ chỉ nói là không làm Bình Nam Công Chúa nữa, mà hoàng thượng đã quát mắng ngay.”

Mục quý phi thấy nàng khóc lóc trông rất đáng thương. Lâu ngày gặp lại, bà thấy A Tử đã cao lớn hơn, dung nhan cũng diễm lệ hơn, bèn quay lại liếc Hồng Cơ một cái, bĩu môi mỉm cười nói: “Hoàng thượng! Nàng không chịu làm Bình Nam Công Chúa, thì hoàng thượng phong làm Bình Nam Quý Phi đi!”

Hồng Cơ vỗ đùi rồi nói: “Nói nhảm, nói nhảm! Ta phong cho cô bé này cùng Tiêu Phong hiền đệ, một người làm Bình Nam Đại Nguyên Soái, một người làm Bình Nam Công Chúa, lại muốn chúng kết hôn với nhau một cách vẻ vang. Không ngờ hiền đệ đã không chịu làm Bình Nam Đại Nguyên Soái, bây giớ cô bé cũng không chịu làm Bình Nam Công Chúa nốt. Phải rồi! Ngươi là người Nam man, không thích chuyện ta bình nam, có phải vậy chăng?”

A Tử đáp:”Muội có nghĩ gì đến chuyện ngài bình nam hay chẳng bình nam đâu? Ngài muốn bình đông cũng được, mà bình tây cũng xong, muội hoàn toàn không quan tâm. Nhưng tỉ phu của muội… tỉ phu bắt muội phải lấy tên Xú Bát Quái đui mắt.” Hồng Cơ cùng Mục quý phi đều ngạc nhiên hỏi: “Sao lại thế?” A Tử không muốn nói rõ nguyên do, chỉ đáp: “Tỉ phu không thích muội, bắt muội đi lấy người khác.”

Giữa lúc ấy bên ngoài trướng có tiếng người kêu khẽ: “Hoàng thượng!”Hồng Cơ chạy ra, thấy một tên vệ sĩ thân tín được cử sang hầu cận Tiêu Phong. Gã hạ giọng nói: “Khải tấu hoàng thượng! Tiêu đại vương đóng cửa công khố, dùng vải gói kim ấn lại rồi treo lên xà nhà, dường như… đại vương… muốn không từ biệt mà bỏ đi.”

Hồng Cơ nghe mà tức giận vô cùng, quát lên: “Phản rồi! Phản rồi! Hắn có còn coi ta là hoàng đế nữa không?” Lão ngầm nghĩ một chút, rồi gọi: “Truyền Ngự Doanh chỉ huy sứ vào đây!” Ngự Doanh chỉ huy sứ vừa lật đật chạy vào, Hồng Cơ đã ra lệnh: “Ngươi lập tức đem binh mã đến vây chặt Nam Viện Vương phủ.” Lão lại xuống chỉ: “Đóng chặt cổng thành, bất luận là ai cũng không được ra vào.” Hồng Cơ sợ Tiêu Phong thống lĩnh bộ thuộc làm phản, liền truyền lệnh gọi hết các bộ tướng dưới trướng Nam Viện Đại Vương đến ngự doanh.

Mục quý phi đang ngồi trong trướng, nghe bên ngoài có tiếng tù và inh ỏi, tiếng vó ngựa dồn dập, không biết đã xảy ra biến cố gì. Người Khất Đan vốn không phân biệt nam nữ nghiêm khắc lắm, bà chạy ra ngoài trướng, khẽ hỏi Hồng Cơ: “Bệ hạ! Đã xảy ra chuyện gì? Sao bệ hạ phải nổi giận xung thiên như vậy?” Hồng Cơ tức giận nói: “Thằng cha Tiêu Phong thật không biết tốt xấu, dám phản ta mà bỏ đi. Lòng hắn vẫn hướng về Nam triều, chắc là hắn tính đi báo tin cho bọn Nam man. Hắn đã biết rất nhiều bí mật quân cơ của Đại Liêu, nếu bỏ qua Tông triều thì thật là nỗi lo trong gan ruột của ta.” Mục quý phi trầm ngâm nói: “Thiếp thường nghe bệ hạ nói là võ công hắn rất cao. Nếu không bắt được mà để hắn ra khỏi trùng vi, quả là một mầm họa lớn.” Hồng Cơ nói: “Đúng thế!” Rồi lão hạ lệnh cho bọn vệ sĩ: “Lệnh cho các trại Phi Long, Phi Hổ, Phi Báo phải hỏa tốc dẫn quân đến ngoài phủ Nam Viện Đại Vương để tiếp viện.” Bọn vệ sĩ ngự doanh vâng lệnh, truyền lệnh xuống cho các trại.

Mục quý phi nói: “Bệ hạ! Thiếp có một kế!” Rồi bà ghé tai Hồng Cơ thì thầm một lúc. Gia Luật Hồng Cơ gật đầu nói: “Hay lắm! Việc này mà thành, ta nhất định sẽ trọng thưởng!” Mục quý phi mỉm cười nói: “Được thấy bệ hạ vui lòng đã là trọng thưởng rồi. Bệ hạ đối xử với thiếp như vậy, thiếp còn mong gì hơn nữa?”

Bên ngoài điều động binh mã rầm rộ. A Tử ở trong trướng vẫn thản nhiên như không. Trong những cuộc đi săn, người Khất Đan vẫn hò hét quát tháo gọi nhau mà chạy tới chạy lui, nàng đã được thấy hàng ngày, không ngờ Hồng Cơ đang điều động binh mã để đi bắt Tiêu Phong. Nàng ngồi thẫn thờ, ruột rối như mớ bòng bong, cứ thầm nghĩ: “Hôm nay ta thổ lộ tâm tình với tỉ phu, nhưng y… y chẳng để ý gì đến ta, lại toan bắt ta đi theo gã Xú Bát Quái kia. Ta… ta thà chết chứ không đi, không đi, không đi, nhất quyết không đi!” Trong lòng nghĩ như thế, hai chân nàng không ngớt giẫm lên đầu con cọp thêu trên tấm thảm.

Thốt nhiên, một bàn tay khẽ đạt lên vai A Tử. Nàng giật mình ngoảnh đầu nhìn lại, thì chạm phải mục quang ấm áp dịu hiền của Mục quý phi. Bà cười hỏi: “Tiểu muội muội! Sao muội lại xuất thần như thế? Muội đang nghĩ tới tỉ phu, có phải thế không?”

A Tử nghe bà nhắc đến tâm sự của mình, bất giác hai má đỏ lên, cúi đầu không nói gì. Mục quý phi ngồi xuống cạnh A Tử, khẽ cầm tay nàng vuốt ve, dịu dàng nói: “Tiểu muội muội! Tính khí bọn nam nhân thường thô lỗ nóng nảy. Nhất là Hoàng thượng cùng Nam Viện Đại Vương đều là anh hùng hảo hán đương thời, muốn thu phục tấm lòng của họ thật là không phải dễ.” A Tử gật gật đầu, nghĩ ràng bà nói câu này có lý. Mục quý phi lại nói: “Trong hậu cung chúng ta có tới hàng trăm hàng ngàn nữ nhân, thật không biết bao nhiêu người mỹ lệ hơn ta, khéo chiều chuộng hoàng thượng hơn ta. Thế mà hoàng thượng chỉ sủng ái một mình ta, một phần là vì duyên phận, một phần là nhờ ta quen với một vị lão hòa thượng ở Thánh Đức Tự tại Thượng Kinh. Tiểu muội tử! Tỉ phu cũa muội không đặt trái tim vào muội, nhưng muội cũng chẳng nên buồn phiền. Khi nào ta cùng hoàng thượng về Thượng Kinh, muội hãy cùng đi một chuyến, đến gặp vị cao tăng tại Thánh Đức Tự, xin người tìm phép giúp muội.”

A Tử ngạc nhiên hỏi: “Vị lão hòa thượng ấy có phép gì?” Mục quý phi đáp: “Việc này ta chỉ nói với muội, muội ngàn vạn lần không được kể với ai. Bây giờ muội phải thề với ta là quyết không tiết lộ bí mật!” A Tử liền nói: “Nếu muội mà tiết lộ bí mật của Mục quý phi thì sẽ bị loạn đao phân thây, chết không toàn thi thể.” Mục quý phi trầm ngâm một lát rồi nói: “Không phải là ta không tin muội, nhưng vì… vì sự việc này liên quan trọng đại. Muội phải thề nặng hơn mới được.” A Tử đáp: “Được! Nếu muội mà tiết lộ bí mật của Mục Quý phi thì sẽ bị chính tỉ phu của muội phóng chưởng đánh chết.” Nàng nói đến đây, trong lòng cảm thấy chua xót, nhưng cũng có chút ít hương vị ngọt ngào.

Mục Quý phi gật đầu, nói: “Bị người mình yêu phóng chưởng đánh chết, thì thật là bi thảm gấp trăm lần loạn đao phân thây. Bây giờ ta tin muội rồi. Tiểu muội tử! Vị cao tăng này Phật pháp vô biên, thần thông quảng đại. Sau khi ta quỳ xuống cầu khẩn, hòa thượng cho ta hai lọ nhỏ nước thánh, dặn ta ngấm ngầm khấn vái rồi lén cho người mình yêu uống vào. Người nào đã uống nước thánh đó thì đến chết cũng không thay lòng đổi dạ. Ta đã cho hoàng thượng uống một lọ rồi, hãy còn một lọ đây.” Bà nói xong, móc trong bọc ra một chiếc lọ sứ nhỏ xíu màu đỏ tươi, nắm thật chặt tựa như chỉ sợ rơi xuống mà bể mất. Thật ra dưới nền có trải thảm dày, dù có rơi xuống cũng chẳng sao.

A Tử vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, mở miệng năn nỉ: “Hảo tỉ tỉ, cho muội xem một chút!” Mục quý phi nói: “Xem thì được, nhưng đừng dốc lên.” Hai tay bà trịnh trọng đưa lọ thuốc cho A Tử. A Tử đón lấy, mở nút ra ngửi thì thấy một mùi hương thoang thoảng. Mục quý phi lập tức đưa tay ra lấy lọ thuốc về, đút nút gỗ lại, dùng sức ấn chặt như chỉ sợ thuốc bay hơi mất, rồi nói: “Kể ra thì ta cũng muốn cho muội. Nhưng e rằng vạn nhất hoàng thượng thay lòng đổi dạ, thì ta không còn nước thánh mà dùng nữa.”

A Tử nói: “Tỉ tỉ vừa nói hoàng thượng uống vào thì vĩnh viễn không thay lòng đổi dạ nữa kia mà?” Mục quý phi mỉm cười đáp: “Nói thì nói thế, nhưng không biết hiệu quả của nước thánh này có được bền không. Nếu bền vĩnh viễn thì sao vị lão hòa thượng đó phải cho ta đến hai lọ? Ta chỉ lo bọn phi tần khác mà có, thì chúng cũng lén cho hoàng thượng uống, dĩ nhiên hoàng thượng sẽ thay lòng đổi dạ với ta, chia sẻ tình yêu…”

Ngay lúc đó, bỗng nghe tiếng Gia Luật Hồng Cơ ở ngoài ngự doanh la gọi: “A Mục! Ngươi ra đây, ta có chuyện muốn hỏi.” Mục Quý phi cười đáp: “Ra ngay!” Rồi bà thoăn thoắt chạy ra. Bỗng một tiếng động nhỏ vang lên, cái lọ nhỏ từ trong bọc Mục quý phi rơi ra, nhưng bà không biết.

A Tử vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, chờ bà ra khỏi phòng rồi chạy lại nhặt lấy chiếc lọ cất vào bọc, nghĩ thầm: “Ta phải đem nước thánh này về cho tỉ phu uống, rồi rót nước lã vào trả lại quý phi. Bà đã được hoàng thượng vĩnh viễn sủng ái, thì cũng chẳng dùng nước thánh này làm gì nữa.” Nàng rón rén mở cửa sau, nhẹ nhàng lến ra khỏi ngự doanh, rồi chạy nhanh về phía Vương phủ Nam Viện Đại Vương.

***

A Tử thấy ngoài Vương phủ đang có rất nhiều binh lính, dường như Nam Viện Đại Vương đang phát động binh mã. Nàng tiến vào đại sảnh thì thấy Tiêu Phong đang chắp tay sau lưng, đi lùi đi tới ra chiều nóng ruột.

Chàng vừa thấy A Tử thì cả mừng nói: “A Tử! Muội về thật là đúng lúc, ta chỉ sợ muội bị hoàng thượng bắt giữ rồi. Chúng ta phải đi ngay, chậm thì không kịp nữa!” A Tử ngạc nhiên hỏi: “Đi đâu? Tại sao chậm thì không kịp? Vì lẽ gì mà hoàng thượng muốn bắt giữ muội?”

Tiêu Phong nói: “Muội nghe mà xem!” Hai người im lặng chú ý nghe, thì ở bốn mặt Vương phủ đều có tiếng vó ngựa dồn dập không ngớt, xen lẫn với tiếng thiết giáp và binh khí khua loảng xoảng, cả bốn phía đông tây nam bắc đều như nhau. A Tử hỏi: “Chuyện gì vậy? Huynh định dẫn quân đi chinh phạt ư?”

Tiêu Phong cười khổ, nói: “Những binh lính này không ở trong tay ta nữa. Hoàng thượng sinh lòng ngờ vực, đang muốn bắt ta.” A Tử nói: “Hay lắm! Đã lâu chúng ta không được đánh nhau. Huynh với muội cứ xung sát phá vây mà ra.” Tiêu Phong lắc đầu nói: “Ân đức của hoàng thượng đối với ta không ít, đã phong ta làm Nam Viện Đại Vương lại còn thăng quan tấn tước. Vì ta nhất quyết chẳng chịu xuất chinh nên ngài bắt buộc phải sinh lòng nghi kỵ. Nếu ta tàn hại thuộc hạ của hoàng thượng là không trọng nghĩa huynh đệ, sẽ bị anh hùng thiên hạ chê cười. Nếu Tiêu Phong này vong ân bội nghĩa thì còn mặt mũi nào mà trông thấy ai? A Tử! Chúng ta chạy đi cho êm thấm, đừng để họ bắt là xong.”

A Tử nói: “Hừ, chạy thì chạy. Tỉ phu! Bây giờ chúng ta chạy đi đâu?” Tiêu Phong đáp: “Chạy lên cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu.” A Tử sa sầm nét mặt đáp: “Muội không muốn gặp gã Xú Bát Quái nữa đâu.” Tiêu Phong nói: “Việc khẩn cấp lắm rồi, phải chạy lên núi Phiêu Diểu mà thoát hiểm trước đã, rồi sẽ tính sau.”

A Tử nghĩ thầm: “Thế là tỉ phu muốn bắt mình lên núi Phiêu Diểu rồi bỏ mình ở đó. Bây giờ phải cho y uống nước thánh để y đem lòng yêu mình, rồi nghe theo lời mình nói. Nếu còn chần chừ, e rằng Mục quý phi đến nơi lấy lại mất. Nàng liền đáp: “Được rồi! Để tiểu muội lấy mấy bộ y phục đã.”

Nàng lật đật chạy vào hậu đường, rót nước thánh vào một cái bát lớn, rồi vừa pha rượu cho đầy vừa lâm râm khấn: “Đức Bồ Tát có linh thiêng, xui khiến cho Tiêu Phong uống nước thánh xong sẽ đem hết lòng dạ yêu thương A Tử, rồi kết làm phu phụ, vĩnh viễn không nghĩ tới A Châu tỉ tỉ nữa.” Nàng trở ra sảnh đường nói: “Tỉ phu! Huynh hãy uống cạn bát rượu này cho phân khởi tinh thần. Phen này chúng ta ra đi, chắc là vĩnh viễn không trở lại đây nữa.”

Tiêu Phong đỡ lấy bát rượu. Dưới ánh đèn lửa, chàng thấy hai tay A Tử run rẩy, vẻ mặt cũng khác lạ, vừa ra chiều phấn khởi vừa rõ nét ôn nhu, bất giác động lòng nhớ lại chuyện xưa, lúc nào A Châu vui sướng trong lòng thì nét mặt cũng như thế này. Hỡi ôi! Xem chừng A Tử đã quá si tình với mình rồi. Chàng dốc bát rượu vào miệng nuốt ừng ực, rồi hỏi: “Muội đã lấy y phục chưa?” A Tử thấy Tiêu Phong uống cạn nước thánh thì cả mừng, đáp luôn: “Không cần lấy y phục nữa, chúng ta đi thôi!”

Tiêu Phong đeo một cái bọc lên vai, trong bọc chỉ đựng ít quần áo và tiền bạc. Chàng khẽ nói: “Bọn chúng đề phòng ta chạy về phía nam, nên ta phải đi về phía bắc.” Chàng dắt tay A Tử lẹ làng đến gần cổng, nhìn thấy hai tên vệ sĩ đang sóng vai đi tới. Tiêu Phong nấp ở sau cổng, hắng giọng một tiếng. Hai tên vệ sĩ vừa chạy lại xem, chàng liền phóng ngón tay ra điểm huyệt nhanh như chớp, rồi kéo chúng vào bụi rậm, khẽ bảo: “Mau đổi mũ áo của hai người này.” A Tử vui vẻ đáp: “Tuyệt diệu!” Hai người lột mũ áo vệ sĩ mặc vào mình, tay cầm trường mâu sóng vai mà đi! A Tử đội mũ sụp xuống tận mí mắt, liếc qua Tiêu Phong thấy chàng rùn người cho thấp xuống mà đi, không khỏi cười thầm. Hai người đi được hơn hai chục bước, bỗng gặp một tên thập phu trưởng dẫn mười tên thân binh đi tuần qua đó. Tiêu Phong cùng A Tử liền tránh vào vệ đường, giơ trường mâu lên chào.

Tên thập phu trưởng gật đầu rồi bước qua, nhưng dưới ánh đuốc bỗng thấy A Tử mặc áo giáp vừa dài vừa rộng, không hợp mắt chút nào, bất giác nhìn cái nữa, thì thấy vỏ đao sau lưng nàng cũng kéo lê dưới đất. Hắn tức giận, vung quyền đập xuống vai A Tử, quát hỏi: “Ngươi ăn mặc kiểu gì thế?” A Tử cho là mình bị bại lộ hành tung, liền xoay tay lại nắm lấy cổ tay gã, lại phóng chân đá vào lưng gã. Tên thập phu trưởng kêu lên một tiếng “Úi chao!”, rồi té nhào xuống.

Tiêu Phong nói: “Chạy mau!”, rồi kéo A Tử chạy về phía trước. Mười tên thân binh lớn tiếng la: “Có thích khách! Có gian tế!” Chúng chưa biết hai người này là Tiêu Phong và A Tử. Hai người chạy được một quãng nữa thì gặp mười mấy tên khinh kỵ từ phía trước chạy lại. Tiêu Phong giơ trường mâu lên gạt ngang một cái, bọn chúng ngã hết từ trên ngựa xuống đất. Chàng xách A Tử để lên lưng ngựa, rồi chính mình nhảy lên một con khác, kéo ngựa quay đầu lại, chạy thẳng về hướng cửa Bắc.

Lúc này binh tướng vây quanh bốn mặt. Vương phủ Nam Viện Đại Vương đều đã biết tin, bốn phương tám hướng đều kéo đến đuổi theo. Tiêu Phong phóng ngựa chạy thật nhanh, quả nhiên chàng dự đoán rất đúng, mười phần quân Liêu thì đến tám phòng thủ phía nam, còn phía bắc thì chỉ lác đác mấy tên. Bọn này cũng đã được báo động, vừa thấy hai người đi đến đã hoảng vía. Chúng cũng tuân theo quân lệnh mà tiến lại ngăn cản, nhưng mới nghe Tiêu Phong quát một tiếng là đã dạt ra tránh chỗ, rồi mới chạy theo sau vừa rượt đuổi vừa la hét. Khi Ngự Doanh chỉ huy sứ điều động nhân mã đuổi tới nơi thì Tiêu Phong cùng A Tử đã chạy xa rồi.

Tiêu Phong giục ngựa ra đến cửa Bắc thì cổng thành đã đóng chặt, lại có hơn trăm người canh giữ, cùng đưa trường mâu ra cản đường. Giả tỉ Tiêu Phong xông vào đánh giết thì bọn Liêu binh này không ngăn trở nổi, nhưng chàng chỉ cần chạy thoát thân, không muốn giết hại người cùng một nước. Tiêu Phong vươn tay phải ra xách A Tử từ lưng con ngựa kia qua ôm vào lòng, chân trái nhún vào bàn đạp một cái, hai chân đứng trên lưng ngựa, hít một hơi chân khí rồi phi thân nhảy lên tường thành. Kể ra thì tường thành quá cao, khó nhảy tới được, nhưng chàng đã tính sẵn. Lúc thân hình hết đà, bắt đầu rơi xuống, tay trái chàng đâm mạnh cây trường mâu vào tường thành để mượn sức nhảy lên cái nữa, quả nhiên lên tới mặt thành.

Tiêu Phong nhìn ra ngoài thành, chỉ thấy tối đen không có đèn lửa chi hết, chứng tỏ không ai dự đoán là chàng chạy về phía bắc, nên ngoài thành không có một tên quân nào canh giữ. Tiêu Phong hú một tiếng dài, rồi hướng vào trong thành lớn tiếng nói: “Các ngươi về báo với hoàng thượng, Tiêu Phong có tội với hoàng thượng, không dám gặp mặt. Đại ân đại dức của hoàng thượng, Tiêu Phong nhất định không quên.”

Chàng ôm lấy lưng A Tử quay người ra ngoài, chỉ cần nhảy xuống khỏi tường thành là như cá lội dưới biển, chim bay trên trời, không còn bị ai câu thúc nữa.

Trong lòng chàng đang hoan hỉ, vừa sắp tung mình nhảy xuống thì đột nhiên trong bụng nổi đau kịch liệt, hai tay tê dại. Tay trái đang ôm lưng A Tử bất giác buông lơi, nàng rơi xuống mặt thành. Rồi hai chân chàng cũng nhũn ra, ngã lăn ra bên cạnh A Tử. Bụng chàng tưởng chừng như bị trăm ngàn mũi dao đâm vào, đau đớn vô cùng, không nhịn nổi phải “Ôi chao” một tiếng. A Tử cả kinh la hỏi: “Tỉ phu! Huynh làm sao vậy?” Toàn thân Tiêu Phong co rúm lại, răng khua lách cách mà đáp: “Ta… ta trúng… kịch độc… Đợi… đợi ta vận khí… trục ra…” Chàng vận chân khí vào Đan điền để thúc đẩy chất độc ra ngoài, nhưng không vận khí còn đỡ hơn, vận khí thì toàn thân lại càng đau đớn, nội tức trong Đan điền chỉ đưa lên được vài tấc, rồi trầm xuống lại. Tiêu Phong nghe tiếng vó ngựa dồn dập, có đến nghìn quân khinh kỵ từ phía nam chạy tới. Chàng cố vận khí lần nữa thì tứ chi hoàn toàn tê dại, liền biết ngay là mình trúng phải chất độc lợi hại vô cùng, không thể dùng nội lực thúc đẩy ra được. Tiêu Phong liền bảo: “A Tử! Muội mau mau chạy đi. Ta… ta không thể đi theo muội được!”

A Tử đột nhiên tỉnh ngộ, biết mình đã mắc gian kế của Mục quý phi, chính mình đã đem thuốc độc cho Tiêu Phong uống mà cứ tưởng là nước thánh. Nàng vừa kinh hãi vừa hối hận, ôm lấy cổ Tiêu Phong vừa khóc vừa nói: “Tỉ phu!… Muội hại huynh rồi, thuốc độc này là muội đã cho huynh uống.” Tiêu Phong đang run lên, chẳng hiểu ra sao, hỏi lại: “Sao muội lại hại chết ta?” A Tử vừa khóc vừa đáp: “Không, không! Mục quý phi cho muội một lọ nước, nói dối muội là huynh uống vào sẽ vĩnh viễn thương yêu, lấy muội làm… làm vợ. Muội ngu xuẩn nên bị mắc lừa. Tỉ phu! Muội nguyện chết cùng huynh, chúng ta vĩnh viễn không rời nhau nữa.” Nói xong, nàng rút đoản đao ra, toan tự đâm vào cổ.

Tiêu Phong nói: “Khoan… khoan đã!” Toàn thân chàng nóng như lửa thiêu, đau như dao cắt, không thể suy nghĩ được, một lúc sau mới hiểu A Tử nói gì, liền đáp: “Ta không chết đâu, muội bất tất phải tự vẫn.”

Bỗng nghe hai cánh cổng thành nặng nề rít lên ken két, rồi mở ra. Mấy trăm kỵ binh xông ra cửa Bắc, lập thành trận thế. Tiêu Phong ngồi trên mặt thành nhìn ra phía bắc, thấy ánh lửa lập lòe trong một phạm vi hàng mấy dặm, tựa như những con rồng lửa uốn khúc quây lấy cửa Bắc. Chàng quay lại nhìn về phía nam cũng thấy đèn đuốc sáng rực gần nửa thành trì, nghĩ thầm: “Hoàng thượng điều động hết binh mã ở ngự doanh ra đây, chỉ để bắt một mình ta! Trong thành ngoài thành đều có tiếng reo hò rầm rộ: “Phản tặc Tiêu Phong! Mau mau đầu hàng đi!”

Tiêu Phong lại nổi cơn đau bụng kịch liệt, hạ giọng bảo: “A Tử! Muội mau mau trốn đi!” A Tử đáp: “Chính tay muội hạ độc hại chết huynh, sao có thể chạy trốn một mình? Muội… muội… nguyện cùng chết với huynh một chỗ!” Tiêu Phong cười khổ, nói:”Đây không phải là loại độc dược giết người, ta chỉ nhất thời đau đớn, không động thủ được mà thôi.”

A Tử mừng rỡ hỏi lại: “Thật ư?”

Nàng xoay người lại, gắng sức cõng Tiêu Phong lên vai. Nhưng thân hình nàng nhỏ nhắn quá, mà Tiêu Phong lại khôi vĩ, A Tử cõng chàng đứng lên rồi, mà hai chân chàng vẫn chấm đất. Lúc ấy, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan trèo lên mặt thành, tay cầm đoản đao, tay cầm đuốc. Bọn chúng đều khiếp oai Tiêu Phong, không dám đến gần.

Tiêu Phong nói: “Chống cự cũng vô ích, để chúng lại bắt đi thôi!” A Tử vừa khóc vừa nói: “Không! Ai dám đụng đến một sợi tóc của huynh, muội phải giết ngay lập tức!” Tiêu Phong nói: “Đừng vì ta mà giết người. Nếu ta chịu giết người, thì đã phụng chỉ lãnh binh đi chinh phạt Nam triều rồi, hà tất phải để xảy ra những chuyện rắc rối?” Rồi chàng lớn tiếng nói: “Các người rụt rè như vậy thì đâu phải là nam tử Khất Đan? Hãy đưa ta đến yết kiến hoàng thượng!”

Bọn vô sĩ đều sửng sốt, khom lưng cung kính nói: “Vâng! Bọn tiểu nhân vì tuân thánh chỉ mà vô lễ với đại vương, xin đại vương tha tội!” Tiêu Phong mới làm Nam Viện Đại Vương chưa được bao lâu, nhưng oai danh chàng vang lừng đất Bắc, tướng sĩ Khất Đan mười phần kính phục. Trong đám đông thì quân lính vẫn la ó rầm trời: “Phản tặc Tiêu Phong”, nhưng vừa đối diện chàng lại tự nhiên sinh ra kính sợ, không dám vô lễ chút nào.

Tiêu Phong vịn vai A Tử gắng gượng đứng lên, lục phủ ngũ tạng quặn đau như bị bứt ra từng khúc. Bọn quân sĩ lùi xa một trượng, tra đao vào vỏ, theo chàng đi từng bước một, lần bậc đá mà xuống khỏi mặt thành. Các tướng sĩ thấy Tiêu Phong xuống tới nơi, bất giác không tự chủ được, nhảy cả xuống ngựa. Trong thành ngoài thành, hàng vạn tướng sĩ đứng im phăng phắc.

Dưới ánh lửa, Tiêu Phong thấy tướng sĩ đều ra vẻ cung kính, thì trong lòng cũng nảy ra một ý nghĩ ấm áp: “Mình mà Nam chinh, thì e rằng hàng vạn tướng sĩ này sống sót mà trở về Bắc quốc chưa được một nửa. Nếu mình thật sự cứu sống được rất nhiều sinh linh, thì có bị hoàng thượng đem ra xử tử cũng không oán hận. Nhưng chỉ sợ hoàng thượng giết mình xong, lại phái người khác dẫn binh Nam chinh…” Nghĩ tới đây, bụng chàng lại nổi cơn đau, người lảo đảo muốn té.

Một tên bộ tướng dắt ngựa lại rồi đỡ chàng lên lưng ngựa, A Tử cũng cưỡi ngựa đi theo sau. Đoàn người tiền hô hậu ủng, lại nhắm hướng nam đưa Tiêu Phong về Vương phủ. Các tướng sĩ tuy đã bắt được Tiêu Phong, lập được đại công, nhưng chẳng thấy vui mừng chút nào. Chỉ nghe thấy tiếng thiết giáp loảng xoảng, tiếng mấy vạn móng sắt ngựa gõ lộp cộp trên đường lát đá, nghe rất ồn ào, nhưng tuyệt không có một tiếng hoan hô.

Đoàn người đi vào cửa Bắc đang mở rộng, gần đến cầu Bạch Mã, Tiêu Phong giục ngựa lên cầu. A Tử đột nhiên vọt người lên, hai chân đứng trên yên ngựa, rồi nhảy vèo xuống sông. Tiêu Phong bị bất ngờ, không khỏi giật mình, rồi lại mừng thầm. Chàng nhớ lại ngày mới gặp cô bé ương ngạnh này, nàng đã nhảy xuống Tiểu Kính Hồ giả chết để lừa gạt song thân, nghề bơi lặn thật là hiếm thấy. Bây giờ nàng đã lặn xuống nước trốn đi, thật là chuyện tốt, nhưng chàng e rằng từ đây không còn ngày tái hội, cũng cảm thấy bâng khuâng. Tiêu Phong lớn tiếng gọi: “A Tử! Sao muội lại tự trầm? Hoàng thượng có làm khó muội đâu, hà tất phải nhảy xuống sông tự tận?”

Các tướng sĩ nghe Tiêu Phong nói vậy, lại thấy A Tử chìm xuống đáy sông rồi không nổi lên nữa, cũng cho là nàng tự trầm mà chết. Hoàng đế chỉ hạ lệnh bắt một mình Tiêu Phong, A Tử chết thì cũng thế mà trốn thoát cũng được thôi, mọi người chẳng bận tâm làm chi. Họ dừng lại đầu cầu một chút, nhìn xuống sông không thấy động tĩnh gì, rồi lại đi theo Tiêu Phong.

Hồi 50: Trung nghĩa khó toàn đành tự vẫn, thân tàn chưa tỉnh mộng quân vương

Về đến Vương phủ, Gia Luật Hồng Cơ không gặp Tiêu Phong nữa, chỉ hạ lệnh cho Ngự Doanh chỉ huy sứ giam chàng lại. Chỉ huy sứ nghĩ rằng Tiêu đại vương thần lực trời sinh, nhà lao thông thường giữ làm sao nổi? Hắn liền nghĩ ra một kế, sai người lấy xích sắt vừa to vừa nặng khóa chân tay Tiêu Phong lại, rồi nhốt chàng vào một cái cũi sắt khổng lồ. Đây là cái cũi sắt trước kia A Tử nhốt sư tử, song sắt lớn bằng cánh tay trẻ con.

Bên ngoài cũi sắt lại còn hơn trăm quân ngự lâm cầm trường mâu đứng canh bốn mặt, hễ thấy Tiêu Phong có hành động gì khả nghi là đâm vào trong cũi. Dù sức lực chàng mạnh tới đâu cũng không thể phá kịp cũi sắt này mà tẩu thoát. Ngoài Vương phủ lại còn một đội binh tuần tiễu nghiêm mật. Gia Luật Hồng Cơ cẩn thận điều động hết tướng sĩ bộ thuộc của Tiêu Phong ở Nam Kinh ra ngoài thành, để đề phòng chúng nổi loạn cứu chủ.

Tiêu Phong ngồi dựa vào lan can cũi sắt, nghiến răng chịu đau, chẳng còn lòng dạ suy nghĩ gì nữa. Đến tối hôm sau, qua mười hai giờ, độc tính từ từ giảm đi, Tiêu Phong mới thấy bớt đau. Tuy khí lực chàng đã hồi phục, nhưng tình hình bên ngoài như vậy thì làm sao trốn thoát được? Tiêu Phong tự nghĩ: “Mình có phiền não cũng vô ích. Tiêu Phong này một đời oanh liệt, trải qua vô số nguy nan đều vô sự, lẽ nào bây giờ lại chết trong cũi sắt này ư?” May mà bọn thân binh kính trọng chàng là bậc anh hùng, tuy canh giữ nghiêm mật nhưng rất lễ độ, đưa cơm rượu đầy đủ. Tiêu Phong thản nhiên ăn uống, mới có mấy ngày mà vỏ bì rượu đã chất đống.

Hồng Cơ trước sau vẫn không tới gặp Tiêu Phong, chỉ phái mấy tên thuyết khách hàng ngày đến khuyến dụ. Đại khái chúng nói hoàng thượng khoan hồng đại độ, nhớ lại tình nghĩa năm xưa mà không nỡ gia hình, chỉ mong Tiêu Phong hối lỗi xin tha. Tiêu Phong chẳng thèm để mắt nhìn tới chúng, cứ tự mình rót rượu uống tì tì.

Cứ thế gần một tháng, bọn thuyết khách vẫn không nản chí, ngày nào cũng đến, nói đi nói lại chỉ có mấy câu, nào là: “Hoàng thượng đối với Tiêu đại vương ân đức nặng như non, đại vương nghe lời hoàng thượng là có con đường sống”, nào là: “Hoàng thượng là bậc thần minh trông xa vạn dặm, đã quyết định điều gì là chẳng sai lầm. Đại vương nên theo con đường hoàng thượng đã vạch cho…” vân vân. Chúng cũng biết những lời khuyến dụ đó chẳng lay chuyển được Tiêu Phong, mà cứ nói tới nói lui không ngán.

Một hôm Tiêu Phong bỗng sinh lòng ngờ vực, tự hỏi: “Hoàng thượng không phải hồ đồ, chắc biết khuyên mình cũng vô ích, mà sao cứ cho bọn này đến lải nhải hoài? Nhất định phải có kế hoạch bên trong.” Chàng cúi đầu ngẫm nghĩ, đột nhiên la thầm: “Phải rồi! Hoàng thượng đã đem binh đi đánh Nam triều, ngài sai bọn vô dụng này hàng ngày đến khuyên nhủ, chẳng qua là để mình yên lòng ngồi trong cũi. Nhưng rõ ràng là mình đã hết đường phản kháng, sao người không hạ lệnh giết đi, lại còn uổng công làm như vậy?”

Tiêu Phong nghĩ một lúc nữa liền hiểu rõ nguyên nhân: “Hoàng thượng tự cho là anh hùng, muốn tự mình dẫn binh Nam chinh để lấy giang sơn nhà Đại Tống, bắt mình phải khâm phục. Ngài muốn khi trở về sẽ gặp ta mà diễu võ giương oai, nhưng sợ tính khí ta cương cường có thể tuyệt thực tự tận, bèn phái người đến nói hươu nói vượn.”

Sự sống chết an nguy thì từ lâu chàng đã không để dạ. Tiêu Phong nằm trong cũi không còn kế thoát thân, chẳng buồn suy nghĩ gì nữa. Chàng vì lo âu cho thiên hạ mà không muốn dẫn quân Nam chinh, nhưng nghĩ Gia Luật Hồng Cơ đã động binh rồi, không thể vãn hồi được nữa. Ngoài những tiếng thở dài, chàng chỉ biết uống thật nhiều rượu để đỡ phải suy nghĩ.

Bốn tên thuyết khách vẫn tiếp tục lảm nhảm không dứt. Đột nhiên Tiêu Phong hỏi: “Quân ta đã qua sông Hoàng Hà chưa?” . Bọn thuyết khách ngạc nhiên nhìn nhau, chẳng biết trả lời ra sao. Rồi một tên đáp: “Tiêu đại vương nói rất đúng, đại quân ta sắp khởi hành, chuyện vượt sông Hoàng Hà là lẽ tất nhiên.” Tiêu Phong gật đầu nói: “Thì ra đại quân chưa khởi hành, không hiểu ngày nào là ngày hoàng đạo để xuất quân?” Bốn tên thuyết khách liếc mắt ra hiệu cho nhau, một tên đáp: “Bọn tại hạ chỉ là tiểu tốt, không được nghe đại sự.”

Một tên khác nói: “Chỉ cần Tiêu đại vương hồi tâm nghĩ lại là hoàng thượng tới đây ngay để thương nghị đại sự.” Tiêu Phong hắng giọng một tiếng, không hỏi gì nữa, nghĩ thầm: “Nếu hoàng thượng thắng như chẻ tre, lấy xong Đại Tống chắc sẽ giải mình về Biện Lương tương kiến. Nhưng nếu ngài thua trận trở về thì xấu hổ không gặp mình nữa, người bị giết trước tiên chính là mình. Nhưng mình mong ngài lấy được Đại Tống, hay mong ngài bại trận? Ha ha! Tiêu Phong ơi là Tiêu Phong, e rằng ngươi khó trả lời!”

Hoàng hôn ngày hôm sau, bốn tên thuyết khách lại khệnh khạng đến. Bọn thân binh canh giữ Tiêu Phong đã nghe chúng nói đến phát ngán, nên vừa thấy thì bất giác chau mày, tránh ra mấy bước. Đã hơn một tháng rồi chàng không có ý định trốn đi, lúc này binh sĩ đã không còn canh gác chặt chẽ như trước.

Một tên thuyết khách hắng giọng, rồi lên tiếng: “Tiêu đại vương! Hoàng thượng có chiếu chỉ. Đại vương mà không tuân chỉ thì phạm tội đại ác!” Tiêu Phong nghe câu này không biết đã mấy trăm lần, nhưng lần này thanh âm có điều khác lạ, tựa như người nói bị viêm họng. Bất giác chàng đưa mắt nhìn ra, lại càng thấy ngạc nhiên.

Gã thuyết khách chau mày nheo mắt, nhăn mặt làm bộ điệu rất lạ. Tiêu Phong định thần nhìn kỹ thì thấy tướng mạo người này khác trước nhiều. Chàng lại chú ý quan sát thì không khỏi vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ. Mấy sợi râu lưa thưa của gã chỉ là râu giả dán vào, mặt gã cũng bôi bằng mực loãng đen nhẻm thật khó coi, nhưng lại lộ ra mắt hạnh miệng đào, trông thật là xinh đẹp, chính là A Tử. Nàng hạ giọng, giả giọng ồm ồm nói: “Hoàng thượng đã nói là quyết không sai, đại vương cứ tuân theo thánh chỉ mà làm là được! Hừ, đây là thánh dụ của hoàng đế Đại Liêu chúng ta. Đại vương phải kính cẩn đọc mấy lời dụ này.” Nàng nói xong, lấy trong tay áo ra một tờ giấy cho Tiêu Phong đọc.

Lúc này trời sắp tối, nhưng mấy tên quan binh đã thắp đèn lồng sáng cả bốn phía. Tiêu Phong đọc thấy trên giấy vỏn vẹn có tám chữ: “Đại viện đã đến, đêm nay thoát hiểm”. Tiêu Phong hắng giọng một tiếng, rồi lắc đầu. A Tử lại nói: “Chuyến này chúng ta ra quân, binh cường mã tráng, lực lượng hùng hậu, chắc chắn kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công. Đại vương bất tất phải lo phiền nghi ngại.” Tiêu Phong nói: “Ta chỉ vì sợ tổn hại sinh linh mà không muốn Nam chinh, nên mới bị hoàng thượng cầm tù.” A Tử nói: “Thắng trận hay không là nhờ ở mưu cao, cần gì phải giết người cho lắm.”

Tiêu Phong nhìn ba tên thuyết khách kia thì thấy kẻ phe phẩy cây quạt, người giơ tay áo lên, dường như không muốn ai nhìn rõ mặt, dĩ nhiên đều đồng mưu với A Tử. Tiêu Phong thở dài nói: “Bằng hữu có hảo ý, ta rất cảm kích. Nhưng bên địch phòng thủ cực kỳ nghiêm mật, thì việc đánh thành chiếm đất e rằng không chắc thắng được đâu…”

Chàng chưa dứt lời, đột nhiên nghe mấy tên quan binh la hoảng: “Rắn độc! Rắn độc! Ở đâu mà nhiều rắn độc thế này?” Quả nhiên, ngoài cửa lớn, ngoài cửa sổ, vô số rắn độc đang uốn éo bò tới, đầu lắc lư, lưỡi thè ra. Trong sảnh đường nhốn nháo cả lên. Tiêu Phong động tâm nghĩ thầm: “Đàn rắn độc này tựa hồ do huynh đệ Cái Bang điều khiển.”

Bọn thân binh giơ trường mâu đâm túi bụi. Tên đội trưởng thân binh quát lên: “Quân hầu cận Tiêu đại vương không được xê dịch nửa bước, kẻ nào trái lệnh thì phải chém đầu.” Tên đội trưởng này rất minh mẫn, hắn thấy rắn bò đến một cách kỳ lạ, chỉ sợ mọi người hoảng loạn để Tiêu Phong thừa cơ trốn thoát. Quả nhiên bọn thân binh đứng gác cũi sắt không dám nhúc nhích, tên nào cũng cầm trường mâu chĩa vào Tiêu Phong trong cũi. Chúng không dám xê dịch, nhưng mắt vẫn liếc chừng bầy rắn độc, khi rắn đến gần, chúng mới vung đao lên chém.

Đang lúc náo loạn, phía sau Vương phủ lại có tiếng la ó: “Lấy nước chữa lửa! Chữa lửa!”. Tên đội trưởng lại quát lên:”  “Khải Hổ Nhi, ngươi đi báo với Chỉ huy sứ đại nhân, hỏi xem có đưa Tiêu đại vương đi chỗ khác không?” Khải Hổ Nhi là tên trưởng toán bọn lính canh, quay lưng toan chạy đi. Bỗng nghe ngoài sảnh đường có tiếng người quát: “Không được trúng kế điệu hổ ly sơn của quân gian tế. Nếu có người cướp ngục thì đâm chết Tiêu Phong đi!” Người ra lệnh đó chính là Chỉ huy sứ, tay cầm trường đao, đứng chắn ngay cửa, oai phong lẫm liệt.

Đột nhiên có bóng lấp loáng, một con rắn nhỏ sắc xanh nhảy tới đớp vào mặt Chỉ huy sứ, hắn vội vung đao lên chém. Bỗng nghe tiếng ám khí veo véo từ ngoài bắn vào, đèn đuốc trong đại sảnh đều tắt ngấm, trong nhà tối om. Chỉ huy sứ la lên một tiếng: “Úi chao!”, đã trúng ám khí ngã ngửa ra sau.

A Tử rút bảo đao trong tay áo ra chém vào xích sắt trói Tiêu Phong. Mấy tiếng “chát, chát” vang lên, xích sắt đứt liền. Tiêu Phong nghĩ bụng: “Mấy cây song sắt này lớn quá, e rằng đao chặt không đứt. Biết làm thế nào mà ra được?” Đột nhiên chàng thấy đất dưới chân lõm xuống. A Tử bên ngoài cũi sắt nói nhỏ: “Theo đường hầm mà trốn!” Rồi Tiêu Phong thấy hai bàn tay từ dưới đất thò lên, nắm chân mình kéo xuống. Thì ra đây là Hoa Hách Cấn từ Đại Lý đến viện trợ. Y chuyên nghề đào mồ trộm, mà cũng phải mất mười ngày mới đào xong địa đạo từ ngoài vào đến chỗ Tiêu Phong.

Hoa Hách Cấn kéo Tiêu Phong xuống, rồi theo đường địa đạo bò ra, mau lẹ chẳng kém gì người đi trên mặt đất. Chỉ trong khoảnh khắc y đã bò được hơn trăm trượng, rồi đỡ Tiêu Phong đứng dậy. Tiểu Phong vừa ở trong đường hầm chui ra đã thấy ba người đứng ở cửa hầm, vẻ mặt rất hoan hỉ, chính là Đoàn Dự, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch. Đoàn Dự lên tiếng gọi: “Đại ca!” rồi nhảy xổ lại ôm Tiêu Phong.

Tiêu Phong cười ha hả, nói: “Thần kỹ của Hoa tư đồ thật là hiếm thấy. Hôm nay tại hạ mới biết, lấy làm bái phục!” Hoa Hách Cấn nói:”Được kim khẩu Tiêu đại vương khen ngợi, thật là chuyện vinh dự nhất trong đời tiểu nhân!”

Chỗ này cách Vương phủ Nam Viện Đại Vương chưa xa mấy, tiếng Liêu binh la ó reo hò vẫn còn nghe rõ. Bỗng thấy có người cưỡi ngựa chạy qua, vừa thổi tù và vừa lớn tiếng gọi: “Địch nhân đánh vào cửa Đông! Quan binh canh gác ngự doanh phải giữ nguyên vị trí, không được tự tiện chạy đi!” Phạm Hoa nói: “Tiêu đại vương, vậy chúng ta theo cửa Tây mà đánh ra!” Tiêu Phong gật đầu nói: ” Được lắm! Không hiểu mấy người bọn A Tử đã thoát ra chưa?”

Phạm Hoa chưa kịp đáp thì giọng A Tử từ cửa hầm vọng ra: “Tỉ phu! Thì ra huynh còn nhớ đến muội.” Thanh âm của nàng đầy vẻ vui mừng. Nàng từ trong đường hầm chui ra, dưới cằm vẫn dán mấy sợi râu lơ thơ, mặt lem luốc trông rất dơ dáy, nhưng trong mắt Tiêu Phong thì từ ngày biết nàng đến giờ, có lẽ lúc này chàng thấy nàng đẹp nhất. A Tử rút bảo đao ra toan chặt khóa cho Tiêu Phong. Nhưng cái khóa này sát vào da thịt, nếu chém trệch đi một chút là đứt tay ngay. Nàng liền đưa bảo đao cho Đoàn Dự nói: “Ca ca! Huynh cắt đi.” Đoàn Dự đón lấy bảo đao rồi vận nội lực vào, cắt khóa sắt ngọt như gọt gỗ.

Lúc ấy trong hầm lại có ba người nữa chui lên. Một là Chung Linh, hai là Mộc Uyển Thanh, còn người thứ ba là một đệ tử Cái Bang tám túi. Y là tay thiện nghệ về nuôi rắn độc, vừa rồi đã huy động đàn rắn xông vào đại sảnh làm náo động đối phương. Tên đệ tử này thấy Tiêu Phong vô sự thì mừng chảy nước mắt, gọi: “Bang chủ! Lão nhân gia…”

Tiêu Phong lại được nghe đệ tử Cái Bang gọi mình bằng Bang chủ với giọng trung thành, trong lòng không khỏi cảm động, ngắt lời: “Làm khó cho ngươi rồi!” Câu nói của chàng làm y cảm động đến rơi lệ.

Phạm Hoa nói: “Binh mã nước Đại Lý đang đánh nhau với Liêu binh ở cửa Đông, chúng ta nên nhân lúc lộn xộn mà chạy đi thôi. Tiêu đại vương đừng ra tay, để họ khỏi nhận ra.” Tiêu Phong đáp: “Đúng thế!” Chín người từ trong cửa lớn xông ra. Tiêu Phong quay đầu nhìn lại, thì đây vốn là một tòa nhà lợp ngói, nhưng đã bị tàn phá, nhìn không còn ra hình thù gì nữa. A Tử la lên bằng tiếng Khất Đan: “Cứu hỏa! Cứu hỏa!” Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn cũng bắt chước la theo. Ba Thiên Thạch khinh công tuyệt diệu, thấy ngoài đường không có quân lính liền chạy đi trước, chạy đến đâu phóng hỏa đến đấy. Chỉ một lát đã có bảy tám chỗ lửa bốc ngùn ngụt.

Chín người chạy về phía tây. Bọn Đoàn Dự hóa trang làm người khất Đan, lúc này trong thành cực kỳ hỗn loạn nên không ai để ý. Thỉnh thoảng nghe tiếng vó ngựa kỵ binh Khất Đan chạy đến, thì chín người lại dạt ra ẩn nấp. Đoàn người chạy qua đến chín mười đường phố, bỗng nghe tù và thổi inh ỏi, tiếng người la ó: “Không xong rồi! Quân địch phá cửa Bắc, bắt hoàng thượng đem đi rồi!”

Tiêu Phong kinh hãi dừng lại, hỏi Đoàn Dự:”Liêu đế bị bắt rồi ư? Tam đệ! Liêu đế đã là nghĩa huynh của ta, tuy người bất nhân với ta, song ta không thể bất nghĩa với người. Vạn vạn lần không thể…” A Tử cười đáp: “Tỉ phu cứ yên tâm! Đó là bọn ba mươi sáu Động chúa, bảy mươi hai Đảo chúa thuộc hạ cung Linh Thứu đã phao ngôn để náo loạn lòng người. Trong thành Nam Kinh có trọng binh đóng giữ, hoàng đế lại có hơn một vạn thân binh bảo vệ, làm sao mà bắt được?” Tiêu Phong vừa lo vừa mừng, hỏi lại: “Thuộc hạ của nhị đệ cũng đến đây ư?”

A Tử đáp: “Chẳng những thuộc hạ của tiểu hòa thượng, mà chính tiểu hòa thượng cùng vợ y cũng đến.” Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi: “Tiểu hòa thượng có vợ rồi ư?” A Tử cười đáp: “Tỉ phu chưa biết đâu, vợ của Hư Trúc Tử chính là công chúa nước Tây Hạ. Nhưng nàng lúc nào cũng lấy khăn che mặt, ngoài tiểu hòa thượng ra không một ai được nhìn thấy dung nhan. Muội đã hỏi tiểu hòa thượng xem vợ y có đẹp không, nhưng y chỉ cười mà không đáp.”

Tiêu Phong đang chạy trốn rất nguy hiểm, nhưng được nghe chuyện lạ này cũng bất giác thấy mừng cho Hư Trúc, quay lại nhìn Đoàn Dự một cái. Đoàn Dự cười nói: “Đại ca bất tất phải nghĩ ngợi. Tiểu đệ chẳng để tâm gì đâu, mà nhị ca cũng không thất tín. Chuyện này kể ra dài lắm, chúng ta từ từ rồi hãy nói.”

Mọi người chạy thêm một đoạn đường nữa, bỗng thấy trong quảng trường phía trước có một cái đài cao, lửa cháy rất dữ. Trước đài có dựng hai cột cờ lớn, hai lá cờ cũng đang cháy ngùn ngụt. Tiêu Phong biết đây là võ trường trong thành Nam Kinh, là nơi để quân Liêu tập dượt. Nhưng chàng không biết cái đài này dựng lên từ bao giờ.

Ba Thiên Thạch nói với Đoàn Dự: “Bệ hạ! Tướng đài của Liêu chúa bị cháy, cờ soái cũng ra tro, đó là điềm bất tường. Chuyến này Gia Luật Hồng Cơ đem quân đánh Tống, e rằng bất lợi.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Đúng thế.”

Tiêu Phong nghe Ba Thiên Thạch gọi “Bệ hạ” mà Đoàn Dự lại gật đầu, thì lấy làm lạ hỏi: “Tam đệ! Ngươi… ngươi làm hoàng đế rồi ư?” Đoàn Dự buồn rầu đáp: “Tiên phụ bất hạnh lâm chung giữa đường, hoàng bá phụ lánh ngôi đầu Phật, lên Thiên Long Tự xuất gia, bắt tiểu đệ phải tiếp ngôi. Tiểu đệ vô tài vô đức mà phải ở ngôi cao, thật là xấu hổ.”

Tiêu Phong giật mình nói: “Trời ơi, bá phụ mất rồi ư? Tam đệ! Ngươi đã là vua một nước, sao còn vì ta mà dấn thân vào nơi nguy hiểm? Lỡ mà ngươi chỉ tổn thương chút xíu, ta… ta phải đối xử với quân dân cả nước Đại Lý ra sao?”

Đoàn Dự cười hì hì đáp: “Đại Lý chỉ là một nước nhỏ ở trời nam hẻo lánh, hài chữ Hoàng Đế cũng là tiếm hiệu. Tiểu đệ không đáng vị quân vương, có chỗ nào xứng làm hoàng đế đâu? Mỗi khi tiểu đệ nghe người ta kêu bằng bệ hạ, lại thấy hổ thẹn trong lòng. Hai ta tình như cốt nhục, có lẽ đâu đại ca gặp nạn mà tiểu đệ lại không đến chia xẻ với đại ca?”

Phạm Hoa nói: “Tiêu đại vương hết lòng can gián Liêu đế, không chịu đánh Tống, tệ quốc từ trên xuống dưới chẳng ai là không cảm đại đức. Liêu đế lấy được Đại Tống xong, tất nhiên tràn xuống lấy nốt Đại Lý. Tệ quốc tướng sĩ kém cỏi, địch làm sao được với tinh binh Khất Đan? Tiêu đại vương cứu Đại Tống tức là cứu luôn cả Đại Lý. Vậy Đại Lý có phải đem hết sức mà bảo vệ đại vương cũng là hợp lý.”

Tiêu Phong nói: “Ta là một tên dũng phu, chỉ không nỡ nhìn hai nước giao tranh sinh linh chết chóc, làm gì có công lao?”

Lúc ấy thành Nam Kinh đang cháy ngút trời, trăm họ dắt díu nhau chạy loạn, lẫn lộn trong quân mã. Có tiếng la: “Hòa thượng chùa Thiếu Lâm ở Nam triều cùng vô số hảo hán đến đánh phá cửa Nam.” Có người gầm lên: “Nam Viện đại vương Tiêu Phong làm phản, đầu hàng Tống triều, giết chết Liêu chúa rồi!” Mấy tên quân Khất Đan nghiến răng nói: “Tên Tiêu Phong phản quốc hàng giặc, chỉ hận mình không xé xác hắn ra được.” Lại có người hỏi: “Vạn tuế gia bị phản tặc Tiêu Phong gia hại rồi ư?” Một người khác đáp: “Còn chi mà không thật? Chính mắt ta trông thấy thằng khốn Tiêu Phong cưỡi ngựa trắng xông lại trước mặt hoàng thường, Cầm thương đâm thủng ngực ngài!” Một lão già hỏi: “Thằng chó Tiêu Phong sao lại bất lương đến thế? Hắn là người Khất Đan hay là người Hán?” Một đại hán đáp: “Nghe nói hắn là Nam man, ăn mặc giả làm người Khất Đan. Hắn tàn ác hơn cả loài cầm thú.”

A Tử thấy bọn người Khất Đan này vừa chạy vừa thóa mạ Tiêu Phong thì tức giận đến cực điểm, vung roi ngựa lên toan đánh. Tiêu Phong vội giơ tay ngăn cản, lắc đầu khẽ nói: “Để mặc họ nói sao thì nói.” Chàng lại hỏi: “Các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đến đây thật ư?”

Tên đệ tử tám túi đáp: “Tại hạ xin trình với Bang chủ: Đoàn cô nương ra khỏi Nam Kinh thì gặp Ngô trưởng lão bản bang, nói là Bang chủ vì giang sơn nhà Đại Tống cùng trăm họ người Hán mà hết sức ngăn cản Liêu chúa khởi binh đánh Tống, đến nỗi bị người Liêu cầm tù. Ngô trưởng lão không tin, cho rằng Bang chủ vốn người Khất Đan, khi nào còn nghĩ đến Đại Tống? Trưởng lão đích thân trà trộn vào trong thành Nam Kinh, tự mình thám thính mới tin lời Đoàn cô nương là đúng. Ngô trưởng lão bèn lấy Thanh Trúc Lệnh, bảo bọn đệ tử bố cáo cho các vị anh hùng Trung Nguyên biết Bang chủ là bậc đại nhân đại nghĩa. Hết thảy võ lâm Trung Nguyên đều cảm động về tấm lòng hào hiệp của Bang chủ, rồi nhờ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm dẫn đầu, kéo đến cứu viện Bang chủ.”

Tiêu Phong nhớ lại ngày ở Tụ Hiền Trang, mình đã cùng võ lâm Trung Nguyên thành cừu địch, lại giết bao nhiêu anh hùng hao hán, thế mà nay quần hùng lại đến cứu mình. Trong lòng chàng vừa cảm kích vừa hối hận.

A Tử nói: “Bọn ăn mày Cái Bang mà truyền tin đi bốn phía thì còn gì mau lẹ bằng? Trời ơi! Chết rồi! Đáng tiếc, đáng tiếc!” Đoàn Dự hỏi: “Cái gì mà đáng tiếc?” A Tử đáp: “Lúc này muội đem cái Thần Mộc Vương Đỉnh đốt hương trong nhà đại sảnh để dẫn dụ rắn đến, vội quá mà để quên mất rồi.” Đoàn Dự cười nói: “Cái vật bàng môn tả đạo đó quên mất thì thôi, đem theo bên mình để làm gì?” A Tử nói: “Hừ! Bàng môn tả đạo cái gì? Không có nó thì lấy gì mà dụ đàn rắn độc tới nhanh như thế, tỉ phu muội đâu có thoát thân một cách dễ dàng?”

Nàng chưa dứt lời, đã nghe tiếng binh khí vang lên choang choảng. Dưới ánh lửa, ai nấy trông rõ bọn quân Liêu đang đánh lẫn nhau. Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi: “Lạ chưa? Sao bọn chúng lại…” Đoàn Dự ngắt lời: “Đại ca! Những người cổ buộc vải trắng là phe ta.” A Tử lấy ra một miếng vải trắng đưa cho Tiêu Phong rồi nói: “Tỉ phu buộc vào!”

Tiêu Phong nhìn rất rõ ràng, quân Liêu không phân biệt được địch ta nên đâm chém loạn xạ, tự tàn sát rất nhiều. Còn quân Liêu giả, cổ buộc vải trắng, cứ nhằm quân Liêu thật mà đâm chém. Tiêu Phong thấy người Liêu máu bắn tứ tung, thây nằm chật đất, bất giác la lớn: “Ta là người Khất Đan, không phải người Hán! Ta là người Khất Đan, không phải người Hán!” Tay chàng cầm miếng vải trắng mà không sao buộc vào cổ được.

Lúc ấy có tiếng ken két vang lên, hai cánh cổng nặng nề của cửa Tây thành mở ra. Đoàn Dự và Phạm Hoa đẩy bừa Tiêu Phong ra ngoài. Ngoài thành đèn đuốc sáng trưng, không biết bao nhiêu bang chúng Cái Bang đã cưỡi ngựa đến. Họ vừa thấy Tiêu Phong đã hoan hô như sấm dậy: “Kiều Bang chủ! Kiều Bang chủ!” Lửa sáng rực trời, tiếng hô dậy đất.

Hai dãy đèn đuốc chuyển động tựa như hai con rồng lửa. Một lão già ở giữa cưỡi ngựa tiến lại, hai tay nâng cây Đả Cẩu Bổng tín vật của Bang chủ Cái Bang lên tận đỉnh đầu, chính là Ngô trưởng lão. Lão tới trước mặt Tiêu Phong liền xuống ngựa, quỳ xuống đất nói: “Ngô Trường Phong này được huynh đệ ủy thác đem cây Đả Cẩu Bổng trả lại Bang chủ. Bọn thuộc hạ hồ đồ đáng chết, đã vu oan cho người tốt, để Bang chủ phải chịu bao nhiêu nỗi cơ cực. Bọn thuộc hạ thật không bằng giống chó lợn, mong rằng Bang chủ đại nhân dại nghĩa mà quên tội lỗi của bọn tiểu nhân, nghĩ tới bang chúng không người dẫn dắt, trở lại làm Bang chủ. Bọn tiểu nhân vì mắc lừa gian tặc mà bảo Bang chủ là giống chó Khất Đan, thực tội đáng ngàn đao phân thây, xin Bang chủ trừng phạt”. Lão nói xong, cầm cây Đả Cẩu Bổng trao cho Tiêu Phong.

Tiêu Phong không khỏi đau lòng, đáp: “Ngô trưởng lão! Tại hạ đúng là người Khất Đan. Các vị trọng nghĩa mà viện trợ, tại hạ cảm kích vô cùng! Nhưng ngôi bang chủ Cái Bang thì tại hạ vạn vạn lần không thể nhận được nữa.” Chàng vừa nói vừa đưa tay ra nâng Ngô Trường Phong dậy.

Ngô Trường Phong vò đầu bứt tai, hỏi: “Bang chủ… Bang chủ là người Khất Đan ư? Bang chủ… Bang chủ nhất định không làm bang chủ nữa ư? Kiều Bang chủ! Bang chủ là người đại lượng, đừng oán hận nữa!”

Bỗng nghe trong thành trống thúc liên hồi, đại đội Liêu binh kéo ra. Đoàn Dự nói: “Ngô trưởng lão! Chúng ta chạy mau đi! Quân Liêu thế lớn, để họ bày thành trận thế là không địch nổi.”

Tiêu Phong cũng biết Cái Bang cùng quần hùng Trung Nguyên chiếm được thượng phong là nhờ đánh bất ngờ. Nếu thực sự chiến đấu thì mấy trăm mấy ngàn hảo hán giang hồ địch làm sao lại mấy vạn quân tinh nhuệ nước Liêu? Mà nếu đánh nhau thì hai bên sẽ tử thương rất nhiều, trái với ý nguyện của mình. Chàng liền nói: “Ngô trưởng lão! Việc cử Bang chủ rồi sẽ tính sau. Trưởng lão truyền lệnh, kêu anh em theo cửa Tây rút lui ngay!”

Ngô trưởng lão “Vâng! một tiếng, gấp rút truyền lệnh cho bang chúng Cái Bang đổi hậu đội làm tiền đội, xông về phía tây mà chạy. Chẳng mấy chốc, Hư Trúc Tử dẫn quần nữ dưới trướng cung Linh Thứu cùng bọn ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo cũng theo kịp. Đoàn người chạy được vài dặm thì lại gặp bọn Chu Đan Thần dẫn một đoàn võ sĩ nước Đại Lý cũng đuổi tới nơi. Chỉ còn thiếu quần tăng chùa Thiếu Lâm và quần hào Trung Nguyên mãi chưa thấy đến. Trong thành Nam Kinh vẫn nghe tiếng xung sát ác liệt văng vẳng đến.

Tiêu Phong nói: “Quần tăng chùa Thiếu Lâm và hào kiệt Trung Nguyên còn bị kẹt ở trong thành, chúng ta hãy chờ một chút.” Một lúc sau, tiếng reo hò lẫn tiếng binh khí đánh nhau trong thành lại càng vang dội. Đoàn Dự nói: “Đại ca đợi ở đây, để tiểu đệ vào giúp họ ra.” Chàng nói xong, dẫn bọn võ sĩ nước Đại Lý quay vào thành.

Lúc này trời đã mờ mờ sáng. Tiêu Phong hồi hộp trong lòng, chỉ sợ rằng quần hào khó lòng thoát hiểm. Tiếng reo hò trong thành lại càng dữ dội khủng khiếp. Bọn võ sĩ Đại Lý xông vào Liêu trận đã lâu, mà mãi vẫn chưa thấy cứu quần hào ra.

Một tên đệ tử Cái Bang phi ngựa đến báo: “Mấy ngàn quân thiết giáp bên Liêu đã giữ chặt cửa thành phía tây rồi. Số đông võ sĩ Đại Lý chưa xông vào được, còn quần hùng Trung Nguyên bị hãm trong thành không ra thoát.” Hư Trúc Tử vẫy tay gọi: “Bọn cung Linh Thứu chúng ta phải đi tiếp ứng!” Y liền dẫn hơn hai ngàn hảo hán khắp tam sơn ngũ nhạc và quần nữ chín bộ cung Linh Thứu xông vào trận.

Tiêu Phong ngồi trên lưng ngựa, nhìn về phía đông thì thấy rải rác trong thành Nam Kinh có lửa bốc lên, phía tây một ngọn lửa, phía đông một ngọn lửa, không hiểu vì lẽ gì. Chàng chờ một lúc, lại có thám tử về báo: “Đoàn hoàng gia nước Đại Lý cùng Hư Trúc Tử tiên sinh cung Linh Thứu đã mở một đường máu, xông được vào trong thành.”

Trước nay hễ có đánh nhau là Tiêu Phong đi đầu, mà lần này chàng phải đứng chờ một chỗ. Lòng nóng như lửa đốt, chàng nói: “Ta phải đi xem sao!” Ba cô A Tử, Mộc Uyển Thanh và Chung Linh đều khuyên can: “Người Liêu chỉ muốn bắt được huynh mới cam tâm, ngàn vạn lần chớ nên mạo hiểm! Tiêu Phong nói: “Không sao!” Rồi chàng phóng ngựa đi trước, bang chúng Cái Bang cũng kéo hết theo sau.

Đoàn người đi đến ngoài cửa Tây thành Nam Kinh thì thấy rải rác dưới chân tường và trên mặt thành có đến mấy trăm xác chết nằm la liệt, phần lớn là Liêu binh, cũng có một số là võ sĩ của Đoàn Dự và thuộc hạ của Hư Trúc. Cửa thành hé mở, hai vị Đảo chúa cầm đại đao đứng giữ, hễ quân Liêu xông ra là chém, không để cho chúng đóng cửa thành lại.

Bỗng nghe phía nam và phía bắc có tiếng vó ngựa dồn dập. Tiêu Phong kinh hãi nói: “Nguy rồi! Nếu đại đội Liêu binh chia hai ngả nam bắc quay lại đánh, thì chúng ta bị bao vây mất.” Chàng tung mình nhảy lên, nửa chừng thì điểm chân vào tường để mượn đà nhảy lên cái nữa, đến được mặt thành. Tiêu Phong nhìn vào thành thì thấy bên trong cửa Tây, mỗi chỗ một tốp người đang giao tranh. Quần hào Trung Nguyên bị vô số quân Liêu chia ra vây đánh. Bọn hào kiệt tuy võ công cao cường, nhưng một phải địch hơn mười, đánh nhau đã lâu thành ra mỏi mệt, ít người không địch nổi số đông.

Tiêu Phong đứng trên mặt thành, hết nhìn vào trong lại nhìn ra ngoài, chưa biết quyết định thế nào. Quần hào bị vây hãm kia đều vì giúp chàng mà bị nguy khốn, dĩ nhiên chàng không thể mở mắt mà nhìn bọn họ chết dưới lưỡi đao của quân Liêu. Nhưng chàng lại nghĩ, nếu mình nhảy xuống cứu viện thì công nhiên coi quân Liêu là thù địch, sẽ biến thành một tên Liêu gian phản quốc giúp giặc, chẳng những thẹn với tổ tông mà còn bị đồng bào thóa mạ. Bốn chữ “Tiêu Phong bất trung” sẽ lưu xú vạn niên.

Tiêu Phong vốn làm gì cũng mau lẹ quyết đoán, mà lúc này tiến thoái lưỡng nan. Chàng thấy bên bức tường thành có bảy tám tên võ sĩ Khất Đan đang vây đánh hai vị lão tăng chùa Thiếu Lâm. Một vị tay múa giới đao chống cự, miệng phun máu tươi ra không ngớt, rõ ràng đã bị trọng thương, Tiêu Phong chú ý nhìn kỹ thì chính là Huyền Minh đại sư. Còn một vị nữa vung thiền trượng liều mạng chống dở, chính là Huyên Thạch đại sư. Hai tên võ sĩ Khất Đan vung trường đao lên chém xuống Huyền Minh. Huyền Minh định vung giới đao lên gạt, không ngờ mới đưa lên đến ngang ngực đã kiệt lực. Huyền Thạch hất ngược cây thiền trượng, gạt vào sống đao đánh choang một tiếng. Thần lực ghê hồn, hai thanh trường đao bật ngược lại, dập vào trán hai tên võ sĩ Khất Đan làm cho đầu chúng vỡ tan. Huyền Thạch chưa kịp mừng thì lại nghe tiếng Huyền Minh rú lên, máu tươi vọt ra tung tóe, vai trái đã trúng một đao. Huyền Thạch phóng trượng đập liền, một tên Liêu binh gãy nát xương mà chết. Nhưng lúc ấy Huyền Thạch sơ hở trước ngực, bị một tên võ sĩ Khất Đan cầm trường mâu đâm trúng bụng, mũi mâu xuyên qua sau lưng cắm chặt vào bức tường thành. Huyền Thạch rú lên một tiếng, dùng hết tàn lực vung trượng đập một cái cuối cùng, tên võ sĩ Khất Đan này vỡ đầu chết ngay. Huyền Minh thấy Huyền Thạch bị trúng mâu, múa loạn thanh giới đao không thành chiêu số gì hết, hai mắt đẫm lệ, la gọi: “Sư đệ!”

Nhiệt huyết Tiêu Phong sôi lên sùng sục, chàng không nhẫn nại được nữa, lớn tiếng quát: “Tiêu Phong ở đây! Các ngươi muốn giết thì lại mà giết ta, đừng giết người vô tội nữa!” Chàng từ mặt thành nhảy xuống, người chưa chấm đất đã đá bốn tên võ sĩ Khất Đan văng đi. Chân trái vừa đặt xuống đất, lập tức kéo Huyền Minh lại, tay phải cầm lấy cây thiền trượng của Huyền Thạch. Tiêu Phong nói: “Tại hạ đến cứu viện chậm trễ, tội nghiệt thực là thâm trọng.” Chàng gạt cây thiền trượng một cái, lại hai tên võ sĩ Khất Đan bị bắn ra xa đến mười mấy thước.

Huyền Thạch cười khổ, nói: “Bọn lão nạp vu oan cư sĩ là người Khất Đan, tội nghiệt lại càng thâm trọng. Thiện tai! Thiện tai! Đến nay nước chảy đá…” Chữ “bày” chưa thốt được, Huyền Thạch đã ngoẹo đầu ra, tuyệt khí chết rồi.

Tiêu Phong cứu được Huyền Minh, lại quay sang bên trái, xông vào chỗ bọn võ sĩ Đại Lý đang bị vây đánh. Tướng sĩ nước Liêu thấy Nam Viện Đại Vương đột nhiên xuất hiện thần oai lẫm liệt, đều hoảng vía kinh hồn. Tiêu Phong múa tít cây thiền trượng đánh ra tới tấp, tuy chàng không muốn giết người, nhưng ai đụng phải cũng bị thương liền. Bọn Liêu binh vừa la hét vừa dạt ra hai bên, chỉ trong khoảnh khắc, Tiêu Phong đã gom hơn hai trăm người tụ vào một chỗ. Chàng lớn tiếng nói: “Các vị chớ có rời nhau ra.” Dứt lời chàng dẫn hai trăm người này đi quanh một lượt, hễ thấy ai bị bao vây là lại xông vào đón ra. Tiêu Phong mỗi lúc một mở rộng hàng ngũ, đến lúc quy tụ lại được chừng một ngàn người thì quân Liêu không ngăn trở được nữa. Chàng cùng Hư Trúc, Đoàn Dự và Huyền Độ đại sư chùa Thiếu Lâm dẫn quần hào Trung Nguyên xông ra cửa thành.

Tiêu Phong hoành ngang thiền trượng, đứng bên cổng thành bảo vệ cho ba cánh nhân mã là nước Đại Lý, cung Linh Thứu và quần hào Trung Nguyên ra khỏi. Binh tướng nước Liêu chỉ đuổi theo xa xa mà la ó om sòm, không một tên nào dám tiến lên xung sát.

Tiêu Phòng chờ mọi người ra hết rồi mới đi sau cùng. Chàng ngoảnh đầu nhìn lại thì thấy tử thi chất đống, không biết đã chết mất bao nhiêu sinh mạng. Chợt nhìn thấy hai nữ nhân thuộc hạ cung Linh Thứu đang lăn lộn rên la trên vũng máu, không ngồi dậy được, Tiêu Phong lại quay vào thành, nắm lấy lưng xách hai người này ra.

Đột nhiên trống thúc liên hồi, hai đội quân từ hai phía nam bắc đã kéo đến. Tiêu Phong cũng hơi sờn lòng, vì hai đội quân này mỗi đội có hơn vạn người, bên mình lại chiến đấu lâu rồi, ai chưa bị thương thì cũng đã mệt nhoài, không thể đối địch được nữa. Chàng liền lớn tiếng gọi: “Huynh đệ Cái Bang xuống ngựa chặn hậu, nhường các bằng hữu bị thương cưỡi ngựa rút lui trước.” Bang chúng Cái Bang vâng dạ, vội vàng xuống ngựa. Tiêu Phong lại hô: “Lập thành Đả Cẩu Đại Trận!” Bang chúng vừa hát bài Liên Hoa Lạc vừa dàn thành trận thế. Tiêu Phong la lên: “Huyền Độ đại sư, nhị đệ, tam đệ! Mau dẫn bằng hữu bản bộ chạy về phía Tây, để Cái Bang đoạn hậu.”

Dưới ánh dương quang, đao thương của binh tướng nước Liêu lấp loáng sáng lòa. Mấy vạn vó ngựa thiết kỵ nện xuống đất ầm ầm, tựa hồ núi non cũng phải rung chuyển.

Hư Trúc cùng Đoàn Dự thấy uy thế Liêu binh ghê gớm, biết là Đả Cẩu Đại Trận của Cái Bang dù tuyệt diệu đến đâu cũng khó ngăn cản nổi. Hai người liền đến bên Tiêu Phong đồng thanh nói: “Đại ca! Chúng ta kết nghĩa anh em, có họa cùng chịu, sống chết có nhau!” Tiêu Phong nói: “Vậy hai ngươi hãy bảo nhân mã bản bộ rút lui trước đã.”

Hư Trúc, Đoàn Dự vội vàng hạ lệnh cho thuộc hạ rút lui. Ngờ đâu bộ thuộc cung Linh Thứu không chịu bỏ chủ nhân, nhất là tướng sĩ Đại Lý khi nào chịu để hoàng đế ở lại nơi hiểm địa mà tự mình bỏ chạy? Quân Liêu đến mỗi lúc một gần, vũ tiễn bắn tới chỉ còn cách bọn Tiêu Phong mười mấy trượng. Lẽ ra thì Huyền Độ đã thống lĩnh quần hào Trung Nguyên rời khỏi đây, nhưng lúc này quần hào thấy tình thế nguy hiểm, đã có mấy chục người chạy lại trợ chiến.

Tiêu Phong lòng hoảng sợ, nghĩ thầm: “Những người này tuy võ công cao cường nhưng không hiểu binh pháp, chỉ xúm xít lại với nhau thì làm sao chống cự với Liêu binh được? Mình chết chẳng kể làm chi, nhưng bấy nhiêu người đều bị quân Liêu giết hết ở ngoài thành Nam Kinh, thì ra… thì ra…”

Đột nhiên trong Liêu trận nổi hiệu thanh la để lui quân, quân Liêu quay đầu ngựa lại, đổi hậu đội thành tiền đội, rút lui về hai phía nam bắc. Tiêu Phong ngạc nhiên không hiểu ra sao, rồi thấy sau trận quân Liêu có tiếng reo dậy đất, cát bụi mịt mù, thì ra đã có một cánh quân đến tập hậu. Tiêu Phong tự hỏi: “Phía sau Liêu trận lại có nhân mã đến đánh, chẳng lẽ bên Liêu có quân nổi loạn? Nếu hoàng thượng mà hoảng hốt thì tình hình thật là nguy hiểm.” Chàng thấy quân Liêu khốn đốn, bất giác không tự chủ được, nghĩ ngay đến Gia Luật Hồng Cơ.

Tiêu Phong nhảy lên đứng trên yên ngựa, nhìn về phía hậu trận quân Liêu thì thấy một lá cờ trắng tung bay trước gió, tên bắn tới như mưa rào, quân Liêu tới tấp ngã ngựa. Tiêu Phong chợt hiểu, la to: “Trời ơi, đây là bộ lạc Nữ Chân đem quân đến cứu ta. Không hiểu sao họ đã biết tin?”

Người Nữ Chân toàn là tay thiện xạ, lúc lâm trận dũng mãnh phi thường, cứ một trăm kỵ mã hợp thành một đội, reo hò xông vào Liêu trận làm cho rối loạn. Một là quân Liêu bị đánh bất thình lình, hai là quân Nữ Chân rất thiện chiến, thống soái quân Liêu thấy địch không nổi, lại sợ Tiêu Phong dẫn đồng bọn phản công thành ra hai mặt thụ địch, liền vội vã rút quân chạy vào thành.

Phạm Hoa là quan Tư mã nước Đại Lý vốn tinh thông binh pháp, lên tiếng nhắc Tiêu Phong: “Tiêu đại vương, chúng ta nên thừa cơ xung sát. Đây là cơ hội tốt nhất để diệt địch, sao đại vương còn chưa hạ lệnh?” Tiêu Phong lắc đầu không đáp. Phạm Hoa lại nói: “Nhạn Môn Quan còn xa lắm, nếu mình không thừa cơ phá vỡ Liêu binh, sau sẽ bị nguy. Địch nhiều mà ta ít, khó mà toàn quân trở về.” Tiêu Phong lại lắc đầu. Phạm Hoa không hiểu tại sao, chỉ thầm nghĩ: “Tiêu đại vương không chịu tiêu diệt Liêu binh, phải chăng y còn chừa đường để sau này nói chuyện với Liêu chúa?”

Lúc đó đoàn người Nữ Chân để trần nửa thân trên, mặc quần da thú, cưỡi ngựa gầy nhom xông vào. Tên bắn ra veo véo, hậu đội quân Liêu còn hơn một nghìn tên chưa kịp vào thành, đều bị người Nữ Chân bắn ngã lăn ra. Bọn Nữ Chân bắn chết người rồi cắt lấy thủ cấp đeo vào sau lưng, có người đeo một chùm đến mười mấy cái đầu. Quần hào qua lại giang hồ đều thấy giết người như cơm bữa, nhưng chưa gặp chuyện man rợ thế này, nên ai cũng kinh hãi.

Một người cao lớn cưỡi ngựa rẽ mọi người tiến ra, lớn tiếng gọi: “Tiêu đại ca! Tiêu đại ca! Hoàn Nhan A Cốt Đả đến giúp huynh đây!”

Tiêu Phong giục ngựa chạy ra đón, hai người nắm chặt tay nhau ra chiều thân thiết. A Cốt Đả nói: “Tiêu đại ca! Ngày ấy huynh không từ biệt mà đi, đệ cứ nhớ hoài. Sau có thám tử về báo tin huynh đã làm quan nước Liêu. Đệ nghĩ rằng người Liêu giảo quyệt, chắc huynh chẳng ở được lâu, quả nhiên hôm trước thám tử lại báo tin huynh bị tên Liêu chúa chó má bắt giam, nên đệ vội đem quân đến cứu. May mà huynh không chết cũng không bị thương, đệ hoan hỉ vô cùng”. Tiêu Phong nói: “Đa tạ hiền đệ đã cứu viện.” Chưa dứt lời, tên từ trên mặt thành bắn xuống như mưa, nhưng hai người đứng xa chân thành, tên bắn không tới.

A Cốt Đả tức giận nói: “Khất Đan cẩu tặc! Ta đang nói chuyện với ca ca, mà chúng dám quấy nhiễu.” Đoạn gã giương trường cung lên, bắn ra ba phát tên nghe veo véo. Trên mặt thành nghe tiếng rú, ba tên quân Liêu trúng tên rớt xuống. Quân Liêu bắn gã không trúng, nhưng cung của gã vừa dài vừa cứng nên bắn đi rất xa, ba phát trúng cả ba. Quân Liêu đứng trên mặt thành la ó om sòm, vội giơ mộc lên che đờ. Bỗng nhiên trong thành thúc trống ầm ầm, quân Liêu lại điểm binh tướng.

A Cốt Đả lớn tiếng la lên: “Bọn chó má Khất Đan có giỏi thì cứ ra đây, để ta giết một trận cho sướng tay.” Bên quân Nữ Chân cũng thúc trống vang lừng. Tiêu Phong nghĩ, nếu lại giao tranh thì hai bên tất phải chết nhiều. Chàng vội nói: “Hiền đệ! Ngươi đến cứu ta, thì bây giờ ta đã thoát hiểm rồi, hà tất phải đánh nhau với họ làm chi nữa. Huynh đệ ta lâu ngày không gặp nhau, tìm chỗ để uống một bữa say đã!” Hoàn Nhan A Cốt Đả nói: “Huynh nói đúng lắm, chúng ta đi thôi!”

Lại thấy cửa thành mở rộng, một đội quân thiết kỵ xông ra. A Cốt Đả quát: “Giết hết bọn Khất Đan chó má kia!” Gã giương cung bắn ra một phát, trúng ngay giữa mặt một người đi trước ngã lăn xuống ngựa. Bọn thuộc hạ Nữ Chân cũng giương cung nhắm vào mặt bọn Liêu binh mà bắn tới tấp. Đầu mũi tên đều tắm thuốc độc, kẻ trúng tên không kịp rú lên đã chết. Chỉ trong khoảnh khắc, ngoài cửa thành đã có mấy trăm xác chết cả người lẫn ngựa, xếp thành những đống lù lù lấp mất cả lối đi. Bọn Liêu binh thấy vậy hồn vía lên mây, đóng chặt cửa thành lại không dám ra nữa.

Hoàn Nhan A Cốt Đả ở dưới chân thành diễu võ giương oai, lớn tiếng thóa mạ. Tiêu Phong gọi: “Hiền đệ, ta đi thôi!” A Cốt Đả “Vâng!” một tiếng, nhưng còn ráng trỏ tay lên mặt thành lớn tiếng mắng: “Bọn cẩu tặc Khất Đan kia! May mà đại ca ta chưa rụng một sợi lông, không thì ta đạp Nam Kinh thành bình địa, giết sạch bọn Liêu cẩu chúng bay.”

A Cốt Đả cùng Tiêu Phong cưỡi ngựa đi về hướng tây chừng hơn mười dặm thì đến một chỗ gò cao. A Cốt Đả nhảy xuống ngựa, lấy một bì rượu đeo bên hông ngựa, đưa cho Tiêu Phong rồi nói: “Ca ca! Uống đi!” Tiêu Phong đón lấy bì rượu, uống một hơi ừng ực cạn hết nửa bì, rồi đưa lại cho A Cốt Đả. Gã uống hết nửa bì rựợu còn lại rồi nói: “Ca ca! Huynh đệ mình lại lên núi Trường Bạch, vừa săn bắn vừa uống rượu để tiêu dao vui thú, có lẽ hay hơn.”

Tiêu Phong biết Gia Luật Hồng Cơ là người cao ngạo, hôm nay thua trận dưới chân thành Nam Kinh, lại bị A Cốt Đả mắng nhiếc một phen thật là mất mặt, tất lão chẳng chịu bỏ qua, nhất định sẽ đem binh đuổi đánh. Bọn Nữ Chân tuy kiêu dũng nhưng lại ít người, khó mà đoán được ai thắng ai bại? Chàng chỉ có một chủ ý là tránh gây họa chiến tranh, bèn quyết định nương thân nơi bộ lạc Nữ Chân, chẳng chen chân vào chốn danh lợi làm gì cho thêm phiền muộn. Tiêu Phong liền nói: “Hiền đệ! Các vị anh hùng hào kiệt đây đều đến để cứu ta. Ta phải tiễn chân các vị đến Nhạn Môn Quan, rồi sẽ quay về chỗ hiền đệ.” A Cốt Đả cả mừng nói: “Bọn lắm mồm ở Trung Nguyên đa số là người không tốt. Đệ không muốn gặp họ nữa.” Gã nói xong, lập tức dẫn bọn thuộc hạ đi về phía bắc.

Quần hào Trung Nguyên thấy bọn man rợ này đi lại như gió, kiêu dũng phi thường, đều nghĩ: “Bọn này còn tàn ác ghê gớm hơn người nước Liêu. May mà chúng là bằng hữu của Kiều Bang chủ, không thì chắc bọn mình cũng bị khốn khổ với họ.”

***

Các lộ nhân mã dần dần tụ lại một nơi, bàn luận sôi nổi về trận ác chiến dưới chân thành Nam Kinh vừa rồi.

Tiêu Phong khom lưng kính cẩn nói: “Đa tạ các vị đại nhân đại nghĩa, bỏ qua chuyện ác cũ của Tiêu mỗ, chẳng ngại xa xôi ngàn dặm mà đến cứu viện cho. Ân đức này, Tiêu mỗ vĩnh viễn không báo đáp được.”

Huyền Độ đại sư nói: “Sao Kiều Bang chủ lại nói như vậy? Những việc trước kia đều do hiểu lầm mà ra. Đã là đồng đạo võ lâm, dĩ nhiên phải cứu giúp nhau trong cơn hoạn nạn, huống chi Kiều Bang chủ đã vì trăm vạn sinh linh ở Trung Nguyên mà không nghĩ đến chuyện sinh tử, từ bỏ vinh hoa phú quý, nhân đức bao trùm thiên hạ. Mọi người phải cảm tạ Kiều Bang chủ mới đúng.”

Phạm Hoa dõng dạc lên tiếng: “Các vị anh hùng! Tại hạ xem chừng quân Liêu không chịu thất bại đâu. Khi chúng còn chưa truy kích, các vị có cao kiến gì không?” Quần hùng lớn tiếng đáp: “Chúng ta phải quyết một trận tử chiến với Liêu binh, chẳng lẽ lại sợ chúng ư?” Phạm Hoa nói: “Địch nhiều mà ta ít, giao chiến ở nơi bằng phẳng thì bất lợi cho mình. Theo ngu ý của tại hạ thì chúng ta nên rút lui về phía tây, một là gần được quân Tống để có tiếp viện, hai là quân địch đuổi càng xa thì số người càng ít đi, chúng ta sẽ có thể thừa cơ phản kích.”

Quần hào đều cho là đúng, Hư Trúc bèn dẫn thuộc hạ cung Linh Thứu làm lộ thứ nhất, Đoàn Dự dẫn binh mã nước Đại Lý làm lộ thứ hai, Huyền Độ dẫn quần hào Trung Nguyên làm lộ thứ ba, Tiêu Phong dẫn bang chúng Cái Bang đi đoạn hậu. Bốn lộ nhân mã đi cách nhau chừng mấy dặm, mỗi lộ đều có thám tử cưỡi khoái mã để truyền tin, nếu có địch thì ứng cứu nhau. Mọi người đi được một ngày, đến tối nghỉ lại trong một vùng sơn đã, vẫn chưa thấy quân Liêu đuổi theo, ai nấy cũng hơi yên tâm.

Mờ sáng hôm sau lại đi tiếp, Tiêu Phong hỏi A Tử: “Lúc này Du quân còn ở cung Linh Thứu không?” A Tử bĩu môi đáp: “Ai mà biết được? Chắc là còn ở đó, gã mù cả hai mắt rồi thì xuống núi thế nào được?” Giọng nói của nàng không có một chút tình cảm quan tâm.

Hôm đó mọi người đi đến thôn Bạch Lạc dưới chân núi Ngũ Đài Sơn, nghỉ lại nấu cơm. Phạm Hoa tinh thông binh pháp, bố trí quần hào thành từng tốp để mai phục nơi hiểm yếu, lại cho chặt cầu ngăn đường để Liêu binh truy đuổi phải mất nhiều thì giờ hơn.

Đến ngày thứ ba, bỗng thấy ở phía đông có khói đen cuồn cuộn, bốc đến tận trời, chính là tín hiệu báo quân Liêu đẫ đuổi gần tới nơi. Quần hào thấy vậy đều phập phồng kinh hãi, có người vũ dũng muốn lập tức quay lại để giúp những tiểu đội phục kích ở phía sau, nhưng họ đều bị Huyền Độ và Phạm Hoa ngăn cản.

Đêm hôm ấy quần hùng nghỉ lại bên sườn núi. Đến nửa đêm, bỗng có tiếng người la gọi, quần hào giật mình tỉnh dậy, thấy phía bắc lửa cháy ngất trời. Tiêu Phong cùng Phạm Hoa đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều thầm cảm thấy chuyện chẳng lành. Phạm Hoa khẽ nói: “Tiêu đại vương! Có phải là quân Liêu đi vòng để chặn đầu giáp công không?” Tiêu Phong chỉ gật gật đầu. Phạm Hoa lại nói: “Không biết trận cháy lớn này đã đốt mất bao nhiêu nhà cửa của dân lành. Hỡi ôi!…” Tiêu Phong không muốn nói Gia Luật Hồng Cơ tàn bạo, nhưng chàng hiểu y thua về tay người Nữ Chân nên trong lòng phẫn uất, trút giận vào đầu bá tánh. Y dẫn quân từ phía tây đến, cứ thấy người là giết, thấy nhà là đốt.

Đến lúc trời sáng mà đám cháy vẫn chưa tắt. Chiều hôm sau lại thấy lửa cháy ở phía nam. Trời còn nắng nên không nhìn rõ ngọn lửa, chỉ thấy khói bốc lên đen nghịt cả một góc trời.

Huyền Độ vốn dẫn người đi trước, thấy phía nam có lửa cháy liền dừng ngựa đứng bên đường chờ bọn Tiêu Phong đến, rồi hỏi: “Kiều Bang chủ! Quân Liêu ba mặt giáp công, Bang chủ liệu Nhạn Môn Quan có giữ được chăng? Lão nạp đã phái người đi trước báo tin, nhưng thống soái ải này nhu nhược, e rằng không chống nổi bọn thiết kỵ Khất Đan.” Tiêu Phong không biết đáp sao. Huyền Độ lại nói: “Xem chừng người Nữ Chân có thể đối phó được Liêu binh. Sau này Đại Tống phải liên thủ với người Nữ Chân, chia hai mặt nam bắc giáp công thì có thể ngăn ngừa được thiết kỵ Khất Đan, không cho chúng đánh xuống phía nam.”

Tiêu Phong hiểu đại sư muốn bảo mình tìm cách liên lạc với thủ lĩnh Nữ Chân là Hoàn Nhan A Cốt Đả, nhưng chàng là người Khất Đan thì có lý nào lại cấu kết ngoại địch mà tấn công tổ quốc? Đột nhiên Tiêu Phong hỏi lại: “Huyền Độ đại sư! Gia gia tại hạ ở quý tự có mạnh khỏe không?” Huyền Độ giật mình, đáp: “Lệnh tôn đã quy y tam bảo, thanh tu trong hậu viện chùa Thiếu Lâm. Lúc lão nạp đi Nam Kinh đã cố ý không đến chào lệnh tôn, để người khỏi bận lòng trần tục.” Tiêu Phong nói: “Tại hạ muốn gặp gia gia để hỏi một câu.” Huyền Độ hắng giọng một tiếng.

Tiêu Phong nói tiếp: “Tại hạ muốn hỏi lão nhân gia: Giả tỉ Liêu binh đến đánh Thiếu Lâm Tự thì người xử trí ra sao?” Huyền Độ đáp ngay: “Dĩ nhiên là giết địch để bảo vệ Phật pháp, không phải thế sao?” Tiêu Phong nói: “Nhưng gia phụ là người Khất Đan, chẳng lẽ lại vì người Hán mà giết người Khất Đan ư?” Huyền Độ trầm ngâm một chút rồi đáp: “Bang chủ vốn là người Khất Đan, mà bỏ chỗ tối để theo chỗ sáng, thật là đáng phục.”

Tiêu Phong nói: “Đại sư là người Hán thì nghĩ người Hán sáng mà người Khất Đan tối. Tại hạ là người Khất Đan thì nghĩ Đại Liêu sáng, còn Đại Tống tối. Tổ tiên tại hạ là người Khất Đan, đã bị người Yết tàn sát, lại bị người Tiên Ti truy đuổi bức hiếp cực kỳ khốn khổ, chạy hết chỗ này đến chỗ khác. Đời nhà Đường, người Hán võ công cực thịnh đã giết không biết bao nhiêu là dũng sĩ, cướp không biết bao nhiêu là phụ nữ Khất Đan. Bây giờ đời Tống, võ công người Hán bên đại sư kém trước, nên lại bị người Khất Đan bên tại hạ tàn sát. Giết qua giết lại như thế, biết đến bao giờ mới dứt?”

Huyền Độ lẳng lặng một lúc, rồi cất tiếng niệm: “A di đà Phật, A di đà Phật!”

Đoàn Dự phóng ngựa lại gần, nghe được nửa sau cuộc đối thoại của hai người, cũng thở dài nói xen vào: “Chiến tranh mang chết chóc; Ngựa hí thảm trời xanh; Quạ mổ ruột người chết; Thi thể rải đầy đồng; Quân lính như giặc cướp; Tướng quân vẫn ung dung; Việc binh là chuyện dữ, Thánh nhân chẳng muốn dùng.” Tiêu Phong nói: “Việc binh là chuyện dữ; Thánh nhân chẳng muốn dùng. Hiền đệ làm thơ hay quá.” Đoàn Dự đáp: “Không phải của đệ đâu, đó là một bài thơ của đại thi nhân Lý Bạch đời Đường.”

Tiêu Phong nói: “Lúc ta còn ở đây, thường nghe dân địa phương hát một bài như thế này: Giết ta ở núi Kỳ Liên, chăn nuôi không còn phồn thịnh. Giết ta ở núi Hiền Chi, phụ nữ không còn nhan sắc.” Chàng trung khí đầy dẫy, tiếng hát vang đi rất xa, nhưng giọng ca đầy vẻ ai oán thê lương.

Đoàn Dự gật đầu nói: “Đây là một bài hát của người Hung Nô. Năm xưa Hán Võ Đế đánh Hung Nô đã chiếm được một vùng đất lớn, người Hung Nô sầu thảm mà đặt ra bài hát này, không ngờ còn truyền tụng đến ngày nay.” Tiêu Phong nói: “Tổ tiên ta là người Khất Đan, cùng với dân Hung Nô khi ấy cũng khổ sở như nhau.”

Huyền Độ thở dài rồi nói: “Chỉ khi nào tất cả đế vương cùng tướng quân khắp thiên hạ đều tin vào Phật pháp mà lấy từ bi làm gốc, thì lúc đó mới không còn thảm họa chiến tranh.” Tiêu Phong cũng buồn rầu nói: “Chẳng biết đến năm nào, tháng nào mới có cảnh thế giới thái bình như thế.”

Đoàn người tiếp tục đi về phía tây, thấy ba phía đông, nam, bắc đều có lửa cháy suốt ngày đêm không tắt, quân Liêu đi tới đâu đốt nhà giết người tới đó. Quần hùng trong lòng đều căm phẫn, không ngớt hò hét thóa mạ, chỉ muốn cùng quân Liêu quyết một trận tử chiến.

Phạm Hoa nói: “Quân Liêu đuổi mỗi lúc một gần, chúng ta sẽ không còn đường mà rút lui. Tại hạ nghĩ rằng chúng ta nên phân tán khắp nơi để quân Liêu không biết đường nào mà đuổi thì hơn.”

Ngô Trường Phong lớn tiếng hỏi: “Như vậy là chịu thua hay sao? Phạm Tư mã! Nói vậy là làm tăng chí khí của quân địch, làm giảm oai phong của chúng ta. Thắng cũng được, thua cũng được, chúng ta phải quyết một trận tử chiến với bọn Liêu cẩu.”

Đúng lúc này bỗng nghe “véo” một tiếng, một mũi vũ tiễn từ hướng đông nam bắn tới, rồi một dội Liêu binh từ sau núi xông ra, quát tháo om sòm. Thì ra toán quân Liêu này có hơn năm trăm người, đi suốt ngày đêm theo đường tắt, vượt qua mặt quần hào để chặn đường công kích. Ngô trưởng lão thét lên: “Giết!”, rồi lão xông ra trước. Mọi người căm hận đã lâu, cũng đều hăm hở chạy ra. Quần hào đã đông hơn toán quân này, mà võ nghệ lại cao cường gấp mấy, nên chỉ chừng nửa giờ đã giết sạch năm trăm tên quân Liêu. Mười mấy tên vỏ sĩ Khất Đan toan vượt núi chạy trốn cũng bị những tay khinh công tuyệt diệu trong quần hào Trung Nguyên đuổi theo giết chết.

Quần hùng thắng được trận này, hoan hô ầm ĩ, lòng người phấn khởi. Chỉ có Phạm Hoa là bình thản nhìn Hư Trúc và Đoàn Dự mà nói: “Chúng ta vừa giết được một toán nhỏ quân Liêu, chắc đại quân của chúng cũng sắp đến đây. Chúng ta phải mau mau lui về phía tây.”

Nói chưa dứt lời thì từ phía đông bỗng vọng tới tiếng reo hò long trời lở đất, quần hào quay lại nhìn thì thấy cát bụi mịt trời. Mọi người mặt mày ngơ ngác, không ai nói câu nào. Tiếng ầm ầm như sấm gầm từ đằng xa vọng lại, rõ ràng đại đội quân Liêu sắp đến, cứ nghe âm thanh thế này thì phải có đến mấy vạn quân mã. Quần hào đã từng thấy rất nhiều những trận ác đấu trên chốn giang hồ, nhưng chưa được thấy thế lớn đại quân bao giờ. Tuy mọi người đã đánh nhau với Liêu binh ở chân thành Nam Kinh, nhưng đạo quân hôm nay so với lần trước còn lớn hơn nhiều. Tuy rằng ai cũng gan dạ, hào khí đầy mình, nhưng đột nhiên thấy thanh thế trời long đất lở như vậy cũng không khỏi biến sắc, sợ hãi toát mồ hôi lạnh.

Phạm Hoa hô lớn: “Các vị huynh đệ! Địch nhân thế lớn hơn mình, chết uổng vô ích, còn mạng sống thì không sợ hết cơ hội. Hôm nay chúng ta hãy tạm tránh di, rồi sẽ có lúc phản kích.” Quần hào tới tấp lên ngựa chạy về phía tây, âm thanh long trời lở đất từ phía sau vẫn không ngừng vọng tới.

Đêm hôm ấy, mọi người đều không nghỉ ngơi vì thấy gần đến Nhạn Môn Quan rồi. Quần hùng giục ngựa đi suốt đêm, chỉ cần vào được Nhạn Môn Quan là đỡ nguy hiểm, quân địch có đông cũng khó mà phá được quan ải. Dọc đường ngựa bị chết nhiều, ai giỏi khinh công thì chạy bộ, có con ngựa phải chở hai người. Đoàn người đi đến trời sáng thì chỉ còn cách Nhạn Môn Quan chừng mười dặm. Ai nấy đã hơi yên lòng, xuống đất dắt ngựa đi thong thả để chúng hồi phục sức lực, vẫn nghe tiếng rầm rộ của hàng vạn vó ngựa nện xuống đất mỗi lúc một vang dội, dường như sắp đuổi tới nơi.

***

Tiêu Phong từ trên sườn núi đang đi xuống, bỗng nhìn thấy một khối đá lớn thì trong lòng run lên, nghĩ thầm: “Ngày trước Huyền Từ phương trượng cùng Uông Bang chủ dẫn quần hào Trung Nguyên phục kích gia gia mình ở chỗ này, sát hại mẫu thân và không biết bao nhiêu võ sĩ Khất Đan. Chàng quay đầu nhìn sang thì thấy vách núi hãy còn vết búa đẽo trông rất rõ, chính là chỗ Huyền Từ đã xóa tự tích của Tiêu Vịễn Sơn khắc lên.

Tiêu Phong từ từ quay đầu lại, thấy bên vách đá có một gốc cây hoa thì bên tai lại vẳng lên thanh âm của A Châu. Ngày trước nàng nấp ở sau chính gốc cây này, đã nói: “Kiều đại gia ơi! Đại gia đập nữa đi! Không chừng ngọn núi này đổ xuống mất thôi.”

Tiêu Phong ngẩn người ra, mấy lời nói tiếp theo của A Châu lại càng rõ như in trong óc: “Kiều đại gia! Tiểu nữ… tiểu nữ chờ ở đây đã năm ngày năm đêm, lúc nào cũng phập phồng không biết đại gia có đến không, quả nhiên bây giờ lại được gặp nhau. Cảm ơn Trời Phật phù hộ, đại gia vẫn bình yên vô sự.”

Bất giác Tiêu Phong nước mắt vòng quanh, chàng tiến đến bên gốc cây hoa, vươn tay ra vịn lấy một cành, thấy gốc cây này so với ngày chàng gặp A Châu đã cao hơn không ít. Nhất thời chàng thương tâm quá đỗi, quên hết mọi sự việc bên ngoài.

Bỗng có tiếng người thét lên: “Tỉ phu! Chạy mau, chạy mau!” A Tử chạy đến bên cạnh, nắm áo chàng kéo đi. Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn lên thì thấy ba phía đông, tây, bắc, trường mâu của quân Liêu đang giơ lên trùng trùng diệp diệp như một rừng cây di động, tiến lại bao vây mình. Tiêu Phong gật đầu nói: “Được rồi! Chúng ta lui vào Nhạn Môn Quan rồi sẽ tính.”

Lúc này quần hào đã đến trước ải, nhưng Tiêu Phong cùng A Tử cưỡi ngựa tới thì thấy cửa quan đóng chặt, quần hào đều lộ vẻ bất bình. Trong ải có một tên võ quan nhà Tống đang đứng trên mặt thành, dõng dạc nói: “Trương tướng quân Chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan có lệnh: Các ngươi là bách tính Trung Nguyên, đáng lẽ được vào ải, nhưng chỉ sợ có người cấu kết làm gian tế cho Liêu quốc. Vậy các ngươi phải hạ khí giới để quân ta khám xét một lượt. Người nào trong mình không ngầm giấu binh khí thì sẽ được Trương tướng quân gia ơn cho vào quan ải.”

Gã vừa dứt lời thì quần hùng la ó om sòm. Có người nói: “Bọn ta rong ruổi ngàn dặm, đánh nhau với quân Liêu, sao lại nghi bọn ta là gian tế?” Có người nói: “Chúng ta có cầm binh khí thì mới có thể giúp tướng quân chống Liêu binh, nếu vứt khí giới đi thì lấy gì đánh nhau với quân Liêu?” Lại có người nóng nảy lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Không cho chúng ông vào thì chúng ông cũng phá thành mà vào.”

Huyền Độ vội ngăn lại rồi nói với tên võ quan kia: “Xin hãy bẩm với Trương tướng quân, bọn ta đều là dân nhà Đại Tống một lòng trung nghĩa. Địch quân chốc lát sẽ đến nơi, nếu khám xét làm chậm trễ rồi mới mở cửa quan thì nguy hiểm lắm.”

Tên võ quan này vừa bị thóa mạ, lại thấy nhiều người ăn mặc kỳ quái không giống người Trung Thổ, liền hỏi: “Lão hòa thượng! Ngươi nói các ngươi đều là dân nhà Đại Tống, mà sao số đông không phải là người Tống? Được rồi! Ta mở hé một bên cổng, ai là lương dân Đại Tống thì vào, còn ai không phải người Đại Tống thì phải ở ngoài quan.”

Quần hào ngơ ngác nhìn nhau, không thể không tức giận. Đoàn Dự cùng bộ hạ là người Đại Lý, còn bộ hạ của Hư Trúc lại càng phức tạp, đủ cả người các nước Tây Vực, Tây Hạ, Thổ Phồn, Cao Ly. Nếu chỉ có người Đại Tống đựợc vào, thì phần lớn người trong hai lộ nhân mã nước Đại Lý và cung Linh Thứu không được vào trong ải.

Huyền Độ lại nói: “Tướng quân minh xét, bọn tại hạ đều là bạn hữu, có người Đại Lý, có người Tây Hạ, nhưng đang hợp lực với Đại Tống chúng ta để đánh lại quân Liêu. Họ đã là đồng minh thì sao còn phân biệt người Tống hay không phải là người Tống?”

Lần này Đoàn Dự dẫn thuộc hạ lên phía Bắc, đã phải giữ bí mật không tiết lộ mình là chủ nhân một nước, vì sợ quan quân Tống triều sinh ra ý gia hại hoặc bắt làm con tin. Hơn nữa, Đại Lý và Đại Liêu cách nhau rất xa, chàng cũng không muốn công nhiên coi là thù địch. Vì thế mà Huyền Độ hoàn toàn không đề cập đến chuyện có một nhân vật cực kỳ quan trọng của nước Đại Lý đang ở ngoài quan ải.

Tên quan kia đáp ngay: “Nhạn Môn Quan là cửa ải then chốt phía bắc của nhà Đại Tống, quan trọng biết đến chừng nào? Đại quân nước Liêu đã đến nơi, nếu ta khinh suất mở cửa quan để quân Liêu tiến vào, gây nên họa tày trời thì ai phải chịu trách nhiệm?”

Ngô Trường Phong không nhẫn nại được nữa, lớn tiếng quát: “Nếu ngươi đừng rắc rối mà mở cửa ải ra ngay, thì có phải bây giờ xong chuyện rồi không?” Tên võ quan kia cũng tức giận quát mắng: “Lão ăn mày kia! Trước mắt bản quan mà ngươi dám chõ miệng nói xen vào ư?” Hắn giơ tay lên một cái, hơn nghìn tên cung thủ phục sẵn trên mặt thành lập tức xuất hiện, giương cung lắp tên nhắm vào đoàn người dưới chân thành. Tên võ quan thét lên: “Mau mau lui ra! Nếu còn đứng đó nói càn làm rối loạn lòng quân, ta nhất định phải hạ lệnh bắn tên.” Huyền Độ thở dài thườn thượt, không biết làm thế nào.

Hai bên cửa ải là hai dãy núi cao ngất trời, địa thế cực kỳ hiểm trở. Cửa ải này có tên là Nhạn Môn Quan, ý nói giống chim nhạn bay xuống phía nam phải bay qua ải, giữa hai dãy núi này. Trong quần hào cũng có không ít những tay khinh công cao cường có thể trèo núi chạy trốn, nhưng số đông thì không thể vượt qua hiểm địa, tất sẽ bị quân Liêu giết chết duới chân thành.

Quân Liêu cũng bị hai dãy núi ngăn cản, nên hai cánh đông, tây thu hẹp dần lại, theo mặt chính mà vào. Tiếng trống thúc quân nghe đã chói tai. Tuy nhiên chỉ có tiếng trống trận, tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng áo giáp loảng xoảng, tiếng cờ bay phần phật trong gió, còn tuyệt nhiên không thấy tiếng người huyên náo, chứng tỏ kỷ luật quân Liêu rất nghiêm chỉnh. Quân Liêu chia thành từng đội kéo dần vào, còn cách chừng một tầm tên thì dừng cả lại. Chỉ trong chốc lát, cờ bay rợp trời ở cả ba hướng đông, tây, bắc, thực không lường nổi có bao nhiêu nhân mã.

Tiêu Phong dõng dạc nói: “Các vị cứ đứng nguyên đó, chớ có di chuyển, để tại hạ nói chuyện với Liêu đế.” Mặc cho Đoàn Dự, A Tử khuyên can, chàng cứ giục ngựa tiến ra, hai tay giơ cao đến đỉnh đầu để chứng tỏ là không mang khí giới cung tên. Tiêu Phong lớn tiếng hô: “Hoàng đế bệ hạ nước Đại Liêu! Tiêu Phong có mấy lời muốn nói, xin mời bệ hạ ra đây!”

Chàng vận nội lực đến tột độ để nói mấy câu này, thanh âm truyền đi rất xa. Mười mấy vạn tướng sĩ nước Liêu, chẳng ai là không nghe rõ, bất giác mọi người đều biến sắc.

***

Chỉ một lúc sau, trong Liêu trận nghe trống thúc vang lừng, hàng vạn người ngựa rẽ ra hai bên. Tám tên kỵ sĩ tiến ra, cầm tám lá cờ lớn sắc vàng tung bay trước gió. Sau tám lá cờ, mấy đội quân nào là trường mâu thủ, đao phủ thủ, cung tiễn thủ, thuẫn bài thủ sắp hàng thứ tự chia hai bên tiến lên. Cuối cùng là mười viên đại tướng trong mặc áo giáp, ngoài khoác cẩm bào, đưa Gia Luật Hồng Cơ ra trước trận.

Quân Liêu lớn tiếng tung hô: “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!” Tiếng hoan hô chấn động cả hang núi.

Trên quan ải, quân tướng nhà Tống thấy oai thế bên địch như vậy, bất giác đều run rẩy.

Tay phải Gia Luật Hồng Cơ giơ cây bảo đao lên một cái, quân Liêu lập tức im phăng phắc, yên lặng như tờ. Gia Luật Hồng Cơ lại hạ đao xuống, cười rộ rồi nói: “Tiêu đại vương! Hiền đệ đã hứa là dẫn quân Liêu vào quan ải, mà sao cửa quan vẫn đóng chặt, chưa thấy mở ra?”

Lão vừa nói xong, trên mặt thành đã có người dịch ra tiếng Hán cho Chỉ huy sứ Trương tướng quân nghe. Quân Tống lập tức la ó om sòm, trỏ vào mặt Tiêu Phong mà vung tay múa chân, lớn tiếng thóa mạ.

Tiêu Phong biết Gia Luật Hồng Cơ nói câu này là dùng kế phản gián, lão không muốn quân Tống mở cửa ải để bên mình chạy vào. Chàng liền nhảy xuống ngựa, tiến lên mấy bước rồi nói: “Bệ hạ! Vì Tiêu Phong phụ ân sủng mà bệ hạ phải ngự giá đến đây, thật là tội đáng chết!”

Chàng mới nói mấy câu, đột nhiên hai bên có hai bóng người vọt tới nhanh như điện xẹt, xông thẳng đến trước mặt Gia Luật Hồng Cơ, chính là Hư Trúc và Đoàn Dự. Hai người này thấy tình hình khó đối phó, biết là hôm nay chỉ còn cách, bắt được Liêu đế để uy hiếp, thì mới có thể giữ cho mọi người được an toàn. Hai người ra hiệu cho nhau, rồi chia ra hai bên trái phải xông lên.

Lúc Gia Luật Hồng Cơ xuất trận, sớm đã đề phòng chuyện giống như Tiêu Phong bắt cha con Sở vương ngày trước. Một tiếng hô vang, ba trăm tên thuẫn bài thủ cùng đưa mộc lên, như một bức tường thành chắn dày trước mặt Gia Luật Hồng Cơ. Bọn trường mâu thủ, đao phủ thủ cũng xông ra đứng dày khít trước đội cầm mộc.

Nhưng Hư Trúc đã được Thiên Sơn Đồng Mỗ chân truyền, lại học được những môn võ công bí ảo trong thạch thất cung Linh Thứu, võ công y đã cao đến mức tùy tâm thu phát, muốn sao được vậy. Còn Đoàn Dự từ sau khi hút hết nội lực của Cưu Ma Trí, công lực chàng đã mạnh đến mức từ cổ chí kim không ai bằng được, lại còn có phép Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ xảo diệu. Binh tướng nước Liêu làm sao ngăn cản được?

Đoàn Dự né đông tránh tây cứ như cá lội dưới nước, những chỗ mũi mâu cùng lưỡi đao cách nhau chưa đầy một thước mà chàng vẫn lách qua, lọt vào giữa được. Bọn quân Liêu vung binh khí đâm chém túi bụi, nhưng chẳng những không đả thương được chàng, mà vì chúng đứng sát nhau quá nên phần lớn đao thương đều đâm chém vào người bên mình.

Hư Trúc thì liên tiếp vung tay ra nắm lấy trước ngực hay sau lưng quân Liêu mà ném vào trong trận, vừa ném người vừa tiến tới gần Gia Luật Hồng Cơ. Hai viên, đại tướng vọt ngựa xông ra, cùng lúc vung thương lên đâm vào bụng Hư Trúc. Y nhảy vọt lên, hai chân đạp lên hai cây thương của tướng Liêu. Hai tướng quát lên một tiếng, vung mạnh thương toan hất cho Hư Trúc té xuống, nhưng y lại mượn đà hất thương mà phi thân nhảy vọt lên không, rồi hạ xuống đỉnh đầu Gia Luật Hồng Cơ.

Một như cá lội dưới nước, một như chim bay trên trời, hai người song song tấn công đến. Gia Luật Hồng Cơ cả sợ, vung bảo đao lên, toan chém vào Hư Trúc còn đang ở trên không.

Hư Trúc xoay tay trái một cái, vươn ra nắm lấy sống đao, rồi thừa thế vuốt xuống, lật bàn tay ra nắm chặt cổ tay phải của lão. Giữa lúc ấy Đoàn Dự cũng luồn qua đám đông vào tới, nắm được vai trái Gia Luật Hồng Cơ. Hai người cùng quát lên: “Đi ngay!” rồi lôi tấm thân cao lớn của Gia Luật Hồng Cơ tuột xuống khỏi ngựa, kéo chạy về phía trước.

Quân tướng Liêu quốc cả bốn phía đều thấy hoàng đế đá bị kiềm chế đều kinh hãi la rầm lên, nhưng nhất thời không biết phải làm gì. Mấy chục tên thân binh liều mạng xông vào cứu chúa, nhưng đều bị Hư Trúc cùng Đoàn Dự phóng cước đá văng đi.

Hai người đã bắt được Liêu đế, trong lòng đang mừng rở thì bỗng thấy Tiêu phong nhảy xổ tới, hai người giật mình la gọi: “Đại ca!” Tiêu Phong bỗng phóng song chưởng nghe hai tiếng vù vù, chia ra đánh hai nghĩa đệ. Hai người cực kỳ kinh ngạc, nhưng thấy chưởng lực bài sơn đảo hải của Tiêu Phong xô tới nơi, chỉ còn cách giơ tay lên đỡ. Nghe “bình bình” hai tiếng, bốn chưởng chạm nhau, chưởng phong rít lên tứ phía. Tiêu Phong xông lại, thừa thế cướp lấy Gia Luật Hồng Cơ, kéo sang một bên.

Lúc này quân Liêu cùng với quần hào Trung Nguyên đang rầm rộ xông tới từ hai phía bắc nam, một bên định cứu hoàng đế về, một bên định tiếp ứng cho ba người Tiêu Phong, Hư Trúc và Đoàn Dự.

Tiêu Phong lớn tiếng nói: “Ai nấy hãy đứng im! Ta có chuyện muốn nói với hoàng đế Đại Liêu!” Quân Liêu cùng quần hào lập tức dừng bước. Hai bên đều sợ làm hại phe mình, nên chỉ đứng xa xa reo hò chứ không dám tiến lên xung sát, mà cũng không dám bắn tên.

Hư Trúc cùng Đoàn Dự cũng lùi lại ba bước, chia ra đứng sau lưng Gia Luật Hồng Cơ, vừa đề phòng lão trốn về bản trận, vừa ngăn ngừa bọn cao thủ Khất Đan xông ra cứu viện.

Lúc này trên mặt Gia Luật Hồng Cơ không còn nửa giọt máu, nghĩ thầm: “Gã Tiêu Phong này tính khí cương cường. Mình đã làm nhục mà nhốt hắn vào cũi sư tử, bây giờ hắn bắt được mình thì nhất định phải báo thù, quyết không tha mạng.” Nhưng lão lại nghe Tiêu Phong nói: “Bệ hạ! Hai vị này là nghĩa đệ của thần. Họ không sát hại bệ hạ đâu, xin bệ hạ yên tâm.” Gia Luật Hồng Cơ hắng giọng một tiếng, quay đầu lại nhìn Hư Trúc một cái, lại quay đầu sang bên kia nhìn Đoàn Dự một cái.

Tiêu Phong lại nói: “Nhị đệ của thần là Hư Trúc Tử, là chủ nhân cung Linh Thứu, còn tam đệ là Đoàn công tử nước Đại Lý. Thần đã từng kể với bệ hạ rồi.” Gia Luật Hồng Cơ gật gật đầu rồi nói: “Quả nhiên rất giỏi.”

Tiêu Phong nói: “Bọn thần sẽ lập tức để bệ hạ về bản trận, chỉ xin bệ hạ ban thưởng.” Gia Luật Hồng Cơ không tin vào tai mình, tự hỏi: “Thiên hạ sao lại có chuyện dễ dàng như thế? Hừ, phải rồi! Chắc Tiêu Phong hồi tâm nghĩ lại, xin ta phong cho ba người làm quan.” Mặt lão trở lại tươi tỉnh, cười đáp: “Các ngươi muốn xin gì, ta cũng ưng thuận hết.”

Tiêu Phong nói: “Bệ hạ đã bị hai vị nghĩa đệ của thần bắt được, theo qui củ của người Khất Đan thì bệ hạ phải đem bảo vật mà chuộc mạng.” Gia Luật Hồng Cơ nhíu mày lại hỏi: “Ngươi muốn gì?” Tiêu Phong đáp: “Thần thay mặt cho hai vị nghĩa đệ, chỉ cả gan xin kim khẩu bệ hạ chấp thuận một lời.” Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả rồi đáp: “Trên thế gian này, những thứ mà ta không thể đem ra trao đổi được cũng không nhiều. Người cứ việc thẳng thắn nói ra.”

Tiêu Phong nói: “Chỉ xin bệ hạ nhận lời lập tức lui binh, và suốt đời không cho một tên quân Liêu nào vượt khỏi ranh giới Tống, Liêu.”

Đoàn Dự nghe vậy thì cả mừng nghĩ thầm: “Quân Liêu mà không vượt khỏi ranh giới Tống, Liêu, thì chỉ còn cách chắp cánh mà bay mới tấn công Đại Lý được.” Chàng liền nói: “Đúng thế! Nếu Liêu đế ưng thuận như vậy, thì bọn thần lập tức để bệ hạ về ngay.” Nhưng chàng lại tự hỏi: “Lúc bắt Liêu đế, nhị ca đã phải ra sức nhiều hơn ta. Chẳng hiểu nhị ca có muốn gì không?” Chàng liền hỏi Hư Trúc: “Nhị ca! Huynh có muốn hoàng đế Khất Đan lấy gì để chuộc mạng không?” Hư Trúc lắc lắc đầu rồi đáp: “Ta cũng chỉ muốn một lời như vậy mà thôi.”

Gia Luật Hồng Cơ sầm mặt xuống hỏi: “Bọn ngươi cả gan dám bức bách ta ư? Nếu ta không ưng thuận thì sao?” Tiêu Phong dõng dạc đáp: “Thế thì đồng qui ư tận, ngọc đá ra tro. Năm xưa hai ta kết nghĩa, đã có lời thề mong được chết cùng năm cùng tháng cùng ngày.”

Gia Luật Hồng Cơ rùng mình một cái, thầm nghĩ: “Gã Tiêu Phong này là một tên liều mạng chẳng biết sợ trời sợ đất là gì, trước nay hắn nói một là một, nói hai là hai. Nếu mình không ưng thuận thì chắc hắn sẽ ra tay mạo phạm. Mình chết về tay một tên mãng phu thì thật là không đáng chút nào.” Lão liền cười ha hả rồi dõng dạc nói: “Thế thì cái mạng của Gia Luật Hồng Cơ này có thể đổi được mấy chục năm bình yên cho hai nước Tống, Liêu. Hảo huynh đệ! Ngươi coi trọng cái mạng của ta quá rồi.”

Tiêu Phong đáp: “Bệ hạ là chúa tể Đại Liêu. Dưới bầu trời này, còn gì đáng coi trọng hơn nữa?” Gia Luật Hồng Cơ lại cười rộ lên rồi nói: “Như vậy thì năm xưa người Nữ Chân đã đòi ta nộp ba mươi xe hoàng kim, ba trăm xe bạch ngân, ba ngàn con tuấn mã, là quá ít phải không?” Tiêu Phong chỉ khom lưng, không đáp.

Gia Luật Hồng Cơ quay đầu nhìn lại, thấy quân tướng của mình đều đứng xa ngoài trăm thước, không có cách gì cứu mình thoát hiểm được. Tính toán nặng nhẹ thì trên đời không còn gì quý hơn tính mạng, lão bèn rút ra một mũi lang nha tiễn, cầm hai tay bẻ làm đôi quăng xuống đất, rồi nói: “Cứ theo lời ngươi!”

Tiêu Phong khom lưng, nói: “Đa tạ bệ hạ.”

Gia Luật Hồng Cơ quay người lại toan bỏ đi, nhưng thấy bốn con mắt của Hư Trúc cùng Đoàn Dự đang gườm gườm nhìn mình, rõ ràng không có ý nhường lối. Lão quay lại nhìn Tiêu Phong, thì chàng lặng lẽ chẳng nói gì. Lão hiểu ngay là ba người này sợ mình nuốt lời, bèn rút bảo đao ra giơ lên quá đỉnh đầu, lớn tiếng hô: “Ba quân Đại Liêu nghe lệnh!”

Quân Liêu nổi lên một hồi trống, rồi lập tức yên lặng. Gia Luật Hồng Cơ nói: “Đại quân quay về bắc, không nam chinh nữa.” Lão ngừng một chút rồi lại nói tiếp: “Trong suốt đời trẫm, không một tên quân Liêu nào được xâm phạm ranh giới Đại Tống.” Lão nói xong, bảo đao hạ xuống, quân Liêu lại nổi lên một hồi trống nữa.

Tiêu Phong khom lưng nói: “Xin kính cẩn tiễn bệ hạ về bản trận.” Hư Trúc cùng Đoàn Dự rẽ ra hai bên để nhường lối, rồi bước lại đứng ở phía sau Tiêu Phong.

Gia Luật Hồng Cơ vừa kinh hãi, vừa hoan hỉ, lại vừa xấu hổ, chỉ muốn mau mau rời khỏi hiểm địa. Nhưng chẳng lẽ lão lại tỏ ra khiếp nhược trước mặt Tiêu Phong cùng quân Liêu, nên phải tự trấn tĩnh, từ từ bước về bản trận.

Bên quân Liêu có mấy chục tên thân binh vọt ngựa ra đón tiếp. Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu còn đi thong thả, về sau càng bước càng nhanh, hai chân loạng choạng chỉ muốn ngã lăn, hai tay run lên, mồ hôi đầm đìa trên trán. Bọn thị vệ dẫn ngựa tới, đỡ lão lên yên. Toàn thân Gia Luật Hồng Cơ lúc này run đến mềm như bún, chân để vào bàn đạp rồi mà không trèo lên yên được. Hai tên thị vệ phải vịn vào mông lão, dùng sức đẩy lên lưng ngựa.

Quân Liêu thấy hoàng đế vô sự trở về, bèn lớn tiếng tung hô: “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!” Lúc này, quân Tống đứng trên măt thành Nhạn Môn Quan cùng với quần hào ở trước cửa quan, thấy Liêu đế hạ lệnh thoái binh thì đều reo hò mừng rỡ. Ai nấy đều biết người Khất Đan tuy hung tàn hiếu sát, nhưng trước nay rất biết thủ tín, đã giao ước gì thì không nuốt lời bao giờ. Huống chi Liêu đế đã thân hành ban lệnh trước mặt ba quân, giả tỉ sau này lão muốn bội tín thì người Liêu cũng coi lão không ra gì, không chừng ngôi hoàng đế của lão cũng không được yên ổn.

Vẻ mặt Gia Luật Hồng Cơ hết sức ảm đạm, nghĩ rằng mình bị Tiêu Phong uy hiếp, phải lập trọng thệ mới thoát được thân, thật là mất thể diện, lại còn thương tổn đến uy thế nước Đại Liêu. Nhưng lão nghe tướng sĩ nước Liêu tung hô vạn tuế ra vẻ chí thành, lại nhìn vào mắt tướng sĩ thì thấy đều sáng rỡ, ra chiều hoan hỉ.

Tướng sĩ nước Liêu nghe lệnh rút quân, được trở về đoàn tụ cùng cha mẹ vợ con, vừa không phải chịu nỗi khổ chinh chiến xa vạn dặm, lại vừa không lo mất mạng, nên ai nấy mừng rỡ vô cùng. Mặc dù người Khất Đan vốn kiêu dũng thiện chiến, nhưng cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi, ai đi đánh nhau mà biết chắc mình không chết? Chỉ trừ một số ít mong có chiến tranh để được thăng quan phát tài, còn đại bộ phận được thoát khỏi cái họa chiến chinh đều mừng vui khôn xiết.

Gia Luật Hồng Cơ nghĩ thầm: “Thì ra quân lính của ta cũng chẳng muốn công phạt Nam triều, nếu mình cứ nam chinh thì chưa chắc gì đã thủ thắng”. Rồi lão lại nghĩ: “Bọn man rợ Nữ Chân thật là khả ố, chúng cứ ở sau lưng người Khất Đan thì thật là một mối lo trong gan ruột. Ta về quét sạch bọn chúng rồi sẽ liệu tiếp.” Gia Luật Hồng Cơ giơ bảo đao lên, lớn tiếng nói: “Bắc Viện Đại Vương! Truyền lệnh cho hậu đội biến thành tiền đội, rút quân về Nam Kinh.”

Trong quân nổi hiệu trống cùng tù và, truyền ngự chỉ xuống. Tiếng hoan hô lại nổi lên rầm rộ, truyền đi rất xa. Gia Luật Hồng Cơ quay đầu nhìn lại, thấy Tiêu Phong vẫn đứng cứng đờ một chỗ. Lão cười lạnh lẽo, dõng dạc nói: “Tiêu đại vương! Ngươi đã lập được công lớn cho Đại Tống, sắp được quan cao lộc hậu đến nơi rồi.”

Tiêu Phong lớn tiếng đáp: “Bệ hạ! Tiêu Phong là người Khất Đan, hôm nay uy hiếp bệ hạ mà trở thành kẻ đại tội của Khất Đan, còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất nữa?” Chàng cúi xuống đất, hai tay nhặt hai đoạn tên gãy, vận nội công đâm mạnh nghe “sột” một tiếng, xuyên suốt lồng ngực.

Gia Luật Hồng Cơ la lên một tiếng: “Ôi chao!”, giục ngựa chạy đến mấy bước, nhưng rồi buông cương dừng lại.

Hư Trúc cùng Đoàn Dự hồn vía bay mất, chạy tới la gọi: “Đại ca! Đại ca!” Nhưng hai đoạn tên đã cắm vào tim, Tiêu Phong hai mắt nhắm nghiền, đã tắt hơi rồi.

Hư Trúc vội xé áo trước ngực Tiêu Phong ra để cấp cứu, nhưng tên đã cắm vào tim, không thể vãn hồi được nữa. Chỉ thấy trước ngực chàng có hình đầu con chó sói xanh lè, há miệng nhe nanh coi rất khủng khiếp. Hư Trúc cùng Đoàn Dự khóc rống lên, phủ phục xuống đất.

Bang chúng Cái Bang cũng chạy tới quì lạy. Ngô trưởng lão đấm ngực la lên: “Kiều Bang chủ! Bang chủ tuy là người Khất Đan, mà anh hùng gấp vạn lần bọn người Hán vô dụng chúng tôi.” Quần hào Trung Nguyên cũng quây cả lại, thì thầm hỏi nhau: “Kiều Bang chủ quả là người Khất Đan ư? Vậy mà sao ông lại giúp nhà Đại Tống? Thế thì người Khất Đan cũng có anh hùng hào kiệt.” Ông được người Hán nuôi dưỡng từ nhỏ cho đến trưởng thành, học được đại nhân đại nghĩa như người Hán. “Hai nước đã bãi binh, ông sẽ thành một đại công thần, sao lại còn tự vẫn?”  “Ông có công với Đại Tống, nhưng đối với Đại Liêu lại là một tên phản quốc, nên sợ tội mà tự sát.”  “Cái gì mà sợ với chẳng sợ? Kiều Bang chủ là một bậc đại anh hùng, trong thiên hạ còn có chuyện gì làm ông phải sợ nữa?”

Gia Luật Hồng Cơ thấy Tiêu Phong tự tận, trong lòng cũng không khỏi hoang mang. Lão thầm nghĩ: “Y đối với nước Đại Liêu ta thì có công hay có tội? Y khổ sở khuyên ta đừng khởi binh đánh Tống, xét cho cùng thì vì người Tống hay vì người Khất Đan? Y cùng ta đã kết nghĩa huynh đệ, trước sau vẫn một dạ trung thành với ta. Hôm nay y tự tận trước Nhạn Môn Quan, chứng tỏ không tham công danh phú quý của Nam triều, thế thì… thế thì y vì cái gì?” Lão lắc lắc đầu, nở một nụ cười đau khổ, rồi quay đầu ngựa lại, đi vào trận Liêu.

Vó ngựa lộp cộp vang lên, hàng ngàn hàng vạn nhân mã nước Liêu lên đường về Bắc. Mọi tướng sĩ đều không khỏi quay đầu lại, nhìn thi thể Tiêu Phong đang nằm yên dưới đất.

Bỗng nghe tiếng chim ríu rít, một đàn hồng nhạn bay qua đầu mọi người, vượt trên Nhạn Môn Quan mà bay mãi đi.

Quân Liêu đi mỗi lúc một xa, tiếng vó ngựa như sấm động chỉ còn ì ầm khe khẽ ở phía sau núi.

Cả ngàn người bọn Hư Trúc, Đoàn Dự đứng bên thi thể Tiêu Phong, người thì khóc rống lên, người thì âm thầm rơi lệ.

Bỗng nghe giọng một thiếu nữ thét lên lạnh lảnh: “Tránh ra! Tránh ra! Mọi người tránh hết ra! Bọn ngươi đã hại chết tỉ phu ta, lại còn ngồi đây giả vờ khóc lóc thì được ích gì?” Nàng vừa nói vừa giơ tay đẩy mọi người ra, chính là A Tử. Dĩ nhiên bọn Hư Trúc không đôi co với nàng, thấy A Tử xô đẩy thì tránh sang hai bên để nhường lối đi.

A Tử đăm đăm nhìn thi thể Tiêu Phong hồi lâu rồi dịu dàng nói: “Tỉ phu! Bọn này đều là hạng người bại hoại, huynh đừng thèm nhìn đến họ nữa. Chỉ có A Tử mới thật là người tốt với huynh.” Nàng nói xong, cúi người xuống, ôm thi thể Tiêu Phong lên. Người Tiêu Phong cao lớn, nàng chỉ ôm được nửa người lên, còn hai chân chàng vẫn chấm đất. A Tử lại nói: “Tỉ phu! Bây giờ huynh ngoan ngoãn lắm rồi, muội ôm lấy huynh mà huynh vẫn không đẩy muội ra. Hay lắm, như thế mới là đúng chứ!”

Hư Trúc cùng Đoàn Dự đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: “Nàng thương tâm quá độ, thần trí thất thường mất rồi.” Đoàn Dự dịu dàng nói: “Tiểu muội! Tiêu đại ca vì nghĩa xả thân, người đã chết không thể sống lại được nữa. Muội… muội…” Chàng bước tới mấy bước, toan ôm lấy thi thể Tiêu Phong.

A Tử nghiêm giọng nói: “Huynh đừng giành lấy tỉ phu của muội. Tỉ phu là của muội rồi, ai cũng không được đụng đến tỉ phu.” Đoàn Dự quay đầu lại, đưa mắt ra hiệu cho Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh hiểu ý, tiến lại gần A Tử, nhẹ nhàng nói: “Tiểu muội tử! Tiêu đại ca tạ thế rồi, chúng ta phải lo việc an táng cho đại ca…”

Đột nhiên A Tử quát lên một tiếng, Mộc Uyển Thanh giật mình lùi lại hai bước. A Tử la lên: “Đi đi! Đi đi! Ngươi lại bước tới một bước, thì ta đâm chết ngươi trước!” Mộc Uyển Thanh chau mày, nhìn Đoàn Dự lắc đầu.

Đột nhiên trong dãy núi phía bên trái quan ải có tiếng la gọi rất lớn: “A Tử! A Tử! Tại hạ đã nghe thấy thanh âm cô nương rồi! Cô nương ở đâu? Cô nương ở đâu?” Thanh âm này cực kỳ thê thảm, nhiều người nhận ra đây là Bang chủ Cái Bang, lấy tên là Trang Tụ Hiền, nhưng chính là Du Thản Chi.

Mọi người quay đầu nhìn về hướng có tiếng kêu réo, thì thấy Du Thản Chi hai tay cầm một đôi gậy trúc, gậy tay trái thì để dò đường, gậy tay phải thì gác lên vai một hán tử trung niên, đang từ góc núi tiến ra. Hán tử trung niên này lại chính là Ô Lão Đại ở cung Linh Thứu. Hắn hình dung tiều tụy, áo quần rách rưới, thần sắc đầy vẻ buồn rầu thê thảm. Bọn Hư Trúc lập tức hiểu ngay là Du Thản Chi bức bách hắn dẫn đi tìm A Tử, dọc đường chắc hành hạ đau khổ đã nhiều.

A Tử tức giận nói: “Ngươi đến đây làm chi? Ta không muốn thấy ngươi nữa! Ta không muốn thấy ngươi nữa!” Du Thản Chi vui mừng reo lên: “Trời ơi! Quả nhiên cô nương ở đây. Tại hạ đã nghe thấy thanh âm cô nương, cuối cùng cũng tìm được cô nương rồi.” Cây gậy bên phải gã đè mạnh xuống, Ô Lão Đại bất giác nhảy vọt tới trước. Hai người tiến tới rất nhanh, chỉ trong khoảnh khắc đã đến bên A Tử.

Lúc này bọn Hư Trúc cùng Đoàn Dự hoàn toàn vô kế khả thi, thấy Du Thản Chi đến thì nghĩ rằng gã này đã cam tâm tặng đôi mắt cho A Tử, nhất định phải có mối quan hệ sâu xa, không chừng gã có thể khuyên giải cho nàng tỉnh táo lại. Ai nấy nghĩ vậy rồi lùi lại mấy bước, để khỏi làm phiền đến câu chuyện giữa hai người.

Du Thản Chi nói:”A Tử cô nương! Cô nương vẫn khỏe chứ? Có ai dám khinh mạn cô nương không?” Khuôn mặt xấu xí của gã lộ vẻ vừa vui mừng vừa tha thiết với A Tử.

A Tử nói: “Nếu có người khinh mạn ta thì ngươi làm gì?” Du Thản Chi đáp ngay: “Ai đã đắc tội với cô nương, cô nương cho tại hạ biết ngay, tại hạ quyết liều mạng với hắn.” A Tử cười nhạt, trỏ vào mọi người xung quanh rồi đáp: “Hết thảy bọn này đều khinh mạn ta, ngươi cố mà giết sạch bọn chúng đi!”

Du Thản Chi “Vâng!” một tiếng, rồi hỏi Ô Lão Đại: “Lão Ô! Những ai đã đắc tội với cô nương?” Ô Lão Đại đáp: “Nhiều người lắm! Các hạ không giết hết được đâu.” Du Thản Chi nói: “Không giết được thì cũng phải giết, ai bảo chúng dám vô lễ với A Tử cô nương.”

A Tử tức giận nói: “Ta đã được cùng tỉ phu ở một nơi, từ nay vĩnh viễn không chia lìa nữa. Ngươi hãy đi thật xa đi! Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa.”

Du Thản Chi đau lòng tưởng chết đi được, nói: “Cô nương… Cô nương không muốn nhìn thấy tại hạ nữa ư?”  A Tử lớn tiếng nói: “Trời ơi! Phải rồi, cặp mắt này là của ngươi đã cho ta. Tỉ phu nói là ta còn thiếu ngươi món nợ ân tình, lại muốn ta đối đãi với ngươi cho tử tế. Nhưng ta không thể ưa ngươi được.” Nàng đưa tay phải lên, đột nhiên móc cặp mắt ra, vừa dùng sức ném về phía Du Thản Chi vừa la lên: “Trả lại ngươi! Trả lại ngươi! Từ nay ta không còn thiếu nợ ngươi nữa. Như thế thì tỉ phu mới không bắt ta phải đi theo ngươi.”

Du Thản Chi không nhìn thấy gì, nhưng nghe mọi người xung quanh la hét, thanh âm vừa hoảng hốt vừa kinh hãi, thì biết thảm họa đã phát sinh rồi. Gã thét lên: “A Tử cô nương! A Tử cô nương!”

A Tử lại ôm lấy thi thể Tiêu Phong, dịu dàng nói: “Tỉ phu! Chúng ta không còn nợ gì gã nữa. Trước kia muội đã dùng độc châm để bắn huynh, chỉ vì muốn huynh vĩnh viễn ở bên cạnh muội. Hôm nay muội đã thỏa mãn tâm nguyện rồi.” Nàng vừa nói vừa ôm Tiêu Phong bước đi.

Quần hào thấy máu từ hai hốc mắt nàng chảy đỏ cả khuôn mặt trắng như tuyết, ai cũng khiếp sợ. Nàng đi tới đâu, mọi người tránh ra tới đó. A Tử cứ đi bừa tới trước, đến gần vực thẳm sâu không thấy đáy. Mọi người vội la lên: “Dừng lại! Dừng lại! Trước mặt là vực thẳm!”

Đoàn Dự vừa vọt tới vừa la: “Tiểu muội! Tiểu…” Nhưng A Tử vẫn tiến thẳng tới trước, đột nhiên chân nàng bước hụt vào khoảng không, nhào thẳng xuống hang sâu vạn trượng.

Đoàn Dự vung tay ra chụp, nghe “roạc” một tiếng, chỉ chụp được một góc vạt áo của nàng. Đột nhiên sau lưng chàng có tiếng gió, có người xông đến. Đoàn Dự né vội sang trái, thấy Du Thản Chi cũng xông vào vực thẳm. Chàng la lên “Trời ơi!”, rồi nhìn xuống đáy hang, chỉ thấy mây phủ mịt mờ, chẳng biết sâu đến mức nào.

Quần hào đứng trên bờ vực thẳm, ai cũng ngậm ngùi thở dài. Những người kém võ công nhìn xuống sườn núi đầy đá tai mèo tựa như đao kiếm sắc bén, đều không khỏi khiếp sợ rùng mình. Những người cao tuổi như Huyền Độ đều biết chuyện ngoài Nhạn Môn Quan ngày trước, Huyền Từ cùng Uông Bang chủ dẫn người phục kích bọn võ sĩ Khất Đan tại đây. Khi ấy mẫu thân Tiêu Phong cũng đã vùi thây dưới vực thẳm này.

***

Bỗng nghe trên quan ải trống thúc liên hồi, tên võ quan khi nãy lớn tiếng hô: “Trương tướng quân Chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan có lệnh: Bọn ngươi không phải là gian tế nước Liêu, vậy cho phép vào quan ải, nhưng phải biết an phận giữ mình, không được làm huyên náo, phải nhớ cho kỹ.”

Quần hào dưới chân thành đều lớn tiếng thóa mạ: “Chúng ta thà chết chứ không thèm vào cửa ải của bọn chó má các ngươi!”. “Nếu bọn cẩu quan không ngăn trở, thì Tiêu đại hiệp không đến nỗi phải uổng mạng!”. “Chúng ta phải xông vào thành mà giết tên cẩu quan đó!” Mọi người đều chỉ trỏ lên mặt thành, vung tay giậm chân mắng chửi om sòm.

Bọn Hư Trúc, Đoàn Dự quì trước vực thẳm, lạy mấy lạy, rồi vượt núi mà đi. Trương tướng quân Chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan thấy khí thế sôi sục của quần hào có vẻ bất ổn, vội sửa lại mệnh lệnh, không cho ai vào trong ải nữa. Đợi đến khi quần hào la hét chán rồi từ từ giải tán, leo lên núi đi vòng về Nam, hắn mới yên lòng viết biểu chương, cho khoái mã đem gấp về Biện Kinh. Trong biểu chương nói là hắn đã dẫn tướng sĩ bản bộ huyết chiến mấy ngày với mười mấy vạn quân Liêu, may nhờ hồng phúc của thánh hoàng, nhờ các đại thần trong triều sáng suốt chỉ điểm, tướng sĩ đã liều mạng giết được đại tướng nước Liêu là Nam Viện đại vương Tiêu Phong, còn Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ bại trận phải rút quân về.

Tống đế tiếp được biểu chương thì cả mừng, truyền chỉ ra quan ải khao thưởng ba quân, từ Chỉ huy sứ trở xuống đều được thăng quan tiến chức. Triệu Hú tự cho rằng mình anh minh võ dũng, hơn hẳn Thái tổ, Thái tông, bèn thiết yến đãi tiệc triều thần, lại cùng hậu phi ăn mừng trong nội cung suốt mấy ngày liền. Lời ca tụng công đức tứ phía vang lên nghe điếc cả tai, biểu chúc mừng thắng lợi tám hướng gửi về rợp như bươm bướm.

***

Đoàn Dự chia tay cáo biệt cùng bọn Hư Trúc, Huyền Độ, Ngô Trường Phong, rồi cùng bọn Mộc Uyển Thanh, Chung Linh, Ba Thiên Thạch, Phạm Hoa trở về Đại Lý.

Mọi người vừa vào lãnh thổ Đại Lý đã thấy Vương Ngữ Yên cùng bọn thị vệ, võ sĩ Đại Lý ra nghênh giá. Đoàn Dự kể lại câu chuyện của Tiêu Phong cùng A Tử, mọi người đều không nén nổi buồn rầu thảm đạm. Đoàn người đi thẳng về phía nam, Đoàn Dự không muốn kinh động bách tính, truyền cho mọi người không được thay đổi sắc phục bá quan, cứ ăn mặc như kiểu khách thương.

Một hôm, sắp về đến kinh thành, Đoàn Dự muốn vào chùa Thiên Long bái kiến Khô Vinh thiền sư và hoàng bá phụ Đoàn Chính Minh. Nhưng chàng thấy trời đã tối mà chùa Thiên Long còn cách đến sáu mươi dặm, định tìm một chỗ nghỉ lại. Đột nhiên trong rừng cây có giọng trẻ nít la lên: “Bệ hạ! Bệ hạ! Thần đã lạy bệ hạ rồi, sao chưa cho thần ăn kẹo?”

Mọi người đều rất ngạc nhiên, tự hỏi: “Sao lại có người nhận ra bệ hạ?” Ai nấy chạy vào rừng cây xem thử, thì lại nghe một người nói: “Các ngươi phải nói: “Nguyện ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!” thì mới được thưởng kẹo. Giọng nói này nghe rất quen tai, chính là của Mộ Dung Phục.

Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên giật mình kinh hãi. Hai người dắt tay nhau nấp sau một gốc cây, nhìn về phía có tiếng nói, thì thấy Mộ Dung Phục ngồi trên một ngôi mộ, đầu đội mũ giấy, thần sắc oai nghiêm.

Có bảy tám đứa con nít nhà quê đang quì trước ngôi mộ này. Bảy tám giọng cùng hô lên: “Nguyện ngô hoàng vạn tủế, vạn tuế, vạn vạn tuế!” Chúng vừa hô vừa lạy, có đứa chìa tay ra năn nỉ: “Cho thần kẹo đi! Cho thần bánh đi!”

Mộ Dung Phục nói: “Các khanh hãy bình thân! Trẫm đã phục hưng được cơ nghiệp Đại Yên, lên ngôi đại bảo, tất cả triều thần đều được phong thưởng.”

Có một thiếu nữ đứng cạnh hắn trên ngôi mộ đó, chính là A Bích. Nàng mặc bộ y phục màu xanh nhạt, trên mặt hiện rõ vẻ thê lương tiều tụy, lấy trong giỏ ra một nắm bánh kẹo chia cho bọn con nít. Nàng lại nói: “Các ngươi đều rất ngoan ngoãn. Bây giờ hãy về đi, ngày mai lại đến chơi, ta lại phân phát bánh kẹo cho ăn.” Thanh âm nàng đầy vẻ buồn rầu, nước mắt từng giọt từng giọt rớt vào cái giỏ tre. Đám con nít vỗ tay hoan hô, vừa chạy tản ra vừa nói: “Ngày mai lại đến!”

Vương Ngữ Yên biết thần trí của biểu ca đã loạn, cái mộng phú quí của hắn ngày càng thâm trọng, không nén nổi đau lòng.

Đoàn Dự nhìn thần sắc A Bích mà thương xót, chỉ mong được dẫn nàng cùng Mộ Dung Phục về Đại Lý để trông nom săn sóc. Nhưng chàng thấy ánh mắt nàng nhìn Mộ Dung Phục nhu tình vô hạn, mà Mộ Dung Phục lại đầy vẻ dương dương đắc chí, thì không khỏi nhói lòng nghĩ lại: “Mỗi người đều có duyên nghiệp của mình. Mộ Dung huynh cùng A Bích đã như thế, tuy ta thấy họ đáng thương, nhưng trong lòng họ có chắc là chưa thỏa mãn không? Ta cần gì phải đa sự xen vào?” Rồi chàng khẽ kéo tay áo Vương Ngữ Yên ra hiệu.

Mọi người cùng im lặng lùi ra, vẫn thấy Mộ Dung Phục ngồi trên phần mộ, quay mặt về hướng nam, trong miệng vẫn đang nói lảm nhảm gì đó.

Hết

Hồi 01: Nhà quê ra tỉnh

Chát! Chát chát chát!

Chát! Chát chát!

Hai thanh kiếm gỗ vù vù giao đấu, phát ra những âm thanh chát chúa. Có lúc lặng phắc một hồi khá lâu, có lúc lại vang lên dồn dập.

Trên một sân phơi thóc, trước một ngôi nhà ngói nhỏ ba gian ở làng Ma Khê, phía Nam Nguyên Lăng thuộc Tương[1] Tây, một đôi thanh niên nam nữ tay cầm kiếm gỗ đang tỉ thí.

Trên chiếc ghế thấp trước nhà, một ông già đang ngồi bện giày cỏ, miệng ngậm tẩu thuốc, thỉnh thoảng lại phà khói, ngẩng đầu nhìn đôi thanh niên, khóe miệng cười cười vẻ hài lòng. Ánh nắng nhạt xuyên qua đám khói thuốc, chiếu lên mái tóc bạc, chiếu lên cả khuôn mặt đầy nếp nhăn.

Nhưng khi mắt lão nhìn vào hai thanh kiếm gỗ vẫn ánh lên vẻ uy mãnh, xem ra chưa phải là già lắm, đâu chừng năm mươi tuổi trở lại.

Thiếu nữ khoảng mười bảy mười tám, khuôn mặt trái xoan, mắt đen lay láy, trán lấm tấm mồ hôi, trên má mồ hôi ròng ròng chảy xuống tận cổ. Cô bé láy tay áo lau mồ hôi, mặt đỏ như mấy xâu ớt treo bên hàng hiên. Cậu trai lớn hơn cô gái vài ba tuổi, thân mình đen trũi, gò má hơi cao, tay chân thô ráp, y như những chàng trai lực điền người ta thường gặp ở vùng Tương Tây, thanh kiếm gỗ trong tay cậu trai thật là linh hoạt.

Bỗng thanh kiếm gỗ trong tay cậu ta từ góc trên bên trái phạt thẳng xuống, thiếu nữ nghiêng đầu tránh, kiếm gỗ đâm tới ngay cực nhanh. Cậu trai lùi hai bước, thanh kiếm gỗ vung một vòng rộng, lia ngang ba nhát, thiếu nữ chống đỡ không kịp, đột nhiên thu kiếm đứng yên, không hề gạt đỡ, cất tiếng giận dữ:

– Chịu huynh lợi hại, được chưa? Chém chết muội đi xem nào!

Cậu trai không ngờ cô ta thu kiếm không chống đỡ, thấy nhát kiếm thứ ba sắp chém vào lưng cô gái, hoảng quá vội vàng thu chiêu, nhưng thế kiếm quá mạnh, “cốp” một tiếng thanh kiếm giáng trúng mu bàn tay trái – “ối cha”, cậu trai bật tiếng la hoảng. Thiếu nữ vỗ tay cười:

– Xấu hổ chưa? Nếu là kiếm thật thì bàn tay huynh có còn không nhỉ?

Khuôn mặt đen nhẻm của cậu trai hơi đỏ lên:

– Huynh sợ chém phải muội nên mới không để ý đến mình. Nếu là đánh thật, người ta có chịu nhường muội không? Sư phụ, sư phụ thử phân xử xem.

Nói rồi, cậu trai ngoảnh sang phía ông già. Ông già buông chiếc giày cỏ đang bện dở, đứng dậy, nói:

– Hai đứa đánh năm chục chiêu đầu còn được, mấy chiêu sau chả ra quái gì cả.

Lão cầm lấy thanh kiếm gỗ trong tay thiếu nữ, tay vung kiếm, miệng nói:

– Chiêu “Ca ông hám thượng lai” này tiếp theo chiêu “Thị hành bất cảm quá”, cần phải lia ngang, không được đâm thẳng. A Phương, hai chiêu này của con là “Hốt thính phún kinh phong, liên sơn nhược bố đào” thế kiếm phải như một dải lụa vắt qua. Hai chiêu của A Vân là “Lạc nê chiêu đại thư, Mã mệnh phong tiểu tiểu”[2] sử rất khá. Nhưng chiêu pháp đã gọi là “phong tiểu tiểu”, con lại xuất lực là sai rồi. Bộ kiếm pháp này của chúng ta là “Thảng thi kiếm pháp” nổi tiếng trong võ lâm, chiêu đã ra lả kẻ địch phải thành xác chết. Tỉ đấu tuy không phải lả đánh thật nhưng hai chữ “thảng thi”[3] thì phải luôn luôn nhớ kỹ trong lòng.

Thiếu nữ nói:

– Cha, kiếm pháp của chúng ta rất hay, nhưng cái tên này thì… thì không… không hay lắm, “Thảng thi kiếm pháp”, nghe mà phát sợ.

Lão già nói:

– Nghe phát sợ mới có uy phong. Kẻ địch còn chưa kịp trở tay đã lòng run mật vỡ, là đã thua đến ba phần rồi.

Tay lão cầm kiếm gỗ, diễn lại sáu chiêu một lần nữa. Chỉ thấy kiếm chiêu của lão nặng nề, tiến đâm thoái đỡ đều độc ác dị thường, đôi thanh niên nam nữ kia nhìn mà bội phục vỗ tay. Lão già trả thanh kiếm gỗ cho thiếu nữ, nói:

– Hai đứa luyện lại lẩn nữa xem. A Phương đừng giỡn. Vừa rồi nếu như sư ca không nhường con thì cái mạng nhỏ xíu của con có còn không?

Thiếu nữ le lưỡi, đột nhiên một kiếm phóng ra, cực nhanh. Cậu trai không kịp đề phòng vội vàng đưa kiếm ra đỡ, nhưng cô gái đã chiếm tiên cơ, tấn công tới tấp, cậu ta không sao phản kích được. Xem chừng bại cục đã rõ. Bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập từ phía Bắc, một người cưỡi ngựa đang lao tới.

Cậu trai ngoái đầu lại hỏi:

– Ai tới vậy?

Thiếu nữ hét lên:

– Thua rồi, đừng đánh trống lảng. Ai đến thì có can gì đến huynh?

Lại chát chát chát tấn công liền ba chiêu. Cậu trai ra sức ngăn lại, giận dữ:

– Muội bảo ta sợ muội ư?

Thiếu nữ cười nói:

– Miệng nói không sợ, trong lòng sợ!

Lại đâm bên trái một nhát, đâm bên phải một nhát, thế hai chiêu kiếm cực linh động.

Lúc ấy người cưỡi ngựa đã ghìm cương, lớn tiếng kêu lên:

– Thiên hoa lạc bất tận, Xứ xứ điểu hàm phi. Hay quá!

Thiếu nữ “a” lên một tiếng, nhảy lui lại phía sau, ngó người khách kia dò xét, chỉ thấy anh ta khoảng hăm ba hăm bốn tuổi, ăn mặc bảnh bao ra vẻ con nhà giàu thành thị, bất giác mặt ửng hồng, khẽ hỏi:

– Cha, anh ta… sao anh ta lại biết?

Lão già nghe người khách cưỡi ngựa gọi đúng tên hai chiêu kiếm của con gái cũng cảm thấy lạ, đang định hỏi. Người khách đã xuống yên, bước tới chắp tay nói:

– Xin hỏi lão trượng, ở Ma Khê có một vị danh gia kiếm thuật gọi là “Thiết tỏa hoành giang” Thích Trường Phát, ông ấy đang ở đâu ạ?

Ông già nói:

– Lão chính là Thích Trường Phát đây. “Kiếm thuật danh gia” gì, đâu dám nhận. Ngài tìm tôi có việc gì?

Tráng sĩ trẻ kia quỳ lạy, nói:

– Vãn bối Bốc Viên, xin bái kiến Thích sư thúc. Vãn bối phụng mệnh gia sư đến tìm sư thúc.

Thích Trường Phát nói:

– Không dám! Không dám!

Rồi đưa tay đỡ chàng trai dậy, hai tay ngẩm vận nội kình. Bốc Viên cảm thấy nửa người tê dại, đỏ mặt lên, nói:

– Thích sư thúc thử vãn bối à, mới gặp đã làm vãn bối phải xấu hổ.

Thích Trường Phát cười nói:

– Nội công của cậu còn kém. Cậu là đệ tử thứ mấy của Vạn sư ca?

Bốc Viên lại đỏ mặt, nói:

– Vãn bối là đệ tử kém cỏi thứ năm của sư phụ. Sư phụ lão nhân gia thường vẫn khen Thích sư thúc nội công thâm hậu, sao lại đem vãn bối ra làm trò cười.

Thích Trường Phát ha ha cười lớn, nói:

– Vạn sư ca có khỏe không? Anh em ta mười mấy năm rồi không gặp nhau.

Bốc Viên nói:

– Nhờ hồng phúc của sư thúc, sư phụ vẫn khỏe. Hai vị sư ca sư tỷ này là cao đồ của sư thúc phải không? Kiếm pháp thật là cao minh!

Thích Trường Phát vẫy vẫy tay, nói:

– A Phương, A Phương, lại đây chào Bốc sư ca. Đây là Địch Vân, đồ đệ của lão. Còn đây là A Phương, con gái lão. Ầy, con gái nhà quê, chưa biết lễ nghi, đều là người nhà cả, ngại gì.

Thích Phương nấp sau lưng Địch Vân cũng không hành lễ, chỉ gật đầu cười cười. Địch Vân nói:

– Bốc sư huynh, kiếm pháp huynh luyện cũng một lộ với chúng tôi, phải không? Thảo nào mà thoạt nhìn đã nhận ra kiếm chiêu của sư muội.

Thích Trường Phát “phì” một tiếng, nhổ xuống đất một bãi đờm, nói:

– Sư phụ của ngươi và sư phụ của anh ấy là đồng môn, tất nhiên cùng học một lộ kiếm pháp, thế mà cũng phải hỏi?

Bốc Viên mở cái túi vải bên yên ngựa, lấy ra một cái bao, hai tay nâng lên, nói:

– Thích sư thúc, sư phụ nói một chút quà mọn, xin sư thúc nhận cho.

Thích Trường Phát cảm ơn, rồi bảo Thích Phương nhận lấy.

Thích Phương đem vào phòng, mở ra, thấy là một bộ áo hàng da dê lót đoạn gấm, một chiếc vòng tay bằng Hán ngọc, một chiếc mũ lông, một tấm mã quải bằng nỉ đen. Thích Phương bưng cả ra, cười hì hì, nói:

– Cha, cha, xưa nay cha chưa hề mặc bộ đồ đẹp thế này, nay mặc vào xem có còn giống ông già nhà quê nữa không nào? Chẳng phải là phát tài thăng quan sao?

Thích Trường Phát thoạt nhìn cũng ngẩn ra một lúc, rồi ngập ngừng nói:

– Vạn sư ca… cái này… hi hi… thật là…

Địch Vân đến đầu thôn mua ba cân rượu trắng. Thích Phương mổ một con gà mập, hái rau cải và rau muống vườn nhà, biện một mâm lớn, lại có một bát tương ớt ngâm giấm. Bốn người vây quanh mâm cùng ăn cơm.

Trong bữa cơm Thích Trường Phát hỏi ý định của Bốc Viên. Bốc Viên nói:

– Sư phụ nói đã hơn mười năm không gặp sư thúc, rất là nhớ, đã muốn đi Hồ Nam thăm. Có điều lão nhân gia ngày nào cũng phải luyện “Liên thành kiếm pháp”, không sao dứt ra mà đi được…

Thích Trường Phát bưng bát rượu đang kề môi sắp uống, nghe vậy liền dừng lại, vội hỏi:

– Cái gì? Sư phụ của cậu đang luyện “Liên thành kiếm pháp” à?

Bốc Viên đắc ý nói:

– Ngày mùng năm tháng trước, sư phụ đã luyện xong “Liên thảnh kiếm pháp” rồi.

Thích Trường Phát giật mình, đặt mạnh bát rượu xuống mâm, nửa bát rượu sánh ra, ướt cả mâm, vạt áo trước cũng ướt đẫm rượu. Lão ngẩn ra một lúc, đột nhiên ha ha cười lớn, vỗ mạnh vào vai Bốc Viên, nói:

– Mẹ kiếp, thằng nhóc này, sư phụ của cậu từ bé đã hay bốc phét. “Liên thành kiếm pháp” đến sư tổ của cậu cũng chưa luyện thành, trò chơi của sư phụ cậu cao minh đến mức nào? Chớ lừa sư thúc, uống đi, uống đi…

Nói rồi lão ngửa cổ, dốc tuột cả nửa bát rượu vào, tay trái lão vớ một quả ớt đỏ cắn ngang nhai rau ráu.

Bốc Viên nghiêm giọng:

– Sư phụ biết rõ là sư thúc không tin, ngày mười sáu tháng sau là ngày mừng thọ sư phụ năm mươi tuổi, mời sư thúc đem cả sư đệ và sư muội, cùng đến Kinh Châu xơi chén rượu nhạt. Sư phụ bảo vãn bối đến mời trước, thế nào cũng phải mời được sư thúc quang lâm. Sư phụ nói e rằng người luyện chưa được thuần thục, muốn cùng sư thúc trao đổi thêm. Sư phụ thường nói kiếm pháp của sư thúc rất cao cường. Anh em vãn bối được sư thúc chỉ điểm cho vải chiêu, chắc cũng tiến bộ nhiều.

Thích Trường Phát hỏi:

– Nhị sư thúc Ngôn Đạt Bình, đã được mời chưa?

Bốc Viên nói:

– Ngôn nhị sư thúc hành tung vô định, sư phụ đã sai ba vị nhị sư ca, tam sư ca, tứ sư ca đến tìm ở ba nơi Hà Sóc, Giang Nam và Vân Quý để tìm nhưng đều không tìm được. Thích sư thúc có nghe được tin tức gì của Ngôn nhị sư thúc không?

Thích Trường Phát than:

– Sư huynh đệ chúng ta có ba người, nhị sư ca võ công cao nhất. Nếu nói là nhị sư ca luyện được “Liên thành kiếm pháp” thì ta còn tin được ba phần. Còn sư phụ của cậu ấy ả? Hi hi, ta không tin, không tin!

Tay trái lão cầm vò rượu, rót đầy một bát, tay phải bưng bát rượu nhưng không uống, bỗng lớn tiếng:

– Được! Ngày mười sáu tháng sau, ta nhất định sẽ đến Kinh Châu chúc thọ sư phụ của cậu, xem xem ông ấy luyện “Liên thành kiếm pháp” thế nào.

Lão dằn mạnh bát rượu xuống bàn, lại nửa bát rượu tung tóe ra, lênh láng cả mặt bàn, vạt áo cũng đẫm rượu.

* * *

– Cha, cha bán Đại hoàng đi rồi thì năm sau ta lấy gì mà cày ruộng?

– Việc sang năm để sang năm hãy nói, lo xa làm gì?

– Cha, chúng ta ở đây chẳng phải là tốt rồi sao? Đến Kinh Châu làm gì? Để mừng sinh nhật Vạn sư bá mà bán con Đại hoàng làm lộ phí, con thấy thật không ổn.

– Cha đã nhận lời Bốc Viên rồi, nhất định phải đi. Đại trượng phu đã nói một lời, sao có thể thay đổi? Đưa con với A Vân đến thành Kinh Châu cho mở mang tầm mắt, chớ có cả đời làm kẻ quê mùa.

– Làm người nhà quê thì có gì là không tốt. Con chẳng cần đến Kinh Châu. Đại hoàng là do con nuôi từ nhỏ. Con dắt nó đi ăn cỏ, dắt nó về nhà… Cha xem Đại hoàng đang chảy nước mắt kìa, nó không chịu đi.

– Cô ngốc ơi! Bò là súc sinh, biết gì? Mau buông tay ra.

– Con không buông. Người ta mua Đại hoàng để mổ thịt, con không thể buông được.

– Đâu có mổ thịt, người ta mua để cày ruộng.

– Hôm qua lão đồ tể họ Vương đến nói gì với cha? Nhất định là mua đại hoàng để mổ thịt. Cha lừa con, cha lừa con. Cha xem Đại hoàng chảy nước mắt. Đại hoàng, Đại hoàng, tao không bỏ mày được. Anh Vân, anh Vân! Lại đây mau, cha muốn bán Đại hoàng.

– A Phương, cha cũng không muốn xa Đại hoàng. Nhưng chúng ta tay không đến mừng sinh nhật sao được. Chúng ta mặc ba bộ đồ rách rưới này, người ta sẽ khinh cho.

– Chẳng phải là Vạn sư bá mới tặng cha một bộ đồ mới sao? Mặc vào trông oai vệ ra phết.

– Ầ y, trời nóng thế này làm sao mặc được áo da? Hơn nữa, sư bá của con khoe là đã luyện được “Liên thành kiếm pháp”, cha không tin, phải xem tận mắt mới được. Con gái ngoan, buông tay ra nào.

– Đại hoàng, người ta định mổ mày, mày húc cho họ ngã chổng kềnh rồi chạy về đây. Không! Người ta sẽ đuổi tới đây, mày phải trốn đi thật xa, trốn lên núi ấy.

* * *

Nửa tháng sau, Thích Trường Phát dẫn đồ đệ là Địch Vân và con gái là Thích Phương đến Kinh Châu. Ba người đều mặc áo mới, đến thành lớn lần đầu, lạ nước lạ cái họ đều có chút sợ hãi, không biết để chân tay vào đâu. Hỏi đường đến nhà “Ngũ Vân Thủ” Vạn Chấn Sơn người ta đều nói:

– Nhà của Vạn lão anh hùng mà còn phải hỏi à? Ngôi nhà lớn nhất ở đằng kia kìa.

Địch Vân và Thích Phương đến trước ngôi nhà lớn của họ Vạn, thấy tường cao cổng sơn đỏ, treo đèn kết hoa rực rỡ, trong lòng thầm lo âu. Thích Phương nắm chặt tay áo phụ thân. Thích Trường Phát đang định hỏi người gác cổng, bỗng thấy Bốc Viên từ trong cổng bước ra, lão vui vẻ gọi:

– Bốc hiền điệt, ta đến đây.

Bốc Viên vội ra đón, vui mừng nói:

– Thích sư thúc đến rồi. Chào Địch sư đệ, chào sư muội. Sư phụ đang nhớ sư thúc đấy, mấy hôm nay cứ nhắc: “Thích sư đệ sao chưa thấy tới?”. Mời sư thúc vào!

Ba người bước vào cổng, đàn sáo tưng bừng tấu khúc đón khách. Có tiếng khóa đồng vang lên, Địch Vân giật mình.

Trên đại sảnh một ông già cao lớn đang ân cần tiếp khách. Thích Trường Phát gọi:

– Đại sư ca, đệ đến đây!

Ông già hơi ngẩn ra, tựa như không nhận ra, đứng lặng một lúc mới dang cả hai tay bước tới, cười ha ha:

– Lão tam, đệ già đi nhiều quá, huynh suýt không nhận ra đệ đấy!

Hai anh em đang định cầm tay chuyện trò, bỗng một luồng hơi thối nồng nặc, tiếp theo lả một âm thanh như lệnh vỡ hét lên:

– Vạn Chấn Sơn, mười năm trước ngươi thiếu ta một món nợ, hôm nay hãy trả đây!

Thích Trường Phát ngoái đầu nhìn, chỉ thấy trước sảnh một người bưng một chiếc thùng gỗ, hai tay giơ lên, một thùng đầy cứt đái tạt tới lão và Vạn Chấn Sơn.

Thích Trường Phát thấy con gái vả đồ đệ đứng sau lưng mình, nếu nghiêng mình tránh thì cả thùng phân ấy sẽ tạt hết vào con gái. Lão ứng biến cực nhanh, hai tay nắm lấy trường bào, vận kình cởi phắt ra. Phựt phựt phựt phựt tiếng cúc áo đứt, tay trái lão nắm tấm áo ném ra, nội kình làm chiếc áo phồng lên như cánh buồm hứng trọn cả thùng nước phân, lão thuận tay đẩy ra một nhát, tấm trường bào với toàn bộ cứt đái bay tới trước người mới đến.

Người kia vội ném cái thùng nhảy sang một bên, cả thùng phân và trường bào đều rơi xuống đất, mùi thối nồng nặc cả đại sảnh.

Chì thấy người kia mặt xồm xoàm đầy râu, thân hình cao lớn, đứng đó oai phong lẫm lẫm, ha ha cười lớn:

– Vạn Chấn Sơn, ta ngàn dặm xa xôi đến mừng thọ, tặng ngươi vạn lạng hoàng kim, mừng ngươi vàng ngọc đầy nhà!

Tám đệ tử của Vạn Chấn Sơn thấy người kia đến phá đám, làm cho cả đại sảnh đèn hoa rực rỡ bị ô uế, ai cũng giận dữ. Cả tám người đều xông tới, định tóm lấy y đánh chết. Vạn Chấn Sơn hét lên:

– Đứng im cả cho ta!

Tám đệ tử lập tức dừng lại.

Đệ tử thứ hai là Chu Kỳ lớn tiếng chửi:

– Mẹ mày, mày là cái quái gì? Hôm nay là ngày mừng thọ Vạn lão gia mày lại đến phá đám, đồ thối tha nhà ngươi không biết “Ngũ vân thủ” Vạn lão gia lợi hại thế nào ư?

Vạn Chán Sơn đã nhận ra lai lịch của kẻ râu quai nón kia, nói:

– Ta tưởng là ai, hóa ra là Lữ đại trại chủ ở Thái Hàng Sơn. Lữ đại trại chủ mấy năm nay phát đại tài, trong nhà vạn lạng hoàng kim tiêu không hết, còn dắt theo nhiều vậy.

Tân khách nghe bảy chữ “Lữ đại trại chủ Thái Hàng Sơn”, ghé tai nhau nghị luận:

– Hóa ra là Lữ Thông ở Thái Hàng Sơn, không rõ y có oán thù gì với Vạn lão gia.

– Cái lão Lữ Thông nảy là nhân vật cực kỳ lợi hại trong hắc đạo năm tỉnh miền Bắc, một tay Lục hợp đao lục hợp chưởng, nổi tiếng khắp nam bắc sông Hoàng Hà.

– Người tốt không đến, người đến không tốt! Hôm nay lại một phen náo nhiệt.

Lữ Thông cười nhạt:

– Mười năm trước em trai ta gây án ở phủ Thái Nguyên, có kẻ đã mật báo, phá mất mối làm ăn của bọn ta. Điều ấy không quan trọng lắm, nhưng liên lụy đến em ta là Lữ Uy bị bọn ưng trảo bắt được, chết phi mệnh. Mãi đến ba năm trước mới dò ra được tên cẩu tặc Vạn Chấn Sơn nhà người cáo mật. Việc ấy ngươi bảo phải thanh toán sao đây?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Không sai, đó là do Vạn Chấn Sơn ta mật báo. Đã ăn chén cơm giang hồ, có mất vốn cũng chẳng sao, nhưng gã Lữ Uy em trai ngươi lại cưỡng gian con gái nhỏ của người ta, giết cả bốn mạng người. Những điều thương thiên hại lý ấy, họ Vạn ta chứng kiến lẽ nào lại có thể làm ngơ.

Mọi người nghe thế đều thét lên:

– Việc đại ác như thế mà dám làm, thật không biết nhục!

– Thằng giặc này, trói nó lại mà giải lên quan.

– Thằng kẻ cướp nảy, lại còn dám đến Giang Lăng gây rối!

Lữ Thông bỗng lao như tên bắn, từ giữa sân vào trước sảnh, nhằm cây cột chống mái hiên phạt ngang cánh tay. Đánh liền mấy nhát, nghe “rắc” một tiếng, cột chống gãy lìa, ngói trên nhà ào ào rơi xuống, trước sảnh trên sân bụi bay mù mịt. Nhiều người vội chạy ra ngoài sảnh. Mọi người thấy y thi triển “Thiết tý công”, ai cũng rợn gáy, đều nghĩ “Nếu bị cánh tay y phạt ngang người thì còn đâu tính mạng?”

Lữ Thông xoay người nhảy ra sân hét lớn:

– Vạn Chấn Sơn, nếu ngươi thực thi hiệp nghĩa đạo thì phải đứng ra dẹp bất bình, ta chắc phải phục ngươi là hảo hán. Sao ngươi lại lén lén lút lút mật báo với quan phủ? Vì sao lại nuốt sáu ngàn lạng bạc sắp đến tay anh em ta? Mẹ kiếp, ngươi thật ti bỉ vô sỉ! Ta nay phải liều sống chết với ngươi!

Vạn Chấn Sơn cười nhạt, nói:

– Lữ đại trại chủ, mười năm không gặp, công phu của ngươi quả đã tiến xa, đáng tiếc là bọn người như ngươi võ công càng cao hại người càng nhiều. Họ Vạn ta tuy đã già, cũng phải lĩnh giáo một phen.

Nói rồi Vạn Chấn Sơn chậm rãi bước ra.

Bỗng từ trong đám đông một chàng trai trẻ mày thô mắt lớn nhảy vọt ra, không nói một lời, vung hai tay đã khóa chặt hai cánh tay của Lữ Thông, lớn tiếng quát:

– Ngươi làm bẩn mất bộ áo mới của sư phụ ta, mau đền đi!

Chính là Địch Vân, đệ tử của Thích Trường Phát.

Hai cánh tay của Lữ Thông chấn động, muốn đẩy Địch Vân ra, không ngờ hai cánh tay bị Địch Vân giữ chắc cứng, không cách gì thoát khỏi. “Thiết tý công” của Lữ Thông phải phạt ngang chém dọc mới phát huy được uy lực, nào ngờ vì không đề phòng mà bị chàng trai khóa chặt, không sử được kình lực. Hắn cả giận thúc đầu gối vào bụng dưới của Địch Vân, hét lên:

– Mau buông ra!

Địch Vân bị đau, tay hơi lỏng ra. Lữ Thông dùng một chiêu “Phong vân sạ khởi”, giãy ra khỏi hai tay Địch Vân, đánh ra một quyền, chính là chiêu “Ô long thám hải” trong “Lục hợp quyền”.

Địch Vân vội lùi lại, quát:

– Ta không đánh nhau với ngươi. Bộ áo mới này sư phụ ta may mất ba lạng bạc, chúng ta phải bán một con bò mộng mới may được ba bộ y phục, hôm nay mới mặc lần đầu…

Lữ Thông tức giận nói:

– Thằng nhóc láo toét, nói lăng nhăng cái gì vậy?

Địch Vân xông lên ba bước, quát:

– Ngươi mau đền đi!

Cậu ta là con nhà nông, rất tiếc của, thấy sư phụ phải bán con bò quý giá may được ba bộ quần áo mới, mới mặc lần đầu đã bị người ta làm bẩn, sao cho khỏi tiếc nuối? Địch Vân cũng chẳng thèm biết Lữ Thông với Vạn Chấn Sơn có ân oán giang hồ gì, chỉ biết bộ áo mới của sư phụ kẻ kia không đền không được.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Địch hiền điệt lui ra, áo của sư phụ ngươi để ta đền cho.

Địch Vân nói:

– Y phải đền, để y đi rồi bác lại không chịu đền thì hỏng.

Vừa nói, Địch Vân vừa nắm lấy áo Lữ Thông.

Lữ Thông lắc người tránh, thoi ra một đấm, trúng giữa ngực Địch Vân, Địch Vân loạng choạng suýt ngã. Vạn Chấn Sơn quát lên:

– Địch hiền điệt, lui ra!

Lữ Thông cười nói:

– Ta đánh thằng nhóc hỗn láo này cái đã.

Địch Vân nói:

– Ta cũng đánh ngươi!

Rồi hơi rùn người, chưởng trái lia xéo, chưởng phải cũng theo đà phóng ra. Lữ Thông sử chiêu “Đả hổ thức”, chân trái hơi khuỵu xuống, quyền bên phải đấm mạnh ra.

Hai người quần thảo, loáng cái đã chiết hơn mười chiêu. Địch Vân từ nhỏ đã luyện võ với Thích Trường Phát, cùng sư muội Thích Phương quá chiêu đấu kiếm chưa hề nghỉ một ngày. Lữ Thông tuy là đại đạo ở đất Tấn (Sơn Tây), là nhân vật đã thành danh trong hắc đạo, nhưng nhất thời cũng chưa đánh ngã được cậu ta. Mấy lần Lữ Thông sử “Thiết tý công”, Địch Vân đều khéo léo tránh được. Lữ Thông hai lần đánh trúng vai Địch Vân nhưng cậu ta thân hình lực lưỡng nên cũng không bị thương.

Lại qua mấy chiêu nữa, Lữ Thông sốt ruột, quyền pháp đột nhiên thay đồi, từ “Lục hợp quyền” biến thành “Xích khảo liên quyền”. Bộ quyền pháp này cũng là một lộ trong “Lục hợp quyền”, có điều xen cả hầu quyền, chú ý nhiều thế – ôm, đánh, bao, đạp, quét… lại thêm các thức “mèo vồ”, “chó đớp”, “thỏ lăn”, “ưng lật”, “diều nghiêng cánh”… trong thức lại có thức, biến ảo đa đoan. Địch Vân chưa hề thấy lộ quyền pháp này, phát hoảng, chân trái lại bị Lữ Thông đá cho hai cú.

Vạn Chấn Sơn thấy Địch Vân không phải là đối thủ, lại quát:

– Địch hiền điệt, lui ra, ngươi đánh không lại y đâu!

Địch Vân kêu lên:

– Đánh không lại cũng phải đánh.

“Bình” một tiếng, ngực lại bị Lữ Thông đấm trúng một quyền.

Thích Phương đứng ở bên cạnh nhìn, lo cho sư ca, lúc này không nhịn được cũng kêu lên:

– Sư ca, đừng đánh nữa, để Vạn sư bá đánh y.

Nhưng hai tay Địch Vân vẫn liên tiếp chém ngang phạt dọc, lăn xả đến liều mạng, không ngớt quát tháo:

– Ta không sợ ngươi, ta không sợ ngươi.

“Bình” một tiếng, mũi lại bị trúng một quyền, máu chảy đầm đìa.

Vạn Chấn Sơn cau mày quay sang nói với Thích Trường Phát:

– Sư đệ, nó không nghe lời ta, đệ bảo nó lui ra đi.

Thích Trường Phát hừm một tiếng, nói:

– Cho nó nếm một chút đau khổ, để rồi đệ đấu với tên kẻ cướp nảy.

Đúng lúc ấy, một lão ăn mày đầu bù mặt mốc từ ngoài cổng đi vào, tay trái cầm bát mẻ, tay phải chống gậy tre, cất giọng khàn khàn nói:

– Lão gia hôm nay có hỉ sự, xin thí cho lão một chén cơm nguội.

Mọi người đều đang chăm chú nhìn Lữ Thông đấu với Địch Vân, chẳng ai để ý đến lão. Lão ăn mày rên rỉ:

– Chao ôi, đói chết mất, đói chết mất.

Bỗng chân trái lão giẫm phải đám cứt đái, trượt chân một cái, ngã xoài xuống, kêu to lên:

– Úi chà, ngã chết mất!

Cái bát mẻ và cái gậy trúc trong tay đồng thời văng ra. Kể cũng vừa khéo, cái bát mẻ lại văng trúng huyệt chí đường sau lưng Lữ Thông, cái gậy tre văng trúng huyệt khúc tuyền trên khoeo chân y.

Đầu gối Lữ Thông chợt mềm ra, chân trái quỵ xuống, đồng thời toàn thân tê dại. Song quyền của Địch Vân cùng phóng ra, “bình bình” hai tiếng, đánh bay cả cái thân hình to lớn của Lữ Thông, bốp một tiếng, nước thối bắn tung tóe, y rơi vào giữa đống cứt đái mà y vừa đem tới.

Biến cố này không ai tưởng tượng nổi, chỉ thấy Lữ Thông bò lê bò càng ôm đầu chạy ra. Tân khách ha ha cười lớn, cùng reo hò: “Bắt lấy hắn, bắt lấy hắn”; “Đừng để thằng giặc ấy chạy thoát”…

Địch Vân hét lớn:

– Đền áo cho sư phụ ta.

Rồi định đuổi theo. Bỗng cậu ta cảm thấy vai trái bị nắm chặt, không nhúc nhích được, nghiêng đầu nhìn, chính là sư phụ.

Thích Trường Phát nói:

– Ngươi ăn may mà thắng được, còn đuổi cái gì?

Thích Phương rút chiếc khăn tay, lau máu tươi trên mặt cho Địch Vân.

Địch Vân cúi đầu, chỉ thấy bộ áo mới của mình bê bết máu tươi, không nén được xót ruột, nói:

– Hỏng bét, hỏng bét! Bộ… bộ áo mới của huynh cũng bị bẩn cả rồi.

Chỉ thấy lão hành khất lụ khụ bước ra cổng, miệng lẩm bẩm:

– Cơm chẳng xin được, lại mất cả cái bát.

Địch Vân biết mình thắng được toàn là nhờ vào cú ngã khéo đúng lúc của lão ăn mày, cậu ta rút từ trong túi ra hai chục đồng tiền mà sư phụ cho để tiêu vặt khi lên tỉnh, đuổi theo dúi vào tay ông lão. Lão ăn mày rối rít cảm ơn:

– Đa tạ! Đa tạ!

* * *

Tối hôm ấy Vạn Chấn Sơn mở đại tiệc khoản đãi tân khách, ông ta là một đại thân sĩ ở Kinh Châu, trong thọ đường treo hai bức trướng chúc thọ của tri phủ Kinh Châu và tri huyện Giang Lăng, chữ vàng lấp lánh, rất đỗi huy hoàng.

Trên tiệc mọi người râm ran bàn luận về chuyện mới xảy ra, ai cũng nói Địch Vân thật may mắn, rõ ràng là không địch nổi Lữ Thông, vừa khéo cú ngã của lão ăn mày khiến Lữ Thông rối loạn tâm thần. Mọi người cũng không ngớt khen ngợi Địch Vân còn nhỏ tuổi mà can đảm, đấu mấy chục chiêu với nhân vật nổi danh của hắc đạo, quả thật là không dễ. Tất nhiên cũng có người nói rằng đó là do hồng phúc của thọ tinh, nếu không sao lại khéo tình cờ lão ăn mày ngã xoài lại đẩy lui được cường địch, nếu là Vạn Chấn Sơn ra tay đương nhiên là chỉ cần vài chiêu là đã tống cổ được tên ác khách, nhưng phải để thọ tinh hạ cố mới thật là thú vị.

Khách khứa tán tụng Địch Vân khiến cho tám đệ tử của Vạn Chấn Sơn đều bực bội. Lữ Thông đến là để phá rối tiệc mừng thọ của Vạn Chấn Sơn, thế mà đệ tử của họ Vạn không ra tay, lại để cho chú học trò nhà quê của sư thúc xông ra đánh lui kẻ địch. Cả tám đệ tử đều tức giận nhưng trước mặt tân khách không tiện phát tác.

Sau khi Vạn Chấn Sơn tự mình đi mời rượu, đại đệ tử Lỗ Khôn, nhị đệ tử Chu Kỳ, tam đệ tử Vạn Khuê, tứ đệ tử Tôn Quân, ngũ đệ tử Bốc Viên, lục đệ tử Ngô Khảm, thất đệ tử Phùng Thản, bát đệ tử Thẩm Thành lần lượt đi mời rượu các bàn. Tám đệ tử của Vạn môn đều đặt tên có bộ thổ.

Trong đó tam đệ tử Vạn Khuê chính là con trai một của Vạn Chấn Sơn. Anh chàng này dáng người dong dỏng cao, khuôn mặt thanh tú, tuấn mỹ tiêu sái, giống như một công tử nhà giàu, không thô tháp ngang tàng như đại sư huynh Lỗ Khôn, nhị sư huynh Chu Kỳ.

Tám người mời rượu các vị cử nhân, tú tài, các bậc tôn trưởng trong võ lâm, mời sư thúc Thích Trường Phát rồi đến mời rượu Địch Vân.

Vạn Khuê nói:

– Hôm nay Địch sư huynh giữ được thể diện của gia phụ, tám anh em sư huynh đệ chúng tôi, mỗi người không mời Địch sư huynh một chung lớn không được.

Địch Vân xưa nay không hề uống rượu, xua cả hai tay nói:

– Tôi không biết uống, tôi không biết uống.

Vạn Khuê nói:

– Hôm nay gia phụ ba lần gọi, bảo Địch sư huynh lui ra, Địch sư huynh không thèm để ý, coi lời gia phụ như gió thoảng. Bây giờ chúng tôi mời rượu, Địch sư huynh lại không chịu uống, vậy thì coi rẻ nhà họ Vạn chúng tôi quá.

Địch Vân ngạc nhiên nói:

– Tôi… tôi không có…

Thích Trường Phát cảm thấy lời của Vạn Khuê thật khó nghe, nghiêm giọng nói:

– Vân nhi, con uống đi.

Địch Vân nói:

– Con… Con… Con không biết uống rượu mà.

Thích Trường Phát gằn giọng:

– Uống!

Địch Vân chẳng còn cách nào đành phải uống với mỗi người một chung, liên tiếp uống luôn tám chung, lập tức mặt đỏ bừng lên, hai tai lùng bùng, đầu óc quay cuồng.

Đến tối, Địch Vân lên giường, đầu óc mơ hồ, cảm thấy những chỗ bị Lữ Thông tay đấm chân đạp ở trên ngực, trên vai, trên chân đều đau đớn, nóng ran. Ngủ đến nửa đêm, trong mơ mảng nghe thấy có tiếng ai đó gõ vào cửa sổ, có người gọi không ngớt:

– Địch sư huynh, Địch Vân, Địch Vân!

Địch Vân giật mình, tỉnh dậy, hỏi:

– Ai vậy?

Người ở ngoài cửa sổ nói:

– Tiểu đệ Vạn Khuê đây, có việc muốn bàn, mời Địch sư huynh ra đây.

Địch Vân ngẩn ra chốc lát, xuống giường, mặc áo đi giày, đẩy cửa sồ. Chỉ thấy bên ngoài tám người dàn hàng chữ nhất, trong tay mỗi người đều lăm lăm trường kiếm, thì ra là tám đệ tử Vạn môn.

Địch Vân lấy làm lạ, hỏi:

– Gọi tôi có việc gì vậy?

Vạn Khuê nói:

– Chúng tôi muốn lĩnh giáo kiếm chiêu của Địch sư huynh.

Địch Vân lắc đầu nói:

– Sư phụ đã dặn không được tỉ thí võ nghệ với các sư huynh đệ tử của Vạn sư bá.

Vạn Khuê cười nhạt, nói:

– Hóa ra Thích sư thúc cũng sáng suốt tự biết mình.

Địch Vân nổi giận:

– Thế nào là sáng suốt tự biết mình?

Đột nhiên nghe sột sột sột ba tiếng, cách cửa sổ Vạn Khuê đâm liền ba nhát kiếm, mũi kiếm đều sượt qua bên má Địch Vân. Địch Vân cảm thấy hai bên má lạnh ngắt, giật mình vội vàng lùi lại, chân trái giẫm phải cái ghế, loạng choạng, thật là bê bối, tám đệ tử họ Vạn cười ồ lên.

Địch Vân cả giận, xoay người rút thanh trường kiếm dưới gối ra, nhảy ra ngoài cửa sổ, thấy tám đệ tử Vạn môn người nào vẻ mặt cũng rất dữ tợn không nén được thầm kêu khổ, tuy giận nhưng nhớ lời sư phụ dặn đi dặn lại muôn vạn lần không được bất hòa với đệ tử của Vạn sư bá, nên chỉ hỏi:

– Các người muốn gì?

Vạn Khuê đâm hờ một nhát, trường kiếm kêu vo vo, y nói:

– Địch sư huynh, hôm nay huynh ra oai, coi Vạn gia chúng tôi như chết cả rồi, phải không? Hay là cho rằng trong nhà họ Vạn này không ai địch nổi huynh?

Địch Vân lắc đầu nói:

– Người kia làm bẩn áo sư phụ tôi, tất nhiên phải bắt đền y, can hệ gì đến huynh?

Vạn Khuê cười nhạt, nói:

– Trước mặt tân khách huynh hiển lộ thân thù, nở nang mày mặt, bôi tro trát trấu vào mặt bọn này. Chưa nói trên chốn giang hồ, ngay trên đất Kinh Châu này huynh đệ bọn ta cũng không còn chỗ đứng nữa. Những điều huynh làm hôm nay chẳng phải là quá đáng sao?

Địch Vân ngạc nhiên nói:

– Tôi… tôi không biết điều ấy.

Đại đệ tử Lỗ Khôn nói:

– Tam sư đệ, thằng này dấm dớ, nói với nó làm gì, ra tay thôi.

Trường kiếm của Vạn Khuê vung ra, chĩa vào vai trái Địch Vân. Địch Vân biết đây chỉ là hư chiêu, thân hình bất động, cũng không đưa kiếm đón đỡ.

Vạn Khuê thu kiếm về, bị Địch Vân đoán được kiếm chiêu, càng tức giận nói:

– Được lắm, ngươi không thèm động thủ!

Địch Vân nói:

– Sư phụ đã dặn không được tỉ thí với người nhà của Vạn sư bá.

Đột nhiên soạt một tiếng, trường kiếm của Vạn Khuê đâm tới, xẻ một đường trên tay áo bên phải Địch Vân. Địch Vân rất quý tấm áo mới này, nay vô cớ bị y làm rách, không thể nhịn được nữa, hét lên:

– Ngươi làm rách áo ta, ngươi phải đền.

Vạn Khuê lạnh lùng cười nhạt, lại vung kiếm đâm vào tay áo bên trái. Địch Vân tạt xiên lưỡi kiếm gạt đi, choang một tiếng, chặn đứng thế kiếm, thừa thế đánh lại. Hai người ra tay, càng đấu ra chiêu càng nhanh. Kiếm pháp của hai người thuộc một phái, đấu đến hơn mười chiêu, Địch Vân hăng máu, mỗi nhát đều tấn công vào chỗ hiểm yếu trên người Vạn Khuê.

Chu Kỳ kêu lên:

– Hây, thằng nhãi này muốn lấy mạng người ta thật sao? Tam sư đệ, không cần phải thủ hạ dung tình nữa.

Địch Vân giật mình, thầm nghĩ: “Nếu mình lỡ tay làm y bị thương thì hỏng bét”, thế công bèn chậm lại. Vạn Khuê lại cho rằng kiếm pháp của Địch Vân không bằng y, kiếm chiếu ra miên miên bất tuyệt, thế kiếm thật lả ghê gớm. Địch Vân liên tiếp lùi lại, kêu lên:

– Ta không đánh thật lực, sao ngươi lại làm thế?

Vạn Khuê nói:

– Làm cái gì à? Phải khoét mấy lỗ qua người mi!

Lưỡi kiếm đâm thẳng tới trước ngực Địch Vân. Địch Vân né mình sang trái, nhìn thấy vai Vạn Khuê có chỗ sơ hở, trường kiếm liền lia sang, đường kiếm này nếu chém thẳng vai của Vạn Khuê chắc sẽ bị trọng thương, Địch Vân lật cổ tay một cái, lưỡi kiếm sượt qua, gõ bốp lên vai Vạn Khuê.

Địch Vân cho rằng như thế là đã phân thắng bại, Vạn Khuê sẽ biết điều mà rút lui. Ngày thường cậu ta đấu kiếm với sư muội, đến mức này thì dừng tay. Không ngờ khuôn mặt tuấn tú của Vạn Khuê đỏ bừng lên, lại vung kiếm đâm thẳng tới. Địch Vân thảng thốt không kịp đề phòng, chân trái đau nhói lên, dĩ nhiên là đã bị trúng kiếm.

Lỗ Khôn, Chu Kỳ vỗ tay hoan hô, hét lên:

– Thằng nhãi kia, nằm xuống!

– Nhận thua thì tha cho!

– Thích sư thúc dạy thằng học trò nhà quê này chẳng qua chỉ mấy chiêu mèo què.

Khi chân bị trúng kiếm, Địch Vân đã nổi giận, nghe bọn kia sỉ nhục sư phụ càng giận sôi lên, nghiến răng, trường kiếm tấn công như mưa sa gió quét. Vạn Khuê thấy đối phương như con cọp điên, y có ý sợ. Y từ nhỏ đã được cưng chiều, kiếm pháp tuy luyện khá tinh thục nhưng lối ác đấu liều mạng này xưa nay chưa từng trải qua, trong sợ hãi đường kiếm càng tán loạn.

Bốc Viên thấy tam sư huynh sắp thua, nhặt một viên gạch, ra sức ném vào hậu tâm Địch Vân.

Địch Vân đang để hết tinh thần vào cuộc đấu với Vạn Khuê, đột nhiên cảm thấy sau lưng đau nhói, bị viên gạch ném trúng. Địch Vân ngoái đầu chửi:

– Không biết xấu, hai đánh một ả?

Bốc Viên nói:

– Cái gì? Ngươi nói gì?

Địch Vân nghĩ bụng: “Hôm nay tám đứa chúng mày cùng xông vào, ta cũng không để sư phụ mất mặt”. Bèn không thèm để ý đến cái đau đớn trên chân trên lưng nữa, lưỡi kiếm tới tấp đâm tới Vạn Khuê. Lúc này kiếm chiêu của Địch Vân đã không còn chương pháp gì nữa, lộ ra rất nhiều sơ hở. Chỗ sơ hở tuy nhiều nhưng khí thế quá thịnh, Vạn Khuê cuống quýt chống đỡ, không dám tấn công.

Bốc Viên đưa mắt cho sư đệ thứ sáu là Ngô Khảm, nói:

– Tam sư huynh kiếm pháp cao minh, thằng nhãi này chống đỡ không nổi, nếu làm mất mạng hắn, chúng ta khó nhìn mặt Thích sư thúc lắm, mình nên can họ ra.

Ngô Khảm hiểu ý, gật đầu nói:

– Đúng đấy, anh em ta phải chú ý, đừng để tam sư huynh lỡ tay giết người.

Hai tên, một trái một phải, hai kiếm vun vút đâm vào hai bên sườn Địch Vân.

Kiếm pháp của Địch Vân vốn cũng không cao minh hơn Vạn Khuê bao nhiêu, toàn nhờ vào khí thế tấn công mãnh liệt mới chiếm được thượng phong. Bốc Viên và Ngô Khảm xông vào giáp công, một chọi ba, lập tức chân tay luống cuống, soạt một tiếng, chân trái lại trúng kiếm, vết thương khá nặng, đứng không vững nữa, ngã ngồi xuống, tuy kiếm chưa rơi mất nhưng không chống đỡ nổi kiếm chiêu của ba tên kia đâm tới. Lỗ Khôn cười nhạt một tiếng, co chân phải đá ra, trúng luôn cổ tay Địch Vân, trường kiếm bay mất, rơi vào trong bụi cây. Trường kiếm của Vạn Khuê đâm thẳng tới, mũi kiếm dí vào yết hầu Địch Vân. Bốc Viên và Ngô Khảm ha ha cười rộ, nhảy lui.

Vạn Khuê cười đắc ý:

– Thằng nhà quê, phục chưa?

Địch Vân thét lên:

– Phục cái rắm gì, các ngươi bốn người đánh một mình ta, sao gọi là hảo hán?

Mũi kiếm của Vạn Khuê nhích tới một chút, đâm vào yết hầu Địch Vân mấy phân. Y hét lên:

– Ngươi còn dám già mồm! Ta đẩy thêm chút nữa thì đứt cuống họng.

Địch Vân chửi:

– Ngươi mạnh tay vào, ngươi có gan thì cắt đứt cuống họng ta đi. Không dám mạnh tay là con rùa đen.

Mắt Vạn Khuê lộ hung quang, chân trái phóng ra, đá mạnh vào bụng Địch Vân, chửi:

– Thằng giặc thối tha này, còn già mồm nữa hả?

Cú đá này khiến lục phủ ngũ tạng Địch Vân như xoắn lại, suýt rên lên nhưng vẫn cắn răng nén lại, chửi:

– Đồ con hoang thối tha.

Vạn Khuê lại dộng thêm một đá vào giữa mặt Địch Vân.

Địch Vân thấy hai mắt nảy đom đóm, cơ hồ ngất xỉu, muốn chửi nữa nhưng không ra tiếng.

Vạn Khuê cười nhạt, nói:

– Hôm nay tạm tha cho ngươi. Ngươi mau đến khóc khóc mếu mếu nói với sư phụ và sư muội là bọn ta người nhiều thế mạnh đánh ngươi! Cái bọc mủ nhà ngươi khóc mếu cũng hay đấy.

Địch Vân tức giận nói:

– Khóc mếu cái gì? Đại trượng phu báo thù, chỉ tự mình ra tay.

Vạn Khuê đang đợi cậu ta nói ra câu này, càng khích thêm:

– Ta đánh dấu thêm vào mặt ngươi, để sư phụ ngươi phải mở mồm ra hỏi.

Nói rồi Vạn Khuê lại đá mạnh vào mắt trái, má phải của Địch Vân. Nửa mặt Địch Vân lập tức sưng vù lên, nước mắt chảy giàn giụa.

Bốc Viên vỗ tay cười:

– Hi hi, đại trượng phu khóc nhè, anh hùng biến thành cẩu hùng rồi!

Địch Vân giận muốn vỡ tung cổ họng nghĩ bụng “khi đến nhà sư phụ ta, ta đón tiếp ngươi thật tử tế, mua rượu mổ gả, mà bây giờ ngươi hại ta đến thế nảy…”

Vạn Khuê nói:

– Ngươi đánh không lại ta, cứ đến mách với cha ta cũng không sao, để cha ta trách phạt ta. Thế này này… hu hu, Vạn sư bá, tám đệ tử của bác đánh cho cháu phải bò xuống đất xin tha. Hu hu hu, Vạn sư bá, bác không chủ trì công đạo sao?

Địch Vân nói:

– Đồ hèn như ngươi mới mách lẻo với người lớn!

Vạn Khuê, Lỗ Khôn và Bốc Viên nhìn nhau cười, nghĩ bụng hôm nay đã trút được bực dọc, bèn tra kiếm vào vỏ, nói:

– Thẳng nhóc khá! Mày có gan thì ngày mai đánh nữa, chúng ông sẽ chiều mày!

Tám tên hi hi ha ha cười bỏ đi.

* * *

Địch Vân nhìn theo bóng tám tên kia, lòng vừa tức giận, vừa không hiểu, thầm nghĩ: “Mình chẳng có gì không phải với chúng cũng không hề có lỗi gì với sư bá, sao chúng lại vô duyên vô cớ đánh mình? Lẽ nào người thành phố đều vô lý như thế?” Địch Vân gượng đứng dậy, đầu óc choáng váng, lại ngã ngồi xuống.

Bỗng nghe sau lưng có tiếng than thở:

– Ôi, đánh không nổi người ta thì phải dập đầu xin tha, chứ ngồi ì ra đó sao?

Địch Vân tức giận nói:

– Thà bị đánh chết cũng không cúi đầu!

Ngoảnh đầu lại thấy một người lụ khụ lê giày, lom khom đi đến. Chỉ thấy ông ta đầu bù tóc rối, hóa ra là lão ăn mày.

Lão ăn mày nói:

– Ầy, già rồi, lưng bị phong đau quá thể. Anh bạn nhỏ, đấm lưng giùm lão với.

Địch Vân đang tức tối, hừm một tiếng, không thèm để ý đến lão. Lão ăn mày than:

– Ai bảo mình không con không cháu, đến già chẳng có người thân chàm sóc. Ôi chao! Ôi chao!…

Lão chống thanh gậy tre chậm rãi bước đi.

Địch Vân nhìn theo, thấy lưng lão run rẩy. Mình mới bị người ta đánh cho một trận, bất giác Địch Vân nảy lòng thương xót, gọi:

– Ê, tôi còn có mấy chục đồng tiền, lão cầm lấy mua cái gì mà ăn.

Lão ăn mày chậm rãi quay lại, nhận mấy chục đồng tiền, nói:

– Lưng ta bị phong thấp đau không chịu nổi, cháu đấm giúp ta một chút!

Địch Vân nói:

– Được, để tôi băng vết thương trên chân cái đã.

Lão ăn mày nói:

– Cậu chỉ chú ý đến mình, không để ý đến người khác, sao gọi là anh hùng hảo hán?

Địch Vân bị khích, liền nói:

– Được! Tôi đấm lưng cho lão!

Cậu ta ngồi xuống đất, đấm lưng cho lão già. Mới đấm được vài nhát, lão ăn mày nói:

– Thích quá, thoải mái quá, đấm mạnh hơn một chút nữa đi!

Địch Vân mạnh tay hơn. Lão lại nói:

– Đáng tiếc là quá nhẹ.

Địch Vân lại mạnh tay hơn. Lão lại nói:

– Ầy, thằng nhỏ vô tích sự, bị một trận đòn đã ỉu xìu, không còn sức đấm lưng cho lão già này nữa, loại người như ngươi sống trên đời thật vô dụng.

Địch Vân tức giận nói:

– Tôi mà đấm mạnh chỉ sợ gãy xương sống lão.

Lão hành khất cười:

– Cậu mà đấm gãy được xương sống lão thì đã không bò lê trên đất để người ta đá vào mặt, lại còn mọp đầu xin tha…

Địch Vân nổi đóa, ra sức đấm mạnh. Lão già vẫn cười:

– Ầ y, thế này còn khá, nhưng vẫn còn quá nhẹ.

Địch Vân vận kình đấm mạnh một quyền. Lão ăn mày cười:

– Nhẹ quá, nhẹ quá, không đáng kể.

Địch Vân nói:

– Lão già này, đừng đùa, tôi không muốn đánh lão bị thương.

Lão ăn mày cười nhạt nói:

– Sức ngươi mà đánh ta bị thương được sao? Ngươi dùng hết sức đánh ta một quyền xem?

Địch Vân vận kình tay phải, định đấm thật mạnh. Dưới ánh trăng thấy bộ dạng lụ khụ của lão, bỗng mềm lòng, nhả kình ra, nói:

– Ai lại nặng tay đánh lão.

Rồi đấm khẽ một đấm lên lưng lão.

Bỗng dưng, Địch Vân cảm thấy ngang hông bị huých một cái, thân mình bay vèo đi, “bình” một tiếng, ngã huỵch vào đám cỏ rậm rạp, đầu váng mắt hoa, mãi một lúc sau mới bò dậy được. Địch Vân giãy giụa đứng lên, không hề giận dữ, nhưng hết sức kinh ngạc, ngơ ngác nhìn lão già:

– Là lão… là lão vừa mới đẩy tôi đấy à?

Lão hành khất kia nói:

– Ở đây còn có ai khác nữa? Không phải lão thì là ai?

– Lão dùng cách nào mà hất tôi hay vậy?

Lão ăn mày nói:

– Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương

(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê hương)

Địch Vân lấy làm lạ hỏi:

– Đây là kiếm pháp sư phụ tôi đã dạy, lão… lão làm sao biết được?

Lão ăn mày nói:

– Quyền chiêu kiếm pháp đều như nhau. Vả lại, sư phụ ngươi cũng dạy không đúng.

Địch Vân nổi giận nói:

– Sư phụ tôi sao lại dạy không đúng? Ăn mày như lão mà dám nói sư phụ tôi sai?

Lão ăn mày nói:

– Nếu sư phụ ngươi dạy đúng, thì sao ngươi đánh không lại người ta?

Địch Vân nói:

– Chúng nó ba bốn đứa đánh một mình tôi, tất nhiên là tôi đánh không lại. Nếu đơn đả độc đấu, lão xem tôi có thua không?

Lão ăn mày cười nói:

– Ha ha, đánh nhau ấy à, làm sao mà một chọi một được? Ngươi muốn đơn đả độc đấu, người ta không chịu thì làm sao? Nếu không quỳ xuống mọp đầu thì chỉ còn cách phải chọi cả bọn thôi. Một người đánh thắng cả bọn tám người, mười người, thế mới là hảo hán chứ.

Địch Vân nghĩ lão nói vậy cũng đúng, bèn nói:

– Bọn chúng là đệ tử của Vạn sư bá, kiếm pháp chẳng kém gì tôi, một mình tôi làm sao mà đấu nổi với tám tên ấy?

Lão ăn mày nói:

– Ta dạy ngươi mấy chiêu, để một mình ngươi đánh thắng tám đứa kia, ngươi có học không?

Địch Vân cả mừng, nói:

– Tôi học, tôi học!

Nhưng lại nghĩ trên đời chắc gì đã có thứ bản lĩnh ghê gớm thế, huống hồ lão ăn mày đã già nua lại chẳng có vẻ gì là có võ công thượng thừa cả. Đang lúc do dự chưa quyết bỗng có ai đó chộp tới sau lưng, cả người bay bỗng lên, lần này bay rõ cao, rớt phịch xuống rất nặng, cánh tay giập xuống đất suýt gãy, lồm cồm bò dậy nói không ra hơi nhưng trong lòng lại vui mừng khôn xiết, kêu lên:

– Lão… lão bá bá, tôi… tôi học.

Lão ăn mày nói:

– Hôm nay ta dạy ngươi máy chiêu, tối mai ngươi lại đến đây đánh nhau với bọn chúng, ngươi có dám không?

Địch Vân nghĩ bụng: “Võ công của lão tuy cao nhưng trong một ngày mình làm sao học được?” nhưng nghĩ đến việc tái đấu với bọn Vạn Khuê, Lỗ Khôn lại hăng hái nói:

– Tôi dám! Cùng lắm thì bị đánh một trận nữa, có gì ghê gớm đâu.

Lão ăn mày vung tay trái, nắm lấy gáy Địch Vân, ném phắt xuống đất, chửi:

– Thằng nhãi thối nảy, ta đã dạy ngươi võ công, làm sao ngươi còn bị chúng nó đánh, hử? Ngươi có tin ta không?

Địch Vân tuy bị quật rất đau, nhưng càng mừng, vội nói:

– Đúng! Đúng! Là tôi nói sai rồi, xin lão nhân gia dạy ngay cho.

Lão ăn mày nói:

– Ngươi sử kiếm pháp đã học ta xem nào, vừa sử vừa đọc tên gọi của kiếm chiêu!

Địch Vân đáp:

– Vâng!

Thấy vết thương trên chân còn chảy máu, cậu ta buộc qua loa, đến bụi cây tìm thanh trường kiếm, theo lời sư phụ dạy sử ra từng chiêu, miệng đọc tên chiêu thức, càng về sau múa lại càng thuần phục, miệng đọc càng nhanh.

Cậu đang múa say sưa bỗng nghe lão ăn mày ha ha cười lớn, ngạc nhiên dừng kiếm hỏi:

– Tôi luyện không đúng sao?

Lão già không đáp, cứ ôm bụng mà cười. Địch Vân hơi có ý giận, nói:

– Dù tôi có sử không đúng thì cũng có gì là đáng cười.

Lão ăn mày đột nhiên không cười nữa, than:

– Thích Trường Phát ơi lả Thích Trường Phát, ngươi chơi cái trò này khá lắm.

Rồi lão lại lắc lắc đầu nói tiếp:

– Đưa kiếm đây cho ta.

Địch Vân xoay chuôi kiếm, đưa cho lão. Lão nhận lấy thanh kiếm, vừa nhẹ nhàng đọc:

– Cô hồng hải thượng lai, Trì hoàng bất cảm cố.

Rồi vừa múa kiếm lên. Với thanh kiếm trong tay, lão như biến thành một con người khác, thân hình trầm ổn, kiếm thế phiêu dật, đâu còn vẻ hom hem lụ khụ.

Địch Vân xem mấy chiêu, chợt ngộ ra, hỏi:

– Lão bá, lúc ban ngày cháu đấu với Lữ Thông, chính lão bá đã ném cái bát ra giúp cháu phải không?

Lão ăn mày nổi giận, nói:

– Thế mà còn phải hỏi? Võ công của “Lục hợp thủ” Lữ Thông hơn thằng nhãi ngốc nhà ngươi xa lắm, bằng vào mấy ngón mèo quào của ngươi mà đánh lại y được à?

Lão vừa nói vừa sử kiếm. Địch Vân nghe khẩu quyết của lão đọc không khác gì những điều sư phụ đã truyền, chỉ khẩu âm thỉnh thoảng có chút khác lạ, nhưng kiếm chiêu thì khác xa, cảng xem càng lấy làm lạ.

Lão ăn mày tay trái theo kiếm quyết, tay phải vung trường kiếm, thoắt cái chuyển kiếm sang tay trái, tay phải lật ngược vỗ phách một cái, tát mạnh vào mặt Địch Vân. Địch Vân nhảy dựng lên, vuốt mặt giận dữ nói:

– Lão… lão… vì sao lại đánh người?

Lão ăn mày cười nói:

– Ta dạy ngươi kiếm chiêu, ngươi lại cứ nghĩ ngợi lung tung, không đáng đánh sao?

Địch Vân nghĩ hóa ra là mình không phải, bèn trấn tĩnh lại, nói rằng:

– Phải, tôi sai rồi, tôi nghe chiêu số của lão bá đọc cũng giống sư phụ, nhưng kiếm pháp lại hoàn toàn khác nên lấy làm lạ.

Lão ăn mảy hỏi:

– Vậy thì sư phụ ngươi dạy đúng hay ta sử kiếm đúng?

Địch Vân lắc đầu nói:

– Tôi không biết.

Lão ném trường kiếm trả cho Địch Vân, nói:

– Chúng ta thử một chút.

Địch Vân nói:

– Tôi kém xa lão nhân gia, không đấu nổi.

Lão cười nhạt:

– Thằng nhãi con ngốc quá, thế này này, chúng ta chỉ tỉ chiêu thức, không tỉ công lực.

Cái gậy tre trong tay lão rung lên, lấy gậy làm kiếm, đâm tới Địch Vân. Địch Vân hoành kiếm chặn lại, thấy cây gậy của lão không đẩy tới liền vung kiếm phản kích. Nào ngờ lưỡi kiếm của Địch Vân mới dịch đi một chút, gậy trúc của lão đã mổ tới như con rắn độc, điểm trúng vai Địch Vân.

Địch Vân vui vẻ tâm phục, kêu lên:

– Hay quá, hay quá.

Liền hoành kiếm chém tới. Lão lật cây gậy tre, dựa vào thanh kiếm của Địch Vân, Địch Vân vận kình đánh tới, cây gậy tre của lão xoay liền mấy vòng đẩy kình lực của Địch Vân trở ngược lại. Địch Vân cầm không vững, trường kiếm tuột khỏi tay bay mất. Cậu ta đứng ngẩn ra, nói:

– Lão bá, kiếm chiêu của lão bá thật cao cường.

Gậy trúc của lão vươn thẳng ra đón lấy thanh trường kiếm đang bay trong không trung, đầu gậy như có keo, dính chặt lấy trường kiếm thu về, nói:

– Sư phụ ngươi một thân võ công mà chỉ dạy ngươi như thế thôi sao? Hi hi, thật là lạ lùng cổ quái

Lão lắc lắc đầu nói tiếp:

– Bộ “Đường thi kiếm pháp” này của các người, mỗi chiêu đều từ một câu thơ Đường biến hóa ra…

Địch Vân nói:

– Cái gì là “Đường thi kiếm pháp”? Sư phụ tôi bảo là “Thảng thi kiếm pháp”[4], kiếm đánh ra, kẻ địch lập tức biến thành xác chết.

Lão ăn mày hi hi cười mấy tiếng, nói:

– Lả “Đường thi”, không phải “Thảng thi”! Sư phụ ngươi nói với ngươi là “thảng thi” à? Buồn cười thật! Buồn cười thật! Hai chiêu “Cô hồng hải thượng lai, Trì hoàng bất cảm cố” (Cánh hồng từ biển đến, Chẳng dám ngó đầm ao) là nói một con chim hồng nhạn từ biển bay tới thấy những ao đầm bé nhỏ, không ngó xuống. Hai câu này là của Tể tướng Trương Cửu Linh thời nhà Đường, ông ta tự thấy mình thanh cao, không muốn tranh quyền đoạt lợi với người. Lấy hai câu thơ ấy biến thành kiếm pháp, trong tầm nhìn phải có một luồng hào khí phiêu dật. Trương Cửu Linh nói “chẳng dám ngó” thực ra là muốn nói “chẳng thèm ngó”. Sư phụ ngươi lại dạy ngươi đọc thành “Ca ông hám thượng lai, Thị hành bất cảm quá” (Ông anh hét lớn tiếng, Chẳng dám bước ngang qua). Thế là câu trước biến thành tiếng thét lớn, câu sau lại thành sợ hãi co đầu, cụp đuôi. Nguyên ý của kiếm pháp thế là không còn nữa. Sư phụ ngươi giỏi thật, “Thiết tỏa hoành giang”, dạy đồ đệ thế đấy, hi hi, lợi hại, lợi hại!

Lão vừa nói vừa không ngớt cười nhạt.

Địch Vân ngơ ngác, nghe câu chuyện của lão có vẻ nhai văn nhá chữ, tuy không hiểu lắm nhưng cũng biết là lão nói rất đúng. Địch Vân xưa nay kính yêu sư phụ, nghe lão nói sư phụ mình chẳng chút nào đúng đắn, về sau lại càng có ý mỉa mai, trong lòng rất buồn, bỗng quay lại nói:

– Tôi đi ngủ đây! Không học nữa.

Lão ăn mảy lấy làm lạ hỏi:

– Tại sao? Ta nói không đúng à?

Địch Vân nói:

– Có lẽ là lão nói đúng, nhưng lão nói sư phụ tôi sai, tôi thà không học. Sư phụ tôi là người làm ruộng, không biết chữ, không hiểu những điều lão nói thì…

Lão ăn mày cười rộ:

– Sư phụ ngươi không biết chữ? Ha ha, thật kỳ lạ.

Địch Vân tức giận nói:

– Kẻ nhà quê không biết chữ, có gì đáng cười?

Lão cười ha hả, đưa tay xoa đầu Địch Vân, nói:

– Tốt lắm, tốt lắm! Thẳng nhỏ này có lòng trung hậu, ta thích loại người như ngươi. Ta xin lỗi, không nói cái sai của sư phụ ngươi nữa, được chưa?

Địch Vân đổi giận làm vui, cười nói:

– Chỉ cần lão bá không nói đến sư phụ tôi, tôi xin khấu đầu. Nói rồi quỳ xuống đất, dập đầu xuống đất bái lạy.

Lão ăn mày cười ha ha, nhận mấy lạy của Địch Vân, rồi bắt đầu giải thích kiếm chiêu. “Hốt thính phún kinh phong, Liên sơn thạch bố đào” thực ra là “Liên sơn nhược ba đào” (Lắng nghe tiếng gió mạnh, Qua núi như sóng trào). Hai câu “Lạc nê chiêu đại thư, Mã mệnh phong tiểu tiểu” thực ra là “Lạc nhật chiếu đại kỳ, Mã minh phong tiêu tiêu” (Nắng xế chiếu đại kỳ, Ngựa hí gió vi vu).

Trong tiếng địa phương vùng Tương Tây, chữ “nê” và chữ “nhật” nói không khác nhau lắm. Trong ngôn ngữ của lão ăn mày quả là không hề nhắc đến Thích Trường Phát, chỉ sửa lại những chỗ sai lầm trong kiếm chiêu cho Địch Vân.

Lão nói:

– Trong kiếm pháp của ngươi có nhiều chỗ chẳng ra làm sao cả, nhất thời không nói hết được. Ta dạy ngươi ba chiêu, ngày mai ngươi tái đấu với tám đứa kia. Chú ý nhớ lấy này!

Địch Vân hăng hái, chăm chú nhìn lão vũ lộng cây gậy trúc thay kiếm. Chiêu thứ nhất là “thích kiên thức” (đâm vào vai). Nếu kẻ địch chỉ một mực phòng thủ thì không thể đâm được, nhưng chỉ cần y ra đòn tấn công thì đòn của mình tuy ra sau mà tới trước, đâm trúng vai của đối phương. Chiêu thứ hai là “nhĩ quang thức” (tát tai) chính là chiêu của lão đã bạt tai Địch Vân hồi nãy. Chiêu này hết sức cổ quái, dù cho kè dịch có biết rõ mình chuyến kiếm sang tay trái, trở tay tát y nhưng y né sang bên trái thì đánh bên trái, né sang bên phải thì đánh bên phải, càng né tránh thì đòn ra càng nặng. Chiêu thứ ba là “khử kiếm thức” (đánh bay kiếm) chính là chiêu mà hồi nãy lão dùng đánh bay kiếm của Địch Vân.

Ba chiêu này lão đều đã thử trên người Địch Vân, mỗi thức vốn đều có tên gọi theo một câu thơ Đường rất trang nhã. Nhưng lão ăn mày biết là Địch Vân chẳng có bao lăm chữ nghĩa, dạy mấy câu thơ chỉ tổ làm y bị nhiễu loạn tâm thần, bèn đổi ra mấy tên gọi dễ hiểu.

Địch Vân chẳng thông minh gì nhưng lại hết sức kiên nghị. Ba chiêu này học vừa trọn một canh giờ mới hơi thuần thục.

Lão ăn mày cười nói:

– Được rồi. Nhưng ngươi phải hứa với ta một điều, việc ta dạy kiếm pháp cho ngươi hôm nay, ngươi không được nói với ai, đến cả với sư phụ và sư muội cũng không được nói, nếu không…

Địch Vân kính sư phụ như cha, còn đối với cô sư muội xinh đẹp yêu kiều thì từ lâu đã thầm yêu, nay làm sao có thể giấu sư phụ và sư muội, quả là khó, vì vậy nhất thời do dự không trả lời.

Lão ăn mày than:

– Lý do của việc này nhất thời không thế nói rõ được, nếu ngươi tiết lộ chuyện hôm nay, chắc ta không giữ được tính mạng, chắc sẽ phải chết dưới kiếm của “Ngũ vân thủ” Vạn Chấn Sơn.

Địch Vân giật mình, lấy làm lạ hỏi:

– Lão bá, võ công của lão cao cường như thế, sao lại phải sợ Vạn sư bá?

Lão ăn mày không đáp, quay mình đi, còn nói với lại:

– Ngươi có lòng hại ta không, điều ấy toàn do ngươi.

Địch Vân vội vàng đuổi theo, nói:

– Tôi đa tạ lão bá còn chưa đủ, sao lại còn hại tính mạng lão bá? Nếu tôi tiết lộ nửa chữ thì sẽ bị trời tru đất diệt.

Lão ăn mày than thở bước đi.

Địch Vân ngẩn người ra một lúc, chợt nhớ ra là chưa hỏi tên họ của lão, liền gọi to:

– Lão bá bá, lão bá bá!

Nhưng lão ăn mảy đã khuất vào sau lùm cây, không thấy tăm hơi đâu nữa.

* * *

Sáng sớm hôm sau, Thích Trường Phát thấy Địch Vân mặt mũi sưng vù, tím bẩm, lấy làm lạ, hỏi:

– Đánh nhau với ai rồi, sao mà bị thương nặng thế?

Địch Vân không biết nói dối, ấm ớ không biết trả lời sao. Thích Trường Phát cười nói:

– Chẳng phải là hôm qua bị tên đại đạo Lữ Thông đánh cho sao?

Thích Trường Phát không thể ngờ có chuyện tối qua, nên cũng không hỏi thêm.

Thích Phương kéo áo Địch Vân, hai người đi ra mé cửa, đến bên bờ giếng, thấy bốn phía không người liền ngồi xuống bên lan can bờ giếng. Thích Phương hỏi:

– Sư ca, tối hôm qua huynh đánh nhau với ai vậy?

Địch Vân ậm ừ không đáp. Thích Phương nói:

– Huynh không giấu được muội đâu. Hôm qua huynh đấu với Lữ Thông, quyền cước của y đánh vào chỗ nào trên người huynh, muội đều nhìn rất rõ, y không hề đánh trúng mặt huynh.

Địch Vân thấy là không thể giấu cô ta được, nghĩ bụng: “Chỉ cần mình không nói đến chuyện lão bá dạy võ thì cũng không có gì nghiêm trọng”. Thế là bèn đem chuyện tám đệ tử họ Vạn nửa đêm đến gây sự, nào là đấu kiếm thế nào, bị thua trận bị sỉ nhục như thế nào… kể ra hết cả.

Thích Phương càng nghe càng giận, mặt đỏ bừng lên, tức tối nói:

– Bọn họ tám người đánh một mình huynh, sao gọi là hảo hán?

Địch Vân nói:

– Cũng không phải là tám người cùng ra tay, mà là ba bốn đứa đánh một mình huynh.

Thích Phương giận nói:

– Hừm, bọn chúng ba bốn đứa liên thủ đánh một mình huynh đã thắng rồi, còn mấy đứa nữa bất tất phải ra tay, nếu ba bốn đứa đánh không nổi, lại chẳng năm sáu đứa, bảy tám đứa cùng xông lên sao.

Địch Vân gật đầu nói:

– Chắc là sẽ như vậy.

Thích Phương đứng bật dậy, nói:

– Chúng mình đi nói với cha, để xem Vạn Chấn Sơn phân xử chuyện này ra sao.

Cô ta nổi cơn thịnh nộ đến mức không gọi là Vạn sư bá nữa mà gọi thẳng tên. Địch Vân vội nói:

– Không, huynh đánh thua người ta, lại đi mách với sư phụ, thế chẳng phải để người ta khinh cho sao?

Thích Phương hừm một tiếng, thấy áo Địch Vân bị rách nhiều chỗ, thấy xót ruột bèn rút túi kim chỉ ra vá lại áo cho Địch Vân. Tóc cô cọ vào cằm Địch Vân, Địch Vân cảm thấy nhột, cảm thấy mùi hương con gái nhẹ nhàng phảng phất, tự nhiên thấy lâng lâng, khẽ gọi:

– Sư muội!

Thích Phương nói:

– Không Tâm Thái, anh chàng rau muống này, đừng nói nào! Kẻo người ta vu oan cho huynh.

Ở vùng Tam Tương miền Giang Nam dân gian có một thứ mê tín, khi mặc áo trên người để cho người khác vá hay đơm nút, nếu mà nói chuyện thì sẽ bị người ta hiểu nhầm, vu cho là ăn trộm. Còn “Không Tâm Thái” là trác hiệu mà Thích Phương đặt cho Địch Vân, chế giễu cậu ta thẳng như ruột ngựa, không có một chút mưu mẹo gì. (Không tâm thái nghĩa là rau rỗng ruột, là tên người Trung Quốc gọi rau muống).

* * *

Tối hôm áy, Vạn Chấn Sơn mở tiệc ở tiền sảnh chiêu đãi sư đệ, tám đệ tử mời rượu, mười hai người quây quần quanh một chiếc bàn tròn.

Sau ba tuần rượu, Vạn Chấn Sơn thấy Địch Vân mồm miệng sưng vều, ăn uống không tiện bèn hỏi:

– Địch hiền điệt, hôm qua để cháu phải vất vả, uống đi uống đi, ăn nhiều thêm một chút.

Rồi gắp một cái đùi gà, đặt vào bát Địch Vân. Chu Kỳ bỗng “hừm” một tiếng.

Thích Phương đã tức giận cành hông, lúc này nhịn không được nữa, lớn tiếng nói:

– Vạn sư bá, vết thương của sư ca không phải là do Lữ Thông đánh đâu mà là do tám cao đồ của sư bá liên thủ đánh huynh ấy đấy.

Vạn Chấn Sơn và Thích Trường Phát cùng giật mình, hỏi:

– Cái gì?

Đệ tử thứ tám của họ Vạn là Thẩm Thành tuổi nhỏ nhất nhưng lại hết sức linh lợi láu cá, vội cướp lời nói:

– Địch sư ca đánh thắng Lữ Thông, nói rằng sư phụ lão nhân gia nhát gan, không dám động thủ với Lữ Thông, toàn nhờ Địch sư ca ra tay mới đuổi được tên cường đạo, chúng con tức giận quá…

Vạn Chán Sơn biến sắc nhưng vẫn cười nói:

– Đúng đấy, toàn là nhờ Địch hiền điệt giữ thể hiện cho lão.

Thẩm Thành nói:

– Vạn sư ca thấy huynh ấy khoác lác đúng là đã giận quá mới thách Địch sư ca tỉ kiếm, hình như Vạn sư ca đã chiếm thượng phong.

Địch Vân nói:

– Ngươi… ngươi nói láo… Ta… ta lúc ấy…

Địch Vân vốn ít mồm ít miệng, nghe Thẩm Thành nói xỏ xiên vừa nóng vừa giận càng lúng túng không nói rõ ràng được.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Khuê nhi đã chiếm thượng phong như thế nào?

Thẩm Thành nói:

– Tối qua Vạn sư ca và Địch sư ca tỉ kiếm như thế nào, chúng con đều không nhìn thấy. Sáng nay Vạn sư ca kể lại với mọi người, hình như Vạn sư ca đã ra chiêu… ra chiêu…

Y xoay lại hỏi Vạn Khuê:

– Vạn sư ca, huynh đã dùng chiêu gì để đánh thắng Địch sư ca nhỉ?

Vạn Khuê nói:

– Là chiêu “Trường An nhất phiến nguyệt, Vạn hộ đảo y thanh”!

Hai đứa tung hứng, giấu nhẹm việc tám người liên thủ đánh một. Vạn Khuê thắng Địch Vân như thế nào, người ngoải không ai thấy, tất nhiên hẳn là không có chuyện liên thủ. Thẩm Thành mới mười lăm mười sáu tuổi, có vẻ rất ngây thơ, không ai nghĩ là y nói láo.

Vạn Chấn Sơn gật đầu nói:

– Hóa ra là như thế.

Thích Trường Phát giận đỏ bừng mặt, vỗ mạnh xuống bàn, hét lên:

– Vân nhi, ta muôn dặn ngàn dò bảo ngươi không được lảm mất hòa khí với các đệ tử của Vạn sư bá, tại sao lại đánh nhau?

Địch Vân thấy sư phụ cũng tin Thẩm Thành thì giận đến nỗi run bắn toàn thân, nói:

– Sư phụ… con… con… con không…

Thích Trường Phát vung tay bạt tai, hét lên:

– Đã sai rồi, còn cãi!

Địch Vân không dám tránh, đòn của Thích Trường Phát quá nặng, mặt Địch Vân vốn đã bẩm tím, lập tức càng sưng vù lên.

Thích Phương vội vàng kêu lên:

– Cha, sao cha không hỏi cho rõ ràng?

Địch Vân giận điên lên, máu phổi bò phát tác, đột nhiên nhảy vọt ra, cầm lấy thanh trường kiếm ở phía sau, đứng ở giữa sảnh, kêu to:

– Sư phụ, gã… gã Vạn Khuê này nói đã đánh bại con, nay bảo y tái đấu xem.

Thích Trường Phát cả giận, thét:

– Ngươi có quay lại không?

Rồi lão lại rời chỗ ngồi, lại định vung quyền đánh. Thích Phương ôm chặt lấy lão kêu:

– Cha!

Địch Vân thét lớn:

– Tám đứa các người tái đấu với ta, có gan thì xông lên hết cả đi, đứa nào không dám xông lên là con rùa đen, con chó hoang.

Trong lúc nóng giận Địch Vân không lựa lời, chửi vung lên.

Vạn Chấn Sơn chau mày nói:

– Đã thế, các ngươi cùng ra lĩnh giáo kiếm pháp của Địch sư ca đi.

Tám tên đệ tử chỉ đợi câu này của sư phụ, dàn ra tám phía vây Địch Vân vào giữa.

Địch Vân quát lớn:

– Tối qua tám con chó hoang này đánh một mình ta, hôm nay lại tám con chó hoang…

Thích Trường Phát quát:

– Vân nhi, ngươi nói bậy bạ gì thế? Tỉ kiếm thì tỉ kiếm, chứ lại mồm loa mép giải ả?

Vạn Chấn Sơn nghe Địch Vân không ngớt chửi “chó hoang” thì trong lòng tức giận. Trong tám tên này thì Vạn Khuê là con ruột của lão, Địch Vân chửi như vậy là chửi lên đầu lão. Lão thấy tám đứa đệ tử đứng ở tám phía, tạo thành thế hợp kích, quát:

– Địch sư huynh không coi chúng tôi ra gì, muốn lấy một chọi tám, lẽ nào chúng tôi lại tự coi rẻ mình.

Đại đệ tử Lỗ Khôn nói:

– Phải, các sư đệ lui ra, để huynh lĩnh giáo cao chiêu của Địch sư ca trước.

Đệ tử thứ năm là Bốc Viên rất nhiều mưu kế, hôm qua thấy Địch Vân động thủ với Vạn Khuê, thằng nhà quê này võ công không kém, lúc này vội vàng liều mạng đại sư huynh chưa chắc đã thắng, nếu bị y thắng trước một trận, dẫu người sau có đánh được y chăng nữa cũng đã làm mất nhuệ khí của Vạn môn. Trong đám đồng môn, kiếm thuật của tứ sư huynh Tôn Quân là đệ nhất, để Tôn Quân ra tay đánh bại y trước hết, khiến y không thể già mồm được nữa, bèn nói:

– Đại sư ca là thù lĩnh của chúng ta, hà tất phải tự mình ra tay, để tứ sư ca cho y một bải học là được rồi.

Lỗ Khôn nghe vậy đã hiểu ý, mỉm cười:

– Được, tứ sư đệ, chúng ta cử đệ đấy.

Y vẫy tay trái một cái, cả bảy tên đều lui ra, chỉ để một mình Tôn Quân đấu với Địch Vân.

Tôn Quân trầm mặc ít lời, thường cả ngày không nói một tiếng, chăm chú học tập, kiếm pháp cao nhất trong tám đệ tử. Y thấy các sư huynh đệ cử mình ra tay liền dựng trường kiếm lên, khom mình cúi đầu, chiêu này có tên là “Vạn quốc ngưỡng tông Chu, Y quan bái miện lưu” (Muôn nước tôn phò Chu, Kính cần bái vương miện) là chiêu kính lễ trước khi quyết đấu. Nhưng năm ấy Thích Trường Phát khi dạy kiếm cho Địch Vân lại bảo chiêu này có tên là “Phạn giác nhượng chưng xú, Nhất quan bái mã hầu” (Bát cơm nhường chưng thối, Cao quan kính khỉ hèn) ý là “Ta là bát cơm ngon, ngươi là một cái bánh chưng thối, bên ngoải nhường ngươi một chút, nhưng trong lòng ta thầm chửi ngươi! Ta là quan, ngươi là con khỉ, ta bái ngươi là quan bái súc sinh”. Địch Vân thấy y ra chiêu ấy thì càng tức giận, bèn cũng dựng trường kiếm lên, khom mình cúi đầu, trả lại cũng bằng chiêu “Phạn giác nhượng chưng xú, Nhất quan bái mã hầu”, hai mũi kiếm đối nhau, không hề kém cạnh.

Địch Vân mới khom mình một chút, thân hình còn chưa đứng thẳng lên, mũi nhọn trường kiếm đã đâm vào bụng dưới Tôn Quân. Các đệ tử Vạn môn đều kinh hoảng la lên. Tôn Quân xoay kiếm chặn lại, “keng” một tiếng hai kiếm va vào nhau, cánh tay hai người đều tê dại.

Lỗ Khôn nói:

– Sư phụ, tên tiểu tử kia hạ thủ thật độc ác. Hẳn là y muốn lấy mạng Tôn sư đệ.

Vạn Chấn Sơn thầm kinh dị: “Thằng nhỏ nhả quê này sao lại phẫn nộ đến như thế, mới vào trận đã liều mạng?”

Chỉ nghe liên tiếp mấy tiếng “choeng choeng choeng choeng” vang lên, Địch Vân và Tôn Quân ra chiêu gấp gáp, sau hơn mười chiêu, trường kiếm của Tôn Quân phạt xéo, để hở bụng dưới. Địch Vân thét to một tiếng, vung kiếm đâm thẳng, Tôn Quân xoay trường kiếm, đã chặn đứng trường kiếm của cậu ta, “bốp” một chưởng đánh thẳng vào trước ngực Địch Vân. Đám đệ tử Vạn môn cùng reo lên, có người hét to:

– Một người còn đánh không lại, còn phét lác đòi đánh tám người à?

Địch Vân vung kiếm che mình rồi như mưa sa gió quét trường kiếm mãnh liệt tấn công. Tôn Quân đỡ được mấy chiêu, hươi kiếm phản công. Đột nhiên trường kiếm trong tay Địch Vân rung động, “phách” một tiếng, trường kiếm đã đâm trúng vai Tôn Quân, chính là “thích kiên thức” mà lão ăn mày đã dạy.

“Thích kiên thức” này đột nhiên đến, không ai tưởng tượng được. Chỉ thấy vai Tôn Quân máu chảy đầm đìa, thân hình loạng choạng, đám đệ tử Vạn môn cùng hét lên. Lỗ Khôn và Chu Kỳ cùng tuốt kiếm ra tấn công Địch Vân. Trường kiếm của Địch Vân đâm bên trái thọc bên phải, “chát chát” hai tiếng, vai phải của Lỗ Khôn và Chu Kỳ đều trúng kiếm, trường kiếm trong tay đều rơi xuống đất.

Vạn Chấn Sơn nặng mặt thét lên:

– Giỏi lắm!

Vạn Khuê giơ kiếm lên, chăm chú nhìn Địch Vân, đột nhiên hét một tiếng, “chát chát chát” đâm liền ba nhát, Địch Vân chặn ngay cả ba nhát, chuyển kiếm sang tay trái, tay phải lật lại, “bốp” một tiếng, giáng thẳng một bạt tai vào mặt Vạn Khuê. Chiêu này xuất ra bất ngờ, Vạn Khuê còn đang ngơ ngác, Địch Vân đã co chân trái đá vào giữa ngực y. Vạn Khuê không gượng nổi, ngã ngồi xuống đất. Bốc Viên nhảy lại đỡ, Địch Vân không để y kịp đến gần, vút kiếm đâm tới, Bốc Viên đành phải giơ kiếm ra đỡ.

Ngô Khảm, Phùng Thản, Thẩm Thành, ba đứa thấy Địch Vân hung hãn như thế mà Vạn Khuê thì ngồi dưới đất chưa đứng lên được, vừa sợ vừa giận, đều rút kiếm vây lấy Địch Vân. Lúc này đám gia đinh tôi tớ của nhà họ Vạn nghe thấy tiếng binh khí chát chúa ở trên sảnh đều đồ dồn đến xem.

Thích Trường Phát nhìn trừng trừng, nét mặt lộ vẻ hoang mang, không biết phải làm sao.

Thích Phương kêu lên:

– Cha, họ vây lấy đánh một mình sư ca. Mau, mau cứu huynh ấy với!

——————————————————

[1]       Tương: tên gọi tắt tỉnh Hồ Nam.

[2]       Lão già cố ý đọc sai mấy câu thơ Đường

[3]       “thảng thi”: nghĩa là “xác chết nằm”

[4]       Đường thi: thơ Đường, thảng thi: xác chết nằm. Trong tiếng Trung Quốc chữ Đường và chữ Thảng âm đọc gần giống nhau. Thích Trường Phát đọc chệch đi để lừa Địch Vân và Thích Phương.