Hồi 9: Thất hiệp trùng phùng, mừng mừng tủi tủi

Một lúc sau, có sáu bảy người thuộc phái Không Động, phái Nga Mi bước vào khoang thuyền chào hỏi Du Liên Châu, Tây Hoa Tử, Vệ Tứ Nương. Dẫn đầu phái Không Động là một lão niên gầy gò rắn rỏi, mặc áo vải gai. Dẫn đầu phái Nga Mi là một ni cô trung niên. Đám người vừa tới thấy bọn Lý Thiên Viên ở trong khoang thuyền thì không khỏi kinh ngạc.

Tây Hoa Tử lớn tiếng nói:

– Đường tam gia, Tĩnh Hư sư thái, phái Võ Đang đã liên thủ với Thiên Ưng giáo rồi! Kỳ này phe ta thua thiệt hẳn.

Lão niên gầy gò mặc áo vải gai là Đường Văn Lượng, một trong Không Động ngũ lão, còn ni cô Tĩnh Hư sư thái là đại đệ tử đời thứ tư của phái Nga Mi, đều là hảo thủ có danh vọng trong võ lâm, nghe Tây Hoa Tử nói vậy liền sững sờ. Tĩnh Hư sư thái là người tinh tế, vốn biết tính nóng nảy bộp chộp của Tây Hoa Tử, nên chưa nói gì. Riêng Đường Văn Lượng lập tức trợn mắt nhìn Du Liên Châu, hỏi:

– Du nhị hiệp, có đúng thế không?

Du Liên Châu chưa đáp, Tây Hoa Tử đã cướp lời:

– Phái Võ Đang đã kết thông gia với Thiên Ưng giáo, Trương Thúy Sơn đã thành ái tế của Ân Thiên Chính…

Đường Văn Lượng lấy làm lạ, nói:

– Trương ngũ hiệp mất tích mười năm, nay đã biết ở đâu rồi ư?

Du Liên Châu chỉ Trương Thúy Sơn, nói:

– Đây là ngũ sư đệ Trương Thúy Sơn của tại hạ, còn vị này là cao nhân tiền bối của phái Không Động, Đường tam gia Đường Văn Lượng, đôi bên hãy làm quen đi nào.

Tây Hoa Tử lại nói:

– Vợ chồng Trương Thúy Sơn biết chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, nhưng không chịu nói ra, lại còn tung tin bịa đặt rằng Tạ Tốn đã chết.

Đường Văn Lượng vừa nghe mấy chữ “Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn” thì vừa sợ vừa tức, quát hỏi:

– Hắn ở đâu?

Trương Thúy Sơn nói:

– Việc này tại hạ phải bẩm rõ với gia sư trước đã, chưa thể nói bây giờ, mong các vị hãy lượng thứ.

Đường Văn Lượng mắt như tóe lửa, quát:

– Tên ác tặc Tạ Tốn ở đâu? Hắn giết cháu ta, Đường mỗ thề không đội trời chung với hắn. Hắn ở đâu? Ngươi có nói hay không thì bảo?

Câu sau cùng giọng của lão thật gay gắt, không còn nể nang gì hết.

Ân Tố Tố lạnh lùng nói:

– Các hạ chẳng qua là nhân vật có tuổi của phái Không Động, đâu đủ tư cách truy vấn Trương ngũ gia? Các hạ là bậc chí tôn trong võ lâm, hay là chưởng môn phái Võ Đang?

Đường Văn Lượng cả giận, giơ cả mười ngón tay toan bổ về phía Ân Tố Tố, nhưng thấy nàng là một thiếu phụ mảnh mai, còn mình đường đường là nhân vật tiền bối thành danh trong võ lâm, thật không tiện động thủ với nàng, đành nén giận hỏi Trương Thúy Sơn:

– Vị này là ai?

Trương Thúy Sơn nói:

– Là hiền thê của tại hạ.

Tây Hoa Tử nói xen vào:

– Chính là thiên kim ái nữ của Ân đại giáo chủ Thiên Ưng giáo. Hừ, yêu nữ của tà giáo, có tốt lành gì.

Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính võ công tinh thâm, cho tới nay, những ai trong võ lâm từng động thủ với Ân giáo chủ, chưa một ai chống đỡ nổi mười chiêu. Đường Văn Lượng vừa nghe nói nàng là nữ nhi của Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính thì bất giác e ngại, chỉ nói:

– Được, được, được lắm!

Tĩnh Hư sư thái từ khi bước vào khoang thuyền vẫn im lặng, bây giờ mới lên tiếng:

– Việc này đầu đuôi ra sao, mong Du nhị hiệp cho biết.

Du Liên Châu nói:

– Chuyện này có rất nhiều uẩn khúc, lại kéo dài đã mười năm, nhất thời chưa thể làm sáng tỏ ngay một lúc. Thôi để ba tháng sau, tệ phái sẽ thiết yến tại lầu Hoàng Hạc ở Võ Xương, mời hết thảy các môn phái, bang hội hữu quan tham dự, đúng sai phải trái thế nào, bấy giờ sẽ rõ. Ý các vị ra sao?

Tĩnh Hư sư thái gật đầu:

– Như thế rất hay.

Đường Văn Lượng nói:

– Đúng sai phải trái, ba tháng sau luận cũng được, nhưng ác tặc Tạ Tốn ẩn thân nơi đâu, mong Trương ngũ hiệp hãy nói ngay bây giờ.

Trương Thúy Sơn lắc đầu:

– Hiện giờ quả thực chưa tiện nói ra.

Đường Văn Lượng tuy rất bất mãn, nhưng nghĩ thầm phái Võ Đang đã liên thủ với Thiên Ưng giáo, vậy tạm thời đành chịu, song lẽ công bằng là ở lòng người, để xem ba tháng sau họ sẽ ăn nói thế nào với quần hùng thiên hạ. Cho nên lão không nói thêm, liền đứng dậy, chắp tay nói:

– Vậy ba tháng sau tái kiến, cáo từ.

Tây Hoa Tử nói:

– Đường tam gia, mấy người chúng tôi đi nhờ thuyền các hạ trở về, có được chăng?

Đường Văn Lượng nói:

– Được, có gì mà không được Tây Hoa Tử nói với Vệ Tứ Nương:

– Sư muội, mình đi thôi.

Lão vốn đi cùng thuyền với Du Liên Châu tới đây, bây giờ làm thế, rõ ràng coi phái Võ Đang là thù địch. Du Liên Châu vẻ mặt thản nhiên, khách sáo tiễn ra mũi thuyền, nói:

– Chúng tôi về núi bẩm rõ với sư tôn, rồi sẽ gửi thiếp mời quý vị tới dự anh hùng yến.

Ân Tố Tố đột nhiên nói:

– Tây Hoa đạo trưởng, tiểu nữ có một việc muốn thỉnh giáo.

Tây Hoa Tử ngạc nhiên quay đầu lại hỏi:

– Việc gì vậy?

Ân Tố Tố nói:

– Đạo trưởng cứ luôn miệng bảo tiểu nữ là yêu nữ tà giáo, không biết tà ở việc gì, yêu ở chỗ nào?

Tây Hoa Tử sững người, nói:

– Tà ma ngoại đạo, hồ mị yêu dâm, thì là như thế, cần gì phải nói nhiều? Nếu không tại sao đường đường một vị Trương ngũ hiệp của phái Võ Đang lại bị ngươi mê hoặc kia chứ? Hi hi ha ha!

Nói đoạn lão ta cười khẩy một hồi.

Ân Tố Tố nói:

– Được, đa tạ đã chỉ điểm!

Tây Hoa Tử thấy câu nói của mình khiến cho Ân Tố Tố á khẩu vô ngôn, cũng lấy làm bất ngờ, thấy nàng không nói gì nữa, bèn bước lên tấm ván bắc cầu đi sang thuyền phái Không Động.

Hai chiếc hải thuyền đều thuộc loại lớn có ba cột buồm, tuy đậu cạnh nhau nhưng cũng cách nhau ngót hai trượng, cầu ván bắc ngang rất dài. Tây Hoa Tử đối đáp mấy câu với Ân Tố Tố, nên thành người đi sau cùng, mấy người kia đã sang chiếc thuyền bên kia cả rồi. Tây Hoa Tử đi tới giữa tấm ván, chợt nghe sau lưng có tiếng gió thoảng, kèm theo một tiếng xoẹt nhỏ. Lão ta tuy tính tình nóng nảy, song võ công chẳng phải vừa, hành tẩu giang hồ đã nhiều, biết là có kẻ ám toán nên lập tức quay người lại rút trường kiếm cầm lăm lăm. Ngay lúc đó, lão ta thấy dưới chân hẫng hụt, tấm ván bắc cầu đã gãy rời làm đôi. Lão ta vội tung mình nhảy lên, nhưng giữa hai chiếc thuyền là khoảng không, dưới chân là biển sâu màu lam, nhảy thêm rồi đâu có thể nhảy lên lần nữa, “ùm” một tiếng, lão ta đã rơi xuống nước.

Tây Hoa Tử không biết bơi, thế là phải uống liền mấy ngụm nước mặn, hai tay đập loạn xạ, đột nhiên túm được một sợi dây thừng, lão mừng quá, giữ chặt lấy, cảm thấy có người đang kéo dây đưa mình lên mặt nước. Tây Hoa Tử ngẩng đầu nhìn, thấy người cầm đầu dây chính là Trình đàn chủ của Thiên Ưng giáo, đang tủm tỉm cười.

Thì ra Ân Tố Tố giận lão nói năng vô lễ, đợi lúc khách qua thuyền, bí mật dặn Phong Trình hai đàn chủ sắp đặt mưu kế. Phong đàn chủ nổi danh giang hồ về tuyệt kỹ sử dụng ba mươi sáu lưỡi phi đao, xuất thủ vừa nhanh vừa chuẩn xác. Mỗi lưỡi phi đao đều do thợ giỏi rèn bằng thép ròng, mỏng như lá liễu, sắc bén lạ thường; đối thủ nếu đưa binh khí ra đỡ phi đao của y, thường là binh khí sẽ bị tiện đứt. Vừa rồi y dùng phi đao cắt ván cầu, chỉ nghe xoẹt một tiếng nhỏ là ván đã đứt luôn. Trình đàn chủ đứng bên chuẩn bị sẵn dây thừng, đợi Tây Hoa Tử uống vài ngụm nước biển mới tung dây kéo lão ta lên.

Bọn Vệ Tứ Nương, Đường Văn Lượng thấy Tây Hoa Tử rơi xuống biển, tuy đoán là thủ đoạn của đối phương nhưng Phong đàn chủ xuất thủ quá lẹ, mọi người lại chỉ chú ý phía trước, đâu có ai nhìn thấy ván cầu đứt đôi như thế nào, đến lúc mọi người hô cứu thì Trình đàn chủ đã kéo được Tây Hoa Tử lên mặt nước.

Tây Hoa Tử nén giận, định bụng khi lên trên thuyền sẽ lập tức tấn công đối phương. Nào ngờ Trình đàn chủ chỉ kéo lão lên cách mặt nước chừng một thước, rồi không kéo nữa, mà nói:

– Đạo trưởng, nhất thiết không được động đậy, tại hạ sức yếu, đạo trưởng cử động mạnh e rằng tại hạ tuột tay thì nguy đấy.

Tây Hoa Tử nghĩ thầm, nếu y giả bộ ngây dại, cho mình rơi xuống biển lần nữa, chỉ e chẳng phải chuyện đùa, thôi đành nắm chắc dây thừng ở yên một chỗ, không dám leo lên.

Trình đàn chủ nói:

– Cẩn thận này!

Cánh tay y hất một cái, sợi thừng vút lên không thành một nửa vòng tròn. Cánh tay y quá khỏe, hất một cái mà đẩy Tây Hoa Tử văng đi xa bảy, tám trượng, rồi kéo giật lại, cho rơi xuống thuyền bên kia.

Tây Hoa Tử buông dây ra, hai chân đặt trên sàn thuyền. Thanh kiếm của lão ta đã bị rơi xuống biển, lúc này lão ta giận điên người, lại nghe tiếng reo cười nổi lên bên thuyền của Thiên Ưng giáo, liền rút thanh bội kiếm của Vệ Tứ Nương đang giắt bên lưng, toan nhảy qua thí mạng. Nhưng hai thuyền cách nhau quá xa, khó lòng vọt qua, lão ta đành hậm hực dậm chân, chỉ tay chửi rủa, chẳng làm gì được.

Ân Tố Tố bỡn cợt Tây Hoa Tử như thế, Du Liên Châu nhìn thấy hết, nghĩ thầm thiếu phụ này quả thực tà môn, không phải mối lương duyên của ngũ đệ, bèn nói:

– Ân, Lý hai vị đường chủ, phiền hai vị về bẩm báo với Ân giáo chủ, ba tháng sau yến hội tại lầu Hoàng Hạc ở Vũ Xương, nếu lão nhân gia không coi là nhẹ, thỉnh người giá lâm. Hôm nay chúng ta từ biệt ở đây. Ngũ đệ, ngũ đệ theo huynh về gặp ân sư chứ?

Trương Thúy Sơn nói:

– Vâng!

Ân Tố Tố thấy Du Liên Châu nói vậy, có ý bảo vợ chồng nàng phải xa nhau, bèn ngẩng lên nhìn trời, rồi cúi xuống sàn thuyền.

Trương Thúy Sơn biết nàng có ý nhắc lại lời thề “Trên trời dưới đất, vĩnh viễn bên nhau”, bèn nói:

– Nhị ca, tiểu đệ muốn đưa thê tử về khấu kiến ân sư, chờ khi nào lão nhân gia cho phép, sẽ đi bái kiến nhạc phụ, nhị ca nghĩ có được chăng?

Du Liên Châu hơi trù trừ, nghĩ thầm mình không nỡ bảo phu thê phụ tử sư đệ phải phân ly, nên gật đầu nói:

– Thế cũng được.

Ân Tố Tố cả mừng, nói với Lý Thiên Viên:

– Sư thúc, sư thúc hãy về bẩm với phụ thân tiểu nữ, rằng đứa con bất hiếu này may mắn thoát chết, ít bữa nữa sẽ trở về tổng đà bái kiến lão nhân gia.

Lý Thiên Viên nói:

– Hay lắm, ta ở tổng đà sẽ cung kính chờ đón hai vị đại giá.

Đoạn đứng lên cáo biệt Du Liên Châu.

Ân Tố Tố hỏi:

– Phụ thân tiểu nữ có khỏe không?

Lý Thiên Viên nói:

– Khỏe, khỏe lắm! Xem ra tinh thần còn mạnh mẽ hơn xưa.

Ân Tố Tố lại hỏi:

– Còn ca ca của tiểu nữ?

Lý Thiên Viên nói:

– Khỏe lắm! Lệnh huynh mấy năm nay võ công đột phi mãnh tiến, khiến sư thúc cố theo chẳng kịp, thật đáng hổ thẹn cho ta!

Ân Tố Tố mỉm cười:

– Sư thúc lại giễu cợt điệt nhi rồi.

Lý Thiên Viên nghiêm mặt nói:

– Ta không nói đùa đâu! Ngay cả phụ thân ngươi cũng phải khen ngợi là hắn đã giỏi hơn thầy, ngươi bảo thế có lợi hại không nào?

Ân Tố Tố nói:

– Ôi, trước mặt người ngoài, sư thúc mèo khen mèo dài đuôi, không sợ Du nhị hiệp chê cười hay sao.

Lý Thiên Viên cười:

– Trương ngũ hiệp đã là rể quý của chúng ta, Du nhị hiệp đâu còn là người ngoài nữa.

Nói xong ôm quyền cung kính chào, rồi bước ra khỏi khoang thuyền.

Du Liên Châu nghe mấy câu đó, trong lòng chẳng vui chút nào, chỉ hơi cau mày, không nói gì.

Trương Thúy Sơn chờ đám giáo chúng Thiên Ưng giáo rời thuyền rồi, vội hỏi:

– Nhị ca, thương thế của tam ca sau đó ra sao? Tam ca có… đỡ chút nào không?

Du Liên Châu “ừm” một tiếng, hồi lâu không đáp. Trương Thúy Sơn thì bồn chồn, chằm chằm nhìn sư ca, trong lòng cứ nổi lên cảm giác lo lắng, chỉ sợ nghe sư ca nói đến chữ “chết”.

Du Liên Châu chậm rãi nói:

– Tam đệ không chết, nhưng so với chết cũng chẳng khác bao nhiêu. Tam đệ tàn phế suốt đời, tứ chi không cử động được. Du Đại Nham Du tam hiệp, than ôi, trên giang hồ không còn nhân vật đó nữa!

Trương Thúy Sơn nghe nói tam ca không chết, lòng mừng rỡ, nhưng nghĩ tới một vị sư ca anh phong hiệp cốt mà phải chịu cảnh như thế thì chàng không nhịn được ứa nước mắt, nghẹn ngào hỏi:

– Cừu nhân hại tam ca là ai? Đã tìm ra chưa?

Du Liên Châu không đáp, ngoảnh đầu lại, đột nhiên mục quang như hai tia chớp chiếu thẳng vào mặt Ân Tố Tố, nghiêm nghị hỏi:

– Ân cô nương, cô nương có biết kẻ hại Du tam đệ của ta là ai không?

Ân Tố Tố không khỏi run rẩy, nói:

– Nghe bảo gân cốt tứ chi của Du tam hiệp bị người ta dùng “Kim cương chỉ lực” của phái Thiếu Lâm bẻ gãy.

Du Liên Châu nói:

– Đúng thế. Cô nương không biết là ai ư?

Ân Tố Tố lắc đầu, nói:

– Muội không biết.

Du Liên Châu không để ý đến nàng nữa, nói:

– Ngũ đệ, phái Thiếu Lâm nói là đệ đã giết tất cả già trẻ lớn bé của tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An, lại giết cả mấy vị tăng nhân phái Thiếu Lâm. Việc đó thật hay giả?

Trương Thúy Sơn nói:

– Việc đó…

Ân Tố Tố nói xen vào:

– Việc đó không liên quan gì tới ngũ ca, tất cả là do muội giết đấy.

Du Liên Châu nhìn nàng, mục quang lộ vẻ cực kỳ thống hận, nhưng trong giây lát liền dịu đi, vẻ mặt trở lại bình hòa, nói:

– Ta cũng biết ngũ đệ không đời nào giết người bừa bãi. Vì chuyện đó mà phái Thiếu Lâm ba lần cử người lên núi Võ Đang lý luận, song vì ngũ đệ đột nhiên mất tích, võ lâm ai ai cũng biết, nên việc đó không có ai đối chứng. Chúng ta nói phái Thiếu Lâm hại tam đệ, phái Thiếu Lâm thì nói ngũ đệ giết của họ mấy chục người. Rất may chưởng môn trụ trì Thiếu Lâm tự là Không Văn đại sư lão thành trì trọng không cho gây sự, nên mười năm nay mới tránh khỏi đại họa.

Ân Tố Tô nói:

Tất cả là do muội hồi ấy trẻ người non dạ, hành sự không biết nặng nhẹ tốt xấu, bây giờ nghĩ lại thật hối hận vô cùng. Thế nhưng người thì đã chết rồi, bây giờ mình cứ chối biến, không nhận đến cùng, là xong chuyện.

Du Liên Châu lộ vẻ mặt lạ lùng, liếc Trương Thúy Sơn một cái, nghĩ thầm sao hạng nữ nhi thế này mà ngũ đệ lại lấy  làm vợ được.

Ân Tố Tố thấy Du Liên Châu tỏ ra lạnh nhạt với nàng, mở miệng chỉ gọi Ân cô nương, không hề gọi nàng là ” đệ tức” ( em dâu), thì bực thầm trong bụng, nói:

– Ai làm nấy chịu. Vụ đó muội quyết không để liên lụy đến phái Võ Đang của nhị ca, cứ để cho phái Thiếu âm đến kiếm Thiên Ưng giáo là xong.

Du Liên Châu cao giọng:

– Trên giang hồ, mọi việc không thể bỏ qua chữ “Lý”,  không kể phái Thiếu Lâm hiện tà phái lớn nhất trong võ lâm, ngay đến cô nhi quả phụ vô quyền vô dũng, chúng ta cũng phải xử sự theo lý, chứ không thể ỷ mạnh hiếp yếu.

Nếu là mười năm trước, những lời giáo huấn nghiêm khắc của Du Liên Châu hẳn đã làm cho Ân Tố Tố thẹn quá hóa khùng, rút kiếm gây chuyện; nhưng bây giờ nàng thấy Trương Thúy Sơn cung kính vâng dạ, nên chỉ nghĩ thầm: “Mình chẳng muốn nghe mấy lời nhân nghĩa đạo đức, nhưng nếu cãi lại, chỉ e Trương lang thêm khó xử, thôi đành nhường nhịn vậy”. Nàng bèn dắt tay Vô Kỵ, nói:

– Vô Kỵ, để mẹ cho con ra xem chiếc thuyền lớn, con chưa bao giờ thấy nó, phải không?

Trương Thúy Sơn đợi thê tử ra khỏi khoang rồi, mới nói:

– Nhị ca, mười năm qua, tiểu đệ…

Du Liên Châu xua tay, nói:

– Ngũ đệ, huynh đệ hai ta bụng nào dạ nấy, tình như cốt nhục, dù có họa lớn đến mấy, nhị ca cũng sống chết cùng với ngũ đệ. Chuyện của phu phụ ngũ đệ, đừng nói với nhị ca vội, để về núi nghe sư phụ định đoạt. Nếu sư phụ trách phạt ngũ đệ, cả huynh đệ bảy người chúng ta cùng quỳ xuống cầu xin, hài nhi của ngũ đệ cũng đã lớn ngần này rồi, không lẽ sư phụ còn bắt phu thê phụ tử ngũ đệ mỗi người một ngả sao?

Trương Thúy Sơn cả mừng, nói:

– Đa tạ nhị ca.

Du Liên Châu bề ngoài cứng rắn, bên trong nhiệt thành, trong Võ Đang thất hiệp chính là người ít nói cười nhất, được năm sư đệ kính nể Du Liên Châu còn hơn cả so với đại sư ca Tống Viễn Kiều. Thực ra Du Liên Châu đối đãi với sư huynh đệ tình sâu nghĩa nặng, khi Trương Thúy Sơn đột nhiên mất tích, trong lòng Du Liên Châu đau đớn như muốn phát điên, nhưng ngoài mặt làm như vô sự; hôm nay sư huynh sư đệ trùng phùng, thực là hỉ sự đầu tiên trong đời Du Liên Châu, nhưng Du vẫn phải giữ vẻ nghiêm nghị, giáo huấn cho Ân Tố Tố một chập, bây giờ chỉ còn hai huynh đệ với nhau thì mới hơi lộ chân tình.

Điều Du Liên Châu lo ngại nhất là Ân Tố Tố đã giết quá nhiều đệ tử Thiếu Lâm, việc đó quyết không dễ thu xếp chút nào, nhưng tâm ý đã định sẵn, dù mình chết cũng phải bảo hộ cho gia đình sư đệ bình an chu toàn.

Trương Thúy Sơn lại hỏi:

– Nhị ca, bên mình xảy ra tranh chấp lớn với Thiên Ưng giáo, có phải cũng là vì phu phụ tiểu đệ? Việc này làm cho tiểu đệ vô cùng lo lắng.

Du Liên Châu không đáp, hỏi lại:

– Việc trên Vương Bàn sơn đảo đầu đuôi thế nào?

Trương Thúy Sơn bèn thuật lại việc chàng đêm nọ tiến vào tiêu cục Long Môn ra sao, gặp Ân Tố Tố thế nào, cùng đi dự lễ giương đao lập uy của Thiên Ưng giáo tại Vương Bàn sơn đảo ra sao, sau đó Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ra tay tàn sát, đoạt lấy thanh đao Đồ Long và bức hai người xuống thuyền ra biển thế nào, nhất loạt kể hết.

Du Liên Châu nghe hết câu chuyện, hỏi rõ vụ Cao Tắc Thành và Tưởng Đào của phái Côn Luân, trầm ngâm một hồi, rồi nói:

– Hóa ra như vậy. Nếu cuối cùng ngũ đệ không trở về, không biết các uẩn khúc bên trong đến bao giờ mới sáng tỏ.

Trương Thúy Sơn nói:

– Đúng thế, nghĩa huynh của tiểu đệ… à, Tạ Tốn thực ra không phải hạng người tàn ác tới mức không thể cải hóa. Nhị ca, Tạ Tốn như thế chẳng qua là vì trong đời Tạ Tốn bị một tai họa quá bi thảm; tiểu đệ hiện đã kết nghĩa kim lan với Tạ Tốn.

Du Liên Châu gật đầu, nghĩ thầm: “Lại thêm một chuyện khó thu xếp lắm đây”.

Trương Thúy Sơn nói tiếp:

– Tiếng rống của nghĩa huynh tiểu đệ có một uy lực ghê gớm, làm cho tất cả mọi người trên Vương Bàn sơn đảo mất trí, Tạ Tốn bảo rằng mọi người tuy không chết nhưng sẽ hóa thành điên dại, như thế thì việc Tạ Tốn đoạt được thanh đao Đồ Long mới không bị lộ ra ngoài. Du Liên Châu nói:

– Tạ Tốn hành sự hung ác, nhưng y quả là một kỳ nhân, có điều là y tính trăm điều vẫn sót một điều, quên mất một người.

Trương Thúy Sơn hỏi:

– Là ai vậy?

Du Liên Châu nói:

– Bạch Quy Thọ.

Trương Thúy Sơn nói:

– Là đàn chủ Huyền Vũ đàn của Thiên Ưng giáo ư?

Du Liên Châu nói:

– Đúng thế. Cứ như lời ngũ đệ, trong số quần hào hiện diện hôm đó trên Vương Bàn sơn đảo, thì Bạch Quy Thọ nội công thâm hậu hơn cả, bị Tạ Tốn phun rượu đánh ngã ra chết giấc. Khi Tạ Tốn thi triển “Sư tử hống”, Bạch Quy Thọ giả dụ chưa chết giấc, thì chắc cũng đã mất trí vì tiếng hú đó…

Trương Thúy Sơn vỗ đùi, nói:

– Phải rồi, lúc ấy Bạch Quy Thọ vẫn nằm bất tỉnh dưới đất, không nghe tiếng hú, nhờ vậy sau này thần trí vẫn tỉnh táo! Nghĩa huynh của tiểu đệ tuy tính toán kín nhẽ, song không nghĩ ra điều này.

Du Liên Châu thở dài, nói:

– Từ Vương Bàn sơn đảo trở về mà không bị mất trí, chỉ có một mình Bạch Quy Thọ. Phái Côn Luân nội công tuy có chỗ độc đáo, nhưng công lực của Cao Tắc Thành và Tưởng Đào còn thô thiển, từ đó thành phế nhân ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Hỏi hai người ai đã làm hại họ, Tưởng Đào chỉ lắc đầu không nói, còn Cao Tắc Thành thì trước sau chỉ nói tên một người là Ân Tố Tố.

Du Liên Châu ngừng giây lát, nói tiếp:

– Bây giờ nhị ca mới biết, thì ra Cao Tắc Thành khắc sâu hình bóng Ân Tố Tố trong đầu hắn. Hừm, lần sau Tây Hoa Tử còn nói năng xấc xược, nhị ca sẽ cho lão biết tay! Đệ tử phái Côn Luân của lão hành sự bất cẩn, lại đi trách cứ người khác.

Trương Thúy Sơn nói:

– Nếu Bạch Quy Thọ đã không bị mất trí, hẳn y phải biết rõ mọi nguyên ủy chứ.

Du Liên Châu nói:

– Thế nhưng y lại không chịu nói ra, ngũ đệ có biết tại sao không?

Trương Thúy Sơn nghĩ một chút, hiểu ra:

– Phải rồi, Thiên Ưng giáo muốn một mình đoạt lại thanh đao Đồ Long, không chịu tiết lộ cái tin chỉ riêng họ biết, nên trước sau cứ bảo là họ không biết gì.

Du Liên Châu nói:

– Cuộc tranh chấp lớn trong võ lâm hiện nay chính từ đó mà ra. Phái Côn Luân nói Ân Tố Tố làm hại Cao Tắc Thành và Tưởng Đào, mấy huynh đệ chúng ta cũng đều bảo ngũ đệ bị Thiên Ưng giáo hạ độc thủ.

Trương Thúy Sơn hỏi:

– Thế việc tiểu đệ đến Vương Bàn sơn đảo cũng do Bạch Quy Thọ nói ra ư?

Du Liên Châu nói:

– Không, y không chịu nói gì cả. Nhị ca cùng tứ đệ, lục đệ tới Vương Bàn sơn đảo tra xét, thấy hai mươi bốn chữ lớn ngũ đệ viết trên vách núi bằng thiết bút, mới biết ngũ đệ có tham dự lễ “giương đao lập uy” của Thiên Ưng giáo. Ba người chúng ta tìm không thấy tung tích gì của ngũ đệ trên đảo, bèn đi gặp Bạch Quy Thọ dò hỏi. Bạch Quy Thọ nói năng xấc xược, bị ta cho một chưởng. Ít lâu sau phái Côn Luân có người tìm đến, nhưng bị thua to, bị Thiên Ưng giáo giết mất hai người. Mười năm qua, cừu oán đôi bên cứ ngày càng sâu.

Trương Thúy Sơn vô cùng ân hận, nói:

– Chỉ vì phu phụ tiểu đệ khiến cho bao nhiêu người vô tội của các môn phái gặp nạn, tiểu đệ làm sao có thể yên lòng? Tiểu đệ về bẩm ân sư rồi sẽ đến các môn phái giải thích sự hiểu lầm, chịu tội với họ.

Du Liên Châu thở dài, nói:

– Cái đó do trời xui đất khiến, chứ không thể trách ngũ đệ. Hôm ấy sư phụ sai ta và thất đệ đi Lâm An, bảo hộ tiêu cục Long Môn nhưng tới Giang Tây thì gặp chuyện đại bất bình, hai huynh đệ ta buộc phải ra tay, thành ra chậm mất mấy ngày, dù cứu được mười mấy người vô tội; khi đến Lâm An thì vụ huyết án ở tiêu cục Long Môn xảy ra mất rồi. Lẽ ra, nếu chỉ vì việc của hai vợ chồng ngũ đệ thì cũng chỉ xảy ra tranh chấp giữa phái Võ Đang và phái Côn Luân với Thiên Ưng giáo mà thôi. Nhưng Thiên Ưng giáo vì muốn đoạt lại thanh đao Đồ Long mà trước sau không nhắc gì đến Tạ Tốn, thành thử các môn phái, bang hội, như Cự Kình, Hải Sa, Thần Quyền… đều đổ riệt món nợ máu bang chủ, chưởng môn cho Thiên Ưng giáo. Thiên Ưng giáo do đó trở thành đích nhắm của các giới giang hồ.

Trương Thúy Sơn thở dài:

– Chẳng hiểu thanh đao Đồ Long kia có cái gì ghê gớm mà nhạc phụ của tiểu đệ phải gánh thay người khác cái họa này?

Du Liên Châu nói:

– Ta chưa từng gặp lệnh nhạc, nhưng cái việc ông ta thống lãnh Thiên Ưng giáo đơn độc chống lại quần hùng, khí phách đó khiến ngay cả địch thủ của ông ta cũng phải thán phục.

Trương Thúy Sơn nói:

– Các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Không Động, hoàn toàn không tham dự đại hội Vương Bàn sơn đảo, vì lẽ gì cũng kết oán cừu với Thiên Ưng giáo?

Du Liên Châu nói:

– Chuyện đó thì là do nghĩa huynh Tạ Tốn của đệ mà ra. Thiên Ưng giáo muốn đoạt lại thanh đao Đồ Long, nhiều phen liên tiếp cho hải thuyền ra các hải đảo tìm kiếm Tạ Tốn. Nên biết cái kim giấu trong bọc mãi cũng có ngày lòi ra. Bạch Quy Thọ giữ mồm giữ miệng đến mấy, cái tin kia cũng lộ ra ngoài. Nghĩa huynh của đệ trước đây mạo danh Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, gây ra hơn ba chục vụ đại án khắp Giang Nam, Giang Bắc; giết hại vô số nhân vật thành danh của các môn phái, việc đó ngũ đệ biết chứ?

Trương Thúy Sơn gật đầu, hạ giọng, nói:

– Mọi người rốt cuộc đã biết Tạ Tốn là hung thủ.

Du Liên Châu nói:

– Khi gây án, Tạ Tốn đều viết trên tường hàng chữ lớn “Người ra tay là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn”. Hồi ấy mấy sư huynh đệ chúng ta theo lệnh sư phụ, từng xuống núi tra xét, quả thật bấy giờ chẳng biết hung thủ là ai, mà Thành Côn trước sau vẫn không lộ diện. Khi cái tin Thiên Ưng giáo đi tìm tung tích Tạ Tốn bị lộ, các mưu sĩ của các môn phái mới nghĩ ra rằng Tạ Tốn vốn là đệ tử truyền nhân duy nhất của Thành Côn, sau không rõ vì cớ gì mà sư đồ bất hòa, trở mặt thành kẻ thù, vậy thì kẻ mạo danh Thành Côn giết người kia chỉ có thể là Tạ Tốn. Ngũ đệ thử xem Tạ Tốn giết hại bao nhiêu người, sự vụ lan rộng biết chừng nào? Chỉ riêng cái việc Không Kiến đại sư của phái Thiếu Lâm bị y đấm chết, cũng đã có bao nhiêu người muốn giết y cho hả giận.

Trương Thúy Sơn trông vẻ mặt thật khổ sở, nói:

– Nghĩa huynh của tiểu đệ tuy sửa lỗi hướng thiện, nhưng hai tay nhuốm quá nhiều máu, ôi… nhị ca, lòng đệ rối như tơ vò, chả biết phải làm sao bây giờ.

Du Liên Châu nói:

– Sư huynh sư đệ chúng ta đã vì ngũ đệ mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Phái Côn Luân vì Cao, Tưởng hai gã mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Bang Cự Kình vì bang chủ chết thảm mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Ngoài phái Thiếu Lâm còn bao nhiêu nhân vật bạch đạo hắc đạo vì muốn biết tung tích Tạ Tốn mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Mười năm qua, song phương đại chiến đã năm trận, tiểu chiến không sao đếm xuể. Tuy mỗi lần đại chiến Thiên Ưng giáo đều thua, nhưng nhạc phụ của ngũ đệ bị quần hùng vây đánh như thế mà vẫn đứng vững, quả là một nhân vật kiệt xuất! Đương nhiên, các danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi thấy sự việc chưa minh bạch, có quá nhiều uẩn khúc, xem chừng Thiên Ưng giáo hoàn toàn không phải là thủ phạm chính nên mỗi lần ra tay đều có phần nương nhẹ, các môn phái còn lại thì nhất quyết sống còn. Lần này chúng ta nghe tin Thiên Thị đường Lý đường chủ của Thiên Ưng giáo đưa thuyền ra biển tìm Tạ Tốn, bèn bí mật bám theo, mong lần ra chút manh mối nào chăng. Ai ngờ Lý đường chủ thấy tình hình bất ổn, không chịu để chúng ta bám đuôi, thế là phái Côn Luân động thủ với họ. Nếu phu phụ ngũ đệ không đi bè tới nơi, hai bên chắc còn mất thêm không ít hảo thủ.

Trương Thúy Sơn lặng lẽ nhìn kỹ sư ca, thấy Du Liên Châu hai bên tóc mai đã nhuốm bạc, trán có nhiều nếp nhăn, nói:

– Nhị ca, mười năm qua nhị ca vất vả quá nhiều. Tiểu đệ may mắn sống sót trở về, được gặp lại nhị ca, tiểu đệ… tiểu đệ…

Du Liên Châu thấy sư đệ nước mắt lưng tròng, nói:

– Võ Đang thất hiệp lại quây quần bên nhau, quả là đại hỉ sự. Từ khi tam đệ trọng thương, ngũ đệ mất tích, giang hồ đã đổi tên huynh đệ ta thành Võ Đang ngũ hiệp, ha ha, hôm nay thất hiệp sẽ trùng chấn thanh uy…

Chợt nhớ Du Đại Nham tàn phế nằm một chỗ, tuy bảy người còn đủ, nhưng đâu còn có thể cùng nhau sánh vai hành hiệp giang hồ như ngày nào, thì lòng chàng không khỏi tê tái bùi ngùi.

Thuyền đi về phương nam mười mấy ngày thì đến cửa sông Trường Giang, cả bọn đổi sang giang thuyền mà đi về phía thượng lưu.

Vợ chồng Trương Thúy Sơn thay bộ y phục lam lũ bằng da thú, trông hai người thật là một cặp đẹp đôi, phong tư chẳng khác ngày xưa là mấy. Vô Kỵ mặc bộ cánh mới, tóc tết thành hai cái bím buộc dải lụa đỏ, trông thật hoạt bát dễ thương.

Du Liên Châu chuyên tâm học võ, không vợ con gì nên đối với Vô Kỵ hết sức yêu thương, có điều là tính nết nghiêm nghị, trầm mặc ít nói, sắc diện lạnh lùng. Vô Kỵ cảm nhận rằng vị sư bá mặt lạnh như tiền này thật ra rất cưng nó, nên mỗi lúc thư nhàn nó lại sà vào hỏi sư bá đủ thứ. Thằng bé sinh ra nơi hoang đảo, mọi thứ trên đất liền chưa thấy bao giờ, nên đối với nó cái gì cũng mới lạ. Du Liên Châu chẳng khó chịu về việc đó, thường ôm nó ngồi ở mũi thuyền ngắm phong cảnh đôi bờ. Vô Kỵ hỏi mươi câu, chàng trả lời vắn tắt một câu.

Hôm ấy đến chân núi Đồng Quan, huyện Đồng Lăng, tỉnh An Huy, trời đã xế chiều, chiếc thuyền đậu lại cạnh một thị trấn nhỏ. Nhà thuyền lên bờ mua rượu thịt. Phu phụ Trương Thúy Sơn và Du Liên Châu ở dưới thuyền pha trà nhàn đàm.

Vô Kỵ chơi đùa quanh quẩn ở mũi thuyền, thấy trên bến có một lão hành khất đang ngồi đùa giỡn với rắn, trên cổ lão quấn một con rắn xanh, còn trên tay là một con rắn lớn mình đen chấm trắng. Con rắn đen ấy cứ luồn qua chui lại, vừa cuộn khoanh trên đầu, thoắt một cái đã trườn xuống lưng, vô cùng sinh động. Vô Kỵ ở Băng Hỏa đảo chưa nhìn thấy rắn lần nào, giờ xem cảnh kia thấy quá thích thú. Lão hành khất nhìn thằng bé, cười cười với nó, búng tay một cái, con rắn đen liền nhảy lên, lộn một vòng trên không, lúc rơi xuống quấn luôn quanh ngực lão hành khất mấy vòng. Vô Kỵ thấy lạ quá, cứ nhìn không chớp mắt. Lão hành khất vẫy vẫy thằng bé, đưa tay làm hiệu rủ nó lên bờ, sẽ cho xem nhiều trò khác hấp dẫn nữa.

Vô Kỵ tức thời theo ván cầu đi lên. Lão hành khất lấy từ lưng ra một cái túi vải, mở miệng túi, cười:

– Trong này có mấy đồ chơi hay lắm, bé lại mà xem.

Vô Kỵ hỏi:

– Đồ chơi gì thế?

Lão hành khất nói:

– Thích lắm, cứ nhìn vào khắc biết.

Vô Kỵ thò đầu vào túi vải để nhìn, chỉ thấy tối mò mò, nào có thấy gì. Nó xích lại gần hơn, hi vọng nhìn cho rõ, lão hành khất đột nhiên lật tay một cái, chụp cái túi vải vào đầu nó. Vô Kỵ mới kêu “Ối” một tiếng, miệng đã bị lão hành khất bịt lại, rồi cả thân hình nó bị nhấc bổng lên.

Tiếng kêu của thằng bé từ trong túi vải vọng ra tuy nhỏ, nhưng Du Liên Châu và Trương Thúy Sơn cũng nghe thấy. Hai người tuy ở trong khoang thuyền, cách khá xa, song cảm thấy tiếng kêu có gì không ổn, vội cùng chạy ra mũi thuyền đã thấy Vô Kỵ bị lão hành khất bắt giữ.

Hai người toan phi thân lên bờ, nhưng lão hành khất kia gằn giọng quát:

– Muốn thằng bé sống, hãy đứng yên đó!

Nói xong lão ta xé rách áo trên lưng Vô Kỵ, đặt miệng con rắn đen chĩa ngay vào da thịt ở hậu tâm thằng bé.

Lúc này Ân Tố Tố cũng đã chạy ra mũi thuyền, thấy ái nhi bị bắt thì cả giận toan phóng ngân châm. Du Liên Châu đưa cả hai tay ngăn lại:

– Không được đâu!

Chàng đã nhận ra con rắn đen kia tên là Tất Hắc Tinh, một loài độc xà nổi tiếng, thân càng đen, độc tính càng mạnh. Con rắn này mình đen bóng, các chấm trắng trên mình nó cũng phát quang lấp lánh. Nó há rộng miệng, lộ ra bốn cái răng nhọn, nhắm thẳng da thịt trắng mềm trên lưng Vô Kỵ. Nó chỉ cần mổ một cái, Vô Kỵ sẽ mất mạng tức thời, dẫu có đập chết lão hành khất, lấy được thuốc giải cũng chẳng tài nào cứu kịp. Du Liên Châu thản nhiên hỏi:

– Tôn giá làm khó với đứa bé là muốn gì?

Lão hành khất nói:

– Du nhị hiệp hãy sai người nhổ neo, đưa thuyền ra cách bờ năm sáu trượng, bấy giờ ta sẽ nói.

Du Liên Châu biết lão ta sợ mình đột nhiên nhảy lên bờ, chàng cũng thừa biết thuyền càng xa bờ thì càng khó cứu Vô Kỵ, nhưng thằng bé đang bị lão ta uy hiếp thế kia, đành phải làm theo lời lão, rồi tính sau. Du Liên Châu cầm dây neo giật nhẹ một cái, cái neo sắt nặng năm sáu chục cân từ dưới nước bay lên.

Lão hành khất thấy cánh tay Du Liên Châu chỉ hất chếch một cái nhẹ thì chiếc neo đã bay lên, công lực mạnh hiếm có, bất giác mặt hơi biến sắc. Trương Thúy Sơn cầm cây sào dài đẩy một cái vào bờ, con thuyền từ từ lùi ra giữa sông. Lão hành khất nói:

– Xa thêm chút nữa!

Trương Thúy Sơn tức giận nói:

– Thế này còn chưa đủ năm, sáu trượng hay sao?

Lão hành khất mỉm cười:

– Du nhị hiệp võ công lợi hại như thế, dù cách xa năm sáu trượng, tại hạ vẫn chưa yên tâm đâu.

Trương Thúy Sơn đành phải cho thuyền ra xa hơn một trượng nữa.

Du Liên Châu ôm quyền hỏi:

– Thỉnh giáo quý tính đại danh.

Lão hành khất nói:

– Tại hạ là kẻ vô danh tiểu tốt trong Cái Bang, tiện danh nói ra chỉ làm bẩn tai Du nhị hiệp.

Du Liên Châu thấy lão ta đeo sau lưng năm sáu cái túi vải, nghĩ thầm đây là đệ tử sáu túi của Cái Bang, thân phận không thấp, sao lại hành động ti tiện như thế? Huống hồ Cái Bang xưa nay hành sự nhân nghĩa, bang chủ của họ là Sử Hỏa Long là một đại hán oai hùng, lừng danh trên giang hồ, việc này thật kỳ quái.

Ân Tố Tố bỗng quát lên:

– Vu Sơn bang ở Đông Xuyên đã gia nhập Cái Bang rồi sao? Ta xem trong Cái Bang làm gì có tự hiệu của các hạ?

Lão hành khất “ồ” một tiếng, chưa trả lời đã nghe Ân Tố Tố nói tiếp:

– Hạ Lão Tam, ngươi giở trò quỷ gì thế? Ngươi mà đụng đến một sợi tóc của con ta thì ta sẽ chặt Mai Thạch Kiên nhà các ngươi thành vài chục mảnh!

Lão hành khất giật mình, nói:

– Ân cô nương quả nhiên tinh mắt thật, nhận ngay ra Hạ Lão Tam này. Tại hạ chính nhận lệnh Mai bang chủ đến đây nghênh đón công tử.

Ân Tố Tố giận dữ nói:

– Mau bỏ con rắn kia ra! Cái bang hội Vu Sơn nhỏ bé của ngươi thật to gan, dám gây sự với Thiên Ưng giáo!

Hạ Lão Tam nói:

– Chỉ xin Ân cô nương nói ra một câu, Hạ Lão Tam sẽ lập tức trả lại công tử, Mai bang chủ sẽ thân chinh đến tận nơi tạ tội.

Ân Tố Tố hỏi:

– Muốn ta nói câu gì?

Hạ Lão Tam nói:

– Công tử độc nhất của Mai bang chủ chết dưới tay Tạ Tốn, Ân cô nương chắc đã nghe rồi. Mai bang chủ cầu khẩn Trương ngũ hiệp và Ân cô nương, à không, tiểu nhân lỡ lời, phải gọi là Trương phu nhân mới đúng, cho biết chỗ ở của ác tặc Tạ Tốn, toàn thể tệ bang từ trên xuống dưới sẽ đa tạ đại đức đó.

Ân Tố Tố nhướn mày, nói:

– Bọn ta không biết.

Hạ Lão Tam nói:

– Vậy thì nhờ hai vị dò hỏi nghe ngóng giùm. Chúng tôi sẽ hầu hạ công tử chu đáo, khi nào hai vị dò hỏi được chỗ ở của Tạ Tốn báo cho hay, Mai bang chủ sẽ đích thân đem trả công tử.

Ân Tố Tố thấy mấy cái răng con rắn độc cách da thịt con mình chỉ vài tấc, trong bụng lo sợ, đã toan nói phắt ra chuyện ở Băng Hỏa đảo, nhưng quay sang nhìn trượng phu, thấy mặt chàng rất kiên nghị. Nàng làm vợ Trương Thúy Sơn mười năm, biết chàng là người rất trọng nghĩa khí, nếu vì ái tử mà tiết lộ chỗ ở của Tạ Tốn, khiến nghĩa huynh phải bỏ mạng bởi tay người, chỉ e tình nghĩa phu thê khó mà bảo toàn, nên nàng cố nhịn không nói ra.

Trương Thúy Sơn lớn tiếng nói:

– Được, ngươi đem con ta đi đâu thì đem. Đại trượng phu lẽ nào bán rẻ bằng hữu? Ngươi coi thường Võ Đang thất hiệp quá đó!

Hạ Lão Tam sững người, lão cứ tưởng bắt giữ được Vô Kỵ thì phu phụ Trương Thúy Sơn không thể không tiết lộ chỗ ở của Tạ Tốn, nào ngờ Trương Thúy Sơn cuối cùng lại trả lời kiên quyết như thế, nhất thời lão chưa biết tính sao, bèn nói:

– Du nhị hiệp, Tạ Tốn tội cao như núi, phái Võ Đang chủ trì công đạo, người trong võ lâm vẫn kính trọng, xin nhị hiệp khuyên hai vị ấy một lời.

Du Liên Châu nói:

– Việc này xử lý thế nào, sư huynh đệ tại hạ chính đang trên đường về núi Võ Đang bẩm với ân sư, để lão nhân gia chỉ giáo. Đại hội anh hùng ở lầu Hoàng Hạc tại Võ Xương, xin mời quý bang Mai bang chủ và các hạ cùng tới dự, lúc đó đúng sai phải trái thế nào, mọi người sẽ rõ. Mong các hạ trước hết hãy thả thằng bé ra.

Du Liên Châu ở cách bờ sông sáu bảy trượng, nói mấy câu đó tuyệt nhiên không đề khí, vậy mà Hạ Lão Tam nghe rõ từng câu từng chữ như thể hai người đang ngồi bên nhau nói chuyện, thì thán phục nghĩ thầm: “Võ Đang thất hiệp uy chấn thiên hạ, quả nhiên danh bất hư truyền. Lần này bang Vu Sơn mình làm chuyện này thật mạo hiểm, chọi sao nổi với phái Võ Đang và Thiên Ưng giáo?! Nhưng mối thù giết con trai Mai bang chủ lẽ nào không báo”, bèn khom lưng nói:

– Đã vậy, tiểu nhân đành đắc tội, đành đưa Trương công tử đi Đông Xuyên.

Đột nhiên Ân Tố Tố đưa tay đẩy vào lưng một thủy thủ đang ngồi trên mạn thuyền, rồi giơ chân đá một thủy thủ khác. Hai thuyền phu kêu oai oái, lăn tòm xuống sông, nước bắn lên tung tóe. Ân Tố Tố lại kêu to:

– Ối chao, ối chao, ngũ ca, sao lại đánh thiếp?

Đoạn nàng cứ vừa kêu la vừa nhảy ở mũi thuyền. Du Liên Châu và Trương Thúy Sơn kinh ngạc, chưa biết tại sao nàng làm thế. Hạ Lão Tam thì trố mắt nhìn chuyện đột biến, càng ngơ ngác hơn.

Du Liên Châu chỉ chớp mắt đã hiểu liền, chàng thấy Hạ Lão Tam trố mắt há mồm thì tức thời chàng rút trường kiếm, vận kình ném đi. Chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, thanh kiếm bay vút đi, chém đứt phăng đầu con Tất Hắc Tinh, cắt ngọt luôn bốn ngón tay của Hạ Lão Tam đang cầm con rắn đó. Lúc trường kiếm của Du Liên Châu được rút khỏi bao, Trương Thúy Sơn đã chộp một sợi dây cột buồm đang lơ lửng, hai chân đạp xuống sàn thuyền một cái, giật dây bay vèo lên bờ. Chàng chỉ chậm hơn thanh kiếm của Du Liên Châu chút xíu, chân chưa chạm đất đã nhoài người tới, tay phải ôm lấy Vô Kỵ, tay trái tung một chưởng đánh cho Hạ Lão Tam lăn đi mấy vòng.

Hạ Lão Tam nằm giãy giụa dưới đất, không đứng dậy nổi.

Hai thuyền phu bơi vào bờ, không hiểu tại sao Ân Tố Tố bỗng nhiên nổi giận nên chưa dám trở lại thuyền. Ân Tố Tố cười khúc khích, nói:

– Mời hai vị đại ca lên thuyền, vừa rồi ta đắc tội, xin tặng mỗi vị hai lượng bạc để mua rượu uống.

Chiếc thuyền ngược dòng mà đi, lại ngược gió, nên tiến rất chậm. Trương Thúy Sơn xa sư phụ và sư huynh sư đệ đã mười năm, nóng lòng gặp lại, nên khi tới An Khánh, chàng muốn bỏ thuyền đi ngựa. Du Liên Châu nói:

– Ngũ đệ, chúng ta đi thuyền tốt hơn, tuy chậm vài ngày, nhưng đáp thuyền ít gặp rắc rối. Hiện nay trên giang hồ không biết có bao nhiêu người muốn tra vấn chỗ ở của nghĩa huynh hiền đệ đấy.

Ân Tố Tố nói:

– Vợ chồng muội cùng đi với nhị sư bá, chẳng lẽ còn có kẻ dám cản trở đại giá của Du nhị hiệp?

Du Liên Châu nói:

– Võ Đang thất hiệp liên thủ đúng là không một ai dám ngăn cản, nhưng chỉ có ngu huynh với ngũ đệ, thì làm sao địch nổi bao nhiêu là cao thủ cùng kéo đến? Huống hồ chuyện này mình chỉ mong mọi người bãi chiến, chả nên kết thêm oán cừu.

Trương Thúy Sơn gật đầu:

– Nhị ca nói chí phải.

Thuyền đi mấy ngày nữa thì đến Võ Huyệt là địa giới tỉnh Hồ Bắc. Tối hôm đó tới cửa Phú Trì, thuyền đậu lại chuẩn bị nghỉ đêm. Du Liên Châu bỗng nghe có tiếng ngựa hí trên bờ, ngó ra ngoài khoang, thấy có hai con ngựa vừa quay đầu phi về hướng thị trấn. Tuy chỉ nhìn thấy lưng người cưỡi ngựa, nhưng thân pháp nhanh nhẹn, hiển nhiên là người biết võ nghệ.

Liền quay sang nói với Trương Thúy Sơn:

– Ở lại đây e rằng lại gặp chuyện rắc rối, chúng ta đi luôn là hơn.

Trương Thúy Sơn nói:

– Vâng.

Trong lòng chàng hơi xao xuyến. Võ Đang thất hiệp từ khi xuống núi hành hiệp, võ nghệ cao cường, hành sự ngay thẳng, chỉ có người ngoài nghe tiếng phải tránh né, chứ chưa từng phải né tránh ai bao giờ. Mấy năm qua uy danh của Du Liên Châu lừng lẫy hơn cả mấy vị chưởng môn phái lớn như phái Côn Luân, phái Không Động. Vậy mà bây giờ thấy dáng sau lưng của hai kỵ sĩ vô danh tiểu tốt thì đã không muốn nghỉ lại ở cửa Phú Trì, chỉ vì nhị ca lo lắng cho ba người trong gia đình sư đệ. Du Liên Châu gọi nhà thuyền, thưởng cho họ ba lượng bạc, bảo họ cho thuyền đi suốt đêm. Nhà thuyền tuy mệt nhưng ba lượng bạc bằng số tiền hỏa thực cả mấy tháng nên rất vui mừng nhổ neo đi ngay.

Tối hôm đó trăng thanh gió mát, Vô Kỵ đã ngủ, Du Liên Châu cùng hai vợ chồng Trương Thúy Sơn ngồi ở mũi thuyền uống rượu ngắm trăng, nhìn mặt sông mênh mông, lòng vô cùng khoan khoái.

Trương Thúy Sơn nói:

– Thấm thoắt sắp tới đại thọ trăm tuổi của ân sư, tiểu đệ may mắn được về dự một thịnh sự hiếm có trong võ lâm, ông Trời đãi tiểu đệ không đến nỗi nào.

Ân Tố Tố nói:

– Tiếc rằng vội quá, chúng mình không tìm được lễ vật vừa ý để kính tặng lão nhân gia.

Du Liên Châu nói:

– Đệ muội, muội có biết ân sư của ta yêu ai nhất trong bảy đệ tử hay không?

Ân Tố Tố nói:

– Đệ tử đắc ý nhất của lão nhân gia dĩ nhiên phải là nhị bá rồi.

Du Liên Châu cười:

– Lời nói của muội chưa thật lòng, bụng thừa biết một đằng, miệng lại nói một nẻo. Trong bảy sư huynh sư đệ chúng ta, người được sư phụ đêm ngày mong nhớ chính là đức phu quân anh tuấn của muội đó.

Ân Tố Tố trong lòng rất mừng, nhưng vẫn lắc đầu:

– Muội không tin.

Du Liên Châu nói:

– Bảy người chúng ta, ai cũng có sở trường. Đại sư ca tinh thông Dịch lý, giản dị thanh cao. Tam sư đệ tinh minh mạnh mẽ, sư phụ giao việc gì cũng không để lỡ. Tứ sư đệ cơ trí hơn người. Lục sư đệ kiếm thuật tinh thông. Thất sư đệ mấy năm qua chuyên luyện võ công ngoại môn, sau này sẽ nội ngoại kiêm tu, cương nhu hợp nhất. Không phải ngũ đệ thì còn ai vào đấy…

Ân Tố Tố nói:

– Còn bản thân nhị bá thì sao?

Du Liên Châu nói:

– Ta tư chất ngu muội và thô lỗ, không có sở trường nào cả, miễn cưỡng mà nói, ta là kẻ phải khổ công nhiều nhất luyện tập võ công bản môn do sư phụ truyền thụ.

Ân Tố Tố vỗ tay cười:

– Nhị bá là người võ công giỏi nhất trong Võ Đang thất hiệp, nhưng khiêm tốn chẳng chịu nói ra.

Trương Thúy Sơn nói:

– Trong bảy huynh đệ chúng ta, nhị ca luôn là người võ công cao nhất. Mười năm xa cách, tiểu đệ bây giờ càng không thể theo kịp. Than ôi, không được ân sư dạy dỗ mười năm, tiểu đệ chắc phải đứng chót trong bảy người rồi.

Lời chàng không khỏi có ý buồn rầu.

Du Liên Châu nói:

– Thế nhưng trong bảy huynh đệ, văn võ toàn tài chỉ có một mình ngũ đệ. Này đệ muội, ta nói cho muội biết một bí mật nghe, năm năm trước, trong bữa tiệc mừng thọ ân sư chín mươi lăm tuổi, khi bọn ta chúc thọ ân sư, bỗng dưng Người tỏ vẻ không vui, nói: “Trong bảy đệ tử của ta, ngộ tính cao nhất, văn võ song toàn, duy có Thúy Sơn. Ta vẫn dự định sẽ cho y kế thừa y bát[42] của ta, ôi, tiếc rằng y phúc mỏng, năm năm rồi chưa biết sống chết thế nào, chỉ e dữ nhiều lành ít”. Muội bảo có phải sư phụ yêu quý nhất ngũ đệ hay không?

Ân Tố Tố cười tươi như hoa, lòng vui sướng khôn cùng. Trương Thúy Sơn thì hết sức cảm kích, nước mắt rưng rưng.

Du Liên Châu nói:

– Nay ngũ đệ bình yên trở về, chính là món lễ vật chúc thọ quý giá nhất đối với ân sư đó.

Vừa nói tới đây, bỗng trên bờ vọng lại tiếng vó ngựa dồn dập từ đông sang tây, trong đêm vắng nghe rõ ràng có bốn con ngựa. Ba người nhìn nhau, nghĩ thầm mấy con ngựa kia đang đêm phi vội như thế, hẳn có liên quan tới mình. Ba người tuy không muốn chuyện rắc rối, nhưng họ đâu phải kẻ nhát gan? Cả ba coi như không có gì đáng chú ý.

Du Liên Châu nói:

– Lần này khi ta xuống núi, sư phụ chính đang bế quan tĩnh tu. Mong rằng lúc chúng ta về đến nơi thì lão nhân gia đã khai quan.

Ân Tố Tố nói:

– Phụ thân muội ngày trước nói với muội, rằng cả đời chỉ khâm phục có hai người, một là Dương giáo chủ của Minh giáo, vị này đã tạ thế, người thứ hai là tôn sư Trương chân nhân. Ngay cả bốn đại cao tăng “Kiến Văn Trí Tính” của phái Thiếu Lâm, phụ thân muội cũng không phục lắm. Trương chân nhân năm nay tròn trăm tuổi, tu trì cao siêu, đời nay không ai sánh kịp. Bây giờ lại còn bế quan, chắc để tu luyện thuật trường sinh bất lão chăng?

Du Liên Châu nói:

– Không phải đâu. Là ân sư muốn suy tư về võ công.

Ân Tố Tố hơi ngạc nhiên:

– Võ công của lão nhân gia đã cao siêu khôn lường, còn nghiên cứu thêm gì nữa? Chẳng lẽ thế gian này còn có người địch nổi lão nhân gia ư?

Du Liên Châu nói:

– Từ năm chín mươi lăm tuổi trở đi, mỗi năm ân sư bế quan chín tháng. Lão nhân gia nói rằng võ công của phái Võ Đang ta chủ yếu bắt nguồn từ bộ “Cửu dương chân kinh” Thế nhưng năm xưa khi ân sư được Giác Viễn tổ sư truyền thụ thì tuổi còn quá trẻ, lại chưa biết chút võ công nào. Giác Viễn tổ sư cũng không có ý truyền thụ, chỉ nhiệm ý đọc cho ân sư nghe, thành thử võ công bản môn vẫn còn thiếu sót. Bộ “Cửu dương chân kinh” ấy, theo lời Giác Viễn tổ sư, là do Đạt Ma tổ sư truyền lại; nhưng ân sư bảo rằng người càng nghĩ càng thấy không phải như vậy. Một là những điều bí ẩn nói trong bộ “Cửu dương chân kinh” khác hẳn với võ công phái Thiếu Lâm, ngược lại, gần với võ học của Đạo gia chúng ta ở Trung nguyên. Hai là bộ “Cửu dương chân kinh” không phải bằng tiếng Phạn, mà viết bằng văn tự Hán, viết xen kẽ giữa các hàng chữ Phạn trong bộ kinh Lăng Già. Thiết nghĩ Đạt Ma tổ sư tuy diệu ngộ Thiền lý, võ học uyên thâm, song Người từ Thiên Trúc sang, chưa hẳn đã tinh thông văn tự Hán ngữ. Một bộ võ kinh quan trọng như thế sao không viết riêng một quyển, lại đi viết xen giữa hai hàng chữ của bộ kinh khác?

Trương Thúy Sơn gật đầu, hỏi:

– Vậy ân sư đã đoán ra đạo lý trong đó chưa?

Du Liên Châu nói:

– Ân sư cũng nghĩ chưa ra, Người cho rằng có lẽ “Cửu dương chân kinh” do một vị cao tăng Thiếu Lâm tự đời sau sáng tác, mượn tên Đạt Ma tổ sư. Ân sư nghĩ rằng một khi bộ “Cửu dương chân kinh” kia không đầy đủ, vậy tại sao mình không tự sáng chế thêm? Mỗi năm sư phụ bế quan suy tư là để mở ra một phái võ học hoàn toàn mới, khác hẳn võ công của các môn phái hiện truyền.

Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nghe xong, cùng tấm tắc tán thưởng. Du Liên Châu nói:

– Năm xưa, khi Giác Viễn tổ sư truyền thụ “Cửu dương chân kinh” đã có ba người cùng nghe. Một là ân sư, hai là Vô Sắc đại sư của phái Thiếu Lâm, người thứ ba là một thiếu nữ, sau chính là tổ sư sáng lập phái Nga Mi – Quách Tương Quách nữ hiệp.

Ân Tố Tố nói:

– Muội từng nghe phụ thân nói Quách nữ hiệp là người có gia thế lừng lẫy tiếng tăm, có phụ thân là Quách Tĩnh Quách đại hiệp; mẫu thân là Hoàng Dung, Hoàng bang chủ Cái Bang, khi thành Tương Dương thất thủ, Quách đại hiệp cùng với phu nhân tuẫn nạn.

Du Liên Châu nói:

– Đúng thế. Ân sư ta trước kia từng có duyên gặp được phu phụ Quách đại hiệp trên đỉnh Hoa Sơn. Mỗi lần nhắc đến tấm lòng vì nước vì dân, nhân nghĩa hành hiệp của hai vị đó, sư phụ thường khuyên huynh đệ chúng ta học võ phải noi gương Quách đại hiệp và phu nhân.

Chàng lặng người hồi lâu, rồi nói tiếp:

– Ba vị năm xưa được truyền thụ “Cửu dương chân kinh”, mỗi người ngộ tính khác nhau, căn bản lại càng cách biệt. Nói về võ công thì Vô Sắc đại sư cao hơn cả; Quách nữ hiệp là nữ nhi của Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ, sở học uyên bác nhất; còn ân sư ta lúc đó không có căn cơ gì về võ công, song chính nhờ thế mà sở học lại tinh thuần hơn cả. Ba phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Võ Đang, thì một phái được chữ “Cao”, một phái được chữ “Bác”, một phái được chữ “Thuần”. Mỗi phái đều có sở trường, song phải nói là cũng có sở đoản.

Ân Tố Tố nói:

– Thế thì vị Giác Viễn tổ sư ấy võ công cao siêu lắm, bao đời mới có một người phải không?

Du Liên Châu lắc đầu:

– Không phải, Giác Viễn tổ sư không biết võ, chỉ lo việc giám quản kinh sách trong Tàng Kinh các của Thiếu Lâm tự. Vị tổ sư này mê sách, quyển kinh nào cũng đọc tới mức thuộc lòng. Giác Viễn tổ sư vô tình đọc “Cửu dương chân kinh”, nhớ thuộc lòng kinh đó cũng chẳng khác gì kinh Kim Cương hay kinh Pháp Hoa vậy thôi. Còn về võ học bác đại tinh thâm nói trong bộ kinh ấy, thì tuy có lãnh ngộ, song Giác Viễn tổ sư chỉ luyện nội công, chứ hoàn toàn không biết gì về võ thuật cả.

Rồi Du Liên Châu đem chuyện “Cửu dương chân kinh” bị thất lạc ra sao, cùng những điều ít ai biết tới kể hết cho Ân Tố Tố nghe.

Chuyện đó Trương Thúy Sơn đã nghe sư phụ kể, riêng Ân Tố Tố giờ mới được nghe lần đầu nên cảm thấy rất thú vị, hỏi:

– Thì ra cội nguồn của hai phái Võ Đang và Nga Mi là như thế. Vì sao Quách Tương Quách nữ hiệp không kết duyên với Trương chân nhân?

Trương Thúy Sơn mỉm cười ngắt lời vợ:

– Nàng lại nói vớ vẩn rồi.

Du Liên Châu nói:

– Sau khi ân sư chia tay với Quách nữ hiệp dưới chân núi Thiếu Thất, hai người không gặp lại nhau nữa. Ân sư bảo rằng Quách nữ hiệp trong lòng in sâu hình bóng một người, chính là Thần điêu đại hiệp Dương Quá, người đã dùng đá ném chết đại hãn Mông Cổ ở ngoài thành Tương Dương. Quách nữ hiệp đi khắp thiên hạ tìm Dương đại hiệp, nhưng tìm không ra, đến năm bốn mươi tuổi đột nhiên đại triệt đại ngộ, liền xuất gia làm ni cô, sau đó khai sáng phái Nga Mi.

Ân Tố Tố kêu “ôi” một tiếng, bất giác thương thầm cho Quách Tương, quay sang nhìn Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn lúc ấy cũng nhìn Ân Tố Tố. Bốn mắt gặp nhau, hai người đều nghĩ thầm: “Hai ta trên trời dưới đất vĩnh viễn bên nhau, so với vị Quách nữ hiệp khai sáng phái Nga Mi kia, thật may mắn hơn nhiều”.

Du Liên Châu vốn trầm mặc ít nói, có khi mấy ngày chẳng thốt một câu; nhưng từ hôm gặp lại Trương Thúy Sơn sau mười năm xa cách, chàng trở nên vui vẻ khác thường, nói nhiều hẳn lên. Hơn mười ngày ở bên cạnh Ân Tố Tố, chàng cảm thấy Tố Tố bản tính thực ra không phải kẻ xấu, chẳng qua “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, từ thuở ấu thơ đã tai nghe mắt thấy toàn những sự tà ác, nên mới không phân biệt thiện ác, nhiễm phải tính thích giết người; nhưng mười năm nay làm vợ Trương Thúy Sơn, tính khí đã thay đổi hẳn. Ác cảm của chàng đối với Tố Tố khi mới gặp đã dần dần mất đi, chàng cảm thấy Tố Tố còn thẳng thắn trung thực hơn khối kẻ danh môn chính phái tự cao tự đại và gàn dở.

Chợt nghe có tiếng vó ngựa, lại từ phía đông vọng tới, lát sau chạy ngang qua về phía tây. Trương Thúy Sơn làm như không nghe thấy, nói:

– Nhị ca, nếu sư phụ mời các cao thủ của hai phái Thiếu Lâm, Nga Mi cùng nghiên cứu, lấy sở trường bù sở đoản cho nhau, thì võ công của cả ba phái sẽ đại tiến.

Du Liên Châu vỗ đùi, nói:

– Đúng lắm, sư phụ bảo về sau ngũ đệ sẽ là người thừa thụ y bát môn hộ, quả không lầm chút nào.

Trương Thúy Sơn nói:

– Chỉ vì tiểu đệ không có bên cạnh, nên ân sư lúc nào cũng mong nhớ. Đối với từ mẫu, thì đứa con phiêu dạt tha hương bao giờ cũng được quý hơn hiếu tử ở liền bên cạnh mà. Thực ra lúc này tài năng của tiểu đệ so với đại ca, nhị ca, tứ ca dĩ nhiên thua xa đã đành, mà so với lục đệ, thất đệ chắc cũng không bằng.

Du Liên Châu nói:

– Không hẳn thế. Hiện tại, luận về võ công, dĩ nhiên ngũ đệ không bằng ta, nhưng truyền nhân y bát của ân sư là người phải gánh vác trọng nhiệm làm sáng danh võ học bản môn. Ân sư vẫn thường bảo, thiên hạ rộng lớn thế này, sự vinh hay nhục của một môn phái Võ Đang đâu có gì đáng kể? Nhưng nếu có thể nghiên cứu sự bí ẩn huyền diệu của võ học, lựa chọn truyền nhân thật kỹ càng, trước là để bọn tiểu nhân tà ác không theo kịp võ công của bậc chính nhân quân tử, kế đó kết hợp nghĩa sĩ trong thiên hạ cùng đánh đuổi bọn Thát Lỗ, lấy lại giang sơn ta, thế mới là làm tròn bổn phận của kẻ học võ thuộc thế hệ chúng ta. Vì vậy truyền nhân y bát của ân sư trước hết trọng tâm thuật, thứ đến là ngộ tính. Nói về tâm thuật, huynh đệ bảy người chúng ta không khác nhau bao nhiêu, nhưng nói về ngộ tính lại chỉ có ngũ đệ là cao nhất.

Trương Thúy Sơn xua tay:

– Đấy là do ân sư thương nhớ tiểu đệ, nhất thời hứng lên nói thế. Mà dù ân sư có ý định đó chăng nữa tiểu đệ cũng không mảy may dám nhận.

Du Liên Châu mỉm cười, nói:

– Đệ muội, hãy vào bảo hộ bé Vô Kỵ để nó khỏi giật mình, việc ngoài này đã có ta và ngũ đệ lo liệu.

Ân Tố Tố đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy động tĩnh gì, đang định hỏi thì Du Liên Châu nói:

– Trong đám lau sậy ven bờ thoáng có ánh đao, có kẻ mai phục. Trong đám lau sậy phía trước, ắt có thuyền địch.

Ân Tố Tố căng mắt nhìn bốn phía một lần nữa, tất cả tĩnh mịch, tuyệt nhiên không thấy gì khác lạ, nghĩ thầm chẳng biết nhị ca có hoa mắt hay không?

Bỗng nghe Du Liên Châu lớn tiếng nói:

– Du nhị và Trương ngũ núi Võ Đang đi ngang qua quý địa, mong được lượng thứ về tội lễ tiết thiếu chu toàn. Vị bằng hữu nào đó nếu có hứng, mời xuống thuyền uống vài chén rượu được chăng?

Lời Du Liên Châu vừa dứt, bỗng trong đám lau sậy có tiếng mái chèo khuấy động, rồi sáu chiếc thuyền nhỏ lao ra dàn hàng chắn ngang mặt sông. Từ một chiếc thuyền có một mũi tên báo hiệu bắn ra, tiếng rít của nó nghe chói tai, lập tức từ các bụi cây thấp phía bờ nam xuất hiện mười mấy hán tử y phục màu đen, nai nịt gọn gàng, tay lăm lăm binh khí, mặt trùm khăn đen, chỉ để hở đôi mắt.

Ân Tố Tố lòng thầm thán phục: “Nhị bá quả nhiên danh bất hư truyền, tài tình thật!” Thấy kẻ địch quá đông, nàng vội vào trong khoang thì Vô Kỵ đã giật mình tỉnh dậy. Nàng mặc quần áo cho nó, thấp giọng nói:

– Hài nhi của mẹ, đừng sợ.

Du Liên Châu lại nói:

– Trước mặt là vị bằng hữu nào đó, Du nhị, Trương ngũ phái Võ Đang có lời chào đây.

Thế nhưng sáu chiếc thuyền chỉ có người chèo phía đuôi, chứ không thấy ai khác, cũng không một ai trả lời.

Du Liên Châu chợt hiểu, kêu lên:

– Chẳng lành rồi!

Đoạn chàng lao ngay xuống sông. Từ nhỏ chàng đã sống ở vùng sông nước Giang Nam, bơi lội cực giỏi. Chàng vừa lặn xuống đã thấy bốn hán tử cầm dùi nhọn đang bơi ngầm bên dưới tới gần, rõ ràng toan đục đáy thuyền để bắt sống người ở trên thuyền.

Chàng nép vào mạn thuyền đợi bốn kẻ kia bơi tới gần, liền dùng hai tay điểm trúng huyệt của hai tên, dùng một chân đá vào bên hông tên thứ ba, điểm trúng huyệt “Chí thất” của hắn. Tên thứ tư hoảng sợ định chuồn, Du Liên Châu dùng tay trái tóm lấy cổ chân hắn, ném mạnh lên thuyền. Ba tên kia đã bị điểm huyệt, không cứu ngay ắt sẽ chết đuối, bởi vậy chàng lần lượt quẳng từng tên lên thuyền, rồi mới leo lên sau cùng.

Tên thứ tư bị ném lên thuyền trước tiên, lăn một vòng, bật dậy đâm dùi vào ngực Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn thấy võ công của hắn tầm thường, chẳng buồn né tránh, dùng tay trái chộp lấy cổ tay đối phương, tiếp đó thúc cùi chỏ ra, trúng huyệt giữa ngực. Hắn kêu hự một tiếng, ngã gục xuống.

Du Liên Châu nói:

– Trên bờ hình như có mấy hảo thủ, mình coi như lễ tiết đủ rồi, thây kệ bọn chúng, cứ đi thôi!

Trương Thúy Sơn gật đầu, dặn nhà thuyền cứ cho thuyền tiến lên. Tới gần sáu chiếc thuyền nhỏ, Du Liên Châu nhấc bốn tên kia lên, giải khai huyệt đạo cho chúng, rồi ném từng tên sang đó. Kể cũng lạ, người bên sáu chiếc thuyền kia chẳng ai lên tiếng, mười mấy hán tử trên bờ cũng lặng thinh, tựa hồ cả bọn đều câm. Bốn tên đục thuyền không thấy xuất hiện nữa.

Thuyền đi song song với sáu chiếc nhỏ, khi sắp vượt qua chúng thì một gã đang chèo thuyền nhỏ bỗng vung tay hai cái, nghe đoàng, đoàng” hai tiếng nổ, ván gỗ bay tung tóe, tay lái chiếc thuyền lớn của họ đã gãy nát, thuyền lập tức quay ngang. Thì ra tên lái đò kia vừa ném sang hai quả ngư pháo dùng để đánh cá, nhưng hai quả pháo này thật to, được nhồi rất nhiều hỏa dược, nên có sức công phá khá mạnh.

Du Liên Châu thản nhiên, nhẹ nhàng nhảy sang chiếc thuyền nhỏ của đối phương. Chàng tài đã cao mà gan lại lớn, vẫn chưa dùng tới binh khí.

Tên đang chèo thuyền cứ tiếp tục chèo, chẳng lý gì đến người vừa nhảy sang. Du Liên Châu bèn quát to:

– Kẻ nào vừa ném ngư pháo?

Gã kia vẫn lặng thinh. Du Liên Châu liền tiến vào trong khoang thuyền, thấy có hai hán tử ngồi đối diện nhau, chàng tiến vào mà họ thản nhiên, chẳng hề có ý nghênh địch. Chàng túm gáy một gã, nhấc lên, quát:

– Các ngươi là bù nhìn hả?

Gã kia nhắm mắt, lặng thinh. Du Liên Châu thuộc hàng đệ nhất cao thủ võ lâm, không muốn dùng vũ lực truy bức, nên chàng trở ra thấy Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đã ôm Vô Kỵ nhảy sang chiếc thuyền nhỏ.

Du Liên Châu giật lấy mái chèo, chèo ngược dòng, mới được vài cái, nghe Ân Tố Tố kêu lên:

– Bọn giặc cỏ này tháo nước vào rồi!

Chỉ thấy nước tuôn ào ào trong khoang, thì ra bọn kia đã tháo nút ở đáy thuyền cho nước tràn vào. Du Liên Châu nhảy sang chiếc thuyền nhỏ thứ hai, thấy nó cũng đã ngập nước một nửa, bèn quay đầu, nói:

– Ngũ đệ, thế này đành phải lên bờ thôi!

Sáu chiếc thuyền nhỏ rõ ràng sắp đặt sẵn, giống như tạo thành một cây cầu để khách lên bờ. Ba người cùng Vô Kỵ nhảy lên bờ.

Mười mấy hán tử che mặt ở trên bờ xếp thành hình vòng cung chờ sẵn, vây bốn người vào bên trong. Những người ấy đa số cầm trường kiếm, có người cầm song đao hoặc nhuyễn tiên, không ai sử dụng binh khí nặng.

Du Liên Châu đứng khoanh tay, nhìn khắp lượt từ trái sang phải, sắc mặt thản nhiên, không nói gì.

Một hán tử đứng giữa phẩy tay một cái, vòng người liền tách ra hai bên, người nào người nấy hơi khom mình, binh khí trong tay chĩa xuống đất, ôm quyền hành lễ, tỏ ý nhường đường. Du Liên Châu đáp lễ, rồi hiên ngang đi qua. Đợi chàng bước qua rồi, bọn người kia liền khép cái vòng lại, chặn đường gia đình Trương Thúy Sơn ba người, các binh khí nhất tề chĩa lên, thanh quang lấp lóe.

Trương Thúy Sơn cười ha hả, nói:

– Hóa ra các vị muốn giữ Trương mỗ lại, nên bày thành trận thế long trọng thế này, thật là coi trọng kẻ hèn này quá.

Hán tử đứng giữa trù trừ giây lát, rồi chĩa mũi kiếm xuống đất, mở đường cho qua. Trương Thúy Sơn nói:

– Tố Tố, nàng đi trước đi.

Ân Tố Tố ôm Vô Kỵ định bước qua, bỗng nghe tiếng gió năm thanh trường kiếm nhất tề chĩa thẳng tới Vô Kỵ. Ân Tố Tố giật mình, vội lùi lại. Năm hán tử kia lập tức tiến tới, mũi kiếm không ngừng rung động, thủy chung vẫn cách thân hình Vô Kỵ chừng một thước.

Du Liên Châu nhún chân một cái, từ bên ngoài vọt vào trong vòng, hai tay vỗ liền bốn cái, mỗi cái vỗ đều trúng vào cổ tay cầm kiếm của một hắc y hán tử, bốn thanh kiếm đang chĩa về phía Vô Kỵ liền bay lên trời. Bốn cái vỗ ấy xuất thủ quá nhanh, bốn thanh kiếm gần như cùng lúc bay lên tay trái chàng tức thời lật lại, nắm lấy cổ tay người thứ năm, ngón trỏ thuận thế điểm luôn vào huyệt cổ tay người đó, nhưng cảm thấy tay y mềm mại, nhẵn nhụi, hình như là tay thiếu nữ nên chàng vội buông ra. Người đó cổ tay tê chồn, nghe “keng” một tiếng, thanh kiếm rơi xuống đất.

Năm người bị rơi kiếm vội lùi lại. Lại lấp loáng hai đạo thanh quang dưới ánh trăng, có hai thanh kiếm khác đâm tới, là kiểu đâm ngang, lưỡi kiếm quay sang hai bên tả hữu, hai kiếm sĩ cùng sử chiêu “Đại mạc bình sa”, kiếm thế không dụng kình, tựa hồ không có ý đả thương người khác.

Du Liên Châu nghĩ thầm: “Côn Luân kiếm pháp! Thì ra họ thuộc phái Côn Luân!” Chờ kiếm tới cách ngực mình ba tấc, chàng đột nhiên hóp ngực lại, hai tay huơ một vòng, hai ngón tay trỏ đồng thời búng vào hai lưỡi kiếm.

Cú búng này Du Liên Châu sử dụng Võ Đang tâm pháp, lẽ ra trường kiếm của đối phương phải tuột khỏi tay họ mới đúng, nào ngờ khi ngón tay đụng vào thanh kiếm liền cảm thấy từ thanh kiếm có một luồng nhu kình truyền ra hóa giải một nửa lực đạo của chàng nên kiếm không bị rơi. Song hai kiếm sĩ cũng không chịu nổi phải bật lùi ba bước. Một người loạng choạng rồi ngã phịch xuống đất, người kia kêu “Ối chao”, ộc ra một ngụm máu tươi.

Từ lúc họ đem sáu chiếc thuyền ra chắn ngang sông, họ không thốt ra một lời, bây giờ hai tiếng kêu Ối chao” nghe trong trẻo thanh thoát, đúng là giọng nữ nhân.

Hắc y hán tử đứng giữa giơ tay trái phẩy một cái, cả bọn quay mình bỏ chạy, trong giây lát đã lẩn vào các bụi cây thấp xung quanh. Phần lớn những người ấy thân hình mảnh mai uyển chuyển, rõ là nữ cải nam trang. Du Liên Châu lớn tiếng nói:

– Du nhị, Trương ngũ gửi lời chào Thiết Cầm tiên sinh, mong lượng thứ tội vô lễ.

Các hắc y kia không trả lời, nghe văng vẳng có tiếng cười khúc khích, rõ là tiếng thiếu nữ.

Ân Tố Tố đặt Vô Kỵ xuống đất, nắm tay con, nói:

– Những người kia phần lớn là nữ nhân. Nhị bá, bọn họ là phái Côn Luân đấy ư?

Du Liên Châu nói:

– Không phải, phái Nga Mi đấy.

Trương Thúy Sơn ngạc nhiên:

– Phái Nga Mi ư? Sao nhị ca lại bảo “gửi lời chào Thiết Cầm tiên sinh”?

Du Liên Châu thở dài:

– Bọn họ thủy chung không nói một lời, lại che mặt bằng vải đen, chính là không muốn cho người khác biết chân diện mục của họ. Năm mũi kiếm chĩa vào Vô Kỵ, là “Hàn Mai kiếm trận” của phái Côn Luân. Hai người dùng kiếm đâm ngang vào ta, cũng là chiêu “Đại mạc bình sa” của phái Côn Luân. Họ đã mạo danh phái Côn Luân, thì mình cũng giả vờ không biết, nên mới gửi lời chào chưởng môn phái Côn Luân là Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung.

Ân Tố Tố hỏi:

– Vì sao nhị bá biết họ là người của phái Nga Mi? Nhị bá nhận ra người nào chăng?

Du Liên Châu nói:

– Không đâu. Mấy người đó công lực đều không lấy gì làm thâm hậu, chắc chỉ là loại đồ tôn của chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái, hoặc chỉ là các tiểu đệ tử của bà ta, làm sao ta nhận biết. Thế nhưng nhu kình của họ hóa giải chỉ lực của ta khi búng vào lưỡi kiếm thì chính là tâm pháp của phái Nga Mi. Học vài chiêu trận thức của môn phái khác không khó, song một khi sử dụng nội kình, tất không thể nào che giấu được chân tướng.

Trương Thúy Sơn gật đầu:

– Nhị ca dùng chỉ búng kiếm, nếu họ buông rơi kiếm thì không sao, có bị thương cũng nhẹ. Nội công của phái Nga Mi rất hay, có điều công lực chưa đủ vận kình, gặp phải cao thủ thì khó tránh khỏi nguy hại. Giả sử nhị ca coi hai người ấy là địch thủ, hẳn cả hai đã bỏ mạng rồi. Chẳng là phái Nga Mi đối với chúng ta xưa nay vẫn nể nang.

Du Liên Châu nói:

– Ân sư hồi trẻ từng được tổ sư phái Nga Mi là Quách Tương nữ hiệp đối đãi tử tế, thành thử lão nhân gia vẫn thường căn dặn nhất thiết không được đắc tội với đệ tử phái Nga Mi để bảo lưu cái tình hương hỏa khi xưa. Ta búng kiếm, thấy nội kình của đối phương có điều không ổn, thu về không kịp nữa rồi, thành ra làm cho hai người bị thương. Tuy không cố ý, song như vậy là đã vi phạm lời dặn dò của ân sư.

Ân Tố Tố cười, nói:

– Cũng may là sau cùng nhị bá nói là gửi lời chào Thiết Cầm tiên sinh, coi như không đắc tội với phái Nga Mi.

Lúc đó chiếc thuyền của họ đã trôi về phía hạ lưu mất tăm. Sáu chiếc thuyền nhỏ cũng đã chìm cả, những người chèo thuyền đều ướt như chuột lột, đang lóp ngóp leo lên bờ. Ân Tố Tố nói:

– Bọn này cũng thuộc phái Nga Mi ư?

Du Liên Châu hạ giọng nói nhỏ:

– Phần lớn là bang Lương Thuyền ở Sào Hồ.

Ân Tố Tố nhìn năm thanh kiếm lấp loáng ánh trăng rơi dưới đất, cúi xuống toan nhặt lên xem, thì Du Liên Châu nói:

– Đừng đụng tới binh khí của họ, lỡ trên kiếm có khắc tên người, sau này ta chẳng thể giả bộ không biết. Thôi chúng ta đi!

Ân Tố Tố lúc này hết sức kính phục vị nhị bá này, nàng đáp:

– Vâng.

Rồi dắt Vô Kỵ đi lên con đường lớn trên bờ sông.

Qua một bụi cây thấp, thấy dưới gốc cây liễu lớn ở phía trước có buộc ba con ngựa cao to. Vô Kỵ mừng rỡ reo lên:

– Có ngựa, có ngựa!

Ở Băng Hỏa đảo, thằng bé chưa thấy ngựa bao giờ, về đến Trung thổ, nó rất muốn cưỡi ngựa, nhưng toàn đáp thuyền, nên chưa có dịp nào.

Bốn người tới gần cây liễu, thấy trên thân cây có gài một mảnh giấy. Trương Thúy Sơn gỡ xuống xem, thấy viết: “Kính tặng ba con ngựa để tạ tội làm hỏng thuyền”. Hàng chữ viết bằng than, viết vội nên hơi tháu, nét chữ mềm mại rõ là của nữ nhân. Ân Tố Tố mỉm cười, nói:

– Các cô nương phái Nga Mi dùng bút than vẽ lông mày để viết thư cho hai đại hiệp phái Võ Đang.

Du Liên Châu nói:

– Các cô nàng khách sáo quá.

Ba người cởi dây, chia nhau cưỡi. Vô Kỵ ngồi trong lòng mẹ, vô cùng thích thú.

Trương Thúy Sơn nói:

– Hình tích của chúng ta lộ rồi, đáp thuyền hay đi ngựa cũng vậy thôi.

Du Liên Châu nói:

– Đúng thế. Chặng đường phía trước hẳn còn gặp cản trở, nếu bất đắc dĩ phải động thủ thì chúng ta nhất thiết chớ có mạnh tay.

Du Liên Châu mới vô tình đả thương hai đệ tử phái Nga Mi, trong lòng vẫn áy náy không yên. Ân Tố Tố thì hối hận, nghĩ thầm: “Nhị bá chỉ mới xuất thủ hơi nặng một chút, chủ ý không định đả thương, chỉ muốn bức đối phương buông kiếm, họ cưỡng lại nên bị thương. Còn mình năm xưa cố ý giết nhiều đệ tử phái Thiếu Lâm, không cần biết nặng nhẹ là gì, thật là mình quá tệ. Mình phạm tội, mình phải gánh chịu, từ nay không thể để nhị bá bị phiền phức”, bèn nói:

– Nhị bá, những người kia chỉ tới hỏi tội vợ chồng muội, chứ họ hết sức cung kính đối với huynh. Sắp tới nếu có ai cản đường, xin cứ để cho đệ muội lo liệu, nếu không xong mới dám phiền nhị bá trợ giúp một tay.

Du Liên Châu nói:

– Nói thế khác gì người ngoài. Huynh đệ chúng ta sống chết có nhau, đâu còn phân biệt chuyện của riêng ai kia chứ.

Ân Tố Tố không tiện nói thêm, hỏi:

– Họ biết rõ nhị bá đi cùng với phu phụ muội, sao lại chỉ phái mấy đệ tử trẻ tuổi chặn đường?

Du Liên Châu nói:

– Có lẽ do gấp quá, không kịp điều động cao thủ.

Trương Thúy Sơn đoán rằng mấy nữ nhân phái Nga Mi vừa rồi muốn biết tung tích của Tạ Tốn, bèn nói:

– Thì ra nghĩa huynh cũng gây thù chuốc oán với cả phái Nga Mi, sao ở Băng Hỏa đảo không nghe nghĩa huynh nói qua.

Du Liên Châu thở dài:

– Phái Nga Mi môn quy rất nghiêm, trong môn phái đa số là nữ đệ tử. Diệt Tuyệt sư thái trước nay không cho phép các nữ đệ tử hành tẩu giang hồ. Lần này phái Nga Mi lại gây sự với Thiên Ưng giáo, bọn ta thoạt đầu cũng lấy làm lạ, mãi gần đây mới hiểu nguyên do. Thì ra “Kim qua chùy” Phương Bình Phương lão anh hùng ở Khai Phong, Hà Nam một hôm đột nhiên bị sát hại, trên tường có hàng chữ viết bằng máu “Giết người này là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn”.

Ân Tố Tố hỏi:

– Phương Bình là người của phái Nga Mi ư?

Du Liên Châu đáp:

– Không phải. Diệt Tuyệt sư thái lúc chưa xuất gia vốn họ Phương. Phương lão anh hùng là thân ca ca[43] của Diệt Tuyệt sư thái.

Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cùng “ồ” lên một tiếng.

Vô Kỵ bỗng hỏi:

– Nhị bá, thế Phương lão anh hùng là người tốt hay là kẻ xấu?

Du Liên Châu nói:

– Nghe bảo Phương lão anh hùng chỉ làm ruộng, đọc sách, không giao thiệp với ai, dĩ nhiên không phải kẻ xấu.

Vô Kỵ nói:

– Ồ, nghĩa phụ giết người bừa bãi như thế, thật không đúng chút nào.

Du Liên Châu cả mừng, vươn cánh tay dài như tay vượn, nhấc thằng bé từ trong lòng mẹ nó sang, xoa đầu nó, nói:

– Hài tử, cháu biết không nên giết người bừa bãi, nhị bá rất vui lòng. Người chết rồi không sống lại được, ngay đối với những kẻ cực kỳ hung ác, phạm nhiều tội lỗi, cũng không thể tùy tiện giết đi, mà cần chừa cho họ một con đường hối cải.

Vô Kỵ nói:

– Nhị bá, con xin nhị bá một điều.

Du Liên Châu hỏi:

– Điều gì?

Vô Kỵ nói:

– Nếu người ta tìm thấy nghĩa phụ của con, nhị bá hãy bảo họ đừng giết nghĩa phụ. Bởi vì nghĩa phụ mù lòa, không đánh lại họ đâu.

Du Liên Châu trầm ngâm hồi lâu, nói:

– Việc đó nhị bá không nói với họ được. Có điều là nhị bá sẽ không giết nghĩa phụ của cháu.

Vô Kỵ thừ người không nói, nước mắt rươm rướm.

*

*     *

Trời sáng, bốn người tới một thị trấn, vào khách điếm ngủ nửa ngày, buổi chiều lại lên đường. Có lúc phu phụ Trương Thúy Sơn cưỡi chung một con ngựa, để Vô Kỵ một mình cầm cương cho thích. Vô Kỵ dẫu sao chỉ là một đứa trẻ, cưỡi ngựa một hồi là quên cái việc lo lắng cho Tạ Tốn.

Hôm sau tới Hán Khẩu. Trưa hôm đó, lúc gần đến An Lục, bỗng thấy trên đường có mười mấy khách thương tất tả chạy ngược lại, xua tay rối rít nói với nhóm Du Liên Châu bốn người:

– Quay lại đi, quay lại đi, đằng trước có binh lính Thát Đát giết người cướp của đấy.

Một người nói với Ân Tố Tố:

– Đàn bà con gái đừng có to gan, gặp bọn Thát Đát không phải chuyện đùa đâu.

Du Liên Châu hỏi:

– Chúng có bao nhiêu đứa?

Một người nói:

– Một chục tên, có vẻ hung ác lắm.

Nói xong vội chạy về phía đông.

Võ Đang thất hiệp lâu nay căm ghét thậm tệ quân Nguyên tàn sát lương dân. Trương Tam Phong giáo huấn đệ tử rất nghiêm, không cho phép tùy tiện động thủ với người khác, nhưng nếu gặp quan quân làm điều tàn ác thì được thẳng tay trừng trị. Thành thử Võ Đang thất hiệp nếu gặp đại đội quân Nguyên mới đành né tránh, còn gặp một toán nhỏ quân Nguyên hành hung là lập tức ra tay trừ khử. Du, Trương hai người nghe nói chỉ có mươi tên địch, nghĩ thầm chính là dịp trừ hại cho dân, bèn phóng ngựa về phía trước.

Đi chừng ba dặm, quả nhiên nghe phía trước có tiếng kêu thảm thiết. Trương Thúy Sơn giục ngựa vọt lên, thấy hơn mười tên giặc cầm cương đao, trường mâu đang lùa mấy chục người dân lại để tàn sát, máu tươi loang lổ mặt đất, có bảy tám cái xác đầu một nơi, thân một nẻo. Một tên lính Nguyên cầm một đứa bé ba bốn tuổi, giơ chân đá mạnh khiến đứa bé bay lên cao, làm cho nó khóc thét, lúc rơi xuống lại bị một tên lính khác đá lên như chuyền bóng qua lại. Qua vài lần đá, đứa bé không còn kêu khóc gì nữa, chắc đã chết rồi. Trương Thúy Sơn cả giận, từ lưng ngựa nhảy xuống, chân chưa chạm đất đã giáng một quyền trúng ngực tên lính vừa đá đứa trẻ, tên đó không kêu được một tiếng liền đổ gục ngay xuống. Một tên khác giơ cây dáo dài đâm vào lưng Trương Thúy Sơn.

Vô Kỵ sợ hãi kêu lên:

– Gia gia hãy coi chừng!

Trương Thúy Sơn ngoảnh lại, cười nói:

– Con hãy xem gia gia đánh bọn Thát tử.

Thấy trường mâu còn cách mình ngót nửa thước, tay trái chàng xoay ra sau, chộp lấy cán mâu, giúi mạnh về phía trước, trúng ngực tên lính đó. Hắn rú lên một tiếng, ngã ngửa ra, có vẻ chết tươi.

Quân Nguyên thấy Trương Thúy Sơn dũng mãnh như thế, bèn hô hoán bao vây chàng. Ân Tố Tố nhảy xuống ngựa, cướp một thanh đao dài, chém chết liền hai tên. Bọn địch thấy tình hình bất lợi, bỏ chạy tán loạn. Nhưng bọn này hung ác thành tính, trong lúc chạy trốn vẫn còn vung đao tàn sát người dân. Du Liên Châu cả giận, quát to:

– Đừng để chúng đào thoát!

Nói xong liền phóng về phía tây, chặn đường bốn tên lính Nguyên. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cũng chia nhau chặn những tên còn lại. Ba người biết bọn lính này tuy hung ác nhưng võ công tầm thường, Vô Kỵ còn giỏi hơn bọn chúng nên khỏi cần lo cho nó.

Vô Kỵ cũng nhảy xuống ngựa, thấy nhị bá và phụ mẫu tả xung hữu đột thì thích thú reo lên:

– Hay, hay quá!

Đột nhiên, tên lính bị Trương Thúy Sơn thúc cán mâu ngã ra bất tỉnh ban nãy bất ngờ nhỏm dậy, chộp lấy Vô Kỵ, nhảy lên lưng ngựa, phóng ngay đi.

Du Liên Châu và vợ chồng Trương Thúy Sơn cả kinh, cùng kêu lên và đuổi bộ theo. Du Liên Châu sau hai bước nhảy đã tới sau lưng ngựa, tay trái phóng ra một chưởng, nhắm vào lưng tên lính kia, thân hình chồm theo. Hắn không ngoái đầu lại, đánh ngược lại một chưởng. “Bộp” một tiếng, hai chưởng đụng nhau, Du Liên Châu cảm thấy chưởng lực của đối phương như bài sơn đảo hải, một luồng nội lực cực kỳ âm hàn truyền thẳng qua, khiến toàn thân chàng lạnh thấu xương, loạng choạng lùi về phía sau. Con ngựa tên kia cưỡi cũng không chịu nổi chấn lực một chưởng của Du Liên Châu, hai vó trước của nó đột nhiên khuỵu xuống. Tên lính kia ôm Vô Kỵ thuận đà phóng luôn về phía trước, thi triển thuật khinh công trong chớp mắt đã chạy xa hơn mười trượng.

Trương Thúy Sơn đuổi tới, thấy nhị ca mặt trắng bệch, bị thương không phải nhẹ liền vội đỡ dậy.

Ân Tố Tố lo cho con, cắm đầu đuổi theo. Nhưng tên lính kia khinh công quá cao, càng đuổi càng xa, về sau chỉ còn thấy một chấm đen trên đường, rồi tới một khúc rẽ thì chẳng còn nhìn thấy đâu nữa. Ân Tố Tố vẫn không nản chí, cứ cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Nàng quên rằng tên lính ấy một chưởng đả thương Du Liên Châu, dẫu nàng có đuổi kịp, cũng chẳng địch nổi hắn; nàng chỉ nghĩ: “Dù thế nào cũng phải cướp lại Vô Kỵ”.

Du Liên Châu thều thào nói:

– Mau gọi đệ muội quay lại, để rồi… để rồi tính sau.

Trương Thúy Sơn dùng cây trường mâu đâm chết hai tên lính ở trước mặt, hỏi:

– Sư ca bị thương thế nào?

Du Liên Châu nói:

– Không sao đâu. Ngũ đệ hãy gọi… đệ muội trở lại ngay.

Trương Thúy Sơn sợ mấy tên lính còn lại còn có hảo thủ trong đó, chàng vừa đi khỏi là hắn sẽ tới hạ sát Du Liên Châu, nên chàng đuổi theo tứ phía, từng đứa một giết hết, mới lấy một con ngựa phóng về phía tây.

Đuổi chừng vài dặm thì thấy Ân Tố Tố đang chạy như điên, nhưng bước chân có vẻ loạng choạng, hiển nhiên đã quá mệt. Chàng cúi xuống kéo nàng lên yên. Nàng chỉ tay về phía trước, mếu máo nói:

– Không thấy nữa, đuổi không kịp, đuổi không kịp!

Nói rồi hai mắt trợn ngược, ngất đi.

Trương Thúy Sơn lo cho Du Liên Châu, nghĩ thầm: “Phải lo cho nhị ca trước đã, chuyện Vô Kỵ tính sau”. Chàng liền quay ngựa chạy về, thấy Du Liên Châu ngồi nhắm mắt điều hòa hơi thở.

Một lát sau, Ân Tố Tố tỉnh lại, kêu lên:

– Vô Kỵ, Vô Kỵ!

Sắc mặt trắng bệch của Du Liên Châu cũng đã hồng lại dần, mở mắt ra, nói nhỏ:

– Chưởng lực lợi hại thật!

Trương Thúy Sơn thấy giọng nói của sư huynh không bị đứt quãng, nghĩ rằng tính mệnh không nguy kịch khi đó mới yên tâm, song chưa dám nói chuyện vội. Du Liên Châu từ từ đứng lên, hỏi nhỏ:

– Không thấy tung tích gì sao?

Ân Tố Tố khóc, nói:

– Nhị bá, làm… thế nào bây giờ?

Du Liên Châu nói:

– Đệ muội cứ yên tâm, Vô Kỵ không sao đâu. Người ấy võ công cao ghê gớm, chắc chắn không khi nào hãm hại một đứa bé.

Ân Tố Tố nói:

– Nhưng… nhưng hắn bắt Vô Kỵ mang đi… mất rồi.

Du Liên Châu gật đầu, đưa tay trái vịn vai Trương Thúy Sơn, nhắm mắt suy nghĩ, lát sau mở mắt ra, nói:

– Ta chưa nghĩ ra hắn thuộc môn phái nào, phải về hỏi sư phụ thôi.

Ân Tố Tố nôn nóng, nói:

– Nhị bá, mình phải tìm cách đoạt lại Vô Kỵ trước đã chứ. Tên lính ấy thuộc môn phái nào, để sau hỏi cũng được.

Du Liên Châu lắc đầu.

Trương Thúy Sơn nói:

– Tố Tố, hiện tại nhị ca đang bị trọng thương, kẻ kia võ công cao cường như thế, mình có tìm thấy hắn, cũng chẳng địch nổi đâu.

Ân Tố Tố lo lắng nói:

– Không lẽ… không lẽ bỏ con sao?

Trương Thúy Sơn nói:

– Mình không cần tìm hắn, hắn sẽ tự tìm đến mình.

Ân Tố Tố vốn rất thông minh, chỉ vì ái tử bị bắt đi nên hoảng hốt, nhất trời đầu óc bối rối, lúc này đã trở lại tỉnh táo. Tên lính ấy võ công như thế, ngay Du Liên Châu còn bị chấn thương nặng vì một chưởng của hắn, tất nhiên hắn là kẻ giả trang. Hắn đả thương Du Liên Châu rồi, nếu muốn lấy mạng hai vợ chồng nàng chẳng phải chuyện khó. Nhưng hắn chỉ bắt Vô Kỵ mang đi, hẳn là nhằm tra hỏi chỗ ở của Tạ Tốn. Lúc Trương Thúy Sơn thuận tay thúc một cán mâu vào ngực hắn, hắn giả bộ ngã ra bất tỉnh, lúc đó cả ba người không ai chú ý tới tướng mạo của hắn; bây giờ nhớ lại, tên đó dường như để râu xồm, trông không khác gì một tên lính Thát Đát tầm thường.

Trương Thúy Sơn đặt sư huynh lên lưng ngựa, chàng tự tay cầm cương, ba con ngựa thong thả đi. Đến An Lục, họ vào một tiểu khách điếm nghỉ ngơi. Trương Thúy Sơn bảo điếm chủ mang thức ăn tới rồi chàng đóng cửa lại không ra, e gặp quân Nguyên thêm rắc rối.

Ba người mới giết hơn chục tên lính Nguyên trên đường, chắc rằng vài hôm sau quân Nguyên sẽ kéo đến tàn sát cướp bóc trả thù, bách tính vùng này sẽ phải chịu không biết bao nhiêu tai ương. Thế nhưng mỗi khi gặp chuyện bất bình, lại không thể khoanh tay bỏ qua. Quả đã là bị cái nhục vong quốc thì khắp cõi Thần Châu này người người đều gặp kiếp nạn.

Du Liên Châu ngầm vận nội lực dẫn đi các huyệt đạo toàn thân để trị thương. Trương Thúy Sơn ngồi bên canh chừng. Ân Tố Tố ngồi trên ghế tựa, không dám ngủ. Đến nửa đêm, Du Liên Châu đứng dậy, đi chầm chậm ba vòng trong phòng cho giãn gân cốt, nói:

– Ngũ đệ, trong đời ta, ngoài ân sư ra, ta chưa gặp một cao thủ nào mạnh như thế.

Ân Tố Tố vẫn khắc khoải nhớ con, nói:

– Hắn bắt Vô Kỵ đi chắc để tra hỏi chỗ ở của nghĩa huynh, không biết Vô Kỵ có chịu nói hay không?

Trương Thúy Sơn hiên ngang nói:

– Nếu Vô Kỵ nói ra, nó đâu có đáng là con chúng ta?

Ân Tố Tố nói:

– Đúng, nhất định nó sẽ không nói đâu!

Đột nhiên nàng khóc nấc lên. Trương Thúy Sơn vội hỏi:

– Sao vậy?

Ân Tố Tố nghẹn ngào nói:

– Vô Kỵ không nói, thì tên ác tặc… tên ác tặc ấy sẽ đánh nó, không chừng còn dùng cực hình…

Du Liên Châu thở dài. Trương Thúy Sơn nói:

– Ngọc không mài giũa, chẳng thành bảo vật. Để cho thằng bé chịu đựng một chút gian khổ, không phải là không có cái hay.

Miệng tuy nói vậy, nhưng nghĩ cái cảnh lúc này thằng bé khó tránh bị người ta hành hạ, Trương Thúy Sơn vừa đau lòng vừa tức giận. Chàng tự hỏi, hay là lúc này nó đang bình an nằm ngủ? Nếu nói ra chỗ ở của Tạ Tốn, nó sẽ thành kẻ vong ân bội nghĩa, còn tệ hại hơn nhiều so với với bị cực hình. Chàng nghĩ thầm: “Thà rằng nó chết ngay, còn hơn làm kẻ tiểu nhân bất nghĩa”. Chàng nhìn vợ, thấy thần sắc nàng sầu khổ đáng thương, chợt giật mình: “Lỡ tên ác tặc kia dẫn Vô Kỵ tới đây, dùng tính mạng thằng bé để uy hiếp thì Tố Tố không chừng sẽ bị khuất phục”. Bèn hỏi:

– Nhị ca đã đỡ chưa?

Sư huynh sư đệ họ từ nhỏ đồng môn học nghệ, chỉ một ánh mắt, một lời nói là đủ hiểu ý nhau, Du Liên Châu nhìn thần sắc hai vợ chồng sư đệ, đã hiểu dụng ý của Trương Thúy Sơn, nên nói:

– Đỡ rồi, chúng ta đi ngay trong đêm nay thôi.

Ba người chọn những con đường nhỏ, vắng, lợi dụng đêm tối mà đi. Ba người không sợ tên kia truy sát mà chỉ sợ hắn dùng cực hình hành hạ Vô Kỵ ngay trước mắt họ.

Cứ thế ngày nghỉ đêm đi, dọc đường rất may bình yên vô sự. Thế nhưng Ân Tố Tố khắc khoải lo cho con, lại đi ban đêm chốn núi non, bị nhiễm phong sương, bỗng nhiên ngã bệnh. Trương Thúy Sơn thuê hai cỗ xe lừa, để Du Liên Châu và Ân Tố Tố mỗi người ngồi một xe, chàng cưỡi ngựa đi bên hộ tống. Hôm đó đi qua Tương Dương, đến nghỉ tại một khách điếm ở trấn Thái Bình Điếm.

Trương Thúy Sơn sắp xếp xong cho sư huynh, đang định về phòng mình nghỉ, bỗng nhiên có một hán tử vén rèm cửa, xộc vào phòng. Tên này mặc áo chẽn màu xanh, tay cầm roi ngựa, trông như một phu xe. Hắn nhìn Du, Trương hai người, cười khẩy một tiếng, quay lưng đi ra. Trương Thúy Sơn biết hắn không có thiện ý, giận hắn vô lễ, tiện thấy cái then cửa ở trước mắt, chàng bèn nhặt lấy vận kình ném theo, “bộp” một tiếng, trúng lưng hắn. Tên kia loạng choạng ngã chúi về phía trước, lồm cồm bò dậy, nói:

– Tiểu tặc phái Võ Đang, chết đến nơi rồi còn giở thói hung hăng!

Miệng lầu bầu, chân không dám dừng, hắn bỏ chạy ra ngoài, nhưng trông dáng đi rõ ràng đã bị thương không nhẹ vì trúng cái then cửa vừa rồi.

Du Liên Châu thấy sự việc xảy ra, không nói một lời. Gần tối, Trương Thúy Sơn nói:

– Nhị ca, mình lên đường thôi!

Du Liên Châu nói:

– Không, đêm nay ở lại, sáng mai hãy đi.

Trương Thúy Sơn nghĩ giây lát, hiểu ra ý định của sư huynh, hào khí trỗi dậy, nói:

– Đúng, chốn này cách núi Võ Đang chỉ hai ngày đường, huynh đệ ta còn dè dặt, chẳng hóa ra giảm mất uy phong của sư môn hay sao? Ngay dưới chân bản sơn mà phải ngày nghỉ đêm đi để tránh người, còn ra thể thống gì nữa?

Du Liên Châu mỉm cười, nói:

– Vả lại hành tàng đã lộ, để xem đệ tử phái Võ Đang “chết đến nơi rồi” như tên kia nói ra sao?

Hai người đi sang phòng Trương Thúy Sơn, kề vai ngồi trên giường lò, nhắm mắt ngồi tọa công. Đêm hôm ấy, ngoài song, trên mái, có bảy tám kẻ cứ đi qua đi lại, nhòm trộm, nhưng không dám vào phòng gây sự. Ân Tố Tố mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi. Huynh đệ Du, Trương chẳng buồn để ý tới bọn địch bên ngoài.

Sáng hôm sau, họ dùng điểm tâm xong mới lên đường. Du Liên Châu ngồi trong xe lừa, bảo phu xe vén hết rèm che bốn bên để chàng tiện quan sát.

Rời khỏi trấn Thái Bình Điếm được vài dặm, có ba kẻ cưỡi ngựa từ phía đông đuổi tới, bám theo sau xe lừa, cách hơn mười trượng, không lại gần thêm mà cũng không tụt lại xa hơn. Đi vài dặm nữa, thấy có bốn người cưỡi ngựa chờ sẵn bên đường, đợi bọn Du Liên Châu đi qua liền bám theo. Vài dặm sau, lại thêm bốn kỵ sĩ nữa gia nhập, tổng cộng có mười một kẻ bám theo.

Người phu xe lừa hoảng sợ nói với Trương Thúy Sơn:

– Quan khách, bọn kia là hạng bất chính, chắc là lũ cướp đường, phải cẩn thận đề phòng.

Trương Thúy Sơn gật đầu.

Đến trưa lại thêm sáu tên nữa. Họ trang phục không giống nhau, có người diêm dúa sang trọng, có kẻ như phu xe, sai dịch, nhưng người nào cũng mang binh khí. Bọn họ không ai nói một tiếng, không rõ người vùng nào, đa số vóc dáng thấp nhỏ, nước da đen vì rám nắng, xem chừng là người phương nam. Đến quá trưa thì đã tăng lên thành hai mươi mốt người, có vài kẻ bạo gan giục ngựa chạy tới gần, chỉ cách xe lừa hai, ba trượng mới ghìm ngựa lại. Du Liên Châu ngồi trong xe lừa, nhắm mắt dưỡng thần, không thèm đưa mắt nhìn bọn kia.

Chiều tối, phía trước có hai kỵ sĩ phóng tới. Đi đầu là một lão niên râu dài, không mang vũ khí. Người thứ hai là một thiếu phụ phục sức sang trọng, tay trái cầm đôi song đao. Hai người cho ngựa đứng chắn giữa đường, không cho xe lừa đi qua.

Trương Thúy Sơn cố nén giận, vẫn ngồi trên ngựa, ôm quyền thi lễ:

– Du nhị, Trương ngũ phái Võ Đang chào hai vị, xin hỏi quý tính đại danh của lão gia tử?

Lão già lạnh lùng hỏi:

– Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ở đâu? Chỉ cần ngươi nói ra, bọn ta sẽ không làm khó dễ với đệ tử phái Võ Đang.

Trương Thúy Sơn nói:

– Việc này tại hạ không tự quyết định được, phải về bẩm báo với tôn sư đã.

Lão già nói:

– Du nhị bị thương, Trương ngũ đơn độc, một mình ngươi làm sao địch nổi bọn ta ngần này người.

Nói đoạn lão ta rút từ thắt lưng ra một đôi phán quan bút, đầu bút đúc hình đầu rắn.

Trương Thúy Sơn có ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, tay phải sử dụng phán quan bút, nên các danh gia trong võ lâm sử dụng phán quan bút để điểm huyệt, chàng đều biết, giờ nhìn thấy cặp phán quan bút hình đầu rắn này thì giật mình. Trước đây chàng từng nghe sư phụ nói rằng nước Cao Ly có một phái sử dụng phán quan bút, đầu bút đúc hình đầu rắn, chiêu số và thủ pháp điểm huyệt khác hẳn ở Trung nguyên, đại để là theo cách âm nhu hiểm độc của loài rắn, gọi là phái Thanh Long. Cao thủ lừng danh của phái này họ Tuyền, còn tên là gì thì chính sư phụ cũng không biết. Chàng ôm quyền nói:

– Tiền bối có phải thuộc phái Thanh Long ở Cao Ly chăng? Tại hạ chưa biết phải xưng hô thế nào với Tuyền lão gia tử?

Lão già hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Ngươi trạc tam tuần mà sao kiến thức rộng thế, biết được cả lai lịch của ta”. Lão già chính là chưởng môn phái Thanh Long bên nước Cao Ly, tên gọi Tuyền Kiến Nam, được bang chủ bang Tam Giang ở Lĩnh Nam đem lễ vật hậu hĩnh mời sang. Lão tới Trung nguyên chưa lâu, chưa hề ra tay vậy mà không ngờ vừa lộ diện đã bị Trương Thúy Sơn nhận ra. Lão già khua cặp bút một cái, nói:

– Lão phu chính là Tuyền Kiến Nam đây.

Trương Thúy Sơn nói:

– Phái Thanh Long bên Cao Ly xưa nay không qua lại gì với võ lâm Trung nguyên, chẳng biết phái Võ Đang đắc tội gì với Tuyền lão anh hùng, xin hãy cho biết?

Tuyền Kiến Nam nhếch mép, nói:

– Lão phu với các hạ không oán không thù, người Cao Ly chúng tôi cũng biết Trung nguyên có phái Võ Đang, Võ Đang thất hiệp là các hảo nam tử hành hiệp trượng nghĩa. Lão phu chỉ xin hỏi các hạ một câu: Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hiện trốn ở đâu?

Câu nói đó tuy không phải là vô lễ, nhưng cách nói hiển nhiên lộ vẻ uy hiếp, lão ta lại dùng phán quan bút ra hiệu cho bọn người phía sau xe ùa tới vây quanh xe, rõ ràng có ý nói nếu không cho biết chỗ ở của Tạ Tốn, bọn họ sẽ ra tay động võ.

Trương Thúy Sơn nói:

– Nếu tại hạ không thích nói thì sao?

Tuyền Kiến Nam đáp:

– Trương ngũ hiệp võ nghệ cao cường, bọn ta tuy đông nhưng cũng chưa chắc cầm chân được các hạ. Song Du nhị hiệp bị thương, Trương phu nhân lại đang bệnh, bọn ta gặp cơ may, lợi dụng lúc người nguy khốn, quyết giữ hai người kia lại. Vậy Trương ngũ hiệp cứ việc đi cho.

Tuyền Kiến Nam nói tiếng Hán không chuẩn, giọng lại the thé, nghe rất chướng tai. Trương Thúy Sơn thấy lão ta tự miệng nói ra mấy chữ vô liêm sỉ “lợi dụng lúc người nguy khốn”, bèn nói:

– Được, vậy tại hạ xin lĩnh giáo cao chiêu của võ học Cao Ly. Nếu Tuyền lão anh hùng nhường tại hạ một chiêu nửa thức thì sao đây?

Tuyền Kiến Nam cười, nói:

– Nếu ta thua, thì tất cả những người kia nhất tề xông lên, chứ bọn ta không theo cách thức một chọi một. Nếu phái Võ Đang đông hơn, các vị cứ việc lấy thịt đè người. Hồi xưa, Tùy Dạng Đế, Đường Thái Tông, Đường Cao Tông bên Trung Hoa các vị sang xâm lấn nước Cao Ly của lão phu, lần nào cũng đem mấy chục vạn quân đánh vài vạn quân Cao Ly đó sao? Xưa nay đánh nhau, bên nào đông người là thắng.

Trương Thúy Sơn biết rằng việc hôm nay nói lắm vô ích, chỉ có cách bắt lão ta làm con tin mới buộc thủ hạ của lão ta không dám xâm phạm nhị ca và Ân Tố Tố; nghĩ thế chàng nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, chân trái vừa chạm đất, tay trái đã cầm lạn ngân hổ đầu câu, tay phải cầm tân thiết phán quan bút, nói:

– Các hạ là khách, mời ra chiêu trước!

Phán quan bút của chàng mười năm trước đã rơi xuống biển, binh khí hiện cầm trong tay mới được mua chưa lâu, kích thước không hoàn toàn vừa tay, đành dùng tạm vậy.

Tuyền Kiến Nam cũng xuống ngựa, gõ hai cây bút vào nhau nghe “keng” một tiếng, cây bút bên phải điểm hờ một cái, cây bút bên trái vẫn giữ thế, thân hình đã di chuyển sang bên hông Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Hôm nay ta đấu vì nghĩa huynh đây! Tố Tố là thê tử ta, nàng với ta là một, nàng cũng kết nghĩa kim lan với Tạ Tốn, nếu có vì nghĩa huynh mà mất mạng, thì cũng không sao. Nhị ca không quen biết Tạ Tốn, nếu vì Tạ Tốn mà bị nhục, thật không đáng chút nào”. Thấy phán quan bút hình đầu rắn của Tuyền Kiến Nam điểm tới, Trương Thúy Sơn dùng ngân câu gạt ra, tay chỉ sử hai thành công lực. Câu và bút va nhau, thân hình chàng hơi lảo đảo.

Tuyền Kiến Nam cả mừng, nghĩ thầm: “Bọn người ở bang Tam Giang ca ngợi Võ Đang thất hiệp lên tận mây xanh, hóa ra chỉ có thế này thôi! Chắc là võ lâm Trung nguyên muốn giữ thể diện, nên mới thổi phồng tài năng của nhân sĩ nước họ lên gấp mấy lần”. Cây phán quan bút ở tay trái lão ta phóng ra liên tiếp ba chiêu. Trương Thúy Sơn né trái lách phải, gắng gượng chống đỡ, dùng một câu một bút trả đòn, nhưng kình lực yếu ớt. Tuyền Kiến Nam tin chắc hôm nay sẽ đánh bại Trương ngũ hiệp của phái Võ Đang, có thể nói lão ta tới Trung nguyên đánh một trận đã nổi danh, thế là hai cây bút cứ múa như bay, chiêu nào cũng nhằm các điểm yếu hại trên người Trương Thúy Sơn mà đánh tới.

Trương Thúy Sơn giữ môn hộ thật kín, ngưng thần quan sát chiêu thức của đối phương. Chàng thấy chiêu số của Tuyền Kiến Nam nhẹ nhàng linh hoạt, bút có kình lực, các huyệt bị lão ta điểm tới thiên về hạ tam lộ và sau lưng, quả nhiên khác hẳn thủ pháp điểm huyệt của các danh thủ Trung nguyên. Đấu thêm mươi hiệp, chàng thấy phán quan bút bên tay trái của lão ta toàn nhắm các huyệt sau lưng, từ huyệt Linh Đài trở xuống: các huyệt Chí Dương, Cân Xúc, Trung Khu, Tích Trung, Huyền Khu, Mệnh Môn, Dương Quan, Yêu Du, đến huyệt Trường Cường ở đốt xương cùng; còn phán quan bút bên tay phải thì toàn nhắm các huyệt ở hông và đùi, từ Ngũ Khu, Duy Đạo, Hoàn Khiêu, Phong Thị, Trung Độc, đến huyệt Dương Lăng ở bắp chân. Trương Thúy Sơn đã hiểu phán quan bút bên tay trái của lão ta toàn nhắm các huyệt trên mạch Đốc[44], còn phán quan bút bên tay phải lại toàn nhắm các huyệt thuộc “Túc Thiếu Dương đởm kinh”, trông có vẻ rắc rối nhưng thực ra chỉ có bấy nhiêu. Chàng nghĩ thầm: “Năm xưa sư phụ nói rằng công phu điểm huyệt của phái Thanh Long bên Cao Ly chuyên thiên về một bên người, tuy hiểm độc, nhưng không đáng sợ. Hôm nay ta thấy đúng như vậy”.

Chàng đã tìm ra chiêu thức của đối phương rồi, ngân câu thiết bút múa may gạt trên đỡ dưới cũng chỉ là giả bộ; thực ra chỉ cốt bảo vệ các huyệt thuộc mạch Đốc và “Túc Thiếu Dương đởm kinh”, còn các huyệt khác trên cơ thể chẳng cần để ý.

Tuyền Kiến Nam càng đấu càng hăng, miệng la hét, uy phong lẫm lẫm. Trương Thúy Sơn nghĩ bụng: “Chỉ có chút võ công thế này mà cũng đòi tới chân núi Võ Đang gây sự ư?” Đột nhiên ngân câu bên tay trái của chàng sử nét móc trong tự quyết chữ “Long”, phập một tiếng, đã móc trúng huyệt Phong Thị trên đùi phải của Tuyền Kiến Nam. Lão ta kêu ối” một tiếng, chân phải khuỵu xuống. Cây phán quan bút bên tay phải của Trương Thúy Sơn liên tiếp điểm ra như lửa xẹt, từ huyệt Linh Đài của lão ta đổ xuống, sử nét cuối cùng trong tự quyết chữ “Phong” điểm vào các huyệt Chí Dương, Cân Xúc, Trung Khu, Tích Trung, Huyền Khu, Mệnh Môn, Dương Quan, Yêu Du, đến huyệt Trường Cường ở đốt xương cùng thuộc mạch Đốc.

Thủ pháp điểm huyệt của chàng tựa như thư pháp, các nét bút nhanh như lưu tinh, khí nuốt ngưu đẩu, Tuyền Kiến Nam làm sao còn nhúc nhích gì được? Nét bút ấy điểm vào các huyệt mà chính lão ta nghiên cứu cả đời, lão ta nghĩ thầm: “Thôi rồi, thôi rồi! Đối phương quá tài, ta chẳng thể nào điểm liền một hơi mười mấy huyệt như thế. Ta chỉ đáng làm đệ tử của hắn thôi”.

Trương Thúy Sơn dùng mũi ngân câu chĩa vào yết hầu Tuyền Kiến Nam, quát:

– Các vị mau lùi ra! Tại hạ mời Tuyền lão anh hùng cùng tới chân núi Võ Đang, tới đó sẽ giải khai huyệt đạo thả về.

Chàng tưởng bọn kia đều là thuộc hạ của Tuyền Kiến Nam thì sẽ run sợ mà tránh ra.

Nào ngờ thiếu phụ trang phục sang trọng lại giơ song đao, hô to:

– Tất cả kề vai tiến lên vây xe lừa lại!

Trương Thúy Sơn quát:

– Kẻ nào tiến lên, ta sẽ giết lão này trước!

Thiếu phụ cười khẩy, hô:

– Tất cả tiến lên!

Đoạn y thị nhảy xuống ngựa, múa đao xông tới, bất chấp tính mạng Tuyền Kiến Nam. Thì ra thiếu phụ là một đà chủ của bang Tam Giang, lần này bang đó tung lực lượng mạnh ra là cốt bắt giữ Du Liên Châu và Ân Tố Tố, bức vấn chỗ ở của Tạ Tốn. Tuyền Kiến Nam chỉ là khách thuê của bang hội, đã không hoàn tất công việc thì dù lão ta bị chết bởi tay địch cũng chẳng sao.

Trương Thúy Sơn hoảng sợ, xem ra có giết Tuyền Kiến Nam cũng vô ích, thấy sáu bảy hán tử xông đến trước xe của Ân Tố Tố, ngần ấy tên xông đến xe của Du Liên Châu, chỉ có vài tên cùng thiếu phụ bao vây chàng; chàng đang chưa biết tính sao, bỗng nghe Du Liên Châu nói to:

– Lục đệ, hãy ra tay trừng trị bọn này đi!

Trương Thúy Sơn kinh ngạc nghĩ thầm: “Nhị ca định dùng kế bỏ ngỏ thành chăng?” Chỉ nghe vang lên một tiếng hú, rồi có tiếng người nói:

– Tuân lệnh! Chào Ngũ ca, ngũ ca có nhớ tiểu đệ hay không?

Từ trên một cây đại thụ ở xa mấy trượng có một người nhảy xuống, chĩa kiếm tiến về phía trước, chính là lục hiệp Ân Lê Đình. Trương Thúy Sơn mừng không để đâu cho hết, gọi to:

– Lục đệ, chào lục đệ!

Bang Tam Giang cử mấy người ra ngăn cản, chỉ nghe ối cha ối cha” kèm theo tiếng kiếm rơi, mấy tên kia liên tiếp bị đâm trúng huyệt Thần Môn, huyệt này ở ngay giữa xương cổ tay, bị đánh trúng vào đó thì tay không còn chút lực nào nữa. Ân Lê Đình ung dung tiến tới, gặp kẻ nào ngăn trở, kiếm của chàng chỉ rung động một cái là binh khí rơi khỏi tay đối phương. Thiếu phụ ngoảnh đầu vừa quát:

– Ngươi là Võ Đang…

Lời chưa dứt, thì keng keng hai tiếng, song đao trong hai tay y thị đã cùng rơi xuống đất.

Trương Thúy Sơn cả mừng, reo lên:

– “Thần Môn thập tam kiếm” của sư phụ đã sáng chế thành công rồi.

“Thần Môn thập tam kiếm” bao gồm mười ba chiêu thức, các chiêu thức khác nhau, nhưng đều cùng nhằm đánh vào huyệt Thần Môn ở cổ tay đối phương. Mười năm trước, khi Trương Thúy Sơn rời núi Võ Đang, Trương Tam Phong từng có ý này, đã bàn với các đệ tử mấy lần, song còn một số cái khó chưa vượt qua được. Vừa rồi Ân Lê Đình đem ra sử dụng, các hảo thủ của bang Tam Giang không ai đỡ nổi một chiêu. Trương Thúy Sơn rất cao hứng, thấy mỗi chiêu Ân Lê Đình tung ra đều tinh diệu tuyệt luân, chỉ mới sử dụng năm sáu chiêu, chưa đi hết một nửa “Thần Môn thập tam kiếm”, mà mười mấy bang chúng Tam Giang đã bị trúng kiếm, đánh rớt mất binh khí rồi.

Thiếu phụ kêu to:

– Tát nước, tát nước! Mạnh ai nấy đi!

Bọn kia kẻ nhảy ngựa đào tẩu, kẻ không kịp lên ngựa liền quay mình bỏ chạy. Trương Thúy Sơn giải huyệt cho Tuyền Kiến Nam, nhặt đôi phán quan bút cài vào lưng đối phương. Lão ta đỏ mặt, cắm đầu đi thẳng, nhưng không cùng phía với bang Tam Giang.

Ân Lê Đình tra kiếm vào vỏ, nắm chặt hai tay Trương Thúy Sơn, vui mừng nói:

– Ngũ ca, tiểu đệ nhớ ngũ ca quá chừng!

Trương Thúy Sơn mỉm cười:

– Lục đệ, lục đệ cao lớn hẳn lên.

Hai người khi chia tay, Ân Lê Đình mới mười tám tuổi, là một thiếu niên gầy gò, nay đã trở thành một thanh niên vạm vỡ. Trương Thúy Sơn cầm tay Ân Lê Đình kéo tới giới thiệu với Ân Tố Tố.

Ân Tố Tố bệnh nặng, gật đầu mỉm cười, nói nhỏ:

– Lục đệ!

Ân Lê Đình cười vui:

– Ngũ tẩu cũng họ Ân, thật là hay lắm, vừa là tẩu tẩu, vừa là tỷ tỷ của đệ.

Trương Thúy Sơn nói:

– Nhị ca tài thật, lục đệ nấp ở trên cây, mình không biết gì cả, nhị ca đã trông thấy rồi.

Ân Lê Đình bèn kể nguyên do vì sao đến ứng viện.

Thì ra tứ hiệp Trương Tòng Khê xuống núi mua sắm vật dụng, chuẩn bị cho tiệc mừng thọ sư phụ bách tuế, thấy có hai nhân vật giang hồ lén lén lút lút, bèn sinh nghi: “Phái Võ Đang ta uy chấn thiên hạ, không lẽ có kẻ to gan dám đến chân núi vuốt râu hùm?” Trương Tòng Khê ngầm theo dõi, nghe hai tên kia nói chuyện với nhau, rằng Trương Thúy Sơn từ hải ngoại đã về, gặp nhị ca Du Liên Châu, hiện bang Tam Giang và Ngũ Phụng đao cùng muốn chặn đường truy vấn nơi ở của Tạ Tốn. Trương Tòng Khê mừng quá liền vội về núi, lúc đó trên núi chỉ có Ân Lê Đình, hai người lập tức chia nhau đi ứng viện, họ cùng nghĩ rằng Du nhị và Trương ngũ đã đi với nhau thì hai cái bang hội nhỏ bé kia chẳng làm gì nổi, động đến huynh đệ ta chỉ chuốc nhục mà thôi. Song cả hai cùng nóng lòng gặp Trương Thúy Sơn, sớm chừng nào hay chừng ấy nên chia nhau đi đón. Việc Du Liên Châu bị thương, hai gã giang hồ kia không nhắc đến nên Trương Tòng Khê và Ân Lê Đình không hay biết. Trương Tòng Khê đi đánh đuổi hai hảo thủ do phái Ngũ Phụng đao sai tới, còn bọn bang Tam Giang thì Ân Lê Đình lo liệu.

Du Liên Châu thở dài:

– Nếu không có tứ đệ cơ trí sắp đặt, không chừng hôm nay phái Võ Đang ta bị mất thể diện rồi.

Trương Thúy Sơn hổ thẹn nói:

– Một mình tiểu đệ không bảo hộ nổi nhị ca, than ôi, xa sư phụ mười năm, tiểu đệ đã thua kém huynh đệ đồng môn quá xa.

Ân Lê Đình cười:

– Ngũ ca nói gì vậy? Tiểu đệ không ra tay, thì mấy tên bang Tam Giang kia, ngũ ca đánh tan dễ như trở bàn tay thôi. Chẳng qua ngũ ca phải chiếu cố nhị ca, lại e ngũ tẩu kinh sợ. Chứ công phu mà ngũ ca đánh bại lão già Cao Ly thì sư phụ chưa truyền cho người thứ hai. Lần này ngũ ca trở về, sư phụ mừng lắm, sẽ truyền thụ cho ngũ ca không biết bao nhiêu công phu tinh diệu, chỉ e ngũ ca học không kịp thôi. Chiêu thuật “Thần Môn thập tam kiếm” thì để tiểu đệ nói cho ngũ ca nghe.

Hai người xa nhau quá lâu, nay được trùng phùng, Ân Lê Đình chỉ hận không thể đem công phu sở học suốt mười năm nói hết một lúc cho Trương Thúy Sơn nghe. Hai người sóng vai nhau đi, Ân Lê Đình cứ vừa kể vừa làm điệu bộ.

Đêm ấy bốn người nghỉ chân trong khách điếm bến Tiên Nhân, Ân Lê Đình muốn nằm chung giường với Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn cũng rất quý mến vị tiểu sư đệ này. Lục đệ tuy đã cao lớn, song vẫn quấn quýt Trương Thúy Sơn như ngày xưa. Trong Võ Đang thất hiệp, Mạc Thanh Cốc tuy ít tuổi hơn cả, nhưng từ nhỏ tính nết đã như người lớn, Ân Lê Đình so với sư đệ còn có phần trẻ con hơn. Trương Thúy Sơn chỉ hơn Ân Lê Đình hai tuổi, từ trước vốn đã thân với lục đệ hơn cả.

Du Liên Châu cười:

– Ngũ đệ nay có thê tử rồi, lục đệ tưởng vẫn như mười năm trước ư? Ngũ đệ, ngũ đệ về lần này thật đúng lúc, chúng ta sau khi uống thọ tửu mừng sư phụ, sẽ được uống hỉ tửu mừng lục đệ đó.

Trương Thúy Sơn cả mừng, vỗ tay cười:

– Hay quá! Hay quá! Tân nương là ai vậy?

Ân Lê Đình đỏ mặt, e thẹn không nói.

Du Liên Châu nói:

– Là hòn ngọc quý của Kim Tiên Kỷ lão anh hùng ở Hán Dương đó.

Trương Thúy Sơn lè lưỡi, nói đùa:

– Lục đệ mà ương ngạnh, roi vàng đét đít thì không phải chuyện đùa đâu.

Du Liên Châu mỉm cười, nói:

– Kỷ cô nương sử kiếm. Mong rằng trong số các cô nương che mặt hôm nọ bên sông, không có Kỷ cô nương.

Trương Thúy Sơn kinh ngạc, hỏi:

– Kỷ cô nương là môn hạ phái Nga Mi ư?

Du Liên Châu gật đầu, nói:

– Các cô nương phái Nga Mi ta gặp ở bờ sông hôm ấy võ công bình thường, chắc không có Kỷ cô nương ở đó. Nếu không, chỉ vì ngũ đệ muội, ta lại đắc tội với lục đệ muội, có người sẽ bảo ta thiên vị. Kỷ cô nương nhân phẩm cao quý, võ công cao cường, đệ tử danh môn tất nhiên bất phàm, với lục đệ quả là đẹp đôi…

Du Liên Châu nói tới đây chợt nhớ Ân Tố Tố là con gái của giáo chủ tà giáo, mình khen ngợi Kỷ cô nương như thế, chỉ e Trương Thúy Sơn chạnh lòng, đang định nói chữa vài lời bỗng có người đến cửa phòng nói vọng vào:

– Du gia, có mấy người đến bái phỏng lão nhân gia, nói là bằng hữu của lão nhân gia.

Đó là giọng nói của điếm tiểu nhị.

Du Liên Châu hỏi:

– Là những ai?

Điếm tiểu nhị nói:

– Tất cả có sáu người, họ nói là môn hạ của Ngũ Phụng đao.

Ba huynh đệ Du Liên Châu đều giật mình, nghĩ thầm Trương Tòng Khê một mình đi đánh đuổi bọn Ngũ Phụng đao, tại sao chúng lại tìm tới đây, không lẽ Trương Tòng Khê làm sao rồi? Trương Thúy Sơn bèn nói:

– Để đệ ra coi.

Chàng sợ nhị ca bị thương chưa khỏi, lỡ phải động thủ với kẻ địch, e gặp chuyện chẳng lành. Du Liên Châu nói:

– Cứ mời họ vào đây.

Một lát sau tiến vào năm hán tử và một thiếu phụ dung mạo xinh đẹp. Trương Thúy Sơn và Ân Lê Đình đứng hai bên Du Liên Châu phòng bị. Chỉ thấy sáu người kia cúi đầu, mặt mày ủ rũ, có dáng hổ thẹn, trên người không mang binh khí, chẳng có vẻ gì là đến gây sự cả. Người đi đầu tóc đã điểm bạc, trạc tứ tuần, cung kính ôm quyền hành lễ, nói:

– Ba vị có phải là Du nhị hiệp, Trương ngũ hiệp, Ân lục hiệp chăng? Tại hạ là môn hạ Ngũ Phụng đao Mạnh Chính Hồng, xin vấn an ba vị.

Ba huynh đệ Du Liên Châu vòng tay đáp lễ, thầm lấy làm lạ. Du Liên Châu nói:

– Mạnh lão sư khỏe chứ? Mời các vị ngồi.

Mạnh Chính Hồng không dám ngồi, nói:

– Tệ môn ở Hà Đông, Sơn Tây, môn phái nhỏ bé, từ lâu đã ngưỡng mộ uy danh Trương chân nhân và quý vị thất hiệp như sấm nổ bên tai, chỉ có điều vô duyên chưa được dịp bái kiến. Hôm nay đến chân núi Võ Đang, đáng lẽ phải lên núi khấu kiến Trương chân nhân, nhưng nghe Trương chân nhân tuổi hạc tròn trăm, thanh cư tĩnh tu, chúng tôi là lũ võ biền thô lỗ nên không dám mạo muội đến quấy nhiễu sự thanh tĩnh của lão nhân gia. Ba vị về núi, xin cho chúng tôi gửi lời vấn an, rằng đệ tử môn hạ Ngũ Phụng đao ở Sơn Tây kính chúc lão nhân gia thiên thu khang ninh, phúc thọ vô cương.

Du Liên Châu bị thương chưa khỏi, ngồi trên giường lò, nghe Mạnh Chính Hồng nhắc đến sư phụ thì vội vịn vai Ân Lê Đình mà cung kính đứng dậy, nói:

– Không dám, không dám, tại hạ xin đa tạ!

Mạnh Chính Hồng lại nói:

– Chúng tôi ở đất Sơn Tây quê mùa, quả như ếch ngồi đáy giếng, kiến thức nông cạn, không biết trời cao đất dày, dám lớn mật làm càn, mò tới quý địa. May nhờ Võ Đang chư hiệp khoan dung đại lượng, giải nguy cho chúng tôi, tại hạ cảm kích vô cùng. Hôm nay chúng tôi tới đây, trước là tạ ơn, sau là chịu tội, mong ba vị đại nhân không thèm chấp lỗi lầm của bọn tiểu nhân.

Nói đoạn cúi lạy. Trương Thúy Sơn đỡ dậy, nói:

– Mạnh lão sư khỏi cần đa lễ.

Mạnh Chính Hồng cứ ấp a ấp úng, nửa muốn nói, nửa không dám nói. Du Liên Châu bèn nói:

– Mạnh lão sư có gì phân phó, xin cứ cho biết.

Mạnh Chính Hồng nói:

– Tại hạ xin Du nhị gia ban cho một câu, rằng phái Võ Đang sẽ không trách cứ, để chúng tôi về bẩm với sư phụ.

Du Liên Châu mỉm cười, nói:

– Các vị từ Sơn Tây xa xôi tới đây, chắc muốn hỏi chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, không biết Kim Mao Sư Vương có chuyện gì với quý phái?

Mạnh Chính Hồng nói:

– Gia huynh Mạnh Chính Bằng bị thảm tử bởi chưởng của Tạ Tốn.

Du Liên Châu trong lòng rung động, nói:

– Chúng tôi quả có nỗi khổ tâm, không thể nói ra nơi ở của Tạ Tốn, mong Mạnh lão sư và quý vị lượng thứ. Còn về việc trách cứ, thì không cần nhắc tới nữa, khi về gặp tôn sư Ô lão gia tử xin chuyển lời Du nhị, Trương ngũ, Ân lục vấn an.

Mạnh Chính Hồng nói:

– Vậy chúng tôi xin cáo từ. Sau này phái Võ Đang có gì sai khiến, cứ báo tin đến, môn hạ Ngũ Phụng đao tuy năng lực nhỏ bé nhưng quyết không dám từ nan.

Nói đoạn cùng năm người kia ôm quyền hành lễ, quay người đi ra.

Thiếu phụ nọ đột nhiên quay lại, quỳ xuống đất, nói nhỏ:

– Tiểu phụ nhân được bảo toàn danh tiết, hoàn toàn nhờ Võ Đang chư hiệp. Tiểu phụ nhân còn sống ngày nào, không dám quên đại ân đại đức của chư hiệp.

Huynh đệ Du Liên Châu không biết nguyên do, nhưng nghe thiếu phụ nói đến danh tiết thì cũng không tiện hỏi, chỉ ừ ào vài lời khiêm tốn. Thiếu phụ lạy mấy cái rồi mới đi ra.

Sáu người Ngũ Phụng đao vừa đi khỏi, mành cửa được vén ra, một người vụt chạy vào ôm chầm lấy Trương Thúy Sơn.

Trương Thúy Sơn mừng rỡ reo lên:

– Tứ ca!

Người chạy vào chính là Trương Tòng Khê. Sư huynh sư đệ gặp lại nhau đều hết sức vui mừng. Trương Thúy Sơn nói:

– Tứ ca, tứ ca túc trí đa mưu, đã làm cho môn hạ Ngũ Phụng đao hóa thù thành bạn, thật không phải dễ.

Trương Tòng Khê nói:

– Chẳng qua là chuyện tình cờ, chứ tứ ca không có công lao gì đâu.

Đoạn Trương Tòng Khê kể lại đầu đuôi câu chuyện cho mọi người cùng nghe.

Nguyên thiếu phụ xinh đẹp nọ họ Ô, là thứ nữ của chưởng môn Ngũ Phụng đao, là thê tử của Mạnh Chính Hồng. Lần này sáu người họ xuống Hồ Bắc dò tìm nơi ở của Tạ Tốn, dọc đường có gặp đà chủ bang Tam Giang, nghe nói Trương Thúy Sơn phái Võ Đang biết nơi ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Ô thị từ nhỏ quen được nuông chiều, chủ trương lập kế bắt Trương Thúy Sơn để tra hỏi. Mạnh Chính Hồng lâu nay sợ thê tử như sợ cọp, nhưng lần này nhất quyết không nghe lời, nói rằng đệ tử phái Võ Đang rất cao cường, chỉ nên dùng lễ mà cầu, nếu đối phương không ưng thuận, hãy tính cách khác. Ô thị nói:

– Chàng sao nhát gan quá vậy? Đây là nhằm trả thù cho huynh trưởng của chàng, chứ đâu phải cho huynh trưởng của thiếp. Hừ, nam tử hán đại trượng phu mà gặp việc cứ rụt rụt rè rè; Trương Thúy Sơn cho biết chỗ ở của Tạ Tốn, chắc chàng cũng chẳng dám đi tìm hắn. Thiếp lấy phải một người như chàng thật phí một đời.

Mạnh Chính Hồng đã quen nhịn thê tử, không cãi lại, nhưng cũng nhất quyết không làm theo kế của y thị là ngầm bỏ thuốc mê phu phụ Trương Thúy Sơn ở khách điếm dọc đường. Ô thị giận dữ, nửa đêm nhân lúc chồng ngủ say lén trở dậy bỏ đi.

Ô thị định một mình ra tay, biết được tung tích Tạ Tốn rồi sẽ trêu chọc trượng phu một chuyến, nào ngờ mọi chuyện đều bị tên đà chủ bang Tam Giang nhìn thấy cả. Hắn thấy Ô thị xinh đẹp liền nổi lòng tà dâm, bí mật bám theo. Ô thị bỏ thuốc mê, không ngờ chính y lại uống phải thuốc mê của hắn. Bọ ngựa bắt ve, không dè chim sẻ rình phía sau. Trương Tòng Khê theo dõi sáu người Ngũ Phụng đao, mọi việc biết cả. Chờ lúc Ô thị lâm vào tình thế nguy cấp, bèn ra tay cứu giúp, trừng trị tên đà chủ bang Tam Giang một trận đích đáng. Trương Tòng Khê không nói tính danh, chỉ bảo mình là đệ tử phái Võ Đang. Ô thị vừa sợ vừa thẹn, quay về gặp phu quân, kể rõ sự việc. Người của phái Võ Đang trở thành đại ân nhân, nên cả bọn sáu người kia mới đến gặp huynh đệ Du Liên Châu để cảm tạ. Trương Tòng Khê chờ bọn họ đi rồi mới xuất hiện, để Ô thị khỏi xấu hổ.

Trương Thúy Sơn nghe xong, thở dài:

– Trừng trị hành vi bất lương của môn hạ bang Tam Giang tuy không khó, nhưng tứ ca xử sự lưu tình, biến thù thành bạn, thật là hợp tâm ý sư phụ.

Trương Tòng Khê cười:

– Mười năm xa nhau, vừa gặp ngũ đệ đã cho tứ ca lên mây xanh.

Đêm đó, bốn sư huynh sư đệ nằm cạnh nhau trò chuyện thâu đêm. Trương Tòng Khê tuy thông minh đa trí, song cũng không đoán nổi cao thủ giả trang quân Nguyên, đánh Du Liên Châu bị thương, bắt Vô Kỵ mang đi là ai.

Sáng hôm sau, Trương Tòng Khê gặp Ân Tố Tố. Năm người thong thả đi mất một ngày đêm nữa mới về đến núi Võ Đang.

Trương Thúy Sơn mười năm mới trở lại nơi chàng sống từ nhỏ, muốn chạy ngay lên bái kiến sư phụ, hội kiến với đại sư ca, tam sư ca, thất sư đệ; tuy thê tử bệnh, hài nhi mất tích, song niềm vui vẫn lớn hơn nỗi sầu.

Lên đến trên núi, thấy ngoài cổng buộc tám con ngựa, yên cương rất mới, không phải của bổn phái. Trương Tòng Khê nói:

– Đạo quán đang có khách, chúng ta nên vào đằng cửa hông thì hơn.

Trương Thúy Sơn liền dìu thê tử theo cửa hông vào đạo quán. Các đạo nhân và thị dịch trong đạo quán thấy Trương Thúy Sơn lành lặn trở về, ai nấy hết sức vui mừng. Trương Thúy Sơn rất muốn vào bái kiến sư phụ, nhưng đạo đồng hầu hạ Trương Tam Phong nói rằng Người chưa khai quan, chàng đành khấu đầu bên ngoài chỗ tọa quan của sư phụ, rồi đi gặp Du Đại Nham.

Đạo đồng hầu cận Du Đại Nham nói nhỏ:

– Tam sư bá đang ngủ, sư thúc có muốn đánh thức sư bá dậy hay không?

Trương Thúy Sơn xua xua tay, rón rén bước vào phòng. Thấy Du Đại Nham đang nhắm mắt ngủ say, sắc diện nhợt nhạt, hai má hóp sâu, người anh hùng như rồng như hổ mười năm trước nay là một bệnh nhân thoi thóp nằm đó. Trương Thúy Sơn nhìn sư huynh một hồi, không ngăn nổi hai dòng lệ ứa ra.

Chàng đứng bên giường hồi lâu, rồi gạt lệ, bước ra hỏi đạo đồng:

– Đại sư bá và thất sư thúc đang ở đâu?

Đạo đồng nói:

– Thưa, đang tiếp khách ở đại sảnh.

Trương Thúy Sơn vào hậu đường chờ đại sư ca và thất sư đệ, chờ mãi mà khách vẫn chưa ra về. Trương Thúy Sơn hỏi đạo nhân bưng trà:

– Khách là ai thế?

Đạo nhân đáp:

– Hình như là bảo tiêu.

Ân Lê Đình đối với vị ngũ ca lâu ngày gặp lại rất quyến luyến, rời chàng một lát lại quay về bên cạnh, nghe hỏi, bèn trả lời:

– Đó là ba vị tổng tiêu đầu, tổng tiêu đầu của tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng, là Kỳ Thiên Bưu; tổng tiêu đầu của tiêu cục Tấn Dương ở Thái Nguyên là Vân Hạc; còn vị thứ ba là Cung Cửu Giai tổng tiêu đầu của tiêu cục Yến Vân ở kinh sư.

Trương Thúy Sơn hơi lạ, hỏi:

– Cả ba vị tổng tiêu đầu cùng đến ư? Mười năm trước, trong tất cả các tiêu cục khắp thiên hạ, ba vị này có võ công hơn cả, danh tiếng rất cao, hiện giờ có còn được như vậy chăng? Cả ba cùng tới đây là vì sao?

Ân Lê Đình cười đáp:

– Chắc có món hàng quý bị mất, kẻ cướp lại có thế lực lớn, ba vị tổng tiêu đầu không địch nổi, đành phải cầu cứu đại sư huynh. Ngũ ca, mấy năm nay đại ca ngày càng được tín nhiệm, chốn giang hồ gặp đại sự nghi nan là người ta đều đến nhờ đại ca xuất diện.

Trương Thúy Sơn mỉm cười:

– Đại ca Phật diện từ tâm, ai cầu cũng được giúp. Mười năm không gặp, chẳng biết đại ca có già chút nào chưa?

Nói tới đây, chàng càng nóng lòng gặp mặt đại sư ca, bèn nói:

– Lục đệ, ta phải ra sau bình phong ngó xem đại ca và thất đệ thế nào mới được.

Chàng tới sau bình phong, ghé mắt nhìn ra thấy Tống Viễn Kiều và Mạc Thanh Cốc ngồi tiếp khách. Tống Viễn Kiều y phục như đạo nhân, vẻ mặt điềm đạm, tướng mạo so với mười năm trước chẳng khác là bao, chỉ có tóc mai điểm bạc, người mập mạp hẳn ra, gọi là trung niên phát phúc. Tống Viễn Kiều hoàn toàn không xuất gia, nhưng vì sư phụ là đạo sĩ, lại sống trong đạo quán, thành thử khi ở trên núi Võ Đang, Tống Viễn Kiều quen ăn mặc theo kiểu Đạo gia, chỉ khi xuống núi mới đổi sang trang phục thông thường.

Mạc Thanh Cốc lại càng cao lớn vạm vỡ, tuy mới hai mươi tuổi nhưng để râu quai nón, trông bề ngoài còn già hơn cả Trương Thúy Sơn.

Chỉ nghe Mạc Thanh Cốc cao giọng nói:

– Đại sư ca chúng tôi nói một là một, hai là hai, ba chữ “Tống Viễn Kiều” còn chưa đủ khiến các vị tin hay sao?

Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Cái tính thô hào của thất đệ vẫn y xưa. Không biết vì chuyện gì mà lại đấu khẩu với người ta thế kia?” Nhìn sang phía khách, thấy cả ba tuổi trạc ngũ tuần, một vị khí độ uy mãnh, một vị cao cao gầy gầy, mặt mày xương xẩu, còn vị thứ ba trông như bệnh nhân gầy ốm hom hem. Phía sau ba vị khách có năm người thõng tay đứng hầu, chắc là đệ tử của ba vị đó. Vị cao gầy nói:

– Tống đại hiệp đã nói vậy, chúng tôi đâu dám không tin? Chỉ có điều không biết khi nào Trương ngũ hiệp về tới, có thể cho chúng tôi biết đích xác được chăng?

Trương Thúy Sơn hơi giật mình: “Thì ra ba vị kia đến đây tìm ta, hẳn là để hỏi tung tích của nghĩa huynh đây mà”. Chỉ nghe Mạc Thanh Cốc nói:

– Sư huynh sư đệ bảy người chúng tôi, tuy bản lĩnh không đáng kể, nhưng việc hành hiệp trượng nghĩa thì bấy nay không chịu kém ai, được bằng hữu chốn giang hồ ban thưởng cho ngoại hiệu “Võ Đang thất hiệp”. Bốn chữ ấy, nói ra thật xấu hổ, chúng tôi vốn không dám nhận…

Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Mười năm không gặp, ai ngờ thất đệ bây giờ nói năng lưu loát đến thế. Ngày trước ai hỏi câu gì, thất đệ đỏ mặt hồi lâu mới ấp úng trả lời. Mười năm qua, trừ mình và tam ca ra, các huynh đệ ai cũng tiến rất xa”.

Lại nghe Mạc Thanh Cốc nói tiếp:

– Thế nhưng vì đã được tặng bốn chữ ấy, trên có ân sư nghiêm huấn, chúng tôi hành sự vô cùng thận trọng, chẳng dám sai một li. Trương ngũ ca là một trong Võ Đang thất hiệp, tính tình nho nhã hòa thuận, bụng dạ tốt nhất trong bảy huynh đệ chúng tôi đó. Các vị cứ vu cho Trương ngũ ca sát hại toàn bộ tiêu cục Long Môn, thực là nói năng hồ đồ bá đạo.

Trương Thúy Sơn chột dạ, nghĩ thầm: “Thì ra là chuyện tiêu cục Long Môn của Đô Đại Cẩm. Nghe đâu ở phía nam Trường Giang thì tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng làm đầu trò, biết tin mình từ hải ngoại trở về, liền ước hẹn với hai tổng tiêu đầu của tiêu cục Tấn Dương và tiêu cục Yến Vân tới đây hỏi tội ta”.

Vị có khí độ uy mãnh nói:

– Võ Đang thất hiệp danh tiếng lẫy lừng, trong võ lâm ai chẳng ngưỡng mộ. Mạc thất hiệp khỏi cần khoe, chúng tôi đã được nghe đại danh từ lâu, chẳng khác gì sấm nổ bên tai.

Mạc Thanh Cốc thấy người kia có vẻ nhạo báng, mặt liền biến sắc, nói:

– Kỳ tổng tiêu đầu rốt cuộc muốn gì, cứ nói rõ ra.

Đại hán có khí độ uy mãnh ấy là Kỳ Thiên Bưu, tổng tiêu đầu tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng, nói lớn tiếng:

– Võ Đang thất hiệp nói một là một, nói hai là hai; không lẽ các cao tăng phái Thiếu Lâm nói láo cả ư? Các tăng nhân Thiếu Lâm chính mắt mục kích, toàn bộ già trẻ lớn bé ở tiêu cục Long Môn phủ Lâm An đều bị Trương Thúy Sơn Trương ngũ h…i…ệ…p hạ sát.

Lão ta kéo dài chữ “hiệp”, hiển nhiên ngụ ý mỉa mai.

Ân Lê Đình nghe vậy liền nổi giận, lão kia dám nhạo báng ngũ ca, còn nặng hơn cả đánh chàng ba cái tát, đang định bước ra tranh cãi thì Trương Thúy Sơn vội níu lại, xua xua tay. Ân Lê Đình thấy vẻ mặt ngũ ca đầy đau khổ, hình như có điều khó nói, chàng không hiểu nguyên do tại sao, chỉ nghĩ thầm: “Công phu hàm dưỡng của ngũ ca ngày càng cao, thảo nào sư phụ vẫn thường khen ngợi ngũ ca”.

Mạc Thanh Cốc đứng dậy, nói to:

– Hiện thời ngũ ca của Mạc mỗ chưa về đến nơi, mà dù có về rồi thì cũng thế thôi. Mạc mỗ với Trương Thúy Sơn sống chết có nhau, việc của Trương Thúy Sơn cũng là việc của Mạc mỗ. Ba vị bất phân phải trái đúng sai, cứ một mực vu cho ngũ ca ta sát hại tiêu cục Long Môn. Được, mọi việc cứ coi như Mạc mỗ đã làm. Ba vị muốn báo thù cho tiêu cục Long Môn thì cứ việc lấy mạng Mạc mỗ đi coi. Ngũ ca ta không có ở đây, Mạc Thanh Cốc cũng là Trương Thúy Sơn, Trương Thúy Sơn cũng là Mạc Thanh Cốc. Nói thực với các vị nhé, Mạc mỗ võ công mưu trí thua xa ngũ ca, các vị tìm đến ta là may cho các vị lắm đó.

Kỳ Thiên Bưu cả giận, đứng bật dậy quát:

– Kỳ mỗ hôm nay đến núi Võ Đang tính chuyện, các nhân sĩ võ học trong thiên hạ ai ai cũng bảo rằng chúng tôi đánh trống qua cửa nhà sấm, không biết tự lượng sức mình. Thế nhưng cả gia đình Đô Đại Cẩm Đô huynh đệ bị sát hại đã mười năm, mối oan ấy đến nay chưa rửa, Kỳ mỗ không còn nhịn được nữa rồi. Phái Võ Đang giết hơn bảy chục nhân mạng ở tiêu cục Long Môn, nay giết thêm Kỳ mỗ thì đã thấm vào đâu? Tiện thể có giết luôn hơn chín chục mạng người của tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng thì giết! Hôm nay máu của Kỳ mỗ có chảy trên núi Võ Đang, hẳn cũng được tiếng là chết đúng chỗ đấy. Khi chúng tôi lên núi, vì tôn kính Trương chân nhân đức cao vọng trọng, chúng tôi không mang theo vũ khí, vậy Kỳ mỗ xin chịu chết dưới quyền cước của Mạc thất hiệp.

Nói đoạn lão ta hùng dũng bước ra giữa sảnh.

Tống Viễn Kiều từ đầu im lặng, nay thấy hai người sắp động thủ, bèn giơ tay ngăn Mạc Thanh Cốc, mỉm cười, nói:

– Ba vị đến tệ xứ, lời qua tiếng lại cứ khăng khăng cho rằng tệ ngũ sư đệ sát hại toàn thể tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An. Cũng may là tệ ngũ sư đệ không bao lâu nữa sẽ về đây, ba vị tạm nhịn một chút, đợi gặp mặt tệ ngũ sư đệ rồi ta phân biệt phải trái được chăng?

Vị khách thân hình hom hem như bệnh nhân là Cung Cửu Giai, tổng tiêu đầu tiêu cục Yến Vân, nói:

– Mời Kỳ tổng tiêu đầu cứ ngồi xuống đã nào. Trương ngũ hiệp chưa về đến đây, vụ này rốt cuộc không dễ đoán định. Chi bằng chúng ta bái kiến Trương chân nhân, xin lão nhân gia kim khẩu minh thị, ban cho một lời xem nào! Trương chân nhân là ngôi sao Bắc đẩu trong võ lâm, anh hùng hảo hán trong thiên hạ ai chẳng ngưỡng mộ, không lẽ lão nhân gia không biết phân biệt thị phi, bao che cho đệ tử hay sao?

Câu nói của lão này nghe có vẻ lễ phép, nhưng hàm ý rất lợi hại. Mạc Thanh Cốc làm gì chẳng nhận ra, liền chặn luôn:

– Gia sư bế quan tĩnh tu, hiện chưa khai quan. Hơn nữa, những năm gần đây, mọi việc trong phái Võ Đang chúng tôi đều do đại sư ca chúng tôi xử lý. Ngoại trừ các cao nhân có danh vọng thật lớn trong võ lâm, gia sư ít tiếp ai.

Ý chàng muốn nói cho bọn kia hiểu rằng thân phận các ngươi chưa đủ để gặp sư phụ ta.

Vị khách cao gầy là Vân Hạc, tổng tiêu đầu tiêu cục Tấn Dương, cười khẩy nói:

– Thiên hạ sao lại có việc xảo hợp đến thế, chúng tôi vừa lên núi thì tôn sư Trương chân nhân bế quan. Nhưng nhân mạng của hơn bảy chục người ở tiêu cục Long Môn thì không phải cứ bế quan là trốn tránh được đâu.

Cung Cửu Giai nghe câu đó nói quá nặng, vội đưa mắt ngăn lại. Mạc Thanh Cốc hết nhịn nổi, quát to:

– Ngươi bảo sư phụ ta vì sợ việc mà bế quan ư?

Vân Hạc cười nhạt, không đáp.

Tống Viễn Kiều tuy hàm dưỡng rất cao, nhưng nghe Vân Hạc làm nhục ân sư thì cũng không thể không tức giận. Trước mắt Võ Đang thất hiệp, mười năm nay chưa hề có kẻ nào dám nói điều bất kính về Trương Tam Phong. Tống Viễn Kiều chậm rãi nói:

– Ba vị ở xa đến là khách, chúng tôi không dám đắc tội, hãy tiễn khách!

Nói đoạn phất tay áo một cái, một luồng kình phong theo đó tràn nhanh ra cuốn ba chén trà trước mặt Cung Cửu Giai, Kỳ Thiên Bưu và Vân Hạc đưa về đặt xuống chiếc kỷ của mình. Ba chén trà được gió nhấc lên, chuyển chỗ, đặt xuống một cách nhẹ nhàng, chỉ nghe khẽ cạch cạch ba tiếng, không để sóng sánh ra ngoài một giọt nước.

Khi tay áo của Tống Viễn Kiều phất ra, bọn Kỳ Thiên Bưu bị một luồng gió tưởng nhu hòa mà cực nặng ép vào ngực không thở được, cả ba vội vận nội công chống đỡ. Nhưng luồng kình phong kia chợt đến chợt đi, cả ba vừa hết tức ngực, ợ mấy tiếng thật to, thở hắt ra một cái. Cả ba cả sợ, biết rằng nếu Tống Viễn Kiều phất tay áo bên trái ra thì luồng kình phong thứ hai ép tới, hơi thở họ đang vận lên sẽ bị ép đi ngược xuống, nếu họ không chết ngay tại chỗ thì cũng trọng thương, mất quá nửa nội công. Lúc này ba vị tổng tiêu đầu mới biết vị Tống đại hiệp nho nhã khiêm nhường kia có tuyệt nghệ cao thâm khôn lường.

Trương Thúy Sơn ở sau tấm bình phong, nghĩ đến việc Ân Tố Tố sát hại toàn gia ở tiêu cục Long Môn liền cảm thấy lo lắng không yên. Lúc thấy Tống Viễn Kiều phất tay áo hiển lộ nội công thâm hậu, chàng cảm phục bội phần, nghĩ thầm: “Nội công của phái Võ Đang ta luyện càng lâu, tiến cảnh càng nhanh. Khi ta ở trên Vương Bàn sơn đảo, nội lực thua nghĩa huynh một trời một vực, nhưng khi chia tay tại Băng Hỏa đảo, xem ra chênh lệch không đáng là bao. Năm xưa ở Lạc Dương, khi nghĩa huynh định giết đại sư ca, đại sư ca dĩ nhiên không chống nổi. Vậy mà giờ này nghĩa huynh dù hai mắt còn sáng, võ công cũng chưa chắc hơn được đại sư ca. Thêm mươi năm nữa, đại sư ca, nhị sư ca nhất định sẽ không thua kém nghĩa huynh”.

Chỉ thấy Kỳ Thiên Bưu ôm quyền, nói:

– Đa tạ Tống đại hiệp xuống tay lưu tình, cáo biệt!

Tống Viễn Kiều và Mạc Thanh Cốc tiễn khách ra ngoài thềm. Kỳ Thiên Bưu quay lại nói:

– Xin hai vị dừng bước, không cần tiễn xa.

Tống Viễn Kiều nói:

– Chẳng mấy khi được ba vị tổng tiêu đầu quang giáng tệ sơn, không tiễn sao tiện? Khi nào có dịp tới kinh sư, Thái Nguyên, Kim Lăng, tại hạ thể nào cũng tới quý tiêu cục đáp lễ.

Kỳ Thiên Bưu nói:

– Chúng tôi không dám!

Vừa rồi lĩnh giáo võ công của Tống Viễn Kiều, Kỳ Thiên Bưu cảm thấy vị đại hiệp này tuy có võ công tuyệt thế, song cử chỉ lời lẽ tuyệt nhiên không chút kiêu ngạo nên lão ta trong lòng đã thầm thán phục, cái chủ đích lên núi hỏi tội, xả thân báo cừu ban đầu giờ đây hầu như tiêu tan.

Trong lúc đôi bên còn qua lại mấy lời xã giao, Kỳ Thiên Bưu bỗng thấy từ ngoài đi vào một trung niên hán tử, thân hình thấp nhỏ nhưng rắn rỏi, tinh anh. Tống Viễn Kiều nói:

– Tứ đệ, hãy lại đây gặp ba vị bằng hữu.

Đoạn giới thiệu Trương Tòng Khê với bọn Kỳ Thiên Bưu. Trương Tòng Khê cười nói:

– Ba vị tới thật đúng lúc, tại hạ có vài thứ muốn trao tặng các vị.

Đoạn chàng đưa cho mỗi người kia một cái gói nhỏ. Kỳ Thiên Bưu hỏi:

– Cái gì vậy?

Trương Tòng Khê nói:

– Cái này mở xem ở đây không tiện, các vị xuống núi rồi hãy mở ra coi.

Ba sư huynh đệ tiễn khách ra tận cổng đạo quán mới từ biệt với ba vị tổng tiêu đầu.

Mạc Thanh Cốc chờ họ đi xa, vội hỏi:

– Tứ ca, ngũ ca đã về núi chưa?

Trương Tòng Khê cười, nói:

– Thất đệ vào trong kia gặp ngũ đệ đi. Còn ta và đại ca ngồi trong sảnh chờ ba vị tổng tiêu đầu quay lại đã.

Mạc Thanh Cốc hỏi:

– Ngũ ca ở đâu kia? Ba lão kia quay lại làm gì?

Chàng mong chờ Trương Thúy Sơn đã lâu, không đợi Trương Tòng Khê nói rõ đã chạy luôn vào nội đường.

Mạc Thanh Cốc đi rồi, quả nhiên bọn Kỳ Thiên Bưu lật đật quay trở lại, rập đầu lạy Tống Viễn Kiều và Trương Tòng Khê. Hai người vội trả lễ. Vân Hạc nói:

– Đại ân đại đức của Võ Đang chư hiệp, bây giờ Vân mỗ mới biết. Vừa nãy Vân mỗ nói năng mạo phạm Trương chân nhân, quả thật không bằng loài cẩu trệ.

Đoạn lão ta giơ hai tay tự vả bôm bốp vào mặt mình hàng chục cái, vả thật mạnh, khiến hai má sưng lên vẫn chưa thôi. Tống Viễn Kiều ngạc nhiên chưa hiểu, vội ngăn lại.

Trương Tòng Khê nói:

– Vân tổng tiêu đầu là một nam tử có chí khí, có tâm nguyện đánh đuổi Thát Lỗ, lấy lại giang sơn, phàm hảo hán Trung Hoa ai cũng có lòng như thế. Chút khó nhọc của tại hạ đâu có đáng gì để Vân tổng tiêu đầu phải tự sỉ vả như vậy?

Vân Hạc nói:

– Tính mạng cả gia đình Vân mỗ đều do chư hiệp ban cho. Vân mỗ năm năm qua như kẻ ngủ mê. Vừa nãy nói năng xấc xược, hai vị không đánh cho một trận thì Vân mỗ quả thật chưa an lòng.

Trương Tòng Khê mỉm cười:

– Chuyện cũ thôi ta bỏ qua, không nhắc đến nữa. Mấy lời Vân tổng tiêu đầu nói ban nãy, dù chính tai gia sư nghe thấy cũng sẽ không để bụng khi biết việc lớn mà Vân tổng tiêu đầu định làm.

Vân Hạc vẫn băn khoăn không yên nên cứ tự trách mình mãi.

Tống Viễn Kiều không rõ nguồn cơn, chỉ nói vài lời khiêm tốn, thấy Kỳ Thiên Bưu và Cung Cửu Giai cũng luôn miệng đa tạ, song xem ra Trương Tòng Khê không coi trọng hai người đó bằng Vân Hạc. Ba vị tổng tiêu đầu khẩn khoản xin đến bên ngoài phòng Trương Tam Phong đang tọa quan để lạy vài lạy, sau đó sẽ gặp Mạc Thanh Cốc tạ lỗi, nhưng Trương Tòng Khê nhất nhất chối từ.

Ba người ấy đi rồi, Trương Tòng Khê thở dài, nói:

– Ba người kia tuy biết ơn chúng ta, nhưng án mạng ở tiêu cục Long Môn, họ vẫn không quên. Xem ra biết ơn là một chuyện, tai họa rình rập lại là chuyện khác.

Tống Viễn Kiều định hỏi nguyên do, bỗng thấy Trương Thúy Sơn từ trong nội đường chạy ra, phục xuống lạy, thốt lên:

– Đại ca, đại ca có nhớ tiểu đệ chăng?

Tống Viễn Kiều là người khiêm cung lễ độ, tuy là đối với sư đệ đồng môn, lại cửu biệt trùng phùng, tâm tình xúc động, song vẫn giữ đúng phép tắc, vội vàng quỳ xuống cung kính đáp lễ, nói:

– Ngũ đệ, cuối cùng ngũ đệ đã về.

Trương Thúy Sơn thuật sơ qua vì sao thất lạc. Mạc Thanh Cốc nóng ruột, hỏi:

– Ngũ ca, ba lão tiêu khách vô lễ, cứ vu cho ngũ ca giết toàn bộ mọi người ở tiêu cục Long Môn phủ Lâm An, vậy mà ngũ ca không bước ra giáo huấn cho bọn chúng một phen?

Trương Thúy Sơn buồn bã thở dài, nói:

– Bao nhiêu uẩn khúc trong vụ đó, không thể nói vài lời là xong. Để Trương Thúy Sơn kể lại tường tận, rồi nhờ các huynh đệ tìm ra đối sách hay nhất.

Ân Lê Đình nói:

– Ngũ ca khỏi lo, tiêu cục Long Môn hộ tống tam ca không xong, làm cho tam ca tàn phế suốt đời. Dù ngũ ca quả thật có giết toàn bộ tiêu cục Long Môn chăng nữa, cũng chỉ là vì tình nghĩa huynh đệ sâu xa, do bị kích động nhất thời…

Du Liên Châu quát lên:

– Lục đệ nói năng hồ đồ, sư phụ mà nghe thấy câu ấy tất sẽ nhốt lục đệ vào phòng tối một tháng là ít. Giết sạch già trẻ lớn bé, diệt tuyệt môn hộ không đời nào chúng ta được phép làm!

Mọi người nhìn Trương Thúy Sơn chờ đợi, chỉ thấy chàng thần sắc hết sức thê lương, một lúc sau mới nói:

– Toàn gia tiêu cục Long Môn, đệ không giết một ai cả. Đệ không khi nào quên lời giáo huấn của sư phụ, làm liên lụy đầu tư thịnh đức của huynh đệ đồng môn.

Mọi người nghe vậy cả mừng, thở phào nhẹ nhõm. Cả bọn tuy không tin Trương Thúy Sơn gây ra vụ án mạng tàn khốc như thế, nhưng các cao tăng phái Thiếu Lâm cứ nhất quyết đổ riệt cho chàng, còn nói là chính họ mục kích; rồi khi ba vị tổng tiêu đầu lên núi hỏi tội, Trương Thúy Sơn lại không ra phủ nhận, thành thử mọi người không tránh khỏi có chút nghi ngờ. Bây giờ nghe Trương Thúy Sơn nói vậy, họ như trút được gánh nặng, nghĩ thầm: “Vụ này hẳn có nhiều uẩn khúc khó nói, nhưng chỉ cần Trương Thúy Sơn không giết người, thì cuối cùng cũng sẽ làm sáng tỏ được mọi việc”.

Lúc này Mạc Thanh Cốc mới hỏi nguyên do vì sao ba vị tổng tiêu đầu đã xuống núi rồi còn trở lên, Trương Tòng Khê cười nói:

– Trong ba vị tổng tiêu đầu ấy, kẻ nói năng vô lễ là Vân Hạc, lại có nhân phẩm tốt hơn cả. Ở vùng Tấn – Thiểm, lão ta có danh vọng rất cao, bí mật liên lạc với các hào kiệt ở Sơn Tây, Thiểm Tây, cắt máu ăn thề, nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi bọn Thát tử Mông Cổ.

Cả bọn à lên khen ngợi.

Mạc Thanh Cốc nói:

– Ai ngờ lão ta lại có chí khí như thế, thật đáng kính phục. Tứ ca, đừng kể vội, chờ đệ trở lại đã nhé…

Nói đoạn phóng ra cổng.

Trương Tòng Khê quả nhiên ngừng lời, quay sang hỏi Trương Thúy Sơn về cảnh vật ở Băng Hỏa đảo. Lúc Trương Thúy Sơn kể tới đoạn ở đó mỗi năm sáu tháng trời liền là đêm, rồi sáu tháng sau là ngày, bốn người kia đều kinh ngạc. Trương Thúy Sơn nói:

– Ở đấy khó phân biệt đông tây nam bắc, nơi mặt trời mọc chưa hẳn là phương đông.

Rồi chàng kể cho mọi người nghe những thứ lạ lùng xoay quanh núi băng trôi giữa biển. Đang kể thì Mạc Thanh Cốc trở về, nói:

– Tiểu đệ đuổi theo Vân tổng tiêu đầu xin tha lỗi, khen lão ta là một nam tử chí khí hiên ngang.

Mọi người biết gã tiểu sư đệ tính tình bộc trực, vừa rồi không quản mệt nhọc chạy mấy dặm đường chỉ để nói vài lời như thế với Vân Hạc, xóa mối tị hiềm lúc trước, nếu không y sẽ mất ngủ vài đêm.

Ân Lê Đình nói:

– Thất đệ, chuyện của tứ ca còn đợi thất đệ về mới kể tiếp; nhưng ngũ ca kể chuyện lạ ở Băng Hỏa đảo còn hay hơn kia.

Mạc Thanh Cốc nhảy dựng lên, kêu:

– Ôi, tiếc quá!

Trương Tòng Khê nói:

– Lão Vân Hạc trù tính mọi sự…

Mạc Thanh Cốc xua tay:

– Tứ ca, hượm đã, xin tứ ca chờ một lát…

Trương Thúy Sơn mỉm cười, nói:

– Thất đệ chẳng bao giờ chịu thiệt.

Thế là chàng phải thuật lại một lần nữa các chuyện lạ ở Băng Hỏa đảo.

Mạc Thanh Cốc thốt lên:

– Kỳ quái, kỳ quái! Tứ ca, bây giờ tứ ca kể tiếp được rồi.

Trương Tòng Khê nói:

– Lão Vân Hạc kia trù tính mọi sự, chỉ đợi đến ngày là cả ba nơi Thái Nguyên, Đại Đồng, Phần Dương nhất tề nổi dậy khởi nghĩa. Nào ngờ trong số người cắt máu ăn thề lại có kẻ phản bội, ba ngày trước khi khởi sự, đánh cắp bản danh sách những người tham gia, lấy luôn bản trù hoạch khởi nghĩa do chính tay Vân Hạc soạn thảo, mang đi tố cáo với quân Mông Cổ.

Mạc Thanh Cốc vỗ đùi kêu lên:

– Ôi, thế thì nguy to!

Trương Tòng Khê nói:

– Cũng may, tình cờ hồi ấy đệ lại ở Thái Nguyên, có việc phải vào phủ đường, nửa đêm thấy tên tri phủ và kẻ phản bội kia đang bàn tính rằng một mặt mật báo triều đình, mặt khác điều binh khiển tướng để quăng lưới bắt trọn những người tham gia khởi nghĩa. Tiểu đệ liền nhảy vào, giết luôn tên tri phủ, kẻ phản bội, nhặt lấy bản danh sách, bản trù hoạch kia, trở về phương nam. Bọn Vân Hạc phát hiện mất bản danh sách, bản trù hoạch, thì đại sự không xong, nghĩa cử chẳng thành đã đành, mà tất cả những người có tên trong danh sách sẽ bị đại họa xử tử toàn gia, vội vàng đang đêm truyền tin cho nhau đi trốn cho xa nhưng lúc đó cổng thành đã đóng, muốn đưa tin cũng chẳng được. Sáng hôm sau, tin quan phủ bị giết lan ra, thành Thái Nguyên đóng lại để truy tìm thích khách.

Bọn Vân Hạc lòng như lửa đốt, cứ như kiến bò trong chảo nóng, lo sợ phen này cả gia đình bị chém đầu đã đành, mà biết bao nghĩa sĩ hai tỉnh Tấn – Thiểm cũng bị sát hại. Nào ngờ đợi mấy ngày sau vẫn an nhiên vô sự; về sau trong thành không tìm ra thích khách, việc tra xét lơi lỏng dần, cuối cùng đâu lại vào đấy. Bọn Vân Hạc thấy kẻ phản bội cũng đã chết trong phủ với tên tri phủ, biết là có người bí mật cứu giúp, song không thể biết việc ấy do tiểu đệ làm.

Ân Lê Đình nói:

– Vừa nãy chắc là tứ ca giao lại cho Vân Hạc bản danh sách và bản trù hoạch nọ phải không?

Trương Tòng Khê nói:

– Đúng thế.

Mạc Thanh Cốc hỏi:

– Còn Cung Cửu Giai, tứ ca giúp lão ta việc gì vậy?

Trương Tòng Khê nói:

– Cung Cửu Giai võ công cao cường, nhưng hành vi nhân phẩm thì không thể sánh bằng Vân Hạc. Sáu năm trước, y bảo tiêu đến Vân Nam, tại Côn Minh y có nhận lời gửi gắm của một đại thương gia chuyển một chuyến châu báu trị giá sáu mươi vạn lượng bạc tới Đại Đô. Thế nhưng khi tới Giang Tây thì bị cướp. Bên hồ Phàn Dương, Cung Cửu Giai bị ba tên trong “Phàn Dương tứ nghĩa” vây đánh, cướp mất chuyến hàng. Cung Cửu Giai có tan gia bại sản cũng không đền nổi số châu báu kia, hơn nữa tiêu cục Yến Vân lại đứng đầu các tổ chức ở phương bắc, nếu hạ bảng hiệu xuống rồi thì không còn làm ăn gì được nữa. Y nằm trong khách điếm suy đi tính lại, cuối cùng toan kết liễu cuộc đời.

“Phàn Dương tam nghĩa” vốn không phải hào kiệt lục lâm, tại sao lại đi cướp số châu báu kia? Thì ra lão đại trong “Phàn Dương tứ nghĩa” phạm tội, bị giam trong nhà lao phủ Nam Xương, nay mai sẽ bị xử chém. Ba người ở ngoài hai lần cướp ngục song vẫn chưa cứu được lão đại, mà quan phủ thì càng cho đề phòng nghiêm mật hơn. Tam nghĩa biết quan tham tiền, định đem số châu báu cướp được kia hối lộ để quan giảm nhẹ tội danh cho lão đại. Đệ thấy bốn huynh đệ gọi là “Phàn Dương tứ nghĩa” rất có nghĩa khí nên cứu lão đại ra khỏi ngục, bảo họ đem châu báu đã cướp trả lại cho Cung Cửu Giai. Lão Cung tổng tiêu đầu tuy diện mạo khả ố, nói năng vô duyên, nhưng bình sinh cũng chưa làm điều ác, ở Đại Đô y không câu kết với quan phủ hà hiếp người lương thiện, cứu sống y kể cũng đáng. Đệ bảo Phàn Dương tứ nghĩa không được nhắc đến cái tên “Trương Tòng Khê”, chỉ giữ lại một mảnh gấm bọc châu báu. Ban nãy đệ tặng nó cho Cung Cửu Giai, y giở ra sẽ biết ngay là chuyện gì.

Du Liên Châu gật đầu, nói:

– Tứ đệ làm việc đó hay lắm! Lão Cung Cửu Giai không nói làm chi, nhưng cứu Phàn Dương tứ nghĩa thì rất nên.

Mạc Thanh Cốc nói:

– Tứ ca, còn Kỳ Thiên Bưu thì tứ ca tặng cái gì?

Trương Tòng Khê nói:

– Là chín mũi “Đoạn hồn ngô công tiêu”.

Năm người nghe đều “ồ” lên một tiếng. “Đoạn hồn ngô công tiêu” nổi danh trên giang hồ, là ám khí thành danh của đại hào Ngô Nhất Manh đất Kinh Châu.

Trương Tòng Khê kể:

– Chuyện này đệ làm quả là to gan, bây giờ nghĩ lại, hôm đó quả thật nguy hiểm. Kỳ Thiên Bưu bảo tiêu đi qua Đồng Quan, vô tình đắc tội với đệ tử của Ngô Nhất Manh. Hai bên động thủ, Kỳ Thiên Bưu xuất chưởng đánh kẻ kia trọng thương. Kỳ Thiên Bưu biết mình gây ra đại họa, vội vã giao lại tiêu ngân, đang đêm trốn về Kim Lăng để tụ tập bằng hữu, hợp lực đối phó với Ngô Nhất Manh. Thế nhưng Kỳ Thiên Bưu về tới Lạc Dương thì Ngô Nhất Manh đuổi kịp, hẹn với y hôm sau sẽ tỷ thí ở bên ngoài cửa tây thành Lạc Dương.

Ân Lê Đình nói:

– Ngô Nhất Manh võ công cao cường, Kỳ Thiên Bưu làm sao địch nổi?

Trương Tòng Khê nói:

– Đúng thế. Kỳ Thiên Bưu tự biết tài nghệ của mình không đỡ nổi một mũi tiêu hình con rết của Ngô Nhất Manh, song chẳng còn cách nào khác, bèn đến gặp huynh đệ họ Kiều ở Lạc Dương nhờ giúp sức. Huynh đệ họ Kiều nhận lời, nói:

– Kỳ đại ca biết đó, võ công của huynh đệ chúng tôi chẳng thể địch lại Ngô Nhất Manh. Đại ca bảo chúng tôi trợ lực thì hai chúng tôi giỏi lắm cũng chỉ đứng ngoài la hét trợ uy thôi. Được rồi, giờ Ngọ ngày mai, ở bên ngoài cửa thành phía tây, hai chúng tôi nhất định sẽ có mặt.

Mạc Thanh Cốc nói:

– Huynh đệ họ Kiều cũng là hảo thủ sử dụng ám khí, có họ trợ giúp, Kỳ Thiên Bưu lấy ba chọi một, may ra cũng đối phó ngang ngửa với Ngô Nhất Manh. Không biết phía Ngô Nhất Manh có thêm ai chăng?

Trương Tòng Khê nói:

– Ngô Nhất Manh không có trợ thủ. Có điều là huynh đệ họ Kiều giở trò xấu. Sáng hôm sau, Kỳ Thiên Bưu tới nhà họ Kiều, toan cùng họ bàn cách nghênh địch thì người giữ cửa bảo: “Đại gia và nhị gia sớm nay có việc gấp phải đi Trịnh Châu, dặn Kỳ lão gia khỏi cần chờ”. Kỳ Thiên Bưu nghe vậy tức chết đi được. Mấy năm trước huynh đệ họ Kiều gặp họa ở Giang Nam, Kỳ Thiên Bưu từng giúp đỡ họ rất tận tình, không ngờ lúc nguy nan nhờ đến thì, họ miệng nói thật dễ nghe, song gót chân lại bôi mỡ chạy bay chạy biến. Kỳ Thiên Bưu biết Ngô Nhất Manh độc ác, cuộc hẹn trưa nay không sao tránh né được, bèn về khách điếm viết một lá thư để lại nói về hậu sự, giao cho người đưa tin, rồi đi ra cửa thành phía tây. Tất cả chuyện đó trước sau đều lọt vào mắt đệ. Bữa đó đệ giả trang làm một kẻ hành khất, nằm dưới gốc một cây cổ thụ ở ngoài cửa thành phía tây. Chẳng bao lâu, Ngô Nhất Manh và Kỳ Thiên Bưu lần lượt tới, bắt đầu động thủ với nhau. Đấu vài hiệp, Ngô Nhất Manh liền giở sát chiêu, phi ra một mũi “Đoạn hồn ngô công tiêu”. Kỳ Thiên Bưu thấy không cách gì chống đỡ nổi thì đành nhắm mắt chờ chết. Tiểu đệ bèn lướt ra, giơ tay chộp mũi tiêu. Ngô Nhất Manh vừa sợ vừa tức, quát hỏi tiểu đệ có phải là người của Cái Bang hay không? Tiểu đệ chỉ cười, không đáp. Ngô Nhất Manh phóng liền tám mũi “Đoạn hồn ngô công tiêu”, đều bị tiểu đệ tóm được hết. Ám khí thành danh của hắn quả không tầm thường, nếu tiểu đệ sử dụng võ công bản môn để chộp thật ra cũng chẳng khó, song sợ hắn nhận biết lai lịch, nên cố giả cách chân trái bị què, tay phải bị cụt mà, chỉ sử dụng một tay trái, lại dùng cách chộp phi tiêu của phái Thiếu Lâm, lòng bàn tay úp xuống, bắt được cả chín mũi tiêu, nhưng lòng bàn tay bị mũi tiêu độc thứ bảy cào xước, thật quá nguy hiểm. Ngô Nhất Manh quát hỏi tiểu đệ là đệ tử của vị cao tăng nào trong môn phái Thiếu Lâm, tiểu đệ cứ giả câm giả điếc ú ớ một hồi. Ngô Nhất Manh tự biết không địch nổi, xấu hổ và tức giận bỏ đi, về Kinh Châu đóng cửa không ra ngoài, mấy năm rồi không ai thấy hắn xuất hiện trên giang hồ nữa.

Mạc Thanh Cốc lắc đầu, nói:

– Tứ ca, Ngô Nhất Manh tuy không phải là người lương thiện, nhưng Kỳ Thiên Bưu cũng chẳng tử tế gì, nếu hôm đó tứ ca bị thương bởi “Đoạn hồn ngô công tiêu”, thì có khổ không? Tứ ca không đáng mạo hiểm như thế.

Trương Tòng Khê cười, đáp:

– Thì cũng vì ta nhất thời hiếu sự, trước đó đâu ngờ “Đoạn hồn ngô công tiêu” của hắn lợi hại đến thế.

Mạc Thanh Cốc tính nết hào sảng, bộc trực, làm sao hiểu ý định sâu xa của mấy việc Trương Tòng Khê đã làm kia, nhưng Trương Thúy Sơn hiểu ngay: tứ ca tận tâm kiệt lực là để giải trừ vụ đại cừu toàn gia tiêu cục Long Môn bị giết hại. Tứ ca biết tiêu cục Hổ Cứ đứng đầu các tiêu cục vùng Giang Nam, tiêu cục Yến Vân đứng đầu các tiêu cục một dải Lỗ – Dực, còn ở các tỉnh miền tây bắc thì tiêu cục Tấn Dương là nhất. Sau này, khi vụ án tiêu cục Long Môn bị khơi lại, cả ba tiêu cục kia chắc chắn sẽ đứng ra. Bởi vậy tứ ca phải làm cho họ bị khuất phục bằng đại ân. Ba sự việc trên nhìn qua tưởng là tình cờ, thực chất Trương Tòng Khê đã cất công tìm tòi, chờ đợi cơ hội, không biết tốn bao nhiêu thời gian và tâm huyết.

Trương Thúy Sơn nghẹn ngào nói:

– Tứ ca, huynh đệ chúng ta là một, tiểu đệ không dám dùng hai chữ “đa tạ”, tất cả chỉ là do cô em dâu của tứ ca ngày ấy sai trái đã gây ra mối đại họa này.

Rồi chàng kể lại đầu đuôi việc Ân Tố Tố cải trang, đang đêm lẻn vào giết toàn bộ gia quyến tiêu cục Long Môn ra sao, cuối cùng nói:

– Tứ ca, chuyện này phải làm thế nào, xin tứ ca tính cách giùm tiểu đệ với.

Trương Tòng Khê trầm ngâm hồi lâu, nói:

– Việc này phải xin sư phụ chỉ thị. Nhưng tứ ca thiết nghĩ, người chết rồi không sống lại được, đệ muội cũng đã bỏ ác làm lành, không còn là nữ nhân giết người không chớp mắt khi xưa. Biết tội chịu sửa, không gì tốt hơn, hai sư ca nghĩ có phải vậy không?

Tống Viễn Kiều đứng trước đại sự liên quan mấy chục mạng người, nhất thời còn trù trừ khó quyết. Du Liên Châu thì gật đầu ngay, nói:

– Đúng thế!

Ân Lê Đình sợ nhất là nhị ca, vốn biết đại sư ca tính ba phải, dễ bị thuyết phục; còn nhị ca là người căm thù cái ác, thiết diện vô tư, e sẽ làm khó cho ngũ tẩu, nên mấy hôm nay cứ lo canh cánh. Chàng không biết rằng Du Liên Châu đã biết chuyện này trước rồi và đã tha thứ cho Ân Tố Tố, giờ thấy nhị ca gật đầu thì trong lòng cả mừng, nói:

– Vậy thì ai hỏi tới, ngũ ca chỉ việc nói những người nọ không phải do mình giết là xong.

Tống Viễn Kiều lườm Ân Lê Đình, nói:

– Cứ chống chế mãi như thế, lòng ngũ đệ làm sao yên? Chúng ta mang danh hiệp nghĩa, có an tâm được không?

Ân Lê Đình liền hỏi:

– Vậy phải làm sao bây giờ?

Tống Viễn Kiều nói:

– Theo ý ta, đợi sau tiệc mừng thọ sư phụ, chúng ta trước hết đi tìm hài nhi của ngũ đệ, sau đó mở đại hội anh hùng tại lầu Hoàng Hạc, nói rõ vụ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, rồi thì sáu huynh đệ chúng ta, thêm ngũ đệ muội là bảy người, cùng xuống Giang Nam. Trong vòng ba năm, mỗi người chúng ta phải làm cho được mười việc thiện.

Trương Tòng Khê vỗ tay reo lên:

– Đúng! Tiêu cục Long Môn chết uổng bảy chục người, mỗi chúng ta làm mười việc thiện, cố cứu sống một hai trăm người vô tội, xem ra có thể chuộc lại được.

Du Liên Châu nói:

– Đại ca tính thế cũng ổn thỏa, sư phụ chắc cũng cho phép. Còn nếu bắt ngũ đệ muội đền mạng cho bảy chục mạng người kia, thì lại chết thêm một người nữa, đâu ích lợi gì?

Trương Thúy Sơn bao lâu nay lo lắng sầu não, giờ nghe đại ca sắp đặt như vậy thì cả mừng, nói:

– Để tiểu đệ báo cho Tố Tố biết.

Chàng nhắc lại lời Tống Viễn Kiều vừa nói cho vợ nghe, lại báo tin sau tiệc mừng thọ sư phụ thì tất cả huynh đệ sẽ đi tìm Vô Kỵ.

Ân Tố Tố bị bệnh vốn không nặng, chỉ vì thương nhớ con là chính, nghe trượng phu nói vậy, nghĩ thầm dựa vào tài nghệ của Võ Đang lục hiệp, thể nào cũng mang được Vô Kỵ trở về, nàng liền cảm thấy yên tâm hẳn.

Trương Thúy Sơn trở lại thăm Du Đại Nham. Các sư huynh sư đệ gặp lại nhau, ai nấy mừng mừng tủi tủi.

Hồi 10: Bách tuế thọ yến dốc can trường

Mấy hôm sau đã tới ngày mồng tám tháng Tư. Trương Tam Phong biết ngày mai mình tròn trăm tuổi, các đệ tử ắt sẽ làm lễ đại thọ rầm rộ, tuy Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn mất tích, niềm vui không trọn vẹn nhưng sống được tới một trăm năm, trong đời quả rất hiếm, đồng thời môn “Thái Cực công” đã được bế quan tu cứu đến mức tinh diệu cao thâm, từ nay phái Võ Đang sẽ càng chói lọi trong võ lâm, không thua gì võ công của phái Thiếu Lâm do Đạt Ma sư tổ truyền từ Thiên Trúc sang. Sáng hôm nay Trương lão khai quan.

Trương lão hú một tiếng, hai tay áo hơi động, nghe “kẹt” một tiếng, hai cánh cửa tịnh thất mở ra, người đầu tiên Trương lão trông thấy nào phải ai khác, chính là Trương Thúy Sơn, đệ tử mà mười năm nay Trương lão vẫn thầm thương nhớ.

Trương lão giụi mắt, ngỡ mình nhìn lầm, thì Trương Thúy Sơn đã sà vào ngực ân sư, nghẹn ngào thốt lên:

– Sư phụ!

Lòng xúc động, chàng quên cả việc quỳ xuống vái lạy. Bọn Tống Viễn Kiều năm người đồng thanh reo lên:

– Sư phụ đại hỉ, ngũ đệ đã trở về!

Trương Tam Phong sống một trăm tuổi, tu luyện đã tám mươi mấy năm, trong lòng đã tới mức minh không, quên hết vạn vật, nhưng đối với bảy đệ tử, tình như phụ tử, giờ đột nhiên gặp lại Trương Thúy Sơn thì không cầm lòng đậu liền ôm chặt lấy chàng, vui sướng đến ứa nước mắt.

Các đệ tử lo hầu việc tắm rửa, chải đầu, thay y phục cho sư phụ. Trương Thúy Sơn chưa dám bẩm báo chuyện phiền não, chỉ kể lại một số kỳ tình dị vật ở Băng Hỏa đảo. Trương Tam Phong nghe nói chàng đã có vợ, càng vui mừng, nói:

– Thê tử ngươi đâu, gọi nó ra cho ta gặp!

Trương Thúy Sơn quỳ xuống, thưa:

– Sư phụ, đệ tử cả gan lấy vợ mà không thưa trước với lão nhân gia.

Trương Tam Phong vuốt râu, cười:

– Ngươi ở Băng Hỏa đảo mười năm không về được, chả lẽ đợi cả mười năm, bẩm báo với ta rồi mới lấy vợ ư? Nực cười, nực cười! Mau đứng dậy, khỏi cần xưng tội, Trương Tam Phong đâu lại có tên đệ tử hủ lậu chấp nê như thế?

Trương Thúy Sơn vẫn quỳ, nói:

– Nhưng thê tử của đệ tử lại có lai lịch bất chính, nàng… nàng chính là con gái của Ân giáo chủ Thiên Ưng giáo ạ.

Trương Tam Phong lại vuốt râu, cười:

– Thì đã sao? Chỉ cần nó nhân phẩm không kém là được rồi. Mà dù nhân phẩm không tốt, chả lẽ về đến núi này, chúng ta lại không thể uốn nắn nó hay sao? Thiên Ưng giáo thì đã sao? Này Thúy Sơn, làm người trước tiên là bụng dạ chớ nên hẹp hòi, đừng ỷ mình danh môn chính phái mà coi khinh người khác. Hai chữ chính tà, thật ra rất khó phân biệt. Đệ tử chính phái mà tâm thuật bất chính, đó là tà đồ. Người trong tà phái mà một lòng hướng thiện, đó là chính nhân quân tử.

Trương Thúy Sơn cả mừng, không ngờ tâm sự canh cánh trong lòng suốt mười năm qua của chàng, vậy mà chỉ hai câu của sư phụ đã xóa đi hết, mặt tươi như hoa, liền đứng dậy.

Trương Tam Phong lại nói:

– Nhạc phụ ngươi, ta nghe danh đã lâu, bội phục Ân giáo chủ võ công cao siêu, một bậc kỳ nhân khẳng khái lỗi lạc. Ân giáo chủ tuy tính cách khác thường, hành sự không giống chúng ta nhưng không phải là kẻ tiểu nhân ti tiện, chúng ta nên có bằng hữu như vậy.

Bọn Tống Viễn Kiều đều nghĩ thầm: “Sư phụ quả thực hết mực thương yêu ngũ đệ, đúng là “Yêu ai yêu cả đường đi…”. Ngay một tên đại ma đầu như nhạc phụ của Trương Thúy Sơn, mà sư phụ cũng bảo sẵn lòng kết giao”. Lúc ấy chợt có đạo đồng vào bẩm:

– Ân giáo chủ của Thiên Ưng giáo sai người mang lễ vật tới biếu Ngũ sư thúc!

Trương Tam Phong cười:

– Thúy Sơn, nhạc phụ ngươi cho quà kìa, ngươi mau ra đón khách!

Trương Thúy Sơn đáp:

– Vâng.

Ân Lê Đình nói:

– Để con đi theo ngũ ca.

Trương Tòng Khê cười, nói:

– Đâu phải Kim Tiên Kỷ lão anh hùng gửi quà tới mà lục đệ ra đón?

Ân Lê Đình xấu hổ đỏ mặt, lẽo đẽo theo sau Trương Thúy Sơn.

Thấy trong đại sảnh có hai lão niên đứng đó, đầu đội khăn, trang phục theo lối gia nhân, vừa thấy Trương Thúy Sơn đi ra liền tiến lên vài bước, quỳ xuống hành lễ, nói:

– Kính chào cô gia, tiểu nhân Ân Vô Phúc, Ân Vô Lộc khấu kiến!

Trương Thúy Sơn đáp lễ một vái, nói:

– Mời hai vị quản gia đứng dậy.

Chàng nghĩ thầm: “Tên của hai gã gia nhân này kỳ quái thật. Phàm tôi tớ trong nhà, thường được đặt tên như Bình An, Cát Khánh, Phúc, Lộc, Thọ, sao hai gã này lại lấy tên Ân Vô Phúc, Ân Vô Lộc?”

Chàng thấy Ân Vô Phúc trên mặt có một vết sẹo thật dài, chạy từ góc trán bên phải chéo xuống qua chót mũi, thẳng tới khóe miệng bên trái. Còn Ân Vô Lộc thì mặt rỗ chằng rỗ chịt. Diện mạo hai gã thật khó coi, tuổi đồ trạc ngũ tuần.

Trương Thúy Sơn nói:

– Nhạc phụ đại nhân, nhạc mẫu đại nhân có mạnh khỏe chăng? Ta chờ thu xếp xong vài việc, sẽ cùng tiểu thư về bái kiến, ai ngờ nhạc phụ nhạc mẫu lại cho các ngươi sang thăm trước, thật không dám nhận. Hai vị quản gia đường xa mệt nhọc, mời ngồi dùng trà.

Ân Vô Phúc và Ân Vô Lộc không dám ngồi, cung kính trình lên bản ghi các món lễ vật, nói:

– Lão gia và lão thái thái bên nhà nói có chút lễ mọn, mong cô gia vui lòng nhận cho.

Trương Thúy Sơn nói:

– Đa tạ.

Chàng mở bản ghi ra xem qua, không khỏi giật mình khi thấy hơn mười trang giấy hoa tiên ghi tổng cộng hai trăm món lễ phẩm, món thứ nhất là một đôi sư tử bằng ngọc bích, món thứ hai là một cặp phỉ thúy phượng hoàng. Sau vô số châu báu là một trăm quản bút Tử Lang Hào, hai mươi thỏi mực Đường Mặc, một trăm xấp giấy Tuyên Hòa, tám chiếc nghiên Bát Phương cực phẩm. Giáo chủ Thiên Ưng giáo nghe nói chàng rể giỏi thư pháp nên gửi tặng rất nhiều bút nghiên giấy mực, ngoài ra còn đủ các thứ trang phục, vật dụng thượng hạng. Ân Vô Phúc đi ra rồi dẫn mười cước phu vào, mỗi cước phu gánh hai chiếc hòm, đặt thành một hàng dọc ở bên sảnh.

Trương Thúy Sơn do dự nghĩ thầm: “Mình từ nhỏ sống thanh bần, đơn giản trên núi, đâu cần tới các vật dụng quý giá kia? Nhưng nhạc phụ ở xa cho người mang tới, mình từ chối e là bất kính”, đành tạ ơn tiếp nhận, nói:

– Tiểu thư của hai vị đường xa mỏi mệt, không được khỏe lắm. Mời hai vị quản gia cứ ở chơi vài ngày, sau đó hãy gặp.

Ân Vô Phúc nói:

– Lão gia và thái thái rất mong nhớ tiểu thư, có dặn chúng tôi phải về bẩm báo ngay. Nếu không làm cho tiểu thư quá mệt, tiểu nhân xin được khấu kiến tiểu thư một lát rồi quay về ngay.

Trương Thúy Sơn nói:

– Đã thế, hai vị chờ đây một lát.

Chàng về phòng nói cho thê tử biết. Ân Tố Tố cả mừng, sửa sang trang phục, chải đầu sơ qua, rồi ra tiền sảnh gặp hai gia nhân, hỏi thăm sức khỏe phụ mẫu, trưởng huynh, mời hai người kia dùng cơm. Ăn xong, Ân Vô Lộc và Ân Vô Phúc liền cáo biệt cô gia và tiểu thư.

Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Nhạc phụ nhạc mẫu gửi cho mình lễ vật hậu hĩ như thế, mình cũng phải trọng thưởng cho hai gã kia mới đúng, nhưng tiền bạc trên núi gom ở một nơi, mình đâu được phép tự tiện lấy ra ban thưởng”. Chàng vốn tính phóng khoáng, không lấy thế làm phiền, cười, nói:

– Tiểu thư của các vị lấy phải anh chồng nghèo, không có tiền bạc thưởng cho hai vị, mong hai vị quản gia đừng cười.

Ân Vô Phúc nói:

– Không dám, không dám, được gặp Võ Đang ngũ hiệp một lần, còn hơn được thưởng ngàn vàng.

Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Vị quản gia này nói năng nhã nhặn, tựa hồ từng theo đòi bút nghiên”. Chàng tiễn họ ra cổng lớn. Ân Vô Phúc nói:

– Xin cô gia dừng bước, mong cô gia sớm cùng tiểu thư giá lâm, để cho lão gia thái thái vợi bớt nhớ thương. Tất cả mọi người, từ trên xuống dưới trong tệ giáo, đều ngưỡng vọng phong thái của cô gia.

Trương Thúy Sơn mỉm cười. Ân Vô Lộc nói:

– Còn có một việc nhỏ, cũng xin bẩm cáo để cô gia biết. Trên đường huynh đệ tiểu nhân mang lễ vật lên núi, ở thành Tương Dương có gặp ba tiêu khách. Trong câu chuyện, ba người ấy có nhắc đến cô gia.

Trương Thúy Sơn hỏi:

– Họ nói gì vậy?

Ân Vô Lộc nói:

– Một người bảo “Võ Đang thất hiệp tuy có đại ân với bọn ta, nhưng hơn bảy chục mạng người ở tiêu cục Long Môn không thể vì chuyện đó mà cho qua”. Ba người ấy bảo rằng họ không thể can thiệp vào vụ án đó, song họ sẽ mời Thần Thương Chấn Bát Phương Đàm lão anh hùng ở phủ Khai Phong tới luận lý vụ đó với cô gia.

Trương Thúy Sơn gật đầu, không nói gì.

Ân Vô Lộc thò tay vào bọc lấy ra ba lá cờ nhỏ, hai tay trình lên Trương Thúy Sơn, nói:

– Huynh đệ tiểu nhân nghe ba gã tiêu khách kia dám cả gan vuốt râu hùm, bèn để việc đó cho Thiên Ưng giáo lãnh nhận.

Trương Thúy Sơn nhìn thấy ba lá cờ thì giật mình, lá thứ nhất thêu một con mãnh hổ ngẩng đầu lên gầm, thế như sắp vồ mồi, hẳn là tiêu kỳ của tiêu cục Hổ Cứ. Lá thứ hai thêu con hạc trắng đang sải cánh trong mây, chính là tiêu kỳ của tiêu cục Tấn Dương, hạc trắng trong mây là chỉ tổng tiêu đầu Vân Hạc. Lá thứ ba thêu bằng kim tuyến chín con chim én, bao hàm chữ “Yến” trong tiêu cục Yến Vân lẫn chữ “Cửu” trong Cửu Cung Giai.

Trương Thúy Sơn ngạc nhiên hỏi:

– Làm sao lấy được tiêu kỳ của họ?

Ân Vô Phúc nói:

– Cô gia là rể quý của Thiên Ưng giáo, bọn Kỳ Thiên Bưu, Cửu Cung Giai là cái thá gì, chúng đã chịu đại ân của Võ Đang thất hiệp mà còn tính chuyện đi mời Thần Thương Chấn Bát Phương Đàm Thụy Lai tới luận lý với cô gia, thế còn ra nghĩa lý gì chứ? Huynh đệ tiểu nhân nghe ba tiêu khách nói những lời vô lễ…

Trương Thúy Sơn ngắt lời:

– Thực ra cũng có vô lễ gì đâu.

Ân Vô Phúc nói:

– Dạ phải, đấy là cô gia khoan dung đại lượng hơn người, chứ ba huynh đệ tiểu nhân không nhịn nổi đã xử lý xong ba gã tiêu khách đó, lấy ba tiêu kỳ của bọn chúng.

Trương Thúy Sơn kinh ngạc, nghĩ bụng bọn Cửu Cung Giai ba người đều là hào kiệt của các tiêu cục, thành danh đã lâu trên chốn giang hồ, tuy chưa được xếp vào hàng đệ nhất cao thủ võ lâm nhưng người nào cũng có tuyệt nghệ. Không lẽ ba kẻ gia nhân của nhạc phụ lại có thể dễ dàng xử lý bọn họ như thế? Chắc là Ân Vô Phúc khoa trương, nhưng hiển nhiên y đoạt được ba lá tiêu kỳ, chẳng nói lấy giữa ban ngày, cho dù lấy trộm ban đêm cũng không phải dễ. Hay là ở khách điếm y bỏ thuốc mê khiến bọn Cửu Cung Giai bất tỉnh? Chàng liền hỏi lại:

– Ba tiêu kỳ này, lấy bằng cách nào?

Ân Vô Phúc nói:

– Lúc đó nhị đệ Vô Lộc đứng ra thách đấu, hẹn bọn Cửu Cung Giai ra cửa nam thành Tương Dương tỷ thí, ba huynh đệ tiểu nhân đấu với ba người bọn họ. Định trước là nếu họ thua thì phải để lại tiêu kỳ, tự chặt một cánh tay và suốt đời không được đặt chân vào tỉnh Hồ Bắc nữa.

Trương Thúy Sơn càng nghe càng lạ lùng, càng không dám coi thường hai gã gia nhân kia, hỏi tiếp:

– Rồi thế nào?

Ân Vô Phúc nói:

– Rồi không có gì cả, bọn họ phải để lại tiêu kỳ, tự chặt một cánh tay trái thề suốt đời không bước chân tới đất Hồ Bắc.

Trương Thúy Sơn kinh hãi, nghĩ thầm: “Thuộc hạ của Thiên Ưng giáo hành sự quả thực tàn ác”, chàng bất giác cau mày. Ân Vô Phúc nói:

– Nếu cô gia nghĩ rằng tiểu nhân hạ thủ quá nhẹ, huynh đệ tiểu nhân sẽ đuổi theo giết luôn ba tên ấy cho rồi.

Trương Thúy Sơn vội nói:

– Không nhẹ! Không nhẹ! Thế là nặng quá rồi.

Ân Vô Phúc nói:

– Huynh đệ tiểu nhân nghĩ lần này mang lễ vật đi biếu cô gia là chuyện đại hỷ, nếu làm tổn thương nhân mạng, e mất cái hay.

Trương Thúy Sơn nói:

– Đúng thế, hai vị nghĩ vậy là rất chu đáo. Ngươi nói có ba người, vậy người thứ ba đâu rồi?

Ân Vô Phúc nói:

– Còn thêm một huynh đệ nữa là Ân Vô Thọ. Sau khi chúng tiểu nhân đuổi ba gã tiêu khách, sợ rằng Thần Thương Chấn Bát Phương Đàm lão kia hay tin chẳng biết tốt xấu lại đến làm phiền cô gia, nên chúng tiểu nhân để Vô Thọ đi phủ Khai Phong. Vô Thọ có nhờ tiểu nhân thay mặt y khấu đầu vấn an cô gia.

Nói Vô Phúc xong sụp xuống lạy. Trương Thúy Sơn vội đáp lễ, nói:

– Không dám.

Chàng nghĩ thầm: “Thần Thương Chấn Bát Phương Đàm Thụy Lai uy danh hiển hách, thành danh đã bốn chục năm nay, nay Ân Vô Thọ vì mình tìm đến phủ Khai Phong gây chuyện, dù bên nào bị tổn thương cũng đều không ổn”, bèn nói:

– Thần Thương Chấn Bát Phương Đàm lão anh hùng ta nghe danh đã lâu, là bậc chính nhân quân tử. Hai vị mau đến phủ Khai Phong, bảo Ân Vô Thọ đừng tranh cãi gì với Đàm lão anh hùng cả. Nếu chẳng may hai bên động thủ, e sự việc chẳng lành.

Ân Vô Lộc cười nhạt, nói:

– Cô gia khỏi lo, cái lão họ Đàm ấy không dám động thủ với tam đệ Vô Thọ đâu. Tam đệ bảo lão ta đừng có dây vào chuyện này là lão ta vâng dạ tức thì.

Trương Thúy Sơn nói:

– Thật ư?

Chàng nghĩ thầm: “Thần Thương Chấn Bát Phương Đàm Thụy Lai dù đã già yếu chăng nữa thì ở phủ Khai Phong Đàm lão cũng có hàng vài chục đệ tử võ công cao cường, không lẽ lại sợ một mình Ân Vô Thọ?”

Ân Vô Phúc thấy Trương Thúy Sơn có vẻ nghi ngờ, bèn nói:

– Lão già họ Đàm hai chục năm trước từng là bại tướng dưới tay Vô Thọ, đối với huynh đệ chúng tiểu nhân, lão ta không là gì cả, cô gia khỏi lo.

Nói xong hai người làm lễ cáo biệt.

Trương Thúy Sơn cầm ba lá tiêu kỳ, trù trừ một hồi. Chàng đã định nhờ hai người nghe ngóng tin tức của Vô Kỵ, nhưng nghĩ nếu lộ chuyện này với người ngoài, không tránh khỏi tổn hại uy danh của nhị ca, đành lẳng lặng trở về phòng.

Ân Tố Tố nửa nằm nửa ngồi trên giường, đang xem danh sách lễ vật, cảm động về tình thương của phụ mẫu đối với mình, lại nghĩ Vô Kỵ lúc này không biết đang ở đâu, có bị làm sao không thì nàng hết sức lo lắng, thấy trượng phu bước vào, thần sắc bất định, vội hỏi:

– Chàng sao vậy?

Trương Thúy Sơn hỏi:

– Lai lịch của ba người Vô Phúc, Vô Lộc, Vô Thọ thế nào?

Ân Tố Tố chung sống mười năm với chồng, biết chàng không ưa gì Thiên Ưng giáo, nên gia sự và giáo sự, nàng chưa bao giờ kể, Trương Thúy Sơn cũng chưa từng hỏi đến. Lúc này nghe chàng hỏi, nàng mới kể:

– Ba người đó hơn hai chục năm trước vốn là tướng cướp hoành hành ở vùng tây nam, sau bị rất nhiều cao thủ vây đánh, tưởng chết đến nơi. May gặp phụ thân thiếp đi qua thấy họ tử chiến không khuất phục, rất có khí phách nên mới ra tay cứu. Ba người ấy vốn không cùng họ, chẳng phải huynh đệ gì đâu. Họ cảm ân cứu mạng của gia gia thiếp, thề suốt đời làm nô bộc, bỏ họ tên cũ, lấy tên mới là Ân Vô Lộc, Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ. Thiếp từ nhỏ vẫn kính nể họ, không dám coi họ như nô bộc. Gia gia thiếp bảo rằng nếu luận về võ công và danh vọng ngày trước thì rất nhiều nhân vật tên tuổi lẫy lừng trong võ lâm ngày nay vị tất đã sánh bằng ba người bọn họ.

Trương Thúy Sơn gật đầu:

– Thì ra vậy.

Chàng liền kể cho nàng nghe chuyện ba người đó lấy tiêu kỳ, chặt cánh tay ra sao. Ân Tố Tố cau mày, nói:

– Ba người ấy vốn có ý tốt, nhưng họ không biết rằng đệ tử của danh môn chính phái hành sự khác hẳn bên tà giáo. Ngũ ca, việc này lại làm cho chàng thêm phiền não nữa đây, thiếp… thiếp không biết làm sao cho phải?

Nàng thở dài, nói tiếp:

– Đợi tìm được Vô Kỵ rồi chúng ta quay trở lại Băng Hỏa đảo là hơn.

Bỗng nghe Ân Lê Đình từ ngoài cửa nói vọng vào:

– Ngũ ca, mau ra trổ tài viết vài câu đối chúc thọ đi nào.

Lại nói:

– Ngũ tẩu, đừng trách tiểu đệ kéo ngũ ca đi nhé, ai bảo ngũ ca có biệt danh Thiết Hoạch Ngân Câu?

Chiều hôm đó sáu sư huynh sư đệ chia nhau đốc thúc nhà bếp, bọn đạo đồng quét dọn, bài trí cung Tử Tiêu, ở sảnh đường treo mấy câu đối Trương Thúy Sơn vừa viết, trong sảnh ngoài sân chỗ nào cũng tràn ngập không khí vui vẻ.

Sáng sớm hôm sau, bọn Tống Viễn Kiều mặc quần áo mới, đang định vào đưa Du Đại Nham ra để cả bảy người cùng chúc thọ sư phụ thì một đạo đồng tiến vào, trình lên một tờ danh thiếp. Tống Viễn Kiều cầm lấy, Trương Tòng Khê liếc mắt, thấy danh thiếp đề “Côn Luân hậu học Hà Thái Xung suất đệ tử môn hạ cung chúc Trương chân nhân thọ tỉ Nam Sơn”.

Trương Tòng Khê kinh ngạc nói:

– Chưởng môn phái Côn Luân thân chinh đến chúc thọ sư phụ. Không biết ông ta tới Trung nguyên từ bao giờ vậy?

Mạc Thanh Cốc nói:

– Hà phu nhân có tới không?

Vợ của Hà Thái Xung là Ban Thục Nhàn, vốn là sư tỷ của ông ta, nghe nói võ công không kém gì chưởng môn phái Côn Luân. Trương Tòng Khê nói:

– Trên danh thiếp không thấy đề có Hà phu nhân.

Tống Viễn Kiều nói:

– Vị khách này danh vọng rất cao, phải mời sư phụ thân chinh nghênh tiếp.

Đoạn Tống Viễn Kiều vội đi vào bẩm với Trương Tam Phong. Trương Tam Phong nói:

– Nghe nói Thiết Cầm tiên sinh hiếm khi vào Trung thổ, sao ông ta lại biết được ngày mừng thọ của lão đạo nhỉ?

Liền dẫn sáu đệ tử ra đón. Chỉ thấy Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung tuổi chưa cao, mặc hoàng y, thần thái phiêu dật, khí tượng xung hòa, quả nhiên là tông chủ của danh môn chính phái. Sau lưng tiên sinh là tám nam nữ đệ tử, trong đó có Tây Hoa Tử và Vệ Tứ Nương.

Hà Thái Xung hướng về phía Trương Tam Phong chúc mừng, Trương Tam Phong luôn miệng đa tạ, chắp tay đáp lễ. Huynh đệ Tống Viễn Kiều sáu người quỳ xuống khấu đầu. Hà Thái Xung cũng quỳ xuống đáp lễ, nói:

– Võ Đang lục hiệp lừng danh hoàn vũ, đại lễ này làm sao dám nhận?

Trương Tam Phong mời sư đồ Hà Thái Xung vào đại sảnh, hai bên chủ khách ngồi xuống dùng trà. Một tiểu đạo đồng tiến vào trình lên một tờ danh thiếp. Tống Viễn Kiều cầm lấy, là Không Động ngũ lão cùng đến. Trong võ lâm hiện thời, Thiếu Lâm, Võ Đang danh tiếng cao nhất, kế tới phái Côn Luân, phái Nga Mi, rồi mới đến Không Động. Nếu tính vai vế địa vị, Không Động ngũ lão cùng lắm chỉ ngang hàng với Tống Viễn Kiều. Nhưng Trương Tam Phong quá khiêm tốn, đứng dậy nói:

– Không Động ngũ lão tới, xin Hà huynh ngồi chơi, lão đạo ra đón khách.

Hà Thái Xung nghĩ thầm: “Hạng người như

Không Động ngũ lão, sai đệ tử ra đón là được rồi”.

Lát sau, Không Động ngũ lão cùng các đệ tử bước vào. Sau đó lần lượt rất nhiều nhân vật thủ lĩnh các môn phái, bang hội, như Thần Quyền môn, phái Hải Sa, phái Vu Sơn, bang Cự Kình cùng lên núi chúc thọ. Bọn Tống Viễn Kiều vốn chỉ dự tính sư đồ bản môn vui vẻ một ngày với nhau mà thôi nhưng ai ngờ lại quá đông tân khách, huynh đệ sáu người chia nhau tiếp đãi cũng không xuể. Trương Tam Phong bình sinh ghét nhất các thứ lễ tiết phiền toái kiểu này, mấy lần tiệc thọ bảy mươi, tám mươi, chín mươi tuổi, Trương lão đều dặn đệ tử không cho người ngoài biết. Ai ngờ ngày mừng thọ tròn trăm tuổi này lại thành ngày quý khách võ lâm tề tựu. Những người đến muộn, ngay cả ghế ngồi trong cung Tử Tiêu cũng không đủ, Tống Viễn Kiều phải sai người bưng các tảng đá tròn ra xếp thành hàng trong đại sảnh. Chưởng môn, bang chủ còn được ngồi ghế, chứ đệ tử môn hạ thì phải ngồi trên các hòn đá. Thậm chí chén không đủ phải dùng bát để uống trà.

Trương Tòng Khê kéo Trương Thúy Sơn ra hành lang, hỏi:

– Ngũ đệ, có nhận ra sự lạ gì chăng?

Trương Thúy Sơn nói:

– Bọn họ đã ước hẹn trước với nhau, nên khi gặp nhau đã biết cả rồi. Tuy vậy cũng có vài người giả bộ ngạc nhiên để che giấu sự thực.

Trương Tòng Khê nói:

– Đúng thế, bọn họ không hề thành tâm lên núi chúc thọ sư phụ.

Trương Thúy Sơn nói:

– Họ mượn danh nghĩa chúc thọ, thực chất là muốn đến vấn tội đây mà!

Trương Tòng Khê nói:

– Không phải hưng sư vấn tội đâu. Án mạng tiêu cục Long Môn làm sao mời được Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung tới đây?

Trương Thúy Sơn nói:

– Ồ, thì ra bọn họ đến là vì chuyện Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.

Trương Tòng Khê cười khẩy:

– Bọn họ coi thường phái Võ Đang quá! Nếu quả bọn họ muốn cậy đông, thì đệ tử môn hạ phái Võ Đang cũng đâu bán rẻ bằng hữu? Ngũ đệ, Tạ Tốn quả là một gian đồ tàn ác, nhưng đã là nghĩa huynh của ngũ đệ thì nhất quyết ngũ đệ không được tiết lộ hành tung của lão.

Trương Thúy Sơn nói:

– Tứ ca nói rất phải. Chúng ta phải tính sao?

Trương Tòng Khê trầm ngâm một hồi, nói:

– Mọi người hãy cẩn thận đề phòng. Huynh đệ đồng tâm thì dẫu việc khó mấy cũng làm được. Võ Đang thất hiệp trước nay trải qua bao phen đại phong ba, chẳng lẽ lại sợ bọn họ?

Du Đại Nham tuy đã tàn phế, nhưng khi nói về mình, sáu huynh đệ vẫn xưng là Võ Đang thất hiệp. Đằng sau bảy người còn một vị mà võ công cổ kim chưa ai bì kịp, quán tuyệt đương thời là Trương Tam Phong. Có điều hai người đều nghĩ rằng sư phụ đã tròn trăm tuổi, dù việc trước mắt hệ trọng khó khăn đến mấy, huynh đệ sáu người cũng muốn tự mình lo liệu gánh vác, không để sư phụ phải ra tay, cũng không để sư phụ phải lo phiền. Trương Tòng Khê tuy miệng an ủi sư đệ, song thầm biết việc hôm nay làm thế nào bảo toàn danh dự sư môn, thật chẳng dễ chút nào.

Trong đại sảnh, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình chia nhau tiếp chuyện tân khách. Cả ba người đều sớm nhận biết nhiều tân khách đến đây không phải thực tâm, nên trong bụng thầm lo tính.

Đang lúc nói chuyện thì một tiểu đạo đồng vào thưa:

– Môn hạ đệ tử phái Nga Mi Tĩnh Huyền sư thái, cùng năm vị sư đệ, sư muội đến bái thọ sư tổ.

Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu cùng mỉm cười, liếc nhìn Ân Lê Đình, lúc ấy Mạc Thanh Cốc dẫn bảy tám tân khách bước vào sảnh, Trương Tòng Khê và Trương Thúy Sơn từ nội đường đi ra, nghe thấy có đệ tử phái Nga Mi tới, cũng nhìn Ân Lê Đình mỉm cười. Ân Lê Đình mặt đỏ bừng, e thẹn. Trương Thúy Sơn kéo tay chàng, cười nói:

– Lục đệ, chúng mình cùng ra đón khách quý nào.

Hai người đi ra cổng, thấy Tĩnh Huyền sư thái trạc bốn mươi tuổi, thân hình cao lớn, thần thái uy mãnh, tuy là nữ mà cao hơn nam đến nửa cái đầu. Sau lưng sư thái là năm sư đệ sư muội, trong đó có một nam tử gầy gò trạc tam tuần và hai ni cô. Một trong hai ni cô là Tĩnh Hư sư thái thì Trương Thúy Sơn đã gặp trên thuyền ngoài biển. Hai người còn lại là hai thiếu nữ tuổi đôi mươi, một nàng lấy tay che miệng cười, nàng kia da trắng như tuyết, thân hình mảnh mai, diện mạo xinh xắn, cúi đầu vân vê tà áo, chính là vị hôn thê của Ân Lê Đình, Kỷ Hiểu Phù tiểu thư của Kim Tiên Kỷ gia.

Trương Thúy Sơn tiến lên hành lễ, rồi mời sáu người vào trong. Ân Lê Đình hết sức e thẹn, không dám liếc về phía Kỷ Hiểu Phù lấy một lần. Khi vào sảnh, thấy mọi người đều nhìn về phía trước, Ân Lê Đình nhịn không nổi mới lén liếc nhìn Kỷ Hiểu Phù, vừa hay lúc đó Kỷ Hiểu Phù đang cúi đầu cũng liếc nhìn chàng, ánh mắt hai người gặp nhau. Sư muội của Kỷ Hiểu Phù là Bối Cẩm Nghi bèn ho một tiếng khiến hai người đỏ mặt, vội quay đầu sang chỗ khác. Bối Cẩm Nghi cười, nói nhỏ:

– Sư tỷ, vị Ân sư ca kia xem ra còn e thẹn hơn cả sư tỷ.

Đột nhiên mặt Kỷ Hiểu Phù trắng nhợt, thân hình run rẩy, mắt rưng rưng lệ.

Trương Tòng Khê từ nãy vẫn tính toán tình thế địch ta, thấy sáu người phái Nga Mi tới liền bớt lo đôi chút, nghĩ thầm: “Kỷ cô nương là hôn thê của lục sư đệ, nếu xảy ra chuyện động thủ, phái Nga Mi sẽ giúp phe mình một tay”.

Tân khách lục tục kéo đến, chẳng mấy chốc đã là chính ngọ. Cung Tử Tiêu hoàn toàn không có chuẩn bị, làm sao mở tiệc thết khách? Nhà bếp chỉ lo được cho mỗi người một tô cơm trắng, trên để rau và đậu phụ. Sáu đệ tử phái Võ Đang luôn miệng xin lượng thứ. Chỉ thấy tân khách cứ vừa ăn, vừa ngóng ra cổng, tựa hồ còn đợi ai.

Huynh đệ Tống Viễn Kiều quan sát kỹ tân khách, thấy đa số chưởng môn, bang chủ đều tự trọng, không mang theo vũ khí, song thuộc hạ thì không ít kẻ lưng cộm hẳn lên, rõ ràng che giấu vũ khí; ngoại trừ đệ tử ba phái Nga Mi, Côn Luân, Không Động là đi tay không. Huynh đệ Tống Viễn Kiều bực bội nghĩ thầm: “Các người bảo là đến chúc thọ sư phụ ta, sao lại giấu vũ khí trong người?”

Nhìn lễ vật họ mang tới, phần lớn là mấy thứ đào thọ, miến thọ vừa mua ở thị trấn dưới chân núi, không xứng chút nào với địa vị đại tông sư võ học như Trương Tam Phong; ngay cả đem biếu các thủ lĩnh môn phái cũng không đáng.

Chỉ có quà của phái Nga Mi mới đúng là lễ vật chúc thọ, ngoài mười sáu món bằng ngọc quý còn có một chiếc áo đạo bào bằng gấm đỏ thêu chỉ kim tuyến một trăm chữ “Thọ” đủ kiểu, công phu bỏ vào đó quả không ít. Tĩnh Huyền sư thái nói với Trương Tam Phong:

– Áo này mười nữ đệ tử phái Nga Mi hợp lực thêu nên đó.

Trương Tam Phong rất vui, cười nói:

– Các nữ hiệp phái Nga Mi quyền kiếm nổi danh thiên hạ, hôm nay lại tặng cho lão đạo áo bào này, thật quý hóa vô cùng.

Trương Tòng Khê thấy tân khách như thế, tự hỏi: “Không biết họ còn chờ cường viện nào nữa? Vì sư phụ không thích ồn ào, nên phái Võ Đang không mời bằng hữu thân thiết nào cả, nếu không đâu đến nỗi thế lực chênh lệch, không ai cứu viện thế này?”

Trương Tòng Khê nghĩ sư phụ giao du khắp thiên hạ, bảy huynh đệ hành hiệp trượng nghĩa, quen thân bao người, nếu có chuẩn bị trước, ít ra cũng có thể mời được vài chục cao thủ tới dự tiệc hôm nay.

Du Liên Châu nói nhỏ với Trương Tòng Khê:

– Chúng ta vốn dự định sau lễ mừng thọ sư phụ sẽ gửi anh hùng thiếp, mở đại yến tại lầu Hoàng Hạc, Võ Xương, không ngờ sảy một bước thành ra bị thụ động hoàn toàn.

Du Liên Châu đã tính trước, tại anh hùng đại yến, Trương Thúy Sơn sẽ nói rõ nỗi khổ tâm không thể bán rẻ bằng hữu. Phàm người hành tẩu giang hồ, ai cũng rất trọng chữ “nghĩa”. Trương Thúy Sơn chỉ cần thành thật nói ra, sẽ không ai nỡ ép chàng làm kẻ bất nghĩa. Nếu có kẻ không chịu bỏ qua thì ở anh hùng đại yến sẽ có không ít cao thủ giao hảo với phái Võ Đang, dù phải động võ, bên mình cũng chẳng lâm vào thế hạ phong. Nào ngờ đối phương đã tính đến nước cờ đó, mượn cớ chúc thọ để ước hẹn trước kéo nhau cùng lên núi, khiến phái Võ Đang trở tay không kịp.

Trương Tòng Khê nói nhỏ:

– Việc đến bước này, chỉ còn cách ráng sức tử chiến.

Trong Võ Đang thất hiệp, Trương Tòng Khê là người túc trí đa mưu, gặp chuyện khó xử đều nghĩ ra kế lạ chuyển nguy thành an. Du Liên Châu thầm thất vọng: “Ngay cả tứ sư đệ cũng bó tay, xem ra hôm nay sáu đệ tử phái Võ Đang phải đổ máu mất thôi”. Giá như một địch một, trong số tân khách hôm nay, có lẽ không một ai là đối thủ của Võ Đang lục hiệp, nhưng tình thế trước mắt xem ra không phải là hai mươi địch một, mà là ba, bốn mươi đánh một.

Trương Tòng Khê kéo vạt áo Du Liên Châu, hai người ra sau đại sảnh. Trương Tòng Khê nói:

– Khi sự việc xảy ra, nếu như mình có thể dùng lời lẽ gài đối phương để họ chấp nhận một chọi một, lấy sáu trận định hơn thua, thì huynh đệ chúng ta không thể nào thất bại. Thế nhưng bọn họ đã dự tính trước, chắc đã nghĩ đến chuyện này hẳn sẽ không đồng ý đấu sáu trận rồi ngừng, cục diện sẽ biến thành ẩu đả quần thể.

Du Liên Châu gật đầu, nói:

– Việc đầu tiên là chúng ta phải bảo hộ tam đệ, không để tam đệ bị lọt vào tay người, chịu nhục một lần nữa, tứ đệ hãy lo việc này. Ngũ đệ muội chưa khỏe hẳn, tứ đệ bảo ngũ đệ lo liệu cho thê tử. Việc ứng phó với địch, để bốn huynh đệ còn lại tận lực cáng đáng.

Trương Tòng Khê nói:

– Được, cứ như thế.

Chàng trầm ngâm một hồi, nói:

– Có một kế sách, nhưng là mạo hiểm cầu may.

Du Liên Châu nói:

– Mạo hiểm cũng được, là diệu kế gì?

Trương Tòng Khê nói:

– Mỗi người chúng ta nhắm một đối thủ, địch vừa động thủ, chúng ta tấn công tức thời, chỉ một chiêu thôi phải bắt giữ ngay. Như thế bọn khác sẽ kiêng sợ, không dám làm mạnh.

Du Liên Châu do dự, nói:

– Nếu một chiêu không bắt ngay được, kẻ bên cạnh sẽ xông vào trợ lực, chỉ e…

Trương Tòng Khê nói:

– Gặp đại nạn, phải xuống tay độc một chút vậy. Mình sử dụng “Hổ trảo tuyệt hộ thủ”!

Du Liên Châu giật mình, nói:

– “Hổ trảo tuyệt hộ thủ” ư? Hôm nay là ngày đại hỷ của sư phụ, dùng môn sát thủ ấy có tàn ác quá chăng?

Nguyên phái Võ Đang có một môn cầm nã thủ pháp cực kỳ lợi hại gọi là “Hổ trảo thủ”. Du Liên Châu học môn này xong, thấy rằng tuy nắm được kẻ địch rồi, nếu hắn võ công cao cường, hắn vẫn có thể vận nội kình thoát ra, cục diện thành ra tỷ thí nội lực; thế là chàng bèn biến hóa, thêm thắt, sáng chế ra mười hai chiêu mới, thoát thai từ “Hổ trảo thủ”.

Trương Tam Phong khi thu nhận đệ tử đều tìm hiểu, tra xét cặn kẽ hành vi phẩm đức, tư chất, ngộ tính, cho nên sau khi nhập môn cả bảy đệ tử đều nên người tài giỏi, không chỉ thành thạo sở học sư môn, mà còn có thể tự mình sáng chế chiêu thức mới. Chiêu số “Hổ trảo thủ” do Du Liên Châu sáng chế ra vốn không phải là chuyện lạ, nhưng Trương Tam Phong xem chàng biểu diễn rồi chỉ gật đầu không nói gì.

Du Liên Châu thấy sư phụ im lặng, biết trong chiêu số còn khuyết điểm lớn, nên để tâm suy tư cải biến cho hoàn bị. Mấy tháng sau, khi chàng diễn lại cho sư phụ xem, Trương Tam Phong thở dài, nói:

– Liên Châu, mười hai chiêu Hổ trảo thủ này lợi hại hơn hẳn so với mấy chiêu ta đã dạy ngươi. Có điều chiêu nào cũng chộp vào ngang lưng người, bất cứ ai bị trúng một chiêu đều bị tổn âm tuyệt tự. Chẳng lẽ thứ võ công quang minh chính đại ta dạy cho ngươi chưa đủ hay sao, mà còn phải ra chiêu này cho người ta tuyệt tử tuyệt tôn?

Du Liên Châu nghe mấy lời giáo huấn của sư phụ, trời tuy đang rét đậm, mà lưng vã mồ hôi, trong lòng hoảng sợ liền vội vàng tạ tội.

Mấy hôm sau, Trương Tam Phong gọi cả bảy đệ tử, thuật lại cho nghe sự việc, cuối cùng nói:

– Liên Châu sáng tạo mười hai chiêu số này, khổ công suy tưởng, phải nói là một môn tuyệt học. Nếu chỉ do một lời của ta mà bỏ đi, kể cũng đáng tiếc. Các ngươi hãy theo học Liên Châu, nhưng chỉ vào lúc một mất một còn mới được đem ra sử dụng, chứ nhất thiết cấm dùng tùy tiện. Ta thêm hai chữ “tuyệt hộ” vào sau chữ “Hổ trảo”, để mọi người nhớ rằng môn võ công này là sát thủ hủy diệt môn hộ, làm cho người ta phải tuyệt tự.

Các đệ tử bái lĩnh lời giáo huấn. Du Liên Châu liền truyền thụ môn võ công Hổ trảo tuyệt hộ thủ cho sáu huynh đệ đồng môn. Bảy người học rồi, quả nhiên nhớ lời giáo huấn của sư phụ, chưa từng dùng đến bao giờ. Hôm nay sự tình khẩn cấp, nghe Trương Tòng Khê nhắc đến, Du Liên Châu vẫn còn ngần ngại. Trương Tòng Khê nói:

– Môn “Hổ trảo tuyệt hộ thủ” khi chộp vào lưng người ta rồi sẽ khiến đối thủ vĩnh viễn mất khả năng sinh dục. Tiểu đệ tính là chúng ta chỉ sử dụng đối với các hòa thượng, đạo sĩ, hoặc những người đã bảy, tám chục tuổi..

Du Liên Châu mỉm cười, nói:

– Tứ đệ quả nhiên lắm mưu nhiều mẹo; hòa thượng với đạo sĩ thì đâu có sinh con đẻ cái gì thật.

Hai người bàn tính xong, chia nhau đi nói lại với Tống Viễn Kiều và ba sư đệ, mỗi người chọn sẵn một đối thủ, chờ lúc nào Trương Tòng Khê kêu hai tiếng “Chao ôi” là cả sáu người sẽ lập tức sử dụng Hổ trảo tuyệt hộ thủ nắm ngay lấy kẻ địch. Du Liên Châu chọn người cao tuổi nhất trong Không Động ngũ lão là Quan Năng. Trương Thúy Sơn nhắm đạo nhân của phái Côn Luân là Tây Hoa Tử.

Tân khách trong đại sảnh dùng bữa xong, nhà bếp đã thu dọn chén đũa. Trương Tòng Khê lớn tiếng nói:

– Chư vị tiền bối, các vị bằng hữu! Hôm nay là mừng thọ tròn trăm tuổi của gia sư, được các vị quang giáng, tệ phái từ trên xuống dưới ai cũng lấy làm vinh dự. Có điều việc tiếp đãi quá đơn sơ, mong các vị lượng thứ. Gia sư vốn đã định mời các vị cùng dự đại yến tại lầu Hoàng Hạc, Võ Xương, những gì thiếu sót hôm nay, tất nhiên bữa đó sẽ bổ khuyết. Tệ sư đệ đi xa mười năm, nay mới trở về, những gì tệ sư đệ tao ngộ và kinh lịch suốt mười năm hãy còn chưa kịp bẩm minh sư trưởng. Hơn nữa, hôm nay là ngày đại hỷ của gia sư, nếu đàm luận chuyện ân oán, đâm chém trong võ lâm quả thật chẳng phải lúc, phải chỗ, hảo ý của các vị không quản đường xa đến chúc thọ, chẳng hóa ra biến thành cố ý sinh sự hay sao? Các vị ít khi có dịp đến núi Võ Đang, vậy tại hạ xin mời các vị cùng đi thưởng ngoạn phong cảnh có được chăng?

Chàng nói thế để chặn trước mọi người, nói rõ rằng hôm nay là ngày lành mừng thọ, kẻ nào khơi chuyện Tạ Tốn và tiêu cục Long Môn ra là cố ý gây sự với phái Võ Đang.

Những người lên núi hôm nay, trừ phái Nga Mi ra, tất cả chỉ nhằm đánh nhau một trận để buộc đối phương nói ra nơi ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Nhưng phái Võ Đang uy danh lừng lẫy, không ai dám một mình đứng ra thách thức. Nếu tất cả mấy trăm người cùng xông lên thì chẳng ai e ngại, chứ bảo ai đó đứng ra đầu tiên thì chả ai muốn vuốt râu hùm.

Tân khách ai nấy nhìn nhau, lặng thinh. Tây Hoa Tử phái Côn Luân đứng dậy, cao giọng nói:

– Trương tứ hiệp không nên chặn trước như thế. Chúng tôi là người quang minh, không làm trò ám muội, cứ nói thẳng ra là hơn. Phen này chúng tôi lên núi, một là chúc thọ Trương chân nhân, hai là muốn biết chỗ ở của tên ác tặc Tạ Tốn.

Mạc Thanh Cốc bực bội đã lâu, lúc này hết chịu nổi liền cười nhạt, nói:

– Hay gớm, hóa ra thế, hèn chi, hèn chi!

Tây Hoa Tử trợn mắt, hỏi:

– Hèn chi cái gì?

Mạc Thanh Cốc cười khẩy, nói:

– Lúc đầu tại hạ nghe các vị bảo lên núi Võ Đang để chúc thọ gia sư, nhưng tại hạ lại thấy tân khách giấu vũ khí trong người, đã cảm thấy kỳ quái, không lẽ người ta mang đao kiếm lên làm quà tặng gia sư hay sao? Giờ mới hiểu, hoá ra quà tặng mang tới là thế đó.

Tây Hoa Tử vỗ vỗ vào người, rồi cởi áo đạo bào, nói to:

– Mạc thất hiệp hãy nhìn cho rõ, còn trẻ tuổi, đừng có ngậm máu phun người. Chúng tôi đâu có giấu binh khí trong người!

Mạc Thanh Cốc cười khẩy, nói:

– Hay lắm, quả nhiên không giấu.

Chàng dùng hai ngón tay búng nhẹ vào thắt lưng hai người đứng bên cạnh. Chàng xuất thủ quá nhanh, búng hai cái đã làm đứt dây lưng hai kẻ kia, chỉ nghe loảng xoảng hai thanh đơn đao rớt xuống đất, ánh đao lấp lánh.

Ai nấy biến sắc. Tây Hoa Tử nói to:

– Đúng vậy, nếu Trương ngũ hiệp không chịu nói ra chỗ ở của Tạ Tốn thì việc phải dùng đến đao kiếm cũng là thường thôi.

Trương Tòng Khê đang định kêu lớn hai tiếng “Chao ôi” làm ám hiệu, bỗng nghe từ ngoài vọng vào một tiếng “A Di Đà Phật!” Tiếng Phật hiệu ấy ai nấy nghe vừa trong vừa rõ, tuy là từ ngoài xa truyền tới, nhưng người nghe tưởng như ngay bên cạnh mình.

Trương Tam Phong cười, nói:

– Thì ra Không Văn thiền sư phái Thiếu Lâm tới, mau ra nghênh tiếp!

Tiếng nói từ ngoài cổng lại vọng vào:

– Trụ trì Thiếu Lâm tự Không Văn, cùng hai sư đệ Không Trí, Không Tính và các đệ tử môn hạ cung chúc Trương chân nhân thiên thu trường lạc.

Không Văn, Không Trí, Không Tính là ba nhân vật trong bốn đại thần tăng của phái Thiếu Lâm. Trừ Không Kiến đại sư đã viên tịch, cả ba vị đại thần tăng cùng đến. Trương Tòng Khê giật mình, không kêu hai tiếng “Chao ôi” nữa, biết rằng các đại cao thủ phái Thiếu Lâm đã tới núi Võ Đang thì dù mình có dùng Hổ trảo tuyệt hộ thủ chế ngự được các nhân vật phái Côn Luân, phái Không Động cũng vô dụng.

Chưởng môn phái Côn Luân Hà Thái Xung nói:

– Đã lâu ngưỡng mộ thanh danh các thần tăng Thiếu Lâm, hôm nay may mắn hội ngộ, coi như chuyến đi này không uổng.

Từ ngoài xa lại vọng vào giọng trầm ấm:

– Hẳn là chưởng môn phái Côn Luân Hà tiên sinh. Thật là hạnh hội, hạnh hội! Trương chân nhân, lão nạp tới bái thọ chậm trễ, thật bất kính.

Trương Tam Phong nói:

– Hôm nay tân khách tề tựu đông vui trên núi Võ Đang, lão đạo chẳng qua sống đến trăm tuổi, đâu dám làm phiền gót ngọc ba vị thần tăng?

Bốn người cách nhau mấy lần cửa mà vận nội lực đối đáp nhau chẳng khác gì đối diện đàm thoại. Tĩnh Huyền sư thái, Tĩnh Hư sư thái của phái Nga Mi, Quan Năng, Tông Duy Hiệp, Đường Văn Lượng, Thường Kính Chi của phái Không Động tự biết công lực thua kém nên không dám mở miệng xen vào. Các môn phái, bang hội còn lại, ai ai cũng kinh hãi, tự biết mình thua xa.

Trương Tam Phong dẫn các đệ tử ra đón, thấy ba vị thần tăng dẫn theo chín hòa thượng thong thả đến trước cung Tử Tiêu.

Không Văn đại sư lông mày trắng rủ xuống che cả mí mắt, trông như một vị La Hán mày dài. Không Tính đại sư thân hình cao lớn, tướng mạo uy vũ, còn Không Trí đại sư có vẻ mặt khắc khổ, hai khóe miệng trễ xuống. Tống Viễn Kiều thầm lấy làm lạ, vốn tinh thông thuật xem tướng, nghĩ bụng: “Người thường mà dung mạo như Không Trí đại sư, nếu không chết yểu, ắt cũng gặp tai họa từ sớm, đằng này đại sư vừa hưởng thọ cao, lại là một vị tông sư được mọi người trong võ lâm ngưỡng mộ. Xem ra thuật xem tướng của ta còn có chỗ chưa biết đến”.

Trương Tam Phong và ba vị thần tăng kia đều là bậc đại sư trong võ lâm, nhưng chưa từng diện kiến. Luận về tuổi tác, Trương Tam Phong hơn ba vị kia vài chục tuổi. Trương lão xuất thân từ Thiếu Lâm tự, nếu tính theo vai vế, sư phụ của Trương lão là Giác Viễn thiền sư, thì Trương lão cao hơn ba vị kia hai bậc. Song do Trương lão không thụ giới làm tăng nhân ở Thiếu Lâm tự, cũng không chính thức học võ một hòa thượng Thiếu Lâm nào cả nên chỉ dùng lễ ngang hàng mà chào hỏi. Huynh đệ Tống Viễn Kiều thành ra thấp hơn họ một bậc.

Trương Tam Phong đón các vị đại sư vào trong sảnh, Hà Thái Xung, Quan Năng, Tĩnh Huyền sư thái tiến lên chào, nói vài lời khách sáo ngưỡng mộ lẫn nhau. Không Văn thiền sư cực kỳ khiêm nhường, đối với hàng đệ tử hậu bối các môn phái, bang hội, thiền sư cũng chắp tay hành lễ, hỏi han đôi lời, nên mất khá lâu mới hoàn tất việc chào hỏi mọi người.

Ba vị cao tăng ngồi uống xong một tuần trà. Không Văn nói:

– Trương chân nhân, bần tăng xét theo lứa tuổi, vai vế thì chỉ là kẻ hậu bối của Trương chân nhân. Hôm nay ngoài việc chúc thọ, lẽ ra không nên nhắc tới chuyện khác, nhưng vì bần tăng là chưởng môn phái Thiếu Lâm nên có vài lời muốn trần tình với tiền bối, mong Trương chân nhân đừng phiền trách.

Trương Tam Phong vốn người hào sảng, nói thẳng không chút úp mở:

– Ba vị cao tăng, có phải vì chuyện đệ tử thứ năm của lão phu là Trương Thúy Sơn mà đến đây chăng?

Trương Thúy Sơn nghe sư phụ nhắc đến tên mình, liền đứng dậy.

Không Văn nói:

– Chính thế. Bần tăng có hai việc cần thỉnh giáo Trương ngũ hiệp. Việc thứ nhất, Trương ngũ hiệp đã giết toàn bộ bảy mươi mốt người ở tiêu cục Long Môn của đệ tử phái Thiếu Lâm, lại giết luôn sáu tăng nhân Thiếu Lâm tự, tổng cộng bảy mươi bảy người, bây giờ tính sao đây? Việc thứ hai, tệ sư huynh Không Kiến đại sư một đời từ bi đức độ, không tranh đua với ai, lại bị Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn sát hại, nghe nói Trương ngũ hiệp biết nơi ở của Tạ Tốn, mong Trương ngũ hiệp ban cho một lời.

Trương Thúy Sơn nói to:

– Không Văn đại sư! Bảy mươi bảy người của tiêu cục Long Môn và Thiếu Lâm tự hoàn toàn không phải do vãn bối giết hại. Trương Thúy Sơn này một đời được ân sư giáo huấn, tuy ngu dốt nhưng không dám nói dối và làm bậy. Người sát hại bảy mươi bảy người đó là ai, vãn bối cũng biết, nhưng không muốn nói ra. Đó là việc thứ nhất. Về việc thứ hai, Không Kiến đại sư viên tịch tây quy, thiên hạ ai cũng thống hận, có điều là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn và vãn bối đã cùng nhau kết nghĩa kim lan, lạy nhau tám lạy. Tạ Tốn hiện giờ ở đâu, quả không dám giấu, vãn bối cũng biết. Thế nhưng người học võ chúng ta trọng nhất một chữ “nghĩa”, Trương Thúy Sơn đầu có thể rơi, máu có thể đổ, nhưng chỗ ở của nghĩa huynh thì vãn bối quyết không thể thổ lộ. Việc này không liên quan gì đến ân sư, cũng không liên luỵ đến các huynh đệ đồng môn, chỉ một mình Trương Thúy Sơn đảm đương. Các vị nếu muốn lấy cái chết để ép buộc, định giết thì cứ việc ra tay. Họ Trương này bình sinh chưa làm việc gì tổn hại danh dự sư môn, cũng chưa từng giết lầm một người tốt, hôm nay các vị lại muốn ép tại hạ làm điều bất nghĩa, vậy chỉ còn một cái chết mà thôi.

Lời chàng thẳng thắn, đầy khí khái.

Không Văn thiền sư niệm “A Di Đà Phật!” nghĩ thầm: “Nghe y nói, xem chừng không phải giả dối, biết xử trí thế nào đây?”

Lúc đó, bên ngoài cửa sổ lớn của đại sảnh bỗng có tiếng gọi của con trẻ:

– Gia gia!

Trương Thúy Sơn giật mình, tiếng gọi vừa rồi chính là của Vô Kỵ, chàng nửa mừng nửa sợ, gọi to:

– Vô Kỵ, con về rồi đấy ư?

Chàng liền chạy ra. Bang Vu Sơn và Thần Quyền môn mỗi phái có một người đang đứng cạnh cửa, tưởng Trương Thúy Sơn định đào tẩu, cùng giơ tay cản lại, quát:

– Chạy đi đâu?

Trương Thúy Sơn đang gấp, hai vai hất một cái mà hai người kia đã văng ra xa hơn một trượng. Chàng chạy ra bên ngoài cửa sổ, chỉ thấy trống không, chẳng một bóng người, bèn gọi to:

– Vô Kỵ, Vô Kỵ!

Không có tiếng trả lời. Ân Tố Tố lúc này đã đỡ hẳn, ở hậu đường nghe tiếng phu quân gọi “Vô Kỵ” liền vội vàng chạy ra, run run hỏi:

– Vô Kỵ về rồi ư?

Trương Thúy Sơn nói:

– Ta vừa nghe như tiếng hài tử gọi, chạy ra thì không thấy đâu cả.

Ân Tố Tố thất vọng, nói nhỏ:

– Chắc tại chàng nhớ con quá nên nghe lầm thôi.

Trương Thúy Sơn lắc đầu:

– Rõ ràng ta nghe tiếng hài tử mà.

Chàng sợ thê tử ra ngoài để các tân khách trông thấy sẽ sinh rắc rối, vội nói:

– Nàng lui vào đi.

Chàng trở lại đại sảnh, hướng về phía Không Văn hành lễ, nói:

– Vãn bối nhớ thương khuyển tử, vừa rồi thất lễ, xin đại sư lượng thứ.

Không Trí nói:

– Thiện tai, thiện tai! Trương ngũ hiệp thương nhớ ái tử, vừa rồi không khác gì kẻ cuồng dại, không lẽ bao nhiêu người bị Tạ Tốn sát hại, họ không có phụ mẫu thê nhi hay sao?

Không Trí đại sư thân hình gầy nhỏ, nhưng tiếng nói vang như chuông, chấn động đại sảnh, khiến người nghe ù cả tai. Trương Thúy Sơn trong lòng bấn loạn, không biết trả lời ra sao.

Không Văn phương trượng quay sang Trương Tam Phong, nói:

– Trương chân nhân, việc hôm nay phải xử lý ra sao, xin Trương chân nhân chỉ giáo.

Trương Tam Phong nói:

– Gã tiểu đồ của lão phu tuy không tài cán gì, song không dám coi thường sư phụ, càng không dám nói dối ba vị cao tăng Thiếu Lâm, người của tiêu cục Long Môn và của quý phái quả thật không phải do hắn đả thương. Chỗ ở của Tạ Tốn, hắn không chịu tiết lộ.

Không Trí cười khẩy:

– Có người tận mắt mục kích Trương ngũ hiệp sát hại đệ tử môn hạ của phái Thiếu Lâm, chẳng lẽ đệ tử phái Võ Đang không dám nói dối, còn tăng nhân Thiếu Lâm lại bịa chuyện ư?

Nói đoạn vẫy tay trái một cái, từ sau lưng bước ra ba hòa thượng trung niên. Ba người đó đều chột mắt bên phải, chính là Viên Tâm, Viên Âm, Viên Nghiệp là mấy người đã bị Ân Tố Tố dùng ngân châm ném mù mắt trên bờ Tây Hồ phủ Lâm An.

Ba người đó theo Không Văn thiền sư lên núi Võ Đang, Trương Thúy Sơn đã sớm nhìn thấy, biết là họ đến để đối chất vụ án bên Tây Hồ; quả nhiên Không Trí đại sư nói chưa hết câu đã gọi họ ra. Trương Thúy Sơn cảm thấy thật khó xử, hung thủ giết người bên Tây Hồ tuy quả thực không phải là chàng, nhưng lại chính là người vợ đầu gối tay ấp của chàng. Phu thê tình sâu nghĩa nặng, làm sao không che chở cho nhau? Nhưng trong tình thế này, biết che chở sao đây?

Trong ba tăng nhân hàng chữ “Viên” kia, Viên Nghiệp là người tính tình nóng nảy nhất. Cứ tính khí đó, vừa thấy Trương Thúy Sơn là đã muốn xông vào động thủ thí mạng, song trước mắt sư bá, sư thúc, y phải cố nén giận, giờ nghe sư phụ gọi ra, y liền nói lớn:

– Trương Thúy Sơn, bên Tây Hồ phủ Lâm An, ngươi dùng độc châm bắn vào miệng Tuệ Phong giết chết Tuệ Phong, chính mắt ta trông thấy, không lẽ nói oan cho ngươi? Mắt phải của cả ba chúng ta đều bị ngươi dùng độc châm bắn mù, chẳng lẽ ngươi còn chối quanh?

Trương Thúy Sơn lúc này chỉ có thanh minh được chút nào hay chút ấy, chàng nói:

– Môn hạ Võ Đang chúng tôi tuy có học không ít loại ám khí, nhưng toàn là các ám khí lớn như cương tiêu, tụ tiễn. Bảy huynh đệ đồng môn chúng tôi hành tẩu giang hồ đã lâu, đã có ai thấy đệ tử Võ Đang sử dụng ngân châm, kim châm bao giờ chưa? Trên châm lại bôi thuốc độc lại càng không thể có chuyện đó.

Võ Đang thất hiệp trước nay xuất thủ quang minh chính đại, trong võ lâm ai nấy đều biết, nay bảo Trương Thúy Sơn dùng độc châm đả thương người, thì tân khách lên núi hôm nay khó mà tin được. Viên Nghiệp giận dữ nói:

– Việc đã rành rành, ngươi còn cố cãi ư? Tối đó ngươi dùng châm giết Tuệ Phong, ta và sư huynh Viên Tâm cùng nhìn thấy, nếu không phải ngươi thì còn ai vào đấy?

Trương Thúy Sơn nói:

– Quý phái có người bị hại, lại đến hỏi phái Võ Đang nói cho biết kẻ nào đả thương; thiên hạ lại có thứ quy củ như vậy sao?

Lời lẽ của chàng sắc bén, lanh lợi. Viên Nghiệp trong cơn cuồng nộ càng nói càng lộn xộn không đâu vào đâu, khiến cho một chuyện vốn rất có lý của phái Thiếu Lâm lại hóa thành thứ cưỡng từ đoạt lý.

Trương Tòng Khê tiếp lời:

– Viên Nghiệp sư huynh, việc mấy vị tăng nhân Thiếu Lâm bị kẻ nào sát hại, rốt cuộc chưa xác định rõ ràng. Còn việc tệ sư huynh Du Đại Nham thì hiển nhiên là bị “Kim cương chỉ lực” của phái Thiếu Lâm đả thương. Các vị tới thật đúng lúc, chúng tôi chính đang muốn hỏi, kẻ dùng Kim cương chỉ lực đả thương Du tam ca của tại hạ là ai?

Viên Nghiệp ấp úng nói:

– Không phải ta.

Trương Tòng Khê cười khẩy:

– Tại hạ cũng biết không phải đại sư, vì đại sư chắc gì luyện được công phu đó.

Ngừng một lát, chàng nói tiếp:

– Nếu như tam sư ca của tại hạ đang khỏe mạnh, mà động thủ với cao thủ của quý phái, có bị đả thương bởi Kim cương chỉ lực, thì cũng chỉ trách tam sư ca học nghệ chưa tinh, bởi vì đã ra tay đánh nhau, ắt có bên bị thương, chuyện ấy dĩ nhiên. Không lẽ trước khi tỷ thí, phải làm giấy bảo đảm không được đụng tới sợi lông hay sao? Đằng này khi đó tam sư ca của tại hạ đang cơn trọng bệnh, thân thể không cử động được, vậy mà vị đệ tử phái Thiếu Lâm nọ lại dùng Kim cương chỉ lực bẻ gãy tứ chi của tam sư ca tại hạ chỉ cốt tra hỏi thanh đao Đồ Long ở đâu.

Nói tới đây, chàng cao giọng:

– Thiết tưởng phái Thiếu Lâm võ công đứng đầu thiên hạ, sớm đã thành võ lâm chí tôn rồi, sao lại cứ phải đoạt cho bằng được thanh đao Đồ Long kia chứ? Huống hồ thanh đao Đồ Long ấy, Du tam ca của tại hạ cũng chỉ nhìn thấy có một lần mà đệ tử quý phái dùng cực hình tra hỏi như thế thì thủ đoạn thật quá sức tưởng tượng. Du Đại Nham có chút uy danh trên giang hồ, bình sinh hành hiệp trượng nghĩa, làm không ít điều hay cho võ lâm, lại bị phái Thiếu Lâm hại thành suốt đời tàn phế, mười năm nay nằm liệt một chỗ. Chúng tôi đang muốn hỏi ba vị thần tăng tính xử thế nào đây?

Về vụ Du Đại Nham bị đả thương, tiêu cục Long Môn bị thảm sát, hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang suốt mười năm qua đã tốn không biết bao lần lời qua tiếng lại, chỉ vì Trương Thúy Sơn mất tích cho nên vẫn chưa xử lý được. Trương Tòng Khê thấy Không Trí, Viên Nghiệp hung hăng truy vấn, bèn đưa vụ công án này ra.

Không Văn thiền sư nói:

– Việc này lão nạp từng nói rồi, lão nạp có tra hỏi kỹ càng đệ tử bổn phái, không một ai đả thương Du tam hiệp cả.

Trương Tòng Khê thò tay vào bọc lấy ra một thỏi vàng Nguyên Bảo, trên đó còn in hằn rõ ràng vết ngón tay, nói lớn:

– Mời anh hùng thiên hạ cùng xem, kẻ đả thương Du tam ca của tại hạ là đệ tử phái Thiếu Lâm, đã in dấu tay trên thỏi vàng này. Trừ Kim cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm, còn nhà nào, phái nào có môn võ công như thế?

Viên Âm, Viên Nghiệp kết tội Trương Thúy Sơn chẳng qua chỉ bằng lời nói. Trương Tòng Khê lại có vật chứng đưa ra, so với lời nói suông, quả là có sức thuyết phục hơn nhiều.

Không Văn nói:

– Thiện tai, thiện tai! Luyện thành Kim cương chỉ lực của bổn phái, ngoài sư huynh sư đệ ba bần tăng, chỉ còn ba vị trưởng lão tiền bối, song ba vị tiền bối đó mấy chục năm nay không ra khỏi cổng Thiếu Lâm tự, làm sao có thể đả thương Du tam hiệp?

Mạc Thanh Cốc đột nhiên nói xen vào:

– Đại sư không tin lời ngũ sư ca chúng tôi, bảo đó là lời chối của một bên; thế lời đại sư vừa nói không phải là lời chối của một bên đó sao?

Không Văn thiền sư có hàm dưỡng rất cao, nghe Mạc Thanh Cốc nói móc họng như thế, vẫn không giận, chỉ nói:

– Mạc thất hiệp không chịu tin lời lão nạp, lão nạp chả còn cách nào khác.

Mạc Thanh Cốc nói:

– Vãn bối làm sao dám không tin lời thiền sư? Có điều thế sự biến ảo, đúng sai thật giả lẫn lộn, nhiều khi không ai ngờ nổi. Các vị cứ khăng khăng bảo mấy vị cao tăng Thiếu Lâm bị tệ ngũ sư ca đả thương; chúng tôi thì khẳng định tệ tam sư ca bị Kim Cương chỉ lực của cao thủ quý phái làm hại, xem ra việc này có nhiều uẩn khúc, bí mật. Theo thiển ý của vãn bối, việc này để từ từ bàn tính, tránh làm tổn thương hòa khí hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang. Xử lý một cách nóng nảy tùy tiện, sau này chân tướng lộ ra, chỉ e hối hận không kịp.

Không Văn gật đầu, nói:

– Mạc thất hiệp nói rất phải.

Không Trí cao giọng nói:

– Chẳng lẽ mối huyết hải trầm oan của Không Kiến sư huynh không được nói đến nữa sao? Trương ngũ hiệp, vụ tiêu cục Long Môn, tạm thời chưa hỏi tới, nhưng còn chỗ ở của Tạ Tốn thì hôm nay nhất định Trương ngũ hiệp phải nói, không nói không được.

Du Liên Châu từ đầu vẫn ngồi im, lúc này thấy cục diện đã thành chuyện, bèn lớn tiếng hỏi:

– Nếu thanh đao Đồ Long không còn ở trong tay Tạ Tốn, liệu đại sư có nóng lòng tìm chỗ ở của y nữa chăng?

Chàng chỉ nói vài lời ngắn gọn nhưng câu hỏi quá lợi hại, rõ ràng ngụ ý chỉ trích Không Trí dòm ngó bảo vật, lòng vẫn còn tham.

Không Trí cả giận, đập tay xuống bàn một cái, nghe rắc rắc, bốn cái chân bàn cùng gãy, mặt bàn vỡ toác, bụi bay tung tóe, uy lực của một chưởng thật kinh người, đoạn đại sư quát lớn:

– Nghe đồn võ công của Trương chân nhân bắt nguồn từ Thiếu Lâm, trò giỏi hơn thầy. Bần tăng ngưỡng mộ đã lâu, chẳng hiểu lời đồn có đúng sự thực hay không. Hôm nay trước mắt anh hùng thiên hạ, bần tăng mạo muội mời Trương chân nhân chỉ giáo một phen.

Lời vừa dứt, quần hào trong sảnh đều xôn xao. Trương Tam Phong thành danh đã bảy mươi năm, những ai từng động thủ với Trương chân nhân đều chết cả rồi. Võ công của Trương lão rốt cuộc cao đến mức nào, trong võ lâm chỉ lưu truyền các truyền thuyết mà thôi; ngoài bảy đệ tử đích truyền ra, không một ai thấy tận mắt. Bọn Tống Viễn Kiều danh vang thiên hạ, đệ tử đã thế, bản lĩnh của sư phụ khỏi cần nói cũng biết. Những người không thuộc hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang nghe Không Trí công khai khiêu chiến với Trương Tam Phong, ai nấy đều phấn chấn, nghĩ thầm hôm nay được xem các đệ nhất cao thủ đương thời hiển thị võ công, quả không uổng một chuyến đi.

Tất cả mọi người cùng chú mục vào Trương Tam Phong, chờ xem Trương chân nhân có nhận lời thách đấu hay không, chỉ thấy Trương lão mỉm cười, không trả lời.

Không Trí nói:

– Trương chân nhân võ công cái thế, vô địch thiên hạ. Sư huynh đệ bần tăng tự biết không phải là đối thủ của Trương chân nhân. Nhưng sự thể đến nước này, cuộc tranh cãi giữa quý phái và tệ phái nếu không dựa vào võ công phân để định mạnh yếu thì không còn cách nào khác. Sư huynh sư đệ chúng tôi không tự lượng sức, muốn liên thủ xin Trương chân nhân chỉ giáo. Trương chân nhân cao hơn chúng tôi hai bậc, nếu lấy một chọi một, e rằng quá bất kính với Trương chân nhân.

Mọi người nghĩ thầm: “Đại sư nói nghe rất ngọt, thực chất là lấy ba đánh một. Trương chân nhân võ công tuy cao siêu, nhưng tuổi hạc tròn trăm, tinh lực đã suy, chắc gì địch nổi ba đại thần tăng Thiếu Lâm liên thủ hợp lực”.

Du Liên Châu nói:

– Hôm nay là mừng đại thọ bách tuế của gia sư, há có thể động thủ với tân khách?

Mọi người nghe tới đây, đều nghĩ thầm: “Phái Võ Đang quả nhiên không dám ứng chiến”. Nào ngờ Du Liên Châu nói tiếp:

– Huống hồ chính Không Trí đại sư vừa nói, gia sư và ba vị thần tăng vai vế không hợp, nếu tỷ thí thật sự, chỉ e mang tiếng ỷ lớn hiếp nhỏ. Song các cao thủ Thiếu Lâm đã thách đấu, Võ Đang thất đệ tử xin được lĩnh giáo võ học tinh diệu của mười hai vị cao tăng phái Thiếu Lâm.

Mọi người nghe nói thế lại xôn xao cả lên. Không Văn, Không Trí, Không Tính, mỗi người dẫn theo ba đệ tử lên núi, tổng cộng mười hai tăng nhân Thiếu Lâm. Mọi người đều biết Du Đại Nham toàn thân tàn phế, Võ Đang thất hiệp chỉ còn lại sáu người, lấy sáu địch mười hai, tức là lấy một chọi hai. Du Liên Châu sắp trận như thế, có thể nói đã đặt phái Võ Đang cao hơn phái Thiếu Lâm.

Kiến nghị của Du Liên Châu xem ra có phần mạo hiểm, thực là bị ép nên bất đắc dĩ phải tính như thế. Chàng biết ba đại thần tăng Thiếu Lâm kia nếu xét cả công lực lẫn độ tuổi đều cao hơn huynh đệ chàng, họ tu luyện lâu hơn. Nếu một đấu một, đại sư ca Tống Viễn Kiều có thể ngang ngửa với mỗi vị bên đó. Bản thân chàng vết thương mới khỏi, chưa chắc địch nổi một vị thần tăng. Còn vị thứ ba, dù Trương Tòng Khê, Ân Lê Đình hay Mạc Thanh Cốc, đều nắm chắc thua. Chàng xếp đấu như thế, tuy là sáu huynh đệ đấu với mười hai cao tăng, thực ra chín đệ tử trong mười hai vị không có gì đáng ngại, tưởng là phái Võ Đang lấy ít địch nhiều, kỳ thực sáu đệ tử Võ Đang đấu với ba đại thần tăng Thiếu Lâm.

Không Trí lẽ nào không biết điều đó, hừm một tiếng, nói:

– Nếu Trương chân nhân không chịu chỉ giáo thì ba chúng tôi xin thỉnh giáo ba người trong Võ Đang lục hiệp, ba trận phân thắng bại, bên nào thắng hai là được.

Trương Tòng Khê nói:

– Không Trí đại sư nói một chọi một, thế cũng được. Có điều huynh đệ bảy người chúng tôi, trừ tam ca Du Đại Nham bị đệ tử phái Thiếu Lâm hạ độc thủ, không ngồi dậy được, sáu người còn lại không ai chịu lùi cả. Vậy hãy đấu sáu trận phân thắng bại, sáu đệ tử Võ Đang nghênh chiến sáu vị cao tăng Thiếu Lâm, trong sáu trận bên nào thắng bốn là được.

Mạc Thanh Cốc tiếp lời, nói to:

– Cứ làm như thế, nếu phái Võ Đang thua, Trương ngũ ca sẽ nói cho phương trượng Thiếu Lâm tự biết chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Nếu phái Thiếu Lâm nhường nhịn, thì xin ba vị thần tăng dẫn toàn bộ các vị bằng hữu mượn danh bái thọ, thực ra là đến gây sự, xuống núi cho rồi!

Trương Tòng Khê đưa ra cách sáu người đánh từng cặp như thế, có thể nói là chắc chắn không thua. Chàng tính rằng đại sư ca và nhị sư ca võ công ngang ngửa với ba vị thần tăng, các cao tăng Thiếu Lâm còn lại chắc chắn sẽ thua cả ba trận.

Không Trí lắc đầu:

– Không được, không được!

Nhưng vì sao không được, lại không thể nói rõ ra.

Trương Tòng Khê nói:

– Ba vị đòi đấu với gia sư, lấy ba đánh một. Đến khi chúng tôi kiến nghị lấy sáu người đấu với mười hai vị cao tăng Thiếu Lâm thì Không Trí đại sư lại muốn một chọi một. Chúng tôi bằng lòng một chọi một, đại sư lại bảo là không được. Nếu vậy, để một mình vãn bối đấu với ba vị đại thần tăng Thiếu Lâm, chắc là được chứ gì? Ba vị đánh chết vãn bối, thế là phái Thiếu Lâm toàn thắng, tha hồ đắc chí!

Không Trí nghe vậy biến sắc. Không Văn miệng niệm “A Di Đà Phật!”, Không Tính từ đầu chưa nói gì, bây giờ lên tiếng:

– Hai vị sư ca, Trương tứ hiệp muốn một mình đấu với ba chúng ta, vậy thì tiến lên thôi!

Không Tính võ công tuy cao, nhưng xuất gia từ nhỏ, không hiểu thế sự, không hiểu nổi ý châm biếm giễu cợt của Trương Tòng Khê. Không Văn nói:

– Sư đệ im lặng thì hơn.

Đoạn quay sang Tống Viễn Kiều, nói:

– Vậy thì sáu tăng nhân Thiếu Lâm lĩnh giáo cao chiêu của Võ Đang lục hiệp, một trận định hơn thua.

Tống Viễn Kiều nói:

– Không phải Võ Đang lục hiệp, mà là Võ Đang thất hiệp.

Không Trí kinh ngạc, hỏi:

– Tôn sư Trương chân nhân cũng hạ trường ư?

Tống Viễn Kiều nói:

– Đại sư đoán sai rồi. Những ai động thủ với gia sư, đều đã quy tiên hết rồi. Gia sư lẽ nào còn phải ra tay?! Du tam đệ của tại hạ tuy trọng thương, không thể cử động, y cũng chưa có đệ tử, nhưng sư huynh sư đệ bảy người chúng tôi trước nay luôn là một, hôm nay là ngày tử sinh vinh nhục, y đời nào có thể bỏ mặc? Tại hạ sẽ bảo y tạm thời tìm một người nào đấy, mách cho vài chiêu, coi như thay y ra đấu. Võ Đang thất đệ tử đấu với các vị cao tăng Thiếu Lâm, quý vị muốn bảy người ra đấu, hoặc mười hai người ra đấu cũng được, chẳng có gì khác biệt cả.

Không Văn trầm ngâm, nghĩ thầm: “Phái Võ Đang trừ Trương Tam Phong và bảy đệ tử ra, không nghe nói có cao thủ nào nữa. Y tìm tạm một người, mách cho vài nước, thì làm sao giỏi được? Nếu mời cao thủ của phái khác ra giúp, thì đâu còn là cuộc hội chiến giữa hai phái Võ Đang với Thiếu Lâm? Chắc là y chỉ muốn bảo toàn uy danh của Võ Đang thất hiệp nên nói thế đấy thôi”. Vậy là gật đầu, nói:

– Được rồi, bảy tăng nhân Thiếu Lâm sẽ đấu với Võ Đang thất hiệp.

Bọn Du Liên Châu, Trương Tòng Khê hiểu ngay lập tức dụng ý của Tống Viễn Kiều.

Nguyên Trương Tam Phong có một pho võ công rất đắc ý gọi là “Chân Võ thất tiệt trận”. Trên núi Võ Đang thờ Chân Võ đại đế. Một hôm Trương Tam Phong nhìn thấy hai vị tướng Quy và Xà trước tượng thần, nghĩ đến chỗ Trường Giang và Hán Thủy hội lưu có Quy Sơn và Xà Sơn, thầm nghĩ trường xà linh động, ô quy lại vững vàng, một Quy một Xà ở hai bên tả hữu Chân Võ đại đế chính là kiêm thu hai tính chất ấy của hai con vật tối linh thiêng. Trương Tam Phong liền ngày đêm đi một mạch đến Hán Dương, ngắm kỹ hai núi Quy, Xà, từ cái thế uyển chuyển của Xà sơn đến cái hình trang trọng vững vàng của Quy sơn mà sáng tạo ra một pho võ công tinh diệu vô song.

Chỉ có điều thế núi của hai ngọn Quy, Xà quá hùng vĩ, sơn mạch quá rộng lớn bao la, môn võ công rút từ đó ra một người không tài nào thi triển cùng một lúc cho hết được. Trương Tam Phong đứng trên bến sông Trường Giang ba ngày đêm liền không ăn không uống, cố nghĩ cách xử lý nan đề này. Tới sáng sớm ngày thứ tư, khi mặt trời vừa từ phương đông nhô lên, chiếu trên mặt sông thành muôn ngàn con rắn vàng chuyển động loang loáng, Trương Tam Phong đột nhiên tỉnh ngộ, cười ha hả, trở về núi Võ Đang, gọi bảy đệ tử lại truyền cho mỗi người một pho võ công.

Bảy pho võ công đó dùng riêng rẽ cũng đã tinh vi huyền diệu, song nếu hai người hợp lực, sư huynh sư đệ hỗ trợ nhau, công thủ kiêm bị, uy lực sẽ gia tăng rất lớn. Nếu ba người hợp lực, uy lực sẽ tăng gấp đôi so với hai người. Bốn người sẽ tương đương tám cao thủ, năm người bằng mười sáu cao thủ, sáu người bằng ba mươi hai cao thủ. Nếu bảy người hợp lực, thì ngang với sáu mươi tư đệ nhất cao thủ đương thế cùng ra tay. Hiện thời, nếu gọi là đệ nhất cao thủ trong thiên hạ nhiều lắm chỉ được vài ba chục người, làm gì có cơ duyên để họ tụ hội cùng một nơi; dù có tụ hội đi chăng nữa, ngần ấy người có chính có tà, có thiện có ác, làm sao đồng tâm hợp lực kia chứ?

Pho võ công đó của Trương Tam Phong được sáng chế từ hình ảnh hai tướng Quy, Xà dưới chân Chân Võ đại đế, được đặt tên là “Chân Võ thất tiệt trận”. Ba ngày đêm khổ công suy nghĩ bên bến sông chính là để giải quyết cái khó khăn làm sao giữ kín bên phía đông mà không bị hở phía tây, lại bảo toàn được cả phía nam phía bắc, không cho kẻ địch thừa cơ tấn công. Sau đó vỡ lẽ ra, cho bảy đệ tử cùng thi triển mới giải quyết xong cái khó. Có điều Chân Võ thất tiệt trận không thể chỉ do một người thi triển, đó là thiếu sót lớn. Nhưng lại nghĩ thầm: “Nếu một người sử dụng được toàn bộ pho Chân Võ thất tiệt trận, chẳng hóa ra một người địch nổi sáu mươi tư đệ nhất cao thủ, thì thật là hoang đường cuồng vọng”. Nghĩ tới đó, Trương Tam Phong không khỏi bật cười.

Võ Đang thất hiệp từ khi thành danh đến nay hễ đến đâu cũng chiếm thượng phong, kẻ địch lợi hại cỡ nào cũng chỉ cần hai ba người liên thủ là đều chiến thắng, thành thử cả pho Chân Võ thất tiệt trận chưa hề được sử dụng lần nào. Lúc này Tống Viễn Kiều thấy đại địch trước mắt, ba vị đại thần tăng Thiếu Lâm kia công lực thế nào chưa ai hay biết, nghĩ mình có thể đấu ngang ngửa với một vị, song cũng chỉ là tự mình nghĩ thế, e rằng đụng trận rồi mình lại thua không chừng, thế nên mới tính chuyện đem ra thử Chân Võ thất tiệt trận, pho võ công trấn sơn chí bảo của phái Võ Đang.

Nghe Không Văn đại sư bằng lòng đưa bảy tăng nhân Thiếu Lâm đấu với Võ Đang thất hiệp, Tống Viễn Kiều bèn nói:

– Xin các vị đợi một lát, tại hạ vào bảo tam sư đệ tìm tạm truyền nhân, cho đủ số Võ Đang thất đệ tử.

Đoạn đưa mắt ra hiệu cho bọn Du Liên Châu, cả sáu huynh đệ cúi chào Trương Tam Phong cáo lui, đi vào nội đường.

Mạc Thanh Cốc lên tiếng trước tiên:

– Đại sư ca, hôm nay chúng ta hãy sử dụng “Chân Võ thất tiệt trận” cho các hòa thượng Thiếu Lâm tự biết bản lĩnh của Võ Đang đệ tử đi! Vậy ai sẽ thay tam ca?

Tống Viễn Kiều nói:

– Việc này cả sáu huynh đệ cùng quyết định. Đừng ai nói ra vội, mỗi người hãy viết một cái tên vào lòng bàn tay, rồi mọi người cùng xem đó là ai.

Mạc Thanh Cốc nói:

– Hay lắm!

Liền lấy bút ra đưa cho các sư huynh. Tống Viễn Kiều viết trong lòng bàn tay một cái tên, nắm tay lại, đưa bút cho Du Liên Châu. Mọi người viết xong, cùng mở bàn tay ra, thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tòng Khê ba người viết chữ “Ngũ đệ muội”, Trương Thúy Sơn thì viết chữ “Chuyết kinh”[45], Ân Lê Đình vẫn cứ nắm tay chưa chịu mở ra, mặt đỏ bừng. Mạc Thanh Cốc nói:

– Ồ, lạ chưa!

Đoạn cậy tay Ân Lê Đình cho mở ra, thấy trong đó viết ba chữ “Kỷ cô nương”.

Trương Thúy Sơn rất cảm kích, nắm chặt tay Ân Lê Đình, nói:

– Lục đệ!

Mọi người đều biết Ân Lê Đình ngại Ân Tố Tố vừa mới khỏi bệnh, không tiện ra tỷ thí, nên muốn mời vị hôn thê của mình là Kỷ Hiểu Phù đấu thay. Mạc Thanh Cốc toan cười chế giễu, Trương Thúy Sơn liền đưa mắt ngăn lại. Tống Viễn Kiều nói:

– Ngũ đệ, vào mời đệ muội ra đây.

Trương Thúy Sơn đi về phòng mình, gọi nàng ra chỗ mấy huynh đệ, nói vắn tắt cho nàng rõ tình hình trong đại sảnh. Ân Tố Tố nói:

– Hết thảy mọi người ở tiêu cục Long Môn cùng mấy hòa thượng Thiếu Lâm tự đều do muội sát hại, lúc đó muội chưa quen biết ngũ ca, việc này không nên để liên lụy các vị sư huynh sư đệ phái Võ Đang. Muội sẽ ra bảo họ đi tìm Thiên Ưng giáo mà thanh toán với phụ thân muội là xong.

Trương Tòng Khê nói:

– Đệ muội, việc đến nước này không nên phân biệt là của mình hay của người khác nữa. Huống hồ theo ý ngu huynh thì bọn người kia lên núi hỏi chuyện tiêu cục Long Môn chỉ là phụ, cái chính là tìm tung tích Tạ Tốn, hơn nữa, trong việc tìm Tạ Tốn, việc báo thù chỉ là phụ, cướp lại thanh đao Đồ Long mới là chính.

Mạc Thanh Cốc nói:

– Tứ ca nói không sai chút nào; bọn họ chỉ nhòm ngó thanh đao Đồ Long, dù gì chăng nữa, họ cũng nhất quyết bức ngũ tẩu nói ra thanh bảo đao ấy đang ở đâu.

Trương Thúy Sơn nói:

– Năm xưa Không Kiến đại sư từng nói với nghĩa huynh Tạ Tốn của đệ, rằng trong thanh đao Đồ Long có giấu một pho võ công vô địch thiên hạ, trấn nhiếp võ lâm. Không Kiến đã biết thì chắc Không Văn, Không Trí, Không Tính cũng biết cả.

Ân Tố Tố nói:

– Nếu vậy, mọi việc cứ do đại ca định liệu. Có điều muội võ công thấp kém, trong giây lát làm sao lĩnh hội được sự tinh diệu của Chân Võ thất tiệt trận?

Tống Viễn Kiều nói:

– Thực ra sáu huynh đệ ta liên thủ đối phó với bảy tăng nhân Thiếu Lâm cũng nắm chắc phần thắng rồi. Có điều đệ muội sẽ ra đấu với thân phận truyền nhân của tam đệ thì tam đệ sẽ cảm thấy được an ủi.

Võ Đang lục hiệp tâm ý tương đồng. Sở dĩ muốn Ân Tố Tố tham dự, chẳng phải để chế ngự kẻ địch mà chỉ vì Du Đại Nham. Nên biết Võ Đang lục hiệp hợp lực thi triển Chân Võ thất tiệt trận đã có đủ uy lực để chống chọi ba mươi hai đệ nhất cao thủ, ba vị thần tăng Thiếu Lâm dù cao cường, các đệ tử dẫn theo dù có chân tài chưa lộ thì bảy người bên ấy cũng không thể nào tương đương ba mươi hai đệ nhất cao thủ, cái đó là điều chắc chắn. Pho Chân Võ thất tiệt trận từ khi được sư phụ truyền thụ đến nay, chưa sử dụng lần nào, hôm nay nếu đánh bại ba đại thần tăng phái Thiếu Lâm, mà Du Đại Nham không được chung niềm vui đó ắt hẳn trong lòng sẽ không khỏi uất ức. Huynh đệ Tống Viễn Kiều muốn Ân Tố Tố học Du Đại Nham vài chiêu, nói là thay mặt sư ca nhưng sau này giang hồ sẽ loan truyền rằng Du Đại Nham không xuất thủ mà cũng như xuất thủ, vẫn đủ Võ Đang thất hiệp.

Nỗi niềm tâm sự đó của huynh đệ Tống Viễn Kiều, chỉ sau vài lời là Ân Tố Tố hiểu ngay, nàng nói:

– Được rồi, vậy để muội xin tam ca dạy cho vài chiêu. Có điều công phu của muội thua kém các vị quá xa, chỉ mong không làm vướng tay vướng chân các vị thôi.

Ân Lê Đình nói:

– Không sao, ngũ tẩu chỉ cần nhớ phương vị và bước chân là đủ. Lúc giao đấu có quên, mọi người sẽ nhắc cho.

Cả bảy người liền đi vào phòng Du Đại Nham. Trương Thúy Sơn sau khi về núi đã vài lần trò chuyện với tam sư ca, riêng Ân Tố Tố đang bệnh nên đây là lần đầu tiên nàng gặp Du Đại Nham.

Du Đại Nham thấy nàng dung nhan mỹ lệ, cử chỉ ôn nhã thì rất mừng cho ngũ đệ, nghe Tống Viễn Kiều bảo rằng nàng sẽ thay chàng tham gia Chân Võ thất tiệt trận giao đấu với ba đại thần tăng Thiếu Lâm, chợt cảm thấy chua xót trong lòng. Nhưng chàng tàn phế đã mười năm, đã quen với mọi thứ, bèn mỉm cười, nói:

– Ngũ đệ muội, tam ca chẳng có thứ quà gì tặng ngũ đệ muội, lúc này gấp gáp, chỉ có thể truyền cho ngũ đệ muội phương vị bộ pháp của trận thế mà thôi. Đợi sau khi đánh lui quân địch, tam ca sẽ nói dần dần cho ngũ đệ muội biết các biến hóa và cách tập luyện trận pháp.

Ân Tố Tố vui mừng nói:

– Đa tạ tam ca.

Đây là lần đầu tiên Du Đại Nham nghe giọng nói của Ân Tố Tố. Vừa nghe bốn tiếng “Đa tạ tam ca”, lập tức các bắp cơ trên mặt chàng giựt giựt, hai mắt mở trừng trừng, ngưng thần suy tư. Trương Thúy Sơn lo lắng hỏi:

– Tam ca, tam ca không khỏe ư?

Du Đại Nham không đáp, chỉ đờ đẫn xuất thần, ánh mắt lộ vẻ khó tả, vừa thống khổ, vừa oán hận, hiển nhiên là chàng đang nhớ lại một chuyện vô cùng bi thương trong đời.

Trương Thúy Sơn quay sang nhìn vợ, thấy nàng thần sắc đại biến, vẻ mặt hoảng hốt, đầy lo lắng.

Huynh đệ Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu nhìn Du Đại Nham, lại nhìn Ân Tố Tố, chưa hiểu tại sao hai người bỗng dưng thần sắc như thế, đều cảm thấy có chuyện chẳng lành, nhất thời căn phòng im phăng phắc, tưởng chừng nghe rõ cả tiếng tim đập vậy.

Chỉ thấy Du Đại Nham hơi thở mỗi lúc thêm dồn dập, hai gò má nhợt nhạt chợt thoáng hiện sắc hồng, lên tiếng hỏi nhỏ:

– Ngũ đệ muội, hãy lại gần đây cho ta nhìn kỹ một chút.

Ân Tố Tố run rẩy, không dám lại gần, giơ tay nắm chặt lấy tay phu quân.

Lát sau, Du Đại Nham thở dài, nói:

– Ngũ đệ muội không lại gần cũng chẳng sao, ngày hôm ấy, ta cũng đâu có nhìn thấy mặt ngũ đệ muội. Bây giờ ngũ đệ muội hãy thử nhắc lại mấy câu này “Thứ nhất, chính Đô tổng tiêu đầu phải đi áp tải chuyến này. Thứ hai, từ phủ Lâm An đến phủ Tương Dương, Hồ Bắc, phải đi suốt ngày đêm không nghỉ, nội trong mười ngày phải đưa đến nơi. Nếu có nửa phần sai sót, chậm trễ, hì hì, đừng nói tính mạng của Đô tổng tiêu đầu đã đành, mà toàn bộ già trẻ lớn bé ở tiêu cục Long Môn cũng sẽ không một ai được sống sót”.

Mọi người nghe Du Đại Nham nói chậm rãi từng lời, bất giác đều toát mồ hôi lạnh.

Ân Tố Tố tiến lên một bước, nói:

– Tam ca, quả nhiên tam ca đã nhận ra giọng nói của muội. Hôm đó tại tiêu cục Long Môn phủ Lâm An, người ủy thác cho Đô Đại Cẩm đưa tam ca về núi Võ Đang chính là tiểu muội.

Du Đại Nham nói:

– Đa tạ hảo tâm của đệ muội.

Ân Tố Tố nói:

– Sau đó tiêu cục Long Môn hành sự không chu đáo, khiến tam ca ra nông nỗi này, nên tiểu muội đã giết sạch già trẻ lớn bé của tiêu cục đó.

Du Đại Nham lạnh lùng hỏi:

– Vì cớ gì đệ muội lại đối đãi với ta như vậy?

Ân Tố Tố vẻ mặt rầu rĩ, thở dài, nói:

– Tam ca, việc đã thế này, tiểu muội cũng chả giấu được nữa. Song tiểu muội phải nói trước, sở dĩ chưa cho Thúy Sơn biết, là vì… sợ rằng… sợ rằng khi biết rồi, ngũ ca sẽ… không còn thương yêu tiểu muội nữa.

Du Đại Nham thản nhiên nói:

– Vậy thì đệ muội khỏi cần nói ra làm gì. Đằng nào thì ta cũng đã thành kẻ tàn phế, chuyện cũ khỏi cần truy cứu làm chi cho tổn hại tình nghĩa phu phụ của đệ muội. Các vị đi cả đi! Võ Đang lục hiệp đấu với các cao tăng Thiếu Lâm đã chắc thắng rồi, hà tất phải chừa cho ta chút hư danh làm gì.

Du Đại Nham tính nết cứng cỏi, từ ngày bị thương không hề rên rỉ oán thán, đúng ra chàng không nói được, may nhờ Trương Tam Phong chữa trị, truyền nội lực tu tập mấy chục năm vào cơ thể chàng, cuối cùng chàng có thể nói năng; nhưng sự việc ngày trước xảy ra như thế nào, chàng không hề nhắc đến; mãi hôm nay chàng mới thốt ra vài câu bi phẫn. Mấy sư huynh sư đệ nghe không khỏi bồi hồi chua xót, Ân Lê Đình nhịn không được khóc òa lên.

Ân Tố Tố nói:

– Tam ca, thực ra tam ca thừa biết rồi, chỉ vì nghĩ đến tình nghĩa huynh đệ với Thúy Sơn mà không nói ra thôi. Tam ca, hôm đó trên sông Tiền Đường, người ẩn trong khoang thuyền dùng Văn tu châm đả thương tam ca chính là tiểu muội…

Trương Thúy Sơn quát:

– Tố Tố, có thực là nàng? Nàng… nàng… Tại sao nàng không nói sớm?

Ân Tố Tố nói:

– Thủ phạm đích danh đả thương tam sư ca của chàng lại là thiếp, làm sao thiếp dám nói cho chàng biết?

Rồi nàng quay sang nói với Du Đại Nham:

– Tam ca, tiếp đó kẻ dùng Thất tinh đinh làm cho tam ca bị thương ở lòng bàn tay, đánh lừa tam ca để đoạt lấy thanh đao Đồ Long, chính là anh ruột tiểu muội, Ân Dã Vương. Thiên Ưng bổn giáo vốn không có thù oán gì với phái Võ Đang, lấy được thanh đao Đồ Long rồi, lại kính nể tam ca là một trang hảo hán nên mới ủy thác cho tiêu cục Long Môn đưa tam ca về núi Võ Đang. Còn việc dọc đường xảy ra sóng gió thì tiểu muội không tiên liệu được.

Trương Thúy Sơn toàn thân run rẩy, mắt như muốn tóe lửa, chỉ mặt Ân Tố Tố, nói:

– Nàng… sao nàng lại có thể lừa dối ta đến thế!

Du Đại Nham đột nhiên thét lên một tiếng, thân mình bật lên cao khỏi giường rồi rơi phịch xuống, bốn miếng ván giường gãy đôi, rồi ngất đi.

Ân Tố Tố rút thanh bội kiếm, xoay ngược chuôi đưa cho Trương Thúy Sơn, nói:

– Ngũ ca, chàng với thiếp mười năm vợ chồng, thiếp được chàng thương yêu, tình sâu nghĩa nặng, hôm nay dẫu chết cũng không oán hận gì. Chàng hãy giết thiếp đi cho vẹn toàn tình nghĩa Võ Đang thất hiệp.

Trương Thúy Sơn cầm lấy thanh kiếm, toan đâm thẳng một nhát vào ngực Ân Tố Tố, thế nhưng trong giây lát tình cảm phu thê suốt mười năm đằm thắm, tình ý ngọt ngào giờ đây chợt trào dậy trong lòng, bảo chàng làm sao đang tâm đâm nhát kiếm đó?

Chàng bàng hoàng ngơ ngẩn, đột nhiên rống lên, chạy ra ngoài. Ân Tố Tố, Tống Viễn Kiều cả bọn sáu người không biết chàng muốn gì nên cùng chạy theo. Chỉ thấy Trương Thúy Sơn chạy ra đại sảnh, quỳ trước mặt Trương Tam Phong, nói:

– Ân sư, đệ tử đã làm một việc sai trái rất lớn, không thể vãn hồi, đệ tử chỉ cầu xin ân sư một điều.

Trương Tam Phong chưa biết nguyên do, hiền từ nói:

– Muốn điều gì ngươi cứ nói ra, sư phụ nhất định sẽ đáp ứng.

Trương Thúy Sơn rập đầu ba lần, nói:

– Đa tạ ân sư. Đệ tử có một độc sinh ái tử đã bị rơi vào tay kẻ gian, xin ân sư cứu hài tử thoát khỏi bọn tà ma, nuôi dưỡng nó nên người.

Chàng đứng lên, tiến vài bước về phía Không Văn đại sư, Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung, Quan Năng phái Không Động, Tĩnh Huyền sư thái phái Nga Mi, nói lớn:

– Mọi tội nghiệt đều do một mình Trương Thúy Sơn này gây ra. Đại trượng phu mình làm mình chịu. Hôm nay sẽ để cho các vị được thỏa dạ.

Nói đoạn đưa thanh kiếm lên cổ cắt ngang một nhát, máu tươi vọt ra, chết tức thì.

Trương Thúy Sơn nhất quyết tìm cái chết, biết rằng một khi mình giơ kiếm để tự vẫn, sư phụ và huynh đệ đồng môn sẽ ra tay ngăn cản, cho nên chàng đứng giữa đám tân khách, nói dứt câu là ra tay luôn.

Trương Tam Phong, Du Liên Châu, Trương Tòng Khê, Ân Lê Đình bốn người cùng kêu lên kinh hoàng và lao tới. Chỉ nghe “bình bình bình” mấy tiếng liên tiếp, bảy tám tân khách vây quanh Trương Thúy Sơn đã bị chưởng lực của sư đồ Trương Tam Phong đẩy bay đi, song lại chậm một bước, Trương Thúy Sơn đã đứt cổ họng, hết bề cứu vãn. Tống Viễn Kiều, Mạc Thanh Cốc, Ân Tố Tố ba người chậm hơn một chút, còn cách một quãng xa.

Ngay lúc đó, bên ngoài cửa sổ đại sảnh có tiếng trẻ con gọi to:

– Gia gia, gia gia!

Tiếng gọi thứ hai nghe ú ớ, rõ ràng bị kẻ khác bịt miệng. Trương Tam Phong lắc nhẹ thân hình một cái, đã vọt ra ngoài trường song, thấy một hán tử mặc binh phục Mông Cổ đang ôm một đứa bé tám chín tuổi, thằng bé miệng bị kẻ kia dùng tay bịt chặt, đang cố giãy dụa.

Trương Tam Phong thương đệ tử chết thảm, lòng như dao cắt, nhưng Trương lão tu luyện ngót trăm năm, tâm thần chẳng rối loạn, hạ giọng quát:

– Đi vào đây!

Kẻ kia chân trái nhún một cái, ôm thằng bé định nhảy lên mái nhà, bỗng cảm thấy vai bị ấn xuống, thân thể nặng nề dị thường, hai chân không tài nào nhấc khỏi mặt đất. Thì ra Trương Tam Phong đã lướt tới sau lưng không một tiếng động, tay trái đặt nhẹ trên vai hắn. Hắn cả kinh, biết rằng Trương Tam Phong chỉ cần phát ra nội kình thì hắn không chết cũng bị trọng thương ngay tức khắc, đành phải vâng lời đi vào đại sảnh.

Đứa bé kia chính là Vô Kỵ, con của Trương Thúy Sơn. Nó bị người ta bịt miệng, ở ngoài song cửa nhìn thấy cha nó giơ kiếm cứa cổ thì kinh hoảng cố vùng vẫy, cuối cùng kêu được hai tiếng.

Ân Tố Tố thấy trượng phu đã vì nàng mà tự sát, đột nhiên lại thấy hài nhi lành lặn trở về, sau cái đại bi đến cái đại hỷ, bèn hỏi:

– Hài nhi, con không nói ra chỗ ở của nghĩa phụ con đấy chứ?

Vô Kỵ hiên ngang đáp:

– Dù có đánh chết con, con cũng không nói.

Ân Tố Tố nói:

– Hài nhi giỏi lắm! Để mẫu thân bồng con nào.

Trương Tam Phong nói:

– Đưa thằng bé cho mẫu thân nó!

Kẻ kia toàn thân bị chế ngự, đành phải nghe lời trao Vô Kỵ cho Ân Tố Tố. Vô Kỵ sà vào lòng mẹ, khóc nói:

– Mẫu thân ơi, sao người ta lại bức tử gia gia? Ai bức tử gia gia vậy?

Ân Tố Tố nói:

– Nhiều người lắm, rất nhiều người lên núi hôm nay đều bức tử cha con.

Đôi mắt của Vô Kỵ thong thả quét một lượt từ trái sang phải, nó tuổi còn nhỏ, nhưng ánh mắt của ai chạm vào mắt nó cũng không khỏi chấn động trong lòng.

Ân Tố Tố nói:

– Vô Kỵ, hài nhi hãy nghe câu này.

Vô Kỵ giục:

– Mẫu thân nói đi!

Ân Tố Tố nói:

– Hài nhi không cần nóng lòng báo cừu, cứ thong thả chờ đợi, nhưng không bỏ qua một kẻ nào cả.

Mọi người nghe câu nói lạnh lùng ấy bất giác cảm thấy lạnh hết sống lưng. Vô Kỵ kêu lên:

– Mẫu thân ơi, con không muốn báo cừu, con chỉ muốn gia gia sống lại thôi.

Ân Tố Tố buồn bã nói:

– Người chết rồi, không thể sống lại được!

Thân hình nàng run rẩy, nói tiếp:

– Hài nhi, cha con chết rồi, thôi mình nói cho mọi người biết chỗ ở của nghĩa phụ con.

Vô Kỵ vội kêu lên:

– Không, không được!

Ân Tố Tố nói:

– Không Văn đại sư, tiểu nữ chỉ nói cho một mình đại sư biết thôi. Xin đại sư ghé tai lại gần.

Câu nói ấy thật không một ai ngờ, tất cả đều kinh ngạc. Không Văn nói:

– Thiện tai, thiện tai! Nữ thí chủ giá nói sớm một chút, Trương ngũ hiệp đã không mất mạng.

Đoạn bước lại gần Ân Tố Tố, ghé tai nghe.

Ân Tố Tố môi mấp máy một hồi, song chẳng phát ra âm thanh nào. Không Văn hỏi:

– Cái gì?

Ân Tố Tố nói:

– Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đang trốn ở…

Sau hai tiếng “trốn ở” thanh âm thật mơ hồ, nghe chả hiểu nói gì. Không Văn lại hỏi:

– Cái gì kia?

Ân Tố Tố nói:

– Thì ở chỗ ấy, phái Thiếu Lâm các vị cứ tới đó mà tìm.

Không Văn sốt ruột, nói:

– Bần tăng chưa nghe thấy ở đâu cả.

Đoạn đứng thẳng lên, đưa tay gãi gáy, mặt lộ vẻ hoang mang cực độ.

Ân Tố Tố cười khẩy, nói:

– Tiểu nữ chỉ nói thế thôi, đại sư cứ tới nơi đó sẽ tìm được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.

Nàng ôm Vô Kỵ vào lòng, nói nhỏ:

– Hài nhi, khi nào khôn lớn, phải đề phòng nữ nhân lừa dối con, nữ nhân càng đẹp càng giỏi lừa người.

Nàng ghé sát tai con, nói thật nhỏ:

– Mẫu thân không nói cho lão hòa thượng biết đâu, mẫu thân đánh lừa lão ta đấy… Con xem mẫu thân đó… mẫu thân lừa người giỏi chưa!

Nói xong nàng cười một tiếng thê lương, đột nhiên hai tay buông lỏng, thân hình từ từ đổ xuống, giữa ngực cắm sâu một thanh chủy thủ. Nguyên lúc ôm Vô Kỵ vào lòng, nàng đã ngầm đâm con dao vào ngực, vì Vô Kỵ che lấp nên không ai trông thấy.

Vô Kỵ ôm lấy mẫu thân, gọi to:

– Mẫu thân ơi, mẫu thân ơi!

Thế nhưng Ân Tố Tố tự đâm mình đã lâu, cố gượng tới lúc này thì tắt thở. Vô Kỵ đau lòng nhưng không khóc, nó trừng mắt nhìn Không Văn đại sư, hỏi:

– Có phải đại sư giết mẫu thân hài nhi không? Có phải đại sư không? Vì sao đại sư giết mẫu thân hài nhi?

Không Văn nhìn thảm cảnh trước mắt, tuy là chưởng môn của đệ nhất tông phái võ học đương thời, cũng không tránh khỏi chấn động, nghe câu hỏi của Vô Kỵ, bất giác lùi lại một bước, vội nói:

– Không, không phải bần tăng! Là nữ… nữ thí chủ tự vẫn đó.

Vô Kỵ nước mắt ròng ròng, nhưng cố dằn lại, nói:

– Ta không khóc, ta nhất định không khóc, không để cho bọn ác nhân các người thấy ta khóc đâu.

Không Văn đại sư đằng hắng một tiếng, nói:

– Trương chân nhân, biến cố này… ôi, ôi… thật không ai dự liệu được! Phu phụ Trương ngũ hiệp đã tự vẫn, việc trước kia không còn gì để truy cứu nữa, vậy chúng tôi xin cáo từ.

Nói xong chắp tay hành lễ. Trương Tam Phong trả lại một lễ, lạnh nhạt đáp:

– Tha lỗi không tiễn xa được.

Tăng chúng Thiếu Lâm cùng đứng dậy, đi ra.

Ân Lê Đình tức giận nói to:

– Các người… các người bức tử ngũ ca ta…

Nhưng chàng nghĩ lại: “Ngũ ca sở dĩ tự tận là vì có lỗi với tam ca, không can hệ gì với bọn họ”. Chàng nói chưa hết câu liền nằm phục xuống bên cạnh thi thể Trương Thúy Sơn mà khóc òa lên.

Mọi người cảm thấy bẽ bàng, cùng lúc cáo từ Trương Tam Phong, nghĩ thầm: “Chuyện này kết thúc bất ngờ, phái Võ Đang chắc chẳng để yên, từ nay trở đi hậu hoạn khôn lường”. Chỉ có Tống Viễn Kiều mắt đỏ hoe tiễn khách ra cổng, khi quay lại thì nước mắt chảy ròng ròng, trong đại sảnh phái Võ Đang ai nấy đau lòng khóc nức nở.

Phái Nga Mi đứng dậy cáo từ sau cùng. Kỷ Hiểu Phù thấy Ân Lê Đình khóc thật thương tâm, đôi mắt nàng cũng đỏ hoe, tới gần chàng, nói nhỏ:

– Lục ca, tiểu muội đi đây. Chàng… chàng hãy tự bảo trọng.

Ân Lê Đình mắt nhòa lệ, ngẩng đầu lên, nghẹn ngào nói:

– Các người… phái Nga Mi các người cũng đến làm khó ngũ ca ta ư?

Kỷ Hiểu Phù vội nói:

– Không phải đâu, gia sư chỉ muốn hỏi Trương sư huynh chỗ ở của Tạ Tốn thôi.

Nàng dừng lời, răng cắn chặt môi dưới, lúc nhả ra, trên môi hằn sâu vết răng tưởng sắp bật máu, nàng nói, giọng run run:

– Lục ca, muội… muội thật không phải với chàng, mong chàng hiểu cho. Muội… muội chỉ có kiếp sau mới báo đáp được thôi.

Ân Lê Đình cảm thấy lời Kỷ Hiểu Phù có phần hơi quá, bèn nói:

– Việc này không liên can tới nàng, chúng tôi không trách nàng đâu.

Kỷ Hiểu Phù mặt tái nhợt đi, nói:

– Không… Không phải chuyện…

Nàng không dám nói chuyện tiếp với Ân Lê Đình, quay sang phía Vô Kỵ, nói:

– Cháu bé ngoan, chúng ta… chúng ta cùng một nhà, sẽ săn sóc cháu chu đáo.

Nàng tháo khỏi cổ chiếc vòng vàng, định đeo cho Vô Kỵ, dịu dàng nói:

– Cái này cô cô tặng cháu…

Vô Kỵ hất đầu về phía sau, nói:

– Cháu không cần!

Kỷ Hiểu Phù ngượng ngùng, tay cầm cái vòng, chưa biết phải làm sao. Nước mắt nàng rưng rưng từ nãy, giờ chảy xuống ròng ròng. Tĩnh Huyền sư thái sa sầm nét mặt, nói:

– Kỷ sư muội, nói với trẻ con làm gì? Thôi mình về!

Kỷ Hiểu Phù ôm mặt chạy ra.

*

*      *

Vô Kỵ chờ hồi lâu, khi Tĩnh Huyền sư thái, Kỷ Hiểu Phù cả bọn ra khỏi cổng rồi, nó đang muốn khóc òa lên, nào ngờ há mồm mà không thở được, ngã huỵch xuống đất. Du Liên Châu vội bế nó lên, biết thằng bé trong lúc đau buồn cố giữ không khóc, đến nỗi ngất đi, bèn nói:

– Hài tử, khóc đi con!

Chàng xoa xoa mấy cái trên ngực nó, Vô Kỵ vẫn không sao thở được, toàn thân thằng bé lạnh ngắt, hơi thở thoi thóp mong manh. Du Liên Châu vận lực thúc đẩy, song thằng bé vẫn không tỉnh lại. Mọi người thấy thằng bé có thể chết trong giây lát thì không khỏi thất sắc.

Trương Tam Phong áp bàn tay vào huyệt Linh Đài trên lưng Vô Kỵ, một luồng nội lực hùng hậu truyền qua lớp áo sang người thằng bé. Với công phu tu luyện của Trương Tam Phong hiện thời, chỉ có người đã chết mới đành bó tay, ngoài ra dù bị thương nặng đến mấy, được nội lực của Trương lão truyền cho cũng sẽ tỉnh lại. Nào ngờ Trương Tam Phong sau khi truyền nội lực cho Vô Kỵ, chỉ thấy mặt thằng bé từ trắng chuyển qua xanh, từ xanh thành tím, thân thể cứ co giật không ngừng. Trương Tam Phong sờ trán Vô Kỵ lại thấy lạnh ngắt như sờ vào cục nước đá, liền kinh hãi vội luồn tay phải vào bên trong áo sờ hậu tâm của thằng bé, thấy một vùng bằng cái chén nóng rừng rực, xung quanh lại lạnh buốt, nếu là người khác chưa đạt tới cảnh giới cao siêu như Trương Tam Phong, chỉ e sờ vào sẽ run rẩy vì lạnh. Trương Tam Phong nói:

– Viễn Kiều, tên Thát tử bắt Vô Kỵ đâu rồi, dẫn hắn vào đây.

Tống Viễn Kiều vâng lời đi ra. Du Liên Châu từng bị thương vì một chưởng của hắn, biết đại sư huynh cũng không phải là đối thủ của hắn, bèn nói:

– Để đệ đi cùng.

Hai người sánh vai bước ra. Lúc nãy, khi Trương Tam Phong dẫn tên lính Mông Cổ vào sảnh, Trương Thúy Sơn đã tự sát chết, tiếp đó Ân Tố Tố lại tự tận tuẫn phu, mọi người đều đau buồn, chẳng ai để ý đến tên lính đó nên chỉ trong giây lát hắn đã biến đâu mất.

Trương Tam Phong vạch áo trên lưng Vô Kỵ, thấy trên da thịt trắng mịn của nó in rành rành vết một bàn tay năm ngón màu xanh biếc. Trương Tam Phong lại đưa tay sờ, thấy chỗ bàn tay ấy nóng như lửa, xung quanh thì lạnh buốt, chỉ sờ tay thôi đã hết sức khó chịu. Vô Kỵ bị thương như thế cũng đủ biết thằng bé khổ sở vô cùng.

Một lát sau, Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu rảo bước đi vào, nói:

– Trên núi không còn ai khác, hắn biến mất rồi.

Hai người thấy lưng Vô Kỵ in hình bàn tay kỳ quái đều giật mình.

Trương Tam Phong cau mày, nói:

– Ta cứ tưởng ba mươi năm trước Bách Tổn đạo nhân chết đi rồi, cái môn Huyền Minh thần chưởng âm độc vô tỉ này cũng thất truyền theo, nào ngờ trên thế gian vẫn có kẻ biết công phu đó.

Tống Viễn Kiều kinh hãi hỏi:

– Thằng bé hóa ra bị Huyền Minh thần chưởng đả thương ư?

Tống Viễn Kiều lớn tuổi hơn, từng nghe về Huyền Minh thần chưởng, còn từ Du Liên Châu trở xuống thì ngay cái tên của môn võ công ấy cũng chưa nghe nhắc tới bao giờ. Trương Tam Phong thở dài, không trả lời, trên khuôn mặt già nua lệ chảy ròng ròng, hai tay ôm Vô Kỵ, nhìn thi thể Trương Thúy Sơn, nói:

– Thúy Sơn, Thúy Sơn. Ngươi bái ta làm sư phụ, phút lâm chung lại gửi hài tử cho ta, nhưng ngay cả giọt máu độc nhất của ngươi mà ta cũng không bảo toàn nổi, ta sống đến trăm tuổi để làm gì? Phái Võ Đang danh chấn thiên hạ, phỏng có ích gì? Giá ta chết đi lại hóa hay hơn.

Các đệ tử ai nấy kinh dị. Từ ngày theo sư phụ đến giờ, họ luôn luôn thấy thầy tiêu dao tự tại, chưa hề nghe thầy nói một lời bi phẫn, thống khổ như thế bao giờ.

Ân Lê Đình nói:

– Sư phụ, thằng bé… thằng bé không thể cứu được hay sao?

Trương Tam Phong hai tay ôm chặt Vô Kỵ, đi đi lại lại trong sảnh, nói:

– Trừ phi… trừ phi sư phụ ta là Giác Viễn đại sư phục sinh, truyền cho ta toàn bộ pho Cửu dương chân kinh.

Các đệ tử thất vọng, câu nói ấy của sư phụ chứng tỏ thương thế của Vô Kỵ là vô phương cứu chữa.

Mọi người im lặng một hồi. Du Liên Châu nói:

– Sư phụ, hôm con đối chưởng với tên lính Mông Cổ đó, chưởng lực của hắn quả nhiên âm độc ghê gớm, hiếm thấy trên đời, con bị thương tức thì. Thế nhưng bây giờ con đã hoàn toàn bình phục, vận khí dụng kình không có gì trở ngại cả.

Trương Tam Phong nói:

– Đó là cái phúc của đại danh Võ Đang thất hiệp. Kẻ sử dụng Huyền Minh thần chưởng này với đối phương, nếu nội lực của đối phương cao hơn, chưởng lực sẽ quay trở lại thân thể, kẻ sử dụng ắt bị đại họa. Sau này các ngươi có gặp tên đó, phải hết sức thận trọng.

Du Liên Châu đáp:

– Vâng.

Nghĩ thầm: “Thì ra tên đó quá ư cẩn thận, sợ ta chưởng lực thắng hắn nên hắn không dám toàn lực Huyền Minh thần chưởng, nếu không chắc gì ta còn sống đến giờ này. Lần sau gặp lại ta, hắn sẽ hạ thủ thẳng tay. Ta bị trúng một chưởng mà đã như thế, Vô Kỵ còn bé, chỉ e… chỉ e…”

Tống Viễn Kiều nói:

– Lúc thoáng qua ấy, đệ tử chỉ thấy tên đó trạc ngũ tuần, mũi cao mắt sâu giống như người Tây Vực.

Mạc Thanh Cốc nói:

– Tên đó đã bắt được Vô Kỵ mang đi rồi, sao còn mang thằng bé trở lại làm chi?

Trương Tòng Khê nói:

– Tên đó tra hỏi Vô Kỵ không xong, bèn dùng Huyền Minh thần chưởng đánh nó, để cho phu phụ Trương Thúy Sơn chính mắt chứng kiến Vô Kỵ bị hành hạ thể xác mà phải nói ra chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.

Mạc Thanh Cốc tức giận nói:

– Tên đó thật to gan, dám lên núi Võ Đang gây sự!

Trương Tòng Khê buồn rầu:

– Hôm nay lên núi Võ Đang gây sự đâu phải ít người? Huống hồ hắn lại dùng Vô Kỵ để uy hiếp, nghĩ chắc chúng ta đánh chuột sợ vỡ đồ quý, không dám đả thương hắn.

Sáu người trong đại sảnh thừ người suy nghĩ hồi lâu. Vô Kỵ bỗng mở mắt, kêu lên:

– Gia gia, gia gia, con đau, con đau quá.

Thằng bé ôm chặt Trương Tam Phong, chúi đầu vào lòng Trương lão.

Du Liên Châu nghẹn ngào nói:

– Vô Kỵ, cha cháu chết rồi, cháu phải cố sống, sau này luyện thành võ công để còn báo cừu rửa hận cho cha cháu!

Vô Kỵ kêu lên:

– Cháu không muốn báo cừu! Cháu không muốn rửa hận! Cháu muốn cha mẹ cháu sống lại cơ! Nhị bá, mình hãy tha thứ hết cho bao kẻ xấu xa kia, tất cả mọi người cùng nghĩ cách cứu sống cha mẹ cháu.

Thầy trò Trương Tam Phong nghe mấy câu đó thì không cầm lòng được, nước mắt lại chảy ròng ròng, Trương Tam Phong nói:

– Chúng ta sẽ làm hết sức mình, may ra ông Trời từ bi cho thằng bé sống thêm chút nào hay chút đó.

Trương lão nhìn thi thể Trương Thúy Sơn, gạt lệ, nói:

– Thúy Sơn, Thúy Sơn, tội nghiệp cho con quá!

Rồi ôm Vô Kỵ đi về vân phòng của mình, giơ ngón tay điểm liên tiếp mười tám đại huyệt trên mình thằng bé.

Vô Kỵ được điểm huyệt rồi, thân thể không run rẩy nữa, nhưng khí xanh trên mặt càng lúc càng sẫm. Trương Tam Phong biết rằng một khi sắc xanh chuyển thành sắc đen, tức là khí tuyệt, hết phương cứu chữa, bèn cởi hết quần áo trên người thằng bé ra, chính mình cũng cởi đạo bào, ôm sát lưng Vô Kỵ vào ngực mình.

Lúc này Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình ở bên ngoài lo liệu tang ma cho phu phụ Trương Thúy Sơn. Du Liên Châu, Trương Tòng Khê và Mạc Thanh Cốc cùng tới vân phòng của sư phụ, biết sư phụ đang dùng “Thuần dương vô cực công” hút khí độc âm hàn trong người Vô Kỵ ra. Trương Tam Phong trước nay không hề lấy vợ, tuy đã trăm tuổi nhưng thân thể vẫn là đồng nam, với tám mươi năm tu luyện, môn Thuần dương vô cực công của Trương lão đã đạt tới cảnh giới đăng phong tạo cực. Huynh đệ Du Liên Châu ba người chờ sẵn bên cạnh, chừng nửa canh giờ sau, thấy trên mặt sư phụ lờ mờ một làn khí màu xanh, các ngón tay run run. Trương Tam Phong mở mắt ra, nói:

– Liên Châu vào đây thay ta, lúc nào chịu hết nổi thì giao lại cho Tòng Khê, nhất thiết không được miễn cưỡng.

Du Liên Châu đáp:

– Dạ.

Rồi cởi áo, ôm Vô Kỵ vào lòng, da thịt vừa chạm vào lưng thằng bé thì lập tức lạnh run, tựa hồ ôm một khối nước đá vậy, bèn nói:

– Thất đệ, hãy sai người mang tới vài lò than, lửa càng đượm càng tốt.

Lát sau lò than được mang vào, song Du Liên Châu vẫn thấy lạnh ghê gớm.

Trương Tam Phong ngồi bên, từ từ vận khí qua Tam Quan, thúc đẩy “Nhân uân tử khí” trong đan điền hóa giải từng chút từng chút một thứ khí độc đã hút vào cơ thể. Khi Trương lão hóa giải hết khí độc rồi, đứng dậy đã thấy Mạc Thanh Cốc đang ôm Vô Kỵ, Du Liên Châu và Trương Tòng Khê ngồi một bên, buông rèm nhập định, hóa giải khí hàn độc trong cơ thể. Không lâu thì Mạc Thanh Cốc hết chịu nổi, sai đạo đồng đi mời Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình vào thay.

Việc dùng nội lực trị thương này, công lực nông sâu lập tức lộ ra rất rõ, chẳng thể nào giấu được. Mạc Thanh Cốc chỉ chịu nổi thời gian bằng uống một tuần trà nóng, Tống Viễn Kiều chịu được đến tàn hai nén nhang. Ân Lê Đình vừa ôm Vô Kỵ vào lòng liền kêu hoảng lên, toàn thân run bần bật. Trương Tam Phong vội nói:

– Đưa thằng bé cho ta! Con hãy ngồi một bên ngưng thần điều tức, không được để trong đầu có tạp niệm.

Thì ra Ân Lê Đình trong lòng thương ngũ ca thảm tử, tâm thần bấn loạn, phải chờ khi nào thần trí định tĩnh, mới ôm được Vô Kỵ vào lòng.

Cứ như thế sáu người luân phiên, suốt ba ngày ba đêm không nề hà vất vả, may mà khí độc trong cơ thể Vô Kỵ được hóa giải dần, nên thời gian chịu đựng được của mỗi người cũng kéo dài thêm. Đến ngày thứ tư, sáu người mới có thể chợp mắt nhân lúc chưa tới phiên mình. Từ ngày thứ tám trở đi, mỗi người trị thương cho Vô Kỵ hai canh giờ, thời gian còn lại thì từ từ bồi bổ lại công lực đã hao tổn.

Những ngày đầu Vô Kỵ tiến triển rất nhanh, hàn khí trong cơ thể ngày một giảm, thần trí ngày một hồi phục, đã bắt đầu ăn uống được. Mọi người biết rằng cái mạng sống nhỏ nhoi của thằng bé coi như cứu được. Ai ngờ đến ngày thứ ba mươi sáu, Du Liên Châu bỗng nhiên phát giác dù chàng thôi động nội lực cách mấy cũng không thể hút chút khí độc hàn nào ra khỏi cơ thể Vô Kỵ. Mà rõ ràng cơ thể thằng bé lạnh giá, khí xanh trên mặt nó chưa tan. Du Liên Châu ngỡ công lực của mình sa sút, bèn thưa với sư phụ; Trương Tam Phong thử, nhưng cũng vô tác dụng. Suốt năm ngày đêm, sáu người sử dụng mọi phép vận khí mình biết, song đều vô hiệu.

Vô Kỵ nói:

– Thái sư phụ, chân tay cháu ấm lại rồi, nhưng đỉnh đầu, chỗ tim và bụng dưới thì càng lúc càng lạnh.

Trương Tam Phong thầm kinh hãi, an ủi nó:

– Thương thế của cháu bớt nhiều rồi, mọi người không còn phải ôm cháu suốt ngày nữa. Thôi cháu lên giường của thái sư phụ ngủ một giấc đi.

Trương Tam Phong và các đệ tử đi ra sảnh. Trương Tam Phong thở dài, nói:

– Khí độc hàn đã xâm nhập vào đỉnh đầu, tim và đan điền thì ngoại lực không thể hóa giải được nữa, xem ra ba mươi mấy ngày vất vả của thầy trò ta đổ xuống sông xuống biển hết rồi.

Trương lão trầm ngâm hồi lâu, nghĩ thầm: “Muốn hóa giải khí độc hàn trong cơ thể, người ngoài bây giờ không thể giúp gì được nữa, chỉ có cách tự Vô Kỵ tu luyện nội công chí cao vô thượng nói trong Cửu dương chân kinh thì mới có thể lấy chí Dương trừ chí Âm. Thế nhưng năm xưa, khi ân sư Giác Viễn đại sư truyền thụ kinh văn, sở học của ta chưa đủ, đến nay tuy đã bế quan mấy lần để khổ công nghiên cứu nhưng cũng chỉ hiểu được ba bốn phần. Trước mắt chỉ còn cách dạy cho nó tự luyện, sống thêm ngày nào hay ngày đó”.

Thế rồi Trương lão dạy Vô Kỵ khẩu quyết và cách thức luyện Cửu dương thần công. Môn công phu này biến hóa phức tạp, một lời khó nói rõ hết. Nói vắn tắt thì công phu sơ bộ là luyện “Đại chu thiên bàn vận” dẫn một luồng chân khí ấm áp từ đan điền đi theo “Âm kiều khố” đổ vào ba mạch Nhâm, Đốc, Xung chạy xuống “Vĩ lữ quan”, sau đó chia thành hai đường chạy lên, đi qua “Lộc lô quan” ở hai bên đốt xương sống thứ mười bốn, đi tiếp lên lưng, qua vai, cổ gáy cho đến “Ngọc chẩm quan”. Như thế gọi là phép “Nghịch vận chân khí thông tam quan”. Sau đó chân khí đi tiếp lên huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu, chia ra năm đường mà vận hành, hội tụ với khí mạch toàn thân tại huyệt Đản Trung, rồi phân hai nhánh mà trở về đan điền, nhập khiếu quy nguyên. Tuần hoàn một vòng như thế, cơ thể giống như được tưới nước cam lộ, chân khí trong đan điền tựa hồ được sưởi ấm, tiêu du tự tại, cái chân khí đó gọi là “Nhân uân tử khí”.

“Nhân uân tử khí” được luyện tới mức hỏa hầu thì có thể hóa giải khí độc hàn tụ trong đan điền. Đạo lý nội công của các phái không khác nhau là mấy, chỉ có phương pháp tu luyện là khác nhau. Phương pháp mà Trương Tam Phong truyền thụ là tâm pháp, nếu xét về uy lực có thể được coi là đệ nhất trong thiên hạ.

Vô Kỵ theo đó tu luyện, luyện được hơn hai năm, “Nhân uân tử khí” trong đan điền đã tiểu thành, nhưng khí độc hàn bên trong đã bám dính như keo vào toàn bộ hệ kinh lạc bách mạch nên không cách gì hóa trừ. Đã thế, khí xanh trên mặt cứ ngày một đậm thêm, mỗi khi khí độc hàn phát tác, thằng bé lại bị hành hạ khổ sở. Hai năm qua, Trương Tam Phong toàn lực lo cho sự tu luyện nội công của Vô Kỵ, còn huynh đệ Tống Viễn Kiều đi khắp nơi tìm linh đơn diệu dược, nào nhân sâm mọc hàng trăm năm trên núi hoang, nào thủ ô thành hình, nào phục linh trên núi tuyết, toàn các loại linh vật trân quý đem về cho thằng bé uống không biết bao nhiêu mà kể, nhưng trước sau cứ như cục đá ném xuống ao bèo. Mọi người thấy Vô Kỵ ngày một tiều tụy, gầy còm, tuy gặp nó đều cố vui cười, nhưng trong lòng thì đau xót, nghĩ giọt máu duy nhất do Trương Thúy Sơn để lại rốt cuộc không cách gì bảo toàn.

Phái Võ Đang bận cứu thương trị bệnh, không còn thời gian truy tìm kẻ đã hại Du Đại Nham và Vô Kỵ. Trong hai năm đó, giáo chủ Thiên Ưng giáo Ân Thiên Chính mấy lần cho người sang thăm cháu ngoại, đưa tặng không ít lễ vật quý giá. Võ Đang chư hiệp căm hận Thiên Ưng giáo đã gián tiếp gây hại cho Du, Trương nhị hiệp nên lần nào cũng đuổi sứ giả xuống núi, trả lại lễ vật, không nhận bất cứ thứ gì. Có lần Mạc Thanh Cốc còn đánh cho sứ giả một trận, từ đó Ân Thiên Chính mới không sai người lên núi Võ Đang nữa.

Hôm ấy nhân tiết Trung thu, Võ Đang chư hiệp và sư phụ bày tiệc thưởng trăng. Tiệc vừa dọn ra thì Vô Kỵ đột nhiên phát bệnh, mặt xanh lè, người run cầm cập. Thằng bé sợ làm mọi người mất vui, nên cắn răng chịu đựng, nhưng tình cảnh ấy ai chẳng nhìn thấy? Ân Lê Đình kéo thằng bé vào phòng ngủ, lấy chăn bông đắp cho nó, lại nhóm một lò than lớn bên cạnh giường. Trương Tam Phong bỗng nói:

– Ngày mai ta sẽ dẫn Vô Kỵ đến Thiếu Lâm tự ở Tung Sơn một chuyến.

Mọi người hiểu tâm ý của sư phụ, biết Trương lão không còn cách nào, vạn bất đắc dĩ đành cúi đầu nhờ vả phái Thiếu Lâm, thân chinh cầu cứu Không Văn đại sư, hi vọng cao tăng Thiếu Lâm bổ túc cho chỗ chưa trọn vẹn trong Cửu dương thần công, ngõ hầu cứu mạng Vô Kỵ.

Sau lần hội kiến trên núi Võ Đang hai năm trước, mối hiềm khích giữa hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang càng sâu thêm. Trương Tam Phong là đại tông sư khai sáng môn phái, nay đã ngoài trăm tuổi, giờ phải gác bỏ địa vị tôn quý của mình đi cầu cạnh phái Thiếu Lâm, tức là mất hết thân phận. Mọi người nghĩ đến tình nghĩa với Trương Thúy Sơn, biết rằng ngày mai một khi Trương Tam Phong lên Tung Sơn cầu cứu thì từ nay phái Võ Đang mỗi lần gặp phái Thiếu Lâm sẽ không dám ngẩng đầu lên nữa, dù là chút hư danh cũng đành phải bỏ đi.

Thực ra phái Nga Mi cũng được truyền thụ một phần Cửu dương chân kinh, nhưng chưởng môn phái Nga Mi là Diệt Tuyệt sư thái tính nết cực kỳ cổ quái, Trương Tam Phong từng mấy lần viết thư thỉnh cầu, sai Ân Lê Đình mang đến, song bà ta đều cho người đuổi Ân Lê Đình xuống núi, đến bao thư cũng chẳng thèm mở ra xem. Hiện tại, ngoài việc hạ mình cầu cứu phái Thiếu Lâm, không còn cách nào khác.

Nếu là Tống Viễn Kiều dẫn các sư đệ lên Thiếu Lâm tự cầu giáo, tuy sẽ giữ được phần nào thể diện cho phái Võ Đang, nhưng Không Văn đại sư chẳng đời nào chịu truyền cho chân quyết của Cửu dương chân kinh. Mọi người nghĩ đến phái Võ Đang uy danh hiển hách hai ba chục năm qua, từ nay sẽ phải cúi đầu trước phái Thiếu Lâm, ai nấy đều u uất mất vui; bữa tiệc thưởng trăng Trung thu, mỗi người chỉ buồn bã uống vài chén rồi chấm dứt.

*

*       *

Sáng sớm hôm sau, Trương Tam Phong dẫn Vô Kỵ khởi hành. Năm đệ tử đều muốn theo hầu, nhưng Trương Tam Phong nói:

– Mình đi đông người, không khỏi làm cho phái Thiếu Lâm sinh nghi, chi bằng để ta một già một bé đi là hơn.

Hai ông cháu mỗi người cưỡi một con lừa xanh đi thẳng về hướng bắc. Hai đại tông phái Võ Đang, Thiếu Lâm thực ra ở rất gần nhau, từ núi Võ Đang ở đất Ngạc đến Tung Sơn ở đất Dự phía tây chỉ đi vài hôm là đến. Ông cháu Trương Tam Phong từ Lão Hà Khẩu qua sông Hán Thủy, đến Nam Dương, đi về phía bắc qua Nhữ Châu, sau đó rẽ sang hướng tây là tới Tung Sơn.

Hai ông cháu lên núi Thiếu Thất, buộc lừa vào gốc cây, xuống đi bộ. Trương Tam Phong quay về chốn cũ, nhớ lại hơn tám mươi năm trước sư phụ Giác Viễn đại sư gánh đôi thùng sắt bỏ chạy, mang theo Quách Tương và mình rời bỏ Thiếu Lâm tự, lúc này nghĩ lại tưởng như đã ở một kiếp khác. Trương Tam Phong cảm khái nắm tay Vô Kỵ thong thả đi lên núi, thấy năm ngọn núi vẫn như xưa, rừng bia đá vẫn vậy, chỉ có Giác Viễn và Quách Tương từ lâu đã thành người thiên cổ tự bao giờ.

Hai người tới một vi đình, nhìn lên Thiếu Lâm tự thấy hai tăng nhân trẻ tuổi đang cười cười nói nói đi đến. Trương Tam Phong hỏi thăm một câu:

– Phiền thông báo là có Võ Đang Trương Tam Phong cầu kiến phương trượng đại sư.

Hai tăng nhân nghe ba tiếng Trương Tam Phong thì giật mình kinh hãi, chú mục nhìn xem thật hay giả, chỉ thấy vị khách cao lớn dị thường, râu tóc bạc phơ, sắc diện hồng hào, cười hà hà dễ mến, nhưng chiếc áo đạo bào màu xanh thì quá ư dơ bẩn. Nên biết Trương Tam Phong tính tình tự tại, không để ý bề ngoài, thời tráng niên, giang hồ sau lưng Trương Tam Phong vẫn gọi là “Liệp Thạp đạo nhân”[46], có người còn gọi là Trương Liệp Thạp, mãi đến khi Trương Tam Phong võ công cực cao, uy danh cực lớn, họ mới không dám gọi như thế nữa. Hai tăng nhân kia nghĩ thầm: “Trương Tam Phong là đại tông sư của phái Võ Đang, phái Võ Đang với phái Thiếu Lâm ta vốn bất hòa, không lẽ vị này tới đây sinh sự đánh nhau?”, chỉ thấy ông lão dắt một cậu bé độ mười một mười hai tuổi trông gầy gò xanh xao, cả hai ông cháu đều không có vẻ gì khác thường, ghê gớm cả. Một tăng nhân hỏi:

– Có thực thí chủ là Trương… Trương chân nhân ở núi Võ Đang không?

Trương Tam Phong cười đáp:

– Đích thực bần đạo, không hề giả mạo.

Tăng nhân thứ hai nghe câu trả lời chẳng có vẻ gì là khí khái trang nghiêm của một vị tông sư môn phái thì lại càng không tin, hỏi:

– Thí chủ không đùa cợt đấy chứ?

Trương Tam Phong cười, nói:

– Trương Tam Phong có cái gì đâu? Mạo danh lão ta thì được cái gì kia chứ?

Hai tăng nhân bán tín bán nghi, chạy như bay về chùa thông báo.

Một hồi lâu, bỗng thấy cổng chùa mở rộng, phương trượng Không Văn đại sư cùng hai sư đệ Không Tính, Không Trí đi ra. Đằng sau họ là mười mấy lão hoàng y hòa thượng. Trương Tam Phong biết đó là các vị trưởng lão Đạt Ma viện, vai vế không chừng còn cao hơn cả phương trượng, ở trong chùa chỉ tinh nghiên võ học chứ không hỏi việc bên ngoài, chắc nghe tin chưởng môn phái Võ Đang đến, thì lấy làm kinh dị nên mới cùng phương trượng ra đón.

Trương Tam Phong ra khỏi vi đình, cúi người hành lễ, nói:

– Đâu đáng để phương trượng và chúng vị đại sư nhọc lòng ra ngoài này đón như vậy?

Các cao tăng chắp tay hành lễ. Không Văn nói:

– Trương chân nhân từ xa đến, quả thật ngoài dự liệu của tiểu tăng, không biết có điều gì kiến dụ?

Trương Tam Phong nói:

– Bần đạo có một việc thỉnh cầu.

Không Văn nói:

– Mời ngồi, mời ngồi!

Trương Tam Phong vào trong vi đình an vị rồi, lập tức có tăng nhân bưng trà tới. Trương Tam Phong bực mình nghĩ thầm: “Ta dẫu sao cũng là tông sư một phái, tính ra ở bậc tiền bối của các vị, sao không mời ta vào chùa, lại để ta ngồi ở bên ngoài thế này? Không nói gì ta, đối với một vị khách bình thường, cũng chẳng nên thiếu lễ như vậy”. Song tính tình Trương lão vốn dễ dãi xuề xòa, nghĩ thế nhưng cũng chẳng để bụng.

Không Văn nói:

– Trương chân nhân quang giáng tệ sơn, đáng lẽ phải cung nghinh vào chùa. Ngặt nỗi hồi còn trẻ, Trương chân nhân đã tự ý đi khỏi Thiếu Lâm tự, quy củ mấy trăm năm của bổn phái, hẳn Trương chân nhân cũng đã biết, phàm là đồ đệ bị từ bỏ hoặc làm phản bổn phái, suốt đời sẽ không bao giờ được phép bước chân vào chùa, nếu bước vào sẽ bị chặt chân.

Trương Tam Phong cười ha hả, nói:

– Thì ra thế! Bần đạo hồi còn nhỏ tuy có ở trong chùa hầu hạ Giác Viễn đại sư, nhưng chỉ làm tạp dịch quét sân châm trà, chưa hề xuống tóc, cũng chưa bái sư, đâu thể gọi là đệ tử của phái Thiếu Lâm.

Không Trí lạnh lùng nói:

– Thế nhưng Trương chân nhân đã học lén võ công của Thiếu Lâm tự.

Trương Tam Phong tức giận, song nghĩ lại: “Võ công của phái Võ Đang ta, tuy hoàn toàn do ta dày công sáng tạo, nhưng suy từ cội nguồn, nếu không được Giác Viễn đại sư truyền cho Cửu dương chân kinh, được Quách nữ hiệp tặng một đôi Thiếu Lâm thiết La Hán, thì toàn bộ các môn võ công sau đó không biết dựa vào đâu. Y nói võ công của ta từ Thiếu Lâm mà ra, cũng chẳng phải hoàn toàn sai”, thế là nhã nhặn nói:

– Bần đạo được như hôm nay, chính nhờ đó mà nên.

Không Văn và Không Trí đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: “Không biết lão ta tới đây làm gì? Chắc không phải có thiện chí, hẳn là vì chuyện Trương Thúy Sơn mà đến sinh sự”. Không Văn bèn nói:

– Xin nói rõ hơn.

Trương Tam Phong nói:

– Không Trí đại sư vừa nói, võ công của bần đạo từ Thiếu Lâm mà ra, lời đó quả không sai. Năm xưa bần đạo theo hầu Giác Viễn đại sư, được may mắn truyền thụ Cửu dương chân kinh. Bộ kinh thư đó bác đại tinh thâm, nhưng hồi ấy bần đạo tuổi còn nhỏ, sở học bất toàn, đến nay vẫn lấy làm tiếc. Sau đó Giác Viễn đại sư tụng kinh ở chốn hoang sơn, có ba người may mắn được nghe, một vị là tổ sư sáng lập phái Nga Mi Quách nữ hiệp, một vị là Vô Sắc thiền sư của quý phái, còn một người nữa chính là bần đạo. Bần đạo tuổi nhỏ nhất, tư chất non kém, lại không có căn cơ võ học, trong ba phái thì sở đắc ít hơn cả.

Không Trí lạnh lùng nói:

– Chưa hẳn như thế. Trương chân nhân từ nhỏ hầu hạ Giác Viễn, chả lẽ y không ngấm ngầm truyền riêng cho môn gì? Ngày nay phái Võ Đang dương danh thiên hạ, cũng là nhờ công lao của Giác Viễn.

Nói về vai vế, Giác Viễn cao hơn Không Trí ba bậc, đúng ra Không Trí phải gọi Giác Viễn là “Thái sư thúc tổ”, nhưng vì Giác Viễn chạy trốn khỏi Thiếu Lâm tự, bị coi là khí đồ[47], vai vế trong môn phái không còn nữa, nên Không Trí chả cần giữ lễ khi nhắc đến Giác Viễn.

Trương Tam Phong đứng lên, cung kính nói:

– Ân đức của tiên sư, bần đạo không khi nào dám quên.

Trong bốn đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, Không Kiến từ bi hỉ xả, tiếc thay mất sớm nhất; Không Văn trầm tĩnh kín đáo, hỉ nộ không lộ ra mặt; Không Tính ngờ nghệch, bẩm tính chất phác, không thông thế sự; Không Trí lại là người bụng dạ hẹp hòi, cứ luôn nghĩ rằng Trương Tam Phong học lén không ít môn võ công của phái Thiếu Lâm rồi trốn đi, thế mà danh vọng của phái Võ Đang lại lừng lẫy hơn cả phái Thiếu Lâm, nên trong thâm tâm cứ hậm hực. Không Trí nghĩ rằng Trương Tam Phong đến Thiếu Lâm tự phen này là để báo cừu vì cái chết của Trương Thúy Sơn. Huống hồ hôm đó trước khi chết, Ân Tố Tố lại giả bộ nói cho Không Văn biết chỗ ở của Tạ Tốn, cái kế “Di họa Giang Đông” ấy thật hiểm độc. Hơn hai năm qua, cứ vài ba ngày lại có nhân sĩ võ lâm đến Thiếu Lâm tự quấy nhiễu, hoặc tiến thẳng vào, hoặc lén nhòm ngó, hoặc ngọt ngào cầu khẩn, hoặc hung hăng tra vấn, cứ liên tục dò hỏi về chỗ ở của Tạ Tốn.

Không Văn phải thề sống thề chết là quả thực không biết, nhưng hôm đó tại cung Tử Tiêu trên núi Võ Đang, hàng trăm cặp mắt của các môn phái đều nhìn thấy Ân Tố Tố ghé tai nói cho một mình Không Văn nghe, còn giả làm sao được? Dù Không Văn có thanh minh thế nào, rốt cuộc người ta vẫn không tin, thành thử tháng nào cũng có vài cuộc động võ. Các nhân vật võ lâm đến chùa tử thương khá nhiều, các cao thủ trong Thiếu Lâm tự cũng bị thương tổn không ít. Suy cho cùng, há không phải đều là do cái mầm họa do phái Võ Đang cấy vào?

Sự căm tức của tăng lữ Thiếu Lâm tự hơn hai năm qua, may sao hôm nay Trương Tam Phong lại tự dẫn thân tới, phải trút xuống đầu lão ta một phen cho hả. Không Trí liền nói:

– Trương chân nhân đã tự nhận học lén võ công của Thiếu Lâm tự, tiếc rằng lời này người bên ngoài không nghe thấy, chứ không cả giang hồ sẽ đều hay biết.

Trương Tam Phong nói:

– Hoa sen hồng hoa sen trắng, võ học thiên hạ vốn cũng một nhà mà thôi, hàng ngàn năm qua không ngừng lấy sở trường bù sở đoản, đâu còn phân biệt nổi cội nguồn thật sự. Phái Thiếu Lâm đã thành lãnh tụ võ lâm, mấy trăm năm qua ai cũng công nhận, bần đạo hôm nay lên đây chính vì hâm mộ võ công của quý phái, tự biết mình không bằng, muốn cầu giáo chúng vị đại sư.

Các cao tăng Không Văn, Không Trí nghe câu “muốn cầu giáo chúng vị đại sư” lại tưởng là lời khiêu chiến thì ai nấy mặt biến sắc, nghĩ thầm lão đạo sĩ này tu luyện đã ngót trăm tuổi, võ công cao siêu khôn lường, làm gì có ai là đối thủ, hôm nay tới đây một mình, hẳn phải có bản lĩnh ghê gớm lắm, hai năm qua có lẽ đã luyện thành môn võ công cực kỳ lợi hại nào chăng.

Trong nhất thời ba vị cao tăng không ai dám trả lời. Cuối cùng Không Tính nói:

– Lão đạo sĩ giỏi lắm, nếu lão muốn đấu võ với chúng tôi thì Không Tính này chẳng sợ lão đâu. Thiếu Lâm tự có cả trăm, cả ngàn hòa thượng nhất tề xông lên, lão chưa chắc làm gì nổi.

Không Tính tuy miệng nói “chẳng sợ”, nhưng trong bụng thì cả sợ, vội lấy cái số đông hàng trăm hòa thượng cùng xông lên để tự trấn an.

Trương Tam Phong vội nói:

– Các vị đại sư chớ nên hiểu lầm, bần đạo nói cầu giáo là thực lòng muốn được chỉ giáo. Chỉ vì Cửu dương chân kinh mà tiên sư truyền cho bần đạo tu luyện bị thiếu một số chỗ và bên trong còn nhiều điểm nghi nan bất giải. Chúng vị cao tăng Thiếu Lâm tự tinh thâm võ học, nếu sẵn lòng chỉ giáo cho Trương Tam Phong được nghe đại đạo thì bần đạo cảm kích bội phần.

Đoạn Trương lão đứng lên vái một vái thật dài.

Lời nói vừa rồi của Trương Tam Phong quả là bất ngờ đối với các cao tăng Thiếu Lâm. Trương Tam Phong thần công cái thế, khai sáng tông phái, tu luyện đã chín mươi năm, trong võ lâm hiện thời danh vọng và địa vị cực cao, không ai sánh kịp, làm gì có ngờ hôm nay lại tới cầu giáo phái Thiếu Lâm kia chứ?

Không Văn vội đáp lễ, nói:

– Trương chân nhân đùa thế, chúng tôi hậu bối thiển học, đến việc lấy cái hay của người bù chỗ dở của mình còn chưa xong, làm sao dám “chỉ giáo” cho người khác?

Trương Tam Phong biết rằng việc mình nêu ra quá kỳ lạ, đối phương không dễ tin nổi, liền kể lại chuyện Vô Kỵ bị trúng Huyền Minh thần chưởng ra sao, khí độc âm trong cơ thể không cách gì khu trừ, lại nói thằng bé là đứa con duy nhất của Trương Thúy Sơn, phải cố bảo toàn mạng sống cho nó; trước mắt ngoài việc luyện cho xong Cửu dương thần công, thật sự chẳng còn cách nào khác. Cũng vì lợi ích của phái Thiếu Lâm, Trương Tam Phong nguyện kể toàn bộ Cửu dương chân kinh sở học cho phái Thiếu Lâm biết, cũng mong phái Thiếu Lâm nói cho Trương lão biết sở học của họ, đôi bên tham ngộ bổ túc cho nhau.

Không Văn trầm ngâm hồi lâu, rồi nói:

– Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm chúng tôi, ngàn năm qua chưa một tăng tục đệ tử nào luyện thành trên mười hai môn. Sở học của Trương chân nhân quán tuyệt cổ kim, nhưng các môn võ công mà liệt tổ liệt tông của bản phái truyền lại cũng đã quá nhiều, mười phần học một cũng đã cực khó. Trương chân nhân nay lại đem một môn thần công trao đổi, thịnh tình đó chúng tôi cảm kích, song đối với bổn phái, có thêm cũng chỉ là thừa.

Ngừng một lát, nói tiếp:

– Võ công của phái Võ Đang vốn bắt nguồn từ Thiếu Lâm ta, hôm nay nếu hai bên trao đổi võ học, sau này người trên giang hồ không rõ chân tướng, lại bảo rằng võ công phái Võ Đang tuy bắt nguồn từ phái Thiếu Lâm, nhưng phái Thiếu Lâm phải nhờ Trương chân nhân mới được như thế. Tiểu tăng gánh vác trọng nhiệm chưởng môn Thiếu Lâm, lời kiểu đó nghe không lọt.

Trương Tam Phong than thầm trong lòng: “Ngươi đường đường là chưởng môn của đệ nhất môn phái võ lâm, lại được tôn là một trong tứ đại thần tăng, vậy mà khư khư giữ cái tiếng môn hộ, bụng dạ quá hẹp hòi”. Nhưng đang lúc phải cầu người, không tiện bác bỏ lời đối phương, Trương lão chỉ nói:

– Ba vị là thần tăng đương thế, giàu lòng từ bi, tính mạng của cháu bé này chỉ trong sớm tối, những mong ba vị nghĩ đến cái tâm cứu nhân độ thế của Phật tổ mà đáp ứng lời thỉnh cầu, bần đạo quả thực cảm kích vô cùng.

Nhưng Trương Tam Phong nói thế nào, ba vị cao tăng Thiếu Lâm vẫn một mực nhẹ nhàng chối từ. Cuối cùng Không Văn nói:

– Không thể tuân mệnh Trương chân nhân, xin đừng phiền trách.

Đoạn quay sang bảo tăng nhân đứng bên cạnh:

– Ngươi bảo bếp Hương Tích dọn một mâm cỗ chay, bưng ra đây khoản đãi Trương chân nhân.

Tăng nhân vâng mệnh chạy đi.

Trương Tam Phong sắc mặt buồn rầu, xua tay:

– Như thế là lão đạo hôm nay đã mạo muội làm phiền. Thịnh yến không dám nhận, mong các vị lượng thứ, xin cáo biệt.

Rồi Trương lão đứng dậy, cúi mình hành lễ, nắm tay Vô Kỵ, hai ông cháu thản nhiên xuống núi.

Hồi 11: Hữu nữ trường thiệt lợi như thương

Trương Tam Phong dắt Vô Kỵ xuống khỏi núi Thiếu Thất, thầm nghĩ tính mệnh của thằng bé chẳng giữ được lâu, lại không còn cách gì chữa trị, thôi thì kể chuyện vui cho nó nghe để hai ông cháu cùng giải sầu. Hôm đó đến bờ sông Hán Thủy, hai ông cháu xuống đò qua sông. Thuyền ra giữa dòng, sóng to dồn dập, nước sông cuồn cuộn, con đò nhỏ trồi lên hụp xuống không ngừng, tâm trạng của Trương Tam Phong cũng dao động như những lớp sóng kia vậy.

Trương Vô Kỵ bỗng nói:

– Thái sư phụ, đừng buồn ông ạ, cháu chết đi sẽ được gặp cha mẹ cháu, như thế cũng thích lắm chứ. Trương Tam Phong nói:

– Cháu chớ nói vậy, dù thế nào thái sư phụ cũng sẽ nghĩ cách cứu được cháu.

Trương Vô Kỵ nói:

– Cháu vốn nghĩ rằng nếu học được Cửu dương thần công của phái Thiếu Lâm, cháu sẽ nói lại cho tam sư bá nghe, vậy sẽ hay biết mấy.

Trương Tam Phong hỏi:

– Sao lại hay?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Chỉ mong Du tam bá tu luyện thần công của cả hai phái Võ Đang, Thiếu Lâm, để chữa cho chân tay khỏi tàn phế.

Trương Tam Phong thở dài:

– Du tam bá của cháu bị ngoại thương gân cốt, nội công dù cao siêu đến mấy cũng không trị lành được.

Trương lão nghĩ thầm: “Thằng bé này biết mình không sống được, vậy mà không hề sợ chết, lại chỉ muốn nghĩ cách chữa bệnh cho Du Đại Nham, tấm lòng như thế thật đúng là cốt cách của kẻ hiệp nghĩa chúng ta”. Trương lão đang định khen nó vài lời, bỗng nghe trên sông có một giọng nói oang oang truyền đến:

– Mau dừng thuyền lại, giao đứa bé cho ta, Phật gia sẽ tha mạng cho ngươi, nếu không đừng trách ta vô tình.

Giọng nói từ sóng truyền tới, lọt vào tai nghe rõ từng tiếng một, hiển nhiên nội lực của người nói không phải loại yếu.

Trương Tam Phong cười thầm: “Kẻ nào to gan dám bảo ta giao thằng bé chứ?” Ngẩng đầu lên Trương lão thấy hai chiếc giang thuyền đang chèo như bay từ xa tới, nhìn kỹ, thấy trên chiếc thuyền nhỏ đi trước có một đại hán râu xồm, hai tay hai mái chèo, chèo thật gấp, trong lòng thuyền có hai đứa trẻ, một trai một gái. Chiếc thuyền sau khá lớn, trên có bốn phiên tăng, bảy tám võ quan Mông Cổ. Bọn võ quan dùng ván làm mái chèo phụ. Đại hán râu xồm quá khỏe, mỗi lần đưa mái chèo là chiếc thuyền nhỏ lại vọt đi cả trượng, nhưng thuyền đằng sau đông người nên khoảng cách hai thuyền càng lúc càng gần. Không lâu sau, bọn võ quan và phiên tăng lắp cung tên, bắn về phía đại hán, tiếng tên bay nghe vèo vèo.

Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Thì ra bọn kia đòi gã đại hán trao lại đứa bé”. Trương lão bình sinh rất ghét quan binh Mông Cổ tàn sát người Hán, lúc này quyết định ra tay cứu giúp. Đại hán tay trái chèo thuyền, tay phải giơ mái chèo gạt các mũi tên bắn tới, thủ pháp rất nhanh nhẹn. Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Người này võ công bất phàm, anh hùng lâm nạn, lẽ nào ta ngồi nhìn mà không cứu?” bèn quay đầu bảo người lái đò:

– Thuyền gia, cho thuyền tới đón mau.

Người lái đò thấy tên bay như mưa, sợ hết cả hồn, chân tay luống cuống, đang lo cho thuyền chạy tránh đi chưa kịp, làm sao dám tiến lên đón? Y run giọng, nói:

– Lão… lão đạo gia… có nói đùa không đấy?

Trương Tam Phong thấy tình thế khẩn cấp, bèn giành lấy mái chèo chèo mạnh hai cái, chiếc thuyền liền đổi hướng, lao về phía hai chiếc thuyền kia.

Bỗng nghe “Ái!” một tiếng rú đau đớn, đứa bé trai trên con thuyền nhỏ bị trúng tên vào lưng. Đại hán râu xồm thất kinh, cúi xuống xem xét, thì vai và lưng lập tức trúng mấy mũi tên, mái chèo trong tay cầm không vững, rơi luôn xuống sông, chiếc thuyền dừng lại. Chiếc thuyền lớn nhanh chóng đuổi kịp, bảy tám tên võ quan và phiên tăng Mông Cổ liền nhảy sang chiếc thuyền nhỏ. Đại hán râu xồm tay đấm chân đá, bất khuất chống trả.

Trương Tam Phong thét to:

– Thát tử dừng tay, chớ có hành hung giết người!

Trương lão chèo gấp vài cái nữa cho thuyền tới gần hơn, rồi nhún mình một cái, hai tay áo phất phất, từ trên không trung nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền nhỏ.

Hai tên võ quan Mông Cổ giương cung bắn. Trương Tam Phong phẩy tay áo hất hai mũi tên bay ra xa, chân vừa chạm ván thuyền thì chưởng trái liền đánh ra, hai tên phiên tăng văng xa hơn một trượng, “bõm , bõm” hai tiếng, rơi luôn xuống sông. Bọn võ quan thấy Trương lão như thiên tướng giáng trần, vừa ra tay đã đánh bay hai phiên tăng cao cường nhất thì không khỏi kinh hãi. Tên võ quan cầm đầu quát hỏi:

– Lão đạo điên khùng kia làm gì vậy?

Trương Tam Phong mắng lại:

– Quân cẩu trệ! Chỉ giỏi hành hung tác ác, tàn hại lương dân, có cút đi không thì bảo!

Tên võ quan nói:

– Lão có biết tên kia là ai không? Hắn là dư đảng của phản tặc Ma giáo ở Viên Châu, cả thiên hạ đều muốn tróc nã khâm phạm!

Trương Tam Phong nghe câu “phản tặc Ma giáo ở Viên Châu” liền giật mình, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ y là thuộc hạ của Chu Tử Vượng?” bèn quay sang hỏi đại hán râu xồm:

– Có đúng vậy không?

Đại hán râu xồm toàn thân máu me, tay trái ôm đứa bé trai, mắt rưng rưng lệ, nói:

– Tiểu chúa công… tiểu chúa công bị chúng nó bắn chết rồi.

Câu này vô hình trung thừa nhận thân phận của mình. Trương Tam Phong càng kinh ngạc hơn, hỏi:

– Phải chăng đây là hài tử của Chu Tử Vượng?

Đại hán đáp:

– Đúng thế, tiểu nhân phụ lòng ủy thác rồi, cái mạng này cũng chẳng thiết sống nữa.

Đại hán râu xồm nhẹ nhàng đặt xác đứa bé xuống, rồi lao vào tên võ quan kia. Nhưng y vốn đã bị thương, vai và lưng còn hai mũi tên cắm vào chưa rút ra, mũi tên có tẩm thuốc độc, nên y vừa lao đi đã kêu “Ối” một tiếng, ngã lăn ra sàn thuyền.

Đứa bé gái kia thì ôm xác một người lớn ở trong khoang, khóc to:

– Cha ơi, cha ơi!

Trương Tam Phong nhìn trang phục của tử thi, biết đó là người chủ thuyền.

Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Nếu mình biết sớm là nhân vật trong Ma giáo thì đã chẳng nhúng tay vào chuyện này làm gì, nhưng đã ra tay thì không thể bỏ giữa chừng”, bèn nói với tên võ quan:

– Đứa bé kia đã chết, người kia bị trúng độc tiễn, chốc lát sẽ chết theo; các ngươi đã lập công rồi, thôi đi nơi khác!

Tên võ quan nói:

– Không được, phải lấy hai cái thủ cấp mới xong!

Trương Tam Phong nói:

– Hà tất phải quá quắt như thế?

Tên võ quan hỏi lại:

– Lão đạo là ai? Cớ sao nhúng tay vào việc này?

Trương Tam Phong mỉm cười, nói:

– Ngươi hỏi ta mà làm chi? Việc thiên hạ thì người thiên hạ ai cũng có thể làm.

Tên võ quan đưa mắt cho đồng bọn, hỏi:

– Đạo trưởng đạo hiệu là gì? Xuất gia ở đạo quán nào?

Trương Tam Phong chưa trả lời, hai tên võ quan Mông Cổ đột nhiên vung trường đao chém mạnh vào vai Trương lão. Hai đao này chém tới cực nhanh, khoảng cách giữa đôi bên trên chiếc thuyền nhỏ lại gần, thật không còn chỗ né tránh.

Trương Tam Phong nghiêng người một cái. Trương lão vốn quay mặt về phía mũi thuyền, chỉ hơi xoay người thì mặt đã hướng sang mạn thuyền bên trái, hai lưỡi đao chém vào khoảng không. Hai chưởng của Trương lão vung lên, đẩy vào lưng hai tên võ quan, miệng quát:

– Xéo đi!

Chưởng lực nhả ra, hai tên võ quan bay sang đúng chiếc thuyền lớn mà chúng tới. Mấy chục năm rồi Trương lão không động thủ với ai, lúc này ra tay chẳng khác nào dùng dao mổ trâu để giết gà, song chỉ thấy là vẫn muốn sao được vậy. Tên võ quan thủ lĩnh há hốc mồm, ấp úng nói:

– Lão… lão… lão có phải là…

Trương Tam Phong phẩy phẩy tay áo, quát:

– Ta bình sinh chuyên giết Thát tử!

Bọn võ quan, phiên tăng chỉ thấy gió tạt vào mặt, tên nào tên nấy khó thở. Khi Trương lão dừng tay, cả bọn mặt trắng bệch, cùng la hoảng, tranh nhau nhảy vội về thuyền lớn, cứu hai gã phiên tăng rơi xuống sông rồi vội vã chèo đi.

Trương Tam Phong lấy đơn dược trong bọc ra, nhét vào miệng đại hán râu xồm, chèo chiếc thuyền nhỏ lại gần chiếc đò ngang, định đỡ y qua nhưng không ngờ y thật cứng cỏi, một tay ôm xác đứa bé trai, nhẹ nhàng nhảy qua thuyền bên kia. Trương Tam Phong gật đầu nghĩ thầm: “Người này bị trọng thương mà vẫn trung thành với ấu chúa như thế, quả là một hảo hán khí khái. Tuy lần này ta trót cứu hắn, nhưng một hảo hán như hắn có cứu cũng đáng”. Trương lão trở lại đò ngang, giúp gã đại hán nhổ hai mũi tên độc ra, bôi thuốc trị độc cho gã.

Đứa bé gái nhìn xác cha ở chiếc thuyền bên kia trôi đi, cứ ngồi khóc. Đại hán râu xồm nói:

– Bọn cẩu quan thật là tàn ác, vừa nhảy sang liền bắn chết chủ thuyền. Nếu lão đạo gia không tới kịp, chỉ e cháu bé ấy cũng bị chúng giết luôn.

Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Hiện thời Vô Kỵ không thể đi đâu, hán tử này lại là khâm phạm, nếu vào nghỉ tại khách điếm ở Lão Hà Khẩu, ta phải chiếu cố cho cả hai người, e khó chu toàn”. Trương lão bèn lấy ba lượng bạc đưa cho người lái đò, nói:

– Tiêu công đại ca, phiền đại ca cho thuyền thuận dòng đi về hướng đông, qua bến Tiên Nhân thì đưa chúng tôi tới trấn Thái Bình Điếm nghỉ đêm.

Người lái đò thấy Trương lão đánh bọn quan binh Mông Cổ một trận tơi bời, sớm đã muôn phần kính nể, huống hồ lại được cho nhiều tiền như thế, liền vâng dạ rối rít bẻ lái đưa thuyền đi về hướng đông.

Đại hán râu xồm khấu đầu trên sàn thuyền, nói:

– Lão đạo gia cứu mạng tiểu nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ.

Trương Tam Phong giơ tay đỡ dậy, nói:

– Thường anh hùng khỏi cần dùng đại lễ.

Trương lão vừa chạm vào bàn tay đại hán thì thấy tay y lạnh giá, hơi ngạc nhiên, hỏi:

– Hình như Thường anh hùng đã bị nội thương từ trước thì phải?

Thường Ngộ Xuân nói:

– Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chúa công đi xuống phía nam, dọc đường phải đánh nhau với bọn tay chân của Thát tử bốn lần, ngực và lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng.

Trương Tam Phong xem mạch cho Thường Ngộ Xuân, thấy mạch đập rất yếu, cởi áo y ra để xem vết thương thì càng kinh hãi hơn khi thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc, bị thương quả không nhẹ, nếu là người khác chắc không chịu nổi. Người này phải chạy trốn hàng ngàn dặm, lại phải đánh trả cường địch, quả là bậc anh hùng. Trương lão bèn khuyên đừng nói chuyện nữa, hãy nằm trong khoang tĩnh dưỡng.

Đứa bé gái kia chừng mười tuổi, áo quần lam lũ, chân đi đất, tuy là con nhà thuyền chài nghèo khổ nhưng mặt mũi xinh xắn, sau này chắc chắn sẽ là một mỹ nhân tuyệt sắc. Cô bé cứ ngồi sụt sùi gạt nước mắt.

Trương Tam Phong thấy cháu bé đáng thương, hỏi:

– Tiểu cô nương, tên cháu là gì?

Cô bé đáp:

– Cháu họ Chu, là Chu Chỉ Nhược ạ.

Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Con nhà thuyền chài mà đặt tên thật hay”, lại hỏi:

– Quê cháu ở đâu? Nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa cháu về nhà.

Chu Chỉ Nhược gạt lệ, đáp:

– Chỉ có hai cha con cháu sống trên thuyền thôi, nhà… không còn ai nữa.

Trương Tam Phong “Ôi!” một tiếng, nghĩ thầm: “Con bé mất cha mất nhà, còn quá bé bỏng, làm thế nào bây giờ?”

Thường Ngộ Xuân nói:

– Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay tiểu nhân chưa gặp ai giỏi như thế, xin vô phép hỏi pháp hiệu của lão đạo gia?

Trương Tam Phong mỉm cười:

– Lão là Trương Tam Phong.

Thường Ngộ Xuân “A!” lên một tiếng, liền nhỏm dậy, nói to:

– Hóa ra lão đạo gia là Trương chân nhân núi Võ Đang, thảo nào thần công cái thế, Thường Ngộ Xuân hôm nay vinh hạnh được gặp vị tiên trưởng.

Trương Tam Phong mỉm cười:

– Lão đạo chẳng qua sống hơn vài năm, có gì mà tiên với chả Phật. Thường anh hùng mau nằm nghỉ, đừng làm gì động tới vết thương.

Trương Tam Phong thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, rất có khí phách thì rất quý mến y, nhưng nghĩ đến họ Thường này là người trong Ma giáo, không nên trò chuyện nhiều, bèn lạnh nhạt nói:

– Ngươi bị thương không nhẹ, đừng nói nhiều.

Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường vốn không quá thiên kiến. Trương lão từng nói với Trương Thúy Sơn:

– Hai chữ chính tà thật khó phân biệt. Đệ tử của chính phái mà tâm thuật bất chính thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người một lòng hướng thiện, đó cũng là chính nhân quân tử.

Lại nói giáo chủ Thiên Ưng giáo Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy, hành sự khác người, nhưng là người quang minh lỗi lạc, nên kết thành bằng hữu. Nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, Trương lão thương nhớ đệ tử ruột, căm giận Thiên Ưng giáo, nghĩ thầm đệ tử thứ ba Du Đại Nham suốt đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt cũng đều do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy dằn lòng không đi gặp Ân Thiên Chính vấn tội báo cừu, song dù bụng dạ có rộng lượng đến mấy thì hai chữ “tà ma” cũng khiến Trương lão cực kỳ căm ghét.

Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng chính là đại đệ tử của Di Lặc tông trong Minh giáo. Mấy năm trước khởi sự tại Viên Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc hiệu là Chu. Không lâu sau bị quân Nguyên tiêu diệt, Chu Tử Vượng bị bắt, bị chém đầu. Di Lặc tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái, song đều là chi lưu của Minh giáo, có cùng nguồn gốc sâu xa. Khi Chu Tử Vượng nổi dậy, Ân Thiên Chính ở Chiết Giang từng lên tiếng ủng hộ. Trương Tam Phong hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ là vì lòng nghĩa hiệp nhất thời, lúc đầu chưa biết thân phận y thuộc Minh giáo mà thôi.

Canh hai đêm đó thuyền tới Thái Bình Điếm. Trương Tam Phong bảo chủ thuyền đậu xa thị trấn, lên trấn mua thức ăn về nấu cơm, bày ra mâm các món thịt gà, thịt heo, cá, rau trong bốn cái tô lớn. Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn mình tự tay đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam Phong bảo là thằng bé bị độc hàn xâm nhập tạng phủ, đã điểm các huyệt đạo, tạm thời chưa nguy đến tính mạng. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt nổi. Trương Tam Phong gặng đút thêm, nó lắc đầu không chịu ăn thêm.

Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm từ tay Trương Tam Phong, nói:

– Đạo trưởng dùng cơm trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta no rồi, không muốn ăn nữa.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Nếu tiểu tướng công không ăn, lão đạo trưởng sẽ buồn lòng, cũng không muốn ăn, chẳng hóa ra cũng bị đói cả ư?

Trương Vô Kỵ nghĩ cô bé nói quả không sai, lúc Chu Chỉ Nhược xúc cơm đưa tới miệng, bèn há miệng ăn. Cô bé cẩn thận gỡ hết xương gà, xương cá, lại rưới chút nước thịt vào mỗi miếng cơm. Trương Vô Kỵ ăn thấy thật ngon miệng, hết cả một tô cơm.

Trương Tam Phong cảm thấy được an ủi, nghĩ thầm: “Vô Kỵ số đến là khổ, mười tuổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại bị bệnh nặng, nay được người con gái ý tứ thế kia săn sóc thật là hay”.

Thường Ngộ Xuân không đụng tới thịt cá, chỉ ăn rau, tuy đang trọng thương mà cũng ăn hết bốn tô cơm trắng. Trương Tam Phong không kiêng thịt cá, lại thấy y chỉ ăn rau, bèn khuyên y nên ăn chút thịt gà, Thường Ngộ Xuân nói:

– Trương chân nhân, tiểu nhân thờ Bồ Tát, không ăn mặn.

Trương Tam Phong nói:

– Ờ, lão đạo quên mất.

Lúc đó mới nhớ là người trong Ma giáo quy củ rất nghiêm, không ăn mặn, từ đời Đường đến nay đều thế cả. Cuối thời Bắc Tống, đại thủ lĩnh của Minh giáo là Phương Lạp khởi sự tại Chiết Đông, quan và dân đương thời đều gọi họ là “Đạo ăn chay thờ ma”. Ăn chay và thờ Ma vương, là hai quy luật lớn của Ma giáo, lưu truyền đã mấy trăm năm. Từ đời Tống trở đi, quan phủ chém giết Ma giáo rất ngặt, người trong võ lâm đối với Ma giáo cũng không coi ra gì, cho nên giáo đồ Ma giáo hành sự rất bí ẩn, tuy ăn chay nhưng đối với người ngoài vẫn phải giả xưng thờ Phật, thờ Bồ Tát, chứ không dám tiết lộ thân phận của mình.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Trương chân nhân, đạo trưởng có ơn cứu mạng, lại đã biết rõ lai lịch của tiểu nhân, tiểu nhân chả dám giấu giếm. Tiểu nhân là người trong Minh giáo, phụng sự Minh tôn. Quan phủ triều đình vô cùng căm ghét, người hiệp nghĩa trong các danh môn chính phái coi khinh chúng tôi, thậm chí ngay đến bọn hắc đạo giết người, đốt nhà cướp của cũng bảo chúng tôi là tà ma quỷ quái. Lão nhân gia đã biết rõ lai lịch của tiểu nhân mà vẫn ra tay cứu, ân đức này quả thật tiểu nhân không biết lấy gì báo đáp.

Trương Tam Phong cũng từng nghe kể đôi chút về Ma giáo, biết Ma giáo thờ đại Ma vương tên là Ma Ni, người theo Ma giáo gọi là Minh tôn. Tôn giáo này truyền đến Trung thổ từ đời Nguyên Hòa, Đường Hiến Tông, thời ấy gọi là Ma Ni giáo, còn gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự xưng là Minh giáo, nhưng người ngoài thì gọi là Ma giáo. Trương Tam Phong trầm ngâm một lát, nói:

– Thường anh hùng…

Thường Ngộ Xuân vội nói:

– Lão đạo gia đừng gọi anh hùng hào kiệt gì cả, xin cứ gọi trống không hai chữ Ngộ Xuân là được.

Trương Tam Phong nói:

– Được, Ngộ Xuân, năm nay ngươi bao nhiêu tuổi?

Thường Ngộ Xuân đáp:

– Tiểu nhân vừa tròn hai mươi.

Trương Tam Phong thấy y tuy mặt đầy râu ria nhưng lời lẽ cử chỉ xem ra còn rất trẻ, nghe trả lời thì gật đầu:

– Ngươi như thế chỉ vừa mới trưởng thành, tuy đi theo Ma giáo nhưng sa chân chưa sâu, biết sớm quay đầu cũng chưa muộn đâu! Ta có một câu muốn khuyên ngươi, ngươi nghe đừng giận.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Lão đạo gia chỉ giáo, tiểu nhân làm sao dám giận.

Trương Tam Phong nói:

– Tốt lắm! Ta khuyên ngươi thay lòng đổi dạ, bỏ tà giáo đi. Nếu ngươi không chê bổn phái Võ Đang bản lĩnh kém cỏi, lão đạo sẽ bảo đại đồ nhi Tống Viễn Kiều nhận ngươi làm đệ tử. Sau này ngươi hành tẩu giang hồ, oai phong hiên ngang, sẽ không ai dám coi thường ngươi nữa.

Tống Viễn Kiều đứng đầu bảy đệ tử, danh chấn thiên hạ, những kẻ bình thường trong võ lâm muốn gặp Tống đại hiệp một lần cũng chẳng dễ. Võ Đang chư hiệp mãi vài năm gần đây mới thu nhận đồ đệ, song việc lựa chọn cực nghiêm, nếu không phải là người có căn cốt tư chất, phẩm hạnh tính tình đều tốt thì không được nhận làm môn hạ phái Võ Đang. Thường Ngộ Xuân xuất thân Ma giáo, người thường nghe tới đã cau mày lắc đầu, vậy mà lại được Trương Tam Phong biệt đãi cho làm môn hạ của Tống Viễn Kiều, đối với người học võ mà nói, là một đại phúc duyên hiếm có vậy.

Ai ngờ Thường Ngộ Xuân khẳng khái nói:

– Tiểu nhân được Trương chân nhân quý mến, cảm kích thật không để đâu cho hết. Nhưng tiểu nhân đã theo Minh giáo rồi, suốt đời không thể nào bội giáo.

Trương Tam Phong khuyên thêm vài câu, Thường Ngộ Xuân vẫn kiên quyết không nghe.

Trương Tam Phong thấy y chấp mê không tỉnh ngộ, đành thở dài, lắc đầu nói:

– Còn tiểu cô nương này…

Thường Ngộ Xuân nói:

– Lão đạo trưởng cứ yên tâm, cha cô bé vì tiểu nhân mà chết, tiểu nhân sẽ tìm cách lo liệu cho cô bé chu đáo.

Trương Tam Phong nói:

– Tốt, nhưng ngươi không nên để cô bé này gia nhập quý giáo.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Thật không hiểu chúng tôi phạm tội ác gì lớn mà mọi người lại khinh bỉ chúng tôi, coi người theo Minh giáo cứ như mãnh thú độc xà không bằng. Được rồi, đạo trưởng đã dặn thế, tiểu nhân xin tuân mệnh.

Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ vào lòng, nói:

– Vậy chúng ta từ biệt nhau ở đây.

Trương lão quả thật không muốn giao thiệp thêm với người theo Ma giáo nên không nói mấy chữ “hẹn có ngày gặp lại”. Thường Ngộ Xuân lại bái tạ một lần nữa.

Chu Chỉ Nhược nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu tướng công mỗi ngày cố ăn cho no, để lão đạo gia khỏi lo lắng nhé.

Trương Vô Kỵ ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:

– Đa tạ hảo tâm của cô nương, nhưng… nhưng tôi cũng chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn đâu.

Trương Tam Phong buồn rầu, lấy tay áo lau nước mắt trên má Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược lo lắng hỏi:

– Sao thế? Tiểu tướng công… tiểu tướng công…

Trương Tam Phong nói:

– Tiểu cô nương, lòng dạ cháu thật tốt, chỉ mong sau này cháu đi theo con đường chính đáng, không sa vào vòng tà ma.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Vâng! Thế còn vị tiểu tướng công này, vì sao lại nói là chả còn bao nhiêu ngày để ăn ạ?

Trương Tam Phong lặng lẽ không trả lời. Thường Ngộ Xuân nói:

– Trương chân nhân, lão nhân gia công lực thâm hậu, thần thông quảng đại, vị thiếu gia này tuy trúng độc không nhẹ, nhưng không thể hóa giải được sao?

Trương Tam Phong nói:

– Được chứ!

Miệng nói thế, nhưng tay trái của Trương lão thõng bên dưới thì cứ xua xua nhẹ mấy cái, ý muốn nói là bệnh tình của Vô Kỵ quá nặng, vô phương cứu chữa, có điều không muốn cho Vô Kỵ biết.

Thường Ngộ Xuân thấy Trương Tam Phong xua xua tay thì giật mình, nói:

– Tiểu nhân bị nội thương không nhẹ, chính đang đi nhờ một vị thần y chữa trị, hay là cho vị thiếu gia này đi với tiểu nhân luôn thể?

Trương Tam Phong lắc đầu, nói:

– Khí độc hàn đã chạy khắp tạng phủ, thuốc men tầm thường cũng vô tác dụng thôi, chỉ còn… chỉ còn cách từ từ hóa giải thôi.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Thế nhưng vị thần y kia quả là có tài cải tử hoàn sinh đó.

Trương Tam Phong sững người, chợt nghĩ ra, bèn hỏi:

– Người ấy phải chăng là Điệp Cốc Y Tiên?

Thường Ngộ Xuân nói:

– Chính ông ta, thì ra lão đạo trưởng cũng biết tiếng Hồ sư bá của tiểu nhân.

Trương Tam Phong do dự, nghĩ thầm: “Ta nghe Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu này tuy y đạo cực kỳ cao minh, song lại theo Ma giáo, xưa nay nhân sĩ võ lâm không ai muốn nhắc tới. Huống hồ tính khí của hắn lại hết sức quái dị, chỉ cần là người trong Ma giáo là hắn tận lực cứu chữa, không lấy một xu tiền công, còn người ngoài cầu xin hắn, dù có chồng cả vạn lượng vàng trước mặt, hắn cũng chẳng buồn đoái hoài, cho nên hắn còn có ngoại hiệu Kiến Tử Bất Cứu. Nếu đúng là người đó, thì thà để Vô Kỵ chết chứ quyết không giao nó vào tay Ma giáo”.

Thường Ngộ Xuân thấy Trương Tam Phong cau mày suy nghĩ, hiểu rõ tâm ý của Trương lão, bèn nói:

– Trương chân nhân, Hồ sư bá tuy trước nay không hề chữa bệnh cho người ngoài Ma giáo, nhưng tiểu nhân được lão đạo trưởng cứu mạng, đại ân thâm trọng, Hồ sư bá không thể không phá lệ. Giả sử Hồ sư bá không ra tay, tiểu nhân quyết chẳng để yên.

Trương Tam Phong nói:

– Vị Hồ tiên sinh đó y thuật như thần, ta cũng có nghe tiếng. Có điều khí độc hàn trong thân thể Vô Kỵ quả không phải loại thường…

Thường Ngộ Xuân cao giọng:

– Vị thiếu gia này cùng lắm chữa không xong, thì đằng nào cũng chết, có gì phải kiêng dè kia chứ?

Tính tình Thường Ngộ Xuân quá bộc trực, hào sảng, nghĩ sao liền nói vậy.

Trương Tam Phong nghe năm chữ “thì đằng nào cũng chết”, trong lòng chấn động, nghĩ thầm: “Gã họ Thường này nói năng lỗ mãng nhưng quả không sai, ta xem ra Vô Kỵ chỉ còn sống được chừng một tháng nữa, thôi cứ đánh liều cầu may vậy”. Trương lão trước nay giao thiệp với ai cũng hết lòng hết dạ tin người, Thường Ngộ Xuân này quả là một hán tử trượng nghĩa, song Trương Vô Kỵ là giọt máu duy nhất của đứa học trò yêu, bảo Trương lão giao vào tay một đệ tử Ma giáo nổi danh tà ác, làm sao có thể yên tâm kia chứ, thành thử nhất thời chưa quyết định được.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Trương chân nhân không muốn đến gặp Hồ sư bá, cái đó tiểu nhân biết. Xưa nay chính tà hai bên không nhìn mặt nhau mà! Trương chân nhân là đại tông sư đương thời, lẽ nào đi cầu tà ma ngoại đạo? Hồ sư bá của tiểu nhân tính khí cổ quái, gặp Trương chân nhân không chừng lại nói năng vô lễ, xảy ra động thủ lại phiền. Vị thiếu gia này tốt hơn cả hãy để tiểu nhân đưa đi, nhưng như thế Trương chân nhân lại không an tâm. Vậy làm thế này, tiểu nhân dẫn Trương huynh đệ đây tới nhờ Hồ sư bá từ từ cứu chữa, rồi tiểu nhân sẽ lên núi Võ Đang làm con tin. Trương huynh đệ nếu có gì không ổn, Trương chân nhân cứ một chưởng đánh chết tiểu nhân là xong.

Trương Tam Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm: “Nếu Vô Kỵ có gì sơ sẩy, ta đánh chết ngươi thì được cái gì? Song ngươi không lên núi Võ Đang, thì ta biết tìm ngươi ở đâu? Trước mắt Vô Kỵ khí hàn độc đã nhập vào cao hoang[48], đúng là đằng nào cũng chết, vào lúc sinh tử này, phải quyết định dứt khoát”, bèn nói:

– Thôi đành gửi gắm ngươi vậy. Nhưng ta phải nói trước, Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ gia nhập Ma giáo, bổn phái Võ Đang cũng không chịu ơn quý giáo đâu đó.

Trương lão biết Ma giáo hành sự bí ẩn, nguy hiểm, nếu dính dấp với họ, âm hồn cứ lẩn quẩn, không biết hậu hoạn bao nhiêu mà kể, Trương Thúy Sơn đã thân tử danh liệt, là một dẫn chứng rành rành ra đấy.

Thường Ngộ Xuân ngang nhiên nói:

– Trương chân nhân coi người trong Minh giáo chúng tôi chẳng ra gì cả! Nhưng thôi, cứ theo lời dặn là xong.

Trương Tam Phong nói:

– Ngươi thay ta săn sóc Vô Kỵ, nếu khí độc âm trong cơ thể cuối cùng trừ được thì ngươi đưa nó về núi Võ Đang. Còn việc ngươi lên núi làm con tin thì khỏi cần.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Tiểu nhân xin làm hết sức mình.

Trương Tam Phong nói:

– Còn tiểu cô nương này, để ta đưa về núi Võ Đang thu xếp lo liệu cho.

Thường Ngộ Xuân lên bờ sông, dùng đao đào một cái hố dưới một gốc cây đại thụ, đem thi thể của Chu công tử lột hết quần áo mà chôn xuống đó, rồi quỳ trước mộ lạy mấy lạy. Thì ra quy củ của Minh giáo là “khỏa táng”, khi sinh ra không mảnh vải che thân, đến lúc chết đem chôn cũng phải thế. Trương Tam Phong không biết quy củ đó, nghĩ thầm bọn Ma giáo làm gì cũng tà môn thần bí.

Sáng hôm sau, Trương Tam Phong dắt Chu Chỉ Nhược, chia tay với Thường Ngộ Xuân và Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ từ khi cha mẹ mất đến giờ coi Trương Tam Phong như ông nội của mình, bây giờ bỗng nhiên phải xa cách ông nội, không khỏi nước mắt ròng ròng. Trương Tam Phong an ủi:

– Vô Kỵ, khi nào cháu khỏi bệnh, Thường đại ca sẽ đưa cháu về núi Võ Đang. Cháu ngoan nào, chỉ xa ông vài tháng thôi, không làm gì phải buồn.

Trương Vô Kỵ chân tay không động đậy được, nước mắt cứ chảy dài trên má. Chu Chỉ Nhược trở lại thuyền, lấy trong bọc ra một cái khăn tay, lau nước mắt cho Vô Kỵ, mỉm cười với nó rồi nhét chiếc khăn vào túi áo Vô Kỵ, sau đó mới lên bờ.

Trương Vô Kỵ nhìn theo thái sư phụ cùng Chu Chỉ Nhược đi về phía tây, thấy Chu Chỉ Nhược không ngớt ngoảnh đầu nhìn lại và giơ tay vẫy nó, mãi khi đi khuất sau một hàng dương liễu mới thôi. Lập tức thằng bé cảm thấy thê lương lẻ bóng, đau khổ vô cùng, không nhịn nổi khóc òa lên.

Thường Ngộ Xuân chau mày, hỏi:

– Trương huynh đệ, năm nay đệ bao nhiêu tuổi?

Trương Vô Kỵ nghẹn ngào đáp:

– Mười hai tuổi.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Hay nhỉ, mười hai tuổi đầu rồi, đâu còn bé bỏng gì nữa mà khóc hu hu, không biết ngượng ư? Hồi huynh mười hai tuổi thì đã bị đánh không biết mấy trăm trận, nhưng không bao giờ thèm khóc. Nam tử hán đại trượng phu, chảy máu thì được, rơi lệ thì không. Đệ còn thút tha thút thít, huynh sẽ cho vài cái tát.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đệ không muốn xa thái sư phụ nên mới khóc, chứ ai đánh đệ, đệ chả khóc đâu. Đại ca muốn tát đệ thì cứ việc, hôm nay đánh đệ một quyền, mai sau đệ sẽ đánh lại mười quyền.

Thường Ngộ Xuân kinh ngạc, cười ha hả, nói:

– Hảo huynh đệ, hảo huynh đệ. Thế mới là cốt cách nam tử hán chứ. Tiểu đệ lợi hại như thế, huynh chả dám đánh đệ đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiểu đệ cử động còn chẳng nổi, sao huynh không dám đánh?

Thường Ngộ Xuân cười, nói:

– Hôm nay huynh đánh đệ, sau này đệ học võ công của thái sư phụ, môn Thần quyền của phái Võ Đang, huynh làm sao chịu nổi vài cú đấm?

Trương Vô Kỵ nghe vậy bật cười, cảm thấy vị Thường đại ca này tướng mạo tuy hung dữ nhưng không phải hạng người xấu.

Thường Ngộ Xuân thuê giang thuyền đi thẳng xuống Hán Khẩu, đến Hán Khẩu đổi sang thuyền lớn theo Trường Giang đi về phía đông. Nơi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ẩn cư là hẻm núi Hồ Điệp, bên cạnh hồ Nữ Sơn vùng Hoàn Bắc.

Trường Giang từ Hán Khẩu đến Cửu Giang, chảy theo hướng đông nam, qua Cửu Giang rồi thì ngoặt sang hướng đông bắc, vào địa giới đất Hoàn. Hai năm trước, Trương Vô Kỵ từng đáp thuyền ngược lên hướng bắc, nhưng khi đó đi cùng với cha mẹ, lại có Du nhị bá đồng hành, dọc đường biết bao điều thích thú. Nay cha mẹ đều đã mất, còn mình sống dở chết dở theo Thường Ngộ Xuân đi cầu thầy chữa bệnh, sướng khổ hai đằng quả thật cách nhau một trời một vực. Sợ Thường Ngộ Xuân nổi giận, tuy trong lòng rất đau buồn, nhưng Vô Kỵ không dám khóc. Những huyệt đạo Trương Tam Phong điểm hồi trước đã tự giải khai, mỗi khi hàn độc phát tác lại đau đớn khó chịu, Vô Kỵ cứ nghiến răng chịu đựng đến nỗi môi dưới đầy các vết răng, mà âm hàn xâm nhập ngày một sâu thêm.

Đến Qua Phụ ở hạ du Tập Khánh, Thường Ngộ Xuân bỏ thuyền lên bờ, thuê một cỗ xe lớn chạy về hướng bắc; mấy ngày sau đến Quang Minh ở phía đông Phụng Dương. Thường Ngộ Xuân biết vị Hồ sư bá không thích người ngoài biết chỗ ẩn cư của ông ta, khi đến cách hồ Nữ Sơn khoảng hai chục dặm liền cho xe quay đầu, rồi cõng Trương Vô Kỵ băng băng đi tới.

Thường Ngộ Xuân tưởng rằng hai chục dặm chỉ đi một mạch là tới, ai ngờ vì bị trúng hai âm chưởng của phiên tăng, nội thương khá nặng, mới đi được hơn một dặm là gân cốt đã mỏi nhừ, thở hồng hộc, bước đi vất vả. Trương Vô Kỵ ái ngại, nói:

– Thường đại ca, để tiểu đệ tự đi cũng được, đại ca đừng phí sức.

Thường Ngộ Xuân giận dữ nói:

– Bình thời huynh đi một mạch cả trăm dặm cũng chưa thấy mệt, không lẽ tên tặc hòa thượng đánh huynh có hai chưởng mà không đi nổi nữa sao?

Thường Ngộ Xuân hiếu thắng càng cố sức bước nhanh hơn, nhưng nội thương vốn đã trầm trọng, cộng với sự nôn nóng gắng sức nên chỉ sau vài chục trượng, đã cảm thấy các khớp xương tứ chi rã rời; song y chưa chịu nhận mình yếu, chưa chịu nghỉ, cứ cõng Trương Vô Kỵ đi tiếp, từng bước từng bước một.

Đi như thế thật là chậm, đến tối mịt mà vẫn còn chưa được nửa đường, đường núi lại cheo leo, càng vào sâu càng khó đi. Đến một cánh rừng, Thường Ngộ Xuân đặt Trương Vô Kỵ xuống đất, còn mình nằm thẳng cẳng nghỉ mệt. Y lấy trong bọc ra mấy cái bánh cùng ăn với Trương Vô Kỵ. Nghỉ chừng nửa canh giờ, Thường Ngộ Xuân định đi tiếp, Trương Vô Kỵ cố khuyên y hãy ngủ lại trong rừng một đêm, đợi trời sáng hãy đi tiếp. Thường Ngộ Xuân nghĩ nếu tối nay cứ đi, nửa đêm tới kinh động Hồ Thanh Ngưu, chỉ tổ làm cho ông ta nổi giận, bèn nghe lời khuyên của Vô Kỵ. Hai người ngồi dưới gốc một cây lớn, dựa vào nhau mà ngủ.

Ngủ đến nửa đêm, chất độc hàn trong người Vô Kỵ lại phát tác, người cứ run cầm cập. Sợ làm cho Thường Ngộ Xuân mất ngủ, Trương Vô Kỵ không dám kêu rên, cắn răng cố chịu. Vừa lúc đó, từ xa bỗng vọng tới tiếng vũ khí va chạm nhau, tiếng người quát:

– Định chạy đi đâu?

– Hãy chặn phía đông, dồn hắn vào rừng!

– Phen này quyết không để cho tên trọc tẩu thoát!

Tiếp đó có nhiều tiếng chân, có mấy người chạy vào cánh rừng. Thường Ngộ Xuân giật mình tỉnh dậy, tay phải rút đơn đao, tay trái ôm Trương Vô Kỵ, định vừa đánh vừa chạy. Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

– Hình như không phải họ tìm mình đâu.

Thường Ngộ Xuân gật đầu, nép sau gốc cây nhìn ra thấy trong bóng tối có bảy tám người đang vây đánh một người, người đó tay không, song chưởng múa như bay, không cho đối phương lại gần mình. Đấu một hồi, vòng vây dần dần khép lại.

Không lâu sau, vầng trăng khuyết ló ra khỏi các đám mây, chiếu xuống bốn bề, chỉ thấy người bị vây kia là một bạch y hòa thượng cao gầy, tuổi trạc tứ tuần; những người vây đánh hòa thượng có tăng có đạo, có tục gia hán tử, lại có hai thiếu nữ, tổng cộng tám người. Hai tăng nhân mặc áo xám tro, một cầm thiền trượng, một cầm giới đao; mỗi lần thiền trượng quật ngang, giới đao chém phạt là lá cây lại rụng lả tả. Một đạo nhân cầm trường kiếm, thân pháp mau lẹ, dưới ánh trăng kiếm hoa loang loáng từng vùng. Một hán tử thấp bé sử dụng song đao, dùng Địa Đường đao pháp tấn công hạ bàn[49] của bạch y hòa thượng.

Hai thiếu nữ thân hình mảnh mai, sử dụng trường kiếm, kiếm pháp rất linh động nhẹ nhàng. Một thiếu nữ quay mặt sang, nửa mặt lộ rõ dưới ánh trăng. Trương Vô Kỵ suýt nữa kêu lên “Kỷ cô nương!” Thiếu nữ kia chính là Kỷ Hiểu Phù, hôn thê của Ân Lê Đình. Lúc mới nhìn tám người vây đánh một người, Trương Vô Kỵ thấy lấy nhiều đánh ít là quá bất công, chỉ mong hòa thượng phá được vòng vây chạy thoát. Bây giờ nhận ra Kỷ Hiểu Phù, nghĩ hòa thượng là đối thủ của Kỷ cô nương, ắt là kẻ xấu, thì Trương Vô Kỵ xoay qua ủng hộ phe Kỷ Hiểu Phù.

Năm trước, khi cha mẹ cậu tự tận, Kỷ Hiểu Phù từng ngọt ngào an ủi cậu. Tuy cậu không nhận cái vòng vàng Kỷ Hiểu Phù tặng, nhưng sau nhớ lại, cậu rất cảm kích trước hảo ý của Kỷ Hiểu Phù.

Trương Vô Kỵ thấy bạch y hòa thượng võ công cao cường, chưởng pháp lúc nhanh lúc chậm, hư hư thực thực, biến ảo đa đoan, khi đánh nhanh thì không thể nhìn rõ đường hướng tiến thoái của bàn tay y. Bên Kỷ Hiểu Phù tuy đông người mà đánh lâu vẫn chưa thắng nổi.

Bỗng nghe một hán tử quát:

– Dùng ám khí tấn công!

Một hán tử và một đạo sĩ liền dạt qua hai bên, liền đó là tiếng vèo vèo liên tiếp, thiết đạn và phi đao bắn ào ào về phía bạch y hòa thượng khiến y khó bề chống đỡ. Đạo sĩ râu dài cầm kiếm quát to:

– Bành hòa thượng, bọn ta không cần giết mi, mi làm gì phải liều chết như vậy? Mi giao Bạch Quy Thọ ra đây, mọi người sẽ vui vẻ đi liền, như thế có hay hơn không?

Thường Ngộ Xuân giật mình, nói nhỏ:

– Vị kia là Bành hòa thượng ư?

Trương Vô Kỵ năm trước đi thuyền, từng nghe cha mẹ kể cho Du nhị bá chuyện dương đao lập uy trên Vương Bàn sơn đảo, biết nguyên do tại sao các bang phái kết oán thù với Thiên Ưng giáo, biết Bạch Quy Thọ chính là đàn chủ Huyền Vũ đàn còn sống sót sau vụ nọ tại Vương Bàn sơn đảo, lâu nay các môn phái đánh nhau với Thiên Ưng giáo cũng chỉ vì muốn Bạch Quy Thọ nói ra tung tích của Tạ Tốn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Không lẽ Bành hòa thượng cũng là người trong giáo phái của mẹ ta?”

Chỉ nghe Bành hòa thượng lớn tiếng nói:

– Bạch đàn chủ đã bị các người đánh trọng thương, đừng nói ta với Bạch Quy Thọ có liên hệ với nhau, mà dù chẳng liên quan gì thì cũng chẳng thể thấy người sắp chết lại không cứu.

Đạo sĩ râu dài nói:

– Sao lại nói là “thấy người sắp chết lại không cứu”? Bọn ta không hề muốn lấy mạng hắn, chỉ muốn biết tin về một người thôi.

Bành hòa thượng nói:

– Các người muốn biết chỗ ở của Tạ Tốn, sao không tới tìm phương trượng Thiếu Lâm tự mà hỏi?

Một tăng nhân mặc áo bào màu xám liền kêu lên:

– Đó là ác kế của con yêu nữ Thiên Ưng giáo Ân Tố Tố giá họa cho Thiếu Lâm bổn tự, ai tin kia chứ?

Tăng nhân này hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ nghe hắn nhắc đến tên mẹ cậu, thì vừa hãnh diện, vừa đau lòng, nghĩ thầm: “Mẫu thân ta qua đời đã hai năm, song vẫn còn khiến cho các người phải mụ mẫm cả đầu óc”.

Bỗng nghe một đạo sĩ đứng vòng ngoài kêu lên:

– Người đằng mình nằm xuống!

Sáu người nghe vậy vội nằm xuống, chỉ thấy bạch quang loang loáng, năm thanh phi đao vù vù phóng ra, cùng nhắm vào ngực Bành hòa thượng. Kể ra Bành hòa thượng chỉ cần rùn người, khom lưng nhào về phía trước, hoặc sử dụng thiết bản kiều ngửa người ra phía sau là tránh được các ngọn phi đao, nhưng khi đó sáu người nằm dưới đất cùng dựng binh khí lên, chặn hết hạ tam lộ của y, thành thử không thể rùn xuống được.

Trương Vô Kỵ kinh hãi, thấy Bành hòa thượng đột nhiên nhảy vọt lên cao, năm ngọn phi đao bay qua dưới chân y. Tuy y tránh được phi đao nhưng thiền trượng và giới đao của hai hòa thượng Thiếu Lâm cùng trường kiếm của gã đạo sĩ râu dài đang cùng đánh tới chân y. Bành hòa thượng đang lơ lửng trên không, đành phải mạo hiểm đánh ra chưởng trái, “bộp” một cái, trúng đầu một tăng nhân Thiếu Lâm, tay phải giật luôn giới đao trong tay tăng nhân ấy, thuận thế gạt vào thiền trượng, mượn sức bay xa hai trượng.

Tăng nhân Thiếu Lâm bị một chưởng trúng thiên linh cái, chết ngay lập tức. Những người còn lại nổi giận hò hét đuổi theo, chỉ thấy Bành hòa thượng chân khập khiễng, ngã lăn ra đất, bảy người kia liền vây quanh y. Tăng nhân cầm thiền trượng như một con hổ điên, đánh xuống tới tấp, miệng gầm lên:

– Bành hòa thượng, mi giết sư đệ của ta, ta quyết thí mạng với mi!

Đạo sĩ râu dài nói:

– Đùi hắn trúng ám khí “yết vĩ câu” của ta rồi, chỉ lát nữa chất độc phát tác là hắn chết thôi.

Quả nhiên Bành hòa thượng đứng chân không vững, thân hình lảo đảo.

Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Y là một đại nhân vật của Minh giáo ta, phải cứu y mới được!” Thường Ngộ Xuân tuy đang bị thương nhưng vẫn định xông ra cứu người, vội hít mạnh một hơi, chân trái nhảy tới. Nào ngờ hô hấp quá gấp, bước nhảy lại dài, động đến vết thương trên ngực, đau quá gần như ngất xỉu. Lúc đó Bành hòa thượng cũng ngã lăn, có lẽ chất độc đã ngấm khiến y chết rồi. Thường Ngộ Xuân cố nhịn đau, mở to mắt xem động tĩnh thì thấy bảy người kia cũng chưa dám tiến lại gần Bành hòa thượng.

Đạo sĩ râu dài nói:

– Hứa sư đệ, hãy bắn thử hai ngọn phi đao xem hắn thế nào.

Đạo sĩ kia liền vung tay phải, nghe “phập, phập” hai tiếng, một ngọn phi đao trúng vai bên phải, một ngọn phi đao trúng đùi bên trái của Bành hòa thượng. Bành hòa thượng không động đậy, rõ ràng đã chết. Đạo sĩ râu dài nói:

– Tiếc thật, tiếc thật, hắn chết mất rồi, không biết hắn giấu Bạch Quy Thọ ở đâu?

Bảy người cùng tiến lên vây quanh xem xét.

Bỗng nghe “bình bình” năm tiếng liên tiếp, năm người bị đánh văng ra xa, Bành hòa thượng đứng bật dậy, vai và đùi vẫn còn cắm phi đao. Nguyên đùi y bị trúng ám khí tẩm độc, biết mình khó có thể tiếp tục giao đấu nên bèn giả vờ chết, dụ địch tới gần, sử dụng thủ pháp “Đại phong vân phi chưởng” nhanh như chớp giáng trúng ngực năm địch thủ nam giới. Lúc nằm giả chết, y đã ngầm vận khí chờ sẵn, nên năm chưởng kia rất cương mãnh lợi hại.

Kỷ Hiểu Phù và sư tỷ đồng môn Đinh Mẫn Quân giật mình kinh hãi liền vội nhảy ra xa, nhìn năm người kia người nào cũng hộc máu mồm, hai người công lực kém hơn thì rên rỉ đau đớn. Bành hòa thượng vận kình gấp rút nên cũng đứng không vững, lảo đảo chực ngã. Đạo sĩ râu dài lại kêu to:

– Đinh, Kỷ hai cô nương, mau dùng kiếm đâm hắn đi!

Đôi bên chín người thì một tăng nhân Thiếu Lâm đã chết, Bành hòa thượng và năm người khác cùng trọng thương, chỉ còn Kỷ Hiểu Phù và Đinh Mẫn Quân là chưa sao cả. Đinh Mẫn Quân nghĩ bụng: “Ta không biết dùng kiếm hay sao mà ngươi phải chỉ vẽ?” Nàng ta liền sử chiêu “Hư thức phân kim” đâm vào cổ Bành hòa thượng, Bành hòa thượng thở dài, nhắm mắt chờ chết, chỉ nghe “keng” một tiếng binh khí va nhau, mở mắt ra thì thấy Kỷ Hiểu Phù đã dùng kiếm gạt binh khí của sư tỷ ra.

Đinh Mẫn Quân kinh ngạc hỏi:

– Sao thế?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Sư tỷ, Bành hòa thượng đã chưởng hạ lưu tình, hai ta cũng không nên tận sát.

Đinh Mẫn Quân nói:

– Chưởng hạ lưu tình cái gì? Hắn không còn sức để giáng chưởng nữa thì có.

Rồi quát to:

– Bành hòa thượng, sư muội của ta lòng dạ từ bi, đã cứu mạng ngươi, vậy Bạch Quy Thọ ở đâu, ngươi có chịu nói hay không?

Bành hòa thượng ngửa mắt lên trời cười lớn, nói:

– Đinh cô nương, cô nương coi thường Bành Oánh Ngọc này quá! Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp phái Võ Đang thà tự vẫn mà chết chứ quyết không nói ra chỗ ở của nghĩa huynh. Bành Oánh Ngọc ta ngưỡng mộ lòng can đảm nghĩa liệt của Trương ngũ hiệp, tuy bất tài, song ta cũng cố noi cho được tấm gương đó.

Nói tới đây, y hộc ra một ngụm máu, phải ngồi bệt xuống.

Đinh Mẫn Quân bước tới, giơ chân phải đá luôn ba cái vào mạng sườn để y không còn cách gì đánh lén được nữa.

Mấy câu nói của Bành hòa thượng khiến nhiệt huyết dâng lên trong lòng Trương Vô Kỵ, cậu cảm thấy vừa gần gũi, vừa cảm kích đối với Bành Oánh Ngọc. Trương Thúy Sơn cha cậu tự vẫn, người trong danh môn chính phái mỗi khi nhắc tới đều cho rằng “Một thiếu niên anh hiệp như thế, chỉ vì vướng vào yêu nữ tà giáo, sảy chân một cái thành nỗi hận thiên thu, đến nỗi thân tử danh liệt, khiến cả phái Võ Đang phải chịu chung cái nhục”. Mấy câu này tuy Trương Vô Kỵ không nghe thấy, nhưng cậu nhìn thần sắc của thái sư phụ và các sư bá sư thúc khi trò chuyện, ngoài vẻ thương tâm thì đối với mẫu thân cậu rõ ràng còn có ý oán trách, rằng cha cậu cả đời làm việc gì cũng tốt, chỉ vì lấy nhầm phải mẫu thân cậu mà ra nông nỗi; chứ chưa một ai tỏ lòng khâm phục cha cậu như Bành hòa thượng cả.

Đinh Mẫn Quân cười khẩy, nói:

– Trương Thúy Sơn mắt mù nên mới kết hôn với yêu nữ tà giáo, cái đó gọi là tự hạ thấp mình, có gì đáng noi theo? Phái Võ Đang của y…

Kỷ Hiểu Phù ngắt lời:

– Sư tỷ…

Đinh Mẫn Quân nói:

– Muội đừng lo, ta không nói gì đến Ân lục hiệp đâu mà sợ.

Đoạn giơ kiếm chỉ thẳng vào mắt phải của Bành hòa thượng, nói:

– Nếu ngươi không nói, ta sẽ đâm mù mắt phải của ngươi trước, sau đó đâm mù mắt trái, rồi sẽ đâm thủng tai phải, cuối cùng đâm thủng tai trái và cắt mũi của ngươi, tóm lại ta sẽ không cho ngươi chết yên chết lành.

Mũi kiếm sáng nhọn hoắt của ả họ Đinh giờ chỉ cách mắt Bành hòa thượng không tới nửa tấc, không ngừng rung động.

Bành hòa thượng giương to đôi mắt, giọng thản nhiên nói:

– Ta vốn ngưỡng mộ Diệt Tuyệt sư thái phái Nga Mi hành sự tàn ác hiểm độc, nay thấy đệ tử của bà ta cũng chẳng khác bao nhiêu. Bành Oánh Ngọc ta đã rơi vào tay cô nương, cô nương cứ việc thực thi kiệt tác của phái Nga Mi xem sao.

Đinh Mẫn Quân lông mày dựng ngược, quát:

– Thằng trọc chết toi, ngươi dám làm nhục sư môn ta này!

Trường kiếm lập tức ấn tới, đâm mù mắt phải của Bành Oánh Ngọc, rồi lại chĩa sang mắt bên trái.

Bành hòa thượng cười ha hả, mắt phải máu chảy ròng ròng, con mắt bên trái vẫn mở trừng trừng nhìn ả họ Đinh. Đinh Mẫn Quân tức giận, quát hỏi:

– Ngươi không phải là người của Thiên Ưng giáo, hà tất phải bỏ mạng vì Bạch Quy Thọ?

Bành Oánh Ngọc hiên ngang nói:

– Đại trượng phu có đạo lý làm người, dù ta có nói ra, cô nương cũng chả hiểu được đâu.

Đinh Mẫn Quân thấy đối phương hoàn toàn không còn sức chống đỡ nhưng thần sắc vẫn tỏ ra khinh miệt mình, liền tức giận đâm cho y mù nốt mắt trái. Kỷ Hiểu Phù nhẹ nhàng vung kiếm gạt ra, nói:

– Sư tỷ, lão hòa thượng này cứng đầu lắm, dầu thế nào lão ta cũng không chịu nói đâu, có giết cũng vậy thôi.

Đinh Mẫn Quân nói:

– Hắn dám chửi sư phụ tàn ác hiểm độc thì để ta cho hắn coi thế nào là tàn ác hiểm độc. Bọn yêu nhân trong Ma giáo để sống trên đời chỉ tổ làm hại người tốt, giết đứa nào là tích thêm công đức đó.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Người này là một hán tử cứng cỏi. Sư tỷ, muội cho rằng mình nên tha cho y.

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng:

– Hai vị sư huynh phái Thiếu Lâm kia một chết một bị thương, hai vị đạo sĩ phái Côn Luân bị trọng thương, hai vị đại ca phái Hải Sa cũng bị thương không nhẹ, như thế hắn hạ thủ không tàn ác ư? Để ta đâm mù nốt mắt trái của hắn, rồi tra hỏi tiếp.

Chữ “tiếp” vừa dứt, mũi kiếm lóe lên, đâm luôn tới mắt trái của Bành hòa thượng.

Kỷ Hiểu Phù lại vung kiếm, nhẹ nhàng khéo léo gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân ra, nói:

– Sư tỷ, người này đã không còn sức chống đỡ, nếu đả thương y, chuyện lan ra trong giang hồ, sẽ không hay gì cho danh tiếng phái Nga Mi chúng ta.

Đinh Mẫn Quân trợn mắt, quát:

– Tránh ra, đừng xen vào việc của ta!

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Sư tỷ, sư…

Đinh Mẫn Quân nói:

– Ngươi đã gọi ta là sư tỷ thì hãy vâng lời ta, đừng có lắm lời.

Kỷ Hiểu Phù đáp:

– Vâng.

Trường kiếm của Đinh Mẫn Quân lại rung rung, đâm mạnh tới mắt trái của Bành hòa thượng, lần này tăng thêm ba phần kình lực.

Kỷ Hiểu Phù không nỡ lòng nên lại đưa kiếm gạt ra. Nàng thấy kiếm thế của sư tỷ rất mạnh, khi đưa kiếm gạt phải dùng nội lực, hai kiếm chạm nhau keng một tiếng, tóe lửa. Hai người cùng bị chấn động, tay tê chồn, phải lùi hai bước. Đinh Mẫn Quân cả giận, thét to:

– Ngươi năm lần bảy lượt che chở cho tên yêu tăng Ma giáo, rốt cuộc là có ý gì?

Kỷ Hiểu Phù nhẹ nhàng:

– Muội chỉ khuyên sư tỷ đừng hành hạ y. Muốn y nói ra chỗ giấu Bạch Quy Thọ, hãy cứ từ từ mà hỏi.

Đinh Mẫn Quân cười khẩy, nói:

– Đừng tưởng ta không biết bụng dạ của ngươi. Ngươi cứ tự hỏi lòng thì biết: Tại sao Ân lục hiệp phái Võ Đang mấy lần giục ngươi thành hôn, ngươi toàn viện cớ trì hoãn, ngay cả khi cha ngươi hối thúc, ngươi thà bỏ nhà đi chứ không chịu nghe lời?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Việc riêng của tiểu muội đâu liên quan gì chuyện này? Tại sao sư tỷ lại gắn hai chuyện làm một?

Đinh Mẫn Quân nói:

– Mọi người ai cũng thừa biết, có điều trước mắt người ngoài thì không vạch áo cho người xem lưng đó thôi. Ngươi là kẻ thân ở phái Nga Mi nhưng lòng theo Ma giáo.

Kỷ Hiểu Phù mặt tái nhợt, run run nói:

– Tiểu muội luôn kính trọng sư tỷ, chưa bao giờ dám đắc tội, sao hôm nay sư tỷ lại làm nhục tiểu muội?

Đinh Mẫn Quân nói:

– Được, nếu lòng dạ ngươi không phải hướng về Ma giáo, vậy ngươi hãy đâm mù mắt trái hắn cho ta coi.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Bản môn từ khi Tiểu Đông Tà Quách tổ sư sáng lập phái tới nay, số đồng môn không xuất gia làm ni cô, hoặc không chịu lấy chồng, thật là rất nhiều người, tiểu muội không xuất giá cũng là chuyện thường. Tại sao sư tỷ cứ nhất nhất ép buộc tiểu muội?

Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:

– Ta không muốn nghe ngươi nói chuyện vờ vĩnh. Ngươi không đâm mù mắt hắn, ta sẽ nói toạc chuyện của ngươi cho mọi người cùng biết đó.

Kỷ Hiểu Phù dịu giọng, nói:

– Sư tỷ, sư tỷ hãy niệm tình đồng môn, đừng bức bách tiểu muội nữa.

Đinh Mẫn Quân cười, nói:

– Ta có bức ngươi làm việc gì khó đâu? Sư phụ sai chúng ta đi nghe ngóng tin tức Kim Mao Sư Vương, lão hòa thượng này là manh mối duy nhất. Hắn đã chẳng tiết lộ sự thực, lại còn sát thương bao nhiêu đồng bạn, ta đâm mù mắt phải của hắn, ngươi đâm mù mắt trái, thế là hợp lẽ công bằng trong trời đất, vì sao ngươi không động thủ?

Kỷ Hiểu Phù nói nhỏ:

– Y đối với hai ta đã lưu tình khi ra tay ban nãy, hai chúng ta cũng không nên cạn tàu ráo máng. Tiểu muội yếu lòng, thật không nỡ ra tay.

Đoạn nàng tra kiếm vào vỏ. Đinh Mẫn Quân cười:

– Ngươi yếu lòng ư? Sư phụ thường khen ngươi kiếm pháp hiểm độc, tính nết cương nghị, giống sư phụ nhất, vẫn có ý sẽ truyền y bát cho ngươi, làm sao lại bảo là ngươi yếu lòng?

Sư tỷ sư muội lời qua tiếng lại, người ngoài nghe chả hiểu thế nào, lúc này mới đoán ra, vậy là Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi, rất quý mến Kỷ Hiểu Phù nên có ý truyền y bát cho nàng. Đinh Mẫn Quân trong lòng đố kỵ, lần này không rõ đã nắm được bí mật gì của sư muội, nên tính lôi ra nói xấu trước mặt mọi người. Trương Vô Kỵ vốn cảm kích về tấm lòng quan hoài thân thiết của Kỷ Hiểu Phù đối với cậu hai năm trước, chỉ hận không thể nhảy ra cho Đinh Mẫn Quân vài cái tát tai.

Chỉ nghe Đinh Mẫn Quân nói tiếp:

– Kỷ sư muội, ta hỏi ngươi, hôm sư phụ triệu tập hết thảy đệ tử bản môn trên Nga Mi kim đỉnh, truyền thụ hai pho kiếm pháp là “Diệt kiếm” và “Tuyệt kiếm” do lão nhân gia sáng tạo, tại sao ngươi không tới khiến lão nhân gia nổi cơn lôi đình?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Tiểu muội ở Cam Châu đột nhiên bị bệnh, không đi lại được, việc đó tiểu muội đã bẩm rõ với sư phụ, sao bỗng dưng sư tỷ lại tra vấn?

Đinh Mẫn Quân cười khẩy:

– Chuyện ấy ngươi lừa dối được sư phụ, chứ làm sao che mắt ta nổi?! Ta còn một câu nữa, nếu ngươi chịu đâm mù mắt gã hòa thượng kia thì ta không truy vấn nữa.

Kỷ Hiểu Phù cúi đầu không trả lời, trong lòng có điều khó nghĩ, nói nhỏ:

– Sư tỷ không còn nghĩ gì đến tình nghĩa đồng môn học nghệ giữa chúng ta nữa ư?

Đinh Mẫn Quân hỏi:

– Ngươi có đâm không thì bảo?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Sư tỷ cứ yên tâm, dù sư phụ có muốn truyền y bát cho tiểu muội, tiểu muội cũng nhất định không nhận đâu.

Đinh Mẫn Quân nổi giận, nói:

– Giỏi nhỉ! Ngươi nói thế, chẳng hóa ra ta ghen tức với ngươi ư?! Ta có điểm nào không bằng ngươi mà phải để ngươi nhường chứ? Ngươi có đâm hay không thì bảo?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Giả dụ tiểu muội làm điều gì sai trái, sư tỷ có trách phạt, tiểu muội cũng không dám trái lời. Ở đây có các bằng hữu môn phái khác, sư tỷ cứ một mực bức bách muội…

Nói tới đó nàng nghẹn ngào ứa nước mắt.

Đinh Mẫn Quân cười khẩy:

– Ngươi đừng giả bộ đáng thương nữa đi, trong bụng không biết ngươi đang rủa thầm ta những gì. Năm đó ở Cam Châu, không nhớ là ba hay bốn năm trước, ta nhớ không rõ, chứ ngươi thì sao không nhớ việc của chính mình. Lúc đó có thực ngươi sinh bệnh hay không? Sinh thì có sinh, nhưng là sinh con thì có.

Kỷ Hiểu Phù nghe đến đấy liền quay mình chạy đi. Đinh Mẫn Quân đoán trước việc đó, liền phi thân lên trước, giơ trường kiếm cản ngay trước mặt Kỷ Hiểu Phù, nói:

– Ta khuyên ngươi mau đâm mù mắt trái Bành hòa thượng đi, nếu không ta sẽ hỏi cha đứa bé đó là ai. Sẽ hỏi vì sao ngươi là đệ tử danh môn chính phái, lại che chở cho yêu tăng của Ma giáo.

Kỷ Hiểu Phù ấp úng nói:

– Sư tỷ… hãy… để muội đi…

Đinh Mẫn Quân chĩa kiếm vào ngực nàng, nói to:

– Ta hỏi ngươi, ngươi đem đứa bé ấy đi nuôi ở đâu? Ngươi là hôn thê của Ân lục hiệp phái Võ Đang, sao lại sinh con với người khác?

Câu nói trắng trợn ấy vang bên tai mọi người như tiếng sấm. Trương Vô Kỵ trong lòng hoang mang: “Kỷ cô nương là người tốt, sao lại đối xử không phải với Ân lục thúc như thế?” Chuyện tình cảm trai gái dĩ nhiên cậu chưa hiểu biết đã đành, nhưng còn mấy người như Thường Ngộ Xuân, Bành hòa thượng, đạo sĩ râu dài của phái Côn Luân ai ai cũng kinh ngạc.

Kỷ Hiểu Phù tái mặt, chạy bổ về phía trước. Đinh Mẫn Quân đột nhiên hạ sát thủ, đâm một kiếm vào cánh tay bên phải của sư muội sâu đến tận xương. Kỷ Hiểu Phù bị thương không nhẹ nên hết nhịn nổi, tay trái rút kiếm, nói:

– Sư tỷ, nếu sư tỷ còn bức bách muội, muội sẽ không nể nang nữa đâu.

Đinh Mẫn Quân biết rằng hôm nay đã nói toạc bí mật của Kỷ Hiểu Phù, làm cho sư muội bẽ mặt hẳn nàng ấy sẽ giết mình để bịt miệng. Võ công của ả không bằng sư muội, tính mạng sẽ nguy hiểm, nên đã thừa cơ đâm trước vào tay phải của nàng ấy, giờ lại nghe sư muội nói vậy bèn sử chiêu “Nguyệt lạc tây sơn” đâm thẳng vào bụng dưới của sư muội. Kỷ Hiểu Phù tay phải quá đau đớn, thấy sư tỷ sử chiêu thứ hai không chút dung tình thì lập tức tay trái dùng kiếm đánh trả một chiêu.

Hai người biết rõ kiếm pháp của nhau, công và thủ đều rất nghiêm mật, cũng hết sức kịch liệt.

Những người khác đều đã bị thương, không cách gì khuyên giải, cũng không giúp cho bên nào, chỉ giương mắt nhìn, thầm thán phục: “Phái Nga Mi là một trong bốn đại môn phái võ học hiện thời, kiếm thuật quả nhiên cao minh, danh bất hư truyền”.

Vết thương ở cánh tay phải của Kỷ Hiểu Phù chảy máu ròng ròng, càng đấu máu chảy càng mạnh, nàng liên tục sử dụng sát chiêu để buộc Đinh Mẫn Quân lui ra, còn nàng sẽ có đường bỏ chạy. Nhưng tay trái sử kiếm không quen, hơn nữa sau khi bị thương võ công chỉ còn lại ba phần. Đinh Mẫn Quân vốn rất ngại sư muội nên không dám tiến vào thật gần mà chỉ cố đánh cầm chừng, chờ Kỷ Hiểu Phù kiệt sức vì máu chảy nhiều. Khi thấy Kỷ Hiểu Phù cước bộ loạng choạng, kiếm pháp tán loạn, xem ra đã hết chịu nổi thì Đinh Mẫn Quân liền đâm hai nhát trúng vai phải của Kỷ Hiểu Phù, khiến cho quần áo nửa người bên phải bê bết máu tươi.

Bành hòa thượng đột nhiên nói:

– Kỷ cô nương, hãy đâm ta đi, Bành hòa thượng này đối với cô nương cảm kích bội phần.

Họ Bành nghĩ Kỷ Hiểu Phù cam chịu nguy hiểm che chở cho y vốn đã là việc khó ai làm nổi, huống hồ Đinh Mẫn Quân lại còn đem thanh danh trinh bạch, là thứ đối với nữ giới còn quý hơn cả sinh mạng, ra uy hiếp.

Thế nhưng lúc này dù Kỷ Hiểu Phù có đâm mù mắt trái của Bành hòa thượng thì Đinh Mẫn Quân cũng chẳng bỏ qua cho nàng, ả biết nếu hôm nay không trừ khử sư muội thì sau này hậu hoạn vô cùng. Bành hòa thượng thấy Đinh Mẫn Quân ra đòn hiểm ác, bèn lớn tiếng chửi:

– Đinh Mẫn Quân, ngươi là đồ mặt dày trơ trẽn! Chẳng trách trên giang hồ gọi ngươi là Độc thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân, quả nhiên tâm địa ngươi như rắn rết, diện mạo còn tệ hơn cả Chung Vô Diệm. Nếu nữ nhân trên thế gian ai ai cũng xấu xí như ngươi, khiến cho vừa gặp đã buồn nôn thì nam nhân sẽ đi tu hết. Độc thủ Vô Diệm ngươi mà đứng trước mặt, Bành mỗ làm hòa thượng cũng chưa đủ, thà mù cả hai mắt cho khỏi phải nhìn thấy ngươi.

Thực ra, Đinh Mẫn Quân tuy không phải là mỹ nữ, song cũng có chút nhan sắc, mặt mũi cũng thanh tú dễ coi. Bành hòa thượng hiểu rõ tâm lý thiên hạ, biết người phụ nữ nào dù xấu hay đẹp cũng đều căm tức những kẻ chê mình xấu xí khó coi. Bành hoà thượng thấy tình thế nguy cấp, bèn thuận miệng đại ngôn gán cho Đinh Mẫn Quân cái hỗn danh Độc thủ Vô Diệm, cốt cho ả ta nổi cơn tam bành quay qua đối phó với y để Kỷ Hiểu Phù sẽ thừa cơ thoát đi, chí ít thì cũng tìm cách buộc vết thương lại. Nhưng Đinh Mẫn Quân muốn giết bằng được Kỷ Hiểu Phù, đâu có lo Bành hòa thượng chạy đi đâu nổi, nên mặc kệ lời nhục mạ của y, cứ bỏ ngoài tai.

Bành hòa thượng lại lớn tiếng, nói:

– Kỷ nữ hiệp băng thanh ngọc khiết, chốn giang hồ ai chẳng nghe danh? Nhưng cái ả Độc thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân kia vốn tính lẳng lơ, vọng tưởng mồi chài Ân Lê Đình của phái Võ Đang. Ân Lê Đình đâu thèm để mắt tới, ả bèn tìm cách gia hại Kỷ nữ hiệp. Ha ha, ả gò má cao gồ, mồm rộng đến mang tai, nước da lại vàng như nghệ, thân hình khô đét như que củi, chàng Ân Lê Đình tuấn tú đời nào thèm ngó tới ả kia chứ? Ả chả chịu soi gương để nhìn cái bản mặt mình, lại cứ năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình…

Đinh Mẫn Quân nghe đến đây liền giận điên người, nhảy một cái đến trước mặt Bành hòa thượng, giơ kiếm đâm thẳng vào miệng gã.

Đinh Mẫn Quân xương gò má kể có hơi cao, nước da không được trắng lắm, thân hình bẩm sinh dong dỏng cao, cũng tự biết mình có đôi điểm chưa vừa ý, nhưng người ngoài phải để ý rất kỹ mới có thể nhận biết. Nào ngờ Bành hòa thượng mục quang sắc bén, chẳng những phát hiện ra tất cả, lại còn thêm mắm thêm muối, một nói thành mười, khiến cho ả ta nổi giận. Huống hồ ả chưa gặp Ân Lê Đình lần nào, nay bị gán cho “năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình” thì bảo ả làm sao chịu nổi?

Đinh Mẫn Quân một kiếm đâm tới. Từ trong rừng đột nhiên có một người lao ra, quát to, chắn ngay trước mặt Bành hòa thượng. Người đó thân pháp cực nhanh, Đinh Mẫn Quân không kịp thu chiêu, trường kiếm cứ đâm thẳng tới. Người ấy thấp hơn Bành hòa thượng nửa cái đầu, kiếm đâm trúng vào trán y. Cũng trong nháy mắt đó, người ấy giáng một chưởng vào ngực Đinh Mẫn Quân, nghe “hự” một tiếng, Đinh Mẫn Quân bị văng xa mấy bước, ngã lăn ra, hộc máu mồm; thanh kiếm vẫn cắm ở trán người kia, xem ra y không sống được nữa rồi.

Đạo sĩ râu dài của phái Côn Luân đến gần, kêu lên:

– Bạch Quy Thọ! Bạch Quy Thọ!

Nói xong hai gối lão ta bủn rủn, lão ta đành ngồi phệt ngay xuống đất.

Người vừa nhảy ra chịu nhát kiếm thay cho Bành hòa thượng chính là đàn chủ Huyền Vũ đàn của Thiên Ưng giáo, Bạch Quy Thọ. Sau khi bị trọng thương, biết tin Bành hòa thượng vì che giấu cho lão mà bị hảo thủ bốn phái Thiếu Lâm, Côn Luân, Nga Mi, Hải Sa vây đánh, bèn gắng sức tìm đến về đỡ nhát kiếm thay Bành hòa thượng. Một chưởng của Bạch Quy Thọ trước khi chết còn làm cho Đinh Mẫn Quân gãy mấy cái xương sườn.

Kỷ Hiểu Phù cố trấn tĩnh, xé vạt áo băng vết thương cánh tay, đưa tay giải khai huyệt đạo bị điểm ở thắt lưng cho Bành hòa thượng, không nói một lời, quay mình đi thẳng. Bành hòa thượng nói:

– Kỷ cô nương, xin dừng bước nhận một lạy của Bành Oánh Ngọc này.

Nói đoạn quỳ xuống hành lễ. Kỷ Hiểu Phù né qua một bên, không nhận lễ. Bành hòa thượng nhặt thanh kiếm của đạo sĩ râu dài ở dưới đất lên, nói:

– Ả Đinh Mẫn Quân này hồ ngôn loạn ngữ, phỉ báng thanh danh của cô nương, không thể để cho ả sống.

Nói xong giơ kiếm đâm vào cổ Đinh Mẫn Quân.

Kỷ Hiểu Phù dùng kiếm gạt ra, nói:

– Đây là sư tỷ đồng môn của tiểu nữ, tuy sư tỷ đối với tiểu nữ vô tình, song tiểu nữ không muốn làm kẻ bất nghĩa.

Bành hòa thượng nói:

– Việc đến nước này, nếu không giết ả, ngày sau ả sẽ làm hại cô nương.

Kỷ Hiểu Phù rơi lệ, nói:

– Tiểu nữ là người con gái xui xẻo, bất hạnh nhất trên đời, nhưng số mệnh đã thế thì đành chịu vậy! Bành đại sư, xin đừng giết sư tỷ của tiểu nữ.

Bành hòa thượng nói:

– Kỷ nữ hiệp đã bảo vậy, ta đâu dám trái lời.

Kỷ Hiểu Phù quay sang nói với Đinh Mẫn Quân:

– Sư tỷ, hãy bảo trọng.

Đoạn nàng tra kiếm vào vỏ, đi khỏi cánh rừng.

Bành hòa thượng nói với năm người bị thương nằm dưới đất:

– Bành mỗ với các vị không hề có thâm cừu đại oán, vốn không cần giết các vị làm gì. Nhưng đêm nay những lời ả họ Đinh kia vu miệt Kỷ nữ hiệp đều đã lọt vào tai các vị, nếu truyền ra giang hồ, Kỷ nữ hiệp sao có thể làm người được nữa? Bành mỗ vạn bất đắc dĩ không thể để một ai sống sót, mong các vị đừng trách ta.

Nói xong y cho mỗi người một nhát kiếm, lần lượt giết hai đạo sĩ phái Côn Luân, một tăng nhân Thiếu Lâm, hai hảo thủ của phái Hải Sa, rồi tới rạch một đường kiếm vào vai Đinh Mẫn Quân.

Đinh Mẫn Quân sợ hết hồn, nhưng bị trọng thương, không chống cự được, lớn tiếng chửi:

– Tên trọc kia, mi đừng giở trò hành hạ, mau đâm ta một kiếm cho xong.

Bành hòa thượng cười, nói:

– Ả đàn bà xấu xí, mồm rộng, da vàng như ngươi, ta đâu thèm giết! Chỉ sợ ngươi xuống địa ngục rồi, ngàn vạn ác quỷ cõi âm sợ quá chạy cả lên dương gian, phán quan của Diêm Vương thì thượng thổ hạ tả, chẳng hóa ra ta mắc tội sao?

Nói đoạn cười lên ba tiếng, ném trường kiếm, ôm thi thể Bạch Quy Thọ, lại khóc to ba tiếng rồi bỏ đi.

Đinh Mẫn Quân ngồi thở hồi lâu, mới chống bao kiếm xuống đất, khập khiễng ra khỏi rừng.

*

*       *

Trận đấu kinh tâm động phách trong cánh rừng đêm nay, Thường Ngộ Xuân và Trương Vô Kỵ đã chứng kiến từ đầu tới cuối, nghe rõ từng lời, mãi khi Đinh Mẫn Quân đi rồi, hai người mới thở phào nhẹ nhõm.

Trương Vô Kỵ nói:

– Thường đại ca, Kỷ cô nương là hôn thê của Ân lục thúc tiểu đệ, cái bà họ Đinh kia lại bảo… Kỷ cô nương có con với người khác, đại ca nghĩ là thật hay giả?

Thường Ngộ Xuân đáp:

– Cái ả đó hồ ngôn loạn ngữ, đừng tin làm gì.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đúng thế, sau này tiểu đệ sẽ nói Ân lục thúc dạy cho bà ta một trận, cho Kỷ cô nương đỡ bực mình.

Thường Ngộ Xuân vội nói:

– Đừng, đừng! Dù thế nào cũng chớ kể cho Ân lục thúc biết chuyện đó, hiểu chưa? Đệ mà kể là hỏng việc đấy!

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên:

– Vì sao?

Thường Ngộ Xuân đáp:

– Những lời lẽ khó nghe như thế, đệ chẳng nên nói cho bất cứ ai biết.

Trương Vô Kỵ ừ hử, lát sau lại hỏi:

– Thường đại ca, đại ca sợ rằng chuyện đó có thật, phải không?

Thường Ngộ Xuân thở dài:

– Huynh cũng chả biết nữa.

Khi trời sáng, Thường Ngộ Xuân đứng lên, cõng Trương Vô Kỵ hăng hái đi tiếp. Y nghỉ ngơi được nửa đêm, tinh thần đã phục hồi, bước đi nhẹ nhàng hơn nhiều. Qua mấy dặm, gặp một con đường lớn. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Hồ sư bá ẩn cư ở Hồ Điệp cốc, là nơi hoang vắng, sao lại có đường lớn thế này? Hay là mình lạc đường rồi?”

Đang định tìm người dân hỏi thăm bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, bốn tên lính Mông Cổ tay cầm trường đao, phi ngựa tới, hét to:

– Mau lên, mau lên!

Chúng tới sau lưng Thường Ngộ Xuân, giơ đao nhứ nhứ xua về phía trước. Thường Ngộ Xuân thầm kêu khổ: “Không ngờ hôm nay rơi vào miệng cọp, lại còn để Trương Vô Kỵ chết theo”.

Lúc này y đã mất hết võ công, ngay cả một tên lính tầm thường y cũng không chống nổi, đành phải bước đi. Chỉ thấy bách tính lục tục kéo ra con đường lớn đều bị quân Nguyên dồn như lùa súc vật. Thường Ngộ Xuân chợt có hi vọng: “Thì ra bọn Thát tử đang lùa dân, chứ không phải định bắt ta”. Y bèn đi cùng đoàn người, đến một ngã ba, thấy một viên quan quân Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa chỉ huy sáu bảy chục tên lính, tên nào cũng lăm lăm đại đao. Dân chúng đi qua chỗ viên quan đều phải quỳ xuống khấu đầu. Một gã người Hán làm thông dịch, quát:

– Họ gì?

Người dân trả lời xong, tên lính đứng cạnh đá vào mông hoặc tát tai, người dân vội vàng chạy đi. Một người dân nói họ Trương, tên lính liền giữ lại, bắt đứng sang một bên. Có người dân trong giỏ có con dao thái rau mới mua ở chợ, cũng bị bắt đứng sang một bên.

Trương Vô Kỵ thấy tình thế có điều bất ổn, ghé tai Thường Ngộ Xuân nói nhỏ:

– Thường đại ca, hãy giả vờ vấp ngã, lăn qua một bên mà vứt cây đao đi.

Thường Ngộ Xuân vỡ lẽ, lập tức hai chân khuỵu xuống, lăn luôn vào đám cỏ dày, bỏ cây bội đao lại, giả bộ xuýt xoa khập khiễng tới trước mặt viên quan. Gã thông dịch người Hán quát:

– Đồ mọi, không hiểu quy củ gì hết, thấy quan lớn còn chưa khấu đầu?

Thường Ngộ Xuân nghĩ tới toàn gia của chủ cũ là Chu Tử Vượng bị quân Mông Cổ sát hại, lúc này thà chết chứ không chịu lạy viên quan. Một tên lính Nguyên thấy y cứng đầu, bèn đá vào khoeo chân khiến y đứng không vững, phải khuỵu xuống. Gã thông dịch quát:

– Họ gì?

Thường Ngộ Xuân chưa kịp đáp đã nghe Trương Vô Kỵ nói thay:

– Họ Tạ, đây là trưởng huynh của tôi.

Tên lính Nguyên đá đít Thường Ngộ Xuân một cái, quát:

– Xéo mau!

Thường Ngộ Xuân cả giận, đứng dậy, ngầm thề: “Trong đời ta nếu không đánh đuổi bọn Thát tử về sa mạc phương bắc, Thường Ngộ Xuân này không kể là người”. Y cõng Trương Vô Kỵ lên, đi vội về phía bắc, mới được vài chục bước bỗng nghe có tiếng kêu rú thảm thiết sau lưng, ngoảnh lại thấy hơn chục người dân bị bắt đứng sang một bên ban nãy đã nằm chết ngổn ngang dưới đất, đầu một nơi, thân một nẻo. Thời kỳ này triều chính bạo ngược, bách tính nổi dậy chống đối khá nhiều, đại thần Mông Cổ tính giết hết người Hán nhưng không giết xuể, Thái sư Ba Diên đương triều lại ban hành một lệnh là giết sạch tất cả những người Hán nào mang năm họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu. Người Hán thì bốn họ Trương, Vương, Lưu, Lý là đông nhất, còn họ Triệu là hoàng tộc triều Tống. Giết hết người năm họ đó, nguyên khí của Hán tộc chắc chắn sẽ bị tổn thất nặng nề.

Sau đó, số người thuộc các họ ấy đầu hàng, làm quan cho triều Nguyên cũng không ít, có đại thần Mông Cổ khuyến cáo hoàng đế, mới bãi bỏ cái lệnh giết chóc quái gở kia, nhưng số dân đen chết vì lệnh đó đã không biết bao nhiêu mà kể.

*

*         *

Thường Ngộ Xuân rảo bước, đến vùng hoang vu thì biết đã gần nơi ẩn cư của Hồ Thanh Ngưu, bắt đầu chú ý tìm kiếm. Dọc đường hoa cỏ đủ màu, chỗ nào cũng toàn là hoa tươi khoe sắc dưới nắng xuân, nhưng hai người nghĩ đến thảm trạng vừa qua nên chẳng còn lòng dạ nào thưởng ngoạn phong cảnh. Đi qua mấy chỗ quẹo thấy trước mặt là vách núi, đường vào ngõ cụt rồi.

Đang ngơ ngác chưa biết đi đâu thì có lũ bướm từ các khóm hoa bay ra. Trương Vô Kỵ nói:

– Nơi đó nếu gọi là Hồ Điệp cốc, vậy mình cứ theo lũ bướm này mà đi xem sao.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Đúng lắm.

Liền đi vào rừng hoa. Qua rừng hoa, thấy trước mặt có một con đường mòn, đi thêm quãng nữa, thấy bướm mỗi lúc một nhiều đủ các màu đen trắng vàng xanh đỏ tím dập dìu. Lũ bướm không hề sợ, đậu cả lên đầu, vai và tay hai người. Hai người biết đã tới Hồ Điệp cốc thì đều vui mừng. Trương Vô Kỵ nói:

– Để tiểu đệ đi chầm chậm được rồi!

Thường Ngộ Xuân đặt Vô Kỵ xuống đất.

Đến quá trưa, thấy một dòng suối trong xanh chảy lượn lờ quanh bảy tám gian nhà tranh, trước sau mỗi nhà đều có vườn, trồng đủ loại hoa cỏ. Thường Ngộ Xuân nói:

– Đến rồi, đây chính là vườn thuốc của Hồ sư bá.

Y đến trước căn nhà tranh, lớn tiếng gọi, giọng rất cung kính:

– Đệ tử Thường Ngộ Xuân khấu kiến Hồ sư bá.

Lát sau, từ trong nhà có một tiểu đồng bước ra, nói:

– Mời vào.

Thường Ngộ Xuân dắt Trương Vô Kỵ đi vào, thấy một vị trung niên thần thanh cốt tú đang đứng nhìn một tiểu đồng khác quạt lò sắc thuốc, trong nhà sực nức mùi dược thảo.

Thường Ngộ Xuân quỳ xuống khấu đầu, nói:

– Kính chào Hồ sư bá!

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này chắc là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu đây”, bèn cũng hành lễ, nói:

– Kính chào Hồ tiên sinh.

Hồ Thanh Ngưu gật gật đầu với Thường Ngộ Xuân, nói:

– Việc của Chu Tử Vượng, ta đã biết cả. Âu cũng là cái số, bọn Thát tử khí vận chưa tuyệt, bổn giáo thì chưa đến thời kỳ quang đại.

Hồ tiên sinh bắt mạch cho Thường Ngộ Xuân, cởi áo y ra xem vết thương trên ngực, rồi nói:

– Ngươi trúng phải “Tiệt tâm chưởng” của phiên tăng, lẽ ra cũng không sao, nhưng vì sau khi trúng chưởng lại tốn quá nhiều sức lực khiến cho hàn độc công tâm, trị cho khỏi phải tốn nhiều công phu đấy.

Đoạn chỉ Trương Vô Kỵ, hỏi:

– Còn thằng bé này là ai?

Thường Ngộ Xuân nói:

– Sư bá, y tên là Trương Vô Kỵ, con của Trương ngũ hiệp phái Võ Đang.

Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, mặt có vẻ tức giận, nói:

– Người của phái Võ Đang ư? Ngươi mang nó tới đây làm gì?

Thường Ngộ Xuân liền đem chuyện y đưa con của Chu Tử Vượng đào tẩu ra sao, bị quan binh Mông Cổ vây bắt rồi được Trương Tam Phong giải cứu thế nào, kể tỉ mỉ cho Hồ Thanh Ngưu nghe, cuối cùng nói:

– Đệ tử được thái sư phụ của y cứu mạng, nay khẩn cầu sư bá phá lệ cứu y một lần.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Ngươi khẳng khái, cũng biết báo đáp ân tình kia đấy! Hừ, Trương Tam Phong cứu ngươi, chứ có phải cứu ta đâu. Ngươi đã thấy ta phá lệ bao giờ chưa?

Thường Ngộ Xuân lại quỳ xuống đất, liên tiếp rập đầu, nói:

– Sư bá, phụ thân của Vô Kỵ vì không bán rẻ bằng hữu, cam nguyện tự vẫn, là một hảo hán lừng lẫy tiếng tăm.

Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:

– Hảo hán ư? Thiên hạ đầy rẫy hảo hán, ta làm sao mà chữa bệnh cho mọi hảo hán kia chứ? Y không phải là người của phái Võ Đang thì còn được, chứ đã thuộc danh môn chính phái, sao lại còn đến cầu xin kẻ tà ma ngoại đạo như ta chữa trị?

Thường Ngộ Xuân nói:

– Mẫu thân của Vô Kỵ là con của Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, y có một nửa là người của bổn giáo.

Hồ Thanh Ngưu nghe vậy, lòng chợt dịu lại, gật đầu:

– À, ngươi đứng dậy đi, nếu y là cháu ngoại của Bạch Mi Ưng Vương Thiên Ưng giáo thì lại là chuyện khác.

Rồi tới trước mặt Trương Vô Kỵ, ôn tồn nói:

– Này cháu, từ trước tới nay ta vẫn có cái lệ nhất quyết không chữa trị cho những ai xưng là hiệp nghĩa, danh môn chính phái. Mẹ cháu là người trong bổn giáo, chữa trị cho cháu không phải là phá lệ. Ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương vốn là một trong tứ đại hộ pháp của Minh giáo, sau ông ấy sáng lập Thiên Ưng giáo vì bất hòa với các huynh đệ chứ không phải phản lại Minh giáo, cũng coi như một chi phái của Minh giáo. Cháu phải đáp ứng một điều, sau khi được chữa khỏi, cháu phải về với ông ngoại Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ của cháu, từ khi nhập Thiên Ưng giáo sẽ không còn là đệ tử phái Võ Đang nữa.

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, Thường Ngộ Xuân đã nói:

– Sư bá, không được đâu. Trương Tam Phong Trương chân nhân có nói trước với đệ tử rằng “Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, dù có chữa cho nó khỏi bệnh, phái Võ Đang cũng không chịu ơn quý giáo”.

Hồ Thanh Ngưu lông mày dựng ngược, cả giận, giọng gay gắt:

– Hừ, Trương Tam Phong là cái thá gì? Lão coi thường chúng ta như thế, tại sao ta phải vì lão mà tốn sức? Này cháu, ý của cháu thế nào?

Trương Vô Kỵ biết rằng âm độc đã lan khắp lục phủ ngũ tạng trong cơ thể, ngay cả thái sư phụ công lực thâm hậu tới mức ấy mà đành bó tay, mình có sống được hay không, hoàn toàn do vị thần y này có chịu chữa trị hay không. Nhưng thái sư phụ lúc chia tay đã dặn kỹ nhất thiết không được sa chân vào Ma giáo, rơi vào cảnh vạn kiếp không thoát ra được. Tuy chưa biết Ma giáo xấu xa tới mức nào, vì sao mỗi lần nhắc tới Ma giáo, thái sư phụ và các vị sư bá sư thúc đều ghét cay ghét đắng, nhưng cậu vô cùng tôn kính thái sư phụ, tin chắc rằng lời thái sư phụ nói quyết không sai, thì nghĩ thầm: “Thà Hồ tiên sinh không chịu chữa, hàn độc phát tác, ta chết đi còn hơn là làm trái lời dạy của thái sư phụ”. Thế là cậu nói to:

– Hồ tiên sinh, mẫu thân cháu là đường chủ của Thiên Ưng giáo, cháu nghĩ rằng Thiên Ưng giáo chắc cũng tốt lắm. Nhưng thái sư phụ từng dặn cháu, nhất thiết không được gia nhập Ma giáo, cháu đã hứa rồi, há có thể làm trái lời hứa? Tiên sinh không chịu trị thương cho cháu thì đành vậy. Nếu cháu tham sống sợ chết, miễn cưỡng nghe lời tiên sinh, dù tiên sinh có chữa lành cho cháu, trên đời này cũng chỉ thêm một kẻ bất tín bất nghĩa, phỏng ích lợi gì.

Hồ Thanh Ngưu cười thầm trong bụng: “Thằng nhóc này huênh hoang, làm ra vẻ anh hùng hảo hán, ta không chữa trị cho ngươi, thử xem ngươi có quỳ xuống cầu xin hay không?” Đoạn quay sang nói với Thường Ngộ Xuân:

– Nó đã quyết ý không gia nhập bổn giáo, này Ngộ Xuân, ngươi hãy bảo nó đi ra, trong nhà Hồ Thanh Ngưu ta không thể có kẻ chết vì bệnh.

Thường Ngộ Xuân vốn biết vị sư bá này tính cố chấp dị thường, đã nói một thì không thể hai, đã bảo không chịu chữa dù có cầu xin cũng vô ích, bèn quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu huynh đệ, Minh giáo tuy không đồng đạo với các nhân vật hiệp nghĩa trong danh môn chính phái, nhưng từ thời Đại Đường đến nay, đời nào trong Minh giáo cũng có anh hùng hảo hán. Huống hồ ông ngoại của đệ là giáo chủ Thiên Ưng giáo, mẫu thân của đệ là đường chủ của Thiên Ưng giáo, đệ hãy nghe lời Hồ sư bá đi, sau này Trương chân nhân có hỏi, để huynh chịu hết cho.

Trương Vô Kỵ đứng thẳng lên, nói:

– Thường đại ca, đại ca như thế là đã hết lòng hết dạ, thái sư phụ của tiểu đệ sẽ không trách gì đại ca.

Nói đoạn Vô Kỵ hiên ngang đi ra cửa. Thường Ngộ Xuân hoảng sợ, vội hỏi:

– Đệ đi đâu?

Trương Vô Kỵ nói:

– Nếu tiểu đệ chết ở Hồ Điệp cốc, e sẽ làm hổ danh Điệp Cốc Y Tiên mất.

Rồi xăm xăm đi ra khỏi nhà.

Hồ Thanh Ngưu cười khẩy, nói:

– Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu lừng danh thiên hạ, số kẻ chết ở bên ngoài Hồ Điệp cốc này đâu phải chỉ có ngươi.

Thường Ngộ Xuân không nghe ông ta nói gì, vội chạy theo bế thốc Vô Kỵ trở vào, thở hổn hển, nói:

– Hồ sư bá, sư bá nhất định không chịu cứu y, phải không?

Hồ Thanh Ngưu cười, đáp:

– Ngoại hiệu của ta là Kiến Tử Bất Cứu, ngươi chưa biết hay sao mà còn hỏi.

Thường Ngộ Xuân hỏi:

– Thế còn vết thương trên người đệ tử, sư bá chịu cứu chữa chứ gì?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Không sai.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Được, đệ tử đã hứa với Trương chân nhân là sẽ cứu chữa tiểu huynh đệ này, quyết không thể để cho người trong danh môn chính phái chê rằng đệ tử Minh giáo nói xong nuốt lời. Đệ tử không cầu sư bá chữa trị cho mình mà hãy chữa trị cho tiểu huynh đệ này. Hai chúng tôi đổi mạng cho nhau, sư bá không thiệt gì cả.

Hồ Thanh Ngưu nghiêm mặt nói:

– Ngươi trúng phải “Tiệt tâm chưởng”, thương thế không nhẹ chút nào, nếu ta chữa trị ngay cho ngươi thì có thể khỏi hẳn. Quá bảy ngày thì chỉ giữ được mạng sống, chứ võ công thì không thể bảo toàn. Mười bốn ngày sau nếu không có lương y chữa cho, thương thế phát ra là hết cứu.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Đó là công lao thấy chết không cứu của sư bá, đệ tử chết cũng chẳng oán hận.

Trương Vô Kỵ kêu lên:

– Cháu không cần tiên sinh cứu, cháu không cần tiên sinh cứu!

Rồi quay sang nói với Thường Ngộ Xuân:

– Thường đại ca, bộ đại ca nghĩ Trương Vô Kỵ là phường tiểu nhân đê hèn hay sao? Đại ca đem tính mạng của mình đổi mạng tiểu đệ, dù tiểu đệ có sống được cũng chẳng thấy thú vị gì nữa!

Thường Ngộ Xuân không muốn tranh cãi, liền cởi thắt lưng trói Trương Vô Kỵ vào ghế. Vô Kỵ vội nói:

– Đại ca không thả tiểu đệ ra, tiểu đệ sẽ chửi cho mà xem!

Thấy Thường Ngộ Xuân không thèm lý tới, Trương Vô Kỵ liền lớn tiếng chửi:

– Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu! Tiên sinh đúng là ngu như bò! Thậm chí không bằng súc sinh!

Hồ Thanh Ngưu nghe thằng bé chửi bậy cũng chẳng giận, chỉ lẳng lặng nhìn nó.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Hồ sư bá, Trương huynh đệ, xin cáo từ! Thường mỗ đi tìm thầy chữa bệnh đây!

Hồ Thanh Ngưu cười khẩy, nói:

– Ở tỉnh An Huy này chẳng có thầy lang nào ra hồn cả, mà nội trong bảy ngày chắc gì ngươi ra khỏi tỉnh An Huy.

Thường Ngộ Xuân cười ha hả:

– Có vị sư bá “Thấy chết không cứu”, thì cũng có sư điệt “Đáng sống không chết”!

Nói đoạn y đường hoàng đi ra cửa.

Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:

– Ngươi bảo lấy một mạng đổi một mạng, nhưng ta đã nhận lời đâu? Đã thế cả hai mạng ta đều không cứu.

Tiện tay nhặt trên bàn một khúc sừng hươu, vù một tiếng ném theo trúng ngay huyệt ở kheo chân Thường Ngộ Xuân. Thường Ngộ Xuân kêu ối một tiếng, ngã lăn ra đất, không bò dậy được.

Hồ Thanh Ngưu đến cởi dây trói cho Trương Vô Kỵ, nắm hai cổ tay nó định quẳng ra ngoài cho cả hai người Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân muốn sống chết ra sao thì ra. Trương Vô Kỵ kêu lên:

– Tiên sinh làm gì vậy?

Chất hàn độc xông lên đầu não, Trương Vô Kỵ tức thời ngất đi.

Hồi 12: Khu trừ âm độc ngấm vào cao hoang

Hồ Thanh Ngưu vừa cầm cổ tay Trương Vô Kỵ liền thấy mạch đập rất lạ, bất giác kinh hãi vội ngưng thần nghe kỹ, nghĩ thầm: “Chất độc hàn thằng bé bị trúng thật cổ quái, không lẽ là bởi Huyền Minh thần chưởng? Chưởng pháp ấy thất truyền đã lâu, trên đời này làm gì có ai biết sử dụng?” Lại nghĩ: “Nếu không phải Huyền Minh thần chưởng, thì là cái gì? Âm hàn độc địa thế này, không có môn chưởng lực nào khác vào đây cả. Thằng bé trúng độc đã lâu mà vẫn chưa chết, kể cũng lạ kỳ. Đúng rồi, lão đạo Trương Tam Phong dùng công lực thâm hậu của mình giúp nó sống lay lắt, bây giờ chất âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, bám chắc trong đó, chỉ có thần tiên mới cứu được thôi”.

Nghĩ vậy, Hồ Thanh Ngưu đặt Trương Vô Kỵ nằm trên ghế. Một lúc sau, Trương Vô Kỵ dần dần tỉnh lại, thấy Hồ Thanh Ngưu ngồi trước mặt, đăm đăm nhìn ngọn lửa trong lò sắc thuốc mà suy nghĩ xuất thần; Thường Ngộ Xuân vẫn nằm trên đám cỏ trước cửa, ba người ba tâm sự khác nhau, chẳng ai lên tiếng.

Hồ Thanh Ngưu suốt đời say mê y thuật, nhiều chứng bệnh ngỡ là bó tay nhưng đến Hồ Thanh Ngưu đều được chữa khỏi, nên ông ta mới được tôn là Y Tiên. Chữa bệnh mà đạt tới chữ “Tiên”, tức là tuyệt kỹ thần kỳ lắm. Nhưng chất hàn độc của Huyền Minh thần chưởng thì cả đời Hồ Thanh Ngưu chưa gặp lần nào, mà trường hợp này trúng độc rồi lại dây dưa mấy năm chưa chết, để ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, thì lại càng chưa từng thấy. Hồ Thanh Ngưu vốn dĩ quyết không chữa trị cho Trương Vô Kỵ, nhưng gặp được chứng bệnh quái dị khó thấy trong đời này thì có khác gì tửu đồ gặp rượu ngon, kẻ háu ăn ngửi thấy mùi thịt nướng, làm sao có thể bỏ qua?

Nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng Hồ Thanh Ngưu tìm ra một cách hay: “Ta cứ chữa cho nó khỏi cái đã, sau sẽ giết nó đi”.

Thế nhưng khu trừ chất âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng Trương Vô Kỵ thật phải chẳng dễ. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ hơn hai canh giờ rồi lấy ra mười hai miếng đồng mỏng mảnh, vận lực cắm vào các huyệt như huyệt Trung Cực ở bên dưới đan điền, huyệt Thiên Đột ở dưới cổ, huyệt Kiên Tỉnh ở vai, tổng cộng mười hai chỗ. Huyệt Trung Cực là nơi giao hội của kinh Túc Tam Âm và mạch Nhâm; huyệt Thiên Đột là nơi giao hội của hai mạch Âm Duy và mạch Nhâm; huyệt Kiên Tỉnh là nơi giao hội của các kinh Thủ Túc Thiếu Dương, Túc Dương Minh, mạch Dương Duy. Mười hai miếng đồng cắm xong, thì thập nhị kinh thường mạch và kỳ kinh bát mạch trong cơ thể Trương Vô Kỵ đã được gián cách với nhau.

Trong cơ thể con người: tâm, phế, tì, can, thận gọi là ngũ tạng, cộng với tâm bào là sáu thứ thuộc âm. Vị, đại tràng, tiểu tràng, đởm, bàng quang, tam tiêu gọi là lục phủ – sáu thứ này thuộc dương. Lục phủ ngũ tạng cộng với tâm bào thành thập nhị kinh thường mạch. Còn tám mạch: Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Duy, Dương Duy, Âm Kiều, Dương Kiều, không thuộc âm dương chính kinh, không phối hợp biểu lý, đi theo các đường riêng, được gọi là kỳ kinh bát mạch.

Sau khi đã gián cách thường mạch và kỳ kinh trên cơ thể Trương Vô Kỵ làm cho chất âm độc trong lục phủ ngũ tạng không còn thông với nhau nữa, Hồ Thanh Ngưu mới dùng ngải hơ nóng, gọi là Vân Môn, Trung Phủ ở vai, tiếp đến các huyệt từ cánh tay xuống ngón cái như Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế, Thiếu Thương mười một huyệt này thuộc “Thủ thái âm phế kinh” nhằm tiêu giảm chất âm độc trong phổi của Trương Vô Kỵ. Cách này lấy nhiệt công hàn, nỗi đau đớn mà Trương Vô Kỵ phải chịu đựng cũng chẳng khác gì lúc chất âm độc phát tác. Cứu xong “Thủ thái âm phế kinh”, Hồ Thanh Ngưu cứu tiếp “Túc dương minh vị kinh”, “Thủ quyết âm tâm bào kinh”…

Khi ra tay, Hồ Thanh Ngưu chẳng buồn để ý tới việc Trương Vô Kỵ có đau hay không, cứ dùng ngải cứu tới mức chỗ nào trên cơ thể Trương Vô Kỵ cũng đen sì. Trương Vô Kỵ thì cố không tỏ ra hèn yếu, nghĩ thầm: “Người tưởng ta rên rỉ, ta sẽ không rên một tiếng”. Cậu bé cứ cười nói như không, đàm luận với Hồ Thanh Ngưu về bộ vị của kinh mạch huyệt đạo. Trương Vô Kỵ tuy không biết y lý, nhưng nghĩa phụ Tạ Tốn từng truyền thụ cho cậu phép điểm huyệt, giải huyệt, thuật chuyển di huyệt đạo nên vị trí các huyệt đạo, cậu nắm rất vững. Kiến thức của Trương Vô Kỵ về huyệt đạo so với vị đương thế thần y này dĩ nhiên là thô thiển, nhưng lại liên quan đến y lý là môn mà Hồ Thanh Ngưu cực kỳ tâm đắc. Thế là Hồ Thanh Ngưu vừa cứu ngải, vừa giảng giải thao thao bất tuyệt.

Trương Vô Kỵ nghe mười chỉ hiểu được một, nhưng để tỏ ra là “phái Võ Đang ta cũng am hiểu”, chốc chốc cậu lại bình phẩm chen vào một câu hoặc tranh biện vài lời. Hồ Thanh Ngưu cố giảng giải ngắn gọn, đến khi nhận ra “thằng nhãi này thật ra chẳng biết gì hết, chỉ nói lăng nhăng” thì cũng đã tốn bao nhiêu là nước bọt. Tuy nhiên, ở chốn thâm sơn cùng cốc này, trừ vài đứa tiểu đồng sắc thuốc, nấu cơm, Hồ Thanh Ngưu đâu có ai làm bạn, hôm nay có thằng bé này đến nói nọ nói kia về huyệt đạo, kể cũng thú.

Đợi cứu xong mấy trăm huyệt trên Thập nhị kinh thường mạch thì trời đã sẩm tối. Tiểu đồng dọn cơm ra bàn, lại bưng một mâm cơm rau dưa ra bên ngoài cho Thường Ngộ Xuân. Đêm đó Thường Ngộ Xuân phải ngủ ở bên ngoài, Trương Vô Kỵ cũng không ngỏ lời cầu xin Hồ Thanh Ngưu. Lúc đi ngủ, cậu ra nằm cạnh Thường Ngộ Xuân, hai người cùng nằm trên bãi cỏ để tỏ ý hoạn nạn cùng chịu. Hồ Thanh Ngưu giả bộ không nhìn thấy, nhưng trong bụng nghĩ thầm: “Thằng bé này quả khác hẳn những đứa trẻ khác”.

Sáng hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại tốn nửa ngày để cứu các huyệt đạo trên kỳ kinh bát mạch của Trương Vô Kỵ. Thập nhị kinh thường mạch giống như các dòng sông chảy không ngừng nghỉ, còn kỳ kinh bát mạch lại giống như hồ như biển, súc tích tàng trữ; thành thử việc khu trừ âm độc trong kỳ kinh bát mạch còn khó hơn nhiều. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ viết một toa thuốc khước tà phù chính, bổ hư tả thực, dùng cách lấy độc trị độc. Trương Vô Kỵ uống xong thang thuốc đó rét run cầm cập nửa ngày, nhưng sau đó tinh thần khỏe khoắn hẳn lên.

Buổi chiều, Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cố nói khích, chọc tức để Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cho Thường Ngộ Xuân, nhưng y chẳng thèm lý đến, chỉ lạnh lùng nói:

– Cái ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên của ta có điểm danh bất phó thực. Chữ “Tiên” đâu dễ xưng bừa. Người ta gọi ta là Kiến Tử Bất Cứu, ta lại thích hơn.

Lúc này Hồ Thanh Ngưu đang châm huyệt Ngũ Khu ở giữa hông và đùi của Trương Vô Kỵ, huyệt này là nơi giao hội giữa kinh Túc Thiếu Dương và mạch Đới, bên cạnh thủy đạo cách một tấc năm phân. Trương Vô Kỵ nói:

– Mạch Đới trên cơ thể con người là kỳ quái nhất. Hồ tiên sinh biết không, có một số người không có mạch Đới.

Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:

– Đừng nói bậy! Không có mạch Đới sao được?

Trương Vô Kỵ vốn chỉ quen miệng nói lăng nhăng, lại tiếp:

– Thiên hạ rộng lớn chuyện gì cũng có, huống hồ mạch Đới cháu thấy chẳng có tác dụng gì lắm.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Mạch Đới khá kỳ diệu, bảo nó kém tác dụng là sai. Các y sư tầm thường không hiểu sự kỳ diệu bên trong, châm cứu cắt thuốc không khỏi sai lầm. Ta có viết cuốn Đới mạch luận, ngươi lấy ra đọc thì biết.

Đoạn Hồ Thanh Ngưu vào gian trong lấy ra một cuốn sách mỏng, giấy đã vàng, đưa cho Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giở trang đầu, thấy viết: “Thập nhị kinh và kỳ kinh bát mạch đều đều lưu chuyển lên xuống. Riêng mạch Đới bắt đầu từ bụng dưới, phía dưới mạng sườn, đi quanh thân mình một vòng, như cái đai thắt lưng. Ba mạch Xung, Nhâm, Đốc cùng bắt đầu nhưng đi ba hướng khác nhau, một gốc mà ba ngọn, cùng nối với mạch Đới…”

Tiếp đó bình thuật các sai lầm trong y thư cổ kim. Sách Thập tứ kinh phát huy nói mạch Đới chỉ có bốn huyệt. Sách Châm cứu đại thành nói mạch Đới có sáu huyệt; thực ra có đến mười huyệt, trong đó hai huyệt khi ẩn khi hiện, lúc có lúc không, rất khó nhận biết. Trương Vô Kỵ đọc tiếp xuống dưới, tuy không hiểu tinh túy bên trong nhưng cũng biết cuốn sách này kiến thức bất phàm, bèn đem những chỗ Hồ Thanh Ngưu phê bình tiền nhân ra thỉnh giáo.

Hồ Thanh Ngưu thích thú, vừa châm vừa giải thích, khi đã dùng kim vàng châm đủ mười huyệt trên mạch Đới, ông ta mới ngồi nghỉ một lát, nói:

– Ta còn có một bộ Tý ngọ châm cứu kinh ghi tất cả những điều tâm huyết của ta.

Đoạn vào gian trong mang ra bộ y thư gồm mười hai quyển viết tay.

Hồ Thanh Ngưu biết thằng bé này chưa biết gì về y lý, nhưng ông ta ẩn cư nơi hoang cốc đã lâu, cũng cảm thấy quá tịch mịch. Những kẻ trước đây tới cầu chữa bệnh tuy rất đông, song ai ai cũng chỉ khen ông ta y thuật như thần, những lời nói ấy hai chục năm nay nghe đã chán ngấy từ lâu. Thực ra điều làm cho ông ta thấy hãnh diện với người đời không phải là y thuật tinh tường, mà là ông đã có rất nhiều phát hiện về y học mà tiền nhân chưa tìm biết. Hồ Thanh Ngưu tự biết những thành tựu đó rất lớn lao, song chỉ có thể một mình thưởng thức, không khỏi tịch mịch. Bây giờ gặp cậu bé thích đọc trước tác của mình, ông ta lờ mờ cảm thấy có người tri kỷ nên đem bộ sách đắc ý ra khoe.

Trương Vô Kỵ giở ra xem, thấy mỗi trang đều chi chít những chữ nhỏ bằng con ruồi, viết theo lối chữ tiểu khải; bộ vị huyệt đạo, phân lượng thuốc men, thời khắc và độ nông sâu của mũi châm, cái gì cũng ghi chú rõ ràng. Cậu bé chợt nghĩ: “Mình phải để ý xem có đoạn nào nói về cách chữa trị cho Thường đại ca hay không?” Giở đến quyển thứ chín nhan đề Chương Võ học, trong đó mục Chưởng thương trị pháp, thấy có Hồng sa chưởng, Thiết sa chưởng, Độc sa chưởng, Miên chưởng, Khai sơn chưởng, Phá bi chưởng… các triệu chứng thương tích do các thứ chưởng lực gây nên, cách cấp cứu, cách điều trị, tất cả đều được ghi tỉ mỉ. Đọc hết một trăm tám mươi loại chưởng lực, quả nhiên mới thấy “Tiệt tâm chưởng”.

Trương Vô Kỵ cả mừng, lập tức chăm chú đọc kỹ một lượt. Trong sách miêu tả kỹ càng về Tiệt tâm chưởng, nhưng về cách chữa trị lại nói quá sơ lược, rằng “cần châm bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì; tùy theo sự biến đổi của âm dương ngũ hành, căn cứ ngũ hậu hàn, thử, táo, thấp, phong; tùy ngũ tình hỷ, nộ, ưu, tư, khủng của người bệnh mà bốc thuốc”.

Nên biết y đạo Trung Hoa biến hóa đa đoan, không quy định cứng nhắc; cùng một chứng bệnh, người thầy thuốc phải căn cứ trời nóng lạnh, ngày đêm, đầy vơi, trước sau, động tĩnh, trong ngoài, nam nữ, lớn bé… tùy từng trường hợp mà đưa ra cách chữa trị, thay đổi thế nào là tùy thầy thuốc chứ ít có quy định sẵn. Bởi vậy, thầy thuốc giỏi với thầy thuốc xoàng cách nhau một trời một vực. Sự vi diệu đó dĩ nhiên Trương Vô Kỵ không biết được, chỉ đọc cách chữa vài lần cho nhớ mà thôi. Phần cuối cùng trong mục Chưởng thương trị pháp là Huyền Minh thần chưởng, thì sau khi miêu tả các triệu chứng của người bị thương, đến chỗ “Cách chữa trị” chỉ có một chữ “Không”.

Trương Vô Kỵ gấp bộ y kinh lại, cung kính đặt trên bàn, nói:

– Bộ Tý ngọ châm cứu kinh này của Hồ tiên sinh bác đại tinh thâm, vãn bối đọc mười chỉ hiểu được một. Mong được chỉ giáo, thế nào là “Ngự âm dương ngũ hành chi biến”?

Hồ Thanh Ngưu giải thích mấy câu, chợt vỡ lẽ, nói:

– Ngươi định hỏi cách trị thương cho Thường Ngộ Xuân chứ gì? Ha ha, chuyện khác thì ta nói, chứ chuyện ấy thì không đâu.

Trương Vô Kỵ không còn cách nào khác, đành tự mình tra cứu các loại y thư, Hồ Thanh Ngưu để cậu muốn đọc gì thì đọc, không hề cấm đoán. Trương Vô Kỵ miệt mài tìm tòi suốt ngày đêm, quên ăn quên ngủ, chẳng những đọc hết hơn một chục trước tác do Hồ Thanh Ngưu biên soạn, mà ngay cả các sách kinh điển y học như Hoàng Đế nội kinh, Hoa Đà nội chiêu đồ, Vương Thúc Hòa mạch kinh, Tôn Tư Mạo thiên kim phương, Thiên kim dực, Vương Đạo ngoại đài bí yếu đều đọc hết, chỉ cốt tìm ra ý nghĩa các câu liên quan đến cách chữa trị Tiệt tâm chưởng. Mỗi ngày cậu được Hồ Thanh Ngưu châm cứu cho hai lần, vào giờ Thìn và giờ Thân, để trừ âm độc.

Cứ thế mấy hôm liền, Trương Vô Kỵ vùi đầu đọc đủ loại sách, tuy nhớ được một số y lý, bài thuốc, nhưng cái tinh diệu của y đạo, cậu tuổi nhỏ, học vấn nông cạn, làm sao trong vài ngày đủ hiểu được? Bấm đốt ngón tay, cậu tới Hồ Điệp cốc đã sáu ngày. Hồ Thanh Ngưu từng nói thương thế của Thường Ngộ Xuân nếu do ông ta chữa trị thì nội trong bảy ngày sẽ khỏi hẳn, ngoài bảy ngày dù có thể khỏi, song võ công cũng mất hết. Thường Ngộ Xuân đã nằm ngoài bãi cỏ trước nhà sáu ngày đêm, đến hôm nay trời lại đổ mưa. Hồ Thanh Ngưu thấy chỗ Thường Ngộ Xuân nằm trũng xuống, bùn nước lẫn lộn, nhưng vẫn tuyệt nhiên không lý tới. Trương Vô Kỵ cả giận, nghĩ thầm: “Mình đọc các sách thuốc, trừ các cuốn do Hồ Thanh Ngưu soạn, sách nào cũng viết rằng thầy thuốc phải có lòng nhân, cứu đời cứu người; tiên sinh bụng đầy y thuật mà thấy chết không cứu, làm sao có thể gọi là lương y chứ?”

Buổi chiều, trời mưa càng to hơn, sấm chớp ầm ầm, loang loáng. Trương Vô Kỵ nghiến răng, nghĩ thầm: “Mình phải đánh liều chữa cho Thường đại ca thôi, không còn cách nào khác”. Vô Kỵ lấy trong tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu tám cây kim châm bằng vàng, ra ngồi bên cạnh Thường Ngộ Xuân, nói:

– Thường đại ca, mấy hôm rồi tiểu đệ cố sức đọc các loại sách thuốc của Hồ tiên sinh, tuy chưa thông hiểu nhưng thời gian khẩn cấp lắm rồi nên không thể dây dưa thêm nữa, tiểu đệ chỉ còn cách mạo hiểm tự châm cho Thường đại ca, nếu chẳng may có chuyện gì, tiểu đệ nhất định cũng không sống một mình đâu.

Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:

– Tiểu huynh đệ sao lại nói thế? Hãy mau châm kim cho huynh đi. Nếu may trời cho khỏi được, tức là Hồ sư bá bị một phen bẽ mặt. Nếu châm vài mũi huynh đã chết, thì cũng còn hơn là sống trong cái vũng bùn này.

Trương Vô Kỵ hai tay run run, nhìn kỹ, mò đúng huyệt đạo của Thường Ngộ Xuân, lập cập cắm một mũi kim vào huyệt Quan Nguyên. Cậu chưa hề tập luyện thuật châm cứu, động tác đâm kim hết sức vụng về, chẳng qua bắt chước cách làm của Hồ Thanh Ngưu đối với cậu hàng ngày mà thôi. Kim của Hồ Thanh Ngưu làm bằng vàng ròng, hơi mềm, phải là người có nội lực thâm hậu mới sử dụng được. Trương Vô Kỵ dùng sức hơi quá, kim liền cong vẹo đi, không vào sâu nữa, đành phải rút ra đâm lại. Đúng thuật châm cứu thì khi rút kim ra không có chuyện chảy máu, đằng này do cậu lúng túng đâm không đúng chỗ, nên từ huyệt Quan Nguyên máu chảy trào ra. Huyệt Quan Nguyên nằm ở bụng dưới, là chỗ yếu hại của cơ thể, máu chảy không cầm được khiến Trương Vô Kỵ càng cuống quýt lo, chưa biết phải làm sao.

Bỗng nghe sau lưng có tiếng cười ha hả, Trương Vô Kỵ ngoảnh lại thấy Hồ Thanh Ngưu tay chắp sau lưng, dáng vẻ tự đắc, nhìn hai tay cậu dính máu mà cười hì hì. Trương Vô Kỵ vội hỏi:

– Hồ tiên sinh, huyệt Quan Nguyên của Thường đại ca, máu cứ chảy thế này thì phải làm sao?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Dĩ nhiên ta biết cầm máu cách nào, nhưng việc gì phải nói cho ngươi hay?

Trương Vô Kỵ ngang nhiên nói:

– Thôi bây giờ một mạng đổi một mạng, xin tiên sinh mau cứu Thường đại ca, vãn bối sẽ chết ngay trước mặt tiên sinh.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Ta đã nói không chữa là không chữa, Hồ Thanh Ngưu này chỉ thấy chết không cứu, chứ đâu phải quỷ Vô Thường đi đòi mạng, ngươi chết thì có ích lợi gì cho ta? Dù có chết mười Trương Vô Kỵ, ta cũng không cứu một Thường Ngộ Xuân.

Trương Vô Kỵ biết có nói thêm với Hồ Thanh Ngưu cũng chỉ tốn thời gian vô ích, nghĩ thầm loại kim này mềm quá, mình không dùng được, lúc này cũng không biết tìm kim bằng đồng bằng sắt ở đâu, nghĩ một chút, liền bẻ cành tre, dùng dao chẻ nhỏ, vót nhọn, đâm vào bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì trên người Thường Ngộ Xuân. Kim tre đâm vào, quả nhiên không thấy máu chảy. Một lúc sau, Thường Ngộ Xuân nôn ra mấy ngụm máu đen.

Trương Vô Kỵ không biết sau khi mình châm lung tung như thế khiến cho thương thế của Thường Ngộ Xuân nặng lên, hay là đã có công hiệu trục được huyết ứ trong cơ thể ra ngoài, lúc quay đầu nhìn Hồ Thanh Ngưu, thấy nét mặt “Y Tiên” có vẻ giễu cợt, song cũng có vài phần tán thưởng. Trương Vô Kỵ biết mấy mũi kim tre vừa châm không sai lạc, bèn chạy vào nhà lục lọi y thư, suy nghĩ thật kỹ, rồi viết một toa thuốc. Cậu tuy đọc trong sách biết vị thuốc nào chữa bệnh gì, song chưa hề biết hình dạng thế nào là sinh địa, sài hồ, ngưu tất, mật gấu, bèn đem toa thuốc ấy giao cho tiểu đồng, nói:

– Nhờ cậu theo toa này sắc giùm một thang.

Tiểu đồng đưa toa thuốc trình cho Hồ Thanh Ngưu xem, hỏi có nên sắc hay không. Hồ Thanh Ngưu khịt mũi, nói:

– Nực cười, nực cười! Ngươi theo đó mà sắc, uống xong mà bệnh nhân không chết thì trên đời này không còn ai chết nữa.

Trương Vô Kỵ vội giật lại toa thuốc, giảm phân lượng mỗi vị còn một nửa. Tiểu đồng theo đó cắt thuốc đem sắc, thành một tô thật đậm đặc.

Trương Vô Kỵ bưng thuốc tới bên miệng Thường Ngộ Xuân, nghẹn ngào nói:

– Thường đại ca, uống thang thuốc này vào lành hay dữ, tiểu đệ quả tình chưa biết.

Thường Ngộ Xuân cười, nói:

– Tốt lắm, tốt lắm! Cái này gọi là thằng thong manh chữa cho thằng mù.

Đoạn nhắm mắt, ngửa cổ uống một hơi cạn sạch.

Tối hôm ấy, Thường Ngộ Xuân bụng đau quằn quại, nhiều lần nôn ra máu. Trong mưa gió sấm chớp, Trương Vô Kỵ hầu hạ suốt đêm bên cạnh y. Sáng sớm hôm sau, mưa tạnh, Thường Ngộ Xuân bớt thổ huyết, máu nôn ra cũng từ đen chuyển thành tím, từ tím chuyển sang đỏ dần.

Thường Ngộ Xuân vui mừng, nói:

– Tiểu huynh đệ, thuốc đệ bốc hóa ra uống không chết người, huynh cảm thấy bệnh đỡ hẳn đi.

Trương Vô Kỵ cả mừng, nói:

– Thuốc của tiểu đệ, huynh uống thấy sao?

Thường Ngộ Xuân cười, nói:

– Tiên phụ biết trước có ngày thế này, nên mới đặt tên ta là Thường Ngộ Xuân, nghĩa là thường thường sẽ gặp được bậc danh y diệu thủ hồi xuân như tiểu đệ chẳng hạn. Có điều là tiểu đệ cắt thuốc hơi bá đạo, uống vào bụng mà cứ như có mấy chục con dao cắt xén trong ấy.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vâng, vâng, chắc là liều lượng hơi nặng.

Kỳ thực liều lượng cậu định ra không phải “hơi nặng”, mà là nặng gấp mấy lần, lại không thêm tá dược điều lý trung hòa nên mấy vị đó công phạt quá mạnh. Tuy cậu tìm được trong sách của Hồ Thanh Ngưu nói vị thuốc nào trị bệnh gì, nhưng đạo dùng thuốc “quân thần tá sứ” thì cậu hoàn toàn chưa biết, nếu Thường Ngộ Xuân không có thể chất cường tráng hơn người, hẳn là đã ô hô ai tai rồi.

Hồ Thanh Ngưu rửa mặt, chải đầu xong, thong thả bước ra, thấy Thường Ngộ Xuân sắc diện hồng hào, tinh thần sảng khoái, không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Một tên thông minh to gan, một tên thể chất tráng kiện, thương thế do Tiệt tâm chưởng gây ra thế mà trị được rồi”.

Trương Vô Kỵ viết thêm toa thuốc bổ, nào là nhân sâm, lộc nhung, thủ ô, phục linh, bao nhiêu vị thuốc bổ đều có. Kho dược liệu trong nhà Hồ Thanh Ngưu có đủ các vị quý hiếm, dược lực cực mạnh. Uống thuốc bổ mười ngày, Thường Ngộ Xuân thấy thần thái sung mãn, võ công trở lại như xưa, bèn nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu huynh đệ, nay thương thế của ta đã lành hẳn, đêm đêm đệ ra nằm dầm sương với huynh như thế đủ rồi. Chúng mình chia tay thôi.

Hơn một tháng qua, Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân cùng chung hoạn nạn, xả thân cho nhau, thành hảo hữu sinh tử có nhau, nay phải chia tay, thật quyến luyến không muốn rời. Nhưng biết rằng Thường Ngộ Xuân chẳng thể ở mãi tại đây, Vô Kỵ đành nuốt lệ chấp nhận.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Tiểu huynh đệ đừng buồn, ba tháng nữa huynh sẽ trở lại thăm, nếu lúc đó chất hàn độc trong cơ thể đệ đã hết, huynh sẽ dẫn đệ trở về núi Võ Đang với thái sư phụ.

Gã vào trong nhà bái biệt Hồ Thanh Ngưu, nói:

– Đệ tử thương thế đã đỡ, tuy là do Trương huynh đệ ra tay chữa trị, nhưng toàn là nhờ y thư của sư bá chỉ dẫn, lại uống không biết bao nhiêu dược liệu quý của sư bá.

Hồ Thanh Ngưu gật đầu, nói:

– Không sao cả. Thương thế của ngươi tuy đã khỏi, nhưng tuổi thọ của ngươi bị giảm mất bốn chục năm đó.

Thường Ngộ Xuân không hiểu, hỏi lại:

– Vì sao vậy?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Cứ theo thể chất của ngươi mà nói, ngươi có thể sống ít ra đến tám mươi tuổi. Nhưng tiểu tử dùng thuốc sai lầm, lúc châm kim lại sai cách, từ nay trở đi, mỗi lần mưa gió sấm chớp, ngươi sẽ thấy toàn thân đau nhức, đại khái là khoảng bốn mươi tuổi sẽ đi gặp Diêm Vương.[50]

Thường Ngộ Xuân cười ha hả, hiên ngang nói:

– Đại trượng phu giúp đời báo quốc, nếu lập nên công trạng thì ba mươi tuổi cũng đã đủ, cần gì đến bốn mươi? Còn như sống một đời tầm thường, dù có thọ trăm tuổi cũng chỉ là tốn cơm tốn gạo thôi.

Hồ Thanh Ngưu gật gật đầu, không nói gì thêm.

Trương Vô Kỵ tiễn chân ra tận Hồ Điệp cốc khẩu, Thường Ngộ Xuân giục cậu trở lại, hai người mới gạt lệ chia tay. Trương Vô Kỵ thầm lập chí: “Mình chữa trị, cắt thuốc sai lầm khiến cho Thường đại ca bị giảm thọ bốn mươi năm, sau này mình phải tìm mọi cách giúp Thường đại ca phục hồi như ban đầu mới được!”

Từ đó Hồ Thanh Ngưu ngày ngày châm cứu, cắt thuốc cho Trương Vô Kỵ để tiêu trừ âm độc trong cơ thể. Còn Trương Vô Kỵ ngày đêm miệt mài đọc y thư, ghi nhớ dược điển, gặp chỗ nào khó hiểu lại thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu. Đó là những điều tâm đắc của Hồ Thanh Ngưu nên y chỉ giáo tỉ mỉ. Có lần Trương Vô Kỵ nêu ra câu hỏi lạ lùng mà Hồ Thanh Ngưu chưa bao giờ nghĩ tới. Ban đầu Hồ Thanh Ngưu định bụng chữa khỏi cho Trương Vô Kỵ rồi sẽ giết luôn, nhưng bây giờ nghĩ lại, nếu thằng bé chết đi, nơi đây sẽ chẳng còn ai đàm đạo hợp ý nên không còn tính đến việc khỏi sớm chết sớm nữa.

Cứ như thế mấy tháng, một hôm Hồ Thanh Ngưu bỗng phát hiện huyệt Quan Xung ở bên cạnh ngón tay vô danh, huyệt Thanh Lãnh Uyên ở cách khoeo tay hai tấc, huyệt Ti Trúc Không ở chỗ lõm sau lông mày của Trương Vô Kỵ khi châm vào không có phản ứng gì cả. Ba huyệt ấy đều thuộc “Thủ Thiếu Dương tam tiêu kinh”, Tam tiêu chia ra Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu là một trong lục phủ ngũ tạng, y thư xưa nay viết rằng rất huyền diệu bí ẩn, khó bề tìm được[51].

Hồ Thanh Ngưu khổ công trăn trở suy nghĩ, dùng đủ mọi cách khéo léo vẫn không trục được chất âm độc đã ngấm vào Tam tiêu của Trương Vô Kỵ. Sau hơn mười ngày, tóc ông ta bạc thêm nhiều sợi mà vẫn chưa tìm ra.

Trương Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu suy tư khổ não như thế thì không khỏi cảm kích, áy náy không yên, nói:

– Hồ tiên sinh, tiên sinh đã tận tâm kiệt lực trừ độc cho vãn bối. Trên đời này ai ai cũng phải chết, chất âm độc ngấm vào Tam tiêu vãn bối không khu trừ được, âu cũng là số phận an bài, tiên sinh đừng tốn phí quá nhiều tâm sức cho việc cứu mạng vãn bối mà tổn hại thân thể.

Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, giọng lạnh nhạt:

– Ngươi coi thường Minh giáo, Thiên Ưng giáo quá đấy, không đời nào ta muốn cứu mạng ngươi. Có điều nếu ta không chữa khỏi cho ngươi, hóa ra Điệp Cốc Y Tiên là kẻ vô năng hay sao? Sau khi ta chữa khỏi cho ngươi, ta sẽ giết ngươi.

Trương Vô Kỵ lạnh người nghe Hồ Thanh Ngưu nói một cách thản nhiên, tựa hồ chuyện ấy chẳng đáng gì, song cậu biết những điều ông ta đã nói ra miệng thì cũng quyết không thay đổi, bèn thở dài, nói:

– Vãn bối xem ra chất hàn độc trong cơ thể không cách nào khu trừ, tiên sinh khỏi cần ra tay, vãn bối cũng sẽ chết. Người đời hình như chỉ mong mọi người khác chết sạch đi thì họ mới vui lòng. Người ta học võ luyện công, chẳng phải là để giết người khác đó sao?

Hồ Thanh Ngưu nhìn ra khoảng không xa vắng bên ngoài, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:

– Hồi trẻ ta miệt mài học y thuật, lập chí giúp đời cứu người, rồi ra mới biết mình lầm. Ta đã cứu sống một người, hắn lại trở mặt hại ta một cách tàn bạo. Có một thiếu niên ở Miêu Cương, Quý Châu, bị trúng Kim Tàm trùng độc, là loại chất kịch độc, ai trúng phải thể nào cũng chết, song trước khi chết phải chịu các cơn đau đớn khủng khiếp. Ta suốt ba ngày đêm không ngủ, hao tổn bao tâm lực cứu được y, cùng y kết nghĩa kim lan, tình như ruột thịt, lại còn hứa gả em gái cho hắn. Ai ngờ về sau hắn hại chết em gái ta. Ngươi có biết hắn là ai không? Hiện nay hắn chính là thủ lĩnh lừng lẫy tiếng tăm của một danh môn chính phái đó.

Trương Vô Kỵ thấy bắp cơ trên mặt Hồ Thanh Ngưu giật giật, thần sắc hết sức đau khổ, thì trong lòng cảm thông, nghĩ thầm: “Thì ra Hồ tiên sinh từng gặp không ít thảm cảnh trong đời, nên mới có cái tính thấy chết không cứu, bèn hỏi:

– Kẻ vong ân bội nghĩa, lòng lang dạ thú ấy là ai vậy?

Hồ Thanh Ngưu nghiến răng nói:

– Hắn… hắn chính là Tiên Vu Thông, chưởng môn phái Hoa Sơn.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Sao tiên sinh không đi tìm hắn trả thù?

Hồ Thanh Ngưu thở dài:

– Trước sau ta đã ba lần tìm hắn, đều bị thảm bại. Lần sau cùng tưởng đã mất mạng dưới tay hắn rồi. Người ấy võ công cao cường, lại cơ trí tuyệt luân, ngoại hiệu của hắn là Thần Cơ Tử mà. Ta tài nghệ quả thực thua xa, không phải đối thủ của hắn. Huống hồ hắn làm chưởng môn phái Hoa Sơn, người đông thế mạnh. Minh giáo ta trong mấy năm nay chia năm xẻ bảy, tàn sát lẫn nhau, ai ai cũng chỉ bo bo lo giữ thân, không trợ giúp nhau. Hơn nữa, ta cũng ngại đi nhờ vả người khác. Mối thù này, chỉ e không thể báo được. Ôi, tiểu muội khốn khổ của ta ơi, ta mồ côi từ bé, chỉ có hai huynh muội nương tựa lẫn nhau…

Nói đến đó, nước mắt rưng rưng.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh thực ra vốn không phải là kẻ lạnh nhạt, vô tình”. Hồ Thanh Ngưu đột nhiên gay gắt nói:

– Chuyện ta kể hôm nay, từ rày không được nhắc đến, nếu ngươi tiết lộ cho người khác biết, ta sẽ làm cho ngươi sống không nổi, chết không xong đó.

Trương Vô Kỵ định cãi vài câu, nhưng động lòng trắc ẩn, biết Hồ tiên sinh gặp thảm sự, nên cậu chẳng chấp nê, chỉ nói:

– Vãn bối sẽ không nhắc đến làm gì.

Hồ Thanh Ngưu xoa xoa đầu cậu, thở dài:

– Tội nghiệp, tội nghiệp!

Nói đoạn quay vào gian trong.

Từ khi nói chuyện với Trương Vô Kỵ, lại thấy khó khu trừ chất hàn độc đã ngấm vào Tam tiêu của thằng bé, dù có đem y thuật tinh thâm chữa trị cũng chỉ sống thêm được vài năm thì Hồ Thanh Ngưu thay đổi cả tâm tính. Tuy ông ta không thổ lộ thêm thân thế và tâm sự của mình, nhưng thấy thằng bé nhanh hiểu ý người, lại sống chốn núi rừng tịch mịch, có nó bầu bạn thật là hay, thế nên ngày ngày Hồ Thanh Ngưu chỉ dẫn cho Trương Vô Kỵ về sự biến đổi âm dương ngũ hành trong y lý, thuật châm cứu, xem mạch, cắt thuốc. Trương Vô Kỵ miệt mài học hỏi. Hồ Thanh Ngưu thấy thằng bé ngộ tính cao lạ lùng, đọc các bộ y thư, như Hoàng Đế hà mô kinh, Tây Phương Tử Minh Đường cứu kinh, Thái Bình thánh huệ phương, Châm giáp ất kinh, Thiên kim phương đều am tường, tâm đắc, thì than thầm: “Thông minh tài trí như ngươi, lại được bậc minh sư trăm đời có một là ta chỉ giáo, thì chưa đến hai mươi tuổi ngươi đã sánh ngang Hoa Đà, Biển Thước. Tiếc rằng… ôi, tiếc rằng…”

Ý của Hồ Thanh Ngưu muốn nói rằng dù Trương Vô Kỵ học có giỏi y thuật bao nhiêu đi chăng nữa, nhưng chỉ sống ít lâu, vậy sự khổ học kia phỏng có ích gì? Trương Vô Kỵ thì trong lòng đã chủ tâm quyết ý nắm chắc y thuật cao minh để khi gặp lại Thường Ngộ Xuân sẽ chữa cho y trở lại sức khỏe bình thường, lại chữa cho Du Đại Nham có thể tự mình đi lại, không cần nhờ ai nâng dắt. Đó là hai đại tâm nguyện của Trương Vô Kỵ, sau khi hoàn tất thì dù có chết ngay cũng không có gì ân hận.

*

*       *

Sống trong rừng yên ổn vô sự, ngày tháng trôi mau, thấm thoắt đã hơn hai năm. Trương Vô Kỵ nay đã mười bốn tuổi. Hai năm qua, Thường Ngộ Xuân ghé thăm cậu mấy lần, nói Trương Tam Phong nghe tin bệnh tình của Vô Kỵ thuyên giảm khiến Trương lão vô cùng hoan hỉ, dặn cứ ở lại Hồ Điệp cốc chữa trị cho khỏi hẳn. Trương Tam Phong và sáu đệ tử đều gửi cho thằng bé quần áo, vật dụng, ai cũng thương nhớ, nhưng vì môn phái khác biệt nên không tiện đến thăm.

Trương Vô Kỵ đối với thái sư phụ, các sư bá sư thúc cũng muôn phần thương nhớ, chỉ hận không thể bay ngay về núi Võ Đang.

Thường Ngộ Xuân kể lại tin tức bên ngoài, mấy năm nay người Mông Cổ đối với người Hán càng thêm bạo ngược, trăm họ không đủ ăn đủ mặc, trộm cướp nổi lên như rươi, xem chừng thiên hạ sắp sửa đại loạn. Đồng thời cuộc tranh chấp giữa các thế lực tự xưng danh môn chính phái trên giang hồ với các thế lực bị coi là Ma giáo tà phái ngày thêm kịch liệt, đôi bên đều tử thương nặng nề, oán cừu trở nên ngày một sâu.

Thường Ngộ Xuân mỗi lần đến Hồ Điệp cốc chỉ ở lại vài hôm rồi đi liền, hình như việc trong Minh giáo rất bận rộn.

Một buổi tối, Trương Vô Kỵ đang đọc cuốn y thư Thử sự nan tri của Vương Hiếu Cổ thì cảm thấy mệt mỏi, đầu nặng như chì, bèn gấp sách đi ngủ. Sáng sau tỉnh dậy thấy nhức đầu quá chừng, đang định tìm mấy thứ thuốc trị phong hàn, ra đến gian ngoài thấy mặt trời đã chếch sang phía tây, hóa ra đã quá trưa, thì giật mình nghĩ thầm: “Sao mình lại ngủ một giấc mê mệt như thế, hay là bệnh rồi”, bèn bắt mạch, thấy không có gì lạ, lòng thầm kinh hãi: “Hay là chất âm độc phát tác, mình đến ngày tận số rồi ư?”

Trương Vô Kỵ đi sang gian nhà của Hồ Thanh Ngưu, thấy cửa đóng chặt, ho khẽ một tiếng. Hồ Thanh Ngưu ở bên trong nói ra:

– Vô Kỵ, hôm nay ta khó chịu, đau họng, ngươi tự mình học đi nhé.

Trương Vô Kỵ đáp:

– Vâng.

Quan tâm đến bệnh tình của Hồ Thanh Ngưu, cậu nói:

– Tiên sinh, để vãn bối xem thử cổ họng của tiên sinh xem thế nào, được không ạ?

Hồ Thanh Ngưu đáp, giọng khàn khàn:

– Không cần, ta đã soi gương, thấy không nặng lắm, đã uống “Ngưu hoàng tê giác tán” rồi.

Bữa tối hôm đó, lúc tiểu đồng bưng cơm vào phòng, Trương Vô Kỵ cũng đi theo, thấy Hồ Thanh Ngưu mặt mày tiều tụy, nằm trên giường. Hồ Thanh Ngưu xua tay nói:

– Ra ngoài đi. Ngươi biết ta bị bệnh gì không, bệnh đậu mùa đấy.

Trương Vô Kỵ nhìn, thấy trên mặt và tay Hồ Thanh Ngưu quả nhiên thấy có nhiều chấm đỏ, nghĩ bệnh đậu mùa phát ra thật nguy hiểm, chữa không khéo, nặng thì chết, nhẹ cũng bị rỗ mặt. Hồ Thanh Ngưu y đạo tinh thâm, tuy nhiễm ác bệnh cũng tự chữa trị được, song Trương Vô Kỵ vẫn không khỏi lo ngại.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Ngươi không được vào phòng của ta nữa, đũa bát chén đĩa dùng cho ta đều phải nhúng nước sôi, ngươi và các tiểu đồng không được dùng chung.

Ngừng giây lát, Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:

– Vô Kỵ, ngươi nên rời Hồ Điệp cốc đi nơi khác ở tạm mươi bữa nửa tháng, để khỏi lây bệnh đậu mùa của ta.

Trương Vô Kỵ vội nói:

– Không cần đâu, tiên sinh bị bệnh, vãn bối lại tránh đi, vậy ai lo lắng cho tiên sinh? Dẫu gì vãn bối cũng hiểu y lý hơn hai tiểu đồng kia.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Ngươi tránh đi vẫn hơn.

Hồ Thanh Ngưu nói mãi, Trương Vô Kỵ vẫn không chịu. Mấy năm qua, hai người sớm tối bên nhau, Hồ Thanh Ngưu tuy tính nết kỳ dị, song hai thầy trò rất thân tình với nhau, huống hồ lúc thầy hoạn nạn mà mình lại tránh đi là trái với bản tính của Trương Vô Kỵ. Hồ Thanh Ngưu đành nói:

– Thôi được, thế nhưng ngươi nhất thiết không được bước vào phòng ta đó.

Cứ thế ba hôm liền, sớm tối Trương Vô Kỵ tới trước cửa vấn an, Hồ Thanh Ngưu tuy bị khản tiếng, nhưng tinh thần vững vàng, cơm nước xem ra còn ăn nhiều hơn lúc thường, chắc không có gì đáng ngại. Mỗi ngày Hồ Thanh Ngưu đọc các vị thuốc và liều lượng, tiểu đồng theo đó sắc bưng vào cho tiên sinh uống.

Đến chiều hôm thứ tư, Trương Vô Kỵ đang ngồi trong thảo đường đọc sách Hoàng Đế nội kinh, tới chương “Tứ khí điều thần đại luận”, có câu:

“Cho nên thánh nhân không trị bệnh đã phát, mà trị bệnh từ khi chưa phát, không trị khi đã loạn mà trị từ khi chưa loạn là vì vậy. Đại bệnh phát rồi mới cắt thuốc, loạn xảy ra rồi mới cứu chữa, có khác gì khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau mới đúc chùy, thì đã quá muộn”.

Trương Vô Kỵ gật gù, nghĩ thầm: “Mấy câu này đúng quá, khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau mới đúc binh khí, quả là không kịp. Để quốc gia loạn rồi mới đi dẹp, dù có trở lại bình yên thì nguyên khí cũng bị đại hao tổn. Trị bệnh phải trị từ khi bệnh chưa phát ra mới hay. Còn bệnh đậu mùa của Hồ tiên sinh là ngoại cảm, có muốn trị từ trước cũng chả được”. Lại nhớ đến chương “Âm dương ứng tượng đại luận” trong Hoàng Đế nội kinh có câu:

“Thầy thuốc giỏi chữa khi bệnh còn ở ngoài da, người kém hơn thì chữa khi bệnh vào máu thịt; tiếp đến người kém nữa thì chữa khi bệnh vào gân mạch, sau đến người chữa khi bệnh vào lục phủ, rồi ngũ tạng. Trị bệnh đã vào đến ngũ tạng thì đã nửa phần sống nửa phần chết”. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lương y thấy bệnh vừa chớm là phải trị ngay. Bệnh vào đến ngũ tạng mới chữa, thì chỉ còn hi vọng một nửa. Như mình âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, đâu phải chỉ nửa sống nửa chết, mà là cửu tử nhất sinh”.

Còn đang tán thưởng kiến thức trác tuyệt của tiền nhân, chợt nghe có tiếng vó ngựa từ phía cốc khẩu vọng vào, không lâu sau đã tới bên ngoài dãy nhà tranh, rồi có tiếng người nói lớn:

– Võ lâm đồng đạo cầu kiến Y Tiên Hồ tiên sinh, xin lão nhân gia trị bệnh.

Trương Vô Kỵ đi ra cửa, thấy một hán tử mặt mũi đen sì đứng đó, tay dắt ba con ngựa, trên lưng hai con có hai người nằm phủ phục, quần áo loang lổ vết máu, hiển nhiên là bị trọng thương. Hán tử đó đầu băng một mảnh vải trắng, vải cũng thấm máu, tay phải treo lên cổ, xem ra cũng bị thương không nhẹ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Các vị đến thật không đúng lúc, chính Hồ tiên sinh cũng đang bị bệnh nằm liệt giường, không thể trị bệnh giúp các vị được, mời các vị tìm thầy giỏi khác.

Hán tử kia nói:

– Chúng tôi chạy mấy trăm dặm đến đây, sống chết chỉ trong sớm tối, chỉ còn trông chờ Y Tiên cứu mạng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Hồ tiên sinh đang bị bệnh đậu mùa rất nặng, đó là chúng tôi nói thực, không dám dối.

Hán tử nói:

– Ba chúng tôi lần này bị trọng thương, nếu không được Y Tiên cứu chữa, ắt chỉ còn nước chết mà thôi. Phiền tiểu huynh đệ bẩm lại một lời, xem Hồ tiên sinh dạy bảo thế nào.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đã vậy, xin cho biết quý tính đại danh.

Hán tử nói:

– Ba chúng tôi tiện danh không đáng nói, xin cứ bẩm là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.

Nói tới đó, y lảo đảo chực ngã, xem chừng đã không chịu nổi liền ộc ra một ngụm máu tươi.

Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm Tiên Vu Thông là kẻ thù lớn của Hồ tiên sinh, không biết tiên sinh xử trí thế nào, đến trước cửa phòng Hồ Thanh Ngưu, nói:

– Tiên sinh, bên ngoài có ba người bị trọng thương đến xin chữa trị, nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.

Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, sẵng giọng:

– Không chữa, không chữa, bảo chúng xéo đi!

Trương Vô Kỵ đáp “Dạ!” rồi trở lại thảo đường, nói với hán tử:

– Hồ tiên sinh rất mệt, không thể tiếp khách, mong hãy lượng thứ.

Hán tử nhíu mày, đang định năn nỉ, thì một gã nằm trên lưng ngựa, dáng gầy gò, ngẩng đầu lên, giơ tay búng ra, loáng một ánh kim quang, nghe “cạch” một tiếng, một ám khí nho nhỏ cắm xuống mặt bàn trong thảo đường. Y nói:

– Ngươi đem mũi Kim Hoa ấy cho Kiến Tử Bất Cứu xem, nói ba người bọn ta đều bị chủ nhân của bông hoa vàng này đả thương; kẻ đó nay mai sẽ đến tìm Hồ tiên sinh rửa hận. Nếu Hồ tiên sinh chữa khỏi cho bọn ta, bọn ta sẽ ở lại đây giúp Hồ tiên sinh chống địch. Dù võ công của bọn ta kém cỏi, song có thêm ba trợ thủ cũng vẫn hơn.

Trương Vô Kỵ thấy gã nói năng không lễ độ như hán tử kia, cậu tới bên bàn, thấy ám khí là một bông mai đúc bằng vàng, kích thước y như một bông mai thật, nhụy hoa bằng bạch kim, trông vô cùng tinh xảo. Cậu giơ tay nhặt lên, nào ngờ gã kia ban nãy búng quá mạnh, bông mai cắm chặt xuống bàn, phải lay lay mấy cái mới nhổ lên được. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Gã kia võ công không xoàng, bị chủ nhân Kim Hoa đánh trọng thương như thế, gã bảo người ấy sẽ tới tìm Hồ tiên sinh trả thù, mình phải báo cho tiên sinh biết mới được”. Liền cầm ám khí Kim Hoa tới trước cửa phòng Hồ Thanh Ngưu, thuật lại lời vừa nghe.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Đưa cho ta coi.

Trương Vô Kỵ khẽ đẩy cửa, vén mành, thấy trong phòng tối om, biết rằng bệnh nhân đậu mùa rất sợ gió, sợ ánh sáng, đã dùng mền che kín các cửa. Hồ Thanh Ngưu che mặt bằng một mảnh vải xanh, chỉ hở đôi mắt. Trương Vô Kỵ lo sợ nghĩ thầm: “Không biết sau tấm vải che, các nốt đậu trên mặt như thế nào, sau khi lành liệu có bị rỗ hay không?”

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Đặt Kim Hoa trên bàn, rồi đi ra cho mau.

Trương Vô Kỵ theo lời, đặt bông mai xuống bàn, vén màn bước ra, chưa kịp đóng cửa lại đã nghe Hồ Thanh Ngưu nói:

– Ba tên kia sống hay chết, không liên can gì đến ta. Hồ Thanh Ngưu ta sống hay chết, cũng khỏi cần ba kẻ đó để tâm.

Nghe “vèo” một tiếng, bông mai vàng đã xuyên qua màn cửa, bay vụt ra ngoài, rơi xuống đất. Trương Vô Kỵ sống với Hồ Thanh Ngưu hơn hai năm, không hề thấy Hồ tiên sinh luyện võ công, không ngờ vị thần y trông có vẻ thư sinh này lại là một cao thủ, tuy đang bệnh nặng, song võ công không mất.

Trương Vô Kỵ nhặt bông mai lên, mang trả gã gầy gò, lắc đầu, nói:

– Hồ tiên sinh quả thật bệnh nặng…

Chợt nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng xe lọc cọc chạy vào cốc.

Trương Vô Kỵ đi ra bên ngoài, thấy chiếc xe ngựa chạy rất nhanh, thoáng cái đã tới trước nhà, đỗ lại. Một hán tử trẻ tuổi, nước da vàng, ôm một lão già hói đầu từ trên xe xuống, hỏi:

– Điệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh có nhà không? Môn hạ phái Không Động là Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp từ xa tới xin chữa…

Nói chưa hết câu đã lảo đảo, cùng lão già hói ngã lăn ra đất. Thật trùng hợp, hai con ngựa to khỏe kéo xe cũng kiệt sức, miệng sùi bọt mép, cùng gục xuống.

Nhìn thần sắc hai người, không hỏi cũng thừa biết từ xa đến đây, vì dọc đường không dừng nghỉ nên cả người lẫn ngựa mới mệt mỏi như thế. Trương Vô Kỵ nghe mấy chữ “môn hạ phái Không Động” liền nhớ lại trên núi Võ Đang năm xưa trong số những kẻ tới bức tử cha mẹ mình có Không Động ngũ lão, tuy không thấy lão hói này, nhưng chắc cũng chẳng phải là người tử tế, đang định cự tuyệt, lại thấy sơn đạo thấp thoáng bóng người, thêm bốn năm người nữa chạy tới, kẻ chống gậy khập khiễng, kẻ thì dìu nhau mà đi, ai cũng bị thương cả.

Trương Vô Kỵ cau mày, không đợi bọn họ tới gần, nói to:

– Hồ tiên sinh bị bệnh đậu mùa, chính tiên sinh chưa biết có sống nổi không, chẳng thể nào chữa trị cho các vị. Xin các vị sớm đi tìm danh y khác để khỏi lỡ dịp trị thương.

Bọn kia đến gần hơn, nhìn rõ năm người, ai nấy mặt nhợt nhạt không chút huyết sắc, nhưng trên thân thể không có thương tích, xem ra đều bị nội thương. Người đi đầu vừa cao vừa mập, gật gật đầu với lão hói Giản Tiệp và gã gầy gò ném Kim Hoa. Ba người đó nhìn nhau cười gượng, hóa ra đều biết nhau. Trương Vô Kỵ nổi tính hiếu kỳ, hỏi:

– Các vị đều bị chủ nhân Kim Hoa đả thương ư?

Gã mập đáp:

– Không sai.

Hán tử đến đầu tiên đã bị hộc máu, hỏi:

– Tiểu huynh đệ họ gì? Là bà con thế nào với Hồ tiên sinh?

Trương Vô Kỵ nói:

– Tại hạ là bệnh nhân của Hồ tiên sinh, biết Hồ tiên sinh đã bảo không chữa là nhất quyết không chữa, các vị có nán lại đây cũng vô ích.

Đang nói chuyện, lại có bốn người nữa lục tục kéo đến, kẻ đi xe, kẻ cưỡi ngựa, đều cầu khẩn được gặp Hồ Thanh Ngưu.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: “Hồ Điệp cốc là nơi hoang vắng, trừ người trong Ma giáo ra, trên giang hồ ít ai hay biết. Những người này hoặc thuộc phái Không Động, hoặc thuộc phái Hoa Sơn, không phải Ma giáo, sao không hẹn mà cùng bị thương, không hẹn mà cùng tới xin chữa trị?” Lại nghĩ thầm: “Chủ nhân của Kim Hoa tài nghệ lợi hại thế, muốn giết những người này đâu có khó gì, sao lại chỉ đánh cho họ trọng thương?”

Mười bốn người kia, có kẻ lên tiếng nài nỉ, có kẻ một lời chẳng nói, nhưng không ai chịu đi, nhìn ra trời đã sắp tối, mười bốn người ngồi chật cả thảo đường. Tiểu đồng bưng cơm ra cho Trương Vô Kỵ. Cậu cũng chẳng khách sáo gì cứ ngồi ăn tự nhiên, rồi thắp một ngọn đèn dầu, giở y thư ra đọc, làm như không thấy mười bốn người kia vậy, nghĩ bụng: “Ta học y thuật của Hồ tiên sinh, cũng phải học luôn công phu Kiến Tử Bất Cứu của Hồ tiên sinh”.

*

*      *

Đêm vắng lặng, ngoài tiếng giở sách sột soạt của Trương Vô Kỵ, tiếng thở nặng nề của đám người bị thương, không còn âm thanh gì khác. Bỗng nhiên từ bên ngoài có tiếng bước chân nhè nhẹ của hai người chậm chạp đi tới.

Lát sau, giọng nói thánh thót của một bé gái cất lên:

– Mẹ ơi, trong nhà có ánh đèn, mình đến nơi rồi.

Nghe giọng nói thì bé gái còn nhỏ lắm. Rồi tiếng phụ nữ hỏi:

– Hài nhi, con có mệt lắm không?

Đứa bé đáp:

– Con không mệt đâu. Mẹ ơi, thầy lang trị bệnh cho mẹ, mẹ sẽ hết đau thôi.

Tiếng phụ nữ:

– Ừ, nhưng không biết thầy có chịu chữa bệnh cho mẹ không.

Trương Vô Kỵ giật mình: “Giọng người này nghe quen quá, hình như là Kỷ Hiểu Phù cô cô”. Đứa bé nói:

– Thể nào thầy cũng chữa cho mẹ thôi. Mẹ đừng lo, mẹ đỡ đau chưa?

Tiếng phụ nữ:

– Đỡ rồi, ôi, tội nghiệp con!

Trương Vô Kỵ nghe đến đây, không còn nghi ngờ gì nữa, chạy luôn ra cửa, gọi:

– Kỷ cô cô, cô cô đó ư? Cô cô bị thương hay sao?

Dưới ánh trăng thấy một phụ nữ mặc áo xanh, tay dắt một bé gái, chính là Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi.

Khi nàng gặp Trương Vô Kỵ trên núi Võ Đang, cậu bé chưa đầy mười tuổi, cách lúc này ngót năm năm. Cậu bé đã thành thiếu niên, đêm nay bất ngờ gặp lại, nàng không thể nhận ra, chỉ ấp úng:

– Cậu… cậu…

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô, cô cô không nhận ra cháu ư? Cháu là Trương Vô Kỵ đây. Hôm cha mẹ cháu qua đời trên núi Võ Đang, cô cháu ta gặp nhau một lần.

Kỷ Hiểu Phù hoảng hốt “à” lên một tiếng, ai ngờ lại gặp Vô Kỵ nơi này, nghĩ mình thân gái chưa chồng giờ lại dắt một đứa con, Trương Vô Kỵ lại là sư điệt của hôn phu Ân Lê Đình của nàng, tuy cậu ta còn ít tuổi, nhưng chẳng thể nào giải thích cho xuôi, không khỏi vừa thẹn vừa quẫn, mặt đỏ bừng. Nàng bị thương không nhẹ, giờ lại kinh hoảng, thân hình lảo đảo chực ngã.

Đứa con gái của nàng chừng tám chín tuổi, thấy mẹ loạng choạng, vội đưa hai tay ra đỡ, nhưng bé bỏng sức yếu như nó thì làm được gì? Thấy hai mẹ con họ sắp ngã, Trương Vô Kỵ vội chạy lại đỡ vai Kỷ Hiểu Phù, nói:

– Kỷ cô cô, mời cô cô vào nghỉ trong này.

Trương Vô Kỵ dìu nàng vào thảo đường, dưới ánh đèn thấy vai và cánh tay bên trái bị vết kiếm chém rất nặng, máu không ngừng ngấm ra lớp vải băng, Kỷ Hiểu Phù cứ ho liên tục không sao ngăn được.

Y thuật của Trương Vô Kỵ hiện thời đã hơn khối vị danh y bình thường, nghe tiếng ho của Hiểu Phù khác lạ, biết là phổi bị chấn thương nặng, bèn nói:

– Kỷ cô cô, cô cô dùng tay phải đối chưởng với người ta, bị thương ở phế mạch Thái Âm.

Nói xong cậu lấy ra bảy mũi kim, châm xuyên qua áo vào huyệt Vân Môn ở vai, huyệt Hoa Cái ở ngực, huyệt Xích Trạch ở khuỷu tay… tất cả bảy chỗ. Hiện thời thuật châm cứu của Trương Vô Kỵ so với lúc trị thương cho Thường Ngộ Xuân đã là một trời một vực. Hơn hai năm qua, cậu theo Hồ Thanh Ngưu miệt mài khổ học cả chẩn đoán bệnh tình lẫn cách dùng thuốc nay đều đã hiểu biết rất nhiều, tuy còn thua xa Hồ Thanh Ngưu, nhưng riêng về châm cứu thì cậu đã học được bảy, tám thành bản lĩnh của “Y Tiên”.

Kỷ Hiểu Phù thấy cậu mang kim ra, thoạt đầu chưa hiểu dụng ý, ai ngờ Trương Vô Kỵ thủ pháp cực nhanh, trong giây lát bảy mũi kim đã được châm vào các huyệt đạo. Bảy huyệt này đều thuộc Thủ Thái Âm phế kinh, kim vừa châm xong, tình trạng tức ngực khổ sở lập tức giảm hẳn. Nàng vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, nói:

– Hảo hài tử, không ngờ cháu lại ở đây, học được bản lĩnh thần diệu thế này.

Hôm ở trên núi Võ Đang, Kỷ Hiểu Phù thấy Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố tự sát, thương xót Trương Vô Kỵ cô đơn khổ sở, từng dịu giọng an ủi, lại gỡ cái vòng vàng trên cổ tặng cho nó, nhưng lúc đó Trương Vô Kỵ trong lòng phẫn khích đau đớn, cho rằng tất cả những người lên núi đều là kẻ thù bức tử cha mẹ cậu, thành thử cậu đã gắt gỏng với Kỷ Hiểu Phù, khiến nàng chả biết ăn nói ra sao. Sau đó ít lâu, Trương Vô Kỵ được biết chính hôm ấy cha nó cùng các sư bá sư thúc đã định liên thủ với các nữ hiệp phái Nga Mi cùng chống cường địch, mới hay phái Nga Mi là bạn chứ không phải thù, cho nên mỗi lần nhớ đến tấm lòng của Kỷ Hiểu Phù, cậu bé lại thấy cảm kích.

Hai năm trước ở trong cánh rừng đêm nọ, Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân nấp sau gốc cây đã thấy Kỷ Hiểu Phù ra sức cứu Bành hòa thượng nên càng nghĩ Kỷ cô cô là người rất tốt, còn chuyện Kỷ cô cô chưa lấy chồng mà sinh con, vì sao không phải với Ân thúc thúc, thì cậu còn nhỏ tuổi, không hiểu gì về ái tình nam nữ, nghe qua rồi cũng chẳng để tâm. Còn Kỷ Hiểu Phù bất ngờ gặp người thân của Ân Lê Đình, nên thẹn thùng lúng túng, chứ đâu biết hai năm trước Trương Vô Kỵ đã nghe Đinh Mẫn Quân nói ra. Trương Vô Kỵ cho rằng Đinh Mẫn Quân là người không tốt, thành thử những điều Đinh Mẫn Quân bảo là xấu thì vị tất đã là xấu.

Trương Vô Kỵ thấy đứa con gái của Kỷ Hiểu Phù đứng cạnh mẹ có đôi lông mày đẹp như tranh vẽ, đôi mắt to đen láy cứ đăm đăm nhìn cậu đầy vẻ hiếu kỳ. Cô bé ghé tai mẹ hỏi nhỏ:

– Mẹ, thầy lang bé thế ư? Mẹ còn đau không?

Kỷ Hiểu Phù nghe đứa bé gọi “mẹ”, lại đỏ bừng cả mặt, đến nước này cũng chẳng thể giấu được nữa, lộ vẻ hết sức ngượng ngùng, nói:

– Đây là Trương gia ca ca, phụ thân của Trương ca ca là bằng hữu của mẹ.

Nàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

– Em nó… em nó tên là Bất Hối.

Ngừng giây lát, nói tiếp:

– Họ Dương, là Dương Bất Hối.

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Hay nhỉ, tiểu muội muội, tên của muội cũng na ná như tên của huynh, huynh là Trương Vô Kỵ, còn muội là Dương Bất Hối.

Kỷ Hiểu Phù thấy Trương Vô Kỵ thần sắc bình thường, không hề có ý trách cứ, thì yên tâm nói với con:

– Bản lĩnh của Vô Kỵ ca ca giỏi quá, mẹ đỡ đau hẳn rồi.

Đôi mắt linh hoạt của Dương Bất Hối ngó qua ngó lại, đột nhiên con bé đến trước mặt Trương Vô Kỵ ôm lấy cậu, thơm vào má cậu “chụt” một cái. Ngoài mẹ ra, cô bé chưa gặp ai, lần này mẹ bị trọng thương, trong lúc hoạn nạn được Trương Vô Kỵ chữa cho bớt đau khiến cô bé cảm kích quá, trước nay mỗi khi biểu lộ sự yêu thích và cảm tạ đối với mẹ, cô bé lại sà vào lòng thơm lên má mẹ; nên lúc này cô bé cũng làm như thế với Trương Vô Kỵ.

Kỷ Hiểu Phù mỉm cười, nói:

– Bất nhi, đừng làm thế, Vô Kỵ ca ca không thích đâu.

Dương Bất Hối mở to đôi mắt, không hiểu nguyên do, hỏi Trương Vô Kỵ:

– Ca ca không thích à? Sao ca ca lại không thích tiểu muội làm như thế?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

– Huynh thích chứ.

Rồi cậu cũng thơm nhẹ một cái lên đôi má bầu bĩnh của Dương Bất Hối. Cô bé vỗ tay reo:

– Thầy lang nhỏ ơi, mau chữa khỏi cho mẹ tiểu muội, tiểu muội sẽ lại thơm huynh lần nữa.

Trương Vô Kỵ thấy cô bé thơ ngây lanh lợi, thật dễ thương. Hơn mười năm qua, những người cậu gặp toàn là hạng sư bá sư thúc lớn tuổi, ngay Thường Ngộ Xuân tuy xưng hô huynh đệ nhưng cũng lớn hơn cậu tám tuổi. Lần gặp Chu Chỉ Nhược ở trên thuyền, hai đứa cũng chỉ được ở bên nhau một ngày, rồi lại chia tay, từ đó chưa hề có một người bạn nhỏ tuổi nào, lúc này bất giác cậu nghĩ thầm: “Giá mình có một tiểu muội muội dễ thương như thế này, thì ngày ngày mình sẽ dẫn nó đi chơi”. Trương Vô Kỵ mới mười bốn tuổi, còn nhiều tính trẻ con, nhưng tuổi thơ gặp nhiều gian truân, thực ra chưa được dịp chơi đùa.

Kỷ Hiểu Phù thấy bọn Giản Tiệp người nào cũng bị thương nặng, hiển nhiên chưa được chữa trị gì cả, nàng không muốn giành phần hơn, bèn nói với Trương Vô Kỵ:

– Các vị kia tới trước cô cô, Vô Kỵ hãy xem cho họ đã, bây giờ cô cô thấy đỡ nhiều rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Họ đến nhờ Hồ tiên sinh chữa trị, song chính Hồ tiên sinh cũng đang bệnh nặng, không chữa trị cho ai được. Các vị đó chẳng chịu đi. Kỷ cô cô, cô cô không phải nhờ Hồ tiên sinh nữa. Tiểu điệt ở đây đã lâu, cũng biết chữa trị đôi chút, nếu cô cô tín nhiệm, tiểu điệt sẽ chữa cho cô cô.

Kỷ Hiểu Phù sau khi bị thương được người ta chỉ đường tới Hồ Điệp cốc, cũng chẳng khác gì bọn Giản Tiệp, tới cầu xin Hồ Thanh Ngưu chữa trị, nhìn tình trạng của bọn họ, rõ ràng Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa. Trương Vô Kỵ vừa châm kim cho nàng, nàng thấy lập tức kiến hiệu, xem ra cậu ít tuổi nhưng y đạo quả thật cao minh, bèn nói:

– Thế thì đa tạ điệt nhi. Đại quốc thủ không chịu chữa thì nhờ tiểu quốc thủ vậy.

Trương Vô Kỵ mời Kỷ Hiểu Phù vào sương phòng, cắt bỏ vải áo chỗ vết thương, thấy trên vai và cánh tay có tới ba vết chém, xương cánh tay cũng bị gãy, một chỗ bị nát vụn. Xương gãy vụn như thế, về mặt ngoại khoa là cực kỳ khó chữa, nhưng đối với đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên lại là chuyện nhỏ, Trương Vô Kỵ liền nối xương, bó thuốc trị thương cho Kỷ cô cô; lại kê một toa thuốc sai tiểu đồng đem sắc. Đây là lần đầu Trương Vô Kỵ nối xương gãy, thủ pháp tuy chưa được thành thạo nhưng sau một canh giờ cũng xong xuôi, cuối cùng nói:

– Kỷ cô cô, cô cô hãy nằm ngủ một giấc, khi thuốc tê tan hết, vết thương sẽ đau lắm đó.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Đa tạ điệt nhi.

Trương Vô Kỵ vào kho thuốc lấy một vốc táo tàu, mận khô đem cho Dương Bất Hối, ai ngờ đêm qua thức khuya, lúc này cô bé đã rúc vào lòng mẹ ngủ say sưa. Trương Vô Kỵ bỏ táo, mận vào túi áo cô bé rồi trở lại thảo đường.

Gã đệ tử phái Hoa Sơn bị thổ huyết thấy Trương Vô Kỵ liền vội đứng dậy chắp tay vái một cái thật dài, nói:

– Tiểu tiên sinh, Hồ tiên sinh đã nhiễm bệnh, chắc phải phiền tiểu tiên sinh chữa trị cho chúng tôi, mọi người xin tận cảm đại đức.

Trương Vô Kỵ từ khi học y thuật tới giờ, ngoài Thường Ngộ Xuân và Kỷ Hiểu Phù, chưa chữa trị cho ai. Nay thấy mười bốn người kia, kẻ nội tạng chấn thương, kẻ tứ chi bị gãy, thương thế mỗi người một khác. Người đời có câu, học phải gắn với hành, quả thực Trương Vô Kỵ cũng rất muốn chữa thử xem sao nhưng ngặt vì Hồ Thanh Ngưu đã bảo không chữa, nên đáp:

– Đây là nhà của Hồ tiên sinh, tại hạ cũng chỉ là bệnh nhân của Hồ tiên sinh, đâu dám tự tiện như thế.

Gã hán tử thấy Trương Vô Kỵ từ chối không có vẻ gì quả quyết, bèn giở bài năn nỉ, nịnh một câu:

– Xưa nay danh y vị nào cũng phải là già năm, sáu chục tuổi, ai ngờ tiểu tiên sinh đây tuổi còn trẻ quá mà đã có bản lĩnh như thế, quả thật hi hữu trên đời, mong tiểu tiên sinh ra tay một phen.

Gã mập trông như phú thương, nói:

– Mười bốn người chúng tôi trên giang hồ đều có chút danh tiếng, nếu được tiểu tiên sinh cứu chữa, cả bọn ra ngoài tuyên dương, khắp giang hồ sẽ biết tới đại danh y thuật thần tình của tiểu tiên sinh, thế là chỉ trong sớm tối tiểu tiên sinh đã lừng danh thiên hạ.

Trương Vô Kỵ còn ít tuổi, chưa hiểu thế thái nhân tình, nghe hai gã kia nịnh mấy câu không khỏi vui thích:

– Lừng danh thiên hạ để làm gì? Hồ tiên sinh đã không chịu chữa, tại hạ cũng chả dám. Nhưng các vị đều bị thương nặng, thôi để tôi cho vài thứ giảm đau.

Rồi cậu lấy túi thuốc ra bôi, đắp để cầm máu, giảm đau cho họ.

Khi xem kỹ vết thương của từng người, Trương Vô Kỵ càng lúc càng kinh ngạc. Hóa ra thương thế mỗi người một khác, cách đả thương cũng đặc biệt, toàn là những triệu chứng mà Hồ Thanh Ngưu chưa hề dạy cho cậu. Có người bị ép uống mấy chục mũi kim thép, mũi kim lại còn tẩm thuốc độc. Có người gan bị nội lực chấn thương, nhưng các yếu huyệt để chữa gan như Hành Gian, Trung Phong, Âm Bao, Ngũ Lý đều bị mũi kiếm đâm nát, hiển nhiên kẻ hạ thủ rất tinh thông y lý, cốt cho thầy thuốc không còn cách chữa trị. Có người hai lá phổi bị cắm hai cái đinh sắt, cứ ho ra máu không ngừng. Có người bị đánh gãy hết hai bên xương sườn, nhưng tim phổi vẫn nguyên vẹn. Có người hai tay bị cắt, rồi đem nối tay bên này sang tay bên kia, máu thịt bê bết, trông chẳng ra hình thù gì cả. Có kẻ toàn thân sưng phù, nói là bị mười mấy loại trùng độc như rết, bò cạp, ong vàng cắn đốt.

Trương Vô Kỵ mới xem vết thương của sáu bảy người đã phải nhíu mày, nghĩ thầm: “Thương thế của những người này kỳ quái vô cùng, mình không thể chữa nổi lấy một trường hợp. Hung thủ đả thương họ sao lại nghĩ cách hành hạ kẻ khác gớm ghiếc đến thế chứ?”

Trương Vô Kỵ chợt nghĩ: “Vết thương ở vai và cánh tay của Kỷ cô cô lại rất bình thường, hay là Kỷ cô cô bị nội thương loại đặc biệt, chứ chẳng lẽ một mình cô ấy là ngoại lệ?” Trương Vô Kỵ liền trở vào sương phòng, xem mạch cho Kỷ Hiểu Phù, lập tức giật mình vì chỉ thấy mạch đập chợt mạnh chợt yếu, lúc sáp, lúc hoạt, hiển nhiên nội tạng có sự khác lạ, nhưng tại sao ra như vậy thì thật là khó biết nguyên do.

Mười bốn kẻ kia thương thế kỳ dị, Trương Vô Kỵ cũng chẳng để tâm, thầm nghĩ mấy kẻ thuộc phái Không Động trong số đó có liên quan đến việc bức tử cha mẹ cậu, nay bị thế có chết cũng đáng tội. Riêng Kỷ Hiểu Phù thì không thể không cứu, thế là cậu tới trước cửa phòng Hồ Thanh Ngưu, thấp giọng hỏi:

– Hồ tiên sinh đã ngủ chưa?

Nghe Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Việc gì thế? Dù là ai, ta cũng không chữa đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vâng. Có điều là mấy người kia bị thương lạ lắm.

Rồi kể lại thương thế quái dị của từng người cho Hồ Thanh Ngưu nghe. Hồ Thanh Ngưu ở bên trong nghe, chỗ nào không rõ lại bảo Trương Vô Kỵ ra khám, rồi cho hay. Trương Vô Kỵ mất gần một canh giờ mới kể hết tỉ mỉ thương thế của mười lăm người. Hồ Thanh Ngưu luôn miệng ừ hử, rõ ràng cũng đang suy nghĩ, lâu sau mới nói:

– Các chứng quái thương ấy, ngoài ta ra, không ai…

Đằng sau Trương Vô Kỵ bỗng có người nói tiếp:

– Hồ tiên sinh, vị chủ nhân của Kim Hoa bảo ta nói với tiên sinh như sau: “Ngươi uổng xưng Y Tiên, mười lăm loại kỳ thương quái độc này, ngươi đừng mong chữa nổi dù chỉ một loại”. Ha ha, quả nhiên tiên sinh giả vờ cáo ốm để né tránh.

Trương Vô Kỵ ngoảnh lại thấy kẻ nói câu đó là lão hói Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động. Trên đầu lão không một sợi tóc, thoạt tiên Trương Vô Kỵ ngỡ lão ta bẩm sinh không có tóc, sau mới biết lão bị người ta bôi một loại thuốc độc lên đầu khiến tóc rụng hết, chất độc vẫn đang ăn sâu vào trong, chỉ e vài hôm nữa sẽ ngấm vào trong não, hẳn sẽ phát điên. Hiện thời hai tay lão bị mấy người đồng bọn dùng dây xích cột lại không cho đưa lên gãi đầu, nếu không, do bị ngứa ngáy hết chịu nổi, hẳn lão đã cào gãi đến lòi xương sọ rồi.

Hồ Thanh Ngưu lạnh nhạt nói:

– Ta chữa nổi hay không chữa nổi cũng chẳng sao, nhưng với ngươi thì ta nhất quyết không chữa. Ta xem ra ngươi chỉ còn sống được bảy tám ngày, hãy mau về nhà còn được gặp mặt vợ con một lần, ở đây nói lảm nhảm phỏng có ích gì.

Giản Tiệp đầu ngứa không chịu nổi, vẫn thường phải hoặc cọ xát, hoặc cụng đầu vào tường khiến dây xích trói tay kêu loảng xoảng, lúc này thở hổn hển, nói:

– Hồ tiên sinh, vị chủ nhân của Kim Hoa nọ sớm muộn cũng tới đây tìm tiên sinh, ta thấy tiên sinh cũng chẳng được chết yên lành đâu, chi bằng mọi người liên thủ cùng chống cường địch, chẳng hơn là tiên sinh nằm trốn trong buồng một mình, khoanh tay chờ chết hay sao?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Các ngươi nếu đánh nổi hắn thì đã giết được hắn từ lâu rồi! Nay có thêm mười lăm cái bị thịt giúp ta phỏng có ích gì?

Giản Tiệp năn nỉ một hồi, Hồ Thanh Ngưu không thèm lý tới. Cuối cùng Giản Tiệp nổi khùng, quát:

– Đã thế, đằng nào cũng chết, ta cho một mồi lửa đốt phăng cái chuồng chó này đi cho rồi! Bọn ta mỗi người một đao, xông vào đâm tên thầy lang khốn kiếp này cùng chết cho xong.

Lúc đó từ bên ngoài có một người khác bước vào, chính là gã hán tử thổ huyết. Gã thò tay vào bọc lấy ra cái Nga Mi thích, gí vào ngực Giản Tiệp, nói:

– Lão đắc tội với Hồ tiền bối, Tiết mỗ thanh toán với lão trước vậy. Lão muốn đao nhuộm máu thì để Tiết mỗ cho lão biết tay.

Giản Tiệp võ công vốn cao hơn gã họ Tiết, nhưng hai tay bị xích lại, không thể kháng cự, đành trợn mắt ra nhìn, thở hồng hộc.

Gã họ Tiết nói to:

– Hồ tiền bối, vãn bối là Tiết Công Viễn, là đệ tử môn hạ của Tiên Vu tiên sinh phái Hoa Sơn, xin khấu đầu trước lão nhân gia!

Đoạn gã quỳ xuống, rập đầu mấy cái. Giản Tiệp chợt cảm thấy có chút hi vọng. Với Hồ Thanh Ngưu, nói nặng không xong, gã tiểu tử này lạy lục cầu khẩn, không chừng lại được cũng nên. Tiết Công Viễn hành đại lễ xong, nói:

– Hồ tiền bối đang có bệnh, chúng tôi quả thật kém phúc. Ở đây có vị tiểu huynh đệ y đạo cao minh, xin Hồ tiền bối ưng thuận để cậu ấy chữa trị cho chúng tôi. Chúng tôi ai nấy đều bị độc thương quái dị, ngoài đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên ra, khắp thiên hạ không còn ai trị nổi.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Thằng bé ấy tên Trương Vô Kỵ, là đệ tử phái Võ Đang, con trai của Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp, đệ tử tái truyền của Trương Tam Phong. Còn Hồ Thanh Ngưu ta là người trong Minh giáo, các vị trong danh môn chính phái coi như đồ bỏ, đâu có can hệ gì với đệ tử của cao nhân như Trương Vô Kỵ? Trương Vô Kỵ trúng phải âm độc, cầu ta chữa bệnh, nhưng ta đã lập trọng thệ, trừ người trong Minh giáo ra, ta quyết không chữa bệnh cho ai cả. Trương Vô Kỵ không chịu gia nhập Minh giáo, ta đâu có cứu chữa cho hắn?

Tiết Công Viễn thất vọng, ban đầu cứ ngỡ Trương Vô Kỵ là đệ tử của Hồ Thanh Ngưu, bản lĩnh dù không bằng sư phụ nhưng gặp chỗ khó hẳn sẽ được Hồ Thanh Ngưu chỉ điểm, nào ngờ chính Trương Vô Kỵ cũng chỉ là một bệnh nhân xin chữa không được mà thôi.

Lại nghe Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:

– Các vị cứ ở lì trong nhà ta không chịu đi, hừ, bộ các vị tưởng ta sẽ rủ lòng thương chăng? Các vị cứ hỏi thằng bé ấy xem nó ở đây bao lâu rồi.

Tiết Công Viễn và Giản Tiệp cùng nhìn Trương Vô Kỵ, thấy cậu giơ hai ngón tay, rồi lại giơ hai ngón một lần nữa. Tiết Công Viễn hỏi:

– Hai mươi ngày à?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Tính ra hai năm hai tháng rồi.

Giản, Tiết hai người nhìn nhau, cùng buông một tiếng thở dài. Hồ Thanh Ngưu nói:

– Nó có ở lì tại đây mười năm, ta cũng không cứu mạng. Trong vòng một năm nữa thôi, âm độc tích tụ trong lục phủ ngũ tạng nó sẽ đại phát tác, dẫu thế nào nó cũng chẳng thể sống đến ngày này sang năm. Hồ Thanh Ngưu ta từng lập trọng thệ trước Minh tôn là dù cho cha ruột ta, con cái ta mà nếu không phải là đệ tử Minh giáo thì ta cũng không cứu chữa.

Tiết Công Viễn và Giản Tiệp thất vọng hoàn toàn, đang định lùi ra, chợt Hồ Thanh Ngưu nói:

– Gã đệ tử phái Võ Đang này cũng biết đôi chút y lý, y lý của phái Võ Đang tuy còn thua xa Minh giáo ta nhưng cũng không đến nỗi làm chết người. Phái Võ Đang của hắn thấy chết có cứu hay không là việc của hắn, không liên quan tới Minh giáo hay Hồ Thanh Ngưu ta cả.

Tiết Công Viễn sững lại, nghe lời nói của Hồ Thanh Ngưu dường như có ý ưng thuận để Trương Vô Kỵ chữa trị cho mình, liền nói:

– Hồ tiền bối, vị Trương tiểu hiệp này nếu ra tay cứu độ thì chúng tôi có hi vọng sống sót phải không?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Hắn cứu hay không cứu, không can hệ gì đến ta. Vô Kỵ, ngươi nghe đây, ở trong nhà của ta, ngươi không được giở trò chữa trị, trừ khi ra khỏi nhà ta rồi, ngươi làm gì ta không cần biết.

Tiết Công Viễn và Giản Tiệp thoạt tiên có hi vọng, giờ nghe nói thế thì lại hoang mang, ngơ ngác, chưa hiểu ý tứ của Hồ Thanh Ngưu thế nào.

Trương Vô Kỵ so với họ thông minh hơn hẳn, cậu hiểu ngay, nói:

– Hồ tiên sinh đang bệnh, các vị không nên quấy nhiễu tiên sinh nữa, xin hãy theo tôi ra ngoài kia.

Ra đến thảo đường, Trương Vô Kỵ nói:

– Các vị, tại hạ nhỏ tuổi kiến thức nông cạn, thương thế của các vị lại quái dị, chữa trị được hay không, thật chẳng dám nói chắc. Nếu các vị tin tưởng, thì tại hạ sẽ thử xem sao, sống chết tùy ở ý trời.

Lúc này mọi người ai cũng bị thương, không ngứa thì đau, không tê thì xót, tình cảnh sống dở chết dở, dù có bảo họ uống tì sương độc dược, họ cũng cho là ngọt như mật mà uống liền, miễn sao đỡ đau đớn khổ sở nhất thời, giờ nghe Trương Vô Kỵ nói vậy thì ai nấy hoan hỉ ra mặt.

Trương Vô Kỵ nói:

– Hồ tiên sinh không cho phép tại hạ chữa bệnh trong nhà tiên sinh, e chết người tổn hại uy danh “Y Tiên”, vậy tất cả hãy ra khỏi nhà.

Mọi người lại lưỡng lự, thấy cậu chẳng qua chỉ mười bốn mười lăm tuổi, tài nghệ chắc chỉ có hạn, ở trong nhà Y Tiên, ít ra còn có chỗ dựa, nếu ra khỏi đây, lỡ cậu chữa trị lung tung, thương thế nặng thêm lại khổ.

Giản Tiệp lớn tiếng kêu:

– Đầu ta ngứa muốn chết, tiểu huynh đệ, hãy chữa cho ta trước đi.

Đoạn lão chạy ra ngoài trước, dây xích kêu loảng xoảng.

Trương Vô Kỵ nghĩ một hồi, vào kho thuốc lấy hơn mười vị như Nam Tinh, Phòng Phong, Bạch Chỉ, Thiên Ma, Khương Hoạt, Bạch Phụ Tử, Hoa Nhị Thạch rồi sai tiểu đồng cho vào cối giã nát, trộn rượu mạnh, chế thành cao đem ra đắp lên đầu Giản Tiệp. Cao vừa đắp lên, Giản Tiệp xót quá, nhảy cẫng lên, vừa nhảy vừa kêu:

– Xót quá, xót chết mất thôi! Ôi, nhưng mà xót thế này còn dễ chịu hơn là ngứa rất nhiều!

Lão nghiến răng ken két, cứ đi đi lại lại như điên trên bãi cỏ, kêu luôn miệng:

– Xót ơi là xót, mẹ kiếp! Thằng nhỏ này quả là tài tình! Không, Trương tiểu hiệp, Giản mỗ phải đa tạ cậu mới đúng.

Bọn kia thấy chứng ngứa đầu của Giản Tiệp có công hiệu ngay lập tức ùa ra nhờ Trương Vô Kỵ chữa trị. Lúc ấy có một người ôm bụng lăn lộn dưới đất mà kêu la, hoá ra y bị bắt ép nuốt hơn ba chục con đỉa sống. Lũ đỉa vào trong bụng không chết, liền bám vào thành dạ dày và thành ruột mà hút máu. Trương Vô Kỵ nhớ trong y thư có viết: đỉa gặp mật ong sẽ hóa thành nước. Hồ Điệp cốc này thiếu gì mật ong, bèn sai tiểu đồng mang một tô cho người kia uống.

Cứ thế cho đến khi trời sáng, hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù thức dậy, đi ra thấy Trương Vô Kỵ vẫn đang tất bật trị thương cho mọi người. Kỷ Hiểu Phù bèn phụ giúp việc băng bó, truyền tin cho tiểu đồng về các vị thuốc. Chỉ có cô bé Dương Bất Hối vô tư vô lự vừa nhai táo, vừa tung tăng đùa giỡn với bướm.

Mãi đến quá trưa Trương Vô Kỵ mới sơ bộ hoàn tất việc trị ngoại thương, cầm máu, giảm đau. Nhưng thương thế mỗi người đều kỳ quái, rắc rối, trị ngoại thương mới chỉ là chữa phần ngọn. Trương Vô Kỵ vào phòng ngủ vài canh giờ, đang ngủ nghe bên ngoài có nhiều tiếng kêu la, vội choàng dậy chạy ra, thấy vài người bớt đau, còn phần đông lại trở nên nguy kịch. Trương Vô Kỵ bó tay, đành chạy vào kể cho Hồ Thanh Ngưu nghe.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Bọn họ không phải người trong Minh giáo, họ sống hay chết, đối với ta chả có can hệ gì hết.

Trương Vô Kỵ chợt nghĩ ra một cách, nói:

– Nếu như có đệ tử của Minh giáo, bên ngoài không có thương tích gì, song bên trong máu tụ sưng phồng lên, mặt phù màu đỏ, mê man sắp chết, tiên sinh sẽ chữa trị bằng cách nào?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Nếu như đó là đệ tử của Minh giáo thì ta dùng Sơn Giáp, Quy Vĩ, Hồng Hoa, Sinh Địa, Linh Tiên, Huyết Kiệt, Đào Tiên, Đại Hoàng, Nhũ Hương, Một Dược cho vào rượu mà sắc, sau đó thêm nước tiểu trẻ con vào mà uống tất sẽ trừ được huyết ứ.

Trương Vô Kỵ lại hỏi:

– Nếu như có đệ tử của Minh giáo bị người ta đổ thiếc vào tai trái, rót thủy ngân vào tai phải, mắt lại bị trét sơn sống, đau đớn chịu không nổi, không nhìn thấy được, vậy phải chữa thế nào?

Hồ Thanh Ngưu nổi giận, nói:

– Kẻ nào dám hãm hại đệ tử của Minh giáo như thế?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kẻ đó quả thật tàn bạo, nhưng vãn bối nghĩ rằng mình phải chữa vết thương ở tai, mắt cho đệ tử của Minh giáo đã, rồi sẽ truy tìm họ tên và tung tích của kẻ thù.

Hồ Thanh Ngưu nghĩ một lát, nói:

– Nếu người đó là đệ tử của Minh giáo, ta sẽ đổ thủy ngân vào tai trái y, thiếc sẽ tan vào thủy ngân mà chảy ra, lại dùng kim châm ngoáy vào tai phải, thủy ngân sẽ bám vào kim từ từ kéo ra. Còn sơn sống trét ở mắt, hãy thử giã cua, lấy nước rửa mắt, có thể hóa giải được.

Cứ như thế, Trương Vô Kỵ lần lượt đem các bệnh án khó chữa, giả là của đệ tử Minh giáo để thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu dĩ nhiên hiểu dụng ý của Trương Vô Kỵ, song vẫn dạy cho cách chữa trị. Song thương thế của bọn người kia quá kỳ quái, Trương Vô Kỵ tuy có theo cách chỉ dẫn mà chữa, nhưng không kiến hiệu thì Hồ Thanh Ngưu lại nghĩ ra cách khác.

Cứ thế, dăm sáu ngày sau thương thế của mọi người đều thuyên giảm. Nội thương của Kỷ Hiểu Phù vốn do trúng độc, Trương Vô Kỵ sau khi chẩn đoán rõ ràng mới dùng thang thuốc gồm các vị Sinh Long Cốt, Tô Mộc, Thổ Cẩu, Ngũ Linh Chi, Thiên Kim Tử, Cáp Phấn để cho nàng uống giải độc, làm tan máu ứ, khi xem mạch thấy tế mà hoãn, thương thế giảm hẳn.

Lúc này mọi người đã dựng bên ngoài thảo đường một ngôi nhà tranh, trải cỏ mà nằm. Hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù ở một cái chòi cách đó vài trượng, do Trương Vô Kỵ bảo mọi người dựng giùm. Mười bốn người kia vốn là hào khách ngang dọc giang hồ, hiện thời tính mạng nằm trong tay Trương Vô Kỵ nên hết thảy những gì cậu thiếu niên này sai bảo, họ đều không dám trái lời. Trương Vô Kỵ tuy bị một phen vất vả túi bụi nhưng cũng học được nhiều bài thuốc hay, nhiều cách chữa trị thần tình của Hồ Thanh Ngưu.

Một buổi sớm, khi Trương Vô Kỵ quan sát Kỷ Hiểu Phù chợt thấy hai đầu lông mày có ẩn hiện một làn hắc khí, tựa hồ thương thế tái phát, chất độc đã giải trừ lẽ nào tăng lên? Cậu vội bắt mạch, lại bảo Kỷ cô cô nhổ nước miếng vào Bách Hợp tán xem sao, quả nhiên chất độc trong cơ thể đã tăng lên. Trương Vô Kỵ suy nghĩ hồi lâu không hiểu, chạy vào gian trong thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu thở dài, bày cách trị. Trương Vô Kỵ làm theo thấy quả nhiên kiến hiệu.

Da đầu Giản Tiệp lại loét ra, hôi thối chịu hết nổi. Chỉ trong vài ngày, thương thế của cả mười lăm người đều có biến chứng; rõ ràng đã bớt được tám chín phần, nay sau một đêm lại bỗng dưng trở nặng.

Trương Vô Kỵ không hiểu nguyên do, vào hỏi Hồ Thanh Ngưu, thì Y Tiên nói:

– Những người này bị thương quái dị, nếu chữa một lần đã khỏi thì việc gì họ phải tới Hồ Điệp cốc khẩn khoản cầu xin?

Đêm đó, Trương Vô Kỵ nằm trên giường suy nghĩ: “Thương thế lúc nặng lúc nhẹ là chuyện thường, nhưng cả mười lăm người cùng bị sau một đêm thì lạ thật!” Nằm trằn trọc mãi tới canh ba cũng vì chuyện đó mà không ngủ được, bỗng nghe ngoài song có tiếng chân người đạp trên lá cây xào xạc, ai đó đang rón rén bước qua.

Trương Vô Kỵ nổi tính hiếu kỳ, thè lưỡi làm thủng lớp giấy dán cửa, nhìn ra ngoài, thấy một bóng người lướt qua, ẩn vào sau cây hòe; nhìn quần áo thì ra Hồ Thanh Ngưu.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh làm gì vậy? Tiên sinh đã khỏi bệnh đậu mùa rồi ư?” Trông cách đi đứng của Hồ Thanh Ngưu, hiển nhiên tiên sinh không muốn cho ai nhìn thấy. Lát sau, thấy Hồ Thanh Ngưu đi về phía cái chòi của hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù. Trương Vô Kỵ trống ngực đập thình thịch, nghĩ bụng: “Không lẽ Hồ tiên sinh định làm nhục Kỷ cô cô? Mình không phải là đối thủ của Hồ tiên sinh, nhưng việc này không thể cho qua”. Cậu bèn rón rén đi ra, bí mật bám theo sau. Chỉ thấy Hồ Thanh Ngưu lẻn vào chòi. Cái chòi ấy làm tạm cho xong, không tường không cửa, chỉ cốt che mưa nắng, người ngoài ai muốn ra vào cũng được.

Trương Vô Kỵ theo gấp tới phía sau căn chòi, nằm phục xuống nhìn vào, thấy hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù ôm nhau ngủ say trên đám cỏ khô, Hồ Thanh Ngưu lấy trong túi ra một viên thuốc, bỏ vào chén thuốc của Kỷ Hiểu Phù, rồi quay mình đi ra. Trong giây lát, Trương Vô Kỵ thấy người kia mặt che vải xanh, chẳng biết bệnh đậu mùa đã khỏi hẳn chưa. Trương Vô Kỵ lập tức hiểu ra, lưng đổ mồ hôi lạnh: “Thì ra Hồ tiên sinh nửa đêm lén ra ngoài hạ độc, cho nên thương thế của những người kia mới nặng lên”.

Hồ Thanh Ngưu lại đi vào ngôi nhà tranh của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn, rõ ràng cũng là để lén lút bỏ thuốc độc, đợi một hồi lâu vẫn chưa thấy trở ra, chắc là phải sử dụng mười mấy loại chất độc khác nhau cho từng người, nên tốn nhiều thời gian. Trương Vô Kỵ bước nhẹ vào chòi của Kỷ Hiểu Phù, cầm chén thuốc lên ngửi. Chén thuốc này vốn là Bát tiên thang được chuẩn bị sẵn cho Kỷ Hiểu Phù uống vào sáng sớm mai sau khi thức dậy. Bây giờ chén thuốc có mùi lạ xộc lên mũi. Lúc đó bên ngoài có tiếng bước chân lướt qua, chắc là Hồ Thanh Ngưu đã quay về buồng ngủ.

Trương Vô Kỵ đặt chén thuốc xuống, khẽ gọi:

– Kỷ cô cô, Kỷ cô cô.

Kỷ Hiểu Phù võ công không phải kém, vốn tai thính mắt tinh, dù đang ngủ say nhưng chỉ cần một tiếng động nhẹ là tỉnh ngay; đằng này Trương Vô Kỵ gọi đến mấy lần mà Kỷ cô cô vẫn chưa thức giấc. Trương Vô Kỵ đành khẽ lay vai nàng, lay đến bảy tám cái Kỷ Hiểu Phù mới choàng tỉnh, giật mình hỏi:

– Ai đó?

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

– Kỷ cô cô, là điệt nhi Vô Kỵ đây. Chén thuốc của cô cô có kẻ bỏ thuốc độc vào rồi, đừng uống nữa. Cô cô hãy đổ xuống suối, nhưng chớ cho ai biết, sáng mai điệt nhi sẽ nói rõ cho cô cô hay.

Kỷ Hiểu Phù gật đầu. Trương Vô Kỵ lại sợ Hồ Thanh Ngưu phát giác nên khi về đến phòng ngủ của mình bèn trèo lối cửa sổ mà vào.

Hôm sau, ăn sáng xong, Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối cùng nhau chạy đuổi bướm trong thung lũng, mỗi lúc một xa. Kỷ Hiểu Phù biết ý, lẽo đẽo đi theo. Mấy hôm rồi Trương Vô Kỵ thường dẫn Dương Bất Hối đi chơi, nên lúc này mọi người thấy ba người đi với nhau cũng chẳng để ý. Đi khoảng một dặm, tới một triền núi, Trương Vô Kỵ ngồi xuống bãi cỏ. Kỷ Hiểu Phù nói với con:

– Bất nhi, đừng đuổi bướm nữa, con hãy đi hái hoa, làm ba cái vòng đội đầu cho mỗi người một cái đi.

Dương Bất Hối thích quá, liền đi hái hoa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô, Hồ Thanh Ngưu có thù oán gì với cô cô hay không mà lại ra tay hạ độc?

Kỷ Hiểu Phù kinh ngạc, nói:

– Ta với Hồ tiên sinh không hề quen biết, đến hôm nay cũng chưa thấy mặt lần nào, làm sao có chuyện thù oán được?

Nàng trầm ngâm một lát, nói tiếp:

– Phụ thân và sư phụ ta mỗi khi nhắc đến Hồ tiên sinh đều bảo Hồ tiên sinh y thuật như thần, thời nay không một ai sánh kịp, chỉ tiếc ở trong Minh giáo, đi theo tà đạo. Phụ thân và sư phụ của ta cũng không quen biết Hồ Thanh Ngưu, tại sao y… y lại hại ta nhỉ?

Trương Vô Kỵ liền thuật hết việc đêm qua Hồ Thanh Ngưu vào chòi lén bỏ thuốc độc vào chén thuốc, rồi nói:

– Điệt nhi ngửi thang Bát tiên, thấy xộc lên mùi Thiết Tuyến thảo và Thấu Cốt khuẩn. Hai vị thuốc đó vốn có thể trị thương, song độc tính cực mạnh, chỉ dùng với liều lượng chút ít, nhất là rất kỵ dùng với các vị trong Bát Tiên thang, nếu uống chung sẽ rất hại, có thể không chết, nhưng khiến bệnh dây dưa khó trị.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Điệt nhi bảo cả mười bốn người kia cũng bị hạ độc thì việc này quái dị thật. Nếu bảo phụ thân ta hoặc phái Nga Mi vô tình đắc tội với Hồ Thanh Ngưu, không lẽ cả mười bốn người kia cũng thế sao?

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

– Kỷ cô cô, Hồ Điệp cốc là nơi vô cùng kín đáo, tại sao cô cô biết mà tìm đến? Chủ nhân của Kim Hoa đả thương cô cô là ai vậy? Mấy chuyện đó không liên quan tới điệt nhi, đáng ra không nên hỏi, nhưng sự việc trước mắt quá rắc rối, mong cô cô đừng trách.

Kỷ Hiểu Phù đỏ mặt, hiểu ý Trương Vô Kỵ ngại chuyện này có liên quan đến việc nàng chưa lấy chồng mà đã có con, e nói ra xấu hổ, bèn đáp:

– Điệt nhi cứu sống ta, ta còn giấu điệt nhi làm chi? Huống hồ điệt nhi đối xử quá tử tế với ta và Bất Hối, tuy điệt nhi còn ít tuổi, song nỗi khổ tâm trong lòng ta, trên đời này ta không có ai thân thiết để thổ lộ ngoài điệt nhi ra.

Nói tới đây, Hiểu Phù không cầm được nước mắt. Nàng lấy khăn tay lau nước mắt, nói tiếp:

– Hơn hai năm trước ta và một vị sư tỷ có mối bất hòa nên ta không dám trở về gặp sư phụ, cũng không dám về nhà mình…

Trương Vô Kỵ nói:

– Hừ, cái mụ Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân thật là tệ hại! Cô cô không việc gì phải sợ mụ ta cả.

Kỷ Hiểu Phù kinh ngạc:

– Ồ, sao điệt nhi lại biết?

Trương Vô Kỵ bèn kể lại chuyện đêm đó cậu và Thường Ngộ Xuân ẩn trong rừng đã thấy Kỷ Hiểu Phù cứu Bành hòa thượng ra sao. Kỷ Hiểu Phù lại buồn bã thở dài, nói:

– Muốn người ta không biết, trừ phi đừng có làm! Tai mắt người đời, thật không sao che giấu nổi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô cô, Ân lục thúc tuy là người rất tốt, nhưng nếu cô cô không thích, không lấy lục thúc thì cũng không sao. Khi nào gặp lục thúc, điệt nhi sẽ xin lục thúc đừng ép buộc cô cô làm chi.

Kỷ Hiểu Phù nghe Trương Vô Kỵ nói thật hồn nhiên, coi mọi sự trên đời nhẹ nhàng như thế, thì cười gượng, thong thả nói:

– Vô Kỵ, không phải cô cô có ý phụ bạc Ân lục thúc đâu, sự việc hồi đó không có cách nào khác, nhưng… nhưng cô cô cũng không có gì phải ân hận…

Nhìn khuôn mặt thơ ngây hồn nhiên của Trương Vô Kỵ, Kỷ Hiểu Phù nghĩ thầm: “Thằng bé này tấm lòng trong trắng, chuyện ái tình nam nữ ta đừng kể với nó thì hơn, vả lại chuyện trước mắt cũng chẳng liên quan gì sự việc sự việc đó cả”. Liền nói tiếp:

– Sau khi có chuyện bất hòa với Đinh sư tỷ, ta không về núi Nga Mi mà đưa Bất nhi đi ẩn cư ở núi Thuấn Canh, cách xa hơn ba trăm dặm về phía tây. Hai năm qua, ngày ngày chỉ bầu bạn với tiều phu thôn quê, mọi chuyện yên ổn cả. Nửa tháng trước, ta dẫn Bất nhi lên chợ thị trấn mua vải, định may cho bé vài cái áo, thì thấy trên góc tường có hình vẽ bằng phấn trắng vòng hào quang và một thanh kiếm nhỏ. Đó là tín hiệu triệu tập đồng môn của phái Nga Mi. Ta nhìn thấy tín hiệu đó thì vô cùng kinh ngạc. Suy nghĩ một hồi, ta tuy bất hòa với Đinh sư tỷ, song không phải lỗi ở ta, ta cũng không làm việc gì khi sư phản môn, nay nhìn tín hiệu đồng môn lâm nạn, không thể không tới cứu giúp. Thế là ta theo tín hiệu chỉ đường, đi tới Phụng Dương.

Ở trong thành Phụng Dương lại thấy có tín hiệu, ta bèn dắt Bất Hối đến Lâm Hoài tửu lâu, chỉ thấy trên tửu lâu đã có bảy tám nhân sĩ võ lâm, Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động, Tiết Công Viễn của phái Hoa Sơn cùng hai sư đệ cũng trong số đó, song không thấy ai là đồng môn phái Nga Mi cả.

Trước kia ta từng gặp Giản Tiệp và Tiết Công Viễn, khi ta hỏi nguyên do, họ bảo họ cũng nhìn thấy tín hiệu triệu tập đồng môn, liền tìm đến đây, còn vì chuyện gì thì bọn họ không hề hay biết.

Hôm ấy ta chờ cả ngày cũng không thấy đồng môn phái Nga Mi đâu cả, chỉ thấy lục tục kéo đến một số người khác thuộc Thần Quyền môn, phái Cái Bang, ai cũng bảo nhận được tín hiệu của đồng môn tới Lâm Hoài tửu lâu tụ hội. Hôm sau lại thêm mấy người nữa, nhưng toàn là người nhận tín hiệu chứ không phải là người đưa ra tín hiệu.

Mọi người bàn với nhau, ai cũng nghi ngờ: chẳng lẽ đều bị kẻ địch đùa bỡn?

Nhưng tất cả mười lăm người tụ tập tại Lâm Hoài tửu lâu, bao gồm chín môn phái, mỗi môn phái truyền tín hiệu dĩ nhiên khác hẳn nhau, lại giữ nghiêm bí mật, phải là người cùng môn phái mới hiểu hàm ý, chứ người ngoài nhìn thấy cũng chẳng hiểu thế nào. Nếu quả có kẻ địch ngầm lập mưu, không lẽ hắn biết được ám hiệu của cả chín môn phái sao? Ta dẫn theo Bất nhi, ngại gặp hung hiểm, hơn nữa cũng ngại gặp đồng môn, giờ thấy không phải đồng môn cầu cứu, bèn dắt Bất nhi toan ra về.

Ta đang định đi xuống tửu lâu thì bỗng nghe tiếng cộc cộc như có người dùng gậy gõ vào cầu thang, tiếp đến tiếng ho liên hồi, một bà lão lưng còng, tóc bạc như cước, đi lên. Bà lão đi vài bước lại ho vài tiếng, trông rất khổ sở, dìu bà lão bên cánh tay trái là một thiếu nữ mười hai, mười ba tuổi. Ta thấy bà lão già nua, lại bệnh hoạn, bèn đứng tránh sang một bên nhường bà lão lên trước. Thiếu nữ thần thanh cốt tú, diện mạo vô cùng xinh xắn. Bà lão tay phải chống một cây gậy bằng gỗ trắng, mặc áo vải gai, rõ là một bà già nhà nghèo, nhưng chuỗi tràng hạt bằng vàng trên tay trái thì sáng lấp lánh, ta nhìn kỹ lại thấy mỗi hạt trên chuỗi tràng hạt đó là một bông mai đúc bằng vàng… Trương Vô Kỵ nghe tới đây thì nhịn không nổi, liền hỏi xen vào:

– Bà lão ấy chắc là chủ nhân của Kim Hoa?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Phải! Nhưng lúc ấy có ai ngờ được!

Hiểu Phù lấy trong bọc ra một bông mai nhỏ đúc bằng vàng giống y hệt Kim Hoa mà bữa trước Trương Vô Kỵ đã cầm vào cho Hồ Thanh Ngưu xem. Trương Vô Kỵ cảm thấy quá lạ, mấy hôm rày cậu cứ tưởng chủ nhân của Kim Hoa phải là một kẻ hung ác dữ tợn, hình thù đáng sợ, giờ nghe Kỷ Hiểu Phù kể, hóa ra chỉ là một bà lão già nua bệnh hoạn, thật là ngoài sức tưởng tượng của cậu.

Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:

– Bà lão ấy lên lầu, lại ho rũ rượi một trận. Thiếu nữ dìu một bên, nói: “Bà ơi, bà uống thuốc nhé?” Bà lão gật đầu, thiếu nữ lấy ra một cái bình nhỏ, đổ ra vài viên thuốc, bà lão nhai trệu trạo, tụng hai câu “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, cặp mắt già nua hấp háy, miệng lẩm bẩm: “Chỉ có mười lăm người, hừ, ngươi thử hỏi xem, phái Võ Đang và phái Côn Luân có ai đến không?”

Lúc bà lão lên lầu, chẳng ai để ý, giờ bỗng nghe bà lão nói thế, mấy vị thính tai liền ngoảnh cả lại nhưng chỉ thấy bà lão ốm yếu nghèo hèn nên cứ tưởng tai mình nghe lầm. Thiếu nữ cao giọng nói: “Này, bà bà hỏi các vị, phái Võ Đang và phái Côn Luân có ai tới đây hay không?” Tất cả mọi người ngẩn ra, không ai trả lời. Lát sau, Giản Tiệp phái Không Động mới nói:

– Tiểu cô nương, cô hỏi gì vậy?

Thiếu nữ nói:

– Bà bà hỏi, tại sao chưa thấy đệ tử của hai phái Võ Đang và Côn Luân?

Giản Tiệp hỏi:

– Bà cháu cô là ai?

Bà lão gập người ho sù sụ một hồi.

Đột nhiên một luồng kình phong ào tới trước ngực ta. Luồng kình phong ấy không biết từ phía nào đánh tới, chỉ cảm thấy nhanh lạ thường, ta vội giơ chưởng chống đỡ, lập tức thấy tức ngực, khí huyết dồn lên, đứng không vững, phải ngồi bệt xuống sàn, nôn ra mấy ngụm máu tươi. Ta đang hoang mang thì thấy bà lão thân hình phiêu động, tung chưởng phía này, đấm quyền phía kia, miệng vẫn ho, trong giây lát đánh ngã nốt mười bốn người còn lại trong tửu lâu. Bà lão xuất thủ bất ngờ, thân pháp quá lanh lẹ, kình lực mạnh mẽ, cả mười lăm người không ai đỡ được một chiêu nửa thức nào cả. Kẻ thì bị điểm huyệt, kẻ thì bị chấn thương tạng phủ. Bà lão kia liên tiếp vung tay trái, từng đóa kim hoa trong chuỗi tràng hạt phóng đi, cắm vào cánh tay cả mười lăm người. Rồi bà lão quay sang vịn vào thiếu nữ, miệng niệm “A Di Đà Phật!” run rẩy đi xuống lầu. Chỉ nghe tiếng gậy của bà lão chống lộc cộc chầm chậm vào bậc thang, mỗi bước một xa dần, xen lẫn tiếng ho khan.

Kỷ Hiểu Phù kể tới đây thì Dương Bất Hối đã làm được một cái vòng đội đầu bằng hoa, cười thích thú chạy lại, nói:

– Mẹ, cái này cho mẹ đội này.

Đoạn con bé đội ngay lên đầu mẹ.

Kỷ Hiểu Phù cười, kể tiếp:

– Lúc ấy trên Lâm Hoài tửu lâu cả mười lăm người đều nằm ngổn ngang dưới sàn, có người rên rỉ, có người hổn hển thở không ra hơi…

Dương Bất Hối sợ hãi, nói:

– Mẹ kể chuyện lão bà bà độc ác ấy ư? Đừng kể, đừng kể, con sợ lắm.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Bé ngoan, chạy đi làm cho Vô Kỵ ca ca một cái chuỗi hoa xem nào.

Dương Bất Hối nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi:

– Ca ca thích màu gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Nếu có hoa màu đỏ, thêm cả màu trắng nữa, bông càng lớn càng tốt.

Dương Bất Hối dang hai tay hỏi:

– Lớn bằng ngần này à?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Được, cỡ đó.

Dương Bất Hối vỗ tay, chạy đi, nói:

– Muội làm xong, ca ca phải đội đấy.

Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:

– Trong lúc ta đang nửa tỉnh nửa mê lại thấy khoảng hơn chục người, toàn là tửu bảo, chưởng quỹ, nấu bếp của tửu lâu tới khiêng tất cả xuống nhà bếp. Bất Hối thì sợ quá nên con bé cứ khóc và theo sát bên ta. Tên chưởng quỹ tay cầm một tờ giấy, chỉ Giản Tiệp nói: “Bôi thuốc cao vào đầu lão này”. Tức thì một tên tửu bảo dùng thuốc cao đã chuẩn bị sẵn bôi lên đầu Giản Tiệp. Tên chưởng quỹ xem xem tờ giấy, chỉ một người khác: “Chặt tay phải tên này ráp qua tay bên trái”. Hai tên đầu bếp dùng dao sắc cứ thế mà làm. Đến lượt ta, may quá không bị thứ hình phạt quái dị nào, chỉ phải uống một bát nước ngòn ngọt. Ta biết trong đó có chất kịch độc, nhưng lúc ấy số phận nằm ở tay kẻ khác, đâu có thể chống cự?

Sau khi cả mười lăm người bị chúng thực thi khổ hình, tên chưởng quỹ nói: “Các vị người nào cũng đã bị các chứng bất trị, không ai sống nổi quá mươi bữa nửa tháng. Nhưng chủ nhân của Kim Hoa bảo rằng lão nhân gia với các vị vốn không thù không oán gì, thấy các ngươi rất đáng thương nên mở lòng từ bi chỉ cho một con đường sống. Các ngươi hãy mau tới bên hồ Nữ Sơn ở Hồ Điệp cốc, cầu khẩn một người có ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên tên là Hồ Thanh Ngưu chữa trị cho. Nếu người ấy bằng lòng ra tay, các ngươi còn có hi vọng sống sót; nếu không thì trên thế gian này chẳng ai cứu nổi các ngươi. Gã Hồ Thanh Ngưu còn có ngoại hiệu Kiến Tử Bất Cứu, các ngươi mà không hết mực khẩn cầu, gã sẽ chả chịu cứu chữa đâu. Các người hãy bảo với Hồ Thanh Ngưu rằng chủ nhân của Kim Hoa không lâu nữa sẽ đến tìm gã, nói gã mau mau chuẩn bị hậu sự đi là vừa”.

Đoạn tên chưởng quỹ chỉ dẫn lộ trình, thế nên cả bọn cùng kéo đến đây.

Trương Vô Kỵ càng nghe càng lạ, nói:

– Kỷ cô cô, như thế thì cả bọn chưởng quỹ, tửu bảo, đầu bếp đều là đồng bọn của mụ già độc ác kia ư?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Xem ra bọn chúng đúng là thủ hạ của mụ ta, tên chưởng quỹ cứ theo những điều viết trong tờ giấy của mụ ta mà thực thi khổ hình. Đến giờ ta vẫn chưa hiểu tại sao mụ lại làm những trò quái dị đó? Nếu có thù oán với bọn ta, muốn lấy mạng bọn ta cũng chỉ cần phẩy tay một cái là xong. Nếu muốn bọn ta khổ sở hơn, vậy sau khi đầu độc, cớ sao lại còn chỉ đường tìm đến Hồ tiên sinh xin chữa trị?! Lại bảo chính mụ ta không lâu nữa sẽ đến tìm Hồ tiên sinh báo thù. Chẳng lẽ cứ phải dùng đủ cách kỳ quái đối với bọn ta để thử tài cứu chữa của Hồ tiên sinh?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, nói:

– Nếu Kim Hoa bà bà muốn tìm Hồ tiên sinh để gây sự, về lý mà nói, Hồ tiên sinh phải chữa trị cho mọi người rồi cùng hợp sức chống đại địch. Vì thế Hồ tiên sinh miệng bảo không chữa, song vẫn chỉ dẫn điệt nhi cách chữa trị, đem áp dụng thì thấy quả nhiên cực kỳ công hiệu. Như vậy là bề ngoài bảo không cứu, nhưng bên trong lại ngầm mượn tay điệt nhi cứu người. Thế nhưng Hồ tiên sinh đã dạy điệt nhi chữa cho mọi người gần khỏi rồi, nửa đêm tiên sinh lại lén lút hạ độc làm cho mọi người sống dở chết dở, hành động đó thật là quái dị.

Hai người trò chuyện hồi lâu mà vẫn không hiểu nổi nguyên do. Dương Bất Hối đã làm xong một cái vòng hoa lớn đội lên đầu Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô, từ rày trừ phi đích thân điệt nhi mang thuốc tới cô cô hãy uống, nhất thiết chớ uống thứ khác. Ban đêm, cô cô nhớ để sẵn binh khí bên người đề phòng có kẻ hãm hại. Trước mắt cô cô chưa thể đi được, chờ điệt nhi làm ít thuốc tễ cho cô cô uống, khi không còn nội thương nữa mới tìm cách đưa Bất Hối trốn đi.

Kỷ Hiểu Phù gật đầu, nói:

– Vô Kỵ, tâm địa lão họ Hồ khó lường như thế, điệt nhi ở chung với lão ta không phải là hay, chi bằng chúng ta cùng trốn đi là hơn.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ồ, Hồ tiên sinh đối với điệt nhi trước giờ rất tử tế! Lúc đầu tiên sinh bảo rằng sau khi chữa khỏi âm độc trong cơ thể điệt nhi là sẽ ra tay giết điệt nhi. Nay tiên sinh chữa không xong, thành thử chẳng cần phải ra tay với điệt nhi làm chi. Kể ra bây giờ chúng ta trốn đi là hay nhất, nhưng việc chữa trị nội thương cho cô cô, điệt nhi còn vài điều chưa rõ, phải thỉnh giáo thêm Hồ tiên sinh đã.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Lão đã ngầm hạ độc ta, chỉ e khi chỉ dẫn cho điệt nhi, lão sẽ cố ý nói sai đi không chừng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Không hẳn thế! Những phương pháp Hồ tiên sinh chỉ dẫn cho điệt nhi đều hiệu nghiệm như thần; nếu có chỗ sai, điệt nhi sẽ nhận biết ngay. Lạ nhất là ở điểm này. Điệt nhi nghĩ rằng nếu Kim Hoa bà bà muốn gây sự với Hồ tiên sinh, mà tiên sinh thì đang bị bệnh, cho nên điệt nhi không nỡ bỏ tiên sinh mà đi. Nhưng xem ra Hồ tiên sinh giả vờ bệnh đấy thôi.

*

*     *

Đêm hôm ấy, Trương Vô Kỵ nằm nhưng không ngủ, đến canh ba quả nhiên lại nghe tiếng chân Hồ Thanh Ngưu từ trong buồng đi ra, sang cái chòi của Kỷ Hiểu Phù để bỏ thuốc độc. Cứ thế ba hôm liền, Kỷ Hiểu Phù vì không uống thuốc có độc nên bệnh tình thuyên giảm rất nhanh. Còn bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn thì cứ lúc nặng lúc đỡ, mấy kẻ tính nóng nảy đã công khai tỏ giọng oán thán, chê Trương Vô Kỵ y thuật kém cỏi. Trương Vô Kỵ chẳng buồn để tâm, định bụng chỉ một đêm nữa thôi, rồi sẽ cùng hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù trốn đi thật xa, vì chất âm độc trong cơ thể không trừ được, cũng chả nên về núi Võ Đang làm gì cho thái sư phụ và các vị sư bá sư thúc thêm đau lòng. Thôi tìm một chốn thật hoang vu lẳng lặng mà chết là xong.

Tối đó lúc đi ngủ, Trương Vô Kỵ nghĩ sáng mai mình ra đi, Hồ Thanh Ngưu tuy cổ quái, song đối với cậu tử tế, không nhờ có tiên sinh chữa trị, làm sao mình sống được tới ngày hôm nay? Hơn hai năm qua lại được tiên sinh dạy cho biết bao y thuật, sống chung một nhà, nay sắp biệt ly thì trong lòng không khỏi lưu luyến, bèn đến trước phòng Hồ Thanh Ngưu vấn an vài câu. Lại nghĩ Kim Hoa bà bà nay mai tới đây sinh sự, không biết Hồ tiên sinh đối phó cách nào, tâm tư không khỏi lo lắng, nói:

– Hồ tiên sinh, tiên sinh sống bấy lâu ở Hồ Điệp cốc chẳng lẽ không thấy chán hay sao? Chi bằng hãy đi nơi khác cho khuây khỏa?

Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:

– Ta đang bệnh, làm sao đi được?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kiếm một cỗ xe là đi được thôi. Chỉ cần dùng vải che kín cửa xe, không cho gió lùa vào là ổn. Nếu tiên sinh muốn đi, vãn bối sẽ theo hầu.

Hồ Thanh Ngưu thở dài:

– Hài tử, đa tạ hảo tâm của ngươi! Thiên hạ tuy rộng lớn, nhưng e rằng ở đâu cũng thế cả thôi. Mấy hôm nay ngươi cảm thấy trong ngực thế nào? Ở đan điền hàn khí có xông lên hay không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Hàn khí mỗi ngày một nặng, không thuốc gì trị được, thôi đành phó mặc.

Hồ Thanh Ngưu im lặng một lát, rồi nói:

– Để ta cho ngươi một bài thuốc cứu mạng như sau: dùng Đương Quy, Viễn Chí, Sinh Địa, Độc Hoạt, Phòng Phong năm vị, đến canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay đi.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc vì thấy năm vị trên chẳng liên quan gì tới bệnh tình của mình, dược tính còn xung đột nhau là đằng khác, dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn càng khó hiểu, bèn hỏi:

– Tiên sinh, mấy vị đó, liều lượng ra sao?

Hồ Thanh Ngưu nổi giận nói:

– Liều càng cao càng tốt. Ta đã nói rồi, hãy mau mau xéo đi!

Hai năm vừa qua, mỗi lần Hồ Thanh Ngưu cùng Trương Vô Kỵ đàm luận y lý, dược tính, đều coi cậu nửa là học trò, nửa là bằng hữu, cung cách rất nhã nhặn; lúc này lại dùng lối nói năng bất nhã. Trương Vô Kỵ vừa nghe đã thấy máu nóng dâng lên, cậu quay về phòng ngủ, nghĩ thầm: “Mình có thiện chí khuyên lão ta đi xa tránh họa, để khỏi vô cớ bị sỉ nhục, vậy là lão ta lại cho mình một bài thuốc tầm bậy, tưởng dễ lừa được mình đấy ư?” Trương Vô Kỵ nằm trên giường, nghĩ đến câu nói bất nhã của Hồ Thanh Ngưu, đang lơ mơ sắp ngủ thiếp đi, chợt nhớ lại “Đương Quy, Viễn Chí… liều càng cao càng tốt, nghĩa là sao? Hay là… hay là Hồ tiên sinh muốn bảo Đương Quy là “Hãy đi về đi”?

Khi đã nghĩ ra Đương Quy là “Hãy đi về đi”, bèn nghĩ Viễn Chí tức là “Chí ở phương xa”, “cao chạy xa bay”, Sinh Địa và Độc Hoạt thì ý đã quá rõ, là phải có đất sống, mới có thể sống được, còn Phòng Phong là gì? Ồ, nghĩa là đề phòng tiết lộ phong thanh. Lại nói đến canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay đi”, Xuyên Sơn Giáp tức là theo đường tắt xuyên rừng mà đào tẩu, đừng theo đường chính, hơn nữa phải trốn ngay vào canh hai này.

Nghĩ đến đây, Trương Vô Kỵ thấy bài thuốc quái dị của Hồ Thanh Ngưu đã giải được, liền ngồi bật dậy, song lại nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh đã biết đại họa sắp ập đến, có thiện ý bảo mình trốn đi ngay; song lúc này kẻ địch chưa tới, sao tiên sinh không nói thẳng cho mình biết, lại phải dùng mật ngữ đánh đố như thế? Giả sử mình không giải được, hóa ra hỏng việc ư? Bây giờ qua canh hai rồi, mình phải chạy thôi”. Nghĩ rằng Hồ Thanh Ngưu hẳn có điều khó nói, nên những ngày qua không bỏ trốn, rất có thể tiên sinh đã ngầm bố trí cơ quan xảo diệu để đối phó với đại địch rồi. Tuy Hồ tiên sinh bảo ta “Phòng Phong”, “Độc Hoạt”, nhưng mình không thể không cứu hai mẹ con Kỷ cô cô.

Bèn rón rén ra khỏi phòng, đi sang cái chòi của Kỷ Hiểu Phù, chỉ thấy Kỷ Hiểu Phù nằm trên cỏ, nhưng bên trên có một người đang khom lưng đè lên người Kỷ Hiểu Phù. Dưới ánh trăng muộn chiếu vào chòi, Trương Vô Kỵ thấy người kia đầu choàng khăn vuông, mặc áo xanh, có tấm vải xanh che mặt, chính là Hồ Thanh Ngưu thì trong khoảnh khắc, bao nhiêu nghi ngờ cũng trỗi dậy.

Chỉ thấy Hồ Thanh Ngưu tay trái bóp hai má Kỷ Hiểu Phù, ép nàng phải há miệng ra, tay phải nhét một viên thuốc vào miệng nàng. Trương Vô Kỵ thấy tình thế cấp bách, vội nhảy vào, kêu lên:

– Hồ tiên sinh, không được hại người…

Người kia kinh ngạc quay đầu lại, tay lơi ra, nghe “hự” một tiếng, lưng đã bị trúng một chưởng rất mạnh của Kỷ Hiểu Phù. Người đó ngã vật xuống, tấm vải che mặt lật sang một bên.

Trương Vô Kỵ vừa nhìn đã bất giác kinh hoảng kêu lên, thì ra người kia không phải là Hồ Thanh Ngưu, mà là một thiếu phụ trung niên, mặt hoa da phấn.

Hồi 13: Đêm hôm chẳng ngại vượt tường

Trương Vô Kỵ thấy đó là một thiếu phụ, liền sửng sốt hỏi:

– Bà… bà là ai?

Thiếu phụ lưng bị trúng một chưởng nặng của đệ tử phái Nga Mi, đau nhợt nhạt cả mặt mày, không nói nổi.

Kỷ Hiểu Phù cũng hỏi:

– Bà là ai? Vì cớ gì mấy phen đến hãm hại ta?

Thiếu phụ lặng thinh. Kỷ Hiểu Phù rút trường kiếm, chĩa vào ngực thiếu phụ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Để điệt nhi vào xem Hồ tiên sinh có sao không?

Cậu sợ Hồ Thanh Ngưu đã bị thiếu phụ này hạ độc thủ, lại nghĩ thiếu phụ có thể là đồng đảng của Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ rảo bước đến trước cửa phòng của Hồ Thanh Ngưu, đẩy mạnh cánh cửa mở ra, gọi to:

– Tiên sinh, tiên sinh! Tiên sinh có sao không?

Không có tiếng trả lời, Trương Vô Kỵ quá lo, vội sờ soạng trên bàn tìm đồ đánh lửa, đốt lên một ngọn nến, thấy chăn đệm trên giường xộc xệch nhưng không thấy Hồ Thanh Ngưu đâu cả.

Trương Vô Kỵ vốn chỉ lo Hồ Thanh Ngưu đã bị thiếu phụ hạ thủ nằm chết dưới đất, nhưng nhìn quanh không có ai thì yên tâm, nghĩ thầm: “Nếu Hồ tiên sinh bị bắt đi, lúc này chắc chưa bị sát hại”. Vô Kỵ định đuổi theo, chợt nghe dưới gầm giường có tiếng thở nặng nề, bèn cúi mình chiếu nến, thấy Hồ Thanh Ngưu chân tay bị trói, nằm dưới đó. Trương Vô Kỵ cả mừng, vội kéo ông ta ra, thấy miệng ông ta bị nhét một trái hồ đào to, không thể nói được.

Trương Vô Kỵ móc trái hồ đào ra, cởi dây trói cho Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu hỏi luôn:

– Thiếu phụ kia đâu?

Trương Vô Kỵ nói:

– Đã bị Kỷ cô cô chế ngự, không chạy được đâu. Tiên sinh không bị đả thương chứ?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Hãy khoan cởi trói cho ta, mau đưa thiếu phụ tới gặp ta, mau lên, chậm một chút e không kịp mất.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Tại sao?

Hồ Thanh Ngưu giục:

– Mau đưa thiếu phụ tới đây, ồ không, ngươi mau lấy ba viên “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” cho bà ta uống trước, thuốc trong ngăn kéo thứ ba ấy, mau lên!

Hồ Thanh Ngưu luôn miệng thúc giục, thần sắc rất gấp gáp.

Trương Vô Kỵ biết “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” là linh dược giải độc, Hồ Thanh Ngưu phối chế bằng không ít dược liệu trân kỳ, chỉ cần một viên đã đủ hóa giải chất cực độc, vậy mà giờ bảo cho thiếu phụ uống những ba viên, không lẽ bà ta bị trúng độc rất nặng ư?

Chỉ thấy thần sắc Hồ Thanh Ngưu quả thực gấp gáp lạ lùng nên Trương Vô Kỵ không dám hỏi thêm, vội lấy “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” chạy sang chòi của Kỷ Hiểu Phù, nói với thiếu phụ:

– Mau nuốt đi này!

Thiếu phụ mắng luôn:

– Cút đi, ai cần hảo tâm của tên tiểu tặc chứ?

Thì ra thiếu phụ ngửi mùi “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” thì biết ngay là thuốc giải độc. Trương Vô Kỵ nói:

– Là Hồ tiên sinh cho bà uống đó.

Thiếu phụ nói:

– Xéo đi, xéo mau!

Sau khi trúng chưởng của Kỷ Hiểu Phù, giọng nói của thiếu phụ nghe rất yếu ớt.

Trương Vô Kỵ không hiểu dụng ý của Hồ Thanh Ngưu, đoán rằng mụ nữ tặc này khi trói Hồ Thanh Ngưu đã bị ông ta dùng một loại ám khí cực độc đả thương, nay cần mụ ta sống để tra vấn mọi việc, bèn bóp miệng mụ ta mà nhét ba viên thuốc vào, rồi nói với Kỷ Hiểu Phù:

– Chúng ta đem mụ này giao cho Hồ tiên sinh định đoạt.

Kỷ Hiểu Phù liền điểm huyệt thiếu phụ, cùng Trương Vô Kỵ mỗi người một bên đỡ một cánh tay lôi mụ ta sang phòng ngủ của Hồ Thanh Ngưu.

Hồ Thanh Ngưu vẫn nằm còng queo dưới đất, vừa thấy mụ kia, vội hỏi:

– Uống thuốc chưa?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Uống rồi.

Hồ Thanh Ngưu vui mừng nói:

– Tốt lắm, tốt lắm!

Trương Vô Kỵ cắt dây trói cho Hồ Thanh Ngưu.

Chân tay vừa được tự do, Hồ Thanh Ngưu liền tới vạch mi mắt thiếu phụ lên xem sắc huyết bên trong mắt, lại bắt mạch cho mụ ta, hoảng hốt hỏi:

– Bà… bà sao lại bị nội thương thế này? Là kẻ nào đả thương bà vậy?

Giọng Hồ Thanh Ngưu vừa kinh hoảng vừa lo lắng. Thiếu phụ bĩu môi, hừ một tiếng, nói:

– Thì cứ hỏi tên đồ đệ của ông khắc biết.

Hồ Thanh Ngưu quay người lại, hỏi Trương Vô Kỵ:

– Ngươi đả thương bà ấy phải không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Bà ta đang…

Tiếng thứ tư chưa kịp thốt ra thì Trương Vô Kỵ đã bị Hồ Thanh Ngưu giáng ngay cho hai cái tát.

Hai cái tát rất mạnh, lại bất ngờ, Trương Vô Kỵ hoàn toàn không đề phòng, cũng không kịp né tránh, nên bị đau nổ đom đóm mắt đến suýt nữa ngất đi. Kỷ Hiểu Phù rút trường kiếm cái soạt, quát:

– Ngươi làm gì vậy?

Hồ Thanh Ngưu không buồn để ý tới lưỡi kiếm sáng quắc đe dọa trước mắt, hỏi thiếu phụ:

– Bà thấy trong ngực thế nào? Có đau bụng không?

Thần thái của Hồ Thanh Ngưu hết mực ân cần, khác hẳn cái phong thái “thấy chết không cứu” thường ngày của ông ta. Thiếu phụ thì vẫn giữ vẻ lạnh nhạt như cũ. Hồ Thanh Ngưu giải khai huyệt đạo cho mụ ta, xoa bóp chân tay, lại lấy mấy viên thuốc cẩn thận đút vào miệng, rồi bế mụ đặt lên giường, nhẹ nhàng đắp tấm chăn lên. Cử chỉ trìu mến trân trọng đó đâu phải là cách đối phó với kẻ địch? Trương Vô Kỵ xoa xoa chỗ sưng vều trên má, càng nhìn cảnh đó càng không hiểu ra sao.

Hồ Thanh Ngưu vẻ mặt âu yếm đăm đăm nhìn thiếu phụ một hồi, thấp giọng nói:

– Phen này bà đã trúng độc lại còn bị đả thương, nếu ta có thể chữa lành cho bà thì hai ta không tỷ thí nữa nhé?

Thiếu phụ cười, nói:

– Bị thương nhẹ có đáng gì! Còn việc thiếp đã uống thứ thuốc độc gì thì làm sao tướng công biết được? Tướng công mà chữa lành cho thiếp thì hẳn, thiếp sẽ phục tướng công thật sự. Chỉ e tài nghệ của Y Tiên không bằng Độc Tiên thôi.

Nói đoạn nở một nụ cười, thần sắc thật kiều mị.

Trương Vô Kỵ tuy không hiểu chuyện ái tình nam nữ, song cũng nhận ra ái tình thắm thiết giữa hai người này.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Mười năm trước ta đã bảo Y Tiên không thể sánh kịp Độc Tiên, nàng chẳng chịu tin. Ôi, thử đâu không thử, lại lấy chính thân mình ra thử! Phen này thì ta thực sự mong Y Tiên thắng được Độc Tiên, nếu không, nói dại có điều gì, thì ta cũng chả thiết sống một mình đâu.

Thiếu phụ mỉm cười, nói:

– Thế nhưng khi thiếp thử chất độc vào người khác, tướng công cứ nhường thiếp, làm như tài nghệ không bằng thiếp vậy. Hì hì, lần này thiếp hạ độc chính mình, tướng công không thể không trổ hết tài nghệ.

Hồ Thanh Ngưu vuốt tóc thiếu phụ, thở dài, nói:

– Ta thật lo lắng vô cùng, thôi nàng đừng nói nữa, hãy nhắm mắt dưỡng thần. Nếu nàng ngầm vận khí tự hại mình, thì cuộc tỷ thí kiểu đó không công bằng đâu đấy.

Thiếu phụ mỉm cười:

– Thắng bại phải quang minh lỗi lạc, thiếp đâu thèm làm như vậy.

Nói xong thiếu phụ nhắm mắt lại, khóe miệng còn lưu nụ cười hài lòng.

Chuyện hai người ấy nói với nhau, Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nghe không hiểu gì cả. Hồ Thanh Ngưu quay lại, chắp tay vái Trương Vô Kỵ một cái thật dài, nói:

– Tiểu huynh đệ, vừa nãy ta nhất thời hoảng hốt, đắc tội với ngươi, hãy lượng thứ cho.

Trương Vô Kỵ giận dỗi, nói:

– Vãn bối chả hiểu sao cả, rốt cuộc là thế nào?

Hồ Thanh Ngưu đưa tay lên tự vả vào mặt mình hai cái thật mạnh, nói:

– Tiểu huynh đệ, ngươi có đại ân cứu mạng ta, chỉ vì ta nhất thời lo lắng cho hiền thê nên đã mạo phạm đối với ngươi.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc:

– Bà kia… là phu nhân của tiên sinh ư?

Hồ Thanh Ngưu gật đầu, nói:

– Chính là hiền thê của ta, nếu ngươi còn giận thì cứ tát ta hai cái nữa, hoặc ta sẽ rập đầu tạ tội với ngươi. Ngươi cứu mạng ta, chẳng nói làm gì; song ngươi cũng đã cứu mạng cả hiền thê của ta nữa.

Thường ngày Hồ Thanh Ngưu đoan nghiêm trang trọng, Trương Vô Kỵ luôn kính sợ ông ta, lần này ông ta lại tự vả vào mặt mình cũng đủ thấy thành thực tạ lỗi, lại nghe nói thiếu phụ kia là hiền thê của ông ta, thì Trương Vô Kỵ không còn giận chút nào nữa, vội nói:

– Rập đầu tạ tội thì vãn bối chả dám nhận, bị tiên sinh tát vài cái cũng không sao. Có điều là vãn bối vẫn chưa hiểu mọi chuyện.

Hồ Thanh Ngưu mời Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ ngồi xuống, nói:

– Việc hôm nay đã tới nước này, ta không thể giấu nữa. Hiền thê của ta họ Vương, khuê danh Nạn Cô, là sư muội đồng môn của ta. Khi hai chúng ta cùng nhau học nghệ ở sư môn, ngoài võ công, ta chuyên về y đạo, còn nàng ấy học độc thuật. Nàng bảo người ta học võ chẳng qua để giết người, độc thuật cũng là để giết người, võ thuật và độc thuật là hai thứ đi liền với nhau. Chỉ cần tinh thông độc thuật thì võ công sẽ mạnh gấp bội. Còn y thuật dùng để trị bệnh cứu người, nên trái ngược với võ thuật. Ta thán phục lời nói của hiền thê, kiến thức của nàng cao hơn ta gấp mười lần. Có điều ta lại thích chữa bệnh nên không thể miễn cưỡng. Ta ngoan cố, không chịu nghe lời khuyên của nàng, nên mới phụ cái mỹ ý của nàng đối với ta.

“Hai chúng ta sở học tuy bất đồng, nhưng tình cảm vẫn tốt đẹp, sư phụ bèn tác thành cho hai chúng ta thành phu phụ, sau đó dần dà cũng có danh tiếng trên giang hồ. Có người gọi ta là Y Tiên, gọi nàng là Độc Tiên. Thuật sử dụng chất độc của nàng thần diệu vô song, không ai trên đời này bì kịp, thậm chí nàng còn vượt cả sư phụ. Hạ độc mà được tôn là “Tiên” cũng đủ hiểu tài nghệ của nàng quả là siêu phàm, tuyệt tục. Thế nhưng ta suy nghĩ không sâu xa, mấy lần nàng hạ độc đều là loại chậm phát tác; người bị trúng độc đến cầu xin ta chữa trị, ta lại đi chữa cho họ khỏi, đúng là hồ đồ. Chữa khỏi, ta lấy làm đắc chí, đâu biết rằng đó là hành vi bất trung bất nghĩa đối với ái thê, thật là phụ bạc, là “lòng lang dạ thú””.

“Kẻ bị Độc Tiên đầu độc, Y Tiên lại chữa khỏi, chẳng những phạm vào bổn ý của ái thê, mà còn chứng tỏ Y Tiên giỏi hơn Độc Tiên đó sao?”

Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nghe mà thầm lắc đầu, trong lòng không khỏi bất mãn.

Chỉ nghe Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:

– Nàng đối với ta trước nay ôn nhu hòa thuận, nghĩa trọng tình thâm, trong nữ giới khắp thế gian không thể tìm đâu ra người thứ hai như nàng. Song ta lại cứ năm lần bảy lượt chứng tỏ cái tính hiếu thắng đối với ái thê. Nàng có là gỗ đá thì cũng chẳng trơ trơ mãi được. Cuối cùng ta biết mình quá sai mới lập trọng thệ, phàm người nào bị nàng hạ độc, ta nhất quyết không ra tay chữa trị. Dần dần cùng với tháng ngày, cái ngoại hiệu “Kiến tử bất cứu” mới lan rộng ra ngoài.

“Độc Tiên thấy ta biết lỗi sửa lỗi, còn có cơ cứu vãn, nên đã làm lành với ta. Nhưng chỉ được vài năm, ta lại gặp một bệnh án trúng độc vô cùng cổ quái. Ta vừa gặp đã biết ngay là trừ Độc Tiên ra thì không ai có thể hạ độc như thế nên đã quyết ý không chữa. Song bệnh tình người ấy quá lạ lùng, ta nhịn được vài hôm, rồi lại ra tay chữa lành cho hắn.

“Độc Tiên cũng chẳng thèm cãi ta nửa lời, chỉ nói: “Được rồi, Y Tiên Hồ Thanh Ngưu quả nhiên y đạo thần thông, nhưng Độc Tiên Vương Nạn Cô này chưa phục, vậy hai bên tỷ thí một phen nữa, để xem Y Tiên chữa bệnh giỏi, hay Độc Tiên hạ độc lợi hại hơn?” Ta hết lời xin lượng thứ, nhưng nàng nhất quyết không đấu dịu. Thì ra kỳ này nàng hạ độc, không phải do thù oán ai, mà là nàng mới tìm ra một thủ pháp kỳ diệu, không cách gì chữa trị được. Nàng đem thứ đó thử vào một người, đâu ngờ ta nhất thời gặp may lại chữa khỏi cho người ấy. Ta đối với ái thê tàn nhẫn như thế, còn gọi là người sao được chứ?

“Trong mấy năm sau đó, nàng cứ dày công nghiên cứu độc thuật, hạ độc người này người nọ để cho ta chữa. Đôi bên không ngừng tỷ thí tài năng. Phần vì độc thuật của nàng thần diệu, y thuật của ta cũng có lúc bó tay, phần vì ta không muốn để nàng bực tức, nên có mấy trường hợp ta không chữa lành. Nàng lại tức giận cho rằng ta coi thường nàng, cố ý nhường nhịn mà không chịu dốc toàn lực tỷ thí với nàng. Thế là nàng đùng đùng rời bỏ Hồ Điệp cốc, ta khuyên nhủ cách mấy, nàng cũng không chịu trở về.

“Sau đó ta tuy không dám khinh cử vọng động, nhưng chữa bệnh là sở thích bẩm sinh của ta, nỗi đam mê ấy không sao từ bỏ được, hễ gặp kỳ bệnh quái độc là phải ra tay chữa trị ngay. Đâu biết những người ta chữa khỏi kia, có người do chính ái thê hạ độc, có điều thủ pháp của nàng quá xảo diệu nên không để lộ hình tích, khiến cho ta không thể nhận biết, lại cứ hồ đồ chữa cho bằng hết. Như thế là ta làm cho tình phu thê bị đại tổn thương. Ôi, Hồ Thanh Ngưu phải đổi thành Hồ Xuẩn Ngưu mới đúng! Một người như Nạn Cô mà hạ mình lấy ta, không biết ta tu bao nhiêu kiếp mới có diễm phúc ấy, ta lại chẳng lo hầu hạ nàng, thương yêu nàng mà cứ luôn làm nàng tức giận, đến nỗi nàng phải bỏ nhà mà đi, lang bạt góc biển chân trời, chịu nỗi phong sương khổ sở. Huống chi trên giang hồ lòng người hiểm trá, thiếu gì kẻ tàn ác, nàng một mình yếu đuối, ta làm sao yên tâm cho được?”

Hồ Thanh Ngưu nói tới đây, mặt lộ rõ vẻ tự trách và ân hận.

Kỷ Hiểu Phù đưa mắt nhìn Vương Nạn Cô đang nằm trên giường, nghĩ thầm: “Hồ phu nhân kia ngoại hiệu Độc Tiên, còn ai trong thiên hạ dám hạ độc bà ta kia chứ? Bà ta không hại người đã là may phúc cho kẻ đó lắm rồi, mọi người phải cảm tạ trời đất, chứ ai dám hại bà ta? Hồ tiên sinh sợ vợ như sợ hổ, thật nực cười!”

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Vì vậy ta lập trọng thệ, hễ không phải là người trong Minh giáo, ta quyết không chữa trị, để khỏi vô tình làm hỏng kiệt tác của Nạn Cô. Nên nhớ phu thê ta là người theo Minh giáo, đối với huynh đệ tỷ muội cùng giáo phái, Nạn Cô không khi nào hạ độc cả.

Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nhìn nhau, nghĩ thầm: “Thì ra Hồ tiên sinh không chữa cho người ngoài Minh giáo là vì thế”.

Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:

– Bảy năm trước có một cặp vợ chồng già trúng độc, đến Hồ Điệp cốc nhờ chữa trị, đó là Ngân Diệp tiên sinh và Kim Hoa bà bà, chủ nhân đảo Linh Xà ngoài biển Đông Hải. Vợ chồng họ tới Hồ Điệp cốc với số lễ vật chu đáo, nhưng Kim Hoa bà bà không rõ vô tình hay cố ý để lộ chút võ công, ta nhìn thấy thì không khỏi run sợ. Ta không dám cự tuyệt thẳng thừng, nhưng các ngươi biết đó, ta đã hối cải rồi, nhất quyết không đi theo con đường sai trái cũ, đâu dám tái phạm nữa chứ? Thành thử sau khi xem mạch cho vợ chồng họ xong, ta nói: “Cứ theo mạch lý của hai vị, lão đảo chủ và lão phu nhân tuy tuổi cao, song mạch vẫn không khác gì thanh niên, hẳn là nhờ nội lực dồi dào khôn tả. Lão niên mà mạch tượng như tráng niên, đây là lần đầu vãn sinh được gặp”. Kim Hoa bà bà nói: “Tiên sinh quả thật cao minh”. Ta nói: “Hai vị bị trúng độc không giống nhau. Lão đảo chủ thì không thuốc gì chữa nổi, song vẫn có thể sống vài năm nữa; còn lão phu nhân trúng độc không sâu, có thể dùng nội lực bản thân tự hóa giải”.

“Ta hỏi kẻ hạ độc là ai thì biết đó là một tên Mông Cổ, thủ hạ của một đầu đà á khẩu ở Tây Vực, không can hệ gì tới Độc Tiên, nhưng ta đã thề chỉ chữa trị cho người trong Minh giáo nên không thể vì cặp vợ chồng này mà phá lệ. Kim Hoa bà bà hứa sẽ báo đáp thật hậu, chỉ xin cứu mạng cho lão đảo chủ. Nhưng ta nghĩ đến tình phu thê của mình, nhất quyết không chữa. Vợ chồng họ cũng không dùng vũ lực ép ta, chỉ lẳng lặng bỏ đi. Kim Hoa bà bà có nói một câu: “Hà hà, Minh giáo, Minh giáo, thì ra chỉ là vì Minh giáo!” Ta biết rằng vì không chịu trị thương, giải độc cho người, mà đã chuốc lấy không ít oán thù, nhưng tình phu thê sâu nặng nên ta không thể vì người ngoài mà làm cho tình nghĩa đó bị tổn thương, các ngươi thấy ta nói vậy có đúng hay không?”

Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ im lặng, nghĩ thầm chủ trương “Kiến tử bất cứu” đâu phải là đúng.

Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:

– Gần đây Nạn Cô ở bên ngoài nghe tin Ngân Diệp tiên sinh bị chất độc phát tác đã chết, Kim Hoa bà bà sắp tìm ta để rửa hận. Chuyện này rất nguy hiểm, Nạn Cô nặng tình với ta nên vội quay về cùng ta bàn cách đối phó. Nàng thấy trong nhà có thêm người lạ, nên đêm đó trước hết bỏ thuốc mê cho Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giờ mới vỡ lẽ: “Hôm ấy mình ngủ đến quá trưa hôm sau mới dậy, hoá ra đã trúng phải thuốc mê của Hồ phu nhân, lại cứ ngỡ mình sinh bệnh. Vị Độc Tiên này hạ thủ không ai đoán biết, quả là lợi hại vô cùng”.

Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:

– Ta thấy Nạn Cô đột nhiên trở về thì mừng rỡ vô cùng. Nàng khuyên ta giả vờ bị bệnh đậu mùa, không gặp ai cả, hai người chỉ ở trong buồng bàn tính cách đối phó với Kim Hoa bà bà. Vị tiền bối dị nhân ấy tài nghệ quá cao, muốn bỏ trốn cũng không thể thoát nổi. Mấy hôm sau thì bọn Tiết Công Viễn, Giản Tiệp và Kỷ cô nương cả thảy mười lăm người lục tục kéo đến.

“Ta vừa nghe tình hình bị thương của bọn họ thì biết ngay là Kim Hoa bà bà có ý thử ta, xem ta có thực sự giữ lời là ngoại trừ đệ tử của Minh giáo ra sẽ không chữa trị cho bất cứ ai. Mười lăm người với mười lăm loại kỳ thương quái bệnh, Hồ Thanh Ngưu say mê chữa trị quên cả tính mạng, chỉ cần gặp một trong các chứng bệnh đó, là dễ không nhịn được mà ra tay chữa thử, chứ nói chi đến những mười lăm người một lúc? Nhưng ta đã tỏ tâm ý của Kim Hoa bà bà, hễ ta chữa khỏi cho một ai, Kim Hoa bà bà sẽ dùng hình phạt nặng gấp trăm lần thế trên chính thân xác ta, thành thử dù ta ngứa tay muốn chữa lắm nhưng cũng đành phải làm ngơ. Đến lúc Vô Kỵ hỏi cách chữa trị, ta có chỉ dẫn, song cũng phải nói rõ rằng Vô Kỵ là đệ tử phái Võ Đang nên chẳng có dính dáng gì tới Hồ Thanh Ngưu ta cả.

“Nạn Cô thấy Vô Kỵ theo cách ta chỉ dẫn đã chữa trị rất linh nghiệm thì không hài lòng chút nào, nên ban đêm lén bỏ thuốc độc vào thuốc hoặc thức ăn của từng người, tiếp tục đua tài với ta. Hơn nữa, nàng cũng chỉ muốn bảo vệ ta, vì nếu Vô Kỵ chữa khỏi cho mười lăm người kia, Kim Hoa bà bà chắc chắn sẽ đổ tội xuống đầu Hồ Thanh Ngưu ta. Mười lăm người toàn là võ lâm hảo thủ, nếu nàng đến bên cạnh hạ độc, lẽ nào họ không phát giác? Bởi thế, nàng mới đánh thuốc mê cả bọn trước, sau đó tùy từng người mà dùng thử các loại độc dược khác nhau. Thủ pháp cao minh đó phải nói là vô tiền khoáng hậu”.

Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nhìn nhau, đã hiểu tại sao Trương Vô Kỵ sang chòi của Kỷ Hiểu Phù, phải lay mãi Hiểu Phù mới tỉnh dậy.

Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:

– Trong mấy ngày, bệnh tình của Kỷ cô nương thuyên giảm quá nhanh, xem ra thuốc độc mà Nạn Cô sử dụng không hiệu nghiệm, Nạn Cô bèn để ý tra xét, mới hay là Vô Kỵ phát giác được bí mật, nên nàng định hạ độc luôn cả Vô Kỵ. Ôi, cổ nhân bảo: giang sơn dễ cải, bản tính khó thay! Ta đối với ái thê rốt cuộc cũng chẳng trung thành đến cùng. Đã quyết ý không nhúng tay vào rồi, vậy mà tối qua, khi Vô Kỵ khuyên ta xuất du để tránh đại họa, ta lại mềm lòng cho một bài thuốc gồm năm vị Đương Quy, Sinh Địa, Viễn Chí, Phòng Phong, Độc Hoạt, bởi lúc ấy Nạn Cô đang ở bên cạnh nên ta không thể nói rõ ra.

“Nhưng Nạn Cô thông minh tuyệt đỉnh, thừa hiểu dược tính, nghe bài thuốc ấy không hợp lẽ thường, nghĩ một chút là hiểu ngay mưu tính của ta. Nàng bèn trói ta, lấy mấy viên thuốc cực độc tự uống, nói: “Sư ca, hai ta kết thành phu phụ hai chục năm qua, biển cạn núi mòn, tình không thay đổi. Nhưng sư ca vẫn coi độc thuật của muội không ra gì, bất luận muội sử dụng loại độc dược nào, sư ca cũng cứu được hết. Lần này chính muội uống mấy thứ cực độc, nếu đại ca cứu sống được muội thì muội mới thực sự khâm phục sư ca”. Ta nghe vậy liền sợ hết hồn, vội vã bảo xin thua, xin thua, hết lời năn nỉ, nàng bèn nhét một trái hồ đào vào miệng ta để ta khỏi nhiều lời. Sau đó thế nào thì hai ngươi đã biết rồi”.

Nói xong, Hồ Thanh Ngưu liên tiếp lắc đầu. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nhìn nhau, vừa bực mình vừa tức cười, đôi phu phụ này thật là cổ quái hiếm thấy trong thiên hạ. Hồ Thanh Ngưu đối với thê tử yêu quá hóa sợ, đã đành một nhẽ. Vương Nạn Cô thì nhất thiết phải tranh hơn chồng cho bằng được, cuối cùng lại đi hạ độc chính mình mà không biết sợ.

Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:

– Các ngươi nghĩ mà xem, ta còn cách gì bây giờ? Phen này nếu ta chữa trị cho nàng khỏi được, thế thì có khác gì chứng minh tài nghệ của ta hơn nàng, nàng sẽ uất ức mất vui? Còn nếu không chữa nổi thì tính mạng nàng còn đâu? Ôi, ước gì Kim Hoa bà bà mau tới đây, đánh chết ta đi cho rồi, Nạn Cô sẽ khỏi phải phiền não! Huống hồ mấy năm qua tài nghệ hạ độc của nàng đại tiến, vừa rồi ta cũng chẳng biết nàng uống những thứ độc dược gì thì làm sao giải cứu kia chứ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiên sinh y thuật thần thông, chẳng lẽ phu nhân sử dụng loại độc dược nào cũng chẩn đoán không ra ư?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Sư mẫu của ngươi mấy năm nay sử độc xuất thần nhập hóa, phen này ta không có cách gì chữa trị cho nàng được nữa. Ta đoán rằng nàng uống ba loại trùng ba loại cỏ cực độc, nhưng liều lượng phối hợp sáu loại đó ra sao thì ta chịu, không đoán nổi.

Vừa nói, Hồ Thanh Ngưu vừa dùng ngón trỏ tay phải viết một bài thuốc trên bàn, rồi xua tay, nói:

– Thôi hai ngươi ra đi, nếu Nạn Cô có mệnh hệ gì, ta quyết chẳng sống một mình làm gì.

Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ cùng nói:

– Xin tiên sinh bảo trọng và cố khuyên giải sư mẫu.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Khuyên giải gì bây giờ? Tất cả chỉ tại ta đáng chết!

Nói đến đây, giọng ông ta trở nên nghẹn ngào. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ vội đi ra khỏi buồng.

Hồ Thanh Ngưu xoay tay lại, điểm các huyệt đạo ở lưng và hông bà vợ, nói:

– Sư muội, chồng nàng không đủ tài, quả không trị nổi chất độc tam trùng tam thảo, chỉ còn cách xuống làm bạn với nàng dưới hoàng tuyền vậy.

Nói đoạn móc trong túi áo của Vương Nạn Cô mấy gói thuốc bột, quả nhiên không ngoài dự đoán, là ba loại độc trùng và ba loại độc thảo phơi khô tán nhỏ chế thành. Vương Nạn Cô không thể cử động, chỉ còn có thể nói năng, vội kêu lên:

– Sư ca, chàng chớ có uống!

Hồ Thanh Ngưu không thèm lý tới, ngửa cổ dốc luôn gói thuốc bột ngũ sắc vào miệng, dùng nước bọt nuốt xuống bụng.

Vương Nạn Cô cả kinh thất sắc, kêu lên:

– Sao chàng lại uống nhiều thế? Ngần ấy bột thuốc độc, đến ba người cũng chết tiêu.

Hồ Thanh Ngưu cười nhạt, ngồi xuống chiếc ghế bên đầu giường Vương Nạn Cô, trong giây lát đã cảm thấy như trong bụng có hàng vạn con dao cắt ruột. Hồ Thanh Ngưu biết rằng chất Đoạn Tràng Thảo phát tác trước tiên, lát nữa độc tính của năm loại độc dược còn lại sẽ phát tác theo.

Vương Nạn Cô gọi cuống lên:

– Sư ca, sáu loại độc dược ấy có cách giải độc đó.

Hồ Thanh Ngưu đau đớn, toàn thân run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau canh cách, lắc đầu nói:

– Ta… ta không tin… ta… ta chỉ muốn chết cho rồi.

Vương Nạn Cô kêu lên:

– Mau mau uống “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” và “Ngọc long tô hợp tán” sau đó châm cứu để giải độc.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Làm thế ích gì?

Vương Nạn Cô vội nói:

– Muội uống thuốc độc với liều lượng nhẹ, còn sư ca uống nhiều quá, hãy mau cứu chữa kẻo không kịp.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Ta hết lòng yêu thương nàng, vậy mà nàng lại cứ tranh cường đấu thắng với ta, ta cảm thấy sống trên đời chẳng còn ý vị gì nữa, thà chết cho xong, ối chao… ối chao…

Mấy tiếng kêu rên đó không phải giả bộ, bởi lúc này chất độc của rắn hổ và nhện đã ngấm vào tim phổi, Hồ Thanh Ngưu thần trí từ từ hôn mê, cuối cùng bất tỉnh nhân sự.

Vương Nạn Cô khóc ầm lên:

– Sư ca, sư ca, tại muội không tốt mà ra, sư ca đừng chết, muội sẽ không bao giờ tỷ thí với chàng nữa.

Hai vợ chồng họ hai chục năm nay cứ không ngừng tranh giành hơn thua, thực ra là phu thê tình sâu nghĩa nặng. Vương Nạn Cô tự mình không sợ chết, song khi thấy chồng uống thuốc độc tự tận thì vô cùng hoảng sợ, đau đớn, ngặt nỗi huyệt đạo bị điểm, chẳng có cách gì ra tay cứu chữa.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng kêu khóc, vội chạy vào, hỏi:

– Sư mẫu, làm thế nào cứu sư phụ đây?

Vương Nạn Cô thấy Trương Vô Kỵ chạy vào, đúng là gặp được cứu tinh, vội nói:

– Mau cho sư phụ ngươi uống “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” và “Ngọc long tô hợp tán”, rồi dùng kim châm các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ…

Đúng lúc ấy, từ ngoài cổng bỗng vọng vào mấy tiếng ho, trong đêm vắng nghe rõ mồn một. Kỷ Hiểu Phù hớt hải chạy vào buồng, mặt tái nhợt, nói lắp bắp:

– Kim Hoa bà bà… Kim Hoa…

Hai chữ “bà bà” chưa thốt thì cánh cửa không gió tự động mở ra, một bà lão lưng còng dắt theo một thiếu nữ mười hai mười ba tuổi đã đứng trong buồng từ lúc nào, chính là Kim Hoa bà bà.

Kim Hoa bà bà thấy Hồ Thanh Ngưu hai tay ôm bụng, mặt đen sạm, hơi thở thoi thóp, sắp chết đến nơi thì không khỏi ngạc nhiên, hỏi:

– Y làm sao thế?

Người ngoài chưa kịp trả lời, Hồ Thanh Ngưu bỗng hai chân giãy đành đạch vài cái, cổ ngoẹo sang, thế là chết luôn. Vương Nạn Cô khóc òa lên:

– Sao sư ca phải tự hành hạ mình như thế, đi uống thuốc độc chết mất rồi.

Chuyến này Kim Hoa bà bà từ đảo Linh Xà đến Trung nguyên, ngoài việc đi tìm kẻ đã hại chết chồng bà ta để báo thù, còn kiếm Hồ Thanh Ngưu để trả oán; ai ngờ bà ta đến nơi đúng vào lúc Hồ Thanh Ngưu đã uống thuốc độc tự tận. Bà ta cũng là một đại hành gia sử độc, vừa nhìn sắc diện của Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô thì biết ngay là họ đã trúng độc quá nặng, chẳng thuốc gì chữa nổi. Kim Hoa bà bà ngỡ Hồ Thanh Ngưu vì sợ bà ta nên tự tận, nỗi oán hận coi như đã xong, bèn thở dài, nói:

– Tác nghiệt, tác nghiệt!

Đoạn dắt thiếu nữ đi ra.

Thoáng một cái, tiếng ho đã từ rất xa vọng lại. Thân pháp nhanh như thế, thật ngoài sức tưởng tượng.

Trương Vô Kỵ giơ tay sờ ngực Hồ Thanh Ngưu thấy tim vẫn còn thoi thóp, vội lấy “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” và “Ngọc long tô hợp tán” cho uống, rồi dùng kim châm vào các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ để giải độc, sau đó dùng ngay cách đó chữa trị cho Vương Nạn Cô.

Hơn một canh giờ sau, Hồ Thanh Ngưu từ từ hồi tỉnh. Vương Nạn Cô cả mừng, nước mắt ròng ròng, nói:

– Tiểu huynh đệ, tất cả là nhờ tiểu huynh đệ cứu mạng hai chúng tôi.

Rồi Nạn Cô viết một bài thuốc sai tiểu đồng đem sắc để giải độc cho vợ chồng bà ta.

Cách giải độc của Vương Nạn Cô thực ra không cao minh cho lắm, khó lòng loại trừ hết độc tính. Trương Vô Kỵ theo bài thuốc mà lúc trước Hồ Thanh Ngưu đã dùng ngón tay viết trên bàn, có thay đổi vài vị, Vương Nạn Cô tuyệt nhiên không biết.

Trương Vô Kỵ nói:

– Kim Hoa bà bà nghĩ rằng Hồ tiên sinh uống thuốc độc chết rồi, chúng ta cũng đỡ được mối lo lớn.

Trương Vô Kỵ thấy Kim Hoa bà bà thoắt cái đã tới, thoắt cái đã đi, hình dạng như ma quỷ, lúc này nhớ lại không khỏi lạnh người.

Vương Nạn Cô nói:

– Nghe người ta bảo, Kim Hoa bà bà hành sự hết sức kỹ càng, hôm nay tuy bà ta đi rồi nhưng mai sau thể nào cũng trở lại tra xét. Vợ chồng ta phải trốn đi ngay. Tiểu huynh đệ, nhờ ngươi đắp giùm hai phần mộ, trên bia ghi rõ tính danh vợ chồng ta.

Trương Vô Kỵ vâng lời. Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô uống thuốc giải độc xong liền thu thập chút hành trang. Hai tiểu đồng mỗi đứa được cho mười lạng bạc, bảo tự tìm đường về nhà. Hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu lên một cỗ xe lừa, nhân trời tối đi ngay.

Trương Vô Kỵ tiễn ra cửa thung lũng, một già một trẻ hơn hai năm qua sớm tối bên nhau, nay phải chia tay, quyến luyến chẳng rời. Hồ Thanh Ngưu lấy ra một bộ y thư viết tay, nói:

– Vô Kỵ, sở học cả đời ta đều được ghi lại trong bộ sách này, trước đây ta vẫn giữ kín, không đưa ngươi xem, bây giờ ta tặng cho ngươi. Âm độc của Huyền Minh thần chưởng trong cơ thể ngươi thật là khó trừ, ta áy náy vô cùng, chỉ mong ngươi tham cứu bộ sách này, tìm ra cách khu trừ hàn độc thì sau này chúng ta còn có dịp gặp lại nhau.

Trương Vô Kỵ tạ ơn nhận lấy. Vương Nạn Cô nói:

– Ngươi cứu mạng vợ chồng ta, lại giúp vợ chồng ta tái hợp, ta cũng muốn mang hết công phu cả đời truyền thụ cho ngươi. Nhưng cả đời ta chỉ nghiên cứu cách hạ độc hại người, ngươi có học được cũng vô ích. Chỉ mong ngươi sớm bình phục, sau này ta sẽ có dịp báo đáp.

Trương Vô Kỵ nhìn theo đến khi chiếc xe chạy khuất, mới trở lại nhà tranh. Sáng hôm sau cậu đắp hai ngôi mộ cạnh nhà, lại rời thung lũng tìm thuê thợ đục hai tấm bia đá, một tấm khắc hàng chữ “Điệp cốc Y Tiên Hồ tiên sinh Hồ Thanh Ngưu chi mộ”, một tấm khắc hàng chữ “Hồ phu nhân Vương thị chi mộ”. Bọn Giản Tiệp thấy hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu cùng chết cả mới biết việc ông ta bảo bị bệnh nặng là thật, không phải để lừa dối người khác nên đều cảm thương.

Vương Nạn Cô đi rồi, không còn ai ngấm ngầm hạ độc, Trương Vô Kỵ chữa trị cho mọi người mỗi ngày một đỡ, chỉ trong vòng mươi ngày họ lục tục cảm tạ ra về. Mẹ con Kỷ Hiểu Phù chưa biết đi đâu nên ở lại thêm ít hôm nữa.

Mấy ngày qua, Trương Vô Kỵ chăm chú đọc bộ y thư do Hồ Thanh Ngưu biên soạn, thấy nội dung quả thật bác đại tinh thâm, tinh vi huyền diệu, không hổ đại danh Y Tiên. Trương Vô Kỵ đọc tám chín ngày, y thuật đã đại tiến, nhưng vẫn chưa tìm ra chi tiết nào nói về cách khu trừ âm hàn khỏi cơ thể. Cậu cứ đọc đi đọc lại mấy lần, cuối cùng không còn hi vọng gì, mới nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh nếu biết cách chữa trị cho ta, hẳn đã chữa rồi. Còn nếu tiên sinh không biết, dĩ nhiên trong sách làm sao có chép được?” Nghĩ thế, bao nhiêu hi vọng đều tiêu tan.

Trương Vô Kỵ gấp sách lại, bước ra ngoài nhìn hai ngôi mộ giả, nghĩ thầm: “Chưa đầy một năm nữa, mình cũng sẽ ngủ một giấc ngàn thu dưới lòng đất thôi. Tấm bia trên mộ mình sẽ viết gì nhỉ?”

Còn đang mải nghĩ, bỗng nghe sau lưng có tiếng ho, Trương Vô Kỵ giật mình quay lại thấy Kim Hoa bà bà vịn vai một thiếu nữ xinh đẹp, đứng run rẩy cách cậu vài trượng.

Kim Hoa bà bà hỏi:

– Này tiểu tử, ngươi là thế nào với Hồ Thanh Ngưu? Sao lại đứng nơi đây rầu rĩ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Vãn bối bị trúng âm độc của Huyền Minh thần chưởng…

Kim Hoa bà bà tới gần, cầm cổ tay cậu xem mạch, vẻ ngạc nhiên, hỏi:

– Huyền Minh thần chưởng ư? Thế gian quả có môn công phu đó hay sao? Là ai đánh ngươi?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Người đó ăn vận như quân Mông Cổ, không hiểu thực ra là ai. Vãn bối đến cầu Hồ tiên sinh chữa trị, Hồ tiên sinh bảo vãn bối không phải là người trong Minh giáo nên không chịu chữa. Bây giờ Hồ tiên sinh uống thuốc độc chết rồi, bệnh của vãn bối không ai chữa cho, nghĩ đến chuyện đó mà tự thấy đau lòng.

Kim Hoa bà bà thấy Trương Vô Kỵ anh tuấn nho nhã, dễ mến, nay bị căn bệnh bất trị, nên thở dài:

– Tội nghiệp, tội nghiệp!

Trương Vô Kỵ chợt nhớ đến ba câu nói: “Sinh tử tu đoản, khởi năng cưỡng cầu? Dư ố hồ tri duyệt sinh chi phi cảm tà? Dư ố hồ tri ố tử chi phi nhược táng nhi bất tri quy giả tà? Dư ố hồ tri phu tử giả bất hối kỳ thủy chi kỳ sinh hồ?”[52]

Ba câu trên lấy từ sách của Trang Tử. Trương Tam Phong sùng tín Đạo giáo, bảy đệ tử của Trương lão tuy không phải là đạo sĩ, nhưng cuốn bảo điển của Đạo gia là Nam Hoa kinh của Trang Tử thì họ đều thuộc lòng. Hồi ở trên Băng Hỏa đảo, lúc Trương Vô Kỵ lên năm, Trương Thúy Sơn dạy con tập đọc tập viết, không có sách vở gì, chỉ vạch chữ dưới đất mà dạy, đã đem những lời trong sách Trang Tử bắt con học thuộc. Ý của Trang Tử muốn nói rằng sống chắc gì đã sướng, mà chết chắc gì đã khổ, sống chết thực ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn, khi chết đi, chính là tỉnh mộng, không chừng sau khi chết lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn, sao không chết sớm hơn? Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại, cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.

Trương Vô Kỵ còn ít tuổi, vốn chưa hiểu hết đạo lý lớn của hai chữ sinh tử, nhưng bốn năm qua ngày ngày sống giữa ranh giới sống và chết, cho nên cậu hiểu được hàm ý của Trang Tử. Trước kia cậu hoàn toàn không tin lời của Trang Tử, nay những ngày sống trên thế gian chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, thành thử cũng mong khi chết sẽ được lạc vào kỳ cảnh, sẽ hối hận là mình đã tìm đủ mọi cách cầu sinh.

Lúc này nghe Kim Hoa bà bà cứ nói “tội nghiệp, tội nghiệp” thì cậu mỉm cười, thuận miệng thốt ra ba câu của Trang Tử. Kim Hoa bà bà hỏi:

– Ngươi nói vậy là ý làm sao?

Nghe Trương Vô Kỵ giải thích ý nghĩa xong, Kim Hoa bà bà bỗng dưng ngơ ngẩn.

Ba câu của Trang Tử khiến Kim Hoa bà bà nghĩ đến người chồng quá cố. Hai vợ chồng bà ta sống với nhau mấy chục năm, ân ái vô ngần, chợt âm dương đôi ngả, không bao giờ còn gặp mặt nhau. Nếu chết đi tức là giống như người lưu lạc phương xa, được trở về quê nhà, vậy thì khi chồng bà ta bị kẻ thù hạ độc, Hồ Thanh Ngưu không chịu cứu chữa, chưa chắc đã là xấu. Quê nhà, quê nhà ư? Liệu trở về quê nhà có tốt hơn ở tha hương thật chăng?

Thiếu nữ đứng bên Kim Hoa bà bà hoàn toàn không hiểu mấy câu Trương Vô Kỵ vừa nói có ý nghĩa gì, không biết vì sao Kim Hoa bà bà vừa nghe xong lại như ngây như dại. Cô bé giương đôi mắt xinh đẹp hết nhìn Kim Hoa bà bà, lại nhìn Trương Vô Kỵ. Sau cùng, Kim Hoa bà bà nói:

– Chuyện dưới cõi u minh, chẳng biết thế nào. Chết tuy không đáng sợ, phàm là người rồi ai cũng phải chết, chẳng ai tránh nổi cái ngày đó, nhưng sống thêm được ngày nào thì vẫn hơn!

Trương Vô Kỵ thấy cả bọn Tiết Công Viễn mười lăm người đều bị Kim Hoa bà bà đả thương tàn khốc, lại thấy vợ chồng Hồ Thanh Ngưu sợ bà ta đến nỗi không dám bỏ trốn nữa thì tưởng Kim Hoa bà bà phải là kẻ hung tàn cùng cực, thế nhưng lúc gặp lại thấy khác hẳn. Hôm trước là ban đêm, dưới ánh đèn nhìn chưa rõ, hôm nay giữa ban ngày gặp đây, thấy chỉ là một bà lão hiền hậu, tuy mặt đầy nếp nhăn như da gà, không lộ vẻ hỉ nộ, nhưng ánh mắt trong sáng có thần, linh hoạt như thiếu nữ, rõ ràng tỏ ý ôn hòa thân thiết.

Kim Hoa bà bà lại hỏi:

– Này hài tử, tôn tính đại danh của phụ thân ngươi là gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Phụ thân của vãn sinh là Trương Thúy Sơn, đệ tử phái Võ Đang.

Cậu không nhắc tới việc phụ thân tự vẫn.

Kim Hoa bà bà kinh ngạc, nói:

– Ngươi là con của Trương ngũ hiệp phái Võ Đang, như thế có phải tên ác nhân dùng Huyền Minh thần chưởng đả thương ngươi chỉ vì muốn bức ngươi phải tiết lộ chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn và thanh đao Đồ Long không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Đúng thế, hắn dùng đủ thứ độc hình nhưng vãn sinh thà chết không nói.

Kim Hoa bà bà hỏi:

– Thế ngươi có biết thực hay không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Ồ, Kim Mao Sư Vương là nghĩa phụ của vãn sinh, vãn sinh không đời nào tiết lộ.

Kim Hoa bà bà liền dùng tay trái nắm luôn cả hai tay Trương Vô Kỵ, chỉ nghe xương kêu răng rắc, Trương Vô Kỵ đau đến muốn ngất đi, lại thấy một luồng hàn khí thấu xương từ hai tay truyền vào ngực, luồng hàn khí này khác hẳn Huyền Minh thần chưởng, song cũng cũng đau đớn khó chịu y như thế. Kim Hoa bà bà dịu giọng nói:

– Bé ngoan, ngươi mau nói ra chỗ ở của Tạ Tốn, bà bà sẽ chữa khỏi chứng hàn độc cho ngươi, rồi sẽ truyền cho ngươi thứ võ công vô địch trong thiên hạ.

Trương Vô Kỵ đau đến chảy nước mắt nhưng vẫn hiên ngang nói:

– Phụ mẫu vãn sinh thà mất mạng chứ không tiết lộ hành tàng của bằng hữu. Kim Hoa bà bà, lão bà tưởng vãn sinh là kẻ bán rẻ phụ mẫu hay sao?

Kim Hoa bà bà mỉm cười:

– Được lắm, được lắm! Phụ thân ngươi đâu, y có ở đây hay không?

Bà ta ngầm vận nội kình, các ngón tay như cái vòng thép bóp chặt thêm cổ tay của cậu. Trương Vô Kỵ nói lớn:

– Sao bà không đổ thủy ngân vào tai vãn bối? Sao bà không bắt vãn bối nuốt kim hay nuốt đỉa sống vào bụng? Bốn năm trước, vãn bối chỉ là một đứa bé còn chẳng sợ cực hình của tên ác ôn nọ, nữa là nay đã lớn rồi, không lẽ không bằng ngày trước?

Kim Hoa bà bà cười ha hả, nói:

– Ngươi tự cho mình là người lớn, không còn là trẻ con nữa cơ đấy, ha ha, ha ha…

Bà ta cười mấy tiếng, buông tay ra, chỉ thấy từ cổ tay đến các ngón tay của Trương Vô Kỵ đều tím bầm.

Thiếu nữ liếc Trương Vô Kỵ, nói:

– Mau tạ ơn bà bà tha mạng đi.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, nói:

– Bà ta giết ta đi xem chừng ta còn sướng hơn, có gì tốt mà phải tạ ơn?

Thiếu nữ nhíu mày, nói dỗi:

– Huynh không chịu nghe lời, muội chẳng thèm chơi với huynh nữa.

Nói xong thiếu nữ quay ngoắt đi, nhưng mắt vẫn lén liếc xem Trương Vô Kỵ làm gì.

Kim Hoa bà bà mỉm cười, nói:

– A Ly, ngươi có một mình trên đảo, không có ai chơi đùa, vắng vẻ lắm. Thôi mình bắt thằng nhỏ này đem về để nó hầu hạ ngươi, có thích không? Có điều thằng nhỏ này bướng bỉnh lắm, không chịu vâng lời.

Thiếu nữ nhướn mày, vỗ tay, cười, nói:

– Hay quá, bắt nó đem đi thôi! Nó không chịu vâng lời, chả lẽ bà bà không nghĩ ra cách trị nó sao?

Trương Vô Kỵ nghe hai bà cháu một hỏi một đáp thì trong lòng bồn chồn. Nếu Kim Hoa bà bà giết cậu ngay tại đây cũng coi như xong, nếu lại bắt cậu đem tới hòn đảo quái quỷ gì đó, sống chẳng ra sống, chết không ra chết, chịu sự hành hạ của hai kẻ kia, xem chừng lại còn khốn khổ hơn nhiều.

Kim Hoa bà bà gật đầu, nói:

– Ngươi đi theo ta, ta phải tìm một người, làm một việc, xong đâu đấy sẽ đi Linh Xà đảo.

Trương Vô Kỵ nổi giận:

– Các người không phải tử tế, ta không theo các người đi đâu hết.

Kim Hoa bà bà mỉm cười, nói:

– Trên đảo Linh Xà của ta thứ gì cũng có, được ăn chơi những món ngươi chưa thấy bao giờ. Bé con ngoan nào, đi theo bà bà đi.

Trương Vô Kỵ đột nhiên quay mình, co giò chạy. Nào ngờ mới được một bước, Kim Hoa bà bà đã chắn ngay trước mặt cậu. Cậu xoay người, chạy sang phía trái, cũng chỉ được một bước, Kim Hoa bà bà đã lại chặn ngay phía trước, nhỏ nhẹ nói:

– Hài tử, ngươi chạy không thoát đâu, hãy ngoan ngoãn đi theo bà bà.

Trương Vô Kỵ nghiến răng giáng cho Kim Hoa bà bà một chưởng, Kim Hoa bà bà hơi né mình, thổi vào bàn tay cậu một hơi. Bàn tay cậu vừa bị bà ta nắm đến tím bầm và sưng vù, nay lại thêm luồng hơi thổi đến, chẳng khác gì vết thương bị mũi dao ngoáy vào, đau nhảy dựng lên.

Bỗng có tiếng bé gái gọi:

– Vô Kỵ ca ca, ca ca chơi ở đâu thế? Muội tới đây này!

Chính là Dương Bất Hối chạy tới, rồi Kỷ Hiểu Phù cũng từ sau lùm cây bước ra. Hai mẹ con nàng vừa đi chơi ngoài rừng về, bất ngờ gặp Kim Hoa bà bà, Kỷ Hiểu Phù lập tức mặt tái nhợt, nhưng nàng thu hết can đảm, run run nói:

– Bà bà không nên làm khó trẻ con nhà khác.

Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Kỷ Hiểu Phù, lạnh lùng nói:

– Ngươi chưa chết sao? Chuyện của lão thái bà, ai cho ngươi chõ miệng vào? Lại đây cho ta coi, tại sao đến hôm nay ngươi vẫn chưa chết?

Kỷ Hiểu Phù xuất thân thế gia võ học, cao đồ của danh môn, vốn rất can đảm, nhưng lúc này vì lo cho con nhỏ nên không dám mạo hiểm, đành vội cầm tay con lùi lại một bước, nói nhỏ:

– Vô Kỵ, hãy lại đây.

Trương Vô Kỵ dợm bước định đi, thiếu nữ tên A Ly đưa tay chộp ngay “Tam dương lạc” trên cánh tay cậu, nói:

– Đứng im đó, ngươi tên Vô Kỵ, họ Trương, vậy là Trương Vô Kỵ, phải không?

“Tam dương lạc” vừa bị nắm, Trương Vô Kỵ lập tức cảm thấy nửa thân trên tê dại, không cử động được, trong bụng vừa sợ vừa tức, kêu to:

– Mau thả ta ra!

Bỗng nghe có tiếng phụ nữ trong trẻo vang lên:

– Hiểu Phù, sao ngươi nhát thế? Bảo đến thì ngươi cứ đến xem đi!

Kỷ Hiểu Phù nửa sợ nửa mừng, quay đầu lại thốt lên:

– Sư phụ!

Nhưng sau lưng nào thấy ai, chăm chú nhìn kỹ mới thấy ở phía xa một ni cô mặc áo bào màu tro thong thả đi tới, chính là Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi. Theo sau sư thái có hai đệ tử, một là sư tỷ Đinh Mẫn Quân, hai là sư muội Bối Cẩm Nghi.

Kim Hoa bà bà thấy ni cô còn xa như thế, mặt mũi chưa nhìn rõ mà tiếng nói truyền đến tai nghe rõ như chỉ đứng cách một hai thước, đủ biết nội lực thâm hậu chừng nào.

Diệt Tuyệt sư thái thịnh danh truyền xa, trong võ lâm ai ai cũng biết, có điều sư thái hiếm khi xuống núi, không mấy ai được gặp. Lúc đến gần mới thấy Diệt Tuyệt sư thái chừng bốn mươi, bốn lăm tuổi, dung mạo đúng ra đẹp lắm, tiếc rằng hai đuôi lông mày lại xiên xiên đổ xuống khiến cho khuôn mặt hóa thành kỳ bí, hơi giống kẻ đóng vai ma quỷ trong các vở tuồng.

Kỷ Hiểu Phù bước lên, quỳ xuống rập đầu, nói nhỏ:

– Sư phụ, lão nhân gia mạnh khỏe.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Nếu chẳng vì giận ngươi đến chết thì cũng còn khỏe.

Kỷ Hiểu Phù cứ quỳ đó chưa dám đứng dậy, nghe Đinh Mẫn Quân đứng sau sư phụ cười khẩy một tiếng, nàng biết là vị sư tỷ này đã nói xấu về nàng rất nhiều, lưng không khỏi toát mồ hôi lạnh. Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Vị bà bà kia bảo ngươi đi tới cho bà ta coi tại sao đến hôm nay ngươi vẫn chưa chết thì ngươi cứ tới xem bà ta làm gì nào.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Dạ.

Rồi đứng dậy, tới trước mặt Kim Hoa bà bà, nói lớn:

– Kim Hoa bà bà, sư phụ của vãn bối đã tới, những việc cường hung bá đạo của bà bà đối với vãn bối, sư phụ vãn bối sẽ thanh toán đó.

Kim Hoa bà bà ho hai tiếng, chăm chú nhìn Diệt Tuyệt sư thái, gật đầu, hỏi:

– Ồ, thì ra bà là chưởng môn phái Nga Mi, ta đã đả thương đệ tử của bà đấy, bà làm gì ta nào?

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Đả thương càng tốt, bà bà thích đả thương thì cứ việc, có đánh chết nó cũng chẳng sao.

Kỷ Hiểu Phù lòng như dao cắt, kêu lên:

– Sư phụ!

Hai dòng lệ nóng chảy dài trên má; nàng biết sư phụ lâu nay luôn bênh vực đệ tử, các đệ tử đắc tội với người ngoài, dù có sai mười mươi, sư phụ vẫn cưỡng từ đoạt lý bênh vực đến cùng, lúc này nói mấy câu thế kia thật chẳng khác gì không còn coi nàng là đệ tử.

Kim Hoa bà bà nói:

– Ta với phái Nga Mi không thù không oán, đả thương một lần cũng đủ rồi. A Ly, bà cháu ta đi thôi!

Nói xong thong thả quay đi.

Đinh Mẫn Quân không biết Kim Hoa bà bà lai lịch ra sao, thấy bà già trông có vẻ bệnh hoạn yếu đuối, dám vô lễ với sư phụ mình thì cả giận, vọt ngay tới trước mặt, quát:

– Bà bà chưa tạ tội với sư phụ ta mà dám bỏ đi ư?

Đoạn tay phải rút kiếm ra khỏi bao nửa chừng, làm vẻ thị uy.

Kim Hoa bà bà đột nhiên dùng hai ngón tay kẹp nhẹ vào bao kiếm của Đinh Mẫn Quân, rồi buông ra, cười nói:

– Đồng gỉ sắt vụn mà cũng đem dọa người ư?

Đinh Mẫn Quân lửa giận bừng bừng, liền rút kiếm, nào ngờ cố sức mấy lần mà thanh kiếm vẫn không thể rút ra khỏi bao.  Bé A Ly cười, nói:

– Đồng gỉ sắt vụn hết mất rồi.

Đinh Mẫn Quân lại gắng sức lần nữa vẫn không sao rút kiếm ra nổi. Mới hay Kim Hoa bà bà vừa rồi kẹp ngón tay tưởng như đùa giỡn vào bao kiếm, song đã ngầm vận nội lực làm cho bao kiếm lõm vào, ngậm chặt lấy lưỡi kiếm. Đinh Mẫn Quân rút ra không nổi, song vẫn chẳng chịu thôi, mặt mũi đỏ bừng, điệu bộ đầy vẻ tức tối.

Diệt Tuyệt sư thái thong thả bước tới, dùng ba ngón tay kẹp cán kiếm, lắc nhẹ một cái, bao kiếm tức thời tách thành hai mảnh, lưỡi kiếm tuột ra, nói:

– Thanh kiếm này tuy không phải quý giá lợi hại gì, song cũng chưa đến nỗi là thứ đồng gỉ sắt vụn. Kim Hoa bà bà sao không ở đảo Linh Xà hưởng phúc, lại về Trung nguyên gây sự làm chi?

Kim Hoa bà bà thấy Diệt Tuyệt sư thái dùng ba ngón tay vặn bao kiếm vỡ đôi thì trong bụng thầm sợ, nghĩ: “Mụ tặc ni này thanh danh cực lớn, quả nhiên cũng có công phu đích thực đây”, bèn cười hì hì, nói:

– Chồng ta mất rồi, ở một mình trên đảo buồn quá, thành thử ta đi đây đi đó một chút, xem có hòa thượng hay đạo sĩ nào vừa ý thì bắt một người mang về làm bạn cho vui.

Kim Hoa bà bà cố ý dùng bốn chữ “hòa thượng đạo sĩ” để xỏ xiên đối phương là ni cô mà còn đi nơi này nơi nọ.

Đôi lông mày rủ xuôi của Diệt Tuyệt sư thái lại càng rủ xuống, trường kiếm ngóc lên, trầm giọng quát:

– Lấy binh khí ra!

Bọn Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù từ ngày tòng sư đến nay chưa từng thấy sư phụ động thủ với kẻ khác, nhất là Kỷ Hiểu Phù biết Kim Hoa bà bà võ công quái dị khôn lường thì càng lo lắng.

Trương Vô Kỵ tay bị A Ly nắm chặt, nửa thân trên mỗi lúc một tê dại, quát lên:

– Buông ta ra! Ngươi giữ ta làm chi?

A Ly thấy Kỷ Hiểu Phù đứng bên có thể can thiệp, nếu không thả Trương Vô Kỵ, hẳn thế nào Hiểu Phù cũng sẽ ra tay, lúc đó không thả không xong, bèn dùng sức đẩy một cái, buông tay Trương Vô Kỵ ra, lạnh lùng nói:

– Để xem ngươi chạy đâu cho thoát.

Kim Hoa bà bà cười nhạt, nói:

– Năm xưa Quách Tương Quách nữ hiệp của phái Nga Mi kiếm pháp danh động thiên hạ, hẳn là cực kỳ cao minh, không hiểu truyền xuống đồ tử đồ tôn, còn được mấy phần?

Diệt Tuyệt sư thái thản nhiên nói:

– Dù chỉ còn một thành, cũng đủ quét sạch tà ma ngoại đạo.

Kim Hoa bà bà chăm chú theo dõi mũi kiếm của Diệt Tuyệt sư thái không chớp mắt, đột nhiên giơ quải trượng lên điểm nhanh vào thân kiếm. Diệt Tuyệt sư thái trường kiếm rung động, nhắm vai Kim Hoa bà bà đâm tới. Kim Hoa bà bà vừa ho vừa lấy quải trượng gạt ra. Diệt Tuyệt sư thái thân lướt theo kiếm, nhanh như chớp đã luồn ra sau lưng đối phương, chân chưa đứng vững kiếm chiêu đã tới. Kim Hoa bà bà không quay người lại, xoay quải trượng ngoặt ra sau lưng gạt ngang thanh kiếm.

Hai người đánh ba bốn chiêu, trong lòng đều thán phục đối phương, bỗng nghe “cắc” một tiếng, trường kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái gãy đôi, thì ra kiếm trượng chạm nhau, kiếm đã bị trượng chấn gãy.

Trừ cô bé A Ly, những người đứng xem ai nấy đều kinh hãi. Cây quải trượng trong tay Kim Hoa bà bà trông cũ kỹ xấu xí, chẳng vừa mắt chút nào, không phải bằng vàng bằng sắt, vậy mà đánh gãy được thanh kiếm, chắc là nhờ nội lực dồi dào thâm hậu. Song lúc binh khí của Diệt Tuyệt sư thái và Kim Hoa bà bà đụng nhau, cả hai người đều biết thanh kiếm gãy đôi chính là do quải trượng cứng rắn chứ không phải vì nội lực của người sử dụng. Cây gậy này là một loại đặc sản dưới đáy biển cạnh đảo Linh Xà, gọi là “San hô kim”, là một loại san hô hòa hợp với nhiều kim loại, nằm dưới đáy biển hàng vạn năm kết thành, chém sắt như thái bún, đập đá như đập tỏi, vũ khí sắc bén đến mấy đụng phải nó cũng gãy liền.

Kim Hoa bà bà cũng không tiến lên tấn công, chỉ chống gậy đứng tại chỗ, ôm ngực ho. Ba đệ tử của phái Nga Mi là Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù, Bối Cẩm Nghi sợ sư phụ bị thương, vội chạy tới đứng bên sư phụ để tiếp ứng. A Ly lại chộp lấy cổ tay Trương Vô Kỵ, cười nói:

– Ta đã bảo là ngươi không chạy đâu cho thoát mà.

A Ly ra tay bất ngờ, Trương Vô Kỵ không né tránh kịp, mạch môn bị người nắm giữ, nửa thân mình lại tê dại. Cậu hai lần bị cô bé này đùa giỡn, vừa thẹn vừa tức, vừa nóng nảy vừa bực bội, giơ chân phải đá vào hông đối phương. A Ly bóp mạnh thêm cổ tay Vô Kỵ, chân cậu mới nhấc lên được nửa chừng đã cứng nhắc. Cậu tức giận quát:

– Ngươi có buông tay ra không thì bảo?

A Ly cười, đáp:

– Ta không buông, ngươi làm gì được ta?

Trương Vô Kỵ cúi gập xuống, há miệng ngoạm ngay vào mu bàn tay cô bé, cắn mạnh một cái. A Ly thấy tay đau nhói, kêu toáng lên:

– Ái chà!

Tay phải buông ra, tay trái cào vào mặt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội nhảy lùi về phía sau, nhưng không kịp, bị móng tay ngón giữa cào một vệt dài chảy máu trên má. Mu bàn tay phải của A Ly bị cắn cũng chảy máu ròng ròng, đau đến phát khóc.

Hai đứa bé ở bên cạnh đánh nhau, Kim Hoa bà bà mặc kệ, chẳng buồn ngó đến.

Diệt Tuyệt sư thái ném thanh kiếm đã gãy xuống đất, nói:

– Đây là binh khí của đệ tử ta, vốn không đủ sức chịu đòn của cao nhân.

Đoạn gỡ cái bọc trên lưng lấy ra một thanh kiếm cổ dài bốn thước.

Kim Hoa bà bà liếc qua, thấy trên bao kiếm ẩn hiện một làn khí màu xanh, kiếm chưa rút khỏi bao mà đã biết chẳng phải vật tầm thường, trên vỏ kiếm có thêu bằng sợi tơ vàng hai chữ “Ỷ Thiên” thì cả kinh, buột miệng:

– Kiếm Ỷ Thiên!

Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, nói:

– Phải, kiếm Ỷ Thiên đó!

Kim Hoa bà bà lập tức nhớ đến sáu câu tương truyền trong võ lâm “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong”, miệng lẩm bẩm: “Thì ra kiếm Ỷ Thiên nằm trong tay phái Nga Mi”.

Diệt Tuyệt sư thái quát to:

– Tiếp chiêu!

Đoạn sư thái cầm cán kiếm, không rút khỏi bao, cứ để nguyên kiếm trong bao mà đâm thẳng vào ngực Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giơ quải trượng lên gạt ra. Diệt Tuyệt sư thái cổ tay hơi rung, bao kiếm đụng vào cây gậy. Chỉ nghe một tiếng “xoẹt” nhỏ như tiếng xé một mảnh bìa, cây thần trượng ngoài đảo, “San hô kim quải trượng” của Kim Hoa bà bà, một loại binh khí cực quý, đã gãy đôi.

Kim Hoa bà bà trong lòng chấn động mạnh, nghĩ thầm: “Kiếm Ỷ Thiên chưa ra khỏi bao đã lợi hại như thế, quả thật danh bất hư truyền”. Bà bà chăm chú nhìn thanh bảo kiếm không chớp mắt, rồi nói:

– Diệt Tuyệt sư thái, hãy cho ta được ngắm lưỡi kiếm một chút xem sao.

Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu, lạnh lùng nói:

– Thanh kiếm này một khi đã rút khỏi bao, chưa uống máu người thì không chịu trở vào bao.

Hai người lẳng lặng nhìn nhau, hồi lâu không nói.

Kim Hoa bà bà lúc này biết rằng vị ni cô kia công lực chẳng kém gì mình, chiêu thức lại xảo diệu, bà nhất thời chưa nhận biết được. Sư thái đã là chưởng môn phái Nga Mi, tài nghệ ắt chẳng tầm thường, lại nắm trong tay đệ nhất bảo kiếm trong thiên hạ, chắc bà ta không thể địch nổi, bèn ho nhẹ vài tiếng, quay người nắm tay A Ly thản nhiên bỏ đi.

A Ly ngoái lại, gọi:

– Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ!

Tiếng gọi xa dần, rồi bặt hẳn.

Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù, Bối Cẩm Nghi thấy sư phụ đắc thắng, địch nhân phải bỏ đi, thì cả mừng. Đinh Mẫn Quân nói:

– Sư phụ, bà già kia đúng là có mắt không thấy Thái Sơn, dám động thủ với lão nhân gia để chuốc lấy cái khổ.

Diệt Tuyệt sư thái nghiêm mặt, nói:

– Từ nay hành tẩu trên giang hồ, mỗi khi nghe thấy tiếng ho của mụ ta, các ngươi hãy tránh cho xa.

Vừa rồi khi sư thái dùng kiếm tấn công, tuy đánh gãy quải trượng của đối phương, nhưng khi ra tay đã sử dụng “Nga Mi cửu dương công” tu luyện trên ba chục năm. Thần công này đụng vào thân hình Kim Hoa bà bà mà như chìm vào đại dương, không còn tăm hơi gì, chỉ lay động tà áo bà bà, chứ không đẩy lùi được một bước, bây giờ nghĩ lại sư thái vẫn còn thầm kinh hãi; biết rằng nội lực của bà bà cao siêu, vững vàng như thuở tráng niên, chẳng có vẻ gì là một bà lão ốm yếu; tu luyện tới mức như thế thật khó mà hiểu nổi.

Diệt Tuyệt sư thái ngẩng nhìn trời, xuất thần hồi lâu, nói:

– Hiểu Phù, theo ta!

Không buồn nhìn Hiểu Phù một lần, sư thái bước vào căn nhà tranh. Bọn Kỷ Hiểu Phù đi theo. Dương Bất Hối kêu lên:

– Mẹ ơi!

Cô bé định chạy theo. Kỷ Hiểu Phù biết rằng sư phụ lần này thân chinh xuống núi, là muốn thanh lý môn hộ, tuy trước đây nàng được sư phụ quý mến, song sư phụ tính nết nghiêm khắc, thực chưa biết sẽ xử trí nàng ra sao, bèn bảo con:

– Con hãy ra ngoài chơi, đừng vào theo mẹ.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ả họ Đinh quá tệ, chắc là đã ton hót với sư phụ, nói xấu Kỷ cô rồi đây! Mọi chuyện đêm hôm đó, mình chính mắt chứng kiến, chỉ thấy mụ Độc Thủ Vô Diệm này chẳng ra gì, nếu ả ta nói năng lung tung, đổi trắng thay đen, mình sẽ tiến ra biện minh cho Kỷ cô cô”; thế là cậu kín đáo luồn ra sau nhà, nép mình dưới song cửa, nín thở lắng nghe.

Trong nhà im phăng phắc, không ai nói gì cả. Rồi Diệt Tuyệt sư thái lên tiếng:

– Hiểu Phù, chuyện của ngươi, ta muốn chính miệng ngươi nói ra coi.

Kỷ Hiểu Phù nghẹn ngào nói:

– Sư phụ, con… con…

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Mẫn Quân, ngươi lại hỏi nó coi.

Đinh Mẫn Quân đáp:

– Dạ. Kỷ sư muội, trong môn phái chúng ta, điều giới thứ ba là gì?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Cấm dâm tà phóng đãng.

Đinh Mẫn Quân nói:

– Đúng. Điều giới thứ sáu là gì?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Cấm tâm hướng ngoại nhân, phản bội sư môn.

Đinh Mẫn Quân hỏi:

– Kẻ phạm giới, bị xử tội thế nào?

Kỷ Hiểu Phù không trả lời câu hỏi đó, quay sang nói với Diệt Tuyệt sư thái:

– Sư phụ, chuyện này bên trong quả thật có điều đệ tử khó nói, hoàn toàn không như Đinh sư tỷ thuật lại đâu ạ.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Được, ở đây không có người ngoài, ngươi hãy thuật lại ta coi.

Kỷ Hiểu Phù biết rằng hôm nay đứng trước sự thể vô cùng trọng đại, quyết không thể giấu giếm chút gì, liền nói:

– Sư phụ, năm xưa sau khi bên mình nghe tin Thiên Ưng giáo giương đao lập uy tại Vương Bàn sơn đảo, sư phụ sai mười sáu đệ tử chúng con xuống núi, chia nhau đi dò xét chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Đệ tử đi về hướng Đại Thụ Bảo ở Xuyên Tây, trên đường gặp một trung niên nam tử, tuổi chừng bốn mươi, bận đồ trắng. Đệ tử đi đâu, y theo tới đó, đệ tử vào khách điếm, y cũng vào khách điếm, đệ tử dừng chân, y cũng dừng chân. Thoạt đầu đệ tử mặc xác y, sau thấy chướng mắt quá mới trách cứ y. Y nói năng điên điên khùng khùng, đệ tử không chịu nổi bèn rút kiếm đâm y. Y không mang theo binh khí nhưng võ công cao siêu, chỉ vài chiêu đã đoạt mất kiếm của đệ tử.

Đệ tử hoảng sợ bỏ chạy, người đó không đuổi theo. Sáng sớm hôm sau, khi đệ tử tỉnh dậy trong khách điếm, thì thấy thanh kiếm của mình đặt ngay bên gối. Đệ tử giật mình kinh hãi, đi khỏi khách điếm lại thấy người ấy bám theo. Con nghĩ động võ với y không ăn thua, chỉ còn cách ngọt ngào cầu khẩn y, nói đôi bên không họ hàng thân thích, cũng chẳng quen biết, huống hồ nam nữ hữu biệt, ông cứ bám theo ta là có ý gì. Con nói thêm, võ công ta tuy không bằng ông, nhưng động tới phái Nga Mi ta chẳng phải chuyện đùa.

Diệt Tuyệt sư thái “Ừ” một tiếng, tựa hồ ưng ý về câu nói đó.

Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:

– Kẻ đó bật cười, nói: “Võ công của một người mà còn phân biệt môn phái thì chỉ là hạ thừa. Cô nương nếu chịu theo ta, ta sẽ giúp nàng sáng mắt ra, thấy trời đất bao la của võ học”.

Diệt Tuyệt sư thái tính tình cô độc, cả đời miệt mài học võ, sống ngăn cách với thế giới bên ngoài, nghe Kỷ Hiểu Phù thuật lại lời người kia bảo “Võ công của một người mà còn phân biệt môn phái thì chỉ là hạ thừa… ta sẽ giúp nàng sáng mắt ra, thấy trời đất bao la của võ học”, liền không khỏi tò mò, hỏi:

– Thế là ngươi đi theo y, xem có thứ võ công cổ quái nào không chứ gì?

Kỷ Hiểu Phù đỏ mặt, nói:

– Sư phụ, y là nam tử không quen biết, lẽ nào con lại đi theo y?

Diệt Tuyệt sư thái vỡ lẽ, nói:

– Ừ phải, vậy ngươi bảo y mau mau xéo đi chỗ khác.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Con tìm trăm muôn nghìn kế tránh né y mà vẫn không nổi, cuối cùng bị y bắt được. Ôi, đệ tử bất hạnh, gặp phải cái oan nghiệt kiếp trước.

Nói tới đây, giọng nói nhỏ dần. Diệt Tuyệt sư thái hỏi:

– Sau đó thế nào?

Kỷ Hiểu Phù nói nhỏ:

– Con chống cự không nổi, bị thất thân với y. Y theo dõi con sát sao, con muốn chết cũng không xong. Cứ như thế suốt mấy tháng ròng. Bỗng có kẻ địch đến tìm y, con thừa cơ trốn thoát, không lâu sau phát hiện mình có mang. Con không dám thưa với sư phụ, chỉ còn nước lén lão nhân gia mà sinh hài nhi.

Diệt Tuyệt sư thái hỏi:

– Tất cả đúng như thế ư?

Kỷ Hiểu Phù đáp:

– Đệ tử nghìn vạn lần không dám nói dối sư phụ.

Diệt Tuyệt sư thái trầm ngâm một hồi, nói:

– Tội nghiệp, con thật đáng thương! Ôi, chuyện ấy đâu phải lỗi tại con.

Đinh Mẫn Quân nghe lời nói của sư phụ có vẻ thương xót Kỷ Hiểu Phù thì hậm hực nhìn sư muội một cái.

Diệt Tuyệt sư thái thở dài, hỏi:

– Thế bây giờ con định ra sao?

Kỷ Hiểu Phù rơi lệ, nói:

– Đệ tử tùy gia nghiêm định đoạt, vốn đã hứa gả cho Ân lục gia phái Võ Đang, nay gặp phải biến cố này, chỉ xin sư phụ ban ân cho con xuất gia, cắt tóc làm ni cô.

Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu:

– Không nên thế. Hừ, gã nam tử bại hoại làm hại đời con ấy tên là gì?

Kỷ Hiểu Phù thấp giọng thưa:

– Y… Y họ Dương, đơn danh một chữ Tiêu.

Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên nhảy dựng lên, tay áo phất một cái, nghe “rắc” một tiếng, mặt bàn đã bị đập vỡ một nửa. Trương Vô Kỵ nấp bên ngoài nghe lén, sợ hết hồn. Kỷ Hiểu Phù, Đinh Mẫn Quân, Bối Cẩm Nghi mặt đều biến sắc.

Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng, hỏi:

– Ngươi bảo tên hắn là Dương Tiêu? Có phải là tên đại ma đầu của Ma giáo, tự xưng “Quang Minh tả sứ giả” Dương Tiêu hay không?

Kỷ Hiểu Phù đáp:

– Y… Y… là người trong Minh giáo, hình như có chút địa vị trong giáo phái đó.

Diệt Tuyệt sư thái mặt đầy vẻ giận dữ, nói:

– Minh giáo cái gì? Đó là thứ Ma giáo thương thiên hại lý, làm đủ mọi việc tàn ác. Y… Y trốn ở đâu? Có phải ở trên đỉnh Quang Minh núi Côn Luân hay không? Để ta đi tìm y.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Y bảo, Minh giáo…

Diệt Tuyệt sư thái quát lên:

– Ma giáo!

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Vâng, y bảo tổng đàn của Ma giáo vốn đặt trên đỉnh Quang Minh, nhưng gần đây trong nội bộ Ma giáo bất hòa, nên y không ở trên đỉnh Quang Minh để tránh kẻ khác nói y muốn làm giáo chủ, mà dời qua ẩn cư tại “Tọa Vong phong” cũng thuộc dãy Côn Luân. Có điều là y chỉ nói cho một mình đệ tử biết thôi, người trong giang hồ không ai biết cả. Sư phụ đã hỏi đến, đệ tử đành phải thưa. Sư phụ, người ấy… người ấy là kẻ thù của bổn phái ư?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Thù sâu như biển! Đại sư bá ngươi, Cô Hồng Tử, đã bị tên đại ma đầu Dương Tiêu làm cho giận quá mà chết.

Kỷ Hiểu Phù hết sức kinh hãi, nhưng bất giác cảm thấy ngầm kiêu hãnh, đại sư bá Cô Hồng Tử vốn là một cao thủ lừng danh thiên hạ, vậy mà bị “người ấy” chọc tức đến chết. Nàng rất muốn biết đầu đuôi sự việc, nhưng không dám hỏi.

Diệt Tuyệt sư thái ngẩng lên nhìn trời, hậm hực lẩm bẩm:

– Dương Tiêu, Dương Tiêu… bao năm nay ta không biết ngươi ở đâu, hôm nay rốt cuộc thì ngươi sẽ không thoát khỏi tay ta…

Đột nhiên sư thái quay lại, nói:

– Được, chuyện ngươi thất thân với hắn, bênh vực Bành hòa thượng, đắc tội với Đinh sư tỷ, nói dối sư phụ, lén nuôi hài nhi… tất cả những chuyện đó ta không nhắc đến nữa. Giờ ta sai ngươi đi làm một việc, làm xong việc đó, ngươi trở về núi Nga Mi, ta sẽ đem y bát và kiếm Ỷ Thiên truyền cho ngươi, lập ngươi làm người kế thừa chức chưởng môn bổn phái.

Mấy câu đó khiến ai nấy đều kinh ngạc. Đinh Mẫn Quân vừa ghen tức, vừa căm hận, ngầm oán trách sư phụ không phân biệt trắng đen, làm điều nghịch lý.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Sư phụ sai bảo gì, đệ tử cũng phải tận tâm tận lực thi hành. Còn về việc ân sư chân truyền y bát, đệ tử tự biết đức hạnh khiếm khuyết, võ công thấp kém, không dám vọng tưởng.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Ngươi theo ta ra đây.

Sư thái nắm cổ tay Kỷ Hiểu Phù ra khỏi nhà tranh, chạy lên một triền núi ở phía trái thung lũng, tới một nơi thật trống trải mới dừng lại.

Trương Vô Kỵ từ xa nhìn tới, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái đứng trên cao, đưa mắt nhìn tứ phía một vòng, rồi kéo Kỷ Hiểu Phù lại bên cạnh, nói nhỏ vào tai nàng. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái muốn nói một việc cực kỳ bí mật, sợ tai vách mạch rừng, nên ngay cả hai đệ tử kia cũng không cho biết.

Trương Vô Kỵ náu mình phía sau nhà tranh, không dám ló mặt ra, chỉ từ xa nhìn cảnh Diệt Tuyệt sư thái nói một hồi, Kỷ Hiểu Phù cúi đầu suy nghĩ, sau đó lắc đầu, vẻ mặt rất kiên quyết, hiển nhiên không chịu vâng mệnh sư phụ. Diệt Tuyệt sư thái giơ tả chưởng lên định đánh xuống, nhưng ngừng lại giữa chừng, tựa hồ để cho Kỷ Hiểu Phù cơ hội cuối cùng hồi tâm chuyển ý.

Trương Vô Kỵ trống ngực đập thình thình, nghĩ thầm chưởng đó mà giáng xuống đầu Kỷ Hiểu Phù thì Kỷ cô cô hết sống. Trương Vô Kỵ không dám chớp mắt, cứ chăm chú nhìn Kỷ Hiểu Phù.

Chỉ thấy Kỷ Hiểu Phù quỳ dưới đất, cả quyết lắc đầu. Tả chưởng của Diệt Tuyệt sư thái đánh xuống ngay giữa đỉnh đầu nàng. Kỷ Hiểu Phù gục ngay xuống, thân hình giãy giãy vài cái, rồi nằm bất động.

Trương Vô Kỵ vừa kinh hãi vừa đau đớn, nằm phục trong đám cỏ cao sau nhà, không dám động đậy.

Vừa lúc ấy, Dương Bất Hối cười khúc khích hai tiếng, ở đâu tự nhiên ôm choàng lấy lưng Trương Vô Kỵ, nói:

– Bắt được ca ca rồi, bắt được ca ca rồi!

Thì ra cô bé chạy chơi bên ngoài, thấy Trương Vô Kỵ nằm giấu mình trong cỏ, lại ngỡ cậu đang chơi trò trốn tìm với nó, bèn chạy tới ôm lấy. Trương Vô Kỵ vòng tay kéo Dương Bất Hối vào lòng, một tay bịt miệng con bé, ghé tai nói nhỏ:

– Đừng nói, đừng để kẻ ác nhìn thấy mình.

Dương Bất Hối thấy mặt Vô Kỵ tái nhợt, đầy vẻ kinh hãi thì cũng sợ theo.

Diệt Tuyệt sư thái từ trên triền núi vội vã đi xuống, nói với Đinh Mẫn Quân:

– Đi tìm nghiệt chủng của nó mà đâm chết đi, khỏi lưu mầm họa.

Đinh Mẫn Quân thấy sư phụ ra tay đánh chết Kỷ Hiểu Phù, tuy mừng thầm trong bụng song không khỏi kinh hãi, nghe sư phụ hạ lệnh, vội mượn kiếm của Bối Cẩm Nghi đi tìm Dương Bất Hối.

Trương Vô Kỵ ôm chặt Dương Bất Hối, co mình trong đám cỏ dày, không dám thở mạnh.

Đinh Mẫn Quân chạy trước chạy sau tìm kiếm một hồi không thấy tung tích Dương Bất Hối đâu cả, đang tính tìm kỹ một lần nữa thì Diệt Tuyệt sư thái mắng:

– Thật là đồ vô dụng, có một đứa bé cũng tìm không được.

Bối Cẩm Nhi bình thời chơi thân với Kỷ Hiểu Phù, mắt thấy sư tỷ bị thảm tử dưới tay sư phụ, giờ sư phụ còn định giết nốt đứa con côi của nàng thì trong lòng bất nhẫn, nói:

– Đệ tử thấy đứa bé ấy hình như chạy ra ngoài thung lũng rồi.

Bối Cẩm Nghi biết sư phụ tính tình nôn nóng, nếu ra ngoài kia tìm không thấy, sẽ chẳng trở vào đây tìm lại. Tuy đứa bé kia một thân một mình trơ trọi trên cõi đời này chưa chắc đã sống nổi, song vẫn còn hơn chính mắt nàng phải chứng kiến cái cảnh Đinh Mẫn Quân đâm nó một nhát chết tươi. Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Sao không nói sớm?

Bà ta hầm hầm trừng mắt nhìn đệ tử, rồi chạy trước ra ngoài thung lũng đuổi theo đứa bé. Đinh Mẫn Quân và Bối Cẩm Nhi lật đật chạy theo.

Dương Bất Hối chưa biết mẫu thân gặp đại họa, đôi mắt to đen cứ luôn luôn chuyển động, ngụ ý muốn hỏi có chuyện gì. Trương Vô Kỵ ghé tai sát đất nghe ngóng, thấy tiếng chân ba người kia mỗi lúc một xa, mới nhỏm dậy dắt Dương Bất Hối chạy lên triền núi, Dương Bất Hối cười hỏi:

– Vô Kỵ ca ca, kẻ ác đi rồi à? Mình lên núi chơi phải không?

Trương Vô Kỵ không trả lời, dắt con bé chạy thẳng tới chỗ Kỷ Hiểu Phù. Gần đến nơi, Dương Bất Hối thấy mẫu thân nằm gục dưới đất, nó cả kinh, tới bên ngồi thụp xuống ôm choàng lấy mẫu thân, gọi to:

– Mẹ ơi, mẹ ơi!

Trương Vô Kỵ thăm hơi thở của Kỷ Hiểu Phù chỉ còn thấy thoi thóp, lại thấy xương sọ của Kỷ cô cô đã bị Diệt Tuyệt sư thái đánh một chưởng vỡ toác, dù Y Tiên Hồ Thanh Ngưu có ở đây cũng chẳng tài nào cứu nổi. Kỷ Hiểu Phù hé mắt nhìn, thấy Trương Vô Kỵ và con mình, môi mấp máy muốn nói, nhưng không thốt được nửa lời, lệ giàn giụa trong đôi mắt to. Trương Vô Kỵ lấy kim trong bọc ra, châm vào các huyệt Thần Đình, Ấn Đường, Thừa Khấp để cảm giác đau đớn nhất thời không truyền lên não.

Kỷ Hiểu Phù tinh thần hơi tỉnh, thều thào nói:

– Cô cô… nhờ cháu… đưa nó đến cha nó… Cô cô không chịu… không chịu… hại cha nó…

Nàng đưa tay lên ngực, tựa hồ định lấy vật gì, đột nhiên đầu ngoẹo qua một bên, tắt thở hẳn. Dương Bất Hối ôm chặt thi thể mẹ, khóc to, miệng không ngớt kêu:

– Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ đau lắm à? Mẹ đau lắm à?

Thân thể Kỷ Hiểu Phù lạnh dần, con bé vẫn cứ hỏi mãi. Nó không hiểu tại sao mẹ nó không cử động, tại sao mẹ nó không trả lời nó.

Trương Vô Kỵ vốn đã đau lòng, nhớ lại lúc phụ mẫu cậu chết, cậu cũng ôm xác hai người mà khóc, thì không cầm được, lúc này nước mắt cũng ròng ròng. Hai đứa khóc một hồi, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lúc lâm chung, Kỷ cô cô nhờ mình đưa bé Bất Hối đến chỗ phụ thân nó. Phụ thân nó tên là Dương Tiêu, là Quang Minh tả sứ giả trong Minh giáo, ở trên ngọn núi tên là Tọa Vong gì đó thuộc dãy Côn Luân. Mình phải đưa Bất Hối tới đó mới được”. Nó đâu biết dãy Côn Luân ở tận phía cực tây, cách đây mấy vạn dặm, hai đứa trẻ làm sao đi tới? Nhớ lúc sắp tắt thở Kỷ Hiểu Phù định lấy vật gì ở ngực, Vô Kỵ bèn sờ thử, thấy trên cổ nàng có một sợi dây đeo một chiếc thiết bài màu đen, trên thiết bài thêu bằng tơ vàng hình một ngọn lửa đang cháy.

Trương Vô Kỵ không biết đó là cái gì, nhưng cậu cũng tháo ra đeo vào cổ Dương Bất Hối. Cậu vào nhà tranh, lấy ra một cái xẻng, đào cái hố chôn Kỷ Hiểu Phù. Lúc này Dương Bất Hối khóc đã kiệt sức, nằm lăn ra ngủ. Khi cô bé tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ phải nói mãi nó mới chịu tin là mẫu thân nó đã bay lên trời, phải lâu thật là lâu mới lại từ trên trời bay xuống gặp nó.

Sau đó Trương Vô Kỵ vào nhà nấu qua quýt một bữa cơm, cùng Dương Bất Hối ăn xong lại mệt quá lăn ra ngủ. Sáng hôm sau thức dậy, Trương Vô Kỵ thu thập hành lý thành hai gói nhỏ, giắt trong người mấy chục lạng bạc mà Hồ Thanh Ngưu để lại cho cậu rồi dẫn Dương Bất Hối lên chỗ mộ mẫu thân nó lạy mấy lạy, sau đó hai đứa trẻ rời khỏi Hồ Điệp cốc..

Hồi 14: Giữa đường toàn gặp lũ sói lang

Hai đứa trẻ đi hơn nửa ngày đường mới ra khỏi Hồ Điệp cốc, Dương Bất Hối chân nhỏ bước ngắn, không còn đi nổi nữa. Hai đứa ngồi nghỉ một hồi rồi mới đi tiếp. Đi rồi nghỉ, nghỉ rồi đi, chiều tối hôm đó không tìm ra khách điếm, trời đã tối hẳn mà bọn trẻ vẫn còn lang thang trong hoang sơn dã lãnh, bốn phía sói tru cú rúc, Dương Bất Hối sợ quá phát khóc.

Trương Vô Kỵ trong bụng cũng vô cùng sợ hãi, thấy bên đường có một cái hang bèn kéo Dương Bất Hối vào đó, ôm con bé vào lòng, dùng tay bịt tai nó lại để nó khỏi nghe tiếng thú đói tru rú trong đêm.

Đêm đầu tiên hai đứa trẻ vừa đói vừa sợ, sáng hôm sau mới tìm quả dại ăn tạm, thuận theo đường núi cứ vừa đi vừa nghỉ. Đến giữa trưa, đang đi Dương Bất Hối đột nhiên kêu thất thanh, chỉ về phía một cây lớn bên đường.

Trương Vô Kỵ nhìn theo, thấy trên cây treo lủng lẳng hai cái xác người chết khô, sợ quá vội kéo Dương Bất Hối cắm đầu chạy. Hai đứa chạy được hơn chục bước, vấp phải một hòn đá, cùng ngã lăn. Trương Vô Kỵ thu hết can đảm ngoảnh đầu nhìn lại thì càng thêm kinh hãi, buột miệng kêu lên:

– Hồ tiên sinh!

Thì ra cái xác treo trên cây kia bị gió thổi quay mặt lại, chính là Hồ Thanh Ngưu, cái xác thứ hai tóc dài phủ xuống lưng, là xác phụ nữ, nhìn trang phục, chính là Hồ phu nhân Vương Nạn Cô. Gió núi thổi vào xác và mái tóc dài của bà ta càng làm tăng thêm âm khí thâm u.

Trương Vô Kỵ cố định thần, tự nhủ: “Không sợ, không sợ!” Cậu thong thả đứng dậy, từng bước từng bước đến gần, nhìn kỹ, đúng là thi thể của hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu. Trên má hai người có cắm một bông mai vàng nho nhỏ. Trương Vô Kỵ hiểu ngay: “Thì ra họ không chạy thoát khỏi độc thủ của Kim Hoa bà bà”.

Dưới dòng suối có một cỗ xe vỡ nát, một con la chết chìm trong đó.

Trương Vô Kỵ bùi ngùi chảy nước mắt, cởi dây hạ hai cái xác vợ chồng Hồ Thanh Ngưu trên cây xuống, bỗng nghe một tiếng “bịch”, từ trong bọc của Vương Nạn Cô rơi ra một quyển sách. Cậu nhặt lên, đó là quyển sách chép tay, tựa đề năm chữ “Vương Nạn Cô độc kinh”. Giở xem, bên trong dày đặc những chữ nhỏ bằng đầu ruồi theo lối chữ khải, miêu tả độc tính của các độc vật, cách sử dụng và hóa giải; ngoài độc dược, độc thảo, còn các loại hoạt trùng có độc như rắn, rết, bò cạp, nhện; kể cả các loại kỳ quái như cá, chim, thú, hoa, đất đá, các loại độc đều có ghi đủ. Cậu tiện tay cất luôn vào bọc của mình, xếp hai thi thể vợ chồng Hồ Thanh Ngưu nằm sát nhau, lấy đất đá đắp lên thành một cái mộ, quỳ xuống lạy mấy lạy, rồi dắt tay Dương Bất Hối tìm đường mà đi.

Đi được vài dặm thì gặp đường lớn, không lâu tới một tiểu trấn. Trương Vô Kỵ định mua cơm ăn, nào ngờ mọi nhà trong thị trấn đều bỏ hoang, không một bóng người. Hai đứa không còn cách gì, đành phải đi tiếp, chỉ thấy ruộng nương hai bên đường không ai cày cấy, cỏ dại mọc đầy, trông thật hoang tàn.

Trương Vô Kỵ trong lòng lo lắng, Dương Bất Hối thật là ngoan, cố nhịn đói không khóc, gắng sức cất bước, vì nó bé quá, đâu biết làm gì. Đi được một quãng, thấy bên đường có mấy xác người, bụng ai nấy lép kẹp, hai má hõm sâu, nhìn biết ngay là chết đói. Càng đi càng gặp nhiều xác chết. Trương Vô Kỵ hoảng sợ nghĩ thầm: “Chẳng lẽ không thể kiếm được thứ gì ăn hay sao? Chẳng lẽ rồi hai đứa cũng chết đói hay sao?”

Buổi chiều, hai đứa tới một khu rừng, thấy bên trong có khói trắng bốc lên, Trương Vô Kỵ cả mừng, từ hôm rời Hồ Điệp cốc đến nay cậu chưa gặp một ai, nên vội vàng đi về phía làn khói. Tới gần, thấy hai hán tử áo quần lam lũ, ngồi bên một cái chảo nước bốc hơi nghi ngút, đang tiếp thêm củi vào bếp. Hai gã kia nghe tiếng chân người, quay lại thấy Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối thì mặt lộ vẻ mừng rỡ, cùng nhảy cẫng lên. Một gã vẫy vẫy tay, gọi:

– Bé con, hay quá, lại đây mau, có người lớn đi cùng không? Hai đứa đi đâu vậy?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Chỉ có hai chúng cháu thôi, không có người lớn đi cùng.

Hai gã kia nhìn nhau cười ha hả, cùng thốt lên:

– May quá, may quá!

Trương Vô Kỵ đói lả, thò đầu nhìn vào trong chảo xem họ nấu món gì, thấy bên trong đang sôi sùng sục, nhưng toàn là cỏ xanh.

Một gã túm lấy Dương Bất Hối, nhe răng cười:

– Con dê này vừa non vừa béo, tối nay được một bữa no, sướng thật.

Gã thứ hai tiếp lời:

– Đúng thế, còn thằng nhóc để dành bữa ngày mai.

Trương Vô Kỵ giật mình cả kinh, kêu to:

– Làm gì thế? Mau buông tiểu muội của ta ra!

Gã kia không thèm lý tới, soạt một cái đã xé rách áo của Dương Bất Hối, đưa tay rút từ trong ủng ra một con dao găm, cười nhăn nhở:

– Lâu quá chưa được xơi loại dê non béo thế này.

Hắn xách Dương Bất Hối đặt sang một bên, tựa hồ sửa soạn làm thịt cô bé. Gã thứ hai cầm chiếc bát sành để ở phía sau, nói:

– Tiết dê non bỏ đi phí lắm, để nấu một nồi cháo huyết, ăn ngon phải biết.

Trương Vô Kỵ sợ hết hồn, xem ra hai gã này không hề nói đùa, mà có ý ăn thịt Dương Bất Hối thật sự, bèn nói to:

– Các ngươi định ăn thịt người, không sợ thương thiên hại lý à?

Tên cầm bát cười:

– Ba tháng nay ta chưa được một hạt gạo vào bụng, không ăn thịt người, ngươi bảo còn có thịt gì để ăn đây?

Hắn sợ Trương Vô Kỵ bỏ chạy, bèn bước tới túm cổ nó.

Trương Vô Kỵ nghiêng người né tránh, tay trái hất ra, tay phải đánh một chưởng trúng vào chỗ yếu hại sau lưng tên kia. Cậu được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn truyền thụ bí quyết, lại được phụ thân dạy cho trường quyền Võ Đang, mấy năm qua tuy chuyên tâm y thuật, không luyện võ, song những gì đã tập xem ra toàn là võ công thượng thừa. Một chưởng vừa rồi đánh ra, chỉ e một võ sư tập luyện lâu năm cũng chưa chắc chịu nổi, huống hồ một gã nông phu tầm thường. Hắn hự một tiếng, ngã gục ngay xuống, không thấy động đậy gì cả.

Trương Vô Kỵ lập tức nhảy tới bên cạnh Dương Bất Hối. Gã hán tử thứ hai quát:

– Để ta làm thịt mi trước!

Gã giơ con dao đâm vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ sử chiêu “Nhạn sí thức” trong trường quyền Võ Đang, tung chân phải đá trúng cổ tay gã khiến con dao văng đi. Tiếp đó cậu sử chiêu “Uyên ương liên hoàn thoái”, chân trái đá tiếp trúng cằm gã. Gã đang há mồm quát tháo, hàm dưới bị đá trúng ngậm ngay lại, răng cắn phải lưỡi, máu phun vọt ra, bất tỉnh tức thì. Trương Vô Kỵ vội đỡ Dương Bất Hối đứng dậy.

Bỗng có nhiều tiếng chân, rồi có một tốp người đi vào rừng. Dương Bất Hối sợ cuống lên, vừa nghe tiếng người đã sà vào lòng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thò đầu ra thăm dò, lập tức hết lo liền gọi to:

– Giản đại gia, Tiết đại gia!

Tốp người đi vào rừng cả thảy năm người, một là Giản Tiệp phái Không Động, ngoài ra là Tiết Công Viễn phái Hoa Sơn và hai đồng môn của hắn; bốn người ấy đều được Trương Vô Kỵ chữa bệnh cho ít ngày trước. Người thứ năm là một hán tử tướng mạo uy tráng, vầng trán cao, trạc hai mươi tuổi, Trương Vô Kỵ chưa gặp lần nào.

Giản Tiệp “ồ” lên một tiếng, nói:

– Trương huynh đệ, ngươi cũng tới đây ư? Hai người kia làm sao thế?

Nói rồi chỉ hai gã đang nằm quay lơ dưới đất. Trương Vô Kỵ bực bội kể lại chuyện vừa rồi, sau cùng nói:

– Đến người đang sống mà bọn chúng cả gan làm thịt ăn, thì thật là vô pháp vô thiên!

Giản Tiệp đưa mắt nhìn Dương Bất Hối, khóe miệng hắn chảy nước dãi, lè lưỡi liếm môi, miệng lẩm bẩm:

– Con mẹ nó chứ, năm ngày năm đêm rồi không một hột cơm vào bụng, chỉ nhai toàn rễ cỏ với vỏ cây… ôi chao, mềm mại trắng trẻo, mập mạp mơn mởn thế kia…

Trương Vô Kỵ thấy cặp mắt Giản Tiệp lộ rõ vẻ thèm khát, hệt như một con chó sói đói đang rình mồi, nhe răng trắng nhởn, trông thật đáng sợ, cậu vội kéo Dương Bất Hối vào lòng.

Tiết Công Viễn nói:

– Mẹ con bé này đâu rồi?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Nếu mình bảo Kỷ cô cô đã chết, bọn này sẽ có ý định xấu xa”, bèn nói:

– Kỷ nữ hiệp đi mua gạo, chút nữa về ngay.

Dương Bất Hối bỗng nói:

– Không đâu, mẹ cháu bay lên trời rồi!

Giản Tiệp và Tiết Công Viễn nghe thế biết ngay là Kỷ Hiểu Phù đã chết. Tiết Công Viễn cười khẩy, nói:

– Mua gạo ư? Xung quanh đây năm trăm dặm, nếu ngươi kiếm được một hạt gạo thì ta bái ngươi làm sư phụ.

Giản Tiệp đưa mắt ra hiệu cho Tiết Công Viễn, hai tên cùng nhảy tới. Giản Tiệp hai tay nắm chặt hai cánh tay của Trương Vô Kỵ; Tiết Công Viễn dùng tay trái bịt miệng Dương Bất Hối, tay phải nhấc bổng cô bé lên. Trương Vô Kỵ sợ hãi kêu to:

– Các vị làm gì vậy?

Giản Tiệp cười, nói:

– Phủ Phụng Dương này cả ngàn dặm đều bỏ hoang, bọn ta đói quá rồi. Con bé này lại chẳng bà con gì với ngươi, lát nữa làm thịt nó, sẽ chia cho ngươi một phần.

Trương Vô Kỵ chửi:

– Các người tự cho mình là anh hùng hảo hán thật uổng, làm sao lại đi ăn hiếp một đứa trẻ mồ côi? Việc này truyền đi, các người còn làm người được nữa không?

Giản Tiệp cả giận, tay trái nắm chặt Trương Vô Kỵ, tay phải tát cậu hai cái, quát:

– Cả thằng súc sinh này ta cũng thịt luôn, bọn ta đang lo một con dê non chưa đủ.

Trương Vô Kỵ vừa đánh gục hai nông phu khá dễ dàng, nhưng Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp là hảo thủ của phái Không Động, đã luyện võ mấy chục năm, Trương Vô Kỵ lại bị lão tóm chặt, làm sao thoát ra nổi? Hai gã sư đệ của Tiết Công Viễn lấy dây trói luôn hai đứa trẻ lại. Trương Vô Kỵ biết hôm nay mình khó bề thoát chết, trong lúc cả giận cảm thấy hối hận, giá ít ngày trước đừng chữa trị cho bốn tên kia thì giờ đây khỏi phải gặp cảnh nhân tâm phản phúc, cuối cùng lấy oán báo ân thế này.

Giản Tiệp nói:

– Thằng súc sinh, ngươi chữa khỏi vết thương trên đầu ta, ngươi nghĩ ta phải mang ơn ngươi hả? Trong bụng ngươi đang chửi thầm ta chứ gì?

Trương Vô Kỵ nói:

– Thế này chẳng phải là lấy oán báo ân đó sao? Ta với các người không thân thích, không quen biết, nếu ta không cứu chữa cho, liệu kỳ thương quái bệnh của bốn người có khỏi được chăng?

Tiết Công Viễn cười:

– Trương thiếu gia, bọn ta sau khi bị thương, bao nhiêu cái xấu lộ ra, cậu đều nhìn thấy hết, nếu lan truyền đi, người trên giang hồ còn coi bọn ta ra gì nữa?! Hôm nay bọn ta quả thật đói lả ra rồi, không có miếng thịt tươi nuốt vào bụng, e hết sống nổi; cậu đã cứu người hãy cứu đến cùng, đã làm ơn hãy làm ơn cho trót, cứu bọn ta một lần nữa vậy.

Giản Tiệp dáng điệu hung ác, trông đáng sợ đã đành; đằng này Tiết Công Viễn miệng cười hì hì lại nham hiểm, Trương Vô Kỵ nhìn hắn mà lạnh gáy, nói to:

– Ta là đệ tử phái Võ Đang, tiểu muội đây thuộc phái Nga Mi, các người giết hai ta thì được, nhưng Võ Đang ngũ hiệp và Diệt Tuyệt sư thái sẽ để yên cho các người chắc?

Giản Tiệp kinh ngạc “à” lên một tiếng, nghĩ câu nói này quả không sai, người của phái Võ Đang và phái Nga Mi quả thực đáng ngại. Tiết Công Viễn cười, nói:

– Ở đây chỉ có trời biết đất biết, ta biết cậu biết, đợi lúc nào vào trong bụng ta rồi, cậu hãy đi mách với lão đạo Trương Tam Phong.

Giản Tiệp cười ha hả, tiếp lời:

– Bụng đói hoa cả mắt thế này, dù ngươi có là em ruột, con ruột ta, ta cũng xơi tuốt!

Đoạn quay sang phía hai gã sư đệ của Tiết Công Viễn, quát:

– Mau đi nhóm lửa đun nước, còn đợi gì nữa?

Hai gã kia vội nhặt cái chảo dưới đất lên, một gã chạy ra suối lấy nước, gã kia chụm lửa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiết đại gia, hai gã này đằng nào cũng chết rồi, các vị đói bụng muốn ăn thịt, thì ăn thịt họ cũng được chứ sao?

Tiết Công Viễn cười, đáp:

– Hai gã này chỉ có da bọc xương, vừa già vừa dai, vừa hôi vừa cứng, đời nào có chuyện dại dột dê non chẳng ăn, lại thịt dê già?

Trương Vô Kỵ từ bé vốn can đảm, dù có đánh cậu, dọa giết cậu, cậu cũng không nửa lời xin tha; nhưng lúc này rơi vào tay kẻ ác, sắp bị chúng cắt tiết làm thịt, cậu không khỏi kinh hoảng mới năn nỉ vài câu. Tiết Công Viễn cười ha hả:

– Đệ tử phái Võ Đang, phái Nga Mi trên giang hồ xưng hùng xưng bá, hôm nay lại bị bọn ta nhai từng miếng nuốt vào bụng, Trương Tam Phong và Diệt Tuyệt lão ni mà biết tin này chắc tức hộc máu ra chết.

Trương Vô Kỵ lấy sức quát to:

– Tiết đại gia, nếu các người cứ phải ăn thịt người mới được, vậy hãy ăn ta đi, chỉ xin các người tha cho cô bé này, Trương Vô Kỵ ta chết đi cũng không oán.

Tiết Công Viễn hỏi:

– Vì sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Mẹ cô bé lúc lâm chung có trối trăn nhờ ta đưa cô bé đến chỗ phụ thân nó. Bữa nay các người ăn thịt ta thừa no rồi, ngày mai đi mua thịt bò thịt dê mà ăn, xin hãy tha cho em nhỏ này.

Giản Tiệp thấy cậu lâm nguy không sợ, tuổi còn nhỏ mà có phong thái hiệp nghĩa như thế, trong bụng có phần thán phục, không khỏi động lòng, lưỡng lự hỏi:

– Nên thế nào nhỉ?

Tiết Công Viễn nói:

– Tha cho con bé này cũng được, nhưng chuyện này tiết lộ ra, sau này Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu đến hỏi tội, Giản đại ca có dám chắc địch nổi họ thì tha.

Giản Tiệp gật đầu:

– Tiết huynh đệ nói phải lắm, ta thật là kẻ hồ đồ, không nghĩ trước nghĩ sau gì cả.

Gã đệ tử phái Hoa Sơn đã bưng chảo nước về, đặt lên bếp lửa.

Trương Vô Kỵ biết sự tình nguy cấp, vội giục:

– Bất Hối muội muội, muội hãy thề với họ, sau này nhất quyết không kể chuyện này với bất cứ ai đi.

Dương Bất Hối ngơ ngác, sợ hãi, khóc nói:

– Đừng ăn Vô Kỵ ca ca, đừng ăn Vô Kỵ ca ca!

Cô bé chưa hiểu Trương Vô Kỵ nói gì, chỉ lờ mờ đoán là Vô Kỵ ca ca xả thân để cứu nó.

Hán tử hiên ngang uy tráng từ nãy chỉ ngồi một bên, chẳng nói chẳng rằng. Giản Tiệp nhìn y, hỏi:

– Từ tiểu xá, có muốn xơi thịt dê cho tinh thần hăng hái hay không?

Ở vùng Hào Tứ, các hán tử trẻ tuổi gọi là “tiểu xá”. Người được gọi là Từ tiểu xá đáp:

– Có chứ.

Đoạn rút trong lưng ra một con dao ngắn, nói:

– Giết heo, mổ dê là nghề của Từ mỗ.

Y đưa dao ngang lên miệng, dùng răng cắn dao, rồi một tay xách Trương Vô Kỵ, một tay xách Dương Bất Hối, đi phăng phăng ra phía dòng suối. Trương Vô Kỵ há miệng chửi, định ghé răng cắn tay y mà không tới được.

Từ tiểu xá đi hơn chục bước, thì Tiết Công Viễn gọi:

– Từ tiểu xá, chọc tiết ở đó được rồi.

Từ tiểu xá quay đầu lại, nói:

– Ra suối mổ bụng làm lòng sẽ sạch hơn.

Miệng y còn ngậm con dao, lời nói nghe ú ớ không rõ, chân vẫn cứ sải bước. Tiết Công Viễn nói:

– Ta bảo ngươi làm ở đó, thì phải làm ở đó.

Hắn đã nhận ra thần sắc Từ tiểu xá có điều gì không ổn, sợ rằng Từ tiểu xá sẽ giành ăn một mình, xách hai đứa trẻ chạy mất.

Từ tiểu xá nói nhỏ:

– Chạy mau đi!

Y đặt hai đứa trẻ xuống, cắt dây trói cho chúng. Trương Vô Kỵ nói:

– Đa tạ đại ân cứu mạng.

Rồi nắm tay Dương Bất Hối mà cắm đầu chạy.

Giản Tiệp và Tiết Công Viễn cùng gầm lên, chạy đuổi theo. Từ tiểu xá vung dao chắn ngang, miệng quát:

– Đứng lại!

Giản Tiệp và Tiết Công Viễn thấy y chĩa thẳng dao vào ngực, đứng chắn đường với tư thế lẫm liệt, thì ngẩn ra. Giản Tiệp hét to:

– Ngươi làm gì vậy?

Từ tiểu xá nói:

– Bọn ta hành tẩu giang hồ mà lại đi ăn hiếp trẻ con, không sợ hảo hán trong thiên hạ cười cho sao?

Tiết Công Viễn giận dữ nói:

– Đói cồn đói cào, đến cha mẹ ruột ta cũng ăn thịt tuốt.

Hắn quát hai tên sư đệ:

– Đuổi theo, đuổi theo mau!

Trương Vô Kỵ thấy Dương Bất Hối chạy chậm, vội cõng nó lên chạy. Cậu bé chân ngắn, làm thế chạy càng chậm hơn.

Giản Tiệp và Tiết Công Viễn rút binh khí ra cùng tấn công Từ tiểu xá. Đánh nhau một hồi, Giản Tiệp chém một một đao trúng đùi Từ tiểu xá, máu bắn tung tóe. Từ tiểu xá chống đỡ không nổi, đột nhiên vung dao phi về phía Tiết Công Viễn. Tiết Công Viễn nghiêng người né tránh, Từ tiểu xá nhân đó bỏ chạy. Giản Tiệp, Tiết Công Viễn không đuổi theo mà đi đuổi bắt Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Từ tiểu xá từ xa nói vọng lại:

– Trương huynh đệ đừng sợ, ta đi gọi vài người nữa đến cứu ngươi.

Bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn vây lại, bắt trói Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Giản Tiệp cất tiếng chửi:

– Gã họ Từ phản phúc kia, không phải người tốt, sao Tiết huynh đệ lại cho hắn nhập bọn?

Tiết Công Viễn nói:

– Dọc đường gặp hắn thì kết bạn đi cùng, làm sao biết hắn tốt hay xấu? Hắn bảo họ Từ, Từ Đạt gì đấy. Giản đại ca đừng tin lời hắn, trời sắp tối rồi, hắn tìm đâu ra người giúp kia chứ?

Một gã sư đệ của Tiết Công Viễn nói:

– Nghe giọng nói hình như hắn là người bản địa Phụng Dương này, chắc hắn đi gọi thôn dân tới, chúng ta khỏi cần lo.

Giản Tiệp cười, nói:

– Người dân phủ Phụng Dương này ấy à, ha ha, người nào người nấy đói lả hết rồi còn đâu. Thôi bọn ta làm thịt hai con dê non này, xơi một bữa cho thịnh soạn cái đã.

Lần thứ hai bị bắt lại, Trương Vô Kỵ bị đánh thâm tím mặt mũi, quần áo rách toạc, tiền bạc vật dụng rơi tung tóe, cậu nghĩ thầm: “Thì ra vị đại ca ban nãy tên là Từ Đạt, quả là bằng hữu tốt, tiếc rằng mình chết đến nơi, không được kết giao với Từ đại ca”.

Trương Vô Kỵ cúi đầu, thấy một cuốn sách giấy ố vàng rơi dưới đầu, gió lật giở vài trang, chính là cuốn Vương Nạn Cô độc kinh nọ. Tiện đó nhìn kỹ, thấy ở đầu trang có hai chữ lớn “Nấm độc”, bên dưới chữ nhỏ miêu tả tỉ mỉ các loại nấm độc, mùi vị, màu sắc, độc tính, cách giải độc, thôi thì chẳng thiếu loại nào. Lòng cậu đang hoang mang cực độ, đọc đấy nhưng nhớ sao nổi. Bỗng cậu nhìn thấy cách bốn năm thước phía bên trái, dưới một khúc gỗ mục mọc lên mươi cái nấm màu sặc sỡ, cậu chợt nghĩ: “Không biết đó là loại nấm gì, có độc hay không? Trong sách có nói rằng phàm nấm có màu sặc sỡ đều là nấm độc. Nếu đám nấm kia là nấm độc thì Bất Hối có cơ sống sót”.

Trương Vô Kỵ lúc này cũng không mong mình được sống nữa, biết chất hàn độc trong cơ thể không trừ bỏ được, hôm nay dẫu thoát chết thì chẳng qua cũng chỉ sống thêm vài tháng, nên cậu chỉ mong cứu được Dương Bất Hối. Cậu ngồi dưới đất, nhích dần mông và hai chân, rồi quay mình lại, hai tay ngắt hết số nấm kia. Lúc này trời đã tối, cả bọn kia đều đói mờ cả mắt, chẳng ai để ý đến cậu.

Trương Vô Kỵ bỗng nhìn về phía lúc nãy Từ Đạt chạy đi, kêu to lên:

– Từ đại ca, đại ca dẫn người đến giúp đấy ư? Cứu với, cứu với!

Bọn Tiết Công Viễn tưởng thật liền đứng cả dậy, rút binh khí ra. Trương Vô Kỵ nhân lúc cả bọn kia chăm chú nhìn về hướng khác, bèn lùi lại hai bước, thả tất cả số nấm vào trong chảo nước. Bọn Tiết Công Viễn nhìn một hồi chẳng thấy ai, liền mắng:

– Đồ súc sinh ngu xuẩn, mi điên hay sao mà tưởng có kẻ đến cứu mi.

Tiết Công Viễn nói:

– Thôi, khai đao đi, ai ra tay đây?

Giản Tiệp nói:

– Để ta chọc tiết con bé, còn Tiết huynh đệ làm thịt thằng lỏi.

Nói xong Giản Tiệp liền nhấc Dương Bất Hối lên.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiết đại gia, cháu khát nước quá, đại gia hãy cho cháu xin một bát canh nóng, cháu chết đi sẽ không thành quỷ quấy phá đại gia.

Tiết Công Viễn nói:

– Được, gì chứ xin bát canh nóng thì ta cho.

Bèn múc một bát đưa cho Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ bưng lên miệng, hít hít ngửi ngửi, miệng cứ xuýt xoa khen:

– Ôi, thơm quá, ngon quá!

Mươi cái nấm kia quả nhiên làm cho chảo nước thơm phức. Tiết Công Viễn vốn đói meo, ngửi mùi canh nấm, liền giằng lấy bát canh từ tay Trương Vô Kỵ mà uống luôn, uống xong đưa lưỡi liếm môi, nói:

– Thơm ngon quá chừng!

Rồi hắn múc thêm một bát nữa. Giản Tiệp xông đến, giằng lấy bát nước canh liền uống một hơi, lại uống thêm bát thứ hai. Hai đệ tử còn lại của phái Hoa Sơn cũng uống mỗi tên hai bát. Cả bọn đói ngấu đã lâu, uống bát canh nóng vào bụng liền cảm thấy đỡ đói hẳn. Giản Tiệp còn vớt nấm trong chảo mà nhai, chẳng ai hỏi xem mấy cái nấm ấy từ đâu mà có.

Giản Tiệp ăn hết mươi cái nấm, vỗ vỗ bụng, cười tươi:

– Ăn lót dạ trước, ăn thịt dê sau.

Tay trái lão nắm gáy Dương Bất Hối nhấc lên, tay phải cầm dao sẵn sàng. Trương Vô Kỵ thấy bọn kia ăn canh nấm xong mà chẳng sao cả, nghĩ thầm hẳn là nấm không độc, quá thất vọng. Giản Tiệp bỗng kêu lên:

– Ối chà!

Thân hình lão ta lảo đảo, ngã khuỵu xuống đất, quẳng cả Dương Bất Hối lẫn con dao sang một bên. Tiết Công Viễn kinh hãi, hỏi:

– Giản huynh, sao thế?

Hắn bước tới, cúi xuống xem, vừa cúi thì cũng không ngẩng lên được nữa, gục luôn xuống đè lên người lão Giản Tiệp. Hai gã đệ tử phái Hoa Sơn cũng bị chất độc phát tác, chết luôn.

Trương Vô Kỵ kêu lên:

– Tạ trời tạ đất!

Cậu lăn tới chỗ con dao, nhặt được con dao, cắt dây trói cho Dương Bất Hối trước. Dương Bất Hối hai tay được tự do rồi, run rẩy cắt dây trói cho Trương Vô Kỵ, lúng túng cứa cả vào hai chỗ da tay Trương Vô Kỵ mới đứt sợi dây. Hai đứa trẻ chết đi sống lại, mừng quá ôm chầm lấy nhau.

Lát sau, Trương Vô Kỵ tới nhìn kỹ bọn Tiết Công Viễn bốn tên, thấy tên nào mặt cũng đen, bắp cơ co quắp, chết trong tư thế đáng sợ, cậu nghĩ thầm: “Chất độc giết chết kẻ ác, cũng cứu được người lành”. Liền cất bộ sách Vương Nạn Cô độc kinh vào trong bọc, định bụng sau này nhất định sẽ đọc kỹ.

Trương Vô Kỵ dắt tay Dương Bất Hối tìm đường ra khỏi cánh rừng. Đang đi chợt thấy phía đông có ánh đuốc sáng, bảy tám người cầm binh khí chạy tới. Hai đứa trẻ vội trốn vào trong cỏ. Đám người kia tới gần, thấy đi đầu chính là Từ Đạt, tay trái giơ cao bó đuốc, tay phải cầm một cây trường thương, gọi to:

– Bọn ác tặc thương thiên hại lý, ăn thịt người đâu rồi, mau ra nộp mạng!

Họ chạy vào rừng thấy bọn Giản Tiệp bốn tên nằm chết còng queo một chỗ thì ai cũng kinh ngạc, Từ Đạt gọi to:

– Trương huynh đệ, đệ có làm sao không? Bọn ta đến cứu đệ đây!

Trương Vô Kỵ thưa:

– Từ đại ca, tiểu đệ ở đây!

Rồi từ trong bụi cỏ chui ra. Từ Đạt cả mừng, bế cậu lên, nói:

– Trương huynh đệ, bậc nghĩa hiệp như đệ, chẳng nói gì trẻ con mà ngay người lớn cũng hiếm thấy. Huynh chỉ lo đệ đã bị nguy bởi tay bọn ác tặc cơ đấy; may sao ở hiền gặp lành, ở ác bị ác báo, quả là báo ứng nhãn tiền.

Từ Đạt hỏi Giản Tiệp tại sao nằm chết, Trương Vô Kỵ kể chuyện bỏ nấm vào chảo nước, ai nấy tấm tắc khen cậu thông minh.

Từ Đạt nói:

– Những người này đều là hảo bằng hữu của huynh, họ làm thịt một con bò, đang nấu nướng ở chùa Hoàng Giác, huynh đến gọi, họ liền đi ngay; nhưng nếu Trương đệ không cơ trí thì bọn ta đến cũng muộn rồi.

Đoạn Từ Đạt giới thiệu từng người một với Trương Vô Kỵ. Người mặt vuông tai lớn kia tên là Thang Hòa, người trông khí phách hiên ngang là Đặng Dũ, người cao gầy mặt đen tên là Hoa Vân, hai người trắng trẻo là anh em ruột Ngô Lương và Ngô Trinh. Cuối cùng là một hòa thượng, diện mạo vô cùng xấu xí, cằm đưa ra phía trước như lưỡi cày, mặt lồi lõm đầy sẹo và nốt ruồi, hố mắt lõm sâu nhưng long lanh có thần. Từ Đạt nói:

– Vị này họ Chu, tên Nguyên Chương, hiện đang tu ở chùa Hoàng Giác.

Hoa Vân cười, nói:

– Vị hòa thượng này phong lưu khoái hoạt lắm, không thích tụng kinh niệm Phật, ngày ngày vẫn uống rượu ăn thịt.

Dương Bất Hối thấy Chu Nguyên Chương diện mạo xấu xí thì hoảng sợ nấp sau lưng Trương Vô Kỵ. Chu Nguyên Chương cười nói:

– Hòa thượng này tuy ăn thịt nhưng không ăn thịt người đâu, tiểu muội muội đừng sợ.

Thang Hòa nói:

– Nồi thịt bò mình hầm chắc giờ này nhừ rồi đó.

Hoa Vân nói:

– Ta đi thôi! Tiểu muội muội, để huynh cõng cho.

Rồi cõng Dương Bất Hối rảo bước đi trước. Trương Vô Kỵ thấy những người này hào sảng khoái hoạt, trong bụng rất mừng.

Đi chừng bốn năm dặm thì tới một cái chùa. Vào trong đại điện lại ngửi mùi thịt bò nấu thơm phức. Ngô Lương nói:

– Chín rồi, chín nhừ rồi!

Từ Đạt nói:

– Trương huynh đệ, đệ hãy ngồi nghỉ ở đây, để bọn ta vào mang thịt ra.

Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối ngồi cạnh nhau trên bồ đoàn ở đại điện. Chu Nguyên Chương, Thang Hòa, Đặng Dũ, Từ Đạt… bảy người, mỗi người một tay, bưng ra từng tô thịt lớn bốc hơi nghi ngút. Huynh đệ Ngô Lương, Ngô Trinh bưng ra một vò rượu trắng, cả bọn ngồi ăn uống vui vẻ ngay trước tượng Bồ Tát. Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối đói mấy ngày nay, giờ được ăn thịt bò, không nói cũng biết sướng miệng đến chừng nào.

Hoa Vân nói:

– Từ đại ca, giáo quy của chúng ta điều nào cũng hay, riêng chuyện không cho ăn thịt, xem ra rất dở.

Trương Vô Kỵ hơi giật mình, nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ theo Minh giáo. Quy định của Minh giáo là ăn chay, thờ Ma vương, vậy tại sao họ lại ở đây xơi thịt bò nhỉ?”

Từ Đạt nói:

– Ý nghĩa quan trọng nhất của giáo quy là “hành thiện khử ác”, ăn thịt tuy bị cấm, song chỉ là tiểu tiết. Hiện tại không gạo không rau, chẳng lẽ ngồi nhìn nồi thịt chín mà chịu chết đói hay sao?

Đặng Dũ vỗ tay:

– Từ đại ca trước nay nói gì cũng đúng lắm, thôi chúng ta cứ ăn đi, ăn đi!

Cả bọn đang ăn, bỗng bên ngoài có tiếng chân người, rồi tiếng gõ cửa. Thang Hòa đứng dậy, thốt lên:

– Nguy rồi, gia nhân của Trương viên ngoại đi tìm bò đó!

Chỉ nghe cổng chùa bị đẩy tung ra, hai người ăn mặc kiểu nô bộc ưỡn ngực sừng sộ đi vào, một gã nói lớn:

– Giỏi thật! Con bò lớn của nhà viên ngoại quả nhiên bị các người dắt trộm về làm thịt!

Nói đoạn gã xông tới túm cổ Chu Nguyên Chương. Gã thứ hai nói:

– Tên tặc hòa thượng này, hôm nay tang chứng rành rành, hết đường chối cãi nhé. Ngày mai giải ngươi lên quan phủ, đánh cho một trận thì hết sống.

Chu Nguyên Chương cười, nói:

– Các ngươi chớ nói láo, sao dám vu cho bọn ta dắt trộm bò của viên ngoại? Người xuất gia ăn chay niệm Phật, vậy mà ngươi lại bảo ta ăn thịt là ngươi mắc tội đó.

Gã kia chỉ bát thịt bò, quát:

– Cái này không phải thịt bò thì là cái gì?

Chu Nguyên Chương đưa mắt ra hiệu cho mấy người kia, cười hì hì:

– Ai bảo thịt bò nào?

Huynh đệ Ngô Lương, Ngô Trinh đã tới sau lưng hai gã kia, quát to một tiếng, khóa tay hai gã lại.

Chu Nguyên Chương rút từ thắt lưng ra một con dao ngắn, cười nói:

– Hai vị đại ca, quả không dám giấu, thứ thịt bọn ta đang ăn không phải là thịt bò, mà là thịt người đấy. Giờ hai đại ca nhìn thấy rồi, bọn ta đành ăn thịt cả hai vị để diệt khẩu, khỏi tiết lộ ra ngoài.

“Soạt” một tiếng, Chu Nguyên Chương đã xé rách áo một gã gia nhân, để lộ ngực ra, dùng mũi dao rạch một đường. Gã kia cả kinh, kêu to:

– Tha… xin tha mạng…

Chu Nguyên Chương bốc một vốc thịt, nhét vào mồm cả hai gã, quát:

– Nuốt mau!

Hai gã không kịp nhai, nuốt vội vào bụng. Chu Nguyên Chương lại chạy xuống bếp, lấy một túm lông bò, nhét vào mồm hai gã, quát:

– Nuốt mau!

Hai gã mặt này nhăn nhó, cũng phải nuốt cho xuôi. Chu Nguyên Chương cười, nói:

– Cho hai ngươi về bẩm lại với viên ngoại rằng bọn ta dắt trộm bò đấy, ta sẽ thách hai ngươi cùng mổ bụng ra đối chất, để xem đứa nào ăn thịt bò mà lông cũng chẳng nhổ cho sạch!

Rồi dùng sống dao rạch nhẹ một đường trên da bụng gã kia. Gã đó cảm thấy con dao lạnh như băng lướt trên bụng, sợ quá kêu toáng lên.

Huynh đệ Ngô Lương cười ha hả, giơ chân đá đít hai gã văng ra ngoài điện. Cả bọn lại ngồi ăn tiếp, cười hai gã đầy tớ kia chuốc lấy cái khổ, thường ngày quen ỷ thế viên ngoại ức hiếp dân quê, từ nay sợ bị mổ bụng đối chất sẽ không dám nhắc đến chuyện bọn họ dắt trộm bò nữa.

Trương Vô Kỵ vừa tức cười, vừa thán phục, nghĩ thầm: “Hòa thượng họ Chu này tuy diện mạo khó coi, nhưng hành sự nhanh gọn quả quyết, chế ngự được kẻ khác, thủ đoạn quả là lợi hại”.

Bọn Chu Nguyên Chương đã nghe Từ Đạt kể, Trương Vô Kỵ xả thân cứu Dương Bất Hối, nên quý mến lòng hiệp nghĩa của cậu bé, cứ rót rượu mời cậu ăn uống như một hảo bằng hữu lớn tuổi vậy.

Ăn uống say sưa rồi, Đặng Dũ bỗng thở dài, nói:

– Người Hán chúng ta bị bọn rợ Hồ áp bức, khổ sở suốt đời, hiện nay đến cơm cũng không có mà ăn, cảnh này chịu mãi được sao?

Hoa Vân vỗ đùi, nói:

– Dân chúng thành Phụng Dương này chết đói quá nửa rồi, xem ra thiên hạ nơi nào cũng thế, không lẽ giương mắt chịu cảnh chết đói, chẳng thà sống mái một phen với bọn Thát tử cho xong!

Từ Đạt lớn tiếng:

– Ngày nay mạng người rẻ rúng như heo như chó, tiểu huynh đệ với tiểu muội đây chút nữa đã bị làm thịt rồi. Trong thiên hạ biết bao lương dân bách tính biến thành dê thành bò cho kẻ khác ăn thịt? Là nam tử hán đại trượng phu mà không biết cứu dân chúng khỏi cảnh nước lửa, có sống cũng bằng thừa.

Thang Hòa nói:

– Đúng thế, hôm nay chúng ta gặp may, dắt trộm được một con bò làm thịt mà ăn, ngày mai chắc gì đã trộm được? Các hảo hán trong thiên hạ đa phần đói rách, chẳng lẽ anh hùng hào kiệt đều phải đi trộm cướp cả ư?

Cả bọn càng nói càng phẫn uất, ai cũng lớn tiếng chửi bọn Thát tử hại người. Chu Nguyên Chương nói:

– Chúng ta ngồi đây chửi ngàn câu, vạn câu, liệu có làm rụng cái lông nào của bọn Thát tử không? Là Hán tử có chí khí thì hãy kéo nhau đi giết chúng kìa!

Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, huynh đệ họ Ngô đồng thanh kêu lên:

– Đi, đi ngay!

Từ Đạt nói:

– Chu đại ca, đại ca làm hòa thượng ở đây chẳng xong nữa rồi, đại ca lớn tuổi hơn cả, chúng tôi xin nghe lệnh đại ca.

Chu Nguyên Chương không từ chối, nói:

– Từ nay trở đi chúng ta đồng sinh cộng tử, có phúc cùng hưởng, hoạn nạn cùng chịu.

Cả bọn bưng chén lên uống cạn, rút đao chém lên bàn, hào khí đằng đằng.

Dương Bất Hối nhìn mọi người, không hiểu chuyện gì, trong bụng hoảng sợ. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thái sư phụ luôn căn dặn không được kết giao với người theo Ma giáo. Nhưng Thường Ngộ Xuân và Từ đại ca này tuy là đệ tử Ma giáo mà còn tử tế gấp vạn lần bọn đệ tử danh môn chính phái như Giản Tiệp, Tiết Công Viễn”. Trước nay đối với Trương Tam Phong Trương Vô Kỵ vẫn hết sức kính phục, nhưng sau khi chính cậu phải nếm trải việc này việc nọ thì cậu cảm thấy thái sư phụ đối với người theo Ma giáo không khỏi còn nhiều thiên kiến. Dù vậy, cậu vẫn không dám trái lời thái sư phụ.

Chu Nguyên Chương nói:

– Hảo hán nói sao làm vậy, bây giờ chúng ta ăn no rồi, hành sự là vừa. Nhà Trương viên ngoại hôm nay thết tiệc bọn Thát tử, chúng ta trước hết tới đó giết sạch chúng đi.

Hoa Vân nói:

– Được lắm!

Nói xong Hoa Vân cầm đao đứng dậy.

Từ Đạt nói:

– Hãy khoan!

Rồi chạy xuống bếp, lấy một cái giỏ, bỏ vào giỏ mươi cân thịt bò đã luộc nhừ, mang lên đưa cho Trương Vô Kỵ, nói:

– Trương huynh đệ, đệ còn ít tuổi, không thể theo bọn ta đi tạo phản, giết quan quân được. Bọn ta ai cũng nghèo rớt mồng tơi, chẳng có tiền bạc gì, chỉ có mấy cân thịt này tặng đệ. Nếu bọn ta may mắn thoát chết, sau này có dịp gặp lại, chúng ta sẽ lại cùng nhau chén một bữa thịt bò đã miệng.

Trương Vô Kỵ nhận giỏ thịt, nói:

– Mong các vị lập đại công, đuổi hết bọn Thát tử để bách tính trong thiên hạ ai cũng có cơm ăn.

Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân… nghe vậy đều vỗ tay tán thưởng, nói:

Trương huynh đệ nói đúng lắm, hẹn gặp lại sau nhé!

Rồi cả bọn xách đao kéo ra khỏi chùa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bọn họ đi giết bọn Thát tử, mình không vướng Dương Bất Hối thì cũng nhập bọn với họ. Họ chỉ có bảy người, ít chẳng địch nổi nhiều, chỉ e bọn Thát tử và tráng đinh trong nhà Trương viên ngoại sẽ đuổi tới đây, mình không thể ở lại ngôi chùa này được nữa”. Nghĩ vậy, bèn xách giỏ thịt, dắt Dương Bất Hối đi luôn.

Trong đêm tối, hai đứa đi chừng bốn năm dặm, thấy ở phía bắc lửa bốc cháy đỏ rực cả một góc trời, biết cánh Chu Nguyên Chương, Từ Đạt đã làm xong việc, nổi lửa đốt trang viện của Trương viên ngoại thì cả mừng. Đêm ấy hai đứa ngủ trong núi, sáng ra lại nhắm hướng tây mà đi.

Hai đứa trẻ đi đường xa, kể sao cho xiết nỗi phong sương đói rét. Cũng may phụ mẫu của Dương Bất Hối đều là danh gia võ học, thể chất tiên thiên tráng kiện, tuy cô bé đi xa vất vả thế nhưng không bệnh tật gì, chỉ cảm mạo sơ sài, Trương Vô Kỵ hái ít thảo dược cho nó uống là khỏi. Hai đứa trẻ vừa đi vừa nghỉ, mỗi ngày chỉ được vài ba chục dặm, đi hơn nửa tháng trời mới tới địa phận tỉnh Hà Nam.

Tỉnh Hà Nam so với tỉnh An Huy cũng chẳng khác bao nhiêu, nơi nào cũng đói khổ. Trương Vô Kỵ làm một bộ cung tên, bắn chim săn thú, bữa đói bữa no, dẫn Dương Bất Hối đi về hướng tây. Cũng may dọc đường không gặp quan binh Mông Cổ, cũng chẳng gặp nhân vật giang hồ, còn như bọn vô lại gian manh tầm thường mà có ý muốn hãm hại thì chúng đâu phải là đối thủ của Trương Vô Kỵ.

Một hôm gặp một lão niên, đứng nói chuyện chơi, Trương Vô Kỵ bảo định đi đến ngọn Tọa Vong thuộc dãy núi Côn Luân. Vị lão niên tròn mắt kinh ngạc ngây người ra, nói:

– Cháu ơi, dãy núi Côn Luân cách đây những mười vạn tám ngàn dặm, nghe nói ngày xưa chỉ có Đường Tăng đi thỉnh kinh mới tới đó được thôi. Hai cháu còn nhỏ, liệu có điên không đấy? Nhà cháu ở đâu, hãy mau về đi thôi.

Trương Vô Kỵ nghe thế không khỏi sờn lòng, nghĩ thầm: “Núi Côn Luân xa thế thì mình chẳng đến được rồi. Đành về núi Võ Đang gặp thái sư phụ, sau đó hãy hay”. Nhưng cậu lại nghĩ: “Mình nhận trọng thác của Kỷ cô cô, dù đường xa mấy cũng không thể bỏ cuộc giữa đường. Mình sống không bao lâu nữa, trước khi chết mà không đưa Bất Hối muội muội đến nơi, thì quả là có lỗi với Kỷ cô cô”. Thế là cậu không nói chuyện thêm với vị lão niên nữa, dắt Dương Bất Hối đi tiếp về hướng tây.

Lại đi thêm hai mươi ngày nữa, quần áo hai đứa đã rách bươm, mặt mày tiều tụy, khổ nhất đối với Trương Vô Kỵ là thi thoảng Dương Bất Hối lại nhớ mẹ, hỏi tại sao mãi mà mẹ nó từ trên trời không bay xuống, rồi cứ thế khóc nỉ non. Trương Vô Kỵ phải tìm đủ cách dỗ dành, chẳng hạn bảo đi về phía tây thế này chính là để tìm gặp mẹ nó, rồi kể chuyện này chuyện nọ, nhăn mặt làm hề, con bé mới đổi khóc thành cười.

Hôm ấy đến Trú Mã điếm đã là cuối thu đầu đông, gió bấc thổi tới, hai đứa trẻ quần áo mỏng manh, không khỏi lạnh run. Trương Vô Kỵ cởi cái áo ngoài rách nát cho Dương Bất Hối mặc thêm. Dương Bất Hối nói:

– Vô Kỵ ca ca không lạnh à?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Huynh không lạnh, nóng thì có.

Cậu nhảy nhảy mấy cái. Dương Bất Hối nói:

– Ca ca đối xử với muội tử tế quá! Ca ca cũng lạnh mà lại cởi áo cho muội mặc.

Cô bé tự dưng nói năng như người lớn khiến Trương Vô Kỵ quá đỗi ngạc nhiên.

Lúc đó bỗng nghe từ triền núi phía sau vọng lại tiếng binh khí loảng xoảng khi giao đấu, rồi tiếng chân người, sau đó là giọng nói của nữ giới:

– Ác tặc kia, ngươi đã trúng “Táng môn đinh” có tẩm độc của ta rồi, ngươi càng chạy nhanh sẽ càng mau phát tác.

Trương Vô Kỵ vội kéo Dương Bất Hối vào bụi cỏ ven đường, nằm xuống, thấy một hán tử tráng kiện trạc ba mươi tuổi chạy như bay tới, đằng sau vài trượng có một thiếu nữ cầm song đao đuổi theo. Hán tử chân hơi khập khiễng, đang chạy bỗng ngã lăn ra đất. Thiếu nữ đuổi tới, nói:

– Cuối cùng ngươi cũng bỏ mạng dưới tay bổn cô nương.

Hán tử từ dưới đất bỗng nhảy bật dậy, hữu chưởng đánh ra, “bịch” một cái, trúng ngay giữa ngực thiếu nữ. Đòn này quá mạnh, thiếu nữ ngã ngửa ra, hai thanh đao cùng văng ra xa. Hán tử đưa tay rút “Táng môn đinh” cắm trên lưng mình, hầm hầm nói:

– Mau đưa giải dược cho ta!

Thiếu nữ cười khẩy:

– Lần này sư phụ ta sai bọn ta đuổi bắt ngươi, chỉ giao ám khí tẩm độc, không đưa thuốc giải. Ta đã rơi vào tay ngươi, thế nào cũng đành chịu, song ngươi cũng không có hi vọng sống sót đâu.

Hán tử tay trái cầm đao chĩa mũi đao vào yết hầu thiếu nữ, tay phải lần tìm trong túi áo của thiếu nữ, quả nhiên không thấy giải dược. Y cả giận, cầm mũi “Táng môn đinh” cắm sâu vào vai thiếu nữ, quát:

– Này thì cho mi thưởng thức mùi vị của “Táng môn đinh”, phái Côn Luân của mi…

Lời chưa dứt, chất độc trên lưng y phát tác, khiến y khuỵu xuống. Thiếu nữ cố gượng dậy, nhưng ọe ra một ngụm máu tươi, đành nằm bệt xuống, rút “Táng môn đinh” ở vai ra ném đi.

Một nam một nữ nằm bên vệ đường, hô hấp khó khăn, có lúc đứt quãng. Trương Vô Kỵ từ khi chữa bệnh cho bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn xong lại bị chúng lấy oán báo ân thì đối với các nhân vật võ lâm, cậu nghĩ phải đề phòng cẩn thận; lúc này nằm gần đó quan sát động tĩnh, chưa dám ló mặt ra.

Lát sau, chỉ nghe hán tử thở dài não nuột, nói:

– Tô Tập Chi ta hôm nay bỏ mạng ở Trú Mã điếm, không biết có tội gì với phái Côn Luân các người, thật là chết không nhắm mắt. Các người đuổi theo ta cả ngàn dặm, nhất quyết đòi giết ta, rốt cuộc là vì cớ gì? Chiêm cô nương, cô nương làm ơn nói cho ta nghe thử đi!

Giọng nói nghe không có vẻ thù hằn gì cả.

Thiếu nữ tên Chiêm Xuân, biết sự nguy hiểm chết người của “Táng môn đinh”, thấy mình với đối phương cùng sắp chết, cũng chẳng cần nghĩ ngợi gì thêm, buồn rầu nói:

– Ai bảo ngươi coi lén sư phụ ta luyện kiếm! Pho Côn Luân lưỡng nghi kiếm đó nếu không phải do đích thân lão nhân gia truyền thụ, bổn môn đệ tử mà xem trộm cũng bị tội móc mắt, huống hồ ngươi là người ngoài.

Tô Tập Chi thốt lên:

– A, con mẹ nó, đáng chết, đáng chết!

Chiêm Xuân giận dữ nói:

– Ngươi chết đến nơi rồi, sao còn chửi sư phụ ta?

Tô Tập Chi nói:

– Ta chửi thì đã sao? Thật oan uổng cho ta! Hôm ấy ta đi qua núi Bạch Ngưu, tình cờ thấy sư phụ ngươi luyện kiếm, nổi tính hiếu kỳ mới đứng xem một lát. Không lẽ ta chỉ coi một lát mà đã học hết pho kiếm pháp được sao? Nếu ta học được tài nghệ ấy, thì mấy đệ tử phái Côn Luân các người đẩy nổi ta đến bước này ư? Chiêm cô nương, ta nói cho cô nương điều này, sư phụ Thiết Cầm tiên sinh của cô nương quá nhỏ nhen, đừng nói là ta chưa học được chiêu thức nào trong pho Côn Luân lưỡng nghi kiếm, cho dù có học được vài chiêu thì cũng không thể bảo là ta phạm vào tử tội.

Chiêm Xuân im lặng, trong bụng cảm thấy sư phụ quả có bé xé ra to, vừa phát hiện Tô Tập Chi lén xem mình luyện kiếm, đã sai sáu đệ tử đuổi theo hàng ngàn dặm, để đến nỗi đôi bên lưỡng bại câu thương, sự thể thế này Tô Tập Chi cũng chẳng nói dối làm gì, vậy là y quả thật không hề học lén võ công.

Tô Tập Chi lại nói:

– Sư phụ cô nương giao ám khí tẩm độc mà không đưa giải dược, trong võ lâm lại có thứ quy củ thế sao? Mẹ kiếp…

Chiêm Xuân dịu giọng nói:

– Tô đại ca, tiểu muội đã hại đại ca, lúc này trong lòng ân hận, thôi thì tiểu muội cũng chết theo, âu cũng là số mệnh cả. Chỉ tội cho vợ con của đại ca thôi.

Tô Tập Chi thở dài nói:

– Thê tử ta mất cách đây hai năm rồi, để lại cho ta hai đứa con, một trai một gái, đứa lên sáu, đứa lên bốn. Từ ngày mai chúng sẽ thành trẻ mồ côi không cha không mẹ.

Chiêm Xuân hỏi:

– Thế nhà đại ca còn ai nữa không? Ai săn sóc hai đứa bé?

Tô Tập Chi đáp:

– Hiện các cháu do bà chị dâu ta trông nom. Bà chị dâu ta tính khí dữ dằn, điêu ngoa lắm, có điều ta còn sống thì bà ta e ngại vài phần, chứ từ nay trở đi hẳn hai đứa con ta sẽ khốn khổ.

Chiêm Xuân nói nhỏ:

– Âu cũng tại tiểu muội mà chúng bị vậy.

Tô Tập Chi lắc đầu:

– Việc đó cũng chả trách cô nương được. Nghiêm lệnh của sư môn, cô nương không thể không tuân theo, chứ cô nương đâu có thù oán gì với ta. Lẽ ra, khi ta trúng ám khí tẩm độc của cô nương rồi, chết đi cho xong, lại còn đánh cô nương một chưởng, dùng ám khí ấy hại lại cô nương. Nếu không, có phải là ta đã có thể nhờ cô nương rủ lòng thương mà săn sóc hai đứa con khốn khổ giùm ta.

Chiêm Xuân cười buồn:

– Tiểu muội là hung thủ giết hại đại ca, đại ca còn nhờ tiểu muội trông con ư?

Tô Tập Chi nói:

– Ta không oán trách cô nương, thật đó, không oán trách cô nương mà.

Hai người vừa liều chết ác đấu, bây giờ tự biết sắp chết, đều lưu luyến với người đời, nên trong lòng chỉ toàn là thiện ý.

Trương Vô Kỵ nghe tới đây, nghĩ thầm: “Hai người kia xem ra tâm địa không độc ác, gia đình gã họ Tô kia lại còn hai đứa bé”. Nghĩ mình và Dương Bất Hối cũng là hai đứa trẻ mồ côi khổ sở, liền từ trong bụi cỏ chui ra, nói:

– Chiêm cô nương, “Táng môn đinh” của cô nương tẩm loại độc dược gì vậy?

Chiêm Xuân và Tô Tập Chi đột nhiên thấy từ trong bụi cỏ chui ra một thiếu niên và một cô bé, đã lấy làm lạ, nghe câu hỏi của cậu lại càng kinh ngạc hơn. Trương Vô Kỵ nói:

– Tiểu đệ biết chút y lý, vết thương trúng độc của hai vị, không chừng tiểu đệ có thể cứu chữa đấy.

Chiêm Xuân nói:

– Tẩm độc dược gì, ta không biết. Chỗ vết thương hiện giờ ngứa ngáy không chịu nổi. Sư phụ ta nói rằng sau khi trúng độc Táng môn đinh chỉ còn sống được bốn canh giờ thôi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Để tiểu đệ coi vết thương xem sao.

Tô Chiêm hai người thấy Trương Vô Kỵ nhỏ tuổi, áo quần rách rưới, toàn thân dơ dáy, trông chẳng khác gì một thằng nhóc ăn mày, làm sao tin cậu có thể cứu chữa? Tô Tập Chi bèn xẵng giọng, nói:

– Hai chúng tôi sắp chết rồi, nhóc con đừng có nhiễu sự, hãy xéo đi chỗ khác chơi.

Trương Vô Kỵ không buồn lý đến y, cúi nhặt mũi Táng môn đinh ở dưới đất, đưa lên mũi ngửi, thấy có mùi thơm nhè nhẹ của hoa lan. Những ngày vừa qua, mỗi lúc rảnh rỗi dọc đường, cậu đều giở quyển Độc kinh của Vương Nạn Cô ra đọc, ghi nhớ các loại độc vật, độc dược kỳ quái trong thiên hạ. Cậu ngửi mùi hương, biết rằng mũi Táng môn đinh này tẩm chất nước độc lấy từ hoa Thanh Đà La. Trong Độc kinh viết rằng chất nước lấy từ hoa Thanh Đà La vốn tanh hôi, song bản thân nó không hề có độc tính, dù uống cả chén cũng không sao, nhưng một khi hòa với máu tươi, sẽ biến thành cực độc, mùi tanh hôi lại hóa thành mùi thơm. Trương Vô Kỵ nói:

– Đinh này tẩm chất độc của hoa Thanh Đà La.

Chiêm Xuân hoàn toàn không biết “Táng môn đinh” tẩm loại độc dược gì, nhưng trong vườn hoa của sư phụ quả có trồng thứ hoa lạ kia, bèn hỏi:

– Ồ, sao tiểu đệ biết?

Nên nhớ hoa Thanh Đà La gốc ở Tây Vực, không trồng ở Trung thổ, nên rất hiếm gặp. Trương Vô Kỵ gật gù, nói:

– Tiểu đệ biết, thế thôi.

Rồi dắt tay Dương Bất Hối, nói:

– Mình đi thôi.

Chiêm Xuân vội nói:

– Tiểu huynh đệ, nếu cậu biết cách chữa, xin hãy ra tay cứu chúng tôi.

Trương Vô Kỵ cũng đã định cứu họ, nhưng chợt nhớ tới diện mạo hung tợn của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn, lúc chúng định làm thịt hai đứa thì cậu không khỏi lưỡng lự. Tô Tập Chi nói:

– Tiểu tướng công, tại hạ có mắt không biết cao nhân, xin đừng trách cứ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Được, để tiểu đệ thử xem sao.

Cậu dùng kim châm vào huyệt Đản Trung ở ngực và huyệt Khuyết Bồn ở hai bên vai Chiêm Xuân, trước hết giảm đau bởi chưởng thương đã, rồi nói:

– Hoa “Thanh Đà La” này gặp máu mới thành độc, chứ nuốt vào bụng lại không sao. Hai vị hãy dùng miệng hút máu ở vết thương cho người kia, đến khi máu không còn vón cục nhỏ thì thôi.

Tô Tập Chi và Chiêm Xuân cảm thấy hơi bất tiện, nhưng lúc này tính mạng là hệ trọng, vết thương lại ở trên vai, sau lưng, tự mình không thể hút máu ra được, đành phải thay phiên người nọ hút máu ở vết thương cho người kia. Trương Vô Kỵ tìm hái trên sườn núi ba loại thảo dược, nhai nát, đắp lên vết thương cho hai người, nói:

– Ba vị dược thảo này chỉ có tác dụng tạm thời không cho chất độc xông lên, chứ không thể giải độc. Chúng ta hãy đi tới thị trấn gần đây, tìm hiệu thuốc, tiểu đệ sẽ kê toa trị độc cho hai vị.

Vết thương của Tô Tập Chi và Chiêm Xuân vốn ngứa ngáy khó chịu vô cùng, nay đắp thuốc vào lại thấy mát mẻ dễ chịu, tay chân bớt tê dại, hai người cứ luôn miệng đa tạ. Họ chặt cành cây làm gậy chống, thong thả bước đi. Chiêm Xuân hỏi lai lịch sư thừa của Trương Vô Kỵ, cậu không muốn tiết lộ, chỉ bảo rằng từ nhỏ đã biết về y lý.

Đi hơn một canh giờ thì tới Sa Hà điếm, bốn người vào thuê phòng trọ. Trương Vô Kỵ viết một bài thuốc, Tô Tập Chi nhờ người đi cắt thuốc. Năm nay vùng Dư Tây này không bị thiên tai, tuy bọn quan lại Mông Cổ hoành hành ngang ngược giống như các vùng khác nhưng dân chúng còn có cơm ăn. Sa Hà điếm vẫn có hàng quán hoạt động, thuốc mua về Trương Vô Kỵ đem sắc lên cho Tô Tập Chi và Chiêm Xuân uống.

Bốn người trú ở khách điếm ba ngày, mỗi ngày Trương Vô Kỵ lại đổi bài thuốc một lần, đến ngày thứ tư đã giải hết chất độc trong cơ thể Tô Chiêm hai người. Cả hai vô cùng cảm kích, hỏi Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối định đi đâu. Trương Vô Kỵ bèn nói sẽ đến ngọn Tọa Vong thuộc dãy núi Côn Luân.

Chiêm Xuân nói:

– Tô đại ca, tính mạng hai ta là do tiểu huynh đệ này cứu, song năm vị sư huynh của tiểu muội vẫn đang lùng tìm đại ca ở khắp nơi đấy, thành thử sự việc chưa chấm dứt đâu. Vậy đại ca hãy theo tiểu muội đến núi Côn Luân một phen thì hơn, đại ca nghĩ sao?

Tô Tập Chi giật mình, hỏi:

– Đến núi Côn Luân ư?

Chiêm Xuân nói:

– Đúng thế. Đại ca theo tiểu muội tới đó bái kiến gia sư, thưa rõ đại ca chưa hề học được chiêu thức nào của pho Côn Luân lưỡng nghi kiếm. Việc đó chưa được lão nhân gia lượng thứ thì đại ca không tránh được đủ thứ tai họa đâu.

Tô Tập Chi trong bụng bực mình, nói:

– Phái Côn Luân khinh người quá lắm, ta chỉ mới xem qua một chút, suýt nữa đã bỏ mạng, vậy mà vẫn chưa chịu buông tha ư?

Chiêm Xuân dịu dàng nói:

– Tô đại ca, đại ca hãy đặt mình vào địa vị tiểu muội mà xem. Việc tiểu muội về thưa với sư phụ, rằng đại ca chưa học được chút kiếm pháp nào thì cũng không khó, nhưng nếu năm vị sư huynh của tiểu muội lại ra tay đả thương đại ca thì tiểu muội sẽ rất đau lòng.

Hai người họ sống chết cùng nhau mấy hôm nay, đã nảy sinh tình ý, Tô Tập Chi nghe lời lẽ chân tình dịu dàng của Chiêm Xuân, bao nhiêu nỗi bực tiêu tan, nghĩ thầm: “Phái Côn Luân người đông thế mạnh, nếu họ cứ như bóng ma bám riết theo mình, khó tránh khỏi có ngày chết dưới tay họ”. Chiêm Xuân thấy y trầm ngâm, lại nói:

– Đại ca hãy đi với tiểu muội một chuyến đến núi Côn Luân, sau đó đại ca có việc gì cần xử lý, tiểu muội sẽ cùng đi lo liệu với đại ca.

Tô Tập Chi mừng nói:

– Được rồi, cứ như thế. Chỉ không biết tôn sư có chịu tin hay không?

Chiêm Xuân nói:

– Sư phụ trước nay vẫn quý mến tiểu muội, để rồi tiểu muội cố năn nỉ sư phụ, nhất định sư phụ sẽ không làm khó đại ca đâu. Sau khi xong việc đó, tiểu muội sẽ đi thăm hai con của đại ca, để bà chị dâu của đại ca không dám hành hạ chúng.

Tô Tập Chi nghe Chiêm Xuân nói vậy, rõ ràng có ý hứa hẹn, thì cả mừng nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu huynh đệ, chúng ta cùng đến núi Côn Luân, đi với nhau một thể cho vui.

Chiêm Xuân nói:

– Dãy núi Côn Luân trải dài ngàn dặm, có biết bao nhiêu ngọn, không hiểu ngọn Tọa Vong ở chỗ nào. Nhưng phái Côn Luân muốn tìm ra ngọn núi đó chắc sẽ tìm ra.

Hôm sau Tô Tập Chi thuê một cỗ xe lớn cho Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối ngồi, còn y và Chiêm Xuân cưỡi ngựa theo sau. Đến thị trấn lớn đầu tiên, Chiêm Xuân mua mấy bộ quần áo cho Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Tô Chiêm hai người thấy hai đứa trẻ tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới rồi, trai thì anh tuấn, nữ thì tú mỹ, cùng tấm tắc khen ngợi.

Hai đứa trẻ bây giờ mới khỏi chịu cảnh khổ sở đường xa, được ăn uống đầy đủ, thân hình mập mạp dần lên.

Càng đi về phía tây, trời mỗi ngày một lạnh, dọc đường có Tô Tập Chi và Chiêm Xuân lo liệu, mọi sự bình an. Từ khi đến Tây Vực, nơi thế lực của phái Côn Luân hùng mạnh, họ không gặp trở ngại gì, có điều là cát vàng táp vào mặt, gió lạnh thấu xương thực là khó chịu.

Cuối cùng tới thung lũng Tam Thánh trong dãy Côn Luân, nơi đây cỏ cây xanh tươi, hoa thơm và cây trái khắp chốn. Tô Tập Chi và Trương Vô Kỵ không thể ngờ giữa vùng hoang sơn lạnh lẽo lại có một thung lũng đẹp đến thế, nên rất vui mừng. Thì ra thung lũng Tam Thánh bốn phía xung quanh núi non cao chọc trời đã chắn hết khí lạnh. Phái Côn Luân bảy tám chục năm, từ khi được Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo sáng lập tới nay, các đời chưởng môn đã bỏ nhiều công sức chỉnh trang thung lũng này, sai đệ tử đi tận Giang Nam ở phía đông, Thiên Trúc ở phía tây, mang các loài kỳ hoa dị thảo về trồng ở đây.

Chiêm Xuân dẫn ba người đến Thiết Cầm cư, nơi ở của Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung. Bước vào, thấy sư huynh đệ tỷ muội ai ai cũng có vẻ lo buồn, gặp Chiêm Xuân chỉ gật đầu nhẹ, không nói năng gì. Chiêm Xuân lo lo, không hiểu xảy ra chuyện gì, bèn hỏi một sư muội:

– Sư phụ có nhà không?

Sư muội chưa kịp trả lời, đã nghe có tiếng quát tháo của Hà Thái Xung từ hậu đường vọng ra:

– Rặt một lũ giá áo túi cơm! Sai làm bao nhiêu việc, không xong được một việc nào hết! Có một lũ đệ tử ăn hại như các ngươi thật vô dụng!

Tiếp đó là tiếng đập bàn rất mạnh. Chiêm Xuân nói nhỏ với Tô Tập Chi:

– Sư phụ đang tức giận, chúng ta chưa vào gặp vội, để mai tính sau.

Đột nhiên nghe Hà Thái Xung gọi:

– Có phải Xuân nhi đó không? Thập thò gì ngoài đó? Thủ cấp tên tiểu tặc họ Tô mang về chưa?

Chiêm Xuân mặt biến sắc, vội bước vào nội sảnh, quỳ xuống khấu đầu, nói:

– Đệ tử bái kiến sư phụ.

Hà Thái Xung hỏi:

– Việc ta giao cho ngươi, làm đến đâu rồi? Tên tiểu tặc họ Tô ra sao?

Chiêm Xuân đáp:

– Gã họ Tô đã tới đây, đang khấu đầu ở bên ngoài tạ tội với sư phụ. Y nói y không biết quy củ, quả thực đã sơ sót ngắm sư phụ thi diễn kiếm pháp, song kiếm pháp của bổn phái tinh vi huyền diệu, y xem rồi chỉ biết kiếm thuật đó là vô song trong thiên hạ nhưng cao minh ở điểm nào thì y chẳng hiểu gì hết.

Chiêm Xuân theo học sư phụ đã lâu, biết sư phụ rất tự phụ về võ công, bèn nói gã họ Tô hết mực ca tụng công phu bản môn, để sư phụ cao hứng mà tha tội cho chàng ta.

Nếu lúc khác, nghe câu tâng bốc ấy hẳn Hà Thái Xung đã thích chí, nhưng hôm nay lão ta đang bực bội, chỉ hừ một tiếng, nói:

– Việc này ngươi làm thế là giỏi! Đem nhốt gã họ Tô vào thạch thất phía sau, ta sẽ định đoạt.

Chiêm Xuân thấy sư phụ đang giận, không dám cầu xin thêm, chỉ đáp:

– Vâng!

Rồi hỏi:

– Các sư mẫu đều khỏe chứ ạ? Để con vào trong khấu đầu!

Hà Thái Xung có cả thảy năm người thê và thiếp, sủng ái nhất tiểu thiếp thứ năm. Chiêm Xuân muốn xin sư phụ tha cho Tô Tập Chi, nên định nhờ vị sư mẫu thứ năm ấy nói giùm.

Hà Thái Xung bỗng lộ vẻ buồn rầu, thở dài nói:

– Ngươi vào thăm ngũ cô cũng phải, ngũ cô bệnh nặng lắm, ngươi may còn kịp về gặp mặt nàng lần cuối đó.

Chiêm Xuân giật mình, sợ hãi hỏi:

– Ngũ cô bị bệnh gì thế ạ?

Hà Thái Xung thở dài:

– Biết được bệnh gì đã hay! Đã gọi bảy tám danh y đến xem, vậy mà thảy đều không đoán được bệnh tình, toàn thân sưng vù, một người đang như hoa như ngọc, thế mà phù lên… ôi, thôi, không muốn nhắc đến nữa…

Rồi lão ta liên tiếp lắc đầu, nói thêm:

– Thu bao nhiêu là đồ đệ, chẳng đứa nào làm được việc gì. Bảo chúng nó đi đến núi Trường Bạch tìm nhân sâm ngàn tuổi, gần hai tháng nay rồi mà chưa đứa nào về; sai đi kiếm Tuyết Liên, Thủ Ô để cứu mạng, đứa nào cũng về tay không.

Chiêm Xuân nghĩ thầm: “Từ đây đến núi Trường Bạch, đường xa vạn dặm, đâu phải đến là về ngay. Dù đến nơi, chắc gì kiếm được nhân sâm ngàn tuổi; còn mấy vị thuốc quý hiếm có thể cải tử hoàn sinh, kiếm cả đời chưa chắc đã thấy, vài ba ngày làm sao tìm được?” Chiêm Xuân biết sư phụ sủng ái người tiểu thiếp kia hơn cả tính mạng mình, nay nàng ta trọng bệnh không chữa được, nên giận cá chém thớt, trút tội sang đầu người khác.

Hà Thái Xung lại nói:

– Ta đã dùng nội lực thử kinh mạch cho nàng ta, không thấy có gì khác lạ. Hừ, nàng mà không sống được thì ta sẽ giết sạch bọn thầy lang tầm thường trong thiên hạ.

Chiêm Xuân nói:

– Để đệ tử xuống thăm ngũ sư mẫu.

Hà Thái Xung nói:

– Được, ta dẫn ngươi đi.

Hai người vào phòng của ngũ cô. Chiêm Xuân vừa bước vào đã ngửi toàn là mùi thuốc, vén màn ra, thấy mặt người bệnh sưng phù như Trư Bát Giới, hai mắt híp sâu vào trong thịt tưởng chừng không mở ra nổi, hơi thở hổn hển nặng nề như tiếng kéo bễ. Ngũ cô vốn là một mỹ nữ, nếu không đã chẳng được Hà Thái Xung mê say như thế, lúc này bệnh hoạn xấu xí khiến Chiêm Xuân trông thấy cũng đành phải thở dài.

Hà Thái Xung nói:

– Gọi bọn lang băm tới đây cho ta.

Bà vú già hầu hạ trong phòng vâng dạ bước ra. Lát sau, tiếng dây xích kêu loảng xoảng, đi vào bảy ông thầy lang. Bảy người bị xích chân với nhau, hình dung tiều tụy, thần sắc rầu rĩ. Họ là các thầy thuốc có tiếng ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Cam Túc bị đệ tử của Hà Thái Xung nửa mời nửa bắt về đây. Bảy vị này mỗi người định bệnh một khác, người bảo là bệnh phù thũng, kẻ bảo trúng tà, bệnh nhân uống thuốc họ cắt, không thấy công hiệu gì, thân thể ngũ cô cứ mỗi ngày một phù thêm. Hà Thái Xung nổi giận đem xiềng chân cả bảy vị lại, nói là nếu không chữa khỏi cho ngũ cô thì sẽ chôn sống cả bảy vị theo ngũ cô một thể. Bây giờ thì danh y đã bị gọi là lang băm.

Bảy vị danh y trổ hết tài nghệ bình sinh mà bệnh của ngũ cô cứ ngày càng nặng thêm, họ tự biết tính mệnh của mình khó toàn, song mỗi lần hội chẩn họ đều lớn tiếng tranh cãi, người này chê sáu người kia, bảo sở dĩ ngũ cô bệnh nặng thêm toàn là do sáu người kia làm hại, không liên quan gì tới mình. Lần này bảy vị sau khi xem mạch, lại bắt đầu tranh cãi với nhau. Hà Thái Xung vừa lo vừa giận, lớn tiếng chửi mắng mới dập tắt cuộc cãi lộn của bọn thầy lang kia.

Chiêm Xuân chợt nhớ ra, nói:

– Sư phụ, con có đưa từ tỉnh Hà Nam về đây một y sinh, tuổi còn nhỏ nhưng tài nghệ chắc chắn hơn mấy người này.

Hà Thái Xung cả mừng, kêu lên:

– Sao ngươi không nói sớm, mau mời vào, mau lên!

Mỗi vị danh y lúc mới đến, Hà Thái Xung đều đối đãi cực kỳ cung kính, nhưng khi họ tỏ ra kém cỏi thì Hà Thái Xung chẳng còn nể nang gì hết.

Chiêm Xuân trở lại đại sảnh, dẫn Trương Vô Kỵ vào. Trương Vô Kỵ vừa trông thấy Hà Thái Xung liền nhận ngay ra lão ta cũng có mặt trong đám người năm xưa lên núi Võ Đang bức tử cha mẹ cậu thì bất giác căm hận trong lòng. Từ bấy đến nay đã hơn bốn năm, diện mạo thân thể của Trương Vô Kỵ thay đổi hẳn, Hà Thái Xung không nhận ra cậu, thấy một thiếu niên mười bốn, mười lăm tuổi mà gặp lão ta lại không rập đầu hành lễ, cứ khinh khỉnh nhìn với vẻ mặt lạnh lùng thì lão ta chẳng buồn để mắt tới, quay sang hỏi Chiêm Xuân:

– Ngươi bảo vị thầy thuốc nào đâu?

Chiêm Xuân đáp:

– Chính là tiểu huynh đệ này. Y thuật của cậu ấy cao minh hơn rất nhiều danh y đấy ạ.

Hà Thái Xung làm sao tin được, nói:

– Vô lý, vô lý!

Chiêm Xuân nói:

– Đệ tử trúng phải chất độc của hoa Thanh Đà La, chính nhờ cậu này cứu chữa khỏi đó ạ.

Hà Thái Xung kinh ngạc, nghĩ thầm: “Đã trúng phải chất độc của hoa Thanh Đà La mà không có giải dược của bản môn thì chỉ có nước chết, tiểu tử này lại cứu được, chắc loại tà môn”. Lão ta nhìn Trương Vô Kỵ từ chân lên mặt, rồi hỏi:

– Này cậu, cậu biết chữa bệnh thật à?

Trương Vô Kỵ nhớ lại cảnh thảm tử của cha mẹ mình, vốn ngầm căm hận Hà Thái Xung, nhưng bản tính trời sinh là không hay nhớ oán cũ, nếu không cậu đã chẳng cứu chữa cho bọn Giản Tiệp phái Không Động, cũng như cho Chiêm Xuân của phái Côn Luân, giờ nghe Hà Thái Xung hỏi sẵng như thế, tuy khó chịu nhưng cũng gật đầu.

Vừa bước vào phòng này cậu đã ngửi thấy một mùi rất cổ quái, một lát sau, thấy mùi đó lúc đậm lúc nhạt rất đặc biệt, đến bên giường nhìn mặt bệnh nhân một hồi, bắt mạch hai tay, đột nhiên lấy một mũi kim châm chích luôn vào cái mặt sưng phù như trái dưa hấu của ngũ cô. Hà Thái Xung cả kinh, quát:

– Ngươi làm gì vậy?

Định túm lấy tay Trương Vô Kỵ thì cậu đã rút kim ra, chỗ đó không hề thấy máu hay nước chảy ra. Trương Vô Kỵ đưa mũi kim lên mũi ngửi ngửi, rồi gật gật đầu. Hà Thái Xung cảm thấy có chút hi vọng, hỏi:

– Tiểu huynh đệ, bệnh này chữa được chăng?

Với địa vị chưởng một môn phái đầy quyền uy như Hà Thái Xung mà gọi Trương Vô Kỵ là “tiểu huynh đệ” phải nói là tôn trọng hết mức rồi.

Trương Vô Kỵ không trả lời, cúi xuống gầm giường ngũ cô quan sát một hồi, lại mở cửa sổ nhìn ra vườn hoa bên ngoài, đột nhiên nhảy ra đi xem từng cây hoa. Hà Thái Xung sủng ái ngũ cô, ngoài vườn đối diện phòng ở của nàng ta trồng nhiều loại kỳ hoa dị thảo, lúc này lão ta thấy Trương Vô Kỵ hành động lạ lùng, nóng lòng sốt ruột, chỉ mong cậu mau kê phương thuốc trị bệnh cho ngũ cô; vậy mà cậu lại ra vườn ngắm cỏ thưởng hoa, bảo làm sao lão ta không nổi giận? Nhưng trong lúc thúc thủ vô sách, lại có chút hi vọng, nên lão ta đành nén giận, song vẻ mặt rất cau có, hơi thở hổn hển.

Chỉ thấy Trương Vô Kỵ xem hoa một hồi, gật gật đầu, như đã hiểu điều gì, trở vào phòng, nói:

– Bệnh này trị được, nhưng tiểu đệ không muốn chữa, Chiêm cô nương, tiểu đệ đi đây.

Chiêm Xuân nói:

– Trương huynh đệ, nếu cậu chữa khỏi bệnh cho ngũ cô, phái Côn Luân hết thảy trên dưới sẽ cảm tạ đại đức của cậu, vậy xin cậu ra tay chữa trị cho.

Trương Vô Kỵ chỉ Hà Thái Xung, nói:

– Trong số người bức tử cha mẹ tiểu đệ, có Thiết Cầm tiên sinh đây, tiểu đệ sao lại phải cứu mạng thân nhân của ông ta chứ?

Hà Thái Xung kinh ngạc, hỏi:

– Tiểu huynh đệ họ gì? Lệnh tôn lệnh đường là ai vậy?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Tiểu đệ họ Trương, tiên phụ là đệ tử thứ năm của phái Võ Đang.

Hà Thái Xung giật mình nghĩ thầm: “Thì ra nó là con trai của Trương Thúy Sơn. Phái Võ Đang quả thực lợi hại, dòng dõi như nó hẳn phải có tài”, bèn thở dài, nói:

– Trương huynh đệ, hồi lệnh tôn còn sống, ta vốn có giao tình thân thiết với lệnh tôn, khi lệnh tôn tự vẫn, ta đau lòng khôn nguôi…

Để cứu ái thiếp, Hà Thái Xung bịa ra như thế. Chiêm Xuân cũng nói thêm vào cho lời bịa kia của sư phụ thêm sức thuyết phục:

– Lệnh tôn lệnh đường mất đi, gia sư than khóc mãi, gia sư thường nói với chúng đệ tử rằng lệnh tôn là người gia sư bình sinh giao hảo thân nhất. Trương huynh đệ, sao cậu không nói sớm? Nếu sớm biết cậu là lệnh lang của Trương ngũ hiệp, ta đã kính trọng cậu thêm mấy phần rồi.

Trương Vô Kỵ bán tín bán nghi, nhưng cậu vốn không nhớ oán thù, bèn nói:

– Vị phu nhân này không bị bệnh gì kỳ quái cả, chỉ bị trúng độc của Kim ngân huyết xà thôi.

Hà Thái Xung và Chiêm Xuân cùng kêu lên:

– Kim ngân huyết xà ư?

Trương Vô Kỵ nói:

– Đúng thế, loài rắn độc ấy tiểu đệ cũng chưa gặp bao giờ. Nhưng phu nhân mặt mày sưng phù, kim châm vào có mùi đàn hương, Hà tiên sinh hãy nhìn kỹ bàn chân phu nhân mà xem, thể nào mười đầu ngón chân cũng có vết răng nhỏ xíu.

Hà Thái Xung vội giở tấm chăn đắp trên người ngũ cô, chăm chú quan sát mười đầu ngón chân thấy quả nhiên mỗi đầu ngón đều có vết răng đen tím, nhỏ như hạt gạo, nếu không để ý tìm dĩ nhiên sẽ không nhận ra.

Hà Thái Xung thấy vậy thì lòng tin vào Trương Vô Kỵ tăng gấp mười lần, nói:

– Đúng quá, đúng quá, đầu ngón chân nào cũng có vết răng, tiểu huynh đệ thật cao minh! Tiểu huynh đệ đã biết nguyên nhân gây bệnh, tất sẽ chữa được. Tiện thiếp khỏi rồi, xin tạ ân thật hậu.

Đoạn quay sang mắng bảy ông thầy lang:

– Thế mà bảo là phong hàn trúng tà, dương hư âm tổn, toàn nói năng tầm bậy! Mười đầu ngón chân của nàng ta đều có vết răng, thế mà bảy tên bị thịt chẳng tên nào nhận ra!

Tuy lão ta chửi mắng là thế, nhưng giọng lại vui mừng hớn hở.

Trương Vô Kỵ nói:

– Bệnh của phu nhân vốn quá lạ lùng, bọn họ không xác định được căn nguyên, cũng không đáng trách, vậy hãy thả cho họ về đi.

Hà Thái Xung cười, nói:

– Đúng rồi, đúng rồi! Đã có tiểu huynh đệ, giữ bọn lang băm ấy ở đây chỉ tổ bực mình. Xuân nhi, hãy cho mỗi người một trăm lạng bạc, bảo họ tự tìm đường về.

Bảy ông thầy lang thật chẳng khác gì người sắp chết sống lại, ai nấy cả mừng, vội vã ra về, chỉ sợ Trương Vô Kỵ chữa không khỏi cho ngũ cô, Hà Thái Xung lại xích luôn cậu vào với họ thành tám vị lang băm mà chôn sống theo ái thiếp của ông ta.

Trương Vô Kỵ nói:

– Xin gọi nô bộc khiêng giường của phu nhân ra, dưới gầm giường có một cái lỗ, chính là hang của Kim ngân huyết xà.

Hà Thái Xung không đợi nô bộc, dùng tay phải nắm một chân giường kéo luôn cả giường lẫn người sang một bên, quả nhiên thấy bên dưới có một cái hốc nhỏ, vừa mừng vừa tức, kêu lên:

– Mau đem lưu huỳnh và lửa vào đây, hun cho con rắn độc bò ra mà băm vằm nó thành ngàn mảnh cho ta!

Trương Vô Kỵ xua tay:

– Không được, không được làm vậy! Chất độc mà phu nhân bị trúng, lại phải lấy nọc của chính cặp rắn trong hang kia mà chữa trị đó. Nếu giết chết rắn, bệnh của phu nhân cũng hết đường cứu chữa.

Hà Thái Xung nói:

– Thì ra vậy. Cần làm thế nào, xin cứ chỉ giáo.

Hai chữ “chỉ giáo”, từ ngày nghiệp sư tạ thế đến giờ, hôm nay Hà Thái Xung mới dùng tới lần đầu.

Trương Vô Kỵ chỉ bồn hoa bên ngoài cửa sổ, nói:

– Hà tiên sinh, bệnh tình của tôn phu nhân đều do tám cây lan Linh Chi kia mà ra.

Hà Thái Xung nói:

– Cây đó gọi là lan Linh Chi ư? Ta cũng không biết tên là gì. Một vị bằng hữu biết ta thích hoa cỏ nên đã đem từ Tây Vực tới đây tặng ta tám bồn hoa lan này. Hoa này khi nở có mùi đàn hương, sắc hoa tuyệt đẹp, không ngờ trồng nó lại là mầm họa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Trong sách viết rằng cây lan Linh Chi củ tròn như trái cầu, màu đỏ như lửa, trong củ chứa chất cực độc. Chúng ta hãy đào thử xem có đúng thế không.

Lúc này các đệ tử đều nghe tin có thầy thuốc thiếu niên đến chữa quái bệnh cho ngũ sư mẫu. Các nam đệ tử không tiện vào phòng, sáu nữ đệ tử, trong đó có Chiêm Xuân, đứng bên cạnh nghe Trương Vô Kỵ bảo vậy, có hai người bèn lấy xẻng đào một cây lan Linh Chi lên, quả nhiên thấy củ nó hình tròn, đỏ như lửa. Nghe bảo củ đó chứa chất cực độc, họ không dám sờ tay vào.

Trương Vô Kỵ nói:

– Các vị hãy đào cả tám gốc lan ấy lên, cho củ vào chậu sành, giã nát, nhào với tám hột trứng gà, một bát máu gà cho nhuyễn thành hồ, khi làm nhớ cẩn thận, đừng để dính vào da thịt.

Chiêm Xuân cùng hai sư muội làm đúng như chỉ dẫn của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lại sai lấy hai cái ống tre dài chừng một thước, một cái gậy trúc để sẵn một bên.

Chẳng mấy chốc củ lan Linh Chi đã được giã nát làm thành hồ, Trương Vô Kỵ đổ số hồ đó xuống đất, thành hình vòng tròn, để khuyết một khoảng rộng độ hai tấc, nói:

– Các vị thấy có sự lạ kỳ, xin chớ kêu lên, để rắn độc khỏi kinh sợ chạy mất. Các vị hãy lấy một ít cam thảo và bông nhét vào lỗ mũi.

Mọi người làm y như thế. Trương Vô Kỵ cũng bịt mũi lại, lấy lửa đốt lá cây lan Linh Chi ngay trước hang rắn. Khoảng thời gian gần bằng một tuần trà, thấy từ trong hang chui ra một con rắn nhỏ, thân đỏ như máu, trên đầu có một cái mào màu vàng, gọi là con Kim quan huyết xà. Nó từ từ bò ra, dài chừng tám tấc, có bốn chân; tiếp đó lại chui ra con thứ hai, hình dạng tương tự, thân ngắn hơn một chút, cái mào màu trắng bạc, gọi là con Ngân quan huyết xà.

Bọn Hà Thái Xung thấy hai con quái xà thì đều nín thở không dám lên tiếng. Loài độc xà dị tướng này tất nhiên chứa chất độc, nhưng mọi người có võ công cao cường nên không sợ; song lại sợ rằng rắn chạy đi mất thì bệnh của ngũ cô không chữa được.

Chỉ thấy hai con rắn thè lưỡi, quấn quýt nhau vô cùng thân thiết. Rồi chúng từ từ bò vào trong cái vòng hồ làm bằng lan Linh Chi. Trương Vô Kỵ vội lấy một cái ống tre chặn chỗ khuyết của vòng, cầm cây gậy trúc gạt nhẹ vào đuôi con Ngân quan huyết xà một cái. Nhanh như chớp, mọi người chỉ thấy làn ngân quang loáng một cái, con rắn ấy đã chui tọt vào ống tre.

Con Kim quan huyết xà cũng muốn chui vào theo, nhưng ống tre nhỏ chỉ vừa chỗ cho một con. Con Kim quan huyết xà không vào được, cứ kêu u u loạn lên. Trương Vô Kỵ lại đặt ống tre thứ hai trước đầu nó, dùng gậy trúc gạt đuôi cho nó chui nốt vào trong, rồi cậu lấy nắp gỗ đút nút ống tre, để giữ hai con rắn bên trong ống.

Từ khi cặp kim ngân huyết xà từ trong hang bò ra, ai nấy hồi hộp, lo lắng, đến lúc Trương Vô Kỵ đút nút ống tre lại rồi, mọi người mới không hẹn cùng thở phào một tiếng. Trương Vô Kỵ nói:

– Hãy mang vài thùng nước nóng cọ rửa sàn nhà thật sạch, đừng để rơi rớt chất độc lan Linh Chi.

Sáu nữ đệ tử xuống bếp đun nước, không lâu sau mang lên rửa sạch nền nhà. Trương Vô Kỵ bảo đóng kín cửa sổ, đem các dược liệu như Hùng Hoàng, Minh Phàn, Đại Hoàng, Cam Thảo… tán nhỏ thành bột, trộn với vôi sống, đổ vào cái ống tre nhốt con Ngân quan huyết xà, con rắn ấy lập tức kêu u u. Con Kim quan huyết xà ở ống tre bên cạnh kêu lên đáp ứng. Trương Vô Kỵ mở nắp ống cho con Kim quan huyết xà, nó chui ngay ra, bò quanh ống tre đựng con Ngân quan huyết xà vài vòng, có vẻ rất gấp gáp, rồi đột nhiên nó vọt lên giường, chui vào trong chăn của ngũ cô.

Hà Thái Xung hoảng hốt kêu “ối” một tiếng. Trương Vô Kỵ xua xua tay, nhẹ nhàng mở cái chăn lên, thấy con Kim quan huyết xà đang ngậm ngón giữa bàn chân trái của ngũ cô. Trương Vô Kỵ vui mừng, thấp giọng, nói:

– Phu nhân trúng phải chất độc của Kim ngân huyết xà, nay chính cặp độc xà này sẽ hút chất độc ra khỏi cơ thể phu nhân.

Thời gian độ tàn nửa nén nhang, thấy con rắn kia thân phình to gấp mấy lần, cái mào màu vàng trên đầu nó sáng lấp lánh. Trương Vô Kỵ bèn mở nút ống tre đựng con Ngân xà, con Kim xà từ trên giường liền trườn xuống, tới bên miệng ống, nhả độc mớm cho con Ngân xà ở bên trong.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tốt lắm, mỗi ngày cứ thế hút chất độc hai lần, tôi sẽ cho thuốc uống tiêu phù, bổ hư, nội nhật mười ngày có thể khỏi hẳn.

Hà Thái Xung cả mừng, mời Trương Vô Kỵ sang thư phòng, nói:

– Tiểu huynh đệ có thần kỹ, vụ này nguyên do thế nào, mong được tiểu huynh đệ chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

– Trong sách viết rằng chất độc của đôi Kim ngân huyết xà này đứng vào hàng thứ bốn mươi bảy trong thiên hạ, không phải thuộc loại cực độc. Nhưng loài rắn này có đặc điểm là rất thích hút các chất độc như thạch tín, hạc đỉnh hồng, mật chim công, rượu ngâm lông chim trẩm. Ngoài cửa sổ phòng phu nhân trồng lan Linh Chi, loài lan ấy có độc tính cực mạnh nên đã dẫn dụ cặp rắn này tới.

Hà Thái Xung gật đầu:

– Thì ra vậy.

Trương Vô Kỵ nói:

– Kim ngân huyết xà bao giờ cũng sống theo cặp, một con đực, một con cái. Vừa rồi tiểu đệ dùng một số dược liệu như Hùng hoàng để hun con cái là con Ngân xà. Con đực, tức Kim xà, muốn cứu con kia, phải tới hút máu độc ở ngón chân phu nhân, rồi truyền cho con rắn cái. Sau đó tiểu đệ dùng thuốc trị con Kim xà, con Ngân xà cũng sẽ phải hút máu độc từ chân phu nhân để nuôi con đực. Cứ thế thay phiên nhau, sẽ hút hết chất độc khỏi cơ thể phu nhân.

Nói đến đây, cậu chợt nghĩ thầm: “Tại sao cặp rắn này thoạt tiên lại đến cắn ngón chân của phu nhân, bên trong tất phải có nguyên do” nhưng cậu chưa nghĩ ra, nên cũng chả nói làm gì.

Hôm đó Hà Thái Xung thết tiệc tại hậu đường khoản đãi Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Trương Vô Kỵ nghĩ Dương Bất Hối là con riêng của Kỷ Hiểu Phù, nói ra e sẽ tổn hại thanh danh của phái Nga Mi, nên khi Hà Thái Xung hỏi lai lịch cô bé, cậu chỉ trả lời chung chung không rõ ràng.

Mấy ngày sau, chứng sưng phù của ngũ cô giảm hẳn, tinh thần khôi phục, đã bắt đầu ăn uống chút ít. Trương Vô Kỵ ngỏ ý cáo từ, Hà Thái Xung cố nài nỉ cậu ở lại vì chỉ sợ bệnh của ái thiếp tái phát. Đến ngày thứ mười thì ngũ cô khỏi hẳn.

Ngũ cô sửa soạn một bữa tiệc thật linh đình để đích thân cảm tạ Trương Vô Kỵ, mời Chiêm Xuân ngồi bồi tiếp. Ngũ cô dung mạo tuy còn tiều tụy, nhưng nét đẹp còn nguyên vẹn, Hà Thái Xung thập phần hoan hỉ.

Chiêm Xuân nhân lúc sư phụ cao hứng liền xin sư phụ thu nhận Tô Tập Chi làm môn đệ. Hà Thái Xung cười hà hà, nói:

– Xuân nhi, cái kế mượn việc này làm việc khác của ngươi khá lắm, ta thu nhận tên tiểu tử họ Tô, mai sau truyền cho hắn Côn Luân lưỡng nghi kiếm, thành ra việc nhìn trộm trước đây coi như cho qua.

Chiêm Xuân cười, nói:

– Sư phụ, nếu chàng ta không nhìn trộm lão nhân gia sử kiếm, đệ tử đâu có đi bắt chàng ta, thì làm sao gặp được Trương thế huynh. Dĩ nhiên sư phụ và ngũ cô hồng phúc quá lớn đã đành, Trương thế huynh y thuật cao minh, nhưng gã họ Tô kể ra cũng có góp chút công lao.

Ngũ cô nói với Hà Thái Xung:

– Tướng công thu bao nhiêu đệ tử, nhưng cuối cùng chẳng đứa nào giúp được việc gì, chỉ có Chiêm cô nương lập đại công. Chiêm cô nương đã nhắm gã họ Tô ấy, hẳn là người tốt, tướng công thu nhận thêm một đệ tử, không chừng sau này hắn lại là kẻ đắc lực nhất cũng nên.

Người ái thiếp này nói gì Hà Thái Xung chẳng nghe, lão ta bèn nói:

– Được, thu nhận hắn cũng được, nhưng ta có một điều kiện.

Ngũ cô hỏi:

– Điều kiện gì vậy?

Hà Thái Xung nghiêm mặt, nói:

– Hắn trở thành môn hạ của ta rồi, phải chuyên tâm học nghệ, không được si tâm vọng tưởng Xuân nhi, quyết không được đòi lấy Xuân nhi làm vợ.

Chiêm Xuân đỏ mặt, cúi đầu xuống. Ngũ cô cười hì hì, nói:

– Ôi dào, tướng công là sư phụ chả chịu làm gương, chính mình năm thê bảy thiếp, lại cấm đệ tử kết hôn với nhau là sao?

Hà Thái Xung vốn chỉ định nói đùa Chiêm Xuân, nên cười ha hả, nói:

– Uống rượu đi nào, uống rượu đi nào!

Chỉ thấy một a hoàn bưng khay ra, trên khay đặt một vò rượu, tới bên bàn tiệc rót rượu cho từng người. Loại rượu này đậm đặc, màu vàng ửng, thơm nức mũi. Hà Thái Xung nói:

– Trương huynh đệ, đây là đặc sản của bản sơn, ngâm với hổ phách mật lê trên đỉnh núi tuyết, gọi là rượu “Hổ phách mật lê”, bên ngoài không có được, mỗi lần chỉ được uống vài chén thôi.

Hà Thái Xung nghĩ thầm: “Làm cách nào lừa nó nói ra chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn nhỉ? Việc đó phải từ từ tính kế, không nên nóng vội”.

Trương Vô Kỵ vốn không biết uống rượu, nhưng thấy rượu “Hổ phách mật lê” thơm nức, cũng nâng chén lên định nhấp môi, thì đột nhiên cặp Kim ngân huyết xà ở trong bọc cùng kêu lên u u. Trương Vô Kỵ liền nói:

– Rượu này chớ uống.

Mọi người kinh ngạc, vội đặt chén xuống. Trương Vô Kỵ lấy một ống tre trong bọc, thả con Kim xà ra, nó liền bò tới cạnh chén rượu, thò đầu vào hút sạch không còn một giọt. Trương Vô Kỵ cho nó vào ống tre, rồi thả con Ngân xà ra, con Ngân xà cũng hút hết một chén rượu. Cặp rắn này quấn quýt lấy nhau, nếu chỉ thả một con đực hay con cái thì con kia không bao giờ đi xa, lại rất dễ bảo; còn nếu thả hai con ra cùng lúc, thì khó lòng bắt trở lại, thậm chí có khi chúng sẽ cắn người không chừng.

Ngũ cô cười:

– Tiểu huynh đệ, đôi rắn của cậu biết uống rượu, thú vị thật!

Trương Vô Kỵ nói:

– Xin bảo người mang ra đây một con chó hoặc con mèo thử xem.

Ả a hoàn bưng rượu đáp “vâng” rồi quay mình định đi vào, Trương Vô Kỵ nói:

– Tỷ tỷ này hãy đứng lại đây, để người khác mang con vật ra được rồi.

Lát sau, một nô bộc dắt ra một con chó vàng. Trương Vô Kỵ lấy chén rượu trước mặt Hà Thái Xung đổ vào mồm con chó. Con chó hộc lên vài tiếng, thất khổng[53] ứa máu, chết ngay.

Ngũ cô sợ hãi run cả người, nói:

– Trong rượu có thuốc độc… kẻ nào… kẻ nào định hại chúng ta, Trương huynh đệ, sao cậu biết thế?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kim ngân huyết xà thích hút chất độc, chúng ngửi thấy chất độc trong rượu nên thích thú kêu lên.

Hà Thái Xung giận tím mặt, chộp luôn cổ tay ả a hoàn, hỏi nhỏ:

– Ai bảo ngươi bưng vò rượu này ra?

A hoàn kia sợ hết hồn, run rẩy thưa:

– Con… con không biết là rượu… có độc… Con mang dưới bếp lên ạ… Hà Thái Xung hỏi:

– Từ dưới bếp lên đây, ngươi có gặp ai không?

A hoàn đáp:

– Con đi tới hành lang có gặp tỷ tỷ Hạnh Phương, tỷ tỷ giữ lại nói chuyện vài câu, có mở vò rượu ra ngửi mùi ạ.

Hà Thái Xung, ngũ cô, Chiêm Xuân ba người nhìn nhau, đều có vẻ sợ hãi, vì Hạnh Phương là con hầu của đệ nhất phu nhân Hà Thái Xung. Trương Vô Kỵ nói:

– Hà tiên sinh, việc này tôi ngại chưa nói ra, song vẫn ngầm tra xét. Tiên sinh thử nghĩ xem, tại sao cặp rắn này thoạt tiên lại đến cắn vào ngón chân ngũ phu nhân, truyền nọc độc vào người? Điều này cũng dễ hiểu, trong cơ thể ngũ phu nhân đã có sẵn độc dược mạn tính nên mới dẫn dụ cặp rắn đến. Kẻ đã bỏ chất độc cho ngũ phu nhân và kẻ bỏ chất độc vào rượu hôm nay e rằng chỉ là một.

Hà Thái Xung chưa kịp trả lời, đột nhiên rèm cửa vén ra, thoáng một bóng người, Trương Vô Kỵ đã cảm thấy dưới hai bên vú đau nhói, cậu đã bị người ta điểm huyệt, rồi một tiếng nói sắc như dao vang lên:

– Không sai chút nào, người hạ độc là ta đây.

Người vừa bước vào là một thiếu phụ cao lớn, tuổi trạc ngũ tuần, tóc bạc quá nửa, cặp mắt có uy, lông mày xếch ngược. Thiếu phụ nói với Hà Thái Xung:

– Ta bỏ nọc rết độc địa vào trong vò rượu đấy, tướng công làm gì được ta nào?

Ngũ cô sợ hãi đứng dậy, cung kính chào:

– Thái thái!

Thì ra thiếu phụ cao lớn này là đệ nhất phu nhân của Hà Thái Xung tên Ban Thục Nhàn, nguyên  sư tỷ của ông ta.

Hà Thái Xung thấy thiếu phụ xộc vào phòng, chỉ hừ một tiếng, ngồi im không nói gì. Ban Thục Nhàn nói:

– Ta hỏi tướng công, chính ta hạ độc đấy, tướng công làm gì được ta nào?

Hà Thái Xung nói:

– Bà không ưa cậu bé này cũng chẳng sao. Thế nhưng bà làm thế, chẳng phân biệt đen trắng gì cả, lỡ ta uống phải rượu độc vào bụng, hỏi có nguy không?

Ban Thục Nhàn giận dữ nói:

– Tất cả mọi người ở đây đều chẳng tốt lành gì, chết bớt đi càng đỡ chướng tai gai mắt!

Thiếu phụ cầm vò rượu độc lên lắc thử, nghe tiếng óc ách, còn những quá nửa vò, liền rót ra một chén đầy, đặt ngay trước mặt Hà Thái Xung, nói:

– Ta vốn định hạ độc giết cả năm người, nhưng tên tiểu tử kia phát giác, vậy ta tha chết cho bốn người, còn chén rượu độc này, ai uống cũng được, tùy tướng công định liệu.

Nói đoạn nghe soạt một tiếng, thiếu phụ đã rút kiếm lăm lăm trong tay.

Ban Thục Nhàn là nhân vật kiệt xuất của phái Côn Luân, lớn hơn Hà Thái Xung hai tuổi, nhập môn sớm hơn lão ta, võ công không thua gì chồng. Hà Thái Xung thời trẻ anh tuấn tài hoa, rất được vị sư tỷ này yêu thích. Sư phụ của họ là Bạch Lộc Tử nhân bị chết do giao đấu với một cao thủ của Minh giáo nên không kịp di chúc, các đệ tử tranh nhau chức chưởng môn, không ai chịu nhường ai. Ban Thục Nhàn hồi đó ra sức phù trợ Hà Thái Xung, hai người hợp sức nên, thế lực mạnh hẳn lên; các sư huynh sư đệ khác không ai dám chống lại, nhờ đó Hà Thái Xung mới được tiếp nhiệm chức chưởng môn. Cảm ân đức ấy Hà Thái Xung kết hôn với Ban Thục Nhàn. Hồi còn trẻ trông cũng đẹp đôi, nhưng từ khi đứng tuổi, Ban Thục Nhàn trông già hơn Hà Thái Xung cả chục tuổi. Hà Thái Xung mượn cớ không có con nối dõi tông đường để lấy thêm mấy người thiếp.

Ban Thục Nhàn mấy chục năm tích uy, Hà Thái Xung lại tự biết mình không nên không phải, trong lòng hổ thẹn, đối với người vừa là sư tỷ vừa là nghiêm thê này, lão ta vô cùng nể sợ. Sợ thì có sợ, nhưng lão ta cứ lấy thêm hết người này người khác, mỗi lần thêm một người thiếp, nỗi kính sợ lại tăng đôi phần. Lúc này Hà Thái Xung thấy Ban Thục Nhàn đặt chén rượu độc trước mặt mình thì lão ta hoàn toàn không có ý định làm trái lời vợ, nghĩ thầm: “Ta đương nhiên không uống rồi, ngũ cô và Xuân nhi cũng không, Trương Vô Kỵ là ân nhân cứu mạng; chỉ còn con bé kia là không thân thích quen biết gì hết”, bèn đứng dậy cầm chén rượu đưa cho Dương Bất Hối, nói:

– Này bé, hãy uống chén rượu này đi.

Dương Bất Hối hoảng sợ, nó vừa thấy con chó to thế vừa lăn ra chết vì chén rượu, nên không dám cầm lấy chén rượu, khóc òa lên:

– Cháu không uống, cháu không uống đâu!

Hà Thái Xung túm lấy ngực áo cô bé, định buộc nó phải uống.

Trương Vô Kỵ lạnh lùng nói:

– Để tôi uống cũng được.

Hà Thái Xung cảm thấy áy náy, nhưng không nói gì.

Ban Thục Nhàn vốn ghen tức, định hạ độc giết ái thiếp của Hà Thái Xung là ngũ cô, tưởng là việc sắp thành, nào ngờ Trương Vô Kỵ từ phương xa tới cứu sống ngũ cô, thành thử bà ta ghét cay ghét đắng cậu, bèn lạnh lùng nói:

– Thằng bé này lắm trò cổ quái, không chừng nó có giải dược cũng nên. Nếu ngươi uống thay con bé kia thì một chén không đủ, phải uống cạn cả vò.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn Hà Thái Xung, mong lão ta nói vài lời tử tế, nào ngờ lão ta chỉ cúi đầu không nói gì. Chiêm Xuân và ngũ cô cũng chẳng dám hé môi, chỉ sợ lỡ nói gì, Ban Thục Nhàn lại trút cơn giận xuống đầu mình, bắt uống nửa vò rượu độc kia thì xong đời. Trương Vô Kỵ trong lòng tê tái, nghĩ thầm: “Tính mạng mấy người kia đều do ta cứu cả, song khi ta gặp nguy nan, bọn họ chỉ khoanh tay ngồi nhìn, đến một lời xin giùm cũng chẳng dám nói”, cậu liền nói:

– Chiêm cô nương, sau khi tôi chết, nhờ cô nương đưa tiểu muội muội này đến ngọn núi Tọa Vong tìm cha nó, liệu có được chăng?

Chiêm Xuân nhìn sư phụ, thấy Hà Thái Xung gật đầu, bèn đáp:

– Được, ta sẽ đưa nó đi.

Song nghĩ bụng: “Dãy núi Côn Luân dài hàng ngàn dặm, biết ngọn Tọa Vong ở chỗ nào mà tìm?”

Trương Vô Kỵ thấy cô ta trả lời cho xong chuyện, không có chút thành ý nào, cậu biết bọn người này rặt một hạng vô tình bạc bẽo, nói lắm chỉ phí lời, cười khẩy:

– Phái Côn Luân tự xưng là danh môn đại phái trong võ lâm, hóa ra là thế! Hà tiên sinh, đưa vò rượu cho ta uống.

Hà Thái Xung nghe thế thầm nổi giận, muốn Trương Vô Kỵ mau chết đi cho rảnh để mụ vợ cả của ông ta sớm hả dạ, khỏi tìm cách khác giết hại ngũ cô. Tình thế lúc này cấp bách, phải đối phó ngay, còn chuyện tung tích Tạ Tốn thì hãy để đó, bèn cầm vò rượu độc lên, dốc cả vào miệng Trương Vô Kỵ.

Dương Bất Hối ôm lấy Trương Vô Kỵ khóc ầm lên.

Ban Thục Nhàn cười khẩy, nói:

– Ngươi giỏi y thuật lắm, để xem ngươi có tự cứu nổi mình hay không.

Mụ ta liền giơ ngón tay điểm mấy huyệt đạo ở vai và mạng sườn Trương Vô Kỵ, lại dùng cán kiếm điểm hai đại huyệt trên người Hà Thái Xung, Chiêm Xuân, ngũ cô và Dương Bất Hối, rồi nói:

– Sau hai canh giờ, ta sẽ quay lại thả các ngươi ra.

Khi mụ ta điểm huyệt, Hà Thái Xung và Chiêm Xuân không dám cử động hoặc né tránh. Ban Thục Nhàn nói với đám thị tì ở bên cạnh:

– Đi ra hết!

Mụ ta ra khỏi phòng sau cùng, đóng cửa lại, vừa đi vừa cười lạnh từng tràng.

Uống rượu độc rồi, lát sau Trương Vô Kỵ thấy bụng đau quặn. Nhìn Ban Thục Nhàn đi ra, đóng sập cửa lại, cậu nghĩ thầm: “Mụ đi khỏi thì ta chưa chết đâu”. Cậu nhịn đau, ngầm vận khí, dùng phương pháp Tạ Tốn đã dạy, trước tiên tự giải khai các huyệt bị điểm, đoạn nhổ mấy sợi tóc cho vào cổ họng ngoáy ngoáy, thế là nôn ra tám chín phần rượu độc. Hà Thái Xung, Chiêm Xuân thấy cậu bị điểm huyệt mà vẫn tìm cách cử động được, đều lấy làm kinh ngạc.

Hà Thái Xung muốn ra tay ngăn cản Trương Vô Kỵ, ngặt nỗi chính lão ta đã bị điểm huyệt, tuy võ công đầy mình cũng đành giương mắt nhìn, có tức lắm cũng chẳng làm gì được. Trương Vô Kỵ thấy bụng vẫn còn đau, muốn nôn thêm nhưng không nôn được, nghĩ bụng trước tiên phải thoát hiểm cảnh, sau sẽ tính cách giải độc, bèn giải khai huyệt đạo cho Dương Bất Hối. Nào ngờ thủ pháp điểm huyệt của Ban Thục Nhàn rất lạ, Trương Vô Kỵ nắn mãi vẫn không giải được; tình thế lúc này cấp bách, không kịp thử cách giải khác, cậu bèn bế cô bé lên, mở cửa sổ nhìn ra không thấy ai, liền đặt Dương Bất Hối ra bên ngoài.

Hà Thái Xung nếu dùng chân khí xung huyệt thì chỉ quá nửa canh giờ cũng giải được huyệt đạo. Nay thấy Trương Vô Kỵ sắp bỏ trốn, đến lúc Ban Thục Nhàn tra vấn chắc chắn sẽ có sóng gió, huống hồ để cho một thằng nhãi con phái Võ Đang tay không trốn khỏi Tam Thánh đường của phái Côn Luân, đem chuyện vong ân bội nghĩa của lão ta truyền đi khắp giang hồ thì còn gì thể diện của một vị đại tông sư? Dù thế nào cũng phải giết chết nó; bèn hít một hơi dài, định thét to lên báo cho Ban Thục Nhàn biết.

Trương Vô Kỵ đã liệu trước việc đó, cậu lấy trong bọc ra một viên thuốc màu đen, nhét vào miệng ngũ cô, nói:

– Đây là viên “Cưu tì hoàn”, sau mười hai canh giờ, ngũ phu nhân sẽ bị đứt ruột, vỡ tim mà chết. Ta để thuốc giải cách đây ba chục dặm trên một cây đại thụ, có đánh dấu; ba canh giờ nữa Hà tiên sinh có thể sai người đến lấy. Nếu ta đi khỏi đây mà bị bắt lại, có thêm một người nữa cùng chết với ta kể cũng hay”.

Chuyện này hoàn toàn bất ngờ đối với Hà Thái Xung, lão ta nghĩ một lát, nói nhỏ:

– Tiểu huynh đệ, Tam Thánh đường của ta tuy không phải đầm rồng hang cọp, song hai đứa trẻ như cậu sẽ không thể trốn thoát được đâu.

Trương Vô Kỵ biết y không nói bịa, thản nhiên nói:

– Nhưng độc tính của viên Cưu tì hoàn mà phu nhân vừa nuốt, ngoài ta ra, không ai giải cứu nổi.

Hà Thái Xung nói:

– Được rồi, cậu hãy giải huyệt cho ta, ta sẽ đích thân đưa cậu xuống núi.

Hai huyệt Hà Thái Xung bị điểm là Phong Trì và Kinh Môn; Trương Vô Kỵ liền day ấn xoa bóp các huyệt Thiên Trụ, Hoàn Khiêu, Đại Truy, Thương Khúc một hồi mà không kiến hiệu.

Lúc này hai người thầm phục lẫn nhau, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Tài điểm huyệt của phái Côn Luân quả thật lợi hại; Hồ tiên sinh dạy ta bảy thủ pháp giải huyệt, ta áp dụng rồi mà không hiệu quả. Hà Thái Xung thì nghĩ thầm: “Tiểu tử này sao biết nhiều thủ pháp giải huyệt đến thế, quả thật cao minh. Sư tỷ rõ ràng điểm bảy tám huyệt trên người nó, vậy mà nó không sao cả là thế nào? Phái Võ Đang mấy năm gần đây lừng danh giang hồ, lão đạo Trương Tam Phong có bản lãnh không ai sánh kịp thật. Ngày ấy trên núi Võ Đang, may mà ta không động thủ với họ, nếu không hẳn đã bị bẽ mặt. Một đứa bé mà đã thế này, người lớn bên đó tài nghệ lợi hại gấp mười ấy chứ”.

Hà Thái Xung không biết công phu tự thông huyệt đạo của Trương Vô Kỵ là học ở Tạ Tốn, còn thủ pháp giải huyệt thì học ở Hồ Thanh Ngưu; hai tài nghệ nói trên của Trương Vô Kỵ không liên quan gì đến sự lừng danh của phái Võ Đang.

Hà Thái Xung thấy thủ pháp giải huyệt không kiến hiệu, chợt nghĩ ra, nói:

– Cậu hãy đưa bình trà lại đây cho ta uống vài ngụm.

Trương Vô Kỵ không biết tại sao Hà Thái Xung đột nhiên đòi uống trà, nhưng nghĩ rằng lão ta lo lắng cho tính mệnh của ái thiếp sẽ không dám giở trò hại cậu, bèn cầm bình trà kề vào môi cho lão ta uống. Hà Thái Xung uống một ngụm to, nhưng không nuốt xuống mà nhắm vào huyệt Thanh Lãnh Uyên ở khuỷu tay mình phun mạnh, một tia nước vọt thẳng ra, nghe “phụp” một tiếng, lập tức giải thông huyệt đó.

Trương Vô Kỵ từ khi tới Tam Thánh đường núi Côn Luân chỉ thấy Hà Thái Xung lo lắng buồn phiền cho bệnh tình của ngũ cô, sợ thê cưng thiếp, vừa khiếp nhược vừa nhỏ nhen, chẳng khác gì một nam tử tầm thường; lúc này cậu thấy lão ta hiển thị công lực thì bất giác cả kinh, nghĩ thầm: “Võ công của vị chưởng môn phái Côn Luân thâm hậu như thế, vậy mà mươi ngày qua mình coi thường ông ta; xem ra ông ta không kém gì Du nhị sư bá, Kim Hoa bà bà, Diệt Tuyệt sư thái. Thoạt tiên mình cứ ngỡ ông ta tầm thường, kém cỏi, quên rằng ở địa vi chưởng môn phái Côn Luân, ắt phải có bản lĩnh hơn người. Tia nước kia mà phun vào ngực mình, khéo mình chết tươi”.

Hà Thái Xung quay quay tay phải mấy vòng, rồi tự giải huyệt ở đùi, nói:

– Cậu hãy đưa giải dược cho ngũ phu nhân trước đi, ta sẽ đưa cậu xuống núi an toàn.

Trương Vô Kỵ lắc đầu, Hà Thái Xung vội nói:

– Ta là chưởng môn phái Côn Luân, không lẽ lại thất tín với một đứa bé? Lỡ độc tính phát tác thì biết làm sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Độc tính sẽ không phát tác bất chợt.

Hà Thái Xung thở dài, nói:

– Thôi được, chúng ta lặng lẽ mà đi vậy.

Hai người nhảy ra đằng cửa sổ, Hà Thái Xung lấy tay phẩy nhẹ sau lưng Dương Bất Hối, giải thông ngay huyệt đạo cho cô bé, thủ pháp quá khinh linh. Trương Vô Kỵ thán phục, ánh mắt lộ rõ vẻ ngưỡng mộ, Hà Thái Xung hiểu ý cậu, mỉm cười, mỗi tay dắt một đứa, vòng ra phía sau hoa viên của Tam Thánh đường, theo cửa hông ra ngoài.

Tam Thánh đường trước sau có đến chín lối vào, ra khỏi hoa viên, đi qua một luống hoa vòng vèo, qua nhiều sảnh đường khác nữa chỉ thấy nhà cửa san sát, cổng nọ cổng kia, nếu không có Hà Thái Xung dẫn đi, Trương Vô Kỵ chắc chắn sẽ bị lạc lối, dù đệ tử phái Côn Luân không ngăn trở thì vị tất đã qua được.

Ra khỏi Tam Thánh đường, Hà Thái Xung tay phải bồng Dương Bất Hối, tay trái dắt Trương Vô Kỵ, thi triển khinh công chạy về hướng tây bắc. Trương Vô Kỵ để lão ta cắp lên, thân hình nhẹ nhàng bay bổng, mỗi bước nhảy xa hơn cả trượng, chỉ thấy gió ù ù bên tai, cứ y như bay trên không, khiến cậu càng thán phục phái Côn Luân và Hà Thái Xung.

Trương Vô Kỵ biết chất độc trong bụng chưa hết, bèn dùng tay trái lấy trong bọc hai viên thuốc giải độc, nuốt vào bụng cho yên tâm.

Đang chạy đi, bỗng nghe có tiếng nữ nhân gọi:

– Hà Thái Xung… Hà Thái Xung… dừng lại ta bảo…

Tiếng gọi theo gió truyền tới, tưởng như rất xa, song cũng thật gần, chính là giọng nói của Ban Thục Nhàn.

Hà Thái Xung hơi chần chừ, rồi đứng lại, thở dài nói:

– Tiểu huynh đệ, hai ngươi tự chạy mau đi, bà vợ ta đuổi tới nơi rồi, ta không thể đưa hai ngươi đi tiếp được nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này đối với ta cũng không đến nỗi quá tệ”, bèn nói:

– Hà tiên sinh, tiên sinh cứ trở về đi. Viên thuốc ta cho ngũ phu nhân uống không phải thuốc độc đâu, càng không phải là “Cưu tì hoàn” gì hết, mà chỉ là viên “Tang phụ hoàn” giảm ho. Ít hôm trước Bất Hối muội muội bị ho, ta chế cho nó uống, còn thừa vài viên đấy thôi, tiên sinh đừng sợ.

Hà Thái Xung vừa tức vừa yên tâm, quát hỏi:

– Có thật không phải độc dược hay không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Ngũ phu nhân do chính ta cứu sống, lẽ nào ta lại hạ độc làm gì.

Chỉ nghe Ban Thục Nhàn liên tiếp réo gọi:

– Hà Thái Xung… Hà Thái Xung… Liệu chạy thoát nổi không?

Tiếng gọi mỗi lúc một gần thêm.

Hà Thái Xung sở dĩ ôm Dương Bất Hối và Trương Vô Kỵ chạy đi là vì sợ ái thiếp của ông ta bị hạ độc, không cứu kịp; giờ biết chắc viên thuốc ngũ cô uống không phải là thuốc độc, hóa ra bị thằng nhãi này đánh lừa thì cơn giận bùng phát, nghe bốp bốp, lão ta giáng cho Trương Vô Kỵ liền bốn cái tát tai khiến hai má nó sưng lên, miệng đầy máu.

Trương Vô Kỵ hối hận: “Sao mình lại dại dột nói rõ chân tướng kia chứ? Phen này mình và Bất Hối muội muội khó bề toàn mạng”; thấy chưởng thứ năm đánh tới, vội sử chiêu “Đảo kỵ long” trong Võ Đang trường quyền chống đỡ. Chiêu này nếu do Du Liên Châu sử dụng chẳng hạn, ắt hẳn uy lực vô cùng, còn Trương Vô Kỵ mới học chút vỏ bên ngoài, làm sao chống đỡ nổi chiêu thức của chưởng môn phái Côn Luân? Hà Thái Xung hơi né mình, bốp một tiếng, lão ta đã tát trúng mắt phải của Trương Vô Kỵ khiến nó sưng lên ngay. Trương Vô Kỵ biết bản lĩnh của mình thua kém đối phương quá xa, đành buông tay chịu trận.

Hà Thái Xung thấy thằng bé đứng yên rồi, vẫn chưa tha, hai tay cứ đánh nó liên tiếp. Tuy lão ta không dùng sức, chứ nếu dùng sức thì một chưởng cũng đủ khiến Trương Vô Kỵ chết tươi, nhưng cái tát nào cũng làm cho cậu tối tăm mặt mũi, đau rát kinh hồn.

Hà Thái Xung bắt đầu mạnh tay lên thì Ban Thục Nhàn dẫn theo hai đệ tử chạy tới, lẳng lặng đứng một bên. Mụ ta thấy Trương Vô Kỵ hoàn toàn không chống đỡ thì chẳng thấy có gì thú vị, bèn nói:

– Hãy đánh con bé kia coi!

Hà Thái Xung xoay người qua, bốp một cái, tát Dương Bất Hối một cái. Dương Bất Hối đau quá khóc thét lên. Trương Vô Kỵ tức giận nói:

– Ngươi đánh ta được rồi, hà tất lại đi ăn hiếp một bé gái?

Hà Thái Xung không thèm để ý, lại giơ tay tát Dương Bất Hối. Trương Vô Kỵ nhảy tới, dùng đầu húc vào bụng Hà Thái Xung.

Ban Thục Nhàn cười khẩy, nói:

– Một đứa bé còn có tình nghĩa như thế, đâu có giống cái kiểu bạc tình như tướng công.

Hà Thái Xung nghe vợ mỉa mai thì đỏ mặt, chộp cổ Trương Vô Kỵ ném ra xa, mồm quát:

– Đồ súc sinh, cho mi đi theo cha mẹ mi!

Cái ném đó lão ta dùng lực thật mạnh, nhắm một tảng đá ở sườn núi mà ném thằng bé tới.

Thân hình Trương Vô Kỵ bay vụt đi, trong giây lát sẽ đập vào tảng đá mà nát như tương.

Nào ngờ từ bên cạnh có một luồng lực đạo thổi tới, làm cho thân hình Trương Vô Kỵ đứng thẳng lại ngay bên tảng đá. Trương Vô Kỵ chưa kịp định thần, giương đôi mắt sưng vù mà nhìn, thấy đứng cách mình dăm thước là một thư sinh trung niên mặc trường bào trắng bằng vải thô.

Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn nhìn nhau kinh hãi, thư sinh kia đến lúc nào, từ đâu đến, sao họ không hề hay biết; dù y có nấp sau tảng đá thì vợ chồng họ cũng đủ bản lĩnh để phát giác mới phải chứ? Hà Thái Xung khi ném Trương Vô Kỵ vào tảng đá, lực ném tối thiểu phải dăm sáu trăm cân, vậy mà thư sinh kia chỉ cuốn ống tay áo một cái đã lập tức tiêu giải, đặt Trương Vô Kỵ đứng sang một bên, hiển nhiên võ công cao siêu lạ thường. Thư sinh ấy trạc tứ tuần, tướng mạo tuấn nhã, có điều hai lông mày hơi xuôi xuống, khóe miệng hằn mấy vết sâu, không giấu được tướng buồn khổ của người chớm già. Người ấy không nói năng cử động, thần sắc thản nhiên, tưởng như đang mải nghĩ chuyện đâu đâu, không để ý tới sự việc trước mắt.

Hà Thái Xung dặng hắng một tiếng, hỏi:

– Các hạ là ai? Tại sao lại nhúng tay can dự vào việc của phái Côn Luân?

Thư sinh kia lạnh lùng hỏi:

– Hai vị có phải là Thiết Cầm tiên sinh và Hà phu nhân đó chăng? Tại hạ là Dương Tiêu.

Hai tiếng “Dương Tiêu” vừa thốt ra, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn và Trương Vô Kỵ ba người không hẹn mà cùng “a” lên một tiếng. Tiếng kêu của Trương Vô Kỵ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, còn của vợ chồng họ Hà là vừa kinh ngạc vừa tức giận.

Chỉ nghe soẹt soẹt, hai đệ tử phái Côn Luân rút kiếm khỏi bao, xoay cán lại trao cho sư phụ sư mẫu. Hà Thái Xung giơ kiếm ngang bụng, ở thế chiêu “Tuyết ủng lam kiều”. Ban Thục Nhàn chĩa mũi kiếm hơi xéo xuống đất, ở thế chiêu “Mộc diệp tiêu tiêu”. Hai chiêu này đều là cái tinh diệu trong kiếm pháp phái Côn Luân, thoạt nhìn có vẻ tầm thường, tùy tiện, song đều ẩn bên trong bảy, tám chiêu lợi hại. Hai người đều đã vận nội lực ra cánh tay phải, chỉ cần lắc cổ tay một cái, kiếm quang lóe sáng, là lập tức đâm bảy tám chỗ yếu hại trên cơ thể đối phương ngay. Vợ chồng họ thấy kình địch trước mặt, bèn giở sở học bình sinh ra đối phó.

Dương Tiêu vẫn bình thản như không, nghe tiếng kêu mừng rỡ của Trương Vô Kỵ thì hơi lấy làm lạ, nhìn mặt cậu bé một cái. Lúc này Trương Vô Kỵ mặt đầy máu, mắt mũi bầm tím tuy bị Hà Thái Xung đánh tơi tả nhưng tâm trạng vui mừng vẫn lộ ra trên bộ mặt khó coi đó. Trương Vô Kỵ kêu lên:

– Bá bá… bá bá có phải là Quang Minh tả sứ giả của Minh giáo, Dương Tiêu Dương bá bá đó không?

Dương Tiêu gật đầu, hỏi:

– Sao cháu bé lại biết tên ta?

Trương Vô Kỵ chỉ Dương Bất Hối, nói:

– Tiểu muội muội này là con gái của Dương bá bá đó.

Cậu nắm tay Dương Bất Hối kéo lại, nói:

– Bất Hối muội muội, mau gọi cha đi, mau gọi cha đi! Chúng mình cuối cùng đã tìm thấy cha muội rồi!

Dương Bất Hối giương mắt chằm chằm nhìn Dương Tiêu, chín phần không tin, song người này có phải cha nó hay không, con bé cũng chẳng cần, chỉ hỏi:

– Mẹ con đâu? Tại sao mẹ ở trên trời chưa bay xuống?

Dương Tiêu bàng hoàng, chộp vai Trương Vô Kỵ, nói:

– Này cậu bé, hãy nói cho rõ. Bé gái này là… là con của ai? Mẹ nó là ai?

Dương Tiêu bóp vai Trương Vô Kỵ quá mạnh, xương kêu răng rắc, đau thấu tâm can. Trương Vô Kỵ không chịu hèn, không thèm kêu đau, nhưng cuối cùng cũng phải kêu “ái” một tiếng, nói:

– Tiểu muội muội là con gái bá bá, mẫu thân muội muội là nữ hiệp Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi.

Dương Tiêu mặt vốn xanh xao, lúc này nghe vậy càng thêm tái nhợt, run run nói:

– Nàng… nàng có con gái ư? Nàng… giờ nàng đang ở đâu?

Y vội cúi xuống bế Dương Bất Hối lên, thấy con bé bị Hà Thái Xung đánh hai cái tát, mặt sưng vù, nhưng vẫn thoáng hiện vẻ xinh tươi của Kỷ Hiểu Phù, đang định hỏi thêm thì chợt thấy trên cổ Dương Bất Hối một sợi tơ đen bèn kéo nhẹ ra, thấy đầu kia là một cái thiết bài trên thêu hình ngọn lửa bằng sợi vàng. Đó chính là “Thiết diệm lệnh” của Minh giáo mà Dương Tiêu đã tặng cho Kỷ Hiểu Phù; thế là không còn hoài nghi gì nữa, y ôm chặt Dương Bất Hối vào lòng, hỏi:

– Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?

Dương Bất Hối nói:

– Mẹ bay lên trời rồi, con đang đi tìm mẹ, cha có gặp mẹ không?

Dương Tiêu thấy con gái còn bé quá, nói năng chưa rõ, bèn đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ có ý dò hỏi. Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

– Dương bá bá, cháu nói ra bá bá đừng buồn, Kỷ cô cô đã bị sư phụ đánh chết rồi, lúc lâm chung… Dương Tiêu quát to:

– Ngươi dối ta, ngươi dối ta!

Chỉ nghe “rắc” một tiếng, cánh tay trái của Trương Vô Kỵ đã bị Dương Tiêu bóp gãy, rồi “hịch hịch” hai tiếng, cả Dương Tiêu lẫn Trương Vô Kỵ cùng ngã lăn ra, tay phải của Dương Tiêu vẫn ôm chặt Dương Bất Hối.

Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn nhìn nhau, cả hai cùng vung kiếm, chĩa vào cổ và ấn đường của Dương Tiêu.

Dương Tiêu là đại cao thủ của Minh giáo, uy danh rất lớn. Sư phụ của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn là Bạch Lộc Tử từng chết dưới tay Minh giáo, thủ phạm đích thực là ai không biết, nhưng các đệ tử phái Côn Luân đều đoán do Dương Tiêu. Hôm nay vợ chồng Hà Thái Xung tình cờ gặp Dương Tiêu ở đây, trong lòng hồi hộp chưa biết sẽ ra sao, ai ngờ Dương Tiêu đột nhiên ngất đi, thật đúng là cơ hội trời ban, bèn tức thời ra tay chế ngự nơi yếu hại.

Ban Thục Nhàn nói:

– Chém đứt hai tay hắn đã, rồi tính sau.

Hà Thái Xung nói:

– Phải!

Lúc này Dương Tiêu chưa tỉnh lại. Trương Vô Kỵ thì đau nhói chỗ tay bị gãy, đau vã mồ hôi nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, thấy tình thế nguy cấp vội dùng ngón chân điểm nhẹ vào huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu Dương Tiêu.

Huyệt Bách Hội nối liền với não, động vào đó, Dương Tiêu liền tỉnh lại, vừa mở mắt đã thấy hàn khí dày đặc, một mũi kiếm chĩa ngay vào ấn đường, rồi loáng một đạo thanh quang, một thanh kiếm khác chém xuống cánh tay trái của y. Muốn chống đỡ cũng không kịp nữa, huống hồ mũi kiếm của Ban Thục Nhàn đang chĩa ngay giữa mặt y, căn bản không thể nào cựa quậy, vội vận chân khí dồn sang tay trái. Kiếm của Hà Thái Xung chém xuống bên tay trái của Dương Tiêu đột nhiên trượt sang một bên, lưỡi kiếm không ăn xuống nổi, giống như chém vào một vật vừa dai vừa trơn, nhưng thấy máu cũng loang đỏ ống tay áo, tức là Dương Tiêu đã bị thương.

Ngay lúc đó, thân hình Dương Tiêu bỗng dưng chuồi nhanh về phía sau hơn một trượng, tựa hồ có ai tròng dây vào cổ y mà kéo đi thật nhanh vậy. Mũi kiếm của Ban Thục Nhàn vốn chỉ vào ấn đường của Dương Tiêu, lúc thân hình y chuồi nhanh về phía sau, mũi kiếm rạch qua mũi, miệng, ngực thành một đường máu dài sâu vài phân. Chiêu này cực kỳ nguy hiểm, giả sử mũi kiếm của Ban Thục Nhàn thấp xuống nửa tấc nữa thì Dương Tiêu đã bị mổ bụng phanh thây rồi.

Dương Tiêu vừa chuồi ra ngoài đã lập tức dựng đứng lên, hai động tác liền nhau ấy vốn không tài gì thực hiện được, vậy mà ai cũng thấy đầu gối y vẫn thẳng, lưng không cong, thân hình cứng đơ chuồi đi, rồi bật thẳng lên như một cái lò xo vậy.

Dương Tiêu vừa đứng lên, hai chân liền đạp xuống, nghe cách cách hai tiếng, hai thanh kiếm của vợ chồng Hà Thái Xung gãy đôi. Hai chân Dương Tiêu đạp xuống tuy có trước sau, nhưng vì nhanh như tia chớp nên tưởng chừng đạp xuống cùng lúc vậy. Với tài nghệ sử kiếm của vợ chồng Hà Thái Xung, ngỡ rằng Dương Tiêu dù võ công cao mấy cũng không thể chỉ một chiêu đã đạp gãy binh khí của họ. Nào ngờ chiêu số của Dương Tiêu quái dị, đã trọng thương còn thoát thân phản kích; vợ chồng họ Hà quá kinh hãi, không kịp thu kiếm về.

Dương Tiêu hai chân đá ra, hai đoạn kiếm gãy chia nhau bay về phía vợ chồng họ Hà. Họ vội giơ nửa kiếm gãy chống đỡ, thấy hổ khẩu chấn động, nửa người nóng bừng, tuy gạt được ra, song cũng hơi hoảng, vội nhảy lùi về phía sau, một đứng phía tây bắc, một ở phía đông nam; tuy trong tay chỉ là hai thanh kiếm gãy, nhưng dương kiếm chỉ lên trời, âm kiếm chĩa xuống đất, song kiếm hợp bích, sử dụng Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Luân, trong lòng họ tuy hoảng hốt, nhưng khí định thần nhàn, ngưng trọng như núi.

Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Luân nổi danh đã mấy trăm năm, là thứ kiếm pháp lừng lẫy thiên hạ, vợ chồng Hà Thái Xung đồng môn học nghệ, luyện từ trẻ đến già nên vô cùng thành thạo. Dương Tiêu đã mấy phen đại chiến với phái Côn Luân, biết sự lợi hại của kiếm pháp này, tuy chẳng e sợ gì, nhưng muốn đánh bại hai người, ắt phải giao đấu vài trăm chiêu, lúc này y chỉ nghĩ đến việc sống chết của Kỷ Hiểu Phù, chẳng còn bụng dạ nào giao đấu. Huống hồ vết thương ở tay và mặt cũng không phải nhẹ, nếu không cầm máu, e rất nguy hiểm, Dương Tiêu bèn cười khẩy, nói:

– Phái Côn Luân ngày càng tệ hại, hôm nay ta tạm bỏ qua, sau này sẽ tính sổ với vợ chồng nhà ngươi.

Rồi tay trái bồng Dương Bất Hối, tay phải cắp Trương Vô Kỵ, cũng chẳng thấy Dương Tiêu cử động đôi chân, chỉ đột nhiên lùi lại hơn một trượng, xoay mình một cái đã vọt ra xa mấy trượng.

Vợ chồng họ Hà nhìn nhau kinh hãi, may mà tên đại ma đầu tự dưng bỏ đi chứ hai người nào dám đuổi theo!

Dương Tiêu mang hai đứa trẻ chạy một mạch mấy dặm, bỗng nhiên dừng lại hỏi Trương Vô Kỵ:

– Kỷ Hiểu Phù cô nương sự thể thế nào?

Y đang chạy nhanh, nào ngờ muốn dừng là dừng luôn, thân hình như đóng đinh xuống đất, không xê dịch nửa phân.

Trương Vô Kỵ không kịp chuẩn bị, chúi về đằng trước, nếu không được Dương Tiêu kéo lại, hẳn đã ngã nhoài, nghe hỏi, cậu thở hổn hển mấy cái mới đáp:

– Kỷ cô nương đã chết rồi, bá bá tin hay không là tùy, sao lại đi bóp gãy tay cháu?

Dương Tiêu hơi ân hận, hỏi tiếp:

– Nàng… nàng, vì sao nàng chết?

Giọng nói có vẻ nghẹn ngào.

Trương Vô Kỵ phải uống rượu độc của Ban Thục Nhàn, tuy đã nôn ra gần hết, cũng đã uống thuốc giải độc, nhưng chất độc chưa hết, lúc này lại thấy bụng quặn đau, bèn thả con Kim quan huyết xà cho nó ngậm ngón tay trỏ bên trái mà hút chất độc, một mặt kể cho Dương Tiêu nghe do đâu cậu gặp Kỷ Hiểu Phù, chữa bệnh cho Kỷ cô cô ra sao, sau đó bị Diệt Tuyệt sư thái đánh chết như thế nào. Cậu kể xong thì con Kim quan huyết xà cũng đã hút hết chất độc khỏi cơ thể cậu.

Dương Tiêu hỏi tỉ mỉ những lời Kỷ Hiểu Phù nói trước lúc tắt thở, rồi nuốt nước mắt, nói:

– Diệt Tuyệt ác ni ép nàng đi hãm hại ta, nàng chỉ cần nhận lời là lập được đại công với phái Nga Mi, được kế thừa chức chưởng môn… Ôi, Hiểu Phù, Hiểu Phù, nàng thà chết không chịu vâng lời! Thực ra, nàng cứ giả vờ ưng thuận, hai ta chẳng những được gặp lại nhau, nàng cũng đâu phải bỏ mạng dưới tay mụ Diệt Tuyệt ác ni?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô là người chính trực, không muốn ngầm hãm hại bá bá, cũng không muốn nói dối sư phụ.

Dương Tiêu cười buồn:

– Cậu đúng là tri kỷ của Hiểu Phù… ai ngờ sư phụ nàng tàn ác đến thế, đang tâm giết nàng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Cháu đã đáp ứng Kỷ cô cô đưa Bất Hối muội muội tới giao cho bá bá.

Dương Tiêu như chợt nhớ, hỏi:

– Bất Hối muội muội ư?

Rồi quay sang hỏi Dương Bất Hối:

– Hài nhi ngoan nào, con mang họ gì vậy? Tên gì?

Dương Bất Hối đáp:

– Con họ Dương, tên là Bất Hối.

Dương Tiêu ngẩng mặt hú một tiếng dài làm chấn động tứ phía, lá cây rụng lả tả, hồi lâu mới dứt, nói:

– Con đúng là họ Dương. Bất Hối… Bất Hối… đúng rồi! Hiểu Phù nàng ơi, tuy ta cưỡng bức nàng, nhưng nàng không hề hối tiếc.

Trương Vô Kỵ đã nghe Kỷ Hiểu Phù kể về mối duyên oan nghiệt của hai người, lúc này thấy Dương Tiêu anh tuấn, tuy đã đứng tuổi nhưng chưa mất cái phong độ của một nam tử điển trai, so với vẻ non nớt của Ân Lê Đình lục thúc thì người như Dương Tiêu chắc chắn dễ khiến nữ nhân say đắm hơn. Kỷ Hiểu Phù bị Dương Tiêu cưỡng bức, nhưng sau đó đổi thành si mê y, điều đó cũng chẳng thể trách Kỷ Hiểu Phù. Trương Vô Kỵ ở tuổi này chưa hiểu hết mọi chuyện, song cũng lờ mờ nhận ra điều đó.

Tay trái của Trương Vô Kỵ bị gãy, vô cùng đau đớn, nhất thời chưa tìm được các thứ dược liệu để tiếp cốt và giảm đau, đành trước hết nối xương, đắp vài thứ thảo dược cho bớt sưng, bẻ hai cành cây, dùng vỏ cây bó cánh tay lại.

Dương Tiêu thấy Trương Vô Kỵ nhỏ tuổi, chỉ có một tay tiếp cốt trị thương mà thủ pháp hết sức thành thạo thì rất lấy làm lạ.

Bó tay xong xuôi, Trương Vô Kỵ nói:

– Dương bá bá, cháu không phụ lòng ủy thác của Kỷ cô cô, Bất Hối muội muội đã tìm thấy cha, vậy chúng ta chia tay ở đây thôi.

Dương Tiêu nói:

– Cậu đường xa vạn dặm, đưa con ta đến, lẽ nào ta không đền đáp? Cậu muốn gì, cứ nói. Việc Dương Tiêu ta không làm được, vật Dương Tiêu ta không lấy được, e rằng trong thiên hạ không nhiều đâu.

Trương Vô Kỵ cười ha hả, nói:

– Dương bá bá coi nhẹ Kỷ cô cô quá đấy, uổng công cô cô chết vì bá bá.

Dương Tiêu tái mặt, hỏi:

– Ngươi bảo sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô không coi thường cháu nên mới phó thác cho cháu đưa con gái đến chỗ bá bá; nếu cháu đến đây vì mong muốn thứ gì thì có đáng để người khác gửi con chăng?

Cậu nghĩ thầm: “Dọc đường Bất Hối muội muội gặp bao nguy nan, mình đều lấy thân che đỡ. Nếu mình là kẻ tham lợi vô nghĩa, làm sao cha con Dương bá bá hôm nay được đoàn tụ?” Có điều cậu không thích khoe công, chẳng nhắc một câu đến những nguy khốn dọc đường, chỉ nói thêm vài lời, rồi cúi đầu chào, quay mình đi liền.

Dương Tiêu nói:

– Hượm đã, ngươi đã giúp ta một việc to tát như thế, Dương Tiêu ta xưa nay có thù phải báo, có ơn tất đền. Ngươi hãy theo ta, nội nhật một năm ta sẽ truyền cho ngươi vài môn võ công hiếm có đối thủ trong thiên hạ.

Trương Vô Kỵ chính mắt chứng kiến Dương Tiêu đạp gãy trường kiếm của vợ chồng họ Hà, võ công cao siêu như thế, giang hồ quả ít ai sánh kịp; chỉ cần học được của y vài chiêu cũng là hữu dụng vô cùng. Nhưng nhớ đến thái sư phụ căn dặn không nên lai vãng với người theo Ma giáo, huống hồ võ công của y dù cao mấy cũng chẳng bằng được thái sư phụ. Hơn nữa, mình cũng chỉ còn sống nửa năm, dẫu có học được võ công tuyệt thế, phỏng có ích gì? Vô Kỵ nghĩ vậy, bèn nói:

– Đa tạ hảo tâm của Dương bá bá, nhưng vãn bối là đệ tử phái Võ Đang, không dám đi học cao chiêu của phái khác.

Dương Tiêu “a” lên một tiếng, nói:

– Thì ra ngươi là đệ tử phái Võ Đang! Thế Ân Lê Đình… Ân lục hiệp…

Trương Vô Kỵ nói:

– Ân lục hiệp là sư thúc của vãn bối, từ khi phụ thân vãn bối mất đi, Ân lục thúc đối với vãn bối chẳng khác gì thúc phụ. Vãn bối nhận lời Kỷ cô cô đưa Bất Hối muội muội đến núi Côn Luân, đối với Ân lục thúc không khỏi… không khỏi có chỗ hổ thẹn trong lòng.

Dương Tiêu bắt gặp mục quang của Trương Vô Kỵ, chợt ân hận, bèn đưa tay phải lên vẫy, nói:

– Dương mỗ thâm cảm đại đức, hổ thẹn không có gì đền đáp. Đã vậy, mong có ngày gặp lại.

Thân hình Dương Tiêu hơi động mà đã vọt đi xa mấy trượng. Dương Bất Hối gọi to:

– Vô Kỵ ca ca, Vô Kỵ ca ca!

Nhưng Dương Tiêu đã thi triển khinh công, thoáng một cái đã đi rất xa, tiếng gọi kia cứ nhỏ dần, sau cùng cả người lẫn âm thanh cùng chìm vào núi rừng.

Hồi 15: Kì mưu bí kế mộng nhất trường

Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối cùng đi với nhau cả vạn dặm sang Tây Vực, lúc nào cũng như hình với bóng, giờ đột nhiên chia tay, Vô Kỵ cảm thấy thật trống vắng, nhưng nghĩ mình đã không phụ sự ủy thác của Kỷ Hiểu Phù, đưa cô bé giao tận tay Dương Tiêu, thì trong lòng rất được an ủi. Cậu đứng ngơ ngẩn một hồi, sợ chạm trán với bọn Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn phái Côn Luân nên cứ nhắm rừng sâu mà đi vào.

Đi như thế hơn chục ngày, vết thương ở cánh tay đã đỡ, song Trương Vô Kỵ vẫn cứ loanh quanh trong dãy Côn Luân, chưa tìm được đường ra khỏi núi. Hôm ấy cậu đi đã nửa ngày, ngồi trên một tảng đá nghỉ chân, bỗng nghe từ phía tây bắc vọng lại tiếng sủa của hàng chục con chó. Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần, dường như chúng đang đuổi theo một con dã thú.

Trong tiếng chó sủa, có một con khỉ nhỏ hốt hoảng chạy tới, mông nó cắm một mũi tên ngắn. Con khỉ ấy chạy đến cách Trương Vô Kỵ hơn một trượng thì ngã lăn ra, vì mông trúng tên nên không thể leo cây cao, nó chạy tới đây thì kiệt sức, không gượng nổi nữa. Trương Vô Kỵ bước tới nhìn, con khỉ ánh mắt lộ vẻ van lơn hoảng sợ. Trương Vô Kỵ động lòng, nghĩ thầm: “Ta bị phái Côn Luân truy đuổi, cũng khốn khổ chẳng khác gì ngươi”. Cậu bèn bế con khỉ lên, nhẹ nhàng rút mũi tên ra, lấy thuốc trong bọc rịt vết thương cho nó.

Lúc ấy tiếng chó sủa đã tới gần. Trương Vô Kỵ mở vạt áo, giấu con khỉ vào bên trong, chỉ nghe nhiều tiếng gâu gâu, mười mấy con chó săn cao lớn, răng nhọn vây quanh cậu. Lũ chó săn đánh hơi theo dấu con khỉ, nhe răng gầm gừ, nhất thời chưa dám xông vào. Trương Vô Kỵ thấy lũ chó thật dữ tợn, răng dài trắng nhởn thì thầm hoảng sợ, biết chỉ cần ném con khỉ ra, bầy chó sẽ vồ lấy con khỉ và không làm gì mình cả. Nhưng từ nhỏ cậu đã nghe cha dạy, rằng mọi việc đều phải lấy hiệp nghĩa làm trọng, đối với một con thú hoang cũng không phụ bạc, thế là cậu bèn nhảy vọt qua đầu lũ chó săn, co giò chạy. Lũ chó lập tức vừa sủa vừa hung hăng đuổi theo.

Chó săn chạy rất nhanh, Trương Vô Kỵ chỉ chạy được hơn chục trượng thì lũ chó đã đuổi kịp, chỉ thấy đùi đau nhói đã bị một con chó ngoạm trúng, giữ rịt không nhả ra. Trương Vô Kỵ vội quay đầu, giáng một chưởng thật mạnh trúng đầu con chó ấy khiến nó văng đi, nằm chết ngất. Lũ chó còn lại lập tức xông tới.

Trương Vô Kỵ tay đấm chân đá, ra sức chống cự. Cánh tay trái đau chưa khỏi hẳn, không cử động mạnh được nên chẳng mấy chốc đã bị một con chó ngoạm phải, rồi lũ chó từ bốn phía xông vào cắn loạn xạ, đầu mặt vai lưng chỗ nào cũng bị chó cắn phải. Trong cơn kinh hoảng, nghe như có tiếng người thanh thanh quở chó, nhưng xem chừng ở rất xa, mắt cậu tối sầm, thế là không biết gì nữa.

Trong cơn hôn mê, hình như có vô số sói lang hổ báo cắn xé thân thể mình, Trương Vô Kỵ muốn há miệng kêu to, nhưng không thốt ra được tiếng nào, chợt nghe có tiếng người nói:

– Bớt sốt rồi, may mà không chết.

Trương Vô Kỵ mở mắt, vật đầu tiên nhìn thấy là một ngọn đèn vàng vọt, phát hiện mình đang nằm trong một căn phòng nhỏ, một hán tử trung niên đứng trước mắt. Trương Vô Kỵ nói:

– Đại… đại thúc… sao cháu…

Chỉ nói vài tiếng, đã thấy toàn thân đau nhức như phải bỏng, mới từ từ nhớ lại là mình bị một bầy chó săn điên cuồng cắn xé. Hán tử nói:

– Tiểu tử, mạng ngươi lớn lắm, không chết đâu, ngươi thấy thế nào?

Trương Vô Kỵ nói:

– Cháu… cháu ở đâu vậy?

Các vết thương đau tấy lên khiến cậu lại ngất đi.

Lần thứ hai tỉnh dậy, hán tử trung niên không còn ở trong phòng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ta còn sống chẳng bao lâu, sao phải chịu lắm sự giày vò thế này?” Cúi đầu nhìn thấy cổ, ngực, cánh tay, chân chỗ nào cũng băng bó, mùi thuốc xộc lên mũi, thì ra có người đã bó thuốc vào các vết thương. Căn cứ mùi dược thảo, biết ngay người trị thương trình độ non kém, dùng các vị dược liệu như Hạnh Nhân, Mã Tiền Tử, Phòng Phong, Nam Tinh, là các vị thuốc trị chó dại cắn, hoặc để giải độc cũng rất kiến hiệu; nhưng cắn cậu đâu phải là chó dại, cậu chỉ bị thương ở bắp cơ, gân cốt; thuốc không đúng bệnh, chỉ tăng thêm đau đớn. Trương Vô Kỵ không thể ngồi dậy nổi, đợi khi trời sáng,  Hán tử kia mới lại ghé thăm.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đại thúc, đa tạ đại thúc đã cứu cháu!

Hán tử lạnh lùng nói:

– Đây là Hồng Mai sơn trang, tiểu thư của chúng tôi cứu ngươi đó. Ngươi đói bụng chưa?

Đoạn hán tử kia đi ra, rồi bưng vào một tô cháo nóng. Trương Vô Kỵ húp mấy miếng, thấy tức ngực, chóng mặt nên không ăn nữa.

Trương Vô Kỵ nằm liệt giường tám ngày, mới gắng gượng ngồi dậy, nhưng dưới chân bồng bềnh không có sức. Cậu biết mình mất máu quá nhiều, nhất thời không dễ hồi phục. Hán tử kia mỗi ngày mang cơm, thay thuốc cho cậu, rõ ràng có vẻ phiền toái khó chịu, Trương Vô Kỵ vô cùng cảm kích, nhưng thấy hán tử không ưa trò chuyện, nên rất nhiều nghi vấn mà cậu không dám hỏi. Hôm nay thấy hán tử lại mang mấy vị thuốc Phòng Phong, Nam Tinh đã giã nát thành hồ, Trương Vô Kỵ nhịn không nổi, nói:

– Đại thúc, mấy thứ này trị không đúng bệnh, phiền đại thúc đổi cho vài vị khác được chăng?

Hán tử trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ hồi lâu, rồi nói:

– Bài thuốc này do lão gia kê đơn, sai làm sao được? Ngươi bảo thuốc không trị đúng bệnh, thế sao ngươi chết đi mà sống lại đó? Ta bảo thực, trẻ con đừng nói bậy nói bạ, lão nhân gia nghe thấy thì đừng trách, ngươi nên biết điều một chút.

Đoạn lấy thuốc đắp lên các vết thương cho Trương Vô Kỵ. Cậu đành gượng cười chịu đựng.

Hán tử nói:

– Ta thấy các vết thương của ngươi đã bớt nhiều, ngươi cũng nên đi gặp lão gia, thái thái, tiểu thư mà khấu đầu tạ ơn cứu mạng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Việc đó nên lắm, nhờ đại thúc dẫn tôi đi giùm.

Hán tử dẫn cậu ra khỏi phòng, qua một hành lang dài, lại đi qua hai sảnh đường, tới một căn phòng ấm áp. Bấy giờ là đầu mùa đông, dãy núi Côn Luân khí hậu lạnh giá, nhưng căn phòng này ấm áp như mùa xuân, không biết lò sưởi đặt ở chỗ nào. Trong phòng trần thiết huy hoàng xán lạn, phản và ghế đều trải nệm gấm mềm. Trương Vô Kỵ trước nay chưa từng thấy nơi nào sang trọng thế này, mình thì quần áo dơ dáy, bước vào đây chẳng xứng chút nào thì bất giác hổ thẹn.

Trong phòng không có ai, nhưng hán tử tỏ vẻ hết mực cung kính, khom lưng bẩm báo:

– Tiểu tử bị chó cắn đã khỏe lại, nay đến khấu đầu tạ ơn lão gia, thái thái.

Nói xong, y đứng nghiêm chờ, đến thở cũng không dám thở mạnh.

Một lát, từ sau bình phong bước ra một thiếu nữ chừng mười lăm, mười sáu tuổi, liếc xéo Trương Vô Kỵ một cái, nói:

– Kiều Phúc, sao ông lại dẫn cậu ta tới đây, lỡ chấy rận trên người nó bò ra thì làm thế nào?

Kiều Phúc nói:

– Dạ phải, dạ phải!

Trương Vô Kỵ vốn đang hồi hộp lo lắng, nghe vậy liền đỏ mặt, ngoài bộ quần áo mặc trên người, cậu chẳng còn bộ nào khác để thay, quả có sinh ra chấy rận thật, nghĩ bụng vị tiểu thư kia nói không sai. Thiếu nữ mặt trái xoan, tóc xõa vai, y phục không biết lụa là gấm vóc gì mà lấp lánh phát quang, tay đeo vòng vàng, một tiểu thư trang sức sang trọng như thế, Trương Vô Kỵ chưa gặp bao giờ, cậu nghĩ thầm: “Khi ta bị lũ chó vây cắn, hình như có tiếng một thiếu nữ quở chúng. Kiều Phúc đại thúc lại bảo tiểu thư của y cứu mình, vậy mình nên rập đầu tạ ơn cho phải”. Nghĩ vậy, cậu bèn quỳ xuống khấu đầu, nói:

– Đa tạ tiểu thư cứu mạng, suốt đời tại hạ không dám quên đại ân.

Thiếu nữ kia kinh ngạc, đột nhiên cười khúc khích, nói:

– Kiều Phúc, Kiều Phúc, nó làm trò gì thế? Ông đùa giỡn thằng ngốc ấy đấy ư?

Kiều Phúc cười, đáp:

– Tiểu Phụng tỷ tỷ, thằng ngốc này có quỳ lạy tỷ tỷ vài cái cũng được chứ sao. Thằng bé đần độn chưa bao giờ ra ngoài đời, cứ ngỡ tỷ tỷ là tiểu thư! Thực ra, a hoàn trong sơn trang chúng ta còn hơn cả thiên kim tiểu thư nhà người.

Trương Vô Kỵ ngẩn người, vội đứng dậy, nghĩ thầm: “Chết rồi! Hóa ra nàng ta chỉ là một a hoàn, thế mà mình lại tưởng là tiểu thư”. Mặt cậu vừa đỏ vừa tái đi, thật ngượng không để đâu cho hết.

Tiểu Phụng cố nhịn cười, nhìn Trương Vô Kỵ từ đầu xuống chân. Mặt mũi thân thể cậu, vết máu lau chưa sạch, chỗ chó cắn thì băng bó, cậu tự biết mình hôi hám khó coi, hận không có cái lỗ nẻ để chui xuống đất. Tiểu Phụng giơ tay che mũi, nói:

– Lão gia, thái thái đang bận, chỉ có thể đến chào tiểu thư thôi.

Nói xong Tiểu Phụng đi vòng ra, tránh xa Trương Vô Kỵ, đi trước dẫn đường mà cứ sợ chấy rận từ người Trương Vô Kỵ nhảy sang người mình. Trương Vô Kỵ đi theo sau Kiều Phúc và Tiểu Phụng, trên đường gặp nô tì, gia nhân ai nấy trang phục đẹp đẽ, lầu son gác tía chỗ nào cũng cực kỳ sang trọng. Cậu từ khi sinh ra đến mười tuổi sống ở Băng Hỏa đảo, mấy năm sau thì một nửa sống trên núi Võ Đang, một nửa sống ở Hồ Điệp cốc, sinh sống vô cùng đơn giản, dù có nằm mơ cũng không tưởng tượng trên thế gian lại có một gia trang giàu sang thế này.

Đi một hồi đến trước một tòa đại sảnh, thấy treo tấm biển đề ba chữ “Linh Ngao doanh”. Tiểu Phụng bước vào trước, lát sau đi ra vẫy tay, Kiều Phúc bèn dẫn Trương Vô Kỵ vào sảnh.

Vừa bước vào, Trương Vô Kỵ đã giật mình. Chỉ thấy trong sảnh có hơn ba chục con chó săn to khỏe hung dữ, chia thành ba hàng ngồi dưới đất, một thiếu nữ mặc áo lông màu trắng ngồi trên chiếc ghế lót da hổ, tay cầm roi da, miệng quát:

– Tiền tướng quân, yết hầu!

Một con mãnh khuyển nghe lệnh liền vọt tới cắn ngay vào cổ họng một người đứng bên tường.

Trương Vô Kỵ nhìn cảnh đó quá tàn nhẫn, nhịn không nổi, kêu ôi chao”, thấy con chó ngoạm một miếng thịt, cúi xuống xé ăn. Cậu định thần nhìn kỹ, thì ra người đứng bên tường chỉ là một hình nhân bằng da, những vị trí yếu hại trên thân thể có treo các miếng thịt. Thiếu nữ kia lại quát:

– Xa Kỵ tướng quân, bụng dưới!

Con mãnh khuyển thứ hai nhảy tới táp vào bụng hình nhân. Lũ chó được huấn luyện đâu ra đấy, theo lệnh mà cắn đúng từng vị trí một.

Trương Vô Kỵ sau phút sững sờ, lập tức nhận ra kia chính là bầy ác khuyển đã cắn xé mình trong núi, tiếng quở chó chính là giọng của thiếu nữ này. Cậu vẫn nghĩ tiểu thư là ân nhân cứu mạng, giờ mới biết mình bị bao đau đớn khổ sở cũng chính do thiếu nữ này gây nên, nộ khí bừng bừng bốc lên đầu, nghĩ thầm: “Thôi, thôi rồi, cô nàng có đàn chó trợ lực, ta chẳng làm gì nổi đâu! Nếu sớm biết thế này, thà chết trong núi hoang, còn hơn nằm dưỡng thương ở nhà cô nàng”. Cậu bèn giật vải băng bó vứt xuống đất, quay mình đi ra.

Kiều Phúc kêu lên:

– Này, này, ngươi làm gì vậy? Đây chính là tiểu thư, sao ngươi không tới khấu đầu?

Trương Vô Kỵ tức giận nói:

– Hừ, ta phải tạ ơn nàng ta ư? Lũ ác khuyển cắn ta chẳng phải do nàng ta nuôi hay sao?

Thiếu nữ quay đầu lại, thấy Vô Kỵ nổi cáu, liền mỉm cười, vẫy tay gọi:

– Tiểu huynh đệ, lại đây đi!

Trương Vô Kỵ đối diện với thiếu nữ, trống ngực đột nhiên đập thình thình. Nàng ta dung nhan kiều diễm, nước da trắng trẻo mịn màng. Tai cậu ù đi, lưng toát mồ hôi lạnh, chân tay run run, vội cúi đầu không dám nhìn, mặt xanh xao phút chốc bỗng đỏ bừng.

Thiếu nữ cười, giục:

– Tiểu huynh đệ, lại đây nào!

Trương Vô Kỵ ngẩng đầu, liếc nàng ta một cái, gặp ngay làn thu ba long lanh, trong lòng cậu chợt mơ mơ hồ hồ, chân tự dưng thong thả bước tới.

Thiếu nữ mỉm cười, nói:

– Tiểu huynh đệ giận ta, phải không?

Trương Vô Kỵ bị bầy chó cắn xé, chịu bao khổ sở, lẽ nào không căm tức? Nhưng lúc này đứng trước mặt thiếu nữ, chỉ cảm thấy nàng tỏa ra mùi hoa lan thơm mát khiến cậu ngất ngây, làm sao còn thốt ra được chữ “giận”, bèn lắc đầu, nói:

– Không đâu!

Thiếu nữ nói:

– Ta họ Chu, tên là Cửu Chân, còn tiểu huynh đệ?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Ta là Trương Vô Kỵ.

Chu Cửu Chân nói:

– Vô Kỵ, Vô Kỵ! Ồ cái tên này nghe thật cao nhã, tiểu huynh đệ hẳn phải là đệ tử thế gia! Nào, ngồi xuống đây đi.

Nói xong nàng chỉ chiếc ghế thấp bên cạnh mình. Trương Vô Kỵ từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ đây là lần đầu cảm thấy ma lực kinh tâm động phách của mỹ nữ, lúc này Chu Cửu Chân có bảo cậu nhảy vào lửa, chắc cậu cũng không chút do dự nhảy ngay, nghe nàng bảo ngồi xuống bên cạnh, thực là hoan hỉ không để đâu cho xiết, liền rón rén ngồi xuống.

Tiểu Phụng và Kiều Phúc thấy tiểu thư biệt đãi gã thiếu niên vừa dơ dáy, vừa hôi hám như thế thì quá bất ngờ.

Chu Cửu Chân lại quát, giọng trong trẻo:

– Chiết Xung tướng quân, tâm khẩu.

Một con chó lớn xông lên, đớp vào hình nhân. Nhưng miếng thịt ở tâm khẩu của hình nhân đã bị con chó khác đớp mất rồi, nên con Chiết Xung tướng quân bèn đớp miếng thịt khác treo ở mạng sườn hình nhân mà ăn. Chu Cửu Chân giận dữ nói:

– Đồ tham ăn, mi không tuân lệnh hả?

Cây roi da trong tay nàng quất liền hai cái vút vút. Cây roi có nhiều gai nhọn, nên để lại trên lưng con chó hai vệt máu dài. Con chó vẫn chưa chịu nhả miếng thịt, lại còn gầm gừ ra uy. Chu Cửu Chân quát to:

– Mi vẫn không tuân lệnh hả?

Cây roi dài lại vung ra quật tới tấp, thân con chó máu tươi dầm dề. Thủ pháp đánh roi của nàng rất linh hoạt, con chó lăn lộn né tránh cách mấy cũng không thoát. Cuối cùng nó phải nhả miếng thịt, nằm phục dưới đất bất động, mồm rên ư ử. Song Chu Cửu Chân vẫn chưa tha, tiếp tục đánh đến lúc con chó chỉ còn thở thoi thóp mới nói:

– Mang nó đi bó thuốc!

Kiều Phúc đáp:

– Vâng, tuân lệnh tiểu thư.

Rồi ôm con chó bị thương ra khỏi sảnh, giao cho người nô bộc chuyên nuôi chó lo liệu.

Bầy chó thấy cảnh vừa rồi, con nào con nấy sợ mất mật, không dám nhúc nhích.

Chu Cửu Chân trở lại ghế ngồi, quát:

– Bình Khấu tướng quân, đùi trái! Uy Viễn tướng quân, tay phải! Chinh Đông tướng quân, mắt!

Từng con chó nghe lệnh lao tới cắn vào đúng bộ vị của hình nhân. Mấy chục con chó dữ, con nào cũng được phong hàm tướng quân, nàng chỉ huy tất cả, dĩ nhiên là đại nguyên soái.

Chu Cửu Chân quay đầu lại, mỉm cười:

– Tiểu huynh đệ thấy mấy con súc sinh này có hèn không? Không cho một trận đòn thì cấm có chịu vâng lệnh.

Trương Vô Kỵ tuy bị lũ chó cắn cho một trận khốn khổ, nhưng chứng kiến thảm trạng của con chó bị đòn thì không khỏi chạnh lòng. Chu Cửu Chân thấy cậu im lặng, cười hỏi:

– Tiểu huynh đệ bảo không giận ta, sao không trả lời? Tiểu huynh đệ làm sao đến được Tây Vực? Cha mẹ ở đâu?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mình bơ vơ thế này, nhắc đến tên tuổi thái sư phụ và phụ mẫu chỉ làm nhục họ thôi”, bèn đáp:

– Cha mẹ đã qua đời, ở Trung nguyên khó sống nên bỏ xứ đi lưu lạc tới chốn này.

Chu Cửu Chân nói:

– Ta bắn con khỉ, ai bảo tiểu huynh đệ giấu nó vào trong bụng? Đói quá nên định ăn thịt khỉ phải không? Ai ngờ bị bầy chó của ta xông vào cắn xé tơi bời.

Trương Vô Kỵ đỏ mặt, lắc đầu lia lịa:

– Ta không định ăn thịt con khỉ đâu.

Chu Cửu Chân cười tươi:

– Trước mặt ta, tiểu huynh đệ không được chối quanh, nghe chưa?

Chợt nhớ ra chuyện gì đó, nàng hỏi:

– Tiểu huynh đệ đã học môn võ gì thế? Giáng một chưởng khiến con Tả tướng quân của ta vỡ đầu chết tươi, chưởng lực không phải nhẹ.

Trương Vô Kỵ nghe nàng bảo mình đã đánh chết con chó quý của nàng ta, không khỏi ân hận, nói:

– Lúc đó ta hoảng sợ, ra tay có lẽ hơi nặng. Hồi nhỏ ta có mấy năm học quyền cước của cha ta, chứ có biết võ công gì đâu.

Cửu Chân gật đầu, nói với Tiểu Phụng:

– Ngươi hãy đưa người này đi tắm rửa, thay quần áo.

Tiểu Phụng vâng dạ, dẫn Trương Vô Kỵ đi ra. Trương Vô Kỵ lưu luyến, ra đến cửa còn quay đầu lại nhìn Chu Cửu Chân một cái, không ngờ lúc ấy Chu Cửu Chân cũng đang nhìn theo cậu; bắt gặp ánh thu ba long lanh của nàng, Trương Vô Kỵ cả thẹn, mặt đỏ tận chân tóc, hồn vía đâu đâu, không nhìn thấy bậc cửa, vấp một cái ngã chúi về phía trước. Thân mình đầy vết thương, nay lại ngã nhào khiến người đau nhoi nhói mà không dám kêu, vội lồm cồm bò dậy. Tiểu Phụng cười khúc khích, nói:

– Gặp tiểu thư nhà ta, ai cũng thần hồn điên đảo. Cậu này còn nhỏ mà cũng đáo để nhỉ?

Trương Vô Kỵ luống cuống vội rảo bước đi trước. Được một quãng, Tiểu Phụng lại cười, nói:

– Cậu vào phòng của thái thái để tắm rửa, thay quần áo hả?

Trương Vô Kỵ dừng chân nhìn kỹ, thấy căn phòng trước mặt rèm thêu trướng rủ, chỗ này cậu chưa tới bao giờ, mới biết mình đã đi lạc đường. Tiểu Phụng là a hoàn láu lỉnh, chả bảo trước, đợi lúc cậu nhầm chỗ rồi mới buông lời châm chọc.

Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, cúi đầu im lặng. Tiểu Phụng nói:

– Cậu hãy gọi ta “Tiểu Phụng tỷ tỷ, xin tỷ tỷ giúp cho”, ta sẽ dẫn cậu đi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiểu Phụng tỷ tỷ…

Tiểu Phụng giơ một ngón tay lên má, giả bộ nghiêm trang, hỏi:

– Cậu gọi gì ta?

Trương Vô Kỵ nói:

– Xin tỷ tỷ giúp cho.

Tiểu Phụng cười, nói:

– Thế mới phải chứ.

Rồi dẫn Trương Vô Kỵ trở lại căn phòng nhỏ của cậu, nói với Kiều Phúc:

– Tiểu thư dặn là cho cậu ta tắm rửa, thay bộ đồ sạch sẽ.

Kiều Phúc đáp:

– Vâng, vâng.

Thái độ rất cung kính, xem ra Tiểu Phụng tuy cũng chỉ là một a hoàn nhưng có địa vị cao hơn bọn tì bộc tầm thường. Năm, sáu nam bộc bước tới, đứa này chào “Tiểu Phụng tỷ tỷ”, đứa kia chào “Tiểu Phụng tỷ tỷ”. Tiểu Phụng chả thèm để ý tới họ, đột nhiên quay lại vái Trương Vô Kỵ một vái. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên:

– Tiểu Phụng tỷ tỷ… sao lại… Tiểu Phụng cười, đáp:

– Lúc nãy cậu khấu đầu lạy ta, bây giờ ta trả lễ đó.

Rồi đi ra ngoài.

Kiều Phúc bèn đem chuyện Trương Vô Kỵ nhận lầm Tiểu Phụng là tiểu thư, nên khấu đầu lạy nàng ta ra kể lại, còn thêm mắm thêm muối, nghe thật khôi hài, khiến cả đám nam bộc cười rộ một hồi. Trương Vô Kỵ cúi đầu bước vào phòng, cũng chẳng tức giận, chỉ ôn lại từng lời nói, nụ cười của tiểu thư vừa rồi.

Tắm rửa xong, thấy Kiều Phúc mang lại cho cậu bộ quần áo màu xanh, may kiểu thân thẳng, dùng cho nô bộc, thì Trương Vô Kỵ thầm tức giận: “Ta đâu phải là đầy tớ thấp kém, sao lại đưa ta mặc thứ này?” Cậu lại lấy bộ quần áo cũ rách mặc vào, nhưng thấy có nhiều chỗ rách to, lộ rõ da thịt, thì nghĩ thầm: “Tiểu thư sẽ gọi mình lên hỏi chuyện, thấy mình ăn mặc rách rưới dơ dáy thế này, sẽ không vui. Mà giả dụ mình có làm nô bộc cho nàng sai bảo, thì có gì là không tốt”. Cậu liền cảm thấy thanh thản, mặc bộ quần áo mới vào.

Ai ngờ không phải chỉ một ngày tiểu thư không gọi đến cậu, mà mười mấy ngày liền ngay cả a hoàn Tiểu Phụng cũng chẳng ghé đến, nói gì tiểu thư. Trương Vô Kỵ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, mơ tưởng dung mạo, tiếng nói, nụ cười mê hồn của nàng, kể cả thần thái lúc nàng dùng roi quật tới tấp con chó, trông cũng kiều mị khả ái. Cậu mong tự đi tới hậu viện, đứng xa xa ngắm nàng cũng được, nghe nàng nói chuyện với ai cũng được, song Kiều Phúc đã dặn đi dặn lại, nếu không được chủ nhân gọi đến thì nhất quyết không được bước vào cổng giữa, nếu không sẽ bị bầy chó cắn xé. Trương Vô Kỵ nghĩ đến bầy chó hung dữ, tuy rất muốn, song cũng không dám bén mảng tới hậu viện.

Lại hơn một tháng nữa, xương cánh tay của Trương Vô Kỵ đã liền như cũ, các vết chó cắn cũng đã lành, song trên cánh tay và đùi để lại mấy vết sẹo rành rành, mỗi lần nghĩ đó là vết răng bầy chó quý của tiểu thư là cậu lại thấy lòng rộn ràng trìu mến. Dạo này chất hàn độc trong cơ thể cậu cứ vài hôm lại phát tác một lần, lần sau nặng nề hơn lần trước.

Hôm ấy Trương Vô Kỵ bị chất hàn độc hành hạ, cậu nằm trên giường, trùm chăn thật chặt, người cứ run bần bật. Kiều Phúc bước vào, nhìn cảnh này đã quen, không lấy làm lạ, nói:

– Lúc nào cắt cơn, cậu hãy húp một tô cháo “lạp bát”[54] sẽ đỡ mệt! Còn đây là bộ quần áo thái thái ban cho nhân dịp Tết.

Nói xong đặt một cái gói lên bàn.

Trương Vô Kỵ bị sốt rét đến nửa đêm cơn hàn độc mới đỡ dần, cậu ngồi dậy mở bọc ra, thấy một cái áo da mới, bên trong lót lông cừu trắng thì rất thích. Cái áo này may cả loạt cho các nô bộc, xem ra nhà họ Chu coi cậu như đầy tớ thật rồi. Trương Vô Kỵ tính nết hiền lành, cũng chả lấy thế làm khó chịu, chỉ nghĩ thầm: “Không ngờ mình ở đây đã hơn một tháng, chẳng mấy chốc là Tết. Hồ tiên sinh bảo mình chỉ sống được một năm, qua Tết này, mình sẽ không còn được đón cái Tết thứ hai nữa”.

Những nhà giàu sang vào dịp cuối năm không khí thật náo nhiệt. Bọn gia nhân hối hả tất bật dọn dẹp, kẻ quét vôi, người sơn cổng, náo nức giết dê mổ heo. Trương Vô Kỵ phụ Kiều Phúc làm tạp dịch, chỉ mong chóng đến ngày Tết sẽ được rập đầu chúc Tết lão gia, thái thái, tiểu thư, được gặp lại Chu Cửu Chân, nhìn nàng một lần cuối rồi cậu sẽ đi vào rừng sâu núi thẳm tìm nơi nhắm mắt xuôi tay, còn hơn ở đây ngày ngày nhập bọn tôi tớ như Kiều Phúc.

*

*   *

Tiếng pháo trúc rền vang, đã đến Tết Nguyên đán. Trương Vô Kỵ theo Kiều Phúc tới đại sảnh chúc Tết chủ nhân. Chỉ thấy một đôi vợ chồng trung niên mặt mày thanh tú ngồi ở chính giữa sảnh, bảy tám chục nô tì cùng quỳ dưới đất. Hai vợ chồng người kia cười vui vẻ, nói:

– Mọi người ai cũng vất vả!

Hai người quản gia đứng hai bên phân phát thưởng kim. Trương Vô Kỵ cũng được hai lạng bạc.

Trương Vô Kỵ không thấy tiểu thư, vô cùng thất vọng, tay cầm hai đĩnh bạc mà lòng ngẩn ngơ, bỗng nghe một giọng nói trong trẻo từ bên ngoài vọng vào:

– Biểu ca, năm nay biểu ca sang sớm thật!

Chính là giọng Chu Cửu Chân. Một giọng nam cười, đáp lại:

– Sang chúc Tết cậu mợ, ta dám đến muộn sao?

Trương Vô Kỵ cảm thấy lòng bồi hồi, tim đập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, mồ hôi ướt cả hai lòng bàn tay. Cậu mong ngóng hai tháng trời nay mới lại được nghe giọng nói của Chu Cửu Chân, bảo sao cậu không bồi hồi xúc động?

Lại nghe tiếng cười của một thiếu nữ khác:

– Mới sáng ra sư ca đã vội vã sang đây, chả biết đi chúc Tết hai vị tôn trưởng, hay là chúc Tết biểu muội nữa?

Vừa nói, ba người ấy vừa bước vào cửa sảnh. Đám gia nhân vội tránh sang hai bên, Trương Vô Kỵ cứ đứng như kẻ mất hồn, Kiều Phúc phải kéo mạnh một cái cậu mới dạt sang một bên.

Trong ba người thì đi giữa là một thanh niên, Chu Cửu Chân đi bên trái, mặc chiếc áo điêu cừu màu hồng, màu áo ánh lên khiến khuôn mặt nàng càng thêm kiều diễm khó tả. Bên phải là một thiếu nữ khác. Từ lúc Chu Cửu Chân bước vào đại sảnh, Trương Vô Kỵ cứ nhìn nàng không chớp mắt, chẳng để ý xem đôi nam nữ mới tới kia dung mạo xấu đẹp, y phục màu hồng hay xanh nữa. Hai người ấy chúc Tết gia chủ thế nào, chủ khách hàn huyên ra sao, Trương Vô Kỵ nhìn mà không thấy, nghe mà không lưu tâm, trong mắt chỉ có một nàng Chu Cửu Chân. Thực ra cậu còn ít tuổi, chuyện ái tình nam nữ chưa biết gì, nhưng trong đời mỗi người, lần đầu gặp một mỹ nhân, ai mà chẳng thần hồn điên đảo, như si như ngốc. Trương Vô Kỵ cũng vậy thôi. Huống hồ Chu Cửu Chân nhan sắc diễm lệ, cậu gặp nàng trong phút nguy nan, khó bề kìm nén sự đắm say, cảm thấy chỉ cần được ngắm nàng một lần, nghe nàng nói một câu, cũng đủ sung sướng lắm rồi.

Vợ chồng chủ nhân trò chuyện với ba thanh niên nam nữ một hồi, thì Chu Cửu Chân nói:

– Cha, mẹ, con đi chơi với biểu ca và Thanh muội đây!

Giọng nói có đôi chút nũng nịu của trẻ con. Vợ chồng chủ nhân mỉm cười, gật đầu. Chu phu nhân cười, nói:

– Chân nhi, con phải ăn nói nhỏ nhẹ với Võ gia muội tử, ba anh em ngày mồng một Tết không được cãi nhau đấy nhé.

Chu Cửu Chân cười, đáp:

– Mẹ, sao mẹ không dặn biểu ca đừng bắt nạt con?

Ba người trẻ tuổi vừa cười nói vừa đi ra phía hậu viện. Trương Vô Kỵ không nén được liền lẽo đẽo đi theo ở đằng xa. Hôm nay nô bộc được tha hồ chơi đùa, ai muốn làm gì thì làm.

Lúc này Trương Vô Kỵ mới nhìn kỹ, chàng trai kia dung mạo anh tuấn, thân hình cao lớn, tuy đang ở tiết đại hàn mà chỉ mặc một chiếc áo đoạn mỏng màu vàng, rõ ràng nội công không kém. Thiếu nữ kia mặc áo lông màu đen, thân hình mảnh dẻ, cử chỉ nói năng dịu dàng, nhan sắc so với Chu Cửu Chân cũng chả thua gì, mỗi người có vẻ đẹp riêng, nhưng dưới mắt Trương Vô Kỵ thì tiểu thư Cửu Chân y như tiên giáng trần, thiếu nữ kia không thể sánh nổi. Ba người ấy đều trạc mười bảy, mười tám tuổi.

Họ vừa đi vừa nói cười, thẳng ra phía hậu viện. Thiếu nữ nói:

– Chân tỷ, công phu “Nhất dương chỉ”, tỷ tỷ đã luyện thêm được hai bậc nữa chưa? Tỷ tỷ ra tay cho muội xem chút được chăng?

Chu Cửu Chân nói:

– Có gì đáng xem đâu? Dù tỷ có luyện thêm mười năm nữa cũng không theo kịp một cái phẩy tay của môn “Lan hoa phất huyệt thủ” họ Võ nhà muội.

Chàng trai cười, nói:

– Cả hai muội khỏi cần khiêm nhường làm gì, đại danh lừng lẫy của Tuyết Lĩnh Song Chu, ai chẳng biết uy phong lợi hại thế nào kia chứ.

Chu Cửu Chân nói:

– Biểu muội có một mình tập luyện trong nhà, làm sao tiến nhanh bằng hai sư huynh sư muội bên ấy. Hai người tập dượt với nhau, chẳng phải một ngày tiến xa ngàn dặm đó ư?

Thiếu nữ kia nghe giọng nói của Chu Cửu Chân có vẻ hơi mỉa, chỉ mỉm cười, không trả lời, coi như mặc nhiên thừa nhận.

Chàng trai sợ Chu Cửu Chân bực tức, vội nói:

– Cái đó cũng chưa hẳn. Muội có hai vị sư phụ, cậu và mợ cùng dạy cho, chắc chắn giỏi hơn hai chúng ta rồi.

Chu Cửu Chân giận dỗi:

– Hai chúng ta, hai chúng ta mãi! Hừ, sư muội thì phải thân hơn biểu muội rồi. Biểu muội nói đùa với Thanh muội, vậy mà biểu ca cứ phải xen vào bênh mới xong.

Nói xong nàng quay đi làm mặt giận. Chàng trai cười làm lành:

– Biểu muội thân mà sư muội cũng thân, lòng bàn tay hay lưng bàn tay thì cũng thế cả, đâu có phân biệt bên này bên nọ. Biểu muội hãy cho huynh đi xem các vị tướng quân canh cổng của biểu muội, được chăng? Các vị tướng được biểu muội huấn luyện chắc ngày càng lợi hại.

Chu Cửu Chân trở lại vui vẻ, nói:

– Được lắm!

Rồi dẫn hai người kia đến “Linh Ngao doanh”.

Trương Vô Kỵ đi theo đằng sau, phía xa, thấy ba người cười cười nói nói, không nghe rõ họ nói gì, chỉ theo vào nơi luyện chó.

Thì ra Chu Cửu Chân là hậu duệ của Chu Tử Liễu. Thiếu nữ kia họ Võ, tên là Võ Thanh Anh, hậu duệ của Võ Tam Thông, thuộc chi Võ Tu Văn. Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu đều là đệ tử của Nhất Đăng đại sư, võ công vốn cùng một mối mà ra. Nhưng sau hơn trăm năm truyền qua mấy đời, sở học của hai nhà đều có thêm bớt. Huynh đệ Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn bái đại hiệp Quách Tĩnh làm sư phụ, tuy cũng học qua Nhất dương chỉ, nhưng võ công thiên về loại cương mãnh của “Cửu chỉ thần cái”[55] Hồng Thất Công. Chàng trai tên Vệ Bích, là biểu ca[56] của Chu Cửu Chân, đã anh tuấn, tính nết lại ôn hòa, cả hai nàng Chu Cửu Chân và Võ Thanh Anh đều thầm mong trộm nhớ.

Chu, Võ hai nàng cùng tuổi, cùng xinh đẹp, xuân lan thu cúc, mỗi người một vẻ mặn mà, võ học gia truyền cũng chả bên nào thua bên nào, mấy năm trước được giới võ lâm dải Côn Luân tôn là “Tuyết Lĩnh Song Chu”. Hai nàng vẫn ngầm tranh hơn thua; chàng Vệ Bích không biết thương bên nào bỏ bên nào, nên mỗi lần ba người ở bên nhau, hai nàng ngoài mặt tỏ ra khách khí, song luôn tìm cách châm chọc nhau, không ai chịu ai. Có điều Võ Thanh Anh kín đáo hơn, lại là đồng môn học nghệ cùng Vệ Bích, sớm tối gặp nhau, có lợi thế hơn hẳn Chu Cửu Chân.

Chu Cửu Chân lệnh cho cẩu bộc chuyên việc nuôi chó thả lũ mãnh khuyển ra. Bầy chó nghe lệnh hành sự, không con nào dám sai trái. Vệ Bích luôn miệng tán thưởng. Chu Cửu Chân rất đắc ý. Võ Thanh Anh nhếch mép cười:

– Sư ca, sau này sư ca sẽ làm “Quán Quân” hay “Phiêu Kỵ”?

Vệ Bích sững người, hỏi:

– Sư muội bảo sao?

Võ Thanh Anh nói:

– Sư ca chịu vâng lời Cửu Chân như thế, Cửu Chân chắc sẽ phong cho sư ca làm “Quán Quân tướng quân” hay “Phiêu Kỵ tướng quân” đấy. Có điều là phải cẩn thận đề phòng ngọn roi da mới được.

Khuôn mặt tuấn tú của Vệ Bích đỏ bừng, lông mày hơi cau, hừ một tiếng, nói:

– Sư muội nói năng tầm bậy, có phải định bảo huynh làm chó hay không?

Võ Thanh Anh mỉm cười:

– Các vị tướng quân vẫy đuôi, ngồi chờ hầu hạ cạnh bàn phấn của mỹ nhân, thích thú biết mấy, có gì là không phải nào?

Chu Cửu Chân khó chịu, nói:

– Nếu sư ca là chó, vậy sư muội sẽ là gì nhỉ?

Trương Vô Kỵ nghe đến đây, nhịn không nổi bật cười “ha ha” hai tiếng, nhưng biết ngay mình thất thố, vội che miệng, quay đi.

Võ Thanh Anh cả giận, nhưng không tiện trút thẳng sang Chu Cửu Chân, bèn đứng dậy, nói:

– Cửu Chân tỷ tỷ, nô bộc nhà này có phép tắc quá nhỉ? Chúng ta ngồi nói chuyện vui, hạng đầy tớ thấp hèn như nó đã ngang nhiên đứng bên nghe lén, lại còn dám cười hô hố. Sư ca, muội về trước đây!

Chu Cửu Chân chợt nhớ Trương Vô Kỵ từng một chưởng đánh chết con “Tả tướng quân” của nàng, sức mạnh của cánh tay chẳng phải nhỏ, bèn cười, nói:

– Thanh muội đừng giận, cũng chớ nên coi thường cậu ta. Công phu võ học nhà họ Võ tuy cao, nhưng nếu nội ba chiêu mà đánh ngã được cậu bé thấp hèn ấy thì ta mới phục muội đó.

Võ Thanh Anh nói:

– Hừ, hạng người như thế có đáng để muội ra tay chăng? Cửu Chân tỷ tỷ đừng có xem thường muội quá như vậy.

Trương Vô Kỵ không nhịn nổi, cao giọng nói:

– Võ cô nương, ta cũng do cha mẹ sinh ra, không phải là người hay sao? Còn cô nương là thần tiên Bồ Tát, công chúa nương nương gì chăng?

Võ Thanh Anh không thèm nhìn Trương Vô Kỵ, quay sang nói với Vệ Bích:

– Sư ca, tên đầy tớ kia cãi muội mà sư ca không bênh muội ư?

Vệ Bích thấy sư muội hơi nũng nịu hờn dỗi thì đã mềm lòng, tuy trong thâm tâm không nghiêng về ai trong hai nàng, song chàng biết sư phụ võ công cao siêu khôn cùng, mình mới chỉ được truyền cho đôi phần, muốn học tuyệt thế công phu, không thể không chiều lòng sư muội, bèn cười, nói với Chu Cửu Chân:

– Biểu muội, thằng nhãi kia võ công khá lắm ư? Để huynh thử nó một chút được chăng?

Chu Cửu Chân biết chàng muốn bênh sư muội, nhưng chợt nghĩ thầm: “Tiểu tử họ Trương kia chưa rõ lai lịch ra sao, để biểu ca buộc nó phải lộ gốc gác, cũng là điều hay”, bèn đáp:

– Được lắm, cho nó lĩnh giáo tuyệt học nhà họ Võ thì còn gì bằng. Tên tiểu tử ấy, chính muội cũng không biết nó là đệ tử của môn phái nào cả.

Vệ Bích lấy làm lạ, hỏi:

– Thế ra võ công của nó không phải do quý phủ truyền dạy ư?

Chu Cửu Chân nói với Trương Vô Kỵ:

– Ngươi hãy nói cho biểu thiếu gia biết, ngươi là ai, thuộc môn phái nào?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Các ngươi khinh thường ta đến thế, làm sao ta có thể nói ra môn phái của phụ mẫu, để làm nhục thái sư phụ và phụ mẫu quá cố kia chứ? Huống hồ ta chưa hề thực sự luyện tập võ công phái Võ Đang”, bèn nói:

– Phụ mẫu ta mất từ khi ta còn nhỏ, ta lưu lạc giang hồ, chưa học môn võ công nào cả, hồi còn bé ta có được cha ta chỉ bảo cho đôi chút thôi.

Chu Cửu Chân hỏi:

– Thế cha ngươi tên gì? Thuộc môn phái nào?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

– Ta không nói ra được.

Vệ Bích cười:

– Không lẽ ba người mình lại không nhận ra được lai lịch của nó hay sao?

Chàng ta thong thả bước ra sân, cười, nói:

– Tiểu tử, ngươi hãy lại đây tiếp thử ba chiêu của ta coi nào.

Đoạn quay sang nháy mắt với Võ Thanh Anh, ý nói: “Sư muội đừng buồn, để ta đánh thằng nhãi này một trận cho sư muội bõ tức”.

Kẻ đã sa vào lưới ái tình thì nhất cử nhất động, một ánh mắt, một nụ cười của tình nhân đều không bỏ sót, cái nháy mắt đầy hàm ý của Vệ Bích, Chu Cửu Chân nhìn rõ cả. Nàng thấy Trương Vô Kỵ không chịu ra đấu, bèn vẫy cậu lại gần, ghé tai nói nhỏ:

– Biểu ca ta võ công rất cao, ngươi không cần phải thắng, chỉ cần gắng chịu đựng ba chiêu, cũng đủ giữ thể diện cho ta rồi.

Nói đoạn nàng vỗ vỗ vai cậu, ra ý khích lệ.

Trương Vô Kỵ thừa biết mình không phải đối thủ của Vệ Bích, ra đấu với y chỉ chuốc nhục vào thân, làm trò vui cho ba người này thôi. Nhưng trước mặt Chu Cửu Chân cậu không khỏi ý loạn tình mê, lại nghe nàng ngon ngọt dỗ dành, hương thơm thoang thoảng, làm sao còn giữ được chủ ý? Cậu nghĩ thầm: “Tiểu thư đã khuyên nhủ, việc gian nan hung hiểm mấy ta cũng phải liều mình, bị vài cú đấm đá thì sá gì!” Thế là cậu mơ mơ hồ hồ bước tới trước mặt Vệ Bích, đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn.

Vệ Bích nói:

– Tiểu tử, tiếp chiêu đi!

Bốp, bốp hai tiếng, Vệ Bích đã đánh cho Trương Vô Kỵ hai cái tát. Hai chưởng đánh ra quá nhanh, Trương Vô Kỵ vừa định giơ tay chống đỡ thì đã trúng đòn, hai má đỏ hằn vết ngón tay. Vệ Bích biết võ công của Trương Vô Kỵ không phải do nhà họ Chu truyền dạy, không sợ làm bẽ mặt Chu Cửu Chân và cậu mợ nên y hạ thủ chẳng dung tình, nhưng hai chưởng này y chưa sử dụng nội lực, nếu không thì Trương Vô Kỵ đã gãy răng, vỡ mặt, lăn ra bất tỉnh rồi.

Chu Cửu Chân kêu lên:

– Vô Kỵ, hoàn chiêu đi!

Trương Vô Kỵ nghe tiếng nhắc của tiểu thư, tinh thần trở nên phấn chấn, liền tung ra một quyền. Vệ Bích nghiêng người né tránh, khen:

– Khá lắm, tiểu tử! Cũng gọi là biết đấm đá!

Vệ Bích nhảy vọt ra phía sau lưng Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ vội xoay người lại, nào ngờ Vệ Bích ra tay nhanh như chớp, đã chộp gáy, nhấc bổng cậu lên, cười, nói:

– Cho ngươi làm chó ăn phân này!

Rồi ném mạnh cậu xuống đất.

Trương Vô Kỵ tuy đã mấy năm học võ công ở Tạ Tốn, nhưng hồi ấy tuổi còn quá nhỏ, Tạ Tốn lại chỉ dạy cậu ghi nhớ khẩu quyết và chiêu số, không cốt giao đấu thực sự; nay gặp một đệ tử danh môn như Vệ Bích, dĩ nhiên chân tay luống cuống chẳng thi triển được gì. Bị Vệ Bích ném đi, đã toan giơ tay đỡ mà không kịp, “hịch” một tiếng, trán và mũi đập mạnh xuống đất, máu chảy ròng ròng.

Võ Thanh Anh vỗ tay khen hay, cười khanh khách, nói:

– Cửu Chân tỷ tỷ, võ công nhà họ Võ có được không nào?

Chu Cửu Chân vừa thẹn vừa tức, nếu bảo võ công họ Võ không hay thì đắc tội với Vệ Bích, nếu bảo là hay, hóa ra không bằng Võ Thanh Anh, nên đành sa sầm mặt, lặng thinh.

Trương Vô Kỵ lồm cồm bò dậy, lấm lét nhìn Chu Cửu Chân, thấy nàng cau mày, thì nghĩ thầm: “Dù ta có phải mất mạng, cũng không để tiểu thư bị mất mặt”. Vệ Bích cười, nói:

– Biểu muội, tên tiểu tử này đến võ công mèo quào còn chẳng biết, nói gì đến môn phái?

Trương Vô Kỵ đột nhiên xông tới, tung chân đá vào bụng dưới của Vệ Bích. Vệ Bích cười, kêu lên:

– Ái chà!

Thân hình y hơi ngả ra sau tránh ngọn cước ấy, tiếp đó dùng tay trái chộp lấy cổ chân phải chưa kịp rút về của Trương Vô Kỵ, đẩy một cái. Cú đẩy này y chỉ sử dụng ba thành công lực mà Trương Vô Kỵ như mũi tên rời khỏi dây cung, bay thẳng vào tường. Trong cơn nguy cấp, Trương Vô Kỵ vận sức nhảy lên, xoay người lại để lưng chạm tường trước, tuy thoát cái họa vỡ đầu gãy xương, nhưng lưng đau nhói, tưởng chừng các đốt sống gãy rời ra cả, rồi thân hình sụm xuống chân tường như một tảng bùn, không đứng lên nổi nữa.

Thân xác tuy đau đớn, song tâm trí cậu vẫn nghĩ đến khuôn mặt Chu Cửu Chân, trong lúc mơ hồ, cậu chỉ nghe nàng nói:

– Tiểu tử kia thật vô dụng, thôi chúng mình ra hoa viên chơi đi!

Giọng nàng ta đầy vẻ bực bội. Trương Vô Kỵ cũng không biết từ đâu dâng lên sức lực, cậu bật dậy, lao tới giáng chưởng vào người Vệ Bích.

Vệ Bích cười ha hả, vung tay tiếp chưởng, “rắc” một tiếng, thân hình lảo đảo phải lùi lại một bước.

Chưởng vừa rồi của Trương Vô Kỵ là chiêu “Thất tinh thủ” trong “Võ Đang trường quyền” do Trương Thúy Sơn dạy cho cậu hồi lênh đênh trên bè gỗ giữa biển. Võ Đang trường quyền là công phu nhập môn của phái Võ Đang, chiêu số không có gì huyền diệu, nhưng võ công của phái Võ Đang đi theo một con đường riêng trong võ học, chuyên lấy nhu khắc cương, lấy nhược thắng cường, không dùng sức của mình đả thương đối thủ mà mượn ngay sức địch đánh ra để phản kích lại; sức địch đánh ra một cân thì lực phản kích cũng một cân, địch đánh ra trăm cân, thì lực phản kích cũng trăm cân chẳng khác gì kẻ địch đấm vào bức tường, cú đấm càng mạnh, chính kẻ đấm sẽ càng bị tổn thương nặng hơn. Năm xưa, khi Giác Viễn đại sư tụng pho Cửu dương chân kinh, từng có câu: “Dĩ kỷ tòng nhân, hậu phát chế nhân”[57]. Trương Tam Phong sau này đưa câu ấy vào quyền pháp của phái Võ Đang. Nếu là các cao thủ như Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, ngoài việc mượn lực của đối phương, họ sẽ còn phát thêm kình lực của mình vào nữa. Trương Vô Kỵ sở học nông cạn, không biết là mình vận dụng võ công thượng thừa phản kích lại địch thủ.

Vệ Bích cảm thấy cánh tay tê dại, khí huyết nhộn nhạo trong ngực, bèn nghiêng người múa chưởng, đánh vào sau lưng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ đánh ngược lại phía sau một chưởng, dùng chiêu “Nhất điều tiên”[58]. Vệ Bích thấy chưởng thế của đối phương kỳ diệu, vội hất người về phía sau né tránh, song vai đã bị ba ngón tay của Trương Vô Kỵ quét trúng, tuy không đau đớn gì, nhưng Võ Thanh Anh và Chu Cửu Chân đều nhìn thấy, như vậy là đã thua một chiêu.

Vệ Bích trước mặt ý trung nhân bị thua như thế, làm sao chịu nổi? Thoạt đầu y giao đấu với Trương Vô Kỵ, thấy đối phương nhỏ tuổi, thân phận thấp hèn, có thắng cũng chả vinh hạnh gì, chẳng qua chỉ đem cậu ra đùa giỡn cho Võ Thanh Anh vui lòng nên quyền cước chỉ sử dụng hai ba thành công lực, giờ bị thua liền hai chiêu, bèn quát lớn:

– Tiểu tử, ngươi không sợ chết hả?

Nghe “vù” một tiếng, nhắm ngực Trương Vô Kỵ đánh ra một quyền. Đây là chiêu “Trường Giang tam điệp lãng”[59], chứa ba thành công lực, nếu đối phương dùng toàn lực đỡ được luồng kình lực thứ nhất, sẽ không ngờ rằng luồng kình lực thứ hai liền ập tới, rồi luồng kình lực thứ ba lại dồn dập tràn vào, không phải cao thủ võ học mà trúng phải chiêu này thì không chết cũng bị trọng thương.

Trương Vô Kỵ thấy chiêu thức của đối phương lợi hại, lòng thầm hoảng sợ, không kịp suy nghĩ gì nữa, còn nhớ thủ pháp năm nào cha cậu dạy cho trên chiếc bè gỗ, hai cánh tay liền khoanh thành hình vòng tròn, dùng chiêu “Tỉnh lan”[60] chống đỡ. Chiêu này bác đại tinh thâm, Trương Vô Kỵ đâu hiểu nổi chỗ vi diệu của nó? Chẳng qua trong cơn nguy cấp, thuận tay sử dụng mà thôi. Tay phải của Vệ Bích đấm trúng cánh tay phải của Trương Vô Kỵ, luồng kình lực thứ nhất của y như chìm vào biển cả mênh mông, chẳng còn tăm hơi gì hết; y đang kinh ngạc, thì “rắc” một tiếng, luồng kình lực thứ hai đã dội ngược trở lại làm gãy luôn cánh tay y. Cũng may là luồng kình lực thứ ba chưa dùng tới, nếu không, do Trương Vô Kỵ chưa hiểu cách vận dụng chiêu “Tỉnh lan” cả hai sẽ bị trọng thương bởi luồng kình lực thứ ba.

Võ Thanh Anh và Chu Cửu Chân cùng kêu lên, chạy tới bên Vệ Bích để xem thương thế. Vệ Bích cười gượng, nói:

– Không sao, tại huynh nhất thời sơ ý.

Võ Thanh Anh và Chu Cửu Chân đau lòng vì thấy tình lang bị thương, cả hai nàng không hẹn mà cùng vung chưởng đánh Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ một chiêu đánh gãy tay Vệ Bích, bản thân cậu cũng bị đẩy ngã ngửa, đứng lên chưa vững đã bị Chu, Võ hai nàng tấn công. Cậu quên cả né tránh, bị trúng một chưởng vào ngực, một chưởng vào vai, lập tức ộc ra một ngụm máu. Trương Vô Kỵ đau đớn, không phải vì vết thương thể xác, cậu nghĩ thầm: “Ta đã vì nàng mà liều mạng giao đấu, cốt giữ thể diện cho nàng, tại sao khi ta thắng, nàng lại đánh ta?” Vệ Bích nói:

– Hai muội hãy dừng tay!

Chu, Võ hai nàng nghe lời dừng lại, chỉ thấy Vệ Bích tím mặt, vung tay trái đánh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội nhảy tránh. Chu Cửu Chân nói:

– Biểu ca bị thương rồi, hà tất phải hơn thua với thằng nhãi ấy làm gì? Đó là lỗi của muội để biểu ca động thủ với hắn.

Với tính cao ngạo, ngày thường bảo nàng phải cúi đầu nhận lỗi với người khác là điều ngàn vạn lần không thể. Nếu không phải do tình lang bị gãy tay, nàng vừa lo sợ vừa thương xót thì không đời nào nàng chịu hạ mình van nài như thế. Nào ngờ nghe xong, Vệ Bích lại càng tức tối, cười khẩy:

– Biểu muội, tên đầy tớ nhà muội bản lĩnh cao cường, chứ muội có lỗi gì chứ? Có điều huynh chưa phục đâu.

Đoạn lấy tay trái gạt Chu Cửu Chân sang một bên, rồi vung quyền nhắm Trương Vô Kỵ đánh tới.

Trương Vô Kỵ định lùi lại để tránh, Võ Thanh Anh liền dùng hai bàn tay đẩy nhẹ vào sau lưng cậu, khiến cậu hết đường lùi. Cú đấm của Vệ Bích trúng ngay sống mũi Trương Vô Kỵ, lập tức máu chảy ròng ròng. Võ Thanh Anh mưu mẹo khôn ngoan hơn Chu Cửu Chân, chỉ ngầm giúp sư ca chứ không lộ liễu, để chàng ta giữ được thể diện mà thầm cảm kích. Chu Cửu Chân thấy thế, nghĩ thầm: “Ngươi biết giúp sư ca của ngươi, chả lẽ ta không biết giúp biểu ca của ta?” Nàng ta liền ra tay bước tới giáp công.

Trương Vô Kỵ võ công vốn thua xa Vệ Bích, giờ lại thêm hai nàng kia ra tay, một người công khai, một người kín đáo trợ giúp Vệ Bích, trong giây lát bị ba người tay đấm chân đá, trúng bảy tám đòn liền, nôn ra mấy ngụm máu. Cậu phẫn uất, liều mình một phen, sử dụng ba mươi hai thế Võ Đang trường quyền từng được cha dạy, tuy công lực không đủ, quyền cước đều thiếu uy lực, nhưng sở học toàn là gia số thượng thừa nên cũng cầm cự được chừng một tuần trà mà vẫn chưa bị đánh ngã.

Chu Cửu Chân quát:

– Tên tiểu tử thối tha không biết từ đâu tới lại dám vào “Chu Võ liên hoàn trang” làm loạn, chắc ngươi không thiết sống nữa rồi!

Thấy Vệ Bích giơ tả chưởng lên, vận kình đánh ra, Chu Cửu Chân bèn dùng vai huých mạnh, đẩy Trương Vô Kỵ vào đón chưởng của Vệ Bích. Chỗ cánh tay bị gãy của Vệ Bích càng lúc càng đau, y không muốn dây dưa lâu thêm với tên đầy tớ này nên dồn tới mười thành công lực vào chưởng đó. Trương Vô Kỵ bị đẩy về phía trước, chỉ thấy gió quạt mạnh tới mặt, tự biết khó chống trả, song vẫn giơ hai cánh tay che mặt.

Bỗng một tiếng quát uy nghiêm vang lên:

– Dừng tay!

Bóng xanh thấp thoáng, một người từ bên cạnh phóng tới, giơ tay gạt chưởng của Vệ Bích. Cái gạt trông nhẹ nhàng, vậy mà Vệ Bích loạng choạng, phải lùi lại mấy bước, suýt ngã xuống nếu không được người mặc áo xanh kia nhanh nhẹn đỡ vai cho y đứng vững lại.

Chu Cửu Chân kêu lên:

– Cha!

Võ Thanh Anh kêu:

– Chu bá phụ!

Vệ Bích thở hổn hển, nói:

– Cữu cữu[61]!

Người kia chính là Chu Trường Linh, phụ thân của Chu Cửu Chân. Khi Vệ Bích bị thương gãy tay, sự việc không phải nhỏ, đám cẩu bộc ở Linh Ngao doanh vội phi báo chủ nhân, Chu Trường Linh lập tức chạy đến thì thấy ba người đang vây đánh Trương Vô Kỵ. Chu Trường Linh quan sát một hồi, khi thấy Vệ Bích giở sát thủ, mới nhảy vào cứu mạng Trương Vô Kỵ.

Chu Trường Linh trừng mắt nhìn Chu Cửu Chân và Vệ, Võ hai đứa kia, mặt hầm hầm tức giận, đột nhiên giáng cho con gái mình một cái tát, miệng quát lớn:

– Giỏi quá, giỏi quá nhỉ! Con cháu nhà họ Chu ngày một tiến xa! Ta sinh ra đứa con gái như ngươi, sau này còn mặt mũi đi gặp tổ tiên dưới suối vàng được chăng?

Chu Cửu Chân từ nhỏ luôn được phụ mẫu sủng ái, chưa bị mắng mỏ một lời, hôm nay trước mặt mọi người lại bị cha giáng cho một cái bạt tai, thấy trời đất quay cuồng trước mắt, chả biết nói sao, lát sau mới khóc òa lên.

Chu Trường Linh quát to:

– Câm miệng đi, không được khóc!

Giọng nói thật uy nghiêm, tiếng vang chấn động cả trong nhà, khiến bụi trên trần bay xuống lả tả. Chu Cửu Chân cả sợ, nín bặt luôn.

Chu Trường Linh nói:

– Nhà họ Chu ta bao đời nay lấy hiệp nghĩa làm trọng, vị cao tổ của ngươi là Tử Liễu công phò tá Nhất Đăng đại sư, làm quan đến chức Tể tướng ở nước Đại Lý, sau giúp giữ thành Tương Dương, nổi danh thiên hạ, anh hùng biết chừng nào. Ngờ đâu con cháu kém cỏi, đến đời Chu Trường Linh ta lại sinh ra một đứa con gái như ngươi, ba người lớn vây đánh một đứa bé, lại còn định giết nó. Thử hỏi như thế có đáng hổ thẹn hay không hả?

Chu Trường Linh tuy trách mắng con mình, nhưng mấy câu đó Vệ Bích và Võ Thanh Anh nghe khác gì dao cứa vào mặt, thật chẳng còn mặt mũi nào hết.

Trương Vô Kỵ toàn thân đau đớn, mấy lần muốn xỉu, cố nghiến răng chịu đựng mới còn đứng nổi, nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, nghe Chu Trường Linh nói thế thì sinh lòng thán phục, nghĩ thầm: “Thị phi phân minh, thế mới đáng bậc hiệp nghĩa thực sự!” Thấy Chu Trường Linh giận đến tái mặt, toàn thân run rẩy, hơi thở hổn hển, còn Chu Cửu Chân, Vệ, Võ thì đứng cúi gầm mặt, không dám ngẩng lên nhìn ông ta.

Trương Vô Kỵ thấy nửa khuôn mặt của Chu Cửu Chân bị sưng lên, hiển nhiên cái tát vừa rồi của phụ thân thực không nhẹ, dáng dấp nàng vừa xấu hổ vừa sợ hãi, muốn khóc mà không dám, chỉ cắn chặt môi, thì cậu liền nói:

– Lão gia, việc này không phải tại tiểu thư đâu ạ.

Nói xong, cậu mới giật mình, vì cậu ú ớ như người câm, nói không ra tiếng, cổ họng đã bị Vệ Bích đánh trọng thương.

Chu Trường Linh nói:

– Vị tiểu huynh đệ này quyền cước không thành chương pháp, rõ ràng chưa bái sư học nghệ, chỉ do lòng quả cảm mà liều chết chống đỡ, càng khiến cho người ta kính phục. Ba đứa ngươi ăn hiếp một người không biết võ công, bao lời giáo huấn của sư trưởng, phụ mẫu, có còn nhớ được câu nào hay không?

Câu này là một lời trách mắng nghiêm khắc, đối với Vệ Bích và Võ Thanh Anh cũng chẳng nể nang gì hết. Trương Vô Kỵ nghe vậy càng cảm thấy áy náy thêm.

Chu Trường Linh lại hỏi từ đâu Trương Vô Kỵ đến sơn trang, tại sao lại mặc y phục nô bộc, vừa hỏi vừa sai người lấy thuốc trị thương và cao tiếp cốt cho Trương Vô Kỵ và Vệ Bích. Chu Cửu Chân biết cha đang tức giận, không dám nói dối, bèn kể lại việc Trương Vô Kỵ giấu con khỉ nhỏ, bị bầy chó cắn xé và được nàng ta đưa về sơn trang cứu chữa như thế nào.

Chu Trường Linh càng nghe, lông mày càng nhíu lại. Khi con gái kể xong, ông xẵng giọng:

– Vị Trương huynh đệ này vì nghĩa mà cứu con khỉ, thật là người nhân từ hiệp nghĩa, vậy mà ngươi lại coi cậu ấy như kẻ tôi đòi. Mai mốt chuyện này truyền ra, người trong giang hồ sẽ bảo “Kinh thiên nhất bút” Chu Trường Linh là kẻ bất nhân bất nghĩa. Ngươi nuôi bầy ác cẩu, ta cứ ngỡ chỉ để cho vui, ai ngờ ngươi lại cả gan sai chó cắn người. Hôm nay ta không đánh chết con a đầu này, Chu Trường Linh ta còn mặt mũi nào nhìn mọi người trong giới võ lâm nữa chứ?

Chu Cửu Chân thấy cha nổi giận thật sự, vội quỳ xuống, nói:

– Thưa cha, từ rày con không dám thế nữa.

Chu Trường Linh vẫn hầm hầm tức giận, Vệ Bích và Võ Thanh Anh cũng cùng quỳ xuống cầu khẩn.

Trương Vô Kỵ nói:

– Lão gia…

Chu Trường Linh vội ngắt lời:

– Tiểu huynh đệ, xin cậu đừng gọi ta là lão gia, ta chỉ hơn cậu vài tuổi, cùng lắm cậu gọi ta hai tiếng “tiền bối” là được rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vâng, thưa Chu tiền bối, việc này cũng không phải lỗi của tiểu thư, tiểu thư quả thật không định làm như vậy.

Chu Trường Linh nói:

– Ba đứa ngươi coi đó, người ta còn nhỏ tuổi mà đã độ lượng như thế, ba đứa ngươi có sánh nổi chăng? Hôm nay mồng một Tết, Võ cô nương lại là khách, đáng lẽ ta không nên nổi giận, nhưng việc này quá quắt lắm không thể chịu nổi, chỉ có bọn hắc đạo hèn hạ mới làm, chứ người hiệp nghĩa ai lại như thế? Nay vị Trương huynh đệ đã xin cho, ta cho phép ba đứa ngươi đứng dậy.

Ba người kia hổ thẹn cùng đứng lên.

Chu Trường Linh quay sang hỏi đám cẩu bộc:

– Lũ ác khuyển đâu? Thả chúng ra cả đây cho ta.

Đám cẩu bộc vâng lệnh, thả bầy chó dữ ra.

Chu Cửu Chân thấy cha mặt hầm hầm, chưa biết dụng ý của ông thế nào, gọi khẽ:

– Cha.

Chu Trường Linh cười khẩy, nói:

– Ngươi nuôi bầy chó dữ này để cắn người, giỏi lắm, vậy ngươi sai chó cắn ta thử coi.

Chu Cửu Chân khóc, nói:

– Thưa cha, con biết tội rồi.

Chu Trường Linh hừ một tiếng, bước vào giữa bầy chó, chỉ nghe bốp bốp bốn tiếng, bốn con ác cẩu to tướng đã vỡ đầu chết ngay tại chỗ. Mấy người đứng xung quanh sợ hãi, ngẩn ra không nói nên lời. Chu Trường Linh tay đấm chân đá, chém ngang chọc thẳng, chỉ thấy thân hình ông phiêu động, cái bóng người màu xanh đi quanh bầy chó một vòng đã khiến hơn ba chục con mãnh khuyển bị đánh chết, đừng nói việc chúng cắn lại, ngay chỉ chạy vài bước chúng cũng chẳng kịp. Chu Trường Linh đánh chết luôn một lúc cả bầy chó, dĩ nhiên chúng chưa nhận được hiệu lệnh của Chu Cửu Chân, lại bị đòn bất ngờ. Nhưng Chu Trường Linh xuất thủ nhanh như chớp, chưởng lực lại rất mạnh, bọn Trương Vô Kỵ, Vệ Bích và Võ Thanh Anh nhìn thấy chỉ biết lè lưỡi lắc đầu.

Chu Trường Linh bế ngang Trương Vô Kỵ lên, đem về phòng mình dưỡng thương. Lát sau Chu phu nhân và Chu Cửu Chân cùng tới lo việc sắc thuốc. Trương Vô Kỵ vốn bị chó cắn mất nhiều máu dạo trước, cơ thể đã suy nhược, lần này lại bị đả thương không nhẹ, nên nửa tỉnh nửa mê mấy ngày liền. Khi tỉnh hẳn, cậu viết bài thuốc, bảo theo đó mà sắc cho cậu uống, nên hồi phục rất nhanh. Chu Trường Linh thấy cậu dùng thuốc như thần thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng.

Trong hơn hai chục ngày dưỡng thương, Chu Cửu Chân thường ở bên giường bệnh của Trương Vô Kỵ, lúc hát, lúc ra câu đố, khi kể chuyện khi nói đùa, chẳng khác gì người chị gái chăm sóc cậu em bị bệnh, mọi việc hết sức chu đáo.

Khi Trương Vô Kỵ đã dậy đi lại được, ngày ngày Chu Cửu Chân vẫn bầu bạn với cậu cả nửa buổi, lúc theo cha học võ, nàng cũng không ngại ngần gọi Trương Vô Kỵ đến xem. Chu Trường Linh hai lần ướm lời ngỏ ý thu nhận Trương Vô Kỵ làm đồ đệ, đem võ công một đời truyền cho cậu, song thấy cậu không tiếp nhận nên cũng không nhắc lại nữa. Ông đối với cậu rất thân thiết, coi như người trong nhà. Võ công nhà họ Chu có liên quan đến thư pháp, ngày ngày Chu Cửu Chân đều tập viết, cũng rủ Trương Vô Kỵ cùng tập với nàng. Trương Vô Kỵ từ sau khi rời Băng Hỏa đảo về Trung nguyên chỉ gặp toàn những cảnh lênh đênh khốn khổ, lo lắng bệnh hoạn, chưa bao giờ được hưởng những ngày yên ổn vui sướng như thế này.

*

*   *

Thấm thoắt đã đến trung tuần tháng Hai, hôm đó Trương Vô Kỵ và Chu Cửu Chân đang tập viết trong thư phòng, bỗng a hoàn Tiểu Phụng chạy vào bẩm:

– Tiểu thư, Diêu nhị gia đã từ Trung nguyên trở về.

Chu Cửu Chân cả mừng, đặt bút xuống, reo lên:

– Hay lắm, ta đợi Diêu nhị thúc hơn nửa năm rồi, bây giờ mới về tới.

Nàng kéo tay Trương Vô Kỵ, nói:

– Vô Kỵ đệ, chúng mình ra đón nào, không biết Diêu nhị thúc có mua đủ các thứ tỷ tỷ nhờ hay không?

Hai người nắm tay nhau đi ra đại sảnh. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Diêu nhị thúc là ai thế?

Chu Cửu Chân nói:

– Diêu nhị thúc là huynh đệ kết nghĩa của cha ta, tên là Thiên Lý Truy Phong Diêu Thanh Tuyền. Năm ngoái cha ta nhờ Diêu nhị thúc mang lễ vật đi Trung nguyên, ta nhờ Diêu nhị thúc tới Hàng Châu mua son phấn và vải vóc, tới Tô Châu mua kim chỉ, khung thêu, lại nhờ mua bút Hồ Châu và mực Vi Châu, nghiên thiếp thư tịch, chả hiểu Diêu nhị thúc có mua đủ các thứ hay không.

Rồi nàng giải thích, Chu sơn trang nằm trong dãy núi Côn Luân ở Tây Vực, một số mặt hàng tốt, trong vòng ngàn dặm không đâu có bán, núi Côn Luân cách Trung nguyên cả vạn dặm, mỗi lần đi về tốn hai ba năm, nên gặp dịp có ai đi Trung nguyên, Chu Cửu Chân đều nhờ mua giùm một số lớn vật phẩm.

Hai người bước vào cửa sảnh, chỉ nghe tiếng khóc hu hu thì bất giác giật mình, vào trong sảnh lại càng kinh ngạc, thấy Chu Trường Linh cùng một hán tử trung niên cao gầy đang quỳ dưới đất bên nhau khóc. Hán tử mặc đồ tang màu trắng, lưng thắt một sợi dây bện bằng cỏ. Chu Cửu Chân tới bên người đó, gọi:

– Diêu nhị thúc!

Chu Trường Linh khóc òa lên, nói:

– Cửu Chân con ơi, Đại ân nhân của gia đình ta, Trương ngũ gia… Trương ngũ gia… đã… mất rồi!

Chu Cửu Chân hốt hoảng hỏi:

– Sao lại thế? Trương ân công… mất tích mười năm, chẳng phải đã bình yên trở về đó sao?

Diêu Thanh Tuyền nghẹn ngào nói:

– Chúng ta ở nơi xa xôi hẻo lánh, tin tức đến chậm, đâu biết rằng Trương ân công đã cùng phu nhân tự vẫn cách đây hơn bốn năm rồi. Ta chưa đến núi Võ Đang, mới ở Thiểm Tây đã nghe tin này, lúc lên núi gặp Tống đại hiệp và Du nhị hiệp mới biết là thực, ôi…

Trương Vô Kỵ càng nghe càng ngạc nhiên, đến đoạn sau thì không còn nghi ngờ gì nữa, người mà họ gọi là “đại ân nhân Trương ngũ gia” chính là Trương Thúy Sơn thân phụ của cậu. Cậu thấy Chu Trường Linh và Diêu Thanh Tuyền khóc lóc thảm thiết, Chu Cửu Chân cũng sụt sùi rơi lệ, cậu đã định bước tới thổ lộ thân phận của mình, nhưng lại nghĩ thầm: “Từ trước tới nay mình không hề nói rõ thân thế, bây giờ nói ra, Chu bá phụ và Cửu Chân tỷ tỷ sẽ không tin, cho rằng mình mạo nhận cầu ân, không khỏi coi thường mình”.

Lát sau, trong nội viện lại có tiếng khóc lớn, Chu phu nhân được a hoàn dìu ra, liên tiếp hỏi han Diêu Thanh Tuyền. Diêu Thanh Tuyền trong cơn đau lòng quên cả chào nghĩa tẩu, kể luôn đầu đuôi việc Trương Thúy Sơn tự cắt cổ chết ra sao. Trương Vô Kỵ tuy cố nén lòng không khóc thành tiếng, nhưng nước mắt cũng chảy ròng ròng. Trong đại sảnh mọi người cùng khóc, nên không ai để ý đến cậu.

Chu Trường Linh đột nhiên đập mạnh tay xuống bàn, làm vỡ một bên chiếc bàn bát tiên trước mặt, nói:

– Nhị đệ, hãy nói rõ ràng cho huynh nghe, những kẻ nào đã lên núi Võ Đang bức tử Trương ân công và phu nhân?

Diêu Thanh Tuyền nói:

– Tiểu đệ sau khi nghe tin, đã định về cấp báo với đại ca, nhưng lại nghĩ cần biết rõ tính danh kẻ thù. Tính ra, bọn lên núi Võ Đang bức tử Trương ngũ ân công, từ tam đại thần tăng phái Thiếu Lâm trở xuống, số người không phải là ít, tiểu đệ phải đi các nơi dò hỏi, thành thử mới tốn thời gian như thế.

Rồi kể lại tên tuổi tất cả những người thuộc các phái Không Động, Nga Mi, Côn Luân, các bang hội Hải Sa, Cự Kình, Thần Quyền, Vu Sơn từng lên núi Võ Đang sinh sự với Trương Thúy Sơn, như Không Văn phương trượng, Không Trí đại sư, Hà Thái Xung, Tĩnh Huyền sư thái, Quan Năng.

Chu Trường Linh khẳng khái nói:

– Nhị đệ, những người ấy đều là cao thủ số một số hai trong võ lâm, chúng ta đánh một người trong số đó cũng không nổi. Nhưng Trương ngũ gia đối với chúng ta ơn nặng như núi, huynh đệ ta dù tan xương nát thịt cũng phải trả mối thù này cho Trương ngũ gia.

Diêu Thanh Tuyền gạt lệ, nói:

– Đại ca nói rất phải, tính mạng huynh đệ ta đều do Trương ngũ gia cứu, nên đã sống thêm mười mấy năm nữa, nay có trả lại cho Trương ngũ gia thì cũng phải thôi. Tiểu đệ ân hận nhất là không gặp được công tử của Trương ngũ gia, nếu không đã chuyển đạt ý của đại ca; hay nhất là mời được Trương công tử đến đây để mọi người dốc lòng săn sóc hầu hạ Trương công tử.

Chu phu nhân hỏi han tỉ mỉ về Trương công tử. Diêu Thanh Tuyền kể chỉ biết Trương công tử bị trọng thương, không rõ chữa trị ở đâu, hình như năm nay mới tám, chín tuổi gì đó, hẳn là Trương Tam Phong sẽ truyền cho võ công tuyệt thế, sau này làm chưởng môn phái Võ Đang. Vợ chồng Chu Trường Linh quỳ xuống lạy tạ trời đất, mừng cho họ Trương có người nối dõi.

Diêu Thanh Tuyền nói:

– Nhân sâm ngàn năm, hoa sen núi tuyết Thiên Sơn, giấy Ngọc Sư, dao Ô Kim… các lễ vật mà đại ca bảo tiểu đệ đem biếu Trương ân công, tiểu đệ đều để lại trên núi Võ Đang, nhờ Tống đại hiệp giao lại cho Trương công tử.

Chu Trường Linh nói:

– Làm thế rất hay, làm thế rất hay!

Rồi quay sang nói với Chu Cửu Chân:

– Gia đình ta thụ đại ân thế nào, ngươi hãy kể cho Trương huynh đệ biết.

Chu Cửu Chân cầm tay Trương Vô Kỵ dẫn tới thư phòng của phụ thân, chỉ cho cậu xem bức tranh lớn treo ở trên tường, bên phải bức tranh đề bảy chữ “Trương công Thúy Sơn ân đức đồ”.

Trương Vô Kỵ lần thứ nhất bước vào thư phòng của Chu Trường Linh, lúc này thấy tên họ phụ thân, mắt rưng rưng lệ, nhìn bức tranh vẽ một nơi hoang dã và một võ sĩ trẻ tuổi diện mạo anh tuấn, tay trái cầm ngân câu, tay phải múa thiết bút đang giao đấu với năm tên địch diện mạo hung ác. Trương Vô Kỵ biết võ sĩ chính là cha mình, tuy mặt mũi không thật giống, song cậu tưởng như trông thấy hình ảnh phụ thân. Nằm dưới đất có hai người, một là Diêu Thanh Tuyền, một là Chu Trường Linh; còn có hai người khác đã đầu một nơi, thân một nẻo. Góc trái bên dưới vẽ một thiếu phụ rất trẻ, vẻ mặt hốt hoảng, chính là Chu phu nhân đang bế một đứa con gái chừng một, hai tuổi. Trương Vô Kỵ nhìn kỹ, thấy bé gái kia có một nốt ruồi nhỏ bên miệng, chính là Chu Cửu Chân bây giờ. Giấy vẽ tranh đã ngả màu vàng, ít ra cũng phải trên chục năm.

Chu Cửu Chân chỉ bức tranh giải thích cho Trương Vô Kỵ rõ.

Ngày ấy, Chu Cửu Chân mới sinh chưa lâu, Chu Trường Linh phải đưa gia đình lánh sang phía tây để tránh kẻ thù, dọc đường bị bọn chúng đuổi kịp. Hai sư đệ đã bị địch giết, Chu Trường Linh và Diêu Thanh Tuyền cũng đã bị đánh ngã. Bọn địch sắp hạ độc thủ thì Trương Thúy Sơn đi ngang qua ra tay trượng nghĩa đánh đuổi bọn địch kia, cứu sống cả nhà. Nhẩm tính thời gian, thì đấy là trước khi Trương Thúy Sơn đi Băng Hỏa đảo.

Chu Cửu Chân kể xong, buồn rầu nói:

– Gia đình ta ẩn cư chốn xa xôi, tin Trương ân công từ hải ngoại trở về, mãi năm ngoái mới biết. Cha ta từng thề sẽ không bao giờ trở lại Trung nguyên, nên mới bảo Diêu nhị thúc mang lễ vật đến núi Võ Đang bái kiến, nào ngờ…

Nói đến đây, một tên thư đồng vào mời nàng sang linh đường hành lễ.

Chu Cửu Chân vội trở về phòng mình, thay quần áo sạch sẽ, rồi cùng Trương Vô Kỵ đến hậu đường, thấy trong đó bày hai linh vị, thắp nến trắng, một linh bài đề “Ân công Trương đại hiệp, húy Thúy Sơn chi linh vị”, linh bài thứ hai đề “Trương phu nhân Ân thị chi linh vị”. Vợ chồng Chu Trường Linh và Diêu Thanh Tuyền quỳ lạy dưới đất, khóc lóc thảm thiết. Trương Vô Kỵ cùng Chu Cửu Chân cũng quỳ xuống lạy.

Chu Trường Linh xoa đầu Trương Vô Kỵ, nghẹn ngào nói:

– Tiểu huynh đệ, tốt lắm, tốt lắm! Vị Trương đại hiệp ấy khảng khái lỗi lạc, thật là một nam tử đương thế vô song, cậu tuy không biết Trương đại hiệp, nhưng quỳ lạy như thế cũng phải lắm.

Trong hoàn cảnh này, Trương Vô Kỵ càng không thể tự nhận mình là con trai của “Trương ân công”, cậu nghĩ thầm: “Diêu Thanh Tuyền nghe nhầm thế nào, bảo ta chỉ tám chín tuổi, nếu bây giờ mình đứng ra nhận, mọi người nhất định sẽ không tin”.

Bỗng Diêu Thanh Tuyền nói:

– Đại ca, vị Tạ gia…

Chu Trường Linh đằng hắng một tiếng, nháy mắt ra hiệu, Diêu Thanh Tuyền lập tức hiểu ý, nói trớ đi:

– Việc lễ tạ kia phải làm thế nào? Có cần phát tang Ân công hay không?

Chu Trường Linh nói:

– Việc đó tùy nhị đệ liệu mà làm!

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Rõ ràng lúc đầu nói là vị Tạ gia, sao bỗng dưng lại đổi thành lễ tạ? Tạ gia, Tạ gia? Không lẽ Diêu Thanh Tuyền nhắc đến nghĩa phụ của ta?”

*

*   *

Đêm đó Trương Vô Kỵ nằm nghĩ đến phụ mẫu đã qua đời, nghĩ đến nghĩa phụ đang sống kiếp sống thừa ở hoang đảo miền cực bắc giá lạnh, trằn trọc mãi không ngủ được.

Sáng hôm sau trở dậy, nghe tiếng bước chân nhẹ nhàng, ngửi thấy mùi hương thoang thoảng, thấy Chu Cửu Chân bưng chậu nước rửa mặt vào phòng thì Trương Vô Kỵ kinh ngạc, hỏi:

– Cửu Chân tỷ tỷ, sao… sao tỷ tỷ lại mang cho đệ…

Chu Cửu Chân nói:

– Nô bộc, a hoàn đi hết cả rồi, ta hầu đệ một lần thì đã sao?

Trương Vô Kỵ càng kinh ngạc, hỏi:

– Vì sao… vì sao họ lại đi hết?

Chu Cửu Chân nói:

– Tối qua cha ta cho mỗi người một ít bạc, để họ tìm đường về quê, vì ở đây sẽ gặp nguy hiểm.

Nàng ngừng lời một lát, rồi tiếp:

– Đệ rửa mặt đi, cha ta có chuyện muốn nói với đệ.

Trương Vô Kỵ vội vàng rửa mặt qua loa. Chu Cửu Chân chải đầu cho cậu, rồi hai người cùng sang thư phòng của Chu Trường Linh. Tòa sơn trang này vốn có đến bảy tám chục tì bộc, lúc này đột nhiên vắng lặng, không một bóng người.

Chu Trường Linh thấy hai người tới, nói:

– Trương huynh đệ, ta kính nể tấm lòng nhân hiệp anh hùng khí khái của cậu, vốn dĩ muốn giữ cậu sống dăm mười năm ở đây cùng chúng tôi, nhưng sắp xảy ra biến cố bất ngờ, nên đành phải chia tay với cậu, mong cậu đừng trách.

Nói xong đưa ra một cái khay, trên đặt mười hai đĩnh vàng, mười hai đĩnh bạc, thêm một thanh đoản kiếm phòng thân, nói:

– Đây là chút quà mọn của vợ chồng ta và tiểu nữ, mong Trương huynh đệ tiếp nhận, nếu lão phu phen này giữ được tính mạng thì sau này chúng ta còn có dịp gặp nhau…

Nói đến đó, giọng ông nghẹn ngào không nói tiếp được nữa.

Trương Vô Kỵ liền né sang một bên, hiên ngang đáp:

– Chu bá bá, tiểu điệt tuy tuổi nhỏ vô dụng, song không phải là phường tham sống sợ chết. Quý phủ đã có chuyện nguy nan, tiểu điệt quyết không bỏ đi. Dù không giúp được bá bá và tỷ tỷ, cũng xin cùng bá bá và tỷ tỷ đồng sinh cộng tử.

Chu Trường Linh khuyên nhủ thêm đôi lần, Trương Vô Kỵ vẫn không nghe.

Chu Trường Linh thở dài:

– Ôi, trẻ con không biết sợ là gì, để ta nói thật cho cậu hay vậy. Nhưng trước hết cậu phải thề không tiết lộ chuyện này với bất cứ ai, cũng không được hỏi gì thêm.

Trương Vô Kỵ quỳ xuống, nói rành rọt:

– Thề có trời đất, những gì Chu bá bá nói với tôi, nếu tôi nói lại với người khác, hoặc lắm lời hỏi thêm thì sẽ bị loạn đao phanh thây, thân bại danh liệt.

Chu Trường Linh đỡ cậu dậy, thò đầu ra ngoài cửa sổ quan sát một vòng, rồi lại phi thân lên mái nhà xét kỹ xung quanh, biết chắc tứ phía không có ai thì mới quay vào thư phòng, ghé tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

– Điều ta nói với cậu, cậu chỉ ghi nhớ trong lòng, không được hỏi lại câu nào, đề phòng tai vách mạch rừng.

Trương Vô Kỵ gật đầu. Chu Trường Linh thấp giọng nói:

– Hôm qua, khi Diêu nhị đệ về báo tin Trương ân công đã chết, có dẫn theo một người, tên là Tạ Tốn, ngoại hiệu Kim Mao Sư Vương…

Trương Vô Kỵ giật mình, run cả người. Chu Trường Linh nói tiếp:

– Vị Tạ đại hiệp này đã cùng Trương ân công kết nghĩa huynh đệ, lại kết mối thâm cừu với các môn phái, Trương ân công và phu nhân sở dĩ tự vẫn chính là vì không chịu tiết lộ chỗ ở của nghĩa huynh. Tạ đại hiệp không hiểu sao đã trở về Trung thổ, ra tay rửa hận cho Trương ân công, giết được nhiều kẻ thù, nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ, Tạ đại hiệp cuối cùng bị trọng thương. Diêu nhị đệ là người cơ trí, cứu được Tạ đại hiệp chạy về đây, kẻ địch chẳng mấy chốc sẽ đuổi tới, chúng người đông thế mạnh, huynh đệ ta không tài gì chống chọi nổi. Ta quyết xả thân báo ân, vì Tạ đại hiệp mà chết, còn cậu không có dây mơ rễ má gì với Tạ đại hiệp, hà tất phải bỏ mạng ở đây? Trương huynh đệ, ta đã nói hết lời, cậu hãy mau mau rời khỏi đây là hơn! Bọn địch tràn tới, ngọc đá gì cũng tan nát cả, chậm trễ là không kịp đâu.

Trương Vô Kỵ nghe mà trong lòng bồn chồn, vừa lo vừa mừng, không thể ngờ nghĩa phụ cuối cùng lại đang ở chốn này, bèn hỏi:

– Tạ đại hiệp đang ở…

Chu Trường Linh dùng tay phải bịt miệng cậu lại, ghé tai nói thầm:

– Không được nói chuyện; bọn địch thần thông quảng đại, một câu sơ hở là nguy hiểm ngay cho tính mạng của Tạ đại hiệp. Cậu quên lời vừa thề rồi sao?

Trương Vô Kỵ gật đầu. Chu Trường Linh nói tiếp:

– Ta đã nói rõ với cậu, Trương huynh đệ, cậu tuy ít tuổi, song ta coi cậu như hảo bằng hữu, có bí mật gì đã thổ lộ cả với cậu, cậu hãy đi ngay mới kịp.

Trương Vô Kỵ nói:

– Bá bá đã nói hết với tiểu điệt rồi, tiểu điệt càng nhất quyết không đi.

Chu Trường Linh trầm ngâm hồi lâu, thở dài, quả quyết nói:

– Được, vậy từ nay chúng ta đồng sinh cộng tử, không nói thêm nữa. Việc không thể chậm trễ, phải ra tay ngay.

Đoạn cùng Chu Cửu Chân và Trương Vô Kỵ chạy ra cổng lớn đã thấy Chu phu nhân và Diêu Thanh Tuyền chờ sẵn ở bên ngoài, bên cạnh đặt mấy cái bao hành lý, tựa hồ chuẩn bị đi xa. Trương Vô Kỵ nhìn quanh chẳng thấy nghĩa phụ đâu cả.

Chu Trường Linh bật lửa đốt một bó đuốc, cầm bó đuốc châm vào cổng lớn. Lửa bùng lên cao, bén sang phía tây nhanh như gió, thì ra mấy trăm gian phòng của sơn trang đã được tưới dầu. Cả một dải Thiên Sơn, Côn Luân ở Tây Vực có rất nhiều dầu lửa từ lòng đất phun lên, chảy như suối, chỉ việc múc về đốt lên đun nấu. Bao gian nhà hoa lệ trải dài hàng dặm của Chu gia trang nhanh chóng bị đốt cháy vì đã được tưới sẵn dầu lửa.

Trương Vô Kỵ thấy các cột kèo chạm trổ chìm vào đám lửa cháy ngùn ngụt, lòng không khỏi cảm kích; “Chu bá bá cả một đời gây dựng, biết bao tâm huyết, vậy mà phút chốc đều ra tro, tất cả chỉ vì cha ta và nghĩa phụ. Một người nghĩa khí như thế, thật hiếm có trên thế gian”.

Đêm đó, vợ chồng Chu Trường Linh, Chu Cửu Chân và Trương Vô Kỵ bốn người qua đêm trong một hang núi. Năm đệ tử thân tín của Chu Trường Linh cầm binh khí, do Diêu Thanh Tuyền chỉ huy, đứng canh chừng bên ngoài hang. Chu gia trang cháy đến ngày thứ ba mới tắt, cũng may bọn địch chưa đuổi tới đây.

Tối ngày thứ ba, Chu Trường Linh đưa vợ con, đệ tử, cùng Diêu Thanh Tuyền và Trương Vô Kỵ rời hang núi, đi theo một con đường ngoằn ngoèo tối om om, tới mấy gian thạch thất nằm sâu dưới lòng đất. Trong mấy gian ấy có đủ lương thực và nước uống, chỉ tội rất nóng.

Chu Trường Linh thấy Trương Vô Kỵ không ngớt dùng tay áo lau mồ hôi, cười hỏi:

– Vô Kỵ đệ, cậu thử đoán xem, tại sao ở đây lại nóng như thế? Cậu có biết chúng ta đang ở đâu hay không?

Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi khét, lập tức vỡ lẽ, nói:

– Ồ, thì ra chúng ta đang ở bên dưới trang viện!

Chu Cửu Chân cười, nói:

– Vô Kỵ thông minh lắm!

Trương Vô Kỵ thấy Chu Trường Linh tính toán chu đáo lại càng bội phục, bọn địch tới đây tấn công, thấy Chu gia trang tất cả ra tro, ắt sẽ đi nơi khác truy tìm, đâu ngờ Tạ Tốn ẩn náu bên dưới đống tro tàn. Trương Vô Kỵ thấy đầu kia thạch thất có một tấm cửa sắt đóng chặt, nghĩ bụng chắc nghĩa phụ ẩn thân trong đó, tuy cậu nóng lòng gặp lại nghĩa phụ sau mấy năm xa cách cho thỏa lòng mong nhớ, nhưng trong tình thế nguy hiểm, đến hỏi chuyện Chu Trường Linh còn không được, huống hồ khinh suất vọng động? Nếu làm hỏng đại sự, mình có mất mạng cũng không đáng gì, song để liên lụy đến tính mạng của nghĩa phụ và cả gia đình họ Chu thì tội lớn vô cùng.

Ở dưới thạch thất nửa ngày, khí nóng giảm dần, mọi người trải áo lông, toan nằm ngủ, chợt nghe tiếng vó ngựa của cả một đoàn người từ xa vọng tới, chẳng mấy chốc đã tới ngay trên đỉnh đầu. Chỉ nghe một giọng ồm ồm nói:

– Lão tặc Chu Trường Linh hẳn là hộ tống Tạ Tốn chạy mất rồi, đuổi theo mau, đuổi theo mau!

Mọi người tuy ở sâu trong lòng đất, song vẫn nghe rõ mồn một tiếng động bên trên, thì ra ở dưới này có ống sắt thông hơi với bên trên. Tiếng vó ngựa lại rầm rập phóng đi xa dần.

Đêm ấy truy binh chạy qua trên đầu trước sau cả thảy năm đoàn, có phái Không Động, phái Côn Luân, bang Cự Kình, còn hai đoàn khác không rõ lai lịch. Mỗi đoàn ít cũng bảy tám người, nhiều thì hơn một chục, đao kiếm loảng xoảng, ngựa khỏe hí vang, đám nào cũng buông lời độc ác, khí thế hung hăng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Nghĩa phụ ta giả như hai mắt không mù, lại không bị trọng thương, thì bọn yêu ma tiểu quỷ kia có thấm gì?”

Chờ lúc đoàn người thứ năm đã đi xa, Diêu Thanh Tuyền liền lấy nút gỗ đậy ống thông hơi lại, để tiếng nói của người dưới này không sợ bị những kẻ ở bên trên tình cờ đi qua nghe thấy. Làm thế rồi mà Diêu Thanh Tuyền vẫn hạ giọng, nói nhỏ:

– Để tiểu đệ đi xem thương thế của Tạ đại hiệp ra sao.

Chu Trường Linh gật đầu. Diêu Thanh Tuyền giơ tay xoay động cơ quan bên cạnh tấm cửa sắt, cánh cửa từ từ mở ra. Diêu Thanh Tuyền cầm đĩa đèn dầu bước vào trong.

Lúc này Trương Vô Kỵ hết nhịn nổi, liền đứng dậy, ghé mắt nhìn theo lưng của Diêu Thanh Tuyền, thấy một hán tử thân hình cao lớn nằm quay mặt vào tường. Trương Vô Kỵ nhìn tấm lưng to rộng của nghĩa phụ, nước mắt tức thì rưng rưng. Chỉ nghe Diêu Thanh Tuyền thấp giọng hỏi:

– Tạ đại hiệp, có đỡ chút nào chăng? Có khát nước không?

Đột nhiên kình phong ào ra, đĩa đèn tắt phụt, tiếp đó nghe “bình” một tiếng, Diêu Thanh Tuyền bị Tạ Tốn giáng cho một chưởng, bay ra ngoài cửa sắt ngã huỵch xuống đất. Chỉ nghe Tạ Tốn quát lớn:

– Bọn cẩu tặc phái Thiếu Lâm, phái Côn Luân, phái Không Động, có giỏi thì vào đây, vào đây, vào đây, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ta há sợ bọn bay?

Chu Trường Linh nói:

– Không hay, Tạ đại hiệp lại mê sảng rồi!

Đoạn tới bên cửa sắt, nói chõ vào:

– Tạ đại hiệp, chúng tôi là bằng hữu, chứ không phải kẻ thù của đại hiệp đâu.

Tạ Tốn cười khẩy, nói:

– Bằng hữu cái gì? Bọn bay đừng hòng ngon ngọt lừa dối ta!

Rồi sải bước ra cửa, tung chưởng đánh vào ngực Chu Trường Linh. Chưởng này kình lực rất mạnh, làm cho các ngọn đèn trong thạch thất lung lay muốn tắt. Chu Trường Linh không dám chống đỡ, vội né sang một bên, tay trái của Tạ Tốn liền đánh ngay vào mặt. Chu Trường Linh bất đắc dĩ giơ tay gạt ra, thân hình loạng choạng lùi lại hai bước. Trương Vô Kỵ thấy biến cố bất ngờ, bất giác ngây người ra.

Tạ Tốn kia quyền chưởng vù vù như gió, quá ư lợi hại, Chu Trường Linh không dám chống đỡ, chỉ còn nước thoái lui. Chưởng đó của Tạ Tốn đánh không trúng Chu Trường Linh, quệt vào tường đá khiến đá vụn rơi lả tả, ví thử trúng người thì ai chịu nổi?

Gã Tạ Tốn kia tóc xõa dài phủ vai, cặp mắt sáng như tia chớp, mặt đầy vết máu, miệng hầm hè, chưởng thế mỗi lúc càng mãnh liệt. Chu phu nhân và Chu Cửu Chân sợ hãi nép vào một góc tường. Chu Trường Linh thấy Tạ Tốn đánh tới, vội đẩy chiếc bàn bên cạnh chống đỡ, chiếc bàn trúng hai quyền của Tạ Tốn, lập tức vỡ nát.

Trương Vô Kỵ hoảng hốt, há hốc mồm đứng ngây một bên, thấy gã Tạ Tốn kia hoàn toàn không phải là nghĩa phụ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn của cậu. Nghĩa phụ của cậu đã mù hai mắt, còn kẻ kia hai mắt sáng long lanh. Lại thấy kẻ kia đánh ra một chưởng, Chu Trường Linh lưng đã sát tường, không còn chỗ lùi thêm, song lại không giơ tay đỡ đòn, chỉ kêu lên:

– Tạ đại hiệp, tại hạ không phải là kẻ thù của đại hiệp, tại hạ không đánh trả đâu!

Gã kia không lý gì tới, đánh thẳng một chưởng vào ngực Chu Trường Linh. Chu Trường Linh trông thật đau khổ, kêu:

– Tạ đại hiệp không tin tại hạ ư?

Gã kia quát to:

– Cẩu tặc, cho ngươi thêm một quyền này!

Gã lại giáng một quyền. Chu Trường Linh ộc ra một ngụm máu, giọng run run:

– Tạ đại hiệp là nghĩa huynh của ân công, có đánh chết tại hạ, tại hạ cũng không đánh trả.

Gã kia cười như điên:

– Không trả đòn càng tốt, để ta đánh chết ngươi!

Hai quyền liên tiếp đánh ra, đều trúng vào ngực. Chu Trường Linh kêu ối” một tiếng thảm thiết, thân hình sụm xuống.

Gã kia không chút nương tay, lại vung tay đấm tới. Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, lấy tay gạt ra, chỉ cảm thấy quyền kình rất mạnh, cánh tay tê dại đến nghẹn thở, bèn liều chết kêu lên:

– Ngươi không phải Tạ Tốn, ngươi không phải… Gã đại hán kia tức giận quát:

– Tên tiểu quỷ này thì biết gì?

Rồi tung chân đá Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ né sang bên tránh được, kêu to:

– Ngươi mạo nhận Kim Mao Sư Vương, không có thiện ý, đồ giả mạo, quân giả mạo…

Chu Trường Linh đang nằm gục dưới đất, nghe Trương Vô Kỵ nói thế, cố đứng lên, chỉ mặt gã kia, nói:

– Ngươi… ngươi không phải… ngươi lừa ta…

Đột nhiên hộc ra một ngụm máu to, phun cả vào mặt gã đại hán, thân hình ngã chúi về phía trước, thuận thế điểm luôn vào huyệt Thần Phong dưới vú bên phải của hắn. Chu Trường Linh đã bị trọng thương, vốn không còn là đối thủ của hắn, nhưng ông nhân cơ hội hộc máu mà nhào tới, xuất kỳ bất ý sử dụng thủ pháp Nhất dương chỉ gia truyền điểm trúng đại huyệt tên kia. Chu Trường Linh lại điểm thêm hai huyệt ở sườn hắn, rồi mới ngã lăn ra bất tỉnh. Chu Cửu Chân và Trương Vô Kỵ vội đỡ ông dậy.

Lát sau, Chu Trường Linh dần dần hồi tỉnh, hỏi Trương Vô Kỵ:

– Hắn… hắn…

Trương Vô Kỵ nói:

– Chu bá bá, tiểu điệt không thể giấu nữa, người mà bá bá gọi là ân công, chính là thân phụ của tiểu điệt, còn Kim Mao Sư Vương là nghĩa phụ của tiểu điệt, làm sao tiểu điệt có thể nhầm lẫn?

Chu Trường Linh lắc đầu, gượng cười, tỏ vẻ không tin chút nào.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nghĩa phụ của tiểu điệt hai mắt đã mù, còn người này hai mắt hoàn hảo, đó là sơ hở lớn nhất của hắn. Nghĩa phụ tiểu điệt bị hỏng mắt ở hải ngoại, việc ấy người ngoài không ai biết được. Tên này mạo nhận mà không hề biết việc nghĩa phụ tiểu điệt bị mù.

Chu Trường Linh mừng nói:

– Vô Kỵ đệ, quả thật cậu là con trai của ân công nhà ta ư? Vậy thì hay lắm, hay lắm!

Nói vậy song Chu Trường Linh vẫn chưa tin. Trương Vô Kỵ bèn đem nguyên do cậu đi tới vùng núi này ra sao kể lại vắn tắt. Diêu Thanh Tuyền đứng bên nghe, hỏi cặn kẽ tình hình trên núi Võ Đang, lại căn vặn việc vợ chồng Trương Thúy Sơn ngày trước tự vẫn thế nào, thấy Trương Vô Kỵ trả lời không sai mảy may thì bấy giờ mới tin.

Song Chu Trường Linh vẫn cứ cảm thấy khó nghĩ, nói:

– Giả dụ cậu này nói sai, chúng ta đắc tội với Tạ đại hiệp, vậy biết làm sao?

Diêu Thanh Tuyền liền rút chủy thủ, chỉ vào mắt bên phải gã đại hán, nói:

– Bằng hữu, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai mắt đã mù rồi, nếu ngươi muốn bắt chước ông ta, thì hãy bắt chước cho đến nơi đến chốn. Hôm nay ta hủy cặp mắt của ngươi trước. Diêu mỗ bị ngươi lừa gạt, nếu không nhờ vị tiểu huynh đệ này nhận ra, có phải là Chu đại ca của ta mất mạng mà không hiểu đầu đuôi ra sao ư?

Nói đoạn đâm nhứ một cái, mũi dao chạm vào mí mắt, hỏi:

– Rốt cuộc ngươi là ai? Tại sao dám mạo xưng Kim Mao Sư Vương?

Gã đại hán tức giận nói:

– Nếu muốn thì cứ đâm chết ta đi. Khai Bi Thủ Hồ Báo là hạng người nào mà chịu để ngươi bức cung?

Chu Trường Linh kêu “a” một tiếng, nói:

– Khai Bi Thủ Hồ Báo! Hóa ra ngươi thuộc phái Không Động.

Hồ Báo lớn tiếng nói:

– Các môn phái trong thiên hạ đều biết Chu Trường Linh muốn báo thù cho Trương Thúy Sơn. Người đời có câu: “Ra tay trước thì mạnh, ra tay sau gặp họa” mà lại.

Diêu Thanh Tuyền quát:

– Tâm địa ngươi thật tàn ác!

Nói xong liền chuyển mũi dao xuống để đâm vào ngực tên kia. Chu Trường Linh giơ tay trái chộp lấy cổ tay Diêu Thanh Tuyền, nói:

– Khoan đã, nhị đệ, nếu y quả thật là Tạ đại hiệp, thì huynh đệ ta chết vạn lần cũng không chuộc lại được.

Diêu Thanh Tuyền nói:

– Trương huynh đệ đã nói quá rõ. Đại ca sao còn nghĩ ngợi gần xa, không quyết đoán được, chỉ e đại họa trước mắt khó bề tránh khỏi.

Chu Trường Linh lắc đầu, nói:

– Chúng ta thà chịu ngàn nhát dao, quyết không để tổn thương một sợi tóc của nghĩa huynh ân công. Trương Vô Kỵ nói:

– Chu bá bá, người này nhất quyết không phải là nghĩa phụ của tiểu điệt. Nghĩa phụ của tiểu điệt có ngoại hiệu Kim Mao Sư Vương vì có mái tóc vàng, còn người này tóc đen.

Chu Trường Linh trầm ngâm một hồi, gật đầu, cầm tay Trương Vô Kỵ, nói:

– Trương huynh đệ, cậu đi theo ta.

Hai người ra khỏi thạch thất, rồi ra khỏi thạch động, tới tận một mỏm đá cheo leo ở sườn núi phía sau, mới ngồi xuống. Chu Trường Linh nói:

– Tiểu huynh đệ, nếu người ấy không phải là Tạ đại hiệp, thì chúng ta đành phải giết hắn, song trước khi hạ sát, ta muốn trong lòng không còn chút hồ nghi nào cả, cậu nghĩ có phải không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Bá bá sợ nhầm, kể cũng phải thôi; nhưng kẻ đó tuyệt nhiên không phải là nghĩa phụ của tiểu điệt, bá bá cứ an tâm.

Chu Trường Linh thở dài, nói:

– Hồi còn trẻ, ta từng sơ sảy nhiều lần. Hôm nay ta sở dĩ không trả đòn, đến nỗi thân bị trọng thương cũng là vì sợ mình lại bị lầm lẫn. Lầm lẫn rồi không thể chuộc lại, việc này vô cùng hệ trọng, ta dẫu chết cũng không sao, nhưng bất cứ giá nào cũng phải bảo hộ cậu và Tạ đại hiệp bình an. Ta muốn hỏi rõ chỗ ở của Tạ đại hiệp cho thật yên tâm, nhưng ta không tiện ngỏ lời.

Trương Vô Kỵ cảm động, nói:

– Chu bá bá, vì phụ thân và nghĩa phụ tiểu điệt mà bá bá thiêu hủy cả gia sản đáng giá trăm vạn, chính mình bị trọng thương, chẳng lẽ tiểu điệt còn chưa tin bá bá hay sao? Tình hình của nghĩa phụ tiểu điệt, dù bá bá không hỏi, tiểu điệt cũng sẽ kể cho bá bá biết.

Nói rồi cậu đem chuyện cha mẹ và Tạ Tốn vì sao trôi nổi đến tận Băng Hỏa đảo, ở đó mười năm, rồi ba người làm bè trở về Trung thổ thế nào, kể lại đầu đuôi. Quá nửa câu chuyện cậu biết là nghe kể lại từ cha mẹ, nhưng cậu nói lại vẫn rõ ràng đâu ra đấy.

Chu Trường Linh hỏi đi hỏi lại Trương Vô Kỵ ở Băng Hỏa đảo học võ ra sao, bằng cách nào đưa được Dương Bất Hối tới Tây Vực, ở thung lũng Tam Thánh gặp nạn thế nào, vặn vẹo đủ điều, nghe Trương Vô Kỵ trả lời đâu ra đấy, không có gì sơ hở, mới thực bụng tin, thở phào một cái, ngẩng mặt lên trời, nói:

– Ân công hỡi ân công, người ở trên trời linh thiêng, chứng giám lòng tôi: Chu Trường Linh nguyện đem hết tâm sức nuôi dưỡng Vô Kỵ huynh đệ trưởng thành. Có điều cường địch vây quanh, võ nghệ của tôi lại non kém, không biết có làm tròn trọng trách ấy hay không, kính mong ân công phù hộ độ trì.

Nói đoạn quỳ xuống, hướng lên trời khấu đầu. Trương Vô Kỵ vừa thương tâm, vừa cảm kích, cũng quỳ xuống.

Chu Trường Linh đứng lên, nói:

– Bây giờ trong lòng ta không còn chút nghi ngờ gì nữa. Ôi, Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, phái nào cũng người đông thế mạnh, võ công cao cường! Tiểu huynh đệ, thoạt đầu ta cũng quyết ý đem thí cái mạng già này, giết được cừu nhân đứa nào hay đứa ấy, để báo đáp đại ân của lệnh tôn. Nhưng từ nay việc nuôi dưỡng con côi là trọng, báo thù lui xuống hàng thứ hai. Hiềm nỗi trời đất bao la, biết đi đâu tránh nổi đại nạn bây giờ? Ngay một nơi xa xôi hẻo lánh thế này, chúng còn tìm ra được, làm gì còn nơi nào hoang vắng hơn kia chứ?

Chu Trường Linh ngừng giây lát, nói tiếp:

– Tạ đại hiệp một thân một mình ở Băng Hỏa đảo, mấy năm rồi chắc phải sống thê thảm lắm. Ôi, vị đại hiệp ấy nghĩa nặng tình thâm đối với ân công ân tẩu biết chừng nào, ước gì ta được gặp một lần, có chết cũng cam lòng.

Trương Vô Kỵ nghe Chu Trường Linh nói đến nỗi khổ sở cô đơn của nghĩa phụ ở Băng Hỏa đảo, như chợt nghĩ ra, liền nói:

– Chu bá bá, hay là chúng ta cùng đi Băng Hỏa đảo? Hồi tiểu điệt ở đó sung sướng biết bao nhiêu, từ ngày về Trung thổ chỉ toàn thấy cảnh đổ máu giết người, thật là đáng sợ.

Chu Trường Linh nói:

– Tiểu huynh đệ, cậu có thật muốn trở lại sống trên Băng Hỏa đảo hay không?

Trương Vô Kỵ phân vân chưa trả lời, nghĩ thầm bản thân mình còn sống chả được bao nhiêu, huống chi hải trình đi Băng Hỏa đảo quá gian nan, vị tất đến nơi, không nên làm cho cả gia đình Chu Trường Linh phiêu lưu mạo hiểm; biển cả vô tình, sơ sảy một chút là cả bọn sẽ vùi thây trong sóng to gió cả.

Chu Trường Linh nắm hai tay cậu, nhìn vào mặt, nói:

– Tiểu huynh đệ, cậu với ta không còn là người ngoài, có gì cứ nói thật cho nhau biết, cậu có muốn trở lại Băng Hỏa đảo hay không?

Giọng nói của ông ta hết sức chân thành. Trương Vô Kỵ lúc này trong lòng đã quá chán ghét lòng dạ hiểm ác của giới giang hồ, chỉ mong trước khi chết được gặp lại nghĩa phụ, nếu được chết trong vòng tay nghĩa phụ, cũng coi như mãn nguyện một đời. Nghe Chu Trường Linh hỏi thế, Vô Kỵ không muốn giấu tâm sự, nên thong thả gật đầu.

Chu Trường Linh không hỏi thêm, dắt tay Trương Vô Kỵ trở lại thạch thất, nói với Diêu Thanh Tuyền:

– Tên đó quả là gian tặc, không còn nghi ngờ gì nữa.

Diêu Thanh Tuyền gật đầu, tay cầm chủy thủ bước vào mật thất, chỉ nghe Khai Bi Thủ Hồ Báo rú lên một tiếng thảm thiết, chắc đã bị hạ sát. Diêu Thanh Tuyền từ trong mật thất bước ra, đóng cửa sắt lại, chỉ thấy trên con dao găm của y còn vết máu tươi, y tiện tay chùi luôn vào gót hài.

Chu Trường Linh nói:

– Tên tặc tử đó đến nằm phục ở đây, tung tích chúng ta xem ra bị lộ rồi, căn hầm này không thể ở thêm.

Nói xong đưa tất cả mọi người rời thạch động, đi hơn hai chục dặm, vượt hai ngọn núi, đến một sơn cốc, vào một nơi có bốn năm căn nhà nhỏ dưới bóng một cây đại thụ.

Bấy giờ trời mờ mờ sáng, sau khi mọi người vào nhà, Trương Vô Kỵ thấy trong nhà có nhiều loại nông cụ, như cày, bừa, liềm, cuốc, nồi niêu lương thực có đủ cả. Xem ra Chu Trường Linh đề phòng cường địch, xung quanh sơn trang đã bố trí nhiều nơi trú ẩn. Chu Trường Linh bị thương không dậy được, Chu phu nhân đem giày cỏ, áo vải thô, khăn vuông cho mọi người thay. Trong chốc lát, phu nhân tiểu thư của đại phú gia biến thành nông phụ thôn nữ, tuy giọng nói, cử chỉ không giống nhà nghèo, nhưng nếu không tới gần nhìn kỹ thì không phát giác được.

Ở nơi này được ít ngày, Chu Trường Linh nhờ có bài thuốc gia truyền trị thương của vùng Vân Nam, uống vào rất mau lành, địch nhân cũng chưa thấy tới.

Trương Vô Kỵ trong lúc nhàn rỗi, để ý quan sát, thấy Diêu Thanh Tuyền ngày nào cũng đi nghe ngóng tin tức, Chu phu nhân thì đôn đốc việc thu thập hành lý vào các bao, rõ ràng đang tính kế đi xa. Cậu biết Chu Trường Linh vì muốn báo ân tránh địch mà quyết ý đưa cả gia đình ra khơi tìm Băng Hỏa đảo nên trong lòng hết sức vui mừng.

*

*   *

Đêm nay Trương Vô Kỵ đang ngủ trên giường, nghĩ nếu trời còn cho mình sống để về tới Băng Hỏa đảo, suốt đời sẽ được sống chung với Cửu Chân tỷ tỷ đẹp như tiên, bất giác nóng tai đỏ mặt, trống ngực đập mạnh; lại nghĩ Chu bá bá, Diêu nhị thúc và nghĩa phụ sau khi gặp nhau, ba người kết bạn thân thiết, sống vô lo vô nghĩ trên đảo, ngày tháng tiêu dao tự đại, không sợ bọn Thát tử Mông Cổ tàn sát hà hiếp, cũng chẳng lo cường địch võ lâm đánh trước đâm sau, được sống như thế thì còn mong gì hơn. Cậu càng nghĩ càng vui, quên cả chất hàn độc trong cơ thể mình, quên rằng mình còn ở trên đời chả được bao lâu, thao thức đến nửa đêm vẫn chưa ngủ.

Giữa lúc sắp thiếp đi, bỗng có tiếng cửa kẹt nhẹ, một bóng người lẻn vào phòng. Trương Vô Kỵ hơi lạ, chợt ngửi thấy mùi hương thoang thoảng, chính là mùi phấn thơm Chu Cửu Chân thường dùng. Cậu đột nhiên đỏ mặt, thẹn không để đâu cho hết.

Chu Cửu Chân rón rén tới bên giường, thấp giọng gọi nhỏ:

– Vô Kỵ, cậu đã ngủ chưa?

Trương Vô Kỵ không dám trả lời, hai mắt nhắm nghiền, giả vờ ngủ say. Lát sau, bỗng cảm thấy mấy ngón tay mềm và ấm sờ vào mi mắt cậu.

Trương Vô Kỵ vừa sợ vừa mừng, vừa thẹn, chỉ mong nàng ta mau ra khỏi phòng. Cậu vô cùng kính trọng Chu Cửu Chân, những mong ngày ngày được nhìn thấy nàng ta vài lần cũng đủ thỏa lòng, chứ không có ý nghĩ gì khác, cũng chưa từng nghĩ sau này sẽ lấy nàng ta làm vợ. Bây giờ bỗng dưng đêm hôm khuya khoắt Chu Cửu Chân lẻn vào phòng mình, bảo làm sao cậu không bối rối? Cậu chợt nghĩ thầm: “Không lẽ Cửu Chân tỷ tỷ có việc cấp bách, đang đêm cũng phải tới nói cho mình hay?” Bỗng Vô Kỵ cảm thấy huyệt Đản Trung trên ngực mình tê đi, tiếp đó các huyệt Kiên Trinh, Thần Tàng, Khúc Trì, Hoàn Khiêu đều bị điểm.

Việc này hoàn toàn bất ngờ đối với Trương Vô Kỵ. Tại sao nửa đêm Chu Cửu Chân lại tới điểm huyệt cậu? Cậu nghĩ thầm: “Hay là Cửu Chân tỷ tỷ muốn thử xem trong lúc ngủ mình có đề phòng hay không? Sáng mai nàng sẽ tới giải huyệt và châm chọc mình một phen. Biết thế, lúc nàng lẻn vào phòng, mình nhỏm dậy dọa cho một trận, nàng sợ hết vía, sáng mai hết khoe khoang”.

Chỉ thấy Chu Cửu Chân nhè nhẹ mở cửa sổ, phi thân đi ra. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mình phải mau giải huyệt, bám theo sau làm ma nhát nàng, hẳn là vui lắm”. Liền sử dụng phép giải huyệt Tạ Tốn đã dạy. Song công phu Nhất dương chỉ gia truyền của Chu Cửu Chân rất lợi hại, cậu tốn hơn nửa canh giờ mới giải hết các huyệt bị điểm. Đấy là do tài nghệ của Chu Cửu Chân chưa cao, lại không muốn để cậu biết nên dùng lực rất nhẹ, nếu không dẫu phép giải huyệt kỳ diệu đến mấy, chắc cũng bó tay. Khi cậu dậy được, hối hả mặc quần áo ngoài, nhảy ra cửa thì bốn bề im ắng, không thấy hình bóng Chu Cửu Chân đâu nữa.

Trương Vô Kỵ đứng trong bóng đêm, cảm thấy thất vọng, chợt nghĩ: “Cửu Chân tỷ tỷ sáng mai có chê ta vô dụng thì cứ để cho nàng cười, hà tất phải hơn thua với nàng? Bình thời ta vẫn muốn làm cho nàng vui lòng, cũng không dễ gì; đêm nay nếu ta đuổi kịp, không khéo nàng lại giận ta là đằng khác”. Nghĩ tới đây, cậu liền cảm thấy yên tâm. Dạo này đang là đầu xuân, trong sơn cốc hoa dại thơm ngát, cậu chưa ngủ được, bèn thả bộ dọc theo dòng suối nhỏ. Tuyết đóng trên triền núi mới tan, theo dòng chảy xuống, các cục băng nhỏ đụng vào nhau, nghe thành tiếng lanh canh.

Cậu đi một hồi, bỗng nghe từ cánh rừng bên trái vọng ra tiếng cười khúc khích trong trẻo, chính là giọng của Chu Cửu Chân. Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Cửu Chân tỷ tỷ nhìn thấy mình rồi sao?” Bỗng nghe tiếng nàng nói nhỏ:

– Biểu ca, đừng nghịch ngợm nào, tưởng muội không dám đánh biểu ca đấy hả?

Tiếp đến mấy tiếng cười thích thú của nam giới, khỏi nói cũng biết là của Vệ Bích.

Trương Vô Kỵ sững sờ, cơ hồ muốn bật khóc, giấc mơ nửa đêm qua tan thành mây khói, lập tức vỡ lẽ: “Chu Cửu Chân điểm huyệt ta, đâu phải để đùa vui với ta? Nàng nửa đêm hò hẹn với biểu ca, sợ ta biết đó thôi”. Cậu cảm thấy tay tê đi, chân mềm nhũn, lại nghĩ thầm: “Ta chỉ là một đứa trẻ bơ vơ nghèo khổ, văn tài võ công, tướng mạo địa vị đều thua xa Vệ công tử. Chu Cửu Chân với Vệ công tử vốn còn tình thân biểu huynh biểu muội, thật là một đôi trai tài gái sắc, xứng đôi vừa lứa”.

Sau khi tự nhủ như thế, cậu thở dài nhè nhẹ, bỗng nghe tiếng chân người, ai đó từ phía sau đi tới. Chu Cửu Chân và Vệ Bích cùng nắm tay nhau sánh vai từ trong rừng bước ra. Trương Vô Kỵ không muốn chạm trán với họ, bèn nấp vào sau một thân cây lớn. Khi tiếng chân tới gần, đột nhiên Chu Cửu Chân gọi:

– Cha… cha…

Giọng nàng run run, dường như có vẻ sợ hãi, thì ra người đang tới chính là Chu Trường Linh.

Chu Trường Linh thấy con gái mình hẹn hò ban đêm với Vệ Bích, hình như giận lắm, hừ một tiếng, nói:

– Các ngươi ở ngoài này làm gì?

Chu Cửu Chân cố làm ra vẻ tự nhiên, cười đáp:

– Cha, biểu ca và con đã lâu không gặp nhau, hôm nay có dịp ghé đến, chúng con trò chuyện một lúc thôi mà.

Chu Trường Linh nói:

– Ngươi thật to gan, lỡ để cho Vô Kỵ hắn biết… Chu Cửu Chân ngắt lời cha:

– Con đã điểm nhẹ năm đại huyệt của hắn, lúc này chắc hắn đang ngủ say, để lát nữa con sẽ giải huyệt cho hắn, hắn chẳng thể biết được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Chu bá bá cũng nhận biết ta thích Cửu Chân, vì cha ta có ơn cứu ông ấy nên ông ấy không muốn ta đau lòng thất vọng. Kỳ thực, ta tuy thích Cửu Chân, nhưng trong bụng chưa có ý gì. Chu bá bá đối với ta quả là chu đáo!” Lại nghe Chu Trường Linh nói:

– Dù sao cũng phải cẩn thận, tốn bao công sức sắp đặt, không được để hắn phát hiện chút sơ hở nào.

Chu Cửu Chân cười đáp:

– Con hiểu điều đó mà.

Vệ Bích nói:

– Cữu phụ, điệt nhi phải về thôi, có lẽ sư phụ đang chờ điệt nhi.

Chu Cửu Chân lưu luyến nói:

– Để muội tiễn biểu ca.

Chu Trường Linh nói:

– Được, ta cũng muốn đi bàn với sư phụ ngươi một lần nữa. Chuyến đi Băng Hỏa đảo lần này của tất cả chúng ta, mọi người phải lo liệu mọi việc thật chu đáo, không được sơ sảy chút gì.

Nói đoạn cả ba người cùng đi về phía tây.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, biết sư phụ của Vệ Bích là Võ Liệt, cha của Võ Thanh Anh, nghe khẩu khí của Chu Trường Linh, hình như hai cha con nhà họ Võ và Vệ Bích cũng cùng đi Băng Hỏa đảo, sao không thấy Chu Trường Linh nhắc đến? Việc này để càng nhiều người biết, càng khó giữ bí mật, càng nguy hiểm cho nghĩa phụ. Trương Vô Kỵ nghĩ một hồi, chợt nhớ lại câu nói của Chu Trường Linh “tốn bao công sức sắp đặt, không được để hắn phát hiện chút sơ hở nào”. Sơ hở… sơ hở… sơ hở cái gì?

Nhắc đến mấy chữ “hắn phát hiện chút sơ hở”, tự dưng mối nghi ngờ mơ hồ lâu nay trong đầu Vô Kỵ ngay lúc này liền hiển hiện trước mắt: trong bức tranh “Trương công Thúy Sơn ân đức đồ”, sao tướng mạo của người khác vẽ rất giống, riêng khuôn mặt chữ điền của phụ thân cậu lại vẽ thành mặt trái xoan? Mắt mũi của phụ thân quả có giống, hai cha con cậu giống nhau về mắt mũi thật, nhưng khuôn mặt của phụ thân hình chữ điền, khác hẳn khuôn mặt Trương Vô Kỵ hình trái xoan giống mẫu thân.

Cứ lời Chu Trường Linh, bức tranh ấy chính tay ông ta vẽ đã hơn mười năm, cứ coi như tài hội họa không giỏi, nhưng cũng không thể nào lại vẽ khuôn mặt đại ân nhân của mình khác hẳn đi như thế. Trương Thúy Sơn trên bức tranh chẳng khác nào Trương Vô Kỵ khi lớn. Ồ, còn điểm này nữa, cây thiết bút cha cậu sử dụng là loại bút thẳng đầu nhọn, giống như cây bút lông. Khi mới về tới đất liền, cha cậu có mua ở cửa hàng binh khí một cây phán quan bút, bảo là chiều dài và trọng lượng tuy tạm dùng được, nhưng cây bút lại có thêm một bàn tay bằng sắt, trông không vừa mắt. Mẹ cậu bảo sau khi có chỗ ở xong xuôi, sẽ thuê rèn một cây bút khác. Cây bút trong tranh cha cậu sử dụng là một cây phán quan bút tầm thường. Chu bá bá là một đại hành gia chuyên sử dụng phán quan bút, vẽ cái gì sai còn được, làm sao lại có thể vẽ sai cây bút mà cha cậu đã dùng?

Nghĩ đến chi tiết đó, Trương Vô Kỵ rất hoang mang, trong bụng dường như đã có lời giải đáp, có điều cái đáp án ấy thật đáng sợ, không dám nghĩ thêm nữa cho sáng tỏ hẳn, chỉ tự an ủi: “Dẫu gì mình cũng không nên nghĩ lung tung, Chu bá bá đãi mình như thế, sao mình lại nghi ngờ ông ta kia chứ? Thôi mình về nhà ngủ, kẻo họ biết mình đêm hôm khuya khoắt đi ra ngoài, họ lại lo lắng cho tính mạng của mình cũng nên”.

Nghĩ thế, đột nhiên cậu rùng mình lo sợ, đứng ngây ra một hồi, bất giác đi theo hướng ba người kia vừa đi, thấy trong rừng có ánh đèn le lói, hóa ra nơi đó có một căn nhà. Trương Vô Kỵ trống ngực đập thình thình, rón rén đi về phía ánh đèn. Đến phía sau căn nhà, cậu định thần, ghé nhìn qua khe cửa vào bên trong thì thấy cha con Chu Trường Linh và Vệ Bích ngồi đối diện với cửa sổ đang nói chuyện với ai đó. Có hai người ngồi quay lưng về phía Trương Vô Kỵ nên không nhìn thấy mặt, nhưng một cô gái trong đó chính là Võ Thanh Anh, còn người nam kia thân hình cao lớn đang lắng nghe Chu Trường Linh sắp đặt cách giả làm khách thương, đến vùng Sơn Đông để ra biển khơi, người ấy chỉ nghe và gật gù.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mình thật là lo hão lo huyền. Vị kia chắc là Võ Liệt Võ trang chủ, Chu bá bá giao hảo với ông ta, rủ ông ta cùng đi Băng Hỏa đảo cũng là chuyện thường tình, mình hà tất phải lo lắng lạ lùng?”

Chỉ nghe Võ Thanh Anh nói:

– Cha, lỡ biển cả mênh mông, mình tìm không thấy hòn đảo nhỏ bé đó, quay trở về cũng không xong, vậy biết làm thế nào?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Vị này đúng là Võ trang chủ rồi”. Võ Liệt đáp:

– Nếu ngươi sợ thì đừng đi! Việc trong thiên hạ, nếu không trải qua gian nan khốn khổ, làm sao đến được bờ vinh quang?

Võ Thanh Anh có vẻ hờn dỗi:

– Con chỉ hỏi thế mà cha đã mắng con rồi!

Võ Liệt cười, nói:

– Việc này giống như gieo xúc xắc, nếu vận số may mắn, chúng ta tới được Băng Hỏa đảo, lão Tạ Tốn kia dù võ công cao cường đến mấy, nhưng trơ trọi một mình, huống hồ hai mắt lại mù, làm sao địch nổi chúng ta…

Trương Vô Kỵ nghe tới đây, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, bất giác toàn thân run rẩy, chỉ nghe Võ Liệt nói tiếp:

– … Thanh đao Đồ Long sẽ về tay chúng ta. Bấy giờ “hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”. Ta và Chu bá bá của ngươi sẽ sánh vai trở thành võ lâm chí tôn. Còn nếu như người tính mà trời chẳng cho, tất cả chết trên biển cả, thì hừ, trên đời này ai mà chẳng chết?

Vệ Bích nói:

– Nghe bảo Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn võ công trác tuyệt, trên Vương Bàn sơn đảo chỉ hú một tiếng đã làm cho mấy chục hảo thủ giang hồ đều mất trí cả. Theo ý đệ tử, khi tới Băng Hỏa đảo rồi, chúng ta không nên công khai giao chiến với lão ta, mà hãy lén bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống, đừng nói hai mắt đã mù, cho dù còn tỏ tường thì lão ta cũng chẳng thể ngờ đứa nghĩa tử yêu quý của lão ta lại dẫn người tới hại mình.

Chu Trường Linh gật đầu:

– Kế của Vệ Bích rất hay. Có điều hai họ Chu, Võ chúng ta các đời trước đều là hiệp sĩ danh môn chính phái, xưa nay không dùng thuốc độc bao giờ, ngay cả ám khí cũng không tẩm thuốc, thành thử ta không biết phải dùng loại nào để hạ độc lão ta…

Vệ Bích nói:

– Diêu nhị thúc nhiều lần đi Trung nguyên, chắc là biết, nhờ nhị thúc mua sẵn mang đi là được.

Võ Liệt quay sang vỗ vỗ vai Chu Cửu Chân, cười, nói:

– Cửu Chân…

Lúc này y quay sang, Trương Vô Kỵ nhìn thấy mặt, không khỏi cả kinh. Thì ra người này chính là kẻ đóng giả nghĩa phụ của cậu, Khai Bi Thủ Hồ Báo. Tất cả các trò đánh Chu Trường Linh trọng thương, hộc ra máu, sau đó bị Diêu Thanh Tuyền dùng dao đâm chết, tất cả đều là giả. Bây giờ Trương Vô Kỵ mới biết cả bọn kia muốn diễn vở kịch cho giống như thật, đánh một chưởng làm đá trên tường rơi lả tả, đấm một quyền vỡ nát mặt bàn, phải nhờ Võ Liệt ra tay. Chỉ nghe Võ Liệt nói với Chu Cửu Chân:

– Để tấn trò này kết thúc êm đẹp, Cửu Chân hãy giả bộ thân thiết với tên tiểu quỷ ấy, cho đến khi giết xong Tạ Tốn, tuyệt nhiên không được để lộ chút sơ hở nào hết.

Chu Cửu Chân nói:

– Cha, cha phải bằng lòng cho con một chuyện.

Chu Trường Linh hỏi:

– Chuyện gì?

Chu Cửu Chân đáp:

– Cha bảo con hầu hạ tên tiểu quỷ ấy, những ngày qua thật quá ư vất vả khổ sở. Từ giờ đến lúc tới Băng Hỏa đảo, giết được Tạ Tốn, còn một thời gian khá dài, không biết phải chịu bao nhiêu cay đắng nữa đây. Khi cha lấy được thanh đao Đồ Long, hãy cho con dùng đao chém cho nó một nhát chết tươi!

Trương Vô Kỵ nghe câu nói tàn ác ấy của Chu Cửu Chân thì mắt tối sầm lại, như muốn ngất đi, loáng thoáng nghe Chu Trường Linh đáp:

– Phen này chúng ta dùng xảo kế lừa gạt nó, dụ nó nói ra chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, kể ra cũng có điều không phải. Thằng bé ấy cũng chẳng phải đứa xấu, sau khi giết Tạ Tốn, lấy được thanh đao Đồ Long rồi, chỉ cần chọc mù hai mắt nó, bỏ lại Băng Hỏa đảo là được.

Võ Liệt tán thưởng:

– Chu đại ca quả thật tâm địa nhân thiện, không để mất gia phong hiệp nghĩa.

Chu Trường Linh thở dài:

– Nước cờ này của huynh đệ ta quả thật vạn bất đắc dĩ. Võ nhị đệ, sau khi ra khơi, thuyền của đệ phải theo sau thuyền của huynh xa xa một chút, đi gần quá tên tiểu tử ấy sinh nghi, mà đi cách xa quá sợ mất liên lạc. Các tài công trên thuyền phải hết sức chú ý điều đó mới được.

Võ Liệt nói:

– Vâng, Chu đại ca tính toán mọi việc thật chu đáo.

Trương Vô Kỵ trong bụng rối như tơ vò, tự nhủ: “Mình không hề thổ lộ thân phận, làm sao bọn họ nhận biết được kia chứ? Ừ, hay là hôm mình ra sức chống trả Vệ Bích và hai nàng Chu, Võ vây đánh, mình đã sử dụng tâm pháp của võ công phái Võ Đang; Chu bá bá kiến văn rộng lớn nên đã nhận biết lai lịch của mình? Ông ta biết cha mẹ mình thà chết không tiết lộ nơi ở của Tạ Tốn, nếu dùng vũ lực, quyết không thể ép mình nói ra chân tướng; bởi thế đã làm giả bức tranh, thiêu đốt sơn trang, lại dùng khổ nhục kế khiến mình cảm động. Ông ta không cần hỏi mình câu nào, chính mình lại ngỏ lời cầu xin ông ta đưa đi Băng Hỏa đảo. Chu Trường Linh ơi Chu Trường Linh, gian kế của ngươi quả là nham hiểm hết chỗ nói!”

*

*   *

Lúc này Chu Trường Linh và Võ Liệt bàn sang cách thức chuẩn bị đi Sơn Đông để ra khơi. Trương Vô Kỵ không dám nghe thêm, bèn nín thở, rón rén từng bước, mỗi bước lại lắng nghe, thấy trong nhà không có động tĩnh gì, mới bước đi tiếp. Cậu biết Chu Trường Linh và Võ Liệt võ công cao siêu, chỉ cần cậu sơ sảy một chút, giẫm trúng một cành cây khô là lập tức bị họ phát giác ngay. Sau khi dò dẫm hơn ba chục bước, cách căn nhà hơn một chục trượng, cậu mới rảo bước.

Trương Vô Kỵ cắm đầu rảo bước, không cần chọn đường, cứ nhắm hướng rừng sâu trên dốc núi mà đi, càng đi càng lên cao, bước chân nhanh dần, cuối cùng phóng chạy như bay, hơn một canh giờ vẫn chưa dám dừng nghỉ. Trốn đi từ lúc nửa đêm, đến tờ mờ sáng thì thấy mình đang ở trong một cánh rừng trên đỉnh núi tuyết. Cậu ngoảnh lại xem Chu Trường Linh có đuổi theo hay không, vừa quay lại thì bất giác than thầm, vì mình để lại dấu chân dài dằng dặc trên mặt tuyết. Tây Vực trời lạnh giá, tuy đã sang xuân nhưng tuyết vẫn đọng trên đỉnh núi chưa tan. Cậu bỏ chạy thục mạng, ra sức đi lên đỉnh núi, nào ngờ để lộ hết đường đi nước bước của mình thế kia.

Lúc đó từ phía trước văng vẳng tiếng sói tru, nghe thật ghê rợn. Trương Vô Kỵ leo lên một mỏm đá nhìn xuống, thấy sườn núi đối diện có bảy tám con sói lớn màu xám đang ngẩng đầu hướng về phía cậu mà nhe răng múa vuốt, hiển nhiên muốn xông tới cắn xé, có điều giữa đôi bên là một vực sâu vạn trượng không nhìn thấy đáy, chúng chẳng thể vượt qua. Trương Vô Kỵ ngoảnh lại sau lưng, tim giật thót một cái: trên sườn núi có năm bóng đen đang thong thả di chuyển về phía cậu, chính là người của Chu, Võ hai nhà. Lúc này còn cách xa, tưởng đâu năm người kia đi chậm, kỳ thực họ đi nhanh như gió, xem chừng không đầy một canh giờ nữa là sẽ đuổi tới đây.

Trương Vô Kỵ cố trấn tĩnh, suy tính: “Ta thà để cho lũ sói đói xé xác ăn thịt, chứ không để mình rơi vào tay bọn kia cho chúng hành hạ”. Cậu nghĩ, mình một lòng si mê kính trọng Chu Cửu Chân, nào ngờ nàng thiếu nữ xinh đẹp như tiên mà tâm địa lại như rắn rết. Cậu vừa hổ thẹn, vừa đau lòng, vội chạy thẳng vào rừng sâu.

Trong rừng sâu cỏ mọc cao ngang lưng, tuy cũng có tuyết đóng, nhưng dấu chân không dễ thấy được. Cậu chạy một hồi, cả tâm trí lẫn thể xác cùng mệt mỏi, chất hàn độc trong người đột nhiên lại phát tác, hai chân mỏi nhừ không thể đi thêm nữa, cậu bèn chui vào một bụi cỏ dày, nhặt được một cục đá nhọn thủ sẵn trong tay, định bụng nếu mình bị bọn Chu Trường Linh kia tìm thấy thì sẽ lấy cục đá đập vào huyệt Thái Dương tự sát.

Trương Vô Kỵ nhớ lại mọi việc trong hơn hai tháng qua, từ ngày trú nhờ ở Chu gia trang, càng nghĩ càng chua chát: “Bọn người phái Không Động, phái Hoa Sơn, phái Côn Luân toàn lấy oán báo ân, ta cũng chẳng để bụng, riêng với Chu Cửu Chân ta thành tâm như thế, vậy mà… Ôi, mẫu thân ta lúc lâm chung đã dặn dò ta điều gì nhỉ? Sao ta lại quên biến lời dặn dò đó?”

Câu nói phút lâm chung của Ân Tố Tố lúc này vang lên rõ từng lời bên tai cậu: “Hài nhi, bao giờ lớn lên, phải đề phòng nữ nhân lừa dối con, nữ nhân càng đẹp càng giỏi lừa người”. Nước mắt rưng rưng, cảnh vật trước mặt cậu nhòe đi: “Mẫu thân ta lúc nói câu này, dao đã cắm sâu vào ngực. Mẫu thân cố nhịn đau dặn dò ta, thế mà ta lại không ghi khắc những lời huyết lệ ấy trong lòng. Giả dụ ta không biết cách tự giải huyệt, không hay biết mưu đồ khôn khéo của bọn Chu Trường Linh, hẳn là ta sẽ đưa chúng tới Băng Hỏa đảo, làm nguy hại cho tính mạng của nghĩa phụ”.

Lòng cậu đã quyết, đầu óc tỉnh táo, bây giờ đã nhận biết rõ ràng mưu đồ của cha con Chu Trường Linh: Khi Chu Trường Linh đoán biết cậu là con của Trương Thúy Sơn, hắn liền ra tay đánh chết bầy chó dữ, tát con gái, để Trương Vô Kỵ tin rằng ông ta là hiệp sĩ thị phi phân minh, nhân nghĩa hơn người. Còn việc hắn đốt cháy tòa sơn trang hoa lệ, tuy đáng tiếc thật, nhưng so với thanh bảo đao Đồ Long “võ lâm chí tôn” thì đâu có đáng gì. Kẻ hành sự mẫn tiệp quả đoán như ông ta thật là đáng sợ.

Trương Vô Kỵ lại nghĩ: “Hồi ta ở trên đảo, ngày ngày thấy nghĩa phụ ôm thanh đao Đồ Long thẫn thờ suy nghĩ, suốt mười năm trời vẫn không tìm ra bí mật của thanh đao. Nghĩa phụ tuy thông minh, song trực tính. Lão Chu Trường Linh này cơ trí hơn người, lắm mưu nhiều kế hơn hẳn nghĩa phụ ta, một khi hắn lấy được thanh đao, chắc hắn sẽ tìm ra…” Đang miên man suy nghĩ như thế, bỗng nghe tiếng chân, Chu Trường Linh và Võ Liệt đã tới gần.

Võ Liệt nói:

– Tên tiểu tử ấy chắc là ẩn náu trong cánh rừng này, nó không chạy xa hơn đâu…

Chu Trường Linh vội ngắt lời Võ Liệt:

– Ôi, chả biết Cửu Chân nói năng thất lễ thế nào, khiến Trương huynh đệ giận dỗi. Ta thật lo lắng, cậu ấy tuổi còn nhỏ, trên đỉnh núi đầy băng tuyết thế này, lỡ gặp chuyện gì, dù ta dù thịt nát xương tan cũng không chuộc được tội lỗi với Trương ân công.

Mấy câu nói giả dối, tự trách mình và ra vẻ lo lắng cho người khác, Trương Vô Kỵ nghe mà rùng mình, nghĩ thầm: “Lão ta vẫn còn nuôi ý đồ định dùng lời lẽ ngon ngọt lừa dối ta”.

Chỉ thấy Chu, Võ hai người cầm gậy, khua khua từng đám cỏ tìm kiếm; Trương Vô Kỵ cố nép người lại, không dám cử động, may mà cánh rừng này rất rộng, khó bề sục sạo hết mọi chỗ. Chẳng mấy chốc Vệ Bích và “Tuyết Lĩnh Song Chu” cũng đến. Năm người khua kiếm gạt cỏ cả nửa ngày vẫn không tìm ra, cả bọn đều mệt, ngồi nghỉ trên một tảng đá. Kỳ thực chỗ họ ngồi chỉ cách Trương Vô Kỵ chừng ba trượng, nhưng rừng rậm cỏ cao đã che lấp thân hình cậu.

Chu Trường Linh nghĩ ngợi một lát, rồi đột nhiên lớn tiếng quát:

– Cửu Chân, tại sao ngươi đắc tội với Vô Kỵ huynh đệ, để đến nỗi cậu ấy nửa đêm bỏ đi không nói một lời?

Chu Cửu Chân ngẩn người, Chu Trường Linh liền nháy mắt với con. Trương Vô Kỵ nằm phục trong bụi cỏ, song đã nhìn rõ cái nháy mắt đó.

Chu Cửu Chân hiểu ý, nói to:

– Con chỉ đùa cậu ấy một chút thôi! Điểm huyệt chơi, ai ngờ cậu ấy lại tưởng là thật.

Rồi nàng ta cất tiếng gọi to:

– Vô Kỵ đệ, Vô Kỵ đệ, hãy mau ra đây để tỷ tỷ chuộc lỗi nào!

Tiếng gọi to, nhưng nghe vẫn dịu dàng, ngọt ngào. Gọi một hồi không thấy động tĩnh gì, nàng ta đột nhiên khóc òa lên, nói:

– Cha, cha đừng đánh con, đừng đánh con, con đâu có cố ý đắc tội với Vô Kỵ đệ!

Chu Trường Linh giơ tay vỗ đồm độp vào đùi mình, còn mồm lớn tiếng quát mắng. Chu Cửu Chân không ngớt kêu khóc thảm thiết, tựa hồ bị cha đánh đau lắm không bằng. Võ Liệt, Võ Thanh Anh và Vệ Bích ba người đứng bên cạnh bưng miệng cười.

Trương Vô Kỵ nhìn cảnh cha con Chu Trường Linh đóng kịch, thản nhiên nghĩ thầm: “May mà ta nhìn rõ thần sắc của cha con họ, nếu không, chỉ cần nghe giọng rên la thảm thiết của nàng, hẳn ta đã mềm lòng chui ra rồi”.

Cha con Chu Trường Linh đoán chắc Trương Vô Kỵ chỉ nấp trong cánh rừng này, cha cứ mắng chửi, con cứ kêu khóc, giọng mỗi lúc một thống thiết thêm. Trương Vô Kỵ lấy hai tay bịt tai lại, nhưng thanh âm kia cứ từng đợt từng đợt lọt vào tai. Cậu hết chịu nổi, bực quá, liền bật dậy, nhảy ra, kêu lên:

– Các người đừng có giở trò quỷ, chẳng lừa nổi ta nữa đâu.

Bọn Chu Trường Linh năm người nhất tề reo hò:

– Đây rồi!

Trương Vô Kỵ gọi:

– Cửu Chân tỷ tỷ!

Rồi cắm đầu xuyên rừng mà chạy, Chu Trường Linh cùng Võ Liệt phi thân đuổi theo.

Trương Vô Kỵ đã quyết ý chết nên không do dự lao thẳng về phía vực sâu vạn trượng. Khinh công của Chu Trường Linh vượt xa Vô Kỵ nên, khi cậu tới bờ vực, thì ông ta đã đuổi kịp, giơ tay chộp lấy cậu.

Trương Vô Kỵ thấy lưng đau nhói, năm ngón tay phải của Chu Trường Linh đã nắm chặt sống lưng cậu, nhưng chân cậu đạp hẫng vào chỗ trống không, nửa thân hình lơ lửng trên vực sâu. Chân trái Vô Kỵ lại đạp tới, cả người nhào về phía trước.

Chu Trường Linh không ngờ Trương Vô Kỵ lại nhảy xuống vực tự tận, khiến cho ông ta cũng bị kéo theo, cả hai cùng rơi xuống. Với mấy chục năm tu luyện võ công, nếu ông ta lập tức buông tay, lộn ngược trở lên thì có thể bảo toàn tính mạng. Nhưng hắn biết rằng chỉ buông tay ra một cái, chắc chắn sẽ không còn cơ hội đoạt được thanh bảo đao Đồ Long “võ lâm chí tôn” nữa, bao nhiêu suy tính trù liệu khổ công trong hơn hai tháng qua sẽ chẳng khác gì tòa sơn trang hoa lệ đã hóa thành tro bụi.

Trong phút Chu Trường Linh do dự, Trương Vô Kỵ rơi xuống vực rất nhanh. Ông ta kêu lên:

– Nguy rồi!

Chu Trường Linh với tay trái lại phía sau, cho Võ Liệt vừa chạy tới nắm lấy, nhưng vẫn còn cách xa cả thước, còn tay phải túm lưng Trương Vô Kỵ thì không chịu buông ra.

Hai người từ trên vách núi rơi xuống vực sâu muôn trượng, nghe tiếng kêu la của Võ Liệt, Chu Cửu Chân từ trên vọng xuống, trong giây lát đã không còn nghe thấy gì nữa. Hai người rơi xuyên qua lớp sương mù lãng đãng trong khe núi, thẳng xuống đáy vực.

Chu Trường Linh một đời trải qua vô vàn sóng gió, lúc lâm nguy vẫn bình tĩnh, nghe tiếng gió ù ù bên tai, thân mình rơi thẳng xuống, mỗi lúc gặp cành cây mọc chìa ra từ vách đá, ông ta đều giơ tay chộp, mấy lần còn cách hàng thước, mãi sau mới chộp trúng một cành. Nhưng lực rơi của hai người quá nặng, cành cây chịu sao nổi, “rắc” một cái, một cành tùng to bằng bắp tay gãy rời. Nhưng nhờ thế mà đà rơi chậm lại, Chu Trường Linh có được chỗ mượn lực, hai chân giơ ra khoèo lại, dùng chiêu “Ô long giảo trụ” quặp chặt vào thân cây tùng, kéo Trương Vô Kỵ đặt trên cây, chỉ sợ cậu lại nhảy xuống vực, nên một tay ông ta vẫn giữ chặt không buông.

Trương Vô Kỵ thấy mình vẫn không thoát khỏi tay ông ta, thì hết sức thất vọng, hậm hực nói:

– Chu bá bá, dẫu có hành hạ tiểu điệt tới mức nào, cũng đừng hòng buộc tiểu điệt dẫn đi tìm nghĩa phụ!

Chu Trường Linh xoay người ngồi vững trên cây rồi mới ngẩng đầu lên, dĩ nhiên không thấy bọn Chu Cửu Chân, tiếng gọi cũng không nghe được nữa, tuy có tài cao gan lớn, nhưng việc thoát chết vừa rồi khi nghĩ lại cũng không khỏi rùng mình, vã mồ hôi lạnh. Ông ta định thần rồi, cười nói:

– Tiểu huynh đệ, cậu nói gì ta hoàn toàn không hiểu vậy? Cậu chớ nên nghĩ lung tung.

Trương Vô Kỵ nói:

– Mưu gian của bá bá, tiểu điệt biết tỏng rồi, chẳng còn dùng được đâu. Dù có ép tiểu điệt đi Băng Hỏa đảo, tiểu điệt cứ chỉ đường lung tung, tất cả bỏ xác trên biển, bá bá tưởng tiểu điệt không dám làm chăng?

Chu Trường Linh nghĩ lời đó là thực tình, lúc này cứ phải dịu ngọt với Trương Vô Kỵ, sau này sẽ để con gái mình đối phó với cậu, may ra có cách hay. Ông ta nhìn quanh, trèo lên trên kia thì không thể, bên dưới là vực sâu không đáy, mà có xuống tới đáy cũng không có đường ra, chỉ còn cách độc nhất là men theo vách núi xiên xiên mà từ từ bò ra ngoài. Ông ta bèn nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu huynh đệ, cậu chớ nên nghi ngờ lung tung như thế. Nhất định ta sẽ không ép cậu dẫn đi tìm Tạ đại hiệp. Nếu dám sai lời, họ Chu ta sẽ bị hàng vạn mũi tên cắm vào thân, chết mất xác.

Chu Trường Linh thề độc như thế cũng là thật tình, vì nghĩ thầm một khi Trương Vô Kỵ đã thà chết, thì dù có ép cách nào cũng vô ích, chỉ còn cách dụ dỗ sao cho cậu tình nguyện mới xong.

Trương Vô Kỵ nghe ông ta thề độc, trong bụng cũng dịu đi. Chu Trường Linh nói:

– Hai người mình từ từ bò dần ra, cậu đừng có nhảy xuống, nghe chưa?

Trương Vô Kỵ nói:

– Nếu bá bá không cưỡng ép, tội gì tiểu điệt phải tự tận?

Chu Trường Linh gật đầu, lấy ra con dao găm, lột vỏ cây tết thành một sợi dây, hai đầu buộc vào lưng mình với Trương Vô Kỵ, rồi hai người men theo vách núi tuyết mà bò về phía có ánh nắng.

Vách núi vốn đã dốc, lại thêm băng tuyết đóng cứng nên rất trơn trượt. Trương Vô Kỵ hai lần tuột xuống đều nhờ Chu Trường Linh kéo lại mới không lăn xuống vực sâu. Song Trương Vô Kỵ trong bụng chẳng hề cảm kích, nghĩ thầm: “Chẳng qua lão ta nghĩ tới thanh đao Đồ Long, làm gì có thực tâm cứu ta?”

Hai người bò một hồi, đầu gối bị băng tuyết cào rách chảy cả máu, cuối cùng tới được chỗ không dốc lắm, hai người đứng lên được, chầm chậm từng bước một. Qua vách núi trông như bức bình phong ấy, Chu Trường Linh luôn miệng kêu khổ, không hiểu cao thấp thế nào.

Trước mắt là mây mù mênh mông, không thấy lối đi, hai người đang ở trên một bình đài rất cao, ba bề trống không. Bình đài này phải rộng đến hơn một chục trượng vuông, nhưng nhô ra giữa không trung, lên tiếp không được mà xuống cũng chẳng xong, thật đúng vào chỗ chết. Trên mặt bình đài chỉ toàn băng tuyết trắng xóa, không cây cỏ, cũng không dã thú.

Trương Vô Kỵ lại vui mừng, cười nói:

– Chu bá bá, bá bá ra sức mưu tính, rốt cuộc lại tới cái bình đài ở lưng chừng trời này, dù bây giờ lấy được thanh đao Đồ Long, phỏng có ích gì?

Chu Trường Linh quát:

– Đừng nói nhăng nói cuội!

Ông ta ngồi xếp bằng, ăn hai vốc tuyết, vận khí một hồi, nghĩ bụng: “Bây giờ tuy mệt, nhưng chưa kiệt sức. Nếu ở đây nhịn đói thêm một ngày, e rằng khó bề thoát ra”, liền đứng dậy, nói:

– Đường lên phía trước cụt rồi, chúng ta quay trở lại tìm lối khác.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiểu điệt lại cảm thấy ở đây rất thích, quay lại làm gì chứ?

Chu Trường Linh tức giận nói:

– Ở đây đâu có cái gì ăn mà thích?

Trương Vô Kỵ cười, đáp:

– Không có thức ăn thông thường, mình tu tiên luyện đạo càng hay chứ sao.

Chu Trường Linh cả giận trong lòng, nhưng biết giờ mà cưỡng ép thì không chừng Vô Kỵ lại nhảy xuống vực, đành nói:

– Được, cậu cứ ngồi nghỉ một lát, để ta tìm lối ra, nếu thấy sẽ quay lại đón cậu. Đừng có ra sát mép đá, cẩn thận kẻo ngã xuống vực đó.

Trương Vô Kỵ nói:

– Việc sống chết mất còn của tiểu điệt, sao bá bá lo quá vậy? Lúc này mà bá bá còn mơ tưởng tiểu điệt đưa bá bá đi Băng Hỏa đảo ư, bá bá hãy quên chuyện đó đi thì hơn.

Chu Trường Linh không trả lời, theo đường cũ quay trở lại đến chỗ cây tùng, ông ta bò sang bên trái tìm đường, chỗ này vách núi cheo leo hung hiểm, nhưng vì không vướng Trương Vô Kỵ nên ông ta bò qua nhanh, lúc bò lúc đi, độ nửa canh giờ thì tới một mỏm đá nhô ra ngoài. Phía trước lại cụt đường, Chu Trường Linh thở dài, thừ người hồi lâu, mới buồn bã trở lại cái bình đài cũ.

Trương Vô Kỵ không cần hỏi, nhìn mặt ông ta là cũng biết không có lối ra, nghĩ thầm: “Ta trúng phải Huyền Minh thần chưởng, chất âm độc khó trừ, bấm đốt ngón tay xem ra thọ mệnh đã hết, chết ở chỗ nào cũng thế thôi. Còn ông ta tự dưng có phúc không hưởng, mơ tưởng làm bậc chí tôn trong võ lâm, để bị chết đói như ta giữa chốn băng tuyết này, thật đáng thương”.

Ban đầu cậu căm ghét Chu Trường Linh gian ngoa xảo quyệt, sau khi thoát hiểm khỏi rơi xuống vực, cậu còn châm chọc ông ta mấy câu; bây giờ thấy hết đường sống, Chu Trường Linh cúi đầu ủ rũ, thì cậu lại thương hại ông ta, bèn ôn tồn nói:

– Chu bá bá, bá bá nhiều tuổi rồi, vinh hoa phú quý đều đã hưởng, giờ có chết cũng đâu tiếc, bá bá chả nên quá khổ sở như thế.

Chu Trường Linh sở dĩ tới giờ còn nhẫn nhịn Trương Vô Kỵ, vì ông ta vẫn hi vọng cuối cùng sẽ làm cho cậu mềm lòng, dẫn ông ta đi Băng Hỏa đảo, lúc này thấy đã hết đường sống, bị lâm vào tuyệt cảnh thế này toàn là do tên tiểu tử kia mà ra, thử hỏi bảo ông ta làm sao nuốt cho xuôi nỗi oán giận này? Hai mắt ông ta như nảy lửa, hầm hầm nhìn Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ thấy vẻ mặt vốn dĩ ôn hòa phúc hậu của Chu Trường Linh phút chốc trở nên hung ác như dã thú, thì cả sợ kêu lên một tiếng, đứng bật dậy bỏ chạy. Chu Trường Linh quát:

– Ở đây còn đường cho mi chạy trốn sao?

Chu Trường Linh giơ tay chộp vào lưng Vô Kỵ, định hành hạ cậu một phen cho nếm đủ mùi khổ ải rồi mới chết.

Trương Vô Kỵ lao về đằng trước, thấy vách núi bên trái có chỗ tối đen, hình như là một cái hang, chẳng nghĩ ngợi gì hết liền chui luôn vào đó. Soạt một tiếng, ống quần cậu bị Chu Trường Linh xé rách, da đùi bị ngón tay ông ta cào xước. Trương Vô Kỵ lật đật vội chuồi vào hang, đột nhiên “bịch” một cái, trán va phải đá, mắt nổ đom đóm. Vô Kỵ biết rằng lúc này Chu Trường Linh đã trở mặt, bất cứ thủ đoạn tàn ác nào cũng có thể sử dụng, nên trong cơn hoảng hốt, cậu cứ liều mạng chui sâu vào trong, còn việc chui vào cái hang tối om om, cũng là hãm vào tuyệt địa, không sao thoát khỏi độc thủ của đối phương thì cậu chẳng kịp nghĩ đến. May sao cái hang này càng vào sâu càng hẹp, sau khi bò hơn chục trượng, chỉ mình cậu có thể vào lọt chứ Chu Trường Linh thì không.

Trương Vô Kỵ trườn thêm vài trượng, bỗng thấy phía trước có ánh sáng, trong lòng cả mừng, tay chân cùng xoải cho nhanh. Ở phía sau Chu Trường Linh vừa tức giận, vừa gấp gáp, nói:

– Ta không hại mi đâu, đừng bò đi nữa.

Trương Vô Kỵ mặc xác hắn.

Chu Trường Linh vận nội lực, giơ tay đánh mạnh vào vách đá, đá núi rắn lạ thường, chưởng đánh vào chỉ khiến lòng bàn tay đau nhói chứ vách đá chẳng hề hấn gì. Ông ta rút cây đoản đao, định xẻ rộng lối để bò, nhưng đào được vài nhát thì cây đoản đao bằng đồng xanh gãy đôi. Chu Trường Linh nổi cơn thịnh nộ, vận kình ra hai vai, trườn lên phía trước, thân hình quả nhiên tiến thêm được hơn một thước, nhưng không thể vào sâu chút nào nữa, đá cứng ép vào ngực và lưng khiến hắn rất khó thở.

Tức ngực khó thở, Chu Trường Linh đành trườn lùi, nào ngờ thân thể đã bị kẹt cứng trong khe đá, tiến lên chẳng được, mà lùi lại cũng không xong. Lúc này hồn xiêu phách lạc, Chu Trường Linh dùng hết sức bình sinh đẩy mạnh vai vào vách đá, thân hình mới lùi lại được hơn một thước, cảm thấy ngực đau nhức ghê gớm, hóa ra bị gãy một chiếc xương sườn.

Hồi 16: Tu luyện thành thục Cửu Dương thần công

Trương Vô Kỵ bò tiếp vào cái hang hẹp thêm vài trượng, thấy phía trước càng lúc càng sáng hơn, bò thêm một đoạn, đột nhiên ánh nắng lóa mắt, cậu nhắm mắt định thần, khi mở mắt ra thì thấy phía trước là một thung lũng xanh tươi, cây cỏ hoa lá xen nhau đủ màu.

Cậu lớn tiếng reo mừng, từ trong hang bò ra. Cái hang này cao cách mặt đất chỉ hơn một trượng, khẽ nhảy là xuống tới nơi. Chân cậu đạp lên cỏ mượt như nhung, mũi ngửi mùi hoa thơm thoang thoảng, tai nghe chim hót ríu rít, mắt nhìn trái cây trĩu cành, đâu ngờ đằng sau cái hang hẹp tối om kia lại có một vùng phong cảnh thần tiên thế này. Giờ đây Trương Vô Kỵ đã quên vết thương đau đớn, chạy tung tăng một mạch đến hơn hai dặm mới gặp một ngọn núi cao chắn lại. Cậu đưa mắt nhìn tứ phía, thấy vây quanh thung lũng là núi cao trập trùng, tựa hồ thời xa xưa nơi đây chưa từng có vết chân người. Các đỉnh núi tuyết cao chọc trời, những vách núi cheo leo hiểm trở, quyết chẳng thể leo lên leo xuống.

Trương Vô Kỵ vô cùng sung sướng. Có bảy tám con sơn dương đang gặm cỏ, chúng thấy cậu tới gần mà chẳng hề sợ hãi chạy đi, trên cây có hàng chục con khỉ nhảy nhót chơi đùa, xem ra các loài hổ báo thân thể nặng nề đều không dám vượt các ngọn núi hiểm trở tới đây. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Kể ra ông Trời đãi mình cũng không bạc, sắp đặt cho mình một chốn yên nghỉ ngàn thu thần tiên như thế này”.

Cậu thong thả trở lại cửa hang, nghe tiếng gọi của Chu Trường Linh ở trong hang:

– Tiểu huynh đệ, ngươi mau bò ra đi, ở mãi trong ấy không sợ buồn chết hay sao?

Trương Vô Kỵ cười to:

– Ở trong này thú lắm!

Cậu với tay hái mấy trái cây không biết tên gì mọc ở các cành thấp, mới cầm trên tay đã ngửi mùi thơm dễ chịu, cắn thử một miếng cảm thấy ngon ngọt lạ thường, giòn hơn đào, thơm hơn táo, lại mọng nước hơn lê. Cậu ném một trái vào hang cho Chu Trường Linh, nói:

– Bắt lấy này, ngon phải biết!

Trái cây va vào vách đá mấy cái đã vỡ nát. Chu Trường Linh nhặt ăn cả vỏ lẫn hạt, ăn xong vẫn thấy đói cồn cào, lại gọi:

– Tiểu huynh đệ, cho ta vài trái nữa đi!

Trương Vô Kỵ nói:

– Chu bá bá là hạng người bất lương, có chết đói cũng đáng! Muốn ăn quả thì tự bò vào mà lấy.

Chu Trường Linh nói:

– Thân ta to quá, chui không lọt!

Trương Vô Kỵ cười:

– Liệu xẻ ra làm hai, có chui lọt được chăng?

Chu Trường Linh biết âm mưu của mình đã bại lộ, Trương Vô Kỵ hẳn sẽ mặc ông ta chết đói dần để báo thù, vết thương ở ngực lại đau nhói lên, ông ta bèn lớn tiếng chửi:

– Tặc tiểu quỷ kia, trái cây trong hang không lẽ đủ cho ngươi ăn suốt đời sao? Ta ở ngoài này chết đói, ngươi giỏi lắm cũng chỉ sống thêm vài ngày, trước sau gì cũng chết đói thôi.

Trương Vô Kỵ không thèm lý đến ông ta nữa, cậu ăn bảy tám trái nữa thì no bụng.

Sau đó hồi lâu, bỗng thấy một luồng khói từ trong hang bay ra. Trương Vô Kỵ kinh ngạc, nhưng lập tức vỡ lẽ: thì ra Chu Trường Linh ở bên ngoài hun khói vào hang để buộc mình phải bò ra, chứ đâu biết rằng Vô Kỵ đang ở một nơi trời đất bao la thế này, dù ông ta có đốt ngàn vạn cành tùng cũng uổng công. Cậu thấy tức cười, giả vờ ho sặc sụa, Chu Trường Linh gọi:

– Tiểu huynh đệ, bò ra đi, ta thề không hại ngươi đâu.

Trương Vô Kỵ kêu “ối” một tiếng, giả bộ ngất lịm, rồi bỏ đi.

Cậu đi về hướng tây được hơn hai dặm thì thấy một dòng thác từ trên núi cao đổ xuống, có lẽ do tuyết tan tạo thành, ánh nắng chiếu vào trông như một con rồng lớn bằng ngọc, vô cùng tráng lệ. Dòng thác đổ xuống một đầm nước màu trong xanh, nước hồ không dâng đầy, tức thị có đường thoát đi nơi khác. Cậu ngắm cảnh một lát, cúi xuống thấy chân tay mình lấm lem bùn đất và rêu xanh, lẫn với nhiều vết máu do bị cào xước, bèn tới bên bờ đầm cởi giày cỏ và xà cạp, lội xuống tắm rửa.

Đang tắm rửa, bỗng thấy một con cá trắng dài tới hơn một thước từ dưới đầm phóng mình lên khỏi mặt nước. Trương Vô Kỵ vội đưa tay chụp, tuy trúng mình cá nhưng nó trơn tuột đi. Cậu đứng yên nhìn kỹ, thấy dưới làn nước xanh trong có hơn một chục con cá trắng lớn đang bơi qua bơi lại.

Cách bắt cá, cậu đã học từ hồi còn nhỏ ở Băng Hỏa đảo. Cậu bẻ cành cây cứng, tạo một đầu nhọn, rồi đứng trên bờ đầm lặng lẽ chờ đợi, cứ hễ có con cá nào bơi gần lên mặt nước là cậu đâm mạnh mũi nhọn xuống, trúng vào thân con cá.

Vô Kỵ reo mừng, lại dùng cành nhọn rạch bụng con cá, vứt ruột đi, rửa sạch, rồi kiếm củi khô, dùng hỏa đao, hỏa thạch và bùi nhùi mang theo bên người mà nhóm lửa nướng cá. Lát sau mùi cá thơm phức, biết đã chín, cho vào miệng ăn thật thơm ngon vô cùng, tựa hồ trong đời chưa bao giờ được ăn món gì ngon hơn thế. Phút chốc, cậu đã chén hết cả một con cá to.

Trưa hôm sau, Trương Vô Kỵ lại bắt một con cá to, nướng ăn, nghĩ thầm: “Mình nhất thời còn sống, phải giữ lấy lửa, kẻo khi hết bùi nhùi thì phiền”, bèn vun tro thành vòng tròn, vùi cành củi cháy dở vào đó, đề phòng lửa tắt. Hồi ở Băng Hỏa đảo, mọi vật dụng đều phải tự chế lấy, nay một mình ở chốn hoang dã này, cậu cũng lấy đất nặn thành nồi, bện cỏ thành nệm.

Bận đến tận chiều tối, nghĩ Chu Trường Linh chắc đói meo, Trương Vô Kỵ bèn hái một bọc trái cây ném vào trong hang. Cậu sợ nếu cho ông ta ăn cá, lỡ như ông ta đủ sức khỏe chui qua hang thì nguy to, nên không cho món cá nướng.

Đến ngày thứ tư, Trương Vô Kỵ đang nặn một cái bếp bỗng nghe có tiếng khỉ kêu chí chóe ra chiều thảm thiết và cấp bách lắm. Cậu theo tiếng kêu chạy tới, thấy dưới chân vách núi có một con khỉ đang bị một hòn đá đè lên, không cựa quậy được, chắc là nó ngã từ trên vách núi xuống đây. Trương Vô Kỵ tới lăn hòn đá sang một bên, chân phải của con khỉ bị gãy, nó đau quá cứ kêu khèng khẹc luôn miệng.

Trương Vô Kỵ buộc hai cành cây vào chỗ chân gãy cho con khỉ, lại tìm một số thảo dược nhai nát đắp vào vết thương cho nó. Tuy ở đây khó tìm đúng dược thảo thích hợp cho bài thuốc kiến hiệu, nhưng nhờ thủ pháp tiếp cốt khéo léo của cậu, cái chân gãy của con khỉ cũng có thể lành.

Con khỉ kia cũng biết trả ơn, hôm sau nó đi hái rất nhiều trái cây mang về cho Trương Vô Kỵ. Mười ngày sau cái chân gãy của con khỉ quả nhiên đã lành hẳn.

Ở trong thung lũng ngày dài không có việc gì làm, Trương Vô Kỵ thường đùa giỡn cùng bầy khỉ, nếu chất hàn độc không bất chợt phát tác thì cuộc sống ở đây vô cùng thích thú. Có lần thấy bầy sơn dương đi qua, cậu toan giết một con nướng ăn, nhưng thấy bầy thú hiền lành dễ thương, cậu không nỡ ra tay. Cũng may cá trong đầm và trái cây quá nhiều nên thức ăn không thiếu. Vài hôm cậu lại bắt được một con gà rừng bên khe suối, ăn thịt thật là ngon.

Cứ như thế hơn một tháng, một buổi sớm Trương Vô Kỵ còn đang mơ màng chưa tỉnh giấc, bỗng cảm thấy có một bàn tay to lớn lông lá vuốt vuốt nhẹ vào má cậu. Trương Vô Kỵ giật mình bật ngay dậy, thấy một con vượn lớn lông trắng ngồi ngay bên cạnh, đang bế một con khỉ nhỏ vẫn cùng cậu đùa nghịch hàng ngày. Con khỉ nhỏ kêu chút cha chút chít luôn miệng, tay chỉ vào bụng con vượn. Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hôi thối, trên bụng con vượn máu mủ bê bết, có một cái nhọt to tướng, bèn cười nói:

– Giỏi, giỏi, thì ra mi đem bệnh nhân tới cho thầy lang cơ đấy!

Con vượn trắng giơ tay, chìa ra một quả bàn đào to bằng nắm tay, cung kính dâng lên.

Trương Vô Kỵ nhìn trái bàn đào lớn chín đỏ, nghĩ thầm: “Mẫu thân ta từng kể chuyện cổ tích, ở núi Côn Luân có tiên nữ Vương Mẫu, mỗi lần sinh nhật lại thết tiệc bàn đào, mời quần tiên đến dự. Tây Vương Mẫu không biết có thật hay không, còn chuyện ở núi Côn Luân có bàn đào lớn thì chẳng phải hoang đường”. Cậu liền tươi cười nhận trái bàn đào, nói:

– Ta không lấy tiền công, dù không có đào tiên, ta cũng vẫn chữa bệnh cho ngươi.

Cậu đưa tay nắn nhẹ vào bụng con vượn, bất giác giật mình.

Thì ra cái nhọt của loài vượn chỉ nhỏ chừng một tấc, nhưng đằng này lại to gấp mười lần thông thường, mà cứng ngắc. Trong y thư không chép loại ung nhọt nào lớn cỡ ấy, nếu toàn bộ chỗ cứng đều thành mủ, chỉ e không chữa được. Cậu bắt mạch cho con vượn, thấy không có triệu chứng nguy hiểm, bèn vạch đám lông dày ở bụng nó ra xem, nhìn cái nhọt lại càng kinh ngạc, thấy giữa bụng nó lồi lên một cục vuông vuông, chu vi được khâu lại bằng chỉ, rõ ràng là do bàn tay con người, loài vượn dù thông minh đến mấy cũng không đời nào biết may vá. Cậu khám kỹ cái nhọt lần nữa, biết là vật bên trong lồi ra kia đã làm tắc nghẽn huyết mạch khiến cơ bụng bị thối rữa đã lâu, muốn chữa khỏi bệnh thì không thể không lấy cái vật trong bụng con vượn ra.

Nói tới việc mổ xẻ trị thương, Trương Vô Kỵ đã học được ở Hồ Thanh Ngưu rất thành thạo. Nhưng ở đây không có dao kéo, cũng chẳng có thuốc men, thật là khó. Cậu nghĩ một hồi, rồi cầm một hòn đá ném mạnh vào hòn đá khác, tìm một mảnh vỡ thật sắc cạnh, thong thả cắt các mối chỉ khâu trên bụng con vượn. Con vượn này đã già, rất có linh tính, nó biết Trương Vô Kỵ trị bệnh cho nó, nên tuy bị đau ghê gớm nhưng nó vẫn cố nhịn không cựa quậy.

Trương Vô Kỵ cắt xong đường chỉ khâu bên phải và đường bên trên, vạch lớp da bụng lên theo đường chéo góc, thấy một cái bọc bằng vải dầu. Cậu rất ngạc nhiên, nhưng lúc này chưa vội mở cái bọc ra xem, chỉ lấy ra đặt sang một bên, rồi may da bụng lại cho con vượn. Không có kim chỉ, cậu đành dùng xương cá làm kim, chọc lỗ nhỏ trên da bụng, lấy vỏ cây tước ra làm chỉ, xuyên qua lỗ kia mà buộc lại, khâu xong thì bôi thuốc lên vết thương. Công việc ấy mất ngót nửa buổi mới hoàn tất, con vượn tuy rất khỏe nhưng cũng nằm bệt dưới đất mệt nhoài.

Trương Vô Kỵ rửa sạch vết máu trên tay và trên cái bọc, mở ra xem, hóa ra trong đó có bốn cuốn kinh thư mỏng. Nhờ được gói chặt bằng lớp vải dầu, nên tuy nằm trong bụng con vượn rất lâu mà bốn cuốn kinh thư ấy không hề bị hư hại. Bìa bộ kinh thư viết mấy chữ loằng ngoằng, cậu không đọc được chữ nào cả, còn giở bên trong, thì cả bốn cuốn đều chi chít những chữ quái dị, song xen giữa mỗi hàng đều có viết chữ Hán theo kiểu chữ khải chỉ nhỏ bằng đầu ruồi.

Trương Vô Kỵ định thần, đọc kỹ từ đầu, hình như sách này viết về yếu quyết luyện khí vận công; cậu chầm chậm đọc dần xuống dưới, đột nhiên giật mình khi thấy có ba hàng kinh văn quá quen thuộc, chính là “Võ Đang cửu dương công” mà thái sư phụ và Du nhị bá đã dạy cho cậu, nhưng tiếp sau thì lời văn lại không giống. Vô Kỵ giở thêm vài trang, lại gặp câu nói về “Võ Đang cửu dương công”, song nội dung khác hẳn với những gì thái sư phụ và Du nhị bá đã dạy.

Trương Vô Kỵ gấp sách lại, trống ngực đập dồn, nghĩ thầm: “Bộ kinh thư này rốt cuộc là sách gì đây? Sao lại có đoạn nói về “Võ Đang cửu dương công” ở trong đó? Thế nhưng lại không hoàn toàn giống như võ công bản môn sở truyền? Kinh văn sao lại nhiều gấp mười lần của phái Võ Đang là sao?”

Nghĩ tới đây, cậu chợt nhớ câu chuyện thái sư phụ đã kể hồi dẫn cậu lên Thiếu Lâm tự: sư phụ của thái sư phụ là Giác Viễn đại sư học thuộc Cửu dương chân kinh, trước khi chết có tụng cuốn kinh đó, khi ấy ba người ở bên cạnh Giác Viễn đại sư là thái sư phụ Trương Tam Phong, Quách Tương nữ hiệp và Vô Sắc đại sư phái Thiếu Lâm, mỗi người ghi nhớ được một phần, nhờ đó võ công của ba phái Võ Đang, Thiếu Lâm, Nga Mi đại tiến, mấy chục năm qua mỗi phái một vẻ, danh chấn võ lâm. “Chẳng lẽ đây chính là bộ Cửu dương chân kinh đã bị người ta lấy cắp? Đúng rồi! Thái sư phụ bảo rằng bộ Cửu dương chân kinh được chép ở phần lề lẫn với bộ kinh Lăng Già, những chữ loằng ngoằng này hẳn là kinh Lăng Già viết bằng tiếng Phạn. Nhưng tại sao nó lại nằm trong bụng con vượn nhỉ?”

Bộ kinh thư này đích thị là Cửu dương chân kinh, còn việc tại sao nó lại nằm trong bụng con vượn thì chẳng còn ai trên thế gian biết được.

Chuyện rằng hơn chín chục năm về trước, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đã lấy cắp bộ kinh thư này khỏi Tàng kinh các của chùa Thiếu Lâm, bị Giác Viễn đại sư truy đuổi đến tận đỉnh núi Hoa Sơn, thấy không thể nào thoát thân, vừa hay bên cạnh có con vượn xám, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây bèn nghĩ ra một kế liền mổ bụng con vượn giấu bộ kinh vào đó. Khi Giác Viễn, Trương Quân Bảo và Dương Quá lục soát trong người hai tên này đều không thấy kinh thư đâu cả, đành thả cho hai tên này cùng con vượn xuống núi. Việc mất bộ Cửu dương chân kinh trở thành đại nghi án trong võ lâm ngót trăm năm nay. Sau đó Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đem con vượn chạy sang Tây Vực, nhưng hai tên đó trong bụng cứ nghi ngờ nhau, sợ đối phương tập được thứ võ công chép trong kinh thư trước rồi sẽ giết mình, nên cả hai cứ canh chừng nhau, lần lữa chưa dám lấy bộ kinh trong bụng con vượn ra. Cuối cùng hai tên đến ngọn núi Kinh Thần trong dải Côn Luân, ra tay sát hại nhau đến mức lưỡng bại câu thương, thành thử bộ kinh tâm pháp tối cao về tu luyện nội công này cứ nằm lại trong bụng con vượn xám.[62]

Võ công Tiêu Tương Tử vốn cao hơn Doãn Khắc Tây một bậc, nhưng vì lúc ở trên tuyệt đỉnh Hoa Sơn hắn có đánh Giác Viễn đại sư một quyền, bị lực dội lại mà trọng thương, thành thử khi đấu với Doãn Khắc Tây, hắn lại bỏ mạng trước. Còn Doãn Khắc Tây lúc hấp hối đã gặp Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo, lương tâm nhắc nhở, mới nhờ Hà Túc Đạo đến Thiếu Lâm tự nói cho Giác Viễn đại sư biết rằng bộ kinh ấy giấu ở trong bụng con vượn. Nhưng lúc ấy thần trí hắn đã không còn tỉnh táo, giọng nói thều thào, cho nên câu “kinh tại hầu trung”[63], Hà Túc Đạo lại nghe thành “kinh tại dầu trung”[64]. Hà Túc Đạo giữ lời hứa, quả nhiên đi Trung nguyên chuyển lại câu “kinh tại dầu trung” cho Giác Viễn đại sư. Giác Viễn đại sư không hiểu nghĩa là gì, cũng vì câu này mà nổi lên một trận đại phong ba, sau đó võ lâm có thêm hai phái Võ Đang và Nga Mi.

Con vượn xám kia cũng thật may, ở trong núi Côn Luân ăn đào tiên, được hưởng linh khí của trời đất, qua hơn chín chục năm vẫn còn chạy nhảy như bay, bộ lông dài màu xám ban đầu dần dần chuyển sang màu trắng xóa, thành một con vượn trắng. Riêng bộ kinh vẫn nằm trong bụng nó, đè ép bao tử và ruột, nên nó hay bị đau bụng, vết thương trong bụng khi lành khi loét, mãi đến hôm nay mới được Trương Vô Kỵ lấy kinh ra, đối với con vượn mà nói, quả là trừ được mối đại họa trong gan ruột.

Tất cả manh mối đầu đuôi ấy, dù có người thông minh gấp trăm lần Trương Vô Kỵ cũng chẳng thể nghĩ ra. Trương Vô Kỵ ngẩn người một hồi, tự biết mình không giải thích được, cũng chẳng nên phí tâm suy nghĩ làm gì, bèn lấy trái bàn đào mà con vượn trắng tặng cho, cắn một miếng, thấy nước đào chảy xuống cổ họng thật ngon ngọt, ngon hơn hết thảy các thứ trái cây không tên trong thung lũng này mà cậu vẫn ăn.

Trương Vô Kỵ ăn hết trái bàn đào, nghĩ thầm: “Thái sư phụ năm nào từng bảo, nếu ta luyện được Cửu dương thần công của cả ba phái Võ Đang, Thiếu Lâm, Nga Mi là có thể khu trừ âm độc trong cơ thể. Cửu dương công của cả ba phái đều bắt nguồn từ Cửu dương chân kinh, nếu bốn cuốn sách này đúng là bộ Cửu dương chân kinh thì mình cứ theo đó luyện tập, sẽ hơn hẳn học Cửu dương thần công của ba phái. Ở thung lũng này cũng chả có việc gì làm, mình cứ theo sách mà tập luyện thôi. Còn giả dụ mình đoán nhầm, tập theo bộ sách này là vô dụng, chỉ có hại, thì cũng chỉ chết là cùng”.

Yên tâm rồi, Trương Vô Kỵ bèn lấy ba quyển kinh thư cất vào một chỗ cao ráo, trên phủ cỏ khô, lại xếp chồng ba tảng đá lên trên để lũ khỉ khỏi nghịch ngợm lấy ra tranh giành nhau, xé rách không chừng. Cậu chỉ cầm quyển thứ nhất, trước tiên đọc đi đọc lại mấy lần cho thuộc lòng, sau đó tham cứu thể hội, bắt đầu tập từ câu thứ nhất trở đi.

Cậu nghĩ thầm: “Dẫu theo kinh thư này ta có tập được thần công, khu trừ âm độc trong cơ thể, nhưng lại bị giam hãm trong thung lũng bốn bề vách núi vây quanh thế này, cũng đâu có thoát ra được. Nơi đây ngày rộng tháng dài, hôm nay luyện xong cũng tốt, ngày mai luyện xong cũng hay, mà dẫu có luyện chẳng thành thì cũng coi như là một cách tiêu hao thời gian nhàn rỗi”. Với tâm trạng thành bại chẳng hệ trọng, việc luyện tập của cậu tiến triển rất nhanh, chỉ sau bốn tháng ngắn ngủi đã hiểu kỹ mọi điều ghi trong quyển kinh thứ nhất và luyện thành công.

Luyện xong quyển kinh thứ nhất, bấm đốt ngón tay, kỳ hạn mà Hồ Thanh Ngưu dự đoán chất hàn độc phát tác khiến Trương Vô Kỵ phải chết đã qua song cậu cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng khoan khoái, chân khí lưu động toàn thân, không có dấu hiệu bệnh tật nào cả; ngay cả chất hàn độc trước kia thường xuyên phát tác, bây giờ có khi cách cả tháng mới bị một lần, và bị cũng rất nhẹ. Không lâu sau Vô Kỵ đọc trong quyển kinh thứ hai, đến câu: “Đóng mở chín mạch dương, giữ chặt nguyên khí, sách này có tên là Cửu dương chân kinh”, thì cậu mới biết chính xác đây là Cửu dương chân kinh, bộ bảo điển mà thái sư phụ đêm ngày ghi nhớ. Thế là cậu vui mừng vô hạn, tập luyện càng thêm chăm chỉ. Con vượn trắng cảm cái ân trị bệnh, thường hái bàn đào đem đến tặng cậu, là một món ăn bổ nguyên kiện thể. Luyện mới xong nửa quyển kinh thứ hai thì âm độc trong người đã được khu trừ không còn tung tích gì nữa.

Ngày ngày ngoài việc luyện công, Trương Vô Kỵ chơi đùa với bầy khỉ vượn; mỗi lần hái trái cây, cậu lại chia cho Chu Trường Linh một nửa, cậu cứ thế sống cuộc đời không lo phiền, tự do tự tại. Còn Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ bên kia hang, đúng là một ngày dài bằng cả một năm, mỗi khi mùa đông tới, núi ngập băng tuyết, gió lạnh thấu xương, cảnh khổ kể sao cho xiết.

Trương Vô Kỵ luyện xong quyển kinh thứ hai thì không còn sợ nóng sợ lạnh. Có điều càng luyện về sau, càng đi sâu vào sự huyền diệu, tiến triển càng chậm, luyện quyển kinh thứ ba tốn cả một năm mới xong, riêng quyển kinh thứ tư phải mất đứt hơn ba năm mới hoàn toàn thành tựu.

Trương Vô Kỵ ở thung lũng này đã hơn năm năm, từ một thiếu niên nay trở thành một chàng trai cao lớn. Hai năm sau cùng, thi thoảng nổi hứng, chàng lại cùng bọn khỉ vượn leo lên vách núi, từ trên cao nhìn xuống bốn bề. Với công lực của chàng hiện giờ, việc vượt núi mà ra không còn là chuyện khó. Nhưng nghĩ đến bụng dạ hiểm độc của người đời, chàng không khỏi rùng mình, nghĩ bụng tội gì phải ra bên ngoài chuốc lấy phiền não, tự chui đầu vào rọ? Cứ sống trong cái thung lũng thần tiên này cho đến già, đến chết, chẳng phải hay hơn không?

Chiều hôm đó, Trương Vô Kỵ lấy bốn quyển kinh thư ra đọc lại một lần từ đến chí cuối, đọc xong quyển cuối cùng, trong lòng vừa vui sướng, vừa bâng khuâng. Chàng khoét một cái hang mới sâu ba thước ở vách núi, bên trái cái hang cũ, đem bốn quyển Cửu dương chân kinh, bộ Y kinh của Hồ Thanh Ngưu, cuốn Độc kinh của Vương Nạn Cô, tất cả gói lại kỹ càng trong tấm vải dầu lấy từ bụng con vượn ra, chôn vào hang, vùi đất lên, nghĩ thầm: “Ta lấy được bộ kinh thư từ trong bụng con vượn, là cơ duyên cực lớn, không biết trăm, ngàn năm sau, có ai lạc đến chốn này, may mắn tìm thấy bộ kinh này chăng?” Chàng nhặt một hòn đá nhọn, viết lên vách núi sáu chữ “Nơi Trương Vô Kỵ cất kinh”.

Khi còn luyện công, ngày ngày có việc chú tâm vào làm nên Vô Kỵ không cảm thấy tịch mịch. Bây giờ đại công đã thành, trong lòng chàng lại thấy trống trải, hơn nữa thần công đã thành, lòng can đảm gia tăng, chàng nghĩ thầm: “Lúc này Chu bá bá có muốn hại ta, ta cũng chả sợ, chi bằng ta qua bên ấy nói chuyện chơi”, thế là chàng uốn mình chui vào hang. Ngày trước, từ hang này chui ra, chàng mới mười lăm tuổi, thân hình nhỏ bé; nay chui vào đã hai mươi tuổi, thân hình cao to, làm sao chui lọt cái hang nhỏ hẹp? Chàng hít một hơi, vận Thúc cốt công co rút xương toàn thân lại sát với nhau, nhẹ nhàng luồn vào hang.

Chu Trường Linh đang tựa lưng vào vách đá ngủ say, mơ thấy đang ở nhà mở đại tiệc, gia nhân bằng hữu tấp nập vô cùng vui vẻ; đột nhiên có người lay lay vai ông ta; ông ta giật mình choàng tỉnh, mở mắt ra thấy một bóng người cao lớn đứng ngay trước mặt. Chu Trường Linh bật dậy, thần trí chưa hoàn toàn tỉnh táo, kêu lên:

– Ngươi… ngươi…

Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:

– Chu bá bá, tiểu điệt đây, Trương Vô Kỵ đây mà.

Chu Trường Linh vừa kinh ngạc, vừa mừng, vừa hận vừa buồn, nhìn chàng hồi lâu, rồi nói:

– Cậu cao lớn quá rồi. Hừ, sao bấy lâu nay không ra nói chuyện với ta? Bất kể ta cầu khẩn thế nào, cậu cũng không lý đến, là sao?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

– Tiểu điệt sợ Chu bá bá hành hạ tiểu điệt.

Chu Trường Linh tay phải chộp ra, thi triển cầm nã thủ pháp, tóm vai Trương Vô Kỵ, xẵng giọng hỏi:

– Thế hôm nay không sợ nữa ư?

Đột nhiên lòng bàn tay ông ta nóng như phải bỏng, cánh tay bất giác giật lại, buông vai Vô Kỵ ra, ngực thì đau tức; ông ta vội lùi ba bước, ngơ ngẩn nhìn chàng, miệng lắp bắp:

– Cậu… cậu… có công phu gì vậy?

Từ khi luyện thành Cửu dương thần công, đây là lần đầu tiên Trương Vô Kỵ sử dụng, thấy uy lực như vậy. Chu Trường Linh là cao thủ bậc nhất, vậy mà bị thần công của chàng làm cho chấn động phải buông tay tức thì. Chàng nhìn Chu Trường Linh hốt hoảng, trong lòng không khỏi thầm đắc ý, cười nói:

– Bá bá thấy công phu ấy thế nào?

Chu Trường Linh chưa hoàn hồn, lại hỏi:

– Cái đó… môn đó là công phu gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Đó là Cửu dương thần công.

Chu Trường Linh hỏi:

– Làm cách nào cậu luyện thành?

Trương Vô Kỵ cũng chẳng buồn giấu, bèn kể lại việc trị thương cho con vượn trắng, nhờ đó lấy được bộ kinh thư trong bụng nó, theo đấy tu luyện.

Chu Trường Linh nghe xong chỉ càng ghen tức, nghĩ thầm: “Ta ở trên ngọn núi tuyết này năm năm trời chịu xiết bao khổ ải, còn tên tiểu tử này lại luyện được thần công tuyệt diệu”. Ông ta chẳng nghĩ rằng chính mình mưu toan hại người nên mới lạc tới đây, cũng không nhớ cái ơn năm năm qua Trương Vô Kỵ ngày ngày hái trái cây ném cho ông ta ăn, ông ta mới sống được tới hôm nay, chỉ nghĩ tiểu tử này sao quá may mắn, còn mình thì quá xui xẻo, thật quá bất công, bèn cố nén giận, cười hề hề, nói:

– Thế bộ Cửu dương chân kinh ấy đâu rồi, cho ta xem một chút được chăng?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cho ông ta xem một chút thì đã sao? Không lẽ trong giây lát có thể nhớ được hết ư?” liền nói:

– Tiểu điệt chôn trong hang, ngày mai sẽ lấy ra cho bá bá xem.

Chu Trường Linh hỏi:

– Cậu cao lớn như thế, làm sao chui lọt qua hang?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Cái hang cũng chả hẹp lắm đâu, chỉ cần co mình lại, dùng sức trườn một cái là qua thôi.

Chu Trường Linh hỏi:

– Cậu thấy liệu ta có trườn qua được hay không?

Trương Vô Kỵ gật đầu:

– Để mai chúng ta hãy thử xem, bên trong hang rộng rãi lắm, chứ ở mãi trên cái bình đài nhỏ hẹp này thật chẳng thích chút nào.

Trương Vô Kỵ nghĩ rằng nếu mình vận công ép hai vai, ngực, xương sườn, mông và các khớp xương cho Chu Trường Linh thì có thể giúp ông ta chui lọt qua hang. Chu Trường Linh cười, nói:

– Tiểu huynh đệ, cậu thật là tốt, bậc quân tử không nhớ chuyện cũ, trước kia ta có điều không phải với cậu, mong cậu bỏ qua cho.

Nói xong vái một cái thật dài. Trương Vô Kỵ vội hoàn lễ, nói:

– Chu bá bá không cần khách sáo! Ngày mai chúng ta sẽ cùng nghĩ cách rời khỏi nơi này.

Chu Trường Linh cả mừng, hỏi:

– Cậu bảo có thể rời khỏi nơi này ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Khỉ vượn có thể leo ra leo vào, chắc chắn mình cũng làm được.

Chu Trường Linh hỏi:

– Thế sao cậu không ra từ sớm?

Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:

– Trước kia tiểu điệt chả nghĩ tới chuyện rời khỏi nơi đây, chỉ sợ bị người ta hà hiếp, bây giờ không sợ nữa, nên tính chuyện về thăm thái sư phụ và các vị sư bá sư thúc.

Chu Trường Linh cười ha hả, vỗ tay reo:

– Hay quá, hay quá!

Chân ông ta lùi hai bước, đột nhiên trượt chân, người chao đi, kêu “Ối” một tiếng, chân đạp vào khoảng không, từ mép đá rơi xuống bên dưới.

Sự việc xảy ra đột ngột, Trương Vô Kỵ cả kinh, cúi nhìn xuống, gọi:

– Chu bá bá, bá bá có sao không?

Chỉ nghe bên dưới vọng lên hai tiếng rên yếu ớt. Trương Vô Kỵ cả mừng, nghĩ thầm: “May quá, chưa rơi xuống vực, nhưng có lẽ cũng bị thương”. Nghe tiếng rên, đoán chừng khoảng cách chỉ vài trượng, chàng nhìn kỹ thì thấy bên dưới mỏm đá này có một cây tùng mới nhô ra, Chu Trường Linh đang nằm vắt ngang trên cây, không dám động đậy. Trương Vô Kỵ quan sát tình thế, với công lực hiện tại của chàng, việc nhảy xuống ôm Chu Trường Linh mang lên đây cũng không mấy khó khăn, thế là chàng hít một hơi, nhắm một cành cây to bằng bắp tay, nhẹ nhàng thả mình xuống đó.

Chân chàng còn cách cành cây kia chừng nửa thước, đột nhiên cái cành ấy gãy rời, rớt xuống. Chàng đang lơ lửng trong không trung, làm gì có chỗ nào để mượn sức; dù chàng đã luyện thành thần công tuyệt đỉnh, nhưng vẫn là người chứ đâu phải chim chóc, đâu có thể bay ngược trở lên? Ý nghĩ vụt qua trong đầu như một ánh chớp: “Thì ra Chu Trường Linh lại dùng gian kế hại ta; hắn bẻ gãy cành cây kia cầm trong tay, chờ ta đáp xuống gần tới liền buông rơi”. Chàng hiểu được như thế thì đã muộn, thân hình cứ thế rơi thẳng xuống.

Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ, rộng không quá mươi trượng kia hơn năm năm, từng ngọn cỏ, từng viên sỏi đều biết rõ. Trong bóng tối ông ta giả vờ trượt chân bị thương, biết Trương Vô Kỵ sẽ nhảy xuống cứu, quả nhiên gian kế thành công, khiến Trương Vô Kỵ rơi xuống vực sâu muôn trượng.

Chu Trường Linh cười ha hả, nghĩ thầm: “Hôm nay cho tên tiểu tử kia thành một đống thịt nát nhừ mới thỏa mối hận trong lòng ta hơn năm năm qua!” Họ Chu níu sợi dây leo ở bên cạnh cây tùng, leo ngược lên bình đài, nghĩ bụng: “Lần trước ta chui vào hang không lọt, cũng vì nôn nóng dùng sức quá mạnh, đến nỗi gãy xương sườn. Tên tiểu tử này thân xác to hơn hẳn ta, nó đã chui lọt, thì ta cũng sẽ chui lọt. Sau khi lấy được bộ Cửu dương chân kinh, ta sẽ tìm đường trở về, luyện thành thần công, vô địch trong thiên hạ, thật là sung sướng! Ha ha, ha ha!”

Chu Trường Linh càng nghĩ càng đắc ý, bèn chui luôn vào hang, chẳng bao lâu đã tới chỗ năm năm trước ông ta bị gãy xương sườn. Trong đầu ông ta chỉ có một ý nghĩ: “Tên tiểu tử ấy to lớn hơn ta mà chui lọt, ta đương nhiên cũng sẽ chui lọt”. Nghĩ thế là đúng, nhưng họ Chu lại quên một điều, là Trương Vô Kỵ đã luyện được phép thúc cốt[65] trong Cửu dương thần công.

Hắn bình tâm tĩnh khí, nhích từng tấc từng tấc qua chỗ hẹp trong hang, quả nhiên so với năm năm trước đã tiến sâu hơn một trượng, nhưng đến đây rồi, dẫu cố mấy cũng không thể nhích thêm được dù chỉ nửa tấc.

Hắn biết nếu lại làm mạnh, sẽ chỉ đi vào vết xe đổ năm năm trước, ắt bị gãy thêm vài dẻ xương sườn, nên ông ta định thần, cố thở khí trong phổi ra bằng hết, quả nhiên người thu nhỏ thêm được hai tấc, tiến sâu thêm ba thước nữa. Nhưng vì nhịn thở, ngực mỗi lúc một tức, tim đập cứ như tiếng trống hộ đê, chỉ muốn ngất xỉu, ông ta biết là không ổn, đành lùi lại tính sau.

Nào ngờ lúc tiến vào thì hai chân có thể tựa những chỗ lồi lõm trong hang đá mà đẩy người đi, lúc bò lui thì chẳng có gì để tựa. Khi tiến vào, ông ta giơ thẳng hai tay về phía trước để thu hẹp hai vai, bay giờ hai tay bị bốn bề là đá giữ chặt nên không có chút sức lực nào, song trong đầu vẫn nghĩ: “Tên tiểu tử ấy to lớn hơn ta mà chui lọt, ta đương nhiên cũng sẽ chui lọt. Tại sao ta lại bị kẹt ở đây, có lý nào thế được?”

Nhưng trên đời thiếu gì những chuyện như thế, một cao thủ văn tài võ công vào hàng thượng thừa, thông minh cơ trí vào bậc nhất, giờ bị mắc kẹt trong cái hang đá nhỏ hẹp, tiến chẳng được mà lùi cũng chẳng xong.

*

*   *

Trương Vô Kỵ lại trúng gian kế của Chu Trường Linh, từ trên mỏm núi rơi thẳng xuống vực, lòng vô cùng ân hận: “Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, mi quả là một tên vô dụng! Thừa biết Chu Trường Linh là kẻ cực kỳ gian trá, vậy mà vừa gặp đã lại bị ông ta đánh lừa, mi thật đáng chết, đáng chết!”

Chàng tự rủa mình đáng chết, song thực ra khát khao được sống hơn bao giờ hết nên cố vận khí lưu thông trong cơ thể, nhảy ngược lên để giảm bớt sức rơi, may ra lúc tiếp đất sẽ không bị tan xương nát thịt. Nhưng đang ở trên không rơi xuống vùn vụt, đâu thể điều khiển được thân mình, cũng chẳng có chỗ nào để mượn lực, chàng chỉ thấy bên tai gió thổi ù ù, hai mắt nhức nhối, ánh sáng từ lớp tuyết trắng bên dưới đã hắt thẳng lên mắt.

Chàng biết sống hay chết hoàn toàn là ở phút này, thấy cách hơn một trượng có một đống tuyết lớn, lúc này cũng chả phân biệt nổi đó là tuyết hay đá trắng, đang ở trên không bèn lộn người ba vòng, nhắm đống tuyết ấy lao tới. Thân hình chàng rơi xéo thành đường vòng cung, chân trái chạm xuống đống tuyết, nghe “phụp” một tiếng, cả người rơi ngập vào đống tuyết. Môn Cửu dương thần công chàng khổ luyện năm năm qua giờ đây phát sinh uy lực, mượn sức đẩy lại của đống tuyết mà vọt người lên cao. Nhưng sức rơi từ trên cao vạn trượng xuống đây rất mạnh, chàng cảm thấy đùi đau nhói, cả hai xương đùi đều bị gãy.

Chàng bị thương tuy nặng, song thần trí vẫn tỉnh táo, thấy rơm cỏ bay tứ tung, hóa ra bên dưới đống tuyết là đám cỏ khô do nhà nông đánh đống. Chàng bất giác reo thầm: “May quá, hú vía. Nếu bên dưới không phải cỏ khô mà là đất đá, thì Trương Vô Kỵ ta coi như tiêu đời luôn rồi”.

Chàng dùng hai tay từ từ bò ra khỏi đống cỏ, lăn ra chỗ tuyết bằng, xem lại vết thương ở đùi, hít một hơi dài, giơ tay nắn lại chỗ xương đùi bị gãy, nghĩ thầm: “Ta phải nằm đây tối thiểu một tháng, may ra mới có thể đi lại được. Ở đây chẳng có gì ăn, đến phải dùng tay thay chân, chứ không lẽ cứ nằm một chỗ nhịn đói đến chết hay sao?”

Chàng lại nghĩ thầm: “Đống cỏ này của nhà nông tích trữ, vậy gần đây phải có người ở”. Chàng đã định kêu cứu thật to, song nghĩ lại: “Trên đời này kẻ ác quá nhiều, ta một mình nằm dưỡng thương trên bãi tuyết cũng được rồi. Nếu kêu lên mà bị kẻ ác tới, chẳng hóa ra càng thêm khốn khổ sao”. Thế là Vô Kỵ lặng lẽ nằm trên tuyết, chờ ngày xương đùi lành dần.

Nằm thế ba ngày, bụng đói sôi từng chập. Vô Kỵ biết rằng những ngày đầu tiếp cốt nhất thiết không được cử động, vì nếu chỗ gãy bị lệch đi, cả đời sẽ thành kẻ đi khập khiễng, thành thử dầu gì cũng cố nhịn, không dám động đậy, lúc đói quá hết chịu nổi thì bốc vài vốc tuyết nhai cho đỡ đói. Trong ba hôm đó, chàng chỉ nghĩ: “Từ nay trở đi, mọi việc trên đời ta phải cẩn thận từng chút một, không để cho kẻ ác đánh lừa nữa. Sau này chắc gì còn được may mắn, gặp đại nạn lại thoát chết như lần này”.

Đến chiều tối ngày thứ tư, chàng đang nằm yên vận công, cảm thấy đầu óc thư thái, thân xác nhẹ nhõm, vết thương ở đùi tuy nặng thật, song thần công đã luyện cũng giúp cho thương thế chuyển biến tốt khá nhanh.

Đang trong cảnh vắng lặng, chợt có mấy tiếng chó sủa từ xa vọng tới, càng lúc càng gần, rõ ràng là lũ chó đang đuổi theo một con dã thú nào đấy. Trương Vô Kỵ giật mình: “Không lẽ đó là lũ chó của Chu Cửu Chân nuôi? Ồ, bọn ác khuyển của nàng ta đã bị Chu Trường Linh đánh chết rồi, ừ mà mấy năm qua, có lẽ nàng ta lại nuôi bầy chó khác không chừng”.

Trương Vô Kỵ chăm chú nhìn bãi tuyết, thấy có một người đang chạy như bay, phía sau có ba con chó lớn vừa đuổi theo vừa sủa vang. Người kia rõ ràng đã hết hơi kiệt sức, hai chân loạng choạng, chạy vài bước lại ngã một cái, nhưng sợ nanh vuốt của lũ chó dữ nên vẫn phải chạy thục mạng. Trương Vô Kỵ nhớ lại mấy năm trước mình cũng bị bầy chó vây cắn khổ sở ngần nào, bất giác sôi máu lên.

Chàng muốn ra tay cứu người kia, khổ nỗi hai chân bị gãy, không thể xê dịch. Bỗng nghe người kia rú lên, ngã lăn ra, hai con chó dữ chồm lên người y. Trương Vô Kỵ giận dữ lên tiếng:

– Ác cẩu, lại đây coi!

Ba con chó nghe tiếng người, chạy tới đánh hơi thấy Trương Vô Kỵ không phải là người quen, sủa mấy tiếng rồi xông vào cắn.

Trương Vô Kỵ giơ ngón tay búng một cái vào mũi từng con, cả ba con ác khuyển cùng lăn lộn, chết liền. Chàng không ngờ chỉ một cái búng ngón tay đã dễ dàng giết chết tươi ba con chó thì không khỏi thầm kinh ngạc về uy lực của “Cửu dương thần công”.

Chàng nghe tiếng rên rỉ yếu ớt của người kia, bèn hỏi:

– Đại ca, lũ chó cắn đại ca nặng quá ư?

Người kia đáp:

– Tôi… tôi… chắc nguy… không sống…

Trương Vô Kỵ nói:

– Tôi bị gãy chân, không đi được. Đại ca cố bò lại đây, tôi xem vết thương cho.

Người kia nói:

– Vâng… vâng…

Y thở hổn hển, cố lết tới, lết một đoạn ngắn lại dừng nghỉ, lúc còn cách Trương Vô Kỵ hơn một trượng, bỗng kêu “Ối” một tiếng, rồi gục xuống bất động.

Đôi bên cách nhau một đoạn như thế, người này không bò tiếp nổi, người kia thì phải nằm yên. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Đại ca bị thương ở chỗ nào?

Người kia đáp:

– Tôi… bị ở ngực… ở bụng… chó cắn lòi ruột…

Trương Vô Kỵ lo lắng, biết rằng người kia đã bị chó cắn lòi ruột ra như thế thì chắc không sống nổi, chỉ hỏi thêm:

– Vì sao lũ chó dữ lại đuổi đại ca?

Người kia đáp:

– Tôi… ban đêm ra… đuổi heo rừng phá rẫy, gặp đại tiểu thư nhà họ Chu… nói chuyện với một công tử dưới gốc cây, dại dột… tới gần xem sao… tôi… ối!

Y kêu to một tiếng, rồi im luôn.

Tuy y nói chưa hết câu, song Trương Vô Kỵ mười phần cũng đoán được tám chín, hẳn là Chu Cửu Chân và Vệ Bích hẹn hò gặp nhau ban đêm, bị người nông phu kia bắt gặp, Chu Cửu Chân bèn thả chó dữ ra cắn chết y. Trương Vô Kỵ đang tức giận, bỗng có tiếng vó ngựa từ xa phi tới, tiếng người huýt sáo liên tiếp, chính là Chu Cửu Chân gọi bầy ác khuyển.

Trong giây lát, hai người một nam một nữ phi ngựa tới, giọng nữ kêu lên:

– Ồ, sao các Bình Tây tướng quân lại chết cả thế này?

Giọng nói ấy chính là Chu Cửu Chân. Lũ chó nàng ta nuôi đều được phong danh hiệu tướng quân chẳng khác gì ngày trước. Kẻ đi cùng chính là Vệ Bích. Hắn xuống ngựa, lạ lùng nói:

– Có hai người nằm chết ở đây này!

Trương Vô Kỵ định bụng: “Nếu các ngươi tới hại ta, chắc ta sẽ phải thẳng tay với các ngươi”.

Chu Cửu Chân thấy người nông phu vỡ bụng lòi ruột, chết trông ghê rợn, còn Trương Vô Kỵ quần áo rách bươm, đầu bù tóc rối, râu lồm xồm nằm bất động trên mặt tuyết, xem ra cũng bị chó cắn chết rồi. Nàng ta không muốn ở đây thêm kẻo lỡ mất thời gian tình tự với Vệ Bích, bèn giục:

– Biểu ca, đi thôi! Hai gã nông phu kia trước khi chết còn liều mạng hạ sát mất ba viên tướng của muội.

Nàng ta quay ngựa, phóng về phía tây. Vệ Bích thấy ba con chó đã chết cả, trong bụng hơi lấy làm lạ, nhưng Chu Cửu Chân đã giục ngựa đi xa rồi, hắn cũng chẳng xét kỹ nữa, nhảy lên ngựa phóng theo.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng cười trong trẻo của Chu Cửu Chân từ xa vọng lại văng vẳng, chàng vừa buồn vừa giận. Năm năm trước, chàng yêu kính Chu Cửu Chân khác gì tiên nữ, chỉ cần nàng ta ra lệnh, bảo chàng nhảy vào rừng đao chảo lửa, chàng cũng không chút do dự. Hôm nay gặp lại, không hiểu vì sao chàng chỉ thấy dửng dưng, nàng ta chẳng còn sức quyến rũ đối với chàng như trước đây nữa. Trương Vô Kỵ đoán chắc là vì chàng đã tu luyện Cửu dương chân kinh, hoặc vì chàng đã phát giác gian kế của cô ả đối với mình. Chàng đâu biết rằng tất cả nam nhân trên thế gian phần lớn đều vướng vào mối tình si ban đầu, say mê một thiếu nữ đến quên ăn quên ngủ, bất kể sống chết. Nhưng rồi tình đầu mau tan, về sau nhớ lại niềm si mê thuở nào, không khỏi tự cười thầm.

Lúc này bụng chàng quá đói, cứ sôi lên ùng ục, chàng chỉ muốn xé một cái đùi chó mà ăn tươi nuốt sống. Nhưng chàng sợ Chu Cửu Chân và Vệ Bích quay trở lại, phát hiện chàng còn sống, lại ăn thịt tướng quân của nàng ta, dĩ nhiên sẽ tức giận hành hung; chàng đang bị gãy chân thế này, chưa chắc chống cự nổi.

Sáng sớm hôm sau, một con chim kên kên thấy dưới đất có người chết, chó chết, lượn mấy vòng trên không, rồi sà xuống rỉa thịt. Con chim này chắc tới số, người chết chó chết chẳng ăn, lại mổ ngay vào mặt Trương Vô Kỵ. Chàng chộp luôn cổ nó, bóp nhẹ một cái là nó chết liền, vui mừng nói:

– Đúng là bữa điểm tâm từ trên trời rơi xuống.

Chàng vặt sạch lông con kên kên, xé đùi nó ra nhai, tuy là thịt sống, nhưng nhịn đói đã ba ngày liền nên ăn cũng thấy ngon lành.

Chàng chưa ăn hết con chim thứ nhất, con thứ hai đã bay tới. Cũng nhờ thế mà Trương Vô Kỵ có thịt chim để ăn, nằm trên tuyết dưỡng thương, đợi xương đùi liền lại.

Mấy ngày liền ở chốn đồng không mông quạnh này, không ai lai vãng. Cạnh Trương Vô Kỵ là ba con chó chết, một xác người, cũng may đang giữa mùa đông, khí trời lạnh giá, xác chết không thối rữa, cảnh sống tĩnh mịch một mình chàng đã quá quen, nên không cho là khổ.

Chiều hôm ấy, chàng đang vận nội công, thấy trên đầu có hai con chim kên kên lượn qua lượn lại rất lâu vẫn không dám đáp xuống. Rồi một con sà xuống cách Trương Vô Kỵ chừng ba thước, lại chuyển hướng bay vút lên, dáng dấp xoay mình thật đẹp mắt. Chàng bỗng nhiên nghĩ thầm: “Cái lối xoay mình này, nếu vận dụng vào võ công thì lúc ta tấn công đối phương sẽ khó bề phòng bị, dù ra đòn không trúng thì mình cũng đã vọt ra xa, kẻ địch chẳng kịp trả đòn”.

“Cửu dương chân kinh” mà chàng tu luyện chỉ liên hệ tới nội công và yếu chỉ võ học, còn về chiêu số tấn công phòng thủ thì nửa chiêu cũng không nhắc tới. Bởi thế năm xưa Giác Viễn đại sư tuy đã luyện thành thần công, song khi bị Tiêu Tương Tử và Hà Túc Đạo tấn công thì chân tay ngài lại luống cuống, hoàn toàn không biết cách chống đỡ. Trương Tam Phong cũng nhờ Dương Quá dạy cho bốn chiêu mới đối phó được với Doãn Khắc Tây. Trương Vô Kỵ từ nhỏ đã học võ công, căn cơ hơn hẳn Giác Viễn và Trương Tam Phong hồi trẻ, song Tạ Tốn dạy cho chàng chỉ toàn là các yếu quyết quyền thuật, không có lấy một chiêu thức thực dụng nào cả.

Trương Vô Kỵ lúc này đã hiểu rõ nỗi khổ tâm của nghĩa phụ, Tạ Tốn đầy thân võ công bác đại tinh thâm, nếu cứ dạy tuần tự từng bước một, thì dạy hai chục năm chưa chắc đã hết, thấy thời gian ở bên nhau không nhiều, nên Tạ Tốn chỉ truyền thụ cho Vô Kỵ phải nhớ mọi yếu quyết của võ công thượng thừa, sau này tự mình thực hành mà hiểu ra. Quyền thuật thực sự mà Trương Vô Kỵ học được chỉ có ba mươi hai thế Võ Đang trường quyền do cha chàng dạy cho khi lênh đênh trên bè gỗ. Chàng biết rằng từ nay ngoài việc tiếp tục tham tập Cửu dương thần công, muốn tinh tiến thì chàng phải làm sao dung hợp được nội công thượng thừa đã luyện thành với võ công. Do đó, mỗi khi nhìn cánh hoa rơi xuống đất, cây lạ chĩa cành lên trời, cả đến động tác của loài chim loài thú, sự biến đổi của gió của mây, Vô Kỵ đều liên tưởng đến chiêu số võ công.

Lúc này Trương Vô Kỵ chăm chú quan sát hai con chim kên kên lượn vòng, sà xuống vút lên với các tư thế khác nhau, đang mải ngắm, bỗng nghe có tiếng chân người từ phía xa đi tới, bước chân nhẹ nhàng, xem chừng là một nữ nhân.

Trương Vô Kỵ ngoảnh đầu lại, thấy một thôn nữ tay xách chiếc làn tre, xăm xăm đi tới. Thôn nữ thấy có xác người chết, chó chết ở trên tuyết, kêu “ủa” một tiếng, ngạc nhiên dừng bước. Trương Vô Kỵ nhìn kỹ, thấy nàng ta tuổi chừng mười bảy mười tám, áo vải trâm gai, là con nhà nghèo; mặt mũi đen đủi, sưng u từng cục, diện mạo xấu xí, chỉ riêng đôi mắt là có hồn, thân hình thon thả.

Thôn nữ tới gần Trương Vô Kỵ, nhìn chằm chằm, hơi ngạc nhiên, hỏi:

– Đằng ấy… chưa chết à?

Trương Vô Kỵ nói:

– Xem ra chưa chết.

Người hỏi đã không thông, người đáp càng ngộ nghĩnh, hai bên cùng nghĩ thế thì không nhịn được cùng bật cười. Thôn nữ nói:

– Đằng ấy chưa chết, nằm thẳng cẳng ở đây, khiến ta giật mình.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta bị rơi từ trên núi xuống, gãy cả hai chân, nên phải nằm ở đây.

Thôn nữ hỏi:

– Người kia cùng đi với đằng ấy à? Sao lại có ba con chó chết?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Ba con chó kia ác quá, cắn chết anh kia, nhưng chúng nó cũng chết luôn.

Thôn nữ nói:

– Đằng ấy nằm đây rồi sống bằng gì? Có đói bụng không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Dĩ nhiên là đói, nhưng ta không được cử động, đành nằm một chỗ chờ vậy.

Thôn nữ mỉm cười, lấy trong làn ra hai cái bánh bao đưa cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:

– Đa tạ cô nương.

Chàng nhận bánh, song chưa ăn. Thôn nữ hỏi:

– Ngươi sợ bánh của ta tẩm thuốc độc hay sao mà không ăn?

Trương Vô Kỵ hơn năm năm qua chỉ đôi lần nói chuyện vài câu với Chu Trường Linh trong hang núi, chả có ý vị gì cả; ngoài ra chưa có dịp trò chuyện với ai nửa lời, bây giờ thấy thôn nữ này tuy hình dạng xấu xí, nhưng nói năng có duyên, thì trong bụng vui thích, đáp:

– Vì là bánh của người cho, nên ta còn tiếc chưa nỡ ăn ngay.

Câu này có vài phần đùa cợt, chàng vốn ăn nói thật thà, chưa bao giờ biết đùa lém lỉnh, nay trước mặt thôn nữ chàng cảm thấy thoải mái tự nhiên, không hiểu sao tự dưng buột miệng nói như thế.

Thôn nữ nghe vậy tức thì sầm mặt, hứ một tiếng. Trương Vô Kỵ hối hận, vội đưa bánh lên miệng ăn luôn, nhưng vì ăn hấp tấp nên bị nghẹn ở cổ, ho sù sụ.

Thôn nữ đổi giận làm vui, nói:

– Trời đất, đáng kiếp cái đồ tham ăn! Đã xấu như ma mà bụng dạ còn không tốt, hèn gì ông Trời chẳng phạt cho què. Ai đời người khác không sao, riêng đằng ấy lại bị gãy cả hai chân như thế?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ta năm năm nay không chải đầu cạo râu, chắc là xấu như ma thật, nhưng nàng cũng đẹp đẽ gì cho cam, hai ta tám lạng nửa cân như nhau, chuột chù lại còn chê khỉ rằng hôi”. Vô Kỵ nghĩ thế nhưng đâu dám nói ra, chỉ nghiêm mặt nói:

– Ta nằm đây đã chín ngày, may gặp cô nương đi qua, được cô nương cho bánh, xin đa tạ.

Thôn nữ bĩu môi cười:

– Ta hỏi, sao người khác không gãy chân, chỉ mình đằng ấy bị gãy cẳng? Đằng ấy không trả lời, vậy ta đòi lại bánh đấy.

Trương Vô Kỵ thấy nàng ta chúm chím cười, ánh mắt lộ rõ vẻ tinh quái, bất giác rung động trong lòng: “Ánh mắt nàng sao lại giống mẫu thân ta đến thế. Lúc sắp chết, mẫu thân ta đánh lừa lão hòa thượng Thiếu Lâm tự, ánh mắt của mẫu thân cũng hệt như thế này”. Nghĩ vậy, nước mắt chàng ứa ra.

Thôn nữ “ồ” một tiếng, nói:

– Ta không đòi lại bánh đâu, thôi đừng khóc. Thì ra đằng ấy là một gã khờ vô tích sự.

Trương Vô Kỵ nói:

– Không phải ta sợ nàng đòi lại bánh, mà ta chợt nhớ lại một chuyện riêng.

Thôn nữ vốn đã quay mình đi được hai bước, nghe thế bèn dừng lại, ngoảnh đầu hỏi:

– Chuyện riêng gì vậy? Một gã khờ như đằng ấy mà cũng có tâm sự ư?

Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

– Ta nhớ đến thân mẫu quá cố của ta.

Thôn nữ cười to, hỏi:

– Trước kia thân mẫu đằng ấy hay cho đằng ấy ăn bánh chứ gì?

Trương Vô Kỵ nói:

– Mẫu thân ta thường cho ta ăn bánh đã đành, nhưng ta nhớ mẹ vì khi nàng cười trông giống mẫu thân ta hết sức.

Thôn nữ tức giận:

– Đồ chết toi! Bộ ta già lắm sao? Già bằng mẫu thân của ngươi ư?

Nói đoạn nhặt một que củi dưới đất lên, quật hai cái vào người Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ muốn cướp que củi đó quá dễ dàng, nhưng chàng nghĩ thầm: “Nàng ta đâu biết mẫu thân trẻ trung xinh đẹp, tưởng đâu mẫu tử mình xấu xí như nhau, nên tức giận cũng phải;” chàng để nàng ta đánh xong hai cái, mới nói:

– Khi mẫu thân ta qua đời, diện mạo người trẻ đẹp vô cùng.

Thôn nữ xịu mặt, nói:

– Ngươi chê ta xấu xí, bộ không thiết sống nữa hả? Để ta kéo chân ngươi cho biết tay!

Nói xong nàng ta liền cúi xuống, làm như sắp kéo chân Vô Kỵ vậy. Trương Vô Kỵ cả kinh, xương đùi của chàng bị gãy, đang liền lại, nếu để cho nàng ta kéo một cái thì bao nhiêu công lao giữ gìn chỉ chớp mắt là mất tiêu. Thế là chàng vốc một nắm tuyết, đợi nếu nàng ta đưa tay đụng tới chân mình thì chàng sẽ lập tức búng tuyết vào huyệt đạo ở mi tâm khiến nàng ta bất tỉnh tại trận.

Cũng may thôn nữ chỉ dọa thôi, thấy chàng hoảng hốt, liền nói:

– Nhìn ngươi sợ hết hồn kìa, ai bảo ngươi dám trêu ta?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta mà có ý trêu tức cô nương thì cả hai chân ta sau khi lành sẽ gãy lại, vĩnh viễn không khỏi, cả đời sẽ thành thằng què.

Thôn nữ cười hì hì, nói:

– Vậy được rồi!

Nàng ngồi xuống bên Trương Vô Kỵ, nói:

– Mẫu thân đằng ấy là người xinh đẹp, sao lại đem ví với ta, chẳng lẽ trông ta cũng dễ coi ư?

Trương Vô Kỵ thừ người, nói:

– Ta cũng chả biết vì sao, chỉ cảm thấy nàng rất giống mẫu thân ta. Tuy nàng không xinh đẹp như mẫu thân, song ta thích ngắm nàng.

Thôn nữ cong ngón tay giữa, gõ nhẹ vào trán chàng hai cái, cười:

– Con ngoan ơi, vậy hãy gọi ta là mẫu thân đi nào!

Nói xong, lập tức cảm thấy bất nhã, vội bịt miệng quay mặt đi, nhưng vẫn không nhịn được cười.

Trương Vô Kỵ nhìn thần thái của thôn nữ, nhớ hồi ở Băng Hỏa đảo, mẹ mình lúc nói đùa với cha, mỗi khi lỡ lời cũng có bộ dạng như thế, chàng chợt thấy thôn nữ này thanh nhã dễ thương, không còn gì dáng vẻ khó coi nữa nên cứ đăm đăm nhìn nàng.

Thôn nữ ngoảnh lại thấy Trương Vô Kỵ đang ngây ra nhìn mình, cười hỏi:

– Huynh tại sao lại thích ngắm muội, nói muội nghe coi.

Trương Vô Kỵ ngẩn người hồi lâu, lắc đầu:

– Ta không biết nói sao. Ta chỉ cảm thấy mỗi khi ngắm nàng, trong lòng ta thật thư thái bình an, nàng đối với ta rất tốt, không ăn hiếp, cũng không hại ta.

Thôn nữ cười:

– Ha ha, huynh tưởng lầm rồi đó, muội bình sinh rất thích hại người.

Đột nhiên thôn nữ cầm que củi trong tay quật vào đùi chàng hai cái, rồi nhỏm dậy đi liền. Hai cái quật ấy đánh đúng vào chỗ gãy xương, Trương Vô Kỵ bị bất ngờ, kêu tướng lên Ối cha!” Chỉ thấy nàng ta cười khanh khách, ngoảnh đầu lại, nhăn mặt trêu chàng.

Trương Vô Kỵ nhìn theo nàng ta xa dần, chỗ gãy xương đau không chịu nổi, chàng nghĩ thầm: “Thì ra nữ nhân đều thích hại người, mỹ nữ đã đành, ngay cả xú nữ cũng làm cho ta đau khổ”.

Đêm ấy trong giấc ngủ, mấy lần Vô Kỵ mơ thấy thôn nữ này, cũng mấy lần mơ thấy mẫu thân mình, cuối cùng mơ lẫn lộn thấy mẫu thân là thôn nữ. Trong giấc mơ chàng không nhìn rõ nàng ta xấu hay đẹp, chỉ thấy rõ đôi mắt đen láy vừa tinh quái vừa trìu mến nhìn mình. Chàng nằm mơ hồi nhỏ, mẫu thân thường đùa nghịch với chàng, cố ý ngáng chân cho chàng ngã, khiến chàng đau quá khóc ré lên, mẫu thân mới ôm chàng mà hôn hít tới tấp, luôn miệng nói:

– Nín đi con, ôi mẹ làm đau con của mẹ rồi!

Đột nhiên chàng tỉnh giấc, trong đầu bỗng nảy sinh một câu hỏi mà chàng chưa bao giờ nghĩ tới: “Sao mẹ ta lại thích làm khổ người khác? Đôi mắt của nghĩa phụ là do mẹ ta bắn mù, Du tam bá là do mẹ ta làm cho tàn phế, toàn gia của tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An cũng do một tay mẹ ta giết hại, rốt cuộc mẹ ta là người tốt hay kẻ xấu?”

Chàng ngước nhìn các ngôi sao trên trời, nhìn một hồi thật lâu, rồi thở dài, nói:

– Bất kể là tốt hay xấu, cũng vẫn là mẫu thân ta.

Chàng lại nghĩ tiếp: “Nếu mẫu thân ta còn sống đến bây giờ, không biết ta sẽ yêu bà đến mức nào”.

Chàng nghĩ về cô thôn nữ kia, tự dưng vô cớ nàng ta lại quật que củi vào chân chàng: “Mình không hề đắc tội với nàng ta, cớ sao nàng ta phải làm cho mình đau đớn kêu toáng lên mới hả dạ? Không lẽ nàng ta quả thật thích hại người?” Chàng rất mong nàng ta trở lại, nhưng lại sợ nàng ta nghĩ ra trò quái ác để hại mình. Chàng sờ thấy bên mình cái bánh ăn dở, nhớ đến câu nói của nàng ta “Mẫu thân đằng ấy là người xinh đẹp, sao lại đem ví với ta, chẳng lẽ trông ta cũng dễ coi ư?” Chàng không nhịn được, bèn lẩm bẩm:

– Phải, nàng dễ coi, ta thích ngắm nàng.

Chàng nằm đó nghĩ vơ nghĩ vẩn hết hai ngày, vẫn không thấy thôn nữ kia quay lại. Trương Vô Kỵ nghĩ bụng chắc nàng ta không bao giờ đến nữa. Nào ngờ đến chiều ngày thứ ba, thôn nữ lại xách cái làn tre, từ phía sau dốc núi đi tới, cười nói:

– Gã quỷ sứ kia, vẫn chưa chết đói đấy chứ?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

– Chết đói già nửa, còn sống non nửa thôi.

Thôn nữ cười hì hì ngồi xuống bên cạnh, đột nhiên giơ chân đá vào đùi chàng, hỏi:

– Thế chỗ này là nửa chết hay nửa sống?

Trương Vô Kỵ kêu to:

– Ối đau! Cô nương không có lương tâm hay sao vậy?

Thôn nữ nói:

– Lương với chả tâm, ngươi thì tử tế gì với ta nào?

Trương Vô Kỵ ngẩn ra, nói:

– Ba hôm trước, cô nương đánh ta đau quá, nhưng ta không giận cô nương đâu, hai ngày qua ta vẫn luôn nhớ cô nương đó.

Thôn nữ đỏ mặt, đã định nổi giận, nhưng cố nén lại, nói:

– Ai cần kẻ xấu như ma nhà ngươi nhớ ta kia chứ? Chắc ngươi chẳng nghĩ tốt gì về ta, thầm rủa ta vừa xấu vừa ác chứ gì?

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô nương hoàn toàn không xấu, nhưng tại sao cứ phải làm cho người ta khổ sở, cô nương mới vui thích?

Thôn nữ cười khanh khách nói:

– Kẻ khác không khổ sở, làm sao hiện rõ cái vui trong lòng ta được?

Nàng ta thấy vẻ mặt Trương Vô Kỵ dường như không hiểu điều đó, lại thấy tay chàng vẫn còn cầm cái bánh ăn dở bữa trước, ba hôm rồi vẫn còn đó, bèn hỏi:

– Miếng bánh vẫn còn nguyên, chắc thấy không ngon chứ gì?

Trương Vô Kỵ nói:

– Vì là bánh cô nương cho nên ta không nỡ ăn.

Ba hôm trước chàng đã nói câu này, nhưng quá nửa có ý đùa cợt, còn bây giờ nói ra là hoàn toàn thành thực.

Thôn nữ biết đó không phải là lời đãi bôi, hơi e thẹn, nói:

– Muội có đem bánh mới hấp tới đây.

Nói xong lấy trong làn ra nhiều thức ăn, ngoài bánh bao còn có một con gà luộc, một đùi dê thui.

Trương Vô Kỵ cả mừng, mười mấy hôm rồi chỉ ăn thịt chim sống, máu ròng ròng, vừa tanh vừa dai, con gà luộc này thơm phức, cầm còn thấy ấm, ăn vào miệng ngon lạ thường.

Thôn nữ thấy chàng ăn ngon lành, chỉ ngồi ôm gối cười hì hì, nói:

– Gã ma quái này, trông huynh ăn mà muội mát cả ruột. Muội đối với huynh hình như có điểm khác người, không cần hại huynh mà muội vẫn thấy vui.

Trương Vô Kỵ nói:

– Người khác vui, cô nương cũng vui, như thế mới thật là vui.

Thôn nữ cười khẩy:

– Muội phải nói trước với huynh, lúc này muội đang vui nên không hại huynh. Hôm khác muội không vui, không chừng sẽ làm cho huynh sống dở chết dở đấy, lúc đó đừng có trách muội.

Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:

– Ta từ nhỏ đã quen bị người ta hành hạ, càng bị hành hạ, ta càng cứng cỏi thêm.

Thôn nữ cười lạnh lùng:

– Thôi đừng nói trước, đợi đến lúc ấy sẽ biết.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đợi khi chân ta lành rồi, ta sẽ cao chạy xa bay, cô nương có muốn hành hạ hay muốn hại ta thì cũng chẳng tìm được ta nữa.

Thôn nữ nói:

– Đã vậy, muội đánh gãy chân huynh trước, để huynh suốt đời không chạy xa muội được.

Trương Vô Kỵ nghe giọng nói lạnh như băng của thôn nữ, không khỏi rùng mình, tin rằng nàng ta đã nói là làm, hoàn toàn không phải thuận miệng nói suông.

Thôn nữ chăm chú nhìn chàng, lại thở dài, vẻ mặt đột nhiên thay đổi, gằn giọng hỏi:

– Gã quỷ quái kia, ngươi có chịu để ta đánh gãy đôi cẳng chó của ngươi hay không?

Nói xong nàng ta đứng dậy giật lại con gà luộc chàng đang ăn dở, cái đùi dê, mấy chiếc bánh bao mà quẳng ra xa, lại còn định nhổ một bãi nước miếng vào mặt chàng.

Trương Vô Kỵ sững sờ nhìn thôn nữ, chỉ cảm thấy nàng ta dường như không phải nổi giận, cũng không phải khinh miệt chàng mà vẻ mặt quá ư thiểu não, hẳn trong lòng có chuyện gì uất ức lắm. Chàng định an ủi nàng ta vài câu, song nhất thời chưa biết nói sao cho hợp.

Thôn nữ thấy vẻ mặt của chàng như vậy thì không nhổ nữa, quát:

– Gã quái quỷ kia, ngươi nghĩ gì vậy?

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô nương, vì sao cô nương không vui như thế? Nói cho ta nghe đi, được chăng?

Thôn nữ nghe giọng nói dịu dàng của Vô Kỵ, không tức giận nữa, ngồi bệt xuống cạnh chàng, hai tay ôm đầu khóc nức nở.

Trương Vô Kỵ nhìn bờ vai nàng ta rung rung, cái eo thon thả trông thật đáng thương, thì dịu giọng nói nhỏ:

– Cô nương, kẻ nào ăn hiếp cô nương? Chờ khi chân ta lành rồi, ta sẽ làm cho cô nương hả dạ.

Thôn nữ nhất thời chưa nín được, lát sau mới nói:

– Không ai ăn hiếp muội cả, chỉ là cái số muội khổ sở đấy thôi! Muội ngu lắm, cứ nghĩ đến một người, không sao quên y được.

Trương Vô Kỵ gật đầu, nói:

– Chắc là một chàng trai chứ gì? Hắn đối xử với cô nương tệ lắm ư?

Thôn nữ đáp:

– Đúng thế, chàng ta rất anh tuấn, song cũng kiêu ngạo vô cùng. Muội bảo y đi theo muội, suốt đời ở bên muội, y không chịu thì thôi, lại còn mắng chửi muội, đánh muội, cắn muội máu chảy dầm dề khắp người.

Trương Vô Kỵ giận dữ nói:

– Con người ngang ngạnh vô lý như hắn, từ rày cô nương đừng thèm để ý tới nữa!

Thôn nữ ứa nước mắt, nói:

– Nhưng… nhưng lòng muội không sao quên được y! y bỏ đi xa mất tăm, muội tìm kiếm khắp nơi vẫn không thấy.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Chuyện tình ái nam nữ, ép uổng sao được. Cô nương này tuy dung mạo xấu xí, nhưng rõ ràng là người chí tình. Tính nết nàng ta có điểm kỳ quái, chẳng qua là vì trong lòng đau khổ, thất tình. Không ngờ chàng trai nọ lại đối xử với nàng ta tàn nhẫn như thế”. Chàng dịu dàng nói:

– Cô nương đừng buồn nữa, thiên hạ thiếu gì người tử tế, hà tất cứ phải thương nhớ một kẻ tàn nhẫn vô lương tâm như thế?

Thôn nữ thở dài, mắt nhìn xa xăm, thừ người hồi lâu. Trương Vô Kỵ biết nàng ta không sao quên được tình lang, bèn nói:

– Hắn chẳng qua chỉ mắng chửi và đánh đập cô nương, chứ tình cảnh ta phải chịu còn đáng buồn gấp mười lần thế.

Thôn nữ hỏi:

– Như thế nào? Huynh bị một cô nàng xinh đẹp lừa dối à?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kể ra nàng ta cũng không phải có ý lừa dối ta, chỉ vì chính ta ngớ ngẩn, thấy nàng ta quá xinh đẹp nên ngơ ngẩn si mê. Chứ thực sự ta làm sao xứng đôi với nàng ta kia chứ? Ta chưa bao giờ hoang tưởng chuyện đó. Thế nhưng hai cha con nàng ta đã lén bày độc kế, hãm hại ta không sao kể xiết.

Nói đoạn chàng vén tay áo chỉ cho thôn nữ thấy các vết sẹo nhằng nhịt trên cánh tay mình, nói:

– Đây là các vết răng, đều do đàn chó dữ của nàng ta cắn đấy.

Thôn nữ nhìn các vết sẹo, đột nhiên nổi giận, nói:

– Có phải là ả Chu Cửu Chân hại huynh không?

Trương Vô Kỵ kinh ngạc:

– Làm sao cô nương biết?

Thôn nữ đáp:

– Cô ả ấy thích nuôi chó dữ, vài trăm dặm quanh đây ai chẳng biết.

Trương Vô Kỵ gật đầu, thản nhiên nói:

– Đúng là Chu Cửu Chân cô nương. Nhưng các vết thương này cũng lành từ lâu rồi, ta không còn thấy đau đớn gì nữa, chỉ tự chủ cũng may là mình không chết, nên cũng chẳng hận nàng ta.

Thôn nữ chăm chú nhìn Vô Kỵ, thấy vẻ mặt chàng ôn hòa, an nhiên tự tại thì trong bụng hơi lạ, hỏi:

– Vậy tên huynh là gì? Cớ sao lại lạc tới đây?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Từ khi mình trở về Trung thổ, ai ai cũng muốn mình tiết lộ chỗ ở của nghĩa phụ Tạ Tốn, hoặc đe dọa ép buộc, hoặc dụ dỗ, đánh lừa, thôi thì đủ mọi thủ đoạn, khiến mình phải chịu bao nhiêu là đau khổ. Từ nay trở đi, ba tiếng Trương Vô Kỵ coi như chết rồi, trên thế gian không còn ai biết Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ở nơi nào nữa. Nếu sau này mình có gặp một kẻ lợi hại gấp mười lần Chu Trường Linh chăng nữa, mình cũng không sợ bị rơi vào bẫy của hắn, khỏi vô tình làm hại nghĩa phụ”. Nghĩ vậy, Vô Kỵ đáp:

– Ta là A Ngưu[66].

Thôn nữ mỉm cười:

– Vậy còn họ là gì?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mình nói họ Trương, họ Ân, họ Tạ đều không ổn, thôi thì nói lái hai chữ Trương, Ân thành Tăng”, bèn đáp:

– Ta họ Tăng, còn cô nương họ gì?

Thôn nữ rùng mình, nói:

– Muội không có họ.

Lát sau, nàng thong thả kể:

– Cha muội không cần muội, tìm thấy muội sẽ giết liền, làm sao muội có thể mang họ cha? Mẹ của muội thì do muội làm hại mà chết, muội cũng chẳng thể mang họ mẹ. Trời sinh muội xấu xí, huynh cứ gọi muội là Xú cô nương cho xong chuyện.

Trương Vô Kỵ kinh hãi:

– Cô nương… cô nương làm cho mẹ phải chết ư? Vì đâu nên nỗi?

Thôn nữ thở dài, nói:

– Chuyện này kể ra dài lắm. Mẹ của muội nguyên là vợ cả của cha muội, mãi không sinh con; cha muội bèn lấy vợ hai. Vợ hai sinh được hai người anh muội, nên cha muội cưng chiều bà ta lắm. Sau mẹ muội sinh ra muội, nhưng lại là con gái. Bà vợ hai ỷ được cha muội cưng chiều, luôn luôn lấn át mẹ muội. Hai người anh của muội cũng ghê gớm, cứ về hùa với mẹ hành hạ mẹ muội. Mẹ muội chỉ biết nuốt lệ khóc thầm. Huynh bảo muội phải làm sao chứ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Cha của cô nương phải đứng giữa đối xử cho công bằng mới phải.

Thôn nữ nói:

– Đằng này ông ta lại bênh vợ hai, muội tức quá hết chịu nổi, bèn giết luôn mụ dì ghẻ.

Trương Vô Kỵ kinh hãi kêu “Trời đất!” Chàng nghĩ, người trong giới võ lâm đánh nhau, giết nhau cũng là chuyện thường, đằng này một cô thôn nữ mà lại ra tay giết người thì quả thực không thể ngờ.

Thôn nữ nói:

– Mẹ muội thấy muội gây ra đại họa, vội đem muội trốn đi luôn. Hai người anh muội đuổi theo, định bắt muội đem về; mẹ muội không ngăn được, vì để cứu muội nên đã cứa cổ tự vẫn. Huynh coi, tính mạng của mẹ muội chẳng phải do muội làm hại là gì? Cha muội mà tìm thấy muội, hẳn sẽ giết muội ngay.

Nàng ta kể chuyện đó với giọng thản nhiên, không chút xúc động. Trương Vô Kỵ nghe mà trống ngực đập rộn lên, tự nhủ: “Mình tuy bất hạnh, cha mẹ mất cả, song cha mẹ mình lúc còn sống thương yêu nhau biết bao, mình luôn được cưng chìu, so với những gì cô nương này phải chịu xem ra mình còn may mắn hơn gấp trăm lần”. Nghĩ vậy, chàng bỗng cảm thấy đồng tình với thôn nữ, dịu giọng nói:

– Cô nương bỏ nhà đi lâu chưa? Bấy lâu nay chỉ một mình bơ vơ thôi ư?

Thôn nữ gật đầu. Trương Vô Kỵ lại hỏi:

– Thế cô nương tính đi đâu?

Thôn nữ nói:

– Muội cũng chả biết nữa, thế gian rộng lớn, đi đâu cũng được, miễn sao không phải chạm mặt cha và các anh muội là được.

Trương Vô Kỵ nổi hứng đồng bệnh tương liên, nói:

– Đợi chân ta lành rồi, ta sẽ cùng cô nương đi tìm cái… cái anh chàng nọ, hỏi xem hắn định thế nào với cô nương.

Thôn nữ nói:

– Lỡ y lại mắng chửi, lại cắn muội thì sao?

Trương Vô Kỵ hiên ngang đáp:

– Hừ, hắn dám động đến một sợi tóc của cô nương, ta quyết không để yên cho hắn.

Thôn nữ hỏi:

– Lỡ y chẳng thèm để mắt tới muội, chẳng buồn nhìn hoặc nói một lời thì sao?

Trương Vô Kỵ á khẩu vô ngôn, nghĩ thầm dẫu mình võ công cao cường đến mấy cũng chẳng tài gì ép buộc một chàng trai phải yêu một cô gái mà y không thích. Chàng thừ người hồi lâu, nói:

– Ta sẽ cố hết sức.

Thôn nữ đột nhiên cười ha hả, ôm bụng mà cười, tựa hồ nghe một chuyện quá tức cười.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Có gì đáng cười?

Thôn nữ nói:

– Cái gã quái quỷ kia, huynh là cái thá gì mà đòi làm thế? Hơn nữa, muội cũng đã tìm khắp nơi nhưng chẳng thấy y đâu, không rõ y còn sống hay chết. Huynh bảo sẽ cố hết sức, nhưng huynh có tài cán gì kia chứ? Ha ha, ha ha.

Trương Vô Kỵ vừa định mở miệng nói một câu, nhưng nghe nàng ta cười như thế, bỗng đỏ mặt, không nói ra lời. Thôn nữ nhìn chàng ngượng ngùng thì không cười nữa, hỏi:

– Huynh vừa định nói gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Cô nương cười ta, ta không nói nữa.

Thôn nữ lạnh lùng nói:

– Hừ, đằng nào muội cũng đã cười rồi, cùng lắm thì muội được cười thêm trận nữa, cũng chẳng chết ai.

Trương Vô Kỵ nói to:

– Ta có lòng tốt đối với cô nương, cô nương không nên cười ta như vậy.

Thôn nữ hỏi:

– Muội hỏi huynh, huynh vừa định nói gì với muội?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Cô nương bơ vơ, không nhà không cửa. Tình cảnh ta cũng vậy. Cha mẹ ta đều đã mất, anh chị em cũng chẳng có ai. Ta vốn định nói với cô nương là, nếu cái gã ác nhân kia không thèm lý đến cô nương, thì hai đứa mình làm bạn với nhau, ta có thể kể chuyện giúp cô nương giải sầu. Nhưng cô nương cười ta không xứng, ta đâu dám nói ra nữa.

Thôn nữ bực bội nói:

– Huynh dĩ nhiên không xứng! Gã ác nhân ấy so với huynh dễ coi gấp trăm lần, thông minh cũng gấp trăm lần. Muội ở đây nói chuyện vớ vẩn với huynh, thật phí cả lời.

Nói đoạn nàng ta đá tung đùi dê thịt gà trên tuyết, rồi ôm mặt chạy đi.

Trương Vô Kỵ tuy bị thôn nữ mắng nhiếc vô lý như thế, song chàng cũng chả giận, chỉ nghĩ thầm: “Nàng ta quả thật tội nghiệp, trong lòng đủ chuyện không vui, cũng chẳng đáng trách”.

Bỗng thấy thôn nữ chạy trở lại, mặt hầm hầm, nói:

– Này huynh, chắc huynh trong bụng không phục, cho rằng muội tướng mạo đã xấu xí, lại còn coi thường huynh, phải vậy không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

– Không phải thế, cô nương tướng mạo không thật dễ ưa, song ta vừa gặp đã thấy hợp bụng, nếu như cô nương không biến ra xấu xí, trước đây hẳn cũng…

Thôn nữ đột nhiên kêu lên:

– Sao… sao huynh biết trước đây muội không xấu xí thế này?

Trương Vô Kỵ nói:

– Mặt cô nương hôm nay, so với lần gặp trước có bị sưng hơn, nước da cũng sạm hơn, đủ biết không phải vốn dĩ như thế.

Thôn nữ sợ hãi nói:

– Muội… mấy hôm rồi không dám soi gương. Huynh bảo muội mỗi ngày một khó coi ư?

Trương Vô Kỵ dịu dàng nói:

– Con người ta chỉ cần có lòng tốt, diện mạo xấu đẹp đâu hệ trọng gì? Mẫu thân có dặn ta rằng nữ nhân càng đẹp, tâm địa càng đáng sợ, càng giỏi lừa người, dặn ta phải cẩn thận đề phòng.

Thôn nữ đâu còn bụng dạ nào nghe chuyện mẹ chàng dặn chàng những gì, sốt ruột hỏi:

– Muội hỏi huynh, lần trước huynh thấy muội chưa đến nỗi xấu như hôm nay, phải không?

Trương Vô Kỵ biết rằng chỉ cần “ừ” một tiếng là nàng ta sẽ rất đau lòng, thành thử chàng cứ ngẩn ra nhìn nàng ta, lòng tràn ngập thương cảm.

Thôn nữ thấy vẻ mặt của chàng như vậy, hiểu ngay câu trả lời là thế nào, liền ôm mặt khóc nức nở:

– Gã quỷ kia, ta hận ngươi, ta hận ngươi!

Rồi nàng ta chạy đi, lần thì không thấy quay lại nữa.

Trương Vô Kỵ lại nằm thêm hai ngày. Tối hôm đó có một con chó sói đánh hơi mò tới bên cạnh, bị chàng đấm một quyền chết tươi. Nó đã không được ăn gì, lại biến thành thức ăn trong bụng chàng.

Mấy ngày nữa, vết thương đã lành quá nửa, chắc độ mươi ngày tới là có thể đi lại như thường, Trương Vô Kỵ nghĩ đến cô thôn nữ đôi lần gặp gỡ rồi thôi, ngay cái tên cũng chưa kịp hỏi, lại nghĩ thầm: “Tại sao dung mạo nàng ta ngày một xấu đi nhỉ? Thật khó hiểu”. Chàng nghĩ mãi không ra, bèn gác chuyện đó sang một bên, mơ màng ngủ thiếp đi.

Ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe từ xa có tiếng chân mấy người đạp tuyết đi tới. Chàng lập tức tỉnh giấc, ngồi dậy nhìn về hướng đó.

Đêm nay trăng treo lưỡi liềm, dưới ánh sáng nhàn nhạt, chàng thấy có bảy người đi tới, người đi đầu hình dáng thon thả, dường như chính là cô thôn nữ. Khi bảy người kia tới gần, quả nhiên người ấy là cô thôn nữ xấu xí, sáu người phía sau tản ra thành hình cánh quạt, tựa hồ đề phòng nàng ta bỏ chạy. Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Không lẽ nàng ta đã bị cha và anh bắt được chăng?”

Chàng chưa nghĩ xong, thôn nữ và sáu kẻ theo sau đã tới gần. Trương Vô Kỵ vừa nhìn rõ thì vô cùng kinh hãi. Thì ra cả sáu người kia chàng đều biết cả, đi bên trái là Võ Liệt, Võ Thanh Anh, Vệ Bích; đi bên phải là vợ chồng Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn, ngoài cùng bên phải là một nữ nhân trung niên, chẳng ai xa lạ, chính là Đinh Mẫn Quân phái Nga Mi.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: “Tại sao thôn nữ lại quen với những người kia? Không lẽ nàng ta cũng là nhân vật trong võ lâm, biết được lai lịch của ta, nên dẫn bọn kia tới bắt ta, tra hỏi chỗ ở của nghĩa phụ?” Nghĩ thế, trong bụng Vô Kỵ không còn hoài nghi, cả giận: “Ta với nàng không thù không oán, tại sao nàng cũng đến hại ta! Hiện giờ hai chân ta chưa thể cử động, sáu kẻ kia chẳng ai non kém cả, mà cô thôn nữ không chừng cũng giỏi võ công. Ta đành nhất thời khuất phục, nhận lời đi tìm nghĩa phụ; đợi khi hai chân lành hẳn, ta sẽ thanh toán từng tên một”.

Nếu là năm năm trước, chàng sẽ chỉ đem tính mệnh ra thí bỏ, mặc kệ đối phương hành hạ ép buộc thế nào cũng quyết cắn răng không nói. Còn bây giờ một là chàng đã khôn lớn, hai là sau khi luyện thành Cửu dương chân kinh thì thần trí sáng suốt, bình tĩnh, gặp nguy nan biết cách ứng phó, dù cường địch trước mặt cũng không run sợ chút nào. Có điều chàng không ngờ cô thôn nữ kia lại đem bán đứng chàng như thế, nên vừa tức giận vừa hơi đau lòng; bèn nằm xuống, gối đầu lên tay, chẳng buồn để ý tới bảy người kia.

Thôn nữ tới trước mặt chàng, chăm chú nhìn một hồi rồi thong thả quay đi. Trương Vô Kỵ nghe tiếng nàng ta thở dài, tuy rất nhẹ, nhưng đầy vẻ đau buồn. Chàng cười thầm: “Không biết bụng dạ ngươi tính chuyện ác độc gì, lại còn giả bộ thương cảm ta nữa chứ?”

Chỉ thấy Vệ Bích rung thanh kiếm một cái, miệng cười khẩy nói:

– Ngươi bảo trước khi chết muốn được gặp một người, ta cứ ngỡ đó phải là một thiếu niên anh tuấn như Phan An, hóa ra lại là một kẻ xấu như ma, ha ha, thật quá tức cười! Gã kia với ngươi quả là duyên trời sắp đặt, nồi nào vung nấy.

Thôn nữ không hề tức giận, chỉ thản nhiên nói:

– Đúng thế, ta trước khi chết chỉ mong nhìn chàng một lần cuối. Ta chỉ muốn hỏi rõ chàng một câu, ta nghe trả lời xong, có chết cũng cam lòng.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc, chưa hiểu ra ý tứ hai người kia, đã nghe thôn nữ nói:

– Muội có một câu muốn hỏi huynh, huynh hãy trả lời cho thật bụng nghe chưa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nếu là chuyện của ta, thì ta nói thật, nói rõ; còn là chuyện của người khác, ta không dễ gì nói đâu.

Chàng ngỡ thôn nữ sẽ hỏi chỗ ở của Tạ Tốn, nên đã tính cách đối phó với bọn họ, trả lời nước đôi để còn có chỗ xoay xở sau này.

Thôn nữ nói:

– Chuyện của người khác thì muội nhọc công làm gì? Muội hỏi huynh, hôm trước huynh có nói với muội, hai đứa mình cùng bơ vơ cô khổ, huynh bằng lòng kết bạn với muội. Câu nói ấy có thực lòng hay không?

Trương Vô Kỵ nghe liền cảm thấy rất bất ngờ, vội nhỏm dậy, thấy ánh mắt nàng lộ rõ vẻ bi thương, bèn đáp:

– Câu đó quả thật từ đáy lòng ta nói ra.

Thôn nữ nói:

– Huynh quả thật không hiềm muội mặt mày xấu xí, bằng lòng ở chung một chỗ với muội chứ?

Trương Vô Kỵ sững người, câu “ở chung một chỗ” trong đầu chàng chưa hề nghĩ tới, nhưng thấy vẻ buồn rầu não nề của nàng ta thì không khỏi cảm thương, đáp:

– Chuyện xấu hay đẹp, ta chẳng hề để tâm. Nếu cô nương muốn trò chuyện nói cười với ta, không ngại ta, thì ta sẵn lòng. Còn nếu cô nương định lừa dối ta…

Thôn nữ hỏi, giọng run run:

– Thế huynh có bằng lòng lấy muội làm vợ hay không?

Trương Vô Kỵ giật mình, hồi lâu chưa trả lời được, rồi lẩm bẩm:

– Ta… ta chưa nghĩ đến chuyện… lấy vợ.

Bọn Hà Thái Xung sáu người cùng cười phá lên. Vệ Bích cười, nói:

– Ngay một gã nhà quê xấu xí ma chê quỷ hờn kia cũng chẳng thèm lấy ngươi, bọn ta không giết ngươi đi thì ngươi sống trên đời cũng bằng thừa. Chi bằng ngươi hãy đập đầu vào đá chết đi cho rồi.

Trương Vô Kỵ nghe sáu người kia cười giễu, rồi Vệ Bích lại nói mỉa như thế, mới biết thôn nữ không cùng một phe với bọn kia, dường như bọn Vệ Bích sắp sửa giết nàng ta chứ không phải nàng ta dẫn bọn kia tới hại mình, thì cảm thấy lòng ấm lại. Chàng thấy thôn nữ cúi đầu, mấy giọt lệ lăn dài trên má, rõ ràng trong lòng rất đỗi bi thương, chàng chỉ không biết đấy là do nàng ta sắp phải chết, hay do diện mạo xấu xí, hay vì lời lẽ chua cay của Vệ Bích? Trương Vô Kỵ xúc động mạnh, nghĩ: “Kể từ khi phụ mẫu chết, ta một mình bơ vơ khốn khổ, phải chịu bao điều nhục nhằn; thôn nữ này mảnh mai yếu đuối, lại ít tuổi hơn ta, nhưng thân thế còn bất hạnh hơn cả ta, giờ tới đây chẳng hiểu vì sao hỏi ta mấy câu khiến nàng thêm đau lòng rơi lệ, để kẻ khác khinh rẻ? Mà câu hỏi của nàng chứng tỏ tấm lòng thành trao thân gửi phận cho ta. Từ ngày sinh ra, trừ phụ mẫu, nghĩa phụ ta, thái sư phụ, các vị sư bá sư thúc, làm gì có ai thật sự quan hoài ta như thế? Từ rày trở đi ta phải đối tốt với nàng, nàng cũng đối tốt với ta, hai đứa sống chết có nhau, có gì mà không được chứ?”

Chàng thấy thân hình thôn nữ run run, sắp bước đi, vội đưa tay nắm cánh tay phải của nàng, nói to:

– Cô nương, ta thành tâm thành ý nguyện lấy cô nương làm vợ, chỉ mong cô nương đừng chê ta không xứng.

Thôn nữ nghe câu ấy, mắt liền sáng bừng lên, nói nhỏ:

– A Ngưu ca ca, ca ca không dối muội chứ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Dĩ nhiên ta không dối cô nương. Từ rày trở đi, ta sẽ hết lòng yêu thương cô nương, lo lắng cho cô nương, dẫu bất cứ kẻ nào làm khó với cô nương, bất cứ kẻ nào tài giỏi mấy dám khinh khi cô nương, ta thà chết cũng quyết bảo vệ cô nương chu toàn. Ta muốn cô nương bình yên vui vẻ, quên hết mọi nỗi khổ ải từng chịu bấy lâu.

Thôn nữ ngồi xuống, tựa vào người Vô Kỵ, nắm lấy tay chàng, dịu dàng nói:

– Nếu huynh có lòng như thế, muội sung sướng vô cùng.

Nàng nhắm mắt lại, nói:

– Huynh hãy nhắc lại một lần nữa cho muội nghe, muội muốn ghi nhớ từng lời của huynh. Huynh nói đi, huynh sẽ đối với muội như thế nào?

Trương Vô Kỵ thấy nàng vô cùng sung sướng thì tự chàng cũng được an ủi, bèn cầm hai bàn tay nhỏ nhắn của nàng, thấy bàn tay mềm dịu, ấm áp, nói:

– Ta sẽ hết lòng yêu thương cô nương, lo lắng cho cô nương, dẫu bất cứ kẻ nào làm khó với cô nương, bất cứ kẻ nào tài giỏi mấy dám khinh khi cô nương, ta thà chết quyết bảo vệ cô nương chu toàn.

Thôn nữ mặt tươi như hoa, ngả đầu vào ngực chàng, dịu dàng nói:

– Trước đây muội bảo huynh hãy đi theo muội, huynh đã không chịu, lại còn đánh muội, mắng muội, cắn muội… Bây giờ huynh nói thế, muội không còn gì sung sướng hơn.

Trương Vô Kỵ nghe câu ấy, lòng lập tức nguội lạnh, thì ra thôn nữ nhắm mắt nghe chàng nói, lại mơ màng nghĩ đến tình lang trong mộng của nàng.

Thôn nữ thấy người chàng run lên một cái, bèn mở mắt ra nhìn chàng, vẻ mặt cũng thay đổi hẳn, lộ vẻ vừa thất vọng, vừa tức giận, song lại xen lẫn vẻ dịu dàng chấp nhận. Sau khi định thần, nàng nói:

– A Ngưu ca ca, huynh bằng lòng lấy muội làm vợ, muội xấu xí thế này mà huynh không chối bỏ, muội thật cảm kích vô cùng. Nhưng từ mấy năm trước trái tim muội đã thuộc về người khác. Người ấy khi đó đã chẳng thèm để mắt đến muội, bây giờ thấy muội thế này, chắc càng không coi muội ra gì. Cái kẻ lang tâm đoản mệnh đáng ghét nọ

Tuy nàng chửi kẻ ấy là “kẻ lang tâm đoản mệnh đáng ghét”, nhưng giọng nói vẫn không giấu được tình cảm trìu mến.

Võ Thanh Anh lạnh lùng lên tiếng:

– Hắn đã chịu lấy ngươi làm vợ, tâm sự cũng nói xong rồi, có đứng dậy hay không nào?

Thôn nữ thong thả đứng dậy, nói với Trương Vô Kỵ:

– A Ngưu ca ca, muội sắp chết rồi, mà dù có sống cũng chẳng thể lấy huynh. Nhưng muội rất thích nghe những lời huynh vừa nói. Huynh đừng buồn muội nhé! Khi nào không bận bịu, hãy nhớ một chút đến muội.

Mấy câu này nàng nói rất dịu dàng, rất ngọt ngào. Trương Vô Kỵ không khỏi thương xót cho nàng.

Chỉ nghe Ban Thục Nhàn cất giọng the thé:

– Bọn ta đã cho ngươi thỏa nguyện, được gặp mặt gã này lần cuối. Ngươi nói thì phải giữ lời, hãy cho biết kẻ đó hiện giờ ở đâu.

Thôn nữ đáp:

– Được! Ta biết người ấy từng trốn ở nhà vị này.

Nói rồi giơ tay chỉ Võ Liệt. Võ Liệt mặt biến sắc, hừ một tiếng, quát:

– Nói nhăng nói cuội!

Vệ Bích giận dữ nói:

– Mau nói thực ra, ngươi giết biểu muội của ta, rốt cuộc là do ai sai khiến?

Trương Vô Kỵ giật mình hoảng sợ, giọng run run hỏi:

– Giết Chu… Chu Cửu Chân tiểu thư ư?

Vệ Bích trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ, vẻ mặt hầm hầm, hỏi:

– Ngươi cũng biết Chu Cửu Chân cô nương hả?

Trương Vô Kỵ nói:

– Đại danh của Tuyết Lĩnh Song Chu, ai chẳng biết?

Võ Thanh Anh hình như nhếch mép cười, lớn tiếng hỏi thôn nữ:

– Ồ, thế ai là người sai khiến ngươi giết Chu Cửu Chân?

Thôn nữ đáp:

– Xúi ta giết Chu Cửu Chân chính là vợ chồng Hà Thái Xung phái Côn Luân, Diệt Tuyệt sư thái phái Nga Mi.

Võ Liệt quát to:

– Ngươi đừng hòng giở trò ly gián chia rẽ chúng ta, chỉ uổng công.

Nghe vù một tiếng, lão ta đã đánh thôn nữ một chưởng. Tiếng quát của Võ Liệt đầy uy phong, lời chưa dứt chưởng đã đánh ra, chưởng lực làm cho tuyết dưới đất bay lên lả tả. Thôn nữ nghiêng người né tránh, thân pháp vô cùng kỳ ảo.

Trương Vô Kỵ trong đầu ý nghĩ rối bời: “Nàng… nàng ta hóa ra là người trong võ lâm! Nàng giết Chu Cửu Chân là vì ta. Ta kể với nàng là bị Chu Cửu Chân lừa dối, bị bầy chó của Chu Cửu Chân cắn khắp người, nhưng ta đâu có bảo nàng đi giết Chu Cửu Chân. Ta cứ ngỡ nàng tính khí quái dị là vì tướng mạo hóa ra xấu xí, chuyện gia đình đau buồn, ai ngờ động một tí liền ra tay giết người”.

Vệ Bích và Võ Thanh Anh cùng vung trường kiếm, tả hữu giáp công; thôn nữ né đông lùi tây, cố tránh chưởng lực lợi hại của Võ Liệt, đột nhiên nàng ta xoay cái lưng ong lướt tới bên cạnh Võ Thanh Anh, nghe “bốp” một tiếng, đã giáng cho Võ Thanh Anh một cái bạt tai, tay trái cướp luôn thanh kiếm của cô ả. Võ Liệt và Vệ Bích quát chửi, cùng xông lại cứu. Thôn nữ rung mũi kiếm, nói:

– Xem đây!

Nói rồi nàng ta dùng mũi kiếm rạch ngay trên mặt Võ Thanh Anh một đường. Võ Thanh Anh kinh hãi rú lên, ngã ngửa ra phía sau. Thực tình cô ả chỉ bị thương rất nhẹ, nhưng vì lo cho dung nhan của mình nên vừa thấy đau nhói ở mặt đã sợ hết hồn.

Võ Liệt giơ tả chưởng ấn vào người thôn nữ. Nàng ta nghiêng người né tránh, “keng” một tiếng, kiếm của nàng ta chạm vào kiếm của Vệ Bích. Ngay lúc đó, ngón trỏ tay phải của Võ Liệt đã điểm trúng huyệt Phục Thố và Phong Thị ở chân trái thôn nữ. Thôn nữ rên một tiếng nhỏ, chân đứng không vững liền ngã ngay xuống chỗ Trương Vô Kỵ, chỉ thấy cả người nóng bừng, không còn chút hơi sức nào, tựa hồ muốn giơ một ngón tay cũng chẳng nổi.

Võ Thanh Anh nhặt thanh kiếm lên, căm hận nói:

– Con quỷ dạ xoa này, ta sẽ không cho mi được chết yên lành mà sẽ chặt hai chân hai tay mi, bỏ mi nằm đây cho chó sói cắn xé mi.

Đoạn vung kiếm nhắm cánh tay phải của thôn nữ chém xuống. Võ Liệt nói:

– Khoan đã!

Lão ta nắm lấy cổ tay con gái, đẩy nhát kiếm ra ngoài, nói với thôn nữ:

– Ngươi chịu nói ai sai khiến ngươi, ta sẽ cho ngươi được chết yên lành, nếu không, hừ, tứ chi bị chém đứt, ngươi lăn lộn trên tuyết cũng sẽ thích thú gì cho cam.

Thôn nữ mỉm cười:

– Các người cứ nhất định muốn ta nói, ta cũng chả cần giấu. Chu Cửu Chân cô nương muốn lấy một chàng trai, nhưng có một thiếu nữ xinh đẹp khác cũng muốn lấy gã trai đó, thiếu nữ ấy bèn cho ta năm trăm lạng bạc, bảo ta đi giết Chu Cửu Chân. Việc này ta vốn muốn giữ thật kín…

Thôn nữ nói chưa hết câu, Võ Thanh Anh đã giận tái mặt, giơ kiếm đâm thẳng vào giữa ngực thôn nữ.

Thôn nữ nhìn mặt đặt tên, đã phần nào đoán biết tình trạng khó nói giữa Võ Thanh Anh, Vệ Bích và Chu Cửu Chân ba người. Thôn nữ nói khích cho Võ Thanh Anh nổi giận chính là để cô ả kia đâm mình một kiếm chết ngay, cho mình khỏi bị hành hạ. Chỉ thấy một luồng thanh quang loáng lên, trường kiếm đã đâm tới ngực nàng ta.

Lúc ấy, đột nhiên có một vật lặng lẽ bay vút tới chạm vào thanh kiếm, nghe “cách” một tiếng, thanh kiếm liền văng xa hơn mười trượng mới rớt xuống đất. Trong đêm tối không ai nhìn rõ thanh kiếm của Võ Thanh Anh tuột khỏi tay như thế nào, nhưng với sức văng xa như thế, dù cho cô ả có tự mình ráng sức quẳng đi thì kiếm cũng chẳng bay xa đến chừng ấy. Hiển nhiên thôn nữ có cường viện đâu đây.

Sáu người cùng kinh hãi lùi lại vài bước, quay đầu nhìn xung quanh. Tứ bề quang đãng, không có một tảng đá hoặc bóng cây để ẩn nấp, cũng chẳng thấy bóng người nào, sáu người đưa mắt nhìn nhau, không hiểu ra sao cả. Võ Liệt thấp giọng hỏi nhỏ:

– Thanh nhi, con sao vậy?

Võ Thanh Anh nói:

– Hình như có một ám khí vô cùng lợi hại bắn văng kiếm của con đi.

Võ Liệt đảo mắt nhìn tứ phía, quả thực không thấy ai, hừ một tiếng, nói:

– Chắc con a đầu kia giở trò quỷ gì đây.

Trong bụng Võ Liệt nghĩ thầm: “Rõ ràng con nhãi kia đã bị trúng Nhất dương chỉ của ta, làm sao nó còn hơi sức đánh văng kiếm của Thanh Anh đi xa chứ? Võ công của con a đầu kia chắc chắn là tà môn”. Lão sấn tới vỗ một chưởng vào vai trái của thôn nữ. Chưởng này Võ Liệt vận kình cực mạnh, tính đánh gãy luôn xương vai của thôn nữ, khiến nàng ta bị mất hết võ công, để cho con gái lão ta sau đó muốn làm gì thì làm.

Chỉ thấy thôn nữ sắp nát vai, thì tay trái của nàng ta hất lên, hai chưởng đụng nhau, Võ Liệt thấy ngực nóng rát, chưởng lực của đối phương như cuồng phong nộ triều tràn tới, thật không sao cản nổi. Chỉ nghe Võ Liệt kêu Ối!” một tiếng kinh hãi, thân hình bay về phía sau, rơi xuống nghe “bịch” một cái. May mà võ công lão ta cao cường, lưng vừa chạm đất đã bật dậy ngay, nhưng trong ngực huyết khí nhộn nhạo, đầu váng mắt hoa, vừa đứng thẳng lên định điều hòa hơi thở thì đã loạng choạng ngã rụi xuống.

Vệ Bích và Võ Thanh Anh cả kinh, vội chạy tới đỡ Võ Liệt dậy, nhưng nghe Hà Thái Xung nói:

– Hãy để ông ấy nằm yên một lát.

Võ Thanh Anh quay đầu lại, giận dữ hỏi:

– Tiền bối bảo sao?

Trong bụng nghĩ thầm: “Cha ta bị kẻ địch ám toán, lão còn mừng thầm, đứng ngoài mỉa mai”.

Hà Thái Xung nói:

– Khí huyết đang nhộn nhạo, nằm yên tốt hơn.

Vệ Bích hiểu ra, nói:

– Đúng thế.

Lại nhẹ nhàng đỡ cho sư phụ nằm xuống đất.

Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn nhìn nhau, vô cùng kinh ngạc. Vợ chồng họ đã động thủ với thôn nữ, thấy nàng ta chiêu thuật tinh diệu, quả có chỗ hơn người, song nội lực rất bình thường, thế nhưng vừa rồi đối chưởng với Võ Liệt lại tỏ ra sở hữu nội công hiếm có, đánh ngã được đối phương như thế thì thật không sao hiểu nổi.

Về phần thôn nữ, trong lòng cũng kinh ngạc muôn phần. Sau khi nàng ta bị Võ Liệt điểm huyệt, ngã đè lên người Trương Vô Kỵ, không sao cử động được, mắt thấy Võ Thanh Anh giơ kiếm chém xuống mình thì bỗng có một vật bay tới bắn văng thanh kiếm của đối phương đi xa, tiếp đó một luồng khí lực nóng hổi truyền vào hai đùi nàng ta làm thúc đẩy hai huyệt Phục Thố và Phong Thị, giải khai luôn hai huyệt đó. Nàng ta chấn động toàn thân, cúi nhìn chỉ thấy Trương Vô Kỵ hai tay nắm chặt hai mắt cá chân nàng, khí ấm từ huyệt Huyền Chung cuồn cuộn tràn vào cơ thể. Việc đó diễn ra rất nhanh, chưa kịp suy nghĩ gì đã thấy chưởng của Võ Liệt đánh tới vai. Nàng ta tiện tay giơ lên đỡ, nghĩ bụng thà để gãy cổ tay còn hơn để vai nát vụn. Ai ngờ hai chưởng vừa chạm nhau thì Võ Liệt lại bị chưởng của nàng ta đẩy ra xa hơn một trượng. Thiếu nữ kinh ngạc nghĩ thầm: “Không lẽ anh chàng nhà quê xấu xí này lại là một đại cao thủ võ công khó lường?”

Hà Thái Xung vẫn ngại ngần nên không muốn tỷ thí chưởng lực với thôn nữ, bèn rút kiếm ra, nói:

– Để ta lĩnh giáo kiếm pháp của cô nương.

Thôn nữ cười:

– Ta không có kiếm.

Vệ Bích nói:

– Được, ta cho ngươi mượn.

Hắn giơ kiếm ra, mũi kiếm chĩa thẳng vào ngực thôn nữ, vận sức ném tới. Thôn nữ chộp ngang thân kiếm, cười nói:

– Võ công ngươi thấp kém lắm, giết ta làm sao nổi?!

Hà Thái Xung là chưởng môn của một phái, không muốn chiếm lợi thế so với hạng tiểu bối, nói:

– Ngươi ra chiêu đi, ta nhường ngươi ba chiêu rồi mới trả đòn.

Thôn nữ đâm một kiếm thẳng vào bụng Hà Thái Xung. Hà Thái Xung hừ một tiếng, nói nhỏ:

– Tiểu bối vô lễ!

Lão họ Hà giơ kiếm gạt đòn. Chỉ nghe “keng” một tiếng, cả hai thanh kiếm cùng gãy đôi. Hà Thái Xung sắc mặt đại biến, người loạng choạng, phải lùi lại nửa trượng. Thôn nữ nghĩ thầm: “Tiếc quá, tiếc quá!”

Thì ra Trương Vô Kỵ đem Cửu dương chân khí truyền sang cơ thể thôn nữ, nhưng nàng ta không biết phát huy uy lực của thần công nên hai thanh kiếm cùng gãy. Giá như biết cách công địch thì chỉ có binh khí của đối phương bị đánh gãy thôi. Ban Thục Nhàn lạ quá, hỏi nhỏ:

– Sao thế?

Hà Thái Xung cánh tay tê dại, nói:

– Tà môn!

Ban Thục Nhàn rút phăng trường kiếm, sầm mặt nói:

– Để ta lĩnh giáo!

Thôn nữ chìa cả hai bàn tay, ngụ ý mình không có kiếm. Ban Thục Nhàn chỉ thanh kiếm của Võ Thanh Anh ở ngoài xa mươi trượng, quát:

– Ra lấy kiếm đó mà dùng.

Thôn nữ đâu dám rời xa Trương Vô Kỵ, đành cầm thanh kiếm gãy, cười nói:

– Ta dùng tạm kiếm gãy cũng được!

Ban Thục Nhàn cả giận, nghĩ thầm: “Con a đầu chết tiệt này lớn lối thật, dám coi thường ta!” Mụ ta chẳng cần như Hà Thái Xung phải giữ gìn danh phận cao nhân tiền bối, lập tức vung luôn trường kiếm chém vào gáy thôn nữ. Thôn nữ giơ kiếm gãy lên chống đỡ, nhưng kiếm pháp của Ban Thục Nhàn cực kỳ khinh linh đã tức thời chuyển qua chém xuống vai trái. Thôn nữ vội múa kiếm đỡ gạt, Ban Thục Nhàn bèn đâm chéo xuống mạng sườn thôn nữ, liên tiếp tám đường, thế như gió cuốn, trước sau vẫn không để cho kiếm đụng phải kiếm gãy của thôn nữ, cứ phát huy sở trường kiếm pháp của mình, không cho đối phương có cơ hội thi triển nội lực.

Thôn nữ né phải nghiêng trái, lâm vào tình thế cực kỳ hung hiểm. Kiếm pháp của nàng ta vốn thua xa Ban Thục Nhàn, trên tay lại chỉ cầm nửa thanh kiếm gãy, hai chân thì không di động, rơi vào cái thế chỉ thủ không công. Đối phó thêm vài chiêu nữa thì mũi kiếm của Ban Thục Nhàn đã đâm tới trúng vào vai bên trái của thôn nữ. Kiếm pháp của phái Côn Luân một khi đã thắng một chiêu thì sẽ không để cho đối phương một giây nghỉ ngơi, thừa thế đánh ép tới, thôn nữ kêu ối một tiếng, vai lại trúng thêm một kiếm. Thôn nữ nói:

– Ủa, sao không giúp ta, cứ giương mắt nhìn ta bị kẻ khác giết ư?

Ban Thục Nhàn lùi hai bước, giơ kiếm ngang ngực, nhìn tứ phía, không thấy một ai, tức thì trường kiếm rung động, mũi kiếm loang loáng thành từng đóa hoa mai, lại tấn thôn nữ tới tấp.

Thôn nữ múa tít thanh kiếm gãy, đối phó liền ba đường kiếm. Kiếm chiêu của đối phương quá thần tốc, nàng ta đối phó cũng nhanh vô cùng, quả thật mắt tinh tay lẹ, chiêu nào cũng xác đáng trong đường tơ kẽ tóc. Ban Thục Nhàn khen ngợi:

– Con a đầu chết giẫm, thủ pháp khá linh hoạt!

Thôn nữ không chịu kém, chửi lại:

– Mụ già chết dấp, thủ pháp đâu có chậm!

Nhưng Ban Thục Nhàn là đại danh gia về kiếm thuật, tập luyện đã mấy chục năm, miệng nói mà tay không chậm lại chút nào. Thôn nữ kia chẳng qua mới mười bảy, mười tám tuổi, tuy đã được danh sư chỉ giáo nhưng làm sao có được kiếm pháp như Ban Thục Nhàn? Do nói chuyện nên nàng ta phân tâm đôi chút liền thấy cổ tay hơi tê dại, cây kiếm gãy đã tuột khỏi tay bay đi. Thôn nữ chỉ kịp hốt hoảng kêu “Ối!” một tiếng thì kiếm của Ban Thục Nhàn đã đâm tới mạng sườn.

Đinh Mẫn Quân từ đầu tới giờ đứng ngoài khoanh tay quan chiến, lúc này thấy dịp may đã tới, không cần rút kiếm mà vội sử chiêu “Thôi song vọng nguyệt”[67], hai tay cùng đánh vào lưng thôn nữ. Cùng lúc đó Võ Thanh Anh nhảy tới, tung cước đá vào mạng sườn bên phải của thôn nữ. Thôn nữ cả sợ, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, chợt cảm thấy toàn thân nóng bừng như đứng cạnh lò lửa, tiện tay búng một cái vào thanh kiếm của Ban Thục Nhàn. Ngay lúc đó, lưng nàng trúng chưởng, sườn phải cũng trúng cước. Chỉ nghe tiếng kêu “Ối!” và “Ái!” đau đớn, cả Đinh Mẫn Quân lẫn Võ Thanh Anh đều bị bắn văng ra xa, còn thanh kiếm của Ban Thục Nhàn bị gãy đôi.

Thì ra Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy ngập, liền đem chân khí toàn thân truyền gấp sang người thôn nữ. Cửu dương thần công của chàng đã có ba, bốn thành công lực, uy lực không phải tầm thường, cho nên trường kiếm của Ban Thục Nhàn, cả hai cổ tay của Đinh Mẫn Quân và cổ chân của Võ Thanh Anh đều bị gãy rời. Hà Thái Xung, Võ Liệt, Vệ Bích ba người trố mắt há mồm kinh hãi, đứng ngay như phỗng.

Ban Thục Nhàn vứt nửa thanh kiếm gãy xuống đất, hậm hực nói:

– Đi thôi, thế này còn chưa đủ xấu mặt sao?

Mụ ta giận dữ nhìn chồng, như muốn trút hết bực bội xuống đầu trượng phu.

Hà Thái Xung nói:

– Thì đi!

Hai vợ chồng sánh vai chạy thẳng, trong giây lát đã mất hút. Khinh công của phái Côn Luân quả là một tuyệt kỹ trong võ lâm. Còn chuyện Ban Thục Nhàn về đến nhà sẽ trút giận xuống đầu Hà Thái Xung như thế nào, có bắt quỳ trên mũi kiếm hay phải chịu hình phạt quái đản nào khác, là chuyện riêng của phái Côn Luân, người ngoài không thể biết.

Vệ Bích một tay đỡ sư phụ, một tay dìu sư muội, chầm chậm bước đi. Ba kẻ đó chỉ sợ thôn nữ thừa thắng đuổi theo, nhưng đâu có thể chạy nhanh như hai vợ chồng Hà Thái Xung, nên mỗi bước một lo ngay ngáy.

Đinh Mẫn Quân tuy gãy hai cổ tay, nhưng chân không sao, cắn răng bỏ đi một mình.

Thôn nữ cười ha hả đắc ý, nói:

– Anh chàng xấu như ma này, huynh…

Đột nhiên nàng ta thấy ngộp thở, ngất đi. Hoá ra Trương Vô Kỵ thấy sáu kẻ đối đầu kia đã bỏ đi cả, bèn rụt tay lại, buông hai gót chân thôn nữ ra. Cửu dương chân khí trong cơ thể thôn nữ lập tức thoát ra hết, tứ chi và các khớp hầu như chẳng còn chút hơi sức nào. Trương Vô Kỵ chợt hiểu, vội dùng hai ngón tay cái ấn nhẹ vào huyệt Ti Trúc Không ở đuôi lông mày, hơi vận thần công, thế là thôn nữ từ từ hồi tỉnh.

Nàng ta mở mắt, thấy mình nằm trong lòng Trương Vô Kỵ, chàng đang mỉm cười nhìn mình thì không khỏi thẹn thùng vội nhỏm dậy, lườm chàng một cái, đột nhiên giơ tay véo tai trái của chàng, mắng:

– Cái nhà anh này, giỏi đánh lừa muội! Huynh một thân võ công lợi hại như thế, sao không nói cho muội hay?

Trương Vô Kỵ đau quá, kêu:

– Ái, cô nương làm gì vậy?

Thôn nữ cười ha hả, nói:

– Ai bảo huynh lừa muội?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta lừa cô nương lúc nào, cô nương cũng đâu có cho ta hay là cô nương biết võ công.

Thôn nữ nói:

– Được rồi, muội tha cho huynh lần này. Vừa rồi huynh có ra tay giúp muội, lấy công chuộc tội, muội sẽ không phạt huynh nữa. Chân huynh đã đi được chưa?

Trương Vô Kỵ nói:

– Vẫn chưa đi được.

Thôn nữ thở dài, nói:

– Vậy là lòng tốt được báo đáp, nếu muội không nhớ đến huynh, đòi quay lại gặp huynh lần cuối, thì huynh đâu có thể cứu muội.

Ngừng giây lát, nàng nói tiếp:

– Giá muội sớm biết tài nghệ cao siêu của huynh, thì muội đâu cần phải thay huynh đi giết con quỷ a đầu Chu Cửu Chân làm gì.

Trương Vô Kỵ sầm mặt, nói:

– Ta không hề bảo cô nương đi giết nàng ta.

Thôn nữ nói:

– Ái chà, ái chà! Thì ra lòng huynh vẫn còn tơ tưởng cô nương xinh đẹp ấy, muội hóa thành kẻ chẳng ra gì, giết mất ý trung nhân của huynh.

Trương Vô Kỵ nói:

– Chu Cửu Chân không phải là ý trung nhân của ta; nàng ta đẹp hay xấu chẳng liên quan đến ta.

Thôn nữ ngạc nhiên,nói:

– Lạ thật, cô ta làm hại huynh như thế, muội giết cô ta cho huynh được hả dạ, chẳng lẽ là không tốt ư?

Trương Vô Kỵ thản nhiên nói:

– Số người hại ta quá đông, nếu ai cũng đem giết cho bõ tức, vậy phải giết bao nhiêu người cho xuể? Huống hồ có một số người định bụng hại ta, song thực ra chính họ cũng rất đáng thương. Chẳng hạn như Chu cô nương, nàng ta đêm ngày phập phồng lo sợ, chỉ sợ biểu huynh không còn đối xử tốt với nàng ta, đổi ý lấy Võ cô nương làm vợ. Như thế Chu Cửu Chân có sung sướng gì cho cam?

Thôn nữ giận dữ nói:

– Huynh nhạo báng muội đấy à?

Trương Vô Kỵ ngẩn người, đâu ngờ khi mình nói chuyện Chu Cửu Chân đã vô ý làm cho thôn nữ chạnh lòng, vội nói:

– Không, không đâu! Ta chỉ bảo mỗi người có nỗi bất hạnh riêng của mình. Ai đối xử không đúng với cô nương, cô nương liền giết họ đi, như thế nhất thiết không được.

Thôn nữ cười:

– Huynh học võ nếu không để giết người, vậy học để làm gì nào?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:

– Học võ cho giỏi, để kẻ xấu đến hại ta, ta đủ sức đối phó.

Thôn nữ nói:

– Thán phục huynh thật đấy! Thì ra huynh là bậc chính nhân quân tử, một người tốt bụng quá chừng!

Trương Vô Kỵ ngơ ngác nhìn nàng, nhìn cử chỉ dáng điệu của nàng, chàng cảm thấy nàng sao mà thân thiết, gần gũi biết bao, khó nói thành lời. Thôn nữ bĩu môi, hỏi:

– Huynh nhìn gì vậy?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Mẹ ta thường cười cha ta là người tốt quá mức, là một thư sinh dễ mềm lòng. Khi mẹ ta trò chuyện, cung cách cử chỉ chẳng khác gì cô nương.

Thôn nữ đỏ mặt, trách:

– Hứ, lại định ăn gian, bảo muội giống mẹ huynh, còn huynh thì giống cha huynh chứ gì!

Lời là trách móc, nhưng ánh mắt lại ẩn một nụ cười.

Trương Vô Kỵ vội nói:

– Có trời chứng giám, nếu ta có ý ăn gian với cô nương thì trời tru đất diệt.

Thôn nữ nói:

– Nói hờn nhau có một câu, làm gì huynh phải thề thốt ghê vậy?

Lúc này, bỗng nghe phía đông bắc có tiếng người hú lên, âm thanh trong trẻo và ngân nga, rõ là tiếng nữ giới. Tiếp đó có tiếng gần hơn đáp lại, chính là tiếng của Đinh Mẫn Quân rời khỏi đây chưa xa. Đinh Mẫn Quân hú xong thì dừng lại, không chạy nữa.

Thôn nữ mặt hơi biến sắc, thấp giọng nói:

– Phái Nga Mi lại có người đến!

Hồi 17: Thanh dực xuất một nhất tiếu dương

Trương Vô Kỵ và thôn nữ cùng nhìn về phía đông bắc, lúc này trời đã hửng sáng, thấy một bóng người màu xanh đi như lướt trên mặt tuyết. Đến cách mươi trượng, thì nhìn rõ là một thiếu nữ y phục màu xanh nhạt. Thiếu nữ nói với Đinh Mẫn Quân gì đó, đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ và thôn nữ, rồi tiến lại. Tay áo nàng phấp phới, thân pháp nhẹ nhàng, bước chân ngắn nhưng thoáng một cái chỉ còn cách hai người bốn, năm trượng. Thiếu nữ có hình dáng thanh lệ tú nhã, diện mạo xinh xắn bội phần, tuổi chừng mười bảy mười tám. Trương Vô Kỵ rất lấy làm lạ, nghe tiếng hú và nhìn thân pháp, chàng cứ ngỡ nàng ta phải già hơn Đinh Mẫn Quân, không ngờ lại còn nhỏ tuổi hơn cả chàng.

Thiếu nữ bên hông đeo một đoản kiếm, song không rút binh khí ra, chỉ tay không tới gần hai người. Đinh Mẫn Quân lên tiếng cảnh cáo:

– Chu sư muội, con quỷ a đầu ấy công phu tà môn lắm đó!

Thiếu nữ gật đầu, hỏi với lời lẽ khách sáo:

– Thỉnh vấn quý tính đại danh của hai vị? Vì cớ gì lại đả thương sư tỷ của tôi?

Từ lúc thiếu nữ đến gần, Trương Vô Kỵ trông nàng rất quen, giờ nghe giọng nói, lập tức nhớ ra: “Nàng chính là cô bé Chu Chỉ Nhược, con nhà thuyền chài trên sông Hán Thủy, thái sư phụ đã đưa nàng lên núi Võ Đang, sao hiện giờ nàng lại làm môn hạ phái Nga Mi?” Chàng cảm thấy bồi hồi, muốn hỏi thăm vài câu về Trương Tam Phong, nhưng chợt nghĩ lại: “Trương Vô Kỵ đã chết rồi, ta hiện giờ là một gã nhà quê, một kẻ xấu như ma tên là Tăng A Ngưu. Chỉ cần ta không biết nhẫn nhịn một chút, hậu họa sẽ khôn lường. Ta không được phép tiết lộ thân phận, để khỏi liên lụy tới nghĩa phụ, cái chết của phụ mẫu ta khỏi uổng phí”.

Thôn nữ cười khẩy, nói:

– Lệnh sư tỷ dùng chiêu “Thôi song vọng nguyệt” giáng cả hai chưởng vào lưng ta, tự mình làm mình gãy cổ tay, sao lại trách ta? Nàng hãy hỏi lại lệnh sư tỷ xem ta đã đánh cô ả nửa chiêu thức nào hay chưa?

Chu Chỉ Nhược đưa mắt nhìn Đinh Mẫn Quân, ý muốn hỏi. Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:

– Sư muội hãy dẫn hai kẻ này đi gặp sư phụ, để lão nhân gia định đoạt là xong.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Hai người này đã không có ý đắc tội với sư thư, theo ý tiểu muội, mình đổi thù thành bạn là hơn.

Đinh Mẫn Quân cả giận quát lên:

– Cái gì? Sư muội lại định về hùa với người ngoài ư?

Trương Vô Kỵ nhìn bộ dạng của Đinh Mẫn Quân, nhớ đêm năm nào hòa thượng Bành Oánh Ngọc bị vây đánh trong rừng, Kỷ Hiểu Phù chỉ vì gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân mà bị đại họa, hôm nay tái diễn cái trò Đinh Mẫn Quân bức bách sư muội khiến chàng không khỏi lo thầm cho Chu Chỉ Nhược.

Nhưng Chu Chỉ Nhược lại tỏ ra hết sức cung kính đối với Đinh Mẫn Quân, khom lưng nói:

– Tiểu muội xin nghe lời chỉ bảo của sư thư, không dám trái lệnh.

Đinh Mẫn Quân nói:

– Được, vậy ngươi mau tới bắt con xú a đầu kia, đánh gãy hai tay nó cho ta.

Chu Chỉ Nhược đáp:

– Vâng, mong sư thư ở bên ngoài trông chừng tiếp ứng cho.

Rồi quay sang nói với thôn nữ:

– Tiểu muội vô lễ, xin được lĩnh giáo cao chiêu của thư thư.

Thôn nữ cười khẩy:

– Khỏi cần nhiều lời!

Nàng ta nghĩ thầm: “Bộ tưởng ta sợ một tiểu cô nương như ngươi sao?” Nàng khỏi nhờ Trương Vô Kỵ giúp sức, nhảy vọt ra, nhanh như chớp đánh liền ba chưởng. Chu Chỉ Nhược né mình tiến tới, tay trái dùng phép cầm nã, lấy công làm thủ, chiêu số cũng rất xảo diệu.

Trương Vô Kỵ nội lực tuy cao cường nhưng chiêu số chưa thông thạo, chỉ thấy Chu Chỉ Nhược và thôn nữ đều ra đòn đỡ đòn cực nhanh. Miên chưởng của phái Nga Mi linh hoạt thần tốc, còn chưởng pháp của thôn nữ thì cổ quái kỳ ảo. Chàng vừa xem vừa thán phục, nhưng lại lo lắng, không biết phải mong cho ai thắng, chỉ cầu cả hai nàng không ai bị thương.

Hai nàng đấu hơn hai mươi chiêu thì bắt đầu gặp hung hiểm, bỗng nghe thôn nữ quát “Nhìn đây!” rồi tả chưởng đã đánh trúng vai Chu Chỉ Nhược. Tiếp đó “soạt” một tiếng, Chu Chỉ Nhược xé rách một mảnh tay áo của thôn nữ. Hai người đều nhảy tránh ra, mặt hơi đỏ lên. Thôn nữ kêu lên:

– Cầm nã thủ lợi hại thật!

Đang định tiến lên, chỉ thấy Chu Chỉ Nhược nhíu mày, áp tay vào ngực, thân hình loạng choạng muốn ngã. Trương Vô Kỵ không nhịn được, kêu lên đầy vẻ lo lắng:

– Cô nương… cô nương…

Chu Chỉ Nhược thấy chàng trai tóc dài râu rậm kia tỏ vẻ quan tâm đến mình, cảm thấy rất ngạc nhiên. Đinh Mẫn Quân hỏi:

– Sư muội, ngươi sao thế?

Chu Chỉ Nhược tay trái vịn vai sư tỷ, lắc đầu.

Đinh Mẫn Quân đã gãy cổ tay vì thôn nữ, biết nàng ta vô cùng lợi hại, nhưng vì sư phụ cứ luôn khen ngợi tiểu sư muội, bảo Chu Chỉ Nhược ngộ tính rất cao, tiến bước cực nhanh, sau này sẽ làm rạng danh bổn phái, Đinh Mẫn Quân trong bụng không phục, nên buộc sư muội tới đấu thử với thôn nữ, những mong Chu Chỉ Nhược cũng bị ăn đòn như mình. Bây giờ thấy Chu Chỉ Nhược đấu với thôn nữ hơn hai chục chiêu mới thua, hơn hẳn mình, thì trong lòng ghen tức; đến lúc thấy bàn tay sư muội vịn vào vai mình không còn khí lực, mới biết là sư muội bị thương không phải nhẹ, lại sợ thôn nữ đuổi theo, vội nói:

– Thôi mình đi!

Hai người dìu nhau đi về đông bắc.

Thôn nữ nhìn thần sắc của Trương Vô Kỵ, cười khẩy:

– Người đâu vừa thấy mỹ nữ đã hồn vía lên mây rồi.

Trương Vô Kỵ vừa định giải thích, nhưng lại nghĩ thầm: “Nếu không thổ lộ thân thế, thì làm sao giải thích cho rõ việc này kia chứ, chi bằng không nói là hơn”, bèn nói:

– Nàng ta đẹp hay xấu thì can dự gì đến ta? Ta lo là lo cho cô nương, sợ cô nương bị thương thôi.

Thôn nữ hỏi:

– Huynh nói thật hay không đấy?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mình lo lắng cho cả hai cô nàng”, đáp:

– Ta nói dối cô nương để làm gì? Không ngờ phái Nga Mi có một cô nương nhỏ tuổi mà võ công khá đến thế.

Thôn nữ nói:

– Lợi hại, lợi hại thật!

Trương Vô Kỵ nhìn theo Chu Chỉ Nhược, thấy nàng khi tới lướt như gió, lúc đi thì lê từng bước, nhớ lại năm nào trên sông Hán Thủy nàng bón cơm cho chàng ăn ở trên thuyền, lại tặng chàng tấm khăn lau nước mắt, trong bụng chỉ mong sao nàng bị thương không nặng.

Thôn nữ bỗng cười khẩy, nói:

– Huynh khỏi lo, nàng ta không bị thương đâu mà sợ. Muội nói lợi hại là có ý bảo nàng ta còn ít tuổi thế mà tâm kế đã quá lợi hại!

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên:

– Nàng ta không bị thương ư?

Thôn nữ đáp:

– Chính thế! Chưởng của muội chém trúng vai nàng ta, từ vai phát sinh nội lực hất tay muội ra; như vậy là nàng ta đã luyện Cửu dương công của phái Nga Mi, lực dội lại khiến tay muội hơi bị tê dại. Như thế bảo cô ta bị thương sao được?

Trương Vô Kỵ cả mừng, nghĩ thầm: “Thì ra Diệt Tuyệt sư thái đã để mắt tới Chu Chỉ Nhược, đem bảo bối Cửu dương công của môn phái truyền cho rồi ư?”

Thôn nữ đột nhiên lật tay trái tát cho Trương Vô Kỵ một cái thật mạnh. Cú đánh này bất ngờ, chàng không kịp đề phòng, một bên má tức thời sưng đỏ lên. Chàng giận dữ nói:

– Cô nương… giở trò gì vậy?

Thôn nữ hậm hực nói:

– Vừa thấy thiếu nữ nhà người ta dễ coi một chút là hồn vía huynh bay mất rồi. Muội vừa bảo cô ta không bị thương, huynh đã mừng rơn như thế là sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta mừng cho cô ta thì có liên can gì tới cô nương?

Thôn nữ lại vung tay tát cái nữa, song lần này Trương Vô Kỵ cúi đầu xuống, khiến nàng đánh trượt; nàng cả giận, nói:

– Huynh đã bằng lòng lấy ta làm vợ, lời ấy nói ra chưa được nửa ngày, giờ gặp người khác đã tơ tưởng muốn đi với cô nương xinh đẹp rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Thì chính cô nương chê ta không xứng, bảo trong lòng cô nương đã có tình lang, nhất quyết không thể lấy ta kia mà!

Thôn nữ nói:

– Đúng thế, nhưng huynh đã bằng lòng từ rày đối đãi tử tế với muội, suốt đời lo liệu cho muội.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta đã nói sao thì dĩ nhiên sẽ làm như thế.

Thôn nữ giận dữ:

– Đã vậy, tại sao vừa gặp một thiếu nữ xinh đẹp, huynh đã lạc phách xiêu hồn, bảo sao muội không tức lộn ruột lên kia chứ?

Trương Vô Kỵ chỉ cười rồi nói:

– Ta đâu có lạc phách xiêu hồn.

Thôn nữ nói:

– Muội không cho huynh thích cô ta, cũng không cho nghĩ đến cô ta.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta chưa hề bảo là thích cô ta. Còn cô nương trong bụng cứ được nghĩ, được nhớ đến người khác sao?

Thôn nữ nói:

– Muội quen biết người ấy từ trước rồi. Nếu muội biết huynh trước thì suốt đời sẽ chỉ đối tốt với huynh, chứ không nghĩ đến bất cứ ai khác, như thế gọi là thủy chung như nhất. Còn kẻ nào hai lòng ba dạ thì trời cũng chẳng dung.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ta quen biết Chu cô nương còn trước cô rất nhiều”, nhưng chàng không dám thốt ra câu đó, chỉ nói:

– Nếu cô nương chỉ đối tốt với một mình ta, ta cũng sẽ chỉ đối tốt với một mình cô nương. Nếu trong bụng cô nương tưởng nhớ người khác, vậy ta cũng nghĩ đến người khác.

Thôn nữ trầm ngâm, mấy lần định nói lại thôi, đột nhiên mắt rưng rưng lệ, quay sang phía khác, thừa lúc Trương Vô Kỵ không nhìn thấy liền đưa tay gạt lệ. Trương Vô Kỵ không nỡ, nhẹ nhàng cầm tay nàng, dịu dàng nói:

– Thôi chúng ta đừng nói chuyện đó nữa. Đợi thêm vài hôm, chân ta lành hẳn, hai ta sẽ cùng nhau đi du ngoạn, không thích lắm sao?

Thôn nữ quay đầu lại, buồn rầu nói:

– A Ngưu ca ca, muội xin ca ca một việc, ca ca đừng giận nhé.

Trương Vô Kỵ hỏi:

Việc gì? Nếu sức ta làm được, ta sẽ làm cho cô nương.

Thôn nữ nói:

– Ca ca phải hứa không giận, muội mới dám nói.

Trương Vô Kỵ nói:

– Được rồi, ta sẽ không giận.

Thôn nữ lưỡng lự một hồi, nói:

– Miệng bảo không giận, nhưng trong bụng ca ca cũng phải không giận mới được.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ừ thì cả trong bụng cũng không giận.

Thôn nữ nắm tay chàng, nói:

– A Ngưu ca ca, muội từ Trung nguyên đi hàng vạn dặm tới Tây Vực chỉ là để tìm người ấy. Ban đầu còn nghe phong thanh vài điều, nhưng đến bây giờ thì không còn tăm tích gì hết. Sau khi ca ca khỏi gãy chân, ca ca hãy giúp muội tìm người ấy, sau đó muội sẽ cùng ca ca đi du ngoạn, có được chăng?

Trương Vô Kỵ không thể không cảm thấy khó chịu trong lòng. Thôn nữ nói:

– Ca ca đã bằng lòng sẽ không giận kia mà, sao lại còn khó chịu?

Trương Vô Kỵ chẳng có cách nào hơn, đành nói:

– Được, ta sẽ giúp cô nương đi tìm hắn.

Thôn nữ cả mừng, nói:

– A Ngưu ca ca, ca ca tốt quá!

Nàng ta nhìn về phía chân trời, trong lòng xao xuyến, nhỏ nhẹ nói:

– Khi tìm thấy người ấy rồi, người ấy sẽ nghĩ đến công lao muội đi tìm lâu như thế, sẽ không chán muội. Chàng bảo gì, muội sẽ nhất nhất nghe lời.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Gã tình lang của cô nương rốt cuộc có gì hay khiến cô nương nhớ mãi không quên như vậy?

Thôn nữ mỉm cười:

– Chàng ta có gì hay, làm sao muội nói được? A Ngưu ca ca, liệu chúng ta có tìm thấy người ấy không? Khi gặp muội, người ấy có đánh mắng muội không?

Trương Vô Kỵ thấy nàng ta si tình đến thế thì không khỏi thương tâm, thấp giọng an ủi:

– Không đâu, hắn sẽ không đánh mắng cô nương đâu.

Thôn nữ mỉm cười, đôi mắt long lanh, cũng nói nhỏ:

– Phải đó, chàng sẽ yêu muội, thương muội, không đánh chửi muội.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cô nương này si tình đối với tình lang như thế, giả sử trên đời này có một thiếu nữ quan hoài mình, nhớ mình như nàng thì dù mình có phải chịu khổ sở đến mấy, cũng vẫn sung sướng”. Chàng nhìn hai hàng dấu chân của Chu Chỉ Nhược và Đinh Mẫn Quân để lại trên tuyết, nghĩ bụng: “Giá như thay vào vết chân của Đinh Mẫn Quân là vết chân của mình, mình được cùng Chu cô nương sánh vai mà đi…” Thôn nữ đột nhiên kêu lên:

– Ôi chao, phải chạy mau, để lâu e không kịp mất!

Trương Vô Kỵ đang mơ màng, chợt choàng tỉnh, hỏi:

– Gì thế?

Thôn nữ nói:

– Thiếu nữ phái Nga Mi không chịu đấu thí mạng với muội, giả bộ bị thương bỏ đi. Nhưng Đinh Mẫn Quân luôn miệng đòi bắt muội đi gặp sư phụ của họ, Diệt Tuyệt sư thái hẳn đang ở gần đâu đây. Lão tặc ni ấy cực kỳ hiếu thắng, nhất định sẽ phóng tới.

Trương Vô Kỵ nhớ lần Diệt Tuyệt sư thái một chưởng đánh chết Kỷ Hiểu Phù tàn ác biết chừng nào, không khỏi sợ hãi nói:

– Lão tặc ni ấy rất lợi hại, chúng mình không phải đối thủ của bà ta đâu.

Thôn nữ hỏi:

– Ca ca gặp bà ta rồi ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Chưởng môn phái Nga Mi đâu phải tầm thường? Ta chưa đi lại được, cô nương hãy mau chạy đi.

Thôn nữ giận dữ nói:

– Làm sao muội có thể bỏ ca ca ở đây để chạy thoát một mình? Ca ca nghĩ bụng dạ muội tệ hại thế sao?

Nàng nhíu mày suy nghĩ một lát, rồi cắm đầu chạy.  Hồi lâu, Trương Vô Kỵ cảm thấy áy náy, gọi:

– Này, nghỉ một lát đi.

Thôn nữ cười:

– Sao lại gọi trống không thế? Muội không có tên hay sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô nương chưa xưng danh, làm sao ta biết? Cô nương bảo ta cứ gọi là “Xú cô nương”, nhưng ta cảm thấy cô nương rất dễ coi.

Thôn nữ cười to, thở phào một cái, dừng chân, vuốt tóc, nói:

– Thôi được, nói cho ca ca biết cũng không sao, muội tên là Thù Nhi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nghĩa là Châu nhi, trong chữ Trân châu bảo bối ấy phải không?

Thù Nhi nói:

– Không, không phải có nghĩa hạt trân châu, mà có nghĩa là con nhện độc ấy.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Ai lại đi lấy chữ Thù Nhi làm tên bao giờ?”

Thù Nhi nói:

– Tên muội như thế đấy, nếu ca ca sợ thì đừng gọi cái tên đó.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Là tên do phụ thân cô nương đặt ư?

Thù Nhi đáp:

– Hừ, nếu cha muội đặt cái tên ấy, ca ca tưởng muội sẽ chịu hay sao? Là mẹ đặt đó. Mẹ đã dạy cho muội cách luyện “Thiên thù vạn độc thủ”[68], nên bảo muội dùng tên này.

Trương Vô Kỵ vừa nghe năm chữ “Thiên thù vạn độc thủ” thì bất giác rùng mình.

Thù Nhi nói:

– Muội luyện từ hồi nhỏ, nhưng còn lâu mới thành. Đợi khi muội luyện xong rồi sẽ không còn phải sợ Diệt Tuyệt lão ni nữa. Ca ca có muốn xem không?

Nói xong nàng lấy trong bọc ra một cái hộp bằng vàng sáng bóng, mở nắp, trong hộp có hai con nhện to bằng ngón tay cái đang ngọ nguậy. Lưng chúng có hoa văn lấp lánh. Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, liền nhớ trong sách Độc kinh của Vương Nạn Cô có chép: “Nhện nào trên lưng có hoa văn lấp lánh là loại cực độc, người bị nó cắn khó lòng cứu chữa”, thành thử chàng rất e ngại.

Thù Nhi thấy vẻ mặt trịnh trọng của chàng, cười nói:

– Thì ra ca ca cũng biết giá trị loài nhện quý của muội. Ca ca hãy đợi một lát.

Đoạn nàng phi thân lên một cây cao, đưa mắt nhìn địa thế bốn phía, rồi nhảy xuống, nói:

– Mình phải đi thêm một quãng nữa, chuyện con nhện tính sau.

Nàng lại kéo cái xe trượt tuyết chạy thêm bảy, tám dặm. Đến bên cạnh một hẻm núi, nàng đỡ Trương Vô Kỵ ra khỏi xe, sau đó chất lên đó mấy tảng đá, kéo cái xe về phía vực sâu rồi đẩy mạnh cho xe lao xuống vực, tiếng xe đá lăn ầm ầm hồi lâu. Trương Vô Kỵ nhìn chiếc xe để lại một vệt dài trên tuyết đến tận bờ vực, chàng nghĩ thầm: “Thù Nhi tính toán chu đáo thật! Diệt Tuyệt sư thái nếu lần theo vết xe, hẳn cho rằng hai đứa mình đã rơi xuống vực, chết mất xác rồi”.

Thù Nhi khom người, nói:

– Ca ca hãy ôm lấy lưng muội!

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô nương định cõng ta ư? Như mệt vô cùng.

Thù Nhi lườm chàng một cái, nói:

– Muội mệt hay không mệt, bộ tự bản thân muội không biết hay sao?

Trương Vô Kỵ không dám hỏi thêm, liền nằm phục lên lưng nàng, nhè nhẹ ôm cổ nàng. Thù Nhi cười, nói:

– Ôm chặt thì sợ muội chết hay sao, mà cứ rón ra rón rén, làm người ta nhột quá trời.

Trương Vô Kỵ thấy nàng đối với mình không chút e ngại thì vui mừng ôm chặt hơn. Thù Nhi đột nhiên nhảy lên, cõng chàng phi thân lên cây.

Hàng cây đó mọc một dãy về phía tây, Thù Nhi nhảy từ cây này sang cây khác; nàng ta thân hình thanh mảnh, Trương Vô Kỵ lại cao to, vậy mà bộ pháp của nàng ta vẫn nhanh nhẹn, không tỏ ra mệt mỏi lắm. Nhảy một mạch bảy tám chục cây thì đến cạnh một vách núi, bấy giờ Thù Nhi mới nhảy xuống, nhẹ nhàng đặt Vô Kỵ xuống đất, cười, nói:

– Mình dựng một cái chuồng bò ở chỗ này được rồi.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:

– Chuồng bò ư? Dựng chuồng bò làm gì?

Thù Nhi cười đáp:

– Để cho con bò mộng ở, ca ca chẳng phải tên là A Ngưu sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Không cần đâu, dăm ngày nữa là chân ta sẽ lành hẳn, bây giờ gắng gượng đi cũng được rồi mà.

Thù Nhi nói:

– Hừ, gắng gượng đi, đã xấu xí, cái cẳng con bò lại khập khiễng, tưởng dễ coi lắm sao?

Đoạn Thù Nhi bẻ cành cây, quét sạch tuyết bên cạnh vách núi.

Trương Vô Kỵ nghe câu nàng nói “Cái cẳng con bò lại khập khiễng, tưởng dễ coi lắm sao?” đủ hiểu nàng rất quan hoài tới mình, bất giác xúc động. Chỉ nghe nàng vừa khe khẽ hát, vừa bẻ cành cây gác lên hai tảng đá làm mái, tạo thành một cái chòi nhỏ làm chốn dung thân, mái lợp tranh, tường đá, trông cũng dễ coi. Thù Nhi làm cái chòi nhỏ xong, lại lấy từng khối tuyết phủ lên trên mái, hì hục cả nửa ngày, đến khi từ bên ngoài nhìn vào không thấy dấu vết gì mới chịu dừng tay.

Nàng lấy khăn lau mồ hôi trên mặt, nói:

– Ca ca chờ ở đây, muội đi tìm thức ăn.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta cũng chưa đói lắm, cô nương mệt quá rồi, nghỉ một lúc hãy đi.

Thù Nhi nói:

– Ca ca muốn đối xử tốt với muội thì không cần phải ngọt ngào đầu lưỡi đâu.

Nói xong lẹ làng chạy vào rừng.

Trương Vô Kỵ nằm trên phiến đá, nghĩ đến Thù Nhi nói năng dịu dàng, cử chỉ nhanh nhẹn, phong cách y như một mỹ nhân tuyệt sắc, riêng khuôn mặt sao lại quá xấu xí; lại nhớ phút lâm chung mẫu thân chàng có dặn: “Phải đề phòng nữ nhân lừa dối, nữ nhân càng đẹp, càng giỏi lừa người”. Thù Nhi diện mạo tuy không đẹp, nhưng đối với ta tốt biết bao, ta muốn ở bên nàng suốt đời, tiếc rằng nàng đã có tình lang, chẳng còn để ý đến ta nữa.

Chàng cứ suy nghĩ vẩn vơ, lát sau Thù Nhi xách hai con gà rừng về, nhóm lửa nướng ăn thật là ngon. Trương Vô Kỵ một con hết nhẵn, xem chừng còn thòm thèm. Thù Nhi tủm tỉm cười, quẳng cho chàng hai cái đùi gà là chỗ ngon nhất trong phần của nàng, mà nàng có ý để dành lại. Trương Vô Kỵ định từ chối, Thù Nhi giận nói:

– Ca ca còn thèm thì cứ ăn, ai mà dã tâm dã ý đối với muội, muội lấy dao khoét ba cái lỗ trên người kẻ đó đấy.

Trương Vô Kỵ không dám nhiều lời, cầm đùi gà ăn hết. Hai mép dính mỡ, chàng dùng tuyết chà chà lên mặt, rồi lấy khăn lau miệng.

Thù Nhi quay lại, thấy Vô Kỵ dùng tuyết chà chà lên mặt lại cứ trân trân nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy vậy thì mất tự nhiên, hỏi:

– Có gì không?

Thù Nhi nói:

– Ca ca bao nhiêu tuổi?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Hai mươi mốt.

Thù Nhi nói:

– Ồ, thế ra ca ca hơn muội có ba tuổi, sao lại để râu dài vậy?

Trương Vô Kỵ cười nói:

– Ta một mình sống trong hoang sơn thâm cốc, không có một ai, nên cũng chả nghĩ đến việc cạo râu.

Thù Nhi lấy trong người ra một con dao nhỏ có cán bằng vàng, đặt chàng xuống rồi thong thả cạo sạch râu ria. Trương Vô Kỵ chỉ cảm thấy lưỡi dao cực sắc, cạo tới đâu, râu rơi lả tả tới đó. Các ngón tay của nàng mềm mại lạ thường, sờ vào mặt chàng khiến chàng động lòng.

Lưỡi dao dần dần cạo xuống dưới cổ, Thù Nhi cười nói:

– Muội chỉ rạch một nhát ngang cổ họng là mạng ca ca ô hô ai tai liền. Có sợ không?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

– Chết dưới bàn tay ngọc của cô nương, ta thành quỷ cũng sướng.

Thù Nhi lật sống dao ấn vào cổ chàng, nói:

– Này thì cho ngươi thành con quỷ này!

Trương Vô Kỵ giật nảy mình, Thù Nhi ra tay quá nhanh, dao lại cận kề, lúc cảm nhận được thì dao đã cứa xuống, không kịp có một chút phản kháng nào. Nhưng Cửu dương thần công trong cơ thể lập tức sinh ra một lực đẩy hất con dao đi, bấy giờ chàng mới biết Thù Nhi chỉ cứa bằng sống dao.

Thù Nhi tay bị giật một cái, kêu lên:

– Ối chà!

Nàng cười khanh khách, hỏi:

– Có sướng không?

Trương Vô Kỵ vừa cười vừa gật đầu. Chàng vốn là người thật thà, ở bên cạnh Thù Nhi không hiểu sao chàng luôn cảm thấy thoải mái, không bị gò bó, tựa hồ hai người đã sống với nhau từ nhỏ, hết sức tiêu dao tự tại, cứ phải nói đùa vài câu mới được.

Thù Nhi cạo râu cho chàng xong, tần ngần nhìn chàng một hồi rồi thở dài. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Có gì không?

Thù Nhi không trả lời, lại cắt bớt tóc cho chàng, bới thành một búi tóc gọn ghẽ, bẻ cành cây, vót thành cái trâm cắm ngang búi tóc. Bây giờ tuy y phục vẫn lam lũ, vừa ngắn vừa chật, trông như đồ ăn trộm, nhưng thần thái Trương Vô Kỵ sáng sủa, từ một gã nhà quê xấu xí đã biến thành một thanh niên anh tuấn. Thù Nhi lại thở dài, nói:

– Thật không ngờ ca ca lại đẹp trai đến thế!

Trương Vô Kỵ đoán nàng tủi thân vì diện mạo mình xấu xí, bèn nói:

– Ta đâu có gì dễ coi mà bảo là đẹp trai. Hơn nữa, vật cực đẹp trên thế gian thường thường lại ẩn chứa cái cực xấu. Con công có bộ lông đẹp biết bao, song mật nó cực độc; con hạc tiên mào đỏ tươi trông rất đẹp, nào ngờ đó là độc dược vô cùng lợi hại. Phàm các loài côn trùng rắn rết, con nào càng đẹp càng nhiều độc tính. Hai con nhện của cô nương trông chả đẹp đấy thôi? Con người ta diện mạo xấu hay đẹp không hệ trọng, chỉ cần bụng dạ thiện lương là đáng kể.

Thù Nhi cười khẩy:

– Bụng dạ thiện lương đáng kể ở chỗ nào, ca ca nói nghe thử.

Trương Vô Kỵ nhất thời chưa trả lời được, ngẩn người ra, rồi nói:

– Bụng dạ thiện lương sẽ không làm hại người khác.

Thù Nhi nói:

– Không làm hại người khác có gì là tốt?

Trương Vô Kỵ nói:

– Mình không làm hại người khác, trong lòng mình cũng bình yên vui vẻ, ứng xử tự nhiên.

Thù Nhi nói:

– Muội không làm hại người khác thì không thấy sướng, phải làm hại người khác thì trong lòng mới bình yên vui vẻ, ứng xử tự nhiên được.

Trương Vô Kỵ lắc đầu, nói:

– Cô nương nói vậy là cưỡng từ đoạt lý.

Thù Nhi cười khẩy:

– Nếu không để hại người thì muội luyện “Thiên thù vạn độc thủ” làm gì? Tự mình chịu đựng bao nhiêu khổ sở, chẳng lẽ chỉ đùa chơi thôi ư?

Nói xong nàng ngồi xếp bằng, vận một lượt nội công, lấy cái hộp vàng trong bọc ra, mở nắp, thò hai ngón tay trỏ vào trong hộp.

Hai con nhện hoa từ từ bò lại, chia nhau cắn hai đầu ngón tay. Thù Nhi hít một hơi dài, hai cánh tay hơi run, ngầm vận nội công chống lại nọc độc của hai con nhện. Loài nhện hoa hút máu người làm thức ăn, song huyết mạch ở đầu ngón tay Thù Nhi vận hành cũng mang chất độc của con nhện hòa vào máu toàn cơ thể.

Trương Vô Kỵ thấy mặt Thù Nhi rất trang nghiêm, đồng thời ở mi tâm và hai bên huyệt Thái Dương có một làn hắc khí mờ mờ, hai hàm răng cắn chặt, cố chịu đựng nỗi đau đớn. Lát sau, mũi nàng lấm tấm mồ hôi. Công phu này nàng luyện trong nửa canh giờ, hai con nhện hút no máu, bụng căng tròn như viên bi mới chịu nhả ngón tay nàng ra, nằm lim dim ngủ trong hộp.

Thù Nhi lại vận công hồi lâu, làn hắc khí trên mặt lui dần, sắc hồng trở lại, thở mạnh ra một hơi dài. Trương Vô Kỵ ngửi thấy một mùi thơm ngọt, hơi bị chóng mặt, dường như hơi nàng thở ra có mang chất độc. Thù Nhi mở mắt, mỉm cười.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Phải luyện đến khi nào mới được coi là hoàn toàn thành công?

Thù Nhi nói:

– Mỗi con nhện hoa thân mình từ màu hoa chuyển sang màu đen, từ đen biến thành trắng thì hết chất độc mà chết. Bao nhiêu chất độc trong thân thể con nhện đều truyền hết sang ngón tay muội. Tối thiểu luyện khoảng một trăm con nhện hoa mới đạt mức tiểu thành. Còn công phu muốn cho đại thành cũng phải một hai ngàn con cũng chưa xem là nhiều.

Trương Vô Kỵ nghe Thù Nhi nói thế, bất giác nổi gai ốc, hỏi:

– Lấy đâu ra nhiều nhện hoa đến thế?

Thù Nhi đáp:

– Một mặt phải nuôi, nhện sinh ra nhện con, một mặt phải tìm nơi có nhện mà bắt.

Trương Vô Kỵ thở dài:

– Võ công trong thiên hạ vô số môn, hà tất phải luyện cái môn độc địa này? Chất độc của loài nhện cực kỳ nguy hiểm, đưa nó vào cơ thể rồi, dù cô nương có cách chế ngự, nhưng về lâu về dài cũng không có gì hay ho đâu.

Thù Nhi cười khẩy, nói:

– Võ công trong thiên hạ cố nhiên là vô số, nhưng không có môn công phu nào sánh bằng Thiên thù vạn độc thủ. Ca ca đừng cậy nội công cao siêu, muội mà luyện xong môn này, thì ca ca không chịu nổi một ngón tay của muội đánh trúng đâu.

Nói xong Thù Nhi vận khí vào ngón tay, chọc một cái vào thân cây bên cạnh. Công lực của nàng còn non nớt, nên chỉ lõm sâu được nửa tấc.

Trương Vô Kỵ lại hỏi:

– Sao mẫu thân cô nương lại dạy cô nương luyện môn này? Bản thân bà đã luyện thành rồi ư?

Ánh mắt của Thù Nhi đột nhiên nảy ra tia hung dữ, nàng hậm hực đáp:

– Luyện môn “Thiên thù vạn độc thủ” khi đến con thứ hai mươi trở đi, chất độc trong cơ thể tích tụ đã nhiều, dung mạo sẽ bắt đầu thay đổi. Luyện đến một ngàn con thì mặt mũi sẽ trở nên xấu xí vô cùng. Mẹ muội luyện đến gần một trăm con nhện thì gặp cha muội, sợ dung mạo hóa ra xấu xí, cha muội sẽ không yêu thương nữa, bèn hủy bỏ hết công phu đã có, trở lại thành một thiếu nữ tầm thường trói gà không chặt. Tuy dung mạo trở lại dễ coi, nhưng khi bị dì hai và các anh muội lăng nhục thì chẳng có chút tài nghệ gì để chống trả, đến nỗi phải chết. Hừ, mặt mũi xinh đẹp để làm gì? Mẹ muội là một người vô cùng xinh đẹp, chỉ vì lớn tuổi, không sinh được con trai, nên cha muội đi lấy tiểu thiếp…

Trương Vô Kỵ nhìn trộm nàng một cái, hỏi nhỏ:

– Thì ra… thì ra cô nương vì luyện môn này…

Thù Nhi nói:

– Đúng thế, muội chỉ vì luyện môn công phu này mà mặt mũi mới hóa ra xấu xí như vầy. Hừ, cái gã tự phụ kia không thèm ngó ngàng đến muội, đợi khi muội luyện thành môn Thiên thù vạn độc thủ, tìm thấy y rồi, nếu y chưa có thê tử thì thôi…

Trương Vô Kỵ ngắt lời:

– Cô nương chưa hề thành hôn với y, cũng chưa hẹn ước trăm năm… chỉ mới… chẳng qua… Thù Nhi nói:

– Thì cứ nói thẳng ra, sợ gì phải ấp úng? Có phải ca ca định nói chẳng qua chỉ một mình muội tương tư y chứ gì? Tương tư một phía thì đã sao? Muội đã yêu y thì không để cho y được yêu một ai khác. Nếu y bạc bẽo với muội, muội sẽ cho y nếm mùi “Thiên thù vạn độc thủ”.

Trương Vô Kỵ mỉm cười, không tranh cãi với nàng nữa, nghĩ thầm cô nương này tính khí quái dị, tốt thì thật tốt, nhưng khi nổi cơn lên là bất kể phải trái gì hết. Chàng nhớ thái sư phụ và nhị sư bá thường nói về việc phân biệt chính tà trong võ lâm, xem ra môn Thiên thù vạn độc thủ này hẳn là môn công phu cực kỳ tàn độc của tà môn, mẹ nàng ta cũng phải thuộc hạng yêu tà. Nghĩ đến đây, bất giác thấy cần dè chừng nàng ta vài phần.

Thù Nhi không hề nhận ra sự thay đổi trong tâm trạng của Trương Vô Kỵ, cứ chạy ra chạy vào căn nhà nhỏ, hái các bông hoa rừng về cắm khắp nơi. Trương Vô Kỵ thấy nàng trang trí nơi ở rất có nhã hứng, đủ biết thích đẹp là bản tính trời sinh, vậy mà lâu nay nàng để cho chất độc hủy hoại dung mạo của mình như thế, bèn nói:

– Thù Nhi, khi ta khỏi chân rồi, ta sẽ đi hái thuốc chữa cho cô nương khỏi bị sưng mặt.

Thù Nhi nghe vậy liền lộ vẻ hoảng sợ, nói:

– Không… không… không đâu! Muội đã chịu bao nhiêu khổ sở để có được như hôm nay, ca ca lại định hủy hết công phu “Thiên thù vạn độc thủ” của muội ư?

Trương Vô Kỵ nói:

– Chúng ta sẽ tìm được cách không hủy công phu mà vẫn tiêu trừ được chất độc trên mặt cô nương.

Thù Nhi nói:

– Không xong đâu, nếu đã có cách, có lẽ nào mẹ muội là công phu tổ truyền lại không biết? Thiên hạ chỉ có Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu mới đủ tài nghệ làm nổi việc đó, nhưng… nhưng ông ta đã chết mấy năm trước rồi.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi:

– Cô nương cũng biết Hồ Thanh Ngưu ư?

Thù Nhi lườm chàng, nói:

– Thì đã sao? Có gì lạ nào? Điệp Cốc Y Tiên lừng danh giang hồ, ai chẳng biết.

Nói rồi thở dài, tiếp:

– Dẫu ông ta còn sống, cái người mang ngoại hiệu “Kiến Tử Bất Cứu” ấy phỏng có ích gì?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cô nương đâu biết tài nghệ một đời của Điệp Cốc Y Tiên đã truyền hết cho ta; nhưng ta chưa cho biết vội; đợi sau này tìm ra cách chữa cho cô nương hết bị sưng mặt, cho cô nương sung sướng một phen”.

Trong lúc nói chuyện, bên ngoài trời đã tối, hai người bèn tựa vào vách đá ngủ. Ngủ đến nửa đêm, Trương Vô Kỵ mơ màng nghe có tiếng sụt sùi, chợt tỉnh dậy, định thần lại mới hay Thù Nhi đang khóc. Chàng ngồi thẳng lên, vỗ vỗ nhẹ vai nàng, an ủi:

– Thù Nhi, đừng đau lòng mà.

Nào ngờ lời nói dịu dàng đó lại khiến Thù Nhi xúc động thêm, nàng gục đầu vào vai Trương Vô Kỵ khóc òa. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Thù Nhi, chuyện gì vậy? Cô nương nhớ đến mẹ phải không?

Thù Nhi gật đầu, nghẹn ngào đáp:

– Mẹ muội chết rồi, muội chỉ còn một mình bơ vơ cô khổ, chẳng ai thích muội, chẳng ai tốt với muội!

Trương Vô Kỵ lấy tay áo thong thả lau nước mắt cho Thù Nhi, dịu giọng nói:

– Ta thích cô nương, ta sẽ tử tế với cô nương.

Thù Nhi nói:

– Muội không cần ca ca tử tế với muội. Trong lòng muội chỉ thích một người, y lại chẳng ngó ngàng tới muội, còn đánh muội, chửi muội, cắn muội.

Trương Vô Kỵ giọng run run, nói:

– Cô nương hãy quên hắn đi. Ta lấy cô nương làm vợ, suốt đời sẽ đối xử tử tế với cô nương.

Thù Nhi cao giọng, nói:

– Không, không! Muội không thể quên chàng ta. Ca ca còn bảo muội quên chàng ta đi, muội sẽ không thèm nhìn ca ca nữa.

Trương Vô Kỵ quá ngượng ngùng, cũng may đang là trời tối, nên Thù Nhi không nhìn thấy chàng xấu hổ đỏ bừng mặt như thế nào.

Một hồi lâu hai người không ai nói gì.

Cuối cùng Thù Nhi nói:

– A Ngưu ca giận muội đấy à?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta không giận cô nương, ta chỉ giận chính mình, giá đừng nói mấy câu đó thì hơn.

Thù Nhi vội nói:

– Không, không! Ca ca hãy nói “Ta bằng lòng lấy cô nương làm vợ, suốt đời sẽ đối xử tử tế với cô nương” đi! Muội thích nghe câu đó lắm, ca ca hãy nhắc lại đi.

Trương Vô Kỵ giận dỗi:

– Cô nương không chịu quên kẻ ấy, ta còn nói thế làm gì?

Thù Nhi nắm lấy tay chàng, dịu giọng:

– A Ngưu ca đừng giận muội, muội có lỗi với ca ca, muội tệ quá đấy mà. Nếu ca ca thực sự lấy muội làm vợ, muội sẽ đâm mù mắt ca ca, sẽ giết ca ca luôn.

Trương Vô Kỵ lạnh cả người, hỏi:

– Cô nương nói gì vậy?

Thù Nhi nói:

– Mắt ca ca mù rồi sẽ không còn nhận biết vẻ xấu xí của muội, cũng không còn nhìn thấy Chu cô nương của phái Nga Mi. Nếu ca ca vẫn không quên nàng ta, muội sẽ chọc một ngón tay cho ca ca chết luôn, làm cho Chu cô nương phái Nga Mi chết theo, rồi chọc chết luôn cả muội một thể.

Ý định quái dị đó Thù Nhi nói ra một cách thản nhiên, tựa hồ đó là đạo lý thông thường trong trời đất vậy. Trương Vô Kỵ nghe những lời lẽ tàn ác gớm ghiếc như vậy thì không khỏi giật mình.

Ngay lúc đó, bỗng nghe từ xa vọng lại giọng một bà già:

– Chu cô nương của phái Nga Mi đâu có làm gì các ngươi?

Thù Nhi giật mình nhổm lên, nói nhỏ:

– Diệt Tuyệt sư thái đấy!

Nàng nói rất nhỏ, vậy mà người bên ngoài vẫn nghe thấy, nghiêm nghị đáp:

– Phải, Diệt Tuyệt sư thái đây.

Câu thứ nhất người kia nói nghe ở xa, nhưng câu này nghe như đã ở bên căn chòi. Thù Nhi biết sự tình không ổn, chẳng còn kịp cõng Trương Vô Kỵ chạy trốn, đành nín thở im lặng.

Chỉ nghe giọng nói lạnh lùng ở bên ngoài:

– Ra mau! Còn mong trốn nổi trong hầm được sao?

Thù Nhi nắm tay Trương Vô Kỵ vén cỏ bước ra khỏi hầm, thấy một lão ni tóc bạc đứng cách căn hầm hai trượng, chính là chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái. Cách bà ta một quãng xa có ba tốp khoảng vài chục người đang chạy tới. Khi đến gần, bọn họ chia thành hai nhóm đứng hai bên Diệt Tuyệt sư thái. Phần lớn là ni cô, trong đó có cả Đinh Mẫn Quân và Chu Chỉ Nhược. Các nam đệ tử đứng sau cùng. Nguyên Diệt Tuyệt sư thái không ưa nam đệ tử, các nam đệ tử ở phái Nga Mi không được truyền thụ võ công thượng thừa, địa vị cũng thấp hơn so với nữ đệ tử.

Diệt Tuyệt sư thái lặng lẽ nhìn như thể đánh giá Thù Nhi một hồi. Trương Vô Kỵ thấp thỏm đứng sau lưng Thù Nhi, định bụng nếu Diệt Tuyệt sư thái hạ sát Thù Nhi, dù biết mình không địch nổi, chàng cũng hết sức một phen. Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, quay lại hỏi Đinh Mẫn Quân:

– Có phải con bé này không?

Đinh Mẫn Quân cúi mình đáp:

– Chính nó ạ.

Chỉ nghe “rắc, rắc” hai tiếng, rồi hự một tiếng, Thù Nhi đã văng ra xa hơn ba trượng, cả hai cổ tay đều bị gãy, nằm ngất lịm trên tuyết.

Trương Vô Kỵ thấy một cái bóng màu tro loáng qua trước mắt, Diệt Tuyệt sư thái dùng thân pháp cực nhanh bay tới bên cạnh Thù Nhi, lại dùng thủ pháp cực nhanh bẻ gãy hai cổ tay nàng, ném nàng ra xa, rồi lại dùng thân pháp cực nhanh trở về chỗ cũ, đứng sừng sững như một cây cổ thụ giữa gió đêm, vừa hùng vĩ, vừa kỳ bí.

Trương Vô Kỵ tuy nhìn rõ mọi chiêu thức của

Diệt Tuyệt sư thái, nhưng bị thân pháp và thủ pháp kinh nhân của bà ta làm cho chàng mất hết khả năng phản ứng.

Diệt Tuyệt sư thái đưa ánh mắt nhìn thấu tâm can kẻ khác, chằm chằm nhìn Trương Vô Kỵ, quát:

– Đi ra!

Chu Chỉ Nhược bước lên một bước, thưa bằng giọng run run:

– Sư phụ, người này bị gãy cả hai chân, không đi lại được.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Làm hai cái xe trượt, kéo chúng nó đi!

Chúng đệ tử đồng thanh tuân lệnh. Mươi tên nam đệ tử chân tay nhanh nhẹn làm hai cái xe trượt, hai nữ đệ tử khiêng Thù Nhi, hai nam đệ tử khiêng Trương Vô Kỵ đặt lên xe, kéo trên tuyết theo sau Diệt Tuyệt sư thái đi về hướng tây.

Trương Vô Kỵ lắng tai nghe động tĩnh, không biết Thù Nhi bị thương nặng nhẹ ra sao. Đi được hơn một dặm, mới nghe nàng rên một tiếng nhỏ. Trương Vô Kỵ hỏi to:

– Thù Nhi, bị thương thế nào? Cô nương có bị nội thương hay không?

Thù Nhi đáp:

– Bà ta bẻ gãy hai cổ tay muội, hình như không bị nội thương.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nếu nội tạng không sao thì tốt. Cô nương hãy dùng cùi chỏ tay trái day vào bên dưới khuỷu tay phải ba tấc năm phân, sau đó lại dùng cùi chỏ tay phải day vào bên dưới khuỷu tay trái ba tấc năm phân là sẽ đỡ đau.

Thù Nhi chưa trả lời, Diệt Tuyệt sư thái kêu “ồ” một tiếng, ngoảnh đầu lại nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi:

– Tên tiểu tử này hóa ra tinh thông y lý, tên ngươi là gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.

Diệt Tuyệt sư thái hỏi tiếp:

– Sư phụ ngươi là ai?

Trương Vô Kỵ nói:

– Sư phụ của tại hạ chỉ là một thầy lang vô danh ở một tiểu trấn, có nói ra sư thái cũng không biết.

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, không hỏi nữa.

Cả đoàn người đi đến lúc trời sáng mới dừng nghỉ lấy lương khô ra ăn. Chu Chỉ Nhược cầm hai chiếc bánh bao nguội, cho Trương Vô Kỵ và Thù Nhi mỗi người một cái. Khi Chu Chỉ Nhược đưa bánh cho Trương Vô Kỵ, chỉ nhìn chàng một cái rồi quay đi. Trương Vô Kỵ không nén nổi xúc động, nói nhỏ:

– Ơn đức bón cơm trên sông Hán Thủy, vĩnh viễn không quên.

Chu Chỉ Nhược chấn động toàn thân, quay lại nhìn Trương Vô Kỵ, bây giờ chàng đã râu tóc nhẵn nhụi, gọn ghẽ; Chỉ Nhược nhìn một hồi, đột nhiên kêu “A” một tiếng, lộ vẻ vui mừng, nói:

– Ca ca… ca…

Trương Vô Kỵ biết nàng đã nhận ra mình, thong thả gật đầu. Chu Chỉ Nhược hỏi nhỏ:

– Hàn độc trong người đã đỡ chưa?

Giọng Chỉ Nhược rất nhỏ, chỉ vo ve như tiếng muỗi, người ngoài không thể nghe rõ. Trương Vô Kỵ đáp nhỏ:

– Đã khỏi rồi.

Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, bước ra chỗ khác.

Lúc đó Thù Nhi ở sau lưng Trương Vô Kỵ, thấy Chu Chỉ Nhược không giấu nổi vẻ vui mừng, đôi môi mấp máy, tiếp đó có vẻ thẹn thùng, ánh mắt sáng lên, thì Thù Nhi đợi nàng ta đi khỏi mới hỏi Trương Vô Kỵ:

– Cô ta nói gì với ca ca thế?

Trương Vô Kỵ đỏ mặt, đáp:

– Đâu… đâu có… có gì?

Thù Nhi hừ một tiếng, tức giận:

– Sờ sờ ra đó còn chối!

Cả đoàn nghỉ ba canh giờ, lại đi tiếp về hướng tây, đi liền ba ngày, xem chừng có việc khẩn cấp. Tất cả nam nữ đệ tử dù đi hay nghỉ, ngoài đôi lời chẳng đặng đừng ra, thảy đều lặng thinh cứ như một đám người câm vậy.

Hiện giờ xương đùi của Trương Vô Kỵ đã lành lặn như thường, có thể đi lại hẳn hoi, song chàng giả vờ chưa khỏi, thi thoảng rên rỉ vài tiếng để Diệt Tuyệt sư thái khỏi phòng bị, chờ có dịp sẽ cứu Thù Nhi trốn đi. Có điều dọc đường toàn là đồng không mông quạnh, chạy chưa xa sẽ bị bắt lại, nên nhất thời chàng chưa dám vọng động. Chàng nối lại cổ tay gãy cho Thù Nhi. Diệt Tuyệt sư thái nhìn thấy, nhưng không nói gì. Mỗi khi dừng lại nghỉ chân hoặc ngủ đêm, Trương Vô Kỵ đều không nhịn được cứ liếc nhìn Chu Chỉ Nhược mấy lần, song nàng không hề tới gần chỗ chàng.

*

*   *

Đi thêm hai ngày nữa, chiều hôm đó cả bọn đến một sa mạc rộng lớn, nơi đây tuyết đã tan hết, hai cái xe chỉ còn trượt đi trên cát.

Đang đi, bỗng có tiếng vó ngựa từ phía tây vọng lại. Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ra hiệu, đám đệ tử liền nằm phục xuống sau các gò cát. Hai kẻ chĩa mũi kiếm ngay sau lưng Trương Vô Kỵ và Thù Nhi, ngụ ý rất rõ là phái Nga Mi đang phục kích địch nhân, nếu Trương Vô Kỵ lên tiếng đánh động, hai người sẽ bị đâm chết tức thời.

Tiếng vó ngựa nghe dồn dập, nhưng vẫn còn xa, rất lâu sau mới tới gần. Các kỵ sĩ đột nhiên thấy dấu chân trên cát liền gò cương lại quan sát.

Đại đệ tử phái Nga Mi là Tĩnh Huyền sư thái giơ phất trần ra hiệu, mấy chục đệ tử liền từ chỗ mai phục đổ ra vây quanh nhóm kỵ sĩ.

Trương Vô Kỵ thò đầu ra nhìn, thấy có bốn bạch y kỵ sĩ trên áo thêu một ngọn lửa đỏ. Bốn người ấy thấy phục binh đổ ra, bèn hô hoán rút binh khí ra, phá vây chạy về phía đông bắc.

Tĩnh Huyền sư thái quát lớn:

– Đó là bọn yêu nhân của Ma giáo, không để tên nào chạy thoát!

Phái Nga Mi tuy đông người nhưng không cậy nhiều đánh ít. Hai nữ đệ tử và hai nam đệ tử theo hiệu lệnh của Tĩnh Huyền sư thái phóng tới chặn đầu bốn bạch y kỵ sĩ. Bốn bạch y kỵ sĩ cầm loan đao chống trả ác liệt. Nhưng các đệ tử phái Nga Mi đi Tây Vực lần này toàn là cao thủ trong môn phái, người nào người nấy võ nghệ tinh cường, chỉ sau bảy tám hiệp, ba bạch y Ma giáo đã trúng kiếm ngã ngựa.

Người còn lại lợi hại hơn nhiều, y chém trúng vai trái một nam đệ tử phái Nga Mi, cướp đường chạy, phi ngựa ra xa mấy trượng. Chỉ huy tốp thứ ba của phái Nga Mi là Tĩnh Hư sư thái quát lên:

– Ngã này!

Với bộ pháp cực nhanh, Tĩnh Hư vọt tới sau lưng người kia, phất trần tung ra cuốn ngay chân trái của y. Y vung đao chém lại, Tĩnh Hư đột nhiên biến chiêu, nghe bộp một tiếng, phất trần đánh trúng gáy đối phương. Chiêu này đánh trúng chỗ yếu hại, cây phất trần ẩn chứa nội lực thâm hậu, làm cho người kia ngã ngựa. Không ngờ y hết sức hung tợn, tuy bị trọng thương, vẫn quyết cùng chết với đối phương, nên dang hai tay nhào tới chộp Tĩnh Hư. Tĩnh Hư nghiêng mình tránh, cây phất trần lại đánh trúng ngực y.

Lúc đó, từ chiếc lồng treo ở cổ con ngựa của y bỗng có ba con chim câu trắng bay lên. Tĩnh Huyền quát:

– Trò gì thế?

Bà ta phẩy tay áo một cái, ba viên đạn sắt bay ra bắn ba con chim câu. Hai con chim câu trúng đạn rơi xuống, còn một viên đạn bị một bạch y kỵ sĩ nằm dưới đất dùng ám khí đánh tạt qua một bên. Con chim thứ ba bay vút lên mây. Ám khí của đám đệ tử phái Nga Mi bay ra rào rào, nhưng không thể với tới, con chim bay thẳng về hướng đông bắc. Tĩnh Huyền giơ tay trái lên, các nam đệ tử liền xốc bốn bạch y kỵ sĩ đến trước mặt bà ta.

Từ lúc tấn công địch nhân tới khi bắn chim, bắt người, Diệt Tuyệt sư thái chỉ lẳng lặng đứng ngoài quan sát. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bà ta thân chinh động thủ với Thù Nhi, đủ biết coi trọng nàng ta lắm, có lẽ vì Đinh Mẫn Quân bị đánh gãy hai cổ tay. Lão ni này muốn bắn hạ con chim câu kia, chắc không có gì khó, nhưng bà ta không thèm lý đến, cứ mặc cho đám đệ tử lo liệu”. Chàng nhớ lại năm xưa Tĩnh Huyền dẫn nhóm Kỷ Hiểu Phù lên núi Võ Đang chúc thọ thái sư phụ, xem ra ngang hàng với chưởng môn các phái Côn Luân, Không Động, đủ biết đại đệ tử của phái Nga Mi rất có danh vọng trên giang hồ, đủ sức đảm đương mọi sự, kể cả đại sự. Đối phó với vài tên Ma giáo, dĩ nhiên đâu cần Diệt Tuyệt sư thái phải ra tay. Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư thân chinh động thủ kể cũng đã coi trọng đối phương lắm rồi.

Một nữ đệ tử nhặt hai con chim chết lên, rút từ trong chiếc ống nhỏ buộc ở đùi chim ra một mẩu giấy cuộn tròn, trình lên Tĩnh Huyền. Tĩnh Huyền mở ra xem, nói:

– Sư phụ, Ma giáo đã biết chúng ta vây công đỉnh Quang Minh, thư này là chúng cáo cấp với Thiên Ưng giáo.

Rồi xem mẩu giấy trong ống thứ hai, nói:

– Cái này cũng thế. Tiếc rằng con thứ ba bay thoát.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Có gì mà tiếc? Quần ma tụ hội, ta ra tay một lần diệt cả lũ, chẳng thú lắm sao? Khỏi tốn công đi khắp nơi tìm kiếm bọn chúng.

Tĩnh Huyền nói:

– Đúng vậy!

Trương Vô Kỵ nghe mấy chữ “cáo cấp với Thiên Ưng giáo” thì trong lòng phân vân: “Giáo chủ Thiên Ưng giáo chính là ông ngoại của ta, không biết lão nhân gia có đến hay không? Hừ, lão ni này thật quá ngạo mạn tự đại, chắc gì đã là đối thủ của ông ngoại ta”. Chàng đã định thừa cơ cứu Thù Nhi đào tẩu, nay thấy sắp có cảnh náo nhiệt thì lại muốn ở xem, chưa bỏ đi vội.

Tĩnh Huyền quát hỏi bốn bạch y nhân:

– Các ngươi còn gọi thêm viện thủ nào nữa? Làm sao các ngươi biết tin sáu phái vây diệt Ma giáo?

Bốn bạch y nhân cùng ngửa mặt lên trời cười thảm, rồi đột nhiên quỵ xuống, không động đậy gì nữa. Ai nấy kinh hãi. Hai nam đệ tử cúi xuống xem, thấy bốn người ấy nở nụ cười kỳ bí, đều tắt thở cả, thì nói:

– Sư thư, họ chết cả rồi!

Tĩnh Huyền giận dữ nói:

– Yêu nhân phục độc tự tận, thứ độc dược này thật lợi hại, phát tác nhanh đến thế.

Tĩnh Hư nói:

– Tra xét thân thể bọn chúng xem!

Bốn nam đệ tử vâng lệnh, chia nhau lục soát túi áo các tử thi.

Chu Chỉ Nhược vội nói:

– Các vị sư huynh cẩn thận, đề phòng độc vật giấu trong túi áo.

Bốn nam đệ tử ngẩn người, bèn lấy binh khí rạch túi áo của các thi thể, thấy trong túi áo có cái gì cử động bùng nhùng, thì ra túi mỗi người kia đều có hai con rắn nhỏ cực độc, nếu thò tay vào lục soát thể nào cũng bị độc xà cắn phải. Cả bọn tái mặt, chửi giáo đồ Ma giáo hành sự độc ác.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Chúng ta từ Trung thổ tới đây, hôm nay lần đầu tiên chạm trán giáo đồ Ma giáo. Bốn tên này chẳng qua chỉ là hạng vô danh tiểu tốt mà đã thâm độc như vậy thì bọn đầu sỏ sẽ như thế nào?

Ngừng giây lát, bà ta nói tiếp:

– Tĩnh Hư đứng tuổi mà hành sự cẩu thả như vậy, không bằng Chỉ Nhược.

Tĩnh Hư đỏ mặt, cúi mình nhận lời quở trách.

Trương Vô Kỵ nghĩ tới câu “sáu phái vây diệt Ma giáo” của Tĩnh Huyền. “Sáu phái? Sáu phái ư? Liệu phái Võ Đang ta có trong đó chăng?”

*

*     *

Canh hai đêm đó bỗng có tiếng lục lạc kêu leng keng, hình như có một con lạc đà từ xa đi tới. Mọi người đang ngủ say, nghe tiếng lục lạc đều tỉnh dậy cả. Tiếng lục lạc thoạt nghe vọng lại từ phía tây nam, nhưng trong giây lát lại từ phía nam vọng lên phía bắc, vọng đến mãi phía tây bắc. Rồi tiếng lục lạc lại chuyển sang phía đông, tựa hồ xuất hiện ở phía đông bắc. Cứ như thế, lúc bên đông, lúc bên tây, nghe rất ma quái. Mọi người nhìn nhau ngạc nhiên, đều nghĩ bụng dù con lạc đà kia chạy nhanh cỡ nào cũng không tài gì vừa ở bên đông đã vọt ngay sang bên tây; mà nghe âm thanh thì không phải là có nhiều người đứng ở tứ phía lần lượt rung lục lạc. Lát sau, tiếng lục lạc khi gần khi xa, lúc to lúc nhỏ, đột nhiên kêu vang động ở phía đông nam, tưởng chừng con lạc đà kia bay được như chim vậy. Người của phái Nga Mi chưa từng qua sa mạc, nghe tiếng lục lạc quái dị như thế, đều thầm sợ hãi.

Diệt Tuyệt sư thái lớn tiếng nói:

– Cao nhân ở phương nào xin hãy ra gặp, đừng giở trò ma quái, chẳng ra thể thống gì đâu!

Giọng bà ta vang đi rất xa. Sau câu nói đó, tiếng lục lạc im bặt, tựa hồ chủ nhân của tiếng lục lạc sợ bà ta, không dám đùa giỡn nữa.

Cả ngày hôm sau bình an vô sự. Đến canh hai, tiếng lục lạc lại nổi lên khi xa khi gần, lúc bên đông lúc bên tây. Diệt Tuyệt sư thái lại lên tiếng trách mắng, nhưng lần này tiếng lục lạc không im nữa mà cứ lúc nhỏ lúc to, có lúc tưởng như con lạc đà giận dữ phi tới gần rồi đột nhiên mất tăm, khiến ai nấy nhức đầu chóng mặt.

Trương Vô Kỵ và Thù Nhi nhìn nhau mỉm cười, tuy không biết tiếng lục lạc sao lại vang động quái dị như thế, nhưng hẳn là do một cao thủ Ma giáo bày ra làm cho phái Nga Mi không làm gì nổi, thấp thỏm bất an, kể cũng nực cười.

Diệt Tuyệt sư thái phủi tay, các đệ tử bèn nằm xuống ngủ, không thèm để ý đến tiếng lục lạc nữa. Tiếng lục lạc vang lên một hồi, tuy làm đủ trò song phái Nga Mi chẳng buồn lý tới, có lẽ người kia thấy hết hứng thú, nên đột nhiên vang lên một chập ở phía bắc rồi im hẳn. Cái cách “Thấy lạ không cho là lạ, tự nó hết lạ” của Diệt Tuyệt sư thái xem ra có linh hiệu.

Sáng hôm sau mọi người thu dọn chăn áo, đang định khởi hành thì hai nam đệ tử không hẹn cùng kêu hoảng lên. Ngay cạnh họ có một người lạ nằm đó tự bao giờ, đang ngủ say. Kẻ đó đắp một tấm mền bẩn thỉu, không để lộ chỗ nào của cơ thể, mông đít chổng cao, ngáy khò khò.

Mọi người kinh hãi, đêm qua họ đã luân phiên canh gác, có kẻ lẻn vào, sao lại không biết? Diệt Tuyệt sư thái võ công thượng thừa, dẫu là gió thổi cỏ lay, hoa rơi lá rụng cũng không qua khỏi tai mắt bà ta, tại sao trong đám đệ tử có thêm một kẻ lạ mà bây giờ mới phát hiện? Ai nấy vừa sợ vừa thẹn, đã có hai người cầm trường kiếm tới bên kẻ lạ, quát:

– Ngươi là ai? Giở trò ma quái gì đây?

Người kia vẫn ngáy khò khò, chẳng thèm để ý. Một nam đệ tử dùng mũi kiếm hất tấm mền ra, thấy bên dưới là một nam tử mặc áo trắng sọc xanh, đang nằm sấp trên cát ngủ ngon lành.

Tĩnh Hư biết người kia cả gan như thế, hẳn có duyên cớ, bèn tiến lên một bước, nói:

– Các hạ là ai? Tới đây có việc gì?

Người kia vẫn ngáy như kéo bễ. Tĩnh Hư thấy y vô lễ thì cả giận vung cây phất trần quất vào mông y. Chỉ nghe “Vù!” một tiếng, cây phất trần của Tĩnh Hư không hiểu sao lại bay vút lên trời, cao đến cả chục trượng, ai nấy bất giác cùng ngẩng đầu nhìn theo.

Diệt Tuyệt sư thái kêu to:

– Tĩnh Hư, coi chừng!

Lời vừa dứt, đã thấy người lạ kia bay vọt ra xa mấy trượng, Tĩnh Hư đã bị y ôm ngang trên hai cánh tay. Tĩnh Huyền cùng một nữ đệ tử đứng tuổi là Tô Mộng Thanh cùng tuốt kiếm, đề khí đuổi theo. Nhưng người kia thân pháp cực nhanh, ngoài sức tưởng tượng, xem ra không tài nào đuổi kịp.

Diệt Tuyệt sư thái hú lên một tiếng, cầm bảo kiếm Ỷ Thiên tức thời rượt theo. Chưởng môn phái Nga Mi quả nhiên thân thủ hơn người, chỉ trong giây lát đã vượt qua Tĩnh Huyền và Tô Mộng Thanh, ánh kiếm loáng lên đâm vào sau lưng người kia. Người kia chạy cực nhanh, nhát kiếm ấy còn cách y hơn một thước. Tuy ôm Tĩnh Hư trên tay, nhưng y vẫn chạy như bay, chả chậm hơn Diệt Tuyệt sư thái chút nào. Y tựa hồ có ý khoe công lực, không thèm chạy đi xa mà chỉ vòng quanh đám người phái Nga Mi. Diệt Tuyệt sư thái đâm liền mấy kiếm mà vẫn chưa trúng nhát nào.

Chợt nghe “bịch” một tiếng, cây phất trần của Tĩnh Hư lúc nãy văng lên trời bây giờ mới rơi xuống đất.

Lúc này Tĩnh Huyền và Tô Mộng Thanh cũng dừng bước, mọi người chăm chú theo dõi bên ngoài mấy chục trượng hai đại cao thủ đang rượt nhau. Tuy đây là sa mạc, hai người chạy nhanh thế nhưng không hề tung cát bụi. Các đệ tử phái Nga Mi thấy Tĩnh Hư bị người kia bắt giữ, tựa hồ đã chết, chẳng cựa quậy gì hết, ai ai cũng kinh hãi. Có người tính chạy tới chặn đầu y, nhưng nghĩ tới uy danh sư phụ, không tự cướp đệ tử lại được hay sao mà phải nhờ đệ tử giúp sức? Nếu ỷ thế đông người, chuyện lộ ra ngoài, sẽ bị hảo hán giang hồ chê cười. Thành thử ai cũng muốn trợ lực nhưng không dám, chỉ mong sư phụ nhanh hơn người kia một bước, đâm trúng quái khách kia.

Trong giây lát, Diệt Tuyệt sư thái và gã kia đã chạy được ba vòng lớn, Diệt Tuyệt sư thái chỉ cần nhanh thêm chút nữa là mũi kiếm có thể đả thương địch thủ, nhưng trước sau vẫn cứ thua một bước. Người nọ tuy cất bước chạy trước, Diệt Tuyệt sư thái rượt theo sau, nhưng gã còn ôm một người, nặng thêm hơn trăm cân, vậy mà cuộc đua khinh công này xem ra vẫn ngang ngửa, bất kể thế nào thì Diệt Tuyệt sư thái cũng thua rồi.

Đến vòng thứ tư, người kia đột nhiên quay lại, hai tay đẩy ra, ném Tĩnh Hư về phía Diệt Tuyệt sư thái. Diệt Tuyệt sư thái thấy cuồng phong tạt vào mặt, lực ném kia cực mạnh, vội ngưng khí vào hai chân, sử dụng công phu Thiên cân trụy nhẹ nhàng đón lấy Tĩnh Hư.

Gã kia cười ha hả, nói:

– Sáu đại môn phái vây đánh đỉnh Quang Minh, chỉ e chẳng dễ đâu.

Nói xong gã chạy thẳng về hướng đông bắc. Lúc y để Diệt Tuyệt sư thái đuổi bắt trên cát, không một vẩn bụi bốc lên; còn lúc này cát vàng bay lên mù mịt thành một luồng dài cuồn cuộn, chẳng khác gì con rồng vàng dài mấy chục trượng, lập tức che khuất thân hình gã.

Các đệ tử phái Nga Mi đổ xô lại bên sư phụ, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái tái mặt, không thốt một lời. Tô Mộng Thanh đột nhiên kêu thất thanh:

– Tĩnh Hư sư tỷ…

Chỉ thấy Tĩnh Hư mặt vàng như nghệ, yết hầu có một vết thương, máu thịt bầy nhầy, trông rõ vết răng, rõ ràng đã bị quái khách cắn chết. Các đệ tử phái Nga Mi cùng khóc òa lên.

Diệt Tuyệt sư thái quát lớn:

– Khóc cái gì? Chôn nó đi!

Mọi người nín bặt, đem thi thể Tĩnh Hư đi chôn, đắp thành mộ phần.

Tĩnh Huyền cúi mình, nói:

– Sư phụ, yêu nhân đó là ai, chúng con cần ghi nhớ trong lòng, sau này có dịp sẽ báo thù cho sư muội.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Tên đó cắn họng hút máu người, tàn bạo độc ác, chắc là một trong tứ vương của Ma giáo Thanh Dực Bức Vương. Ta từng nghe đồn khinh công của hắn thiên hạ vô song, quả nhiên danh bất hư truyền, hơn ta rất xa.

Trương Vô Kỵ vốn rất căm ghét Diệt Tuyệt sư thái, nhưng lúc này thấy bà ta gặp cơn đại biến, vẫn không dao động, bình tĩnh như thường, trước mặt mọi người lại khen ngợi địch nhân, tự thẹn mình thua, quả là phong thái của bậc chưởng môn thì chàng không khỏi thán phục trong lòng.

Đinh Mẫn Quân hậm hực nói:

– Hắn không dám động thủ với sư phụ, chỉ biết cắm đầu chạy, sao gọi là anh hùng chứ?

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, đột nhiên “bốp” một cái, đã cho Đinh Mẫn Quân một bạt tai, giận dữ nói:

– Ta không đuổi kịp hắn, không cứu nổi mạng Tĩnh Hư, tức là y thắng rồi. Thắng bại thế nào, cả thiên hạ cùng nhìn thấy, không lẽ anh hùng hảo hán là do tự mình phong cho mình ư?

Đinh Mẫn Quân một bên má hằn đỏ vết ngón tay, cúi mình nói:

– Sư phụ giáo huấn thật đúng, đồ nhi biết lỗi rồi.

Trong bụng lại nghĩ thầm: “Bà thua người ta, bị bẽ mặt, lại đi trút giận sang đầu ta, ta đúng là xúi quẩy!”

Tĩnh Huyền nói:

– Sư phụ, Thanh Dực Bức Vương lai lịch ra sao, xin sư phụ cho biết.

Diệt Tuyệt sư thái xua tay, không trả lời Tĩnh Huyền, tự mình đi trước cả đoàn. Cả bọn thấy đại sư tỷ bị hắt hủi như thế, còn ai dám mở miệng? Tất cả lặng lẽ đi đến gần tối mới dừng chân bên một đồi cát, nhóm lửa nghỉ đêm.

Diệt Tuyệt sư thái nhìn ngọn lửa, ngồi bất động như bức tượng đá.

Các đệ tử thấy sư phụ chưa ngủ nên không ai dám đi ngủ trước, tất cả cũng ngồi ngây hơn một canh giờ. Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên đẩy song chưởng, một luồng kình phong ùa ra, “bụp” một tiếng, đống lửa tắt phụt. Mọi người vẫn ngồi im, ánh trăng lạnh lẽo chiếu xuống vai họ.

Trương Vô Kỵ bỗng cảm thấy nỗi thương cảm trào lên trong lòng: “Không lẽ phái Nga Mi uy danh lẫy lừng nay đến Tây Vực lại bị thảm bại, thậm chí không còn ai sống sót trở về?” Lại nghĩ thầm: “Ta không thể không cứu Chu cô nương. Thế nhưng nhân vật Ma giáo lợi hại như vậy, ta có tài nghệ gì để cứu người đây?”

Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái quát to:

– Dập tắt yêu hỏa, diệt hết ma hỏa!

Dừng một lát, bà ta chậm rãi nói tiếp:

– Ma giáo tôn lửa làm thần thánh. Từ đời giáo chủ thứ ba mươi ba của Ma giáo là Dương Đính Thiên chết đi, họ không có giáo chủ. Tả hữu Quang Minh sứ giả, Tứ đại hộ giáo pháp vương, Ngũ tản nhân, cùng với chưởng kỳ sứ ngũ kỳ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, người nào cũng nhòm ngó chức vị giáo chủ, tranh giành tàn sát lẫn nhau khiến Ma giáo suy yếu dần. Chính lúc này các môn phái quang minh chính đại lại hưng vượng, âu cũng là cái số Ma giáo phải bị diệt trừ. Nếu như Ma giáo không có tranh chấp bên trong, việc trừ diệt đám yêu nghiệt ấy không dễ chút nào.

Trương Vô Kỵ từ nhỏ đã nghe nói về Ma giáo song mẫu thân chàng có liên quan mật thiết với Ma giáo, nên mỗi khi gặng hỏi, phụ mẫu chàng đều không vui, hỏi nghĩa phụ thì lão cứ ngẩn ngơ xuất thần, sau đó đột nhiên nổi giận, thành thử Ma giáo rốt cuộc là gì, chàng đến giờ cũng không biết rõ. Về sau chàng thấy thái sư phụ Trương Tam Phong đối với Ma giáo vô cùng căm ghét, mỗi lần nhắc đến đều căn dặn nhất thiết không được kết giao với người theo Ma giáo. Thế nhưng sau khi Trương Vô Kỵ gặp những người như Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô, Thường Ngộ Xuân, Từ Đạt, Chu Nguyên Chương, họ đều là người của Ma giáo mà hết thảy đều khẳng khái trượng nghĩa, không hẳn là kẻ ác, chỉ hành động kỳ bí nên người ngoài khó lường mà thôi. Bây giờ thấy Diệt Tuyệt sư thái nói về lai lịch Ma giáo, chàng liền chăm chú lắng nghe.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Các đời giáo chủ đều lấy “Thánh hỏa lệnh” làm tín vật truyền từ đời này sang đời sau, nhưng đến đời giáo chủ thứ ba mươi mốt, chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào mà “Thánh hỏa lệnh” lại bị mất, nên hai đời thứ ba mươi hai và ba mươi ba, giáo chủ chỉ có quyền mà không có lệnh, chức vị giáo chủ hết sức miễn cưỡng. Dương Đính Thiên chết bất ngờ, không hiểu trúng độc hay bị người hãm hại, không kịp chỉ định người kế thừa. Trong Ma giáo, những tay đại ma đầu đủ bản lĩnh không phải là ít, có đến dăm sáu người đủ tư cách làm giáo chủ nhưng không ai chịu ai, nội bộ thành ra đại loạn. Cho đến giờ họ vẫn chưa tôn định ai làm giáo chủ. Kẻ mà chúng ta gặp hôm nay, cũng là một trong những người muốn làm giáo chủ. Hắn là một trong bốn đại hộ giáo pháp vương, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu.

Đám đệ tử chưa hề nghe cái tên Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, nên đều im lặng.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Tên này chưa bao giờ đặt chân tới Trung nguyên, bọn Ma giáo hành sự lại bí hiểm, nên tuy hắn võ công cao cường, song ở Trung nguyên không mấy ai biết tên tuổi. Còn Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, hai người đó hẳn các ngươi biết chứ?

Trương Vô Kỵ rung động trong lòng. Thù Nhi khẽ kêu “a” một tiếng.

Ân Thiên Chính và Tạ Tốn danh tiếng lẫy lừng, võ lâm ai chẳng biết. Tĩnh Huyền hỏi:

– Sư phụ, hai người đó cũng là Ma giáo ư?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Hừ, há chỉ là Ma giáo ư! Có câu “Ma giáo tứ vương Tử, Bạch, Kim, Thanh”. Tử Sam Long vương, Bạch Mi Ưng Vương, Kim Mao Sư Vương, Thanh Dực Bức Vương, chính là tứ vương trong Ma giáo. Thanh Dực Bức Vương đứng sau cùng, thân thủ như thế nào, hôm nay các ngươi đều chứng kiến rồi; còn bản lĩnh của Tử Sam, Bạch Mi và Kim Mao cứ suy ra khắc biết. Kim Mao Sư Vương phát điên phát rồ, hai mươi năm trước đột nhiên lạm sát nhiều người vô tội, sau không biết bỏ đi đâu mất tăm, thành một bí mật lớn trong võ lâm. Ân Thiên Chính không được làm giáo chủ Ma giáo nên giận dữ lập ra Thiên Ưng giáo, tự mình làm giáo chủ cho bõ tức. Ta cứ ngỡ Ân Thiên Chính đã quay lưng với Ma giáo, thành ra thế nước lửa với đỉnh Quang Minh, ai ngờ khi đỉnh Quang Minh gặp nguy nan lại chạy đến cầu cứu Thiên Ưng giáo.

Trương Vô Kỵ đầu óc rối bời, chàng vẫn biết nghĩa phụ và ông ngoại thuộc tà phái, không được các nhân sĩ chính phái chấp thuận, nhưng không ngờ cả hai đều là là Hộ giáo pháp vương của Ma giáo. Chàng mải nghĩ nên không nghe các đệ tử phái Nga Mi bàn tán những gì.

Lát sau, lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

– Sáu đại môn phái chúng ta phen này tiến đánh đỉnh Quang Minh, phải quyết thắng, dẫu bọn yêu tà đồng tâm hiệp lực, chúng ta cũng không sợ. Có điều đôi bên giao tranh, tử thương sẽ không ít, các ngươi trước hết phải mang cái tâm quyết tử, không ngại ngần chùn bước, không run sợ, lúc lâm địch không để mất uy phong của phái Nga Mi.

Các đệ tử cùng đứng dậy cúi mình vâng lệnh.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

– Võ công mạnh yếu còn tùy thiên tư cơ duyên, không thể gượng ép. Như Tĩnh Hư một chiêu chưa đánh đã trúng ám toán, bị chết trong tay tên ác ma hút máu kia, nhưng ai dám chê cười Tĩnh Hư? Chúng ta lâu nay học võ cốt để làm gì? Chẳng phải là để chống kẻ mạnh, giúp kẻ yếu, trừ diệt yêu tà hay sao? Hôm nay Tĩnh Hư là người đầu tiên bỏ mạng, không chừng người thứ hai sẽ là sư phụ các ngươi. Sáu môn phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, Hoa Sơn phen này vây đánh Ma giáo cát hung họa phúc thế nào, phái Nga Mi chúng ta từ sớm đã gạt qua một bên…

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Phái Võ Đang ta quả nhiên có trong đó”. Chàng lờ mờ có linh tính rằng chuyến tây du này hẳn sẽ gặp nhiều thảm cảnh mắt không nỡ nhìn, tai không nỡ nghe, thật chỉ muốn đem Thù Nhi bỏ trốn để vĩnh viễn tránh cái cảnh hung sát trên giang hồ.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

– Tục ngữ có câu: “Nghìn quan tài qua cửa, nhà đó hẳn gặp thời. Con còn, cha mất trước; cháu sống, ông đi rồi”. Đời có ai không chết? Chỉ cần để lại huyết thống con cháu, dù nhà đó có chết trăm người, ngàn người, vẫn cứ được coi là nhà hưng vượng. Sợ nhất là các ngươi đều chết cả, chỉ còn một mình lão ni sống cô độc trên đời.

Bà ta ngừng giây lát, rồi nói tiếp:

– Hà hà, mà dẫu có như thế thì cũng chẳng có gì đáng tiếc. Một trăm năm trước đâu đã có phái Nga Mi? Chỉ cần tất cả chúng ta tử chiến một phen cho thật oanh liệt, dẫu phái Nga Mi có bị tiêu diệt sạch một lần, thì cũng đã sao?

Đệ tử ai nấy nhiệt huyết bừng bừng, rút binh khí ra, lớn tiếng nói:

– Đệ tử quyết tử chiến, không đội trời chung với bọn yêu ma tà đạo.

Diệt Tuyệt sư thái cười nhạt, nói:

– Tốt lắm, các ngươi ngồi xuống đi!

Trương Vô Kỵ thấy phần lớn phái Nga Mi là nữ nhân yếu đuối, nhưng hào khí anh phong quyết tử vừa biểu lộ lại chẳng kém giới mày râu chút nào; chàng nghĩ thầm phái Nga Mi được xếp vào hàng sáu đại môn phái, không phải là chuyện ngẫu nhiên, chẳng những võ công cao cường, mà nhìn khí thế trước mắt, họ có chí khí y như Kinh Kha năm xưa hành thích Tần Thủy Hoàng “Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn. Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn”[69]

Mấy câu này lẽ ra nên nói trước lúc xuất quân, nhưng khi đó cứ ngỡ Ma giáo đang có nội loạn, ra tay là trừ diệt dễ dàng; ai ngờ trong thế đổ vỡ ly tán như thế, quần ma lại liên thủ với nhau chống ngoại địch. Hôm nay Thanh Dực Bức Vương vừa ra tay, cục diện xem ra đã khác hẳn dự liệu.

Quả nhiên Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

– Thanh Dực Bức Vương đã xuất hiện, Bạch Mi Ưng Vương và Kim Mao Sư Vương chắc cũng đến. Tử Sam Long Vương, Ngũ tản nhân cùng năm đại chưởng kỳ sứ ắt cũng sẽ tới. Chúng ta vốn dự tính dồn lực lượng sáu môn phái trước hết trừ diệt Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, sau đó lần lượt quét sạch từng dư nghiệt yêu ma còn lại, nào ngờ Thần Cơ tiên sinh Tiên Vu Thông, chưởng môn phái Hoa Sơn, lần này liệu sự không đúng, hừ, sai hết cả rồi.

Tĩnh Huyền hỏi:

– Tử Sam Long Vương là đại ma đầu độc ác cỡ nào?

Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu:

– Tử Sam Long Vương tàn ác thế nào, ta cũng không rõ, chỉ mới nghe danh thôi. Nghe đâu tên này tranh ngôi giáo chủ không xong nên đã lánh ra hải ngoại, không lai vãng với Ma giáo nữa. Phen này nếu hắn đứng ngoài, không can dự, vậy thật là hay. “Ma giáo tứ vương, Tử, Bạch, Kim, Thanh”, hắn là kẻ đứng đầu trong bốn hộ pháp, khỏi nói cũng biết hắn lợi hại cỡ nào. Quang Minh sứ giả trong Ma giáo, ngoài Dương Tiêu còn một người nữa. Ma giáo đời đời tương truyền, Quang Minh sứ giả phải có một tả một hữu, địa vị còn cao hơn cả tứ đại hộ giáo pháp vương. Dương Tiêu là Quang Minh tả sứ, còn tên tuổi của Quang Minh hữu sứ là gì, trong võ lâm không ai biết. Không Trí đại sư phái Thiếu Lâm, Tống Viễn Kiều Tống đại hiệp phái Võ Đang đều là những người kiến văn quảng bác, song hai vị đó cũng không biết. Chúng ta đối địch chính diện với Dương Tiêu, đôi bên công khai giao chiến, thắng bại đều do võ công quyết định, cái đó không sao, nhưng nếu như Quang Minh hữu sứ ngấm ngầm ám toán, thì đó là điều đáng lo nhất.

Các đệ tử thầm sợ hãi, bất giác đều quay nhìn về phía sau, tựa hồ Quang Minh hữu sứ hoặc Tử Sam Long Vương đã tới đâu đây đánh lén không chừng. Ánh trăng lạnh lẽo chiếu xuống những khuôn mặt trắng bệch.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói tiếp:

– Dương Tiêu đã hại chết sư bá các ngươi là Cô Hồng Tử, lại hại chết Kỷ Hiểu Phù. Vi Nhất Tiếu thì giết mất Tĩnh Hư; phái Nga Mi có mối thù không đội trời chung với Ma giáo. Bản phái từ khi Quách Tương tổ sư sáng lập tới giờ, địa vị chưởng môn đều do nữ nhân đảm nhiệm. Đừng nói nam giới không có phần, mà ngay nữ nhân đã xuất giá cũng không được giữ chức chưởng môn. Nhưng nay bản phái lâm vào thế tồn vong, đâu nhất thiết khư khư giữ cái lệ cũ? Phen này ai lập đại công, bất kể là nam hay nữ, sẽ được tiếp nhận y bát của ta.

Đám đệ tử im lặng cúi đầu, biết rằng sư phụ trịnh trọng sắp đặt hậu sự, nhắc đến việc truyền nhân của môn hộ, tựa hồ tự biết sẽ không thể sống mà trở về Trung thổ, ai nấy cảm thấy có vài phần chẳng lành nên đều buồn bã.

Diệt Tuyệt sư thái bỗng cười ha hả một tràng dài, tiếng ha ha truyền đi thật xa trong sa mạc. Các đệ tử ngạc nhiên, thầm kinh hãi.

Diệt Tuyệt sư thái phẩy tay áo một cái, nói lớn:

– Tất cả đi ngủ!

Tĩnh Huyền cũng như mọi bữa, cắt cử người canh gác. Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Không cần canh gác nữa!

Tĩnh Huyền ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay, nếu các đệ nhất cao thủ như Thanh Dực Bức Vương ban đêm tới tập kích, chúng đệ tử làm sao phát giác nổi? Canh gác cũng bằng thừa.

Đêm đó phái Nga Mi phòng bị trong ngoài thật cẩn mật, nhưng không có chuyện gì xảy ra.

Hồi 18: Ỷ thiên trường kiếm phi hàn mang

Hôm sau đoàn người đi tiếp về hướng tây, đi hơn một trăm dặm thì đã chính ngọ, mặt trời chói chang ngay trên đỉnh đầu, tuy đang là mùa đông mà cũng thấy nóng bức. Đang đi, bỗng nghe vọng lại đâu đây tiếng binh khí giao đấu, mọi người không chờ Tĩnh Huyền ra lệnh đã cùng chạy vội về phía đó.

Phía trước có mấy bóng người đang giao đấu với nhau; tới gần hơn, thấy ba bạch y đạo nhân cầm binh khí vây đánh một hán tử trung niên. Ba đạo nhân kia trên tay áo trái đều thêu ngọn lửa đỏ, rõ ràng là người của Ma giáo. Hán tử tay múa trường kiếm, kiếm quang loang loáng, đấu với ba đạo nhân đến hồi kịch liệt, tuy là một chọi ba nhưng không núng thế chút nào.

Vết thương ở hai chân Trương Vô Kỵ đã lành hẳn, song chàng còn giả vờ chưa đi lại được, vẫn ngồi trên xe trượt, cốt sao người của phái Nga Mi không đề phòng, dễ bề cùng Thù Nhi chạy trốn. Lúc này chàng bị một nam đệ tử phái Nga Mi đứng chắn trước mặt nên cứ phải nghiêng người nghển cổ mới thấy cảnh bốn người kia giao tranh. Chỉ thấy trường kiếm của hán tử trung niên càng lúc càng nhanh, đột nhiên hán tử xoay người, quát một tiếng, đâm một kiếm xuyên qua ngực một đạo nhân Ma giáo.

Các đệ tử phái Nga Mi lớn tiếng hoan hô, Trương Vô Kỵ thì kinh ngạc kêu lên một tiếng nhỏ, bởi chiêu “Thuận thủy thôi chu”[70] kia chính là một tuyệt chiêu của phái Võ Đang, còn hán tử trung niên sử chiêu kiếm pháp ấy chính là lục hiệp Ân Lê Đình.

Chúng đệ tử phái Nga Mi đứng xa xa xem giao đấu, không tiến lên trợ giúp. Hai đạo nhân Ma giáo thấy đối phương đã giết một đồng bọn của mình, nay lại có thêm nhiều trợ thủ mới tới, thì đột nhiên hú lên một tiếng, chia ra hai hướng nam bắc bỏ chạy.

Ân Lê Đình rượt theo gã đạo nhân chạy về phía nam. Ân lục hiệp chạy nhanh hơn hẳn kẻ địch, chỉ bảy tám bước đã tới sau lưng gã đạo nhân đó. Gã quay lại, múa song đao như điên, tựa hồ muốn liều chết với chàng.

Phái Nga Mi nghĩ Ân Lê Đình một mình chẳng thể đuổi hai kẻ địch; gã đạo nhân chạy về phía bắc khinh công lại rất cao cường, càng lúc càng nhanh, cứ tình thế này thì Ân Lê Đình dù có giết được gã đạo nhân chạy về phía nam đang quyết đấu với mình, thì cũng không cách gì đuổi kịp gã đạo nhân chạy về phía bắc. Đệ tử phái Nga Mi thù ghét Ma giáo, ai nấy nhìn Tĩnh Huyền, mong nhận lệnh chặn kẻ địch lại. Các nữ đệ tử đa số giao hảo với Kỷ Hiểu Phù, cho rằng nếu tên ma đầu của Ma giáo không gây tội ác thì vị lục hiệp của phái Võ Đang kia đã thành chú rể của bản phái rồi, nên ai cũng mong giúp Ân lục hiệp một tay.

Tĩnh Huyền trong lòng lưỡng lự, nghĩ Võ Đang lục hiệp được tôn sùng trong giới võ lâm, Ân Lê Đình không lên tiếng kêu gọi mà người ngoài lại nhúng tay vào, e phạm tội bất kính. Thành thử sau giây lát trù trừ, Tĩnh Huyền không ra lệnh chặn lại, thà để cho đạo nhân chạy thoát về phía bắc, còn hơn đắc tội với Ân Lê Đình.

Lúc ấy có một luồng thanh quang nhoáng lên, thanh trường kiếm từ tay Ân Lê Đình bay vút về phía bắc, nhanh như gió, xẹt như chớp phi thẳng tới lưng gã đạo nhân kia. Gã phát giác được, đang tính né tránh thì thanh kiếm đã xuyên thẳng qua người nhưng gã còn chạy tiếp về phía trước đến hơn hai trượng nữa mới ngã sấp xuống đất mà chết. Còn thanh kiếm thì sau khi xuyên qua người gã, còn bay thêm ba trượng mới rơi cắm thẳng xuống cát, tuy chỉ là một thanh kiếm vô tri, nhưng thần uy lẫm liệt.

Mọi người nhìn cảnh tượng kinh tâm động phách ấy thì không khỏi hoa mắt hết hồn, khó thốt nên lời. Khi quay lại phía Ân Lê Đình, chỉ thấy đạo nhân Ma giáo đang đấu với Ân lục hiệp thân hình loạng choạng, lảo đảo như kẻ say rượu, vứt song đao đi, hai tay múa may loạn xạ. Ân Lê Đình không thèm lý đến hắn nữa, bước về phía đệ tử phái Nga Mi. Ân lục hiệp đi được vài bước thì gã đạo nhân kia ngã lăn ra, không động đậy gì nữa. Ân lục hiệp đã dùng thủ pháp gì giết gã, không một ai nhìn thấy.

Các đệ tử phái Nga Mi bấy giờ mới lớn tiếng reo hò, ngay Diệt Tuyệt sư thái cũng gật gù, tiếp đó thở dài. Tiếng thở dài này có lẽ ngụ ý: phái Võ Đang có đệ tử tài giỏi như thế, phái Nga Mi lại không có truyền nhân sánh kịp. Hay có ngụ ý: Kỷ Hiểu Phù bạc mệnh, không lấy được người như thế này, lại bị hại bởi tên dâm đồ Ma giáo. Trong tâm trí Diệt Tuyệt sư thái, Kỷ Hiểu Phù dĩ nhiên bị Dương Tiêu làm hại, chứ không phải chính tay bà ta giết nàng.

Ba tiếng “Lục sư thúc” đã ra tới cửa miệng Trương Vô Kỵ, nhưng chàng cố kìm lại. Trong mấy vị sư bá sư thúc, Ân Lê Đình là người thân nhất với phụ thân chàng và cũng thương yêu chàng hơn cả. Vô Kỵ nhìn vị sư thúc sau chín năm xa cách, thấy sư thúc đầy vẻ phong trần, tóc mai đã điểm sợi bạc, lại nghĩ cái chết của Kỷ Hiểu Phù là một đòn nặng giáng vào tâm linh sư thúc. Trương Vô Kỵ gặp lại người thân, chỉ muốn chạy lên nhận họ, nhưng nghĩ đến ở đây tai mắt quá nhiều, không tiện để người ngoài hay biết để khỏi gây ra hậu họa. Chu Chỉ Nhược tuy đã biết chân tướng của chàng, nhưng sẽ không tiết lộ với người khác.

Ân Lê Đình cúi mình hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, nói:

– Đại sư huynh của tệ phái suất lãnh các sư đệ cùng đệ tử đời thứ ba, tổng cộng ba mươi hai người, đã tới Nhất Tuyến hiệp. Vãn bối phụng mệnh đại sư huynh đi trước đón quý phái.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Hay lắm, vậy là phái Võ Đang tới trước rồi, nhưng đã giao chiến trận nào với yêu nhân chưa?

Ân Lê Đình nói:

– Đã giao chiến ba trận với hai kỳ Mộc, Hỏa của Ma giáo, giết được mấy tên yêu nhân, thất sư đệ Mạc Thanh Cốc có bị thương nhẹ.

Diệt Tuyệt sư thái gật gù, bà ta biết tuy Ân Lê Đình chỉ miêu tả sơ sài như thế nhưng thực chất ba trận ác đấu chắc phải tàn khốc dị thường, với tài nghệ của Võ Đang ngũ hiệp mà vẫn không hạ sát nổi chưởng kỳ sứ của Ma giáo, thất hiệp Mạc Thanh Cốc thậm chí còn bị thương. Diệt Tuyệt sư thái lại hỏi:

– Quý phái đã nắm rõ thực lực trên đỉnh Quang Minh hay chưa?

Ân Lê Đình đáp:

– Nghe nói Thiên Ưng giáo là chi phái của Ma giáo đã đem đại lực lượng tăng viện cho đỉnh Quang Minh, có người còn bảo Tử Sam Long Vương và Thanh Dực Bức Vương cũng đã tới.

Diệt Tuyệt sư thái ngạc nhiên:

– Tử Sam Long Vương cũng đã tới ư?

Hai người vừa nói chuyện, vừa đi song song bên nhau, chúng đệ tử lẽo đẽo theo sau cách một quãng xa, không dám lại gần nghe hai người nói những gì.

Lát sau Ân Lê Đình giơ tay từ biệt để đi liên lạc với phái Hoa Sơn. Tĩnh Huyền nói:

– Ân lục hiệp chạy đây chạy đó chắc đã đói rồi, mời dùng chút điểm tâm rồi hãy đi.

Ân Lê Đình cũng không làm khách, đáp:

– Nếu vậy, xin làm phiền quý vị vậy…

Các đệ tử phái Nga Mi thi nhau mang lương khô ra, người vun đất làm bếp, người nhóm lửa nấu mì. Bọn họ vốn ăn uống đơn giản, nhưng nay tiếp đãi Ân Lê Đình thì hết sức ân cần, cũng là vì nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù.

Ân Lê Đình hiểu tâm ý của họ, khóe mắt rưng rưng, giọng nghẹn ngào:

– Đa tạ các vị sư tỷ sư muội.

Thù Nhi vốn chỉ lặng lẽ quan sát, lúc này đột nhiên lên tiếng:

– Ân lục hiệp, tiểu nữ muốn hỏi thăm một người, có được chăng?

Ân Lê Đình tay đang bưng bát mì nóng, quay đầu lại, hỏi:

– Vị tiểu sư muội quý tính đại danh là gì, không biết định hỏi thăm về ai? Nếu ta biết, tất sẽ trả lời rõ.

Thần thái chàng rất khiêm nhường. Thù Nhi nói:

– Tiểu nữ không phải người của phái Nga Mi, mà là tù nhân của họ.

Ân Lê Đình thoạt tiên ngỡ Thù Nhi là tiểu đệ tử phái Nga Mi, giờ nghe vậy không khỏi ngạc nhiên, nhưng thấy cô nương này rất thẳng thắn, bèn hỏi:

– Cô nương là người của Ma giáo ư?

Thù Nhi đáp:

– Không phải, tiểu nữ là người đối đầu với Ma giáo.

Ân Lê Đình không tiện hỏi kỹ lai lịch cô nương này, vì tôn trọng chủ nhân nên đưa mắt nhìn Tĩnh Huyền, hỏi ý. Tĩnh Huyền nói:

– Ngươi muốn hỏi Ân lục hiệp chuyện gì?

Thù Nhi đáp:

– Tiểu nữ muốn hỏi, lệnh sư huynh Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp lần này có đến Nhất Tuyến hiệp hay không?

Lời vừa nghe, cả Ân Lê Đình lẫn Trương Vô Kỵ đều giật mình. Ân Lê Đình nói:

– Cô nương hỏi thăm ngũ sư ca của ta là có việc gì?

Thù Nhi hai má đỏ bừng, thấp giọng đáp:

– Tiểu nữ muốn biết công tử Trương Vô Kỵ có đến đó hay không?

Trương Vô Kỵ càng kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra nàng đã sớm biết chân tướng của ta, bây giờ mới nói trắng ra”.

Ân Lê Đình hỏi:

– Cô nương nói thực đấy chứ?

Thù Nhi đáp:

– Tiểu nữ thực tâm muốn hỏi thăm Ân lục hiệp, đâu dám gian dối gì.

Ân Lê Đình nói:

– Ngũ sư ca ta qua đời đã hơn mười năm, cây mọc bên mộ đã lớn, chẳng lẽ cô nương không biết hay sao?

Thù Nhi đứng bật dậy, kinh hãi kêu “Ôi” một tiếng, nói:

– Hóa ra Trương ngũ hiệp đã qua đời từ sớm, vậy là… công tử… chàng ta… đã mồ côi từ sớm.

Ân Lê Đình hỏi:

– Cô nương quen biết điệt nhi Vô Kỵ của ta ư?

Thù Nhi đáp:

– Năm năm trước, tiểu nữ từng đến nhà Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu, có gặp Trương công tử một lần, không hiểu hiện giờ Trương công tử ở đâu.

Ân Lê Đình nói:

– Ta phụng mệnh gia sư, có đến Hồ Điệp cốc thăm hỏi, nhưng khi đó vợ chồng Hồ Thanh Ngưu đã bị người ta giết hại, Vô Kỵ cũng chẳng rõ đi đâu. Sau đó ta có tìm nhiều nơi, nhưng không được tin gì, ôi, nào ngờ… nào ngờ…

Nói tới đây, sắc diện Ân Lê Đình buồn thảm vô cùng.

Thù Nhi vội hỏi:

– Sao, lục hiệp nhận được tin dữ hay sao?

Ân Lê Đình chăm chú nhìn Thù Nhi, hỏi:

– Tại sao cô nương lại quan thiết như vậy? Điệt nhi Vô Kỵ của ta có ân oán gì với cô nương?

Thù Nhi mắt nhìn về cõi xa xăm, buồn bã nói:

– Tiểu nữ chỉ muốn Trương công tử theo mình tới đảo Linh Xà…

Ân Lê Đình ngắt lời:

– Đảo Linh Xà ư? Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh là thế nào với cô nương?

Thù Nhi không trả lời, chỉ lẩm bẩm một mình:

– Chàng chẳng những không chịu… lại còn đánh ta, mắng ta, cắn tay ta máu chảy dầm dề…

Nàng vừa lẩm bẩm, vừa lấy tay trái khẽ xoa xoa mu bàn tay phải.

– Có điều… sao ta vẫn không quên được chàng. Ta không muốn hại chàng. Ta chỉ muốn chàng theo về đảo Linh Xà, bà bà sẽ dạy chàng võ công, sẽ tìm cách chữa trị cho chàng khỏi chất âm độc của Huyền Minh thần chưởng. Ai ngờ chàng hung dữ quá, tưởng lầm lòng tốt của ta, ngỡ ta có ý hại chàng.

Bao nghi vấn trong lòng Trương Vô Kỵ bây giờ đã rõ: “Thì ra Thù Nhi chính là cô bé A Ly đã nắm tay ta ở Hồ Điệp cốc, kẻ tình lang mà nàng ấy khắc khoải không quên cũng chính là ta”. Chàng nhìn nghiêng sang, thấy mặt Thù Nhi sưng sưng, đâu còn chút xinh xắn nào của lần gặp đầu tiên? Chỉ có đôi mắt trong veo như nước hồ thu sâu thăm thẳm là vẫn như hồi xưa.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Sư phụ của nó là Kim Hoa bà bà nghe đâu cũng có dây dưa với Ma giáo. Mụ ta không phải chính nhân, nhưng hiện giờ chúng ta chưa muốn thêm kẻ thù, chỉ tạm giữ nó thôi.

Ân Lê Đình nói:

– Ồ, thì ra vậy! Cô nương đối với điệt nhi Vô Kỵ của ta quả là chí tình, chỉ tiếc Vô Kỵ bạc phúc, mấy bữa trước ta có gặp Võ trang chủ Võ Liệt của Chu Võ liên hoàn trang, mới biết Trương Vô Kỵ hơn năm năm trước đã sảy chân rơi xuống vực sâu mất xác. Than ôi, ta và phụ thân nó tình thân hơn thủ túc, nào ngờ ông Trời chẳng phù hộ người hiền, đến giọt máu cuối cùng…

Ân Lê Đình nói chưa hết câu, nghe huỵch một tiếng, thấy Thù Nhi ngã lăn ra bất tỉnh.

Chu Chỉ Nhược vội bước tới đỡ Thù Nhi dậy, xoa bóp ngực một hồi Thù Nhi mới hồi tỉnh. Trương Vô Kỵ thật là khó xử vô cùng. Nhìn cảnh Ân Lê Đình và Thù Nhi đau lòng như thế, mà chàng lại dửng dưng đứng đó. Chàng quay đầu lại, thấy ánh mắt Chu Chỉ Nhược đầy nghi vấn, tựa hồ muốn hỏi: “Vì sao nàng ta không nhận ra huynh nhỉ?” Trương Vô Kỵ tự biết mấy năm qua tướng mạo của mình thay đổi rất nhiều, nếu chàng không tự nhắc đến kỷ niệm trên sông Hán Thủy, Chu Chỉ Nhược cũng không thể nhận ra.

Thù Nhi nghiến răng, hỏi:

– Ân lục hiệp, kẻ nào hại chết Trương Vô Kỵ vậy?

Ân Lê Đình nói:

– Không ai hại chết nó cả. Theo lời Võ Liệt, thì chính mắt ông ta thấy Trương Vô Kỵ trượt chân rơi xuống vực, cả huynh đệ kết nghĩa của Võ Liệt là Kinh Thiên Nhất Bút Chu Trường Linh cũng rơi xuống chết theo.

Thù Nhi thở dài, buồn bã ngồi xuống.

Ân Lê Đình nói:

– Quý tính đại danh của cô nương là gì?

Thù Nhi lắc đầu không đáp, ngẩn ngơ rơi lệ, rồi đột nhiên nằm phục xuống cát, khóc òa lên. Ân Lê Đình dỗ dành:

– Cô nương cũng đừng quá đau lòng. Vô Kỵ nếu không rơi xuống vực sâu thì chất âm độc cũng phát tác, e rằng không thể sống đến lúc này. Ôi, Vô Kỵ rơi xuống vực tan xương nát thịt có khi lại còn hơn phải chịu cái cảnh bị hành hạ đau đớn triền miên vì chất âm độc.

Diệt Tuyệt sư thái bỗng nói:

– Tên nghiệt chủng Trương Vô Kỵ chết sớm cũng là may, nếu không sẽ chỉ là cái mầm họa làm hại nhân gian mà thôi.

Thù Nhi cả giận, lớn tiếng nói:

– Lão tặc ni kia, đừng có hồ thuyết bát đạo!

Đám đệ tử phái Nga Mi nghe Thù Nhi dám cất lời nhục mạ sư tôn, tức thì có bốn năm người tuốt kiếm chĩa vào nàng. Thù Nhi không hề sợ hãi, chửi tiếp:

– Lão tặc ni, phụ thân của Trương Vô Kỵ là sư huynh của Ân lục hiệp, hiệp danh lừng lẫy thiên hạ, có gì là không hay?

Diệt Tuyệt sư thái cười khẩy, không đáp. Tĩnh Huyền nói:

– Ngươi nói hết chưa? Phụ thân của Trương Vô Kỵ quả là đệ tử danh môn chính phái, nhưng còn mẹ hắn thì sao? Đứa con do yêu nữ Ma giáo sinh ra, chẳng phải mầm họa nghiệt chủng thì là gì?

Thù Nhi hỏi:

– Mẫu thân của Trương Vô Kỵ là ai? Sao lại gọi là yêu nữ Ma giáo?

Các đệ tử phái Nga Mi cười ồ lên, chỉ một mình Chu Chỉ Nhược cúi đầu im lặng. Ân Lê Đình tỏ ra ngượng ngập. Trương Vô Kỵ thì đỏ mặt tía tai, nước mắt lưng tròng, nếu không định quyết ý che giấu lai lịch thì đã lên tiếng biện bạch cho mẹ vài câu.

Tĩnh Huyền là người trung hậu, nói với Thù Nhi:

– Vợ Trương ngũ hiệp là con gái của giáo chủ Thiên Ưng giáo Ân Thiên Chính, tên Ân Tố Tố… Thù Nhi kêu “ồ” một tiếng, tái mặt đi. Tĩnh Huyền nói:

– Trương ngũ hiệp vì lấy ả yêu nữ đó mà thân bại danh liệt, phải tự vẫn trên núi Võ Đang. Chuyện ấy cả thiên hạ đều biết, chẳng lẽ cô nương không biết gì?

Thù Nhi nói:

– Tiểu nữ ở đảo Linh Xà, mọi việc của võ lâm Trung nguyên, tiểu nữ không hay biết.

Tĩnh Huyền nói:

– Ra vậy. Cô nương đã đắc tội với sư phụ ta, mau tạ tội đi.

Thù Nhi lại hỏi:

– Ân Tố Tố thì sao? Bà ấy hiện giờ ở đâu?

Tĩnh Huyền nói:

– Đã tự vẫn cùng một lượt với Trương ngũ hiệp rồi.

Thù Nhi lại rùng mình, nói:

– Bà… bà ấy cũng chết rồi ư?

Tĩnh Huyền lấy làm lạ, hỏi:

– Cô nương biết Ân Tố Tố hay sao?

Lúc đó, bỗng thấy phía đông bắc có một ngọn lửa màu xanh bay vọt lên trời, Ân Lê Đình nói:

– Ồ, điệt nhi Thanh Thư của ta bị địch vây đánh rồi!

Ân Lê Đình cúi người hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, ôm quyền chào mọi người, rồi chạy về hướng ngọn lửa xanh.

Tĩnh Huyền phất tay một cái, các đệ tử phái Nga Mi liền chạy theo.

Khi tới gần, thấy ba người đang vây đánh một người. Ba người đội mũ vải, mặc áo ngắn kiểu nô bộc, tay cầm đơn đao. Mọi người mới xem vài chiêu đã kinh hãi, ba người kia tuy ăn mặc như gia nô, nhưng ra tay độc địa không kém gì đệ nhất hảo thủ, tài nghệ cao hơn hẳn ba đạo nhân đã bị Ân Lê Đình giết. Ba người này chạy như đèn cù quanh một thanh niên thư sinh mà tấn công. Thanh niên kia đã hoàn toàn núng thế, nhưng thanh trường kiếm vẫn bảo vệ môn hộ kín đáo lạ thường.

Gần chỗ bốn người đang giao đấu có sáu hoàng y hán tử, trên áo đều thêu ngọn lửa hồng, tức thị họ là người của Ma giáo. Sáu người ấy thấy Ân Lê Đình và phái Nga Mi kéo đến thì một người lùn và mập trong số đó liền gọi to:

– Huynh đệ Ân gia, các người nguy rồi, hãy cúp đuôi chạy cho mau, để bọn ta chặn hậu cho.

Một trong ba người đang giao đấu tức giận nói:

– Hậu Thổ kỳ chậm như rùa, họ Nhan kia, hãy chạy trước đi!

Tĩnh Huyền lạnh lùng nói:

– Chết đến nơi rồi, còn cãi nhau.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Sư tỷ, mấy người kia là ai vậy?

Tĩnh Huyền đáp:

– Ba kẻ ăn mặc theo lối gia nô là nô bộc của Ân Thiên Chính, tên gọi Ân Vô Lộc, Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ.

Chu Chỉ Nhược kinh hãi nói:

– Ba tên gia nô mà… tài nghệ cao siêu vậy sao?

Tĩnh Huyền nói:

– Họ vốn là tướng cướp thành danh trong hắc đạo, không phải bọn tầm thường đâu. Đám mặc áo vàng thì là yêu nhân trong Hậu Thổ kỳ của Ma giáo. Gã mập lùn chắc là Nhan Viên, chưởng kỳ sứ của Hậu Thổ kỳ. Sư phụ bảo năm chưởng kỳ sứ của Ngũ kỳ trong Ma giáo tranh giành địa vị giáo chủ với Thiên Ưng giáo, vốn bất hòa.

Lúc đó thanh niên thư sinh gặp chiêu nguy hiểm, nghe “soạt” một tiếng, tay áo bên trái bị đơn đao của Ân Vô Thọ chém mất một mảnh.

Ân Lê Đình hú lên một tiếng, trường kiếm chém về phía Ân Vô Lộc. Ân Vô Lộc giơ đao chống đỡ, đao kiếm đụng nhau. Giờ đây nội lực của Ân Lê Đình đã hết sức lợi hại, nghe choang một tiếng, đơn đao của Ân Vô Lộc liền cong lại, biến thành một cái móc. Ân Vô Lộc cả kinh, vội nhảy ra ngoài ba bước.

Đột nhiên Thù Nhi vọt tới, ngón trỏ tay phải chọc trúng sau ót Ân Vô Lộc, rồi lại nhảy ngay về chỗ cũ.

Ân Vô Lộc võ công không phải tầm thường, có điều là vừa bị nội lực của Ân Lê Đình hất văng ra, khí huyết đang nhộn nhạo trong ngực, chân đứng chưa vững, bị trúng một đòn của Thù Nhi thì đau đớn gập cả người, rên rỉ, toàn thân run bần bật.

Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ cả kinh, không còn ham tấn công thanh niên thư sinh, chạy đến dìu Ân Vô Lộc, thấy y quằn quại, biết là y đã bị trọng thương. Hai người đưa mắt nhìn Thù Nhi, đột nhiên cùng kêu lên:

– Thì ra là Tam tiểu thư.

Thù Nhi nói:

– Hừ, còn nhận ra ta ư?

Mọi người cứ tưởng hai người kia sẽ xông lên thí mạng với Thù Nhi, không ngờ chỉ xốc Ân Vô Lộc lên, không nói một lời, chạy về phía bắc. Biến cố này xảy ra đột ngột, ai nấy há mồm tròn mắt, không hiểu chuyện gì.

Gã mập lùn giơ tay trái phất một cái, trong tay đã cầm một lá cờ lớn màu vàng, năm người kia cũng lấy cờ ra phất, tuy chỉ có sáu người, nhưng các lá cờ kêu phần phật, khí thế thật uy võ, chầm chậm lùi về phía bắc.

Người của phái Nga Mi thấy kỳ trận cổ quái, đều đứng ngẩn người. Hai nam đệ tử thét lên, phóng mình đuổi theo. Ân Lê Đình đảo người một cái, đi sau mà tới trước, chắn hai đệ tử kia, đẩy nhẹ họ lại, hai người đó không chịu nổi, phải lùi ba bước, mặt mũi đỏ bừng.

Tĩnh Huyền quát:

– Hai sư đệ mau lui về, Ân lục hiệp có hảo ý, bọn Hậu Thổ kỳ kia không đuổi theo được đâu.

Ân Lê Đình nói:

– Hôm trước ta cùng Mạc thất đệ đuổi theo Liệt Hỏa kỳ trận nên đã bị thua to, Mạc sư đệ đầu tóc, lông mày bị cháy sém một nửa đó.

Nói xong chàng vén tay áo bên trái lên cho mọi người nhìn thấy các vết bỏng. Hai nam đệ tử phái Nga Mi bất giác thầm kinh sợ.

Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt lạnh lùng nhìn Thù Nhi một hồi, xẵng giọng hỏi:

– Là “Thiên thù vạn độc thủ” đấy chăng?

Thù Nhi nói:

– Còn chưa luyện thành.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Nếu đã luyện thành thì sẽ ghê gớm tới mức nào? Vì sao ngươi đả thương gã đó?

Thù Nhi nói:

– Tiếc thay ta chưa giết được hắn.

Diệt Tuyệt sư thái hỏi:

– Vì sao?

Thù Nhi đáp:

– Chuyện riêng của tiểu nữ, không liên quan gì tới lão ni.

Diệt Tuyệt sư thái hơi ngả người sang bên, đã giật lấy thanh kiếm từ tay Tĩnh Huyền, tiếp đó Thù Nhi vội nhảy vọt về phía sau, mặt trắng bệch. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái trong nháy mắt đã chém một kiếm vào ngón trỏ tay phải của Thù Nhi, thủ pháp cực nhanh, không ai nhìn thấy. Nào ngờ Thù Nhi vì cổ tay gãy chưa lành, bàn tay không có lực, lại lo Thiên thù vạn độc thủ luyện chưa thành nên đã dùng cái bao thép bao ngón tay lại trước khi xuất thủ. Diệt Tuyệt sư thái vừa rồi chỉ sử dụng kiếm thường, nên chưa chém đứt ngón tay của Thù Nhi.

Diệt Tuyệt sư thái ném trả thanh kiếm cho Tĩnh Huyền, hừ một tiếng:

– Lần này ta tha cho, lần sau còn sử dụng công phu tà ác đó thì đừng trách ta.

Bà ta đánh tiểu bối một chiêu không trúng, liền tự coi trọng thân phận, không ra tay lần thứ hai.

*

*   *

Ân Lê Đình thấy Thù Nhi luyện môn võ công âm độc ấy, vốn phạm điều đại kỵ của con nhà võ; nhưng nàng ta dùng để tấn công Ân Vô Lộc, là giúp phe mình; hơn nữa, nàng ta một lòng chí tình với Trương Vô Kỵ, nên cảm động, không nỡ để Diệt Tuyệt sư thái đả thương nàng, bèn lên tiếng:

– Sư thái, tiểu cô nương này học nhầm võ công, chúng ta sẽ thong thả tìm cho nó một danh sư khác, hoặc giả… hoặc giả…

Ân Lê Đình vốn định nói hoặc giả Diệt Tuyệt sư thái thu nhận Thù Nhi làm môn hạ phái Nga Mi thì thật là hay, nhưng sực nhớ nàng ta vừa gọi Diệt Tuyệt sư thái là “lão tặc ni”, vội ngừng lại không nói nữa, kéo gã thư sinh kia lại, nói:

– Thanh Thư, mau bái kiến sư thái cùng các vị sư bá sư thúc.

Thư sinh kia tiến lên ba bước, quỳ xuống hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, khi y quay sang hành lễ với Tĩnh Huyền thì mọi người vội nói không dám, ai cũng hoàn lễ. Trương Tam Phong tuổi đã hơn trăm, tính vai vế còn cao hơn Diệt Tuyệt sư thái vài bậc. Ân Lê Đình chỉ vì đính hôn với Kỷ Hiểu Phù, mới coi như kém Diệt Tuyệt sư thái một bậc, chứ nếu tính Trương Tam Phong và tổ sư phái Nga Mi Quách Tương là ngang vai nhau thì Diệt Tuyệt sư thái phải gọi Ân Lê Đình là sư thúc. Vì hai phái Võ Đang và Nga Mi khác nhau về môn hộ, không tính chuyện vai vế, ai nấy tùy theo độ tuổi mà xưng hô. Khi chàng thư sinh kia gọi các đệ tử phái Nga Mi là sư bá sư thúc, thì bọn Tĩnh Huyền làm sao dám nhận lễ.

Mọi người thấy thư sinh một mình đấu với ba huynh đệ họ Ân, pháp độ nghiêm cẩn, chiêu số tinh kỳ, quả là phong thái của đệ tử danh môn. Khi bị ba cao thủ vây đánh, tuy đã ở vào thế hạ phong nhưng vẫn bình tĩnh chống trả, không chút hoảng loạn, quả không dễ gì. Lúc này y tới gần, mọi người đều không khỏi khen thầm: “Quả là một thiếu niên anh tuấn!”

Chàng thư sinh mi thanh mục tú, vẻ tuấn mỹ còn chứa đựng vài phần khí độ hiên ngang khiến người ta thoạt nhìn đã phải vì nể.

Ân Lê Đình nói:

– Đây là Thanh Thư, độc sinh ái tử của Tống đại sư ca ta.

Tĩnh Huyền nói:

– Mấy năm rồi từng nghe hiệp danh của Ngọc Diện Mạnh Thường, trên giang hồ đều khen Tống thiếu hiệp khẳng khái trượng nghĩa, giúp người giải khốn; hôm nay được gặp, thật là vinh hạnh.

Các đệ tử phái Nga Mi thì thầm bàn tán, ai cũng lộ vẻ tán thưởng “quả nhiên danh bất hư truyền”.

Thù Nhi đứng bên cạnh Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:

– A Ngưu ca, chàng ta đẹp trai hơn hẳn ca ca.

Trương Vô Kỵ nói:

– Dĩ nhiên, khỏi cần nói.

Thù Nhi hỏi:

– Ca ca không ghen à?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Nực cười chưa, việc gì ta phải ghen?

Thù Nhi nói:

– Chàng ta cứ nhìn Chu cô nương chằm chằm, ca ca không ghen sao?

Trương Vô Kỵ nhìn về phía Tống Thanh Thư, quả nhiên thấy y đang mải ngắm Chu Chỉ Nhược, nhưng chàng cũng chẳng để tâm. Từ lúc biết Thù Nhi chính là cô bé A Ly năm xưa gặp tại Hồ Điệp cốc thì trong lòng xao xuyến bồi hồi, bấy giờ Thù Nhi cưỡng ép chàng đi theo về đảo Linh Xà, chàng vùng vẫy không thoát được nên đã cắn một cái thật mạnh vào mu bàn tay nàng, ai ngờ nàng lại cứ thương nhớ chàng mãi chẳng quên, khiến chàng không khỏi cảm kích.

Ân Lê Đình nói:

– Thanh Thư, ta đi thôi.

Tống Thanh Thư nói:

– Phái Không Động hẹn trưa nay cùng hội họp ở đây, giờ này vẫn chưa thấy đến, e rằng có chuyện bất trắc.

Ân Lê Đình lộ vẻ lo lắng:

– Kể cũng đáng ngại thật.

Tống Thanh Thư nói:

– Ân lục thúc, chi bằng mình cùng đi với các vị tiền bối phái Nga Mi về phía tây thì hơn.

Ân Lê Đình gật đầu:

– Phải lắm.

Diệt Tuyệt sư thái và bọn Tĩnh Huyền đều nghĩ thầm: “Những năm gần đây Trương Tam Phong chân nhân không để tâm tới các tục vụ nữa, thực chất chưởng môn phái Võ Đang giờ đây là Tống Viễn Kiều. Xem ra chưởng môn đời thứ ba của phái Võ Đang sẽ do vị Tống thiếu hiệp này tiếp nhiệm. Ân Lê Đình tuy là sư thúc, song phải nghe lời sư điệt”. Bọn họ không biết rằng Ân Lê Đình tính nết ôn hòa, ít khi tự đưa ra chủ trương; người khác nói sao, Ân lục hiệp cũng chẳng phản đối.

Đoàn người đi về hướng tây, chừng mười bốn mười lăm dặm thì tới trước một đồi cát lớn. Tĩnh Huyền thấy Tống Thanh Thư chạy lên đồi cát, bèn phất tay trái một cái, hai đệ tử phái Nga Mi cũng chạy lên ngay, không chịu kém phái Võ Đang. Ba người lên đến đỉnh ngọn đồi thì cùng kêu to kinh hãi, trên sa mạc phía tây đồi cát nằm ngổn ngang chừng ba mươi xác chết.

Cả đoàn nghe tiếng kêu của ba người cùng chạy lên, thấy trong đám tử thi kia có người già người trẻ, kẻ bị vỡ đầu, người thì thủng ngực, tựa hồ bị đánh bằng những cây gậy thật lớn.

Ân Lê Đình vốn hiểu biết rộng, nói:

– Bang Phiên Dương ở Giang Tây bị giết sạch là bởi tay Cự Mộc kỳ của Ma giáo đó.

Diệt Tuyệt sư thái cau mày hỏi:

– Bang Phiên Dương tới đây làm gì? Quý phái gọi họ đến ư?

Giọng bà ta có ý không vui. Trong võ lâm, các danh môn chính phái đối với bang hội vốn có thành kiến kỳ thị, Diệt Tuyệt sư thái không muốn hòa lẫn với họ thành một đám.

Ân Lê Đình vội nói:

– Không ai mời bang Phiên Dương cả. Chẳng qua Lưu bang chủ của bang Phiên Dương là đệ tử ký danh của phái Không Động, có lẽ họ nghe sáu phái vây đánh đỉnh Quang Minh nên tự kéo đến giúp sư môn đó thôi.

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, không nói nữa.

Mọi người đem thi thể bang chúng bang Phiên Dương vùi xuống dưới cát. Mọi người vừa định tiếp tục lên đường thì đột nhiên nấm mồ tận cùng phía tây vỡ ra, trong đám bụi cát có một người vùng dậy, chộp ngay một nam đệ tử, chạy vụt đi.

Biến cố đột ngột khiến ai nấy sững sờ. Bảy, tám đệ tử phái Nga Mi kêu thất thanh. Diệt Tuyệt sư thái, Ân Lê Đình, Tống Thanh Thư, Tĩnh Huyền bốn người cùng rượt theo. Một hồi sau, mọi người cùng vỡ lẽ, từ trong nấm mộ vọt ra chẳng phải ai khác, chính là Thanh Dực Bức Vương của Ma giáo. Y mặc giả trang phục bang chúng bang Phiên Dương, nằm lẫn trong đám tử thi, nín thở giả chết. Đệ tử phái Nga Mi không để ý, đem y chôn luôn xuống cát. Y tài cao gan to, cứ để yên cho người khác đem chôn, nằm trong cát mềm nhịn thở một lát cũng chẳng sao, đợi khi mọi người không đề phòng mới đạp cát chui ra.

Lúc đầu nhóm Diệt Tuyệt sư thái bốn người chạy ngang hàng, được hơn nửa vòng đã phân cao thấp thành hai người chạy trước, hai người chạy sau. Ân Lê Đình và Diệt Tuyệt sư thái chạy trước, Tống Thanh Thư và Tĩnh Huyền chạy sau. Thanh Dực Bức Vương khinh công quá cao, quả là thế thượng vô song, tuy trong tay ôm thêm một người mà bọn Ân Lê Đình vẫn không sao đuổi kịp.

Chạy gần hết vòng thứ hai, Tống Thanh Thư bèn dừng lại, nói to:

– Sư thúc Triệu Linh Châu, sư thúc Bối Cẩm Nghi, hãy chặn đường ở vị trí cung Ly; sư thúc Đinh Mẫn Quân, sư thúc Lý Minh Hà, hãy chặn đường ở vị trí cung Chấn!

Tống Thanh Thư cứ thế liên tiếp ra lệnh cho hơn ba chục đệ tử phái Nga Mi chia ra chiếm giữ các phương vị bát quái. Các đệ tử phái Nga Mi đang như rắn mất đầu, giờ nghe Tống Thanh Thư ra lệnh rất uy nghiêm, ai nấy tức thời tuân theo. Bây giờ Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu không còn cách gì chạy vòng tròn được nữa, y cười phá lên, tung người đang ôm trong tay lên trời, rồi bỏ chạy ra xa.

Diệt Tuyệt sư thái giơ tay đỡ gã đệ tử từ trên không rơi xuống. Chỉ nghe tiếng Vi Nhất Tiếu từ xa vọng lại qua cát bụi:

– Phái Nga Mi có nhân tài như thế, Diệt Tuyệt lão ni quả không vừa!

Câu này rõ ràng khen ngợi Tống Thanh Thư. Diệt Tuyệt sư thái sầm mặt, cúi nhìn gã đệ tử, thấy chỗ yết hầu máu thịt bầy nhầy, lộ rõ hai hàng vết răng, gã đã chết rồi.

Mọi người vây quanh Diệt Tuyệt sư thái, ai nấy lặng thinh. Lát sau, Ân Lê Đình nói:

– Nghe đâu Vi Nhất Tiếu sau mỗi lần thi triển võ công lại phải uống no máu nóng của một người sống, lời đồn ấy quả không sai. Tội nghiệp cho vị sư đệ này… ô.

Diệt Tuyệt sư thái vừa xấu hổ vừa căm giận. Từ khi bà ta tiếp nhiệm chức chưởng môn, phái Nga Mi chưa từng bẽ bàng thế này bao giờ, hai đệ tử liên tiếp bị địch nhân hút máu chết tươi, thế mà mặt mũi kẻ địch ra sao cũng chưa nhìn rõ.

Bà ta thừ người ra một hồi, hỏi Tống Thanh Thư:

– Sao ngươi biết tên các đệ tử của ta?

Tống Thanh Thư đáp:

– Lúc nãy Tĩnh Huyền sư thúc có đưa đệ tử chào hỏi cả rồi.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Ồ, nghe một lần nhớ liền! Phái Nga Mi ta sao có được nhân tài như thế?

Tối hôm đó, khi mọi người dừng chân nghỉ đêm, Tống Thanh Thư cung kính đến trước mặt Diệt Tuyệt sư thái hành lễ, nói:

– Tiền bối, vãn bối có một chuyện đáng ra không nên hỏi, muốn thỉnh cầu.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Chuyện đã không nên hỏi thì đừng mở miệng ra nữa.

Tống Thanh Thư lại cung kính hành lễ, nói:

– Thưa vâng.

Rồi quay về ngồi bên cạnh Ân Lê Đình.

Mọi người thấy Tống Thanh Thư khẩn cầu Diệt Tuyệt sư thái nhưng bị cự tuyệt, không ai dám hỏi thêm, nhưng đều tò mò muốn biết y định hỏi chuyện gì. Đinh Mẫn Quân nhịn không được, bèn tới gần, hỏi:

– Tống huynh đệ, cậu định hỏi sư phụ ta điều gì vậy?

Tống Thanh Thư đáp:

– Gia phụ khi truyền thụ kiếm pháp cho vãn bối, có nói rằng hiện nay trên đời kiếm thuật thông thần thì sư tổ của bổn phái đứng thứ nhất; kế đến Diệt Tuyệt tiền bối chưởng môn phái Nga Mi. Gia phụ nói kiếm pháp của hai phái Võ Đang và Nga Mi mỗi bên có chỗ mạnh chỗ yếu, như chiêu “Thủ huy ngũ huyền”[71] của bản môn so với chiêu “Khinh la tiểu phiến”[72] của quý phái là đại đồng tiểu dị. Nhưng kình lực dồn ra mũi kiếm quá mạnh, khi xuất chiêu không được linh hoạt uyển chuyển bằng chiêu “Khinh la tiểu phiến”.

Tống Thanh Thư vừa nói vừa rút kiếm ra múa cả hai chiêu, lúc sử chiêu Khinh la tiểu phiến thì không được thuần thục cho lắm.

Đinh Mẫn Quân cười nói:

– Chiêu này chưa đúng đâu.

Tiếp lấy trường kiếm từ tay Tống Thanh Thư, làm mẫu cho y xem, nói:

– Cổ tay ta còn đau, không dùng lực, nhưng kiểu cách phải như thế.

Tống Thanh Thư rất lấy làm thán phục, nói:

– Gia phụ vẫn thường nói, ông tự hận mình phúc mỏng, không được xem kiếm thuật của tôn sư. Hôm nay vãn bối được xem Đinh sư thúc sử chiêu Khinh la tiểu phiến, đúng là sáng mắt ra. Vãn bối ban nãy định xin sư thái chỉ dạy cho vài chiêu, để làm sáng tỏ một vài điều vãn bối chưa tỏ tường về kiếm pháp, song vãn bối không phải là đệ tử của quý phái nên chưa dám hé miệng.

Diệt Tuyệt sư thái ngồi ở đằng xa, những lời Tống Thanh Thư nói, bà ta đều nghe thấy cả, lại nghe bảo Tống Viễn Kiều tôn bà ta đứng thứ hai trong thiên hạ về kiếm pháp thì trong lòng vô cùng đắc ý. Trương Tam Phong là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ học thời nay, ai ai cũng kính phục, bà ta chưa bao giờ dám mơ tưởng theo kịp vị đại tông sư cổ kim hiếm có này. Nay đại đệ tử phái Võ Đang lại công nhận kiếm thuật của bà ta là tinh diệu nhất, chỉ đứng sau Trương Tam Phong, thì thật là vinh hạnh. Diệt Tuyệt sư thái thấy Đinh Mẫn Quân múa chiêu kia, tinh thần và kình lực chỉ đạt ba bốn phần hỏa hầu, kiếm pháp lừng danh thiên hạ của phái Nga Mi há chỉ như thế thôi ư? Bà liền tới gần, chẳng nói chẳng rằng, cầm lấy thanh kiếm từ tay Đinh Mẫn Quân, tay đưa lên ngang mũi, rung nhẹ một cái, mũi kiếm réo lên vù vù, chém liền chín nhát từ phải qua trái, lại từ trái qua phải, nhanh vô cùng, song vẫn nhìn rõ từng nhát chém một.

Chúng đệ tử thấy sư phụ thi triển kiếm pháp tinh diệu như thế, ai nấy hồi hộp, mồ hôi rịn ra ướt cả gan bàn tay.

Ân Lê Đình thốt lên:

– Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp! Hay quá!

Tống Thanh Thư ngưng thần nín thở. Y vốn chỉ muốn nói vài lời lấy lòng Diệt Tuyệt sư thái, tán thưởng kiếm pháp phái Nga Mi, ai ngờ khi bà ta biểu diễn thực là cao diệu ngoài sức tưởng tượng, trong lòng không khỏi thán phục, thành tâm thành ý xin bà ta chỉ dạy. Tống Thanh Thư hỏi tới đâu, Diệt Tuyệt sư thái dạy tới đó, xem ra còn tận tình hơn cả khi dạy cho đệ tử bản môn. Tống Thanh Thư có vốn võ học cao siêu, lại thông minh, câu nào cũng hỏi toàn chỗ hiểm hóc. Các đệ tử phái Nga Mi vây quanh hai người, xem sư phụ thi triển từng chiêu thức, tất cả đều tinh diệu kỳ ảo; có kẻ theo sư phụ đã hơn mười năm, chưa từng thấy bà hiển lộ thần kỹ thế này bao giờ.

Trương Vô Kỵ và Thù Nhi đứng bên ngoài vòng người, đều cảm thấy không tiện xem lén tuyệt kỹ kiếm thuật của phái Nga Mi. Thù Nhi bỗng nói với Trương Vô Kỵ:

– A Ngưu ca, nếu muội học được khinh công như Thanh Dực Bức Vương, có chết cũng cam lòng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Công phu tà môn ấy, học làm gì? Ân lục… Ân lục hiệp nói đó, Vi Nhất Tiếu mỗi lần thi triển võ công đều phải hút máu người, như thế có khác gì ma quỷ?

Thù Nhi nói:

– Y giỏi võ công, nên mới giết được đệ tử phái Nga Mi. Giả dụ khinh công của y kém một chút tất bị lão ni cô tóm được, khi đó y cũng bị người ta giết, chỉ là không bị hút máu thôi. Đằng nào thì người cũng chết, có bị hút máu hay không, có khác gì kia chứ? Danh môn chính phái với tà ma ngoại đạo cũng như nhau cả thôi.

Trương Vô Kỵ nhất thời chưa biết nói sao. Bỗng thấy từ trong đám đông có một thanh trường kiếm sáng lấp lánh bay thẳng lên trời. Thì ra Tống Thanh Thư đang đối chiêu với Diệt Tuyệt sư thái, đến chiêu thứ năm bà ta dùng chiêu “Hắc chiểu linh hồ” hất văng trường kiếm của Tống Thanh Thư lên không trung. Chiêu này là do tổ sư phái Nga Mi là Quách Tương nghĩ ra, để kỷ niệm năm xưa cùng Dương Quá tới đầm lầy bắt chồn.

Mọi người cùng ngẩng lên nhìn theo thanh kiếm, đột nhiên thấy ở góc đông bắc xa hàng chục dặm có một ngọn lửa màu vàng bốc lên trời. Ân Lê Đình kêu lên:

– Phái Không Động gặp địch rồi, mau đi tiếp ứng!

Lần này sáu đại môn phái đến Tây Vực vây đánh Ma giáo, để hành động kín đáo, theo phương lược chia nhau tấn công, ước định với nhau dùng hỏa tiễn sáu màu làm tín hiệu, hỏa tiễn màu vàng là tín hiệu của phái Không Động.

Mọi người chạy về phía có hỏa tiễn bắn lên, thấy tiếng kêu thét chém giết, càng đến gần nghe càng thảm thiết, chốc chốc lại có tiếng rú của người trước khi chết. Lúc đến gần thì ai nấy cả kinh. Trước mắt là một đại đấu trường chém giết, mỗi bên phải có tới vài trăm người tham chiến; dưới ánh trăng sáng, đao quang kiếm ảnh, ai nấy đang liều chết đâm chém nhau.

Trương Vô Kỵ trong đời chưa từng chứng kiến một trường đại chiến thế này bao giờ, chỉ thấy đao kiếm lấp loáng, máu đổ thịt rơi, tình cảnh thảm khốc không nỡ nhìn. Chàng không mong Ma giáo đắc thắng, cũng không muốn phe của Ân lục thúc đắc thắng, một bên là phe của cha, một bên là phe của mẹ, song hai phe lại ở thế không đội trời chung, mỗi người bị giết đều khiến chàng đau lòng.

Ân Lê Đình vừa quan sát tình thế vừa nói:

– Phe địch bao gồm Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa ba kỳ. Ồ, phe ta có phái Không Động, phái Hoa Sơn… phái Côn Luân cũng đã tới. Ba phái phe ta đấu với ba kỳ bên địch. Thanh Thư, chúng ta cũng tham chiến đi thôi!

Ân Lê Đình giơ trường kiếm đánh dứ một nhát, kiếm phát ra tiếng ong ong.

Tống Thanh Thư nói:

– Khoan đã, lục thúc xem kìa, đằng kia còn một đám đông bọn địch đang chờ thời cơ hành sự.

Trương Vô Kỵ nhìn theo ngón tay Tống Thanh Thư chỉ về phía đông, quả nhiên thấy ở ngoài xa mấy chục trượng có ba đội nhân mã lẫn trong bóng đêm, hàng ngũ chỉnh tề, mỗi đội phải hơn trăm người. Cục diện hiện thời ba phái đấu với ba kỳ là ngang ngửa, nếu ba đội kia tham chiến, chắc chắn ba phái Không Động, Hoa Sơn, Côn Luân sẽ đại bại; nhưng không hiểu vì sao ba đội nhân mã ấy vẫn án binh bất động.

Diệt Tuyệt sư thái và Ân Lê Đình thầm kinh hãi. Ân Lê Đình hỏi Tống Thanh Thư:

– Bọn kia vì cớ gì chưa động thủ?

Tống Thanh Thư lắc đầu:

– Tiểu điệt cũng không hiểu.

Thù Nhi đột nhiên cười khẩy, nói:

– Có gì mà nghĩ không ra? Chuyện rõ như ban ngày.

Tống Thanh Thư đỏ mặt, lặng thinh. Diệt Tuyệt sư thái định hỏi, nhưng đành nhịn vậy. Ân Lê Đình nói:

– Xin cô nương chỉ điểm cho.

Thù Nhi nói:

– Ba đội kia là lực lượng của Thiên Ưng giáo. Thiên Ưng giáo tuy là một bàng chi của Minh giáo, nhưng lâu nay vẫn bất hòa với Ngũ Hành kỳ. Các vị nếu giết sạch được Ngũ Hành kỳ, xem ra Thiên Ưng giáo còn mừng thầm là đằng khác. Ân Thiên Chính có khi lên ngôi giáo chủ Minh giáo cũng nên.

Diệt Tuyệt sư thái bây giờ mới vỡ lẽ. Ân Lê Đình nói:

– Đa tạ cô nương chỉ điểm.

Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn Thù Nhi, nghĩ thầm: “Kim Hoa bà bà võ công như thế, hèn chi một tên đồ đệ nhóc con cũng vô cùng lợi hại”.

Lúc này các đệ tử phái Nga Mi đã lục tục kéo đến, đứng sau lưng Diệt Tuyệt sư thái. Tĩnh Huyền nói:

– Tống thiếu hiệp, nói về tài bố trí trận đánh, chúng tôi không ai bằng thiếu hiệp. Mọi người xin nghe lệnh thiếu hiệp xông lên giết địch, mong thiếu hiệp đừng khách sáo.

Tống Thanh Thư nói:

– Lục thúc, việc này… việc này… điệt nhi làm sao dám nhận?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Lúc này còn nói chuyện lễ nghĩa gì nữa? Cứ ra lệnh đi!

Tống Thanh Thư thấy tình thế chiến trường cấp bách, phái Côn Luân đấu với Nhuệ Kim kỳ, đang thắng thế; phái Hoa Sơn đấu với Hồng Thủy kỳ, đôi bên ngang ngửa; phái Không Động càng đánh càng núng thế, bị Liệt Hỏa kỳ vây chặt vào trong mà chém giết, bèn ra lệnh:

– Chúng ta chia ra ba lộ xông vào, cùng tấn công Nhuệ Kim kỳ. Sư thái dẫn một cánh từ phía đông đánh vào; lục thúc dẫn một cánh đánh từ phía tây, còn Tĩnh Huyền sư thúc cùng vãn bối thì đánh vào từ phía nam.

Tĩnh Huyền lấy làm lạ, nói:

– Phái Côn Luân đang thắng thế, phái Không Động mới đang vô cùng nguy ngập.

Tống Thanh Thư nói:

– Phái Côn Luân đã chiếm thượng phong, ta đánh thốc vào như thế chẻ tre, trong giây lát có thể tiêu diệt Nhuệ Kim kỳ, hai kỳ còn lại thấy vậy sẽ khiếp vía. Nếu ta tiếp viện cho phái Không Động, hai bên sẽ thành thế giằng co, chỉ có Thiên Ưng giáo là ngư ông đắc lợi mà thôi.

Tĩnh Huyền hết sức thán phục, nói:

– Tống thiếu hiệp nói chí phải.

Liền chia các đệ tử thành ba cánh.

Thù Nhi kéo chiếc xe trượt chở Trương Vô Kỵ, nói:

– Ta đi thôi, ở đây chẳng có gì hay.

Nói rồi kéo xe đi. Tống Thanh Thư vội đuổi theo, giơ kiếm ngăn lại:

– Cô nương không đi được.

Thù Nhi lạ lùng hỏi:

– Ngươi giữ ta làm gì?

Tống Thanh Thư nói:

– Cô nương lai lịch lạ lùng, không thể để cô nương đi như thế được.

Thù Nhi cười khẩy:

– Lai lịch của ta lạ lùng thì đã sao? Không lạ lùng thì sao?

Diệt Tuyệt sư thái đang nóng lòng, bực bội chưa được đại khai sát giới giết sạch bọn Ma giáo, nghe Thù Nhi đấu khẩu với Tống Thanh Thư, liền lắc mình một cái phóng tới, giơ tay điểm vào ba huyệt ở lưng, hông và đùi Thù Nhi. Thù Nhi võ công thua bà ta quá xa, không chống đỡ gì được, đầu gối bủn rủn, ngã ngồi xuống.

Diệt Tuyệt sư thái múa trường kiếm, quát to:

– Hôm nay đại khai sát giới, trừ diệt yêu tà!

Nói rồi cùng Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền, mỗi người dẫn một cánh xông thẳng vào đánh Nhuệ Kim kỳ.

Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn của phái Côn Luân chỉ huy đệ tử đấu với Nhuệ Kim kỳ, đã chiếm ưu thế, được thêm hai phái Nga Mi, Võ Đang tăng viện nên thanh thế càng mạnh mẽ hơn. Diệt Tuyệt sư thái kiếm pháp tuyệt luân, không một giáo chúng nào của Minh giáo đỡ nổi ba chiêu của bà ta, chỉ thấy thân hình cao lớn của lão ni qua lại như con thoi giữa đám đông, đâm bên đông, chém bên tây, trong giây lát đã có bảy giáo chúng bỏ mạng dưới trường kiếm của bà ta.

Chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim kỳ là Trang Tranh thấy tình thế bất lợi, cầm lang nha bổng tới ngăn chặn Diệt Tuyệt sư thái. Đôi bên qua lại hơn chục chiêu, Diệt Tuyệt sư thái thi triển kiếm pháp phái Nga Mi, càng đánh cành nhanh, tận lực công kích. Nhưng Trang Tranh võ công rất cao cường, nhất thời đôi bên ngang ngửa. Lúc này Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền, Tống Thanh Thư, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đang ra tay tàn sát; Nhuệ Kim kỳ tuy có không ít cao thủ, nhưng làm sao địch nổi ba phái Võ Đang, Côn Luân, Nga Mi liên thủ, trong giây lát đã chết một số.

Trang Tranh đánh liên tiếp ba đòn lang nha bổng buộc Diệt Tuyệt sư thái phải thối lui ba bước, tiếp đòn thứ tư từ trên giáng xuống cực mạnh. Diệt Tuyệt sư thái nghiêng thanh trường kiếm, điểm vào thân lang nha bổng, dùng chiêu “Thuận thủy thôi chu” đẩy cây bổng ra. Nào ngờ Trang Tranh là nhân vật lợi hại của Minh giáo, thuộc hàng đệ nhất cao thủ võ lâm, trời phú cho có cánh tay khỏe lạ thường, cả nội công lẫn ngoại công đều vào mức thượng thừa. Khi cảm thấy nội lực của đối phương ở thanh kiếm đẩy vào lang nha bổng, y liền quát một tiếng, vận sức mạnh ra cánh tay, nghe “cách cách”, thanh kiếm của Diệt Tuyệt sư thái bị gãy thành ba đoạn.

Diệt Tuyệt sư thái binh khí đã gãy, cánh tay tê chồn, nhưng không né tránh hay thối lui, mà đưa tay ra sau rút phắt thanh kiếm Ỷ Thiên đeo trên lưng, một luồng sáng vụt lóe như sao băng, sử chiêu “Thiết tỏa hoành giang”[73] chém ngang một nhát. Trang Tranh cảm thấy tay mình nhẹ bẫng, cái đầu lởm chởm răng cưa của cây lang nha bổng đã bị kiếm Ỷ Thiên chẻ đôi; tiếp đó một nửa bên sọ của y cũng bị thanh kiếm sắc hơn nước kia bổ vỡ luôn.

Giáo chúng Nhuệ Kim kỳ thấy chưởng kỳ sứ bỏ mạng thì cùng thét lớn, căm hận lao vào đấu thí mạng, mấy đệ tử phái Côn Luân và phái Nga Mi liên tiếp bị chém chết.

Một người trong Hồng Thủy kỳ gọi to:

– Trang kỳ sứ đã tuẫn giáo quy thiên, Nhuệ Kim, Liệt Hỏa hai kỳ hãy rút đi, để Hồng Thủy kỳ chặn hậu!

Cờ hiệu của Liệt Hỏa kỳ trong trận thế lập tức biến đổi, theo lệnh lùi về hướng tây; riêng giáo chúng Nhuệ Kim kỳ càng đánh càng hăng, không ai chịu lùi bước.

Người của Hồng Thủy kỳ lại lớn tiếng nói:

– Đường kỳ sứ của Hồng Thủy kỳ có lệnh, tình thế bất lợi, giáo chúng Nhuệ Kim kỳ hãy mau rút lui, ngày sau sẽ báo thù cho Trang kỳ sứ.

Mấy người của Nhuệ Kim kỳ cùng lên tiếng:

– Hồng Thủy kỳ hãy mau lui trước, ngày sau báo thù rửa hận cho chúng tôi. Huynh đệ Nhuệ Kim kỳ chúng tôi quyết đồng sinh cộng tử với Trang kỳ sứ.

Hồng Thủy kỳ đột nhiên giơ cờ đen lên, một người nói to như sấm:

– Chư vị huynh đệ Nhuệ Kim kỳ! Hồng Thủy kỳ nhất định sẽ báo thù cho các vị.

Nhuệ Kim kỳ lúc này còn độ hơn bảy chục người, cùng lên tiếng:

– Đa tạ Đường kỳ sứ!

Chỉ thấy các lá cờ của Hồng Thủy kỳ phất lên, rút về phía tây. Hai phái Hoa Sơn, Không Động thấy trận thế địch nhân chỉnh tề, hơn hai chục người đi chặn hậu tay cầm các ống vàng sáng loáng, không biết có gì kỳ quái, nên không dám đuổi theo, liền quay sang giáp công Nhuệ Kim kỳ.

Lúc này tình thế đã định. Năm phái Côn Luân, Không Động, Nga Mi, Võ Đang, Hoa Sơn cùng vây đánh Nhuệ Kim kỳ của Minh giáo; trừ phái Võ Đang chỉ có hai người, bốn phái kia đều đã dốc hết lực lượng. Chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim kỳ đã tử trận, tàn quân mất chủ tướng như rắn mất đầu, dĩ nhiên không thể địch nổi. Song người của Nhuệ Kim kỳ ai nấy trọng nghĩa khí, quyết ý tuẫn giáo theo Trang Tranh.

Ân Lê Đình giết được vài giáo chúng, cảm thấy tuy thắng nhưng chẳng vẻ vang chút nào, bèn nói to:

– Yêu nhân Ma giáo hãy nghe đây: trước mắt các ngươi chỉ có một đường, mau quăng vũ khí đầu hàng, sẽ được tha chết!

Gã phó chưởng kỳ sứ cười ha hả, nói:

– Ngươi xem thường giáo chúng Minh giáo quá vậy?! Trang đại ca chết rồi, bọn ta cũng chẳng thiết sống nữa.

Ân Lê Đình nói:

– Các vị bằng hữu phái Côn Luân, phái Nga Mi, phái Hoa Sơn, phái Không Động, tất cả hãy lùi lại mười bước để bọn yêu nhân dễ bề đầu hàng.

Mọi người ai nấy lùi lại.

Diệt Tuyệt sư thái căm hận Ma giáo, vẫn tiếp tục múa kiếm cuồng sát. Bảo kiếm Ỷ Thiên đánh tới đâu, đao kiếm đều gãy, tay rơi đầu rụng đến đấy. Phái Nga Mi thấy sư phụ không lùi lại, những người đã lùi về lại xông lên chém giết, thành cục diện một mình phái Nga Mi đánh nhau với Nhuệ Kim kỳ.

Nhuệ Kim kỳ lúc này còn hơn sáu chục giáo chúng, số hảo thủ giỏi võ chừng hơn hai chục, do phó chưởng kỳ sứ Ngô Kình Thảo suất lĩnh, chống chọi hơn ba mươi người phái Nga Mi, là hai đánh một, đáng lý phải chiếm thượng phong. Nhưng bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái quá ư sắc bén, kiếm chiêu của bà ta lại cực kỳ lợi hại, bà ta tới đâu là chỗ đó nguy ngập, trong chốc lát có thêm bảy tám người chết dưới kiếm bà ta.

Trương Vô Kỵ không nỡ nhìn cảnh đó, bèn nói với Thù Nhi:

– Chúng ta đi thôi!

Chàng đưa tay giải huyệt cho Thù Nhi, nào ngờ xoa bóp mấy lần ở sau lưng và ngang hông cho nàng mà Thù Nhi vẫn thấy tê dại, các huyệt chưa mở được, mới biết Diệt Tuyệt sư thái nội lực thâm hậu, chỉ ra tay nhẹ nhàng nhưng kình lực nhập sâu vào huyệt đạo, tuy cách giải huyệt của chàng là đúng nhưng chưa kiến hiệu ngay.

Chàng thở dài, ngoảnh nhìn lại, thấy mấy chục người của Nhuệ Kim kỳ đã bị gãy hết vũ khí, một mặt các phái Côn Luân, Hoa Sơn, Không Động vây kín xung quanh; mặt khác, giáo chúng không ai chịu bỏ chạy, vẫn tay không chống trả các đệ tử phái Nga Mi.

Diệt Tuyệt sư thái tuy căm hận Ma giáo, nhưng ở địa vị chưởng môn phái, không muốn dùng binh khí giết người tay không, nên ngón tay trái liên tiếp phóng ra, chân như hành vân lưu thủy chạy vòng quanh, trong giây lát đã điểm huyệt hơn năm chục người của Nhuệ Kim kỳ, khiến bọn họ đứng bất động như trời trồng. Mọi người vây quanh thấy Diệt Tuyệt sư thái hiển lộ thân thủ cao cường như thế thì hò reo ầm ỹ.

Lúc này trời đã sáng, bỗng thấy ba đội giáo chúng Thiên Ưng giáo chia ba hướng đông, nam, bắc từ từ chuyển dịch tới gần, còn cách hơn mười trượng thì dừng, rõ ràng định đứng ngoài quan sát, chưa tiến vào khiêu chiến.

Thù Nhi nói:

– A Ngưu ca, mình phải chạy nhanh, kẻo rơi vào tay bọn Thiên Ưng giáo là khốn khổ đấy.

Trương Vô Kỵ đối với Thiên Ưng giáo vẫn có mối cảm tình thân thiết khó nói thành lời, bởi đấy là giáo phái của mẫu thân chàng. Mỗi lần nhớ đến mẫu thân, chàng vẫn tự nhủ: “Mẫu thân thì mình không bao giờ được gặp nữa, nhưng còn ông ngoại và cậu, khi nào mình được gặp đây?” Bây giờ người của Thiên Ưng giáo đang ở ngay kia, chàng muốn biết ông ngoại và cậu có trong đó hay không, nên chưa muốn bỏ đi vội.

Tống Thanh Thư bước lên, nói với Diệt Tuyệt sư thái:

– Tiền bối, chúng ta phải mau xử quyết bọn Nhuệ Kim kỳ, để còn xoay sang đối phó với Thiên Ưng giáo, khỏi lo hậu họa.

Diệt Tuyệt sư thái gật đầu.

Mặt trời bắt đầu ló dạng ở phía đông, ánh ban mai chiếu vào thân hình cao to của Diệt Tuyệt sư thái thành một cái bóng dài, trông vừa oai vệ vừa ghê rợn. Bà ta muốn làm nhụt nhuệ khí của Ma giáo, không muốn dùng kiếm giết ngay họ, bèn lạnh lùng nói:

– Bọn Ma giáo các ngươi nghe đây, kẻ nào muốn sống, chỉ cần mở miệng xin tha, ta sẽ cho đi.

Đáp lại chỉ nghe tiếng hì hì, ha ha, ồ hồ, à hà không dứt, người của Minh giáo nhất tề cười vang.

Diệt Tuyệt sư thái cả giận, hỏi:

– Có gì đáng cười?

Phó chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ Ngô Kình Thảo lớn tiếng trả lời:

– Bọn ta thề cùng sống chết với Trang đại ca, có muốn thì hãy mau mau giết bọn ta đi.

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, nói:

– Được, đến nước này còn làm bộ anh hùng hảo hán! Ngươi tưởng sẽ được chết một cách sảng khoái ư, đâu có dễ thế?

Bà ta rung nhẹ trường kiếm một cái đã chặt đứt cánh tay phải của Ngô Kình Thảo.

Ngô Kình Thảo cười ha hả, thần sắc vẫn như không, nói:

– Minh giáo thế thiên hành đạo, tế thế cứu dân, sinh tử thủy chung như nhất. Lão tặc ni chớ hòng mong bọn ta quỳ gối đầu hàng.

Diệt Tuyệt sư thái càng tức giận, soẹt soẹt soẹt” ba nhát, lại chém đứt cánh tay của ba giáo chúng nữa, hỏi người thứ tư:

– Ngươi có xin tha hay không thì bảo?

Người kia chửi:

– Mụ vãi già nói thối như cứt!

Tĩnh Huyền vọt lên vung kiếm chém phăng cánh tay phải của người kia, nói:

– Hãy để đệ tử chém hết đám yêu nghiệt này!

Tĩnh Huyền bắt chước sư phụ, hỏi luôn mấy người, giáo chúng Minh giáo không một ai chịu khuất phục, Tĩnh Huyền chém đến mỏi nhừ cả tay, quay lại nói:

– Sư phụ, bọn yêu nhân này ngoan cố quá…

Ý muốn xin sư phụ cho qua. Diệt Tuyệt sư thái bất chấp, nói:

– Chém tất cả tay phải trước, nếu vẫn cứ ngoan cố, hãy chém nốt tay trái.

Tĩnh Huyền không còn cách nào khác, lại chém thêm mấy người nữa.

Trương Vô Kỵ hết nhịn nổi, từ trong cái cáng trượt nhảy ra, chắn ngay trước mặt Tĩnh Huyền, nói:

– Dừng tay!

Tĩnh Huyền kinh ngạc, lùi lại một bước. Trương Vô Kỵ lớn tiếng, nói:

– Các ngươi tàn nhẫn hung ác như thế, không biết hổ thẹn ư?

Mọi người bất ngờ thấy một thanh niên lam lũ rách rưới đứng ra, thảy đều ngạc nhiên, khi nghe chàng lời nghiêm lẽ chính chất vấn Tĩnh Huyền, thì các cao thủ danh môn chính phái bất giác đều cảm thấy thán phục.

Tĩnh Huyền cười một tiếng dài, nói:

– Tà ma ngoại đạo, ai ai cũng cứ việc tru diệt, có gì gọi là tàn nhẫn với hung ác?

Trương Vô Kỵ nói:

– Những người này tất cả đều coi nhẹ mạng sống, trọng nghĩa khí, khẳng khái chịu chết, quả là các anh hùng hảo hán hiên ngang, đâu có gì là tà ma ngoại đạo?

Tĩnh Huyền nói:

– Bọn chúng là giáo đồ Ma giáo, còn không phải tà ma ngoại đạo hay sao? Tên Thanh Dực Bức Vương hút máu giết người, hại chết sư đệ sư muội của ta, chính mắt ngươi cũng nhìn thấy, còn chưa phải là yêu tà hay sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Thanh Dực Bức Vương chỉ giết một người, các vị giết mười lần nhiều hơn. Hắn dùng răng giết người, sư tôn dùng kiếm Ỷ Thiên giết người, cùng là giết người cả, đâu có phân biệt gì thiện ác?

Tĩnh Huyền cả giận, quát lên:

– Hảo tiểu tử, ngươi dám ví sư phụ ta với bọn yêu tà hả?

Nghe vù một chưởng, Tĩnh Huyền đánh thẳng vào mặt Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ vội né tránh. Tĩnh Huyền là đại đệ tử của phái Nga Mi, võ công được sư môn chân truyền, chưởng đánh vào mặt chỉ là hư chiêu, đợi Trương Vô Kỵ nghiêng người né tránh, lập tức tung chân trái đá lên, trúng ngay ngực chàng.

Chỉ nghe “hịch”, rồi “rắc” hai tiếng, chân trái Tĩnh Huyền đã gãy, thân hình bay về phía sau đến mấy trượng, rồi ngã lăn xuống. Thì ra ngực Trương Vô Kỵ trúng chiêu của địch, Cửu dương thần công trong cơ thể chàng tự động phát sinh lực kháng cự.

Chiêu số của chàng thua xa Tĩnh Huyền, nhưng uy lực của Cửu dương thần công quá ư lợi hại, địch phát chiêu càng mạnh, sức phản kích càng nặng, Tĩnh Huyền tựa hồ đá vào chính ngực mình. Cũng may Tĩnh Huyền chưa có ý định giết chàng, cú đá chỉ có năm thành kình lực nên Tĩnh Huyền chưa đến nỗi bị nội thương trầm trọng.

Trương Vô Kỵ khiêm nhường nói:

– Xin lượng thứ!

Chàng chạy tới đỡ, nhưng Tĩnh Huyền giận dữ quát:

– Xéo đi! Xéo đi!

Trương Vô Kỵ đành lùi lại, nói:

– Vâng!

Hai nữ đệ tử phái Nga Mi vội chạy tới dìu đại sư tỷ dậy.

Mọi người đứng ngoài đều biết Tĩnh Huyền là hảo thủ số một số hai dưới trướng Diệt Tuyệt sư thái, không hiểu sao lại kém cỏi như thế, chỉ một chiêu đã bị anh chàng rách rưới kia đánh văng đi mấy trượng? Nếu nói Tĩnh Huyền chỉ có hư danh cũng không phải, ban nãy đấu với Nhuệ Kim kỳ, kiếm pháp của Tĩnh Huyền lợi hại ra sao, ai ai cũng thấy. Không lẽ nhìn người không thể chỉ nhìn vẻ bên ngoài, anh chàng lam lũ kia thân mang võ công tuyệt thế chăng?

Diệt Tuyệt sư thái thầm kinh hãi: “Gã thiếu niên kia rốt cuộc theo bên nào? Ta bắt giữ hắn bấy lâu nay, không hề để ý đến hắn, thì ra là chân nhân bất lộ tướng, chẳng phải kẻ tầm thường. Ta muốn hất Tĩnh Huyền văng xa như thế cũng chẳng nổi. Trên đời này, ngoài Trương Tam Phong lão đạo có nội công tu luyện cả trăm năm, may ra mới làm được như thế thôi”. Diệt Tuyệt sư thái thuộc loại gừng quế càng già càng cay; tuy không dám coi thường Trương Vô Kỵ, nhưng cũng chẳng e ngại chút nào. Bà ta đưa mắt nhìn chàng từ đầu xuống chân để đánh giá.

Lúc này Trương Vô Kỵ đang ra tay cầm máu, băng bó vết thương cho giáo chúng của Nhuệ Kim kỳ. Thủ pháp của chàng vô cùng thành thạo, giơ tay điểm mỗi người vài nơi huyệt đạo, máu đang chảy từ cánh tay bị chém đứt lập tức giảm hẳn. Trong đám người vây quanh có không ít hảo thủ điểm huyệt trị thương, song ai cũng phải tự thẹn mình không bằng chàng; thậm chí có huyệt Trương Vô Kỵ điểm mà họ còn chưa biết. Phó chưởng kỳ sứ Ngô Kình Thảo nói:

– Đa tạ thiếu hiệp trượng nghĩa, thỉnh vấn quý tính đại danh?

Trương Vô Kỵ nói:

– Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.

Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:

– Hảo tiểu tử, hãy lại đây tiếp ta ba kiếm.

Trương Vô Kỵ nói:

– Xin sư thái đợi một lát, cứu người hệ trọng hơn.

Cho đến khi băng bó xong vết thương cho người cuối cùng bị chặt tay, chàng mới quay lại, ôm quyền nói:

– Diệt Tuyệt sư thái, tại hạ không phải đối thủ của sư thái, cũng không muốn động thủ với lão nhân gia; chỉ mong đôi bên bãi đấu, bỏ qua hết oán cừu quá khứ.

Bốn chữ “hai bên bãi đấu”, giọng nói của chàng vô cùng chân thành; “hai bên” mà chàng nhắc đó chính là phụ mẫu đã qua đời của chàng, một bên là Võ Đang danh môn chính phái của cha, một bên là Thiên Ưng giáo tà ma ngoại đạo của mẹ.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Ha ha, chỉ một lời của tiểu tử thối tha như ngươi mà đòi chúng ta bãi đấu ư? Ngươi là bậc chí tôn trong võ lâm chăng?

Trương Vô Kỵ động lòng, nói:

– Xin hỏi, là bậc chí tôn trong võ lâm thì sao?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Nếu ngươi có bảo đao Đồ Long trong tay thì cũng phải đấu với kiếm Ỷ Thiên của ta, xem ai cao thấp đã. Đến khi trở thành bậc chí tôn trong võ lâm rồi, hãy ra lệnh cũng chưa muộn.

Các đệ tử phái Nga Mi nghe sư phụ chế nhạo Trương Vô Kỵ thì tất thảy đều cười rộ. Các phái khác cũng có kẻ phụ họa theo.

Dựa vào thân phận và độ tuổi của Trương Vô Kỵ mà nói hai bên “bãi đấu” thì quả không hợp chút nào. Nghe nhiều người cười giễu mình, Trương Vô Kỵ đỏ mặt, nhưng không nhịn được, nói:

– Sư thái sao lại giết quá nhiều người như vậy? Mỗi người đều có phụ mẫu thê tử, sư thái giết họ rồi, hài tử của họ sẽ bơ vơ cô khổ, bị người ta khinh rẻ. Lão nhân gia là người xuất gia, xin hãy mở lòng từ bi!

Chàng vốn không phải người khéo nói, nhưng nghĩ đến thân thế mình nên lời nói ra cũng thật chân tình. Mấy câu đó vô cùng khẩn thiết, mọi người nghe thấy không khỏi động tâm.

Diệt Tuyệt sư thái mặt vẫn trơ trơ, giọng vẫn lạnh như băng:

– Hảo tiểu tử, ta phải để cho ngươi giáo huấn hay sao? Ngươi tự phụ nội lực thâm hậu, đứng đó mà ba hoa lớn lối. Được, ngươi mà tiếp được ta ba chưởng, ta sẽ tha cho bọn này đi!

Trương Vô Kỵ nói:

– Đến đệ tử của sư thái, tại hạ còn không tiếp nổi một chưởng, nữa là sư thái? Tại hạ không dám tỷ võ với lão nhân gia, chỉ xin sư thái mở lòng từ bi, thể hiện đức hiếu sinh của thượng thiên mà thôi.

Ngô Kình Thảo nói to:

– Tăng công tử, khỏi cần nhiều lời với lão tặc ni đó làm chi. Chúng tôi thà chết tất cả dưới tay bà ta, còn hơn trông chờ lòng từ bi giả dối của mụ ấy.

Diệt Tuyệt sư thái liếc Trương Vô Kỵ, hỏi:

– Sư phụ ngươi là ai?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Phụ thân, nghĩa phụ ta tuy có dạy ta võ công, nhưng đâu phải là sư phụ của ta”, bèn đáp:

– Tại hạ không có sư phụ.

Lời đó nói ra, ai nấy cùng cho là lạ. Bọn họ vốn nghĩ chàng thiếu niên này chỉ một chiêu đã hất văng Tĩnh Huyền, ắt phải là đồ đệ của cao nhân nào đó, nên ai ai cũng có vài phần e sợ, nào ngờ chàng lại bảo mình không có sư phụ. Người trong võ lâm, tôn sư là đạo chính, không nói lộ tính danh sư phụ cũng là chuyện thường, song không khi nào có mà lại bảo không, bởi vậy nếu chàng bảo không có sư phụ, tức là quả thật không có.

Diệt Tuyệt sư thái không nhiều lời với chàng nữa, nói:

– Tiếp chiêu đi!

Tay phải bà ta liền đánh ngay ra.

Trong tình thế đó, Trương Vô Kỵ không thể không tiếp. Chàng không dám khinh suất, đưa cả hai tay đẩy ra để chống đỡ một chưởng của bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái liền hạ tay xuống, y như một con lươn vừa trơn vừa nhanh, luồn qua bên dưới hai tay Vô Kỵ, nghe “pạch” một tiếng, đánh trúng ngay giữa ngực chàng.

Trương Vô Kỵ kinh hãi, Cửu dương thần công bảo hộ cơ thể tự động phát sinh lực chống trả đối phương; nhưng khi hai luồng kình lực sắp tiếp xúc với nhau, thì chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên biến mất không còn tăm hơi. Trương Vô Kỵ còn đang ngơ ngẩn, ngẩng nhìn bà ta, thì ngực chàng bỗng như bị một cái búa sắt nện vào. Chàng đứng không vững, bị hất nhào ra phía sau, ọe một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi, người sụm xuống như một tảng bùn mềm.

Chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái bất chợt dồn ra, bất chợt thu vào nhập nhằng bất định như thế, dẫn dụ nội lực của địch nhân, sau đó mới phát lực, thực là công phu tu luyện tinh diệu của võ học nội gia. Một vài người võ công cao siêu đứng ngoài nhận biết được cái xảo diệu của chưởng vừa rồi, không khỏi tấm tắc khen ngợi.

Thù Nhi hốt hoảng chạy tới, giơ tay đỡ Trương Vô Kỵ, không ngờ đầu gối bủn rủn, cũng ngã luôn xuống. Thì ra tuy nàng đã được Trương Vô Kỵ giải huyệt, nhưng huyết mạch chưa lưu thông, thấy chàng bị thương, hốt hoảng chạy đến giúp, nhưng được vài bước đã ngã, miệng ấp úng:

– A Ngưu ca, ca ca…

Trương Vô Kỵ cảm thấy trong ngực máu nóng nhộn nhạo, xua xua tay:

– Không chết đâu.

Chàng từ từ bò dậy. Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái nói với ba nữ đệ tử:

– Chặt hết cánh tay phải của bọn yêu nhân cho ta.

Ba đệ tử kia đáp:

– Tuân lệnh.

Rồi cầm kiếm tiến về phía giáo chúng Nhuệ Kim kỳ. Trương Vô Kỵ vội nói:

– Sư… sư thái nói vãn bối chịu được ba chưởng sẽ tha cho họ đi. Vãn… vãn bối chịu một chưởng rồi, còn… còn hai chưởng…

Diệt Tuyệt sư thái đánh Trương Vô Kỵ một chưởng, thấy nội công của chàng chính đại hồn hậu, hoàn toàn không thuộc loại yêu tà, thậm chí còn rất giống sở học của mình; thấy chàng đứng ra bênh vực giáo chúng Ma giáo, song quả thực không phải là người của bọn họ, bèn nói:

– Kẻ ít tuổi chớ đa quản nhàn sự, chính tà phải phân biệt cho rõ ràng. Chưởng vừa rồi ta chỉ dùng ba thành lực đạo, ngươi hiểu chứ?

Trương Vô Kỵ biết bà ta thân phận chưởng môn phái, ắt không nói sai, đã bảo chỉ dùng ba thành lực đạo thì đúng là mới dùng ba thành. Thế nhưng bất kể hai chưởng nữa khó chịu đựng tới mức nào, dù là mất mạng, chàng cũng không thể giương mắt nhìn giáo chúng Nhuệ Kim kỳ bị tàn sát, bèn nói:

– Vãn bối không lượng sức mình, xin chịu… thêm hai chưởng nữa của sư thái.

Ngô Kình Thảo nói to:

– Tăng công tử, chúng tôi cảm tạ đại đức của công tử. Công tử anh hùng hiệp nghĩa, người người cảm phục. Hai chưởng còn lại xin chớ có chịu làm gì.

Diệt Tuyệt sư thái thấy Thù Nhi ở bên cạnh Trương Vô Kỵ, e nàng làm vướng víu chân tay, bèn phất ống tay áo bên trái một cái, cuốn nàng lên quẳng về phía sau. Chu Chỉ Nhược chạy lên đón lấy, nhẹ nhàng đặt Thù Nhi xuống đất. Thù Nhi vội nói:

– Chu tỷ tỷ, hãy mau khuyên chàng đừng chịu thêm hai chưởng nữa, tỷ tỷ nói, chắc chàng sẽ nghe lời đấy.

Chu Chỉ Nhược lạ lùng, hỏi:

– Tại sao chàng sẽ nghe lời tôi?

Thù Nhi nói:

– Chàng rất thích tỷ tỷ, chẳng lẽ tỷ tỷ không biết hay sao?

Chu Chỉ Nhược đỏ mặt, ấp úng:

– Đâu phải thế.

Diệt Tuyệt sư thái lớn tiếng nói:

– Ngươi đã muốn tỏ ra anh hùng hảo hán, ấy là tự ngươi tìm lấy cái chết, đừng có trách ta.

Tay phải bà ta vung lên, kình phong ào ạt, đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.

Lần này Trương Vô Kỵ không dám giơ tay ra đỡ; thân hình nghiêng đi để tránh chưởng lực của đối phương. Diệt Tuyệt sư thái bỗng dưng xoay tay lại, bàn tay vòng trở về từ góc chết, “bộp” một tiếng, trúng ngay hậu tâm chàng. Thân hình chàng giống như thằng bù nhìn bằng rơm, bay là là lên không trung, rồi rớt phịch xuống đất, nằm sấp trên mặt cát, không động đậy, hình như chết rồi.

Chiêu này của Diệt Tuyệt sư thái, thủ pháp tinh diệu vô tỉ, lẽ ra người đứng xem hò reo mới phải, nhưng tấm lòng hiệp nghĩa của Trương Vô Kỵ đã khiến họ thầm kính phục, thấy chàng gặp sự bất hạnh, mọi người chỉ hoảng sợ thở dài, không một ai lên tiếng hoan hô.

Thù Nhi nói:

– Chu tỷ tỷ, xin tỷ tỷ mau tới xem chàng bị thương có nặng hay không đi!

Trống ngực Chu Chỉ Nhược đập thình thình, nghe lời cầu xin của Thù Nhi, nàng đã định chạy tới xem, nhưng trước hàng trăm cặp mắt đổ dồn vào, một thiếu nữ mười tám mười chín tuổi như nàng làm sao dám tới xem thương thế cho một chàng trai? Huống hồ người đả thương chàng ta lại chính là sư phụ của nàng, làm như thế, tuy chưa phải công khai phản bội sư môn, song cũng là hành động đại bất kính đối với sư phụ, thành thử nàng vừa dợm bước, liền dừng ngay lại.

Lúc này trời đã sáng rõ, ánh nắng chan hòa khắp nơi. Một lát sau, thấy lưng Trương Vô Kỵ động đậy, chàng từ từ ngồi dậy, nhưng cánh tay chống lên được một thước thì đột nhiên không nhịn nổi, mồm phun ra một ngụm máu to, lại nằm gục xuống. Chàng nửa mê nửa tỉnh, nằm bất động, song vẫn nhớ là mình còn phải chịu một chưởng nữa mới cứu sống được giáo chúng Nhuệ Kim kỳ.

Chàng hít một hơi dài, cuối cùng cũng ngồi dậy được; nhưng thân hình run lẩy bẩy, có thể gục xuống bất cứ lúc nào. Mọi người nín thở đứng trông. Tuy xung quanh có đến vài trăm người, nhưng tất cả im phăng phắc, tưởng chừng một cái kim rơi xuống đất cũng nghe thấy được.

Trong khoảnh khắc yên tĩnh ấy, Trương Vô Kỵ chợt nhớ mấy câu trong Cửu dương chân kinh:

Dẫu rằng người có hung hăng,

Chẳng qua gió nhẹ thoảng ngang núi này.

Dẫu rằng người có bài bây,

Chẳng qua trăng sáng dãi đầy trường giang.

Hồi ở thung lũng hoang sơn đọc mấy câu ấy, chàng chưa hiểu ý nghĩa của chúng; lúc này chàng chợt nghĩ ra, dù cho Diệt Tuyệt sư thái hung hăng tàn ác đến mấy, chàng vẫn cứ coi như không. Chiếu theo yếu nghĩa của Cửu dương chân kinh, dù kẻ địch có hùng mạnh đến mấy, hung ác đến mấy, cũng hãy coi đó như gió mát thoảng qua núi, trăng sáng chiếu trên sông, dù có chạm vào thân thể ta thì cũng không thể gây tổn thương chút nào.

Nhưng phải làm thế nào để thân thể ta không bị tổn thương? Đoạn kinh tiếp theo viết:

Dẫu người hung ác tới đâu,

Cốt sao chân khí ta sâu, đủ rồi.

Chàng nghĩ tới đây, trong lòng liền vỡ lẽ, bèn ngồi xếp bằng dựa theo cách nói trong kinh văn mà điều hòa hơi thở. Chỉ cảm thấy từ đan điền có luồng khí ấm trào dâng, trong giây lát chân khí lưu động toàn thân, tới từng thớ thịt, từng đốt xương. Đại uy lực của Cửu dương thần công lúc này mới hiển lộ. Ngoại thương của chàng tuy nặng, máu hộc ra cả bát, nhưng chân khí nội lực không bị tiêu hao chút nào.

Diệt Tuyệt sư thái nhìn chàng vận khí trị thương, trong bụng không khỏi kinh ngạc, thấy chàng thanh niên này quả có khả năng phi thường. Chưởng thứ nhất bà ta đánh chàng là một chiêu trong “Phiêu tuyết xuyên vân chưởng”[74]. Chưởng thứ hai lợi hại hơn, là thức thứ ba của “Tiệt thủ cửu thức”[75], đều là tinh hoa của chưởng pháp phái Nga Mi. Chưởng thứ nhất bà ta dùng ba thành kình lực, chưởng thứ hai, bà ta tăng lực đạo lên tới bảy thành, nghĩ rằng nếu chưa đánh chàng chết tươi tại trận thì tối thiểu cũng làm gãy xương đứt gân, hoàn toàn tàn phế, bại liệt. Nào ngờ chàng chỉ nằm phủ phục một lát, lại ngồi dậy được, quả là ngoài mọi dự liệu của bà ta.

Theo quy củ tỷ thí trong võ lâm, Diệt Tuyệt sư thái không cần phải chờ chàng vận khí trị thương; nhưng bà ta tự trọng thân phận, không muốn lợi dụng cơ hội đối phương đang lâm nguy, ra tay đánh một kẻ thuộc hàng hậu bối.

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng:

– Này gã họ Tăng kia, nếu ngươi không dám tiếp thêm chưởng thứ ba của sư phụ ta thì hãy mau xéo đi cho rảnh mắt. Ngươi cứ ngồi ỳ đó dưỡng thương, không lẽ bọn ta cũng phải đứng chờ ngươi hay sao?

Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ khuyên:

– Đinh sư tỷ, cho y nghỉ thêm một lát, cũng chẳng đáng gì.

Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:

– Ngươi… ngươi lại đi bênh người ngoài, có phải thấy gã tiểu tử này…

Y thị vốn định nói “có phải thấy gã tiểu tử này anh tuấn, nên đã phải lòng hắn chăng?” Nhưng chợt nghĩ ở đây có không ít cao nhân danh tiếng của các môn phái, những lời thô lậu như thế chẳng thể nói ra, nên đành bỏ lửng giữa chừng. Song ý tứ của y thị thế nào, người xung quanh làm gì chẳng hiểu? Nửa câu sau có nói hay không cũng vậy thôi.

Chu Chỉ Nhược vừa thẹn vừa lo, mặt tái đi, nhưng không cãi lại, chỉ thủng thẳng nói:

– Tiểu muội chẳng qua nghĩ đến uy danh của bản môn và sư tôn, không muốn người ngoài nói ra nói vào.

Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi:

– Nói ra nói vào cái gì?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Võ công bản môn dương danh thiên hạ, sư phụ là cao nhân tiền bối số một số hai thời nay, đâu thèm chấp một tiểu tử hậu sinh. Chẳng qua thấy y cả gan cuồng vọng, nên mới ra tay giáo huấn y một phen, chứ đâu có ý định giết y? Danh tiếng hiệp nghĩa của bản môn đã có cả trăm năm nay, sư tôn nhân hậu độ lượng, ai chẳng kính phục? Con đom đóm trẻ tuổi kia làm sao tranh sáng được với hai vầng nhật nguyệt? Dù y có luyện thêm trăm năm nữa, cũng chẳng phải là đối thủ của sư tôn chúng ta, y có dưỡng thương thêm một lúc, cũng chả bõ bèn gì.

Câu nói đó khiến ai nghe cũng thầm gật đầu. Diệt Tuyệt sư thái lại càng hoan hỉ khi thấy nữ đệ tử nhỏ tuổi này hiểu biết, làm rạng rỡ bản môn trước mắt cao thủ các môn phái.

Chân khí trong cơ thể Trương Vô Kỵ vừa lưu chuyển, tinh thần liền trở lại minh mẫn, nghe rõ từng lời của Chu Chỉ Nhược, hiểu rằng nàng muốn giúp mình, nên nói chặn trước, để Diệt Tuyệt sư thái không tiện hạ độc thủ. Chàng không khỏi cảm kích, đứng dậy, nói:

– Sư thái, vãn bối xả mệnh bồi quân tử, xin tiếp một chưởng nữa.

Diệt Tuyệt sư thái thấy chàng chỉ ngồi xếp bằng một lát mà tinh thần đã phấn chấn trở lại, nghĩ thầm: “Gã tiểu tử này nội lực thâm hậu như thế, quả là tà môn”, nói:

– Sao ngươi không ra tay đánh ta? Ai bảo ngươi chỉ chịu đòn mà không trả đòn?

Trương Vô Kỵ nói:

– Chút công phu thô lậu của vãn bối, đến cái mép áo của sư thái còn không động tới được, nói chi trả đòn?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Ngươi đã tự biết thân biết phận như thế, sao không sớm tránh ra. Ngươi còn trẻ mà có chí khí như vậy, kể cũng hiếm gặp. Diệt Tuyệt sư thái ta lâu nay chưa từng tha cho ai, hôm nay ta phá lệ tha cho ngươi đó.

Trương Vô Kỵ cúi mình nói:

– Đa tạ tiền bối, các vị đại ca của Nhuệ Kim kỳ kia cũng được tha luôn chứ?

Cặp đuôi lông mày dài của Diệt Tuyệt sư thái càng xuôi xuống, bà ta lạnh lùng hỏi:

– Pháp danh của ta là gì, ngươi biết chứ?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Tôn danh của tiền bối là trước “Diệt” sau “Tuyệt”.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

– Ngươi biết thế là tốt. Yêu ma tà đồ, ta quyết giết hết sạch, không chứa một mống, chẳng lẽ hai chữ “Diệt Tuyệt” chỉ để gọi suông thôi ư?

Trương Vô Kỵ nói:

– Đã vậy, mời tiền bối đánh chưởng thứ ba.

Diệt Tuyệt sư thái nhìn nghiêng, một thiếu niên cứng cổ, ngoan cường như thế này, cả đời bà ta chưa từng gặp; bà ta vốn lạnh lùng, nhưng lúc này đột nhiên thấy nên quý chuộng tài năng, nghĩ thầm: “Chưởng thứ ba ta đánh ra, thể nào y cũng mất mạng. Y không phải hạng người yêu tà, còn ít tuổi mà đã chết thì thật uổng!” Bà ta định bụng chưởng thứ ba này sẽ đánh vào yếu huyệt ở đan điền, vận nội lực xoáy vào huyệt khiến cho chàng lập tức bế khí bất tỉnh, đợi sau khi giết hết đám Ma giáo Nhuệ Kim kỳ sẽ cứu chàng tỉnh lại.

Diệt Tuyệt sư thái phất tay áo trái, chưởng thứ ba toan đánh ra, bỗng có người nói lớn:

– Diệt Tuyệt sư thái, chưởng hạ lưu nhân!

Tám tiếng đó ai nấy nghe chói buốt cả tai, tựa hồ kim chọc vào tai vậy.

Chỉ thấy từ góc tây bắc có một bạch y nam tử tay cầm quạt, đi xuyên qua đoàn người, đi nhanh mà không cuốn bụi, đi trên cát mà như lướt trên mặt nước. Vạt áo bên trái người ấy thêu một con chim ưng nho nhỏ màu đen, đang dang rộng đôi cánh. Mọi người vừa nhìn, biết ngay đó là nhân vật cao thủ trong Thiên Ưng giáo. Bởi vì y phục của Minh giáo và Thiên Ưng giáo giống nhau, chỉ khác là trên áo của Minh giáo thêu ngọn lửa đỏ, còn áo của Thiên Ưng giáo thêu con chim ưng đen.

Người kia tới cách Diệt Tuyệt sư thái chừng ba trượng, chắp tay, nói:

– Xin phép sư thái, chưởng thứ ba ấy hãy để tại hạ chịu thay, có được chăng?

Diệt Tuyệt sư thái hỏi:

– Ngươi là ai?

Người kia đáp:

– Tại hạ họ Ân, thảo tự Dã Vương.

Ba tiếng Ân Dã Vương lập tức khiến tất cả mọi người xôn xao. Tên tuổi của Ân Dã Vương đã lừng lẫy trên giang hồ hai chục năm nay, trong võ lâm nhiều người bảo võ công của Ân Dã Vương cao siêu hầu như không thua kém gì phụ thân Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Ân Dã Vương là đường chủ Thiên Vi đường của Thiên Ưng giáo, chỉ dưới quyền giáo chủ mà thôi.

Diệt Tuyệt sư thái thấy người kia trạc tứ tuần, cặp mắt như hai tia chớp rọi ra tứ phía, khí thế ghê gớm, biết là chẳng thể coi thường, huống hồ bà ta cũng từng nghe tên tuổi, nên lạnh lùng nói:

– Tên tiểu tử kia là thế nào với ngươi, mà ngươi muốn thay hắn tiếp chưởng của ta?

Trương Vô Kỵ thầm kêu lên: “Người ấy là cậu ruột ta, cậu ruột của ta đây rồi, không lẽ cậu đã nhận ra ta?”

Ân Dã Vương cười ha hả, nói:

– Tại hạ vốn chẳng biết y là ai cả, chẳng qua thấy y tuổi còn nhỏ, song lại rất cứng đầu, không giống bọn giả nhân giả nghĩa hám danh chuộng tiếng trong võ lâm, thấy thích y nên muốn đứng ra lĩnh giáo công lực của sư thái, như thế được chưa?

Câu cuối cùng nói ra chẳng còn vẻ khách khí nữa, tựa hồ không coi Diệt Tuyệt sư thái là cái thá gì.

Diệt Tuyệt sư thái lại không hề tức giận, nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu tử, nếu ngươi còn muốn sống thêm vài năm, lúc này chạy đi vẫn còn kịp.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vãn bối không dám tham sống mà quên nghĩa khí.

Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, quay sang nói với Ân Dã Vương:

– Tiểu tử kia còn nợ ta một chưởng, để ta và hắn thanh toán xong xuôi, ta sẽ không để các hạ phải thất vọng đâu.

Ân Dã Vương cười hắc hắc, nói:

– Diệt Tuyệt sư thái, có giỏi cứ thử giết gã thiếu niên kia ta coi. Y mà chết, ta cũng sẽ cho bọn ngươi chết không có đất mà chôn.

Nói xong, Ân Dã Vương lùi về, lướt qua đám người, miệng quát:

– Hiện thân!

Đột nhiên từ dưới cát vô số đầu người đội cát nhô lên, mỗi người một cái khiên che phía trước, ai nấy giương cung tên chĩa thẳng vào bọn người chính phái. Thì ra giáo chúng Thiên Ưng giáo đã đào địa đạo, vây kín người các môn phái lại từ lúc nào rồi.

Mọi người chăm chú xem cảnh Diệt Tuyệt sư thái và Trương Vô Kỵ đối chưởng, đâu ai để ý chuyện bên ngoài. Dẫu khôn ngoan như Tống Thanh Thư cũng chỉ biết đề phòng giáo chúng Thiên Ưng giáo bất ngờ xông vào tấn công, chứ đâu thể ngờ họ lại lợi dụng cát mềm, đào địa đạo, chiếm lĩnh hết các địa hình thuận lợi. Chuyện xảy ra như thế khiến ai nấy tái mặt, lại thấy các đầu mũi tên lấp lánh màu xanh dưới ánh nắng, hẳn là có tẩm thuốc độc. Chỉ cần Ân Dã Vương hạ lệnh, trừ một vài vị võ công cao siêu nhất của các phái, hết thảy mọi người còn lại e rằng không một ai sống sót.

Trong năm phái ở đây, nói về tư cách và tuổi tác thì Diệt Tuyệt sư thái cao hơn hết, nên tất cả mọi người đều nhìn bà ta chờ ra quyết định.

Diệt Tuyệt sư thái là người cực kỳ cố chấp, tuy thấy tình thế biến chuyển nguy hiểm nhưng vẫn không động tâm chút nào, nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu tử, ngươi chỉ còn cách oán trách số mệnh ngươi chẳng ra gì mà thôi!

Đột nhiên xương cốt toàn thân bà ta phát ra những tiếng lép bép lách tách nho nhỏ như tiếng ngô rang nở. Tiếng đó chưa dứt, hữu chưởng đã nhắm ngực Trương Vô Kỵ mà đánh tới.

Chưởng này là tuyệt học của phái Nga Mi, gọi là “Phật quang phổ chiếu”[76]. Dù là chưởng pháp hay kiếm pháp, bao giờ các chiêu cũng liên tiếp nối với nhau thành bài bản, nhiều thì vài trăm chiêu, ít cũng dăm ba thức, thậm chí dù chỉ dăm ba thức nhưng mỗi thức cũng ẩn tàng sự biến hóa, một thức ẩn giấu hai ba, thậm chí tới mười chiêu. Riêng chưởng pháp “Phật quang phổ chiếu” chỉ có một chiêu và chiêu này cũng không hề có biến hóa. Một chiêu đánh ra, trúng ngực kẻ địch hay trúng lưng cũng được, trúng vai cũng được, trúng mặt cũng được, chiêu thức hết sức bình thường, nhất thành bất biến, nhưng uy lực hoàn toàn dựa vào Cửu dương công của phái Nga Mi.

Chưởng này đã đánh ra, đối phương không thể chống đỡ, cũng không thể né tránh. Trong phái Nga Mi hiện nay, ngoài Diệt Tuyệt sư thái, không người thứ hai biết sử dụng. Bà ta vốn chỉ định đánh vào đan điền của Trương Vô Kỵ, làm cho chàng bất tỉnh thôi. Nhưng sau lời đe dọa của Ân Dã Vương, nếu bà ta nương tay cũng chẳng ai nghĩ là bà ta khoan dung, lại cho rằng bà ta tham sống sợ chết, quỳ gối đầu hàng địch nhân. Thành thử chiêu này bà ta phải sử dụng toàn lực, không nương nhẹ gì nữa.

Trương Vô Kỵ thấy trước khi chưởng của bà ta đánh tới, xương cốt đối phương kêu lép bép, biết rằng chưởng này sẽ vô cùng ghê gớm, sự sống chết mất còn của chàng là ở giây phút này đây, làm sao dám khinh suất? Trong sát-na ấy, chàng chỉ còn nhớ hai câu trong “Cửu dương chân kinh”:

Dẫu người hung ác tới đâu

Chỉ cần chân khí ta sâu, đủ rồi.

Chàng hoàn toàn không nghĩ tới việc chống đỡ, chỉ vận chân khí tập trung ở vùng ngực bụng.

Chỉ nghe “bình” một tiếng lớn, Diệt Tuyệt sư thái đã đánh trúng ngay giữa ngực chàng.

Mọi người xung quanh cùng kêu lên hốt hoảng, đoán rằng toàn thân Trương Vô Kỵ xương cốt đã gãy nát, không chừng thân hình chàng còn bị đòn bài sơn đảo hải này đánh đứt đôi rồi cũng nên. Nào ngờ sau khi trúng chưởng rồi mà Trương Vô Kỵ vẫn đứng thản nhiên như không, vẻ mặt thư thái; còn Diệt Tuyệt sư thái mặt xám như tro, bàn tay run rẩy.

Thì ra chiêu “Phật quang phổ chiếu” vừa rồi của Diệt Tuyệt sư thái hoàn toàn dựa vào Cửu dương công của phái Nga Mi, trong khi Trương Vô Kỵ tu luyện lại chính là Cửu dương thần công. Cửu dương công của phái Nga Mi là do năm xưa Quách Tương nghe Giác Viễn tụng Cửu dương chân kinh mà nhớ được vài phần rồi chế thành, uy lực làm sao sánh nổi nguyên bản Cửu dương thần công. Tuy uy lực nội công hai môn có lớn nhỏ, song bản chất là cùng một gốc, Cửu dương công của phái Nga Mi đụng phải Cửu dương thần công thì khác nào sông chảy vào biển, như nước pha vào sữa, tức khắc không còn tăm hơi gì nữa.

Chưởng thứ nhất Diệt Tuyệt sư thái đánh Trương Vô Kỵ là “Phiêu tuyết xuyên vân chưởng”, chưởng thứ hai là “Tiệt thủ cửu thức”, đều không thuộc về Cửu dương thần công, nên khi đánh trúng Trương Vô Kỵ đã làm cho chàng thụ thương thổ huyết.

Đạo lý bên trong đó, bấy giờ không ai hiểu nổi. Trương Vô Kỵ dĩ nhiên hoang mang chẳng biết gì. Diệt Tuyệt sư thái tuy kiến thức sâu rộng nhưng cũng chỉ nghĩ rằng gã tiểu tử này nội công thâm hậu, mình không đả thương nổi hắn thôi. Còn mấy trăm người vây quanh, vòng trong vòng ngoài, trừ bản thân Diệt Tuyệt sư thái ra, ai ai cũng nghĩ bà ta nhẹ tay; phần vì thương Trương Vô Kỵ có ý chí ngoan cường, phần vì bà ta nghĩ tới đại cục, không muốn để cho Thiên Ưng giáo bắn tên tẩm độc hạ sát người của cả năm phái, phần khác cũng có thể do bà ta nhát gan, đành khuất phục trước lời đe dọa của Ân Dã Vương.

Trương Vô Kỵ vái một cái, nói:

– Đa tạ tiền bối chưởng hạ lưu tình!

Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, vẻ ngượng ngùng, lúc đầu đã nói rõ là chỉ đánh ba chưởng, nên không thể đánh thêm; nhưng nếu đến đây lại thôi thì hóa ra bà ta phải đầu hàng Thiên Ưng giáo, thật là mối sỉ nhục quá lớn.

Trong lúc bà ta còn đang phân vân, Ân Dã Vương đã cười ha hả, nói:

– Ngươi thức thời là kẻ tuấn kiệt, Diệt Tuyệt sư thái không hổ là cao nhân thời nay.

Rồi hạ lệnh:

– Triệt bỏ cung tên!

Các giáo đồ Thiên Ưng giáo lập tức lùi ra xa, một hàng cầm khiên, một hàng cầm cung tên, đứng thật chỉnh tề, xem ra Ân Dã Vương huấn luyện binh pháp cho giáo chúng nên tiến thoái công thủ đều rất có bài bản.

Diệt Tuyệt sư thái mặt mày xám ngoét, lại không biết trần tình ra sao với mọi người, chẳng lẽ lại bảo chưởng của mình vừa đánh không hề lưu tình? Ai ai cũng thấy bà ta mới đánh nhẹ hai chưởng mà Trương Vô Kỵ đã trọng thương, hộc máu mồm máu mũi; thế mà Ân Dã Vương vừa dọa vài câu, chưởng thứ ba bà đánh ra làm như ghê gớm lắm, song lại chẳng dồn vào đó mảy may sức lực. Dẫu bà ta có ra sức giãi bày, mọi người cũng sẽ chẳng ai tin, huống hồ trước nay bà ta vốn quen cao ngạo, không lẽ lại hạ mình xin mọi người hãy tin mình? Bà ta hậm hực nhìn Trương Vô Kỵ, rồi lớn tiếng nói với Ân Dã Vương:

– Ân Dã Vương, ngươi muốn thử chưởng lực của ta thì hãy lại đây.

Ân Dã Vương chắp tay, nói:

– Hôm nay được sư thái dành cho chút tình, đâu dám đắc tội thêm, hẹn ngày sau có dịp gặp lại.

Diệt Tuyệt sư thái phất tay trái một cái, không nói gì nữa, dẫn các đệ tử đi về hướng tây. Người các phái Côn Luân, Hoa Sơn, Không Động, cùng Ân Lê Đình và Tống Thanh Thư cũng đi theo.

*

*   *

Thù Nhi hai chân còn chưa đi nổi, vội gọi:

– A Ngưu ca, mau đưa muội chạy theo họ.

Trương Vô Kỵ muốn cùng Ân Dã Vương nói vài lời, bèn nói:

– Đợi một chút!

Chàng đi tới gần Ân Dã Vương, nói:

– Đại đức ra tay trợ giúp của tiền bối, vãn bối không bao giờ dám quên.

Ân Dã Vương cầm tay chàng, nhìn chàng đánh giá một hồi, rồi hỏi:

– Ngươi họ Tăng ư?

Trương Vô Kỵ chỉ muốn sà vào lòng ông, gọi “Cậu ơi, cậu ơi!” nhưng phải kìm lòng lại, hai mắt bỗng rưng rưng. Người đời có câu “Thấy cậu như thấy mẹ”, chàng từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, Ân Dã Vương là thân nhân mười mấy năm nay mới gặp lần đầu, bảo làm sao chàng không xúc động?

Ân Dã Vương thấy ánh mắt chàng trai đối với ông đầy vẻ thân thiết, lại nghĩ là chàng cảm ân cứu mạng nên cũng không để tâm, đưa mắt sang phía Thù Nhi ngồi dưới cát, cười nhạt một tiếng, nói:

– A Ly, ngươi đó ư?

Thù Nhi ngẩng đầu lên, đôi mắt đầy vẻ oán hận, rồi lại cúi xuống, lát sau mới nói:

– Cha!

Tiếng “Cha” vừa thốt ra, Trương Vô Kỵ vô cùng kinh ngạc, bao nhiêu ý nghĩ hiện ra trong đầu, trong giây lát chàng đã hiểu ra rất nhiều chuyện: “Thì ra Thù Nhi là con gái của cậu mình, vậy nàng là biểu muội của mình. Nàng giết bà vợ lẽ của cha, dẫn tới cái chết của mẹ nàng, lại từng nói cha nàng mà gặp nàng sẽ giết ngay… Ôi, nàng dùng Thiên thù vạn độc thủ đả thương Ân Vô Lộc, chắc là vì mấy gia nhân đó đã về hùa với chủ nhân đối xử không tốt với hai mẹ con nàng. Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ tuy rất thống hận, nhưng không dám động thủ với nàng, chỉ nói ‘Thì ra là Tam tiểu thư’, rồi dìu Ân Vô Lộc chạy đi”.

Chàng quay lại nhìn Thù Nhi, chợt nhớ: “Thảo nào mình thấy nàng rất giống mẹ mình, thì ra nàng với ta có tình huyết nhục, mẹ mình chính là cô ruột của nàng”.

Ân Dã Vương cười khẩy, nói:

– Mi còn biết gọi ta là cha sao? Ta chỉ biết mi đi theo Kim Hoa bà bà, không thèm biết đến Thiên Ưng giáo nữa. Thật chẳng ra gì, mi giống hệt mẹ mi, lại đi luyện ‘Thiên thù vạn độc thủ’. Hừ, mi thử soi gương xem mi đã thành cái giống gì. Nhà họ Ân ta lẽ đâu lại có đứa con gái nửa người nửa quỷ như mi?

Thù Nhi vốn sợ run toàn thân, đột nhiên quay đầu lại, nhìn chằm chằm vào mặt cha, xẵng giọng:

– Cha! Cha không nhắc đến chuyện cũ thì con cũng chẳng nói làm gì. Nhưng cha đã nói, vậy giờ con hỏi cha, mẹ con đã lấy cha rồi, vì cớ gì cha lại còn lấy thêm tiểu thiếp?

Ân Dã Vương ấp úng:

– Chuyện đó… chuyện đó… con nhãi ranh, nam tử hán đại trượng phu, ai chẳng năm thê bảy thiếp? Mi ngỗ nghịch bất hiếu, hôm nay có cãi cũng bằng thừa. Thiên Ưng giáo ta không coi Kim Hoa bà bà, Ngân Diệp tiên sinh là cái thá gì hết!

Ông khoát tay một cái, nói với Ân Vô Phúc và Ân Vô Thọ:

– Xách cổ con nhãi này về.

Trương Vô Kỵ giơ hai tay ngăn lại:

– Khoan đã! Ân… Ân tiền bối, tiền bối định bắt Ân cô nương làm gì?

Ân Dã Vương nói:

– Con a đầu này là đứa con bất hiếu của ta, nó đã giết mẹ kế, hại mẹ đẻ, so với loài cầm thú cũng không bằng, còn để cho sống làm gì?

Trương Vô Kỵ nói:

– Bấy giờ Ân cô nương còn nhỏ, thấy mẹ mình bị người ta khinh rẻ, nhất thời không nhịn được nên mới gây ra chuyện sai trái, cúi mong tiền bối nghĩ tình cha con, trách phạt nhẹ tay cho.

Ân Dã Vương ngửa mặt lên cười ha hả:

– Hảo tiểu tử, ngươi rốt cuộc là ai mà chuyện gì trong thiên hạ cũng xen vào thế? Ngay cả chuyện riêng nhà họ Ân ta, ngươi cũng muốn can dự ư? Hay ngươi là “võ lâm chí tôn”?

Trương Vô Kỵ xúc động, đã định nói: “Tôi chính là cháu ruột của cậu, đâu phải người ngoài”, nhưng nén lại được.

Ân Dã Vương cười, nói tiếp:

– Tiểu tử, từ rày ngươi phải biết giữ thân, nếu cứ lo chuyện bao đồng trong giang hồ, dẫu có đến mười cái mạng cũng không đủ đâu.

Nói rồi phất tay trái một cái. Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ liền bước tới nắm lấy Thù Nhi kéo về phía sau Ân Dã Vương.

Trương Vô Kỵ biết rằng một khi Thù Nhi rơi vào tay cha nàng thì tính mạng khó bề toàn vẹn, bèn xông tới toan cướp lại. Ân Dã Vương cau mày, tay trái thộp lấy ngực áo hất nhẹ ra ngoài; Trương Vô Kỵ thân hình bay như đằng vân giá vụ, rồi nặng nề rơi phịch xuống bãi cát vàng. Chàng có Cửu dương thần công hộ thể, tuy không bị thương nhưng khi rơi xuống, tai mắt mồm mũi toàn cát là cát, hết sức khó chịu. Chàng chưa chịu thôi, lại nhổm dậy xông tới.

Ân Dã Vương cười khẩy, nói:

– Tiểu tử, lần thứ nhất ta nhẹ tay, lần thứ hai sẽ không nể nang gì đâu.

Trương Vô Kỵ khẩn cầu:

– Ân… cô nương là con ruột của tiền bối kia mà, hồi nàng còn thơ, tiền bối đã từng bế, từng thơm, xin tiền bối hãy tha cho nàng!

Ân Dã Vương chợt động tâm, quay nhìn Thù Nhi, thấy mặt mũi con sưng vều, càng thêm chán ghét, bèn quát:

– Tránh ra!

Trương Vô Kỵ cứ xông vào để cướp lấy Thù Nhi. Thù Nhi nói:

– A Ngưu ca, đừng lo cho muội nữa. Muội sẽ mãi mãi ghi nhớ lòng tốt của ca ca. Ca ca mau chạy đi, ca ca không chống cự nổi cha muội đâu!

Ngay lúc đó, từ dưới cát có một người áo xanh trồi lên, hai tay vươn dài, thộp gáy Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ hai người, dập lại một cái, trán hai người ấy đập mạnh vào nhau, cả hai lập tức ngất đi. Người kia ôm lấy Thù Nhi mà phóng đi. Ân Dã Vương giận dữ quát to:

– Vi Bức Vương, ngươi cũng lo chuyện bao đồng ư?

Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu cười một tràng, ôm Thù Nhi chạy về phía trước, tên y là “Nhất Tiếu”, tiếng cười của y liên miên bất tuyệt, có thể nói là bách tiếu, thiên tiếu. Ân Dã Vương và Trương Vô Kỵ cùng cất bước đuổi theo.

Lần này Vi Nhất Tiếu không chạy vòng quanh nữa, mà lao thẳng về hướng tây nam. Thân pháp y cực nhanh, thật ngoài sức tưởng tượng. Ân Dã Vương nội lực thâm hậu, khinh công cao siêu, Trương Vô Kỵ chân khí lưu chuyển trong cơ thể, càng chạy càng nhanh, song Vi Nhất Tiếu vẫn nhanh hơn. Thoạt đầu hai người chỉ cách y vài trượng, dần dần thành ra hơn mười trượng, hai chục trượng, ba chục trượng… sau cùng không còn thấy hình bóng y đâu nữa.

Ân Dã Vương giận dữ cười khẩy, thấy Trương Vô Kỵ trước sau vẫn chạy ngang vai với mình, không chịu thua nửa bước, thì trong bụng thầm kinh ngạc, lúc này biết rằng không còn cách gì đuổi kịp Vi Nhất Tiếu, song lại muốn thử xem cước lực của gã thiếu niên này thế nào. Ông ta gia tăng kình lực xuống chân, thân hình như mũi tên rời khỏi cung, bắn vọt về phía trước, nhưng thấy Trương Vô Kỵ vẫn cứ sánh vai mình mà chạy, chẳng tụt lại chút nào. Ân Dã Vương nghe chàng nói:

– Ân tiền bối, Vi Nhất Tiếu tuy chạy nhanh thật, nhưng chắc gì đã bền hơi, mình cứ đuổi theo đến cùng xem sao.

Ân Dã Vương giật mình, đứng ngay lại, tự nhủ: “Ta thi triển khinh công như vậy là đã hết sức bình sinh, đừng nói mở miệng trò chuyện, ngay thở hụt một hơi cũng chẳng xong; vậy mà tiểu tử này vẫn nói năng như thường, chân không chậm lại chút nào, là thứ công phu gì chứ?” Ông ta vừa dừng bước, Trương Vô Kỵ đã vọt xa mấy trượng, vội quay đầu chạy trở lại bên cạnh Ân Dã Vương, chờ ông ta chỉ dẫn.

Ân Dã Vương nói:

– Tăng huynh đệ, sư phụ của huynh đệ là ai?

Trương Vô Kỵ vội nói:

– Ấy chết, xin lão nhân gia đừng gọi vãn bối là huynh đệ, vãn bối vào hàng con cháu, xin cứ gọi vãn bối là “A Ngưu” thôi. Vãn bối không có sư phụ.

Ân Dã Vương chợt nghĩ: “Tên tiểu tử này võ công vô cùng quái dị, để nó sống sẽ lưu hậu họa lớn, chi bằng xuất kỳ bất ý, giáng cho nó một chưởng chết tươi là hơn”.

Bỗng có tiếng tù và ốc biển lảnh lót từ rất xa vẳng tới, chính là tín hiệu báo động của Thiên Ưng giáo. Ân Dã Vương cau mày, nghĩ thầm: “Chắc là Hồng Thủy, Liệt Hỏa hai kỳ giận ta không cứu Nhuệ Kim kỳ, nên đến tấn công chăng? Nếu không thể một chưởng đánh chết tên tiểu tử này, ta đâu có thời gian đấu dằng dai với hắn? Chi bằng ta mượn dao giết người, đẩy y đến cho Vi Nhất Tiếu sát hại luôn”. Bbèn nói:

– Thiên Ưng giáo gặp địch rồi, ta phải quay về ứng phó. Ngươi hãy một mình đuổi theo Vi Nhất Tiếu. Kẻ đó nham hiểm hung ác, ngươi nên ra tay trước.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vãn bối bản lĩnh thấp kém, làm sao đánh nổi ông ta? Kẻ nào tấn công Thiên Ưng giáo vậy?

Ân Dã Vương nghiêng đầu lắng nghe tiếng tù và, nói:

– Quả nhiên là Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ ba kỳ của Minh giáo đều tới rồi.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Cùng là Minh giáo cả, sao các vị lại tàn sát lẫn nhau?

Ân Dã Vương sầm mặt lại, nói:

– Trẻ con thì hiểu gì, lại tính chuyện bao đồng !

Nói xong, ông ta quay người chạy đi.

*

*   *

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thù Nhi rơi vào tay tên đại ác ma Vi Nhất Tiếu, nếu bị hắn cắn cổ hút máu, làm sao sống nổi?” Nghĩ thế, chàng nóng lòng sốt ruột vội hít mạnh một hơi, co chân chạy. Cũng may Vi Nhất Tiếu tuy khinh công rất giỏi, nhưng ôm thêm một người, không thể không để lại dấu chân rõ ràng trên cát. Trương Vô Kỵ định bụng: “Hắn dừng nghỉ, ta không dừng nghỉ; hắn nằm ngủ, ta không ngủ; chạy ba ngày ba đêm ắt phải đuổi kịp hắn”.

Dưới ánh nắng gay gắt trên sa mạc, chạy ba ngày đêm đâu phải chuyện dễ. Chàng chạy đến gần tối đã thấy miệng khô lưỡi đắng, mồ hôi đầm đìa khắp người. Nhưng cũng lạ thay, chân chàng không hề mỏi, chân khí Cửu dương thần công súc tích từng chút từng chút một trong cơ thể mấy năm qua bắt đầu phát huy tác dụng, càng sử dụng lực, tinh thần càng phấn chấn.

Đến một dòng suối, chàng uống no một bụng nước rồi lại chạy tiếp, cứ theo dấu chân của Vi Nhất Tiếu mà đuổi.

Chàng chạy đến nửa đêm, thấy trăng lên tới đỉnh đầu, chàng chợt cảm thấy sợ hãi, chỉ lo bỗng nhiên bắt gặp thi thể của Thù Nhi đã bị hút hết máu vứt đâu đây. Ngay lúc đó, chàng nghe hình như đằng sau có tiếng chân người, chàng quay lại nhìn, không thấy ai. Chàng không dám chần chừ thêm, lại chạy tiếp, nhưng liền nghe có tiếng chân ai lẽo đẽo theo sau.

Trương Vô Kỵ lạ lắm, quay lại nhìn lần nữa, vẫn không thấy ai. Nhìn kỹ hơn, trên sa mạc rõ ràng in hằn ba vết chân người, một vết của Vi Nhất Tiếu, một vết của chàng, còn vết thứ ba là của ai? Chàng quay lại nhìn lần nữa, đằng trước chỉ có một đường vết chân của Vi Nhất Tiếu, vậy là quả thực có kẻ đuổi theo chàng, tại sao không nhìn thấy đâu, chẳng lẽ người ấy có phép tàng hình hay sao?

Lòng đầy nghi hoặc, chàng chạy tiếp, lại nghe có tiếng chân người sau lưng.

Trương Vô Kỵ kêu lên:

– Ai đó?

Đằng sau có tiếng đáp:

– Ai đó?

Trương Vô Kỵ cả kinh, quát to:

– Ngươi là người hay là ma?

Tiếng phía sau cũng quát to:

– Ngươi là người hay là ma?

Trương Vô Kỵ quay phắt lại, lần này thấy sau lưng mình có bóng người thấp thoáng, mới biết là có người thân pháp cực nhanh kịp ẩn nấp sau lưng chàng, bèn hỏi to:

– Ngươi theo ta làm chi?

Người kia đáp:

– Ta theo ngươi để làm gì nào?

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Làm sao ta biết được? Ta không biết nên mới hỏi các hạ.

Người kia nói:

– Làm sao ta biết được? Ta không biết nên mới hỏi ngươi.

Trương Vô Kỵ nghĩ rằng người kia không có ác ý, y theo sau chàng đã lâu, nếu muốn ra tay sát hại thì chàng đã chẳng còn mạng nữa rồi, bèn hỏi:

– Các hạ tên gì?

Người kia đáp:

– Thuyết Bất Đắc[77].

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Vì sao nói không được?

Người kia đáp:

– Thuyết Bất Đắc là Thuyết Bất Đắc, cần gì phải có lý do. Còn ngươi tên gì?

Trương Vô Kỵ nói:

– Tại hạ là Tăng A Ngưu.

Người kia hỏi:

– Vì sao đêm hôm khuya khoắt ngươi lại cứ chạy loạn lên như kẻ khùng vậy?

Trương Vô Kỵ biết đây là một dị nhân thân mang tuyệt kỹ, bèn nói:

– Một bằng hữu của tại hạ bị Thanh Dực Bức Vương bắt đi, tại hạ phải cứu về.

Người kia nói:

– Ngươi cứu chẳng nổi đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Vì sao?

Người kia đáp:

– Thanh Dực Bức Vương võ công cao hơn ngươi, ngươi đánh không lại y đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đánh không lại cũng cứ đánh.

Người kia nói:

– Giỏi lắm, ngươi quả có chí khí! Bằng hữu của ngươi là một cô nương chứ gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Đúng thế. Tại sao các hạ biết?

Người kia nói:

– Nếu không phải là một cô nương, thì một thiếu niên đâu có liều mạng đuổi theo như thế. Đẹp lắm hả?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Không, rất xấu xí!

Người kia hỏi:

– Thế còn ngươi, có xấu không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Các hạ đến trước mặt tại hạ thì biết liền.

Người kia nói:

– Ta không cần nhìn. Thế cô nương ấy có biết võ công không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Có, nàng là con gái của Ân Dã Vương tiền bối trong Thiên Ưng giáo, từng theo Kim Hoa bà bà ở đảo Linh Xà học võ.

Người kia nói:

– Ngươi đừng đuổi theo nữa, Vi Nhất Tiếu bắt được nàng ta rồi, chẳng chịu thả ra đâu.

Trương Vô Kỵ lại hỏi vì sao.

Người kia hừ một tiếng, đáp:

– Ngươi ngốc lắm, không chịu suy nghĩ gì cả. Ân Dã Vương là người thế nào với Ân Thiên Chính?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Họ là hai cha con.

Người kia nói:

– Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương, võ công ai cao hơn?

Trương Vô Kỵ nói:

– Tại hạ không biết. Xin tiền bối cho hay, ai cao hơn?

Người kia nói:

– Mỗi người có sở trường riêng. Thế lực của hai người thì ai mạnh hơn?

Trương Vô Kỵ nói:

– Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính là giáo chủ Thiên Ưng giáo, chắc thế lực mạnh hơn.

Người kia nói:

– Đúng vậy. Do đó, một khi Thanh Dực Bức Vương bắt được cháu gái của Ân Thiên Chính, là một món hàng đắt giá, đâu chịu trả lại, thể nào y chẳng dùng để uy hiếp Ân Thiên Chính.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

– E rằng không phải thế. Ân Dã Vương tiền bối chỉ chăm chăm muốn giết con gái mình thôi.

Người kia lấy làm lạ, hỏi:

– Vì sao vậy?

Trương Vô Kỵ liền đem chuyện Thù Nhi giết ái thiếp của Ân Dã Vương, dẫn đến chỗ mẹ nàng phải chết, kể lại sơ qua. Người kia nghe xong, tấm tắc khen:

– Giỏi thật, giỏi thật, quả là mỹ chất lương tài[78]!

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi:

– Cái gì mà mỹ chất lương tài?

Người kia nói:

– Tuổi còn nhỏ như thế mà đã dám giết ái thiếp của cha, hại chết cả mẹ ruột, lại được Kim Hoa bà bà ở đảo Linh Xà dạy võ, ngay ta còn thích, Vi Nhất Tiếu nhất định sẽ nhận nàng ta làm đồ đệ.

Trương Vô Kỵ lo lắng hỏi:

– Sao các hạ lại biết?

Người kia nói:

– Vi Nhất Tiếu là hảo bằng hữu của ta, tâm tính y thế nào, ta đâu có lạ.

Trương Vô Kỵ thừ người ra, đột nhiên kêu to:

– Nguy rồi!

Đoạn chàng chạy như bay. Người kia vẫn bám sát chàng.

Trương Vô Kỵ vừa chạy, vừa hỏi:

– Tại sao các hạ cứ bám theo tại hạ thế?

Người kia đáp:

– Ta nổi tính hiếu kỳ, muốn xem trò vui. Còn ngươi đuổi theo Vi Nhất Tiếu để làm gì?

Trương Vô Kỵ nói:

– Thù Nhi vốn đã nhiễm một ít tà khí rồi, tại hạ nhất quyết không để cho nàng bái Vi Nhất Tiếu làm thầy, học cái môn ma quỷ hút máu người, đâu có gì tốt lành?

Người kia hỏi:

– Ngươi thích Thù Nhi lắm hả? Tại sao ngươi quan hoài đến nàng ta thế?

Trương Vô Kỵ thúc đẩy, đáp:

– Tại hạ cũng chẳng biết mình có thích hay không thích nàng ta, có điều là nàng ta… nàng ta có nhiều nét giống mẫu thân của tại hạ.

Người kia nói:

– Ồ, thế ra mẹ ngươi xấu xí, chắc ngươi cũng khó coi lắm hả?

Trương Vô Kỵ vội nói:

– Mẫu thân của tại hạ rất đẹp, các hạ đừng nói nhăng nói cuội.

Người kia nói:

– Tiếc thật, tiếc thật!

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Tiếc cái gì thế?

Người kia nói:

– Ngươi là một thiếu niên can đảm, có chí khí, thật đáng quý, chỉ tiếc không lâu nữa sẽ bị hút hết máu tươi, thành cái xác khô!

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này nói không sai, dù ta có đuổi kịp Vi Nhất Tiếu cũng chẳng cứu được Thù Nhi, chỉ khờ dại đem chính mình tới nộp mạng cho hắn mà thôi”. Chàng bèn nói:

– Tiền bối giúp vãn bối một tay có được chăng?

Người kia đáp:

– Không được! Thứ nhất, Vi Nhất Tiếu là hảo bằng hữu của ta; thứ hai, ta đánh cũng chẳng thắng y.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Vi Nhất Tiếu đã là hảo bằng hữu của tiền bối, sao tiền bối không khuyên can ông ta?

Người kia thở dài:

– Khuyên đâu có được. Chính Vi Nhất Tiếu cũng đâu có muốn hút máu người, chẳng qua là việc bất đắc dĩ, thực là vô cùng khổ tâm.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:

– Việc bất đắc dĩ, nghĩa là thế nào?

Người kia nói:

– Vi Nhất Tiếu luyện nội công bị tẩu hỏa nhập ma, từ đó mỗi lần kích dẫn nội lực lại phải uống máu người, nếu không toàn thân sẽ bị lạnh run, chết cóng liền.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:

– Có lẽ ba mạch âm của y bị tổn thương chăng?

Người kia ngạc nhiên, hỏi:

– Ủa, ngươi cũng biết thế ư?

Trương Vô Kỵ nói:

– Là vãn bối đoán vậy thôi, nhưng không biết có đúng hay không.

Người kia nói:

– Ta đã ba lần vào núi Trường Bạch tìm bắt một con cóc lửa về chữa trị cho y, nhưng cả ba lần đều trở về tay không. Lần thứ nhất trông thấy con cóc lửa, cách hai trượng mà không bắt được. Hai lần sau thì chẳng thấy tăm hơi con cóc lửa nào cả. Chờ vụ này qua rồi, ta sẽ lại đi tìm một chuyến nữa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Để vãn bối cùng đi với tiền bối. Được chăng?

Người kia nói:

– Ồ, ngươi đủ nội lực, nhưng khinh công quá kém, nói trắng ra là không có chút hỏa hầu nào, chuyện đó để sau hãy tính. À, mà ta hỏi ngươi, tại sao ngươi muốn giúp ta đi kiếm con cóc lửa?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Nếu bắt được cóc lửa, chẳng những trị khỏi bệnh cho Vi Nhất Tiếu mà còn cứu được bao nhiêu người khỏi bị hút máu. À này tiền bối, y chạy lâu thế rồi, kích dẫn nội lực, liệu y có hút luôn cả máu của Thù Nhi hay không?

Người kia ngẩn ra, nói:

– Cái đó không chừng! Dù y có ý định nhận Thù Nhi làm đồ đệ, nhưng lúc lạnh run lên, máu trong người đóng thành băng, lúc ấy chỉ e ngay cả con ruột y cũng…

Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng lo, cố sức mà chạy. Người kia bỗng nói:

– Này, đằng sau ngươi có cái gì thế?

Trương Vô Kỵ ngoảnh lại nhìn, đột nhiên trước mắt tối om, toàn thân bị một cái gì rất lớn chụp vào, tiếp đó thân hình treo lơ lửng, hình như chàng bị người kia bỏ vào một cái túi rất lớn. Chàng vội dùng tay xé cái túi, nào ngờ cái túi bền chắc dị thường, sờ mãi không thấy đường chỉ khâu, chắc chắn may bằng một loại vải dày, không thể dùng tay xé rách.

Người kia ném cái túi xuống đất, cười ha hả, nói:

– Ngươi làm sao chui ra khỏi cái túi của ta, mới thực là giỏi.

Trương Vô Kỵ vận nội lực, hai tay đẩy mạnh ra, nhưng cái túi mềm nhũn, không dùng sức vào đâu được. Chàng giơ chân phải đạp mạnh, cái túi chỉ lồi ra phía ngoài một chút, dù chàng có chọc xé, kể cả húc đầu, lăn lộn cách chi, cái túi vẫn cứ trơ trơ. Người kia cười hỏi:

– Ngươi chịu chưa?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Chịu rồi.

Người kia vỗ một cái, qua lần vải trúng ngay vào mông Trương Vô Kỵ, cười nói:

– Tiểu tử, hãy ngoan ngoãn nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, đừng vùng vẫy. Ta sẽ đưa ngươi tới một nơi dễ chịu. Ngươi mà mở miệng nói một câu, để người ngoài hay biết, ta không cứu nổi ngươi đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Tiền bối đưa vãn bối đi đâu?

Người kia đáp:

– Ngươi đã chui vào trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, ta muốn lấy mạng ngươi, ngươi đâu có chạy được? Chỉ cần ngươi đừng động đậy, đừng lên tiếng, thì sẽ có lợi cho ngươi.

Trương Vô Kỵ nghĩ lời nói đó quả không sai, nên không vùng vẫy nữa.

Người kia nói:

– Ngươi được nằm trong cái túi của ta là có phúc lắm đó.

Rồi người ấy vác cái túi lên vai mà chạy.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Việc của Thù Nhi sẽ ra sao?

Người kia nói:

– Ta làm sao biết được? Ngươi còn lải nhải nữa, ta sẽ tống cổ ngươi ra khỏi cái túi này.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ông mà tống cổ tôi ra khỏi cái túi này thì còn gì hay bằng?” Song chàng không dám nói ra, chỉ cảm thấy cước bộ của người kia cực nhanh.

Người ấy chạy một mạch mấy canh giờ liền, Trương Vô Kỵ ở bên trong cái túi thấy nóng dần lên, biết rằng trời đã sáng, ánh nắng chiếu vào. Lát sau cảm thấy người kia chạy lên cao, hình như đang lên núi. Lại đi hơn hai canh giờ nữa, Trương Vô Kỵ thấy hơi lạnh, nghĩ thầm: “Hình như đã lên tới đỉnh núi cao có tuyết nên mới lạnh thế này”. Đột nhiên thân hình chàng bay lên, chàng cả kinh, nhịn không nổi phải kêu lên.

Tiếng kêu chưa dứt, cảm thấy thân hình chựng lại, người kia đã chạm đất. Trương Vô Kỵ lúc này mới biết là người kia vừa vác cái túi nhảy đi. Có lẽ đây là đỉnh núi rất cao, vách đá cheo leo. Người kia vác chàng nhảy vọt như thế, đá núi có tuyết phủ rất trơn, chỉ sảy chân một cái là cả hai người sẽ tan xương nát thịt. Vừa nghĩ như thế thì người kia lại nhảy vọt đi, cứ thế nhảy liên tục, lúc cao lúc thấp, lúc gần lúc xa. Trương Vô Kỵ ở trong cái túi, không có chút ánh sáng nào, song cũng đoán biết địa thế nơi đây hiểm trở dị thường.